TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2037 - THÍCH THỊ KÊ CỔ LƯỢC

Ô Trình Chức Lý, Bảo Tướng Tỳ-kheo Thích Giác Ngạn, Hiệu Bảo Châu biên tập, chỉnh sửa.

MỤC LỤC

SỐ 2037 - THÍCH THỊ KÊ CỔ LƯỢC

QUYỂN 2

Tổ Năm thứ 25: Tôn giả Bà-xá-tư-đa.

Tổ năm thứ 26: Tôn giả Bất-như-mật-đa.

Nam Bắc triều:

Tổ năm thứ 27: Tôn giả Bát-nhã-đa-la.

Tổ năm thứ 28: Tây Thiên, Sơ tổ của Đông bộ: Bồ-đề Đạt-ma.

Tổ năm thứ 2: Đại sư Tuệ Khả.

Tổ năm thứ 3: Đại sư Tăng Xán.

QUYỂN 3

Tổ năm thứ 4: Tôn giả Đạo Tín.

Tổ năm thứ 5: Đại Sư Hoằng Nhẫn.

Lục Tổ Tuệ Năng:

* Nhà Hán:

QUYỂN 4

Thiền sư Viên Chiếu ở Tuệ Lâm, Đông kinh:

 


QUYỂN 2

+ Đông Tấn: Họ Tư mã, đóng đô ở Kiến Khang, gồm Nguyên Đế, Minh Đế, Thành Đế, Khang Đế, Mục Đế, Ai Đế, Hải Tây Công, Giản Văn Đế, Vũ Đế, An đế, Cung Đế.

-Trung Tông Nguyên Hoàng Đế: Tên là Duệ, con của Lang Da Vương Cận, tằng tôn của Tuyên Đế. Năm mười lăm tuổi ông được tự phong làm Lang Da Vương. Hoài Đế niên hiệu Vĩnh Gia năm đầu, ông làm An Đông tướng quân trấn giữ Kiến Nghiệp. Mẫn Đế năm Kiến Hưng năm thứ tư, Trường An thất thủ, Mẫn Đế lưu lạc trong dân gian, ông đem binh chinh phạt phía Bắc. Tháng hai năm Đinh Sửu, ông lên ngôi Tấn Vương ở Kiến Khang, đặt ra trăm quan, lập ra tông miếu, xã tắc, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu Kiến Vũ. Tháng mười hai, Mấn Đế bị hại. Tháng ba năm Mậu Dần, tin dữ đến Kiến Khang, ông mặc đồ tang, ở nhà tranh chịu tang, sau đó lên ngôi Hoàng Đế, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu Đại Hưng, lập Vương Thái tử Thiệu làm Hoàng Thái tử. Lúc này nhân lúc có tang, loạn lạc, giặc Giang Đông nổi lên, Điêu Hiệp vốn là hoạn quan trong triều đã lâu, thấu rành chuyện cũ, Hạ là kẻ theo đạo Nho, Tông Minh giỏi lễ nhạc, phàm việc gì họ đều tự quyết. Đế ở ngôi sáu năm, thọ bốn mươi bảy tuổi. Đế dựng hai chùa Ngõa quan và Long Hưng ở Kiến Khang, cúng cả ngàn tăng ở Đan Dương, Kiến Nghiệp. Niên hiệu Kiến Vũ một năm, Thái Hưng bốn năm, Vĩnh Xương một năm.

Đinh Sửu: Tấn: Kiến Vũ năm đầu

Hán: Lân Gia năm thứ 2

Đại Thành: Ngọc Hành năm thứ 7

Tiền Lương Trương Thật

Mộ Dung

Đại: Bình văn

Ngọc Hoành

Khang Lương

 

Đế Uất Luật năm đầu

năm thứ 8

 

Mậu Dần: Đại Hưng năm đầu

Thông Mất, Lưu Diệu lên ngôi, Quang Sơ năm đầu

 

 

 

Đại năm thứ 2

 

 

 

+ Hán Chủ Lưu Thông: Mất năm Mậu Dần, Thái tử Xán lên ngôi, sau bị Cận Chuẩn giết, Thừa Tướng Lưu Diệu lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Quang Sơ, dời đô về Trường An, đổi quốc hiệu là Triệu, Thạch Lặc được tấn phong tước Triệu Vương.

Ất Mão: Tấn Đại Hưng năm thứ 2

Triệu: Lưu Diệu Quang Sơ năm thứ 2

Thành: Ngọc Hoành năm thứ 9

Hậu Triệu: Thạnh Lặc năm đầu

Tiền Lương

Tiền Yên: Mộ Dung Hội

Đại: năm thứ 3

 

 

 

Canh Thìn: Đại Hưng năm thứ 3

Quang Sơ năm thứ 3

Ngọc Hành năm thứ 10

Thạnh Lặc năm thứ 2

Tiền Lương

Yên

Đại: năm thứ 4

 

 

 

Tân Tỵ: Đại Hưng năm thứ 4

Quang Sơ năm thứ 4

Ngọc Hành năm thứ 11

Thạnh Lặc năm thứ 3

Tiền Lương Trương Mậu soán ngôi

Yên

Đại: Hạ Nhục năm đầu

 

 

 

Nhâm Ngọ: Tấn Vĩnh Xương năm đầu, năm năm thứ bảy Đế mất

Quang Sơ năm thứ 5

Ngọc Hành năm thứ 12

Thạnh Lặc năm thứ 4

Tiền Lương

Tiền Yên

Đại: Năm thứ 2

 

 

 

+ Khổng Tước Kinh: Tôn giả Thi-lê Mật-đa-la (Hán dịch là Kiết Hữu) người Thiên Trúc, bỏ ngôi xuất gia (giống Ngô Thái Bá). Tây Tấn, Hoài Đế trong năm Vĩnh Gia, ngài đến Hoa Hạ, ở tại chùa Kiến Sơ thuộc Kiến Khang. Thừa Tướng Vương Đạo gặp ngài liền nói: "Người của bọn ta!" Thái úy Dữu Lượng, Quang Lộc Chu Nghỉ, Đình Úy Hoàn Di, danh công của một thời đến kết bạn. Thanh danh ngài vang khắp kinh thành. Ngài rất giỏi diễn thuyết pháp yếu, người đương thời gọi ngài là Cao Tòa Pháp Sư, đồng thời ngài giỏi tán tụng, giọng ngài trong vắt, cao tận mây xanh, ngài còn dịch các kinh như Khổng Tước v. v...

Túc Tông Minh Đế: Tên là Thiệu, con trưởng của Nguyên Đế, từ nhỏ đã tỏ ra thông minh. Được vài tuổi, nhân có lần sứ ở Trường An đến, Đế hỏi: "Con nói xem, mặt trời và Trường An cái nào gần hơn? Thiệu đáp: "Trường An gần hơn, chỉ nghe người ta từ Trường An đến chứ chưa ai từ mặt trời đến. " Nguyên đế lấy làm lạ.

Hôm sau, Đế mở tiệc đãi các quan, Đế hỏi lại, Thiệu đáp: "mặt trời gần hơn!" Nguyên Đế thất sắc hỏi: "Sao hôm qua trả lời một đàng, nay lại trả lời một nẻo?" Thiệu đáp: "Vì mở mắt thì thấy ngay mặt trời mà không thấy Trường An!".

Từ đó, Nguyên Đế càng thấy lạ. Đế lập ông làm hoàng Thái tử. Ông tánh tình chí hiếu, văn võ song toàn, có tài mưu lược, kính hiền mến khách, rất giỏi văn chương. Những danh thần đương thời từ Vương Đạo, Dữu Lượng, Ôn Kiêu, Hoàn Di, Nguyễn Phóng đều được ông đích thân tiếp đãi. Ông tập võ nghệ, khéo phủ dụ tướng sĩ, đương thời đông triều hưng thịnh, xa gần đều quy phục. Tháng giêng niên hiệu Vĩnh Xương năm đầu, Vương Đôn dâng sớ ở Vũ Xương kể tội trạng của Điêu Hiệp, Lưu Ngôi, Nguyên Đế khuyên Hiệp và Ngôi đi tránh họa. Hiệp đi nhưng bị người ta giết, đem đầu về cho Đôn. Ngôi chạy sang Hậu Triệu Thạnh Thị, làm quan đến chức Thái tử Thái phó rồi mất. Đôn tiến binh chiếm Thạch Đầu, Nguyên Đế cho Đôn làm Thừa Tướng, Đôn bàn mưu phế Thái tử nhưng không thành, không triều kiến Thiên Tử mà về Vũ Xương. Tháng mười một Nguyên Đế lo buồn thành bệnh rồi mất. Thái tử lên ngôi, đổi niên hiệu Thái Ninh. Tháng ba, Vương Đôn mưu đồ soán ngôi nên khởi binh tiếp, Đế đem binh đánh Đôn. Tháng năm thứ hai, Đôn bệnh nặng, Vương Hàm thua trận, sau đó Đôn chết. Bè đảng của Đôn giấu kín không phát tang mà dùng chiếu gói xác, bôi sáp bên ngoài rồi đem chôn tại Sảnh Sự Trung ở Giang Ninh. Bè đảng của Đôn được dẹp yên, Hữu Ty đào mộ của Đôn lên, lôi xác ra đốt hết áo mão, dựng thây quỳ lên rồi chém. Ông ở ngôi ba năm, thọ hai mươi bảy tuổi. Đế thích ăn chay làm phước, ông dựng hai ngôi chùa Hoàng Hưng và Đạo Tràng. Niên hiệu Thái Ninh có ba năm.

Quý Mùi: Tấn Thái Ninh năm đầu

Triệu: Lưu Diệu Quang Sơ năm thứ 6

Thành: Ngọc Hành năm thứ 13

Hậu Triệu Thạch Lặc, năm thứ 5

Tiền Lương

Tiền Yên

Đại: Thạch Bạt năm thứ 3

 

Giáp Thân: Thái Ninh năm thứ 2

Quang Sơ năm thứ 7

Ngọc Hành năm thứ 14

Thạch Lặc năm thứ 6

Tử Tuấn cướp ngôi

 

Đại Vương Hạ Nhục năm thứ 4

 

Ất Dậu: Thái Ninh năm thứ ba, tháng bảy Đế mất

Quang sơ năm thứ 8

Ngọc Hành năm thứ 15

Thạnh Lặc năm thứ 7

 

+ Sa-môn Trúc Pháp Thừa là bậc đĩnh ngộ phi phàm, tài trí xuất chúng, ngài lạy Pháp Hộ làm thầy, Pháp Hộ rất tâm đắc ngài. Về sau, ngài đến Đôn Hoàng dựng chùa chiêu mộ học chúng, phía tây được hưng hóa đều nhờ sức của ngài.

Tổ Năm thứ 25: Tôn giả Bà-xá-tư-đa.

Ngài họ Bà-la-môn, người nước Kế Tân, cha là Tịch Hạnh, mẹ là Thường An Lạc. Trưởng thành, ngài theo Tôn giả Sư Tử xuất gia thọ cụ túc. Sau khi đắc pháp, ngài muốn đến vùng Nam Ấn. Đầu tiên, ngài đến Trung Thiên Trúc, quốc vương nước này tên là Ca Thắng đến đảnh lễ nghinh đón ngài. Lúc đó trong cung điện bỗng có mùi hương lạ, Tôn giả bùi ngùi nói: "Thầy ta quy tịch rồi!" và ngài hướng về phía Bắc đảnh lễ, và từ biệt quốc vương. Quốc vương nói: Xin Tôn giả ở lại giây lát, tôi có điều muốn hỏi, trong vườn này có con suối nóng, tôi không hiểu nguyên nhân do đâu, xin Tôn giả giải thích cho.

Ngài đáp:

Đó là suối nước nóng, có ba nguyên nhân khiến nó phải vậy, một là thần nghiệp, hai là quỷ nghiệp, ba là đá nung. Nếu đá nung thì màu nó như vàng, tính nó thường tỏa nhiệt, nên suối chảy ra phải nóng. Nếu là quỷ nghiệp, nghĩa là quỷ mới thoát tội qua lại trong nhân gian, do nghiệp lực của nó còn nên khiến cho suối nóng, nhằm trả nợ oan trái đời trước. Còn như thần nghiệp, nghĩa là thần không lo giữ đạo lại gây việc họa phước để được người ta cúng tế, ác nghiệp đầy rẫy, cõi u minh đuổi họ, họ đốt nóng suối này để lạm nhận người ta cúng tế.

Quốc vương hỏi:

Rất may được Tôn giả chỉ rõ ba nguyên nhân, chẳng biết suối này do nguyên nhân gì mà nóng như vậy.

Ngài đáp:

Do Thần nghiệp.

Ngài liền sai người đến suối thắp hương, sám hối thay cho Thần, giây lát bờ suối bỗng xuất hiện một người cao to, đến đảnh lễ ngài và nói:

Con có chút phước mỏng nên mới được gặp Tôn giả, con sắp được sinh trong loài người nên đến đây từ biệt".

Nói xong người ấy mất dạng. Bảy ngày sau, suối ấy bỗng dưng mát mẻ như những suối khác. Tôn giả từ biệt, quốc vương đích thân dẫn quan quân ra tiễn ngài. Ngài đến Nam Ấn, quốc vương nước này tên là Thiên Đức, cũng ra nghinh đón ngài. Vương có hai người con là Đức Thắng và Bất-như-mật-đa. Đức Thắng sau đó nối ngôi, nhưng tin theo ngoại đạo khiến ngài lâm nạn. Đức Thắng hỏi ngài: "

Ta nghe Tỳ-kheo Sư Tử không tránh khỏi hành hình, làm sao truyền pháp cho ông?" Ngài đáp:

"Lúc chưa bị nạn thầy tôi đã truyền tín y, pháp kệ cho tôi để minh chứng cho việc truyền thừa. "-Y lấy ở đâu?

Ngài liền lấy trong túi vải đưa cho vua xem, vua sai đem đốt, Ngũ sắc sáng rực, lửa tàn nhưng y còn nguyên. Vua thấy vậy liền đảnh lễ nói:

Quả là truyền nhân của Tôn giả Sư Tử.

Em Quốc Vương là Bất-như-mật-đa xin ngài xuất gia, theo hầu ngài sáu năm, ngài truyền giới cụ túc cho Mật-đa ngay trong cung. Trong lúc tác pháp Yết-ma, đại địa rung chuyển. Ngài nói với Mật-đa:

Ta già yếu rồi, đâu thể trụ thế mãi, ông phải gắng hộ trì Chánh pháp nhãn tạng độ khắp hữu tình, nghe ta nói kệ:

Thánh nhân nói tri kiến
Ngay cảnh không phải, quấy
Nay ta ngộ bản tánh
Không đạo cũng không lý.

Bất-như-mật-đa nghe kệ xong, thưa: "Thế còn pháp y sao Thầy không truyền?" Ngài nói:

"Do bị nạn mới mượn pháp y làm minh chứng, nay thân ông không bị nạn thì mượn pháp y làm gì, chỉ cần ông giáo hóa khắp mười phương thì ai nấy đều tự tin quy hướng. "

Ngài hiện thần biến, dùng lửa Tam-muội tự đốt thân, xá-lợi cao đến một thước. Quốc vương Đức Thắng dựng tháp an trí xá-lợi, bấy giờ nhằm đời Đông Tấn Minh Đế. (theo Chánh Tông ký)

Hiển tông thành đế: Tên là Diễn, con trưởng của Minh Đế, ông lên ngôi vào tháng tám năm Thái Ninh năm thứ ba, lúc ấy mới năm tuổi, Dữu Thái hậu lâm triều. Năm Hàm Hòa năm thứ hai, quan quân Tô Tuấn chống mệnh làm phản. Tháng tư năm thứ ba, Tô Tuấn cướp Đế chạy đến Thạch Đầu, cung thất ở kinh thành đều bị thiêu rụi, chỉ còn bức vách ở điện Thái Ninh trên ấy có tượng

Phật do Minh Đế tự tay vẽ còn nguyên, ai nấy đều cho là việc thần dị. Đào Huống, Ôn Kiêu đánh phá Thạch Đầu, Tuấn rơi xuống ngựa bị chém đầu, róc thịt, đốt xương. Bè đảng của Tuấn lập em Tuấn là Tô Dật lên ngôi vương, Dật đóng chặt cửa thành. Tháng hai năm thứ tư, quan quân đánh phá Thạch Đầu, Kiến Uy Trưởng sử Đằng Hàm đánh và phá được Tô Dật, quân phía Tây bắt được Dật đem chém. Bộ tướng của Hàm là Tào Cứ ôm Đế nhảy xuống thuyền của Ôn Kiêu, quần thần gặp được Đế liền gào khóc xin trị tội. Lúc này cung khuyết đã cháy sạch, đành lấy vườn Kiến Bình làm cung. Ôn Kiêu muốn dời đô về Dự Chương, hào kiệt ở Tam Ngô thì muốn dời về Cối Kê, hai bên tranh luận, chưa đi đến quyết định, Tư Đồ Vương Đạo bàn không nên dời đô. Tháng giêng niên hiệu Hàm Khang năm đầu, mồng một năm Canh Ngọ, Đế chính thức nhận ngôi, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu. Tháng năm thứ tám, Đế không được khỏe, hai con của ông là Phi Và Dịch còn nằm trong nôi, trung thư giám Dữu Băng tự cho anh em của mình nắm quyền chánh trong triều đã lâu, sợ rằng nếu thay đổi tất có loạn, nên lúc nào cũng nói với Đế rằng nước có giặc mạnh, nên cần phải có vua lớn, và xin em cùng mẹ với mình là Lang Da Vương Nhạc làm người nối dõi. Đế đồng ý. Tháng sáu, Đế mất, thọ hai mươi hai tuổi, ở ngôi mười bảy năm. Đế dựng hai chùa là Trưng Hưng và Lộc Uyển, tụ tập cả ngàn vị Tăng có công dịch kinh, giảng dạy.

Niên hiệu Hàm Hòa chín năm, Hàm Khang tám năm.

Bính Tuất: Tấn Hàm Hòa năm đầu

Triệu: Quang Sơ năm thứ 9

Thành: ngọc Hành năm thứ 16

Hậu Triệu: Thạnh Lặc: Năm thứ 8

Tiền Lương

Tiền Yên

Đại: Năm thứ 2

 

 

+ Phi Lai Phong: Năm này Pháp sư Tuệ Lý người Thiên Trúc đến Chấn Đán. Ngài đến Triết Tây, Hàng châu, thấy ngọn núi hùng vĩ tráng lệ bèn nói: "Đây là ngọn núi nhỏ trong dãy Linh Thứu của nước Thiên Trúc ta, chẳng biết bay đến đây vào năm nào. Lúc Phật tại thế, có rất nhiều Tiên nhân tu ở trong ấy, ngày nay chẳng biết có còn không!"

Trong hang động vốn có con vượn trắng, ngài gọi, con vượn nghe tiếng đi ra, từ đó người ta tin núi bay đến thật và đặt tên núi là Phi Lai. Ngài dựng hai ngôi chùa trên núi này, ngôi phía trước là Linh Thứu, ngôi phía sau là Linh Ẩn, hang động ngài ngồi thiền được gọi là Lý Công Nham (động của ông Lý), ngày nay bảo tháp hiện vẫn còn. (theo văn bia khắc ở chùa).

Đinh Hợi: Tấn Hàm Hòa năm thứ 2

Triệu: Họ Lưu Quang Sơ năm thứ 10

Thành: Họ Lý Ngọc Thành năm thứ 17

Hậu Triệu: Thạnh Lặc năm thứ 9

Tiền Lương họ Trương

Tiền Yên

Năm thứ 3

 

 

 

Mậu Tý: Hàm Hòa năm thứ 3

Lưu Diệu bị Thạch Lặc diệt, tổng cộng hai mươi sáu năm

Ngọc Hành năm thứ 18

Thạch Lặc chiếm Trung Nguyên, Thái Hòa năm đầu

Tiền Lương

Tiền Yên

Năm thứ 4

 

 

 

+ Hán Triệu: Lưu Uyên tự Nguyên Hải, người Hung Nô, Tân Hưng, nhà Hán đem con gái trong Tông thất gả cho Mạo Đốn, bởi vậy con cháu họ

Mạo đều mang họ Lưu. Tây Tấn Tuệ Đế năm Giáp Tý niên hiệu Vĩnh Hưng năm đầu, lập Thành Đô Vương Tư mã Dĩnh làm Hoàng thái đệ, Dĩnh dâng biểu xin Hung Nô Tả Hiền Vương Lưu Uyên làm quan quân tướng quân, coi việc quân của Ngũ bộ, đóng binh ở đất Nghiệp (nay là Chương Đức lộ Lân quận). Con của Uyên là Thông vốn sức mạnh hơn người, làu thông kinh sử, rất giỏi văn chương, xách nổi cây cung ba trăm cân. Từ nhỏ, ông thường lui tới kinh sư, danh sĩ đều kết giao với Thông. Dĩnh cho Thông làm Tích Hỗ Tướng Quân. Anh cùng ông nội với Uyên là Hữu Hiền Vương Lưu Tuyên, nói với thân tộc: Từ khi nhà Hán mất đến nay, Thiền Vu ta chỉ có danh hão mà không có lấy một thước đất, nay người của ta tuy suy nhưng vẫn không dưới hai vạn, lẽ đâu cứ khoanh tay chịu sự sai khiến, bỏ lỡ cả trăm năm? Tả Hiền Vương là bậc anh hùng cái thế, nếu trời không cho Hung Nô hưng thịnh thì ắt chẳng sinh ra người đó làm gì. Nay dòng họ Tư mã cốt nhục tương tàn, bốn biển điêu linh, khôi phục cơ nghiệp của Hô Hàn Tà chính là lúc này. Ông bàn bạc suy tôn Uyên làm Đại Thiền Vu, sai thuộc hạ Hô Diên Du đến đất Nghiệp nói cho Uyên biết. Uyên thưa với Dĩnh xin về, nhưng gặp phải tang ma nên Dĩnh không đồng ý. Đến khi Vương Tuấn, Doanh Công Đằng đánh Dĩnh, Uyên nói với Dĩnh: "Tôi xin giúp điện hạ nói lại Ngũ bộ để tránh nạn nước", Dĩnh vui mừng bái Uyên làm Bắc Thiền Vu nắm việc Thừa Tướng.

Uyên đến Tả Quốc Thành. Bọn Lưu Tuyên tung hô danh hiệu Đại Thiền Vu, chỉ hai mươi ngày binh dân theo về đến năm vạn người. Uyên đóng đô tại Tả Quốc Thành rồi nói với quần thần: "Xưa, nhà Hán có thiên hạ, có ân với dân, ta là cháu ngoại nhà Hán". Ông liền dựng nước lấy hiệu là Hán, lên ngôi Hán Vương, lấy niên hiệu Nguyên Hy, dùng Hữu Hiền Vương Tuyên làm Thừa Tướng. Tấn Tuệ Đế năm Vĩnh Gia năm thứ hai, Hán Vương Uyên chiếm Sơn Tây, Bình Dương Thái thú Tống Trừu bỏ quận chạy. Uyên dời đô về Bồ Tử Thượng ở Bình Dương rồi lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Vĩnh Phụng. Đời Tấn năm Vĩnh Gia năm thứ tư, tháng bảy Uyên bệnh nặng, dùng Sở Vương Lưu Thông làm đại Tư mã Đại Thiền Vu. An Xương Vương Thạnh, An Ấp Vương Khâm, Tây Dương Vương Tuệ, đều lĩnh chức vũ vệ tướng quân, nhận mệnh cầm binh. Uyên mất Thái tử Hòa lên ngôi Hoàng Đế, Tây Xương Vương Duệ xấu hổ vì không được phong nên bàn mưu với Hòa rằng: "Tiên đế không cân nhắc kỹ nên sai tam vương dồn binh mạnh bên trong, đại Tư mã đem mười binh đóng ở Tân Giao, bệ hạ nên lo liệu trước".

Hòa gọi Thạnh vào nói lại, Thạnh nói: "Bệ hạ tin lời của kẻ sàm tấu rồi nghi ngờ anh em. Duệ nổi giận sai Tả hữu đâm Thạnh, rồi dẫn binh đánh Sở Vương Thông ở Thiền Vu Đài (nay là Tây Lương lộ, tức Đại Đồng lộ, Vân Trung quận, Thông phản công, Tây Minh Môn bị diệt, giết Hòa ở tây đường Quang Cực, bắt Duệ chém đầu bêu ở ngã tư đường, Thông lên ngôi Hoàng Đế đổi niên hiệu Quang Hưng, dùng Bắc Hải Vương Ngãi làm hoàng thái đệ, phong con ông ấy là Xán làm Hà Nội vương, Thạch Lặc làm Tinh châu Thứ sử (Thí Nguyên, sau đổi thành Ký Ninh lộ). Năm Tân Mùi tức Hán Gia Bình năm đầu, Thông sai tiền quân đại tướng quân Hô Diên Yến, Thỉ An Vương Lưu Diệu, Vương Di, Thạch Lặc đánh Lạc Dương chiếm Tuyên Dương Môn. Tấn Hoài Đế muốn chạy đến Trường An nhưng bị quân Hán đuổi bắt được, đưa ông và ngọc tỷ về lại Bình Dương. Thông cho Đế làm Đặc Tiến Tả Quang Lộc đại phu, phong tước Bình A Công. Năm Nhâm Thân tức Gia Bình năm thứ hai của Thông, Thông phong Hoài Đế làm Cối Kê quận công, tháng hai năm sau, Hoài Đế bị hại. Tháng tư tin dữ của Hoài Đế lan tới Trường An, Tấn Mẫn Đế lên ngôi, đổi niên hiệu Kiến Hưng. Tháng chín năm Kiến Hưng năm thứ tư, Hán Đại Tư mã Lưu Diệu đánh Trường An. Tháng mười một, Tấn Đế nói: "Phải nhịn nhục ra hàng để cứu sống muôn dân". Diệu đưa Tấn Đế về Bình Dương. Hán chủ Lưu Thông cho Tấn Đế làm Quang Lộc đại phu, phong tước Hoài An Hầu. Tháng mười hai năm Đinh Sửu, Tấn Đế bị hại. Năm Mậu Dần, Hán chủ Lưu Thông mất, Thái tử Xán Lên Ngôi, sau bị Cận Phong giết. Thừa Tướng Lưu Diệu lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Quang Sơ, dời đô về Trường An, đổi quốc hiệu là Triệu, tôn Thiền Vu Lâm Tổ, Thạch Lạc được phong tước Triệu Vương. Đến Đông Tấn Thành Đế năm Hàm Hòa năm thứ ba, Triệu chủ Lưu Diệu vây lấy Lạc Dương. Tháng mười một, Thạch Lặc dẫn binh đến cứu Lạc Dương, đánh nhau và bắt sống Lưu Diệu chở về Tương quốc rồi giết. Tháng giêng năm Kỷ Sửu, Triệu Thái tử Hy nghe Diệu bị bắt liền dẫn trăm quan chạy lên Thượng Khuê (Thiểm Tây, Củng Xương lộ, xưa là đất Khuê Nhung), Quan Trung đại loạn. Tướng quân Tưởng Anh Tân chiếm Trường An, sai sứ ra hàng Thạch Lặc. Tháng chín, hậu Triệu Trung Sơn Công Thạch Hổ đại phá quân Triệu ở Nghĩa Cừ, thừa thắng đuổi bắt Triệu Thái tử Lưu Hy cùng tướng lĩnh vương công trở xuống, có đến hơn ba ngàn người đều bị giết, đất Tần Lũng được bình định. Hán, Triệu họ Lưu bắt đầu từ Tấn Tuệ Đế năm Đại Hưng Giáp Tý, kết thúc năm Thành Đế, Hàm Hòa Kỷ Sửu, tổng cộng hai mươi sáu năm.

 

Kỷ Sửu: Tấn Hàm Hòa năm thứ 4

Thành: Ngọc Hành năm thứ 19

Hậu Triệu: Thái Hòa năm thứ 2

Tiền Lương

Tiền Yên

Đại: Ế Hòe năm đầu, truy tôn là Liệt Đế

 

 

 

 

Canh Dần: Hàm Hòa năm thứ 5

Ngọc Hành năm thứ 20

Thạch Lặc lên ngôi Hoàng Đế

 

 

Đại: Năm thứ 2

 

 

 

 

Tân Mão: Hàm Hòa năm thứ 6

Ngọc Thành năm thứ 21

Kiến bình năm thứ 2

 

 

Đại: Năm thứ 3

 

 

 

 

Nhâm Thìn: Hàm Hòa năm thứ 7

Ngọc Hành năm thứ 22

Kiến Bình năm thứ 3

 

 

Đại: Năm thứ 4

 

 

 

 

Quý Tỵ: Hàm Hòa năm thứ 8

Ngọc Hành năm thứ 23

Kiến Bình năm thứ 4. Tháng 7, Lặc mất

 

Yên: Mộ Dung Hoàng lên ngôi

Đại: năm thứ 5

 

 

 

 

Giáp Ngọ: Hàm Hòa năm thứ 9

Ngọc Hành năm thứ 24, Hùng mất

Hải Dương Vương lên ngôi, Diên Hy năm đầu

 

 

Đại: Năm thứ 6

 

 

 

 

Ất Mùi: Hàm Khang năm đầu

Hán đổi thành Hán Kỳ, Ngọc Hằng năm đầu.

Hổ lên ngôi, Kiến Vũ năm đầu

 

 

Đại: năm thứ 7

 

 

 

 

Bính Thân: Hàm Khang năm thứ 2

Ngọc Hằng năm thứ 2

Kiến Vũ năm thứ 2

 

 

Đại: Năm thứ 8

 

 

 

 

Đinh Dậu: Hàm Khang năm thứ 3

Ngọc Hằng năm thứ 3

Kiến Vũ năm thứ 3

 

Tiền Yên: Hoàng xưng vương

Đại: Hậu năm đầu

 

 

 

 

Mậu Tuất: Hàm Khang năm thứ 4

Lý Thọ lên ngôi, Hán Hưng năm đầu

Kiến Vũ năm thứ 4

 

 

Thát Bạt Thập Dục Kiến Quốc năm đầu được truy tôn là Thành Đế.

 

 

 

 

+ Học Châm: Tấn Tư mã Vương Đạo cho Lý Sung là bậc rường cột trong chức Thừa Tướng, Sung cho rằng con người ta chỉ ưa cái dối trá nên ông soạn Học châm, dẫn lời Lão Tử rằng: Dứt nhân bỏ nghĩa dân mới sinh hiếu từ, lẽ đâu đạo nhân nghĩa dứt rồi sau hiếu từ mới sinh? Bởi người lo nhân nghĩa thì ít, mà người lợi do nhân nghĩa thì nhiều, dựa vào đó rồi trách Thánh nhân bị lệ thuộc vào sự nghiệp giáo hóa. Phàm người thấy được hình thì nhiều, đạt được đạo thì ít, đuổi theo dấu tích càng gấp thì lìa gốc càng xa, bởi vậy ông soạn Học châm, nhằm trừ bỏ cái tệ ấy. Ông viết: Danh càng rỡ ràng thì đạo càng mai một, làm mất sự hưng thọ, ưa cái thay đổi, không có nhân thì không thể nuôi lớn muôn vật, không có nghĩa thì không nuôi lớn hổ thẹn, bởi vậy chắc chắn không thể lìa nhân nghĩa, mà chỉ xa những kẻ làm hại nhân nghĩa mà thôi (Tấn Thư, Lý Sung truyện).

Tấn, Quang Lộc Huân Nhan Hàm cáo lão nhường ngôi, ông làm quan hơn hai mươi năm, mất tháng mười năm này, thọ chín mươi ba tuổi. Quách Phác từng ngang qua nhà Hàm muốn bói quẻ cho ông. Hàm nói: Tuổi tác ở trời, ngôi vị ở người, sửa mình mà trời không cho đó là mệnh, giữ đạo mà người không biết đó là tánh, ai nấy đều có tánh mệnh cần gì phải bói quẻ!

Kỷ Hợi: Tấn Hàm Khang năm thứ 2

Hán: Họ Lý Hán Hưng năm thứ 2

Hậu Triệu: Kiến Vũ năm thứ 2

Tiền Lương: Họ Trương

Tiền Yên

Đại: Kiến Quốc năm thứ 2

 

 

 

 

+ Tấn: Tư Đồ Vương Đạo mất, Đạo có người em là Đạo Bảo bỏ vinh hoa xuất gia làm tăng, nhờ học hạnh mà nổi tiếng.

Canh Tý: Hàm Khang năm thứ 6

Hán Hưng năm thứ 3

Kiến Vũ năm thứ 6

Đại năm thứ 3

 

 

Tân Sửu: Hàm Khang năm thứ 7

Hán Hưng năm thứ 4

Kiến Vũ năm thứ 7

Đại năm thứ 4

 

 

Nhâm Dần: Hàm Khang

Hán Hưng năm thứ 5

Kiến Vũ năm thứ 8

Năm thứ 8, Tháng sáu Khang Đế lên ngôi

 

 

Đại năm thứ 5

 

 

+ Khang Đế: Tên là Nhạc, em cùng mẹ với Thành Đế, từ Lang Da Vương lên ngôi Hoàng Đế, ở ngôi hai năm, thọ hai mươi ba tuổi. Dữu Lượng chuyên quyền, giấu kín mọi việc, ủy thác chánh sự cho Dữu Băng, phong con Thành Đế là Thừa làm Lang Da Vương, phong Dịch làm Đông Hải Vương, niên hiệu Kiến Nguyên có hai năm.

Quý Mão: Kiến Nguyên năm đầu

Hán Hưng năm thứ 6

Kiến Vũ năm thứ 9

Tiền lương

 

Giáp Thìn: Kiến Nguyên năm thứ hai, tháng chín đế mất.

Đại: năm thứ 6 Thái Hòa năm đầu

Kiến Vũ năm thứ 10

 

Tiền Yên

Đại: năm thứ 7

 

 

 

 

Hiếu Tông Mục Đế: Tên là Đam, Thái tử của Khang Đế, lên ngôi năm hai tuổi, Chử Thái hậu lâm triều thính chính, trong ngoài đều yên. Ngày một tháng giêng niên hiệu Thăng Bình năm đầu, ông chính thức nắm quyền chánh, thọ mười chín tuổi. Niên hiệu Vĩnh Hòa mười hai năm, Thăng Bình năm.

Ất Tỵ: Vĩnh Hòa năm đầu

Lý Chấp: Thái Hòa năm thứ 2

Kiến Vũ năm thứ 11

Tiền Lương xưng Vương

Tiền Yên: Hoàng

Đại

 

Bính Ngọ: Vĩnh Hòa năm thứ 2

Gia Ninh năm đầu

Kiến Vũ năm thứ 12

Trùng Hoa lên ngôi

 

Đại

 

 

 

 

Đinh Mùi: Vĩnh Hòa năm thứ 3

Hoàn Thang tiêu diệt, trị vì tổng cộng 45 năm

Kiến Vũ năm thứ 13

 

 

Đại

 

 

 

 

+ Đại Thành: Đổi thành Hán, Lý Đặc người Ba Tây, thiếu thời làm quan cho nhà Tấn. Tây Tấn Tuệ Đế năm Thái An năm thứ hai, ông chiếm Ích châu (Tư Xuyên, Tây đạo, Thành Đô lộ, quận Cẩm Thành của Dương châu) lấy quốc hiệu là Thành, niên hiệu Kiến Sơ, Đặc mất, con là Hùng lên thay. Tháng mười, đời Tấn Tuệ Đế niên hiệu Vĩnh Hưng năm đầu, Hùng lên ngôi Thành Đô Vương, đổi niên hiệu Kiến Hưng, phong thúc phụ là Ly làm Thái phó, truy tôn cha là Đặc làm Thành Đô Cảnh Vương. Tấn Tuệ Đế niên hiệu Quang Hy năm đầu, Thành Đô Vương Hùng lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Yến Bình, lấy quốc hiệu Đại Thành, tôn Đặc làm Cảnh Hoàng Đế. Đông Tấn Thành Đế năm Hàm Hòa năm thứ chín, Hùng mất, Thái tử Ban nối ngôi, em Ban là An Đông tướng quân Lý Kỳ mưu phản, nhân lúc Ban than khóc ở Tẩm Cung, đêm ấy Kỳ vào giết Ban rồi lên ngôi Hoàng Đế, phong thụy cho Hùng là Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tông. Tấn Thành Đế niên hiệu Hàm Khương năm đầu, U Công Kỳ đổi niên hiệu Ngọc Hằng, lấy quốc hiệu là Hán. Tấn, năm Hàm Khương năm thứ tư, Hán Trung Mục Văn Lý Đế Thọ giết Kỳ rồi tự lập, đổi niên hiệu Hán Hưng. Tấn Hàm Khang năm thứ bảy, Hán chủ Lý Thọ cho con là Chấp làm đại tướng quân nắm việc Thượng thư. Tấn Khang Đế năm Kiến Nguyên năm thứ hai Lý Chấp lên ngôi, lấy niên hiệu Thái Hòa, đến Tấn năm Vĩnh Hòa năm thứ hai tức niên hiệu Gia Ninh của Hán, tháng mười một Tấn An Tây Tướng Quân Hoàn Ôn đánh nhà Hán. Tháng ba năm Vĩnh Hòa năm thứ ba, quân của Ôn đến Thành Đô phóng lửa đốt của thành, quân Hán khiếp sợ mất chí khí đánh nhau. Lý Chấp tự giữ Lạc Dương, các đạo quân khác đều ra hàng. Ôn tha chấp và hơn mười người trong tông thất. Lúc này là năm Kiến Khang, Chấp được phong là Quy Nghĩa Hầu, đất nước diệt vong. Đại Thành bắt đầu từ Tây Tấn Tuệ Đế năm Thái An năm thứ hai, Quý Hợi, kết thúc Đông Tấn Mục Đế niên hiệu Vĩnh Hòa năm thứ ba, Đinh Mùi, tổng cộng năm chủ, trị vì bốn mươi lăm năm.

Mậu Thân: Tấn: Vĩnh Hòa năm thứ 4

Hậu Triệu: Năm Kiến Vũ năm thứ 14

Tiền Lương

Tiền Yên: Mộ Dung Hoàng mất, Tuyển lên ngôi

* Đại Hòa thượng Phật Đồ Trừng: Người nước Thiên Trúc, ngài đến Lạc Dương vào thời Tây Tấn Hoài Đế năm Vĩnh Gia năm thứ tư, tự xưng mình đã hơn một trăm tuổi. Ngài hít khí trời tự sống, nhịn ăn trong nhiều ngày, giỏi trì chú sai khiến quỷ thần. Ngay hông ngài có một lỗ hổng, ngài lấy lụa nhét lại, ban đêm rút mảnh lụa ra thì ánh sáng chiếu khắp. Mỗi khi xuống suối ngài lôi cả ruột ra rửa sạch rồi nhét lại vào trong bụng. Gặp lúc giặc cướp ở Lạc Dương nổi loạn, ngài ẩn cư ngoài đồng hoang. Lúc này quân của Thạch Lặc đóng binh ở Cát Pha giết hại muôn dân vô kể, ngài chống tích đến gặp Lặc. Lặc sai ngài thử trổ phép thuật. Ngài lấy một bát nước rồi chú nguyện, bỗng nhiên một đóa sen xanh mọc ngay trong bát, Lặc khâm phục giữ ngài lại trong quân.

Đông Tấn Thành Đế năm Hàm Hòa năm thứ ba, Lưu Diệu vây lấy Lạc Dương. Lặc đích thân đến ngài cầu cứu. Ngài nói: "Tháp Phật không có gió, chỉ một cái linh phát tiếng. Và ngài nói: Tú chi thế lệ cương, bộc cốc cù ngốc đương. Đó là mật ngữ, hễ ra quân tất bắt sống được Lưu Diệu". Lặc đánh, quả nhiên bắt được Lưu Diệu rồi đưa về Tương quốc. Năm Hàm Hòa năm thứ năm, Lặc tự xưng Đại Triệu Thiên Vương, thi hành những nghi vệ của Hoàng Đế, lại càng kính trọng ngài hơn, tôn xưng ngài là đại Hòa thượng. Con của Lặc là Bân bị bệnh chết sắp liệm, Lặc than rằng: "Trẫm nghe, Thái tử Quắc chết, Biển Thước có thể làm sống lại, nay có ai làm được như ông ấy chăng? Rồi Lặc sai người báo với ngài, ngài cầm cành dương nhúng vào nước rồi rảy, sau ngài nắm tay của Bân nói: "Có thể dậy được rồi!" Bân quả nhiên sống lại. Từ đó con của Lặc hầu hết được nuôi dưỡng trong chùa của ngài. Tháng bảy năm Hàm Hòa năm thứ tám, Lặc mất. Em ông là Hổ, tự Quý Long lên ngôi. Long dời đô về đất Nghiệp (nay là Bành Đức lộ, Ký châu), Long càng dốc tâm thờ phụng ngài. Đến Tấn niên hiệu Vĩnh Hòa năm thứ tư, ngài sắp thị tịch nên đến từ biệt Quý Long. Long thất kinh nói: Đại Hòa Thượng đi vội nước ta có gặp nạn không? Ngài đáp: Vào sinh ra tử là lẽ thường của đạo, sửa điều xấu, phân định điều tốt, đạo chẳng vì thế mà tăng hay giảm. Cái quý của đạo là hạnh phải chu toàn, cái quý của đức là không ngừng nghỉ. Nếu đạo không thiếu thì dù chết cũng như sống, bằng không, dẫu sống đến ngàn năm nhưng nào có ích gì. Điều đáng tiếc là, đất nước noi theo lý Phật, dựng chùa độ tăng, đáng lý phải cầu phước cho xã tắc, nhưng nhà vua lại ban bố chính sách bạo ngược, thưởng phạt không công minh, đó là điều trái với Thánh giáo khiến cho vận nước không lâu bền.

Quý Long khóc than rất thảm. Ngày tám tháng mười hai, ngài an nhiên thị tịch, thọ một trăm bảy mươi tuổi, tăng lạp một trăm lẻ chín hạ, đệ tử ngài là Pháp sư Đạo An v. v... và hơn bảy ngàn người khác. Từ khi Phật giáo truyền sang phía Đông, đến đời ngài mới hưng thịnh.

Kỷ Dậu: Tấn: Vĩnh Hòa năm thứ 5

Hậu Triệu: Đại Ninh năm đầu, Hổ chết, nước loạn

Tiền Lương

Tiền Yên: Mộ Dung Tuyển năm đầu

Đại

 

 

 

* Hậu Triệu: Thạch Lặc người Thượng Đảng (nay là Tấn Ninh lộ, Lộ châu Thượng Đảng). Ban đầu Lặc cùng Bát Kỵ về với họ Lưu nhà Hán. Tây Tấn Hoài Đế năm Vĩnh Gia năm thứ tư, Hán chủ Lưu Thông lên ngôi Hoàng Đế, dùng Lặc làm Tinh châu Thứ sử (tức Thái Nguyên, nay thuộc Ký Ninh lộ, Ký châu). Lặc giết Hán tướng là Lưu Di, Thông rất giận nhưng vẫn gia phong Lặc làm trấn Đông đại tướng quân. Đông Tấn Nguyên Đế niên hiệu Đại Hưng năm đầu, Hán chủ Lưu Thông mất, Thừa Tướng Lưu Diệu lên ngôi Hoàng Đế, gia phong Lặc làm Triệu Vương. Năm Đại Hưng năm thứ hai, Lặc chiếm cứ lấy Yên, Tô, lấy quốc hiệu là Tương lập ra năm đầu. Tấn Thành Đế năm Hàm Hòa năm thứ ba, Lặc lấy niên hiệu Thái Hòa, Triệu chủ Lưu Diệu vây Lạc Dương. Tháng mười một, Lặc cứu Lạc Dương, Diệu bị tướng của Lặc là Thạch Kham bắt đưa về Tương Quốc rồi giết. Tấn năm Hàm Hòa năm thứ năm, Lặc xưng là Đại Triệu Thiên Vương, thi hành nghi vệ của Hoàng Đế. Tháng chín, ông lên ngôi, đổi niên hiệu Kiến Bình. Tháng tư năm Kiến Bình năm thứ hai, Lặc đến đất Nghiệp mở mang dựng đô mới. Tháng bảy năm Kiến Bình năm thứ tư, Lặc mất, Thái tử Hoằng lên ngôi, đó là Hải Dương Vương, đổi niên hiệu Diên Hy. Ban đêm Hoằng ngầm đem Lặc an táng trong hang núi, không ai biết đích xác nơi ấy, rồi sắm đủ nghi vệ hư táng (an táng giả) Lặc ở Cao Bình Lăng, tôn thụy là Minh Đế, niên hiệu Cao Tổ. Tháng tám, Triệu chủ Hoằng phong Trung Sơn Vương Hổ làm Thừa Tướng rồi làm Ngụy Vương, gia phong Cửu Tích, quản lý trăm quan. Hoằng ở ngôi một năm. Tháng chín năm sau, Triệu Ngụy Vương Hổ lên ngôi, đổi niên hiệu Kiến Vũ, đóng đô ở đất Nghiệp. Đến Tấn Đế năm Vĩnh Hòa năm thứ năm, tháng giêng Triệu Chủ Hổ đổi niên hiệu Thái Ninh, sau đó bị bệnh rồi mất. Thái tử Thế, con của Hổ lên ngôi. Bành Thành Vương Thạch Tuân (con trưởng của Hổ) phế Thế xuống làm Tiếu Vương sau đó giết luôn. Tuân lên ngôi, cho Nghĩa Dương Vương Giám làm thị trung, Vũ Hưng Công Mẫn làm Đô đốc nắm giữ việc quân. Ban đầu Triệu Vương Tuân hứa cho Vũ Hưng làm Thái tử, tháng mười Tuân lập Thái tử Diễn, Vũ Hưng Công Mẫn càng uất hận. Tháng mười một, Mẫn dẫn giáp sĩ đến bắt Tuân ở Nam Đài rồi giết, lập Nghĩa Dương Vương Giám, Mẫn làm đại tướng quân được phong làm Vũ Đức Vương. Tháng giêng năm Tấn Vĩnh Hòa năm thứ sáu, Vũ Đức Vương Nhiễm Mẫn lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Vĩnh Hưng, lấy quốc hiệu là Đại Ngụy. Hậu triệu bắt đầu từ Đông Tấn Nguyên Đế năm Đại Hưng năm thứ hai, Kỷ Mão, kết thúc vào Mục Đế năm Vĩnh Hòa năm thứ bảy, Tân Hợi, gồm sáu chủ, trị vì tổng cộng ba mươi ba năm.

* Nhiễm Mẫn: Người huyện Nội Hoàng, Cối châu, Đại Danh lộ. Triệu chủ Thạch Lặc nhặt được ông, sai em là Hổ nhận làm con nuôi. Lúc này Mẫn lấy họ Nhiễm, tháng ba năm Canh Tuất, Hậu Triệu Thạch Kỳ nghe Nhiễm Mẫn soán ngôi ở đất Nghiệp, liền lên ngôi Hoàng Đế ở Tương Quốc. Năm sau tướng của Kỳ là Lưu Hiển giết Kỳ rồi tự mình xưng đế. Năm Nhâm Tý, Nhiễm Mẫn đánh giết Lưu Hiển. Mẫn ở ngôi ba năm. Tiền Yên Mộ Dung Tuyển dẫn binh đánh và giết Mẫn, đất nước diệt vong. Nhiễm Ngụy không nằm trong mười sáu nước chiếm cứ.

Canh Tuất: Tấn: Vĩnh Hòa năm thứ 6

Tần Phù Hồng, là tướng Triệu chiếm Trường An.

Ngụy: Nhiễm Mẫn năm Vĩnh Hưng năm đầu

Tiền Lương

Tiển Yên: Mộ Dung Tuyển

Tháng hai, có tượng Phật bằng vàng xuất hiện ở Kinh châu, Tư mã Hoàng Ôn nghênh đón nhưng tượng không nhúc nhích. Lúc này Đằng Tuấn ở Giang Lăng đổi nhà làm chùa thỉnh pháp sư Đàm Dực trụ trì. Dực dẫn đồ chúng ra lễ lạy rồi nghinh tượng vào thờ. Tượng bỗng nhẹ như không, Dực an trí tượng tại chùa này.

Tân Hợi: Tấn Vĩnh Hòa năm thứ 7

Hồng mất, con là Kiện xưng Thiên Vương, niên hiệu Hoàng Thỉ năm đầu

Vĩnh Hưng năm thứ 2

Tiền Lương

Tiền Yên

Đại

 

 

 

 

Nhâm Tý: Tấn Vĩnh Hòa năm thứ 8

Kiện lên ngôi Hoàng Đế, niên hiệu Hoàng Thỉ năm đầu

Vĩnh Hưng năm thứ 3

Tiền Lương

Tiền Yên: Mộ Dung Tuyển lên ngôi nguyên tỷ năm đầu

Đại

 

 

 

 

* Phương Ngoại Giao (kết giao bên ngoài): Pháp sư Chi Độn tự Đạo Lâm là người tinh thông Bát-nhã. Thời bấy giờ Thái phó Tạ An, hữu quân Vương Hy Chi rất thân với ngài. Tạ An làm Thái thú Ngô Hưng có lần gửi thư cho ngài, trong ấy ghi: "Xa cách lâu ngày, nhớ Thầy không nguôi, biết thầy muốn về lại Diêm sơn ẩn mình tiến tu, tôi thật bùi ngùi. Đời người chẳng khác sự gởi gắm tạm bợ. Từ dạo bôn ba, gặp nhau chốc lát, nghĩa tình chừng như vơi cạn, trọn ngày tôi mong Thầy đến, dù chỉ một lần được Thầy gội rửa rối rắm trong lòng, một ngày thôi mà tôi tưởng như ngàn năm. "

Tháng mười năm Hưng Ninh năm thứ hai đời Tấn Ai Đế, Sa-môn Trúc Tiềm cáo từ vua về lại Diệm sơn, vua xuống chiếu mời ngài kế thế việc giảng pháp trong cung. Danh sĩ đương thời như Ân Hạo, Khích Siêu, Tôn Xước, Hoàn Ngạn Biểu,

Vương Kính Nhân, Hà Sung, Vương Thản Chi, Viên Ngạn Bá đều rất thân giao với ngài. Thiên hạ đều mong được thấy ngài nêu cao Thánh triết.

Tấn Phế Đế năm Thái Hòa năm thứ hai, ngài dâng biểu cáo từ về núi, vua hạ chiếu ban cấp tiền của cho ngài, lại sai công khanh thiết tiệc tiễn đưa ngài ở Chinh Lỗ đình. Ngài trở về Diệm sơn, lập chùa hoằng hóa trên ngọn núi nhỏ ở Ốc châu, Tăng chúng đều theo ngài học. Lúc này có một số người giải đãi, ngài soạn bài minh khuyên tấn họ. Trong đó có đoạn: "Gắng lên, gắng lên, chí đạo chẳng xa trùm khắp ba cõi, dõng mãnh đi hoài, giữ kỹ cấm giới, đạt chí vô vi, v. v... "

Có người tặng ngài con ngựa, ngài nhận nuôi và nói: "Ta yêu mến con tuấn mã này. " Có người tặng ngài con hạc, ngài thả bay đi và nói: Con vật vùng vẫy giữa trời xanh lẽ đâu bắt nó làm vui tai mắt mình! Người quân tử phải thấu đạt nhiều lẽ. " Về sau, ngài xuống núi, lặng lẽ giảng kinh Duyma. Lúc này Hứa Tuân giảng kinh ở kinh đô có đến gạn hỏi ngài nhiều lần, ngài đối đáp ai nấy đều kính phục. Ngài thọ năm mươi ba. Đới Quỳ có lần ngang qua tháp ngài, rồi than: Âm đức chưa vang xa mà cổ thụ trên mộ đã sum suê thế này rồi! Mới hay lý mầu rạng rỡ đâu mất theo khí vận.

 

Quý Sửu: Tấn, năm Vĩnh Hòa năm thứ 10

Tiền Tần: Họ Phù, năm Hoàng Thỉ năm thứ 3

Tiền Lương: Tộ lên ngôi, niên hiệu Hòa Bình năm đầu

Tiền Yên năm thứ 2

Đại

Giáp Dần: Tấn, năm Vĩnh Hòa năm thứ 10

Tiền Tần: Họ Phù năm Hoàng Thỉ năm thứ 4

Tiền Lương xưng vương năm Hòa Bình năm thứ 2

Tiền Yên năm Nguyên Tỷ năm thứ 3

Đại

 

* Sa-môn Bạch Pháp Kiều tụng kinh tắt tiếng, sám hối bảy ngày đêm cầu Quan Âm Bồ-tát hiển báo. Đến ngày năm thứ bảy, cổ họng ngài bỗng thông, từ đó ngài ngày đêm tụng niệm, âm thanh vang xa đến hơn một dặm. Tuổi ngoài chín mươi nhưng giọng đọc của ngài vẫn không thay đổi.

 

Ất Mão: Vĩnh Hòa năm thứ 11

Kiện mất, Sinh lên ngôi, Thọ Quang năm đầu

Tĩnh lên ngôi, Kiến Hưng năm đầu

Nguyên Tỷ năm thứ 4

 

Bính Thìn: Vĩnh Hòa năm thứ 12

Thọ Quang năm thứ

Kiến Hưng năm thứ 2

Nguyên Tỷ năm thứ 5

 

Đinh Tỵ: Thăng Bình năm đầu, Đế cho Kiên lập Nguyên phục

Sinh mất, Vĩnh Hưng năm đầu

Kiến Hưng năm thứ 3

Dời đô về đất Nghiệp

Đại

Mậu Ngọ: Thăng Bình năm thứ 2

Vĩnh Hưng năm thứ 2

Kiến Hưng năm thứ 4

Quang Thọ năm thứ 2

 

Kỷ Mùi: Thăng Bình năm thứ 3

Cam lộ năm đầu

Kiến Hưng năm thứ 5

Quang Thọ năm thứ 3

 

Canh Thân: Thăng Bình năm thứ 4

Cam lộ năm thứ 2

Kiến Hưng năm thứ 6

Tuyển mất, Húy lên ngôi, Kiến Hy năm đầu

Đại

Tân Dậu: Thăng Bình năm thứ năm, tháng năm Đế mất

Cam lộ năm thứ 3

Huyền Tĩnh theo Chánh Sóc

Kiến Hy năm thứ 2

 

* Ai Đế: Tên là Phi, con trưởng Thành Đế, được phong làm Lang Da Vương. Mục Đế không có con nối dõi, hoàng Thái hậu đưa ông lên nắm quyền và cho lên ngôi. Ông uống thuốc trường sinh, thuốc phát tác đến nỗi không lâm triều được, Chử Thái hậu lâm triều, ông thọ hai mươi lăm tuổi.

Niên hiệu Long Hòa một năm, Hưng Ninh ba năm.

 

Nhâm Tuất: Đế ở ngôi bốn năm

Cam lộ năm thứ 4

 

Kiến Hy năm thứ 3

Đại

Quý Hợi: Hưng Ninh năm đầu

Cam lộ năm thứ 5

Thiên Tích

Kiến Hy năm thứ 4

 

Giáp Tý: Hưng Ninh năm thứ 2

Cam lộ năm thứ 6

 

Kiến Hy năm thứ 5

 

Ất Sửu: Hưng Ninh năm thứ hai, tháng hai Đế mất

Kiến Nguyên năm đầu

 

Kiến Hy năm thứ 6

Đại

 

Tấn, Vương Thản Chi sửa nhà, vườn thành chùa An Lạc, Thích Tuệ Thọ nhận trụ trì.

* Phế Đế: Tên là Dịch, em cùng mẹ với Ai Đế, Ai Đế không có con, Thái hậu cho ông nối dõi và lên ngôi. Hoàn Ôn có ý không phục nên nói khích với Thái hậu, Thái hậu phế ông xuống làm Đông Hải Vương, rồi phong làm Hải Tây Công, ông thọ bốn mươi lăm tuổi. Niên hiệu Thái Hòa năm.

 

Bính Dần: Đế ở ngôi sáu năm. Thái Hòa năm đầu

Tiền Tần: Kiến Nguyên năm thứ 2

Tiền Lươ ng

Tiền Yên: Vỹ, Kiến Hy năm thứ 7

Đạ i

 

* Thập Tụng Giới Bản ba bộ, do, Sa-môn Đàm Ma Trì người tây vực(Hán dịch Pháp Hải) dịch vào đời Tần.

 

Đinh Mão: Tấn, Thái Hòa năm thứ 2

Tiền Tần: Kiến Nguyên năm thứ 3

Tiền Lương

Tiền Yên: Kiến Hy năm thứ 8

Đại

 

* Sa-môn Trúc Đạo Du tức Bạch Đạo Du, đầu tiên ngài dừng chân ở núi Thạch Thành, Diệm sơn, năm ấy ngài lại dời qua Thai châu. Ngài ngồi thiền trong hang núi Xích Thành (nay là núi Thiên Thai), có bầy hổ ngồi xổm trước hang. Ngài tụng kinh, có một con hổ ngủ gục, ngài lấy gậy Như Ý gõ đầu nó và nói: "Tại sao không nghe kinh. " Tụng kinh xong, bầy hổ đi hết. Lát sau, có một con rắn to đến mười vi bò đến cuộn tròn rồi ngóc đầu về phía ngài. Nằm đến nửa ngày, con rắn bò đi. Ngày nọ có một thanh niên đến và nói với ngài: "Đệ tử là con của nhà vua Hạ ở đây đã hơn hai ngàn năm, hôm nay xin qua núi Hàn Thạch. " Nói xong người thanh niên ấy cúng dường hang đá của mình cho ngài, rồi hú lên, đầu mọc sừng và đằng vân đi mất. Đạo Du tịch vào năm Thái Nguyên năm thứ tám đời Đông Tấn Vũ Đế.

 

Mậu Thìn: Thái Hòa năm thứ 3

Kiến Nguyên năm thứ 4

Tiền Lương

Tiền Yên: Kiến Hy năm thứ 9

Đại

 

* Thích Tuệ Thường dịch Tỳ-kheo ni truyện sáu quyển. Tấn An Tây tướng quân Hoàn Ôn, chủ bạ Vương Tuân và em là Dân đổi nhà thành chùa, đó là ngôi chùa ở Hổ Khâu, Bình Giang lộ.

* Y thuật: Sa-môn Vu Pháp Khai thị tịch trong năm này. Khai là đệ tử của Lan Công, ngài tinh thông kinh Phóng Quang Bát-nhã lại rất rành y thuật. Mục Đế có lần triệu ngài vào cung chữa bệnh, ngài xem mạch biết ông ta không qua khỏi nên không chữa. Có người hỏi: Y thuật của thầy cao minh, đơn giản sao không lấy đó làm nghề? Ngài đáp: Thấu tỏ lục độ, trừ các bệnh của bốn ma, điều tiết cửu hầu để trị các chứng phong hàn, lợi mình lợi người, như thế không đáng chăng!

 

Kỷ Tỵ: Thái Hòa năm thứ 4

Kiến Nguyên năm thứ 5

Tiền Lương

Kiến Hy năm thứ 10

Canh Ngọ: Tấn Thái Hòa năm thứ 5

Tiền Tần Kiến Nguyên năm thứ 6

Tiền Lương

Tiền Yên: Vỹ, Kiến Hy năm thứ 11, đất nước diệt vong

Đại

 

 

 

 

Tháng mười một năm Tân Mùi, Hoàn Ôn từ Quảng Lăng đến Kiến Khang xin Chử Thái hậu phế vua, lập Thừa Tướng Cối Kê Vương Dục. Vua có chiếu tấn phong Thừa Tướng Hoàn Ôn làm Đại Tư mã rồi giữ lại kinh sư để phụ chánh. Ôn chối từ xin về giữ Cô Thục.

* Tiền Yên: Mộ Dung Hội là người Tiên Ty, Xương Lê, nhiều đời được nhà Tấn phong hiệu.

Đông Tấn Nguyên Đế năm Đại Hưng năm thứ hai, Hội làm Đô đốc, đặc trách ở Đông Di. Tấn, Thành Đế năm Hàm Hòa năm thứ tám, Mộ Dung Hoàng lên ngôi, đến năm Đinh Dậu, Hoàng xưng vương. Hoàng rất giỏi văn chương, biết kính trên nhường dưới, giỏi giảng dạy tra cứu. Tháng mười một đời Tấn Mục Đế năm Vĩnh Hòa năm thứ tư, Hoàng mất, thế tử Tuyển lên ngôi liền sai sứ đến Kiến Khang báo tang. Tấn Đế hạ chiếu sai sứ giả Trần Quang đến bái phong Tuyển làm Yên Vương. Tuyển lấy năm Mậu Thân làm năm đầu. Năm Nhâm Tý Tuyển diệt Thạch Triệu, tháng mười một, Tuyển lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu Nguyên Tỷ. Năm Đinh Tỵ, Tuyển dời đô về đất Nghiệp, đó là quốc đô Thạch Hổ, đổi niên hiệu Quang Thọ. Tháng giêng năm Canh Thân, Chiêu Đế Tuyển mất, đại Tư mã Mộ Dung Khác nhận di chiếu giúp Thái tử Vỹ lên ngôi, đổi niên hiệu Kiến Hy, Vỹ chính là U Đế. Năm Kỷ Tỵ tức Kiến Hy thứ mười, Yên Thái phó Thượng Dung Vương, Mộ Dung Bình hiềm khích uy danh của Ngô Vương Mộ Dung Thùy, lại vì tranh nhau mà gây oán với Bình. Thái hậu Khả Túc Hỗn thị ngầm bàn mưu với Bình để giết Thùy. Thùy đem vợ con em cháu chạy sang Tần. Tần Vương Phù Kiên vui mừng ra biên giới đón Thùy rồi cho Thùy làm quan quân tướng quân và phong hiệu Tân Tùng Hầu. Hồi ấy, Tấn đánh Yên, Yên cầu cứu với Tần, Bình cắt đất từ Hổ Lao về Tây để hối lộ cho Tần. Đến khi quân Tấn rút lui, dân Yên muốn lấy đất lại, Tần chủ nổi giận dẫn binh đánh Yên. Tháng mười hai, Tần đến Lạc Dương. Tháng giêng năm Kiến Hy mười một Yên Kinh châu Thứ sử Vũ Uy Vương Trúc đem Lạc Dương hàng Tần. Tháng sáu Tần lại đánh Yên, Yên thua. Tháng mười một, Tần chủ Phù Kiên vào đất Nghiệp, Yên chủ Vỹ đem binh ra hàng. Tháng mười hai, Phù Kiên đưa Mộ Dung Vỹ cùng hậu phi, vương công và trăm quan của Yên về Trường An, phong Vỹ làm Tân Hưng Hầu, những người còn lại đều được phong. Mộ Dung Hội bắt đầu từ Tấn Tuệ Đế năm Thái An năm thứ hai, Quý Hợi kết thúc vào Đông Tấn Phế Đế năm Thái Hòa năm thứ năm Canh Ngọ, gồm bốn chủ, trị vì sáu mươi tám năm.

* Thái Tông Giản Văn Đế: Tên là Dục, con út của Nguyên Đế, được phong làm Cối Kê Vương. Khang Đế mất, Thái hậu sai ông nắm giữ mọi việc rồi phong ông làm Tư Đồ Thừa Tướng nắm việc của Thượng thư. Hoàn Ôn phế Hải Tây Công, theo lệnh Thái hậu, ông lên ngôi Hoàng Đế. Hoàn Ôn chuyên quyền, Đế lấy lòng khoan dung đối xử với Ôn. Ông thọ năm mươi ba tuổi, từng dựng chùa, đúc tượng, độ tăng. Ông dựng chùa Trường Can ở Kiến Khang, xây tháp Phật nguy nga, tráng lệ.

Niên hiệu Hàm An có hai năm.

 

Tân Mùi: Tấn, tháng mười một, Đế lên ngôi, đổi niên hiệu Hàm An

Tiền Tần Phù Kiên thôn tính Trung Nguyên. Năm Kiến Nguyên năm thứ 7

Tiền Lương

 

* Sa-môn Trúc Pháp Thải: Sư ở chùa Ngõa Quan thuộc Kiến Khang, vua rất kính trọng. Sư giảng kinh Phóng Quang Bát-nhã, vua đích thân đến nghe, công khanh đều đến dự, tăng tục thảy kính ngưỡng. Đời Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ mười hai, Sư quy tịch, thọ sáu mươi tám tuổi. Vũ Đế hạ chiếu rằng: Pháp sư Thải đạo bủa tám phương, vội vàng quy tịch, nay cấp mười vạn tiền, mọi việc tang lễ do Hữu Ty lo liệu.

 

Nhâm Thân: Hàm An năm thứ hai, tháng 7, Đế mất.

Tiền Tần: Năm Kiến Nguyên năm thứ 8

Tiền Lương

 

Đại

 

* Hứa Tuân: Tự Huyền Độ, Đế rất kính trọng, thường đàm đạo huyền với ông. Hậu thân của ông là vị Tăng tên là Đàm Ngạn. Tháp của Đàm Ngạn ở Thiệu Hưng, Chiết Đông, Ngạn thọ một trăm hai mươi tuổi.

Liệt Tông Hiếu Vũ Đế: Tên là Diệu, con năm thứ ba của Giản Văn Đế. Ông lên ngôi năm mười một tuổi, tháng giêng niên hiệu Thái Nguyên năm đầu ông lên ngôi Hoàng Đế, Thái hậu giao lại quyền chánh cho ông. Ông ở ngôi hai mươi bốn, thọ ba mươi lăm tuổi. Niên hiệu Ninh Khang ba năm, Thái Nguyên hai mươi mốt năm.

 

Quý Dậu: Tấn, niên hiệu Ninh Khang năm đầu

Tần: Năm Kiến Nguyên năm thứ 9

Tiền Lương

 

Đại

 

Tháng bảy, Nam quận Tuyên Vũ Công Hoàn Ôn bệnh nặng, sai em là Xung nhận lãnh mọi việc. Xung theo di mệnh đưa con út của Ôn là Huyền làm người kế thừa. Lúc này Huyền mới năm tuổi được tập phong làm Nam quận công. Xung thay Ôn gánh vác mọi việc, tận trung với vương thất.

Tháng tám, Thái hậu lại lâm triều nhiếp chính.

 

Giáp Tuất: Kiến Khang năm thứ 2

Kiến Nguyên năm thứ 10

Tiền Lương

 

Đại

 

* Sắc lệnh an táng Sa-môn: Đời Ai Đế năm Kiến Khang năm thứ hai, vua hạ chiếu thỉnh Pháp sư Trúc Tiềm vào giảng kinh Bát-nhã trong cấm thành. Tiềm mang cả dép vào điện, mọi người xúm nhau xem rồi khen đạo đức và phong thái cao vời của ngài. Có lần vua ép ngài làm quan, Tiềm từ chối trở về Diệm sơn. Sau đó Chi Độn gởi thư muốn tìm mua một ngọn núi nhỏ ở Ốc châu để ở ẩn. Tiềm trả lời rằng: "Muốn đến thì cho ngay chứ chưa nghe việc mua núi làm tổ rồi mới về ở ẩn. " Pháp Tiềm thị tịch trong năm này, Vũ Đế hạ chiếu rằng: "Pháp sư tỏ ngộ sâu xa, phong thái thanh cao, bỏ cái vinh Tể tướng, học cái hạnh Sa-môn, ở trên núi cao, vượt xa thế tục, dốc chí tu hành, chưa từng giãi đãi, một lòng nêu đạo, giáo hóa quần sinh, nay đột nhiên quy tịch Trẫm đau xót vô cùng. Nay ban tặng cho mười vạn quan tiền, trợ giúp việc xây tháp". Những Sa-môn Trung Quốc được vua ban lễ vật tống táng bắt đầu từ ngài.

 

Ất Hợi: Tấn, năm Ninh Khang năm thứ 3

Tiền Tần: Năm Kiến Nguyên năm thứ 11

Tiền Lương

Đại

Bính Tý: Tấn năm Thái Nguyên Năm đầu, mồng một tháng giêng Đế lên ngôi

Kiến Nguyên năm thứ 12

Tần diệt Lương. Lương tồn tại được 74 năm

Đại: Thác Bạt Khuê dựng thành ấp trong năm này.

 

Tiền Lương: Trương Quỹ tự Sĩ Ngạn, người An Định (nay là Thiểm Tây, Trang Lãng lộ thuộc Ung châu, Kinh châu). Ông làm quan nhà Tấn giữ chức Tán kỵ thường thị. Tuệ Đế tháng giêng niên hiệu Vĩnh Ninh năm đầu, ông làm Lương châu Thứ sử. Gặp lúc thời buổi nhiễu nhương, Quỹ ngầm nuôi chí chiếm cứ Hà Tây nên mới xin làm Thứ sử Lương châu. Năm Quý Hợi, Quỹ chiếm Lương châu. Mẫn Đế năm Kiến Hưng năm thứ hai, Quỹ xưng Lương châu mục Tây Bình công. Kiến Hưng năm thứ tư, Trương Thật kế ngôi. Đông Tấn Nguyên Đế năm Đại Hưng năm thứ tư em là Mậu kế ngôi. Tấn Minh Đế năm Thái Ninh năm thứ hai, con là Tuấn kế ngôi. Tấn Mục Đế niên hiệu Vĩnh Hòa năm đầu, Tuấn xưng vương. Tháng năm Vĩnh

Hòa năm thứ hai, Tây Bình Trung Thành Vương Trương Tuấn mất, các quan đưa Thế tử Trùng Hoa làm Lương châu mục Tây Bình công giả Lương Vương. Tháng mười một năm Vĩnh Hòa năm thứ chín, Tây Bình Kính Liệt công Trương Hoa mất. Thế tử Diệu Linh lúc này mới mười tuổi, bọn Hữu Trường Sử, Triệu Trường kiến nghị lập Trường Ninh Hầu Tộ vốn là anh kế của Trùng Hoa, phế Diệu Linh xuống làm Lương Ninh Hầu, đưa Tộ làm Lương châu mục, đổi niên hiệu Hòa Bình. Tháng giêng năm Vĩnh Hòa thứ mười, Trương Tộ tự xưng là Lương Vương, đặt ra trăm quan, tế giao tế tự, tế trời đất, dùng lễ nhạc của Thiên Tử. Vĩnh Hòa năm thứ mười một, Xung Công Trương Tịnh lên ngôi, đổi niên hiệu Kiến Hưng, đến Tấn Ai Đế niên hiệu Hưng Ninh năm đầu, Lương Điệu Công Trương Thiên Tích giết Tịnh rồi tự lập. Đến lúc này là Vũ Đế năm Thái Nguyên năm đầu, bị Phù Tần tiêu diệt. Nhà Lương tồn tại bảy mươi bốn năm. Lương châu thuộc Ung châu tỉnh Cam Túc ngày nay.

 

Đinh Sửu: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 2

Tiền Tần năm Kiến Nguyên 13

Tấn Thư ghi: Đến lúc này đất trong chín châu thì Tần đã có đến 8, nhà Tấn chỉ còn một dải ở Đông Nam mà thôi.

Đại

 

+ Thích Tuệ Vĩnh ở chùa Tây Lâm, Lô Sơn: Ban đầu ngài cùng Pháp sư Tuệ Viễn tham học với Pháp sư Đạo An, đến lúc này ngài đến Tầm Dương trước, Thứ sử Đào Phạm giữ ngài ở lại Lô Sơn. Phạm cải gia vi tự cho ngài ở, đó là chùa Tây Lâm, trên núi có một cái thất tên là Hương Cốc.

 

Mậu Dần: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 2

Tiền Tần: Năm Kiến Nguyên năm thứ 14

Đại

 

* Đô Duy Na: Sa-môn Trúc Đạo Nhất theo học Pháp sư Thải, Tấn Giản Văn Đế rất kính trọng hai ngài. Sau đó, Đạo Nhất qua tại Hổ Khâu, Bình Giang, rồi qua trụ ở Nhã Da Khê ở Việt Châu. Mấy hôm sau, quận thú Vương Hội xây chùa Gia Tường thỉnh ngài trụ trì. Thời bấy giờ, người ta gọi ngài là Cửu Châu Đô Duy Na. Luật Tỳ-nại-da mười quyển do Pháp sư Trúc Pháp Niệm dịch hoàn tất trong năm này.

 

Kỷ Mão: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 4

Tiền Tần: Kiến Nguyên năm thứ 14. Tần lấy được Tương Dương của Tấn và có được Pháp sư Đạo An, Tập Tạc Xỉ.

Đại

Canh Thìn: Thái Nguyên năm thứ 5

Kiến Nguyên năm thứ 16

Đại

 

* Sa-môn Trúc Pháp Nghĩa là người mở mang vương đạo, kế thừa tông phong, kính trọng bạn bè. Vua từng sai sứ mời ngài vào điện giảng thuyết kinh điển, mỗi khi giảng thuyết Vũ Đế đều đến nghe. Ngài thị tịch trong năm này, vua ban mười vạn tiền, xây tháp an táng ở sườn núi Tân Đình, nay là chùa Thiên An.

 

Tân Tỵ: Tháng giêng năm Thái Nguyên năm thứ sáu vua lập điện trong Tịnh Xá thỉnh Samôn giảng đạo

Kiến Nguyên năm thứ 17

 

Đại

Nhâm Ngọ: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 7

Kiến Nguyên năm thứ 18

Lã Quang chiếm Cô Tang, tức Lương Châu

Đại

 

Tiền Tần chủ Phù Kiên sai tả tướng quân Lã Quang đánh Quy Tư, đón Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Lã Quang chiếm cứ Cô Tạn, tức Lương châu, lấy hiệu Hậu Lương.

 

Quý Mùi: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 8

Tiền Tần: Kiến Nguyên năm thứ 19

 

 

Lã Quang

Đại: Thát Bạt Khuê

 

 

 

 

Giáp Thân: Năm Thái Nguyên năm thứ 9

Kiến Nguyên năm thứ 20

Hậu Tần Diêu Trành, niên hiệu Bạch Tước năm đầu

Tây Tần: Khất Phục Quốc Nhân chiếm Kim Thành

 

Hậu Lương Mộ Dung Thùy năm đầu

Đại

 

Pháp sư Viễn Công ở Nhạn môn đến Lô Sơn, Giang châu trong năm này.

 

Ất Dậu: Năm Thái Nguyên năm thứ 10

Kiên bị giết, con là Phi lên ngôi, Thái Bình năm đầu

Bạch Tước năm thứ 2

Tây Tần: Kiến Hy năm đầu

Lã Quang

Thùy chiếm cứ Trung Sơn, niên hiệu Kiến Hưng năm đầu

Đại: Thát Bạt Khuê

 

Bính Tuất: Năm Thái Nguyên năm thứ 11

Phi mất, Đăng lên ngôi, niên hiệu Thái sơ năm đầu

Tràng vào Trường An và lên ngôi, niên hiệu Kiến Sơ năm đầu

Kiến Hy năm thứ 2

Tam Hà Vương Lã Quang, niên hiệu Thái An năm đầu

Kiến Hưng năm thứ 2

Khuê lên ngôi Ngụy Vương, Đăng Quốc năm đầu

 

Đinh Hợi: Thái Nguyên năm thứ 12

Thái Sơ năm thứ 2

Kiến Sơ năm thứ 2

Kiến Hy năm thứ 3

Lân Gia năm đầu

Kiến Hưng năm thứ 3

Ngụy Vương Khuê: Đăng Quốc năm thứ 2

 

Mậu Tý: Thái Nguyên năm thứ 13

Thái Sơ năm thứ 3

Kiến Sơ năm thứ 3

Kiến Hy năm thứ 4

Lân Gia năm thứ 2

Kiến Hưng năm thứ 4

Đăng Quốc năm thứ 3

 

 

Tổ năm thứ 26: Tôn giả Bất-như-mật-đa.

Ngài là con thứ của vua Thiên Đức ở Nam Ấn. Sau khi xuất gia đắc pháp, ngài đến Đông Ấn hoằng hóa. Quốc vương xứ này tên là Kiên Cố, thờ ngoại đạo Trường Trảo Phạm chí. Nhà vua bỗng thấy luồng khí trắng xuyên suốt từ trên xuống dưới mới hỏi:

- Đây là điềm gì? Phạm chí đáp: Là điềm ma đến.

Phạm chí nhóm họp đồ chúng và hỏi:

Bất-như-mật-đa sắp vào thành đô, ai có thể chiết phục được ông ấy?

Đệ tử ông ta đáp:

Bọn đệ tử đều có chú thuật có thể làm chấn động trời đất, vào trong nước lửa thì còn lo gì!

Ngài đến, vua hỏi: Thầy đến làm gì? Ngài đáp:

Đến để độ sinh.

- Dùng pháp gì độ?

- Tùy theo mỗi loại mà độ họ.

Bấy giờ Phạm chí dùng huyễn thuật hóa ra một trái núi lớn đè trên đỉnh đầu ngài. Ngài lấy tay chỉ, quả núi bay qua đè bọn Phạm chí. Phạm chí khiếp sợ lạy ngài xin tha. Ngài xót thương bọn họ, lấy tay chỉ, quả núi biến mất. Ngài diễn nói pháp yếu cho vua nghe, ai nấy đều quy hướng Chân thừa.

Lúc ấy có một thanh niên con Bà-la-môn, khoảng hai mươi tuổi, chẳng biết tên họ là gì, có khi tự xưng mình là Anh Lạc, cho nên người ta gọi cậu là Đồng tử Anh Lạc. Một hôm vua cùng ngài xa giá đi ra thì gặp Anh Lạc. Ngài chỉ Anh Lạc và nói với nhà vua: chàng trai trẻ này chính lá Bồ-tát Đại Thế Chí. Sau vị Thánh này sẽ xuất hiện hai người, một người giáo hóa ở Nam Ấn, một người có duyên với nước Chấn Đán. Do nguyên nhân xưa nên ngài đặt tên cho Anh Lạc là Bát-nhã Đa-la và ngài nói: Nay ta đem Chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Ngài nói kệ:

Kho chân tánh tâm địa
Không đầu cũng không đuôi
Ứng duyên mà hóa vật
Phương tiện gọi là trí.

Phó pháp xong, ngài từ biệt vua và nói: "Tôi sẽ quy tịch, mong nhà vua đừng quên ngoại hộ giáo pháp Tối Thượng thừa". Nói xong ngài kiết già quy tịch, dùng lửa tự đốt thân. Nhà vua thâu lấy xá-lợi dựng tháp an táng. Bấy giờ là đời Đông Tấn Vũ Đế.

 

Kỷ Sửu: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 14

Tiền Tần: Năm Thái Sơ năm thứ 4

Hậu Tần: Năm Kiến Sơ năm thứ 4

Tây Tần Càn Quy Thái Sơ năm đầu

Lã Quang: Lân Gia năm thứ 3

Hậu Yên: Thùy,

Ngụy Vương:

 

năm Kiến Hưng năm thứ 5

Năm Đăng Quốc năm thứ 4

 

 

* Pháp sư Thích Đạo An: ngài họ Vệ, người Phù Liễu, Thường Sơn. Vốn theo nghiệp Nho, từ nhỏ mồ côi cha mẹ, được anh họ nuôi nấng. Năm mười một tuổi, ngài xuất gia, thờ Phật Đồ Trừng làm thầy. Ngài đọc sách, mỗi ngày thuộc cả vạn lời, biện tài lưu loát, bẩm tánh thông minh nhưng mặt mày rất xấu, bấy giờ có câu ngạn ngữ: "Đạo nhân đen như than, làm kinh động bốn phía. "

Đến khi Phật Đồ Trừng thị tịch, ngài dẫn đồ chúng vượt sông vào núi Lục Hồn, ăn rau cỏ, uống nước khe. Niên hiệu Ninh Khang năm đầu, đời Vũ Đế, ngài dựng chùa Đàn Khê ở Tương Dương, xây tháp, đúc tượng Phật bằng đồng. Vũ Đế nghe danh ngài liền hạ chiếu rằng: "Pháp sư đem đạo đức soi sáng trời người, làm cho đại pháp lưu hành, làm chỗ dựa cho sinh linh, nên mỗi ngày nhận bổng lộc như vương công, quan lại địa phương theo mùa mà cung cấp phẩm vật cho ngài vậy. " Nhưng ngài kiên quyết chối từ, không nhận.

Năm Kỷ Mão, tức Tấn Thái Nguyên năm thứ tư, tháng hai, Tần chủ Phù Kiên đánh chiếm Tương Dương, rước được ngài nên lòng vô cùng vui mừng. Kiên nói với Tả hữu: "Ta dùng mười vạn binh lấy Tương Dương, được một người rưỡi mà thôi. " Tả hữu hỏi đó là ai, Kiên đáp:

"An Công là một người, Tập Tạc Xỉ là nửa người. "

Ngài đến Trường An, có hơn một vạn Sa-môn đều lấy họ của ngài. Ngài nói: Bậc thầy không ai bằng Phật Thế Tôn, Sa-môn nên lấy họ Thích làm họ của mình. Kinh Tăng Nhất A-hàm có ghi: "Bốn sông đổ ra biển, không còn tên gọi khác, bốn họ khi xuất gia đều gọi là họ Thích", hễ phù hợp kinh điển, đời càng thêm kính trọng.

Ngày ba mươi tháng giêng năm Kỷ Sửu, ngài sai đồ chúng chuẩn bị tắm rửa cho mình, bỗng có một dị tăng xuất hiện đi tới đi lui nơi kẽ tường. Ngài hỏi vị Tăng mình sẽ sinh ở đâu, vị Tăng chỉ hướng Tây Bắc, nơi ấy bỗng nhiên mây trời rẽ ra, lâu đài nguy nga hiện ra như trong mộng. Vị Tăng nói: "Đó là trời Đâu-suất, đêm nay sẽ có vài trăm đồng tử tắm xong thì đi đến đó, ông cần biết trước để sau này kết duyên cùng những bạn bè Ứng Chân đó.

Ngày tám tháng hai, ngài kiết già mà tịch. Mỗi lần chú sớ nghĩa kinh, ngài đều cầu Thánh chứng minh. Cánh tay trái của ngài có cục thịt vuông vức một tấc nổi cao như cái ấn, nên người đương thời gọi ngài là Ấn Thủ Bồ-tát. Ngài trước tác Tăng ni Quỹ Phạm và Pháp Môn Thanh Thức gồm hai mươi bốn điều, ai nấy đều tuân theo.

Trong Biên Niên Luận của Tú Tử Chi ghi: "Sự hưng thịnh của Phật giáo từ Phật Đồ Trừng có được Đạo An, do Đạo An có được Viễn Công, hóa nghi của ba đại sĩ ấy đều dị kỳ, lớn lao.

 

Canh Dần: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 15

Tiền tần, năm Thái Sơ năm thứ 5

Hậu Tần, năm Kiến Sơ năm thứ 5

Tây Tần khất Phục, Thái Sơ năm thứ 2

Lã Quang, năm Lân Gia năm thứ 4

Hậu Yên: Kiến Hưng năm thứ 6

Ngụy: Đăng Quốc năm thứ 5

 

 

 

Đạo tràng niệm Phật Tịnh độ ở Lô Sơn bắt đầu từ năm này (xem hành trạng của Pháp sư Tuệ

Viễn).

 

Tân Mão: Thái Nguyên năm thứ 16

Thái Sơ năm thứ 6

Kiến Sơ năm thứ 6

Thái Sơ năm thứ 3

Lân Gia năm thứ 5

Kiến Hưng năm thứ 7

Đăng Quốc năm thứ 6

 

Nhâm Thìn: Thái Nguyên năm thứ 17

Thái Sơ năm thứ 7

Kiến Sơ năm thứ 7

Thái Sơ năm thứ 4

Lân Gia năm thứ 6

Kiến Hưng năm thứ 8

Đăng Quốc năm thứ 7

 

Quý Tỵ: Thái Nguyên năm thứ 18

Thái Sơ năm thứ 8

Trường mất, Thái tử Hưng lên ngôi

Thái Sơ năm thứ 5

Lân Gia năm thứ 7

Kiến Hưng năm thứ 9

Đăng Quốc năm thứ 8

 

Giáp Ngọ: Thái Nguyên năm thứ 19

Phù Sùng diệt, Diên Hòa năm đầu

Hậu Tần Hưng, Hoàng Sơ năm đầu

Thái Sơ năm thứ 6

Lân Gia năm thứ 8

Kiến Hưng năm thứ 10

Đăng Quốc năm thứ 9

 

 

* Tiền Tần: Phù Kiện: Ông vốn họ Lược Dương, cha là Hồng, làm quan cho hậu Triệu giữ chức Đô đốc. Nhân họ Thạch nổi loạn, Hồng chiếm cứ Quan Hữu. Đông Tấn Mục Đế năm Vĩnh Hòa năm thứ sáu, Hồng mất, tháng mười một con năm thứ ba của ông là Phù Kiện vào Trường An, dân Di, Hạ của Ung châu, Tần châu đều về với Kiện. Tháng giêng năm sau, Kiện lên ngôi thiên vương, lấy quốc hiệu Đại Tần, xưng là đại Thiền Vu, lấy niên hiệu Hoàng Thỉ, sai sứ giả đi thăm hỏi dân tình, tiến cử bậc hiền tài, giảm nhẹ tô thuế, bãi bỏ những thứ vô dụng. Những chính sách hà khắc mà dân không kham nổi của nhà Triệu ông đều bỏ hết. Tháng giêng năm Nhâm Tý, Kiện lên ngôi Hoàng Đế. Năm Giáp Dần, Đông Hải Vương Hùng mất, con Hùng là Kiên lên kế vị. Kiên hiếu thảo, học rộng, đa tài. Tháng sáu năm Ất Mão, Kiện mất, thụy là Cảnh Minh Hoàng Đế, miếu hiệu Cao Tổ. Thái tử Sinh lên nối ngôi, đổi niên hiệu Thọ Quang. Sinh là kẻ bạo ngược, uống rượu quên ngày đêm, nhân lúc say giải quyết mọi việc nên giết hại rất nhiều người. Quần thần giữ được mạng sống trong một ngày cứ như trải qua mười năm. Tháng sáu năm Đinh Tỵ, Thái tử Lệnh Khang Quyền nói với Sinh: "Đêm qua xuất hiện ba mặt trăng, sao chổi nhập vào Thái Vi kéo dài đến giếng phía Đông, sắp có họa kẻ dưới giết người trên. " Sinh nổi giận cho là nói gở liền đâm chết Khang Quyền. Đêm ấy Sinh nói với đám thị tỳ: "Anh em thằng Pháp cũng không đáng tin, ngày mai phải giết sạch đi!" Thị tỳ báo với Kiên và anh của Kiên là Thanh Hà Vương Pháp. Pháp cùng Đặc Tiến Lương Bình lão, Đặc Tiến Cường Uông dẫn mấy trăm tráng sĩ lén vào Vân Long Môn, Kiên và Thượng thư Lã Bà Lâu dẫn hơn ba trăm thuộc hạ thúc trống theo sau. Túc vệ, tướng sĩ đều bỏ binh khí quy hàng Kiên. Binh của Kiên dẫn Sinh nhốt trong nhà riêng, lúc ấy Sinh còn chưa tỉnh rượu. Kiên phế Sinh làm Việt Vương rồi giết, thụy là Lệ Vương. Kiên nhường ngôi cho anh là Pháp, Pháp nói: "Em là dòng chính, lại hiền tài, nên lên ngôi. " Kiên bỏ hiệu Hoàng Đế, xưng là Đại Tần Thiên Vương, đổi niên hiệu Vĩnh Hưng, truy tôn cha là Hùng làm Văn Hoàn Hoàng Đế, mẹ là Cẩu thị làm Hoàng Thái hậu, thế tử Hoằng làm hoàng Thái tử, phong anh là Thanh Hà Vương Pháp làm Đô đốc nắm giữ việc quân cơ, Thừa Tướng nắm việc Thượng thư, các vương đều giáng xuống tước công, phong em là Dung làm Dương Bình công, con là Phi làm Đương Lạc công, đưa bậc tài giỏi giữ những chức bị bãi. Ông dạy cách làm nông, thương kẻ khốn cùng, tế lễ trăm thần, mở ra trường học, nêu cao nghĩa tiết, kế tục muôn đời, muôn dân hân hoan.

Năm Kỷ Mùi, ông đổi niên hiệu Cam Lộ. Năm Kỷ Sửu, đổi niên hiệu Kiến Nguyên. Năm Quý Mùi nhằm Đông Tấn Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ tám, tức Tần năm Kiến Nguyên năm thứ 19, ông dốc binh đánh Tấn, Kiên thua to dẫn tàn quân về. Tháng năm Kỷ Dậu, Tây Yên Mộ Dung Xung đánh Trường An, Kiên đích thân đốc chiến. Kiên bị tên cắm đầy người, máu me đầm đìa, Xung cho quân tàn phá Quan Trung, đường xá vắng ngắt, ngàn dặm chẳng thấy một ngôi nhà. Kiên chạy đến núi Ngũ Tướng, Hậu Tần Vương Diêu Trành sai phiêu kỵ tướng quân Ngô Chí Trung đến bắt Kiên, phong thụy cho ông trong ngôi chùa ở Tân Bình. Con của Kiên là Phi từ đất Nghiệp chạy đến Trường An, đến Tấn Dương thì mới biết Trường An thất thủ, Kiên đã chết, Phi bèn phát tang rồi lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Thái Bình, truy tôn Kiên thụy là Tuyên Chiêu Hoàng Đế, miếu hiệu Thế Tổ. Tháng chín năm Bính Tuất, Mộ Dung Vĩnh của Yên sai sứ qua Phi mượn đường đi về Đông, Phi không cho. Phi và Vĩnh đánh nhau ở Tương Lăng, Phi thua mới bàn đánh úp Lạc Dương. Bấy giờ ông bị Dương Uy tướng quân Bằng Cai từ đất Thiểm vây đánh và giết. Tháng mười một, Tần Nam An Vương Phù Đăng phát tang cho Phi rồi lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Thái Sơ, phong Phi thụy là Ai Bình Hoàng Đế, bấy giờ là năm Giáp Ngọ tức Tấn Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ mười chín.

Tháng bảy Hậu Tần chủ Diêu Hưng từ Thiểm Tây, Kinh châu đi Kinh Dương đánh nhau với Đăng ở Sơn Nam, bắt Đăng rồi giết. Thái tử của Đăng là Sùng chạy đến Hoàng Trung, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Diên Hòa, truy Đăng thụy là Cao Hoàng Đế. Sùng bị Hậu Tần họ Diêu tiêu diệt. Tiền Tần tồn tại cả thảy bốn mươi lăm năm.

 

Ất Mùi: Tấn, năm Thái Nguyên năm thứ 20

Hậu Tần họ Diêu, năm Hoàng Sơ năm thứ 2

Tây Tần khất phục, năm Thái Sơ năm thứ 7

Tam Hà Vương Lã Quang năm Lân Gia năm thứ 9

Hậu Yên Mộ Dung, Kiến Hưng năm thứ 11

Ngụy: Đăng Quốc năm thứ 10

 

Bính Thân: Thái Nguyên năm thứ 21, tháng sáu vua bị giết

Hoàng Sơ năm thứ 3

Tây Tần khất phục

Hậu Vương lên ngôi Đại Vương, niên hiệu Long Phi năm đầu

Mộ Dung Bảo, Vĩnh Khang năm đầu

 

Ngụy: dựng cờ Thiên Tử, Hoàng Thỉ năm đầu

 

 

* An Đế: Húy Đức Tông, Thái tử của Vũ Đế. Ông lên ngôi vào tháng chín năm Thái Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt, ở ngôi hai mươi hai năm, thọ ba mươi bảy tuổi. Niên hiệu Long An năm, Nguyên Hưng ba năm, Nghĩa Hy mười bốn năm.

 

Đinh Dậu: Tấn, niên hiệu Long An năm đầu

Nam Yên: Mộ Dung Đức

Nam Lương: Ngốc- Phát-Ô-Co

Hậu Tần: họ Diêu, Hoàng Sơ năm thứ 4

Tây Tần khất phục

Tây Lương: Lý Cao

Hậu Lương: Lã Quang, Phi Long năm thứ 2

Hậu Yên: Vĩnh Khang năm thứ 2

Bắc Lương: Thư Cừ, Thần Tỷ năm đầu

Ngụy: Năm Hoàng Thỉ năm thứ 2

Mậu Tu-ất: Long An năm thứ 2

Vũ Đế: năm Đức Quang năm đầu

Chiếm cứ Quảng Vũ, Thái Sơ năm đầu

Hoàng Sơ năm thứ 5

Tây Tần

Tây Lương: chiếm đất Châm

Hậu Lương: họ Lã, Long Phi năm thứ 3

Hậu Yên: năm Kiến Bình năm thứ 3

Bắc Lương: năm Thần Tỷ năm thứ 2

Ngụy lên ngôi Vua, niên hiệu Thiên Hưng năm đầu

 

Ngụy: Thái Tổ khi hạ chiếu rằng: Từ Phật pháp hưng thịnh đến nay rất là sâu xa, công lao cứu đời bủa khắp kẻ còn người mất, dấu tích thần kỳ của đạo pháp lưu lại đáng để muôn dân tin tưởng, cậy nhờ. Trẫm nay ban lệnh quan Hữu Ty phải nghiêm sức tượng Phật. Sửa sang chùa viện trong kinh thành để người tín tâm có nơi nương tựa. " Thái tổ dựng tháp cao mười lăm tầng ở đất Ngu, dựng hai chùa Khai Thái và Định Quốc, chép nhiều Kinh Luận, đúc ngàn tượng vàng, mỗi ngày thết cúng ba trăm danh tăng.

 

Kỷ Hợi: Long An năm thứ 3

Chiếm cứ Quảng Cố

Nam Lương: Thái Sơ năm thứ 2

Hậu Tần: Hoàng Thỉ năm đầu

Tây Tần Khất Phục

Tây Lương

Hậu Lương: Toản, Hàm Ninh năm đầu

Hậu Yên: Trường Lạc năm đầu

Bắc Lương: Thiên Tỷ năm đầu

Ngụy: Thiên Hưng năm thứ 2

Canh Tý: Long An năm thứ 4

Nam Yên lên ngôi, Kiến Bình năm đầu

Nam Lương: Lợi Lộc Cô, Kiến Hòa năm đầu

Hậu Tần: Hoàng Thỉ năm thứ 2

Tây Tần Khất Phục

Tây

Hậu

Hậu

Bắc

Ngụy:

Lương: Lý Cảo

Lương: Hàm Ninh năm thứ 2

Yên: Trường lạc năm thứ 2

Lương: Năm Thiên Tỷ năm thứ 2

Thiên Hưng năm thứ 3

Tân Sửu: Tấn, Long An năm thứ 5

Nam Yên: Kiến Bình năm thứ 2

Nam Lương: Kiến Hòa năm thứ 2

Hậu Tần: Họ Diêu Hoàng Thỉ năm thứ 3

Tây Tần Khất Phục năm thứ 3

Tây Lương: Lý Cảo năm thứ 2

hậu Lương: Long, Thần Đỉnh năm đầu

Hậu Yên: Hy, Quang Thỉ năm đầu

Bắc Lương: Mông Tống, Vĩnh An năm đầu

Ngụy: Thạch Bạt, Thiên Hưng năm thứ 4

 

* Hậu Lương: Lã Quang, vốn họ Lược Dương, làm quan cho Phù Tần, giữ chức tả tướng quân. Đông Tấn Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ mười một, Nguyên có tướng là Vương Mục chiếm cứ Tửu Tuyền của Túc châu, tự xưng là Lương châu mục. Quang tiến đánh lấy được Tửu Tuyền và ông lên ngôi làm Tam Hà Vương, lấy niên hiệu Thái An, rồi ông chiếm cứ Cô Tạng (Lương châu tỉnh cam Túc ngày nay), đổi niên hiệu là Lân Gia. Tháng sáu năm Thái Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt, Tam Hà Vương Lã Quang lên ngôi Thiên vương, đó là Vũ Đế, lấy quốc hiệu Đại Lương, đổi niên hiệu Long Phi, đưa thế tử Thiệu làm Thái tử. Đến tháng mười hai ăm Long An năm thứ ba đời Tấn, Quang mất, Thái tử Thiệu lên ngôi bị Đại Nguyên Công Toản giết. Toản lên ngôi Thiên Vương, đó là Linh Đế, đổi niên hiệu Hàm Ninh. Toản uống rượu, ưa đi săn, năm Long An năm thứ năm Lã Siêu giết ông rồi lập Lã Long, đổi niên hiệu Thần Đỉnh. Năm sau, Long hàng Hậu Tần, họ Diêu gồm ba chủ, trị vì cả thảy mười bảy năm.

* Pháp sư Cưu-ma-la-thập: Ngài người nước Quy Tư. Năm Đông Tấn Vũ Đế, niên hiệu Thái Nguyên năm thứ bảy, Tiền Tần Phù Kiên sai phiêu kỵ tướng quân Lã Quang đánh nước Quy Tư rước ngài về. Về đến nửa đường, Quang nghe Tần bị loạn, liền chiếm cứ Cô Tạng. Đến khi Hậu Tần Diêu Hưng diệt Lã Long xong mới đón ngài về. Thuở nhỏ, ngài mỗi ngày đọc thuộc ba vạn hai ngàn lời, rồi theo mẹ xuất gia, vân du khắp Tây Vực, thông suốt sử sách, rất giỏi Đại thừa. Khi còn ở Quy Tư, các quốc vương láng giềng họp nhau lại thỉnh ngài thuyết pháp. Mỗi lần như vậy, họ đều quì trước tòa thỉnh ngài bước trên vai họ mà thăng tòa. Ở Hậu Tần, ngài đại xiển dương Kinh Luận. Tần chủ tôn ngài làm Quốc sư, thờ ngài như thờ Thần. Ông đích thân dẫn đại thần, Sa-môn đến nghe ngài giảng, sau lại thỉnh ngài phiên dịch Kinh Luận của Tây Vực. Phàm Kinh Luận ở Chấn Đán do ngài dịch ra đến ba trăm tám mươi quyển, dựng nhiều chùa tháp, người tọa thiền thường đến hơn ngàn người. Từ công khanh trở xuống ai nấy đều thờ Phật, các châu quận cũng vậy. Năm Quý Sửu, tức Tấn Đế năm Nghĩa Hy năm thứ chín, nhằm Tần niên hiệu Hoàng Thỉ năm thứ mười lăm, ngày mười ba tháng tư, ngài nhập diệt, thọ bảy mươi tuổi. Đệ tử của ngài gồm: Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ được gọi là Tứ thánh, thêm Đàm Ảnh, Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, Tăng Khế, Đạo Thường, Đạo Tiêu, đây gọi là Thập Triết. lại có Tăng Đạo, Tăng Nhân đều là những người nổi tiếng đương thời. Lúc sắp nhập diệt, ngài nói với đồ chúng: Kinh Luật ta dịch, chỉ có Thập Tụng Luật là chưa san định, nếu nghĩa lý khế hợp tâm Phật thì lúc trà-tỳ lưỡi ta không cháy, " Nói xong, ngài quy tịch. Lúc trà-tỳ, quả nhiên lưỡi ngài không hoại, sáng đẹp như sen hồng. Ngài tên là Cưu-ma-la-thập, Hán dịch là Đồng Thọ.

* Thần Núi Cầu Giới: Thích Đàm Ung ban đầu làm quan cho Phù Tần giữ chức vệ tướng quân, Kiên đánh phía nam bị bại, ngài theo Pháp sư Đạo An xuất gia, sau thờ Lô sơn Viễn Công, dựng am tranh tu tập ở phía Tây Lô Sơn, cùng đệ tử Đàm Quả tham thiền nhập định. Ngày nọ bỗng có một thanh niên phong độ tuấn tú dẫn theo hai mươi người đến xin ngài truyền Ngũ giới. Ngài biết đó là Thần núi, liền đốt hương truyền trao Tam quy, Ngũ giới, đồng thời diễn nói pháp yếu cho họ nghe. Thần dâng tặng ngài muỗng đũa của ngoại quốc, lạy tạ rồi xin đi. Phút chốc ngài chẳng thấy bóng dáng họ đâu nữa.

 

Nhâm Dần: Tấn, năm Nguyên Hưng năm đầu

Nam Yên: Kiến Bình năm thứ 3

Nam Lương: Hoằng Xương năm đầu

Hậu Tần: Hoằng Thỉ năm thứ 4

Tây Tần Khất Phục

Tây Lương: Cảo năm thứ 3

 

Hậu Yên: Quang Thỉ năm thứ 2

Bắc Lương: Vĩnh An năm thứ 2

Ngụy: Thiên Hưng năm thứ 5

Quý Mão: Tấn, năm Nguyên Hưng năm thứ 2

Nam Yên: Năm Kiến Bình năm thứ 4

Nam Lương: Hoằng Xương năm thứ 2

Hậu Tần: Hoằng Thỉ năm thứ 5

Tây Tần: Khất Phục

Tây Lương: Năm thứ 4

 

Hậu Yên: Quang Thỉ năm thứ 3

Bắc Lương: Vĩnh An năm thứ 3

Ngụy: Thiên Hưng năm thứ 6

Giáp Thìn: Tấn Nguyên Hưng năm thứ 3

Nam Yên: Kiến Bình năm thứ 5

Nam Lương: Hoằng Xương năm thứ 3

Hậu Tần: Hoằng Thỉ năm thứ 6

Tây Tần: Khất Phục

Tây Lương năm thứ 5

 

Hậu Yên: Quang Thỉ năm thứ 4

Bắc Lương: Vĩnh An năm thứ 4

Ngụy: Thiên Tứ năm đầu

 

Tấn năm Long An năm thứ ba, Nam quận công Hoàn Huyền (con đại Tư Đồ Hoàn Ôn) tung hoành chiếm được Kinh, Ung, dâng biểu xin lãnh hai châu là Kinh châu và Giang châu. Triều đình không thể trái ý. Niên hiệu Nguyên Hưng năm đầu, triều đình sai Thượng thư Lệnh Nguyên Hiển, Trấn Bắc tướng quân Lưu Lao Chi Tiếu Tam Thượng Chi đem binh đánh Huyền ở Giang Lăng. Huyền thất kinh. Trưởng sử Biện Phạm Chi bàn bạc với Huyền, chỉnh đốn binh mã kéo đến Tân Đình. Binh của Nguyên Hiển tan vỡ, Huyền vào kinh tổng quản trăm quan, chém bọn Nguyên Hiển. Tháng hai năm thứ hai, triều đình phong Huyền làm đại tướng quân. Tháng chín thị trung Ân Trọng Văn, tán kỵ Thường Phạm Chi ngầm soạn văn cửu tích và sách mệnh đưa Huyền làm tướng quốc tổng quản trăm quan, phong cho mười quận, tước hiệu Sở Vương, gia phong cửu tích. Tháng mười một, hạ chiếu cho Sở Vương Huyền thực hành lễ nhạc của Thiên Tử. Biên Phạm Chi soạn chiếu nhường ngôi, sai Lâm Xuyên Vương Bảo ép Đế phải ký vào chiếu lệnh. Tư Đồ Vương Mật trao ngọc và đế vị cho Sở Đế rồi ra ở tại cung Vĩnh An, trăm quan đến Cô Thục (Giang Đông Đạo, Thái Bình lộ, Dương Châu). Tháng mười hai, Huyền lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Sở, lấy niên hiệu Vĩnh Thỉ, phong Đế làm Bình Cố Vương. Huyền vào cung Kiến Khang lên ngự tòa, ngự sàng bỗng bị ngã. Thị trung Ân Trọng Văn nói: "Do bệ hạ Thánh đức sâu nặng, đất không thể chở nổi. " Huyền rất vui. Huyền dời Đế vào Tầm Dương (Giang châu). Tháng hai năm Nguyên Hưng năm thứ ba, Thái thú Hạ Phì Lưu Dụ, Hà Vô Kỵ, Lưu Nghị, Thanh châu chủ bạ Mạnh Sưởng khôi phục lại nhà Tấn và đem quân vây Lạc Kiều. Huyền ngầm sai Ân Trọng Văn chuẩn bị thuyền ở Thạch Đầu rồi trốn sang Giang Nam. Dụ vào Kiến Khang dẫn trăm quan đi tiếp xa giá, giết tông tộc của Huyền tại Kiến Khang. Huyền chạy đến Tầm Dương ép Đế lên phía tây. Tháng tư, Lưu Nghị, Hà Vô Kỵ đánh úp thành Tầm Dương, Huyền cắp Đế một mình một thuyền chạy về tây vào Giang Lăng rồi muốn trốn đến Hán Trung. Trong thành nổi loạn, Huyền chỉ kịp đến được thuyền, Kinh châu biệt giá Vương Khang Ngạn đưa Đế vào phủ xá ở Nam quận. Thái thú Vương Đằng Chi thống lãnh văn võ làm thị vệ. Huyền vào đất Thục, đến Mai Hồi châu, gặp phải Ninh châu Thứ sử Mao Phiên Tang đón đánh, tên rơi như mưa. Ích châu Đốc Hộ Phùng Thiên rút đao đánh và chém Huyền. Tháng hai niên hiệu Nghĩa Hy năm đầu Lưu Đài chuẩn bị xa giá đón Đế từ Giang Lăng đến Kiến Khang. Đế phong Lưu Dụ làm Đô đốc trung quân sự, Lưu Nghị làm tả tướng quân, Hà Vô Kỵ làm Dự châu Thứ sử, Lưu Đạo Quy làm Kinh châu Thứ sử. Tháng tư, Dụ trở về giữ trấn Kinh Khẩu. Tháng mười hai năm Nghĩa Hy năm thứ mười hai, Đế hạ chiếu cho Lưu Dụ làm Tướng quốc, tổng quản trăm quan, phong làm Dương châu mục cai quản mười quận, tước hiệu là Tống công, nhận đủ lễ Cửu tích, nhưng Dụ không nhận.

 

Ất Tỵ: Tấn, năm Nghĩa Hy năm đầu

Nam Yên: Siêu, Thái Thượng năm đầu

Nam Lương: Năm Hoằng Xương năm thứ 4

Hậu Tần: Năm Hoằng Thỉ năm thứ 7

Tây Tần: Khất Phục

Tây Lương: Lý Cảo, Kiến Sơ năm đầu

Hậu Yên: Quang Thỉ năm thứ 5

Bắc Lương: Năm Vĩnh An năm thứ 5

Ngụy: Năm Thiên Tứ năm thứ 2

 

 

* Tăng Chánh, Duyệt Chúng, Tăng Lục: Đời Hậu Tần, Pháp sư Đạo Khế là đệ tử của La-thập phụng trì giới luật tinh nghiêm được Tần chủ rất kính trọng. Từ khi La-thập vào Quan Trung, lúc này Tăng ni lên đến hơn một vạn, nên đặt ra Tăng chánh. Đế hạ chiếu rằng: "Đại pháp truyền về đông, đến nay rất thịnh, Tăng ni vô kể nên đặt ra người đứng đầu, tuyên dạy phép tắc sâu xa để cứu những mối tệ. Pháp sư Khế từ nhỏ có học thức, về già lại có đức cao, đáng làm tăng chánh cho đất nước, cấp phát bổng lộc, chức quan ngang bằng quan thị trung, truyền cho hai người kéo xe ngựa, hai người kéo xe dê. Lại cử Tăng Thiên, Thiền Tuệ làm duyệt chúng; Pháp Khâm, Tuệ Bân làm tăng lục, phẩm dật khác nhau, cấp cho mỗi vị ba mươi người ngày ngày hầu hạ cho đến lúc già yếu. "

 

Bính Ngọ: Nghĩa Hy năm thứ 2

Thái Thượng năm thứ 2

Hoằng Xương năm thứ 5

Hoằng Thỉ năm thứ 8

Tây Tần: Khất Phục

Kiến Sơ năm thứ 2

Hạ: Hách Liên, Long Thăng năm đầu

Hậu Yên: Quang Thỉ năm thứ 6

Bắc Lương: Vĩnh An năm thứ 6

Ngụy: Thiên Tư năm thứ 3

 

* Kinh Hoa Nghiêm: Tôn giả Phật-đà Bạt-đà (Hán dịch Giác Hiền) người nước Kế Tân, Bắc Ấn, Thiên Trúc vân du đến Hoa Hạ. Năm Bính Ngọ, ngài đến Trường An. Cưu-ma-la-thập nghe tin vội vàng ra đón. Thập hận vì gặp ngài quá trễ. Tần Thái tử Diêu Hoằng mời ngài đến Đông Cung cùng luận nghị Phật pháp với La-thập. La-thập hỏi ngài:

Pháp thế nào là Không?

Ngài đáp: Nhiều vi trần tạo thành sắc, sắc không có tự tánh, nên sắc tức là không.

Lại hỏi: Phải dùng nhiều vi trần phá sắc không, sao lại nói phá một vi trần?

Đáp: Dùng một vi trần nên nhiều vi trần tức không, do nhiều vi trần nên một vi trần tức không. Sa-môn Bảo Vân dịch mấy lời này nhưng không hiểu nghĩa lý, nên cho rằng vi trần mà Bạtđà nói ấy vốn là thường và xin ngài giải thích. Bạtđà nói: Pháp không tự sinh, duyên hợp nên sinh, duyên một trần cho đến có nhiều trần, vi trần không có tự tánh, như vậy pháp vốn không, lẽ đâu phải nói: "Chẳng phá một vi trần sao!" Bảo vân vẫn không khế ngộ.

Sau đó ngài vượt sông vào Khuông sơn gặp Viễn Công và hai ngài cùng nghị luận. Viễn công thỉnh ngài dịch mấy bộ kinh về Thiền, năm Mậu Ngọ tức Nghĩa Hy năm thứ mười bốn, ngài vừa đến Giang Lăng, Tống Vương Lưu Dụ thỉnh ngài về tại chùa Đạo Tràng của quan tư không họ Tạ ở kinh đô. Tháng ba Ngô quận nội sử Mạnh Khải v. v... thỉnh ngài dịch Kinh Hoa Nghiêm thành 60 quyển ở ngay chùa này. Ngài dịch xong vào tháng sáu năm Canh Thân tức Tống Cao Tổ niên hiệu Vĩnh Sơ năm đầu. Lúc dịch kinh thường có hai đồng tử mặc áo xanh cứ sáng sớm từ trong ao trước đình đi ra, đốt hương đèn, hầu nước, chẳng lìa chỗ ngài ngồi. Tối thì hai đồng tử ấy lại vào trong ao. Dịch kinh xong chẳng ai còn thấy hai đồng tử ấy nữa.

* Kinh Pháp Hoa: Tháng năm này, Pháp sư Lathập dịch xong bộ Pháp Hoa gồm bảy quyển, kinh Duy-ma ba quyển, kinh Hoa Thủ mười ba quyển, lại dịch kinh Phạm Võng hai quyển tại chùa Thảo Đường.

 

Đinh Mùi: Tấn, Nghĩa Hy năm thứ 3

Nam Yên: Năm Thái Thượng năm thứ 3

Nam Lương: H o a n g Xương năm thứ 6

Hậu Tần: Hoằng Thỉ năm thứ 9

Tây Tần: Khất Phục

Tây Lương: Năm Kiến Sơ năm thứ 3

Hạ: Bột Bột, năm Long Thăng năm thứ 2

Hậu Yên: Chánh Thỉ năm đầu

Bắc Lương: Vĩnh An năm thứ 7

Ngụy: Thiên Tư năm thứ 4

 

* Hậu Yên: Mộ Dung Thùy là con năm thứ năm của Tiền Yên Chủ Mộ Dung Hoàng, được phong Ngô Vương ở Yên. Ông thông minh trí dũng ngày một vang danh. Thái phó Mộ Dung Bình vốn vì tranh cãi và hiềm khích ông, Thái hậu ngầm bàn mưu với Bình để giết Thùy. Đông Tấn Phế Đế năm Thái Hòa năm thứ tư, Thùy cùng em, con, cháu chạy trốn sang Tần. Tần chủ Phù Kiên mừng rỡ ra tận biên giới đón họ, cho Thùy làm Quán quân tướng quân, phong tước Tân Tùng Hầu. Đông Tấn Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ tám, Tần Chủ Phù Kiên bị quân Tấn đánh bại. Kiên về đến Thằng Trì, Thùy nói với Kiên: "Ngu dân phía Bắc nghe binh nhà vua không thắng tất xem thường mà nổi loạn, Thần xin mang chiếu thư đến trấn giữ, vỗ an họ. " Thùy đến An Dương (Nghiệp quận, Tương châu ngày xưa) ngầm cùng bề tôi cũ của Yên bàn mưu khôi phục nhà Yên. Gặp lúc Đinh Linh, Địch Bân phản Tần, tháng giêng năm sau, bọn Bân tôn Thùy làm minh chủ. Năm Ất Dậu, Ngô Vương Thùy mới định đô ở Trấn Định, Phủ Trung Sơn (xưa là Định Châu) rồi lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu Kiến Hưng. Lúc này Thát Bạt Ngụy phản Yên, xâm chiếm các bộ tộc nằm ở biên giới của Yên. Bính Thân, Tấn Thái Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt, tháng ba Yên chủ Mộ Dung Thùy đích thân đánh Ngụy. Tháng tư, ông mất ở Thư Dương, Thượng Cốc nhưng về đến Trung Sơn mới phát tang. Thái tử Bảo lên ngôi lấy hiệu Mẫn Đế, đổi niên hiệu Vĩnh Khang. Năm Mậu Tuất, Vũ Đế Mộ Dung Thạnh lên ngôi, lấy niên hiệu Kiến Bình, năm sau đổi niên hiệu Trường lạc. Năm Tân Sửu tức Chiêu Đế Hy niên hiệu Quang Thỉ năm đầu. Lúc này là năm Đinh Mùi, Ý Đế Cao Vân lấy niên hiệu Chánh Thỉ, nước loạn, bị Phùng Bạt soán diệt. Hậu Yên tồn tại hai mươi bốn năm, Phùng Bạt lên ngôi lấy quốc hiệu Bắc Yên.

* Phật-đà Da-xá: Tôn giả là người Thiên Trúc, (Phật-đà Da-xá, Hán dịch là Giác Minh), ngài đến Cô Tạng (nay là Túc châu lộ, Ung châu), Hậu Tần năm Hoàng Thỉ năm thứ chín, Tần chủ sai sứ mời ngài Đến Trường An. Ông đích thân ra biên cương đón và dựng riêng Tịnh Viện cho ngài ở, cúng dường, hầu hạ chẳng khác kính vua, nhưng ngài chẳng nhận gì cả. Cứ đến giờ ngọ, ngài ôm bát khất thực mà thôi. Ngài tinh thông Tỳ-bà-sa Luận, hơn nữa râu ngài màu đỏ, nên người ta gọi ngài là Xích Tu Tỳ-bà-sa. Sau, ngài qua đất Tấn, vân du ở Khuông Sơn, Viễn Công rất kính trọng ngài. Năm Giáp Dần, tức Tấn Nghĩa Hy thứ mười, Tôn giả tự vác sắt lên đỉnh Tử Tiêu Phong rồi dựng tháp, đem xá-lợi Chân thân Như Lai an trí trong đó. Lúc này, Tôn giả Phật-đà Bạt-đà cũng dựng tháp ở phía Bắc chùa Đông Lâm, Lô Sơn an trí năm hạt xá-lợi Phật.

Tháp và xá-lợi đến nay vẫn còn.

 

Mậu Thân: Tấn, năm Nghĩa Hy năm thứ 4

Nam Yên: Thái Thượng năm thứ

Nam Lương: Gia Bình năm đầu

Hậu Tần: Hoàng Thỉ năm thứ 10

Tây Tần

Tây Lương: Năm Kiến Sơ năm thứ 4

Hạ Hách Liên: Năm Long Thăng năm thứ 3

Bắc Yên, Bắc Lương chiếm cứ Xương Lê, năm Vĩnh An năm thứ 8

Ngụy: Thiên Tứ năm thứ 5

 

 

* Luật sư: Tôn giả Tỳ-ma La-xoa (Hán dịch Vô Cấu Nhãn) người Thiên Trúc đến Tần được mấy năm. Lúc này ngài vân du sang Quan Tả xiển dương Tỳ-ni. Thập Tụng Luật, Giới Bổn Luật

Tạng mà Cưu-ma-la-thập dịch sở dĩ được truyền rộng là nhờ công sức của ngài. Trong ấy Nội Ngoại Cấm Khinh Trọng gồm hai quyển lưu hành ở đời. Tôn giả vốn mắt xanh, nên người ta gọi ngài là Thanh Nhãn Luật Sư.

 

Tấn: Năm Nghĩa Hy năm thứ 5

Nam Yên bị diệt vong

Nam Lương: Năm Gia Bình năm thứ 2

Hậu Tần: Năm Hoằng Thỉ năm thứ 11

Tây Tần: Năm Canh Thỉ năm đầu

Tây Lương: Năm Kiến Sơ năm thứ 5

Hạ Hách Liên: Long Thăng năm thứ 4

Bắc Yên: Phùng Bạt, Thái Bình năm đầu

Bắc Lương: Năm Vĩnh An năm thứ 9

Ngụy: Tự, năm Vĩnh Hưng năm đầu

 

* Nam Yên: Mộ Dung Đức là con út của Tiền Yên chủ Mộ Dung Hoàng. Ông chiếm cứ Quảng Cố (xưa là Biện Nhật, nay là Thanh châu), lấy năm Mậu Tuất làm năm đầu. Năm Canh Tý, Đức lại lấy tên là Bị Đức rồi lên ngôi Hoàng Đế (tức Vũ Đế), lấy niên hiệu Kiến Bình. Năm Ất Tỵ, là niên hiệu Thái Thượng năm đầu của Nam Yên chủ Mộ Dung Siêu. Năm Kỷ Dậu tức Tấn Nghĩa Hy năm thứ năm, Tấn Từ châu Thứ sử Lưu Dụ dâng biểu xin đánh Nam Yên. Tháng giêng năm sau, Yên Thượng thư Duyệt Thọ khuyên Siêu hàng nhưng Siêu không nghe. Duyệt Thọ mở cổng thành nộp thành cho quân Tấn. Siêu trốn chạy, bị bắt đưa về Kiến Khang, Nam Yên được bình định, tồn tại mười ba năm.

* Ngụy: Thái Tổ Đạo Vũ Đế Khuê bị con út là Thiệu giết chết, Thái Tông Minh Nguyên Đế lên nối ngôi. Đế ra lệnh cho kinh, ấp khắp nước dựng tượng Phật, mời Sa-môn dạy dỗ muôn dân.

 

Canh Tuất: Nghĩa Hy năm thứ 6

 

Gia Bình năm thứ 3

Hoằng Thỉ năm thứ 12

Cánh Thỉ năm thứ 12

Kiến Sơ năm thứ 6

Long Thăng năm thứ 5

Thái Bình năm thứ 2

Vĩnh An năm thứ 10

Vĩnh Hưng năm thứ 2

Tân Hợi: Nghĩa Hy năm thứ 7

 

Gia Bình năm thứ 4

Hoằng Thỉ năm thứ 13

Cánh Thỉ năm thứ 13

Kiến Sơ năm thứ 7

Long Thăng năm thứ 6

Thái Bình năm thứ 3

Vĩnh An năm thứ 11

Vĩnh Hưng năm thứ 3

Nhâm Tý: Nghĩa Hy năm thứ 8

 

Gia Bình năm thứ 5

Hoằng Thỉ năm thứ 14

Xí Bàn: Vĩnh Khang năm đầu

Kiến Sơ năm thứ 8

Long Thăng năm thứ 7

Thái Bình năm thứ 4

Dời đô, Nguyên Thỉ năm đầu

Vĩnh Hưng năm thứ 4

 

* Thiền định trong cổ thụ: Thích Tuệ Trì là em của Tuệ Viễn ở Lô sơn. Nhà Tấn năm Long An năm thứ hai, ngài từ biệt Viễn Công vào đất Thục, dừng lại ở chùa Long Uyên thuộc Gia châu. Tăng tục rất cung kính ngài, bước lên chỗ ngài ở, người ta đều nói là lên Long Môn. Năm Nghĩa Hy năm thứ tám, ngài dặn dò môn nhân rồi nhập định trong hốc cây ở chùa Long Uyên. Đến nhà Tống, năm Chánh Hòa năm thứ ba, gió đánh gãy cây, ngài mới xuất định. Huy Tông có ba bài kệ tán thán ngài

(xem trong năm Chánh Hòa)

 

Quý Sửu: Tấn, Nghĩa Hy năm thứ 9

 

Nam Yên: Gia Bình năm thứ 6

Hậu Tần: Hoằng Thỉ năm thứ 15

Tây Tần Khất Phục, Vĩnh Khang năm thứ 2

Tây Lương: Năm Kiến Sơ năm thứ 9

Hạ Hách Liên: Phụng Tường năm đầu

Bắc Yên: Thái Bình năm đầu

Bắc Lương: Nguyên Thỉ năm thứ 2

Ngụy: Vĩnh Hưng năm thứ 5

 

* Dựng đá nghe giảng: Đạo Sinh là đệ tử của Pháp sư La-thập, hồi ấy phẩm sau của kinh Niếtbàn chưa có ở Trung Quốc, nhưng ngài đã đọc thuộc từ lâu và nói: "Nhất-xiển-đề cũng sẽ thành Phật", chỉ là kinh ấy có mặt ở đây chưa trọn bộ. Lúc này những giảng sư khác đều công kích ngài, cho ngài là đem tà thuyết tuyên truyền, dựa vào luật tẩn xuất ngài. Đạo Sinh từ biệt đến đất Tấn, ngài vào Hổ Khâu, Bình Giang dựng đá làm thính chúng rồi giảng kinh Niết-bàn. Đến đoạn "Xiển-đề có Phật tánh". Ngài hỏi: Nghĩa mà ta giảng có khế hợp tâm Phật không? Cả dãy đá đều gật đầu đồng ý. Về sau, ngài vân du đến Khuông Sơn, ở ngọn Tỏa Cảnh, nghe ngài Đàm-vô-sấm dịch lại phẩm sau của kinh Niết-bàn ở Bắc Lương, ngài đến Nam Kinh, quả nhiên trong phẩm ấy có nói "Xiển-đề đều có Phật tánh" ngài hoan hỷ vô cùng.

 

Giáp Tần: Năm Nghĩa Hy năm thứ 10

 

Nam Lương bị diệt vong

Hoằng Thỉ năm thứ 16

Vĩnh Khang năm thứ 3

Kiến Sơ năm thứ 10

Phụng Tường năm thứ 2

Thái Bình năm thứ 6

Nguyên Thỉ năm thứ 3

Thần Thụy năm đầu

 

* Nam Lương: Ngốc Phát Ô Cô người Tiên Ty,

Hà Nam, lúc này là đời Tấn Đế niên hiệu An Nguyên năm đầu, ông chiếm cứ Quảng Vũ, lấy hiệu là Nam Lương (nay là Tây, Củng Xương lộ, Lan Châu, xưa là đất của Ung châu). Năm Mậu Tuất, lấy niên hiệu Thái Sơ. Năm Canh Tý, Lợi Lộc Cô vào niên hiệu Kiến Hòa năm đầu, tháng giêng, ông muốn xưng Đế, An quốc tướng quân Thâu Vật Du nói: "Nước ta từ trước đến nay để tóc dài, áo choàng qua vai trái, không đội mão mang đai, dọn đất dời đô không có thành quách nhà cửa, nên hay hùng cường, nhìn sa mạc mà chống chọi với Trung Hạ". Lợi Lộc Cô nghe theo, liền xưng lại Hà Tây Vương, lấy niên hiệu Kiến Hòa, cho Quảng Vũ Công Nốc Đàn làm Đô đốc trung ngoại chư quân sự Lương châu mục. Năm Nhâm Dần, Cảnh Vương Nốc Đàn lên ngôi, lấy niên hiệu Hoằng Xương. Tháng tư năm Mậu Thân, Hậu Tần chủ Diêu Hưng muốn bắt Nốc Đàn nên sai Thượng thư Lang Vy Tông qua dò xét. Nốc Đàn luận về thời cuộc đương thời, ngang dọc vô cùng. Tông trở ra than rằng: "Bậc kỳ tài anh hùng đâu cần phải là Hoa Hạ, kẻ thông minh bác học đâu cần phải đọc sách, ngày nay ta mới biết ngoài chín châu, ngoài năm kinh lại có người như thế này!" Tông trở về cho Hưng biết, rằng chưa thể tính chuyện thôn tính Lương châu. Hưng không nghe bèn kéo quân đánh úp Nốc Đàn. Binh của Hậu Tần thua to. Tháng mười một, Nốc Đàn xưng là Lương Vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu Gia Bình, đặt ra trăm quan. Năm Giáp Dần, tức Tấn Nghĩa Hy thứ mười, Nốc Đàn bị Tây Tần Khất Phục Sí Bàn giết, Nam Lương diệt vong, cả thảy ba chủ, trị vì mười tám năm.

 

Ất Mão: Tấn, Nghĩa Hy năm thứ 11

 

 

Hậu Tần: Hoằng Thỉ năm thứ 17

Tây Tần: Năm Vĩnh Khang năm thứ 4

Tây Lương: Năm Kiến Sơ năm thứ 11

Hạ: Phụng Tường năm thứ 2

Bắc Yên: Năm Thái Bình năm thứ 7

Bắc Lương: Năm Nguyên Thỉ năm thứ 14

Ngụy: Năm Thần Thụy năm thứ 2

 

* Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn: Ngài húy là Tuệ Viễn, họ Giả, người Nhạn Môn, thuở nhỏ là Nho sinh, đọc khắp sách sử, rất rành Chu Dịch Trang, Lão, từng cùng em là Tuệ Trì đến nghe Pháp sư Đạo An giảng pháp xuất thế. Nghe xong, ngài vui mừng và than: "Chín phái của Nho gia chỉ là trấu cám", Thế rồi ngài xuất gia. Đồ chúng của Đạo An đến vài ngàn người, ngài là bậc thượng thủ. Đạo An từng nói: "Làm cho dòng đạo chảy tràn nước phía đông có phải là Viễn này chăng!" Năm Giáp Thân, tức Tấn Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ chín, nước Tiền Tần loạn, ngài qua Tấn. Khi đến Giang Tây, thấy Lô sơn cảnh đẹp, ngài dừng lại dựng Long Tuyền tịnh xá ở Giang châu. Sau ngài qua trú ngụ ở chùa Tây Lâm của Tuệ Vĩnh, rồi về Sơn Đông dựng chùa Đông Lâm. Trong lúc khởi công, thần núi giáng điềm linh, nguyện giúp sức để người người dốc lòng tin. Đêm ấy sấm chớp mù trời, mưa lớn trút xuống. Sáng hôm sau, ngài nhìn xem thì thấy không biết bao cây gỗ tốt ngổn ngang trên đất. Lúc ấy, Tấn tướng quân Hoàn Y vừa đến nhậm chức, thấy việc như vậy kinh ngạc cho là thần dị, nên tấu xin lập chùa. Năm Bính Tuất, chùa dựng xong. Đời nhà Tấn, những bậc kỳ tài trong thiên hạ phần nhiều mai danh ẩn tích không ra làm quan, khi nghe Lô Sơn Viễn Công mở đạo, họ đều tiến tu học theo ngài. Năm Canh Dần ngài nói với những người như Lưu Trình Chi rằng: Nếu các ông dụng tâm vân du ở Tịnh độ thì cần phải gắng sức. Thế rồi ngài cùng họ đối trước tượng Phật Vô Lượng Thọ phát chí nguyện, trai giới lập thệ quyết chí cầu sinh Tịnh độ. Lúc này Tăng tục đã lên đến một trăm hai mươi ba người. Họ cùng phát nguyện đặt tâm ngoài vật. Tạ Linh Vận đã đào hai mươi ba cái ao ở Đông Lâm và thả sen. Mỗi khi tiễn khách, ngài không đi ra quá Hổ Khê. Năm Canh Tuất tức Nghĩa Hy năm thứ sáu, Đạo sĩ Lục Tu Tĩnh rủ Đào Uyên Minh vào núi gặp ngài. Lúc đưa về, ba người cầm tay nói chuyện đến nỗi vượt quá Hổ Khê. Ba người nhìn nhau rồi cười vang, ngày nay người ta vẽ lại cảnh ấy lấy tên là Tam Tiếu Đồ. Uyên Minh vốn rất mê uống rượu, chịu không nổi đành xuống núi. Ngày sáu tháng tám năm Ất Mão, ngài chắp tay, quay mặt về Tây mà tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, Tạ Linh Vận soạn văn bia. Đồ chúng trong Liên xã đến vài ngàn người, trong đó có mười tám người rất nổi tiếng.

* Liên Hoa Lậu: (Dùi thủng hoa sen cho nước xuống chầm chậm, nước đầy thì thẻ tre ghi thời khắc nổi lên, xem mực nước cao thấp mà biết giờ giấc sớm hay muộn): Tăng Tuệ Yếu là đệ tử của Viễn Công. Yếu lo trong núi này không có khắc lậu để biết giờ giấc nên sư mới dựng một hoa sen gồm mười hai cánh ngay trong ao, nhờ sóng làm nó di chuyển để ấn định mười hai giờ (tức hai mươi bốn giờ đồng hồ). Nó quay rất chính xác so với bóng mặt trời. Ngày nay người ta gọi cái này là Viễn công liên hoa lậu.

 

Bính Thìn: Năn Nghĩa Hy năm thứ 12

 

 

Hoằng lên ngôi, năm Vĩnh Hòa năm đầu

Tây Tần: Vĩnh Khang năm thứ 5

Tây Lương Tán, Gia Hưng năm đầu

Hạ: Phụng Tường năm thứ 4

Bắc Yên: Thái Bình năm thứ tám

Bắc Lương: Nguyên Thỉ năm thứ 5

Ngụy: Thái Thường năm đầu

Đinh Tỵ: Nghĩa Hy năm thứ 13

 

 

Vĩnh Hòa năm thứ 2

Vĩnh Khang năm thứ 6

Gia Hưng năm thứ 2

Phụng Tường năm thứ 5

Thái Bình năm thứ 9

Nguyên Thỉ năm thứ 6

Thái Thường năm thứ 2

 

* Hậu Tần: Họ Diêu, tên Trành, tự Cảnh Mậu, con năm thứ hai mươi bốn của Dặc Trọng, người ở Xích Đình. Anh ông là Tương đánh trận chết, Trành dẫn hết em sang đầu hàng Tần rồi làm tướng của Tần. Đông Tấn Vũ Đế năm Thái Nguyên năm thứ tám, Tần chủ Phù Kiên đánh Tấn, phong Duyện châu Thứ sử Diêu Trành làm Long kỵ tướng quân nắm giữ việc quân của Ích châu, Lương châu. Kiên thua trận, Mộ Dung Thùy bàn mưu khôi phục nhà Yên. Tháng ba năm sau, Trưởng sử Mộ Dung Hoằng trấn ở đất Bắc của Tần nổi lên làm phản rồi trốn đến Quan Đông, Tần sai Tả tướng quân Đậu Xung làm Trưởng sử, Long kỵ tướng quân Diêu Trành làm Tư mã khởi binh đánh Hoằng và đánh Bình Dương Thái thú Mộ Dung Xung. Binh Tần thua to. Trành hoảng sợ chạy lên Vị Bắc. Bọn Mã Mục, Thiên Thủy, Y Vy, Y Tường, Nam An, Bàng Diễn kêu gọi dân giàu ở đất Khương, quản lý hết số người này, có đến hơn năm vạn nhà về với Diêu Trành, suy tôn Trành làm minh chủ, Trành tự xưng là Hậu Tần Vương, lấy niên hiệu Bạch Tước. Tháng tư năm Bính Tuất, tức Đông Tấn Thái Nguyên năm thứ mười một, Trành từ Thiểm Tây Phụng Tường Trang lãng lộ, Kinh châu vào Trường An, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Kiến Sơ, lấy quốc hiệu Đại Tần, đặt chức quan khác với Hậu Tần, lập con là Hưng làm Thái tử, đặt ra trăm quan. Tháng hai năm Quý Tỵ, Kiến Sơ năm thứ tám, Trành mất, Thái tử Hưng giấu kín không phát tang, tự xưng đại tướng quân, dẫn quân đánh Tần. Tần chủ Phù Đăng thua to. Tháng năm sau, Hưng mới phát tang rồi lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu Hoàng Sơ, truy phong Trành thụy là Chiêu Hoàng Đế. Năm Kỷ Hợi, tức Tấn An Đế năm Long An năm thứ ba, tháng chín, Hưng thấy tai hoạn xảy ra hoài nên giáng xuống làm Tần Vương, đổi niên hiệu Hoằng Thỉ. Tháng giêng năm Bính Thìn tức Hoằng Thỉ năm thứ mười tám, Hưng mất. Thái tử Hoằng lên ngôi, lấy niên hiệu Vĩnh Hòa. Tấn đánh Tần, tháng năm Nghĩa Hy năm thứ mười ba, Hoằng đem vợ con, quần thần đầu hàng Tấn, Hậu Tần gồm ba chủ, trị vì ba mươi bốn năm.

 

Mậu Ngọ: Tấn Nghĩa Hy năm thứ 14

 

 

 

Tây Tần Khất Phục Vĩnh Khang bảy năm

Tây Lương: Gia Hưng năm thứ 3

Hạ: Xương Vũ năm đầu

Bắc Yên: Thái Bình năm thứ 10

Bắc Lương: Nguyên Thỉ năm thứ 7

Ngụy: Thái Thường năm thứ 3

 

* Cung Đế: Húy Đức Văn, tự Đức Văn, em cùng mẹ với An Đế, được phong làm Lang Da Vương. Tháng mười hai năm Nghĩa Hy năm thứ mười bốn, Tống Công Lưu Dụ sửa di chiếu đưa ông lên ngôi. Ông ở ngôi hai năm, nhường ngôi cho Tống, thọ ba mươi bảy tuổi. Niên hiệu Nguyên Hy hai năm.

 

Kỷ Mùi: Nguyên Hy năm đầu

 

 

 

Vĩnh Khang năm thứ 8

Gia Hưng năm thứ 4

Chân Hưng năm đầu

Thái Bình năm thứ 7

Nguyên Thỉ năm thứ 8

Thái Thường năm thứ 4

 

* Sa-môn Pháp Quả: Ngụy Thái Tông rất kính trọng ngài, phong cho chức quốc phụ Nghi Thành tử Trung Tín Hầu, hiệu là Tăng Thống nhưng ngài cố tình không nhận. Thái Tông xa giá đến nơi ngài ở, thấy cửa ngõ chật hẹp, vua liền cho mở rộng ra. Ngài nhập diệt năm Kỷ Mùi, thọ tám mươi ba tuổi. Thái Tông đến viếng ba lần, truy tặng hiệu lão thọ tướng quân Triệu Hồ Linh Công.

+ Tháng bảy, Tống Công Lưu Dụ được phong tước vương, năm sau, Đế nhường ngôi cho Tống Vương. Dụ đưa Đế xuống làm Linh Lăng Vương, sau sai người giết. Tây Tấn, Đông Tấn cả thảy mười lăm Đế Vương, trị vì một trăm năm mươi lăm năm. Riêng Đông Tấn có mười một chủ, trị vì một trăm lẻ ba năm, vận nước về nhà Tống.

Nam Bắc triều:

+ Tống: Họ Lưu, đóng đô ở Kiến Khang, gồm Cao Tổ Vũ Hoàng Đế, Thiếu Đế, Thái Tổ Văn Đế, Vũ Đế, Phế đế, Thái Tổ Minh Đế, Phế Đế, Thuận Đế, cả thảy tám chủ rồi nhường ngôi cho Tề.

* Cao Tổ Vũ Đế: Húy là Dụ, tự Đức Dư, người Bành Thành (Từ châu) hậu duệ của Hán Sở Nguyên Vương Lưu Giao. Tháng sáu năm Canh Thân, ông nhận ngôi từ nhà Tấn, ở ngôi ba năm, thọ sáu mươi bảy tuổi. Niên hiệu Vĩnh Sơ ba năm.

 

Canh Thân: Tống, Vĩnh Sơ năm đầu. Tháng sáu đổi niên hiệu

Tây Tần: Thái Tổ, Kiến Thỉ năm đầu

Tây Lương: Vĩnh Kiến năm đầu

Hạ: Chân Hưng năm thứ 2

Bắc Yên: Thái bình năm thứ 13

Bắc Lương: Thà Cừ, Nguyên Thỉ năm thứ 9

Ngụy: Thái Thường năm thứ

 

Tân Dậu: Vĩnh Sơ năm thứ 2

Kiến Thỉ năm thứ 2

Vĩnh Kiến năm thứ 2

Chân Hưng năm thứ 3

Thái Bình năm thứ 13

Nguyên Thỉ năm thứ 10

Thái Thường năm thứ 6

 

Nhâm Tuất: Vĩnh Sơ năm thứ ba, Đế mất, Thiếu Đế lên ngôi

Kiến Thỉ năm thứ 3

Vĩnh Kiến năm thứ 3

Chân Hưng năm thứ 4

Thái Bình năm thứ 14

Nguyên Thỉ năm thứ 11

Thái Thường năm thứ 7

 

 

* Tây Lương: Lý Cảo, tự Huyền Thạnh. Năm Bính Thân (Tấn Vũ Đế Thái Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt), ông chiếm Cô Tạng (nay là tỉnh Cam Túc, Tây Lương châu). Năm Canh Tý (Tấn An Đế, Long An năm thứ tư), Cảo lấy làm năm đầu. Năm Ất Tỵ (Tấn An Đế, Nghĩa Hy năm đầu), Tây Lương Công Lý Cảo dời đô về Tửu Tuyền (nay là tỉnh Cam Túc, Túc Châu lộ) lấy niên hiệu Kiến Sơ. Năm Bính Thìn (Tấn Nghĩa Hy năm thứ mười hai) Lương chủ Lưu Hâm lên ngôi, đổi niên hiệu Gia Hưng. Tống Cao Tổ, Vĩnh Sơ năm đầu, Lương chủ Lý Tuân lấy niên hiệu Vĩnh Kiến năm đầu. Đến Vĩnh Kiến năm thứ ba, ông bị Bắc Lương tiêu diệt ở ngôi cả thảy hai mươi hai năm. Lý Cảo từng tự tay viết lệnh dạy các con ông rằng: "Kẻ làm theo chánh sự phải thận trọng trong thưởng phạt chớ vì yêu ghét, gần người trung chánh xa kẻ gian nịnh, chớ để Tả hữu trộm làm mưa làm gió vì đó là nguyên nhân phá hủy danh dự. Gặp khen chê, phải xét rõ hư thực; nghe kiện cáo, áp dụng hình phải nhu hòa mà quyết định, cẩn thận chớ trái nghịch với nhiều người, chớ coi thường thanh sắc, cần phải hỏi han, chớ tự chuyên quyền. Ta lo việc năm, tuy chưa thể lo yên cho dân, nhưng chôn được cái tệ, giấu được cái xấu, sớm vì giặc loạn, chiều lo xã tắc, bên ngoài không cô phục kẻ mới người cũ, làm việc công bình, đối xử như nhau. Trước không lo thì điều hay tất mất, tính gần thì hay thiếu hụt, lo xa thì hay dư thừa. Được vậy mới ngõ hầu không hổ thẹn với tiền nhân.

* Thiếu Đế: Doanh Dương Vương tên Nghĩa Phù, con trưởng của Vũ Đế, có tang nhưng không biết giữ lễ, Tư không Từ Tiện phế ông rồi giết. Ông ở ngôi một năm, thọ mười chín tuổi. Niên hiệu Cảnh Bình một năm.

 

Quý Hợi: Tống, Cảnh Bình năm đầu

Tây Tần: Kiến Thỉ năm thứ 4

Hạ: Hách Liên, Chân Hưng năm thứ 5

Bắc Yên: Thái Bình năm thứ 15

Bắc Lương: Nguyên Thỉ năm thứ 5

Ngụy xây trường thành, Thái Tông mất

 

 

 

* Ngụy: Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi ở Tung Sơn tu theo thuật của Trương Thiên Sư, tự nói mình từng gặp Lão Tử giáng xuống trao cho thuật tích cốc khinh thân và Khoa giới hai mươi quyển, sai ông làm trong sạch lại Đạo giáo. Khiêm Chi mang sách này dâng cho Ngụy chủ. Trong triều, ngoài dân chưa ai dám tin, chỉ một mình Tả quang lộc đại phu Thôi Hạo tôn thờ Khiêm Chi, đi theo học thuật này. Hơn nữa Thượng thư tán thán việc đó, nên Ngụy chủ vui mừng sai sứ đem vàng ngọc lụa trâu bò đến tế ở Trung Nhạc rồi rước Khiêm Chi về.

* Thái Tổ Văn Đế: Tên Nghĩa Long, con năm thứ ba của Vũ Đế, được phong làm Nghi Đô Vương. Thiếu Đế bị phế xong, bọn Từ Tiện Chi đưa ông lên ngôi ở Giang Lăng, ông ở ngôi ba năm, thọ bốn mươi bảy tuổi. Niên hiệu Nguyên Gia ba mươi năm. Ông lập chùa Thiền Linh cúng dường ngàn tăng. Sa-môn Bôi Độ thị tịch vào tháng tám năm Bính Dần, an táng ở Phú Chu Sơn, Kiến Khang. Bôi Độ sinh trưởng ở Ký Châu, hoằng hóa hơn bốn mươi năm.

 

Giáp Tý: Tống, Nguyên Gia năm đầu

Tây Tần: Kiến Thỉ năm thứ 5

Hạ: Hách Liên, Chân Hưng năm thứ 6

Bắc Yên: Năm Thái Bình năm thứ 16

Lương: Nguyên Thỉ năm thứ 13

Ngụy: Thọ lên ngôi, Thỉ Quang năm đầu

 

 

 

* Tháng tám, Thổ Cốc Hỗn Uy Vương A Sài mất. Ông có hai mươi người con, lúc bị bệnh ông gọi hết hai mươi người con lại và dặn: Ta chết rồi, các ngươi phải đưa Mộ Khôi lên làm chủ. (Khôi là em cùng mẹ với A Sài). Ông bảo các con ông mỗi người đưa ra một mũi tên, ông lấy một mũi đưa cho em là Mộ Lợi Diên và sai bẻ, sau lấy mười chín mũi bó lại thành một bó sai bẻ thì chẳng ai bẻ được. A Sài nói: Đơn độc thì dễ gãy, họp lại thì khó bẻ, các ngươi phải dốc hết sức đồng lòng mới có thể giữ yên được nước nhà. Nói xong thì ông mất. Mộ Khôi vỗ yên, thu nhận số dân thất nghiệp của Tần, Lương, bộ lạc trở nên hùng mạnh. Tục Hậu Hán Thư chép: A Sài là hậu duệ ba đời của họ Khương là họ khác của họ Khương (không phải rợ Khương).

 

Ất Sửu: Tống, Nguyên Gia năm thứ 2

Tây Tần: Năm Kiến Thỉ năm thứ 6

Hạ: Xương, Thừa Quang năm đầu

Bắc Yên: Thái Bình năm thứ 17

Bắc Lương: Nguyên Thỉ năm thứ 14

Ngụy: Thái Vũ Đế, Thỉ Quang năm thứ 2

 

 

Bính Dần: Nguyên Gia năm thứ 3

Kiến Thỉ năm thứ 7

Thừa Quang năm thứ 2

Thái Bình năm thứ 18

Nguyên Thỉ năm thứ 15

Thỉ Quang năm thứ 3

 

 

Đinh Mão: Nguyên Gia năm thứ 4

Kiến Thỉ năm thứ 8

Thừa Quang năm thứ 3

Thái Bình năm thứ 19

Nguyên Thỉ năm thứ 16

Thỉ Quang năm thứ 4

 

 

 

* Tĩnh Tiết Tiên Sinh: Đào Nguyên Lượng ở đất Tấn có tên là Uyên Minh, ở Tống tên là Tiềm, đời gọi ông là Tĩnh Tiết Tiên Sinh. Ông là tằng tôn của Khản, bên nhà ông có trồng năm cây liễu, và ông soạn Ngũ Liễu Tiên Sinh truyện để tự kể về mình. Ông làm huyện lệnh ở Bành Trạch, mất trong năm này, thọ sáu mươi ba tuổi. Ông ở làng Lật, núi Sài Tang, huyện Đức Hóa, lộ Giang châu. Ông từng soạn Sưu Thần Lục ghi lại những dấu tích linh diệu của Phật. Ông có năm người con là Nghiễm, Sĩ, Phần, Dật, Đồng. Ông nội ông tên Mậu làm Vũ Xương Thái thú, cha ông làm Tư Thành Thái thú, sử hay chép nhầm tên ông.

 

Mậu Thìn: Tống, năm Nguyên Gia năm thứ 5

Tây Tần: Vĩnh Hoằng năm đầu

Hạ: Xương, năm Định Thắng năm đầu

Bắc Yên: Thái Bình năm thứ 20

Bắc Lương: Thừa Huyền năm đầu

Ngụy: Thái Vũ Đế Thần Gia năm đầu

 

 

 

* Tây Tần: Khất Phục Quốc Nhân, người Tiên Ty, làm quan cho Phù Tần. Tháng bảy, Đông Tấn Vũ Đế, Thái Nguyên năm thứ tám, Quý Mùi, Tần chủ Phù Kiên thua Tấn, dùng Quốc Nhân làm tiền tướng quân, gặp lúc thúc phụ của Quốc Nhân là Bộ Đồi làm phản ở Lũng Tây, Kiên sai Quốc Nhân trở lại đánh họ. Quốc Nhân, Bộ Đồi cùng chiếm một phương, binh đông đến hơn mười vạn. Năm Giáp Thân, Quốc Nhân chiếm kinh thành (Lan châu, Củng Xương lộ, Thiểm Tây). Năm Ất Dậu lấy quốc hiệu là Tần (Tây Tần), lấy niên hiệu Kiến Nghĩa. Năm Kỷ Sửu, Tây Tần Vũ Nguyên Vương

Càn trở về, lấy niên hiệu Thái Sơ. Tấn An Đế, Nghĩa Hy năm thứ mười lăm, Kỷ Dậu, Tây Tần lấy niên hiệu Cánh Thỉ. Năm Nhâm Tý, Tây Tần chủ là Thái Tổ Sí Bàn lấy niên hiệu Vĩnh Khang. Tống Cao Tổ niên hiệu Vĩnh Khang năm đầu, Tây Tần lấy niên hiệu Kiến Thỉ. Lúc này là Nguyên Gia năm thứ năm, Toản Mạt lấy niên hiệu Vĩnh Hoằng, và bị Hách Liên nhà Hạ diệt, gồm bốn chu, trị vì bố mươi lăm năm.

* Đại Hạ: Hậu duệ của Hung Nô Tả Hiền Vương tên là Bột Bột. Năm Bính Ngọ (Đông Tấn An Đế Nghĩa Hy năm thứ hai) Ông chiếm Sóc Phương lấy quốc hiệu Đại Hạ. Năm sau lấy niên hiệu Long Thăng. Năm Quý Sửu, Hạ chủ Bột Bột dùng Thác Can A Lợi lãnh tướng làm Đại giám phát động mười vạn dân Di Hạ ở Lĩnh Bắc dựng Đô Thành ở Sóc Châu (thuộc Hà Đông, Sơn Tây đạo, Tây Kinh lộ, tên quận là Mã Ấp). Ông nói: "Trẫm mới thống nhất thiên hạ, làm vua vạn bang, nên gọi thành mới xây là Thống Vạn", đổi niên hiệu Phụng Tường. Bột Bột tự nghĩ, ông nội mình lấy họ mẹ là họ Lưu là không đúng lễ, tộc họ từ xưa chưa từng đổi họ Hách Liên. Ông cho rằng Đế Vương là con trời, đó là Hách nối liền với Thiên.

Đến Tống Nguyên Gia năm thứ hai (Ất Sửu), Xương lên ngôi, lấy niên hiệu Thừa Quang. Thừa Quang năm thứ ba, Nguyên Ngụy Hề Cân và Hạ

Bình Nguyên Công Định cùng giữ Trường An. Năm Mậu Thìn, Xương đổi niên hiệu Định Thắng.

Ngụy Đế Thọ thừa lúc sơ hở đánh Thống Vạn thành. Binh của Hạ chủ Xương tan vỡ, Xương chạy lên Thượng Khuê. Ngụy chủ vào Thống Vạn bắt công khanh, hậu phi, cung nhân của nhà Hạ đến hơn vạn người, trâu ngựa bò dê đến mấy vạn con, của báu kho đụn thì không đếm xiết. Tháng hai, Tống Nguyên Gia năm thứ năm, Ngụy Bình Bắc tướng quân úy Quyến đánh Xương ở Thượng Đô và bắt sống đưa về Bình Thành. Ngụy chủ cho Xương ở trong Tây Cung, chu cấp ngựa xe vật dụng, gả em là Sơ Bình công chúa cho Xương, phong tước Cối Kê công. Nhà Hạ tồn tại hai mươi bốn năm thì mất nước. Họ hách Liên chính là Khuất Tín.

 

Kỷ Tỵ: Nguyên Gia năm thứ 6

 

 

Bắc Yên: Thái Bình năm thứ 21

Bắc Lương: Thừa Huyền năm thứ 2

Ngụy: Thần Gia năm thứ 2

Canh Ngọ: Nguyên Gia năm thứ 7

 

 

Thái Bình năm thứ 22

Thừa Huyền năm thứ 3

Thần Gia năm thứ 3

Tân Mùi: Nguyên Gia năm thứ 8

 

 

Bắc Yên: Hoằng, Đại Nhã năn đầu

Bắc Lương: Nghĩa Hòa năm đầu

Thần Gia năm thứ 4

 

* Tống Đế hạ chiếu đón Tôn giả Cầu-na Bạt-đề vào kinh. Tháng giêng ngài đến Kiến Khang gặp Đế. Văn Đế ân cần hỏi thăm sức khỏe ngài và hỏi Phật pháp. Một hôm Đế hỏi:

-Quả nhân thường muốn trì trai không sát sinh, nhưng bản thân gặp việc thường sinh trở ngại, mong thầy chỉ dạy phải làm sao?

Tôn giả đáp:

Đạo ở nơi tâm chứ không phải ở việc làm, pháp do chính mình chứ không phải do người khác. Vả lại cách tu của Đế vương không giống kẻ thất phu. Thất phu nếu không khắc khổ hành trì thì làm sao dùng được. Còn như đế vương lấy bốn biển làm nhà, lấy muôn dân làm chính, phát ngôn một lời hay thì quan dân đều vui mừng, ban bố một việc tốt thì người thần đều hân hoan, dùng hình nhưng không lấy mạng họ, sai dịch nhưng không vét sức họ thì mưa thuận gió hòa, lúa trái sum suê. Cứ thế mà trì trai đã lợi ích lắm rồi, do không sát sinh, lợi lạc vô kể, chứ đâu phải đợi ngay trong bữa ăn, bảo toàn được một mạng sống, rồi sau mới cứu tế cùng khắp? Thế nhưng phải thật cần kiệm.

Đế nghe xong vỗ ghế khen:

Thế tục mê diệu lý, tăng ngưng trệ trong giáo điều trước mắt, còn những lời của thầy thật đáng cùng trời người đàm luận.

Từ đó Đế tôn ngài làm thầy, thỉnh ngài ở chùa Kỳ Hoàn, cung cấp rất hậu hỷ. Ngài giảng kinh Pháp Hoa, Thập Địa Phẩm tại chùa, ngày nào Đế cũng dẫn công khanh đến dưới tòa nghe giảng.

Pháp tịch hưng thịnh như thế này chưa từng có.

 

Nhâm Thân: Tống, Nguyên Gia năm thứ 9

Bắc Yên: Đại Nhã năm thứ 2

Bắc Lương: Nghĩa Hòa năm thứ 2

Ngụy: Thái Vũ Đế, Diên Hòa năm đầu

Quý Dậu: Nguyên Gia năm thứ 10

Đại Nhã năm thứ 3

Mục Kiền: Thừa Hòa năm đầu

Diên Hòa năm thứ 2

Giáp Tuất: Nguyên Gia năm thứ 11

Đại Nhã năm thứ 4

Thừa Hòa năm thứ 2

Diên Hòa năm thứ 3

Ất Hợi: Nguyên Gia năm thứ 12

Đại Nhã năm thứ 5

Thừa Hòa năm thứ 3

Thái Diên năm đầu

Bính Tý: Nguyên Gia năm thứ 13

Đại Nhã năm thứ sáu diệt vong

Thừa Hòa năm thứ 4

Thái Diên năm thứ 2

 

* Bắc Yên: Phùng Bạt, người Ký châu (Yên Nam, Hà Bắc đạo, Chân Định lộ, Ký châu, Tín quận) làm quan cho Hậu Yên. Năm Đinh Mùi (Đông Tấn An Đế, Nghĩa Hy năm thứ ba) nước Hậu Yên loạn, Bạt liền soán diệt rồi chiếm Xương Lê, lấy hiệu Bắc Yên (nay là Bình Loan lộ, quận Bắc Bình) Năm Kỷ Dậu, là niên hiệu Thái Bình năm đầu. Đến Tống Đế Nguyên Gia năm thứ tám, Bắc Yên Chiêu Đế Hoằng lên ngôi, lấy niên hiệu Đại Nhã. Đại Nhã năm thứ sáu, bị Nguyên Ngụy diệt. Bắc Yên tồn tại hai mươi tám năm.

 

Đinh Sửu: Nguyên Gia năm thứ 14

 

Bắc Lương: Thừa Hòa năm thứ 5

Ngụy: Thái Diên năm thứ 3

Mậu Dần: Nguyên Gia năm thứ 15

 

Thừa Hòa năm thứ 6

Thái Diên năm thứ 4

 

* Tống: Văn Đế bảo bề tôi của mình là Đoan Dương Doãn Hà Thượng Chi rằng: "Vừa rồi trẫm thấy Nhan Diên Chi, Tông Bính soạn luận, phát huy pháp Phật rất có nghĩa lý, đồng thời khuyến hóa lòng người. Nếu làm cho những người làm quan cảm nhận sự giáo hóa này thì Trẫm khoanh tay mà thiên hạ cũng thái bình rồi, ta còn lo việc gì nữa!"

Hà Thượng Chi nhân đó tâu: Một làng có trăm nhà, mười người giữ Ngũ giới thì mười người ấy là những người thuần lương. Trong ấp có ngàn nhà trăm người tu Thập thiện thì trăm người ấy hòa kính, hiếu thuận. Nếu đem lề lối ấy truyền dạy khắp nước thì trong ức ngàn nhà sẽ có trăm vạn người có nhân đức. Hễ làm một việc lành thì bỏ đi một việc ác, bỏ được một việc ác thì dứt được một hình phạt. Một nhà dứt một hình phạt thì cả nước dứt được vạn hình phạt. Đó là điều mà hoàng thượng gọi là ngồi yên mà khiến thiên hạ thái bình là thế.

 

Kỷ Mão: Nguyên Gia năm thứ 16

 

Bắc Lương: Thừa Hòa năm thứ bảy, diệt vong

Thái Diên năm thứ 3

 

* Bắc Lương: Giả Mông người Hồ, Đông Tấn An Đế niên hiệu Long An năm đầu (Đinh Dậu), ông chiếm Trương Dịch, lấy quốc hiệu là Bắc Lương, xưng là Hà Tây Vương, lấy niên hiệu Thần Tỷ. Năm Kỷ Hợi đổi niên hiệu Thiên Tỷ. Năm Tân Sửu, Vũ Tuyên Vương Thư Cừ Mông Tốn lên ngôi, đổi niên hiệu Vĩnh An. Năm Nhâm Tý ông dời đô về Cô Tạng, đổi niên hiệu Nguyên Thỉ, năm Mậu Thìn đổi niên hiệu Thừa Huyền. Năm Canh Ngọ, Mông Tốn sai người sang triều cống Nguyên Ngụy, năm Tân Mùi đổi niên hiệu Nghĩa Hòa. Năm Nhâm Thân, Nguyên Ngụy sai Tây an tướng Quân Lý Thuận đi sứ nước Lương rồi về, Ngụy chủ hỏi việc của Lương thế nào, Thuận đáp: Mông Tốn trải qua gian nan, am tường quyền biến. Nhưng lễ là sự hưng thịnh của đức, kính là gốc của thân, Mông Tốn không có lễ kính, theo Thần thấy, không tồn tại bao lâu nữa. Năm Quý Dậu, Mông Tốn mất, con là Thái thú Đôn Hoàng Mục Kiền lên ngôi là Hà Tây Vương, đổi niên hiệu Thừa Hòa. Mục Kiền bên ngoài tuy tu chỉnh lễ của bề tôi, nhưng trong lòng thì trái nghịch. Tháng ba năm Kỷ Mão, Ngụy chủ đánh Lương. Tháng sáu Ngụy chủ đến Cô Tạng. Tháng chín, con người anh Mục Kiền là Vạn Niên đem quân ra hàng Ngụy, thành Cô Tạng thất thủ. Mục Kiền dẫn hơn nửa vạn văn võ tự trói xin hàng. Ngụy chủ mở trói tiếp đãi họ. Trương Dịch ngày nay là Cam Châu lộ. Cô Tạng là Lương châu. Đôn Hoàng là Lương Châu lộ, thuộc tỉnh Cam Túc, Ung châu.

 

Canh Thìn: Tống, năm Nguyên Gia năm thứ 17

Ngụy: Thế Tổ Thái Vũ Hoàng Đế, Thái Bình Chân Quân năm đầu.

Tân Tỵ: Nguyên Gia năm thứ 18

Thái Bình Chân Quân năm thứ 2

Nhâm Ngọ: Nguyên Gia năm thứ 19, Tây Vực dâng cho vua Ca-sa, vua tự mặc

Thái Bình Chân Quân năm thứ 3

Quý Mùi: Nguyên Gia năm thứ 20

Thái Bình Chân Quân năm thứ 4

Giáp Thân: Nguyên Gia năm thứ 21, Thái tử sai Hà Thừa Thiên soạn lịch mới

Thái Bình Chân Quân năm thứ 5

Ất Dậu: Nguyên Gia năm thứ 22

Thái Bình Chân Quân năm thứ sáu, Ngụy tàn diệt Phật giáo

Bính Tuất: Nguyên Gia năm thứ 23

Thái Bình Chân Quân năm thứ 7

Bính Tuất: Nguyên Gia năm thứ 23

Thái Bình Chân Quân năm thứ 7

Đinh Hợi: Nguyên Gia năm thứ 24

Thái Bình Chân Quân năm thứ 8

Mậu Tý: Nguyên Gia năm thứ 25

Thái Bình Chân Quân năm thứ 9

Kỷ Sử: Nguyên Gia năm thứ 26

Thái Bình Chân Quân năm thứ 10

Canh Dần: Nguyên Gia năm thứ 27

Thái Bình Chân Quân năm thứ 11

Tân Mão: Nguyên Gia năm thứ 28

Chánh Bình năm đầu, tháng hai năm Chánh Bình năm thứ hai, Thái Vũ bị giết.

 

* Bạch Túc Sa-môn: Sư húy Đàm Thỉ, còn có tên là Tuệ Thỉ. Trong Ngụy Thư Phật Lão Chí ghi: Sa-môn Tuệ Thỉ họ Trương, người Thanh Hà, thầy sư là Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Lưu Dụ nhà Tấn tiêu diệt Hậu Tần, lại Hạ Hách Liên Khuất Tín đuổi đến Trường An, tăng tục bị giết hại, nhưng sư dao chém chẳng bị thương. Khuất Tín nổi giận, triệu sư đến rồi cầm gươm đeo bên mình tự tay chém, nhưng vẫn chẳng làm tổn thương sư. Khuất Tín thất kinh lạy tạ, sám hối. Trăm dân nhờ sức từ của

Sư nên tránh được tai họa. Ngụy Thái Vũ bình định Hách Liên Xương, Sư về với Ngụy. Ngụy năm Chân Quân Thái Bình năm thứ sáu, Thái Vũ Đế thảo phạt giặc loạn Cái Ngô, đến Trường An thấy trong chùa có binh khí, Vũ Đế nổi giận. Tư Đồ Thôi Hạo nhân đó khuyên Thái Vũ Đế giết hết Samôn, hủy đốt kinh tượng. Thái Bình Chân Quân năm thứ mười một, Thôi Hạo cậy mình tài lược liền soạn Quốc sử ghi những việc đời trước của Ngụy rồi dựng ở ngã tư đường, khắc bia đá ở Giao Đàn. Người phương Bắc đều phẫn nộ. Thái Vũ cho Hạo cả gan phơi cái xấu của đất nước, nổi giận sai Hữu Ty định tội Hạo và các quan bí thư lang lại, gồm một trăm hai mươi tám người phải bị tru di năm họ. Lúc này Sư đến gặp Thái Vũ Đế, Vũ nổi giận sai người chém nhưng Sư chẳng hề tổn thương, Vũ Đế rút kiếm đeo bên mình ra chém, cũng không làm Sư bị thương. Vũ Đế sai nhốt Sư vào chuồng cọp, bầy cọp thấy Sư đều phủ phục xuống. Vũ Đế thất kinh, mời Sư lên điện lạy tạ sám hối, hết lòng tôn kính. Trước đây, Thái tử Cảnh Mục là người trị chánh rất sáng suốt, trung thường thị Tông Ái bản tánh xấu xa, không theo phép nước, gièm pha Thái tử. Thái tử lo buồn mà chết. Thái Vũ Đế dần dần biết được việc này, hối hận vô cùng. Tông Ái sợ bị giết, nên tháng hai năm Chánh Bình năm thứ hai, Ái giết Vũ Đế. Thượng thư Nguyên Hạ Lục Lộc dẫn quân truy giết Ái, đưa hoàng tôn Duệ lên ngôi, đổi niên hiệu. Sư đi trên bùn nhưng chân vẫn sáng sạch, nên người ta gọi ngài là Bạch Túc Sa-môn.

 

Nhâm Thìn: Tống, năm Nguyên Gia năm thứ 29

Ngụy: Cao Tông Văn Thành Hoàng Đế Duệ con của Thái tử Cảnh Mục. Niên hiệu Hưng An năm đầu

 

* Ngụy: Niên hiệu Hưng An năm đầu, quần thần đều khuyên vua khôi phục lại Phật giáo, vua hạ chiếu: Phàm là đế vương phải noi theo phép tắc sáng suốt, tỏ rõ được nhân nghĩa. Vua phải thường ban huệ cho muôn dân, làm lợi ích cho mọi loài. Tuy ngày xưa vẫn còn những chính sách hà khắc, vì vậy mà Xuân Thu thích lễ tôn sùng sự sáng suốt, Tế điển ghi những dòng tộc có công, huống gì Phật giáo! Công Đức của Như Lai trùm khắp đại thiên, ân huệ của Như Lai chảy tràn đại địa. Những người truy nguyên nguồn gốc sinh tử đều khen là pháp quán thấu đáo, những người đọc văn nghĩa thì quý bởi cửa ngõ nhiệm mầu. Luật cấm nhằm giúp vua thống trị, tánh thiện nhằm lợi ích kẻ trí người nhân, bài bác tà ngụy, khai diễn chánh giác. Bởi vậy từ xưa đến nay không ai mà chẳng tôn sùng ưa chuộng. Hơn nữa, Phật giáo là tôn giáo mà nước ta tôn thờ. Nay lệnh cho khắp châu quận, nơi nào có dân ở phải xây một ngôi chùa. Những ai, mến mộ Phật pháp thích làm Sa-môn thì cho phép xuất gia. Châu lớn cho phép năm mươi người, châu nhỏ cho phép bốn mươi người xuất gia. "

Bấy giờ khắp nước những chùa tháp trước đây bị đập phá đều được trùng tu lại. Đế còn lệnh cho Hữu Ty phải đúc tượng Phật bằng đồng trong những chùa lớn năm cấp do Thái Tổ trở xuống đến năm Đế Vương đã xây dựng. Mỗi tượng cao một trượng sáu thước. Đế đích thân xuống tóc cho Samôn Sư Hiền cùng năm người khác, phong Sư Hiền làm người quản lý Tăng (Đạo nhân thống).

 

Quý Tỵ: Tháng hai năm Nguyên Gia năm thứ 30, Thái tử Thiệu bàn mưu giết Vũ Đế, Vũ Lăng Vương đánh và giết Thiệu

Ngụy: Hưng An năm thứ 2

 

* Thế Tổ Hiếu Vũ Đế: Tên là Tuấn, con năm thứ ba của Văn Đế, được phong làm Vũ Lăng Vương, Thứ sử Giang châu. Tháng ba ông họp binh đánh Nguyên hung Thiệu. Tháng tư ông lên ngôi Hoàng Đế ở Tân Đình, ở ngôi mười một năm, thọ ba mươi lăm tuổi. Ông là người học rộng, xét đọc thư tấu rất kỹ. Niên hiệu Hiếu Kiến ba năm, Đại Minh tám năm.

 

Giáp Ngọ: Hiếu Kiến năm đầu (tháng giêng đổi niên hiệu)

Ngụy: Hưng Quang năm đầu

 

* Tống: Chia Dương châu, Triết Đông thành năm quận, đặt Đông Dương Châu để cai quản Cối Kê, phân Kinh, Tương, Giang, Dự châu thành tám quận, đặt Trình Châu để cai quản Giang Hạ.

 

Ất Mùi: Hiếu Kiến năm thứ hai, chiếu thỉnh Sa-môn Đạo Tù làm Pháp chủ chùa An Trấn

Thái An năm đầu

Bính Ngọ: Hiếu Kiến năm thứ 3

Thái An năm thứ 2

 

* Hoa Nghiêm Kinh Thích Sớ: Nhà Ngụy diệt Phật giáo, Thích Nguyên Sướng về với Tống. Ngài đến Dương châu, ngụ ở chùa Minh Nhân, soạn Hoa Nghiêm Kinh Thích Sớ, truyền giảng đến ngày nay đều bắt đầu từ ngài.

 

Đinh Dậu: Đại Minh năm đầu

Ngụy: Thái An năm thứ 3

 

Tổ năm thứ 27: Tôn giả Bát-nhã-đa-la.

Ngài sinh trưởng ở Đông Ấn, sau khi đắc pháp với Tôn giả Bất-như-mật-đa, ngài hoằng hóa đến vùng Nam Ấn. Quốc vương xứ này tên là Hương Chí, là vị vua rất sùng kính Phật pháp, đón ngài về cung kính cúng dường, dâng ngài bảo châu vô giá. Nhà vua có ba người con, là Nguyệt Tịnh Đa-la, Công Đức Đa-la và Bồ-đề-đa-la.

Một hôm ngài đưa bảo châu ra và hỏi ba vương tử:

-Hạt châu này tròn sáng, có vật gì sánh bằng nó không? Vương tử thứ nhất và năm thứ hai đều đáp:

Hạt châu này quý nhất trong tất cả châu báu, không vật gì hơn nó được.

Vương tử năm thứ ba là Bồ-đề-đa-la đáp:

Hạt châu này là bảo trân thế gian nhưng chưa phải là tối thượng.

Trong các năm thứ báu thì Pháp mới là tối thượng. Hạt châu này là ánh sáng thế gian, chưa phải là ánh sáng tối thượng. Trong các thứ ánh sáng, ánh sáng của trí mới là tối thượng. Hạt châu này là thứ ánh sáng sạch của thế gian chưa phải là thứ ánh sáng sạch tối thượng. Trong các thứ sáng sạch thì sáng sạch của tâm mới là tối thượng. Ánh sáng của hạt châu không thể tự soi, mà phải nhờ ánh sáng của trí mới phân biệt được. Khi phân biệt được thì mới biết đó là hạt châu, biết được hạt châu mới thấy sự quý giá của nó. Khi thấy rõ sự quý giá của nó, thì vật báu ấy chẳng tự biết nó quý báu. Khi phân biệt được hạt châu, thì hạt châu này chẳng tự biết nó là hạt châu. hạt châu chẳng tự biết mình là hạt châu mà phải nhờ hạt châu của trí để phân biệt được hạt châu của thế gian. Vật báu chẳng tự biết nó là vật báu mà phải nhờ vật báu của trí để thấy rõ vật báu của pháp. Bởi vậy, Thầy có đạo, có của báu thì nó liền hiện, chúng sinh có đạo thì vật báu của tâm cũng vậy.

Tổ khen tài trí biện luận của vương tử và hỏi tiếp:

- Trong tất cả các vật, vật gì không tướng?

- Trong tất cả các vật, không khởi là không tướng.

- Trong tất cả các vật, vật gì là tối cao?

- Trong tất cả các vật, nhân ngã là tối cao.

- Trong tất cả các vật, vật gì là tối đại?

- Trong tất cả các vật, pháp tánh là tối đại.

Đến khi phụ vương Hương Chí băng hà, mọi người gào khóc thảm thiết, chỉ có Bồ-đề-đa-la ngồi nhập định suốt bảy ngày trước linh cửu.

An táng vua cha xong, vương tử xuất gia và thọ đại giới. Ngài nói với Vương tử: Như Lai đem chánh pháp nhãn giao phó cho Đại Ca-diếp, cứ thế lần lượt truyền đến ta. Nay ta giao phó cho ông, hãy nghe ta nói kệ:

Đất tâm sinh các giống
Từ sự lại sinh lý
Quả mãn Bồ-đề viên
Hoa nở, sinh thế giới.

Phó pháp xong, ngài đứng thẳng trên tòa, duỗi thẳng hai tay, từ mỗi cánh tay phóng hai mươi bảy đạo hào quang ngũ sắc, quang minh sáng lòa. Toàn thân ngài bay lên hư không, cao bằng bảy cây Đa-la, dùng lửa Tam-muội tự đốt thân mình. Từ trên không, xá-lợi của ngài tuôn xuống như mưa, tứ chúng thâu lấy dựng tháp cúng dường. Bấy giờ nhằm đời Tống Hiếu Vũ Đế.

Ngài từng được quốc vương Đông Ấn thỉnh cúng dường, nhân đó quốc vương hỏi ngài: Ai nấy đều đọc kinh, thầy tại sao không đọc? Ngài đáp: Bần đạo thở ra thì không theo muôn duyên, hít vào thì không ở trong cảnh trói buộc, thường chuyển trăm ngàn vạn ức quyển kinh như vậy, chứ không phải một, hai quyển.

 

Mậu Tuất: Tống, năm Đại Minh năm thứ 2

Ngụy: Thái An năm thứ tư, cấm uống rượu, ai phạm liền bị chém, hai việc kiết hung nổi lên rầm rộ.

Kỷ Hợi: Đại Minh năm thứ 3

Thái An năm thứ 5

Canh Tý: Đại Minh năm thứ tư, Lộ Chiêu Hoàng Thái hậu dựng xong tượng Phổ Hiền

Hòa Bình năm đầu

Tân Sửu: Đại Minh năm thứ 5

Hòa Bình năm thứ 2

Nhâm Dần: Đại Minh năm thứ 6

Hòa Bình năm thứ 3

Quý Mão: Đại Minh năm thứ 7

Hòa Bình năm thứ 4

Giáp Thìn: Đại Minh năm thứ tám, tháng năm Đế mất, Thái tử lên ngôi

Hòa Bình năm thứ 5

 

* Phế Đế: Tống Thái tử húy Tử Nghiệp, mười sáu tuổi lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Cảnh Hòa, sau lại đổi thành Vĩnh Quang.

Tháng mười một năm Ất Tỵ ông bị bọn Chủ Y Nguyễn Điền Phu, Khương Sản Chi giết. Ông ở ngôi một năm, Tương Đông Vương Hoặc lên ngôi.

* Thái Tông Minh Đế: Tên là Hoặc, con năm thứ mười một của Văn Đế, được phong làm Tương Đông Vương. Sau khi bọn Thọ Tịch giết Phế Đế, họ đưa ông lên ngôi. Ông ở ngôi bảy năm, thọ ba mươi bốn tuổi. Thái Thỉ bảy năm, Thái Dự một năm.

 

Ất Tỵ: Tống, Thái Thỉ năm đầu, tháng mười một đổi niên hiệu tức năm Vĩnh Quang của Phế Đế

Ngụy: Hòa Bình năm thứ sáu, tháng năm Đế mất. Ông độ hơn 3.000 Tăng ni, chấn hưng Phật giáo, trùng tu chùa cũ.

Bính Ngọ: Thái Thỉ năm thứ 2

Hiển Tổ Hiến Văn Hoàng Đế Hoằng, con trưởng Cao Tông, lên ngôi lúc mười hai tuổi, Phùng Thái hậu lâm triều thính chính. Thiên An năm đầu, tháng sáu lệnh hết cấm uống rượu.

 

Sau khi Tương Đông Vương lên ngôi Hoàng Đế, Viên Khải dâng biểu khuyên Tấn An Vương Tử Huân lên ngôi. Kiến Nha ở Tang Vĩ truyền hịch về Kiến Khang. Lúc này Lưu Uyển thống lãnh các tướng giúp ông lên ngôi, và Tấn An Vương Tử Huân lên ngôi Hoàng Đế ở Tầm Dương, đổi niên hiệu Nghĩa Gia. Bốn phương hào sĩ đều theo về Tầm Dương, triều đình chỉ còn mấy quận ở Đan Dương, Hoài Nam. Triều đình sai Kiến An Vương Hưu Nhân Đô đốc nắm giữ việc quân, Thẩm Du Chi làm Tầm Dương Thái thú đem quân đánh Tử Huân. Sau đó Lưu Uyển bị Kinh châu tiến quân trưởng sử Trương Duyệt phản trắc giết ông. Các đạo quân đến Tầm Dương, chém Tấn An Vương Tử Huân, đem đầu về Kiến Khang, lúc đó Huân mới mười một tuổi.

* Đại sĩ Bảo Công: Ngài húy là Bảo Chí, người đời gọi Bảo Công là tỏ ý kính trọng ngài. Móng tay móng chân ngài giống như móng chim ưng. Hồi ấy vợ một người dân họ Dương là Chu thị ở phía Đông Kiến Khang nghe trong tổ chim có tiếng con nít khóc, bà leo lên nhặt về nuôi, coi như con ruột. Đứa trẻ ấy chính là ngài. Năm bảy tuổi ngài theo Tăng Kiện ở Chung Sơn xuất gia, chuyên tu Thiền quán, đến năm này ngài bắt đầu du hóa. Ngài buộc phất tử dài hơn một thước vào đầu gậy rồi vác đi vào trong xóm làng. Có lần gặp người ăn nem cá, ngài xin ăn, người kia vẫn cho nhưng tỏ ý khinh bỉ. Ngài liền mửa vào trong nước, nem cá bỗng biến thành cá sống bơi lội, nay chính là loài cá Hồi ở các sông. Cuộc đời của ngài có rất nhiều điều thần dị. Ngày tám tháng mười hai năm Thiên Giám năm thứ mười ba đời Lương Vũ Đế, ngài thị tịch, thọ chín mươi ba tuổi. Lương Vũ Đế đem hai mươi vạn lượng vàng đổi gò Độc Long ở Chung sơn, Kiến Khang để an táng ngài, dựng tháp năm tầng bên trên, ban lệnh cho Vương Quân soạn bia. Ngày an táng vua xa giá đến cúng, tăng tục đều thờ ngài. Ngài là người có điềm lành ứng hiện đứng vào bậc nhất thiên hạ. Tất cả thi kệ ngài trước tác phần nhiều được chép trong Nam Sử. Ngài soạn Đại Thừa Tán mười thiên, Khoa Tụng mười bốn thiên, cùng những bài ca về mười hai thời, rất thịnh hành ở đời. Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc năm thứ bảy, Đế sai sứ đến thiết trai cúng dường ở Chung sơn, vua đích thân soạn văn tán tưởng niệm, trong ấy có câu: "Từ nay phải nêu cao Thánh tích của ngài, ban hiệu Đạo Lâm Chân Giác Bồ-tát. "

* Pháp sư Đàm Tông thị tịch: Ngày một tháng Giêng năm Đại Minh năm thứ hai, Tống Vũ Đế hỏi Đàm Tông: Trẫm có tội gì mà phải nhọc khanh sám hối? Đàm Tông đáp: Vua Thuấn nói: "Ta trái với sự giúp đỡ của ông. " Vua Vũ nói: "Muôn phương có tội đều do mình ta. " Lẽ đâu bệ hạ khác hai vua ấy chăng? Vũ Đế nghe xong rất vui.

 

Đinh Mùi: Thái Thỉ năm thứ 3

Hoàng Hưng năm đầu

 

* Ngụy: Năm Đinh Mùi: Phùng Thái hậu giao lại triều chính, Ngụy chủ mới đích thân nắm chánh sự, đổi niên hiệu, chăm lo quốc sự, thưởng phạt công minh, đề bạt người liêm khiết, loại trừ bọn tham ô, nước Ngụy thái bình. Ông dựng chùa Vĩnh Ninh ở Bắc Đài, Trường An, tháp đến bảy tầng, cao ba mươi trượng, lại đúc tượng Phật ở chùa Thiên Cung, cao đến bốn mươi ba thước, dùng hết bảy vạn cân đồng, sáu trăm cân vàng ròng.

 

Mậu Thân: Thái Thỉ năm thứ tư, Đế dựng xong chùa Thiên Cung

Hoàng Hưng năm thứ 2

Kỷ Dậu: Thí Thỉ năm thứ 5

Hoàng Hưng năm thứ 3

Canh Tuất: Thái Thỉ năm thứ 6

Hoàng Hưng năm thứ 4

Tân Hợi: Thái Thỉ năm thứ 7

Ngụy: Cao Tổ Hiếu Văn Hoàng Đế Hoằng, con trưởng Hiến Văn đế, năm tuổi nhận ngôi, Diên Hưng năm đầu.

 

* Ngụy: Tháng sáu năm Tân Hợi, Hiển Tổ Hiến Văn Hoàng Đế Tên là Hoằng là người thông tuệ, mưu lược, cương nghị, quyết đoán, rất thích học thuyết của Nho, Lão, Phật, thường có tâm để lại cho đời, muốn nhường ngôi cho thúc phụ trung đô đại quan Kinh Triệu vương tử Thôi, nhậm thành ương Vân vốn là em của Tử Thôi. Vân nói: Cha truyền cho con, là phép xưa nay, nếu giao cho người trong tộc, sợ rằng trái với ý của Tiên đế. Thế rồi, ông đem ngọc tỷ của Tiên đế truyền ngôi cho Thái tử Hoằng. Lúc này Thái tử năm tuổi, đổi niên hiệu Diên Hưng. Quần thần tâu: "Xưa Hán Cao Tổ xưng Hoàng Đế, phong cha làm Thái Thượng hoàng, không còn cai quản thiên hạ. Nay Hoàng Đế còn trẻ nhỏ, muôn việc chánh sự vẫn do bệ hạ nắm, chỉ truy tôn hiệu Thái Thượng hoàng Đế". Ông dời về ở trong cung Sùng Quang. Cung này nằm phía Bắc Uyển Trung, dựng tháp Lộc Dã ở Tây sơn của Uyển Trung, ông cùng với tăng, ngày ngày luận lý Thiền.

 

Nhâm Tý: Thái Dự năm đầu, tháng tư Đế mất, Thái tử lên ngôi, lúc này mới mười tuổi.

Diên Hưng năm thứ hai, Thượng hoàng chinh phạt rợ Nhuyễn Nhuyễn.

 

* Tống Minh Đế đúc tượng Phật vàng cao một trượng sáu, buổi sáng thường ăn chay, ngày tụng kinh Bát-nhã, cảm được xá-lợi hiện, ông dựng chùa Hoằng Phổ.

* Thương Ngô Vương: Tên là Dục, Thái tử của Minh Đế, mười tuổi lên ngôi, trị vì năm, nhiều lần xuất cung du hành. Từ nhỏ ông đã có tính ngỗ nghịch lại thích giết hại. Một ngày không giết hại thì ông bực không vui, lên điện xét việc thường hoảng hốt, ăn xong thường ói mửa. Đêm Mậu Tý tháng bảy năm Đinh Tỵ, ông sai Tả hữu Dương Ngọc Phù rình xem hễ có cô thợ dệt qua sông là lập tức về báo cho mình, nếu không gặp tất bị ông giết. Đêm đó Ngọc Phù rình xem ông ngủ say mới cùng Dương Vạn Niên giết ông. Ông thọ mười lăm tuổi. Hữu vệ tướng quân Tiêu Đạo Thành theo lệnh Hoàng Thái hậu truy phong ông làm Thương Ngô Vương, đón An Thành Vương Chuẩn lên ngôi Hoàng Đế, lúc này Chuẩn mới chín tuổi. Niên hiệu Nguyên Huy năm.

 

Quý Sửu: Nguyên Huy năm đầu

Ngụy: Diên Hưng năm thứ 3

Giáp Dần: Nguyên Huy năm thứ 2

Diên Hưng năm thứ 4

 

* Ngụy: Có người bị cầm tù trong ngục nhiều năm, Quần thần thắc mắc, Thượng hoàng nói: Giam trong ngục thật ra không phải khéo trị, nhưng không phải hơn vội vàng định tội bừa bãi đó ư? Con người hễ lo khổ thì nghĩ đến điều thiện, người trí lấy nhà tù làm nhà phước, Trẫm lao tâm khổ tứ vì họ, muốn cho họ hối cải, càng thêm thương xót, tha thứ cho họ mà thôi.

 

Ất Mão: Nguyên Huy năm thứ 3

Diên Hưng năm thứ 5

Bính Thìn: Nguyên Huy năm thứ 4

Vĩnh Minh Năm Đầu, Tháng hai Thái Thượng hoàng mất, Phùng Thái hậu lâm triều thính chính

 

Ngụy: Hiển Tổ Hiến Văn Hoàng Đế dựng chùa Kiến Minh ở Vân Trung, chùa viện bốn phương đến hơn ngàn ngôi, độ bảy mươi bảy vạn Tăng ni.

* Thuận Đế: Tên là Chuẩn, tự Trọng Mưu, con năm thứ ba của Minh Đế, được phong làm An Thành Vương. Ông lên ngôi lúc chín tuổi, dùng Tiêu Đạo Thành làm tư không nắm việc Thượng thư. Ông ở ngôi ba năm, thọ mười hai tuổi, niên hiệu Thăng Minh ba năm.

 

Đinh Tỵ: Tống, Thăng Minh năm đầu, Nguyên Huy năm thứ năm, tháng bảy đổi niên hiệu Thăng Minh

Ngụy: Thái Hòa năm đầu

Mậu Ngọ: Thăng Minh năm thứ 2

Thái Hòa năm thứ 2

 

Thăng Minh năm thứ hai, hữu trưởng sử Vương Kiệm biết ý của Tiêu Đạo Thành nên bảo nghị sứ trung thư xá nhân Ngu Chỉnh soạn chiếu, phong Đạo Thành làm Hoàng Việt đại Đô đốc trung ngoại chư quân sự Thái phó Lĩnh Dương châu mục. Tháng ba năm Kỷ Mùi phong Thái phó Tiêu Đạo Thành làm tướng quốc, thống lãnh trăm quan, ban cho mười quận, phong làm Tề Công, sau lại ban cửu tích, tứ hộ (một trong bốn xá nhân, mỗi người ở một tỉnh) phong tước Vương, hạ chiếu phải nhường ngôi cho Tề vương. Tống Đế không chịu ra khỏi cung, Vương Kính Tắc dẫn binh vào điện đường đưa xe tù vào rước Đế. Đế khóc mà nhường ngôi và thề rằng, nguyện kiếp sau, đời đời, chớ sinh lại vào nhà Thiên vương. Trong cung ai nấy gào khóc. Đế ngồi Họa luân xa đến Đông Để. Bọn tư không Chữ Uyên đem ngọc tỷ đến Tề Cung, khuyên Tề Vương lên ngôi Hoàng Đế ở Nam Giao, đưa Tống Thuận Đế xuống làm Nhữ Âm Vương, dựng cung Đan Dương đặt quân canh giữ, tin vệ sĩ giết ông mau chóng lan xa. Nhà Tống gồm tám chủ, trị vì năm mươi chín năm rồi nhường ngôi cho Tề.

* Nhà Tề: Họ Tiêu, đóng đô ở Kiến Khang, gồm Thái tổ Cao Hoàng Đế, Vũ Đế, Uất Lâm Vương, Hải Lăng Vương, Minh Đế, Đông Hôn Hầu, Hòa Đế, cả thảy bảy chủ, trị vì hai mươi ba năm.

-Thái tổ Cao Hoàng Đế: Húy Đạo Thành, tự Thiệu Bá, người Lan Lăng, là cháu hai mươi bốn đời của Tiêu Hà nhà Hán. Ông nhận ngôi từ nhà Tống, trị vì bốn năm, thọ năm mươi sáu tuổi, Niên hiệu Kiến Nguyên bốn năm.

 

Kỷ Mùi: Tề, Kiến Nguyên năm đầu, tức Tống Thăng Minh năm thứ ba, tháng sáu đổi niên hiệu.

Ngụy: Thái Hòa năm thứ 3

Canh Thân: Kiến Nguyên năm thứ 2

Thái Hòa năm thứ 4

Tân Dậu: Kiến Nguyên năm thứ ba

Thái Hòa năm thứ 5

Nhâm Tuất: Kiến Nguyên năm thứ tư, tháng ba Đế mất

Thái Hòa năm thứ 6

 

Tề Đế trì tụng Bát-nhã, biên chép kinh Pháp Hoa, ngày tám tháng tư ông đúc tượng Phật bằng vàng, rằm tháng bảy ông cúng dường chư tăng khắp các chùa, dựng hai chùa Trắc Dĩ và Chánh Quán.

* Thế Tổ Vũ Đế: Húy là Di, tự Tuyên Viễn, con trưởng Cao Đế. Tháng ba năm Nhâm Tuất, ông lên ngôi, trị vì mười một năm, thọ năm mươi bốn tuổi. Niên hiệu Vĩnh Minh mười một năm.

 

Quý Hợi: Vĩnh Minh năm đầu

Thái Hòa năm thứ 7

Giáp Tý: Vĩnh Minh năm thứ 2

Thái Hòa năm thứ 8

 

Tề phong Cánh Lăng Vương Tử Lương làm hộ quốc tướng quân kiêm chức Tư Đồ, lãnh binh trấn giữ Tây châu. Tử Lương là người liêm khiết lại còn dốc lòng tìm cầu nhân tài, sùng kính Phật giáo. Hằng ngày ông thường mời Tăng chúng đến luận bàn Phật pháp, vô cùng kính tín Phật pháp. Xưa nay ở Giang Tả chưa từng có ai như ông. Ông từng tự mình nấu cơm, gánh nước cho Tăng chúng.

 

Ất Sửu: Tề, Vĩnh Minh năm thứ 3

Ngụy: Thái Hòa năm thứ 9

Bính Dần: Vĩnh Minh năm thứ 4

Thái Hòa năm thứ 10

Đinh Mão: Vĩnh Minh năm thứ 5

Thái Hòa năm thứ 11

Mậu Thìn: Vĩnh Minh năm thứ 6

Thái Hòa năm thứ 12

Kỷ Tỵ: Vĩnh Minh năm thứ 7

Thái Hòa năm thứ 13

Canh Ngọ: Vĩnh Minh năm thứ 8

Thái Hòa năm thứ 14

Tân Mùi: Vĩnh Minh năm thứ 9

Thái Hòa năm thứ 15, Văn Minh Phùng Thái hậu mất, Đế theo lễ xưa để tang ba năm

Nhâm Thân: Vĩnh Minh năm thứ 10

Thái Hòa năm thứ 15

 

* Ngụy Đế sai quần thần luận về năm thứ tự của Ngũ hành, Trung thư giám Cao Gián Nghị cho rằng, "Đế vương đều lấy Trung Nguyên làm chánh thống, không theo số vận ở đời, lấy việc đoạt thiện ác làm thị phi. Bởi vậy Kiệt Trụ vô cùng bạo ngược nhưng vẫn không bỏ lịch của nhà Hạ nhà Thương; Lệ, Tuệ là hôn quân nhưng vẫn không hại sách mệnh của Chu, Tấn. Tấn nối nghiệp Ngụy là Kim, Triệu nối nghiệp Tấn là Thủy, Yên nối nghiệp Triệu là Mộc, Tần nối nghiệp Yên là Hỏa. Tần diệt vong, Ngụy mới khởi nghiệp, lập ra Chánh Sóc, hơn nữa Ngụy được mang họ vốn xuất phát từ Hiên Viên. Thần ngu muội cho rằng nên lấy Thổ đức. " Bí thư thừa Lý Bưu, trứ tác lang Thôi Quang v. v... cho rằng, "Thần Nguyên và Tấn Vũ xưa nay kết thân với nhau, đến đời Hoàn, Mục, có chí phụ giúp nhà Tấn, bởi vậy Tư mã Tộ mất ở Giáp Nhục thì Thát Bạt nhận ngôi ở Vân Đại. Xưa Tần thôn tính thiên hạ, Hán vẫn còn họ Cung Công để sách, cuối cùng kế nghiệp nhà Chu, lấy hiệu Hỏa Đức, huống gì họ Lưu, Thạch, Phù đất hẹp vận ngắn, Ngụy cũng vướng phải cái tệ này, lẽ đâu bỏ Tấn mà lấy Thổ Đức chăng!"

Tư không Mục Lượng v. v... đều xin Ngụy Đế theo lời bàn của bọn Bưu, và Ngụy Đế hạ chiếu theo nhà Tấn lấy hiệu Thủy Đức. Năm Bính Tý, Ngụy Thái Hòa năm thứ hai mươi, đế hạ chiếu cho rằng người phương Bắc bảo Thổ Đức là họ Thát họ Bạt, tiên tổ của Ngụy xuất phát từ Hoàng Đế, theo Thổ Đức Vương nên là họ Thát Bạt. Phàm Thổ là màu trong màu vàng (Hoàng) là cội nguồn của vạn vật, nên đổi thành họ Nguyên. Các công thần cựu tộc mang họ từ đời trước hoặc họ kép nay đều đổi hết. Thế rồi Ngụy Đế bắt đầu đổi họ Bạt Bạt thành họ Trường Tôn, đổi Lệ Hề thành họ Hề, đổi Ất Chiên thành Thúc Tôn, Khâu Mục Lăng thành họ Mục, Bộ Lục Cô thành họ Lục, Hạ Lại thành họ Hạ, Độc Cô thành họ Lưu, Hạ Lâu thành họ Lâu, Vật Nữu Vu thành họ Vu, Uất Trì thành họ Uất, những họ còn lại đều được đổi nhiều không kể hết. Đến Tây Ngụy Cung Đế Quách bỏ niên hiệu chỉ đọc lấy năm, lấy lại họ Thát Bạt, chín mươi chín họ trước đây được đổi thành họ đơn (chỉ lấy một chữ) nay đều khôi phục lại như cũ. Năm Giáp Tuất, Ngụy Đế về Nam, ngang qua mộ của Tỷ Can, dùng lễ Thái lao tế, tự soạn văn tế trong đó có câu: "Than ôi! Giới Thất lẽ đâu chẳng phải bề tôi của ta!"

 

Quý Dậu: Tề: Vĩnh Minh năm thứ 11, tháng bảy Đế mất

Ngụy: Thái Hòa năm thứ mười bảy, Đế thấy Bình Thành lạnh, tháng sáu lại có tuyết rơi; tháng mười một ông đến đất Nghiệp bàn việc dời đô. Lạc Dương Bình Thành nay là Tây Lương lộ.

 

Tề: Uất Lâm Vương húy Chiêu Nghiệp, cháu Hoàng Thái Tổ, con trưởng của Thái tử Văn Tuệ. Tháng bảy năm Quý Dậu, ông lên ngôi, tháng giêng năm Mậu Tuất ông đổi niên hiệu Long Xương. Ông không lo liệu triều chính, phóng túng vô độ, Tây Xương Hầu Loan can gián nhưng ông không nghe lại còn muốn giết Loan. Tháng bảy Loan dẫn quân vào Vân Long Môn giết ông ở Tây Lộng, theo lệnh Thái hậu truy phế ông xuống chức Uất Lâm Vương, đón con năm thứ hai của Văn Tuệ là Tân An Vương Chiêu Văn lên ngôi Hoàng Đế. Lúc này văn mười lăm tuổi, đổi niên hiệu Diên Hưng, phong Loan làm Tuyên Thành quận công, tước Thái phó Tuyên Thành Vương. Tháng mười, Thái hậu ra lệnh, Thái phó Tuyên Thành Vương nên vào nhận ngôi báu, phế Văn làm Hải Lăng Vương. Tháng mười một, Hải Lăng Vương Mất.

* Cao Tông Minh Đế: Tên là Loan, anh của Thái Tổ. Hồi ấy con của An Chân Vương từ nhỏ mồ côi, Cao Đế nuôi nấng coi như con mình, phong ông làm Tây Xương Hầu, ông ở ngôi năm, thọ bốn mươi tuổi. Niên hiệu Kiến Vũ bốn năm, Vĩnh Thái một năm.

 

Giáp Tuất: Kiến Vũ năm đầu, tháng mười đổi niên hiệu

Thái Hòa năm thứ 18, tháng mười một Đế đến Lạc Dương

Ất Hợi: Kiến Vũ năm thứ 2

Thái Hòa năm thứ 19

 

Ngụy Đế đi Lỗ cúng tế Khổng Tử, chọn một người trong con cháu Khổng Tử phong làm Sùng Thánh Hầu để tế tự Khổng Tử. Vua xa giá đến chùa Bạch Tháp ở Từ Châu. Chùa có pháp sư Đạo Đăng nhập diệt, đế hạ chiếu viếng tang, ban cấp ngàn tấm lụa, cúng dường tất cả tăng, mở đạo tràng kỳ siêu bảy ngày ở kinh thành.

 

Bính Tý: Kiến Vũ năm thứ 3

Thái Hòa năm thứ 20, Ngụy đổi họ Nguyên

 

Tề: Thích Tuệ Cơ được Minh Hoàng Đế hai lần hạ chiếu thỉnh nhưng ngài không vào cung mà đến Quy Sơn, Hội Ấp dựng tinh xá Bảo Lâm. Ngài từng soạn Pháp Hoa Sớ Nghĩa cho Văn Tuyên Vương. Tháng mười một, ngài nhập diệt, thọ tám mươi lăm tuổi.

 

Đinh Sửu: Kiến Vũ năm thứ 4

Thái Hòa năm thứ 21, Đế lập con là Kháp làm hoàng Thái tử

 

Ngụy: Thiền sư Phật-đà (Hán dịch Giác Thủ) người Trung Ấn, Tây Trúc. Sư rất thích cảnh trí Tung nhạc, Đế liền cho dựng chùa Thiếu Lâm trên Thiếu Thất sơn để Sư ở. Đệ tử của Sư có Tăng Trù, Tuệ Quang.

 

Mậu Dần: Vĩnh Thái năm đầu, tháng bảy Đế mất

Thái Hòa năm thứ 22

 

Tề Đế khi còn ở ngôi thường trì trai, tu Thập thiện, tụng kinh Pháp Hoa, Bát-nhã, dựng chùa Quy Y, đúc ngàn tượng Phật bằng vàng, chép kinh Phật

* Đông Hôn Hầu: Tên Bảo Quyển, con năm thứ ba của Minh Đế. Tháng mười, niên hiệu Kiến Vũ năm đầu, ông được lập làm hoàng Thái tử rồi lên ngôi Hoàng Đế, nhưng ông không có đức, ở ngôi hai năm, sau bị giết, thọ mười chín tuổi. Niên hiệu Vĩnh Nguyên hai năm.

 

Kỷ Mão: Vĩnh Nguyên năm đầu

Thái Hòa năm thứ hai mươi ba, tháng tư Hiếu Văn Đế mất

 

Ngụy Đế dựng chùa An Dưỡng ở đất nghiệp, cúng dường trai tăng. Trong Lục cung những thị tỳ giữ lục trai, tinh tấn tụng kinh, mến mộ Phật đạo đều cho xuất gia. Đế độ cả thảy một vạn bốn ngàn người.

 

Canh Thìn: Tề: Vĩnh Nguyên năm thứ hai, tháng mười hai Đế bị giết

Ngụy: Thế Tông Tuyên Vũ Đế Kháp, con năm thứ hai của Hiếu Văn Đế lên ngôi. Cảnh Minh năm đầu.

 

Lúc này Thôi Tuệ cảnh chiếm cứ Quảng Lăng và làm phản, Kinh châu Thứ sử Tiêu Ý đem quân đến đánh giết Tuệ Cảnh. Đế phong Ý làm Thượng thư lệnh. Bọn sủng thần Nhự Pháp Trân ghét quyền uy của Ý nên gièm pha Ý với Đế. Tháng mười, Đế ban cho Ý phải chết. Ý nói: "Em của thần ở Ung châu, rất lo lắng cho triều đình". Em của Ý là Tiêu Diễn làm Thứ sử trong Ung châu, hôm đó tại Tương Dương nghe tin anh chết, liền triệu tập quân ở Kiến Nha, Đế sai Tiêu Dĩnh Vị đem quân đến đánh họ. Dĩnh Vị liền kết hợp với Diễn, tháng ba năm sau, họ đưa Nam Khang Vương lên ngôi Hoàng Đế ở Giang Lăng, đổi niên hiệu Trung Hưng, phong Tiêu Diễn làm chinh Đông đại tướng quân Đô đốc chinh thảo chư quân sự, cầm cờ tiết búa việt đến thẳng Kiến Khang. Tháng mười hai, Đế bị giết. Diễn theo lệnh Tuyên Đức Thái hậu phế đế xuống làm Đông Hôn Hầu.

* Hòa Đế: Húy Bảo Dung, con năm thứ tám của Minh Đế được làm Nam Khang Vương, ra làm Kinh châu Thứ sử. Tháng ba năm Tân Tỵ, ông lên ngôi Hoàng Đế. Tháng giêng năm Nhâm Ngọ, ông hạ chiếu cử đại Tư mã Tiêu Diễn làm tướng quốc quản lý trăm quan, rồi được phong Dương châu mục ban mười quận, tước Lương Công, lại ban cho cửu tích. Tháng giêng Diễn được phong Vương. Đế về đông, đến Cô Thục (Giang Đông, Thái Bình lộ) hạ chiếu nhường ngôi cho Lương Vương. Lương Vương lên ngôi Hoàng Đế, đưa Đế xuống làm Ba Lăng Vương. Sau đó thì giết. Ông ở ngôi một năm, thọ mười sáu tuổi.

 

Tân Tỵ: Trung Hưng năm đầu, tháng ba Đế lên ngôi, tháng hai năm sau nhường ngôi cho Lương

Ngụy: Cảnh Minh năm thứ 2

 

Nhà Tề gồm bảy chủ, trị vì tổng cộng hai mươi ba năm rồi nhường ngôi cho Lương.

* Lương: Họ Tiêu, đóng đô ở Kiến Khang, gồm Cao Tổ Vũ Đế, Thái Tông Giản Văn Đế, Thế Tổ Nguyên Đế, Kính Đế.

* Cao Tổ Vũ Đế: Húy là Diễn, tự Thúc Đạt người Lan Lăng, làm quan cho Tề, được phong Lương Vương, nhận ngôi từ Tề, ở ngôi bốn mươi tám năm thọ tám mươi sáu tuổi. Niên hiệu Thiên Giám mười tám năm, Phổ Thông bảy năm, Đại

Thông hai năm, Trung Đại Thông sáu năm, Đại Đồng mười một năm, Trung Đại Đồng một năm, Thiên Thanh ba năm.

Nhâm Ngọ: Lương, Thiên Giám năm đầu, tháng hai đổi niên hiệu, hạ chiếu cho Đại Sĩ Bảo Công hoằng hóa, không ngăn cấm nữa

Ngụy: Cảnh Minh năm thứ 3

Quý Mùi: Thiên Giám năm thứ 2

Cảnh Minh năm thứ 4

 

* Pháp sư Vân Quang ở chùa Pháp Vân, Kiến Khang, lúc giảng kinh thường có hoa trời tuôn xuống như tuyết. Đế đốt sớ trong trận Hàm Quang để thỉnh Vân Quang Chí Công. Sáng hôm sau, Chí Công đến. Đế hạ chiếu gọi ngài là Đại sĩ Bảo Chí và nói: Dấu tích còn trong trần ai nhưng thần thức dạo chơi trong cõi minh tịch, nước chẳng nhận chìm, lửa chẳng đốt cháy, rắn cọp không thể tổn hại ngài được. Bàn về Phật lý thì từ Thanh văn trở lên, luận về kẻ ẩn thì từ độn tiên lên nữa, lẽ đâu có thể đem thế tục pháp, tình tầm thường mà nghi kỵ ngài chăng! Từ nay cho phép ngài mặc tình hoằng hóa.

* Từ Bi Sám Pháp: Lương Đế lúc còn làm Ung châu Thứ sử, phu nhân Hy thị là người tánh hay đố kỵ, sau khi chết, bà hóa thành con mãng xà to bò vào trong hậu cung, báo mộng cho Đế tìm cách cứu thoát mình. Đế đọc kinh Phật, chế Đạo Tràng Từ Bi Sám Pháp mười quyển thỉnh tăng sám lễ. Phu nhân thoát ác báo thiên sinh, từ trong không bà tạ ơn Đế rồi đi. Sám pháp ấy lưu hành ở đời, đó là Lương Hoàng Sám.

 

Giáp Thân: Thiên Giám năm thứ 3

Ngụy: Chánh Thỉ năm đầu

 

Ngày tám tháng tư, Lương Đế triệu tập đạo tục trong điện Trùng Vân bày tỏ ý nguyện cầu sám của mình. Ông tự tay soạn văn phát nguyện, phụng Phật Tam bảo, dựng chùa Quang Trạch ngay phủ đệ này, đúc tượng Phật lớn bằng vàng, đồng phụng thờ ở đây.

 

Ất Dậu: Lương, Thiên Giám năm thứ 4

Ngụy: Chánh Thỉ năm thứ 2

 

* Đại trai đàn Thủy lục ở Kim Sơn: Hồi ấy, Lương Đế nằm mộng thấy vị Tăng đến nói với mình: "Bốn loài chúng sinh trong sáu đường chịu đại khổ não, sao ông chẳng mở đại trai đàn Thủy Lục để cứu vớt chúng nó?" Đế tỉnh dậy, hỏi chư Sa-môn, Bảo Chí nói: " Cứ tìm kinh mà đọc thì ắt biết cách. " Đế lật kinh ra đọc chí thành rồi soạn ra nghi thức bạt độ, ba năm mới xong. Đêm ấy ông cầm nghi thức đứng trước đèn rồi bạch Phật: "Nếu lý trong nghi này hợp với phép tắc của Thánh nhân thì nguyện khi con lạy xong, đèn này tự sáng. Nếu nghi thức chưa tinh tường, thì đèn vẫn tắt như cũ". Nguyện xong ông lạy một lạy, quả nhiên đèn đuốc tự sáng. Đến ngày mười lăm tháng hai năm này, ông mở Đại trai đàn trong chùa Kim Sơn, Trấn Giang ngày nay. Đế ngồi dưới đàn tràng, tuyên chiếu thỉnh Luật sư Hựu đọc nguyện văn nghi thức.

Lễ bạt độ lợi lạc khắp hữu tình trong u minh. Nghi thức ấy đến nay chư Tăng vẫn duy trì.

 

Bính Tuất: Thiên Giám năm thứ năm, Lương Thái tử Thống mới năm tuổi nhưng đã đọc khắp Ngũ Kinh

Chánh Thỉ năm thứ 3

Đinh Hợi: Thiên Giám năm thứ 6

Chánh Thỉ năm thứ 4

 

Lương Đế nhờ thần lực của Bảo Chí thấy được nỗi khổ trong địa ngục, ông hỏi Bảo Chí dùng cách gì để cứu khổ ấy, Bảo Chí đáp: "Chỉ khi nghe được tiếng chuông, nỗi khổ chúng sinh mới được tạm nghỉ. " Thế rồi, ông hạ chiếu cho khắp tự viện trong nước đánh đại hồng chung phải thật chậm và lâu.

 

Mậu Tý: Thiên Giám năm thứ 7

Vĩnh Bình năm đầu

Kỷ Sửu: Thiên Giám năm thứ 8

Vĩnh Bình năm thứ 2

 

Ngụy: Ngụy Đế hạ chiếu thỉnh Tây Trúc Samôn Bồ-đề Lưu Chi (Hán dịch là Giác Hy) ở trong điện Tử Cực để dịch luận. Ngụy Đế giảng kinh Duy-ma trong điện Thức Càn. Lúc này triều Ngụy rất kính tín Phật giáo. Ở Lạc Dương, ngoài Sa-môn Trung Quốc ra, còn có hơn ba ngàn Sa-môn từ Tây Vực sang. Đế dựng riêng chùa Vĩnh Minh lập hơn ngàn phòng ốc để họ ở. Trong niên hiệu Diên Xương, các châu quận có đến một vạn ba ngàn ngôi chùa, hai trăm vạn Sa-môn.

 

Canh Dần: Thiên Giám năm thứ chín, Đế thỉnh Sa-môn Bảo Xướng Soạn Danh tăng truyện gồm 81 quyển

Ngụy: Vĩnh Bình năm thứ 3

 

Lương Đế dựng chùa Đại Ái Kính ở Chung Sơn, cúng dường cả ngàn tăng để cầu phước cho Thái tử Văn Hoàng Đế. Hiến Thái hậu dựng chùa Đại Trí Độ ở bờ Tây Thanh Khê để chư ni giảng đọc Kinh Luận trong bốn mùa.

 

Tân Mão: Thiên Giám năm thứ 10

Vĩnh Bình năm thứ 4

 

Lương Vũ Đế sai Hác Khiên v. v... sang Tây Trúc rước tượng Phật bằng Chiên-đàn. Vua xứ này mô phỏng tượng rồi khắc cho Khiên một pho. Năm này Khiên về Kiến Khang, Đế nghinh tượng an trí trong điện Thái cực, lập trai đàn độ Tăng, đại xá tử tội. Từ đó Vũ Đế ăn chay, đoạn nghiệp dâm.

 

Nhâm Thìn: Thiên Giám năm thứ 11

Diên Xương năm đầu

 

* Phó Đại Sĩ: Ngài sinh trưởng trong nhà Phó Tuyên Từ ở làng Song Lâm huyện Ô Nghĩa, Vụ châu, vào ngày tám tháng năm niên hiệu Kiến Vũ năm thứ tư đời Tề Minh Đế. Ngài tên là Hấp, tự Huyền Phong, hiệu Thiện Tuệ. Năm Nhâm Thìn này ngài tròn mười sáu tuổi. Vợ ngài họ Lưu, có hai người con là Phổ Kiến và Phổ Thành. Nhà Lương, niên hiệu Phổ Thông năm đầu, ngài hai mươi bốn tuổi, một lần nhân xách nước bên bờ đê Khể Đình, Tây Vực Sa-môn Tung Đầu-đà dẫn ngài xuống bên sông soi mặt, ngài thấy mình có hào quang bao phủ, đệ tử rất đông, nhân đó tâm tỉnh ngộ bèn lên ngọn Tung sơn vào nơi rừng rậm dựng am mà ở, lấy tên là Song Lâm, lấy hiệu là Song Lâm Thọ Hạ Đương Lai Giải Thoát Thiện Tuệ Đại Sĩ. Ngài trồng rau dưa, làm thuê cho người khác, ban đêm về cốc cùng vợ là Diệu Quang luận bàn Phật pháp, cứ thế khổ hạnh suốt bảy năm. Đến năm Đại Thông năm thứ hai, đệ tử mỗi ngày một đông, Đại sĩ muốn giáo hóa chúng sinh, nên giáo hóa vợ con bán mình để mở đại hội. Niên hiệu Trung Đại Thông năm thứ sáu, Đại Sĩ sai đệ tử Phó Vãng vào cung dâng thư. Lương Vũ Đế hạ chiếu mời ngài vào. Tháng mười hai nhuần, ngài đến Kiến Khang, Đế nghe Đại Sĩ là người thần dị, bèn ra lệnh khóa hết cửa. Đại Sĩ dùng chày gỗ gõ vào một cửa, các cửa khác đều mở toang ra, vào thẳng Thiện Ngôn điện. Đế hỏi:

-Thầy thờ thầy nào?

Ngài đáp:

Theo người chẳng có gì để theo, thầy chẳng có gì làm thầy, thờ chẳng có gì để thờ.

Đế đãi cơm ngài xong, lên chùa Định Lâm ở Chung sơn hạ chiếu chu cấp cho ngài. Đại Đồng năm thứ năm, Đại sĩ lại vào kinh đô. Tháng ba Đế triệu ngài vào điện Thọ Quang cùng luận chân đế. Đại sĩ nói: "Dứt mà không diệt". Đế lại thỉnh ngài giảng kinh Kim Cang, Đại sĩ vỗ bàn một cái rồi đứng dậy. Đế không hiểu, thỉnh giảng tiếp. Đại sĩ liền đập bàn rồi thăng tòa xướng bốn mươi chín bài tụng rồi đi. Những bài tụng ấy nay vẫn còn lưu hành.

Một hôm Đại sĩ đội mũ, đắp y, mang giày. Đế hỏi: Ông là tăng ư? Ngài lấy tay chỉ lên mũ. Đế hỏi: Ông là đạo ư? Ngài lấy tay chỉ xuống giày. Đế hỏi: Ông là tục ư? Ngài lấy tay chỉ nạp y rồi cáo từ về núi. Đại Đồng thứ mười, Đại sĩ mở Đại pháp hội nhằm sám hối tội khổ cho hết thảy chúng sinh, mau được giải thoát. Đại sĩ cho rằng kinh Phật quá nhiều, phần đông khó ai xem hết, nên dựng một cái khám to, chính giữa là một trụ lớn, mở rộng tám phía (nhà Bát Giác) rồi chất đầy kinh trong đó, lấy tên là Luân Tạng. Đại Sĩ lập nguyện: Người lên cửa tạng ta, đời đời kiếp kiếp không mất thân người, người phát tâm Bồ-đề hay xô ngã Luân Tạng thì công đức ngang bằng với người trì tụng kinh. Ngày nay trong Luân tạng dựng tượng Đại sĩ khởi nguyên từ đó.

Tháng tư niên hiệu Đại Kiến năm đầu, đời Trần Tuyên Đế, Đại Sĩ dặn dò hai Pháp sư Phổ Kiến, Phổ Thành: Ta từ cõi trời năm thứ tư xuống đây vì độ chúng sinh, các ông phải cẩn thận ba nghiệp, siêng tu lục độ, thực hành pháp sám hối, khỏi đạo trong tam đồ. Đến ngày hai mươi bốn, Đại sĩ nhập diệt, thọ bảy mươi ba tuổi, trà-tỳ thâu xá-lợi an táng ở Song Lâm, ngày nay thành Đại đạo tràng. Những kệ ngữ của ngài đều lưu hành ở đời. Ngài từng soạn bài minh nói về Tâm Vương. Trong ấy ghi:

Quán tâm không vương
Mầu nhiệm khó lường
Không danh không tướng
Có đại thần lực.
Hay diệt ngàn ương
Thành tựu muôn đức
Thể tánh tuy không
Hay bày phép tắc.
Quán thì không hình
Gọi thì không tiếng
Là tướng đại pháp
Tâm giới truyền kinh.
Vị mặn trong nước
Màu xanh trong keo
Nhất định là có
Nhưng chẳng thấy hình.
Tâm vương cũng vậy
Ở ngay trong thân
Vào ra nơi mặt
Ứng vật tùy hình.
Tự tại không ngại
Làm nên mọi thứ
Rõ gốc tâm thức
Biết tâm thấy Phật.
Tâm này là Phật
Phật này là tâm
Niệm niệm Phật tâm
Phật tâm niệm Phật.
Muốn tâm thành tựu
Giới tâm tự luật
Tịnh luật tịnh tâm
Tức tâm là Phật.
Ngoài tâm vương này
Không có Phật khác
Muốn cầu thành Phật
Chớ nhiễm một vật.
Tâm tánh tuy không
Thể tham sân thật
Vào pháp môn này
Ngồi ngay thành Phật.
Đến bờ kia rồi
Được Ba-la-mật
Chân sĩ mộ đạo
Tự quán thân mình.
Biết Phật ở trong
Chẳng tìm bên ngoài.
Ngay tâm là Phật
Ngay Phật là tâm
Tâm sáng biết Phật
Biết rõ thức tâm.
Lìa tâm chẳng Phật
Lìa Phật phi tâm
Phi Phật chẳng lường
Chẳng gì gánh vác.
Chấp không trệ tịch
Vì thế trầm luân
Chư Phật Bồ tát
Tỏ nên an tâm.
Đại sĩ sáng tâm
Ngộ huyền âm này
Tánh thân tâm diệu
Dùng không thể đổi.
Cho nên người trí
Buông tâm tự tại
Chớ nói tâm vương
Rỗng không thể tánh.
Hay khiến sắc thân
Tọa tà làm chánh
Chẳng có chẳng không
Ẩn hiển bất định.
Tâm tánh tuy không
Hay tạo phàm Thánh
Vì thế khuyên nhau
Gắng mà giữ gìn.
Sát-na tạo tác
Trở lại trầm luân
Thanh tịnh tâm trí
Chẳng khác vàng ròng.
Pháp tạng Bát nhã
Đều trong thân tâm
Pháp tạng vô vi
Không sâu không cạn.
Chư Phật Bồ tát
Rõ bản tâm này
Người có duyên gặp
Chẳng xưa, nay, sau.

 

Quý Tỵ: Lương, Thiên Giám năm thứ 12

Ngụy: Diên Xương năm thứ 2

Giáp Ngọ: Thiên Giám năm thứ 13

Diên Xương năm thứ 3

Ất Mùi: Thiên Giám năm thứ 14

Ngụy: Diên Xương năm thứ tư, tháng giêng Đế mất, Thái tử Hủ lên ngôi mới sáu tuổi, mẹ tôn Hồ thị làm Hoàng Thái hậu lâm triều thính chính

 

* Tụng kinh kéo dài tuổi thọ: Pháp sư Thích Trí Tạng hồi ấy vân du đến Kiến Khang, Lương Đế cho triệu kiến rất kính lễ ngài. Lương Vũ Đế lập chùa tháp Khai Thiện cho Bảo Chí và mời ngài đến đó ở. Trí Tạng gặp dị nhân nói với mình: "Thầy chỉ thọ ba mươi mốt tuổi. " Tạng bèn dốc tâm tu tập, chuyên tụng kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật. Đến năm phải chết, ngài lại nghe trong hư không có tiếng nói: "Nhờ sức của Bát-nhã, Thầy thọ gấp đôi. " Quả nhiên Trí Tạng thọ sáu mươi hai tuổi. Lương Vũ Đế hạ chiếu an táng ngài bên trái chùa Bảo Công trên Độc Long Sơn. Từ đó, đạo tục ở Giang Tả đều trì tụng kinh Kim Cang Bát-nhã.

 

Bính Thân: Thiên Giám năm thứ 15

Ngụy: Túc Tông Hiếu Minh Đế Hủ con năm thứ hai của Tuyên Vũ Đế lên ngôi. Hy Bình năm đầu

 

Ngụy: Thế Tông Tuyên Vũ Đế dựng chùa Diệu Quang chưa xong, năm này Hồ Thái hậu dựng chùa Vĩnh Ninh, cả hai chùa đều ở bên cung. Thái hậu lại dựng chùa Thạch Quật ở Y Khuyết Khẩu, đúc mười tượng vàng cao một trượng sáu, mười tượng cao bằng người thường, hai tượng bằng ngọc, lập tháp chín tầng, cao chín mươi trượng, trên có mái cao mười trượng đêm khuya tiếng kinh tiếng mõ vang xa đến mười dặm. Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, tháp miếu hưng thịnh chưa lúc nào bằng lúc này.

* Tượng Đá: Tượng Phật bằng đá cao mười trượng ở chùa Ẩn Nhạc, Việt châu nhà Lương. Hồi ấy trong năm Kiến Vũ đời Tề Minh Đế, Tăng, Hộ phát thảo làm, đục hoàn thành khuôn mặt thì ngài mất. Kế đó có Tăng Thục làm tiếp nhưng vẫn chưa hoàn thành. Đến năm này, Kiến An Vương bỏ vàng ra ủy thác cho Tăng Hựu hoàn thành pho tượng.

 

Đinh Dậu: Thiên Giám năm thứ 16

Ngụy: Hy Bình năm thứ 2

 

* Phật Danh: Lương Vũ Đế hạ chiếu thỉnh Pháp sư Tăng Thiệu soạn Chúng Kinh Mục Lục bốn quyển, thỉnh Sa-môn Bảo Xướng soạn Tỳ-kheo ni truyện bốn quyển, lại soạn Chúng Kinh Phật Danh ba quyển.

Tháng ba Lương Vũ Đế hạ chiếu cấm thợ may cuốn vải có hoa văn gấm, cấm cắt đứt hình người, thú, chim muông. Vì làm vậy là trái với đạo nhân thứ.

Cúng chay: Tháng tư Lương Vũ Đế hạ chiếu: Tông miếu dùng sinh vật cúng tế càng làm lụy thêm oan linh, nên dùng bột nặn hình mà cúng. Bát tòa trong triều đều bàn lấy đại bô (thịt luộc chín, nêm) để thay thế Nhất Nguyên Đại Vũ. Tháng mười Đế hạ chiếu cho Tông miếu còn dùng thịt chín cúng tế là không được phải đổi luôn, thế là dùng đại bỉnh (bánh bột) thay thế đại bô, còn các thứ khác đều dùng rau quả. Ngày nay ai muốn luận về ăn chay ăn mặn đều căn cứ ở đây.

 

Mậu Tuất: Thiên Giám năm thứ 17

Thần Quy năm đầu

 

* Hoằng Minh Tập: Nhà Lương, Luật sư Tăng Hựu hoằng hóa Luật tạng từ đời Tề, đến lúc này Đế rất cung kính ngài. Ngài cao tuổi chân bị bệnh, nên Đế sai người dìu ngài vào trong điện truyền giới cho Lục cung. Ngài tịch ngày hai mươi sáu tháng năm, thọ bảy mươi bốn tuổi. Những tác phẩm do ngài soạn gồm: Tam Tạng Ký, Pháp Uyển

Ký, Thế Giới Ký, Thích-ca Phổ, Hoằng Minh Tập v. v... đều lưu hành ở đời.

 

Kỷ Hợi: Thiên Giám năm thứ 18

Thần Quy năm thứ 2

 

* Biệt hiệu của Pháp sư Tuệ Ước: Lương Đế nói: Đạo nhờ người hoằng hóa, lý không phải trao suông, giáo hóa phải tận tâm, dân tin mới đứng vững được. Pháp sư Tuệ Ước, đức vượt người đời, đạo trùm U Minh. Ngày tám tháng tư thỉnh Sư vào điện Đẳng Giác để truyền Bồ-tát giới, đồng thời mở vô giá pháp hội.

Từ khi thọ giới xong, Vũ Đế ngày ăn một bữa, chỉ ăn rau dưa, nơi ông ở ngủ thanh tịnh như Samôn. Năm Phổ Thông năm thứ tư, Đế ra lệnh cho mọi người không được gọi đích danh của ngài, mà vua ban cho một biệt hiệu là Trí Giả. Chư tăng có biệt hiệu bắt đầu từ ngài. Ngày sáu tháng chín niên hiệu Đại Đồng năm đầu, Trí Giả Tuệ Ước Quốc Sư thị tịch thọ tám mươi bốn tuổi, tăng lạp sáu mươi ba hạ. Đế mặc đồ tang đến điếu, khóc thương, không thiết triều bảy ngày. Ngày hai mươi chín tháng đó, Đế hạ chiếu an táng ngài bên trái mộ Bảo Chí ở Độc Long Sơn. Hơn bốn vạn tám ngàn người theo ngài thọ giới đã mặc tang phục khóc than đưa tiễn. Năm Đại Đồng năm thứ hai, Đế hạ chiếu đổi nơi ngài ở là làng Trúc Sơn thành làng Trí Giả.

* Cao Tăng Truyện: Lương Vũ Đế sai ngự sử Bùi Tử Dã soạn Danh Tăng Truyện hai mươi quyển. Thích Tuệ Hạo ở Cối Kê soạn Cao Tăng Truyện mười bốn quyển, bắt đầu từ năm Vĩnh Bình nhà Hán kết thúc trong năm này cả thảy hơn bốn trăm năm mươi năm, có hai trăm năm mươi bảy người, thêm vào đó có thêm hai trăm người nữa, được nhập Đại Tạng lưu hành.

+ Ngụy: Hồ Thái hậu ra lệnh cho các châu, mỗi châu dựng tháp năm tầng, các vương hầu quý tộc mỗi người phải dựng chùa ở Lạc Dương. Thái hậu rất siêng năng lập hội trai cúng thí.

 

Canh Tý: Lương, Phổ Thông năm đầu

Chánh Quang năm đầu

 

Ngụy Đế: Đế đội mũ miện, thỉnh Sa-môn Đàm Vô Tối, Đạo sĩ Khương Bân giảng đạo trong cung.

Tổ năm thứ 28: Tây Thiên, Sơ tổ của Đông bộ: Bồ-đề Đạt-ma.

Ngài thuộc dòng họ Sát-đế-lợi, con năm thứ ba của quốc vương Hương Chí người Nam Thiên Trúc. Ngài vốn tên là Bồ-đề-đa-la. Tổ năm thứ hai mươi bảy Bát-nhã Đa-la đến nước này, được phụ vương Hương Chí cúng dường một hạt châu. Tổ đem hạt châu này để nghiệm trí của ngài. Tổ bảo ngài: Đối với pháp, ông đã được thông lượng, phàm Đạt-ma có nghĩa là thông đại, nên đặt tên ông là Bồ-đề Đạt-ma.

Ngài hỏi Tổ:

Sau khi đắc pháp, con sẽ đến nước nào làm Phật sự? Tổ đáp: Tuy ông đắc pháp nhưng chưa thể đi xa, nên ở lại Nam Thiên đợi ta diệt độ sáu mươi bảy năm rồi hãy qua nước Chấn Đán mở đại pháp lạc, người được Bồ-đề thật không kể hết.

Thế rồi ngài theo Tổ thọ học giáo nghĩa, chuyên tâm hầu hạ suốt bốn mươi năm. Sau khi Tổ quy tịch, ngài hoằng hóa ở nước này. Bấy giờ có hai Đại sư, một người tên Phật Đại Tiên, người kia tên Phật Đại Thắng Đa đều theo học thiền quán Tiểu thừa với Phật-đà Bạt-đà. Phật-đà Tiên đã gặp Tôn giả Bát-nhã-đa-la, bỏ Tiểu thừa quy hướng Đại thừa, cùng hoằng hóa với Đạt-ma, được gọi là "Hai cửa Cam lồ. " Nhưng Phật Đại Thắng Đa lại chia đồ chúng làm sáu tông là Hữu tướng tông, Vô tướng tông, Định tuệ tông, Giới hạnh tông, Vô đắc tông, Tịch tĩnh tông. Mỗi tông đều đề cao kiến giải của mình, tự xiển dương giáo nghĩa của mình. Đạtma than sáu tông ấy rơi vào tà kiến, lần lượt đến từng tông khai hóa họ. Sáu chúng tỏ ngộ, phát nguyện quy y. Bấy giờ quốc vương Dị Kiến vốn là cháu ngài, ban đầu tin theo ngoại đạo, Đạt-ma giáo hóa khiến quốc vương cải tà quy chánh. Sau đó, ngài nghĩ nhân duyên qua Chấn Đán hoằng hóa đã đến, nên từ biệt quốc vương. Quốc vương sắm thuyền to, chất đầy trân bảo, thuyền vượt biển khơi. Qua ba lần chịu nóng chịu rét thuyền mới đến Nam Hải. Bấy giờ nhằm ngày hai mươi mốt tháng chín niên hiệu Phổ Thông năm đầu, nhà Lương. Quảng châu Thứ sử Tiêu Ngang đón tiếp ngài và tâu về triều. Lương Vũ Đế xem tấu biểu xong sai sứ đến thỉnh. Ngày một tháng mười năm sau, ngài đến Kiến Khang, Đế hỏi ngài:

Từ khi lên ngôi đến nay Trẫm dựng chùa, chép kinh, đông không kể hết, vậy có công đức gì?

Ngài đáp:

Đây chỉ là tiểu quả trời người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không thật.

Đế hỏi:

Thế nào là công đức chân thật? Ngài đáp:

Tịnh trí diệu viên, thể tự rỗng rang vắng lặng.

- Thế nào là Thánh đế Đệ nhất nghĩa?

- Rỗng rang không Thánh.

- Đối diện Trẫm là ai?

- Không biết.

Đế không lãnh ngộ, ngài biết căn cơ không khế hợp, nên ngày mười chín tháng đó, ngài lén đến Giang bắc, ngày hai mươi ba tháng mười một thì đến Lạc Dương, nhằm niên hiệu Chánh Quang năm thứ hai đời Ngụy Hiếu Minh Đế, ngụ ở chùa Thiếu lâm trên Tung Sơn, cả ngày ngồi quay mặt vào vách. Ngụy Minh Đế ba lần hạ chiếu thỉnh ngài nhưng ngài không đến. Đế sai người mang tặng casa, ngài cũng không nhận, sứ đi đi về về đến ba lần, Đế ép ngài nhận.

Bấy giờ có tăng Thần Quang là người đọc khắp sách sử, giỏi luận lý mầu, nghe ngài ở đây liền đến tham học. Đêm chín tháng mười hai năm đó, tuyết phủ đầy trời, Quang đứng mãi trước sân, đến sáng tuyết ngập quá gối. Ngài thấy vậy xót thương hỏi: Ông đứng mãi trong tuyết như vậy là muốn cầu việc gì?

Quang khóc thưa:

"Mong Hòa thượng Từ bi mở cửa Cam lồ độ khắp chúng sinh" Thần Quang đã chặt cánh tay mình tỏ ý tha thiết cầu pháp. Ngài nhân đó đổi tên Thần Quang thành Tuệ Khả.

Khả thưa:

Tâm con chưa an, xin thầy an tâm cho.

-Đem tâm ra đây ta an cho! Khả im lặng giây lâu rồi thưa: Con tìm hoài nhưng chẳng được. Ngài nói:

Vậy là ta đã an tâm cho ông rồi đó!

Thế rồi ngài giảng nói sơ lược bốn hạnh để vào Đại thừa cho Tuệ Khả. Ngài nói: "Con đường vào đạo có nhiều lối, nhưng tóm lại không ngoài hai thứ là Lý nhập và Hạnh nhập.

Lý nhập nghĩa là nhờ giáo ngộ tông, tin chắc hàm linh đồng một chân tánh, chỉ vì bị khách trần vọng tưởng che khuất nên không thể hiển rõ được. Nếu bỏ vọng về chân, vắng lặng như tường vách, không mình không người, phàm thánh như nhau, trụ vững không dời, lại không chạy theo văn giáo. Đó là ngầm hợp với diệu lý, không có phân biệt vắng lặng vô vi, đó là Lý nhập.

Hạnh nhập nghĩa là: Hạnh có bốn thứ:

1. Báo oán hạnh: Phàm người tu tập nếu lúc chịu khổ phải nghĩ rằng trong vô lượng kiếp về trước ta bỏ gốc theo ngọn, trầm luân trong các nẻo, tạo bao oán ghét, gây hại vô cùng. Ngày nay tuy không phạm cấm giới nhưng vẫn chịu khổ là do túc nghiệp chín muồi, không phải trời người có thể thấy được, cam tâm nhẫn chịu, không chút oán hận. Lúc khởi tâm quán chiếu như thế, tương ứng với Lý, nhờ thấu hiểu oán mà tiến tu nên gọi là báo oán hạnh.

2. Tùy duyên hạnh: Chúng sinh vô ngã đều do duyên nghiệp đẩy đưa khổ vui đều nhận, đều từ duyên sinh. Nếu được phước báo thù thắng, những việc vinh dự, đều do nhân trong quá khứ chiêu cảm, duyên hết lại trở về không, có gì vui đâu! Được mất tùy duyên, tâm không thêm bớt, gió vui chẳng động, thầm hợp với đạo, đó là Tùy duyên hạnh.

3. Vô sở cầu hạnh: Người thế tục u mê, cứ mãi tham đắm, người trí ngộ được lẽ chân, an tâm vô vị, vạn hữu đều không, chẳng chút hy vọng, ở mãi trong ba cõi giống như nhà lửa, có thân thì có khổ, ai được yên đâu! Thấu được điều này thì dứt niệm không cầu cho nên kinh ghi: "Có cầu đến khổ, không cầu mới vui", bởi vậy không cầu mới thật là đạo hạnh, nên gọi là vô sở cầu hạnh.

4. Xứng pháp hạnh: Lấy lý của tánh tịnh làm pháp, lý này các tướng đều không, không nhiễm không trước, không đây không kia. Kinh ghi: "Pháp không có ngã vì lìa ngã cấu. " Người trí tin hiểu lý này, phải nên xứng pháp mà hành. Thể của pháp không tham tiếc, nên đối với thân mạng, tiền của thực hành xả thí ba-la-mật, tâm không hề tham tiếc, thấu tỏ tam luân vốn không (người bố thí, người nhận, vật bố thí) không nương không chấp, chỉ vì vô cấu xứng hóa chúng sinh chẳng hề chấp tướng. Đó là hạnh của mình mà cũng chính là làm lợi ích cho người khác trang nghiêm đạo Bồ-đề. Bố thí đã như vậy thì năm độ còn lại cũng thế. Vì trừ vọng tưởng, tu hành Lục độ nhưng kỳ thực chẳng làm gì cả, đó gọi là Xứng pháp hạnh.

Sau đó, ngài lại muốn về lại Tây Trúc nên bảo với đồ chúng:

- Ta sắp đi rồi, các ông mỗi người hãy trình sở đắc ta xem!

Khi đó các đệ tử thân cận đều trình chỗ thấy của mình, sau cùng Tuệ Khả bước ra đảnh lễ ba lạy rồi lui về đứng im chẳng nói lời nào. Ngài nhìn Tuệ Khả và nói:

- Xưa Như Lai đem chánh pháp nhãn phó chúc cho Đại sĩ Ca-diếp truyền trao mãi đến ta, nay ta đem phó chúc cho ông, ông gắng hộ trì. Ta cũng trao cho ông ca-sa để làm pháp tín, mỗi vật có một tác dụng ông cần phải biết.

Tuệ Khả thưa: Xin thầy chỉ dạy. Ngài nói:

Trong truyền pháp ấn để khế chứng với tâm, ngoài trao ca-sa để định ra tông chỉ. Ta lo đời sau khởi tâm nghi ngờ bảo ta là người Tây Thiên, ông là người Trung Quốc dựa vào đâu mà đắc pháp, lấy gì làm bằng chứng. Nay ông nhận y pháp này, nếu ngày sau gặp trở ngại ấy thì chỉ cần đưa y và bài kệ truyền pháp của ta ra để làm minh chứng, lúc ấy chẳng còn trở ngại gì. Sau khi ta diệt độ hai trăm năm thì không truyền y nữa, vì lúc đó pháp đã lan rộng khắp nơi, người thấu đạo thì nhiều, người thông lý lại ít, có đến hơn ngàn vạn người thầm hợp ngầm chứng ông phải xiển dương chớ khinh người chưa ngộ, chỉ một niệm hồi tâm là đồng với tánh giác, nghe ta nói kệ:

Ta vốn đến cõi này
Truyền pháp cứu kẻ mê
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.

Ngài nói tiếp: Bộ Lăng-già bốn quyển này là pháp yếu bậc nhất mà Như Lai diễn nói, có thể lấy đây khai thị cho hành giả ngộ nhập, nay ta cũng giao phó cho ông. Ta rời Nam Ấn qua đây mục đích là tìm người phó pháp, trong lúc chưa khế hợp, ta giả như người ngu người vụng, nay tìm được ông để truyền trao là ta đã mãn nguyện.

Thế rồi ngài dẫn đồ chúng qua Vũ Môn, trụ ở chùa Thiên Thánh ba ngày. Thái thú thành này là Dương Huyễn Chi hỏi ngài:

- Thầy kế thừa làm Tổ ở năm xứ Tây Thiên, vậy Tổ như thế nào?

Ngài đáp:

Rõ Phật tâm tông, hành giải tương ứng thì gọi là Tổ.

- Ngoài ra thì thế nào?

- Phải thấu tâm người, biết khắp xưa nay, chẳng chán có không, chẳng chấp thủ pháp, chẳng hiền chẳng ngu, chẳng mê chẳng ngộ, nếu hiểu được như vậy thì gọi là Tổ.

- Đệ tử quy y Tam bảo cũng nhiều năm rồi, vừa nghe Thầy nói mờ mịt chẳng hiểu, xin Thầy từ bi chỉ cho tông chỉ.

Ngài biết Thái thú khẩn cầu tha thiết, nên nói bài kệ:

Cũng đừng thấy ác mà sinh ghét
Cũng đừng thấy thiện mà siêng làm
Lại đừng bỏ trí mà gần ngu
Cũng đừng bỏ mê mà đến ngộ.
Đạt đạo lớn chừ quá lượng
Thông Phật tâm chừ siêu xuất
Chẳng cùng phàm thánh đồng cõi
Siêu xuất thì gọi là Tổ.

Huyễn Chi nghe bài kệ vui mừng không xiết thưa: Xin thầy ở lâu nơi đời giáo hóa quần sinh.

Ngài nói:

Ta sắp đi, không thể ở lâu được.

Huyễn Chi nghe vậy lạy tạ lui về. Ngài an nhiên thị tịch. Lúc Ngụy ấu chủ Lưu Dụ lên ngôi, Hiếu Trang Đế bị phế chính là ngày năm tháng mười niên hiệu Đại Thông năm thứ hai, nhà Lương. Ngày hai mươi tám tháng mười hai năm đó, ngài được an táng ở núi Hùng Nhĩ, Tung Châu, Lạc Dương tháp dựng ở chùa Định Lâm. Ngụy báo tin ngài tịch cho Lương, Lương Vũ Đế liền ban gấm quý và triệu hết vương tôn tông tộc tế lễ cúng dường ngài. Thái tử soạn điếu văn, trong ấy ghi: "Lớn thay! Đại sư đứng đầu trong hàng Thánh, nhận lãnh trí ấn của Như Lai, nương lục thông mà qua biển, vận bi trí ở đất Phạm, cứu tai nguy ở đất Hoa. "

Ba năm sau, Ngụy sứ Tống Vân phụng chiếu đi sứ Tây Vực về, gặp Tổ nơi ngọn Thông Lãnh, tay quảy chiếc dép, một mình đi thoăn thoắt, Vân hỏi đi đâu, Tổ đáp: "Về Tây Thiên". Vân về triều thuật lại mọi việc, môn nhân mở tháp, thấy quan quách trống không, chỉ còn lại một chiếc hài. Đế hạ chiếu thỉnh chiếc hài ấy về an trí chùa Thiếu lâm mà cúng dường. Lương Đế Vũ nghe Tổ thị tịch thần dị như vậy, đích thân soạn văn bia. Đến thời Hoàng Đế Đường Đại Tông, vua ban ngài thụy Viên Giác Đại Sư, tháp hiệu Không Quán.

 

Tân Sửu: Phổ Thông năm thứ hai, tháng chín Đế dựng chùa Đồng Thái

Ngụy: Chánh Quang năm thứ hai, Đế dựng chùa Đại giác ở Nghiệp Đô

Nhâm Dần: Phổ Thông năm thứ 3

Chánh Quang năm thứ ba, ban hành lịch Chánh Quang

 

Ngụy: Năm Bính Thân tức Bình Hy năm đầu, Hồ Thái hậu sai Tống Vân dẫn Tỳ-kheo Tuệ Sinh sang Tây Vực tìm những bộ kinh mà trong nước chưa có. Từ Lạc Dương, Tuệ Sinh đi về hướng Tây khoảng bốn ngàn dặm, đến Xích Lĩnh là ra khỏi nước Ngụy. Lại đi về Tây khoảng chừng ấy dặm thì đến nước Càn-la rồi trở về, tìm được một trăm bảy mươi bộ kinh. Tháng hai năm này Tuệ Sinh về đến Lạc Dương. Nước Ngụy có tất cả bốn trăm mươi lăm bộ một ngàn chín trăm mười chín quyển.

 

Quý Mão: Phổ Thông năm thứ 4

Chánh Quang năm thứ 4

Giáp Thìn: Phổ Thông năm thứ 5

Chánh Quang năm thứ 5

Ất Tỵ: Phổ Thông năm thứ 6

Hiếu Xương năm đầu

Bính Ngọ: Phổ Thông năm thứ 7

Hiếu Xương năm thứ 2

 

Lương: Chiêu Minh Thái tử Thống dựng điện Tuệ Nghĩa ở Đông Cung, mời danh tăng khắp nước về đó. Đế ban tặng Pháp sư Tuệ Siêu làm Thọ Quang Học Sĩ.

 

Đinh Mùi: Lương, Đại Thông năm đầu, Đế xây xong chùa Đồng Thái

Ngụy: Hiếu Xương năm thứ ba, Hiếu Xương năm thứ tư, tháng ba Đế bị giết, đổi niên hiệu Vĩnh An

Mậu Thân: Đại Thông năm thứ 2

Ngụy: Kính Tông Hiếu Trang Đế Tử Du, Vĩnh An năm đầu

 

Ngụy: Tháng giêng năm Mậu Thân, Đế ghét bọn Trịnh Nghiễm, Từ Hột nên ngầm hạ chiếu bảo Nhĩ Chu Vinh đem binh vào thành. Vinh dùng Cao Hoan làm tiên phong, dẫn binh đến Thượng Đảng, Đế lại hạ chiếu bảo dừng binh Trịnh Nghiễm, Từ Hột sợ họa vào thân nên bàn mưu chuốc độc Đế. Tháng ba Đế chết thảm. Thái hậu lập Hoàng nữ làm Đế, rồi hạ chiếu xưng là Thật Hoàng nữ, cải lập Cố Lâm Thao Vương Bảo Huy thế tử Lưu, lúc này mới ba tuổi. Nhĩ Chu Vinh nghe vậy nổi giận bảo Nguyên Thiên Mục: "Chúa Thượng lên ngôi mười chín tuổi, trong nước vẫn còn cho là ấu quân, huống gì nay lại đưa một đứa trẻ chưa biết nói lên làm Hoàng Đế, muốn mong trị quốc dân an mà được chăng!" Tháng ba Nhĩ Chu Vinh, Nguyên Thiên Mục nghênh con của Bành Thành Tuyên Vũ Vương là Trường Lạc Vương Tử Du lên ngôi Hoàng Đế ở Hà kiều, đó là Kính Tông, đổi niên hiệu Vĩnh An. Vinh sai tay chân giết Thái hậu và Ấu chúa ở Hà Âm. Nhĩ Chu là họ Phức, tiên tổ dòng họ này là người Thái thuộc bộ lạc Khế Hồ, vốn nhiều đời làm Tù Soái, cư ngụ tại sông Nhĩ Chu, nhân đó lấy họ là Nhĩ Chu.

 

Kỷ Dậu: Lương: Trung Đại Thông năm đầu

Ngụy: Vĩnh An năm thứ hai, tháng bảy Đế mới vào cung

Canh Tuất: Trung Đại Thông năm thứ 2

Ngụy: Tháng mười, lập Trường Quảng Vương, đổi niên hiệu Kiến Minh, tháng mười hai Nhĩ Châu Triệu giết Trang Đế

 

Lương: ngày hai mươi bảy tháng ba, Pháp sư Pháp Vân thị tịch thọ sáu mươi ba tuổi, hai cung gào khóc thảm thương. Đế hạ chiếu cấp cho ngài cỗ quan của hoàng thất, quàng ở Đông Viên, mọi nghi thức an táng đều theo lễ nghi vương phủ. Đế hạ chiếu an táng ngài ở cạnh chùa Định Lâm, lập bài minh ghi lại hành trạng.

Lương: Tháng chín Đế xa giá đến chùa Đồng Thái mở pháp hội Vô Giá bố thí thanh tịnh, quần thần tác bạch Tam bảo, xong việc thỉnh Đế hồi cung.

Ngụy: Hiếu Trang Đế ngoài bị Nhĩ Chu Vinh vây ép tức tối ra, lại gặp phải nạn ở Hà Âm, nên bàn mưu giết Vinh. Tháng 8, Chu Vinh và Nguyên Thiên Mục vào triều, Đế đâm chết Vinh, bọn Thiên Mục cũng vậy. Trong triều ngoài đường muôn dân reo vui náo động cả Lạc Dương, trăm quan cùng vào chúc mừng. Tháng mười, Phần Dương Thứ sử Chu Triệu nghe tin anh mình bị giết, từ phần Dương thống lãnh kỵ binh chiếm cứ Tấn Dương. Nhĩ Chu Thế Long Triệu cùng suy tôn Đại Nguyên Thái thú Trường Quảng Vương Hoa lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Kiến Minh. Tháng mười hai, Triệu cho khinh binh đi đường tắt lén đến gõ cửa cung và bắt Trang Đế đưa về Tấn Dương thắt cổ ông ấy!

 

Tân Hợi: Trung Đại Thông năm thứ ba, tháng tư Thái tử Thống chết

Ngụy: Tiết Mẫn Đế Cung, Phổ Thái năm đầu, An Định Vương Lãng, Trung Hưng năm đầu

 

Ngụy: Tháng hai, Quảng Lăng Vương Cung là người hiếu học, có khí tiết. Quan Tây Đại Hành Đài Tích Hiếu Thông khuyên Nhĩ Chu Thế Long lập ông. Lúc này Thế Long trấn ở Lạc Dương mới lấy mệnh của Trường Quảng Vương nhường ngôi cho Quảng Lăng Vương Cung, vốn là cháu Hiến Văn Đế đó là Tiết Mẫn Đế, đổi niên hiệu Phổ Thái, phong Trường Quảng Vương Hoa làm Đông Hải Vương. Cao Hoan khởi binh đánh Nhĩ Chu Triệu, vì Triệu giết Trang Đế. Tôn Đằng nói với Hoan: Nay triều đình xa cách, hiệu lệnh chẳng ai làm theo, không có quyền hành mà tự lập thì các tướng sẽ bỏ đi". Hoan bèn lập Bột Hải Thái thú An Định Vương Nguyên Lãng lên ngôi Hoàng Đế ở Tín Đô (nay là Trấn Định lộ, Ký châu), đổi niên hiệu Trung Hưng, Hoan làm thị trung Thừa Tướng, Đô đốc trung ngoại chư quân sự. Hoan cho rằng An Định Vương Nguyên Lãng không thân thuộc với mình nên sai Bộc Xạ Ngụy Lan Căn đi phủ dụ Lạc Dương, xem Tiết Mẫn Đế là người như thế nào, vì Hoan muốn lập ông ấy. Lan cho rằng Tiết Mẫn thông thái cao minh hơn, sợ rằng ngày sau khó chế phục được, nhân đó cùng anh em Cao Càn là Thôi Lăng cùng Hoan phế truất, cầm tù Tiết Mẫn Đế ở Sùng Huấn Phật tự, lập cháu Hiến Trang Vương, con Quảng Bình Vương là Bình Dương Vương Tu, đó là Hiếu Vũ Đế, sai An Định Vương Nguyên Lãng soạn chiếu và nhường ngôi. Hoan chuốc độc Tiết Mẫn Đế ở Hạ Môn Tỉnh, dùng lễ đặc biệt để an táng, đồng thời giết luôn Nguyên Lãng. Cao Hoan là người Tín Đô. Ban đầu từ Hiếu Minh Đế năm Hiếu Xương năm thứ ba, Lưu Bí tiến cử ông với thảo lỗ đại Đô đốc Nhĩ Chu Vinh. Vinh rất tin dùng ông. Hồi ấy, bộ chúng của Cát Vinh lưu nhập với người Tịnh Dĩnh đến hơn hai mươi vạn, do Khế Hồ Lăng bạo ngược, họ chẳng mong sống, mưu loạn không dừng. Nhĩ Chu Triệu rất lo, hỏi Cao Hoan phải làm thế nào, Hoan đáp: Nên chọn kẻ tâm phúc của Vương sai thống lãnh bọn họ. Triệu bèn giao cả bọn này cho Hoan. Hoan Nghĩ, Triệu nhân lúc say nói, sợ tỉnh ra sẽ hối hận, nên xuất tuyên ngôn nói nhận sự ủy thác mà trấn binh, mọi người nên tụ tập ở Phần Đông nhận hiệu lệnh. Quân sĩ ở Kiến Nha, Tứ Xuyên vốn ghét Triệu nên tất cả đều theo về với Hoan, và cùng Hoan đánh Triệu. Vĩnh

Hy năm thứ hai, Triệu chạy trốn vào rừng ở núi Hàn Lăng, Chương Đức lộ, giết con bạch mã mà mình cỡi rồi thắt cổ tự vẫn. Cao Hoan đích thân đến hậu táng Triệu.

 

Nhâm Tý: Lương; Trung Đại Thông năm thứ 4

Ngụy: Hiếu Vũ Đế tu, sử gọi là Xuất Đế, Vĩnh Hy năm đầu, tháng tư đổi niên hiệu

Quý Sửu: Trung Đại Thông năm thứ 5

Vĩnh Hy năm thứ 2

 

Lương: Ngày hai mươi sáu tháng hai, Đế xa giá đến chùa Đông Thái giảng kinh Kim Cang đến hai mươi mốt ngày, mở đại pháp hội Vô giá cho Tăng tục, gồm ba mươi mốt vạn chín ngàn sáu trăm bốn mươi hai người.

 

Giáp Dần: Trung Đại Thông năm thứ 6

Tây Ngụy: Vĩnh Hy năm thứ ba, Đế chạy đến Trường An

Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Thiên Bình năm đầu

 

Ngụy Hiếu Vũ Đế: Tháng giêng năm Vĩnh Hy năm thứ ba, Trung quân tướng quân Vương Tư

Chánh nói với Vũ Đế rằng: "Tâm của Cao Hoan rõ ràng có thể biết, Lạc Dương không phải là đất dụng võ, nên đến với Vũ Văn Thái ở Trường An. " Đông Đô Thái thú Bùi Hiệp thống lãnh các bộ đến Lạc Dương, Vương Tư Chánh hỏi: Nay quyền thần chuyên mệnh, vương thất ngày càng yếu phải làm thế nào? Hiệp đáp: Vũ Văn Thái được ba quân suy tôn lại ở vào nơi lấy hai địch lại một trăm (địa thế hiểm yếu), đó gọi là đã cầm can qua lại chịu trao cho người cái chuôi, dù muốn về với ông ấy nhưng sợ rằng chẳng khác nào tránh nước sôi lại vào lửa bỏng. Tư Chánh hỏi: Vậy phải làm sao? Hiệp đáp: Mưu toan với Hoan thì lo người này là kẻ lập chí, tuần lên phía tây thì có mối lo tương lai, vả lại đến Quan Hữu mối lo từ từ có cách giải quyết.

Tháng bảy, Hoan biết Đế thay đổi liền dẫn quân vượt sông, Hiếu Vũ Đế liền thống lãnh Nam Dương Vương Bảo Cự, Thanh Hà Vương Đàn, Quảng Dương Vương Trạm đem năm ngàn kỵ binh chạy về Tây. Vũ văn Thái sắm đủ nghi vệ đón Đế. Đế vào Trường An. Cao Hoan vào Lạc Dương ở tại chùa Vĩnh Ninh. Tháng mười, Ngụy Thừa Tướng Hoan lại dâng biểu cho Hiếu Vũ Đế, nói: "Nếu Bệ Hạ rộng lòng ban cho một đạo chỉ, hứa về lại kinh Lạc, thần sẽ kéo hết văn võ lau sạch cung cấm, nếu bệ hạ không có ngày quay lại thì thất miệu không thể không có chủ, muôn nước phải có nơi quy tụ, thần thà cô phụ bệ hạ chứ không cô phụ xã tắc. " Vũ Đế vẫn không đáp ứng. Cao Hoan liền triệu tập hết bá quan phụ lão lập thế tử của Thanh hà Vương Đàn là Thiệu Kiến lên làm Hoàng Đế. Kiến vốn là tằng tôn của Hiếu Văn Đế! Lúc này Kiến mười một tuổi, lên ngôi ở bắc Thành Đông, đổi niên hiệu Thiên Bình, dời đô về đất Nghiệp. Hiếu Vũ đóng đô ở Trường An. Đế có hiềm khích với Vũ Văn Thái. Tháng mười hai, ông uống rượu ngộ độc mà mất, thọ hai mươi lăm tuổi. Thái đưa thái tể Nam Dương Vương Bảo Cự lên ngôi Hoàng Đế.

* Nguyên Ngụy: Họ Thát Bạt, tiên tổ vốn là ngươi Hồ ở Tiên Ty, Bắc Địch. Trước đời Tần, Hán họ chưa từng qua lại với Trung Quốc. Trong năm Cảnh Sơ đời Ngụy Minh Đế, Trung Quốc mới bắt đầu kết thân với họ. Thời Tấn, ban đầu có Thát Bạt Y Lư, xuất cư ở Lâu Phiền. Tuệ Đế năm An Thái năm thứ hai là năm thứ chín của Thát Bạt Lộc Quan. Thát Bạt ở Đại Quận, từng giúp Lưu Côn chống lại Thạch Lặc, tấn phong cho làm Đại Vương, lúc này có nhà Đại phía Bắc và bộ lạc phân tán khắp hơn sáu mươi năm. Đến thời Đông Tấn, Tần chủ Phù Kiên đánh Đại bắt được Dực Kiện, Kiện bị Tử Thật giết, Thật cũng chết, cháu ông ấy là Khuê đến nương nhờ bộ lạc Độc Cô, đó là Lư Tôn. Đông Tấn Vũ Đế niên hiệu Thái Nguyên năm đầu, Lư Tôn bắt Dực Thiệp Khuê, (Ngụy thư ghi Khuê là Thái tử Đạo Vũ Hoàng Đế) đem quân chiếm Sóc Châu, dựng thành ấp khoảng ba trăm dặm về phía Đông lấy tên là Hằng An, vì ông là Hộ Quân của Tần nên bị lệ thuộc Tần. Tháng mười một năm Thái Nguyên năm thứ tám đời Tấn, Phù Kiên thua Tấn. Tháng giêng năm Thái Nguyên năm thứ mười một, Khuê bèn mở đại hội bộ lạc tông tộc ở Ngưu Xuyên lên ngôi Đại Vương, lấy niên hiệu Đăng Quốc năm đầu, dời về định cư tại Thạnh Lạc của Định Tương (Định Tương là tên một quận ở Hân Châu, Ký Ninh lộ) lo làm nông, an dân. Cả nước vui mừng. Khuê liền cải xưng Ngụy Vương, năm Bính Thân tức Thái Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt, Khuê mới bắt đầu lập tinh kỳ của Thiên Tử, đi ra có người mở đường, đi vào có người hầu hạ, đổi niên hiệu Hoàng Thỉ. Năm Mậu Tuất ông dời đô về Bình Thành (nay là Tây Kinh lộ, Đại Đồng, tên quận là Vân Trung) mới xây cung thất, lập tông miếu, dựng xã tắc. Mỗi năm có năm lần tế tông miếu được chia từ đầu năm đến tháng chạp. Tháng mười hai, Khuê lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Thiên Hưng, lệnh cho trong triều ngoài dân búi tóc đội mão, truy tôn từ Viễn tổ Mao xuống đến hai mươi bảy người kế đó đều làm Hoàng Đế, bắt đầu phỏng theo phép xưa định ra lễ Giao, Miếu, Triêu, Hưởng, Lễ, Nhạc, đặt ra Ngũ Kinh Bác Sĩ, làm tăng thêm sinh viên đại học trong nước lên đến ba ngàn người. Tháng mười năm Kỷ Dậu, Khuê bị Thanh Hà Vương Thiệu vốn do phu nhân Hạ Lan thị sinh ra giết chết. Khuê ở ngôi hai mươi bốn năm, thọ ba mươi chín tuổi. Con trưởng của Khuê là Tự giết Thiệu rồi tự lập, đó là Minh Nguyên Đế! Thái Thường năm thứ tám, đánh dẹp Lạc Dương, bình định Duyện Châu, Dự châu. Lúc này thiên hạ chỉ có hai nước, đó là Nam Bắc Triều. Nhu Nhiên cướp phá biên cảnh của Ngụy. Ngụy xây Trường Thành, từ phía tây Xích Thành đến Ngũ Nguyên dài hai ngàn dặm, đặt đủ binh tướng để đề phòng bọn Nhu Nhiên. Tháng năm, Minh Nguyên Đế về lại Bình Thành. Tháng mười một thì mất. Ông ở ngôi mười lăm năm, thọ ba mươi hai tuổi. Thái tử Thế Tổ Thái Vũ Đế Thọ lên ngôi, tàn diệt Phật pháp, ở ngôi hai mươi chín năm thọ ba mươi lăm tuổi. Hoàng tôn Cao Tông Văn Thành Đế Duệ lên ngôi, xuống chiếu khôi phục Phật giáo, dốc lòng kính tín Phật pháp. Ông ở ngôi mười ba năm, thọ hai mươi sáu tuổi. Con trưởng Hiển Tổ Hiến Văn Đế Hoằng lên ngôi, ở ngôi năm, nhường ngôi cho con là Hoằng, quần thần truy tôn là Thái Thượng hoàng Đế, nắm hết việc quân việc nước. Cao Tổ Hiếu Văn Đế Hoằng lên ngôi, lúc này mới năm tuổi, ở ngôi hai mươi chín năm, dời đô về Lạc Dương, bỏ áo mão nhà Hồ, bỏ ngôn ngữ kẻ cướp, tôn sùng di phong Hoa Hạ. Ban đầu ông đội mũ cổn tế lễ Triêu lễ Hưởng, định lại hộ tịch, chế ra áo mão cho ngũ công, dựng Minh Đường Bích Ung (nơi cử hành lễ nhạc nêu cao đức giáo hóa). Thái Hòa năm thứ mười lăm, Phùng Thái hậu mất, Hiếu Văn Đế y lễ xưa để tang ba năm. Thái Hòa năm thứ mười sáu, Đế sai quần thần luận về vị trí Ngũ hành, rồi làm theo nhà Tấn, lấy Thủy Đức. Thái Hòa năm thứ 20, Đế hạ chiếu cho rằng Thổ là màu trong màu vàng, là khởi nguyên của vạn vật, nên đổi họ Nguyên. Ông thọ ba mươi ba tuổi. Con năm thứ hai của ông là Thế Tông Tuyên Vũ Đế khác lên ngôi, ở ngôi mười sáu năm, thọ ba mươi ba tuổi. Con năm thứ hai của Tuyên Vũ là Túc Tông Hiếu Minh Đế Hủ lên ngôi, ở ngôi mười hai năm, thọ mười chín tuổi. Kính Tông Hiếu Trang Đế lên ngôi, ở ngôi ba năm, thọ hai mươi bốn tuổi. Tiết Mẫn Đế Cung, Bình An Định Vương Nguyên Lãng lên ngôi, cả hai đều bị giết. Hiếu Vũ Đế Tu tránh Cao Hoan chạy về phía Tây vào Trường An, từ đó chia ra Tây Ngụy, Đông Ngụy.

Nguyên Ngụy gồm mười hai chủ, trị vì một trăm bốn mươi chín năm chia thành hai nước: Tây Ngụy gồm ba chủ, trị vì hai mươi hai năm, nhường ngôi cho Chu. Đông Ngụy gồm một chủ, trị vì mười bảy năm, nhường ngôi cho Bắc Tề.

Ngụy: Có mười chín Sa-môn dịch kinh, dịch tổng cộng bốn trăm mười chín bộ, gồm hơn một ngàn chín trăm quyển Kinh Luật luận, Tăng đến hai trăm vạn, trong nước chùa lớn bốn mươi bảy ngôi, chùa của Tam Công v. v... tám trăm bốn mươi ngôi, tự viện do bá tánh xây dựng ba vạn một ngàn ngôi (theo Ngụy Thư và Biện Chánh Lục).

Nhu nhiên là tên một nước của Di Địch, họ Uất Cửu Gian, cuối năm Thần Nguyên của Nguyên Ngụy, Ngụy bắt được một kỵ binh, tóc mới dài ngang mày, quên mất họ tên, chủ của gã tự là Mộc Cốt Lư. Mộc Cốt Lư đứng đầu bọn dân đen. Mộc Cốt Lư và Úc Cửu Gian phát âm gần giống nhau, nên lấy đó làm họ. Mộc Cốt Lư trong thời Đại Y Lư bị tội, sau đó bị chém, số người còn trốn khe núi ở Quảng Hán, đông đến hơn trăm người. Đến con ông ấy là Xa Lộc Hội Hùng Kiện mới có bộ chúng, tự lấy hiệu là Nhu Nhiên. Ngụy Thái Vũ Đế Thọ cho rằng họ như loài trùng vô tri, nên đổi bộ lạc này thành họ Nhuyễn Nhuyễn. (theo Bắc Sử).

 

Ất Mão: Lương, Đại Đồng năm đầu

Tây Ngụy Văn Đế Bảo Cự, Đại Thống năm đầu

Đông Ngụy, năm Thiên Bình năm thứ 2

 

Tây Ngụy Văn Đế dựng chùa Bát-nhã, Đế ngày ngày vận lòng từ bi, thường hành bố thí, giúp kẻ yếu người già, cung cấp cho Tăng bị bệnh, miệng tụng Pháp Hoa, thân trì tịnh giới. Thừa Tướng Vũ Văn Thái chấn hưng kinh Phật, giảng Đại thừa, sai Thích Đàm Hiển soạn Chúng Kinh Yếu hai mươi hai quyển, và một trăm hai mươi môn. Tây Ngụy tiến cử Thừa Tướng Thái làm An Định Công.

 

Bính Thìn: Đại Đồng năm thứ hai, Lương Thông Sự Xá Nhân Lưu Hiệp dâng biểu xin xuất gia, Đế vui mừng ban tặng Hiệp tên là Tuệ Địa

Đại Thống năm thứ 2

Đông Ngụy, năm Thiên Bình năm thứ 2

 

Lương: Tháng ba, Đan Dương Đào Hoằng Cảnh mất, Hoằng Cảnh từng đến tháp thờ xá-lợi Phật của A-dục Vương tại Minh châu nguyện thọ năm giới.

Đông Ngụy sai Định châu Thứ sử Hầu Cảnh, Thượng thư hữu bộc xạ Nam Đạo Hành Đài thống lãnh các tướng xâm chiếm Kiến Khang.

 

Đinh Tỵ: Đại Đồng năm thứ 3

Đại Thống năm thứ 3

Thiên Bình năm thứ 4

 

* Cao Vương Quán Thế Âm Kinh: Người dân ở Định Châu của Đông Ngụy tên là Tôn Kính Đức thờ Bồ-tát Quán Thế Âm rất chí thành. Sau ông bị giặc hoành hành phải chịu tội oan. Đêm ấy ông mộng thấy vị Tăng dạy ông tụng kinh Cứu Khổ Quán Âm, ông tụng theo. Đến lúc Hữu Ty hành hình, dùng đao chém ông ba nhát nhưng đao gãy làm ba khúc. Giám ty tâu việc này với Thừa Tướng Cao Hoan, Hoan tra xét kỹ nguyên do hạ chiếu miễn tội chết, Kính Đức về nhà thấy trên cổ của tượng Quán Âm mình đang thờ bị xước bởi ba nhát đao. Nhân đó ông gọi bộ kinh mà vị Tăng dạy mình tụng là Cao Vương Kinh.

 

Mậu Ngọ: Đại Đồng năm thứ tư, Đế dựng lại chùa Trường Can, xa giá đến chùa mở pháp hội Vô Giá

Đại Thống năm thứ tư, có hơn 30.000 ngôi chùa, Tăng ni tổng cộng 200 vạn

Đại Tượng năm đầu

Kỷ Mùi: Đại Đồng năm thứ 5

Tây Ngụy: Đại Thống năm thứ 5

Đông Ngụy: Hưng Hòa năm đầu

 

Tây Ngụy: Sa-môn Đạo Trăn là người tinh thông nghĩa kinh, Văn Đế rất kính trọng tôn ngài là Sư Phó. Đế dựng chùa Đại Trung Hưng ở Trường An thỉnh ngài ở, làm Đại Thống (Tăng Thống) của Ngụy. Ngài lập lại khoa điều, nhờ vậy Phật giáo được chấn hưng. Đế lại dựng hai chùa Đại Thừa và Trắc Hỗ. Ngài nhập diệt, Đế thương cảm, không thiết triều, mọi phí tổn và lễ nghi tống táng đều do Thiên phủ lo liệu.

 

Canh Thân: Lương, Đại Đồng năm thứ 6

Đại Thống năm thứ 6

Hưng Hòa năm thứ hai, Đế hạ chiếu đổi cung cũ ở thành Nghiệp làm chùa Thiên Bình

Tân Dậu: Đại Đồng năm thứ 7

Đại Thống năm thứ 7

Hưng Hòa năm thứ ba, Tỳ Mục Trí Tiên dịch kinh ở Nghiệp Quận

Nhâm Tuất: Đại Đồng năm thứ 8

Đại Thống năm thứ 8

Hưng Hòa năm thứ 4

Quý Hợi: Đại Đồng năm thứ chín, Lương, Hoàng Môn Thị Lang Cố Dã Vương soạn xong Ngọc Thiên

Đại Thống năm thứ 9

Đông Ngụy, Vũ Định năm đầu

Giáp Tý: Đại Đồng năm thứ 10

Đại Thống năm thứ 10

Vũ Định năm thứ 2

Ất Sửu: Đại Đồng năm thứ 11

Đại Thống năm thứ 11

Vũ Định năm thứ 3

 

Tây Ngụy: Thừa Tướng Vũ Văn Thái dựng sáu ngôi chùa ở Trường An gồm: Truy Viễn, Trắc Dĩ, Đại Thừa, Ngụy Quốc, An Định và Trung Hưng, độ một ngàn tăng, lại dựng chùa Thiên Bảo cúng dường Pháp sư Vỹ. Ở An Định ông lại dựng hai chùa Thọ Sơn và Phạm Vân, dựng chùa Đại Phước Điền cúng dường quốc sư Thật. Ông lại dựng chùa Đột Quyết cúng dường cho sư ni Đại Khả Hãn Đại Y.

Tháng ba năm Bính Dần tức Trung Đại Đồng năm đầu, Đế xa giá đến chùa Đồng Thái giảng Tam Tuệ Kinh. Mùa hạ tháng tư ra chiếu đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu. Niên hiệu Đại Thống mười một năm, Vũ Đế bốn năm.

Lương: Trong năm Thiên Giám, Lương Đế thờ Phật, ăn chay trường, không nghe âm nhạc, Đế dựng năm chùa gồm Quang Trạch, Đồng Thái v. v... thường cúng cả ngàn Tăng. Đế làm bài phú về Tịnh nghiệp, bài tựa ghi: "Trẫm không ăn cá thịt, không ngủ với thê thiếp đã hơn bốn mươi năm rồi. Đã không ăn thịt chúng sinh nên không chịu cái chướng sát hại, đã không đến nơi hậu cung nên không phải bị cái chướng tham dục xấu xa. Trừ được hai chướng ấy, ý thức dần sáng tỏ, mới làm bài phú về Tịnh nghiệp. Nay xin nêu sơ lược nội dung bài phú rằng:

Xem thiên tánh của con người, mang khí mầu mà lắng trong, cảm muôn vật nên ham muốn, tâm phan duyên nên tăm tối. Lỗi thường do ngoại trần, buộc bởi do nơi tiền cảnh, mang tâm tham mà không chán, buông tâm ý tự dong ruổi. Tai cứ chạy theo tiếng hay, mắt chuyển theo năm sắc, mùi thơm bốc lên mũi hít sinh ưa, lưỡi nếm mùi vị ham thứ ngon ngọt, thân thể xúc chạm sinh lòng ưa vui, eo nhỏ tay thon xương mềm da đẹp, thơm sạch dính thân chạm dính như keo, cuồng tâm mê hoặc điên đảo dối mình, cứ thế sáu trần chướng ngăn thiện đạo, muôn màu tranh nhau, như gió lay cỏ, ôm hoặc mà sinh theo mãi đến già, chạy theo vô minh đều là phiền não. Bởi vậy, ngoài sạch nhãn cảnh, trong tịnh tâm trần, phải noi theo đức, lấy đạo làm bạn, thấy Tịnh nghiệp phải đáng ưa, lấy không sát mà làm nhân, lìa dục xấu mà tự tu, nên tâm thân không chướng ngại, phiền lụy đã trừ, chướng ngại tự tịnh, như nước lắng yên, như mới lau kiếng, ngoài soi cảnh trong, trong thấy muôn bệnh, trừ khách trần rồi quay về tự tánh, tâm sạch như băng, chí trong như tuyết, trói buộc đã trừ, lo sợ cũng mất, mãi xa lìa ân ái rồi, vĩnh viễn giết sạch sinh tử".

 

Đinh Mão: Thái Thanh năm đầu

Tây Ngụy: Đại Thống năm thứ 13

Đông Ngụy: Vũ Định năm thứ 5

 

Đông Ngụy, tháng giêng Bột Hải Hiến Vũ Vương Cao Hoan mất, thế tử Trừng nối ngôi. Hầu

Cảnh và họ Cao vốn có hiềm khích, nên Cảnh bỏ Đông Ngụy về với Tây Ngụy. Tây Ngụy phong Cảnh làm Thái phó. Cảnh lại sai Đinh Hòa dâng biểu về Lương, Lương Đế thâu nạp Cảnh, cho Cảnh làm đại tướng quân, phong Hà Nam Vương. Tháng hai năm Thái Thanh năm thứ hai, Đông Ngụy tướng quân Cao Trừng cầu hòa với Lương, bởi vậy Hầu Cảnh nghi ngờ nên làm phản. Lương Đế sai Lâm Hạ Vương Chánh Đức làm Bắc Bình tướng quân, Đô đốc kinh sư chư quân sự đóng quân ở quận Đan Dương, Chánh Đức ngầm đem mấy mươi thuyền lớn qua cho Cảnh, Đức giữ Tuyên Dương môn thống lãnh ba quân đón Hầu Cảnh đến cửa khuyết. Chánh Đức lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Chánh Bình, đại xá thiên hạ. Năm Thái Thanh năm thứ ba, Kỷ Tỵ, tháng giêng thành ở kinh sư bị vây hãm, Hầu Cảnh vào gặp Vũ Đế, thả quân vào cướp xa giá, lại đưa Lâm Hạ Vương Chánh Đức xuống làm thị trung đại Tư mã. Tháng năm, Lương Vũ Đế mất, thọ sáu mươi tám tuổi, Hầu Cảnh giấu kín không phát tang, bá quan văn võ chẳng ai hay biết, đến năm sau mới phát tang ở Thăng Tử Cung, Thái Cực điện. Hôm đó, Hầu Cảnh nghênh Thái tử Cương lên ngôi. Tháng sáu, Lâm Hạ Vương Chánh Đức oán Hầu Cảnh bán rẻ mình bèn ngầm đưa thư triệu Phan Dương Vương Phạm sai Phạm đem quân vào. Cảnh bắt được thư liền thắt cổ Chánh Đức chết. Tháng tám Đông Ngụy Bột Hải Văn Tương Vương Cao Trừng bị đầu bếp Lan Kinh giết, em ông là Thái Nguyên Công Cao Dương đánh giặc và chết trận. Tháng mười hai, Thỉ Hưng Thái thú Trần Bá Tiên liên kết hào kiệt trong quận đánh Hầu Cảnh. Hầu An Đô, Trương Tư v. v... mỗi người dẫn hơn ngàn thuộc hạ theo về, sai sứ cắt đường đến Giang Lăng nhận mệnh của Tương Đông Vương Dịch.

 

Mậu Thìn: Lương, Thái Thanh năm thứ 2

Tây Ngụy: Đại Thống năm thứ 14

Đông Ngụy: Định thứ 6

Vũ năm

Kỷ Tỵ: Thái Thanh năm thứ ba, tháng năm Đế mất

Đại Thống năm thứ 15

Vũ năm thứ 7

Định

 

* Thái Tông Giản Văn Hoàng Đế: Húy là Cương, con năm thứ ba của Cao Tổ Vũ Đế, ở ngôi hai năm, thọ bốn mươi chín tuổi. Niên hiệu Đại Bảo hai năm.

 

Canh Ngọ: Đại Bảo năm đầu

Đại Thống năm thứ 16

Bắc Tề, họ Cao nhận ngôi. Thiên Bảo năm đầu

 

* Bắc Tề: Tháng giêng, Đông Ngụy phong Thái Nguyên Công Cao Dương ngôi Thừa Tướng, Tề Quận Vương. Tháng năm, Tấn phong Tề Vương làm tướng quốc nắm giữ trăm quan, lại phong cửu tích. Thị trung Trương Lượng v. v... bảo Đế nên nhường ngôi cho Tề Vương Dương. Đế ra Vân Long Môn, sai bọn Thái úy Bành Thành Vương Thiều dâng ngọc tỷ. Tề Vương lên ngôi ở Nam Giao, đổi niên hiệu Thiên Bảo, phong Ngụy Đế làm Trung Sơn Vương, tháng mười hai chuốc độc Ngụy Đế chết, ban thụy là Ngụy Hiếu Tĩnh Đế, an táng ở Nghiệp Tây, Chướng Bắc. Tề Vương truy thụy phụ vương Hoan là Cao Tổ Thần Vũ Hoàng Đế (Hoan họ Cao, người Ký châu). Ban đầu Hoan thờ Nhĩ Chu Vinh. Em của Vinh là Triệu giao hết việc quân cho Hoan, và Hoan được phong đến chức Bột Hải Vương, ông thọ năm mươi mốt tuổi. Tề Vương truy thụy cho anh là Trừng (con của Thần Vũ) làm Thế Tông Văn Tương Hoàng Đế. Hiển Tổ Văn Tuyên Hoàng Đế Cao Dương (con thứ của Thần Vũ) lúc này nhận ngôi từ Đông Ngụy, lấy quốc hiệu là Tề, đổi niên hiệu Thiên Bảo, đóng đô ở đất Nghiệp (Chương Đức lộ, xưa là Tương Châu) ở ngôi mười năm, thọ ba mươi mốt tuổi. Thái tử Ân nối ngôi, đó là Phế Đế, thọ mười bảy tuổi. Túc Tông Hiếu Chiêu Đế Diễn (con năm thứ sáu của Thần Vũ) lấy niên hiệu Càn Minh năm đầu của Phế Đế đổi thành Hoàng Kiến. Hoàng Kiến năm thứ hai, Diễn đi săn té ngựa đứt gân chết, thọ hai mươi bảy tuổi. Thế Tổ Vũ Thành Đế Trạm (con năm thứ chín của Thần Vũ) lên ngôi, tháng mười năm Hoàng Kiến năm thứ hai, ông đổi niên hiệu Thái Ninh, ở ngôi bốn năm, nhường ngôi cho Thái tử, tự xưng là Thái Thượng hoàng (Hậu Chủ, Đại Thống năm thứ tư, ông mất, thọ bốn mươi hai tuổi). Hậu Chủ Vỹ (con trưởng Vũ Thành) ở ngôi mười ba năm, ông trốn đến Thanh châu, quân của Chu đuổi theo bắt sống rồi đưa ông, Thái hậu, ấu chủ Hằng về Trường An, phong làm Vỹ Ôn Công. Nhà Bắc Tề gồm năm chủ trị vì hai mươi tám năm.

 

Tân Mùi: Đại Bảo năm thứ hai, Thế Tôn diệt độ 1. 500 năm

Đại Thống năm thứ mười bảy, tháng ba Đế mất, Thái tử Khâm lên ngôi

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 2

 

Lương: Tháng ba, Hầu Cảnh ép Đế nhường ngôi cho Dự Chương Vương Đống, đổi niên hiệu Thiên Chánh, phế Đế xuống làm Tấn An Vương, tháng chín thì giết. Đống gia phong cho Hầu Cảnh đủ cửu tích (nhà Hán đặt quan từ Thừa Tướng trở xuống), Đống nhường ngôi cho Cảnh, Cảnh lên ngôi Hoàng Đế ở Nam Giao, lại lên Thái Cực điện, đổi niên hiệu Thái Thỉ. Tháng giêng năm Nhâm Thân, Lương Tương Vương Dịch sai Tăng Vương Biện v. v... đánh Hầu Cảnh phía đông. Tháng mười hai các đạo quân kéo đến Lạc Dương. Trần Bá Tiên thống lãnh quân giáp kỵ mười vạn, hai ngàn chuyến thuyền từ Nam Giang kéo ra Bồn Khẩu, hội họp với Tăng Biện ở eo biển Bạch Mao, cùng dựng đàn cắt máu uống thề. Hầu Cảnh sai Hầu Tử Giám đem quân chống đỡ quân phía tây, hợp chiến ở Trung Giang, Tử Giám thua to, chỉ kịp chạy thoát thân, nhặt tàn binh chạy về Kiến Khang. Cảnh thất kinh, nước mắt đầm đìa. Tăng Biện đôn đốc các đạo quân nhân lúc thủy triều lên vào thẳng sông Hoài tiến quân đến phía Bắc chùa Chiêu Đề. Hầu Cảnh thống lãnh đại quân dàn trận ở phía tây Tây Xuyên. Trần Bá Tiên, Vương Lâm, Đỗ Kham v. v... dùng thiết kỵ đánh tới, Tăng Biện đem đại quân tiếp ứng, quân Hầu Cảnh tan vỡ, chỉ còn hơn trăm kỵ binh chạy về đông. Bọn Tăng Biện nghinh Giản Văn Đế vào Tử Cung lên Triều Đường, dẫn trăm quan đến khóc lóc lễ lạy, sai Hầu Thiến đuổi Cảnh đến Tùng Giang. Thiến đánh tới. Cảnh một mình một thuyền trốn chạy, sau bị anh của vợ nhỏ là Dương Côn giết, lấy muối nhét đầy bụng Cảnh rồi đưa thi thể về Kiến Khang. Tăng Biện bêu đầu Cảnh ở Giang Lăng, rồi bêu ở chợ ba ngày, sau đó nướng rồi sơn lên, giao cho bọn giữ kho quân trang. Tháng mười một, Đế lên ngôi.

* Thế Tổ Hiếu Nguyên Hoàng Đế: Tên là Dịch, con năm thứ bảy của Vũ Đế, được phong Tương Đông Vương, làm Kinh châu Thứ sử. Khi Cao Tổ mất, ông từng xả cung dựng chùa Thiên Cung thỉnh cầu Thiền sư Pháp Thông trụ trì. Ông dốc tâm trong Phật sự. Tháng mười một năm Nhâm Thân, ông lên ngôi Hoàng Đế ở Giang Lăng, ở ngôi ba năm, thọ bốn mươi bảy tuổi. Niên hiệu Thừa Thánh ba năm.

 

Nhâm Thân: Thừa Thánh năm đầu

Tây Ngụy: Phế Đế Khâm, Càn Minh năm đầu

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 3

 

Tháng ba, Ích Châu Thứ sử Vũ Lăng Vương Kỷ ở đất Thục, năm năm thứ mười bảy nghe Hầu Cảnh vây Đài Thành, Tương Đông Vương Dịch phát binh đánh Cảnh, Kỷ nói với Tả hữu: "Thất quan văn sĩ đâu có thể phò cứu!" Gặp lúc cây bá quấn quanh trụ trong tẩm cung của Kỷ sinh hoa, Kỷ cho là được điềm lành, tháng tư ông lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Thiên Chánh, đưa con là Viên Chiếu làm Hoàng Thái tử. Tháng ba năm Thừa Thánh năm thứ hai, Nguyên Đế nghe Kỷ đến, bèn gởi thư xin Ngụy đánh Thục. Kỷ nghe có quân của Ngụy liền sai Tiền Lương châu Thứ sử Tiêu lén đem quân về cứu Thục. Tháng bảy Kỷ giữ không nổi Giáp Khẩu nên tháo lui, thuận dòng về đông. Lương du kích tướng quân Phàn Mãnh truy kích và chém Kỷ, con của Kỷ là Viên Mãn, Viên Chiếu, Viên Chánh bị nhốt trong ngục Đình Úy và chết. Tháng tám, Viên Túc đem thành đô ra hàng Ngụy.

Bắc Tề hạ chiếu thỉnh Thiền sư Tăng Trù vào kinh. Tề Vương Dương ra biên giới đón Sư đưa về thành nội. Lúc ấy Sư đã bảy mươi tuổi, nhưng thần thái vẫn sáng suốt, Tề chủ lạy học đạo Thiền, thọ Bồ-tát giới, bỏ hẳn rượu thịt, phóng thả chim muông, bỏ chức quan săn bắt. Đế lại hạ lệnh khắp nước, ngày sáu tháng ba muôn dân không được sát sinh, khuyên dân trai giới, trong vườn quan các thứ hành hẹ đều phải bỏ. Đế giữ Sư ở kinh thành hơn bốn mươi ngày, cho dựng chùa Vân Môn ở Nghiệp Thành để Sư ở, đồng thời thỉnh Sư trụ trì Thạch Quật Đại Tự. Tề Vương Dương chuyên tâm Thiền học, sắc lệnh cho các châu lập riêng trường Thiền để người đạt được Định tuệ ở mà chuyên giảng dạy. Ông cho xây nhiều tháp chùa lớn, Tăng ni các châu vô số, từ khi Phật pháp truyền vào, đến lúc này thì cực thịnh.

 

Quý Dậu: Lương, Thừa Thánh năm thứ 2

Tây Ngụy Phế Đế

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 4

Giáp Tuất: Thừa Thánh năm thứ 3. Tháng 12, Đế hàng Ngụy

Tây Ngụy: Cung Đế Quách

Thiên Bảo năm thứ 5

 

Tây Ngụy: Không lập niên hiệu, bàn mưu giết Thái sư Thái, việc bại lộ, Thái phế Khâm đến Ung châu, lập em Khâm là Tề Vương Quách, đó là Cung Đế (con năm thứ tư của Văn Đế). Đế cũng bỏ niên hiệu, lấy họ Thát Bạt, chín mươi chín họ trước đây đổi thành họ đơn, nay đều lấy lại họ như cũ.

Tháng mười một, quân Tây Ngụy vây Giang Lăng, Đế cùng Thái tử, Vương Bao, Tạ Đáp Nhân, Chu Mãi Thần lui về giữ Kim Thành. Đế vào Đông Cáp Trúc Đình, sai xá nhân Cao Thiện Bảo đốt hết mười bốn vạn quyển đồ thư cổ và kim, lại lấy bảo kiếm chém trụ đứt đôi mà than: "Đạo của Văn, Vũ đêm nay hết rồi!". Ông bỏ vũ nghi, văn vật, bạch mã, xa giá ra hàng. Tháng 12, ông bị dân Ngụy giết, lập Lương Vương Sát làm Lương chủ, cai quản đất Kinh châu, đó là Hậu Lương.

* Kính Đế: Tên Phương Trí, con năm thứ chín của Vũ Đế, được phong Tấn An Vương. Nguyên Đế bị hại, Vương Tăng Biện, Trần Bá Tiên đưa ông làm Lương Vương. Tháng hai năm Ất Hợi, Lương Vương từ Tầm Dương đến và lên ngôi Vương, lúc này mới mười ba tuổi, đưa thái úy Vương Tăng Biện làm Đô đốc trung ngoại chư quân sự, gia phong Trần Bá Tiên làm chinh tây Đại tướng quân. Bắc Tề chủ gởi thư cho Vương Tăng Biện, cho rằng người nối nghiệp Xung Mạo Trinh Dương Hầu đủ tuổi về kham giữ Kim Lăng. Tháng năm Tăng Biện sai sứ báo với Trinh Dương Hầu Uyên Minh định lại lễ vua tôi. Năm Canh Tý sai lấy long chu pháp giá nghinh đón ông. Năm Quý Mão, Uyên Minh vào Kiến Khang, năm Bính Ngọ lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Nguyên Thành, phong Lương Vương làm hoàng Thái tử, Vương Tăng Biện làm Đại Tư mã, Trần Bá Tiên làm thị trung. Hồi ấy Tăng Biện, Bá Tiên cùng diệt Hầu Cảnh, hai bên rất thân nhau. Đến khi Tăng Biện thâu nạp Trinh Dương Hầu, Bá Tiên đã sai người qua lại mấy lần cật lực can ngăn nhưng Tăng Biện không nghe. Bá Tiên liềm đem quân đánh úp Tăng Biện, bắt rồi thắt cổ Biện. Trinh Dương Hầu thoái vị chạy đến đất Để, trăm quan dâng biểu cho Tấn An Vương khuyên ông lên ngôi. Tháng mười Tấn An Vương lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Thiệu Thái, ở ngôi ba năm, đưa Trinh Dương Hầu Uyên Minh làm Tư Đồ. Niên hiệu Thiệu Thái một năm, Thái Bình hai năm.

 

Ất Hợi: Lương, Thiệu Thái năm đầu

Hậu Lương: Tuyên Đế Sát, Đại Định năm đầu

Tây Ngụy: Cung Đế năm thứ 2

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 6

 

* Hậu Lương: Tháng giêng, Lương Chủ Sát lên ngôi Hoàng Đế ở Giang Lăng, đó là Tuyên Đế, con năm thứ ba của Chiêu Minh. Ban đầu ông được phong Nhạc Dương Vương, nhưng bất bình với Nguyên Đế, nên tìm cách dựa vào Tây Ngụy, đến lúc này lấy quốc hiệu Lương, lấy niên hiệu Đại

Định, truy tôn cha Thái tử là Châu Minh Hoàng Đế, miếu hiệu Cao Tông. Sát ở ngôi bảy năm, khi dâng sớ cho Ngụy thì xưng thần, theo chánh sóc của Ngụy. Minh Đế Khuy ở ngôi hai mươi bốn năm, Thái tử Tông kế ngôi, đó là Cử Công, ở ngôi hai năm, đất nước về tay nhà Tùy.

+ Tháng tám Bắc Tề chủ đi Tấn Dương rồi về đất Nghiệp. Ông cho Phật giáo và Đạo giáo bất đồng muốn trừ đi bớt một đạo, mới triệu tập học giả của hai giáo, nghị luận trước mặt mình và ra lệnh cho Đạo sĩ phải thế phát làm Sa-môn. Chiếu rằng: Người được thành Tiên có thể bay cao bay xa, người nào chưa được đều phải cải tà quy chánh, đến Thượng Thống Chiêu Huyền thế phát xuất gia, nếu ai trái lệnh thì giết, bốn người đều phụng mệnh. Từ đó trong nước Tề không hề có Đạo sĩ.

(Bắc Tề Kỷ).

 

Bính Tý: Lương, Thái Bình năm đầu

Hậu Lương, Đại Định năm thứ 2

Tây Ngụy: Năm thứ ba, tháng mười hai nhường ngôi cho Chu

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 7

 

Lương: Có bốn mươi hai Sa-môn dịch kinh, tổng cộng bảy trăm tám mươi quyển Kinh Luận, chùa viện đến hai ngàn tám trăm bốn mươi sáu ngôi, Tăng ni tám vạn ba ngàn người (Biện Chánh Lục).

Nhà Lương gồm bốn chủ, trị vì năm mươi lăm năm, nhường ngôi cho Trần.

* Nhà Trần: Họ Trần, đóng đô ở Kiến Khang gồm Cao Tổ Vũ Đế, Thế Tổ Văn Đế, Phế Đế, Cao Tông Tuyên Đế, Hậu Chủ, trị vì tổng cộng ba mươi ba năm.

-Cao Tổ Vũ Đế: Húy Bá Tiên, tự Hưng Quốc, người Trường Hưng Hồ châu, làm quan cho Lương, diệt Hầu Cảnh mà có công. Tháng tám năm Đinh Sửu, ông được tấn phong ngôi tướng quốc cai quản trăm quan. Tháng mười, ông được phong vương và nhận ngôi, phong Lương Kính Đế làm Giang Âm Vương. Ông ở ngôi ba năm, thọ năm mươi bảy tuổi. Niên hiệu Vĩnh Định ba năm.

 

Đinh Sửu: Trần, Vĩnh Định năm đầu, tháng mười đổi niên hiệu

Đại Định năm thứ 3

Chu: Vũ Văn Giác năm đầu, tháng tám phế Giác lập Dục

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 8

 

* Nhà Chu: Họ Vũ Văn, người Vũ Xuyên, Đại Quận, cha Vũ Văn Thái làm quan cho Ngụy được phong Chu Công, con năm thứ ba của Thái là Giác được Tập phong. Tháng mười hai năm Bính Tý nhận ngôi từ Ngụy, lúc này vào tháng giêng ông lên ngôi Thiên vương, lấy quốc hiệu Chu, truy tôn cha Vũ Văn Thái làm Thái Tổ Văn Hoàng Đế, đóng đô ở Trường An, không lập niên hiệu, chỉ xưng Nguyên niên, phong Ngụy Cung Đế làm Tống Công, lấy Mộc đức nối Thủy đức của Ngụy, theo nghi lễ nhà Hạ, phục sức chuộng màu đen. Giác tính tình quả quyết, cương trực, ghét đại Tư mã Tấn Công Vũ Văn Hộ chuyên quyền, tháng tám ông lập mưu giết Hộ. Việc bị bại lộ, Hộ phế ông xuống làm Lược Dương Công, được hơn một tháng thì giết đi, ở ngôi tám tháng, thọ mười sáu tuổi. Hộ đón Kỳ châu Thứ sử, Ninh Đô Công Dục lên ngôi thiên vương, đó là Thế Tông Minh Đế, con trưởng của Văn Đế. Ông ở ngôi bốn năm, hai năm trước không lập niên hiệu. Tháng giêng năm Kỷ mão, Thái sư Thái Tông Bá Vũ Văn Hộ dâng biểu giao quyền chính, Dục mới bắt đầu nắm chánh sự. Nhưng việc quân binh vẫn do Hộ nắm, chức vụ Đô đốc châu quân sự được đổi thành tổng quản. Tháng tám, ngự chánh trung đại phu Thôi Tà kiến nghị cho rằng, Thánh nhân theo sự đổi thay của thời thế mà đặt ra lễ nghi, nay Thiên Tử xưng vương thì không đủ để dương uy thiên hạ, xin noi theo pháp chế của Tần, Hán mà xưng Hoàng Đế, lập niên hiệu. Chu Vương bèn xưng Hoàng Đế, đổi niên hiệu Vũ Thành. Đế thông minh uyên bác, vì vậy Tấn Công Hộ rất lo sợ. Tháng tư năm Vũ Thành năm thứ hai, Hộ chuốc độc vào trong chày giã đường, Đế ăn vào và chết, thọ hai mươi bảy tuổi. Vũ Đế Ung lên ngôi, là con năm thứ tư của Văn Đế, ở ngôi mười tám năm, phế bỏ Phật giáo, Đạo giáo, thọ ba mươi sáu tuổi. Tuyên Đế Bân là con trưởng Vũ Đế, ở ngôi hai năm, nhường ngôi cho hoàng Thái tử Xiển, tự xưng Thiên Nguyên Hoàng Đế, thọ hai mươi hai tuổi. Tĩnh Đế, sau đổi tên là Diễn, phong Tùy Công Dương Kiên làm tướng, ông khôi phục lại Phật giáo, Đạo giáo, ở ngôi một năm, nhường ngôi cho Tùy Vương Kiên.

 

Mậu Dần: Trần, Vĩnh Định năm thứ 2

Hậu Lương, Đại Định năm thứ 4

Chu: Thế Tông Minh Đế Dục, năm thứ 2

Bắc Tề: Thiên Bảo năm thứ 9

 

Tháng năm, Trần Đế xa giá đến chùa Đại Trang Nghiêm tập xuất gia, quần thần dâng biểu thỉnh Đế về cung. Đế mở pháp hội cúng Tăng, bố thí, phóng sinh, xá tội, dựng chùa Đông An ở Dương Châu, lại dựng thêm bốn chùa như Hưng Hoàng, Thiên

Cung v. v...

Chu Đế phụng Phật, khuyến hóa tông tộc, vì cầu phước cho tiên hoàng, ông đã dựng tượng Lôxá-na, thêm hai tượng Bồ-tát, mỗi tượng cao hai trượng sáu thước, tạo mười hai tượng Chiên-đàn mỗi tượng có hai Bồ-tát Kim Cang, Sư Tử, uy nghiêm tráng lệ vô cùng.

 

Kỷ Mão: Vĩnh Định năm thứ ba, tháng sáu Đế mất

Đại Định năm thứ 5

Chu: Tháng tám xưng Đế, Vũ Thành năm đầu

Thiên Bảo thứ mười, tháng mười Đế mất

 

+ Trần Đế chép mười hai tạng kinh, tạo trăm vạn tượng Phật bằng vàng, đồng, sửa ba mươi hai ngôi chùa cũ, độ bảy ngàn Tăng ni.

+ Bắc Tề Hiển Tổ Tuyên Đế Dương ở ngôi mười năm, Phật pháp cực thịnh, độ tám ngàn Tăng ni.

* Thế Tổ Văn Đế: Húy là Thiến, tự Tử Hoa, anh Vũ Đế, con trưởng của Chiêu Liệt Vương, được phong Lâm Xuyên Vương. Thái hậu hạ chiếu lập ông. Ông ở ngôi bảy năm, thọ bốn mươi lăm tuổi. Niên hiệu Thiên Gia sáu năm, Thiên Khang một năm.

 

Canh Thìn: Thiên Gia năm đầu

Đại Định năm thứ 6

Chu: Vũ Thành năm thứ hai, tháng tư Đế mất

Bắc Triều: Càn Minh năm đầu, tháng mười một Hoàng Kiến năm đầu

 

Bắc Tề: Tháng hai, Thái tử Ân lên ngôi, đổi niên hiệu Càn Minh. Tháng tám Thái hậu phế ông làm Tề Nam Vương. Thường Sơn Vương Diễn lên ngôi, tháng mười một đổi niên hiệu Hoàng Kiến năm đầu. Tháng mười năm Hoàng Kiến năm thứ hai, Đế đi săn té ngựa gãy lưng chết, di mệnh cho em là Trạm kế mình nắm chánh sự. Trạm đổi năm Hoàng Kiến năm thứ hai thành Thái Ninh năm đầu.

Diễn và Trạm đều là em của Tuyên Đế.

Tổ năm thứ 2: Đại sư Tuệ Khả.

Sư họ Cơ, người Vũ Lao, Lạc Kinh ban đầu có tên là Thần Quang. Sư học khắp thi thư, rất tinh thông nghĩa lý, từ nhỏ đã đến Long Môn Hương Sơn ở Lạc Dương theo hầu Thiền sư Bảo Tĩnh xuất gia, thọ Cụ túc giới ở chùa Vĩnh Mục. Bảo Tĩnh dạy sư đến gặp Đạt-ma ở núi Thiếu Thất. Sư có cơ duyên đắc pháp, đứng vào hàng môn đệ thượng thủ và làm Tổ kế thừa xiển dương tông huyền của Đạtma. Sư đi khắp nơi tìm người nối pháp. Sư đến Bắc Tề, ở đây hiện có một cư sĩ tuổi hơn bốn mươi chẳng biết họ tên, đến lạy Sư và hỏi:

Đệ tử bị chứng bệnh phong, xin Hòa thượng sám tội giúp. Sư nói:

- Đem tội ra đây ta sám cho. Người ấy im lặng giây lâu đáp:

- Tìm hoài nhưng chẳng thấy tội! Sư nói:

Vậy là ta đã sám tội cho ông rồi, ông nên theo Phật Pháp Tăng mà tục.

- Nay gặp Hòa thượng đã biết là Tăng, chưa rõ cái gì gọi là Phật, Pháp?

- Tâm này là Phật, tâm này là Pháp, Pháp Phật chẳng hai, Tăng bảo cũng vậy.

Ông nói:

Ngày nay mới biết tánh tội chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa, cũng như tâm ấy, Phật pháp chẳng hai.

Sư rất tâm đắc nói:

"Ông là của báu của ta!"

Sư liền thế phát và đặt cho tên Tăng Xán. Tăng Xán thọ Cụ túc ở chùa Quang Phước, hầu hạ sư suốt hai năm. Một hôm Sư nói với Tăng Xán: "Bồđề Đạt-ma từ nước Trúc Càn xa xôi đem Chánh pháp nhãn tạng và tín y mật truyền cho ta, nay ta trao cho ông, ông phải giữ gìn đừng để dứt mất:

Nghe ta nói kệ:

Xưa nay duyên có đất
Nhờ đất giống hoa sinh
Xưa nay không có giống
Hoa cũng chẳng từng sinh.

Phó pháp và y xong, Sư nói: "Ông nghe ta dạy, hãy ở trong núi sâu, chưa nên ra hoằng hóa, sợ rằng vướng phải nạn đời, nhưng ta cũng có túc nghiệp nay phải trả cho xong".

Nói xong, Sư đến Nghiệp đô tùy nghi nói pháp suốt ba mươi bốn năm. Sau, Sư luận vô thượng đạo ở chùa Khuông Cứu huyện Quản Thành, bấy giờ có Pháp sư Biện Hòa đang giảng kinh Niết-bàn trong chùa, học chúng dần dần đi theo Sư hết. Biện Hòa nổi giận gièm pha Sư với Ấp Tể Địch Trọng Khản, Địch bắt tội Sư, Sư nhân đó diệt độ, thọ một trăm lẻ bảy tuổi, nhằm ngày mười sáu tháng ba năm Khai Hoàng năm thứ mười ba đời Tùy Văn Đế, môn nhân an táng Sư ở Tư Châu cách huyện Phủ Dương bảy mươi dặm về phía đông bắc.

Đường Đức Tông ban Sư thụy là Thái Tổ Thiền

Sư.

 

Tân Tỵ: Trần, Thiên Gia năm thứ 2

Hậu Lương: Đại Định năm thứ 7

Chu Vũ Đế Ung, Bảo Định năm đầu

Bắc Tề, Hoàng Kiến năm thứ hai, tháng mười một đổi niên hiệu Đại Ninh

Nhâm Ngọ: Thiên Gia năm thứ 3

Sát mất, con là Khuy lên ngôi nhận mệnh nhà Chu xưng Đế, Thiên Bảo năm đầu

Bảo Định năm thứ 2

Hà Thanh năm đầu

Quý Mùi: Thiên Gia năm thứ tư, Đế mở Vô Giá pháp hội ở điện Thái cực

Minh Đế Khuy, Thiên Bảo năm thứ 2

Bảo Định năm thứ 3

Hà Thanh năm thứ 2

 

* Pháp Sư Pháp Thượng: Bắc Tề Thế Tổ Thành Đế Trạm dựng đàn trong cung thỉnh Pháp sư Pháp Thượng truyền Tam quy, Ngũ giới. Đế trải tóc dưới đất thỉnh Pháp sư đạp qua mà thăng tòa. Đế thọ giới xong, sau đó truyền tám chức quan trọng thần trong triều, hậu phi, quốc thích thọ Bồtát giới. Đế dựng chùa Báo Đức để ngài ở. Ngạn ngữ có câu: "Nơi mà Tăng bốn biển trọng vọng là đạo tràng Pháp thượng".

* Thiền Sư Tăng Thật: Sư là người mà Chu Đế vương thần hết lòng tôn kính. Một hôm Sư nói với Tăng chúng: "Tu mau pháp sự tụng Quán Âm, cứu giảng đường ở Giang Nam bị ngã đổ". Khi ấy, giảng đường ở Dương Đô thính chúng vân tập, tăng tục đông nghẹt, bỗng nghe có mùi thơm lạ và tiếng kỷ nhạc hướng Tây bắc, cả giảng đường đều lạ lùng và ra ngoài xem xét, giảng đường bỗng nhiên ngã nhào nhưng đại chúng không ai bị thương tổn. Việc này truyền đến tai Lương Chủ, rồi vang đến tai Chu Đế, mới hay nhờ phước của Sư. Ngày mười tám tháng bảy năm đó, Sư thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi, Đế than khóc rất bi thảm, hạ chiếu họa tượng Sư an trí ở chùa Đại Phước Điền để phụng thờ, cúng dường.

Giáp Thân: Thiên Gia năm thứ 5

Thiên Bảo năm thứ 3

Nhà Chu bắt đầu lệnh cho các quan phải cầm Hốt. Bảo Định năm thứ 4

Bắc Tề: Hà Thanh năm thứ 3

Ất Dậu: Thiên Gia năm thứ 6

Thiên Bảo năm thứ 4

Bảo Định năm thứ 5

Đế nhường ngôi cho Thái tử Vỹ, Đại Thống năm đầu, tháng tư đổi niên hiệu

Bính Tuất: Thiên Khang năm đầu, Tháng tư Đế mất

Thiên Bảo năm thứ 5

Bảo Định năm thứ 6

Đại Thống năm thứ 2

 

* Tùy Văn Đế trùng tu sáu mươi ngôi chùa cũ, chép năm mươi tạng kinh, độ hai vạn Tăng ni.

* Lâm Hải Vương: Húy Bá Tông, sử gọi là Phế Đế, con trưởng của Văn Đế, ở ngôi hai năm. An Thành Vương Húc theo lệnh của Chương Thái hậu phế ông xuống làm Lâm Hải Vương, Húc lên ngôi. Ông thọ mười chín tuổi, niên hiệu Quang Đại hai năm.

 

Đinh Hợi: Quang Đại năm đầu

Thiên Bảo năm thứ 6

Thiên Hòa năm thứ 2

Bắc Tề: Đại Thống năm thứ 3

 

* Thích Vong Danh: Chu Vũ Đế sắc phong ngài là Hạ Châu Tam Tạng, rồi muốn phong chức quan cho. Tháng năm Thiên Hòa năm thứ hai, Trủng Tể Vũ Văn Hộ gởi thư khuyên ngài, ngài trả lời rằng: "Giấu mình trong núi, nhiếp tâm ngoại trần vốn là chí nguyện của tôi. " Nhân đó, ngài soạn bài minh là Kim Nhân Châm Tức Tâm. trong ấy ghi: "Pháp giới có người tên Như Ý Bảo, trói thân mình, khắc ngực mình rằng: Biết nhiều, lắm việc chẳng bằng dứt ý, lo nhiều mất nhiều chẳng bằng giữ một, nghĩ nhiều chí loạn, biết nhiều tâm loạn, tâm loạn sinh phiền, chí loạn chướng đạo, hiền tài đa nghệ chính là ngu tệ, một tài một năng riêng sáng dưới trời, một nghề một nghiệp tự tại trong đời. "

+ Thiền Sư Nam Nhạc Tuệ Tư: Sư họ Lý người Vũ Tân, xuất gia với Bắc Tề Thiền Sư Tuệ Văn, từng tìm tòi kinh tạng được bộ Trung Quán Luận. Sư tỏ ngộ được diệu chỉ, liền từ xa vọng về Thiên Trúc lễ Tổ năm thứ mười bốn là Luận chủ Long

Thọ Đại sĩ làm thầy, khai mở luận Tam quán:

Không, Giả, Trung. Nguyên văn rằng: "Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo. " Lương Nguyên Đế năm Thừa Thánh năm thứ ba, Sư theo Tuệ Văn tu tập và ngộ nhận Pháp Hoa Tam-muội, Tuyền Đà-la-ni Môn, hành trì Tam tụ tịnh giới của Bồtát, không mặc gấm lụa, lạnh thì cắt cỏ khô trải dưới tòa, đạo hạnh của Sư nổi tiếng thiên hạ, người đương thời gọi Sư là Tư Đại Hòa Thượng. Sư từng bị bệnh và tư duy rằng: "Bệnh là do nghiệp sinh, nghiệp do tâm khởi, tâm duyên chẳng khởi, ngoại cảnh sao có, nghiệp bệnh và thân đều như bóng mây". Sư quán tưởng vậy xong, thấy thân an ổn nhẹ nhàng. Sư dẫn đồ chúng về nam, gặp phải nhà Lương loạn lạc, nên dừng tạm ở Thái Tô Sơn. Trần Phế Đế, niên hiệu Quang Đại năm đầu, Sư đến Nam Nhạc, và nói với đồ chúng: "Đời trước, ta từng ở đây" và Sư chỉ núi rừng nói "Đó là chùa xưa" Đồ chúng đào đất quả nhiên thấy nền chùa và vật dụng của chư tăng, đồng thời phát hiện ra di hài ở dưới hai phiến đá, họ dựng tháp lấy tên là Tam Sinh Pháp. Ngay giữa núi Nhạc họ dựng chùa Bátnhã, thế đất hổ nhảy, đất tuôn suối ngọt để Tăng chúng dùng. Trần Tuyên Đế niên hiệu Đại Kiến năm đầu, Nhạc Từ Đạo Sĩ ngầm gièm pha Sư với Trần Đế: Tăng phương Bắc nhận thỏa ước của nước Tề đến cắt đứt mạch núi, đóng đinh vào đá trấn yểm để khơi động yêu ma. Trần Đế sai sứ đến đuổi Sư. Sư cầm trượng phi thân đến triều, Đế lấy làm lạ và nghênh đón cúng dường, thỉnh Sư ở chùa Thê Huyền, hỏi luận Phật lý. Đế bắt tội đạo sĩ vì khi quân vu khống, nhờ Sư tâu xin nên đạo sĩ được miễn tội chết. Đế lệnh cho đạo sĩ phải hầu hạ cúng dường Sư. Sư tâu xin về Nam Nhạc, Đế thiết tiệc để tiễn.

Về sau, Sư dạy chúng rằng: "Nguồn đạo chẳng xa, biển tánh rất gần, chỉ tìm nơi mình, chớ tìm nơi người, tìm tức chẳng được, được cũng chẳng thật". Ngày hai mươi hai tháng sáu Đại Kiến năm thứ chín, Sư thị tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi. Những tác phẩm do Sư trứ tác đều lưu hành ở đời. Sư là Tổ năm thứ ba của Tông Pháp Hoa.

 

Mậu Tý: Trần, Quang Đại năm thứ hai, tháng mười một Đế mất

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 7

Chu: Thiên Hòa năm thứ 3

Bắc Tề: Đại Thống năm thứ tư, tháng mười một Thượng hoàng mất

 

* Cao Tổ Tuyên Đế: Tên là Húc, con năm thứ hai của Chiêu Liệt Vương, được phong An Thành Vương, nhận di chiếu phụ chánh. Đến tháng mười một năm này phế Tiểu Đế và ông lên ngôi, ông ở ngôi mười bốn năm và thọ năm mươi hai tuổi. Ông sửa sang năm mươi ngôi chùa, dựng chùa Thái Hoàng ở Dương Châu, chùa có tháp bảy tầng, đúc hai vạn tượng Phật bằng đồng, vàng, dựng chùa Sùng Hoàng, phục hồi một triệu ba trăm ngàn tượng cũ, biên chép mười hai tạng kinh, độ một vạn Tăng ni. Niên hiệu Đại Kiến mười bốn năm.

 

Kỷ Sửu: Trần, Đại Kiến năm đầu, tháng tư Phó Đại Sĩ mất

Thiên Bảo năm thứ 8

Thiên Hòa năm thứ 4

Đại Thống năm thứ 5

 

Tổ năm thứ 3: Đại sư Tăng Xán.

Không ai biết tên họ, quê quán của Sư thế nào, chỉ biết Sư với hình thức kẻ sĩ ở ẩn gặp Tổ Tuệ Khả ở Bắc Tề, Sư đến núi Tư Không, rồi ở ẩn trong núi Hoàn Công, Thư châu, ngày nay là Sơn Cốc Sơn Tự. Ba mươi năm sau, dấu tích của Sư mới dần dần hiển lộ, học giả biết và đến cầu đạo. Đời Tùy trong niên hiệu Khai Hoàng, có ông Sa-di Đạo Tín đến lạy Sư và thưa:

- Xin Đại Sư ban cho con pháp môn giải thoát!

Sư hỏi:

- Ai trói buộc ông?

- Không ai trói buộc cả.

- Không ai trói buộc thì ông đã giải thoát rồi còn cầu giải thoát làm gì nữa!

Đạo Tín nghe xong, tỏ ngộ, xin làm đệ tử. Thời gian sau, Đạo Tín qua Giang Tây, Kiết châu thọ cụ túc giới rồi trở về, Sư nói: Nay ông thọ giới rồi, đạo cũng hoàn bị, ta sắp đi đây. Đại Pháp Nhãn Tạng của Như Lai xưa, nay giao phó cho ông cùng y bát, ông phải nhận lấy, nghe ta nói kệ:

Giống hoa tuy nhờ đất
Từ đất giống hoa sinh
Nếu không người gieo trồng
Hoa, đất trọn không sinh.

Sư nói tiếp: Ông phải truyền trao, chớ để đoạn dứt, ta qua nước La-phù không lâu sẽ về.

Hai năm sau, Sư về lại sơn cốc thuyết pháp cho đồ chúng ở đây hơn một tháng rồi đứng mà thị tịch dưới gốc cổ thụ, hôm đó là ngày rằm tháng mười niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ hai, đời Tùy. Lúc ấy nhân dân chưa yên nên chưa dựng tháp Sư. Đến Đường Huyền Tông năm Thiên Giám năm thứ năm, Triệu quận Lý Thường qua làm quan ở Thư châu bèn khai quật hỏa táng thâu lấy xá-lợi dựng tháp ngay nơi Sư tịch. Việc này truyền đến triều đình, Huyền Tông ban thụy cho Sư là Giám Trí Thiền Sư, tháp hiệu Giác Tịnh. Đến triều vua sau, tướng quốc Phòng Quản soạn văn bia ghi lại rõ ràng hành trạng của Sư. Sư trứ tác Tín Tâm Minh lưu hành ở đời.

+ Tín Tâm Minh: Trong ấy đại lược ghi: "Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, cần đừng thương ghét, thấu suốt rõ ràng, sai đi mảy may, đất trời cách tuyệt, muốn được hiện tiền, chớ còn thuận nghịch". Lại ghi: "Tròn như thái hư, không thiếu không dư, bởi vì thủ xả, cho nên chẳng như". (Lại ghi: "Hai do một có, một cũng chẳng giữ, một tâm không sinh, muôn pháp không lỗi. "). Lại ghi: "Chân Như pháp giới, không người không ta, phải gấp tương ưng, chỉ nói bất nhị. Bất nhị đều đồng, thảy đều bao dung, mười phương kẻ trí, đều vào tông này". Lại ghi: "Một tức tất cả, tất cả tức một, chỉ cần như vậy, lo gì chẳng xong, tín tâm chẳng hai, chẳng hai tín tâm, đường ngôn ngữ dứt, chẳng xưa nay sau".

 

Canh Dần: Trần, Thái Kiến năm thứ 2

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 9

Chu: Thiên Hòa năm thứ 5

Bắc Tề: Vũ Bình năm đầu

 

Tề: Chiêu Huyền Thượng Thống: Pháp sư Đàm Diên được vua Tề sắc phong làm Chiêu Huyền Thượng Thống.

 

Tân Mão: Trần, Thái Kiến năm thứ 3

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 10

Chu: Thiên Hòa năm thứ 6

Bắc Tề: Vũ Bình năm thứ 2

 

+ Luật Sư Tăng Chánh: Để cầu phước cho Hiếu Thái phi họ Vô, Trần Tuyên Đế lại xây Linh Sát ở chùa Thái Hoàng, Linh Sát cao mười lăm trượng phía dưới an trí móng tay Phật, được đặt trong rương báu. Đế hạ chiếu cho chư Tăng khắp nước, những người mới thọ giới chưa đủ năm hạ đều phải đến nghe học Luật, Đế dựng đạo tràng này ở chùa lớn tại Đô Ấp, mời Luật sư Viện làm giám luật tổng quản chư Tăng, ban bố khoa điều, quan Hữu Ty cung cấp đủ cơm ăn áo mặc. Đế lại sắc phong Luật sư Viện làm Tăng chánh của cả nước.

 

Nhâm Thìn: Trần, Thái Kiến năm thứ 4

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 11

Chu: Kiến Đức năm đầu

Bắc Tề: Vũ Bình năm thứ 3

Quý Tỵ: Thái Kiến năm thứ 5

Thiên Bảo năm thứ 12

Kiến Đức năm thứ 2

Vũ Bình năm thứ 4

 

Tháng chín, Đế hạ chiếu cho Bộc xạ Từ Lăng soạn văn bia của Vụ châu Song lâm Phó Đại sĩ, lại hạ chiếu cho Bộc xạ Châu Hoằng Chánh soạn văn bia cho Xà-lê Tuệ Hòa. (theo Trần Kỷ tự ký).

Chu Đế hạ chiếu mời Thiền sư Tăng Vỹ vào kinh, Đế đích thân lãnh thọ giới pháp, lại lệnh cho hậu, phi, công khanh đều phải thọ Thập thiện, thỉnh Tăng Vỹ trụ trì chùa Thiên Bảo trong kinh thành. Đến khi Sư về Đông, Đế sắc phong Sư làm An Châu Tam Tạng. Chu Đế từng phụng Phật rất kính tín, dựng chùa, xây tháp, độ tăng, chép hơn ngàn bộ kinh, chợt bị đạo sĩ Trương Tân mê hoặc, ôm lòng hủy hoại Phật pháp. Ngày mười bảy tháng năm Giáp Ngọ, Đế hạ chiếu phế bỏ Phật giáo, rồi hạ chiếu phế luôn Đạo giáo. Pháp sư Tĩnh Ái vào cung gặp Đế, vạch rõ mọi điều không nên phá hủy chánh pháp và nói về thuyết họa phước báo ứng. Chu Đế có tâm hối cải, nhưng nhìn lại việc cũng đã làm, chiếu cũng đã ban ra, vả lại không thể làm trái được. Chu Đế tạ lỗi rồi đuổi ngài ra khỏi cung. Tĩnh Ái lui về vào núi Thái Ất soạn Tam Bảo Lục hai mươi quyển, lưu hành ở đời. (theo Phương

Chí).

 

Giáp Ngọ: Trần, Thái Kiến năm thứ 6

Thiên Bảo năm thứ 13

Chu: Kiến Đức năm thứ 3

Bắc Tề: Vũ Bình năm thứ 5

Ất Mùi: Thái Kiến năm thứ 7

Thiên Bảo năm thứ 14

Kiến Đức năm thứ 4

Vũ Bình năm thứ 6

 

* Thích Tăng An ở trong núi Vương Ốc giảng kinh Niết-bàn, lúc ấy có con trĩ mái nằm nghe. Năm đó An đến Việt châu thấy nhà nọ có đứa con gái tóc như lông trĩ, gặp ngài cứ như đã biết nhau từ lâu. Ngài biết người con gái ấy chính là con chim trĩ từng nghe giảng.

+ Hậu Lương: Minh Đế Khuy dựng những chùa ở Kinh châu như: Thiên Hoàng, Trắc Dĩ, Đại Minh, Bảo Quang, Tứ Vọng v. v...

+ Đại Sư Thiên Thai Trí Giả: Đến Kiến Khang trong năm này, Sư húy Trí Khải, tự Đức An, họ Trần, người Hoa Dung, Kinh châu. Sư xuất gia năm mười tám tuổi, đầu tiên đến núi Đại Tô yết kiến Thiền sư Tuệ Tư. Tuệ Tư mở đạo tràng Phổ Hiền tứ An lạc hạnh cho Sư. Sư tụng kinh Pháp Hoa đến câu "Chân tinh tấn ấy, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai" trong phẩm Dược Vương, Sư tỏ ngộ Pháp Hoa Tam-muội, chứng truyền Đàla-ni, thấy pháp hội Linh Sơn còn nguyên chưa giải tán. Đến khi Sư từ giả Tuệ Tư lên đường du hóa, Tuệ Tư nói: "Ông có duyên với nước Trần, qua đó ắt có lợi ích".

Lúc này là năm Ất Mùi, Sư đến Kiến Khang, ngụ tại chùa Ngõa quan mở mang Thiền pháp. Bộc xạ Từ Lăng, Thượng thư Mao Hỷ v. v... kính trọng và theo sư học yếu chỉ Thiền. Sư từng nằm mộng thấy mình lên núi cao, gặp một vị Tăng đưa tay vẫy Sư đến. Tháng chín năm đó, Sư đến núi Thiên Thai. Đại sư Định Quang ra đón Sư và hỏi: "Còn nhớ người vẫy tay hôm qua chăng?" Sư thất kinh lấy làm lạ và đảnh lễ. Từ đó Sư dựng am hành đạo. Trần Tuyên Đế hạ chiếu thỉnh Sư về kinh đô ở tại chùa Quang Trạch. Tùy Văn Đế năm Khai Hoàng năm thứ chín, nước Tần bị diệt vong, Sư đến Lô sơn. Năm Khai Hoàng năm thứ mười một, Tấn Vương Quảng cai quản vùng Giang Hoài, ngày hai mươi ba tháng mười một, Vương cai quản Kim thành ở Dương châu, thỉnh Sư mở hội truyền Bồtát giới, truy phong Sư hiệu là Trí Giả. Thời gian sau, Sư về lại Lô Sơn, Tấn Vương lại thỉnh Sư hạ sơn để giải nạn cho Tiêu phi. Sư lập trai đàn hành Quang Minh sám bảy ngày, Tiêu Phi hết bệnh, Sư về lại Lô Sơn, qua hang núi Hoành ngụ tại chùa Vương Tuyền. Ngày hai mươi bốn tháng mười một năm Khai Hoàng năm thứ mười bảy, Sư quy tịch tại chùa Thạch Thành, núi Thiên Thai, thọ sáu mươi bảy tuổi, tăng lạp bốn mươi hạ. Sư dựng cả thảy ba mươi sáu ngôi chùa lớn, sai chép mười lăm tạng kinh, trứ tác hơn trăm quyển kinh sớ, đúc tám mươi vạn tượng Phật bằng vàng, đồng, gỗ, đất; độ mười lăm ngàn tăng, tăng tục trong hơn năm mươi châu những người theo Sư thọ Bồ-tát giới không thể kể hết. Sư cho rằng, Pháp Hoa là kinh điển vi diệu của Nhất thừa, mở quyền môn của phương tiện, bày diệu lý chân thật, dung hợp hạnh nhỏ của muôn thiện, kết quy về Nhất thừa rộng lớn, Sư lập ra huyền nghĩa, đó là Ngũ trùng huyền nghĩa, gồm giải thích danh, Biện về Thể, nói rõ Tông, luận về Dụng, phân ra giáo tướng. Đời sau đều y theo cách phán giáo này và gọi đó là Thiên Thai giáo.

* Chín Tổ Của Thiên Thai: Đầu tiên, Thiền sư Nam Nhạc Tuệ Văn tìm tòi kinh tạng, được bộ Trung Quán Luận do Long Thọ Đại sĩ trứ tác, Tuệ Văn tỏ ngộ yếu chỉ, lễ Long Thọ làm thầy. Tuệ Văn khai mở pháp môn Chỉ Quán, Tam quán Không Giả Trung, đem tông chỉ Pháp Hoa truyền cho Thiền sư Tuệ Tư. Tuệ Tư truyền lại cho Đại sư Trí Giả Trí Khải. Trí Khải truyền cho Chương An Quán Đảnh, Quán Đảnh truyền cho Tấn Vân Uy, Tấn Vân truyền cho Đông Dương Uy, Đông Dương truyền cho Tả Khuê Nguyên Lãng, Nguyên Lãng truyền cho Trạm Nhiên Kinh Khê, cả thảy chín tổ. Người học đều noi theo, gọi đó là Tứ giáo pháp tánh quán hạnh tông, Thiên Thai giáo. Tôn giả Kinh Khê thị tịch trong niên hiệu Hưng Nguyên năm đầu, đời Đường Đức Tông, Hàn Lương Túc soạn văn bia, Đế phong ngài là Á Thánh của đời.

 

Bính Thân: Trần, Thái Kiến năm thứ 8

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 15

Chu: Kiến Đức năm thứ 5

Bắc Tề: Long Hóa năm đầu, đổi niên hiệu Đức Xương

 

Nhà Chu: Tháng mười năm Kiến Đức năm thứ ba, Chu Đế đem quân đánh Tề, chiếm lấy Tấn châu. Tề chủ lo sợ từ Tấn Dương lại về Nghiệp Khẩu. Tướng soái trong châu xin với An Đức Vương Diên Tông rằng: "Đại Vương không lên ngôi Thiên Tử, mọi người thật không thể đem hết sức phò tá Đại Vương được". Diên Tông bất đắc dĩ phải lên ngôi Hoàng Đế. Quân nhà Chu vây Tấn Dương, đánh chiếm Đông môn. Diên Tông đánh nhau, thua trận chạy đến Thành bắc, bị quân Chu bắt sống. Chu Đế xuống ngựa cầm tay Diên Tông nói: "Thiên Tử hai nước chẳng có thù oán, tôi chỉ vì trăm họ mà đến đây thôi, trọn không làm hại ông, xin ông đừng sợ!" Chu Đế sai người trả lại áo mão và Tề chủ đi. Chu Đế đại xá thiên hạ, bỏ phép chế nhà Tề, giữ lễ với hào kiệt văn võ. Quân nhà Chu tiến đến đất Nghiệp. Tề Chủ dẫn tôi thần vào Chu Tước môn hỏi về kế sách chống lại quân Chu. Mỗi người một ý, cuối cùng Tề chủ chẳng biết nghe theo ai. Quan đoán vận mệnh nói sẽ có sự thay đổi, Tề chủ theo lời bàn của Thượng thư lệnh Cao Nguyên Hải, làm theo việc trong năm Đại Thống là nhường ngôi cho hoàng Thái tử Hằng. Ngày mùng một tháng giêng năm Đinh Dậu, Tề Thái tử Hằng lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Thừa Quang, tôn Tề chủ làm thái Thượng hoàng Đế. Năm Nhâm Thìn quân Chu đến vây Nghiệp hạ, quân Tề ra đánh bị thua to. Tề Thượng hoàng dẫn trăm kỵ binh chạy về đông. Tề Đế đem thành ra hàng. Năm Giáp Ngọ, Chu Đế vào đất Nghiệp. Năm Ất Mùi Tề Thượng hoàng vượt sông vào Tế Châu. Hôm đó Ấu chủ nhường ngôi cho đại Thừa Tướng Nhậm thành chủ Giai, Giai hạ chiếu tôn Thượng hoàng làm vô Thượng hoàng, tôn Ấu chủ làm Tống Quốc Thiên Vương. Năm Bính Thân, Tề Thượng hoàng để Hồ Thái hậu ở lại Tế Châu rồi cùng với Mục Hậu, Phùng Thục Phi, Ấu chủ, bọn Hàn Trường Loan cả thảy mấy mươi người chạy qua Thanh châu muốn vào đất Trần. Quân Chu lén đuổi theo, Thượng hoàng, hậu, phi, Ấu chủ cùng hơn mười kỵ binh chạy về Nam, Úy Trì Cần đuổi theo và bắt hết, đưa họ cùng Hồ Thái hậu về đất Nghiệp. Bắc Tề gồm năm chủ, trị vì hai mươi tám năm thì diệt vong. Tháng tư, Chu Đế về đến Trường An phong Tề chủ làm Ôn Công.

 

Đinh Dậu: Trần, Thái Kiến năm thứ 9

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 16

Chu: Kiến Đức năm thứ 6

Bắc Tề: Ấu chủ Hăng Thừa Quang năm đầu, đất nước bị diệt vong

Mậu Tuất: Thái Kiến năm thứ 10

Thiên Bảo năm thứ 17

Chu Đế mất, con trưởng Bân lên ngôi, Tuyên Chính năm đầu, sau truyền ngôi cho Thái tử, tự xưng Thiên Nguyên Hoàng Đế

 

Bắc Tề có sáu Đại Sư dịch kinh, dịch năm mươi hai quyển Kinh Luận, có hơn hai trăm vạn tăng, dựng hơn bốn vạn chùa viện.

Chu: Tháng ba năm Kiến Đức năm thứ bảy, Đột Quyết cướp U Châu, Chu Vũ Đế thống lãnh quân binh đánh Đột Quyết, đến tháng năm vẫn chưa dẹp xong. Tháng sáu Vũ Đế về Trường An rồi chết, thọ ba mươi sáu tuổi, Thái tử Bân lên ngôi Hoàng Đế.

 

Kỷ Trần, Kiến thứ 11

Hợi: Thái năm

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 18

Chu Đế tên Xiển, đổi tên là Diễn. Đại Thành năm đầu. đổi thành Đại Tượng năm đầu.

 

Tháng giêng, Chu Tuyên Đế Bân nhận ngôi ở Lộ Môn, bắt đầu cho quần thần mặc áo mão của Hán Ngụy, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu Đại Thành, đặt Tứ Phụ Quan, phong đại trủng tể Việt Vương Thạnh làm Đại Tiền Nghi, Tương châu Tổng Quản Thục Công Uy Trì Hướng làm đại Hữu bật, Trung Sơn Công Lý Mục làm đại Tả phụ, đại Tư mã Tùy Công Dương Kiên làm đại Hậu thừa. Tuyên Đế truyền ngôi cho Thái tử Xiển đổi tên là Diễn, đổi Đại Thành là Đại Tượng năm đầu, Tuyên Đế tự xưng Thiện Nguyên Hoàng Đế. Tháng mười, Đế khôi phục lại tượng Phật và tượng Thiên Tôn. Tháng giêng năm Đại Tượng năm thứ hai, Đế hạ chiếu cho tất cả mệnh phụ phải cầm Hốt vào bái Tông miếu và Thiên Đài, đều phải cúi lạy như đàn ông. Tháng năm, Thiện Nguyên Hoàng Đế bệnh nặng, triệu Lưu Phương, Nhan Chi Nghi vào giường muốn dặn dò hậu sự nhưng ông bị cấm khẩu nói không được. Phương thấy Tĩnh Đế Diễn còn thơ dại, Hậu phụ (cha Hoàng hậu) Dương Kiên là người nổi danh nên cho làm trụ quốc. Bọn bái công Trịnh Dịch, Liễu Cừu cùng bàn nên để Kiên làm phụ chánh. Hôm đó Thiên Nguyên mất, thọ hai mươi hai tuổi. Phương giấu kín không phát tang. Phương và Dịch sửa chiếu cho Kiên nắm giữ hết việc quân mã của triều đình. Kiên thay đổi chính sách hà khắc bạo ngược của Tuyên Đế, khoan dung nhân từ hơn. Thiên Nguyên đúc hơn vạn tượng Phật, sai chép ba ngàn bộ kinh Bát-nhã, ăn chay, giữ tám giới, niệm Phật chuyên cần.

Trần: Năm này, Trần Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Trí Khải dời về ở tại chùa Quang Trạch. Tùy Văn Đế năm Khai Hoàng năm thứ mười một, Tổng trấn Giang Hoài là Tấn Vương Quảng, tức Dương Đế, ngày hai mươi ba tháng mười một, ở Dương châu tổng quản Kim Thành, vương thỉnh Sư lập đạo tràng truyền Bồ-tát giới. Sư đặt pháp danh cho vương là Tổng Trì, Vương truy tôn Sư hiệu Trí Giả. Danh xưng Đại sư Trí Giả bắt nguồn từ đó. Trí Giả thường dùng Ngũ thời Bát giáo để phán thích Thánh giáo đương thời của Trung Quốc, thâu tóm tất cả. Ngũ thời gồm:

1. Thời Hoa Nghiêm.

2. Thời Lộc Uyển nói về bốn bộ A Hàm.

3. Thời Phương Đẳng nói về các kinh như: Duy-ma, Tư Ích, Lăng-già, Kim Quang Minh, Thắng Man v. v...

4. Thời Bát-nhã nói về các bộ kinh Bát-nhã như: Ma-ha Bát-nhã, Quang Tán Bát-nhã, Kim Cang Bát-nhã.

5. Thời Pháp Hoa, Niết-bàn.

Bát giáo gồm: Đốn, Tiệm, Bí mật, Bất định, Tạng, Thông, Biệt, Viên. Đốn v. v... bốn giáo trước là Hóa Nghi, giống như phương thuốc ở đời. Tạng v. v... bốn giáo sau là Hóa Pháp, giống như biện về vị thuốc.

1. Đốn giáo: Kinh Hoa Nghiêm dụ như mặt trời mọc, trước tiên chiếu trên núi cao, đây là thời thứ nhất. Kinh Niết-bàn v. v... dụ như từ bò cho ra sữa, tức là từ Phật lưu xuất ra mười hai phần giáo.

2. Tiệm giáo: Ba thời từ đây trở xuống có ba vị, nên gọi chung là Tiệm. Đầu tiên là ở Lộc uyển, Phật nói giáo pháp của Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ v. v... đứng về thời thì đây là lúc mặt trời rọi vào hang tối, tức thời năm thứ hai. Đứng về vị thì đây là từ sữa cho ra lạc (cao sữa) tức từ mười hai phần giáo cho ra chín bộ kinh. Kế đến nói về Phương Đẳng bộ gồm Tịnh Danh Kinh v. v... chê Thiên bài Tiểu, khen Đại khen Viên, nói đủ cả Tứ giáo.

Tạng là Bán tự giáo. Thông, Biệt, Viên là Mãn tự giáo. Đứng về thời thì đây là đúng Ngọ (giờ ăn) tức thời năm thứ ba. Đứng về vị thì đây là lạc cho ra sinh tô (váng sữa). Giai đoạn này từ chín bộ hình thành ra Phương Đẳng. Tiếp theo nói về Bát-nhã, đứng về thời thì đây gọi là Ngu Trung (bóng nắng lệch về Tây mười dặm so với giờ ngọ) tức thời năm thứ tư. Đứng về vị thì từ sinh tô cho ra thục tô (sữa chín). Giai đoạn này từ sau thời Phương Đẳng cho ra Ma-ha Bát-nhã.

3. Bí mật giáo: Ba thời kỳ thuyết giáo của Như Lai không thể nghĩ bàn, do người này nói là Đốn, người kia bảo là Tiệm, hai bên chẳng biết nhau, nhưng hay khiến cả hai bên đều lợi ích gọi là Bí mật.

4. Bất Định giáo: Từ trong bốn vị trước, Phật dùng Nhất âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy chủng loại nghe hiểu. Sức chẳng nghĩ bàn ấy hay khiến cho chúng sinh trong Tiệm thuyết được lợi ích của Đốn, trong Đốn thuyết được lợi ích của Tiệm, do được lợi ích không đồng nên gọi là Bất định giáo. Kế đến nói về Pháp Hoa, khai mở Đốn Tiệm ấy mà thể nhập vào chẳng Đốn chẳng Tiệm nên gọi là khai quyền hiển thật, hay còn gọi là phát quyền lập thật, hội tam quy nhất, kinh gọi là "Trong cõi Phật mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba. " Đó chính là bỏ phương tiện, chỉ nói về Vô thượng đạo. Đứng về thời thì mặt trời đúng ngọ, không hề có bóng nghiêng, đây là thời năm thứ năm. Đứng về vị thì từ thục tô cho ra đề hồ (sữa đông đặc). Giai đoạn này từ Ma-ha Bátnhã lưu xuất ra Pháp Hoa, khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, trao Tam thừa cho con người và thọ ký tất cả chúng sinh sẽ thành Phật. Kế đến nói về Đại Niếtbàn. Có hai nghĩa:

1. Diễn nói Tứ giáo cho con người chưa chứng đắc, nói rõ về Phật tánh khiến họ viên mãn chân thường vào Đại Niết-bàn, nên gọi đây là Quấn thập giáo (nhặt nhạnh).

2. Vì để hàng độn căn trong đời sau ở trong Phật pháp khởi tâm đoạn diệt thấy biết sai lầm như hoại diệt tuệ mạng, đánh mất pháp thân, diễn nói ba loại Quyền giáo để dựng dậy Nhất thật viên giáo, nên gọi đây là phù luật đàm thường (dựng luật nói Thường). Luận về thời và vị thì nó đồng với Pháp Hoa.

Tứ giáo thuộc Hóa Pháp:

1. Tam Tạng giáo: Một là Tu-đa-la tạng (Tạng kinh) gồm các kinh như bốn bộ A-hàm v. v... Hai là Tỳ-đàm tạng (Luận Tạng) gồm các luận như Câu-xá, Tỳ-bà-sa v. v... Ba là Tỳ-ni tạng (Luật Tạng) gồm năm bộ luật. Tên gọi của Tam tạng thông cả Đại thừa, Tiểu thừa, nay chỉ nói đến Tam tạng của Tiểu thừa, đó là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

2. Thông giáo: Thông cả ba Tạng giáo trước và Biệt, Viên ở sau.

3. Biệt giáo: Là giáo giới ngoại chỉ có pháp của Bồ-tát. Về giáo, lý, tri, đoạn, hạnh, vị, nhân, quả của nó khác hẳn ba giáo trước, khác hẳn Viên giáo sau nên gọi là Biệt.

4. Viên giáo: Vì Viên danh, Viên diệu, Viên mãn, Viên túc, Viên đốn nên gọi là Viên giáo. Điều gọi là Viên phục, Viên tín, Viên hạnh, Viên đoạn, Viên vị, Viên tự tại trang nghiêm, Viên kiến lập chúng sinh, các Kinh Luận Đại thừa nói về cảnh giới Phật không chung cùng với thứ lớp của Tam thừa đều thuộc về giáo này. Nghĩa là Pháp Hoa là kinh vi diệu nhưng có lắm người chấp giáo theo kiểu hóa thành, trệ tình theo kiểu Thích Thảo Am, khai mở quyền môn phương tiện, bày diệu lý chân thật, dung hợp hạnh nhỏ của muôn thiện, kết quy về Nhất thừa rộng lớn, Sư lập ra Huyền nghĩa, lấy tên là ngũ trùng gồm giải thích danh, biện về thể, nói rõ tông, luận về dụng, phân ra giáo tướng. Danh thì nêu cả pháp và dụ, đó là diệu pháp Nhất thừa tức là bản tánh của chúng sinh ở trong vô minh phiền não nhưng không bị nhiễm, giống như hoa sen trong bùn nhơ nhưng bản chất thường sạch nên lấy hoa sen đặt tên. Kinh này khai quyền hiển thật, phát quyền lập thật, hội quyền quy thật, giống như hoa sen có cái nghĩa hàm dung, khai, tàn; giống như hoa sen mang nghĩa ẩn hiện kết hạt, đó cũng chính là từ Bản bày Tích, từ Tích hiển Bản. Phàm đề kinh không ngoài bảy loại đơn phức của nhân, pháp, dụ. Đơn có ba loại, phức có ba loại và một loại Cụ túc thâu nhiếp tất cả. Danh là Diệu Pháp liên Hoa kinh đây là một trong ba loại phức, vì có cả Pháp và Dụ. Danh là để gợi đến Thể, Thể chính là Thật tướng, nghĩa là tất cả tướng nếu lìa Thật tướng thì không có Thể. Tông này là nhân quả Nhất Thừa, khai thị ngộ nhập tri kiến Phật là trên hết. Dụng là lực dụng, lực dụng của nó nhằm khai mở và thể nhập. Sau cùng là phán giáo tướng để luận về pháp giáo cả một đời của Phật, phán chia thành Ngũ thời Bát giáo. Giáo lý đã rõ ràng nhưng không có quán hạnh thì không thể trở về lại với bản tánh, nên phải dựa vào lý không, giả, trung của tam đế hay tam chỉ tam quán, nhất nhất chỉ quán tâm, niệm niệm bất khả đắc. Trước không, kế là giả và sau là trung, lìa nhị biên mà quán Nhất tâm, giống như trăng ở ngoài mây, đây là hành tướng của Biệt giáo. Lại nói: "phá tất cả hoặc, không gì hơn không, lập tất cả pháp không gì hơn giả, rốt ráo tất cả tánh không gì hơn Trung. Một Trung thì tất cả Trung, không có Giả, không có Không nào mà chẳng Trung. Không và Giả cũng như vậy, đây là hành tướng của Viên giáo. Như ba con mắt của Ma-hê-thủ-la thiên, chẳng phải khác với ngang dọc. Tam quán viên thành thì pháp thân chẳng trống không. Vì lo người học đời sau mù mờ trong việc tu tánh, hoặc rơi vào Thiên chấp, nên ngài lại lập ra nghĩa của Lục tức để cắt đứt mối lo đó. Lục tức gồm:

1. Lý tức Phật: Chúng sinh trong mười pháp giới cho đến nhộng tằm đều bẩm thọ diệu tánh, từ xưa đến nay thường trụ trong giác thể thanh tịnh, trong tánh nhất lý viên mãn, bình đẳng.

2. Danh tự tức Phật: Tuy lý tánh bình đẳng nhưng do trôi lăn nên chẳng biết lực dụng hằng ngày, cần phải mượn ngôn giáo bên ngoài huân tập, được nghe danh tự, sinh lòng tin, phát tâm hiểu.

3. Quán hạnh tức Phật: Khi đã nghe danh xưng là hiểu biết rồi phải nhờ Tam quán để trở về cội nguồn.

4. Tương tợ tức Phật: Công năng quán hạnh sâu thì phát ra diệu dụng tương tợ.

5. Phần chứng tức Phật: Ba tâm đã khai phát thì chứng đắc diệu dụng của Chân như, ngôi vị dần dần thù thắng.

6. Cứu cánh tức Phật: Đoạn sạch vô minh, giác tâm viên mãn, chứng vô sở chứng.

Sáu giai vị trên đều đã tức Phật chẳng thiếu chẳng thừa, đủ cả ba thân Pháp, Báo, Hóa làm Chánh báo, tùy duyên ở bốn cõi làm Y báo. Bốn cõi ấy gồm: Thường tịch quang pháp tánh độ là nơi Pháp thân cư trú. Thật báo vô chướng độ nhiếp thọ hai thứ thọ dụng: Tự thọ dụng độ thì Báo Phật tự ở, tha thọ dụng độ thì Đăng Địa Bồ-tát ở. Phương tiện hữu dư và Tịnh uế đồng cư độ đều là Ứng hóa độ, là nơi Bồ-tát trước vị Thập địa, Nhị thừa, phàm phu cư trú. Kỳ thật thì chẳng phải thân, chẳng phải độ, không hơn không thua, vì đối với cơ duyên nên giả lập ra thân độ, rồi phân ra hơn kém. Ngài đã chứng đắc thân độ dung nhau, Quyền Thật vô ngại nên hơn ba mươi năm ngài ngày đêm diễn nói, sinh đủ bốn lợi ích, viên mãn bốn Tất-đàn. Tất có nghĩa biến khắp, Đàn được dịch là bố thí. Pháp của ngài ban thí cho khắp hữu tình, tùy căn cơ đều được lợi ích. Như nói: Thế giới Tất-đàn sinh Hoan hỷ ích. Hành trạng của ngài trong lúc bình sinh, xem trong năm Ất Mùi thì rõ. Trong bộ Thỉ Chung Tâm Yếu của Tổ Thiên thai năm thứ chín là Tôn giả Kinh Khê ghi: Tam đế là tánh đức tự nhiên. Trung đế là thống nhiếp tất cả pháp, Chân đế là mẫn diệt tất cả pháp, Tục đế kiến lập tất cả pháp, nêu một tức đủ ba, chẳng trước chẳng sau. Chúng sinh vốn đầy đủ không phải nhờ tạo tác mà được. Than ôi! Bí tàng không biểu hiện là do ba hoặc lấp che, nên vô minh che lấp pháp tánh, trần sa ngăn ngại hóa đạo, kiến tư hoặc trở ngại không tịch, thế nhưng bản chất của ba hoặc này đều là hư vọng. Vì thế Đại Giác từ tôn bùi ngùi than rằng: "Trong cõi Chân Như dứt sạch giả danh của sinh vật, trong tuệ bình đẳng không có hình tướng tự tha, chỉ vì chúng sinh vọng tưởng không tự chứng đắc nên không thể trở về. " Bởi vậy, ngài lập ra Tam quán để phá Tam hoặc, chứng Tam trí thành tựu Tam đức. Không quán phá kiến tư hoặc chứng Nhất thiết Trí thành tựu Bát-nhã đức. Giả Quán phá trần sa hoặc chứng Đạo chủng trí thành tựu Giải thoát đức. Trung Quán phá Vô minh hoặc chứng Nhất thiết chủng trí thành tựu Pháp thân đức. Nhưng Tam hoặc, Tam quán, Tam trí, Tam đức này chẳng phải khác nhau chẳng phải khác thời, vì lý tự nhiên đó đầy đủ các pháp. Nhưng tánh của Tam đế này nó vốn như vậy, mê Tam đế thì chuyển thành Tam hoặc, hoặc phá nhờ Tam quán, quán thành thì chứng Tam trí, Trí thành thì thành tựu Tam đức. Từ nhân đến quả không phải tiệm tu. Nói để mà biết thứ lớp chứ lý chẳng có thứ lớp, lưới lớn đã như vậy thì mắt lưới có thể tìm ra.

 

Canh Tý: Trần, Thái Kiến năm thứ 12

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 19

Chu: Đại Tượng năm thứ 2

 

Tháng hai, Chu Đế hạ chiếu: "Phật pháp rộng lớn, xưa cùng tôn sùng, lẽ đâu nay chôn vùi phế bỏ mà không theo. Từ nay, vương công cho đến lê dân đều nên tu trì để tỏ rõ ý Trẫm. "

 

Tân Sửu: Trần, Thái Kiến năm thứ 13

Thiên Bảo năm thứ 20

Chu: Tháng giêng đổi niên hiệu Đại Định, tháng hai nhường ngôi cho Tùy

Tùy nhận ngôi nhà Chu. Khai Hoàng năm đầu

 

Tháng hai năm Đại Tượng năm thứ hai, Chu Tĩnh Đế cho đại Thừa Tướng Tùy Công Dương Kiên làm tướng quốc, tổng quản trăm quan, phong tước Vương, đem hai mươi quận như An Lục v. v... làm nước Tùy, khen lạy chẳng kêu tên, đủ lễ Cửu tích nhưng Kiên chỉ nhận tước và mười quận mà thôi. Tháng giêng năm Tân Sửu, Tĩnh Đế đổi niên hiệu Đại Định. Tháng hai, thông trực tán kỵ Dữu Quý Tài khuyên Tùy Vương nên thuận ý trời mà nhận ngôi Thái phó Lý Mục, đại tướng quân Lư Bí cũng khuyên Vương. Thế rồi Chu Đế hạ chiếu nhường ngôi và ra ở cung riêng, lệnh cho Kỷ Công Thung đem ngọc tỷ của Hoàng Đế và chiếu nhường ngôi cho Tùy. Nhà Chu gồm năm chủ, trị vì hai mươi lăm năm. Tùy Vương nhận ngọc tỷ, vào điện Lâm Quang, mặc áo đội mão giống như lễ nghi của Nguyên Ngụy, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu Khai Hoàng, bỏ lục quan của nhà Chu, theo phép cũ của Hán Ngụy, phong Chu Đế làm Giới Công, chín năm sau Giới Công mất.

* Tùy Đế họ Dương tên Kiên, người Hoa Âm, Hoằng Nông, là cháu mười bốn đời của Hán thái úy Dương Chấn. Cha ông là Trung ban đầu thờ Chu Văn Đế nhiều lần lập chiến công, làm quan đến chức Thái phó, Tùy Quốc Công Kiên được tập phong. Chu Đế cưới con gái của Kiên làm phi cho Thái tử. Thái tử tức Tuyên Đế. Tĩnh Đế lập Kiên làm phụ chánh, Kiên nhận ngôi nhà Chu, lấy hiệu Hỏa đức, đóng đô ở Trường An. Tháng ba niên hiệu Khai Hoàng năm đầu, Đế hạ chiếu: "Từ Ngũ Nhạc trở xuống đều phải dựng một ngôi chùa". Tháng bảy Đế hạ chiếu rằng: "Kính vâng, Thái Tổ Vũ Nguyên Hoàng Đế ba đời làm quan tạo dựng đế nghiệp cho ta, ngưỡng vọng thần minh, sự ngầm chân tịch, nghĩ muốn rộng Sùng Bảo Sát, mở rộng Già-lam, tăng trưởng nhân phước, hầu giúp diệu chỉ. Tương Dương, Tùy Quận, Giang Lăng, Tấn Dương đều phải lập một ngôi chùa, dựng bia ca tụng đức, mỗi năm đến ngày quốc kỵ phải thiết trai hành đạo, thọ Bát quan trai, sám hối, thờ phụng thần linh. " Tháng tám, Đế lại hạ chiếu: "Năm xưa đạo nhà Chu suy, giặc giã nổi khắp, Trẫm tự tay luyện binh trừ hết yêu mị, những người tiết nghĩa liều mình quên thân dưới làn gươm giáo, nghe có người chết, Trẫm nghĩ đó là quần sinh phải chịu khổ binh đao, ôm lòng chí đạo, mang tâm độ thoát, nghĩ lập phước điền pháp lực giúp ngầm, mong thần dân chết trận căn lành tăng trưởng những kẻ phản nghịch từ tối vào sáng, đều thấu khổ không, đều cứu sinh tử. Trên chiến địa ở Tương Châu nên dựng một ngôi Già-lam. " Đối với những người dân phạm pháp đã mãn hạn, Đế dẫn dắt bọn họ thiết trai cúng dường. Mùa đông năm đó, Sa-môn Trí Châu v. v... từ Tây Vực về dâng 260 hai trăm sáu mươi Phạm bản kinh cho Đế. Đế lệnh giao cho Hữu Ty rồi mời người phiên dịch. Tùy Đế ở ngôi hai mươi bốn năm, thọ sáu mươi bốn tuổi. (theo

Tùy Thư Đế Kỷ)

 

Nhâm Dần: Trần, Thái Kiến năm thứ mười bốn, tháng giêng Đế mất

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 21

Tùy: Khai Hoàng năm thứ 2

 

Tháng sáu, Tùy Đế hạ chiếu cho dựng đô ấp ở núi Long Thủ, Trường An. Thành lấy tên là Đại Hưng, điện cũng lấy tên là Đại Hưng, chùa lầy tên là Đại Hưng Thiện. Đế cho dân trong nước được phép xuất gia, nhưng phải tính theo nhân khẩu bỏ tiền ra để tạo dựng kinh tượng, phong Pháp sư Đàm Diên làm Chiêu Huyền Thượng Thống, sắc lệnh cho dịch kinh, lại sắc phong Pháp sư Tăng Mãnh trụ trì chùa Đại Hưng Thiện, sau tấn phong Tùy Quốc Đại Thống Tam Tạng Pháp Sư. Lúc chưa nhận ngôi, Đế đi qua hết bốn mươi châu, lúc này Đế dựng bốn mươi chùa Đại Hưng Quốc Tự trong các châu ấy.

Hậu Chủ: Húy Thúc Bảo, con trưởng Tuyên Đế, tháng giêng năm Nhâm Dần ông lên ngôi Hoàng Đế. Tháng chín, ông mở pháp hội Vô Ngại ở điện Thái cực, xả thân xuất gia, rồi xa giá về triều lại. Ông ở ngôi bảy năm, thọ năm mươi hai tuổi.

Niên hiệu Chí Đức bốn năm.

 

Quý Mão: Trần, Chí Đức năm đầu

Hậu Lương: Thiên Bảo năm thứ 22

Tùy: Khai Hoàng năm thứ 3. Tháng ba dời về Tân Đô

 

Tùy: Tháng giêng, Đế hạ chiếu: "Trẫm sùng kính Thánh giáo, nghĩ giữ cơ đồ, những chùa chiền bị triều Chu phế bỏ, đều nên trùng tu". Đế lại ban sắc lệnh: "Hiếu sinh ghét sát là gốc của vương chính, Phật đạo ban giáo, nghiệp thiện đáng nương, súc dưỡng hàm linh, chỉ mạng là quan trọng, nên khuyến hóa thiên hạ đồng lòng cứu hộ. " Các chùa viện trong kinh thành cho đến các châu do quan lại lập ra, trong tháng giêng, tháng năm, tháng chín thường tổ chức đạo tràng hành đạo từ mồng tám đến rằm. Trong ngày đó, muôn dân gần xa, hễ loài có sinh mạng thì không được giết. " Đế lại ra chiếu thỉnh Pháp Sư Minh Thiệm phiên dịch kinh văn, trụ trì chùa Đại Hưng Thiện, lại sắc lệnh cho Thích Tuệ Viễn làm Lạc Châu Sa-môn Thống.

 

Giáp Thìn: Chí Đức năm thứ 2

Thiên Bảo năm thứ 23

Khai Hoàng năm thứ 4

 

Tháng ba, Tăng thống Bảo Quỳnh nước Trần thị tịch, thọ 81 tuổi, Đế lệnh cho Hữu Ty chu cấp lễ vật an táng, nhưng dùng nghi vệ trụ trượng của Thiên Tử để trang hoàng.

Do sinh ra từ nơi nền cũ của Bát-nhã ni tự, nên Tùy Đế dựng lại chùa Đại Hưng Quốc tự để cầu phước cho Thái Tổ Vũ Nguyên Hoàng Đế và Nguyên Minh Hoàng Thái hậu.

 

Ất Tỵ: Chí Đức năm thứ 3

Thiên Bảo năm thứ 24, tháng năm Khuy mất, Thái tử Tông nối ngôi

Khai Hoàng năm thứ 5

 

Tùy Đế thỉnh Pháp sư Kinh để thọ Bồ-tát giới. Đế hạ chiếu rằng: "Trẫm xưa tu nhiều phúc, kính nối mệnh báu nên mới muốn về nương chánh giác, kính sùng quả Thánh. Nay thỉnh Pháp sư Kinh vào điện Đại Hưng Thiện để truyền Bồ-tát giới. Nhưng giáo lý của Bồ-tát lấy giải thoát làm đầu, gốc của giới hạnh lấy Từ bi làm trước, nay nhà tù tăm tối, trẫm thường áy náy, từ tội đày trở xuống đều được phóng thích. "

Đế lại ban lệnh: "Phật đem chánh giáo phó chúc quốc vương, Trẫm là người kính nhận Phật phó chúc, từ nay về sau đến hết đời Trẫm, mỗi tháng thường mời mười bốn vị Tăng luân phiên đọc kinh, gồm bốn kinh sư, ba vị Đại đức, đọc tụng tất cả kinh văn tại điện Đại Hưng Thiện.

 

Bính Ngọ: Chí Đức năm thứ 4

Hậu Lương: Tống, tức Cử Công, Quảng vận năm đầu

Khai Hoàng năm thứ sáu, Thục Vương Tú và Phi Cơ thỉnh Thích Pháp Tiến vào cung truyền giới

Đinh Mùi: Trinh Minh năm đầu

Quảng Vận năm thứ 2

Khai Hoàng năm thứ 7

 

+ Trần, năm Trinh Minh. Tống Tư Trị Thông Giám tránh tên húy miếu hiệu của Nhân Tông Hoàng Đế nên ghi là Tường Minh, nay theo bản cũ.

+ Tùy, tháng tám, triệu Lương chủ vào triều. Lương chủ dẫn quần thần của mình sang Giang Lăng, Tùy Đế thấy Lương chủ vẫn tại ngoại, nên sai Vũ Hương Công Thôi Hoằng Độ đem binh đánh Giang Lăng. Thúc phụ của Lương chủ là An Bình Vương Nham sợ Hoằng Độ đánh úp, nên đuổi hết văn võ, nam nữ hơn mười vạn người chạy qua Trần. Tùy Đế nghe tin phế bỏ nước Lương, bái phong Lương chủ Tông làm Trụ Quốc, ban cho tước Cử Công. Ba vua của Hậu Lương đều sùng kính Phật pháp, dựng nhiều chùa tháp, gồm một trăm lẻ tám ngôi chùa, độ ba ngàn hai trăm Tăng ni.

* Trần, trong năm Chí Đức, Pháp sư Tuệ Bố dựng chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn, Kiến Khang. Trần Đế và các vương đều thọ giới với ngài tôn thờ ngài như Phật. Ngài thị tịch hai mươi ba tháng mười một năm này.

* Tùy Đế mời Pháp sư Đàm Thiên, Đế hạ chiếu: "Hoàng Đế kính thăm Từ Châu Đàm Thiên Pháp Sư, nhờ lòng tin cần giáo pháp lợi lạc vô biên, thừa phong thưởng đức, thật mong tưởng hoài, xin Pháp sư đến ngay cho, đáp lại mong cầu lao nhọc của Trẫm. " Đàm Thiên vào kinh hoằng dương rộng giáo pháp.

 

Mậu Thân: Trần, Trinh Minh năm thứ hai, tháng năm phế Thái tử Dận làm Ngô Hưng Vương, lập con của Trương Quý Phi là Thâm lên làm Thái tử

Tùy: Khai Hoàng năm thứ tám, tháng mười cử đại binh đánh Trần.

Kỷ Dậu: Trinh Minh năm thứ ba, diệt vong

Khai Hoàng năm thứ chín, Tùy Đế thống nhất thiên hạ

 

* Lý Sĩ Khiêm: Ông mất năm Khai Hoàng năm thứ tám. Sĩ Khiêm tự Tông Ước, thuở nhỏ mồ côi cha, thờ mẹ rất kính hiếu. Tộc trưởng của ông là Bá Dương thường khen: "Đứa trẻ này là Nhan tử của ta". Trong ngót ba mươi năm ông thường cho thuốc và giã ngũ cốc, rất ham Phật lý, động tĩnh đều lấy giới định thúc liễm. Có người bảo ông tu âm đức, Khiêm cười đáp: "Phàm âm đức nó giống như tai nghe tiếng, chỉ mình biết mình, ngoài ra không ai biết được. Nay những gì tôi làm Nhân giả đều biết thì làm gì có âm đức". Sĩ Khiêm rất giỏi về biện luận lý màu, có người nghi thuyết báo ứng của Phật, Sĩ Khiêm dẫn dụ rằng: "Ông nghe kinh Dịch ghi: Tích thiện thì vui mãi, tích ác tai ương hoài, đó lẽ đâu chẳng phải là minh chứng cho việc dứt lỗi đó ư!" Khách lại hỏi tam giáo hơn kém thế nào, Sĩ Khiêm đáp: "Phật là mặt trời, Đạo là mặt trăng, Nho là năm sao". Khách nghe xong, tỉnh ngộ. Kỷ dậu: Trinh Minh năm thứ ba diệt vọng Khai hoàng năm thứ 9, Thiên hai thông nhất.

* Tháng giêng (năm Kỷ Dậu) Trần Đế có được Tùy Lô châu tổng quản Hàn Cầm Hổ, Tùy Đế hạ chiếu cho san bằng thành ấp cung thất ở Kiến Khang, lại Tưởng Châu Ban Sư ở thành Thạch Đầu, sai trưởng sử hữu bộc xạ Tư mã Vương Thiều trấn giữ Thạch Đầu. Tháng ba cùng vương công, bá quan đến Kiến Khang, tháng tư họ đến Trường An. Tùy Đế cấp tặng Trần chủ rất hậu, nhiều lần cho dẫn gặp, Ban đồng quan tam phẩm. Năm Nhân Thọ năm thứ tư, Trần chủ mất, Đế ban hiệu đại tướng quân Trường thành huyện công, thụy là Dương Đế.

Nước Tần có ba người dịch kinh, dịch hai trăm quyển Kinh Luận, dựng một ngàn hai trăm ba mươi hai ngôi chùa, đất nước có mười bảy ngôi chùa mới, trăm quan dựng cả thảy sáu mươi tám ngôi, ba trăm ngôi chùa lớn trong thành, ba vạn hai ngàn Tăng ni.

Nhà Trần gồm năm chủ, trị vì ba mươi ba năm, đất nước về nhà Tùy.

* Nhà Tùy: Họ Dương, lấy hiệu Hỏa Đức, đóng đô ở Trường An, gồm Cao Tổ Văn Hoàng Đế, Dương Đế, Cung Đế, Việt Vương Đồng (em Cung Đế) đổi niên hiệu Hoàng Thái năm đầu.

+ Cao Tổ Văn Đế: Húy là Kiên, nhận ngôi từ nhà Chu (xem trong năm Tân Sửu về sau). Khai Hoàng hai mươi năm, Nhân Thọ bốn năm.

Mùa Xuân năm Canh Tuất, tức Khai Hoàng thứ mười, Đế xa giá đến Tấn Dương ban sắc lệnh: "Từ năm Khai Hoàng thứ mười về trước những Tăng ni được độ riêng đều cho phép xuất gia. Từ nay về sau, lệnh cho hoàng tử năm thứ tư là Thục Vương Tú dựng chùa Thắng Quang ở kinh đô". Đế hạ chiếu thỉnh Pháp sư Đàm Thiên cùng đồ chúng ở đó, nhận sự cúng dường của Vương.

* Thiền sư Trí Thuấn: Hồi ấy, Sư thờ Thiền sư Trù ở núi Bạch Lộc, năm thứ mười Sư về bắc, vào núi Tán Hoàng, thanh danh vang xa. Năm ấy Đế hạ chiếu: "Hoàng Đế kính thăm Triệu châu, Chương Hồng Sơn, Trí Thuấn Thiền sư, đạo thể khinh an, dẫn dắt quần sinh, khiến mau thành tựu, Trẫm rất vui mừng. Trẫm mở rộng chánh pháp, đêm không giải đãi. Nay sai Khai phủ Lô Nguyên Thọ đến tuyên ý Trẫm, cùng tặng vật thơm. " Tháng mười một, Đế hạ chiếu "Như Lai bày giáo, nghĩa lý bình đẳng, Bồ-tát dụng tâm vốn không sai khác, nên hay dìu dắt phàm tình, tế độ muôn loại. Trẫm ở ngôi nhân vương, nối tiếp Tam bảo, thường luận chí lý, hoằng dương Đại thừa, các pháp rỗng rang không thể bỉ ngã, huống gì là phước nghiệp lại có chung, riêng. Từ nay hễ bồi lập công đức khắp trong vòm trời, thầy cứ tự do thi thiết theo ý của mình, mong chớ sinh nghi, ngõ hầu tất cả pháp môn đồng về Bất nhị, mười phương thế giới đều đến Bồ-đề". Năm này Pháp sư Đàm Diên thị tịch, ngài là thầy của Đế ba triều. Trước khi lâm chung, ngài dâng biểu từ biệt Đế, phó thác Đế làm người ngoại hộ. Đế khóc rất bi thương, trăm quan mặc tang phục tống táng. Nội sử Tiết Đạo Hành soạn văn tế, đại lược ghi: "Xưa gặp đạo mất, lưới huyền rơi rụng, gởi tâm núi sâu, vững chắc chẳng lay, ngôi cao lộc hậu không thể thay đổi lòng, pháp chế nghiêm khắc không đủ sinh hoảng sợ. Thánh hoàng mở vận, tượng pháp lại hưng, đứng đầu chúng Tăng, tước cũng cao nhất, khép lòng kính của quân vương, mở đạo nghĩa thầy trò, Tam bảo nhờ đó được hộ khắp, Nhị đế nhờ vậy được tuyên dương, tin chắc ngài đủ để theo vết tích Đồ Trừng, La-thập, vượt xa Đạo An, Tuệ Viễn vậy".

Tháng hai mùa Xuân năm thứ mười ba, Đế hạ chiếu xây cung Nhân Thọ ở phía Bắc Chính châu, phủ Phụng Tường, Thiểm Tây. Thục Vương Tú đi săn ở đồng hoang Chính Châu, ngựa bỗng rớt vào cái lò nung cổ, trong lò đầy ắp tượng Phật, Bồ-tát. Đế nghe tin liền hạ chiếu, các tượng ấy phải rước hết về quan phủ, kiểm soát chặt chẽ rồi đưa hết về chùa mới, nhân dân quanh vùng mỗi người góp một tiền giao cho quan để trang sức tượng. Đế soạn sớ văn rằng: "Ngày tám tháng mười hai, đệ tử Phật, Tùy Hoàng Đế Dương Kiên kính bạch mười phương Tam bảo, ngưỡng mong Như Lai hoằng đạo cứu độ hàm linh, đoạn nguồn tà ác, mở đường thiện nhân, để triều đình muôn dân có nơi nương tựa. Đời Chu loạn lạc, khinh miệt Thánh tích, phá hủy chùa tháp, đốt phá kinh tượng, làm cho người ngu không có người dẫn dắt, kẻ trí chẳng biết đâu tìm bậc linh Thánh. Đệ tử xưa nhờ nhân duyên Tam bảo, nay được vận thịnh, làm cha mẹ dân, cứu giúp bá tánh, nêu rõ dung tôn, kính sùng thần hóa, nền hư vách đổ đã được sửa sang, tượng gãy kinh hư đều cho khắc soạn. Đệ tử nay đối trước Tam bảo chí tâm sám hối. Nhà Chu đập tượng đốt kinh, khinh tăng phá chùa tội nặng như thế con xin sám hối kính cúng mười hai vạn tấm lụa để chuộc tất cả tội đập tượng đốt kinh, xin Tam bảo chứng minh cho con sám hối. Hoàng hậu cũng cúng ngần ấy lụa, từ vương công đến trưởng quan chủ tướng, tá sử châu huyện, Tăng ni các chùa, tôn túc trong kinh, cho đến lê dân mỗi người cúng tiền, hôm sau thiết trai kính trùng tu kinh tượng".

Đế lại hạ chiếu: "Dưới chân núi nổi tiếng của các châu mỗi nơi dựng một chùa Tăng, cấp cho trang điền". Năm thứ mười bốn, Đế ban lệnh: "Trong khắp nước chỉ cần có chùa núi từ một tăng trở lên đều được cấp tên chùa, những nơi tự xây lấy cùng tên đó". Đế lại mời Sa-môn Pháp Kinh và hai mươi Đại đức soạn Chúng kinh mục lục, bảy quyển, nêu chung chín bộ lục, phân ra phẩm loại. Pháp sư Đàm Sùng dựng tháp Phật cao mười một tầng. Ngày mười ba tháng mười, ngài không bệnh mà tịch. Tháng mười Đế hạ chiếu, những nơi tế tự do Bắc Tề, Hậu Lương, Trần phá hủy, lệnh cho Cao Nhân Anh Túc Tông, Trần Thúc Bảo theo mùa mà sửa sang cúng tế, mọi vật dụng chi phí do Hữu Ty chu cấp. Trần Thúc Bảo theo Đế lên Mang Sơn ở Lạc Dương hầu uống rượu ngâm thơ phú. Thơ rằng: "Nhật nguyệt soi đức trời, núi sông vững Đế ở, thái bình không vì báo, mong vua ghi Đông phong". Thúc bảo dâng biểu xin Phong Thiền, Đế vui mừng hạ chiếu đáp lời. Năm thứ mười lăm, Đế thấy Tăng ni thường bị lỗi lầm, luật do Phật chế không cho thế tục xem, mới lệnh cho Hữu Ty căn cứ kinh Đại tiểu thừa, lấy những lời cấm chế cho Sa-môn, rút ra chép hết lại lấy tên Chúng Kinh Pháp Thức mười quyển, khuyên nhắc xuất gia tránh ác làm lành. Đế và Hoàng hậu dựng Liên Cơ phù đồ ở Pháp Giới Ni Tự trong kinh thành, phía dưới an trí xá-lợi Phật. Tháng bảy tháp phóng Đại quang minh. Đế thỉnh Thiền sư Pháp Thuần vào kinh truyền giới cho Hoàng hậu. (Tam Bảo Kỷ).

Đế gởi thư cho Sa-môn Tuệ Tắc v. v... ở chùa Song Lâm, Vụ châu. Thư ghi: "Trẫm làm vua thiên hạ, trùng hưng giáo pháp, muốn cho Tam bảo trường tồn, bốn loài nhờ phước, nghĩ đến các thầy tuyên dương đạo Thánh, rất xứng đức dày".

Năm thứ mười sáu, Đế thỉnh Luật sư Hồng Tuân giảng luật. Lúc này mọi người chỉ chuộng Luật Tăng-kỳ, Sư liền mở rộng Tứ phần, dần dần ai nấy đều thích học. Tháng giêng năm năm thứ mười bảy, Sa-môn Bảo Quý đem hết những bản kinh mới dịch từ Khai Hoàng Đến nay dâng lên Đế, Đế tự tay soạn bài tựa. Học sĩ dịch kinh Phí Trường Phòng, người Thành Đô, ban đầu làm tăng, đến khi Chu Vũ Đế hủy diệt Phật pháp, ông hoàn tục, Tùy lên nắm thiên hạ nhưng ông vẫn làm cư sĩ không xuất gia nữa, lúc này ông tham dịch làm Bút Thọ về Từ Nghĩa. Ngày hai mươi ba tháng mười hai năm này, ông dâng Đế bộ Lịch Đại Tam Bảo Kỷ mười lăm quyển do mình soạn, Đế hạ chiếu cho lưu hành. Bộ Kỷ này ghi đủ các kinh và dịch giả của nhiều đời. Năm này, nhóm họp hết Tăng ni được độ riêng trong cả nước cho thọ giới hết. Năm thứ mười tám, Đế lại gởi thư cho Sa-môn Tuệ Tắc v. v... ở chùa Song Lâm, Vụ châu, thư ghi: "Trẫm nhận mệnh trời, nuôi dưỡng lê dân, tôn sùng Tam bảo, hết mình cứu giúp, mong hàm linh mười phương nhờ phước nghiệp này đều lên nơi nhân thọ. Các thầy tuyên dương Thánh giáo cho khắp quần sinh, tinh cần khổ hạnh, rất vừa ý Trẫm, lợi lạc vô ngần, chớ từ lao nhọc".

Tháng hai năm thứ mười chín, Luật sư Trí Văn tịch. Năm năm thứ hai mươi, Đế hạ chiếu, những kẻ phá hủy tượng Phật bị ghép vào tội ác nghịch.

Năm Tân Dậu, tức Nhân Thọ năm đầu, khi Đế chưa lên ngôi từng gặp Phạm Tăng trao cho một bọc Xá-lợi Phật. Tháng ba năm đó, Đế ra sắc lệnh cho ba mươi châu như: Kỳ, Ung, Thái, Hoa, Tung, Hoành v. v... mỗi châu đều dựng tháp xá-lợi.

Tháng sáu Đế hạ chiếu: "Ngưỡng mong Chánh giác Đại từ đại bi cứu hộ chúng sinh, dẫn dắt hàm thức. Trẫm quy y Tam bảo, trùng hưng Thánh giáo, muốn cùng bốn biển đồng tu phước nghiệp, mãi tạo nhân lành, đồng lên diệu quả. Nay thỉnh ba mươi tám Sa-môn am tường pháp tướng đủ sức hoằng hóa, mỗi vị dẫn hai thị giả một tản quan (quan có hàm nhưng không có chức) mang một trăm hai mươi cân Huân lục hương, chia đường để đưa xá-lợi qua khắp ba mươi châu để dựng tháp. Mỗi châu chọn ba trăm sáu mươi tăng cùng thần dân trong nước vì Trẫm mà hành đạo bảy ngày, hạn chót đến giờ Ngọ ngày rằm tháng mười, rồi cùng hạ hòm đá, đọc văn sám hối. Bồ-tát giới đệ tử Hoàng Đế Kiên kính bạch Tam bảo. Kiên nhờ sức Tam bảo làm vua cha muôn dân, nay xin phân chia xá-lợi dựng tháp, nguyện vì chúng sinh sám hối tội nặng". Giờ Ngọ ngày rằm tháng mười, Đế ngự tại điện Đại Hưng, đứng quay mặt về phía Tây, tay cầm ngọc khuê, thỉnh tượng Phật và ba trăm sáu mươi Sa-môn cầm tràng phan, bảo cái, trỗi nhạc, từ Đại Hưng Thiện tự nghinh về đến điện, Đế đốt hương lễ lạy, tất cả bá quan văn võ đều ăn chay. Khi xá-lợi Phật đã nhập tháp xong, Đế nói: "Phật pháp trùng hưng tất có cảm ứng. Lúc đó sứ giả của ba nước Cao Ly, Bá tế, Tân La sắp về nước, họ đều xin thỉnh xá-lợi về nước mình dựng tháp cúng dường. Đế đồng ý cho. Ngày hai tháng mười hai, Đế nghinh ba mươi hột xá-lợi vào bình lưu ly để trong hộp vàng, đưa về Trường An, Đại Hưng Thiện tự dựng tháp. Tăng tục đến vạn ức người nghinh đón đến chùa, mở pháp hội Vô-giá. Đế Kiền thành sám hối.

Tháng giêng năm thứ hai, Đế lại phân chia xálợi cho năm mươi ba châu như: Kỳ, Thiểm, Hằng, Hàng v. v..., cách thức dựng tháp cũng giống như trước, kỳ hạn đến giờ Ngọ tháng Tư Đồng an trí hòm Xá-lợi. Rằm tháng năm, ở Ung Châu trời mưa hoa báu mạt vụn như vàng. Rằm tháng bảy, chùa Diên Hưng ở Trường An đúc tượng Phật bằng vàng đồng cao một trượng sáu, trời mưa hoa báu mạt vụn như bạc.

Tam tạng Xà-na-bạt-đa người Thiên Trúc dịch những bộ kinh như Hộ Quốc v. v... trong năm này. Ngài dịch tổng cộng ba mươi chín bộ, một trăm chín mươi hai quyển. Đế hạ chiếu thỉnh Phiên Kinh Học sĩ, Sa-môn ở chùa Hưng Thiện soạn Chúng Kinh Mục Lục năm quyển, gồm chung năm bộ lục rồi tùy loại phân ra.

Năm thứ ba, Hoàng hậu mất, Đế dựng tháp bảy tầng, dựng chùa Thiền Định ở Tây nam Kinh Ấp, ban sắc chỉ cho Hữu Ty thỉnh Thiền sư Thiên trụ trì, hạ chiếu thỉnh một trăm hai mươi Thiền sư danh đức trong cả nước cùng ở và hành đạo.

* Văn Trung Tử Vương Thông vân du về Tây, đến Trường An, gặp Đế trong điện Thái Cực, tâu lên mười hai điều khiến thiên hạ thái bình, nội dung tôn phò vương đạo, đẩy cao nghiệp bá, xét cổ bàn kim. Đế rất vui nói: "Ta già rồi cũng chẳng sống bao lâu nữa". Đế đưa sách lược đó xuống bàn với công khanh, công khanh không thích lắm. Thông biết mưu lược của mình không được dùng, bèn làm bài ca Đông Chinh rồi trở về, nối tiếp Thi Thư, sửa lại lễ nhạc, tu sửa Nguyên kinh, tán Dịch đạo, chín năm thì hoàn thành Lục kinh. Môn nhân từ xa đến học gồm: Đổng Thường ở Hà Nam, Diêu Nghĩa ở Thái Sơn, Đỗ Như Hối ở Kinh Triệu, Lý Tĩnh ở Triệu quận, Trình Nguyên ở Nam Dương, Đậu Uy ở Phù Phong, Tiết Thâu ở Hà Đông, Giả Quỳnh ở Trung Sơn, Phòng Huyền Lịch ở Thanh Hà, Ngụy Trưng ở Cự Lộc; Vương Khuê, Ôn Ngạn Bác ở Thái Nguyên, Trần Thúc Đạt ở Dĩnh Xuyên, họ đều tôn ông làm thầy, quay mặt về bắc nhận đạo giúp đế vương, ngoài ra những người tới lui thọ học lên đến hơn ngàn người. Giả Quỳnh hỏi: Làm sao diệt phỉ báng? Ông đáp: Không biện luận. Làm sao dứt oán? Ông đáp: không tranh giành. Vương Thông nói tiếp: nghe phỉ báng mà giận là kẻ lừa bịp sàm tấu, kẻ được khen mà vui là thói môi giới gian nịnh. Dứt lừa bịp, bỏ môi giới, thì cách xa sàm tấu, dua nịnh vậy.

Hồi đó, Dương Đế nhiều lần mời nhưng ông không đến. Năm Đại Nghiệp năm thứ mười ba, ông bị bệnh, nghe Dương Đế bị hại, ông bùi ngùi rồi bất chợt nói: "Muôn dân ghét loạn lâu rồi! Có người muốn mở vận Nghiêu Thuấn nhưng ta không còn sống với họ được" sau đó ông mất, môn nhân truy thụy là Văn Trung Tử. Ông từng đứng ở giữa mà lập luận định nghị Luận ngữ. Trong thiên Chu Công ông nói: Thi Thư thịnh nhưng nhà Tần diệt vong, không phải lỗi của Khổng Tử; Huyền Hư phát triển nhưng nhà Tấn loạn, không phải tội của lão Trang; tu trai giới nhưng Lương diệt vong, không phải tội của Thích-ca. Kinh Dịch đâu chẳng nói: "Nếu không phải người ấy thì đạo chẳng hành suông". Có người hỏi đến Phật, ông đáp: Thánh nhân. Hỏi: Đạo ấy thế nào? Ông đáp: Giáo của phương Tây, Trung Quốc lại chấp nê. Ông nói tiếp: Xem Hoàng Đế rất thích bàn luận, Tam giáo vì thế là một rồi.

Em ông là Vương Tích cũng viết sách, lấy hiệu là Đông Cao Tử. Văn Trung Tử giảng đạo ở Khe Bạch Ngọ, đệ tử cầm sách quay mặt về bắc sắp thành hàng xung quanh nhà học. Giảng xong, Trình Sinh lui ra nghiền ngẫm dưới gốc tùng, khi bàn đến Chu Dịch, Tiết Thâu than: Chẳng bằng họ Phục Hy thì nhiều lời làm gì! Lúc bấy giờ có một người vác cỏ linh thoăn thoắt đi tới vất cỏ xuống ngồi nghỉ rồi hỏi: Ông than cái gì? Tiết Thâu đáp: Ông là ai mà lại hỏi tôi than? Người vác cỏ đáp: Phàm lệ chu có màu đỏ, thêm mực thì đen, rồi dần dần thành đen. Nay cái ông uống vào là đạo mà vẫn còn than, thì lục phủ ngũ tạng không thể tiếp nhận, bởi vậy ta mới hỏi. Tiết Thâu nói: Thâu tôi nghe thầy mình dạy, Dịch là cái sâu xa của đạo, Phục Hy họa ra Bát quái rồi Văn Vương thêm vào, tôi không thấu đạt được văn nên than. Người vác cỏ Linh nói: "Văn vương nào có bệnh mà Phục Hy là người bệnh nặng. Xưa Phục Hy chưa họa Bát Quái thì Tam tài lẽ nào chẳng lập, Tứ tự lẽ đâu chẳng vận hành, trăm vật lẽ đâu chẳng sinh, vạn tượng há chẳng sum suê? Vậy thì quần đi quần lại làm gì, họa thật uổng phí. Từ khi Phục Hy làm tiết lộ bí mật của đạo, làm lậu cơ thần, chia bày thái hòa, phân chẻ nguyên khí khiến người trí trong thiên hạ dối đạo nghịch xuất, rằng ta giỏi bàn tượng lại biết vật tình, âm dương giao thoa, xa gần cùng hội, lập ra thuyết cương nhu đồng dị để hù dọa chí người. Vì thế, biết nhưng chẳng biết lại phát tán hết rồi, cho nên Phục Hy mới là mầm loạn, ông đâu thể than hoài rồi trách cứ Văn Vương". Nói xong, người ấy vác cỏ đi. Thâu chạy theo hỏi tên họ, chỗ ở nhưng ông ta không đáp. Văn Trung Tử nghe được nói: "Ôi! Người ở ẩn!"

Tháng giêng năm Giáp Tý, tức Nhân Thọ năm thứ tư, Đế hạ chiếu: "Trẫm nay nhận mở vận, dưỡng dục muôn dân, tuân thờ Thánh giáo, trùng hưng pháp thiện. Như Lai đại Từ che chở hàm linh, đều thấy xá-lợi, dẫn dắt hàm thức. Trẫm đã phân bố cho khắp nơi đều dựng linh tháp. Trong số đó vẫn còn các châu chưa có xá-lợi, nay lại thỉnh chư Đại đức phụng nghinh xá-lợi đến các châu ấy, dựng tháp giống cách thức trước để cùng muôn dân đồng hưởng phước nghiệp". Đế hạ sắc lệnh cho Luật sư Pháp Tuân v. v.. nghinh xá-lợi đến hơn ba mươi châu khác như Bác châu, Giáng châu v. v.. tất cả đều theo cách thức trước, hạn chót là mồng tám tháng Tư Đồng loạt an trí xá-lợi. Đế sắp đi tránh nóng ở cung Nhân Thọ, Thuật Sĩ Chương Cừu Đại Dực can gián nhưng Đế không nghe, liền xa giá đến cung Nhân Thọ. Tháng tư Đế bị bệnh, tháng bảy thì mất, Thái tử Quảng lên ngôi. Đế từng chép bốn mươi sáu tạng kinh gồm một trăm ba mươi ngàn quyển, từng khắc bốn trăm bộ kinh cũ, đúc hơn sáu vạn tượng bằng vàng, đồng, chiênđàn, sửa sang lại hơn một triệu năm trăm lẻ chín ngàn tượng cũ. Trong cung số tượng được thêu, dệt, vẽ đơm kết tràng ngọc năm màu thật không đếm xiết, trùng tu hơn năm ngàn ngôi chùa viện, đạo tục dịch kinh gồm hai mươi bốn người, dịch hơn năm trăm quyển Kinh Luận (Thính giáo lục).

*Dương Đế: Tên là Quảng, con năm thứ hai của Cao Tổ Văn Đế, được phong Tấn Vương. Năm Khai Hoàng năm thứ hai mươi, phế Thái tử Dũng lập Quảng là Hoàng Thái tử. Tháng bảy năm Nhân Thọ năm thứ tư, ông lên ngôi, ở ngôi mười ba năm, bị Lịnh Cô Hành Đạt thắt cổ ở Giang Đô, thọ ba mươi chín tuổi. Niên hiệu Đại Nghiệp mười bốn năm.

Tháng Giêng năm Ất Sửu, tức Đại Nghiệp năm đầu, Đế dựng Tây Thiều Định tự để cầu phước cho Cao Tổ, lại dựng chùa Giáng Thánh ở Cao Dương, gởi thư cho Song Lâm Phó Đại sĩ ở Vụ châu. Thư ghi: "Trẫm kính thừa vận báu dưỡng dục muôn phương, muốn mở mang đức hóa lan khắp phương xa v. v... ". Bắt đầu đặt khoa Tiến sĩ. Tháng ba, Đế hạ chiếu: "Cho phép chọn người mưu lược được dân ngợi khen và thứ dân có tài sung vào phán định việc được mất của chánh sự, nay chuẩn bị đến khắp các vùng Hoài Hải để xem xét và thay đổi phong tục". Lệnh cho bọn Vũ Văn Khải, nội sử xá nhân Phong Đức Nghệ dựng cung Hiển Nhân, Nam giáp Trác Tương, bắc đến Lạc Tân, đốn chở các thứ gỗ quý đá quý ở phía Nam Đại Giang, phía Bắc Ngũ Lĩnh về hết Lạc Tân. Lại tìm gỗ quý, hoa thơm cỏ lạ, thú hiếm chim quý khắp trong nước thả đầy trong thượng uyển. Lại sai Thượng thư hữu thừa Hoàng Phủ Nghi phát động dân chúng các quận Hoài Bắc trước sau hơn trăm vạn dân khai thông kênh ngòi. Từ Tây Uyển dẫn qua Lạc Thủy rồi đổ ra Hoàng Hà, lại từ Bản Chử dẫn nước qua đầm Lịch Vinh rồi vào sông Biện. Lại từ phía Đông Đại Lương dẫn nước sông Biện vào sông Tứ đến sông Hoài. Lại phát động hơn mười vạn dân ở Hoài Nam mở bờ cừ, thông kênh ngòi. Từ Sơn Dương đến Dương Tử vào Trường Giang, kênh rộng bốn mươi bộ, hai bên làm đường và trồng liễu. Từ Trường An đến Giang Đô đặt hơn bốn mươi Ly Cung. Lại sai bọn hoàng môn thị lang Vương Hoằng qua Giang Nam đóng thuyền rồng và mấy vạn thuyền lớn khác. Tháng năm, dựng Tây Uyển, chu vi hai trăm dặm, bên trong đào biển rộng hơn mười dặm, lập phương trượng, các núi Bồng Lai nhô khỏi mặt nước hơn một trăm thước, đài quán, cung điện mọc đầy trên núi, dựa lưng vững chãi. Phía bắc biển có kênh Long Lân uốn quanh chảy vào trong biển, trên bờ kênh cho xây mười sáu viện, cửa đều hướng ra kênh. Mỗi viện đều do phu nhân của quan tứ phẩm làm chủ. Điện đường, lầu quán cực kỳ tráng lệ. Cây cối trong cung, mùa Đông mùa thu điêu tàn thì cắt hái hoa lá nơi khác kết lên cành nhánh, ngả màu liền thay hoa mới, màu sắc tươi như sắc xuân. Trong kênh rạch cũng thường cắt tỉa sen, súng, lăng, ấu v. v... cởi thuyền dạo chơi thì rẽ nước mà hái. Nhà vua càng thích dạo chơi đêm trăng đem theo cả mấy ngàn cung nữ, kỵ binh lên chơi Tây Uyển, soạn Thanh dạ du khúc lập tức tấu lên. Tháng tám, Đế xa giá đến Giang Đô phát động người trong cung Hiển Nhân ra Lạc Khẩu đón thuyền rồng. Thuyền rồng gồm bốn tầng, cao bốn mươi lăm thước, dài hai trăm thước. Tầng trên có chánh điện, nội điện, triều đường đông tây. Hai tầng giữa có một trăm hai mươi phòng đều trang sức bằng vàng ngọc. Tầng dưới cùng là bọn nội thị ở. Hoàng hậu cỡi thuyền Tường Ly, kích thước nhỏ hơn nhưng lộng lẫy không kém. Người chèo thuyền đều mặc gấm lụa. Lại có mấy ngàn thuyền khác như: Phù Cảnh, Dạng Thái, Chu Ô, Thương Ly, đến hơn tám vạn người chèo, mái chèo nối nhau dài hơ hai trăm dặm, chiếu sáng cả bờ sông. Kỵ binh xếp hàng đi trên hai bờ sông, cờ xí rợp trời. Mỗi lần Đế xuất du, nghi trượng cờ xí thường xếp dài hơn hai mươi dặm.

Tháng ba năm thứ hai, Đế rời Giang Đô, tháng tư vào Đông Kinh, lập đạo tràng mở Vô Giá pháp hội, độ một trăm hai mươi sĩ nữ, làm Tăng ni, đúc tượng Phật Thích-ca ngồi bằng vàng đồng để cầu phước cho Văn Đế, dựng chùa Hoằng Thiện ở Tinh châu, tượng Di-đà ngồi cao một trăm ba mươi thước ở núi Bàng Long, lập đạo tràng Tuệ Nhật ở Dương Châu, chùa Thanh Thiền, Nhật Nghiêm, Hương Đài ở Trường An. Lại dựng hai chùa hai tháp, dựng riêng hai chùa nữa để cầu phước cho Văn Hoàng Hiến Hậu, tu sửa sáu trăm mười hai tạng kinh cũ, gầm chín trăm lẻ ba ngàn năm trăm tám mươi quyển, mười một ngàn pho tượng cũ, đúc ba ngàn tám trăm năm mười sáu pho tượng mới, độ mười sáu ngàn hai trăm tăng. Mỗi lần tuần du, Đế thường đem theo Tăng ni, đạo sĩ, nữ quán, và gọi đó là Tứ đạo tràng.

Ngày hai mươi tám tháng giêng năm thứ ba, Đế thiết trai và dâng sớ rằng: Hoàng Đế Bồ-tát giới đệ tử bạch khắp Tam bảo, kính cẩn vì muôn dân trong nước dựng lập thắng duyên, thỉnh tăng hành đạo bảy ngày, độ một ngàn tăng, nguyện đem công đức này khắp vì chúng sinh làm thanh tịnh tội cấu, cùng đến Bồ-đề.

Tháng ba Đế về Trường An, do pháp lệnh những năm cuối của Cao Tổ quá khắt khe, Đế xuống chiếu chỉnh sửa lại luật lệnh. Từ lâu, dân quá chán ghét khắt khe nên rất vui với chính sách khoan dung. Lữ kỵ úy Lưu Huyễn tham dự chỉnh sửa pháp lệnh, sử bộ Thượng thư Ngưu Hoằng ôn tồn hỏi Huyễn:

-Chu lễ sự nhiều nhưng Phủ sử thì ít, nay Lệnh sử trước đã có nhiều gấp trăm lần giảm thì chẳng nên việc, phải làm thế nào?

Huyễn đáp: Người xưa giao trách nhiệm cả năm khảo xét Điện, Tối. (Công thấp thì gọi là Điện, Công cao thì gọi là Tối), án chẳng kiểm lại, văn chẳng rườm rà, trách nhiệm của Phủ sử cần phải nắm những mục chính. Thời nay Văn bộ thường lo sửa lại, nếu tập luyện không kỹ thì phải vượt vạn dặm tìm chứng cứ. Án cũ của trăm năm tồn đọng nguyên do là vậy.

Đế đổi châu thành quận, đổi phép đong lường, đo đếm theo phép chế thời xưa, đổi từ thượng trụ quốc đến hạ quan thành đại phu, đặt Điện Nội Tỉnh ở Thượng thư môn hạ. Nội sử bí thư thành Ngũ Tỉnh, tăng người yết kiến tư lệ đài và ngự sử thành tam đài, chia Thái phó tự, đặt Thiếu phủ giám và Trường thu quốc tử tướng, đặt Đô thủy làm Ngũ Giám. Lại đổi thêm Tả hữu dực vệ thành mười sáu phủ. Phế bỏ tước Bá, Tử, Nam chỉ giữ lại ba tước Vương, Công, Hầu. Hạ chiếu phát động hơn trăm vạn tráng đinh xây Trường thành, Tây giáp Du Lâm, đông đến Tử Hà. Thượng thư tả bộc xạ Tô Uy can gián, Đế không nghe, xây hai mươi ngày thì xong. Tháng tám Đế xa giá đến Du Lâm, qua Vân Trung sông Xích Kim. Lúc này thiên hạ yên bình, trăm vật dồi dào, giáp sĩ hơn năm mươi vạn, ngựa mười vạn con. Tháng chín Đế đến Đông Đô. Năm thứ tư, Đế xuống chiếu cho phía Bắc Phần Dương, đầu nguồn Phần Châu xây Phần Dương Cung. Tháng giêng năm thứ năm, đổi Đông Kinh thành Đông Đô, hạ chiếu chia ruộng cho dân. Tháng ba Đế tuần du lên phía Tây. Năm thứ sáu, Đế ban lệnh đào thông Sông Giang Nam, từ Kinh Khẩu đến Dư Hàng hơn tám trăm dặm, rộng hơn mười trượng nhằm để thuyền rồng qua lại. Đế còn đặt Dịch quan muốn tuần du về Đông là Cối Kê. Tháng hai năm năm thứ bảy, Đế từ Giang Đô xa giá đến Trác quận. Năm Nhâm Ngọ hạ chiếu đánh Cao Ly, muôn dân nhiễu loạn. Dân ở Trâu Bình là Vương Bạc dồn dân chiếm lấy núi Trường Bạch, cát cứ hết vùng Tề, Tế, tự xưng là Tri Thế Lang, soạn Vô Hướng Liêu Đông Lãng Tử Ca để khích lệ mọi người, những người trốn chinh chiến đều đến quy tụ ông. Năm thứ tám, binh bốn phương kéo đến Cao Ly, Bình Nhưỡng lên đến một triệu một trăm ba mươi ba ngàn tám trăm người. Binh xa đến đất Liêu, các thành của Cao Ly đều giữ chặt không xuất binh. Ban đầu, chín đội quân sang đất Liêu gồm ba trăm lẻ năm ngàn người, đến khi Đế về đến thành Liêu Đông chỉ còn hai ngàn bảy trăm người, quân lương khí giới mất không kể xiết. Tháng tư năm thứ chín, Đế cho Vệ úy thiếu khanh Lý Uyên làm Lưu Thú của huyện Hoằng Hóa. Binh lính của mười ba quận ở Quan Hữu đều bị đi chinh chiến hết. Tháng hai năm thứ mười, Đế hạ chiếu cho bá quan bàn nghị đánh Cao Ly, đến mấy ngày nhưng chẳng ai dám lên tiếng. Năm Mậu Tý, Đế xuống chiếu trưng dụng hết quân trong nước chia đủ trăm đường cùng tiến binh. Cao Ly khốn đốn liền sai sứ xin hàng, Đế mới ban Sư về lại Tây Kinh. Tháng giêng năm thứ mười một, tăng số quan trong bí thư tỉnh lên đến một trăm hai mươi người, đồng thời bổ nhiệm học sĩ vào trong ấy, hạ chiếu cho Hữu Kiêu vệ tướng quân Đường Công Lý Uyên làm Thái Nguyên lưu thú, cho Vương Uy, Cao Quân Nhã làm phó tướng. Đế xa giá đến Giang Đô. Lúc này đói khổ, muôn dân phải ăn đến vỏ cây, lá cây., hoặc giã rơm rạ mà nấu ăn. Muôn thứ cũng hết sạch mới ăn thịt nhau. Đế bị giết ở Giang Đô.

Năm Đinh Sửu tức Đại Nghiệp năm thứ mười ba tháng mười một đổi niên hiệu Nghĩa Ninh năm đầu, Cung Đế lên ngôi.

* Cung Đế: Húy là Hựu, con của Nguyên Đức Thái tử Chiêu cháu của Dương Đế, được phong Đại Vương. Dương Đế đi tuần du sai Đại Vương ở lại giữ Trường An, lúc này ông mới mười ba tuổi. Tấn dương lưu thú Đường Công Lý Uyên khởi binh, Vương sai các tướng đánh chặn nhưng đều thua chạy. Tháng mười một, Uyên chiếm Trường An, đưa Đại Vương lên ngôi Hoàng Đế ở điện Thiên hưng, đổi năm Đại Nghiệp năm thứ mười ba thành Nghĩa Ninh năm đầu, xa tôn Dương Đế thành thái Thượng hoàng. Uyên từ Trường lạc vào Trường An, do Uyên mượn cờ mao búa việt đại Đô đốc nội ngoại chư quân sự Thượng thư lệnh đại Thừa Tướng nên liền được phong đường vương, lấy điện Vũ đức làm phủ Thừa Tướng, lập ra các quan, dùng Bùi Tịch làm trưởng sử, Lưu Văn Tỉnh làm Trưởng mã, con Uyên là Kiến Thành làm Đường Thế tử, con thứ là Thế Dân làm Kinh Triệu Doãn Tần Công, con năm thứ ba là Nguyên Kiết là Tề Công.

 

Ngụy Công Lý Mật chiếm Lạc Khẩu năm Vĩnh Bình đầu hàng Đường

Hạ, Đậu Kiến Đức (năm Đinh Sửu)

Lương: Lý Quỹ chiếm Lương Châu (năm An Tập)

Lương: Tiêu Tiễn chiếm Ba Lăng (năm Thiên Phụng)

Tần: Tiết Cử chiếm Kim Thành (năm Thái Hưng)

Định Dương Khả Hãn Lưu Vũ Chu chiếm Mã Ấp (năm Thiên Hưng)

Ngô: Lý Tử Thông chiếm Giang Đô.

Lương: Lương Sư Đô chiếm Sóc Phương (năm Vĩnh Long)

Sở: Chu Xán xưng đế.

 

Năm Mậu Dần, tức Nghĩa Ninh năm thứ hai,

Đại Nghiệp năm thứ mười bốn, tháng giêng, Dương Đế ở Giang Đô thấy thiên hạ ngụy loạn nhưng chẳng để tâm mà muốn về bắc nên sai sửa lại cung Đan Dương muốn dời đô về đó. Lúc này Giang Đô hết lương, quân theo xa giá ở Kiêu Quả phần nhiều là người Quan trung, đã lâu làm khách nên nhớ quê hương, thấy Đế không có ý về Tây nên đa số bàn mưu làm phản để trở về. Tư mã Đức Kham, Nguyên Lễ Bùi Kiền Thông bàn rằng: "Kiêu Quả nếu mất, chẳng bằng hãy cùng đi với tôi. " Họ cùng bàn với Vũ Văn Trí Cập, Trí Cập nói: "Nay trời đã thật bỏ Tùy, anh hùng nổi lên khắp nơi, người đồng lòng làm phản đã đến mấy vạn rồi, nhân đây hãy làm việc lớn đế vương này đi!" Bọn Đức Kham đều cho là đúng, tôn Vũ Văn Hóa Cập làm chủ. Đức Kham triệu hết quan quân ở Kiêu Quả lại và phủ dụ họ biết ý định của mình, họ đều nói: "Xin nghe lệnh của tướng quân". Ngày Bính Thìn tháng ba, trời chưa sáng, Đức Kham dẫn binh của Kiền Thông đánh vệ sĩ giữ các cửa, Kiền Thông dẫn mấy trăm kỵ binh từ cửa vào thẳng điện Thành Tượng. Bọn Đức Kham dẫn quân từ cửa Huyền Vũ vào. Đế nghe loạn, liền đổi y phục trốn đến Tây Các. Kiền Thông cùng Nguyên Lễ tiến binh. Hiệu úy lệnh Cô Hành Đạt vác đao vừa tới nhân đó đỡ đế xuống lầu đến tẩm điện. Bọn Kiến Thông, Đức Kham chống gươm đao đứng hầu. Đế than: "Ta có tội gì mà ra nông nỗi này!" Tặc Đảng Mã Văn Cử đáp: Bệ hạ trái bỏ tông miếu, tuần du không ngớt, ngoài siêng chinh phạt, trong quá xa sỉ, khiến tráng đinh chết sạch dưới cung tên. Nữ vùi đầy nơi hoang hốc. Bốn dân mất việc, giặc nổi như ong, chuyên dùng dua nịnh, bỏ người can ngăn, sao bảo không có tội". Tặc muốn giết Đế, Đế xin uống rượu độc nhưng không được, Tặc sai Cô Hành Đạt thắt cổ ông. Tiêu Hậu và cung nhân đẽo gỗ sơn thành quan tài nhỏ tẩm liệm Đế ở Tây Viện, Lưu Châu Đường. Hóa Cập tự xưng đại thừa Tướng, tổng quản trăm quan, theo lệnh Hoàng hậu lập Tần Vương Hạo làm Đế, cho ở cung riêng, chỉ sai cho phát chiếu chỉ, viết sắc lệnh mà thôi. Vũ Văn Hóa Cập mất năm Đường Vũ Đức năm thứ hai. Vũ Văn Chí Cập và Phong Đức Di hàng nhà Đường. Tùy Cung Đế hạ chiếu lấy mười quận cho thêm nước Đường và cho Đường Vương làm Tướng quốc tổng quản trăm quan, nước Đường được đặt quan từ Thừa Tướng trở xuống, lại gia phong Cửu Tích, nhưng Đường Vương không nhận, chỉ đổi phủ Thừa Tướng thành phủ tướng quốc, còn cửu tích và những lễ khác đều trả lại cho Hữu Ty. Tháng tư tin dữ của Dương Đế Lan đến Trường An, tháng năm lan đến Đông Đô, quan lưu thú đưa Việt Vương Đồng (em Cung Đế) lên ngôi, đổi niên hiệu Hoàng Thái, cho Vương Thế Xung là Tả Bộc xạ, tổng đốc nội ngoại chư quân sự. Uy thế của Thế Sung chấn động trong ngoài, Hoàng thái chủ chỉ biết khoanh tay mà thôi. Thế Sung vốn theo Dương Đế ở Giang Đô, Lý Mật làm phản, Dương Đế sai Sung đem hùng binh của Giang Hoài đến Đông Đô đánh Mật, nhân đó giữ Sung lại Đông Đô. Tháng năm, Mậu Ngọ, Tùy Cung Đế nhường ngôi cho Đường Vương, lui về ở tại Đại Để. Tháng

Giáp Tý, Đường Vương Uyên lên ngôi Hoàng Đế ở điện Thái cực, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu, đổi quận thành châu, đổi Thái thú thành Thứ sử. Tháng sáu, phụng Tùy Đế làm Huề quốc công. Đường Vương hạ chiếu: "Những đời gần đây, thời vận thay đổi, thân tộc đời trước chẳng ai không bị tru di, hiệu lực của sự hưng vong đâu chỉ là sức người! Con cháu của Tùy Thái Vương Trí Tích đều giao cho Sở Ty xét tài năng mà tuyển dụng họ".

Nhà Tùy gồm ba chủ, trị vì ba mươi bảy năm, thiên hạ hỗn loạn suốt hai mươi chín năm, đất nước cuối cùng về nhà Đường.

QUYỂN 3

*Nhà Đường: Họ Lý, lấy hiệu Thổ Đức, đóng đô Trường An, Huyền Tông đổi Trường An thành phủ Kinh Triệu, đến Túc Tông đổi thành Thượng Đô. Nhà Đường gồm: Cao Tổ, Thái Tông, Cao Tông, Tắc Thiên, Trung Tông, Duệ Tông, Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông, Đức Tông, Thuận Tông, Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông, Văn Tông, Vũ Tông, Tuyên Tông, Ý Tông, Hy Tông, Chiêu Tông, Cảnh Tông (tức Ai Tông), Bộc Vương (do Chu Toàn Trung lập, sau đó chuốc độc ông, ở ngôi một năm, niên hiệu Thiên Thọ. Bản Kỷ không chép việc một năm của Bộc Vương).

*Cao Tổ: Húy là Uyên, tự là Thúc Đức, người Thành Kỷ Lũng Tây. Ông nội ông là Hổ và tám người gồm Lý Bật v. v.. đều giúp Tây Ngụy và được phong Thượng trụ quốc. Chu Mẫn Đế nhận ngôi của Tây Ngụy, truy phong ông làm Đường quốc công. Hổ sinh ra Bính, Bính sinh ra Uyên, đều được tập phong Đường Công. Uyên làm quan cho nhà Tùy, đến Dương Đế năm Đại Nghiệp năm thứ chín, Đế phong vệ úy thiếu khanh Lý Uyên làm Lưu Thú của quận Hoằng Hóa, cấp cho mười ba quận thuộc Quan Hữu. Tháng giêng năm thứ mười hai, Đế hạ chiếu cho Hữu kiêu vệ tướng quân Đường Công Lý Uyên làm Thái Nguyên Lưu Thú. Tháng mười một năm thứ mười ba. Lý Uyên chiếm Trường An, lập Cung Đế. Tháng ba năm Mậu Dần, Tùy Cung Đế hạ chiếu cho Đường Vương lập quan từ Thừa Tướng trở xuống, gia phong Cửu Tích. Tin dữ của Tùy Dương Đế ở Giang Đô lan đến Trường An, tháng năm, Cung Đế nhường ngôi cho nhà Đường. Đường Vương lên ngôi Hoàng Đế, ở ngôi chín năm, thọ bảy mươi tuổi. Niên hiệu Vũ Đức chín năm.

Năm Mậu Dần: Vũ Đức năm đầu, tháng năm đổi niên hiệu, bỏ quận đặt ra châu, đổi Thái thú thành Thứ sử. Tháng năm, Đế dựng đạo tràng mở Vô Giá pháp hội ở Nam Cù, Chu Tước môn. Tháng sáu, lệnh Tăng, đạo mỗi bên sáu mươi chín người hành đạo bảy ngày tại điện Thái Cực, hết hạn thì thiết trai cúng dường cả ngàn Tăng. Tháng tám, Tiết Cử ở Kim Thành mất, Thái tử Nhân Cảo lên kế ngôi. Đường Tần Vương Thế Dân đem binh vây, Nhân Cảo ra hàng, họ Tiết diệt vong. Tháng chín, Lý Mật hàng Đường. Hồi ấy, Lý Mật chiếm Sơn Đông lấy quốc hiệu là Ngụy, đến tháng mười hai thì làm phản, Hùng châu hành quân tổng quản Thạch Ngạn Sư vây đánh và chém Mật cùng Vương Bá Đáng.

 

Yên: Cao Khai Đạo chiếm Ngư Dương

Trịnh: Vương Thế Sung

Hạ: Đậu Kiến Đức xưng Vương

Lương: Lý Quỹ. An Tập năm thứ 2

Lương: Tiêu Tiễn xưng đế

Tần: Tiết Nhân Cảo

Định Dương Khả Hãn, Thiên Hưng năm thứ 2

Ngô

Lương: họ Lương năm thứ 2

Sở: họ Chu

 

Kỷ Mão: niên hiệu Vũ Đức năm thứ hai

 

Yên

Trịnh: Khai Minh năm đầu

Hạ: Ngũ Phụng năm thứ 2

Lương: Đương tiêu diệt

Lương: họ Tiêu

Tần: Nhân Cảo bị Đường diệt

Định Dương: Ngô Hương năm thứ 3

Ngô: Minh Chính năm đầu

Lương: Năm thứ 3

Sở

 

Canh Thìn: Vũ Đức năm thứ ba

 

Yên: Họ Cao

Thịnh: Vương Thế Sung Khai Minh năm thứ 2

Hạ: Ngũ Phụng năm thứ 2

Lương: Tiêu Tiễn

Định Dương Khả Hãn bị Đường diệt

Ngô: Đỗ Phục Thành năm đầu

Lương: họ Lương Vĩnh Long năm thứ 4

Sở: họ Chu.

 

Đế dựng chùa Linh tiên, sai con thứ Lý Bá Dược soạn văn bia, hạ chiếu dựng Tứ Đại Tập Tiên Ni Tự gồm: Thiêm Xương, Thắng Nghiệp, Từ Bi, Chứng Quả, rồi chép kinh đúc tượng, bỏ Tấn Dương cựu phủ làm chùa Hưng Thánh, dựng chùa Nghĩa Hưng ở Tinh Châu, vì cầu phước cho thái tổ Nguyên Hoàng Đế, Nguyên Trinh hoàng Thái hậu, Đế tạc ba tượng chiên-đàn, đặt mười đại đức ở chùa Từ Bi để tổng quản Tăng ni.

- Tân Tỵ: Vũ Đức năm thứ tư, ban hành tiền Khai Nguyên Thông Bảo, học sĩ Âu Dương Tuân soạn văn và sách, văn ấy lưu thông ai cũng có thể đọc.

 

Yên:

Trịnh bị Đường diệt

Hạ bị Đường diệt

Lương bị Đường diệt

Hán Đông Vương

Ngô: họ Đỗ năm thứ 2

Lương

Sở

 

Tháng sáu, Thái sử Lệnh Phó Dịch dâng mười một điều phế bỏ Phật pháp, Pháp sư Pháp Lâm nghị luận với Đế, cáo trạng của Dịch bị bỏ.

- Nhâm Ngọ: Vũ Đức năm thứ năm

 

Yên

 

 

 

Hán: Thiên Tạo năm đầu

Ngô: năm thứ 3

Lương

Sở: Trương Thiệp An

 

- Quý Mùi: Vũ Đức năm thứ sáu.

 

Yên

 

 

 

 

Hán bị Đường diệt

Ngô: năm thứ 4

Lương bị Đường diệt

Sở bị Đường diệt

 

 

- Giáp Thân: Vũ Đức năm thứ bảy

 

Yên bị Đường diệt

 

 

 

 

 

Ngô bị Đường diệt

 

 

 

 

Tháng hai năm Vũ Đức năm thứ bảy đổi Đại Tổng quản thành Phủ Đại Đô đốc. Tháng ba, bắt đầu định lệnh, lấy thái úy, Tư Đồ, tư không làm tam công. Kế đến, Thượng thư môn hạ, trung thư, Bí thư, điện trung nội thị làm lục tỉnh, kế nữa, Ngự sử đài, rồi thái thường đến thái phủ làm cửu tự. Lại kết hợp với tác giám quốc tử học, thiên sách thượng tướng phủ, Tả hữu vệ đến Tả hữu lĩnh vệ thành mười bốn vệ. Đông cung đặt ra Tam sư, Tam thiếu chiêm sự và Lưỡng phường Tam tự đứng đầu phủ. Vương Công đặt ra quan đảm việc trong kinh thành. Châu huyện trấn nhung là quan ngoại chức sự. Từ Khai phủ nghi đồng tam ty đến Sĩ lang hai mươi tám chức đều là quan văn tán. Phiêu kỵ đại tướng quân đến bồi mậu phó úy cả thảy ba mươi mốt chức đều là quan võ tán. Từ thượng trụ quốc đến vũ kỵ úy cả thảy mười hai bậc đều là huân quan. Mồng một tháng tư bắt đầu ban hành luật lệ mới. So với pháp chế cũ của Tùy Khai Hoàng tăng thêm năm mươi ba điều mới. Bắt đầu ấn định việc chia ruộng, thu thuế. Phàm của cải của dân chia làm chín bậc. Trăm hộ là một làng, năm làng là một hương, bốn nhà là một lân, bốn lân là một bảo. Ở trong thành ấp thì gọi là phường, ở ngoài đồng nương thì gọi là thôn. Nhà hưởng bổng lộc không được giành quyền lợi với dân. Các ngành công thương được dự vào hàng kẻ sĩ. Nam nữ mới sinh thì gọi là hoàng, bốn tuổi gọi là tiểu, mười sáu tuổi gọi là trung, hai mươi tuổi gọi là đinh, sáu mươi tuổi gọi là lão. Một năm thì khai Kế Tràng, ba năm thì khai Hộ tịch.

Ất Dậu: Vũ Đức năm thứ tám, tháng hai, Đế bỏ cách thức ở quốc học, đặt ra Tam tòa, mở ra Tam tông, chiêu mộ học giả của tam Giáo hội tập. Thích Tuệ Thừa nêu cao nghĩa học, biện luận, vương thần vui vẻ thán phục, cả triều đều biết đến ngài.

Bính Tuất: Vũ Đức năm thứ chín, tháng hai, Thái sử lệnh là Phó Dịch cấu kết với Đạo sĩ Lý Trọng Khanh dâng vua "Thập Dị Cửu Mê Luận" nhằm chê bai Phật thánh. Dịch dâng sớ phỉ báng Phật pháp cả thảy bảy lần. Tể tướng Tiêu Vũ bài xích thẳng Phó Dịch. Tháng tư, Đế đem sớ tấu của Dịch ban phát cho chư tăng. Pháp sư Thích Minh Khái vạch ra tám điều mà dịch quyết phá Phật hủy Tăng. Pháp sư Pháp Lâm soạn "Thập Dụ Cửu Châm" phá luận thuyết "Thập Dị Cửu Mê" của Lý Trọng Khanh. Môn Hạ Điển Nghi Lý Sư Chính soạn Nội Đức Luận ba thiên bày đủ sự lợi ích của nhà Phật. Tháng năm, Đế hạ chiếu sa thải những lời viễn vong của cả hai giáo phái.

Mồng bốn tháng sáu, Tần Vương Thế Dân đem binh phủ bình định nội loạn. Đế cho Tần Vương làm Hoàng Thái tử, đại xá thiên hạ, đình chỉ việc sa thải hai giáo phái, hạ chiếu tháng tám nhường ngôi cho Thái tử. Thái tử lên ngôi ở Đông Cung, Hiển Đức điện. Cao Tổ xưng Thái Thượng hoàng Đế.

*Thái Tông Văn Hoàng Đế: Húy Thế Dân, con năm thứ hai của Cao Tổ ở ngôi hai mươi ba năm, thọ năm mươi hai tuổi. Niên hiệu Trinh Quán hai mươi ba năm.

Đinh Hợi: Trinh Quán năm đầu, mùa Xuân tháng giêng, Đế lệnh cho Tăng ni trong kinh cùng các nơi hành đạo bảy ngày tại các chùa, phẩm vật cúng trai do Hữu Ty xét cấp. Ngày hoàn mãn cùng nhóm họp tại chùa Đại Hưng Thiện để Đế cúng dường. Đế bảo Phó Dịch: Phật đạo huyền nhiệm, dấu Thánh đáng noi, hơn nữa báo ứng rõ ràng, nhiều lần ứng nghiệm, nhưng khanh vẫn chẳng tỏ ngộ lý này là tại sao vậy? Dịch đáp ngược ý, rất ghét, từ đó về sau Đế chẳng đếm xỉa đến ông.

Bỏ sát sinh, dựng chùa: Năm này, Đế xả cung cũ Thái Hòa ở núi Chung Nam làm chùa Long Điền cầu phước cho Cao Tổ, sau lại dựng chùa Thúy Vi. Đế thấy Thích Minh Chiêm rất giỏi y thuật, nên triệu vào điện cúng dường. Nhân đó ngài bày tỏ cách chế ngự cho Đế vương, rằng lấy từ bi cứu khổ của nhà Phật làm nơi thú hướng. Đế vui mừng, và hạ lệnh ngày sáu tháng ba hằng năm cả nước không được sát sinh, nơi những chiến trận xưa đều dựng chùa Phật.

- Mậu Tý, tháng ba năm thứ hai, Đế nghĩ lại lúc mới bình định thiên hạ đã giết quá nhiều người, nên đã lấy ngự phục cúng các chùa, thỉnh Tăng lễ sám cầu siêu. Đế hạ chiếu: "Từ cuối nhà Tùy mở lòng nghĩa, chăm cứu vớt, đánh đông dẹp bắc, phàm người tử trận thật không ghi hết, tự tay chém tướng gần cả ngàn người. Thiết nghĩ Thánh giáo Như Lai thâm sâu nhân từ, trong các giới cấm, sát hại nặng nhất. Giao cho Hữu Ty, các chùa kinh thành hãy lập đàn tràng, hành đạo bảy ngày đêm, chí thành lễ sám, tất cả y phục đều đem cúng thí, mong nạn ba đường nhân đây giải thoát, thống khổ muôn kiếp nhờ đây hết sạch".

Tháng chín, Đế hạ chiếu: Nay thóc lúa tốt tươi, muôn báu sắp thành, vẫn sợ mưa gió mất mùa, dân không nơi nương tựa, dám mong người thông minh, nhân từ nhiều phước, hãy vì điềm lành trời cao, ngưỡng mong che chở, có thể trong kinh thành, hoặc tự quán các châu trong nước, Tăng ni đạo sĩ hãy đọc kinh hành đạo bảy ngày bảy đêm. Tháng giêng, tháng bảy hằng năm cứ theo lệ thường này mà hành đạo. "

Giới luật: Năm này, vua hạ chỉ mời Pháp Sư Huyền Uyển vào cung truyền trao Bồ-tát giới cho Phi tần, hoàng Thái tử và các vương. Huyền Uyển nhập diệt tháng mười hai năm Trinh Quán thứ mười. Ngài dâng biểu để lại rằng: "Thánh đế minh vương cung kính Tam bảo, nếu Sa-môn nào phạm pháp đừng nên xử phạt như thứ dân, xin giao cho chúng Tăng, dựa trên luật mà trị. ". Ngài còn dâng Đế bộ An Dưỡng Luận và Tam Đức Luận, Đế vui mừng nhận. Đế hạ chiếu truy điệu, sai Thái tử viếng tang, lệnh Hữu Ty cung cấp phẩm vật an táng. Đời Đường, sắc lệnh Sa-môn khởi nguyên từ ngài. Đế còn cho dựng một tháp Phật ngay nơi mộ ngài, sai con thứ là Lý Bá Dược soạn văn bia.

Kỷ Dậu: Tháng ba năm thứ ba, Đế hạ chiếu cho Tăng ni trong kinh thành cứ ngày hai mươi bảy hàng tháng hành đạo ngay tại chùa mình đang ở, lấy các kinh như Nhân Vương, Đại Vân làm thời khóa thường lệ. Tháng ba, Đế hạ chiếu mở đạo tràng dịch kinh tại chùa Đại Hưng Thiện. Sa-môn Huyền Môn v. v.. dịch ngữ, Luật sư Quật-đa làm chứng dịch; Pháp Lâm, Tuệ Nguyệt v. v.. chấp bút; Tuệ Thừa v. v.. chứng nghĩa. Sai Bộc Xạ Phòng Huyền Lệnh, Cấp Sự Đỗ Chánh Luân, Thượng thư Lý Hiếu Cung tham gia trợ dịch san định. Quang lộc đại phu thái phủ Khanh Tiêu Cảnh làm Tổng giám hộ. Trăm quan cùng trợ giúp. Tháng sáu, Đế hạ chiếu thỉnh Minh Tịnh Thiền sư ở Mật Châu vào kinh cầu mưa. Đế hạ chỉ độ ba trăm Tăng. Đế hạ chiếu đổi cung cũ của Hoàng gia là Thông Nghĩa Cung làm chùa ni, lấy tên là Hưng Thánh. Tháng mười một, Đế hạ chiếu thỉnh tượng thêu của Phật, Bồ-tát, Thánh tăng, Kim cang về chùa Thắng Quang để cúng dường. Tháng giêng năm thứ sáu, Đế thỉnh bốn mươi chín đại đức ở các chùa hành đạo suốt hai mươi mốt ngày để khánh thành các tượng thêu. Ngày hoàn mãn, Đế cúng dường cả ngàn Tăng, Vương công đều dâng hương.

- Xây chùa: Tháng mười hai nhuần, Đế nhớ nghĩ những u hồn trệ phách từ họ Tùy đến nay, nên hạ chiếu: "Nhà Tùy mất đạo, chín châu điêu linh, Trẫm đích thân tổng quản Nguyên nhung, đến nay quét sạch, rất lo sợ ở dưới chín suối vẫn còn kẻ chịu cột đồng, vạc sôi, nơi tám nạn mãi vướng trong băng giá, tro tàn. Bởi vậy, Trẫm gieo trồng ruộng phước cứu những hồn phách ấy. Có thể từ khi dấy nghĩa đến nay, những nơi giao tranh, anh hùng nghĩa sĩ, hung đồ bại trận bỏ mình, mỗi nơi ấy dựng một ngôi chùa nhằm kết thắng duyên với Tăng chúng, mong trống pháp khua vang, biến lửa dữ thành sen xanh, nghe được lời kinh biến biển lửa thành cam lồ. Quan sở ty hãy kiểm định xứ sở và dựng khắp chùa, làm đủ mọi điều để tỏ tấc lòng bi ai của Trẫm. "

Năm sau, trên khắp chiến hào đều dựng Giàlam. Nơi phá quân Tiết Cử dựng chùa Chiêu Nhân ở U châu, phá Vương Thế Sung dựng chùa Chiêu Giác ở Lạc châu, phá Lưu Vũ Chu dựng chùa Hoằng Tế ở Phần Châu, phá Tống Kim Cương dựng chùa Từ Vân ở Tấn Châu, phá Hoắc Lão Sinh dựng chùa Phổ Tế ở Lữ châu, phá Đậu Kiến Đức dựng chùa Đẳng Từ ở Trịnh Châu, phá Lưu Hắc Thát dựng chùa Chiêu Phước ở Lạc Châu, lệnh cho Ngu Thế Nam, Lý Bá Dược, Chử Toại Lương, Nhan Sư Cổ, Sầm Văn Bản, Hứa Kính Tông, Chu Tử Xa cùng chia nhau soạn văn bia cho các châu mỗi nơi dựng đó.

Năm Trinh Quán năm thứ hai mươi, Đế đánh Liêu trở về, lập đàn cầu siêu cho chiến sĩ, dựng chùa Mẫn Trung ở U châu. Năm Canh Dần, Đế cho rằng y phục chưa có khác biệt nên tháng tám hạ chiếu: "Từ nay y phục của tam phẩm trở lên màu tía, tứ phẩm ngũ phẩm màu lục đào, lục phẩm, thất phẩm màu xanh lục, bát phẩm màu xanh. Phụ nữ mặc y phục giống màu của chồng.

*Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang: Mùa Đông năm Trinh Quan năm thứ ba, ngài sang Tây Vực thỉnh những bộ kinh chưa truyền đến Trung Quốc. Ngài vào triều dâng biểu nhưng Đế không cho đi, thế là ngài trốn đi. Từ Nguyên Châu, ngài ra khỏi Ngọc Quan, qua các nước như Cao Xương, Diệp Hộ. Năm Trinh Quán năm thứ bảy, ngài đến Trung Ấn, gặp Đại Thừa Cư Sĩ nhận Du-già Sư Địa, vào Vương Xá thành, dừng ở chùa Na-lan-đà, theo Thượng Phương Giới Hiền Luận Sư thọ học tông chỉ Du-già, Duy Thức. Ngài ở đây mười năm và từ Vương xá thành trở về. Tháng giêng năm Trinh Quán năm thứ mười chín ngài về đến Kinh sư. Lưu thú Trường An Phòng Huyền Lệnh dâng biểu bẩm với Đế. Năm Nhâm Thìn ngài đến Lạc Dương. Tháng ba Kỷ Hợi, ngài gặp Đế ở điện Nghi loan. Đế hỏi: "Thầy đi sao không đến báo Trẫm?" Ngài đáp: "Lúc ấy thần ba lần dâng biểu, nhưng không được bệ hạ ưng chuẩn, mới tự đi. " Đế nói: "Thầy hay cầu pháp quên thân, lợi ích hữu tình, Trẫm rất hài lòng. " Nhân đó, ngài tâu vua những bản Kinh Luận tiếng Phạm do mình thỉnh về gồm sáu trăm năm mươi bảy quyển và xin đến chùa Thiếu Lâm ở Tung sơn, Lạc Dương vì nước tuyên dịch. Đế nói: "Trẫm vừa dựng chùa Hoằng Phước để cầu phúc cho Mục Thái hậu, thầy có thể để đến đó phiên dịch". Vua lệnh cho Huyền Chương Phòng Huyền Lệnh chuyên tâm giám hộ, mọi vật dụng cần thiết cho công việc đều do quốc khố chu cấp. Tháng sáu năm Trinh Quán năm thứ hai mươi hai, Đế viết bài tựa cho Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo gồm những bộ kinh do ngài mới dịch. Lúc này Hoàng Thái tử xem Thánh tự xong liền soạn thuật Thánh ký. Đế hạ chiếu cho Hoàng Thái tử soạn lời bạt trong Bồ-tát tạng kinh. Tháng tám, Đế ban cho ngài trăm nén vàng, y phục và bảo đao.

Ngài dâng biểu tạ ơn, đại khái nói: "Áo nhẫn nhục màu hợp mây trôi, đao trí tuệ lưỡi như ngọc giũa, kính mặc y để đoạn ma phiền não, đeo bảo đao cắt sạch lưới trần lao. " Đời Cao Tông, năm Vĩnh Huy Năm thứ ba, ngài dựng tháp ở chùa Từ An để an trí số Kinh Luận bằng tiếng Phạm. Ngài dâng biểu, Đế ban tặng những y phục vật dụng của những người đã mất của bảy cung như đại nội, đông cung, dịch đình v. v.. Giúp ngài hoàn thành ngôi tháp. Ngài xây theo cách thức của Tây Vực, tháp hoàn thành, cao hai trăm thước. Tháng mười năm Hiển Khánh năm thứ tư, Đế đổi cung Ngọc hoa làm chùa để truy điệu Tiên đế và thỉnh ngài ở. Năm sau, ngài dịch kinh Bát-nhã tại chùa Ngọc Hoa. Tháng hai niên hiệu Long Đức năm đầu, ngài sai đệ tử Đại Thừa Quang sao chép những bộ Kinh Luận đã dịch gồm bảy mươi lăm bộ, một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển, lại triệu môn nhân dựng tượng thiết trai từ biệt đại chúng, sai Tả hữu niệm Phật Di-lặc. Nửa đêm mồng năm, ngài năm nghiêng bên phải an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi lăm tuổi. Đế không thiết triều ba ngày, lệnh tẩm liệm ngài trong quan vàng quách ngọc. Tháng tư, dựng tháp ở Sản Đông Nguyên.

Đệ tử ngài như Thần Thái, Lâu Nguyên, Hội Ẩn, Tuệ Lập, Minh Duệ, Nghĩa Bao, Đại Thừa Quang đều là bậc long tượng trong pháp môn. Ngài đem tông chỉ Duy Thức, Du-già Sư Địa mà mình đã thọ học với Luận Sư Giới Hiền ở Tây Vực truyền trao cho Khuy Cơ.

*Thiền sư Pháp Dung ở núi Nguy Đầu: Sư họ Vi, người Diên Lăng Nhuận Châu. Năm mười chín tuổi học thông kinh sử, sau xem đại bộ Bát-nhã hiểu thấu chân không. Ngày nọ, Sư chợt than: "Đạo Nho, sách đời không phải pháp rốt ráo. Bát-nhã chánh quán mới là thuyền bè xuất thế. " Thế rồi, Sư ẩn cư ở Mao Sơn, theo thầy thế phát, sau vào hang núi phía Bắc chùa U Thê, núi Ngưu Đầu, Kiến Khang để tĩnh tọa quán tâm. Lúc này có những điềm lạ như chim muôn dâng hoa, cọp sói ở quanh Sư. Sau Tứ Tổ hóa độ Sư.

- Tân mão: Năm thứ năm, Đế dựng chùa Từ Đức ở cung Khánh Thiện, chùa Diêu Đài ở Chiêu Lăng cầu phước cho Mục Thái Hậu, hạ chỉ thỉnh Pháp sư Huyền Uyển vào chùa Đức nghiệp nơi Thượng uyển vì hoàng Thái hậu chép kinh Phật. Đế lại dựng tàng kinh ở chùa Diên hưng, uỷ thác Uyển làm giám hộ.

- Nhâm Thìn: Năm thứ sáu, xuống chiếu sửa phủ cũ Thái Nguyên thành chùa Thiên Cung, truy phụng Mục Thái hậu, lại dựng chùa ở Đại Thành Tây, Trấn An Thành, cầu phước cho Mục Thái hậu, lấy tên là chùa Hoằng Phước.

- Quý Tỵ: Năm năm thứ bảy, ban lệnh cấm đánh bắt cá, sát sinh, độ ba ngàn Tăng ni.

- Tháng tư năm Trinh Quán năm thứ chín, Thái Thượng hoàng mất. Tháng mười một Đế hạ chiếu: "Tam thừa dung hòa, tế độ trên hết, Bát chánh quy y, từ bi làm đầu, khơi biển trí tuệ, phổ lợi quần sinh chặt rừng phiền não, lợi ích muôn vật. Trẫm kính phụng ngai vàng, cung thờ mệnh báu, giáo huấn chí đức xa mấy cũng tỏ, phép tắc đại Thánh sâu mấy cũng tường, muốn khiến người người thoát khỏi trói vây, nhà nhà gieo trồng nhân thọ. Thiện duyên tán loạn, Tăng chúng giảm thiểu, đài hoa tháp báu, nhà vắng người không, lông trắng sen xanh, gió lùa mưa thấm, lời mầu mai một, diệu ý chôn vùi. Các châu trong nước, chỗ nào có chùa thì hãy độ Tăng ni nhiều nhất là ba ngàn. Những châu lớn nhỏ, người có Hoa, Di, tùy nơi mà độ nhiều hay ít. Quan Hữu Ty xét kỹ, cốt phải nêu cao đức độ. Những người trước đây, do giảm Tăng số mà hoàn tục, hoặc những Cư sĩ tự tu nếu hạnh nghiệp đáng noi thì cũng cho độ ngần ấy, ắt không ai dư thừa cũng không được khuyết thiếu. Nếu có nhiều tăng đồ trôi theo thế tục, hoặc mượn uy quỷ thần làm trò yêu mị, hoặc dối xưng đồng bóng mượn đạo cầu lợi, hoặc đốt chích thân thể, hủ tục dọa ngu, hoặc đến bọn quan nhận tiền đút lót, phàm những người này quá trái Thánh giáo, Trẫm dù nể tình hộ trì cũng không thể nhân nhượng. Từ nay lệnh cho sở ty dựa trên giới luật khuôn vàng thước ngọc, sáng suốt ngăn chặn. "

- Bính Thân: Trinh Quán năm thứ mười, Hoàng Thái tử Thừa Càn hỏi Trương Sĩ Hành rằng: "Thờ

Phật bồi phước, báo ứng thế nào?" Hành đáp: "Thờ Phật là ở lòng thanh tịnh nhân từ, nếu tham lam bạo ngược dù dốc hết của cải cúng Phật cũng không đổi hết tai họa. Vả lại thiện ác báo ứng như bóng theo hình. Thánh nhân nói rất rõ, nếu vua sáng suốt, tôi trung thành, con hiếu thuận thì phước độ lâu bền, bèn ngược lại thì chuốc họa". Sĩ Hành dùng những lời này nhằm sửa đổi tâm tính Thái tử. Về sau Thái tử Thừa Càn mất đức, Trinh Quán năm thứ mười bảy Đế phế Thừa Càn làm dân thường, lập Tấn Vương Trị làm Hoàng Thái tử.

+ Thị Tộc Chí: Tháng giêng năm Trinh Quán năm thứ mười hai, Lại Bộ Thượng thư Cao Sĩ Liêm, huỳnh môn thị lang Vi Đĩnh, Lễ bộ thị lang Linh Cô Đức Tỷ, Trung thư thị lang Sầm Văn Bản soạn xong bộ Chí về tộc họ, lấy Huỳnh môn thị lang Thôi Dân Cán làm đệ nhất, Đế không bằng lòng, mới sai san định lại, phải lấy phẩm vật của đương triều để phân cao thấp. Cuối cùng lấy hoàng tộc đứng đầu, kế đến Ngoại thích, đưa Thôi Dân Cán xuống hàng năm thứ ba, gồm cả thảy hai trăm chín mươi ba họ, một ngàn sáu trăm năm mươi mốt nhà, ban hành khắp nước.

+ Hòa Thượng Đỗ Thuận: Ngài tên Pháp Thuận, họ Đỗ, người Ung Châu. Thiếu thời Tùy Văn Đế rất kính trọng, hằng tháng thường cúng dường ngài. Lúc này, Đế rất kính trọng, thường thỉnh ngài vào cung, thờ kính như Phật. Ngài gom tập Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán, đệ tử Trí Nghiễm hoằng truyền giáo quán này. Ngài tịch tháng năm Trinh Quán năm thứ mười bốn.

- Nhâm Dần: Trinh Quán năm thứ mười sáu, tháng năm, Đế cầu phước cho Mục Hoàng Thái hậu ở chùa Hoằng Phước, tự tay viết sớ nguyện rằng: "Điều mà Thánh triết chuộng là hiếu đễ, điều mà người nhân ưa là thân thuộc. Trẫm từ nhỏ đội ơn nuôi nấng, lớn lên được dạy bảo khuyên răn, tấc lòng dày sâu ấy ngày nào quên được. Tình cảm cao dày trời cao khó báo, mấy lời khâm kính da diết bi thương, muốn báo ân dày chỉ nhờ ngầm giúp. Kính dâng hai trăm tấm lụa, noi đại giáo Từ bi, nếu chí thành có cảm, mong tiêu trước lỗi trước, làm nhân lành từ đây, ngõ hầu được phước vui về sau vậy. " Đế lại ban sắc chỉ vì Mục Thái hậu chép Đại tạng kinh, tuyển mười Pháp Sư hiệu đính.

- Quý Mão: Trinh Quán năm thứ mười bảy, tháng hai, Đế hỏi gián nghị đại phu Chử Toại Lương: "Vua Thuấn chế đồ Sơn, có hơn mười người can ngăn là tại sao vậy?" Lương đáp: "Xa xỉ là gốc của nguy vong, đồ sơn không đủ thì phải dùng đến vàng ngọc. Trung thần thương vua ắt phòng ngừa từ xa, nếu họa loạn đã thành thì đâu can ngăn được nữa!" Đế nói: "Đúng! Trẫm có lỗi, khanh cũng phải can ngăn từ xa" Đế nói tiếp: "Người chủ chỉ có một tấc lòng mà người công kích lại quá đông, có người dùng sức mạnh, có người dùng biện luận, hoặc có kẻ xu nịnh, kẻ gian trá, kẻ ham hố, hợp nhau công kích, ai nấy cũng muốn nhận được ân sủng bổng lộc, người chủ khinh suất nhận một lời họ thì liền kéo theo nguy vong. Đây mới thật là khó!

* Lăng Yên Các: Đế sai vẽ tượng các công thần gồm: Triệu Công Trường Tôn Vô Kỵ, Triệu Quận Nguyên Vương Lý Hiếu Cung Lai, Thành Công Đỗ Như Hối, Trịnh Văn Trinh Công, Ngụy Trưng, Lương

Công Phòng, Huyền Lệnh, Thân Công Cao Sĩ Liêm, Ngạc Công Uất Trì Kính Đức, Vệ Công Lý Tĩnh, Tống Công Tiêu Vũ Bao Trung, Tráng Công Doàn Chi Huyền, Quỳ Công Lưu Hoằng Cơ, Tưởng Trung Công Khuất Đột Thông, Vân Tiết Công Ân Khai Sơn, Tiếu Tương Công Sài Thiệu, Bi Trương Công Trường Tôn Thuận Đức, Vân Công Trương Lượng, Trần Công Hầu Quân Tập, Đàm Tương Công Trương Công Cẩn, Lô Công Trình Tri Tiết Vĩnh Hưng, Văn Y Công Ngu Thế Nam, Du Trương Công Lưu Chánh Hội, Cử Công Đường Kiệm, Anh Công Lý Thế Tích, Hồ Tráng Công Tần Phúc Bảo ở trong Lăng Yên Các.

* Thiền Sư Phong Can, Hàn Sơn, Thập Đắc: Phong Can lưu dấu ở chùa Quốc Thanh núi Thiên

Thai, dựng am ở góc Tây Bắc Tàng điện, cỡi con cọp đi tắt rừng tùng, ngài gặp đứa trẻ khoảng mười tuổi, hỏi ra nó không nhà, không họ ngài dẫn về nuôi trong nhà bếp, đặt tên là Thập Đắc. Có một lần bần sĩ Từ Hàn Nham đến xưng là Hàn Sơn Tử. ba người gặp nhau rất vui vẻ. Năm này Phong Can đi vân du, vừa lúc Lư Khâu Dận đến nhậm chức Thái thú Thái Châu. Lư Khâu bỗng bị chứng đau đầu, Phong Can tìm đến nhà bảo mình rất giỏi trị bệnh này. Lư Khâu ra gặp. Ngài cầm bình nước và vẩy, bệnh của Khâu khỏi ngay. Nhân đó Khâu hỏi ngài từ đâu đến. Ngài đáp:

- Chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai.

- Ở đấy có hiền tài không?

- Hàn Sơn là Văn-thù, Thập Đắc là Phổ Hiền, ông nên đến đó gặp họ.

Ba hôm sau, Lư Khâu đến chùa hỏi thăm tông tích Phong Can, gặp hai Đại sĩ, Lư Khâu vái chào. Hai Đại sĩ bỏ đi và nói: "Phong Can lắm lời, ông ấy là Di-đà, ông chẳng biết, lạy ta làm gì" và hai Đại sĩ trốn vào hang núi, hang ấy tự khép lại. Hàn Sơn, Thập Đắc có thơ đề khắp núi rừng, tăng trong chùa gom thành một quyển khắc bản lưu hành ở đời.

* Kinh Di Giáo: Trinh Quán năm thứ mười tám, Đế hạ chỉ: "Như Lai diệt độ, do mạt thế suy vi nên ngài phó chúc cho quốc vương, đại thần hộ trì Phật pháp. Tăng ni xuất gia giới hạnh phải hoàn bị. Nếu buông lòng phóng túng, vướng trong phiền não, trôi theo người đời làm trái Kinh Luật, là đánh mất ý chỉ vi diệu của Như Lai lại phụ cái nghĩa quốc vương nhận sự giao phó. Kinh Di Giáo là kinh Phật nói lúc sắp Niết-bàn, răn dạy đệ tử rất ư thiết yếu, tăng tục đời sau chẳng ai sùng phụng, đạo lớn sắp diệt, lời mầu sắp diệt. Trẫm trọn nhớ Thánh giáo mãi mong hoằng dương, nay lệnh cho sở ty sai mười người sao chép thật nhiều kinh này cốt lưu hành khắp. Quan ngũ phẩm trở lên ở trong kinh và Thứ sử các châu, giao mỗi người một quyển. Nếu thấy Tăng ni nào đức hạnh không đúng như kinh văn thì nên cùng nhau khuyến tấn phải khiến họ tuân theo. "

Tháng hai năm thứ mười chín, Đế dẫn quân đi đánh Cao Ly nhưng không thắng, tháng chín ban sư về. Tháng ba năm năm thứ hai mươi, Đế xa giá đến Trường An. Thích Trí Tắc ngụ tại chùa Biện Tài, phòng ốc đóng kín, chúng bảo ngài là người điên. Trí Tắc đáp: "Cho người ta điên mà không biết chính mình điên. Xuất gia lìa tục chỉ tham cơm áo, đi ở chướng ngại, khóa cửa khóa rương, thu gom muôn thứ, nơm nớp không yên. Đó không phải kẻ điên thì còn ai điên nữa!" Nói xong, ngài vỗ tay cười vang rồi đi mất.

* Cao Vương ở Phong Kinh: Thích Pháp Thông giảng pháp ở huyện Gia Hưng, Tô Hàng, thuộc Chiết Tây, có thần tên Cao Vương giáng xuống bảo rằng: "Hãy thỉnh Pháp Sư Thông đến truyền trao Bồ-tát giới cho ta. " Người dân làm theo lời Thần đi thỉnh Pháp sư. Thần lại giáng xuống và bảo: "Từ nay về sau hãy bỏ rượu thịt và các thứ cay nồng, sau này nếu muốn cầu phước thì hãy thỉnh Tăng chúng thiết trai hành đạo ngay tại miếu này. " Hai năm sau, tại huyện Hải Diêm ở Tú châu, Thần nói: Người trong Phiên Dương Phủ do thường cúng tế nên Thần giáng xuống bảo: "Hãy thỉnh Pháp Sư Thông giảng Kinh Niết-bàn cho ta!" Mọi người liền thỉnh ngài đến giảng. Thần lại bảo: "Thần mang nghiệp chướng chịu nhiều khổ não, từ khi được nghe pháp đến nay thân đã bớt khổ nhưng vẫn còn bị trùng nhỏ cắn rứt xin hãy thỉnh Pháp Sư Thông giảng Đại Phẩm cho ta!". Ngài lại giảng Kinh Thần nghe, Thần giáng xuống tạ ơn.

Trinh Quán năm năm thứ hai mươi hai, Đế từ khi đánh Liêu về khí lực không tốt nên lưu tâm đến giáo pháp. Tháng tám, Đế hỏi Pháp Sư Huyền Trang: "Muốn gieo lợi ích pháp môn, trước phải làm gì?" Huyền Trang đáp: "Chúng sinh mê hoặc, chẳng phải tuệ thì không khai mở được, mầm tuệ là vốn để gây dựng pháp; hoằng pháp phải nhờ con người, nên việc độ tăng là trên hết". Đế nói: "Trẫm ban y ca-sa và bảo đao cho Thầy". Huyền Trang dâng biểu tạ ơn. Tháng chín, Ất Mão Đế hạ chiếu: "Cuối đời Tùy mất nền cai trị, thiên hạ nhiễu loạn, bốn biển lầm than, tám phương điêu đứng, Trẫm ra tay dẹp loạn, tự đốc quân binh, nhiều lần bị gió sương, đêm ngủ trên lưng ngựa, vừa nhờ thuốc thang nhưng bệnh chưa dứt hẳn, mấy ngày gần đây mới được bình phục. Đó chẳng phải nhờ phước thiện đó ư! Kinh thành và các châu trong nước nơi nào có chùa thì độ năm Tăng. " Lúc này trong nước có hơn ba ngàn bảy trăm ngôi chùa, Tăng được độ đến hơn một vạn bảy ngàn người.

Hoàng Thái tử Trị ở Xuân cung, gặp tiết trời u ám, mệt mỏi buồn rầu, nhớ đến ân đức như trời cao khôn cùng của mẹ, ân từ vô biên, liền bỏ tiền của, chọn đất dựng chùa Đại Từ Ân để cầu phước cho Văn Đức Hoàng hậu. Đến tháng mười hai, công việc hoàn tất. Thái tử dựng thêm tháp, hạ chiếu tuyển chọn năm mươi đại đức tài đức trong kinh thành, mỗi người dẫn theo sáu thị giả cùng vào ở chùa mới. Tháng này, Thái tử sắm đủ năm mươi cỗ xe báu đi rước chư Đại đức, trang hoàng mấy trăm thứ trang sức trước chùa, thỉnh các kinh tiếng Phạm và thụy tượng xá-lợi ở An Tân, lệnh cho chín bộ nhạc Thái Thường, âm nhạc Vạn Niên ở Trường An, tràng phan bảo cái của các chùa trong kinh thành cùng dẫn vào chùa. Đế ngự trên cửa lầu An Phước kính cẩn bưng lò hương, kinh tượng đi qua hết mới thôi. Hoàng Đế rất hài lòng. Sau khi lên ngôi, Cao Tông tự tay soạn văn bia cho chùa Đại Từ Ân.

-Kỷ Dậu: Trinh Quán năm thứ hai mươi ba, mùa hạ tháng 4, Đế bệnh, tháng năm thì mất, tháng sáu Thái tử lên ngôi, tháng tám an táng Văn Hoàng Đế ở Chiêu Lăng, miếu hiệu Thái Tông.

* Cao Tông: Húy là Trị, tự Vi Thiện, con năm thứ chín của Thái Tông. Ban đầu ông được phong Tấn Vương, ở ngôi ba mươi bốn năm, thọ năm mươi sáu tuổi. Niên hiệu Vĩnh Huy sáu năm, Hiển Khánh năm, Long Sóc ba năm, Lân Đức hai năm, Càn Phong hai năm, Tổng Chương hai năm, Hàm Hanh bốn năm, Thượng Nguyên hai năm, Nghi Phụng ba năm, Điều Lộ một năm, Vĩnh Long một năm, Khai Diệu một năm, Vĩnh Thuần một năm, Hoàng Đạo một năm.

-Canh Tuất: Vĩnh Huy năm đầu. Tân Hợi:

Vĩnh Huy năm thứ hai.

Tổ năm thứ 4: Tôn giả Đạo Tín.

Sư họ Tư mã, vốn người Hà Nội, di cư sang huyện Quảng Tế, Kỳ Châu (nay là Hoài Tây). Sư sinh ra đã siêu dị, từ nhỏ mến mộ Không Tông, các môn giải thoát, cứ như đã quen từ trước. sau khi kế thế Tổ vị, sáu mươi năm lưng sư chẳng dính chiếu. Đường Cao Tổ, Vũ Đức năm thứ bảy, Sư ở núi Phá Đầu, Kỳ Châu (nay là Song Phong). Trong năm Trinh Quán, Thái Tông nghe tiếng tăm, ba lần hạ chiếu mời vào triều nhưng Sư không đến, Đế hạ chiếu tiếp và bảo sứ giả: "Nay ông ta không theo lệnh ta thì đem đầu về". Sứ thần truyền ý vua, Sư chìa cổ chờ chém. Sứ thần về tâu lại, Đế vui vẻ thán phục, uỷ dụ rất hậu. Đến lúc này, Sư đã ở hai mươi năm trên núi. Ngày nọ Sư đến huyện Hoàng Mai, trên đường gặp đứa trẻ chừng hơn bảy tuổi.

Sư hỏi:

- Con họ gì? Đứa bé đáp:

- Họ thì có nhưng không phải họ thường!

- Là họ gì?

- Họ Phật.

- Con không có họ sao?

- Họ rỗng nên không.

Sư ngầm biết đây là bậc pháp khí nên sai đứa bé dẫn về nhà cha mẹ. Sư xin cho nó xuất gia. Mẹ đứa bé nghĩ nó vốn có túc duyên nên đồng ý cho đi. Sư thế phát và đặt pháp danh đứa bé là Hoằng Nhẫn. Về sau, Sư phó chúc: "Xưa Như Lai truyền chánh pháp nhãn, lần lượt đến ta, nay ta giáo phó pháp và y bát cho ông, nghe ta nói kệ:

Giống hoa có tánh sinh
Nhờ đất hoa nảy mầm
Duyên lớn hợp với tín
Sẽ sinh, sinh chẳng sinh.

Lúc này là năm Vĩnh Huy năm thứ hai, ngày bốn tháng chín nhuần, Sư dặn môn nhân: "Tất cả pháp đều giải thoát, các ông mỗi người giữ gìn và hoằng hóa đến đời sau. " Nói xong, Sư ngồi yên và tịch, thọ bảy mươi hai tuổi. Môn nhân dựng tháp ngay núi này. Mồng tám tháng tư năm sau, cửa tháp tự mở, sắc diện của Sư tươi tỉnh như còn sống. Trong năm Đại Lịch, Đường Đại Tông ban Sư thụy Đại Giám Thiền Sư, tháp hiệu Từ Vân. Sư từng đến núi Ngưu Đầu ở Kiến Khang hóa độ Thiền sư Pháp Dung, về sau lưu xuất thêm một phái nữa.

-Giáp Dần: Vĩnh Huy năm thứ năm, Đế đặc biệt hạ chỉ độ Sa-di Khuy Cơ làm Tăng, cho vào chùa Đại Từ Ân tham dự dịch kinh sửa nghĩa. Khuy Cơ là con nuôi của Ngạc Trung Vũ Công Uất Trì Kính Đức. Ngài ở Trường An. Hồi ấy, Pháp Sư Huyền Trang đến nhà cha ngài xin cho ngài xuất gia. Sớ ký chỉ cần đọc qua là ngài nhớ vanh vách, nghĩa cũng hiểu ngay, rất tinh thông Đại thừa, Tiểu thừa. Ngài theo Pháp Sư Huyền Trang thọ học tông chỉ Du-già, Duy Thức, soạn cả trăm bộ luận, người đương thời gọi ngài là Bách Bản Luận Sư. Tánh ngài hào phóng, mỗi lần đi đâu đều sắm đủ ba cỗ xe, gồm kinh, sách và thức ăn, nên người ta thường gọi ngài là Tam Xa Pháp Sư. Ngài tịch vào niên hiệu Vĩnh Thuần năm đầu, thọ năm mươi mốt tuổi. Đế viết chiếu chỉ truy điệu, họa tượng làm bài tán, cho chôn ở kênh bắc Phàn Xuyên gần mộ Pháp Sư Huyền Trang.

Tuyên Luật Sư ở núi Chung Nam, Kinh Triệu là người trì luật tinh nghiêm cảm được nhà bếp chư thiên cúng dường thường chê cung cách xa xỉ của Tam xa Khuy Cơ. Ngày nọ Khuy Cơ đến thăm Luật Sư, đã quá ngọ nhưng cơm chư thiên chưa mang đến. Khuy Cơ cáo từ về thì chư thiên đến. Luật sư trách sao mang cơm đến muộn, chư thiên đáp: "Vừa rồi Đại thừa Bồ-tát ở đây canh giữ nghiêm ngặt nên không thể vào được!" Luật sư nghe vậy thất kinh, từ đó dù xa hay gần đều rất kính. Khuy Cơ mở tông lấy tên là Từ Ân tông.

* Từ Ân Giáo: Hồi ấy Đại sĩ Vô Trước ở nước Thiên Trúc nhiều lần lên Tri Túc Thiên Cung tham học tông chỉ Duy Thức với Bồ-tát Di-lặc. Đến khi em ngài là Bồ-tát Thiên Thân đi về Tây qua nước La Duyệt, phát minh Đại thừa, hai người mới cùng nhau soạn luận. Thiên Trúc lúc này mới có Thánh hiền xuất thế hoằng dương giáo pháp này. Đến Chánh pháp Tạng Luật sư Giới Hiền người Trung Ấn, Tây Thiên, đã một trăm lẻ ba tuổi, ở tại chùa Na-lan-đà thuộc nước Vương xá thành, gặp Tam tạng Huyền Trang đến, Giới Hiền bèn đem tông chỉ Du-già Sư Địa, Duy Thức truyền trao cho Huyền Trang. Huyền Trang về đông, Ngài đem tông chỉ này truyền cho Khuy Cơ. Khuy Cơ là người mở mang thuyết cũ soạn nhiều sớ luận, học giả đều noi theo, và bảo đây là pháp tướng hiển lý tông, Từ Ân giáo của tam xa.

- Ất Mão: Vĩnh Huy năm thứ sáu, tháng mười, Đế sai Tư không Lý Trách bê ngọc tỷ tấn phong sủng phi Võ thị làm Hoàng hậu, phế Vương Hoàng hậu. Trước đây năm Trinh Quán năm thứ hai, Thái Tông triệu con gái Kinh châu Đô đốc Võ Sĩ Hoạch vào hậu cung làm tài nhân, lúc này mới mười bốn tuổi. Thái sử tâu có điềm nữ chủ xuất hiện, nên Đế đuổi đến chùa Cảm nghiệp làm ni. Vĩnh Huy năm thứ năm, Đế triệu Bà vào cung làm Chiêu Nghi, nay sách phong làm Hoàng hậu.

- Bính Thìn: Hiển Khánh năm đầu, tháng năm, Đế hạ lệnh: Tăng ni trong nước người nào phạm quốc pháp thì dùng luật tăng mà trị, không được xử đồng như dân. Tháng mười một, Thiên Hậu sinh con, đặt tên là Phật Quang Vương, tức Trung Tông. Ngày năm tháng mười hai, vì Phật Trung Quang đã độ bảy Tăng, thỉnh Pháp sư Huyền Trang thế phát xuất gia cho Phật Quang Vương.

+ Hòa Thượng Thiên Tuế Bảo Chưởng: Ngài người Trung Ấn, Tây Trúc, vừa sinh tay trái nắm chặt, bảy tuổi thế phát xuất gia mới mở tay ra, nhân đó ngài có tên là Bảo Chưởng. Đông Hán Hiến Đế năm Kiến An năm thứ hai mươi bốn, ngài đến xứ này. Ngài vân du phía đông qua nước Ngụy, Tấn rồi về Tây vào đất Thục lạy Phổ Hiền, trú ở Đại Từ, hàng ngày tụng kinh Bát-nhã, có lúc ngài ngâm nga: "Lao nhọc răng ngọc lạnh, tợ trốn gấp suối lạnh, có khi nửa đêm ngồi, quỷ thần khóc trước thềm". Một hôm ngài nói với chúng: "Ta có nguyện trụ thế ngàn năm" nên người ta gọi ngài là

Thiên Tuế. Sau ngài vân du đến Ngũ Đài, rồi ở các nơi như Hoa Nghiêm ở Chúc Dung Phong, Song Phong ở Hoàng Mai, Đông Lâm ở Lô Sơn, rồi đến Kiến Khang. Gặp lúc Đạt-ma vào đất Lương, ngài đến thưa hỏi và tỏ ngộ. Vũ Đế rất đề cao đạo lạp của ngài, giữ trong nội đình. Sau đó không lâu, ngài qua đất Ngô. Ngài có làm bài kệ:

Thành Lương gặp Đại Sư
Tham thiền tỏ tâm địa
Trôi nổi nơi Nhị Chiết
Lại rạng rỡ núi sông.

Ngài xuôi dòng về Đông, từ Thiên Khoảnh đến Thiên Trúc, qua Mậu Phong, lên Thái Bạch, đến Nhạn Đãng, đi khắp bảy mươi hai am ở Thúy Phong. Thái Tông năm Trinh Quán năm thứ mười lăm ngài ở lại ngọn Phi Lai Phong ở Hàng châu và ở đó (nay là chùa Trung Thiên Trúc), có câu "Đi khắp bốn trăm sông Chấn Đán, trong đây chỉ xứng Đạo nhân du". Sau ngài trụ tại Bảo Nham ở Phổ Giang. Bấy giờ là năm Đinh Tỵ, Hiển Khánh năm thứ hai, ngày Nguyên Đán, ngài tự tay đắp tượng Phật, chín ngày thì xong. Ngài hỏi đệ tử là Tuệ Vân: giống ai? Vân đáp: Giống y hòa thượng. Ngài liền tắm rửa ngồi ngay thẳng nói với Vân: "Ta trụ thế đã một ngàn bảy mươi hai năm rồi, nay phải đi". Nghe ta nói kệ:

Xưa nay không sống chết
Nay cũng bày sống chết
Ta phải đi trụ tâm
Đời sau sinh lại đây.

Nói xong, ngài quy tịch. Năm mươi bốn năm sau, Trưởng lão Thích Phù đến tháp ngài lạy và nói: "Xin cửa tháp mở ra chốc lát!" Quả nhiên cửa tháp mở ra, xương cốt ngài dính liền nhau như vàng ròng. Thích Phù liền đem hết về núi Tần Vọng dựng tháp. Đời Huyền Tông, trong năm Khai Nguyên môn nhân của Tuệ Vân là Tông Nhất từng khắc đá ghi lại hành trạng của ngài.

- Mậu Ngọ: Hiển Khánh năm thứ ba, ngài mười hai tháng sáu, Đế dựng xong chùa Tây Minh. Ngày mười ba, Đế thỉnh tượng thêu, tràng phan vào an trí trong chùa. Kế đó, triệu Tăng, Đạo mỗi bên bảy người vào điện Bách phước cùng luận về danh, lý để khai mở nghĩa sâu. Đế lại cho hai bên luận nghị. Toàn văn có ghi đủ trong Luận Hoành của Đạo Tuyên Luận Sư. Tháng bảy, Đế hạ chiếu thỉnh Pháp Sư Huyền Trang vào ở chùa Tây Minh. Tháng mười năm thứ tư, Đế sửa cung Ngọc Hoa thành chùa để truy tiến Tiên đế, thỉnh Pháp Sư Huyền Trang đến ở. Năm thứ năm, Đế xa giá đến Đông Đô, hạ chiếu mời Tăng là Nghĩa Bao, Tuệ Lập đến Lạc Kinh yết kiến Đế ở điện Hợp Bích, luận bàn rất hợp ý, Đế giữ họ lại trong chùa Tịnh độ ở Đông Đô.

- Tân Dậu: Long Sóc năm đầu, tháng chín, Đế xa giá đến chùa Thiên Cung vốn là cựu đệ của Cao Tổ để thiết trai cúng dường chư Tăng.

- Thích Ngạn Tông soạn Đại Đường Kinh Tự Lục Truyện mười quyển nhằm nêu lại linh tích của Tam bảo.

- Minh Giải: Tăng Minh Giải ở chùa Phổ Quang, Trường An. Ông họ Diêu, bản tính thông minh, cầm kỳ thi họa tuyệt thế một thời, nhưng thích lưới tục chẳng ham cửa đạo, say sưa rượu chè, phóng tâm dục tình. Năm Hiển Khánh năm thứ ba, Đế dựng xong chùa Tây Minh mới nhờ Pháp sư Linh Nhuận chọn người vào ở. Lúc ấy có mấy quan đồng hàng cùng tiến cử Minh Giải. Pháp sư Linh Nhuận nói: "Các ông nên tìm học giới định tuệ để tăng trưởng ruộng phước, sao lại đưa khách rượu, thợ vẽ gánh vác sự ký thác lớn lao này!" Các quan xấu hổ lui ra, Minh Giải ôm hận. Sau đó không lâu, Đế mở tứ khoa, chẳng kể đạo tục, Minh Giải ứng thí. Nhờ tài bắn giỏi nên ông đỗ, không xiết vui mừng, liền hoàn tục và không quên phỉ báng chư Tăng. Không bao lâu, Giải nhiễm bệnh, thấy mấy mươi người cầm đuốc đến đón mình. Minh Giải thất kinh chưa kịp nói lời nào thì chết, đúng vào tháng tám năm này. Sau, Giải báo mộng cho Tăng là Trí Chỉnh ở chùa Tịnh độ thuộc Tương Châu rằng: "Minh Giải vốn không có phước, không tuân nội giáo, nay mắc tội lớn, đói khát khôn cùng, xin thầy niệm tình là cố nhân bố thí cho một bữa ăn được không?" Trí Chỉnh hứa cho. Đến lúc tỉnh dậy, Chỉnh bày thức ăn đến đêm mới nằm, liền thấy Minh Giải khúm núm đến tạ ơn. Hai năm sau, Giải lại báo mộng cho thợ vẽ Trương Sinh rằng: "Tôi vì không tin Phật pháp nay chịu đại thống khổ, ông hãy gắng sức vì tôi chép cho một vài quyển kinh". Giải ân cần nắm tay, ngâm thơ thay lời chia tay, bảo thợ vẽ đọc mười tám lần cho nhớ. Lúc thức dậy ông nhớ kỹ bài thơ rằng: "Vẫy tay chẳng nỡ lìa, vỗ ngực tự đau thương, xót thay thời gian ngắn, thương thay đường suối dài, rừng tùng nghe rùng rợn, gò hoang sương lạnh rơi, chia tay lấy gì tặng, để tâm trong điển chương". Người thợ vẽ này vốn không biết chữ mới nhờ người khác chép lại để thấy rõ ý của Minh Giải. Bạn bè đều nói: "Đây quả là văn phong của Minh Giải không sai!" Kẻ thấy người nghe thảy bùi ngùi thương cảm.

- Nhâm Tuất: Long Sóc năm thứ hai, tháng hai, Đế đổi tên gọi các chức quan. Môn hạ tỉnh là Đông đài, Trung thư tỉnh là Tây đài, Thượng thư tỉnh là Trung đài, Thị trung là tả tướng, Trung thư lệnh là hữu tướng, bộc xạ là khuôn chánh, Tả hữu thừa là túc cơ, Thượng thư là Thái thường bá, Thị lang là Thiếu thường bá. ngoài ra, hai mươi bốn ty ngự sử đài, chín tự, bảy giám, mười sáu vệ đều lấy tên nghĩa huấn để thay. Chức vụ trách nhiệm vẫn như cũ.

- Tượng lớn ở Tinh châu: Tinh châu là Thái Nguyên Lộ nay đổi thành Ký Ninh lộ. Đế và Hoàng hậu đến chùa Đồng Tử ở Tinh châu, tượng lớn cao mười bảy trượng. Tháng bảy Đế sai Sứ cúng Ca-sa đắp tượng, tượng phóng quang minh, Đế rất vui mừng.

- Hòa thượng Thiện Đạo: Hòa thượng vào Kinh dạy người tu Tịnh độ, niệm Phật Di-đà. Ngài thuyết pháp ở chùa Quang Minh và quy tịch trong năm này.

- Đại sĩ Tăng-già ở Tứ Châu: Hồi ấy, ngài từ nước Toái Diệp vân du đến Tây Lương. Năm này ngài hoằng hóa ở Lạc Dương. Có người hỏi:

- Thầy họ gì? Ngài đáp:

- Họ gì!

- Người nước nào?

- Người nước nào.

Tắc Thiên niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên năm đầu hạ chiếu "Những Phiên tăng người nào thích ở thì Sở tại cho họ ở". Lúc này Đại sĩ không muốn làm khác người nên ghi tên ở Sở Châu, chùa Long Hưng. Có lúc ngài lặng lẽ hoặc ngồi yên trong phòng kín. Có lúc chấn tích ở Trường Lộ. Trung Tông năm Cảnh Long năm thứ hai, Đế hạ chiếu mời Đại sĩ từ Chuẩn Tự vào cung, Đế xưng đệ tử, Tam Công hỏi pháp, trăm quan quy tâm. Đế mời ngài ở tại chùa Tiến Phước. Ở kinh thành được vài tháng, trời bỗng đại hạn, Đế thỉnh ngài vào nội điện cầu mưa, quả nghiệm tức thì. Đế liền cho Tuệ Nghiễm, Tuệ Ngạn và Mộc Xoa làm thị giả ngài. Đế sắc tứ nơi ngài ở là Phổ Quang Vương Tự, tiễn về đất Hoài. Duệ Tông niên hiệu của Cảnh Vân năm đầu, tháng ba, ngài quy tịch, thọ tám mươi ba tuổi. Đế hạ chiếu phụng toàn thân về chùa Phổ quang Vương, Tứ Châu dựng tháp. Đế hỏi Thánh Sĩ Vạn Hồi:

- Tăng già là người thế nào? Hồi đáp:

Là Quán Âm Đại sĩ hóa thân.

Ngài ở nước mình ba mươi năm, năm mươi ba năm hành hóa ở Trung Quốc, hiện thân độ người có duyên cả thảy hai mươi bảy nơi, thần tích linh dị, người người chiêm ngưỡng, điện chùa tháp miếu nơi nào người ta cũng thờ cúng.

- Ất Sửu: Lân Đức năm thứ hai, chùa Pháp Tụ ở Ích Châu có bức tượng Bồ-tát Địa Tạng do Trương Tăng Diêu vẽ. Tháng bảy năm này, tượng do Tăng vẽ lại bỗng phóng quang. Cứ thế vẽ thêm ra, tượng nào cũng phóng quang.

* Chín đời Đồng Cư: Lân Đức năm thứ hai, tháng mười, Đế xa giá đến Đông Đô tế trời ở Thái Sơn. Tháng mười một, Đế đến Thọ Trương, xa giá đến nhà Trương Công Nghệ. Công Nghệ vẽ bức họa "Cửu thế đồng cư" treo trên ngạch cửa (gồm Bắc Tề, Tùy, Đường), đế hỏi nguyên do sao lại đồng cư, Công Nghệ liền viết một lúc hơn cả trăm chữ Nhẫn. Đế khen và ban cho gấm lụa (Thọ Trượng thuộc Thái Nguyên, nay là Ký Ninh lộ)

+ Luật sư Đạo Tuyên ở núi Chung nam: Năm Đinh Mão, Càn Phong năm thứ hai, mồng ba tháng mười, ngài nhập diệt ở chùa Tây Minh, Trường An. Ngài họ Tiền, húy Đạo Tuyên, người Kinh Triệu. Cha là lại bộ Thượng thư Thân. Mẹ ngài mộng thấy mặt trăng chui vào bụng nhân đó mang thai. Bà lại mộng thấy vị Tăng Ấn Độ đến nói: "Người bà mang thai là Luật sư Tăng Hựu đời Lương". Lớn lên, ngài xuất gia, chuyên trì giới Luật, cảm được chư thiên cúng cơm, hầu hạ. Những năm về già, thấy giới đàn không hợp với Luật, nên ngài đích thân bạch với những người có trách nhiệm đàn tràng chiếu theo Luật mà sửa đổi lại. Đêm đến, ngài trì luật chí thành miên mật đến té xỉu, bỗng có một thiếu niên mặc áo giáp đội mũ trụ đến đỡ ngài dậy. Ngài hỏi: Ông là ai? Người ấy đáp: "Đệ tử là con của Bác Xoa Thiên Vương, tên Trương Quỳnh, do thầy có giới đức nên đến hầu hạ". Ngài hỏi những việc lúc Thế Tôn còn trụ thế và nhập diệt thế nào, Quỳnh đều thuật lại tường tận. Lúc chia tay, Quỳnh trao cho ngài răng của Phật và bài thuốc kết hợp giữa cháo với thuốc mà trị. Nay là loại thuốc "Thiên Vương Bổ Tâm Viên" mà khắp nơi bày bán, những hành giả lễ sám thường dùng hàng ngày. Thiên thần giáng linh vô số, cùng đến hỏi đáp. Ngài gom lại lấy tên "Cảm Thiên Thị Ứng Truyện". Ngài soạn Nội Điển Lục, Tam Bảo Cảm Ứng Lục, Phật Đạo Luận Hành, Thích-ca Phổ, Tứ Phần Yết-ma, Tục Cao Tăng Truyện, Quảng Hoằng Minh Tập. Cả thảy tám bộ, tám mươi mốt quyển, đều lưu hành ở đời. Ngài thị tịch, Cao Tông hạ chiếu ai điếu, lệnh trong nước các chùa đều vẽ, đắp tượng ngài thờ cúng nhằm nêu cao tấm gương giới đức. Mục Tông làm bài tán rằng:

Đời có bậc Giác, làm sứ Như Lai
Rồng ma quy hàng, Sơn thần hầu hạ
Tiếng vang Ngũ thiên, lời rền vạn cổ
Trời lặn non Tây, Phật nhật Đông mọc
Cúi đầu quy y, bậc khai tông Luật.

Ý Tông, năm Hàm Thông năm thứ mười một, Đế ban ngài hiệu Trừng Chiếu Luật Sư.

* Nam sơn giáo: Khởi nguyên từ Tôn giả Ưuba-ly, sau Phật nhập diệt, ngài triệu tập bốn bộ chúng kết tập Luật tạng. Ưu-ba-ly khẩu tụng lời Phật mười lần, chứng thực không sai, sau đó tuyên bố. Thời Tam quốc, Ngụy Thiệu Lăng Lệ Công năm Gia Bình năm thứ hai, tây Trúc Sa-môn Đàmkha-la đến Lạc Dương mới đưa ra bộ Tăng-kỳ Giới Bản. Đông Tấn An Đế năm Nghĩa Hy năm thứ ba, Thiên Trúc Sa-môn Phật-đà Da-xá đem Thập Tụng Luật đến, từ đó Luật nghi ở Trung Hoa mới có đủ. Từ đời Nguyên Ngụy, Luật sư Thông v. v.. cứ thế truyền xuống. Đến lúc này có Đạo Tuyên Luật Sư là người trì Luật nghiêm cẩn, được chư Thiên dâng cơm, hầu hạ. Ngài hoằng truyền oai nghi, mở ra Luật tạng, nổi tiếng khắp nước, Tăng chúng gọi đây là tông "Hành sự phòng phi chỉ ác".

* Những Luật sư truyền Luật: gồm: Tôn giả Ưu-ba-ly người Trung Ấn Độ, Tôn giả Đàm-khA-la người Nam Thiên Trúc, Tôn giả Phật-đà Da-xá người Trung Ấn Độ, Luật sư Thông, Luật sư Quang Thống, Luật sư Đàm Huy Nguyện, Luật sư Lạc Hồng Vân, Luật sư Tùy Hồng Tuân được Văn Đế tôn làm thầy. Luật sư Trí Thủ, Luật sư Chung Nam Đạo Tuyên, Luật sư Văn Cương người Quang Châu, Luật sư Đạo Ngạn được Trung Tông tôn kính, vẽ hình tôn trí ở cung Lâm Quang, Đế viết lời tán. Luật sư Thái Lượng, Luật sư Đàm Nhất, họ Trương người Nam Dương, Luật sư Đạo Trừng đời Đường, được Đức Tông ban hiệu Đại Viên Luật Sư. Luật sư Tuệ Khâm họ Từ, người Hồng Châu.

- Mậu Thìn: Tổng Chương năm đầu. Kỷ Tỵ: Tổng Chương năm thứ hai.

- Canh Ngọ: Hàm Hưởng năm đầu. Tân Mùi:

Hàm Hanh năm thứ hai.

* Thủy Lục Nghi Văn: Tháng ba năm Hàm

Hanh năm thứ hai, bỗng có một dị nhân đến nói với Thiền sư Pháp Anh ở chùa Pháp hải, Trường An rằng: "Đệ tử biết có sám văn Thủy lục hay làm lợi ích oan linh. Sau khi Lương Vũ Đế mất, sám văn mai một không lưu hành. Nay Tăng đất Ngô là Nghĩa Tế ở chùa Đại Giác cất giữ nghi văn này, mong thầy đến xin, ngày rằm tháng tới như pháp lập đàn ở chùa Sơn bắc, nếu được thoát khỏi gông cùm, lao ngục, không dám quên báo ơn". Pháp Anh liền đến Nghĩa Tế, quả nhiên thỉnh được sám văn, đúng kỳ hẹn, ngài lập đàn ở chùa Sơn Bắc. Chiều tối hôm sau, dị nhân ấy dẫn theo mười mấy tùy tùng đến tạ ơn rằng: "Đệ tử là Tần Trang Tương Vương", và chỉ những người đi theo nói: "Đây là Phạm Tuy, Nhương Hầu, Bạch Khởi, Vương Tiễn, Trương Nghi, Trần Chẩn đều là bề tôi nhà Tần, ai nấy đều tạo tội bị giam cầm nơi âm phủ, đêm dài mờ mịt, không ai cứu thoát. Xưa Lương Vũ Đế lập trai nghi này ở chùa Kim Sơn, những bề tôi của Trụ Vương đời trước đều được thoát khổ. Lúc ấy đệ tử tạm bớt khổ, nhưng do tội nghiệp chưa dứt nên không được thoát khỏi. Nay nhờ thầy lập trai đàn, đệ tử và tùy tùng cùng tất cả các chư hầu liệt quốc đều nhờ thiện lực sắp được sinh nhân gian, nghĩ đến đời khác nước lạ nên đến đây tạ ơn". Nói xong, dị nhân biến mất. Từ đó Nghi Văn này lưu hành khắp nước mang lại lợi ích lớn.

* Vạn Hồi Pháp Vân Công: Ông họ Trương, người Văn Hương, Quắc Châu, sinh mồng năm tháng năm Trinh Quán năm thứ sáu, đời Thái Tông. Lúc này là Hàm Hưởng năm thứ tư, ông được Đế độ làm Sa-môn. Thuở nhỏ, ông đưa thư cho anh, đi xa cả sáu ngàn dặm, sáng đi chiều về, nhân đó người ta gọi ông là Vạn Hồi. Tắc Thiên, năm Thùy Củng năm thứ tư, Thái hậu mời ông vào cung ban cho y gấm, sai cung nữ hầu hạ. Trường An năm thứ hai, ông đến đâu thì giáo hóa ở đó. Huyền Tông khi chưa lên ngôi, từng gặp riêng ông. Hồi vỗ lưng Huyền Tông nói: "Năm mươi năm thái bình, Thiên Tử tự vui vầy". Trung Tông năm Thần Long năm thứ hai, Đế ban ông hiệu Pháp Vân Công. Duệ Tông năm Cảnh Vân năm thứ hai, tháng mười, Đế mời ông vào Tập Hiền viện ở Cung Quán cấp cho hai mỹ nữ hầu hạ. Tháng 12, ông chợt bảo tìm Hà Thủy ở Văn Hương. Tả hữu tìm không có. Ông bảo: "Đến cái hang nơi miếng đất trước nhà thì có". Ông uống cạn nước và lặng lẽ quy tịch, thọ tám mươi tuổi. Đế ban ông chức Tư Đồ, hiệu Quắc Quốc Công, sắc lệnh vẽ hình ông tôn trí trong Tập Hiền Viện.

-Giáp Tuất: Thượng Nguyên năm đầu, Đế xưng Thiên hoàng, hậu xưng Thiên hậu. Mùa thu tháng tám, Đế lệnh các quan văn võ, tam phẩm trở lên mặc áo màu tía, thắt đai kim ngọc. tứ phẩm mặc áo lụa đào đậm, thắt đai vàng. Ngũ phẩm mặc lụa đào nhạt, đai vàng, Lục phẩm mặc màu xanh lục đậm, thất phẩm màu xanh lục nhạt đều thắt đai bạc, bát phẩm mặc xanh đậm, cửu phẩm mặc xanh nhạt đều thắt đai bằng thâu thạch. Thứ dân mặc màu vàng, đai đồng thiết. Nếu chẳng phải thứ dân thì không được phép mặc màu vàng.

Tổ năm thứ 5: Đại Sư Hoằng Nhẫn.

Sư quê ở huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu. Trước đây làm Tài Tùng Đạo Giả ở núi Phá Đầu, từng xin Tứ Tổ rằng: "Con có thể nghe đạo pháp được chẳng?" Tổ đáp: "Ông già rồi, giả như có nghe thì hoằng hóa cũng không kịp, nếu ông tái sinh thì ta gắng chờ". Đạo Giả nghe vậy đi ra bến sông, bỗng gặp cô gái đang giặt đồ, ông chào và hỏi: "Cô cho tôi ngủ nhờ được không?" Cô gái đáp: "Tôi còn cha mẹ ông có thể đến nhà xin" Đạo Giả nói: "Tôi sẽ đến xin". Cô gái gật đầu đồng ý. Đạo Giả chống gậy về núi và quy tịch. Cô gái con út họ Châu kia bỗng dưng có thai. Cha mẹ cô tức giận đuổi đi. Cô lưu lạc, bơ vơ, ngày đi kéo chỉ thuê, đêm ngủ các quán xá. Sau, cô sinh một đứa con trai, cô cho là điềm chẳng lành nên đem nó vứt trong sông nước đục. Hôm sau, thấy đứa con ngồi trên nước chảy xiết, cô thất kinh vớt về nuôi nấng. Ngày ngày cậu bé theo mẹ đi xin ăn, trong làng gặp một người trí than: "Đứa bé này chỉ thua Phật bảy tướng". Về sau, cậu bé ấy được Tứ Tổ hóa độ và truyền trao y pháp, tiếp bước giáo hóa ở núi Phá Đầu. Đến năm Hàm Hưởng năm thứ hai, có một cư sĩ tên Lư Tuệ Năng từ Tân Châu đến tham học. Tổ hỏi:

- Ông từ đâu đến? Năng đáp:

Từ Lãnh Nam.

- Muốn cầu việc gì?

- Chỉ cầu làm Phật.

- Người Lãnh Nam không có Phật tánh làm sao làm Phật?

- Người có Nam Bắc, Phật tánh há cũng vậy?

Tổ lớn tiếng bảo:

Xuống nhà giã gạo đi!

Tuệ Năng lạy Tổ và lui xuống nhà sau làm công việc giã gạo hơn tám tháng. Tổ biết lúc giao phó đã đến, nên bảo chúng mỗi người tùy chỗ thấy của mình mà viết một bài kệ. Lúc này pháp hội có hơn bảy trăm Tăng, Thượng tọa Thần Tú là người học thông nội điển ngoại điển được chúng kính ngưỡng. Họ đều suy tôn ông về nói: "Nếu chẳng phải ngài Tú thì chẳng ai làm nỗi việc này". Thần Tú nghe vậy mới viết bài kệ ở vách hành lang:

Thân là cây Bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Thường thường siêng lau chùi
Chớ để bụi trần bám.

Tổ thấy và khen: "Y như đây tu hành cũng được thắng quả". Tuệ Năng nghe vậy liền nói: "Hay thì có hay nhưng liễu ngộ thì chưa!" Đêm ấy, Tuệ Năng cầm đuốc mời quan Biệt Giá Trương Nhật Dụng viết hộ mình bài kệ bên cạnh kệ của Thần Tú.

Bồ-đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Bụi trần bám vào đâu!

Tổ thấy bài kệ liền ngầm xuống nơi giã gạo hỏi:

-Gạo trắng chưa? Năng đáp:

Trắng rồi nhưng chưa qua giần sàng.

Tổ lấy gậy gõ vào cối ba cái. Canh ba đêm ấy, Năng vào trượng thất. Tổ dạy: "Chư Phật xuất thế vì nhân duyên đại sự nên tùy cơ lớn nhỏ mà dẫn dắt, từ đó có tông chỉ đốn tiệm, Thập địa, Tam thừa, đó gọi là giáo môn. Thế nhưng Phật đem chánh pháp nhãn tạng viên minh chân thật bí mật mầu nhiệm vô thượng giao phó cho Thượng thủ Đại Ca-diếp Tôn giả. Cứ thế, chư tổ truyền trao cho đến đời năm thứ hai mươi tám là Bồ-đề Đạt-ma Đại Sư. Đạt-ma truyền pháp này về đông, lần lượt truyền trao đến ta. Nay ta đem đại pháp, y Tăng-già-lê và bảo bát giao phó cho ông, ông phải khéo giữ gìn, chớ khiến pháp đoạn đứt, nghe ta nói kệ:

Hữu tình đến gieo giống
Từ đất quả lại sinh
Không tình lại không giống
Không tánh cũng không sinh.

Tuệ Năng thọ pháp xong đảnh lễ hỏi Tổ: "Pháp thì nghe rồi, còn y bát có truyền trao nữa không?" Tổ đáp:

Xưa Đạt-ma từ nơi khác đến, sợ người đời không tin có thầy truyền thừa nên lấy y bát làm minh chứng, nay thiên hạ đã tin rồi nên y bát đến ông thì đừng truyền nữa. Hơn nữa, ông hãy ẩn cư thật xa, đợi lúc hợp thời hãy hoằng hóa. Đó gọi là "Nhận y bát chẳng khác nào thân mạng treo đầu sợi tơ.

Năng thưa:

Con phải đến đâu? Tổ đáp:

Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

Tuệ Năng đảnh lễ Tổ và ngay đêm đó ra đi.

Tổ không thượng đường ba ngày, đại chúng nghi và hỏi, Tổ đáp:

- Đạo của ta đi rồi! Chúng hỏi:

Ai được y bát?

- Tuệ Năng được.

Chúng vỡ lẽ người họ Lư tên là Năng ấy ắt được y bát và đi rồi. Tổ truyền trao y pháp xong, bốn năm sau, vào năm Thượng Nguyên năm thứ hai, Tổ bảo chúng: Nay ta xong việc, đến lúc phải đi! Tổ vào thất ngồi yên quy tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, đồ chúng dựng tháp ở Đông Sơn thuộc Hoàng Mai. Đại Tông ban hiệu Đại Mãn Thiền Sư, tháp hiệp Pháp Vũ.

Bính Tý: Nghi Phụng năm đầu. Kỷ Mão: Điều Lộ năm đầu. Canh Thìn: Vĩnh Long năm đầu. Tân Tỵ: Khai Diệu năm đầu.

Nhâm Ngọ: Vĩnh Thuần năm đầu, ẩn sĩ Tôn Tư

Mạc mất. Ông rất giỏi thuật y dược, âm dương, Trang Lão, lại tinh thông Phật điển, được tôn xưng là Chân Nhân.

Quý Mùi: Hoằng Đạo năm đầu, tháng mười hai, Đế bệnh, mất năm Đinh Tỵ. Năm Giáp Thân Trung Tông lên ngôi, tôn Thiên hậu là hoàng Thái hậu. Mọi chánh sự đều do bà quyết định. Trung Tông lên ngôi xong bị phế, Thái hậu nắm triều chính.

* Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni: Sa-môn Phật Đà-ba-lợi người nước Kế Tân, Bắc Ấn, Tây Vực (Hán dịch Giác Hộ) vào năm Nghi Phụng năm đầu ngài đến núi Thanh Lương ở Ngũ Đài gặp một ông già. Ông già hỏi:

- Ông đến đây làm gì? Ngài đáp:

Muốn lạy Văn-thù.

- Ông có đem Phật Đảnh Tôn Thắng chú qua không?

- Không.

- Chúng sinh cõi này có nhiều người phạm bốn nghiệp sát, đạo, dâm, vọng, ông hãy về nước đem thần chú ấy qua đây làm lợi ích lớn, đệ tử sẽ chỉ cho ông chỗ của Văn-thù.

Nói xong, ông già biến mất. Ba-lợi quay về đem thần chú ấy sang.

Niên hiệu Hoằng Đạo năm đầu. Ngài đến Trường An. Đế hạ chiếu sai Đỗ Hành Khải và Tam Tạng Nhật Chiếu dịch xong. Ba-lợi lại đem Phạm bản này đến tăng Thuận Trinh ở chùa Tây Minh, Trinh tấu xin cùng ngài phiên dịch, lấy tên Tôn Thắng Đà-la-ni, đây là bản dịch năm thứ ba, so với bản dịch của họ Đỗ có vài chỗ khác nhau, so với các bản khác thì bản dịch này lưu hành nhiều nhất. Sau đó ngài vào Ngũ Đài và không ai biết ngài tịch lúc nào, ở đâu.

* Pháp Uyển Châu Lâm: Gồm một trăm quyển, Đế cho nhập tạng lưu hành. Sách do Pháp sư Huyền Huy soạn. Huyền Huy tự là Đạo Thế, thị tịch năm Hoằng Đạo năm đầu.

* Tắc Thiên: Húy là Chiếu, họ Võ, vợ Cao Tông, sinh ba người con là Trung Tông, Duệ Tông và công chúa Thái Bình. Cao Tông mất, Trung Tông lên ngôi, tôn bà là Hoàng Thái hậu. Trung Tông năm đầu, tháng hai, bà phế Trung Tông làm Lô Lăng Vương cho ở nơi riêng. Năm Kỷ Mùi, bà lập Dư Vương Đán làm Hoàng Đế, chánh sự do Thái hậu quyết định, cho Đế ở điện riêng. Mùa hạ tháng tư, dời Lô Lăng Vương về Phòng Châu, sau dời qua Quân Châu. Tháng chín, Giáp Dần bà đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu Quang Trạch, cờ xí đều làm màu vàng. Quan Bát Phẩm xuống đến già trẻ đều đổi sắc phục xanh ngọc. Đông Đô đổi thành Thần Đô, cung gọi là Thái Sơ. Lại đổi Thượng thư tỉnh là văn xương đài, Tả hữu bộc xạ là Tả hữu tướng, Lục tào là Lục quan thiên địa tứ thời, Môn hạ tỉnh là loan đài, trung thư tỉnh là phụng các, thị trung là nạp ngôn, trung thư lệnh là nội sử, ngự sử đài là tả túc chính đài, đặt thêm chức hữu túc chính đài. Ngoài ra những tên đứng đầu trong tỉnh, tự giám đều theo nghĩa mà sửa đổi. Thái hậu nắm quyền hai mươi mốt năm, thọ tám mươi mốt tuổi. Niên hiệu Quang Trạch một năm, Thùy Củng bốn năm, Vĩnh Xương một năm, Thiên Thọ lại đổi Tái Sơ hai năm, Trường Thọ hai năm, Diên Tái một năm, Thiên Sách Vạn Tuế lại đổi Chứng Thánh một năm, Vạn Tuế Thông Thiên lại đổi Vạn Tuế Đăng Phong một năm, Thần Công một năm, Thánh Lịch hai năm, Cửu Thị một năm, Trường An năm.

- Giáp Thân: Tháng giêng, Trung Tông lấy niên hiệu Tự Thánh. Tháng hai, Dự Vương lên ngôi lấy niên hiệu Văn Minh. Tháng chín Giáp Dần đổi niên hiệu Quang Trạch.

- Ất Dậu: Thùy Củng năm đầu. Bính Tuất: Thùy Củng năm thứ hai, cây dâu trong vườn nhà Hoàng Thủ Cung ở Tuyền Châu bỗng sinh hoa sen trắng, nhân đó ông đổi nhà làm chùa, nay là chùa Khai Tiên.

- Thùy Củng năm thứ ba, Thiên Trúc Sa-môn Địa Bà-ha-la (Hán dịch Nhật Chiếu) đến Trường An vào niên hiệu Nghi Phụng đời Cao Tông, dịch Kinh như Mật Nghiêm v. v... Đến lúc này ngài dịch tổng cộng mười tám bộ, ba mươi bốn quyển.

Thái hậu tự tay viết lời tựa.

- Kỷ Sửu. Vĩnh Xương năm đầu. Canh Thìn: Thiên Thọ năm đầu.

* Đổi Quốc Hiệu: Tháng chín, Thiên Thọ năm đầu, thị ngự sử Phó Du Nghệ dẫn trăm quan vào cung dâng biểu xin đổi quốc hiệu là Chu, đổi họ Hoàng Đế là Võ. Thái hậu ưng chuẩn, ngự ở lầu Tắc Thiên đại xá thiên hạ, đổi Đường thành Chu, đổi niên hiệu. Đế lấy hiệu Thánh thần Hoàng Đế. Cho Hoàng tộc mang họ Võ, lập Thất miếu của họ Võ ở Thần Đô. Mồng một tháng mười một Canh Thìn Đế về Nam đến Thái hậu hưởng vạn tượng thần cung đại xá thiên hạ, bắt đầu dùng Chánh sóc nhà Chu. Lấy tháng mười một Vĩnh Xương năm đầu làm tháng giêng Tái Sơ năm đầu, lấy tháng mười hai làm tháng Chạp. Tháng đầu mùa hạ là tháng một. Tần Tông Khánh sửa đổi mười hai chữ như "Thiên, địa..." dâng lên, năm Đinh Sửu thi hành. Thái hậu tự lấy tên Chiếu, đổi chiếu thành Chế. Tháng hai Tân Dậu, Thái hậu triệu Cống Sĩ vào điện Lạc thành. Thể lệ Cống Sĩ thi điện phát xuất từ đó. Đến mùa Đông tháng mười Cửu Thị năm đầu, Đế hạ chế lại lấy tháng giêng làm tháng mười một, tháng một là tháng giêng. Trung Tông, Thần Long năm đầu, tháng hai, lại lấy quốc hiệu Đường, Giao Miếu, xã tắc, lăng tẩm, bá quan, cờ xí, sắc phục, văn tự đều theo pháp chế như năm

Vĩnh Thuần trước đây, lại đổi Thần đô thành Đông Đô, Bắc đô là Tinh châu, tạo ra mười hai chữ mới (--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--,--đổi thành--, lệnh cho Tể tướng soạn thời Chánh Ký, hàng tháng giao cho Lại quán. Thời Chánh Ký phát xuất từ đây.

-Nhâm Thìn: Trường Thọ năm đầu, tháng tư, chiếu thỉnh Thiền Sư Nhân Kiệm vào cung. Sư nhìn Thái hậu rất lâu và hỏi: "Hiểu không?" Hậu đáp: "Chẳng hiểu". Sư nói: Lão Tăng trì giới tịnh khẩu (không nói)". Nói xong Sư đi. Sáng hôm sau, Sư dâng Hậu mười chín bài Đoản ca. Hậu xem rất thích, ban thưởng cho Sư rất hậu. Nay chỉ còn một bài Liễu Nguyên Ca trong Truyền Đăng Ngọc Anh tập. Sư chính là Hòa thượng Đằng Đằng nối pháp với Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc, Quốc sư nối pháp của Ngũ tổ.

* Kinh Bảo Tích: Sa-môn Đạt-ma-lưu-chi (Hán dịch Pháp Hy) người nước Nam Thiên Trúc, Cao Tông nghe tài đức của ngài nên vào niên hiệu Khai Diệu năm đầu sai sứ mang chiếu sang Tây Vực thỉnh. Năm này, ngài đến Trường An, Thái hậu cho triệu kiến và đổi tên ngài là Bồ-đề-lưu-chí (Hán dịch Giác Ái) sắc lệnh cho ngài dịch kinh tại chùa Phật thọ ký, cả thảy mười chín bộ, hai mươi tám quyển. Trung Tông, Thần Long năm thứ hai, Chí theo xa giá về kinh. Đế mời ngài dịch Kinh Bảo Tích tại Tây Sùng Phước Tự, Đế làm bút thọ. Duệ Tông, Cảnh Vân năm đầu, Đế lại cho mở riêng Bảo Tích hội tại Bắc Uyển, Bạch Liên Hoa đình, Đế cũng đích thân làm Bút thọ, Vương Tấn, Hạ Tri Chương v. v.. nhuận sắc, trung thư Lục Tượng Tiên, Ngụy Truy Cổ làm giám hộ. Đế ngự bút viết lời tựa ở đầu bộ kinh, Huyền Tông, Khai Nguyên năm đầu, ngài đem bộ kinh Bảo Tích mình dịch kết hợp bản dịch cũ thành một bộ gồm một trăm hai mươi quyển. Từ đó ngài không dịch nữa mà chuyên trì tụng, tu tập Thiền quán. Khai Nguyên năm thứ mười lăm, ngài tịch, thọ một trăm năm mươi sáu tuổi. Ngày an táng, Đế đặc biệt cấp đội nghi trượng, cờ xí của Thiên Tử, dựng tháp ở Tây Nguyên, Long Môn, truy tặng chiếc Hồng Lô Đại Khanh, ban thụy là Khai Nguyên Nhất Thiết Biến Tri Tam Tạng, những danh đức trọng vọng xưa nay chưa có ai bằng ngài. Ngài dịch cả thảy năm mươi ba bộ kinh, gồm một trăm mười tám quyển.

- Giáp Ngọ: Diên Tái năm đầu.

- Ất Mùi: Thiên Sách Vạn Tuế năm đầu, tháng giêng Tân Tỵ, Thái hậu gia hiệu là Từ Thị, đổi niên hiệu là Chứng Thánh, lại gia hiệu Thiên Sách Kim Luân Đại Thánh Hoàng Đế, đổi niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên.

- Pháp Sư Nghĩa Tịnh: Sư họ Trương, húy Nghĩa Tịnh, tự Văn Minh người Mang Dương.

Ngài xuất gia từ nhỏ, thành niên thì thọ cụ túc. Cao Tông, Hàm Hưởng năm thứ hai, ngài ba mươi bảy tuổi, đến Tây Vực tìm kinh Phật, bôn ba một mình suốt hai mươi lăm năm, đi qua hơn ba mươi nước. Lúc này, tháng năm Ất Mùi, ngài về đến Hà Lạc, mang theo gần bốn trăm bộ cả thảy năm mươi vạn quyển Kinh Luật luận tiếng Phạm, một cái chân dung Kim Cang tòa, ba trăm hạt xá-lợi. Thái hậu ra tận ngoài đông môn đón xem an trí ở chùa Phật thọ ký, sắc lệnh ngài phiên dịch. Đầu tiên, ngài cùng Thật-xoa-nan-đà dịch kinh Hoa Nghiêm. Trường An năm thứ ba, ngài dịch những kinh như: Kim Quang Minh Tối Thắng Vương v. v... Bách Nhất Yết-ma v. v... Thành Quân Trợ Giáo Hữu Quán làm giám hộ. Thái hậu viết bài tựa cho Thánh giáo mới dịch. Trung Tông, Thần Long năm đầu, tại đạo tràng trong Đông Lạc, ngài dịch Khổng Tước Vương Kinh v. v.. Đế viết tựa, lấy hiệu Đại Đường Long Hưng Tam Tạng Thánh Giáo. Năm thứ hai, ngài theo xa giá về Trường An, Đế sắc lệnh lập riêng viện dịch kinh trong chùa Đại Tiến Phước, dịch Kinh Nhất Thiết Trang Nghiêm

Vương v. v... Binh bộ thị lang Thôi Thục, cấp sự trung Lô Xán nhuận văn, sữa chữ, bí thư giám phò mã đô úy Dương Thận Giao làm giám hộ. Trung Tông, Cảnh Long năm thứ hai, Đế triệu ngài vào cung cùng dịch kinh. Ba tháng kiết hạ, Đế nhớ lại hồi còn ở Phòng Châu mình từng cầu niệm Dược

Sư nên thỉnh ngài dịch kinh Dược Sư hai quyển tại điện Phật quang. Duệ Tông, Cảnh Vân năm đầu, tại chùa Đại Tiến Phước, ngài dịch những Kinh Luận như Dục Tượng v. v... hai mươi bộ gồm tám mươi tám quyển. Học sĩ Lý Kiêu, Trương Thuyết nhuận sắc, bộc xạ Vi Cự Nguyên, Tô Hoài làm giám hộ. Huyền Tông, Khai Nguyên năm đầu, tháng bảy ngài quy tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, tăng lạp năm mươi chín hạ, Đế cấp phẩm vật an táng, dựng tháp ở Cao Nguyên phía Bắc Long Môn, Lạc Kinh. Ngài dịch tổng cộng năm mươi sáu bộ, gồm hai trăm ba mươi quyển Kinh Luật luận, lại soạn riêng nghi, truyện v. v... chín tuyển. Tuy dịch rộng ba tạng, nhưng ngài chuyên nghiên cứu luật bộ truyền dạy cho người học.

Năm này, Đế sắc lệnh Sa-môn Minh Toàn San định Kinh mục, soạn Lục mười lăm quyển nhập đại tạng lưu hành.

* Kinh Hoa Nghiêm: Thái hậu nghe nước Vuđiền có Đại Kinh Hoa Nghiêm tiếng Phạm nên sai sứ qua thỉnh, đồng thời mời học giả giỏi tiếng Phạm theo sứ về nước. Lúc ấy Vu-điền quốc chủ mời Tôn giả Thật-xoa-nan-đà (Hán dịch Giác Hỷ) là người tinh thông tông chủ Hoa Nghiêm theo sứ đi. Thái hậu rất hài lòng. Tháng ba năm ấy, Đế hạ chiếu mời ngài ở chùa Đại biến không cùng Bồ-đềlưu-chí, Pháp sư Phục Lễ v. v.. dịch kinh. Sau thỉnh ngài qua chùa Phật thọ ký. Thái hậu xa giá đến chùa, đích thân giám sát việc phiên dịch, cúng dường trai tăng. Đến Thánh Lịch năm thứ hai, tháng mười, kinh được dịch xong gồm tám mươi quyển. Thái hậu viết tựa, ngự ở điện Thái cực tuyên cáo với trăm quan. Trường An năm thứ tư, Thật-xoa-nan-đà dịch xong kinh Lăng-nghiêm bảy quyển, so với các bản khác, bản dịch này sáng tỏ nhất. Nan-đà dịch tổng cộng mười chín bộ, một trăm lẻ bảy quyển Kinh Luận, rồi cáo từ về Vuđiền. Đế hạ chiếu cho ngự sử Hoặc Tự Quang đưa ngài về nước. Đến Trung Tông, Cảnh Long năm thứ hai, Đế lại triệu ngài sang, sắm đủ lễ nghi đích thân đón rước, đưa về ngụ tại chùa Tiến Phước diễn giảng ý chỉ của kinh. Duệ Tông, Cảnh Vân năm đầu, tháng mười, ngài quy tịch, trà-tỳ nhưng lưỡi còn nguyên, Đế hạ chiếu đưa về Vu-điền dựng tháp.

-Bính Thân: Tháng mười hai Giáp Thân Vạn Tuế Thông Thiên năm đầu đổi niên hiệu Vạn Tuế Đăng Phong.

* Hiền Thủ Giáo: Thích Pháp Tạng họ Khương, hiệu Hiền Thủ, người nước Khương Cư, phong thái xuất chúng, tài trí tuyệt luân, ngài đến Trường An liền được chọn vào những bậc danh tăng nghĩa học, được tham dự trong dịch trường của Pháp sư Huyền Trang. Sau nhân thấy bút thọ, chứng nghĩa, nhuận văn kiến thức không đồng nên ngài ra khỏi dịch trường. Hồi ấy, Pháp sư Đỗ

Thuận ở Đôn Hoàng rất được Tùy Văn Đế kính trọng, từng cùng đệ tử là Trí Nghiễm hoằng truyền pháp giới quán của Hoa Nghiễm (Đời Tấn dịch là Hoa Nghiêm). Pháp Tạng theo hầu Trí Nghiễm và học hết giáo quán này. Đến khi chuyển dịch, ngài đứng đầu dịch trường. Phạm bản Hoa Nghiêm của Vu-điền mà Thật-xoa-nan-đà dịch, ngài và Pháp sư Nghĩa Tịnh, Phục Lễ đều có tham dự. Vạn Tuế Thông Thiên năm đầu, Đế hạ chiếu thỉnh Sa-di Pháp Tạng khai thị tông chỉ Hoa Nghiêm tân dịch tại chùa Thái Nguyên, miệng ngài phóng ánh sáng trắng. Đế có chiếu chỉ thỉnh mười đại đức trong kinh thành truyền cụ túc cho ngài, ban hiệu là Hiền Thủ, triệu vào chùa Đại Biến không tham gia dịch thuật. Trường An năm đầu, đế mời ngài giảng kinh Hoa Nghiêm tân dịch tại chùa Phật Thọ Ký ở Đông Đô. Giảng đến phẩm Hoa Tạng Thế Giới thì đại địa rung chuyển, ngay hôm đó, Đế triệu ngài vào điện Trường sinh để hỏi về nghĩa của Lục Tướng, Thập Trùng Đế võng. Ngài trình bày thứ lớp về nghĩa của Thiên Đế Võng, Thập Trùng Huyền Môn, Hải Ấn Tam-muội Môn, Lục Tướng Hòa Hợp Nghĩa Môn, Phổ Nhãn Cảnh Giới Môn. Các nghĩa chương này đều là những nghĩa tổng biệt của Hoa Nghiêm. Thái hậu mờ mịt chẳng hiểu, ngài bèn chỉ con sư tử vàng ở góc điện để làm thí dụ, nhân đó soạn nghĩa môn thẳng tắt, dễ hiểu lấy tên là Kim Sư Tử Chương, liệt vào tướng tổng biệt của Thập môn. Thái hậu tỏ ngộ tông chỉ. Ngài lại dùng phương tiện khéo léo khai mở cho những người học nhưng chưa hiểu nghĩa. Ngài lấy mười tấm gương treo ở tám hướng cùng trên dưới, mỗi cái cách nhau một trượng các gương đối mặt vào nhau. Chính giữa ngài đặt một tượng Phật, đốt một cây đuốc để soi sáng, bóng và ánh sáng in hình khắp mặt gương. Nhờ vậy, người học hiểu ngay "sát hải" thể nhập nghĩa vô tận. Ngài từng soạn Bát-nhã tâm kinh sớ, đương thời rất quý trọng, lưu hành khắp nước. Ngài được ban hiệu Khương Tạng Quốc Sư. Thanh lương Đại Thống Quốc Sư Trừng Quán đem cả tài A Thánh siêu xuất mà truy tôn Hiền Thủ, soạn Hoa Nghiêm sớ luận cả mấy trăm vạn lời, Khuê Phong Tông Mật Kế Thừa, đó là Hoa Nghiêm Ngũ Tổ. Mạch nguồn đại pháp chảy tràn thiên hạ, lấy tên là Nhất Niệm Viên Dung Cụ Đức Tông, Hiền Thủ Giáo.

* Quốc Sư Thanh Lương: Ngài họ Hạ Hầu, pháp danh Trừng Quán, người Sơn Âm, Việt Châu. Năm mười một tuổi, ngài xuất gia với Thiền sư Bái ở chùa Bảo lâm núi Ứng thiên, tụng kinh Pháp Hoa. Năm mười bốn tuổi ngài gặp được Từ Ân hóa độ, nổi tiếng ở Thiền Lâm. Trong năm Càn Nguyên đời Túc Tông, ngài theo Luật sư Lễ ở chùa Thê hà, Nhuận Châu học Tướng Bộ Luật, theo Đàm Nhất học Nam Sơn Luật, đến Pháp sư Huyền Bích ở Kim lăng học Quan Hà Tam Luận. Tam Luận thạnh hành ở Giang biểu đều nhờ công sức của ngài. Năm Đại Lịch đời Đại Tông, ngài hoằng truyền Khởi Tín, Niết-bàn ở chùa Ngõa quan. Ngài lại theo Pháp Tạng ở Hoài nam học Hải Đông Khởi Tín Sớ Nghĩa, nghiên cứu Hoa Nghiêm, Tam Luận suốt hai mươi năm, theo Pháp sư Trạm Nhiên ở Tô châu học sớ nghĩa các kinh như Tạp Ma, Pháp Hoa, Thiên Thai Chỉ Quán. Lại yết kiến thiền sư Trung ở núi Ngưu Đầu, Thiền Sư Khâm ở Kính Sơn, Thiền Sư Vong Danh ở Lạc Dương để tham vấn Thiền pháp của Nam Tông. Ngài lại yết kiến Thiền Sư Tuệ Vân liễu ngộ huyền lý của Bắc Tông. Nhẫn đến dịch thuật các kinh, truyện, tử sử, tiểu học, thương nhã, Thiên Trúc tất đàm, chư bộ dị chấp, tứ vỹ, ngũ minh, bí chú, nghi quỹ, thiên tụng, thư tung, ngài đều đọc khắp. Đại Lịch năm thứ mười một, ngài đến Ngũ Đài Lễ Văn-thù, qua Nga Mi lạy Phổ Hiền rồi về Ngũ Đài ở tại chùa Đại Hoa Nghiêm chuyên hành sám pháp Phương Đẳng, cảm khái vì Sớ cũ của Hoa Nghiêm văn dài dòng, nghĩa tóm lược, nên bùi ngùi nghĩ ngợi hoài, huống gì Văn-thù là đại trí, Phổ Hiền là đại lý, hai Thánh hợp lại thành Tỳ-lô-giá-na, muôn hạnh đều thông, ngay đó mới là nghĩa của Đại Hoa Nghiêm. Ngài soạn Sớ hai mươi quyển. Đức Tông năm Trinh Nguyên năm thứ bảy, Hà đông Tiết độ sứ Lý Tự Lương thỉnh ngài giảng tân sớ tại chùa Sùng phước. Đức Tông nghe danh ngài liền sai Trung Sứ Lý Phụ Quang mang chiếu đến thỉnh vào triều, cùng Tam Tạng Bát-nhã người Kế Tân dịch bốn mươi quyển của phần sau Hoa Nghiêm do nước Ô Trà tiến cống. Tháng năm sau, Đế sai Trung Sứ Hoắc Tiên Minh tuyên chiếu thỉnh ngài vào cung. Đức Tông kính trọng, thỉnh ngài ở dịch trường để san định, chỉnh sửa, lại hạ chiếu thỉnh ngài soạn sớ. Ngài soạn mười quyển và dâng Đế. Thuận Tông lúc chưa lên ngôi từng đàm đạo với ngài và thỉnh ngài soạn Liễu Nghĩa một quyển, Tâm Yếu một quyển và nhân duyên ăn thịt mắc tội. Ngài soạn thuật rất nhiều sớ nghĩa cương yếu, đệ tử truyền pháp đến hơn trăm người (xem trong Hiến Tông Nguyên Hòa năm thứ mười một và Văn Tông,

Khai Thành năm thứ 3)

* Thiền Sư Khuê Phong Tông Mật ở núi Chung nam: Ngài họ Hà, người Tây Sung, Quả Châu vốn theo nghiệp Nho. Hiến Tông năm Nguyên Hòa năm thứ hai, trên đường lên kinh ứng thí, chợt gặp Pháp tịch của Thiền sư Viên ở Toại Châu, thể nhận pháp vị và ngài liền cầu xin thế phát xuất gia, thọ cụ túc trong năm ấy. Ngày nọ, ngài theo chúng đi chứng trai tại nhà của phủ lại Nhậm Quán. Ngài nhỏ nhất pháp hội, theo năm thứ tự nhận được bản kinh Viên Giác, Thập Nhị Chương đọc chưa hết quyển nhưng ngài liền sáng tỏ. Ngài trình chỗ thấy với Viên, Viên nói: "Ông sẽ hoằng dương rộng giáo nghĩa của Viên đốn, đó là chư Phật giao phó cho ông vậy, hãy đi đi, đừng trói mình một chỗ!" ngài vâng lời từ biệt, đến yết kiến Thiền Sư Trung ở Kinh Nam, Thiền Sư Chiếu ở Lạc Dương đều được ấn khả. Ngài đến Tương Hán, nhân lúc bệnh, có vị Tăng trao cho ngài bộ Hoa Nghiêm sớ do Đại sư Trừng Quán ở Thượng Đô soạn. Ngài xem và mừng rỡ nói: "Thiền ta gặp Nam Tông, Giáo hợp Viên Giác". Ngay đó, tâm ngài khai mở, đọc đến nửa quyển, trời nghĩa sáng bừng. Không lâu sau đó, ngài vào Khuê Phong Lan-nhã ở núi Chung nam. Trong năm Thái Hòa đời Văn Tông, Đế mời ngài vào cung ban cho y tía, nhiều lần hỏi về pháp yếu. Văn sĩ trong triều đều quy ngưỡng nhưng chỉ có tướng quốc Bùi Hưu là người thấu triệt diệu nghĩa, thọ giáo làm người ngoại hộ. Ngài thấy học giả của Thiền Giáo thường công kích nhau, nhân đó soạn Thiền Nguyên Chư Thuyên, gom tập những văn tự, cú lệ nêu bày đạo lý căn nguyên của Thiền môn mà chư tôn túc soạn thuật, chép thành một tạng để lại cho đời sau. Mồng sáu tháng giêng niên hiệu Hội Xương năm đầu, đời Vũ Tông, tại viện Hưng Phước, ngài dặn đồ chúng: "Hãy đem thi thể cho muôn thú ăn, lượm xương đốt rồi rải tro đi!" Nói xong ngài quy tịch. Tăng tục đưa toàn thân ngài lên Khuê Phong, tràtỳ thâu xá-lợi cất nơi thạch thất. Tuyên Tông truy tôn ngài thụy là Định Tuệ Thiền Sư, tháp hiệu Thanh Liên. Ngài thọ sáu mươi ba tuổi, nối pháp của Thiền Sư Viên ở Toại châu, thuộc phái Hà Trạch, đời năm thứ năm của Lục Tổ.

+Đế hạ chiếu thỉnh Thiền Sư Tuệ An ở Tung Nhạc và Thiền Sư Thần Tú vào triều, rước hai ngài lên điện. Thái hậu ra quỳ lạy, giữ nơi cấm cung, sớm tối hỏi đạo, tôn Tuệ An làm Quốc Sư. Lúc ấy, từ Vương Công trở xuống nghe danh ngài đều đến yết kiến, cung kính đảnh lễ.

* Bắc Tông Thiền Sư Thần Tú: Sư húy Thần Tú, họ Lý, người Khai Phong, nối pháp Ngũ Tổ nhưng dòng phụ. Từ nhỏ, Sư theo Nho học, học rộng nghe nhiều, chợt phát tâm xuất gia. Sư đến chùa Song Phong ở Kỳ Châu, gặp Ngũ Tổ, khâm phục và thờ Tổ gắng công gánh nước, đốn củi, chấp lao phục dịch để cầu đạo, Tổ độ Sư. Sau khi Ngũ Tổ nhập diệt, sư trụ ở núi Đương dương, Giang Lăng. Thái hậu nghe tiếng liền thỉnh vào cung, cúng dường Sư và Quốc sư Tuệ An tại nội đạo tràng, đặc biệt tôn kính, lệnh dựng chùa Độ Môn ở Đương Dương để nêu cao đức của Sư. Trung Tông lên ngôi, càng rất tôn kính Sư. Đại thần Trương Thuyết từng nghe pháp yếu nhận lễ đệ tử. Sư dạy chúng: "Tất cả Phật pháp tự tâm sẵn có, ngoài tâm cầu pháp chẳng khác con bỏ cha trốn đi". Trung Tông Thần Long năm thứ hai, tháng hai, Sư tịch ở chùa Thiên Cung, Đông Đô. Đế ban Sư thụy Đại Thông Thiền Sư, lệnh an táng ở Long Môn, ngày an táng cấp cho nghi trượng, cờ xí của Thiên Tử, Đế đưa đến Tiện Kiều, lệnh cho trung thư lệnh Trương Thuyết soạn văn bia. Sư sinh cuối đời Tùy, thọ hơn trăm tuổi, tăng lạp tám mươi hạ. Khi ấy, Kỳ Vương Phạm, Trưng Quân Lư Hồng Nhất đều khắc bia làm bài tán. Cựu Đường Thư có chép truyện của Sư. Đế ban thụy hiệu bắt đầu từ Sư Môn Nhân Phổ Tịch, Nghĩa Phước v. v.. đều kế thừa pháp tịch.

* Quốc Sư Tuệ An ở Tung nhạc: Ngài họ Vệ, húy Tuệ An, người Chi Giang, Kinh châu, xuất gia từ nhỏ. Tùy Văn Đế, Khai Hoàng năm thứ mười bảy, Sư vào ở ẩn trong hang núi. Trong năm Đại Nghiệp đời Dương Đế, dân đinh đào kênh bị đói rách, ngài đi khất thực về nuôi họ. Dương Đế nghe tiếng triệu vào cung nhưng ngài không đi mà trốn vào núi Thái hòa, lên Hoành Nhạc hành hạnh Đầuđà. Năm Trinh Quán đời Thái Tông, ngài đến Hoàng Mai, Kỳ Châu, yết kiến Ngũ Tổ và được tâm yếu. Cao Tông, Lân Đức năm đầu, ngài vân du đến Thạch Bích ở núi Chung nam và ở đó. Cao Tông hạ chiếu mời nhưng ngài không vào triều mà đến Thiếu Lâm ở Tung Sơn và nói: "Đây là nơi ta tịch". Thiền giả quy tụ với ngài rất đông. Thái hậu sai sứ đi thỉnh ngài vào triều, ngài và Thần Tú đều được Thái hậu kính lễ. Thái hậu tôn ngài làm Quốc Sư. Đến Trung Tông, Thần Long năm thứ hai, Đế ban ngài ca-sa tía và thỉnh mười bốn đệ tử ngài vào cung cúng dường. Lúc này, Trung Tông sai nội thị Tiết Giản đi thỉnh Lục Tổ nhưng Tổ không đến. Ba năm sau, Trung Tông ban ngài tăng y Ma-nạp. Ngài từ biệt trở về Tung Nhạc. Mồng ba tháng ba năm Cảnh Long năm thứ ba, ngài dặn môn nhân: "Ta mất hãy đem xác vào rừng đợi lửa của núi rừng thiêu ta" Mồng tám, ngài an nhiên thị tịch, thọ một trăm hai mươi tám tuổi. Môn nhân làm đúng lời dạy, quả nhiên tự nhiên có lửa của núi rừng hỏa thiêu ngài, được tám mươi xá-lợi. Trong đó năm hạt lớn màu tía, môn nhân dâng Đế tôn trí trong cung. Duệ Tông, Tiên Thiên năm đầu, môn nhân dựng tháp. Người đời gọi ngài là Lão An Quốc Sư, đệ tử nối pháp có Nhân Kiệm, Phá Táo Đọa, Tung Nhạc Nguyên Khuê.

- Đinh Dậu: Thần Công năm đầu. Mậu Tuất: Thánh Lịch năm đầu.

+ Hoàng Tự (Duệ Tông) cố xin Đế nhường ngôi cho Lô Lăng

Vương. Tháng chín, lập Lô Lăng Vương Triết làm hoàng Thái tử. Triết lại đổi tên là Hiển, đại xá thiên hạ. Kỷ Hợi: Thánh Lịch năm thứ 2.

- Canh Tý: Cửu Thị năm đầu, mùa Đông tháng mười, đế lại lấy tháng giêng làm tháng mười một, tháng một làm tháng giêng.

- Tân Sửu: Trường An năm đầu, Nhâm Dần là năm thứ hai, Quý Mão năm thứ ba, Giáp Thìn là Trường An năm thứ tư.

* Trung Tông: Húy là Hiển, con năm thứ bảy của Cao Tông được lập hoàng Thái tử. Hồi ấy, Cao Tông mất, Thái tử lên ngôi, tháng giêng, Đế tôn Thiên hậu làm Thái hậu, lập bà phi họ Vi làm Hoàng hậu, cất nhắc cha Hoàng hậu là Vi Huyền Trinh làm Dự Châu Thứ sử. Đế cho Huyền Trinh làm thị trung. Bùi Viêm cố can nhưng Đế không nghe, Viêm thưa Thái hậu và hai người ngầm bàn mưu. Tháng hai, Mậu Ngọ, Thái hậu phế Đế xuống làm Lô Lăng Vương cho qua Phòng Châu, lại dời về Quân Châu, đày Huyền Trinh đến Khâm Châu. Tắc Thiên, Thánh Lịch năm đầu lại lập ông làm Hoàng Thái tử. Lúc này tháng giêng năm Ất Tỵ, Thiên hậu truyền ngôi cho Thái tử. Năm Bính Ngọ Đế lên ngôi. Năm Đinh Mùi, Thái hậu dời về Chủ Dương cung, Đế thống lĩnh trăm quan, thượng tôn Thiên hậu là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng Đế. Tháng mười một Nhâm Dần, bà mất, Thần Long năm đầu, tháng hai, Đế lấy lại quốc hiệu Đường. Giao, miếu, xã tắc, cờ xí, trăm quan đều theo phép chế như năm Vĩnh Thuần trước kia, đổi Thần Đô là Đông Đô, Bắc Đô là Tinh châu. Đế ở ngôi sáu năm, thọ năm mươi lăm tuổi. Niên hiệu Thần Long hai năm, Cảnh Long bốn năm.

- Ất Tỵ: Thần Long năm đầu, tháng tư, Đế giáng Ngự trát triệu Lục tổ Tào Khê vào cung. Ngự Trát ghi: "Trẫm mời hai thầy An, Tú vào cung cúng dường, mỗi lần hỏi đến pháp Nhất thừa, hai thầy ấy đều chối từ nói: "Thiền sư Năng ở phương nam mật nhận y pháp của Đại sư Nhẫn, bệ hạ nên đến đó hỏi". Nay Trẫm sai nội thị Tiết Giản đem chiếu nghinh thỉnh, mong Thầy từ niệm mau vào thượng kinh". Tổ dâng biểu lấy cớ bệnh mà từ chối. Tiết giản thưa:

- Chư Thiền đức trong kinh thành đều nói, muốn hiểu được Đạo phải tập Thiền định, nếu không nhờ Thiền định mà được giải thoát là điều chưa từng có. Không rõ pháp mà Thầy nói, ý chỉ thế nào?

Tổ đáp:

Đạo do tâm ngộ lẽ đâu ở nơi ngồi!

Giản thưa: Đệ tử về triều, chúa thượng tất hỏi, mong thầy chỉ bày tâm yếu để khiến vua tỏ đạo!

- Đạo không có sáng tối.

- Sáng dụ cho trí tuệ, tối dụ cho phiền não, nếu không dùng trí tuệ chiếu phá phiền não thì dựa vào đâu ra khỏi sinh tử?

- Nếu dùng trí tuệ chiếu phá phiền não thì đó là Tiểu cơ Nhị thừa.

- Thế nào là Kiến giải Đại thừa?

- Minh và vô minh, tánh nó không hai. Tánh không hai ấy chính là thật tánh. Thật tánh thì ở phàm không giảm, ở Thánh không tăng, ở trong phiền não nhưng chẳng loạn, ở trong thiền định nhưng chẳng tịch. Tánh tướng như như, đó gọi là đạo.

- Thầy nói chẳng chẳng diệt đâu khác ngoại đạo?

- Ngoại đạo lấy diệt ngăn sinh, lấy sinh bày diệt. Diệt nhưng chẳng diệt, sinh nói không sinh, ta nói vốn tự chẳng sinh, nay cũng không diệt, nên không giống ngoại đạo. Ông muốn biết tâm yếu chỉ cần đừng suy nghĩ phân biệt tất cả thiện ác thì tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh, vắng lặng thường trụ, hằng sa diệu dụng.

Tiết Giản lạy tạ về cung thưa lại lời Tổ, Đế khen hay. Sau đó, sai Sứ mang tặng Tổ ca-sa Manạp, Bình bát, năm trăm cây lụa để biểu thị lòng ngưỡng mộ của Thiên Tử.

* Kinh Lăng-nghiêm: Thiên Trúc Sa-môn Bát Thích Mật Đế (Hán dịch Cực Lượng) đến cư ngụ tại Chế Chỉ đạo tràng ở Quảng châu trong năm này. Tháng năm, ngài đọc ra một phẩm trong Quán Đảnh Bộ, đó là kinh Lăng-nghiêm, Di Già Xán Pháp (Hán dịch Vân Phong) dịch thành một bộ mười quyển. Tể tướng Phòng Dung bút thọ. Lúc này Dung bị đày đến Cao châu, nhân đó được ngụ trong dịch trường. Sa-môn Hoài Địch chứng dịch. Chuyển dịch xong, triều đình trách tại sao dịch riêng. Mật Đế thấy vậy liền theo thuyền đem luôn Phạm bản về Thiên Trúc.

-Bính Ngọ: Thần Long năm thứ hai, Tăng Phạm v. v.. được gia phong Ngũ Phẩm.

* Thí Kinh Độ Tăng: Tháng tám, Đế hạ chiếu cho cả nước thí nghĩa của kinh Đồng Hành, ai thông thuộc không vấp thì độ làm Tăng. Việc thi kinh độ Tăng khởi nguyên từ đó.

* Sa-môn Trí Nghiêm: Ngài là con quốc vương nước Vu-điền, từ nhỏ làm quan nhà Đường, sớm hưởng vinh lộc, làm đại tướng quân, được phong Quận Công. Tháng năm này, ngài xin đổi nhà thành chùa, Đế ưng chuẩn. Ngài lại cố xin xuất gia, ngày hai mươi bốn tháng mười hai, Đế viết chiếu "Con người ta không ai chẳng ham bổng lộc, tiếc ngôi vị, nhưng sở nguyện của khanh là muốn bỏ tục xuất gia, chợt xét mình đến tâu xin, Trẫm mến tiếc và ban thưởng, toại nguyện cho khanh hoàn thành chí lớn". Đế còn thỉnh ngài trụ ở chùa Chí Tướng núi Chung Nam nhiều lần tham gia phiên dịch.

+ Đinh Mùi: Cảnh Long năm đầu. Tháng ba năm thứ hai, ngày mồng một, Phương Đạo đại tổng quản Trương Nhân Nguyện xây Tam thọ giáng thành ở Hà Thượng, thuộc Phong Châu.

* Thần Núi xin giới: Thiền sư Tung Nhạc Nguyên Khuê, họ Lý Sinh ở Y Khuyết, xuất gia từ nhỏ. Trong năm Vĩnh Thuần đời Cao Tông, ngài thọ Cụ túc, học Tỳ-ni tại chùa Nhàn cư, yết kiến quốc sư Tuệ An đốn ngộ huyền chỉ, dựng am tu tập ở Bàng Ổ, Tung nhạc. Vào một ngày trong năm này, có một dị nhân, mặc áo tay rộng, đội mũ trụ cao đi đến, những người tùy tùng rất đông, tướng mạo kỳ vĩ cùng yết kiến ngài. Ngài thấy họ chẳng phải người thường bèn ôn tồn hỏi:

- Lành thay, Nhân giả! Vì sao đến đây? Họ đáp:

Thầy biết tôi chăng?

- Ta quán Phật và chúng sinh bình đẳng, cùng một cách nhìn lẽ đâu phân biệt!

- Tôi là thần núi, nắm quyền sống chết người khác, thầy lẽ đâu nhìn tôi như những người khác!

- Ta vốn chẳng sinh, ông đâu thể làm chết, ta xem thân như hư không, xem ta và ông như nhau, ông có thể hoại diệt hư không và ông chăng! Nếu hủy diệt được hư không và ông, nhưng ta chẳng sinh chẳng diệt, hư không và ông còn không thể hủy diệt thì làm sao hay làm ta sống hay chết được! Thần lạy và nói:

Ta cũng thông minh chánh trực trong số các Thần, nhưng nào biết thầy có trí tuệ, biện tài rộng lớn thế này, mong thầy trao cho chánh giới để tôi độ thế.

Ngài nói:

Ông xin giới tức là đã được giới rồi. Vì sao? Vì ngoài giới không có giới, thì còn giới nào nữa!

- Lý này tôi nghe mờ mịt, chỉ xin thầy giới thôi, thân tôi xin làm môn nhân đệ tử.

Ngài lập tòa thiết bàn, cầm lò hương nói:

"Nay trao cho ông năm giới, giữ được thì đáp được, không giữ được thì đáp không được. " Thần nói:

Xin cung kính nghe dạy. Ngài nói:

Không dâm, ông có giữ được không?

- Tôi có vợ được chứ!

- Ý không phải vậy mà là không tà dâm bừa bãi.

Thần đáp:

Giữ được.

- Không trộm cắp ông giữ được không?

- Thiếu tôi mới lấy chứ đâu có trộm cắp!

- Không phải như vậy mà là cúng tế thì ông ban phước bừa bãi, không cúng thì ông gây họa không lường.

Thần đáp: Giữ được.

- Không giết hại, ông giữ được không?

- Tôi nắm quyền bính sao không giết?

- Không phải vậy, mà là lạm sát, ngộ nhận, nghi ngờ giết bừa bãi.

Thần đáp: Giữ được!

- Không nói dối, ông giữ được không?

- Tôi chánh trực làm gì có nói dối!

- Không phải vậy, mà là trước sau không hợp lòng trời. Thần đáp:

Giữ được! Ngài nói:

Ông không uống rượu say xỉn được không?

Thần đáp:

Giữ được! Ngài nói:

Đó là giới của Phật, đem hữu tâm phụng trì mà không có tâm câu chấp, đem hữu tâm vì vật mà không có tâm nghĩ đến thân, hay giữ được như vậy, thì dù sinh trước trời đất nhưng chẳng phải trẻ, dù chết sau trời đất nhưng cũng chẳng già, trọn ngày biến hóa nhưng chẳng động, rốt ráo vắng lặng nhưng chẳng yên. Tín như vậy thì dù cưới vợ nhưng chẳng có vợ, dù hưởng phẩm vật nhưng chẳng lấy gì, dù nắm quyền uy nhưng chẳng vì quyền, dù dối trá nhưng chẳng có tâm, tuy say nhưng chẳng hôn mê. Nếu không có tâm với vạn vật thì không có giới, không giới thì không tâm, không Phật, không chúng sinh, không ông cũng không có ta, ai giữ giới?

Thần nói:

Tôi thần thông đứng sau Phật!

Ngài nói: Thần thông của ông trong mười điều làm được năm và không làm được năm. Thần thông của Phật trong mười điều ngài làm được bảy và không làm được ba.

Thần thất kinh lui ra quỳ thưa: Con nghe được chăng!

Ngài nói:

Ông có thể trái ý Thượng đế, đông đi đến trời, tây đến Thất tinh chăng?

Thần đáp: Không thể.

- Ông có thể đoạt quả đất, trộn Ngũ nhạc, gom bốn biển chăng?

- Không thể.

- Đó là năm điều ông không làm được. Phật có thể làm rỗng không tất cả tướng thành trí vạn pháp nhưng không thể diệt ngay định nghiệp. Phật hay biết tánh của hữu tình, thấu triệt việc trong ức kiếp nhưng không thể hóa độ kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng hữu tình nhưng không thể độ tận cõi chúng sinh. Đó là ba điều Phật không làm được. Định nghiệp cũng không lâu bền, vô duyên rồi cũng có lúc, cõi chúng sinh vốn không tăng giảm, rõ ràng chẳng người nào làm chủ pháp đó, có pháp không chủ thì gọi là không pháp, không pháp không chủ thì gọi là không tâm. Theo ta hiểu thì Phật cũng không có thần thông, chỉ là hay lấy vô tâm mà thông đạt tất cả các pháp.

Thần nói:

Con thật ra nông cạn, tối tăm, chưa nghe nghĩa không, giới thầy truyền trao, con xin phụng hành, nay xin báo đáp đại ân đại đức theo khả năng của mình!

Ngài nói:

Ta quán thân không có vật, quán pháp vô thường, sừng sững như vậy còn muốn gì nữa.

- Thầy phải để con làm chút việc thế gian, thi thố chút sức thần của con để khiến cho những người đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm, chưa tín tâm, đã tín tâm nhờ sức thần của con mà biết có Phật, có Thần, có điều làm được, có điều không làm được, có tự nhiên, có phi tự nhiên.

- Thôi, đừng làm, đừng làm!

- Phật cũng sai Thần hộ pháp, lẽ đâu thầy làm trái lời Phật! Mong thầy tùy ý sai bảo!

Ngài bất đắc dĩ nói:

Chùa Đông Nghiễm cỏ rậm um tùm không có đại thụ, núi phía Bắc có đại thụ nhưng phía ấy là mặt lưng chẳng cần thế tựa, ông có thể dời cây phía Bắc ấy sang ngọn phía Đông này được không?

Thần đáp:

Con xin làm theo, nhưng đêm tối tất có chấn động mong thầy đừng sợ hãi!

Nói xong, Thần cúi lạy chào và đi. Ngài tiễn ra đến cửa chính và nhìn xem thì thấy nghi vệ ngút trời chẳng khác Đế vương, khí núi khói mây hòa quyện cờ xí, tràng phan, chuỗi ngọc, nghi vệ vụt thẳng lên không và ẩn mất. Đêm ấy, quả nhiên gió thét mưa gào, sấm vang chớp dậy, rường cột lung lay, chim thú hoảng hốt, ngài bảo chúng: "Đừng sợ, đừng sợ! Thần đã dặn ta trước rồi!"

Sáng ra trời đất lặng yên, tùng thông ở ngọn

Bắc đều dời hết qua núi Đông, thẳng hàng xanh tốt, ngài nói với đồ chúng: "Sau khi ta mất, đừng ai nhắc lại chuyện này, nếu nói thật, thì mọi người sẽ cho ta làm trò yêu mị" Đến Huyền Tông, năm Khai Nguyên năm thứ tư, ngài dặn dò môn nhân: "Trước đây, ta ở ngôi chùa ở núi Đông, nay ta nhập diệt hãy đem hài cốt ta về an táng bên ấy". Dặn dò xong, ngài mất. Ngài nối pháp của Quốc sư Tuệ An, Tuệ An nối pháp của Ngũ Tổ Đại Mãn Thiền Sư.

Kỷ Dậu: Cảnh Long năm thứ ba, Đế triệu Luật Sư Đạo Ngạn vào cung truyền Tam quy Ngũ giới cho Hoàng hậu, cung phi. Đế cho vẽ tranh minh họa giới cấm, treo trong cung Lâm Quang và đích thân làm bài tán: "Giới châu sáng sạch, dòng tuệ trong xanh, thân trong linh giới, tâm liền nhập định, học chân tông mầu, quán thông thật tánh, duy trì pháp sự, nắm giữ đức chính". Luật tạng nhờ ngài mà thịnh truyền, tượng Giáo nhờ ngài mà rạng rỡ. Huyền Tông, Khai Nguyên năm thứ năm, ngài tịch.

* Duệ Tông: Húy là Đán, con năm thứ tám của Cao Tông, ban đầu được phong làm Dự Vương, sau được phong Tương Vương. Tháng sáu năm Cảnh Long năm thứ tư, Trung Tông bị mưu sát, Vi hậu giấu kín không phát tang, lập Ôn Vương Trùng Mậu làm Hoàng Thái tử, phát tang và Thái tử lên ngôi, lấy niên hiệu Đường Long. Con của Tương Vương là Long Cơ dẹp yên nội loạn, đưa Tương Vương phụ chánh cho Thiếu đế, Thiếu đế sau đó nhường ngôi cho Tương Vương. Tương Vương lên ngôi Hoàng Đế, ở ngôi ba năm, lập Long Cơ làm Hoàng Thái tử. Huyền Tông, Khai Nguyên năm thứ hai, tháng bảy, Trùng Mậu mất, thụy là Thương Hoàng Đế, thọ hai mươi tuổi. Tháng sáu năm Khai Nguyên năm thứ tư, Duệ Tông mất, thọ năm mươi lăm tuổi. Niên hiệu Cảnh Vân hai năm, Tiên Thiên một năm.

Canh Tuất: tháng sáu đổi niên hiệu Cảnh Vân. Năm đầu Tháng tám cho Tả Vũ vệ đại tướng quân Tiết Nội kiêm luôn chức U châu Đô đốc Tiết độ sứ. Tên gọi Tiết độ sứ bắt đầu từ Nột. Trăm quan được ban tước, độ hàng vạn Tăng sĩ, Đạo sĩ.

Nhâm Tý: Tiên Thiên năm đầu, tháng bảy Đế truyền ngôi cho Thái tử.

* Huyền Tông: Húy Long Cơ, con năm thứ ba của Duệ Tông, ban đầu được phong Sở Vương, sau cải phong làm Lâm Truy Vương. Năm Cảnh Vân, ông được phong làm Hoàng Thái tử. Tiên Thiên năm đầu, tháng tám, ông lên ngôi, ở ngôi bốn mươi ba năm, thọ bảy mươi tám tuổi, tôn Duệ Tông làm thái Thượng hoàng, niên hiệu Khai Nguyên hai mươi chín năm, Thiên Bảo mười bốn năm.

Quý Sửu: Khai Nguyên năm đầu. Tháng bảy mùa Thu, Đế cùng Kỳ Vương Phạm, Tiết Vương Nghiệp, Quách Nguyên Chấn, Vương Mao Trọng, Cao Lực Sĩ giết Tể tướng, âm mưu phế lập những kẻ ác nghịch là Tiêu Chí Trung, Đậu Hoài Trinh, Sầm Hy, Thôi Thục Thường, Nguyên Khải, Lý Từ, thưởng quan tước cho Công thần, hoạn quan thịnh lên từ đó. Tháng mười hai đại xá thiên hạ, đổi chức Thượng thư. Tả hữu bộc xạ thành Tả hữu Thừa Tướng, trung thư tỉnh thành Tử vi tỉnh, Môn hạ tỉnh thành Hoàng môn tỉnh, Thị trung thành Giám, Ưng châu là Kinh triệu phủ, Lạc châu là Hà nam phủ. Trưởng sử là Doãn, Tư mã là Thiếu doãn.

Lục Tổ Tuệ Năng:

Tổ họ Lư, tên Năng, tiên tổ vốn người ở Phạm Dương, cha là Hành Thao, trong năm Vũ Đức đời Cao Tổ, ông bị phế quan đày đến Tân châu và sinh ngài (nên ngài thành người Tân hưng. Năm lên ba tuổi, cha mất) mẹ thủ tiết nuôi con. Lớn lên, gia cảnh quá nghèo, ngài phải đốn củi đổi cháo nuôi mẹ. Ngày nọ, đi ngang chợ, nghe khách tụng kinh "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm", ngài liền hỏi khách:

- Ông được pháp này từ ai?

Khách đáp:

Đây là kinh Kim Cang, nhận được từ Đại Sư Nhẫn ở Hoàng Mai. Ngài liền về xin mẹ, đến yết kiến Ngũ Tổ ở Thiều châu. Có cô ni

Vô Tận Tạng đọc kinh Niết-bàn, ni hỏi chữ Kinh, Tổ đáp:

- Chữ thì không biết, nghĩa thì xin cứ hỏi. Ni nói:

Chữ còn không biết, làm sao hiểu được nghĩa? Tổ đáp:

Diệu lý của chư Phật không đóng khung trong văn tự.

Ni thất kinh, bảo mọi người: "Năng là người có đạo, nên cúng dường ông ấy". Gần đó có nền cũ ngôi chùa cổ Bảo Lâm, mọi người xin dựng lại và mời ngài ở đó. Bốn chúng vân tập, không lâu nơi đây thành đạo tràng đông đúc. Tổ nghĩ đến đại pháp, nên đến thẳng Đông Sơn ở Hoàng Mai. Cao Tông năm Hàm Hưởng năm thứ hai, ngài đã đắc pháp, cơ phong ngữ thoại có chép trong chương của Ngũ tổ. Năm Bính Tý, Nghi Phụng năm đầu, mồng tám tháng giêng, ngài về ẩn cư ở chùa Pháp Tánh, Nam Hải. Có hai vị Tăng luận về gió động, phướn động, Tổ nói: "Không phải gió động, không phải phướn động mà tâm nhân giả động. " Pháp Sư Ấn Tông nghe vậy lấy làm lạ, bèn đến gạn hỏi ngài học đạo ở đâu, mới biết ngài chính là cư sĩ họ Lư. Ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông nhóm họp các danh tăng thạc đức thế phát cho ngài. Mồng tám tháng hai, thỉnh Trí Quang Luật Sư truyền cụ túc giới cho Tổ tại chùa Pháp tánh. Thọ giới xong, ngài khai pháp môn ở Đông sơn. Mồng tám tháng hai năm sau, ngài về lại chùa Bảo lâm. Thứ sử Thiều châu là Vi Cứ thỉnh ngài chuyển pháp luân tại chùa Đại Phạm và thọ nhận Vô Tướng Tâm Địa Giới.

Môn nhân ghi chép lời ngài, lấy tên là Đàn Kinh. Sau, ngài về Tào Khê đại hoằng Phật pháp. Trung Tông, Thần Long năm đầu, tháng tư, Đế sai Nội Thị Tiết Giản đến thỉnh nhưng Sư không vào triều Giản đành xin pháp yếu về triều bẩm tấu. Đế khen hay, ban thưởng Ma-nạp ca-sa, bình bát, gấm lụa. Ngày mười chín tháng mười hai, Đế hạ chiếu đổi ngôi chùa cổ Bảo lâm ở Thiền châu thành chùa Trung hưng. Ngày mười tám tháng mười một năm Đinh Mùi, lại lệnh cho Thứ sử Thiều châu tu bổ trang nghiêm thêm, Đế sắc tứ tên chùa là Pháp tuyền, chỗ ở cũ của Tổ thuộc Tân Châu sắc tứ thành chùa Quốc ân. Duệ Tông, Tiên Thiên năm đầu, ngày nọ ngài chợt nói với đồ chúng "Ta đã nhận pháp yếu và y bát từ Đại Sư Hoằng Nhẫn, nay tín căn của các ông đã thuần thục, không ai nghi ngờ, nên ta chỉ nói pháp yếu, không truyền y bát nữa, nghe ta nói kệ:

Đất tâm chứa các giống
Mưa khắp tất nảy mầm
Đốn ngộ hoa tình hết
Quả Bồ-đề tự thành.

Ngày một tháng bảy năm sau, ta về lại chùa Quốc Ân ở Tân Châu". Lúc này, ngài thuyết pháp độ người ngót bốn mươi năm, ngày ba tháng tám niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, ngài tắm rửa, kiết già thị tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi. Ngày mười ba tháng mười một, môn nhân đưa về dựng tháp ở Tào Khê, nay là chùa Nam Hoa. Tiền Thứ sử Vi Cứ soạn văn bia. Túc Tông, Thượng Nguyên năm đầu, Đế mến mộ đạo của ngài, liền sai sứ đến thỉnh y bát của Thiên Trúc mà Ngũ Tổ truyền cho ngài đem vào cung chiêm ngưỡng lễ lạy. Đại Tông lên ngôi, ngày năm tháng năm niên hiệu Thừa Quang năm đầu, Đế mộng thấy Tổ đến xin y bát lại, Đế liền sai sứ thỉnh về lại Tào Khê. Hiến Tông, Nguyên Hòa thứ mười, Nam hải kinh lược Mã Tổng thấy Lục tổ Tào Khê chưa có thụy mới tâu xin, Đế ban ngài thụy là Giám Thiền Sư, tháp hiệu Linh Chiếu. Mã Tổng lại xin Liễu Tử Hậu khắc bia ghi lại hành trạng của Tổ.

* Đế hỏi ân Phật: Khai Nguyên năm thứ hai,

Đế tuyên hỏi Tả Vệ Tăng Lục Thần Quang Pháp Sư:

"Phật đối với chúng sinh có ân đức gì khiến họ bỏ cả vua, cha mẹ, vợ con mà phụng thờ Phật. Nếu nói có lý thì Trẫm sẽ hoằng dương, còn như vô lý thì Trẫm sẽ dẹp bỏ".

Thần Quang đáp:

"Phật đối với chúng sinh, ân vượt trời đất, sáng lấp trời trăng, đức hơn cha mẹ, nghĩa vượt vua tôi. "

Đế hỏi:

Trời, đất, mặt trời, mặt trăng có đủ công tạo hóa; cha, mẹ, vua, tôi đủ đức sinh thành, tại sao bảo Phật hơn những thứ ấy?

Quang đáp:

Trời có thể che nhưng không thể chở, đất có thể chở nhưng không thể che, mặt trời soi sáng ban ngày còn ban đêm thì không, mặt trăng chiếu sáng ban đêm còn ban ngày thì không, cha chỉ sinh mà không thể dưỡng, mẹ chỉ hay dưỡng mà không thể sinh, vua có đạo thì bề tôi trung, vua vô đạo thì bề tôi nịnh, từ đó mà suy, đức không hoàn bị. Phật đối với chúng sinh, ân ấy không như vậy. Luận về che thì che khắp bốn loài, bàn về chở thì chở hết sáu đường, nói về sáng thì soi chiếu mười phương, kể đến soi thì sáng loà ba cõi, nói đến từ thì cứu bạt biển khổ, luận về Bi thì độ thoát U minh, xét về Thánh thì vua trong các Thánh, bàn về Thần thì Lục thông tự tại, bởi vậy kẻ còn người mất đều cứu khắp, kẻ sinh người hèn đều độ hết, ngưỡng mong bệ hạ lưu tâm kính ngưỡng".

Đế vui mừng nói:

Ân của Phật đã như vậy, chẳng phải thầy thì không ai nêu được, Trẫm nguyện hồi tâm, đời đời kính ngưỡng.

-Giáp Tý: Khai Nguyên năm thứ mười hai. Ất Sửu: Khai Nguyên năm thứ mười ba.

* Thiền Sư Phá Táo Đọa: Không ai biết tên họ của Sư. Sư đắc pháp với Quốc Sư Tuệ An, ẩn cư trong Tung Nhạc. Trong núi có ngôi miếu rất linh, giữa điện chỉ an trí một ông táo, xa gần đến cúng vái không ngớt. Ngày nọ, Sư dẫn thị giả vào miếu, lấy gậy gõ ông táo ba cái, nói: "Ôi! Ông táo này chỉ là bùn gạch hợp thành, Thánh từ đâu có, linh ở chỗ nào, sao lại hưởng sinh mạng cúng tế". Sư gõ ba cái nữa, ông táo đổ xuống. Lát sau có một người mặc áo xanh, đội mũ trụ đến trước Sư lạy tạ. Sư hỏi:

-Ông là ai? Người ấy đáp:

Con vốn là thần táo ở miếu này, từ lâu chịu nghiệp báo ngày nay nhờ thầy nói pháp vô sinh, được thoát nơi này sẽ sinh lên cõi trời, nay đến đây lạy tạ.

Ngài nói:

Đó là do tánh vốn có của ông chứ không phải ta gượng nói.

Thần lạy hai lạy và ẩn mất. Bởi vậy người đương thời gọi Sư là Hòa thượng Phá Táo Đọa.

* Luật đến Nhật Bản: Khai Nguyên năm thứ mười bốn, Sa-môn Nhật Bản như Vinh Duệ v. v.. đến Dương châu, mang theo mười y Tăng-già-lê, trên y thêu hình núi sông và những vật khác. Y này là do Quốc chủ nước họ giao mang cúng dường Tăng Trung Quốc. Khi ấy Luật sư Giám Chân nhận y, và khen là người ngoại quốc có chủng tánh Phật, nên muốn qua đó giáo hóa. Gặp lúc Vinh Duệ khuyến thỉnh, Luật sư bèn theo thuyền về Đông đến Nhật Bản. Quốc chủ Xa-già nghinh đón, thỉnh ngài ngụ ở điện Tỳ-lô. Sau đó không lâu, Quốc chủ thỉnh ngài truyền Tam quy, Ngũ giới. Phu Nhân, quần thần lần lượt lãnh thọ. Nhật Bản có Luật tông từ đó.

* Thiền sư Nhất Hạnh: Cao Tăng truyện chép: "Thích Nhất Hạnh họ Trương, người Cự Lộc, vốn tên Toại là con cháu của Đàn quốc công công Cẩn dưới triều Thái Tông. Thuở nhỏ ngài xuất chúng, đọc khắp ký, Tụng, đọc sách chẳng xem lại. Gặp Thiền sư Phổ Tịch ở Tung sơn, ngài ngộ đời huyễn, liền lạy Phổ Tịch làm thầy, thế phát xuất gia, ngụ ở chùa Tung Dương, Trung Nhạc, chuyên cần tinh tấn. Sau, ngài qua núi Đương Dương, Kinh châu, theo Luật sư Tuệ Ngộ học Tỳ-ni. Ngài rất tinh thông các sách âm dương, sấm vỹ. Sau lại tìm học toán thuật. Chưa lên đến chùa Quốc thanh ở Thiên Thai nhưng ngài đã được chúng Tăng cả chùa biết tiếng. Từ đó thanh danh ngài chấn động gần xa. Duệ Tông, Cảnh Vân năm thứ hai, tháng ba, Đế triệu ngài vào cung, ngài lấy cớ bệnh từ chối không đi. Huyền Tông, năm Khai Nguyên năm thứ ba, tháng tám, Đế sai lễ bộ lang trung Trương Hiệp đem chiếu chỉ đến núi Đương dương, ngài vào cung. Đế hỏi:

-Thầy có tài năng gì? Ngài đáp:

Đọc qua liền nhớ kỹ.

Đế sai Trung Quan đem sổ quan cho ngài xem. Ngài xem qua vừa hết, gấp sách lại, nhớ và đọc lại mới mấy tờ. Đế bất giác bước khỏi long sàng vái ngài nói: "Thầy thật là Thánh nhân". Khen ngợi một lúc, Đế giữ ngài lại trong điện Quang Thái, triệu hỏi liên tục, đoán việc họa phước như trong lòng bàn tay. Tháng tư năm Khai Nguyên năm thứ chín, triều đình cho rằng lịch Lân Đức không hiệu nghiệm, Đế triệu ngài đến sửa và soạn lịch mới. Ngài căn cứ lịch Đại Diễn lập cách tính so sánh cho phù hợp, đó là bộ lịch Khai Nguyên Đại Diễn gồm năm mươi hai quyển, được biên nhập trong Đường Thư Lịch Luật Chí. Hình Hòa Phát vốn là đạo thuật gia nói với Doãn Hâm: "Hòa thượng Nhất Hạnh thật là Thánh nhân đời Hán, Lạc Hạ Hoành soạn lịch Thái Sơ có nói, tám trăm năm sẽ sai một ngày, lúc ấy có Thánh nhân chuẩn định lại. Năm nay hết hạn, lịch Đại Điển ra đời và chỉnh lại sự sai sót ấy, bởi vậy lời của Lạc Hạ Hoành thật đáng tin, chẳng phải Thánh nhân thì còn ai làm được việc này". Ngài học Đà-la-ni Bí Ấn với Tam tạng Kim Cang Trí. Tháng mười năm Khai Nguyên năm thứ mười một, ngài mượn sức nước đẩy chế xong hỗn thiên hoàng đạo nghi, cái mà từ xưa chưa từng có. Đế mừng rỡ đích thân soạn bài minh, hạ chiếu trong điện Vũ Thành cho bá quan xem.

* Hỗn Thiên Hoàng Đạo Nghi: cách thức này dựa hình tượng tròn như bầu trời, bày đủ túc xích đạo, độ số, dẫn nước xả vào bánh xe khiến nó tự quay. Một ngày một đêm thì quay giáp vòng. Bên ngoài nối hai bánh xe, làm mặt trời mặt trăng khiến nó vận hành. Mỗi lần bánh lớn quay sang Tây một vòng, thì mặt trời đi sang đông một độ, mặt trăng quay mười ba độ. Lại dùng cái rương gỗ làm đất bằng, đặt hoàng đạo nghi ở dưới đất một nửa, sáng, tối, mồng một, rằm rất chính xác. Lại dựng hai người gỗ trên đất bằng, trước một người đặt một cái trống cứ đến một khắc (mười lăm phút) thì tự đánh trống. Trước một người đặt một cái chuông, cứ đến một giờ (hai tiếng) thì tự đánh chuông.

Đế ở cung Đại Minh, ôn tồn hỏi ngài về vận mệnh của xã tắc, ngài đáp: "Xe loan có cuộc đi vạn dặm (vạn lý), xã tắc rốt cuộc được tốt lành (kiết)". An Lộc Sơn làm phản, Đế phải xa giá đến đất Thục, cầu Vạn Lý, Thành đô rồi lại về. Hy Tông mất, em Đế là Kiết Vương là người hiền tài, quần thần đều ngưỡng vọng. Trung úy Dương Phục Cung xin lập em ông là Thọ Vương Kiệt, Lương thay đổi vận mệnh, lời ngài quả nhiên đúng. Ngày tám tháng mười một năm Khai Nguyên mười lăm, ngài thay áo, ngồi ngay thẳng và tịch, thọ bốn mươi lăm tuổi. Đế khóc rất bi ai, không thiết triều ba ngày, để kim quan hai mươi mốt ngày, nhưng sắc diện ngài vẫn tươi tỉnh. Đế hạ chiếu cho an táng ở cao nguyên Đồng Nhân, lấy quốc khố năm mươi vạn tiền để dựng tháp, ban thụy là Đại Tuệ Thiền Sư, Đế tự tay soạn văn bia, khắc vào đá, lệnh cho từ Đông cung trở xuống, quan Cửu phẩm trong kinh thành trở lên, đều phải di tống kim quan đến Đồng Nhân, thiết trai, cấp ruộng hương hỏa. Tháng ba năm Khai Nguyên năm thứ mười sáu, Đế xa giá đi Ôn, Thang. Lộ trình xuất phát từ tháp của ngài, Đế hạ giá sai các quan đến tháp ngài thưa ý định xa giá của mình, ban tặng năm mươi cây lụa để chi phí cho việc trồng tùng, bá trước tháp. Ngài nối pháp Thiền Sư Phổ Tịch ở Tung Sơn, Phổ Tịch nối pháp Bắc Tông Thần Tú, Thần Tú nối pháp dòng phụ của Ngũ Tổ. Đời Tống, Tăng Thống Tán Ninh soạn truyện của ngài có ghi: "Ngài theo xa giá đến Tân Lễ, đứng trước xa giá từ tạ Đế và về Đông đến Tung Sơn, lễ lạy bổn sư Phổ Tịch Thiền Sư và nhập diệt ở chùa Võng cực".

* Xuân Du: Tháng hai năm Khai Nguyên năm thứ mười tám, Đế mới sai trăm quan soạn Thắng Hành Nhạc trong mười ngày nghỉ xuân, từ Tể tướng đến Viên Ngoại lang cả thảy mười hai chức, mỗi người được Đế ban cho năm mươi xâu tiền. Đế ngự tại Hoa ngạc lâu đón những người ra về mời họ ở lại uống rượu, lần lượt sai họ hát múa, vui chơi rồi mới đi. Lúc này cả nước chỉ có hai mươi bốn tử tội.

* Kinh Quyển: Sa-môn Trí Thăng soạn Khai Nguyên Thích Giáo Lục hai mươi quyển trình bày năm thứ tự của Kinh Luận gồm năm ngàn bốn mươi tám quyển. Ngài còn soạn Tục Nội Điển Lục một quyển, Tục Dịch Kinh Đồ Ký một quyển, Tục Phật Đạo Luận Hoành một quyển.

Đế ngự ở Hoa Ngạc lâu triệu hai phái Phật giáo và Đạo giáo đến luận nghĩa. Pháp sư Đạo Nhân cùng luận biện với Đạo sĩ Doãn Khiêm. Khiêm luận thua. Đế có chiếu biên hết luận nghĩa ấy cho nhập tạng, lấy tên là Khai Nguyên Phật Đạo Luận Hoành.

Pháp sư Đạo Nhân họ Trường Tôn, người Cao Lăng, Trường An. Cha ngài tên Dung làm chức điện trung thị ngư sử, mẹ ngài họ Mã. Khai Nguyên năm thứ mười tám tại Hoa Ngạc lâu, ngài biện luận trước Đế để phân định sự hơn kém của hai giáo. Ngài mạnh dạn hùng biện chẳng khác sông tuôn biển chảy, Đạo sĩ Doãn Khiêm đối đáp lộn xộn, lý kém từ thua, luận tông trái ngược. Đế hai, ba lần ngợi khen, ban ngài năm trăm tấm lụa để tỏ lòng báo ân pháp thí. Ngoài ra, Đế còn cho tập hợp lý lẽ cuộc luận này thành bộ Luận Hoành một quyển, thịnh hành ở đời. Khai Nguyên năm thứ hai mươi tám, ngài có bệnh, dâng biểu và nhập diệt. Đế xem biểu tấu, vô cùng thương tiếc, sai trung sứ nội cấp sự giả Văn Hoài mang năm mươi cây lụa đến viện điếu tang. Ngài thọ bảy mươi ba tuổi, tăng lạp năm mươi ba hạ. Ngày mười ba tháng tám năm ấy, môn nhân an táng ngài bên cạnh vườn Tiêu dao ở Sơn Âm, Chung Nam.

*Chú Thích Kinh: Khai Nguyên năm thứ mười chín, Đế chú thích kinh Kim Cang và ban phát cho cả nước.

* Miếu Thái Công: Tháng ba, Đế mới sai các châu ở Lưỡng Kinh mỗi nơi lập một miếu Thái Công, phối hợp tế tự luôn Trương Lương, tuyển đủ mười danh tướng xưa đứng hàng Thập Triết. Ngày Thượng tuất của tháng hai, tháng tám hàng năm tế tự như lễ của Khổng Tử. Niên hiệu Thượng Nguyên năm đầu, Túc Tông truy tôn Lã Vọng thụy là Vũ Thành Vương.

* Bí Mật Giáo: Tây Thiên, Đông độ hoằng truyền được bảy đời. Đầu tiên là Kim Cang Tátđỏa ở trước Tỳ-lô-giá-na đích thân thọ nhận Dugià Ngũ Bộ Tô Tất Quỹ Phạm. Tát-đỏa truyền cho Đại sĩ Long Mãnh. Long Mãnh truyền cho Xà-lê Long Trí, đến đây nó tồn tại đã mấy trăm năm. Long Trí truyền cho Kim Cang Trí Bạt Nhật La Bồ-đề. Kim Cang Trí mới đem giáo pháp này sang Đông độ và truyền cho Tam tạng Bất Không.

Trong niên hiệu Khai Nguyên đời Huyền Tông, Bất Không lại sang Tây Thiên, vào nước Sư Tử theo A-xà-lê Phổ Hiền thọ học mười tám hội Kim cang quán đảnh và cách lập đàn Đại bi thai tạng. Năm Thiên Bảo năm thứ năm, ngài về lại Kinh đô, đem pháp đã học truyền cho Pháp sư Tuệ Lãng. Từ Tuệ Lãng, những người nối pháp ngài ở phương

Nam ngày một ít, truyền đến đời sau này và gọi riêng là pháp Du-già. Những Phật sự ấy ngày nay vẫn còn.

* Kim Cang Trí: Ngài ngụ cư chùa Quảng Phước, Lạc Dương, tên tiếng Phạm là Bạt-nhật-la Bồ-đề, Hán dịch là Kim Cang Trí, vốn người nước Ma-lại-da thuộc Nam Ấn, Thiên Trúc. Cha ngài dòng Bà-la-môn, rất giỏi Ngũ minh, làm thầy của Kiến Chi Vương. Chỉ mới vài tuổi nhưng mỗi ngày ngài đọc thuộc cả vạn lời, mười lăm tuổi khai ngộ Phật lý, theo thầy xuất gia, học A-tỳ Đạt-ma v. v... tại chùa Na-lan-đà ở Trung Ấn, đăng đàn thọ Cụ túc, nghe giảng mười tám bộ Luật. Ngài lại đến Tây Ấn học các luận của Tiểu thừa. Hơn mười năm, ngài đã thông suốt ba tạng Kinh Luật Luận. Nghe Phật pháp ở Chi Na rất thịnh ngài liền theo thuyền sang, năm Khai Nguyên năm thứ bảy, ngài đến Quảng Phủ, năm sau đến Kinh Đô, Đế nghinh đón và thỉnh ngài ngụ ở chùa Đại Từ Ân hoằng dương Bí Mật Giáo, lập pháp Mạn-trà-la, sau ngài về trụ ở chùa Tiến Phước. Thiền sư Đại trí Đạo Nhân, Đại tuệ Nhất Hạnh, Tam tạng Bất Không đều thờ ngài làm thầy. Những bộ kinh do ngài dịch, phần nhiều Nhất hạnh đều có tham gia. Nhất hạnh từng thọ học nghi chế của Đàn pháp. Ngày rằm tháng tám năm Khai Nguyên năm thứ hai mươi, tại chùa Quảng phước ở Lạc Dương ngài nói với đồ chúng: "Lúc trăng tròn sáng ta sẽ đi". Ngài lễ Phật Tỳ-lô-giá-na, đi nhiễu bảy vòng, quay về bản viện, đốt hương phát nguyện, giao phó kinh Phạm và những bản dịch xong, ngài an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, tăng lạp năm mươi mốt hạ. Mồng bảy tháng mười một, đồ chúng an táng ngài bên phải Y Xuyên phía Nam Long môn. Đệ tử Bất Không bẩm tấu triều đình, Đế phong ngài thụy là Quán Đảnh Quốc Sư, sai trung thư thị lang Đỗ Hồng Tiệm soạn bia ghi lại tài đức của ngài.

* Tam tạng Bất Không: Ngài ngư cư chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh triệu, tên tiếng Phạm A-mụcchư Bạt-chiết-la, Hán dịch là Bất Không Kim Cang. Ngài thuộc dòng dõi Bà-la-môn ở Bắc Thiên Trúc, từ nhỏ mồ côi, theo chú đến các nước phía Đông. Năm mười lăm tuổi, ngài theo thờ Kim Cang Trí và được truyền giáo pháp, đăng đàn thọ Cụ túc, học Nghi quỹ, rất giỏi Nhất Thiết Hữu Bộ. Sau khi Kim Cang Trí nhập diệt, tháng mười hai năm Khai Nguyên năm thứ hai mươi lăm, ngài dẫn hai mươi mốt đệ tử theo thuyền ở Côn Lôn về lại Ngũ Thiên Ấn đi khắp các nước tìm Mật tạng và Kinh Luận cả thảy hơn năm trăm bộ. Năm Thiên Bảo năm thứ năm, ngài về Kinh, phụng chiếu ngụ cư ở Hồng Lô, năm sau, Đế triệu ngài vào cung lập đàn làm lễ quán đảnh cho Đế. Đế ban ngài hiệu Trí Tạng Quốc Sư, thỉnh qua ở chùa Tịnh ảnh. Mùa hạ, ngài cầu mưa linh nghiệm, Đế tự tay bưng hòm báu dâng ngài ca-sa tía.

Ở Mang sơn phía Bắc Lạc Dương có con mãng xà rất lớn, nhả khí độc khắp nơi, ai ngửi phải độc khí ấy sẽ chết ngay. Đế triệu ngài đến chú thuật giết nó. Năm Thiên Bảo năm thứ mười hai, binh của ba nước Tây Phiên, Đại Thạch, Khang Cư vây Lương châu, Đế thỉnh ngài cầu âm binh giải vây. Ngài lập đàn, tụng Nhân Vương mật ngữ, Đế đích thân dâng hương. Bỗng có vị thần mặc giáp trụ xuất hiện, Đế nhìn thấy và hỏi ngài:

- Đây là thần gì? Ngài đáp:

Con trưởng của Bắc Phương Tỳ-sa-môn Thiên vương.

Ngài tụng mật ngữ rồi sai đi. Ngày hai mươi bốn tháng tư Tây Kinh về cấp báo: Ngày mười một tháng hai cách Đông bắc thành khoảng ba mươi dặm, giữa mây mù thần binh xuất hiện oai phong, trên lầu cửa Bắc thành có Quang Minh Thiên vương phẫn nộ nhìn quân Phiên, thúc trống thổi tù và mà đến, Tây Phiên cuống cuồng cuốn giáp chạy trốn. Đế xem biểu tấu, nhân đó ra lệnh lầu thành các nơi dựng tượng Thiên Vương bắt đầu từ đó. Trong năm Càn Nguyên đời Túc Tông, Đế triệu ngài vào cung dựng pháp Đạo tràng hộ ma, truyền pháp Chuyển Luân Vương Vị, Thất Bảo Quán Đảnh cho Đế. Cuối năm Thượng Nguyên, ngài dâng biểu xin vào núi. Lý Phụ Quốc tuyên sắc lệnh thỉnh ngài ở tu tại chùa Trí cự, núi Chung Nam. Đại Tông lên ngôi, ân sủng càng hậu. Vĩnh Thái năm đầu, Đế thỉnh ngài dịch hai kinh Mật Nghiêm và Nhân Vương, Đế viết bài tựa. Mồng một tháng mười một, Đế đặc biệt phong ngài chức Hồng Lô Khanh. Năm Đại Lịch năm thứ ba, Đế thỉnh ngài lập đàn tại chùa Đại Hưng Thiện, trao pháp quán đảnh cho đại thần thân cận và tướng soái các trấn. Đế dự đàn, gia phong ngài hiệu Đại Quảng Trí Tam Tạng. Đại Lịch năm thứ sáu, ngài dâng các bộ kinh do mình dịch, cả thảy bảy mươi bảy bộ một trăm hai mươi quyển. Đại Lịch năm thứ chín, ngài quy tịch. Trước đó ngài dâng biểu từ tạ, Đế sai Sứ đến thăm hỏi, thuốc thang, gia phong ngài chức Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, phong làm Tiêu Quốc Công, thực ấp ba ngàn hộ. Ngài cố chối từ không nhận và nói: "Lúc trăng tròn sáng, ta sẽ đi rồi, sắp lâm chung còn trộm nhận danh vị làm gì nữa!". Ngài đem năm vòng kim cang, linh, chày, do thầy mình truyền lại và đặt trên mâm bạc xâu chuỗi hạt Bồ-đề thủy tinh thay lời từ biệt, giao cho trung sứ Lý Hiến Thành mang về dâng Đế. Rằm tháng sáu, ngài tắm nước thơm, nằm quay đầu về Đông, mặt quay về Bắc, nhìn về sân rồng, bắt đại ấn quy tịch trong Chánh định, thọ bảy mươi tuổi, tăng lạp năm mươi hạ. Đệ tử Tuệ Lãng kế thế ngôi vị quán đảnh, ngoài ra người biết pháp này còn vài người nữa. Đế không thiết triều ba ngày, ban gấm lụa, vật dụng, bốn mươi vạn tiền, hơn hai trăm vạn tiền để xây tháp, sai công đức sứ Lý Nguyên Tông đảm trách việc an táng. Mồng sáu tháng bảy, làm lễ tràtỳ, sai triều phẩm Lưu Tiên Hạc đến chùa tế tự, ban chức Tư không, ban thụy là Đại Biện Chánh Quảng Trí Tam Tạng, thâu mấy trăm viên xá-lợi, lấy tám mươi hạt lớn dâng về triều. Xương đỉnh đầu của ngài không cháy, bên trong có một viên xá-lợi nửa ẩn nửa hiện. Đế hạ chiếu cho chùa này dựng tháp ở viện riêng, Ngự sử đại phu Nghiêm Trình soạn bia, Từ Hạo khắc gỗ tại viện này.

Trong Hệ Truyền đời Tống ghi: "Truyền giáo nối nhau, Đông Hạ tôn Kim Cang Trí làm Thỉ tổ, Bất Không Kim Cang là Tổ năm thứ hai, Tuệ Lãng là tổ năm thứ ba. Về sau phân nhiều chi phái, nhưng họ đều hỏi "Truyền Du-già Đại Giáo thì rất nhiều, nhưng ít người chứng nghiệm là tại sao vậy?" Đó cũng giống như con Vũ Gia sinh ra Ứng Long, Ứng Long sinh ra Phượng Hoàng, Phượng Hoàng sinh xuống những loài chim khác, muốn thay đổi, lẽ đâu được ư!

- Quý Dậu: Khai Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt, Đế chia thiên hạ thành Kinh Kỳ, Đô Kỳ, Quan Nội, Hà Nam, Hà Đông, Hà Bắc, Lũng Hữu, Sơn Nam Đông Đạo, Sơn Nam Tây Đạo, Kiếm Nam, Hoài Nam, Giang Nam Đông Đạo, Giang Nam Tây Đạo, Kiềm Trung, Lãnh Nam cả thảy mười lăm đạo. Mỗi nơi đều đặt thái phỏng sứ. Phương sĩ Trương Quả Lão tự nói mình đã mấy trăm tuổi, Đế triệu ông vào cung, ông khẩn thiết từ chối và về núi. Đế ban ông chức Ngân Thanh Quang Lộc Đại Phu, hiệu Thông Tuyền Tiên Sinh. Ông vào Thường Sơn và không rõ mất lúc nào.

* Hoa Nghiêm Hợp Luận: Khai Nguyên năm thứ hai mươi hai, Lý Trưởng giả ở Thái Nguyên, tên là Thông Huyền mỗi ngày ăn một cái bánh táo nhỏ bằng lá cây bá, nhân đó người ta gọi ông là Táo Bá Đại Sĩ. Trước đây, trong năm Khai Nguyên năm thứ bảy, ông từng soạn Luận trong Trai Đường của nhà Cao Tiên Nô ở huyện Mạnh, Thái Nguyên. Ba năm sau, ông dời về bên cạnh Cổ Phật Đường của người họ Mã. Đọc suốt mười năm, ông quảy kinh sách ra đi. Ông đi đường núi được hai mươi dặm bỗng gặp một con cọp, trưởng giả vỗ nó và nói: "Ta soạn Hoa Nghiêm Luận, ngươi có thể chọn cho ta một chỗ nghỉ chân được không?" Nói xong, ông đặt túi kinh lên lưng nó. Đi đến trước cái tháp bằng đất ở bãi đất núi Thần Phước, con cọp dừng lại. Trưởng Giả liền vào tháp soạn Luận. Mỗi đêm miệng ông phóng ánh sáng để thay đèn đuốc, ban ngày có hai đồng tử một nam một nữ lấy nước, dâng hương. Đến giờ ăn, đồng tử dọn thức ăn, ăn xong đồng tử dọn bát. Cứ thế suốt năm, trưởng giả soạn xong luận, hai đồng tử ẩn tích đâu mất chẳng còn thấy nữa. Ông soạn xong luận gồm bốn mươi quyển. Tháng ba năm Khai Nguyên năm thứ hai mươi tám, ông mất, hưởng thọ chín mươi lăm tuổi. Ông còn soạn những bộ như: Quyết Nghi Luận, Hội Thích, Thập Môn Huyền Nghĩa, Duyên Sinh Giải, Mê Thập Minh Luận, Thập Huyền Lục Tướng, Bách Môn Nghĩa Hải, kệ, Tán, Ngữ v. v... đều lưu hành ở đời.

* Dược Vương: Họ Vi, tên Cổ, tự Lão Sư, người nước Sơ Lặc. Năm Khai Nguyên năm thứ hai mươi lăm, ông đến Kinh đô, đầu đội khăn lụa, mặc áo vải the, chống gậy lê mà đi, lưng đeo đến mấy trăm cái hồ lô, đến đâu cũng cho thuốc bổ, thường có con chó đen đi theo ông. Hễ ai có bệnh hoạn, ông nhìn thì họ khỏi ngay. Đế kinh lễ, tôn ông là Dược Vương Bồ-tát. Hoàng hậu vẽ hình ông thờ tự cúng dường.

Khai Nguyên năm thứ hai mươi sáu, Đế hạ chiếu cho các châu quận trong nước mỗi nơi phải xây một chùa lớn, lấy niên hiệu đặt tên chùa, đó là chùa Khai Nguyên. Tháng sáu, lập Hoàng Thái tử Dư, sau đổi tên là Hanh.

+ Văn Tuyên Vương: Tháng tám năm năm thứ hai mươi bảy, Đế truy tôn Khổng Tử Thụy Văn Tuyên Vương. Trước đây tế tự như tiên Thánh, tiên Sư, Chu Công tế hướng nam, Khổng Tử tế hướng Đông. Đế ra lệnh chế từ nay tế tự Khổng Tử ở hướng Nam, mặc lễ phục của vương giả, truy tặng đệ tử ông làm công, hầu, bá.

* Thanh Nguyên: Thiền sư Hành Tư ở chùa Tĩnh Cư, núi Thanh Nguyên, Kiết châu. Sư họ Lưu, người An Thành, Kiết Châu, từ nhỏ xuất gia đắc pháp với Lục tổ, về trụ ở Thanh Nguyên. Đến lúc này vào ngày mười ba tháng mười hai năm Khai Nguyên năm thứ hai mươi tám, Sư thượng đường cáo biệt đại chúng rồi kiết già thị tịch. Hy Tông ban Sư thụy là Hoằng Tế Thiền Sư, tháp hiệu Quy Chân. Sư nối pháp của Lục tổ.

* Thiền sư Phổ Tịch: Ngài trụ trì chùa Đường Hưng ở Kinh đô. Cựu Đường Sử chép: "Ngài họ Mã, quê ở Hà Đông, thiếu thời đi tham vấn khắp cao Tăng học Kinh Luật, thờ Thần Tú ngót sáu năm, Tú thấy ngài là bậc pháp khí mới truyền hết đạo cho. Thần Tú vào kinh, nhân tiến cử ngài với Tắc Thiên, nhờ vậy ngài được độ làm tăng. Thần Tú quy tịch, những người mến mộ Phật pháp trong cả nước đều tôn thờ ngài. Trung Tông nghe đức hạnh cao xa, liền hạ chiếu chỉ bảo ngài thay Thần Tú thống lãnh đồ chúng. Khai Nguyên năm thứ mười ba, Huyền Tông có chỉ dụ thỉnh ngài về ở tại đô thành, lúc này Vương Công Sĩ thứ đua nhau đến lạy học. Tính ngài nghiêm cẩn, ít nói, khó thấy được niềm vui hiện trên gương mặt, vì vậy xa gần càng kính trọng ngài hơn. Lúc này, Khai Nguyên năm thứ hai mươi tám, ngài quy tịch. Đế hạ chỉ ban hiệu là Đại Chiếu Thiền Sư. Ngày an táng, Hà Đông Doãn Bùi Khoan cùng vợ con đều mặc đồ tang đứng sau hàng môn đồ. Sĩ thứ cả thành đều khóc tiễn, chợ búa chẳng đông mấy ngày. Sư nối pháp của Thần Tú, Thần Tú nối pháp Ngũ tổ. Đệ tử ngài có Duy Chánh, Nhất Hạnh nối pháp.

* Nam Nhạc Thiền Sư: Sư họ Đỗ, húy Hoài Nhượng, người Kim Châu. Năm mười lăm tuổi, sư từ biệt cha mẹ, đến chùa Ngọc Tuyền ở Kinh châu theo Luật sư Hoằng Cảnh xuất gia, thọ Cụ túc, học Tỳ-ni, sau đó đến Tào Khê tham vấn Lục tổ. Qua tám năm, Sư mới nhận lãnh được pháp yếu. Tổ nói với Sư: "Tổ năm thứ hai mươi bảy của Tây Thiên là Bát-nhã Đa-la có sấm ký, rằng dưới chân ông sẽ xuất hiện một con ngựa câu, đạp chết người trong thiên hạ". Sư hầu hạ Tổ suốt mười lăm năm. Duệ Tông, Tiên Thiên năm đầu, Sư qua trụ chùa Bátnhã ở Hoành Nhạc. Lúc này, tức năm Khai Nguyên, Sư tiếp nhận Mã Tổ Đạo Nhất, phó pháp bằng bài kệ:

Đất tâm ươm các giống
Gặp nước tất nảy mầm
Hoa Tam-muội không tướng
Đâu hoại lại đâu thành!

Ngày mười một tháng tám năm Thiên Bảo năm thứ ba, Sư viên tịch ở Hoành Nhạc, thọ sáu mươi tám tuổi. Đế ban Sư Thụy Đại Tuệ Thiền Sư, tháp hiệu Tối Thắng Luân. Sư nối pháp của Lục tổ.

Thiên Bảo năm thứ ba, Đế đổi "niên" thành "tái", đến Túc Tông Càn Nguyên năm đầu, lại đọc là "niên".

* Từ Bộ Điệp: Tháng năm Thiên Bảo năm thứ năm, Đế hạ chiếu thiên hạ độ Tăng ni, đồng thời sai Từ bộ cấp điệp. Nay gọi đó là Từ bộ vốn phát xuất từ đây.

- Mậu Tý: Thiên Bảo năm thứ bảy, đại tướng quân Cao Lực Sĩ dựng chùa Bảo Thọ ở Tây Kinh, đúc đại hồng chung, thiết trai cúng dường để khánh thành. Cả triều đều vân tập, giao hẹn ai đánh một tiếng chuông thì cúng trăm tiền. Có người thích cúng đánh đến hai mươi tiếng.

- Canh Dần: Thiên Bảo năm thứ chín, tháng năm Đế ban An Lộc Sơn tước Đông Bình quận vương. Tướng soái nhà Đường được phong vương bắt đầu từ Lộc Sơn. An Lộc Sơn vốn người Hồ ở Liễu Thành, Doanh châu, ban đầu có tên là A Lạc Sơn mà bộ tộc Đột quyết gọi là Đấu Chiến Thần. Ông họ Khang, mẹ là A Sử Đức làm nghề đồng cốt trong bộ tộc Đột quyết. Bà cầu tự ở Càn Lạc Sơn, đến khi sinh Lộc Sơn, bỗng có ánh sáng chiếu khắp nhà trại, thú rừng đều kêu vang. Người chiêm bói cho đó là điềm lành. Cha chết, mẹ ông dẫn ông đến An Diên Yển trong bộ tộc Đột quyết, gặp lúc bộ tộc này tan rã, ông và con người anh Diên Yển là Tư Thuận cùng trốn sang nhà Đường, nên giả mạo họ An tên Lộc Sơn. Có Sử Tốt Vu là người cùng quê với Lộc Sơn, nổi tiếng là dũng sĩ, nhiều lần gặp tướng quân đề bạt, ông được Đế ban tên là Tư Minh, từ đó về sau họ đều làm phản.

- Nhâm Thìn: Thiên Bảo năm thứ mười một, tháng ba, Đế đổi sử bộ thành văn bộ, hình bộ thành hiến bộ.

- Ất Mùi: Thiên Bảo năm thứ mười bốn, tháng mười một An Lộc Sơn làm phản. Túc Tông năm Càn Nguyên năm thứ hai, An bị tiêu diệt. Đại Tông, Quảng Đức năm đầu, Sử bị diệt.

* Túc Tông: Húy là Hanh, con năm thứ ba của Huyền Tông. Năm Khai Nguyên năm thứ hai mươi sáu, ông được lập làm Hoàng Thái tử. tháng sáu năm Bính Thân, An Lộc Sơn vây hãm Đồng Quan. Huyền Tông chạy đến đất Thục. Thái tử lên ngôi ở Linh Vũ, đổi niên hiệu Chí Đức đúng vào tháng bảy, tôn Huyền Tông làm thái Thượng hoàng, đổi Phù Phong thành Phụng tường phủ. Ông ở ngôi bảy năm, thọ năm mươi hai tuổi. Niên hiệu Chí Đức hai năm, Càn Nguyên hai năm, Thượng Nguyên hai năm, Bảo Ứng một năm.

- Tháng bảy năm Bính Thân đổi niên hiệu Chí Đức năm đầu. An Lộc Sơn tự xưng Đại Yên Hoàng Đế, lập niên hiệu Thánh Vũ đưa, binh vào Trường An. Năm sau, An Lộc Sơn bị hoạn quan của mình là Lý Trư Nhi cầm đao rạch bụng và An chết. Con của ông là An Khánh Tự nối ngôi. Đinh Dậu, Chí Đức năm thứ hai, tháng chín, thu phục lại Tây Kinh, tháng mười thu phục lại Đông Kinh. Đinh Mão, Đế vào Tây Kinh. Tháng mười hai, Thượng hoàng về đến Hàm dương ở cung Hưng khánh. Túc

Tông lập con là Quảng Bình Vương Thúc làm sở vương, gia phong các công thần, phong Quách Tử Nghi làm Tư Đồ, Lý Quang Bật làm Tư không, đổi Thục Quận làm Nam kinh, Phụng Tường là Tây kinh, Tây Kinh là Trung kinh.

- Mậu Tuất: Càn Nguyên năm đầu, Đế đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu, lại đổi "Tái" thành "Niên". Đế lập đạo tràng trong cấm cung, giảng tụng, đọc kinh sau lệnh trên Ngũ nhạc đều phải dựng chùa, chọn những Sa-môn đức hạnh trụ trì, cho phép Cư sĩ nào tụng được năm trăm tờ kinh sẽ độ làm tăng, hoặc nộp một trăm xâu tiền để xin độ điệp, thế phát, hoặc cho người thấu tỏ nghĩa kinh xuất gia, đến khi Lưỡng Kinh được bình định. Các châu trọng yếu nộp tiền độ Tăng, Đạo sĩ đến hơn vạn người, từ đó bắt đầu có tên gọi "Tiến nạp". Lập Sở Vương làm Thái tử.

* Ao Phóng Sinh: Tháng ba năm Càn Nguyên năm thứ hai, Đế hạ chiếu cho các châu trong thiên hạ đều phải đào ao phóng sinh. Tháng mười, đế ban sắc lệnh cho Thăng châu Thứ sử Nhan Chân Khanh soạn bài minh văn bia về việc phóng sinh, có trong nhà Đường. Bài tựa ghi: "Hoàng Đế ta cho khắp thiên hạ đào ao, nương thành linh mà cầu phước, nhờ sức gia trì của Đà-la-ni, tát cạn biển phiền não, và dòng sinh tử, xét thời tiền cổ đâu từng có như vậy". Tháng tám Đế lệnh cho Tư Đồ Quách Tử Nghi đánh An Khánh Tự, phong hoạn quan Khai phủ nghi đồng tam ty Ngư Triều Ân làm quán quân dung tuyên úy xử trí sứ. Tên gọi Quán Quân Dung có từ đây. Sử Tư Minh giết An Khánh Tự, tự lập làm Đại Yên Hoàng Đế.

-Canh Tý: Thượng Nguyên năm đầu.

* Thiền sư Thần Hội ở Hà trạch: Sư họ Cao, người Tương Dương, mười bốn tuổi làm Sa-di, yết kiến Lục Tổ và đắc pháp, sau qua Tây Kinh thọ giới. Trung Tông, năm Cảnh Long năm thứ hai, Sư về Tào Khê. Tổ nhập diệt, trong khoảng hai mươi năm kế đó, đốn tông của Tào Khê ngày càng mai một ở Kinh, Ngô; tiệm môn của Tung Nhạc lại thịnh hành ở Tần, Lạc. Năm Thiên Bảo năm thứ tư, Sư vào kinh đô, soạn Hiển Tông ký, để chỉnh đốn lại hai tông: đốn của Tuệ Năng ở Phương Nam, tiệm của Thần Tú ở Phương Bắc. Lúc này, Thượng Nguyên năm đầu, Sư từ biệt chúng và an nhiên thị tịch, an táng ở Long Môn. Đế sắc dựng tháp viện, ban hiệu Chân Tông Bát-nhã. Sư nối pháp của Lục tổ. Núi Hà trạch thuộc Tào châu, Đông Xương lộ. Hà thuộc Duyện châu.

-Tân Sửu: Thượng Nguyên năm thứ hai, tháng tám, Đế bỏ niên hiệu chỉ gọi Nguyên niên (năm thứ), bỏ tôn hiệu chỉ gọi Hoàng Đế, lấy tháng Tý làm tháng đầu của một năm, theo giờ kiến lập ấy mà tính. Năm sau, lấy lại như trước. Sử Tư Minh yêu mến con út là Triêu Thanh nên lập Thanh làm Thái tử, muốn giết con trưởng là Triêu Nghĩa, bộ tướng của Triêu Nghĩa là Lạc Duyệt cầm tù và giết Sử Tư Minh. Triêu Nghĩa lên ngôi Hoàng Đế.

* Nam Dương Quốc Sư: Tên là Tuệ Trung, họ Nhiễm, quê ở Việt Châu, Chiết Đông, thọ tâm ấn của Lục tổ, ngụ cư hang Đảng Tử trên núi Bạch Nhai thuộc Nam Dương. Hơn bốn mươi năm, ngài chưa từng xuống núi. Túc Tông nghe đạo hạnh của ngài, vào năm Thượng Nguyên năm thứ hai, Đế sai trung sứ Tôn Triều Tiến đem chiếu mời ngài vào cung. Đế lấy lễ thầy tiếp đãi ngài, thỉnh ở viện Tây Thiền chùa Vu Phước. Đế hỏi ngài:

- Ở Tào Khê thầy đắc pháp gì? Ngài hỏi lại:

Bệ hạ có thấy mảng tuyết trong hư không không?

- Thấy.

- Do đinh đóng hay treo lơ lửng! Đế hỏi tiếp:

Thế nào là mười thân Điều Ngự Sư? Ngài đứng dậy hỏi:

Hiểu không? Đế đáp: Chẳng hiểu!

- Hãy đem Tịnh bình lại đây cho lão tăng! Đế hỏi:

Thế nào là Vô tránh Tam-muội? Ngài đáp:

Đàn-việt đạp trên đỉnh Tỳ-ô mà đi.

- Ý này thế nào?

- Chớ nhận pháp thân thanh tịnh của chính mình. Đế hỏi tiếp, ngài chẳng thèm nhìn, Đế nói:

- Trẫm là Thiên Tử của Đại Đường, vì cớ gì thầy không nhìn? Ngài hỏi:

Bệ hạ có thấy hư không chăng?

- Thấy!

- Nó có liếc nhìn bệ hạ không?

Ngay đó, Đế chợt hiểu. Đời Đại Tông năm Đại Lịch thứ mười, Sư thấy việc hóa duyên sắp hết nên cáo từ Đế. Đại Tông hỏi:

- Sau khi thầy tịch, đệ tử phải ghi thế nào?

- Bảo Đàn-việt dựng một ngôi tháp Vô Phùng.

- Vậy xin thầy cho hình dạng của tháp! Ngài im lặng một lát và hỏi:

Hiểu không? Đế đáp:

Không hiểu!

- Sau khi bần đạo đi, thị giả Ứng Chân biết được việc này, xin bệ hạ đến đó hỏi.

Ngày mười chín tháng mười hai, ngài năm nghiêng bên phải quy tịch. Môn nhân dựng tháp ở hang Đảng Tử, Đế ban thụy Đại Chứng Thiền Sư. Đại Tông cho triệu Ứng Chân vào cung hỏi lại việc trước, Chân im lặng giây lâu rồi hỏi:

Thánh Thượng hiểu không?

- Không hiểu.

Ứng Chân thuật bài kệ:

Phía Nam Tương, phía Bắc Trạch
Trong có vàng ròng đầy một nước
Dưới cây Vô ảnh hợp cùng thuyền
Trên điện lưu ly không tri thức.

Ứng Chân trụ ở núi Đam Nguyên, Kiết châu, Giang Tây, nối pháp của Nam Dương Quốc Sư.

- Nhâm Dần: Bảo Ứng năm đầu, lấy tháng Tỵ. Sở Châu Thứ sử Thôi Tiên dâng biểu rằng: "Có Ni tên Chân Như chợt lên trời gặp Thượng đế, Thượng đế ban cho mười ba thứ ngọc quý, dặn hễ trong nước có tai họa thì lấy ra trấn giữ. ". Quần thần đều tán thưởng, nhân đó Đế lấy hiệu Bảo Ứng. Giáp Dần: Thượng hoàng mất, Đế thương khóc lâm bệnh ở nội điện, bệnh tình ngày càng nặng, mới sai Thái tử xử lý việc nước.

Giáp Thân: Đế đổi niên hiệu lại lấy tháng Dần làm tháng giêng. Số tháng đều như cũ. Năm Đinh Mão, Đế mất, Mậu Thìn cử hành đại lễ tang Hoàng Đế. Kỷ Tỵ, Thái tử lên ngôi. Sở Châu là Hoài An Lộ ngày nay.

* Đại Tông: Húy là Dự, lúc đầu có tên là Thục, con trưởng của Túc Tông, được phong Quảng Bình Vương, làm Nguyên Soái, cùng bọn Quách Tử Nghi khôi phục lại hai kinh. Càn Nguyên năm đầu ông được lập làm Hoàng Thái tử. Đến lúc này, ông lên ngôi, ở ngôi mười bảy năm, thọ 53 tuổi. Niên hiệu Quảng Đức hai năm, Vĩnh Thái một năm, Đại Lịch mười bốn năm.

- Quý Mão: Quảng Đức năm đầu, Sử Triêu Nghĩa thua trận chạy đến Phạm Dương, cùng đường phải thắt cổ chết trong rừng. Mùa Đông, tháng mười, Thổ Phiên vây hãm Kinh sư, Đế chạy đến đất Thiểm, Quách Tử Nghi khắc phục lại được, Đế về lại cung. Tháng mười hai, Đế hạ chiếu cho sửa sang lại điện Bồ-tát Văn-thù ở Ngũ đài, đúc đồng thay ngói, đường bằng vàng ròng.

- Giáp Thìn: Quảng Đức năm thứ hai, Đế hạ chiếu tuyển ba trăm tăng và trăm người khác thay phiên tụng kinh Nhân Vương, Bát-nhã. Họ ra vào đều ngồi xe ngựa, hành đạo suốt năm tháng.

- Ất Tỵ: Vĩnh Thái năm đầu, Đế hạ chiếu cho các quan trong nước không được đánh đập, hạ nhục Tăng Ni.

* Vu-lan-bồn: Bính Ngọ, Đại Lịch năm đầu, tháng bảy, Đế lập hội Vu-lan-bồn trong cung, thiết bảy Thánh vị từ Cao Tổ Thái Tông trở xuống, dựng phan lớn, trên phan đều ghi hiệu của đế vương, nghinh từ Thái miếu vào đạo tràng. Hôm ấy bá quan xếp hàng ở Quan Thuận Môn nghinh lạy đi theo, từ đó lấy làm lệ thường hàng năm. Năm Quý Mùi, hai nhà Thái miếu sinh cây Linh Chi, Đế làm thơ phú bày tỏ cái đẹp, trăm quan cùng họa theo. Kinh chép: "Đại đệ tử Phật là Tôn giả Mục-kiềnliên có thần thông bậc nhất, gặp phải mẹ mình mạng chung đọa trong loài ngạ quỷ, Mục-liên xem thấy về bạch Phật mong Phật cứu giúp. Phật dạy ngài vào ngày rằm tháng bảy là ngày chúng Tăng tự tứ, hãy sắm đủ vật thực cúng dường Phật và chúng Tăng, đọc tụng các kinh, nhờ vậy mẹ ngài thoát khỏi loài ngạ quỷ.

-Đinh Mùi: Đại Lịch năm thứ hai, tháng bảy, quán quân dung Ngư Triều Ân tấu xin đổi trang viện của mình trước đây được Đế ban cho thành chùa Chương kính, nhằm cầu phước cho Thái hậu.

* Tinh Tấn: Trong Pháp Hoa Phụ Hành ghi: "Đối với pháp, không nhiễm thì gọi là Tinh, niệm niệm thú cầu thì gọi là Tấn". Tướng quốc Đỗ Hồng Tiệm đi phủ dụ dân đất Ba Thục, năm ấy ông đến Ích châu, sai sứ đến núi Bạch Nhai thỉnh Thiền sư Vô Trụ vào thành hỏi pháp yếu. Tiệm hỏi:

- Đệ tử nghe Kim Hòa thượng nói pháp môn ba câu là không nhớ, không niệm, chớ vọng; chẳng rõ đó là một hay là ba?

Sư đáp: Không nhớ là giới, không niệm là định, chớ vọng là tuệ, nhưng nhất tâm chẳng sinh thì đủ giới định tuệ, chẳng phải một cũng chẳng phải ba.

- Chữ vọng trong câu cuối chẳng phải là vọng theo tâm đó sao!

- Theo ông thì có!

- Có gì làm bằng chứng?

- Kinh Pháp Cú chép: "Nếu khởi tâm tinh tấn, vọng này chẳng phải tinh tấn, nếu tâm chẳng khởi vọng, tinh tấn không bến bờ".

Ngay đó, Hồng Tiệm dứt hết nghi tình. Bỗng có con quạ kêu, ông hỏi Sư:

Thầy nghe không?

- Nghe và không nghe chẳng liên quan đến tánh nghe. Lúc có tiếng là thanh trần tự sinh, khi không tiếng thì thanh trần tự diệt nhưng tánh nghe này chẳng theo tiếng mà sinh, cũng chẳng theo tiếng mà diệt. Thấu tỏ tánh nghe này thì thoát khỏi sự lưu chuyển của thanh trần, cho đến sắc, thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy.

Hồng Tiệm vui mừng lễ kính (xem trong Truyền Đăng Lục). Sư nối pháp của Thiền sư Vô Tướng ở Ích châu, Vô Tướng nối pháp của Thiền sư Tịch ở Tư châu, Tịch nối pháp Thiền sư Tiên ở Tư châu, Tiên nối pháp của Ngũ tổ, nhưng là dòng phụ.

- Giáp Dần: Đại Lịch năm thứ chín, Đạo sĩ Sử Hoa nhờ pháp thuật được vua ân sủng, nhân đó Hoa xin lập thang dao nhọn để đấu phép với Samôn. Đế có chiếu chỉ cho Lưỡng Nhai chọn tăng ứng thí. Sa-môn Sùng Tuệ là người thường tụng chú Thủ-lăng-nghiêm, ngài dâng biểu xin thi đấu. Đế dẫn bá quan đến xem. Sử Hoa đạp trên dao nhọn đi lên, vẫy Sùng Tuệ lên theo. Cũng đạp dao nhọn đi lên, chẳng hề hấn gì. Tuệ sai chất củi đốt đống lửa lớn trước sân, Tuệ vào đống lửa rồi gọi Hoa vào. Hoa sợ toát mồ hôi, không dám nhìn thẳng. Đế vui mừng cho bãi cuộc, ban cho Tuệ hiệu Hộ Quốc Tam Tạng. Về sau không ai biết ngài mất ở đâu.

* Tam Sinh Thạch: Sa-môn Viên Trạch ngụ cư tại chùa Tuệ Lâm ở Lạc Dương, rất thân với ẩn sĩ Lý Nguyên. Tuệ Lâm vốn là phủ đệ cũ của Nguyên. Cha của Nguyên tên là Đăng làm Thái thú Đông Đô, bị An Lộc Sơn giết, vì vậy Nguyên quyết không làm quan thường ở trong chùa. Ngày nọ, hai người ngẫu hứng dẫn nhau đi dạo trên núi Nga Mi. Nguyên muốn từ Kinh châu men đường núi lên, Trạch muốn từ Trường An lần theo hang núi. Nguyên là người từ lâu dứt bỏ việc đời, không muốn vào Kinh đô nữa, Trạch không cản được. Hai người mới từ Kinh châu theo thuyền đi Nam Phổ. Đang đi, bỗng thấy một phụ nữ có thai đang vác hũ ra sông lấy nước, Trạch nhìn thấy khóc nói: "Tôi sở dĩ không muốn đi đường này chính vì việc này". Nguyên thất kinh hỏi nguyên do, Trạch đáp: "Người phụ nữ đó có mang đã ba năm, đợi tôi đến đầu thai làm con bà. Không gặp thì thôi, nay gặp rồi thì không thể trốn tránh. Ông hãy dùng phù chú giúp tôi sinh sớm, ba ngày sau bà ấy sẽ tắm đứa bé, mong ông hãy đến, tôi sẽ cười một cái làm tin, mười ba năm sau tôi sẽ gặp ông ở ngoài chùa Thiên Trúc tại Hàng châu". Nguyên bùi ngùi chuẩn bị đồ tắm rửa cho ông, đến tối thì Trạch mất. Người phụ nữ ấy sinh con được ba ngày, Nguyên đến nhìn xem, thằng bé thấy Nguyên đến liền cười rất mãn nguyện. Nguyên kể rõ sự việc cho gia đình người phụ nữ ấy nghe. An táng Trạch xong, Nguyên về lại chùa. Sau đúng kỳ hẹn, Nguyên từ Lạc Dương đến đất Ngô để hoàn thành hẹn ước ngày ấy. Quả nhiên, cạnh bờ ruộng cỏ xanh trước chùa Thiên Trúc dưới núi Tây Sơn ở Hàng châu, Nguyên nghe một mục đồng gõ sừng trâu mà ca rằng:

Tinh hồn cũ trên đá tam sinh
Thưởng trăng ngâm vịnh chẳng cần bàn
Thẹn với tình người xa thăm hỏi
Thân này tuy khác, tánh thường còn.

Nguyên hỏi:

Ông Trạch vẫn khỏe chứ? Mục đồng đáp:

Anh Lý quả là người đáng tin, nhưng duyên đời chưa hết, nên chẳng được gần nhau, chỉ mong siêng tu đừng nên giải đãi, ngày sau ắt gặp lại. Mục đồng ca tiếp:

Thân trước thân sau việc mang mang
Muốn nói nhân duyên sợ đau lòng
Núi sông Ngô, Việt đà đi khắp
Lại về Yên Trác lên Cù đường.

Ngâm xong, mục đồng ẩn mất chẳng thấy, Nguyên về lại Tuệ Lâm. Đến đời Mục Tông, đầu năm Trường Khánh, ông đã tám mươi tuổi. Ngự sử trung thừa Lý Đức Dụ dâng biểu tiến cử ông. Mục Tông hạ chiếu cho ông giữ chức Gián nghị đại phu, nhưng ông không vào triều.

- Mậu Ngọ: Đại Lịch năm thứ mười ba, Đế hạ chiếu cho Luật sư của lưỡng kinh tường định lại giới luật cũ, mới; khai, liệt, trì, phạm, ban hành khắp nước. Lúc này Thiền tông rất thịnh, chủ Giang Tây có Đại Tịch Mã Tổ, chủ Hồ Nam có Thạch Đầu. Thiền giả trong thiên hạ đều quy tụ hết dưới pháp tịch của hai nơi này.

- Kỷ Mùi: Đại Lịch năm thứ mười bốn, tháng năm Đế mất, Thái tử lên ngôi, hạ chiếu tôn Quách Tử Nghi làm thượng phụ, gia phong chức Thái úy và trung thư lệnh.

* Đức Tông: Húy là Quát, con trưởng Đại Tông, ban đầu được phong Phụng Tiết quận vương, chức đại nguyên soái thống lãnh hết binh mã. Quảng Đức năm thứ hai, ông được lập làm hoàng Thái tử, ở ngôi hai mươi sáu năm, thọ sáu mươi bốn tuổi. Niên hiệu Kiến Trung bốn năm, Hưng Nguyên một năm, Trinh Nguyên hai mươi mốt năm.

- Canh Thân: Kiến Trung năm đầu. Tân Dậu: Kiến Trung năm thứ hai. Phần Dương Trung Vũ Vương Quách Tử Nghi mất, thọ tám mươi lăm tuổi.

- Quý Hợi: Kiến Trung năm thứ tư, tháng mười Lý Hy Liệt vây Tương Thành, Đế phát binh các đạo Kinh Nguyên... đến cứu. Kinh Nguyên Tiết độ sứ Diêu Lệnh Ngôn đến Kinh đô, binh mã của ông xin được thưởng nhưng không toại ý nên xông lên giết Lệnh Ngôn, quay lại phò tá Chu Thử làm chủ. Đế phải chạy đến Phụng Thiên, đơn thân độc mã. Thử sai Kinh Nguyên binh mã Sử Hàn Mân dẫn quân tinh nhuệ đánh úp Phụng Thiên. Đại tư nông Đoàn Tú Thật nói với Kỳ Linh Nhạc: "Việc gấp rồi". Thật sai Linh Nhạc trá phù lệnh của Diêu Lệnh Ngôn để Mân đem quân về. Ngay lúc đại quân đều xuất phát, người lấy cắp ấn phù của Lệnh Ngôn chưa về, Tú Thật đành đổi ấn của tư nông. Ấn phù được đưa cho Hàn Mân, Mân thấy ấn phù liền đem quân về. Chu Thử tự xưng là Đại Tần Hoàng Đế, lấy niên hiệu Ứng Thiên.

- Giáp Tý: Hưng Nguyên năm đầu, Chu Thử lại đổi quốc hiệu là Hán, đổi niên hiệu Thiên Hoàng. Lý Hy Liệt lên ngôi Hoàng Đế ở Hứa châu, lấy quốc hiệu Đại Sở, lấy niên hiệu Vũ Thành, đặt ra trăm quan. Đế từ Phụng Thiên về thẳng thành ở Lương châu, củng cố hành dinh ở Thần Sách, Hà Bắc. Tiết độ sứ Lý Thạnh khôi phục lại kinh thành. Tháng sáu, Chu Thử định chạy trốn sang Thổ Phiên thì bị tướng của ông là Lương Đình Phân chém chết, bêu đầu ở hành dinh. Đế hạ chiếu đổi Lương châu thành Hưng Nguyên phủ. Đế đến Trường An, tấn phong Lý Thạnh tước Tây Bình Vương.

- Ất Sửu: Trinh Nguyên năm đầu. Bính Dần: Trinh Nguyên năm thứ hai, tháng năm, Đế triệu Luật sư Đạo Trừng vào cung truyền Tam quy Ngũ giới cho phi tần, nội thị. Đế ban ngài hiệu Đại Viên Luật Sư, hạ chiếu cho các chùa tuyên giảng, lại lập hội Vu-lan-bồn giống như thời của Đại Tông.

Trinh Nguyên năm thứ ba, chia Chiết Giang Đông Tây đạo thành Tam Chiết. Chiết Tây cai quản Nhuận châu, Chiết Đông cai quản Việt châu, Tuyên Hấp Trì cai quản Tuyên châu. Mỗi nơi đặt quán sát sứ để nắm giữ mọi việc.

- Trinh Nguyên năm thứ tư, Đế hạ chiếu nghinh xương ngón tay của Phật ở chùa Vô Ưu Vương, Kỳ châu vào cung cúng dường.

* Thiền sư Mã Tổ ở Giang Tây: Sư pháp danh Đạo Nhất, người huyện Thập Phương, Hán châu, họ Mã, nên gọi Sư là Mã Tổ. Sư xuất gia ở chùa La-hán trong ấp, theo Đường Hòa thượng ở Tư Châu thế phát, theo Luật sư Viên ở Du Châu thọ Cụ túc giới. Trong năm Khai Nguyên đời Huyền Tông, sư tu thiền trong Nam Nhạc, gặp Hòa thượng Hoài Nhượng khai thị và truyền tâm ấn. Từ ngọn Phật Tích ở Kiến Dương Sư dời về Lâm Xuyên, sau đó qua trụ ở núi Cung Công thuộc Nam Khang. Đại Tông năm Đại Lịch năm thứ tư, Sư ngụ cư tại chùa Khai nguyên, Chung Lăng. Lúc này Liên súy lộ Tự Cung nghe danh mến mộ, đích thân đến thọ học tông chỉ. Từ đó người học bốn phương đều quy tụ dưới tòa. Hồng châu Liêm Sứ hỏi Sư:

- Ăn thịt uống rượu là đúng hay không ăn là đúng? Sư đáp:

Nếu ăn thì nhờ hưởng lộc, không ăn thì ắt được phước. Liêm Sứ liền tỉnh ngộ. Đệ tử đắc pháp có một trăm ba mươi chín người, ai nấy đều làm Tông chủ một phương, giáo hóa không cùng. Lúc này, năm Trinh Nguyên năm thứ tư, tháng giêng, kinh hành trong rừng, thấy hang động bằng phẳng, Sư bảo thị giả: "Xác thân của ta, trong tháng sau sẽ về chỗ này". Nói xong Sư quay về. Sau đó Sư có chút bệnh, viện chủ Văn Hòa thượng đến hỏi Sư:

- Gần đây tôn hầu thấy thế nào? Sư đáp:

Ngày gặp Phật, đêm gặp Phật!

Mồng một tháng hai, Sư tắm rửa, kiết già quy tịch. Hiến Tông năm Nguyên Hòa năm thứ tám, Đế ban Sư hiệu Đại Tịch Thiền Sư, tháp hiệu Đại Trang Nghiêm.

* Thạch Đầu: Canh Ngọ, Trinh Nguyên năm thứ sáu, Hòa thượng Nam Nhạc Thạch Đầu quy tịch. Sư họ Trần, húy Hy Thiên, người Cao Yếu, Thụy châu, vốn có chí cao, thông minh. Trưởng thành, Sư đến Tào Khê đắc pháp nhưng chưa thọ giới thì Tổ viên tịch. Tổ dặn Sư hãy đến tham học với Thiền sư Hành Tư ở núi Thanh Nguyên. Đầu năm Thiên Bảo đời Huyền Tông, sư đến ngôi chùa phía nam Hoành sơn. Phía đông chùa này có khối đá, hình dạng như cái đài, Sư bèn cất am ở trên ấy, nên đương thời người ta gọi Sư là Hòa thượng Thạch Đầu. Sư trứ tác Thảo Am Ca Tham Đồng Khế thịnh hành ở đời. Năm này, Sư viên tịch, tháp ở Đông Linh, đế ban thụy Vô Tế Đại Sư, tháp hiệu Kiến Tướng. Sư nối pháp của Thanh Nguyên Hành Tư, Hành Tư nối pháp của Lục Tổ.

* Thiền Sư Quốc Nhất: Nhâm Thân, tháng mười hai năm Trinh Nguyên năm thứ tám, Thiền sư Quốc Nhất thị tịch. Sư họ Chu, húy Đạo Khâm, người Côn Sơn, Tô châu, vốn theo đạo Nho. Năm hai mươi tám tuổi, Sư gặp Thiền sư Tố ở Hạc lâm, Nhuận Châu khuyên thế phát xuất gia. Tố dặn Sư hãy đi và nói: "Ông cứ xuôi dòng mà đi, gặp đất Kính thì dừng". Sư về Nam, Huyền Tông năm Thiên Bảo năm thứ ba, Sư đến một ngọn núi Đông Bắc Lâm An, người tiều phu cho biết đây là Kính sơn, thế là Sư dừng chân ở đây. Trong núi có đầm rồng. Con rồng này đầu hóa thành người dâng đất cho Sư, từ đó thành Già-lam (nay là Kính Sơn

Thiền tự thuộc huyện Dư Hàng, lộ Hàng châu, Chiết Tây đạo, là ngôi chùa Thiền tông lớn nhất).

Tăng hỏi:

-Thế nào là đạo? Sư đáp:

Trên núi có cá chép, dưới giếng có cỏ bồng!

Thôi Triệu Công hỏi:

Nay đệ tử muốn xuất gia được không? Sư đáp: Xuất gia là việc của đại trượng phu, đâu phải việc mà khanh tướng làm được!

Triệu Công tỉnh ngộ. Đại Tông năm Đại Lịch năm thứ ba, Đế triệu Sư vào cung lễ lạy. Đế nói với Quốc sư Tuệ Trung: "Trẫm muốn ban cho thầy Khâm cái tên". Quốc sư vui vẻ phụng chiếu, Đế ban Sư hiệu Quốc Nhất Thiền sư. Sau, Sư từ biệt trở về Kính sơn. Tháng mười hai năm này Sư nói pháp và thị tịch. Đế ban Sư thụy Đại Giác Thiền Sư. Sư nối pháp của Thiền sư Tố ở Hạc Lâm, Tố nối pháp của Thiền sư Uy ở Ngưu Đầu, Kiến Khang, Uy nối pháp của Thiền sư Trì ở Ngưu Đầu, Trì nối pháp của Sư Phương ở Ngưu Đầu, Phương nối pháp của Sư Nghiễm ở Ngưu Đầu, Nghiễm nối pháp của Thiền Sư Dung ở Ngưu Đầu. Pháp Dung nối pháp của Tứ Tổ, và là dòng phụ.

-Quý Dậu: Trinh Nguyên năm thứ chín, tháng giêng, Giám Thiết Sứ Trương Bàng xin thâu thuế trà. Các huyện sản xuất trà của chín châu, trà trên núi đều phải đóng thuế với giá một phần mười. Thuế trà có từ đó.

Vợ Mao Hãn ở Thọ châu sinh đứa con tên Mao Trái vào năm Hưng Nguyên năm đầu. Đứa bé mình người, đầu heo, tai voi, chân lừa, tai cá. Lớn lên, hàng ngày cứ lấy roi sắt tự quất thân mình, cầm chổi quét đất chùa, nói với người khác: "Do ngày trước ăn cắp tiền vàng của thường trụ nên nay quét đất để trả nợ". Sau, ở chùa Vân môn, Việt châu có người vinh Trái rằng:

Đồng xu thường trụ chớ lấy xài
Ngày sinh gấp vạn khó trả xong
Chân lừa, đầu lợn ngay trước mắt
Đất Phật đời này quét chưa xong.

Lúc này, vào năm Canh Dậu, Mao Trái chết.

* Thích Hạo Nhiên: Ngài tên là Trú, tự là Nhất Tác, người Hồ châu, rất có tài, được Lỗ Công Nha Chân Khanh, Vu Địch, Ngô Quý Đức kính trọng. Hễ Lục Vũ (người soạn ra Trà kinh) đến thì ngài cùng Vũ đàm đạo cả ngày. Sĩ đại phu mến phục khí tiết thanh cao của ngài, nhưng ngài thường thẹn vì văn chương nổi tiếng ở đời. Ngài từng than: "Dù có học thức quản bác như Trọng Ni, hay đa văn như Tể Thần, trọn ngày trước mắt xót đạo xa xỉ nghĩa, cất bước liền loạn tánh mình, đâu bằng cây tùng trên núi hưởng mây, trăng; thiền khách gặp nhau, chẳng nói nhưng đạo hợp, tĩnh lặng thì tánh đồng, ta phải vào Trữ sơn thôi!

Thế rồi, ngài gom hết thơ văn mình làm ra đốt sạch. Sau, trung thừa Lý Hồng đến Hồ châu, ghé lại Trữ Sơn xin thơ văn của ngài. Ngài nói: "Bần đạo xếp bút nghiêng hơn hai mươi năm rồi, một bài cũng chẳng có. Ngầm tìm thì lụy trong vật, vọng khởi ngã nhân, nay vất đi lâu rồi!" Hồng sưu tầm trong nhân gian, chỉ được mười quyển. Ngài mất, tướng quốc Vu Định viết bài tựa trong áng thơ văn này và dâng vua. Đức Tông hạ chiếu cất giữ ở Bí các. Về sau được người đời khen tặng "Trú của đất Tráp hay thanh thản".

Hoạn quan chuyên quyền việc quân việc nước bắt đầu từ Đậu Văn Trường. Đầu tiên, Văn Trường ghét tả thần sách đại tướng quân Bá Lương Khí.

Tháng mười hai, năm Trinh Nguyên năm thứ tám, Đế cho Lương Khí làm hữu lệnh quân, nhân đó hoạn quan đắc chí. Đến lúc này, là tháng năm, năm Trinh Nguyên năm thứ mười một, Hà Đông Tiết độ sứ Lý Tự Lương mất, giám quân Vương Định Viễn tâu cho hành quân Tư mã Lý Thuyết làm lưu hậu. Thuyết là người có đức, Định Viễn nhân đó xin đúc ấn giám quân. Giám quân có ấn khởi nguyên từ Định Viễn.

* Luật sư Linh Triệt: Ngài tự là Nguyên Trừng, ngụ cư ở chùa Vân môn, Việt châu, công khanh đương thời đều mến mộ tài năng của ngài, Lưu Trường Khanh, Nghiêm Duy, Hoàng Phủ

Tằng đều đến kết thân. Thơ văn của ngài nổi tiếng ngang hàng với Hạo Nhiên. Ngài soạn Luật Tông Hành Nguyên hai mươi mốt quyển. Ngài vân du ở Kinh đô rất sớm, nên danh tiếng vang dội khắp nơi, về già ngài ở mãi Việt châu. Tướng quốc Quyền Đức Dư làm bài tựa tiễn ngài, trong đó có câu: "Xem hình dung, xét ngôn từ thì biết được tâm ngài, chẳng đợi cảnh yên mới tĩnh lặng". Hiến Tông năm Nguyên Hòa năm thứ mười một, ngài quy tịch, có Văn Tập hai mươi quyển, do Thượng thư Lưu Vũ Tích viết lời tựa. Về sau, người ta gọi ngài là "người làm tan băng tuyết của đất Việt".

-Bính Tý: Trinh Nguyên năm thứ mười hai, tháng tư, nhân ngày sinh nhật mình, Đế cho Samôn, Đạo sĩ giảng luận ở điện Lân đức. Lúc này, Đế mới cho Nho sĩ tham gia. Đế rất hài lòng, ban ca-sa tía cho Pháp sư Thụy Phủ, thỉnh vào cung dạy dỗ Hoàng Thái tử.

* Tăng Tiêu: Sa-môn Tăng Tiêu tuy nhỏ nhưng thần thái thanh cao, hiểu biết xuất chúng. Túc Tông, Càn Nguyên năm đầu, ngài thi và thông suốt nghĩa kinh mà được tuyển làm Tăng. Sau, ngài học Tỳ-ni, đức hạnh cao vời. Lúc này, Trinh Nguyên năm thứ mười bốn, ngài dựng am trên Tây Lĩnh ở Hàng châu. Đại Nhã thường vân du với ngài. Lý Kiết Phủ, Vi Cao, Mạnh Giản là những người thâm giao cư sĩ. Người đất Ngô nói: "Tiêu của đất Hàng làm tan vân tiêu, Triệt của đất Việt làm tan băng tuyết, Trú của đất Tráp hay thanh thản". Lục Vũ ở Cánh Lăng gặp ngài và nói: "Trời, trăng, mây, ráng ta biết đó là thiên tiêu, núi sông cây cỏ ta biết đó là địa tiêu, đưa tài năng về cái đẹp ta biết đó là đức tiêu, sống nhàn vắng lặng, được cái chẳng phải danh, thật là ở ông chăng!" Người đất Hàng tôn trọng ngài, không gọi đích danh mà gọi là Hòa Thượng Tây Lĩnh.

+ Tháp Ký: Kỹ Mão, Trinh Nguyên năm thứ mười lăm, tháng tư, Dữu Thừa Tuyên soạn bài minh trên tháp Vô Cấu Tịnh Quang ở Phước Châu. Trong ấy ghi: "Quán sát sứ liễu công, giám quân sứ Ngư Công đều cho rằng: Báo ân vua không cần gì lớn hơn chuộng phước, chuộng phước không gì lớn hơn làm lành, làm lành không đâu lớn hơn Phật giáo. Gốc của giáo vốn ở nơi tháp. Phàm tháp, trên thẳng tới các trời, dưới trấn giữ ba cõi; bóng nó phủ che như trời trăng soi, phá tối thành sáng; Linh của nó kêu như đá vàng tấu lên, nghe tiếng liền sinh thiện. Như vậy các phước đều quy về nhân vương. Bàn bạc xong xuôi, ai nấy nhìn nhau hoan hỉ. Người ăn lộc vua liền thích bố thí, kẻ gánh sức vua thì vui vẻ hiến công, lao nhọc nhưng không than khổ, công việc hoàn thành, Hoàng Đế hân hoan, ngự trát đề tên, ban tên tháp là Trinh Nguyên Vô Cấu Tịnh Quang.

+ Bảo Lâm Truyện: Năm Trinh Nguyên năm thứ mười bảy, Sa-môn Tuệ Cự ở Kiến Khang, Tam tạng Thắng Trì người Thiên Trúc cùng biên soạn sắp xếp những sấm ký truyền pháp của chư Tổ và cơ duyên của các Tông sư thành Bảo Lâm Truyện.

- Quý Mùi: Trinh Nguyên năm thứ mười chín, Đại sư Ngưng Công ở chùa Thánh Thiện, Đông Đô thị tịch. Hàn lâm Bạch Lạc Thiên làm bài kệ Bát Tiệm đến viếng. Bài tựa ghi: "Bạch Cư Dị từng cầu tâm yếu nơi thầy, thầy ban giáo pháp Quán giác định tuệ, minh thông tế xả" từ đó vào nơi tai, thông qua tâm mà được. Hôm nay thầy mất, đệ tử lấy tám chữ ấy làm bài kệ thành kính chia buồn.

- Giáp Thân: Trinh Nguyên năm thứ hai mươi, tháng chín, Thái tử Tụng bị bệnh phong nói không được. Trinh Nguyên năm năm thứ hai mươi mốt, mồng một tháng giêng, Vương tôn thân thích đều vào chúc Tết, chỉ có Thái tử vì bị bệnh nên không đến được, Đế khóc than sầu thảm từ đó sinh bệnh, mỗi ngày một nặng. Trong hơn hai mươi ngày, trong ngoài không thông tin tức, chẳng biết hai cung có an ổn không.

- Quý Mùi: Đế mất, Giáp Ngọ tuyên di chiếu Thái tử lên ngôi ở điện Thái cực.

* Thuận Tông: Tên Tụng, con trưởng của Đức Tông. Do tắt tiếng nên ông không thể giải quyết mọi việc, ở trong thâm cung buông màn rèm kín, chỉ có hoạn quan Lý Trung Ngôn, Chiêu Dung, Ngưu Thị hầu hạ. Các quan tâu việc gì thì từ trong rèm ông chuẩn tấu. Ông ở ngôi một năm, thọ bốn mươi sáu tuổi.

-Ất Dậu: Vĩnh Trinh năm đầu tháng tám, đế hạ chiếu cho Thái tử lên ngôi Hoàng Đế, mình làm thái Thượng hoàng, dời về ở cung Hưng khánh. Năm Ất Tỵ, Hiến Tông lên ngôi ở điện Tuyên Chính. Niên hiệu Vĩnh Trinh một năm.

Tháng chín, thái úy trung thư lệnh Vi Cao mất. Cao cai quản đất Thục suốt hai mươi mốt năm, được phong Nam Khang Trung Vũ Vương. Dân

Tứ Xuyên tế tự ông làm Thổ thần, nghi lễ chú trọng đến nghi thức nhà Phật. Tượng Phật bằng đá trên Tuyên Sơn, Gia châu được đục xong, Cao viết bài ký rằng: "Đầu lớn ngàn thước, mắt rộng hai trượng, tướng tốt còn lại thảy đều tương xứng". Ông từng dạy con anh vũ niệm Phật. Anh vũ chết, ông nói: "Đây là người niệm Phật, chôn cất đúng lễ Sa-môn". Ông trà-tỳ chim, quả nhiên thâu được hai hạt xá-lợi. Ông làm bài ký, đại loại nói: "Nguyên tinh lấy năm khí trao cho muôn loài, dù loài vẩy hay lông, ắt cũng có con cảm được tinh anh thuần tuý. Dạy cầm thú kia, tập nó nói được, tỏ tướng không trong bất niệm, lưu chân cốt trong thân tàn, đó là Nguyên Thánh thị hiện, cảm ứng ở nơi lòng người".

* Hiến Tông: Tên Thuần, con trưởng của Thuận Tông, ban đầu được phong Quảng Lăng Vương. Vĩnh Trinh năm đầu, tháng ba, ông được lập làm hoàng Thái tử. Tháng tám ông nhận chiếu lên ngôi, ở ngôi mười lăm năm, thọ bốn mươi lăm tuổi. Niên hiệu Nguyên Hòa mười lăm năm.

- Bính Tuất: Nguyên Hòa năm đầu, mùa xuân tháng giêng, Thượng hoàng mất. Tháng mười, Đế hạ chiếu thỉnh Tăng có đạo hạnh trong cả nước vào Thượng Đô hoằng dương Phật pháp.

- Đinh Hợi: Nguyên Hòa năm thứ hai, Đế hạ chiếu thỉnh Thiền Sư Đại Nghĩa trên núi Nga Hồ, Tín châu vào điện Lân Đức thiết trai cúng dường, triệu các Đại đức vào cùng luận về nghĩa học, Đế đến dự nghe. Có Pháp sư hỏi:

- Cái gì là Tứ đế? Ngài đáp:

Thánh Thượng là một Đế, còn ba đế nữa ở đâu?

- Dục giới không có Thiền, Thiền ở trong Sắc giới, cõi này dựa vào đâu mà lập?

Ngài đáp:

Pháp sư chỉ biết Dục giới không có Thiền mà không biết Thiền giới không có dục!

- Thế nào là nghĩa của Thiền?

Ngài đưa tay chỉ hư không, Pháp sư không đáp được. Đế nói:

Pháp sư giảng Kinh Luận vô cùng, nhưng chỉ một chút này vẫn chẳng nói được, tại sao vậy!

Ngài quay lại hỏi đại chúng:

- Rốt cuộc lấy cái gì làm đạo?

Có người đáp lấy "cái biết" làm đạo. Ngài nói: Không thể dùng trí để biết, không thể dùng thức để hay, làm sao lấy cái biết làm đạo!

Có người đáp lấy "không phân biệt" làm đạo. Ngài nói: khéo hay phân biệt các pháp tướng, ở trong Đệ nhất nghĩa nhưng không động, làm sao nói lấy "không phân biệt" làm đạo!

Có người đáp lấy Tứ thiền Bát định làm đạo. Ngài nói: Thân Phật vô vi, không rơi trong số lượng, làm sao lấy Tứ thiền Bát định làm đạo được!

Còn có mấy người nữa trả lời, ngài đều nhân đó khai mở cho họ.

Đế hỏi:

Cái gì là nghĩa của Phật tánh? Ngài đáp:

Không lìa điều mà bệ hạ hỏi.

Đế ngầm khế hội. Từ đó Đế càng chú trọng Thiền tông.

Ngài vốn họ Từ, người Tu Giang, Cù châu, nối pháp của Mã Tổ. Tháng giêng năm Nguyên Hòa năm thứ mười ba, ngài quy tịch. Đế ban ngài thụy Tuệ Giác Thiền Sư. Trong Kính sơn cựu Tổ Đồ chép: "Đại Nghĩa Phủ Thiền Sư, họ Ngô".

* Tăng Lục: Tháng hai năm Nguyên Hòa năm thứ hai, Đế hạ chiếu cho Pháp sư Đoan Phủ đảm trách nghi thức pháp sự ở nội điện, chú lục Tăng sự ở Tả hữu Nhai. Tăng Lục khởi nguyên từ Đoan Phủ.

* Thiền sư Đạo Ngộ: ở chùa Thiên Hoàng, Thành Đông, Kinh Nam. Đời Đường, Hiệp Luật Lang Phù Tái soạn văn bia ghi: "Đạo Ngộ họ Trương quê ở Đông Dương, Vụ Châu. Năm mười bốn tuổi, ngài xuất gia, theo đại đức ở Minh châu thế phát, hai mươi lăm tuổi thọ giới ở chùa Trúc lâm, Hàng châu. Ban đầu ngài tham vấn Quốc Nhất ở Kính Sơn, ở lại đây năm. Đại Tông, năm Đại Lịch năm thứ mười một, ngài ẩn cư trên núi Đại mai, Tứ Minh. Trong năm Kiến Trung, đời Đức Tông, ngài yết kiến Giang Tây Mã Tổ. Năm Kiến Trung năm thứ hai ngài tham vấn Thạch Đầu và đại ngộ, ẩn cư núi Tử Lăng, Đương Dương. Lúc này, ngày mười ba tháng tư năm Nguyên Hòa năm thứ hai, do bị đau lưng mà ngài quy tịch, thọ sáu mươi tuổi, tăng lạp ba mươi lăm hạ. Đệ tử nối pháp có ba người là Tuệ Chân, Văn Bí, U Nhàn. Ngày nay ở Thành Đông, Kinh Nam vẫn còn ngõ hẻm Thiên Hoàng.

-Mậu Tý: Nguyên Hòa năm thứ ba, Đế triệu Thiền Sư Hoài Huy vào ở chùa Chương Kính, Kinh Triệu, thường triệu ngài đến điện Lân đức để luận đạo. Ngài quy tịch trong năm này, Đế ban thụy Đại Giác Thiền Sư. Ngài họ Tạ, quê ở Tuyền châu, nối pháp Mã Tổ.

* Thiền sư Đạo Ngộ: ở chùa Thiên Vương, Thành Tây, Kinh Nam. Đời Đường, Chánh nghị đại phu hộ bộ thị lang bình chương sự kinh nam Tiết độ sứ Khâu Huyền Tố soạn văn bia ngài có ghi: "Đạo Ngộ họ Thôi, người Chữ Cung, là hậu duệ của Tử Ngọc. Năm mười lăm tuổi, ngài theo Luật sư Đàm Chứ chùa Trường sa xuất gia, hai mươi ba tuổi đến Tung Sơn thọ giới, ba mươi tuổi tham vấn Thạch Đầu, Thạch Đầu khai thị nhưng ngài không khế cơ, kế đó ngài yết kiến Tuệ Trung Quốc Sư. Năm ba mươi bốn tuổi, ngài và thị giả của Quốc sư là Ứng Chân cùng về nam yết kiến Mã Tổ. Tổ nói: "Biết nhận tâm mình xưa nay là Phật, không rơi trong thứ lớp, chẳng mượn tu trì, thể tự như như, muôn đức viên mãn". Ngay đây, ngài đại ngộ. Tổ dặn ngài: "Ông đi trụ trì chớ rời nơi cũ". Ngài nhận yếu chỉ xong liền quay về Kinh môn. Cách thành không xa, ngài dựng một thảo am và ở đó. Sau, tiết sứ hỏi thăm Tả hữu và tìm ra nơi ở của ngài. Tiết sứ đích thân đến thăm hỏi. Thấy đường sá chật hẹp, xe ngựa qua không được, cỏ cây um tùm chưa từng dọn dẹp, vì vậy tiết sứ nổi giận sai người khiêng ngài ném xuống dòng nước chảy xiết rồi rầm rộ kéo về. Chưa đến nhà, phủ đệ của ông bỗng bốc cháy chẳng ai dám đến gần, lại nghe trong hư không có tiếng nói: "Ta là Thiên Vương thần! Ta là Thiên Vương thần!", tiết sứ quỳ lạy hối lỗi, ngọn lửa liền dập tắt. Ông liền chạy thẳng ra bờ sông thấy ngài bên bờ nước, ông quỳ lạy sám hối thỉnh ngài về nha phủ cúng dường, dựng ngôi chùa ở phía Tây phủ đệ, đặt tên là chùa Thiên vương. Hàng ngày, ngài thường nói: "Sống vui! Sống vui!" Nhưng đến lúc sắp quy tịch, ngài lại than: "Khổ! Khổ! Diêm-la vương đến bắt ta!" Viện chủ thấy vậy hỏi: "Lúc trước Hòa thượng bị Tiết sứ ném xuống sông nhưng thần sắc không đổi, ngày nay sao lại thế này?"

Ngài cầm cái gối và hỏi: "Ông nói xem lúc đó đúng hay bây giờ đúng?"

Viện chủ không đáp được. Ngài ném gối và quy tịch. Lúc ấy nhằm ngày mười ba tháng mười năm Nguyên Hòa năm thứ năm. Ngài thọ tám mươi hai tuổi, tăng lạp sáu mươi ba hạ. Đệ tử nối pháp một người là Sùng Tín.

-Canh Dần: Nguyên Hòa năm thứ năm, tháng ba, Đế cho gián nghị Mạnh Giản thay thế Tiêu Phủ làm giám hộ, nhuận văn cho việc dịch kinh ở chùa Lê Tuyền.

* Bàng Cư Sĩ: Cư sĩ Bàng Uẩn ở Tương châu. Ông tự là Đạo Huyền, người huyện Hoành Dương, Hoành châu, vốn theo nghiệp Nho. Thiếu thời, ông tỏ ngộ sự đời, chí cầu Chân đế. Đời Đức Tông, đầu năm Trinh Nguyên, ông yết kiến Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên, hỏi:

- Ai là người chẳng làm bạn với muôn pháp?

Thạch Đầu giơ tay bịt miệng ông. Ông hoát nhiên tỉnh ngộ. Sau ông kết bạn với Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên. Ngày nọ, Thạch Đầu hỏi:

- Việc hàng ngày, ông làm những gì? Ông đáp: Nếu hỏi việc hàng ngày thì không có chỗ mở miệng.

Và trình bài kệ:

Việc hàng ngày chẳng lạ
Chỉ tôi tự biết hay
Nơi nơi chẳng lấy bỏ
Xứ xứ chẳng trái bày.
Đỏ, tía ai đặt hiệu
Gò núi diệt trần ai
Thần thông và diệu dụng
Gánh nước và chặt cây.

Thạch Đầu hứa khả. Sau đó Thạch Đầu hỏi:

- Ông muốn làm cư sĩ hay xuất gia?

Ông đáp:

Xin cho con được theo sở nguyện. Thế là ông không thế phát.

Sau, ông tham vấn Mã Tổ hỏi:

- Ai là người chẳng làm bạn với muôn pháp? Tổ nói:

Đợi ông uống một hớp hết sạch nước Tây Giang ta sẽ nói cho ông nghe.

Ngay câu nói này, ông đốn ngộ huyền chỉ, đứng vào hàng đồ của

Mã Tổ, lưu lại ở đây tham vấn hai năm. Ông có bài kệ:

Trai chẳng cưới vợ
Gái chẳng gả chồng
Cả nhà nhóm họp lại
Cùng bàn lời Vô sinh.

Ông ứng đáp lanh lợi, khắp nơi đều biết tiếng. Đến lúc này là năm Nguyên Hòa năm thứ sáu, ông vân du về bắc đến Tương Hán, đến đâu thì ở đó. Ông có cô con gái tên Linh Chiếu làm nghề bán giỏ tre độ nhật qua ngày. Đang ngồi, ông hỏi Linh Chiếu:

- Người xưa nói: "Tỏ rõ đầu trăm cỏ, làm sao tỏ rõ ý Tổ sư"? Linh Chiếu đáp:

Già cả mới nói câu đó. Ông hỏi:

Còn con thế nào? Chiếu đáp:

Tỏ rõ đầu trăm cỏ, tỏ rõ ý Tổ Sư!

Ông bèn cười. Có lần ông xuống cầu vác bè lên Linh Chiếu thấy vậy đi qua đi lại bên cạnh ông.

Ông hỏi:

- Con làm gì thế? Chiếu đáp:

Hễ cha té ngã, Linh Chiếu đến đỡ. Lúc sắp quy tịch, ông bảo Linh Chiếu:

Con ra xem mặt trời hễ đúng ngọ vào cho cha hay. Linh Chiếu ra xem và chạy vào báo:

Mặt trời đúng ngọ rồi nhưng có nhật thực.

Ông bước ra xem, Linh Chiếu liền leo lên sàng tòa của cha, chắp tay thị tịch. Ông cười nói: "Con gái ta lanh lẹ thiệt!"

Ông đành dời lại bảy ngày sau. Châu Mục Vu Địch hay tin đến thăm ông. Ông nói với Địch: "Chỉ mong rỗng không những thứ có, cẩn thật chớ cho thứ không là thật, ở mãi thế gian đều như huyễn hóa. Nói xong, ông gối đầu lên gối Vu Địch mà tịch. Trước đó ông dặn hãy hỏa táng mình rải tro ở sông hồ. Bàng bà chạy ra ruộng nói với con trai là Bàng Đại: "Cha mày chết rồi!" Bàng Đại cười đáp: "Dạ!" và chống cày thị tịch. Bàng bà nói: "Mày còn ngu si hơn!" Hỏa táng con trai xong, bà đi khắp xóm làng từ biệt mọi người rồi quy ẩn. Về sau chẳng ai biết Bà đi về đâu. Bàng Uẩn có hơn ba trăm thiên kệ lưu truyền ở đời. Tăng tục đều thương tiếc, bảo Bàng cư sĩ trong Thiền môn chính là Tịnh Danh ở thành Tỳ-da (ngài Duy-ma-cật)

-Nhâm Thìn: Nguyên Hòa năm thứ bảy mùa hạ tháng sáu, có nạn Đại thủy, biểu hiện âm thịnh, Đế cho xuất cung đến ba trăm xe cung nữ.

* Bố thí thức ăn cho chim thú: Nguyên Hòa năm thứ tám, Pháp sư Trí Biện là bậc hiểu ngộ tuyệt luân nhưng rất ít đồ chúng. Bỗng có vị kỳ túc xem tác phẩm do ngài soạn thuật và nói: "Hiểu biết của ông cao xa, rất hợp ý Phật, nay ít đồ chúng là do thiếu nhân duyên, Phật còn không thể độ người vô duyên huống gì là người sơ tâm! Ông nên bày thức ăn bố thí chim thú, hai mươi năm sau ắt sẽ có chúng". Ngài làm đúng như lời dạy nấu cơm rải khắp bên ngoài. Chim kéo đến mổ ăn. Biện cầu khấn: "Loài nào ăn thức ăn này nguyện xin làm pháp lữ". Hai mươi năm sau, Biện đến Nghiệp thành khai hội giảng, thính chúng dưới tòa đến hơn ngàn người đều là Tỳ-kheo trẻ.

* Bắc Sơn Lục: Do Pháp sư Thần Thanh ở Bắc Sơn soạn, lưu hành ở đời. Lúc này Nguyên Hòa năm thứ chín, ngài quy tịch.

* Thiền sư Bá Trượng: Ở Long Hưng lộ, Giang Tây: Sư tên Hoài Hải, họ Vương, người Trường Lạc, Phước châu, từ nhỏ đã xuất gia, tinh thông cả Tam học. Lúc Mã Tổ hoằng hóa ở Giang Tây, ngài dốc tâm theo hầu, cùng Tây Đường Trí Tạng, Nam Tuyền Phổ Nguyện đều được Tổ ấn khả. Lúc này hóa môn của ba đại sĩ làm thành thế chân vạc. Sư thượng đường dạy: "Linh quang chiếu sáng, thoát xa căn trần, thể bày chân thường chẳng kẹt văn tự, tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành, hễ lìa vọng duyên tức như như Phật". Sư lập ra nghi quỹ cho Tùng lâm, lấy tên là thanh quy. Lúc này, ngày mười ba tháng giêng năm Nguyên Hòa năm thứ chín, Sư quy tịch, thọ chín mươi lăm tuổi. Đế ban Sư thụy Đại Trí Thiền Sư, tháp hiệu Đại Bảo Thắng Luân. Sư nối pháp của Mã Tổ.

* Thanh Quy: Do Thiền sư Đại Trí núi Bá Trượng lập ra, giống như giới luật của Phật, động tĩnh thi thiết, tới lui cúi ngước, chớ để phạm phải. Tòng lâm đều tuân hành theo. Lại có Tiểu thanh quy dùng cho hàng ngày, do Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ lập ra.

+ Nguyên Hòa năm thứ chín, tháng giêng, Liễu Tử Hậu soạn văn bia cho Luật sư Đại Minh ở Nam Nhạc. Trong ấy đại khái ghi: "Nho lấy lễ lập nhân nghĩa, không có lễ thì bại hoại, Phật lấy Luật giữ định tuệ, bỏ luật tất mai một. Bởi vậy người nhân nghĩa mà xa lễ thì không thể luận đạo Nho, người có định tuệ mà làm khác luật thì không thể bàn đến Phật. Người đạt đạo này chỉ có sư Đại Minh. Phàm đạo Phật suy vi, thì đồ chúng xem nhẹ luật mà bỏ kinh, Đại Minh rất lo sợ, vì vậy cứu xét giới luật thì lập nên đại pháp, tính thông kinh giáo thì tấn tu diệu nghĩa. Phàm y phục vật dụng đều làm phép tắc cho người, đi đứng nói năng đều làm gương mẫu cho vật" (Nguyên văn được ghi trong Liễu Tập)

* Thiền sư Điểu Khòa: Sư họ Phan, húy Đạo Lâm, người Phú Dương, Hàng châu. Mẹ họ Chu, lúc sinh Sư, ánh sáng mùi thơm tỏa đầy nhà, nhân đó bà đặt tên Sư là Hương Quang. Năm chín tuổi,

Sư xuất gia, hai mươi mốt tuổi thọ giới tại chùa Quả Nguyện. Sau đó Sư đến chùa Tây Minh ở Trường An học kinh Hoa Nghiêm, luận Khởi Tín với Pháp sư Phục Lễ. Lễ lấy bài tụng Chân Vọng khai thị và dạy Sư tu thiền. Sư hỏi: Đầu tiên cái gì gọi là quán, phải dụng tâm thế nào?

Lễ im lặng giây lâu, Sư lạy ba lạy lui ra. Lúc này Đại Tông hạ chiếu thỉnh Thiền sư Kính Sơn Đạo Khâm vào cung. Sư đến yết kiến Đạo Khâm và khế ngộ tâm yếu. Kế đó, Sư về Nam ngụ cư ở chùa Vĩnh Phước, Cô Sơn, Tiền Đường. Chùa này có Bích-chi-phật, đạo tục cùng đến lập pháp hội, Sư chấn tích quang lâm. Thiền sư Thao Quang ở chùa Linh Ẩn hỏi Sư:

- Pháp hội này vì sao lại gây tiếng? Sư đáp:

Không có tiếng, ai biết mà hiểu!

Sau, thấy núi Tần Vọng phía Bắc Tây Hồ có cây tùng lớn, cành lá xum xuê tỏa rộng rủ xuống như tán che. Sư bèn leo lên đó cư ngụ. Nên người đương thời gọi Sư là Thiền Sư Điểu Khòa (tổ chim). Bên cạnh Sư có tổ chim Thước, nên người ta lại gọi Sư là Hòa Thượng Thước Sào. Lúc này trong năm Nguyên Hòa, thị lang Bạch Cư Dị do trung thư lệnh xá nhân cử đi phủ dụ Hàng châu, Thị lang nghe đạo hạnh của Sư, nhân thấy Sư ngụ cư trên Tổ mới nói:

- Chỗ Sư ở thật nguy hiểm! Sư đáp:

Chỗ Thái thú còn nguy hiểm hơn tôi nhiều!

- Ngôi vụ của đệ tử trấn giữ núi sông, có gì nguy hiểm!

- Lửa củi gặp nhau, thức tánh chẳng dừng mà chẳng nguy hiểm sao!

- Đại ý Phật pháp ra sao?

- Chớ làm điều ác, siêng làm điều thiện!

- Trẻ con ba tuổi cũng hiểu thì nói làm gì!

- Tuy trẻ con ba tuổi nói được nhưng ông già tám mươi tuổi chưa chắc làm được!

Thị lang khâm phục, nhiều lần theo hỏi đạo, nhân đó ông dựng am tre ở Hồ Thượng gần nơi Sư ở để tiện sớm tối tham học. Am trúc ấy chính là chùa Quảng Hóa ngày nay, di tượng của Thị lang vẫn còn trong đó. Đời Mục Tông, năm Trường Khánh năm thứ tư, ngày mười tháng hai, Sư nói với thị giả: "Nay báo thân ta đã hết". Nói xong Sư kiết già thị tịch. Đế ban Sư thụy Viên Tu Thiền Sư. Sư nối pháp của Thiền sư Quốc Nhất Đạo Khâm, vốn là dòng phụ của Tứ tổ.

* Thị giả Bố Mao: Ngài họ Ngô, tục danh Nguyên Khanh, pháp danh Hội Thông làm quan giữ chức cung phụng. Năm Nguyên Hòa thứ mười, ngày nọ ngài tâu với Đế: "Thần từ nhỏ không ăn mặn, chí muốn theo Thích Tiếp Tuần, mong bệ hạ cho thần xuất gia". Sau, mẹ ngài bị bệnh, ngài về quê ở Hàng châu, yết kiến Thiền sư Điểu Khòa ở Hồ Thượng cầu xin thế phát xuất gia. Điểu Khòa nói:

-Tăng thời nay ít có người tinh tấn cần khổ, tu hành phần nhiều lơ là lạm dụng.

Ngài đáp:

Vốn tịnh chẳng phải mài giũa, vốn sáng chẳng nhờ vật khác chiếu.

Điểu Khòa nói:

Nếu ông liễu ngộ tịnh trí viên diệu, thể tự không tịch, tức là người xuất gia chân chánh.

Ngài thành tâm cầu thỉnh, Điểu Khòa cho xuống tóc thọ giới, đặt pháp danh là Hội Thông. Ngài hầu hạ Điểu Khòa nhiều năm, ngày nọ chợt từ biệt Điểu Khòa nói:

Con đến các nơi khác học Phật pháp! Khòa nói:

Ở đây cũng có một chút Phật pháp. Ngài thưa:

Xin Hòa thượng dạy cho!

Điểu Khòa rút khăn lông trên người đưa lên thổi. Ngài đốn ngộ huyền chỉ, nên không đi nữa, nhân đó có hiệu Bố Mao thị giả. Ngài dựng Giàlam ở phía Đông chùa Hỷ Thước, gò Tây của Cát

Lĩnh, đó là chùa Chiêu Hiền.

- Bính Thân: Nguyên Hòa năm thứ mười một, Thiền Sư Trí Thường ở chùa Quy tông, Giang châu, mắt có hai đồng tử, bôi thuốc trên tay áp vào xoa một lúc thì hai mắt đều đỏ, nhân đó người ta gọi ngài là Xích Nhãn Quy Tông. Giang châu Thứ sử Lý Bột hỏi ngài:

- Hạt cải thâu nạp Tu-di chẳng phải là nói dối đó chăng!

Ngài đáp:

Người ta đồn sứ quân đọc cả vạn quyển sách đúng không!

Bột đáp:

Đúng vậy! Ngài nói:

Sứ quân từ đầu đến chân lớn cỡ cây dừa, vạn quyển sách để đâu cho hết.

Bột cúi đầu tỉnh ngộ. Ngài mất, người nối pháp rất nhiều.

Ngài nối pháp của Mã tổ.

* Vợ chàng họ Mã là Quán Thế Âm: Nguyên Hòa năm thứ mười hai, Bồ-tát dùng sức đại Từ bi muốn giáo hóa dân ở Thiểm hữu mới thị hiện làm một cô gái xinh đẹp, đi đến nơi ấy. Trông thấy dung nhan giọng nói của cô, ai cũng muốn cưới làm vợ. Cô gái nói: "Tôi cũng muốn có chỗ nương tựa, chỉ một đêm nếu người nào đọc thuộc phẩm Phổ Môn thì tôi xin theo hầu hạ!

Hôm sau, có đến hai mươi người đọc thuộc kinh. Cô gái nói:

-Một người con gái đâu thể lấy nhiều người. Bây giờ ai đọc thuộc kinh Kim Cang, tôi sẽ lấy làm chồng.

Hôm sau có đến mười người đọc thuộc. Cô gái cũng không bằng lòng, xin thi thêm lần nữa. Cô đưa họ kinh Pháp Hoa bảy quyển, hẹn ba ngày sau, nếu ai đọc thuộc thì cô lấy làm chồng.

Đúng kỳ hẹn, chỉ có một người họ Mã đọc thuộc kinh. Cô gái bảo chàng ta đi sắm đủ lễ nghi để thành hôn. Chàng họ Mã rước cô dâu về. Cô gái nói: "Nay thiếp trong người không khỏe đợi chút xíu khỏe hẳn sẽ đến gặp chàng". Khách chưa về hết thì cô gái chết, thân thể liền tan hoại, chàng họ Mã đem an táng ngay. Mấy ngày sau, có vị Tăng chống tích đến gặp họ Mã hỏi nguyên do cô gái ấy. Họ Mã dẫn vị Tăng đến nơi an táng. Vị Tăng cầm xích xới lên thì thấy thân thể đã biến mất, chỉ còn bộ xương như vòng vàng. Vị Tăng lấy cây xích xâu vòng vàng ấy đưa cao, nói với mọi người: "Đây là Thánh nhân, thương xót bọn ông chướng nặng nên bày phương tiện giáo hóa bọn ông. Các ông nên khéo nghĩ đến tác nhân để khỏi đọa trong biển khổ". Nói xong vị Tăng bay lên không đi mất. Từ đó, đất Thiểm hữu có rất nhiều người phụng Phật.

Hòa thượng Xán ở Tuyền châu làm bài tán rằng:

Dung nhan yểu điệu tóc thướt tha
Lừa gạt Lang quân niệm Pháp Hoa
Một nắm xương tàn sau khi mất
Chẳng hay trăng sáng lặn mấy nhà!

* Quốc sư Thanh Lương: Quốc sư húy Trừng Quán, từng nói đến trong đời Tắc Thiên năm Vạn Tuế Thông Thiên. Khi Thuận Tông còn ở Đông cung, ông nghe pháp hiểu ngộ, hỏi ngài về tâm yếu. Ngài đáp đại loại: "Chí đạo vốn ở nơi tâm mình, tâm pháp vốn ở nơi vô trụ. Tâm thể vô trụ linh diệu, hay biết, không mê. Tánh tướng vắng lặng, bao hàm đức dụng. Mê hiện lượng thì hoặc khổ rối bời, ngộ chân tánh thì rỗng rang thấu tỏ. Tuy tức tâm tức Phật nhưng chứng thì mới biết. Nhưng có chứng có biết tuệ nhật thì lún sâu trong đất có, nếu không chiếu không ngộ thì mây mờ che kín cả cửa không. Nếu một niệm chẳng sinh thì khoảng trước sau dứt, chiếu thể độc lập, ngã vật đều như, đến thẳng nguồn tâm không trí không đắc. Nhưng mê ngộ nương nhau, chân vọng đối đãi, nếu tìm chân bỏ vọng, giống như bỏ bóng theo hình, còn tỏ vọng tức chân thì như ở bóng râm thì bóng mất. Nếu không tâm vong chiếu thì muôn lự đều sạch, nếu mặc tình tịch biết thì muôn hạnh mở ra, phóng khoáng mặc tình đi ở, vắng lặng nhận ra cội nguồn, nói nín chẳng mất huyền vi, động tĩnh chẳng lìa pháp giới. Bàn về Chỉ thì càng quên tri tịch, luận về Quán thì cùng chiếu tịch tri. Nói đến chứng thì không thể chỉ người. Kể đến lý thì không chứng chẳng tỏ. Bởi vậy tỏ ngộ tịch vô tịch, chân tri vô tri, vì tri và tịch là nhất tâm chẳng hai, khế hợp Trung đạo cùng quên có không.

Tháng năm Nguyên Hòa năm thứ tư, Đế lệnh Hữu Ty đúc ấn riêng gia phong Quốc sư Thanh Lương làm Tăng Thống Quốc Sư, điều hành việc giáo môn. Đế hỏi:

-Điều Hoa Nghiêm tuyên bày, cái gì gọi là pháp giới? Ngài đáp:

Pháp giới là bản thể thân tâm chúng sinh. Từ xưa đến nay nó rỗng rang, sáng rộng, chỉ một chân cảnh mà thôi, không có hình tướng nhưng che khắp đại thiên, không có bờ mé nhưng hàm dung vạn hữu, trờ trờ ngay trước tâm, mắt, nhưng không thể nhìn thấy tướng nó, lồ lộ ngay trong sắc trần nhưng không thể phân được lý nó, chẳng phải mắt tuệ thấu pháp, trí sáng lìa niệm thì không thể thấy được tự tâm linh thông như vậy. Thế nên, vừa thành Chánh giác, Thế Tôn đã bất giác thốt lên: "Kỳ lạ thay! Tất cả chúng sinh đều có đủ đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng đắc được". Vì thế, xứng tánh Pháp Hoa mà ngài diễn nói kinh Hoa Nghiêm, toàn đề cặp đến chân không giản dị, tinh tuý, sự lý dung nhiếp, biến khắp ngưng tịch". Đế nghe diệu nghĩa, thân tâm rỗng rang, ngay đó thấu tỏ.

* Hộ quốc chân thân Phật cốt: Kỷ Hợi, Nguyên Hòa năm thứ mười bốn, tháng giêng, Đế sai Trung Sứ Đỗ Anh Kỳ mang hương hoa đến tháp hộ quốc chân thân chùa Pháp Vân ở phủ Phụng Tường để thỉnh xương của Phật Thích-ca vào cung. Đế ngự trên An Phước môn nghinh bái, giữ lại trong cung cúng dường. Ngày năm thứ ba, xá-lợi phóng quang ngũ sắc, trăm quan xứng tán, đưa đi khắp các chùa. Tăng chúng oai nghi tề chỉnh, tấu nhạc của Thái Thường, Vạn Niên, Trường An, cờ xí trống chiêng tưng bừng hiếm thấy. Hình bộ thị lang Hàn Dũ dâng biểu can ngăn, dẫn cổ dụ kim, nói thọ mạng của Đế cũng như vận nước không lâu dài. Đế nổi giận, hạ biểu tấu cho tể phụ mang Dũ ra chém. Bùi Độ, Thôi Quần can khuyên, Đế đày Dũ làm Thứ sử Triều châu. Vừa mới đến quận, Dũ dâng biểu ai tạ khuyên Đế. Dũ lên Thái sơn, lâu ngày không có tin báo nên u sầu không vui. Dũ nghe trong quận có Thiền Sư Đại Điên là người đức cao vọng trọng mới gởi thư mời. Mời đến lần năm thứ ba, Đại Điên mới tới. Đại Điên nói năng lanh lợi, Dũ giữ lại đến mấy mươi ngày. Có khi ngài nhập định mấy ngày mới xuất, Dũ càng kính trọng. Ngài từ biệt đi. Dũ tế thần trên biển rồi lên Linh Sơn đến nơi ngài ở, thưa:

Đệ tử bận việc trong Quân châu, nay muốn xét chỗ trọng yếu, xin Thầy cho một câu.

Ngài chẳng nói chẳng nhìn, Dũ bối rối. Lúc ấy Tam Bình làm thị giả, Bình gõ giường một cái, ngài nói:

"Làm gì?"

Bình thưa: Trước dùng định lay chuyển, sau dùng trí nhổ lên. Dũ bái Tam Bình và nói:

"Môn phong của Hòa thượng cao ngất, Dũ này nhờ thị giả mới có đường vào.

Ngài hỏi Dũ:

"Trông u sầu, như có điều gì không vừa lòng là tại sao vậy? Dũ đáp:

Dũ tôi được trong dụng trong triều hưởng bổng lộc hậu hỷ, một sớm lời ngay không được dùng, bị đày xa tám ngàn dặm, vượt qua biển núi, vợ con chết cả, sương độc khí bệnh ngày đêm phát tác. Nay bị đày đến chỗ không người, mạng sống này há giữ được ư? Trên đường đến đây, tôi ghé miếu Quảng Lăng cầu khấn, may nhờ sức thần được chết cho khỏi lo, đem công trung hưng viết trên tấu chương nói rõ cho Chúa Thượng, sai người về đông lên Thái sơn tấu công với thiên hoàng, nếu toại ý nơi đây, thì ngõ hầu được chúa thượng triệu Dũ này về, thuật làm công đức, tế ở miếu Giao vậy. Dũ ngày đêm trông mong nhưng tin chưa đến, sốt ruột mong đến mau, thì Dũ tôi làm sao vui vẻ được! Ngài nói:

Lời ngay thẳng của ông trong triều là trung với vua không đếm xỉa đến thân mình hay là vì bản thân mình nói càn để chạy theo danh? Lời ấy được dùng thì ông được tiếng là ngay thẳng, hưởng cái lợi từ lời nói, nếu không dùng thì ắt bị đuổi việc, cớ gì phải ôm ấp mãi trong lòng làm gì! Nếu trung mà bị đuổi thì đừng nói có hay hơn không! Tôi nghe, kẻ làm bề tôi không chọn nơi yên mà ở, không lượng thế mà đi, nay ông bị đuổi nên không vui, xu thời mà chạy theo danh, quả không phải là bề tôi trung chánh. Hơn nữa, sống chết họa phước của ông lẽ đâu không treo trên trời? Ông hãy tự bên trong tu sửa, bên ngoài chịu mệnh đi! Ở Quảng Lăng ấy há có thể tạo phước cho ông chăng! Chúa thượng vì gian tà tranh nước nên thảo phạt không rảnh tay, chỉ có thể dẹp yên nhưng ung nhọt chưa hết hẳn. Ngay lúc này đây, ông lại muốn phong thiền cáo công để sách loạn thiên hạ, nhưng chủ ý là do mình muốn về triều, ông nhẫn tâm làm được ư! Còn nữa, do cùng quẫn, bấn loạn rồi cầu khấn quỷ thần, đó là ông không biết mệnh. Náo động thiên hạ nhưng chẳng đếm xỉa, cốt có lợi cho mình mà thôi là ông không biết nhân. Nói càng để chứng tỏ mình trung, gặp khốn đốn thì uất ức là ông không biết nghĩa. Lấy loạn làm trị để cáo với Thiên hoàng là ông không biết lễ, ấy vậy mà ông vẫn làm.

Ông bị đày là do nói gì vậy?

Dũ đáp:

Chúa thượng rước xương Phật vào đại nội, tôi cho Phật là phép tắc của Di Địch, thời Tam đại không có Phật nhưng vận nước lâu bền, Tấn Tống Lương Ngụy thờ Phật nhưng không chết yểu thì cũng loạn. Dũ sợ chúa thượng bị mê hoặc cho nên không nghĩ đến bản thân ra sức bài xích.

Ngài nói:

Nếu vậy thì ông nói sai rồi. Phật là Đại thánh che khắp trời người, đạo Phật thấu tỏ vạn vật mà lập ngôn, lời Phật thì thấu cùng lý tánh, giáo pháp thì bỏ ác hướng thiện, bỏ ngụy về chân. Phật đối với thiên hạ như cha đối với con, nhưng ông phỉ báng thì chẳng khác nào con lại đi giết cha. Tôi nghe, người khéo quan sát người khác là xem đạo của họ tồn tại thế nào, chứ không so sánh nơi họ ở. Vua như Kiệt, Trụ; bề tôi như Chích, Kiểu đều là người Trung Quốc nhưng đâu thể noi theo vì họ là kẻ vô đạo. Thuấn sinh ở Đông Di, Văn Vương sinh ở Tây Di, Do Dư sinh ở rợ Nhung, Quý Lễ sinh ở rợ Man, hai Thánh hai Hiền ấy há cho họ là Di Địch mà không bắt chước họ chăng! Nay ông chẳng suy xét đạo Phật cứ chê suông là Di Địch, sao lại ăn nói hồ đồ đến thế? Ông cho rằng thời Thượng Cổ chưa có Phật nên không noi theo ư? Vậy thì Khổng, Mạnh sinh trong thời suy Chu, nhưng Xi Vưu, Cổ Tẩu sinh ở thời Thượng Cổ, lẽ đâu ông bỏ Thánh hiền của suy Chu mà bắt chước kẻ hung tàn của Thượng Cổ? Ông cho rằng thời Ngũ Đế Tam vương chưa có Phật nhưng sống lâu, vậy Ngoại Bính ở ngôi hai năm, Trọng Nhâm bốn năm, không phải chết yểu đó sao? Thư Vô Dật nói: "Từ đó về sau cũng không ai sống lâu, có người mười năm, người hai mươi năm". Ông cho rằng thời Tần Hán, nhân chủ chết yểu và loạn thì Hán Minh đế là anh chủ một thời, Lương Vũ đế thọ đến tám mươi sáu tuổi há cũng chết yểu là loạn đó sao! Dũ nói:

Tôi cho rằng người theo Phật không hề nói đến phép tắc của tiên vương, lại rêu rao bừa thuyết luân hồi sinh tử, thân chẳng làm được chút nhân nghĩa trung tín, nhưng dối lập ngọn nguồn báo ứng họa phước, không có cái nghĩa vua tôi, chẳng có tình thân phụ tử, làm bại hoại đạo của tiên vương, Dũ này há im lặng mà không chỉ trích được sao!

Ngài nói:

Quá lắm rồi! Ông chẳng thấu đạt gì cả! Có người ở đây cả ngày đếm đến mười, nhưng không biết hai nhân năm là mấy, người ấy tất bị cho là kẻ điên. Ông trọn ngày nói đến nhân nghĩa trung tín, nhưng chẳng biết Phật nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thật ra chẳng khác. Vả lại, có phải ông đọc thuộc sách Phật rồi nghi là lời Phật lập dị với tiên vương phải không?

Dũ đáp:

Dũ tôi đâu rãnh để đọc sách Phật! Ngài nói:

Ông chưa từng đọc sách Phật, thì làm sao biết được Phật không nói đến phép tắc của tiên vương?

E rằng ông chưa từng đọc sách của Khổng Tử lại liền nghi ngờ đạo Khổng sai, hay là ông nghe người ta nói sai thì ông liền cho nó sai. Nếu ông chưa từng đọc sách của Khổng Tử nhưng lại nghi đạo Khổng sai thì đó là "Chó của vua Thuấn" nếu ông nghe người ta nói sai thì ông liền cho nó sai, đó là "đàn bà", xưa vua Thuấn nuôi con chó, con chó biết chỉ có ông Thuấn. Ngày nọ vua Nghiêu đi ngang, con chó liền nhảy ra cắn. Không phải nó mến ông Thuấn ghét ông Nghiêu, mà do người nó thường gặp là Thuấn chứ chưa từng gặp ông Nghiêu bao giờ. Tôi lại nghe, con gái về nhà chồng, mẹ tiễn đi. Hễ về bên chồng rồi thì cô dâu nọ ắt phải kính, phải vâng lời, không được trái ý chồng. Thế nhưng người theo người khác, đó là việc đàn bà. Ông đâu thể chạy theo cái sai của người khác mà chẳng khảo xét nguyên do, liền cho là nó sai ư! Phàm luân hồi sinh tử không phải vọng lập, đó là chí số của trời đất, là lý mầu của u minh. Theo lý muôn vật mà xét thì, gốc rễ cỏ cây chặt đi thì sống lại, tính nó khôi phục lại, có gì lạ đâu! Khổng Tử nói: "Có khởi đầu ắt có kết thúc" nên biết đó là thuyết sống chết. Trang Tử nói: "Vạn vật ra khỏi chân tính rồi vào lại chân tính". Giả Nghị nói: "Hóa làm loài khác có gì phải lo". Đó đều là thuyết luân hồi, chẳng đợi Phật nói mới rõ, thì ông đâu thể cho nó là vọng tạo. Còn nữa, ông cho họa phước báo ứng là dối lập thì càng thấy rõ ông quá sai lầm rồi. Phàm quả báo thiện ác đều là sự tương ứng tự nhiên của chân lý. Kinh Dịch nói: "Tích thiện thì an vui mãi, tích ác thì tai ương hoài". Lại nói: "Quỷ thần hại nhiều nhưng phước ít". Tăng tử nói: "Cẩn thận! Cẩn thận! cho đi thứ gì thì nhận về thứ nấy!" Đó đều là thuyết báo ứng cả. Chỉ có Phật là người hay thương xót đến họa phước của con người, nên nêu bày tỏ rõ, rằng đó là lý ắt phải đến, khiến con người không tự vùi mình trong ấy, lẽ đâu là vọng tạo? Ông lại cho rằng Phật không có cái nghĩa vua tôi, không có tình cha con, nhưng đó vốn là điều ông không thể với tới được. Sự vốn có trong cõi này, có cái vượt ngoài cõi này. Nếu trong cõi này thì mọi người đều tuân thủ nó, còn như ngoài cõi này thì chẳng phải bậc Thần thánh trong thiên hạ ắt không ai hiểu tới được. Cho nên, những lời dạy của Thánh nhân, có điều nói để mọi người tuân thủ, có cái vì Thần thánh trong thiên hạ mà nói. Mỗi bên nhận lãnh khác nhau. Đạo mà Khổng Tử nói đến là khuôn phép chí cực, vô tư vô vi, vắng lặng chẳng động, cảm thì liền thông. Đó không phải là điều mà mọi người cùng nhận hiểu. Mọi người mà vô tư vô vi thì lý trong thiên hạ này đã dứt mất rồi. Phật nói cho kẻ bề tôi ắt dựa vào lòng trung, nói cho phận làm con ắt dựa trên tâm hiếu, đó là điều nói cho mọi người cùng tuân thủ. Có những lời Phật nói nhắm đến cái vô tâm nhưng chẳng phải chỉ có vô tâm, nhắm đến cái vô ngã, nhưng chẳng phải chỉ có vô ngã mà còn nhắm đến cái vô sinh. Như vậy, trình tự của âm dương không thể loạn, số mệnh của trời đất chẳng đổi dời, nên đương nhiên là có vua tôi cha con trong ấy. Điều đó những kẻ thấy ít nghe cạn nói được ư! Nay ta nói cho ông biết, lý của Phật bao trùm muôn phương vì nó không có bản chất, đã nhiệm mầu lại càng nhiệm mầu, giống như trời có con người bên dưới. Trọn ngày khen trời nhưng trời chẳng đầy thêm, trọn ngày chê trời nhưng trời chẳng vơi đi. Như vậy khen và chê đều là lỗi cả. Từ nhà Hán đến nay trải qua lâu ngần ấy năm, sự vật trong thiên hạ thay đổi nhiều cũng ngần ấy, vua tôi sĩ dân cũng đông ngần ấy, trời đất thần minh cũng đâu có lừa dối, thuyết nhà Phật thịnh hành trong ấy, kẻ không dám bàn luận lại gạt phắt đi, ắt là dám che trời đất đi mà không biết hổ, che trăm Thánh mà chẳng biết thẹn. Diệu lý tồn tại trong đó rồi sau mới đến nơi này, ông hãy suy nghĩ cho kỹ đi! Nay ta nói cho ông biết, hễ học thì phải khảo cứu đến cái sâu xa của đạo. Đạo mà sâu xa thì chí của ta không ai lường được, lúc ấy ắt người khác cho mình là hiền tài. Họ cho mình hiền tài chính là chỗ này, nhưng trái lại ta cho họ sai thì rõ ràng tâm ta có điều gì đó chưa biết hết. Vì vậy tư duy cho sâu điều đúng của họ, cố sức mà tìm thì ngõ hầu sẽ phát hiện ra. Nay ông khư khư vì bản thân mình, tới lui trong thanh sắc lợi dục, có một chút không như ý liền phẫn uất bi lụy, nếu đời nay không chịu đựng thì khác gì lũ ruồi nhặng tranh cặn bã trong đống đồ dơ đâu!

Khi ấy Dũ trố mắt không chớp, hào khí tiêu tan, bàng hoàng như đánh mất thứ gì đó, liền nói với Đại Điên:

-Ngay đây hết lời rồi! Ngài nói:

Ta sở dĩ nói cho ông biết là vì nhắm cái tài năng của ông chứ không phải nhắm vào điều ông đạt đến.

Dũ thưa:

Dũ này mê muội, xin muốn được nghe điều mình sẽ đạt đến! Ngài đáp:

Thành thật với lòng mình, thấu cùng tánh mệnh, tỏ lý vạn vật, thấu được mệnh trời, sau đó ta sẽ nói cho ông nghe. Bây giờ ông đi đi, ta không nói với ông nữa.

Hàn Dũ đứng dậy đi ra.

-Tháng tám, Đế và Tể tướng nói chuyện, thấy Dũ cũng đáng thương nên trao Dũ chức Viên châu Thứ sử. Dũ dựng lại am cho Đại Điên cúng ngài hai cái y, từ biệt rằng:

"Dũ tôi sắp xa thầy rồi, xin được nghe một lời cuối trong lần gặp này!" Đại Điên nói:

Ta nghe, người dễ tin người cũng tất dễ thay đổi, người dễ khen người tất cũng dễ chê họ. Ông nghe ta nói rồi dễ tin như vậy, biết đâu sau này nghe người khác nói lại cho ta sai cũng nên!

Đại Điên không nói nữa. Dũ biết mình không thể nghe thêm được gì, bèn đến Viên châu. Thượng thư Mạnh Giãn biết Dũ có giao du với Đại Điên nên gởi thư chúc mừng vì Dũ đã có lòng tin. Trong thư trả lời Mạnh Giãn, Hàn Dũ có đề cập đến Đại Điên, rằng Đại Điên rất thông minh, tinh thông đạo lý, tài năng vượt ngoài hình hài, vui với đạo lý, chẳng bị sự vật động tâm. Tuy tôi không hiểu hết những gì sâu xa trong lời ông, nhưng lòng mình đã không còn ngưng trệ, nhân đó thường lui tới với ngài.

Thiền sư Đại Điên họ Dương húy Bảo Thông, quê ở Linh sơn, Triều châu. Ngài nối pháp Thiền sư Nam Nhạc Thạch Đầu Hy Thiên. Hy Thiên nối pháp của Thanh Nguyên Hành Tư, Hành Tư nối pháp của Lục tổ Đại Giám. Năm này, Liễu Tử Hậu mất.

-Canh Tý: Nguyên Hòa năm thứ mười lăm, tháng Giêng Đế mất.

Tháng nhuần Hoàng Thái tử lên ngôi ở điện Thái Cực.

* Mục Tông: Húy là Hằng, con năm thứ ba của Hiến Tông. Nguyên Hòa năm thứ bảy, ông được lập làm Hoàng Thái tử, ở ngôi bốn năm, thọ ba mươi tuổi. Niên hiệu Trường Khánh bốn năm.

Tân Sửu: Trường Khánh năm đầu, tháng ba, Lô Long Tiết độ sứ Lưu Tổng coi giữ hơn hai mươi quận ở U, Yên, đã về triều xin làm Tăng, Đế ban y và hiệu Đại Giác Đại sư, đặt phủ đệ nơi ông ở là chùa Báo ân.

- Nhâm Dần: Trường Khánh năm thứ hai, tháng hai, Đế sai Tả nhai Tăng lục Linh Phụ mang chiếu đến Phần Dương thỉnh Thiền sư Vô Nghiệp vào cung. Linh Phụ đến tuyên chiếu xong, lạy nói: "Chúa Thượng lần này đặc biệt ân chỉ, mong thầy đi cho". Sư cười nói: "Bần đạo có đức gì mà phiền lụy đến nhân chủ, ông về trước đi, ta theo sau ngay". Sư tắm rửa, trải tòa, nói với môn nhân là Tuệ Âm: "Tánh thấy nghe hiểu biết của các ông lâu dài bằng thái hư. Tất cả cảnh giới vốn tự rỗng lặng kẻ mê không tỏ liền bị cảnh lừa, một khi bị cảnh lừa thì lưu chuyển không cùng, phải thường thấu tỏ tất cả không, không một pháp đáng lưu luyến. Đó là chỗ dụng tâm của chư Phật". Nói xong, Sư ngồi ngay thẳng, đến nửa đêm thì quy tịch. Linh Phụ về tâu lại mọi việc. Đế kính ngưỡng tán thán rất lâu, ban Sư thụy Đại Đạt Quốc Sư. Sư được Hiến Tông, Mục Tông kính trọng, ba lần hạ chiếu thỉnh nhưng Sư không vào cung. Sư họ Đỗ, người Thương châu, nối pháp của Mã tổ.

- Tháng mười, Đế xa giá đến chùa Thiện Nhân cúng Tăng chúng một trăm vạn tiền. Tháng mười một, hạ chiếu lập Cảnh Vương Trạm làm Hoàng

Thái tử.

- Quý Mão: Trường Khánh năm thứ ba, tháng tám, Đế xa giá đến cung Trường Khánh, gặp Tăng đang trì bát Đế cúng cho ba trăm tấm lụa.

- Thiền sư Như Hội ở chùa Hồ Đông quy tịch thọ tám mươi tuổi.

Sư quê ở Thiều châu, nối pháp của Mã tổ.

- Giáp Thìn: Trường Khánh năm thứ tư, mùa Đông, Đế mất ở tẩm cung, Kính Tông lên ngôi ở nhà đông của điện Thái cực. Tháng mười hai, Từ Tứ quán sát sứ Vương Trí Hưng, nhân ngày sinh nhật Đế mới xin dựng giới đàn độ Tăng Ni ở Cầu phước. Đế ưng chuẩn, chùa Vĩnh Phước ở Hàng châu khắc kinh Pháp Hoa lên vách đá. Nguyên Chân soạn bài ký.

* Kính Tông: Tên là Trạm, con trưởng của Mục Tông, ở ngôi hai năm thọ mười tám tuổi. Bảo Lịch hai năm.

-Ất Tỵ: Bảo Lịch năm đầu. Bính Ngọ: Bảo Lịch năm thứ hai, tháng mười hai Đế mất.

* Văn Tông: Tên Ngang, con năm thứ hai của Mục Tông, ban đầu được phong làm Giang Vương. Kính Tông không có con nên lập Giang Vương lên ngôi. Ông ở ngôi mười ba năm thọ ba mươi ba tuổi.

Niên hiệu Thái Hòa chín năm, Khai Thành năm.

-Đinh Mùi: Thái Hòa năm đầu.

* Đại sư Từ Nhẫn Linh Tế: ở núi Đại Hồng. Sư họ Trương, tên Thiện Tín, người Long Hưng.

Trong năm Nguyên Hòa đời Hiếu Tông, Sư ngụ cư chùa Khai Nguyên, Hồng châu, tham vấn Mã Tổ, mật khế tâm yếu. Kính Tông, năm Bảo Lịch năm thứ hai, Sư đến ở cạnh núi Thái hồ, Tùy châu. Lúc này trời đại hạn, người trong làng là Trương Vũ Lăng mang dê lợn đến Hồ Long cầu đảo. Sư thấy vậy bùi ngùi nói: "Hại mạng này để cứu mạng kia, tội càng thêm nặng, thôi đừng sát sinh, đợi ba hôm nữa ta sẽ cầu cho ông". Sư vào hang động phía Bắc núi nhập định cầu khấn. Sấm nổ trời mưa. Mấy ngày sau, Vũ Lăng lần theo dấu vết tìm Sư, Sư vẫn còn nhập định, Vũ Lăng liền xuống núi và dựng tịnh xá, cho hai con hầu hạ Sư. Người học nghe tiếng quy tụ thành pháp tịch. Đến lúc này, Thái Hòa năm đầu, ngày hai mươi chín tháng năm, Sư ngầm nói với Long thần: "Ngày trước ta thay vật tế nên lấy mất miếng ăn của ông, nay ta xả thân để trả lại, ông có thể ăn thịt ta. Sư dùng dao cắt chân phải, lại cắt chân trái, môn nhân thấy vậy chạy đến giật con dao, một dòng sữa trắng tuôn ra từ vết cắt, Sư an nhiên quy tịch. Các đạo ở phía Nam, phía Đông núi này tâu với Đế mọi việc, Đế tán thán ban nơi Sư ở là U Tế Thiền viện. Đời Thạch Tấn trong năm Thiên Phước đổi thành chùa Kỳ Phong. Tống Thần Tông, Nguyên Phong năm đầu, Đế lại đổi thành chùa Linh Phong, Triết Tông, năm Nguyên Hiệu năm thứ hai, tháng chín Đế hạ chiếu đổi thành

Thập Phương Thiền Tự mời trưởng lão Báo Ân ở chùa Thiếu Lâm, Lạc Dương về trụ trì. Sư nối pháp của Mã Tổ.

* Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm: Sư họ Hàn, người Giáng Châu, mười bảy tuổi theo Thiền Sư Tuệ Chiếu ở Tây Sơn Hồ Dương xuất gia, thọ giới với Luật sư Hy Tháo ở Hoành nhạc. Sư thông tỏ Kinh Luật, nghiêm trì giới luận. Đầu tiên Sư đến tham vấn Thạch Đầu, Thạch Đầu chỉ Sư đến Mã Tổ, Sư về lại Thạch Đầu và tỏ ngộ tâm yếu. Sau, Sư đến trụ ở Dược sơn, Lễ châu. Đại chúng quy tụ rất đông. Thượng thư Lý Tường tự là Tập Di đi phủ dụ Lãng Châu, mến mộ đạo pháp của sư nên vào núi yết kiến, Sư vẫn đọc kinh không nhìn. Tường nói:

"Gặp mặt chẳng bằng nghe tiếng. " Sư gọi Tường, Tường dạ, Sư nói:

"Sao ông quí tai thính mà mắt mờ thế" Tường lạy tạ, hỏi:

-Thế nào là đạo? Sư lấy tay chỉ trên chỉ dưới rồi hỏi: Hiểu không?

Tường đáp: "Không hiểu". Sư nói:

Mây ở trời xanh, nước trong bình.

Tường vui mừng dùng kệ đáp:

Luyện được thân hình tợ hạc hình
Dưới ngàn gốc tùng hai hòm kinh
Tôi đến hỏi đạo không gì khác
Mây ở trời xanh nước trong bình.

Tường hỏi tiếp:

Thế nào là giới định tuệ? Sư đáp:

Ở đây không có thứ rào cản ấy.

Tường lãnh hội và cáo từ. Sư nối pháp Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên. Lúc này, Thái Hòa năm thứ hai, Sư quy tịch, thọ tám mươi bốn tuổi. Đế ban Sư thụy Hoằng Đạo Đại Sư, tháp hiệu Hóa Thành.

* Thiền sư Long Đàm Sùng Tín ở Lễ châu: Sư quê ở Chử Cung nhà trong hẻm chùa Thiên Hoàng, thành Kinh Nam. Sư lạy Thiền sư Đạo Ngộ xuất gia, sau khi thọ giới, ở lại hầu hạ, lãnh ngộ huyền chỉ. Sau, Sư đến cư ngụ tại Long Đàm, Lễ Dương. Sư nối pháp của Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Đạo Ngộ nối pháp của Thạch Đầu Hy Thiên, Hy Thiên nối pháp của Thanh Nguyên Hành Tư, Hành Tư nối pháp của Lục tổ. Sư nhận đệ tử, đó là Đức Sơn Tuyên Giám.

* Kinh trên vách đá: Thái Hòa năm thứ ba, chùa Trùng Huyền ở Tô châu khắc xong kinh trên vách đá. Thị lang Bạch Cư Dị soạn văn bia đại loại rằng: "Phàm khai thị ngộ nhập tri kiến chư Phật, lấy Liễu nghĩa độ vô biên, đem Viên giáo dạy vô cùng thì không gì sâu xa hơn kinh Pháp Hoa gồm sáu mươi chín ngàn năm trăm lẻ năm lời. Chứng Vô sinh nhẫn, vào cửa Bất nhị, trụ trong giải thoát không thể nghĩ bàn thì không gì sâu xa hơn kinh Duy-ma-cật gồm hai mươi bảy ngàn chín trăm mười hai lời. Đưa bốn loại chín loài vào Vô dư Niết-bàn nhưng thật không có người được độ thì không gì mầu nhiệm hơn kinh Kim Cang gồm năm ngàn hai trăm tám mươi bảy lời. Diệt tội tăng phước, thanh tịnh tất cả đường ác, không gì nhanh bằng kinh Tôn Thắng Đà-la-ni gồm ba ngàn hai mươi lời. Ứng niệm tùy nguyện sinh cõi Cực lạc, không gì lớn hơn kinh A-di-đà gồm một ngàn tám lời. Dùng chánh kiến quán thật tướng, không gì hơn kinh Phổ Hiền Hạnh Pháp gồm sáu ngàn chín trăm chín mươi lời. Bày tự tánh, nhận bản giác không gì sâu xa hơn kinh Thật Tướng Pháp Mật gồm hai ngàn một trăm lẻ năm lời. Rỗng không pháp trần, nương vào trí Phật thì không gì hơn Tâm Kinh Bát-nhã gồm hai trăm năm mươi tám lời. Tám loại kinh này bao gồm đủ yếu chỉ của mười hai bộ ba thừa, đủ bí tạng của muôn Phật. Tâm kinh có ba bản dịch, bản hai trăm năm mươi tám lời của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch vào năm Trinh Quán đời Thái Tông. Đây là bản dịch năm thứ ba.

* Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên ở Đặng châu: Sư thị tịch trong tháng sáu, thọ tám mươi ba tuổi, Đế ban thụy Trí Thông Thiền Sư. Sư vốn theo Nho học, ngày nọ vào Trường An ứng thí, gặp Thiền giả ở quán trọ, Thiền giả hỏi Sư: Nhân giả đi đâu?

Sư đáp:

Thi làm quan.

- Thi làm quan đâu bằng thi làm Phật!

Sư hỏi:

Thi làm Phật phải đến đâu?

- Hiện nay Đại sư Mã Tổ hoằng hóa ở Giang Tây, đó là nơi tuyển người làm Phật.

Sư liền đến thẳng Giang Tây. Gặp Tổ, Sư lấy tay giở khăn che đầu, Mã Tổ nhìn Sư rồi nói: "Nam Nhạc Thạch Đầu là thầy của ông". Sư bèn đến Thạch Đầu, lấy tay giở khăn che đầu, Thạch Đầu bảo: "Xuống nhà sau đi!" Sư lạy tạ vào ở phòng hành giả, luân phiên chấp lao phục dịch suốt ba năm. Ngày nọ, Thạch Đầu bảo chúng: "Ngày mai dọn cỏ trước điện Phật". Hôm sau, cả đại chúng lớn nhỏ đều cầm liềm, cuốc đến dọn cỏ, riêng Sư lấy thau múc nước gội đầu đến quỳ trước Thạch Đầu. Thạch Đầu cười rồi xuống tóc cho Sư. Xong, Thạch Đầu thuyết giới, Sư bịt tai đi ra. Sư về lại Giang Tây yết kiến Mã tổ, chưa gặp chào hỏi gì, Sư vào thẳng Tăng đường leo lên cổ tượng Thánh tăng ngồi. Mã tổ thấy vậy, nói: "Con ta, Thiên Nhiên!" Sư lạy Mã tổ vì đã ban cho pháp hiệu. Nhân đó Sư có hiệu là Thiên Nhiên. Ngày nay Tăng đường gọi là Tuyển Phật trường vốn khởi nguyên từ đây. Sư nối pháp của Thạch Đầu.

* Bồ-tát Quán Thế Âm hiện Thánh tượng: Đế thích ăn sò, quan lại vùng biển trước đây từng hiến dâng, nên dân cũng bớt nhọc. Lúc này, năm Thái Hòa năm thứ năm, ngày nọ, trong bữa ngự thiện có một con sò không tách ra. Đế nghe tin liền đốt hương khấn. Con sò tách ra, bên trong hiện hình tướng Bồ-tát uy nghiêm, đức tướng. Đế cất vào hộp Kim túc đàn hương, ban cho chùa Hưng Thiện để mọi người chiêm bái. Đế hỏi quần thần:

- Đây là điềm gì?

Có quan tâu trên núi Thái Ất có Thiền sư Duy Chính là người học rộng nghe nhiều, thấu tỏ Phật pháp, xin triệu đến hỏi. Đế liền hạ chiếu thỉnh ngài đến. Đế hỏi việc ấy, ngài đáp:

- Vật không ứng suông, đó là điềm mở lòng tin cho bệ hạ.

Khế Kinh ghi: "Đáng dùng thân này độ người thì liền hiện thân này thuyết pháp cho họ".

Đế hỏi:

- Thân Bồ-tát thì hiện rồi, còn nói pháp thì chưa được nghe?

Ngài đáp:

Bệ hạ thấy việc này bình thường hay kỳ lạ, tin hay không tin? Đế đáp:

Đây là việc hiếm có. Trẫm rất tin.

Ngài nói: Tâm của bệ hạ đã tin, tức là nói pháp rồi còn gì!

Đế vui mừng khôn xiết, liền hạ chiếu khắp tự viện trong nước mỗi nơi đều phải dựng tượng Quán Thế Âm để đáp lại tin lành này. Đế giữ ngài lại trong nội đạo tràng, ngài nhiều lần từ chối xin về núi. Đế mời ngài trụ ở chùa Thánh Thọ. Ngài họ Châu, người Bình Nguyên, thọ học với Pháp sư Thuyền Trừng chùa Diên Hòa trong châu này, đắc pháp với Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn, ẩn cư trên núi Thái Ất Học giả quy tụ rất đông. Đầu đời Vũ Tông, Sư vào trong núi Chung nam. Sư thị tịch, môn nhân trà-tỳ thâu bốn mươi chín hạt xá-lợi và dựng tháp. Phổ Tịch nối pháp của Bắc Tông Thần Tú.

-Quý Sửu: Thái Hòa năm thứ bảy, tháng mười, nhân ngày sinh nhật mình, Đế triệu Pháp sư Tri Huyền và Đạo sĩ vào điện Lân đức cùng luận đạo.

* Thiền sư Nam Tuyền ở Trì châu: Sư họ Vương, húy Phổ Nguyện, người Tân Trịnh, Trịnh châu. Từ nhỏ, Sư đã mến mộ Không tông. Túc Tông năm Chí Đức năm thứ hai, Sư xuất gia với Thiền sư Đại Tuệ ở núi Đại Ngỗi, đến thọ Cụ túc giới ở Nam Nhạc. Ban đầu, Sư học Cựu Chương của Tướng bộ, nghiên cứu các thiên, tụ của giới luật, đến các pháp hội nghe giảng Lăng-già, Hoa Nghiêm, thể nhập Bách Môn Quán, tinh thông huyền nghĩa. Sau, Sư đến đạo tràng của Mã tổ, đốn quên kiến giải, tỏ ngộ tâm địa. Đức Tông, năm Trinh Nguyên năm thứ mười một, Sư ẩn cử ở Trì Dương, hơn ba mươi năm chưa từng xuống khỏi

Nam Tuyền. Đến lúc này, đầu năm Thái Hòa, Tuyên Thành Liêm Lục Tuyên Đại Phu thỉnh Sư xuống núi, lấy lễ đệ tử thỉnh Sư nêu cao tông huyền, diễn nói pháp yếu. Tháng mười hai năm Thái Hòa năm thứ tám, Sư có chút bệnh, dặn môn nhân: "Sao che đèn huyễn cũng đã lâu rồi, chớ bảo ta có đến đi". Nói xong, Sư quy tịch. Sư nối pháp của Mã Tổ.

* Thiền sư Đạo Ngộ ở Đàm Châu: Sư họ Trương, húy Tông Trí, người Hải Hôn, Long Hưng. Từ nhỏ, Sư đã theo học với Hòa thượng Bàn, thọ cụ túc giới, tham vấn Dược Sơn, mật khế tâm yếu. Sư đến Trấn Giang, Hạc Lâm giới thiệu Giáp Sơn đến gặp Thiền sư Thuyền Tử Đức Thành ở Hoa Đình. Đến lúc này, Thái Hòa năm thứ chín, ngày bảy tháng chín, Sư quy tịch. Môn nhân trà-tỳ được mấy miếng linh cốt xá-lợi và dựng tháp ở núi Đạo Ngô, thọ sáu mươi mốt tuổi. Đế ban thụy Tu Nhất Đại Sư, tháp hiệu Thật Tướng. Về sau, sấm sét dời tháp này về phía Bắc núi Thạch Sương. Sư nối pháp của Dược Sơn Duy Nghiễm, Nghiễm nối pháp của Thạch Đầu Hy Thiên.

* Hòa thượng Thuyền Tử ở Chu Kinh, Hoa Đình: Ngài húy là Đức Thành, người phủ Toại Ninh, đắc pháp với Dược Sơn, đến Hoa Đình chèo một chiếc thuyền nhỏ, tùy duyên độ nhật. Không ai biết ngài là người có hạnh cao, nhân đó gọi ngài là Hòa thượng Thuyền Tử. Ngài trứ tác rất nhiều thi kệ. Sau, nhân Đạo Ngô giới thiệu Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội đến tham vấn, sau khi tỏ ngộ, Giáp Sơn từ biệt ngài ra đi, nhưng cứ ngoái đầu lại nhìn. Ngài liền gọi: "Xà lê!". Giáp Sơn quay đầu lại, ngài dựng đứng mái chèo nói: "Ông sẽ bảo là có cái khác nữa chăng!" Ngài lật úp thuyền và thị tịch.

Ngài nối pháp của Dược Sơn.

Bính Thìn: Khai Thành năm đầu.

* Thiền sư Tử Hồ ở Cù châu: Sư họ Châu, húy Lợi Tung, người Thiền châu. Sư xuất gia ở chùa Khai Nguyên. U Châu, thọ Cụ túc khi đủ tuổi, tham vấn Nam Tuyền, vào ở núi Mã Đế, Cù Châu. Lúc này, Khai Thành năm thứ hai, người trong ấp là ông Thiên Quý cúng miếng đất Tử Hồ dưới núi, lập viện thỉnh Sư ở. Ngay dưới cửa, Sư lập tấm bia ghi: "Tử Hồ có một con chó, trên ăn đầu người, giữa thì ăn tim người, dưới thì ăn chân người, hễ suy nghĩ thì liền tan thân mất mạng".

Hai vị Tăng trong pháp hội của Lâm Tế đến tham vấn, vừa giở rèm, Sư đã hét: "Coi chừng chó!" Tăng quay đầu nhìn, Sư bảo về phương trượng. Hy Tông, Quảng Minh năm đầu, Sư quy tịch, môn nhân dựng tháp ngay núi này. Sư nối pháp Nam Tuyền Phổ Nguyện.

- Mậu Ngọ: Khai Thành năm thứ ba, tháng ba, Quốc sư Thanh Lương Trừng Quán quy tịch, thọ một trăm lẻ hai tuổi, tăng lạp tám mươi ba hạ. Đế gia phong Đại Thống Quốc Sư. Đế cho rằng, ngài được Tổ, Thánh tôn ngưỡng, nên đặc biệt không thiết triều ba ngày. Trọng thần mặc đồ tang dựng thân toàn thân ngài ở núi Chung Nam. Không bao lâu, có vị Tăng người Ấn vào triều tâu; rằng thấy hai sứ giả cỡi mây ngang Thông lãnh, hỏi đi đâu thì họ đáp: "Tôi là thần ở viện Văn-thù bên Bắc Ấn, về Đông lấy chiếc răng cấm của Bồ-tát Hoa Nghiêm về nước cúng dường". Đế có lệnh mở tháp, quả nhiên mất một cái răng. Đế liền cho tràtỳ, lưỡi ngài không cháy, tươi như sen hồng, xá-lợi sáng rỡ. Đế dựng tháp lấy hiệu là Diệu Giác. Tướng quốc Bùi Hưu phụng chiếu soạn văn bia, lệnh vẽ hình ngài an trí trong Đại Hưng Đường Tự. Thời Tống Thái Tông, Tăng Tống Tán Ninh soạn Đại Thống Cao Tăng Truyện có ghi: "Quốc sư thị tịch năm Nguyên Hòa đời Hiến Tông, thọ hơn bảy mươi tuổi". Hai thuyết này không đồng, hiện nay vẫn còn. Đường, Cựu Sử ghi: "Đức Tông Trinh Nguyên năm thứ mười lăm, tháng tư, ngày sinh của Đế, Đế sai Hữu Ty sắm đủ nghi vệ, xe cộ, đón giáo thọ Hòa thượng Trừng Quán vào nội điện xiển dương tông chỉ Hoa Nghiêm. Ngài lên tòa cao và nói: "Lớn thay chân giới, cội nguồn của vạn pháp, bao hàm có, không, nhưng tuyệt tướng, thể nhập ngôn từ nhưng không vết. Có một cách mầu nhiệm nhưng chẳng có, không một cách chân thật nhưng chẳng không, Phật ta chứng đắc, khéo lên chân giác, sạch hết nghiệp trần, vắng lặng ngay trong muôn hóa động dụng ngay trong một không, dung hòa thân cõi để hợp tướng, vận dụng thanh quang để chiếu xa thì vua ta chứng đắc. Linh diệu bao la, bảo hợp nhu hòa, Thánh văn vượt xa trăm vương, thuần phong thổi tràn muôn nước. Nêu huyền hóa để tỉnh mộng, buông thiên chân chuyển tính tình. Phải biết, giáo chỉ Hoa Nghiêm vắng lặng sâu xa, không thể nghĩ bàn được. Đánh mất ý chỉ thì tu nhân suông trong muôn kiếp, thể nhập cửa này thì ngang bằng chư Phật ngay một sớm".

Đế quay lại nói với quần thần: "Thầy của Trẫm nói năng khiêm nhã, giản dị nhưng từ chương phong phú, hay đem Thánh pháp dội mát lòng Trẫm, nên lấy hiệu Thanh Lương ban cho ngài. Trẫm nghĩ mình từ trước đến nay chấp thân tâm ngã nhân và định tướng của các pháp, nay rủ sạch rồi!" Quần thần lạy hai lạy, cúi đầu nhận lời vua dạy. Từ đó các cận thần trong triều ngoài triều đều thọ tám giới, lạy ngài làm thầy.

- Canh Thân: Khai Thành năm thứ năm, mùa xuân tháng giêng, Đế mất. Em Đế là Vũ Tông lên ngôi. Tháng chín, Vũ Tông hạ chiếu triệu bọn Đạo sĩ Triệu Quy Chân vào trong cung tu Kim Lục đạo tràng. Tháng mười, Vũ Tông lên Huyền Đàn đích thân nhận Pháp Lục. Tả Thập Di Vương Triết can "Vương nghiệp mới dựng, đừng nên sùng tín thái quá!"

* Vũ Tông: Tên là Viêm, con năm thứ năm của Mục Tông, ban đầu được phong Dĩnh Vương. Trước kia, Thái tử Vĩnh của Văn Tông chết, Thái tử không có con, mới lập con của Kính Tông là Trần Vương Thành Mỹ làm hoàng Thái tử. Đến khi Văn Tông mất, bọn trung úy Cừu Sỹ Lương sửa di chiếu phế Thái tử, lập Dĩnh Vương làm hoàng thái đệ rồi đưa lên ngôi. Vũ Tông ở ngôi sáu năm, thọ ba mươi hai tuổi. Niên hiệu Hội Xương sáu năm.

-Tân Dậu: Hội Xương năm đầu, tháng sáu, Đế cho Hoành sơn Đạo sĩ Lưu Huyền Tĩnh làm Quang lộc đại phu, sung vào chức Sùng Huyền quán học sĩ. Thiền sư Khuê Phong Tông Mật đời năm thứ năm tính từ Lục Tổ trở xuống thị tịch năm này.

* Thiền sư Vân Nham Đàm Thạch ở Đàm châu: Sư họ Vương, húy Đàm Thạch, người Kiến Xương, Chung Lăng. Từ nhỏ Sư xuất gia với Thạch Đầu, tham vấn Bá Trượng, nhưng nhân duyên không khế hợp. Sau, Sư đến Dược Sơn.

Dược Sơn hỏi: Bá Trượng nói pháp gì?

Sư đáp:

Một hôm thầy thượng đường, đại chúng đứng im, thầy cầm gậy đuổi tan hết, lại gọi "Đại chúng!".

Đại chúng quay đầu lại, thầy hỏi "Là cái gì?" Dược Sơn nói:

Hôm nay nhờ ông mà ta gặp được Hải huynh! Ngay câu nói này, Sư đốn ngộ liền lễ bái.

Lúc này, Hội Xương năm đầu, ngày hai mươi sáu tháng mười hai, Sư gọi Chủ Sự sai "Chuẩn bị cơm nước, ngày mai có Thượng tòa đi!" Đêm hai mươi bảy, Sư quy tịch. Đồ chúng trà-tỳ thâu hơn ngàn hột xá-lợi, an trí trong thạch thất. Đế ban thụy Vô Trụ Đại Sư, tháp hiệu Tịnh Thắng. Sư nối pháp của Dược Sơn Duy Nghiễm. Sư tiếp nhận đệ tử là Động Sơn Lương Giới. Tông Tào Động Khởi nguyên từ Sư.

* Chín ngọn núi: Quý Hợi, Hội Xương năm thứ ba. Đại Sư Chánh Giác, húy Trí Quảng, người Tiên Du, Hưng Hóa. Ngài sinh năm Nguyên Hòa năm thứ hai, đời Hiến Tông. Ban đầu, ngài tham vấn Quốc Sư An ở Diêm Quan và Thiền sư Vô Đẳng ở Ngạc châu mà tỉnh ngộ, liền về Nam, cư ngụ ở Tuyền châu, thường ôm bát bằng sắt và dẫn con chó trắng theo sau. Lúc này, Vũ Tông sắp phế diệt Phật giáo, ngài trốn trong hang núi. Khi Tuyên Tông khôi phục lại Phật giáo, ngài ra ở tại Nam Sơn. Hiến Tông năm Hàm Thông năm thứ sáu, ngài đến Cửu Sơn, gặp con mãng xà to muốn nhảy đến cắn mình, ngài ném cây tích đang cầm chống trong miệng mãng xà, rồi vào miệng mãng xà khoanh chân ngồi. Đến khi ngài xuất định, con rắn biến thành đá rồi. Sau đó, mưa sấm đẩy cát, làm thành nền viện, thần núi dời núi quanh tám hướng, viện này ở giữa thành ra chín ngọn núi. Ngài quy tịch năm Càn Phù năm thứ ba, đời Hy Tông. Chiêu Tông, Càn Ninh năm thứ hai, Đế ban ngài thụy Chánh Giác Đại Sư.

- Giáp Tý: Hội Xương năm thứ tư, tháng ba, Đế cho Đạo Sĩ Triệu Quy Chân giữ chức Tả hữu nhai đạo môn giáo thọ tiên sinh. Đế quyết lòng cầu tiên, Quy Chân được sủng ái, thường bài xích Phật giáo. Đế nghe theo Chân lại xin cùng biện luận với Samôn. Đế có chỉ cho Tăng, Đạo cùng biện luận trong điện Lân Đức. Pháp sư Tri Huyền thăng tòa nghị biện, lời lẽ thẳng tắt, khúc chiết, Đạo sĩ không đáp được. Nhân đó, Tri Huyền tâu với Đế: "Quân vương cốt chuộng lễ nhạc, hiến pháp, còn ăn uống vật thực là việc của kẻ thất phu nơi núi rừng ưa làm, mong bệ hạ để tâm đôi chút". Đế bất bình, thị thần khích bảo Tri Huyền làm thơ phú bay tỏ. Huyền liền dâng năm thiên, trong đó có câu: "Lưng hạc nghiêng ngả lưng rồng trơn, quân vương cũng trụ một ngàn năm". Đế biết Tri Huyền châm chích mình.

- Ất Sửu: Hội Xương năm thứ năm, Triệu Quy Chân tiến cử Đặng Nguyên Siêu cấu kết với Lưu Huyền Tĩnh ra sức phỉ báng nhà Phật. Tháng 5, Đế lệnh dẹp bỏ bớt chùa và sa thải Tăng ni. Thiền sư Tuệ Trung Trí Chân ở Phước châu Quy Dương làm mười bài kệ, nay chép ra ba bài:

Trăng sáng chia hình nơi nơi mới
Bạch y há thuộc hạng hiểu không
Ai bảo người đời ngăn tu đạo
Duy-ma từng làm Trưởng giả thân
Lúc Nhẫn tiên ngồi thiền dưới cây
Từng bị Ca Vương chặt chân tay
Huống Thánh triều ta không việc ấy
Chỉ cho bãi đạo chẳng vui thay!
Hình dung tuy khác, đạo vẫn còn
Hòa với dòng đời chẳng ngu mê
Thử tụng Thiện Tài tham lễ kệ
Hồi ấy nào ai bảo Sa-môn.

Sư họ Liễu, người Dương châu, nối pháp của Thảo Đường Nghĩa. Nghĩa nối pháp của Tào Sơn Bảo Tịch, Tịch nối pháp của Động Sơn Lương

Giới.

-Binh Dần: Hội Xương năm thứ sáu, Đế uống Kim Đan của bọn phương sĩ, lưng nổi ung nhọt, mười ngày sau thì cấm khẩu. Tháng ba, Đế mất. Tuyên Tông lên ngôi. Ngày mồng một, Tân Mùi, tháng tư, mùa hạ, Tuyên Tông bắt đầu nắm quyền chánh.

* Tuyên Tông: Tên là Trầm, con năm thứ mười ba của Hiến Tông, được phong làm Quang Vương. Tính ông nghiêm nghị, ít nói, trong cung đều cho ông là kẻ bất tài, Vũ Tông không thích. Trung úy Mã Nguyên Chấp lập ông làm hoàng Thái thúc rồi lên ngôi. Ông ở ngôi mười ba năm, thọ năm mươi tuổi. Ông khôi phục lại Phật giáo, cho hữu thường thị Lý Cảnh Nhượng làm Chiết Tây quán sát sứ. Hồi ấy, mẹ Cảnh Nhượng là Trịnh thị, tính tình rất nghiêm khắc, chồng mất sớm, gia cảnh nghèo túng phải dời về Lạc Dương. Các con bà đều nhỏ dại, bà tự nuôi dạy. Ngày nọ, bức tường cũ sau nhà bị mưa làm sập, dưới tường có một ghe đầy tiền, nô tỳ vui mừng báo cho bà hay, bà đến đốt hương và khấn rằng: "Tôi nghe, không lao nhọc mà được của cải là họa của thân, trời ắt thương chồng tôi là người tốt, xót gia cảnh tôi nghèo nên đem cho, tôi chỉ nguyện những đứa con mồ côi cha của tôi ngày sau học hành đỗ đạt, đó mới là chí nguyện của tôi, còn số tiền này tôi không dám lấy". Bà sai người lấp lại rồi xây lên. Ba người con của bà là Cảnh Nhượng, Cảnh Ôn, Cảnh Trang đều đỗ tiến sĩ. Cảnh Nhượng đỗ đạt khi tóc đã đốm bạc, từ nhỏ ông nghịch ngợm nên không tránh khỏi mẹ cho roi vọt. Niên hiệu Đại Trung mười ba năm.

-Đinh Mão: Đại Trung năm đầu, tháng hai, nhuần, Đế hạ chiếu: "Cuối năm Hội Xương có dẹp bớt chùa viện, tuy nói là giáo pháp của phương khác, nhưng vốn có ngọn nguồn hợp đạo lý, người Trung Quốc từ lâu đã theo đạo này. Sửa đổi quá đáng, việc thật sai lầm. Những chùa viện chẳng khác Thánh cảnh ở Linh Sơn bị đập phá trong năm Hội Xương năm thứ năm, những vị tôn túc cũ hãy trùng tu và trụ trì lại, quan Hữu Ty không được ngăn cản.

* Vẽ tượng Di-đà: Năm này Thái tử Thiếu phó Bạch Cư Dị mất, thọ bảy mươi lăm tuổi. Đế tặng ông chức Thượng thư Tả bộc xạ. Ông và em ông rất giản dị, mẫn tiệp, được bạn bè yêu mến. Ông ở làng Lý Đạo, Lạc Dương, đào hồ, trồng cây, bắt cầu đá, đục thác Bát Tiết ở Hương Sơn. Ông tự lấy hiệu là Tuý Ngâm tiên sinh và Hương sơn Cư sĩ, cùng Hồ Cảnh v. v.. cả thảy chín người thường ngâm ca, đàm đạo. Họ đều là người tuổi cao, không ra làm quan. Người mến mộ thêu bức họa Cửu Lão. Ông mất xong, nơi ông ở được cúng làm chùa. Ông từng vẽ tượng Phật Di-đà để thờ tự, lễ bái và tự viết bài ký, đại loại ghi: "Đức Phật Bổn Sư Thích-ca Như Lai ta có nói "Phương Tây có thế giới tên là Cực lạc, vì không có tám khổ, bốn đường ác. Quốc độ ấy tên là Tịnh độ, vì không có ba độc, năm trược. Phật ấy hiệu là A-di-đà, vì thọ mạng, sở nguyện, công đức, tướng tốt, quang minh của ngài vô lượng". Xem kỹ Ta-bà này, chúng sinh dù hiền ngu, sang hèn, già trẻ hễ khởi tâm quy hướng Phật, đưa tay, chắp tay đều hướng về phương Tây, lúc hoảng sợ khổ não, mở miệng tất trước tiên niệm Adi-đà, cho đến dùng khuôn vàng, đất, khắc đá, thêu thùa, đắp bùn, đắp cát, như trẻ con đùa nhưng đều tạo Phật A-di-đà trước hết. Chẳng biết vì sao như vậy. Nên từ đó mà xét rõ ràng Như Lai ấy có đại thệ nguyện với chúng sinh này, chúng sinh có đại nhân duyên với Phật ấy. Nếu không, tại sao Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai ở phương Nam, Bắc, Đông, rất nhiều, sao chỉ học đắp xưng niệm một Phật này! Đường, Trung đại phu Thái tử thiếu phó Bạch Cư Dị tuổi tác đã cao, trúng phải phong bệnh, mới đem tiền lương ba mươi vạn, thuê thợ vẽ bức Tây phương thế giới, Phật Di-đà ngồi chính giữa, Quan Âm, Thế Chí hầu hai bên, trời người chiêm ngưỡng, công đức thành tựu. Đệ tử Cư Dị cuối đầu quỳ trước Phật, nguyện đem công đức này hồi thí cho chúng sinh, chúng sinh nào già yếu như tôi, bệnh tật như tôi, mong họ lìa khổ được vui, bỏ ác tu thiện, chẳng rời Nam Thiệm liền thấy Tây phương. Sen xanh Thượng phẩm, tuý nguyện vãng sinh, đời này đời sau thường được gần gũi. Nay muốn tuyên lại nghĩa này mà viết bài tán rằng:

Thế giới Cực lạc cõi thanh tịnh
Không có đường ác và các khổ
Nguyện những người già, bệnh như con
Đều về cõi Phật Vô Lượng Thọ.

- Mậu Thìn: Đại Trung năm thứ hai, quán sát sứ Bùi Hưu giữ Tuyên Thành thường cùng danh tăng đàm đạo. Môn nhân từng hỏi ông rằng:

- Dám hỏi, thuyết ba cõi chưa lập, người ta không biết tu hành; không thấy nhân quả, người làm phước lớn cũng đâu phải là ít. Đến khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, người ngu sợ tội nên bỏ ác, người hiền mong phước càng làm lành. Cứ làm mãi thì đến nay phải toàn thiện hết rồi, cứ bỏ mãi thì đến nay sẽ không còn ác. Vậy tại sao ngu mê bạo ngược vẫn không giảm trong thời Tiền

Tần, Tiền Hán; phước tuệ thông minh vẫn không tăng trong thời Hậu Ngụy, Hậu Tần? Người quy hướng thì khắp nơi đổ về, người dựng lập thì muôn pháp như mây đùn, vậy phải khiến chúng ta đều phải lên đường giác, chứ đâu có ngu si thấp kém thế này! Từ xưa đến nay, vẫn mê như vậy, từ đó mà thấy, tác dụng của đạo Phật chẳng phải là quá kém đó sao!

Ông cười đáp:

Ánh sáng lớn tỏa ra, pháp chẳng chu viên, Thánh nhân ra đời, thay trời lập công, thay đổi nào là kết lưới, họa Bát quái, văn chương chữ nghĩa. Một Thánh ra đời thì một pháp sinh, đạo trời việc người rõ như vậy. Phàm Toại Nhân thị chưa có lửa, thì trời không có sao hỏa, con người không có lửa nấu ăn, bói quẻ không có điềm lửa, muôn vật không bị hỏa hoạn. Thiếu Hạo thị chưa luyện được vàng, thì tất nhiên trời không có sao Kim, người không có vàng để dùng, bói quẻ không có điềm vàng, muôn vật không bị tai họa vàng. Đến khi Thánh nhân xát cây ra lửa, luyện đá lấy vàng, lúc bấy giờ bản chất tinh thô có khắp trên dưới. Đủ thấy pháp đời, việc đời tùy thuộc Thánh nhân. Khảo xét tận nguồn tinh thần, tận cùng hình thể tánh mệnh, lập phương tiện lớn bảo hộ muôn loài. Muôn loài nhận mà chẳng biết, giống như đạo trời mà vận hành thì vạn vật sinh sôi nảy nở, ngay cả bản thân mình ai biết tại sao nó như vậy!

Nghe vậy, người hỏi bỗng nhiên hiểu ra, nhận được pháp vị. Khi Đế hạ chiếu cho dựng chùa, quan dân ở Tuyên thành có cả vạn người hưởng ứng, trước tiên xin dựng ở ngoài Tuyên thành, trùng tu chùa Tân hưng, Bùi Hưu thỉnh Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận đến quận, cư ngụ tại chùa Khai Nguyên, sớm tối thọ pháp.

- Kỷ Tỵ: Đại Trung năm thứ ba, Hồ Nam quán sát sứ Bùi Hưu yết kiến Thiền sư Hoa Lâm Thiện Giác và hỏi:

- Thầy có thị giả không? Sư đáp:

Có một, hai đứa.

- Họ ở đâu? Sư gọi:

Đại Không! Tiểu Không!

Bỗng có hai con cọp ở sau am đi ra, Bùi Hưu thất kinh. Thiện Giác quê ở Đàm châu, nối pháp của Mã tổ Đạo Nhất.

* Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận ở Hồng châu: Sư người đất Mân, từ nhỏ xuất gia ở núi Hoàng bá, Phước châu, thọ cụ túc giới, vân du đến Kinh đô. Sau Sư qua Giang Tây tham vấn Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải và khế ngộ tâm ấn. Tướng quốc Bùi Hưu trấn giữ Uyển Lăng, dựng Đại Thiền Uyển, thỉnh Sư thuyết pháp. Sau, đổi tên nơi này thành chùa Hoàng Bá. Sau khi khế tâm yếu, Bùi Hư gom tập những pháp ngữ của Sư thành sách, lấy tên là Hoàng Bá Tâm Yếu, nhập Đại tạng và lưu hành. Đến lúc này, tháng tám năm Đại Trung năm thứ tư, Sư quy tịch. Đế ban thụy Đạo Tế Thiền Sư, tháp hiệu Quảng Từ. Sư nối pháp Bá Trượng Hoài Hải, Hải nối pháp Mã Tổ Đạo Nhất.

- Tân Mùi: Đại Trung năm thứ năm, tháng giêng, Đế triệu Thiền sư Hoằng Biện ở chùa Tiến Phước vào cung. Đế hỏi:

- Thiền tông tại sao lại có Nam Bắc? Sư đáp:

Cửa thiền vốn không Nam Bắc. Từ chư Tổ xuống đến Đại sư Hoằng Nhẫn, Nhẫn có hai đệ tử, một là Tuệ Năng thọ nhận y pháp cư ngụ ở Lãnh Nam, một là Thần Tú hoằng hóa ở phía Bắc. Đắc pháp chỉ có một nhưng khai thị tỏ ngộ có sự khác nhau giữa đốn và tiệm, nên gọi Nam đốn, Bắc tiệm, chứ không phải Thiền tông có Nam, Bắc.

Đế hỏi: Sao gọi là giới, định, tuệ?

Sư đáp: Ngăn quấy cấm ác gọi là giới. Sáu căn gặp cảnh, tâm chẳng theo duyên gọi là định. Tâm cảnh đều không, chiếu thấy không lầm, gọi là tuệ.-Sao gọi là phương tiện?

- Giấu thật che tướng là cửa ngõ quyền xảo. Tiếp hàng trung hạ, khéo bày lời dẫn dắt thì gọi là phương tiện. Đối với thượng căn, bảo bỏ phương tiện chỉ nói đạo Vô thượng, đó cũng là nói phương tiện. Cho đến Tổ sư bảo "lời quên công diệt" cũng không ngoài lối phương tiện.

- Cái gì là Phật tâm?

- Phật là tiếng Tây Thiên, Đường dịch là Giác, nghĩa là người có trí tuệ giác chiếu thì gọi là Phật tâm. Tâm là tên gọi khác của Phật, có trăm ngàn tên gọi khác nhau, nhưng bản chất chỉ có một. Như bệ hạ ngày giải quyết muôn việc, đó là Phật tâm của bệ hạ.

- Có người niệm Phật là tại sao vậy?

- Như Lai xuất thế tùy căn khí mà nói pháp. Vì hàng thượng căn, Phật khai mở chí lý đốn ngộ Tối Thượng thừa. Còn trung căn hạ căn chưa thể sáng tỏ ngay, nên Phật mở ra quán môn khiến họ niệm Phật sinh Cực lạc.

- Có người trì kinh chú cầu Phật là thế nào?

- Như Lai nói vô lượng pháp đều vì Nhất thừa, như trăm ngàn dòng chảy đều nhắm chảy vào biển. Bởi vậy, các duyên sai biệt đều quy về biển trí.

- Tổ Sư đã truyền tâm ấn, kinh Kim Cang ghi "Không có pháp để chứng đắc" là thế nào?

- Phật giáo hóa một đời, thật ra chẳng có một pháp cho người, chỉ mở bày mỗi mỗi tự tánh đồng một pháp tạng. Khi ấy Nhiên Đăng Như Lai chỉ ấn chứng pháp này cho Thích-ca, nhưng chẳng có gì chứng đắc mới khế hợp bản ý của Nhiên Đăng.

- Thiền sư đã lãnh hội ý Tổ, có còn lạy Phật xem kinh không?

- Sa-môn lạy Phật tụng kinh, bởi nắm giữ thường pháp có bốn loại: Theo giới của Phật mà tu thân, tham vấn các Thiện tri thức, thường tu hạnh thanh tịnh, đi trên dấu vết Như Lai từng đi.

- Thế nào là đốn kiến, thế nào là tiệm tu?

- Tỏ ngay tự tánh cùng Phật không hai, nhưng có những tập khí từ vô thỉ nên phải mượn tiệm tu mà đối trị, để thuận tánh khởi dụng, như người ăn cơm chẳng phải một miếng là no ngay.

Hôm đó Sư và Đế đối đáp đến gần canh giờ. Đế rất hài lòng, ban Sư hiệu Viên Trí Thiền Sư. Kế đó Đế hạ chiếu cho trùng tu tháp các Tổ trong cả nước. Những vị nào chưa được ban thụy, quan sở tại phải tâu lên, thái thường khảo lại hành trạng rồi ban thụy.

Hoằng Biện người Kinh Triệu, nối pháp Thiền sư Hoài Huy ở chùa Chương Kính. Hoài Huy họ Tạ, người Tuyền châu, thị tịch năm Nguyên Hòa năm thứ mười ba, đời Hiến Tông, Đế ban thụy Đại Giác Thiền Sư, nối pháp của Mã tổ.

- Nhâm Thân: Đại Trung năm thứ sáu, Đế trùng tu chùa Đông Lâm ở Lô Sơn, Giang châu. Thứ sử Thôi Ảm soạn văn bia. Đế gia phong thụy của Tuệ Viễn Pháp Sư thêm hai chữ Biện Giác.

* Tông Quy Ngưỡng: Thiền sư Quy Sơn ở Đàm châu, húy Linh Hựu, họ Triệu, người Trường cốc, Phước châu. Năm mười lăm tuổi, Sư xuất gia, theo Luật sư Pháp Thường chùa Kiến thiện quận này thế phát thọ giới ở chùa Long Hưng, Hàng châu, nghiên cứu giáo pháp. Đại thừa, Tiểu thừa.

Năm hai mươi ba tuổi, Sư vân du đến Giang Tây, tham vấn Thiền sư Bá Trượng, tỏ ngộ tâm pháp. Có Tư mã Đầu-đà từ Hồ nam đến nói với Bá Trượng: "Quy Sơn là nơi ở của một ngàn năm trăm Thiện tri thức". Sư là người trong pháp hội, được Bá Trượng sai qua trụ trì. Sư đến Quy Sơn, dựng lập chùa viện. Lúc Vũ Tông hủy diệt Phật pháp. Sư trùm đầu trà trộn trong dân. Đại Trung năm đầu, quán sát sứ Bùi Hưu thỉnh Sư về ở lại. Liên súy Lý Cảnh Nhượng tâu xin, Đế sắc tứ nơi này là chùa Đồng Khánh. Pháp hội thiền rất thịnh, Tăng chúng quy tụ rất đông. Sư hoằng dương tông Thiền suốt hơn bốn mươi năm. Người tỏ ngộ đông không kể xiết. Đệ tử vào thất có bốn mươi mốt người. Đến lúc này, Đại Trung năm thứ bảy, mồng chín tháng giêng, Sư rửa mặt súc miệng, ngồi kiết già, an nhiên thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi, tăng lạp sáu mươi bốn hạ. Môn nhân dựng tháp Sư ở núi này. Đế ban Sư thụy Đại Viên Thiền sư, tháp hiệu Thanh Tịnh. Tướng Quốc Trịnh Ngu soạn văn bia. Sư nối pháp của Bá Trượng, Bá Trượng nối pháp của Mã Tổ.

* Thiền Sư Ngưỡng Sơn ở Viên châu, Giang Tây: Sư họ Diệp, húy Tuệ Tịch, người Hoài Hóa, Thiều châu. Năm chín tuổi, Sư theo Thiền sư Thông chùa Hoài an, Quảng châu xuất gia, mười bốn tuổi thế phát nhưng chưa thọ giới cụ túc liền đi du phương. Đầu tiên, Sư đến yết kiến Đam Nguyên. Thị giả của Quốc sư Đam Trung là Ứng Chân vốn đã tỏ ngộ huyền chỉ. Đam Nguyên bảo: "Quốc Sư đương thời được truyền chín mươi bảy viên tướng (hình tròn), đó là vật do Tổ sư sáu đời để lại, Quốc Sư trao cho lão tăng và dặn: "Sau khi ta mất ba mươi năm, có ông Sa-di từ phương Nam đến, làm đại hưng giáo này. Ông phải tiếp tục trao truyền chớ để dứt mất. Nay ông đến quả là phù hợp, ông chớ để đoạn mất". Sư lãnh huyền chỉ. Sau Sư, tham vấn Quy Sơn, tỏ ngộ tâm yếu. Sư nằm mộng thấy mình vào Di-lặc nội viện ở Thiên Cung, ngồi ở tòa năm thứ hai. Có một Tôn giả đến bạch kiến thùy xướng: "Nay tòa năm thứ hai nói pháp!" Sư đứng dậy bạch thùy xướng: "Pháp Đại thừa lìa bốn câu, bặt trăm lỗi, lắng nghe! Lắng nghe!" Đại chúng đều giải tán.

Ngày nọ, có vị Tăng Ấn Độ từ hư không đáp xuống, Sư hỏi:

- Ông từ đâu đến đây?

- Tây Thiên.

- Đi từ lúc nào?

- Sáng sớm nay!

- Sao chậm thế?

- Vì con du sơn ngoạn thủy!

- Thần thông du hý đều là Xà-lê! Tăng nói:

Định sang Đông độ lễ Văn-thù, không ngờ gặp Tiểu Thích-ca!

Nói xong vị Tăng trao cho Sư mấy mươi tờ kinh tiếng Phạm, lạy chào rồi bay lên không đi mất. Từ đó người ta gọi Sư là Tiểu Thích-ca. Năm Bính Tý, Trinh Minh năm thứ hai, nhà Lương, Sư lại dời về

Đông Bình, nói bài kệ:

Đủ bảy mươi bảy tuổi
Vô thường chính hôm nay
Mặt trời vừa đúng ngọ
Hai tay bó gối ngồi.

Nói xong, Sư đưa hai tay bó gối và quy tịch. Năm sau, đệ tử nối pháp là Thiền sư Nam Tháp Quang Dũng dời linh cốt về núi Quy ngưỡng, dựng tháp dưới ngọn Tập Vân. Đế ban Sư thụy Trí Thông Thiền sư, tháp hiệu Diệu Quang. Sư nối pháp Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu, đạo pháp rất thịnh, người người theo về, gọi đây là Tông Quy Ngưỡng. Ban đầu, Sư trụ ở núi Vương Mãng, Hy Tông năm Càn Phù năm thứ sáu, Thần núi thỉnh Sư rằng: "Đông nam có núi Đại Ngưỡng, vốn là phước địa". Sư liền dời về.

-Giáp Tuất: Đại Trung năm thứ tám, núi Chung Nam mới có một vị Tăng dựng am tu định. Một hôm có một con khỉ lấy trộm y Tăng-già-lê của ngài quấn lên mình ngồi nhập định, thế là cả bầy khỉ cũng bắt chước ngồi như vậy. Có con qua đời, ngày nay còn tháp của năm con khỉ. Lúc này, Tuyên Tông ngự bút viết bài tán:

Ôi! Khỉ vượn kia hay nhập định
Tâm vượn chẳng động mấy ngàn xuân
Hết vin cành hồng, ba đông quả
Hết giỡn đầm biếc, trộm trăng côi.
Hai mắt thôi không dõi núi biếc
Hai mi vẫn dõi trăm hoa khoe
Từ đây ngồi mất Chung Nam ấy
Ngộ được phù sinh có mấy người.

* Thọ giới cấp điệp: Bính Tý, Đại Trung thứ mười, Đế sắc phong Pháp sư Biện Chương làm Tam giáo Thủ tòa, bắt đầu buộc Tăng ni thọ giới cấp điệp.

-Mậu Dần: Đại Trung năm thứ mười hai, mùa Đông tháng mười, tư không môn hạ thị lang, cùng Bình Chương sự lệnh là Cô Đào tiến cử Lý Viễn làm Hàng châu thứ sứ. Đế nói, ta nghe thơ của Viễn cả ngày chỉ tiêu được bốn khổ, thì làm sao trị người được!" Đào đáp: "Thi nhân nhờ đó làm cao hứng mà thôi, chưa hẳn đúng như vậy!" Đế nói: "Vậy hãy bảo ông ta đến để ta xem thử!"

* Ba đời đồng cư: Vạn Kính Nhụ người Lô Quảng, ba đời đồng cư là khu mộ táng người thân họ Lô. Nhụ cắt tay lấy máu chép kinh Phật, quận thú đổi tên làng ông đang ở là làng Thành Hiếu, xóm Quảng Hiếu. Đến lúc này, Đại Trung năm thứ mười hai, Hữu Ty tâu lên Đế, Đế biểu dương cả nhà ông.

* Tôn giả Đằng La: Tăng là Vô Dịch ở Thiền viện bản tịch, Thụy An, Ôn châu, nhân Vũ Tông sa thải Tăng ni trong năm Hội Xương mới ẩn trong hang đông bắc, lập am tu thiền suốt mười năm, dây leo quấn quanh thân ngài, nhưng ngài vẫn an nhiên chẳng động, vì thế người ta gọi ngài là Đằng La Tôn giả. Sau người ta lập nơi tế tự, đến nay vẫn còn cúng tế ngài.

-Kỷ Mão: Đại Trung năm thứ mười ba, tháng tám, Đế mất. Tuyên Tông là ông vua thông tuệ, trầm tĩnh, quyết đoán, dùng phép vô tư, người ta thi nhau đến can gián, ông mến tiếc và thưởng cho quan, bản thân rất cẩn thận, tiết kiệm, thương yêu muôn dân. Chính sách trong những năm Đại Trung bị chấm dứt khi nhà Đường diệt vong. Người ta nhớ ơn ông, thường ca tụng, tôn xưng ông là Tiểu Thái Tông.

* Ý Tông: Húy là Tồi, con trưởng của Tuyên Tông, ban đầu được phong Vận Vương, ở ngôi mười bốn năm, thọ ba mươi mốt tuổi. Niên hiệu Hàm Thông mười bốn năm.

-Canh Thìn: Hàm Thông năm đầu.

* Hòa thượng Phổ Hóa ở Trấn châu: Không ai biết quê quán ngài ở đâu, ngài thờ Bàn Sơn Mật thọ nhận Chân quyết, ngài thường cầm cái chuông lắc, giả điên đi khắp phố chợ, hoặc ở nơi gò mả. Đến lúc này, Hàm Thông năm đầu, ngài cầm chuông lắc bay lên không ẩn mình thị tịch, chẳng ai lường nổi nguyên do. Ngài nối pháp Thiền sư Bàn Sơn Tích, Tích nối pháp Mã tổ.

-Nhâm Ngọ: Hàm Thông năm thứ ba, tháng hai, Thiền sư Hoàn Trung ở núi Đại Từ, Hàng châu quy tịch, thọ tám mươi ba tuổi. Đế ban ngài thụy Tách Không Thiền sư. Ngài họ Lô, người Bồ Phản, nối pháp của bá trượng Hoài Hải. Mùa hạ, tháng tư, Đế lệnh cho bốn chùa ở Lưỡng nhai mỗi nơi lập giới đàn, thế phát độ tăng suốt mười bốn ngày.

* Thủy Sám: Đại Đức Khuông Tông. Họ Trần, húy Tri Huyền. Vào năm Hàm Thông năm thứ tư, ngài được Đế ban hiệu Ngộ Đạt Quốc sư, tổng quản hết việc giáo môn. Tháng năm thứ mười hai, Đế xa giá đến chùa An Quốc, ban cho ngài bảo tòa bằng trầm hương rất đẹp, cao hơn hai trượng, cực kỳ trang nghiêm. Hy Tông năm Trung Hòa năm thứ hai, Đế xa giá đến đất Thục tránh loạn Hoàng Sào đến Thành đô, sai ngự sử Quách Tuân đem thư có dấu ngọc tỷ triệu ngài đến hành dinh. Năm sau, từ hành dinh ở Thành đô, ngài cáo từ trở về núi Cửu Lũng. Trên đùi trái của ngài nổi lên một hạt châu, đau đớn vô cùng, đó là cái mụt mặt người. Ngài gặp được Dị tăng dẫn đến suối nước để rửa mụt, mới biết đó là oan trái của Triều Thố và Viên Áng. Bộ Thủy Sám ba quyển ngày nay duyên khởi phát xuất từ ngài. Ngài cũng biết trước giờ mất, nằm nghiêng bên phải an nhiên quy tịch. Ngài thông suốt tam học, nổi tiếng một thời. Người đời tôn xưng ngài là Bồ-tát.

* Thiền sư Đức Sơn ở Lãng châu: Sư họ Châu, húy Tuyên Giám, người Giản châu. Sư xuất gia từ nhỏ, đủ tuổi thì thọ Cụ túc, nghiên cứu Luật tạng ở chùa Tánh Không, thông đạt chỉ thú các kinh, thường giảng Kim Cang Bát-nhã. Người đương thời gọi Sư là Châu Kim Cang. Ngài không tin Thiền pháp của phương Nam và nói: "Người xuất gia, ngàn kiếp học oai nghi Phật, vạn kiếp học tế hạnh Phật còn chẳng thành Phật. Bọn ma ở phương nam dám cho rằng chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, ta sẽ đập phá hang ổ bọn này, diệt sạch giống loài này để báo ân Phật". Thế rồi Sư gánh bộ Thanh Long Sớ Sao rời đất Thục thẳng đến Lễ Dương. Giữa đường, Sư gặp bà lão bán bánh điểm tâm, bà lão chỉ cái gánh của Sư và hỏi:

"Đây là cái gì?"

Sư đáp: Thanh Long Sớ Sao!

- Thầy giảng kinh gì?

- Kinh Kim Cang.

- Tôi có một câu hỏi, nếu đáp được tôi sẽ cúng bánh cho Thượng tọa, bằng đáp không được thì tôi không cho. Bà lão hỏi:

- Trong kinh ghi: "Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc", chẳng hay Thượng tọa điểm cái tâm nào!

Sư đáp không được đành phải nhịn đói ra đi. Đến chùa Long Đàm ở Lễ Dương, Sư lên thẳng pháp đường nói: "Từ lâu nghe tiếng, nay đến đây nhưng đầm thì chẳng thấy (Đàm), mà Rồng (Long) cũng chẳng hiện". Long Đàm không lộ mặt nói: "Ông đến Long Đàm rồi đó!" Sư đáp không được và xin nghỉ lại.

Đêm nọ, Sư đứng hầu, Đàm bảo: "Khuya rồi sao ông không xuống!" Sư liền đi ra, lại quay vào thưa: "Bên ngoài trời tối đen!" Đàm đốt đưa cho Sư bó giấy, Sư định lấy thì Đàm liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ, làm lễ. Đàm hỏi: "Ông thấy cái gì?" Sư thưa: Từ đây về sau con không còn nghi lời nói của lão Hòa thượng trong thiên hạ.

Hôm sau, Sư mang hết Sớ sao mang theo đốt trước pháp đường. Lúc châm lửa Sư nói: "Cùng tột các huyền biện giống như bỏ một sợi lông trong hư không, rốt cùng các mấu chốt ở đời chẳng khác nhỏ một giọt nước vào hồ lớn". Sư từ biệt Long Đàm đến Quy Sơn, lại quay về trụ ở Lễ Dương suốt ba mươi năm. Khi Vũ Tông phế diệt Phật giáo, Sư ở ẩn trong hang đá trên núi Độc Phù. Tuyên Tông, Đại Trung năm đầu, Thứ sử Vũ Lăng Tiết Đình Vọng trùng tu lại tinh xá Đức Sơn lấy tên là Cổ Đức Thiền viện và thỉnh Sư trụ trì nhưng Sư không chịu xuống núi. Đình Vọng đành lập gian kế, lấy trà muối bỏ trong thất rồi vu cáo Sư phạm pháp và đưa Sư về châu quận, lễ kính cầu thỉnh. Về sau, Sư ở đây và xiển dương đạo pháp. Đến lúc này, Hàm Thông năm thứ sáu, ngày ba tháng mười hai, Sư nói với đại chúng: "Nắm hư không đuổi tiếng vang, lao nhọc tâm thần các ông, tỉnh mộng biết là chẳng phải, đâu còn việc gì nữa!" Nói xong, Sư ngồi yên mà tịch. Đế ban Sư thụy Kiến Tánh Thiền sư. Sư nối pháp của Long Đàm Sùng Tín. (Vũ Lăng là Lãng Châu của nhà Đường, nay là Thường Đức lộ, Kinh châu)

* Tông Lâm Tế: Thiền sư Lâm Tế ở Chân Định lộ, Trấn châu: Sư họ Hình, húy Nghĩa Huyền, quê ở Nam Hoa, Tào châu, xuất gia thế phát từ nhỏ. Đầu tiên, Sư đến Hoàng Bá, lúc ấy Mục Châu Trần Tôn Túc làm thủ tòa hỏi Sư:

-Thầy ở đây bao lâu rồi? Sư đáp:

Ba năm!

Mục Châu chỉ Sư đến hỏi Hoàng Bá về đại ý Phật pháp. Hoàng Bá liền đánh. Ba lần hỏi, ba lần bị đánh. Sư bèn cáo từ Mục Châu nói: "Hận mình chướng duyên, chẳng lãnh hội được diệu chỉ, nay từ giã ra đi!"

Châu nói:

Hãy từ biệt Hòa thượng rồi hẳn đi! Mục Châu đến nói với Hoàng Bá:

"Thượng tọa ấy nếu có đến từ biệt Hòa thượng dùng phương tiện tiếp y, về sau ông ấy làm một gốc đại thọ tàn mát che khắp kẻ đi người ở trong thiên hạ!"

Sư từ biệt Hoàng Bá, Bá bảo:

"Hãy đến Cao An tham vấn Đại Ngu đi!". Sư đến Cao An, Đại Ngu hỏi:

- Ông từ đâu đến? Sư đáp:

Chỗ Hoàng Bá đến.

- Hoàng Bá có dạy lời gì không?

- Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh, chẳng biết có lỗi hay không lỗi!

Đại Ngu nói:

Hoàng Bá đã lao tâm khổ tứ với ông đến thế ư! Ngay đó Sư đại ngộ, nói

"Té ra Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều!" Đại Ngu liền nắm đứng hỏi:

- Con quỷ đái dưới sàng, vừa nói có lỗi không lỗi, nay lại nói Phật pháp không nhiều, ông thấy đạo lý gì, nói! Nói mau!

Sư liền thoi vào hông Đại Ngu ba thoi. Đại Ngu thả Sư ra, nói: Thầy ông là Hoàng Bá, không can hệ gì đến ta!

Sư quay về Hoàng Bá, Bá hỏi:

- Ông cứ đến đến đi đi, biết bao giờ mới tỏ ngộ. Sư đáp:

Chỉ vì thầy đã lao tâm khổ tứ, nên đã xong việc rồi! Sư đứng hầu, Hoàng Bá hỏi:

- Đại Ngu dạy những gì?

Sư thuật lại việc hôm trước, Hoàng Bá nói:

- Lão Đại Ngu này thật lắm lời! Đợi gã đến đây ta đánh cho một trận.

Sư thưa:

Cần gì đợi đến, ngay bây giờ đánh luôn!

Nói xong, Sư đến tát Hoàng Bá một cái. Bá nói:

- Gã điên cuồng này lại đến đây vuốt râu hùm!

Sư liền hét. Bá gọi:

Thị giả! Dẫn gã này vào nhà thiền đi!

Về sau, Sư trụ ở Lâm Tế, Trấn châu, người học đông vô kể. Sư nói: "Phàm xiển dương tông thừa, trong một câu phải có đủ ba huyền môn, một huyền môn phải đủ ba trọng yếu, có quyền có thật, có chiếu, có dụng. Các ông làm sao hiểu!" Sau Sư ở lại Đông đường chùa Hưng Hòa, Phủ Đại Danh. Đến lúc này, Hàm Thông năm thứ tám, mồng mười tháng tư, Sư nói bài kệ:

Theo dòng chẳng cấm hỏi thế nào
Chân chiếu không ngằn nói giống ai
Lìa tướng lìa danh người chẳng nhận
Gươm bén dùng xong phải gấp mài.

Sư ngồi thẳng quy tịch. Môn nhân dựng tháp an táng chân thân Sư ở tây bắc phủ này. Đế ban Sư thụy Tuệ Chiếu Thiền sư, tháp hiệu Trừng Linh. Sư nối pháp Hoàng Bá Hy Vận, Vận nối pháp Bá Trượng Hoài Hải. Thiền lâm tôn kính Sư, gọi đây là Tông Lâm Tế.

Mậu Tý: Hàm Thông năm thứ chín, Đế lệnh cho Khang Thừa Huấn đánh bọn Bàng Huân ở Từ châu. Thừa Huấn tâu xin cho Chu Da Xích Tâm thống lĩnh ba bộ lạc Sa Đà theo mình. Huấn đánh bại Huân ở Từ Châu, Huân chết. Đế thưởng công cho Chu Da Xích Tâm, đặt chức đại đồng quân ở Vân châu, cho Xích Tâm là Tiết độ sứ, ban cho họ Lý, tên Quốc Xương. Con Quốc Xương là Khắc Dụng, con Khắc Dụng là Tồn Úc, đó là Trang Tông của Hậu Đường. Hồi ấy, trong năm Trinh Quán, Thái Tông phá bọn Đột Quyết ở phương Tây, đặt mười ba châu, quận, đốc, phủ, nhưng chưa từng có phủ Sa Đà, chỉ có các bộ lạc như Xử Thân, Xử Mật nhưng chỉ là bộ lạc nhỏ. Chu Da là tên khác của bộ lạc Xử Thân. Đến thời Hiến Tông mới có Chu Da. Dòng họ này rất trung thành, đến khi Chấp Nghi xuất hiện ở Trung Quốc tự lấy hiệu Sa Đà, lấy Chu Da làm họ. (Sa Đà có nghĩa là bãi Sa mạc mênh mông). Từ Xử Thân đến nay, đời đời họ ở nơi Sa mạc này, nên lấy hiệu Sa Đà. Con cháu dòng Đột Quyết rất tận trung, được Đế ban cho họ Lý. Họ Lý lớn mạnh trở lại, và Di Địch liền lấy Sa Đà là dòng tôn quý.

* Tông Tào Động: Thiền sư Động Sơn ở Thụy châu, Giang Tây. Sư họ Du, húy Lương Giới, người Cối Kê, Việt châu. Sư xuất gia từ nhỏ, theo thầy tụng kinh Bát-nhã, đến câu "Không mắt tai mũi lưỡi thân ý", Sư lấy tay sờ mặt mình và hỏi thầy: "Con có mắt tai mũi lưỡi, sao lại bảo là không?" Thầy Sư thất kinh nói: "Ta không phải là thầy của ông!" Và chỉ sư đến lạy Thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ Tiết thế phát. Năm hai mươi mốt tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ Cụ túc, du phương. Đầu tiên, Sư yết kiến Nam Tuyền, kế đó tham vấn Quy Sơn. Quy Sơn chỉ Sư và nói: "Trong các thất đá nối dài ở huyện Du, Phong Lăng gần đây, có đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt được ông kính trọng.

Thế là Sư thẳng đến Vân Nham, hỏi:

- Vô tình thuyết pháp người nào được nghe?

Vân Nham đáp:

Vô tình được nghe!

- Hòa thượng nghe không?

- Nếu ta nghe, ông đâu thể nghe ta nói pháp.

- Tại sao con chẳng nghe?

Vân Nham dựng đứng phất tử hỏi: Có nghe không?

Sư đáp: Chẳng nghe!

- Ta nói pháp mà ông còn chẳng nghe được huống gì là vô tình nói pháp!

- Vô tình nói pháp gồm kinh điển nào?

- Ông đâu không thấy kinh Di-đà ghi: "Nước, chim, cây, rừng đều niệm Phật, niệm Pháp!

Ngay đây Sư tỉnh ngộ, liền làm bài kệ:

Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay!
Vô tình nói pháp chẳng nghĩ bàn
Nếu lấy tai nghe trọn khó hiểu
Phải lấy mắt nghe mới biết, hay.

Sư từ giã Vân Nham ra đi. Cuối năm Đại Trung, đời Tuyên Tông, tại núi Tân Phong, Sư tiếp nhận dạy dỗ học chúng, hoằng hóa mạnh ở Động Sơn, Cao An, Dự Chương, quyền mở năm vị, khéo tiếp ba căn, một âm mở ra, bao la muôn loại, rút ngang kiếm báu chặt hết rừng rậm tà kiến, khéo khai mở giáo pháp cắt đứt vạn mối, lại lãnh hội được ý chỉ thâm sâu của Tào Sơn, khéo diễn lý mầu, đạo hợp vua tôi, dung nhiếp thiên chánh. Bởi vậy tông phong của Động Thượng (từ ngài trở về trước) bủa khắp thiên hạ, nên các bậc tông tượng khắp nơi suy tôn đây là tông Tào Động. Đến lúc này, Hàm Thông thứ mười, tháng hai, Sư quy tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, tăng lạp bốn mươi hai hạ. Đế ban cho Sư thụy Ngộ Bản Thiền sư, tháp hiệu Tuệ Giác.

* Thiền sư Tào Sơn ở phủ Châu lộ, Giang Tây: Sư họ Hoàng, húy Bản Tịch, người Bổ Điền, Tuyền Châu. Từ nhỏ Sư theo nghiệp Nho, mười chín tuổi xuất gia ở Linh Thạch, Phước Châu. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọ Cụ túc, yết kiến Động Sơn. Động Sơn hỏi:

- Xà-lê tên gì? Sư đáp:

Bản Tịch!

- Cái gì?

- Không phải tên Bản Tịch.

Động Sơn rất hứa khả, từ đó Sư vào thất. Sư hầu hạ Động Sơn vài năm rồi từ giã ra đi. Động Sơn liền ngầm trao tông chỉ của Động thượng. Sư đến thẳng Tào Khê lễ tháp Lục tổ rồi quay về Cát Thủy. Học chúng nghe danh, thỉnh Sư khai pháp. Sư mến mộ Lục tổ Tào Khê nên gọi núi mình ở là Tào sơn. Sau, gặp phải giặc loạn, Sư đến Nghi Hoàng. Tại đó có Tín sĩ Vương Nhược Nhất cúng Hà Vương quán thỉnh Sư trụ trì. Sư đổi Hà Vương thành Hà Ngọc. Từ đó pháp tịch rất thịnh, người học đổ về, tông Động Sơn đến đời Sư rất thịnh. Chiêu Tông, niên hiệu Thiên Phục năm đầu, ngày rằm tháng sáu, Sư nói với môn nhân: "Giờ Thìn ngày mai Tào Sơn đi hành cước!" Đúng ngày giờ đó, Sư đốt hương, ngồi ngay thẳng mà tịch, thọ sáu mươi hai tuổi, tăng lạp ba mươi bảy hạ. Đồ chúng an táng chân thân Sư ở gò tây của núi này. Đế ban Sư thụy Nguyên Chứng Thiền sư, tháp hiệu Phước Viên. Sư nối pháp của Động Sơn Lương Giới, Giới nối pháp Vân Nham Đàm Thạnh, Thạnh nối pháp Dược Sơn Duy Nghiễm, Nghiễm nối pháp Thạch Đầu Hy Thiên, Thiên nối pháp Thanh Nguyên

Hành Tư, Hành Tư nối pháp của Lục Tổ Đại Giám. Canh Dần: Hàm Thông năm thứ mười một, tháng mười một, ngày sinh của Đế, Đế triệu Đại đức tăng của Lưỡng Nhai vào cung giảng đạo. Đế hài lòng, ban y tía cho Đàm Hiển v. v.. cả thảy mười người, ban cho Luật Sư Đạo Tuyên ở Chung Nam, Vĩnh Hưng hiệu là Trừng Chiếu Luật Sư.

* Tướng quốc Bùi Hưu: Ông mất năm Canh Dần, niên hiệu Hàm Thông thọ bảy mươi bốn tuổi. Ông lấy lễ đệ tử, lạy thờ Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận, tỏ ngộ tâm yếu. Ông húy là Hưu, tự Công Mỹ, người Gian Hỷ, Mạnh Châu, hà Đông. Thuở nhỏ, ông và anh em cùng ở ẩn, ngày giảng kinh đêm viết sách. Lúc có thịt nai, ông không ăn và nói: "Ăn rau còn chưa đủ, nay được một lần ăn thịt, ngày sau biết lấy đâu ăn tiếp!" Đến khi đỗ tiến sĩ, nhiều lần được thăng chức. Ngày ông nhậm chức Thứ sử Hồng châu, ông vào chùa Long Hưng nhìn bức họa trên vách và than: "Nghi dung còn đây, Cao tăng ở đâu!" Chúng không ai đáp được. Ông nói: "Ở đây có Thiền tăng không?" Lúc ấy Thiền sư Hy Vận bỏ học chúng ở núi Hoàng Bá, Lãnh Nam đến tinh xá Đại An giấu mình, làm người chấp lao phục dịch, không ai hay biết. Khi ông hỏi, có người đáp: "Có một Thiền giả!" Ông cho mời đến, cũng hỏi như trước, Hy Vận lớn tiếng gọi: "Bùi Hưu!" Ông ứng thanh dạ. Vận hỏi: "Ở chỗ nào?" Ông hoát nhiên khế ngộ, liền thỉnh Hy Vận vào phủ, sớm tối hỏi đạo. Ông được chuyển đến trấn giữ Uyển Lăng, thỉnh Hy Vận cùng đi. Ông làm quan dưới thời Tuyên Tông.

* Thiền sư Vân Cư: Sư họ Vương, húy Đạo Ưng, người Ngọc Điền, U châu. Thuở nhỏ, Sư xuất gia ở chùa Diên Thọ, Trác châu. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọ đại giới. Thầy Sư bắt Sư học giới luật Thanh văn, không phải điều mình ưa, nên Sư bỏ không học mà du phương đến Thúy Vi. Nghe pháp tịch của Động Sơn hưng thịnh Sư đi đến và khế ngộ tông chỉ, dựng am trên núi Tam Phong, qua mười ngày chẳng xuống trai đường. Thiền sư Động Sơn dò xem thấy mỗi ngày có một Thiên thần đến cúng thức ăn. Động Sơn nói với Sư: "Không ngờ ông lại là người còn những thứ kiến giải này". Động Sơn lớn tiếng gọi: "Ưng am chủ!" Sư liền dạ. Sơn hỏi: "Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?" Sư tỉnh ngộ, trở về am nhập định, Thiên thần tìm mãi chẳng thấy, ba ngày sau thôi cúng thức ăn. Động Sơn khuyên Sư nên tùy nơi tiếp người, Sư liền đốt am này đến Hải Hôn, lên đồi ở Tây Bắc Lô Sơn, Âu Phụ, vốn là nơi cao ngất trong các núi. Sư dựng am ở, lấy hiệu là Vân Cư. Học chúng cũng tìm kiếm đến, ở dưới tán cây khắp trên núi, lâu ngày trở thành tòng lâm. Lúc này, Hàm Thông năm thứ mười ba, nơi đây trở thành pháp tịch, học chúng lên đến một ngàn năm trăm người. Sư xiển dương tông chỉ Động Sơn suốt ba mươi năm, tông phong lan khắp thiên hạ. Nam Xương Vương Chung Phó Sư rất tôn kính Sư. Ngày hai mươi tám tháng mười hai, niên hiệu Thiên Phục năm đầu, đời Chiêu Tông, Sư khai thị cho chúng phương tiện sau cùng nêu bày ngọn nguồn xuất thế. Mồng ba tháng giêng năm sau, Sư ngồi ngay thẳng quy tịch. Đế ban Sư thụy Hoằng Giác Thiền Sư, tháp hiệu Viên Tịch.

Đế ở trong cung mỗi tháng cúng dường cả vạn tăng, tự tay soạn bài tán tụng.

Quý Tỵ: Hàm Thông năm thứ mười bốn, tháng ba, Đế nghinh đón xá-lợi Phật từ chùa Pháp Môn ở Phụng Tường, mồng tám tháng tư, đoàn người về đến Kinh đô, Đế ngự ở cửa lầu An Phước nghinh bái, dẫn vào đạo tràng trong cung cúng dường ba ngày, nghinh đến các chùa trong kinh thành. Tháng bảy Đế mất, Thái tử lên ngôi. Tháng tư năm sau, Đế hạ chiếu nghinh xá-lợi về lại Phụng Tường. Già trẻ trong Kinh đô đều khóc tiễn.

* Hy Tông: Tên là Hoàn, con năm thứ năm của Ý Tông, ban đầu được phong Tấn Vương. Y Tông bệnh, lập ông làm Hoàng Thái tử, ông ở ngôi mười lăm năm, thọ hai mươi bảy tuổi. Niên hiệu Càn Phù sáu năm, Quảng Minh một năm, Trung Hòa bốn năm, Quang Khải ba năm, Văn Đức một năm.

-Giáp Ngọ: Càn Phù năm đầu. Lúc này Vương Tiên Chi, người Bộc châu, Đông Xương lộ, bắt đầu quy tụ mấy ngàn người nổi lên ở Trường Viên. Năm Càn Phù năm thứ hai, Hoàng Sào cũng tụ tập hơn ngàn người hưởng ứng với Vương Tiên Chi. Thuở nhỏ, Sào và Tiên Chi vốn làm nghề buôn muối. Sào giỏi cỡi ngựa bắn cung, thích sách truyện kiếm khách giang hồ, nhiều lần thi tiến sĩ nhưng không đỗ, bèn làm đạo tặc, cùng Tiên Chi cướp phá châu huyện, hoành hành ở Sơn Đông. Dân khốn khó được thu nạp, trọng dụng nên họ đua nhau về với Sào, Chi. Chỉ trong mấy tháng, quân số này đã lên mấy vạn. Càn Phù năm thứ năm, chiêu thảo sứ Tăng Nguyên Dụ đại phá Tiên Chi ở Hoàng Mai, đuổi chém được Tiên Chi. Hoàng Sào cũng vừa đánh Hào châu, dư đảng của Tiên Chi là Thượng Nhượng dẫn tàn quân về với Sào, tôn Sào làm chủ, lấy hiệu Xung Thiên Đại Tướng Quân, lấy năm Vương Bá năm đầu, đặt các quan, vây hãm Phúc Kiến. Càn Phù năm thứ sáu, mùa Đông, Sào đến Tương Dương. Tháng mười một, Sơn Đông đạo Tiết độ sứ và Giang Tây chiêu thảo sứ Tào Toàn Thánh hợp binh đóng tại Kinh Môn để chống trả. Sào thua to, chạy về bắc lên Giang Lăng. Quân bị bắt sống bị chém hết bảy, tám phần. Sào cùng Thượng Nhượng nhặt lấy tàn quân chạy qua Giang Đông. Uy thế của Sào lớn mạnh lại. Sào liên tục cướp phá các châu: Nhiêu, Tín, Trì Tuyên, Hấp, Hàng v. v.. cả thảy mười lăm châu, quân số lên đến hai mươi vạn. Tháng mười một, Quảng Minh năm đầu, Sào vây hãm Đông Đô. Tháng mười hai, Nhâm Ngọ, quân Sào đánh phá Đồng Quan. Quân ở Quan thượng tan vỡ. Trung quan Điền Lệnh Tư đưa Đế ra khỏi Kim Quang, chỉ có bốn vương là Phước, Mục, Đàm, Thọ và mấy phi tần đi theo, trăm quan chẳng ai hay biết. Sào vào Trường An, Đế đến Hưng Nguyên rồi vào đất Thục. Canh Dần, Sào giết Tông thất nhà Đường ở Trường An. Nhâm Thìn, Sào lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Tề, xưng Kim Thống năm đầu. Năm Trung Hòa năm thứ hai, Đồng châu phòng ngự sứ Chu Ôn là tướng của Sào nhiều lần xin Sào cho viện binh để trấn giữ Hà Trung nhưng Sào không cho. Ôn thấy quân Sào ngày càng suy yếu, biết mình sắp chết. Thân tướng của ông là Hồ Chân, Tạ Đồng khuyên Ôn về nước. Tháng chín, Ôn giết Giám Quân của mình là Nghiêm Thật và đem châu ra hàng. Chư Đạo Hành Dinh Đô Thống Vương Đạc thừa lệnh Đế cho Ôn làm Đồng hoa Tiết độ sứ. Không bao lâu, lại ban Ôn tên Toàn Trung. Hà trung lưu hậu Vương Trọng Vinh, Hành dinh đô giám Dương Phục Quang, Đông diện tuyên úy Sứ Vương Huy, chư đạo hành dinh đô thống Vương Đạc cùng bàn kế đánh giặc. Phục Quang nói: "Lý bộc xạ ở Nhạn môn (chỉ Khắc Dụng) là người dũng mãnh lại có binh mạnh, triệu ông ấy đến thì giặc lo gì không phá được!" Lúc này Vương Đạc ở Hà Trung mới viết chiếu cho triệu Khắc Dụng. Tháng mười một, Khắc Dụng dẫn một vạn bảy ngàn quân Sa Đà đến thẳng Hà Trung. Tháng ba, năm Trung Hòa năm thứ ba, Khắc Dụng tiến quân đến Vị Kiều đánh nhau với Sào ở Vị Nam. Quân giặc thua to bỏ chạy.

Tháng tư, Khắc Dụng từ Quang Thái Môn vào Kinh Sư. Quân Sào liệu đánh không thắng nên đốt cung thất rồi trốn đi. Lúc này Khắc Dụng mới hai mươi tám tuổi. Phá giặc Sào, khôi phục Trường An, công của Dụng đứng đầu. Đế hạ chiếu cho Khắc Dụng làm Hà Đông Tiết độ sứ. Mùa Xuân tháng hai, Trung Hòa năm thứ tư, Sào chạy đến vây Trần châu. Lý Khắc Dụng dẫn binh của các châu Biện, Từ, Cổn đến ứng cứu. Tháng năm, Sào dẫn quân lên đông bắc nhắm Biện Châu. Khắc Dụng đuổi quân Sào đến Trung Mâu đại phá quân giặc. Tướng của Sào là Thượng Nhượng dẫn quân ra hàng Khắc Dụng. Khắc Dụng đuổi đến Oan Cú (nơi Sào ở), lương hết đành quay về Biện Châu, dựng doanh ở ngoài thành. Chu Toàn Trung cố mời ông vào thành, cho ở tại trạm dịch Thượng Nguyên. Toàn Trung đặt tiệc rượu, Khắc Dụng mượn rượu nói năng hơi xấc xược, Toàn Trung bất bình, kéo quân vây trạm dịch đánh Khắc Dụng. Khắc Dụng leo lên thành mới thoát ra ngoài. Tháng sáu, tướng ở Vũ Ninh là Lý Sư Duyệt đuổi đánh Sào đến Hà Khâu. Sào thua, quân sĩ đều chạy hết đến hang Lang Hổ. Cháu ngoại của Sào là Lâm Ngôn chém đầu của Sào, anh em vợ con hắn đem ra hàng. Quân Sào khởi binh năm Càn Phù năm thứ hai, đến tháng bảy Trung Hòa năm thứ tư bị diệt vong.

* Mục Châu Trần Tôn Túc: Sư là con cháu họ Trần, húy Đạo Minh, người Giang Nam, từ nhỏ xuất gia tại chùa Khai Nguyên, trì giới tinh nghiêm, học thông Tam tạng. Sư du phương, đến Hoàng Bá, khế ngộ yếu chỉ, được làm Thủ tòa. Đại chúng thỉnh Sư trụ ở viện Quán Âm, chúng đến hơn trăm người. Sư ở đây mấy mươi năm, khắp nơi mến mộ quy tụ, đều gọi Sư là Tôn Túc. Sau, Sư về Khai Nguyên ở tăng phòng, bện giày cỏ Bồ bán nuôi mẹ, nên có người gọi Sư là Trần Bồ Hài.

Thiên sứ đến hỏi Sư:

- Ba cửa đều mở, theo cửa nào vào? Sư gọi:

Thượng thư!

Sứ ứng thanh dạ. Sư nói: Từ cửa tín mà vào.

Sư đang xem kinh, Thượng thư Trần Tháo đến hỏi:

- Hòa thượng xem kinh gì vậy?

- Kinh Kim Cang.

- Sáu triều phiên dịch, đây là bản thứ mấy? Sư đưa cuốn kinh lên nói:

"Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng!"

Đến lúc này, Càn Phù năm thứ tư, Sư nói với môn nhân: "Ở đây duyên hết, ta phải đi!" Nói rồi, Sư kiết già thị tịch. Người trong quận lấy củi thơm hỏa táng, xá-lợi như mưa, họ thâu linh cốt, đúc tượng Sư trong chùa. Sư thọ chín mươi tám tuổi, tăng lạp bảy mươi sáu hạ. Sư nối pháp của Hoàng Bá Hy Vận, Vận nối pháp của Bá Trượng Hoài

Hải.

- Kỷ Hợi: Càn Phù năm thứ sáu, Canh Tý:

Quảng Minh năm đầu.

Tân Sửu Trung Hòa năm đầu.

* Thiền sư Nguyên An, núi Lạc Bồ, Lễ Dương: Sư quê ở Lân Du, Phụng Tường, xuất gia từ nhỏ, thọ Cụ túc giới trì Luật nghiêm mật, thông tỏ Kinh Luận. Năm này, Sư tham vấn Lâm Tế Nghĩa Huyền và được làm thị giả. Sau, Sư qua Giáp Sơn dựng am ở. Tháng tám, Chiêu Tông, Quang Hóa năm đầu, Sư dặn môn nhân: "Phép tắc xuất gia, chẳng giữ vật lớn, huống những thứ khác, khẩn thiết trong niệm, thời gian qua mau, đạo lớn sâu mầu, nếu chểnh mảng lơ là thì dựa vào đâu mà ngộ thể!" Đến mồng một tháng mười hai, Sư ngồi yên thị tịch. Sư nối pháp của Giáp Sơn Thiện Hội.

* Thiền sư Giáp Sơn ở Lễ châu: Sư họ Liêu, húy Thiện Hội, người Quảng châu, từ nhỏ xuất gia, đủ tuổi thì thọ giới, nghe học Kinh Luận, thông tỏ Tam học, xuất chúng đến ở Hạc Lâm, Nhuận Châu. Nhờ Đạo Ngô chỉ bảo, Sư đến tham vấn Thiền sư Thuyền Tử Đức Thành ở Hoa Đình và khế ngộ tâm yếu, kính nhận di mệnh, quên đời quên duyên. Trong năm Hàm Thông đời Ý Tông, Sư trụ ở Phong châu, người học theo về, chọn Giáp Sơn làm đạo tràng, nơi đây thành chùa viện. Đến lúc này, Trung Hòa năm đầu, mồng bảy tháng mười một, Sư quy tịch. Môn nhân an táng Sư ở núi này. Đế ban Sư thụy Truyền Minh Đại Sư. Sư nối pháp của Thuyền Tử Đức Thành.

- Nhâm Dần: Trung Hòa năm thứ hai, Chung Phó chiếm Giang Tây.

- Quý Mão: Trung Hòa năm thứ ba, Lý Khắc Dụng thu lại Kinh sư.

Thác Bạt Tư Cung đem binh đến cứu quốc nạn, đó là loạn Hoàng Sào. Triều đình cho Tư Cung nắm quyền Hạ Tuy Tiết độ sứ, ban cho họ Lý.

- Giáp Thìn: Trung Hòa năm thứ tư, Hoàng Sào đã diệt vong. Mùa thu tháng bảy, Lý Khắc Dụng đến Tấn Dương, sai sứ vào kinh dâng biểu, nói Chu Toàn Trung ganh công, ghét người tài, về sau là mối họa của đất nước. Khắc Dụng dâng tám điều, xin được giết Toàn Trung. Đế bảo: "Việc loạn vừa xong, hãy giữ việc lớn!" Đế hạ chiếu khen thưởng Khắc Dụng để giải hòa. Lúc này, Chiết Đông xảy ra bệnh dịch, nạn đói. Thiền sư Ấu Chương ở Phổ Hiền sám viện thuộc Minh châu đã đi nhặt và chôn cất đến mấy ngàn thi thể của người chết do đói khát, bệnh dịch của ba quận Thai, Ôn, Minh. Người đương thời gọi Sư là Tăng Bi Bồ-tát.

- Ất Tỵ: Quang Khải năm đầu, tháng hai, Đế về đến Kinh Sư, đổi niên hiệu. Trung Quan Điền Lệnh Tư càng chuyên quyền. Hà Trung Tiết độ sứ Vương Trọng Vinh nhiều lần dâng biểu vạch tội ác của Tư. Trọng Vinh báo với Lý Khắc Dụng dẫn binh vào bắt. Tháng mười hai, Khắc Dụng đem binh vây kinh thành, đang đêm Điền Lệnh Tư đưa Đế ra cửa Khai Viễn chạy đến Phụng Tường. Tháng giêng mùa xuân năm Quang Khải năm thứ hai, Điền Lệnh Tư xin Đế xa giá đến Hưng Nguyên, Đế không đi. Đêm ấy, Lệnh Tư dẫn quân vào cướp Đế đưa đến Bảo Kê. Tể tướng triều thần chẳng hay biết. Khi đến Bảo Kê, để Dương Thành giữ Tán Quan rồi mới đưa Đế vào. Vừa vào Tán Quan, Bân Ninh Tiết độ sứ Chu Mai đã vây Bảo Kê rồi. Tương Vương Ôn là huyền tôn của Túc Tông quá gấp theo Đế nên không kịp để tin lại các trạm dịch dọc đường, đã bị Chu Mai lấy hết rồi đưa luôn về Phụng Tường. Tháng ba, Mai đưa Tương Vương đến Hưng Nguyên, ép các quan phải phụng Tương Vương Ôn lên nắm hết việc quân việc nước. Trăm quan ở Trường An, Thái tử Thái phó Bùi Cừ v. v.. khuyến tán Tương Vương Ôn nắm việc rồi lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Kiến Trinh, xa tôn Đế làm Thái Thượng Nguyên Hoàng Đế. Quán Quân Dung Sứ Dương Phục Cung truyền hịch đến Quan Trung, rằng ai chém đầu Chu Mai sẽ thưởng chức Tĩnh Nan Tiết độ sứ. Tướng của Mai là Vương (Hành Du bắt Mai chém, Tương Vương chạy đến Hà Trung, Vương Trọng Vinh...) Trọng Vinh giả đi nghinh mới bắt Ôn đem giết. Đế hạ chiếu cho Hành Du làm Tĩnh Nan Quân Tiết độ sứ.

* Thiền sư Linh Vân: Húy Chí Cần, người Trường khê, Phước Châu. Sư nối pháp Trường Khánh An, An nối pháp Bá Trượng. Sư ở Quy Sơn, nhân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo, sau về lại Phước Châu, ngụ ở Linh Vân.

-Năm này, Tiền Lưu (Ngô Việt Vương) có công đánh Đổng Xương, được giữ chức Hàng châu Thứ sử.

* Thiền sư Nham Đầu ở Ngạc châu: Sư họ Kha, húy Toàn Khoát, người Tuyền Châu, từ nhỏ lạy Thanh Nguyên Nghị Công thế phát, thọ giới tại chùa Bảo Thọ, Trường An, học Kinh Luận của các bộ, nhàn hạ trong vườn Thiền. Sau, Sư tham vấn Đức Sơn, khế ngộ huyền chỉ, trụ ở Nham Đầu. Gặp lúc Vũ Tông phế diệt Phật giáo, Sư sống ẩn bên hồ làm người chèo đò. Sau đó, Sư dựng am ở núi Ngọa Long, Động Đình, người học đổ về. Lúc này, Quang Khải năm thứ ba, mồng tám tháng Sư quy tịch. Môn nhân trà-tỳ thâu bốn mươi chín hạt xálợi, dựng tháp cúng dường. Đế ban Sư thụy Thanh Nham Thiền Sư, Sư nối pháp của Đức Sơn Tuyên Giám, Giám nối pháp Long Đàm Sùng Tín.

* Thiền sư Thạch Sương ở Đàm châu: Sư họ Trần, húy Khánh Chư, người Tân Phủ, Kiết Châu,

Giang Tây, theo Thiền sư Thiệu Loan ở Tây Sơn, Hồng Tỉnh thế phát, đến Lạc Hạ học giới luật, đến Quy Sơn giữ chức tri khố. Một hôm, Quy Sơn nhặt một hạt thóc, nói với Sư: "Chớ coi thường hạt này, trăm ngàn hạt khác từ hạt này sinh". Sư thưa: "Trăm ngàn hạt khác từ hạt này sinh, chưa rõ hạt này từ đâu sinh!" Quy Sơn cười ha hả rồi quay về phương trượng. Đến tối, Quy Sơn thượng đường nói: "Trong hạt thóc có trùng, các ông xem kỹ". Sau, Sư tham Đạo Ngô Trí Thiền Sư, ngầm khế tâm yếu. Nhân tránh loạn, Sư trà trộn trong dân, sống ở phường đồ gốm ở Lưu Dương, Trường Sa, chẳng ai hay biết. Nhân có vị Tăng nhắc chuyện ngày giải hạ Động Sơn thượng đường nói: "Cuối hạ đầu thu, huynh đệ đi đông đi tây, phải chỗ muôn dặm không tấc cỏ mà đi". Sư đáp: "Ra khỏi cửa đã là cỏ rồi!" Động Sơn nghe được nói: "Đó là lời bậc Thiện tri thức của một ngàn năm trăm người!" Từ đó tiếng tăm Sư lan khắp. Đế nghe đạo hạnh của

Sư, khen và ban cho y tía. Sư chối từ không nhận. Đến lúc này, Quang Khải năm thứ ba, Sư quy tịch, môn nhân an táng ở Tây bắc viện. Đế ban Sư thụy Phổ Hội Đại Sư. Sư nối pháp Đạo Ngô Tông Trí, Trí nối pháp Dược Sơn Duy Nghiễm, Nghiễm nối pháp Thạch Đầu Hy Thiên, Thiên nối pháp Thanh Nguyên Hành Tư.

-Mậu Thân: Văn Đức năm đầu, tháng hai, Đế từ Phụng Tường về kinh, tháng ba, nhuốm bệnh, Nhâm Dần bệnh nặng. Hoàng đệ Cát Vương Bảo lớn và tài giỏi, quần thần rất hy vọng. Thập quân quán quân dung sứ Dương Phục Cung xin lập em ông là Thọ Vương Kiệt làm Hoàng thái đệ. Quý Mão, Đế mất, di chiếu cho Thái đệ Kiệt, đổi tên là Mẫn lên ngôi Hoàng Đế. Vương Kiến chiếm Tây Xuyên.

* Chiêu Tông: Con năm thứ bảy của Ý Tông, ban đầu được phong Thọ Vương. Ông tên Kiệt, lại đổi tên Mẫn. Long Kỹ năm đầu đổi tên là Hoa, ở ngôi mười sáu năm, thọ ba mươi tám tuổi. Niên hiệu Long Kỹ một năm, Đại Thuận hai năm, Cảnh Phước hai năm, Càn Ninh bốn năm, Quang Hóa ba năm, Thiên Phục bốn năm.

- Kỷ Dậu: Long Kỷ năm đầu, tháng mười một, Đế đổi tên Hoa. Đế sắp đi tế tự ở Viên Khâu, Trung úy khu mật đều mặc áo tế theo hầu giống như trước đây. Trong đời Hy Tông, đã chế đủ đai, hốt. Đến lúc này, Đế sai Hữu Ty chế pháp phục. Khổng Vỹ và các gián quan đều bàn không nên. Đế đến ngự lễ và nói: "Điều các khanh bàn là việc xác đáng thì phải làm theo, chớ chấp tiểu tiết mà ngăn ngại đến đại thể". Từ đó hoạn quan bắt đầu đeo kiếm đứng hầu tế tự.

- Canh Tuất: Đại Thuận năm đầu. Tân Hợi: Đại Thuận năm thứ hai, Dương Hành Mật chiếm Dương châu.

* Thiền sư Thiên Khoảnh ở Hàng châu: Sư họ Trương, húy Sở Nam, người Phước châu, đắc yếu chỉ từ Hoàng Bá. Đầu tiên Sư đến chùa Báo Ẩn Cô Tô tinh tu Thiền định hơn hai mươi năm, chưa từng đặt chân vào xóm. Sau, Sư trụ ở Từ Vân, núi Chi Hình, Tiền Đường. Tuy ứng duyên không mỏi mệt, nhưng thường trụ trong định khi cả tháng, lúc cả tuần. Hy Tông, trong năm Quang Khải, Thứ sử Tiền Lưu thỉnh Sư xuống núi cúng dường. Hy Tông nghe đạo hạnh Sư liền ban cho y tía. Hy Tông, Văn Đức năm đầu, tháng năm Sư quy tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi, tháp ở phía Tây viện. Sư soạn Phá Tà Luận lưu hành ở đời. Sư nối pháp Hoàng Bá Hy Vận. Lúc này, Đại Thuận năm thứ hai, Tôn Nho ở Tuyên châu cướp phá Tiền Đường đến mở tháp nhìn Sư, thấy toàn thân Sư không hoại; tóc, móng, dài thêm, liền bái tạ sửa tháp rồi đi.

- Nhâm Tý: Cảnh Phước năm đầu, tháng tám, cho Dương Hành Mật làm Hoài Nam Tiết độ sứ. Lịch Tuyên Minh sai sót, Thái tử Thiếu Chiêm Sự Biên Cang soạn xong lịch mới. Tháng mười hai, Đế sai ông đặt tên là lịch Cảnh Phước Cảnh Huyền.

- Quý Sửu: Cảnh Phước năm thứ hai, cho Du châu Thứ sử Liễu Tỳ làm Lự châu Thứ sử. Họ Liễu từ Công Xước đến nay, đời đời sống trong hiếu để, lễ phép nên được sĩ đại phu kính ngưỡng. Tỳ làm ngự sử đại phu, Đế muốn cho ông làm Thừa Tướng, bọn hoạn quan ghét ông nên gièm pha ông ngoài triều. Tỳ từng dạy con, em mình rằng: "Phàm đất và cửa cao là chỗ đáng sợ chứ không phải đáng tựa. Lập thân vinh hiển, nếu một việc lỗi lầm thì đắc tội nặng với người khác, chết đi không còn mặt mũi nào nhìn tiền nhân nơi chín suối. Đó mới là điều đáng sợ. Cửa cao thì kiêu mạn dễ sinh, tộc thịnh thì bị người ghen ghét. Việc làm tốt, tài năng thật người ta khó tin, nhưng có lỗi lầm nhỏ thì họ vạch ra liền. Đó là lý do không thể tựa. Thế nên những con em đã vinh hiển, học phải cần mẫn thêm, hành phải siêng năng nữa, chỉ được so lỗi với người khác".

- Vương Triêu chiếm Phước châu xưng Lưu Hậu. Vương Dung cát cứ Trấn Định, xưng Triệu Vương. Lưu Nhân Cung lúc này đang làm U Châu Lô Long Tiết độ sứ đã xưng Yên Vương.

- Giáp Dần: Càn Ninh năm đầu, Sa-môn Quán Hưu vào đất Thục, làm thơ dâng Thục Vương rằng: "Một bình một bát già sắp đến, muôn sông muôn núi một mình đi". Thục Vương tiếp đãi ngài rất trân trọng, còn cho quan tước, bổng lộc. Thiền Nguyệt Đại Sư là hiệu mà Thục Vương ban cho ngài. Đến Hậu Đường Trang Tông năm Đồng Quang năm thứ ba, ngài quy tịch.

+ Cao Tăng Tề Tỵ người đất Thục, từ nhỏ theo Quy Sơn Linh Hựu xuất gia, lúc này Thiền sư Tuệ Tịch trụ ở Viện Quán Âm, Dự Chương, Tỵ tổng quản mọi việc. Ngài có bài "Cháo rau" rằng: "Cháo là thuốc hay, Phật thường khen ngợi, nghĩa vượt ba đàn, công hơn mười lợi, ai cầu anh triết, liền toại tâm nguyện, đủ đầy thanh thản, trọn bồi tịnh nghiệp". Về sau, Sư thị tịch ở Kim Cổ, Tây Sơn, tháp hiện vẫn còn. Long Bàn chính là Thư đường của ngài.

- Ất Mão: Càn Ninh năm thứ hai. Năm sau, Mã Ân chiếm Hồ Nam, Hàng châu. Tiền Liêu trấn luôn Chiết Tây, Chiết Đông. Lý Mậu Trinh xua quân vào Kinh sư, Đế chạy đến Hoa châu. Mậu Trinh vào Trường An đốt trụi cung thất, phố xá.

- Bính Thìn: Càn Ninh năm thứ ba, tháng giêng, Thiền sư Cửu Phong Huyền dạy chúng: "Chớ để thời gian qua vô ích, chớ để tiêu của tín thí vô ích, đã là người xuất gia đạt đạo mới xứng là Đại trượng phu". Nói xong, Sư lặng lẽ nhập định, đến ngày hai mươi tháng ba, Sư quy tịch.

- Đinh Tỵ: Càn Ninh năm thứ tư, Mân Súy Vương Triêu chết, em là Thẩm Tri lên thay, cát cứ đất này.

* Thiền sư Triệu Châu: Sư họ Hác, húy Tùng Thẩm, quê ở làng Hác, Tào Châu. Từ nhỏ, Sư theo thầy ở viện Hỗ Thông trong châu này thế phát. Chưa thọ giới, Sư đã đến Trì Dương tham vấn Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện. Tuyền rất hứa khả. Một hôm Sư hỏi:

- Thế nào là đạo? Tuyền đáp:

Tâm bình thường là đạo.

- Có thể nhắm tới không?

- Vừa nhắm tới đã trái.

- Không nhắm tới làm sao biết được là đạo?

- Đạo không thuộc biết hay chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu quả thật đạt được cái đạo không nghi thì giống như hư không rỗng rang, mênh mông, lẽ đâu gượng lập đúng sai chăng!

Ngay đây, Sư ngộ lý, liền qua giới đàn Lưu Ly ở Tung Nhạc thọ giới, rồi về lại Nam Tuyền. Qua một thời gian, đại chúng thỉnh Sư trụ ở viện Quán Âm, Triệu châu, đạo pháp hưng thịnh một thời. Sư có làm bài ca mười hai thời, kệ tụng, cơ duyên, ngữ lục đều lưu hành ở đời. Có vị Tăng mới đến, Sư hỏi:

- Từng đến đây chưa?

- Chưa từng đến.

Sư bảo: Uống trà đi! Lại hỏi vị Tăng khác:

Từng đến đây chưa? Tăng đáp:

Từng đến rồi! Sư bảo:

Uống trà đi!

Viện chủ thấy vậy hỏi:

Vì sao người từng đến thầy cũng bảo uống trà đi, người chưa từng đến thầy cũng bảo uống trà?

Sư gọi: Viện chủ!

Viện chủ ứng thanh dạ, Sư bảo: Uống trà đi!

Lúc này, Chân Định súy Vương Dung xưng Triệu Vương, Lô Vương Tiết độ sứ Lưu Nhân Cung xưng Yên Vương, hai Vương đều rất kính lễ Sư. Đến lúc này, Càn Ninh năm thứ tư, mồng hai tháng mười một, Sư nằm nghiêng bên phải, an nhiên quy tịch, thọ một trăm hai mươi tuổi. Đế ban Sư thụy Chân Tế Đại Sư. Sư nối pháp Nam Tuyền Phổ Nguyện. Phổ Nguyện nối pháp của Mã Tổ.

- Mậu Ngọ: Quang Hóa năm đầu, đế xá tội Lý Mậu Trinh. Tháng tám, Đế xa giá từ Hoa châu về Kinh sư.

- Kỷ Mùi: Quang Hóa năm thứ hai, Thiền sư Huyền Vỹ ở Hoa Nhạc biên tập cơ duyên Thiền Tông của các Thiền sư từ Đức Tông năm Trinh Quán đến nay, lấy tên là Thánh Trụ tập.

* Thiền sư Vô Trước ở Hàng châu: Sư họ Chu, húy Văn Hỷ, người Gia Hưng. Năm bảy tuổi, Sư theo ngài Quốc Thanh chùa Thường Lạc trong ấp này xuất gia, thế phát, học luật nghe giảng. Khi Vũ Tông hủy diệt Phật giáo, Sư mặc đồ thường dân mai danh ẩn tích. Trong năm đầu đời Tuyên Tông, Sư tu lại ở chùa Tề Phong, Diêm Quan. Sư đến Ngũ Đài lễ Văn-thù, giữa đường gặp ông lão dắt trâu đi, ông mời Sư vào chùa. Ông thả trâu rồi dẫn Sư vào nhà. Ông ngồi xếp bằng trên đơn, chỉ một cái đôn thêu bảo Sư ngồi. Ông già hỏi:

- Thầy từ đâu đến? Sư đáp:

Phương Nam!

- Phương Nam Phật pháp thế nào?

- Thời mạt pháp Tỳ-kheo ít giữ giới luật.

- Bao nhiêu chúng?

- Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm. Sư hỏi lại:

Ở đây Phật pháp thế nào? Ông già đáp:

Rồng rắn lẫn lộn, phàm thánh ở chung.

- Bao nhiêu chúng?

- Trước ba ba, sau ba ba.

Ông già gọi Đồng tử Quân Đề dâng trà, rồi dâng tô lạc.

Ông cầm cái chén lưu ly lên và hỏi:

- Phương Nam có cái này không? Sư đáp:

Không.

- Hằng ngày uống trà bằng cái gì?

Sư không đáp, xin cáo từ. Ông già sai Đồng tử tiễn Sư. Sư hỏi Đồng tử:

- Trước ba ba, sau ba ba là bao nhiêu?

Đồng tử gọi "Đại đức!" Sư ứng thanh dạ. Đồng tử hỏi: "Là bao nhiêu?" Sư hỏi:

Đây là nơi nào? Đồng tử đáp:

Đây là chùa Bát-nhã trong hang Kim Cang. Sư vỡ lẽ ông già kia chính là Văn-thù. Sư cúi lạy đồng tử xin một lời chia tay. Đồng tử nói bài kệ:

Mặt không sân là vật cúng dường
Miệng không sân nhả các diệu hương
Tâm không sân là kho báu lớn
Không dơ không nhiễm thể chân thường.

Nói xong, Quân Đề và chùa ẩn mất. Ý Tông năm Hàm Thông năm thứ ba, Sư đến viện Quán Âm ở Hồng châu tham vấn Thiền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch, đốn ngộ tâm pháp. Sau, Sư về Chiết Tây trụ ở chùa Long Tuyền. Tiền Vương Phụng ban cho Sư y tía và hiệu Vô Trước Thiền sư. Đến lúc này, Quang Hóa năm thứ ba, mồng ba tháng mười, Sư nói với chúng "Tâm ba cõi dứt chính là Niếtbàn". Nói xong Sư kiết già quy tịch, thọ tám mươi tuổi, môn nhân dựng tháp ở đồi Tây chùa Linh Ẩn Thứu Phong. Ai Đế năm Thiên Hựu năm thứ hai, bọn giặc phản mở tháp Sư thấy nhục thân không hoại, tóc móng dài thêm. Tiền Vương Mậu hay tin liền sai tỳ tướng Thiệu Chí trùng tu lại tháp. Tống Hiến Tông năm Gia Định năm thứ mười ba, môn nhân dời nhục thân Sư về an táng bên trái tháp Thiền sư Trí Giác Diên Thọ trên núi Tịnh Từ. Sư nối pháp Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch. Tịch nối pháp Quy Sơn Linh Hựu.

- Canh Thân: Quang Hóa năm thứ mười ba, đầu năm, Thôi Dận và hoàng thượng ngầm bàn mưu giết hoạn quan. Bọn khu mật sứ Tống Đạo Bật, Cảnh Vụ Tu đều phải tự sát, hoạn quan càng khiếp sợ. Bọn trung úy Lưu Quý Thuật, Vương Trọng Tiên, khu mật sứ Vương Ngạn Phạm, Tiết Tề Ốc ngầm bàn mưu phế lập. Đế đi săn trong vườn đến tối quay về. Quý Thuật dìu Đế và Hoàng hậu cùng lên xe, phi tần theo hầu chỉ hơn mười người. Vừa đến viện Thiếu Dương, Thuật khóa chặt cửa, sửa chiếu cho Thái tử Dụ nắm việc quân nước rồi lên ngôi Hoàng Đế, cho Đế làm thái Thượng hoàng. Quý Thuật sai con nuôi là Hy Độ đến Chu Toàn Trung hứa sẽ giao xã tắc nhà Đường cho ông. Thiên Bình Tiết độ sứ Lý Chấn khuyên Toàn Trung nên giết Quý Thuật. Toàn Trung bắt giam Hy Độ, sai Chấn về Kinh Sư. Thôi Dận ngầm sai người báo cho Thần Sách chỉ húy sứ Tôn Đức Chiêu giết bọn Quý Thuật. Lúc này là tháng mười hai.

- Tân Dậu: Thiên Phục năm đầu, mồng một tháng giêng, Vương Trọng Ni vào triều, Tôn Đức Chiêu liền bắt đem chém. Thôi Dận đón Đế ngự ở cửa lầu Trường Lạc, dẫn bá quan đến chúc mừng. Châu Thừa Hối bắt Lưu Quý Thuật, Vương Ngạn Phạm cũng vừa đem tới, bọn họ mới trách mình bị Dận đưa vào chỗ chết. Tiết Tề Ốc nhảy xuống giếng tự sát cũng bị lôi lên chém, diệt dòng họ của bốn người này. Lúc này Chu Toàn Trung, Lý Mậu Trinh ai nấy đều có ý ép Thiên Tử, sai chư hầu. Toàn Trung muốn Đế đến Lạc Dương, Mậu Trinh muốn Đế đến Phụng Tường. Chu Toàn Trung đến Hà Trung dâng biểu xin xa giá đi Đông Đô. Tháng mười một, trung úy Hàn Toàn Hối ép Đế đến Phụng Tường bèn đốt hết cung thất.

- Nhâm Tuất: Thiên Phục năm thứ hai, tháng mười một, Chu Toàn Trung đem quân đánh Phụng Tường. Tiền Liêu được phong tước Việt Vương.

- Quý Hợi: Thiên Phục năm thứ ba, mùa Xuân tháng giêng, Lý Mậu Trinh xin Đế giết bọn Hàn Toàn Hối để giảng hòa với Chu Toàn Trung, sai sứ gói đầu bọn Toàn Hối đưa cho Toàn Trung xem. Giáp Tý, Đế xa giá đến Phụng Tường, ghé dinh của Toàn Trung. Năm Kỷ Tỵ, Đế vào Trường An.

- Giáp Tý: Thiên Hựu năm đầu, mùa Xuân tháng giêng, Chu Toàn Trung xin Đế dời đô về Lạc Dương. Nhâm Dần, Đế đến Trường An, Giáp Tý đến Hoa Châu. Chu Toàn Trung nhiều lần dâng tấu chương thúc Đế, nên Đế đến Lạc Dương (Cải nguyên Thiên Hựu, Chu Toàn Trung sai Lý trấn đến Lạc Dương) cùng bọn Tưởng Huyền Huy vào tháng tám giết Đế, lập Huy Vương làm hoàng Thái tử, cho lên ngôi trước linh cửu, lúc này Huy Vương mới mười ba tuổi, đó là Ai Đế. Tiền Liêu được gia phong tước Ngô Vương.

* Ai Đế: Tên là Chúc, con năm thứ chín của Chiêu Tông, ở ngôi bốn năm, nhường ngôi cho Lương. Lương phong Đế làm Tế Âm Vương dời về Tào châu. Năm Mậu Thìn chuốc độc giết Tế Âm Vương ở Tào Châu, truy thụy là Đường Ai Hoàng

Đế, hiệu Cảnh Tông. Có một thuyết khác cho rằng, Chu Toàn Trung giết Chiêu Tông lập Ai Đế. Được bốn năm, Trung sai Lưu Bá chuốc thuốc độc Ai Đế, táng ở Ôn Lăng, lập Thiếu Đế Bộc Vương Tuân, còn có tên là Kế, vốn con của Chiêu Tông lấy niên hiệu Thiên Thọ. Chu Toàn Trung lại chuốc độc giết Thiếu Đế, bàn nhau nhường ngôi cho nhà Lương vào năm Thiên Hựu năm thứ tư. Bản Kỷ không chép việc trong một năm của Bộc Vương. Niên hiệu Thiên Hựu bốn năm.

- Ất Sửu: Thiên Hựu năm thứ hai, Hoài Nam Dương Hành Mật chết, con là Ác lên kế vị.

- Bính Dần: Thiên Hựu năm thứ ba, Nam Bình Chung Phó chết, con là Khuông Thời kế vị, về sau bị Tần cướp ngôi, kinh Nam tiết độ Cao Quý Xương chiếm Kinh Nam. Mân Vương gặp hai Thiền sư Tuyết Phong và Huyền Sa mới hỏi:

- Lấy gì làm đạo? Tu hạnh gì để thấy tánh thành Phật? Tuyết Phong đáp:

Trước phải sám hối tẩy trừ nghiệp chướng nhờ đó mà thấy tâm rõ tánh. Tất cả biển nghiệp chướng đều do vọng tưởng sinh. Nếu muốn sám hối, phải ngồi ngay thẳng niệm Thật tướng. Mong Đại Vương biết cách nhận thật tướng, tự nhiên thành Phật. "

- Đinh Mão: Thiên Hựu năm thứ tư, tháng ba, Đế nhường ngôi cho Lương Vương. Lương nhận ngôi, đổi niên hiệu Khai Bình năm đầu.

Nhà Đường gồm hai mươi mốt chủ, trị vì tổng cộng hai trăm tám mươi tám năm, nhường ngôi cho nhà Lương.

* Ngũ Đại:

* Lương: Nhận ngôi nhà Đường, đóng đô ở Biện Châu, năm Khai Bình năm thứ hai, dời đô về Lạc Dương. Các Vương đóng đô ở Đại Lương, gồm Thái Tông, Mạt Đế, hai chủ trị vì mười sáu năm rồi nhường ngôi cho Hậu Đường.

* Thái tổ: Họ Chu, vốn tên là Ôn, người Tống Châu. Thời Đường Hy Tông, ông từng theo Hoàng Sào làm loạn, Sào đặt ông chức Đồng Châu Phòng Ngự Sứ. Ôn phản Sào về Đường, Thiên Tử ban cho tên Toàn Trung, bái phong chức Tuyên Vũ Quân Tiết độ sứ. Chiêu Tông năm Quang Hóa năm thứ ba, ông được tấn phong Lương Vương. Ai Đế, năm Thiên Hựu năm thứ tư, tháng ba, ông nhận ngôi nhà Đường, đổi tên là Quang, đội mũ miện lên ngôi Hoàng Đế, đổi quốc hiệu là Lương, ở ngôi sáu năm, thọ sáu mươi mốt tuổi, đổi Biện Châu thành phủ Khai Phong, gọi đây là Đông Đô, còn Đông Đô trước đây đổi thành Tây đô. Lúc này chỉ còn Hà Đông, Phụng Tường, Hoài Nam xưng niên hiệu Thiên Hựu. Tây Thục xưng Thiên Phục, sau cũng tự lập, đổi niên hiệu Vũ Thành. Những nơi còn lại đều nhận Chánh Sóc nhà Lương, xưng thần triều cống. Niên hiệu Khai Bình bốn năm, Càn Hóa hai năm.

-Đinh Mão: Khai Bình năm đầu, tháng tư đổi niên hiệu, phong Hà Nam Doãn Kiêm Hà Nam Tiết độ sứ Trương Toàn Mỹ làm Ngụy Vương; Trấn Hải Trấn Đông Tiết độ sứ Ngô Vương Tiền Liêu làm Ngô Việt Vương, gia phong Thanh Hải Tiết độ sứ Lưu Ẩn, Uy Vũ Tiết độ sứ Vương Thẩm Tri kiêm chức Thị trung, vẫn để Lưu Ẩn làm đại bình vương, cho Quyền Tri Kinh Nam Lưu Hậu Cao Quý Xương làm Tiết độ sứ.

 

Triệu Vương: Vương Dung

Yên Vương: Lưu Nhân Cung

Tấn Vương: Lý Khắc Dụng

Kỳ Vương: Lý Mậu Trinh

Ngô Việt Vương: Tiền Liêu

Sở: Mã Ân

Kinh Nam: Cao Quý Xương

Hoài Nam Ngô Dương Ác

Mân Vương: Vương Thẩm Tri

Thức lên ngôi Hoàng Đế, Vương Kiến

Nam Bình: Lưu Ẩn

 

 

* Vương Dung cai quản Chân Định Trấn châu xưng Triệu Vương. Lưu Nhân Cung làm U châu Lô Năng Tiết độ sứ xưng Yên Vương. Tấn Vương Lý Khắc Dụng xưng niên hiệu Thiên Hựu. Khắc Dụng vốn người Sa Đà (xem ở Đường Ý Tông, Hàm Thông năm thứ 9).

* Kỳ Vương ở Phụng Tường: Họ Tống, tên Văn Thông, được đổi thành Lý Mậu Trinh, người Bác Dã, Thâm Châu, vốn là binh lính ở Bác Dã. Khi Hoàng Sào xua quân vào Kinh Sư, Mậu Trinh có công được bổ làm Hỗ Tất đô đầu. Hy Tông ban cho họ Lý, tên Mậu Trinh, bái phong làm Phụng Tường lũng hữu Tiết độ sứ. Thời Chiêu Tông, ông được phong Kỳ Vương vào năm Thiên Hựu năm thứ tư.

* Ngô Việt Vương Tiền Liêu: Tự là Cụ Mỹ, người Lâm An, Hàng châu. Thời Đường Hy Tông, ông làm tỳ tướng cho Đổng Xương, đánh lui được quân Hoàng Sào, Xương cho ông làm đô chỉ huy. Đổng Xương về sau cũng phản. Chiêu Tông cho ông làm Chiết Đông Chiêu thảo sứ bình được đám loạn của Xương, được tấn phong thiên hạ binh mã đô nguyên soái, sau phong Vương. Đến lúc này, Lương Khai Bình năm đầu, ông được phong Ngô Việt Vương. Hậu Đường Trang Tông ban cho ngọc sách, kim ấn. Liêu ở Hàng châu hai mươi mốt năm, thọ tám mươi mốt tuổi.

* Sở Vương: Mã Ân, tự Bá Đồ, người Yên Lăng, Hứa Châu. Đường Chiêu Tông trong năm Càn Ninh, ông được bái phong Vũ an quân Tiết độ sứ trấn giữ Đàm châu, cai quản hết vùng Hồ Nam. Lương Thái Tổ, Khai Bình năm thứ hai, ông ở Hồ Nam cho dân tự hái trà bán cho khách phương Bắc, thâu thuế để củng cố quân đội. Tháng 7, Ân tâu: "Biện Kinh, Tương, Đường, Dĩnh, Phục Châu, nên đặt chức hồi đồ lo việc vận chuyển trà đến Hà Nam, Hà Bắc bán đổi tơ lụa, mua thêm chiến mã". Đế ưng chuẩn. Từ đó Hồ Nam giàu có. Lương phong ông làm Sở Vương.

+ Kinh nam Tiết độ sứ Cao Quý Xương: tự Lộ Tôn người Thiểm Châu. Đầu đời Lương, ông trấn giữ hơn mười châu, làm Kinh Nam Tiết độ sứ, sau các nơi xâm chiếm, Quý Xương chỉ còn một thành ở Giang Lăng mà thôi. Đến thời Hậu Đường Trang Tông ông được phong Nam Bình Vương.

+ Hoài Nam: Dương Ác xưng Thiên Hựu năm thứ tư. Cha Ác là Hành Mật, tự Hóa Nguyên, người Hợp Phì, Lô Châu, gia cảnh rất nghèo, nhờ có sức mạnh nhấc cả ngàn cân, ngày đi ba trăm dặm, người giỏi nhất châu này, có công phá Hoàng Sào nên tháng tám Đại Đường Chiêu Tông, Cảnh Phước năm đầu ông được làm Hoài Nam Tiết độ sứ, Hoài Nam Vương rồi tấn phong Sở Vương. Đường Ai Đế, Thiên Hựu năm thứ hai, Hành Mật chết, thọ năm mươi bốn tuổi. Ông chiếm Lô Châu suốt mười hai năm, con là Ác lên kế vị. Lương Thái Tổ phong ông làm Ngô Vương.

* Mân Vương: Vương Thẩm Tri, tự Tín Thông, người Cố Thủy, Quang Châu. Thời Đường Hy Tông, Hoàng Sào làm loạn, nhân đó ông có vùng đất năm châu ở Mân Lĩnh. Lương, Khai Bình năm đầu, Đế phong ông làm Uy vũ Tiết độ sứ kiêm chức thị trung. Từ Đường Chiêu Tông, Thẩm Tri đã được thụ phong Mân Vương rồi. Đến đời con ông là Diên Quân, vào Hậu Đường Minh Tông năm Trường Hưng năm thứ tư, Quân đổi tên là Lân và lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu Long Khải, lấy Quốc hiệu Đại Mân.

* Thục Vương: Vương Kiến, tự Quang Đồ, người Vũ Dương, Hứa châu. Đầu đời Đường Hy Tông, Trần Khâm Tuyên tiết chế, Tây Xuyên trung úy Nhật cho Tư làm giám quân, muốn cho Kiến làm chỉ huy, Khâm Tuyên nghi ngờ cấm cản. Kiến nổi giận đem quân đánh thành đô giết bọn Khâm Tuyên. Chiêu Tông cho ông giữ chức Tây Xuyên Tiết độ sứ. Lương nhận ngôi nhà Đường, Khai Bình năm đầu, tháng chín, Vương Kiến lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Thục, năm sau đổi niên hiệu Vũ Thành.

* Nam Bình: Lưu Ẩn người Thượng Sái, nay là Nhữ Ninh, Cổ Sái Châu. Ông nội Ẩn là An Nhân dời về sống ở Mân Trung, buôn bán ở Nam Hải và lập nghiệp ở đây. Cha Ẩn là Khiêm làm nha tướng ở Quảng châu, có công phá giặc Hoàng Sào nên được làm Phong Châu Thứ sử. Khiêm chết, người trong châu tiến cử Ẩn lên thay. Ông nhiều lần lập công hiển hách. Đường Chiêu Tông phong ông làm Nam Hải Vương, Ai Đế, Thiên Hựu năm thứ hai, ông được tấn phong An nam đô hộ Thanh Hải Tiết độ sứ, năm sau được phong Nam Bình Vương. Nhà Lương gia phong ông làm thị trung văn, phong tước Nam Hải Vương, sau cho Ẩn làm Đại Bành Vương. Càn Hóa năm đầu, ông mất, thọ ba mươi tám tuổi. Em là Nghiễm lên kế vị, chiếm hết phía Bắc Lĩnh Biểu. Nghiễm đổi tên là Nghiễm (bộ Long). Lương, Mạt Đế, Trinh Minh năm thứ ba, ông lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Hán, niên hiệu là Càn Hanh. Ông ở ngôi hai mươi lăm năm, thọ năm mươi bốn tuổi.

-Mậu Thìn: Khai Bình năm thứ ba, tháng giêng, Tấn Vương Lý Khắc Dụng mất, con là Tồn Úc lên ngôi vào tháng mười một. Lương dời đô về Lạc Dương chuốc độc giết Tế Âm Vương ở Tào châu, truy thụy là Đường Ai Hoàng Đế.

 

Triệu Vương: Vương Dung

Yên: Lưu Nhân Cung

Tấn: Tồn Úc, Thiên Hựu năm thứ 5

Kỳ Vương: Lý Mậu Trinh

Ngô Việt: Tiền Liêu

Sở: Mã Ân

Kinh Nam: Cao

Hoài Nam Ngô:

Mân: Vương Thẩm

Thục Vương Kiến,

Nam Bình Lưu

 

Quý Xương

Dương Ác

Tri

Vũ Thành năm đầu

Ẩn

 

 

* Thiền sư Tuyết Phong ở Phước châu: Sư họ Tăng, húy Nghĩa Tồn, người Nam An, Tuyền Châu. Năm mười hai tuổi, Sư theo Luật Sư Khánh Huyền chùa Ngọc Nhàn, Bồ Điền xuất gia, mười bảy tuổi thế phát, thọ giới tại chùa Bảo sát ở U châu. Sư tham vấn khắp pháp hội Thiền, ba lần lên Đầu Tử, chín lần đến Động Sơn. Sau, cơ duyên khế ngộ với Đức Sơn. Đường Ý Tông trong năm Hàm Thông, Sư về đất Mân lập viện Tuyết Phong, học chúng đổ về. Hy Tông ban Sư hiệu Chân Giác Thiền sư và y tía. Pháp tịch của Sư thường đến một ngàn năm trăm người. Đến lúc này, Khai Bình năm thứ hai, tháng ba, Sư có chút bệnh, Mân Soái cho thầy thuốc đến chữa, Sư nói: "Ta chẳng có bệnh". Viết kệ phó pháp xong, mồng hai tháng năm, Sư đi thăm ruộng đến chiều tối mới về, tắm rửa và nửa đêm quy tịch, thọ tám mươi bảy tuổi. Sư nối pháp Đức Sơn Tuyên Giám, Giám nối pháp Long Đàm Sùng Tín.

* Thiền sư Huyền Sa Tông Nhất ở Phước châu: Sư họ Tạ, húy Sư Bị, người Mân Châu. Thuở nhỏ, Sư hay chèo thuyền nhỏ trên sông Nam Đài đùa với những người đánh cá. Năm ba mươi tuổi, Sư bỗng phát tâm xuất gia, theo Thiền sư Phù Dung Huấn thế phát, đến thọ giới ở chùa Khai Nguyên, Dự Chương, mặc áo vải mang giày cỏ, hít khí trời, cả ngày tĩnh tọa. Tuyết Phong thấy Sư khổ hạnh như vậy, gọi Sư là Đầu-đà. Một hôm Tuyết Phong gọi Sư đến và nói: "Sao ông không đi tham vấn các nơi!" Sư đáp: "Đạt-ma chẳng đến Đông độ, Nhị tổ chẳng qua Tây Thiên". Phong hứa khả. Sau khi an trụ, Sư xiển dương Tông phong, xa gần kính ngưỡng. Mân chủ đãi Sư rất hậu, học chúng hơn tám trăm người. Đời Lương Thái Tổ, Khai Bình năm thứ hai, tháng mười một, Sư quy tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Mân chủ dựng tháp cho Sư. Sư nối pháp Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn.

-Kỷ Tỵ: Khai Bình năm thứ ba, tháng mười, Thục châu Thứ sử Vương Tông Biện cáo bệnh không vào triều, Thục chủ nghi ông kiêu căng công lao, oán hận, Thục chủ gia phong thêm ông chức Kiểm Hiệu Thái Bảo nhưng ông không nhận. Ông nói với người khác "Người liêm khiết biết đủ không phải lo, người nghèo thì lo mà chẳng đủ. Ta là kẻ tiểu nhân, được chức vị thế này là đủ lắm rồi, há cứ cầu tiến mãi ư!" Thục Chủ khen chí của ông.

 

Tri ệu

Yên

Tấn Vương: Thiên Hựu

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 6

Ng ô Vi ệt

Sở

 

 

năm thứ 6

 

 

 

Ki nh Na m

Ngô Hoà i Na m

Mân

Thục Vương Kiến, Uy Thành năm thứ 2

Na m Bì nh

 

 

Canh Ngọ: Khai Bình năm thứ tư.

* Tục Bảo Lâm Truyện: Nam Nhạc Duy Kính Đầu-đà gom tập cơ duyên của Tông Sư từ Đường Chiêu Tông năm Quang Hóa đến nay thành Tục Bảo Lâm Truyện bốn quyển.

 

Tri ệu

Yên

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 7

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 7

Ngô Việt

Sở

Kin h Na m

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm thứ 7

Mân

Thục: Uy Thành năm thứ 2

Nam Bình

 

 

- Tân Mùi: Càn Hóa năm đầu.

 

Triệu: Vương Dung

Yên lên ngôi Đế, Ứng Thiên năm đầu

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 8

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 8

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô

Mân

Thục Vương Kiến, Uy Thành năm thứ 2

Nam Bình: Lưu Nghiễm

 

 

Tháng ba, Tĩnh Hải Tiết độ sứ Nam Bình Tương Vương Lưu Ẩn mất, em ông là Nghiễm tập phong, sau đổi tên Cung lại đổi tên Nghiễm (bộ Long). Tháng tám con của Yên Vương Lưu Nhân Cung là Lưu Thủy Quang lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Yên, lấy niên hiệu Ứng Thiên.

- Nhâm Thân: Ứng Thiên năm thứ hai, tháng hai, Thiền sư Như Nột ở núi Đạo Tràng, Hồ châu dựng am ở núi này, cỡi cọp du hành. Sư người Hồ châu, nối pháp của Thúy Vi Vô Học. Học nối pháp Đan Hà Thiên Nhiên, Nhiên nối pháp Thạch Đầu Hy Thiên.

 

Triệu

Yên: Ứng Thiên năm thứ 2

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 9

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 9

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô

Mân

Thục: Vĩnh Bình năm thứ 2

Nam Bình

 

 

Tháng hai, Đế bệnh càng nặng, giết người bừa bãi, lại bàn xuất chinh, các quan tùy tùng đều khiếp sợ. Con trưởng của Đế là Lâm Vương Hữu Dụ mất sớm, con nuôi là Bắc Vương Hữu Văn là người Đế rất yêu mến. Trình Vương Hữu Khuê lòng không phục, Đế cho Hữu Khuê ra làm Lai châu Thứ sử. Hữu Khuê lén vào quân của Tả Long Hổ, gặp thống quân Hàn Kình kể hết sự tình. Kình đem năm trăm tinh binh đi theo Hữu Khuê, dẫn càn bọn hạc sĩ vào núp trong cấm cung. Nửa đêm hôm đó, họ phá cửa xông đến tẩm điện. Bộc phu của Hữu Khuê là Phùng Đình Ngạc giết Đế, giấu không phát tang, sửa chiếu rằng: "Trẫm bệnh nặng nên để hữu khuê nắm quyền chánh". Khuê phát tang, lên ngôi Hoàng Đế. Càn Hóa năm thứ ba, tháng giêng, đổi niên hiệu Phụng Lịch. Lúc này Quân Vương Hữu Trinh đang ở Đại Lương đem quân đánh Hữu Khuê. Hữu Khuê lượng sức không thắng nổi, mới lệnh cho Phùng Đình Ngạc trước giết vợ mình là Trương thị, sau đó giết mình, Ngạc cũng tự đâm cổ chết. Quân vương lên ngôi Hoàng Đế, ở Đại Lương, xưng niên hiệu Càn Hóa năm thứ ba.

* Quân Vương: Con năm thứ ba của Thái Tổ, ban đầu tên là Hữu Trinh được phong Quân Vương, trấn giữ Đại Lương (tức Biện Châu). Tháng giêng năm Càn Hóa năm thứ ba, ông giết kẻ đại nghịch Hữu Khuê rồi lên ngôi Hoàng Đế, ở Đại Lương rồi đóng đô ở đây, truy phế Hữu Khuê xuống làm thứ dân. Tháng ba, Đế đổi tên là Hoàng, thời gian sau lại đổi tên Chấn, ở ngôi mười một năm, thọ ba mươi sáu tuổi, thụy là Mạt Đế. Niên hiệu Càn Hóa thêm hai năm, Trinh Minh sáu năm, Long Đức ba năm.

-Quý Dậu: Càn Hóa năm thứ ba.

* Đạo tràng Kim Quang Minh: Thiền sư Ấu Chương ở Thụy Ứng, Hàng châu xin Ngô Việt Vương mỗi năm lập đạo tràng Kim Quang Minh ở núi Thiên Thai. Các quận vào ngày rằm, mồng một, đều nhóm họp lại, hết tháng thì bãi hội. Đại hội Quang Minh khởi nguyên từ ngài.

-Giáp Tuất: Cán Hòa năm thứ tư, tháng giêng, Tấn Chủ đã diệt nước Yên, lấy dải lụa trói Lưu Nhân Cung và Lưu Thủ Quang, ca khúc khải hoàn vào Tấn Dương, dâng họ ở Thái miếu rồi chém đầu Thủ Quang, gông cùm Nhân Cung đưa về Đại châu tế trước mộ Tiên vương rồi chém Cung.

 

Triệu

Yên: Ứng Thiên năm thứ 3

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 10

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 10

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm thứ 10

Mân Vương

Thục: Vĩnh Bình năm thứ 3

Nam Bình

 

Triệu

Yên bị Tấn tiêu diệt

Tấn: Thiên Hựu năm thứ 11

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 11

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm thứ 11

Mân Vương

Thục: Vĩnh Bình năm thứ 4

Nam Bình

 

 

* Thiền sư Đầu Tử Sơn ở Thư châu: Sư họ Lưu, húy Đại Đồng, người Hoài Ninh, châu này. Từ nhỏ Sư theo Thiền sư Mãn chùa Bảo Đường ở Lạc Hạ xuất gia. Ban đầu Sư tập An Ban Quán (Sổ tức quán). Kế đó, nhân xem Hoa Nghiêm phát minh tâm địa, yết kiến Thiền sư Thúy Vi Vô Học, đốn ngộ tông chỉ. Từ đó Sư vãn du khắp nơi, sau về lại làng cũ ở ẩn trên núi Đầu Tử, kết am tranh ở. Đến lúc này, Càn Hóa năm thứ tư, mồng sáu tháng tư, Sư quy tịch. Đế ban Sư thụy Từ Tế Đại Sư. Sư nối pháp Thiền sư Thúy Vi Vô Học.

- Ất Hợi: Trinh Minh năm đầu.

 

Tri ệu

 

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 12

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 12

Ngô Việt Vươ ng

S ở

Kin h Na m

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm thứ 12

Mân

Thục: Vĩnh Bình năm thứ 5

Na m Bìn h

 

Tri ệu

 

Tấn: Thiên Hựu năm thứ 13

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 13

Ngô Việt Vươ ng

S ở

Kin h Na m

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm thứ 13

Mân Vương

Thục: Thông Chánh năm đầu

Na m Bìn h

 

 

- Bính Tý: Trinh Minh năm thứ hai, Khiết Đan Thái Tổ A Bảo Cơ, Thần Sách năm đầu.

* Khiết Đan: Là hậu duệ của một giống bộ lạc còn sống sót ở núi Tiên ty, Cao Tông đánh Quỷ Phương chính là đánh bộ tộc này. Từ Lương Mạt Đế, Trinh Minh năm thứ hai, Thái tổ A Bảo Cơ xưng đế, lập quốc, lấy niên hiệu, nối truyền chín chủ, trị vì tổng cộng hai trăm mươi lăm năm, thật ra chỉ trị vì hai trăm lẻ chín năm. Thái tổ Hoàng đế húy Ức Phiên, tên A Bảo Cơ, là con út của Quản Lý. Cha Quản Lý làm chức Di Ly Cân, giống như Thứ sử của Trung Quốc. Trước đây bộ lạc Khiết Đan chia thành tám bộ lạc, mỗi bộ lạc có đại nhân nối nhau, suy tôn một người làm Vương trong thời hạn nào đó, họ dựng cờ lập trống để hiệu lệnh các bộ tộc. Cứ mỗi ba năm thì theo năm thứ tự thay Vương. Đến A Bảo Cơ làm Vương, bộ tộc lớn mạnh, ông cậy thế mạnh cương quyết không chịu thay ngôi. Năm họ Hề và bảy họ Thất Vi đều khâm phục theo ông. Ông đánh Hoàng Đầu Thất Vi lại bị bảy bộ cướp mất ở Cảnh Thượng, xin giao ước như trước. A Bảo Cơ nói: "Ta làm vương chín năm, được người Hán nhiều lần xin quân, gây bộ lạc ở Cổ Hán thành, ta cùng người Hán giữ nơi đó lập riêng một bộ". Bảy bộ đồng ý. Cổ Hán thành chính là huyện Hoạt Diêm của Thát Bạt Ngụy. Đất ấy thích hợp ngũ cốc, có lợi về ao muối. Về sau, A Bảo Cơ đánh diệt bảy bộ thống nhất thành một nước. Ông lại đánh Thất Vi Nữ Chân phía Bắc, chiếm đất cũ của Đột Quyết phía tây, đánh diệt họ Hề, lại lập Hề Vương, sai Khiết Đan làm giám sát quân binh. Các tộc Di ở phía Đông, bắc đều khiếp sợ, thần phục ông. Hồi ấy, cuối năm Hàm Thông đời Đường Ý Tông có Tập Nhĩ làm Vương, đất đai thành quách bắt đầu rộng lớn. Sau đó, Khâm Đức làm Vương. Nhân lúc Trung Nguyên có nhiều biến cố, ai nấy lúc bấy giờ cũng xâm lấn biên cương, Yên Đế Lưu Thủ Quang trong những năm cuối càng khốn đốn mới sai tham quân Hàn Diên Huy cầu viện với Khiết Đan. Khiết Đan nổi giận vì Huy không bái lạy, mới giữ Huy lại một thời gian. Huy làm đúng lễ, Khiết Đan mới tin dùng. Diên Huy bắt đầu dạy Khiết Đan lập tinh binh, mở phủ, xây thành quách, lập thôn làng để tiếp người Hán, khiến người người gieo giống, khai phá ruộng hoang. Từ đó, Khiết Đan giàu có, đất đai rộng lớn. Đến lúc này, Trinh Minh năm thứ hai, A Bảo Cơ mới tự xưng Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Khiết Đan, lấy niên hiệu Thần Sách. Người trong nước gọi ông là Thiên Hoàng Vương, họ Da Luật, lấy vợ họ Thuật Luật làm Hoàng hậu, đặt ra bá quan, ông trị quốc mười một năm, mất ở Phu Dư Thành, thụy là Thái Tổ.

* Bố Đại Hòa Thượng: Ngài húy là Khế Thử, thị hiện dấu tích ở huyện Phụng Hóa, Minh châu, thường lấy gậy quảy một túi vải, kéo theo chiếc chiếu rách. Phàm vật dụng tùy thân, ngài đều cất hết trong túi vải. Ngài vào chợ, thấy gì cũng xin, có khi là rượu thịt, cá mắm, trước khi ăn thường bớt phần nhỏ bỏ trong túi vải. Người đương thời gọi ngài là Trường Đinh Tử. Đến lúc này, Trinh Minh năm thứ hai, mồng ba tháng ba, ngài ngồi dưới hiên chùa Nhạc lâm nói bài kệ:

Di-lặc thật Di-lặc
Phân trăm ngàn ức thân
Thường thường dạy người đời
Người đời chẳng hay biết.

Nói kệ xong, ngài an nhiên quy tịch. Về sau, ở châu khác, người ta cũng gặp ngài quảy túi vải đi. Từ đó người người vẽ hình ngài thờ cúng.

-Đinh Sửu: Trinh Minh năm thứ ba: Khiết Đan năm Thần Sách năm thứ hai, Nam Bình Lưu Nghiễm lên ngôi Hoàng Đế ở Phiên Ngung, lấy quốc hiệu Đại Việt, đổi niên hiệu Càn Hanh. Mùa đông tháng mười một năm sau, ông tế Giao tế thiên, đổi quốc hiệu là Hán.

 

Triệu

 

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 14

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 14

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm

Mân

Thục đế: Thiên Hán năm đầu

Hán lên ngôi Đế, Càn Hanh năm đầu

 

 

Mậu Dần: Trinh Minh năm thứ tư, Khiết Đan A Bảo Cơ, Thần Sách năm thứ ba.

 

Triệu

 

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 15

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 15

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô: Thiên Hựu năm thứ 15

Mân

Thục đế: Quang Thái năm đầu

Hán: Càn Hanh năm thứ 2

 

 

Thái tử Diễn của Thục Đế lên ngôi. Tháng ba Ngô Việt Vương Tiền Liêu bắt đầu lập phủ Nguyên soái đặt quan trực thuộc. Hoài Nam Ngô cho Từ Tri Cáo làm Hoài Nam tiết độ hành quân phó sứ. Tri Cáo thờ Ngô Chủ rất hiếu kính, Cáo cho Tống Tề Khâu làm mưu chủ.

* Thiền sư Long Hồ ở Thiệu Vũ: Sư húy Phổ Văn, là con năm thứ hai của Đường Hy Tông. Từ nhỏ, Sư đã không ăn mặn, lớn lên không có ý kinh bang tế thế. Hy Tông rất yêu mến Sư. Hy Tông, Trung Hòa năm đầu, Hoàng Sào nổi loạn, Đế đến đất Thục, thân vương tông thất đều bỏ trốn hoặc chết, Sư thế phát vân du, đến yết kiến Thiền sư Thạch Sương Khánh Chư và hỏi:

- Thế nào là giáo ngoại biệt truyền? Chư đáp:

Đợi khi nào ông đè núi còn một chấm, ta nói ông nghe.

Nhân đó Sư tỉnh ngộ, ở lại đây mấy năm rồi xin lên núi. Khánh Chư dặn: "Gặp Càn thì dừng, gặp Trần thì ở". Sư từ biệt Khánh Chư, ngang qua Thiệu Vũ đến Đại Càn. Từ xa nhìn thấy đỉnh núi âm u, xanh tốt, Sư hỏi các bậc phụ lão:

- Trên kia có ai ở không? Phụ lão đáp:

Có một người là Trần Tự ở ẩn trong đó lâu rồi. Sư đến, Tự liền chia chỗ cho Sư ở. Sư dựng am tranh ngay miệng hang, Trần liền phá đi, nền am vẫn còn. Bảo Thừa Thiền viện chính là nền am của Sư. Hy Tông, Văn Đức năm đầu, tháng ba, Sư ném tích trượng vào núi, dựng đạo tràng ngay nơi tích trượng cắm xuống. Tăng tục quy hướng liền thành chùa lớn. Một hôm có ông già đến trước mặt Sư nói:

"Tôi là rồng, nhà ngay núi này, do làm mưa không đúng chức phận nên sắp bị trời phạt, mong Sư hãy che chở".

Sư bảo:

Ông có thể thay hình rồi đến đây.

Lát sau có một con rắn nhỏ bò đến chỗ Sư ngồi, Sư lùa nó vào trong Tịnh bình.

Chẳng bao lâu, gió mưa hãi hùng, núi non chấn động. Sau khi gió tan mưa tạnh, con rắn bò ra khỏi bình. Ông già lúc nãy đến tạ ơn nói: "Chẳng nhờ pháp lực của thầy thì tôi đã tan thây ở đây rồi. Xem ra đạo tràng của thầy thiếu nước, tôi sẽ báo ân đức cho thầy!"

Ông già liền xoi đất thành hang, suối tuôn ào ào và thành cái hồ, nằm lưng chừng núi ngày nay vốn là Long Hồ này. Đến lúc này, Trinh Minh năm thứ tư, một hôm, Sư nhóm chúng Tăng lại và nói: "Ta sắp đi nơi khác". Sư giao phó công việc tự viện cho hai Thiền giả Thông và Giáo, rồi nói bài kệ:

Ta trốn nạn đời đến xuất gia
Tông sư chỉ cho nơi dừng nghỉ
Ở núi lãnh chúng ba mươi năm
Với người chẳng muốn giao phó bừa
Hôm nay rõ ràng nói cho ông
Lúc ta nhắm mắt cùng nghe nhận.

Sau đó Sư cỡi cọp đi trong sương, sớm đến chùa Khai Nguyên ở Tín châu, Tăng ở Long Hồ đuổi theo. Sư nói: "Trong núi đã có Thiền sư Thông, ta không trở về nữa". Bởi vậy, ở Long Hồ không có tháp tổ khai sơn, mà chỉ có nền am Khóa Hổ. Đó là dấu tích minh chứng từ xưa đến nay. Đế ban Sư thụy Viên Giác Thiền sư. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên ghi: Sư thị tịch ở Long Hồ là sai. Sư nối pháp Thạch Sương Khánh Chư, Chư nối pháp Đạo Ngô Tông Trí, Trí nối pháp Dược Sơn Duy Nghiễm. Khánh Chư họ Trần, người Kiết Châu.

- Kỹ Mão: Trinh Minh năm thứ năm. Khiết Đan, Thần Sách năm thứ tư.

 

Triệu

 

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 16

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 16

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô: Vũ Nghĩa năm đầu

Mân

Thục: Diễn. Càn Đức năm đầu

Hán: Càn Hanh năm thứ 3

 

 

Mùa hạ, tháng tư, Hoài Nam họ Dương lên ngôi Ngô quốc vương, đổi niên hiệu Vũ Nghĩa, lập tông miếu xã tắc, đặt bá quan, cung điện Văn vật đều dùng lễ nhạc Thiên tử.

- Canh Thìn: Trinh Minh năm thứ sáu. Khiết Đan, Thần Sách năm thứ năm.

 

Triệu

 

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 17

Kỳ Vương: Thiên Hựu năm thứ 17

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Ngô: Phổ lên ngôi

Mân

Thục: Càn Đức năm thứ 2

Hán: Càn Hanh năm thứ 4

 

 

- Tân Tỵ: Long Đức năm đầu. Khiết Đan, Thiên Tán năm đầu.

 

Triệu

 

Tấn Vương: Thiên Hựu năm thứ 18

Kỳ Vương:

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thuận Nghĩa năm đầu

Mân

Thục: Càn Đức năm thứ 3

Hán: Càn Hanh năm thứ 5

 

 

- Nhâm Ngọ: Long Đức năm thứ hai. Khiết Đan, Thiên Tán năm thứ hai.

 

Triệu

 

Tấn Vương:

Kỳ Vương:

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thuận Nghĩa năm thứ 2

Mân

Thục: Càn Đức năm thứ 4

Hán: Càn Hanh năm thứ 6

 

 

* Thiền sư Cảnh Thanh Thuận Đức Phó ở Việt châu: Ngài đắc pháp với Tuyết Phong. Ngô Việt Tiền Vương tôn kính đạo đức của ngài, thỉnh ngài ở chùa Thiên Long. Ông lại lập chùa Long Cách thỉnh ngài trụ trì. Học chúng theo về rất đông, nhờ vậy Huyền học ở Ngô Việt rất thịnh. Tấn Cao Tổ, Thiên Phước năm thứ hai, tháng tám, ngài quy tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi.

-Quý Mùi: Long Đức năm thứ ba. Đồng Quang năm đầu. Khiết Đan, Thiên Tán năm thứ ba.

 

Triệu

 

Đường lên ngôi Đế, Đồng Quang năm đầu

Kỳ Vương:

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thuận Nghĩa năm thứ 3

Mân

Thục: Càn Đức năm thứ 5

Hán: Càn Hanh năm thứ 7

 

 

Mùa Xuân, tháng hai, Lương Đế sai sứ đem sách mệnh phong Ngô Việt Vương Tiền Liêu làm Ngô Việt quốc vương. Mùa hạ, tháng tư Kỷ Tỵ, Tấn Vương Lý Tồn Úc lên ngôi Hoàng Đế ở phía nam Nha Thành, Ngụy châu, lấy quốc hiệu Đại Đường, niên hiệu Đồng Quang. Đường có cả thảy mười ba tiết độ, năm mươi Châu, thống lãnh ba quân chiếm nước Lương. Lương Đế nói với Hoàng Phủ Lân: "Họ Lý là kẻ thù của đời ta, khó mà quy hàng, đầu ta không thể để đao nó chặt. Ta không thể chặt đầu mình được, khanh hãy chặt đầu ta đi!" Lân khóc lạy rồi chặt đầu Lương Đế, Lân cũng tự sát. Tháng mười, Đường Đế vào Đại Lương.

Nhà Lương gồm hai chủ, trị vì mười sáu năm, vận nước về nhà Đường.

Nhà Đường: Họ Lý, Thổ Đức Vương, đóng đô đất Nghiệp, nay là Chương Đức lộ, xưa là Tương châu, sau dời đô về Lạc Dương. Gồm: Trang Tông, Minh Tông, Mẫn Đề, Lộ Vương.

* Trang Tông: Húy Tồn Úc, vốn người Sa Đà. Đường Ý Tông, Hàm Thông năm thứ chín, Đế ban ông nội ông họ Lý, tên Quốc Xương. Cha ông tên Khắc Dụng, phá Hoàng Sào khôi phục Kinh sư có công đứng đầu, được bái phong Hà Đông Tiết độ sứ, rồi phong Tấn Vương. Dụng chết, con là Tồn Úc kế Vương vị. Ông diệt nhà Lương, lập quốc lấy hiệu là Đường, truy tôn cha là Khắc Dụng làm Vũ Hoàng Đế. Ông ở ngôi ba năm, thọ ba mươi lăm tuổi. Niên hiệu Đồng Quang ba năm.

-Quý Mùi: Đồng Quang năm đầu, tháng mười, ông diệt nhà Lương, đổi niên hiệu, tháng mười một, dời đô về Lạc Dương.

Giáp Thân: Đồng Quang năm thứ hai. Khiết Đan, Thiên Tán năm thứ tư.

 

Triệu

 

 

Tấn Vương: Mậu Trinh mất

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thuận Nghĩa năm thứ 4

Mân

Thục: Càn Đức năm thứ 6

Hán: Càn Hanh năm thứ 8

 

 

Tháng giêng, Kỳ Vương Lý Mậu Trinh sai con là Kế Nghiễm dâng biểu triều cống xưng thần. Đế dùng lễ đáp, cải phong ông làm Tần Vương. Tháng tư Tần Trung Kính Vương Mậu Trinh mất, con là Kế Nghiễm lên nắm hết việc quân việc phủ của Phụng Tường. Ngụy Phủ nay là Đại Danh lộ.

* Thiền Sư Hưng Hóa: Sư húy Tồn Tưởng, người phủ này. Đế triệu Sư vào cung, giữ lễ đệ tử tiếp đãi Sư. Một hôm Đế nói:

- Trẫm thu phục Trung Nguyên được một viên Minh châu chưa có người trả giá!

Sư nói:

Xin bệ hạ cho xem châu!

Đế lấy tay vuốt từ đầu đến chân. Sư nói:

- Minh châu của quân vương ai dám trả giá.

Đế hài lòng ban cho Sư y tía và hiệu, Sư đều không nhận. Đế ban Sư con ngựa. Sư cỡi bị té gãy chân. Đế lại cho thuốc thang. Sư gọi: "Viện chủ! Hãy đẽo cho ta cây nạng gỗ!" Sư chống nạng đi nhiễu quanh viện, hỏi Tăng:

- Các ông biết lão tăng chăng? Chúng đáp:

Ai mà không biết Hòa thượng! Sư nói:

Pháp sư què, nói được đi chẳng được.

Sư đến pháp đường, sai Duy Na đánh chuông nhóm chúng, hỏi:

- Các ông biết lão tăng chăng?

Chúng không đáp. Sư quăng nạng gỗ, ngồi thẳng thị tịch. Đế ban Sư thụy Quảng Tế Thiền sư. Sư nối pháp Lâm Tế Nghĩa Huyền.

* Thiền sư Nam Viện Bảo Ứng Nhữ Châu: Sư húy Tuệ Ngung, người Hà Bắc, nối pháp Hưng Hóa Tồn Tưởng.

-Ất Dậu: Đồng Quang năm thứ ba. Khiết Đan, Thiên Tán năm thứ năm. Hoài Nam Ngô Phổ dựng chùa Thanh Lương ở thành Thạch Đầu, lạy thỉnh Ngộ Tông trụ trì.

 

Triệu

 

 

Tần

Ngô Việt Vương

Sở

Kinh Nam

Hoài Nam Ngô: Thuận Nghĩa năm thứ 5

Mân: Diên Hàn nối ngôi.

Thục Vương: Diễn hàng nhà Đường, trao chức cho Mạnh Tri Tường

Hán: Bạch Long năm đầu.

 

 

Tháng chín, Đế cho con là Ngụy Vương Kế Ngập, khu mật sứ Quách Sùng Thao đánh Thục. Thục chủ Vương Diễn chở quan tài, ngọc bích ra quy hàng. Mạnh Tri Tường, tự Bảo Thạnh người Long Cương, Hình châu, khu mật sứ Quách Sùng Thao đối với Tri Tường có ân cũ dẫn tiến. Lúc sắp đi ông nói với Đế: "Mạnh Tri Tường là người trung tín, mưu cao, chuyến đi lần này lấy được Tứ Xuyên tìm người trông coi thì không ai hơn người này!" Đế ưng chuẩn, Đại quân liền kéo về Tây, vào Tán Quan mở đường tiến đánh. Thục ra hàng. Sùng Thao mới cho Tri Tường làm Tây Xuyên Tiết độ sứ trấn giữ Thành Đô. Minh Tông, năm Trường Hưng năm thứ tư, ông được phong Thục Vương. Lộ Vương, Thanh Thái năm đầu, ông lên ngôi Hoàng Đế và mất, con là Sưởng lên kế ngôi, lấy Quốc hiệu Thục, niên hiệu Minh Đức. Đến Tống Thái Tổ, Càn Đức năm thứ ba, Thục quy hàng Tống. Thục tồn tại bốn mươi mốt năm thì diệt vong.

Hán có rồng trắng xuất hiện ở cung Hán. Hán chủ đổi niên hiệu Bạch Long, đổi tên là Cung.

* Minh Tông: Húy là Đảm, vốn tên Tự Nguyên, người Bắc Địch, Trang Tông nuôi nấng coi như con mình. Ông theo Trang Tông chinh phạt, nhiều lần lập công to. Tháng giêng năm Bính Tuất, Triệu Tại Lễ làm phản ở đất Nghiệp, Trang Tông sai Lý Tự Nguyên thảo phạt. Tháng ba, Tự Nguyên đến Nghiệp đô, tùng mã trực quân sĩ Trương Phá Bại làm phản, binh vây Trung quân Tự Nguyên nạt hỏi, Trương đáp: "Chúa thượng bỏ ân chuộng uy nói rằng, sau khi diệt thành sẽ chôn hết quân của Ngụy. Bọn tôi sợ chết, nay mọi người đều bàn chúa thượng làm đế ở Hà Nam, còn ông làm Đế ở Hà Bắc". Tự Nguyên khóc khuyên họ nhưng ba quân vẫn không theo. Con rễ Tự Nguyên là Thạch Kính Đường nói: "Phàm việc thành là ở nơi quả quyết, bại là bởi do dự!" Tự Nguyên liền sai An Trọng Hối truyền hịch nhóm quân. Thế quân rất mạnh. Lý Thiệu Vinh thỉnh Trang Tông đến Quan Đông phủ dụ họ. Xa giá đến Vạn Thắng trấn, nghe tin Tự Nguyên đã chiếm Đại Lương, các đạo quân đều tan rã. Đế liền cho quân quay về vào Lạc Dương. Tháng tư tùng mã trực chỉ huy sứ Quách Tùng Khiêm không biết Lục Vương Tồn Nghĩa đã chết nên muốn theo ông làm phản, thống lãnh binh của bộ tộc đánh phá Hưng Giáo Môn, men thành mà vào. Cận thần cựu tướng đều cởi giáp bỏ trốn, chỉ còn bọn Lý Ngạn Khanh, Hà Phước Tiến, Vương Toàn Bân mười mấy người ra sức đánh. Trang Tông bị trúng tên, người ở Tiến phường là Thiện Hữu đỡ Trang Tông từ cửa lầu xuống đến hiên điện Giáng Tiêu rút mũi tên ra. Trang Tông kêu khát, uống nước xong thì chết. Bọn Lý Ngạn Khanh khóc gào rồi bỏ đi. Tả hữu cũng phân tán. Thiện Hữu đốt xác Đế. Kỷ Sửu, Tự Nguyên vào Lạc Dương ngụ ở phủ đệ của mình, nhặt xương Trang Tông trong đám tro tàn rồi an táng. Bá quan nhiều lần dâng tấu chương xin Tự Nguyên làm giám quốc. Nguyên đồng ý. Quan Hữu Ty bàn lễ lên ngôi. Lý Thiệu Chân, Khổng Tuần cho rằng vận Đường đã hết nên tự lập quốc hiệu. Giám quốc không theo. Lại bộ Thượng thư Lý Kỳ nói: "Nếu đổi Quốc hiệu thì Tiên đế thành người dưng, cổ quan Thiên Tử làm sao chôn được! Đời trước, cho khác dòng khác họ nối ngôi cũng nhiều, nên dùng lễ con nối nghiệp lên ngôi trước linh cửu đi!". Mọi người đồng ý. Giám Quốc bèn lên ngôi Hoàng Đế trước linh cửu, năm ấy ông đã sáu mươi tuổi, đổi niên hiệu Thiên Thành, mỗi đêm đều đốt hương trong cung cáo trời, nguyện sớm sinh Thánh nhân làm chủ muôn dân. Thiên Thành năm thứ hai, mùa Xuân, tháng giêng, ông lại đổi tên Đản, ở ngôi tám năm, thọ sáu mươi bảy tuổi. Niên hiệu Thiên Thành bốn năm, Trường Hưng bốn năm.

- Bính Tuất: Thiên Thành năm đầu. Khiết Đan, Thiên Tán năm thứ 6. thục, Đại sư Thiền Nguyệt Quán Hưu tịch trong năm này.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường: Kế Nghiễm

Ngô Việt lập quốc: Bảo Chánh năm đầu

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thuận

Mân: Diên

Thục: Tiết Độ

Hán: Bạch

 

 

Nghĩa năm thứ 6

Quân, Thiên Bảo năm đầu

Mạnh Tri Tường

Long năm thứ 2.

 

 

Chiêu Vũ Tiết Độ Vương Diên Hàn tự xưng Đại Mân quốc vương, dựng cung điện, đặt bá quan, lễ nghi văn vật đều bắt chước pháp chế Thiên Tử. Truy tôn cha Vương Thẩm Tri là Chiêu Vũ Vương. Năm này con nuôi của Thẩm Tri là Diên Bẩm giết Diên Hàn, dân chúng suy tôn em của Hàn là Diên Quân làm Lưu Hậu.

- Đinh Hợi: Thiên Thành năm thứ hai. Khiết Đan Thái Tổ A Bảo Cơ mất. Đức Quang, Thiên Hiển năm đầu.

 

Triệu

 

 

Phụ ng Tường

Ngô Việt: Bảo Chánh năm thứ 2

Sở lập quố c

Ki nh Nam

Ngô lên ngôi Đế, Càn Trinh năm đầu

Mân: Thiên Bảo năm thứ 2

Th ục

Hán: Bạch Long năm thứ 3

 

 

- Khiết Đan: Thái tổ mất vào mùa Thu tháng bảy, Thiên Tán năm thứ sáu, ở ngôi mười một năm, Thái Tông lên ngôi. Ông húy Đức Quang, con năm thứ hai của Thái Tổ, mẹ họ Thuật Luật. Ông ở ngôi hai mươi hai năm, lập nhà Tấn diệt nhà Đường đổi Khiết Đan thành Đại Liêu. Ông từng dựng chùa Thiên Hùng trong bộ lạc của mình để thờ Phật. Trong chùa có tượng Thái Tổ Khiết Đan A Bảo Cơ.

Mùa thu tháng tám, Sở Vương Mã Ân bắt đầu lập quốc, xây cung điện, đặt bá quan giống như Thiên tử, hoặc có thay đổi chút ít, như Hàn lâm học sĩ là Văn uyển học sĩ, Tri chế cáo là Tri từ cáo, Khu mật viện là Tả hữu cơ yếu ty, bệ hạ xưng là điện hạ, lệnh thì đổi thành giáo.

Tháng mười một, Hoài Nam Ngô Vương họ Dương lên ngôi Hoàng Đế. Ngô Thừa Tướng Từ Ôn mất. Ngô chủ cho con ông là Tri Cáo làm Đô đốc trung ngoại chư quân sự. Tri Cáo vốn mang họ Lý, Đường Chiêu Tông Càn Ninh năm thứ hai, Dương Hành Mật đánh Hào Châu, Quân sĩ cướp phá Từ châu và bắt được ông, lúc đó ông mới tám tuổi. Hành Mật nuôi ông coi như con mình. Con trưởng của Hành Mật tên là Ác rất ghét ông. Hành

Mật nói với tỳ tướng Từ Ôn: "Đứa bé này tư chất diện mạo kỳ vĩ, hiểu biết hơn người, ta mất, thằng Ác ắt không dung tha nó, nay ta cho nó làm con nuôi của ông". Ông nhận đặt tên là Tri Cáo. Tri Cáo hầu hạ Ôn rất hiếu kính, hơn cả các người con khác, vì vậy Ôn yêu mến và cho ông quản lý mọi việc. Trưởng thành Tri Cáo thích đọc sách, giỏi bắn cung, học vấn, đức độ, tính nết đều vượt bậc. Hành Mật nói với Ôn: "Tri Cáo là người tuấn kiệt, các tướng và các con ta đều không bằng". Đến Tấn Cao Tổ, Thiên Phúc năm thứ hai, ông nhận ngôi của nước Ngô.

Mậu Tý: Thiên Thành năm thứ ba. Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ hai.

 

Triệu

 

 

Phụn g Tườn g

Ngô Việt: Bảo Chánh năm thứ 3

Sở

Kinh Nam: Cao Quý Hưng mất.

Ngô: Càn Trinh năm thứ 3

Mâ n: Diê n Qu ân

Thục: họ Mạn h

Hán: Đại Hữu năm đầu

 

 

Mân Chủ Diên Quân độ hai vạn dân làm Tăng, từ đó Mân Trung có rất nhiều Tăng. Tháng mười hai năm này, Kinh Nam Tiết độ sứ Cao Quý Hưng mất, Đế cho con ông là Tùng Hối lên nắm việc quân phủ. Tùng Hối dâng biểu xin được làm quan trong triều, Đế hạ chiếu cho ông làm Kinh Nam Tiết độ sứ.

* Thiền Sư Quế Sâm ở La-hán viện, Chương châu: Sư họ Lý, quê ở Thường Sơn, theo Đại Sư Vô Tướng chùa Vạn Tuế trong phủ này thế phát, thọ giới đắc pháp với Huyền Sa Sư Bị. Sư ngầm trung hưng đạo pháp, thống thiết ẩn mình. Chương châu mục Vương Công thỉnh Sư trụ tại viện Địa Tạng, Thạch Sơn, Thành Tây hơn mười năm. Sau, Sư về ở viện La-hán, tường đổ chõng hư nhưng Sư vẫn điềm nhiên an trụ, xiển dương Tông phong mỗi ngày một thịnh. Đến lúc này, Thiên Thành năm thứ ba, Sư quy tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Môn nhân trà-tỳ thâu xá-lợi dựng tháp ở phía tây viện. Đế ban Sư thụy Chân Ứng Thiền sư.

Kỷ Sửu: Thiên Thành năm thứ tư. Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ ba.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Bảo Chánh năm thứ 4

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thái

Mân

Thục

Hán: Đại Hữu năm

 

 

Hòa năm đầu

 

 

thứ 2

 

 

Tháng chín, Đế cùng Bình Chương Sự Phùng Đạo thong dong bàn thóc lúa hàng năm được mùa, bốn phương thái bình. Đạo nói: "Thần thường nhớ, lúc Tiên hoàng còn ở phủ trướng, thần phụng mệnh đi Sứ, từ Trung Sơn qua đến nơi hiểm trở núi Tinh Kính, Thần sợ ngựa ngã nên nắm cương rất cẩn thận. Thật may không mắc phải lỗi lầm, đi đến Trạch Lộ, Thần thả cương ngựa tự đi, ngay đó liền rơi xuống hố. Phàm người vì thiên hạ cũng giống như vậy". Đế cho là rất đúng. Đế hỏi: "Năm nay giàu có, bá tánh được no đủ không?" Đạo đáp: "Nhà nông gặp phải năm mất mùa thì chết vì lưu lạc, đói khổ, gặp phải năm được mùa thì bị thương vì thóc rẻ. Được mùa hay mất mùa, đằng nào nhà nông cũng phải chịu như vậy. Thần nhớ, trong bài thơ của tiến sĩ Nhiếp Di có câu: "Tháng hai bán tơ mới, tháng năm mua thóc mới, chữa được bệnh trước mắt, lại khoét thịt tâm đầu". Ngôn từ tuy quê mùa nhưng đã lột tả hết uẩn khúc của nhà nông. Trong bốn hạng người (sĩ, công, nông, thương) nông dân là kẻ cần khổ nhất, nhân chủ không thể không biết". Đế vui vẻ sai Tả hữu chép lại bài thơ này, thường ngâm đọc. Đậu Vũ Quân ở Uyển Bích,

U Châu làm quan đến chức Tả gián nghị đại phu rồi từ quan, ông sinh năm người con đều làm quan, hiển đạt. Thị trung Phùng Đạo tặng ông bài thơ: "Đậu Thập Lang núi Yên, dạy con đầy nhân nghĩa, cọc linh một cội già, quế tiên năm cành tốt". Chu Thế Tông, Hiển Đức năm thứ hai, thái sư trung thư lệnh doanh Văn Ý Vương Phùng Đạo mất.

- Canh Dần: Trường Hưng năm đầu. Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ tư.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Bảo Chánh năm thứ 5

Sở: Ân mất

Kinh Nam

Ngô: Thái Hòa năm thứ 2

Mân

Thục

Hán: Đại Hữu năm thứ 3

 

 

Tháng mười một, Sở Vương Mã Ân mất, con là Hy Thanh lên kế ngôi, làm theo di mệnh, bỏ phép chế dựng nước, trở lại phép cũ phiên trấn. Đế hạ chiếu cho Hy Thanh làm Vũ An Tĩnh Giang Tiết độ sứ.

* Tông Vân Môn: Thiền sư Văn Yển ở viện Quang Phụng, núi Vân Môn, Thiều châu, Quảng Đông đạo. Sư họ Trương, quê ở Tú Thủy, Chiết Tây, nay là Gia Hưng lộ. Từ nhỏ, Sư theo Luật Sư Chí Trừng chùa Không Vương xuất gia, lớn lên thế phát thọ giới ở giới đàn Tỳ Lăng. Sư hầu Chí Trừng mấy năm, tinh thông Luật bộ. Nhận thấy việc mình chưa sáng tỏ, Sư đến tham vấn Mục Châu Trần Tôn Túc. Sư đẩy cửa bước vào, Mục Châu nắm đứng lại, bảo: "Nói, nói!". Sư nghĩ ngợi, Mục Châu liền đẩy ra khỏi cửa nói: "Cái dùi lăn đời Tần!(Kẻ vô dụng)" rồi đóng cửa làm bị thương chân Sư. Nhân đó Sư tỉnh ngộ. Mục Châu bảo Sư đến yết kiến Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn, đắc pháp, mật khế tâm tông. Sư xuống núi tham vấn khắp nơi. Sau, Sư đến pháp hội của Thiền sư Linh Thọ Mẫn ở Quảng Trung. Trước đây, chúng không xin người làm Thủ tòa, có người khuyên Linh Thọ xin một người làm Thủ tòa, Linh Thọ nói: "Thủ tòa của ta đã xuất gia!" Thời gian sau, Thọ lại nói: "Thủ tòa của ta hành cước đã ngộ đạo!". Sau đó, Thọ lại nói: "Thủ tòa ta đến rồi!" Một hôm Linh Thọ bảo chúng đánh chuông để nghinh Thủ tòa, lúc ấy Sư cũng vừa đến. Linh Thọ cười bảo: "Nghinh ông lâu rồi, sao đến chậm thế!", và Linh Thọ bảo Sư làm Thủ tòa. Sư vui vẻ nhận, đó là vào năm Canh Dần, niên hiệu Trường Hưng năm đầu. Cùng lúc Quảng Chủ Lưu Vương muốn khởi binh mới đến Linh Thọ hỏi xem có nên hay không. Linh Thọ biết, trao cho thị giả cái hộp và dặn: "Vương đến, hãy ra đợi ông ấy!" Lúc ấy có Tăng hỏi: "Thế nào là ý Tổ Sư từ

Tây sang". Linh Thọ liền lên tòa quy tịch. Vương đến nghe Thọ đã tịch, thất kinh than trách. Thị giả trao cho ông cái hộp, ông mở ra, trong ấy ghi: "Con mắt của trời người là Thượng tòa trong pháp đường!" Vương lạy thỉnh Sư kế thế trụ trì Linh Thọ, nghinh Sư đến phủ khai pháp. Thời gian sau, Sư về ở tại núi Vân Môn, Thiều Dương. Năm Mậu Thân, Quảng Chủ nhiều lần thỉnh Sư về phủ hỏi pháp, lấy lễ thầy tiếp đãi, ban cho Sư hiệu Khuông Chân Thiền sư. Tháng bảy, Quảng nghinh Sư đến Vương phủ cúng dường. Tháng chín Sư từ biệt Vương về núi. Mồng mười tháng tư năm sau, Sư dâng biểu từ biệt Quảng Chủ, răn nhắc đồ chúng xong, ngồi ngay thẳng thị tịch. Đồ chúng an táng toàn thân Sư sau phương trượng. Năm Bính Dần, Triệu Thái Tổ, Càn Đức năm thứ tư, tức Quảng Chủ Thiên Bảo năm thứ chín, Sư báo mộng cho Nguyễn Thiệu Trang: "Ông hãy gởi lời ta đến Tú Hoa Quan Sứ Đặc Tiến Lý Thác". Thác liền tâu xin mở tháp Sư, phụng chiếu nghinh thỉnh linh thần vào triều cúng dường, tháng sau mới hoàn lại, nhân đó đổi tên chùa là Đại Giác, Đế gia cho Sư thụy Đại Từ Vân Khuông Chân Hoằng Minh Thiền Sư. Sư nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Tồn nối pháp Đức Sơn Tuyên Giám, Giám nối pháp Long Đàm Sùng Tín. Đạo pháp của Sư được đời tôn ngưỡng, gọi đây là Tông Vân Môn.

- Tân Mão: Trường Hưng năm thứ hai. Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ năm.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Bảo Chánh năm thứ 6

Sở:

Kinh Nam

Ngô: Thái Hòa năm thứ 3

Mân

Thục

Hán: Đại Hữu năm thứ 4

 

 

- Nhâm Thìn: Trường Hưng năm thứ hai. Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ sáu.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Nguyên Quán lên ngôi

Sở:

Kinh Nam

Ngô: Thái Hòa năm thứ 4

Mân

Thục

Hán: Đại Hữu năm thứ 5

 

 

Mùa Xuân tháng hai, Đế lệnh cho quốc tử giám hiệu đính Cửu Kinh khắc bản, đến Châu Quảng Thuận năm thứ ba khắc bản xong, ấn hành.

Tháng ba, Ngô Việt Vũ Túc Vương Tiền Liêu mất, thọ tám mươi mốt tuổi, con giữa là Truyền Quán kế vị, sau đổi tên Nguyên Quán, theo di mệnh bỏ quốc nghi, chỉ dùng phép tắc Phiên Trấn. Mùa thu tháng bảy, Vũ An Tĩnh Giang Tiết độ sứ Mã Hy Thanh mất, bọn lục quân Tự Viên Dư, Phan Ước đưa em Hy Thanh là Hy Phạm, ở Lãng Châu lên kế ngôi, trị vì mười lăm năm, thọ bốn mươi chín tuổi.

- Quý Tỵ: Trường Hưng năm thứ tư, Đế mất.

Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ bảy.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Nguyên Quán tức Văn Mục Vương

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thái Hòa năm thứ 5

Thục: Lân Long Khải năm đầu

Thục: họ Manh được phong Vương

Hán: Đại Hữu năm thứ 6

 

 

Mùa Xuân, tháng giêng, Mân Chủ Vương Diên Quân lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Mân, niên hiệu Long Khải. Ông đổi tên là Lân. Tháng hai, Đường cho Mạnh Tri Tường làm Đông Tây Xuyên Tiết độ sứ Thục Vương.

Tháng mười một, Đế không khỏe, hạ chiếu lập con năm thứ ba là Tống Vương Tùng Hậu, Đế mất. Tháng mười hai, Tống Vương Tùng Hậu lên ngôi Hoàng Đế, đó là Mẫn Đế. Tháng giêng năm Giáp Thân, đổi niên hiệu Ứng Thuận. Lúc này Phụng Tường Tiết độ sứ kiêm thị trung Lộ Vương Tùng Kha hiềm khích với triều đình. Tháng mười hai, Lộ Vương dựng cờ Đại tướng chỉnh đốn ba quân kéo về đông. Mẫn Đế nghe Lộ Vương đến đất Thiểm lo sợ chẳng biết làm sao, mới đem năm mươi quân kỵ ra cửa Huyền Vũ đến Vệ châu, dựa Thứ sử Vương Hoằng Chí. Lộ Vương đến Tưởng Kiều, bọn Phùng Đạo đều dâng biểu chương khuyên Vương tiến tới. Lộ Vương vào ra mắt Thái hậu, Thái phi, đến Tây Cung phủ phục trước linh cửu Minh đế, cả cung gào khóc. Thái hậu hạ lệnh phế Thiếu đế làm Ngạc Vương, cho Lộ Vương lên ngôi Hoàng Đế trước linh cửu. Vương Hoằng Chí đưa Mẫn Vương về doanh sở Vệ châu. Lộ Vương sai con Hoằng Chí là Điện Trực Loan đến chuốc độc Đế, Mẫn Đế biết có độc không chịu uống, Loan xiết cổ ông chết.

* Lộ Vương: Húy Tùng Kha, con nuôi của Minh Tông. Ông họ Vương, người Trấn Châu, nay là Chân Định lộ. Ngày Minh Tông chiếm thiên hạ cũng chính là ngày mẹ Đế nhặt được ông nuôi làm con mình, lúc ấy ông mới mười tuổi. Ông được phong Lộ Vương làm Phụng Tường Tiết độ sứ. Mẫn Đế lên ngôi, do Dương Vương Tùng Trác đem quân sang đánh, từ đó cứ khởi binh. Đế chạy khỏi cung, Lộ Vương phụng mệnh Thái hậu lên ngôi, ở ngôi ba năm, thọ ba mươi tuổi.

Giáp Ngọ: Tháng tư, đổi niên hiệu Thanh Thái năm đầu. Khiết Đan năm Thiên Hiển năm thứ tám.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Nguyên Quán lên ngôi

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thái Hòa năm thứ 6

Mân: Long Khải năm thứ 2

Thục: Minh Đức năm đầu

Hán: Đại Hữu năm thứ 7

 

 

Tháng giêng nhuần, Thục Vương Mạnh Tri Tường lên ngôi Hoàng Đế ở Thành Đô, đổi niên hiệu. Mùa thu tháng bảy Đế mất. Thái tử Nhân Tán lên ngôi Hoàng Đế. Ông đổi tên là Sưởng. Minh Đức năm đầu.

* Thượng tọa Tĩnh ở Quốc Thanh, Thiên Thai: Ngài đắc pháp với Thiền sư Huyền Sa Sư Bị, cư ngụ núi Thiên Thai hơn ba mươi năm. Có người hỏi: Tâm niệm lăng xăng, chưa rõ làm sao nhiếp phục?

Ngài đáp: Đem tâm niệm lăng xăng ấy, cứu xét chỗ lăng xăng của nó, xét đến không còn chỗ để xét thì niệm lăng xăng ấy làm sao còn! Mà trái lại xét đến cái tâm xét cứu, thì tâm năng cứu xét ấy ở đâu? Nhân xem Nghĩa Huyễn trong giáo môn, ngài thuật kệ:

Đạo hay pháp đều như huyễn có
Tội ác gây nên phải không lỗi
Vì sao nghiệp đã tạo chẳng quên
Bởi nhờ Phật từ độ dẫn dắt.

Có ông Tiểu Tĩnh Thượng tòa đáp:

Người huyễn khởi huyễn, huyễn bủa vây
Nghiệp huyễn hay đem pháp huyễn trị
Chẳng tỏ huyễn sinh các huyễn khổ
Tỉnh biết như huyễn, huyễn vô vi.

Di tích của hai Tĩnh Thượng tòa vẫn còn ở chùa Quốc Thanh.

- Ất Mùi: Thanh Thái năm thứ hai. Khiết Đan, Thiên Hiển năm thứ chín.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thiên

Mân: Long

Thục: Minh

Hán: Đại

 

 

Tường năm đầu

Khải năm thứ 3

Đức năm thứ 2

Hữu năm thứ 8

 

 

Kinh Nam Tiết độ sứ Cao Tùng Hối bẩm tính thông minh, hiếu để, lạy Hiền Sĩ Ủy Nhiệm Lương Chấn. Chấn khoác áo lông Hạc tự xưng là Kinh Đài Ẩn sĩ. Mỗi lần đến phủ ông thường cỡi bò đến xét việc.

Ngô gia phong Từ Tri Cáo làm Thượng phu Thái sư đại Thừa Tướng đại nguyên soái, tấn phong Tề Vương, đủ lễ đặc biệt, cho mười châu gồm: Thăng, Nhuận, Tuyên, Trì, Hấp, Thường, Giang, Nhiêu, Tín, Hải làm nước Tề.

- Thanh Thái năm thứ ba, tháng sáu, Hà Đông Tiết độ sứ Bắc diện tổng quản Thạch Kính Đường đã trở về trấn giữ Tấn Dương, ngầm bàn kế tự lập. Trước đây, Đế muốn sai Kính Đường về trấn giữ Vận Châu, nay là Đông Bình lộ. Cấp sự trung Lý Tung, Lã Kỳ đều cố sức can cho rằng không nên. Đế nghe theo lời của khu mật trực học sĩ Tiết Văn Ngộ cho Kính Đường làm Thiên Bình Tiết độ sứ.

Lệnh vua ban ra, các quan nhìn nhau thất sắc. Kính Đường nói: "Ta không làm loạn, triều đình đày ta đi, lẽ đâu ta chịu bó tay chết giữa đường ư!". Đô áp nha Lưu Tri Viễn nói: "Minh Công chiếm địa thế thuận lợi, binh mã tinh mạnh, nếu khởi binh truyền hịch, đế nghiệp tất thành". Chưởng thư ký Tang Di Hân nói: "Minh Công suy phò Khiết Đan thì lo gì không xong!" Kính Đường ý đã quyết, liền dâng biểu can Đế không nên truyền ngôi cho con nuôi mà xin truyền cho Hứa Vương. Đế nổi giận tự tay viết chiếu lấy lại đất, tước luôn quan tước của Kính Đường, sai Trương Kính Đạt cùng Thái Nguyên Tây diện bài trần sứ thống lãnh các tướng thảo phạt Kính Đường. Kính Đường dâng biểu xưng thần với Khiết Đan, lạy Đan thờ làm cha mình, hứa cắt đất giao nộp. Tháng chín, Khiết Đan Chủ Thái Tông Đức Quang đem năm vạn kỵ binh, ba mươi vạn giáp sĩ kéo đến Tấn Dương giao chiến. Quân Đường thua to. Tháng mười một, Khiết Đan chủ làm Sách Lệnh, cho Kính Đường làm Đại Tấn Hoàng Đế, dựng đàn ở Liễu Lâm và lên ngôi, đại xá thiên hạ, đổi năm Trường Hưng năm thứ bảy, thành Thiên Phước năm đầu. Lộ Vương biết Thạch Kính Đường lên ngôi Hoàng Đế liền cùng Tào Thái hậu, Lưu Hoàng hậu, Ung Vương Trùng Mỹ và bọn Tống Thẩm Kiền đem báu vật truyền quốc lên lầu Huyền Vũ hỏa thiêu mà chết. Hoàng hậu chất củi muốn đốt cung thất Trùng Mỹ can: "Thiên Tử mới đến đây ắt không ở ngoài trời, ngày sau sẽ làm lao nhọc sức dân, chết mà để oán thì đốt làm gì!". Hoàng hậu không đốt. Bà và Trùng Mỹ (con Lộ Vương) cùng chết. Chiều hôm đó, Tấn Cao Tổ vào Lạc Dương nghỉ tại phủ đệ cũ của mình. Binh Đường cởi giáp chịu tội, Tấn đế an ủi rồi thả họ hết, sai Lưu Tri Viễn sắp đặt lại Kinh thành. Tri Viễn chia quân hán cho về lại doanh, để Khiết Đan chủ ở chùa Thiên Cung. Trong thành tuyệt nhiên không ai dám phạm lệnh. Tháng mười hai, Tấn đế truy phế Lộ Vương làm dân thường, cho Phùng Đạo làm Đồng Bình Chương sự.

Nhà Đường gồm bốn chủ, trị vì mười bốn năm, vận nước về nhà Tấn.

Nhà Tấn: Họ Thạch lấy hiệu Kim Đức Vương, đóng đô ở Biện Châu, gồm Cao Tổ, Tề Vương.

* Cao Tổ: Họ Thạch, húy Kính Đường, vốn người Tây Địch, anh dũng thiện chiến, Đường Minh Tông yêu mến gả công chúa Vĩnh Ninh cho ông. Ông nhiều lần chuyển đến làm Hà Đông Tiết độ sứ. Thanh Thái năm đầu, ông trấn giữ Thái Nguyên, sau đổi làm Thiên Bình Tiết độ sứ nhưng ông không tuân mệnh, mới khởi binh cầu viện với Khiết Đan. Ông lên ngôi Hoàng Đế, vào Lạc Dương, cắt mười sáu châu như: U, Tô, Doanh,

Mạc, Trác, Đàn, Thuận, Tân, Quy, Nho, Vũ, Vân, Ứng, Hoàn, Sóc, Uất cho Khiết Đan. Ông ở ngôi bảy năm, thọ năm mươi mốt tuổi. Niên hiệu Thiên Phước bảy năm. Tháng mười một năm Bính Thân, đổi niên hiệu Thiên Phước năm đầu. Khiết Đan năm Thiên Hiển thứ mười.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Ngô: Thiên Tường năm thứ 2

Mân: Thông Văn năm đầu

Thục: Minh Đức năm thứ 3

Hán: Đại Hữu năm thứ 9

 

 

Cao Ly: Cuối đời Đường, Cao Ly Vương họ Cao, vào Đường Trang Tông năm Đồng Quang năm thứ hai, Cao Ly sai sứ đến Trung Quốc. Sử sách không ghi Vương này họ tên là gì. Đến Minh Tông năm Trường Hưng năm thứ ba, Quyền nắm quốc sự là Vương Kiến sai sứ đến, Minh Tông phong Vương Kiến làm Cao Ly quốc vương. Đến lúc này, năm Bính Thân, Cao Ly đem binh đánh phá Tân La, Bá Tế. Lúc đó các nước Đông Di đều theo về, có hai kinh, sáu phủ, chín Tiết Độ và một trăm hai mươi bộ.

Đinh Dậu: Thiên Phước năm thứ hai. Đại Liêu, Hội Đồng năm đầu.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: dựng lại nước

Sở

Kinh Nam

Đường nhận ngôi, Thăng Nguyên năm đầu

Mân: Thông Văn năm thứ 2.

Thục: Minh Đức năm thứ 4

Hán: Đại Hữu năm thứ 10

 

 

Đại Liêu Thái Tông Đức Quang lập ra nhà Tấn, nhận mười sáu châu do Tấn cắt nộp. Tháng giêng mùa Xuân, Đế lấy U châu làm Nam Kinh, đổi quốc hiệu Khiết Đan thành Đại Liêu, lấy niên hiệu Hội Đồng. Công Khanh quan dân bắt chước người Trung Quốc, trưng dụng người Trung Quốc.

Tháng hai, Đế về Bắc, cho Triệu Diên Thọ làm khu mật sứ kiêm trung thư lệnh.

Tháng ba, Tấn bàn việc dời đô về Đại Lương. Tháng tư, Đế đến Biện Châu. Ngô Việt Vương Nguyên Quán lại dựng nước, giống như việc cũ trong năm Đồng Quang.

Tháng tám, Ngô Chủ hạ chiếu nhường ngôi cho Tề Vương, Từ Tri Cáo lên ngôi Hoàng Đế ở Kiến Khang, đại xá thiên hạ, lấy quốc hiệu là Đường (Nam Đường), lấy niên hiệu Thăng Nguyên, tôn Ngô chủ là Nhượng Hoàng, cung thất, xa giá, ngự phục vẫn giữ như cũ, Tông miếu, chánh sóc, huy chương, sắc phục đều theo pháp chế nhà Ngô. Năm sau, Nhượng Hoàng mất, Đường chủ không thiết triều hai mươi bảy ngày, truy thụy là Duệ Hoàng

Đế. Đường, năm Thăng Nguyên năm thứ ba, Tri Cáo lại lấy họ Lý, đổi tên là Biện.

* Thiền sư Phong Huyệt ở Nhữ châu: Sư họ Lưu, húy Diên Chiểu người Dư Hàng, Tiền Đường. Từ nhỏ Sư đã không ăn mặn, học Nho đi thi tiến sĩ nhưng không đỗ bèn xuất gia, theo Trí Cung chùa Khai nguyên trong châu này thế phát, thọ Cụ túc, học chỉ quán Thiên Thai. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư yết kiến Cảnh Thanh, tham vấn Nam Viện Ngung Công, tỏ ngộ yếu chỉ. Sư ở đây sáu năm rồi cáo từ ra đi. Hậu Đường Minh Tông năm Trường Hưng năm thứ hai, Sư đến Nhữ Thủy, ngôi nhà tranh chỉ còn vài cây kèo gác vách núi như nhà hoang, Sư hỏi các bậc phụ lão, họ đáp: "Đây là chùa Phong Huyệt xưa kia, đời đời truyền Luật, tăng vật cũ chúng bỏ đi hết rồi!". Sư hỏi: "Tôi ở được không?" Họ đáp: "Được!"

Sư dừng chân ở đây, ban ngày vào thôn xóm khất thực, đêm về đốt nhựa tùng, một mình ở suốt bảy năm. Đến lúc này, Thiên Phước năm thứ hai, châu mục Lý sứ quân nghe đạo phong của Sư, chí thành lạy thỉnh. Ngày Thượng Nguyên, Sư khai đường thuyết pháp, kế thừa Nam Viện Ngung Công. Hán Ẩn Đế, năm Càn Hựu năm thứ hai, Lý Quân dời qua trấn giữ Trình châu, Sư tránh loạn nên qua đây ở tạm tại nơi thanh tịnh trong quận.

Có Tống Thái sư ở Nhữ châu cúng phủ đệ làm Tăng phường lấy tên Tân Tự, thỉnh Sư trụ trì. Pháp tịch hưng thịnh. Chu Thái Tổ, niên hiệu Quảng Thuận năm đầu, Đế sắc tứ thành chùa Quảng Tuệ. Sư trụ ở đây hai mươi hai năm, chúng hơn trăm người. Tăng hỏi:

-Thế nào là Phật? Sư đáp:

Roi tre trong rừng cây dưới núi.

Tống Thái Tổ năm Khai Bảo năm thứ sáu, mồng bảy tháng tám, Sư lên tòa nói bài kệ:

Thuận thời truyền đạo lợi sinh linh
Phương xa mến mộ đến ào ào
Năm khác có người nòi giống ấy
Ngày dâng hương khói đêm chong đèn.

Đến ngày mười bốn, Sư viết thư từ biệt đàn việt, ngày rằm thì kiết già quy tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, Tăng lạp năm mươi chín hạ. Sư nối pháp Nam viện Tuệ Ngung, Ngung nối pháp Hưng Hóa Tồn Tưởng, Tưởng nối pháp Lâm Tế Nghĩa Huyền.

-Mậu Tuất: Thiên Phước năm thứ ba. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ hai.

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Văn Mục Vương Nguyên

Sở

 

 

 

 

Quán

 

Kinh Nam

Đường: Thăng Nguyên năm thứ 2

Mân: Thông Văn năm thứ 3

Thục: Quảng Chính năm đầu

Hán: Đại Hữu năm thứ 11

 

 

Tháng tám, Tấn Đế tôn hiệu Đại Liêu Chủ và Thái Hậu, cho Bình Chương Phùng Đạo, Lưu Hú làm sách lễ sứ, sắm đủ nghi vệ Thiên Tử, xa giá đến Liêu Chủ hành lễ. Đế thờ Liêu rất kính, dâng biểu xưng Thần, tôn là Phụ Hoàng Đế.

Tháng mười, Đế cho thuyền, xe Đại Lương tụ tập ở Tào Vận, rồi xây Đông kinh ở Biện châu, lại lấy Biện châu làm phủ Khai Phong lấy Đông Đô làm Tây Kinh, lấy Tây đô làm Tấn Xương quân tiết sứ, hạ chiếu cho quan dân tự đúc tiền đồng. Tiền ấy có tên Thiên Phước Nguyên Bảo.

Kỷ Hợi: Thiên Phước năm thứ tư. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ ba.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt:

Sở

Kinh Nam

Đường: Lý Thăng Nguyên

Mân: Vĩnh Long năm

Thục: Quảng Chính năm thứ

Hán: Đại Hữu năm

 

 

năm thứ 3

đầu

2

thứ 12

 

 

Mùa Xuân tháng giêng, quần thần của Nam Đường nhiều lần dâng biểu xin Đường chủ Từ Tri Cáo lấy lại họ Lý, lập Tông miếu, Đường chủ đồng ý. Ông đổi tên Biện. Quần thần lại xin truy phong tôn hiệu, nhưng ông không nhận. Đường chủ không dùng ngoại thích làm phụ chánh, hoạn quan không được dự việc. Đó là điều mà các nước khác không theo kịp.

Mùa Thu tháng bảy nhuần, Mân chủ bị củng thần Khống Hạc quân sứ Liên Trùng Ngộ giết. Thúc phụ ông là Diên Nghĩa tự xưng uy vũ Tiết độ sứ Mân quốc chủ. Ông đổi tên Hy, truy thụy Mân Chủ là Đường Tông.

* Bồ-tát Quán Thế Âm: Tăng Đạo Dực người Hàng châu đêm nọ mộng thấy ánh sáng trên núi, lên xem thì thấy cây gỗ thơm lạ, mới sai thợ giỏi tạc tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, ánh sáng phát ra liên tục ngày đêm. Hán Cao Tổ, Càn Hựu năm thứ hai, có Tăng là Tùng Huân lấy xá-lợi của cổ Phật đặt vào tướng lông trắng của tượng, xá-lợi liền hiện che phủ đỉnh tượng. Lại nữa núi Bổ Đát Lạc Già trong biển thuộc Khánh Nguyên lộ, là nơi Bồ-tát thị hiện. Đường Tuyên Tông trong năm Đại Trung, Tăng Tây Vực Thiên Trúc đến trong động đốt ngón tay cầu khấn, tận mắt nhìn thấy diệu tướng của Bồtát Quán Âm, được Bồ-tát nói pháp yếu. Danh tích này từ đó nổi tiếng. Về sau, Tăng của Nhật Bản là Tuệ Ngạc được một tượng vẽ của Bồ-tát ở Ngũ Đài Sơn, Bắc Yên, mới đặt bên cạnh núi, nhà họ Trương. Họ Trương phụng thờ đổi nhà mình thành viện Quán Âm. Trong Xương Quốc Chí ghi: "Lương, năm Trinh Minh năm thứ hai mới dựng chùa. Tống Thần Tông năm Khai Phong năm thứ ba, sai sứ Vương Thuấn Phong quan Tam Hàn, đi thuyền đến động, gió dữ nổi lên, rùa nâng lấy thuyền. Thuấn Phong cầu khấn, Bồ-tát hiện tướng, thuyền an ổn về lại triều. Phong tâu lên triều đình, Đế ban vàng lụa cho dời chùa về dựng ở phía Nam núi Mai Sầm. Đế sắc tứ là Bảo Đà vốn là chùa hiện nay.

-Canh Tý: Thiên Phước năm thứ năm. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ tư. Mân Vương Hy độ một vạn một ngàn Tăng.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Đường: Thăng Nguyên năm thứ 4

Mân: Vĩnh Long năm thứ 2

Thục: Quảng Chính năm thứ 3

Hán: Đại Hữu năm thứ 13

 

 

 

 

 

 

 

 

Tân Sửu: Thiên Phước năm thứ sáu. Đại Liêu,

Hội Đồng năm thứ năm.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Con là Hoằng Tá lên ngôi

Sở

Kinh Nam

Đường: Thăng Nguyên năm thứ 5

Mân: Vĩnh Long năm thứ 3

Thục: Quảng Chính năm thứ 4

Hán: Đại Hữu năm thứ 14

 

 

Tháng tám, Ngô Việt Quốc Văn Mục Vương Tiền Nguyên Quán mất, con là Hoằng Tá lên ngôi vương. Hoằng Tá bẩm tính ôn hòa, liêm minh, quyết đoán, thích đọc sách, trọng kẻ sĩ, siêng chăm chánh sự. Ông trị vì bảy năm, thọ hai mươi tuổi.

Tháng mười một, Đường chia sứ giả xem xét nghề nghiệp của dân. Xưa cứ dựa mập ốm mà định thuế, dân đều xưng ông xử đoán công bằng.

- Hán, tháng mười hai, Mậu Tuất, Hán chủ lâm bệnh, có vị Tăng Ấn nói với ông rằng, tên Cung là bất lợi, Hán chủ tự tạo chữ Nghiễm (gồm Long và Thiên) để làm tên mình, lấy nghĩa là Phi Long tại Thiên (rồng bay lên trời), đọc như chữ Nghiễm (bộ Nhân). Mân chủ dựng tháp đá bảy tầng ở đồi Tây Thành Nam, làm chưa được một nửa, tháp phát ra như cái tàn, ba đêm sau thì xong. Ánh sáng chiếu thẳng lên trời suốt ba đêm. Vương xa giá đến xem, sắc tứ tháp tên Tịnh Quang, còn dựng chùa viện trong cả nước.

- Nhâm Dần: Thiên Phước năm thứ bảy, Đế mất. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ sáu.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Trung Hiến Vương Hoằng Tá

 Sở

Kinh Nam

Đường: Thăng Nguyên năm thứ 6

Mân: Vĩnh Long năm thứ 4

Thục: Quảng Chính năm thứ 5

Hán: Bân lên ngôi, Quang Thiên năm đầu.

 

 

Nam Hán tức Nam Bình, Quảng châu. Tháng tư, Cao Tổ Lưu Nghiễm mất. Tần Vương Hoằng Độ lên ngôi Đế, sau đổi tên là Bân.

* Tề Vương: Sử chép là Xuất Đế, húy Trọng Quý, anh Cao Tổ, con của Kính Nho, được phong Tề Vương. Năm con của Cao Tổ đều chết sớm, Trọng Duệ còn nhỏ. Tháng sáu năm Thiên Phước năm thứ bảy, Cao Tổ mất. Tháng bảy Thái thú Tư Đồ kiêm Thị trung Phùng Đạo và thiên bình Tiết độ sứ Thị vệ Mã bộ đô ngu hầu Cảnh Diên Quảng bàn đất nước khó khăn nên lập vua trưởng, mới đưa Quảng Tấn Doãn Tề Vương Trọng Quý kế tự rồi lên ngôi Hoàng Đế. Đại thần bàn dâng biểu xưng thần và báo tang với Liêu. Cảnh Diên Quảng xin nên gởi thư xưng cháu chứ không xưng thần. Lý Tung can nhưng Quảng không nghe. Phùng Đạo dựa trên sai trái mà ly gián. Đế mất, ông theo lời bàn của Diên Quảng. Liêu chủ nổi giận sai sứ đến trách tội, Diên Quảng trả lời bất kính. Năm Bính Ngọ, Khai Vận năm thứ ba, tháng mười, Liêu đem đại binh diệt Tấn. Liêu chủ sai Trương Ngạn Trạch dời Tề Vương về phủ Khai Phong và giết ngay. Đế ở ngôi bốn năm, vận nước về nhà Liêu, không thấy ghi ông thọ bao nhiêu tuổi, đó là vào năm Thiên Phước năm thứ tám. Niên hiệu Khai Vận ba năm.

-Quý Mão: Thiên Phước năm thứ tám. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ bảy.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Đường: Cảnh Bảo Đại năm đầu

Mân: Thiên Đức năm đầu.

Thục: Quảng Chính năm thứ 6

Hán: Hoằng Hy, Càn Hóa năm đầu

 

 

Đường chủ uống thuốc của bọn Phương sĩ tính tình trở nên nóng nảy. Quần thần vào tấu việc, ông thường nổi giận. Ông hỏi đạo sĩ Vương Thê Hà:

Đạo nào có thể khiến thiên hạ thái bình?

Hà đáp:

Vương giả trị tâm trị thân chính là trị quốc gia. Nay bệ hạ còn chưa bỏ được đói no lo vui thì bàn thái bình làm gì!

Tống hậu khen hay, cho là chí lý. Tất cả những gì Đường chủ ban cho, Hà đều không nhận. Tháng mười hai, bệnh Đường chủ phát ra ở lưng, ông triệu Tề Vương Cảnh vào hầu bệnh và nói với Cảnh: "Ta uống Kim thạch cốt muốn sống lâu, trái lại nguy hại, ông nên dè dặt!" Đêm ấy, ông mất. Nguyên Tông Cảnh lên ngôi.

* Mân: Vương Diên Chính xưng Đế ở Kiến châu, lấy quốc hiệu Đại Ân. Trước đây, Thiên Phước năm thứ tư, Hy lên ngôi nhưng xa xỉ bạo ngược, nghi kỵ Tông tộc. Em ông là Kiến châu Thứ sử Vương Diên Chính gởi thư can gián, Hy nổi giận. Từ đó anh em gây thù chuốc hận đem binh đánh nhau. Đến lúc này Diên Chính xưng Đế.

* Hán: Thương Đế: Ông kiêu căng xa xỉ không đoái hoài quốc sự, Tấn Vương Hoằng Hy muốn mưu đồ lật đổ nên bày đủ kỷ nhạc, ton hót làm ông hài lòng để hoàn thành dã tâm của mình. Lát sau, thừa lúc Đế say rượu, Hoằng Hy giết ông rồi lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu Càn Hóa, đó là Trung Tông.

* Tông Pháp Nhãn: Thiền sư Thanh Lương, họ Lỗ húy Văn Ích, người Dư Hàng. Năm bảy tuổi, Sư theo Thiền sư Đồng Vỹ ở viện Trí Thông, Tân Định thế phát, từ nhỏ đã thọ giới tại chùa Khai nguyên, Việt châu, nghiên tầm Tỳ-ni, cứu xét Nho điển. Sư chấn tích về nam, đến Phước châu yết kiến Thiền sư Tuệ Lăng Trường Khánh nhưng không khai ngộ, muốn xuống núi đi qua Chương châu. Đến Thạch Sơn, Thành Tây gặp phải trời tuyết, Thiền sư Quế Sâm ở viện Địa Tạng hỏi Sư:

- Thượng tọa học hiểu giảng tam giới duy tâm vạn pháp duy thức, và Sâm chỉ phiến đá trước thềm hỏi: Phiến đá này ở trong tâm hay ngoài tâm?

Sư đáp: Trong tâm.

- Hành cước mắc chứng gì để phiến đá trong tâm mà đi.

Sư bí lối không đáp được và ở lại đây cầu quyết trạch. Hơn một tháng, Sư trình kiến giải, nói đạo lý. Sâm nói:

- Phật pháp không phải như vậy. Sư thưa:

Con lời hết lý cùng rồi.

- Nếu luận Phật pháp thì tất cả đều hiện thành.

Ngay đây, Sư đại ngộ, ở lại đây rất lâu. Đường, Lộ Vương năm Thanh Thái năm thứ hai, Sư từ biệt đến Giang Tây,. Châu mục Vũ châu kính trọng đạo đức của Sư nên thỉnh Sư trụ trì viện Sùng Thọ. Nam Đường lập quốc, Đường chủ đón Sứ đến Thiền viện Báo Ân ở Kim Lăng, ban hiệu Tịnh Tuệ Thiền sư. Thỉnh qua trụ trì chùa Thanh Lương, xiển dương Phật pháp. Đường chủ mời Sư đi xem hoa mẫu đơn, thỉnh Sư làm thi phú. Sư ứng thanh đọc:

Theo vua ngắm hoa thơm
Cảm nhận vốn chẳng đồng
Tóc ngày nay bạc trắng
Hoa năm ngoái vẫn hồng,
Sắc đẹp tùy sương sớm
Mùi hương theo gió nồng
Đâu cần đợi héo úa
Sau đó mới biết không.

Đường chủ nghe bài thơ liền đốn ngộ huyền chỉ. Đến Chu, Hiểu Đức năm thứ năm, tức Đường, Giao Thái năm đầu, ngày mười bảy tháng bảy, Sư có chút bệnh, Đường chủ đến thăm hỏi. Mồng năm thánh bảy nhuần, sư từ biệt đại chúng kiết già quy tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, tăng lạp năm mươi bốn hạ. Công Khanh Lý Kiến Huân trở xuống đều mặc tang phục dựng tháp phụng toàn thân Sư ở Đan Dương, huyện Giang Ninh. Đế ban Sư thụy Đại Pháp Nhãn Thiền Sư, tháp hiệu Vô Tướng. Sau, Đế lại ban thụy Đại Trí Tạng Đại Đạo Sư. Đệ tử đắc pháp có bốn mươi ba người, mỗi người dẫn dắt một phương. Những người tùy căn cơ ngộ nhập thật không kể hết. Sư nối pháp Địa Tạng Quế Sâm, Sâm nối pháp Huyền Sa Sư Bị, Bị nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn. Tông môn kính ngưỡng đạo pháp của Sư, gọi đây là Tông Pháp Nhãn.

- Giáp Thìn: Khai Vận năm đầu. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ tám.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt Quốc

Sở

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 2

Mân: Chu Văn Tiến

Thục: Quảng Chính năm thứ 7

Hán: Càn Hóa năm thứ 2

 

 

Lưu Hú giao cho Tư không Bình Chương sự soạn Cựu Đường Sử, những dị tích của Phật, Tổ đều được chép trong đây. Đời Tống, Âu Dương Tu soạn Đường Thư đã cắt bỏ hết.

Mùa Xuân, tháng giêng, Mân củng thần đô chỉ huy sứ Chu Văn Tiến, các môn sứ Liên Trọng Ngộ giết Mân Chủ Hy, hạ chiếu cáo với bá quan: "Thái tổ Quang mở nước Mân, nay con cháu xa xỉ bạo ngược, mất hết tôn ty, Trời ghét họ Vương nên lựa người có đức lập lên". Mọi người chẳng ai dám lên tiếng. Trọng Ngộ suy tôn Chu Văn Tiến lên điện, đội mũ miện, dẫn quần thần quay mặt về bắc lạy hai lạy xưng thần. Văn Tiến tự xưng Mân Vương, truy tôn Mân chủ Hy thụy là Cảnh Tông. Năm đó, Văn Tiến bị thuộc hạ giết, gói đầu giao nộp Ân Vương Diên Chính ở Kiến châu. Năm sau, quân của Nam Đường lấy Kiến châu, Diên Chính quy hàng. Nước Mân tồn tại năm mươi năm vận nước hết.

*Nghe chuông dứt khổ: Thời Nam Đường, ở huyện Thượng Nguyên Giang Nam có người dân chết giấc, ba ngày sau tỉnh dậy nói: "Tôi đến trước sân điện chợt thấy Tiên vương bị gông cùm rất chặt, tôi đến gần và hỏi: "Ngài vì sao ra nông nỗi này?" Người đó đáp: Ta bị Tống Tề Khâu lừa dối đã giết hơn ngàn người quy hàng ở Hòa Châu, oan gia tố tụng nên bị giam ở đây. Ông được thả về hãy đến báo với nhà vua đương triều phàm chùa viện đánh chuông hãy đánh lâu một chút. Người chịu khổ nghe chuông liền được tạm tha. Hoặc có thể đúc một quả chuông cho ta càng tốt. Khi còn ở ngôi, ta giao hảo với nước Vu-điền, quốc vương ấy có tặng cho ta một tượng Thiên Vương bằng ngọc, ta thường để trong búi tóc, sau giấu nó dưới gối trái tượng Phật trong chùa Ngõa quan mà chẳng ai hay biết. Ông có thể lấy tượng này làm vật chứng minh". Người dân ấy về báo lại mọi việc, Đường chủ đích thân đến chùa Ngõa quan quả nhiên thấy pho tượng dưới gối trái của Phật. Đường chủ cảm thương khóc lóc rồi đúc một quả chuông trong chùa Thanh Lương trên chuông ghi: "Cầu phước cho Liệt Tổ Hiếu Cao Hoàng Đế thoát khỏi u đồ, ra khỏi ách nạn". Ông dựng tháp ở Tưởng Sơn an trí pho tượng.

- Ất Tỵ: Khai Vận năm thứ hai. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ chín.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 2

Mân diệt vong

Thục: Quảng Chính năm thứ 8

Hán: Càn Hóa năm thứ 3

 

 

Bính Ngọ: Khai Vận năm thứ ba. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ chín.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 4

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 8

Hán: Càn Hóa năm thứ 4

 

 

Đinh Mùi: Khai Vận năm thứ tư. Đại Liêu, Hội Đồng năm thứ mười một.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Hoằng Tá mất.

Sở: Hy Quảng lên ngôi.

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 5

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 10

Hán: Càn Hóa năm thứ 5

 

 

Tháng tư, Liêu Thái Tông mất, ở ngôi hai mươi hai năm. Tháng năm, Thế Tông lên ngôi, húy

Nguyễn Phiên, tên Ngột Dục, con của Đông Đan Vương Đột Dục, cháu Thái tổ. Năm Mậu Thân, đổi niên hiệu Thiên Lộc. Thiên Lộc năm thứ tư, Tân Hợi mùa Thu tháng chín, ông bị Yên Vương Thuật Triếp giết ở Hỏa Thần Định, Tân châu, ở ngôi năm. Tháng năm, Sở Văn Chiêu Vương Hy Phạm mất, bá quan đưa em ông là Hy Quảng lên ngôi.

Tháng sáu, Ngô Việt Trung Hiến Vương Hoằng Tá mất, di mệnh cho Thừa Tướng Hoằng Tông làm Trấn hải trấn đông Tiết độ sứ. Năm này, ông bị nội nha Thống quân sứ Hồ Tiến Tư phế, lập em ông là Hoằng Thục, đó là Trung Ý Vương. Vương để tâm đến Phật giáo, vừa lên ngôi, ông đã đem ban vàng lụa, dựng Già-lam ở những nơi danh Sơn Thánh tích của các quận ở Lưỡng chiết. Núi Chi Đề ở Phước Châu là Thiên Quan Bồ-đề đạo tràng. Vương cúng bảy báu đúc cả ngàn tượng Thiên Quan, lập chùa viện nguy nga tráng lệ bậc nhất ở Thất Mân (Phước Kiến và Chiết Giang).

Mùa Xuân tháng giêng năm Đinh Mùi, quân Liêu đến Đại Lương. Tấn đế, Thái hậu trở xuống dâng biểu xin hàng, đón ở ngoài cửa Phong Khâu. Liêu chủ cáo từ không gặp, phong Tấn đế làm Phụ Nghĩa Hầu, cho ở tại phủ Hoàng Long, tức thành Hòa Long của Mộ Dung Yên. Liêu chủ đổi và mặc y phục Trung Quốc, trăm quan đi ở đều theo pháp chế cũ, đưa Tấn đế, Lý Thái hậu, Phùng hậu về bắc, Tả hữu ở hậu cung hơn trăm người cùng đi theo, có ba trăm quân kỵ của Khiết Đan đưa đi. Tháng hai, Liêu chủ về nước, cho Tiêu Hàn làm Đại Lương Tiết độ sứ. Hàn là con của người anh Thuật Luật Thái hậu, em ông lại làm Hoàng hậu của Liêu chủ. Ban đầu, Hàn có họ Tiêu, là họ của Hoàng hậu Thuật Luật Thái tổ A Bảo Cơ. Mùa hạ, tháng tư, Liêu chủ về lại Lâm Thành thì ngã bệnh, đến Loan Thành bệnh càng nặng. Năm Bính Tý, đến Sát Hồ Lâm thì mất, người trong nước ướp mấy đấu muối trong bụng ông rồi đưa về bắc. Người Tấn gọi ông là Đế Ba (vua bị ướp muối). Hồi ấy, Hà Đông Tiết độ sứ Lưu Tri Viễn nghe Liêu Chủ vào đất Biện mới chia quân giữ bốn nơi đề phòng bị đánh úp, lúc này tướng tá đều khuyên Viễn nên tôn hiệu, hiệu lệnh bốn phương, Tri Viễn không chịu. Quân sĩ đều nói: Nay Khiết Đan bắt Thiên Tử, thiên hạ không có chủ. Phiên Hán Khổng mục quan Quách Uy Đô, áp nha Dương Bân cũng khuyến tấn, Tri Viễn nghe theo. Tháng hai, Tân Mùi ông lên ngôi Hoàng Đế, vẫn xưng Thiên Phước năm thứ mười hai, đổi quốc hiệu Hán. Khiết Đan Tiêu Hàn nghe Hán đế xua quân về Nam, liền muốn về Bắc sợ trong nước không có chủ. Lúc này có con Đường Minh Tông là Lý Tùng Ích cùng mẹ là Vương Thục phi ở Lạc Dương, Hàn đón họ rồi lập làm Đế, dẫn hết các tộc trưởng đến lạy, trăm quan đến yết kiến. Thục phi khóc nói: Mẹ con ta yếu đuối thế này mà các ông lập nên thì thật là họa cho nhà ta. Hàn để hơn ngàn quân Yên ở lại giữ cổng thành, hộ vệ cho Tùng Ích, Hàn cáo từ về bắc. Hán đế đến Lạc Dương, sai Trịnh châu phòng ngự sử Quách Tùng Nghĩa vào trước Thanh cung Đại Lương, giết Lý Tùng Ích và Vương Thục phi. Hán đế đến Đại Lương, lại lấy Biện châu làm Trần kinh, quốc hiệu Hán.

Nhà Tấn gồm hai chủ, trị vì mười một năm, vận nước về nhà Hán.

* Nhà Hán:

Họ Lưu, lấy hiệu Thủy Đức Vương, đóng đô đất Biện gồm Cao Tổ, Ẩn Đế.

Cao Tổ: Húy Tri Viễn, đổi tên là Hạo, người bộ lạc Sa Đà, nhiều đời ở Thái Nguyên, cùng Tấn Cao Tổ đồng thờ Đường Minh Tông. Tấn Cao Tổ lên ngôi, cho Tri Viễn làm bảo nghĩa quân Tiết độ sứ, sau đổi qua làm Hà Đông Tiết độ sứ. Khai Vận năm thứ hai, ông được phong Bắc Bình Vương. Tấn Đế về Bắc, ông lên ngôi ở Tấn Dương, ở ngôi hai năm, thọ năm mươi bốn tuổi, xưng Thiên Phước hai năm, Càn Hựu một năm.

-Mậu Thân: Càn Hựu năm đầu. Đại Liêu, Thế Tông, Thiên Lộc năm đầu.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt: Hoằng Thục.

Sở.

Kinh Nam: Bảo Dung lên ngôi

Đường: Bảo Đại năm thứ 6

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 11

Hán: Càn Hóa năm thứ 6

 

 

Tháng giêng, Đế lại đổi tên Hạo. Giáp Tý, ông không khỏe, Đinh Sửu mất ở điện Vạn tuế, nhưng quần thần giấu kín không phát tang. Tháng hai, lập Hoàng Thái tử Thừa Hựu làm Chu Vương rồi lên ngôi Hoàng Đế, lúc này Hựu mười tám tuổi.

Mùa Đông tháng mười, Hình Nam Tiết độ sứ Nam Bình văn Hiến Vương Cao Tùng Hối mất, con ông là Bảo Dung làm Lưu Hậu, trị vì mười năm, thọ bốn mươi mốt tuổi.

* Ẩn Đế: Húy Thừa Hựu, con năm thứ hai của Cao Tổ, ở ngôi ba năm, thọ hai mươi tuổi, xưng năm Càn Hựu năm đầu.

Kỷ Dậu: Càn Hựu năm thứ hai. Đại Liêu, Thiên Lộc năm thứ hai.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở: Hy Quảng bị giết.

Kinh Nam

Đường: Bảo

 

Thục: Quảng

Hán: Càn

 

 

Đại năm thứ 7

 

Chính năm thứ 12

Hóa năm thứ 7

 

 

* Quốc sư Đức Thiều: Ngài họ Trần, người Long Tuyền, Xử Châu, mười lăm tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thế phát tại chùa Long quy trong châu này, mười tám tuổi thọ giới ở chùa Khai nguyên, Tín châu. Hậu Đường Trang Tông, trong năm Đồng Quang, ngài du phương, đầu tiên yết kiến Thiền sư Đồng ở núi Đầu Tử, kế đến yết kiến Long Nha Sơ Sơn. Cứ thế ngài tham vấn khắp năm mươi bốn Thiện tri thức. Sau cùng, ngài đến Giang Tây, Phủ Châu tham vấn Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích. Ngài mệt mỏi chuyện tham vấn nên chỉ tùy chúng chấp lao phục dịch. Một hôm, tăng hỏi Pháp Nhãn:

-Thế nào là một giọt nước Tào Khê? Nhãn đáp:

Là một giọt nước Tào Khê.

Ngài ở bên tòa nghe được hoát nhiên khai ngộ, thưa với Pháp Nhãn. Nhãn nói: "Về sau, ông được quốc vương thờ làm thầy, làm cho đạo Tổ rực sáng!".

Ngài trở về Xử châu, lên núi Thiên Thai, thấy di tích của Thiền sư Trí Giả Trí Khải, cảm thấy mình khế hợp đâu từ trước. Đầu tiên, ngài ở Bạch Sa. Lúc này Ngô Việt Trung Ý Vương Hoằng Thục làm vương tử, ông đến Thai châu, nghe danh tiếng ngài liền mời đến hỏi đạo. Đến lúc này, Càn Hựu năm thứ hai, Vương đã nối ngôi Ngô Việt, sai Sứ đi đón ngài, nhận lễ làm đệ tử, tôn ngài làm Quốc sư. Lúc này, có Sa-môn Nghĩa Tịch hoằng truyền giáo quán Thiên Thai của Trí Giả, Tịch chính là Pháp Sư Loa Khê. Tịch nhiều lần nói với ngài: "Giáo quán của Trí Giả qua nhiều năm tháng phần nhiều mai một, chỉ có nước Tân La là còn đầy đủ nhất, mong Hòa thượng từ bi đến đó cho". Ngài tâu với Việt Vương, vương sai sứ mang thư của ngài qua Tân La xin sao chép đầy đủ giáo quán đem về. Cho đến nay, giáo quán của tông Thiên Thai sở dĩ đầy đủ như vậy đều nhờ công sức của ngài. Ngài có bài kệ:

Trên đỉnh Thông huyền
Không phải nhân gian
Ngoài tâm không pháp
Đầy mắt núi xanh.

Pháp Nhãn nghe được, nói: "Một bài kệ này đủ dựng tông ta".

Ngày hai mươi tám tháng sáu, Tống Thái Tổ, Khai Bảo năm thứ năm, ngài nhóm chúng từ biệt, ngồi kiết già quy tịch ở Liên hoa phong, thọ tám mươi hai tuổi, tăng lạp sáu mươi lăm hạ. Ngài nối pháp Pháp Nhãn Văn Ích.

-Canh Tuất: Càn Hựu năm thứ ba. Đại Liêu, Thiên Lộc năm thứ ba.

 

Triệu

 

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 8

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 13

Hán: Càn Hóa năm thứ 8

 

 

Vũ bình Tiết độ sứ Mã Hy Ngạc là anh của Hy Quảng bắt Sở Vương Hy Quảng và giết. Hy Ngạc tự xưng Vũ An Tĩnh Giang Ninh Viễn Đẳng Quân Tiết độ sứ, hàng nhà Đường. Đường phong cho ông làm Sở Vương, cuối cùng bị Đường diệt, đưa họ Mã về Kim Lăng. Mùa hè tháng tư, Hán đế cho Quách Uy làm Nghiệp đô lưu thú Thiên Hùng Tiết độ sứ. Khu mật vẫn giữ như cũ, cho Hữu giám môn vệ tướng quân Quách Vinh làm Thiên Hùng nha nội Đô Chỉ Huy Sứ. Vinh vốn họ Sài, cha là Thủ Lễ vốn anh vợ của Quách Uy. Uy chưa có con, mới nuôi Vinh làm con mình. Tháng năm, Uy nhận mệnh, cáo từ đi và nói với Đế: "Thái hậu theo Tiên đế nhiều năm nếm đủ việc trong thiên hạ, bệ hạ phải quý trọng thân mình, có việc gì nên thưa với Thái hậu sau đó hãy làm, thân gần trung tín, lánh xa tà nịnh, giữa tốt xấu phải phân định rạch ròi". Lúc ấy, khu mật sứ hữu bộc xạ Đồng Bình Chương sự Dương Bân tổng quản quân cơ, khu mật sứ kiêm Thị trung Quách Uy nắm việc chinh phạt, Quy Đức Tiết độ sứ Thị Vệ Thân Quân Đô Chỉ Huy Sứ kiêm Trung Thư Lệnh Sử Hoằng Triệu nắm việc Túc vệ, Tam Ty Sứ Đồng Bình Chương Sự Vương Chương nắm việc thuế má. Các ông Bân v. v.. là trung thần, Đế tin dùng Nội Khách Tỉnh Sứ Diêm Tấn Khanh, Khu Mật Thừa Chỉ Nhiếp Văn Tiến, Phi Long Sứ Hậu Khuông Tán, Hàn Lâm Trà Tửu Sứ Quách Doãn Minh, họ sàm tấu rồi chấp chính. Đế ngày một lớn, chán ghét vì đại thần quản chế, nên cùng Khu Mật Sứ Nhiếp Văn Tiến, Khuông Tán, Doãn Minh đã giết Bân. Triệu, Chương ở nhà Đông điện Quảng Chính vào mồng một tháng mười một. Đế sai Cung Phụng quan Mạnh Nghiệp đem mật chiếu đến Thiền châu và Nghiệp Đô để giết Vương Ân. Lại lệnh cho Nghiệp đô Hành Dinh Quân Mã Đô Chỉ Huy Quách Sùng Uy, Bộ Quân Đô Chỉ Huy Sứ Tào Uy giết Quách Uy và Giám quân Tuyên Huy Sứ Vương Tuấn. Quách Uy mới gọi Quách Sùng Uy, Tào Uy đến nói rằng: Bân v. v.. bị chết oan. Ông nói: "Ta cùng các ông ấy vạch gai góc, theo Tiên đế lấy Thiên hạ, nhận lệnh thác cô, tận lực giữ nước nhà, nay các ông ấy đã chết, ta lòng dạ nào sống một mình, các ông hãy làm theo chiếu thư cắt đầu ta đem về báo với Thiên Tử, ngõ hầu không phiền lụy nhau". Bọn Quách Sùng Uy khóc nói: "Thiên Tử nhỏ, háo thắng, đây chắc là do bọn tiểu nhân Tả hữu bày ra, chúng tôi xin nguyện theo ông vào triều tự tố, giết sạch bọn chuột kia để làm sạch triều đình, không thể để ông chết một mình". Quách Uy mới để con nuôi là Vinh ở lại giữ Nghiệp đô, sai Quách Sùng Uy dẫn kỵ binh đi trước, còn mình dẫn đại quân đi ngày sau kéo đến Phong Khâu. Tháng mười một, Đế sai bọn Mộ Dung Ngạn Siêu đem quân chống cự. Bọn Ngạn Siêu đánh và thua to chạy về. Hôm đó Đế ra ủy lạo ba quân, tàn quân thua trận chỉ có mấy mươi người chạy về cung, qua đêm ở Thất Lý trại, còn lại đều bỏ trốn. Sáng ngày Ất Dậu, Đế lên ngựa về lại cung đến cửa Huyền Hóa, Lưu Thù đứng trên cửa hỏi Đế "Tả hữu binh mã đâu mất?" Nhân đó bắn Tả hữu. Đế quay ngựa chạy lên Tây bắc, đến Triệu Thôn, truy binh đuổi đến, Đế xuống ngựa chạy vào nhà dân, bị loạn binh giết chết. Quách Uy đi thẳng vào Xuân môn. Đinh Hợi, Quách Uy dẫn bá quan đến cửa Minh Đức, rồi đến chỗ Thái hậu tâu rõ việc quân việc nước, xin lập vua mới. Thái hậu mới cho con của Hà Đông Tiết độ sứ Lưu Sùng là Vũ Ninh Tiết độ sứ Bân lên ngôi Hoàng Đế. Uy tấu cho Thái sư Phùng Đạo đến Từ châu nghênh rước. Canh Dần, Uy dẫn quần thần dâng biểu, Hoàng Đế đến cửa cung, cảm động gào khóc cả tuần, thỉnh Thái hậu lâm triều thính chính. Nhâm Thìn, Thái hậu bắt đầu lâm triều. Quách Uy vượt sông, đóng quân ở Thiền Châu. Quý Sửu, tướng sĩ cùng tôn lập Uy rồi đưa Uy về Nam, Uy dâng biểu cho Thái hậu xin phụng việc tông triều của nhà Hán, tôn Thái hậu làm mẹ. Vũ Ninh Tiết độ sứ Bân đã đến Tống châu. Quách Uy gởi thư cho Bân nói vì các tướng ép buộc, triệu Phùng Đạo về trước. Bân hỏi, nay phải tính thế nào? Đạo im lặng. Tháng mười hai, Kỷ Mùi, Thái hậu lệnh phế Bân làm Tương Âm Công, cho thị trung Quách Uy làm giám quốc. Tháng giêng năm Tân Hợi, Hán Thái hậu hạ chiếu giao phù bảo giám quốc, Uy lên ngôi Hoàng Đế. Giám quốc Uy từ Cao Môn vào cung, lên ngôi ở điện Sùng Nguyên, xuống chiếu rằng: "Trẫm là con cháu nhà Chu, hậu duệ của Thúc, nên lấy quốc hiệu Chu". Tháng đó, giết Tương Âm Công ở Tống châu.

* Nhà Hán: gồm hai chủ, tồn tại bốn năm, vận nước về nhà Chu.

* Nhà Chu: Họ Quách, lấy hiệu Mộc Đức, đóng đô ở Đại Lương, gồm Thái Tổ, Thế Tông, Cung Đế.

* Thái Tổ: Húy là Uy, tự Trọng Văn, người Nghiêu Sơn, Hình châu. Cha là Giản thờ nhà Tấn giữ chức Thuận châu Thứ sử. Uy từ nhỏ mồ côi, sống nhờ người họ Thường ở Lộ châu. Lộ châu Lưu Hậu Lý Kế Thao chiêu mộ cảm tử làm quân, Uy năm ấy mười tám tuổi nhờ dũng cảm nên được tuyển chọn. Tấn, Thiên Phước năm thứ hai, Phạm Diên Quang làm phản ở Ngụy châu, Uy làm quân sĩ, từng theo Dương Quang Viễn chinh phạt phía Bắc. Uy vốn đầu quân với Lưu Tri Viễn, Tri Viễn xin cho ở lại, người ta hỏi nguyên do, Uy đáp: Ông Dương là kẻ có tài gian trá, không có khí chất anh hùng, được ta không biết dùng vào đâu. Người có thể dùng ta là ông Lưu chăng!". Sau, Uy phụng sự Tri Viễn làm Thị Vệ Đô Ngưu Hầu. Tri Viễn lên ngôi Hoàng Đế, Uy phò tá có công được bái phong đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự. Trong đời Hán Ẩn Đế, ông nhiều lần lập công, được phong làm Nghiệp đô Lưu Thú. Tháng mười một, năm Càn Hựu năm thứ ba, Hán Ẩn Đế bị giết, ông lên ngôi, ở ngôi ba năm, thọ năm mươi hai tuổi. Niên hiệu Quảng Thuận ba năm.

-Tân Hợi: Quảng Thuận năm đầu. Đại Liêu, Thiên Lộc năm thứ tư, tháng chín Mục Tông lên ngôi. Ứng Lịch năm đầu. Đức Thích-ca nhập diệt một ngàn chín trăm năm.

 

Triệu

Bắc Hán lập quốc, xưng Càn Hựu năm thứ 4

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại

 

Thục: Quảng

Hán: Càn

 

 

năm thứ 8

 

Chính năm thứ 14

Hóa năm thứ 9

 

 

* Bắc Hán: Hồi ấy, Hà Đông Tiết độ sứ kiêm Trung Thư lệnh Lưu Sùng là em cùng mẹ với Cao Tổ, khi Cao Tổ lên ngôi, cho Sùng làm Thái Nguyên Doãn Bắc Kinh Lưu Thú. Hán Ẩn Đế bị hại, ông muốn khởi binh về nam, nghe đón con ông là Bân làm Hoàng Đế, ông dừng quân và nói: "Con ta làm Đế, ta còn cầu gì nữa". Đến khi Chu Thái Tổ lên thay nhà Hán, giết Bân ở Tống châu, Sùng nổi giận, hôm đó ông lên ngôi Hoàng Đế ở Tấn Dương, lấy quốc hiệu Hán, xưng năm Càn Hựu năm thứ tư. Tháng hai, Lưu chủ nghe Bắc Hán lập đế, mới sai Chiêu thảo sứ Phan Duật Nhiên gởi thư cho con ông là Lưu Thừa Quân. Hán chủ sai Thừa Quân gởi thư phúc đáp: "Bản triều điêu linh, muốn theo việc xưa nhà Tấn, cầu viện xin binh". Liêu chủ vui mừng, mùa hạ tháng tư Hán Chủ sai Trịnh Cung gởi thư cho Liêu xưng cháu và xin làm Sách lễ. Liêu Đế sai Yên Vương Thuật Trát đem Sách mệnh phong Hán chủ làm Đại Hán Thần Vũ Hoàng Đế, Hán chủ lại đổi tên Mân. Tháng chín, Liêu chủ đích thân viện giúp nhà Hán. Khi đến đầm Hỏa Thần ở Tân Châu. Yên Vương Thuật Trát và con Vỹ Vương là Đại Ninh Vương Âu Tăng v. v.. đem quân làm phản giết Đế, rồi Thuật Trát tự lập. Con Thái Tông là Tề Vương Thuật Luật ở xa ngoài Nam Sơn. Các đại thần phụng sự ông ấy để đánh giết bọn Thuật Trát, Âu Tăng và bè đảng của họ lập Thuật Luật làm Đế, đổi niên hiệu Ứng Lịch, an táng Liêu Đế ở Y Vu, Lư Sơn miếu hiệu Thế Tông, ở ngôi năm.

* Liêu Mục Tông Thiên Thuận Hoàng Đế: Húy Cảnh, tên Phiên là Thuật Luật, sau đổi tên là Minh, con trưởng của Thái Tông. Hồi ấy Thái Tông đánh Thạch Tấn để Đế ở lại hầu hạ Thuật Luật Thái hậu. Thái Tông mất, các tướng lập Thế Tông. Thế Tông bị giết, các tướng đón ông lên ngôi, từ đầm Hỏa Thần vào U châu. Đế tuổi trẻ ham chơi, không lo việc nước, mỗi đêm nhậu nhẹt đến sáng mới ngủ, đến trưa mới dậy. Người trong nước gọi ông là Thùy Vương, ở ngôi mười tám năm.

* Thiền sư Vĩnh Minh, Hàng châu: Tên Đạo Tiềm, người phủ Hà Trung, họ Vũ. Ban đầu, ngài yết kiến Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích. Pháp Nhãn hỏi:

- Ngoài tham vấn, ông xem kinh gì? Ngài đáp:

Kinh Hoa Nghiêm.

- Sáu tướng tổng biệt dị đồng thành hoại, môn nào thâu nhiếp?

- Văn thì ở phẩm Thập Địa, nhưng lý thì ở tất cả pháp thế gian xuất thế gian đều có đủ sáu tướng.

- Hư không có sáu tướng không?

Ngài mờ mịt không đáp được. Pháp Nhãn nói:

Ông hỏi ta đi!

Ngài hỏi:

Hư không có sáu tướng không?

- Rỗng rang.

Ngay đó, ngài khai ngộ. Hôm sau nhân có sĩ nữ đến viện, Pháp Nhãn hỏi ngài:

Trong Luật nói, cách vách nghe tiếng vòng xuyến thì gọi là phá giới. Thấy vàng bạc, tạp vật đủ màu đỏ tía lẫn lộn, là phá giới hay không phá giới?

Ngài đáp:

Đó là con đường tốt để vào. Pháp Nhãn nói:

Về sau, ông có năm trăm đồ chúng (hạc hóa sinh), được Vương hầu kính trọng.

Ngài lạy từ biệt, chấn tích đến ngôi chùa cổ ở Cù châu, ngày xem Đại Tạng Kinh. Đến lúc này, Quảng Thuận năm đầu, Ngô Việt Trung Ý Vương Hoằng Thục thỉnh ngài vào phủ thọ Bồ-tát giới, ban ngài hiệu Từ Hóa Định Tuệ Thiền sư, dựng đại Già-lam ở Nam Sơn lấy tên Tuệ Nhật Vĩnh Minh thỉnh ngài ở. Ngài xin ở tại chùa La-hán Quá Tân dưới tháp, thật phù hợp với mộng trước đây của Ý Vương. Thế là ý Vương lại ban hiệu cho ngài thêm hai chữ Ứng Chân. Ngài tịch năm Chu Hiển Đức năm thứ năm, nối pháp Pháp Nhãn Văn Ích.

* Thiền sư Vĩnh Minh Trí Giác ở Tuệ Nhật, Hàng châu: Ngài họ Vương, húy Diên Thọ, người Dư Hàng. Từ nhỏ, ngài đã quy tâm Phật thừa, không ăn mặn, ngày ăn một bữa, trì kinh Pháp Hoa, một lần phải hết bảy quyển. Chỉ trong hai tháng ngài đã tụng thuộc, cảm được bầy dê quỳ nghe. Năm hai mươi tám tuổi, ngài làm Hoa Đình Trấn Tướng, chí mộ Chân Thừa. Ngô Việt Văn Mục Vương Nguyên Quán biết ngài có tâm đạo mới thuận theo chí nguyện để ngài xuất gia. Ngài lễ Thiền sư Thúy Nham chùa Long Sách thế phát, chấp lao phục dịch, quên thân là quan lại. Áo chẳng mặc lụa là, ăn chẳng chọn mùi vị, rau dưa đạm bạc độ nhật qua ngày. Sau ngài lên ngọn Thiên Trụ ở Thiên Thai thiền định suốt ba tháng, đến nỗi chim yến làm tổ trong tay áo. Kế đó, ngài yết kiến Quốc sư Đức Thiều. Vừa gặp, Đức Thiều đã hứa khả, ngài tỏ ngộ huyền chỉ. Đức Thiều nói: "Ông có duyên với Nguyên Soái, ngày sau đại hưng Phật sự".

Ban đầu, ngài trụ ở Tuyết Đậu, từng có bài thơ:

Vượn lạc kêu rụng trăng, trong núi trăng
Khách quê ngâm hết nửa đêm đèn
Cảnh ấy lúc này ai hiểu thấu
Mây trắng núi sâu Tăng ngồi thiền.

Ngô Việt Trung Ý Vương Hoằng Thục thỉnh ngài khai sơn Linh Ẩn Tân Tự. Năm sau, ngài về đạo tràng Vĩnh Minh, chúng đến hai ngàn. Tăng hỏi:

Thế nào là diệu chỉ của Vĩnh Minh? Ngài đáp:

Đốt thêm hương đi!

- Cảm tạ thầy chỉ dạy.

- Với vui (hỷ), chẳng dính dáng. Tăng lễ bái.

Ngài nói:

Muốn biết Vĩnh Minh chỉ
Trước cửa nước một hồ
Trời soi ánh sáng hiện
Gió đến sóng nhấp nhô.

Ngài ở Vĩnh Minh mười lăm năm, độ một ngàn bảy đệ tử, thường truyền bá Bồ-tát giới cho bảy chúng, ban đêm cúng quỷ thần, phóng sinh các loài không thể kể hết, sáu thời dâng hoa hành đạo, ngoài ra tụng kinh Pháp Hoa đến một vạn ba ngàn biến, soạn Tông Cảnh Lục một trăm quyển. Ngô Việt Vương viết lời tựa, lời bạt, nhập Đại tạng lưu hành. Nay, phương trượng ở Tịnh Từ gọi là Tông Cảnh Đường. Thi, kệ, phú, vịnh của ngài đến ngàn vạn bài truyền khắp nước khác. Quốc vương Cao Ly xem văn giáo của ngài, liền sai sứ đem thơ sang nhận lễ đệ tử, lấy sợi vàng thêu y Tăng-già-lê, chuỗi hạt bằng thủy tinh, thau rửa bằng vàng dâng cúng cho ngài, ba mươi sáu Tăng Cao Ly được ngài ấn khả thọ ký, lần lượt về Cao Ly mỗi người giáo hóa một nơi. Tống Thái Tổ, Khai Bảo năm thứ bảy, ngài vào núi Thiên Thai truyền giới cho hơn vạn người. Giờ Thìn ngày hai mươi sáu tháng mười hai năm sau, ngài đốt hương từ biệt chúng rồi kiết già quy tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, tăng lạp bốn mươi hai hạ. Năm sau, môn nhân dựng tháp ngài ở núi Đại Từ. Tống Thái Tông sắc tứ là Thọ Ninh Thiền Viện. Ngài nối pháp Quốc Sư Thiên Thai Đức Thiều, Thiều nối pháp Thanh Lương Pháp Nhãn Văn Ích, thuộc phái Thanh Nguyên đệ tử Lục tổ. Nối pháp của ngài có Hàng châu Càn Minh Tân Thiền Sư, Đương Dương Tử Mông Hòa thượng.

- Nhâm Tý: Quảng Thiện năm thứ hai. Đại Liêu Mục Tông Ứng Lịch năm thứ hai.

 

Triệu

Bắc Hán xưng Càn Hựu năm thứ 5

 

Phụng Tường

Ngô Việt

Sở bị Đường diệt, tồn tại 56 năm.

Kinh Nam

Đường

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 15

Hán: Càn Hóa năm thứ 10

 

 

Mồng một tháng sáu, Chu Đế đi Khúc phụ, đến miếu thờ Khổng Tử, lệnh sửa sang lại, cấm không được đốn củi trong Khổng Lâm. Đế hỏi thăm hậu duệ của Khổng Tử là Nhan Uyên, cho Uyên làm Khúc Phụ Lệnh và làm Chủ Bạ.

- Quý Sửu: Quảng Thuận năm thứ ba. Đại Liêu Ứng Lịch năm thứ ba. Tượng Phật Chiên-đàn từ đây xuống đến một trăm bảy mươi bảy năm ở tại Biện Kinh.

 

Triệu

Bắc Hán: họ Lưu Càn Hựu năm thứ 6

 

Phụng Tường

Ngô Việt

 

Kinh Nam

Đường: bảo Đại năm thứ 11

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 16

Hán: Càn Hóa năm thứ 11

 

 

Trước đây, Hậu Đường Minh Tông năm Trường Hưng năm thứ ba, Tể tướng Phùng Đạo, Lý Ngu xin khắc bản Cửu Kinh. Tháng sáu năm này họ khắc bản xong, dâng Đế, lưu bố rộng rãi.

Việc khắc chữ ấn bản khởi nguyên từ đây.

- Giáp Dần: Tháng giêng Đế mất. Hiển Đức năm đầu. Đại Liêu, Ứng Lịch, năm này Thái sư Trung thư lệnh Doanh văn ý Vương Phùng Đạo mất.

 

Triệu

Bắc Hán chủ mất, Càn Hựu năm thứ 7

 

Phụng Tường

Ngô Việt

 

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 12

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 17

Hán: Càn Hóa năm thứ 12

 

 

Chu Đế không khỏe, tháng giêng gia phong Tấn Vương Vinh kiêm chức Thị trung Phán nội ngoại binh mã. Đế nhiều lần dặn Tấn Vương "Xưa ta chinh Tây thấy mười tám lăng của nhà Đường đều bị đào bới lên. Đó không do gì khác mà chỉ là do chôn cất quá nhiều vàng ngọc. Ta chết đi, ông hãy liệm ta vải thô, đặt trong áo quan đất nung, an táng liền đừng để lâu trong cung, chớ đặt quan giữ lăng mộ, chớ đục dê, cọp, người, ngựa bằng đá, chỉ khắc bia đá dựng trước lăng ghi rằng: "Thiên Tử nhà Chu bình sinh thích cần kiệm, di lệnh bảo liệm vải thô, áo quan đất nung, Thiên Tử kế vị không dám trái mệnh". Nhâm Thìn, tuyên chiếu xong, Đế mất. Bính Thân, Tấn Vương Vinh lên ngôi Hoàng Đế.

Tháng mười một, Bắc Hán chủ Mân mất, con là Thừa Quân sau đổi tên Quân lên kế ngôi. Hiếu Hòa Đế Quân tính hiếu thuận, cẩn thận. Sau khi lên ngôi, ông chăm lo quốc sự, thương dân, kính lễ kẻ sĩ, trong nước tạm yên.

* Thế Tông: Húy là Vinh, con người anh của Thái tổ Thánh Hậu Sài Thế, Thái Tổ nuôi ông, xem như con mình, phong làm Tấn Vương sau cho kế ngôi. Ông ở ngôi sáu năm, thọ ba mươi chín tuổi. Niên hiệu Hiển Đức sáu năm.

- Ất Mão: Hiển Đức năm thứ hai. Đại Liêu Ứng Lịch năm thứ năm.

 

Triệu

Bắc Hán: Lưu Quân, Càn Hựu năm thứ 8

 

Phụng Tường

Ngô Việt

 

Kinh Nam

Đường: Bảo

 

Thục: Quảng

Hán: Càn

 

 

Đại năm thứ 13

 

Chính năm thứ 18

Hóa năm thứ 13

 

 

Tháng hai, Chu đế hạ chiếu dẹp bớt chùa viện không được sắc tứ trong cả nước, sai Quận phủ mỗi năm làm Tăng trướng, hễ có Tăng mất thì lấy ra treo lên. Tăng trướng xuất phát từ đó.

- Bính Thìn: Hiển Đức năm thứ ba. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ sáu.

 

Triệu

Bắc Hán: Càn Hựu năm thứ 9

 

Phụng Tường

Ngô Việt

 

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 13

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 19

Hán: Càn Hóa năm thứ 14

 

 

Trước đây, Chu túc vệ tướng Triệu Khuông Dận đánh Bắc Hán có công, đến lúc này ông được phong làm Định quốc Tiết độ sứ kiêm Điện Tiền Đô Chỉ Huy Sứ. Khuông Dận dâng biểu xin Vị châu quân sự phán quan người Tô châu là Triệu Phổ làm Tiết Độ.

Tháng giêng, Chu Đế hạ chiếu thân chinh Hoài Nam. Đế triệu Hoa sơn ẩn sĩ Chân Nguyên Trần Bác vào hỏi thuật Phi Thăng Hoàng Bạch. Bác đáp: ""Bệ hạ là Thiên Tử phải lấy việc trị yên thiên hạ làm đầu, dùng những thứ ấy làm gì!" Bác cáo từ về núi.

- Đinh Tỵ: Hiển Đức năm thứ tư. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ bảy.

 

Triệu

Bắc Hán: Thiên Hội năm đầu.

 

Phụng Tường

Ngô Việt

 

Kinh Nam

Đường: Bảo Đại năm thứ 15

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 20

Hán: Càn Hóa năm thứ 15

 

 

- Mậu Ngọ: Hiển Đức năm thứ 5. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ 8.

 

Triệu

Bắc

 

Phụng

 

 

 

Hán: Thiên Hội năm thứ 2

 

Tường

 

 

Kinh Nam

Đường: Năm Trung Hưng đổi thành Giao Thái năm đầu

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 21

Hán: Sưởng, Thiên Bảo năm đầu.

 

 

Tháng ba, Chu Đế vượt sông đánh Đường. Đường chủ thẹn vì hàng quân Phiên, mới sai Binh Bộ Thị lang Trần dâng biểu xin nhường ngôi cho

Thái tử Hoằng, dâng đất bốn châu Lô, Thư, Kỳ, Hoàng, vạch sông làm biên giới xin dứt binh. Tháng năm, Đường chủ Hoằng vì tránh tên húy của Chu Đế nên đổi tên Dực, hạ lệnh bỏ Đế hiệu chỉ xưng Quốc chủ. Tất cả nghi chế của Thiên Tử đều giáng thấp hoặc không dùng, bỏ niên hiệu, dùng Chánh Sóc nhà Chu, rồi cáo ở Thái miếu.

Mùa Thu tháng bảy, ban hành Đại Chu hình thống, Đế muốn thu đều thuế ruộng, lấy Nguyên chẩn quân điền đồ đưa về khắp các đạo. Nam Hán Trung Tông Lưu Hoằng Hy mất, con trưởng Vệ Vương Kế Hưng lên ngôi Hoàng Đế, sau ông đổi tên Sưởng lúc ấy mười sáu tuổi.

- Kỷ Mùi: Hiển Đức năm thứ sáu. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ chín.

 

Triệu

Bắc Hán: Quân Thiên Hội năm thứ 3

 

Phụng Tường

Ngô Việt

 

Kinh Nam

Đường:

 

Thục: Quảng Chính năm thứ 22

Hán: Thiên Bảo năm thứ 2

 

 

Sân điện nhà Chu có bày chuông khánh nhưng không treo lên. Đế hỏi Nhạc công vì sao, chẳng ai đáp được. Khu mật sứ Vương Phác vốn hiểu âm luật, Đế đem việc nhạc hỏi, Phác dâng sớ đáp: "Lễ để kiểm thúc thân, nhạc để điều trị tâm, hình thuận bên ngoài, tâm hòa bên trong, mà thiên hạ không yên là điều chưa từng có. Bởi vậy trên tu lễ nhạc thì dưới vạn nước yên. Lời dạy Thánh nhân chẳng trang trọng nhưng hình thành nền chánh, không nghiêm cẩn nhưng trị dụng đạo này. Phàm nhạc phát sinh từ lòng người, tiếng hình thành ở vật. Vật tiếng đã thành lại hay cảm được lòng người. Xưa Hoàng Đế thổi ống quản chín tấc được chánh âm hoàng chung, một nửa là tiếng trong, hai phần là tiếng chùng. Thêm bớt trong ba phần ấy mà hình thành mười hai luật. Mười hai luật này hỗ trợ nhau hình thành cung, sinh ra bảy điệu gọi là một quân. Được mười hai Quân, tám mươi bốn điệu là đầy đủ nhất. Gặp lúc nhà Tần diệt học trò, nhiều đời nay, người đánh nhạc ít ai dùng đến. Thế Tổ Hiếu Tông của Đường Thái Tông Trương Văn Thâu khảo chính đại nhạc đủ tám mươi bốn điệu, trong biến loạn của An Sử, nhạc cụ và nhạc công trong mười người chết hết tám, chín. Đế loạn Hoàng Sào thì chết sạch không còn. Lúc này có Thái Thường Bác sĩ Ân Doanh Tôn xét dựa Công ký mới đúc mười hai bác chung, hai trăm bốn mươi biên chung. Xử sĩ Tiêu Thừa Huấn giáo định khánh đá, nay là những thứ ở trong huyện. Tuy có hình dáng chuông khánh (nhưng hòa âm hoàn toàn khác. Chung và bác này không nghe ra âm luật, chỉ tuần tự mà đánh, còn biên chung biên khánh) chỉ để không trong huyện mà thôi. Trúc tơ, bầu đất chỉ có bảy thanh, gọi là cung của Hoàng chung, nay còn chín khúc, khảo xét ba khúc hợp luật, sáu khúc sai lệnh các điệu, bởi âm nhạc phế khuyết không gì hơn hiện nay. Bệ hạ vũ công vang danh, lại lưu tâm trong lễ nhạc, cho thần từng học luật, cung, chỉ bày âm nhạc xưa nay, sai thần thảo luận. Thần kinh cẩn vâng mệnh, sẽ phân định rõ ràng. Loại dài chín tấc rộng ba phân là ống quản của Hoàng Chung, tương ưng với Hoàng Chung ngày nay, nhân đó suy ra được mười hai luật, để làm tiếng chung cho các loại quản, không tiện mới soạn luật. Xét loại đàn có mười ba dây nó dài chín thước đều ứng với hoàng chung. Luật, thanh theo năm thứ tự xếp ở trụ làm thành mười một luật, đến tiếng trong của hoàng chung lại dùng bảy luật làm một quân, đó là chủ của quân, còn gọi là quan. trưng, thương, vũ, gốc, biến quan, biến trưng ở kế sau. Phát thanh quân chủ kết quy về luật âm gốc, theo năm thứ tự không loạn liền thành điệu, gồm tám mươi mốt Điệu. Cách này đã mất từ lâu, vượt ngoài hiểu biết của Thần, xin cho tập họp các quan để so sánh được mất. "

Đế hạ chiếu làm theo. Bá quan đều cho là đúng và ban hành. (Bác chung (loại chuông lớn) có mười hai giá ứng với vị thứ của mười hai giờ. Bào là một trong tám âm, chính là bào sinh (Sên như quả bầu) do đất nặn thành.

Lập Hoàng Tử Tông Huấn làm Lương Vương, lãnh chức tả thượng tướng quân. Đế bắc chinh, lưng nổi nhọt, tháng sáu mất trên đường về. Giáp Ngọ tuyên di chiếu cho Lương Vương lên ngôi Hoàng Đế.

* Cung Đế: Tên là Tông Huấn, con của Thế Tông, được phong Lương Vương, lên ngôi năm bảy tuổi. Tháng giêng năm Canh Thân, Trấn Định dịch trạm báo, Bắc Hán cấu kết với người Nhung vào cướp phá. Đế sai chỉ huy sứ Triệu Khuông Dận bắc chinh. Ngay hôm đó, Dận xuất quân, tối thì đến dịch trạm Trần Kiều. Canh năm đêm ấy, quân sĩ tuốt kiếm, đứng xếp hàng trước sân nói: "Chúng tôi không có chủ, nguyện tôn Thái úy làm Thiên Tử" Họ suy tôn ép ông về Nam, từ cửa Nhân Hòa vào. Thái úy về dinh thự, Tể tướng Phạm Chất v. v... đến điện Sùng Nguyên, triệu văn võ bá quan đến quyết định. Đế tự hàng, hạ chiếu rằng: "Trời sinh dân đen, lập người chăn dắt, hai Đế chỉ việc chung mà nhường ngôi, ba Vương thuận thời mà thay đổi, nhằm thống nhất vậy. Tôi là con út gặp phải gia cảnh không đoàn viên, lòng người đã hết, vận nước phải có nơi về, tìm đến người có đức. Quân Tiết độ sứ Điện tiền đô điểm kiểm Triệu Khuông Dận bẩm thọ tư chất thượng Thánh, tài lược Thần vũ giúp Cao Tổ ta thay đổi mệnh trời, nay thờ Thế Tông công to phước lớn, đánh đông dẹp tây ông ấy có công đầu, trời đất quỷ thần nhờ người có đức, xướng ca kiện tụng vì kẻ nhân từ, ứng trời thuận người theo Nghiêu nhường Thuấn, nay bỏ trọng trách, tôi xin làm khách. Than ôi!

Kính thay! Chỉ sợ mệnh trời". Tuyên huy sứ dẫn Dận đến thềm điện nghe chiếu dụ xong, Tể tướng dìu ông lên điện, vào nhà đông bận ngự phục lên tòa. Quần thần lạy mừng. Đế hạ chiếu đổi Chu Hiển Đức năm thứ bảy thành Kiến Long năm đầu, lấy quốc hiệu Đại Tống. Mồng bốn tháng giêng, ông phong Cung Đế là Trịnh Vương, đưa người tế tự Chu thất về Tây Kinh, Khai Bảo năm thứ sáu, Trịnh Vương mất.

Nhà Chu gồm ba chủ, trị vì chín năm, vận nước về nhà Tống.

¢

QUYỂN 4

* Nhà Tống: Họ Triệu, vương hiệu Thổ Đức, đóng đô đất Biện, nay là Biện Lương lộ, gồm Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông, Huy Tông, Khâm Tông, Cao Tông, Hiếu Tông, Quang Tông, Ninh Tông, Lý Tông, Độ Tông, Ấu Chúa.

*Thái Tổ: Húy là Huyễn Lãng, ban đầu có tên Quang Dận, Khuông Dận, người Lạc dương, Tây Kinh, họ Triệu, làm quan nhà Chu giữ chức Quy đức quân Tiết độ sứ Điện tiền đô điểm giản, nhận ngôi nhà Chu vào năm ba mươi bốn tuổi. Ông lên ngôi, lấy ngày mười sáu tháng hai làm Tiết Trường Xuân, ở ngôi mười sáu năm, thọ năm mươi tuổi. Đế nhiều lần dựng chùa viện, mỗi năm độ tám ngàn tăng. (Xem trong niên hiệu có ghi đủ). Niên hiệu Kiến Long ba năm, Càn Đức năm, Khai Bảo tám năm.

-Canh Thân: Kiến Long năm đầu. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ mười, đưa Trịnh Vương về Tây Kinh. Tháng giêng năm Khai Bảo năm thứ sáu, Trịnh Vương mất ở Phòng châu, được truy thụy là Cung Đế.

 

Triệu

Bắc Hán: Thừa Quân

Phụng Tường

Ngô Việt

Kinh Nam họ Cao, Bảo Úc lên ngôi

Đường: Cự lên ngôi

Thục

Hán: Thiên Bảo năm thứ 3

 

Tháng chín, Đế đánh Lý Trọng Tiến ở Hoài Nam, thánh mười hai hạ chiếu dựng chùa ở chiến địa Quảng Lăng, sắc tứ là chùa Kiến Long, ban bốn khoảnh ruộng hương hỏa để cầu siêu cho chiến sĩ trận vong, thỉnh Sa-môn Đạo Huy trụ trì.

Tân Dậu: Kiến Long năm thứ ba. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ mười một.

 

Triệu

Bắc Hán: Thừa Quân

Phụng Tường

Ngô Việt

Kinh Nam họ Cao

Đường

Thục

Hán: Thiên Bảo năm thứ 4

 

Ngày mười sáu tháng hai, ngày sinh của Đế, bãi bỏ luận giảng của ba giáo. Từ năm Khai Bảo về sau, mới triệu tăng của Tam học vào điện đình thi nghĩa. Từ kinh thành ra đến cả nước, cứ vào ngày sinh của Đế hàng năm thỉnh Tăng lên tòa thuyết pháp chúc thọ. Người được kế thế giảng thuyết phải chọn từ những người thi nghĩa kinh.

Nhâm Tuất: Kiến Long năm thứ ba. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ mười hai.

 

Triệu

Bắc Hán

Phụng Tường

Ngô Việt

Kinh Nam: họ Cao, Kế Xung lên ngôi.

Đường

Thục

Nam Hán: Thiên Bảo năm thứ 5

 

Đế hạ chiếu cho những vị Tăng đồng chân xuất gia mỗi năm đến bản châu khảo thí, đủ khả năng thì đưa vào Kinh sư đảm trách việc chính sự quan trọng, giám khảo. Ai thông tỏ bảy quyển Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thì báo tên với Hạ từ bộ cấp điệp thế phát, nếu người được Đế đặc biệt hạ chiếu cho thì độ khắp Tăng ni không giới hạn số lượng như việc trong năm Thái Bình Hưng Quốc và năm Kiến Long.

- Quý Hợi: Càn Đức năm đầu. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ 13. Kinh Nam Cao Kế Xung dâng biểu nộp đất quy hàng nhà Tống. Kinh Nam tồn tại năm mươi bảy năm, đất nước diệt vong.

 

Triệu

Bắc Hán: Lưu Thừa Quân

Phụng Tường

Ngô Việt

Kinh Nam diệt vong

Đường

Thục: Mạnh Sưởng

Nam Hán: Sưởng Thiên Bảo năm thứ 6

 

- Giáp Tý: Càn Đức năm thứ hai. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ mười bốn.

 

Triệu

Bắc Hán

 

Ngô Việt

 

Đường

Thục

Nam Hán: Thiên Bảo năm thứ 7

 

Ất Sửu: Càn Đức năm thứ ba. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ mười lăm.

 

Triệu

Bắc Hán

 

Ngô Việt

 

Đường

Thục mất

Nam Hán: Thiên Bảo năm thứ 8

 

Bính Dần: Càn Đức năm thứ tư. Đại Liêu, Ứng Lịch năm thứ mười sáu.

 

Bắc Hán

 

Ngô Việt

Đường

Thục

Nam Hán: Thiên Bảo năm thứ 9

 

Đế hạ chiếu "Tần Lương đã thông, sai hơn trăm tăng đi Tây Vực tìm kinh pháp nhà Phật".

Đinh Mão: Càn Đức năm thứ năm. Đại Liêu, Mục Tông, Ứng Lịch năm thứ mười bảy.

 

Bắc Hán: Thừa Quân

Ngô Việt

Đường

Nam Hán: Thiên Bảo năm thứ 10

 

Mậu Thìn: Tháng mười một, đổi niên hiệu Khai Bảo năm đầu. Đại Liêu, Mục Tông bị giết, Cảnh Tông lên ngôi, Bảo Ninh năm đầu.

 

Bắc Hán: Kế Nguyên lên ngôi, Quảng

Ngô Việt

Đường

Nam Hán: Thiên Bảo năm thứ

Vận năm đầu.

 

 

11.

 

Ngày hai mươi bảy tháng chín, Đế hạ chiếu cho Thành Đô phủ tạo kinh Phật mỗi loại một tạng bằng chữ vàng bạc. Lệnh cho Binh bộ thị lang Lưu Hy Cổ giám sát công việc. Mùa Đông tháng mười một, tế Giao, tế Tự xong, Đế đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu.

* Bắc Hán: Mùa Thu tháng bảy, Thừa Quân bệnh nặng, triệu Bình Chương sự Quách Vô Vi, cầm tay Kế Ân giao phó mọi việc. Kế Ân nối ngôi, truy thụy Thừa Quân là Hiếu Hòa Đế. Hơn hai tháng sau, vào tháng chín, Hầu Bá Vinh Quách Vô Vi giết Kế Ân, đón Kế Nguyên lập làm Hán chủ, đổi niên hiệu Quảng Vận. Trước đây, con rể của Hán chủ Lưu Bân là Tiết Chiêu rất có tài, sinh người con là Kế Ân thì Chiêu mất. Vợ ông tái giá lấy người họ Hà, sinh ra Kế Nguyên. Vợ chồng họ Hà chết, Định Vương Thừa Quân không có con, Bân mới cho Nguyên, Ân làm con nuôi của Thừa Quân, đến lúc này, giết Kế Ân lập Kế Nguyên làm Hán chủ.

* Đại Liêu: Những năm cuối đời, Mục Tông tàn ác bất nhẫn, người người nín thở vì họa phước không lường. Gặp lúc say, ông ăn không được muốn chém đầu bếp. Ngự thiện sợ họa lây, nhân bưng cơm dâng đã kẹp con dao giết ông dưới chân Hắc Sơn vào tháng chín, truy thụy là Thiên Thuận Hoàng Đế, miếu hiệu Mục Tông. Cảnh Tông lên ngôi, húy Minh Ký, sau đổi tên Hiền, con của Thế Tông Nguyên Dục. Trước đây, khi Thế Tông bị giết, ông mới chín tuổi, ngự trù Lưu Giải Lý bó ông trong chăn bông giấu trong đống củi nhờ vậy thoát chết. Đến lúc này ông lên ngôi. Ông từ nhỏ đã bệnh nhiều, chẳng lo triều chánh ông mất tháng mười hai Nhâm Ngọ, Càn Hanh năm thứ chín, thụy là Hiếu Thành Hoàng Đế, miếu hiệu Cảnh Tông.

- Kỷ Tỵ: Khai Bảo năm thứ hai. Liêu, Cảnh Tông, Bảo Ninh năm thứ hai.

 

Bắc Hán: Kế Nguyên, Quảng Vận năm thứ 2

Ngô Việt

Đường

Nam Hán

 

Ngày mười sáu tháng hai, tiết Trường Xuân, Đế đồng ý cho Tăng cả nước dâng biểu vào sân điện tỉ thí Tam Học, lệnh cho Khai phong phủ công đức sứ sai Tăng kiểm chứng mười điều trong Kinh Luật luận, ai thông suốt hết thì ban cho y tía, hiệu là Thủ Biểu Tăng. Đến Thái Tông, Thái Bình Hưng Quốc năm thứ tư, Công Đức Sứ tâu "Thiên hạ là một nhà chẳng cần phải thủ biểu". Từ đó, trong ngày sinh của Hoàng Đế, Tể phụ, Thân vương, Giám ty, Thứ sử mỗi bộ đều phải tiến cử Tam Học Tăng mà mình biết. Riêng những người do Lưỡng Nhai Tăng lục tiến cử thì ngay hôm đó vào cung nhận Môn hạ điệp, đây gọi là Liêm Tiền Sư Hiệu, nếu cấp y tía thì gọi là Liêm Tiền Tử Y, ban xong cùng thiết trai cúng dường. Ngoài ra người do vương hầu tiến cử, thì hôm sau lúc mặt trời vừa mọc. Tiết Chế Liêm gạn hỏi, nếu được chọn thì chuyển xuống mà ban thưởng.

- Canh Ngọ: Khai Bảo năm thứ ba. Liêu, Bảo Ninh năm thứ ba.

 

Bắc Hán: Quảng năm Vận năm thứ 3

Ngô Việt

Đường

Nam Hán: Sưởng hàng

 

Nam Hán: Ở Lĩnh Nam, Lưu Sưởng đem nước hàng nhà Tống; Sưởng, Ân, Xá, Hầu cả thảy sáu mươi bảy năm, đất nước diệt vong. Năm này Đế lệnh cho tu sửa chùa Phong Thiền cũ ở Kinh Sư làm chùa Khai Bảo, phía trước đến Quang Nhai, bắc giáp sông Ngũ Trượng, đến mấy ngàn gian, đất tiếp giáp mấy phường, nguy nga tráng lệ.

Tân Mùi: Khai Bảo năm thứ tư. Liêu, Bảo Ninh năm thứ tư.

 

Bắc Hán:

Quảng

Ngô Việt

Đường

Vận năm thứ 4

 

 

 

Ngày mười một tháng sáu, Đế lệnh cho Thành Đô tạo lại một tạng Kinh Phật chữ bằng vàng.

Nhâm Thân: Khai Bảo năm thứ năm. Liêu, Bảo Ninh năm thứ năm.

 

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 5

Ngô Việt

Đường

 

Đế từ khi đem quân bình định các nước, cả thảy tạo mấy tạng kinh Phật chữ bằng vàng bạc. Năm này, lệnh khắc in một tạng kinh gồm mười ba vạn bản.

- Quý Dậu: Khai Bảo năm thứ sáu. Tháng giêng Liêu Cung Đế mất. Bảo Ninh năm thứ sáu.

 

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 6

Ngô Việt

Đường

 

Giáp Tuất: Khai Bảo năm năm thứ bảy. Liêu, Càn Hanh năm đầu.

 

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 7

Ngô Việt

Đường

 

Đế lệnh cho Tào Bân cùng Phan Mỹ, Tào Hàn đánh Giang Nam (Nam Đường). Tháng mười một, khao quân, Bân từng ở trước Đế phụng chỉ không giết người. Mùa Đông năm sau, đánh phá được thành, Bân cáo bệnh không ra cầm quân. Phan Mỹ dẫn các tướng vào thăm ông. Bân nói: "Bệnh tôi không thuốc thang nào chữa khỏi, phải nhờ các ông cùng thề, phá thành nhưng không giết người thì bệnh tôi tự khỏi ngay". Các tướng đồng ý, họ cùng đốt hương và thề. Ngày hôm đó, phá được Kim Lăng (Kiến Khang), họ Lý hàng, trong thành vẫn yên vững. Bân làm đến chức sứ tướng, cha con cùng hưởng bổng lộc giàu có nhiều đời, đó chính là phước báo của việc không sát sinh.

- Ất Hợi: Khai Bảo năm thứ tám. Liêu, Càn Hanh năm thứ hai.

Tháng ba, Liêu sang thăm Tống, Tống bắt đầu ngoại giáo với Liêu.

 

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 8

Ngô Việt

Nam Đường: Lý Đát hàng Tống, được phong Vi Mệnh Hầu, tồn tại 39 năm, thì diệt vong.

 

Năm Bính Tý: Mùa hạ tháng tư, Đế xa giá đến Tây Kinh có việc ở Nam Giao. Ngày hai mươi hai tháng mười hai năm này, đổi niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc.

* Thái Tông: Húy là Cảnh, em cùng mẹ với Thái Tổ, được phong Tấn Vương. Năm Khai Bảo năm thứ chín, Thái Tổ mất, ông lên ngôi, lúc ấy ba mươi tám tuổi. Ông xếp võ sửa văn, đổi điện Giảng Võ thành điện Sùng Chính, tuyển dụng hiền lương, chọn kỹ Thứ sử vì ông cho rằng Thứ sử là một người gần dân nhất, nếu chọn cẩu thả, trái lại nhân dân phải bị họa. Ông cầu chỉ dạy nghe can gián, phong tục thuần hậu.

Ông ở ngôi hai mươi mốt năm, thọ năm mươi chín tuổi. Ông lấy ngày mười bảy tháng mười làm Tiết Càn Minh. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc tám năm, Ung Hy bốn năm, Đoan Củng hai năm, Thuần Hóa năm, Chí Đạo ba năm.

- Bính Tý: Tháng mười hai, đổi Thái Bình Hưng Quốc năm đầu.

Liêu, Càn Hanh năm thứ ba.

 

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 9

Ngô Việt

 

- Đinh Sửu: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ hai.

Liêu, Càn Hanh năm thứ tư.

 

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 10

Ngô Việt

 

Chùa Long Hưng cũ ở Kinh Sư vào thời Chu

Thế Tông bị phế làm kho Long Hưng. Đến lúc này, Tăng chủ đánh trống kêu oan xin khôi phục chùa. Đế cảm thán hạ chiếu khôi phục lại, sắc tứ là chùa Thái Bình Hưng Quốc, nhưng trùng tu xây dựng thêm, cựa kỳ hoành tráng.

- Mậu Dần: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ ba. Liêu, Càn Hành năm thứ năm.

Tháng ba, Ngô việt Trung Ý Vương Tiền Thục dâng biểu quy hàng Tống, vào triều dâng hết đất của mười ba châu.

Bắc Hán: Quảng Vận năm thứ 11 Ngô Việt phụng biểu vào triều nộp đất Tháng tư, Trần Hồng Tiến dâng biểu hiến hai quận Chương, Tuyền. Ngày mười ba tháng tám, Hàn lâm học sĩ Tri chế cáo Lý Phưởng, Trung thư xá nhân Hỗ Mông Trực, sử quán Lý Mậu, Tống Bạch, Trịnh Lân Kỷ, Từ Huyền phụng lệnh dâng bộ Thái Bình Quảng Ký, gồm năm trăm quyển, trong đó có ba mươi quyển chép Phật pháp.

Sa-môn Tán Ninh theo Ngô Việt Vương vào triều, Đế ban ngài hiệu Thông Tuệ Đại Sư, thỉnh ở tại chùa Thiên Thọ, Tả Nhai, lệnh sửa lại Tăng Sử. Năm sau, Đế hạ chiếu cho trạm dịch Ninh Thừa nghinh rước xá-lợi chân thân của Phật Thích-ca ở núi A-dục Vương, Minh châu vào cung cúng dường. Do được một viên xá-lợi, nên Đế đã cho dựng một Bảo tháp mười một tầng ở tây bắc cửa cung, trong chùa Khai Bảo.

Dưới tháp, dựng một Thiên Cung để an trí xálợi. Tháng mười, năm Thái Bình Hưng Quốc năm thứ bảy, lệnh cho Tán Ninh biên tập chỉnh sửa Đại Tống Cao Tăng Truyện, cho phép ngài về Chiết Đông để soạn thảo. Trước đây, Lương Vũ Đế năm Thiên Giám năm thứ mười tám, Sa-môn Tuệ Kiểu ở chùa Gia Tường soạn Cao Tăng Truyện, bắt đầu chép từ Hán Minh Đế Vĩnh Bình thứ mười, đến niên hiệu Thiên Giám, gồm mười bốn quyển. Đường Thái Tông năm Trinh Quán năm thứ mười chín, Luật sư Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh, núi Chung nam soạn Tục Cao Tăng Truyện, chép các vị Tăng từ năm Thiên Giám đến Trinh Quán, gồm ba mươi quyển. Ngài Tán Ninh soạn tiếp những vị từ Đường Trinh Quán năm thứ hai mươi đến lúc này là năm Đoan Củng, gồm ba mươi quyển. Ngài dựa trên nghĩa của Lương, Đường chia ra mười khoa, gồm:

1. Dịch kinh.

2. Tuệ giải.

3. Thiền định.

4. Giới luật.

5. Hộ pháp.

6. Cảm thông.

7. Di thân.

8. Độc tụng.

9. Hưng phước.

10. Tạp khoa thanh đức.

Chánh truyền năm trăm ba mươi ba người, phụ thêm một trăm ba mươi người. Tháng mười, mùa Đông Đoan Củng năm đầu, ngài sai đệ tử Hiển Trung, Trí Luân đem sách này vào cung dâng Đế. Đế đóng ngọc tỷ, ban cho lụa, lời khen, cho nhập Đại tạng lưu hành. Tháng mười một, Đế mời ngài vào cung. Thuần Hóa năm đầu, ngài phụng chiếu soạn Thứu Lĩnh Thánh Tích Lục một trăm quyển. Thuần Hóa năm thứ hai, Đế mời ngài làm trong Sử quán biên tu. Năm Chí Đạo năm thứ hai, Đế không cho ngài làm Lạc Kinh Giáo Môn Sự nữa. Năm Mậu Tuất, Chân Tông, Hàm Bình năm đầu, Đế mời ngài làm Biện Kinh Hữu Nhai Tăng Lục Chủ Quản Giáo Môn Công Sự năm sau thăng chúa Tả nhai năm Kỷ hợi. Hám Bình năm thứ hai, mùa xuân tháng hai thì Đông Kinh Tả Nhai Tăng Lục Sử quán Biên Tu chủ Quản Giáo Môn công sự Thông Tuệ Đại Sư Tán Ninh quy tịch, thọ tám mươi hai tuổi. Tháng ba, môn nhân an táng toàn thân ngài ở chùa Thiên thọ. Năm Kỷ Tỵ, Nhân Tông, Thiên Thánh năm thứ bảy, tằng tôn của ngài là Tông Thạnh mở tháp trà-tỳ thâu di hài xá-lợi đem về an táng tại làng cũ ở Tiền Đường. Ngài sinh ở huyện Lâm An, Hàng châu, Hậu Đường Minh Tông trong năm Thiên Thành, ngài xuất gia ở chùa Tường phù, Hàng châu. Lộ Vương, đầu năm Thanh Thái, ngài vào Thiên Thai học đủ luật bộ, bác thông Tam tạng. Ngô Việt Trung Ý Vương bổ nhiệm ngài làm Lưỡng nhai tăng thống, ban hiệu Minh Nghĩa Tông Văn Đại Sư. Tăng Sử, Tăng Truyện của ngài soạn đều lưu hành ở đời.

- Kỷ Mão: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ tư.

Liêu, Càn Hanh năm thứ sáu.

 

 

Bắc Hán: Tháng năm, Thái Nguyên Lưu Kế Nguyên hàng Tống, được phong Bình Thành Công, tồn tại hai mươi chín năm thì diệt vong.

 

- Canh Thìn: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ năm. Liêu, Càn Hanh năm thứ bảy.

* Dịch Kinh: Sa-môn Pháp Tiến truyền Hiển Mật Giáo ở Phủ Hà Trung đã thỉnh tăng Tây Vực là Tam tạng Pháp Thiên dịch kinh ở Bổ Tân. Đế hạ chiếu mời vào Kinh Sư, bắt đầu khởi xướng việc phiên dịch. Đế hạ chiếu cho năm mươi đồng tử học tiếng Phạm.

- Tân Tỵ: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ sáu. Liêu, Càn Hanh năm thứ tám.

Đế hạ chiếu lập Hữu Nhai Phó Tăng Lục, tế tự Bảo Chí Đại Sĩ ở núi Chung Nam, Kiến Khang, ban hiệu Đạo Lâm Chân Giác Bồ-tát.

- Nhâm Ngọ. Thái Bình Hưng Quốc năm thứ bảy. Liêu, Càn Hanh năm thứ chín. Tháng mười hai Đế mất, ở ngôi mười lăm năm, thụy Hiếu Thành Hoàng Đế, miếu hiệu Cảnh Tông.

Đế hạ chiếu lập viện Truyền Pháp Dịch Kinh ở phía Tây chùa Thái Bình Hưng Quốc thuộc Đông kinh, giống như việc của nhà Đường, cho Tể tướng làm Dịch kinh nhuận văn sứ, lập quan chia chức. Tam tạng Thiên Tức Tai chùa Mật Lâm nước Nhạlan-đà-la ở Tây Thiên Trung Ấn cùng Pháp Thiên, Thi Hộ v. v.. dịch Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Đế viết bài tựa cho Đại Tống Tân Dịch Tam Tạng Thánh Giáo, hạ chiếu độ khắp đồng chân trong thiên hạ cho làm Tăng, không hạn cuộc theo lệ thường của Hữu Ty. Từ Thái Bình Hưng Quốc năm đầu đến năm thứ tám, độ hơn mười bảy vạn Tăng.

* Đại Liêu: Thánh Tông lên ngôi. Ông húy Long Tự, con trưởng của Cảnh Tông, lên ngôi năm mười hai tuổi, đổi niên hiệu Thống Hòa, tôn mẹ Tiêu thị làm Thừa Thiên Thái hậu, lâm triều xưng

Đế, cả thảy hai mươi bảy năm mới giao quyền chánh cho ông. Quý Sửu đổi niên hiệu Khai Thái lấy lại Quốc hiệu Đại Khiết Đan. Ngày ba tháng sáu năm Thái Bình thứ mười, ông mất ở Thượng Kinh, thụy là Thiên Phụ Hoàng Đế, trị vì bốn mươi chín năm.

-Quý Mùi: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ tám. Liêu, Thánh Tông lên ngôi, Thống Hòa năm đầu.

* Ngự Tán Xá-Lợi: Trước đây, Thái Tổ nghinh về Lạc Dương, Đường Cao Tông trong năm Hiển Khánh, Sa-môn Đạo Tuyên nghinh xá-lợi răng Phật do Thiên Vương Thái tử cúng an trí ở viện Quán Đảnh, chùa Tướng Quốc, Đông kinh. Đến lúc này, Đế dùng lửa mạnh đốt thử, nó trong suốt sáng rực, rất cứng, phát ánh sáng năm màu. Đế làm bài tán rằng:

Công thành bao kiếp ấn văn đoan
Chẳng phải Nam sơn khó lắm thay
Mấy lớp vàng tươi nhuần trước mắt
Một vầng ngọc sáng lạnh trên tay.
Luyện qua trăm lửa còn soi thấu
Giấu kín ngàn năm vẫn sáng đầy
Quả định tu hành niềm bí mật
Chánh tâm chớ để luống qua ngày.

Đổi viện Quán Đảnh thành viện Pháp Hoa, dựng gác hai tầng thỉnh Đại sư Trí Chiếu Tuệ Ôn lo việc hương khói.

- Giáp Thân: Ung Hy năm đầu. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai. Mùa Xuân tháng ba, tăng Điêu

Nhiêm người Nhật Bản vào triều, nhân đó nói nước mình truyền đã tám mươi đời, cả thảy ba ngàn hai trăm năm. Đế nói với Phụ Thần: "Trung Quốc từ nhà Đường đến Ngũ Đại bị chia năm xẻ bảy, không những quân vương sớm thành tối bại mà bề tôi bị giết chết ngay sau đó. Trẫm canh cánh cầu thái bình, mong trời cao ban phúc làm kế lâu dài cho con cháu, bọn khanh cũng được bổng lộc đời đời". Đế hạ chiếu trùng tu tháp Tăng-già ở Tứ châu, ban thêm thụy hai chữ Đại Thánh, sắc tứ chùa là Chiếu Phổ.

Tháng mười, Đế triệu ẩn sĩ Trần Bác vào triều kiến, ban cho ông hiệu Hy Di Tiên Sinh, sau đó Bác xin về Hoa Sơn.

- Ất Dậu: Ung Hy năm thứ hai. Liêu, Thống Hòa năm thứ ba.

- Bính Tuất: Ung Hy năm thứ 3. Liêu, Thống Hòa năm thứ 4.

Ngày rằm mùa Thu tháng tám, Cao Tăng Ngộ Ân ở Tú Thủy ngồi thẳng quay mặt về Tây thị tịch. Trước đây, Thiên Thai Tông vào đời Đường Đức Tông năm Kiến Trung năm thứ ba, sau khi Tôn giả Kinh Khê nhập diệt truyền đến đời năm thứ năm là ngài Thanh Tủng. Tủng có hai đệ tử là Hy Tịch và Chí Nhân. Tịch đem giáo quán này chánh truyền cho Nghĩa Thông, Thông truyền cho Tri Lễ, Tuân Thức, cứ thế truyền trao. Chí Nhân truyền cho Ngộ Ân, Ân được lưu danh trong Tăng Sử. Ân truyền cho Hồng Mẫn Nguyện Thanh, Thanh truyền cho Trí Viên Khánh Chiêu, Chiêu truyền cho Kế Tề Hàm Nhuận, mỗi người giảng thuyết cảnh quán, giải hành. Tứ Minh Tri Lễ chối từ không nhận trao truyền, tôn túc ở Hoành Nhạc chê ngài là Sơn Ngoại Tông.

- Đinh Hợi: Ung Hy năm thứ tư. Liêu, Thống Hòa năm thứ năm. Tháng mười, Pháp sư Tịnh Quang Hy Tịch ở Loa khê Truyền Giáo

Định Tuệ Viện quy tịch. Ngài thuộc đời năm thứ sáu tông Thiên Thai, là đệ tử của Kinh Khê. Ngài nối pháp của Kinh Khê.

Tháng hai, Thiền sư Trừng Viễn ở viện Hương Lâm, Ích Châu, Tứ Xuyên Tây Lộ quy tịch. Ngài họ Quan, người Miên Trúc Thượng, Hán Châu, Tây Xuyên, nối pháp Thiền sư Vân Môn Văn Yển.

- Mậu Tý: Đoan Củng năm đầu. Liêu, Thống Hòa năm thứ 6.

Pháp sư Nghĩa Thông hoằng truyền giáo quán Thiên Thai. Ngài quy tịch tại viện Bảo Vân, Minh châu vào ngày mười tám tháng mười năm này. Ngài vốn dòng vương thất ở Cao Ly, ban đầu xuất gia hoằng truyền giáo nghĩa Hoa Nghiêm, khởi tín mà vang danh. Thạch Tấn, trong năm Thiên Phước, ngài vượt biển đến yết kiến Loa Khê Hy Tịch, đốn ngộ huyền chỉ Thập Pháp Giới Viên Dung, nối pháp hoằng dương. Hai mươi bốn năm sau, đệ tử thượng thủ của ngài là Tri Lễ, Tuân Thức càng làm cho giáo nghĩa này hưng thịnh.

- Kỷ Sửu: Đoan Củng năm thứ hai, Đế dựng xong chùa Khai Bảo.

Liêu, Thống hòa năm thứ bảy.

- Canh Dần: Thuần Hóa năm đầu. Liêu, Thống Hòa năm thứ tám.

Đế hạ chiếu sai tham tri chính sự Tô Dị Giản soạn sự tích của

Thánh hiền Tam giáo. Dị Giản tâu cho Đại sư Thông Tuệ Tán Ninh ở chùa Thiên thọ, Đại Ất Quan Đạo Sĩ Hàn Đức Thuần cùng làm việc này. Thông Tuệ Tán Ninh soạn Thứu Lĩnh Thánh Tích Lục một trăm quyển.

- Tân Mão: Thuần Hóa năm thứ hai. Liêu, Thống Hòa năm thứ chín.

- Nhâm Dần: Thuần Hóa năm thứ ba. Liêu, Thống Hòa thứ mười.

- Quý Tỵ: Thuần Hóa năm thứ tư. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười một.

* Thiền sư Thủ Sơn ở Nhữ châu: Sư họ Địch, húy Tỉnh Niệm, người Lai Châu, xuất gia thế phát tại chùa Nam Thiên trong quận này. Vừa thọ Cụ túc, Sư liền du phương đến khắp đạo tràng, thường ngầm tụng Pháp Hoa, nên chúng thường gọi Sư là Niệm Pháp Hoa. Sư được Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu ấn khả, khai pháp ở Thủ Sơn làm đời thứ nhất. Sau, Sư trụ ở viện Quảng Giáo và Bảo Ứng ở Diệp huyện, Nhữ châu. Giờ Ngọ ngày bốn tháng mười hai năm Thuần Hóa năm thứ ba, Sư thượng đường nói bài kệ:

Năm nay đã sáu mươi bảy
Già bệnh tùy duyên đuổi theo ngày
Năm nay lại nhớ việc năm trước
Năm sau lại nhớ việc hôm nay.

Đến lúc này cũng vào mồng bốn tháng mười hai, Sư từ biệt chúng, thượng đường nói bài kệ:

Thân vàng thế giới sắc bạch ngân
Tình với vô tình một tánh chân
Sáng tối cả ngày đều chẳng chiếu
Mặt trời xế ngọ thấy toàn thân.

Nói xong, Sư an nhiên quy tịch, đồ chúng tràtỳ thâu xá-lợi dựng tháp. Sư nối pháp Phong Huyệt Diên Chiểu, Chiểu nối pháp Nam Viện Tuệ Ngung, Ngung nối pháp Hưng Hóa Tồn Tưởng, Tưởng nối pháp Lâm Tế Nghĩa Huyền. Nối đạo pháp của Sư có Phần Dương Thiện Chiêu, Diệp Huyện Quy Tỉnh, Thần Đỉnh Hồng Ân, Cốc Ẩn Uẩn Thông, Quảng Tuệ Nguyên Liên, Thừa Tướng Vương Tùy Công, cả thảy mười hai người. Quy Tỉnh truyền cho Phù Sơn Pháp Viễn, Viễn truyền cho Tịnh Nhân Đạo Trăn v. v... về sau đạo pháp càng hưng thịnh.

- Giáp Ngọ: Thuần Hóa năm thứ năm. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười hai.

- Ất Mùi: Chí đạo năm đầu. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười ba. Đế Ngự bút phê duyệt Bí Tạng Thuyên hai mươi quyển, Duyên

Thức năm quyển, Tiêu Dao Vịnh mười quyển, sai Lưỡng Nhai Tăng chú thích, cho nhập Đại tạng của Phật giáo và lưu hành.

- Bính Thân: Chí Đạo năm thứ hai. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười bốn.

- Đinh Dậu: Chí Đạo năm thứ ba, tháng ba, Đế mất. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười lăm.

* Chân Tông: Húy là Hằng, con năm thứ ba của Thái Tông, lên ngôi năm hai mươi chín tuổi. Ông cần mẫn, giản dị soạn Văn Võ bảy điều để tặng cho trăm quan, điều động thay đổi quan các châu, khuyến khích nông nghiệp, Đông tế Thái Sơn, Tây tế Phần Âm, dùng văn trị, đất nước thái bình hai mươi lăm năm, vua thọ năm mươi bốn tuổi, lấy mồng hai tháng mười hai làm Tiết Thừa Thiên. Niên hiệu Hàm Bình năm thứ sáu. Cảnh Đức năm thứ tư, Đại Trung Tường Phù năm thứ chín, Thiên Hy năm thứ năm, Càn Hưng thứ nhất.

- Mậu Tuất: Hàm Bình năm đầu. Liêu thống Hòa năm thứ mười sáu.

- Kỷ Hợi: Hàm Bình năm thứ hai. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười bảy.

- Canh Tý: Hàm Bình năm thứ ba. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười tám.

Mùa Hạ, trời đại hạn, Chiết Đông Thiên Thai Giảng Tông Tri Lễ và Tuân Thức cùng tu Hộ Quốc Kim Quang Minh Tam-muội Sám ba ngày, trời mới mưa. Minh châu Thái thú Tô Vi soạn văn bia ca ngợi đức của hai ngài. Ở Chiết Tây, từ mùa Xuân đến mùa Hạ cũng không mưa, Cấp sự trung tri Hoàng châu Trương Khứ Hoa dẫn các quan sắm đủ tràng phan, bảo cái, trống, kèn nghinh Thiên Trúc Viên Thông Đại sĩ đến cầu mưa ở chùa Phạm Thiên, tức thời mưa trút khắp nơi, nước ngập đến chân. Đó là điềm cảm ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm từ bi đáp ứng lòng mong mỏi của dân.

- Tân Sửu: Hàm Bình năm thứ tư. Liêu, Thống Hòa năm thứ mười chín.

Thiên Trúc tam tạng Triêu Tán Đại Phu Thí Quang Lộc Khanh Minh Giáo Đại Sư Pháp Hiền dâng kinh mới dịch. Đế viết bài tựa.

- Nhâm Dần: Hàm Bình năm thứ năm. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi.

Tây Thiên dịch kinh Tam tạng Triêu Phụng Đại Phu Thí Quang Lộc Khanh Truyền Pháp Đại sư Thi Hộ dịch Kinh Cấp Cô Trưởng Giả Nữ Đắc Độ Nhân Duyên, xin Đế ngự chế bài tựa kế thừa Thánh giáo.

- Quý Mão: Hàm Bình năm thứ sáu. Liêu, Thống Hòa năm năm thứ hai mươi mốt.

Đế lệnh cho Hữu Nhai Tăng Lục sắm đủ nghi trượng, âm nhạc, hương hoa, tràng phan để rước xá-lợi răng Phật ở chùa Đại Tướng Quốc về dưới tháp của chùa Khai Bảo cúng dường. Đế viết bài tán:

Tây phương có Thánh Thích-ca Văn
Tiếp vật đại Từ đời tôn xưng
Thường nguyện tấn tu thêm thắng quả
Ngõ hầu lợi lạc khắp muôn dân.

- Giáp Thìn: Cảnh Đức năm đầu. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi hai.

Truyền Đăng Lục: Tăng Đạo Nguyên nước Ngô gom tập cơ duyên truyền pháp từ Thích-ca Thế Tôn, Sơ Tổ Ca-diếp cho đến các Thiền sư nối pháp của Đông độ làm thành Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ba mươi quyển dâng Đế. Đế xem tán thưởng, lệnh cho hàn lâm học sĩ Dương Ức... san định chỉnh sửa, soạn bài tựa nhập Đại tạng ban hành khắp nước.

Tăng Nhật Bản là Tịch Chiếu đem hai mươi bảy điều trình bày về danh mục và nghĩa của Kinh Luận do Thiền sư Nguyên Tín nước mình soạn, vấn nghi với Pháp Sư Tứ Minh Tri Lễ, thọ giáo rồi về nước.

Pháp Sư Tứ Minh Tri Lễ soạn Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu hai quyển, nội dung khai sáng diệu nghĩa Nhất tâm tam quán mà Nam Nhạc Thiên Thai chứng đắc.

- Ất Tỵ: Cảnh Đức năm thứ hai. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi ba.

- Bính Ngọ: Cảnh Đức năm thứ 3. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi bốn.

- Đinh Mùi: Cảnh Đức năm thứ tư. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi lăm.

- Mậu Thân: Đại Trung Tường Phù năm đầu. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi sáu.

Mùa Đông tháng mười, Đế lên Thái Sơn cúng Thượng đế. Mồng một tháng mười một, xa giá đến Khúc Phụ tế Khổng Tử, Gia thụy là Huyền Thánh Văn Tuyên Vương, truy thụy Tề Thái Công là Chiêu Liệt Vũ Thành Vương, Châu Văn Vương là Văn Hiến Vương, lập miếu cho mỗi người. Sau do tránh tên húy của Thánh Tổ nên đổi Huyền Thánh là Chí Thánh. Tháng hai năm Kỷ Dậu, Đế hạ chiếu cho miếu Tiên Thánh ở Khúc Phụ dựng trường học.

- Kỷ Dậu: Đại Trung Tường Phù năm thứ hai. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi bảy.

Thiền Sư Ngộ Hiền: Sư họ Lâm, người

Trường Châu, Cô Tô, bảy tuổi xuất gia với Đại đức Khả Y ở Vĩnh An, Gia Hưng. Năm ba mươi tuổi,

Sư thế phát thọ Cụ túc, tham vấn Thiền sư Ngạn Cầu ở Long Hoa, tỏ ngộ tâm tông, về trụ ở viện Minh Giác. Sư ngày ngày uống rượu, say thì ca những lời cảnh tỉnh đời, đạo tục, có tên là Tửu Tiên. Sư ca rằng:

Đầu sông Dương tử sóng bạc đầu
Hành nhân đến đó bị chìm sâu.

Ngâm:

Ngày sau nếu đến nơi không sóng
Lúc sóng dụng tâm có khác nào.

Hoặc:

Chén vàng cũng nổi trôi
Núi ngọc lại suy đồi
Đừng ngại nắm bắt hụt
Giành lấy trăng sáng về.

Hoặc:

Một sáu hai sáu, việc đã định
Một chín hai chín, ta muốn nhậu say
Duỗi thẳng hai chân làm một giấc
Tỉnh ra trời đất vẫn như xưa.

Hoặc:

Trước cửa dây leo không tiếng chim
Dưới sân dây xanh có hoa rơi
Đành mượn gió đông bàn việc ấy
Sắc xuân tươi thắm thuộc nhà ai?

Hoặc:

Thu đến núi lạnh nước lạnh
Xuân qua liễu thắm hoa hồng
Một chút động tùy muôn biến
Bên sông mưa khói mông lung.
Có chẳng có, không chẳng không
Dưới dậu huơ tay bắt gió nồm.

Hoặc:

Sống ở Diêm-phù thế giới
Tình người thương ghét bấy nhiêu
Chỉ muốn uống vài chung rượu
Rồi ra say ngủ bên đường
Chết rồi sinh lại Ta-bà
Chẳng nguyện siêu sinh Tịnh độ.
Vì sao vậy?
Tây phương Tịnh độ không hàng rượu.

Đến ngày Thượng Nguyên năm Tường Phù năm thứ hai, sáng sớm Sư tắm rửa xong vào thất, tay phải nắm lại đưa cao, tay trái banh miệng mà tịch. Sư nối pháp Long Hoa Ngạn Cầu, Cầu nối pháp Trường Khánh Tuệ Lăng, Lăng nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Tồn nối pháp Đức Sơn Tuyên Giám.

Đế hạ chiếu cho các châu lộ dựng Thiên Khánh quán.

Thân Quốc trưởng công chúa con gái năm thứ bảy của Thái Tông, sinh ra đã không ăn mặn, lúc này bà xin xuất gia. Đế tấn phong bà làm Ngô Quốc, ban tên Thanh Dụ, hiệu là Báo Từ Chánh Giác Đại Sư, dựng Sùng Chân Tư Thánh thiền viện phía Tây Đô thành, cấp ba mươi cung nữ theo hầu, xuống chiếu cho hai đạo cấm quân đưa bà vào chùa, thiết trai cho Thân Quốc, bà nhập diệt năm ba mươi tám tuổi, mười sáu hạ lạp.

- Canh Tuất: Đại Trung Tường Phù năm thứ ba. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi tám.

Mùa Đông, tháng mười, trên có chiếu chỉ đổi Bảo Ân viện ở Minh châu thành Diên Khánh viện, lệnh đổi chùa Biệt Nghiệp Đại Minh ở Lục Cơ, Hoa Đình thành Phổ Chiếu, lệnh đổi Thiền Lâm viện ở Hàm Đình là, Nghĩa Hưng thành Thánh Cảm Thiền tự, truyền cho trụ trì khắp nước phụng tế Thần núi, Tế điển, tế Thần đất.

- Tân Hợi: Đại Trung Tường Phù năm thứ tư. Liêu, Thống Hòa năm thứ hai mươi chín.

Đế hạ chiếu cho Dịch kinh nhuận văn sứ Tham tri chánh sự Triệu An Nhân và Hàn lâm học sĩ Dương Ức soạn Đại Tang Mục Lục.

- Nhâm Tý: Đại Trung Tường Phù năm thứ năm. Liêu, Thống Hòa năm thứ ba mươi.

Thiên Trúc Sa-môn Giác Xưng thuộc dòng Sát-đế-lợi nước Cổ Lan Cổ đến Kinh Sư, ngụ ở Dịch Viện. Lúc này ngài khoảng bốn mươi tuổi, thông suốt hơn bốn mươi bộ kinh, Kinh Luận nhuận văn sứ Đinh Tấn Công khen ngài là người thông tuệ, sai dịch giả đến triệu kiến ngài. Hàn Lâm Dương Ức bày tiệc trà quả, cùng ngài trò chuyện. Giác Xưng nói: "Tôi nguyện đến núi Ngũ đài lễ Văn-thù rồi về nước ngay. Vào nước này thấy dân giết heo dê bày thịt khắp chợ búa, xót chẳng nỡ nhìn. Cả nước bên Tây Trúc không ăn thịt". Hôm sau, Tấn Công hỏi: "Thầy vượt xa mấy muôn dặm đến đây còn việc gì nữa không?" Ngài đáp: Cũng muốn lễ tháp Tuyên Luật Sư!"

- Quý Sửu: Đại Trung Tường Phù năm thứ sáu. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm đầu.

Mùa Xuân, tháng ba. Đế soạn Pháp Âm Tập, giao cho Truyền Pháp Viện chú thích.

Đế tặng Dịch Kinh viện bài kệ tu tâm rằng:

Sơ Tổ an tâm ở Thiếu lâm

Chẳng truyền kinh giáo chỉ truyền tâm Người theo nếu ngộ chân như tánh Mật ấn từ đây diệu lý thâm.

Đại Liêu lấy lại hiệu Đại Khiết Đan, lấy U châu làm Tích Tân phủ, đổi niên hiệu Khai Thái, đến Bính Ngọ, Hàm Ung năm thứ hai, lại xưng là Đại Liêu.

- Giáp Dần: Đại Trung Tường Phù năm thứ bảy. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ hai.

Thiên Trúc Tam tạng Triều Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Khanh Truyền Giáo Đại sư Pháp Thiên dịch kinh Kim Cang Đại Giáo Bảo Vương. Mùa Đông tháng mười một, Kinh Sư dựng xong Vương Thanh Chiêu Ứng Cung, bắt đầu từ tháng tư năm Đại Trung Tường Phù năm thứ hai, đến tháng mười một năm này mới hoàn tất, cả thảy hai ngàn sáu trăm mười một khu. Đinh Tấn Công làm Tu cung sứ. Đất đá, cây gỗ, vàng ngọc dụng cụ sơn vẽ đều là những thứ quý hiếm nhất trong cả nước. Trong Bút Đàm của Thẩm Tồn Trung có ghi: "Núi Nhạn Đãng ở Ôn châu là nơi Tôn giả Nột-củ-la ở, trước đây chẳng ai biết, nhân đi tìm gỗ quý để dựng cung Chiêu Ứng người ta mới phát hiện ra ngọn núi này.

"

- Ất Mão: Đại Trung Tường Phù năm thứ tám. Đại Khiết Đan Khai Thái năm thứ ba.

Đại Pháp Sư Tuân Thức: Ngài giảng thuyết tại núi Đông Dịch, Thiên Thai suốt mười hai năm, mới đi qua phía Tây, ngụ cư tại Cổ Linh Sơn tự ở Hàng châu. Trước đây, Pháp sư Tuệ Lý người Thiên Trúc sống trong thời Tây Tấn từng ở chỗ này. Đây là nơi Cao tăng Chân Quán sống trong đời Tùy giảng kinh Pháp Hoa, Đời Đường, Đạo Tiêu kế thế. Đến thời Hy Tông nơi đây bị giặc cướp phá hủy, ngọn núi phía Tây còn sót một gốc Cối khô cháy sém. Ngài đến dùng nước rảy và chú nguyện, gốc Cối bỗng tươi xanh đâm cành sinh lá. Ngài nỗ lực hành trì bốn loại Tam-muội, dựng Kim Quang Minh Sám Đường. Chỉ một cây kèo, một miếng ngói, ngài tụng bảy biến chú Đại bi, Ngôi Sám Đường bỗng hoàn tất. Ngài tâu xin, triều đình sắc tứ tên chùa là Thiên Trúc Linh Sơn tự, nơi đây hoằng truyền giáo quán Thiên Thai.

- Bính Thìn: Đại Trung Tường Phù năm thứ chín. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ tư.

- Đinh Tỵ: Thiên Hy năm đầu. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ năm.

Đế hạ chiếu lập ao phóng sinh trong cả nước. Từ mùa Xuân năm Bính Thìn, Đại pháp sư Tri Lễ ở Minh châu đã cùng mười vị Tăng khác thề tu Pháp Hoa Tam-muội. Tu ba năm xong, ngài làm theo hạnh nguyện như Dược Vương, đốt thân cúng dường kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cầu sinh Tịnh độ. Hàn lâm học sĩ Dương Ức hay tin, liền sai người đem thư cố thỉnh ngài trụ thế, ủy nhiệm cho Quận thú Lý Di Canh ngoại hộ cho ngài. Năm Thiên Hy năm thứ tư, Tể tướng Khấu chuẩn theo ý nguyện của hàn lâm Dương Ức đem hạnh nghiệp và việc thiêu thân của ngài tâu với Đế. Đế nói: "Hãy truyền ý Trẫm thỉnh Pháp Sư trụ thế. " Đế đặc biệt ban ngài hiệu Pháp Trí Đại sư.

Mùa Thu tháng bảy, Thái úy Văn Chánh Công Vương Đán mất. Ông làm quan suốt mười tám năm. Bệnh nặng, ông dặn hàn lâm học sĩ Dương Ức rằng: "Ta rất chán phiền não, nguyện đời sau làm Tỳ-kheo thiền tọa trong rừng sâu, quán tâm làm vui. Khi ta chết, ông hãy thế phát, đắp ba y hoại sắc cho ta, dùng lễ hỏa táng, dựng tháp mộ bên cạnh Tiên Oánh". Ức nói: "Ông ở hàng Tam công, tẩm liệm phải mặc quan bào, lẽ đâu lại dùng nghi thức của Sa-môn chăng!" Dương Ức cùng bàn bạc với các quan, cuối cùng chỉ đặt ba y trong quan tài ông, không chôn theo ngọc báu.

- Mậu Ngọ: Thiên Hy năm thứ hai. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ sáu.

- Kỷ Mùi: Thiên Hy năm thứ ba. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ bảy.

- Canh Thân: Thiên Hy năm thứ tư. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ tám.

- Tân Dậu: Thiên Hy năm thứ năm. Đại Khiết Đan, Khai Thái năm thứ chín.

Đế hạ chiếu cho Điện Đầu Du Nguyên Thanh đến viện Diên Khánh ở Minh châu vì đất nước tu sám trong ba ngày ba đêm. Đại Sư Pháp Trí Tri Lễ soạn Tu Sám Yếu chỉ một quyển.

- Nhâm Tuất: Càn Hưng năm đầu. Tháng hai Đế mất. Đại Khiết Đan thái bình năm đầu.

Đế đặc biệt ban cho Pháp sư Tuân Thức ở chùa Thiên Trúc, Hàng châu hiệu là Từ Vân Đại Sư. Chương Hiến Minh Túc Hoàng hậu Lưu Thị sai sứ đến Thiên Trúc tu sám cầu phúc cho đất nước. Pháp Sư soạn Hộ Quốc Kim Quang Minh Tammuội Nghi một quyển dâng Đế.

Mùa Xuân tháng hai, Pháp sư Pháp Tuệ Trí Viên hiệu Trung Dung Tử ở Cô Sơn, Tây Hồ, Hàng châu vào ngày mười bảy tự làm bài thơ Tế Văn Vãn, đến ngày mười chín thì quy tịch. Ngài soạn bộ Thông Kinh Thập Sớ. Ngài kết giao với xử sĩ Lâm Bô Hòa Tĩnh, làm bạn với Thiên Trúc Tuân Thức Pháp Sư. Ngài thọ bốn mươi bảy tuổi, tăng lạp ba mươi chín hạ, được an táng quan quách bằng đất nung. Nhân Tông năm Cảnh Hựu năm thứ ba, do mưa lớn núi lở, môn nhân khai tháp, thấy toàn thân ngài tươi tỉnh như còn sống, tóc móng dài thêm, môi hồng hé mở như mỉm cười, răng trắng như ngọc Kha. Môn nhân thay y phục mới cho ngài, tẩm các thứ hương thơm rồi an táng. Cao Tông, trong năm Thiệu Hưng, ở Cô Sơn dựng Tứ Tánh Quán, môn nhân dời tháp ngài về đồi Mã Não ở phía Bắc núi.

Nhân Tông: Húy là Trinh, con năm thứ sáu của Chân Tông, lên ngôi năm mười ba tuổi. Đế bẩm tính nhân hậu, loại bỏ tính cao ngạo, trưng dụng người hiền lương, chuyên đặt sáu viên gián quan, nghe can gián không mỏi mệt. Đế dựng trường học, lập viện Quảng Tuệ để tiếp dân nghèo. Bản thân đạm bạc, cốt làm lợi cho dân nên ông có hiệu là Cực Trị. Ông lấy ngày mười bốn tháng tư làm tiết Càn Nguyên, ban hành lịch Sùng Thiên, ở ngôi bốn mươi mốt năm, thọ năm mươi lăm tuổi. Các niên hiệu: Thiên Thánh chín năm, Minh Đạo hai năm, Cảnh Hựu bốn năm, Bảo Nguyên hai năm, Khang Định một năm, Khánh Lịch tám năm, Hoàng Hựu năm, Chí Hòa hai năm, Gia Hựu tám năm.

- Quý Hợi: Thiên Thánh năm đầu, ban hành lịch Sùng Thiên, Đại Khiết Đan, Thái Bình năm thứ hai.

- Giáp Tý: Thiên Thánh năm thứ hai. Đại Khiết Đan, Thái Bình năm thứ ba.

Thiền sư Thiện Chiêu: Sư họ Du người Thái Nguyên, trụ ở viện Thái tử Phần Dương, đời năm thứ năm dòng Lâm Tế. Sau khi thế phát thọ Cụ túc giới, Sư chấn tích du phương. Đi đến đâu Sư cũng không ở lâu mà chỉ tùy cơ thưa hỏi, tham vấn khắp bảy mươi mốt Thiện tri thức, sau yết kiến Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm, khế ngộ huyền chỉ, vân du đến vùng Hoành Tương, Tương Miến, thường được quận thú thỉnh trụ trì những chùa viện nổi tiếng, tám lần mời nhưng Sư đều không đến. Đến khi Thủ Sơn quy tịch, đạo tục ở Tây Hà nhờ Tăng là Khế Thông đến thỉnh Sư trụ trì. Sư đóng thất không tiếp, Thông phá cửa vào và trách: "Phật pháp là đại sự, lui về nằm yên là tiểu tiết, Tiên sư tịch rồi, bây giờ là lúc nào mà thầy lại muốn ngủ yên ở đây!" Sư đáp: "Chẳng phải ông thì tôi chẳng nghe được những lời vừa rồi!" Nói xong Sư nhận lời thỉnh. Đến lúc này, Thiên Thánh năm thứ hai, Long Đức Phủ Doãn Lý Hầu thỉnh Sư trụ ở Thừa Thiên. Sứ đến thỉnh ba lần nhưng Sư không đi. Sứ giả đến nữa, vừa mở phong thư, Sư nói: "Vốn do già bệnh nên không thể xuống núi, giả như có đi, cũng phải kẻ trước người sau. " Sứ nói: "Trước hay sau tùy thầy chọn lựa. " Sư sai dọn cơm nước, gói ghém hành trang và nói: "Ta đi trước đây!" Nói xong Sư đứng lại và thị tịch. Môn nhân trà-tỳ thâu xá-lợi dựng tháp. Sư nối pháp Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm. Câu "Thập Trí Đồng Chân" là câu nói của Sư.

- Ất Sửu: Thiên Thánh năm thứ ba. Đại Khiết Đan, Thái Bình năm thứ tư.

- Bính Dần: Thiên Thánh năm thứ tư. Đại Khiết Đan Thái Bình năm thứ năm.

Đế hạ chiếu cho các trước tác Thiên Thai giáo được nhập tạng và lưu hành. Hồi ấy, tăng Tư Ngộ ở chùa Thiên Trúc cầu nguyện cho Giáo quán này được nhập tạng và lưu hành. Từ mùa Xuân năm Kỷ Sửu, ngài đối trước tượng Quán Âm cầu khấn, đến lúc này hạnh nguyện đã thành tựu, ngài mới đốt thân trước am Nhật Quán để báo đáp ân Phật.

- Đinh Mão: Thiên Thánh năm thứ năm. Đại Khiết Đan, Thái Bình năm thứ sáu.

Tháng chín, Quang lộc đại phu Thái tử thiếu phó Văn Nguyên Công Triệu Hướng soạn Pháp Tạng Toái Kim mười quyển, đây là tác phẩm thấu đạt lý tánh.

- Mậu Thìn: Thiên Thánh năm thứ sáu. Đại Khiết Đan, Thái Bình năm thứ bảy.

Ngày năm tháng giêng, Tôn giả Pháp Trí Tri Lễ ở Minh châu ngồi kiết già nhóm chúng và dạy rằng: "Ta lập đạo tràng Diên khánh, nguyện lưu thông Pháp Hoa Tam-muội. Các ông chớ làm người sau cùng đoạn mất Phật chủng. Có sống ắt có chết giống như có sớm ắt có chiều vậy. Cần phải tinh tấn liên tục, đời đời kiếp kiếp sẽ mãi mãi gặp nhau". Nói xong, ngài bỗng niệm A-di-đà Phật và tịch. Thi thể ngài được để khám mở mười bốn ngày, tóc móng dài thêm, nghi dung như người sống. Lúc trà-tỳ, lưỡi ngài không cháy, xá-lợi ngũ sắc nhiều vô số kể. Tư chính điện Đại Học sĩ kiêm Thái tử Thiếu Bảo Thanh Hiến công Triệu Biện soạn văn bia ghi hành trạng của ngài.

- Kỷ Tỵ: Thiên Thánh năm thứ bảy. Đại Khiết Đan, Thái Bình năm thứ tám.

Thiền Tông Quảng Đăng Lục: Do Phò mã đô úy Lý Tuân Úc soạn gồm ba mươi quyển, Đế viết bài tựa tặng. Đô úy mất (Xem phần Từ Minh Sở Viên Thiền Sư ở chương sau).

- Canh Ngọ: Thiên Thánh năm thứ tám. Đại Khiết Đan, Thái bình năm thứ chín.

Lăng-nghiêm Kinh Sớ: Hồi ấy, Pháp sư Trường Thủy, húy Tử Duệ, người Gia Hưng, Tú châu theo Hồng Mẫn pháp Sư ở châu này học kinh Lăngnghiêm, đến đoạn "Hai tướng động tĩnh, rõ ràng chẳng sinh", ngài hoát nhiên tỉnh ngộ. Nghe Thiền sư Tuệ Giác ở núi Lang da, trừ châu đạo phong nổi tiếng nên ngài đến tham vấn. Đến nơi, ngài lên thẳng pháp tòa và hỏi: "Vốn dĩ thanh tịnh, tại sao bỗng sinh núi sông đại địa!" Tuệ Giác lớn tiếng đáp: "Vốn dĩ thanh tịnh, tại sao bỗng sinh núi sông đại địa!" Ngay đó, ngài hoát nhiên đại ngộ, định xin làm đệ tử, Thiền sư Tuệ Giác nói với ngài: "Tông của ông đã không vang danh từ lâu rồi, ông hãy dốc chí chống đỡ nhằm báo ân Phật. " ngài làm đúng lời dạy, sau trụ ở Trường Thủy, chúng gần cả ngàn người. Ngài đem giáo nghĩa của tông Hiền Thủ chú sớ kinh Lăng-nghiêm cả thảy mười quyển. Ngự sử trung thừa Vương Tùy viết bài tựa, cho lưu hành ở đời. Thiền sư Quảng Chiếu ở núi Lang Da húy là Tuệ Giác, nối pháp Thiền sư Phần Dương Thiện Chiêu.

- Tân Mùi: Thiên Thánh năm thứ chín. Đại Khiết Đan, Thái Bình thứ mười. Mồng ba tháng sáu Đế mất, thụy là Thiên Phụ Hoàng Đế, miếu hiệu Thánh Tông, ông ở ngôi bốn mươi chín năm.

Mùa Hạ tháng tư, Đế hạ chiếu rước y bát của Lục tổ Đại Giám ở Nam Hoa Thiền tự thuộc Tào Khê, Thiều châu vào Thanh Tịnh Đường trong cấm cung để cúng dường. Ngày rằm tháng tám, Đế sai sứ đưa về chùa và ban tặng cho Nam Hoa Trưởng Lão Phổ Toại hiệu Trí Độ Đại Sư.

Đại Khiết Đan: Hưng Tông lên ngôi Hoàng Đế. Ông húy Công Chân tên Phiên là Mộc Bất Cô, ông là con năm thứ tám của Thánh Tông do Thuận Thánh nguyên phi sinh ra, ở ngôi hai mươi lăm năm thì mất.

- Nhâm Thân: Minh Đạo năm đầu. Đại Khiết Đan, Hưng Tông, Cảnh Phước năm đầu.

Chương Hiến Minh Túc Thái hậu Lưu thị sửa xong chùa Cảnh Đức ở kinh đô. Triệu Nguyên Hạo ở Tây Hạ được phong làm Tây Bình Vương.

Mồng 8 tháng 10 mùa Đông, Tôn giả hiệu Từ Vân Linh Ứng Tuân Thức ở chùa Thiên Trúc Linh Sơn, Hàng châu quy tịch. Ngài dặn môn nhân đặt di thể mình nằm trong đơn Hoàn hà, an táng dưới ngọn Nguyệt Quế ở phía Đông chùa. Ngài nối pháp Đại sư Minh Trí Tổ Thiều. Tổ Thiều có 2 đệ tử, một là Tuệ Biện tức Thiền sư Hải Nguyệt. Một là Nguyên Tịnh tức Pháp sư Biện Tài. Hải Nguyệt quê ở Hoa Đình, thọ học ở chùa Phổ Chiếu, Nguyên Tịnh tự Vô Tượng, họ Tiềm Từ người Hàng châu được Đế ban cho y tía và hiệu Biện Tài, quy tịch trong năm Nguyên Phong năm thứ 6.

- Quý Dậu: Minh Đạo năm thứ 2. đại Khiết Đan, Trùng Hy năm đầu.

- Giáp Tuất: Cảnh Hựu năm đầu. Đại Khiết Đan, Trùng Hy năm thứ 2.

Đế ban sắc lệnh người nào thi đọc thông kinh thì cho độ làm Tăng.

Tống Tuyên Hiến Công Thụ, Hạ Anh Công là người được trọng vọng trong triều, hai ông cùng giám sát người đồng chân thi. Có một người tụng kinh Pháp Hoa nhưng không trôi chảy, hai ông hỏi người ấy đã học bao nhiêu năm, người kia đáp 10 năm. Hai ông cười và tỏ vẻ thương cảm, mỗi người cùng lấy một bộ Pháp Hoa 7 quyển và tụng. Tống Công tụng 10 ngày thì thuộc, Hạ Công tụng trong 7 ngày, không sót một chữ. Bẩm tính mọi người khác xa đến như vậy đấy.

- Ất Hợi: Cảnh Hựu năm thứ 2. Đại Khiết Đan, Trùng Hy năm thứ 3.

- Bính Tý: Cảnh Hựu năm thứ 3. Đại Khiết Đan, Trùng Hy năm thứ 4.

- Đinh Sửu: Cảnh Hựu năm thứ 4. Đại Khiết Đan, Trùng Hy năm thứ 5.

Mậu Dần: Bảo Nguyên năm đầu

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 6

Tây Hạ tiếm xưng Đế hiệu Đại Khánh năm đầu

 

Tây Hạ: Hồi ấy vào mùa Đông tháng 12 nhuần năm Trinh Quán năm thứ 3 đời Đường Thái Tông, Đảng Hạng Tù trưởng Tế Phong Bộ Lại và họ Thát Bạt của những bộ lạc khác đến quy hàng. Mùa hạ tháng 4 đời Hy Tông niên hiệu Trung Hòa năm đầu, Thát Bạt Tư Cung đem quân đến cứu quốc nạn, đánh nhau với giặc Hoàng Sào có công, Đế sai Tư Cung nắm quyền Hạ Tuy Tiết độ sứ. Tháng 8, Đế cho Tư Cung làm Hạ Tuy Tiết độ sứ, ban cho họ Lý. Tháng 8 năm Quý Tỵ đời Chiêu Tông năm Càn Ninh năm thứ 2, em Tư Cung là Bảo Đại Tiết độ sứ Lý Tư Hiếu đánh Vương Hành Du, Lê Viên Trại có công. Năm Quý Mão, Đế cho Bảo Đại Tiết độ sứ Lý Tư Hiếu làm Bắc diện chiêu thảo sứ, Định Nạn Tiết độ sứ Lý Tư Gián làm Đông diện chiêu thảo sứ. Đến lúc này, tháng 10 năm Nhâm Ngọ đời Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 7, Lý Kế Phủng đến triều dâng hiến 4 châu là Hạ, Ngân, Tây, Hựu gồm tám huyện, riêng Tây Hạ từ năm Thiên Phước đến nay chưa từng vào chầu. Kế Phủng đến, Thái Tông rất hài lòng, Phủng tự bộc bạch rằng anh em mình phần đông chống đối nhau, nên xin được ở lại kinh đô. Đế hạ chiếu trao ông chức Chương đức quân tiết độ, giữ lại kinh đô. Ông xin cung phụng triều đình, Đế ban ông họ Triệu tên Bảo Trung, phong chức Hạ Tuy Ngân Hựu Mật Ngũ Châu Sứ. Mùa hạ tháng tư niên hiệu Thuần Hóa năm đầu, Lý Kê Thiên cướp phá biên ải, Đế sai tướng đem quân đánh bại Kế Thiên ở Hạ Châu. Mùa thu tháng bảy năm Thuần Hóa năm thứ hai, Kế Thiên đầu hàng, Đế ban cho ông họ Triệu tên Bảo Cát, trao ông chức Ngân châu Quán sát sứ. Bảo Trung ngầm cấu kết với Bảo Cát, tuy bên ngoài họ tỏ ra quy thuận nhưng bên trong ngầm liên kết với bọn Khương Nhung xâm lấn, cướp phá không ngừng. Trước hết Triệu Bảo Trung tâu với Kế Thiên nói láo rằng Phiên Nhung vào cướp phá và xin thêm binh. Đế sai Địch Thủ Nghĩa dẫn quân ra đóng ở Hạ Châu. Kế Thiên sợ liền dâng biểu xin quy thuận. Mùa xuân tháng giêng năm Thuần Hóa năm thứ năm Lý Kế Phủng và Lý Kế Thiên làm phản, Đế sai Lý Kế Long đem quân thảo phạt, tiến đánh Hạ Châu. Lý Kế Phủng kéo nhau ra hàng và bị cầm tù. Kế Phủng đã quy hàng, Đế cật vấn trách cứ, mấy lượt hạ chiếu tha chết và giữ ông ở kinh đô. Kế Thiên cuối cùng cũng phản phúc, không chịu làm bề tôi, luôn luôn là mối họa của đất nước. Tháng chín niên hiệu Chí Đạo năm đầu, Lý Kế Thiên phạm biên cương cướp phá Linh Châu. Tháng chín năm Chí Đạo năm thứ hai, Đế lại sai Lý Kế Long chia quân thành năm đường đánh Lý Kế Thiên. Tháng hai năm Đinh Dậu, Kế Thiên bỏ trốn. Tháng mười hai, Kế Thiên sai sứ lo việc triều cống xin được giữ biên cương. Bấy giờ Chân Tông mới lên ngôi, đang còn bao dung rộng lượng nên chấp nhận thỉnh cầu của Kế Thiên và gia phong ông làm định nạn tiết độ, phong cho năm châu là Hạ, Tuy, Ngân, Hựu, Tĩnh. Tháng chín năm Hàn Bình năm thứ tư, Kế Thiên vây hãm quân Thanh Viễn, Đế hạ chiếu thảo phạt. Tháng chín năm Nhâm Dần, Lý Kế Thiên vây hãm Linh Châu. Tháng mười hai năm Hàm Bình năm thứ sáu, Lý Kế Thiên vây hãm phủ Tây Lương, Phan La Chi đón đánh ông, Kế Thiên chết trong trận mưa tên, con ông là Đức Minh lên kế vị. Thiên Hy năm đầu, Triệu Đức Minh thấy dân đói khổ liền dâng biểu xin mấy trăm vạn lương, Đế ưng chuẩn. Năm Đinh Mão, Nhân Tông Thiên Thánh năm thứ năm, tháng năm, Triệu Đức Minh cướp phá biên cương. Minh Đạo năm đầu, Đế phong Triệu Nguyên Hạo (con của Đức Minh) làm Tây Bình Vương. Đến lúc này, tháng mười hai niên hiệu Bảo Nguyên năm đầu, Triệu Nguyên Hạo tiếm hiệu. Trước đây, Nguyên Hạo muốn xâm lấn phía Nam nhưng sợ Cốc Tư La chặn phía sau nên đem quân đánh các bộ lạc Khương ở Lan Châu. Đến núi Mã Hàm liền dựng Ngõa xuyên hội thành. Nguyên Hạo giờ đây đã có trong tay những vùng đất như: Hạ, Ngân, Tuy, Tĩnh, Hựu, Linh, Diêm, Hội, Thắng, Cam, Lương, Oa, Sa, Túc nhưng vẫn ở tại Hưng Châu vì đây cách sông, thế đất dựa lưng Hạ lan sơn rất vững chãi. Hạo bắt đầu thay thế hết quan kém, lập mười sáu ty thống lãnh các vụ, lại đặt mười tám giám quân ty ủy thác cho tù trưởng, hào kiệt, chia người thủ lĩnh làm trấn Thủ, cả thảy mười lăm vạn dân. Ông lại chọn ba ngàn hào tộc giỏi cỡi ngựa bắn cung, theo thứ lớp gọi là Lục Ban Trực. Nguyên Hạo chế ra sách Phiên đổi niên hiệu Đại Khánh, sau cùng dùng mưu lược của Dương Thủ Tố, dựng đàn nhận sách mệnh, lấy hiệu Thỉ Văn Anh Vũ Hưng Pháp Kiến Lễ Nhân Hiếu Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Hạ, đổi năm Đại Khánh năm thứ hai thành niên hiệu Thiên Thụ, sai sứ đến cáo việc tiếm hiệu, nạp cờ tiết, sắc cáo và dâng biểu đại loại nói: "Cha thần là Đức Minh vốn được thế phong gắng sức theo triều đình ngót ba mươi năm, thâm tình khéo giữ năm ngàn dặm, theo chức cống nạp đủ cả. Thần ngẫu nhiên nhàn rỗi chợt sinh phóng túng, chế ra văn tự của Tiểu Phiên, thay đổi áo mão của Đại Hán, chẳng mong truyền mãi ở đây mà vì dân quân cùng thỉnh, cúi mong Hoàng Đế bệ hạ hứa nhận lễ của biên thùy phía Tây, thần xin nhận sách mệnh làm vua đất Nam này, xin dốc tài hèn, thường chăm dân tốt. " Triều đình bàn mưu thảo phạt ông. Từ đó Nguyên Hạo ngông cuồng cướp vây Quân Châu, có lúc thắng có lúc thua. Đến Lý Tông năm Bảo Khánh năm thứ ba, đất nước diệt vong.

 

Kỷ Mão: Bảo Nguyên năm thứ 2

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 7

Tây Hạ: Đại Khánh năm thứ hai, đổi thành Thiên Thụ

Canh Thìn: Khang Định năm đầu

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 8

Tây Hạ: Xâm phạm nhà Tống

 

Thiền sư Từ Minh: Sư họ Lý người Toàn châu, húy Sở Viên ngụ ở núi Thạch Sương, Đàm châu. Thuở nhỏ Sư làm thư sinh năm hai mươi tuổi xuất gia ở chùa Ẩn Tĩnh, Tương sơn. Mẹ Sư là người đức hạnh, khuyên Sư du phương. Sư đến Phần Dương yết kiến Thiền sư Thiện Chiêu, Chiêu ngầm hứa khả nhưng đã mười năm mà vẫn chưa cho vào thất. Mỗi lần gặp Sư, Thiện Chiêu đều mắng chửi thậm tệ, hoặc chê bai những vị khác, nếu có dạy bảo toàn nói những việc thế tục bỉ lậu. Ngày nọ, Sư trách: "Đến pháp tịch đã hai mùa hạ, chẳng được chỉ vẽ mà chỉ tăng thêm thế tục nhiễm ô, năm tháng qua nhanh, việc mình chẳng tỏ, đánh mất lợi ích xuất gia. " Nói chưa dứt lời, Thiện Chiêu mắng: "Gã ác tri thức này dám bán rẻ ta ư!" Thiện Chiêu nổi giận cầm gậy đuổi đánh. Sư toan kêu cứu thì Chiêu liền bịt miệng, ngay đó Sư đại ngộ, nói: "Mới hay đạo Lâm Tế vượt hẳn thường tình. " Sư ở lại hầu hạ bảy năm rồi từ biệt đến tham học với Thiền sư Đường Minh Tung. Tung bảo Sư: "Dương Đại Niên Nội Hàn thấy biết cao xa, vào đạo chân thật, ông nên đến gặp. " Sư liền đến Đại Niên. Đại Niên nói:

Đối mặt chẳng biết nhau, ngàn dặm lại đồng phong. Sư thưa: Gần đây vâng lời thỉnh của sơn môn.

- Thoát không rất chân thật.

- Tháng trước rời Đường Minh.

- Vừa rồi ăn năn vì đã hỏi nhau. Sư nói:

Tác gia!

Đại Niên liền hét. Sư nói:

Gần phải. Đại Niên hét tiếp. Sư lấy tay vẽ một đường. Đại Niên lè lưỡi nói: Thật là Long tượng.

Sư hỏi: Đó là ý gì? Đại Niên quay lại bảo châm trà tiếp và nói: Té ra là người nhà.

Sư nói:

Cũng không tiêu được. Lát sau, Đại Niên hỏi:

- Thế nào là một câu vì người của Viên Thượng tọa? Sư đáp:

- Thiết

- Tác gia, tác gia!

- Sư nói:

Tha cho Nội Hàn hai mươi gậy.

Đại Niên vỗ gối hỏi: Trong này là nơi nào?

- Sư vỗ tay đáp:

Chớ có bỏ qua.

- Đại Niên cười vang. Đại Niên hỏi:

- Nhớ được nhân duyên Đường Minh ngộ đạo không? Sư đáp:

Đường Minh nghe tăng hỏi Thủ Sơn về đại ý Phật pháp, Thủ Sơn đáp:

Bên thành Sở Vương nước chảy về Đông. Đại Niên hỏi:

Nói như vậy ý chỉ thế nào? Sư đáp:

Trên nước treo cầu lồng đèn.

- Như vậy thì cô phụ người xưa rồi!

- Nội Hàn nghi thì cứ tham vấn nơi khác. Đại Niên nói:

Con ếch ba chân nhảy lên trời. Sư nói:

Cứ mặc tình nhảy.

Đại Niên cười vang, giữ Sư lại trai đường, ngày ngày cùng chất vấn giải nghi. Nhân đó Sư hận mình gặp Đại Niên quá muộn. Đại Niên vào chùa gặp Phò mã Đô úy Lý Tuân Ức nói: Gần đây tôi được một đạo nhân, thật là sư tử Tây Hà.

Tuân Ức nói:

Tôi quá bận rộn không đến gặp được biết làm thế nào?

Đại Niên im lặng trở về nói với Sư:

- Lý công là người trong Phật pháp, nghe đạo phong thầy từ xa đến đây, có lòng muốn gặp thầy, do bận việc triều chính nên không thể theo tôi về.

- Sáng hôm sau, Sư đến yết kiến Lý Công. Lý Công xem văn thư, sai đồng tử ra hỏi:

- Nói được thì cùng Thượng tọa gặp nhau. Sư nói:

Hôm nay tôi đặc biệt đến để gặp Lý công lại sai đồng tử ra nói:

- Văn bia khắc chữ trắng, giữa đường trồng tùng xanh.

Sư nói: Nếu chẳng phải hôm nay, ngày sau ắt khó gặp. Đồng tử trở ra nói: Đô úy bảo nếu vậy thì gặp Thượng tọa vậy. Sư nói:

Đầu gót cuối gót.

Lý Công bước ra ngồi xong hỏi Sư:

- Tôi nghe nói, Tây Hà có Sư tử lông vàng đúng không? Sư đáp:

Ông nghe tin này ở đâu? Lý Công liền hét. Sư nói: Tiếng của dã can.

Lý Công hét tiếp. Sư nói:

Chính phải. Lý Công cười vang. Sau đó, Sư từ biệt ra đi, Lý Công hỏi một câu sắp đi, Sư đáp:

Hay! Sắp dứt.

Lý Công nói:

Đâu khác nơi khác! Sư hỏi:

Đô Úy lại làm sao thế?

- Tha Thượng tọa hai mươi gậy

- Toàn vì lưu thông

Lý Công lại hét. Sư nói: Mù!

Lý Công nói: Thôi đi đi! Sư đáp: Dạ! Dạ!

Từ đây, Sư qua lại họ Dương họ Lý kết làm bạn pháp, ít lâu, Sư từ biệt về lại Hà Đông. Đại Niên nói:

Ta có một câu gởi cho Đường Minh!

Sư nói: "Trăng sáng chiếu thấy người đi đêm". Đại Niên nói: "Lại chẳng như nhau".

Sư nói: Đêm dài vẫn còn được, sau ngọ lại phiền người

- Kim Cang trước chùa Khai Bảo gần đây do đâu chảy ra.

- Biết.

- Thượng tọa sắp đi, lẽ đâu không có câu cho người.

- Đường núi cửa muôn trùng

- Vậy thì đi theo Thượng tọa thôi! Sư giả bộ gầm gừ, Đại Niên nói: Đúng là Sư tử.

Sư về lại Đường Minh, Lý Công sai hai vị Tăng đến thăm hỏi. Sư viết thư cho Lý Công, cuối thư Sư vẽ hai cái chân bảo hai vị Tăng ghi tên vào và đem về. Lý Công đọc thư và làm bài kệ:

Đuôi đen hơn ngàn dặm
Cả quách lộ hai chân
Trời vốn người khó lường
Nể gã Hồ râu đỏ.

Lúc này do còn mẹ già nên Sư về Nam, đến Thụy châu làm Thủ Chúng trong pháp hội của Thiền sư Động Sơn Hiểu Thông, dừng lại đây ba năm. Trước đây, Phần Dương từng nói: "Ta tham vấn khắp con cháu Vân Môn, nhưng hận vì chưa yết kiến Thiền sư Hiểu Thông. " Vì vậy Sư đã dừng lại đây, sau vân du đến Ngưỡng Sơn, Viên châu Thái phú Hoàng Tôn Đán thỉnh Sư trụ chùa Quảng Lợi núi Nam Nguyên, rồi qua trụ ở Đạo Ngô, Đàm châu, chùa Sùng Thắng núi Thạch Sương, chùa Trang Nghiêm ở Nam Nhạc, chùa Hưng Hóa ở Đàm châu. Niên hiệu Bảo Nguyên năm đầu, Phò mã Dô úy Lý Tuân Ức sai Sứ đến thỉnh Sư rằng: "Pháp lữ trong nước chỉ có thầy và Dương Đại Niên mà thôi. Đại Niên đã bỏ tôi đi trước, năm nay thấy mình đã già yếu, gắng sống để gặp thầy lần cuối. " Sư liền về Đông đến Kinh Sư. Được hơn một tháng, Lý Công vẽ một vòng tròn và làm bài kệ tặng Sư rằng:

Thế giới không nương
Núi sông chẳng ngại
Biển lớn vi trần
Tu-di hạt cải,
Giở khăn che đầu
Cởi bỏ thắt lưng
Nếu tìm sống chết
Hỏi lấy đãy da.

Sư hỏi:

Thế nào là Phật tánh xưa nay? Lý Công đáp:

Hôm nay nóng như hôm qua Lý Công hỏi Sư: Thế nào là một câu sắp đi? Sư đáp:

Xưa nay không ngăn ngại, tùy xứ mặc vuông tròn

-Tối rồi, mỏi mệt chẳng đáp nữa. Sư nói:

Làm Phật nơi không có Phật.

Đêm ấy, Lý Công an nhiên quy tịch. Nhân Tông Hoàng đế nghe Đô úy quy tịch và cuộc hỏi đáp giữa hai người, ông hết lời thán phục. Sư đến mộ của Đô úy chào từ biệt, vua hạ chiếu ban cho Sư thuyền quan để về Nam. Đến lúc này là ngày mồng năm tháng giêng niên hiệu Khang Định năm đầu, Sư quy tịch, hưởng thọ năm mươi bốn tuổi, Tăng lạp ba mươi hai. Bài minh ghi hành trạng của Sư được khắc dựng ở chùa Hưng Hóa, tháp toàn thân ở núi Thạch Sương. Sư nối pháp Phần Dương Thiện Chiêu, thuộc đời năm thứ sáu tông Lâm Tế. Đệ tử nối Pháp Sư bắt đầu chia tông, đó là Hoàng Long Tuệ Nam, Dương Kỳ Phương Hội.

Thiền sư Quảng Chiếu ở núi Lang Da, Trừ châu: Sư húy Tuệ Giác, người Tây Lạc. Thuở nhỏ, lúc đưa linh cửu của cha là Hoành Dương Thái thú về đất Lạc, khi ngang qua ngôi chùa cổ Dược Sơn ở Lễ châu, Sư cảm thấy như mình đã từng ở đây. Sau đó, Sư xuất gia ở chùa này, thọ giới xong liền du phương tham học, đắc pháp với Phần Dương, hoằng hóa ở Trừ Thủy. Sư giáo hóa cùng thời với Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển, Minh Châu bốn phương gọi đây là hai cửa Cam lồ. Đến nay, hóa tích của Sư ở vùng Hòa Nam vẫn còn. Sư nối pháp Thiền sư Phần Dương Thiện Chiêu.

 

Tân Tỵ: Khánh Lịch năm đầu

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 9

Tây Hạ

 

Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc ở Hồ châu soạn Lăng-nghiêm Kinh Tập Giải mười quyển, Thuyết Đề một quyển, Huân Văn Ký năm quyển. Hàn lâm Thị độc Học sĩ Tri chế cáo Hồ Túc viết lời tựa rằng: "Ngàn đèn trong nhà, ánh sáng dung nhiếp, sáu nhạc dưới nhà chính âm cùng trỗi, xiển dương kinh mầu, nêu cao Viên Giáo, pháp thí vô biên thay!" Ngài thị tịch ngày hai mươi bốn tháng ba niêm hiệu Trị Bình năm đầu, đời Anh Tông, môn nhân an táng Sư ở Hà Sơn.

 

Nhâm Ngọ: Khánh lịch năm thứ 2

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 10

Tây Hạ

Quý Mùi: Khánh lịch năm thứ 3

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 11

Tây Hạ đến Tống xin hàng

 

Tây Hạ: Triệu Nguyên Hạo, mùa hạ tháng tư sai sứ đến Tống Xưng thần xin hòa. Sau ông lại sai sứ đến Xưng Nam chứ không Xưng Thần mà chỉ xưng thần với Khiết Đan. Dịch kinh viện Triều tán Đại phu Thí Hồng Lô khanh Quang Phạm Đại Sư

Duy Tịnh được chấp chính, miễn bớt việc dịch kinh. Ngài biết trước liền dâng tấu sớ xin nghỉ. Đế nói: "Trẫm sùng phụng Tam Thánh, lẽ đâu dám cho thầy nghỉ. Hơn nữa, sổ sách tên gọi văn kiện của những vật báu triều cống đều là văn tự của các nước khác, chẳng phải Hồng Lô thì ai thông suốt hết. " Không bao lâu, Ngự sử Trung thừa Khổng Đạo Phủ v.v... quả nhiên xin bãi bỏ Dịch quán. Đế đưa tấu sớ của ngài cho bọn họ xem, Đạo Phụ liền dẹp bỏ ý định của mình.

Ngự tán răng Phật: Mùa hạ, trời đại hạn, tổn hại hoa màu, tháng sáu, Đế hạ chiếu rước răng Phật ở chùa Tướng Quốc về cấm cung cầu khẩn, trời liền mưa to. Xá-lợi răng Phật này do Tổ Tông ngự phong. Đế tự tay mở ra, rửa bằng nước hoa Tường vi trong biển, được một hạt xá-lợi, màu ngũ sắc sáng rỡ. Đế cất xá-lợi trong bình lưu ly và làm bài tán rằng:

Tam hoàng huyễn chất đà ra đất
Ngũ Đế hình hài hóa bụi trần
Phu tử khắp nơi tôn chí thánh
Lão quân trần thế cũng bảo chân,
Vùi thây chỉ thấy quan quách trống
Còn đâu hài cốt chỉ hậu nhân
Chỉ có thầy ta xương vàng mãi
Trải qua trăm lửa vẫn thường tân.

Đế cất xá-lợi trong tráp vàng trang nghiêm bảy báu, lót bằng lông cừu trắng, đậy bằng áo long phụng anh lạc, cúng dường hơn một tháng, đúc điện bằng vàng bốn cửa tượng trưng cho cung trời, đặt Xá-lợi vào và đưa trả lại. (Xem bài tựa Tam Triều Ngự Tán Xá-lợi Răng Phật của Hàn lâm Tri chế cáo Vương Khuê)

 

Giáp Thân: Khánh Lịch năm thứ 4

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm năm thứ 12

Tây Hạ: Tống sách phong Triệu Nguyên Hạo làm Quốc Chủ.

 

Tháng mười hai, Tống sách phong Nguyên Hạo làm Hạ Quốc chủ, mỗi năm ban cho bạc lụa hai mươi ba vạn, Nguyên Hạo đổi tên là Nẵng Tiêu.

 

Ất Dậu: Khánh Lịch năm thứ 5

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 13

Tây Hạ

 

Âu Dương Tu từ Gián Viện bị giáng xuống làm Hà Bắc Đô Chuyển Vận sứ, đổi về Trừ Châu. Khi ngang qua chùa Viên Thông ở Đông Lâm, Lô Sơn, ông gặp Thiền sư Tổ Ấn Cư Nột luận bàn về Đại giáo, chiết trung giữa Nho và Phật, giống như chuyện Hàn Dũ gặp Thiền sư Đại Điên.

 

Bính Tuất: Khánh Lịch năm thứ 6

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 14

Tây Hạ

 

Thiền sư Dương Kỳ: Sư húy Phương Hội ở núi Dương Kỳ, Viên Châu, vốn họ Lĩnh quê ở Nghi Xuân. Thuở nhỏ, Sư đến Cửu Phong ở Thụy châu cứ ngỡ mình đã từng qua đây rồi liền xin thế phát xuất gia. Mỗi khi xem kinh, tâm Sư mở sáng, thấu tỏ mau lẹ. Sư đến tham học với Thiền sư Từ Minh Viên. Viên từ Nam Nguyên dời sang Đạo Ngô, chuyển đến Thạch Sương, Sư đều theo hầu, lo toan hết mọi việc trong viện. Tuy theo Từ Minh đã lâu nhưng Sư vẫn chưa tỉnh ngộ. Mỗi khi đến thưa hỏi, Từ Minh bảo: "Việc trong ty khố quá nhiều, ông hãy đi đi!" Hôm khác Sư đến, Từ Minh bảo: "Ngày sau con cháu Giám Tự có khắp thiên hạ, việc gì phải nhọc công!" Ngày nọ, Từ Minh vừa đi ra, trời liền đổ mưa, Sư rình ở con đường tắt, Từ Minh đến, Sư liền nắm đứng nói: "Lão già này, hôm nay phải nói cho tôi, nếu không nói thì tôi đánh. " Từ Minh nói: "Nếu Giám Tự biết đây chỉ là việc quanh co, thì sẽ thôi ngay!" Từ Minh nói chưa dứt, Sư đại ngộ, sụp lạy ngay trên đường bùn. Hôm sau, Sư uy nghi tề chỉnh đến phương trượng lạy tạ. Từ Minh quở: "Chưa phải!" Nhân đó Sư khế ngộ, từ biệt Từ Minh về lại Cửu Phong. Tăng tục thỉnh Sư trụ ở Dương Kỳ. Đến lúc này, Sư dời qua Vân Cái và thị tịch. Hoàng Hựu năm đầu, môn nhân dựng tháp Sư ở núi này. Sư nối pháp Từ Minh.

 

Đinh Sửu: Khánh Lịch năm thứ 7

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 15

Tây Hạ

 

Vương Tắc ở Bối châu làm phản. Vương Tắc nguyên là một quan võ nhỏ của quân lệ Tuyên Ân, dùng yêu thuật mê hoặc mọi người, chiếm cứ Bối châu, tiếm hiệu Đông Bình Vương, lấy Quốc hiệu An Dương, đổi niên hiệu Đức Thắng, về sau bị diệt.

 

Mậu Tý: Khánh Lịch năm thứ 8

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 16

Tây Hạ

Kỷ Sửu: Hoàng Hựu năm đầu

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 17

Tây Hạ

 

Từ triều Chu Vũ Đế, Biện Kinh bị đập phá chùa viện, mãi đến đời Thái Tổ năm Kiến Long mới được phục hưng. Lưỡng Nhai chỉ còn lại Nam Sơn Luật Bộ, Từ Ân Hiền Thủ sớ sao nghĩa học mà thôi. Sĩ Đại phu thông minh siêu xuất đều chán nghe danh tướng nhân quả, nhưng Thiên Thai Chỉ quán, Đạt-ma Thiền tông lại chưa thịnh hành. Từ năm Thuần Hóa đến nay, Tôn giả Tứ Minh Tri Lễ, Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức hành đạo ở Đông nam, nhưng tông nhãn của Quán tâm thì chiếu sáng cả thiên hạ. Hàn lâm Dương Ức, Triều Hướng là người đầu tiên phát minh nó. Đến lúc này, nội thị Lý Doãn Ninh tâu xin cho Biện Kinh một khu nhà để sáng lập phát huy tông thiền, Đế sắc tứ nơi này là Thập Phương Tịnh Nhân Thiền Viện. Đế lưu tâm đến Không tông, hạ chiếu cho Tam Tỉnh cùng định nghị, mời người có Đạo đến trụ trì. Âu Dương Tu, Trần Sư Mạnh tâu xin Thiền sư Cư Nột ở chùa Viên Thông, Lô Sơn. Doãn Ninh đích thân cầm chiếu chỉ đến Giang châu để thỉnh Cư Nột bảo mình bị bệnh mắt nên không đi. Đế càng kính trọng, cho phép ngài thỉnh người khác đi thay. Cư Nột liền mời Hoài Liên ứng chiếu.

Thiền sư Cư Nột: Ở Viên Thông Thiền Tự, Lô Sơn, Giang châu. Sư họ Kiểng, người Đông Xuyên, Tử châu, từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ, sách đọc qua là thuộc lòng. Năm mười một tuổi, Sư xuất gia, mười bảy tuổi thi kinh Pháp Hoa, được độ và lên tòa giảng. Gặp lúc Thiền giả về Nam mới khuyên Sư đi tham vấn do đó Sư đi khắp trong Kinh sư mà không có sở đắc. Sư đến tham vấn Thiền sư Tử Vinh ở Tương Châu và mật khế tâm yếu, dừng ở đây mười năm rồi vân du sang Lô Sơn, đạo phong của Sư ngày một lan xa. Nam Khang Thái thú Trình Sư Mãnh thỉnh Sư trụ ở Quy Tông, sau dời qua Viên Thông. Đến lúc này, Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ ở viện Tịnh Nhân nhưng Sư không đi và thỉnh ngài Hoài Liên đi thay. Thiên hạ đều cho Sư là người khéo biết dùng người. Về già Sư ẩn cư trên ngọn Bảo Tích. Mồng tám tháng hai năm Hy Ninh năm thứ tư đời Thần Tông, Sư không bệnh, ngồi ngay thẳng thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi, Tăng lạp bốn mươi lăm hạ, tháp ở Nham Ổ. Sư ngồi thiền, ban đầu chắp tay bình thường, đến nửa đêm, tay đưa cao dần đến ngực, thị giả vẫn đứng hầu đợi đến lúc trời sáng. Sư nối pháp Thiền sư Tử Vinh ở Tương châu, Tử Vinh nối pháp Trí Môn Tộ, Tộ nối pháp Hương Lâm Trừng Viễn, Viễn nối pháp Vân Môn Văn Yển.

 

Canh Dần: Hoàng Hựu năm thứ 2

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 18

Tây Hạ

 

Thiền sư Đại Giác Liên: Ngài họ Trần, húy Hoài Liên, quê ở Long Khê, Chương châu, Phúc Kiến đạo. Ngài xuất gia từ bé, đến tuổi để chỏm thì thế phát, dốc chí học đạo, mến mộ ai thì liền đến tham học. Sư đến pháp tịch Lặc Đàm, khế cơ và được ấn khả, thờ Lặc Đàm hơn mười năm rồi đến Lô Sơn giữ chức Chưởng Ký Thất cho Thiền sư Cư Nột ở viện Viên Thông Năm đầu Hoàng Hựu, đế hạ chiếu cho Thiền sư Nột trụ trì Thập Phương Tịnh Nhân Thiền viện ở Tả nhai. Cư Nột cử ngài đi thay. Đến lúc này, ngày mười chín tháng hai Canh dần, Đế mời ngài vào điện Hóa Thành hỏi đại ý Phật pháp. Ngài đối đáp, Đế rất hài lòng và ban ngài hiệu Đại Giác Thiền sư. Trai phạn xong, Đế truyền chỉ, ngài theo phép tắc Thiền Lâm phương Nam mà khai đường thuyết pháp. Đế lại tuyên chỉ cho Tả nhai phó tăng lục Từ Vân Thanh Mãn Đại Sư khải bạch bằng bài kệ:

Sân rồng xuân về
Hoàng cung mở hội
Vạn thừa đã đến điện vua
Thuấn Lưỡng Nhai được thờ nơi này
Nghiêu Ngay lúc hòa hiếu như vầy
Cũng chính là lúc xiển dương
Tuyên bàn đạo Tổ Dâng hợp hoàng triều.

Hỏi đáp xong, ngài nói: "Pháp hội của Phật xưa, chưa từng nói khác, trong câu lưu thông vốn nói đến nhiều, người nhận được thì diệu dụng chẳng thiếu, kẻ đánh mất thì gặp việc bó tay, bởi vậy khe núi mây trăng nơi nơi đồng phong, nước chim cây rừng xứ xứ hiển đạo. Nếu nhằm dưới cửa của Ca-diếp thì liền được gió Nghiêu mênh mông, mặt trời Thuấn cao sáng, nông phu ngâm nga, ngư ông ca múa, ngay lúc đó toàn vui với phong hóa vô vi, đâu còn biết việc gì!"

Đế nghe, rất hài lòng, sau sai trung sứ hỏi ngài: "Vừa dựng phất tử, người học khó đương!" Ngài dùng bài tụng đáp:

Có đốt đâu hẳn trúc
Ba sao vòng cung trăng
Người ở dưới mặt trời
Đâu giống bao người khác.

Đế xem xong, rất vui, liền triệu ngài vào điện Đối Tiện ban cho cây quạt lông, trên ấy có ghi bài tụng Nguyên Tịch. Đế và ngài cùng hỏi đáp, làm thơ làm tụng; viết tặng nhau cả thảy mười bảy thiên. Tháng ba năm Chí Hòa năm thứ hai, ngài cáo lão xin về núi và dâng Đế bài tụng:

Sáu năm thường diễn xướng Tổ cơ
Điện vàng hai lần phụng thiên uy
Núi xanh ở ẩn vui nào sánh
Ngự tụng đầy hòm gánh về thôi.

Đế họa lại rằng:

Phật Tổ rành rành thấu thượng cơ
Trước cơ dâng được mối toàn uy
Núi xanh Bát-nhã như như thể
Ngự tụng mang về biết để đâu.

Đế sai trung sứ tuyên chỉ dụ rằng: "Núi chính là thể như như, còn về đâu nữa! Hãy ở lại Kinh

Quốc chấn hưng Phật pháp như vậy!" Ngài lại dâng bài tụng tạ ơn rằng:

Trung sứ truyền tuyên lệnh cấm vây
Bảo thần ở lại chốn Thiền này
Núi xanh chưa được chôn ngàn vụng
Tóc bạc làm sao giúp vua đây!
Ân lớn tuyết sương đà thăm thẳm
Tình thâm rừng suối chịu đắng cay
Lòng nhân chúa thượng như trời rộng
Xin cho mây lẻ mặc tình bay.

Hồi ấy, Đế đọc Ngữ Lục của Thiền sư Đầu Tử Sơn, Tăng hỏi: Thế nào là trâu trắng nơi đất trống? Đầu Tử làm tiếng trâu rống, nhân đó Đế khế ngộ và làm mười bốn bài tụng và giải thích, nay Đế đem tặng cho ngài một bài:

Nếu hỏi chủ nhân ông
Chân tịch hợp hư không
Ba đầu với sáu tay
Tháng chạp chính gió xuân.

Ngài họa lại rằng:

Nếu hỏi chủ nhân ông Lặng lẽ như vách không Lúc mây chớp nổi lên Đất trời đều thổi mát.

Đế đọc xong, tuyên chiếu tặng ngài một bình bát Long não, ngài tạ ân và nói: "Pháp Phật cho dùng y hoại sắc, bình bát bằng đất nung, thiết, bát này không đúng pháp". Nói xong ngài đốt đi. Trung Sứ quay về bẩm lại, Đế thán phục không thôi. Thời gian sau, nhận chỉnh soạn Tôn Giác Tân Lão, Đế gởi thư hỏi về tông giáo, ngài trả lời, đại lược là: "Ý của diệu đạo, Thánh nhân từng gởi gắm trong kinh Dịch, đến thời Chu suy vi, phép chế của Tiên vương bại hoại, lễ nghĩa cũng mất đi. Về sau, nó gởi gắm trong Dị thuật, Dị thuật xuất hiện thì làm loạn thế tục. Đến khi Thích-ca ta vào Trung thổ, toàn đem Đệ nhất nghĩa chỉ bày cho người, không ngoài chủ trương lấy Từ bi giáo hóa chúng sinh, đó cũng là do hợp thời. Từ khi có con người đến nay, diệu đạo thuần phác chưa tán nên giáo pháp của Tam hoàng giản dị nhưng trong sáng, đó là mùa Xuân. Đến lúc tình cảm con người ngày càng sâu nặng, nên giáo pháp của Ngũ Đế rõ ràng lại văn hoa, đây là mùa Hạ. Thời và thế khác nhau, tình cảm theo thời gian mà biến đổi, nên giáo pháp của Tam vương sâu kín mà lại uy nghiêm, ấy là mùa Thu. Cáo và thệ của thời Thương Chu xưa kia, học giả sau này có người chẳng hiểu, lúc ấy chỉ biết lắng nghe, không dám làm trái, lề lối ấy so với ngày nay thế nào? Đến lúc nó lộ rõ mới tệ, đó là vào thời Tần, Hán, lúc này nó tràn lan khắp nơi, trong thiên hạ có người chẳng chịu nghe. Bấy giờ,

Phật Như Lai ta vực sống dậy bằng lý của tánh mệnh, đem hạnh từ bi mà dạy họ, đây là mùa Đông. Trời có bốn mùa xoay vần để sinh trưởng vạn vật, nên giáo pháp của Thánh nhân liên tục được truyền trì nhằm giáo hóa nhân loại, giống như bốn mùa của trời đất vậy thôi. Đến lúc cực thịnh thì không thể không có mối tệ. Dấu vết của tệ làm cho đạo hợp nhất. Cần phải có Thánh hiền xuất thế để cứu mối tệ đó. Từ Tần, Hán, đến nay, đã hơn ngàn năm, phong tục dần dần bại hoại, giáo pháp của Thánh nhân bị chia chẻ nhưng vẫn độc lập tồn tại, người ta đua nhau chê bai, rốt cuộc chẳng biết theo bên nào. Đạo lớn vời vợi nhưng chẳng ai biết để lần về, thật đáng trách thay!"

Ngài an trú trong Thiền pháp, trì Luật rất tinh nghiêm, dựng tinh xá ở phía Tây Đô thành. Thiền sư Hiểu Thuấn hiệu Lão Phu trụ ở viện Thê Hiền trên Lô Sơn, bị quan lại trong quận đến ép phải mặc đồ thường dân, Thuấn đến xin ngài ở. Ngài để Thuấn nghỉ ở gian giữa còn mình qua nằm gian bên cạnh, giữ lễ đệ tử, rất cung kính Thuấn. Vương công, quý tộc đến thăm đều lấy làm lạ, ngài kể lại sự thật rằng: "Thiếu thời tôi thường hỏi đạo ở ông ấy, nay ông ấy gặp chuyện không may, nếu theo hình tướng mà hầu hạ, hóa ra tôi thành kẻ hai lòng mất rồi!"

Đế biết chuyện mới cho Hiểu Thuấn thế phát lại, vẫn trụ ở chùa Thê Hiền. Thuấn quê ở Thụy châu, trụ ở Vân Cư, Nam Khang, nối pháp Thiền sư Đọng Sơn Hiểu Thông, Hiểu Thông nối pháp Văn-thù Ứng Chân, Chân nối pháp Đức Sơn Duyên Mật, Mật nối pháp Vân Môn Văn Yển. Thuấn là đệ tử út của ngài Hoài Liên. Anh Tông, năm Trị Bình năm thứ hai, ngài dâng Sớ xin về núi, Đế trao cho ngài tờ Tráp ghi rằng: "Thiền sư Đại Giác Hoài Liên được nhận là Thánh quyến của Tiên đế, nhiều lần chấn tích đến hoàng cung, bao phen cống hiến hết lòng thành, xin vào núi ẩn cư, nay thuận theo lời xin, để thầy được toại lòng. Những nơi thầy đi qua, muốn trụ trì am viện nào thì tùy ý, Thiền lâm trong cả nước không được ép ngài ở hoặc cố mời. " Ngài cầm tờ tráp đi về đông, ít có ai biết. Vượt sông xong, ngài trụ một thời gian ngắn ở Kim Sơn, Tây Hồ. Tứ Minh # thấy Quảng Lợi Thiền tự ở núi A-dục vương bỏ trống nên thỉnh ngài trụ trì, Cửu Phong Thiều công viết sớ cầu thỉnh, ngài nhận lời đến đạo tràng. Dân chúng ở Tứ Minh cùng gắng sức dựng một đại các để an trí thi, tụng, ngự chế do Đế ban cho, đặt tên đại các này là Thần Khuê. Hàn lâm học sĩ kiêm thị độc đoan minh điện học sĩ Tô Thức viết bài ký. Tô Thức gởi thư hỏi ngài: "Tôi thừa ý và đã soạn xong văn bia cho Thần Khuê các, nay tôi già suy vô dụng, chẳng biết có kham nổi việc khắc đá không!" (Xem trong phần Tham Liêu Thuyết)

Ngày ngài rời kinh, Anh Tông ban cho ngài tờ chiếu do chính tay mình viết. Trong ấy ghi: "Mặc tình đi ở chẳng biết quả có nên chăng! Nếu có ai cố mời thì hãy đưa toàn văn tờ chiếu này ra. " Nhưng ngài lại muốn giấu kín chi tiết này không hề đưa ra. Sau khi ngài quy tịch, người ta mới tìm thấy tờ chiếu ở trong rương của ngài. Giang Tây Oánh Trọng Ôn La Hồ Lục ngợi khen ngài rằng: "Đại Giác dù không hiển hách nhưng đủ làm cho những kẻ được ân sủng cậy quyền ỷ thế phải xấu hổ. Còn những lúc chúa thượng rảnh việc quân cơ, cùng ngài luận đạo, phát huy Tông thừa, vun bồi nên cực trị, thế nên, điều mà Thần Khuê các gọi là "Được tâm tông Phật" xưa nay chỉ có một người mà thôi. " Đúng thay, lời này! Ngài thọ tám mươi hai tuổi. Triết Tông năm Nguyên Hựu năm thứ năm, ngài không bệnh, quy tịch. Ngài nối pháp Ngũ Tổ Giới, Giới nối pháp Song Tuyền Kính Khoan, Khoan nối pháp Vân Môn Văn Yển.

Thiền Sư Phù Sơn Cửu Đái: Sư họ Vương, húy Pháp Viễn, quê ở Trịnh châu. Năm mười chín tuổi, Sư đến Tinh châu, theo Tam Giao Trí Tung xuất gia, làm Sa-di hầu Trí Tung mà tỉnh ngộ. Sau khi thọ Cụ túc, Sư đến yết kiến Phần Dương Thiện Chiêu, Diệp Huyện Tỉnh Công, đều được ấn khả. Sư từng cùng Đạt Quán Dĩnh, Tiết Đại Đầu v.v... cả thảy bảy, tám người qua đất Thục, nhiều phen gặp nạn, Sư đều dùng trí mà thoát nạn. Mọi người cho Sư là người am hiểu việc quan, nên đặt cho Sư hiệu là Viễn Lục Công. Sư trụ ở chùa Phù Sơn, Thư Châu lấy hiệu là Viên Giám Thiền Sư. Âu Dương Tu nghe Sư là người kỳ đặc, liền đến thất thăm chơi nhưng vẫn chưa thấy Sư có gì phi thường. Ngày nọ Dương Tu ngồi đánh cờ với khách, Sư ngồi bên cạnh, Dương Tu liền thâu hết bàn cờ thỉnh Sư lấy đề tài đánh cờ này thuyết pháp. Sư liền sai đánh trống thượng đường. Sư lên tòa nói:

Nếu luận việc này, chẳng khác hai người đang đánh cờ. Vì sao vậy? Vì địch thủ và tri âm ngay lúc đó chẳng nhường nhau. Nếu như vây năm bủa ba, lại thông một đường, mới được nước cờ thông thường. Như mở toang cửa kín, làm kế sống không được, đoạt lấy chỗ xung yếu, nanh nhọn miệng cọp cùng thấy rõ, sau khi cờ tàn cũng chỉ nhọc công phí sức. Nên nói, người mập dễ kiếm, kẻ ốm khó tìm, suy nghĩ và hành động thường trái ngược, tâm thô tháo thì thường xung đột, luôn khoe là quốc thủ, dối bàn đến Thần tiên, dù thắng hay thua cũng chẳng hỏi. Hơn nữa, lúc trắng đen chưa phân, động thủ thì rơi vào chỗ nào?

Lát sau, Sư hỏi: Xưa nay mười chín đường, mê ngộ có bao người? Âu Dương Tu nghe xong không ngớt thán phục, quay sang nói với người đồng liêu: "Dương Tu tôi ban đầu nghi Thiền ngữ là hư dối, nay thấy cơ duyên đường đi nước bước của ông già này, nếu không phải là người tỏ ngộ tâm địa thì đâu thể có những lời xuất cách như vậy.

Phạm Văn Chánh công thỉnh Sư khai sơn, trụ trì chùa Thiên Bình ở Tô châu, Bình Giang lộ. Những năm về già, Sư quy ẩn ở Hội Thánh Nham, thuật Phật Tổ Áo Nghĩa, soạn Cửu Đái. Sư quy tịch, thọ hơn bảy mươi tuổi, tự xưng mình là Sài Thạch Dã Nhân. Sư nối pháp Thiền sư Quy Tỉnh ở viện Quảng Giáo, Diệp Huyện, Nhữ châu. Quy Tỉnh nối pháp Thủ Sơn Tỉnh Niệm, Niệm nối pháp Nam Viện Tuệ Ngung, Ngung nối pháp Hưng Hóa Tồn Tưởng, Tưởng nối pháp Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền.

Mùa Hạ, ngày mười tám tháng năm Pháp sư Thần Chiếu Bản Như ở Đông Dịch Sơn, Đài Châu quy tịch. Sư theo Pháp Trí Ngộ Kinh Vương nhưng lại kế thế Từ Vân Đông Dịch suốt ba mươi năm. Nối pháp có Tra Am Hữu Nghiêm, Bạch Liên Xử Hàm, Thần Ngộ Xử Khiêm.

Tâm kinh: Lý Cấu, tự Thái Bá, người Hu Giang, người đương thời gọi ông là Đại Nho. Đến lúc này năm Hoàng Hựu năm thứ hai, Phạm Văn Chánh Công dâng biểu tiến cử, ông được làm quan, lại được sung vào giảng dạy ở Thái học, nhưng chưa được bao lâu thì ông mất. Hồi ấy, Thái Bá từng soạn Tiềm thư và Quảng Tiềm thư cật lực bài xích Phật giáo. Đại sư Minh Giáo Khế Tung mới đem những gì mình soạn đến gặp ông và lý giải, từ đó Thái Bá bắt đầu lưu tâm kinh Phật, ông than: "Bọn ta nghị luận vẫn còn chưa kịp một quyển Bátnhã Tâm kinh, Phật đạo lẽ đâu dễ biết ư!" Môn hạ của ông như Sĩ Hoàng, Hán Kiệt gởi thư hỏi nguyên do, ông trả lời, đại lược ghi "Dân mà muốn thiện bởi nhờ Thiên tánh. Xưa đạo Nho được vận dụng ở đời, ắt có phép tắc để dẫn dắt họ. Tai, mắt, mũi, miệng, tâm của dân biết trăm thứ vì đều có chủ, thì đâu rảnh để mống khởi các thứ dị đoan. Đạo Nho về sau cũng được vận dụng ở đời nhưng không có phép tắc dẫn dắt họ. Tai, mắt, mũi, miệng, tâm của dân biết trăm thứ nhưng đều không làm chủ, nếu bỏ đạo Phật thì còn biết nương tựa vào đâu!"

Tâm kinh có ba bản dịch đều được lưu hành ở đời. Bản kinh mà Thái Bá nói đến chính là bản do Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu Đường Thái Tông dịch ra. Nó gồm năm mươi bốn câu, hai trăm sáu mươi bảy chữ.

 

Tân Mão: Hoàng Hựu năm thứ ba Phật thị tịch đã 2. 000 năm

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 19

Tây Hạ

Nhâm Thìn: Hoàng Hựu năm thứ 4

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ

Tây Hạ

 

20

 

 

Nùng Trí Cao vây hãm Ung châu, dựng nước Đại Nam ở ngay châu này, tiếm xưng hiệu Nhân Tuệ Hoàng Đế, đổi niên hiệu Khải Lịch, chiếm cứ Nam Chiếu. (Nam Chiếu cách đất Thục hơn hai ngàn dặm).

Thiền sư Tuyết Đậu: Sư họ Lý, tên Trùng Hiển, tự Ẩn Chi sinh tại Toại Ninh Phủ vào ngày tám tháng tư năm Thái Bình Hưng Quốc năm thứ năm. Thuở nhỏ, Sư theo Nhân Tiễn Thượng nhân ở Phổ An viện, Ích châu xuất gia. Thọ Cụ túc xong, Sư rời đất Thục, qua lai khắp vùng Kinh Chử, từng làm Tri khách ở Đại Dương. Sư vân du lên phương Bắc đến Phục châu. Bắc Tháp Tộ Thiền sư mến Sư là người tinh nhuệ nên giữ lại đây năm truyền hết diệu đạo. Lúc Sư đến Tiền Đường chợt gặp Tăng Học Sĩ ở Hoài Nam. Tăng viết thư đến tiến cử Sư với Thiền sư Linh Ẩn San. Sư đến, sống lặng lẽ suốt ba năm. Tăng Học sĩ phụng mệnh đi sứ Triết Tây, đến Linh Ẩn hỏi thăm Sư. Tăng chúng trong chùa đến hơn ngàn người nhưng chẳng ai biết Sư. Đến lúc kiểm đơn, thông qua vật dụng mới biết. Tăng hỏi bức thư tiến cử ngày trước đâu, Sư mới lấy trong tay áo ra giao cho. Tăng cười ngất. Từ đó Thiền sư San càng để tâm đến Sư. Sư ra hoằng hóa ở Thúy Phong, Tô châu, rồi dời về Tuyết Đậu, Minh châu, đại chấn tông phong. Đến lúc này, ngày mồng mười tháng sáu năm Hoằng Hựu năm thứ tư (có thuyết nói ngày bảy tháng bảy) Sư tắm rửa, đem trượng, giày, y, bát giao cho đồ chúng tay vén áo, đầu quay về Bắc quy tịch, thọ bảy mươi ba tuổi, Tăng lạp năm mươi hạ. Đồ chúng phụng toàn thân Sư an táng dựng tháp ở đồi Tây của chùa. Đế ban Sư hiệu Minh Giác Đại Sư. Đệ tử thượng thủ đắc pháp có Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài... Về già, Sư thương người học chẳng biết đâu tìm về cội nguồn, mới làm bài kệ "vi đạo nhật tổn" rằng:

Thời gian ba phần đã hết hai
Linh đài một chấm chẳng chịu mài
Tham tiếc theo ngày khư khư sống
Gọi chẳng quay đầu than trách ai!

Những bài kệ tụng diệu ngữ mở mang tông chỉ của ngài lưu hành khắp tòng lâm. Sư nối pháp Trí Môn Quang Tộ, Tộ nối pháp Hương Lâm Trừng Viễn, Viễn nối pháp Thiền sư Vân Môn Văn Yển.

 

Quý Tỵ: Hoàng Hựu năm thứ 5

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 21

Tây Hạ

 

Tri Chế Cáo Lã Trăn ra làm quan ở Hàng châu, đầu tiên xin lấy từ Pháp Trí trở xuống làm đời thứ nhất. Pháp sư thật tướng Phạm Trăn tông Thiên thai giáo quán chủ làm Thiên Trúc Khán Kinh viện.

 

Giáp Ngọ: Chí Hòa năm đầu

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 22

Tống phong Khổng Nguyện làm Diễn Thánh Công

Ất Mùi: Chí Hòa năm thứ 2

Đại Khiết Đan: Trùng Hy năm thứ 23. Tháng tám đổi niên hiệu Thanh Ninh

Tây Hạ

 

Tháng tám, Khiết Đan Chủ mất, ở ngôi hai mươi lăm năm, thọ bốn mươi mốt tuổi, thụy là Văn Thành Hoàng Đế, miếu hiệu Hưng Tông. Con ông là Hồng Cơ lên ngôi, đổi năm Trùng Hy năm thứ hai mươi ba thành Thanh Ninh năm đầu.

 

Bính Thân: Gia Hựu năm đầu

Đại Khiết Đan: Thanh Ninh năm thứ 2

Tây Hạ

Đinh Dậu: Gia Hựu

Đại Khiết Đan: Thanh

Tây Hạ

năm thứ 2

Ninh năm thứ 3

 

Mậu Tuất: Gia Hựu năm thứ 3

Đại Khiết Đan: Thanh Ninh năm thứ 4

Tây Hạ

 

Định Tổ Đồ: Trong năm Minh Đạo, Đại Sư Minh Giáo Khế Tung theo Âu Dương Phưởng đến nhà ở Long Hưng Tây Sơn, mượn sách trong nhà này về Phụng Thánh viện đọc, nhân thấy Ngũ Giới Thập thiện của nhà Phật thông với Ngũ Thường của Nho gia mà ngài soạn bộ Nguyên giáo. Lúc này Âu Dương Tu (Văn Trung Công) rất thích Hàn Xương Lê (Hàn Văn Công) phỉ báng Phật giáo, Lý Thái Bá ở Hu Giang cũng giống bọn người này, ngài đem những tác phẩm do mình soạn đến gặp Thái Bá để luận những điểm tương đồng giữa Nho và Phật, đồng thời chống lại thuyết của ông ta, Thái Bá thích văn phong của ngài cao xa, phục vì lý lẽ sắc bén, nhân đó Bá gởi thư cho Văn Trung Công, trong thư không ngớt khen ngài, sau đó ngài ngụ chùa Linh Ẩn ở Hàng châu, soạn bộ Chánh Tông Ký, Định Tổ Đồ. Đến lúc này, năm Gia Hựu năm thứ ba, ngài đem sách đến Kinh Sư, qua phủ Khai Phong, ngài dâng tờ trạng cho phủ doãn Vương Tố Trọng Nghi. Trọng Nghi dâng tờ tráp cho Đế rằng: "Nay thần có vị Tăng tên Khế Tung ở chùa Linh Ẩn, Hàng châu đã đến chỗ thần dâng trạng trình bày, rằng Tổ tông truyền pháp trong Thiền môn chưa được rõ ràng lắm, giáo môn học cạn, ai nấy đều chấp vào truyện ký, xưa nay có rất nhiều người bàn cãi. Bởi vậy Khế Tung thảo luận Đại Tạng kinh, có đủ ngọn ngành xuất thế của Tổ tông Thiền môn, nhân đó giảm bớt phần rườm rà, chỉ lấy điều cốt yếu soạn thành bộ Truyền Pháp Chánh Tông Ký một trăm mười hai quyển và một bản Tổ đồ, nhằm chỉnh những điểm nhầm lẫn trong truyện ký, đồng thời chú thích Phụ Giáo Biên bốn mươi thiên, ấn bản một bộ ba quyển. Nay Thần dâng cho Bệ hạ một bức thư, hoàn toàn không mong cầu ân trạch, chỉ xin cho thần tiến cử. Đối với Phật giáo, thần cũng từng có lưu tâm xem qua văn chương, chú thuật của thầy ấy vốn không phải luận theo ý mình mà nghiên cứu rất kỹ lưỡng, nhân lúc rảnh việc quân cơ, xin bệ hạ để mắt xem qua, mong là được nhiều pháp lạc. Như có thể chọn được, dám xin bệ hạ cho Trung Thư xem kỷ, đặc ân cho nhập Đại Tạng Mục Lục nhằm làm nơi y cứ".

Đế xem thư xong, chuẩn tấu, giao cho Trung thư. Thừa Tướng Hàn Ngụy Công Kỳ, Tham Chánh Âu Dương Văn Trung Công Tu cùng xem và hết lời khen ngợi. Âu Dương Tu nói: "Không ngờ rằng trong Tăng lại có người như vầy, tham cứu kinh điển, khảo chứng sự việc không mảy may nhầm lẫn. " Bởi vậy, triều đình nêu cao danh ngài, ban hiệu là Minh Giáo Đại Sư, cho sách nhập tạng, xong viết tờ tráp rằng: "Chuẩn cho Khai phong phủ Vương Tố tấu, Tăng Khế Tung chùa Linh Ẩn, Hàng châu soạn xong Truyền Pháp Chánh Tông hý và Phụ Giáo Biên ba quyển, nên lệnh cho nhập trong Tàng kinh ở Truyền Pháp viện, tráp này giao cho viện Truyền Pháp y thế mà làm.

Oánh Trọng Ôn có lời tán rằng: "Luận chí lý cao xa của ngài Khế Tung đủ để nêu cao giáo hóa rộng khắp, đã qua tiến cử được nhập Đại tạng, vậy công lao duy trì pháp môn như trời trăng sáng mãi. Than ôi! Bọn ta có người cả đời chưa từng đọc qua thì làm sao biết được sự lợi ích sâu xa của nó!"

 

Kỷ Hợi: Gia Hựu năm thứ 4. Tháng hai cấm buôn trà

Đại Khiết Đan: Thanh Ninh năm thứ 5

Tây Hạ

 

Âu Dương Tu, Tống Công Kỳ chỉnh sửa xong Đường Thư. Dương Tu soạn tiếp Ngũ Đại Sử bảy mươi bốn quyển, trong Trai Tam Bút của Hồng Mại Dung ghi: "Cựu Đường Thư, Ngũ Đại Sử trong hai bộ sách này nhưng chỗ liên quan đến Phật giáo, Tân thư sử đã lược bỏ hết.

Tháng tư Đế cấp cho con Chu Cung Đế là Sùng

Nghĩa Công một ngàn mẫu ruộng để tế tự nhà Chu.

 

Canh Tý: Gia Hựu năm thứ 5

Đại Đan: Ninh thứ 6

Khiết Thanh năm

Tây Hạ

 

Thiền sư Đạt Quán: Sư họ Khâu, húy Đàm Dĩnh, người Tiền Đường, Hàng châu, năm mười ba tuổi, Sư xuất gia ở chùa Long Hưng, hai mươi tuổi vân du đến Kinh sư. Con người của Sư đặc cách, phóng khoáng, hiểu biết sâu rộng, sách sử không gì chẳng đọc văn chương lại càng sắc sảo. Hạ Văn Trang Công Tủng, Vương Văn Khang Công Thự, Âu Dương Văn Trung Công Tu, Tiết độ sứ Lý Đoan đều đến Sư thưa hỏi đạo mầu, tôn Sư làm thầy, cùng hưởng pháp lạc. Họ chép lại lời Sư, lấy tựa là Đăng môn tập. Ban đầu Sư yết kiến Thiền sư Minh An ở Đại Dương, kế đến yết kiến Thạch Môn Thông Công, hầu hạ lâu ngày, khế hợp diệu đạo. Sư về Đông, đầu tiên trụ ở Hương Lô phong, Thư châu; kế đó dời qua Ẩn Tĩnh thuộc Nhân Thánh Thái Bình, Nhuận châu rồi Tuyết Đậu ở Minh châu, Kim Sơn ở Nhuận châu. Đến lúc này, đêm giao thừa năm Gia Hựu năm thứ tư, Sư sai thị giả cầm thư chia tay đến học sĩ Điêu Cảnh Thuần ở Dương châu. Thư ghi: "Ngày mai phải đi, không rảnh gặp nhau, xin hãy bảo trọng!" Điêu thất kinh nói: "Phải làm sao đây!" Và phúc đáp thư sai người đem đi. Người đưa thư đến bờ sông, Sư liền sai đánh trống thượng đường, thuật lại ngọn ngành xuất thế và khuyên đại chúng đừng giải đãi. Sư nói: "Sau khi ta đi, phải thỉnh bổ nhiệm Giám tự Hiền lên thay (Thiền sư Hoài Hiền ở Kim Sơn). Sư xuống tòa, đọc thư Cảnh Thuần xong, quay về phương trượng, đại chúng dìu Sư đi, Sư kiết già giây lâu và quy tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, Tăng lạp năm mươi ba hạ. Sư nối pháp Thiền sư Từ Chiếu Uẩn Thông ở cốc Ẩn Sơn, Tương châu, Uẩn Thông nối pháp Thủ Sơn Tỉnh Niệm, Niệm nối pháp Phong Huyệt Diên Chiểu, thuộc Tông Lâm

Tế.

Sư từng soạn bộ Tánh Biện, trong ấy ghi: "Hiền thánh xưa nay nói về tánh nhưng chỉ được tình, nói có thể rốt ráo lý nhưng không thể tận tánh là tại sao vậy? Vì họ không biết Tam tài (thiên, địa, nhân) vạn vật đều là tánh. Trời là tánh thượng, đất là tánh hạ. Kim thì lợi, thủy thì ướt, mộc thì thẳng, hỏa thì nóng, thổ thì dày, đó là tánh của Ngũ hành. Tóm lại mà nói, quán sát thật kỹ thì tánh của vạn vật rõ ràng thấy được. Nhưng tựu trung, vật linh nhất là con người do âm dương giao hòa mà sinh, biến hóa mà động là tĩnh. Đứng về tình người thì nó rất thuần túy, nên nó có thể thăng lên, có thể giáng xuống, làm Hiền làm Ngu. Người thọ nhận Tánh thượng là quân tử, ngoại tình (tình bên ngoài) không thể mê hoặc tánh, dù sống cùng với Tiểu nhân nhưng giống như đất đá bám ngoài vàng ngọc. Đến như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang nêu danh muôn đời chính nhờ đương thời giữ địa vị cao, tuân thủ Thường đạo, quán sát tình người tùy thuận tánh của họ mà lập pháp. Kiệt, Trụ, U, Lệ bị giàu sang mê hoặc, đánh mất cái đáng quý, phóng túng tánh mình bị tình dẫn đi. Trời đất tuy vô tình, nhưng bị gió mây bốn mùa thay đổi trạng thái, bị núi sông vạn vật làm loạn dáng hình. Chỉ có con người ở trong đó, vượt thiên thời, tùy địa lợi mà chẳng mất tiết tháo. Thế nên, con người là trung tâm của trời đất. Tình, ý, thức đều khởi nguyên từ tánh, tùy vật hiển bày, nên ngoài việc nó có rất nhiều tên gọi, những điểm khác không thể nào kể hết. Tình là tâm bị dẫn bởi dụng, ý là chí bị ghi nhớ bởi vật, Thức là biết được phân biệt bởi vật, yêu ghét mừng giận đều là tình. Phàm là bậc Đại thánh nhân thì tánh rất kiên định, không bị bên ngoài mê hoặc, không bị tình dẫn dắt. Tánh chế ngự tình, cho nên giáo pháp ta gọi ngày là bậc Chánh giác. Kinh dịch chỉ biết đến thuyết cùng lý tận tánh nhưng chưa thấy được cái đạo ra cổ vào kim. (Theo Tăng Bảo Truyện).

Thiền Sư Thiên Y: Sư họ Trần, húy Nghĩa Hoài, người Lạc Thanh, Ôn Châu. Trưởng thành, Sư vân du đến Kinh Sư, tu tập sự tại chùa Cảnh Đức. Trong năm Thiên Thánh, Sư thi kinh và được độ làm Tăng, chủ trì bảy đạo tràng, về già do bệnh nên Sư về trụ ở Sam Sơn Am, Trì Dương. Đệ tử Sư là Thiền sư Phật Nhật Trí Tài ở Lâm Bình Sơn, Hàng châu đón Sư về phụng dưỡng. Đến lúc này, năm Gia Hựu năm thứ năm, Tài qua Tô châu, Sư giục về mau. Tài đến, Sư nói bài kệ:

Mặt nhật chiếu Phù tang
Mây lạnh giăng hoa nhạc
Canh ba qua Thiết vi
Bẻ gãy sừng Ly long.

Tài hỏi: Tháp đã xây xong, thế nào là việc rốt ráo? Sư đưa nắm đắm lên, về chỗ ngủ xô gối thị tịch. Môn nhân dựng tháp Sư trên cao nguyên phía Đông chùa. Sư nối pháp Thiền sư Trùng Hiển Tuyết Đậu. Trong năm Sùng Ninh, Huy Tông ban Sư Thụy Chấn Tông Thiền sư.

 

Tân Sửu: Gia Hựu năm thứ 6

Đại Đan: Ninh thứ 7

Khiết Thanh năm

Tây Hạ

 

Lộ Công Văn Ngạn Bác: Lúc này ông đi sứ đến trấn ở Ngụy Phủ.

Thiền sư Văn Tuệ Trùng Nguyên ngụ ở chùa Thiên Bát ngày nọ đến từ biệt ông. Ông hỏi:

- Thầy già rồi còn muốn đi đâu nữa? Sư đáp:

Đi nhập diệt.

Ông nói với con là Hữu Phủ:

- Thầy Nguyên nguồn đạo sâu kín, nói cười đều ý vị, là Tăng phi thường, con hãy đến hầu ông ấy.

Hữu Phủ đến nơi thì ông đã ngồi mà thị tịch. Lúc này trời nóng bức, nhưng mùi hương lạ lan tỏa khắp nơi. Khi trà-tỳ, khói có màu trắng toát, xá-lợi vô số. Ngạn Bác tay cầm bình lưu ly trắng do vua ban cho và cầu nguyện: "Có thể được xá-lợi chăng. " Khói chui vào bình, xá-lợi đầy tràn. Từ đó ông càng kính tín, lưu tâm trong kinh điển.

Sư họ Tôn, quê ở Thiên Thừa, Thanh châu, năm mười bảy tuổi xuất gia, hai mươi tuổi thế phát thọ Cụ túc, du phương đến pháp tịch Thiền sư Thiên Y, đốn ngộ huyền chỉ. Thiên y nói: "Người này là con ngựa câu ngàn dặm của nhà ta. " Sư bốn lần thay đổi đạo tràng, đi đến đâu Tăng tục đều kính ngưỡng. Sư nối pháp Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài.

Hội Chánh Ký: Do Luật sư Doãn Kham trứ tác. Ngài quê ở Tiền Đường, từ nhỏ theo Thiên Thai Sùng Giáo Đại Sư Tuệ Tư xuất gia, học thông kinh điển, chuyên trì Luật bộ. Từ năm Khánh Lịch, Hoàng Hựu đến nay, ngài dựa vào giới luật dựng giới đàn ở những nơi như: Đại Chiêu Khánh ở Hàng châu, Khai Nguyên ở Tô châu, Tinh Nghiêm ở Tú châu. Hằng năm ngài đều độ Tăng, cầu phước cho Quốc chủ. Ngài soạn Hội Chánh Ký v.v... Gồm mười hai bộ, kế thế truyền giảng Luật tạng của Nam Sơn Tuyên Luật Sư. Từ ngài về sau có Luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu kế thừa tông này. Ngày hai mươi sáu tháng mười một năm này, ngài quy tịch ở Chiêu Khánh, môn nhân dời tháp về Bồ-đề ở Tây Hồ, ngài hiệu là Chân Ngộ Trí Viên Đại Luật Sư.

 

Nhâm Dần: Gia Hựu năm thứ 7

Đại Đan: Ninh thứ 8

Khiết Thanh năm

Tây Hạ

 

Thiền sư Vân Phong: Sư họ Từ, húy Văn Duyệt, quê ở Long Hưng, bảy tuổi thế phát xuất gia tại chùa Long Hưng. Sư dáng người thanh tú, kiến thức phi phàm. Năm mười chín tuổi, vân du tham vấn khắp Tôn túc ở Giang Hoài, nhưng ý muốn đến Thiền sư Kim Loan ở Kinh châu, Đại Ngu ở Thụy châu. Đầu tiên, Sư đến Đại Ngu, thấy Thiền sư Chi ở nhà dột vách xiêu, hoang lạnh như nhà ma, Chi tự làm nón ngày ngày vào làng xóm, tối mịt mới về đóng cửa ngủ khò. Sư thất vọng muốn đi nơi khác. Thiền sư Thủ Chi liền thượng đường nói: Mọi người tụ tập ở đây cùng ăn rau dưa, gọi là một cọng rau nhưng vào địa ngục nhanh như tên bắn.

Nói xong, Chi xuống tòa, Sư kinh hãi. Tối đó, Sư đến phương trượng, Chi hỏi:

- Ông đến đây cầu cái gì? Sư đáp:

Cầu tâm pháp Phật.

- Ta không rảnh nhịn đói, đâu rảnh nói pháp cho ông, ông hãy đi xin cơm cho đại chúng đi.

Sư liền xin đi. Không lâu sau đó, Chi dời về Thúy Nham ở Tây Sơn, Sư đi theo. Sư vào phương trượng, Chi nói:

- Ông lại muốn cầu tâm pháp Phật chứ gì! Ông không thấy vừa đến đây ở, nhà cửa sơ sài mưa dột tuyết phủ, ta chịu lạnh không nổi, đâu thể nói pháp cho ông. Phật pháp chưa nghe thì lạnh nứt chân rồi, ông nên đi kiếm than cho đại chúng sưởi đi.

Sư vâng mệnh đi xong, trở về. Lúc này đạo tràng thiếu chức Duy-na. Sư đến phương trượng, Thủ Chi nói:

- Phật pháp chẳng ngại nát chân, đạo tràng còn thiếu một chức, nay phải phiền ông.

Sư tỏ vẻ thất vọng muốn bỏ đi, nhưng nghĩ công lao bấy lâu, lẽ đâu bây giờ dừng lại. Sư đè nén nỗi hận với Chi và ra nhà sau gánh nước. Đòn gánh bỗng gãy, thùng rơi xuống đất, Sư hoát nhiên đốn ngộ, thấy được chỗ dụng trước đây của Thủ Chi. Sư liền đắp y chạy thẳng đến phương trượng, Chi đã đón Sư, cười nói:

- Duy-na vui nhỉ, việc lớn xong rồi!

Sư lạy hai lạy, mồ hôi ra ướt dầm. Sư ở lại hầu hạ tám năm, Chi mất, Sư về Đông, vân du sang Tam Ngô, đi đến đâu, tòng lâm đều thay đổi cách nhìn. Thiền sư Trùng Hiển Tuyết Đậu rất kính sợ Sư, mỗi khi nhóm chúng uống trà đều đặt ngay một sàn tòa biểu thị lòng tôn kính đặc biệt. Di Văn ở Nam Xương thỉnh Sư trụ ở Thúy Nham, sau Sư dời về Vân phong. Sư thượng đường nói:

Nói năng chẳng lìa hang ổ thì làm sao ra khỏi trói buộc. Mảng mây che ngang miệng cốc làm mê nguồn biết bao người, nên nói: "Nói năng không tỏ việc, lời nói chẳng khế cơ, người chạy theo nói năng thì mất mạng, kẻ chấp văn cú thì mê lầm, đến chỗ này các ông dựa vào lời nào mà hiểu. Giây lâu Sư nói tiếp: "Muốn được không chiêu nghiệp Vô gián, chớ chê Như Lai Chánh pháp luân.

Sư thượng đường nói: "Loài hữu tình lấy biển trí làm nguồn, giống hàm thức lấy pháp thân làm thể. Chỉ vì tình sinh nên cách trí, tâm loạn nên khác thể. Đạt được ngọn ngành, tình quên thì biết tâm thể hợp. Chư Thiền đức hiểu không? Phật xưa tiếp nối với lô trụ, điện Phật ứng hiện với lồng đèn, nếu cũng không hiểu thì tự mình thương lượng lại. "

Đến lúc này, ngày tám tháng bảy năm Gia Hựu năm thứ bảy, Sư thăng tòa từ biệt đại chúng, nói kệ rằng:

Trụ thế sáu mươi sáu năm
Làm Tăng năm mươi chín hạ
Dòng thiền nếu hỏi chỉ quy
Lỗ mũi đầu thường hướng xuống.

Nói xong, Sư an nhiên quy tịch. Chúng trà-tỳ thâu xá-lợi ngũ sắc, dựng tháp phía Bắc Vũ Khê. Sư nối pháp Thiền sư Đại Ngu Thủ Chi, Chi nối pháp Phần Dương Thiện Chiêu, Chiêu nối pháp Thủ Sơn Tỉnh Niệm.

 

Quý mão: Gia Hựu năm thứ tám. Tháng ba, Đế mất

Đại Khiết Đan: Thanh Ninh năm thứ 9

Tây Hạ

 

Anh Tông: Húy Thự, con Bộc Vương, cháu Thái Tông, lên ngôi năm ba mươi ba tuổi, ở ngôi bốn năm, thọ ba mươi bảy tuổi. Niên hiệu Trị Bình bốn năm.

 

Giáp Thìn: Trị Bình năm đầu

Đại Khiết Đan: Thanh Ninh năm thứ 10

Tây Hạ: cướp phá biên cảnh nước Tống

Ất Tỵ: Trị Bình năm thứ 2

Đại Khiết Đan: Hàm Ung năm đầu

Tây Hạ

 

Mùa Thu, mồng ba tháng tám, đô thành mưa dầm, nước tràn lai láng Đế xuống chiếu cầu người can gián. Tể tướng Tằng Công Lượng từng nhân đó mà bày tỏ, Hàng châu Thẩm Văn Thông bẩm tấu: "Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm trong Thiên Trúc Khán Kinh Viện kể từ đời Thạch Tấn đến niên hiệu Trị Bình này ban phước cho thiên hạ, ban huệ cho muôn dân, linh tích xưa nay rất nổi tiếng, " được Đế ban cho tên mới là Thiên Trúc Linh Ứng Quán Âm Viện. Đoan Minh điện học sĩ, Lễ bộ thị lang Sái Tương kế thế giữ ấp này, tất cả chùa viện đều được treo tên mới.

 

Bính Ngọ: Trị Bình năm thứ 3

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ hai, Khiết Đan lại đổi hiệu là Liêu

Tây Hạ cướp phá biên cảnh nước Tống

Đinh Mùi: Trị Bình năm thứ tư. Tháng giêng, Đế mất.

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 3

Tây Hạ

 

Tháng giêng, Đế hạ chiếu những chùa viện tự xây trong cả nước gồm ba mươi hai nơi đều được giữ nguyên, và đều được ban cho một tên chung là Thọ Thánh.

Thần Tông: Húy Húc, con Anh Tông, lên ngôi năm hai mươi tuổi. Tính ông nhạy bén, cầu an, mất trong lúc điên loạn, ở ngôi mười tám năm, thọ ba mươi tám tuổi. Niên hiệu Hy Ninh mười năm, Nguyên Phong tám năm. Phật giáo truyền về Đông được ngàn năm.

 

Mậu Thân: Hy Ninh năm đầu

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 4

Tây Hạ

Kỷ Dậu: Hy Ninh năm thứ 2

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 5

Tây Hạ: Tống sách phong Bỉnh Thường làm Hạ Quốc chủ

 

Thiền sư Hoàng Long: Sư họ Chương, Húy Tuệ Nam, quê ở Tín châu, cùng Thiền sư Bột Đàm Hoài Trừng phân tòa tiếp người, tiếng tăm chấn động khắp nơi. Nhân dịp cùng Thiền sư Vân Phong Văn Duyệt vân du đến Tây Sơn, ban đêm hai người luận về đạo pháp của Vân Môn.

Vân Phong nói: "Thầy Trừng tuy là con cháu Vân Môn nhưng pháp đạo khác xa". Sư hỏi khác chỗ nào, Vân Phong đáp: "Vân Môn như đan sa qua chín phen luyện, nhỏ vào sắt, sắt biến thành vàng. Ông Trừng như thuốc vĩnh ngân chỉ để nhìn chơi, đặt vào lò thì tan chảy.

Sư nổi giận lấy gối ném Vân Phong. Hôm sau, Phong xin lỗi và nói:

Chí khí Vân Môn như vua cam chịu tử ngữ sao! Có pháp trao cho người, đó là tử ngữ. Tử ngữ hay làm sống người được sao!

Sư hỏi:

Nếu vậy thì ai là người hợp ý ông? Phong đáp: Thạch Sương Sở Viên thủ đoạn hơn hẳn các nơi, ông nên đến mà gặp.

Sư liền đi. Nửa đường nghe nói Từ Minh chẳng có việc, hễ có thì xem thường mọi người. Sư liền lên Hoành nhạc yết kiến Thiền sư Hiền ở Phước Nghiêm. Hiền sai Sư làm Thư ký. Chợt Hiền quy tịch, Quận thú thỉnh Từ Minh đến trụ trì. Từ Minh vào viện thường chê các nơi mỗi việc đều là tà giải. Sư cho Minh là người có khí khái nên vào thất yết kiến. Từ Minh nói:

- Thư ký dẫn đồ chúng du phương, giả Sử có nghi thì nên ngồi xuống thương lượng.

Sư thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy, Từ Minh hỏi:

- Ông học Thiền của Vân Môn, chắc hẳn giỏi về ý chỉ ấy, như nói: "Tha Động Sơn ba mươi gậy", Động Sơn có ăn gậy hay không?

Sư đáp: Có ăn gậy.

Từ Minh nghiêm nghị nói:

- Từ sáng đến tối, nghe két kêu quạ hót vậy đều phải ăn gậy.

Sư liền đốt hương đảnh lễ. Từ Minh ngồi ngay thọ nhận.

Từ Minh hỏi:

Triệu Châu nói với bà lão ở Đài Sơn: "Ta bị bà khám phá rồi. "

Hãy nói xem đâu là chỗ ông ta bị bà lão khám phá?

Sư toát mồ hôi, không thể đáp được. Hôm sau Sư lại đến, Từ Minh luôn miệng mắng chửi. Sư hỏi:

- Chửi mắng lẽ đâu là pháp thí của Từ Minh sao? Từ Minh hỏi:

Ông có biết chửi không?

Sư hoát nhiên đại ngộ, làm bài tụng:

Giỏi vượt tòng lâm là Triệu Châu
Lão bà khám phá có nguyên do
Ngày nay bốn biển trong như kính
Bộ hành thôi chớ ghét con đường.

Sư trình Từ Minh, Minh hứa Khả. Về sau, Sư khai pháp ở Đồng An. Ngày đầu tiên thọ thỉnh, Bột Đàm đến, Tăng có lời đề xướng, Sư nói:

- Biển trí không tánh, do giác vọng mà thành phàm, giác vọng vốn rỗng, ngay phàm tâm mà thấy Phật, tùy ông tiến thủ sẽ bảo Đồng An không phân hợp, tùy ông điên đảo theo sở dục mà có Nam có Bắc.

Tăng đem việc này nói với Trừng, Trừng không vui. Sư trụ ở Hoàng Long, trong thất bày ba chuyển ngữ: Người đều có sinh duyên; Sư đưa tay nói: "Tay tôi sao giống tay Phật?" Sư duỗi chân nói: "Chân tôi sao giống chân lừa?" Tòng lâm gọi đây là ba cửa của Hoàng Long. Sau Sư dời về Hoàng Bá. Sư nối pháp Từ Minh Sở Viên. Đến lúc này giờ Ngọ ngày mười bảy tháng ba năm Hy Ninh năm thứ hai, Sư dùng cơm với khách xong, đứng dậy về trước phòng ngủ, đại chúng đứng hầu nghiêm cẩn, Sư kiết già ngồi thẳng thị tịch. Lúc trà-tỳ có xá-lợi ngũ sắc, môn nhân dựng tháp trước núi, thụy là Phổ Giác Thiền sư. Đệ tử truyền thừa gồm: Chân Tịnh Khắc Văn, Đông Lâm Thường Tổng, Hối Đường Tổ Tâm.

Thiền sư Phật Ấn: Sư họ Lâm, húy Liễu Nguyên, tự Giác Lão, người Phù Lương Nhiêu Châu, vốn theo Nho học, từ nhỏ xuất gia tại chùa Bảo Tích, lạy Sa-môn Nhật Dụng làm thầy, thi kinh Pháp Hoa được thọ Cụ túc. Sư vân du đến Lô Sơn yết kiến Thiền sư Thiện Tiêm, ở Khai Tiên, Tiêm rất ngợi khen. Năm mười bảy tuổi, Sư đến yết kiến Thiền sư Viên Thông Cư Nột, Cư Nột cho Sư làm thư ký. Thiền sư Hoài Liên Ứng chiếu vào kinh, Sư thế vào chức của Hoài Liên. Năm hai mươi tám tuổi, Sư trụ ở Thừa Thiên, Giang châu, làm người nối pháp của Khai Tiên. Từ Thừa Thiên, Sư dời qua những nơi như: Đẩu Phương ở Hoài châu; Khai Tiên, Quy Tông ở Lô Sơn; Kim Sơn, Tiêu Sơn, Giang Tây ở Nhuận châu; Đại Ngưỡng ở Viên châu. Sư trụ ở Vân Cư bốn mươi năm, đức bủa khắp Tăng tục. Hàn lâm Tô Thức bị biếm đến Hoàng châu, lúc ấy Sư trụ ở Lô Sơn, Quy Tông và Hoàng châu cách nhau một con sông, hai người thường đối đáp văn chương. Ngày bốn tháng giêng năm Nguyên Phù đời Triết Tông, Sư cáo biệt đại chúng, mỉm cười thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, Tăng lạp năm mươi hai hạ. Sư nối pháp Khai Tiên Thiện Tiêm, Tiêm nối pháp Đức Sơn Thừa Viễn, Viễn nối pháp Song Tuyền Úc, Úc nối pháp Vân Môn Văn Yển.

 

Canh Tuất: Hy Ninh năm thứ 3

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 6

Tây Hạ

 

Trịnh Công Phú Bậc đi sứ đến trấn Hào châu, ông được đón đến Hoa Nghiêm Dĩnh châu cùng luận tâm pháp vơi Thiền sư Chứng Ngộ Tu Ngung. Đến khi cáo quan quy ẩn ở Lạc Dương, ông dùng kệ tụng gởi Thiền sư Tông Bản Viên Chiếu ở Tô châu rằng:

Từng gặp thầy Ngung tỏ ngộ sâu
Nhân duyên thầy tổ truyền tâm nhau
Đông nam luống nói non sông rộng
Mắt thấy linh quang hợp đạo mầu.

Và ông viết thư rằng: "Bậc tôi lưu tâm trong Tổ đạo vốn lâu rồi, nhưng thường hận chẳng gặp người mắt sáng khai mở chỗ mê mờ. Dù từ lâu đã nghe danh các bậc đạo cao nhưng chưa từng được gặp học. Hôm qua tôi may mắn được ra giữ đất Hào vốn tiếp giáp với Dĩnh châu, nhờ người trong làng là Trương Tỷ Bộ Cảnh Sơn thỉnh được thầy Ngung hạ cố gặp nhau gần một tháng, nhờ sức phương tiện từ bi khiến tôi được tỏ ngộ. Gặp lúc kiết hạ gần kề, đầu tháng tư tôi phải về đất Dĩnh, nói đến việc dùi mài buông bỏ, rõ ràng tôi chưa mấy công phu, lại khổ nỗi già yếu bệnh tật, mê muội khó vào. Xưa Thiền sư Cổ Linh từng nói: "Chẳng hẹn", đến lúc già thế này được nghe việc cực tắc, đó là cái thấy của Bậc tôi hôm nay, thật may mắn, may mắn! Bậc tôi tuy đắc pháp với thầy Ngung nhưng vốn từ lão Hòa thượng mà đến, đạo mầu của tông phái ắt phải giữ gìn, mong thầy thùy từ nhiếp thọ, xa ban dẫn dắt khiến chưa đến liền đến, như vậy chẳng khác Bàng Uẩn dưới trướng Nam Nhạc, Bùi Hưu dưới trướng Bá Trượng vậy.

* Triệu Thanh Hiến Công Biện lúc chưa làm quan kết thâm giao với Thiền sư Thiên Bát Trùng

Nguyên ở Bắc Kinh, luận đàm tâm pháp. Ngày ông nhậm chức ở Thanh châu, chợt nghe tiếng sấm mà tỉnh ngộ, liền làm bài kệ:

Ăn lộc công đường mình ngồi vững
Tâm chẳng động lay, yên như nước
Một tiếng sấm vang thấu đảnh môn
Chợt nhận rõ ra mình từ trước,
Ngẩng thấy trời xanh vui càng vui
Sát sát trần trần đều chung bước
Người hạng trung hạ chẳng được nghe
Diệu dụng thần thông nay đã được.

Ông trả lời thư cho Trịnh Công Phú Bậc, đại loại rằng: "Gần đây tôi giao lại ngài Tiết Bản Truyền Đăng ba quyển, nay xin có mấy lời. Hiện nay, Thừa Chế Tống Uy đã bỏ đi hơn bảy xấp và Hoàng thượng đã thâu nhận. Biện tôi trộm nghĩ, pháp truyền riêng ngoài giáo của Thánh nhân Tây phương không phải thi thiết cho căn cơ bậc trung bậc hạ. Người thượng trí thì đốn ngộ mà thể nhập, một được thì vĩnh viễn được. Kẻ ngu thì mê mờ chẳng nhận lại, từ đó mà ngàn sai thì muôn khác. Chỉ có Phật và Tổ lấy tâm truyền tâm, còn việc lợi sinh tiếp vật chẳng qua là việc bất đắc dĩ. Vì vậy mà có vô số phương tiện như: Gậy, hét, nắm tay, nhướng mày, chớp mắt, thoi đánh, dựng phất tử, nói năng, văn tự...Cách Thánh càng xa, học giả các nơi quên gốc theo ngọn, bỏ nguồn theo sóng, mênh mang vô định, thật đáng thương xót! Biện tôi bất tài, đầu mùa thu năm ngoái trụ ở Thanh châu, nhờ tỉnh ngộ mà biết đôi chút, rằng bản tánh không thiếu không thừa. Người xưa cho là pháp môn an lạc, quả thật không ngoa! So với thái phó thị trung theo cầu Thiền ngữ, Biện tôi vốn xuất thân trong dòng chịu ân, nghe được càng vui mừng khôn xiết. Cúi mong chấp sự giàu sang tột bực như thế, đạo đức hưng thịnh như thế, phước thọ khang ninh đủ đầy như thế, lui về ẩn dật thanh cao như thế. Điều mà tôi chưa mấy lưu tâm là Như Lai chỉ vì đại sự nhân duyên mà thôi. Ngày nay về lại chân tánh có chút ngộ nhập, Biện này dám tự khen trong môn hạ".

Đến lúc này năm Nguyên Phong năm thứ hai Thanh Hiến Công Thôi không giữ chức thái tử thiếu bảo nữa, lui về ở ẩn tại Cù châu, dung mạo địa vị chẳng khác dân trong làng. Ông dựng am lấy tên là Cao Trai, và làm bài kệ kiến y rằng:

Lưng thắt vàng ròng đã vất rồi

Vui buồn trong ấy cũng thường thôi Người nay muốn biết Cao Trai lão Ấy là Triệu Tứ ở Kha thôn.

Ông lại tự mình mừng thọ mình rằng:

Chánh sự đã xong, tuổi bảy hai Sau trăm tuổi, ẩn núi

Chân pháp thân, chẳng tức chẳng ly Đầy ắp đại thiên, hiện khắp trí Chẳng thể giấu che, không thể để Những lời mừng thọ, như thế thôi.

Ông mất vào mùa Thu tháng tám năm Nguyên Phong năm thứ bảy.

 

Tân Hợi: Hy Ninh năm thứ 4

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 7

Tây Hạ: tháng mười một, Hạ chủ xin cầu hòa với Tống

 

Mùa Hạ tháng sáu, Âu Dương Tu thôi không giữ chức Quán văn điện học sĩ Thái tử thiếu sư, lui về ở ẩn tại Dĩnh châu. Ông cho văn chương đạo đức là tông thú của nhà Nho, trong lòng tuy nhất quán nhưng lời nói thì phỉ báng Phật giáo. Nhân Tông, năm Gia Hựu năm thứ năm, ông giữ chức Khu mật phó sứ; năm thứ sáu tháng tám nhuần, ông giữ chức Tham tri chánh sự kiêm Dịch kinh nhuận văn sứ. Sau lên đến Nhị Phủ, ông bệnh hoài, từng mộng thấy mình đến một nơi có mười người đều đội mũ miện ngồi vòng tròn, một người hỏi:

- Tham Chánh sao lại đến đây, nên về nhà mau đi! Ông ra khỏi cửa mấy bước, quay lại hỏi:

- Các ông không phải là Thập Vương mà nhà Phật nói đến đó chăng?

Họ đáp:

- Đúng vậy. Tu hỏi:

- Người thế gian cúng Tăng, viết kinh quả có ích chăng? Họ đáp:

Sao lại không? Tỉnh mộng, bệnh ông bớt dần, từ đó Dương Tu tin sâu Phật pháp.

Đan Dương Cát Thắng Trọng nghe thuyết này từ Giản Trai Trần Dự Nghĩa, Dự Nghĩa nghe được từ cháu ông ấy tên là Thứ. Đây là thuyết có thật.

 

Nhâm Tý: Hy Ninh năm thứ 5

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 8

Tây Hạ

 

Pháp Sư Thật Tướng Phạm Trăn ngụ cư chùa Hưng Giáo ở Nam Bình, Hàng châu trong năm này Thông Thú Tô Thức rất kính ngưỡng ngài.

Thiền sư Bạch Vân: Sư họ Cát, húy Thủ Đoan, quê ở Hoành Dương, từ nhỏ làm thư sinh, đến hai mươi tuổi theo Úc Thiền sư ở Trà Lăng xuất gia, đến tham vấn Dương Kỳ. Một hôm, Dương Kỳ chợt hỏi:

- Thầy ông là ai? Sư đáp:

- Hòa thượng Úc ở Trà Lăng. Kỳ hỏi:

- Ta nghe ông ấy qua cầu bị té mà tỉnh ngộ, có làm bài kệ, ông nhớ không?

Sư đọc:

Ta có một viên Minh châu
Vùi trong bụi trần đã lâu
Sáng nay bụi sạch chiếu sáng
Soi tỏ núi sông muôn màu.

Dương Kỳ cười rồi đứng dậy bỏ đi. Sư kinh ngạc cả đêm không ngủ. Sáng hôm sau Sư đến hỏi nguyên do, gặp lúc cuối năm, Kỳ hỏi:

- Ông có thấy mấy người trong gánh hát hôm qua không? Sư đáp:

Thấy Kỳ nói:

Ông còn thua họ một bậc. Sư lại kinh ngạc hỏi:

Ý là thế nào? Kỳ đáp:

Họ thích người ta cười, ông lại sợ người ta cười.

Sư hoát nhiên đại ngộ, hầu hạ thời gian rồi cáo từ vân du đến Lô Sơn. Thiền sư Viên Thông Cư Nột cử Sư trụ trì Thừa Thiên, tiếng tăm Sư vang dội. Sư lại nhường Viên Thông dời qua các đạo tràng như: Pháp Hoa, Long Môn, Hưng Hóa, Hải Hội. Đi đến đâu học chúng đông vô kể. Đến lúc này, năm Hy Ninh năm thứ năm, Sư quy tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. Sư nối pháp Dương Kỳ Phương Hội, Hội nối pháp Từ Minh Sở Viên.

 

Quý Sửu: Hy Ninh năm thứ 6

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 9

Tây Hạ: Tháng ba, Tây Hạ Cướp Tần Châu.

 

Mùa thu, ngày mười bảy tháng bảy, Đại Sư Hải Nguyệt Tuệ Biện ở chùa Thiên Trúc Linh Sơn dậy sớm tắm rửa, cáo biệt đại chúng rồi kiết già quy tịch. Hàng châu Thông Thú Tô Thức đến điếu ngài bằng ba bài thơ, viết lời tựa tán thán ngài. Hậu duệ của ngài có Đại Sư Tuệ Tịnh Tư Nghĩa. Nghĩa có bốn đệ tử là: Đức Hiền, Trọng Nguyên, Vĩnh Trạm, Tuệ Nhật đều nối nhau làm chủ pháp tịch. Đệ tử của Trọng Nguyên có Đại sư Từ Minh Tuệ Quán kế thế Tuệ Nhật trụ trì. Tuệ Quán thâu thập thi văn của Từ Vân Sám Chủ làm thành bộ Linh Uyển Kim Viên Thiên Trúc ba tập.

 

Giáp Dần: Hy Ninh năm thứ 7

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 10

Tây Hạ

Ất Mão: Hy Ninh năm thứ tám. Ban hành lịch Phụng Nguyên

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 11

Tây Hạ

Bính Thìn: Hy Ninh năm thứ 9

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 12

Tây Hạ

Đinh Tỵ: Hy Ninh năm thứ 10

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 13

Tây Hạ

 

Kinh Quốc Công Vương An Thạch: Quê ở Lâm Xuyên, mùa Đông tháng mười hai năm Hy

Ninh năm thứ ba, ông được phong thừa tướng.

Mùa Hạ tháng tư năm năm thứ bảy, trời không mưa, ông bị bãi tướng. Tháng hai năm thứ tám, ông được bái tướng lại. Năm thứ chín (trong Đế Kỷ vốn dùng tháng) An Thạch cáo quan quy ẩn ở Kiến Khang. Năm thứ mười, ông tâu xin sửa nhà cũ ở Kiến Khang làm Thiền tự, thỉnh Khắc Văn trụ trì. Đế ban chùa hiệu Báo Ninh, ban cho Văn hiệu Chân Tịnh Thiền sư. Văn vốn là Thiền sư Bảo Phong Vân Am ở Long Hưng. Sư họ Trịnh, húy Khắc Văn, quê ở Thiểm Phủ, tham vấn Thiền sư Hoàng Long Tuệ Nam, trực nhận yếu chỉ, nối pháp Tuệ Nam. Đến ngày rằm tháng mười đời Huy Tông niên hiệu Sùng Ninh năm đầu, Sư đem hết vật dụng phân phát cho đại chúng, nửa đêm tắm rửa thay áo, kiết già thị tịch khói lửa ngũ sắc bay đến đâu nơi ấy đều có xá-lợi. Đồ chúng phân cốt an táng ở Tân Phong, Bột Đàm.

Kinh Quốc Công nói với Thiền sư Pháp Tuyền Phật Tuệ ở Tưởng Sơn: "Thế Tôn niêm hoa, Cadiếp mỉm cười. Tôi có lần đọc qua sử sách, chợt gặp bộ kinh Đại Phạm Vương Vấn Phật Quyết Nghi ba quyển, có đoạn: "Trên pháp hội Linh Sơn, Phạm Vương dâng cúng Phật cành hoa Ba-la màu vàng, thỉnh Phật thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa, đưa cành hoa lên trước đại chúng. Cả trăm vạn trời người đều ngơ ngác, chỉ riêng Ca-diếp phá nhan mỉm cười, Thế Tôn nói: "Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, truyền cho Ca-diếp rồi!" Thiền sư Phật Tuệ: Sư họ Thời, húy Pháp Tuyền, quê ở Tùy châu, từ nhỏ xuất gia, xem khắp sử sách, đọc qua liền thuộc, nên Sư có hiệu là Tuyền Vạn Quyển. Sư tham vấn khắp Thiện tri thức, Huyền cơ đĩnh ngộ, ứng thế trụ trì, nhiều lần ở những chùa nổi tiếng. Lúc trụ ở Tưởng Sơn, ngày nọ, trời đổ tuyết, Sư thượng đường, gọi đại chúng đến và hỏi: "Còn có màu gì hơn màu này không?" Giây lâu Sư nói:

Văn-thù cười, Phổ Hiền thì giận.
Trong mắt không gân một đời nghèo
Gặp nhau nói hết, nghỉ làm quan.
Rừng sâu chẳng thấy một người nào.

Sư thượng đường nói:

Người mau một lời
Ngựa lẹ một roi
Nếu thay con mắt
Chưa thoát định động
Trong giấy gai buộc
Dưới chân là đất
Trên đầu là trời
Chẳng tin chỉ nhìn
Tháng tám, chín rối bời
Lá vàng khắp núi sông.

Về già, Sư ứng chiếu trụ ở Đại Tướng Quốc, Trí Hải Thiền tự trong kinh thành. Sư thượng đường hỏi chúng: "Đến Trí Hải, trụ Tưởng sơn, thế nào là phải?" Đại chúng chẳng biết đáp. Sư liền về phương trượng cầm bút viết bài kệ:

Phi tâm phi Phật nghĩ bàn suông
Được da được tủy luống thương lượng
Sắp đi trân trọng chư Thiền đức
Núi xanh ngoài cửa đang về chiều.

Sư ném bút, kiết già quy tịch. Sứ trở về bẩm báo, Đế than tiếc, hạ chiếu ban cho Sư thụy Phật Tuệ Thiền sư. Sư nối pháp Thiền sư Vân Cư Hiểu Thuấn, Thuấn nối pháp Động Sơn Hiểu Thông, Thông nối pháp Văn-thù Ứng Chân, Chân nối pháp Đức Sơn Tông Mật, Mật nối pháp Vân Môn Văn Yển. Sư từng trứ tác tập Bắc Mang Hành, trong ấy ghi:

Núi trước núi sau cao chót vót
Xe tang lộc cộc ngày ngày qua
Bi ca u ám vang dậy núi
Người nghe ngầm xót khúc vô thường
Một tiếng ca sầu ngàn năm biệt
Con hiếu cháu hiền lệ như mưa
Thế gian muôn vật nào bền chắc
Biển lớn Tu-di rốt cũng mòn.
Đời người như sương móc dễ tan
Xưa nay có gặp ắt phân ly
Khổ vui ai cảm nào tạm nghỉ
Hà huống trăm năm kinh mộng gì.
Người đi biền biệt chẳng quay lại
Người nay chẳng hiểu ý người xưa
Trồng tùng dựng đá che cửa mộ
Muốn vì người chết tính lâu dài.
Hồn phách vất vưởng thân ra đất
Xuống lên chìm nổi trong năm đường
Người nay chôn trên mộ người xưa
Mộ nay mộ xưa ai là chủ.
Trong thành Lạc Dương ngàn vạn người
Chết làm đất núi Bắc Mang đây
Ngu mê chẳng nhớ đường quay lại
Nên anh một mình thường than khổ.
Ngày xưa dọc đường khóc tiễn người
Nay thì mộ lẻ giữa cỏ hoang
Ma mị đào mồ chôn con cháu
Nhà nông bới cốt tìm trân châu.
Cây cối xum xuê gió hoang thét
Mồ mả đông tây nhìn hút mắt
Hàn thực qua rồi ai tế tự
Hoa dại bên mồ nở lẻ loi
Ngày tháng xô nhau như thoi đưa
Hiền ngu nghèo giàu đều như vậy
Nếu được cùng về Thường lạc bang
Dẫu qua kiếp hỏa không sống chết.

Mùa hạ, Kinh Phụ đại hạn, Đế ăn chay cầu khấn rất kính cẩn, ban đêm mộng thấy vị Tăng cỡi ngựa trên không trung, miệng phun ra mây mù; lát sau quả nhiên mưa to. Đế vui mừng cho tạc bức tượng của Tăng ấy. Đó chính là Tôn giả năm thứ mười ba trong số năm trăm La-hán được thờ ở Sơn Môn Các của chùa Tướng Quốc trong kinh thành. Tể tướng Vương Khuê tán thán bằng câu thơ:

Quốc chủ cầu mưa nhìn trời khấn Thần Tăng hóa mốc ứng tinh cầu. Tham Chánh Nguyên Giáng tán thán: Tiên mã cỡi mây lan đất thấp

Phật hoa phun nước khắp trời dày. Mọi người đều tranh nhau đọc.

 

Mậu Ngọ: Nguyên Phong năm đầu

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 14

Tây Hạ

 

Pháp sư Nam Sơn ở Hàng châu: Ngài thông minh đĩnh ngộ, hạnh giải xuất chúng, được nhập thất của Tôn giả Tứ Minh Pháp Trí. Mỗi lần ngài trì chú Đại bi đủ một trăm lẻ tám biến mới nghỉ, từng mộng thấy Bồ-tát Quán Âm cởi ca-sa đắp cho mình. Mùa thu tháng ba năm này, ngài truyền Bồtát giới cho Linh Chi Nguyên Chiếu và hơn ngàn tăng tục khác tại Lôi Phong. Vừa yết-ma, tượng Quan Âm bỗng phóng quang, ban đầu như vòng sáng dần dần tan biến, đèn đuốc, ánh trăng trong chùa đều bị vòng sáng này làm lu mờ. Thiền sư Tịnh Từ Pháp Chân soạn bài Chứng Giới Quang Ký, Mễ Phất viết, Pháp sư Nguyên Tịnh Biện Tài ở Long Tỉnh lập bia.

 

Kỷ Nguyên Phong thứ 2

Mùi: năm

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 15

Tây Hạ

 

Mùa Đông, ngày hai mươi tháng mười, Từ Thánh Quang Hiến, thái hoàng Thái hậu Tào thị mất. Đế thỉnh Thiền sư Tịnh Nhân Đạo Trăn vào cung Khánh Thọ thăng tòa thuyết pháp. Tăng hỏi:

-Từ Thánh du tiên định về cõi nào? Sư đáp:

Nước chảy về trong biển
Trăng lặn chẳng lìa trời.

Cả triều đình đều kính phục vì cho Sư trả lời rất hay. Đế vui mừng, ban thưởng ngài rất hậu. Đến khi Thần Tông băng hà, Triết Tông hạ chiếu đăng đàn thuyết pháp ở điện Phước Ninh. Chiếu ghi: "Thiền sư Đạo Trăn đức hạnh cao vời, đáng được tặng hiệu Tịnh Chiếu Thiền Sư. "

Thiền sư Đạo Trăn: Ngài họ Đái, tự Bá Tường, quê ở Cổ Điền, Phước châu. Từ nhỏ ông đã không ăn mặn, mười bốn tuổi xuất gia tại viện Thượng Sinh, sáu năm sau thọ giới Cụ túc. Ngài xem Kinh Luận Tiểu thừa, Đại thừa, đặt sách xuống nói: "Đây chỉ là lời phương tiện mà thôi!" Ngài liền trì bát đến vùng Giang Hoài, tham vấn các bậc Tri thức, nhận được diệu chỉ từ Thiền sư Phù Sơn Pháp Viễn. Ngài vân du đến kinh Sư yết kiến Thiền sư Đại Giác Hoài Liên ở viện Tịnh Nhân. Hoài Liên cử ngài làm Thủ Chúng. Hoài Liên về Ngô, chúng thỉnh ngài kế thế pháp tịch Tịnh Nhân. Ngày khai đường, Anh Tông sai Trung Sứ đến dâng hương, ban cho ngài ca-sa tía, huy hiệu. Bốn phương ở kinh thành đều đến chúc mừng. Đến ngày mười bảy tháng tám đời Triết Tông năm Nguyên Hựu năm thứ tám, ngài tắm rửa thay áo, nói kệ xong, kiết già quy tịch, thọ tám mươi tuổi, Tăng lạp sáu mươi mốt hạ. Ngài nối pháp Thiền sư Phù Sơn Pháp Viễn, Viễn nối pháp Diệp Huyện Quy Tỉnh, Tỉnh nối pháp Thủ Sơn Tỉnh Niệm, Niệm nối pháp Phong Huyệt Diên Chiểu, Chiểu nối pháp Nam Viện Tuệ Ngung, Ngung nối pháp Hưng Hóa Tồn Tưởng, Tưởng nối pháp Lâm Tế Nghĩa Huyền.

 

Canh Thân: Nguyên Phong năm thứ 3

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 16

Tây Hạ

 

Dịch Kinh Quan Chế: Từ nhà Đường đến lúc này là năm Nguyên Phong, những vị Tăng dịch kinh được Đế vương ban cho chức thí quang lộc khanh thiếu khanh, thí hồng lô khanh thiếu khanh.

Nay Đế đổi chức Thí khanh thành Tam Tạng Đại Pháp Sư, Thí Thiếu Khanh thành Tam Tạng Pháp Sư.

Văn Đồng: Tự là Dự Khả, người Tử Đồng từng giữ chức quan ở Dương châu, Triết Tây, Hồ châu. Tài văn chương cũng như đức hạnh của ông đều thanh cao, liêm khiết, vẽ trúc rất đẹp. Năm này vào đêm nọ, ông tắm rửa mặc quan phục ngồi ngay ngắn mà mất. Quán Chức Thôi Công Độ hay tin thất kinh nói: "Hôm qua tôi chia tay Dự Khả ở Châu Nam, ông ấy rất vui vẻ, còn bảo tôi ngày mai đến cùng vẽ. Tôi dẫn khách khứa đến thăm và xem tranh, ông ấy chẳng nói chẳng rằng.

Hôm sau tôi đến một mình, Dự Khả nói: "Tôi nói chuyện với ông, phải đuổi hết mọi người, vì sợ có người nghe". Dự Khả chậm rãi nói với tôi: "Tôi nghe người nào không nói dối thì lưỡi dài quá lỗ mũi". Ông ấy lè lưỡi đưa lên tới khoảng giữa hai chân mày, lưỡi bè ra tròn như cái bánh. Nay nói ông ấy chết, thì tôi tin chắc ông ta là dị nhân.

 

Tân Nguyên Phong thứ 4

Dậu: năm

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 17

Tây Hạ

 

Thiền sư Tông Bản: Sư ở chùa Thụy Quang,

Tô châu, dời qua ở tại chùa Tịnh Từ, Hàng châu. Sư đi khắp nơi, đạo tràng rất đông Thiền sinh. Luật Sư Linh Chi Nguyên Chiếu tặng Sư ba y, bình bát và gởi thư cho Sư nói: "Phật chế, vật này thượng trung hạ căn đều phải phụng hành, việc gặp thời cơ mà phát triển. Đạo rộng sâu là nhờ con người hoằng hóa, mong ngài hãy nhận cho nhằm khuyến tấn hậu học. " Sư nhận lãnh, cả đời hễ khi ăn thì dùng bát đó, lúc thăng tòa thuyết pháp thì đắp y Tăng-già-lê đó.

Cư sĩ Thừa tướng Trương Vô Tận: Thường ngày, ông kết thâm giao với Thiền sư Chiếu Giác Thường Tổng ở Nam Lâm, Lô Sơn. Mùa thu năm Tân Dậu này, ông viết bài tựa tiễn Vũ Sĩ Kiển Củng Thần, tự Dực Chi, đến tham vấn Thường Tổng rằng: "Đạo sĩ Kiển Dực Chi ở Thành đô đến nói với tôi: Làng tôi thuộc dòng Đạo sĩ, nhiều đời cưới gã lẫn nhau, lấy vợ sinh con chẳng khác thế tục. Củng Thần tôi nhân xem Đạo Tạng Thần Tiên Truyện Ký bất giác tỉnh ngộ. Nhân lúc tôi khí huyết cường tráng, thấy nghe minh mẫn, tiếng gà gáy chim kêu đều thuận tai tôi, màu xanh, vàng, đỏ, trắng lóa mắt tôi, vị ngọt ngon béo tốt làm khoái khẩu tôi, mùi thơm ngát thơm lừng hợp mũi tôi, chất trơn láng mịn màng sướng thân tôi, vui mừng chất ngất cảm ý tôi. Sáu thứ đầu sỏ này thừa lúc tôi mù loạn, ngày đêm thân gần tôi, chưa ngày nào rời nhau. Một sớm thân thể tôi hao mòn mà gầy ốm, khí tôi hao mòn mà suy yếu, tinh tôi hao mòn mà tàn tạ, thần tôi hao mòn mà mỏi mệt. Tám thứ gió nóng lạnh thổi, trăm thứ tà mị lừa dối, âm hồn thì muốn đi xuống, dương phách lại muốn thăng lên, sáu tên đầu sỏ ấy chưa từng thay thế tôi, mà nỗi thống khổ nhất trong trời đất chỉ mình tôi hứng chịu. Luyến mến nơi phòng the không gì hơn vợ, ân tình máu mủ không gì bằng con. Vì vậy, Củng Thần tôi nay từ bỏ hết những gì có trong đãy da này, cho nó là một việc khác, vượt xa trăm dặm, lênh đênh nơi Giang Hạ, Bộc Thủy, qua Tấn Trùng ra Đồ Sơn, thăm Sầm Công ở Động Phủ, lễ Thần Nữ ở Từ Quán rồi đến Chử Cung. Tới đây, tôi sẽ xuống Cửu Giang vào Lô Sơn, dựng am tranh nơi hang Cẩm Tú, thổi tiêu trên đảnh Hương Lô, vỗ bình bầu mà tiêu khiển, vốc nước suối mà rửa chân. Bởi đạo thuật của tôi là lấy việc khấn cầu làm gốc, lấy thân mạng làm y, khởi đầu thì có tạo tác nhưng rốt cuộc thì vô vi. Trộm nghe Tiên sinh cứu xét diệu chỉ Ly Vi, thấu cùng nẻo về của tâm, tấu khúc nhạc Vô Huyền (không dây) cỡi trên cơ trâu sắt nên tôi không ngại xa xôi đến gặp Tiên sinh, xin Tiên sinh thử nói tôi nghe xem!" Tôi nói: "Lớn thay, chí của ông! Việc khó làm nhưng làm được, điều khó bỏ nhưng bỏ được, ta không bằng ông rồi! Ta vừa bị đau miệng nên không thể trả lời ông nghe. Ta có người bạn ngoại phương là Thường Tổng ở Đông Lâm ắt sẽ giải hết mối nghi của ông, xin ông cầm mấy lời này mà đến hỏi ông ấy vậy. "

 

Nhâm Tuất: Nguyên Phong năm thứ 5

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 18

Tây Hạ: Tháng năm quấy rối biên cương.

 

* Đế hạ chiếu cho Trung sứ Lương Tùng Chính mở rộng chùa Tướng Quốc ở Biện Kinh thành sáu mươi bốn viện, chia thành hai khu Thiền tám khu luật. Khởi công từ năm Canh Thân (niên hiệu Nguyên Phong) hoàn thành vào mùa thu năm Nhâm Tuất. Lấy hai dãy Đông tây làm hai ngôi Thiền tự to lớn là Tuệ Lâm và Trí Hải, sai người mang chiếu chỉ thỉnh Thiền sư Tịnh Từ Tông Bản ở Hàng châu trụ trì Tuệ Lâm, Thiền sư Đông Lâm Thường Tổng ở Lô Sơn Giang châu trụ trì Trí Hải. Thường Tổng cố từ, Đế hạ chiếu tha cho và ban cho Sư hiệu Quảng Tuệ Thiền Sư.

* Mùa Đông mồng tám tháng mười, Pháp Sư Kế Trung ở Ôn châu tắm rửa, thay áo, bắt ấn rồi ngồi thẳng thị tịch. Ánh sáng màu hồng chiếu thẳng lên trời và mất dần về phía Tây. Ngài đắc pháp với Quảng Trí Thượng Hiền, thuật Quảng Trí truyện, Pháp Trí Thập Loại Chi Nghĩa gồm mười quyển, Phù Tông Ký một quyển. Đệ tử nối pháp có hai người: Tùng Nghĩa và Xử Nguyên. Nghĩa có tác phẩm: Thiên Thai Tam Đại Bộ Bổ Chú mười bốn quyển. Xử Nguyên có bộ Nghĩa Lệ Tùy Thích sáu quyển, Phụ Tán Ký ba quyển. Xử Nguyên truyền cho Đạo Uyên, Uyên truyền cho Đạo Sâm, tức pháp Sư Viên Biện.

Thiền sư Viên Chiếu ở Tuệ Lâm, Đông kinh:

Sư họ Quản, húy Tông Bản, người Vô Tích, Thường Châu. Năm mười chín tuổi, theo Thiền sư Vĩnh An Đạo Thăng ở Thừa Thiên, Tô châu xuất gia, hầu hạ mười năm rồi thế phát thọ Cụ túc. Ba năm sau, Sư từ biệt vân du đến Trì Dương, yết kiến Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài, tỏ ngộ yếu chỉ. Tào Sứ Lý Phục Khuê thỉnh Sư khai pháp ở Thụy Quang Bình Giang, pháp tịch ngày một thịnh. Hàng châu Thái thú Trần Tương đem hai đạo tràng Thừa Thiên và Hưng Giáo thỉnh Sư chọn ở. Dân Tô châu đứng nghẹt đường ngăn Sư ở lại. Thái thú đưa thư thỉnh của Tịnh Từ, trong đó gởi lời nói với Tăng tục Tô châu: "Chỉ mượn thầy ba năm để trồng phước cho xứ này chứ không dám giữ lâu". Đến lúc này, năm Nguyên Phong năm thứ năm, hạ chiếu mở rộng hai Tuệ Lâm Thiền tự trong Tướng Quốc thỉnh Sư làm Tổ thứ nhất. Đến ngày khai pháp, sáng sớm, Đế triệu Sư vào điện Diên Hòa vấn đạo và mời ngồi, Sư liền ngồi kiết già, Đế vui vẻ ban cho trà, Sư bưng chén uống cạn một hơi, không kiêng sợ khách sáo. Sư cáo từ, Đế đưa mắt tiễn và quay qua nói với Tả hữu: "Thật là ông Tăng phước huệ!"

Năm Nguyên Phong năm thứ bảy, Đế xa giá đến chùa Tuệ lâm ở Tướng Quốc, hạ chiếu cho Thiền chúng của Trưởng lão Tông Bản khỏi phiền ra nghinh đón. Đế trở về, triệu Sư đến thuyết pháp ở điện Phước Ninh và ban cho Sư hiệu Viên Chiếu Thiền sư. Sư cáo lão quy ẩn, Đế hạ chiếu cho Sư được tùy ý vân du, các châu quận không được ép Sư trụ trì. Sư từ biệt chúng, nói:

Vốn là khách không nhà
Nay mặc tình vân du
Thuận gió thêm mái đẩy
Con thuyền xuôi Dương châu.

Về già, Sư trụ ở Linh Nham, Bình Giang, đệ tử nối pháp truyền đạo đông vô kể. Ngày Bính Tý hai mươi tám tháng mười hai năm Nguyên Phù năm thứ hai đời Triết Tông, Sư sắp quy tịch, bèn tắm rửa và nằm, môn nhân đệ tử vây quanh thỉnh rằng: "Hòa thượng đạo vang thiên hạ, hôm nay không thể không làm kệ". Sư nhìn kỹ họ, nói: "Đồ ngu! Ta bình thường còn lười làm kệ, hôm nay vẽ vời làm gì. Ngày thường muốn nằm thì nằm, chẳng lẽ hôm nay lại chuyển qua ngồi". Sư cầm bút viết mấy chữ lớn: "Hậu sự giao cho Thủ Vinh" và ném bút nằm dài như người ngủ say. Chúng đến lay gọi thì Sư đã quy tịch rồi. Môn nhân dựng tháp an táng Sư ở núi Linh Nham, thọ tám mươi lăm tuổi, Tăng lạp năm mươi hai hạ. Sư nối pháp Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài. Đệ tử nối pháp Sư có: Tu Ngung, Tỉnh Thông, Sùng Tín, Thủ Nhất. Truyền xuống nữa như Tu Ngung thì có Trịnh Công Phú Bậc, Tỉnh Thông thì có Hoàng Môn Tô Triệt, Sùng Tín thì có Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm.

Thiền sư Chiếu Giác ở Đông Lâm, Giang châu: Sư họ Thy, húy Thường Tổng người Vưu Khê, Kiếm châu, mười một tuổi theo pháp Sư Văn Triệu chùa Bảo Vân xuất gia, tám năm sau thế phát, đến chùa Đại Trung ở Kiến Châu thọ Cụ túc với Luật sư Khế Tư. Ban đầu, Sư đến Hòa Sơn, Kiết Châu, nghe đạo của Thiền sư Tuệ Nam nổi tiếng nên qua Quy Tông theo Tuệ Nam suốt hai mươi năm, lãnh ngộ huyền chỉ. Hồng châu Thái thú Vinh Tu Tuyển thỉnh Sư trụ ở Bột Đàm, có người nói Sư là Mã Tổ tái thế. Năm Nguyên Phong năm thứ ba, Đế hạ chiếu đổi chùa Luật Đông Lâm ở Giang châu thành chùa Thiền. Quán văn điện học sĩ Vương Thiều ra làm quan ở Nam Xương muốn thỉnh Bảo Giác Tâm Thiền sư trụ trì Đông Lâm, Tâm cử Sư thay mình. Sư nghe tin đang đêm trốn đi xa hơn ngàn dặm. Vương Thiều truyền hịch khắp các quận phải tìm Sư cho bằng được. Họ tìm thấy Sư ở trong hang cùng núi của Thù Sơn, Tân Phủ. Sư ứng mệnh trụ trì. Học sĩ Tô Thức lần đầu vân du đến Lô Sơn gặp Sư và rất tâm đắc. Từ đó, tiếng tăm Sư vang đến kinh thành. Thiên Tử hạ chiếu thỉnh Sư trụ trì Thiền viện Trí Hải trong Tướng Quốc. Các châu quận cố mời thỉnh gấp như sao sa, Sư cố từ. Đế hạ chiếu tha cho, ban cho Sư y tía và hiệu Quảng Tuệ Thiền sư. Triết Tông năm Nguyên Hựu năm thứ ba, Từ Vương tâu xin, Đế ban Sư hiệu Chiếu Giác Thiền sư. Học chúng dưới tòa thường đến bảy trăm. Tháng chín năm Nguyên Hựu năm thứ sáu, Sư có chút bệnh, ngày hai mươi lăm tắm rửa ngồi yên quy tịch. Mồng tám tháng mười, môn nhân an táng Sư ở phía Đông Nhạn Môn tháp (Tháp ngài Tuệ Viễn), thọ sáu mươi bảy tuổi, tăng lạp bốn mươi chín hạ. Sư nối pháp Thiền sư Hoàng Long Tuệ Nam.

 

Quý Hợi: Nguyên Phong năm thứ 6

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 19

Tây Hạ: Tháng giêng mấy mươi vạn dân Tây Hạ kéo đến Lan châu

 

* Nhà Tống: Tháng chín Tây Hạ nộp thuế, giao trả đất xâm chiếm, phá bỏ biên cảnh, tộc trưởng làm Phiên thần (bề tôi nơi biên giới). Đế ban cho bỉnh thường (phép tắc), hạ chiếu nói: "Địa giới ấy đã sai Phu diên kinh lược ty chỉ huy Bảo An Quân phát lệnh xuống các châu giữ biên giới rồi ngày tháng hãy giữ y như cũ".

Tống phong Mạnh Kha làm Trâu Quốc Công.

 

Giáp Tý: Nguyên Phong năm thứ 7

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 20

Tây Hạ: tháng hai, cướp phá Diên châu. Tháng mười một dâng biểu đến triều cống

 

Mùa Đông tháng mười, Việt Quốc Đại Trưởng Công Chúa cùng Khánh quân Tiết độ quán sát lưu hậu phò mã đô úy Trương Đôn Lễ dựng xong Pháp Vân Thiền tự ở phía Nam quốc thành, Đế hạ chiếu thỉnh Pháp Tú khai sơn, ban cho Sư hiệu Viên Thông Thiền sư.

Thiền sư Viên Thông ở chùa Pháp Vân Biện Kinh: Sư họ Tân, húy Pháp Tú, người Lũng Thành, Tần châu, theo Lỗ Hòa thượng chùa Ứng Càn học kinh, nên người ta gọi Sư là Lỗ Thị. Năm mười chín tuổi, Sư thọ Cụ túc, giảng kinh Đại thừa phân tích chương cú, nhưng chẳng biết đến cơ phong (Thiền), nổi tiếng khắp Kinh Lạc. Sư rất lấy làm lạ thấy Khuê Phong học Thiền, chỉ kính Thiền sư Thiên Bát Trùng Nguyên ở Bắc Kinh. Nguyên có biệt hiệu là Nguyên Hoa Nghiêm. Sư hận vì Nguyên không giảng và nói: "Giáo nêu tận ý Phật, người như ông Nguyên thì không nên dạy xa, Thiền không phải ý Phật, người như Khuê Phong thì không nên học Thiền. Chuyện Thế Tôn đem pháp giáo ngoại truyền riêng cho Ca-diếp, ta không tin". Sư nói với bạn đồng học: "Ta sẽ về Nam, đào hết hang ổ bọn chúng, bắt hết giống loài ấy đem giết nhằm báo ân Phật mới thôi!" Đầu tiên, Sư đến chùa Hộ Quốc ở Tùy châu đọc văn bia của Thiền sư Tịnh Quả, Tăng hỏi Báo Từ: "Thế nào là Phật tánh?" Từ đáp: "Ai chẳng có". Tăng lại hỏi Tịnh Quả; Quả đáp: "Ai có!" Vị Tăng ấy nhân đó khế ngộ". Sư cười ngất nói: "Phật tánh lẽ đâu dám dẫn chuyện có, không kiểu này, lại nhân đó mà khế ngộ ư! Bỏ đi cái vô vi tột bực chỉ là hạng Phật sắt!" Sư đến yết kiến Thiền sư Nghĩa Hoài, Hoài bị cảm lạnh, ngồi co ro, hi mũi dính cả lên áo, Sư lấy làm lạ, Hoài hỏi Sư:

- Tọa chủ giảng kinh gì? Sư đáp:

- Hoa Nghiêm

- Hoa Nghiêm lấy gì làm tông?

- Lấy pháp giới làm tông.

- Pháp giới lấy gì làm tông?

- Lấy tâm làm tông.

- Tâm lấy gì làm tông? Sư chẳng đáp được.

Hoài nói: "Sai đi mảy may, đất trời cách biệt". Sư thoái lui tự thấy mình lỗi, hoảng sợ kính phục, nguyện ở lại đây, sớm hôm thọ học. Thời gian sau, Sư chứng ngộ. Thiền sư Nghĩa Hoài qua trụ ở Tra Lâm, Trì Dương; Cảnh Đức, Quảng Giáo ở đất Ngô, Sư đều đi theo. Ban đầu Sư trụ ở Tứ Diện Sơn, Hoài Tây, sau đến Lâu Hiền, Tưởng Sơn, Trường Lô, chúng thường đông cả ngàn. Năm Nguyên Phong năm thứ bảy, Đế hạ chiếu, thỉnh Sư trụ trì chùa Pháp Vân ở kinh thành làm Tổ thứ nhất. Ngày khai đường, Đế sai Trung sứ đến dâng hương, tặng y ca-sa, truyền thánh chỉ như Thiên Tử giá lâm, Hoàng đệ Kinh Vương cung kính ngồi dưới tòa nghe giảng. Đến Triết Tông năm Nguyên Hựu năm thứ năm, tháng tám Sư có bệnh, Đế cho ngự y đến chẩn bệnh, Sư khoát tay bảo thôi, thay áo nói kệ:

Lúc đến tay không, đi tay không
Nam Bắc Đông Tây việc vẫn đồng.
Trụ trì sáu chỗ không bổ ích

Giây lâu, Giám tự Tuệ Đương hỏi: Sao Hòa thượng không nói câu cuối? Sư đáp:

Trân trọng! Trân trọng!

Nói xong, Sư quy tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi, tăng lạp bốn mươi lăm hạ. Sư nối pháp Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài, Hoài nối pháp Tuyết Đậu Trùng Hiển, Hiển nối pháp Trí Môn Quang Tộ, Tộ nối pháp Hương Lâm Thừa Viễn, Viễn nối pháp Vân Môn Văn Yển. Trong năm Nguyên Phong, Khu mật tưởng công Dĩnh Thúc kết bạn phương ngoại với Sư. Ông ấy bình thường cứu xét tâm tông nhưng trệ nơi giáo thừa, nhân đó soạn Hoa Nghiêm kinh giải ba mươi thiên, rất tự phụ tri kiến của mình, đi thuyền từ Hoài Thượng đến Trường Lô thăm Sư và viết trên vách phương trượng: "Trong ba ngày, tôi soạn xong Hoa Nghiêm Giải. Tôi có nhân duyên lớn với Phật pháp, hôm khác đem hiểu biết này tỷ thí ở thành Đông, chỉ người nào đủ Phật nhãn mới biết!" Khi ấy, Sư biện: "Ông nói sao nghe dễ thế! Phàm Hoa Nghiêm là cảnh giới viên đốn Thượng thừa, sở chứng hiện lượng, nay ông nói tỷ thí ở thành Đông như vậy là rơi vào Tỷ lượng, không phải là tông Viên đốn. Ông lại nói "hôm khác" nhưng Nhất chân pháp giới lại không có xưa hay nay, nên nói: "Mười đời xưa nay rốt cuộc chẳng lìa đương niệm". Nếu ông nói "ngày khác" vậy hôm nay lẽ đâu không phải chăng! Ông lại nói "Người đủ Phật nhãn mới biết" nhưng kinh ghi: "Pháp giới bình đẳng, không Phật chúng sinh", tình phàm thánh hết, ta người đều quên, lẽ đâu có Sự khác nhau giữa ngu và trí, nếu đợi đến Phật nhãn vậy thì Thiên nhãn, Nhân nhãn lẽ đâu chẳng biết sao!"

Dĩnh Thúc nghe vậy hối lỗi. Khi Sư quy tịch, ông đến tế Sư bằng bài văn:

Bạn của phương ngoại, chỉ tôi và thầy
Nhớ xưa gặp nhau, một lời khế hợp
Thầy đến Trường Lô, tôi về Hoài Tố
Nhưng lại sánh vai, nói cười vui vẻ,
Tôi luận Hoa Nghiêm, thầy nói tên phẩm
Cơ duyên cọp sa, thoát ra đường tắt
Nỡ đâu bỏ tôi, đành đoạn đi trước
Chân thành kính viếng, mong thầy biết cho.

* Tháng mười một, Ôn Quốc Công Tư mã Quan đã ở đất Lạc mười lăm năm, tấu biểu dâng Đế bộ sách mình soạn, Đế đặt tên sách là Tư Trị Thông Giám và viết bài tựa.

 

Ất Sửu: Nguyên Phong năm thứ tám, tháng hai Đế mất

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 21

Tây Hạ

 

* Mùa Xuân, tháng ba, Triết Tông lên ngôi, tháng tư hạ chiếu thỉnh Thiền sư Pháp Vân Tú vào trước linh cửu của Tiên đế thuyết pháp, ban cho Sư hiệu Viên Thông Thiền sư. Mùa Đông tháng mười, Đế an táng Thần Tông ở lăng Vĩnh Dụ, hạ chiếu thỉnh Tịnh Nhân Đạo Trăn, Tuệ Lâm Tông Bản vào điện Phước Ninh thuyết pháp, ban cho Đạo Trăn hiệu Tịnh Chiếu Thiền Sư, ban cho Tông Bản hiệu Viên Chiếu Thiền Sư.

Tháng năm, Tư mã Quang được bổ chức Môn hạ thị lang.

Tăng Thống Nghĩa Thiên: Ngài là con năm thứ tư của Văn Tông Nhân Hiếu Vương nước Cao Ly, xuất gia với hiệu là Nghĩa Thiên. Mùa Đông năm này ngài đi đường biển đến Minh châu, dâng biểu xin vân du Trung Quốc để học lễ. Đế hạ chiếu cho Triều phụng lang Dương Kiệt (Dương Thứ Công) dẫn ngài đi tham học. Ngài đến các quận ở vùng Lưỡng Triết, Hoài Nam, Kinh Đông đều được đón tiếp và ăn uống như cách của người du hành. Ngài tham học khắp Tam học. Đầu tiên, Nghĩa Thiên đến Cận châu theo học với Minh Trí, từ đây có thêm pháp lữ xin được học qua Giáo thừa. Ngài vào Thiên Thai lễ tháp Đại sư Trí Khải, vượt Chiết Giang đến Hàng châu Thượng Trúc, lấy lễ đệ tử thờ Từ Biện làm thầy học, thọ nhận giáo quán Thiên Thai, sau đến Linh Chi lễ Đại Trí Nguyên Chiếu để học Luật, qua Tuệ Nhân theo Tấn Thủy Tịnh Nguyên hỏi về giáo thừa tông Hiền Thủ, qua Nhuận Châu Kim Sơn học rộng Thiền quy, lễ Thiền sư Phật Ấn Liễu Nguyên. Liễu Nguyên ngồi yên nhận lễ, Dương Kiệt thấy vậy thắc mắc Phật Ấn nói: "Muôn họ xuất gia, đồng gọi là họ Thích, Nghĩa Thiên là vị Tăng, nếu không làm như vậy thì làm sao thể hiện phép tắc làm thầy của Hoa Hạ". Triều đình biết việc này, ai nấy đều cho Phật Ấn là người biết Đại lễ. Nghĩa Thiên về Kinh sư, Lễ bộ lang trung Tô Thức tiếp đón, dẫn ngài yết kiến Thiền sư Viên Chiếu Tông Bản. Quan Hữu Ty tiếp đãi ngài rất ân cần.

Y Bồ Đồng Tử (Đồng tử quấn tóc làm y): Lúc này, thái úy Lã Tuệ Khanh, tự Cát Phủ, học thông nội điển ngoại thư, từng chú giải Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán, rồi đem ý mới để chú giải Trang Tử. Một lần ông đi tuần thú biên cương, ngày nọ nhân lúc rảnh, ông dạo lên Ngũ Đài đến Trung Đài chợt thấy mù nổi lên bốn phía, gió sấm đùng đùng, mưa lớn chấn động cả núi rừng. Những người đi theo hoảng sợ tìm chỗ núp. Lúc ấy bỗng xuất hiện một vật, hình dáng giống như con thuồng luồng, hiện nửa hình trong đám mây mù. Thái úy thất kinh, lát sau trời quang mây tạnh, nhìn thấy một đồng tử da đen, xõa tóc quấn từ chân lên đến vai, để lộ vai phải, tay cầm quyển kinh, hỏi thái úy:

- Vì sao quan nhân trông có vẻ sợ hãi như vậy? Thái úy đáp:

- Đời trước có chướng duyên nên gặp cảnh khủng khiếp thế này.

- Nay cảnh ấy hết rồi, thế quan nhân cầu gì mà đến đây?

- Mong nhìn thấy Đại sĩ.

- Muốn thấy Bồ-tát để làm gì?

- Tôi từng xem Hoa Nghiêm, giáo nghĩa sâu xa, ý lời sâu rộng, muốn chiêm ngưỡng Đại Sĩ, phát khởi giải tâm, ngõ hầu chú thích lưu hành nhân gian, khiến đêm dài chợt gặp ánh sáng, người phát tâm sâu liền được khai ngộ.

Đồng tử nói:

Diệu ý của chư Phật khéo thuận Sự lý, giản dị trong sáng, bậc Tiên đức chú giải có thể hiểu được như phẩm Thập Địa chú giải không quá vài tờ, ngày nay thiên hạ đua nhau chú giải gần đến trăm quyển, nhưng càng đi xa Thánh ý, đó thật là phá nát đạo lớn.

Thái úy nói:

Đồng tử mặt mũi như vầy mà dám trách cứ tiền bối ư!

Đồng tử cười nói: "Quan nhân nói sai rồi! Ở đây, một lá cây một ngọn cỏ đều là cảnh giới Vănthù, ngay nơi ông hàng ngày gặp việc chẳng mê, đó là Văn-thù chân thật, sao lại đem phàm tình làm loạn tư duy thế!"

Thái úy hối hận vì mình lỡ lời nên cúi đầu sụp lạy. Lúc ngẩng lên đã thấy đồng tử hiện thân Đại sĩ cưỡi Sư tử khuất dần trong đám mây và chẳng thấy đâu nữa. Ông cảm thấy ray rứt, tâm thần không yên. Gia nhân hỏi nguyên do, ông đáp: "Ta muốn chí thành sám hối, đến khi nào gặp lại đồng tử ấy mới thôi". Ông liền cho người bày hương hoa thật trang nghiêm sớm tối cầu khấn, quyết thấy bằng được. Sau đó rất lâu, ông chợt thấy đồng tử đứng trên hương án trách rằng:

-Sao ông trụ tướng cố chấp đến thế! Thái úy đáp:

Chính vì muốn người đời đều thấy tôn dung thị hiện của Đại Sĩ vậy.

Ông liền sai thợ vẽ, vẽ lại nguyên hình, tích tắc chẳng thấy đồng tử đâu nữa. (Theo Hoa Nghiêm cảm ứng lục và Tử Chi Phật Vận Biên Niên).

Triết Tông: Tên Hú, con năm thứ sáu của Thần Tông. Mười tuổi lên ngôi, Tuyên Nhân Thái hậu Cao Thị lâm triều thính chính, Thừa Tướng là Tư mã Quang, Lã Công Trứ. Chính sự trong năm Nguyên Hựu rất thịnh, từ năm Thiệu Thánh về sau, chính trị thối nát. Ông ở ngôi mười lăm năm, thọ hai mươi lăm tuổi. Niên hiệu Nguyên Hựu tám năm, Thiệu Thánh bốn năm, Nguyên Phù ba năm.

 

Bính Dần: Nguyên Hựu năm đầu

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 22

Tây Hạ

 

* Mùa Xuân, tháng hai, Tư mã Quang được bái phong tả Thừa Tướng. Tháng ba, Trình Di làm thuyết thư trong điện Sùng chính. Ngày nọ, ông hỏi:

-Bệ hạ ở trong cung đổ nước phải tránh kiến đúng không? Đế đáp:

Đúng thế, vì ta sợ làm tổn thương nó. Di nói:

Suy tâm này ra khắp bốn biển, đó là đạo quan trọng của Đế vương vậy.

* Mùa hạ, tháng tư, Lã Công Trứ được bái phong Hữu Thừa Tướng. Văn Ngạn Bác giữ chức Thái sư Bình Chương quân quốc. Mùa thu, tháng chín, Ôn Quốc Văn Chánh Công Tư mã Quang mất khi còn làm Tể tướng. Mùa Đông tháng mười, Đế ban lệnh đổi Diễn Thánh Công là Phụng Thánh Công nhưng vẫn đặt một người Giáo thọ, dạy học trò Khổng Tử.

Đại Sư Pháp Chân: Ngài húy Xử Hàm, ngụ tại chùa Bạch Liên, Thai châu. Ngày hai mươi ba tháng bảy, ngài nhóm chúng từ biệt và kiết già quy tịch. Đệ tử nối pháp có hai người là Trí Dũng Liễu Nhiên và Chân Giáo Trí Tiên. Tiên truyền cho Viên Trí, đó là Đại Sư Chứng Ngộ ở Thượng Trúc. Tịnh độ: Ở Biện kinh có Pháp sư Hy nhập định du thần qua Tịnh độ, thấy hoa sen lớn phóng ánh sáng vàng, trên hoa có ghi: "Tòa của Tỳ-kheo Tông Bản nhà Tống". Ngài xuất định, kể lại việc trên. Lúc này, Viên Chiếu đã cáo lão về ở ẩn tại Linh Nham, Tô châu.

Hy hỏi:

Thiền sư lại vãng sinh về Tịnh độ à? Viên Chiếu đáp:

Tông Bản tôi trong lúc tu Thiền, tâm ở cảnh giới Cực lạc, vì Thiền Tịnh vốn không hai tướng vậy.

 

Đinh mão:

Đại Liêu: Hàm Ung

Tây Hạ: Mùa xuân tháng giêng,

Nguyên Hựu năm thứ 2

năm thứ 23

Đế Sách phong Lý Càn Thuận làm Hạ Quốc Chủ

 

Xa Khê: Ở địa phận Sùng Đức thuộc Tú châu có Xa Khê. Trong thời nhà Đường, vùng Thanh Trấn có ngôi tháp cổ, một vị Tăng nhân đó dựng viện Thánh Thọ, thỉnh Pháp sư Trạch Khanh khai sơn trụ trì. Khanh là đệ tử của Từ Biện, cháu của Nam Bình, vốn đời năm thứ ba từ Pháp Trí kể xuống. Ngài quy tịch trong năm Đại Quán đời Huy Tông, tháp ở Phù Dung Bồ Thượng thuộc phía nam viện này. Đệ tử ngài có: Khả Quán, Hữu Bằng, Tề Bích, Như Trạm, Thiện Vinh nối nhau truyền trì, học chúng đều là bậc long tượng. Năm đó, ngài mở đạo tràng Pháp Hoa Tam-muội Kỳ Sám, Cao Tông ở trong cung Thọ Đức, đổi viện Thánh Thọ thành viện Quảng Phước. Tăng xứ Ngô Việt rất đông, phần lớn là đệ tử của phái Xa Khê.

 

Mậu Thìn: Nguyên Hựu năm thứ 3

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 24

Tây Hạ: Tháng 4, cướp phá Tắc môn trại

 

Pháp sư Tịnh Nguyên: Ngài trụ ở chùa Tuệ Nhân, Nam Sơn, Hàng châu, họ Dương, người Tấn Giang, tổ tiên vốn là người Tấn Thủy nên người học thường gọi ngài là Tấn Thủy Pháp Sư. Sau khi thọ Cụ túc ngài vân du tham học Hoa Nghiêm với Thừa Thiên ở Ngũ Đài, học Hợp Luận với Minh Đàm ở Hoàng Mai, về Nam nghe giảng Lăngnghiêm, Viên Giác, Khởi Tín với Tử Tuyền ở Trường Thủy. Học giả bốn phương suy tôn ngài là bậc Nghĩa long (con rồng nghĩa học). Nhân nuôi song thân ở suối này, nên suối chủ thỉnh ngài trụ ở Thanh Lương. Ngài vân du qua đất Ngô, trụ ở Báo Ân, Quán Âm. Thái thú Hàng châu Thẩm Văn Thông lập viện Hiền Thủ ở chùa Tường Phù rồi thỉnh ngài ở. Ngài dời qua Mật Ấn Bảo Cát ở Thanh Trấn Tú châu, rồi qua ở Thiện Trụ thuộc Phổ Chiếu, Hoa Đình. Tả Thừa Tướng Bồ Công Mãnh phủ dụ đất Hàng, chí thành khẩn cầu tông yếu, tâu xin cho Sư ở lại viện Tuệ Nhân. Tăng thống Nghĩa Thiên nước Cao Ly sang Trung Hoa, lấy lễ đệ tử đến yết kiến ngài. Hồi ấy, Hoa Nghiêm Sớ Sao từ lâu đã thất truyền, nhờ Nghĩa Thiên đem sang vấn biện mà có lại. Nghĩa Thiên về nước đem ba bản dịch Hoa Nghiêm gồm một trăm tám mươi quyển sai Sứ mang sang tặng ngài. Ngài dựng Đại Các an trí. Vì thế mọi người gọi Tuệ Nhân là chùa Cao Ly. Đến lúc này, tháng mười một năm Kỷ Dậu, Nguyên Hựu năm thứ ba, ngài quy tịch thọ bảy mươi tám tuổi. Môn nhân dựng tháp an trí xálợi ở Tây bắc chùa này, tôn xưng ngài là Trung Hưng Giáo Chủ. Thái úy Lã Tuệ Khanh tự Cát Phủ soạn văn bia ghi lại hành trạng, viết bài ký về Hoa Nghiêm Các. Tưởng Chi Kỳ lập bia. (Kinh Hoa Nghiêm, Tấn dịch sáu mươi quyển, Đường dịch sáu mươi quyển, Đường lại dịch phần sau bốn mươi quyển).

 

Kỷ Tỵ: Nguyên Hựu năm thứ 4

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 25

Tây Hạ

 

Luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu: Ngài khuyên đạo tục niệm Phật Di-đà quy tâm Tây phương Cực lạc thế giới. Lúc này, Long Đồ Các học sĩ Hàng châu Thái thú Tô Thức đem trâm, vòng, xuyến, hoa tai di vật của mẹ mình là Thục quận Thái Quân Trình thị để lại, bán đi mời thợ họa tượng Phật Diđà để cầu siêu cho cha mẹ và làm bài tụng tán thán. Mùa Đông, tháng mười Thiền sư Tông Trất ở viện Trường lô, Chân châu nhóm họp danh sĩ nổi tiếng đương thời kết Liên Hoa Tịnh độ Niệm Phật Xã.

* Mùa Đông, mồng ba tháng mười một Tăng thống Nghĩa Thiên nước Cao Ly sai đệ tử là Thọ Giới đến Hàng châu cúng tế trước mộ tháp ngài Tấn Thủy.

 

Canh Ngọ: Nguyên Hựu năm thứ 5

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 26

Tây Hạ

 

Tây Hồ: Đường thị lang Bạch Cư Dị đi tuần thú Hàng châu. Ông là người tinh thông đạo lý, thẳng thắn, khẳng khái. Lúc này, Long đồ các học sĩ Tô Thức làm Thái thú Hàng châu, tâu: "Hàng châu có Tây Hồ như người có con mắt, nhưng lau bèo đã úa". Thế rồi ông vét hồ cũ, chu vi ba mươi dặm, lấy Tế Sơn làm bờ, chứa lau bèo cạnh hồ, mở đường lớn thông từ Nam đến Bắc, trồng Phù Dung, Dương Liễu trên ấy. Người Hàng châu gọi đây là Tô Công Đề (Đê ông Tô).

 

Tân Mùi: Nguyên Hựu năm thứ 6

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 27

Tây Hạ

 

* Thái sử Hoàng Đình Kiên, tự Lỗ Trực, hiệu Sơn Cốc đạo nhân. Lúc này gia cảnh sa sút, ông đến trú ngụ tại núi Hoàng Long, vân du với Thiền sư Hối Đường Tổ Tâm, kết bạn phương ngoại với Tử Tâm Ngộ Tân, Thảo Đường Duy Thanh. Ngày nọ đang nói chuyện với ông, Hối Đường cử việc Khổng Tử nói với đệ tử: "Các ông cho ta giấu giếm ư? Ta chẳng giấu điều gì cả, ta không làm việc gì mà không cho các ông biết. Đó là con người của Khâu này. " Và mời ông giảng biện ý khác chứ Hối Đường không chấp nhận kiểu này. Ông tỏ vẻ giận, im lặng. Lúc này, khí trời mát mẻ, hương thu ngát viện. Hối Đường hỏi:

-Ông ngửi thấy hương bầu không? Ông đáp:

Hối Đường nói:

Ta chẳng giấu giếm điều gì cả!

Nghe xong, ông vui mừng lãnh ngộ. Đến khi ngụ ở Kiềm Nam, ông gởi thơ cho Ngộ Tân, nói: "Ngày trước, từng được thầy hết lời dẫn dụ, tôi như người say mộng, may mắn ở trong ánh quang, nhưng bởi nghi tình chưa hết, căn mạng chưa trừ nên lui về núi ở ẩn. Tôi bị biếm quan đến Kiềm châu, giữa đường nằm nghỉ, tỉnh giấc bàng hoàng hốt nhiên nghĩ lại, bình sinh bị những lão Hòa thượng trong thiên hạ chê bai rất nhiều, chỉ có thầy là không thế. Thầy chính là người vì nhau bậc nhất.

* Mùa Thu tháng tám, Thiền sư Pháp Tú chùa Pháp vân, Biện Kinh, quy tịch. Đế hạ chiếu cho Thiền sư Thiện Bản chùa Tịnh Từ kế thế trụ trì, ban cho hiệu Đại Thông Thiền sư. Sư họ Đổng, húy Thiện Bản là hậu duệ của Hán Trọng Thư, ông nội tên Kỳ, cha tên Ôn, đều làm quan ở đất Lệ, nên Sư là người đất này. Từ nhỏ đến lớn, Sư đọc khắp sách Sử nhưng không có chí làm quan. Nhân Tông năm Gia Hựu năm thứ tám, Sư cùng em là Thiện Tư đến viện Địa Tạng ở Kinh đô thi kinh mà được độ làm Tăng, học Tỳ-ni. Sư vân du về Đông, đến Tô châu lễ Thiền sư Viên Chiếu Tông Bản ở Thụy Quang tỏ ngộ huyền chỉ, hầu hạ năm. Viên Chiếu sai Sư y chỉ Thiền sư Viên Thông Pháp Tú, Sư cũng lãnh hội hết yếu chỉ. Thần Tông năm Nguyên Phong năm thứ bảy, Sư vượt sông Hoài cư ngụ với Thái thú Nham. Thời gian sau, Sư ra ở Song Lâm, rồi dời về Tịnh Từ. Đến lúc này, Đế xuống chiếu thỉnh Sư trụ ở chùa Pháp vân, ban cho hiệu Đại Thông. Phàm những nơi Sư ở, hễ thấy tượng Phật, Bồ-tát thì đứng luôn không dám ngồi, thức ăn có tên giống thịt cá thì không ăn, Sư chân thành phòng tâm ngừa lỗi đại loại như thế. Mùa thu năm Nguyên Hựu năm thứ bảy, Sư xin cáo lão về Tây Hồ, Hàng châu. Đế ưng thuận. Đến Huy Tông năm Đại Quán năm thứ ba, tháng mười hai năm Giáp Tý, Sư co ba ngón tay rồi nói với đệ tử: "Chỉ còn ba ngày nữa thôi. " Quả nhiên ba ngày sau, Sư tịch, môn nhân dựng tháp ở Thượng Phương, Sư thọ bảy mươi lăm tuổi, Tăng lạp bốn mươi lăm hạ. Sư nối pháp Viên Chiếu Tông Bản, đời gọi hai người là Đại Bản và Tiểu Bản. Viên Chiếu nối pháp Thiền sư Nghĩa Hoài.

Pháp sư Biện Tài: Ngày hai mươi tháng chín, Pháp Sư Biện Tài ở núi Long Tỉnh, Hàng châu quy tịch. Ngài húy Nguyên Tịnh, cả ba triều đại từ Nhân Tông cuối năm Gia Hựu đến niên hiệu Trị Bình, Hy Ninh. Ngài trụ ở Thượng Thiên Trúc cả thảy mười bảy năm, đạo pháp vang khắp trong triều ngoài nội. Trong năm Nguyên Phong, ngài từ biệt ra đi, rồi về trụ lại ba năm. Về già ngài ngụ ở Long Tỉnh. Lúc ăn uống ngủ nghỉ, giữa chặn mày phát ánh quang, đều có xá-lợi. Ngài nói với Tham Liêu Tử Đạo Tiềm rằng: "Tịnh nghiệp của ta đã xong. " Bảy ngày sau, ngài không bệnh nằm nghiêng bên phải quy tịch. Môn hạ thị lang Tô Triệt viết bài minh trên tháp. Long đồ các học sĩ Lệ châu Tô Thức đến tế ngài rằng:

Khổng Lão khác cửa, Nho Thích khác cung
Lại ở trong ấy, Thiền Luật chống nhau
Tôi thấy biển lớn, có Nam Bắc Đông
Sông hồ tuy khác, chỗ đến vốn đồng
Chỉ đại Pháp sư, giới định tinh thông
Luật không trì phá, cấu tịnh đều không
Giảng không trau chuốt, Sự lý viên dung
Như núi bất động, như chuông khua vang
Như trăng in nước, như muôn gió nồng
Tám mươi mốt năm, sống tuy mạng chung
Gặp vật thì ứng, thi thiết vô cùng
Lúc tôi đến Ngô, còn gặp năm ông
Giảng có Biện (Hải Nguyệt), Trăn (Nam Bình) Thiền có Liên (Đại Giác), Tung (Minh Giáo)
Hai mươi năm sau, chỉ còn mình ông
Nay cũng đi rồi, hậu học nương ai!

Thiền sư Tùng Duyệt: Sư họ Hùng, sinh ở Cám châu, ngụ tại chùa Đâu-suất, phủ Long Hưng, Giang Tây. Ban đầu Sư làm Thủ chúng trong đạo tràng Đạo Ngô, yết kiến Vân Cái Trí Hòa thượng. Trí bảo Sư đến yết kiến Động Sơn Văn Thiền sư, Lãnh ngộ huyền chỉ, hoằng hóa ở Lộc Uyển. Đến lúc này mùa Đông tháng mười một năm Nguyên

Hựu năm thứ sáu, Sư tắm rửa, nhóm chúng, nói kệ:

Bốn mươi tám năm
Phàm thánh giết sạch
Chẳng phải anh hùng
Long An trơn trợt.

Sư an nhiên thị tịch. Người nhận lãnh pháp yếu tỏ ngộ tự tâm có Vô Tận Cư sĩ Trương Thương Anh sai Sứ đem lễ vật đến cúng tế và nói: "Thầy là người có đạo lực lớn trong tông môn, không thể để những người đến đây không có lòng kính ngưỡng. " Và ông dựng tháp ở Nhũ Phong thuộc Long An, sau tâu xin Đế ban thụy cho Sư. Sư nối pháp Chân Tịnh Văn Thiền Sư, đồng môn với Pháp Vân Cảo Thiền sư.

Trương Thương Anh: Ông từ nhỏ đã theo Thiền học nhưng vẫn muốn tìm các vị Tông sư quyết trạch cho mình. Nhân nói chuyện với Chu cấp sự Thế Anh mới biết Thiền sư Tùng Duyệt ở Đâu-suất vốn là bậc Thiền học cao xa, tài năng xuất chúng. Đến lúc này, năm Nguyên Hựu năm thứ sáu, ông vượt Giang Tây, Án Bộ, Phần Ninh cùng Ngũ Thiền bơi ngược thuyền đến Lữ Đình rồi hỏi thăm đường đến Đâu Suất. Đến nơi ông nói:

Từ lâu tôi đã nghe tiếng thầy là bậc thông minh xuất chúng. Tùng Duyệt liền đáp:

Duyệt là con cháu của Lâm Tế, nếu đem trí thông minh nói chuyện văn chương thì cũng giống như đô vận bàn về thiền vậy.

Ông tuy phục câu nói ấy nhưng trong lòng bất bình, liền làm bài kệ sai Ngũ Thiền đưa lên. Kệ ghi:

Năm lão cơ duyên đồng một phương
Thần phong khí phách giấu bên trong
Sáng nay lão tướng lên đàn vội
Cầm mâu xin thách đánh một phen.

Tùng Duyệt chỉ xem câu cuối là biết ý ba câu trước. Ông nghe vậy rất vui mừng lên Đâu-suất mới cùng Duyệt luận bàn thâu đêm. Bàn đến việc trong Tông môn, ông hỏi:

-Vừa rồi, tôi xem trong Truyền Đăng Lục gồm một ngàn bảy trăm cơ duyên của bậc Tôn túc, chỉ nghi câu "Đức Sơn ôm bát ".

Duyệt nói:

Nếu nghi câu "ôm bát" thì những gì còn lại đều do tâm suy nghĩ phân biệt mà hiểu, như vậy đâu thể đến được cảnh giới Đại an lạc!

Ông nổi giận, về phòng nhưng cả đêm cứ trằn trọc mãi. Gần đến canh năm, vừa bước chân xuống giường đá phải cái ống nhổ ngã lăn, ông hoát nhiên tỏ ngộ, liền chạy đến gõ cửa trượng thất của Tùng Duyệt và nói:

Bắt được giặc rồi! Duyệt hỏi:

Tang vật ở đâu?

Ông nghĩ ngợi. Duyệt nói: Đô Vận về ngủ đi. Sáng sớm hôm sau, ông dâng bài tụng:

Trống lặng chuông im ôm bát về
Nham Đầu bức bách như sấm vang
Quả nhiên chỉ được ba năm sống
Đâu phải gặp người thọ ký cho.

Ông từ biệt không bao lâu, Duyệt quy tịch. Năm sau, ông được phong chức Tể tướng. Huy Tông năm Tuyên Hòa, tháng hai ông tâu xin thụy cho Tùng Duyệt, sai sứ cầm văn tế đến đọc trước tháp: "Ngày xưa Ngưỡng Sơn nói với Lâm Tế: "Ngày sau, đạo của ông thịnh hành khắp xứ Ngô, Việt nhưng gặp Phong thì dừng. Bốn đời sau đó Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu. nghe lời sấm không vui. Về sau, được ngài Tỉnh Niệm, Chiểu vui mừng nói: "Chánh pháp Nhãn Tạng nay đã có ông truyền thừa, ta chết cũng không ân hận". Tỉnh Niệm ra hoằng hóa ở Thủ Sơn, thôn hoang chùa vắng, Tăng chúng chỉ mới hơn ba mươi người nhưng đạo tông nổi tiếng thiên hạ. Đối với Niệm Công, thầy là cháu sáu đời, đối với Vân Am thầy là đệ tử đích truyền. Quy củ Trụ Sơn đủ sánh ngang ngài Thủ Sơn, cơ phong mau lẹ chẳng thua gì Phong Huyệt. Gần đây tôi phụng mệnh đi sứ Giang Tây, Ấn Độ, Tây An quen biết thầy trong núi Long An, nắm tay đàm luận suốt đêm dài, thấu suốt hết việc lớn ngày sau, chánh tông rạng rỡ, chỉ hận là gặp thầy quá muộn. Thế nhưng thầy vội vã ra đi, tiếc phước mình không bằng huệ nên chẳng thuận duyên, vui đức mình không bị mai một, nên đành phải chia tay. Về sau có những người như: Sơ Sơn, Liễu Thường, Đâu-suất, Tuệ Chiếu, Từ Vân, Minh Giám, Thanh Khê, Chí Ngôn đều giảng thuyết mỗi phương nổi tiếng đương thời. Lại có những người như: La-hán, Tuệ Nghi, Dương Kỳ, Tử Viên, Quảng Tuệ, Thủ Chân, Cám Xuyên, Trí Tuyên đều là những người hối tích ẩn cư, tự xét thân mình, Phong Huyệt được Tỉnh Niệm liền có thể nối tiếp thọ mạng của chư Tổ, nay các vị Long An cũng vậy. Sự hưng thịnh này lẽ đâu không có chân thân, linh cốt của Tiên Sư ư! Bởi đạo thịnh hành là do Tòng lâm quy hướng, làm rạng rỡ Phật Tổ, trợ giúp giáo hóa, phát huy rạng rỡ thêm lên. Nay tôi đặc biệt xin với triều đình và được ban thụy là Chân

Tịch Đại Sư. Than ôi! Chỉ tôi với thầy thần giao đạo hợp, nên không dám quên phận làm ngoại hộ. Dù rằng con đường sống chết rộng hẹp khác nhau, nhưng có được long ân của Thiên Tử thì may mắn cùng nhau thụ hưởng vậy. Ngưỡng mong giác linh thầy thọ nhận phước lộc này.

Trọng Ôn có lời tán rằng: Ôi! Làm hưng thịnh Nho tông nhưng lại sùng kính Phật đạo thì xưa nay chưa có ai bằng thầy. Bởi vậy nếu không phải người khéo tay thì làm sao phát huy, nếu chẳng phải bậc thượng căn thì dễ gì đương nỗi. Đến như Khai Sơn dựng chùa, mở đại pháp thí, đã không quên đạo nghĩa của Tùng Duyệt mà lại còn được hậu thế tôn vinh. Mấy lời tỏ bày, thật lòng như vậy. Bởi đó âu cũng là lý do mà Chiêu Tông tôn sư trọng pháp vậy. "

Cơ duyên ôm bát: Lúc Tuyết Phong Nghĩa Tồn còn làm phạn đầu trong đạo tràng của Đức Sơn, ngày nọ Đức Sơn ôm bát đến trai đường, Tuyết Phong hỏi: "Chuông chưa khua, trống chưa đánh ôm bát đi đâu thế?" Đức Sơn nghe vậy liền quay về phương trượng. Tuyết Phong đem chuyện này kể cho Nham Đầu Toàn Khoát. Khoát nói: "Đại tiểu Đức Sơn chưa hiểu câu sau cùng". Đức Sơn nghe vậy liền sai thị giả gọi Toàn Khoát lên và nói: "Ông không chịu lão tăng ư?" Toàn Khoát ngầm bày tỏ ý mình, Đức Sơn mới thôi. Hôm sau thượng đường, quả nhiên Đức Sơn không như người bình thường. Toàn Khoát đến trước tăng đường vỗ tay cười vang nói: "Vui nhỉ! Ông lão đường đầu đã hiểu thấu câu sau cùng, ngày sau thiên hạ chẳng lường được gã là người thế nào, thế nhưng chỉ sống được ba năm!" Ba năm sau, quả nhiên Đức Sơn quy tịch.

 

Nhâm Thân: Nguyên Hựu năm thứ 7

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 28

Tây Hạ

 

Thiền sư Linh Nguyên Duy Thanh: Sư tham học với Thiền sư Hối Đường Tử Tâm ở Hoàng Long, tiếng tăm làm thị giả của Sư vang khắp tòng lâm. Đến lúc này, năm Nguyên Hựu năm thứ bảy, Vô Tận Cư sĩ Trương Thương Anh đi thuyền từ Giang Tây đến yết kiến Sư, phát hịch cho các quan ấp ở Phần Ninh cùng các vị tôn túc khuyến thỉnh Sư hoằng hóa ở Quán Âm, Long Hưng. Mệnh lệnh rất nghiêm, Sư ngụ ở Hưng Hóa bất đắc dĩ phải xuất đầu lộ diện dâng bài kệ từ chối:

Không đất không dùi nghèo thấu xương
Lợi sinh rất thẹn thiếu trâm anh
Kinh kỳ cửa thí e khó mở
Xin dưỡng thân tàn nơi núi sông.

Hoàng Thái sử Lỗ Trực Ưu ở Lý Lư có gởi cho Hưng Hóa Hải Lão một tấm thiếp rằng: "Nhân đạo tràng Quán Âm còn trống, thượng Ty có nhã ý mời huynh Thanh, nếu huynh Thanh quyết lòng không đi cũng tốt. Bàn đào ba năm mới chín một lần, chớ hái mận héo mà làm gì. Việc này, Hoàng Long, Hưng Hóa cũng phải trợ duyên cùng gánh một vai mới được, chớ đưa người lên cây cao rồi rút thang đi".

Oánh Trọng Ôn La Hồ Lục tán rằng: Pháp đạo ở Giang Tây thịnh trong những năm Nguyên Hựu bởi những người lấn lướt tòng lâm đều là những bậc cao nhãn, huống gì lễ chọn người vượt trội đến như vậy". Linh Nguyên dùng kệ ra sức từ chối, nhưng thái sử đã dùng trát ngợi khen, đó là lời động viên chưa từng có vậy.

 

Quý Dậu: Nguyên Hựu năm thứ tám, tháng tám Thái hậu Cao Thị mất

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 29

Tây Hạ

Giáp Tuất: Thiệu Thánh năm đầu

Đại Liêu: Hàm Ung năm thứ 30

Tây Hạ

Ất Hợi: Thiệu Thánh năm thứ 2

Đại Liêu: Thọ Xương năm đầu, Đế gia phong Tôn hiệu, đổi niên

Tây Hạ

 

hiệu

 

 

Liêu: Đạo Tông Hồng Cơ gia hiệu là Thánh văn thần võ toàn công đại lược thông nhân hiếu tuệ Thiên Hựu Hoàng Đế. Năm Thọ Xương năm thứ hai, Đại Quốc Cửu Trướng Tiêu Giải Lý tứ lang quân là người cưỡi ngựa bắn cung rất giỏi, hào kiệt không kiềm chế được, ông thường nuôi trong nhà đến mấy mươi người phạm tội chết. Họ thường theo ông đi săn ở đất Liêu. Đến phía Đông phía Tây quận, họ ăn uống tiêu xài cướp đoạt của những nhà giàu có. Ngày nọ bị tội, nước Liêu tróc nã gắt gao, ông tụ hợp đồ đảng làm cướp. Chưa đầy mười ngày đã có hơn hai ngàn người, họ đánh vây các châu như: Càn, Hiển v.v... các đạo phát binh vây bắt. Ông lén dẫn đồ đảng chạy sang địa phận Sinh Nhữ Chân, (Dòng Nhữ Chân có chia ra Sinh và Thục. Người ở phía Nam Hỗn Đồng Giang thì gọi là Thục Nhữ Chân, là nơi A Cốt Đả ở. Người phía Bắc sông này gọi là Sinh Nhữ Chân là bề tôi nước Liêu). Giải Lý liền cấu kết với Đại soái Dương Cát mưu phản. Các đạo quân truy quét, nhưng đến đầu địa phận thì không dám tiến lên, tâu tình hình cho Bắc khu mật viện. Mật viện giáng trát cho Dương Cát phải toàn tâm giải quyết. Dương Cát dần dà đến mấy tháng, chỉ chém đầu Giải Lý sai con trưởng là A Cốt Đả dâng cho Liêu, không dâng nộp thủ cấp những người còn lại mà nói họ cũng đã bị giết hết. Nước Liêu bất đắc dĩ phong tước cho hai cha con Dương Cát. Từ đó cha con Dương Cát trong lòng cậy có công với Liêu, ngầm ôm lòng phản trắc, thôn tính các bộ tộc láng giềng để lấy vàng châu, ngựa quý. Lúc này ông thường hối lộ cho các bậc quyền quý để kết tình giao hảo.

* Mùng chín tháng sáu, Thiền sư Trùng Biện ở chùa Nam Hoa, Thiều châu nhờ Long đồ các học sĩ Tô Thức viết thư cho Liễu Tông Nguyên nhờ soạn văn bia cho Lục Tổ Đại Giám Thiền sư. Tô Thức ghi thêm phía sau rằng: "Thích-ca dùng văn thiết giáo, giáo pháp dịch ở Trung Quốc đều nhờ đạo Nho mà bày tỏ ra. Cho nên các kinh điển Đại thừa đến Lăng-nghiêm thì khúc chiết tinh túy, thù thắng vi diệu vượt xa các kinh, đó là nhờ Phòng Dung bút thọ. " Liễu Tông Nguyên dời về Nam mới bắt đầu nghiên cứu Phật pháp, soạn văn bia cho các Thiền sư Tào Khê, Nam Nhạc, diệu tuyệt cổ kim. Từ nhà Đường đến nay, người thuật hành trạng Tổ Sư rất nhiều nhưng chưa ai thông suốt, chính xác như Liễu Tông Nguyên. Bởi xét những lời của ông rất hợp với đạo Mạnh Kha nên khiến người ta ban ngày thấy thì ban đêm thuộc ngay.

Tam Tháp: Năm này, Thiền sư Hựu ở viện Chân Như núi Vân Cư, Nam Khang sáng lập Tam tháp để an táng chư tăng, Sư sãi trong chùa, là nơi an táng hài cốt. Các nơi khác từ đó bắt chước làm. Hựu họ Vương, người Thượng Nhiêu, Tín châu nối pháp Hoàng Long Tuệ Nam, Nam nối pháp Từ Minh Sở Viên.

 

Bính Tý: Thiệu Thánh năm thứ 3

Đại Liêu: Thọ Xương năm thứ 2

Tây Hạ: Tháng mười, cử đại quân cướp phá đất Tống đến tận Diên châu

Đinh Sửu: Thiệu Thánh năm thứ 4

Đại Liêu: Thọ Xương năm thứ 3

Tây Hạ

 

Tô Thức bị biếm quan đến Đam châu. Tuệ châu Thái thú Phương Tử Dung phụng chiếu viết thư nói với Tử Chiêm rằng: "Người nhà phụng thờ Đại Thánh Tăng-già ở đất Hoài, đất Tứ rất kính cẩn, đêm trước ở trong mộng đến đây từ biệt và nói: "Tiễn Tô Tử Chiêm qua Hải Nam". Nay quả nhiên có chuyến đi này, số phận đã định, ông còn lo buồn làm gì!" Năm Nguyên Phù năm thứ ba, tháng sáu năm Canh Thìn, Tô Thức từ Hải Nam về, cư ngụ tại Thường châu, ngao du vùng Nghi Hưng. Trước khi bị đày, ông có dựng ngôi nhà ở gò phía Đông Hoàng châu, nhân đó lấy hiệu Đông Pha cư sĩ. Ngày hai mươi tám tháng bảy, niên hiệu Kiến Trung Tỉnh Quốc năm đầu, đời Huy Tông, Triều phụng lang đề cử thành đô phủ vương cục quán Tô Thức mất ở Thường châu.

 

Mậu Dần: Nguyên Phù năm đầu. Tháng sáu đổi niên hiệu

Đại Liêu: Thọ Xương năm thứ 4

Tây Hạ: Vĩnh An năm đầu

Kỷ Mão: Nguyên Phù năm thứ 2

Đại Liêu: Thọ Xương năm thứ 5

Tây Hạ:

 

* Cao Tăng Đạo Tiềm ở Tiền Đường làm thơ gởi cho Văn Trung Công Tô Thức. Thức gọi ngài là Tham Liêu Tử, bởi thi, từ, dật, xướng, họa của ngài hình thế giống như Hàn Mặc. Đến khi Lã Thừa Tướng Công Trứ tâu xin Đế, ban cho ông hiệu Diệu Tổng, về sau hễ viết lách, ngài đều lấy hiệu Diệu Tổng Lão Sư. Những bia đá ở Giang triết còn ghi lại rất nhiều, nay chỉ ghi đại lược. Khi rời Tiền Đường, ngài có viết lại mấy dòng từ biệt rằng: "Gió hữu tình ngàn dặm cuốn triều đến, vô tình tiễn triều về. Hỏi trên sông Tiền Đường, Tây Hưng, Bồ Khẩu mấy độ bóng tà, chẳng dụng nghĩ suy. Xưa nay cúi ngửa người xưa trái, ai giống Đông Pha bạc đầu quên cơ. Nhớ hoài bờ tây Tây Hồ chính vì núi đẹp, trời xanh mây trắng, hẹn thi nhân cùng gặp. Mong như tôi với ông, hẹn năm khác đường biển về Đông, xin tạ nhã ý của ông, chớ có trái lời. Đường Tây Xuyên không nên quay đầu, làm tôi ướt áo. "

Thiền sư Oánh Trọng Ôn tán rằng: "Ôi! Tiểu sinh đời nay đối với bậc hữu đạo tông sư tất gọi tên mà biểu hiện lòng khinh mạng, đâu biết một bài thơ của Văn Trung Công, Tăng còn kính trọng, huống gì người chuộng đạo đức ư!" Oánh nối pháp Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo.

* Pháp Sư Hữu Nghiêm: Ngài ở chùa Sùng Thiện, Xích Thành, Thai châu, lui về dựng am bên gốc cây Tra, nên lấy hiệu là Tra Am, lòng nhớ về cố hương An Dưỡng, có bốn bài thơ cảm được lòng người. Trong đó có một bài ghi:

Tây phương chân tịnh vốn nhà ta
Nay nhớ lối về mười vạn xa
Đường khách gập ghềnh bao kẻ khốn
Phong trần lưu lạc mấy ai qua.
Cây báu bảy hàng, ngàn điệu nhạc
Ao thơm tám đức, bốn màu hoa
Chớ lạ gần đây thường mộng thấy
Nhục vinh muôn việc chẳng phiền hà.

Người đương thời tranh nhau truyền đọc. Bình sinh ngài dốc chí tịnh độ. Mùa hạ tháng tư niên hiệu Kiến Trung, Tỉnh Quốc năm đầu, đời Huy Tông, ngài sắp quy tịch, chợt thấy hoa sen lớn trong ao báu, nhạc trời trỗi vang bốn phía, ngài lặng lẽ quy tịch. Tác phẩm có: Đại Bộ Bị Kiểm bốn quyển, Tiên Nạn bốn quyển, Trợ Lãm bốn quyển, Hoặc Đối bốn quyển đều lưu hành ở đời.

 

Canh Thìn: Nguyên Phù năm thứ ba. tháng giêng, Đế mất

Đại Liêu: Thọ Xương năm thứ 6

Tây Hạ

 

* Mùa Thu, tháng bảy, Liêu Đế bệnh nặng dạy cháu là Diên Hy rằng: "Nam triều giao hảo đã nhiều năm, tính cháu thẳng thắn, chớ có sinh sự. " Lại dặn đại thần: "Vua nối nghiệp nếu động binh, các khanh phải ra sức can ngăn. " Đế mất, ở ngôi bốn mươi sáu năm, miếu hiệu Đạo Tông Thụy là Thiên Phước Hoàng Đế.

Tống: Mùa Đông, sửa Thái Lăng. Các quan ở Lâu Bình huyện Đăng Phong tâu xin lấy nhân công thừa này để sửa sang đạo tràng Thiếu Lâm ở Tung sơn vốn là nơi Đạt-ma Tổ sư ở. Từ Giám ty, quận huyện, quan chấp sự đến sĩ thứ đua nhau hưởng ứng, chỉ một ngày là xong, đặt tên là Diện Bích am, trồng hơn mười hai cây Linh Chi, mỗi cây một màu hoa lạ. Mưa ngọt trút đầy ao, ban đêm phát ánh sáng, bốn phía như Thiên cảnh đồng thời hiện ra, Đông Tây đến mấy mươi dặm. Hậu sơn cư sĩ Trần Sư Đạo viết bài ký: "Tôi, môn hạ của Khổng Thị, Nhan, Mẫn, Nhiễm đều không truyền. Sau Trọng Cung có Tuân Khanh, sau Tăng Dư có Mạnh Kha, sau Đoan Bản Tứ có Trang Hưu. Nhưng sau Trang, Mạnh, Tuân thì không nghe nữa. Họ Lý truyền xuống Quan Doãn, Doãn truyền xuống thì không nghe nữa. Họ Thích từ Năng Nhân xuống đến đời hai mươi tám là Đạt-ma, sáu đời nữa thì có Tào Khê, tính đến nay đã mười lăm đời rồi. Nhưng học trò của Nho Lão lại muốn sánh mình ngang với cội nguồn của họ Thích thì thật là sai lầm.

Thiền sư Hối Đường Bảo Giác: Sư húy Tổ Tâm, ngụ ở núi Hoàng Long, Long Hưng, quy tịch ngày mười sáu tháng 11. Sư họ Ổ, sinh ở Nam Hùng, nối pháp Hoàng Long Tuệ Nam. Đệ tử đắc pháp với Sư có Thảo Đường Duy Thanh, Tử Tâm Ngộ Tân, Thái sử Hoàng Sơn Cốc, Ngô Trung Lập.

Huy Tông: Húy là Kiết, con thứ mười của Thần Tông, ban đầu được phong Đoan Vương, mười chín tuổi lên ngôi Hoàng Đế, ở ngôi hai mươi lăm năm. Mồng mười tháng sáu nhằm tiết Thiên Ninh, lúc này thừa hưởng thái bình đã lâu, Tô Hàng bày bàn đánh cờ, cha con Chu Miến dâng đá hoa cương sắp quanh Lương Nhạc Vạn Tuế Sơn. Dân gian một hoa một đá cùng hưởng lộc vua nhưng cấu kết nhận hối lộ, lòng tham không cùng. Sái Kinh làm Thái sư, nội thị Đồng Quán lãnh chức khu mật, nhận Lý Tự Lương người đất Yên ở nước Liêu cùng đem về, nói rằng có thể lấy được nước Liêu. Gặp lúc Nhữ Chân đến dâng lễ, mới hẹn cùng đánh Liêu. Kim đã diệt được Liêu, lại xâm phạm nước Tống. Đế nhường ngôi cho Thái tử, Thái tử tôn Đế làm thái Thượng hoàng, bị quân Kim đưa về bắc, giáng phong làm làm Thiên Thủy quận vương, mất ở Ngũ quốc thành. Niên hiệu Kiến Trung Tỉnh Quốc một năm, Sùng Ninh năm, Đại Quán bốn năm, Chính Hòa bảy năm, Trùng Hòa một năm, Tuyên Hòa bảy năm.

 

Tân Tỵ: Kiến Trung Tỉnh Quốc năm đầu

Đại Liêu: Càn Thống năm đầu Thiên Tộ lên ngôi

Tây Hạ

 

Liêu: Thiên Tộ lên ngôi, húy Diên Hy, là cháu của Đạo Tông, con của Tần Chủ Nguyên Cát, tự xưng là Thiên Tộ Hoàng Đế. Ông hoang dâm vô đạo, cuối cùng đất nước bị diệt vong.

Nhữ Chân: Dương Cát Thái sư mất trong năm này, con là A Cốt Đả lên ngôi.

Tục Đăng Lục: Mùa Thu, rằm tháng tám, Thiền sư Phật Quốc Duy Bạch chùa Pháp Vân, Biện Kinh tập hợp cơ duyên Tông Sư của các Thiền phái thành Tục Đăng Lục ba mươi quyển dâng Đế. Đế tự tay ban cho bài tựa. Trong ấy ghi: "Xưa Thích-ca Như Lai xuất thế, được Phật Nhiên Đăng thọ ký, sinh trong vương cung Tịnh Phạn, đưa tay chỉ trời đất, cơ duyên ấy rõ ràng ai cũng biết. Ngài dạo chơi bốn cửa, quán sát già bệnh, nên huyễn duyên liền tịch. Đến khi giảng đạo ở Kê Viên, Thứu Lĩnh, vô biên cảnh giới liền hiện ngay đầu sợi lông, vô lượng quyển kinh liền hiện ngay đầu mảy trần. Phía Tây bao trùm Thiên Trúc, phía Đông chảy tràn Chấn Đán, biên tập thành sách. Thánh giáo của một thời tuy truyền cho Khánh Hỷ, niêm hoa vi tiếu thì Chánh pháp Nhãn tạng chỉ phó chúc cho Ẩm Quang. Đạt-ma từ tây sang mới thật là Sơ Tổ. Sự truyền thừa từ hai mươi tám Tổ tây Ấn đến sáu Tổ Đông độ lại đến Tào Khê. Từ đó đạo ở Song Lâm càng rạng rỡ, dòng pháp tuôn chảy, từ Nam Nhạc, Thanh Nguyên trở xuống phân thành năm tông. Mỗi tông đều có môn phong ứng cơ tiếp vật. Tuy kiến lập không đồng nhưng hội quy chỉ có một, đều là tên nhọn cùng bày ra, roi ảnh cùng thi thiết, tiếp vật lợi sinh, khải ngộ rất nhiều. Nguồn phái rộng sâu, cành lá tươi tốt, nhưng chỉ có hai tông Lâm Tế và Vân Môn là thịnh hành nhất thiên hạ. Trẫm nắm giữ Thiên mệnh, gầy dựng đất nước, khâm ngưỡng Nghệ Tổ mở rộng Độ Môn ở Miên Ngụ, Thái Tông xiển dương bí nghĩa ở Phu Thiên, Chương Thánh truyền đăng nơi Cảnh Đức, Vĩnh Chiêu quảng đăng nơi Thiên Thánh, đều hoằng hóa chân phong, trợ giúp thần hóa nhằm thành tựu sự thịnh trị vô vi, mà Hoàng Thần Khảo còn hưởng phước không tông. Năm Nguyên Phong năm thứ ba, xuống chiếu cho chùa Đại tướng quốc dựng thêm hai chùa Thiền lớn, mở rộng Tuệ Lâm phía Đông, dựng thêm Trí Hải phía tây. Trong năm Nhâm Tuất, việt quốc Đại trưởng công chúa và tập khánh quân tiết độ quán sát lưu hậu phò mã đô úy Trương Đôn lễ thỉnh, lại dựng thêm Pháp Vân Thiền tự ở phía Nam quốc đô, vì thế Tổ đạo sáng rỡ, Tòng lâm cực thịnh. Học giả khắp nơi, ai mến mộ Thiền thì vân tập ở Thượng Đô. Nay Đôn lại thỉnh trụ trì chùa này là Thiền sư Phật Quốc Duy Bạch thám xét Tối Thượng thừa, tỏ rõ Đệ nhất nghĩa, nhiều lần được mời vào cung, ba phen lên tòa thuyết giảng, tuyên dương diệu chỉ, khéo hợp lý mầu. Xưa Thế Tôn thuyết giảng kinh Pháp Hoa, khai mở tướng lông trắng giữa chặng mày, quang minh chiếu soi một vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Di-lặc thưa hỏi, Văn-thù quyết nghi, đó gọi là Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật vốn hiện điềm lành sáng rỡ như thế. Người trì kinh này có Diệu Quang Pháp Sư, người chứng kinh này có Phổ Minh Như Lai. Nay dùng hai chữ Tục Đăng không ngoài hàm ý đèn đèn nối nhau, quang quang hỗ nhập. Ôi! Viên chứng biển giác vốn bao hàm cả mười phương, sinh diệt bóng bọt liền trầm luân trong ba cõi. Từ sáng tỏ mà trần trần phát trí, thức vọng theo nhau liền rơi vào luân hồi, thật đáng thương thay! Nếu hồi quang soi chiếu lại bên trong, phát chân về nguồn thì chính bộ Lục này vậy. Chỉ thẳng tánh tông, đơn truyền tâm ấn, được ngay trong chớp mắt, dâng ngay khi mở lời, đưa tay thì nâng cả thế giới Diệu Hỷ, đàn chỉ thì hiện lầu các trang nghiêm, thần thông diệu dụng thật không thể nghĩ bàn vậy. Vui vì đại chúng cùng kết thắng duyên, xa lìa bến mê, thẳng lên bờ giác. Ấy là tấc lòng thành của Trẫm vậy. "

Thiền sư Phật Quốc húy Duy Bạch, họ Nhiễm, sinh ở phủ Tỉnh Giang, nối pháp Thiền sư Viên Thông Pháp Tú, Tú nối pháp Thiên Y Nghĩa Hoài, Hoài nối pháp Tuyết Đậu Trùng Hiển.

 

Nhâm Ngọ: Sùng Ninh năm đầu

Đại Liêu: Thiên Tộ lên ngôi. Càn Thống năm thứ 2

 Nhữ Chân: Năm đầu của A Cốt Đả

Tây Hạ

 

Tống: Ban một bức thư hiệu ứng thiên hạ. Những bậc danh tăng thạc đức từ trước đến nay nếu chưa có tên Thụy thì các quan sở thuộc phải lập tức tâu lên để Đế ban cho Thụy hiệu, hạ chiếu cho thiên hạ dựng chùa Sùng Ninh ở Quân châu, sau đó đổi thành chùa Thiên Ninh. Đến Cao Tông đổi chùa Báo ân thành chùa Quang Hiếu.

 

Quý Mùi: Sùng Ninh năm thứ 2

Đại Liêu: Càn Thống năm thứ 3

Nhữ Chân: Năm thứ 2

Tây Hạ

 

Tống: Mùa hạ tháng 4, ban Thụy cho Đại Sư Từ Vân Tuân Thức ở chùa Thiên Trúc, Hàng châu là Pháp Bảo Đại Sư. Pháp Sư Phạm Trăn ở Nam Bình, thụy là Thật Tướng Pháp Sư. Luật sư Trừng Chiếu ở núi Chung Nam, thụy là Pháp Tuệ Đại Sư.

 

Giáp Thân: Sùng Ninh năm thứ 3

Đại Liêu: Càn Thống năm thứ 4

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 3

Tây Hạ

 

Lậu Trạch Viên: Mùa xuân tháng hai, Tống đế hạ chiếu cho các châu huyện trong thiên hạ lập ra Lậu Trạch viên để an táng khách tha phương không nơi nương tựa.

Ngự Tán Răng Phật: Mùa hạ, mồng năm tháng năm, Tống đế rước răng Phật Thích-ca ở chùa Đại Tướng Quốc vào trong cung cúng dường. Răng Phật để trong bình thủy tinh kín, xá-lợi tuôn ra như mưa. Đế dùng kệ tán:

Đại Sĩ Thích-ca Văn Hạt bụi trong hư không Có cầu liền cảm ứng Cõi nào chẳng phân thân Ngọc sáng đập chẳng nát Kim Cang luyện mới hoài Con nay cung kính lễ Nguyện cứu khắp mọi loài.

Thiền sư Pháp Diễn: Mùa hạ, ngày hai mươi lăm tháng sáu, Sư thượng đường từ biệt đại chúng rồi quy tịch. Sư họ Đặng người Miên Châu, nối pháp Bạch Vân Thủ Đoan, Đoan nối pháp Dương Kỳ Phương Hội, Hội nối pháp Từ Minh Sở Viên, thuộc đời năm thứ chín tông Lâm Tế. Nối pháp của Sư có Phật Quả Viên Ngộ Khắc Cần, Phật Giám Tuệ Cần, Phật Nhãn Thanh Viễn. Đời gọi họ là Tam Phật. Nối pháp Pháp Viễn có Hoàng Long, Mục Am Trung, nối pháp của Trung có Phổ Am Bồ-tát Ấn Tiêu.

Long Môn Tam Tự Tỉnh: Thiền sư Phật Nhãn Thanh Viễn ở Long Môn hằng ngày suy nghĩ ba điều để cảnh tỉnh mình. Một là thọ mệnh của thân này như bóng câu qua khe hở, đâu rảnh để vọng tình làm việc tạp nhạp, muốn hưng thịnh Thích chủng phải tiếp nối môn phong, quán sát kỹ Tiên tông là tiêu cách gì. Hai là đạo nghiệp chưa thành, cách Thánh càng xa, thầy hay bạn tốt không thể rời bỏ, tự mình tinh tấn, nhớ Phật ân đức, chỉ mình tự biết, không thối thất đại tâm. Ba là báo duyên hư huyễn, đâu thể cưỡng cầu, đời người mấy lúc, tùy thuận cảnh duyên, khổ vui thuận nghịch, đạo ở trong ấy, động tĩnh lạnh nóng, tự thẹn tự hối.

 

Ất dậu Sùng Ninh năm thứ 4

Đại liệu Càn Thống năm thứ 5

Nữ Chân A Cốt Đả năm thứ 4

Tây Hạ

 

Tống: Mùa thu tháng tám, đúc xong Cửu Đỉnh, soạn nhạc lấy tên là Đại Thạnh.

 

Bính Tuất: Sùng Ninh năm thứ 5

Đại Liêu: Càn Thống năm thứ 6

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 5

Tây Hạ

Đinh Hợi: Đại Quán năm đầu

Đại Liêu: Càn Thống năm thứ 7

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 6

Tây Hạ

 

Tống: Đế hạ chiếu cho Thiền sư Đạo Giai ở Thập Phương Tịnh Nhân Thiền viện thuộc Tả Nhai làm trụ trì chùa Thiên Ninh. Khai Phong phủ doãn Lý Hiếu Thọ tâu xin ban cho ngài y tía và hiệu là Định Chiếu Thiền Sư. Ngài tạ ân xong, dâng biểu chối từ không dám trộm nhận ân sủng. Đế lại sai Hiếu Thọ cầm thơ có đóng ngọc tỷ đến phủ dụ, ngài nhất định không chịu. Đế nổi giận bắt ngài giam vào ngục. Hữu Ty hỏi: "Trưởng lão có bệnh ư? Nếu bệnh thì miễn tội!" Đạo Giai đáp: "Bình sinh tôi chưa từng nói dối, nay lẽ đâu cẩu thả nhận mình bệnh. "

Ngài vui vẻ chịu phạt. Năm sau được tha, ngài liền dựng am ở Hồ Thượng, Phù Dung. Người học mỗi ngày một đông, Đế ban chỗ ngài ở là Hoa Nghiêm Thiền tự. Ngài họ Thôi, sinh ở Nghi Châu, ban đầu vân du đến kinh đô, ngụ ở chùa Thuật Đài, thi Hoa Nghiêm được độ làm tăng, đắc pháp và nối pháp với Thiền sư Thanh ở núi Đầu Tử. Ngày mười bốn tháng năm niên hiệu Trung Hòa năm đầu, ngài quy tịch. Đan Hà Tử Thuần ở Đặng châu nối pháp. Thuần có hai đệ tử là Chân Hiết Thanh Liễu và Thiên Đồng Chánh Giác. Cao Tông Thiệu Hưng năm thứ hai mươi bảy, Thiên Đồng ra từ biệt Minh Việt quận hầu, mồng mười tháng mười, Sư trở về chùa. Đến ngày mười một, viết thư nhờ Đại Tuệ Tông Cảo làm chủ hậu Sự, Sư ném bút quy tịch. Răng tóc và đạo cụ của ngài đều phát xá-lợi, môn nhân an táng toàn thân Sư ở Đông cốc.

 

Mậu Tý:

Đại Liêu:

Nhữ Chân:

Tây

Đại Quán năm thứ 2

Càn Thống năm thứ 8

A Cốt Đả năm thứ 7

Hạ

 

Tống: Sái Kinh được phong chức Thái sư. Đồng Quán được gia phong chức tuyên phủ của các lộ như: Vũ, Khang, Hy, Hà. Nội thị lộng hành từ đó. Tháng năm, Gia Phong Quán làm Kiểm hiệu Tư không, đổi qua trấn ở Thái Ninh. Từ đó, Quán cậy có công nên đặt ra quan văn, tướng võ, không coi triều đình ra gì.

Triết Tây, Hồ châu có Thiệu Tông Ích mổ con trai, trong ấy có hạt châu hiện ra tượng A-la-hán đắp y để trần vai phải, nghiêng đầu nhìn về bên trái, y phục đủ cả. Tăng tục vừa thấy vừa sợ vừa mừng, họ đem về thờ ở chùa Từ Cảm Thiên Thai ở Thành Nam. Chùa này gần khe suối, trong năm Kiến Viêm, hiến sứ Dương Ứng Thành lấy việc này làm chuyện vui nói với khách, bất giác con trai ấy nhảy ra khỏi chậu, lủi tuốt xuống suối. Về sau, suối cạn, cát trắng xóa, nhờ vậy bắt lại được, dựng lầu gác an trí nó.

Cúng Tăng nhận được vàng: Luyện Đường Cư sĩ Hồng Khánh Thiện giữ chức Giang Đông Sứ Tiết. Đêm nọ, ông qua đêm ở Mai Sơn, Trì châu. Thiền sư Ngu Khâu Tông đón ông về chùa đàm đạo suốt đêm. Hồng hỏi:

Việc cúng dường, ý chỉ nằm ở kinh nào? Tông đáp:

Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Trong ấy ghi: "Cúng thức ăn cho một trăm người thường, không bằng cúng cho một người thiện. Cho đến cúng cho ngàn ức ba đời chư Phật không bằng cúng cho một người vô trụ vô tác vô chứng". Bởi vô tu chứng thì chánh niệm riêng thoát, nên cúng dường cho người này thì công đức vượt hơn cúng dường chư Phật. Bởi vậy những bậc tiền bối hầu như ai cũng biết ý chỉ này.

Hồng hỏi:

Những người đó là ai? Tông đáp:

Gần đây có Tần Thiếu Du khi bị biếm đến Đằng châu có làm bài Vãn Chương, trong đó có câu: "Ai là người cúng cho Tăng, Đạo. " Đông Pha nghe vậy liền gởi thư và tặng ông năm lạng bạc, dặn Phạm Nguyên Trường đem cúng dường Tăng, cầu phước cho Tần Thiếu Du. Đến khi Đông Pha về Bắc, đi đến Tỳ Lăng thì bệnh nặng, Thái học sinh góp tiền cúng dường Tăng ở chùa Tuệ Lâm, Đông Kinh. Tô Hoàng Môn soạn Đông Pha Mộ Chí, đầu tiên ghi lại việc này.

Hồng hỏi:

Việc nhận được vàng có gì làm bằng chứng? Tông đáp:

Ông lẽ đâu không thấy nai kêu, yến họp bầy, bầy tôi mến khách" trong Mao Thi, Tiểu Nhã? Đãi cho ăn uống, lại còn ban cho gấm lụa đến mấy sọt, mấy thùng, nhằm biểu lộ hậu ý. Bởi chỉ cho ăn uống chưa đủ gọi là tận kính mà phải tặng thêm gấm lụa vàng bạc để tỏ lòng ân cần. Thế nên trong sớ văn cúng dường trai tăng của Tụng Đinh Tấn Công viết rằng: "Phật buông đại trí, Đạo dưỡng quần sinh, phàm muốn cứu cơn nguy ách, tất phải đặt mình trong hoàn cảnh đó. Cho nên bạch y hưởng lộc, nắm đến quyền cao Tể tướng, Đế vương ban ân là nhờ hưởng ân cao của Tiên hoàng. Áo cổn của Bổ Trọng Sơn thẳng thắn vừa lòng, bát canh của Hòa Phó Thuyết khó vừa miệng người ta. Từng ở nơi ngủ nghỉ chợt mộng thấy Thanh dung (Phật) chỉ dạy rõ ràng, khiến tâm trần nhưng liền tỏ ngộ. Nghi dung rạng rỡ, hận mình là mắt phàm nên nào đâu biết. Bởi vậy, Trí Vĩnh trọn đời cẩn thận nhưng cuối cùng bị hại xa, đến khi hại tới, chẳng ngờ lại thành nạn, phải làm tội nhân bị giải lên Tây kinh, nhưng cảm được Thánh ân liền được tha tội. Đến như Nam Duệ một lòng tận hiếu trung liệt, lỗi tự mình chuốc, oan nghiệt đâu phải do ai gây. Nhìn gia nghiệp một đời tan hoang, muôn dặm ngược xuôi, biết tìm ai che chở. Đã làm một bề tôi phụ quốc vong ân, mà tài kinh bang tế thế trọn đời cũng bị mai một. Lộ trình khởi đầu từ đất Tương, Đạo phát xuất từ Linh Sơn, ngay trong thân phiền não này chợt nhận được đồ chúng thanh tịnh, mới hay giàu có khó bảo tồn được trước sau, vinh hiển giàu sang tột bực đâu bằng vị ngon một bát canh. Đem thân quy mệnh, cung kính kiền thành, cúng dường bạch kim, sắm sửa trai nghi, dâng cúng cao Tăng thạc đức là mong báo đáp ân từ cao sâu, bảo hộ chúng Tăng chứ không có tâm gì khác. Cuối mong trời soi đến Nam quyến, ân trùm khắp Hạ lâm, tha muôn dân nơi biên địa như quỷ hưởng phước nơi trần gian, ban lộc nơi Trung hạ, suối vàng cũng được cảm ân sâu, nhất tâm đầu thành, trọn phần pháp lực".

Hồng nói:

Trước đây tôi đọc trong Danh Thần truyện, chỉ thấy hai câu chuyện áo cổn của Bổ Trọng Sơn và bát canh của Tri Phó Thuyết mà thôi, nay mới nghe đầy đủ, không ngờ họ chí thành cầu nguyện đến như thế (Theo Cảm Sơn Vân Ngọa Kỷ Đàm).

Cao tăng Minh Toản ở chùa Hoành Nhạc, tính vốn lười biếng, lại tham ăn. " Lý Bí lấy làm lạ đến yết kiến ngài. Ngài khêu đống lửa lấy củ khoai chuối đưa cho Bí một nửa, Bí nói: "Người này sẽ giữ chức Tể tướng trong mười năm!".

 

Kỷ Sửu: Đại Quán năm thứ 3

Đại Liêu: Càn Thống năm thứ 9

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 8

Tây Hạ

 

Tống: Pháp sư Từ Biện: Húy Tùng Gián đệ tử nối pháp đời năm thứ hai của Tứ Minh Pháp Trí. Từ năm Nguyên Phong, Nguyên Hựu đến Đại Quán, ngài trụ ở Thượng Trúc cả thảy hai mươi bốn năm sau đó lui về ở ẩn tại Thọ Thánh, Xử Châu. Ngày hai mươi bảy tháng mười hai năm này, ngài quy tịch. Đệ tử nối pháp có mười người. Trong đó Trạch Khanh, Tề Bính ở Tây Triết hoằng hóa thịnh nhất (Theo Giáo Lạc Hạnh Lục).

 

Canh Dần: Đại Quán năm thứ 4

Đại Liêu: Càn Thông năm thứ 10

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 9

Tây Hạ

 

Tống: Tháng sáu cử Trương Thương Anh vào chức Tể tướng. Lúc này trời đại hạn đã lâu, đêm ấy bỗng nhiên mưa lớn. Đế tự tay viết hai chữ Thương Anh thật lớn và ban cho ông. Tháng tư năm sau, ông thôi giữ chức. Tuyên Hòa năm thứ tư, ông mất, hiệu là Vô Tận Cư Sĩ. Ngày ông trụ ở Kinh Nam thường tự học, tự tu, lãnh ngộ ít nhiều. Viên Ngộ đi thuyền đến gặp ông, hai người luận bàn ý chỉ của Hoa Nghiêm. Viên Ngộ nói:

Cảnh giới hiện lượng của Hoa Nghiêm, sự lý đều toàn chân. Đầu tiên không có giả pháp, nên một tức là vạn, tỏ vạn thành một, một lại một, vạn lại vạn, mênh mông không cùng. Tâm, Phật, chúng sinh ba nhưng không sai biệt, co duỗi tự tại, vô ngại viên dung. Đó là yếu chỉ cực tắt, không bị gió thổi sóng cuộn.

Vô Tận nghe xong, bất giác chạy sát đến ngài. Viên Ngộ liền hỏi: "Đến chỗ này thì ý Tổ Sư tây lai giống hay khác?" Ông đáp:

Giống.

Viên Ngộ nói: Chẳng dính dáng!

Ông tỏ vẻ giận. Viên Ngộ nói: Ông không thấy. Vân Môn nói: "Núi sông đại địa chẳng mảy may lỗi lầm". Đây vẫn là câu chuyển ngữ, hễ chẳng thấy một sắc, đó mới là bán đề, cần phải biết có hướng thượng toàn đề thời tiết. Đức Sơn, Lâm Tế kia chẳng phải toàn đề đó ư?

Ông nghe vậy gật đầu. Sáng sớm hôm sau, hai người cử lại sự pháp giới, lý pháp giới, đến lý sự vô ngại pháp giới, Viên Ngộ lại hỏi:

Đến chỗ này có thể nói thiền được không?

Ông đáp: "Chính là lúc nói Thiền". Viên Ngộ cười nói: "Không đúng! Đây chính là ở trong pháp giới lượng, bởi vì pháp giới lượng chưa diệt. Nếu đến sự sự vô ngại pháp giới thì pháp giới lượng mới diệt, lúc đó mới chính là lúc nói Thiền. Thế nào là Phật? Que phân khô! Thế nào là Phật? Ba cân mè! Cho nên Chân Tịnh có bài kệ:

Sự sự vô ngại, như ý tự tại
Tay cầm đầu heo, miệng tụng tịnh giới
Bước khỏi phường dâm, chưa trả tiền rượu
Ngay ngã tư đường mở toang bị vải.

Vô Tận nghe xong khen: "Hay thay! Lời này đâu dễ được nghe!" La Hồ tán rằng: "Ôi! Viên Ngộ dung thông Tông giáo đến như vậy, nếu chẳng phải tông, thuyết đều thông thì làm sao nói được như thế. " (Theo Oánh Trọng Ôn La Hồ Lục).

Thiền sư Viên Ngộ: Sư họ Lạc, húy Khắc Cần, người Bành châu, ngụ chùa Chiêu Giác, phủ Thành Đô, Tây Xuyên. Gia thế Sư theo đạo Nho, lúc nhỏ mỗi ngày đọc thuộc cả vạn lời, nhân đến chùa Diệu Tịch dạo chơi, thấy kinh Phật liền cảm kích và xuất gia. Sư được ngài Tự Tỉnh thế phát, theo Pháp sư Văn Chiếu học thông giảng thuyết, theo ngài Mẫn Hạnh học Lăng-nghiêm. Sư rời đất thục, đầu tiên yết kiến Thiền sư Ngọc Tuyền, kế đến y chỉ Thiền sư Kim Loan Tín, Đại Quy Triết, Hoàng Long Tổ Tâm, Đông Lâm Thường Tổng. Ai nấy đều khen ngợi Sư. Hối Đường nói: "Ngày sau cả tông Lâm Tế đều thuộc về ông. " Sau cùng Sư đến Kỳ châu, yết kiến Thiền sư Pháp Diễn ở núi Ngũ Tổ, lãnh hội hết yếu chỉ. Lúc này là năm Sùng Ninh, Sư về lại quê nhà. Thành đô súy hàn lâm Quách Tri Chương thỉnh Sư khai pháp ở chùa Lục Tổ rồi chùa Chiêu Giác. Đầu năm Chính Hòa, Sư gác mọi chuyện lại vân du đến Thiển Nam. Lúc này Vô Tận Cư Sĩ Trương Thương Anh ngụ ở Kinh Nam. Sư đến gặp cùng luận bàn Hoa Nghiêm, Vô Tận kính tín đảnh lễ và giữ Sư ở lại Bích Nham. Sau Sư dời qua Đạo Lâm. Khu mật Đặng Tử Thường tâu Đế xin ban cho Sư y tía và hiệu. Đế xuống chiếu thỉnh Sư trụ ở Tưởng Sơn, Kiến Khang, ban sắc lệnh bổ nhiệm Sư vào chùa Vạn Thọ ở Thiên Ninh, Biện kinh. Đế triệu Sư đến ban thưởng rất hậu. Đầu năm Kiến Viêm, Sư dời về Kim Sơn ở Trấn Giang. Gặp lúc Cao Tông xa giá đến Dương châu, triệu Sư vào ứng đối, ban cho Sư hiệu Viên Ngộ Thiền Sư. Sư dời về Vân Cư ở Giang Tây, được thời gian lâu lại về lãnh chúng ở Chiêu Giác. Tháng tám năm Thiệu Hưng năm thứ năm, đời Cao Tông, Sư có chút bệnh, ngồi kiết già, viết kệ từ biệt chúng rồi ném bút thị tịch. Môn nhân trà-tỳ, lưỡi và răng của Sư không cháy, xá-lợi ngũ sắc vô số, tháp được dựng bên cạnh chùa Chiêu Giác, Đế ban thụy Chân Giác Thiền Sư. Sư nối pháp Ngũ tổ Pháp Diễn, Diễn nối pháp Bạch Vân Thủ Đoan, Đoan nối pháp Dương Kỳ Phương Hội, Hội nối pháp Từ Minh Sở Viên đều thuộc dòng Lâm tế.

 

Tân Mão: Chính Hòa

Đại Liêu: Thiên

Nhữ Chân: A Cốt Đả

Tây Hạ

năm đầu

Khánh năm đầu

năm thứ 10

 

Nhâm Thìn: Chính Hòa năm thứ 2

Thiên Khánh năm thứ 2

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 11

Tây Hạ

 

Tống: Thái sư Sở Quốc Công Sái Kinh rất khoái ăn thịt chim thuần, thường nuôi sẵn trong lồng nướng ăn. Ông từng mộng thấy mấy ngàn chim thuần đến trước mặt ông chửi mắng. Có một con lên tiếng:

Cơm đầy trong bát ông
Thịt đầy dưới đũa ông
Bát canh mấy trăm mạng
Sống chết xoay vòng vòng
Xem ông thọ ngàn tuổi
Họa phước nằm bên hông.

Sái kinh hoảng sợ. Mùa thu tháng chín, Tống đế đổi chức Thái tể, Thiếu tể thành Tả Hữu bộc xạ.

 

Quý Tỵ: Chính Hòa năm thứ ba. Mùa xuân tháng ba, Vương An Thạch được tiến cử làm Thư Vương

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 3

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 12

Tây Hạ

 

Tống: Đại sư Tịnh Trí Tuệ Quang trụ trì Diệu Tuệ ni tự ở Đông Đô. Ngài họ Phạm, sinh ở Thành Đô. Người soạn sách lấy hiệu Đường Giám chính là thúc phụ của ngài. Năm nay, Đế từ trong cung mang pháp y ca-sa ban cho các vị Trưởng lão, Thiền sư, ngài cũng tham dự. Nhân đó, Đế thỉnh các vị thuyết pháp, ngài được lên tòa sau cùng. Lên tòa hỏi đáp xong, ngài quay lại nói với đại chúng: "Nếu luận về nói thiền nói đạo thì các đại Thiền sư đã nói hết rồi, đến chỗ này bảo Sơn tăng nói gì đây chứ! Các ông lẽ đâu không thấy Tiên đức nói: "Ngàn thứ muôn lời tỏ bày là muốn dạy cho các ông thường đừng mê muội. " Tuy là như thế nhưng rốt cuộc phải làm thế nào?" ngài liền đội pháp y lên đầu. Giây lâu nói: "Áo nạp che đầu thôi muôn việc, lúc này Sơn tăng chẳng hiểu gì!" Nói xong, ngài xuống tòa. Khi đó thính chúng đến hơn một vạn Tăng tục, không ai không thán phục ngài. Vì vậy, xá nhân Hàn Tử Thương viết bài minh trên tháp, tôn xưng ngài là bậc nghe nhiều, giỏi biện. Tháp được dựng ở cao nguyên Thánh Tướng thuộc Tây Sơn, Dự châu.

Tống: Tháng tư, ở Gia châu Tây Thục đến tâu: "Gió đánh gãy đại thụ khô, trong đó có vị Tăng đang nhập định, râu tóc móng tay móng chân quấn kín quanh thân! Đế sai đưa về kinh đô. Mùa thu tháng tám, nghinh vào cấm cung. Dịch kinh viện Tam tạng Đại sư Kim Tổng Trì đánh khánh vàng, người ấy nghe liền xuất định, nói: "Tôi là Tuệ Trì em của Pháp sư Tuệ Viễn ở Đông Lâm, nhân vân du núi Nga My, vào nhập định trong gốc cây này, Viễn Công vẫn mạnh khỏe chứ?" Tam tạng đáp: "Viễn Công là người thời Đông Tấn quy tịch đã bảy trăm năm rồi!" Tuệ Trì nghe vậy không nói gì. Tam tạng hỏi tiếp: "Nay ngài muốn về đâu?" Trì đáp: "Huyện Trần Lưu". Nói xong, ngài nhập định lại. Đế theo lời, an táng ngài ở huyện Trần Lưu. Đế sai thêu tượng ngài, ban hành khắp thiên hạ, ngự chế ba bài tán:

Bảy trăm năm trước hiện cơ phong
Nhập yên trong định mấy ai hay
Khác nào quảy dép về Tây đó
Sinh tử lẽ đâu vướng thân này,
Ẩn ở núi khe ẩn cả thân
Thiên hạ không ẩn đạo tiến gần
Đâu chỉ Trang Chu thôi nghĩ nghị
Trong cây chẳng phải phụ hậu nhân,
Thân hữu tình chẳng phải vô tình
Nhập thân trong định dứt sở năng
Hiểu được Bồ-đề bổn vô thụ
Chẳng cần lao nhọc hỏi Tuệ Năng.

 

Giáp Ngọ: Chính

Đại Liêu: Thiên

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 19. Mùa thu

Tây Hạ

Hòa năm thứ 4

Khánh năm thứ 4

tháng tám phản nước Liêu

 

 

Nhữ Chân: Tức nước Kim, vốn người Tân La, lấy hiệu là Hoàng Nhan thị. Hoàng Nhan giống như Hán gọi là Vương. Họ nhiều đời làm tù trưởng, làm quan cho Đại Liêu ngót hai trăm năm, được thế tập chức Tiết độ sứ. Từ Kham Phước xuống đến đời năm thứ tư, họ lấy con gái của Nhữ Chân sinh được hai người con. Con trưởng là Hồ Lai, Hồ Lai sinh được ba con. Con trưởng là Hạch Lý, con kế là Bồ Thích Thúc, con út là Dương Cát sinh được ba con, con trưởng là A Cốt Đả, con thứ là Ngô Khất Mã, con út là Tư Cải. Tư Cải sinh ra Niêm Hãn. Dòng Nhữ Chân đến Dương Cát Thái sư thì mới xưng hùng các bộ tộc. Năm Bính Tý, Tiêu Giải Lý cướp phá các bộ tộc, Liêu vây bắt bèn chạy đến địa phận của Sinh Nhữ Chân. Liêu lệnh cho Dương Cát phải đánh giết. Dương Cát chỉ chém đầu Giải Lý, sai con trưởng dâng thủ cấp cho Liêu. Từ đó, Dương Cát trong lòng cậy có công, âm mưu phản nghịch. Dương Cát chết. Năm mà A Cốt Đả lên kế ngôi cũng vừa lúc Liêu chủ Thiên Tộ ngang ngược tàn ác, trên dưới hoang dâm. Thừa Tướng Lý Nghiễm, Tiêu Phụng Tiên tham lam vô độ. A Cốt Đả thừa hưởng Sự giàu sang sung túc của cha là Dương Cát nên binh mạnh, ngựa khỏe, bèn có y đồ mưu phản. Trước đây, địa phận của Nhữ Chân đông bắc tiếp giáp với Ngũ quốc, phía Đông của Ngũ quốc nối liền biển lớn. Nơi đây sản sinh loài chim ưng từ biển bay vào. Người ta thường gọi nó là Hải đông thanh. Giống chim này tuy nhỏ nhưng nhanh nhẹn lạ thường, có thể bắt sống được ngỗng vịt. Móng chân nó cứng sắc hơn những loài chim khác. Người nước Liêu rất thích. Thiên Tộ lên nối ngôi, bắt triều cống còn hà khắc hơn, bắt dân ở đây phải bắt hết loài chim ưng để dâng hiến. Nhữ Chân phải đến Ngũ quốc đánh nhau mới bắt được. Dân chúng oán thán. Các tướng soái ở biên cảnh ngày nào cũng phát hịch sai người đến đòi lễ vật. Các bộ tộc oán hận, muốn phản nước Liêu, ngầm cấu kết với A Cốt Đả dấy binh làm loạn. Đến mùa thu tháng tám năm Giáp

Ngọ, A Cốt Đả bắt đầu khởi binh, dùng Niêm Hãn,

Hồ Xá làm mưu sĩ; Ngân Mộc Cát; Di Liệt Lâu, Túc Xà Mẫu v.v... làm tướng soái, đem hai ngàn giáp mã đánh vào phủ Ninh Giang ở phía Đông Hỗn Đồng Giang. Thiên Tộ sai tướng đem binh đi chặn nhưng đều thất bại, cuối cùng mất Ninh Giang châu. A Cốt Đả đang dẫn binh đánh tới. Mùa thu tháng tám năm Ất Mùi, Liêu chủ Thiên Tộ hạ chiếu thân chinh. Tộ dẫn quân đi từ Trường Xuân. Đêm nọ, gươm giáo trong quân bỗng phát sáng, khi ấy Quách Sùng Thao bảo: "Lửa ra binh vào đó là điềm phá giặc. " Thiên Tộ nghe nói vui mừng tin ngay. Tháng mười một, Tộ dẫn binh đánh với Nhữ Chân nhưng bị đại bại, một ngày một đêm chạy đến năm trăm dặm, đành lui về giữ Trường Xuân. Nhữ Chân thừa thắng thôn tính Bột Hải, Liêu Dương v.v... cả thảy năm mươi bốn trường châu. (Trường Bạch Sơn, Hỗn Đồng Giang thuộc Hàm Bình phủ, Khai Nguyên lộ, Liêu Dương ngày nay).

 

Ất Mùi: Chính Hòa năm thứ năm. Tháng hai, lập Định Vương Tương làm hoàng Thái tử

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 5

Nhữ Châu: A Cốt Đả năm thứ 14

Tây Hạ

 

Tống: Tháng tư, Pháp sư Minh Trí Trung Lập ở viện Diên Khánh, Minh châu quy tịch. Lập nối pháp của Thần Trí Giám Văn. Văn nối pháp của Quảng Trí Thượng Hiền. Ba đời đều kế thế trụ trì Tổ Đình Diên Khánh, đến Trung Lập thì đạo pháp càng thịnh. Triều Thuyết Chi viết bài minh trên tháp. (Theo Tổ Đình Tháp Minh).

Tống: Pháp sư Vĩnh Đạo ở viện Hương Tích, Tả Nhai được Đế ban hiệu Bảo Giác Đại Sư (Theo Đạo Tam Tạng Pháp Sư truyện).

Thiền sư Tử Tâm: Sư họ Vương, húy Ngộ Tân, người Thiều châu, ngụ ở núi Hoàng Long, Hưng Long phủ. Lúc sinh ra đã có cục thịt màu tía nổi cao trên vai trái của Sư, vai phải để trần, giống như đắp y Tăng-già-lê. Lớn lên, Sư xuất gia với ngài Đức Tu ở viện Phật-đà, thọ Cụ túc, du phương yết kiến Thiền sư Hối Đường Tổ Tâm, lãnh ngộ pháp yếu, nối pháp Hối Đường. Lúc này, ngày mười ba tháng mười hai năm Ất Mùi, Sư thị tịch. Môn nhân trà-tỳ, xá-lợi ngũ sắc vô số. Về sau có người ngang qua nơi trà-tỳ ấy nhặt được rất nhiều xá-lợi dựng tháp Sư ở phía Bắc trượng thất của Hối Đường.

Thiền sư Trạm Đường Văn Chuẩn: Sư họ Lương, húy Văn Chuẩn, người Hưng Nguyên, ngụ ở Bột Đàm, phủ Long Hưng. Sau khi thọ Cụ túc, Sư du phương yết kiến Thiền sư Chân Tịnh Văn, hầu hạ mười năm. Một hôm, Sư dùng gậy khơi mương, nước văng lên áo, hoát nhiên đại ngộ. Hiển Mô Lý Cảnh Trực làm Thái thú Dự Chương thỉnh Sư khai pháp ở Vân Nham, rồi dời về Bột Đàm. Đến lúc này, ngày hai mươi lăm tháng mười năm Chính Hòa năm thứ năm, Sư thay áo, nói kệ và thị tịch. Lúc trà-tỳ, tròng mắt, răng, chuỗi hạt của Sư không cháy. Xá-lợi sáng sạch, trong suốt. Môn nhân dựng tháp phía Bắc Nam Sơn. Vô Tận Cư sĩ Trương Thương Anh soạn bia ghi hành trạng. Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo lúc còn làm Thiền khách từng thỉnh Sư. Sư nối pháp Thiền sư Chân Tịnh Văn, Văn nối pháp Hoàng Long Tuệ Nam.

 

Bính Thân: Chính Hòa năm thứ 6

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 6

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 15

Tây Hạ

 

Tống: Mùa thu, mồng một tháng chín, Luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu ở Hàng châu quy tịch, thọ sáu mươi chín tuổi, tăng lạp năm mươi mốt hạ. Môn nhân an táng ngài ở phía tây bắc chùa Linh Chi thụy là Đại Trí. Lưu Đảo viết bài minh trên tháp. Quang Diễn soạn văn bia thuật hành trạng của ngài. Tôn Địch lập bia. Ngài họ Đường, tự Trạm Nhiên, người Dư Hàng. Luật tạng khởi nguyên từ Phật chế, từ Văn-thù về sau chưa sai một chữ. Ưu-ba-ly kết tập không dám thêm một lời. Ba cõi mười phương, trời người, vô lượng Thánh chúng đều cùng phụng hành. Có thể nói giới, luật rất nghiêm. Như lễ nhạc hay việc chinh phạt ở đời đều do Thiên Tử đặt ra, công hầu khanh tướng sĩ đại phu một mực tuân theo. Đến khi đại pháp truyền về Đông, chỉ có Luật là chưa sáng tỏ, người học đánh mất mình. Đường Thái Tông trong năm Trinh Quán, đại Luật sư Trừng Chiếu Đạo Tuyên ở núi Chung Nam Vĩnh Hưng soạn giới sớ, yết-ma sớ sự sao, mở rộng Tứ Phần Luật, hoằng truyền đến bốn trăm năm, gần sáu mươi nhà thích nghĩa. Trong đó, Luật sư Đại Chiêu Khánh Doãn Kham soạn Hội Chánh Ký. Chỉ có bộ này là rốt ráo nhất. Sau cùng Linh Chi Đại Trí Nguyên Chiếu dùng Pháp Hoa để khai mở ý Viên Hiển, soạn Tư Trì Ký. So với Hội Chánh Ký, bộ này tuy có khác nhưng cùng kết quy về một mối, đề cao và làm sáng tỏ nguyên ý của Đạo Tuyên, trên thì hợp với điều Phật chế. Từ đó Hội Chánh Ký và Tư Trì Ký lại chia thành Tông, giống như chẻ cây gậy vàng nhưng không đánh mất bản chất của vàng bởi vì giới thể vô tác lẽ đâu phân chia được ư!

 

Đinh Dậu: Chính Hòa năm thứ bảy. Hạ chiếu đổi Tiết Độ Quán Sát Sứ Lưu Hậu làm Thừa Tuyên Sứ

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 7

Nhữ Chân: A Cốt Đả năm thứ 16

Tây Hạ

 

Lâm Linh Tố: Người Ôn châu, rất giỏi phù chú và Lôi Công pháp. Ban đầu, ông đi lại lung tung ở vùng Túc, Hào, Hoài, Tứ xin ăn khắp chùa, Tăng chúng rất khinh khi. Ông đến Sở châu, đánh nhau với Thích Tuệ Thế, kéo ra kiện tụng ở cửa quan. Quan phủ là Thạch Trọng rất thích ông vì tài nói năng biện luận lanh lợi và đưa ông ra nhà khách của công đường hỏi về thuật Thổ nạp, Thiêu luyện, Phi thăng. Đến lúc này, tháng giếng năm Chính Hòa năm thứ bảy, Trọng dẫn ông về kinh yết kiến Tể tướng Sái Kinh. Sái Kinh dẫn ông đến ra mắt Tống đế. Ông la lớn: "Trên trời có Thần Tiêu Vương Thanh phủ do Trường Sinh đế quân cai quản. Em ông ấy là Thanh Hoa đế quân, đều là con ngọc đế. Kế đó có tả tướng Tiên Bá cùng Thư Phạt Tiên Lại là Chử Tuệ, cả thảy hơn tám trăm quan. Bệ hạ chính là Trường Sinh đế quân, Sái Kinh chính là Tể tướng Tiên Bá còn Tố này chính là Chử Tuệ. " Tống đế vui vẻ tin ngay, ban cho Lâm Linh Tố hiệu Kim Môn Vũ Khánh, dựng Thông Chân Cung cho ông ở. Đế tự gọi mình là giáo chủ đạo quân Hoàng Đế. Tháng hai, đế xuống chiếu cho cả nước đổi Thiên Ninh quán thành Thần Tiêu Vương Thanh Vạn Thọ cung. Nơi nào không có Thiên Ninh Quán thì lấy chùa thay thế. Trong quán dựng tượng Trường Sinh đại đế quân, Thanh Hoa đại đế quân, xây Bảo lục cung đặt ra khoa đạo học. Tuyên Hòa năm đầu, Đế dựng xong hết Cung quán. Tháng mười một, thả Lâm Linh Tố về Ôn Châu rồi giết. (Theo Đông Đô Sự Lược Đế Kỷ).

Thiền sư Linh Nguyên Phật Thọ ở núi Hoàng long, phủ Long Hưng: Sư húy Duy Thanh, đắc pháp với Hối Đường. Đến lúc này, mùa thu ngày mười tám tháng chín, Sư quy tịch, Sự nối pháp Thiền sư Hối Đường Bảo Giác Tâm. Nối pháp của Sư có Tuệ Cổ, Đức Phùng, Thủ Thị đều là đệ tử thượng thủ. Lúc này, Y Xuyên Cư sĩ, Từ Sư Xuyên, Chu Thế Anh, Hồng Câu Phụ đều theo Sư hỏi đạo. (Theo Tấn Đăng Lục).

Thiền sư Phật Giám Trí Hải ở Biện kinh: Sư họ Uông, húy Tuệ Cần, quê ở Thư châu. Từ nhỏ Sư học thông Phật lý, thi cử mà được độ làm Tăng. Nhân đọc kinh Pháp Hoa đến câu: "Phật nói chỉ một sự thật này, nếu hai thì không phải pháp vị chân thật" mà tỉnh ngộ. Sư vào đạo tràng của Ngũ tổ Pháp Diễn, lãnh ngộ pháp yếu và nối pháp. Thư châu Thái thú Tôn Đỉnh Thần thỉnh Sư trụ ở Thái Bình, đạo pháp rất thịnh. Đầu năm Chính Hòa, Đế xuống chiếu thỉnh Sư trụ ở Trí Hải Thiền tự thuộc Biện kinh. Được năm, Sư xin đi. Đế lại xuống chiếu cho Sư trụ ở Kiến Khang Tưởng Sơn. Khu mật Đẳng Tử Thường tâu xin Đế ban y tía và hiệu cho Sư. Đến lúc này, mồng tám tháng chín năm Chính Hòa năm thứ bảy, Sư thượng đường nói: "Tâm ấn của Tổ sư giống như con trâu sắt bằng máy, đang đi ấn liền đứng, đang đứng ấn liền phát cho dù chẳng đi chẳng đứng cũng chưa phải là nơi hành cước của thiền tăng. Vậy đâu là chỗ hành cước của Thiền tăng? Đợi tới tháng mười ta sẽ quyết nghi cho các ông. " Đến mồng tám tháng mười Sư tắm rửa, thay áo, ngồi ngay thẳng, cầm bút viết thư từ biệt một số bạn bè cũ, viết được mấy tờ, Sư dừng bút rồi tịch. Môn nhân trà-tỳ thâu linh cốt xá-lợi, dựng tháp bên trái chùa. Nối pháp của Sư có Thủ Tuẫn. Tuẫn họ Thi, quê Hồ châu, trụ ở Thiên Ninh, Hà Sơn, hiệu là Phật Đăng Thiền Sư. Đến năm Thiệu Hưng năm thứ sáu cũng vào mồng tám tháng mười, Sư quy tịch. Thông Phán Song Hòe Cư sĩ Trịnh Tích, Đãi Chế Dưỡng Không Cư Sĩ Phan Lương Quý theo Sư học hỏi và lãnh ngộ rất nhiều.

 

Mậu Tuất: Trùng Hòa năm đầu

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 8

Đại Kim: A Cốt Đả xưng Đế, niên hiệu Thiên Phụ năm đầu

Tây Hạ

 

Tống Đế: Dựng Thọ Sơn Cấn Nhạc ở Biện Kinh, đến mùa thu tháng bảy năm này hoàn thành, đặt tên là Hoa Dương cung. Tăng Tổ Tú người Lạc huyện, Hán châu, Thục quận, tự Tử Chi, đầu năm Tỉnh Khang đời Khâm Tông từng vân du nơi này, có làm bài ký Hoa Dương cung ghi lại sơ lược những việc ở Đông Đô. Tú từng gom tập yếu chỉ Phật pháp trong cuộc luận nghị của Văn Trung Công (Dương Tu) với Thiền sư Viên Thông Cư Nột làm thành Âu Dương Ngoại Truyện. Hậu Hồ Cư sĩ Tô Tường viết lời tựa. Cao Tông năm Thiệu

Hưng năm thứ hai, đệ tử của Sư là Đàm Vận, Trọng Hoằng gom tập những lời giảng dạy của Sư thành truyện, soạn sớ sao ba quyển, Nhữ Âm Vương Chí lại viết lời tựa nữa. Hữu tướng Ngụy Quốc Công Trương Tuấn cùng viết lời bạt, san định và ban hành khắp nước. Tú soạn Phật Vận Biên Niên Thông Luận, Thống Kỷ. Tổ Tú hiệu là Thạch Thất. Đại Kim: Tức Nhữ Chân. A Cốt Đả lập quốc xưng đế, Liêu Chủ Thiên Tộ ở kinh đô nghe binh của Yên Vương bị bại, quân của Nhữ Chân vào đến Tân châu, Liêu chủ ngày đêm lo sợ. Mùa thu năm ấy, Nhữ Chân lấy hơn năm mươi thành ở phủ Hoàng Long Đông Kinh. Lúc này có Dương Phác, người Thiết châu, Liêu Đông, vốn là bộ tộc lớn ở Bột Hải, đỗ tiến sĩ, nhiều lần giữ chức hiệu thứ lang. Trước đây có một người Bột Hải tên là Cao Vĩnh Xương giết Đông Kinh Thái thú của Liêu là Tiêu Bảo Tiên rồi tự xưng là Bột Hải Quốc Hoàng Đế, chiếm cứ hơn năm mươi châu ở Liêu Đông. Liêu chủ sai tướng là Trương Lâm đem binh thảo phạt. Lâm đại bại. Nhữ Chân phá quân Bột Hải, chém đầu Cao Vĩnh Xương đem về hàng Dương Phác, được Phác trọng dụng, Phác khuyên A Cốt Đả xưng đế, đổi niên hiệu Thiên Phụ, lấy họ Vương tên là Mân. Nước này sản sinh ra vàng, nên lấy quốc hiệu Đại Kim. Phác lại nói với A Cốt Đả: "Từ xưa anh hùng khai quốc đều nhận ngôi, trước phải cầu phong sách của Đại quốc. " Mùa Thu tháng tám, A Cốt Đả sai người đến Liêu chủ Thiên Tộ cầu phong sách. Phong sách gồm mười việc:

1. Huy hiệu Đại Thánh Đại Minh Hoàng Đế.

2. Quốc hiệu Đại Kim.

3. Xe ngọc (Ngọc lộ).

4. Mũ cổn (Cổn mạo).

5. Quốc bảo ngự tiền khắc bằng ngọc (Ngọc tỷ).

6. Huynh đệ thông vấn.

7. Sinh thần Chánh đán khiển Sứ.

8. Mỗi năm thâu vàng lụa hai mươi lăm vạn cây, chia làm hai, Nam Tống mỗi năm phải tặng cho họ một nửa.

9. Cắt hai lộ Trường Xuân, Liêu Đông.

10. Đưa Nhữ Chân A Cốt Sản Triệu Tam Đại Vương về Kim.

Thiên Tộ giao cho quần thần bàn bạc. Tiêu Phụng Tiên vui mừng nghĩ rằng từ đây hết lo nên sai Tỉnh giang quân Tiết độ sứ Tiêu Tập Liệt, Hàn lâm học sĩ Dương Miễn xung vào chức quan phong sách sứ; Phó Quy châu quán sát sứ Trương Hiếu Vỹ, Thái thường Thiếu khanh Vương Phủ xung vào chức Thông vấn; Phó sứ vệ úy thiếu khanh Lưu Thực làm quản áp lễ vật. Tướng tác thiếu giám Dương Chủ Trung làm độc sách sứ. Họ sắm đủ mũ cổn, mũ mạo, ngọc sách, kim ấn, xa lộ những vật thuộc về pháp giá của Thiên Tử để sách phong A Cốt Đả làm Đông hoài quốc chí thánh chí minh Hoàng Đế. Lời văn trong sách phong đại lược ghi: "Mến thay! Nơi họ Tiêu thận trọng (Tiêu Phụng Tiên) thật là lẽ thường nhằm bảo hộ cả đôi bên (Liêu và Kim). Đất đai rộng đến Thượng Kinh, nhân tài rải khắp Trung Khâm, may có núi nọ sông kia đều nhờ Tổ phụ để lại. Mây xanh đồng ruộng, đương nhiên sinh bậc tài cao (Cừ tài). Tuyết phủ sương bay, lẽ phải đủ đầy xa giá. Tấu chương nhiều lần gởi, thật có ý giao hảo. Nghĩ đến hương xa, phải hợp với phúc nhiều, thế nên sai bọn Tiêu Tập Liệt cầm cờ tiết, sắm lễ vật, sách phong làm Đông Hoài Quốc Chí Thánh Chí Minh Hoàng Đế. Nghĩa tình thâm giao, đất chia trù phú. Than ôi! Răn thay! Kính thay! Hay tin huy hiệu tâu xin do phạm húy Tổ hiệu nên đổi thành Chí Thánh Chí Minh, những việc khác đều chấp nhận cả. "

Đoàn sứ giả khởi hành từ tháng mười, mùa Đông tháng mười hai thì tới nước Kim. Trong tháng này, A Cốt Đả truy tôn ông Tổ năm thứ chín của mình tên Khám Phước với thụy là Cảnh Nguyên Hoàng Đế, hiệu Thỉ Tổ. Tổ năm thứ tám, tên Ngoa Lỗ với thụy là Đức Hoàng Đế. Tổ năm thứ bảy, tên Dương Hải với thụy là Am Hoàng Đế. Tổ năm thứ sáu, tên Tùy Khoát với thụy là Định Chiêu Hoàng Đế, hiệu Hiến Tổ. Tổ năm thứ năm, tên Thật Lỗ với thụy Thành Tương Hoàng Đế, hiệu Chiêu Tổ. Tằng tổ Thái sư tên Hồ Lai với thụy Tuệ Hoàng Đế, hiệu Cảnh Tổ. Cha là Thái sư tên Dương Kha với thụy là Hiếu Bình Hoàng Đế, hiệu Mạc Tông. Phi hậu đều được truy phong thụy hiệu.

A Cốt Đả bày lễ nghi vật dụng của sứ nước Liêu cho Dương Phác xem, Phác cho rằng lễ nghi vật dụng ấy không phải thứ nào cũng là phép chế của Thiên Tử. Phong làm Đông Hoài Quốc là có ý ôm đức mình cai quản một bang nhỏ, mà không có sách phong như anh em. Nói "hương xa phải hợp với kẻ phúc nhiều" không phải là lời hay ý đẹp. Cung đỏ voi xe là lễ nghi của chư hầu. Hai chữ tài cao là có ý khinh nhờn. Phác nói với Tập Liệt quay về đổi lời văn trong sách phong. Tập Liệt nói: "Anh em bè bạn kính nhau, phác xuất từ Chu thư. Nói giao hảo thì cái ý anh em cũng thấy có trong ấy rồi. Bọn Dương Phác vạch mặt cho là không phải. A Cốt Đả nổi giận hét, đuổi sứ ra, muốn chém ngang lưng hết, các tù trưởng của Niêm Hãn tạ lỗi thay họ, bọn họ thoát chết nhưng mỗi người phải chịu hơn trăm roi. Đến tháng ba năm sau, vua Kim chỉ cho Tiêu Tập Liệt, Dương Lập Trung trở về bẩm rằng: "Sách văn ta chẳng hiểu được, huy hiệu quốc hiệu, xe ngọc, ngự bảo ta đều có cả. Phải xưng ta là Đại Kim Quốc Hoàng Đế huynh mới được. Nếu chịu nghe ta thì mùa thu năm này đến trước ba quân bằng không thì ta xua quân vào lấy Thượng kinh vậy. "

Thiên Tộ ghét nghe việc của Nhữ Chân. Tiêu

Phụng Tiên lựa lời cân nhắc nhưng Tộ vẫn không nghe. Sự việc kéo dài được thời gian thì nghe tin Thượng kinh đã bị phá, hòa nghị cũng bị dẹp, sau này Thiên Tộ tuy có nói đến hòa nghị nhưng A Cốt Đả chẳng trả lời.

 

Kỷ Hợi: Tuyên Hòa năm đầu

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 9

Đại Kim: Thiên Phụ năm thứ 2

Tây Hạ: Nguyên Đức năm đầu

 

Tống: Tháng hai, Đế hạ chiếu đổi Phật thành Đại Giác Kim Tiên, ngoài ra Bồ-tát đều được gọi là Tiên Nhân Đại sĩ. Tăng thì gọi là Đức sĩ, Ni thì gọi là nữ Đức sĩ, chùa thì gọi là cung, viện thì gọi là quán, cấm dùng não bạt bằng đồng, ban cho Phật y phục của Thiên Tôn. Đức sĩ mặc y phục của đạo giáo, đội mão, cầm hốt. Đại sư Bảo Giác Vĩnh Đạo ở viện Sùng Tiên Hương Tích thuộc Tả Nhai ở Kinh đô dâng thư can rằng: "Từ xưa, Phật pháp thịnh suy cùng vận nước. Nguyên Ngụy Thái Vũ đế tin bọn Thôi Hạo hủy diệt Phật pháp, không đầy năm, sáu năm Thôi Hạo bị tru di, Văn Thành đế chấn hưng lại Phật pháp. Chu Vũ đế tin bọn Vệ Nguyên Tung tàn diệt Phật pháp không đầy sáu, bảy năm Nguyên Tung bị đày rồi chết thảm, Tùy Văn đế lại chấn hưng Phật pháp. Đường Vũ Tông tin bọn Lý Đức Dụ, Lý Quy Chân hủy diệt Phật giáo, không đầy một năm Quy Chân bị giết, Đức Dụ trốn rồi cũng chết ở Chu Nhai, Tuyên Tông lại chấn hưng Phật giáo. Đất nước ta, từ Thái Tổ Hoàng Đế, Thái Tông Hoàng Đế, liệt Thánh đều lấy việc dịch kinh, thi Tăng mà lưu hành Phật pháp, làm thành thông lệ cho muôn đời noi theo. " Đế nổi giận đày Vĩnh Đạo đến Đạo châu. Ở nơi tù đày, nhưng Vĩnh Đạo vẫn trai giới nghiêm chỉnh như thường nhật. Trước đây, Vĩnh Đạo thường sang Tây Thiên thọ học Chân Ngôn Quỹ Phạm (Mật chú) với Tam tạng Tổng Trì, khi ấy gặp lúc dân quân phần đông bị dịch bệnh, ngài trì chú vào nước và cho họ uống, ai nấy đều hết bệnh. Tháng ba nước ngập lai láng khắp đường xá ở kinh đô, triều đình ủy thác cho Lâm Linh Tố làm cho nước rút nhưng nước ngày càng dâng cao, vua tôi đến lo sợ. Tăng-già Phổ Quang Vương ở Tứ Châu hiển linh trong cung cấm, Đế đốt hương quy kính, thấy Tăng-già chống trượng lên thành, nước liền rút cạn, vua dân đều vui mừng. Tháng mười một, Đế đưa Lâm Linh Tố về Ôn châu. Mùa thu tháng chín năm Tuyên Hòa năm thứ hai, Đế hạ chiếu khôi phục lại danh hiệu Phật. Đức sĩ được đổi lại thành Tăng, Vĩnh Đạo cũng được cất nhắc đưa về quận gần kinh đô. Năm Tuyên Hòa năm thứ bảy, Đế hạ chiếu cho Vĩnh Đạo về kinh đô, cho làm Sa-môn lại, triều đình nêu cao tinh thần hộ pháp của ngài, nghĩ đến tâm chí thành vì đạo của ngài, nên Đế đổi húy của ngài là Pháp Đạo, thỉnh trụ Chiêu Tiên viện ở Chiêu Khánh đồng thời nhận chức viện chủ viện Thích-ca ở Hiển Thánh, Hữu Nhai. (Theo Đông Đô Sự Lược, Đạo Tam Tạng Bản Truyện).

Tháng tư, nước Kim đánh phá nước Liêu, ở Thượng Kinh lộ, Tổ châu thì có Thiên Thiện Đường của Thái Tổ. Ở Hoài châu thì có Sùng Nguyên điện của Thái Tông Đức Quang. Ở Khánh châu thì có ba điện là Vọng Tiên, Vọng Thánh, Thần Nghi. Trước đây, họ còn phá điện đường ở Càn châu, Hiển châu v.v... như Ngưng Thần điện, An Nguyên Thánh Mẫu điện, Thế Tổ điện ở Mộc Diệp Sơn, cùng các lăng tẩm, ảnh đường của hoàng phi, Thái tử, vương tôn. Quân Kim thiêu đốt, đập phá, đào bới để lấy vàng bạc châu ngọc. Quan địa phương tâu lên, nhưng Tiêu Phụng Tiên giấu nhẹm không cho Đế biết. (Theo Liêu Chí).

 

Canh Tý: Tuyên Hòa năm thứ hai. Khôi phục lại danh hiệu tăng và Phật

Đại Liêu: Thiên Khánh năm thứ 10

Đại Kim: Thiên Phụ năm thứ 3

Tây Hạ: Nguyên Đức năm thứ 2

 

Tống: Thái úy Trần Lương Bật mở pháp hội trai tăng, thỉnh chư Thiền đức đến giảng pháp. Trong đó có Pháp sư Thiện là đệ tử Thượng thủ của tông Hiền Thủ, được tôn xưng là "Nghĩa Hổ". Thiện đến hỏi các vị Thiền đức rằng:

- Đức Phật ta lập giáo, từ Tiểu thừa cho đến viên ngộ, dẹp bỏ mọi có, không, riêng chứng chân thường, sau đó, muôn đức đều trang nghiêm mới gọi là Phật. Nhưng Thiền tông lấy một tiếng hét để chuyển phàm thành Thánh, xét các Kinh Luận dường như đối lập nhau. Nay một tiếng hét, nếu vào được Ngũ thừa thì đó là chánh thuyết, còn như không vào được thì đó là tà thuyết!

Lúc ấy, các vị Thiền đức đều ngồi xếp hàng, Thiền sư Pháp Chân Nhất Công đưa mắt nhìn Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm. Thiền sư Hoài Thâm thúc cùi chỏ bảo ngài Tịnh Nhân trả lời. Tịnh Nhân gọi Pháp sư Thiện đến và nói:

- Điều mà Pháp sư hỏi không đủ làm nhọc lòng các vị Thiền đức ở đây, chỉ cần tiểu trưởng lão Tịnh Nhân này cũng đủ để giải mối nghi hoặc cho Pháp sư vậy. Ngũ thừa giáo ấy, như trong ngu pháp Tiểu thừa giáo nó chính là nghĩa có, trong Đại thừa Thỉ giáo nó chính là nghĩa không; trong Đại thừa Chung giáo nó là nghĩa chẳng có chẳng không. Còn Đại thừa Đốn giáo, nó là nghĩa tức có tức không. Trong Nhất thừa viên giáo, nó là nghĩa không nhưng chẳng có, có nhưng chẳng không. Một tiếng hét này của ta chẳng những chỉ vào Ngũ thừa mà cho đến bách gia chư tử, tất cả kỷ nghệ trên thế gian này cũng vào được cả. Tịnh Nhân hét một tiếng và hỏi:

- Ông nghe chăng? Thiện đáp: Nghe!

Tịnh nhân hỏi: Ông đã nghe, vậy tiếng hét này là Có, đó là vào được Tiểu thừa giáo.

Sư lại gọi Thiện đến, hỏi:

- Ông nghe chăng?

Thiện đáp: Chẳng nghe!

Sư nói: Ông đã chẳng nghe vậy tiếng hét vừa rồi không có, đó là vào được Đại thừa Thỉ giáo. Một tiếng hét của ta, lúc đầu ông bảo có, hét một lát âm thanh dứt, ông lại bảo là không có, bảo không có thì ban đầu nó thật có, bảo rằng có thì bây giờ nó thật không có, vậy là chẳng có chẳng không, đó là vào được Chung giáo. Lúc ta hét, có nhưng chẳng phải có, vì không cho nên nói có; lúc ta không hét, không nhưng chẳng phải không, vì có cho nên nói không, vậy là tức có tức không, đó là vào được Đốn giáo. Một tiếng hét ấy của ta chẳng dùng đến lực dụng, có không chẳng theo kịp, tình và giải đều quên. Lúc bảo có thì mảy may chẳng lập, khi bảo không thì biến khắp hư không, ngay một tiếng hét này thể nhập trong trăm ngàn vạn ức tiếng hét, trăm ngàn vạn ức tiếng hét thể nhập trong một tiếng hét này đó là vào được Viên giáo.

Thiện cúi đầu lạy tạ. Sư lại gọi Thiện đến nói: Cho đến một nói, một nín, một động, một tĩnh, từ xưa đến nay hư không mười phương, sum la vạn tượng, sáu nẻo bốn loài, ba đời chư Phật, hết thảy Thánh hiền, tám vạn bốn ngàn pháp môn, trăm ngàn Tam-muội, vô lượng diệu nghĩa, khế lý khế cơ, đồng một thể tánh với đất trời muôn vật, đó gọi là Pháp thân. Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức, bốn mùa tám tiết, âm dương một mối, đó là pháp tánh. Thế nên kinh Hoa Nghiêm ghi: "Pháp tánh có mặt khắp mọi nơi, có tướng không tướng, một thanh một sắc, đều ở trong một hạt bụi gồm đủ bốn nghĩa. Sự lý vô biên biến khắp vô cùng, xen lẫn nhưng không tạp, trộn chung nhưng không đồng. " Ngay trong một tiếng hét này thảy đều đủ cả. Nhưng vẫn lập ra hóa môn mà tùy cơ dẫn dắt, đó là nơi tạm dừng chân, chưa đến bảo sở, đâu biết dưới cửa ngõ của Tổ sư ta lấy tâm truyền tâm, đem pháp ấn pháp, chẳng lập văn tự, thấy tánh thành Phật, vẫn còn một đường hướng thượng mà ngàn Thánh chẳng truyền!

Thiện hỏi: Thế nào là một đường hướng thượng? Sư đáp:

- Ông hãy hướng hạ mà trực nhận đi đã!

- Thế nào là bảo sở?

- Chẳng phải cảnh giới của ông! Thiện thưa:

Mong Thiền sư Từ bi!

Sư nói: Thà để biển xanh chôn vùi, trọn không nói cho ông hiểu được!

Lúc ấy Thiện có vẻ buồn, cúi đầu lạy và lui ra. Khi đó, Đế âm thầm đến xem, Thái sư Lỗ Quốc Công cũng có tham dự. Đế quay lại nói với cận thần: "Thiền tông mầu nhiệm sâu xa như thế, mà tài biện luận của Tịnh Nhân cũng hiếm thấy!"

Thị thần tâu: "Đó là điều ngoài giềng mối của tông sư vậy!" Oánh Trọng Ôn La Hồ Lục tán rằng: "Sở học của Sư càng làm sáng tỏ cho đạo, dù gặp bên nào, Sư cũng thừa cơ chiết phục họ trước đại chúng trời người. Giả sử tiên đức chấn hưng tông phong, cũng không hơn thế này được!"

Sư húy Kế Thành, tự Bàn Am, họ Lưu, quê ở Nghi Xuân, Viên Châu, Giang Tây. Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ ở Tịnh Nhân Thiền sát. Sư nối pháp Thiền sư Trí Hải Đạo Bình, Bình nối pháp Đại Quy Mộ Triết, Triết nối pháp Thúy Nham Khả Chân, Chân nối pháp Từ Minh Sở Viên. Đệ tử của Sư có hai người là Thụy Nham Thắng và Dã Phụ Xuyên đều thuộc dòng Lâm Tế (Theo La Hồ Văn Tập, Ngũ Đăng Hội Nguyên).

 

Tân Sửu: Tuyên Hòa năm thứ ba. Tháng tám, Đồng Quán được tiến

Đại Liêu: Bảo Đại

Đại Kim: Thiên Phụ năm

Tây Hạ

cử làm Thái sư

năm đầu

thứ 4

 

 

Tống: Tháng hai, Đế hạ chiếu ruộng đất, tài sản của những ngôi chùa trong năm Chính Hòa năm thứ bảy bị đổi thành Thần Tiêu cung, nay phải trả về hết lại cho chùa, cho tăng.

Ngày hai mươi lăm tháng ba, Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm trụ ở Đại Tướng Quốc Tuệ Lâm Thiền sát thuộc Biện Kinh. Sư họ Hạ, quê ở Thọ Xuân, thị tịch năm Thiệu Hưng năm thứ hai đời Cao Tông. Sư nối pháp Trường Lô Tín, Tín nối pháp ở Tuệ Lâm Viên Chiếu Tông Bản.

Bạch Vân Am: Tức là am phía sau phương trượng chùa Linh Ẩn, Hàng châu. Lúc này, năm Tuyên Hòa năm thứ ba, có Tỳ-kheo Thanh Giác, tự hiệu Bản Nhiên, họ Khổng, sinh ngày hai mươi hai tháng mười năm Khánh Lịch năm thứ ba đời Nhân Tông, tại huyện Đăng Phong, Lạc kinh. Giác là cháu năm mươi hai đời của Trọng Ni. Tăng Tổ Cao từng làm quan dưới triều Lương đến triều nhà Đường. Trong niên hiệu Đồng Quang, ông ấy giữ chức Tương châu Trạch Lộ Hà Dương Tiết độ sứ, làm quan đến chức Thái tử Thái sư. Cha ngài là Hân đỗ Tiến sĩ nhưng không ra làm quan. Mẹ ngài họ Thôi. Từ nhỏ, Giác thông minh đĩnh ngộ, theo học đạo Nho, nhiều lần được mời làm Hương cử.

Niên hiệu Hy Ninh năm thứ hai đời Thần Tông, Giác xem kinh Pháp Hoa, tỉnh ngộ xin xuất gia, cha mẹ đều đồng ý. Ngài theo Đại Sư Hải Tuệ chùa Bảo Ứng, núi Long Môn, Nhữ Chân thế phát. Đại Sư bảo ngài về Nam tham học. Đầu tiên, ngài tham vấn Hòa thượng Thiên Tuế ở núi Nga My, Gia châu, kế đó đến Phù Sơn thuộc Thư châu, Hoài Tây kết am ở Thái thú nham thiền định suốt hai mươi năm. Năm Nguyên Hựu năm thứ bảy đời Triết Tông, ngài vân du đến Triết Giang, năm sau đến nhập chúng ở chùa Linh Ẩn, Hàng châu. Hai hành nhân Uông và La cầu tâm yếu của ngài, học chúng ngày càng đông. Thiền sư Viên Minh Đồng của chùa Linh Ẩn giao am tranh trên núi Bạch Vân phía sau chùa để ngài ở. Ngài hoằng hóa xiển dương và lập tông, lấy tên am đặt tên tông, đó là tông Bạch Vân. Ngài dời qua ở núi Long Môn, Dư Hàng, dựng am Phước Địa, giảng Tam quy, Ngũ giới cho long thần. Đến lúc này, năm Sùng Ninh năm thứ ba, ngài đến ngụ ở am Tử Vân phía sau chùa Khai Hóa, tháp Lục Hòa thuộc Tiền Đường. Tăng tục thỉnh ngài đến giảng kinh Hoa Nghiêm ở chùa Chánh Tế. Lúc này, Phật giáo bị pháp nạn, ngài soạn Chứng Tông Luận, Tam Giáo Biên, Thập Địa Ca. Niên hiệu Đại Quán năm đầu, ngài dựng am ở Thiên Kim Thị, Quy An, Hồ châu, đặt tên am là Thập Địa. Sau đó, đến Tinh Sơn, Ô Trình, chống trượng gặp suối tuôn nên kiết am ở đó, đặt tên am là Xuất trần. Đồ chúng lại thỉnh ngài về chùa Chánh Tế. Những kẻ ganh ghét ngài cho Chứng Tông Luận phản nghịch triều đình nên tâu lên quan. Năm Chính Hòa năm thứ sáu, ngài bị quản thúc ở Quảng Nam, Tư châu. Năm Tuyên Hòa năm thứ hai, đệ tử ngài là Chính Bố cùng mười người khác đến kinh đô dâng biểu, Đế ban lệnh phóng thích ngài. Đến lúc này, ngày hai mươi tháng bảy năm Tân Sửu, ngài tạ ơn, mồng ba tháng tám, viết bài kệ gởi Thái thú Du Công, nói rằng đến hai mươi sáu tháng chín xin từ biệt. Đến ngày đó, quả nhiên ngài tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, Tăng lạp năm mươi hai hạ. Đệ tử Tuệ Năng làm theo di huấn, thỉnh linh cốt xá-lợi về an táng tại Nam Sơn, Dư Hàng, Hàng châu, lúc này là tháng hai năm Tuyên Hòa năm thứ năm. Tháp ngài hiệu Bạch Vân, viện tên Phổ An, về sau đệ tử đổi thành Phổ Ninh. Ngoài ra, Sùng Đức Tắng Sơn, Tùng Lâm Thiện Trụ đều là nơi ngài từng hoằng hóa. Những nơi khác như: Đức Thanh, Long Sơn, Siêu Sơn, Phương Sơn, Càn Nguyên Sơn, Quy An, Nghiễm Sơn... đều là nơi phụng thờ xá-lợi. Tông của ngài thịnh hành ở Chiết Hữu.

 

Nhâm Dần: Tuyên Hòa năm thứ tư. Tháng mười

Đại Liêu: Bảo Đại năm thứ

Đại Kim: Thiên Phụ năm thứ 5

Tây Hạ

hai, Vô Tận Cư Sĩ mất

2

 

 

 

Liêu: Mùa Xuân, tháng ba, quân Kim phá Trung kinh, Thiên Tộ đang ở Yên Kinh nghe báo rất lo sợ, ngay hôm đó phải ra ở tại Dung Quan, dẫn năm ngàn kỵ binh chạy sang phủ Vân Trung, chỉ để Tể tướng Trương Lâm, Lý Xử Ôn, Yên Vương Thuần ở lại giữ Yên Kinh. Thuần ở đất Yên suốt hai mươi năm, rất được lòng dân. Thiên Tộ vượt Ngư Dương vào Giáp Sơn. Ngày mười bảy tháng ba, Lý Xử Ôn v.v... triệu tập bá quan, phụ lão lập Yên Vương lên ngôi, lấy hiệu là Thiên Tích Hoàng Đế, đổi niên hiệu Kiến Phước, hạ chiếu phế Thiên Tộ làm Tương Âm Vương. Thiên Tích lấy Vân Bình, Trung kinh, Thượng kinh, sáu lộ của Liêu Tây về mình, còn từ sa mạc về bắc, mặt Tây nam, lộ Tây bắc, chiêu thảo phủ và các bộ tộc Phiên do Thiên Tộ làm chủ. Tộ xưng Bảo Đại năm thứ hai. Nước Liêu bị phân chia từ đây.

Tháng tám, Yên đế Thuần bệnh mất, thụy là Tuyên đế. Ông không có con nối ngôi, Việt Vương Tiêu Cán họp trăm quan phụ lão lập vợ Yên đế là Tiêu thị làm hoàng Thái hậu, nắm việc quân việc nước, rước con thứ của Thiên Tộ là Tần Vương tôn làm đế. Tiêu thị lên ngôi trước linh cửu, đổi niên hiệu Đức Hưng. Thiên Tộ nghe Thuần chết liền hạ chiếu tước bỏ hết quan tước của Thuần, đồng thời giáng Tiêu thị xuống làm thứ dân, ban cho họ Hủy. Vua Kim tiến vào Trung kinh, Thiên Tộ trốn chạy đến Hạ quốc. Tháng mười hai, quân Kim chiếm luôn Dung Quan. (Theo Liêu Chí).

 

Quý Mão: Tuyên Hòa năm thứ 5

Đại Liêu: Bảo Đại năm thứ 3

Đại Kim: Tháng năm, đổi niên hiệu Thiên Hội

Tây Hạ

 

Tống: Ở Tú châu, mùa xuân đại hạn, cầu khấn tượng Quán Âm trong chùa Tinh Nghiêm bỗng có hiệu nghiệm nên vua quan trang sức lại Thánh tượng. Mùa hạ cũng hạn, lại cầu khấn tiếp. Quận thú Tăng Hầu mộng thấy Bạch y Thiên nhân đến nói: "Ta chắc chắn sẽ làm nơi này có mưa nhưng mặt mũi ta không sạch, cách ba mươi dặm nhưng chẳng thấy gì cả, không thể cùng hội họp với Thánh chúng, phải làm sao đây!"

Sáng hôm sau, Hầu hỏi nguyên do, thợ sơn tượng quả nhiên muốn Thánh dung vừa sáng sạch vừa tươi bóng, nên lấy trứng gà trộn với keo da trâu sơn phết. Pho tượng sơn mới lại, hễ cầu là ứng nghiệm ngay. (Theo Phồn Niên Lục Quán Âm Cảm Ứng Truyện)

Liêu: Mùa xuân, tháng giêng, Yên đế hậu Tiêu thị đang ở Yên kinh, nghe quân Kim vào đến Dung Quan, đêm đó liền dẫn bọn Tiêu Cán cùng xa trướng ra khỏi thành, nói là đi đánh giặc nhưng kỳ thật là đi trốn. Đến Tùng Đình Quan họ bàn nhau nên đi đâu, Da Luật Đại Thạch Tài Nha là người Liêu nên muốn về với Thiên Tộ, Tứ Quân Đại Vương Tiêu Cán là người đất Hề nên muốn về Hề Vương phủ để lập quốc. Phò mã Đô Úy Tiêu Bột Điệt nói: "Ngày nay cố nhiên nên hợp quân lại mà về với Thiên Tộ, thế nhưng còn mặt mũi nào đến gặp ông ấy!" Lâm Nha liền sai quân điệu Phò mã ra chém đầu, truyền lệnh cho ba quân nếu ai còn dị nghị sẽ bị chém. Thế là quân của Liêu và Hề dàn trận đánh nhau, rốt cuộc tan rã. Quân Liêu theo Lâm Nha bắt luôn Tiêu hậu dẫn về Thiên Tộ ở Giáp Sơn. (Tháng bảy họ đến Giáp Sơn, Thiên Tộ ra lệnh giết Tiêu hậu và cháu ngoại là Thường Kha, những người khác đều được tha). Hề Bột Hải Quân đi theo Tiêu Cán là Quỳ Bất Ly bị giữ lại ở Hề Vương phủ, Cán chiếm lấy phủ, tự lập, tiếm xưng là Thần Thánh Hoàng Đế, lấy quốc hiệu Đại Hề, lấy niên hiệu Thiên Hưng (còn gọi là Thiên Tự). Tháng bảy, quân Hề đánh nhau với quân Kim ở Yêu Phố, quân Hề đại bại, Tiêu Cán bị Khúc Đắc Kha giết.

Kim: Mùa xuân năm Quý Mão, Hoàng Đế trại được gọi là Hội Ninh phủ, xây dựng thành Thượng kinh, đổi Thượng kinh của Liêu làm Bắc kinh.

Trước đây, dòng họ Nhữ Chân không có thành quách, chỉ gọi là Hoàng Đế trại, tướng quốc trại, Thái tử trang, đến lúc này mới đổi, đặt ra tam tỉnh, lục quận coi cả thượng kinh, bắc kinh. Tả Thừa Tướng Trần Vương Ngột Thất đặt ra chữ Nhữ Chân ban hành khắp nước. Tháng năm, A Cốt Đả Mân truy đuổi Thiên Tộ lên mạn Bắc, giữa đường bị bệnh mất, thụy là Đại Thánh Vũ Nguyên Hoàng Đế, miếu hiệu Thái Tổ. Mân lập quốc, lên ngôi, cả thảy sáu năm. Em ông là Ngô Khất Mã nối ngôi, đổi tên lại là Thịnh, vốn là con năm thứ hai của Thái sư Dương Cát. Ông đổi năm Thiên Phụ năm thứ sáu thánh Thiên Hội năm đầu, ở ngôi mười một năm. Tám người con của Mân đều được phong Vương. Hồi ấy có người nước Yên là Trương Xác, người Bình châu đỗ Tiến sĩ làm quan nước Yên. Niên hiệu Kiến Phước năm đầu (niên hiệu của Yên Vương Thuần), Xác giữ chức Liêu Hưng quân Tiết độ sứ (Liêu Hưng Quân tức Bình châu). Người nước Kim là Niêm Hãn muốn bắt sống Xác. Khương Bật bàn: "Làm như thế là kinh động hắn làm phản". Và Bật một mình đến gặp Xác nói rõ ý của nước Kim. Xác nói: "Tám lộ của Khiết Đan nay chỉ còn Bình châu mà thôi, ta đâu dám có ý đồ gì khác, bởi vậy nên chưa cởi bỏ giáp là đề phòng

Tiêu Cán đó thôi!" Khương Bật về tâu lại, Niêm Hãn tin Xác, đổi Bình châu thành Nam kinh, gia phong cho Xác làm Đồng Bình chương sự phán lưu thú, sự thật là muốn giết Xác. Xác giết bọn người Kim là Tả Xí Cung rồi đem Bình châu về hàng nhà Tống. Tháng mười một, quân Kim đánh úp Bình châu, tìm được Ngự bút thư chiếu viết trên giấy hoa Tiên do Tống đế ban cho Xác. Kim đổ lỗi cho Tống triều, nhiều lần gởi hịch bảo tuyên phủ ty của Tống triều giao nộp Xác. Tống bất đắc dĩ sai Vương An Trung giết Xác, gói đầu đưa sang Kim. Sau đó không lâu, Thái tử nước Kim là Oa Lý Bột đem quân từ Bình châu xâm lược nước Tống.

Tám người của Mân gồm:

1. A Mẫu.

2. Thất Hạt (Cha của Hy Tông Trụ).

3. Thuyết Lương Hổ, cùng mẹ với Thất Hạt, do vợ chính sinh ra.

4. Oát Ly Bất (gọi nhầm là Nhị Thái tử).

5. Oa Lý Ôn (gọi nhầm là Tam Thái tử), ông sinh ở Phạm Giang, vào mùa Đông năm Thiệu Hưng năm thứ tư đời Cao Tông.

6. Ngột Truật (gọi nhầm là Tứ Thái tử).

7. Oa Lý Hỗn (gọi nhầm là Ngũ Thái tử).

8. A Cốt Bảo Tà Vương hiệu là Tự Tại Lang Quân, cùng mẹ với Ngột Truật. Hai con năm thứ hai và năm thứ ba của Mân chết sớm, cho nên mới có việc gọi nhầm năm thứ tư thành năm thứ hai, năm thứ năm thành năm thứ ba, năm thứ sáu thành năm thứ tư. (Theo Kim Chí)

 

Giáp Thìn: Tuyên Hòa năm thứ 6

Đại Liêu: Bảo Đại năm thứ 4

Đại Kim: Thái Tông Thạnh. Thiên Hội năm thứ 2

Tây Hạ

 

Tống: Cao tăng Tịch Âm Tôn giả. Ngài họ Bành hiệu Thanh Lương Thiền sư, húy Tuệ Hồng (còn gọi là Đức Hồng) người Thụy châu, Giang Tây. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đều mất, ngài đến ở với Thiền sư Thanh tại Tam Phong, mỗi ngày đọc nhớ cả mấy ngàn lời, sách sử hầu như đọc khắp, Thanh rất vừa lòng. Năm mười chín tuổi, ngài thi kinh tại chùa Thiên vương thuộc Đông Kinh và được độ làm Tăng, từ đó giảng Thành Thật Luận, Duy Thức Luận. Được bốn năm, ngài bỏ giảng tòa ra đi, đến yết kiến Thiền sư Chân Tịnh Văn ở Quy Tông, Lô Sơn. Văn dời về Thạch Môn, ngài cũng về theo, giữ chức chưởng ký thất. Không bao lâu, ngài bỏ đi. Hiển Mô Chu Ngạn làm Thái thú Phủ châu, thỉnh ngài khai pháp ở Cảnh Đức thuộc phía Bắc châu này. Sau ngài trụ ở Thanh Lương, Giang Ninh phủ. Lúc Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo còn ở chúng từng gần gũi ngài, thán phục trí tuệ và tài biện luận diệu ngộ của ngài. Tháng năm, năm Kiến Viêm năm thứ hai đời Cao Tông, ngài quy tịch ở Đồng An, thọ năm mươi tám tuổi, Tăng lạp ba mươi chín hạ. Thái úy Quách Thiên Dân tâu xin, Đế ban ngài hiệu Bảo Giác Viên Minh. Ngài nối pháp Thiền sư Chân Tịnh Văn, soạn Thiền Lâm Tăng Bảo truyện ba mươi quyển, Lâm Gian Lục, bộ Văn Tập là Thạch Môn Văn Tự Thiền, lưu hành trong đời.

Liêu: Giáp Thìn, mùa thu tháng bảy, Thiên Tộ dẫn năm vạn quân Thát Đát, đem theo hậu phi và hai con là Tần Vương, Triệu Vương cùng Tôn Thất đi về Nam, vượt ngọn Ngư Dương. Người Kim là Niêm Hãn đem quân về Vân Trung. Thiên Tộ lại trốn về núi. Các quan Kim và Tiểu Hồ Lỗ cùng bàn về Nam hàng Tống, lại có người bàn nên chạy qua Tây Hạ. Kế nước chưa quyết, Tiểu Hồ Lỗ sai người cấp báo với Niêm Hãn. Kim sai Lâu Túc đem quân đuổi đánh Thiên Tộ, Tiểu Hồ Lỗ liền bắt sống Thiên Tộ đem về. Vua Kim bãi tước, giáng Thiên Tộ xuống làm Hải Tân Vương, đưa về núi Trường Bạch (nay là Khai Nguyên lộ, Hàm Bình phủ, Liêu Đông), dựng nhà phía Đông cho Tộ ở. Năm sau, (Ất Tỵ) Tộ mất, nước Liêu diệt vong. Nước Liêu hình thành từ Hậu Lương Quân Vương niên hiệu Trinh Minh năm thứ hai, năm Bính Tý đến lúc này là Giáp Thìn, cả thảy chín chủ, trị vì hai trăm lẻ chín năm. (Theo Liêu Chí)

 

Ất Tỵ: Tuyên

Đại

Kim:

Tây Hạ

Hòa năm thứ 7

Thiên Hội năm thứ 3

 

 

Tống: Tháng sáu, phong Đồng Quán làm Quảng Dương quận vương. Những người khác họ, không phải ngoại thích, không được phong vương trong triều Tống, Sái Kinh khôn khéo thuyết phục, lôi kéo nhằm củng cố gian mưu của mình, nên tặng cho Vương An Thạch chức Thư Vương. Về sau, Hà Chấp Trung tặng cho Thạch làm Thanh Hà quận vương. Vương tước nhà Tống bị lạm xưng từ đó. Tháng mười hai, Đồng Quán làm chức tuyên phủ, từ Thái Nguyên trốn về.

Đại Kim: Tháng mười hai, Oát Ly Bất và Niêm Hãn chia quân thành tám đạo xâm lăng đất Tống. Do việc Bình châu Trương Xác quy hàng Tống nên gây ra oán thù này. Quân ở mặt đông do Oát Ly Bất cầm đầu, dựng khu mật viện ở Yên Sơn cho Lưu Ngạn Tông nắm việc trong viện. Quân ở mặt Tây do Niêm Hãn cầm đầu, dựng khu mật viện ở Vân Trung, tùy lúc lập người mình ưa thích lên nắm việc trong viện. Người trong nước gọi đây là

Đông triều đình và Tây triều đình. Thế rồi quân của Oát Ly Bất từ Yên Sơn xâm phạm thẳng vào Hà Bắc, quân của Niêm Hãn đánh thẳng vào các châu ở Hà Đông như: Sóc, Vũ, Đại, Hân châu, xua quân thẳng vào Thái Nguyên. Kim sở dĩ thay đổi thề ước cũng vì Trương Xác mà thôi. Những kẻ mà Đế tin cậy là Đồng Quán, Giả Tiên đem quân cự giặc lại trốn về. Quán vốn là kẻ bất tài, nhờ Sái Kinh tiếp tay nên nắm được binh quyền. Hiện tại, Quán thống lãnh binh nhưng đứng cách xa địch đến mấy trăm dặm, khiến cho các tướng không ai dám tiến lên, binh sĩ thì chẳng nghe lệnh, nhiều phen nếm mùi bại trận. Năm Canh Thân, Đế nhường ngôi cho Thái tử, lấy hiệu Đạo Quân, lui về ở cung Long Đức, sai Lý Nghiệp đi sứ sang quân Kim nói rõ việc nhường ngôi và muốn cầu hòa.

Khâm Tông: Húy Hằng, con của Huy Tông, lúc này được lập hoàng Thái tử, nhận ngôi lúc hai mươi bảy tuổi, tôn Huy Tông làm Thái Thượng hoàng, ở ngôi hai năm. Niên hiệu Tĩnh Khang hai năm.

 

Bính Ngọ: Tĩnh Khang năm đầu

Đại Kim: Thiên Hội năm thứ 4

Tây Hạ: Tháng tư đánh Tống, Chu Chiêu chết

 

Tống: Tháng giêng, quân Kim vây hãm Tương châu. Năm Kỷ Tỵ, Đế hạ chiếu thân chinh, Thái Thượng hoàng phải xa giá ra Nam Kinh. Năm Tân Mùi, Đế chuẩn bị xong các chiến cụ để giữ thành nhưng quân Kim đã kéo đến dưới thành. Bạch Thời Trung bị bãi tướng, Lý Ban Ngạn nắm lại chức

Thái tể, Trương Bang Xương làm thiếu tể, người ở kinh đô gọi Bang Ngạn là Lãng Tử Tể tướng. Năm Nhâm Thân, Đế sai sứ đi đôn đốc chư tướng các lộ đem binh vào tiếp viện. Quân Kim đòi vàng bạc để khao quân và nói: "Phải tôn chủ ta làm Bá phụ, những người xứ Yên Vân đã quy thuận ta hiện đang ở đất Hán, phải cắt đất của Trung Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang ba trấn ấy cho họ, đem thân vương Tể tướng qua làm con tin thì ta mới lui binh. " Đế hạ chiếu cho hoàng đệ Khang Vương làm quân tiền kế mưu sứ, Trương Bang Xương phụ tá; Lý Nghiệp, Cao Thế cùng đi theo, những thứ Kim đòi hỏi đều đáp ứng đủ. Riêng chiếu thư giao đất ba trấn ấy, Lý Cương giữ lại không cho đem theo. Năm Ất Hợi, Đế hạ chiếu cho nước Kim được xưng là Đại Kim. Năm Đinh Hợi, binh của Cần Vương đông đến hai mươi vạn, muôn dân ở kinh đô mới tạm yên. Tháng hai, sứ Kim sang lại, Đế sai Vũ Văn Hư Trung cầm chiếu thư về ba trấn do Lý Cương giữ sang nước Kim phụng đón Khang Vương về. Lúc Khang Vương bị người Kim quản thúc, ông từng cùng Thái tử nước Kim bắn cung. Ông bắn liên tiếp ba phát, cả ba đều trúng đích, nhưng hộc liên châu (tâm của đích ngắm) vẫn không bể. Vua Kim gọi ông là tướng quan con nhà lành. Nếu như chẳng phải thân vương thì Kim đã cho về từ lâu rồi. Vua Kim lại xin Túc Vương qua làm con tin. Năm Ất Tỵ, Khang Vương từ bên Kim trở về, quân Kim vây kinh thành suốt ba mươi ba ngày. Khi đã có chiếu thư của ba trấn và Túc Vương, quân Kim chẳng cần vàng bạc liền lui quân. Năm Bính Ngọ, Kim lui binh, Đế đày Sái Kinh đến Đàm châu nhưng đến Đàm châu thì Kinh chết, thọ tám mươi tuổi. Sái Du trốn trong Vạn An Quân, Đế hạ chiếu chém tại chỗ. Đồng Quán trốn đi xa, Đế cho người đuổi theo chém ở Nam Hùng. Tháng ba, lệnh cho khu mật sứ Lý Cương đón Thượng hoàng từ Nam kinh, đến tháng tư mới về đến kinh đô. Triệu Lương Tự trốn trước đến Liễu châu, đến lúc này cũng bị chém. Nguyên trước kia, vào mùa thu tháng chín năm Chính Hòa năm đầu, đời Huy Tông, Đồng Quán đi sứ nước Liêu về đến Lỗ Câu Hà, U châu thì gặp một người nước Yên cưỡi ngựa chặn lại nói, mình do đắc tội với Yên Vương của Liêu nên không nơi nào dung chứa. Quán trình bày kế sách tiêu diệt nước Yên và dẫn người đó về phủ đổi họ Lý tên Lương Tự, dẫn vào cung gặp Đế, Đế ban cho họ Triệu, người nối lại hòa nghị cho Yên chính là Lương Tự qua Nhữ Chân kết hợp với họ cùng đánh Khiết Đan, cuối cùng mất nước, đến giờ Tự mới bị chém. Vua Kim thấy chưa được ba trấn, nên mùa Đông tháng mười lại chia quân hai đạo vào cướp phá. Tháng mười một, Ất Dậu, Oát Ly Bất vào kinh đô, đóng quân ở chùa Lưu Gia. Tháng mười một nhuần, Niêm Hãn vào kinh đô, đóng quân ở Thanh Thành, Đế hạ chiếu cử Khang Vương Cấu làm Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, Trần Câu làm nguyên soái, Tông Dịch phụ tá, cấp tốc dẫn binh vào kinh ứng cứu. Năm Bính Thìn, kinh thành thất thủ. Năm Tân Dậu, Đế đi Thanh Thành. Nhị Tù Lệnh Tôn Cận Soạn xong chiếu thư quy hàng, lệnh cho Đế ký tên. Đế quay về bắc lạy rồi ra đi, Cận còn nói: "Người chủ này tự lập, vua hiền chỉ bằng Tống Vương. " Đế im lặng. Mồng một tháng mười hai, Nhâm Tuất, Đế ngụ ở Thanh Thành. Khang Vương lập phủ nguyên soái ở Tương châu. Năm Quý Hợi, Đế từ Thanh Thành trở về. Niêm Hãn xin sai sứ đi đón Khang Vương, Sứ về báo không gặp Khang Vương để cáo từ.

Tây Hạ: Tháng tư, người Hạ cướp biên ải, đánh thành Chấn Uy. Tù trưởng gọi quan giữ thành Chu Chiêu nói: "Đại Kim đã hẹn với ta cùng đánh, đất Hà Bắc thuộc về Đại Kim, còn đất Hà Tây này thuộc về nước ta. Nay thành quách phủ lân cận đều quy hàng ta hết, ông cậy vào đâu mà không hàng!" Tây Hạ đánh rát, thành bị vây, Chu Chiêu tử trận. Tháng mười một, Tây Hạ cướp biên ải, vây Hoài Đức Quân, hai quan cai quản là Lưu Thuyên và Đỗ Hủ tử trận.

-Đinh Mùi: Tĩnh Khang năm thứ hai. Tháng giêng, Tân Mão, mồng một Canh Tý, Niêm Hãn sai người đi mời Đế đến doanh Kim. Đế sai Tôn Truyền Tạ giữ nhà, giúp Thái tử. Giám quốc cũng được mời nhưng bị Đế giữ lại, Mai Chấp Lễ phò tá, Đế đi ra khỏi thành. Từ bộc xạ Hà Lật trở xuống đều theo Đế đến Thanh Thành gặp Niêm Hãn. Niêm Hãn giữ Đế trong doanh, đồng thời giữ luôn thân vương, Tể tướng, chấp chính, học sĩ viện, lễ bộ, thái thường tự, những người còn lại Hãn cho về trước. Vua Kim cốt muốn vơ vét vàng bạc. Đế sai trung sứ về báo rằng: "Trẫm bị câu thúc ở đây, đợi vàng bạc đến mới về được. " Thế là phải tăng thêm quan đi gom tiền bạc. Góp từ hoàng thân, tông thất, nội thị, cho đến tăng đạo đủ mọi ngành nghề. Trong tám ngày được ba mươi vạn tám ngàn lượng vàng, sáu trăm vạn lạng bạc, một trăm vạn khúc vải chở qua nộp cho quân Kim. Tháng hai, Đinh Dậu, Niêm Hãn sai Nha Lang Quân sang đòi nợ tiếp. Lại phát hiện những người giấu vàng bạc như Giáo Phường Nhân Mạnh Tử Trứ, Nội Thị Lam Tích, Y Quan Chu Đạo Long v.v... trong mười tám ngày, gom ở thành nội được bảy mươi lăm ngàn tám trăm lượng vàng, một trăm mười bốn ngàn năm trăm lượng bạc, bốn mươi ngàn tám mươi bốn khúc vải đem nộp cho quân Kim. Năm Đinh Tỵ, quân Kim đòi phải giao nộp thiên nghi chế, giám thư đồ tịch ấn bản. Năm Mậu Ngọ, quân Kim đòi phải nộp các thứ như: Nhạc khí thái thường, vật dụng lễ chế, cho đến đàn, cờ, các thứ giải trí, vật quý hiếm, sách sử v. v... Năm Bính Dần, Niêm Hãn sai Tiêu Khánh đọc chiếu của vua Kim cho Đế rằng: "Lập riêng họ khác, phế Uyên Thánh làm Trần Lưu Vương, giữ mộ phần ở Bảo châu, những người khác họ đáng làm nhân chủ phải ra trước ba quân chuẩn bị lễ nghi sách phong, lệnh phải đưa thái Thượng hoàng ra khỏi thành. " Năm Đinh Mão, Thái Thượng hoàng, hậu phi, vận vương trở xuống hơn ba mươi người các vương phi, công chúa, đô úy v.v... đều đi theo. Tháng ba Đinh Dậu, quân Kim sách phong Trương Bang Xương làm Đế, lấy quốc hiệu Đại Sở. Năm Đinh Tỵ thái Thượng hoàng về Bắc, Ninh Đức Hoàng hậu, cùng các thân vương, phi tần trở xuống đều đi theo. Họ khởi hành từ Hoạt Châu lộ, có quân của Oát Ly Bất hộ tống. Mồng một tháng tư Canh Thân, Uyên Thánh Hoàng Đế về bắc, Hoàng hậu, hoàng Thái tử đều đi theo, khởi hành từ Trịnh Châu lộ, có quân của Niêm Hãn hộ tống. Uyên Thánh dẫn Hoàng hậu, các thân vương nhìn về thành nội khóc lạy từ biệt tông miếu, tiếng khóc chấn động cả Thanh Thành. Canh Ngọ, Nguyên Hựu, Hoàng hậu Mạnh thị buông rèm thính chính. Bang Xương từ chức thái tể, lui về ở tại Tư Thiện Đường (Bang Xương tiếm vị ba mươi ba ngày. Nguyên Hựu, Mạnh Thái hậu là vợ của Triết Tông, lúc này những người có ngôi vị trong lục cung đều theo hai đế, chỉ có bà bị phế truất nên được tha). Năm Quý Hợi, quần thần thỉnh Khang Vương lên ngôi Hoàng Đế. Năm Tân Tỵ, Khang Vương đến Đan châu, năm Nhâm Ngọ đến huyện Ngu Thành, Bang Xương nghe xa giá đến Nam kinh liền bày biện xa giá mũ miện, ngự phục, nghi vật. Bá quan văn võ theo chức sự của mình đều đến Nam kinh để chuẩn bị lễ nghi sách phong. Năm Quý Mùi, Khang Vương đến phủ Ứng Thiên (nay là phủ Quy Đức). Sáng sớm hôm sau, Khang Vương đến ngự ở Hồng Khánh cung Triêu Tam điện, bảo dẫn Trương Bang Xương đến. Xương quỳ mọp dưới đất khóc lóc, xin tội. Vương an ủi Bang Xương. Năm Giáp Thân, Cảnh Nam Trọng v.v... bàn bạc, đổi niên hiệu Kiến Viêm, bởi có điềm lành Hỏa Đức của Tống. Năm Mậu Tý, Thái hậu sai sứ đem chiếu thư do mình viết đưa cho Khang Vương. Thư ghi: "Nay nghe, chọn được giờ lành, đúng lúc nhận ngôi, sẽ chiếu soi tỏ như trời trăng, ban hành hiệu lệnh như gió sấm, mệnh trời đã theo về, muôn dân đều hết sức mừng vui, tông miếu đã yên, già trẻ đều nguyện theo chí lớn. " Năm Kỷ Sửu, Khang Vương lên ngôi ở Nam Kinh.

Cao Tông: Húy là Cấu, con năm thứ chín của Huy Tông, được phong Khang Vương. Tháng năm Tĩnh Khang năm thứ hai, ông lên ngôi, đổi niên hiệu Kiến Viêm, lấy ngày mười hai tháng năm làm tiết Thiên Thân, đày Trương Bang Xương đến Đàm châu rồi ban cho chết. Tháng ba năm Kiến Viêm năm thứ ba, ngự danh ty đô thống chế Miêu Phó, phó thống chế Lưu Chánh Ngạn làm phản, ép

Đế nhường ngôi cho Thái tử, giữ Đế ở cung Duệ Thánh. Thái hậu buông rèm thính chính. Ngày mười một, đổi niên hiệu Minh Thọ. Những người như Trương Tuấn, Lã Tích Hạo, Tân Vĩnh Tông, Lưu Quang Thế, Hàn Thế Trung bắt sống Miêu Phó, Lưu Chánh Ngạn băm xác ở phố Kiến Khang. Trung cùng bàn đem tráp sớ từ Việt châu đến Kiến Khang. Quân Kim vào Kiến Khang, vây Hàng châu, Đế phải đi đường biển đến Ôn châu, rồi về lại Việt châu, xa giá đến Hàng châu, đưa Hàng châu lên thành phủ Lâm An. Mồng một (Nhâm Dần) tháng giêng (Quý Tỵ) mùa xuân năm Thiệu Hưng năm thứ hai, Đế đi Việt châu. Năm Bính Ngọ, Đế tạm cư ở phủ Lâm An. Thời gian sau, có Tần Cối từ nước Kim quay về, đảm trách việc nghị hòa. Huy Tông, Khâm Tông, Trịnh hậu, Hình hậu lần lượt băng hà ở Ngũ Quốc thành. Quân Kim trả lại đất Hà Nam và Tử Cung để giảng hòa, sau đó lại tiếp tục vào cướp phá. Trương Tuấn, Hàn Thế Trung, Nhạc Phi, Ngô Lân đánh Kim đại bại, quân Kim rút chạy. Đế ban bố những lời răn dạy do Hoàng Đình Kiên viết, cho khắc trên bia đá dựng ở các châu huyện. Đế mở thái học, dùng nhị quán, lập pháp hội giảng kinh, đích thân lội ruộng, chấn chỉnh lộ giới. Tần Cối không theo ý vua, bãi quyền binh của các tướng nhằm vùi chôn khí tiết trung nghĩa, cuối cùng khiến cho đất nước không thể khôi phục lại được. Đế lên ngôi năm hai mươi mốt tuổi, trị vì ba mươi sáu năm, nhường ngôi cho Hiếu Tông, tự xưng Thái Thượng hoàng, ở trong cung Đức Thọ. Đế mất năm tám mươi hai tuổi. Niên hiệu Kiến Viêm bốn năm, Thiệu Hưng ba mươi hai năm.

 

Đinh Mùi: Kiến Viên năm đầu. Mùa đông, tháng mười hai, Đế xa giá đi săn ở Dương châu

Đại Kim: Thiên hội năm thứ 5

Tây Hạ

Mậu Thân: Kiến Viên năm thứ hai. đế hạ chiếu thỉnh ngài Khắc Cần trụ ở Kim Sơn vào ứng đối ở Dương châu. Đế ban ngài hiệu Viên Ngộ Phổ Đăng Thiền sư

Đại Kim: Thiên hội năm thứ 6

Tây Hạ

 

Mùa Đông, mồng bốn tháng mười, Bắc Thiền Thiên Thai Pháp Chủ Tịnh Phạm ở Tô châu quy tịch. Tịnh Phạm truyền cho Tuệ Minh, Tuệ Minh truyền cho Uẩn Nghiêu, tức Pháp sư Báo Từ.

(Theo Lan Lăng Tập Thích, Thống tăng truyện)

 

Kỷ Dậu: Kiến Viên năm thứ 3

Đại Kim: Thiên hội năm thứ 7

Tây Hạ

 

Hành Vị Của Chư Thiên: Mùa Thu, ngày hai mươi mốt tháng tám, Pháp sư Tuệ Giác Tề Bích ở Thượng Thiên Trúc, Hàng châu quy tịch. Thạch Lâm, Diệp Mộng soạn bài minh trên tháp. Tề Bích soạn Phổ Hiền Quán Kinh Sớ ba quyển, Tổ Nguyên Ký hai quyển. Đệ tử nối pháp có Thần Hoán, Như Trạm, Pháp Cửu. Hoán từng khảo luận về hành vị của chư Thiên, lấy vua tôi, chủ khách, nam nữ, bản tích để làm cương mục. Hoán cho rằng, Đại Phạm tôn thiên quân vào ba cõi thống lãnh trên trời, cai quản dưới đất. Chư Thiên đều là bề tôi của ông ấy. Đại Phạm là chủ ba cõi. Tam Mục Ma Hê làm chủ đại thiên. Đế Thích làm chủ Địa cư ba mươi ba tầng trời. Tứ vương thống lãnh tám bộ. Tuy vua tôi không giống nhau, nhưng ai nấy đều có nghĩa là làm chủ. Như, Đại Biện ở núi, đầm; Công đức ở trong vườn trời phía Bắc, họ đều là khách trú ngụ mà thôi, kỳ thật không làm chủ và thống lãnh ai cả. Phạm Thích, Tứ Vương đều là trời nam; Công đức, Đại biện, Địa thần, Thụ thần đều là trời nữ. Không thể để nam nữ đánh mất thứ lớp, huống gì quỷ tử mẫu (mẹ con của quỷ) cũng có tên nữ, trời công đức cũng có tên nam. Tán Chỉ, Tu Ma hiện nay con lại ở cao hơn mẹ, có thể cho họ là mẹ theo con. Họ có thể ở trên Thiên chủ được không? Phạm, Thích, Tứ Vương vốn là Địa trụ Bồtát, Kim cang, Mật tích vốn là Hộ thiên huynh thành Phật (Hộ trì cho ngàn người anh của mình thành Phật), không so đo với Bản của họ, nhưng muốn ngang bằng với Tích của họ có được không? Hiểu được bốn nghĩa này rồi, sau đó mới có thể luận về chư Thiên.

Hoán có ba đệ tử là Tổng Am Diệu Tâm, Thường Trai Pháp Bái, Giác Am Giản Ngôn. Ngôn truyền cho Giám Đường Tư Nghĩa. Trong năm Bảo Khánh, Thiệu Định, Thần Hóa trụ ở Thượng Trúc.

Hộ Quốc Kim Quang Minh Sám: Mùa Đông, tháng mười, Đế đi săn ở Thai châu đến Kim Ngao Sơn tự, cảm thấy chùa im lặng trống vắng, chỉ thấy chánh điện mênh mông, khói hương thoang thoảng, có vị Tăng rất già, tóc bạc trắng đang cầu chư thiên trước điện Phật. Đang lúc âu lo, Đế nghe những lời nguyện cầu bảo hộ đất nước vô cùng thành khẩn của vị Tăng, liền vui mừng hỏi, vị Tăng đáp: "Đây là Sám Nghi Hộ Quốc Kim Quang Minh Tam-muội. " Về sau, khi tạm cư ở Hàng châu, Đế hạ chiếu hằng năm cúng vàng lụa cho các chùa lớn để tu sám pháp này theo định kỳ. Tu Kim Quang Minh Sám bắt nguồn từ đó. (Theo Triệu Ngạn Tuệ

Ung, Lô Nhàn Thoại)

 

Canh Tuất: Kiến Viên năm thứ tư, tháng hai Đế đi săn ở Ôn Châu, tá túc ở chùa

Đại Kim: Thiên

Tây Hạ

Giang Tâm, nhân đó đổi chùa này thành chùa Long Tường

Hội năm thứ 8

 

 

Tề: Niêm Hãn của nước Kim cho rằng Trương Bang Xương đã chết, nên xin với quốc chủ lấy lại đất Hà Nam. Mồng chín tháng chín, sách lập Tế Nam Thái thú Lưu Dự làm Đế ở Đại Danh Quốc, lấy quốc hiệu Đại Tề, lấy niên hiệu Phụ Xương. Tống nhiều lần đem quân thảo phạt, Dự nhiều phen bại trận. Đến năm Đinh Tỵ, Kim chủ thấy Lưu Dự không thể lập quốc nên phế truất Dự. Nước Tề tồn tại tám năm thì diệt vong. Dự sinh ở Cảnh châu, làm Thái thú Tế Nam.

 

Tân Hợi: Thiệu Hưng thứ 1, mùa thu tháng tám, Phạm Tông Y bị bãi tướng Tần Cối được bái làm Hữu Tướng.

Đại Kim: Thiên Hội năm thứ 9

Tây Hạ

Nhâm Tý: Thiệu Hưng năm thứ hai, mùa thu tháng chín, Tần Cối bị bãi tướng, Chu Thắng Phi lại được bái làm Hữu

Thiên Hội năm thứ 10

Tây Hạ

Tướng

 

 

Quý Sửu: Thiệu Hưng năm thứ 3

Thiên Hội năm thứ 11

Tây Hạ

Giáp Dần: Thiệu Hưng năm thứ tư. Tháng chín, Triệu Đỉnh làm Tể tướng

Thái Tông mất, Hy Tông lên ngôi. Thiên Hội năm thứ 12

Tây Hạ

Ất Mão: Thiệu Hưng năm thứ 5

Thiên Hội năm thứ 13

Tây Hạ Đại Đức thứ 1

 

Tống: Tháng chín Bính Thìn, Đế xa giá đến Thượng Thiên Trúc, cúng dường tượng Bồ-tát ở Vạn Tuế Hương Sơn, mời trụ trì Ứng Như đến đàm luận. Ứng đối hợp ý, Đế ban cho vàng lụa, Từ bộ độ Tăng điệp để khuyến khích Như tu tập, độ Tăng. Trước đây, tháng bảy năm Thiệu Hưng năm thứ ba, long đồ các học sĩ Lương Như Gia làm tri phủ Lâm An tâu xin cho Đại sư Viên Thông Ứng Như trụ trì Thượng Trúc, đến bây giờ Đế mới thấy hài lòng.

Kim: Thái Tông Thịnh mất vào tháng mười hai năm Thiên Hội năm thứ mười hai. Hy Tông Hiếu Thành đế Đản lên ngôi. Đản là cháu đích tôn của Thái tổ, con Tông Tuấn, vẫn xưng Thiên Hội năm thứ mười ba, đến năm Mậu Ngọ đổi niên hiệu Thiên Quyến. Năm Tân Dậu đổi niên hiệu Hoàng Thống. Năm Kỷ Tỵ, mồng mười tháng mười hai năm Hoàng Thống năm thứ chín, ông bị Tùng đệ Kỳ Vương Lượng giết. Hiếu Thành ở ngôi mười sáu năm. Từ nhỏ, ông thông minh, thấu đạt, luôn noi kinh điển, thích văn từ, oai nghi, Thái Tông rất yêu mến. Ngày thường ông khoái giết người, về già tánh khí càng bạo ngược. Tông tộc đại thần lo sợ mình khó thoát chết nên ngầm bàn với nhau theo dõi và giết ông. Sau khi lên ngôi Đế, Kỳ Vương Lượng đã trụy phế Đản làm Đông Hôn Vương. Lượng mất Thế Tông lên ngôi, truy phong Đản thụy Vũ Linh Hoàng Đế, miếu hiệu Mẫn Tông. Thời gian sau, đổi lại Hiếu Thành Hoàng Đế, miếu hiệu Hy Tông.

 

Bính Thìn: Thiệu Hưng năm thứ 6

Đại Kim: Thiên Hội năm thứ 14

Tây Hạ

 

Thiền sư Long ở Hổ Khâu, Bình Giang nhập tịch, tháp an táng toàn thân ở góc Tây Nam. Sư quê ở Hàm sơn, Hòa châu nối pháp Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần, Cần nối pháp Ngũ Tổ Pháp Diễn.

 

Đinh Tỵ: Thiệu Hưng năm thứ bảy. Ngày hai mươi mốt tháng bảy, hạ chiếu cho Thiền sư Phật Nhật Tông Cảo trụ Long Nhân Thiền Tự ở Kính Sơn

Đại Kim: Thiên Hội năm thứ 15

Tây Hạ

Mậu Ngọ: Thiệu Hưng năm thứ tám. Tháng ba, Tần Cối lại được bái làm Hữu Tướng

Kim đổi niên hiệu. Thiên Quyến năm đầu

Tây Hạ

 

Sắc Lăng Độ Điệp: (Độ Điệp trên lụa hoa do Đế ban): Tống, mùa thu tháng tám, Đế hạ chiếu ban Sắc Lăng Độ Điệp cho Tăng ni cả nước. (Theo

Thích Thống Hưng Phế, Chí Trung Hưng Lịch)

 

Kỷ Mùi: Thiệu Hưng năm thứ 9

Thiên Quyến năm thứ 2

Tây Hạ

 

Tống: Đế hạ chiếu vì Nhữ Chân đến cầu hòa nên đại xá thiên hạ, các châu quận huyện dựng Báo Ân Quang Hiếu Thiền tự để phụng thờ hương hỏa cho Huy Tông Hoàng Đế.

 

Canh Thân: Thiệu Hưng năm thứ 10

Đại Kim: Thiên Quyến năm thứ 3

Tây Hạ: Thát Bạt Nhân Hiếu lên ngôi. Đại Khánh năm đầu

 

Tống: Mùa Đông, mồng bảy tháng mười một, Sa-môn Tư Tịnh ở viện Diệu Hạnh thuộc Bắc Quan, Hàng châu quy tịch. Lễ bộ thị lang Trương Cửu Thành soạn bài minh trên tháp. Ngài họ Dụ, người Tiền Đường, lập viện Diệu Hạnh tiếp Tăng độ chúng, cúng dường ba trăm vạn chư Tăng, họa tượng Phật Di-đà rất có thần. Thị lang Dương Kiệt tôn xưng ngài là Dụ Di-đà, ai nấy đều cứ thế gọi theo. Trong bia đá ở phía Bắc Tây Hồ, người ta tôn xưng ngài là Đại Phật Đầu. (Ông Phật lớn)

 

Tân Dậu: Thiệu Hưng năm thứ 11. Tần Cối, Trương Tuấn bàn mưu giết Đại tướng Nhạc Phi

Kim Đổi niên hiệu. Hoàng Thống năm đầu

Tây Hạ

 

Tống Triều: Tán lang Ôn châu Trương Cửu Thành, tự Tử Thiều, hiệu Vô Cấu Cư sĩ, con quan quản lý muối của Hàng châu. Tháng ba năm Thiệu Hưng năm thứ hai, Đế mở khoa thi Tiến sĩ, Cửu Thành đỗ đầu bảng. Thành từng nói: "Các bậc tiền bối lập thân đỗ đạt vượt trội hơn người, các bậc danh nho trứ tác chuyên sâu mầu nhiệm, đều do tâm tỏ ngộ. " Vì thế Thành tham học, cứu xét rốt ráo. Ban đầu, ông đến tham học với Thiền sư Bảo Ấn Sở Minh-người nối pháp của Đại Thông, ra mắt Thiền sư Phật Nhật Cảo ở Kính sơn, tỏ ngộ tâm yếu, cùng tận nguồn tánh. Đến lúc này, năm Tân Dậu, Phật Nhật quý chỗ ngộ nhập của ông, mới đặt biệt mời ông thượng đường. Ông dẫn Thần Tý Cung (nỏ thần) ra để bàn. Lúc này, ngoài việc quân việc nước, các quan cũng đang luận nghị về lực dụng của Thần Tý cung. Hữu Thừa Tướng Tần Cối cho rằng ông chê trách triều chính, nên tháng năm, bắt Phật Nhật làm dân thường đày đi Hoành châu, đày Cửu Thành đi Nam An quân. Cửu Thành đi đày suốt mười bốn năm, trú ngụ ở Tăng xá Hoành Phố. Ông giảng kinh viết sách, đều là những điều mà người học chưa được nghe. Trong Tâm Truyền Lục, ông viết: "Lục kinh đều là diệu pháp, nhưng bảo nó là cái nhỏ nhặt của đạo, vậy Lục kinh lẽ đâu làm cho đạo nhỏ nhặt ư! Hạn hẹp với Lục kinh thì đó mới là nhỏ nhặt. " Ông lại nói: "Thế gian đều huyễn, người ở trong cái huyễn mà chẳng biết ngàn xưa rối bời. Mừng giận thương ghét từ đâu mà ra? Cho nó vốn có thì hình thù chẳng giống vật, cho nó vốn không thì không lần ra gốc gác. Như những người tu nơi núi cao rừng sâu, có khả năng tự giác, nhưng lại nhận huyễn làm giác, giác tức là huyễn. Không có huyễn thì không có giác, nhờ giác mà biết huyễn, bản thân của giác nó không nhận mình là giác, huống gì những tâm niệm tình thương mừng giận thương ghét! Huống gì thứ bụi bặm công danh phú quý!

Tống: Mùa Thu, tháng bảy, Pháp sư Trí Dũng Liễu Nhiên người Thai Châu đã trụ ở Bạch Liên Thiên Thai giáo suốt hai mươi bốn năm. Đến lúc này, ngài tắm rửa, thay áo, ngồi kiết già thuyết pháp rồi quy tịch. Ngài soạn Nam Nhạc Chỉ Quán Tông Viên Ký năm quyển, Thập Bất Nhị Môn Khu Yếu hai quyển, Hổ Khê Tiền Hậu Tập tám quyển. Đệ tử nối pháp ngài gồm: Trạch Sơn, Dự Hàm, Sơn Đường, Nguyên Tánh, Bạch Liên, Diệu Lân, Hư Đường, Bổn Không.

 

Nhâm Tuất: Thiệu Hưng năm thứ 12

Đại Hoàng Thống thứ 2

Kim: năm

Tây Hạ

 

Tống: Mùa Xuân, Hiển Nhân Thái Hoàng hậu Vi thị từ Bắc trở về. Mùa thu tháng chín, Thượng thư Tả bộc xạ Ký Quốc Công Tần Cối được phong chức Thái sư Ngụy Quốc Công.

 

Quý Hợi: Thiệu Hưng năm thứ 13

Hoàng Thống năm thứ 3

Tây Hạ

 

Kim: Mùa hạ, tháng sáu, sinh Thái tử Anh Điệu, Đế hạ chiếu cho Đại sư Hải Tuệ dựng chùa Đại Trữ Khánh bên cạnh cung ở Thượng Kinh, phổ độ thiếu niên cả nước. Những người xuất gia làm Tăng ni và Đạo sĩ được ghi tên ở chỗ các quan lên đến trăm vạn. Năm sau, Đế giữ hai Thiền sư Hải Tuệ và Thanh Tuệ ở lại chùa Đại Trữ Khánh, nghinh Thụy tượng xá-lợi về cúng dường ở Tích Khánh các trong chùa này.

Tống: Đế hạ chiếu dựng chùa Thiên Thân Vạn Thọ Viên Giác ở Tây Sơn, phủ Lâm An đã xong, ngày mười chín tháng tư, lệnh cho Sư Đức Tín đang giữ chức Phiên Để Khán kinh lo việc hương khói. Đến ngày mười ba tháng năm Bảo Khánh năm thứ hai đời Lý Tông, mới bổ nhiệm ngài Sư Tán trụ trì, hoằng truyền giáo quán Thiên Thai (Theo Viên Giác Bi Khắc)

Phiên Dịch Danh Nghĩa: Tống, mùa thu tháng tám, Sa-môn Pháp Vân ở chùa Cảnh Đức, Tô châu soạn xong bộ Phiên Dịch Danh Nghĩa bảy quyển.

Duy Tâm Cư Sĩ Chu Quỳ viết lời tựa.

 

Giáp Tý: Thiệu Hưng năm thứ 14. Tống, Minh, Châu, Diên Khánh viện được sắc tứ thành chùa

Đại Kim: Hoàng Thống năm thứ 14

Tây Hạ: Nguyên Khánh năm 1

 

Tống: Đế hạ chiếu đổi chùa Linh sơn ở Thiên Trúc thành Thời Tư Tiến Phước để phụng thờ hương hỏa cho Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu Ngô thị. Mùa đông tháng mười năm Khánh Nguyên năm thứ ba đời Ninh Tông, chọn được khu đất tốt ở phía Tây Linh Ẩn, dựng xong chùa Thời Tư Tiến Phước, trả lại tên cũ cho chùa là Thiên Trúc. Tháng sáu năm Gia Định thứ mười, Khánh viễn quân Tiết độ sứ Ngô Diễm xin với Tử Triêu rằng: "Thời Tư Tiến Phước xin được làm theo tông chỉ của Thượng Thiên Trúc và Hạ Thiên Trúc, vĩnh viễn hoằng truyền giáo quán Thiên Thai. " Đế mới hạ chiếu thỉnh Cảnh Thiên Khai Sơn trụ trì.

(Ngô Tự Bi khắc)

 

Ất Sửu: Thiệu Hưng năm thứ 15

Hoàng Thống năm thứ 5

Tây Hạ

 

Kim: Đại sư Hải Tuệ quy tịch. Đế và Hoàng hậu đích thân phụng rước xá-lợi lập tháp thờ năm nơi, đặc biệt ban ngài thụy Phật Giác Hựu Quốc Đại Thiền Sư. Tháng giêng năm sau, Đế ban cho ngài Thanh Tuệ hiệu Phật Trí Hộ Quốc Đại Sư, thỉnh lên tòa Quốc Sư, đặc biệt ban cho ngài Đại y Tăng-già-lê may bằng sợi vàng, cùng bình bát, lư trầm, pháp khí bằng trân bảo. Đế và Hoàng hậu đảnh lễ sát đất, cung kính dâng y. Lòng cung kính này của đế vương từ xưa đến nay chưa từng có.

 

Bính Dần: Thiệu Hưng năm thứ 16

Đại Kim: Hoàng Thống năm thứ 6

Tây Hạ

Đinh Mão: Thiệu Hưng năm thứ 17

Mông Phụ Quốc, Tổ Nguyên Hoàng Đế. Thiên Hưng năm đầu

Hoàng Thống năm thứ 7

 

Kim: Thát Lạt bị giết, con ông ta là Thắng Hoa đô lang quân thống lãnh các bộ lạc cũ của cha mình nổi lên làm phản, thông đồng với Mông Cốt. Đô nguyên soái Ngột Truật chưa chết. Ông tự dẫn tám vạn cung thủ Thần Tý cung được huấn luyện ở Trung Nguyên đến đánh, nhưng nhiều năm liền vẫn không tiêu diệt được Thắng Hoa. Tháng tám năm Hoàng thống năm thứ sáu, Đế sai Tiêu Bảo Thọ Nô sang hòa nghị cắt hai mươi bảy doanh trại từ Tây Bình Hà trở về Bắc cho Thắng Hoa. Hằng năm đều đưa sang trâu, dê, lúa, đậu, đồng thời sách phong tù trưởng Ngao La Bột Cực Liệt làm Mông Phụ quốc chủ. Đến năm này mới hòa hiếu, phẩm vật đem tặng càng nhiều. Thế rồi, Ngao La Bột Cực Liệt tự xưng Tổ Nguyên Hoàng Đế đổi niên hiệu Thiên Hưng. Đại Kim nhiều năm đem quân đi đánh nhưng rốt cuộc vẫn không diệt được, chỉ đưa tinh binh chia nhau chiếm cứ những nơi hiểm yếu rồi rút về. Mùa đông, Đô nguyên soái Ngột Truật mất. (Kim Chí)

Tống: Tam tạng Pháp sư Vĩnh Đạo được Đế cải húy là Pháp Đạo. Niên hiệu Tuyên Hòa năm đầu đời Huy Tông, Đế hạ chiếu đổi Phật thành Đại Giác Kim Tiên. Đại sư Vĩnh Đạo Bảo Giác ở viện Sùng Tiên Hương Tích thuộc Tả Nhai dâng thư can gián. Đế nổi giận đày Đạo đến Đạo châu. Năm Tuyên Hòa năm thứ bảy, hạ chiếu cho về lại kinh đô, được mặc lại pháp phục Sa-môn, triều đình nêu cao tinh thần hộ pháp của ngài, nên Đế cải húy ngài là Pháp Đạo, thỉnh trụ Chiêu Tiên viện ở Chiêu Khánh đồng thời nhận chức viện chủ Thích-ca ở Hiển Khánh Hữu Nhai. Cao Tông niên hiệu Kiến Viêm năm đầu, Đế lấy ngày hai mươi mốt tháng năm ngày sinh của mình làm tiết Thiên Thân. Biện Kinh Lưu Thú Tông Trạch thừa lệnh Đế thỉnh ngài trụ ở chùa Thiên Thanh Tả Nhai bổ nhậm chức tuyên Giáo Lang, cầu nguyện cho đất nước và tham dự việc quân. Kiến Viêm năm thứ ba, Pháp Đạo theo Đế đi tuần thú phía nam, nhiều lần được Đế mời đến Đô Đường cùng trù liệu việc quân việc nước. Đế muốn ngài mặc quan phục nhưng ngài chối từ, Đế cũng thuận theo chí nguyện. Trước đây ngài có hiệu là Bảo Giác, nay được gia ban thêm là Viên Thông Pháp Tế Đại Sư. Tháng năm thứ tư, Đế hồi cung về Việt châu. Mùa hạ đại hạn, Đế hạ chiếu thỉnh ngài cầu mưa ở chùa Viên thông giáo. Trời đổ mưa, Đế rất hài lòng. Tháng hai năm Thiệu Hưng năm thứ hai, Đế mời ngài vào ứng đối, thời gian sau thỉnh ngài trụ ở Thái Bình Hưng Long Thiền tự thuộc Đông Lâm, Lô Sơn, Giang châu. Mùa xuân tháng hai năm thứ ba, ngài dâng tấu sớ trình bày ngôi thứ của Tăng, Đạo, dựa theo Tổ Tông lập thành quy củ. Mùa hạ tháng năm đại hạn, Đế thỉnh ngài vào cấm cung cầu mưa to, Trời đổ mưa to. Đế ban cho ngài bình bát bằng vàng. Từ niên hiệu thiệu Hưng năm đầu đến lúc này là năm năm thứ mười bảy, tháng tư, ngài thuật xong bộ Đại Tống Tăng Sử Lược. Mùa thu ngày hai mươi mốt tháng bảy ngài ngồi kiết già nói với đồ chúng: "Việc giữ gìn pháp môn đều nhờ nơi các ông"! Nói xong ngài quy tịch, môn nhân dựng tháp tại Cửu Lý Tùng thuộc Tây Hồ, Hàng châu. Đời Ninh Tông trong năm Gia Định, Ngô Khắc Tỵ ở Đông Dương soạn truyện về cuộc đời ngài.

 

Mậu Thìn: Thiệu Hưng năm thứ 18

Đại Kim: Hoàng thống năm thứ 8

Tây Hạ

 

Thiền sư Phật Trí: Sư họ Tiền, húy Đoan Dụ là hâu duệ của Ngô Việt Vương, nối pháp Thiền Sư Viên Ngộ Khắc Cần. Ban đầu Sư trụ ở Đan Hà Đặng châu, sau dời qua Hổ Khâu, rồi Kính Sơn, dựng am ở Tây Hoa. Đế hạ chiếu thỉnh trụ ở chùa Bảo Ninh Vạn Thọ, rồi dời qua chùa Tây Thiền thuộc Huyền Sa Thọ Sơn, Mân châu nhận chiếu bổ nhiệm vào chùa Linh Ẩn. Mùa thu năm này Sư quy tịch ở chùa Dục Vương, đệ tử nối pháp Tịnh Từ, Thủy Am, Sư Nhất v. v...

 

Kỷ Tỵ: Thiệu Hưng năm thứ 19

Kim Chủ bị giết. Lương lên ngôi đổi thành Hoàng Thống năm thứ chín thành Thiên Đức năm đầu

Tây Hạ

 

Tống: Ngày hai mươi ba tháng năm, Đế hạ chiếu ban cho viện Công Đức của Tiệp Dư Lưu thị thành Bao Thân Sùng Thọ viện (Tiệp Dư là chức quan nữ, ngôi vị ngang bằng thượng khanh, quan tước ngang với liệt hầu). Ninh Tông Gia Định năm thứ mười bảy, Đế mới hạ chiếu thỉnh Pháp sư Chánh Ngộ Nguyên Túy khai sơn trụ trì, truyền giáo quán Thiên Thai. Lưu tự (chùa họ Lưu) ở Phong Sơn hiện nay chỉ đứng sau Lưỡng Trúc. (Thượng Thiên Trúc và hạ Thiên Trúc)

Kim: Tháng mười hai, Giáp Tý, Tả Thừa Tướng Kỳ Hương Lượng lên ngôi Hoàng Đế, truy tôn cha là Đức Tông, đổi niên hiệu là Thiên Đức, dời đô về Yên Kinh, lại dời đô về Biện Kinh, xâm lăng đất Tống phía nam đến Dương châu. Tháng mười một Ất Mùi năm Chánh Long năm thứ sáu, ông bị chư tướng giết ở chùa Trấn Quy Sơn, Qua châu, ở ngôi mười ba năm, Thụy là Hải Lăng Dương Vương.

Tống: Thiền sư Mục Am ở Long Hưng, Giang Tây: Sư họ Đào, húy Pháp Trung, người Cận huyện, Minh châu. Từ nhỏ tính Sư đã thuần tịnh, lớn lên xin cha mẹ xuất gia, cha mẹ đồng ý. Sư theo học với Đại sư Đạo Anh ở viện Sùng Giáo trong quận này. năm mười chín tuổi, nhân thi kinh mà được độ làm Tăng, Sư đến các giảng đường nghiên cứu yếu chỉ giáo quán Thiên Thai, tâm hơi tự phụ. Ngày nọ, Sư phô trương sở học của mình với một Thiền giả. Nhân bị thiền giả bắt bẻ đuối lý, Sư bỗng hoài nghi. Sư đến ra mắt Thiền sư Giao ở Thiên Đồng, Giao bảo Sư về Nam tham vấn, Sư liền đến pháp tịch của Thiền sư Nho ở Tuyết Phong, Mân châu nhưng không khế hội. Sư đến đạo tràng của Thiền sư Phật Nhãn Thanh Viễn ở Long Môn, Thư châu, Hoài Tây. Nhưng đến chỗ bánh xe xoay nước nhìn thấy bảng ghi: "Pháp Luân Thường Chuyển". Sư hoát nhiên đại ngộ, làm bài kệ:

Chuyển đại pháp luân
Trước mắt bao hàm
Lại hỏi thế nào
Nước đẩy xe đá.

Phật nhãn hứa khả. Sư từ biệt, vượt Cửu Giang lên dựng am tu tập trên Lô Phụ, rắn cọp thường đến làm bạn. Nơi núi xanh suối lượn hễ thích nơi nào là Sư ở đó. Sư bảy từng trụ ở năm chùa: Thắng Nghiệp, Nam Thủy, Vân Cái, Công An, Đại Quy. Sau Sư đến Hoàng Long ở Dự Chương. Đến lúc này, năm Kỷ Tỵ, Thái úy Hình Hiếu Dương cúng vàng. Xây tháp cho Sư ở Hương Nguyên thuộc phía Đông chùa. Xây vừa xong, Sư cười nói: "Ta sắp đi rồi!". Sư viết kệ rằng:

Sáu mươi sáu năm
Dạo trong huyễn mộng
Ca hoài về thôi
Buông tay trường không.

Viết xong Sư nhắm mắt quy tịch. Sư nối pháp Thiền sư Phật Nhãn Thanh Viễn, Viễn nối pháp Ngũ tổ Pháp Diễn, Diễn nối pháp Bạch Vân Thủ Đoan, Đoan nối pháp Dương Kỳ Phương Hội, Hội nối pháp Từ Minh Sở Viên, đều thuộc dòng Lâm tế. Nối pháp của Sư có Thiền sư Phổ Am Ấn Túc. Thiền sư Chân Giác Chiêu Huống: Sư họ Dư, húy Ấn Túc, người Nghi Xuân, Viên châu, Giang Tây, ngụ ở Tịch Cảm Diệu Tế. Năm sáu tuổi, Sư mộng thấy dị Tăng khuyên mình xuất gia. Cha mẹ đồng ý, Sư theo học với ngài Hiền Công ở viện Thọ Long. Năm hai mươi bảy tuổi Sư được thế phát, năm sau thọ Cụ túc giới. Hiền Công khuyên Sư đọc kinh Pháp Hoa. Sư thưa: "Từng nghe diệu chỉ của chư Phật đều quý ở chỗ liễu ngộ được tâm". Sư từ giả Hiền Công đến Hồ Tương, ra mắt Thiền sư Mục Am Pháp Trung, ở núi Đại Quy, hỏi:

-Muôn pháp về một, một về chỗ nào?

Pháp Trung dựng đứng phất tử, Sư liền tỉnh ngộ, sau về trụ ở viện Thọ Nghiệp. Đến lúc này năm Quý Dậu niên hiệu Thiệu Hưng, có ngôi chùa Từ Hóa ở gần đó, chúng thỉnh Sư trụ trì. Sư chẳng có tài sản gì, chỉ có chăn đắp, giấy mực, y phục, cơm cháo, thiền định. Một hôm, nhân đọc Hoa Nghiêm hợp luận, Sư nói bài kệ:

Vô chẳng thành cục chẻ chẳng ra
Nào phải Nam Nhạc với Thiên Thai
Đầu cửa sáu căn không người dụng
Rước được Hồ tăng đặc biệt qua.

Thường ngày Sư làm bài kệ:

Linh diệu như như,
Chẳng khác thái hư
Tạo ra muôn vật,
Chẳng ngại phương hướng.

Những người mến mộ đạo đến, Sư tùy nghi nói pháp, có khi viết bài kệ cho họ. Người bệnh hoạn đến, Sư cắt cỏ làm thuốc trao cho họ, người bệnh uống vào khỏi ngay, linh nghiệm rất nhiều. Từ đó họ trùng tu đạo tràng cho Sư. Có người hỏi Sư tu hạnh gì mà được như vậy, Sư vẽ một đường và hỏi: "Hiểu không". Họ đáp: " Chẳng hiểu". Sư nói: "Thôi! Thôi! Chẳng cần nói. "

Ngày hai mươi mốt tháng bảy năn Càn Đạo năm thứ năm, đời Hiếu Tông, Sư dạy chúng: "Chư Phật chẳng xuất thế, cũng không có nhập diệt, những ai vào thất ta đều có thể thế hội, khéo tự hộ trì, chớ để thối thất. " Sư tắm rửa thay áo ngồi kiết già thị tịch, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi, Tăng lạp hai mươi tám hạ, tháp an táng toàn thân tại chùa này. Sư nhiều lần nhận ân Đế sắc phong Thụy. Sư dung mạo khôi ngôi, bẩm tính thông tuệ, nối pháp Thiền sư Mục Am Pháp Trung.

 

Giáp Ngọ Thiệu Hưng năm thứ 20

Đại Kim Thiên Đức năm thứ 2

Tây Hạ

Tân Mùi Thiệu Hưng năm thứ 21

Thiên Đức năm thứ 3

Tây Hạ

 

Đức Thế Tôn nhập diệt đến lúc này được hai ngàn một trăm năm.

Tống: Thiền sư Phật Nhật ở Kính Sơn, Hàng châu: Sư họ Hề, húy Tông Cảo, quê ở Ninh Quốc, Tuyên châu, Giang đông. Sư nối pháp Thiền sư Phật Quả Viên Ngộ Khắc Cần. Trước đây trong năm Thiệu Hưng năm thứ bảy. Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ ở Kính Sơn. Tháng năm Tân Dậu, Thiệu Hưng năm thứ mười một do Trương Cửu Thành thượng đường nói về Thần Tý cung, nên triều đình hủy hết y phục, độ điệp và đày Sư đến Hoành châu. Đến lúc này, tháng mười một năm năm thứ hai mươi mốt, Sư được đưa về Mai châu. Không lâu sau đó, Đế hạ chiếu cho Sư làm Sa-môn lại, được Đế cho về Bắc. Những pháp tịch chưa có người chủ trì ở bốn phương đều đến thỉnh nhưng Sư không nhận. Ngày hai mươi ba tháng mười hai, Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ ở Quảng Lợi Thiền Tự thuộc núi A-dục Vương, Minh châu. Năm thiệu Hưng năm thứ hai mươi tám, Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ lại ở Kính Sơn. Mồng mười tháng tám niên hiệu Long Hưng Năm đầu, đời Hiếu Tông, Sư thị tịch ở Minh Nguyệt đường, Kính Sơn, hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi, Tăng lạp năm mươi tám hạ, an táng toàn thân ở núi này. Đế ban Sư thụy Phổ Giáo, tháp hiệu Bảo Quang.

Lúc Hiếu Tông còn làm Phổ An Quận Vương từng sai Nội Đô Giám đến Kính Sơn hỏi đạo, Sư dâng bài kệ rằng:

Gốc lớn, khí lớn sức lực lớn
Gánh vác việc lớn chẳng tầm thường
Trên đầu sợi lông không tin tức
Khắp cõi rành rành chẳng giấu che.

Vương rất hài lòng đến khi được phong Kiến Vương, Hiếu Tông sai nội tri khách đến Kính Sơn cúng dường năm trăm La-hán, tự tay viết ba chữ lớn: "Diệu Hỷ Am", viết bài tán gửi cho Sư ghi rằng:

Sinh diệt chẳng diệt
Thường trụ chẳng trụ
Viên giác rỗng sáng
Tùy vật hiện ra.

Hiếu Tông lên ngôi Hoàng Đế, ban cho Sư hiệu Đại Tuệ Thiền sư. Sư gom hết những bút tích mà Đế ban tặng trước đây, dùng Ngự bảo chép hết lại. Thánh ân quả sâu dày. Đệ tử nối pháp của Sư rất đông. Hữu tướng Thang Tư Thoái, Tham chính Lý Bính, Nội hàng Uông Tảo, Lễ bộ thị lang Trương Cửu Thành, Cấp sự trung Phùng Tiếp, sĩ đại phu từng tham học với Sư và thông đạt có ghi đủ trong Trường Thư Phổ Thuyết. Thiếu bảo Bảo tín quân Tiết độ sứ Ngụy Quốc công Trương Tuấn viết bài minh trên tháp. Đế cho Ngữ Lục của Sư nhập tạng lưu hành.

Tống: Thiền sư Thảo Đường Duy Thanh: Sư húy Tu Ngưỡng, giữ chức Hội trung thư ký, người Nam Mân, trụ ở Bột Đàm, Long Hưng. Ngài Phật Nhật Tông Cảo phụng chỉ từ Hoành châu dời về Mai Dương, Ngưỡng đi theo hầu hạ. Quận thú Tạ Triêu Nghị chỉ Phật Nhật nói với các quan rằng: "Triều đình xếp đặt, người được gọi là trưởng lão chỉ có vị Tăng này mà thôi!" Binh mã ty Đông Thiên lần theo đường mòn đến với Sư ở. Về sau hằng ngày có đến vài trăm tăng. Đông Thiên cúng dường cọc dầm để làm bằng nền móng, chở tre cây đến dựng am thất. Quận thú thấy Phật Nhật chỉ một người khác và gọi người ấy là "Ông không dám lười biếng". Quận thú tuy nghe nhưng thấy ai cũng siêng năng như nhau mà chẳng biết rốt cuộc là người nào. Thế là Quận thú cho một, hai người theo dõi Sư hay làm gì. Ngưỡng liền thừa lệnh, cùng Quận thú thong dong luận bàn những kỳ tài suốt cả ngày. Hết cổ rồi đến kim, hết trái rồi qua phải. Quận thú lại cho người đợi mãi đến canh năm xem thử có giấu người kỳ tài nào không. Ngưỡng liền nói, ở đây người biết hết đại Kinh Luận cũng có, người bác thông sử sách cũng có, người tài giỏi về thi trí cũng có, người tao nhã lãng tử cũng có. Thế nhưng, điều mà họ chưa thể tỏ thông thấu đáo là đại sự nhân duyên của Phật, Tổ mà thôi. Vì thế họ chẳng ngại gian lao, đến hầu hạ nơi đây, được gần gũi với người chính trị nhân từ là điều may mắn không gì sánh bằng họ rồi.

Quận thú thất kinh khi biết đồ chúng của Sư toàn là kẻ sĩ vì pháp quên mình. Từ đó Quận thú càng rất kính trọng Thiền sư Phật Nhật, sai con mình chuyên tâm cầu đạo thẳng tắt của Sư. Phật Nhật khai thị pháp gồm tám thiên, hiện còn trong Ngữ Lục.

Tống: Năm Thiệu Hưng năm thứ mười hai, Hiển Nhân thái Hoàng hậu Vy thị từ Bắc trở về. Đến lúc này, tháng mười hai năm năm thứ hai mươi mốt, Hoàng hậu dựng chùa mới tại núi Cao đình, Hàng châu xong, đặt tên là Sùng Tiên Hiển Hiếu, hạ chiếu thỉnh Thiền sư Chân Hiết Thanh Liễu thuộc đời năm thứ chín phái Động Sơn khai sơn trụ trì. Đế triệu Sư vào hỏi đạo, ứng đáp hợp ý, Đế ban cho Đại y viền vàng. Sau đó không lâu, Sư thị tịch, tháp an táng toàn thân trong chùa này, văn bia vẫn còn. Sư họ Ung, sinh ở Miên châu, đất Thục, nối pháp của Đan Hà Tử Thuần, Thuần nối pháp Phù Dung Đạo Giai. Thái hậu cho rằng Tứ Thánh quán của Đạo Gia đặt biệt có trợ giúp cõi âm nên đổi chùa Cô Sơn thành Diên Tường quán để phụng thờ hương hỏa, dời di hài của Pháp sư Pháp Tuệ Trí Viên trong chùa Cô Sơn về an táng tại đồi Mã Não trên núi này.

 

Nhâm Thân:

Kim: Từ Phủ Hội

Tây Hạ

Thiệu Hưng năm thứ 22

Ninh dời đô về Yên Kinh. Thiên Đức năm thứ 4

 

Quý Dậu: Thiệu Hưng năm thứ 23

Kim đổi niên hiệu. Trinh Nguyên năm đầu

Tây Hạ

 

Tống: Đế hạ chiếu thỉnh Pháp sư Viên Trí ở núi Đông Dịch Thai châu, trụ trì Thượng Thiên Trúc.

Thái sư Tần Cối hỏi:

-Chỉ quán là một pháp hay hai pháp?

Viên Trí đáp: Một pháp. Thí như nước lặng yên thì trong, đó là Chỉ. Dùng con mắt mà quán sát, đó gọi là Quán. Nước chỉ một mà thôi. Do tâm tánh chúng sinh, vốn có các bệnh như hôn trầm, tán loạn nên dùng Chỉ và Quán làm thuốc để cứu và trị bệnh, khiến chúng sinh đồng quy về cái toàn thể của một pháp giới. Pháp giới vắng lặng gọi là Chỉ. Vắng lặng nhưng thường chiếu gọi là Quán. Thể chiếu soi và vắng lặng của Chỉ Quán lẽ đâu có hai! Tần Cối gật đầu hài lòng, cúng năm vạn tiền để xây Pháp đường. Ngày mười hai tháng mười hai năm Thiệu Hưng năm thứ hai mươi tám, Pháp sư Viên Trí Chứng Ngộ quy tịch, Tào Huân soạn bài minh trên tháp. Đế hạ chiếu cho đệ tử thủ tòa của ngài là Nhược Nột kế thế trụ trì đạo tràng.

Tống: Cấp sự trung Lô châu Thái thú Phùng Tiếp, tham học với Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo, tỏ ngộ tâm pháp, hiệu là Bất Động Cư sĩ. Sau khi về Nam, những tự viện nơi này hễ thiếu hoặc mất tạng kinh, ông liền ấn bản bổ khuyết cho đủ, cả thảy hơn năm ngàn quyển, gồm bốn mươi tám tạng (bản). Tứ Đại Bộ cũng vậy. Ông đến đâu, đều như một dân thường đàm đạo với Hiền sĩ, Đại phu, Cao tăng. Kế thừa di phong Liên xã của Lô Sơn, ông lập hội Hệ niệm Tịnh độ vào mỗi tháng. Đến lúc này, mùa Đông mồng ba tháng mười năm Quý Dậu, ông mặc quan phục hướng về hoàng cung lạy hai lạy xong, thay y phục đắp ba y Tăng-già-lê, lên tòa cao ngồi kiết già, nói kệ rồi qua đời.

Tống: Pháp sư Viên Biện Đạo Sâm ở Ôn châu: Hễ đến cư ngụ nơi nào, vào ngày hai mươi ba mỗi tháng ngài đều lập Tịnh độ hệ niệm đạo tràng. Những vị giảng Sư, những vị thạc đức của Thiền, Luật đều đến tham dự. Tăng tục thường lên đến hơn vạn người. Đến lúc này, mùa Đông ngày mười sáu tháng mười hai năm Quý Dậu, ngài ngồi ngay thẳng quy tịch. Đệ tử nối pháp có Pháp Liên, Tuệ Tuân, Thân Thiều. Thiều soạn Chỉ Nam Tập hai quyển Tăng tục đều xem như báu vật. (Phật pháp Hệ Niên Lục)

Toàn Chân Giáo: Nước Kim, Trinh Nguyên năm đầu, có một quan lại người Hàm Dương là Vương Trung Phu khởi xướng luận bàn về Toàn chân giáo, Mã Khâu Lưu phụ họa theo Phu, giáo phái này rất thịnh. Đời Chương Tông năm Thái Hòa năm thứ tư, Nguyên Học sĩ soạn Tử Vi Quán Ký.

 

Giáp Ngọ: Thiệu Hưng năm thứ 24

Trinh Nguyên năm thứ 2

Tây Hạ

Ất Hợi: Thiệu Hưng năm thứ 25. Thái sư Tần Cối già bệnh, cáo quan và mất

Trinh Nguyên năm thứ 3

Tây Hạ

Bính Tý: Thiệu Hưng năm thứ 26

Kim: Đổi niên hiệu. Chánh Long năm đầu

Tây Hạ

 

Tống: Thiền sư Mã Kỳ ở Dư sơn, Hoa Đình: Sư họ Lý, húy Pháp Ninh, quê ở Cử huyện, Mật châu, Sơn Đông. Từ nhỏ Sư xuất gia với Diệu Không Minh Công ở Thiên Ninh, Nghi châu trụ ở chùa Tịnh Cư, núi Mã Kỳ, Nghi châu. Đầu năm Thiệu Hưng, Sư đi đường biển đến Thanh Long trấn thuộc Hoa Đình. Hôm đó con hầu của Sát Phán Chương Cổn Mẫu phu nhân Cao thị mộng thấy Thiên nhân đến nói: "Cổ Phật đến!" Sáng sớm hôm sau thì Sư đến, Cao thị nghinh Sư ngụ ở vườn nhà Tiền thị. Sư dựng tinh xá, khi đào móng gặp phải khánh sắt, bia vỡ và tượng Phật. Hoa Đình lệnh Liễu Ước đem cổ vật này báo với quan sở tại, tâu Đế xin dựng chùa, lấy tên là chùa Tịnh Cư. Sư qua Minh châu thăm Diệu Không ở Tuyết Đậu, lập am ở Bổ Đà Biệt Phong lấy tên là Thanh Sơn. Quận thú Mạc Tướng thỉnh Sư trụ trì Cát Tường. Trước đấy đời Triết Tông năm Nguyên Phù ở Dư Sơn có tinh xá Linh Phong, Sư xin sát nhập với Cát Tường đổi tên lại là Chiêu Khánh Thiền viện. Hữu thừa Chu Ngọc thỉnh Sư khai sơn trụ trì. Sư dời về Quảng Tuệ ở Minh châu, lại về Chiêu Khánh. Đến lúc này mồng tám tháng giêng năm Bính Tý, Sư quy tịch, tháp an táng toàn thân ở phía Đông phương trượng, hưởng thọ bảy mươi sáu tuổi, tăng lạp năm mươi chín hạ. Sư nối pháp Tuyết Đậu Minh, Minh nối pháp Trường Lô Hòa, Hòa nối pháp Pháp Vân Thiện Bản, đều thuộc tông Vân Môn.

 

Đinh Sửu: Thiệu Hưng năm thứ 27

Đại Kim: Chánh Long năm thứ 2

Tây Hạ

Mậu Dần: Thiệu Hưng năm thứ 28

Chánh Long năm thứ 3

Tây Hạ

Kỷ Mão: Thiệu Hưng năm thứ 29

Chánh Long năm thứ 4

Tây Hạ

Canh Thìn: Thiệu Hưng năm thứ 30

Chánh Long năm thứ 5

Tây Hạ

 

Tống: Đế hạ chiếu ban cho Tôn giả Từ Vân ở Thiên Trúc, Hàng châu thụy là Sám Chủ Thiền Tuệ Pháp Sư, tháp hiệu Thụy Quang.

 

Tân Tỵ: Thiệu Hưng năm thứ 31

Kim: Thế Tông lên ngôi, đổi Chánh Long năm thứ sáu thành Đại Định năm đầu

Tây Hạ

 

Kim: Mùa thu tháng bảy năm Tân Tỵ, Kim Chủ là Lượng dời đô về Biện Kinh. Tháng chín, Lượng bội ước đánh Tống, Tống đế hạ chiếu thân chinh. Lượng rất ưa giết người, dấy binh gây họa. Lúc này hào kiệt nổi lên khắp nơi. Thái Danh Vương Hữu đánh thẳng vào Cảnh Kinh, Tế Nam. Thái Hàng Trần Tuấn khởi tập đạo quân Nhân Nghĩa. Hậu Duệ Khiết Đan là Da Luật Oa Oát cũng dấy binh ở sa mạc. Lúc này đội quân Bột Hải đến hơn vạn người phản lại Lượng. Lượng về Hội Ninh phủ lập Bao làm Đế (Bao đổi tên là Ung, cháu Thái Tổ, con Ký Chủ Tông Phụ). Tháng mười, Bao lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Đại Định. Tả Thừa Tướng Trương Hạo từ Biện Kinh chép chiếu văn đại xá đến báo với Lượng. Lượng than: "Trẫm muốn đợi sau khi bình định Giang Nam, sẽ lấy một đội quân nhân nghĩa đặt tên là Đại Định, lấy đó làm niên hiệu mới, nhưng người này đã làm trước ta rồi!" Lượng ra lệnh làm một cuốn sách bày tỏ việc này, rồi dự định cho việc đổi niên hiệu. Tháng mười một Ất Mùi, chư tướng tập họp binh đến hơn vạn người, cầm cung vào thẳng tẩm trướng của Lượng. Bọn Tả hữu thân quân đều bỏ chạy, chư tướng bắn vào trướng, tên tuôn như mưa, Lượng chết. Hoàng tử Quang Anh ở lại Biện Kinh cũng bị mọi người giết. Bao truy phế Lượng xuống làm Hải Lăng Vương, Thụy là Dương, Hoàng hậu Đan thị bị phế làm Hải Lăng Phu nhân. Bao lại đổ tên là Ung, đóng đô ở Yên Kinh. Ông tính nhân hậu, thương dân, cần kiệm, ở ngôi hai mươi chín năm.

Người ta gọi ông là Tiểu Nghiêu Thuấn.

 

Nhâm Ngọ: Thiệu Hưng năm thứ 32

Đại Kim: Đại Định năm thứ 2

Tây Hạ

 

Kim: Thế Tông Ung, tháng giêng vào đóng đô ở Yên Kinh, đổi tên cũ của cha mình là Tông Phụ thành Tông Nghiêu, truy tôn thụy là Ý Tông, dựng chùa Đại Khánh Thọ ở phía Bắc Yên đô, hạ chiếu thỉnh Thiền sư Huyền Minh Khải Công làm trụ trì Khai Sơn đời thứ nhất, lệnh cho Hoàng tử Yên Vương đến dâng hương, cúng hai vạn tiền và hai mươi mẫu ruộng tốt.

Tống: Tháng hai, Đế từ Kiến Khang về phủ Lâm An. Tháng sáu, hạ chiếu cho cháu bảy đời của Thái tổ Hoàng Đế là Kiến Vương Vỹ đổi tên là Duệ và lập hoàng Thái tử. Truy phong con Hoàng huynh làm Tú Vương. Năm Bính Tý, Đế nhường ngôi, hoàng Thái tử lên ngôi Hoàng Đế. Đế tự xưng Thái thượng hoàng, ở cung Đức Thọ. Mùa Đông tháng mười, mưa dầm, Đế lệnh cho nội thị Đặng Tùng Ngãi đem hương đến cầu khấn trước tượng Bồ-tát Quán Âm trong chùa Thiên Trúc thượng. Lập tức trời quang mây tạnh. Đế vui mừng sai vương tôn tam phẩm trong nội phủ đến cúng dường tạ ân.

Hiếu Tông: Húy Duệ, được phong Kiến Vương, lập làm hoàng Thái tử, năm ba mươi sáu tuổi nhận và lên ngôi Hoàng Đế, lấy ngày hai mươi hai tháng mười làm tiết Hội Khánh. Ông thông minh, lấy lại được Thần châu. Tập họp hết những bề tôi có tâm tu hay khuyên Đế lại rồi làm văn chương nêu bày đức của họ, quan tâm đến nỗi khổ của dân, khuyến khích làm ruộng nuôi tằm, tu sửa đê điều, thưởng phạt công minh, mến tiếc người tài. Cứ năm ngày, Đế triều kiến Thái thượng hoàng một lần, phụng sự lưỡng cung rất chí thành. Ông trị vì hai mươi bảy năm, nhường ngôi cho Thái tử, tự xưng là Thái thượng hoàng, thọ sáu mươi tám tuổi. Niên hiệu Long Hưng hai năm, Càn Đạo chín năm, Thuần Hy mười sáu năm.

 

Quý Mùi: Long Hưng năm đầu

Đại Kim: Đại Định năm thứ 3

Tây Hạ

 

Ngự tán Quán Thế Âm Bồ-tát: Tháng bảy, Đế ngự ở điện Tuyển Đức, soạn bài tán Bồ-tát Quán Thế Âm rằng: "Đại Sĩ Quán Âm, sở dĩ được tôn xưng là do "dùng sức thần thông, thị hiện khắp chốn", ứng tích trên núi Thiên Trúc ở đất Hàng, việc ấy đến nay vẫn còn. Trẫm mỗi lần cầu nguyện, đều tùy nguyện mà cảm ứng, nào mưa nào tạnh, một khắc chẳng sai, đó là ngài trợ giúp cho kẻ hèn này vậy. Nhân đây xin làm lời tán thán:

Lành thay! Đại sĩ, vốn tự viên thông Nêu bày ngôn thuyết, cho đời noi theo Sáng chiếu không hai, từ bi quán chiếu Tùy cảm liền ứng, diệu chẳng nghĩ bàn.

Tống: Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Đại Thiền Liễu Minh ở Tưởng Sơn trụ trì Kính Sơn. Sư họ Lục, quê ở Tú châu, nối pháp Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo. Dương Hòa Vương rất kính trọng Sư, đem thóc lúa của điền trang ở Tô châu mỗi năm cúng Sư hai vạn hộc. Từ đó Kính Sơn sung túc, Tăng chúng rất đông.

 

Giáp Thân: Long Hưng năm thứ 2

Đại Kim: Đại Định năm thứ 4

Tây Hạ

Ất Dậu: Càn Đạo năm đầu

Đại Định năm thứ 5

Tây Hạ

Bính Tuất: Càn Đạo năm thứ hai. Chiếu cho Đạo Xương ở Linh Ẩn trụ ở Tịnh Từ. Xương người Hồ châu, nối pháp ngài Phổ Đăng ở chùa Lộc Uyển, Bảo Khê

Đại Định năm thứ 6

Tây Hạ

Đinh Hợi: Càn Đạo năm thứ 3

Đại Định năm thứ 7

Tây Hạ

 

Tống: Mùa Xuân tháng hai, Đế ngự giá đến Thượng Thiên Trúc, đảnh lễ cúng dường Bồ-tát Quán Âm và hỏi trụ trì Nhược Nột rằng:

-Vì sao hằng năm phải tu Kim Quang Minh Sám?

Nột đáp: Đại Phạm Tôn thiên là chủ thế giới

Ta-bà, Thích Đề-hoàn Nhân Thiên đế ngự cõi trời Tam thập tam chủ quản hạ giới, Tứ Trấn Thiên vương cùng phát nguyện hộ trì Chánh pháp, bảo hộ nhân dân, nên Đức Phật thuyết Kim Quang Minh Tam-muội cho chư Thiên, đây là kinh điển giúp Đế vương trị quốc an dân. Triều đình chu cấp hương hỏa nên năm nào cũng tụng niệm sám này.

Đế hài lòng, cất nhắc Nột làm Hữu Nhai Tăng Lục, cúng cho hai vạn tiền, khai sơn đạo tràng cũ của Đạo Dực ở Thạch Tấn, dựng mười sáu quán viện, lệnh cho Hàn lâm học sĩ Lâu Thược soạn bài ký, đem mô hình đó vào tái dựng trong nội thành. Năm sau, nhằm ngày Phật Đản, mồng tám tháng tư, Đế tuyên chỉ cho Nột thỉnh năm mươi tăng vào nội quán đường thực hành sám pháp Hộ Quốc Kim Quang Minh Tam-muội, trai phạn xong, Đế mời Nhược Nột thuyết pháp. Đế vừa ý, tiến phong ngài làm Tả Nhai Tăng Lục, ban hiệu là Tuệ Quang Pháp Sư. Chư tăng mỗi người được Đế ban cho một xấp lụa. Từ đó, hằng năm như thường lệ, cứ vào ngày Phật đản, Đế ban cho năm mươi xấp lụa, giao cho Thượng Thiên Trúc để làm Phật Sự này.

Tháng mười năm Càn Đạo năm thứ sáu, Đế tự tay viết mười hai chữ lớn "Linh Cảm Quán Âm Chi Tự, Linh Cảm Quán Âm Bảo Điện" ban cho Thượng Thiên Trúc treo ở sơn môn. Mồng bảy tháng giêng năm Càn Đạo năm thứ chín, Đế triệu Nột vào điện Tuyển Đức để ứng đối. Đầu giờ Ngọ, Nột vào diện kiến, Đế ban chỗ ngồi, nói:

-Đầu năm Trẫm vừa thiết trai cúng Bồ-tát xong! Ngài đáp: Bần Tăng đã nhận được Thánh ân. Đế hỏi: Khoa nghi của Quang Minh Sám gồm những gì?

Ngài đáp: Trong ấy có Lý sám, có Sự sám. Lý sám tức là ngồi ngay thẳng cứu xét tâm mình, từ đó thấy ra nghiệp chướng như Sương móc, đều từ vọng tưởng sinh, ngồi ngay niệm thật tướng, tuệ nhật hay diệt trừ. " Sự sám có năm loại:

1. Cẩn thận điều phục tâm, chí thành tư duy nghĩa không thậm thâm của Đại thừa, dốc tâm làm thiện, sửa hết lỗi lầm.

2. Hiếu đễ thờ cha mẹ, làm gương cho bốn biển

3. Đem chánh pháp trị đời, không làm khổ muôn dân

4. Trong sáu ngày trai, cả nước không sát sinh.

5. Tin sâu nhân quả, tâm nghĩ đến nhân quả, không quên lời phó chúc của Phật.

Không đợi phải lễ bái theo định kỳ, chỉ cần thường thật thi hành năm việc ấy, vận dụng Sự khế hợp với Lý, đó gọi là Đệ nhất nghĩa sám hối.

Đế vô cùng vui mừng, hân hoan tột bậc, hỏi:

- Hằng ngày thầy giảng kinh gì? Ngài đáp:

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

- Trong bảy quyển, vi diệu nhất là chỗ nào?

- Đó là "Vì khiến chúng sinh khai thị, ngộ nhập tri kiến Phật. Bản thể chưa từng động, như điểm sắt thành vàng, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. "

Đế hài lòng. Ứng đối tới giờ Mùi, ngài tạ ân xuống điện. Thuần Hy năm đầu, Đế cấp cho hai vạn tiền lấy từ quốc khố, giao cho Thượng Thiên Trúc xây dựng Tàng điện, cho ấn bản một tạng kinh, lệnh cho hoàng thái tử viết tấm biển ở điện là Pháp Luân Bảo Tạng. Mùa Xuân tháng ba năm Thuần Hy năm thứ hai, Đế ngự giá đến Thượng Trúc, cúng dường lễ lạy Bồ-tát Quán Âm, tổ chức đạo tràng Hộ quốc Kim Quang Minh, ban cho quả ấn Bạch Vân đường để chủ quản giáo môn.

Mùa hạ, mồng một tháng sáu, Đế triệu ngài vào ứng đối ở nội Quán đường. Đế hỏi:

- Gần đây thầy xem kinh Bảo Tích, kinh văn ấy rộng không?

Ngài đáp: Kinh Hoa Nghiêm, Bát-nhã, Bảo Tích, Niết-bàn đều là những bộ kinh Phật nói cho hàng đại cơ, văn rất dài mà nghĩa cũng rất rộng.

Đế hỏi: Kinh Lăng-nghiêm huyền diệu sâu xa, nhưng tại sao nói, "được như vậy là tốt", lại nói "được như vậy là lời lẽ như sóng trào"?

Ngài đáp: Phật là người thấu đạt bản nguyên, từ thể khởi dụng, vận dụng Vô tận tạng Tam-muội, nói nín nhất như.

Trung sứ tâu, đã đến giờ Mùi. Ngài xuống điện. Năm Thuần Hy năm thứ mười một, ngài được tiến cử làm Tả Hữu Nhai Đô Tăng Lục, lui về ẩn cư tại Di-đà Hưng Phước viện ở Trúc sơn. Đế hạ chiếu cho đệ tử Thượng thư của ngài là Thủ Tòa Sư Giác được bổ làm Hữu Nhai Giám Nghĩa, kế thế trụ trì pháp tịch. Năm Thuần Hy năm thứ mười sáu, Đế triệu Sư Giác vào Nội quán đường, giữ lại bảy ngày để giảng Chỉ Quán viên đốn của Thiên Thai. Đời Quang Tông đầu năm Thiệu Hy, Đế ở cung Trùng Hoa, cho phép Nhược Nột được theo xa giá ra vào cung cấm. Ngài chú thích kinh Kim Cang, Bát-nhã dâng lên, Quang Tông ngự chế văn tán. Đến mồng một tháng mười năm Thiệu Hy năm thứ hai, Tăng Lục Nhược Nột quy tịch, thọ tám mươi hai tuổi, Tăng lạp sáu mươi chín hạ, an táng ở viện Di-đà Hưng Phước. Cấp Sự Trung Tống Chi Thụy soạn văn bia ghi hành trạng của ngài. Đệ tử nối pháp ngài có Tăng Lục Quảng Tuệ Diệu Khuê, Hư Am Hữu Hoằng, Thạch Gian Tùng Giới.

Ngày hai mươi hai tháng mười năm Thuần Hy năm thứ mười bốn Đế ở Nội quán đường viết một quyển Bát-nhã Tâm Kinh. Đến ngày mười tháng tư năm Gia Định năm thứ hai, Ninh Tông đem ngự bảo này ban cho Tăng Lục Diệu Khuê ở Thượng Trúc. Tham Tri Chính Sự Lâu Thược, Cấp sự trung Trâu Ứng soạn lời bạt, cất ở Thượng Trúc.

Ngày mười bảy tháng tư Pháp Sư Thảo Am Đạo Nhân ở Diên Khánh Giáo tự, Minh châu quy tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, tăng lạp sáu mươi mốt hạ. Từ nhỏ, ngài vân du khắp nơi, đến giảng đường của Minh Trí Chiếu Tuệ, rồi vào Thiền thất của Chân Hiết Thanh Liễu, Hoằng Trí Chánh Giác, Vô Thị Kham, cuối cùng quay về đọc Chỉ Yếu Sao mới đại ngộ. Lúc đầu ngài trụ ở Diên Khánh, niêm hương nguyện rằng: "Ba lần vào Thiền thất, năm lần đến giảng đường, cả thảy thân cận tám Thiện tri thức. Các ngài là bậc đức lớn sáng rỡ, có đức có ngôn cú nhưng duyên con không phải ở đó, như nước giọt trên đá tảng. Một nén hương này, kính làm người thừa tự đời thứ nhất của Diên Khánh là Pháp Trí Tôn giả. Sống thì làm người, chết thì làm sách, tâm không cô phụ người, mặt không sắc thẹn. " Đời Cao Tông, năm Thiệu Hưng (Bính Dần) ngài lui về ở ẩn trong Thảo am ở thành Nam, đem đạo mầu nhiệm mà thường ngày thâm nhập viết thành Thảo Am Lục mười quyển, lời lẽ văn từ rất chân thật, ai nấy đều thích đọc.

 

Mậu Tý: Càn Đạo năm thứ 4

Đại Kim: Đại Định năm thứ 8

Tây Hạ

 

Kim: Mồng một tháng mười, Đế hạ chiếu cho Thiền sư Khải ở Đại Khánh Thọ tự dựng Thanh An Thiền Tự ở Đông Kinh, độ năm trăm tăng, soạn Ban Cầm ở Sất Hội.

Tống: Mồng ba tháng mười hai, tại chùa Diên Thọ ở Minh châu, Pháp Sư Hữu Bằng ngồi ở Thanh Ngọc Hiên, đại chúng vây quanh tụng Quán Kinh, tụng đến Chân Pháp Giới Quán, ngài an nhiên quy tịch.

 

Kỷ Sửu: Càn Đạo năm thứ 5

Đại Kim: Đại Định năm thứ 9

Tây Hạ

Canh Dần: Càn Đạo năm thứ 6

Đại Định năm thứ 10

Tây Hạ: Càn Hựu năm đầu

 

Kim: Thế Tông Chân Nghi Hoàng hậu xuất gia làm Ni, dựng chùa Thùy Khánh, độ cả trăm ni, Đế ban cho hai trăm mẫu ruộng.

Tống: Mùa Đông, ngày rằm tháng mười, Đế hạ chiếu cho Thiền sư Tuệ Viễn vốn là tiền trụ trì Sùng Tiên Hiển Hiếu Thiền viện ở núi Cao Đình, Hàng châu làm trụ trì Cảnh Đức Linh Ẩn Thiền tự. Ngày hai mươi ba tháng hai năm sau, Đế triệu ngài vào điện Tuyển Đức để ứng đối. Đế mời ngài ngồi và hỏi:

- Làm thế nào để tránh được sinh tử?

Tuệ Viễn đáp: Không tỏ ngộ đại thừa thì trọn không tránh được.

Đế hỏi:

- Làm thế nào để tỏ ngộ được?

- Tánh vốn có ấy, nếu cứu xét thì không ai chẳng tỏ ngộ.

- Sau khi ngộ thì thế nào?

- Sau khi ngộ rồi, thì mới thấy giống như thoát thể hiện tiền, hoàn toàn không có mảy may tướng trạng để nhìn thấy.

Đế gật đầu đồng ý, hỏi tiếp:

- Tức tâm tức Phật là thế nào? Ngài đáp:

- Trước mắt không có pháp, bệ hạ gọi cái gì là tâm!

- Thế nào là tâm?

Ngài vòng tay đứng thẳng nói: Là thế này này! Đế rất hài lòng. Ngày hai mươi tám tháng giêng, mùa Xuân năm Càn Đạo năm thứ tám, Đế xa giá đến chùa Linh Ẩn. Mùa Thu mồng bảy tháng tám, Đế triệu tăng đạo tam giáo của Thượng Trúc, Kính Sơn, Linh Ẩn tập trung ở Nội quán đường. Ngọ trai xong, Đế triệu ngài vào Đông Các, ban chỗ ngồi và nói:

- Trẫm có một hai việc muốn hỏi khanh. Hôm trước Trẫm ngủ nằm mộng, bỗng nghe tiếng chuông liền tỉnh giấc, chẳng biết mộng và tỉnh đó nó như thế nào?

Ngài đáp: Bệ hạ hỏi mộng hay là hỏi giác (tỉnh), nếu hỏi giác thì nay chính là nói sảng; nếu hỏi mộng thì mộng giác không khác, vậy bảo ai phân biệt được! Mộng tức là huyễn, biết huyễn liền lìa, lìa huyễn tức giác, tâm giác không động, nên nói "Nếu hay chuyển vật, liền đồng Như Lai".

Đế hỏi: Mộng huyễn đã chẳng phải vậy tiếng chuông từ đâu mà có?

- Từ ngay chỗ Bệ hạ hỏi mà có.

Đế lại hỏi: Hôm trước Trẫm đang ngồi tĩnh tọa ngay Các này, đột nhiên nghĩ đến câu "chẳng cùng muôn pháp làm bạn", Trẫm có chỗ thấy.

Ngài nói: Xin nghe Bệ hạ!

Đế nói: Bốn biển chẳng phải là nhiều.

Ngài nói: Một hớp hút cạn nước Tây Giang thì thế nào?

- Cũng chưa từng thiếu hụt.

- Vừa dấy tư duy liền thành pháp thừa. Giả sử như có lâu năm hay chỉ thoáng qua cũng đều không dính dáng, vì sao vậy? Vì pháp không có hai pháp, thấy cũng không có hai cái thấy, tâm không có tâm khác, trời không có hai mặt trời.

Đế gật đầu rất lâu. Ngày ba mươi tháng mười mùa Đông, Đế hạ chiếu đặc biệt cải hiệu ngài là Phật Hải Thiền Sư. Ngày ba mươi tháng năm, Thuần Hy năm đầu, Đế triệu ngài vào ứng đối. Đế hỏi:

- Xưa các bậc Tông sư người thì đứng mà tịch, người thì ngồi mà hóa, còn đời nay có những ai?

Ngài đáp: Thời Huy Tông Hoàng Đế đổi Tăng thành Đức sĩ, ngày mà Đế hạ chiếu, ở Kiến châu có Trưởng lão Sùng Ninh, ngài nhóm chúng, thăng tòa, nói: "Cây gậy đưa lên, tọa cụ buông xuống, mây tan nước chảy mãi, vắng lặng trời đất không. " Nói xong ngài ngồi yên quy tịch. Năm Thiêu Hưng năm thứ hai mươi bảy, ngài Tông Hồi ở chùa Tây Nghiễm, Nam Kiếm châu, nhân có quan mời dự tiệc trà, ngài lên tòa nói bài kệ:

Quan phủ mời hoài chẳng tạm ngưng
Chi bằng chết quách việc rõ ràng
Từ xưa có khúc vô sinh ấy
Âm điệu sáng nay đã nhịp nhàng.

Nói xong ngài ngồi yên mà tịch. Lại nữa lúc Viên Ngộ trụ ở Chiêu Giác, đại chúng đến năm trăm người, đệ nhất tòa là Đạo Tổ. Một hôm, khai thị cho chúng nhập thất xong, lại có vị Tăng hỏi: Sinh tử đến làm sao mà tránh?

Đạo Tổ liền an nhiên thị tịch. Viên Ngộ đến trượng thất của ngài liên tục réo gọi Thủ tòa Tổ, ngài bèn mở mắt, Viên Ngộ nói:

-Hãy phấn chấn tinh thần mà xuyên qua cửa ải!

Đạo Tổ gật đầu rồi tịch. Đó là những vị đứng mà tịch, ngồi mà hóa của đời nay.

Đế vui mừng tán thán giây lâu. Ngự thị đều đưa mắt nhìn.

Mùa Xuân rằm tháng giêng năm Thuần Hy năm thứ ba. Tuệ Viễn nhập tịch thọ bảy mươi bốn tuổi, Tăng lạp năm mươi chín hạ, an táng ở núi Tây của Linh Ẩn. Tham Chính Chu Tất Đại soạn bài minh trên tháp. Ngài có bộ Ngữ Lục ba quyển, tả tướng Ngu Doãn Văn viết bài tựa. Ngày hai mươi chín tháng hai, Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Đức Quang ở chùa Báo Ân Quang Hiếu, Thai Châu kế thế ngài, trụ trì Linh Ẩn. Mùa đông tháng mười một, Đế triệu Sư vào ứng đối ở điện Tuyển Đức. Thuần Hy năm thứ năm, Đế ban cho Đức Quang hiệu Phật Chiếu Thiền Sư. Mồng năm tháng sáu năm Thuần Hy năm thứ bảy, Đế hạ chiếu cho Sư trụ chùa Quảng Lợi, núi A-dục vương, Minh châu. Đến đời Quang Tông, ngày hai mươi sáu tháng giêng năm Thiệu Hy năm thứ tư, Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ chùa Hưng Thánh Vạn Thọ ở Kính Sơn, phủ Lâm An. Đời Ninh Tông năm Gia Thái năm thứ ba, Sư nhập tịch. Sư họ Bành, quê ở Lâm Giang quân, nối pháp Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo.

Thiền sư Phật Hải họ Bành húy Tuệ Viễn, quê ở My Sơn. Năm mười ba tuổi, ngài theo Sư Tông Biện ở viện Dược Sư xuất gia làm Tăng vân du khắp nơi để học hỏi, gặp lúc Viên Ngộ lãnh lại Chiêu Giác, ngài theo Viễn tham học. Trong một lần phổ thuyết, Viên Ngộ cử việc Bàng Cư sĩ hỏi Mã Tổ "Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là ai" Mã Tổ đáp: Đợi khi nào ông uống một hớp cạn hết nước Tây Giang ta sẽ nói cho ông nghe!" Ngài nghe đến đây, hoát nhiên đại ngộ. Ngài về đông trụ ở Khúc Khâu, rồi phụng chiếu trụ viện Sùng Tiên, núi Cao Đình, nhiều lần dời qua ở những chùa nổi tiếng, nối pháp Thiền sư Phật Quả Viên Ngộ Khắc Cần.

 

Tân Mão: Càn Đạo năm thứ bảy. Ngày hai mươi tháng giêng, Thiền sư Tịnh Từ Đạo Xương đời năm thứ tám, Tông Vân Môn quy tịch

Đại Kim: Đại Định năm thứ 11

Tây Hạ: Càn Hựu năm thứ 2

 

Tống: Tháng tư, Canh Tuất, Đế lâm triều nói với Tả hữu: "Thái Tổ Hoàng Đế hỏi Triệu Phổ: Trong thiên hạ cái gì là lớn nhất? Phổ đáp: Đạo lý là lớn nhất" Trẫm thường tư duy lời này. Tổ tông mỗi một việc đều hỏi đến đạo lý thì lo gì đất nước không thịnh trị.

 

Nhâm Thìn: Càn Đạo năm thứ 8

Đại Định năm thứ 12

Tây Hạ

Quý Tỵ: Càn Đạo năm thứ 9

Đại Định năm thứ 13

Tây Hạ

 

Duyên Khởi Bồ-tát Quán Thế Âm Ứng mộng: Đời Tống, mồng bảy tháng giêng, Đế tuyên chiếu triệu Tả Nhai Tăng Lục ở Thượng Thiên Trúc là Pháp Sư Tuệ Quang Nhược Nột vào ứng đối trong điện Tuyển Đức. Đế hỏi:

-Thượng Trúc hình thành đến nay đã bao lâu rồi?

Nột đáp: Hình thành từ đời Thạch Tấn năm Thiên Phước năm thứ tư. Hồi ấy Tăng là Đạo Dực lập am trong núi, đêm nào cũng thấy ngọn núi trước am phát ra ánh sáng lớn. Ngài theo đó tìm quả nhiên được gốc cây lạ, bèn đốn về và khắc Thánh tượng. Đêm mộng thấy Thần nhân đến nói "Ngày mai có vị Tăng từ Lạc Dương đến, nên theo ông ấy mà xin xá-lợi. " Quả nhiên ngài xin được ba hạt xá-lợi, đem đặt trên đỉnh đầu tượng Bồ-tát đời Thái Tổ, trong năm Khai Bảo, Ngô Việt Trung Ý Vương Tiền Thục mộng thấy Bạch y Tiên nhân đến nói: "Ta ở một nơi rất chật hẹp". Tỉnh giấc, Vương tìm hiểu sự thật và xây dựng nơi đó rất rộng rãi khang trang, đặt tên là Thiên Trúc khán kinh viện. Đời Anh Tông trong năm Trị Bình, Thẩm Văn Thông, Thái Tương Kế làm Thái thú Hàng châu, tâu trình hết ngọn ngành, Tể tướng Tăng Lượng tâu lên, Đế ban cho tấm biển là Linh Cảm Quán Âm Viện. Nay nhờ Thánh ân của Bệ hạ, đã đổi viện thành chùa và trở thành ngôi Bảo điện nguy nga.

Trong Cảm Sơn Ký Đàm ghi: Tăng đất Thục là Tổ Tú, tự Tử Chi, thuở nhỏ tài văn chương đã nổi danh trong hàng sĩ đại phu, mến mộ gia phong của Minh Giáo Khế Tung, soạn Âu Dương Văn Trung Công Ngoại Truyện. Tô Dưỡng Trực viết bài tựa ở đầu Truyện, đại lược ghi: "Quân tử cho rằng, giáo pháp của Phật không có mặt trong thời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang. Nhưng sau Khổng Tử, Mạnh Kha, lịch đại Tiên nho, dù đương thời cấm cản không ít, vẫn cho phép Phật pháp truyền vào cấm cung. Xưa nay dựa vào đó, người ta luận bàn là có chứng cứ. Chỉ riêng Tú Công thì cho rằng, Đan Chu của Đế Nghiêu không đủ khả năng nắm quyền chính nên nhường ngôi cho Đế Thuấn. Đế Thuấn cũng lo Thương Quân không đủ tài nên mới nhường ngôi cho vua Vũ. Đến vua Thang, Vũ Vương thì thay đổi chính mệnh, Phật giáo cũng bắt đầu khởi nguyên, khiến Khổng Tử thực thi mọi việc, có gì khác với pháp đâu! Từ Đế Nghiêu đến Vũ Vương, Phật chưa đản sinh. Sau khi Thành vương, Khang vương băng hà, Phật mới bắt đầu thị hiện nhưng chưa truyền vào Trung Quốc, đợi đến khi Thánh nhân sinh ở đất Lỗ, tập đại thành hết giáp huấn của những Đế vương xưa. Kịp lúc thay! Khi Thánh nhân bị khốn ở Lỗ, Vệ, Trần, Tống, muốn sang ở với Cửu Di, chống bè lênh đênh cùng biển, lúc ấy giáo pháp xa ngàn muôn dặm lại truyền đến Trung Quốc. Thiên Tử chư hầu ai được nghe đây! Pháp Phật không có truyền càn, nếu chẳng phải nhờ Hiển Tông (Hậu Hán Minh đế) cảm mà tìm cầu từ phương xa thì sợ rằng vẫn chưa thể ứng nhanh như vậy". Đó là bộ sách của Tú công ở kinh đô, là lời luận bàn làm kinh hãi người xưa, chấn động người nay, dài đến mấy vạn lời. Tổ Tú còn làm bài tán trước tượng Đông Pha rằng: "Tư mã, Dương Vương của Hán; Thái Bạch, Tử Ngang của Đường, năm bậc Quân tử này đều sinh ở Thục quận, nhưng vẫn chưa bằng Phu tử mà có Cảnh Quang. Kinh Thi của Phu tử, người nổi bật chỉ có Tử Mỹ; văn chương của Phu tử, người sánh ngang chỉ có Tử Trường. Phú cũng giỏi hơn Khuất Giả, Chữ lại mạnh hơn Chung Vương. Đây là tuyệt kỹ của Phu tử che lấp hết trấu cám của Chí đạo. Đạo của Phu tử đó là Hậu Tắc, Y Doãn có thể đưa ông lên ngang thời với Đế Nghiêu Đế Thang mà luận thì phải thêm phu việt (dụng cụ để chém ngang lưng), nhưng Phu tử lại càng được ca tụng trong thời văn hóa thịnh trị. Sự đổi dời của đất trời cũng giống như về lại quê xưa, thì tin chắc năm hào kiệt của Thục quận chẳng ai thấy được cái điềm nhiên của Phu tử. "

Đến lúc này, năm Quý Tỵ, Tổ Tú lui về quy ẩn ở Thục Sơn.

 

Giáp

Ngọ:

Đại Kim Đại

Tây Hạ

Thuần năm đầu

Hy

Định thứ 14

năm

 

 

Tống: Thục phi Trần thị dựng viện Công Đức ở Nam Sơn, Hàng châu, Đế ban cho tấm biển là Ninh Thân Quảng Phước. Mồng tám tháng tư, Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Trung Nhân ở chùa Linh Phong, núi Nhạn đãng, Ôn châu vào ứng đối trong điện Tuyển Đức. Ngài đối đáp hợp ý, Đế rất hài lòng. Đời Huy Tông trong năm Tuyên Hòa tại điện Khánh Cơ, Trung Nhân từng được Đế ban cho độ điệp thế phát, ra vào dịch trường, nghiên cứu tận lý Kinh Luận. Về sau, ngài đắc pháp với Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần.

 

Ất Mùi: Thuần Hy năm thứ 2

Đại Kim: Đại Định năm thứ 15

Tây Hạ

Bính Thân: Thuần Hy năm thứ 3

Đại Định năm thứ 16

Tây Hạ

Đinh Dậu: Thuần Hy năm thứ 4

Đại Định năm thứ 17

Tây Hạ

 

Cửu Thế Đồng Cư: Nước Kim: Doãn Bí ở Trịnh châu có chín đời đồng cư. Tháng ba, Đế hạ chiếu miễn thuế ba năm, tự tay viết "Sắc lệnh ban cho họ Doãn, nhằm nêu cao gia phong hiếu nghĩa".

 

Mậu Tuất: Thuần Hy năm thứ 5

Đại Định năm thứ 18

Tây Hạ

Kỷ Hợi: Thuần Hy năm thứ 6

Đại Định năm thứ 19

Tây Hạ

Canh Tý: Thuần Hy năm thứ 7

Đại Định năm thứ 20

Tây Hạ

 

Kim: Tháng giêng, Đế sắc lệnh cho dựng Ngưỡng Sơn Thê Ẩn Thiền tự ở Nam Sơn, Yên Kinh, hạ chiếu thỉnh Thiền sư Huyền Minh Khải Công khai sơn, ban ruộng, mở pháp hội cúng hơn vạn người.

Tống: Mùa thu, Đế triệu Thiền sư Bảo Ấn ở chùa Tuyết Đậu, Minh châu vào ứng đối trong điện Tuyển Đức. Đế nói:

- Thánh nhân của Tam giáo đồng một đạo lý này. Bảo Ấn đáp:

- Thí như hư không, đông tây nam bắc, ban đầu không có hai Đế hỏi:

- Nhưng cửa ngõ mà Thánh nhân lập thì không đồng, như Khổng Tử lấy Trung Dung mà lập giáo vậy.

Ấn nói:

- Không phải Trung Dung thì lấy gì để an lập thế gian, nên Kinh Pháp Hoa ghi: "Ngôn ngữ trị thế, làm lớn mạnh sinh trưởng nghiệp v.v... vẫn không trái nghịch với Thật tướng. " Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Không hoại tướng thế gian, mà thành pháp xuất thế. "

Đế nói: Ngày nay, sĩ đại phu học theo Khổng Tử thì rất nhiều, nhưng họ chỉ giỏi về văn tự ngôn ngữ, không thấy đạo của Phu tử, chẳng biết tâm của Phu tử, chỉ có họ Thích là không dùng văn tự dạy người, chỉ thẳng nguồn tâm, liền khiến ngộ nhập, không loạn trong đầu mối sinh tử, đó là rất thù thắng.

Ấn nói: Chẳng phải riêng gì người học đời sau này không thấy được tâm của Phu tử mà ngay đương thời, chẳng hạn Nhan Tử là người được tôn xưng là đầy đủ bản chất, cả đời tận lực, nhưng chỉ nói được "Nhìn cái trước mắt, chứ cái ở sau làm sao thấy được" nếu sở lập cao chót vót thì rốt cuộc cũng vẫn còn tìm tòi mà chưa nắm bắt được. Nhưng Thánh nhân rõ ràng đã dùng tám chữ để khai thông "Các ông cho ta giấu điều gì chăng!" Ta không giấu giếm điều gì cả, những gì ta không làm thì ta không nói với các ông, đó là bản chất của Khâu này! Từ đó mà xét, Thánh nhân chưa từng tránh né các đệ tử, nhưng các đệ tử tự tạo ra lỗi lầm. Xưa Trương Thương Anh nói: "Ta học Phật rồi sau mới biết đến Nho. " Lời ấy quả chí lý.

Đế nói: Ý trẫm cũng cho là vậy, thế còn Trang Lão là người thế nào?

Ấn đáp: Chỉ là hạng người từ Thanh văn Tiểu thừa trở xuống trong Phật pháp mà thôi. Bởi Tiểu thừa chán ghét thân này như gông cùm, bỏ trí như bỏ các chất độc, hóa lửa đốt thân, vào cảnh giới vô vi, giống như Trang tử gọi là "Hình hài đương nhiên phải khiến nó như cây khô, tâm thức cố nhiên phải làm nó như tro lạnh. " Còn như Đại thừa thì không cho là vậy, họ độ hết chúng sinh mới chứng Bồ-đề, giống như Y Doãn gọi là: "Ta phải làm cho muôn dân hiểu biết trước. Đem cái đạo ấy mà giác ngộ muôn dân, hễ có một người tức là ân trạch của ta chưa trùm khắp. Nếu đã rộng khắp thì lòng ta mới thật Sự mãn nguyện.

Đế rất hài lòng, hạ chiếu thỉnh ngài trụ Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền tự ở Kính Sơn. Mùa Xuân tháng hai năm Thuần Hy thứ mười, Đế tự tay chú giải kinh Đại Phương Quảng Viên Giác, sai Trung Sứ đem đến tặng ngài, cho phép viết bài tựa khắc bản lưu hành. Năm Thuần Hy năm thứ mười lăm, Bảo Ấn xin cáo lão. Đế thuận ý cho ngài lui về ẩn cư, ban tên am là Biệt Phong. Đời Quang Tông, tháng mười một niên hiệu Thuần Hy năm đầu, ngài đến chùa này nói lời từ biệt với Thiền sư Giao Thừa Trí Sách. Sách hỏi lúc nào đi, ngài đáp: "Nước đến thì đê thành". Ngài về lại Biệt Phong, lấy giấy viết chín chữ "Thập nhị ngoạt sơ thất dạ kê minh thời" (đêm mồng bảy tháng mười hai lúc gà gáy). Đúng ngày giờ đó, ngài quy tịch. Môn nhân phụng di thể về lại chùa, an trí bảy ngày trong pháp đường, thần sắc của ngài vẫn tươi nhuận, tóc vẫn dài, cổ vẫn ấm, an táng gò Tây của am này. Đế ban thụy là Từ Biện Thiền Sư, tháp hiệu Trí Quang. Ngài nối pháp Thiền sư Hoa Tạng Dân. Dân họ Chu, sinh ở My Châu, nối pháp Viên Ngộ Phật Quả Khắc Cần. Từ Biện húy Bảo Ấn, họ Lý, sinh ở Gia châu, từ nhỏ thông suốt lục kinh nhưng chán ghét thế tục, mới theo ngài Thanh Tố ở Đức Sơn xuất gia, sau khi thọ Cụ túc, nghe giảng Hoa Nghiêm, Khởi Tín nhận lãnh hết yếu chỉ từ biệt ra đi, gặp lúc Viên Ngộ về lại Chiêu Giác, ngài theo Viện Ngộ tùy chúng vào thất được đại ngộ và nối pháp Phật Quả Khắc Cần. (Theo Ngũ Đăng Hội

Nguyên)

 

Tân Sửu: Thuần Hy năm thứ 8

Đại Kim: Đại Định năm thứ 21

Tây Hạ

 

Nguyên Đạo Luận: Tống đế ngự tán luận rằng: "Trẫm xem Nguyên Đạo của Hàn Dũ. Dũ cho rằng Phật Lão hỗn tạp, tam giáo bưng bít nhau nhưng chưa ai có thể biện luận được. Vả lại văn rườm ra mà lý quanh co xét đến chỗ dụng tâm của Thánh nhân thì chưa thật rõ ràng. Vì sao vậy? Vì họ Thích chuyên nghiên cùng tánh mệnh, vượt ngoài hình hài, không chấp danh tướng, đối với việc đời hoàn toàn chẳng vướng mắc thì lấy gì để hợp với lễ nhạc nhân nghĩa. Thế nhưng từ lâu, họ đã lập ra giới là không sát sinh, không tà dâm, không trộm cắp, không uống rượu, không nói dối. Phàm không sát hại là Nhân, không tà dâm là Lễ, không trộm cắp là Nghĩa, không uống rượu là Trí, không nói dối là Tín. Như vậy so với Trọng Ni có gì xa đâu! Thong dong nơi Trung đạo là Thánh nhân vậy. Điều mà Thánh nhân làm cái gì chẳng phải là lễ nhạc, cái gì chẳng phải là nhân nghĩa, nhưng làm sao mà gọi tên được. Thí như trời đất vận hành, âm dương tuần hoàn chẳng có đầu mối, lẽ đâu có ý phân biệt xuân hạ thu đông ư? Đó là do người đời cưỡng gọi thế thôi, cũng giống như Sự khác nhau giữa nhân nghĩa lễ nhạc vậy. Thánh nhân sở dĩ thiết giáo để trị đời là vì cái thế phải như vậy. Nhân cưỡng gọi ấy rồi suy lượng tìm cầu, đó chính là đạo. Đạo là tông của Nhân nghĩa lễ nhạc. Nhân nghĩa lễ nhạc cố nhiên là dụng của đạo. Dương Hùng bảo rằng Lão thị bỏ nhân nghĩa, diệt lễ nhạc, nhưng nay lần theo thư tịch của Lão tử thì thấy ông có ba điều đáng quý đó là: Từ, kiệm, khiêm cung (không dám làm gương cho thiên hạ). Khổng Tử nói đến: Ôn hòa lương thiện, cung kính cần kiệm, khiêm nhường và lại nói chỉ có lòng nhân là lớn, như vậy lòng Từ mà Lão Tử nói đó lẽ đâu chẳng phải sự to lớn của lòng nhân đó ư! Nói không dám làm gương cho thiên hạ há chẳng phải cái bao la của khiêm nhường đó sao! Còn bàn đến chỗ hiểu đạo thì mỗi bên có cách nêu bày khác nhau. Điều đáng quý là nó trong sạch, thống nhất. Thật vậy, Phật giáo so với Khổng Thánh lẽ nào nghịch nhau! Bởi ngọn nguồn của tam giáo, những kẻ mê muội cố chấp tự cho là khác mà thôi. Phàm Phật, Lão đều dứt niệm, vô vi, sửa đổi thân tâm mà thôi. Điều mà Khổng Tử dạy để trị thiên hạ, cách thi thiết riêng nên thấy không giống, thí như cày là để cày đất, cái thoi là để dệt vải. Người học đời sau rối bời, nhầm lẫn nên đánh mất cái lý của nó. Có người hỏi: "Phải làm thế nào để bỏ sự nhầm lẫn ấy?"

Đáp: Lấy Phật sửa tâm, lấy Lão sửa thân, lấy Nho trị đời, như vậy mới may ra. Chỉ có Thánh nhân mới hay làm cho đồng nhau được, điều ấy không thể không bàn. (Triều Thánh Chính Lục)

 

Nhâm Dần: Thuần Hy năm thứ 9

Đại kim: Đại Định năm thứ 22

Tây Hạ

 

Tống: Mùa Xuân ngày mười chín tháng hai

Tôn giả Giải Không Khả Quán ở Đường Hồ Tú châu, đệ tử năm thứ tư của Tứ Minh Pháp Trí quy tịch, hưởng thọ chín mươi mốt tuổi, tăng lạp bảy mươi tám hạ. Từ nhỏ ngài theo Sa Khê Trạch Khanh nghe giảng kinh lãnh hội yếu chỉ. Ngày nọ, nghe cử Bát-nhã, ngay lời vắng lặng, ngài hoát nhiên đại ngộ nói: "Chẳng khác nào uống liều thuốc hạ nhiệt!" Trạch Khanh hứa khả. Ngài lại yết kiến Pháp sư Tuệ Giác ở Hồ châu. Ngài ngồi bên cửa sổ, bên ngoài tuyết rơi mà đọc bộ Chỉ yếu, đến câu: "Nếu chẳng cho rằng giường sắt thật chẳng khổ, biến dịch chẳng đổi dời", ngài vui mừng nói: "Văn tự ngôn ngữ thế gian toàn là trấu cám mà thôi!" Hồi ấy, đời Cao Tông, năm Thiệu Hưng Mậu Ngọ, ngài trụ trì Đức Tạng ở Đương Hồ. Đến lúc này, mùa Thu năm Càn Đạo năm thứ bảy, tả tướng Ngụy Kỷ đang ở Bình Giang thỉnh ngài trụ chùa Bắc Thiền Thiên Thai. Ngày chín, ngài vào viện chỉ pháp tòa nói:

Trong lòng một tấc tro đã lành
Trên đầu ngàn sợi tuyết chưa tan
Tuổi già nên đi nơi bằng phẳng
Chẳng biết cớ gì ráng lên cao.

Người nghe đều vui vẻ kính phục. Ngụy Kỷ làm châu mục Cận châu thỉnh ngài trụ tổ đình Diên Khánh. Lúc này, ngài đã tám mươi chín tuổi, không đầy hai năm sau ngài về Trúc Am và quy tịch. Ngày trà-tỳ không gió, không mưa, vô sự người trong làng hãnh diện gọi đó là ngày "Tam vô sự". Khói bay đến đâu nơi ấy đều có xá-lợi, tháp được dựng ở viện Đức Tạng. Tác phẩm của ngài gồm: Lăng-nghiêm Bổ Chú bốn quyển, Kim Cang Thông Luận Sự Uyển hai quyển, Viên Giác Thủ Giám một quyển, Lan-bồn Bổ Chú một quyển, Sơn Gia Nghĩa Uyển hai quyển, Thảo Lục một quyển. Sinh thời, ngài đề xướng tông chỉ, như tụng bốn câu về Trung luận:

Pháp nhân duyên sinh trong Trung luận
Một câu gồm đủ không lời thừa
Tôi nói tức là không, giả, trung
Rèm châu cuốn mưa non Tây ấy.

Ngài lại tụng về Thuyền tử:

Bao phen từ chối ở Giáp Sơn
Trăng sáng hoa lau mấy bận hờn
Thuyền Tử cố nhiên không làm được
Chợt đến nơi này câu thích hơn.

Nối pháp ngài có Tông Ấn v. v... Ấn họ Trần, con quan chủ quản muối ở Hàng châu, năm mười lăm tuổi, thọ Đại giới, tham học, đắc đạo với Trúc Am, ẩn cư am Mao thị trên Lôi Phong. Sau qua Hoa Đình Phổ Quang, rồi về Tú châu Đức Tạng, lại dời qua Siêu Quả ở Hoa Đình, Bắc Thiền ở Tô châu, Linh Sơn ở Thiên Trúc. Ninh Tông triệu Tông Ấn vào điện Tuyển Đức ứng đối, ban hiệu Tuệ Hạnh Pháp Sư. Năm Gia Định năm thứ sáu ngài đi hành hóa, mồng tám tháng mười hai đến Tùng Giang, ngài nói với đồ chúng: "Ta hóa duyên xong ở chỗ này". Nói xong, ngài nằm nghiêng bên phải quy tịch.

 

Quý Mão: Thuần Hy năm thứ 10

Đại Kim: Đại Định năm thứ 23

Tây Hạ

Giáp Thìn: Thuần Hy năm thứ 11

Đại Định năm thứ 24

Tây Hạ

 

Hạo Thiên Tự: Tháng hai, Đại Trường công chúa nước Kim bỏ ra ba trăm vạn tiền xây chùa ở thành Yên Kinh, đặt tên là Hạo Thiên, cấp cho trăm mẫu ruộng, mỗi năm độ mười tám Tăng ni.

 

Ất Tỵ: Thuần Hy năm thứ 12

Đại Kim: Đại Định năm thứ 25

Tây Hạ

Bính Ngọ: Thuần Hy năm thứ 13

Đại Định năm thứ 26

Tây Hạ

Đinh Mùi: Thuần Hy năm thứ 14. Mồng tám tháng mười thái Thượng hoàng Cao

Đại Định năm thứ 27

Tây Hạ

Tông băng hà.

 

 

Mậu Thân: Thuần Hy năm thứ 15

Đại Định năm thứ 28

Tây Hạ

Kỷ Dậu: Thuần Hy năm thứ 16. Tháng hai Quang Tông nhận ngôi. Tháng ba, Hoàng tử Khoáng được tấn phong làm Gia Vương.

Đại Định năm thứ 29

Tây Hạ

 

Tống: Mùa Xuân, tháng giêng cử Lưu Chính Chu Tất Đại làm Tả hữu Thừa Tướng. Mồng một Nhâm Tuất tháng hai Tân Dậu, Đế nhường ngôi, dời về ở cung Trùng Hoa. Hoàng Thái tử lên ngôi Hoàng đế, lập bà Phi họ Lý làm Hoàng hậu.

Quang Tông: Húy Đôn, con năm thứ năm của Hiếu Tông, năm bốn mươi tuổi, từ Đông cung lên nhận ngôi, tôn Hiếu Tông là Thọ hoàng thánh đế. Ông tại vị năm, nhường ngôi cho Thái tử, tự xưng Thái Thượng hoàng, thọ năm mươi bốn tuổi. Niên hiệu Thiệu Hy năm.

 

Canh Tuất: Thiệu Hy năm đầu

Đại Kim: Chương Tông Cảnh. Minh Xương năm đầu

Tây Hạ

 

Kim: Tháng giêng Quý Tỵ, quốc chủ Ung băng hà, Chương Tông Cảnh lên ngôi, con Thái tử Doãn Cung, đổi niên hiệu Minh Xương, truy thụy cho Ung là Thế Tông, cha Doãn Cung là Hiển Tông. Từ nhỏ Cảnh hiếu học, giỏi văn chương, khoan dung, ôn hòa. Mẹ ông là Triệu thị.

 

Tân Hợi: Thiệu Hy năm thứ 2

Minh Xương năm thứ 2

Tây Hạ

Nhâm Tý: Thiệu Hy năm thứ 3

Minh Xương năm thứ 3

Tây Hạ

Quý Sửu: Thiệu Hy năm thứ 4

Minh Xương năm thứ 4

Tây Hạ

 

Kim: Tháng mười, giết Hoàng Thúc Trịnh Vương Doãn Đạo. Trước đây Thái tử Doãn Cung chết sớm, con trưởng hoặc con thứ của Doãn Đạo sẽ được kế vị. Khu mật sứ Trương Khắc Kĩ, nội thị Giang Uyên v.v... chuyên quyền muốn lập Thái Tôn Cảnh. Nhưng Doãn Đạo tính khoan dung, nhân hậu, mẹ ông họ Triệu, đã tránh xa ân sủng, trong ngoài chẳng có bè đảng, nên mỗi lần gặp ông Cảnh có vẻ thẹn, ngày đêm chỉ biết uống rượu. Bọn nội thị Trí Tỉnh, Giang Uyên ra vào trong cung phục dịch, gom hết lễ vật bốn phương triều cống, vận nước bắt đầu suy thoái. Ở kinh đô người ta đồn sẽ lập Trịnh Vương, Cảnh nghe càng thêm ghét, mới sai Đông đội chủ Lý Bạch Diệu, Tây đội chủ Trương Phi Long, ngự tiền tướng quân Hoàn Nhan Hắc Thiết chia quân vây bắt Trịnh Vương, đặt ngục ở Hội Đồng Quán, giam Trịnh Vương Doãn Đạo, phò mã Đô úy Đường Quát Bồ Thích, em cùng mẹ là Tân Hưng công chúa, Vinh An Công Chúa rồi buộc họ tự sát, đồng đảng phản nghịch khác đều bị tru di tam tộc. Tháng giêng năm sau, con trưởng của Trịnh Vương là Đại Thông Tiết độ sứ Ái Vương Đại Biện chiếm cứ Ngũ Quốc thành, dấy binh làm phản, báo thù cho cha.

Kim: Đế hạ chiếu thỉnh Trưởng lão Vạn Tùng thuộc tông Tào Động vào nội điện thuyết pháp. Chương Tông đích thân nghinh đón, bưng đại y Tăng-già-lê bằng gấm quý đến bảo tòa dâng cúng. Hậu phi, vương tôn đều quỳ lạy phía trước, ai nấy đều dâng cúng phẩm vật, mở pháp hội Phổ độ, hàng năm thiết trai cúng dường. Sau đó, vào năm Thừa An năm thứ hai, Đế thỉnh Thiền sư Vạn Tùng trụ ở Ngưỡng Sơn thuộc Tây Sơn.

 

Giáp Dần: Thiệu Hy năm thứ năm. Tháng 06, Thọ Hoàng

Đại Kim: Minh Xương năm thứ năm. Thọ

Tây Hạ

Thánh Đế Hiếu Tông băng hà.

Vương làm phản.

 

 

Tống: Thiền sư Vô Chuẩn: Ngài họ Ung, húy Sư Phạm, quê ở Tử Đồng, Thục quận. Tháng mười năm này, ngài thọ giới đến Hàng châu tham học, yết kiến Tùng Nguyên Nhạc ở Linh Ẩn, Khẳng Đường Sung ở Tịnh Từ, yết kiến Thiền sư Phá Am Tổ Tiên ở Bình Giang, Tây Hoa, Tú châu, lãnh ngộ huyền chỉ, ra hoằng hóa ở Thanh Lương thuộc Minh châu. Sau, ngài về Tiêu Sơn, dời qua Tuyết Đậu. Đế hạ chiếu thỉnh trụ ở Dục Vương, rồi dời về Kính Sơn, triệu vào ứng đối trong điện Tu Chính, ban cho Ca-sa viền vàng, tuyên chiếu thỉnh vào Từ Minh điện thăng tòa giảng pháp. Đế buông rèm ngồi nghe, ban ngài hiệu Phật Giám Thiền Sư. Về sau, ngài xây dựng nhà khách, Đế viết ban tấm biển "Vạn Niên Chánh Tục", lại đề tặng trượng thất trên ao Minh Nguyệt là Thoái Canh. Ngài xin về núi và quy tịch, tháp an táng toàn thân ở Viên Chiếu. Ngài nối pháp Thiền sư Phá Am Tổ Tiên.

Thiền sư Phá Am: Sư họ Vương, húy Tổ Tiên, quê ở Quảng An, hoằng hóa ở Ngọc Long, Quỳ châu, nối pháp Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt (theo Tông Phái Tổ Đồ).

Thiền sư Mật Am: Sư họ Trịnh, húy Hàm Kiệt, người Phước Châu, hoằng hóa ở Thiên Đồng, Minh châu. Từ nhỏ, Sư đã thông minh đĩnh ngộ, xuất gia làm tăng, tham vấn khắp chư thiện tri thức, sau yết kiến Thiền sư Ứng Am ở Minh Quả Cù châu. Tông phong Ứng Am cao xa khó vào, nhiều lần Sư bị chửi mắng. Một hôm Ứng Am hỏi:

-Thế nào là chánh Pháp nhãn? Sư đáp ngay: Phá Sa Bồn!

Ứng Am hứa khả không bao lâu, Sư từ biệt về thăm song thân.

Ứng Am làm bài kệ tiễn rằng:

Câu hợp cơ đại triệt
Trên cửa thành Đương dương
Đến nay bốn năm ròng
Hỏi ra chẳng dấu vết
Dù chưa trao y bát
Khí khái nuốt đất trời
Lại đem chánh Pháp nhãn
Gọi là Phá Sa Bồn
Lần này sắp tỉnh thấy
Cấm kỵ bước quanh co
Ta có câu sau cùng
Đợi ông về mới nói.

Sư ra hoằng hóa ở Ô Cự, Cù châu, rồi chuyển qua Tường Phù, Hoa Tạng ở Tưởng Sơn Kiến Khang. Không lâu, Đế hạ chiếu thỉnh trụ ở Linh Ẩn, Kính Sơn. Về già, Sư ở Thiên Đồng, thị tịch, tháp an táng toàn thân trên ngọn Trung Phong thuộc chùa này. Sư nối pháp Thiền sư Ứng Am Đàm Hoa. (Ngũ Đăng Hội Nguyên)

Thiền sư Ứng Am ở Thiên Đồng, Minh châu: Sư họ Giang húy Đàm Hoa, quê ở Kỳ châu, sinh ra đã là người kiệt xuất. Năm mười bảy tuổi, Sư xuất gia tại chùa Đông thiền, thọ Cụ túc, du phương tham vấn khắp thiện tri thức, yết kiến Thiền sư Viên Ngộ ở Vân Cư. Viên Ngộ vào đất Thục bảo Sư yết kiến Thiền sư Giáo Long. Giáo Long dời về Hổ Khâu, Sư theo hầu hạ nửa năm, lãnh ngộ yếu chỉ, nhiều lần dời ở những chùa nổi tiếng. Lúc Sư ở Quy Tông, Thiền sư Đại Tuệ đang ở Mai Dương có gởi Sư bài kệ:

Ngồi đoạn kim luân đỉnh ngất trời
Ngàn yêu trăm quái biệt tăm hơi
Năm rồi lại được tin tức thật
Báo đáp Dương Kỳ chánh mạch thông.

Đủ thấy Quy Tông kính trọng Sư như thế. Đời Hiếu Tông, ngày mười ba tháng sáu niên hiệu Long Hưng năm đầu, Sư an nhiên thị tịch, tháp an táng toàn thân trên núi của chùa này. Sư nối pháp Thiền sư Hổ Khâu Thiệu Long, Long nối pháp Viên Ngộ Khắc Cần, đều thuộc tông Lâm Tế.

Thiền sư Tịnh Từ Khẳng Đường, Phủ Lâm An: Sư họ Tiềm Thạnh, húy Ngạn Sung, quê ở Hàng châu, từ nhỏ theo xuất gia với ngài Nghĩa Kham ở viện Minh Không, tham học và lãnh ngộ yếu chỉ của Thiền sư Vạn Am Đạo Nhan ở Đông Lâm. Sư phụng chiếu trụ trì Tịnh Từ, Thị tịch, tháp được dựng ở Nam Am của chùa này. Sư nối pháp Vạn Am Đạo Nhan.

Thiền sư Vạn Am: Sư húy Đạo Nhan, người Thục quận, Đồng Xuyên, trụ ở Đông Lâm, Giang châu, gia tộc vốn người Tiên Can Tỷ. Sư tham học với Viên Ngộ rất lâu, lúc Viên Ngộ về đất Thục, dặn Sư đến tham học với Thiền sư Diệu Hỷ, và gửi thư nói với ngài Diệu Hỷ rằng: "Nhan Xuyên màu vẽ đã xong, chỉ thiếu điểm nhãn mà thôi!" Diệu Hỷ ở Vân Môn và Dương Cự, Sư đều theo hầu, sớm tối thưa hỏi mới được đại ngộ, và nối pháp Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo.

Thiền sư Sùng Nhạc: Sư họ Ngô, quê ở Long Tuyền, Xử châu, trụ ở Cảnh Đức Linh Ẩn Thiền Tự, Hàng châu. Hiếu Tông, năm Long Hưng năm thứ hai, Sư xuất gia ở tinh xá Bạch Liên thuộc Tây Hồ, Hàng châu, du phương tham vấn. Sau cùng yết kiến Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt ở Tây Sơn, Cù Châu. Mật Am dời về Hoa Tạng ở Tưởng Sơn Kiến Khang, Kính Sơn ở Hàng châu, Sư đều theo hầu. Mật Am thượng đường hỏi một vị Tăng:

-Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.

Sư đứng hầu bên cạnh, nghe đến đây liền hoát nhiên đại ngộ. Mật Am dời qua Linh Ẩn, sai Sư làm Thủ tòa. Sư ra hoằng hóa ở Trừng Chiếu thuộc Bình Giang, nối pháp Mật Am. Sau Sư ở những nơi như: Quang Hiếu, Vô Vi, Trị Phụ thuộc Giang Âm; Tiến Phước ở Nhiêu châu, Hương Sơn ở Minh châu, Hổ Khâu ở Bình Giang. Ninh Tông, năm Khánh Nguyên năm thứ ba, Sư ứng chiếu trụ ở Linh Ẩn. Khánh Nguyên năm thứ sáu, Sư dâng biểu xin cáo lão, Đế ưng thuận để Sư lui về ở tại Đông Am. Mồng bốn tháng tám năm Gia Thái năm thứ hai, Sư viết thư từ biệt các công khanh vốn là bạn bè cũ, dặn dò đồ chúng rằng: "Người có khả năng vẫn còn nhấc gót chân không lên". Lại nói: "Mở miệng không phải trên đầu lưỡi". Sư ghi thư dặn dò đệ tử nối pháp là Quang Lục ở Hương Sơn, Thiện Khai ở Vân Cư hãy nổ lực hoằng dương tông chỉ. Sư viết bài kệ:

Đến chẳng từng đến
Đi chẳng từng đi
Chuyển ngay cửa huyền
Phật, Tổ mờ mịt.

Sư kiết già thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, tăng lạp bốn mươi chín hạ, tháp an táng toàn thân ở cao nguyên phía Bắc Cao Phong.

Tống: Mùa Xuân tháng ba năm Thiệu Hy năm thứ năm, Thọ Hoàng không được khỏe, đêm Đinh Dậu tháng sáu, Thọ Hoàng mất, Đế cũng bệnh nặng, hôm ấy Thái hoàng Thái hậu có chiếu chỉ cho phép Đế đến làm lễ thành phục ở nội cung. Mùa thu tháng bảy Giáp Tý, Thái hoàng Thái hậu giáng chiếu chỉ rằng: "Từ khi Hoàng Đế ngã bệnh đến nay, chưa thể để tang, từng viết biểu tâu muốn thoái vị ở ẩn, hoàng tử Gia Vương có thể lên ngôi kế vị, tôn Hoàng Đế làm thái Thượng hoàng Đế, Hoàng hậu là Thái Thượng Hoàng hậu. " Gia Vương nhất mực chối từ, và quay qua nói với khu mật Triệu Nhữ Ngu rằng: "Ta là kẻ vô tội, nhưng sợ rằng phải mang cái tiếng bất hiếu!", cáp môn tuyên tán, Trung thị quan lễ v.v... bèn lấy hoàng bào khoát lên gia vương, vương vẫn không nhận. Nhữ Ngu cố thỉnh, Vương đành lên ngôi Hoàng Đế ở Tố Ác (nhà tang) của Đông Hạm.

Ninh Tông: Húy Khoáng, con trưởng Quang Tông, được phong Gia Vương, lên ngôi Hoàng Đế. Ông giản dị, khoan dung, giảm bớt hình phạt, cắt bớt tô thuế, bỏ triều cống hàng năm, ít dùng sức dân, lưu tâm trong sự nghiệp đế vương, mặc áo quần thì tự giặt. Năm hai mươi bảy tuổi, ông nhận ngôi, trị vì ba mươi năm, thọ năm mươi bảy tuổi. Niên hiệu Khánh Nguyên sáu năm, Gia Thái bốn năm, Khai Hy ba năm, Gia Định mười bảy năm.

 

Ất Mão: Khánh Nguyên năm đầu

Đại Kim: Minh Xương năm thứ 6

Tây Hạ

Bính Thìn: Khánh Nguyên năm thứ 2

Đại Kim: Thừa An năm đầu

Tây Hạ

 

Kim: Ngày hai mươi ba tháng mười một, Đế đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu, độ cả ngàn tăng.

 

Đinh Tỵ: Khánh Nguyên năm thứ 3

Đại Kim: Thừa An năm thứ 2

Tây Hạ

Mậu Ngọ: Khánh Nguyên năm thứ 4

Đại Kim: Thừa An năm thứ 3

Tây Hạ

Kỷ Mùi: Khánh Nguyên năm thứ 5

Đại Kim: Thừa An năm thứ 4

Tây Hạ

 

Kim: Tháng chín Thái hậu Triệu thị lâm bệnh, quốc vương đến thăm bà gượng ngồi dậy. Trịnh Thần phi cũng đến, Thái hậu nói "Ta có một tâm nguyện vẫn chưa làm xong, Thần phi có thể hoàn thành giúp ta chăng! Cả nhà ta ba bốn trăm người đều bị Dương Vương (Hải Lăng Dương Vương) giết sạch, mồ mả chôn cả ở Hòa Long (phủ Hoàng Long của dòng họ Mộ Dung nước Yên), ta muốn dựng ở đó một ngôi chùa để làm phước siêu độ, hằng năm cúng tế. Ta không dám tiêu phí tiền quốc khố, ta có bảy vạn tiền có thể đủ xây, ngươi hãy thưa lại với Hoàng Đế. "

Mười ngày sau, Thái hậu băng hà. Thần phi đem di mệnh của Thái hậu bàn bạc với hai bên nội ngoại, đến những người họ Triệu gần xa nơi kinh thành. Đế hạ chiếu cho xây chùa Đại Minh ở phủ Hòa Long, dựng tháp chín tầng, giao cho Thái hậu điện nội thị Hầu Diễn giám sát việc xây cất, cốt phải nguy nga tráng lệ. Đồng thời Đế độ ba vạn tăng, ban cho độ điệp đến năm vạn người, xây tám ngôi chùa bên cạnh Đại Minh để họ ở.

 

Canh Thân: Khánh Nguyên năm thứ 6

Đại Kim: Thừa An năm thứ 5

Tây Hạ

 

Tống: Tháng năm Đinh Hợi, Thọ Nhân Thái Thượng Hoàng hậu băng hà, thụy là Từ Ý. Tháng tám Đinh Hợi, Thái Thượng hoàng Đế Quang Tông băng hà.

Kim: Ái Vương làm phản, cầu viện với Đại Quân, năm này Đại Quân đem quân xâm lược.

Tháng mười hai Đinh Dậu, chiếm Đại Đô thành, vây phủ Hòa Long. (Đại Quân nay là Đại Thế của Nguyên triều)

 

Tân Dậu: Gia Thái năm đầu

Đại Kim: Thái Hòa năm đầu

Tây Hạ

Nhâm Tuất: Gia Thái năm thứ hai. Ban hành bộ Thiền Tông Cơ Duyên Phổ Đăng Lục

Đại Kim: Thái Hòa năm 2

Tây Hạ

Quý Hợi: Gia Thái năm thứ 3

Đại Kim: Thái Hòa năm 3

Tây Hạ

Giáp Tý: Gia Thái năm thứ tư. Truy phong Nhạc Phi làm Ngạc Vương.

Đại Kim: Thái Hòa năm 4

Tây Hạ

Ất Sửu: Khai Hy năm đầu

Đại Kim: Bàn việc dời đô. Thái Hòa năm thứ 5

Tây Hạ

Bính Dần: Khai Hy năm thứ 2

Đại Kim: Thái Hòa năm thứ 6

Tây Hạ

 

Tây Hạ: Thát Bạt Thất Đô Nhi Hốt, cháu của Nhân Tông, con út của Càn Thuận, lên ngôi vào tháng năm, ở ngôi sáu năm.

 

Đinh Mão: Khai Hy năm thứ 3

Thái Hòa năm thứ 7

Tây Hạ

Mậu Thìn: Gia Định năm đầu

Thái Hòa năm thứ 8

Tây Hạ

 

Kim: Tháng mười một Bính Thìn, Chương Tông mất, không có con nối dõi, quần thần theo di chiếu lập Vệ Vương Doãn Tế. Bính Dần, ông lên ngôi, vốn là con năm thứ bảy của Thế Tông, ở ngôi bốn năm, bị Hột Thạch Liệt Chấp Trung giết.

 

Kỷ Tỵ: Gia Định năm thứ 2

Kim: Đại An năm đầu

Tây Hạ

Canh Ngọ: Gia Định năm thứ ba. Tượng Phật bằng Chiên-đàn tồn tại đến lúc này đã được 2. 202

năm Đại An năm thứ 2

Tây Hạ

 

Thụy tượng Chiên-đàn: Năm này thụy tượng thờ ở nước Kim đã mười hai năm. Tháng mười, nghinh vào cấm cung trong Thượng kinh để cúng dường. Trong bài thụy Tượng Điện Ký của Hàn lâm Trình Cự Phu ghi: "Thích-ca Như Lai lúc còn làm Thái tử, sinh được bảy ngày thì mẹ là Hoàng hậu Ma-da lìa trần, thác sinh vào cõi trời Đao-lợi. Sau khi thành đạo, Đức Phật nghĩ đến ân sinh thành của mẹ liền lên cõi Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ nghe. Quốc vương nước Ưu-điền từ lâu không được chiêm ngưỡng tôn dung Phật, muốn thấy Phật nhưng chẳng biết làm sao. Quốc vương bèn khắc cây Chiên-đàn làm tượng. Tôn giả Mục-kiền-liên lo họ khắc không vẹn toàn Thánh dung, nên ngài vận sức thần thông dẫn ba mươi hai người thợ lên cõi trời Đao-lợi, nhìn kỹ tướng tốt của Phật, lên xuống ba lần mới khắc xong tôn dung Đức Phật. Quốc vương thần dân đều phụng thờ như Phật sống. Đến khi Phật từ trời Đao-lợi về lại nhân gian, Quốc vương dẫn quần thần, nhân dân cùng đi nghinh đón Phật. Pho tượng đột nhiên bay lên không trung hướng về đức Phật đảnh lễ. Đức Phật xoa đầu thọ ký pho tượng ấy rằng: "Sau khi ta diệt độ ngàn năm, ông hãy qua Chấn Đán (Đông độ) làm lợi ích khắp trời người. " Tính ra, pho tượng có mặt ở Tây Độ đã một ngàn hai trăm tám mươi lăm năm, Quy Tư sáu mươi tám năm, Lương Châu mười bốn năm, Trường An mười bảy năm, Giang Nam một trăm bảy mươi ba năm, Hoài Nam ba trăm sáu mươi bảy năm, lại đến Giang Nam hai mươi mốt năm, Biện Kinh một trăm bảy mươi bảy năm; được nghinh về Bắc, an trí tại chùa Thánh An, Yên Kinh mười hai năm, chùa Đại Trữ Khánh ở Thượng Kinh hai mươi năm; nghinh về nam, an trí trong Nội điện Yên Cung năm mươi bốn năm. Tháng ba năm Đinh Sửu, Yên Cung bị hỏa hoạn, tượng được nghinh về an trí lại tại chùa Thánh An đến nay đã năm mươi chín năm. Năm Ất Hợi, chính là năm Chí Nguyên năm thứ mười hai của Đương Kim Đại Nguyên Thế Tổ Hoàng Đế, Đế sai đại thần Bột La... cùng tứ chúng sắm sửa pháp giá, tấu vệ âm nhạc, nghinh tượng vào điện Nhân trí ở núi Vạn Thọ. Năm Đinh Sửu, dựng chùa Đại Thánh Vạn An, năm Kỷ Sửu nghinh tượng từ điện Nhân trí về hậu điện chùa này, mở pháp hội lớn. Kể từ khi quốc vương Ưu-điền tạc đến năm này là niên hiệu Diên Hựu năm Bính Thìn, Thụy tượng Chiên-đàn đã tồn tại hai ngàn ba trăm lẻ bảy năm.

(Theo Điện Ký Bi Khắc).

 

Tân Mùi: Gia Định năm thứ 4

Đại Kim: Đại An năm thứ 3

Tây Hạ: Thần Tông. Quang Định năm đầu

 

Tây Hạ: Mùa Xuân, Thần Tông Thát Bạt Tu Phiên Để lên ngôi Hoàng Đế. Lúc đầu, ông bị Đại Quân đánh nên cầu viện với Kim, Kim không cứu nên Tây Hạ phản Kim. Lúc này vận nước của Đại triều càng mạnh, nhưng vẫn còn ở đất cũ, đặt Hành Tỉnh ở Yên Vân sai đại thần của mình cai quản, và gọi là Thái sư quốc vương. Tiên tổ của Thát Đát cùng họ hàng với Nhữ Chân, bởi đều là con cháu của Mạt Hạt. Nước này trong thời Nguyên Ngụy, Tề, Chu, gọi là Vật Cát, đến đời Tùy thị xưng là Mạt Hạt. Đất đai dài thẳng tới Đông bắc Trường An sáu ngàn dặm, phía Đông dài đến Hải Ly đến mấy mươi quận có các địa danh như Hắc Thủy, Bạch Sơn. Bạch Sơn vốn thần phục Cao Ly, Đường diệt Cao Ly, số người sống sót nơi đây đều dẫn nhau đến sinh sống ở Bột Hải, chỉ có Hắc Thủy là còn nguyên lãnh thổ. Đến lúc Bột Hải thịnh trị thì dòng họ Mạt Hạt đều nô lệ cho Bột Hải, về sau bị Hề Khiết Đan đánh, các bộ tộc tan rã. Số người ở mặt trên của Hỗn Đồng Giang ban đầu có tên là Nhữ Chân vốn là giống người Hắc Thủy còn sống sót. Số người ở tại Âm Sơn tự xưng là Thát Đát. Trong thời Đường Mạt, Ngũ Đại, họ thường qua lại Trung Quốc. Đầu nhà Tống, họ lại vào triều cống. Giống người Thát Đát ai nấy đều khỏe mạnh và thiện chiến. Số ở gần đất Hán có tên là Thục Thát Đát, họ biết trồng lúa nếp, dùng chảo bằng đất nung, đáy bằng phẳng để nấu ăn. Số ở xa đất Hán có tên là Sinh Thát Đát, họ chỉ biết săn bắn kiếm sống, không có khí giới chỉ dùng cái mũi nhọn bằng xương mà thôi, bởi vùng đất này không sản sinh ra sắt. Khiết Đan tuy qua lại buôn bán nhưng sắt bị cấm nghiêm ngặt. Về sau, nước Kim lấy đất Hà Đông và bắt Lưu Dự mới bỏ tiền sắt. Từ đó tiền sắt của thời Tần, Tấn đều về hết Thát Đát, họ đem đúc quân trang quân dụng, thế nước ngày càng mạnh. Ngay lúc nước Kim thịnh trị, hàng năm Thát Đát đều vào triều cống. Vệ Vương (Kim Chủ) lập Thát Đát chủ là Thắc Một Chân Thành Cát Tư Hoàng Đế (Người đầu tiên xưng đế) vùng Sơn

Đông, Lưỡng Hà đều bị Đại Triều thu phục. Lại có Mông Cốt Quốc nằm phía Đông bắc của Nhữ Chân, đời Đường gọi quốc gia này là Mông Ngột Bộ, Kim gọi họ là Mông Ngột hay Manh Cốt. Dân tộc này không biết nấu chín thức ăn, ban đêm vẫn có thể thấy được, lấy da cá giao làm giáp, có thể chống cả luồng tên. Từ năm Thiên Quyến đời Hy Tông nhà Kim họ bắt đầu làm phản. Đô nguyên soái Tông Bật đem binh thảo phạt nhiều năm liền nhưng không diệt được, chỉ chia binh chiếm giữ nơi hiểm yếu, trái lại phải tăng phẩm vật hậu hỷ cho họ. Quốc gia này cũng tự xưng Tổ Nguyên Hoàng Đế, lập ra niên hiệu, đương thời họ là mối lo biên ải của các nước khác. Họ bắt đàn bà, con gái của Khiết Đan, người Hán về làm thê thiếp, từ đó dần dần mới biết nấu chín thức ăn. Đến lúc này Đại triều đã tự xưng Đại Mông Cổ quốc, nhưng hai nước ở hai phía Đông tây, cách nhau đến mấy ngàn dặm, chẳng biết làm thế nào hợp lại làm một. Bởi vì lúc nước Kim thịnh trị, họ đặt Đông bắc chiêu thảo ty để chống quân của Manh Cốt, Cao Ly, Tây nam chiêu thảo ty để cai quản mạn bắc mạn đông, vốn đất bị Tây Hạ, Manh Cốt chiếm lấy. Kim chủ Thái Tông khi lập quốc, đất đai gồm hai mươi bảy vi trại đều nằm phương Bắc, phía Đông tiếp giáp phủ Lâm Hoàng, phía Tây giáp đến gần Tây Hạ, phía Nam đến Tĩnh Châu, phía Bắc đến Đại Nhân Quốc. Ngày nay các nước ấy đều thuộc hết về Đại triều.

 

Nhâm Thân: Gia Định năm thứ 5

Kim: Trùng Khánh năm đầu

Tây Hạ

Quý Dậu: Gia Định năm thứ 6

Kim: Đổi thành Chí Ninh năm đầu. Tháng chín đổi Chí Ninh thành Trinh Hựu năm đầu.

Tây Hạ

 

Kim: Tháng tám, đưa Hột Thạch Liệt Chấp Trung làm hữu phó nguyên soái, đem ba ngàn quân vũ nghệ đón đánh Đại quân. Ngày hai mươi xuất phát từ Yên Kinh đi đến Tử Kim quan (Cửa ải Tử Kim). Chấp Trung mở cửa ải chống giặc thì nghe Đại quân đã qua cửa ải, thì đồng loạt tan chạy.

Chấp Trung về kinh ra mắt Đế bẩm: "Đại quân thế mạnh, khó lòng địch nổi. " Hoàn Nhan Cương cũng thua trận chạy về, mật tâu là Chấp Trung cố tình thả Đại quân vào ải. Chấp Trung nghe được, lo mình bị giết. Trước đây Tả phó nguyên soái Nam Bình Thư Cách Quân Thưởng cũng bị dân chúng oán ghét, Chấp Trung nhân lòng người phẫn nộ bèn muốn phế vua, liền đem quân về giết Nam Bình để hiệu triệu mọi người. Ngày 24, quân đến ngoài cửa Đông Hoa, Chấp Trung cho mời Nam Bình đến bàn việc rồi giết Nam Bình. Trong cung nghe có biến nên đóng hết các cửa thành. Chấp Trung muốn phóng hỏa đốt cửa thành, thì Thủ môn tướng quân Hợp Trụ mở cửa thành ấy, Chấp Trung dẫn binh vào cung. Thị vệ bỏ chạy tứ tán, Trung sai quân bắt Đế và Hoàng hậu giam ở phủ cũ. Đêm Giáp Ngọ, Trung sai nội thị Lý Giám Thành giết quốc chủ tại phủ đó. Quốc chủ là con người nhân hậu, trong số anh em, Đế là người hiền tài nhất, ở ngôi năm. Tuyên Tông lên ngôi, giáng phong Đế làm Đông Hải quận hầu.

Tuyên Tông: Húy Tuân, cháu của Thế Tông, con trưởng của Hiển Tông Doãn Cung. Tháng chín Bính Ngọ ông lên ngôi, đổi năm Chí Ninh thành năm Trinh Hựu, bái Hột Thạch Liệt Chấp Trung làm Thái sư đô nguyên soái thống lãnh việc của tam tỉnh, phong Trạch Vương. Đại quân lại đến cửa ải Tử Kim, cách Yên Kinh hai trăm dặm. Trung sai tả giám quân Cao Khất đem năm ngàn trát quân chống giặc nhưng Cao Khất sai hẹn không đến. Trung muốn chém Khất. Quốc chủ thấy Khất có công nên khẩu dụ miễn tội chết. Chấp Trung lại thêm quân lệnh rằng: "Thắng trận thì tha tội, thua trận thì giết không tha. " Cao Khất dẫn quân đánh Đại quân bị thua trận, tự nghĩ ắt bị Chấp Trung giết, bèn dẫn trát quân vây phủ Chấp Trung, đột nhập vào trướng và giết Chấp Trung rồi đến Ứng Thiên Môn đợi tội. Tháng mười, Tân Hợi, Quốc chủ cho Cao Khất nắm binh quyền mà không bắt tội, bắt hết đồ đảng phản nghịch của Chấp Trung giết sạch rồi bái Cao Khất làm Bình chương quân quốc kiêm thêm khu mật đại sứ. Lúc này Đại quân vây Yên Kinh, lại hẹn với Tống cùng đánh.

 

Kim: Trinh Hựu năm thứ 2

Giáp Tuất: Gia Định năm thứ 7

Tây Hạ

 

Kim: Tháng ba, Kinh đô thiếu lương thực, dân quân mười người hết bốn, năm người chết đói. Kim chủ sai sứ qua Đại Quân cầu hòa, Đại Quân bắt phải đưa công chúa, hộ giá tướng quân mười người, Tế quân một trăm người cùng đi theo công chúa. Đồng nam đồng nữ mỗi loại năm trăm người, thợ thêu ba ngàn người, tập ngự mã ba ngàn con, cùng vàng bạc châu ngọc, xin thêm Tả Thừa Tướng Hoàn Nhan Phúc Hưng qua làm con tin. Kim chủ đều đồng ý, đem con gái út của Đông hải quận hầu ứng chiếu qua Đại Quân. Họ còn lệnh cho Kim chủ ở tại nước mình xa bái họ, Kim chủ không dám chống đối. Đại Quân lại nói: "Nguyên Soái vây Yên đã lâu nhưng chưa từng cướp phá, nay muốn có vàng lụa để khao quân". Kim chủ đều làm theo. Đại Quân về Bắc. Lúc này ở kinh thành ba cân bạch kim không thể đổi được ba thăng gạo, người chết không kể xiết. Đế bàn dời đô về Biện Lương. Ngày hai mươi tám tháng chín, khởi giá, ngày hai mươi bốn tháng mười vào Biện kinh. Đại Quân đã kéo về nhưng khi nghe Kim dời đô vào Biện Kinh thì nổi giận nói: "Đã hòa mà còn dời đô là có lòng nghi ngờ chưa bỏ hận thù, cầu hòa chẳng qua là kế lừa ta mà thôi. " Tháng tám năm sau, Đại Quân vây Yên Kinh, chia quân các quận ở Trung Nguyên, sai sứ đến Biện Kinh, đòi vàng bạc châu ngọc v.v...để khao quân. Kim chủ đều đem cho cả. Quân cần vương của Đông Bình Đại Danh Chân Định gặp phải Đại Quân đều bại trận, từ đó trong ngoài chẳng thông tin tức. Thái tử Thủ Tự ở Yên Kinh buộc phải về Biện Kinh. Cung thất ở Yên Kinh nguy nga tráng lệ nhất từ xưa tới nay, đến lúc này bị loạn binh đốt phá, lửa cháy hơn cả tháng trời chưa tắt.

 

Ất Hợi: Gia Định

Đại Kim:

Tây

năm thứ 8

Trinh Hựu năm thứ 3

Hạ

Bính Tý: Gia Định năm thứ 9

Đại Kim: Trinh Hựu năm thứ 4

Tây Hạ

Đinh Sửu: Gia Định 10 Thiền tông Liên đăng lục Tịnh Từ hối Ông Minh Thiền sư lục

Đại Kim: Hưng Định năm đầu

Tây Hạ

 

Kim: Đất đai ngày càng hẹp dần, lại có gian mưu Nam Khuy Giang Hán gây oán với Tống, nhiều lần đánh chiếm đất Tống. Lúc này Tây Hạ càng ăn ở hai lòng với Kim, gửi thư cho Tống bàn với Tống cùng đánh Kim. Tháng tám, An Bính Duẫn của Tống bàn mưu với Tây Hạ.

 

Mậu Dần: Gia Định năm thứ 11

Hưng Định năm thứ 2

Tây Hạ

Kỷ Mão: Gia Định năm thứ 12

Hưng Định năm thứ 3

Tây Hạ

 

Thiền sư Si Tuyệt: Sư họ Cẩu, húy Đạo Xung quê ở Trường Giang, Vũ Tín. Đời Quang Tông năm Thiệu Hưng năm thứ ba, Sư ra Giáp Sơn, tham yết Thiền sư Tùng Nguyên Nhạc ở chùa Tiến Phước, Nhiêu châu. Gặp lúc Tùng Nguyên cử với thủ tòa "Diệu quả xuất thế của Hòa thượng sinh ở Tào Khê" Sư nghe đến đây vào được pháp môn, có chút tỉnh ngộ. Sư đi khắp tòng lâm, nơi nào cũng nhường cho Sư nửa tòa. Đến lúc này, năm Gia Định năm thứ mười hai, từ chức thủ tòa ở Kính Sơn. Sư ra hoằng hóa ở Thiên Ninh, Gia Hưng, nối pháp Hòa thượng Sinh ở Tào Khê, dời qua Tưởng Sơn. Lý Tông, năm Gia Hy năm thứ ba, Sư chuyển về Tuyết Phong. Được nửa năm, Sư ứng chiếu chuyển về Thiên Đồng, chủ quản đạo tràng Dục Vương đồng thời chủ trì giảng dạy cả Lưỡng Sơn. Năm Thuần Hựu năm thứ tư, Sư phụng chiếu trụ ở Linh Ẩn, cáo lão về Kim Lăng. Triều đình ban chiếu cho Sư dưỡng già ở Hổ Khâu. Tháng sáu năm Thuần Hựu năm thứ tám, Sư ứng chiếu trụ ở Dục Vương, nhưng sứ giả đi thỉnh ba lần nhưng Sư vẫn không đi. Tháng hai năm sau, khai sơn chùa Pháp Hoa ở đất Ngô. Tháng tám, ứng chiếu trụ ở Kính Sơn, phủ Lâm An. Ngày mười ba tháng năm Thuần Hy thứ mười, Sư quy tịch, thọ tám mươi hai tuổi, tăng lạp sáu mươi một hạ, di cốt xá-lợi được an táng trong núi Kim lăng.

 

Canh Thìn: Gia Định năm thứ 13

Đại Kim: Hưng

Tây Hạ

 

 

Định năm thứ 4

 

Tân Tỵ: Gia Định năm thứ 14

Hưng Định năm thứ 5

Tây Hạ

Nhâm Ngọ: Gia Định năm thứ 15

Hưng Định năm thứ 6

Tây Hạ

Quý Mùi: Gia Định năm thứ 16

Đại Kim: Nguyên Quang năm đầu

Tây Hạ: Tháng 09, Thác Bạt Đức Nhân lên ngôi. Càn Định năm đầu

Giáp Thân: Gia Định năm thứ mười bảy, mùa thu tháng tám nhuần, Đế mất. Hoàng tử Thành Quốc Công lên ngôi.

Nguyên Quang năm thứ 2

Càn Định năm thứ 2

 

Tống: Tháng tám nhuần Đinh Dậu, Đế mất ở điện Phước Ninh, thọ năm mươi bảy tuổi. Hoàng hậu Dương thị, Sử Di Viễn lập Quý Thành làm hoàng tử, tấn phong Thành Quốc Công rồi lên ngôi Hoàng Đế. Quý Thành lại đổi tên là Quân, tôn Hoàng hậu làm Hoàng Thái hậu, buông rèm thính chính, phế Hoàng Thái tử Hoằng, giáng phong làm Tế Dương quận vương, đày ra phủ Ninh Quốc rồi giết.

Kim: Tháng mười, Quốc Chủ Tuân mất, miếu hiệu Tuyên Tông. Con năm thứ ba của Tuân là Thủ Tự lên ngôi Hoàng Đế, đó là Nghĩa Tông. Tính ông nhân từ, khoan dung, từ nhỏ ham đọc sách, lớn lên là người học rộng, những người hiền tài, phú quý đều là bạn văn chương của ông. Ông ở ngôi mười một năm.

Lý Tông: Húy Quân, cháu Ninh Tông, lên ngôi lúc hai mươi tuổi, kính chuộng đạo học, quý trọng hiền tài. Ban đầu, chánh sự rất hợp lòng dân, về sau Tể tướng Giả Tự Đạo mua ruộng dân làm ruộng quan, chèn ép ba quân, chẳng hề ban thưởng, đất nước vì thế mà suy vong. Ông ở ngôi bốn mươi mốt năm, thọ sáu mươi mốt tuổi. Niên hiệu Bảo Khánh ba năm, Thiệu Định sáu năm, Đoan Bình ba năm, Gia Hy bốn năm, Thuần Hựu mười hai năm, Bảo Hựu sáu năm, Khai Khánh một năm, Cảnh Định năm.

 

Ất Dậu: Bảo Khánh năm đầu

Kim: Chánh Đại năm đầu

Tây Hạ

Bính Tuất: Bảo Khánh năm thứ 2

Chánh Đại năm thứ 2

Tây Hạ: Tháng 07 Thát Bạt Đức Nhân mất. Thanh Bình Quận Vương lên ngôi.

 

Kim: Lúc này trộm cướp hoành hành, đánh nhau đầy đường, bắt hết ngựa, vét cạn lương, của công của tư đều cạn kiệt, nước Kim do đó nguy khốn.

 

Đinh Hợi: Bảo Khánh năm thứ 3

Kim: Chánh Đại năm thứ 3

Tây Hạ diệt vong

 

Tây Hạ: Từ Ngũ đại đến Đường Minh Tông năm Thiên Thành, họ quấy loạn cướp phá, nhiễu nhương các châu thành. Hơn nữa, các trấn ở Hà Tây đều nói Định nạn Tiết độ sứ Lý Nhân Phước ngầm cấu kết với Khiết Đan, triều đình lo bọn họ liên kết binh mã thôn tính Hà Hữu, xâm phạm phía Nam là Quan Trung. Tháng ba năm Trường Hưng năm thứ tư, Quý Mùi, Nhân Phước chết, con ông ta là Di Siêu làm Chương Vũ lưu hậu. Chiêu không phụng chiếu, mới sai anh là A La Vương giữ cửa ải Thanh Lĩnh, tập hợp các người Hồ đầu đảng trong nước tự giữ và khinh rẻ triều đình, Phế Đế vào tháng hai Đinh Dậu năm Thanh Thái năm thứ hai. Hạ Châu (thành do Xích Liên Bột Bột xây, dòng họ Thát Bạt nhiều đời ở đây) Tiết độ sứ Lý Di Siêu dâng biểu cáo bệnh, anh là Hành quân Tư mã Di Ân nắm quyền tri quân châu sự. Mấy hôm sau, Di Siêu chết. Nhà Tấn, Xuất Đế niên hiệu Khai Vận năm đầu, tháng hai Nhâm Tý, hạ chiếu cho Di Ân làm Khiết Đan Tây nam diện chiêu thảo sứ. Nhà Hán, Càn Hựu năm thứ hai, tháng giêng Giáp Dần hạ chiếu cho Ân làm Tĩnh châu lệ định nạn quân. Tháng hai Tân Mùi, Di Ân dâng biểu từ chối. Ân cho Trung Nguyên xảy ra lắm việc nên có ý ngạo mạn khinh thường, các phiên trấn đều có người tạo phản thường ngầm giúp Ân, hối lộ cho Ân hậu hỷ. Triều đình biết việc đó, vẫn dùng ân sủng để kiềm chế Ân. Chu Hiển Đức năm thứ hai, tháng giêng Canh Dần, Định nạn Tiết độ sứ Lý Di Hưng hổ thẹn vì mình cũng ngang hàng với Tiết độ sứ Tích Đức Lệ, mới đóng cửa ải không đi sứ triều Chu. Tháng hai Quý Mùi, Thế Tông sai Cung phụng quan đem vàng bạc châu ngọc và chiếu chỉ sang cầu hòa. Đến Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc năm thứ bảy, tháng mười, Lý Kế Bổng sang triều cống, Thái Tông hài lòng, hạ chiếu cho giữ chức Chương đức quân Tiết độ sứ, ban cho họ Triệu, tên Bảo Trung, giữ lại kinh đô phụng sự triều đình. Nhân Tông, năm Bảo Nguyên, Mậu Dần, Triệu Nguyên Hạo tiếm xưng Đế, đến lúc này, Đinh Hợi, ngày hai mươi bảy tháng bảy, bị Bắc triều Đại Quân diệt, tồn tại một trăm chín mươi năm.

 

Mậu Tý: Thiệu Định năm đầu

Kim: Chánh Đại năm thứ 4

Kỷ Sửu: Thiệu Định năm thứ 2

Chánh Đại năm thứ 5

Canh Dần: Thiệu Định năm thứ 3

Chánh Đại năm thứ 6

Tân Mão: Thiệu Định năm thứ 4

Chánh Đại năm thứ 7

Nhâm Thìn: Thiệu Định năm thứ 5

Kim: Mùa Xuân đổi niên hiệu Khai Hưng. Đến mùa hạ đổi niên hiệu Thiên Hưng. Thiên Hưng năm đầu.

 

Kim: Bị Đại Quân hợp vây Biện Kinh, người Kim dùng mọi kế để giữ thành. Tháng tư, trời chuyển qua nóng, Đại Quân muốn trở về kinh đô, nên giảng hòa, bắt Thái tử Kim Tử làm con tin, đồng thời nhận vàng lụa vô số. Trong thành tuy tạm đẩy lui quân địch, nhưng quân mệt sức tàn, vùng Hà Nam bị chia năm xẻ bảy, quân Tống thôn tính phía Nam này, giặc cướp nổi lên cướp phá phía Đông. Thiên Sứ lại đến ban lệnh Kim chủ phải phế bỏ tôn hiệu của mình bái chiếu xưng thần, bỏ hết áo mão lễ nghi, làm Tây kinh lưu thú, cắt giao kinh thành. Kim Chủ lâm vào tình thế ấy, bèn đích thân dẫn năm ngàn tướng quân hộ vệ đột phá vòng vây ra ngoài, đánh thắng được Đại Quân. Tả Thừa Tướng Hoàn Nhan Bạch Tát tâu "Xin Bệ hạ vượt qua sông chiếm lấy Vệ châu, cắt đường về của bọn họ. " Kim Chủ dẫn quân lên mạn Bắc đến Vệ châu. Đại Quân họp binh vây, Kim Chủ liền quay lại thì Đại Quân đã đuổi kịp. Nguyên soái Hạ Đô Hỷ tử trận. Trước đây, khi ra khỏi thành, Kim chủ dặn dò Thôi Lập lo liệu mọi chuyện trong Lưu Thú, khi Vệ châu thất bại, chỉ còn hai ngàn binh sĩ đi theo, Biện Kinh được tin, Thôi Lập liền giết hết các quan lại trong kinh, đem Thái hậu, Hoàng hậu, hoàng phi, công chúa, hoàng huynh Kinh Vương đến hàng Đại Quân, lấy hết vàng bạc châu ngọc, đồ trang trí trong cung dâng hết cho Đại Quân, rồi tự xưng Trịnh Vương kiêm luôn chức Thừa Tướng. Đại Quân nhân đó giao cho Lập làm Hà Nam Hành Tỉnh Quyền Hoàng Đế. Kim chủ tạm ở tại phủ Quy Đức.

 

Quý Tỵ: Thiệu Định năm thứ 6

Đại Kim: Thiên Hưng năm thứ 2

 

Kim: Phủ Quy Đức hết lương thực. Tháng sáu Mậu Tuất, Kim Chủ từ đất Hào dời về Sái châu. Tháng mười một, Tống Đế sai Tương Dương Thái úy Giang Hải, Tương Dương súy Mạnh Cộng đem bốn vạn quân đánh Sái châu, đóng quân ở Thành Nam. Soái Thần Sử Tung Chi vận chuyển mười vạn hộc lương cấp phát cho quân Nam Bắc, đồng thời đặt luôn Giác trường (đánh thuế độc quyền) ở Thành Nam để buôn bán qua lại. Đại Quân càng lợi thế. Mồng chín tháng mười hai, Đại Quân đánh và chiếm được ngoại thành. Ngày mười sáu, cố sức đánh Tây thành nhưng không chiếm được. Ngày mười tám, Đại Quân lại dồn binh đục thủng được Tây thành. Ngày mười chín, Kim chủ đem hết vật dụng của mình khao thưởng quân sĩ. Ngày hai mươi hai, Kim chủ lén dẫn trăm quân mã, ngàn quân bộ đang đêm ra Đông thành để chạy trốn, đến sát vòng vây đánh nhau không thắng đành quay về.

 

Giáp Ngọ: Đoan Bình năm đầu

Đại Kim: Thiên Hưng năm thứ ba. Kim diệt vong

 

Kim: Tháng giêng, đêm mồng mười, Kim chủ chọn ba đội quân tinh nhuệ đợi sẵn ở Tây thành. Trời chưa sáng, Đại Quân đã kéo đến. Đang đánh nhau, thì mặt Nam hơn một vạn binh Tống đã lấy được Bạc thành rồi. Kim Chủ biết thành ắt bị phá mới triệu đại thần lại quay mặt về Đông nhường ngôi cho Tổng soái Thừa Lân, Thừa Lân quay mặt về Tây ra sức chối từ. Kim chủ cầm ngọc tỷ truyền quốc đưa cho Thừa Lân và nói: "Trẫm sở dĩ giao cho khanh đâu phải chỉ vì bản thân ta! Trẫm thân thể to mập, không tiện lên ngựa ra roi, sau khi thành bị vây, phá ra ngoài thật khó. Thấy khanh thường ngày lanh lẹ, vả lại có tài thao lược, may mắn thoát được thì làm cho vận nước đừng dứt, đó là chí nguyện của Trẫm!" Kim chủ ép Lân nhận ngọc tỷ, Lân quỳ xuống nhận. Kim chủ lui về Nhàn Cáp Môn thắt cổ tự vẫn. Tuyên huy sứ Ôn Đôn lệnh cho Đông thượng cáp môn sứ sự bộc tán Tà Bất Thất dẫn hậu chủ Thừa Lân lên Bảo Ngự, khoác cho giáp trụ, Thừa Lân đứng nhận các quan lễ lạy xong liền dẫn binh ra đón đánh Đại Quân. Trên tường Nam thành toàn cắm tinh kỳ của Tống, bốn mặt đều thúc trống cùng đánh, âm thanh chấn động đất trời. Quan giữ cửa thành mở cửa thả Đại Quân tiến vào, quân Kim cố đánh nhưng không thể nào cản nổi, đành lui về Bảo Tử thành. Hậu Chủ Thừa Lân nghe tin Kim Chủ băng hà, liền dẫn cả bá quan đến trước thi hài lạy khóc, và nói với các quan: "Tiên đế còn ở ngôi rất khoan dung cần kiệm, mưu tính khôi phục lại Tổ nghiệp, có ý chí nhưng việc không thành, thật quá bi ai! Ta muốn phong thụy cho Tiên Đế là Ai. Chuốc chưa xong tuần rượu thì Đại Quân đã đến dưới thành công phá rất gấp, vây hãm thành. Hậu chủ bị loạn quân giết, đất nước diệt vong. Ông ban thụy cho Kim chủ là Ai Đế, hàm nghĩa cơ nghiệp chưa hết. Miếu hiệu Nghĩa Tông.

Nước Kim từ đời Huy Tông niên hiệu Trùng Hòa năm Mậu Tuất xưng Đế, đến lúc này niên hiệu Đoan Bình năm Giáp Ngọ, cả thảy chín chủ, trị vì một trăm mười bảy năm thì hết.

Sau khi Nghĩa Tông tự vẫn, quyền điểm kiểm Hoàn Nhan Tà Liệt hay tin liền sửa chiếu, triệu Thừa khanh Thạch Trản thị, Cận thị cục đại sứ Tiêu Xuân Hòa, Nội thị cục điện đầu Tống Quy cùng đến trước linh cửu Nghĩa Tông. Tà Liệt đem danh phận hiểu dụ họ, rồi cùng ba người ấy tuẫn tiết theo. Trước lúc chết, Tà Liệt có dặn dò phụng ngự Giáng Sơn bảo hãy thiêu mình tại U Lan Can-nơi mà Nghĩa Tông tự vẫn. Khi lửa vừa cháy thì Bảo Tử thành bị vây. Cận thị Tả hữu đều bỏ chạy, chỉ còn một mình Giáng Sơn ở lại và bị Đại Quân bắt. Đại Quân hỏi ông là ai, ông đáp:

- Ta là phụng ngự. Tướng của Đại Quân hỏi:

Mọi người đều bỏ chạy nhưng tại sao ông vẫn ở lại? Giáng Sơn đáp:

- Vua của ta đã chết rồi, ta muốn nhặt hài cốt đem chôn.

Tướng ấy cười nói: Ông điên ư! Cái thân ông còn không giữ nổi mà muốn chôn cất vua mình ư!

Giáng Sơn đáp: Ông thờ vua của ông, tôi thờ vua của tôi, vua của tôi trị vì thiên hạ hơn mười năm, công lao chưa hết, nay chết đi lẽ nào để cho vua cũng nằm phơi thây như bọn sĩ tốt mà được chăng! Tôi biết trước, ông ắt không làm trái tấm lòng chân tình của tôi, nên tôi cố ở lại đây.

Đại Quân đem lời của Giáng Sơn bẩm lại với Bôn Trản. Trản nói: "Đây là một đại trượng phu" và cho phép Giáng Sơn chôn cất. Giáng Sơn liền vào nhặt nhạnh trong đống tro tàn, gói xương trong tấm chăn rách, đem chôn cạnh Nhữ Thủy. Giáng Sơn lạy hai lạy, gào khóc và trầm mình xuống Nhữ Thủy. Bọn lính tráng đến cứu, ông chưa chết.

* Ất Mùi: Đoan Bình năm thứ hai. Đế hạ chiếu bàn việc làm tiền giấy (Chử tệ), ban hành độ điệp. Thâu Hội Tử của Lưỡng Giới.

* Bính Thân: Đoan Bình năm thứ ba, cùng bàn bạc, quan chử tệ tạo ra mười tám giới, viết bảng vàng đặt ra Hội tử.

* Đinh Dậu: Gia Hy năm đầu.

* Mậu Tuất: Gia Hy năm thứ hai.

Kỷ Hợi: Gia Hy năm thứ ba, Đế hạ chiếu cho các châu huyện có người chết vì nghĩa để chuẩn bị phẩm vật chẩn tế.

* Canh Tý: Gia Hy năm thứ tư, hữu Thừa Tướng Sử Tung Chi đề xướng về Hội tử, lấy năm phần trong năm đạo Hội tử của hai mươi bảy giới làm thành một đạo của mười tám giới.

* Tân Dậu: Thuần Hựu năm đầu.

* Nhâm Dần: Thuần Hựu năm thứ hai.

* Quý Mão: Thuần Hựu năm thứ ba.

* Giáp Thìn: Thuần Hựu năm thứ tư. Sử Di Trung chết, đặc biệt truy tặng chức Thiếu sư bảo ninh quân Tiết độ sứ Trịnh Quốc Công. Lệnh cho Hữu Ty chọn tên thụy rồi tâu lên. Đế hạ chiếu cho con của Di Trung là Tung Chi làm lại Hữu Thừa Tướng, kiêm luôn khu mật sứ Vĩnh Quốc Công.

* Ất Tỵ: Thuần Hựu năm thứ năm, Tung Chi từ quan.

* Bính Ngọ: Thuần Hựu năm thứ sáu.

* Đinh Mùi: Thuần Hựu năm thứ bảy.

* Mậu Thân: Thuần Hựu năm thứ tám. Ngày hai mươi bảy tháng ba, Thiền sư Tiếu Ông ở núi Dục Vương, Minh châu quy tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi, tăng lạp năm mươi hai hạ. Sư họ Mao, húy Diệu Kham, quê ở Từ Khê, Minh châu. Ninh Tông năm Khánh Nguyên năm thứ ba, Sư thọ Cụ túc, tham học với Thiền sư Tùng Nguyên Nhạc ở Linh Ẩn, kế đến yết kiến Thiền sư Tịnh Toàn ở Thiên Đồng, lãnh hội yếu chỉ. Thiền sư Tịnh Toàn hiệu là Vô Dụng, họ Ông, người Việt Châu, nối pháp Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo ở Kính Sơn. Diệu Kham ra hoằng hóa ở Diệu Thắng, Minh châu, nối pháp Thiền sư Tịnh Toàn. Kế đó, Sư chuyển qua Kim Văn, Quang Hiếu; Báo Ân ở Thai châu, Hổ Khâu ở Giang Bình, Tuyết Phong ở Phước châu. Sư phụng chiếu trụ ở Cảnh Đức Linh Ẩn Thiền tự trong phủ Lâm An. Sư mở rộng bên trái chùa, vốn là cửa hàng thịt, dựng nên tòng lâm lấy hiệu là Phi Lai Phong. Sư lại lập tam tháp ở phía Bắc núi để chôn cất, an táng linh cốt của chư tăng. Mọi Phật sự ấy đều được Đế phê chuẩn.

Sử Ngụy Vương dựng chùa Đại Từ ở Minh châu, thỉnh Sư thuyết pháp, làm khai sơn đời thứ nhất. Vương mất, Sư cũng từ biệt, đến trụ ở Thụy Nham, Thai châu, chuyển về Giang Tâm, Ôn châu.

Đế hạ chiếu thỉnh Sư trụ ở Thiên Đồng, Tịnh Từ, Dục Vương. Đến lúc này, mùa xuân năm Mậu Thân, Sư lại ứng chiếu trụ ở Tịnh Từ, nhưng Sư không đi và quy tịch.

* Kỷ Dậu: Thuần Hựu năm thứ chín.

* Canh Tuất: Thuần Hựu thứ mười.

* Tân Hợi: Thuần Hựu năm thứ mười một.

* Nhâm Tý: Thuần Hựu năm thứ mười hai.

* Quý Sửu: Bảo Hựu năm đầu.

* Giáp Dần: Bảo Hựu năm thứ hai.

* Ất Mão: Bảo Hựu năm thứ ba.

* Bính Thìn: Bảo Hựu năm thứ tư.

* Đinh Tỵ: Bảo Hựu năm thứ năm.

* Mậu Ngọ: Bảo Hựu năm thứ sáu.

* Kỷ Mùi: Khai Khánh năm đầu. Thích-ca Văn Phật nhập diệt đến năm này đã hai ngàn hai trăm lẻ tám năm.

Thát Đát Quốc Hiến Tông Hoàng Đế: Tháng chín, Đế đích thân thống lãnh Đại Quân tiến vào đất Thục, thuận dòng về Đông. Một đội quân của Tà Phúc từ nước Đại Lý kéo về phía Nam, ngang qua phía Nam vùng đất Hỗ Quế thẳng đến phủ Tĩnh Giang. Một cánh quân vượt sông bao vây Ngạc châu. Ngô Tiềm về tâu, Đế cho Giả Tự Đạo làm Tuyên phủ thị sư giang thượng. Tháng mười, Đinh Đại Toàn bị bãi tướng, Ngô Tiềm giữ chức Thừa Tướng. Đế cho Giả Tự Đạo làm hữu tướng kinh hồ tuyên phủ sách ứng đại sứ, đem quân cứu viện Ngạc Châu, Triệu Quì làm Khu mật sứ Giang Đông, Tây tuyên phủ sách ứng đại sứ đồn quân ở Tín châu ngăn quân của Tà Phúc ở Quảng Hữu. Tháng mười một, Hiến Tông ngự giá đến dưới thành câu cá. Tự Đạo sai Sứ đến hòa ước, ngầm hứa triều cống vàng lụa hằng năm và giải binh. Tuyết rơi, trời lạnh, Đế cho xuất tiền lụa trong quốc khố khao thưởng cho binh lính vùng biển.

* Canh Thân: Cảnh Định năm đầu.

Thát Đát Quốc Bệ Thiện Hoàng Đế: Tháng tư, ông lên ngôi, ngày mười chín tháng năm lập niên hiệu Trung Thống. Giả Tự Đạo của Tống vào triều cống, Đế cho Đạo giữ chức hữu tướng kiêm Thái tử Thái sư. Sứ phương Bắc là Hác Kinh đến Tống hòa ước, Giả Thừa Tướng tránh bàn việc ngày trước, giam giữ Hác Kinh ở Chân châu không cho về Tống, lại sai Sứ đến kinh Hồ, Giả Thừa Tướng cũng giữ sứ tại Thuần Khẩu thuộc Hán Dương, dẫn đến cái họa bội ước, cuối cùng đất nước diệt vong. Tháng mười, Tống đế cho hoàng đệ con của Tự Vinh Vương Dư Nhuế là Kỳ làm Hoàng Thái tử, phong làm Trung Vương.

* Tân Dậu: Cảnh Định năm thứ hai.

* Nhâm Tuất: Cảnh Định năm thứ ba. Hữu tướng Giả Tự Đạo mua ruộng của dân làm ruộng quan, muốn được cả ngàn vạn mẫu, hàng năm thu vào đến sáu bảy trăm vạn thạch. Đài thần Giao Chương nói: "Sao dời thì họa biến, không nên mua làm ruộng quan, muôn dân oán thán, dẫn đến bất bình. " Xin bãi ruộng quan để hợp ý trời. Giả hữu tướng cố sức biện minh, từ đó công luận gay gắt.

* Quý Mùi: Cảnh Định năm thứ tư.

* Giáp Tý: Cảnh Định năm thứ năm. Thát Đát Quốc đổi niên hiệu Chí Nguyên năm đầu. Tống làm ra vàng bạc, xuất hiện loại tiền quan tử, lấy một chuẩn là ba phần Hội tử của mười tám giới, bỏ pháp độ mười bảy giới không dùng và ban hành giá tiền quan tử, vật giá đều tăng vọt. Tháng mười, Đế mất, hoàng Thái tử lên ngôi. Đế vốn là tông thất ở huyện Cổ Điền, Phước châu, cha làm Việt châu Sơn âm úy, lấy vợ là Toàn thị trong huyện này, sinh được hai người con. Một là Dư Cử tức Ô Thái Bảo Lý Tông. Một là Dư Nhuế tức Tự Vinh Vương. Vương đến đất Việt và trở thành người xứ Việt.

Độ Tông: Ban đầu húy là Mạnh Khải, em của Lý Tông, con của Tự Vinh Vương Dư Nhuế. Lý Tông có nhiều con nhưng không nuôi, Mạnh Khải ở trong cung đổi tên là Tư, lại đổi tên là Kỳ, được lập làm hoàng Thái tử, phong làm Trung Vương, ban cho tên Duệ. Ông lên ngôi, tấn phong Tự Vinh Vương làm Phước Vương. Lúc này quyền thần lộng hành nắm quyền, Đế chỉ là hư vị, ở ngôi mười năm, thọ ba mươi lăm tuổi. Niên hiệu Hàm Thuần mười năm.

* Ất Sửu: Hàm Thuần năm đầu. Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Hư Đường Ngu ở Tịnh Từ trụ trì Kính Sơn. Sư nối pháp Thiền sư Vận Am Nghiễm ở núi Đạo Tràng, Hồ châu. Nghiễm nối pháp Thiền sư Tùng Nguyên Nhạc.

* Bính Dần: Hàm Thuần năm thứ hai.

* Đinh Mão: Hàm Thuần năm thứ ba. Đế đến miếu thờ Tăng Sâm Bính quốc công, Khổng Nhưng Nghi quốc công, tế tự Tiên Thánh Chuyên Tôn Sư Trần quốc công, phong vào hàng Thập triết. Tấn phong Giả Tự Đạo làm bình chương quân quốc trọng sự ngụy quốc công. Đế xưng là Sư thần, cả nước gọi là Sư tướng.

* Mậu Thìn: Hàm Thuần năm thứ tư.

* Kỷ Tỵ: Hàm Thuần năm thứ năm.

* Canh Ngọ: Hàm Thuần năm thứ sáu. Tháng hai, ngày nọ Đế hỏi Tự Đạo: Tương Dương bị vây đã ba năm rồi, phải tính sao?

Đạo đáp: Quân phía Bắc đã rút lui rồi, bệ hạ nghe ai nói vậy.

-Vừa rồi mới nghe một nữ tần nói thế.

Giả Tự Đạo tra hỏi người nữ tần ấy rồi giết đi. Từ đó, không ai dám trả lời việc biên cương cho Đế nghe.

* Tân Mùi: Hàm Thuần năm thứ bảy. Tháng ba Hoài Tây Chế trí ty giải bày rằng Tương Dương bị vây không giải được, xin điều binh đến tăng viện. Thát Đát quốc lấy quốc hiệu là Đại Nguyên, là lấy nghĩa quẻ Càn Nguyên trong Chu Dịch, nhằm nêu tỏ vương nghiệp bắt đầu từ đây.

Thủ Tòa Tịnh Phục: Ngài làm thủ tòa Thiên Trúc Vĩnh Tộ Thiền tự trong phủ Lâm An, ra hoằng hóa ở Thạch Sương, Đàm châu, nối pháp Thiền sư Hư Chu Độ. Đế hạ chiếu thỉnh Thiền sư Hư Chu Phổ Độ ở Trung Thiên Trúc trụ trì Cảnh Đức Linh Ẩn. Sư quê ở Dương châu, xuất gia tại chùa Bạch Liên thuộc Dương Tử Kiều, nối pháp Thiền sư Vô Đắc Thông ở Hoa Tạng, Thường châu. Thông nối pháp Thiền sư Tùng Nguyên Nhạc.

* Nhâm Thân: Hàm Thuần năm thứ tám.

* Quý Dậu: Hàm Thuần năm thứ chín.

* Giáp Tuất: Hàm Thuần thứ mười. Tháng bảy, Đế băng hà.

Thiếu Đế: Húy Thấp, con trưởng của Độ Tông, lên ngôi lúc năm tuổi, Thái hoàng Thái hậu Tạ thị buông rèm thính chính. Năm sau, Đế đổi niên hiệu Đức Hựu, ông ở ngôi hai năm. Đại binh đến thành, cả nước đều quy hàng. Niên hiệu Đức Hựu hai năm.

* Ất Hợi: Đức Hựu năm đầu.

* Bính Tý: Đức Hựu năm thứ hai. Tháng hai Bính Thân, mồng một Ất Mão, dời ba cung về Bắc. Đinh Tỵ, ra khỏi cung, Thái Hoàng Đến đất Yên, được bảy năm thì mất. Phong Thọ Xuân quận phu nhân Toàn thị làm Ni ở chùa Chánh Trí. Thiếu đế được phong Doanh quốc công.

Nhà Tống gồm mười sáu chủ, trị vì tổng cộng ba trăm mười bảy năm, đất nước về tay nhà Nguyên.

Bảo châu đem bộ Cựu Tập Thủ Giám chỉnh sửa lại, viết rộng ra mà thành bộ Kê Cổ Lược này. Tôi đọc lại thấy rất hay, nên làm một bài tán nhằm nêu tỏ diệu nghĩa trong muôn một vậy. Tinh Môn Lưu Dung lễ bái mà rằng:

Thích thị tân thư đắc tĩnh quan
Kỳ trung diệu lý túc bàn hoàn
Nhân tri nghiên thảo giai dư tự
Vạn tượng minh minh tổng nội an.

Nghĩa là:

Sách mới họ Thích được xem qua
Diệu lý trong kia lắm ngọc ngà
Mới hay mình biết đều thừa cả
Vạn tượng bao hàm ẩn hiện ra.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]