TẠP TẠNG
SỐ 2038 - THÍCH THỊ KÊ CỔ LƯỢC TỤC TẬP
SỐ 2038 - THÍCH THỊ KÊ CỔ LƯỢC TỤC TẬP
"Cổ" có thể "Kê" ư? Than ôi! Có thể! Cổ chẳng thể "Kê" ư? Than ôi! Chẳng thể! Từ Phật Oai Âm Vương trở về sau, từ ngày hôm nay trở về trước, những sự thành, trụ, hoại, không có mà chẳng có, nhật nguyệt vẫn chiếu soi, ngày lại qua ngày, kiếp và ngày chẳng nương gá, hà huống gì cổ kim? Trong đó Thánh hiền ẩn hiện, ứng duyên cơ cảm đều như bóng trăng trong nước, trọn chẳng thể chấp, há lại có người ư? Truy tìm việc xưa, khảo đính tông tích, gom góp các hạt bụi đã bay tứ tán để mà biên chép, để mà xem đọc, đó cũng như thêu mộng, như vẽ bóng mà thôi! Nhưng ghi chép việc trước để khai hóa cho người sau, diễn bày chỗ u vi, sáng tỏ lòng thành tín, khiến cho dấu vết của Cổ đức rỡ ràng như dãy Thiên hà chiếu soi, sở dĩ nói đến dấu vết, để do đó mà có thể khai ngộ ư? Thật chẳng dễ dàng, qua loa! Khi xưa tôi tham học nơi Tiên sư Chân Tịch, ngài trao cho bộ Kê Cổ lược của Bảo Châu và nói rằng: "Cội nguồn của pháp môn đều ở tại nơi đây!" Tôi nhận, lãnh xem đọc, thấy sách này văn tuy gọn mà chẳng thiếu sót, tổng gom mà có phép tắc, thật là bảo vật của dòng Thích. Nhưng lưu thông chưa được dài lâu, dần dần đã tiềm ẩn. Hằng lo sợ văn bản bị mai một, làm cho sự khổ tâm gom tập biên chép của người xưa lúc còn lúc mất, không thể hiển bày, kho tàng Danh sơn[1] như thế, há có thể không cảm khái được ư?
Đầu Xuân năm Mậu Dần, tôi lập một am nhỏ nơi Cổ Hạnh khê, mời Huyễn sư chủ trì, sớm tối cùng nhau tư duy, Kinh điển ôm giữ nơi lòng, thật sung sướng biết bao! Một hôm bỗng nhiên nhớ lại lời luận bàn khi trước, Huyễn Luân mới nói rằng: "Cần phải bổ sung thêm những điều tốt đẹp, để lại người sau". Đầu tiên là truyền thuật những việc đã nghe từ xưa, kế đến phụ thêm sự tích của Quốc gia, Hoàng triều pháp uyển. Tổng gom thành một bộ, như thế thì sự nghiệp của Bảo Châu mới sáng tỏ, lại làm cho người sau xem đọc biết được sự Thù Thắng thị hiên của Ứng hóa, diệu đạo kỳ công của bậc Thánh xưa, cho đến Hoàng tổ liệt tông âm thầm khế hợp, hiển dương chánh giác. Dùng lý bất tư nghị để thành tựu vận thế đại hữu vi, khai hợp rõ ràng như mặt trời soi chiếu trên hư không, khiến cho người nghi sinh tín, người luận thế pháp có bằng chứng, người sưu tầm việc cổ biết được chỗ u vi, người xem dấu vết thì ngộ được cội nguồn. Vì thế ban ân huệ cho người học đời sau, thì chẳng thể cho rằng bổ sung sơ lược, nhưng đâu có mong người nhặt lấy sự hoa mĩ trong lời thuật để tăng thêm sự chướng ngại của đa văn.
Mây đã trôi mà dáng nó vẫn còn êm đềm, sóng đã xa mà hình của nó vẫn còn cuộn trào ư?
Ngày rằm tháng tư năm mậu Dần, niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, Cừ Am Cư Sĩ Nghiêm Nhĩ Khuê kính cẩn soạn lời tựa.
****
Từng nghe: Làm Tăng mà chẳng học ngoại điển thì đó là người biếng nhác ngu si, chẳng hiểu rộng, ô hô! Thật là cao xa! Làm Nho sĩ mà chẳng nghiên cứu Phật kinh thì đó là người tầm thường, tà kiến, chẳng thông đạt, ô hô! Thật là rộng lớn! Ôm gốc cây chẳng dời bước tự vạch giới hạn mà chẳng dám tiến lên; bất tài mà tự cao, gò bó trong kiến văn, ước thúc nơi giáo ngôn, rốt cuộc chỉ để lại tiếng cười chê trong phương trời cao rộng mà thôi!
Thử xem các bậc bác đạt lau thông, các Khai sĩ uyên thâm hiểu rộng thời xưa, ai mà chẳng nghiên tầm nội kinh ngoại điển, viên dung xuyên suốt?
Trương Thiên Giác nói rằng: "Ta nhân học Phật rồi mới biết Nho. " Kinh Diệu Liên ghi: "Ngôn ngữ trị thế đều thuận chánh pháp. " Nhiều nhụy hoa tạo thành mật, các vị hòa thành cành, nếu chẳng thể học rộng tìm sâu thì đâu biết ngọn ngành khác nhau đều từ một gốc? Nhưng các tác phẩm truyện ký xưa nay, mỗi mỗi đều chuyên về một phương diện, như quốc sử thì thiếu Phật giáo, Thiền thì lược bỏ thế duyên. Vì thế đâu lạ gì học giả hai tông chẳng thông chẳng đạt?
May thay có một danh tăng đời Nguyên, tên là Hoa Đình Niệm Thường biên tập chung các việc của Phật Tổ, đồng thời gom chép về kỷ cương các triều đại, kế đến có cao tăng Bảo Châu tiếp tục soạn bộ Thích Giám Kê Cổ, ghi chép đầy đủ việc trị chánh của các triều đại và phong quy của các Hiền thánh.
Từ cội nguồn Phật tổ, quy tắc của pháp môn, đều biên theo năm tháng, chép theo mỗi triều đại, tất cả xuyên suốt không thiếu sót điều gì, khiến cho người đọc như xem "tượng khuyết"[2] mà rõ ràng được "triền độ"[3], thám long cung mà bảo châu đều tụ tập. Thật quý thay sách này! Không phân Nho, Thích, tất cả đều cất giữ, như nằm trên vật báu, gối trên bảo châu, chứ đâu chỉ là kho tàng danh sơn mà thôi?
Hạnh Khê tham phỏng Cừ Am Nghiêm Ông, ngồi trên xe đại nguyện, chẳng quên lời Thọ Ký phó chúc lưu thông nên mới gom góp tiền của mà tái khắc bản, mong rằng được lưu thông cùng khắp. Kẻ ngu này gởi huyễn thân nơi am tranh ấy, hiệu đính đầy đủ bản xưa, cũng nhân đó mà sưu tầm gom chép sự tích hai triều đại Nguyên, Minh kế tục, ngõ hầu thấy được đạo mạch trên dưới, xưa nay, giữ gìn tông chỉ thế và xuất thế. Lại tiếp nối làm rạng danh tiên tổ, chẳng muốn làm người cuối cùng đoạn Phật chủng. Vẽ hư không, họa ảnh tượng, để đợi bậc hiền triết đời sau xem đọc cảm thông mà hưng khởi, để cho ngọn đèn tiếp nối sáng mãi đến vô cùng.
Niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, gom tập, tăng bổ, ghi chép. Tháng năm tiết Đoan ngọ, Thọ Quang Tỳ-kheo Đại Văn Huân Mộc soạn.
--------------------------------------
Cừ Am Tỳ-kheo Đại Văn Huyễn Luân ở Hạnh Khê, Quy An biên tập.
Cừ Am Cư Sĩ Nghiêm Nhĩ Khuê hiệu đính và khắc bản.
Thái tổ Thành Cát Tư Hãn Hoàng đế vào năm Bính Dần, niên hiệu Khai Hi thứ hai đời Tống Ninh Tông thuận theo vận trời mà xưng niên hiệu Thánh Võ, lập quốc hiệu là Đại Mông Cổ, đóng đô ở Hòa Lâm gọi là Thượng đô. Đến năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thiệu Định thứ hai đời Tống Lý Tông thì Thái Tông lên ngôi. Đến năm Bính Ngọ, niên hiệu Thuần Hựu thứ sáu thì Định Tông lên ngôi. Đến năm Tân hợi, niên hiệu Thuần Hựu thứ mười một thì Hiến Tông lên ngôi. Đến năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khai Khánh nguyên niên Khánh Tông lên ngôi. Đến năm Canh Thân, niên hiệu Cảnh Định Nguyên niên Thế Tổ lên ngôi cải niên hiệu là Trung Thống, đến năm Giáp Tý lại cải là Chí Nguyên. Trải qua sáu đời, tổng cộng năm mươi chín năm. Nay bắt đầu ghi chép từ năm Giáp Tý, niên hiệu Trung Thống Nguyên niên đời Thế Tổ.
Thế Tổ-Thành Tông-Võ Tông-Nhân Tông-Anh Tông-Thái Tông-Minh Tông-Văn Tông-Ninh Tông-Thuận Tông.
1/ Thế Tổ tên là Hốt Tất Liệt, em cùng mẹ với Hiến Tông, lên ngôi vào năm Canh Thân, tại vị được ba mươi sáu năm, đến tám mươi tuổi thì băng hà. Vua là người nhân nghĩa, sáng suốt mà uy dũng, từng lập nhiều công lớn, thích chinh phạt những miền xa xôi, dùng binh liên tiếp nhiều năm, khiến tất cả đều thần phục, bèn thống nhất thành một đại quốc. Về văn thần nghị bàn trong triều thì có Hứa Hành, Đào Xu..., về võ tướng công thành chiếm đất thì có Bá Nhan, Đổng Văn Bính...trị quốc có kỷ cương phép tắc, chế định lễ, nhạc, làm cho nhân dân an lạc, sản vật phong nhiêu, thật là từ xưa chưa từng có (Nguyên sử)
Vào tháng bảy năm Giáp Tý nhằm niên hiệu Chí Nguyên thứ nhất, tức niên hiệu Cảnh Định thứ năm đời Tống, sao chổi xuất hiện ở phương Đông, ánh sáng kéo dài hơn vài chục trượng, từ canh tư mãi đến khi mặt trời lên cao mới tắt. Cũng tháng tám năm ấy Bỉnh Trung xin định đô tại Yên, Thế Tổ chuẩn y, ban chiếu tu sửa cung điện, thành trì, lập Yên Kinh làm Trung đô, đổi quốc hiệu là Nguyên, đại xá thiên hạ, lập hội độ Tăng. Chiếu thỉnh quốc sư Phân-Di-Đạt Phát-Tư đăng đàn truyền trao giới bí mật. Tháng tám phong tước Quang Lộc Đại Phu Thái Bảo, được tham dự việc trong Trung Thư Tỉnh.
Chế ghi: Trường sinh Thiên Khí Lực, thánh chỉ của Hoàng đế dạy rằng: Lưu Bỉnh Trung tánh tình cương trực, học rộng giỏi văn chương, tuy ẩn tích nơi không môn, mà thường để tâm vào thánh đạo. Khi Trẫm còn là một Phiên Lang, thì khanh là bạn đồng liêu chân thật, Trẫm đã ở một bên nghe được những lời nghị bàn cao xa trong suốt hai mươi năm, hoặc có lúc theo Trẫm, chinh chiến nơi phương xa hằng bao vạn dặm. Đến khi Trẫm kế thừa ngôi vị, thì lại cần đến kế an dân của khanh; nếu trước tiên chẳng có chánh danh, thì làm sao thân phục quần thần, vì thế nay tôn lên địa vị Sư, kiêm Tổng chánh cơ, đặc phong tước Quang Lộc Đại Phu Thái Bảo, lãnh đạo việc ở Trung Thư Tỉnh. Khanh hãy gắng sức giúp Trẫm trước xem xét việc siêng năng hay biếng trễ, sớm tối trong triều, thẩm định phải trái khi luận nghị. Phàm có việc gì thì cho phép được quyết định.
Xét rõ thành tích nên đặc biệt ân sủng ban cho chương phục (Y phục của bậc quyền cao tước trọng)
Hãy vâng theo lời này! (Thông Tải)
Lập Bá Nhan làm Trung Thư Tả Thừa tướng. Bá Nhan là người cẩn trọng, ít nói năng, phàm ở các bộ có việc gì khó quyết định, thì Bá Nhan chỉ cần vài lời là quyết đoán. Vì thế các quan trong Trung Thư Tĩnh đều khâm phục mà tôn là chân Tể Phụ. (Theo Nguyên sử)
Niên hiệu Chí Nguyên thứ hai tức năm Ất Sửu, nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ nhất đời Tống, tháng mười năm sau Tống Lý Tông bảng, Độ Tông lên ngôi. Sự tích có ghi chép ở sách trước, nơi đây chẳng ghi.
Ngày mồng một tháng giêng mùa xuân có nhật thực, đến tháng năm Lưu Bỉnh Trung tham dự việc ở Trung Thư Tỉnh. Đã phong quan tước ắt phải lấy việc thiên hạ làm nhiệm vụ của mình, đã biết thì không việc gì chẳng làm. Thế Tổ dùng Đại Kinh trị thiên hạ, dùng lương pháp an dưỡng nhân dân. Bỉnh Trung y cứ theo sách vở của Tổ Tông từ trước, tham khảo phép tắc xưa mà chế định nghi thức cho ngày nay, Thế Tổ khen ngợi liền ban chiếu bố cáo cùng khắp, tức thời nhân tài đều được trọng dụng. Văn vật mỗi ngày thêm xán lạn.
Vua triệu Hứa Hành đến, phong làm Trung Thư Tĩnh nghị sự. Thừa tướng lúc còn trẻ mới hai mươi mốt tuổi, đã được nghe danh Hứa Hành, lòng đã mến mộ. Đến khi gặp ở hành quán thì càng thêm thán phục, hàng ngày thường đến hỏi han về chánh sự (Nguyên sử).
Thế Tổ nghe danh Trương Đức Huy liền triệu kiến, tham dự luận nghị các việc của Trung Thư Tĩnh. Đức Huy tâu trình với vua về chỗ ảo diệu trong đạo đức của Thánh hiền, phương pháp tu thân trị quốc, nguyên do thạnh trị hay loạn lạc xưa nay. Đế bèn ban chiếu làm Học quan dạy dỗ các trưởng tử của vua quan, khiến cho trong ngoài mỗi ngày một đổi mới.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ ba năm Bính Dần, tức niên hiệu Hàm thuần thứ hai đời Tống, Phật giáo truyền đến Trung Quốc tính đến nay đã được một ngàn hai trăm năm.
Chí Nguyên thứ tư, năm Đinh Sửu, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ ba đời Tống, vua Tống đến Thái học miếu lễ Khổng Tử, đến Hành xá dâng lễ vật, tôn Nhan Hồi, Tăng Sâm, Khổng Cấp, Mạnh Kha đồng phối hưởng 1, thăng Chuyên, Tôn, Sư vào hàng Thập triết.
Khi Hứa Hành tâu bày trước vua có nêu năm việc: 1. Quy mô lập quốc; 2. Việc quan trọng của Trung Thư Tĩnh; 3. Vì vua khó dùng lời chân thật; 4. Về ruộng vườn trường học; 5. Cẩn trọng. Vua thâu nhận. Sau ông xin trở về quê. Vua chuẩn y
(sử).
Thiền sư Phật Quốc húy Chí Ôn, tự Kỳ Ngọc, hiệu Toàn Nhất, thụy hiệu là Phật Quốc Phổ An. Sư là con trai của họ Hách ở Hình châu, lễ Biện Am Nột Công xuất gia, tham học nơi Vô Hoãn Phú Công ở Vạn Thọ, làm thị giả ngài Vạn Tông. Thái Bảo lưu công vì ân tri ngộ với Thế Tổ mà tiến cử Sư. Vua rất vui mừng muốn ban cho quan tước. Sư không nhận và tâu rằng: " Phật pháp lưu thông trong Thiên hạ là bản nguyện của thần, còn phú quý thì chẳng phải là việc mong cầu". Hiến tông ban chiếu cho Hải Vân làm chủ Thích giáo, đồng thời lệnh cho thiên hạ lập Tư Nhung hội. Sư nhận thánh chỉ tuyên bố khắp nơi, phụ giúp cho hội được thành tựu. Lưu Công Vệ thừa ý chỉ, ban Sư hiệu như trên, quản lý tất cả các việc của Tăng ni trong các địa phương. Sư thuận theo ý của Vệ. Tăng chúng được nơi nương tựa. Sau Sư trả ấn từ chức. Ngày mười một tháng năm năm ấy, tại Thiên cung ở Hoàn châu, sư có chút bệnh, nằm nghiêng hông phải mà thị tịch. Đương lúc trời nắng nóng mà nghi dung như lúc còn sống, lại có mùi hương lạ lan tỏa. Khi thiêu thì quả tim, răng và miệng không cháy, đào đất xuống vài thước mà vẫn còn được xá-lợi. Sư thọ năm mươi mốt tuổi, bốn mươi hạ lạp. Học Sĩ Ngu Tập soạn văn bia (Thông Tải).
Niên hiệu Chí Nguyên thứ năm, năm Mậu Thìn, tức nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ tư đời Tống, tướng A Thuật, Lưu Chỉnh của nhà Nguyên vây quân Tống tại Tương Dương, tri phủ Lữ Văn Hoán cấp báo.
Tạ Phương Bắc bàn rằng: "Làm Tể tướng thì dùng quyền sinh sát để phế hoặc lập người. Làm quan Đài giám thí dùng quyền bài bác mà làm nhục hay tôn vinh người. Làm quan Quốc tử giám dùng quyền khảo hạch để lấy hoặc bỏ người. Ba hạng quan này thuộc về Hiền thánh (Sử)
Niên hiệu Chí Nguyên thứ sáu năm Kỷ Tị, nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ năm đời Tống. Tháng hai, Đế Sư phát Tư-Ba chế văn tự Mông Cổ ban hành khắp thiên hạ. Thường châu của đất Tống, gà mọc cựa trên cánh.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ bảy, năm Canh Ngọ, nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ sáu đời Tống, triệu thỉnh Kim Cang Thượng Sư người Chiêm-ba trụ trì chùa Nhân Vương, rộng độ chúng Tăng.
Đế Sư tức Bí Sô Phát-Tư-Ba thuyết Căn Bản Hữu Bộ Xuất Gia Yết-ma Nghi Quỷ, tự soạn lời tựa rằng: Phàm thời vận tốt đẹp của Thiệm-bộ, đến đức Phật thứ tư là Thích-ca văn Như Lai để lại di giáo làm lợi ích quần sinh. Đại Nguyên trị thế, đến đời chủ thứ năm là Hiến Thiên Thuật Đạo Nhân
Văn nghĩa Võ Đại Quang Hiếu Hoàng đế lên ngôi. Vua có thiên tư, đầy đủ phước tuệ tin sâu Phật đạo, lại khiến cho vạn quốc quy về một mối. Tuy cùng trời đều quy phục mà phép trị vô phân, thấy Trung Hoa hoằng đạo mà tự thân chẳng hề dừng nghỉ. Muốn cho Phật Phật tương thừa, thầy trò kế tục, đến nay chẳng bỏ chánh giới, nghi quỷ làm người theo hạnh thiện mỗi mỗi luôn giữ gìn, tinh luyện thân tâm, bền giữ bốn oai nghi, đó thật là Thánh hoàng chấn chỉnh giềng mối của Phật pháp... (Thông Tải). Liêm Hi Hiến là người ngay thẳng trong triều, Thế Tổ bảo thọ giới nơi Đế Sư Bát Tư Ba. Hi Hiến liền tâu:
- Thần đã thọ giới của Khổng Tử rồi! Vua hỏi:
- Khổng Tử của khanh cũng có giới ư? Hi Hiến tâu:
- Làm bề tôi thì phải trung, làm con thì phải hiếu, đó là giới vậy! Niên hiệu Chí Nguyên thứ tám, năm Tân Mùi, nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ bảy, vào tháng mười một mới lập quốc hiệu là Đại Nguyên, theo nghĩa Càn Nguyên trong Kinh Dịch. Đầu tiên theo lời tấu thỉnh của Thái Bảo Lưu Bĩnh Trung mà lập trường học Mông Cổ, ban sắc cho Hứa hành làm Học sĩ. Hành thường cho rằng trong sách không có điều nghi, nhưng xem được thì có nghi, có nghi tức xem được, không nghi mới có công, Hành chỉ dạy người, ắt nhân chỗ sáng để khai mở chỗ tối mà dung nạp các điều thiện; biết lúc động tịnh mà làm rộng lớn nó ra, cẩn thận với mầm mống mà đề phòng nó; mặt trời lặn mặt trăng tà chẳng tự biết mình biến, mặt trời soi mặt trăng chiếu cũng chẳng tự biết mình hóa. Lại làm người học thì sự nghiệp sinh nhai là tiên quyết. Lại nói rằng: Hàng sĩ quân tử thì nên lấy ruộng vườn làm kế sinh nhai.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ chín, năm Nhâm Thân, nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ tám đời Tống, thiếu phó Diệp Mộng Đỉnh từ quan trở về đất Tần, nguyện gắng sức, siêng năng, tiết chế sự ham muốn để thu phục nhân tâm, củng cố đất nước. Lại nói: "Liêm sĩ là việc lớn, sinh tử là việc nhỏ", nên dong thuyền nhỏ thẳng về.
Thiền sư Bàn Cốc hiệu là Lộc Thủy, người ở Hải Diêm. Sư có tướng mạo xấu xí, nhưng chí khí siêu việt, bác lãm kinh sử, thích cảnh đẹp núi sông. Trong khoảng niên hiệu Chí Nguyên (1280-1294) Sư đến các danh sơn thắng cảnh như núi Ngũ Đài, Nga Mi, Phục Ngưu, Thiếu Thất... Từng nói rằng: "Bước chân in dấu nửa đất trời, tài thơ vang khắp cả thế gian". Bấy giờ phò mã nước Cao Ly là Thẩm Vương nghe danh đức của Sư, nên liền mang thư và lễ vật đến tham kiến. Sư bèn giảng đại ý Kinh Hoa Nghiêm ở chùa Tuệ Nhân đất Hàng, thi triển bốn Vô ngại biện, bảy chúng đều kính phục, còn Vương thì rất vui mừng. Từ đó thanh danh của Sư càng lan rộng.
Sau, Sư đến Tùng quận lập tịnh xá siêng tu tịnh nghiệp. Hằng ngày niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Một hôm Sư dự đã đến giờ, không bệnh ngồi yên mà thị tịch, thọ trên bảy mươi tuổi. Sư có để lại tác phẩm Du Sơn Thi Tập ba quyển lưu hành ở đời (Cao Tăng Truyện).
Niên hiệu Chi Nguyên thứ mười, năm Quý Dậu, nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ chín đời Tống; quân Nguyên vây chặt Tương dương đã lâu, đến tháng hai phá Phân thành, đô thống Phạm Thiên Thuận than rằng: "Sống làm bầy tôi nhà Tống, chết làm quỷ đất Tống", xong tự ải nơi đồn doanh.
Hứa Hành trở về Hoài Mạnh, xa lánh việc đời, thường sống nơi núi rừng, siêng tu sửa bản thân, việc công và tư đã xong, chẳng nghiêm mà chỉnh, trong khuê môn giống như ở triều đình, nhưng vợ chồng đối xử với nhau như khách, việc tang tế đều y theo phép tắc xưa. Sau ông qua đời ở Hoài Mạnh. (Sử).
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười một, năm Giáp Tuất nhằm niên hiệu Hàm Thuần thứ mười đời Tống. Vào tháng bảy Tống Độ Tông băng hà, thái tử Thiếu Đế mới bốn tuổi lên kế vị. Tháng tám trời tuôn mưa lớn, núi Thiên mục sạt lở, nước dâng làm chết rất nhiều người. Cũng tháng tám năm này Lưu Công qua đời, vua ban tặng hiệu là Nghi Đồng Tam Ti Thái Phó, thụy là Văn Trinh. Chế ghi: Làm tôi thì lấy trung hiếu mà thờ phụng vua, quý ở lòng chân thành dâng hiến; làm vua thì dùng lễ nghĩa để đãi ngộ bầy tôi, nhớ nghĩ dốc lòng yêu thương trọn vẹn. Xem ngày chết giống như khi sống. Quang lộc đại phu thái bảo Lưu Bĩnh Trung tài học vượt trời người, hiểu biết suốt cổ kim. Sâu kín mà ngay thẳng, an tĩnh mà không chuộng vinh hoa. Khi xưa hầu hạ Tiềm Phiên[4] đã được nghe nhiều lời bàn luận cao xa. Vừa đúng ba lần tiếp kiến đã thành khẩn dâng lên một bộ sách có vạn lời. Bởi vì muốn thi thố tài năng an định thiên hạ, để khuyên bậc nhân chủ, lỗi là do nơi sát hại. Trẫm mới kế thừa ngôi vị mà khanh tận lực quá nhiều, hơn nữa khanh rất hợp lòng Trẫm mà Trẫm rõ biết ý khanh. Sự điều có ứng nghiệm, người chẳng thể mời nơi khác, trọn vẹn ba mươi năm chẳng khi nào tránh gian khó, thành khẩn dâng mấy trăm bản tấu, mỗi mỗi đều có nghĩa lý, đều thành các chánh vụ, mới mong sánh với người xưa! Ai cho rằng trời thu chẳng gượng bỏ sót một người già? Kể đến đây, thì đến bao giờ mới quên được? Sống thì xếp vào hàng tam công tể tướng, mất thì có phần mộ lớn, nay dùng chiếu thư ân tứ, ban cho hàm Nhất Phẩm; dùng tang phục thuộc hàng chánh vị, của Tam Hòe (Tam Công), lại ban cho thụy hiệu hầu đáp đền công lao to lớn.
Mong anh linh của khanh chứng biết lòng yêu mến, rầu buồn của Ta!
Nay ban tặng thái phó, thụy hiệu Văn Trinh (Thông Tải). Lưu Công Văn Trinh húy Bĩnh Trung, tự Trọng Hối người ở thôn Lưu Lý, Thụy châu, lễ cầu Thiền sư Hư Chiếu ở Thiên Ninh cạo tóc làm Tăng. Sau đến Vân Trung trụ ở chùa Nam
Đường. Cùng với Thiền sư Hải Vân hướng về Bắc, tham kiến Thế Tổ ở tư dinh; vừa diện kiến ứng đáp đã hợp ý vua. Từ đó từng nhân sự hỏi han mà dâng một bộ sách gồm vài mươi điều, hơn vạn lời, tất cả đều là việc của bậc Tôn chủ và nhân dân, Thế Tổ lãnh thọ. Từng theo Thế Tổ chinh phạt, dùng phương tiện cứu sống rất nhiều người, đến khi Thế Tổ lên ngôi thì từ việc ấn định triều nghi, lập quan chế, cải quốc hiệu, niên hiệu, cho đến tất cả việc cần làm, thích hợp thời vật đều do ông chế định. Ông sống thanh bần, ăn uống đạm bạc, suốt ngày lặng lẽ. Ngày Nhâm Tuất, tháng tám năm Mậu
Tuất ông ngồi yên qua đời thọ năm mươi chín tuổi. Từ nhỏ ông đã ham học, đến tuổi già vẫn chẳng phế bỏ. Tuy làm một vị Đại thần cao trọng mà chẳng khác người bình thường. Vua thường nói với các quan hầu cận rằng: "Bĩnh Trung theo Trẫm ba mươi năm, lúc nào cũng cẩn mật". Ông rất giỏi về thuật số âm dương, chiêm đoán sự vật mà biết vị lai, rất khế hợp.
Vua sai Sử Thiên Trạch, Bá Nhan thống lãnh binh mã Nam chinh, vua triệu đến ban dụ rằng: Từ xưa, người giỏi giữ Giang Nam chỉ có một mình Tào Sâm mà thôi! Các khanh chẳng nên giết Tào Sâm này của ta!
Sử Thiên Trạch người Chân Định, thân cao tám thước, giọng nói như tiếng hồng chung, giỏi cưỡi ngựa bắn tên, làm võ tướng, văn thần trong năm mươi năm, là trụ cột của bốn triều, là gương sáng cho trăm vua noi theo, là nguyên thần khai quốc. Người đời so sánh ông như Quách Tử Nghi, Tào Sâm. Ông mất năm bảy mươi chín tuổi, thụy hiệu là Trung võ.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười hai, năm Ất Hợi nhằm niên hiệu Đức Hựu nguyên niên. Tống Cung Tông đổi niên hiệu là Đức Hựu, tại vị được hai năm, bị quân Nguyên bắt dẫn lên phía Bắc và chết ở sa mạc.
Quan Đề hình Giang Tây là Văn Thiên Tường khởi binh cần vương, bạn bè can ngăn, Thiên Tường bèn nói: "Quốc gia dưỡng dục thần dân hơn ba trăm năm, nay bỗng nhiên nguy cấp, trưng dụng binh trong thiên hạ mà chẳng có một người một ngựa đến, ta rất hận điều này! Ta chẳng tự lượng sức mình, muốn dùng thân tuẫn tiết, ngõ hầu trung thần, nghĩa sĩ trong thiên hạ nghe được mà khởi binh. Khởi nghĩa thắng thì mưu lập chúa, người tụ đông thì sức thêm mạnh, như thế mới mong bảo tồn xã tắc".
Văn Thiên Tường tánh tình hào hoa, lo cung dưỡng tự thân rất kỹ, đến khi đau khổ vì mất nước thì tự ức chế, hiến hết gia tài cho quân đội. Thường cùng với bạn đồng liêu luận bàn đến thời sự, có lúc vỗ bàn khóc mà nói rằng: "Vui cùng với niềm vui của người, lo cùng với nỗi lo của người, ăn thì ăn thức ăn của người, chết vì việc của người". Ai nghe đến cũng đều cảm động.
Quan Đề hình Hồ Nam là Lý Phất sai ba ngàn tráng sĩ cứu viện, khiến võ tướng chỉ huy để cần vương. Về sau được ban thụy là Trung Tiết.
Có Hành nhân là Hác Kinh đi sứ sang Tống bị lưu giữ mười sáu năm, chuyên soạn tập các sách vở, sau trở về đất Yên thì qua đời, được ban thụy hiệu là Văn Trung. Vua Tống ban chiếu cho Trương Thế Kiệt làm Tổng đốc quân đội. Sau cùng với Lục Tú Phu, Trần Nghị Trung vì cứu quốc mà bị nạn chết chìm trong biển.
Vào năm này trên trời có hai ngôi sao chạm nhau, một sao rơi rụng. Ngày mồng một tháng sáu có nhật thực, ban ngày mà trời tối như ban đêm.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười ba, năm Bính Tý nhằm niên hiệu Đức Hựu thứ hai. Tháng năm Tống Đoan Tông lên ngôi cải niên hiệu là Đức Viêm. Sau đi thuyền bị chìm, băng hà ở Cương châu, Lĩnh Nam.
Đến tháng hai, trong mặt trời có hiện một vết đen lớn như trứng gà rất lâu mới tan.
Thừa tướng Văn Thiên Tường thường nói:
"Nước mất thì mất cả tâm của nam tử này!" Quân Nguyên bắt Thiên Tường dẫn về đất Bắc, sông Tiền Đường ba ngày mà thủy triều chẳng dâng, quân Nguyên phân ra đóng binh trên bờ sông. Người Hàng châu cầu khẩn mà triều vẫn chẳng dâng.
Tháng ba tướng Nguyên là Bá Nhan vào Lâm An, gióng trống dựng cờ Đại tướng, bắt vua Tống và hoàng hậu cùng bá quan dẫn về Kinh triều kiến Nguyên đế.
Đào Xu là người nhân từ, khoan dung, cung kính, chưa từng khinh miệt người. Bấy giờ làm đến chức Hàn lâm học sĩ. Khi các quan lại và sĩ tử đi theo Tống đến về Thượng đô, Thế Tổ giao cho Xu xét theo học và hạnh của họ mà ban cho quan tước.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bốn, năm Đinh Sửu nhằm niên hiệu Cảnh Viêm thứ hai đời Tống; phong Tống chủ làm Huy quốc công, dời đến Tư Ma lộ học tập Phạm thư, và kinh tiếng Tây phiên, còn Hoàng hậu Toàn thì cho làm ni ở chùa Chánh
Trí.
Lập chùa Đại Thánh Vạn An.
Liêm Hi Hiến làm quan đến chức Bình chương, Bá Nhan khen ông ấy là bậc chân Tể tướng trong hàng Tể tướng, chân nam tử trong hàng nam tử. Người đời thường tôn ông như thế cho đến khi qua đời.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười lăm năm Mậu Dần, nhằm niên hiệu Tường Hưng Nguyên niên. Đế Bỉnh lên nối ngôi nhà Tống cải niên hiệu Tướng Hưng, tại vị 2 năm. Sau theo đường biển đến Nhai sơn. Trương Thiên Kiệt đánh nhau với quân Nguyên, bị bại trận, cùng với Lục Tú phu nhảy xuống biển tự vẫn.
Sáng sớm mồng một tháng giêng lập đại hội trai tăng, đại xá thiên hạ, năm người như Ngọc Tuyền... được ân tứ cho độ làm Tăng.
Năm này có ngôi sao lớn từ phương Nam băng qua và rơi vào trong biển, có hơn một ngàn sao nhỏ rơi theo, phát ra âm thanh như sấm, mấy khắc mới ngưng.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười sáu, năm Kỷ Mão. Tháng hai nhà Tống mất. Tính từ Tống Thái Tổ đến Đế Bỉnh tổng cộng là ba trăm hai mươi năm.
Văn Văn Sơn người Cô Tô, húy là Thiên Tường đỗ trạng nguyên đời Tống làm quan đến chức Thừa tướng, phong tước Tín Quốc Công. Ông là người trung hiếu, tiết nghĩa. Bị bắt, Thiên Tường nhìn cảnh Nhai sơn cảm tác những bài thơ bi ảo (chẳng ghi).
Lại ca rằng:
Gió thổi mạnh lên chừ,
Ôi! Biển nổi sóng,
Văn võ hết rồi chừ,
Ôi! Vận nước suy,
Ưng quạ tranh nhau chừ,
Ôi! Chẳng chỗ làm,
Hồng hộc muốn bay chừ,
Ôi! Đâu thể về,
Ngâm ca trên dòng chừ,
Ôi! Mặc thuyền trôi,
Chỉ ôm năm tháng chừ,
Ôi! Ta nào biết.
Chánh Khí Ca:
Trời đất có chánh khí
Lẫn lộn ở trong hình.
Cuối cùng lại ghi:
Xem kia vẫn rực sáng
Ngửa nhìn mây trắng trôi
Lòng ta buồn dằng dặc
Trời xanh thật vô cùng
Hiền triết ngày càng xa
Phép tắc chôn quá khứ
Bên mành mở sách xem
Đạo xưa bừng trước mặt.
Linh Đinh Dương Thi:
Tân khổ tao phùng khổ một phen
Can qua chẳng dứt khắp bốn bên
Sơn hà tan nát như đập sợi
Thân thể bồng bềnh giống bọt bèo
Đầu sông kinh sợ luận kinh sợ
Trên biển lênh đênh nói lênh đênh
Người đời xưa nay ai chẳng chết
Chỉ tấc lòng son lưu sử xanh
Vượt Kim lăng ly cung nhà cỏ
Ánh nắng chiều tà đã chuyển dần
Mây trôi phiêu bạt ghé về đâu
Sơn hà phong cảnh nào có khác
Thành quách nhân dân nửa đã tan.
Đầy đất hoa lau và già lão
Nhà xưa chim én, chiếc nào bay
Từ nay cách biệt Giang Nam cảnh
Hóa làm quyên hót ngậm máu về.
Trước lúc bị chém, nét mặt vẫn ung dung nói với ngục tốt rằng: Việc làm của ta đã xong. Rồi hướng về Nam lễ bái mà chịu chết, thọ bốn mươi bảy tuổi. Sau đó lục trong giãi áo có bài viết rằng:
Khổng Tử nói thành nhân
Mạnh Tử dạy tập nghĩa.
Nay nghĩa đã tận, nhân đã đến, vậy đọc sách Thánh hiền thì nên học tập điều gì, để từ nay và mai sau không hổ thẹn!"
Bình sinh ông làm văn thơ chưa từng khởi thảo trước, mà hạ bút viết ngay. Ông có để lại Chỉ Nam Tập, Ngâm Tiêu Tập, Tập Đỗ Thi hơn một trăm bài lưu hành ở thế gian. Ông từng lập ra Ty Thiên đài ở Đại Kinh, lập An Lạc đường để chữa trị người bệnh, cứu giúp kẻ đói, chôn cất người chết. Tháng sáu, niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bảy, năm Canh Thìn, lịch mới đã soạn thành, vua đặt tên là Thọ Thời, năm sau mới ban hành trong thiên hạ.
Vua sai sứ đi đến cùng nguồn Hoàng hà, từ biển Tinh Tú đến núi Côn Lôn, mới rõ ràng biết được đất ấy.
Đậu Mặc là người vui hòa bình dị, suốt đời chưa từng nói một lời trái người, làm quan đến chức Học sĩ, cho đến khi qua đời, được ban thụy hiệu là Văn Chánh.
Vua bảo Thái tử Chân Kim rằng: Bá Nhan văn võ song toàn, ngươi chớ nên đãi ngộ như người bình thường.
Hứa Hành lúc lâm chung bảo với con rằng: "Suốt đời ta bị hư danh trói buộc, chẳng thể từ quan". Năm ấy Hứa Hành qua đời, thụy hiệu là Văn Chánh.
Đế Sư viên tịch: Đại sư Phát tư ba là Đế Sư của Đại Nguyên, ngày hai mươi hai tháng mười một năm này Sư thi tịch thọ bốn mươi hai tuổi. Vua nghe tin không ngăn được lòng thương tiếc, để ghi nhớ một bậc đức cao trọng vọng, vua sai xây một ngôi tháp lớn ở Đế Kinh thờ xá-lợi châu thân, ngọc vàng rực rỡ không gì sánh bằng. Học sĩ Vương Bàn phụng chiếu ghi chép hành trạng của Sư rằng:
Hoàng Thiên Chi Hạ, Nhất Nhân Chi Thượng, khai giáo Tuyên Văn phụ trị Đại Thánh Chí Đức Phổ Giác Chân Trí Dụ Quốc Như Ý Đại Bảo Pháp Vương, Tây Phương Phật Tử, Đại Nguyên Đế Sư, Ban Di Đát Phát Tư Phát Đế Sư, Người nước Thổ Ba. Những điềm linh ứng lúc sinh thời chép đầy đủ rõ ràng nơi gia phả.
Đầu tiên Sư lễ người bác là Tát-sư-ca-ba làm thầy, học bí mật già đà đến một, hai ngàn lời, vừa đọc qua thì liền thuộc lòng. Bảy tuổi đã diễn nói Phật pháp, biện tài thông suốt, nhưng sư chưa lấy làm đủ, nên tham học khắp các bậc danh túc, thấu suốt được ý nghĩa u huyền ẩn mật, làu thông cả ba tạng kinh điển. Năm mười lăm tuổi, thấy Thế Tổ Hoàng đế long đức tiềm ẩn, Sư biết được chân mạng có chỗ về, nên thẳng đến Vương phủ. Thế tổ, các quan và Đông cung đều thọ giới pháp nơi Sư, nên lại càng thêm kính lễ. Lúc Sư hai mươi tuổi, thì Phật và Đạo đính chính lại bộ Hóa Hồ kinh, Hoàng đế Hiến Tông ban chiếu thỉnh Sư phân tích lẽ đúng sai, Đạo giáo chẳng thể ứng đáp được nên tự bỏ sở học của mình. Vua rất vui lòng. Năm Sư hai mươi hai tuổi, Thế Tổ lên ngôi, đặt niên hiệu Trung Thống, tôn Sư làm Quốc sư, trao cho ấn ngọc, làm Pháp Chủ Trung Nguyên thống lãnh giáo môn trong thiên hạ.
Sư từ giã vua trở về Tây, chưa được mấy tháng đã triệu hồi. Năm Sư ba mươi mốt tuổi nhằm niên hiệu Chí Nguyên thứ bảy, vua ban chiếu thỉnh Sư lập văn tự cho Đại Nguyên, Sư một mình vận dụng, mô phỏng, vẽ viết tạo thành, hợp ý mình, vua liền ban hành khắp nơi, từ hoàng triều, châu phủ, quận huyện đều tuân dùng, trở thành điển chương của một thời đại. Vua sắc phong làm Đế Sư lại ban cho ấn ngọc, thống lãnh Thích môn toàn quốc, Sư lại trở về Tây, đến niên hiệu Chí Nguyên, vua sai chuyên sứ triệu Sư về kinh, vương công, tể tướng, sĩ dân lìa thành ba mươi dặm lập Đại hương án, thiết Đại tịnh cúng để bái nghinh Sư. Vạn người chiêm lễ Sư như một vị Phật xuất thế. Sư cũng đã vì thái tử Chân Kim soạn luận Chương Sở Tri gồm năm thiên được nhập tạng lưu hành ở thế gian.
Luận Chương Sở Thi do Đế Sư thuyết cho Thái tử nghe, Phật Trí Thiền sư Sa-la-ba dịch. Phẩm thứ nhất là phẩm Khí Thế Gian, luận đầy đủ về đại địa, phong, thủy, hỏa luân, núi Diệu cao, Thất kim sơn, Tứ châu, Luân vi, Nhật luân, Nguyệt luân, Tinh tú cung, Tam giới, chư Thiên; kế đến là phẩm Tình Thế Giới nói về địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, nhân đạo, Tu-la, Thiên đạo, Y kiếp thành trụ hoại không, tướng trước sau và các việc về phổ hệ của Đức Phật Thích-ca, các đời Luân vương... Sau cùng nói về ba phẩm Đạo, Quả, và Vô vi.
Tháng mười niên hiệu Chí Nguyên thứ mười tám năm Tân Tỵ, vua hạ chiếu cho tăng, Đạo luận biện, cả hai đều phụng Thánh chỉ... trừ đạo Đức Kinh là kinh chân thật của Lão Tử, còn các kinh khác là do người đời sau soạn ra, vua sai quan đốt tất cả.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ mười chín năm Nhâm Ngọ, Xử sĩ Lưu Nhân là người có thiên tư hơn người, một ngày nhớ được trăm ngàn lời, đọc qua liền thuộc, thích câu nói: "Tĩnh để tu thân", của Khổng Minh Gia Cát Lượng, nên có tấm biển đề: "Tĩnh Tu". Vua muốn cho làm quan thế thiên, nhưng ông không nhận.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi, tức năm Quý Mùi. Ngày mồng sáu tháng một niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi mốt đại xá thiên hạ, đồng thời giảm nhẹ hình phạt, năm Ất Dậu, niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi hai, vua ban Thánh chỉ thiêu hủy tất cả các Đạo Tạng Kinh ngụy tạo ở các lộ, kể cả ghi chép trên đá và bi ký. Thánh chỉ ra lệnh cấm các ngụy kinh trong Đạo tạng liệt kê sau đây: kinh Hóa Hồ, kinh Du Long, kinh Thánh Kỷ, kinh Tây Thăng, kinh Xuất Tái, kinh Minh Châu Biện Ngụy, kinh Cửu Thiên, kinh Xích Thư, kinh Thượng Thanh, kinh Nam Đẩu, kinh Ngọc Vĩ, kinh Thập Nhị Hư Vô, Kỷ Thắng Phú, luận Biện Tiên, luận Hột Tà, luận Tam Phá, Thái Thượng Thật Lục, Thanh Dương Quan Ký, Huyền Cửu Nội Truyện, Đế Vương Sư Lục, Tam Thiên Liệt Ký, luận Thập Dị Cửu Mê, Lịch Đại Ứng Hiệu Đồ, luận Phật Đạo Tiên Hậu, luận Khâm Đạo Minh Chứng, luận Phụ Chánh Trừ Tà, luận Báng Đạo Thích, luận Thập Sơn, luận Tị Tà Quy Chánh, kinh Tạng Thiên Ẩn Nguyệt, kinh Xích Hoạch Độ Mệnh, Lịch Đại Đế Vương Sùng Đạo Ký, Tam Giáo Căn Nguyên Đỗ, Hỗn Nguyên Sinh Tam Thanh Kinh, Hỗn Nguyên Thật Lục, kinh Linh Bảo Tứ Thập Nhị Sinh, Cao Thượng Nội Truyện, Lâu Quán Tiên Sinh Nội Truyện, kinh Ngũ Công Vấn Hư Vô. Phàm thấy các kinh này thì tịch thâu.
Thánh chỉ ban chiếu xuống chùa Đại Mẫn Trung ở Đại đô thiêu đốt ngụy kinh trong Đạo Tạng, lại sắc cho Lâm Tuyền Trưởng Lão ở Báo Ân Thiền Tự châm lửa. Trưởng Lão tạ ân xong, niêm hương bạch rằng:
Phật tâm Thiên tử xót chúng sinh
Sợ đọa ba đường lạc tà khanh
Trong riêng rõ ràng không thiên lệch
Nơi chung danh lợi khéo phân minh.
Vì thế nói: Bậc Thánh soi xét vô tư, máy trời khó biết, đã đến khen ngợi công đức, thì dám chẳng báo ân ư? Vì thế một nén hương này chính là để chúc tụng đương kim Hoàng đế: Cúi mong Kim luân và Pháp luân đồng chuyển, phước vượt ba kỳ; Thuấn nhật và Phật nhật cùng soi, thọ muôn ức kiếp.
Kế đó Trưởng lão đưa cây lửa lên và nói: Nhớ khi xưa vào thời Minh Đế, cũng vào năm này, đã từng nhờ vào lửa đỏ mà phân biệt tốt xấu, nay Thiên tử Đại nguyên lại tiếp nối phép tắc lớn ấy để hiển chánh phá tà, ai chẳng biết?...
Xong Trưởng lão cầm ngọn đuốc vẽ một vòng tròn trong hư không mà nói rằng: Này các nhân giả! Như Linh văn (Đạo Kinh) của ba động, lại có thể chứng được hỏa quang Tam-muội này chăng? Nếu như ngay nơi đây chứng đắc, thì nhà có kinh Bắc Đẩu, miệng của kẻ tà giáo này chẳng an định. Như chẳng được như thế, sau khi tro bay khói hết mặc tình đi khắp nơi mà kiếm Thiên Tôn. Hãy mau mở mắt xem Lâm Tuyền Trưởng Lão Tùng Mại Phụng sắc châm lửa! (Thông Tải)
Đối với Đạo sĩ thì giữ mười bảy Luận sư có đức để đối luận là: Tùng Siêu ở chùa Viên Phước, Đức Hưởng ở chùa Phụng Phước, Tùng Luân ở Dược Sư viện, Viên Dẫn ở chùa Pháp Bảo, Chí Ôn ở chùa Tư Thánh, Minh Tân ở Đại Danh phủ, Bản Liễn ở Cam Tuyền sơn, Đạo Vân ở chùa Thượng Phương, Tường Mại ở chùa Khai Giác, Liễu Tuần ở chùa Truyền Giáo, Khánh Quy ở chùa Pháp Hoa, Hành Dục ở huyện Long Môn, Đạo Thọ ở chùa Diên Thọ, Tướng Duệ ở chùa Ngưỡng Sơn, Thiện Lãng ở chùa Tư Phước, Tổ Khuê ở Vĩ châu và Nguyên Nhất ở Thục Xuyên.
Vào niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi ba năm Bính Tuất, trụ trì Vân Phong Thiền Tự ở núi Đạo Giả, Đại đô là Như Ý Tường Mại Trưởng Lão phụng chiếu soạn Biện Ngụy Lục năm quyển.
Biện Ngụy Lục gồm các chương: Vọng Lập Thiên Tôn Ngụy, Sáng lập Kiếp Vận Niên Hiệu Ngụy, Khai Phân Tam Giới Ngụy, Tùy Đại Vi Đế Vương Sư Ngụy, Lão Tử Xuất Linh Bảo Tam Động Ngụy, Du Hóa Cửu Thiên Ngụy, Thâu Phật Kinh Giáo Ngụy, Lão Quân Kết Khí Thành Tự Ngụy, Châu Văn Vương Thời Vị Trụ Hạ Sử Ngụy, Tiền Hậu Quân Giáng Sinh Bất Đồng Ngụy, Tam Phiên Tác Phật Ngụy, Mạo Danh Tiếm Thánh Ngụy, Hợp Khí Vi Đạo Ngụy, Thâu Phật Thần Hóa Ngụy. Biện Thuyết Uyên Bác, tất cả đều được ghi chép đầy đủ trong Thông Tải.
Như Ý Thiền sư húy là Tường Mại, làu thông nội ngoại điển, thấu suốt giáo lý sâu xa, trụ trì một ngôi chùa lớn ở kinh đô, phụng chiếu soạn Biện Ngụy Lục năm quyển, chế phục thích đáng, Sư còn soạn Hoằng Truyện Tự Chú ghi trong pháp Hoa Yếu Giải.
Niên hiệu Chí Nguyên hai mươi bốn tức năm Đinh Hợi.
Ngày hai mươi mốt tháng giêng niên hiệu Chí Nguyên hai mươi lăm, năm Mậu Tý đại xá thiên hạ.
Hòa thượng Vân Phong trụ trì ở Kính Sơn. Đầu tiên Đô tổng thống Thích giáo vùng Giang Hoài là Dương Liễn Châu Ca vân tập chư Tăng thiền giáo Giang Nam về kinh, vào cung đối trước vua mà luận về Thiền. Đầu tiên vua tuyên triệu hỏi vị Tăng chùa Thượng Thiên Trúc: Giảng kinh gì? Đáp:
Giảng kinh Pháp Hoa.
Kế đến hỏi Tăng chùa Tiên Lâm giảng kinh gì?
Đáp:
Luận Bách Pháp.
Sau đó hỏi Sư rằng: Thiền lấy gì làm tông? Sư đáp:
Thiền là tịnh trí diệu viên, thể vốn không tịch, Kiến văn giác tri chẳng thể biết, suy lường phân biệt chẳng thể hay... (sẽ ghi đủ đoạn sau). Lại nói: Thiền và giáo vốn một thể, thiền là tâm Phật, giáo là lời Phật. Nhờ lời Phật mà thấy được tâm Phật. Thí như trăm sông tuy khác dòng mà đồng tuôn về biển lớn. Đã vào biển thì đồng một vị...
Tạ ân vua ban cho trai soạn.
Thiền sư Cát Tường là Sa-môn ở chùa Phổ Chiếu, hiệu là Phổ Hỷ, Cát Tường, người Sơn Đông. Sư nghiên cứu sâu xa Tướng Tông của Từ Ân, học tập các bộ Duy Thức, Du-già Sư Địa, Nhân Minh. Vào năm này Thế Tổ lập trường giảng ở Giang Hoài, Phổ Chiếu đứng đầu, còn thỉnh Sư làm chủ giảng. Hằng ngày, ngoài lúc thăng tòa, Sư thường tụng kinh Hoa Nghiêm, lấy hạn định mười quyển làm thường khoa. Sau Sư viên tịch, hỏa thiêu thâu được rất nhiều xá-lợi, xây tháp thờ kinh khẩu (Đơn Đồ). Nhân dân ở vùng Trấn giang phần nhiều có vẽ hình sư để tôn thờ, và tôn Sư là Cát Tường Cổ Phật.
Ngọc Cương Pháp sư tức Sa-môn Mông Nhuận trụ chùa Hạ Thiên Trúc, hiệu Ngọc Cương; Sư người ở Hải Diêm, là cháu ngoại của Pháp sư Thánh ở Cổ Nguyên, là cao đồ của Pháp sư Truyền ở Trúc Đường. Lúc sinh ra Sư, người mẹ đã cảm thấy điềm mộng linh dị. Khi sư Lễ tượng đất thần Già-lam, thì các tượng đều ngã đổ. Sư tu Quán Âm Sám thì tâm bệnh thuyên giảm, giảng kinh Pháp Hoa thì cảm những kẻ bán thịt cá đổi nghề. Sư đến phong Hoàng Lĩnh cất am tranh chuyên tinh niệm Phật và tu Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Đại Bi, Tịnh Độ, Định bốn mươi chín ngày làm kỳ hạn nhiều nhất. Sau dạy đệ tử pháp chỉ quán an tâm, niệm Phật mà thị tịch.
Tháng Giêng năm Kỷ Sửu, niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi sáu, ghi chép tính toán số hộ trong thiên hạ.
Ngày chín tháng chín mùa thu năm Canh Dần, Chí Nguyên n thứ hai mươi bảy, vua ban chiếu đại xá thiên hạ.
Tạ Điệp Sơn Phương Đắc tánh nghiêm nghị, nho nhả, khí phách cao tuyệt, lấy việc truyền thế giáo, lập phép dân làm trách nhiệm. Ông làm quan đến chức Chiêu Dụ Sứ. Khi nhà Tống mất, ông hành nghề bói toán để ẩn lánh. Bấy giờ nhà Nguyên trưng dụng các cựu thần, Sư quyết từ chối và nói rằng: "Đại Nguyên trị thế, dân sinh ngày một đổi mới, cô thần triều Tống chỉ nhất quyết chết mà thôi. Sở dĩ chưa chết, vì còn mẹ già chín mươi ba tuổi". Sau đến đất Yên nhịn ăn sắp đi có bạn là Trương Tử Tuệ đọc thơ rằng: "Đi thì rất tốt nếu nhờ vào ba tấc lưỡi mà trở lại, thì chẳng giá trị bằng nửa văn tiền". Lăng Đắc hiểu được ý nghĩa lời thơ này, liền chết ở đất Dịch.
Bình Sinh không có sách gì mà chẳng đọc, văn chương trác tuyệt, tự lập thành một phái. Đọc lời văn của ông thì thấy được tâm ông, khẳng khái, mạnh mẽ có thể làm cho những kẻ tham lam, hèn yếu lập chí.
Ông có soạn Văn Chương Quỷ Phạm lưu hành. Vương Văn Trung Công tên là Vương Bân, tự là Văn Bính, người Quảng Đông, gia đình theo nông nghiệp, hằng năm thâu hoạch cả vạn thạch lúa, nên có hiệu là Vạn Thạch Vương Gia. Ông dốc sức nghiên cứu sưu tập kinh sử của bách gia, văn chương làu thông, phóng khoáng, người đến học tập nơi ông đến vài trăm. Ông dâng sớ tâu rằng: "Cửa quan của Thiên tử chẳng nên vào, nhưng đã vào thì gọi là lén vào, từ cửa thứ nhất đến cửa thứ hai khinh trọng có sai biệt". Ông làm quan đến Hàn lâm học sĩ cho đến khi qua đời, thọ chín mươi ba tuổi. Vua tặng hiệu là Thái Phó Quốc Công, thụy là Văn Trung. Năm Tân Mão, niên hiệu Chí Nguyên hai mươi tám, động đất ở Bình Dương phá hủy nhiều nhà cửa của nhân dân, gồm một vạn tám trăm hai mươi sáu khu, chôn vùi một trăm năm mươi người.
Toàn thái hậu làm Ni, Luy Quốc công làm Tăng, được cấp ba trăm sáu mươi khoảng, miễn đóng thuế.
Năm Nhâm Thìn, Niên hiệu Chí Nguyên hai mươi chín, Dương Cung Hy phụng sự triều Nguyên. Lúc đầu ông và Hứa Hành đều được triệu dùng nhưng không chịu. Sau Thái tử Chân Kim bảo Hữu ty theo việc nhà Hán lễ mời Tứ Kiểu ngày xưa để mời ông, ông bèn nhận lời, lo việc khảo chánh lịch pháp. Vua phong cho chức Tập Hiền Học sĩ cho đến khi qua đời.
Niên hiệu Chí Nguyên thứ ba mươi, năm Quý Tỵ. Lưu Văn Tĩnh tánh cẩn trọng, không thích giao lưu, nên ẩn cư, chỉ dạy đạo làm thầy rất tôn nghiêm. Ông mất năm bốn mươi lăm tuổi. Được tặng hiệu là Học sĩ, thụy là Văn Tĩnh. Ông có soạn Tứ Thư Tinh Yếu Thi Tập năm quyển. Hoàng Tôn Thiết Mộc Nhĩ Tổng Binh phía Bắc Triệu Bá Nhan đến Đại Đồng, trước khi đi Mộc Nhĩ rót rượu tiễn và hỏi rằng: Ngài đi có lời gì chỉ dạy tôi chăng? Bá Nhan nâng chén rượu và nói rằng: "Việc cần phải thận trọng thì chỉ có cái này và nữ sắc!"
Vân Phong thị tịch: Thiền sư Vân Phong thuộc đời bốn mươi ba tại Kính Sơn, Hàng châu, húy Diệu Cao, người Trường Khê, Cú chi. Đầu tiên Sư lễ cầu Vân Mộng Trạch Công thọ giới Cụ túc, tham học nơi Thiền sư Tuyệt Xung, kế đến tham kiến ngài Vô Chuẩn ở Kính Sơn, rồi tham kiến Yển Khê ở chùa Dục Vương, được chọn làm đệ tử thân cận, quản lý Tạng kinh. Một hôm Yển Khê nói rằng:
- Ví như con bò chui qua cửa sổ, đầu sừng và bốn chân đều qua được, ngặt chỉ còn cái đuôi là kẹt lại không qua được.
Sư nghe câu này bỗng nhiên tỉnh ngộ, đáp rằng:
- Cá kình hút hết nước biển, lộ ra một cành san hô.
Yển Khê hứa Khả. Sư đến chùa Đại Lô ở Nam Hưng hoằng hóa, lại dời đến chùa Khuyến Trung ở Giang Âm và chùa Hà Sơn ở Tuyết Xuyên, Tăng chúng khắp nơi đến tham học rất đông. Vua lại ban sắc Sư đến Tưởng Sơn, đến năm Canh Thìn niên hiệu Chí Nguyên lại dời đến Kính Sơn, hai lần gặp lửa thiêu, gian khổ trùng hưng, sau theo lệnh vua về kinh đối trước Hoàng đế luận thiền. Hoàng đế rất vui mừng ban cho thức ăn và phòng xá. Vào mồng một tháng sáu năm này Sư tập chúng vào thời Tiểu tham chỉ dạy, đến ngày mười bảy sau khi thuyết kệ xong thì thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi chín hạ lạp, tháp lập ở Cư đảng am phía Tây của chùa.
Nước Hồi Hồi Bột dâng hiến một hạt châu lớn, định giá khoảng vài vạn đỉnh tiền. Vua nói rằng: "Châu báu mà làm gì? Nên giữ tiền này để chu cấp cho dân nghèo".
Tháng mười sao chổi xuất hiện, nhập vào "Tử
Vi Viên" đến chòm Đẩu khôi (gồm các sao xu, tuyền, cơ, quyền trong Bắc Đẩu), các tia sáng kéo dài hơn một thước, trong một tháng sao mới tắt.
Ngày Nhâm Tý mồng một tháng giêng mùa Xuân năm Giáp Ngọ, niên hiệu Chí Nguyên ba mươi mốt. Hoàng đế bất an, không lâm triều, đến ngày Quý Dậu thì băng hà, hiệu là Thế Tổ Thánh Đức Thần Công Văn Võ Hoàng Đế.
Khi Thế Tổ chưa lên ngôi đã từng xuất chinh đến Tây quốc, lấy đức hiếu sinh làm trách nhiệm, trên đường mê may gặp được Tăng, mở đường thọ ký. Do đó mới làm thiên hạ xán lạng, thống nhiếp vạn bang, hoằng dương Mật thừa, xương minh Tam bảo. Vua thỉnh tượng quý Chiên-đàn vào nội cung, an trí nơi điện Nhân Trí ở Vạn Tuế sơn, là một báu vật của hiện đời, lại xây dựng Đại Thánh Thọ Vạn An tự để phụng thờ, hầu làm cho tất cả mọi người được chiêm lễ.
Tháp Định Quang Phật bỗng nhiên phóng ánh sáng, vua sai mở tháp, thì thấy bên trong có xá-lợi chiếu sáng lóa mắt người. Do đó trùng tu tháp này, lại sai người chép tạng kinh bằng chữ nhủ vàng, định vẽ đồ tượng ở ngoài trục, nhưng chưa vẽ thì vua nói rằng:
-Kinh này là do Thích-ca Như Lai tuyên thuyết, thì chỉ nên vẽ bậc chủ thuyết kinh, hầu khiến cho người xem, đọc biết có nguyên nhân.
Vua ban chiếu khắp thiên hạ mỗi năm nên thực hành bố thí, độ tăng, tụng đọc Đại tạng kinh. Tùy nơi hoặc phóng ánh sáng hoặc hiện điềm lành không đồng. Vua ban chiếu cho Đại đức giảng kinh Hoa Nghiêm vào Đại Tự ở kinh thành thuyết giảng để hiểu rõ sự tôn quý của Như Lai. Vua lại lập đại hội Thất xứ, phóng ánh sáng hiển thị huyền chỉ Thất xứ (bảy nơi) của kinh Hoa Nghiêm. Vua lại dùng nhủ bằng vàng sắc cho Tăng Nhu chép Đại Tạng kinh cất giữ trong hòm bảy báu, mong lưu truyền ở vạn thế. Vua cũng dùng khối gỗ chiên-đàn lớn hơn trượng vuông trấn giữ kho của triều Tống để khắc tạo tượng Phật, làm lợi ích cho trời người, ban cho các vị tăng giảng kinh ca-sa màu đỏ để cho người thuyết pháp không khác Phật. Hằng ngày vua niệm Phật, lần chuỗi, tụng theo thời khóa, và tụ hành thí thực.
Vua ban chiếu cho Đại sư Đông Xương giảng thuyết cho mình nghe. Vua rất hoan hỷ ban cho gậy ngọc quý. Vua cũng ban ngọc âm chiếu cho giảng chủ Hạo Thiên rằng: "Nhân Trẫm còn tại thế nên khuyên bảo người học cần phải nghiên cứu sáng tỏ Phật pháp, không được để đoạn tuyệt". Vua lại bảo Dật Lâm Thượng sư dịch Dược Sư Đàn Pháp Nghi Quỷ, để giúp cho thiên hạ tiêu trừ tám khổ, tăng thọ vô lượng; vua lập hội Thập Vạn Tăng, sắc cho mười vị Tăng thuyết pháp trước vua, sau ban cho mười đỉnh bạch kim, mười gậy ngọc. Lại hạ chiếu thỉnh mười vị cao tăng vào cung cúng dường, vua ngồi im chẳng động, các Đại đức cũng im lặng. Vua bèn nói: "Đây là công đức chân thật!"
Vua lại ban chiếu mời các cao Tăng trùng đính Đại Tạng, phân thành Đại Tiểu thừa, lại đề tên hiệu, ban khắp trong thiên hạ, lại bảo các Đại đức ở các tự viện, hiệu đính bổ khuyết Đại Tạng lâu đời của chùa Hoằng Pháp, làm cho mới đẹp để lưu truyền hậu thế lâu dài. Vua in ấn ba mươi sáu bộ Đại Tạng sai sứ ban phát, giáo hóa các nước lân cận, hầu làm cho tất cả đều thấy mặt trời Phật pháp.
Vua cũng ấn hành một ngàn bộ Bồ-tát Giới Bản, ban phát khắp nơi, khiến chúng sinh trên đại địa đều tuân hành bảo giới của Như Lai, lại ban Đai y đỏ và vàng cho cao Tăng các lộ để truyền trao đại giới; lấy thanh lương làm cảnh giới chân Phật, kiến lập năm ngôi chùa lớn để làm phước điền tối thượng. Mỗi khi vua thọ trai thì dùng bình bát Phật của Nam Thiên Trúc, đặt vào đó món ăn một trăm vị, lắng tâm quán tưởng thực hành pháp cúng dường.
Vua dùng bảo tháp xá-lợi của Như Lai thống nhiếp mười chín ngôi tự viện, mỗi mỗi đều có ban tiền để tu sửa trang nghiêm, lập hội Đại cúng dường.
Mỗi khi vua thấy Tăng Ni có tội thì không dùng vương pháp, chỉ khiến theo kinh giáo mà sám hối.
Vua lại miễn cả hai loại thuế về ruộng đất của tự viện, làm cho Tăng Ni an tâm tu đạo. Còn núi rừng cây cối của tự viện thì cũng khuyên bảo giữ gìn, không được chặt phá, hầu trang nghiêm cảnh giới của Phật thánh.
Vua bảo quần thần rằng: "Trẫm dùng Bản Giác Chân Tâm Vô Nhị để trị vì thiên hạ, quốc gia".
Vua nghe nghĩa ngũ giáo rồi nói rằng: "Đốn giáo nói tức tâm là Phật, cảnh giới của chư Phật, nếu phàm phu không tu thì làm sao đạt đến"
Vua sai các bậc danh đức của hai nước luận biện kinh giáo, nhất nhất đều giống nhau. Vua liền nói:
- Bao năm nghi ngờ, hôm nay mới khai ngộ!
Vua ban thánh chỉ, hiểu dụ tất cả Tăng Ni không nên chọn công việc hay nghỉ ngơi, nên tuân theo đạo của Phật Thích-ca mà hành tu.
Thái hậu nhà Tống cạo tóc làm Ni, tụng kinh tu đạo, vua rất kính ngưỡng cúng dường tứ sự. Tống đế giờ đây với Vương vị đến quy y, học Phật tu hành, vua rất vui mừng, bảo cắt tóc làm Tăng, nghiên cứu Đại thừa, thấu suốt Phật lý. Các cung nhân của triều Tống cũng đều thế phát làm Ni. Vua nói: "Là người trong Tam bảo", bèn bảo quy y, học Phật tu hành, và ban cho y thực.
Vua hỏi Đế Sư rằng:
- Thí thực rất ít. Vì sao có thể cứu độ vô lượng chúng sinh cõi u minh?
Đế Sư đáp:
Sức Chân ngôn của Phật pháp giống như hạt châu Ẩm mã.
Vua mời Đế Sư thọ trai xong thì trời mưa đầy hoa vàng xuống.
Vua hỏi rằng:
- Vì sao lại có điềm lành này? Đáp:
Vì tâm hoa bên trong của bệ hạ đã khai phát nên trời mưa hoa khen ngợi.
Tăng Nguyên Nhất người đất Thục sang Tây Thiên trở về, dâng lên tượng Phật ngọc thạch và kinh ghi trên lá bối. Vua hỏi rằng:
- Phật ở Tây Thiên có chăng? Đáp:
Đương kim hoàng đế nơi Đông độ. Đâu khác Đạt-đa ở Tây Thiên.
Vua lại hỏi:
Vì sao đệ tử của đạo gia thì ít, đệ tử của Như Lai thì nhiều? Đáp:
Giàu thì một ngàn người còn chê ít, nghèo thì một thân cũng hận là nhiều.
Vua lại hỏi:
Hòa thượng còn bận thế duyên chăng? Đáp:
Chẳng biết pháp nên mới phạm, biết pháp rồi thì chẳng phạm. Vua hỏi Dãn Đàn Chủ rằng:
Nơi đâu có Phật? Đáp:
Hoàng đế ta tức là Phật.
Vua hỏi:
Vì sao gọi trẫm là Phật. Đáp:
Giết tha tùy tự ý
Càn khôn nằm trên tay.
Năm vua tám mươi tuổi, một hôm nói rằng: "Tuổi thọ đồng với Thích-ca Như Lai, chẳng làm chư Thiên!" Sau đó thì băng hà. Khi linh giá ngang qua điện Tuyên Đức thì tự nhiên hiện vầng ánh sáng tròn lớn chiếu khắp cõi trời, Tăng tục đều đến chiêm lễ. Đó là hiển tác dụng thị hiện của Phật xưa. (Đoạn trên là trích từ Hoằng Giáo Tập trong Phật Tổ Thông Tải).
Tháng bốn mùa hạ Hoàng Tôn là Thiết Mộc Nhĩ lên ngôi, được ngọc tỷ. Văn ghi: "Lãnh mệnh từ trời, đã có thọ mạng lại vĩnh viễn xương minh". Xử sĩ triều Tống là Huyền ông đã hơn tám mươi tuổi, được vua ban cho vàng và lụa, nhưng không nhận cho đến khi qua đời.
Bá Nhan là người kín đáo sâu xa, có mưu lược, giỏi quyết đoán. các tướng tôn kính ông như thần minh, có thể cho ông là lương tướng của một thời. Khi Thế Tổ băng hà, trăm quan đều đã thuận, ông cầm kiếm đứng dưới điện trình bày lời dạy của Thế Tổ và tuyên cáo cố mệnh, nói ý nghĩa sở dĩ lập vua mới. Lời lẽ, sắc mặt đều nghiêm, các vương đều run sợ. Nhiều lần thọ nhận tước vị nên có đầy đủ phong tiết của một Đại thần cho đến khi mất. Ông làm quan đến Khai Phủ Nghị Đồng Tam Y Thái Phó, Lộc là Quân Quốc Trọng sự, Phong tước Hoài An Vương, thụy là Trung Vũ.
Thành Tông: Thành Tông tên là Thiết Mộc Nhĩ, là cháu của Thế Tổ, con thứ ba của Thái tử Chân Kim, khi Thế Tổ băng hà thì Mộc Nhĩ được các vương lập lên ngôi, tại vị mười ba năm, thọ bốn mươi hai tuổi thì băng hà.
Vua kế thừa sau khi thiên hạ quy về một mối, ung dung mà trị vì, có thể cho rằng ông khéo giữ gìn sự thành công của Tiên đế. Những năm cuối đời bị bệnh tật liên miên, việc bên trong thì giao cho cung nhân quyết định, việc bên ngoài thì ủy thác cho các đại thần, đến khi có giặc làm phản mới có chút ít cảnh giác, nhưng chưa đến nổi phải suy tàn, vì cách Thế Tổ chưa xa, pháp luật chế độ quy tắc vẫn còn. Vua cải niên hiệu hai lần.
Tháng bốn năm Ất Mùi, niên hiệu Nguyên Trinh thứ nhất, nước sông Lan châu tự nhiên trong xanh trong khoảng trên ba trăm dặm.
Tháng sáu lụt lớn ở Giang Tây, Thiểm Tây thì hạn hán. Nhân dân đói khát, phải cứu tế.
-Thiền sư Cao Phong húy là Nguyên Diệu, người Ngô Giang tỉnh Giang Tô, họ Từ, học tập ở chùa Mật Ấn Ô Tuất, đắc pháp nơi Thiền sư Khâm ở Tuyết Nham.
Sư sinh vào năm Mậu Tuất niên hiệu Gia Hi thứ hai đời Tống. Năm mười lăm tuổi Sư xuất gia, mười bảy tuổi thọ giới Cụ túc, mười tám tuổi học giáo nghĩa Thiên Thai, đến năm hai mươi tuổi chuyển pháp môn, vào chùa Tịnh Từ lập kỳ hạn quyết sống chết tham thiền trong ba năm. Năm hai mươi mốt tuổi yết kiến ngài Đoạn Kiều, sau tham vấn ngài Tuyết Nham ở Song Giản, lại trụ Song Kính mà ngộ đạo.
Sư ẩn cư ở Long Tu rồi dời đến Song Kế, đến năm Kỷ Mão, niên hiệu Chí Nguyên Sư lên ngọn Tây Phong núi Thiên Mục, vào biển Tử Quan, động Trương Công ẩn tu, mười lăm năm chưa từng rời động. Bấy giờ người học khắp nơi đến tham vấn rất đông, Tăng tục cầu thọ giới pháp đến vài vạn người. Ở đây Sư khai sơn chùa Sư Tử và chùa Đại Giác.
Ngày mồng một tháng chạp năm Ất Mùi, Sư đốt hương, nói kệ từ biệt chúng rồi ngồi yên mà thị tịch, thọ năm mươi bảy tuổi, bốn mươi ba hạ lạp, độ được mấy trăm đệ tử, tháp thờ được lập trong Tử Quan, theo di mệnh. Tổ Ung biết Sư có Ngữ Lục lưu hành thế gian.
Đoạn Kiều Thiền sư.
Tuyết Nham Thiền sư húy là Pháp Khâm, năm tuổi xuất gia, mười sáu tuổi được cạo tóc, mười tám tuổi hành cước khắp nơi, mười chín tuổi trụ tại chùa Linh Ân rồi lại dời sang chùa Tịnh Từ. Một hôm đang kinh hành trên điện Thiên Mục, ngước mắt nhìn thấy một gốc cây bách lâu năm bỗng nhiên tỉnh ngộ, từ đó không còn nghi sinh tử, nghi Phật Tổ. Sau Sư trụ chùa Đạo Lâm, Phật Nhật Thiền Tự ở Nam Minh, Hộ Thánh Thiền Tự ở Tiên Cư, Quang Hiếu Đạo Tràng ở Hồ châu, chùa Ngưỡng Sơn ở Giang Tây, và các chùa ở Bắc Giản. Sư là đệ tử nối pháp ngài Vô Chuẩn, thầy của Thiền sư Cao Phong.
Sư có để lại bộ Ngữ Lục học hai quyển lưu hành ở đời.
Niên hiệu Nguyên Trinh thứ hai, năm Bính Thân, kế thừa đời thứ ba mươi tám của nhà Hán, Thiền sư Trương Dữ Tài làm Thái Tổ cho ngưng Thần Quảng Đạo Chân nhân, thống lãnh đạo giáo ở các lộ thuộc Giang Nam.
Tháng Giêng năm Đinh Dậu niên hiệu Đại Đức thứ nhất, Thái hậu đến núi Ngũ Đài. Đầu tiên Vua vì Thái hậu mà lập chùa ở núi này, đến khi hoàn thành thì Thái hậu, giá lâm cầu phước cho muôn dân.
Tháng hai năm này cải niên hiệu, đại xá thiên hạ.
Năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Đức thứ hai, vì lụt lội và hạn hán nên vua ban chiếu miễn tô thuế.
Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Đại Đức thứ ba, vua ban chiếu sai sứ vỗ an nhân dân bị bệnh khổ. Tháng chín có sao băng, phát ra âm thanh như sấm. Năm Canh Tý, niên hiệu Đại Đức thứ tư.
Bất Hốt Mộc làm quan đến chức Học sĩ Bình Chương. Đầu tiên, Thế Tổ mỗi khi nghe ông nói đều khen thưởng, ban cho bạch ngọc. Nhà nghèo, khi qua đời, vua ban phí tổn để chôn cất, tặng tước Lỗ Quốc Công, thụy là Văn Trinh.
Tháng tám năm Tân Sửu, niên hiệu Đại Đức thứ năm có sao chổi xuất hiện ở Đông Tỉnh, di chuyển từ Tử Vi viên đến Thiên Thị viên, qua bốn mươi sáu ngày mới tắt.
Đến tháng mười xuất hiện một ngôi sao lớn như cái chén, ánh sáng chiếu khắp mặt đất, từ phương Bắc xuất hiện rồi phân làm hai sao, di chuyển đến sao Nguy thì mất.
Tam Viên: Tinh tú trên trời được phân làm ba nhóm (Tam Viên): Một là Tử vi viên, gồm mười lăm ngôi sao, vị trí ở giữa Thái ất; hai là Thái Vi viên, gồm mười ngôi sao, vị trí ở phía Bắc Chẩn dực, ba là Thiên Đế viên gồm hai mươi hai sao, vị trí ở phía Bắc sao Phòng.
Tháng ba năm Nhâm Dần, niên hiệu Đại Đức thứ ba, vua ban chiếu vì hạn hán lụt lội, nên đại xá thiên hạ, miễn thuế và sai dịch ở ba năm. Tháng sáu ban chiếu xây miếu Văn Tuyên vương ở Kinh đô.
Thiền sư Chân Giác húy là Văn Tài, hiệu là Trọng Hoa, họ Dương, người Thanh Thủy. Tuổi nhỏ đã mất cha, hiếu kính phụng dưỡng mẹ, tánh thông minh lanh lợi, đọc hết tất cả sách, nhất là các thuyết về lý tánh. Ông thích các tác phẩm cổ, giỏi ngâm vịnh. Bẩm tánh rất đôn hậu thuần phác, giống như người không biết gì. Nhưng đến khi đàm luận, ứng xử thì biện tài thông suốt, khiến người chẳng biết bờ mé. Sư tham học khắp các trường giảng, đạt được Tông Chỉ Hiền Thủ. Sư từng nói rằng: "Học thì quý ở Tông thông, lời thì dùng để hiểu ý, ý nghịch với chí thì đạt được. Ngôn ngữ văn tự là cặn bả, há có thể mở được tuệ nhãn cho người ư?" Lúc đầu Sư ẩn cư ở Thành Kỷ, lập am tranh, trồng rừng tùng, có ý muốn trụ suốt đời nơi đây, vì thế người đời gọi là Tùng Đường Hòa thượng. Thế Tổ ban chiếu cho Sư trụ ở chùa Bạch Mã tại Lạc Dương, người đến học rất đông, danh tiếng ngày càng lan rộng. Thành Tông lại lập Đại Vạn Thánh Hựu Quốc tự nơi núi Ngũ Đài, ban chiếu cầu tìm người làm vị khai sơn trụ trì đời thứ nhất. Đế Sư Ca-la Tư Ba tiến cử Sư, Thành Tông đúc ấn vàng ghi Sư là Chân Giác Quốc Sư. Sư từ chối mà nói rằng: "Vượt quá bổn phận của mình mà sống thì chẳng tốt, bất tài hèn kém mà nhận đi thì bất minh!" Đế Sư nói rằng: "Đây là lệnh vua!" Bất đắc dĩ Sư phải đi. Sư hoằng dương yếu chỉ của ngài Thanh Lương, đến già vẫn không mỏi mệt.
Ngày mồng một tháng chín năm này, Sư thị hiện có chút bệnh rồi thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Tháp thờ được lập ở chân núi Đông Đài. Sư có soạn Tuệ Đăng Tập, Huyền Đàm Tường Lược,
Triệu Luận
Sớ lưu hành ở đời (Thông Tải).
Năm Quý Mão, niên hiệu Đại Đức thứ bảy. Kim Cang Thượng Sư húy là Công Gia Cát Lạt Tư, Trung Quốc dịch là Phổ Hỷ Danh Gian, lại có tên là Chiêm-ba, Trung Quốc dịch là Vi Diệu. Sư người Phiên ở Tây độ; đầu tiên hầu Pháp vương Thượng Sư tụng chú như nước chảy, thông suốt phép tắc tụng kinh trì chú. Vào thời Thế Tổ, Sư đến Trung Quốc triều kiến vua, hỏi đáp rất hợp ý, thường có nhiều điềm linh ứng, chẳng phải là một. Đến thời Thành Tông, Sư tâu xin lương thực và thuế cho Tăng Ni. Vua ban chiếu cho Sư trụ trì ngôi chùa nổi tiếng, rất được vua ân sủng. Ngày mười tám tháng năm năm này, Sư thị tịch. (Thông Tải). Kim Lý Tường người Lan Khê, ẩn cư núi Kim Hoa soạn Thông Giám Tiền Biên và chú Sớ Tứ Thư Ngũ Kinh, truyền sở học cho môn đồ là Hứa Liêm. Ông tự vui với đạo, không màng danh lợi, người học gọi ông là Nhân Sơn Tiên Sinh, thụy là Văn An.
Tháng hai năm Giáp Thìn, niên hiệu Đại Đức thứ tám, sao chổi xuất hiện ở Thất độ nhập Tử Vi
Viên, tua dài khoảng một trượng, bảy mươi sáu ngày mới tắt.
Tháng bốn năm Ất Tỵ, niên hiệu Đại Đức thứ chín, động đất ở Đại Đồng, phát ra âm thanh như sấm, làm đổ nát trên năm ngàn gian nhà, đè chết năm ngàn người, đất nứt ra phụt lên những dòng đen ngòm, trong đó có các cây tùng, cây bá mục nát. Vua sai sứ đến cứu tế.
Tháng giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Đại Đức thứ mười, bãi chức Bạch Vân Tông Đô Tăng Lục Ty của Giang Nam. Tháng hai có bão, tuyết rơi dày, mưa đá hạt lớn như quả trứng.
Ngày mồng một Bính Dần, tháng giêng năm Đinh Mùi vua bệnh nặng không lâm triều, đến ngày Quý Dậu mồng tám vua băng hà tại điện Ngọc Đức; hiệu là Thành Tông Hoàn Giả Đốc Khâm Minh Quảng Hiếu Hoàng Đế.
Tháng năm Vũ Tông lên ngôi.
Vũ Tông: Là con trưởng của Thuận Tông Đáp Lạt Ma Bát Lạt. Đầu tiên được phong làm Ninh Vương giữ chức Tổng Binh Phương Bắc, đã từng lập nhiều chiến công. Khi Thành Tông băng hà, các vương lập ông lên làm vua, tại vị năm năm, thọ ba mươi mốt tuổi.
Vua đảm đang một cơ nghiệp bao la giàu có, bỗng nhiên muốn thay đổi pháp cai trị. Ông phong tước rất nhiều mà từ xa trao, cho nên quan đông; ban thưởng rất hậu mà thưởng chung, cho nên ân đức mỏng. Do đó chánh trị của đời Chí Nguyên và Đại Đức đến đây có biến đổi chút ít.
Tháng sáu mùa hạ phong cho người em cùng mẹ tên là Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt làm Thái tử, truy tên cha Thái tử là Thuận Tông.
Tiêu Cử người Thiểm Tây, học rộng, ba mươi tuổi mà chẳng cầu tiến thân. Được tiến cử làm quan Dụ Đức cho Thái tử. Sau cáo bệnh trở về quê thì mất, thụy là Trinh Mẫn.
Gia Phong Khổng Tử là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương. Chiếu ghi: Bậc Thánh trước Khổng Tử, chẳng có Khổng Tử thì không thể sáng tỏ; bậc Thánh sau Khổng Tử, chẳng có Khổng Tử, thì không có. Vì thế, noi theo Nghiêu Thuấn, chế định hiến chương cho văn võ làm phép tắc cho đế vương, lập khuôn mẫu cho vạn thế.
Trẫm kế thừa nghiệp lớn, kính ngưỡng phong quy, noi theo phép tắc trị quốc xưa, nêu tỏ điển chế phong tặng, nay ban hiệu là Đại Thành Đại Thánh Văn Tuyên Vương. Sau sứ về quê thiết đại tiệc chúc mừng. Ô hô! Tình thân phụ mẫu, nghĩa cả vua tôi, vĩnh viễn là tôn chỉ của Thánh giáo. Đất trời rộng lớn, nhật nguyệt chiếu soi, đâu thể cùng tận được danh ngôn chí diệu. Kính mong Thần hóa của Thánh xưa luôn phò trì cho Hoàng Thiên ta hiện thế!
Hàn lâm thừa chỉ Diêm Phục Chi soạn.
Năm Mậu Thân, niên hiệu Chí Đại thứ nhất, tượng quý chiên-đàn tính đến nay đã hai ngàn ba trăm năm.
Thích Khả ở chùa Tu Thiền, Phật Lũng, Thiên Thai. Sư hiệu là Nghi Hành, thông đạt giáo nghĩa Thiên Thai, tinh chuyên tu tập chỉ quán. Nghe mưa rơi mà làm bài kệ rằng:
Ngoài hiên mưa giọt thật rõ rành
Chúng sinh mê muội gọi âm thanh
Bao năm ta cũng lao theo cảnh
Đêm xuân chợp mắt mộng khó thành.
Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Chí Đại thứ hai, vua ban bài minh trên tháp Phật Quốc Phổ An thiền sư, do Khuê Chương Các Ngu Tập soạn (lược xem ở phần Thế Tổ năm Đinh Mão).
Sắc ban văn bia Khất Thai Tát Lý Thần Đạo, do Hàn Lâm Triệu Tử Ngang soạn.
Lâm Tế Chánh Tông, nội hàn Triệu Mạnh Phủ phụng chiếu soạn bia ký. Bia lược ghi:
"Phật dùng Đại trí tuệ chiếu phá tất cả hữu, dùng Đại Viên Giác nhiếp tất cả không, dùng đại từ bi độ tất cả chúng sinh. Đầu tiên ở nơi không nói mà đến không gì chẳng nói, từ chỗ không gì chẳng nói mà đến nơi không nói. Phàm đạo chẳng nói thì chẳng thể truyền, truyền mà chẳng dùng lời, thì đạo ngoài ngôn ngữ vậy, đó là Tối thượng thượng thừa Phật pháp. Như dùng củi để dẫn lửa, củi hết mà lửa truyền dẫn đến vô cùng".
"Hải Vân Đại Tông Sư Giản Công tánh và đạo hợp, tâm và pháp khế, nhỏ không gì chẳng vào, lớn không gì chẳng bao trùm, trụ ở viện Lâm tế, nối tiếp Tổ truyền, dùng chánh đạo thống nhiếp Phật pháp. Do đó đến đây mà trung hưng đạo lớn" Lại ghi: Tây Vân Đại Tông Sư An Công khéo kế thừa đạo nghiệp, thăng tòa Sư tử thuyết pháp cho đại chúng, khiến người nghe thì tán thán, người tin kính ngưỡng, người được thì như bảo châu, người ngộ như hư không. Hoàng đế vạn niên, chánh pháp vĩnh truyền, ngõ hầu người sau không mê lầm nguồn cội. (Thông Tải).
A Sa bất hoa thấy dung mạo của vua ngày càng tiều tụy, bèn tâu rằng: Vị bát trân chẳng biết thọ dụng, thân vạn lượng chẳng biết xót thương, chỉ ưa thích rượu men, đam mê nữ sắc. Việc ấy giống như hai chiếc búa chặt một thân cây, chẳng có cây nào không ngã đổ".
Vua vui mừng phong quan tước.
Ngày Canh Thân tháng giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Chí Đại thứ tư, vua băng hà ở điện Ngọc Đức, hiệu Võ Tông Khúc Luật Nhân Tuệ Tuyên Hiếu Hoàng Đế.
Ngày Canh Dần tháng ba Hoàng Thái tử lên ngôi hoàng đế ở điện Đại Minh, đại xá thiên hạ, ban lụa cho người già, bãi bỏ các cơ sở Tăng, Đạo.
Luận ghi: "nhờ vào Năm vị để thăng cấp, chuyển Hai y mà thành quả, đó là Bồ-tát thượng thừa. Dùng Tứ hướng, nhất tòa để chứng thành, lấy ba đời trăm kiếp để lập hiệu thì đó là hàng Duyên giác, Thanh văn. Thánh hiền thì có phẩm cấp, giác pháp thì có văn từ. Ôi! Diệu ngộ tự tâm, nhập tri kiến Phật mà ngàn Thánh còn chẳng làm, hà huống gì có giai cấp?"
Cuối cùng ghi: "Triều đình còn thi hành tước phẩm, Thích tử bèn tranh cạnh quan hàm. Quan hàm không bao giờ tận, tham ái chẳng thể mãn phần. Sao chẳng dưỡng nuôi thê tử mà lại vui lại quân vương, chẳng khác nào chức nữ thất nang, dắt trâu mang ách. Thông đạt điều này thì không chấp thủ".
Bất Không Tam tạng có công rất lớn với đại giáo, mà khi vào cung giảng pháp còn hổ thẹn là đã ô lạm, vậy nay người nào muốn mượn danh quan tước?
Nhân Tông.
Nhân Tông: Húy là Ái Dục, là con thứ của Nhuận Tông, tên là Lê Bạt Lực Bát Lạt, là em cùng mẹ với Võ Tông. Võ Tông đã phong ông làm hoàng Thái tử, vì thế khi Võ Tông băng hà thì ông lên kế vị, tại vị được mười năm, thọ ba mươi sáu tuổi. Vua rất từ hiếu, thông minh, khiêm cung, tiết chế. Vua thông đạt Nho thuật, yêu thương nhân dân, chăm lo trị quốc, luôn tuân theo chế độ đời Thế Tổ, là một vị vua có đức cả lại theo phép xưa. Năm Nhâm Tý, niên hiệu Hoàng Khánh thứ nhất. Vua luận rằng: Ngự Sử Đài là công luận về một đời, Quốc Sử Viện là công luận của vạn thế.
Tháng năm vua ban chiếu cấm các vương săn bắn làm nhiễu loạn dân trong thời vụ nông gia, đến tháng mười mới được ra ngoài săn bắn. Năm Quý Sửu niên hiệu Hoàng Khánh thứ hai. Vua nói: "Người thiện mới có thể làm vật báu, dùng người thiện thì bá tánh an ổn, đó là vật báu của quốc gia. "
Vì trời hạn hán kéo dài, nên vua ở trong cung đốt nhang cầu khẩn, lại sai các quan chia nhau đến các miếu khẩn cầu. Trời liền tuôn mưa lành xuống đại địa. Quan Thừa Chỉ Lý Mạnh nói rằng: "Quyền hành của bậc nhân chủ là tại thưởng phạt. Thưởng một người thiện là khuyến khích thiên hạ, phạt một người ác là trừng phạt thiên hạ. " Lại nói: "Tăng đạo đã hành pháp xuất gia, đâu cùng với quan phủ mà bãi bỏ Tăng đạo quan?" Vua liền viết hai chữ "Thu Cốc" để ban cho.
Vua ban chiếu xây Sùng văn các ở Quốc tử giám, lệnh cho các danh nho nhà Tống như: Chu Tôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Trương Tái, Thiệu Ung, Tư Mã Quang, Chu Hi, Trương Thức Lữ, Tổ
Khiêm và Cố Trung Thư Hứa Hành tế tự Khổng Tử ở miếu đình.
Năm Giáp Dần cải niên hiệu là Diên Hựu nguyên niên, ban chiếu lập khoa thi, khảo kinh nghĩa để chọn kẻ sĩ hầu dùng được Nho sĩ chân chánh, để đạo trị quốc được hưng long. Vua lại sắc cho các tỉnh để tâm tìm cầu hiền tài ẩn dật, nếu được người như thế thì trước dùng danh văn chiêu mộ, sau đến mời thỉnh.
Pháp sư Phật Trí tên là Sa-la-ba, Hán dịch là Quán Chiếu. Đầu tiên lễ Đế sư Bát Tư Ba cầu xuất gia, học tập pháp quán đảnh của các bộ, lại theo Trứ Xích Thượng Sư học Đại Tiểu thừa. Bấy giờ có Lạt Ôn Bốc rất giỏi về Bí mật giáo, nổi tiếng ở đời, Sư liền đến cầu học. Vì thế rất giỏi tiếng Thổ Phồn và có biết được văn tự các nước khác. Sau nhờ Ca La Tư Ba Đế Sư tiến cử, nên Thế Tổ sắc cho Sư phiên dịch các kinh hiển mật mà Trung Quốc còn thiếu, văn từ của Sư rất trong sáng, luận biện khéo léo, nên vua đặc biệt ban hiệu là Đại Biện Quảng Trí, sau lại ban hiệu là Hoằng Giáo Phật Trí Tam Tạng Pháp Sư, làm Đô Tổng Thống Thích giáo vùng Giang Triết. Vua đích thân đưa tiễn. Hoàng thái tử và các vương thường thưa hỏi Sư về pháp yếu. Các kinh do Sư phiên dịch đều được triều đình khắc bản ấn hành.
Ngày năm tháng mười năm ấy Sư hiện có bệnh, vua ban vạn quan tiền, sắc cho Thái úy Phiên Vương lo thuốc thang, sau khi lễ tạ xong, Sư ngồi yên nhìn Phật mà thị tịch. Vua rất thương tiếc, sắc cho các quan lo việc tống táng, sai sứ đưa về quê xây tháp thờ. (Cao Tăng Truyện, Thông Tải).
Phổ Giác Pháp sư họ Triệu, húy Anh Biện, hiệu Phổ Giác, năm hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc, đạt yếu chỉ Tông Từ Ân nơi Đàm Pháp sư ở Bá Lâm, khai pháp ở chùa Cảnh Phước, Tần châu, xiển xương tông chỉ, tiếng tăm vang khắp bốn phương. Sư đã phá dẹp tà kiến dựng lập chánh pháp, nhưng bẩm tánh chân thuần, như viên ngọc chẳng cần mài giũa, mọi người đều mến trọng, đến như kẻ hung hãn vũ phu cũng cung kính, Sư thật là một vị Phật ở đời không có Phật.
Thế Tổ nghe phong cách cao vời của Sư bèn ban chỉ khen ngợi. Vào ngày Canh Tuất, tháng sáu năm này Sư không bệnh gì, bỗng nhiên từ biệt chúng, ngồi yên thị tịch. Sáng rực cảnh lạ ở một chiều là thế, hiển hiện kỳ tích sau khi hỏa hóa còn thừa, tháp được xây ở phía sau chùa Phổ Giác, thọ sáu mươi tám tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp (Phật Tổ Thông Tải).
Tháng mười một ở kinh đô có hạn hán dịch bệnh, vua hỏi về phép trừ tai họa, học sĩ Trình Cự Phu nêu việc dùng nước nóng cúng rừng dâu để đáp. Vua bèn nói: "Đây là lỗi của Trẫm, còn dân có tội gì!" Ngày hôm sau, trời đổ tuyết lớn, vua thỉnh các vị tăng Tây Trúc hành Phật sự, tha bổng kẻ tù tội.
Tháng giêng năm Ất Mão, niên hiệu Diên Hựu thứ hai, vua ban chiếu cho An phủ sứ phân làm mười hai đạo thăm hỏi an ủi nhân dân bị bệnh khổ, truất biếm quan lại. Tháng năm ở Tần châu có núi lở, tháng mười một sao chổi xuất hiện ở Tử vi thiên. Vua đại xá thiên hạ.
Năm bính thìn, niên hiệu Diên Hựu thứ ba. Vua lễ Công Ca La Ban Tạng Bốc làm Đế Sư.
Lại Lục Tôn cõng mẹ tránh loạn lạc, giặc cướp đến vẫn ôm giữ mẹ không chịu rời. Vua nghe được bèn ban cho Tinh biểu.
Vua ban sắc tạo điện thờ thụy tượng chiên đàn. Hàn lâm thừa chỉ Trình Cự Phu soạn lời ký rằng: Từng nghe đạo có hình tượng mà muốn dễ tạo ắt phải định các hình dung, pháp vốn đều không mà muốn độ thế thì phải nhờ vào sắc tướng. Như chỉ hư không là tấm gương, chứ chẳng thể dùng gương mà dụ hư không. Nhìn nơi cây mà đoán biết gió, như biết gió rồi thì quên cây. Vì thế nơi Ta-la song thọ phó chúc phân chia xá-lợi, để phàm thánh đều có phần, bàn chân thiên bức kinh hành dấu vết suốt cổ kim mà thường trụ. Chẳng phải khoe thần thông nơi cảnh huyễn, mà thực là khai phương hiện ở bến mê. Do Phật mà nghĩ đến tâm, tức tâm mà tức Phật. Thụy tượng chiên-đàn là chân tượng của Phật, giống như muôn bóng trăng trong dòng nước vẫn như như chẳng khác, một tia sáng chiếu qua khe mỗi mỗi đều tròn đầy. Như thế há có thể chọn đất mà hợp ư? Chỉ do tùy duyên mà ứng vậy. Trong rừng mai mà hết khát, tất cả đều thấm nhuần; cưỡi cành trúc để trở về, ai kham cùng gánh vác? Chỉ có Thiên tử triều ta đạo đồng Thánh trước, từ như giác vương, chúc cho hoàng triều tháng năm mãi mãi gá nương Phật địa, ngưỡng mong Như Lai tuế nguyệt hằng ngồi quán nhân thiên.
Về Thụy tượng này có ghi chép đầy đủ trong phần nói về niên hiệu Gia Thái thứ ba đời Tống Ninh Tông ở tập trước. Tức nói từ Tây Thiên, Quy Tư, Lương Châu cho đến Thương Kinh tổng cộng hai ngàn ba trăm lẻ bảy năm.
Vua sắc phong gia hiệu cho Phổ Am Thiền sư. Chiếu ghi: Vâng mệnh trời, hoàng đế ban thánh chỉ rằng: Trẫm từng nghe Phật đạo lấy không tịch làm tông, thì hàng phàm học những người tuân phụng đâu muốn lập tên hiệu, vậy lập danh xưng là để chỉ bày cho người đời sau trong thiên hạ ư? Nhưng quốc gia không làm như thế, thì không biết lấy gì để làm sáng tỏ ý tôn sùng cao đức, ưa thích đạo màu. Từ khi Trẫm lên ngôi đến nay nghe ở Từ Hóa Thiên tự, núi Nam Nhạc, Lộ viên châu có Phổ Am Tịch Cảm Diệu Tế Châu Giác Chiêu Chúc Đại Đức Tuệ Ái Thiền sư nối tiếp dòng Lâm tế, siêu việt cảnh hoa nghiêm, đức sáng soi đương thời, làm nhuần thấm người học, khắp bốn phương đến tham cầu. Đạo pháp đã cao siêu hiển lộ, lòng Trẫm thầm mến mộ, đã ban cho đại thụy, mà hiệu tháp chưa lập, nên nay đặt là Định Quang tháp. Ghi: "Định Quang Linh Thụy Chi Tháp".
Năm Đinh Tỵ niên hiệu Diên Hựu thứ tư, sắc ban cho Viễn Pháp sư ở Đông Lâm hiệu là Diệu Giác Tịch Quang Hoàng Biện Đại sư, do Đô tĩnh soạn văn.
Bốn tháng mà trời chẳng mưa, vua tự thân ra ngoài trời thắp hương cầu nguyện, bỗng nhiên trời mưa lớn, quan hầu dâng áo mưa mà vua chẳng nhận.
Phước Nguyên Giảng Chủ húy Đức Khiêm, họ
Dương, tự Phước Nguyên, người ở Định Bình, Ninh châu. Thuở nhỏ làm Sa-di thích tụng đọc kinh Phật, lớn lên đi khắp các nơi, tham học với các bậc danh đức theo Ninh Công học Bát-nhã, theo Trung Công học Thụy Ứng, theo Tiên Công học U Tán, theo Nhất Công học kinh Viên Giác, lại nghiên cứu Duy thức, Câu xá nơi Di Công, nghe giảng Lăng nghiêm, Tứ Phần luật nơi Văn Công, mà các vị này đều biết pháp hiểu nghĩa, thanh danh vang xa, sư đều thân cận tham học, thấu đạt được sở học của họ. Sau sư đến Kinh đô theo Vạn An Giản Công học Hoa Nghiêm. Đầu tiên, Sư phụng chiếu trụ chùa Vạn Ninh, kế đến trụ ở chùa Từ Ân, trước sau sư trụ đến mười ngôi. Đạo đức của Sư trùm cả Chấn Đán, thanh danh vang khắp đến ngoại bang.
Vinh hiển và sự sủng ái của vua chưa từng làm sư thay đổi ý chí. Sư từng nói: "Làm Sa-môn thì ngược dòng thế tục, chẳng hổ thẹn vì sáng được nghe chiểu phải chết, như thế sao còn luyến mộ?" Sư bèn lui về đóng thất ẩn cư, làm người sống ở thế gian mà xa lìa thế tục. Vào tháng giêng năm ấy sư thị tịch, vua ban tinh kỳ, tiền bạc để lo việc an táng. Tháp của Sư được xây ở góc Nam kinh thành.
Quang Giáo Luật sư húy là Pháp Văn, họ Nghiêm ở Thiểm tây. Năm mười lăm tuổi xuất gia, hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc. Sư theo Ôn Công học Pháp Hoa, Bát-nhã, Duy Thức, Nhân Minh và luật Tứ Phần. Ôn Công phó thác cho sư sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp. Sư từng ở trước tượng Phật đốt thịt đốt ngón tay, để biểu thị lòng chí thành, lại trích máu chép kinh để tỏ bày tâm trọng pháp. Sư ẩn cư ở Đài sơn suốt sáu năm chưa từng dời bước. Ba lần đọc bộ tạng kinh năm ngàn quyển. Đế sư mời Sư giảng thuyết, rồi nói với môn đồ rằng: " Đâu ngờ đất Hán lại có vị Tăng này. " Vua nghe được thỉnh Sư vào cung, ban chiếu trụ chùa Thái Nguyên phong tước Vinh Lộc Đại Sư. Kế đó Sư dời sang chùa Phổ Khánh, gia phong tước Khai phủ nghị Đồng Tam Ti, ấn chương nhất phẩm. Vương công, đại thần đều kính ngưỡng phong cách cao vời của Sư, giống như sao cảnh, phượng hoàng xuất hiện lúc sớm mai. Sau vua lại ban hiệu Thật Tướng Viên Minh Quang Giáo Luật Sư, và giới kinh chữ vàng của thời Liêu. Người đến Sư cầu thọ giới rất nhiều.
Tháng ba năm này sư ngồi Kiết già thị tịch, vua bang vàng bạc để lo an táng, có quan Tư nghị cầm tinh kỳ đưa tiễn (Thông Tải).
Tháng giêng năm Mậu Ngọ, niên hiệu Diên Hựu thứ năm, động đất ở Hi châu. Tháng hai động đất ở Hòa châu, núi lở ở Tần châu. Tháng bốn động đất ở Đức Khánh, núi lở ở Nam Độ vùi chết cả dân, vua ban chiếu cấp lương thực cứu tế.
Đặc phong Quốc Sư: Đạt Ích Ba theo hầu hạ Đế sư Đại Tát Tư Thuật mười ba năm, nghe giảng kinh luận, học tập đạo đức, huân tập lâu ngày, nên trở thành một bậc pháp khí. Phàm Kinh Luận Đại Tiểu Thừa, Bí mật thừa gồm hơn mười bộ đều được nghe giảng hoặc được truyền trao, Sư đã đạt được chỗ quy hướng của lý, chỗ đến của hành. Vì thế thanh danh vang đến hai kinh, đạo đức được trọng cả ba triều, phụng sự hai thánh nơi vương phủ. Sư ra sức cần khổ tu hành, phụng sự trong hơn hai mươi năm, được vua ban thưởng rất nhiều. Sau Sư trở về chùa Đại Quyết mà vua đã ban, lại được ban cho ấn vàng, rồi phong hiệu là Hoằng Pháp Phổ Tế Tam Tạng Hựu Thánh Quốc Sư.
Ngày sáu tháng năm năm này Sư thị tịch ở Kinh đô. Vua ban xe ngựa chuyển về an táng ở Thành kỹ. Thọ bảy mươi ba tuổi (Thông Tải)
Bản đồ trồng dâu: Vào tháng tám quan Tư nông miêu Hiếu Khiêm soạn và dâng lên vua nói: "Nông tang là gốc của y phục và thức ăn, bản đồ này rất tốt. " Vua sai khắc tu một ngàn bản, ban phát trong dân gian. Lại in Đại Học Diễn nghĩa ban cho các quan trong triều.
Năm Kỷ Mùi niên hiệu Diên Hựu thứ sáu.
Thiền sư Hổ Nham ở Kính sơn húy là Phục,
Thiền sư Bản Nguyên húy là Đạt, Thiền sư Hối Cơ húy là Hi,
Thiền sư Hư Cốc có thụy hiệu.
Lập Đại Vĩnh Thiền Tự tức Thanh tháp.
Phật Hộ Đại sư húy Bản Vô, hiệu Ngã Am, người ở Hoàng Nham, Thai châu. Thuở nhỏ Sư lễ Phương Sơn Bảo Công cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc, kế đến nương ngài Tịch Chiếu ở chùa Trung Thiên Trúc tham học mà có tỉnh ngộ. Sau chuyển sang nghiên cứu học tập giáo môn nơi ngài Trạm Đường Trừng Công. Thiền sư Tịch Chiếu thầm tiếc, nên gởi cho Sư một bài kệ rằng:
Xưa nay y giáo nhập Thiền tông
Từ thiền vào giáo rõ ràng không
Nhất tâm tam quán tuy sai biệt
Ngàn sông đầy nước một trăng trong.
Sau sư khai đường hoằng pháp nối hai dòng Tịch Chiếu và Trạm Đường. Đầu tiên, sư trụ trì chùa Diên Khánh ở Tứ Minh, sau trụ chùa Thượng Thiên Trúc ở Hàng châu. Một hôm, Sư không bệnh ngồi kiết già ở Bạch Vân đường thị tịch. Vua ban thụy hiệu là Phật Hộ Tuyên Giác Hiếu Từ Khuông Đạo Đại Sư. (Cao Tảng Truyện).
Diệu Văn Giảng Chủ. Sư xuất gia năm chín tuổi, mười tám tuổi thọ giới Cụ túc. Đầu tiên Sư nương Hòa thượng Viên ở chùa Đại Đức học giáo viên đốn, lúc thăng tòa thì luận biện vô ngại, như núi lở sông trôi, đến lúc nhàn cư thì lặng im chẳng một lời. Công phu hàm dưỡng rất sâu, không nhanh thì chẳng tiến, đại khái là như thế. Năm bốn mươi tám tuổi, sư trụ ở Vân Tuyền, Tô châu, sống đời cần kiệm, tiết dụng. Khiến người già thì mến mộ đạo đức của Sư, hàng trẻ thì tuân phục lời dạy của Sư. Vì thế đại chúng hòa mà chùa an. Nếu trong kho còn thừa lúa gạo, Sư phân phát cho người đói khổ, cho nên nhân dân vùng Tô châu khen ngợi. Vua Thế Tổ mời Sư diện kiến, vừa thấy vua liền nói với thị thần rằng: "Đây là phước đức Tăng" và ban chiếu trụ ở chùa Đai Bảo Tập ở Kinh đô. Từ đó giảng trường của giáo thừa ngày càng hưng thịnh, tánh, tướng đồng theo về, tăng tục đều được độ. Bấy giờ trong nước có rất nhiều giảng đường phần nhiều đều cố chấp nơi tánh tướng, trệ ngai vì khác đường. Chỉ một mình Sư hoằng dương Phương đẳng, đại chấn Viên tông, khiến cho kẻ bảo thủ vượt ra ngoài sự tịch mặc; hàng Long tượng tranh nhau chạy về Nhất thừa.
Đến năm ngoài tám mươi tuổi, Sư chuyên tu niệm Phật Tam-muội.
Một hôm Sư kết ấn thị tịch.
Ngày mồng một tháng giêng năm Canh Thân, niên hiệu Diên Hựu thứ bảy, có nhật thực. Vua giữ trai giới, không thọ ngự thiện. Sau đó vua băng hà.
Thụy là Nhân Tông Văn Anh Võ Chương Hoàng
Đế.
Tháng ba Thái tử lên ngôi, đại xá thiên hạ. Anh Tông.
Anh Tông: Húy là Thạc Đức Bát Thích, là con trưởng của Nhân Tông, tại vị được bốn năm, bị Ngự sử Thái phu Thiết Thất... hành thích nơi hành cung, thọ hai mươi mốt tuổi.
Vua là người chí hiếu, khi Nhân Tông bị bệnh, hằng đêm luôn thắp hương than khóc cầu trời, nguyện dùng thân mình chịu thay, đến khi Nhân Tông băng hà thì than khóc sầu khổ vượt lễ nghi, ngủ dưới đất, ngày ăn một chén cháo. Đến khi lên ngôi thì hành pháp vô tư, quả quyết trong việc tru diệt. Bọn gian đảng sợ tội nên tạo biến loạn.
Vua Thụy là Cách Kiên Hoàng Đế.
Tháng giêng năm Tân Dậu, niên hiệu Chí Trị thứ nhất, vua mặc tang phục dâng lễ cúng ở Thái miếu nói rằng: "Hàng năm Trẫm phải thân hành đến đây cúng tế, cho đến hết đời". Có người đề nghị đại xá thiên hạ, vua bèn nói: "Ân thì có thể thường ban cho, còn xá tội thì chẳng thể thường làm. Khiến cho kẻ giết người tránh khỏi tội, còn người chết thì nào có tội gì?"
Mồng một tháng hai xây dựng chùa Phật ở Tây Sơn. Tháng chín vua đến Hưng Hòa; trời lạnh quần thần thỉnh vua trở về cung. Vua nói: "Quân thì lấy trâu, ngựa làm trọng, dân thì lấy việc cấy gặt làm gốc. Muốn cho ngựa có được cỏ non, dân được thâu hoạch, thì có kể gì nóng lạnh?" Lập điện Đế Sư:
Vua ban chiếu cho các lộ lập điện Đế sư. Thích Nguyên Tông Chủ Pháp Hồng Phụng sắc soạn bia rằng: "Hoàng đế khải vận trời Bắc, khai phát Hạ bang (Trung Quốc, Hoa Hạ), Dương đại uy thần vũ, lập công cao hợp nhất. Nghĩ rằng không dùng sát mà thắng bạo tàn, đưa dân sinh đến nơi nhân thọ, pháp ấy không gì hơn Thích giáo. Cho nên tôn sùng đạo ấy để làm lớn mạnh gốc trị hóa. Vì Đế sư Bát Tư Bát có đạo của Thánh nhân, cho đến Hoàng đế chí tôn, tận lòng tôn kính như thầy. Sư dạy dùng yếu chỉ của chí đạo để thi hành trong chánh trị của Nho gia. Vì thế đức của Hoàng đế lan khắp bốn biển, ân nhuần thấm đến vạn bang, tất cả đều nhờ Đế Sư trợ giúp vậy".
Bài minh lược ghi rằng: Phật đạo rộng lớn như biển cả không bờ, khắp cùng trời đất, đồng thời nuôi dưỡng nhuần thấm vạn loài. Như bậc Thánh kia, trên đời chỉ một, đem cả đức năng, không phò vương quốc, giúp liệt vị Hoàng tổ khai cơ, Thánh thượng định yên Nam quốc, công sánh trời cao... Nay trụy tặng thụy là Hoàng Thiên Chi Hạ Nhất Nhân Chi Thượng... (Đã ghi đầy đủ ở văn trước). Triệu Mạnh Phủ viết chữ Son, Nguyên Minh Thiện viết ngạch bằng chữ Triện.
Hoằng Giáo Đại sư húy Liễu Tánh, hiệu Đại Lâm, họ Võ. Đầu tiên theo Hòa thượng An xuất gia, thọ giới Cụ túc. Sư trải qua các trường giảng, nghiên cứu sâu xa ba tạng. Sau gặp quốc sư Chân Giác mới khai mở được tâm nghi. Như Bá Lâm Đàm, Quan Phụ Hoài, Nam Dương Từ đều từ giáo học Hiền Thủ mà nổi tiếng một thời, Sư đều đến tham học và đã lãnh ngộ được huyền chỉ. Kế đó Sư lên phía Bắc đến các vùng Yên, Tô, ẩn danh nơi cung khuyết, mà nhàn nhã như đang sống nơi hải hồ, quên hẳn thế tục. Thành Tông sắc cho Sư trụ ở chùa Vạn Minh. Thanh danh vang khắp trong ngoài nước. Thái hậu xây chùa Đại Phổ Ninh ở núi Ngũ Đài, thỉnh Sư làm trụ trì đời thứ nhất. Sư chẳng cầu hợp thời, chẳng khuất người. Hàng tri thức tôn kính phong tiết của Sư.
Tháng chín năm này Sư thị tịch, thụy là Hoằng Giáo Đại Sư.
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Chí Trị thứ hai, có người nói Phật giáo có thể trị thiên hạ. Vua hỏi Thừa tướng Bái Trụ. Bái Trụ tâu rằng: "Đạo thanh tịnh tịch diệt dùng để tu thân thì được; còn như dùng để trị thiên hạ, ắt bỏ nhân nghĩa thì loạn cương thường".
Huyễn Đường Giảng Chủ húy Bảo Nghiêm, tự Sĩ Oai, con thứ của Khương Thị ở Thành Ký. Do gặp thời ly loạn, Sư và em đồng xuất gia làm Tăng. Sau tham yết Chân Giác đạt được yếu chỉ tông Hiền Thủ, và kế thừa dòng pháp này. Sư là người thuần phác, không hư dối... đắc tâm thanh tịnh như mặt nước lặng yên. Gặp Chân Giác ba lần ngồi ở đạo tràng, Sư và em liền theo hầu. Sau khi ngài Châu Giác thị tịch, Sư được kế thừa pháp tịch. Không bao lâu Sư phụng chiếu trụ trì chùa Phổ An và Hựu Quốc ở Đại Ngọc sơn.
Tháng bảy năm này Sư thị tịch.
Phật Quang Đại Sư húy Chí Đức, hiệu Vân Nham, người Đông Xương. Năm mười hai tuổi theo Hải Văn Hòa Thượng học kinh, theo Pháp Chiếu Hi Công học Tông Từ Ân đạt được yếu chỉ sâu xa. Niên hiệu Chí Nguyên, Thế Tổ triệu kiến ban yến tiệc và tử y, mời trụ chùa Thiên Hy và Tinh Trung. Hằng ngày Sư giảng sớ Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy Thức, Kim Cang. Vua đặc biệt ban cho Sư hiệu Phật Quang Đại Sư. Sư truyền giới pháp cho bảy chúng, khiến họ lập thệ chẳng phạm. Gặp năm mất mùa, Sư nấu cháo cứu giúp hàng vạn người đói khát. Sư trụ ở chùa Thiên Hy hơn ba mươi năm chỉ một y, một dép chưa từng thay đổi, quá ngọ chẳng ăn. Ban đêm thì ngồi ngay thẳng khổ tụng đến mù mắt. Một hôm bỗng mộng thấy một vị Phạm tăng đến nghinh tiếp ngồi nơi tòa cao của nội viện Đâu-suất, trên hư không rải hoa cúng dường. Nhân đó Sư thị hiện có bệnh đến ngày hai mươi bảy tháng hai năm này, Sư tụng kinh không ngớt, trong khoảnh khắc từ biệt chúng rồi an nhiên thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi; nhục thân nhập quan giữ lại hai mươi mốt ngày mà diện mạo vẫn hồng hào như lúc còn sống. Hỏa thiêu thâu được rất nhiều xá-lợi. Tháp thờ được lập ở Trương Gia sơn, Triệu Mạnh Phủ viết bài ký.
Năm Quý Hợi niên hiệu Chí Nguyên thứ ba, vua ban sắc chép Tạng kinh chữ vàng; học sĩ Ngô Trừng viết tựa rằng: "Chúa Thượng chép kinh là cầu phước cho dân, là một việc làm rất cao cả!"
Ngô Trừng tự là Huyễn Thanh, người Sùng Nhân, Phủ châu, thông suốt kinh truyện, dốc sức với cái học của Thánh hiền. Nguyên Minh tự phụ giỏi văn chương, nghe nói Trừng thấu đạt áo nghĩa của Thi, Thư, Xuân Thu, bèn khen rằng: "Cùng với Ngô Tiên sinh luận đàm giống như dò tìm nơi biển sâu". Đỗng sĩ Tuyển ghi: "Ngô Tiên Sinh là kẻ sĩ trong thiên hạ". Trừng từng nói với người học rằng: "Chu Tử đối với đạo thì lấy công cầu học làm đầu. Lục Tử Tỉnh lấy đức tánh tôn quý làm chủ. Cầu học chẳng lập gốc nơi đức tánh, thì điều tệ hại ắt là thiên về ngôn ngữ, giải thích. Cho nên học thì phải lấy đức tánh làm gốc". Ông lại nói: "Làm người thiện mà chết thì vượt lên trên, thông với thần minh đạt cực phẩm, sáng tỏ đồng nhật nguyệt. Làm kẻ ác mà chết thì đọa vào nơi ô uế; kẻ cực ác thì đồng với loài trùng kiến".
Tháng tám vua băng hà ở phòng ngủ nơi hành cung.
Thiền sư Trung Phong húy là Minh Bản, hiệu Trung Phong, dòng họ ở Tiền Đường. Lúc mới sinh có hiện điềm linh dị. Những trò chơi đùa lúc nhỏ của Sư đều là Phật sự. Đến tuổi niên thiếu nghe tụng đọc kinh giáo bèn đốt ngón tay khẩn thiết cầu Phật, ngày đêm siêng năng cần khổ, khi mệt thì tựa đầu vào cột mà nghỉ. Tự lập kỳ hạn khi nào được mới thôi nghỉ. Đến khi vào Tử quan thầm hợp tâm yếu, tụng kinh Kim Cang đến câu: "Gánh vác Như Lai", hoát nhiên khai ngộ, nhưng Sư cho rằng chỗ chứng ngộ của mình chưa cùng tột. Sau thấy nước chảy mới Đại ngộ. Từ đó thuyết pháp vô ngại, soạn rất nhiều sách lưu hành thế gian.
Nhân Tông nghe tiếng sai sứ mang lễ vật đến thỉnh nhưng Sư từ chối. Vua bèn ban cho Sư y Tăng-già-lê bằng sợi vàng và thụy là Phật Nhật Quảng Tuệ Phổ Ứng Quốc Sư.
Cùng năm này Sư thị tịch, thọ sáu mươi mốt tuổi, hạ lạp ba mươi lăm, trà-tỳ nhập tháp ở núi Thiên Mục.
Thiền sư Đoạn Nhai húy là Tòng Nhất, họ Thang, ở Đức Thanh, Hồ châu. Thuở nhỏ, Sư chẳng ăn cá thịt, tư chất thông minh, dáng mạo uy nghiêm. Sư thờ ngài Cao Phong và tham câu: "Một trở về đâu?" mà khai ngộ, bèn trình kệ rằng:
Đại địa, sơn hà một mảnh tuyết
Mặt trời vừa chiếu không còn vết
Từ đó chẳng còn nghi Phật tổ
Không phân Nam Bắc lẫn Tây Đông.
Ngài Trung Phong ấn khả và nói rằng: Về sau ông sẽ lên trên đỉnh núi chót vót phát ra tiếng rống lớn.
Về sau Sư đổi tên là Liễu Nghĩa. Vua ban hiệu là Phật Tuệ Viên Minh Chánh Giác Phổ Độ Đại
Sư.
Thái Định Đế: Định Đế tên là Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, con trưởng của Hiển Tông, cháu đích tôn của Dụ Tông. Đầu tiên được phong làm Tự Tấn Vương, khi Anh Tông bị hành thích thì chuyển chi thứ vào kế thừa đế vị. Vua tại vị được năm năm thì băng hà ở Thượng đô.
Trong thời gian vua tại vị thì tai họa xảy ra liên miên, nhưng nhờ vẫn theo phép tắc đời trước trị dân, nên thiên hạ vô sự, thật là thời bình trị. Vua đổi niên hiệu hai lần là Thái Định và Trí Hòa. Vua nói: Phàm phòng ngừa sự việc khi còn nhỏ thì dễ, nếu để sự việc xảy ra lớn thì có cứu cũng khó. Nên nói rõ cho mọi người hầu biết được điều nên cẩn thận.
Năm Giáp Tý niên hiệu Thái Định thứ nhất.
Năm Ất Sửu niên hiệu Thái Định thứ hai.
Năm Bính Dần niên hiệu Thái Định thứ ba. Vua ban chiếu cấm các vị tăng Tây Tạng phóng ngựa nhiễu dân.
Năm Đinh Mẹo, Đế Sư Công Ca La thị tịch.
Năm Mậu Thìn niên hiệu Chí Hòa thứ nhất, vào tháng bảy vua băng hà, không lập miếu hiệu. Tháng chín Văn Tông tạm kế vị, đổi niên hiệu là Thiên Lịch nguyên niên, lễ Công Ca Bốc Văn Quốc Công làm thầy, lập Quảng Giáo Tổng Quản Phủ thống lãnh Tăng Ni.
Minh Tông
Minh Tông: Tên là Hòa Thế Đông, trưởng tử của Võ Tông. Đầu tiên được phong làm Châu Vương trấn giữ Vân Nam. Khi Thái Định Đế băng hà, Văn Tông sai sứ đón trở về lên ngôi ở Bắc Hòa Ninh, lập Văn Tông làm hoàng Thái tử. Ở ngôi mới được nửa năm thì bị bạo bệnh mà băng.
Trương Dưỡng Hạo tự là Huyễn, có hành nghi tốt siêng năng học tập, làm quan đến Trung thừa. Có soạn một bộ sách gồm ba quyển: Một là Triều Đường Trung Cáo, hai là Phong Hiếu Trung Cáo, ba là Mục Dân Trung Cáo. Sau khi chết, vua tặng hiệu là Bình Chương, thụy Văn Trung.
Văn Tông: Tên là Đồ Chiêm Mục Nhĩ là con thứ của Võ Tông, em của Minh Đế. Đầu tiên phong làm Hoài Vương trấn giữ Kiến khang. Đến tháng chín niên hiệu Trí Hòa thứ nhất thì tạm kế thừa ngôi vị Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Lịch. Năm Thiên Lịch thứ hai đón Minh Tông từ sa mạc trở về lên ngôi. Sau khi Minh Tông băng hà thì ông kế vị.
Năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Lịch thứ hai, vua sắc xây dựng chùa Long Tường Lập Khánh ở Kiến Khang, chùa Sùng Hi Vạn Thọ ở Tưởng Sơn, lệnh cho các quan giỏi văn chương gom tập kinh điển và các bộ sách lớn của thế gian. Đổi Kiến Khang thành Lộ Tập Khánh, tôn vị Tăng Tây Tạng là Liễn Chân Ngật Thích Tư làm Đế Sư. Khi Sư đến, vua bảo các triều thần từ nhất phẩm trở xuống phải ra ngoài thành nghinh đón, các đại thần đều phủ phục dâng rượu nhưng Đế Sư chẳng động. Chỉ có quan Quốc Tử Tế Tửu Bột Mộc Lỗ Thân đứng thẳng dâng rượu và nói rằng: "Đế Sư là đệ tử của Thíchca, thầy của Tăng nhân trong thiên hạ; tôi là môn đồ của Khổng Tử, là thầy của Nho sĩ trong thiên hạ, xin được không thi lễ". Đế Sư cười đứng dậy nâng chén rượu uống hết. Mọi người đều kinh sợ.
Năm Bính Ngọ, niên hiệu Chí Thuận thứ nhất gia phong cha của Khổng Tử là Thúc Lương Hột là Khải Thánh Vương, mẹ là Nhan Thị là Khải Thánh phu nhân, Nhan Tử là phục Thánh Công, Tăng tử là Tông Thánh Công, Tử Tư là Thuật Thánh Công, Mạnh Tử là Á Thánh Công.
Tuệ Quang Thiền sư tên là Thích Dung Chiếu, tự Tuệ Quang, thọ học nơi Hoa Tạng, tu tập Thiên Thai Giáo Quán. Sau theo Pháp sư Trạm ở Uyên Tẩu đến trụ chùa Diên khánh ở Hoa Đình, ra sức nghiên cứu giáo thừa, đồng thời siêng năng tu tập Thiền định, ngày đêm sáng tối chưa từng gián đoạn. Học do chí mà đạt đến, làm nghi biểu chốn tòng lâm, dẫn dắt giúp đỡ đại chúng hơn bốn mươi năm, thanh danh vang đến kinh đô. Vua biết được nên có thưởng và ban hiệu. Mỗi năm vào Tết Nguyên đán Sư dẫn chúng tu pháp sám kim Quang Minh, cầu Hoàng đế tăng thọ. Ngoài thời gian thuyết pháp, Sư dốc sức lễ sám để cùng với chúng sinh quét sạch trần cấu, gom nhóm căn lành, về già Sư càng siêng năng tu tập. Người đạt được pháp của Sư có ba vị, Tăng Truyện ghi đó là Cư Giản, Tông Cừ và Tông Quyền đều là Long tượng của pháp môn.
Phạm Quách tự là Đức Cơ, người Thanh Giang, có thiên tư đĩnh ngộ khác người. Tuy thân gầy nhưng chịu thanh bần khắc khổ, giống như đứa trẻ, nhưng lại siêu nhiên vượt ngoài dòng thế tục. Ngô Trừng cho ông là kẻ sĩ độc lập độc hành, đúng là bậc quân tử của đất Hán ở phương Đông, chứ chẳng phải là hư danh.
Năm Tân Mùi niên hiệu Chí Thuận thứ hai, Hàn lâm học sĩ Ngô Trừng qua đời, ông có chú thích các bộ Dịch, Xuân Thu, Lễ Ký và hiệu đính các sách như Hoàng Đế Cực Kinh, Thế Thư, Đại Đới lễ. Vua tặng tước Lâm Xuyên Quận Công, thụy là Văn Chánh.
Năm Nhâm Thân, niên hiệu Chí Thuận thứ ba. Vào tháng bốn động đất ở Thiên Ninh, tháng năm động đất ở Kinh đô, có phát ra âm thanh. Bạch hồng tịnh nhật (vầng trắng vây quanh mặt trời) xuất hiện lan khắp bầu trời. Tháng tám trống trời vang ở Đông bắc; Kinh đô, Thiểm tây có động đất, vua băng hà ở Thượng đô.
Ninh Tông
Ninh Tông: Tên là Hi Lân Chân Ban, con thứ của Minh Tông. Đầu tiên được phong làm Phu vương. Khi Văn Tông sắp băng hà, di chiếu truyền ngôi cho ông, bấy giờ vua mới bảy tuổi, tại vị mới hai tháng thì băng hà.
Lâm Đàn Đại Đức húy là Tuệ Vấn, họ Trương người ở Quy Đức. Đầu tiên Sư nương một bậc kỳ túc là Công Công mà xuất gia, năm hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc. Sau theo Đại Đức Ôn Công thọ giới Bồ-tát, rồi kế thừa dòng pháp của Đàn chủ Ân Công. Từ đó hành nghiệp ngày càng tăng tiến, tiếng tăm ngày càng vang xa, người theo học ngày càng đông. Sư giữ gìn trai giới rất nghiêm, giữ gìn ca-sa rất cẩn mật, đi nơi đâu bên thân cũng đầy đủ ba y, một bát. Suốt ngày chỉ chăm chăm niệm Phật.
Tăng tục cùng nhau đến Sư cầu giới rất nhiều, nhận một lời chỉ dạy không ai chẳng vui mừng cảm động lãnh thọ. Sư thuyết pháp hơn vài mươi năm, đăng đàn truyền giới hơn bốn mươi hội; các Đại thần đối với Sư đều theo lễ thầy trò. Người được Sư giáo hóa có hơn vạn. Vào ngày hai mươi hai tháng mười một năm này Sư thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi
(Phật Tổ Thông Tải)
Thuận Tông
Thuận Tông: Tên là Thỏa Quán Thiếp Mục Nhĩ, con trưởng của Minh Tông, vào đời Văn Tông, vì bị dèm siễm nên ông phải ra ở Quảng Tây. Khi Minh Tông băng hà ông được lên ngôi, tại vị ba mươi sáu năm, khi quân nhà Minh vào kinh thành, ông chạy đến Ứng xương, ở đây được một năm thì băng hà.
Ngày mồng tám tháng sáu năm Quý Dậu, niên hiệu Nguyên Thống thứ nhất, vua lên ngôi, đổi niên hiệu ba lần là Nguyên Thống (hai năm), Chí Nguyên (sáu năm), Chí Chánh (hai mươi bảy năm). Vua lễ thỉnh Công Ca Nhi Lam Tang Ban Tang Bốc làm Đế Sư.
Pháp Sư Thiên Trúc húy Chân Tịnh, tự Như Am, Hoa Đình, họ Diêu. Một hôm mẹ Sư là Chu Thị nằm mộng thấy mặt trăng rơi vào bụng mà có thai Sư, khi sinh có ánh sáng lành chiếu sáng khắp phòng, có một vị Tăng lạ đến chỉ đứa trẻ và nói với người mẹ rằng: "Đứa bé này là Pháp Sư Hải
Nguyệt sinh trở lại".
Năm lên chín tuổi Sư nương Minh Tỉnh Chí Công học kinh Pháp Hoa, vừa qua tai thì thuộc lòng; mười sáu tuổi được độ làm Tăng, học rộng các thừa. Đầu tiên tham yết Vân Mộng Trạch Công, Vô Cực Độ Công, đạt được hết sở học. Trong các năm Đại Đức (1297-1308), Sư trụ ở Đức Tạng, Hải Diêm. Đến các năm Chí Trị (1321-1324) Sư chuyển sang trụ ở Siêu Quả Tùng Giang. Trong các năm Thái Định (1324-1328) thì trụ ở Hạ Thiên Trúc. Sư đề ba chữ "Phật Quốc Sơn" trên cổng lớn của chùa để cho mọi người biết. Trong các năm Chí Thuận (1330-1333) Sư được ngài Trạm Đường Trừng Công đề cử làm người kế thừa. Sư tận tâm lực hoằng pháp, người học tụ tập cả ngàn vị. Vua mến mộ đạo đức của Sư nên ban hiệu là Phật Tâm Hoằng Biện và Ca-sa Tăng-già-lê viền sợi vàng. Sư lấy việc tụng kinh Pháp Hoa làm thời khóa, dù lạnh nóng chưa từng thiếu sót. Vào năm này Sư thị hiện có bệnh, viết kệ để lại rồi thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hạ lạp. Sau khi trà-tỳ thu được nhiều xá-lợi năm màu, lưỡi và xương đầu chẳng cháy. Tháp thờ được lập ở bản sơn (Tăng Truyện).
Mồng một tháng giêng năm giáp Tuất, niên hiệu Nguyên Thống thứ hai, mưa máu ở Biện Lương, thấm đỏ cả quần áo. Tháng ba mưa lông ở Chương Đức, giống như sợi tơ màu xanh, trong dân gian có bài đồng dao rằng: "Trời mưa tơ xuống, nhân dân sinh oán, cả đất Trung nguyên, ắt có tai biến, lụt lội hạn hán, thay nhau phát sinh"; tháng bảy có sao băng lớn như cái bát, màu đỏ có ánh sáng. Tháng tám có động đất ở Kinh đô, trời rạng sáng thì núi lở, phá thành một cái ao rộng trăm dặm.
Năm Ất Hợi, đổi niên hiệu là Chí Nguyên thứ nhất.
Năm Bính Tý, niên hiệu Chí Nguyên thứ hai, động đất ở Túc Tòng núi bị xé; Tần châu núi lở, sâu lúa xuất hiện ở Hoàng châu; còn ở Triết Giang từ mùa Xuân cho đến tháng tám trời vẫn không mưa, nhân dân đói khổ, vua ban chiếu cứu trợ.
Tháng bốn năm Đinh Sửu, niên hiệu Chí Nguyên, một ngôi sao xuất hiện ở Vương Lương đến tháng bảy mới tắt ở Quán Sách, tên của ngôi sao này định là ngôi sao Phòng, chủ về loài ngựa, lại có tên là Thiên tứ. Vì Vương Lương giỏi biết ngựa cho nên đặt tên như thế. Tháng năm dân gian có lời đồn rằng: "Triều đình tuyển chọn các đồng nam đồng nữ", cho nên đồng loạt cưới nhau hết.
Sao chổi xuất hiện ở Đông bắc. Tháng bảy ở huyện Võ Thiệp có sâu lúa xuất hiện, Y Trương Khoan ngửa mặt lên trời nguyện rằng: "Hãy giết chết Y này, chớ làm tổn thương trăm họ!" Quạ đen ăn hết loài sâu này. Vua sai khắc bản bộ luận do Kim Lý Tường soạn, đồng thời khảo chứng và cho lưu hành, trong đó môn nhân của Lý Tường là Hứa Khiêm viết lời tựa.
Hứa Khiêm tự là Ích Chi, học tập nơi Kim Lý Tường. Lý Tường dạy rằng: "Nho học của ta, lý chỉ là một mà phân biệt khác nhau, Lý chẳng lo chẳng phải một, điều đáng ngại là ở nơi phân biệt!" Do đó Hứa Khiêm đặt sự luận biện ở nơi phân biệt, mà cốt yếu là quy về Nhất lý. Kim Lý Tường lại dạy: "Đạo của Thánh nhân chỉ ở nơi trung mà thôi!" Do đó Hứa Khiêm đối với mọi sự chỉ cầu chỗ Trung mà sử dụng, và tự cho rằng ta chẳng phải là người có lỗi lớn, chỉ vì dụng công học tập không gián đoạn. Giáo của ông lấy ngũ tánh, nhân luân làm gốc; lấy thuật khai minh tâm, biến hóa khí chất làm đầu; lấy sự vị kỷ làm then chốt để lập tâm; lấy sự phân biệt nghĩa lợi làm phép tắc xử sự. Ông từng nói: "Hoặc giả mình đã biết lại làm cho người cũng được biết, như thế há chẳng sung sướng lắm ư?"
Cũng năm này ông qua đời, thọ sáu mươi tám tuổi, hàng môn nhân gọi ông là Bạch Vân Tiên sinh. Ông có soạn Tứ Thư Tòng Thuyết Thi, Danh Vật Sao, Độc Thư Truyện, Quán Sử. Sau vua ban thụy là Văn Ý.
Đồng thời Trần Nhạc ở Hưu Ninh, Hồ Nhất
Quế ở Vụ Nguyên đều vì giảng cái học minh đạo mà được kính trọng bấy giờ.
Thái Bạch là tượng của Thượng Công Đại Tướng Quân xuất ở hướng Tây sẽ lặn ở Tây, xuất phương Đông sẽ lặn ở Đông. Quá ngọ là đã đi qua bầu trời, cho rằng ban ngày thấy hiện ở trên trời. Thái bạch là sao Thiếu âm, lấy cung Kỷ Mùi làm giới hạn, nhưng đi qua cả bầu trời là vì có điềm chẳng thần phục mà khởi binh.
Tháng giêng năm Mậu Dần, niên hiệu Chí Nguyên thứ tư, vì họa động đất mà đại xá thiên hạ. Tháng bốn mưa đá, hạt lớn như nắm tay, có các dạng như vòng, xuyến, sư tử, voi... Núi chấn động ở Tín châu, mưa lớn ở Thiệu Vũ, nước ngập hai trượng. Núi lở ở Củng Xương, chôn vùi nhiều người.
Tháng bốn mùa hạ năm Kỷ Mão, niên hiệu Chí Nguyên thứ năm, gia phong hiếu nữ Tào Nga hiệu là Tuệ Cảm Linh Hiếu Chiêu Thuận Thuần Ý Phu Nhân.
Tháng sáu ở Đinh châu nước dâng hơn ba trượng, ngập cả nhà cửa ruộng vườn.
Sao Thái bạch thường đi qua bầu trời.
Tông Chu Pháp Sư húy là Tử Văn, người Tứ Minh, đắc pháp nơi ngài Bắc khê, Văn Công, đầu tiên ra trụ ở chùa Bảo Vân, thông đạt giáo quán, nghiêm trì luật nghi. Lúc bình thường thì nói năng chậm chạp, nhưng một khi lên tòa thì luận biện thao thao, như nước trên cao đổ xuống không gì ngăn được. Lúc lâm chung Sư còn giảng kinh Thập Lục Quán, giảng xong liền thăng tòa từ biệt chúng mà thị tịch.
Có người thưa hỏi Sư rằng: Về hậu sự Hòa thượng chưa từng dặn dò chỉ dạy, đến lúc ấy thì báo thị tịch như thế nào? Sư đáp: "Đã là Tăng thì việc cần làm liền làm, chớ làm theo kẻ thế tục, vì nhi nữ chấp trước tính toán mà có hậu sự!"
Đại chúng tha thiết khẩn cầu. Nhưng Sư liền xuống tòa, trở về phương trượng, mỗi mỗi đều ghi chép. Sau đó chắp tay niệm, danh hiệu Tây Phương Tứ Thánh, hồi hướng phát nguyện xong thì thị tịch. Sau khi trà-tỳ thâu được vô số xá-lợi (Tăng Truyện)
Năm Canh Thìn niên hiệu Chí Nguyên thứ sáu, xử sĩ Ngô Lai luận về làm văn giống như dùng binh, có chánh có kỳ, chánh là pháp độ, như đội ngũ phân minh. Kỳ tức chẳng bị pháp độ trói buộc, thiên biến vạn hóa, thì chẳng từng loạn động.
Thiên Như Thiền Sư húy là Duy Tắc, đắc pháp nơi Trung Phong Quốc Sư, trụ ở Sư Tử lâm, Cô Tô. Sư có soạn Lăng-nghiêm Hội Giải, Thiểu Tông
Ngữ Lực, Tịnh Hoặc Vấn, Thập Pháp Giới Đồ Thuyết lưu hành ở đời.
Nguyên Toái Pháp sư người ở Thiều Khê, sư có các tác phẩm Viên Giác Kinh Tập Chú lưu hành ở đời.
Hưu Canh Pháp Sư húy là Dật, một trong ba cao đồ của ngài Vân Môn, sư có Thi Văn Tập lưu hành ở đời.
Năm Tân Tỵ, niên hiệu Chí Chánh thứ nhất, vua xem sách của Tống Huy Tông và khen hay. Học sĩ Lăng Lăng tâu rằng: Huy Tông thật đa năng, nhưng có một việc bất năng, mà thân bị nhục nước bị mất đều là do chẳng thể làm vua dẫn đến (Bất năng vi quân sở trí). Bậc nhân chủ quý ở chỗ là có năng lực làm vua.
Nguyên Tẩu Thiền Sư húy Hành Đoan, họ Hà ở Lâm Hải, xuất gia ở viện Hóa Thành, tham học nơi ngài Kính Sơn Tạng Tẩu mà đạt được yếu chỉ. Năm Canh Tý, niên hiệu Đại Đức Sư khai đường thuyết giảng ở chùa Tư Phước, Hồ châu, tiếng tăm vang đến kinh thành, vua hạ chiếu ban hiệu Tuệ Văn Chánh Biện, tước Bình Chương, Trương Lư Công, từ Trung Thiên Trúc chuyển sang trụ ở Linh Ẩn. Vua ban chiếu lập hội Thủy Lục Trai ở Kim sơn, thỉnh Sư thuyết pháp, lại theo chiếu mà vào cung, tâu đối rất hợp ý vua, nên gia phong hiệu Phật Nhật Phổ Chiếu. Sau trở về Nam ẩn cư tại Tây Am. Năm Nhâm Tuất niên hiệu Chí Trị đồ chúng thỉnh Sư trụ Kính Sơn. Ba lần được ban y Kim lan, mọi người đều cho là vinh hiển, còn Sư vẫn tự như.
Đầu tiên Tống Độ Tông lập đàn, tâu trình lên thiên đình gặp Thượng đế, vì việc trụ trì đời bốn mươi tám của Kính Sơn, đời bốn mươi bốn của Hổ Nham, cho rằng việc trụ trì há thể vội vàng tự ý được ư? Tất cả đều do Thiên Đình sự định. Sư nghe điều này ra sức phản bác. Và Sư là người thích hợp để kế thừa.
Ngu Am Thiền sư húy là Siêu Trí, tự Dĩ Trung, người Cô Tô, đắc pháp nơi Nguyên Tẩu Hành Đoan. Sư lần lượt trụ trì chùa Long Giáo và Phổ Từ. Vua ban hiệu là Minh Biện Chánh Tông Quảng Tuệ Thiền sư. Sau đó lên Tịnh Từ rồi trụ trì ở Kính Sơn. Đã bốn lần lên tòa cao xiển dương Phật pháp, chấn động khiến trời người quỷ thần đều nghe. Tăng tục đến tham học rất đông. Sau đệ tử của Sư gom tập ngữ lục ở bốn hội, Tống Văn Hiếu viết lời tựa vô cùng tán dương, phát khởi lòng tin kính cho mọi người.
Mai Ốc Thiền Sư húy là Niệm Thường, sống ở Hoa Đình, họ Hoàng. Một hôm mẹ ngài là Dương thị cầu khẩn Quan Âm Đại Sĩ, thì đêm ấy mộng thấy một vị lão Tăng lông mi dài gá vào mà có thai Sư. Khi sinh Sư, có ánh sáng kỳ diệu chiếu khắp phòng, và mùi hương lạ xông khắp. Sư xuất gia ở viện Viên Minh, Bình Giang học tập các kinh điển, kế đến tham học nơi Hối Cơ Hy Công mà tỉnh ngộ. Sau đó Sư lễ bái ở Ngũ Đài sơn, rồi đến Kinh đô, được Đế Sư tôn ngưỡng, mời dự vào hội chép Tạng Kinh chữ vàng. Sư soạn Phật Tổ Thông Tải, gom chép đầy đủ sự tích của pháp môn qua các thời đại. Sư trụ trì ở Tường Phú, là một bậc siêu xuất trong hàng Tăng.
Dụng Minh Thiền sư húy là Ân, người Tứ
Minh. Sư có tác phẩm Văn Tập lưu hành thế gian. Đoạn Giang Thiền sư húy là Ân, một trong ba cao đồ của ngài Vân Môn.
Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Chí Chánh thứ hai, người ở Đại đồng ăn thịt lẫn nhau, động đất phát ra âm thanh như sấm, núi La Phù ở Tuệ châu bị lở.
Năm Quý Mùi, niên hiệu Chí Chánh thứ ba, vua ban chiếu tu chỉnh ba bộ sử Liêu, Kim và Tống, phong Thoát Thoát làm quan Đô Tổng Tài.
Học sĩ Yết Hệ Tư tự là Mạn Thạc, người ở Phong Thành. Thoát Thoát hỏi ông việc chánh trị lấy gì làm đầu? Ông đáp rằng: "Lấy việc tích tụ nhân tài làm đầu. Nuôi dưỡng họ khi danh vọng của họ chưa có được, sử dụng họ sau khi họ đã hoàn toàn nắm được các việc, thì mới được". Sau ông qua đời được phong tước Quận Công, thụy là Văn An.
Trạm Đường Pháp sư húy Tánh Trừng, hiệu
Việt Khê, họ Tôn, người Cối Kê, mẹ ngài là Khương thị một hôm nằm mộng thấy mặt trời mà có thai, sinh ra Sư. Đầu tiên Sư lễ Luật sư Thù ở Thạch Môn cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc, hiểu sâu nghĩa "chỉ trì tác phạm". Kế đến nương Phật Giám Thiểm Công học Thiên Thai giáo quán, lại tham yết Vân Mộng Trạch Công thì càng thêm được kính trọng. Sư xin khôi phục lại Thiên Thai Quốc Thanh tự, sang Cao Ly tìm cầu những kinh điển bị thất lạc của tông Thiên Thai. Nước Ngô Việt bị hạn hán lớn, Sư tập chúng thuyết pháp, cầu mưa, có ứng nghiệm. Nhằm năm mất mùa nhân dân đói khát chết chóc nhiều không thể khâm liệm hết được, Sư bèn chôn cất các thi hài ấy và lập Thủy Lục đại hội để cứu độ.
Trong khoảng niên hiệu Chí Trị, Sư vâng chiếu vào kinh, vua hỏi đạo ở điện Minh Nhân, sắc trụ trì chùa Thanh Tháp, hiệu đính Đại Tạng Kinh. Vua đặc biệt ban y Kim lan và hiệu là Phật Hải Đại Sư. Sau Sư trở về Vân Ngoại Trai ở Thiên Trúc, rồi chùa Phật Quả ở đất Việt dốc chí tu Tịnh độ. Sư tu Nhất tâm Tam quán bảy ngày đêm cảm được điềm lành. Một hôm Sư tập chúng lại nói rằng: "Hôm nay thì có, sợ rằng mai không, ngày giờ có thể nắm bắt đùa giỡn ư?" Sáng sớm hôm sau Sư ngồi ngay thẳng thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp. Nhập kim quan bảy ngày mà dung mạo vẫn tươi nhuận như lúc còn sống.
Tác phẩm của Sư có Kim Cang Tập Chú, Tâm Kinh Chú, Tiêu Tai Kinh Chú, Di-đà Kinh Cú Giải, Nhân Vương Kinh Khoa, Như Ý Luân Chú Kinh Khoa lưu hành thế gian (Tăng Truyện).
Năm Giáp Thân niên hiệu Chí Chánh thứ tư các vị Tăng trụ trì các chùa xin khôi phục Tăng ti, tấu sớ có đoạn ghi: "Bị các quận huyện bức khổ như ngồi trong địa ngục". Thoát Thoát lại ghi: "Nếu khôi phục Tăng ti thì đâu khác gì lập địa ngục trong địa ngục", nên chẳng chấp nhận.
Tiếu Ẩn Pháp sư húy là Hân, thụy hiệu là Quảng Trí Toàn Ngộ Đại Thiền sư. Lúc xưa khi Văn Tông chưa lên ngôi có lập chùa Long Tướng Đại Tập Khánh, thỉnh Sư trụ trì, ban chức Đại Trung Đại phu quản lý các việc trong chùa viện. Sư phụng sắc hiệu chỉnh Bách Trượng Thanh Quy do Đức Huy biên tập lại. Vào ngày mười bốn tháng năm năm này Sư thị tịch, tháng tám nhập tháp ở núi Bát Vân, phía Nam kinh thành, gần tháp ngài Khương Tăng Hội. Hành nghiệp và đạo hạnh của Sư có ghi chép đầy đủ trong Ngu Văn Tĩnh Học Cổ Lục và trong Hoàng Văn Hiến Tống Văn Hiến Nhị Công Bi Minh.
Đệ tử đắc pháp của Sư có ngài Tông Lặc, tự Quý Đàm, trong niên hiệu Hồng Võ trụ trì chùa Thiên Giới, tiếng tăm vang xa. Bấy giờ triều đình càng trưng dụng kẻ sĩ làm quan rất nhiều, Sư nói rằng: "Ẩn sĩ không cầu mong nơi triều đình, triều đình cần cầu nơi ẩn sĩ. Như thế danh tước có gì đáng tiếc?"
Năm Ất Sửu niên hiệu Chí Chánh thứ năm, Thừa Chỉ Lăng Lăng khi gặp việc thì tinh anh bộc phát, sôi nổi luận biện. Mỗi khi đất nước gặp phải thiên biến, dân chúng bị tai họa, ông khuyên vua, xét thân tu hành, ngõ hầu có thể làm cho trời chuyển ý. Ông rất giỏi viết chữ, sau khi ông qua đời, người ta tranh nhau những tờ giấy ông đã viết để làm của báu.
Ba bộ sử Tống, Kim, Liêu đã hoàn thành, vua nói: Sử đã hoàn thành, đối với người thiện đời trước, Trẫm nên theo đó để làm phép tắc, đối với kẻ ác đời trước, Trẫm phải nên lấy đó để răn mình. Đâu chỉ làm vua làm thần mới xem, mà tất cả cũng phải biết, hầu dùng cái thiện cái ác đời trước để tự khuyên răn.
Năm Bính Tuất niên hiệu Chí Chánh thứ sáu, động đất kéo dài bảy ngày ở Sơn Đông, ở Thiệu Võ động đất phát ra âm thanh như tiếng trống, vỡ đê Hoàng hà, Lý Khôi tâu xin cúng tế đền miếu ngoài thành nên gần gũi chánh nhân, xa lánh tà nịnh, tôn dương mà chế phục âm.
Mồng một tháng giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Chí Chánh thứ bảy, nhật thực, tiết đại hàn mà gió mạnh thổi các quan đi chầu té ngã. Ở Đông bình có động đất, Sơn Đông có động đất làm thành quách bị hư hoại, âm thanh phát ra như sấm, nước sông giao động.
Thiền sư Trúc Nguyên húy Thủy Thạnh, tự Trúc Nguyên, tự hiệu là Vô Trụ Ông, người Lạc Bình, họ Phạm. Mẹ Sư họ Từ, khi sinh có ánh sáng lành chiếu khắp nhà. Đầu tiên Sư lễ Thường Sơn Công cầu xuất gia, kế đến tham học nơi Nguyệt Đình Trung Công, sau tham kiến Cô Đan Tế mới tự tin rằng nhất định có thể chứng được pháp. Vì thế mà phát nguyện rằng: "Nếu đời này ta không làm Phật, thì sẽ vào địa ngục Vô gián". Do đó dốc sức tham cứu mấy lần khai ngộ. Tế Công thọ ký rằng: "Về sau ông sẽ xiển dương Tông ta hưng thạnh". Trong những năm Thiên Lịch, đại chúng lễ thỉnh Sư trụ chùa Diệu Quả ở Tây Hồ. Hàng Công Khanh đồng thời cùng Sư kết bạn phương ngoại, giao du rất thân thiết. Ngày hai mươi bốn tháng bốn năm này, sau khi viết kệ, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi. Sư dặn bảo môn đồ rằng: "Cần phải thấu suốt tâm tông của chư Phật, hành giải mới tương ưng".
Lý Quý Quang người Ôn châu, lúc thiếu thời đã làu thông kinh sử, dốc chí học nghiệp, làm văn chỉ theo phép tắc của cổ văn đời Tần Hán, không bị câu thúc nơi sự ưa chuộng đương thời.
Chu Công Thiên tự Khắc Thăng, chuyên về trước thuật. Ông có soạn Thư Truyện Sớ Nghĩa, Tứ Thư Ước Thuyết, Tứ Thư Thông Chỉ lưu hành ở đời.
Năm Mậu Tý, niên hiệu Chí Chánh.
Dương Tái tự là Trọng Hoằng, người Hàng châu. Đối với văn chương ông chủ trương lấy khí làm chủ, tự lập thành một phái riêng; còn đối với Thi đặc sắc nhất là có pháp độ lấy thể tài từ Sở Hán, mà âm tiết thì lại lấy Đường thi làm tông.
Học sĩ Ngu Tập tự là Bá Sinh, cha ông tên là Cấp có lời văn rất thanh mà thuần, mẹ là Dương thị cũng thông kinh sử, em là Bàn tự Trọng Thường; một gia đình tiến sĩ. Bàn là Đào Am, Tập là Thiều Am. Ông từng nói: "Thử văn tài mà biết người cao mà chiêu mộ, bất tất phải có chủ ý trước, nếu chủ ý định trước thì tâm cầu hiển nhỏ hẹp mà sai lệch bắt đầu từ đây". Tháng mười một năm này Phương Quốc Trân làm loạn ở Thai châu, tụ tập bè đảng trên biển. Triều đình ban cho quan tước mà chẳng nhận. Thế lực ngày càng mạnh.
Phương Quốc Trân người Quảng Nham, còn gọi là Cốc Trân. Trân có bốn anh em, đầu tiên nhân bày tiệc rượu mưu sát điền chủ, việc bị lộ nên kháng cự giết những người đến bắt. Sau quan quân đến cũng giết hết; bốn anh em bèn chạy trốn, sống trên biển hơn mười năm, mới đánh Chương châu, làm cướp biển quấy rối vùng này. Bấy giờ những người văn hay võ giỏi đều bị giặc cướp này hãm hại. Từ khi Thái Bất Hoa bị trúng kế chết thì thế lực cướp biển ngày càng mạnh, chiếm cứ mười hai quận ở Ôn và Thai hơn mười tám năm. Khi Thái Tổ lên ngôi, thì bọn cướp chạy trốn ra biển và quy phục.
Tháng bốn năm Kỷ Sửu, niên hiệu Chí Chánh thứ chín có người đàn bà họ Trương sinh một bé trai, mới một tuổi mà đã cao bốn thước (1, 2 m), dung mạo dị thường, bụng lớn phệ như tượng Hòa thượng Bố Đại mà thế tục đã vẽ, đứa bé thấy mọi người thì cười.
Lý Hiếu Văn soạn Dụ Đức Tập, Đoan Bản Đường Kinh Sử Yếu Nghĩa, Đại Bảo Lục, Đại Bảo Quy Giám dâng lên vua. Một hôm hoàng Thái tử đến điện Thanh Ninh sắp xếp giảng tòa mời thỉnh các danh tăng Cao Ly và Tây Phiên đến giảng. Thái tử nói rằng: "Lý Hiếu Văn tiên sinh dạy Nho học cho ta đã nhiều năm, nhưng ta chưa hiểu được ý nghĩa; hôm nay chỉ một đêm nghe Phật pháp mà ta đã thấu rõ". Do đó càng tôn sùng Phật học.
Đại Đạo trụ trì chùa Thiên Long húy là Thiện Bình, lập Tòng Quế lâu để cư trụ, học tập nơi ngài Khánh Am hỏi đạo pháp nơi ngài Trung Phong.
Năm Canh Dần niên hiệu Chí Chánh thứ mười. Thiên thạch rơi ở Đệ châu, núi xé lở ở Phụng châu, tháng sáu có ngôi sao lớn như mặt trăng vào phạm vi của Bắc đẩu phát ra âm thanh như sấm. Tháng mười một có nhật thực, hai ngôi sao rơi ở Diệu châu thành đá có hình dáng như cái búa.
Năm Tân Mão, niên hiệu Chí Chánh thứ mười một, vua ban lệnh tu sửa đê Hoàng hà, huy động quân dân hai vùng bờ Nam Bắc đến mười bảy vạn người, tu sửa được hai trăm tám mươi dặm. Ở đoạn Hoàng Lăng Cương có nhặt được con mắt của người đá. Dân gian có bài đồng dao rằng:
"Một con mắt của người đá, làm dấy động nước Hoàng hà, thiên hạ nổi dậy làm phản".
Lưu Phúc Thông, người Dĩnh châu, vào tháng năm năm này lấy khăn hồng làm hiệu vây hãm Dĩnh châu, đến tháng sáu thì chiếm cứ Chu Cao, công phá La Sơn, Chân Dương, Xác Sơn, vây hãm Vũ Dương, Diệp huyện. Tháng chín công hãm châu Nhữ Ninh. Đồng đảng đông đến mười vạn.
Hàn Sơn Đồng người ở Loan thành, Tổ phụ đã dùng tín ngưỡng Bạch Liên Hội để mê hoặc dân chúng, đến đời Sơn Đồng thì hô hào rằng: "Thiên hạ đại loạn, Phật Di-lặc giáng sinh". Nhân dân các vùng Hà Nam, Giang Hoài đều cùng nhau tin lời này. Phúc Thông... lại lừa dối nói rằng: "Sơn Đồng là cháu tám đời của Tống Huy Tông sẽ làm chúa Trung Quốc", rồi giết ngựa, trâu tế cáo trời đất, hẹn cùng nhau khởi binh. Việc bị bại lộ, quan huyện truy bắt, Sơn Đồng không thoát được; vợ là Dương thị, con là Hàn Lâm phải trốn đến Vũ An.
Tháng tám, Lý Lão Nhị, Bành Triệu Quân dùng binh làm phản đánh phá Từ châu.
Lý Nhị hiệu là Chu Ma, cũng dùng tín ngưỡng để tụ tập đồ đảng khởi binh. Trâu Phổ Thắng... ở Ma Thành lại dùng yêu thuật, tụ tập đồ chúng mưu phản, cũng lấy khăn vàng làm hiệu.
Từ Thọ Huy người ở La Điền, Kỳ châu, còn có tên là Chân, cùng với đồng đảng là Nghê Văn Tấn... khởi binh đánh phá vây hãm Kỳ Thủy và Quảng châu, tiếm xưng là Hoàng đế đặt quốc hiệu là Thiên Hoàng, niên hiệu là Trị Bình, chiếm cứ một vùng hơn mười quận ở Hán Dương, Hưng Quốc.
Vào tháng giêng ở Tín châu, Thiều Võ và Cù châu trời làm mưa lúa; ở Kiến Ninh, Nhiêu châu, trời mưa xuống những hạt đen lớn như hạt lúa, hạt đậu, nhân dân nhặt lấy để ăn. Tháng mười một có sao xuất hiện ở phương Tây, tháng mười hai sao Thái bạch đi ngang qua bầu trời.
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Chí Chánh thứ mười hai, ở Lũng Tây động đất một trăm ngày mới dứt, thành quách ngã đổ, gò núi hang động biến đổi. Công sở ở Hội châu, tường vách sụp lở, tìm thấy hơn năm trăm cây nỏ, cái dài nhất thì hơn một trượng, ngắn nhất cũng chín thước, không ai dương nổi. Năm này lại có nhật thực.
Quách Tử Hưng người Định Viễn thấy ở Nhữ, Dĩnh khởi binh, các quận náo động bèn cùng với đồng đảng là Tôn Đức Nhai... khởi binh, tự xưng là Nguyên Sư đánh phá Hào châu và chiếm cứ nơi đây. Các hào kiệt, phần lớn vào thành để bảo vệ.
Bá Ốc Thiền sư húy Thanh Cũng, người
Thường Thục, mẹ là Lưu thị, lúc sinh ra Sư, có ánh sáng lạ xuất hiện. Đầu tiên lễ ngài Sùng Phước Vĩnh Duy cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc, sau lên núi Thiên Mục tham kiến ngài Cao Phong. Ngài Cao Phong hỏi:
- Ông đến đây vì việc gì?
- Sư đáp:
- Con vì cầu pháp mà đến!.
- Pháp há dễ cầu lắm sao? Cầu phải đốt tay làm hương mới được!
Sư nói:
- Ngày hôm nay tự thân con tham kiến Hòa thượng thì Đại pháp há ẩn được ư?
Ngài Cao Phong thầm chấp nhận, trao cho câu thoại đầu: "Vạn pháp quy nhất", Sư siêng năng ở lại hầu hạ ba năm, kế đó tham ngài Cập Am bỗng nhiên có tĩnh, bèn nói: "Thời tiết thanh minh lúc mới mưa, Hoàng Ly đầu càng hót rõ ràng". Cập Am gật đầu và dự nói rằng: "Về sau ta và ông ngồi trong một khám". Khi ngài Cập Am trụ ở đạo tràng tại Hồ châu, thì Sư quản lý Tạng Kinh. Ngài Cập Am nói với đại chúng rằng: "Người này là cá vảy vàng trong biển pháp". Sau lên Hà Mịch sơn, Cập Am bảo đến Thiên Hồ, Sư lại đến Phước Nguyên ở Hồ châu. Triều đình ban cho tiền và tinh kỳ. Hoàng hậu ban cho y Kim lan, lại hạ chiếu ban thụy là Phật Từ Tuệ Chiếu Thiền Sư.
Tháng bảy năm này Sư thị tịch, có để lại pháp ngữ và thi kệ lưu hành ở đời.
Cao Hoàng đế, tổ tiên ở Cú Dung, đến đời Tổ phụ thì dời sang Hoài, đến đời cha thì đến Thái Bình, sinh được bốn người con, đế là con út. Trần thái hậu một hôm nằm mộng thấy một vị thần mặc áo đỏ, cầm hốt ngà tặng cho một hoàn thuốc phát ánh sáng chiếu khắp nhà, bà liền uống vào, khi tỉnh dậy cảm thấy có mùi hương lạ quanh thân, từ đó có thai. Ngày sinh ra Đế cũng có mùi hương lạ và ánh sáng màu hồng ngưng kết lại chẳng tan; bấy giờ là ngày mười tám tháng chín năm Mậu Thìn, niên hiệu Đại Lịch thứ nhất. Một hôm Nhân Tổ đi lấy nước sông tắm cho bé, bỗng nhiên thấy một tấm lưới màu hồng từ thượng lưu trôi xuống, nên lấy làm tã lót cho bé. Từ đó trong nhà thường có ánh sáng lạ. Bé sinh đã mấy ngày mà chẳng ăn, người nhà tìm cầu thầy thuốc, nhưng lại gặp một vị Tăng, bèn thuật lại sự việc, vị Tăng nói: "Giờ Tý đêm nay đứa bé sẽ ăn!", nói xong liền biến mất. Quả nhiên đêm ấy đứa bé đã ăn.
Lúc nhỏ Đế rất nhiều bệnh, Nhân Tổ muốn cho độ làm Tăng, nhưng Thái hậu chẳng muốn. Đến năm Đế mười bảy tuổi thì cha, mẹ và ba người anh lần lượt qua đời, Đế chỉ còn một thân cô độc bèn tuân theo ý của Tiên phụ gởi thân vào chùa Hoàng Giác. Sau xuất du học đạo, nửa đường bị bệnh, lại có hai người mặc áo tía giúp đỡ thuốc thang cơm cháo. Hết bệnh lại tiếp tục lên đường. Có lần vào lúc ban đêm bị nạn ở Ma Hồ, lúc ấy nghe một nhóm trẻ hô to là: "Nghinh Thánh giá!", nghe kêu mà chẳng thấy. Bôn ba nhiều năm rồi lại trở về chùa. Năm hai mươi lăm tuổi gặp binh loạn, bèn gieo một quẻ ở chùa, nguyện rằng: Nếu tị nạn thì được quẻ cát dương, nếu vẫn giữ nơi cũ thì được quẻ cát âm, quẻ ra một âm một dương. Liền tự nguyện rằng: "Ra sống bên ngoài chẳng thể khởi nghĩa ư?" Quẻ cũng theo ra như thế. Lại nguyện nữa thì quẻ vọt lên trên lò hương.
Đế vào đất Hào gặp Quách Tử Hưng. Hưng thấy Đế tướng mạo kỳ dị, nói năng rất hợp ý, bèn giữ lại làm thân binh, dần dần kính tin và gả cho Mã Hậu, giao cho việc chinh phạt. Sự nghiệp Đế vương đặt nền móng từ đây.
Năm Quý Tỵ niên hiệu Chí Chánh thứ mười ba, vua ban chiếu cho vị Tăng Tây Phiên làm quốc sư; Già Lân Chân làm quốc sư của Đại Nguyên. Tiếng Phiên gọi là "Giai tức nhũng cai", giống như tiếng Trung Quốc nói: "Sự Sự vô ngại".
Vua tự chế định một cái đồng hồ trong cung cao khoảng sáu mươi bảy thước, làm một cái hòm bằng gỗ, trong đó có đặt một cái bầu, nước di chuyển lên xuống. Trên cái hòm có lập một điện Tây Phương Tam Thánh. Bên hông của hòm có tượng ngọc nữ bưng thể định thời khắc. Khi đến giờ thì nổi lên mặt nước. Hai bên hòm có hai tượng thần giáp vàng, một bên có treo chuông. Ban đêm thần nhân này có thể định canh giờ mà gõ. Trong vườn vua có lập thuyền rồng, từ đầu đến đuôi dài một trăm hai mươi trượng trên có lập năm điện. Thân thuyền và năm điện đều được trang trí vàng ngũ sắc, tự qua lại trong hậu cung vui chơi nơi Hải Tử (Nam Hải Tử). Khi thuyền đi thì đầu, đuôi, mắt, móng rồng đều cử động, có cung nữ múa theo, gọi là Thiên Ma Vũ. Khi trong cung tán Phật thì xét theo vũ điệu mà tấu nhạc.
Trương Sĩ Thành người ở Bạch Câu Trường, làm Diêm Cương Ti Nha Quái, bản tánh khinh tài, thích bố thí, rất được lòng mọi người; thấy các nơi khởi binh, nên cùng với em là Sĩ Tín, Sĩ Đức chiêu mộ trai tráng khởi binh đánh phá Thái châu, giết chết tri phủ Lý Tề, thừa thắng hô hào vào thành, quan lại vội vã bỏ thành chạy trốn. Sĩ Thành bèn chiếm cứ, xưng vương, đặt quốc hiệu là Chu, niên hiệu là Thiên Hựu. Bây giờ lại đem quân đánh chiếm Bình Giang, Tòng Giang, Thường châu; đất đã rộng binh đã cường, trở thành kình địch. Chiến tranh bắt đầu từ đây.
Ngày mồng một tháng giêng năm Giáp Ngọ, niên hiệu Chí Chánh mười bốn, nước sông ở Biện Lương đóng băng, tạo thành những đám hoa cỏ năm màu, giống như một bức tranh đến ba ngày mới tan.
Học sĩ Hoàng Tấn, thụy là Văn Hiến. Ông có soạn Nhật Tổn Trai Cảo, Nghĩa Ô Chí, bút ký lưu hành ở đời (Tự Tấn Khanh, người Kim Hoa)
Sa-môn Bảo Châu húy là Giác Ngạn ở chùa Bảo Tướng Chức Lý, Ô Trình (nay là Thanh Thái am). Học lực thông suốt cổ kim, từng khảo cứu các sự tích của dòng Thích khoảng trên dưới một ngàn năm và rộng đến các nước rồi soạn thành bản thảo, sau hiệu đính lấy tên là Thích Thị Kê cổ lược. Từ khi có Phật ra đời đến nay (đời Tống), phàm những hành nghiệp, xuất xứ của các danh Sư, Đại đức, cho đến sự hưng phế của chùa tháp, sự nhiều ít về tăng lữ đều được gom chép đầy đủ. Lấy nội điển làm cơ sở rồi tham khảo các sử và truyện ký mà sắp xếp.
Trong đó theo năm tháng trước sau để ghi chép sự việc, đồng thời khảo xét kỹ lưỡng, không có chỗ thiếu sót, sách được Lý Hoàn viết lời tựa. Sách này thật có thể thêm vào những việc mà quốc sử còn thiếu sót, hoàn thành đầy đủ cho biên niên sử của Thiền Gia, là kim chỉ nam cho một thời đại.
Tháng hai năm Ất Mùi, niên hiệu Chí Chánh thứ mười lăm, Lưu Phước Thông... đón Hàn Lâm Nhi về và lập làm hoàng đế, hiệu là Tiểu Minh Vương, đóng đô ở Hào châu, xưng quốc hiệu là Tống, đổi niên hiệu là Long Phượng nguyên niên. Tháng sáu, Thái tổ Cao hoàng đế triều ta từ Hòa châu vượt sông đánh chiếm lộ Thái Bình. Các bậc lão nho như Đào An, Lý Tập... dẫn các phụ lão ra thành nghinh tiếp và thưa rằng: "Minh Công dẫn binh qua sông, oai thần vũ dũng mà chẳng giết hại nhân dân, khiến cho lòng người rất vui mừng, quy phục. Đó là thuận ý trời theo lòng người mà chinh phạt; thiên hạ sao không thái bình?" Đế vì thiên hạ mà khởi binh. Tội nhẹ ban chiếu đại xá.
Năm Bính Tý niên hiệu Chí Chánh mười sáu, hai mặt trời chạm nhau, sao chổi xuất hiện đuôi dài hơn một trượng, quả mận như móng tay màu vàng, có bài đồng dao rằng: "Quả mận sinh móng tay vàng, nhân dân không có nhà cửa". Lại có sao rơi xuống đất phát ra âm thanh và hóa thành đá, hình dáng như đầu chó, vua sai đem giữ trong kho.
Quân của Đại Minh chiếm giữ lộ Tập Khánh; ngự sử Phước Thọ qua đời sau được ban thụy là Trung Túc. Đổi Tập Khánh làm phủ Ứng Thiên. Thái Tổ vào thành hiểu dụ rằng: "Ta đến đây vì dân mà trừ loạn, mỗi mỗi hãy an định chức nghiệp", nhân dân rất vui vẻ lại cùng chúc mừng nhau. Đào An tâu với Thái Tổ rằng: "Kim Lăng là Kinh đô của các bậc Đế vương xưa, có long bàn (rồng cuộn) hổ cứ (cọp ngồi) ngăn cách bởi Trường giang hiểm trở; nếu chiếm cứ nơi đây, với hình thế ấy, thì xuất binh về Tây hướng nào chẳng được. Đó là điều mà trời ban cho Minh Công đó!"
Kim Lăng, vì Sở Uy Vương thời chiến quốc cho vùng đất này có vượng khí Đế vương nên chôn vàng để trấn giữ. Vì thế gọi là Kim Lăng. Đời Hán gọi đó là Mạt Lăng, đời Ngô gọi là Kiến Nghiệp, đời Tần gọi là Kiến Khang, sáu triều đại đều đóng đô nơi đây. Đời Tùy đổi thành Tương châu, đời Đường gọi là Thăng châu, đời Tống gọi là Giang Ninh, đời Nguyên gọi là Tập Khánh. Đặt hành Ngự Sử Đài của các lộ vùng Giang nam tại nơi đây nên gọi là Nam đài.
Khi Thái Tổ vượt sông, hoặc cho rằng muốn định thiên hạ thì không thể không tham kiến vị Tăng ở Kim Bích Phong. Khi đến Tuyên châu tham kiến thì vị Tăng vẫn ngồi kiết già, không hành lễ, Thái Tổ quát một tiếng, vị Tăng cũng quát một tiếng. Thái tổ hỏi rằng: "Đã từng thấy tướng quân giết người chưa?"
Vị Tăng lại hỏi: "Đã từng thấy Hòa thượng không sợ chết chưa?" Thái tổ liền buông kiếm làm lễ, vị Tăng liền đáp lễ rồi từ tốn nói rằng: "Kiến Khang là vùng đất có thể định vương nghiệp!"
Thiết Quan Đạo nhân tên là Trương Cảnh Hòa, người ở vùng Giang hữu, đạo thuật cao, giỏi tướng số. Ông yết kiến Cao hoàng đế và tâu rằng: "Minh Công có cặp mắt của loài rồng phượng, trời đất đều hướng về, năm núi đều quy phục, nhật nguyệt đều chiếu soi, cốt cách thanh nhã, tiếng nói lớn mà trong, thật là tướng quý không thể nói hết. Nhưng bốn phía có khí vây quanh, như mây tan trăng hiện. Điều đáng mừng là màu vàng và sáng từ mũi thẳng lên đến thiên đình, đợi đến khi thần thái rực sáng, như gió thổi mây tan, tức là đến ngày lên ngôi vị, có thể ứng nghiệm trong một ngàn ngày. Hơn nữa sao Dịch Mã ở biên địa có khí xấu, đi về phương Nam gặp địch, cần phải cẩn thận đề phòng".
Thái Tổ ghi nhớ và giữ lại trong trướng. Đạo sĩ thường kết am tranh ở Chung sơn; sống ở Kinh đô chưa được vài năm, một hôm vô cớ tự nhiên nhảy xuống cầu Đại Trung tự vẫn, không tìm thấy di thể. Thần tiên ra đi chẳng thể thấy được.
Học sĩ Chu Thăng tâu với Cao Đế rằng: "Xây dựng tường thành cao, tích trữ nhiều lương thực, ngoài việc xưng vương, thì không có lời nào khác".
Thiên Ngạn Pháp sư húy Hoằng Tế, tự Đồng Chu, hiệu Thiên Ngạn, họ Dao, người ở Cối Kê. Đầu tiên lễ Vũ Điền Mãn Ông chùa Bảo Tích cầu xuất gia, được trao cho kinh Pháp Hoa, vừa đọc qua có thể ghi nhớ. Sau khi thọ giới Cụ túc, Sư tinh tấn trì luật, nghiên cứu sâu xa giáo thừa, chí thành tu sám pháp. Một hôm Sư nhập định thấy một Tôn giả trao cho cây như ý tê giác, từ đó luận biện vô ngại. Sư khai đường thuyết pháp ở chùa Viên giác vạn thọ. Sư gia trì mật chú vào cát rồi ném trên đất để cứu họa băng trên bờ biển. Sau Sư trụ trì chùa Hiển Từ và chùa Tập Khánh, lại dời qua chùa Viên Thông ở Cối kê, tu Niệm Phật Tam-muội. Vua ban chiếu cho Sư trụ chùa Phổ Phước, rồi trở về Thanh Cảnh các. Năm ấy Sư thị tịch (Tăng Truyện).
Tháng ba năm Đinh Dậu, niên hiệu Chí Chánh mười bảy, quân của Đại Minh đánh Thường châu, Trương sĩ Thành sai em là Sĩ Đức cứu viện, bị Từ Đạt mai phục bắt sống, Sĩ Thành mất hết nhuệ khí, xin dâng tài vật để cầu hòa, Từ Đạt vẫn bao vây và hạ thành.
Năm này có rồng đánh nhau ở sông Lạc Thanh làm nổi gió lớn, nơi nào nó đến đều có lửa rực sáng như quả cầu, làm chết hơn vạn người. Đại Đô của nhà Nguyên vào ban ngày mà có sương mù khiến trời đất mịt mờ không phân biệt được người, vật, kéo dài đến mười lăm ngày. Lại có núi lở đất nứt nẻ ở lộ Tỉnh Giang.
Trần Hữu Lượng, con trong một gia đình ngũ phủ ở Miện châu, làm Huyện lại Bất Lạc, gặp lúc Thọ Huy và Văn Tuấn khởi binh, Hữu Lượng cảm khái mà theo về. Từng làm quan lo về sổ sách cho Văn Tuấn, rồi cũng lãnh quân làm nguyên soái. Đến khi Văn Tuấn chỉ biết phóng túng, tâm chẳng thể an định, muốn mưu sát Thọ Huy, việc chẳng thành nên chạy đến Quảng châu, Hữu Lượng nhân lúc Tuấn thế cô tập kích mà sát hại, đồng thời hợp quân của Văn Tuấn về mình mà tự xưng là Bình Chương, Thọ Huy chẳng thể chế phục. Thế lực của Lượng ngày càng mạnh, sau giết cả Từ Thọ Huy rồi tự xưng Đế đặt quốc hiệu là Hán, đổi nguyên hiệu là Đại Nghĩa, chiếm cứ các vùng Hồ, Quảng. Về sau bị Thái tổ diệt, trúng tên xuyên qua đầu mà chết.
Thiên Nham Thiền sư húy Nguyên Trường, tự Vô Minh, người Tiêu Sơn, họ Đổng, mẹ họ Hà. Lúc nhỏ Sư thường đau ốm, mẹ Sư phải cầu khẩn Đức Quan Âm, hứa cho xuất gia, bệnh mới thuyên giảm. Đầu tiên Sư học thông chín phái trăm nhà, kế đó học Pháp Hoa. Nghiên cứu luật bộ nơi các Luật sư chùa Linh Chi. Sau tham câu thoại đầu: "Con chó không có Phật tánh", được ngài Trung Phong quyết trạch ấn chứng dặn dò: "Hãy khéo léo tự giữ gìn". Khi Sư ẩn cư tại Thiên Long, hàng ngày thường có hai con rắn đến vây quanh tòa ngồi, Sư bèn thuyết Tam quy Ngũ giới, rắn cất đầu rồi cúi xuống lễ bái rồi đi. Từ đó được tiến cử trụ trì rất nhiều, nhưng Sư không nhận, mà lại đến núi Phục Long ở Điểu Thương, khôi phục ngôi già lam Thánh Thọ. Danh tiếng của Sư vang xa đến triều đình, vua ban hương quý, y Tăng-già-lê và hiệu là Phổ Ứng Diệu Biện.
Sau lại gia tặng hiệu Phật Tuệ Viên Minh Quảng Chiếu Phổ Lợi. Hàng vương công, đại thần đến Sư hỏi đạo rất nhiều, trong nước ngoài nước đều kính ngưỡng danh đức của Sư.
Tuyệt Tông Thiền sư húy là Thiện Kế, thụy là Văn Minh Tuệ Hải, họ Lâu, người ở Chư Ký. Mẹ Sư là Vương thị, một hôm nằm mộng thấy một vị thần Tăng trao cho một hoa sen trắng mà có thai và sinh ra Sư. Đầu tiên lễ Hòa thượng Tư Cung ở chùa Linh Bí ở Sơn Âm cầu xuất gia; sau nương Đại Sơn Khôi Công ở Thiên Trúc tu học Thiên Thai giáo. Kế đó Sư tham yết ngài Trạm Đường, hỏi đáp rất nhanh nhẹn. Trạm Đường nói với đại chúng rằng: "Ngày sau pháp luân xoay chuyển, ắt kỳ vọng nơi người này!" Bèn cử Sư làm Đệ nhất tòa, Ngọc Cương Nhuận Công cũng cử Sư đệ nhất.
Sư khai đường giảng kinh Kim Quang Minh ở Lương Chữ, ban đêm mộng thấy ngài Tứ Minh Pháp Trí nói rằng: "Ngài giảng kinh này phù hợp ý tôi!" Từ đó Sư càng tinh tấn tu tập. Sư từng dạy chúng rằng: "Một bộ chỉ quán là phương tiện (công cụ) của kinh Pháp Hoa, Nhất thừa thập quán là chánh thể của Pháp Hoa Tam-muội. Các ông nên dụng cả hành giải, vận cả chánh trợ, thì mới có thể chứng được viên vị, chẳng phụ ý lập tông của Tổ sư". Sau Sư chuyên tu tịnh nghiệp, nhất tâm niệm danh hiệu Di-đà ngày đêm chẳng đoạn. Một hôm bảo Đại chúng rằng: "Phật tổ hoằng hóa, quý ở chỗ thời tiết nhân duyên, nếu duyên và thời trái nhau, thì nương vào đâu mà hoằng hóa? Nay ta sắp trở về!" Rồi Sư ngồi yên mà thị tịch, bấy giờ nhằm ngày hai mươi hai tháng bảy năm Đinh Dậu niên hiệu Chí Chánh mười bảy, thế thọ bảy mươi hai. Sau khi trà-tỳ thì lưỡi chẳng cháy. Tháp thờ xây ở phía Tây Linh Bí. Đệ tử thượng thủ đắc pháp có Khởi Đại Phác...
Phù Trung Thiền sư húy là Hoài Tín, họ Khương, người Phụng Hóa, mẹ là Lưu thị; lúc mới sinh dung mạo đã khác phàm, gặp Tăng thì rất vui mừng. Đến năm mười lăm tuổi, Sư lễ Tử Tư ở viện Pháp Hoa cầu xuất gia, thọ giới Cụ túc ở chùa Ngũ đài, tu học Tam quán Thập thừa nơi Bán Nham Toàn Công, nghiên cứu yếu chỉ Thiền Tông nơi Trúc Tây Viên Công, lai tham kiến Vân Ngoại Tụ Công. Sau Sư khai pháp ở chùa Quán Âm ở Minh Chi, dời sang trụ ở Phổ Đà. Bấy giờ có Trấn Nam Vương với tâm rỗng rang tới hỏi đạo; Tuyên Nhượng vương cũng sai sứ đến dâng cúng hương chiên-đàn và y Tăng-già-lê, xin chỉ dạy pháp yếu. Sư lập Bảo Thạch ở Cô Tô, xây tháp Đa Bảo Phật. Vua ban cho Sư hiệu là Quảng Tuệ Diệu Ngộ Trí Bảo Hoằng Giáo, thỉnh trụ chùa Trung Thiên Trúc rồi đến Thiên đồng. Sau Sư trụ trì chùa Đại Long Tường, xiển dương Tông thừa, người đến tham học rất đông; Đại, Tiểu thừa đều hoan hỷ thân cận.
Sáng sớm một hôm, Sư bảo đại chúng rằng: "Ta sắp trở về! Các ông nên lấy việc gánh vác Phật pháp tự làm kỳ hạn, gắng sức tinh tấn tu hành mới được".
Nói xong Sư viết kệ rằng:
Bình sinh vì người điên đảo
Bảy mươi tám năm tiết lộ
Sáng nay buông tay liền đi
Vạn dặm trời không mảnh tuyết.
Ngày hai mươi bốn tháng tám năm này Sư thị tịch, hạ lạp sáu mươi chín, năm Mậu Tuất, niên hiệu Chí Chánh mười bảy, nhằm niên hiệu Long Phượng thứ tư đời Tống. Học sĩ Âu Dương Huyền tự là Nguyên Công, văn chương, đạo đức đều nổi tiếng trên đời. Phàm những sách vở về lễ nhạc phần lớn đều xuất xứ từ tay ông. Ông mất năm tám mươi lăm tuổi, thụy hiệu là Văn. Có Khuê Trai Tập lưu hành ở đời.
Minh Ngọc Trân người Tùy châu, tụ tập hương binh đồn trú ở Thanh sơn, chưa bao lâu thì hàng Thọ Huy. Đến khi Nghê Văn Tuấn đánh chiếm Thục, thì lệnh cho Ngọc Trân trấn giữ. Văn Tuấn chết, ông chiếm cứ Thành đô. Các quận huyện ở đất Thục đều gọi là Hạ, đổi niên hiệu là Thiên Thống.
Tháng giêng Trần Hữu Lượng vây hãm An Huy, tướng Nguyên là Từ Khuyết tử trận được ban thụy là Trung Liệt, sau lập miếu thờ, hàng năm đều có cúng tế. Tháng ba Tống Mao Quý phá Tế Nam, Tả thừa tướng nhà Nguyên là Đổng Bác Tiêu tử trận, khi bị chém đầu không có máu phun ra, chỉ có một luồng hơi trắng phụt lên trời mà chết.
Tháng mười hai, quân của Đại Minh chiếm lộ Vụ châu, quan và Tăng giữ thành đều bị chết. Thái tổ chỉ dụ các tướng rằng: "Dễ dẹp được loạn lạc tuy phải dùng võ lực, nhưng an dân tất phải dùng lòng nhân. Quân đội hành binh, thế như lửa cháy, lửa cháy thì nhân dân ắt trốn tránh. Người làm tướng nên lấy việc chẳng giết chóc làm trọng tâm, như thế không những quốc gia được lợi ích, mà chính mình cũng được phước. Các tướng nên theo lời ta thì đại sự chẳng khó đạt, Đại công ắt sẽ thành.
"
Năm Kỷ Hợi niên hiệu Chí Chánh mười chín, tức tháng bốn niên hiệu Long Phụng nhà Tống. Vua cho rằng vì thiên hạ có nhiều việc nên từ chối việc chúc mừng vào tiết Thiên Thọ, vua ban chiếu rằng: "Trẫm nên kính Thiên địa, noi theo Tổ tông để tự tu tỉnh. Ngày sinh nhật của ta, quần thần khỏi phải vào chầu".
Phù Hưu Thiền sư húy Duẫn Nhược, tự Quý Hành, người Nhược Da. Năm mười lăm tuổi lễ Vân Môn Nguyên Công thế phát xuất gia, kế đó tham yết Pháp sư Khôi ở Đại Sơn học Thiên Thai giáo quán; lại lễ ngài Trạm Nhiên tham học; nghiên cứu sâu xa tất cả tông nghĩa mà ngài Pháp Trí đã lập. Sau Sư theo ngài Trạm Đường vào Yên kinh, được vua ban hiệu là Từ Quang Viên Chiếu. Sư ra khai đường ở viện Tinh Thánh, rồi trụ trì chùa Hưng Hóa ở Hàng châu. Sư cùng với Thiên Ngạn Tế, Ngã Am Vô, Ngọc Đình Hãn đều có đạo đức thanh danh cao tột, người thời bấy giờ gọi bốn ngài là Tiền Đường Tứ Y. Sau Sư trụ ở Vân Môn, lại cùng với Đoạn Giang Ân, Hưu Canh Dật đón gió ngâm vịnh, người đời gọi là Vân Môn Tam Cao. Sư lần lượt trụ ở Viên Thông, Thượng Thiên Trúc. Bấy giờ có suối Anh Lạc khô cạn nước đã lâu, Sư cầu nguyện thì suối lại tuôn nước, vua bèn đặt tên là Tái Lai Tuyền. Sư lại lập tinh xá chuyên tu Pháp Hoa Tam-muội, lúc tuổi già thì chuyển tu tịnh nghiệp. Sau Sư bị giặc cướp giết hại, nhằm ngày hai mươi chín tháng hai năm Kỷ Hợi, thọ tám mươi tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp. Trà-tỳ thâu được rất nhiều xá-lợi lớn như hạt đậu. Bình sinh Sư chẳng bao giờ nói cười hư dối, Triệu Tử Ngang gọi Sư là Ngự Sử trong hàng Tăng.
Sư có soạn Nội Ngoại Tập lưu hành ở đời.
Đại Dụng Pháp sư húy là Tất Tài, tự Đại Dụng, họ Khuất, người Thai châu. Năm mười hai tuổi, Sư lễ Pháp sư Tây Cù cầu xuất gia và sau đó thọ giới Cụ túc. Kế đến tham yết Trạm Đường Trừng Công, thân cận Ngọc Cương Nhuận Công, nhập thất tham cứu kinh điển. Dù trời nóng chảy vàng, lạnh đóng băng Sư cũng không ra khỏi thất. Vì thế huyền chỉ của sơn gia, yếu nghĩa của giáo quán, Sư đều thấu suốt. Ngài Ngọc Cương từng nói: "Người này nếu chẳng phải đã tu tập trên hội Linh sơn, thì đâu thể được như vậy?" Sư theo ngài Ngọc Cương đến Đức Tạng, phân tòa cùng Sư thuyết giảng. Sư luận biện như mưa tuôn sóng cuộn, người nghe đều khen ngợi. Sau Sư kế thừa trụ trì Đức Tạng, rồi đến Hưng Phước ở Hàng châu, Diễn Phước. Thuận đế ban cho Sư hiệu là Phật Giám Viên Chiếu.
Ngày mười chín tháng ba năm Kỷ Hợi, Sư đốt hương niệm lớn danh hiệu A-di-đà trọn một ngày đêm rồi bảo đại chúng rằng: "Duyên Tịnh độ của ta đã chín, Tam-muội đã hiện tiền", viết thư cáo biệt những người đã quen biết, rồi chắp tay thị tịch. Khi trà-tỳ nhục thân Sư, có ánh sáng năm màu, lửa từ kim quan phát ra, lưỡi răng chẳng cháy, rất nhiều xá-lợi, đào sâu đất một thước cũng vẫn có. Sư hưởng thọ sáu mươi tám tuổi, năm mươi sáu hạ lạp. Sư có soạn Diệu Huyền Văn Cú, Chỉ Quán Tăng Trị Trợ Văn, Pháp Hoa Niết-bàn giảng nghĩa, Chương An Kinh Khê Pháp Trí Thể Văn Thi Kệ lưu hành thế gian.
Pháp sư Đồng Giang húy là Thiệu, vì người ở Đồng Giang Đại Nghiêm, nên lấy đó làm hiệu. Sư họ Ngô, mẹ là Lý thị. Đầu tiên Sư đến chùa Phượng Sơn cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc, từng cho rằng: Cá hóa rồng chịu ở vũng nước cạn để cầu sống ư? Sư bèn đến tham yết Đại Biện Lăng Công ở Sang Kính, Lăng Công dùng pháp đơn truyền tâm ấn để cật vấn Sư rất lâu. Sau đó Sư lại tham vấn khắp các bậc danh túc, biết rằng pháp chẳng có khác vị. Do đó Sư trở về đọc Đại Tạng, trải qua ba lần mới thông được chỉ thú. Sư khai đường ở chùa Cảnh Đức, chấn hưng lại phép tắc đã bị phế bỏ. Vua ban chiếu trụ chùa Bảo Lâm ở Nghĩa Ô, làm pháp tịch hưng thịnh một thời. Ngày mồng bảy tháng tám năm Kỷ Hợi, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Trà-tỳ thâu được xá-lợi như hạt châu tía xanh, răng và xâu chuỗi vẫn còn.
Sư có soạn Tam Hội Ngữ Lục, Đồng Giang Tạp lưu hành ở đời.
Tháng giêng năm Canh Tý niên hiệu Chí Chánh hai mươi, mây năm sắc xuất hiện, ở Đại đô có chim Đỗ quyên. Sao chổi xuất hiện ở phương Đông. Mồng một tháng năm có nhật thực, mưa đá. Lưu Bá Ôn húy là Cơ, người ở Quát Thương, thuở nhỏ đã thông minh hơn người, phàm các sách về thiên văn, binh pháp, tánh lý, ông vừa xem qua thì liền đạt được chỗ cốt yếu. Khi ông đến vùng Tây Hồ, có đám mây lạ xuất hiện ở phía Tây bắc, ánh sáng chiếu xuống mặt hồ. Bấy giờ Lỗ Đạt Nguyên và những người đi theo đều cho là mây lành. Lưu liền nói: "Đó là khí tượng của Thiên tử, ứng tại Kim Lăng, sau mười năm sẽ có vua xuất hiện, ta sẽ phò giúp!" Các người kia đều cho là cuồng ngôn, mà bỏ qua, chỉ có Triệu Thiên Trạch ở Tây thục lấy làm lạ, cho ông thuộc dòng dõi Gia Cát Khổng Minh. Năm ấy Thái Tổ hạ Kim Lăng, bình định Quát Thương. Cơ bèn chỉ tượng Càn và nói với những người thân tín rằng: "Đó là mệnh trời, chứ đâu phải là sức người!" Thái Tổ sai người đem lễ đến mời, ông bèn đến Kim Lăng, trình bày mười tám sách lược, Thái tổ thâu nhận.
Dương Hiếu nói: Phước thì nền móng ở sự chí thành, họa thì sinh từ lòng phản phúc.
Năm Tân Sửu, niên hiệu Chí Chánh hai mươi mốt, nhằm niên hiệu Long Phụng thứ bảy của Tống, niên hiệu Đại Nghĩa thứ hai của Hán, mồng một tháng giêng, dâng lễ Khánh Hạ Tiểu Minh Vương. Lưu Cơ tức giận mắng chửi, chẳng lễ lạy, mà tâu trình Thái Tổ nên nhân lúc còn thiên mệnh, nên hoạch định kế chinh phạt.
Trúc Viễn Thiền sư húy Chánh Nguyên, họ Âu Dương, người ở Nam Dung. Năm hai mươi bảy tuổi Sư thọ giới Cụ túc. Đầu tiên tham kiến Lăng Công, trong lúc hỏi đáp tự nhiên tỉnh ngộ, trí tuệ khai mở, thức tâm thông suốt, trong ngoài vô ngại, đàm luận hùng hồn, tuệ biện sắc bén, động tịnh đều không. Sư trụ ở Hưng Thánh Đạo Thành, Linh Ẩn tự... Đế Sư ban cho Sư hiệu là Phật Tuệ Từ Chiếu Phổ Ứng Thiền Sư. Đại thần Phương Trấn thỉnh Sư đến trụ Kính Sơn. Ngài hai mươi sáu tháng sáu năm Tân Sửu, Sư thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp, tháp thờ ở Kính Sơn.
Tháng tám, Đại Minh dẫn binh chinh phạt Hán. Từ Đạt thưa: "Binh nay rất khỏe mạnh". Lưu Cơ nói: "Dùng uy mà chế phục địch, chính là bây giờ!"
Thiền sư Thủy Am húy là Thủ Quý, tự Vô Dụng, họ Châu, người Vụ châu. Năm mười tám tuổi Sư đã học phép làm Tăng. Đầu tiên Sư tham yết Thiên Nham Trường Công được trao cho cơ hướng thượng, Sư âm thầm tham cứu có chỗ khế ngộ; Sư theo ngài Thiên Nham đến trụ Thánh Thọ cổ sát, sau lại trở về Thiên Long tham yết Trung Phong, Đoan Nhai, Lương Sơn, hỏi đáp qua lại, thấy không có gì sai biệt; Sư bèn nói: "Ngàn sông tuy khác nhưng trăng thì chỉ có một, ta nay không còn nghi gì!"
Ngày hai mươi tháng tám năm này Sư viết kệ gởi từ biệt Thừa tướng Thiếp Mục Nhĩ Công rằng:
Một ốc sên hôi hám
Trong ngoài đều dơ uế
Buông tay liền ra đi
Hư không tiếng linh vang.
Ngón tay Thiên Long vẫn như xưa!
Viết xong Sư ném bút thị tịch, thừa tướng xem xong khen là kỳ lạ. Sư hưởng thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi bốn hạ lạp. Tháp thờ ở sườn núi phía Tây Thiên Long.
Tháng mười một mùa đông năm này, sông Hoàng hà từ khoảng Tam Môn Tích ở Bình Lục xuống đến Mạnh tân dài độ trên năm mươi dặm nước trong vắt khoảng năm ngày.
Năm Nhâm Dần niên hiệu Chí Chánh hai mươi hai, nhằm năm Long Phượng thứ tám của Tống, năm Đại Nghĩa thứ ba của Hán. Vào tháng hai sao chổi xuất hiện ở khu vực sao Nguy, dài hơn một trượng, ánh sáng trắng xanh. Tháng ba sao Trường xuất hiện ở khoảng giữa sao Hư và sao Nguy, hình dáng như dải lụa, dài vài mươi trượng.
Tòng Ẩn Thiền sư húy Đức Nhiên hiệu là Duy Am, họ Trương ở Vân Gian. Sau khi được độ xuất gia, Sư tham yết Thiền sư Thiên Nham mà có chỗ ngộ nhập. Sư lại tham yết ngài Thạch Ốc ở Hà Mạc sơn, ngài Thạch Ốc viết hai chữ: "Tòng Ẩn" mà trao cho. Sư bèn đến Hoa Đình dựng am tranh lấy tên là Tòng Ẩn. Sau Sư trụ trì chùa Thọ thánh, nơi ngài Thiên Nham đã ở, trích máu chép kinh. Sư có bộ ngữ lục lưu hành ở đời.
Năm Quý Mão, niên hiệu Chí Chánh hai mươi ba, Long Phượng thứ chín của Tống, Đại Nghĩa thứ tư của Hán. Tháng giêng Minh Ngọc Trân xưng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Hạ, niên hiệu là Thiên Thống nguyên niên.
Đến tháng bảy, Trần Hữu Lượng vây Hồng đô, Thái Tổ dẫn các tướng đến đánh dẹp, đại chiến ở hồ Bà Dương, Hữu Lượng đại bại và chết trong trận này.
Trần Hữu Lượng dẫn các tướng mạnh vây thuyền của Thái Tổ, khiến không cách gì thoát được, Hàn Thành bèn đổi mặc áo mũ của vua nhảy xuống nước mà chết. Lưu Cơ nói rằng: "Sao nạn đã qua nên đổi thuyền!" Thái Tổ liền đổi thuyền, chưa được nửa bữa ăn thì thuyền cũ bị quân địch pháo kích phá nát. Sau đó Trương Thiết Quan chúc mừng rằng: "Trần Hữu Lượng đã chết. " Hàng binh đến nói rằng: "Hữu Lượng bị trúng tên từ mắt xuyên qua đầu mà chết".
Chu Điên Tiên người ở Kiến Xương, mỗi khi gặp người thì nói: "Cáo thái bình". Uống rượu rất nhiều mà chẳng say. Thái Tổ bảo dùng cái lu nhốt ông rồi chất củi đốt, củi cháy hết, dở lu ra thì thấy ông vẫn ngồi y nhiên. Đến khi chinh phạt Hữu Lượng, Thái Tổ hỏi ông rằng: "Lần xuất binh này như thế nào?" Ông liền buộc miệng trả lời: "Tốt!" Thái tổ ngước nhìn nóc nhà hồi lâu rồi nói: "Phía trên không có gì, muốn đi ngặt chẳng gió!" Điên Tiên nói: "Cứ việc đi thì có gió, không đi thì không gió!" Thái tổ cho tiến binh thì có gió thổi mạnh. Đến khi thấy một con lợn sông thì Điên Tiên nói rằng: "Thủy quái hiện, tổn quân nhiều".
Năm Giáp Thìn niên hiệu Chí Chánh hai mươi bốn, Long Phượng thứ mười triều Tống, Thiên Thống thứ hai nhà Hạ. Tháng giêng Thái Tổ đặt quốc hiệu là Ngô. Tháng hai Trần Lý đầu hàng, vùng Giang Tây đều bình định.
Trần Hữu Lượng nằm giường bằng vàng, có người đem dâng lên, Thái Tổ nói: "Hữu Lượng quá xa xỉ, làm sao mà chẳng bại vong?" Quan hầu cận tâu: "Chưa giàu mà kiêu, chưa sang mà phí, vì thế mới thất bại!" Thái tổ lại nói: "Đã giàu há có thể kiêu ư? Đã sang há có thể phung phí ư?"
Thật Am Thiền Sư húy là Mậu, hiệu Tòng Ẩn, tự Thật Am, họ Trịnh, mẹ là Hồ Thị, người Phụng Hóa. Năm mười sáu tuổi, Sư lễ ngài Hy Nhan cầu xuất gia, thọ giới nơi Luật sư Chiêu Khánh Tuệ, tham kiến Nam Giản Tuyền Công, Cổ Lâm Mậu Công. Ngài Cổ Lâm nói:
"Ông biết rõ bốn đại, năm uẩn là gốc sinh tử, vì sao lại vào cái đãy da này?" Sư suy nghĩ thì bị ngài Cổ Lâm dùng gậy đánh, Sư bỗng nhiên ngộ nhập. Sau ngài Nguyệt Giang Ân Công ở đạo tràng nơi Hồ châu, thỉnh Sư phân tòa thuyết pháp, đại chúng rất hoan hỷ. Sau Tuyên Chánh viện bổ Sư trụ trì chùa Thanh Lương ở Thụy Vân; phụng sắc ban thụy là Phật Quang Phổ Chiếu. Sư trụ ở đây mười lăm năm rồi về ẩn cư ở Tuệ Đường. Ngày hai mươi bảy tháng tám năm Giáp Thìn Sư ngồi dựa vào ghế, tay phải nắm lại thành quyền, trán tựa vào đó mà thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi.
Năm Ất Tỵ, niên hiệu Chí Chánh hai mươi lăm, Long Phượng thứ nhất, Thiên Thống thứ hai. Tháng hai một bên mặt trời xuất hiện một mặt trăng một ngôi sao. Tháng bốn trong mặt trời có một điểm đen. Tháng năm ở Đại đô có mưa lông, sợi dài khoảng một thước (3), hoặc gọi là long tu (râu rồng), triều đình ban lệnh nhặt lất để thờ cúng.
Mùa Đông năm này Thái Tổ lập Quốc tử học ở phủ Ứng Thiên, quy chế rất nghiêm và khéo léo. Thái Tổ vừa đến trước Quảng Nghiệp đường, bỗng nhiên nói rằng: "Những đứa trẻ có phước trong thiên hạ, nên được sống tại đây". Đến nay những người sống ở đây thường thường thi đỗ đầu, làm quan đến vị Tam đài.
Năm Bính Ngọ, niên hiệu Chí Chánh thứ hai mươi sáu, Long Phượng n thứ mười hai, Đại Thống n thứ tư. Tháng hai Hoàng hà chảy về phương Bắc, từ Đông Minh, Táo Bộc đến Tế Ninh.
Tháng ba Ngọc Trân qua đời, con là Minh Thăng kế vị, đổi niên hiệu là Khai Hi.
Tháng năm, Thái Tổ sai tìm cầu những sách vở lễ Kim cất giữ ở mật phủ để tiện việc xem đọc. Thái Tổ nói: "Lời của Khổng Tử thật là phép tắc đúng đắn để trị quốc. Khổng Tử đúng là thầy của vạn đời".
Tháng tám xây thành Kiến Khang ở phía Nam Chung sơn, kéo dài chu vi hơn năm mươi dặm, bao quát cả thắng cảnh của núi sông.
Tháng mười hai Thái tổ xây Tông miếu xã tắc, ông nói: "Cung thất chỉ cần vững chắc hoàn bị mà thôi, hà tất phải điêu khắc chạm trỗ khéo léo!"
Tháng này Tống chúa là Tiểu Minh Vương Hàn Lâm Nhi qua đời.
Đàm Phương Thiền sư húy là Trung, pháp hiệu Quảng Từ, trụ trì Kính Sơn đời thứ bốn mươi chín.
Vô Hoàn Thiền sư húy là Đương. Biện Am Thiền sư húy là Nột. Năm Đinh Mùi, niên hiệu Chí Chánh hai mươi bảy, nhà Ngô năm thứ nhất, Khai Hi năm thứ hai. Tháng giêng ở Giáng châu ban đêm nghe trống trời vang, âm thanh như có người chiến đấu trên hư không.
Tháng ba, Thái Tổ chế định phép tắc chọn hiền tài qua các khoa thi văn võ. Đối với người ứng thí văn thì xét ngôn hạnh để biết đạo đức, khảo kinh thuật để biết học nghiệp, thi thư toán để biết tài năng, hỏi kinh sử thời vụ để biết chánh sự. Đối với người ứng thí võ thì trước khảo về mưu lược, kế đó là xét về võ thuật. Tất cả đều phải xét đến thật tài.
Ngày mồng một tháng sáu có nhật thực. Hoàng Thái tử ngủ ở sau điện; có một con rồng ở trong cái giếng gạch mới xây phát ánh sáng chiếu vào người, các cung nhân đều té ngã trên đất.
Tháng chín quân của Đại Minh lấy lộ Bình Giang, bắt Ngô vương Trương Sĩ Thành dẫn về, Sĩ Thành nhắm mắt nhịn ăn, thắt cổ tự vẫn.
Tháng mười quân của Đại Minh chiếm Thông châu và Thai châu. Bấy giờ các vùng Ôn, Thai đều do Phương Quốc Trân chiếm cứ, lần lượt ra hàng. Thái Tổ sai đại tướng Từ Đạt, phó tướng Thường Ngộ Xuân tiến lên phía Bắc bình định Trung Nguyên. Thái Tổ định ra luật lịnh, ban lịch Mậu Thân.
Tháng mười hai quân Đại Minh chinh phạt, Phương Quốc Trân đầu hàng.
Nam Sở Thiền sư húy là Duyệt, người Long Hưng, pháp hiệu Phật Tứ Pháp Hỷ, trụ trì đời năm mươi ở Kính Sơn.
Gom chép tám mươi lăm vị, phụ ghi một trăm hai mươi ba vị là: Đông Xương Pháp sư, Hạo Thiên Giàng Chủ, Dật Lâm Thượng sư,
Hư Chiếu Thiền sư, Hải Vân Thiền sư, Tiên Lâm Thiền sư, Cổ Nguyên Pháp sư húy là Thanh, Trúc Đường Pháp sư húy Truyền, Vân Mộng Pháp sư húy là Trạch, Si Tuyệt Pháp sư húy Xung, Vô Chuẩn Thiền sư, Yển Khê Thiền sư, Tây Vân Thiền sư, Trước Xích Thượng sư, Thích Ôn Bốc sư, Bá Lâm Pháp sư húy Đàm, Vạn An Pháp sư húy Giản, Tịch Chiếu Thiền sư, Phương Sơn Luật sư húy Bảo, Đại Đức Pháp sư húy Viên, Quan Phụ Pháp sư húy Hoài, Nam Dương Pháp sư húy Từ,
Đại Lâm Pháp sư húy Tánh, Hải Văn Hòa thượng, Pháp Chiếu Thiền sư húy Hi, Uyên Tẩu Pháp sư húy Trạm, Đại Đức Luật sư húy Ôn, Minh Tỉnh Pháp sư húy Chí, Vô Cực Pháp sư húy Độ, Bắc Khê Pháp sư húy Văn, Tạng Tẩu Thiền sư, Phật Giám Thiền sư húy Tiêm, La Sơn Pháp sư húy Thường, Nguyệt Đình Pháp sư húy Trung, Cô Chu Pháp sư húy Tế, Khánh Am Pháp sư húy Cát, Cập Am Thiền sư, Thuấn Điển Pháp sư húy Mãn, Linh Chi Luật sư, Tư Cung Pháp sư, Đại Sơn Pháp sư húy Khôi, Tử Tư Pháp sư, Bán Nham Thiền sư, Ngọc Đình Pháp sư húy Hãn, Biệt Truyền Thiền sư húy Giáo, Tây Cù Pháp sư, Đại Biện Pháp sư húy Lăng, Lương Sơn Thiền sư húy Cánh, Hi Nhan Pháp sư, Nam Giản Pháp sư húy Tuyền, Chiêu Khánh Luật sư húy Tuệ, Cổ Lâm Thiền sư húy Mậu, Nguyệt Giang Thiền sư húy Ấn, Nhật Khê Thiền sư húy Băng, Thiên Tâm Pháp sư húy Tố,
Lương Vĩ Pháp sư, Đông Bạch Pháp sư húy Minh, Khai Nguyên Pháp sư húy Khuê, Phương Sơn Thiền sư húy Dao, Vô Kiến Thiền sư húy Đỗ, Đẩu Nham Thiền sư húy Phương, Vô Dụng Thiền sư,
Vô Nhất Thiền sư húy Toàn, Xuân Cốc Thiền sư,
Cát Hoài Pháp sư, Không Trung Pháp sư húy Giả, Linh Nham Thiền sư húy Chi, Vô Phương Thiền sư húy Phổ, Tiểu Ẩn Pháp sư húy Đại, Độc Chúng Pháp sư húy Đàm, Thành Sơn Pháp sư húy Khâm, Bảo Giác Pháp sư húy Giảm, Cổ Điền Pháp sư húy Tư, Vô Ngôn Pháp sư húy Tuyên, Nột Ông Pháp sư húy Mô, Sùng Ân Pháp sư húy Giản, Cổ Nhạc Pháp sư, Cổ Nhai Thiền sư húy Thuần, Thạch Môn Thiền sư húy Cương, Bố Nạp Thiền sư húy Ủng, Chỉ Nham Thiền sư, Thọ Di Pháp sư, Bắc Thiền Pháp sư húy Trạch, Sĩ Chiêm Thiền sư húy Tiêu,
Thạch Ốc Pháp sư húy Anh, Đại Quân Pháp sư, Minh Khánh Luật sư húy Quả, Cao Ly Pháp sư húy Giáo, Nhất Sơn Pháp sư húy Nguyên, Phật Hải Pháp sư, Hiền Tẩu Pháp sư húy Tư, Trúc Tây Thiền sư húy Thản, Minh Cực Thiền sư húy Tuấn, Trúc Điền Thiền sư húy Lâm, Vận Tịch Pháp sư húy Ôn, Như Hải Pháp sư húy Châu, Trọng Phương Thiền sư húy Luân, Trúc Ốc Pháp sư húy Tịnh, Tử Văn Pháp sư húy Lương, Vân Đình Pháp sư, Giác Nguyên Thiền sư, Hoàng Vân Thiền sư húy Nhạc, Độc Hải Thiền sư húy Thanh, Thiết Quan Thiền sư húy Xu, Đông Tự Thiền sư húy Hải, Thạch Lâm Thiền sư, Hư Cốc Pháp sư, Thanh Chuyết Thiền sư húy Trừng, Tịnh Giác Pháp sư,
Pháp Tú Pháp sư, Liễu Nhiên Pháp sư húy Tái, Đông Dương Pháp sư húy Huy, Bình Sơn Pháp sư húy Đẳng, Giác Ẩn Pháp sư húy Thành, Từ Quán Luật sư, Vô Ẩn Pháp sư húy Phạm, Nhất Sơn Thiền sư húy Ninh, Phổ Giác Thiền sư húy Minh, Bạch Nham Thiền sư húy Chân, Vân Ngoại Pháp sư húy Tụ, Hoằng Giáo Thiền sư húy Lập, Tử Đình Pháp sư húy Huấn, Đông Lâm Thiền sư húy Hiểu. Nhà Nguyên khởi từ Thái Tổ năm Bính Thìn đến đời Thuận Đế năm Đinh Mùi, tổng cộng một trăm sáu mươi hai năm. Từ đời Thế Tổ năm Kỷ Mão, niên hiệu Chí Nguyên diệt nhà Tống thống nhất đất nước, đến đời Thuận Đế năm Đinh Mùi niên hiệu Chí Chánh tổng cộng là tám mươi chín năm. Nay gom chép từ năm Giáp Tý, niên hiệu Chí Nguyên đời Thế Tổ đến năm Đinh Mùi đời Thuận Đế là một trăm lẻ bốn năm.
Thụy tượng Chiên-đàn, từ năm Canh Dần đời Chu Mục Vương đến năm Đinh Mùi niên hiệu Chí Chánh, tổng cộng đã được hai ngàn ba trăm năm mươi chín năm.
Đức Thế Tôn nhập diệt vào năm Nhâm Thân đời Chu Mục Vương đến năm Đinh Mùi, niên hiệu Chí Chánh tổng cộng là hai ngàn ba trăm mươi bảy năm.
Đại giáo đến Trung Quốc từ năm Mậu Thìn đời Hán Minh Đế đến năm Đinh Mùi niên hiệu Chí Chánh tổng cộng là một ngàn hai trăm chín mươi sáu năm.
Triều Minh đầu tiên lập đô ở phủ Ứng Thiên tức là Nam kinh, sau đó dời về phủ Thuận Thiên tức là Bắc kinh. Gồm các đời:
Thái Tổ → Kiến Văn Đế → Thành Tổ → Nhân Tông → Tuyên Tông → Anh Tông → Cảnh Thái Tông → Hiến Tông → Hiếu Tông → Võ Tông → Thế Tông → Mục Tông → Thần Tông → Quang Tông → Hi Tông → Thánh Thượng (Tư Tông).
Đế sinh ở Hào châu, có Long quang sáng rực, khiến mọi người đều kinh sợ. Đế khởi binh vào tháng ba năm Nhâm Thìn đời Thuận Đế nhà Nguyên. Sau đem binh chinh phạt Quách Tử Hưng, vượt sông chiếm lấy Thái Bình, Tập Khánh làm nền móng xưng vương. Kế đến diệt Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, xưng là Ngô Vương, sau lại tiến lên phía Bắc bình định Trung nguyên, thống nhất thiên hạ lên ngôi Hoàng đế, tại vị ba mươi mốt năm thì băng hà ở Tây cung, thọ bảy mươi mốt tuổi, huy hiệu là Thánh Thần Văn Vũ Khâm Minh Khải Vận Tuấn Đức Thành Công Thống Thiên Đại Hiếu Hoàng Đế; miếu hiệu là Cao Tổ táng ở Hiếu lăng. Đế là bậc có tư chất trời ban, không một tấc đất, chỉ là một người dân bình thường mà lập thành nghiệp lớn. Tuy nói do thiên mệnh mà người đều quy phục nhưng cũng do thần vũ và chẳng sát sinh dẫn đến.
Ngày Ất Hợi mồng bốn tháng giêng năm Mậu Thân, niên hiệu Hồng Võ thứ nhất, Đế tự viết văn tế cáo trời đất ở Nam giao (ngoại thành phía Nam), lễ xong thì lên ngôi Hoàng đế tại phía Nam Giao đàn, định quốc hiệu là Đại Minh, niên hiệu Hồng Võ. Truy tôn bốn đời cha ông đều là đế và hậu. Lập Mã Thị làm Hoàng hậu, lập Thế tử Tiêu làm hoàng Thái tử.
Vào ngày này bầu trời trong xanh, sương thơm ngưng đọng, một ngôi sao độc hiện, thật là trời cao đã mở bày cảnh vận sáng tỏ. Phong Lý Thiện Trường làm Trung thư Tả thừa tướng, Từ Đạt làm hữu thừa tướng, Chương Dật làm Ngự sử trung thừa.
Đế vì Đông cung thiết lập quan chức mà dạy rằng:
"Phàm cử người hiền dùng người tài là gốc để lập quốc; kính người có đức, chuộng người lớn tuổi chính là đạo tôn hiền". Lại nói: "Gỗ lớn quý thì phải trao cho người thợ giỏi, viên ngọc vạn lượng thì chẳng thể trao cho người thợ vụng".
Đế hạ chiếu lập ra Điển Tự còn gọi là Viên Khâu, Phương Khâu, Tông Miếu, Xã Tắc để cúng tế trời đất, Tổ tông, Thần kỳ. Lại ban luật lệnh hiểu dụ rằng: "Luật lệnh là phép trị thiên hạ. Lệnh đi trước mục đích là để chỉ dạy, luật theo sau mục đích là trị phạt".
Để chỉ dụ các quan châu huyện rằng: "Chim lúc mới biết bay chưa thể sải hết đôi cánh, cây mới trồng chẳng nên lay động gốc rễ".
Thượng Bảo Ti là cơ quan ở cung cấm, gồm mười bốn Bảo:
Phụng Thiên Chi Bảo để trấn giữ vạn quốc, tế tự đất trời. Hoàng đế Chi Bảo để phong thưởng người có công lao; Hoàng đế Tín Bảo để hiệu triệu ba quân; Thiên tử Chi Bảo để cúng tế quỷ thần; Thiên Tử Hành Bảo để phong thưởng man di; Thiên tử Tín Bảo để điều động phiên binh; Chế
Cáo Chi Bảo để lo về cáo mệnh; Sắc Mạng Chi Bảo lo về sắc mệnh; Quảng Vận Chi Bảo lo việc xét tuyển hiền tài khám định kinh điển; Ngự Tiền Chi Bảo để hộ vệ trước vua và đi theo xe kiệu của vua; Hoàng đế Tôn Hiền Chi Bảo để ban thưởng cho người trong Hoàng tộc; Kính Thiên Cần Dân Chi Bảo là để chỉ dạy dẫn dắt quan lại.
Phàm lệnh bài của Hổ Thủ thị vệ có sáu hiệu là thân, mộc, hỏa, thổ, kim và thủy có trách nhiệm bảo vệ tuần tra ban đêm.
Kim bài có năm hiệu là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín có nhiệm vụ canh giữ bảo vệ nghiêm ngặt.
Bán Tự Đồng Phù có bốn hiệu là Thừa, Đông, Tây, Bắc; Tuần thì một nửa bên trái, Thú thì một nửa bên phải, cứ theo sự khế hợp mà hành sự.
Đồng bài (Thẻ bằng đồng) gồm một hiệu là Dõng lo việc sắp xếp các quân lính canh gác.
Nha bài (thẻ bằng ngà) gồm năm hiệu là Huân, Thân, Văn, Võ, Nhạc để xem xét việc tham dự triều chính.
Tế bài có ba hiệu là Bồi, Kỳ, Chấp lo về việc tế tự. Song ngư đồng bài có hai hiệu là Nghiên để túc trực hộ vệ và Thiện để làm thanh tịnh tế đàn.
Phù Nghiệm Thì có năm hiệu là Mã, Thủy, Đạt, Thông, Tín dùng để cấp báo tin tức, thông tri chế mệnh của vua. Lại lập Đăng Văn Cổ giao cho quan ngự sử giám sát, phàm có những việc oan ức, bí mật hệ trọng thì được phép giáng trống, quan Ngự sử sẽ dẫn vào tấu trình với Hoàng đế.
Tháng ba phong Lưu Cơ làm Ngự sử Trung thừa kiêm Thái tử tán thiện đại phu, thường cùng với Đế luận bàn về binh pháp để đánh bại quân địch giành lấy chiến thắng. Đế nói: "Đóng mở, Kỳ Chánh trong phút chốc là đã biến hóa, giống như thế vô thường của gió mây vậy. Cần phải thông đạt chỗ biến hóa ấy!"
Hội Đường Thiền sư húy Tự Duyên, người Lâm Hải, họ Trần. Mẹ Sư một hôm cảm một điềm mộng lạ mà có thai sinh ra Sư. Đầu tiên Sư lễ ngài Quán Công chùa Bạch Tuyết cầu làm đệ tử xuất gia và thọ giới Cụ túc. Kế đó Sư tham yết Nhật Khê Vĩnh Công ở Thiên Ninh để quyết trạch tâm yếu. Sau nhân xét thấy tự thân tìm cầu học đạo trên đường đi trải qua nhiều gian nan hiểm nạn, do đó phát tâm xây dựng những nơi nghỉ ngơi cho những người du phương tham học. Đầu tiên Sư trùng tu chùa Diệu Quả, kế đến lập Viên Thông các, Hoa Nghiêm bảo các, Di-đà các, họa tướng mười sáu phép quán để khai phát chánh nhân Tịnh độ cho người. Việc làm của Sư truyền đến triều đình, vua ban cho pháp y Kim lan và hiệu là Phật Tâm Phổ Tế, sau Sư lại xây dựng Báo Ân Thiền viện, lãnh chúng tu tập, dặn người học nên cho việc kiến tánh là cấp bách. Tháng ba năm Mậu Thân, Sư thị tịch, thọ năm mươi chín tuổi, bốn mươi ba hạ lạp, tháp thờ lập ở phía Tây của chùa (Chu Minh)
Nguyên Phác Thiền sư húy là Sĩ Chương, tự là Nguyên Phác, người Hải Ninh, họ Vương. Lúc sinh ra đã có Phục Tê trên đầu (1 tướng quý, xương nổi cao nơi trán), mắt sáng chớp lóe như điểm sơn, không ăn các chất tanh, nồng, thích đọc kinh Phật. Cha mẹ cho vào chùa Truyền Pháp. Đến năm mười chín tuổi thì được độ làm Tăng. Bấy giờ Ngã Am Vô Công đang trụ trì ở Thượng Thiên Trúc, Sư muốn đến tham lễ, nhưng một hôm mộng thấy mình dạo chơi nơi Bảo Sở, quỳ lễ sám văn. Quả nhiên khi gặp ngài Ngã Am thì Sư rất được xem trọng, phàm Thiên Thai giáo quán, tất cả văn nghĩa của một nhà, ngài Ngã Am lần lượt truyền trao Sư. Từ đó Sư cùng với Thiên Tâm Oánh Tố ngày đêm nghiên cứu, nạn vấn đến chỗ cùng tột, mọi người đều cho hai ngài là hai viên ngọc bích. Sau Sư vâng mệnh trụ trì ở Tê châu, lại được tham học yếu chỉ giáo quán nơi ngài Đại Dụng Tào Công, Tuyệt Tông Kế Công. Sư từng nói: "Biển giáo Phật pháp mịt mù như khói mây, chẳng thể độc thiện mà có thể nghiên cứu đến cùng tận. Ví như ta tự hoạch định giới hạn mà chẳng thể tiến lên, thì có thể tránh được lỗi hẹp lậu ư?"
Sư lại dời đến trụ tại Tinh Đức, chuyên giảng thuyết kinh pháp cho đại chúng, mà không hề mỏi mệt. Vào niên hiệu Hồng Võ thứ nhất ở Tập Khánh, pháp tịch hoang vắng, quận thú Lý Công thỉnh sư trụ trì. Chưa bao lâu Trung Thư Tỉnh có chỉ dụ cho Sư trụ trì các chùa viện nổi tiếng ở năm phủ thuộc vùng Đông Tây-Triết giang tụ tập về Kinh đô, cùng với Bích Thiên Giới lập Thiện Thế viện để thống lãnh Tăng chúng, đồng thời giám sát việc lao dịch. Bậc kỳ lão đại đức các nơi đều chẳng biết phải làm gì, chỉ một mình Sư đề xuất phương cách, phép tắc, tất cả đều có điều chương rõ ràng. Mười vạn Tăng Ni đều học tập theo đó.
Đến tháng sáu, Sư dự biết đã đến giờ ra đi, nên triệu tập đệ tử để phó chúc hậu sự. Đến ngày mười bảy thì Sư ngồi yên thị tịch, thọ bốn mươi sáu tuổi, hai mươi tám hạ lạp, tháp được xây ở phía Nam tháp Biện tài ở Long tỉnh. Đệ tử Sư có các vị: Viên Giác, Nhất Ấn, Thăng Nguyên, Khắc Cần...
Đế chế định áo mũ tế tự cho Thiên tử; định lễ nghi cúng tế Tông miếu bốn mùa; cấm hoạn quan nắm giữ binh quyền và tham dự triều chính.
Vương Y dâng sớ rằng: "Điều cốt yếu trong việc tu đức của đấng nhân quân là lấy sự trung hậu làm tâm, khoan dung độ lượng làm chánh. Cả hai là căn bản cho đạo đức của vua".
Đô thành của nhà Nguyên có khí màu đỏ bốc lên đầy trời, như ánh lửa chiếu vào người, qua hai ngày thì khí màu đen bốc lên tối mịt, trong vòng một trăm bước không nhìn thấy người. Vua Nguyên triệu tập hoàng hậu, các phi, Thái tử và quần thần ở điện Đoan Minh để nghị bàn. Bỗng nhiên có hai con chồn từ trên điện xuất hiện. Vua Nguyên nói: "Đó là điềm trời báo cho Trẫm biết, Trẫm có thể lưu lại đây nữa ư?" Đến nửa đêm, vua và tùy tùng ra cửa Kiến Đức chạy về phía Bắc đến Thượng đô.
Kinh thành có tiếng trống trời vang, vua đại xá thiên hạ, cùng với nhân dân đổi cũ lập mới; nhưng không ân xá tội thập ác. Đế lập quan viên sáu bộ để phân ra xử lý các việc trong thiên hạ, đồng thời ban chiếu cầu hiền.
Thiên Châu Thiền sư húy Duy Tắc, tự Thiên châu, họ Phí, người ở Cô thành; mẹ là Thẩm thị một hôm nằm mộng thấy một vị Tăng lạ mà có thai và sinh ra Sư. Đầu tiên Sư lễ ngài Thiện Thọ làm thầy và thọ giới Cụ túc. Kế đó tham yết mười tám vị tôn túc như Phật Nhật Kỳ, Thiên Nham Trường, Vô Kiến, Vô Dụng... nhưng đều không khế hợp. Cuối cùng Sư đến Khuông Phụ tham kiến Vô Cực Nguyên Công mà hoát nhiên đại ngộ. Tự thệ rằng không quan hệ đến thế tục, nhưng chỉ tùy căn cơ mà dẫn dắt, người ngộ đạo ngày càng nhiều. Vào năm này triều đình có chiếu cho cao tăng các nơi về kinh để thực hành Pháp sự. Bạch Am Kim Công tiến cử Sư trước tiên, nhưng chân bị đau nên Sư cáo bệnh trở về.
Một hôm, trời vừa sáng bỗng nhiên Sư báo với đại chúng rằng: "Ta đi đây!" Thị giả thỉnh Sư nói kệ di chúc, Sư lớn giọng nói: "Những điều nói lúc bình thường chẳng phải ư?" Rồi nhắm mắt thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, hạ lạp năm mươi tám năm. Khi trà-tỳ thì xương đầu, răng và lưỡi chẳng cháy. Hám Thượng Hồ Thu Bích có ghi chép thần thái và hành nghi của Sư. Người Nhật Bản mua đem về để cúng dường.
Sư có để lại Thiên Châu Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Vua tôn Trương Chánh Thường làm Chân nhân, phế bỏ hiệu Thiên sư. Đế nói với quần thần rằng: "Đấng chí tôn là trời rồi, há lại có thầy của trời nữa ư? Nếu lấy đó làm hiệu thì thật là bất kính! Lại đổi Thiên sư ấn thành Chân nhân ấn".
Tháng giêng năm Kỷ Dậu niên hiệu Hồng Võ thứ hai phong thần Thành Hoàng ở Kinh đô và khắp thiên hạ, đồng thời khiến cúng tế các thần ở năm núi, năm trấn, bốn sông, bốn biển. Đặt định phép tế lễ thần linh, tang phục cho quan và dân.
Đến tháng hai Đế cày Tịch điền, ban chiếu tu chỉnh Nguyên sử, lập bia lăng Hoàng đế, đặt hiệu nhân Tổ Thuần Hoàng Đế lăng.
Vô Tận Thiền sư húy Tổ Trừng, họ Vương, người ở Tứ Minh. Cha là Hiếu Khiêm từng chép kinh Hoa Nghiêm, có xá-lợi năm màu ở đầu bút, Sư còn nhỏ mà đã nói: "Sự linh nghiệm của Bátnhã đến như thế ư?" Sau Sư xuất gia ở Thiên Ninh tại quận nhà, nương vị Tăng tên Lương Vĩ, lễ trụ trì là Đông Bạch Minh Công làm thầy, kế đó thọ giới Cụ túc nơi ngài Khuê Nguyên Khuê Công, tham học nơi Nhật Khê Băng Công mà phát minh tâm địa. Sư lại tham yết các ngài Trung Phong, Phương Sơn, Vô Kiến, Đẩu Nham và được ấn chứng sở ngộ. Sau Sư đến thắng địa Vân Phong ở Thiên Thai ẩn cư tu tập cho đến cuối đời. Sư cùng với đệ tử luôn khổ hạnh tu trì mùa đông chỉ một áo lông cừu, mùa hạ chỉ một chiếc áo mỏng, ngày một bát cơm, chẳng bao giờ xuống núi. Nhưng người đến cầu hóa độ rất nhiều, do đó rừng gai gốc biến thành bảo phường, cảnh non mây hóa thành Thiền lâm thắng địa.
Sư rất hiếu thảo, phụng dưỡng mẹ là Đổng thị đến cuối đời. Vào ngày tám tháng hai năm Kỷ Dậu (Hồng Võ thứ hai) Sư thị hiện có chút bệnh, dặn dò đệ tử rằng: "Sắc thân vô thường, nên sớm cầu chứng ngộ. Đến giờ rồi, ta sắp đi đây!" Thị giả xin Sư thuyết kệ. Sư bảo lấy viết rồi ghi rằng:
Sinh diệt và đến đi Vốn là Như Lai tạng Phá nát năm Tu-di Rỗng rang không nghịch thuận.
Viết xong Sư ngồi ngay thẳng thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi bảy hạ lạp, trà-tỳ thâu được vô số xá-lợi. Tháp thờ xây ở bên trái Vân Phong.
Về miếu Công thần thì Từ Đạt là đầu tiên, kế đó là Thường Ngộ Xuân, Lý Văn Trung, Đặng Dũ, Thang Hòa, Mộc Anh, Hồ Đại Hải, Phùng Quốc Dụng, Trương Đức Thắng, Ngô Lương, Ngô Trinh, Táo Lương Thần, Khang Mậu Tài, Ngô Phục Mao Thành, Tôn Hưng Tổ... gồm hai mươi mốt người, nếu ai chết thì tạo tượng thờ ở miếu, nếu còn sống thì để tòa vị trống, tất cả tại Kê Minh sơn.
Lai định các công thần được phụ thờ cúng tại
Đại miếu, gồm bảy người đã mất là: Liêu Vĩnh An, Du Thông Hải, Trương Đức Thắng, Tang Thế Kiệt, Đam Tái Thành, Hồ Đại Hải, Triệu Đức. Sau bỏ Vĩnh An và tự thân Đế thêm vào sáu người là Từ, Thường, Lý, Đặng, Thang, Mộc.
Hư Đường Thiền sư húy Vĩnh Ninh, tự Nhất Nguyên, người ở Thông châu, họ Chu, mẹ là Lý thị. Sư vào chùa Quảng Tuệ, có hiện điềm biết Sư là Thiền sư Chuẩn Hải đời Tống tái thế, nên Tăng lục Ti cấp độ điệp cho xuất gia. Đầu tiên Sư đến tham học nơi Thiền sư Vô Dụng ở Thái Hồ, ngài Vô Dụng dùng nhiều phương tiện mài giũa giúp Sư trở thành một bậc pháp khí. Sư ở lại hầu hạ ba năm, một hôm được thầy trao cho câu: "Ngộ long tức trụ, Ngộ trì tiện cư". Đầu tiên Sư trụ ở chùa Thật Tướng tại Đại Động, Quảng Đức, thường cùng với Vô Nhất Toàn Công ở Thạch Khê qua lại, người đời gọi là Nhị Cam Lộ Môn. Sau Sư dời đến Long Trì, ở Nghi Hưng, tên đã phù hợp với huyền ký, nên vui mừng hợp ý, bèn xây dựng vài mươi gian nhà đề tên là: "Vũ Môn Hưng Hóa Am", truyền trao Tam Quy năm giới cho Long thần. Đế Sư ban hiệu là Hoằng Giáo Phổ Tế.
Về sau vua ban chiếu triệu tập một ngàn bảy vị Sa-môn đến Lý sơn thiền tự xem đọc Đại Tạng kinh trong bảy ngày. Sư lại thăng tòa thuyết giảng, trời mưa cam lộ. Sư trụ trì Thiên Ninh Vạn Thọ tự, khiến ngôi chùa này ngày càng hưng thịnh. Thuận Đế nhà Nguyên ban hiệu chùa là: "Bản Giác Diệu Minh Chân Tịnh Thiền Tự, đồng thời thỉnh trụ Cánh Đức Thiền tự và Đại Hoa Nghiêm tự ở Thiên Đồng, nhưng Sư cáo bệnh chối từ. Sau Sư được chiếu triệu vào kinh, thuyết pháp ở điện Long Quang, vua rất hoan hỷ, ban cho pháp y Kim lan và vòng ngọc và hiệu là Phật Tâm Liễu Ngộ. Đế sư cũng tặng cho y đỏ và mũ lông. Sư phụng chỉ đến Ngũ Đài sơn dâng hương, Đại sĩ Văn-thù hiện năm lằn ánh sáng lành. Trấn Nam Vương thỉnh Sư vào cung lễ thọ đại giới, đồng thời phụng cúng bát bạch kim, sai quân hộ vệ tiễn về Long Trì. Sư khuyến mộ hàng vạn thiện tín, lập Vạn Thiện Đồng Quy hội, chôn cất vô số xương cốt của binh lính tử trận. Bấy giờ gặp lúc trời hạn hán nặng Sư theo sự cầu khẩn của dân làng nên lập đàn tụng niệm, trời liền mưa lớn, nhân dân được mùa.
Vào tháng sáu năm Kỷ Dậu này, Sư hiện có chút bệnh, bảo may y vải thô rồi nói rằng: "Ta sắp đi!" Đến ngày mười bảy viết kệ rằng:
Bảy mươi tám năm xấu vụng
Rõ ràng một đời hư hỏng
Trâu đất trong biển xoay mình
Tháng sáu trời nóng tuyết bay.
Viết xong Sư nằm nghiêng mà thị tịch. Trà-tỳ có ánh sáng năm màu xuất hiện, răng lưỡi và chuỗi hạt không cháy, khói lan đến đâu đều biến thành xá-lợi. Tháp được xây dựng ở Tử Vân để tôn trí xálợi.
Tháng bảy Thường Ngộ Xuân qua đời, thọ bốn mươi tuổi, truy phong "Tam Đại Giai Vương", hai người em được phong tước Công, được thờ cúng ở Thái miếu tại tòa vị thứ hai.
Tháng mười ban lệnh cho các quận huyện trong thiên hạ phải xây trường học. Cao lộ (Cam lộ) rơi trong vườn sau cung Càn Thanh.
Cam lộ ở đây gọi là Cao lộ, màu sắc trong như rượu, đông đặc như mỡ, lại trắng như châu phưởng, vị ngọt trải cùng khắp, tòng bá đều tỏa hương thơm, hơi bay nơi nơi, tụ kết thành từng giọt, xông đến điện Thái Hòa.
Ngày mười ba tháng này, Cam lộ rơi trên cây tòng xanh tốt, Lý Thiện Trường dẫn quần thần đến chúc mừng. Trong niên hiệu Vĩnh Lạc lại rơi trên cây tùng cây bá ở Hiếu lăng, trải qua bốn ngày; ngưng kết thì thành ngọc chỉ (mỡ đông đặc), nóng chảy thì thành mật ngọt, đẹp như hạt châu, kết liền đều đặn như xếp vỏ ốc. Chỉ dùng để dâng cúng tông miếu, ban phát cho trăm quan. Thơm ngon vô cùng không gì sánh được. Gần đây có một loại tên là Tước đường màu trắng đục, vị rất ngọt nhưng hôi như nhựa cây tùng, nếm thì dẻo dính lưỡi, khi đói mà ăn nó thì bị bệnh, ăn nhiều thì chết, lấy đó để nghiệm xét.
Chương Dật có tài văn võ, làm quan ở nơi nào cũng đều lập được công lao. Bản tính ông hiếu thuận, hay an ủi, dạy dỗ mọi người, tất cả đều lấy lòng chân thành làm gốc. Mỗi khi luận đến việc lớn, thì ông chẳng nể sợ quyền thế, mà phải đạt đến triết trung nơi lý.
Ông làm quan đến chức Ngự sử trung thừa. Cho đến khi qua đời, vua ban chỉ dụ cúng tế ông.
Tháng giêng năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Võ thứ ba, Trung phong ngoại Tổ phụ là Dương Vương, lập miếu ở Kinh đô, tự thân Đế đến tế lễ.
Tháng hai Vương Y dạy ở Đại bản đường.
Hạ chiếu miễn thuế lương thực trong năm này ở mười sáu quận trong ba tỉnh.
Biệt Phong Thiền sư húy Đại Đồng, tự Nhất Vân, họ Vương, người ở Thượng Ngu, mẹ là Trần thị. Lúc mới sinh ra Sư, người cha thấy một vị lão tăng lạ chống tích trượng bước vào nhà, ông bèn chắp tay vái chào và hỏi: "Hòa thượng từ đâu đến đây?" Đáp: "Từ núi Côn lôn đến!" Nói xong vị tăng nhanh nhẹn bước vào phòng, bỗng chốc thì sinh ra Sư. Nhân đó mà biết Sư là người tái lai của vị Hòa thượng kia.
Đầu tiên Sư vào chùa Sùng Thắng thế phát xuất gia, nghiên cứu Tông chỉ Thanh Lương nơi Pháp sư Xuân Cốc. Học thông Tứ Pháp Giới Quán nơi Cổ Hoài Triệu Công; sau tham kiến Hối Cơ Hi Công mà có chỗ vào; lại nương Thiền Sư Trung
Phong tu tập, được trao cho trách nhiệm hoằng dương giáo nghĩa Hiền Thủ, và làm kệ tán thán Thanh Lượng Tượng trao cho Sư. Sư vui mừng thưa rằng: "Con nay mới biết vạn pháp vốn chỉ là một pháp, chẳng biết ai là thiền, ai là giáo cả!"
Sư lại được ngài Xuân Cốc phân tòa giảng thuyết kinh Hoa Nghiêm. Trong những năm Diên Hựu Sư trụ ở chùa Tịnh Đô và các chùa Cảnh Đức, Đông Tháp-Bảo Lâm. Nhưng Bảo Lâm là nơi mà Quốc sư Thanh Lương thọ học, nên người đến tham học rất đông. Đầu năm Chí Chánh, Nguyên Đế ban cho Sư hiệu là Phật Tâm Phổ Tế Diệu Biện và ca-sa Kim lan. Gặp năm hạn hán, Sư đốt tý hương cầu mưa, có linh nghiệm. Năm Hồng Võ thứ nhất, Sư trụ ở Chung Sơn, được vua triệu kiến ở Vũ Lâu, ban yến tiệc trong cung cấm, vàng bạc và các vật quý giá; vinh dự trở về. Sư trì luật rất nghiêm, ngoài một bát ra thì không có các vật nào khác. Nhưng lại có hơn năm ngàn quyển kinh sử.
Mùa đông năm Hồng Võ thứ hai, Sư hiện có chút bệnh. Qua ngày mười tháng ba mùa xuân năm Hồng Võ thứ ba, Sư thuyết pháp, từ biệt đại chúng, rồi trở về phương trượng ngồi yên thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp. Sư có để lại tác phẩm: Thiên Trụ Cảo, Bảo Lâm Loại Biên Lưu hành ở đời.
Bạch Vân Thiền sư húy Trí Độ hiệu Bạch Vân, người ở Lộc Thủy, họ Ngô, mẹ là Diệp thị. Năm mười lăm tuổi Sư lễ ngài Không Trung Giả ở chùa Thiền Trí cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc. Sư chuyên tu Thiền định, ba năm chẳng hề ngủ nghỉ. Sau Sư lập cựu Phúc Lâm viện để an trụ, xem kinh Lăng-nghiêm, Viên Giác. Sư lại tham kiến Linh Nham Chi Công, Đoạn Nhai Nghĩa Công, Vô Kiến Đỗ Công, đạt được sâu xa yếu chỉ Thiền tông. Kế đến Sư yết kiến Vô Phương Phổ Công, Tiểu Ẩn Đại Công, cơ duyên rất khế hợp, Sư lại trở về Phúc Lâm cùng với các ngài Độc Chủng Đàm, Thành Sơn Công sách tấn lẫn nhau tiến tu, sợ rằng lui sụt đạo nghiệp.
Năm Hồng Võ thứ hai vua triệu tập các danh tăng trong thiên hạ về kinh. Sư tham dự xong thì trở về Hổ Bào rồi đến Hoa Đảnh. Tháng hai năm này Sư có chút bệnh nên lại trở về Phúc Lâm. Qua tháng ba, một hôm Sư tắm rửa sạch sẽ, thay y phục, rồi viết kệ rằng:
Không có thế gian để từ
Không có môn đồ để biệt
Trong hư không rộng lớn
Đâu cần phải đóng cọc.
Viết xong ném bút mà thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, năm mươi hai hạ lạp, trà-tỳ xá-lợi thâu được năm màu; răng và xâu chuỗi chẳng cháy.
Tháng bốn, Đế phong vương cho các hoàng tử. Phong hoàng tử thứ hai là Thượng làm Tần Vương, hoàng tử thứ ba là Cang làm Tấn Vương, hoàng tử thứ tư là Tiệp làm Yên Vương, hoàng tử thứ năm là Tiêu làm Châu Vương, hoàng tử thứ sáu là Thực làm Sở Vương, hoàng tử thứ bảy là Phù làm Tề Vương, hoàng tử thứ tám là Tể làm Đàm Vương, hoàng tử thứ chín là Kỷ làm Lỗ Vương, hoàng tử thứ mười là Đàn làm Thục Vương. Cháu nội là Thủ Khiêm làm Tỉnh Giang Vương, tất cả đều được trao cho sách bảo.
Định chế độ quan thuộc truyền đời.
Định phương cách thi cử, như vào trường thứ nhất thì mỗi nghĩa kinh một bài, nghĩa Tứ Thư một bài. Trường thứ hai, luận một bài; chiếu, cáo, biểu, tiêu, nội khoa một bài. Vào trường thứ ba, sách một bài. Người trúng thí sau mười ngày phải đến thi năm môn là cưỡi ngựa, bắn cung, toán số, luật và viết chữ.
Nguy Tố tự Đại Phác người ở Kim Kê, nổi tiếng về văn học. Cuối đời Nguyên, ông làm quan đến chức Học sĩ. Khi Nguyên mất, ông muốn nhảy xuống giếng tự tử, có Tăng Đại Tể đến vớt lên và nói: "Quốc sử mà không có ngài thì chẳng ai biết, ngài chết thì mất cả quốc sử. " Sau ông vẫn làm Học sĩ, nhưng bị đày đến Hòa châu.
Mùa hạ trời nắng hạn đã lâu mà chẳng mưa, Đế đích thân cầu nguyện, Đế mặc áo thô, mang giày cỏ, đi bộ đến Sơn Xuyên đàn, ban ngày phơi mình dưới ánh mặt trời, ban đêm thì nằm trên đất. Hoàng thái tử dâng hiến thức ăn của nhà nông như lúa, mè đậu lên Đế. Trải qua ba ngày như thế thì trời mưa lớn, bốn phương đều nhuần thấm đầy đủ.
Cổ Đình Pháp sư húy Thiện Học, họ Mã, năm mười bảy tuổi đã được độ làm Đại Tăng, theo ngài Bảo Giác Giản học tập tông chỉ Hoa Nghiêm. Giản Công nói: "Học thượng nhân có thể cho rằng danh thật khế hợp!" Từ đó danh đức vang xa, mọi người đều ngưỡng vọng. Các vị Biệt Truyền Giáo, Cổ Điền Tư, Vô Ngôn Tuyên đều dùng thượng lễ để tiếp đãi Sư.
Sau Sư trở về Đông Lâm ẩn cư, chuyên tu tịnh nghiệp, hành trì Hoa Nghiêm Sám Pháp, Tu Tịnh Độ Ngũ Hối... để cầu sinh An dưỡng. Nhưng Đại chúng thỉnh Sư trụ trì chùa Đại Từ ở Dương Sơn, Sư nhận lời đến đây hoằng dương giáo Hiền Thủ, tiếp nối huệ mạng Phật. Lúc trời hạn hán, Sư cầu mưa có ứng nghiệm. Ngày hai mươi tháng bốn năm Canh Tuất, vì thất hẹn thuế của triều đình, nên phải dời đến Trì Dương, rồi thị tịch ở đây, thọ sáu mươi bốn tuổi. Túc nghiệp chẳng thể tránh.
Sở Thạch Thiền sư húy Phạm Kỳ, tự Sở Thạch, họ Chu, người ở Tượng Sơn, Minh châu. Mẹ Sư là Trương thị, một hôm mằn mộng thấy mặt trời rơi vào bụng mình, mà có thai sinh ra Sư. Lúc Sư còn ở tuổi ẵm bồng, có một vị thần tăng đến xoa đầu và nói: "Đây là mặt trời Phật, ngày sau có thể chiếu phá tối tăm". Nhân đó mà lập tiểu tự là Đàm Diệu.
Năm Sư mới bảy tuổi, đọc sách đã hiểu được ý nghĩa, nên được gọi là kỳ đồng. Năm chín tuổi, Sư lễ Nột Ông ở chùa Vĩnh Tộ xuất gia, lễ Sùng Ân Tuần Công thế phát, rồi đến cầu ngài Chiêu Khánh xin thọ giới Cụ túc. Sư trở về nơi ngài Sùng Ân Tuần quản lý Tạng kinh, nhân xem kinh Lăngnghiêm mà tỉnh ngộ. Sư đến tham yết ngài Nguyên Tẩu Đoan, và hỏi rằng: "Lời nói phát ra chẳng phải trước thanh sắc, thì chẳng phải là vật, ý nghĩa thế nào?"
Ngài Nguyên Tẩu liền dùng lời của Sư để cật vấn lại, nhưng Sư không khế ngộ. Đến khi vua Anh Tông nhà Nguyên ban chiếu viết Đại Tạng chữ Vàng, thì Sư được tuyển chọn thỉnh về kinh. Một hôm nghe thấy tiếng trống trên lầu thành vang lên, tự nhiên toàn thân Sư tuôn mồ hôi như tắm, và nói: "Lỗ mũi Kính Sơn, từ nay đã có trong tay ta rồi". Viết kệ rằng: "Lìa được mảnh tuyết trong lò hồng, lại gặp băng Hoàng hà tháng sáu". Sư lại trở về tham kiến Nguyên Tẩu Đoan Công. Vừa thấy sư Đoan Công liền nói: "Mật ý của việc Tây lai, chúc mừng ông đã nắm bắt được!" Sư ra khai đường ở Phước Trăn Hải Diêm, kế đó trụ trì Vĩnh Tộ, lập Đại Bảo các, đúc Thánh tượng Thiên Phật, xây tháp bảy tầng cao hai mươi bốn trượng, sắp thành tựu thì tháp bị nghiêng muốn đổ, Sư bèn cầu khẩn, đến đêm trời bỗng mưa to gió lớn, nghe quỷ thần bàn nhau rằng: "Tháp Thiên Ninh bị nghiêng, mau đến cứu giúp!" Đến sáng ra thì thấy tháp thẳng đứng như cũ. Sư lại dời sang chùa Bảo Quốc ở Hàng châu, Bản Giác ở Gia hưng. Sư xây dựng Vạn Phật các thật to lớn và tráng lệ, giống như thiên cung dời xuống trần thế. Đế Sư khen ngợi hành nghiệp của Sư, nên ban cho hiệu là Phật Nhật Phổ Chiếu Tuệ Biện, phù hợp với lời sấm ký của Thần Tăng ngày trước. Không bao lâu, Sư theo lời thỉnh trụ chùa Báo Ân, rồi lui về xây dựng Tây Trai để an dưỡng đến cuối đời.
Vào năm Hồng Võ thứ nhất, Sư đến pháp hội ở Tưởng Sơn, thăng tòa thuyết pháp, sang năm Hồng Võ thứ hai Sư được vua mời thọ trai ở Văn lâu, đích thân vua thăm hỏi, ban cho vàng bạc. Đến năm Hồng Võ thứ ba, vào tháng bảy Sư thị hiện có chút bệnh, tắm rửa xong Sư viết kệ rằng:
Chân tánh thật viên minh
Vốn chẳng sinh chẳng diệt
Ban đêm ngựa gỗ hí
Tây phương mặt trời mọc.
Sư lại nói với ngài Mộng Đường rằng: "Ta sắp đi đây!" Ngài Mộng Đường hỏi: "Ngài sắp đi đâu?" Đáp: "Đi Tây phương!" Hỏi: "Tây phương có Phật,
Đông phương không có Phật sao?"
Sư hét lên một tiếng lớn rồi an nhiên thị tịch. Hôm ấy nhằm ngày hai mươi sáu tháng bảy năm
Canh Tuất, thọ bảy mươi lăm tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. Khi trà-tỳ xong thu được nhiều xá-lợi như hạt châu, răng, lưỡi và xâu chuỗi không cháy. Tháp thờ được xây tại chùa Vĩnh Tộ ở Thiên Ninh.
Sư có các tác phẩm lục Hội Ngũ Lục, Tịnh Độ Thi, Thượng Sinh Kệ, Bắc Du Phụng Sơn Tây Trai Tam Tập, Hòa Thiên Thai Tam Thánh Thi, Vĩnh Minh Thọ Đào Tỉnh Tiết Lâm Hòa Tĩnh; Sư là một vị Đệ nhất đẳng Tông Sư vào thời mới lập triều Minh.
Tháng mười một, Đế phong tước và ban trưởng. Phong tước công gồm sáu vị:
1. Lý Thiện Trường Tuyên Quốc Công được ban hiệu là Khai Quốc Phụ Vận Suy Thành Thủ Chánh Văn Thần, tấn phong Hàn quốc công.
2. Từ Đạt Tín Quốc Công được ban hiệu Khai Quốc Phụ Vận Suy Thành Tuyên Lực Võ Thần tấn phong Ngụy Quốc Công.
3. Phong Thường Ngộ Xuân làm Trịnh Quốc Công.
4. Phong Phùng Thắng làm Tống Quốc Công.
5. Phong Lý Văn Trung làm Tào Quốc Công.
6. Phong Đặng Dũ làm Vệ Quốc Công, phong tước hầu cho hai mươi tám vị (không ghi).
Phong Uông Quảng Dương là Trung Cần Bá, phong Lưu Bá Ôn làm Thành Ý Bá.
Thiết Khoán (Thiết Khế) được làm bằng sắt, hình dáng cong như miếng ngói xưa, bề mặt có khắc cáo văn, bề lưng có khắc số lần được miễn tội, giảm tử. Cao rộng sai biệt có bảy bậc. Mỗi tấm được cắt làm hai ngay giữa, một nửa trao cho công thần, một nửa giữ trong nội phủ. Khi có biến cố cần đến thì lấy ra hợp lại để làm tin.
Đế ban yến tiệc cho công thần xong thì có lời rằng:
Lúc sáng tỏ thì có thể chiếu soi cái chưa thành hình, lúc tối tăm thì lại che mờ cả những cái đã hiển. Sự chưa hình thành thì còn có thể mong cầu, còn họa đã hiện thì thật là vô phương cách.
Phàm người sống trong giàu sang, chẳng thể buông lung lòng dục, buông lung lòng dục thì xa hoa; chẳng thể để tình phóng đãng, tình phóng đãng thì đa dâm. Dâm đến thì sự lo buồn, nguy hại liền theo. Nay ta sợ các khanh lâu ngày quên sót nên mới khuyên răn nhắc nhở!
Kiệt Phong Thiền sư húy Thế Ngu, hiệu Kiệt Phong, người Tây An, họ Dư; mẹ là Mao Thị, một hôm mộng thấy Đức Quan Âm tiễn Đồng tử Thanh Y mà có thai sinh ra Sư. Từ nhỏ Sư đã thích lễ bái tháp Phật, lớn lên cầu ngài Hiển Giáo Cô Nhan thế phát xuất gia, trích máu viết kinh Kim Cang. Kế đến Sư tham yết ngài Cổ Nhai Thuần, Thạnh Môn Cang được nghe chỗ cốt yếu của việc sử dụng khí lực, Sư bèn ngồi im như cây khô. Sau tham yết Bố Nạp Ủng, Đoạn Nhai, Trung Phong, rồi đến Thiền Sư Chỉ Nham Thành ở Đại Từ sơn ra sức tham cứu mà đại ngộ, bèn làm kệ rằng:
Nửa đêm bỗng nhiên quên nguyệt chỉ
Hư không xuất hiện mặt trời hồng.
Ngài Chỉ Nham Liều Ấn Khả, Sư ở lại hầu hạ ba năm. Sau đó về Trùng Hưng Phước Tuệ cổ sát ở Tây An. Đế Sư nghe tiếng ban cho hiệu Phật Trí Hoằng Biện. Sư lại đến trụ trì Hưng Long thiền tự ở Thạch Khê, người được Sư giáo hóa rất đông. Sư làm trụ trì đời thứ nhất ở các chùa Liễu Ứng, Cổ Vọng, Long Nhãn, Bảo Cái, Phổ Nhuận. Vào tháng mười hai mùa đông năm Hồng Võ thứ ba, Sư tham dự Thủy lục đại trai hội do Quận thú Hoàng tổ chức, Phật sự vừa xong thì Sư bị bệnh, bèn nhóm chúng khuyên nên tinh tấn tu đạo, Sư lại viết kệ:
Sinh vốn chẳng sinh
Diệt vốn chẳng diệt
Buông tay liền đi
Trăng sáng bầu trời.
Viết xong Sư ném bút mà thị tịch, thọ bảy mươi tuổi, năm mươi hạ lạp, tháp được xây ở Từ Vân viện tại Ô Thạch.
Sư có để lại Ngữ Lục lưu hành ở đời. Đệ tử đắc pháp có mười lăm vị.
Tháng giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Võ thứ tư Lý Thiện xin về hưu, Lưu Bá Ôn cáo lão về quê.
Vua ban cho hoàng Thái tử Ngọc Đồ Thư gọi là Đại Bản Đường Ký và Trung Quan Đồ Thư gọi là Hậu Tải Chi Ký.
Giới Am Thiền sư húy Phụ Lương, tự Dụng Trinh, người ở huyện Ngô, họ Phạm là cháu mười đời của Văn Chánh Công, cha tên là Bá Hòa, mẹ là Trịnh thị. Thuở nhỏ Sư đã có tướng xuất trần. Đến năm mười lăm tuổi Sư lễ ngài Thọ Di ở viện Nghinh Phước xuất gia, thọ giới Cụ túc. Sư cảm khái nói rằng: "Học Phật là để minh tâm, nếu không có thầy thì tâm làm sao mà minh, suốt ngày ngồi nhìn vách mà được ư?" Sư bèn đến Bắc Thiền Trạch Công tu tập Thiên Thai giáo quán, nhờ Sĩ Chiêm Tiêu Công sách tấn, nên Sư đến ngài Tiểu
Ẩn Tố tham cứu yếu chỉ Thiền. Kế đó Sư cùng với Thạch Thất Anh thi triển cơ phong đối đáp qua lại.
Sư khai đường giảng pháp tại chùa Tư Thánh ở Gia Hưng, và xây dựng điện đường. Kế đến Sư dời đến Thiên Chương rồi qua chùa Trung Thiên Trúc, người đến tham học ngày càng đông. Cuối cùng Sư trùng tu Linh Ẩn cổ sát để làm nơi ẩn tu đến cuối đời.
Ngày mười sáu tháng giêng năm này Sư thị tịch, thọ năm mươi lăm tuổi, hạ lạp bốn mươi. Tràtỳ thu được một thăng xá-lợi, răng vẫn còn cứng và trắng sạch, lưỡi vẫn hồng nhuận không cháy.
Chín chương tấu nhạc do Lãnh Khiêm tạo: Một là Bản Đại Sơ, hai là Nghinh Đại Minh, ba là Dân Sơ Sinh, bốn Phẩm Vật Hưởng, năm là Ngự Lục Long, sáu là Thái Giai Bình, bảy là Quân Đức Thành, tám là Thánh Đức Thành, chín là Nhạc Thanh Ninh.
Vua nói rằng: "Lễ là dùng để dẫn đến sự tôn kính, nhạc là để nêu lên sự khoan hòa, chẳng kính chẳng hòa thì lấy gì làm đối trị?"
Lãnh Khiêm tự là Khải Kính, người Hàng châu, thông âm luật, giỏi đàn, trống, khắc chạm và hội họa. Cuối đời Nguyên vì giặc Hoàng Cân nên ông lên đảnh Ngô sơn ẩn cư, tiêu dao hưởng thú yên hà ngoài trần tục. Đến khi Minh triều vừa lập, ông được triệu làm Thái Thường Hiệp Luật Lang. Những nhạc khúc tế lễ miếu mạo, đền đài đều do ông chế định. Ông cũng thường gặp dị nhân trao cho thuật thần tiên, nên ông có thể ẩn mình trong chiếc bình kêu thì lên tiếng, đập vỡ bình ra thì mỗi mảnh vỡ cũng đều lên tiếng.
Tháng tám, Đế gởi thơ hỏi Lưu Cơ về thiên tượng, Lưu Cơ theo từng điều mà trả lời. Ông cho rằng sau khi sương tuyết sẽ có ánh nắng xuân. Nay uy thế của quốc gia đã lập, thì cũng nên dùng sự khoan dung mà có một ít cứu giúp. Đế trao thư này cho Sử quán. Hoặc có người cho rằng vận sát trong ba mươi chín năm cũng chưa trừ hết. Lưu Cơ nói rằng: "Dẫu như nước ta nay quét trừ tất cả phong tục xấu xa, thì hai, ba năm sau dùng chánh sách khoan hòa cũng có thể khôi phục". (Dẹp vận sát cực yên thì khó, mai sau mới dứt trừ).
Giác Nguyên Thiền sư húy Tuệ Đàm, tự Giác Nguyên, người Thiên Thai, họ Dương; mẹ là Cổ thị, một hôm mộng thấy nuốt hạt châu minh nguyệt mà có thai sinh ra Sư. Đầu tiên Sư lễ ngài Đại Quân chùa Pháp Quả cầu xuất gia, đến năm mười sáu tuổi thọ giới Cụ túc; học luật từ ngài Chiêu Khánh Quả, Cao Ly giáo; học Chỉ Quán nơi ngài Thượng Trúc Trừng. Bấy giờ, ngài Tiếu Ẩn Tố dạy Thiền ở chùa Trung Thiên Trúc, Sư bèn đến thiết tha cầu đạo. Ngài Tiếu Ẩn nói: "Từ bên ngoài đem về thì chẳng phải là của báu trong nhà. Đạo ở tại tự kỷ, đâu thể cầu tìm nơi người?" Sư bèn trở về chuyên tu thiền định, lắng tâm tĩnh tọa trong thời gian lâu. Một hôm ngài Tiếu Ẩn nêu công án Dã Hồ của Bá Trượng, Sư hoát nhiên đại ngộ, liền nói rằng: "Phật pháp rơi vào tay ta rồi, chỉ vì quá phân minh, ngược lại làm cho chậm chứng đắc!" Ngài Tiếu Ẩn nói: "Ông thấy đạo lý gì, mà dám lớn lối như thế?" Sư liền giang hai tay ra và nói: "Không có giá trị bằng nửa văn tiền!" Tiếu Ẩn hứa khả. Sư theo Tiếu Ẩn từ chùa Long Tường, đến diện kiến vua Văn Tông nhà Nguyên ở Khuê Chương, thần thái của Sư vẫn điềm nhiên.
Ngài Tiếu Ẩn bèn khen rằng: "Thật đúng là sư tử con trong nhà ta!"
Sau Sư khai pháp ở Tổ Sơn đường trên Ngưu Đầu sơn, sửa sang điện các ngày một mới; lại dời đến trụ Quảng Tuệ Thiền tự ở Thanh Lương, cũng trùng hưng như Ngưu Đầu hoang phế. Đế Sư khen ngợi và ban cho Sư hiệu là Tịnh Giác Diệu Biện. Khi Thái Tổ bình định Kiến Nghiệp, Sư đến yết kiến ở Viên môn, vừa thấy, Đế liền khen rằng: "Đây là vị Tăng phước đức!" Bèn ban chiếu cho Sư trụ Thái Bình Hưng Quốc tự ở Tưởng Sơn. Năm sau lại ban chiếu cho Sư trụ chùa Đại Thiên Giới. Mỗi khi tổ chức pháp hội, Sư đều thăng tòa diễn thuyết, mấy lần vua đến ban ân trạch, tự tay vua đề: "Thiên hạ đệ nhất thiền lâm", treo ở Tam quan. Năm Hồng Võ thứ nhất lập Thiện Thế viện, phong cho Sư hàm nhị phẩm, hiệu là Diễn Phạm Thiện Thế Lợi Quốc Tùng Giáo Đại Thiền Sư, trụ trì chùa Thiên Giới, thống lãnh các việc trong Thích môn toàn quốc, đồng thời ban cáo mệnh phải đắp tử y. Có người đề nghị rằng nếu có Tăng sĩ nào hành phi pháp thì nên nghiêm trị. Sư bèn nói: "Ngạn ngữ có câu: Trong khu rừng lớn ắt có những cây vô dụng có thể chặt bỏ hết ư? Chỉ càng làm xấu thêm Thích môn mà thôi! Việc đã lộ bày chớ nên tha thứ mới được!"
Năm Hồng Võ thứ ba, Sư phụng chiếu đi xứ Tây Vực, đến tháng chín năm Hồng Võ thứ tư, Sư có bệnh, nói với mọi người rằng: "Ta chẳng thể về phục mệnh được!" rồi thị tịch, thọ sáu mươi tám tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Quốc vương nước này dùng kim quan gỗ hương tẩm liệm và củi hương để trà-tỳ. Linh cốt chôn cất bên cạnh tháp Bích-chi-phật ở nước này; pháp hữu là Tông Lặc thỉnh pháp y của Sư về thờ ở Vũ Hoa đài, trên Tụ Bảo sơn tại Nam kinh.
Cổ Am Thiền sư húy Hiển Thị, họ Lư; mẹ là Kim thị, một hôm mộng thấy Quan Âm Đại Sĩ hiện trong vầng mây năm sắc mà sinh ra Sư. Năm hai mươi mốt tuổi, Sư lễ ngài Nhất Sơn Nguyên cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc. Đầu tiên Sư tham yết Chỉ Kiến Phật Hải ở Thiên Nhai, chuyên học Thiên Thai giáo quán, đồng thời học thông văn nghĩa của Đại Tiểu thừa; có ai hỏi thì luận biện như nước chảy. Sau Sư thân cận các vị Hổ Nham Di, Hiền Tẩu Tư, nên đạo lực ngày càng tăng tiến. Sư khai pháp ở Long Thọ Giáo tự, phát huy phép tắc xưa; rồi sang trùng hưng Hiển Nghiêm Giáo tự đã hoang phế, dẫn dắt người học các nơi, dốc sức truyền trao những điều đã tích lũy từ xưa. Sau Sư ẩn cư nơi núi rừng chuyên tu Tây phương tịnh nghiệp, suốt ngày niệm Phật, từng hiển hiện nhiều việc linh nghiệm. Sư thị tịch vào năm Tân Hợi niên hiệu Hồng Võ thứ tư.
Năm Nhâm Tý niên hiệu Hồng Võ thứ năm, vì chưa được ấn truyền quốc của nhiều đời, nên vua sai các tướng tìm kiếm.
Tháng ba cấp độ điệp cho Tăng và Đạo sĩ. Cứu giúp những người già, trẻ, nam, nữ, cô bần khốn khổ. Ban chiếu cho các quan cử hành lễ ẩm tửu ở các làng xóm. Mùa xuân Đế đến chùa Tướng Sơn, ban chiếu lập Quảng Tiến Pháp Hội, thỉnh các Samôn danh đức bốn phương về hiệu đính Tạng Kinh.
Vua đề tên cho khúc nhạc. Đế lệnh cho Tòng Lặc soạn nhạc khúc hiến Phật. Tông lặc soạn xong trình lên Đế đề tên. Đế đề: Một là khúc Thiện Thế, hai là khúc Chiêu Tín, ba là Khúc Diên Từ, bốn là Khúc Pháp Hỷ, năm là Khúc Thiền Duyệt, sáu là Khúc Biến Ứng, bảy là Khúc Diệu Tế, tám là Khúc Thiện Thành.
Đế lại bảo Thái Thường hòa hiệp với tiết tấu của ca múa mà sử dụng. Đây là một định chế nổi tiếng.
Quảng Tiến Pháp Hội:
Bấy giờ đất nước chẳng ưu lo, hợp hòa khương thái, văn võ an vui gió mưa thời thuận. Đế đoan tọa im lặng tư duy đạo màu, lắng tâm tưởng niệm: Vào cuối đời Nguyên binh lửa khởi, thiên hạ tranh hùng, các loài chúng sinh chẳng được chánh mệnh mà chung thân, phát động đến cả vạn ức, khiến linh khí u uất khắp nơi, đầy cả trên dưới, dù tế lễ cũng chẳng thể tan, cô khổ không nơi nương gá; những lúc trời đêm mưa lạnh giá, như nghe những tiếng sầu than thảm thiết, lòng Đế thật đau thương như có bệnh nơi mình. Nay cho rằng trừ dẹp được những u uất khiến cho tất cả được siêu thăng, chỉ có giáo của đấng Đại Hùng mới có thể làm được!
Tống Văn Hiến Công có làm ký và thờ hỗ trợ đầy đủ pháp duyên; Thiền sư Bồ Am đến, lại soạn một Thiên Chung Sơn cảo, ghi chép đầy đủ trước sau và các việc lành linh dị trong pháp hội.
Đế lệnh cho Tăng Đạo Lục Ty lập ra Châu Tri Sách, phân phát cho các chùa và đạo quán trong thiên hạ. Phàm gặp Tăng Ni, Đạo sĩ ở bất cứ nơi đâu, thì liền cho gạn hỏi đối chiếu với sách này về cha mẹ, quê quán, ngày tháng xuất gia được độ... nếu trả lời chẳng hợp với sách thì biết là nguy Tăng.
Cô Phong Thiền sư húy là Minh Đức, người Xương Quốc họ Chu; mẹ là Hoàng thị nằm mộng thấy vị Tăng là Giới Công nâng ngôi sao, bèn có thai và sinh ra Sư. Lúc còn nhỏ Sư đã thích ngồi kiết già, năm mười hai tuổi lễ Tích Công ở Hoàng sơn xin làm đệ tử, lại đến núi Ngũ Đài thọ giới Cụ túc. Đầu tiên Sư tham yết ngài Trúc Tây Thản, nghe nêu câu chuyện Thế Tôn niêm hoa mà tỉnh ngộ. Kế đó Sư tham yết ngài Hối Cơ Hy, Minh Cực Tuấn, mà tâm không còn chướng ngại. Sau Sư gặp Trúc Điền Lâm Công, được ngài Trúc Điền nêu công án "Trâu đất vào biển" mà hoát nhiên đại ngộ, các mối nghi tức thời tan biến. Sư cùng với ngài Trọng Phương Luân kết am nơi đảo Đào Hoa, hằng ngày sách tấn nhau xem đọc kinh Hoa Nghiêm.
Sư khai pháp ở chùa Đông Thiền, rồi đến chùa Bảo Ninh ở Tập Khánh, dẫn dắt người học, khôi phục lại những cái đã hư hại. Đế Sư ban cho Sư hiệu Viên Minh Định Tuệ và pháp y Kim lan. Các quan thời ấy không ai chẳng muốn kết giao với Sư. Ba lần Sư đến đạo tràng ở Hồ châu, lần lượt kiến tạo cho đến hoàn thành. Sư lại đến chùa Tịnh Từ ở Hàng châu, vâng chiếu vào triều cảm tạ ân tứ, rồi trở về am Trúc Lâm ở Đạo tràng.
Một hôm Sư khuyên dạy đệ tử rằng: "Thân ta tuy nhỏ bé nhưng có tánh nhất chân đồng Như Lai. Tướng thế gian khởi diệt không khác gì đập đá, nháy lửa, ánh chớp. Các ông phải ngày đêm siêng năng tu hành, không được sinh tâm lui sụt". Sư lại viết kệ rồi thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, sáu mươi hai hạ lạp. Linh cốt an táng ở Đông cương. Sư có để lại Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Bích Phong Thiền sư húy Bảo Ngọc, người Vĩnh Thọ, họ Thạch, cha là Xứng Trưởng giả; mẹ là Trương thị chuyên làm việc thiện không mỏi mệt, một hôm vị Tăng khất thực trao cho bà một tượng Quán Âm và dặn dò rằng: "Nếu chí thành thờ phụng thì sẽ sinh một đứa con trai trí tuệ!" Không bao lâu sinh ra Sư. Khi sinh thì ánh sáng chiếu sáng ngôi nhà. Năm lên sáu tuổi Sư vào làm đệ tử Pháp sư Vân Tịch cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc. Sư lại theo học khắp các đạo tràng, thông suốt các học thuyết tánh, tướng, giảng thuyết rất trôi chảy. Một hôm Sư tham yết ngài Như Hải Chân, được chỉ bày yếu chỉ của đạo, thì Sư khởi đại nghi tình, tận lực tham cứu ba năm quên ăn bỏ ngủ mới dẹp được trần lao, lại ba năm tọa thiền mới đạt được Đại định lực. Một hôm nghe âm thanh chặt cây, Sư liền nói: "Việc trước khi sinh, ngày hôm nay ta mới biết được chỗ chân thật". Sư vội đến Chân Công cầu ấn chứng. Chân Công tận lực cật vấn, đến cả việc vẽ ba mươi tướng tròn để chỉ bày, Sư đều đối đáp đầy đủ. Chân Công nói: "Nay ông mới biết được Phật pháp rộng lớn và thù thắng như thế!"
Sư lại đến núi Ngũ Đài để kiểm chứng đời trước của mình, gặp ngài Văn-thù ứng hiện, Sư bèn lập am Linh Thứu để an trụ, người đến cúng dường lúa gạo rất nhiều. Vua Thuận Đế nhà Nguyên hạ chiếu thỉnh Sư về Yên kinh ban cho Tăng-già-lê Kim lan. Năm sau lại triệu kiến ở Nghinh Xuân các, lập đàn cầu mưa có ứng nghiệm, vua ban tặng vàng bạc, vải lụa, Sư nhận lấy đem cứu giúp người đói khát. Vua đặc biệt ban cho Sư hiệu là Tịch Chiếu Viên Minh, thỉnh trụ trì Hải Ấn thiền tự, nhưng Sư xin được trở về núi.
Niên hiệu Hồng Võ thứ ba, Thái tổ triệu Sư đến Nam kinh diện kiến ở điện Phụng Thiên, lưu Sư lại chùa Đại Thiên Giới, rồi triệu vào cung hỏi về Phật pháp và tình cảnh của quỷ thần, Sư tâu trình rất hợp ý vua. Năm Hồng Võ thứ tư vua thiết trai tăng tại chùa Sùng Hy. Ngày rằm tháng giêng năm Hồng Võ thứ năm, vua hành lễ hiến Phật, thỉnh Sư thí Ma già hộc thực, để cứu giúp chốn u minh. Vua ân sủng ban tặng một tứ thơ mười hai vận trong đó có những lời: "Huyền quan tận ngộ, dĩ thành Chánh giác".
Ngày mồng bốn tháng sáu năm ấy, Sư tắm rửa xong rồi ngồi yên thị tịch, thọ sáu mươi lăm tuổi, năm mươi chín hạ lạp, trà-tỳ thâu được xá-lợi năm màu, răng lưỡi, xâu chuỗi không cháy.
Sư là một bậc cao Tăng có phong thái kỳ vĩ, đoan nghiêm đầy đủ phước tuệ, đến đâu cũng đều giáo hóa, chính là một vị Phật sống xuất hiện vậy.
Dụng Chuyết Thiền sư húy là Tổ Nhĩ, tự là Nhật Chương, họ Trương, người Thường Thục. Sau khi cạo tóc xuất gia, Sư đến Tây Minh. Bấy giờ ngài Ngã Am Vô Trụ tại Diên Khánh, Thạch Thất Anh trụ tại Dục Vương, đều đối xử với Sư như bạn vong niên. Sau kế thừa dòng pháp của Pháp sư Trúc Ốc Tịnh. Sư khai pháp ở Vĩnh Định Giáo tự, rồi đến Quảng Hiếu ở Côn lôn, Tịnh Tín ở Gia Định. Sư làm chủ về giáo ở vùng Ngô hạ suốt năm mươi năm.
Niên hiệu Hồng Võ thứ nhất, Sư được chọn là một trong những vị Tăng có đức hạnh cao trọng, vâng chỉ về kinh đến chùa Đại Thiên Giới thuyết pháp. Vua mấy lần mời Sư vào cung luận đáp, đều hợp ý, nên ban hiệu là Từ Nhẫn Pháp Sư. Sau Sư xin về quê và thị tịch.
Năm Quý Sửu, niên hiệu Hồng Võ thứ sáu, cấp độ điệp cho Tăng Ni trong khắp thiên hạ. Triều trước phần nhiều tính số lượng Tăng mà bán độ điệp, gọi là miễn đinh tiền, Đế hạ chiếu trừ bỏ, ấn tứ về triều để giám sát, khiến ngăn việc uống rượu ăn thịt, lại dùng chỉ dụ để khuyên tu tiến đức. Đế rộng thi hành nhân đức trong việc trị chánh.
Thành Kim lăng hoàn thành, Đế cùng với Lưu Cơ đồng đến xem. Đế nói: "Thành cao như thế, chẳng ai có thể nhảy qua được!" Lưu Cơ nói: Chỉ có chim én (Yến, Yên) mới bay vào được! Sau Yên Vương vào Kim lăng, thật hợp với lời sấm này.
Để tìm cầu người hiền tài trong thiên hạ, Đế hiểu dụ rằng:
"Trên đời có hiền tài là báu vật của quốc gia. Các bậc thánh quân từ xưa đã từng miệt mài cầu hiền. Bởi vì không đủ hiền tài, không thể trọn vẹn trị quốc. Hồng hộc bay xa là nhờ vào đôi cánh, giao long vẫy vùng bởi do vẩy và vây, còn đấng nhân quân trị nước hay là nhờ có hiền tài phụ tá. "
"Nay các ẩn sĩ chốn sơn lâm, há chẳng có văn nghệ đức hạnh đủ nổi tiếng ư? Các quan nên lễ mời họ về Kinh, sử dụng họ để mưu cầu việc trị quốc!" Đế trình bày đạo trị quốc cho Quế Ngạn Lương nghe. Ngạn Lương tâu rằng:
"Đạo tại nơi chánh tâm". Lại nói: "Dùng Đức thì nhàn, dùng pháp thì nhọc. Dùng pháp để an dân, thì dân nhọc mà chẳng an; dùng đức để an dân thì dân an nơi đức!"
Đế khen rằng: "Khanh là thầy của Đế Vương!" Đế ban chiếu cựu Đế Sư của triều Nguyên là Nẫm Ca. Ba Tạng Bốc làm Xí Thạnh Phật Bảo Quốc Sư. Từ đó các vị tăng Tây Tạng có người được phong là Quán Đảnh Quốc Sư cho đến tước Tán Thiện Vương, Xiển Hóa Vương, Chánh Giác Đại Thừa Pháp Vương, Như Lai Đại Bảo Pháp Vương và đều được ban cho ấn tín cáo mệnh, lãnh đạo nhân dân nước của mình, hai năm triều cống một lần.
Tháng năm Tổ Thuận Lục soạn xong, Đế bảo lễ quan xem xét những Đế vương các đời, ai có công trong việc dưỡng dân thì lập miếu tôn thờ.
Đế bảo nên dùng những ngôn ngữ thông tục để chú thích kinh sách, khiến cho mọi người đều thông hiểu được ý chỉ của Thánh hiền. Chú thích hoàn thành dâng lên, vua đặt tên là Quần Kinh Loại Yếu.
Vô Mộng Thiền Sư húy là Linh Khí, tự Vô Mộng, hiệu là Tây Am, người Từ Khê, họ Vương; mẹ là Châu thị. Thuở nhỏ Sư theo Nho học, bỗng nhiên tâm xuất trần bộc phát, Sư bèn lễ ngài Tử Văn Lương thế phát xuất gia, rồi đến Chiêu khánh thọ giới Cụ túc, Sư học tập thông tất cả các giáo Tánh, Tướng. Sau nương ngài Nguyên Tẩu Đoan tham học pháp thiền mà tâm tánh rỗng rang vô ngại. Năm Diên Hựu thứ nhất Sư phụng chiếu lập hội Thủy lục ở Kim sơn. Trong khoảng niên hiệu Chí Nguyên Sư Khai pháp ở chùa Bảo Khánh tại Khánh Nguyên, rồi dời đến Khai Thọ, ba lần đến trụ Quốc Thanh. Đế Sư ban tử y và hiệu. Dù cho gió biển thổi mạnh am tranh phủ khắp, Sư vẫn an nhiên chẳng lay động. Sư khuyên dạy đồ chúng rằng: "Nếu nghiên cứu không Tông, nên bỏ hình hài, quên ăn ngủ để tiêu trừ tập khí nhiều kiếp, sau đó tâm địa mới sáng tỏ".
Niên hiệu Hồng Võ thứ hai, Đế ban chiếu triệu tập những vị tăng đạo cao đức trọng, trong đó có Sư, vua ban chiếu thỉnh Sư tạm trụ tại chùa Thiên Giới, sau khi đã cùng vua tâu đáp xong, vì tuổi cao, Sư được Đế thương xót cho phép trở về núi. Tháng hai năm ấy Sư bảo đệ tử rằng: Ba cõi là không hoa, như gió cuốn, khói mây, sáu trần là huyễn ảnh như nước nóng làm tan tuyết. Từ cổ chí kim chỉ một tánh độc tồn. Ta sắp thị tịch, hãy nghe ta nói kệ đây:
Ta có một vật
Không đầu không mặt
Muốn được rõ ràng
Niết bàn sẽ thấy.
Nói xong nhắm mắt thị tịch, thọ tám mươi chín tuổi. Tháp thờ xây ở núi Thanh Lương, Thiên Thai.
Thời bấy giờ rất tôn sùng Phật Lão, nên đồ chúng ngày càng đông, Đế ban lệnh cho quận huyện chọn lựa những vị có đầy đủ giới hạnh nhận lãnh Pháp sự.
Nghịch Xuyên Pháp sư húy Trí Thuận, họ Trần, người Thụy An, cha mẹ của Sư chuyên tu tịnh nghiệp đến lúc lâm chung hoa sen hiện nơi cửa.
Mẹ Sư là Lâu thị thờ phụng tượng Đại sư Trí Giả để cầu tự, một hôm mộng thấy vị tăng trên đầu có hào quang đang lướt ngược dòng trên sông, vẫy gọi Lâu thị rằng: "Ta sẽ là con của bà!" Mới sinh Sư đã có đầy đủ khí chất tốt đẹp. Năm bảy tuổi thì xuất gia học kinh Pháp Hoa, ba tháng thì đọc tụng thông thuộc, kế thừa dòng pháp ngài Giác Nguyên Xán ở viện Vô Tướng. Kế đó Sư nương ngài Hoành Vân Nhạc học tập yếu chỉ Tam Quán Thập Thừa, nhận chức Cương Duy nơi hội của ngài Độc Hải Thanh; khi tham yết ngài Thiết Quan Xu nhận lãnh tâm yếu, thì chân học tích tập từ lâu nay diệu cơ bộc phát. Sư lại tham yết ngài Thiên Nham Trường rồi trở về nơi ngài Thiết Quan cầu ấn chứng. Ngài Thiết Quan cật vấn luận biện xong, mới trao lời phó chúc. Đầu tiên Sư trụ trì chùa Báo Ân, kế đến qua thác Hà Sơn, khai sơn chùa Quy Nguyên. Triều đình ban cho tấm biển đề tên viện, ban cho Sư hiệu là Phật Tánh Viên Biện và Tăng-già-lê Kim lan. Tháp Tịnh Quang ở Ôn thành hư hoại, Sư tận lực trùng tu. Chùa Đông thiền hoang phế Sư lại đến tu sửa hoàn thành. Tất cả những việc Sư lo liệu đều thành tựu. Mọi người đều nói rằng: "Ví như thầy của ta mà làm Tổng binh thì chẳng có cái lo bại Bắc!"
Thiên Phật viện, Vạn Phật Các đều do Sư sắp đặt, thật quy mô, rực rỡ. Niên hiệu Hồng Võ thứ nhất Sư được mời tham dự pháp hội ở Chung Sơn. Sau đó Sư trụ trì chùa Tịnh Từ. Khi triều đình triệu những trụ trì ở ngôi chùa nổi tiếng về kinh để ham hỏi, Sư bèn đến Nam kinh, trải qua bốn tháng, một hôm Sư viết kệ để lại rồi thị tịch. Bấy giờ là ngày hai mươi tháng tám. Trà-tỳ thâu được rất nhiều xálợi; linh cốt an táng lại Tụ bảo sơn. Sư để lại Ngữ Lục và Thiện Tài kệ lưu hành ở đời.
Đại Thiên Thiền sư húy Tuệ Chiếu, họ Ma, người Vĩnh Gia, mẹ là Hoàng thị. Cha mẹ quý Sư như châu ngọc. Năm mười lăm tuổi Sư lễ Lãng Công cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc. Đầu tiên tham yết ngài Hối Cơ Hi, Đông Tự Hải, Thạch Lâm cũng để nghiên cứu sự lý nhân tình và giáo thừa. Sau tham kiến Tuyên Công tại chùa Tịnh Từ ở Hàng châu. Sư khai pháp ở Minh Khánh, dạy đồ chúng rằng: "Muốn được Phật pháp hiện tiền thì chẳng nên giữ tri giải. Một vật cũng chẳng chấp, tự tại đi đứng!" Người nghe đều hoan hỷ. Sư dời sang chùa Bảo đà ở Tứ Minh, luôn dùng đức dày để tiếp độ người học, mọi người đều phục sự giáo hóa của Sư. Sư thường dùng Tam quan để kiểm nghiệm người học. Sau Sư lập một ngôi thất, đặt tên là Mộng Am, tự lấy hiệu là Mộng Thế Tẩu. Sư đóng thất tịnh tu, bụi bám đầy chiếu chẳng quan tâm. Ngày mồng một tháng mười năm này, Sư nhóm đệ tử lại bảo rằng: "Ta sắp đi Tây phương!" rồi an nhiên thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, hạ lạp bảy mươi. Trà-tỳ có xá-lợi năm màu, răng, lưỡi và xâu chuỗi chẳng cháy; linh cốt an táng sau Mộng am. Sư có để lại Ngữ Lục ở đời.
Năm Giáp Dần, niên hiệu Hồng Võ thứ bảy, Tống Liêm tu chỉnh hoàn thành lịch Đại Minh gồm một trăm quyển. Lại chọn những ngôn hạnh to lớn làm Hoàng Minh Bảo Huấn năm quyển.
Đế nói với Tống Liêm rằng: "Trẫm làm vua, trên thì sợ đất trời, dưới thì sợ muôn dân, lo lắng canh cánh trong lòng, chẳng dám an nhàn!"
Tống Liêm tâu: "Tấm lòng này của Bệ hạ cũng chính là tấm lòng của các bậc Đế vương xưa, thận trọng trước sau như một, thiên hạ thật may mắn vậy!"
Thái Tổ hạ chiếu rằng: "Trước kia, nhân thiên hạ đại loạn mà người chết không thể tính kể, người sống thì nếm đủ gian nan cay đắng trải qua nhiều năm. Trẫm từ áo vải khởi binh đánh dẹp quần hùng, yên định được loạn lạc, cải niên hiệu là Hồng Võ, đến nay đã bảy năm. Nhưng với tài sơ đức mỏng, ngày đêm lo nghĩ Thượng đế trách phạt. Suy nghĩ kỹ càng chỉ có những kẻ bị khổ đau sau binh loạn Trẫm chưa an ủi vỗ cứu giúp. Đó là những quân sĩ vì Trẫm mà khai mở cương thổ, anh dũng quên thân, chết nơi chiến trường, thân xác không đem về được cố hương, hồn phách không nơi nương gá; cha mẹ già nua, vợ lại cô bần, con còn nhỏ dại. Bỗng chốc buông bỏ lìa xa đến nay chẳng thể sinh tồn, đó là lỗi của Trẫm vậy. Lại nhân dân nhiều năm tránh nạn, cha ở phương Nam, con tại đất Bắc, cho đến hôm nay cũng chưa thể sum họp, phụng dưỡng; có như thế cũng là lỗi của Trẫm. Nói đến đây thật đáng xót thương.
Nay ban chiếu cho các quan trong thiên hạ, mỗi mỗi ghi chép đầy đủ tên tuổi, để Trẫm sẽ lo việc vỗ về phụng dưỡng, chớ để sai sót. "
Nhật Bản Thiền sư húy Ấn Nguyên, tự Cổ Nguyên, họ Đằng người Tướng châu. Khi sinh Sư có hiện điềm linh dị. Thuở nhỏ Sư đã có chí hướng đặc biệt, tám tuổi đã quy y ngài Đào Quang Ngộ, mười ba tuổi thế phát xuất gia rồi thọ giới Cụ túc. Sau đó Sư phấn khởi về Nam, đầu tiên tham vấn ngài Vô Kiến Đỗ, Trung Phong Bản, Sư ở lại đây hầu hạ. Một hôm Sư trình kiến giải của mình, ngài Trung Phong trách rằng: "Căn trần chẳng đoạn như trói buộc, sao lại hư vọng nơi trần lao? Tất cả chẳng phải là việc cứu cánh". Do đó Sư dốc sức tham cứu, trải qua thời gian lâu Sư có tỉnh ngộ, cảnh vật trước mắt hiện trắng xóa đến cùng tận, Sư lại nhập thất ấn chứng kiến giải siêu việc này, ngài Trung Phong dặn dò nên tự giữ gìn. Bấy giờ ngài Hư Cốc Linh, Cổ Lâm Mậu, Đông Tự Hải, Nguyệt Giang Ấn, Sư đều có đến tham yết, gọi Sư là Sư tử trong tòng lâm.
Sau Sư cùng với ngài Tình Chuyết Trừng sang Nhật Bản kiến lập pháp tràng giáo hóa khắp nơi, công lao rất lớn. Đầu tiên Sư khai pháp ở chùa Tuệ Lâm, nhận hương kế thừa dòng pháp ngài Trung
Phong, kế đến trụ trì Đẳng Trì Giáo tự, Chân Như,
Vạn Thọ, Tịnh Trí, Phổ Ứng, viện Trường Thọ, Viên Giác, Kiến Tường. Về già Sư lui về ẩn cư ở chùa Trường Thọ. Tháng giêng năm này Sư thị hiện có bệnh, đến ngày hai mươi ba, Sư gọi đệ tử lại dặn dò rằng: "Các ông cần phải vâng giữ những điều ta dạy hằng ngày, làm cho pháp luân thường chuyển mới được. Sư viết hai chữ "Tâm ấn" thật lớn để đặt trên tháp. Sư thọ tám mươi tuổi, sáu mươi hạ lạp.
Nguyên Chứng tự là Đại Do, họ Lý, người Cô Tô, mẹ là Đào Thị, cầu khẩn Quan Âm Đại Sĩ mà sinh Sư. Thuở nhỏ Sư đã đĩnh ngộ lạ thường, học Phật ở chùa Đốn Giác, sau đó xuất gia thọ giới Cụ túc, từng cùng với ngài Pháp Tú du học khắp nơi, kết bạn rất nhiều. Sư từng tham yết Tịnh Giác Pháp sư ở Nam kinh. Ngài Tịnh Giác nói: "Tài của ông rất sắc bén, nên để tâm đến văn học, kỳ vọng rằng mai sau ông lập tông phò giáo!" Từ đó Sư nghiên cứu học tập tất cả sách vở cổ kim. Văn chương Sư soạn ra lời lẽ thật nghiêm trang mà có khí chất lạ thường. Sư khai pháp ở chùa Vĩnh Tây rồi dời đến Đạo tràng ở Ngô Hưng. Sau lui về ẩn cư trong núi Võ Khương. Sư soạn Quán Huyễn Tử Nội Ngoại Thiên để dung hợp chỗ ảo diệu của Nho Thích về một mối, hơn hẳn người xưa. Tài hoa của Sư chẳng thể che giấu. Sư lại đến chùa Đại Thiên Giới gặp Thái Tổ; Thái Tổ hỏi về vị tăng tài này nơi Tống Liêm, Tống Liêm tâu trình rõ. Đế lại xem tác phẩm của Sư và khen rằng: "Luận nghị thật cao vời, đúng là vàng ròng trong đống sắt". Vua liền triệu kiến ở điện Cẩn Thân, thăm hỏi chí thiết, rồi sai lại bộ viết chiếu phong cho Sư chức hàn lâm.
Tháng hai năm này Sư bị bệnh mà thị tịch, thọ ba mươi bảy tuổi. Đế hỏi về các Nho sĩ học rộng nơi Tống Liêm, Tống Liêm tâu rằng: "Ở Cối kê có Quách Truyền tuy gởi thân chốn không môn mà thật là bậc kỳ tài trong thiên hạ đời nay".
Đế gật đầu. Tống Liêm dâng lên Đế các bài văn của Quách Truyền. Vua xem xong liền triệu kiến, giữ lại trong cung hằng ngày gần gũi để tiện việc tham hỏi. Ông chỉ có một lòng thanh bạch, phàm có việc gì nên lấy bỏ, ông đều trình bày, không ẩn dấu. Đầu tiên Đế phong ông làm Hàn lâm Ứng Cử rồi thăng khởi Cư Chú đến Khảo Công Thừa.
Lưu Cơ soạn Cam Lộ Tụng để xưng tán:
Tháng mười niên hiệu Hồng Võ thứ tư, Cam Lộ rơi ở Chung sơn thấm nhuần cây cỏ, trắng trong như mỡ đông kết. Tháng mười một niên hiệu Hồng Võ thứ năm lại rơi tiếp; mùa xuân và tháng mười một năm này vẫn rơi như lúc đầu. Như thế thì biết đức của vua rất lớn, nên điềm lành ứng hiện.
Tây Bạch Pháp sư húy Lực Kim, họ Dao, người ở quận Ngô. Mẹ Sư là Châu thị một hôm mộng thấy một vị lão Tăng bước vào cửa nhà mà có thai sinh ra Sư, lúc vừa sinh thì mùi hương lạ xông đầy phòng; dung mạo Sư tuấn tú, mặt tròn sáng và trắng như viên ngọc đã mài giũa khéo léo, ai thấy cũng yêu thích. Đến năm bảy tuổi thì thông minh đĩnh ngộ lạ thường, phàm sách gì hễ một lần đọc qua thì liền nhớ. Khi thấy tượng Phật thì lễ bái. Sư xin phép cha mẹ được xuất gia; Sư liền đến lễ ngài Đạo Nguyên Diễn cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc, đồng thời nghiên cứu yếu chỉ Tam Quán Thập Thừa. Khi ngài Đạo Nguyên trụ trì chùa Đức Tạng ở Tú châu, Sư đi theo và nhận chức Cương Duy. Kế đó Sư tham yết ngài Cổ Đĩnh Minh ở Kính sơn, vừa tiếp cơ thì khế ngộ. Khoảng niên hiệu Chí Chánh, Sư ra khai pháp ở chùa Thụy Quang tại Tô châu, trùng tu chùa Thiên Ninh ở Gia hưng. Đế Sư nghe Sư là bậc hiền đức liền ban cho hiệu là Viên Thông Phổ Tế.
Sư đã xây dựng am Cô Vân để phụng dưỡng mẹ già, bắt chước theo ý của ngài Mục Châu Trần Tôn Túc đời Đường. Năm Hồng Võ thứ nhất, có chỉ dụ mời Sư trụ trì chùa Đại Thiên Giới. Sư về kinh yết kiến Thái Tổ ngoài triều. Đế chúc mừng, ân sủng ban cho Ngự soạn (cơm chay vua ban), đồng thời triệu vào cung cấm, tâu đáp thật hợp ý chỉ. Sư làu thông nội ngoại kinh điển, luận đàm với các quan, lời lẽ thao thao như nhả ngọc, vì thế ai cũng thích giao du.
Mùa xuân niên hiệu Hồng Võ thứ tư, vua hạ chiếu lập Quảng Tiến Pháp Hội, Sư được mời chủ trì chung Pháp sự này. Đến mùa đông niên hiệu Hồng Võ thứ năm, lại tổ chức hội này; Đế thân hành đến dự, thỉnh Sư giảng thuyết Đệ Nhất Nghĩa Đế, hàng Công, Hầu, Khánh tướng và mọi người đều kính phục.
Ngày hai mươi bốn tháng mười hai năm này, Sư hiện có chút bệnh mà thị tịch.
Tháng giêng năm Ất Mão, niên hiệu Hồng Võ thứ tám, Thái Tổ bảo Trung Thư Tĩnh hạ chiếu cho các quận huyện trong thiên hạ, tìm hỏi những cùng dân, nếu ai nghèo khổ thì cấp cho áo quần lương thực, ai không nơi nương gá thì cấp cho nhà cửa. Đế ban chỉ dụ rằng:
Thiên hạ đã một nhà, nhân dân là một thể. Nếu những ai chẳng đạt được những điều cần yếu, thì nên nghĩ đến mà thương yêu cấp dưỡng cho họ. Khi xưa ta còn là một người dân thường, tận mắt thấy được nỗi khổ ấy. Những kẻ góa vợ, góa chồng, cô độc, đói khát, bần hàn, khốn khổ thường hay chán sống, hận sao chẳng được chết ngay. Những kẻ như thế lẩn quẩn nơi bờ ao, hốc núi, ngồi đó mà chờ đợi. Vào thời loạn ly, ta gặp những cảnh này, lòng ta càng thêm trắc ẩn. Cho nên thân thống lãnh quân binh, thề định yên bốn biển, để cùng với ta yên ổn một nhà.
Đến nay ta thay trời chăn dắt muôn dân đã hơn mười năm rồi, như nhân dân trong thiên hạ, còn những người phân ly, không nhà cửa, thì không chỉ mất đi chí nguyện khi xưa của Trẫm, mà công lao thay trời cũng chẳng thể trọn vẹn! Các khanh là phụ tướng của Trẫm phải nên thuận theo bản hoài của Trẫm, chẳng nên để cho một người dân nào không đạt được.
Tháng ba Đế sai người soạn Quốc Tử sinh, phân ra giáo hóa phương Bắc. Đế dụ rằng: Trị nước giỏi là do sửa đổi làm cho phong tục tốt, phong tục tốt đẹp là do nơi giáo hóa; giáo hóa mà thi hành thì có thể khiến người bình thường thành quân tử; giáo hóa mà phế bỏ thì khiến cho bậc trung lưu rơi làm kẻ tiểu nhân.
Chiếu ghi rằng: "Nông nghiệp là gốc của y thực, trường học là nguồn của đạo lý. Trẫm thường đặt quan coi sóc ban cấp điều chương, khiến phải đôn đốc việc dạy dỗ. Mong sao cho nhân dân cơm no áo ấm, đạo lý xương minh vậy..."
Tháng tư, Thành Ý Bá là Lưu Công qua đời, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi. Trước khi qua đời, ông đã trao sách về Thiên văn cho con là Liễn dâng trình lên Thái Tổ và dặn dò rằng: "Chớ nên để cho người sau học theo!" Đế thường gọi ông là lão Tiên sinh và cho là Tử Phòng của mình. Đến tháng chín, vua ban chiếu xây dựng cung điện trong đại nội, ông nói với quần thần rằng: Vào thời Đường Ngu cung thất quá đơn sơ, đến đời sau thì quá xa hoa tráng lệ, quen chuộng hoa mỹ mà bỏ mất nếp cổ xưa. Trẫm nay xây dựng cốt chỉ muốn bền chắc, không thích tráng lệ, phàm điêu khắc tô vẽ tinh xảo công phu, nhất thiết không nên. Chỉ cần đơn giản kiên cố có thể lưu truyền vạn thế, khiến cho con cháu của ta đời sau lấy đó làm phép tắc. Đến như làm đài, tạ, vườn cảnh để du ngoạn vui chơi hưởng lạc mà nhọc sức dân, hao tiền của, thì nhất quyết Trẫm chẳng làm. Nay sắc lệnh cho quan chủ quản biết được ý Trẫm".
Luận Cam Lộ: "Tháng mười một Cam lộ rơi trên cây tùng xanh ở Viên Khâu, giọt đọng treo trên dưới đều có, giống như hạt minh châu. Hứng lấy mà dùng thì vị ngọt như đường. Các Nho thần đều dâng thi ca, tán tụng ân đức của Đế. Đế nói rằng: Chỗ thường tình của con người là thích điều lành ghét điều xấu. Nhưng đạo trời sâu kín huyền diệu khôn lường. Nếu ỷ vào điềm lành mà không tự răn, thì điềm lành chưa hẳn đã tốt. Thấy điềm xấu mà hay tự răn bảo thì điềm xấu chưa hẳn là hung. Bởi vì nghe đến tai họa mà sợ thì hoặc là được phước lộc; thấy điềm lành mà vui, thì hoặc là dẫn đến việc xấu. Vì sao? Vì phàm phu khi tâm lo sợ thì tự răn mình, còn tâm vui thú thì hoang đãng, tâm dễ buông lung. Đức của Trẫm chẳng bằng ai, chỉ mong luôn luôn tỉnh xét tu sửa, chứ đâu giám lấy điềm này để đặt vào mình?" Nhân đây mà soạn Cam Lộ Luận để chỉ thị cho quần thần.
Đức Ẩn Thiền sư húy là Phổ Nhân, tự là Đức Ẩn, họ Triệu, người ở Lan Khê, mẹ là Dương thị. Lúc còn nhỏ Sư đã có chí xuất trần. Năm lên mười tuổi Sư lễ ngài Thu Đàm Nguyệt cầu xuất gia, học tập các kinh điển Nho và Thích. Sư có năng lực lãnh hội nghĩa thú của cả hai nhà. Năm lên mười bốn tuổi được cạo tóc và sau đó thọ giới Cụ túc. Năm hai mươi tuổi Sư đến tham yết ngài Liễu Nhiên Nghĩa, cơ phong bén nhạy, rồi đến Đạo tràng ở Hồ châu tham kiến Đông Dương Huy, đến Vũ Lâm Song Kính tham kiến Nam Sở Thuyết, Vân Ngoại Tụ; Sư cùng với các ngài không ngừng luận biện đến chỗ u vi. Kế đó lại cùng với ngài Giác Ẩn Giới, Tiếu Ẩn Tố thân mật luận đàm, ngôn ngữ không bao giờ dứt. Sau Sư ra khai pháp ở Tịnh Độ thiền tự tại Kim Hoa.
Năm Hồng Võ triều Đại Minh, Đế ban chiếu cho Sư trụ ở Nam Hoa, Chiếu châu, Trung Thiên Trúc ở Hàng châu, nhưng Sư từ chối chẳng đi. Sau Sư trụ chùa Tịnh Từ, khai đường thuyết pháp. Sư luôn trùng hưng những cái đã bị hư hoại, dựng lập lại những nơi đã phế bỏ, nhưng rốt cuộc bị người vu cáo. Một hôm Sư có chút bệnh mà thị tịch, nhằm ngày mồng tám tháng tám, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi, hạ lạp năm mươi.
Sư có tác phẩm: Sơn Cư Thi, Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Mộng Song Thiền sư húy là Trí Nhu, người ở Thế châu, Nhật Bản, mẹ Sư cầu Đại sĩ Phổ Môn, đêm mộng thấy nuốt luồng ánh sáng màu vàng ròng mà có thai sinh ra Sư. Lúc sinh có ánh sáng lành chiếu khắp phòng. Năm chín tuổi Sư xuất gia, mười tám tuổi lễ Luật sư Từ Quán thọ giới Cụ túc, tu học hai giáo hiển mật. Một hôm Sư mộng thấy đi dạo các danh sơn ở Trung Quốc, được một vị lão Tăng trao cho tượng Tổ Đạt-ma. Khi thức dậy Sư cảm thán rằng: "Làm rỗng suốt bản tâm ta chỉ có thiền quán ư?" Do đó Sư đến tham yết ngài Vô Ẩn Phạm, Nhất Sơn Ninh, ngài Nhất Sơn nói: "Tông ta không có ngôn ngữ, cũng không có một pháp để trao cho người, xưa nay rỗng rang thanh tịnh, từ bi phương tiện cũng không có!" Từ đó Sư ra sức tham cứu đến nỗi mắt chẳng nháy. Sư lại đến tham yết Cao Phong Nhật, ngay một lời liền có tỉnh, một chiều kia Sư hoát nhiên đại ngộ, làm kệ có câu: "An nhàn đập nát cả hư không". Ngài Cao Phong liền ấn khả và phó chúc rằng: "Mật ý của việc Tây lai, nay ông cũng đã được, nên khéo tự giữ gìn".
Sau Sư vào núi Ngũ Đài lập am Hấp Giang, am Bạc Thuyền, am Thoái Canh, có ý muốn ở trọn đời nơi hoang dã, nhưng bất đắc dĩ phải tùy thế mà an trụ các danh sát như Nam Thiền, Thiệu Ứng, Tịnh Trí, Viên Giác, Thụy Tuyền, Tuệ Lâm, Thụy Quang, Lâm Xuyên, Đâu-suất, Tây Phương, Tư Thánh, Phổ Đà, Thiên Long; Sư được vua ban các hiệu Chánh Giác, Tâm Tông, Phổ Tế. Sắc của vua có câu: "Đạo sáng cả ba triều, danh vang khắp bốn biển, chư giảng tòa long tượng, tái xoay chuyển pháp luân, nắm giữ quyền Phật tổ, bao phen dẹp ma binh, hiển vinh cho đất nước..."
Vào ngày ba mươi tháng chín năm này Sư thị tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi, hạ lạp sáu mươi. Lúc thị tịch có một luồng bạch khí xuyên qua thất của Sư, ngưng đọng cả ngày mới tan. Khi trà-tỳ móng, tóc đều thành xá-lợi.
Hưu Am Pháp sư húy Khả Chỉ, tự Vô Chỉ, hiệu Hưu Am, họ Lý, người Lâm Hải. Sư xuất gia năm mười hai tuổi, mười chín tuổi được độ làm Tăng. Đầu tiên Sư tham yết ngài Phổ Giác Minh, Bạch Nham Chân, được mời ở bậc thượng tòa, giúp đỡ việc giáo hóa. Trong niên hiệu Chí Nguyên, Sư ra khai pháp ở viện An Thánh, kế thừa Phổ Giác rồi chuyển đến Long Ân, lại bổ về Bạch Nham chốn cũ. Lại được tuyển chọn trụ trì chùa Long Hoa. Sư trùng hưng những nơi hoang phế. Vì thế sơn môn thay đổi cảnh quan. Bốn lần ngồi đạo tràng, người học các nơi đều kính trọng và nương học. Sư lập Hưu Am, hằng ngày tu niệm Phật Tam-muội. Sư nói rằng: Đây là công phu thiền định, há có thể phân đồng dị ư?"
Niên hiệu Hồng Võ thứ sáu, đại chúng ở chùa Trung Thiên Trúc thỉnh Sư, nhưng toàn chúng ở Tịnh Từ đón đường nghinh Sư về trụ trì. Ngày mười một tháng tám năm này Sư nói với môn đồ rằng: "Ta sắp đi đây!" Đại chúng xin Sư viết kệ để lại, Sư nói: "Tông Ta vốn không có ngôn thuyết!" rồi chắp tay niệm Phật mà thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi, hạ lạp năm mươi. Trà-tỳ thâu được rất nhiều xá-lợi, trong sáng như vàng bạc thủy tinh, đồng thời răng và xâu chuỗi không cháy, tất cả đều được nhập vào Long tháp.
Trúc Am Pháp sư húy là Hoại Vi, tự Thanh Viễn, hiệu Trúc Am, họ Ngụy, người Nam Xương, là cháu gọi ngài Quảng Trí Toàn Ngộ bằng cậu, cũng là người nối pháp ngài Toàn Ngộ. Khi sinh ra Sư bỗng nhiên có linh chi mọc bên cây hòe trước sân, thầy tướng đoán rằng đó là điềm lành linh khí ngưng kết.
Ngài Toàn Ngộ dẫn về làm đệ tử nuôi dạy thành tài và vui mừng nói rằng: "Đây là thiên lý câu trong tông ta!" Những quan thần danh sĩ thời ấy cùng nhau đến giao du và hâm mộ Sư. Họ đều nói: "Thật là văn như rồng mà nghĩa như hổ". Sau Sư ra khai pháp ở chùa Bảo Tướng, Cối Kê, chùa Báo Quốc ở Hàng châu, chùa Đạo Tràng ở Hồ châu, luôn vì pháp cứu người, không hề mỏi mệt.
Năm Hồng Võ thứ nhất, bốn chúng thỉnh Sư trụ trì chùa Tịnh Từ. Đến khi lập pháp hội Vô già ở Chung sơn, Sư cũng vâng chiếu đến tham dự. Sau Sư lui về ẩn cư ở Lương Chữ, là nơi chôn móng và tóc của ngài Toàn Ngộ. Ngày mười sáu tháng mười hai năm này, Sư im lặng mà thị tịch, thọ năm mươi chín tuổi, hạ lạp bốn mươi, xá-lợi an táng một bên tháp móng và răng.
Sư có để lại: Ngữ Lục, Thi Văn Ngoại Tập lưu hành ở đời. Những bản chữ thảo và lệ do Sư viết rất tinh xảo và đẹp, ngài Cổ Phán nói: "Đây đều là nơi để gửi trí Bát-nhã!"
Quảng Tuệ Thiền sư húy là Trí Cập, tự Dĩ Trung, hiệu Quảng Tuệ, họ Cố, người ở huyện Ngô, mẹ là Châu thị. Đầu tiên Sư vào viện Hải Vân thế phát xuất gia rồi thọ giới Cụ túc, Sư nghe giảng kinh Hoa Nghiêm, thấu triệt được yếu nghĩa. Kế đến Sư tham kiến ngài Quảng Trí Tố ở chùa Long Tường, được ngài Long Tường khen ngợi, lại cùng với Bào Tụ Thượng Nhân khuyến phát tham cứu, không bao lâu thì có tỉnh.
Sư lại đến Song Kính tham yết ngài Tịch Chiếu Đoan, hầu hạ thân cận để tiện thưa hỏi, sau đó Sư được chuyển quản thủ Tạng Kinh, ngày đêm nghiên cứu giáo lý.
Sư ra khai đường, thăng tòa thuyết pháp, làm hưng long tổ giáo, tất cả mọi người đều kính phục. Sau Sư trụ ở chùa Tịnh Từ, Hàng châu, lại bổ về Tịch Chiếu ở Song Kính chốn xưa. Niên hiệu Hồng Võ thứ sáu, Đế ban chiếu cho mười trụ trì các ngôi chùa nổi tiếng có phép tắc trong thiên hạ về chùa Thiên Giới ở Kinh đô, Sư là Thủ Tòa trong số đó. Nhưng vì thân bệnh nên được phép trở về.
Tháng chín năm này, Sư viết kệ để lại rồi an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi tám tuổi.
Tháng sáu năm Bính Thìn, niên hiệu Hồng Võ thứ chín, vua phong Tống Liêm làm học sĩ thừa chỉ. Chỉ dụ rằng: "Trẫm từ áo vải mà làm Thiên tử, khanh cũng đã từ thảo dân mà nay liệt vào hàng đầu của văn thần khai quốc, khiến cho đời đời thần và quốc gia đồng lợi lạc. "
Bấy giờ Khâm Thiên Giám tâu rằng có năm ngôi sao chuyển dịch rối loạn, mặt trời mặt trăng đối nhau. Vua hạ chiếu cầu hiền, có một người tên là Ngô Ấn làm Tăng ở chùa Chung sơn, có tài văn học, Đế đích thân tuyển chọn, ban chiếu bảo để tóc làm quan, trực tiếp trao cho chức vụ quan trọng, lại vô cùng sủng ái, lời nói của Ngô Ấn được nhiều người tin theo.
Tháng mười, sửa đổi lại Thái Miếu, theo quy cách "Đồng đường dị thất" (một ngôi nhà mà phân chia nhiều phòng khác nhau). Lúc mới lập quốc thì có bốn miếu cho Tôn thân: Đức Tổ Huyền hoàng đế ở giữa, Ý Tổ là đệ nhất ở phía Đông, Hi Tổ là đệ nhất ở phía Tây, Nhân Tổ là đệ nhị ở phía Đông. Nay định đặt như sau: Trước là chánh điện, sau là chín gian tẩm điện, mỗi gian là một phòng dùng để phụng thờ thần vương các miếu. Đến kỳ cúng tế thì đặt áo, mũ của đế vương, hoàng hậu các triều lên tòa thần mà lễ tế.
Lại Mục Thiền sư tên là Trạm Giác, tự là Mộng Am, họ Trương, người Trường An. Sư lễ ngài Nguyệt Không cầu xuất gia, sau tham kiến ngài Tánh Không mà đắc pháp. Sư kết am tranh ở bên trái Vũ Hoa để tu tập.
Sư có soạn Tòng Sào Nội Ngoại Tập lưu hành ở đời.
Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Hồng Võ thứ mười, Đế ban chiếu cho các Sa-môn trong thiên hạ giảng ba bộ kinh là Tâm Kinh, Kim Cang và Lăng-già; lại mời ngài Tông Lặc, Như Phi... chú thích ba bộ kinh này rồi ban hành trong thiên hạ.
Đế luận về tên tự Phi Thái Phác của trụ trì chùa Diễn Phật.
Đế luận rằng: "Tăng thì hầu hết bỏ tục, chỉ lấy tự làm tên, vì sao vậy? Vì pháp ấy khác với giáo của bậc nhân chủ. Gần đây có vị Tăng dùng ba chữ
Phi Thái Phác làm tên; Phi là một loại ngọc tinh khiết nhất trong loại ngọc, Thái tức là lớn vô thượng, Phác tức là thật mà chẳng hư dối, lẫn lộn mà chưa phân biệt. Dùng ba chữ trên, thật ý nghĩa như vậy sao? Nếu thế thì bậc trí nhân thể hội được. Nhưng vì sao lại chẳng thể? Vì nay làm Tăng mà dùng ba chữ này thì đạo lý quá sâu xa, người có căn cơ cạn mỏng thì chẳng thể đạt đến nghĩa thú. Nếu gặp người thợ khéo, ắt phải nhờ họ gọt giũa thì mới thấy được hình dáng của nó. Khi xưa Đức Như Lai vì thái hư còn nguyên vẹn, đại địa chưa phân khai, cho nên hỏi rằng nơi chưa phân khai ấy ai đã gọt giũa khiến cho thanh tịnh, hiển bày vô lượng hình tượng nơi đất trời, mà thất diệu vận hành trong đó; trải non biển nơi càn khôn mà một trăm sông đều dồn về? Đó là do quá thuần phác mà đạt đến chỗ cực diệu, nếu lý thật như thế, thì đều do khí chất biến hóa vậy. Ta nghe nói hỗn độn an tĩnh đã lâu, hôm nay Tăng xả việc tục mà nhận lấy sự thuần phác chân thật ắt hẳn là sự tự nhiên của Thích giáo ư?"
Tháng hai, quan học sĩ thừa chỉ Tống Liêm về quê ở Kim hoa quy ẩn; Văn Hiến Công là một nhà Nho lớn của triều Minh lúc mới lập quốc; tương truyền ông là hậu thân của ngài Vĩnh Minh. Ông không chỉ vì quốc gia phô diễn văn chương, mà còn ghi chép truyện ký của các đại Thiền sư đã kể trên nữa.
Ngày ba tháng ba, Lễ bộ Thượng thư Trương Đẳng ở Phụng Thiên môn tấu chuẩn, phụng thánh chỉ đã phê, nay sắp xếp cho Lễ bộ thông báo đến tất cả Tăng, Đạo trên hai miền Nam Bắc, không luận là bậc Đầu-đà, hay người thiện có đạo, chỉ cần có quy y Tam bảo, thọ năm giới, mười giới thì phải ăn chay, không uống rượu, học tập kinh điển để minh tâm kiến tánh. Tăng, tục, người thiện phải ăn chay giữ giới, độ điệp phải tùy thân để tiện chấp chiếu.
Không luận là ở núi rừng, thành ấp, làng xóm... bất kỳ nơi đâu cần phải lập đàn làm tòa cao gom nhóm Tăng tục, ban ngày thì giảng kinh thuyết pháp giáo hóa một vùng, ban đêm tĩnh tu tâm trí. Tất cả phải tuân phụng theo đây!
Đế nói với quan hầu cận rằng: "Triều trước toàn là hôn quân, ám chúa, ai cũng đều lấy lý do an nhàn vô sự mà buông lung, hoang dâm, chẳng lo chính sự. Ai biết trị thiên hạ thì không an nhàn mà sau mới được an nhàn. Trẫm lên ngôi đã nhiều năm, thường tự khuyên nhắc nên siêng năng, đợi sáng liền lâm triều, sau bữa ăn mới về cung. Ban đêm thì ngủ chẳng an giấc, thường dậy mặc áo ra xem Thiên tượng, thấy một ngôi sao rơi thì lo âu, hoặc toan tính việc dân, điều gì nên cần làm gấp thì lấy bút ghi chép thứ tự, đợi đến sáng sẽ sai phái hành sự. Chẳng phải Trẫm không muốn an nhàn, nhưng chỉ sợ mệnh trời, nên chẳng dám mà thôi. Trẫm nói đến điều này, vì e rằng quần thần cho rằng Thiên hạ vô sự, mà muốn an nhàn lạc thú; quần thần đã biếng nhác, Nguyên thủ lại hoang loạn, thì nhân dân nương cậy vào đâu? Kinh Thư có câu: "Công cao chỉ do nơi chí, nghiệp lớn chỉ do siêng năng". Các quan nên lấy lời này mà tự răn, thì Trẫm không có gì phải lo âu!"
Bảo sáo (Tiền giấy): Lúc đầu Đế sai làm bảo sáo (tiền giấy) không thành, một đêm mộng thấy một vị thần bảo rằng: "Nếu chẳng dùng tim gan của Sĩ tử thì chẳng được!" Đế lo buồn nói với Mã thái hậu, thái hậu nói: "Điều này thật dễ dàng! Hãy dùng bài văn của Quốc học để đạt tiền giấy, ắt sẽ thành tựu!" Đế hỏi vì sao? Mã Hậu nói: "Các Sĩ tử dốc hết tâm can để làm bài văn, há chẳng phải như thế ư?"
Đế nghe theo, thì bạc giấy liền thành tựu.
Chánh Vận Hồng Võ: Đế cho rằng âm vận xưa khởi nguyên ở Giang tả, phần nhiều lạc mất chánh âm, bèn sai Học sĩ Nhạc Thiều dùng nhã âm của Trung nguyên để hiệu chính lại, viết thành sách ban hành trong thiên hạ.
Tháng mười một Hoàng Tôn Duẩn Văn ra đời, nhưng đầu hơi lệch về một bên. Thái Tổ an ủi rằng: "Bán Biên Nguyệt Nhi tự biết nó chẳng được trọn vẹn!" Đến khi hơi lớn thì đọc sách rất thông tuệ, từng Vịnh Tân Nguyệt Thi rằng:
Ai cầm ngọc trong tay Rạch phá bầu trời xanh Ảnh rơi xuống sông hồ Giao long chẳng dám nuốt. Thái Tổ chẳng vui, cho đó chẳng phải là điềm lành.
Tháng giêng năm Mậu Ngọ, niên hiệu Hồng Võ mười một, cấp nha bài (thẻ ngà) cho tất cả các quan tham dự triều chánh, mọi người đều đeo bên mình để ra vào cung, đề phòng gian tế.
Lễ bộ lang trung Viên Tử Văn kiến nghị cho độ Tăng, Đế chấp thuận.
Phác Ẩn Thiền sư húy Nguyên Tĩnh, tự Thiên Cảnh, hiệu Phác Ẩn, họ Nghê, người Cối Kê, mẹ là Nghiêm thị. Đầu tiên Sư lễ ngài Hoằng Giáo Lập cầu xuất gia sau đó lễ Luật sư Chiêu Khánh Nhu thọ giới Cụ túc. Sư đến Tập Khánh học yếu nghĩa Thập Thừa chỉ quán và tánh cụ tam thiên nơi ngài Thiên Ngạn Tế; tham yết Thiền Sư Nguyên Tẩu Đoan ở Kính Sơn, thấu được đạo đơn truyền trực chỉ. Đoan Công khen là "Người trong Bát-nhã". Thời gian lâu sau Sư đến chùa Đại Long Tường nương học ngài Quảng Trí Tố, làu thông học thuyết Thích và Nho. Đầu tiên Sư ra trụ chùa Trường Khánh, dời đến Vạn Thọ thiền tự.
Năm Hồng Võ thứ nhất, Đế triệu Sư cùng với ngài Đông Minh Nhật, Bích Phong Kim vào triều hỏi đạo, và ban cho trai soạn mà trở về. Sư lại trụ trì chùa Linh Ẩn. Sau đó bị người vu cáo nên bị đày đi xa. Vào ngày mười chín tháng giêng năm Mậu Ngọ Sư thị tịch.
Phù Tông Thiền sư húy Tông Dụ, tự Ước Chi, họ Trần, người ở Tỳ Lăng; mẹ Sư một hôm mộng thấy một lão Tăng đến gõ cửa, có điềm muốn nương gá mà có thai sinh ra Sư. Lúc còn nhỏ, mỗi lần thấy Thánh tượng, Sư đều lễ bái. Đầu tiên Sư thờ ngài Đông Lâm Hiểu làm thầy, sau tham yết ngài Kính Sơn Đoan tham cứu việc lớn. Đoan Công khen rằng: "Thật có khí độ long tượng!" Sư lại tham kiến các ngài Đoan Nhai Nghĩa... rồi theo ngài Quảng Trí đến chùa Long tường hầu hạ hơn mười năm, được ngài Quảng Trí vô cùng khen ngợi. Đầu tiên Sư ra trụ tại Quang Hiếu thiền tự, kế thừa ngài Quảng Trí, được Đế Sư ban cho hiệu trên, sau Sư chuyển đến Sùng Thắng thiền tự. Năm Hồng Võ thứ chín, Sư trụ trì chùa Dục Vương Quảng Lợi thiền tự. Sư là một trong mười vị Đại tăng được tuyển chọn tham dự Quảng Tiến Pháp Hội ở Chung sơn. Sư làm kệ trình lên Đế xem, Đế rất vui, mời Sư viết tấm biển Thiên Giới Tự, được dự trai tiệc trước Đế. Đế khen rằng: "Thật là một bậc Thiện tri thức!"
Những điềm lành của Sư lúc sinh tiền rất nhiều, đúng là một bậc cổ đức tái lai, không kịp ghi chép hết. Sư thị tịch vào năm Mậu Ngọ niên hiệu Hồng Võ mười một, tháp thờ xây ở chân ngọn Thạch Nhĩ, thọ bảy mươi lăm tuổi, có bộ Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Tháng bốn Đế sai tạo Hoàng đường tại khu lăng tẩm, tự soạn Hoàng Lăng Bi Ký để chỉ bày cho đời sau. Lúc Đế còn hàn vi, có một người cùng làng là Lưu kế Tổ đã giúp cho một mảnh đất tốt để an táng cha, mẹ. Cho nên hôm nay ở Hoàng lăng, truy phong là Nghĩa Tuệ Hầu, Đế tự soạn cáo văn, sai quan tế tự.
Ngày hai mươi bốn tháng năm, ban sắc cho Phi Thái Phác làm Tả Giảng Kinh. Vua soạn cáo văn rằng: "Trong kinh thì rõ tướng nhân ngã, ngoài giáo thì quên thừa Đại, Tiểu; nếu chẳng phải là bậc Sa-môn ở Cổ Sát thì cũng là hàng Đức sĩ ở Đông Lâm, tài học cao hơn pháp lữ, danh vang chấn động một thời.
Tăng Phi Thái Phác dưỡng tánh thành tựu, nên giảng kinh không mỏi mệt; nghiêm trì thân giới, nên hành sự cẩn trọng. Do đó phong làm Tăng quan để giúp ích cho pháp luật của triều đình, thường giáo hóa Thích tử, chẳng lười mỏi giảng kinh; còn phải dùng sự giác ngộ của Phật để giác ngộ người, dùng sự nghiệp của thầy để thành tựu sự nghiệp cho mình; khiến cho hàng Tăng ni biết rõ hiến chương, ngõ hầu chẳng phụ bản ý lập Tăng quan của Trẫm.
Nay đặc biệt trao cho khanh chức Tăng Lục Ti Tả Giăng kinh, khanh nên gắng sức!"
Vua soạn văn trao chức Tăng Lục Ti cho Liễu Đạt, Đức Tuyên, Phổ Hiệp, dụ ghi: "Thuyết pháp ở Tây Thiên đến Đông độ diễn thành vô lượng diệu nghĩa, như nói đó là Bất nhị pháp môn vậy. Đạo này vốn đạt khổ không rỗng lặng, người theo đạo này quả thật như vậy, thì nên như vậy ư? Gần đây Tăng Lục Ti thiếu các vị Tăng đứng đầu; triệu kiến người đảm nhận, han hỏi những người này, thì biết các Tăng đứng đầu đã vâng mệnh trở về. Vài ngày sau có người đến tâu rằng: "Thần là Hoằng Đạo cùng với nhiều người, vâng sắc hỏi han cao Tăng ở các danh sơn, tham khảo ý đại chúng các tòng lâm, tất cả đều cho rằng chỉ Phổ Hiệp, vị Tăng ở chùa Thượng Thiên Trúc vùng Triết Tả, Đức Tuyên, vị Tăng ở chùa Kê Minh ở Kinh sư, Liễu Đạt, vị Tăng ở chùa Năng Nhân, thông thạo sách vở của Đông Thổ, thấu đạt ý nghĩa Tây Lai. Nếu bổ ba vị này vào Tăng Lục Ti thì thật là thích hợp". Than ôi! Người xưa từng nói rằng: "Đời chẳng hết Thánh nhân, nước chẳng hết Hiền tài", gần đây Tăng Lục Ti thiếu người đảm nhận, Trẫm cho là không còn người, đến khi hỏi ra thì mới biết vẫn còn. Nay nhân danh của Trẫm mến mộ đạo Thanh tịnh, nhưng những người muốn ra khỏi ba cõi thì chỉ có danh mà không có thực chất. Những người tầm thường có không dưới bảy vạn. Các khanh ba người, nay chẳng ở dưới năm bảy vạn người này mà vượt trên năm bảy vạn ấy, đáng gọi là người chí khí, là bậc có đạo vậy! Nhưng khi xưa Như Lai đắc đạo ở Tuyết sơn, trở về xiển dương nơi năm Trúc, diệu âm vô lượng, thông thấu khắp dưới trên, trời người đều nghe hiểu. Diễn nói như thế chỉ bốn mươi chín năm, trải qua hơn năm trăm năm sau mới truyền sang Đông thổ; chín di tám man vừa nghe đạo này đều tôn kính đảnh lễ, hà huống gì Trung Quốc là quốc gia văn vật lễ nhạc, nhân tâm từ thiện dễ giáo hóa? Nếu Tăng liễu đạt được ý Tổ, diễn Đại Thừa để giác ngộ bậc thông minh, luận nhân duyên để khai phát người ngu độn. Khải phát người trí kẻ ngu trở thành bậc thiện nhân trong khoảng lật bàn tay; thế thì tuy có phép nước mà đâu cần ban hành, hình cụ xích xiềng mà đâu cần dùng đến? Như thế há chẳng hợp với lời của Liễu Sinh ư? Âm thầm giúp đỡ cho Vương pháp, há là nhỏ bé ư?
Nay các khanh là Tăng Liễu Đạt, Đức Tuyên, Phổ Hiệp đã đạt được ý Tổ, tuân theo lời Trẫm thì pháp luân thường chuyển, Phật nhật tăng huy, danh tăng vào thời ta ắt sẽ nhiều! Khâm thử!
Năm Kỷ Tỵ niên hiệu Hồng Võ mười hai Đế ban chiếu rằng: Vì Bắc Bình đã lâu chẳng có mưa, nên năm nay được miễn thuế lương thực.
Tháng mười chế định lễ nghi cho việc quan lại nghỉ hưu, về quê an dưỡng.
Đế soạn dụ văn trao cho Trọng Hy chức Xiển Giáo. Dụ ghi: "Nhập định nơi chùa Đại Thiên Giới, luận kinh nơi Bất Nhị Môn, giải thoát về không, rỗng lặng thành tánh. Từ lâu đã để tâm nơi lời Phật, ẩn náu chốn thiền môn, lấy bỏ chỉ một, thị phi chẳng nhiễm. Trọng Hy tăng là bậc Thiền Bá chốn Sơn Môn, là Đại thi nhân khi đối nguyệt, giữ lòng từ bi mà chẳng mất, vui cảnh thanh tịnh thật vô cùng. Vì thế nay trao cho chức xiển giáo, để phụ giúp Tăng Lục Ti; lại còn phải nghiên cứu sâu xa kinh điển, thấu suốt giáo thiền, phân biệt bản mạt chia chẻ trước sau, làm cho chư Tăng ngộ được thiền trong tỉnh, mà chẳng mất chỉ thú giáo ngoại. Nay đặc biệt trao cho chức Tăng Lục Ty hữu xiển giáo. Khanh nên đến khâm mạng lời này, gắng sức gia công".
Đế soạn dụ văn trao cho Thanh Tuấn chức Tả giác nghĩa. Cáo văn ghi: "Phàm làm Tăng thì lập thân vượt tục để giáo hóa mọi người, không một mảy may não phiền về quan tước. Nhưng lập chùa am để trụ, hợp chúng mà uống ăn, thì gạo tiền có xuất nhập, sổ sách có chép ghi. Nếu chẳng có nơi quản lý thì lấy gì để điều hành. Do đó các triều đại đều có lập Tăng quan mà chẳng thể phế bỏ. Ngày nay bổ nhiệm cho khanh là Tăng thanh tuấn làm Tăng Lục Ti Tả Giác Nghĩa, khanh nên thận trọng với chức vụ này, chớ nên biếng trễ, riêng tư; khiến cho người học đạo ở được yên, ăn được no mà không giải đãi việc tiến tu. Như thế mới hợp ý Trẫm hưng long Phật giáo. Khâm tái".
Đông Minh Pháp sư húy Tuệ Nhật, hiệu Đông Minh, họ Cổ, người ở Thiên Thai. Đầu tiên Sư lễ ngài Bình Sơn Đẳng cầu xuất gia, kế đó đến ngài Tử Đình Tố học về Thai Hành (Thiên Văn), được ngài Tử Đình phân tích đến chỗ uyên áo cùng tận. Sư lại đến chùa Thượng Thiên Trúc lễ ngài Trúc Ốc Tịnh, làm kệ tụng luôn luôn vượt hơn bạn đồng môn, nên ngài Trúc Ốc khen rằng: "Như cây tùng cao ngất, vút thẳng lên giữa đám rừng trăm gai góc, chính là ông vậy".
Sau Sư làm Thủ chúng ở hội ngài Việt Khê, làm nghi biểu cho bốn chúng. Sư khai sáng Linh Sơn Giáo tự ở Hạ Thiên Trúc, trùng tu Quan Âm Giáo viện ở Thượng Thiên Trúc. Đế Sư khen ngợi hành nghiệp của Sư, ban cho pháp y Kim lan và hiệu là Diệu Ứng Phổ Tế.
Niên hiệu Hồng Võ thứ nhất, Sư được triệu về chùa Thiên Giới, thăng tòa thuyết pháp, mọi người đều đến dự nghe, đệ tử được độ rất nhiều. Vì lông mày của Sư dài hơn một tấc (3 cm) trắng hơn tuyết nên mọi người gọi là Bạch My Hòa Thượng. Tháng bảy năm ấy, Sư mộng thấy hoa sen xanh trong sạch thơm ngát đến bên mình. Sư nói rằng: "Đó là điềm lành ta sinh về Tây Phương!"
Sư thọ tám mươi chín tuổi, an táng ở Diệu Ứng Tháp viện.
Tháng mười hai, phong các vương: Bá làm Tương Vương, Quế làm Dự Vương, Anh làm Hán vương, Thực làm Vệ vương.
Tháng giêng năm Canh Dần, niên hiệu Hồng Võ mười ba, thừa tướng Hồ Duy Dung mưu phản, bị tru lục. Do đó bãi bỏ các chức Thừa Tướng, thăng sáu bộ phân chia xử lý các việc trong thiên hạ. Đổi chức Đại Đô Đốc thành năm đô đốc: tiền, hậu, tả, hữu, trung đô đốc.
Tống Liêm qua đời vào năm bảy mươi hai tuổi. Ông là người bác lãm quần thư, danh vang thiên hạ. Văn của ông truyền khắp bốn di (bốn phương), kinh điển Phật Lão cũng nghiên cứu sâu xa. Ông có các tác phẩm: Tiềm Khê Tập, Chi Viên Tập, Long Môn Tử, Vô Tướng Đằng Ngữ lưu hành ở đời.
Tháng bốn lệnh cho quần thần, mỗi mỗi hay nêu lên chỗ hiểu biết của mình để tiện bổ dụng.
Tháng năm, sét đánh ở điện Cẩn Thân, vua đại xá thiên hạ. Chiếu ghi:
"Trẫm chẳng có đức mà gá trên vạn dân, tuân phụng Hoàng thiên chăn dân đến nay đã mười ba năm rồi vậy. Chẳng ngờ Tế phụ mất chức, bốn gian thần chuyên quyền, khiến người hiền kẻ ngu rơi vào vòng bất nghĩa. Trẫm nghĩ rằng sáng lập sự nghiệp đã gian nan, giữ vững sự thành công ấy cũng chẳng dễ. Dẹp trừ gian ác, diệt tận gốc rễ, chặt hết ngọn ngành, cho đến dư đảng. Nhưng việc cho hành hình tru lục, chẳng phải là không có lỗi, thậm chí còn trái với đức hiếu sinh của Hoàng thiên, nên giờ Thân, mồng bốn tháng này sét đánh xuống điện Cẩn Thân, làm Trẫm rất kinh sợ. Do đó nay ân xá các tội nhân trong thiên hạ. Trừ tội thập ác không được, còn tất cả đã hoặc chưa phát giác kết tội, không luận lớn nhỏ đều ân xá".
Tháng sáu, Đế ban chiếu rằng: "Trẫm được sự phò trì, ủng hộ của Hoàng Thiên làm chủ Hoa, Di đã mười ba năm, kho lẩm đều đầy đủ, đó đều do dân ta cung cấp. Nay dân chưa đủ sống, nên ban chiếu miễn trừ thuế vụ Thu năm Hồng Võ mười ba.
Ban dụ trao chức Tăng quan tại Kiến Xương. Dụ ghi: Đạo lớn trong thiên hạ chỉ có Thiện là vô thượng. Người mà đạt các Thiện vô thượng ấy chính là Đức Thích-ca. Ngài đã củng cố chí đại Từ nhẫn, lập tâm đại Bi nguyện, hành không gì chẳng đạt đến, hóa không đâu chẳng bao trùm. Luận về tánh thì truy cứu đến tình bản, về tâm thì đến cùng diệu lý. Trong sạch sáu trần không cấu nhiễm, tịnh sáu căn chẳng bị che mờ; dẹp các ma làm trong sạch pháp giới, phá ngoại đạo làm lợi lạc nhân thiên. Hạnh như thế! Tu như thế! Đã trải qua vô lượng kiếp, từ Đâu-suất giáng hạ Phạm cung, bỏ vị Kim luân mà vào Tuyết sơn khổ hạnh, nửa đêm thành đạo, tâm minh khế hợp.
Trẫm thấy Như Lai dùng Đại Giác của tự thân, muốn giác ngộ tất cả chúng sinh trong pháp giới, lòng từ ấy rất to lớn, lòng bi ấy thật sâu xa, có thể cho là đấng vô thượng!
Người đời, những ai đã có thiện căn đời trước thì đều mến mộ Phật lực, người tu tập trong trời đất lại rất nhiều. Nay có Tăng ấy ở tại Kiến Xương rộng tu Phật đạo, khéo thống lãnh Tăng ni và sĩ dân phương ấy, mong Tăng hãy khéo tu đạo, cảm hóa nhân dân, khiến được thuần hậu.
Đã có sự chấp thuận của nội phủ, thì nên trao cho chức Tăng Cang Ty ở Phủ Kiến Xương.
Năm Tân Dậu niên hiệu Hồng Võ mười bốn, biên tập Phú Dịch Hoàng sách; Dư Đới gọi là Ki Linh sách, ban Ngũ Kinh Bác Sĩ cho các trường học ở phương Bắc. Đầu tiên định quan chế cho Hàn Lâm Viện là Chánh Ngũ Phẩm Nha môn. Đế nói với triều thần rằng: "Phàm đạo chẳng sáng tỏ là do giác chẳng được hành trì; Năm kinh là chiếc xe để chở đạo của Thánh nhân. Ví như lúa thóc, vải vóc thì mọi nhà cần phải có; con người mà không có lúa thóc vải vóc thì không biết lấy gì để ăn, mặc. Nếu chẳng có năm kinh thì không biết từ đâu để rõ đạo lý? Nay ban phát Năm kinh để mọi người học tập. Quân tử có học thì đạo lý hưng khởi, tiểu nhân có học thì thế tục tốt đẹp. Cái học đời sau, chưa hẳn không lấy đây làm gốc.
Tuyết Song Thiền sư húy là Ngộ Quang, tự Công Thật, người Thành đô, họ Dương. Sư nhờ sức tu Tam-muội mà vào được biển trí tuệ. Đầu tiên Sư thuyết pháp ở chùa Bạch Mã, kế đến trụ ở chùa Dục vương, Thiên Đồng khai bốn hội thuyết pháp. Ngu Văn Thanh Công khen là: Phật quả một cành, lông phụng vảy lân.
Niên hiệu Hồng Võ mười bốn, Nam Đường Thiền sư húy Thanh Dục, tự Liễu Am, họ Chu, người Lâm Hải, Thai châu. Sư trụ các chùa Khai Phước, Bản Giác, Linh Ẩn.
Có tác phẩm Tam Hội Ngữ Lục lưu hành ở đời. Duyệt Đường Thiền sư húy là Nhan, đích tôn của Đông Tự. Sư trụ ở chùa Đông Thiền, Côn sơn rồi dời đến Vạn Thọ ở Ngô môn, sau trụ tại Nam Bình ở Hổ Lâm và Song Kính. Có để lại Tứ Hội Ngữ lục lưu hành ở đời.
Cổ Đỉnh Thiền sư húy là Minh, cháu mười lăm đời của dòng Lâm Tế. Bốn phen ngồi đạo tràng. Lúc sắp thị tịch Sư nói với môn đồ rằng: "Đức Quan Thế Âm cầm hoa sen đến đó!" rồi ngồi yên thị tịch. Trà-tỳ thâu được xá-lợi năm màu rất nhiều, răng lưỡi và xâu chuỗi chẳng cháy. Quốc sử Ngụy Tiên sinh soạn văn bia nơi tháp. Sư có để lại Tứ Hội Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Theo lời tấu của Tăng Trọng Hi, trụ trì chùa Tưởng Sơn: Dời chùa Tưởng sơn và tháp Bảo công sang sườn núi phía Đông, đổi hiệu chùa là Linh Cốc tự, bên ngoài Tam quan đề là: Đệ Nhất Thiếu Lâm, lại bảo độ một ngàn vị Tăng, đều được cấp độ điệp, ban cho rất nhiều tăng điền.
Ngày mười bốn tháng sáu, Bộ Lễ vì việc Hoàng thượng phê chuẩn thiết lập Tăng Đạo Nha Môn, nên nghiên cứu biết rằng: Hai giáo Thích và Đạo lưu truyền đã lâu; xưa nay đều có đặt chức quan để thống lãnh. Lại chùa, quán của Tăng ni, Đạo sĩ trong thiên hạ cũng rất nhiều, mà chưa có cơ quan tổng quản, nên nay xét theo phép nhà Tống, lập Tăng Đạo Nha Môn để quản lý việc ấy, mong cầu ở chỗ kính giữ giới luật để sáng tỏ giáo pháp. Các sự việc, phép tắc phải làm được liệt kê dưới đây: "Ở Kinh đô lập Tăng Lục Ty, Đạo Lục Ty, thống lãnh tất cả Tăng Ni, Đạo sĩ trong thiên hạ. Tuyển chọn những vị làu thông kinh điển, giới hạnh đoan nghiêm thanh tịnh đảm trách. Còn tại Bố Chánh phủ, châu, huyện thì mỗi nơi đều lập Tăng Cang, Tăng Chánh, Tăng Hội, Đạo Kỷ... quản lý nha môn phân chia, lo liệu các việc. "
Tăng Lục Ty quản lý các việc của Tăng Ni trong thiên hạ, gồm hai vị Thiện Thế là Tả Thiện Thế và Hữu Thiện Thế, phong hàm Chánh Lục Phẩm.
Hai vị Xiển Giáo là Tả và Hữu, hàm Tòng Lục Phẩm. Hai vị Giảng Kinh là Tả và Hữu, hàm Chánh Bát Phẩm. Hai vị Giác Nghĩa là Tả và Hữu, hàm Tòng Bát Phẩm.
Đạo Lục Ty quản lý các việc về đạo giáo trong thiên hạ: gồm hai vị Chánh Nhất là Tả Chánh Nhất và Hữu Chánh Nhất, hàm Chánh Lục Phẩm.
Hai vị Diễn Pháp là Tả và Hữu, hàm Tòng Lục Phẩm. Hai vị Chí Linh là Tả và Hữu, hàm Chánh Bát Phẩm. Hai vị Huyền Nghĩa là Tả và Hữu, hàm Tòng Bát Phẩm.
Tăng Cương Ty các phủ quản lý việc Tăng Giáo trong phủ của mình: Gồm một vị Đô Cương hàm Tòng Cửu Phẩm, một viên phó Đô cương.
Đạo Kỷ ở các phủ quản lý việc Đạo giáo ở phủ của mình: Gồm một vị Đô Kỷ hàm Tòng Cửu Phẩm và một vị phó Đô Kỷ.
Ở các châu thì có Tăng Chánh Ty, gồm một vị Tăng Chánh, Đạo Chánh Ty có một vị Đạo Chánh, quản lý việc về Tăng, Đạo trong châu của mình.
Ở các huyện thì đặt Tăng Hội Ty có một vị Tăng Hội, Đạo Hội Ty có một vị Đạo Hội, mỗi mỗi quản lý các việc về Tăng, Đạo trong huyện của mình.
Chùa, quán của Tăng, Đạo ở các phủ, châu, huyện đều phải về Tăng Lục Ty nhận khám trí văn sách để Tăng, Đạo khai tên họ, năm sinh, Bố chánh nào, phủ nào, châu, huyện nào, xuất gia ở chùa nào, năm nào, bổn Sư là ai; đầu tiên làm Hành đồng mấy năm, đến năm nào, thí chủ nào cạo tóc đội mũ, được cấp độ điệp vào năm nào, tất cả đều phải khai báo.
Báo trình tất cả những chùa, quán có bảng hiệu ở khắp nơi: cần kê khai rõ bản tự, bản quán được vị Tăng nào xây dựng, vào triều nào, do Đạo sĩ nào sáng lập, hoặc do thiện nhân nào cúng đường.
- Tăng Đạo Lục Ty Nha Môn hoàn toàn y theo phép tắc đời Tống, quan không chu cấp bổng lộc, các viên chức nhỏ và các lính canh hợp thành nhân số sử dụng. Đồng thời lấy Tăng Ni, Đạo sĩ, các người làm ruộng, nô bộc làm việc.
- Thể thống của Tăng Đạo Lục Ty tương đồng với Khâm Thiên Giám. Khi ra vào triều đình cho phép dùng tàn lọng của phẩm hàm mình, nếu gặp quan cao hơn thì phải xếp lại.
- Trụ trì các chùa, Đạo quán các nơi, phải do Nha Môn của Tăng, Đạo nơi ấy tiến cử bảo đảm. Chọn những vị có đầy đủ giới hạnh, tinh thông kinh điển đưa đến nha môn quản hạt, kế đến chuyển lên Tăng Lục Ty, hoặc Đạo Lục Ty khảo thí, nếu trúng tuyển sẽ chuyển sang Bộ lễ soạn tấu văn.
- Những Tăng Ni, Đạo sĩ nào ở các phủ, châu, huyện chưa có độ điệp, cho phép Tăng Đạo nha môn quản lý nơi ấy ghi chép danh sách và dẫn lên Tăng Canh Ty, Đạo Kỷ Ty, sau chuyển đến Tăng Lục Ty, Đạo Lục Ty khảo thí, nếu người nào thông kinh điển thì chuyển sang Bộ lễ trình tấu văn xuất cấp.
- Tăng Đạo Nha Môn ở Kinh đô hay các nơi khác, cần phải chuyên nhất ước thúc Tăng Ni, Đạo sĩ. Yêu cầu cần thiết là mỗi mỗi phải kính giữ giới luật, Xiển dương giáo pháp. Như có người vi phạm thanh quy, chẳng giữ giới luật, tranh giành, kiện tụng, thì cho phép theo luật trị phạt, quan lại không được can dự. Nếu phạm gian dâm, trộm cướp, phá hoại phép tắc kỷ cương, mà dính dáng đến quân dân, nếu ở Kinh đô thì giao cho Bộ lễ liệu định, theo tình thẩm xét, nếu nặng thì tống giam để tra hỏi. Còn ở các nơi thì cho phép quan ở địa phương đó phân xử.
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Hồng Võ mười lăm, tiền Thái tử Chánh Tự Tấn phủ Trưởng Sử Quế Nhan Lương vào triều dâng "Vạn Thế Thái Bình Trị Yếu Thập Tam Sự", Đế vui mừng nhận lấy.
Ngày sáu tháng ba, Tào Quốc Công khâm phụng thánh chỉ ban lệnh rằng: Ruộng đất của Tăng, Đạo trong thiên hạ theo quốc pháp thì không được mua. Tăng nghèo thì chùa sẽ nghèo, ruộng đất của thường trụ theo phép không được bán. Nếu có người như thế thì sẽ tịch biên toàn gia sản. Khâm thử!
Ngày hai mươi hai tháng bốn chuẩn y theo sự tấu trình của Bộ lại, tấu trình tấn phong của Tăng Đạo Lục Ty, Bản Bộ thông tri cho Tăng Lục Ty biết nay vị Tăng tên Giới Tư làm Tả Thiện Thế, Tông Lặc làm Hữu Thiện Thế, Trí Huy làm Tả Xiển Giáo, Trọng Hy làm Hữu Xiển Giáo, Phi Thái Phác làm Tả Giảng Kinh, Nhân Nhất Sơ làm Hữu Giảng Kinh, Lai Phục làm Tả Giác Nghĩa, Tông Sưởng làm Hữu Giác Nghĩa.
Ngày hai mươi lăm tháng tư, Bộ lễ vì việc Hoàng thượng phê chuẩn việc thiết lập Tăng Đạo Nha Môn, nên nay chế định những sự lý mà các quan viên Bản Ty chấp chưởng. Liệt khai ra mong rằng ngày sau y chiếu theo đây mà tuân phụng thi hành:
- Giới Tư chủ quản sử dụng ấn, Tông Lặc niêm văn kiện đóng dấu, phàm có hành sự gì, chư Tăng cần phải mời tất cả Tăng quan nơi ấy đến ghi tên, ký vào rồi đồng đóng dấu, nếu thiếu một người thì cũng không được dùng dấu. Việc tha người không nằm trong điều này.
- Giới Tư đôn đốc chúng tăng tọa thiền, tham cứu công án, quản lãnh việc trong giáo môn.
- Trí Huy, Trọng Hy cũng đôn đốc người tu tọa thiền. Như Phi và Thủ Nhân tiếp nhận vật cúng của thí chủ ở các nơi, đồng thời phát minh kinh giáo.
- Lai Phục, Tông Sưởng lo việc ước thúc giới hạnh của Tăng Ni các chùa. Những người chẳng hành theo Thanh quy thì theo pháp mà kiềm chế. Lại quản lý lương thực, tiền tài, sản nghiệp của chùa Đại Thiên Giới và những tài vật mà tín thí các nơi cúng đường. Tất cả đều phải ghi chép rõ ràng vào sổ sách. Còn các việc mà các Tăng quan khác nắm giữ, thì Tông Sưởng cũng đều phải kiêm xử lý. Còn việc khảo thí Tăng nhân trong thiên hạ có khả năng hay không, thì tất cả đồng nhau nghị bàn, rồi ghi chép đầy đủ chân thật vào tấu văn.
Ngày hai mươi mốt tháng năm, Bộ lễ xét biết được sự thiết lập chùa Phật gồm ba cấp là Thiền, Giảng và Giáo. Thiền thì chẳng lập văn tự, thấy được tâm tánh mới là bản Tông. Giảng thì mong được rõ nghĩa các kinh. Giáo thì diễn bày pháp cứu tế lợi sinh của Phật, làm tiêu trừ tất cả các nghiệp tạo ở hiện đời, rửa sạch tất cả oan khiên đời trước cho người chết, để giáo huấn người đời.
Ngày hai mươi tháng này quan viên Bản viện khâm phụng thánh chỉ phong Tăng là Hành Quả làm Tả Xiển Giáo, Như Cẩm làm Hữu Giác Nghĩa, đến chùa Năng Nhân lập đạo tràng Ứng cúng. Phàm Tăng sĩ các chùa Viện Ứng phó lớn nhỏ, trong ngoài kinh thành được phép về chùa Năng Nhân, cùng nhau xem kinh, làm tất cả các Phật sự. Nếu chẳng theo đây mà khởi tham danh sắc, riêng làm Phật sự, thì nhờ Tăng quan ở chùa Năng Nhân hỏi tội. Nếu là Tăng ở phương xa vân du đến xem kinh, mộ hóa và được bá tánh tự nguyện cung cấp thì không bị lệ thuộc vào quy định này. Tuân phụng chiếu này, nêu ra một hiểu dụ phụ khác khiến chư tăng tại các tự viện ứng phó vâng mệnh thi hành.
Dụ cho chư Tăng ở chùa Chung sơn. Sắc ghi: "Giáo của Phật là thiện, nghĩa ấy rất lớn bao trùm cả sinh tử. Trọng Ni nói rằng: "Phương Tây có bậc Đại Thánh, chẳng nói mà giáo hóa, chẳng trị mà chẳng loạn. Đáng là bậc Năng Nhân vậy!" Vì sao gọi là Đại Giác Kim Tiên? Lại được khen là Năng Nhân? Vì ngài chẳng trói buộc kẻ ngu mà kẻ ngu tự hóa, khen tặng người thiện mà người thiện sáng tỏ; ngài hành khổ mà chẳng khổ, tâm trong sạch mà chẳng sạch, tuy chỉ là ngọn đèn lẻ loi trên tuyết lạnh mà tựa như độc ảnh giữa trời quang. Mắt thấy sao mai liền kiến tánh, siêu xuất thế trần, mà lại đến cõi trời người bốn mươi chín năm thuyết pháp. Diệu thuyết ấy được ghi chép đủ trong Đại tạng kinh, mà chưa từng có kẻ trốn tránh triều đình, giải oan khiên nơi nước lửa, hà huống gì khi xưa ở Kỳ thọ, một ngàn hai trăm năm mươi vị, cũng chưa nghe nói có người là kẻ lưu vong! Trọng Ni nói rằng: "Đạo của nước vạn cổ xe thì kính mà tin, tiết kiệm mà thương người". Nay có vị Tăng làm ruộng vườn mà bỏ trốn, do chưa biết tiết kiệm mà dẫn đến như thế ư? Hay thương người mà có như thế? Nếu chẳng phải thế mà có như thế thì nên phủ dụ vị Tăng ấy rằng: "Nên tự mình đến, nếu luận theo luật pháp thì tổn thương Phật tánh!"
Nên như sắc chỉ phụng hành!
Dụ Tăng tên là Thuần Nhất rằng: "Xưa Đức Thích-ca vì đạo mà sống một mình nơi núi tuyết, không can dự đến thế tục; đến khi thành đạo thì hai bên khéo đủ, trên dưới linh thông, khiến quỷ thần hộ vệ mà cảm đức độ. Vì thế người lành ngày càng nhiều, kẻ ác ngày dần ít. Sở dĩ bậc nhân chủ mỗi lần giảm hình pháp thì thiên hạ thạnh trị, vì đó chẳng phải là vua giảm hình pháp, mà do Phật giáo hóa cùng khắp cảm được như thế. Cho nên Liễu Tử Hậu nói rằng: "Âm thầm bảo vệ vương pháp.
Khanh Sa-môn Thuần Nhất, đã lìa bỏ cha mẹ để làm Tăng, nên vào núi sâu kết am tranh tĩnh tu tâm tánh, để trên thì thần dạo chơi nơi ba cõi, dưới thì cứu khổ chốn minh đồ. Khiến người sống mến mộ, kẻ chết hoài mong, đồng thời mở rộng lưới giáo của Phật, há chẳng phải là điều nên làm của người tu hành ư? Do đó người đời cùng nhau học tập theo, dù không ở một mình nơi vắng vẻ, thì cũng ở tại gia mà hành thiện, chứ đâu được hưởng sự an thái khác với thế tục? Nhân đó là chỗ đến của khanh, mà khanh đã chẳng thể được như thế, lại ra vào triều đình, muốn dốc sức phò trì, ý muốn xây dựng chùa viện to lớn nguy nga, gom chứa tiền tài để bồi dưỡng thân mình; ai chẳng biết tiền tài đã tích chứa thì dâm dục nổi lên, huống gì Đức Thế Tôn khi xưa bỏ cung điện khổ hạnh sáu năm, đại ngộ, tâm thông, đến hôm nay mới có Tôn tượng uy nghiêm, lâu đài chất ngất, vàng ngọc rực rỡ huy hoàng, Trung Quốc và bốn phương nơi nơi đều có.
Có phải là Đức Thích-ca cảm nên như vậy chăng? Hay là gom góp tiền bạc mà làm nên vậy? Khanh chẳng biết, nên chẳng tu tập bên trong mà tu bên ngoài, do đó không thể đáp ứng được nhiệm vụ đặc biệt. Nay cho phép khanh đi, lệnh cho quan chủ quản cấp tiền lộ phí, để tìm các bậc danh đức tu học, hầu giác ngộ cái thiện nơi đạo của mình để giúp người cũng được thiện được thế thì ngày sau đạo ắt sáng tỏ nơi hoàn vũ; như vậy há chẳng thể sánh được với đạo của Phật ư?"
Tháng sáu, ngày Bính Tuất, Mã hoàng hậu băng hà. Hoàng hậu tánh cần kiệm, áo quần vải vóc không chi phí nhiều. Bà từng nói với các Vương phi công chúa rằng: "Sinh trưởng nơi giàu sang, nên biết đến sự khó khăn của nghề dệt vải, vì trời đất mà thương tiếc muôn vật!" Đế dùng uy vũ để trị thiên hạ, còn hậu thì thường giúp đỡ để tỏ lòng nhân. Khi băng hà, bà mới năm mươi mốt tuổi, Đế tiếc thương nên đến cuối đời vẫn không lập thêm hậu.
Đến tháng chín thì an táng Hoàng hậu tại Hiếu lăng ở Chung sơn, thụy là Hiếu Từ hoàng hậu (niên hiệu Vĩnh Lạc gia phong thụy là Hiếu Từ Chiêu Hiến Chí Nhân Văn Đức Thừa Thiên Thuận Thánh Cao). Đế ban chiếu tuyển cao Tăng phân chia phụ giúp các Vương. Lệnh cho vị Tăng tên là Đạo Diễn trụ trì chùa Khánh Thiền ở phủ Yên vương.
Sư Đạo Diễn tức là Dao Quảng Hiếu, người Cô
Tô, xuất gia làm Tăng từ thuở nhỏ, thích đọc sách, giỏi thơ văn. Sư từng gặp dị nhân truyền dạy có thể biết được điều tốt xấu của người. Ông lại rất giỏi về thuật số. Lúc Thái tổ chọn danh Tăng để phụ giúp các Vương, lúc ấy Văn Hoàng đế còn là Yên Vương, Quảng Hiếu tự đến nói với Yên Vương rằng: Nếu Điện hạ dùng thần, thần nguyện sẽ trao cho Đại Vương đội chiếc mũ trắng. Do đó Yên Vương đến xin Quảng Hiếu về mình, Thái Tổ chấp thuận. Vì chữ vương thêm chữ bạch ở trên thì thành chữ hoàng, tức lúc ấy Quảng Hiếu đã biết Yên Vương về sau sẽ có thiên hạ, lên ngôi Hoàng đế.
Các năm cuối của niên hiệu Hồng Võ có quân Tĩnh nạn khởi lên, đều do mưu của Quảng Hiếu.
Đầu năm Vĩnh Lạc ông được thăng làm Thái tử Thiếu sư phụ tá cho Đông Cung, lấy lại tục Oanh, nhưng chẳng để tóc và cưới vợ cho đến cuối đời, sau khi qua đời được phong là Vinh Quốc Công, thụy là Cung Tỉnh, được cúng tế ở Thái miếu.
Xét việc Dao Quảng Hiếu gặp Văn Hoàng đế, cũng giống như Lưu Cơ gặp Thái Tổ, đều là gởi mệnh nơi cõi trời chứ chẳng phải ngẫu nhiên. Khi Quảng Hiếu phụ giúp Văn Hoàng đế tại Yên phủ, một hôm trời lạnh, Yên Vương ra vế đối rằng:
"Thiên hàn địa đống, thủy vô nhất điểm bất thành băng. "
Ông đối lại: "Quốc loạn dân sầu, Vương bất xuất đầu thùy tát chủ. "
Văn Hoàng đế rất vui. Về sau ông chọn ngày cử binh, đến lúc ấy trời mưa to gió lớn, Văn hoàng đế nói: "Xuất binh mà gặp mưa to gió lớn là điều cấm kỵ của binh gia"; Quảng Hiếu nói: "Điện hạ là một con rồng, cần phải có mưa to gió lớn hỗ trợ mới được thế ban đầu vùng khởi!" Quả nhiên ứng nghiệm.
Năm Quý Hợi niên hiệu Hồng Võ mười sáu, Ngô Thẩm... dâng Tinh Tấn Lục. Đầu tiên đế nói với Thẩm... rằng, Trẫm xem các Thánh hiền từ xưa dạy dỗ, lập giáo không ngoài ba điều quan trọng là: Tôn kính trời, trung với vua, hiếu với cha mẹ. Vua tôn kính trời, thần trung với vua, con có hiếu với cha mẹ, thì nhân đạo được lập. Nhưng những lời này chỉ thấy rải rác trong các kinh truyện, không dễ gì nhận ra được điều cốt yếu đó. Nay các ông phân loại ba việc này để biên tập lại thành sách mà dâng lên vậy Trẫm đề tên là Tinh Thành Lục.
Sáng sớm ngày hai mươi mốt tháng năm, các Tăng quan của Tăng Lục ty khâm phụng thánh chỉ đến Phụng Thiên Môn khảo đính và hoàn bị nghi thức pháp sự Du-già Bí mật cùng các chân ngôn mật chú, thành một pháp quy nhất định, hành trì trong các tu viện khắp thiên hạ, vĩnh viễn tuân thủ. Đó là đạo con hiếu cháu thuận, tận xót cư tang cha mẹ, tận kính tế lễ tổ tiên. Nhân dân khắp châu huyện khi có cúng tế cầu nguyện đều thỉnh về sử dụng.
Tăng Lục Ty lập văn thư báo cho trụ trì các tự viện và tăng quan các nơi biết rõ, mỗi mỗi đều sai người về kinh, đến cổng nội phủ lãnh nghi thức pháp sự trở về học tập, sau ba năm những vị Tăng trì Du già giáo, khi đến kinh khảo thí, nếu người nào thông thạo được nghi thức chế định hôm nay thì mới được làm Tăng. Nếu người nào chưa hiểu, tụng niệm chưa thông thuộc, thì cho phép đến kỳ sau thi lại. Nếu vị nào giỏi ghi nhớ tụng thuộc mà chưa có độ điệp, thì sau khi thi xong, đến quan cấp phát. Nếu người nào chẳng đỗ thì trở về làm dân.
Khâm thử!
Văn dụ các Thiện Thế ở chùa Thiên Giới:
Ta từng nghe giáo của Thích-ca cốt đạt được an tĩnh, không ồn náo, luôn luôn tẩy tâm, rửa sạch tư duy, trừ bỏ ma năm dục, thanh tịnh gốc sáu căn. Tuy chưa đạt đến quả viên giác lục thông, nhưng tương lai ắt đạt được. Vì thế người tu hành cần phải gắng sức; hành tức thực hành, công tức là tạo lập gom chứa. Phàm người tu hành trước nên gác qua sự chứng nghiệm, không nên quá gấp, lại chẳng mong cầu như thế mà được như thế! Người học ngày nay mong cầu chứng nghiệm, muốn cho nhanh chóng, mờ mịt lâu ngày, tâm không nhẫn nại được, suy nghĩ chẳng rời trần tục, cho rằng các vật trên đời này đều tồn tại. Do đó mà mất đạo mê tông; oan khiên nặng cao như núi. Tin rằng gần đây Tả Thiện Thế, Hữu Thiện Thế, Tả Giác Nghĩa dục chẳng đoạn thì sự phát sinh, dẫn đến có gián sử của Già-lam phạm phải hiến chương, việc này chẳng phải do người khác gian cáo, cũng đâu phải là Trẫm nói không đúng; nhưng tự tạo ra định nghiệp, thì cho là dục khó trừ, thật không dễ giải phân. Đó là hạnh gì vậy? Tất cả đều chẳng cầu an tĩnh, mà lại thích ồn náo, việc sinh thì tự chuốc lấy. Người tu hành nên biết rõ!
Mùa xuân năm Giáp Tý niên hiệu Hồng Võ mười bảy, ban hành thể lệ thi cử, ba năm một kỳ Đại Khoa. Từ đây đã thành định thế. Tìm cầu người có đức hạnh nổi tiếng ở các châu huyện, kiểm xét tuổi tác tướng mạo trình lên triều đình.
Văn dụ cho ba vị Tăng phạm Luật ở chùa Thiên Giới tên là Giới, Lặc, Phục. Dụ rằng: "Chí là để tôn trọng thanh danh, lập tiết nghĩa, dẹp cái xấu xa; hàng trượng phu mà cử dương điều này, ắt là muốn siêu quần bạt tụy, khác với kẻ hẹp lậu. Trí là dùng để biết, biết không gì chẳng biết; lấy đó để giác, giác mà không đâu không siêu tuyệt. Như vậy há có điều quá khứ mờ mịt mà không truy cứu ư? Chí và trí này ở trong trời đất, người sinh ra mà biết thì khéo sử dụng, dạy mà biết thì khéo giữ gìn. Nếu sinh mà chẳng biết, dạy dỗ mà chẳng thành thì chẳng khác gì cầm thú, sao lại tầm thường hỏi về nguyên nhân của nó? Giới, Lặc, Phục các ngươi, đất mà các ngươi ở là Đạo tràng của Phật cao tột, giáo mà các ngươi tu tập chính là đạo xuất thế, cho đến hôm nay các ngươi sống nơi thế tục mà đố kỵ, ác độc như loài rắn rết; khinh nhờn đối với Phật chẳng khác cầm thú; đã vậy mà còn lên chánh điện, nhiễu trước Phật, việc ấy quả thật là đảnh lễ đó ư? Lúc bấy giờ trí và chí đều mất. Sinh tử đã không biết, tử sinh cũng chẳng hay, trước kia ta ban sắc cho trụ trì thật đã có như vậy ư? Ta từng nghe sinh tử, tử sinh! Đó là thế nào? Vì sinh chẳng phải tử, tử chẳng phải sinh, bỗng nhiên lại có giác ngộ ư? Nay mờ mịt chẳng biết nguyên nhân của nó. Vả lại tội báo hôm nay, người thần đều giận dữ, bởi vì các ngươi tích chứa tiền bạc vải vóc, tạo thành thị phi, cầu hư danh chứ chẳng lập thật học, kham làm loài bướm tìm hương, làm ong hút nhụy; như loài kiến càng say hưởng chất tanh hôi nơi vết bánh xe, dấu chân ngựa mà chẳng lo đến cái họa lưới màng, bánh xe. Các ngươi vốn là hàng đại trượng phu, như con ve xanh cất đôi cánh trên bầu trời cao rộng, hưởng luồng gió lộng, uống giọt sương trên hư không, mà nay lại bay dưới thấp cướp hoa tàn để hút nhụy rữa, kham làm loài ong, bướm, kiến càng ư? Tội của các ngươi hôm nay, trong tấu văn cử tội và trong thư nặc danh cử tội đều nêu là luôn vui giận, thích nhan sắc, trộm vật dụng của chúng tăng, nhất là lừa dối Trẫm để che dấu điều sai trái của mình, thì thân ấy có ngày sẽ mất. Nhưng chết tuy có ngày, mà chưa thi hành nơi pháp ti".
Tháng hai năm Ất Sửu, niên hiệu Hồng Võ mười tám, Ngụy Quốc Công Từ Đạt qua đời thọ năm mươi bốn tuổi, truy phong Trung Sơn Vương, thụy là Võ Ninh ban ân chiếu mai táng ở Chung sơn. Đế tự soạn văn tế, và Thần đạo bia ký, được cúng tế ở Đại miếu.
Đế sai xây dựng chùa Kê Minh và tháp năm tầng, đền thờ Bảo Công, hằng năm sai quan đến cúng tế. Đầu tiên có vị Tăng Tây Tạng là Tinh Cát làm Giám Tạng Trụ ở núi này, đến lúc lập viện thì hạ chiếu làm Tả Giác Nghĩa ở Tăng Lục Ty.
Ngày 18 tháng 3, Quan viên bản bộ nơi điện Võ Anh khâm phụng Thánh chỉ, bố cáo Tả Giác Nghĩa Tăng Lục Ty là Như Cẩm bị bệnh qua đời, vậy bộ lễ bày biện lễ vật để cúng tế. Khâm thử! Lại khiến Bộ Từ chuẩn bị tế tự, xuất kho mua sắm vật tế để tế tự.
Chiếu ghi: "Ô hô! Tội mang đầy mình, mọt nước mà hại dân! Trẫm vì dân mà lập quan, vì dân mà tạo phước. Muốn trừ gian mà gian lại sinh, nhiễu loạn hại dân lành của ta, thật là do Trẫm bất tài mà ra! Nay ban chiếu đến khắp Thiên hạ rằng: Phàm dân lành hãy thương xót Trẫm chẳng sáng suốt mà ở ngôi vương! Kinh Thư có câu: "Ngôi trời thật khổ thay!" Vì ăn ngủ chẳng yên để lo cho dân khương thái. Ngưỡng cầu Hoàng thiên cúi thương cứu giúp, trị kẻ gian ngày càng nhiều. Nhân tâm như thế phải làm thế nào? Từ khi có chiếu này về sau, nếu kẻ nào phạm tội nhiễu dân lành thì dù có đại xá cũng chẳng tha. "
Tháng bảy Đế ban chiếu rằng: "Than ôi! Ngôi trời thật gian khổ thay! Từ khi lên ngôi đến nay đã mười tám năm, Trẫm chẳng gấp kịp để vỗ về bá tánh, một số tôi thần trong ngoài triều đình hành động không chánh đáng; đó là lỗi do một mình Trẫm gây ra. Trời cao đã khuyến cáo, giáng tai họa lụt lội, hạn hán. Như hôm nay nghe ở Sơn Đông, Bắc Bình bị nạn lụt lội, nông dân trồng tỉa khó khăn, mùa màng tổn thất. Hôm nay ban chiếu thư miễn thuế cho tất cả vụ thu năm này, quan lại như lệnh mà thi hành, không được nhiễu loạn nhân dân. "
Tháng chín hạ chiếu rằng: "Nông tang là gốc của y thực, nhưng lại bỏ gốc mà theo ngọn, ít có người cứu điều tệ hại này. Vào thời vua cha ta còn sống, thì tất cả ruộng đồng đều có người canh tác, nhà nhà đều có người nữ dệt vải, mưa nắng thuận hòa, đói rét chẳng hiện..."
Tháng chín, Đế ban chiếu cho Thục Vương về Kinh đô để duyệt võ. Vương là con trai thứ mười của Thái Tổ, húy là Xuân, là người rất hiền đức, thông thạo kinh thư, kỹ nghệ và sách Phật. Đế thương yêu mà gọi là Thục Tú Tài. Vương đến Trung Đô, đầu tiên sống ở Tây đường, đọc sách tự vui; ngoài thời gian duyệt võ ra, lúc rảnh rỗi, vương triệu các nho thần như Lý Thúc, Kinh Tô, Bá Hành và Danh Tăng Lai Phục đến để cùng luận đạo bàn văn, đến không còn một ngày luống uổng. Vương lại lập Bảo huấn đường để tôn phụng sự giáo huấn của Tổ tông và kinh sách của các bậc Đế vương các đời trước. Xây xong thỉnh ngài Lai Phục viết lời ký, soạn bốn bài châm là Chánh Tâm, Quán Đạo, Sùng Bản và Kích Hiền để tự cảnh tỉnh.
Ngài Lai Phục tự là Kiến Tâm, người Dự Chương, làu thông Nho thuật rất giỏi thơ văn, các danh sĩ đương thời đều có giao du với Sư. Nỗi danh đồng với vị Tăng nhà văn là Tông Lặc. Vua nghe danh nên triệu kiến. Sau vì làm thơ phú nghịch ý vua mà bị gia hại. Sư có tác phẩm Bồ Am Tập lưu hành ở đời.
Ngày mười tám tháng mười một, Bản Bộ quan ở Tây Thái Bảo khâm phụng thánh chỉ rằng: "Tả Giảng Kinh Tăng Lục Ty là Tăng Như Phi bị bệnh qua đời, khiến bộ lễ lo tế tự, khâm thử! Từ Bộ lo liệu tế tự, xuất kho chi phí, bày biện đầy đủ lễ vật". Ngày hai mươi mốt tháng mười một, Bản bộ quan ở Phụng Thiên môn, khâm phụng thánh chỉ thông báo: "Ngày hôm nay an táng Tả Giảng Kinh Như Phi, quan viên bộ lễ hãy đến lo việc tế lễ, khâm thử! Lại sai Lễ bộ thị lang Chương Tường đến tế. "
Đế đích thân soạn văn tế rằng: "Than ôi! Biển nghiệp mênh mông, ít người vượt qua được. Như Phi Tăng cưỡi con thuyền Bát-nhã, bạt mái chèo Lăng nghiêm, dựng cột buồm Viên giác, rồi nương luồng gió Hoa nghiêm mà trương cánh buồm Đại tập. Sáng tối bạt rộng mái chèo, căng cánh buồm lộng gió, mà vượt đến bờ kia. Ôi! Thật là giỏi lèo lái con thuyền! Như Phi Tăng mạo hiểm nơi sóng gió mà được như thế ư?
Nay con thuyền và mái chèo mà Khanh đã vượt qua biển nghiệp đó vẫn còn, nhưng có ai khéo lái con thuyền ấy ngạo nghễ với gió trên biển nghiệp đây? Vượt qua bờ kia như thế, thì không bao lâu sẽ thành tựu. Cưỡi con thuyền ấy, có bờ bến này, nhưng chẳng phải chỉ độc nhất, mà còn cứu vớt được nhiều người. "
Trẫm xem, tạo con thuyền Bát-nhã, ban đạo Phổ Độ, há luống uổng sao? Nay cũng mong rằng ngay nơi không tướng mà tuyệt tích, đến đi đều có mỹ vị, cầu xin hưởng thọ!
Phụ ghi Phi Thái Phác Vận:
Hoa gặp đêm mưa, sáng tươi xanh Cánh nhụy úa tàn, bậc vắng tanh Thử hỏi Thiền nhân, nơi thầm được Nói rằng ngoài vật có thiên thanh.
Tục Nguyên Giáo Luận, Hàn lâm thị chiếu Thẩm Sĩ Vinh Soạn, quyển thượng gồm bảy thiên: Nguyên Giáo Luận, Quán Tâm Giải, Nội Giáo Ngoại Giáo Biện, Chấp Tích Nho Giả, Tham Thiền Biện, Luận Thiền Biện, Tác Dụng Thị Tánh Giải. Quyển hạ cũng có bảy thiên: Danh Nho Hiếu Phật Giải, Tự Tư Biện, Trang Lão Dị Đồng Biện, Thế Thuyết Chư Kinh Giải, Giáo Thị Phi Đắc Thất Biện, Tam Giáo Luận, Chự Sự, Nhân Vật Hùng Vĩ Luận.
Lời tựa ghi: Phàm tình và trí trái nhau, rồi sau mới có giáo; thức và nơi thú hướng trái nhau, sau đó mới có luận biện. Cho nên để phân biệt thị phi mới lập giáo; chẳng luận biện thì lấy gì để lập lý đây? Người xưa muốn lý sáng tỏ mà lập biện, tuy dùng hỏi đáp, nhưng cũng khiến cho người xem hiểu rõ không nghi ngờ. Nay nhà Nho nghi nan Phật vì thế cần phải luận biện, lập giáo để rõ được lý.
Khi xưa Phật còn tại thế, các Đại Bồ-tát hóa làm ngoại đạo, mỗi vị chấp một dị thuyết gạn hỏi Phật. Như Lai vì phá các tà chấp ấy bèn lập nghĩa Như Thị, thuyết kinh Như Thị; thế thì các giáo đều do nơi luận biện mà khởi. Như các đạo Nho thời Đường, Tống mỗi mỗi chấp kiến giải của mình mà gạn hỏi về Phật, khen chê bài xích, có lúc thái quá. Cũng có khi Bồ-tát hóa thành Nho gia, cố làm cho trái nghịch, khiến có người đứng ra luận biện hầu làm sáng tỏ nghĩa lý. Quả thật nếu chưa đạt được cảnh giới Phật thì cũng còn chỗ nghi. Từ đó đến nay đã mấy trăm năm những người mang danh là Nho đối với Phật giáo hoặc vì kính tín, hoặc vì bài xích mà khen chê bất đồng, thị phi khó biết, làm cho chí đạo chẳng sáng tỏ, thật đáng buồn thay!
Sĩ Vinh tôi tự biết mình ngu tối, sức học chẳng bằng một phần vạn của các bậc tiên Nho, lại chưa ngộ được môn mà Phật đã chứng nhập; nhưng cúi nghĩ hai giáo trái nghịch nhau đã từ lâu, người trí lại im lặng chẳng luận biện, ngồi xem người cầu học nghe theo lối cũ, mà hoặc là sinh phỉ báng, làm mất gia bảo của nội học, tổn thương đến cái gốc của danh giáo. Do đó tôi chẳng tự lượng tài hèn, tạm đặt lời bài xích ở trước, rồi biện giải ở sau. Trong đó luận gồm ba thiên, giải gồm năm thiên và biện có sáu thiên, tổng cộng mười bốn thiên. Suy cứu chỗ dị đồng thì gọi là luận, giải thích nghi hoặc gọi là giải, làm sáng tỏ thị phi gọi là biện. Mong được các bậc quân tử lý học quyết trạch mà thêm bớt, ngõ hầu chẳng trệ ngại cái học của thánh hiền.
Ngày Thượng huyền (mồng bảy, mồng tám) tháng quý hạ (tháng sáu) năm Ất Sửu, niên hiệu Hồng Võ, Kiến An Thẩm Sĩ Vinh Kính ghi lời tựa.
Đế soạn văn dụ Hàn lâm thị chiếu Thẩm Sĩ Vinh:
Bậc trí thời xưa, có người vì thân mà tu thân, ta chẳng biết người tu là ai? Hoặc nói thân vì thần mà tu, hoặc nói thần vì thân mà tu. Nhân đó mà luận biện thì đã hoặc lại càng thêm mê hoặc. Dùng thân tu thần ư? Ức chế thần để tu thân ư? Ta chẳng biết Đạo nhị tu này nhưng thấy được dấu tích của cổ nhân, học theo ba tông Nho, Thích, Đạo mà muốn đạt đến để tự kỷ vi diệu được linh thông. Than ôi! Thật hay thay bậc quân tử! Tuy chưa đến được chỗ kỳ diệu của ba tông, nhưng đã có tâm như thế, há chẳng thể không gọi là đã học đầy đủ rồi ư? Lão Tử từng nói: "Sống nơi đất lành, tâm tánh sâu thẳm". Người đời nay, quyết định khéo chấp nhận ba tông này, thì đó há chẳng hoàn toàn vì sự linh thông của tự kỷ kỳ diệu ư? Ấy tức là người trí vậy.
Hộ trì Đóa Nhĩ Tư Ô Tư Tạng, chiếu ghi:
To lớn thay, Đấng Đại Giác Kim Tiên! Lâu xa thay; vượt vô lượng, trải qua tăng-kỳ, từ Đâu-suất giáng Phạm cung! Kỳ lạ thay, tu nơi Tuyết sơn! Vượt trên cả người đời! Số kiếp trải qua ở cõi trời cõi người đã rộng thì nhẫn nhục càng nhiều, mới thành Phật đạo. Thiện trùm cả thế nhân, pháp trương khắp hoàn vũ. Người nào theo học đạo này thì trời soi xét, thần phò trì, thân sau đồng dạo chơi nơi cảnh Phật. Nếu ai trái nghịch đạo này thì trời soi xét, thần biết hay, giam hãm vào địa ngục đồng ở với loài quỷ, chờ đến lúc phất đá mòn, kiếp tận mới được sinh, thật lo sợ thay! Khổ thay! Một niệm đồng với Phật thì trăm họa tiêu tan hóa làm các phước.
Nay Đóa Nhĩ Tư Ô Tư Tạng Lưỡng Nha địa phương chư viện Thượng Sư đạt đến tận Đại giáo của Như Lai, thông suốt kinh sách của Ngũ Ấn, một đời vì xiển dương giáo hóa kẻ hung ngu theo về thiện, khai phát nhân tâm để tẩy sạch oan khiên. Trẫm cho rằng Phật vì chúng sinh mà như thế, nay chư Sư ở các viện cũng vì Phật mà như thế, thầm giúp đỡ vương pháp, ban cho dân nhiều phước; như thế ai dám chẳng tôn kính Phật giáo, ngạo mạn các Sư thì dẫn về Đô chỉ huy Ti ở bản xứ, như luật pháp thi hành không khoan thứ!
Năm Bính Dần, niên hiệu Hồng Võ mười chín, vua ban chiếu cho các tự viện có ruộng đất trong cả nước phải lập Châm Cơ Đạo Nhân, tất cả các sai dịch đều chẳng cho Tăng làm.
Tháng sáu ban chiếu cho thiên hạ thi hành chánh sách dưỡng lão. Dụ ghi: Chuộng người lớn tuổi, nên mới dạy về kính; phụng sự bậc trưởng thượng, nên mới dạy về thuận...
Ngày mồng tám tháng tám lập tấu văn, y cứ vào việc tăng Tánh Hải... xin cấp văn bảng hộ trì sơn môn. Khâm phụng thánh chỉ xuất cấp bảng văn cho các Tự viện treo lên, cấm tất cả mọi người, không được khinh mạn Phật giáo, mắng chửi Tăng Ni, không theo phép tắc, quấy rối chùa viện. Ai vi phạm, quan ty bản sứ sẽ nghiêm trị.
Khâm thử!
Khâm phụng xuất cấp bảng văn, ban hành cho các tự viện trong thiên hạ, niêm yết những điều cấm chế.
Ngày mười sáu tháng tám, Bản bộ quan khâm phụng thánh chỉ báo rằng vị Tăng Vân Nam là Tánh Hải nay trở về, cấp cho một chiếc thuyền. Khâm thử! Thông báo cho Binh Bộ tuân phụng thi hành!
Văn dụ vị Tăng ở Vân Nam du phương: Giáo của đấng Kim Tiên thì chuyên tâm nơi rỗng lặng vì thành tựu chỉ ở nơi khổ không. Người tu đạo, phần nhiều sống ở hốc núi gốc cây, phách lạc nơi suối rừng, ngắm ánh trăng nơi trời đất, vịnh gió mát nơi cội tùng, lập thân ngoài vật, bỏ thế sự như hư không. Nếu như thế mới là tu, mới thông suốt. Vân Nam tăng khanh, tu tập chẳng sợ đường xa vạn dặm, muốn giác ngộ mười hai nhân duyên, nếu chỉ ở Kinh đô và trụ nơi Vân Nam, thì đâu biết cảnh trí Thiên Thai, vẻ đẹp vùng Lưỡng Triết, cùng sự uyên bác của các cao tăng.
Nay đặc biệt sắc ban cho khanh Vân Du, để xem các danh sơn, mở rộng tâm trí, sáng tỏ thần linh của ông. Mai kia trở về diễn lời hay nơi Kim Mã, luận phong cảnh ở Bích Khê. Bấy giờ mũ đạo đã điểm xanh, thần linh du nơi Bát cực, thật thích thú thay!
Tháng mười hai vua soạn thành ba thiên Đại Cáo, ban hành khắp thiên hạ.
Thứ Trung Thiền sư húy là Vô Ôn, biệt hiệu Không Thất, người ở Lâm Hải, họ Trần, mẹ là Lâm thị. Đầu tiên Sư lễ Thiền sư Nguyên Tẩu Đoan ở Kính Sơn cầu thế phát xuất gia, thọ giới Cụ túc ở Chiêu Khánh Luật tự; kế đến Sư tham yết ngài Linh Nham Chi, Nhất Nguyên Linh, mỗi mỗi đều thiết tha thưa hỏi. Sư lại trở về Kính Sơn trụ ở Trạch Mộc liêu. Sau lại đến tham kiến ngài Đại Bạch Chỉ, Trúc Nguyên Đạo, khán câu thoại đầu: "Con chó không có Phật tánh" mà đại ngộ. Sư làm kệ rằng:
Con chó không Phật tánh
Xuân sắc nhuận hoàng thành
Triệu châu nơi Đông viện
Trên vách chiếu hồ lô.
Sư lại nói: "Việc này như con cá uống nước, ấm lạnh tự biết, nhất quyết không thể ở nơi ngôn ngữ văn tự".
Sư thích nơi vắng lặng, tuy hai lần trụ danh sơn, nhưng vừa được ba năm thì xin từ chức. Sau vua Nhật Bản dùng xâu chuỗi thủy tinh, nghiên đá ở Nga Sơn làm lễ vật, xin phép Thái Tổ, cầu Sư sang giáo hóa. Nhưng Sư vì già bệnh nên chối từ. Đệ tử là Cư Đảnh thỉnh Sư đến trụ tại Thúy sơn ở Huyện Ngân. Từ đó người bốn phương đến tham học vô số, xin kệ cũng rất nhiều. Vào ngày mười tháng bảy năm Bính Dần, Sư viết kệ rằng:
Bảy mươi tám năm qua
Không có pháp để nói
Cuối cùng chỉ một câu
"Lộ trụ" cũng nhiều lời.
Quát một tiếng, rồi ngồi yên thị tịch, đến ngày mười lăm tháng mười hai an táng ở vùng Đường Áo.
Sư có các tác phẩm: Nhị Hội Ngữ Lục, Niêm Tuyết Đậu Niêm Cổ, Tục Đại Tuệ Trúc Sơn Tụng, Cổ Sơn Am Tạp Lục, Tịnh Độ Thi Kệ Tụng lưu hành ở đời.
Huyền Ẩn Thiền sư húy Tuệ Minh, tự Tánh Nguyên, cha tên Hạng, mẹ là Trần thị. Năm lên bảy tuổi, Sư bị bệnh ung thư, bỗng nhiên mất khỏi nơi ở của mình, người nhà tìm được thì nói: "Có bốn đồng tử dẫn tôi đến đây!" Người biết thì biết rằng Sư được thiên thần giúp đỡ. Sau Sư tham yết ngài Trúc Nguyên Đạo ở núi Tử Trạch, Tiên Cư, kế đó tham yết ngài Nguyên Tẩu Đoan ở Kính sơn. Ngài Nguyên Tẩu hỏi:
- Từ Đông lãnh đến hay từ Tây lãnh đến? Sư chỉ đôi giày cỏ của mình và nói:
- Ba văn tiền mua được cái này! Ngài Nguyên Tẩu nói:
- Chưa được, nói lại đi! Sư thưa:
- Con chỉ được như thế, còn Hòa thượng thì thế nào?
- Nghĩ tình ông từ phương xa đến đây, cho nên mới tha ba mươi gậy.
Sư liền ngộ được yếu chỉ.
Qua thời gian lâu sau, mới tiêu sạch những tích chứa nơi tâm.
Sư bèn nói: "Vừa khởi tư duy thì đều là pháp thừa!"
Năm ấy (Bính dần) Sư thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi tám hạ lạp.
Mộc Am Thiền sư-Giác Sơ Thiền sư-Vô Dật Thiền sư.
Năm Đinh Sửu, niên hiệu Hồng Võ hai mươi, vua soạn thành bộ Thượng Thư Hồng Phạm, sai Tán Thiện Lưu Tam Ngô viết bài bạt.
Bố Chánh Triết Giang và phủ Tô châu biên soạn xong bộ Điền Thổ Phương Viên Tứ Chí Ngô Lân Đỗ Sách.
Tháng hai, Đế cày tịch điền. Sai các quan tế lễ tổ tiên nghề nông.
Lễ xong đế ban yến tiệc đãi quần thần ngay nơi đàn tế. Đế dụ rằng:
Tịch điền là lễ xưa, một là để dâng cúng gạo nếp, hai là để khuyến cáo lấy nông vụ làm gốc.
Ngày mười một tháng bốn Lễ Bộ Thượng Thư Thôi..., tuân phụng thánh chỉ ban hành giới điệp trong thiên hạ, lại đưa ra một hiểu dụ cho Thiện Thế Thiền sư Bản Đích Đạt rằng:
Thiền sư từ Tây thiên đến Đông độ, sớm tốt tu đạo, mong cầu cứu vật lợi sinh. Trẫm xem Thiền sư lập chí, nỗ lực kiên cố, trải qua tháng năm hành trì thật đạt đến chỗ rất sâu xa. Vì thế các nơi đến cúng dường, người thiện thì đảnh lễ, kẻ ác thì vui mừng. Trước Thiền Sư từ Đông vượt biển xanh đến lễ bái ở Phổ Đà, kế đó quay lại Tiền Đường mà lễ Thiên Mục, rồi đến Lô sơn, tất cả danh sơn của Trung Quốc. Ý Thiền sư đã đạt, lại đến Kinh đô trụ tích ở phía Nam Chung sơn, ngày ngày tọa thiền trong hang động. Thiền sư thật đã ở trong huyền, Ngưỡng mong cúi xét. Chí lập ở tại nơi thần dạo đi nơi Bát cực; cầu trời chiếu giám!
Năm Mậu Thìn, niên hiệu Hồng Võ hai mươi mốt, dời Tăng Lục Ty đến chùa Thiên Hy. Thi Kinh độ tăng cấp độ điệp. Ngày mười bốn tháng ba Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế Hoằng Đạo... ở Trung Hữu Môn khâm phụng thánh chỉ, Tăng Lục Ty soạn văn thư đưa đến Tăng Ty các nơi. Chỉ viết độ điệp cho Tăng từ hai mươi mươi tuổi trở lên, cấp phát đến các vùng Ô Môn, Khúc Tỉnh... cách ba mươi dặm lập một am, Tăng cư trú tự cày ruộng sinh sống, giáo hóa nhân dân trong vùng. Khâm thử!
Ngày hai mươi sáu tháng bốn Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế Hoằng Đạo... khâm phụng thánh chỉ ở Phụng Thiên môn: Chùa Linh Cốc, Thiên Giới,
Năng Nhân, Kê Minh là các ngôi chùa lớn ở Kinh đô, hiện nay khuyết chức Đại trụ trì, yêu cầu các tòng lâm trong thiên hạ tuyển chọn những vị Tăng đầy đủ đức hạnh, nếu qua khảo thí thông suốt được nội giáo, thì cho phép trụ trì. Không được lạm dụng tiến cử. Khâm thử!
Tháng năm năm Ất Dậu, có mây năm màu hiện. Lưu Tam Ngô tâu rằng: "Mây là điềm lành trong các vật, biểu trưng cho việc trị thế. Vào thời Thuấn thì thi ca hưng thịnh. Đây là do đức của vua cảm nên".
Đế bảo: Người xưa nói rằng: "Trời giáng tai họa hay hiện điềm lành, là đều do nơi đức thành, ví như đức của ta chẳng xấu thì tai họa cũng hết". Vả lại làm sáng tỏ cái đức ấy, tuy có lành mà không ứng, sự an lành của quốc gia không chỉ ở nơi đây!
Dùng Thứ Cát Sĩ Giải Tấn làm Giám sát ngự sử. Tấn người Cát Thủy, thiên tánh thông minh đỉnh ngộ, mới bảy tuổi mà đã biết làm thơ phú, mỗi ngày có thể ghi nhớ cả ngàn lời. Năm mười tám tuổi ông đỗ đầu thi Hương, rồi tiếp tục đỗ Tiến sĩ. Mỗi lần thảo sắc phong thì gồm cả vạn lời dâng Đế. Không bao lâu ông trở về quê.
Mùa xuân năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Hồng Võ hai mươi hai, vì thiên hạ vô sự, Đế thương xót các tướng đã già nua, muốn bảo toàn họ, nên cho phép các vị tước Công Hầu đều được về quê an dưỡng; khi đến bệ kiến từ tạ thì mỗi mỗi được ban thưởng.
Ngày ba tháng bảy Bản bộ quan, nơi điện Hoa Cái tuân phụng thánh chỉ: Lão Tăng quan chùa Kê Minh từ Thiểm Tây thỉnh về các vị Tăng Tây Tạng, Hán. Giao trách nhiệm cho hai Bộ cấp cho Tăng y vải lụa. Tuân phụng chiếu chỉ này, chuyển lệnh cho hai Bộ may ba mươi sáu phần Tăng y, mỗi phần gồm một bộ, mỗi bộ gồm ba chiếc, tổng cộng một trăm lẻ tám chiếc, tất cả đều giao cho nội phủ cấp phát.
Tháng tám lập thêm Tăng Ty. Tuyển chọn các vị Tăng thông hiểu Phật pháp đưa về kinh khảo thí, phong cho quan tước. Khâm thử!
Ngày mười bảy tháng tám Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế Hoằng Đạo, ở Phụng Thiên môn, khâm phụng thánh chỉ rằng: Chùa Thiên Giới chỉ lấy Thiện Thế làm biển. Khâm thử!
Chiếu trao chức Thiện Thế Thiền sư: "Phật giáo hưng khởi ở Tây thiên, lưu truyền khắp Trung Hoa và bốn Di, khéo cứu đời hung ngu, giúp Vương pháp mà chăm lo cho đạo. Cổ kim đều tôn sùng chiêm ngưỡng, đó là do tâm từ và nguyện nặng. Vì thế ra khỏi ba cõi thoát trầm luân, vĩnh viễn rỡ ràng mà chẳng diệt. Khanh đã nhọc tâm với nguyện rộng, nay đặc biệt gia phong Thiện Thế Thiền sư, dùng đạo chí thiện này mà thống nhiếp Tăng Ni trong thiên hạ, buộc kẻ ngu, chế kẻ ác, vui giúp Vương pháp chăm lo cho đạo.
Nguyện lực rộng sâu, thế hội được hạnh này, thì chẳng đến chẳng về, thật là cùng tột thay! Cùng tột thay!"
Thiên Uyên Thiền sư-Quý Phương Thiền sư.
Vạn Phong Thiền sư, húy Thời Ủy, người Vĩnh Gia, họ Kim. Mẹ Sư một hôm mộng thấy một luồng khí trắng xông thấu trời mà có thai sinh ra Sư. Lúc mới sinh ánh sáng chiếu đầy nhà. Lúc Sư còn ở tuổi ẵm bồng khi thấy Tăng đã mỉm cười chắp tay. Năm lên bảy tuổi, Sư lễ Thăng Công ở chùa Diễn Khánh cầu xuất gia, mười sáu tuổi cầu thế độ, mười chín tuổi thọ giới Cụ túc. Đầu tiên Sư tham yết ngài Chỉ Nham ở Hổ Bào hỏi đạo, lại đến Thiên Thai tham kiến ngài Vô Kiến Đỗ. Sau trở về Chỉ Nham quyết trạch tâm yếu. Ở đây Sư làm Đệ nhất tòa; được ngài Chỉ Nham trao cho pháp y, phất tử, đảnh tướng và kệ phó chúc. Ba lần xây dựng tinh xá, đề là Thánh Ân. Trải qua ba mươi năm, đạo phong ngày càng lan rộng. Sư dạy các môn đồ đắc pháp rằng:
Từ bi vô niệm, hoa nở quả chín. Nhân địa rõ ràng, tuệ bảo chiếu soi Cội nguồn trong suốt chỉ một dòng Vạn cổ đến nay hằng tương tục.
Sư lại nói: "Như ngày nay đúng vào thời mạt pháp trầm luân, cần phải ở bến nước, trong rừng, để tiếp dẫn một người, nửa người, xiển dương đạo ta để báo ân Phật. Không nên xu phụ người quyền quý, khinh miệt kẻ hạ lưu, theo vọng cầu danh, mê chân mờ đạo. Cần phải thiết tha, cẩn thận".
Nói xong, Sư ngồi kiết già thuyết kệ rằng:
Bảy mươi chín năm qua
Chỉ một vị hư giả
Vực thẳm lại buông tay
Trời cao xanh lồng lộng.
Thuyết kệ xong Sư im lặng thị tịch.
Năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Võ hai mươi ba, Đế ban chiếu cầu Tiên nhân Trương Tam Phong, nhưng rốt cuộc không thể tìm được, bèn triệu đệ tử là Khưu Huyền Thanh đến cùng vua đối đáp, hợp ý, Đế ban cho quan tước và nhà cửa nhưng không nhận tước vị.
Năm Tân Mùi, niên hiệu Hồng Võ hai mươi bốn, chế định áo mũ cho học sinh quốc học và châu huyện như sau: Áo tràng (Thiên sam) may bằng vải, lụa màu xanh lam, tay áo rộng, viền đen; mũ mềm có dây thòng xuống. Vì áo mũ của sĩ tử như thế, nên có dáng dấp cổ phong.
Đế soạn Phật giáo bảng sách.
Mồng một tháng sáu, khâm phụng thánh chỉ rằng: Phật giáo khởi đầu ở Trung Quốc từ khi Minh Đế đời Đông Hán mộng thấy người vàng, sau đó thì pháp từ Tây truyền đến. Minh Đế hạ chiếu cho phép mọi người tự nguyện sùng kính. Từ đó thần dân tin theo ngày càng nhiều; triều đình xây dựng chùa Phật, là một việc tốt ở thời bấy giờ. Lúc pháp mới truyền vào có người cạo tóc, bỏ tục xuất gia; có cha mẹ cho con trẻ xuất gia. Việc tu hành vốn là khổ không rỗng lặng, dứt bỏ các tướng dục, ắt muốn tinh thuần cái anh linh của tự kỷ. Lúc bấy giờ Phật giáo rất rực rỡ; tuy người tu hành chưa đạt đến Viên giác rốt ráo, nhưng thật đang trong giai đoạn thứ tự tu hành; đâu có lẫn lộn với thế tục, không khác người thường ư? Nay các chùa Tăng trong Thiên hạ, lấy những ngôi chùa xưa mà bậc Thánh tương tục kế thừa để xét biết, thì Phật giáo là dị giáo của Trung Quốc; ví như vào thời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang nếu gặp xiển dương giáo này, chưa thể biết là cho lưu truyền hay cấm chỉ?
Phật pháp truyền nhập Trung Quốc từ thời Đông Hán, đến nay đã trải qua một ngàn ba trăm ba mươi năm, chứ chẳng phải vì một triều đại mà có được, sở dĩ chẳng bị diệt vong là vì sao? Vì đạo ấy chỉ mong cứu sống chứ chẳng phải hành giết hại. Gia phong chính là ở nơi "khổ không rỗng lặng". Nhưng chư Tăng trong thiên hạ hiện nay phần nhiều hỗn tạp với thế tục. Nhất là có nhiều người chẳng bằng thế tục. Đó là giáo bằng mà hạnh kém. Theo lý phải làm trong sạch sự tướng để thành tựu tông phong. Khiến người thuộc thiền thì tu thiền, thuộc giảng thì giảng diễn, thuộc Du-già thì hành Du-già. Mỗi mỗi nương tông phái của mình, gom chúng lập chùa. Người có gia đình muốn hoàn tục thì cho phép, nguyện xa lìa thì cũng cho phép. Tăng Lục Ty nhất nhất theo lệnh Trẫm ban hành đến các tự viện trong thiên hạ, chấn chỉnh Phật pháp để thiện thế kéo dài mãi mãi về sau!"
Sau binh loạn, Tăng không có nơi thống lĩnh. Nay phủ châu cùng khiến Tăng Cang Ty, Tăng Chánh Ty kiểm xét những khu vực ngoài huyện; Tăng Hội Ty kiểm xét Tăng nhân trong huyện. Những Tăng nhân sống lẫn lộn trong dân gian phải được kiểm kê thật số, nơi nào có chùa Phật thì tụ chúng để lập thành tòng lâm, định thanh quy để tu thiền. Người tu thiền phải tuân theo công án của tông mình, quán tâm xét thân để chứng quả thiện. Người diễn giảng thì tuân theo Đức Thích Tôn dùng diệu âm diễn thuyết bốn mươi chín năm, để dẫn dắt kẻ ngu muội. Người tu Du già, thấy nơi nào có chùa Phật cũng phải tụ chúng chỉ dạy thuần thục giáo Hiển Mật. Còn ứng cúng là phương tiện để hiếu tử thuận tôn, báo ân cúc dục cù lao của cha mẹ. Nói về mặt thế tục, giáo này có thể tùy thuận thế gian. Nói về mặt quốc gia, Phật giáo có thể âm thầm phò trợ vương pháp.
Sau khi ban chiếu, người nào còn dám chẳng vào tòng lâm, vẫn ở riêng có quyến thuộc như trước, lẩn trốn trong dân gian, bị người tố cáo đến quan thì hoặc giao quan phủ tầm nã bắt về chém đầu thị chúng. Còn người ẩn náu trong hang hốc thì lưu đày ba ngàn dặm.
-Khoa nghi quỷ phạm của Hiển mật thì tuân theo cách thức đã ban hành vào năm Hồng Võ mười sáu. Những từ ngữ dùng để xướng tụng, trừ các chân ngôn của nội ngoại bộ khó dùng tự thích, còn tất cả vẫn y theo tiếng Tây tạng. Trong đó, từ tối mật, là lý do để gọi là mật, còn các kinh đã phiên dịch và những từ ngữ như tiếp tục, từ tình, khẩn thiết, giao chương trong đạo tràng mà trời, người, quỷ thần đều nghe hiểu, nên đó gọi là nguyên do để gọi là Hiển. Lễ của khoa nghi này, minh thì có thể thông đạt được người, u thì có thể thông đạt quỷ thần; không kể trước khi chưa biên tập, Tăng tục trí ngu, vọng dùng trăm điều làm sai lạc quy củ, cười đùa người trí, quỷ thần chẳng dung, một khi lệnh này đã ban hành, thì mong nhất nhất tuân thủ, không được thêm bớt, làm từ ngữ sai lầm rối loạn. Nếu ai dám vi phạm thì tội đến vị Tăng chủ trì và người theo học.
Khi lệnh này ban hành, nếu vị nào có thể nhẫn nhục, chẳng muốn trụ nơi đông người, chẳng muốn lẫn lộn với thế tục, vào nơi núi sâu, dùng đao khai phá, đốt nương làm rẫy, bóng hình là bạn, đèn dầu là người thân, cam chịu khổ, không, vắng lặng nơi suối rừng, mong cầu anh linh xuất ly ba cõi, thì được phép.
Các tăng Du-già, đã vào chùa Phật đã tập hợp thành chúng, khi có ứng phó thế tục, những tài vật được thù đáp tính theo ngày theo Tăng, mỗi một ngày một vị Tăng là năm trăm văn tiền. Chủ muốn viết số thỉnh ba vị chấp sự thì mỗi vị Tăng một ngàn văn tiền.
Các phẩm kinh chú tụng niệm trong đạo tràng thì vẫn y theo lệ cũ.
Các mục trang trí tượng Phật, hương đèn cúng cấp, xà lê... tiền lao dịch là một ngàn văn tiền.
Phàm Tăng dự trai của nhà thế tục, văn thư hợp dùng chỉ nên y theo pháp Tu trai, thực hành đến các thể thức. Trừ một biểu, ba thân, ba điệp, ba thiếp, ba sớ, ba bảng ra, còn không cho phép viết văn rườm rà, lập riêng danh sắc để uổng phí giấy tờ, hao tốn tiền bạc của dân.
Từ nay về sau những nơi cách xa Tăng Cang Tăng Chánh Tăng Hội, những ngôi chùa nằm rải rác khi ứng phó dân gian, thì cho phép theo hai bên Tăng và dân, có người thỉnh thí nguyện đến ứng phó, Tăng Cương Tăng Chánh Tăng Hội không được cậy là thượng ti, xuất thiếp kềm chế phi pháp, mượn danh nghĩa này mà vọng lấy những vật mà dân đã cúng cho các chùa đơn lẻ. Đối với những vị tăng có duyên, người có đạo hạnh cao sâu, hoặc người tinh thông yếu chỉ kinh điển, được Đàn-việt kính mộ, dâng trai lễ cúng đường thì không bị phép này câu thúc.
Giáo Du-già là pháp Hiển mật cần phải thanh tịnh trì tụng, văn tự không lầm lẫn, khi hô triệu thì tất cả chúng sinh cõi u minh, ngạ quỷ, đều nghe biết, tức thời đến dự hội. Chẳng phải là thân ô uế của thế tục thọ trì được! Trước kia dân gian thế tục có người thường phỏng theo Tăng Du-già, gọi là Thiện Hữu, làm cho Phật pháp chẳng thanh tịnh, Hiển mật chẳng linh, bị cấu uế làm ô nhiễm, nên như thế. Nay về sau chỉ cho phép Tăng hành sự. Ai dám làm giống như trước thì giáng tội làm kẻ ăn xin.
Ngày một tháng bảy, Bản bộ quan nơi Phụng Thiên môn khâm phụng thánh chỉ rằng: Lệnh cho Bộ lễ xuất cấp, giao cho Tăng Lục Ty sai Tăng nhân mang Bảng văn đi, làm trong sạch tất cả tự viện khắp thiên hạ, không cho phép Tăng nhân sống lẫn lộn trong dân gian.
Ngày mười tám tháng tám, Đế sắc cho các Tăng quan ở ba chùa Thiện Thế, Thiên Hy và Năng Nhân là Tông Lại... sáng sớm ngày mai nếu trời mưa thì không cần đến, nếu trời quang mưa tạnh thì đến Phụng Thiên môn. Khâm thử!
Phục Nguyên Thiền sư tên là Phước Bảo, tự Phục Nguyên người ở Ninh Hải; Thai châu, họ Phương, mẹ là Trương thị.
Sư xuất gia tại chùa Sùng Phước, nhưng lễ ngài Thạch Hồ Mỹ cầu cạo tóc, kế đó đến tham yết ngài Kính Sơn Tẩu mà đạt được yếu chỉ. Sư khai pháp ở Lô Sơn, Từ Khê, rồi chuyển đến Trí Môn ở Tứ Minh. Năm Hồng Võ thứ nhất, Đế triệu kiến các bậc Sa-môn có đạo hạnh, Sư cùng với Dĩ Trung, Nhật Chương đến Kinh đô trụ tại chùa Thiên Giới. Từng vào nội đình ứng đáp, hợp ý chỉ của Đế, nên lưu lại ba năm rồi cho phép trở về, bổ xứ tại Kính sơn.
Sư Thượng dường dạy rằng: "Như đại địa nâng ngọn núi, chẳng biết núi cao chót vót, như đá chứa ngọc quý, chẳng biết ngọc quý không tỳ vết". Đến ngày thị tịch, Sư bỗng nhiên nói: "Ha! Ha! Ha! Đại chúng làm sao thấy được!" rồi thoát hóa. Thọ tám mươi bốn tuổi, tháp xây ở sườn núi bên phải tháp Tịch Chiếu. Kỵ vào ngày bốn tháng sáu.
Đạm Cư Thiền sư húy Chí Nhân, tự Hành Trung, hiệu Đạm Cư, Hi Di Tẩu, người Thẩm Dương, họ Ngô. Sư lễ ngài Châu Mục Thuần chùa Báo Ân cầu thế độ xuất gia. Từ nhỏ Sư đã có sự hiểu biết cao vời. Được chỉ không Thượng Nhân tán thán rằng: "Bậc thầy của trời người tái thế!" rồi khiến đến tham yết ngài Nguyên Tẩu, ở lại làm Thị Hương, lo ghi chép việc bên ngoài. Ngài Nguyên Tẩu nói rằng: Nhân Thư ký là Hổ có cánh". Sau Sư khai pháp trụ các chùa Đức Chương, Sùng Báo, Vạn Thọ. Tống học sĩ khen rằng: "Hổ Khâu Tôn giả là Phật-đà, thấy tánh sáng chói như ma-ni".
Năm Hồng Võ thứ nhất, Hoàng thượng hỏi về lý quỷ thần, Sư dùng yếu chỉ Phật đà để đối đáp, vua vui mừng. Lúc lâm chung, Sư lấy giấy viết kệ rồi thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, mười chín tháng ba là ngày kỵ.
Toàn Thất Thiền sư húy Tông Lặc, tự Lý Đàm, hiệu Toàn Thất, người Lâm Hải, Thai châu, họ Châu, cha là Cát Phủ, mẹ là Cát thị. Thuở nhỏ Sư đã thích tọa già phu, năm lên tám tuổi theo ngài Tiếu Ẩn Tố học tập, mười bốn tuổi được cạo tóc xuất gia, hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc. Ngài Tiếu Ẩn khai sơn chùa Long Tường, Sư luôn theo hầu. Sư rất giỏi văn chương, ý hay lời đẹp, tinh thông chữ lệ cổ. Sau Sư tham yết ngài Nguyên Tẩu ở Kính sơn, giữ chức Ký Thất (giống như thư ký riêng). Sư ra khai pháp ở Thủy Tây, rồi đến Trung Thiên Trúc, qua trụ trì đời năm mươi lăm ở Song Kính. Đế hạ chiếu cho Sư cùng với Diễn Phước Pháp sư Thái Phác Phi Công lược giải thích Tâm kinh, Lăng già và Kim Cang; kiểm duyệt Tạng Kinh, chế nhạc khúc hiến Phật, sang Tây Vực cầu pháp, thỉnh được các kinh như Trang Nghiêm Bảo Vương, Văn-thù... được triều đình trao cho chức Tăng Lục Ty Thiện Thế, thống lãnh Tăng chúng trong thiên hạ, lập am Viên Thông ở Tra Phong, Phương Dương, dựng ngôi thất đề là Tòng Hạ Cư. Lại được trao trụ trì chùa Thiên Giới, vua đề thơ ban tặng rằng:
Lặc Ông đi rồi, hỏi ai thiền Sáng tối lại nghĩ tại mục tiền.
Sau Đế ban sắc cho Sư trở về Tra Phong, khi đi
Đế tặng thơ rằng:
Rỗng lặng xem trăng sáng,
Tiêu dao cùng mây trắng.
Và nói rằng: Đó là nơi khanh đến vậy!
Khi qua sông Sư bị bệnh, bèn gọi đệ tử đến nói rằng: "Sự sinh diệt của con người cũng giống như bọt trên biển, bọt sinh bọt diệt đều trở về với nước. Nơi nào chẳng phải là cảnh giới vắng lặng?"
Nói xong, Sư gọi thị giả và nói rằng: "Ơ! Cái gả này!" Vị thị giả mờ mịt chẳng hiểu. Sư nói: "Khổ!", rồi an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, bấy giờ là ngày mười bốn tháng chín. Trà-tỳ thu được nhiều xá-lợi, xây tháp thờ bên phải tháp của Tố Công ở chùa Thiên Giới.
Cao hoàng đế viết cho Sư bài "Miễn Quan Thuyết" (ghi trong Hoàng Minh Hộ Pháp Lục).
Sư để lại tác phẩm Ngự Hòa Thi một trăm bốn mươi lăm bài, xưng là Lặc Ông. Thành Tổ có soạn Tượng Tán và ban hiệu là Trung Thuận Đại Phu.
Đệ tử đắc pháp của Sư có: Trạm Nhiên, Tánh Nhất, Tông Khâm. Cổ Chuyết Thiền sư hiệu là Tổ Đình, người Tòng Lăng, mẹ Sư là người trì giới thanh tịnh, mới sinh ra chẳng biết ăn mặn. Thuở nhỏ rất thích kinh Pháp Hoa, năm lên mười tuổi ngày có thể tụng một bộ. Năm mười ba tuổi Sư vào chùa Nhật Trù xin xuất gia, thọ giới Cụ túc. Đầu tiên tham yết ngài Thạch Ốc, rồi về Nam tham yết Cổ Mai lão nhân; phát nguyện đốt ba ngón tay, chín năm miệt mài tham cứu, tâm địa rỗng rang triệt ngộ. Sau đó Sư đến hội ngài Bạch Vân làm thủ chúng. Cuối cùng ẩn cư nơi núi rừng hang động hơn ba mươi năm. Sư từng nói:
Bình sinh rất thích chốn núi rừng. Hai mươi năm qua biếng đón đưa
Lương Dần tự Mạnh Kính, người Lâm Giang, nhà nghèo, nhưng học rất giỏi, danh sĩ bấy giờ phần nhiều đều có giao du với ông. Đế tìm các danh Nho trong thiên hạ để tu sửa, soạn thuật lễ nhạc, ông cũng có tham dự, nhưng vì lão bệnh, từ chức mà trở về lập am ở Thạch Môn sơn, gọi là Lương Ngũ Kinh. Ông qua đời năm tám mươi hai tuổi.
Năm Nhâm Thân, niên hiệu Hồng Võ hai mươi lăm, chư Tăng thi kinh cấp độ điệp. Đầu tiên lệnh cho Tăng Lục Ty ban hành đến khắp các Tăng Ty trong nước, lập sổ danh bạ Tăng, khắc in và phân phát khắp tự viện, để cùng nhau biết rõ, gọi là Châu Tri Bảng Sách.
Ngày hai mươi lăm tháng tư, hoàng Thái tử băng hà, thụy là Ý Văn, tháng chín lập cháu nội đích tôn là Duẩn Văn làm hoàng Thái tử, lấy Phương Hiếu Nhụ làm giáo thọ. Hiếu Nhụ người ở Ninh Hải, Thai châu, thông minh đĩnh ngộ tuyệt luân, hai mắt sáng như điện chớp, khi đọc sách chỉ một cái nhìn là đọc qua mười hàng, người cùng làng gọi ông là Tiểu Hàn Tử. Tống Liêm nói rằng: "Văn của ông chẳng phải là văn của đời này". Thái Tổ nói với hoàng Thái tử rằng: "Đó là Trang Tử!" là "Dị Nhân!" Sau vào cuối niên hiệu kiến văn ông chết vì trung nghĩa.
Mùa đông Đế bị bệnh nhiệt nguy cấp, các ngự y dâng thuốc đều vô hiệu. Bỗng có một xích cước Tăng đến nội cung nói rằng: "Thiên Nhãn tôn giả và Châu Điên Tăng sai tôi đến đây dâng thuốc!" Xem thuốc thì thấy có hai loại là Ôn Lương dược và Ôn Lương thạch, mỗi loại một bánh. Phương thuốc này công dụng thạnh hơn Thạch ma dược; hòa vào chén trầm hương mà uống. Đế uống vào giờ mùi đến lúc lên đèn thì toàn thân thư giãn, đó là công hiệu của thuốc. Vị và mùi của thuốc này giống như Xương bồ, dưới đáy chén còn đọng lại một chất màu đỏ rất lạ. Đêm ấy Đế hết bệnh, tinh thần ngày càng phấn chấn.
Mồng sáu tháng mười hai Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế Di Giãn... ở Phụng Thiên môn khâm phụng thánh chỉ rằng: Những nơi nào có cao Tăng thông đạt lý tánh Phật pháp, tìm hỏi được mấy vị, mời về trụ ở chùa Thiện Thế. Khâm thử!
Ngày hai mươi mốt tháng mười hai, Đế chuẩn y khắc Quan Lãnh Thanh Giáo Lục một trăm bốn mươi lăm bản, phát hành đến các Tăng Cương Ty khắp nơi, căn cứ theo bản gốc để khắc in, ban phát cho Tăng sĩ trong các chùa viện sở thuộc.
Lưu Cầu nằm ở phía Nam Hải Đông, từ Mai Hoa ở Phước Kiến khởi hành, thuận buồm bảy ngày mới đến được nơi ấy. Phong tục nước này lấy nước sông đầy vơi định về tháng dư thiếu, lấy cỏ cây khô tươi làm Đông, Hạ. Mọi người đều cạo râu, xăm vào tay, đội mũ lông, mặc áo lông thú, không có lễ tiết, thích cướp bóc. Đến ngày nay thì đã cho con em đi học, vì thế tập tục dần dần hơi có biến đổi. Phụng thánh chỉ vào ngày mồng một tháng giêng thiết lập quan chức, đầy đủ áo mão cân đai, trình tấu biểu chương, trứ tác biên chép, giống với phong tục của Trung Hoa.
Nhật Bản tức là nước Da Nô ngày xưa, nằm trong biển, là một nước lớn nhất trong các Di. Phía Tây Nam kéo dài đến phía Bắc Hải đông. Đại Sơn Quốc chủ đời đời đều lấy vương làm họ. Toàn lãnh thổ phân làm năm kỳ ba đảo, đồng thời có hơn một trăm đảo nhỏ, trong đó đảo Câu Da Hàn là lớn nhất. Vào đầu đời Đường đổi quốc hiệu là Nhật Bản. Phong tục nước này, nam thì đầu để trần cắt tóc ngắn, thân xăm các hình vẽ, nét mặt lanh lợi. Phụ nữ thì xõa tóc, đi chân không, có lúc đi giày, thích trộm cướp; xem nhẹ mạng sống, thích giết chóc, đó đều là thiên tánh. Sản vật gồm có vàng bạc, hổ phách, thủy tinh, lưu hoàng, thủy ngân, tiền đồng, bạch ngân, ngọc xanh, tô mộc, hồ tiêu, lụa, bông vải, vỏ ốc, vật dụng sơn, quạt, tê giác, voi, đao, kiếm, giáp, ngựa, giao thương buôn bán với người Hoa, rất thích đổi được bé gái, tơ lụa, đá nam châm. Bấy giờ nạp cống không thành thật.
Bành Hưởng là một hải đảo ở Đông nam, có núi và bình nguyên, ít cầm thú, cây cối tốt tươi, đất đai màu mỡ thích hợp với ngũ cốc, rau quả rất nhiều. Phong tục thì trên dưới thân thiết, không trộm cướp. Nam nữ đều búi tóc, thích tụng kinh Phật. Phơi nước biển để lấy muối, lên men nước dừa để làm rượu. Sản vật gồm có phiến não, các loại hương hoa, các vật bằng thiết. Đã sai sứ dâng kim diệp biểu văn về triều.
Bách Hoa là một hòn đảo trong biển, nhiều núi non, có nhiều hoa đẹp, gỗ quý, nhân dân giàu có, ưa chuộng đạo Phật. Sản vật gồm có: Vượn đỏ, mãnh ỷ (một loại ếch), đồi mồi, khổng tước, chim treo ngược, hồ tiêu; quốc vương nước này bấy giờ có đến triều cống.
Bốc Yên Thiếp Mộc Nhi, là một bộ tộc riêng của bộ tộc Thát Đát, cách Cam Túc một ngàn năm trăm dặm. Đất đai rộng hàng ngàn dặm, không có thành quách, dùng da thú may màn làm lều trại. Sản vật gồm có: La, ngựa, bò, dê; đến nay mới vào triều cống.
Dương Duy Trinh hiệu là Thiết Nham, đội mũ vuông vào triều kiến Thái Tổ. Thái Tổ hỏi: "Mũ này tên là gì?"
"Mũ này tên là Tứ phương bình định!" Đế rất vui lòng.
Bành Hữu Tín sang cống nạp đến Kinh thành, gặp lúc Đế vi hành, Tín đọc bài Hồng Nghê thi rằng:
Ai đem dải lụa xanh hồng.
Cùng mây cùng nước buộc nơi lưng trời.
Đế bảo đọc tiếp, Hữu Tín liền buộc miệng đọc rằng:
Đêm qua Ngạc Đế đã rời.
Trường không vạn dặm dừng loan Ngọc Kiều. Đế rất vui, hỏi quê quán, bảo sáng ngày mai đợi tại Thăng kiều để đồng vào triều. Y hẹn Hữu Tín đợi rất lâu nhưng Đế chẳng đến, Tín bèn vào triều. Đế triệu Tín lên điện hỏi chuyện, Tín tâu trình sự thật. Đế phong làm Bắc Bình Bố Chánh Sứ.
Năm Quý Dậu, niên hiệu Hồng Võ hai mươi sáu, Nghiêm Chấn Trực, Thuật Phổ Giang Trịnh Tế và hai nhà đồng hương là Vương và Huân nhiều đời sống gần nhau. Gia thế có thân quen với Đế, nên đặc biệt hạ chiếu khen thưởng, phong cho Nghiêm và Trịnh làm Tả, Hữu Xuân Phòng Thứ
Tử.
Ngày ba tháng giêng, trụ trì chùa Đại Long Hưng là Tổ Thôi... lên kinh chúc mừng vua; đến lúc từ biệt trở về, Giám quan Ti lễ là Lỗ Thê truyền thánh chỉ rằng: "Tăng trụ trì được thưởng năm nén, những vị Tăng tháp tùng mỗi vị hai nén. Giao cho Bộ lễ danh sách phân bổ. Khâm thử!
Chiếu ban cho Tây Phiên Quốc sư:
Phật giáo hưng khởi từ Tây Trúc, nhân thiện lan rộng đến khắp Hoa, Di. Tuy không dùng luật pháp để trói buộc kẻ hung ngu, mà chỉ dùng lòng nhân làm phép tắc. Thật là lớn lao thay! Diệu giác khó cùng! Thuở xưa, người theo đạo này đốn ngộ Tam không, thoát trần ai ra khỏi chốn khổ, vĩnh viễn lìa cõi tối tăm; khiến cho người sống hoài mong kẻ chết mến mộ, đó há chẳng phải là bậc thánh ư?
Gần đây, những người từ Tây phiên vào triều cống có vị Tăng Công Ca Giám Tạng Dĩ Tang Bốc, là hậu nhân của Đế Sư triều Nguyên Bát Tư Ba, đã theo học đạo của thầy, thông đạt kinh điển sâu mầu, chí chuyên mà bền vững, giáo hóa kẻ ngu ác trở về thiện, dùng lòng nhân mà rửa sạch oan khiên. Tuy mới nghe danh, Ta cũng đặc phong cho Sư hiệu là Viên Trí Diệu Giác Hoằng Giáo Đại Quốc Sư, thống lãnh các Tăng. Xứng danh là Thiện nhân đương thời, vĩnh viễn là thượng thủ trong bản giáo. Nơi Sơn phòng rỗng lặng an vui, đốt ngọn đèn xanh mà đọc tụng, ngắm trăng sáng, ngâm vịnh gió mây, già phu trên đá, mặc thảo y, ăn rau trái, mới khế hợp thiện tâm.
Tượng Nguyên Thiền sư húy là Thúc, người Thai châu, trụ trì Kính Sơn, ngày mười bốn tháng sáu bước vào cửa liền rằng: "Chết đến rồi! Chết đến rồi! Làm sao mà trốn!", nói xong liền ngồi yên thị tịch.
Năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Võ hai mươi bảy, ban lệnh cho Tăng Lục Ty ban hành đến mười ba Bố Chánh Ty, tuyển Tăng bổ làm quan. Bấy giờ các vị Cư Đảnh, Đạo Thành, Tịnh Giới... theo lời triệu kiến được sách phong.
Tháng giêng, Đế nói với Lưu Tam Ngô rằng: Trẫm lên ngôi đã bao năm nay, điều mà ta lo sợ hơn cả là sợ tâm trị quốc biếng trễ, tâm biếng trễ vừa sinh, thì trăm việc phế bỏ, nhân dân vui buồn phó mặc vậy! Cho nên một ngày thì cẩn thận một ngày, chỉ sợ rằng chẳng kịp. Trị quốc như thế mà còn chưa tốt; việc trị chánh thật khó quá!" Tam Ngô dập đầu lạy mà nói rằng: Bệ hạ nói như thế thật là phước cho trời đất thần, nhân.
Đế dụ rằng: Thường tình của con người là hễ sống an ổn thì sao nhãng, như no thì quên đói, ấm thì quên lạnh, chẳng nghĩ đến sự chuẩn bị, một mai bỗng tai họa ập đến thì mờ mịt không biết làm gì. Ta biết rõ sự gian khổ của vạn dân tính trăm kế để khuyên răn, đôn đốc khiến cho ai cũng được no ấm. Mồng tám tháng giêng, khâm phụng thánh chỉ rằng: Phật Thích-ca phát tâm Đại bi nguyện, trải qua vô lượng kiếp đến khi thành đạo, thuyết pháp độ người, tất cả sự việc đều ghi trong Đại Tạng, người ngu đâu thể biết nghĩa, bậc trí chưa thể nhìn tận mắt; từ khi có Phật đến nay, người bắt chước theo Phật mà tu tập nhiều vô lượng, phàm nói gì thì trời, người đều nghe. Người ngu tuy không biết, nhưng bù lại lúc bấy giờ người trí rất nhiều. Sau khi Phật nhập diệt, chư Tổ hành theo đạo của Phật, an trụ nơi vắng vẻ, chẳng bước ra khỏi nơi ở để thấu rõ yếu chỉ của Phật, cho nên xưa nay nhân dân xu hướng về nhiều như thế. Người học theo Phật mà tuyên dương là bậc trí vậy, do đó Phật đạo vĩnh viễn sáng tỏ, pháp luân thường hằng lưu chuyển.
Những năm gần đây, người bước trên con đường Phật, chưa thấy có bậc trí, dẫn đến bị khinh bạc, kẻ tiểu nhân hủy nhục mắng chửi, làm hư hoại Phật môn. Nay lệnh cho Bộ lễ lập những điều lệ cho việc đi, trụ của Tăng nhân, ghi lên bảng để niêm yết.
- Tăng nhân đi chung, không được đi vào thôn xóm với lý do là hóa duyên, khiến cho kẻ vô lại hủy nhục, làm tổn thương Phật giáo. Nếu có như thế, bắt về quan trị theo tội làm bại hoại tổ phong.
- Những chùa, viện, am, cốc đã có châm cơ đạo nhân, thì tất cả những phiền nạn cần ứng đối với quan phủ, đều do người này đảm nhận. Là Tăng thì không được mặc Tăng phục vào công đường quì bái. Ví như bản thân vị Tăng có phạm tội, cần phải dự tính cởi bỏ Tăng phục để chịu bắt giam.
- Ân tứ hoàn toàn miễn thuế ruộng đất. Ruộng đất của thường trụ tuy có thuế, nhưng miễn sai dịch và làm các việc khác.
- Phàm trụ trì hoặc các Tăng nhân nếu dám giao du với quan phủ, kết bạn với thế tục thì phạm trọng tội.
- Phàm Tăng ở nơi Đô thị, cần phải có từ ba mươi vị trở lên mới tụ nhóm thành một chùa.
- Nơi có thể đến trụ: Hoặc một, hai người ẩn cư nơi núi cao, hang sâu vì muốn tu hành, thì cho phép.
- Tăng có vợ thì cho phép mọi người đánh mắng, lại lục lấy hết tiền, nếu không có tiền thì đánh chết không cần bàn luận.
- Tăng có vợ con nhà cửa, nếu xin hoàn tục thì cho phép; nếu muốn xả bỏ để tu hành cũng cho phép.
- Chùa, viện, am nếu có những bậc cao minh muốn cùng Tăng đàm luận để làm sáng tỏ Phật pháp, vị Tăng ra ứng đối quá bất tài, người ấy mới khinh thường, vị tăng ấy liền khởi tâm muốn hơn thua, người này liền lánh xa không gần gũi... (văn dài không ghi hết).
Than ôi! Nếu chư Tăng thuận theo điều lệ của Trẫm, hoặc sống ở núi rừng, hoặc nương nơi thường trụ, hoặc du phương không can dự đến dân, không vọng muốn vào phố chợ, quan dân muốn cầu Tăng đến để được nghe kinh, há chẳng phải là khó lắm sao? Như thế thì người thiện mến mộ, đến tận nơi Tăng trụ mà đốt hương lễ thỉnh, chẳng phải là bậc cao minh sao? Hành trì lâu ngày thì Phật đạo vô cùng hưng thịnh.
Sau khi dán bản yết thị, quan dân Tăng tục nào dám vọng ngôn trái với điều này thì sẽ dùng cực hình xử trị. Khâm thử!
Ngày mười hai tháng bảy Quan bản bộ cùng Tăng Lục Ty ở tại điện Hoa Cái khâm phụng thánh chỉ rằng:
Những quan viên quân sĩ trận vong hoặc bệnh chết, trong lúc chinh Nam rất nhiều, nay giao cho bộ lễ dụng tâm lo liệu, đến linh cốc làm lễ truy tiến để phổ độ cho họ. Khâm thử!
Năm Ất Hợi, niên hiệu Hồng Võ hai mươi tám, lệnh cho Tăng Lục Ty lập ba khoa thượng, trung, hạ, khảo thí Sa-môn trong thiên hạ. Ban lương thực cho các chùa Thiên Thế, Thiên Phước sử dụng. Ban cho Đại Hữu ở Tăng Lục Ty ca sa và chăn.
Đại Tông Thiền sư húy là Hưng, người Thai châu, trụ trì Kính Sơn. Ngày mười một tháng ba bỗng nhiên Sư than rằng: "Đến ba mươi người con gái sáu tuổi, mà trọn phối ngẫu chẳng thành!" Nói xong, Sư ngồi yên thị tịch.
Tháng mười một năm Bính Tý, niên hiệu Hồng Võ hai mươi chín, thánh chỉ ban rằng: Trụ trì chùa Linh Cốc, bị bệnh viên tịch, giao cho bộ lễ tế tự. Khâm thử!
Bản Bộ sắp đặt lễ phẩm, sai quan đến tế lễ. Năm Đinh Sửu, niên hiệu Hồng Võ ba mươi, lệnh cho Tăng Lục Ty thông báo cho mười ba Bố Chánh Ty biết rằng: Phàm nơi nào có chùa viện đều phải lập Thiền đường, tập chúng học thiền.
Năm Mậu Dần, niên hiệu Hồng Võ ba mươi mốt, Thái Tổ lập Yên phủ. Đời sau lấy tên húy gồm bốn câu hai mươi chữ: Cao Chiêm Kỳ Kiến Hựu-Hậu Tải Dực Thường Do-Từ Hòa Di Bá Trọng-Giản Tỉnh Địch Tiên Du.
Ngày hai mươi chín tháng hai Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế là Đại Hựu... tại Hữu Thuận Môn khâm phụng thánh chỉ rằng: Xét hai nơi là trạm Giang Đông và Giang Hoài, lập hai ngôi chùa tiếp đãi, để Tăng đạo Nam Bắc du phương qua lại được thuận tiện. Khâm thử!
Cừ Am Pháp sư húy là Đại Hữu, hiệu Cừ Am, trụ trì chùa Bắc thiền ở Cô Tô, vâng chiếu làm Tả Thiện Thế. Sư tinh thông nội ngoại điển, giỏi giáo nghĩa của Thiên Thai, Hiền Thủ. Sư có các tác phẩm: Di-đà Lược Giải, Tịnh Độ Chỉ Quy... lưu hành ở đời.
Toại Sơ Pháp húy là thiệu Tông, hiệu là Toại Sơ. Sư họ Trần, người Thượng Hải. Sư xuất gia năm mười ba tuổi tại chùa An Quốc ở Tòng Giang, đắc pháp nơi Pháp sư Tỉnh Am Trấn. Sư có thiên tư đĩnh ngộ, giới hạnh tinh nghiêm. Đầu tiên, Sư khai đường giảng pháp ở Trường Khánh, kế đến dời đến Từ Hàm ở Ngô Hưng; Xiển dương tông phong hưng thịnh, tăng tục được giáo hóa rất nhiều. Năm Quý Dậu, niên hiệu Hồng Võ, Sư theo lời triệu đến Lô Sơn yết kiến, tâu đáp hợp ý Thái Tổ, nên được ban cho y Tăng-già-lê sợi vàng, phong làm Hữu Giảng kinh rồi Thăng Hữu Thiện Thế. Sư không bệnh mà an nhiên thị tịch vào năm này.
Tháng tư, Đế bị bệnh đến ngày mười tháng năm nhuận thì băng hà, thọ bảy mươi mốt tuổi, tháng sáu an táng ở Hiếu lăng, tôn thụy là: Thánh Thần Văn Võ Khâm Minh Khải Vận Tuấn Đức Thành Công Thống Thiên Đại Hiếu Cao Hoàng Đế; miếu hiệu là Thái Tổ.
Thái Tổ có soạn Hộ Pháp Tập; những bài chép trong tập này thì chẳng ghi đủ trong Vân Thê Hộ Pháp Tập. Toàn tập gồm các bài: Phật Giáo Lợi Tế Thuyết-Tâm Kinh Tự-Tam Giáo Luận-Thích Đạo Luận-Tụng Kinh Luận-Tu Giáo Luận-Minh Trí Luận-Thần Thích Luận-Quỷ Thần Hữu Vô Luận-Không Thật Luận-Bạt Nho Tăng Văn-Tăng Đạo Hành Thuyết-Tăng Diệu Vân Thuyết-Tăng Trúc Ẩn Thuyết-Thanh Giáo Lục-Dụ Chung Sơn Tăng Sắc-Dụ Thiên Giái Tự Tăng-Tứ Tông Lặc Miễn Quan Thuyết-Vấn Phật Tiên (hai thiên)-Hoàn Kinh Thị Tăng-Thiên Giới Tự Hoa Giá Thuyết-Giới Tăng Đào Dã Văn-Hựu Dụ Tăng-Tập Đường Thái Tông Thánh Giáo Tự-Du Tự Ký-Linh Cốc Tự Ký-Du Tân Am Ký-Ngưu Đầu Sơn Am Ký-Tăng Phạm Hiến Thuyết-Xá Nhị Dịch Tù Nhân-Tế Bảo Chí Công Văn-Tế Đạo Lâm Văn-Tán Thập Lục La-hán (hai bài)-Thi Kệ (mười chín bài)-Sơn Cư Thi (hai mươi bài)-Tán Tụng (mười ba bài).
Gom chép sáu mươi mốt vị, phụ ghi mười lăm vị:
Đạo Nguyên Thiền sư húy Diễn, Thu Đàm Pháp sư húy là Nguyệt, Tông Luật Thiền sư, Chiêu Khánh Luật sư, Thái Bạch Pháp sư húy Chỉ, Thạch Hồ Thiền sư húy Mỹ, Trúc Nguyên Thiền sư húy Đạo, Nhất Nguyên Thiền sư húy Linh, Vô Nhược Thiền sư, Cổ Mai Thiền sư, Dụng Minh Pháp sư, Lại Mục Thiền sư, Tỉnh Am Thiền sư húy Trấn, Thanh Lương Pháp sư, Bạch Vân Thiền sư.
Hoàng Thái Tôn lên ngôi hoàng đế, qua năm sau đổi niên hiệu là Kiến Văn nguyên niên, đại xá thiên hạ.
Thái Tôn dự tang lễ, xõa tóc kêu gào khóc lóc, ai oán làm xúc động cả mọi người. Tôn Đế ban chiếu cho quan tổ chức tang nghi theo châu lễ, phỏng theo phép tắc của Kim Đằng để lại; tức Tiền Triều, hậu Điện, giác môn trái phải cho đến Tây cung, nội tẩm, mỗi mỗi đều có đặt tòa ngồi như lúc Thái Tổ còn sống; tất cả gồm mười một nơi, những nơi nào đã lâu Đế không đến thì dùng nước thơm rửa quét sạch sẽ. Bày Tổ huấn ở Đông trực điện, đặt Trọng khí (vật báu của quốc gia) ở Tây trực điện. Các quan ở Kinh thành từ bốn phẩm trở lên phải mặc triều phục, cầm búa lớn đứng trên các bậc thềm, từ ngày mồng mười đến mười sáu khốc lâm (tập trung quần thần định thời khắc cùng khóc) như tế lễ, ban ngày không uống một muỗng nhỏ nước, ban đêm không nằm gối, chiếu.
Lúc trước, khi Thái Tổ bị bệnh thường giận dữ khiến nhiều người bị tội chết. Thái Tôn bèn vào hầu hạ, tất cả đều do tự thân lo liệu, khi Đế uống thì tự nếm trước rồi mới dâng, về sau thì tự thân đỡ Đế đứng ngồi. Các vật dùng để khạc nhổ, đại tiểu tiện đều do hoàng thái tôn tự tay đặt để lúc cần. Tuy thế mà sắc mặt vẫn an hòa, dung mạo vẫn tự nhiên, thật vui tươi khả ái. Đến khi khí sắc Thái Tổ dần dần bình phục, thì ông rộng lòng tha thứ hơn. Đang trong lúc đêm khuya, lúc các thị vệ đang say sưa ngủ, nếu Đế gọi thì chẳng thể chẳng đáp, đã đáp thì chẳng thể chẳng dậy, vì thế suốt cả đêm chưa có lúc chợp mắt. Hoàng Thái Tôn là người trắng đẹp mập khỏe, đến nay thì suy hao gầy rộc.
Hôm ấy các Đại thần nghinh Thái Tôn ra bên ngoài Đại Minh Môn, quần thần và bá tánh thấy dung mạo hao gầy, sắc mặt đen thâm như thế thì đều buồn bã khóc lóc, ai cũng đặt tay lên trán mà nói rằng:
"Thiên tử thuần chiếu, mọi người đều kính mến, có suy nghĩ chí đức!"
Ban chiếu để tang ba năm, cho phép Tề Thái Hoàng tử Trừng tham dự triều chánh, phong Phương Hiếu Nhụ làm Bác sĩ Thị Giảng, Kiễn Nghĩa làm Lại Bộ Thị Lang, Hạ Nguyên Cát làm Hộ Bộ Thị Lang, Giang Tây Xử sĩ Dương Sĩ Kỳ làm Hàn Lâm Viện Biên Toản, Trương Thống làm Thượng thư Bộ lại.
Sao chổi chiếm trung tâm, Trình Tế giỏi về thuật số, dâng thư tâu rằng: "Phương Bắc khởi binh ứng vào năm sau".
Kiến Văn hoàng đế húy là Duẩn Văn, cháu đích tôn của Thái Tổ, con của Thái tử Ý Văn. Ngày Kỷ Mão, tháng mười một năm Hồng Võ thứ mười, kế phi của Ý Văn là Lã Thị sinh Hoàng Thái Tôn. Mười năm sau Ý Văn qua đời, bấy giờ Thái Tổ đã sáu mươi lăm tuổi. Ngày Canh Dần tháng chín năm ấy được lập làm Hoàng Thái Tôn, đến khi Thái Tổ băng hà thì kế vị. Năm ông hai mươi hai tuổi, binh Tĩnh Nạn vào đến Kim Xuyên Môn, ông bỏ ngôi vị lẩn trốn, tại vị được bốn năm.
Tháng giêng năm Kỷ Mão, niên hiệu Kiến Văn Nguyên Niên, tế lễ trời đất ở Nam giao, tế xong Đế trở về điện Phụng Thiên, để nhận quần thần đến tung hô chúc mừng. Phương Hiếu Nhụ dâng Giao Tự Tụng, Đế nhận lãnh. Đế sai sứ cáo thần linh trong thiên hạ về việc lên ngôi của mình. Ban chiếu tôn Hoàng Khảo Ý Văn Thái tử làm Hưng Tông Hiếu Khang Hoàng Đế, phong cho em là Duẩn Thông làm Ngô Vương, Duẩn Kiên làm Hành Vương, Duẩn Hy làm Từ Vương, đồng thời lập Văn Khuê làm Hoàng Thái tử.
Chiếu khai Sử quán biên tu bộ Thái Tổ Cao Hoàng Đế Thật Lục. Ban chiếu ưu đãi người hiền, dưỡng dục người già cả, khai khẩn ruộng nương, chấn hưng việc học, khảo xét quan lại, khen thưởng người có hiếu, cứu giúp kẻ nghèo cùng, nhặt chôn hài cốt, chuộc con trẻ, giảm thuế má. Trác Kính nói rằng: "Phàm mới hiện điềm mà chưa phát động tức đợi cơ, lượng thời mà làm tức đợi thế. Thế chưa thật mạnh thì chớ nên động, cơ chưa thật rõ thì chớ nên xét".
Tháng ba động đất ở Kinh đô, Đế cầu lời nói thẳng. Triệu Giải Thân làm Hàn Lâm Thị Chiếu. Tháng sáu binh Tĩnh Nạn khởi, dùng Khâu Phước, Trương Ngọc, Chu Năng làm Đô chỉ huy lấy danh nghĩa là trị Tề Thái Hoàng tử Trừng.
Yên Vương triệu Tăng Đạo Diễn... đến cùng mưu nghị, bỗng nhiên gió thổi, ngói trên mái nhà rơi xuống đất vỡ nát, Yên Vương cho là điềm chẳng lành, sắc mặt chẳng vui. Đạo Diễn liền nói: "Đây là điềm lành vậy!" Yên Vương dối mắng rằng: "Sao ông lại vọng ngôn, đây đâu thể gọi là điềm lành?" Đạo Diễn nói rằng: "Ý trời muốn điện hạ thay ngói vàng đó!" Bấy giờ Yên Vương mới vui mừng. Ngày hôm ấy đã định mưu xong.
Tăng Đạo Diễn người ở Trường châu, Tô châu tên Dao Quảng Hiếu. Đầu tiên lễ một vị Tăng ở am Diệu Trí là Tướng Thành cầu xuất gia, được ban pháp danh là Đạo Diễn, tự Tư Đạo. Bấy giờ ở Linh Ứng quán tại Tương thành có Đạo sĩ Vi Ứng Châu đọc sách, học đạo pháp và gồm thông binh cơ, Đạo Diễn bèn đến học và đã thấu đạt hết học thuật của Đạo sĩ ấy, nhưng đều dấu kín trong lòng thì chẳng ai biết. Sau đó Sư đến Kinh Khẩu làm một bài thơ tựa đề là: "Phú lãm cổ thi":
Vọng lâu máu chiến đã phai
Mà xem cảnh sắc nửa bày hoang sơ
Ngũ châu mây phủ núi mờ
Ngàn năm lầu vắng lặng lờ đêm trăng.
Thiết Thy thông đến Trường giang
Đồng hoang có lối thẳng sang Kim đàn
Tiêu Lương sự nghiệp đã tàn
Xanh xanh Bắc Cố mắt càng dõi trông.
Sư Tòng Lặc thấy Sư ngồi rung đùi ngâm nga, bèn cười nói rằng: "Đây há là lời Thích tử sao? Này Tư Đạo! Tư Đạo! Ông bạc với Nam triều lắm!" Tông Lặc lại cử Đạo Diễn đến Yên, trụ trì chùa Khánh Thọ ở Bắc Bình, đồng thời tiến cử Đạo Diễn với các nhân tài văn võ. Yên Vương triệu kiến và hỏi rằng: "Ông biết bói toán chăng?" Đạo Diễn với âm giọng xứ ngô liền đáp: "Biết, Biết!" rồi mở vạt áo lấy năm văn tiền đưa vương xem xong, chú nguyện, ném xuống đất, liếc mắt hỏi vương rằng: "Điện hạ không muốn làm hoàng đế ư?" Vương quát rằng: "Hòa thượng chớ nói xàm!"
Hôm khác vương nói thật, Đạo Diễn luận bàn rất hợp ý. Do đó Sư lại tiến cử một nhà tướng thuật tên là Vi Cũng để quyết định. Bởi Đạo Diễn từng đến chùa Tùng Sơn gặp Cũng, Cũng xem tướng rồi nói: "Há một Hòa thượng vô sự mà như thế ư? Mắt có ba góc, dài mà trắng dã, hình như cọp bệnh, ắt có tánh hiếu sát, ngày sau ắt giống Lưu Bình Trung. " Đạo Diễn bèn cười lớn. Nhân đó mà rất tự phụ. Vương cũng nghe danh tiếng của Cũng, nên sai quân đến triệu kiến. Đến Yên Kinh, sứ giả mời vào quán uống rượu, lúc ấy vương đang mặc thường phục lẫn lộn trong đám vệ sĩ cũng vào quán rượu. Cũng vừa thấy liền đến lễ bái vương, đồng thời chiếm một quẻ là ngày sau vương sẽ làm Thái Bình thiên tử. Vương rất vui, tạm lưu Cũng tại Tăng xá của Đạo Diễn. Về sau người đời lưu truyền hai câu:
Chùa Tung sơn chỉ ra tể tướng.
Quán rượu Trường an biết đế vương.
Chính là việc này.
Bấy giờ Vương cùng với Đạo Diễn nói chuyện, Diễn thường có những lời kỳ bí, nên Vương càng kính trọng hơn. Có lúc Đạo Diễn ở trước Vương lầm xưng những từ như: Nhĩ, Nhữ (ông, mày), nhưng Vương đều bỏ qua chẳng trách. Mưu kế Tĩnh Nạn thật là do Đạo Diễn sắp bày. Yên Vương mật nói với Đạo Diễn rằng: "Lấy nhân tâm làm chính!" Diễn đáp: "Trời tạo ra, đâu có luận đến lòng dân?" Từ đó Vương lấy Đạo Diễn làm quân sư.
Vùng Giang Bắc sinh sản nhiều sâu phá hoại lúa, quan địa phương tấu xin bắt. Đế nói rằng: "Vì Trẫm không có đức, nên mới có sâu, nay lại giết sâu thì lỗi của Trẫm càng nặng, thần dân đều nói Trẫm mất đức, nay phải cải hối, ân xá những nghi tội, tha kẻ trốn thuế, cứu giúp người nghèo cùng để tu sửa chánh trị; như thế thì sâu chẳng phải là tai họa, mà giúp được mùa".
Tháng tám tế cáo trời đất Tổ Tông, báo xuất chinh. Răn các tướng sĩ Bắc Chinh rằng: "Ngày xưa Tiêu Dịch đem binh về Kinh, hạ lệnh rằng: Trong một nhà mà tự xuất uy binh là quá bất nhân". Nay cũng thế, khi tướng sĩ đối địch với Yên Vương, mong hiểu được ý này, đừng để cho Trẫm mang danh giết chú!"
Lúc đầu Trình Tế nghị đàm với binh phương Bắc, vì vọng ngôn nên bị hạ ngục, sau được tha, cất lên làm Hàn Lâm, sung làm quân sư giúp đỡ cuộc Bắc Chinh. Tặng Vương Hy là Hàn lâm học sĩ, thụy Văn Tiết.
Tháng tám năm Canh Thìn niên hiệu Kiến Văn thứ hai, thay đổi gọi Thừa Thiên Môn là Cao Môn, Đoan Môn là Ứng Môn, Ngọ Môn là Đoan Môn, Điện Cẩm Thân là điện Chánh Tâm. Ban chiếu chọn người thông văn học, lấy xử sĩ Đường Ngu làm học sĩ.
Năm Tân Tỵ, niên hiệu Kiến Văn thứ ba, binh Yên bị bại ở Đông Xương. Lúc Tĩnh Nạn mới khởi, Đạo Diễn nói rằng: "Quân lên đường ắt là thành, nhưng phải mất hai ngày". Đến đây mới biết, lúc trước đã nói hai ngày là chữ Xương. Bắt đầu từ đây, Yên quân luôn luôn thắng trận.
Tháng hai, Văn Hoàng đế, khiến chư Tăng lập hội Tế độ tướng sĩ trận vong như Trương ngọc..., Đế tự soạn văn tế.
Tháng ba Đế hạ chiếu đuổi Tề Thái Hoàng tử Trừng ra ngoài thành, vì tội không làm tròn trách nhiệm giao phó, tịch biên gia sản để tạ lỗi với Yên Vương.
Ngày mười ba tháng sáu năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Kiến Văn thứ tư Đế phóng hỏa đốt cung, thay đổi y phục trốn đi. Người ở Kinh Thành truyền rằng Đế đã băng hà. Yên Vương án binh và vào thành, quan dân đều kính ngưỡng khuyên lên ngôi, Vương chấp thuận, sai người thông báo khắp thiên hạ.
Khi trước Thái Tổ dự tri Đế chẳng ở ngôi trọn vẹn, nên khi bệnh nguy cấp, đã trao cho một cái hộp nhỏ, niêm phong và khóa kỹ, dặn rằng đến lúc nguy cấp mới được giở ra xem. Đến bấy giờ gặp khi quẫn bách vô kế khả thi, Đế liền mở hộp ra, thấy một độ điệp là Dương Ứng Năng và các dụng cụ thế phát. Đế liền cạo tóc, đắp ca sa, cầm độ điệp, theo con lạch ra đến Giao đàn mà đi mất. Bấy giờ trong cung lửa cháy, mọi người đều cho là Đế đã tự thiêu, lúc sắp lưu vong có hỏi Trình Tế, Tế nói:... lập tức triệu một vị Tăng vào cạo tóc, rồi cùng Đế lưu vong, gặp hiểm nạn gì đều dùng thuật mà thoát khỏi. Vài mươi năm sau, theo Đế đến Nam kinh, nhưng không biết mất ở đâu. Bình sinh từng cùng với người đồng hương là Cao Tường Soạn Minh Kinh. Cao Tường chuộng danh tiết, Trình Tế thích thuật số. Tường nói: "Nguyện làm trung thần!" Tế nói: "Nguyện là trí sĩ!". Về sau Cao Tường bị nạn chết thọ chín mươi tuổi. Bình sinh Đế rất hiền từ, thông tuệ, thích thi văn, sách cổ, lễ nhạc, văn chương. Tánh chí hiếu, khác người. Lúc Ý Văn mới bị bệnh ung thư, Đế còn nhỏ nuốt lệ an ủi, ngày đêm chẳng lìa, tự thân hô hấp cho cha. Đến khi Ý Văn qua đời, Đế than khóc, buồn nhớ, năm ngày chẳng uống một giọt nước.
Thái Tổ Trị Chánh rất nghiêm khắc, còn Đế thì khoan dung, độ lượng cứu giúp, trong ngoài đều yêu mến. Trong năm Kiến Văn có một Đạo sĩ có hát một bài rằng: "Chớ đuổi Yến (Yên), đuổi Yến thì Yến bay ngày càng cao, bay cao đến kinh kỳ của Thượng đế", hát xong bỗng nhiên biến mất, mọi người không ai biết, đến hôm nay mới ứng nghiệm về lời nói ấy.
Dùng lễ Thiên tử để phát tang Kiến Văn, sai quan tế lễ, miễn triều ba ngày. Phương Hiếu Nhụ mặc áo tang ngày đêm than khóc, Tân Đế triệu kiến nói rằng: "Việc trong nhà của ta, vì sao Tiên sinh tự làm khổ thế?" rồi giao giấy bút sai soạn chiếu chỉ, Hiếu Nhụ viết mấy chữ rồi ném bút xuống đất nói rằng: "Chết thì chết chứ không thể thảo chiếu chỉ!" Trước kia Đạo Diễn có gởi gắm cho Yên Vương rằng: "Nam Triều có Phương Hiếu Nhụ, là người có học, hạnh; ngày thành công, ắt ông ấy không theo, xin chớ giết, nếu giết thì người hiếu học trong thiên hạ sẽ hết!"
Tháng mười phong cho Đạo Diễn làm Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế-các quan tử tiết trong cuộc Tỉnh Nạn, những người được biết rõ ràng, đời sau khen tánh danh của họ là: "Cách Trừ Di Sự". Đầu tiên là những quan bị họa và tử trận gồm mười chín người, nghe có biến tự vận là mười lăm người, ở tại triều bị họa là hai mươi ba người, bên ngoài bị họa là hai mươi người, Sĩ thần trong triều ngoài triều là một trăm chín mươi tám người, chẳng tránh kịp bị nạn là sáu người, bị đuổi mà chết là sáu người, bị lợi dụng mà chết là hai mươi hai người.
Thái Tông Văn Hoàng Đế.
Đế là con thứ tư của Cao Hoàng đế, được phong làm Yên Vương, sau hận Tề, Hoàng làm loạn điếu chương, khởi binh Tỉnh Nạn về kinh, tại vị hai mươi hai năm, ngày mười tám tháng bảy năm Canh Tý thì băng hà, thọ sáu mươi lăm tuổi, hiệu là: Thể Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Quảng
Vận Lý Võ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn Hoàng Đế, miếu hiệu Thái Tông, đến năm Gia Tĩnh đổi hiệu là Thành Tổ, táng ở Trường lăng. Tháng hai năm Quý Mùi, niên hiệu Vĩnh Lạc Nguyên Niên ban chiếu dùng Bắc Bình làm Bắc kinh, đổi là phủ Thuận Thiên. Biên tập Hoàn Thành Thái Tổ Cao Hoàng Đế Thật Lục gồm một trăm tám mươi ba quyển.
Phật Thuyết Hy Hữu Đại Công Đức Kinh: Đêm mồng tám tháng giêng Hoàng hậu Nhân Hiếu nằm mộng cảm được Phật thuyết kinh này. Duyên khởi có ghi trong lời tựa. Nhân Tông và Hán Vương, Triệu Vương đều có lời Bạt vào tháng mười một niên hiệu Vĩnh Lạc thứ năm.
Ngày hai mươi chín tháng chín, Qua Bản Ty là Tả Thiện Thế Đạo Diễn cùng với Công Bộ Thị Lang Kim Trung, chỉ Huy Cẩm Y Vệ Triệu Hy, đồng tại Võ Anh Diệu tấu rằng: Tạng kinh bản ở chùa Thiên Hy có người đến ấn chứng, nếu hợp thì không cần người ấy xuất tiền cúng đường. Tuân phụng thánh chỉ hỏi người ấy lấy bao nhiêu bản. Khâm thử!
Tháng bốn năm Giáp Thân, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ hai, Đế lập Cao Xí làm Hoàng thái tử, quận vương Cao Hú làm Hán Vương, Cao Toại làm Triệu Vương. Thăng Tả Thiện Thế Đạo Diễn làm Thái tử Thiếu Sư, lấy lại họ Dao và đặt tên là Quảng Hiếu. Từ đó Đế gọi Đạo Diễn là Dao Thiếu Sư mà chẳng gọi tên chính. Tuy thế suốt đời Sư vẫn không để tóc, lấy vợ, sinh hoạt đều ở chùa Tăng. Đế từng ban cho hai cung nữ nhưng ông không gần gũi, Đế phải triệu trở về.
Đạo Dư Lục.
Thiếu Sư có biệt hiệu là Triệu Hư Tử, soạn bộ Đạo Dư Lục, bài tựa ghi: Ta trước kia, khi làm Tăng, gặp binh loạn vào cuối đời Nguyên, gần ba mươi năm theo ngài Ngu Am và Hòa thượng ở Kính sơn tu tập thiền pháp. Những lúc rảnh rỗi ta xem đọc thêm nội ngoại điển để tăng thêm kiến thức. Nhân đó có xem những bộ sách của hai vị tiên sinh họ Trình ở Hà Nam để lại và Ngữ lục của Hối Am tiên sinh ở Tân An. Ba vị này đều sinh vào đời Triệu Tống, truyền sở học của Thánh nhân mà ngàn năm chưa được truyền, nên có thể cho là anh kiệt của thế gian, là bậc chân Nho của đời. Ba vị tiên sinh này nhân giúp Danh giáo mà lại bài xích Phật, Lão làm chính. Thái sử Công nói rằng: "Ở đời mà học Lão Tử thì chê Nho Học, học Nho thì chê Lão Tử. Vì đạo chẳng đồng nên chẳng cùng nhau toan tính. Xưa nay đều như thế, đâu lấy gì làm lạ?" Ba vị tiên sinh đã là Tông chủ của Văn này, là mô phạm cho hậu học, tuy nói bài xích Phật lão, ắt phải có lý làm chứng cứ. Chí công vô tư thì nhân tâm mới phục. Ba vị tiên sinh này do chưa nghiên cứu nhiều sách Phật, chẳng biết lý cùng tột của Phật, nên nhất nhất đều dùng ý của riêng mình mà nêu ra những lời tà vạy, bẻ cong thái quá, khiến cho người đời lắm kẻ bất bình, huống gì người tôn quý cái học ấy? Di Thư của hai vị họ Trình có nêu hai mươi mốt điều ngữ lục của Hối Am gồm hai mươi mốt điều, tất cả đều lầm lẫn. Tôi chẳng nói chung mà căn cứ từng điều xét theo nghĩa lý mà nhất nhất phân tích. Đâu dám nói là cùng với ba vị tiên sinh biện luận? Đây là việc bất đắc dĩ mà thôi! Cũng chẳng phải là dua nịnh nơi Phật vậy.
Sau khi biên soạn thành, tôi xếp cất vào chiếc rương nhỏ, đến nay đã rảnh rỗi việc công, nên mới chọn lựa một số giấy cũ mà gặp được bản thảo này, tôi liền chép sạch thành pho quyển, đề là Đạo Dư Lục, đặt lên bàn, để các bậc quân tử, trí nhân ghé qua đây xem đọc bộ lục này, hầu biết tôi kết tội tôi ở tại trong đó vậy!
Tháng 6, Đế hạ chiếu cho Thái tử Thiếu Sư Dao Quảng Hiếu đến Tô châu, Hồ Nam cứu tế. Lúc Quảng Hiếu còn làm Tăng, người chị thường khuyên rằng: "Em đã là một vị Hòa thượng thì nên phát tâm từ bi!" Vì bà đã biết ông ấy hiếu sát. Đến khi Quảng Hiếu dự loạn Tỉnh Nạn, bà ấy than thở nói với mọi người rằng: "Hòa thượng từ bi mà như thế ư?"
Khi Quảng Hiếu đã phú quý trở về đất Ngô, đến thăm chị, người chị cự tuyệt nói: "Quý nhân đâu cần đến nhà nghèo? Nhà nghèo chẳng thể dung nạp!" Quảng Hiếu bèn thay Tăng phục mà đến, bà vẫn kiên quyết không ra tiếp. Người nhà khuyên bảo mãi, bất đắc dĩ bà ra đứng giữa nhà. Dao Quảng Hiếu liền quì lễ. Bà nói rằng: "Tôi đâu cần ông lạy nhiều đâu? Từng thấy ông làm Hòa thượng; ông chẳng biết đó là người rất tốt ư?" Nói xong bà liền quay vào trong nhà, không bao giờ gặp mặt nữa.
Tháng bốn năm Ất Dậu, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ ba, Đế nói với Thị thần rằng: Đạo trị quốc không gì hơn là con đường nói năng rộng rãi; Bởi vì thiên hạ lớn lao, sự được mất của việc cai trị, niềm vui nỗi buồn của nhân dân, nếu không có người nói, triều đình làm sao mà biết hết?
Năm Bính Tuất, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ tư, triệu tất cả Đạo sĩ trong thiên hạ về kinh đến triều Thiên Cung, Thần Lạc quán và Động Thần Cung để tổ chức Kim Lục Trai pháp cúng tế Hoàng Khảo, Hoàng Tỉ. Đế đến dự tế đàn bảy ngày mới xong.
Cung nghinh vị tăng Tây Tạng là Thượng sư Cáp-lập-ma đến Kinh sư. Lúc trước, khi Đế còn ở Vương vị nghe ở Ô Tư Tạng có Thượng sư Cáplập-ma là một dị Tăng, nay lên ngôi liền sai trung quan Hầu Hiển đem vàng bạc đến nghinh thỉnh. Trải qua năm năm mới đến. Đế thân hành đến xem, Thượng sư chỉ chắp tay, chứ không lễ bái.
Năm Đinh Hợi niên hiệu Vĩnh Lạc thứ năm
Trực Lệ và các quận vùng Triết Giang, con em của quân dân cạo tóc xuất gia làm Tăng đến một ngàn tám trăm người đồng nhau về kinh xin cấp độ điệp. Bộ lễ nghe được. Đến tháng hai thỉnh Thượng sư Cáp-lập-ma lập pháp đàn ở chùa Linh Cốc cúng tế Hoàng Khảo, Hoàng Tỷ (cha, mẹ). Thượng Sư thống lãnh Tăng trong thiên hạ cử hành Đại khoa phổ độ trong mười bốn ngày. Bấy giờ mây lành, hoa trời, cam vũ, cam lộ, xá-lợi, ánh sáng lành, linh thứu xanh, hạc trắng xuất hiện, tụ tập liên tiếp nhiều ngày. Một đêm kia trên cây thông cây bá nở hoa màu vàng ròng, chiếu sáng khắp đô thành, rồi Kim Tiên La hán, hiển hiện trên mây; voi trắng, sư tử xanh diệu tướng trang nghiêm, đèn trời dẫn lối, tràng phan vây quanh, cùng nhau đáp xuống. Lại nghe tiếng phạm bái, không nhạc từ trên trời vọng xuống. Quần thần dâng biểu chúc mừng, học sĩ Hồ
Quảng... dâng bài "Thánh Hiếu Thụy Ứng Ca Tụng". Từ đó về sau, Đế để tâm nơi Phật điển, soạn ca khúc Phật giáo, khiến cung nhân ca múa theo.
Mồng sáu tháng hai, các quan văn võ tấu trình vào buổi chầu sáng tại phụng Thiên môn, Đế chuẩn y. phụng thánh chỉ thông tri cho Bộ lễ biết rằng: Cần phải ban hành bảng điều lệ mới để hiểu dụ. Phàm Tăng Đạo hành cước nên trì trai giữ giới, cho phép họ được lập đàn thuyết pháp. Nếu có người ngăn trở thì đầy ra ngoài quan ải làm dân. Khâm thử!
Tháng ba phong cho Thượng sư Cáp-lập-ma là Vạn Hạnh Cụ Túc Thập Phần Tối Thắng Viên Giác Diệu Trí Tuệ Thiên Phổ Ứng Hộ Quốc Diễn Giáo Như Lai Đại Bảo Pháp Vương-Tây Thiên Đại Thiện Tự Tại Phật, thống lãnh Tăng ni trong thiên hạ. Lại ban cho một trăm lạng vàng, một ngàn lạng bạc, tiền giấy, ca-sa sợi vàng đính ngọc, chén bát bình nước bằng vàng bạc, Nghi trượng đồng như quận chúa. Đệ tử của Thượng sư là Bột-la... cũng đều được phong làm Đại Quốc Sư, ban cho ấn cáo, vàng, tiền và các vật khác. Lại thiết yến tiệc tại điện Hoa Cái. Thái Sơ Thiền sư húy Khải Nguyên, hiệu Thái Sơ, người Nhật Bản. Năm chín tuổi Sư lễ Thiền sư Vật Ngoại cầu xuất gia. Năm mười chín tuổi, Sư cùng với mười tám người như Tông Du... đến Trung Quốc tham học. Tháng hai năm Bính Ngọ thì đến Kinh đô tham kiến Thiền sư Quý Đàm, sau đó lần lượt tham kiến bốn mươi lăm vị Thiện tri thức như Liễu Đường, Thiên Đồng, Vô Trước, Lại Mục... cuối cùng Sư làm đệ tử nhập thất nơi Hòa Thượng Kiệt Phong, được trao cho đảnh tướng, ca-sa, phất tử, pháp ngữ. Sau Sư trụ chùa Tam phong ở La Dương, Giao Long thiền tự ở Cập sơn. Sư có soạn Tam Hội Ngữ Lục.
Ngày mồng một tháng ba năm này, lúc đúng ngọ Sư thuyết kệ rằng: "Sinh cũng là da mặt sắt, tử cũng da mặt sắt, một chùy nát trăm mảnh, mặt trời quanh thiết vi". Nói xong ném bút ngồi yên thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, hành hóa hơn bốn mươi năm, tháp xây ở phía Nam của chùa.
Ngày Ất Mão, tháng bảy Hoàng hâu Từ Thị băng hà, thụy là Nhân Hiếu hoàng hậu.
Tháng mười một Vĩnh Lạc Đại Diễn soạn thành, gồm hai mươi hai ngàn chín trăm quyển, mười một ngàn một trăm bản. Sau phế bỏ.
Tháng ba năm Mậu Tý, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ sáu, ở Phước Kiến có cây bách trổ hoa, cho là điềm lành. Đế hạ chiếu cầu mong như vậy, Không bao lâu hai phủ Tô châu và Dương châu tâu rằng: Hoa thông nở là điềm lành.
Vô Ngại Thiền sư húy Phổ Trí, hiệu Nhất Chi Tẩu, người ở Lâm Bình, Triết Giang, họ Chữ. Sư xuất gia ở chùa Long Tỉnh, nương Pháp sư Đông Minh Nhật lãnh thọ học thuyết Tánh cụ của Thiên Thai, Sư rất giỏi giảng thuyết, trải qua bốn đạo tràng, môn phong hưng thạnh. Về già Sư giảng pháp tại chùa Diên Khánh ở Tòng Giang, rồi ở đây đến cuối đời, chuyên tu tịnh nghiệp, đông hạ chẳng lìa.
Mồng hai tháng giêng năm này Sư thị hiện có bệnh, tập chúng xong Sư ngồi kiết già, mặt hướng về Tây, niệm Phật mà thị tịch. Sư có các tác phẩm tập chú A-di-đà kinh một quyển.
Thụy Tượng Chiên-đàn đến đây đã được hai ngàn bốn trăm năm. Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ bảy.
Năm Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ tám. Năm Tân Mão, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ chín. Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ mười. Năm Quý Tỵ, niên hiệu Vĩnh Lạc mười một.
Ngày mồng năm tháng năm, Đế đến Đông Uyển xem đá cầu và bắn cung. Hoàng Thái Tôn bắn liên tiếp nhiều phát đều trúng. Đế vui mừng nói rằng: "Nay Hoa Di đều đã quy tụ, Trẫm có một lời, cháu hãy suy nghĩ rồi đối:
Vạn phương ngọc bạch phong vân hội.
(ngọc lụa vạn phương, mây gió tụ)
Hoàng Thái Tôn cúi lạy đối rằng:
Nhất Thống sơn hà, nhật nguyệt minh.
(Non sông một cõi, nhật nguyệt soi).
Đế rất hoan hỷ, thiết đại yến tiệc, cùng nhau làm thi phú, tận hưởng thú vui mới thôi.
Ngày bảy tháng bảy Thượng thư Bộ công là Ngô Trung, trong buổi chầu sáng ở Phụng Thiên môn khâm phụng thánh chỉ, ngày hôm nay ở Kinh thành xây dựng chùa Đại Báo Ân. Ngốc Am Thiền sư húy là Trang, người Thai châu, trụ trì chùa Kính sơn, lúc lâm chung nói rằng: "Khó, khó, khó! Đứa con gái đẹp mười sáu tuổi lên núi cao, lão Tăng nâng đỡ chẳng được!" Nói xong liền thị tịch. Thật là một vĩ nhân tráng liệt uy dũng trong Tông môn.
Năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Lạc mười ba. Năm Bính Thân, niên hiệu Vĩnh Lạc mười bốn.
Năm Đinh Dậu, niên hiệu Vĩnh Lạc mười lăm.
Năm Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Lạc mười sáu, Thái tử Thiếu Sư Dao Quảng Hiếu qua đời, truy phong vinh Quốc công, thụy là Cung Tỉnh. Ông có soạn Đạo Dư Lục đã nói ở trước.
Tháng mười hai Đế ban sắc tu sửa cung quán ở núi Võ Đang đã hoàn thành, ban tên là "Thái Nhạc Thái Hòa Chi Sơn". Toàn núi có bảy mươi hai ngọn, ba mươi sáu hang, hai mươi bốn khe. Ngọn cao nhất là Thiên Trụ; cảnh đẹp nhất là Tử Tiêu, hang núi phía Nam trên thì thông lên chạm mây, dưới sâu đến cùng đáy. Thời xưa mỗi nơi đều có lập cung để tế tự, nhưng bị hư hoại trong nạn binh lửa cuối đời Nguyên. Đến nay thì đã hoàn toàn khôi phục mới mẻ. Tử Tiêu gọi là Thái Huyền Tử Tiêu cung, Nam Nham (Hang phía Nam) gọi là Đại Thánh Nam Nhạc cung, lại có Hưng Thánh Ngũ Long cung, Huyền Thiên Ngọc Hư cung, Ngụ Chân cung, Thanh Vi cung, Tịnh Lạc cung. Trên đảnh Thiên Trụ có lập một tòa điện bằng đồng, dát vàng, ở giữa đặt tượng Châu Võ. Tuyển chọn ba trăm đạo sĩ lo việc quét dọn, cấp hai trăm bảy mươi bảy mẫu ruộng và các hộ nông dân canh tác. Mỗi cung có một vị Đề Điểm hàm Chánh Lục Phẩm.
Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ mười bảy, ban hai Bộ Thiện Âm Tước và Hiếu Thuận Sự Thật cho quần thần văn võ và các trường học trong thiên hạ.
Cam lộ rơi trên cây tòng cây bá ở Hiếu lăng ba ngày.
Ngày hai mươi tám tháng hai, ban cho Tăng Lục Ty Tả Thiện Thế Nhất Như hai bức họa tượng Phật, năm mảnh Phật cốt, một xâu tiền một ngàn đồng, ba bản chư Phật Bồ-tát danh xưng ca khúc lớn nhỏ. Ban cho ngài Đạo Thành một bức họa tượng Phật, Tư Khoách một bức, ba bản danh xưng ca khúc, lại ban chiếu biên tập, phân loại ngữ lục Thiền Tông. Ngày mồng ba tháng ba, lại sắc cho tám vị là Như Nhất, Đạo Thành... hiệu đính Tạng Kinh, so sánh đối chiếu bản mới bản cũ, gom nhóm chư Tăng ghi chép.
Pháp Hoa Khoa Chú do Pháp sư Nhất Như trụ trì chùa Thượng Thiên Trúc, Tăng Lục Ty Hữu Thiện Thế y cứ vào bộ Pháp Hoa Văn Cú Cú Ký biên soạn mà thành.
Đại Minh Pháp Số cũng do Pháp sư Nhất Như phụng sắc, trích chọn từ các kinh trong Đại Tạng rồi biên tập, phân loại giải thích mà thành.
Tuyết Hiên Thiền sư húy Đạo Thành, tự là Thứu Phong, người ở Tô Bắc. Sư tham yết ngài Thu Giang Khiết, ngay một lời liền khế ngộ yếu chỉ. Ngài Thu Giang dặn dò rằng: "Đó là việc phần gốc của ông, hãy khéo tự giữ gìn!"
Sư khai pháp ở chùa Trí Tạng, Lai châu. Mỗi lần diễn giảng pháp yếu, có đến vạn người nghe; những kẻ bán rượu thịt được Sư cảm hóa mà đổi nghề. Trong những năm Hồng Võ, Sư được bổ làm Tăng Đô Cương ở Thanh châu. Sau Thái Tổ nghe danh Sư là bậc hiền thiện nên triệu về kinh làm Tăng Lục Ty Hữu Giảng Kinh, ban ca-sa Kim lan, trụ trì chùa Thiên Giới. Đến năm Vĩnh Lạc Sư lại được cử sang Nhật Bản hoằng pháp. Sau khi trở về thì thăng làm Tả Thiện Thế. Đế làm thơ để tặng Sư.
Sư ba lần ngồi đạo tràng; có Tứ Hội ngữ lục lưu hành ở đời.
Mùa thu, Đế soạn nhạc khúc Phật giáo hoàn thành, đồng thời in ấn kinh Phật để lưu truyền.
Ngày mười hai tháng chín khâm phụng thánh chỉ cấp sách Phật đến chùa Đại Báo Ân. Đêm ấy xá-lợi nơi tháp ở chùa này phóng ánh sáng như bảo châu. Ngày mười ba lại hiện hào quang năm màu, mây lành vây quanh mặt trời, ngàn Phật, Bồ-tát, La-hán với diệu tướng đều vân tập đến.
Đế lại tiếp tục ban cấp kinh Phật đến Hoài An, ở đây cũng có viên quang năm màu, mây lành năm sắc hiện đầy trời, trong mây hiện Bồ-tát, La-hán; hoa trời, tháp báu, rồng phụng, sư tử, voi, lại có chim hồng, hạc trắng bay lượn chung quanh.
Lại tiếp tục sai Thượng thư Lã Chấn, Đô Ngự Sử Vương Chương phụng đưa danh xưng ca khúc
Chư Phật Thế Tôn Như Lai Bồ-tát Tôn giả đến vùng Thiểm Tây, Hà Nam cấp phát. Lúc bấy giờ thần minh thầm ứng, xuất hiện mây lành, viên quang, bảo tháp. Văn võ quần thần dâng biểu chúc mừng, Đế rất vui sướng. Các quan từ đó càng thêm kính trọng Phật, Tăng, xây dựng chùa viện khắp trong ngoài hai kinh để cầu phước.
Tâm Uyên Pháp sư húy là Cư Kính, tự Tâm Uyên, hiệu Giản Tuyết. Sư học thông nội ngoại điển, giỏi văn chương, tinh nghiêm Luật bộ. Đầu tiên Sư tham lễ Hòa thượng Nhất Vũ ở chùa Đại Báo Ân, sau yết kiến Pháp sư Tập Nguyên ở Hàng châu. Năm Vĩnh Lạc thứ nhất Sư Phụng chiếu hiệu đính Đại Tạng, tham dự việc tu chính Hội Điển. Không bao lâu Sư trụ trì Quảng Phước Giảng tự, rồi chuyển đến chùa Phổ Chiếu ở Tòng Giang, mở rộng pháp tịch suốt mười ba năm. Sư xây dựng Đại Hùng Bảo điện, Hải Nguyệt đường, Tam Giải Thoát môn, tinh xá Hương Tích, phòng ốc nhà cửa, tất cả đều rực rỡ trang nghiêm, bảy chúng đều kính ngưỡng; đạo phong ngày lan xa.
Ngày mồng bảy tháng ba năm Canh Tý, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ mười tám ban mười ba thiên ngự chế Kinh tựa, mười hai thiên Phật Bồ-tát Tán bạt để chép ở đầu mỗi bộ kinh.
Đế soạn Thánh Triều Phật Bồ-tát Danh Xưng Phật Khúc Tác năm mươi quyển, Phật Danh Kinh Tác ba mươi quyển, Thần Tăng Truyện Tác chín quyển đều được nhập Tạng lưu hành.
Hạ chỉ khắc bản gỗ Đại Tạng Kinh, hai loại: Tạng Nam Kinh mỗi bản sáu hàng, mỗi hàng mười bảy chữ. Tạng Bắc kinh mỗi bản năm hàng, mỗi hàng mười lăm chữ. Lại ban lệnh khắc trên đá một Tạng, an trí tại Đại thạch động. Thánh chỉ nói rằng: "Về sau gỗ sẽ bị hư hoại, mà đá thì vẫn còn".
Xây dựng hai ngôi chùa lớn ở Bắc kinh, tuyển chọn vị Tăng thông tuệ trụ trì.
Ngày hai mươi bảy tháng bảy, triệu hai vị Tăng là Văn Lộc và Thiên Duệ đến ban cho kệ Thất Phật.
Ngày mười chín tháng tám các bộ sách của Thiền Tông được sắc nhập tạng là: Cổ Tôn Túc Ngữ Lục, Liên Châu Tụng Cổ (hai mươi hai quyển), Tục Truyền Đăng Lục (ba mươi sáu quyển); sách của Giảng Tông được nhập Tạng là: Phật Tổ Thống Kỷ (bốn mươi lăm quyển).
Năm Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Lạc mười chín, Đại Bảo Pháp Vương, vị tăng Tây Tạng đến triều, thỉnh vua thân hành đến ủy lạo. Hạ Nguyên Cát ngăn can, Đế nói: "Khanh muốn bắt chước Hàn Dũ ư?" Đế chẳng đến ủy lạo. Hôm khác Pháp Vương đến triều kiến, Cát chẳng bái lạy.
Ngày hai mươi mốt tháng giêng, Tăng Lục Ty Tả Giác Nghĩa Tuệ Tấn... tấu thỉnh Hoàng đế đề tựa cho việc chép lại Đại Tạng Kinh rằng: Kính nghĩ: Hoàng triều khắc in Tạng kinh là việc ngàn năm hiếm có, chúng thần cúi xin thánh thượng đề soạn lời tựa để đặt ở đầu Bộ kinh, hầu Phật nhật tăng huy, lưu truyền vạn cổ. Như thế thì thật là may mắn cho giáo môn! Vì vậy cung kính trình tấu!"
Ngày ba mươi tháng giêng, Đế xem Tạng Kinh đã được chép lại, đưa đến chùa khắc in, ban cho hai vị Tăng là Truyền Tâm và Diệu Quyết mỗi người một bản.
Mồng mười tháng tám, Đế xét về việc chép kinh: Tăng nhân các nơi trở về hết; sang năm không đến, năm sau nữa mới đến, đó là việc trong giáo môn của các ông; nếu đợi văn thư đến thì bất tiện. Tăng nhân tu hành, phàm kinh đã khắc bản xong, tiễn các vị trở về Sơn môn. Ta cũng kết ít thiện duyên để cung cấp cho các vị. Khâm thử!
Ngày hai mươi bốn tháng chín năm Nhâm Dần, niên hiệu Vĩnh Lạc hai mươi, ban trai soạn cho các Tăng quan-Đế soạn các bài tán về Quán Âm, Kim Cang Sổ Châu.... Ban bánh xe pháp cho các vị Tăng tham dự pháp hội trong thiên hạ.
Mồng một tháng mười, ban họa tượng Phật Diđà và tượng Bồ-tát Văn-thù Tây Tạng mỗi một bức cho các Tăng quan và Trụ trì các chùa.
Ngày mồng sáu tháng mười, ban yến tiệc cho Tăng quan, Đạo quan và chúng Tăng trong thiên hạ. Ban chiếu khắc tượng Quán Âm nhỏ và sổ châu thủy tinh.
Năm Quý Mão, niên hiệu Vĩnh Lạc hai mươi mốt.
Ngày mười tám tháng bảy năm Giáp Thìn, niên hiệu Vĩnh Lạc hai mươi hai, Đế băng hà thọ sáu mươi lăm tuổi.
Ngày mười lăm tháng tám Hoàng Thái tử lên ngôi. Mồng một tháng chín, phong Đại Hành (mới băng hà) Hoàng đế thụy là Thể Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Quảng Vận Thánh Võ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn Hoàng Đế. Miếu hiệu là Thái Tông. Đến năm Gia Tỉnh đổi miếu hiệu là Thành Tổ. Tháng mười hai an táng ở Trường lăng.
Đại Tông Thiền sư húy là Thái, người ở Thiệu Hưng, trụ trì Kính Sơn. Một hôm vào lúc sáng, Sư sớm tắm rửa sạch sẽ xong, ngồi kiết già thị tịch.
Bá Am Thiền sư húy là Tú, người Tô châu. Trụ trì Kính Sơn. Một hôm đang kinh hành, Sư tựa vào tích trượng mà thị tịch.
Những danh Tăng vào thời mới lập triều đại chưa thấy truyền ghi thì phụ chép, trước đã nêu chín vị, sau phụ thêm hai mươi mốt vị.
Vô Ngại Thiền sư húy Giám, Nguyệt Am Thiền sư, Tố Am Thiền sư húy Điền, Liễu Đường Thiền sư, Ngoan Thạch Thiền sư, Vô Niệm Thiền sư, Thiên Đồng Thiền sư húy Tố, Vạn Am Thiền sư, Dụng Cang Thiền sư húy Nhuyến, Tịch Chiếu Thiền sư, Độc Không Thiền sư, Di Am Thiền sư húy Châu, Vô Thiền Thiền sư húy Ngộ, Vô Hà Thiền sư, Nhất Vũ Thiền sư, Hòa Am Thiên sư, Diễn Phước Pháp sư, Khê Trừng Thiền sư, Ngô Hư Thiền sư, Lại Vân Thiền sư, Hoại Không Thiền sư húy Thành.
Nhân Tông Chiêu Hoàng đế là con trưởng của Thành Tổ, do Nhân Hiếu Thái hậu sinh ra. Chánh thức ở ngôi Đông Cung hai mươi hai năm, khi Thành Tổ băng hà, đến ngày mười lăm tháng tám năm Giáp Thìn thì lên ngôi, tại vị được một năm, ngày mười một tháng năm năm Ất Mão thì băng hà ở Tây Cung, thọ bốn mươi tám tuổi. Phong thụy là: Kính Thiên Thể Đạo Thuần Thành Chí Đức Hoằng Văn Khâm Võ Chương Thánh Đạt Hiếu Chiêu Hoàng Đế. Miếu hiệu Nhân Tông, táng ở Hiếu lăng.
Ngày một tháng giêng năm Ất Tỵ, niên hiệu Hồng Hy Nguyên niên, Đế ngự ở điện Phụng Thiên để quần thần triều kiến, có thiết nhạc mà chẳng cho trổi.
Tế cáo trời đất ở Nam giao. Dâng cúng Hoàng Tổ, Hoàng Khảo.
Ban cho Tam Công, Lục Khanh bài Thiên Nguyên Ngọc Lịch Tường Dị Phú. Dụ rằng: Thiên đạo và nhân đạo chưa từng phân làm hai đường, có động nơi đây thì ắt có ứng nơi kia. Lúc nhỏ Trẫm hầu Thái Tổ, ngài thường dạy nên cẩn thận tu mình và kính trời, đến nay chưa từng giám biếng trễ.
Gia Tăng Thiếu sư là Vinh Quốc Công, thụy là Trung Tỉnh. Bốn người là Dao Quảng Hiếu... được tế cúng ở miếu hiệu Văn Hoàng Đế.
Ban chiếu miễn thuế lương thực. Đế nói: "Phàm cứu giúp dân khốn cùng, phải như cứu lửa, vớt người sắp chìm chẳng nên chậm trễ". Lại nói: "Cứu giúp dân đâu thể cho là quá nhiều? Làm chủ thiên hạ, đâu thể tính toán so đo từng chút với dân!"
Ban cho Kiến Nghĩa một con dấu đề là Trung Trinh, Dương Sĩ Kỳ một con dấu đề là Trinh Nhất. Lúc trước đã ban Thằng diễn cũ mậu đồ thư.
Qua tháng năm Đế bị bệnh, hôm sau thì nguy kịch, Đế chiếu truyền lập Thái tử xong thì băng hà.
Ngày mười hai tháng sáu, Hoàng thái tử kế vị Hoàng đế, đại xá thiên hạ.
Tháng tám ban sắc tu chỉnh Thật Lục hai triều Thái Tông, Nhân Tông.
Phụ ghi các danh Tăng đương triều mà chưa thấy truyền chép: Vân Khê Anh Thiền sư, Bảo Nguyệt Đàm Thiền sư, Khiết Không Thông Thiền sư, Tuyết Phong Thụy Thiền sư.
Tuyên Tông Chương Hoàng đế là con trưởng của Chiêu Hoàng đế, do Trương Hoàng hậu sinh ra. Lúc đầu Văn Hoàng đế có ý muốn thay đổi Đông cung, nhưng lại thấy Đế thông minh anh tuấn, hơn nữa Giải Tấn lại nói rằng: "Thật là một
Hoàng tôn quý!" Nhân đó Văn hoàng đế lập làm Hoàng thái tôn. Khi Nhân Tông băng hà thì ông kế vị, ở ngôi được mười năm. Ngày mồng ba tháng giêng năm Ất Mão thì băng hà, thọ ba mươi bảy tuổi. Tôn thụy hiệu là Hiếu Thiên Thể Đạo Anh Minh Thần Thánh Khâm Văn Chiêu Võ Khoan Nhân Thuần Hiếu Chương Hoàng Đế, miếu hiệu Tuyên Tông, an táng tại Cảnh lăng.
Năm Bính Ngọ niên hiệu Tuyên Đức nguyên niên, Đế dụ tuyển quan rằng: "Các quan có hiền hay không, đều có liên quan đến việc thạnh trị hay loạn lạc của quốc gia..." Đế dụ Tam Pháp Ti rằng: "Việc tra xét giam cầm, cần ở chỗ công bằng và khoan dung..."
Đế ban đồ thư cho Kiến Nghĩa ghi là Trung Hậu Khoan Hoằng; ban đồ thư cho Hạ Nguyên Cát ghi là Hoàn Hoằng Trinh Tỉnh; ban đồ thư cho Dương Vinh là Phương Trực Cang Chánh, ban đồ thư cho Dương Sĩ Kỳ ghi là Trung Phương Trinh Tỉnh; ban đồ thư cho Hồ Oanh ghi là Thanh Hòa Cung Tỉnh.
Năm Đinh Mùi, niên hiệu Tuyên Đức thứ hai, ban sắc giảng Mạnh Tử, quan giảng nói rằng: "Thái Công lấy việc cứu dân làm chính, Bá Di lấy nghĩa quân thần làm trọng". Đế liền nói: "Cái tâm của Thái Công là tại nhất thời, tâm của Bá Di là thuộc vạn thế".
Tháng hai năm Mậu Thân, niên hiệu Tuyên Đức thứ ba, lập trưởng tử là Kỳ Đường làm Hoàng thái tử.
Đế nói rằng: "Địch (Ống địch) tức là Địch (tức là rửa sạch) nghĩa là rửa sạch những tà uế mà thâu nạp Chánh chân".
Tháng giêng năm Kỷ Dậu, niên hiệu Tuyên Đức thứ tư, sô ngu (1 loài thú có nghĩa) xuất hiện ở Nam kinh.
Chùa Viên Quả ở Sơn Tây là một Đạo tràng xưa, cũng là nơi quốc dân chúc thánh triều, tấu xin dân công để tu sửa.
Năm Canh Tuất, niên hiệu Tuyên Đức thứ năm tu chỉnh xong các bộ Thái Tông Thật Lục một trăm ba mươi quyển, Bảo Huấn mười lăm quyển; nhân Tông Thật Lục mười quyển, Bảo Huấn sáu quyển. Hạ Nguyên Cát là người có đức độ, tâm lượng rộng rãi. Ông nói rằng: "Người quân tử không thể làm một cách mờ mịt mà biếng nhác được". Sau khi ông mất được tặng hiệu là Đại Sư.
Nước Thổ Lổ Phồn khí hậu nóng, ít có mưa và tuyết, người dân tin Phật pháp, nhiều chùa Tăng, trong đó chùa Linh Sơn là lớn nhất. Có người cho đây là nơi mười vạn La-hán nhập Niết bàn. Gần núi có một đài cao, bên đài cao có chùa, dưới chùa là suối đá, rừng cây. Bấy giờ nước này có đến triều cống.
Phong Giám sát Ngự sử Vu Khiêm làm Binh bộ Hữu thị Lang kiêm Tuần Phủ Hà Nam Sơn Tây. Vu Thiếu Bảo người Tiền Đường, Triết Giang, có cốt tướng lạ thường. Năm lên bảy tuổi có một vị Tăng tên là Lang Cổ Xuân trông thấy, lấy làm lạ mà nói rằng: "Ngày sau sẽ cứu một vị Tể tướng đương triều!" Ông đỗ tiến sĩ năm Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Lạc, được bổ làm Ngự Sử. Ông có tài, tướng mạo lại kỳ vĩ, giọng nói như tiếng chuông lớn, gặp việc dám làm, chẳng sợ quyền thế. Từng theo Đế chinh phạt Cao Hú. Tội nhân đã bị bắt, Đế sai Khiêm trách mắng kẻ phản loạn, bấy giờ ông dùng lời lẽ nghiêm khắc, nghĩa lý chánh trực, vừa mở miệng là thành câu nghĩa, rất hợp ý của Đế. Từ đó được sự tri ngộ của Đế. Lúc bấy giờ bốn tỉnh Hà Nam, Sơn Tây... đều tấu về có tai họa, triều đình nghị bàn, muốn cử một đại thần đến kinh lý. Đế tự đặt tên cho Khiêm là Siêu. Lúc ấy ông mới ba mươi ba tuổi.
Sài Xa người Tiền Đường, nổi tiếng là người trong sạch, cẩn thận, làm Binh bộ Thị Lang.
Huống Chung người Giang Tây, làm Tri phủ Tô châu, luôn dẹp cường bạo, giúp đỡ người lành, nhân dân gọi ông là Thanh Thiên.
Tháng mười hai sao Hàm dự hiệu ở Cửu du lớn như quả đạn, ánh sáng vàng trắng chói lòa. Quần thần dâng biểu chúc mừng.
Giáo Thừa Pháp Số do Pháp sư Tâm Nguyên Tịnh là Hữu Thiện Thế Tăng Lục Ty biên soạn.
Năm Tân Hợi, niên hiệu Tuyên Đức thứ sáu, Kim Ấn Tư tánh tình giản dị trầm mặc chẳng bỏ thiện mà cầu danh. Chết được tặng thiếu bảo, thụy là Văn Tỉnh.
Năm Nhâm Tuất, niên hiệu Tuyên Đức thứ bảy, vua soạn Y lan Thảo Chiêu Ẩn để cầu hiền sĩ ở ẩn nơi núi rừng. Tháng tám năm Quý Sửu, niên hiệu Tuyên Đức thứ tám, sao chổi phạm vào khu vực Nam đẩu, sao Cảnh hiện ở Thiên môn.
Năm Giáp Dần, niên hiệu Tuyên Đức thứ chín. Tào Tỉnh tự là Chánh Phu, rất chuộng lý học, trứ thuật rất nhiều tự gọi là Nguyệt Xuyên Tiên sinh.
Ngày mồng ba tháng giêng năm Ất Mão, niên hiệu Tuyên Đức thứ mười, Đế băng hà ở cung Càn Thanh. Ngày mười Thái tử lên kế vị, đại xá thiên hạ. Kiểu Nghĩa là người trầm tĩnh, khoan hòa và nhân hậu, làm quan trải qua năm triều, mất năm bảy mươi ba tuổi, tặng tước Thái Sư, thụy là Trung Định.
Kính Am Thiền sư húy là Trang, trụ trì đời sáu mươi ba chùa Kính Sơn. Một hôm Sư mỉm cười mà thị tịch.
Lôi Am Thiền sư húy Trạch, trụ trì đời sáu mươi bốn chùa Kính Sơn, viên tịch ngày tám tháng tám.
Vô Tế Thiền sư húy là Ngộ, người Bản Thục, xuất gia năm hai mươi tuổi, chuyên tọa Thiền, tham cứu niệm Phật. Cất am tre, siêng năng tu tập chưa từng biếng trễ. Sư từng nói: "Vô niệm liền rơi vào không, Hữu niệm thì rơi vào chấp, Hữu vô cả hai đều lìa, chẳng không cũng chẳng chấp trước". Lại nói: "Tịch chiếu không trên dưới, rõ ràng thông khắp nơi, xưa nay không đen trắng, đâu đâu chẳng hàm dung?" Sư có bài kệ truyền pháp rằng:
Ta không pháp để trao
Ông không tâm để nhận
Không trao, không tâm nhận
Người nào chẳng thành tựu.
Sư có tác phẩm Tâm Dược Phương lưu hành ở đời.
Lại có bài Kệ Tẩu Mã Đăng ghi:
Tròn tròn xoay vẫn lại xoay
Không người mắt sáng chỉ ngay con đường.
Tắt rồi đốm lửa tâm hồng
Đao thương người ngựa liền đồng nghỉ thôi.
Số Sơn Thiền sư húy Thiệu Kỳ, họ Lôi, người Đường An. Sư xuất gia năm chín tuổi, đầu tiên theo Hòa thượng Huyền Cực tu học, cuối cùng tham yết Thiền sư Vô Tế mà đắc pháp. Ngài Vô Tế Đông Phổ hỏi rằng:
- Trả lại ta ý chữ Vô đi? Sư đáp:
Hỏi chi việc ấy thật lắm điều
Triệu lão đâu từng dính nghĩ suy
Thuận miệng một lời đều dốc cả
Trở thành đặc địa khiến người nghi.
Ngài Đông Phổ liền hỏi tiếp:
- Thế nào là chỗ chẳng nghi? Sư đáp:
- Núi xanh, sông biếc, yến hót, oanh ca!
Ngài Đông Phổ liền phó pháp cho Sư.
Nguyệt Giang Thiền Sư húy là Tịnh, người Kim hoa, trụ trì Kính Sơn đời sáu mươi lăm. Một hôm Sư ngồi yên, niệm Phật mà thị tịch.
Tuyết Nhai Thiền sư húy Kha, người Kim Lăng, trụ trì Kính Sơn đời sáu mươi sáu. Một ngày kia Sư tắm rửa xong, ngồi yên thị tịch.
Anh Tông Duệ Hoàng đế là con trưởng của Chương Hoàng đế do Tôn Hoàng hậu sinh vào năm Tuyên Đức thứ hai. Lúc Tuyên Tông băng hà thì Đế mới chín tuổi. Bấy giờ các công thần có đề nghị hoàng tử lớn làm vua, nhờ Tam Dương và Anh Quốc mà định được. Ngày mười tháng giêng năm Ất Mão Đế lên ngôi, đổi niên hiệu là Chánh Thống. Đến năm Kỷ Tỵ, Đế tuần thú phương Bắc, tháng bảy năm Canh Ngọ mới trở về, được tôn làm Thái thượng hoàng, ngự ở Đông cung. Đến tháng giêng năm Đinh Sửu lại lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Thuận, đến ngày mười bảy tháng giêng năm Giáp
Thân thì băng hà, thọ bốn mươi tám tuổi, tại vị trước sau được hai mươi hai năm. Tôn thụy hiệu là: Pháp Thiên Lập Đạo Nhân Minh Thành Kính Chiêu Văn Hiến Võ Chí Đức Quảng Hiếu Duệ Hoàng Đế, miếu hiệu Anh Tông, táng ở Dụ lăng.
Tháng mười năm Bính Thìn, niên hiệu Chánh Thống nguyên niên, Đế lệnh cho Tăng Lục Ty y theo phép tắc đời Hồng Võ tạo Châu Tri sách cho Tăng; miễn sai dịch cho con cháu của các bậc tiên Hiền, cổ Thánh.
Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Chánh Thống thứ hai.
Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chánh Thống thứ ba, Tam Dương (ba vị đại thần họ Dương) tu chỉnh Tuyên Đức Thật Lục hoàn thành. Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh Thăng làm Thiếu Sư, Dương Phổ làm Thiếu Bảo.
Năm Kỷ Mùi, niên hiệu Chánh Thống thứ tư.
Năm Canh Thân, niên hiệu Chánh Thống thứ năm. Vương Phước là người có tâm chánh đại, nghĩa và lợi phân biệt rõ ràng, lo việc nước quên cả việc nhà, về già lại càng cần mẫn, làm quan đến chức Thượng Thư Thiếu Bảo; lúc chết được tặng chức Thái Bảo, thụy là Trung Tuyên.
Thích Ứng Năng chính là Kiến Văn Hoàng đế. Sau khi xuất gia Sư đi qua các vùng Tương, Hồ rồi vào đất Thục đến Vân Nam, xứ Môn. Cuối cùng vào trụ ở chùa Thọ Phật ở Nam môn Hoàng châu, Quảng Tây. Sư ở đây mười lăm năm, thường thăng tòa thuyết pháp, người quy hướng rất đông. Sư lại đến trụ một ngôi chùa ở Nam Ninh để giảng thuyết, độ được nhiều người. Bấy giờ Tri Phủ Tư Ân là Sầm Anh ra ngoài tuần du thấy một vị Tăng đứng ngay giữa đường, bèn quở trách, Sư tự xưng là Kiến Văn Hoàng đế du phương đến đây, nay đã già muốn đưa hài cốt về Đế Kinh. Sầm Anh kinh hãi báo lên Tuần phủ Ngự sử tấu về triều đình, đưa tiễn về Kinh, gọi đó là lão già yếu đuối. Trên đường về, Sư đọc bài thơ rằng:
Lưu lạc giang hồ bốn chục thu
Ngày về chẳng biết tóc bạc đầu
Càn khôn có hạn nhà đâu tá?
Giang, Hán vô tình nước vẫn trôi
Trường lạc cung kia mờ mây phủ
Chiêu dương điện ấy tiếng mưa sầu
Bồ liễu bao năm màu vẫn thắm
Lão quê thổn thức khóc trở về.
Vào niên hiệu Hoằng Trị, truy thụy là Cung Nhân Khang Định Cảnh Hoàng đế.
Năm Tân Dậu, niên hiệu Chánh Thống thứ sáu. Năm Nhâm Tuất, niên hiệu Chánh Thống thứ bảy. Thái hoàng Thái hậu Trương thị, thụy là Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu, những người già lão trong thiên hạ gọi bà là Nghiêu Thuấn trong hàng nữ lưu.
Năm Quý Hợi, niên hiệu Chánh Thống thứ tám, Vương Chấn xây dinh thự lớn ở hoàng thành, lại lập điện Trí Hoa... ở Cư Đông để chúc phúc. Truy phong bậc Nguyên Nho là Ngô Trừng làm Lâm Xuyên quận công, được tế tự nơi miếu Khổng Tử.
Hiểu Am Thiền sư húy là Thiện Khải, tự Đông Bạch, biệt hiệu là Hiểu Am, người Trường châu, họ Dương. Vừa mới biết nói đã thông kinh Phật giống như đã thuộc từ trước. Đầu tiên đến chùa Vĩnh Mậu xuất gia và thọ giới Cụ túc rồi đến Long Sơn nghiên cứu Đại Tạng và tất cả sách của Bách gia chư Tử. Năm Mậu Tý, niên hiệu Vĩnh Lạc, Sư khai pháp tại chùa Diên Khánh ở quận nhà, năm sau vâng chiếu tham dự biên tu Vĩnh Lạc Đại Điển, đồng thời hiệu đính Đại Tạng Kinh. Được vua ban cho Y Tăng-già-lê sợi vàng. Sư thường kết bạn phương ngoại với các danh sĩ đương thời để luận biện về sự khác biệt giữa Nho và Thích. Sư từng nói: "Không luận là Thánh nhân nào, tất cả đều đồng một lý, nhưng mỗi mỗi đều lập giáo khác nhau!" Lại nói: "Đông Thổ ngộ đạo, Tây Trúc kiến tánh, đều không gì hơn tôn trọng cái gốc. Cho nên chúng tôi tuy xa lìa cha mẹ, mà cung dưỡng khi sinh, tống tiễn lúc chết đều rất trọng hậu.
Sư thị tịch vào năm Quý Hợi, niên hiệu Chánh Thống.
Năm Giáp Tý, niên hiệu Chánh Thống thứ chín, Dương Sĩ Kỳ qua đời, thọ tám mươi tuổi. Tặng thụy là Văn Trinh. Ông có tác phẩm Sa Tiện Cảo, Hữu Đài Cảo. Đời gọi ông là Tây Dương. Còn Dương Vinh mất tháng bảy năm Canh Thân ở Hàng châu, thụy là Văn Mẫu. Đời gọi ông là Đông Dương.
Năm Ất Sửu, niên hiệu Chánh Thống thứ mười, Thị Lang Vương Anh mang hương tiền đến tế Nam trấn, trời đổ mưa lớn, người đời gọi là Thị Lang Vũ.
Năm Bính Dần, Dương Phổ người ở Thiên Thai, làm quan đến học sĩ Thiếu Bảo, ông qua đời vào năm này thọ bảy mươi lăm tuổi, thụy là Văn Định.
Không Cốc Thiền sư húy Cảnh Long, tự Tổ Đình. Đầu tiên Sư theo Hòa thượng Lại Vân ở Biện Sơn học tập và tham thiền, kế đến tham yết ngài Cổ Chuyết, rồi lễ ngài Thạnh Am cầu xuất gia, sau đó đến chùa Chiêu Khánh thọ giới Cụ túc. Sư có Không Cốc Tập lưu hành ở đời.
Hư Bạch Thiền sư húy Tuệ Sâm, dòng họ ở Hồ Quảng, gia đình ở Đan Dương, họ Vương. Mẹ Sư là Hoàng thị, vào đêm có thai mộng thấy một vị Tăng có dáng như đang lao dịch bước vào nhà. Khi sinh ra Sư có rất nhiều điềm linh dị. Sư thông minh đĩnh ngộ khác phàm, vừa chạm vào mắt là thuộc lòng. Năm bảy tuổi, một hôm mộng thấy mình đang thao thao luận đàm huyền nghĩa trong đám đông người. Lúc tỉnh dậy kể lại với người mẹ, bà nói rằng: "Đó là tướng cao Tăng thuyết pháp!"
Năm mười bốn tuổi Sư xuất gia, đầu tiên tham yết các ngài Tòng Ẩn, Trạm Nhiên, Quả Lâm, nhưng sau triệt ngộ nơi ngài Bảo Tạng Trì. Sư nói kệ rằng:
Một quyền đập nát cõi hư không
Trăm ức Tu di chẳng lộ tông
Xin hỏi trong đây ai là chủ?
Phương đông bỗng xuất mặt trời hồng.
Sau Sư trụ chùa Đông Minh ở An Khê hơn hai mươi năm, ngày đêm Sư không ngủ, ngồi như là cờ sắt, người đời gọi Sư là Sảm Thiết Tích. Sư thị tịch vào năm bảy mươi tuổi, tháp xây ở phía đông núi này.
Tây Trù Thiền sư húy Khoảnh, người Cối kê, trụ trì Kính Sơn đời sáu mươi bảy. Một hôm Sư chỉnh trang y áo xong rồi ngồi yên thị tịch.
Thủ Trung Thiền sư húy Thần, người Kim Hoa, trụ trì Kính Sơn đời sáu mươi tám. Sư đang kinh hành, bỗng chốc ngồi yên thị tịch.
Kiệt Phong Thiền sư húy là Anh, người ở Kim Hoa, trụ trì Kính Sơn đời sáu mươi chín. Một hôm Sư trì tụng kinh Kim Cang xong thì thị tịch.
Vu Khiêm lần nào về kinh cũng không đem sơn vật địa phương làm quà tặng, nên người ở Biện Kinh có câu thơ rằng:
Lễ vật nấm cô với tuyến hương
Vốn riêng dân dụng lại tai ương
Gió mát hai tay chầu thiên tử
Tráng được nhân dân nói đoản trường.
Thương Lộ người Thuần An Nghiên châu, đỗ đầu cả ba khoa thi Hương, Hội, Đình. Làm quan đến Nội các, Hàm Nhất phẩm, sự nghiệp là danh thần thời bấy giờ.
Năm Đinh Mão, niên hiệu Chánh Thống mười hai. Năm Mậu Thìn, niên hiệu Chánh Thống thứ mười ba.
Năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Chánh Thống mười bốn, học sĩ đã về hưu là Hoàng Chuẩn qua đời, ban thụy là Văn Giản.
Tháng sáu có sấm sét lớn, mưa gió rất mạnh, các cung điện ở Nam kinh bị cháy rụi. Núi Thiệu Hưng bị dời chỗ, đất chấn động, bạch mao sinh khắp nơi. Hai nơi ở Thiểm Tây có núi lở. Có núi bị di chuyển đến vài dặm, phát ra âm thanh lớn, ba ngày mới dứt. Hoàng hà đổi dòng chảy về hướng Đông ra biển, nhận chìm hơn một ngàn ngôi nhà. Sao chổi vào khu vực Nam Đẩu.
Tháng bảy phía Bắc giặc cướp phá biên giới, Vương Chấn buộc Đế thân chinh. Mây đen như cái dù bao trùm lên quân doanh, sấm sét chớp giật liên hồi, mưa gió mù mịt.
Ngày mười lăm tháng tám Đế đến Thổ Mộc giao chiến với địch, quân ta liên tiếp thất trận. Đế bị Bắc quân (Mông Cổ) bắt sống.
Mồng sáu tháng chín, Thành Vương lên ngôi Hoàng đế, tôn Anh Tông làm Thái thượng hoàng. Vu Khiêm phản đối rằng: "Kinh sư là gốc của thiên hạ, một khi có động thì thế lực lớn sẽ mất hết, đề nghị niêm bảng yết thị chỉ dụ cho tất cả mọi người cố thủ, mới an định được". Quân Thát Đát mỗi đêm đều thấy trong phòng của Đế (Anh Tông) có ánh sáng ẩn hiện như rồng vàng uốn lượn trên đó, nhưng đến gần thì chẳng thấy.
Cảnh Hoàng đế là con thứ hai của Tuyên Tông, do Ngô Quý phi sinh ra. Đầu tiên được phong làm Thành Vương. Khi Anh Tông bị Thát Đát bắt cầm tù, ông tuân phụng ý chỉ của Tôn Thái hậu làm Giám Quốc cho Hoàng Thái tử lúc ấy còn quá nhỏ, chưa nắm được triều chính. Chưa bao lâu quần thần khuyên giục, ông bèn lên ngôi Đế. Tại vị bảy năm. Khi Anh Tông trở về, phế ông làm Thành Vương cho trở về Tây cung. Bấy giờ ông đã bị bệnh qua vài ngày sau thì băng hà. Đến năm Thành Hóa thứ mười, khôi phục lại Đế miếu hiệu cho ông là: Cung Nhân Khang Định Cảnh Hoàng Đế.
Ngày mồng một tháng giêng năm Canh Ngọ, niên hiệu Cảnh Thái nguyên niên, Đế lâm triều, miễn chúc tụng.
Thái Thượng hoàng còn bị giam giữ tại Mông Cổ. Soạn biểu cầu Hoàng Thiên.
Toàn Dần là một tướng số gia, bốc cho Thượng Hoàng một quẻ rồi tâu rằng: "Đại cát! Được trở về và lên ngôi vị trở lại. "
Năm Tân Mùi, niên hiệu Cảnh Thái thứ hai.
Năm Nhâm Thân, niên hiệu Cảnh Thái thứ ba, Lý Hiền dâng biểu nghị bàn về chiến xa; nói rằng: Muốn đi thì cho đi, muốn dừng thì cho dừng, gọi đó là thành trì có chân, kế sách lâu dài phòng thủ biên cương, thì xe này có chỗ dùng được.
Võ cang xa do Vệ Thanh chế tạo, dài một trượng năm thước, cao sáu thước năm tấc, phía trên có một cửa nhỏ, bên dưới có chừa một lỗ nhỏ, hai bên trái phải có lắp đặt các mũi thương. Mỗi xe từ trước đến sau chiếm một khoảng năm bộ. Nếu dùng một ngàn chiếc, mỗi mặt hai trăm năm mươi chiếc, thì dài khoảng bốn dặm. Bên trong có chứa quân mã, lương thảo, quân dụng. Dùng dây để ngăn chặn quân địch thì ngựa không thể xông vào, tên chẳng thể bắn trúng người. Đó gọi là thành quách có chân ngựa vận chuyển không lương thực. Thường Sơn Xà Trận: Quách Lâm thao luyện quân sĩ các doanh nói trận: Trường Xà của Thường Sơn nếu đánh vào đầu thì đuôi tiếp ứng, đánh đuôi thì đầu tiếp ứng, nếu đánh ở giữa thì đầu đuôi tiếp ứng.
Tám trận là: Thiên, Địa, Phong, Vân, Long, Hổ, Ô, Xà. Chế phục loài rồng: Từ Hữu Trinh lập một cái quyết khẩu, nhưng bỏ đá và cây xuống thì cũng như không có đáy vậy. Trinh mới vào núi thưa hỏi một vị Tăng có đạo thuật giỏi. Vị Tăng liền nói: "Thánh nhân vô dục!" Trinh liền hiểu phía dưới có một cái hang rồng, rồng này tánh đa dục, Trinh bèn nấu chảy sắt đổ xuống quyết khẩu, rồng dời đến nơi khác, quyết khẩu liền bít.
Năm Quý dậu, niên hiệu Cảnh Thái thứ tư;
Tháng bốn năm Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Thái thứ năm, xây dựng xong chùa Long Phước-Đế tuần du-Ban sắc tu chỉnh Sử Tống và Nguyên, Thông Giám Cương Mục Công Tập.
Độc Phong Thiền sư húy Quý Thiện, người Phượng Dương, cha họ Ngô, mẹ là Trình Thị. Sư xuất gia năm mười bảy tuổi, đầu tiên thưa hỏi Hòa thượng Nguyên Minh, được trao cho Công án "Chữ Vô", Sư liền nhập thất, không đặt đơn nằm, nhưng ma ngũ quá nặng, trăm phương cũng không đuổi được. Một hôm nghe tiếng chuông, bỗng nhiên đọc kệ rằng:
Im im lặng lặng chẳng làm chi
Chạm đến không đầu rống tức thì
Nhất thanh động địa tiêu tin tức
Đầu lâu nát vụn mộng chẳng tùy.
Sư có để lại Ngự lục lưu hành thế gian.
Nhất Thanh Thiền sư húy là Thiên, hiệu Khiết Tổ, người Khánh Lăng, họ Âu Dương. Đầu tiên Sư học tập nơi ngài Chánh Tông Trung, được độ nơi Pháp sư Vân Hải ở Thạch Nhai, làm Thị hương ở chùa Đại Thiên Giới, được thăng chức Tả nhai Giảng kinh, triều đình ban hiệu là Hoằng Hậu Phổ Ứng. Năm Quý Sửu, niên hiệu Chánh Thống, Đế sắc cho Sư xây dựng Hoằng Khánh Thiền Viện. Đại phong của Sư ngày càng lan xa, từ triều đình cho đến dân giã đều nghe biết. Sau nhận lời cầu thỉnh của các bậc thạc đức danh Tăng, Sư nhận trụ trì chùa Kính Sơn; được các đại Đàn-việt vui mừng hỗ trợ. Sư xây dựng nơi đây thành một tòng lâm trang nghiêm hùng vĩ.
Năm Ất Hợi, niên hiệu Cảnh Thái thứ sáu.
Năm Bính Tý niên hiệu Cảnh Thái thứ bảy, soạn xong bộ Hoàn Vũ Thông Chí, các quan biên tu như Tổng Tài... đều được gia phong phẩm trật.
Anh Tông trở lại ngôi vị.
Năm Đinh Sửu, niên hiệu Thiên Thuận nguyên niên, Lý Hiền nghi biểu đoan chánh, khí độ cao vời, ngưng thần đạt được thể. Tiết Tuyên học và hạnh đều thành thục; Khâu Chánh thi cương trực, khẳng khái tự xét mình. Ngô và Bật là thượng thủ trong hàng Nho học.
Tuyết Quang Thiền sư họ Triệu, chặt ngón tay phát tâm. Đầu tiên Sư lễ ngài Diệu Âm cầu xuất gia, kế đó tham kiến Thiền sư Tịch Chiếu gắng sức hạ thủ công phu; lại tham yết Hòa thượng Khiết Không, hỏi đáp qua lại mới tỉnh ngộ. Sư làm kệ rằng:
Rỗng rang thấu triệt cổ linh đài
Vặn dặm không mây bặt trần ai
Quảng Hàn cung ấy chưa lìa được
Ngân Thiềm ấn phá bóng trăng kia.
Lúc lâm chung Sư nói rằng: "Địch sắt tự do thổi, đâu cần phải nhờ hay không nhờ vào cảnh núi non!" Nói xong ném bút thị tịch. Sư trụ trì chùa Tây Vân, tháp xây ở chùa Chánh Pháp.
Vật ngoại Thiền sư tên là Viên Tín, tự Vô Niệm, họ Cao, người Kim Đài, biệt hiệu là Vật
Ngoại. Mẹ Sư một hôm nằm mộng thấy một vị Tăng vào nhà tá túc mà có thai sinh ra Sư. Khi còn nhỏ Sư đã chẳng chịu ăn ngũ tân. Đầu tiên lễ ngài Đại Giác làm thầy, kế đến tham lễ ngài Thiên Trì Xuân, rồi đến ngài Vô Tế tham cứu, sau khai ngộ có làm kệ rằng:
Côn lôn uốn lượn với gió vờn
Khe sâu trâu đất đấu hổ đá
Chạm phải tòng xanh trên mi mắt
Trùng tiêu minh đạp phá hư không.
Sau được ngài Nguyệt Huyễn trao cho pháp y.
Sư khai pháp ở Phục Ngưu sơn.
Tuyết Đình Thiền sư người Nhân hòa, họ Quế, mẹ là Từ thị. Sư xuất gia năm mười lăm tuổi, tham yết Hưu Hưu Ông ở chùa Tiên Lâm. Năm mười bảy tuổi cạo tóc xuất gia, trụ ở chùa Triều Minh, Giang Âm.
Có bài Vịnh Hoàng Lệ tụng rằng:
Đa tình tự biết tiếc ngày xuân
Bay đến vườn kia chốn gấm hoa
Nhớ chuyện bên sông bừng giấc mộng
Mãn đình, hồng hạnh đượm tà dương.
Sư có ngữ lục lưu hành ở đời.
Cổ Khả Thiền sư húy Ngân, Bảo Trì Thiền sư húy Liên, Nam Sơn Thiền sư húy Thọ, Bạch Vân Thiền sư, Tố Hư Thiền sư, Trạm Nhiên Thiền sư, Đại Tông Thiền sư. Mật Thiền sư, Quang Trạch Thiền sư, Đại Cơ Thiền sư, Nguyệt Khê Thiền sư, Đạo Dục Thiền sư, Thọ Đường Thiền sư, Thiên Cam Thiền sư húy Tế, Đại Giác Thiền sư.
Năm Mậu Dần niên hiệu Thiên Thuận thứ hai, Trần Châu Thịnh vì cái học thật tiễn của Thánh hiền mà có công lớn, được chúa Kính. Ông từng nói rằng: "Chân ý của Đại học là Thiết Môn Quan; làm chủ một, hai chữ là cái chìa của khoá ngọc".
Lý học thì có Tiết Văn Thanh Hoàn, Trần Khắc Am Tuyển là bậc nhất; Ngô Kính Trai Nhân, La Nhất Phong Luân, Chương Phong Sơn Mậu xếp thứ hai; còn có Trần Bạch Sa Hiếu Chương, Trang Định Sơn Tuyền, Hoàng Vị Hiên Trọng Chiêu, Trần Thặng Phu, Tào Nguyệt Xuyên Đoan, Hà Lâm Khâu Kiều Tân.
Năm Kỷ Mão, niên hiệu Thiên Thuận thứ ba. Thượng thư Cao Xác là người trong sáng, tự xét mình. Cẩn thận giữ gìn công luận. Sau khi qua đời được tặng chức Thái Bảo, thụy là Văn Nghĩa.
Năm Canh Thìn, niên hiệu Thiên Thuận thứ tư, tại Thiểm Tây đá rơi như mưa, đập trúng rất nhiều người. Vả lại đá mà nói được, thật đáng kinh sợ.
Năm Tân Tỵ, niên hiệu Thiên Thuận thứ năm, Đế nói với Lý Hiền rằng: Trẫm dùng cơm ăn uống tùy phần chưa từng chọn lựa lấy bỏ. Y phục cũng tùy nghi. Dù có mặc áo vải, thì nhân dân cũng chẳng nói không phải là vua.
Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thiên Thuận thứ sáu.
Tháng hai năm Quý Mùi, niên hiệu Thiên Thuận thứ bảy, Trường thi hội bị cháy, chết vài mươi sĩ tử. Đêm ấy trời tối, trong không trung phát ra âm thanh. Lý Hiền làm sớ truyền rằng: Không có hình mà có âm thanh, đó là trống của yêu quái. Hồ Oanh là người liêm chính, thanh bạch, ít ham muốn, làm quan rất cẩn mật, ở triều sáu mươi năm, thọ tám mươi chín tuổi, tặng chức Thái Bảo, thụy Trọng An.
Năm Giáp Thân, niên hiệu Thiên Thuận thứ tám; tháng giêng Đế bị bệnh; không cho phép phi tần chôn theo Đế, là việc tăng thượng đức phẩm. Ngày mười bảy Đế băng. Ngày hai mươi hai Hoàng Thái tử lên ngôi kế vị, đại xá thiên hạ.
Niên Phú là người thẳng thắn dám làm, sau khi chết được ban thụy là Cung Định. Tiết Hoàn thụy là Văn Thanh, có soạn Độc Thư Lục, trong đó có ghi rất nhiều danh ngôn.
Lý Hiền xin phục quan tước cho Vu Khiêm... để minh oan. Thạnh Ngung làm quan, có câu đồng dao là:
Trong như nước, sáng như gương.
Cổ Khê Thiền sư tên là Giác Trừng, hiệu là Cổ Khê, người Uy Châu. Sư lễ ngài Thiên Huy Cổ Khê cầu xuất gia, xem đọc kinh sách của ba Thừa. Kế đến tham công án "Chữ Vô"; trụ chùa Hương Nghiêm ở Nam Dương. Sau được Sở Sơn Lão Nhân phó pháp nối tiếp đời hai mươi bốn dòng Lâm Tế. Sư lại đến trụ ở chùa Thiên Giới; khéo léo chỉ bày dẫn dắt, Từ bi giúp đỡ mọi người. Sư có soạn Dược Sư Khoa Nghi ba quyển lưu hành ở đời.
Hiếu Tông Thuần Hoàng đế là con trưởng của Anh Tông do Châu thái hậu sinh ra. Đầu tiên được lập làm Hoàng Thái tử, khi Anh Tông bị bắt, ông mới hai tuổi. Chúa còn nhỏ thì nước biến, nên Thành Vương làm Giám Quốc phụ Chánh, chưa bao lâu Thành Vương lên ngôi, phong ông làm Tố Vương. Đến khi Anh Tông trở về lấy lại ngôi vị, thì lại lập ông làm Hoàng Thái tử, khi Anh Tông băng hà thì kế vị, tại vị hai mươi ba năm, thọ bốn mươi tuổi; phong thụy là: Kế Thiên Ngưng Đạo Thành Dụng Nhân Kính Sùng Văn Túc Võ Hoằng Đức Chí Hiếu Thuần Hoàng Đế, miếu hiệu Hiến Tông, táng ở Mậu lăng.
Tháng giêng năm Ất Dậu, niên hiệu Thành Hóa nguyên niên, con của Vu Khiêm dâng sớ minh oan cho cha, Đế thương xót khôi phục lại tước vị cũ và tế lễ ở mộ phần.
Trời mưa hạt lúa đen; động đất phát ra âm thanh. Sao chổi xuất hiện ở Tây Bắc, dài hơn ba trượng. Thứ cát Sĩ ở viện Tịch khoan chú giả phú thi rằng:
Rỗng rang vắng lặng sống giới trai
Một sớm tiêu trừ bệnh bản lai
Trộm dùng của quan không bù được,
Ngồi trong đình mát đọc sách y.
Viên Cảnh Pháp sư người Phần châu. Sư xuất gia từ thuở nhỏ, đi tham học khắp các trường giảng thuộc Hoa Nghiêm, mà ngộ được mật chỉ các kinh. Sư thường đến thuyết pháp tại chùa Thạch Thất núi Diệu Lâu, phủ Bình Dương. Một hôm Sư đến Ngỏa Diêu Pha ở Bắc môn đục một hang đá như cái khám rồi vào đó ngồi im lặng, bỗng nhiên dặn dò đệ tử rằng: "Ta sắp đi đây!" Đại chúng hỏi ngày giờ, Sư đáp: "Ngày mai!" Sáng sớm hôm sau, Sư tắm rửa, thay y phục, đốt nhang, ngồi kiết già, thuyết kệ rồi thị tịch.
Nguyệt Giang Thiền sư tên là Giác Tịnh, người Cô Tô, cha họ Thẩm, mẹ là Nữu Thị. Sư xuất gia nơi ngài Trương Quách Cổ Chuyết, được trao cho công án "Niệm Phật", sau đó tham vấn Hiện Sơn Đại Tông, ngài Đại Tông dạy đến tham kiến Đông Minh Tuệ Sảm, ở đây Sư đã khế ngộ, lại trở về núi Cổ Đạo trụ trong am Hoạt Lý. Đến năm Thiên Thuận Sư đến trụ tại viện Vĩnh Tâm ở thôn Tiểu Hồng, trải qua hai mươi năm.
Một hôm Sư nói với đệ tử là Đạo Lâm rằng: "Ta đi đây! Một y một bát là chánh pháp nhãn tạng!" Xong Sư thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, tháp xây trong viện để tôn trí linh cốt.
Vô Cực Thiền sư húy là Hạo, trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi mốt.
Một hôm Sư tụng tâm kinh xong thì ngồi yên thị tịch.
Sư Tông Thắng húy là Dẫn trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi hai, hằng ngày thường lễ Phật, một hôm Sư nằm yên thị tịch.
Tháng ba năm Bính Tuất, niên hiệu Thành Hóa thứ hai, La Luân đỗ đầu kỳ thi Đình. Luân là người hiếu học thích cổ thư, dốc chí; chuộng phẩm hạnh. Tháng mười hai Học sĩ Lý Hiền qua đời, được truy tặng Thái Sư, thụy là Văn Đạt.
Năm Đinh Hợi, niên hiệu Thành Hóa thứ ba.
Năm Mậu Tý, Thành Hóa thứ tư.
Năm Kỷ Sửu, Thành Hóa thứ năm.
Năm Canh Dần, niên hiệu Thành Hóa thứ sáu, Thượng thư Ngụy Ký qua đời, thọ chín mươi tám tuổi, thụy là Văn Tỉnh. Thượng Thư Vương Cao qua đời, thọ tám mươi bốn tuổi, thụy là Trung Túc. Năm Tân Mão, niên hiệu Thành Hóa thứ bảy.
Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Hóa thứ tám; vào tháng bảy có gió lớn và mưa đá, có tảng lớn như con trâu. Phía Bắc Ngũ châu, núi rống ba ngày rồi xé ra.
Năm Quý Tỵ, Thành Hóa thứ chín. Năm Giáp Ngọ, Thành Hóa thứ mười.
Thiền sư Chánh Giác húy là Thành, trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi ba Sư là người trì giới rất tinh nghiêm, không bệnh mà thị tịch.
Sư Dụng Duật húy là Cư trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi tư, Sư tinh tấn thiền định, không biếng trễ. Một hôm Sư ngồi yên thị tịch.
Năm Ất Mùi, Thành Hóa thứ mười một.
Tháng bảy năm Bính Thân, niên hiệu Thành Hóa thứ mười hai, ở kinh đô có hiện tượng Hắc sảnh, hình dạng như một làn khói đen, bay nhanh như gió, hoặc vào nhà theo cửa lớn, nó đến thì người đều hôn mê, mắt vàng đuôi dài, hình dạng giống như con Thái ly (chồn lớn)
Năm Đinh Dậu, Thành Hóa thứ mười ba.
Năm Mậu Tuất, niên hiệu Thành hóa thứ mười bốn, quan Tu Soạn La Luân qua đời, thụy là Văn Triệu.
Năm Kỷ Hợi, Năm Canh Tý, Năm Tân Sửu.
Năm Nhâm Dần, Thành Hóa thứ mười tám. Trần Hiến Chương tự Công Phủ, người Quảng Đông, xây dựng một ngôi nhà lấy tên là Dương Xuân hằng ngày đóng cửa ngồi im lặng trong đó để cầu minh tâm. Ông nói: "Xả cái trói buộc nơi người, tức cầu sự ước thúc nơi mình" Lại nói: "Vì học cần phải tịnh tọa trưởng dưỡng để xuất hiện ra mối manh, thì mới có chỗ thương lượng!"
Năm Quý Mão, năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Hóa thứ hai mươi, Hồ Cư Nhân, lấy sự trung tín làm gốc cho sở học của mình, lấy lực hành làm cốt yếu, nhân đó lấy tên là Kính, sau được mời làm chủ thư viện Bạch Lộc Động. Ông qua đời lúc năm mươi mốt tuổi: Ông có các tác phẩm: Kính Trai Lục, Cư Nghiệp Lục.
Năm Ất Tỵ, năm Bính Ngọ. Học sĩ Thượng Lộ là người khẳng khái, tiết nghĩa, tận trung, hiểu rộng đến ngàn xưa. Qua đời được ban thụy là Văn Triệu. Tháng tám năm Đinh Mùi, Đế băng hà. Ngày mồng sáu tháng chín Hoàng Thái tử lên ngôi, đại xá thiên hạ.
Hiếu Tông Kính Hoàng đế là con trưởng của Hiếu Tông, do Kỷ Phi sinh ở Tây cung, phi thiếu sữa nên thái giám Trương Mẫn dùng cháo sữa mớm cho ăn, nuôi nấng chăm sóc rất cẩn thận, kỷ lưỡng. Sau Thái tử Điệu cung mất, người ở nội cung mới thầm truyền nhau là Tây cung có Hoàng tử đã được sáu tuổi, Vạn Quý Phi kinh lạ triệu vào điện Chiêu Đức, nhân đó được lập làm Thái tử. Khi Hiếu Tông băng hà, ông lên kế vị, tại ngôi mười tám, thọ ba mươi sáu tuổi. Mùng bảy tháng năm năm Ất Sửu băng hà ở cung Càn thanh. Trung phong hiệu là Đạo Thiên Minh Đạo Thành Thuần Trung Chánh. Thánh Văn Thuần Võ Chí Nhân Đại Đức Kính Hoàng Đế, miếu hiệu Hiếu Tông, táng ở Thái lăng.
Năm Mậu Thân, niên hiệu Hoàng Trị nguyên niên, gia tặng Binh bộ Thượng thư Thiếu Bảo Vu Khiêm là quang lộc Đại phu Trụ Quốc Thái Phó, thụy là Túc Mẫn, lập nhà thờ ở mộ, mỗi năm xuân thu hai kỳ đều tế lễ.
Đại Xiễn Thiền sư tên là Tuệ Thông, họ Thiệu, người Chánh Hòa. Năm mười hai tuổi sư lễ ngài Bảo Tích Ngọc Khê cầu xuất gia, tham vấn Châu Sơn chủ, được trao cho công án niệm Phật, hạ thủ lâu ngày mới triệt ngộ. Sau sư trụ ở Quân Phong tại Tiêu Dương, và thị tịch nơi đây.
Tuyệt Thiền sư húy là Thụy, người Nam Xương; đầu tiên Sư lễ Hòa thượng Kinh Môn Vô Thuyết cầu thế phát. Kế đó tham kiến Bảo Phong Đại Sư, hỏi đáp qua lại, cơ phong rất kết hợp, nên được trao cho ca-sa và phất tử. Sau sư trụ một ngôi chùa lớn ở Chung Lăng hoằng pháp. Người đến tham học rất đông.
Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoằng Trị thứ hai. Trâu Trí tự là Nhữ Ngu, người Tứ Xuyên, đọc sách ở Long Am suốt mười chín năm mới phát sinh giải ngộ, người trong làng tranh nhau đến xem, ông buộc miệng đọc rằng:
Trên núi Long Am cổ thư sinh
Chợt chọn Tam Ba đệ nhất danh
Thiên hạ bao nhiêu điều khó hiểu
Mọi người đâu cần phải sợ kinh.
Sau luận nghị ông bị phản bác, liền nói thơ:
Người đến bạc đầu rồi tử tận
Chỉ cần sử sách địch ai chân.
Trong mơ chẳng biết thân còn buộc
Theo ngọn gió xuân đến cấm thành.
Lại nói rằng:
Vạch hết tâm can biết ngày nào.
Vọng thấy áo quần chỉ may thôi
Nguyện xin Thái Bình không một việc
Cô thần vạn tử có chi sầu?
Năm Canh Tuất đến năm Đinh Tỵ niên hiệu Hoằng Trị thứ mười, biên tu Đại Minh Hội Điễn. Các tỉnh trời đều rền vang, đất chấn động.
Tháng sáu năm Mậu Ngọ, gấu vào kinh đô. Không bao lâu trong thành có hỏa tai, lửa cháy lan rất mạnh.
Trúc Phương Thiền sư húy là Nhị, trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi lăm, thường thuyết pháp độ người. Một hôm sư ngồi yên thị tịch.
Đình Lễ Thiền sư húy là Thù trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi sáu, suốt mười năm sư chẳng ra khỏi chùa. Một hôm Sư an nhiên thị tịch.
Thiên Tài Thiền sư húy là Anh, trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi bảy. Sư thường khuyên người niệm Phật. Một hôm sư niệm Phật rồi thị tịch. Tiêu Sơn Thiền sư, Tánh Không Thiền sư, Tỉnh Hạo Thiền sư, Ấn Tông Thiền sư, Mặc Đường Thiền sư, Bảo Nguyệt Thiền sư, Thiên Huy Thiền sư, Cát Am Thiền sư, Lâm Lâm Ông, Dã Ông Thiền sư húy Hiểu, Bảo Phương Thiền sư húy Tiến, Nguyệt Huyễn Thiền sư.
Năm Kỷ Tỵ, Hoằng Trị năm thứ mười hai.
Năm Giáp Tý niên hiệu Hoằng Trị thứ mười bảy, Trần Mậu Liệt soạn Dưỡng Mẫu Sớ, lược ghi rằng:
"Mẹ hiền già suy, tháng ngày như tên bắn. Nay người đã bảy mươi bảy tuổi. Ân vua khả dĩ còn có thể kịp báo đền, chứ tuổi mẹ chẳng còn bao nhiêu năm nữa. Vả lại một mẹ một con mà người chân trời kẻ nơi góc bể, ngàn suy vạn nghĩ chẳng lúc nào nguôi! Bệnh tật chí tự thở than, thuốc thang nào ai lo liệu? Thần đã nghĩ đến mẹ thì tâm báo chúa sẽ loạn động; mẹ hiền nhớ đến thần ý niệm giữ gìn sức khỏe sẽ yếu. Lòng thần thật đáng thương, tâm mẹ thật đáng lo ngại. Mong được dùng việc an ủi tựa cửa ngóng trông, để phần nào tỏ bày được tâm thốn thảo này; vả lại còn mong tương lai đáp được quả báo chốn trần ai, lại khi chưa chết bắt chước theo công lao hãn mã. "
Tháng năm năm Ất Sửu, niên hiệu Hoằng Trị mười tám, Đế bị bệnh, dặn dò các vị phụ thần xong thì băng hà ở cung Càn Thanh. Ngày mười tám hoàng Thái tử lên ngôi, đại xá thiên hạ.
Võ Tông Nghị Hoàng đế là con trưởng của Hiếu Tông do Trương Thái hậu sinh ra. Năm mười lăm tuổi thì Thái Lăng băng hà ông lên ngôi, bây giờ ngày mười tám tháng giêng năm Ất Sửu, tại vị mười sáu năm, thọ ba mươi mốt tuổi, hiệu là: Thừa Thiên Đạt Đạo Anh Túc Duệ Triết Chiêu Đức Hiển Công Hoằng Văn Tư Hiếu Nghị Hoàng Đế, miếu hiệu Võ Tông, táng ở Khang lăng.
Tháng ba năm Bính Dần, niên hiệu Chánh Đức Nguyên Niên, sao rơi như mặt trăng, sét đánh ở giao đàn và điện Phụng Thân ở Thái miếu. Tháng bảy sao chổi hiện ở khu vực Sâm, Tỉnh, quét đến Thái Vi viên, sao Thái Bạch ngang qua bầu trời.
Chương Mậu dốc lòng với nghiệp lớn, thân thể khỏe mạnh, làm quan năm mươi năm, thọ hơn bảy mươi tuổi, thụy là Văn Ý. Lưu Đại Hạ là người thanh liêm, không mưu cầu danh lợi, làm quan đến hàm nhất phẩm thì về hưu.
Học sĩ Tạ Thiên, Lưu Kiện về hưu.
Vương Ngao người huyện Ngô làm Nội cơ vụ. Lý Đông Dương xin về hưu. Trương Nguyên Trinh gọi là Đông Bạch Tiên sinh.
Tháng tám năm Đinh Mão, niên hiệu Chánh Đức thứ hai, sông Hoàng hà bỗng nhiên trong, mây lành hiện ở khu vực của sao Dực sao Chẩn, ứng với thế miếu mà sinh.
Năm Mậu Thìn, thụy tượng chiên-đàn đến đây tính ra đã được hai ngàn năm trăm năm.
Tháng sáu năm Tân Mùi, Đế mới ưa thích Phật giáo, tự xưng là Đại Khánh Pháp Vương. Có tăng tấu xin một trăm khoảnh ruộng làm biệt viện cho Đại Khánh Pháp Vương.
Năm Nhâm Thân, sông Hoàng hà lại trong. Thanh Hà trong từ đoạn Liễu Gia Bổ trở xuống chín mươi dặm suốt năm ngày.
Mã Văn Thăng qua đời năm tám mươi bảy tuổi, tăng chức Thái Sư, thụy là Tỉnh Túc; Lý Đông Dương qua đời tặng chức Thái Sư, thụy là Văn Chánh.
Chùa Thạch Kim sơn do Chu Ninh xây dựng, vô cùng tráng lệ, Đế thân hành đến thăm.
Vương Tuyền Đình ở Thang Dục sơn.
Cổ Âm Thiền sư húy là Pháp Cầm, tự hiệu là Ngọc Tuyền Lão Nhân, họ Tế ở Hưng Hiền, mẹ họ Hoàng. Năm hai mươi lăm tuổi Sư lễ Xích Thạch Sơn chủ cầu xuất gia, học Phật pháp. Kế đến lễ ngài Đại Xiển, rồi tham yết các đại sĩ như Tánh Không, Tỉnh Hạo, Ấn Tông gắng sức quyết trạch. Sau được ngài Bảo Minh Thọ Đường ấn khả. Theo lời cầu thỉnh của Thụy Nham, sư thăng tòa thuyết pháp, khai thị rõ ràng. Sau sư trụ một ngôi chùa lớn ở Đẩu Phong, hoằng hóa một phương. Ngày sư thị tịch chim chóc buồn kêu, cá dưới ao vùng vẫy.
Sư có Đế Hồ Tập ba quyển lưu hành ở đời.
Vô Văn Thiền sư tên là Tư Thông, tự Vô Văn. Đầu tiên sư tham kiến ngài Độc Ông, kế đó cùng với Văn Phong, Nguyệt Sơn thiền định nhiều năm. Sau tham yết Ngọa Vân và Bất Hội để thỉnh ích.
Sư có soạn bài tụng cái quạt rằng:
Đưa lên rành rõ thật lạ thay!
Gió mát hây hây thấu lòng này
Trong đó không nhiều tin tức lắm
Toàn thân tự có hỷ hoan ngay.
Lại có bài tụng rằng:
Đỉnh Cổ Vân Phong người khó thấy
Gặp gió đưa qua ánh ráng chiều
Chim chóc chưa về trời đã tối,
Đêm khuya như cũ vẫn hoa lau.
Vân Phong Thiền sư, Xích Thạch Sơn Chủ, Bảo Minh Thiền sư, Nguyệt Sơn Thiền sư, Ngọa Vân Thiền sư, Bất Hội Thiền sư húy Ngộ, Vô Năng Thiền sư húy Giáo, Vô Dụng Thiền sư húy Khoan, Thiên Trì Thiền sư húy Xuân, Bạch Ngưu Thiền sư, Tuệ Đường Thiền sư, Bảo Châu Thiền sư.
Từ năm Quý Dậu đến năm Kỷ Mão, niên hiệu Chánh Đức thứ mười bốn, vào tháng sáu Ninh Vương Thần Hào làm phản, bắt đầu từ ngày mười sáu tháng sáu, qua tháng bảy Vương Thủ Nhân chinh phạt, đến hai mươi sáu tháng bảy thì tất cả đều bị bắt.
Tháng tám Đế hạ chiếu Nam Chinh.
Vương Thủ Nhân người ở Dư Dao Triết Giang, tự Bá An, hiệu là Dương Minh. Từ nhỏ ông đã thông minh, nổi tiếng về biện luận. đỗ tấn sĩ, được bổ làm Đề Đốc Quân Vụ, từng bình định giặc cướp, xướng nghĩa thảo phạt Ninh Vương, công nghiệp rất lớn. Ông đề xướng lương tri đạo học. Được vua phong tước Tân Kiến Bá.
Duyệt Tiền Thiền sư húy là Khải, trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi tám, Sư luôn cười, không sân hận. Lúc lâm chung cũng cười mà thị tịch.
Thạch Song Thiền sư húy là Mân, trụ trì Kính Sơn đời bảy mươi chín, thích văn chương, đã chứng quả. Lúc lâm chung sư ngồi kiết già thị tịch. Nguyệt Lâm Thiền sư húy là Cảnh, người Hàng châu thuở nhỏ sư đã thông minh khác thường, sư xuất gia từ lúc còn nhỏ, đến hai mươi tuổi thì cạo tóc, chuyên tu tịnh nghiệp, tham câu thoại "Bản lai nhân" lâu ngày mới tỉnh ngộ. Sư làm kệ rằng:
Bản Lai Nhân hỡi Bản Lai Nhân!
Không đầu không não biết đâu tầm?
Bỗng nhiên véo nhằm cái lỗ mũi
Xem ra vốn dĩ là cùng dân.
Từ đó tiếng tăm của Sư lan xa, đầu tiên trụ trì Kính Sơn đời tám mươi, tiến sĩ Trương Công Minh khen rằng: "Là linh chi tam tú, là cổ bách thập vi; đắc chánh độ nơi không truyền, nối diệu pháp chốn Đông độ. " Lại nói: "Vượt chốn an nhàn về hạ giới hưng phát tượng giáo ở Trung Nguyên. Thừa tướng khai tuyển Phật trường, Hòa thượng xiển dương pháp xuất thế. Tùy dòng mà đi, gặp lối rẻ thì dừng. Mệnh cho năm ấy Quốc Nhất cũng khởi hành từ Côn sơn, giống như Pha Tiên lúc xưa, cùng đến nơi phương trượng. Phàm bạn phương ngoại của ta đều tán thán vị Tăng này..."
Năm Kỷ Mão, niên hiệu Chánh Đức Sư thị tịch.
Tháng tám nhuận năm Canh Thìn, niên hiệu Chánh Đức mười lăm, Đế đến phủ đệ của học sĩ Cận Trách, bấy giờ linh cửu còn quàng tại nhà, Đế thân cúng điếu, lại sau vị Phiêu Tăng cùng đi tụng kinh cầu phước.
Năm Tân Tỵ, niên hiệu Chánh Đức mười sáu. La Khâm Minh người Giang Tây, sách ông soạn ra thật khó nhớ biết. Rất giỏi về Tánh Lý Học. Làm quan đến Thượng thư bộ lại. Thụy là Văn Trang.
Tháng hai Đế bị bệnh, ngày mười bốn tháng ba thì băng ở Báo phòng, rước trưởng tử của Hưng Hiếu Vương đến, lên ngôi hoàng đế đại xá thiên hạ.
Thiên Kỳ Thiền sư người Chung lăng, cha tên là Giang Đài, mẹ là Từ Thị. Năm Sư hai mươi tuổi nghe nói Hòa thượng Vô Thuyết Năng là bậc có đạo, nên đến lễ cầu cạo tóc, được chỉ dạy khán câu thoại đầu: "Một trở về đâu?" Sau được Dục Thủ Tòa khổ công dẫn dắt, ngày đêm bức ép, sư dụng tâm đến nỗi như mắt thấy, tai nghe câu thoại, từng chữ phân minh, từng câu rành rõ, ngày đêm như nhất, một hôm hoát nhiên đại ngộ. Sư đến tham kiến Thiền sư Bảo Phong và được ấn chứng. Sư có để lại bộ Ngữ Lục Lưu Hành ở đời.
Kiệt Phong Thiền sư dạy rằng: Tin sâu thì nghi nhiều, nghi nhiều thì đại ngộ. Đề khởi câu thoại đầu, thì tất cả đều không quan tâm đến, đi tham, ngồi cứu, miệng niệm, tâm nghĩ, miên mật suy cho cùng, thời luôn nắm bắt. Bỗng một sớm mai đập nát khối nghi, thấy tận mặt, không còn phải nương gá đây kia.
Cổ Tâm Thiền sư, Đại Nhân Thiền sư, Nguyệt Ấn Thiền sư.
Thế Tông Túc hoàng đế là con trưởng của Hưng Hiếu Vương, cháu của Hiếu Tông. Hưng
Hiếu Vương được phong ở đất An Lục thuộc Hồ Quảng. Ngày năm tháng tám năm Đinh Mão niên hiệu Chánh Đức, Đế sinh ở Vương phủ. Vương phụ mất Đế kế thừa lo việc nước; đến năm này Võ Tông băng hà, vì không có con, nên được lập nên kế vị Hoàng đế, tại vị bốn mươi lăm năm thọ sáu mươi tuổi, phong hiệu là Khâm Thiên Lý Đạo Anh Nghị Thánh Thần Tuyên Văn Quảng Võ Hồng Nhân Đại Hiếu Túc Hoàng Đế, miếu hiệu Thế Tông, táng ở Vĩnh lăng.
Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Gia Tĩnh thứ nhất, hủy bỏ tượng Phật ở Huyền Minh cung, thâu được một ngàn ba mươi lượng vàng. Đế lại nghe lời Triệu Hoàng, phá hủy các chùa vị ở Kinh đô, Đồ Ứng Huân phát lệnh thi hành.
Tháng tám năm Quý Mùi, niên hiệu Gia Tĩnh thứ tư, Tấn Vương Kỳ Sóc, vì mẹ bị bệnh nóng sốt, nên cầu nguyện trời đất, bỗng nhiên dòng suối ngọt vọt lên, đem cho mẹ uống thì hết bệnh, do đó lập đàn Tiêu thù, có hai chim hạc bay đến lượn quanh đàn và kêu lớn. Sau mẹ mất ông vô cùng đau xót cảm cây bá cổ thụ trổ hoa, tỏa hương thơm ngát.
Năm Bính Tuất, niên hiệu thứ năm, Dế viết mười hai chữ: Pháp tổ an dân, phụng thiên hành đạo, phước thiện họa dâm", ban cho quần thần. Đế lại soạn Kính Nhất Châm, chú Phạm Tuân Tâm Châm và Thị Thích Ngôn Động Tứ Châm, ban cho các đại học sĩ, lại định Đại Lễ Toàn Thư làm Đại Điển của nhà Minh.
Giám Cổ Âm Ngữ, Hàm Xuân Đường Cảo.
Tháng năm năm Đinh Hội, niên hiệu Gia Tĩnh thứ sáu, ở kinh đô có mưa tiền, tháng bảy ở Nam kinh có mưa máu, mặt trời có vầng sáng vây quanh, mống bạc hiện vắt ngang qua bầu trời.
Năm Mậu Tý, niên hiệu Gia Tĩnh thứ bảy, vua soạn một bài Châu mười sáu chữ: "Trác nhĩ chi kiên, nhất quán chi duy, học thánh quân tử, úc tai vật ngụy". (Kiến thức cao vời, tư duy xuyên suốt, quân tử học đạo, gắng lên chớ dối!)
Đề Đốc Lưỡng Quảng quân vụ Vương Thủ Nhân, thâu lại các ải của Lưỡng Quảng, bình định được giặc cướp.
Bảo Phong Thiền sư, Nguyệt Thiên Thiền sư, Vô Tận Thiền sư, Cổ Xuân Thiền sư húy Kỳ, Hải Thiên Thiền sư, Sở Phong Thiền sư, Chỉ Nam Thiền sư, Nguyệt Khô Thiền sư và Chiếu Đường Thiền sư.
Năm Canh Dần, niên hiệu Gia Tỉnh thứ chín, lập Đồ khâu ở Nam giao (đàn tế trời ở cửa Nam ngoài thành), sau thành Hoàng cung; lập Phương trạch ở Bắc giao, phía Nam của Phương trạch là nhà thờ cúng Hoàng Đế; lập Triêu Nhật đàn ở Đông giao, Tịch Nguyệt Đàn ở Tây giao.
Vương Thủ Nhân sau được ban thụy là Văn Thành, Hồ Thế Ninh thụy là Túc Mẫn, Dương Nhất Thanh thụy là Văn Tương, Quế Nhạc cũng thụy là Văn Tương, Trương Tổng Dịch tên là Phù Kính khắc in lại hai mươi mốt bộ sử hoàn thành. Năm Tân Mão lập Thanh Phúc đình, Thúy Phương đình, Cửu Ngũ trai, Hoàng Sử thành, Cẩm Phấn đình, Bảo Nguyệt đình, Tinh Nhất đình, Cung Mặc thất.
Năm Ất Mùi, Đế nói rằng: "Người có đức hạnh mới có thể làm mô phạm cho đời, văn chương là nghề phụ".
Cúng tế bảo vật của triều đình thành tựu. Phá bỏ điện Phật trong cung cấm, đồng thời đốt phá tượng Phật vàng ở điện Đại thiện.
Năm Kỷ Hợi. Trương Phù Kính là một vị hiền thần hy sinh vì nước, là một anh hào vang danh thiên cổ. Khi chết được tặng chức Thái Sư. Tế lễ chôn cất, con cháu thừa tập đều có gia phong. Đế tự định phép tắc đặt tên thụy, để quên thân phụng sự Hoàng đế. Thụy là Văn Trung, đặc gia ân cho thân quyến.
Tháng bảy năm Canh Tý, Phương sĩ Gia Triều Dụng thiêu cháy Thuật, được phong làm Tử Phủ Tuyên Trung Cao Sĩ, Thuật chết không nhận ra được.
Cố Đỉnh Thần người Côn Sơn, qua đời được tặng Thái Bảo, thụy là Văn Khương.
Hoắc Thao người Nam Hải, qua đời được tặng thụy là Văn Mẫn. Tháng bảy năm Quý Mão, sao Hỏa vào khu vực sao Nam đẩu.
Giang Nam hai tiền một đấu gạo.
Năm Giáp Thân, ba sao Mộc, Thổ, Hỏa tụ ở sao
Phòng. Tháng sáu sao Hỏa phạm vào sao Nam Đẩu.
Năm Đinh Mùi, người con gái ở Đại Đồng năm lên mười bảy tuổi tự nhiên biến thành nam.
Tháng mười, Hạ Ngân nói: "Chết ở Tây Thị rất tốt, được lên thiên đình từ biệt Tể tướng rồi xuống nhân gian làm Thần Tiên".
Năm Tân Hợi, niên hiệu Gia Tỉnh thứ ba mươi. Năm Nhâm Tý, niên hiệu Gia Tỉnh ba mươi mốt, tháng mười một Dương Kế Thịnh chuyển đổi quan vị.
Năm Quý Sửu, Dương Kế Thịnh dâng sớ kể mười tội chuyên chánh hại quốc của Nghiêm Tung, vợ khuyên đặt "Quỷ hiệu", do đó bị hạ ngục, tra khảo, sử tội chết.
Mùa Đông năm Ất Mão, Dương Kế Thịnh đến triều để tra xét, dân chúng đứng hai bên đường cùng nhau chỉ vào ông mà nói rằng: "Đó là nghĩa sĩ trong thiên hạ". Ông nghe vậy bèn ngâm bài thơ rằng:
Gió thổi gông cùm tỏa ngát hương,
Người đến nhìn ta chật phố phường
Não muốn đồng tôn là nghĩa sĩ.
Khá thương Trường Bản gặp Quân Vương.
Vua sáng đức dâng như trời đất,
Đình Úy chết danh vượt Hán Đường
Tử đức trở về, vui sinh đến,
Thân này vốn chẳng thuộc họ Dương.
Ông còn nói rằng: "Nếu chôn máu của ta, sau ba năm sẽ biến thành ngọc bích, dưới đất đó ắt có; vì do báo ứng sinh ra".
Canh Thân, ở Ninh Hạ có động đất, Gia Hưng, Hồ châu chấn động mạnh, nhà cửa rung rinh như cánh buồm.
Thượng thư bộ công là Lưu Lân qua đời, được tặng chức Thái Phó, thụy là Trung Thanh.
Pháp Chu Thiền sư húy Đạo Tế, tự Pháp Chu, người làng Tư Hiền, họ Trương. Năm hai mươi tuổi Sư vào chùa Thiên Ninh làm hành giả, siêng năng hầu hạ Thiền sư Mặc Đường Tuyên, kế đến phụng sự Ngài Cát Am Tộ, ngày đêm thưa hỏi. Một hôm nghe tiếng khánh nơi điện Phật, hoát nhiên khai ngộ, được ấn khả. Sư lại tham yết các ngài Cổ Ấn, Vân Phong, sở chứng ngày càng đạt đến chỗ sâu xa. Sư lần lượt trụ tại các chùa như Giác Vương, Cảnh Đức, Song Kế. Đầu năm Gia Tỉnh Sư ra khai pháp ở chùa An Ẩn ở Kim Lăng. Một hôm có vị Tăng hỏi rằng:
- Thế nào là cảnh an ổn?
- Mất nửa Tam sơn rơi ngoài trời xanh, một trong Nhị thủy ở tại vực Bạch lộ. Sư đáp.
- Thế nào là gia phong của an ổn?
- Hổ đá đánh nhau trước núi, trâu đất ngủ dưới đáy sông.
Kế đó Sư đến Dương Tiện, trở về Lý Vân trụ các chùa Thiên Ninh, Linh Quang. Sư lại xuôi thuyền đến Nam Hồ, thuận buồm du lãm cảnh quan, sau Sư vào trụ nơi Biện Sơn ở Ngô Hưng. Cuối cùng trở về Thiên Ninh đến trọn đời. Sư trì chú rất linh nghiệm, có thể làm giếng khô thành suối nước, đặc biệt khiến phạm Tăng tạm trú, kêu nhái ếch đến bên cửa nghe tụng kinh, thần nhân vào nhà hộ trì, sau lại tự tại cười đùa, mắng chửi, tùy ý điều khiển, không ai có thể biết được. Mùa thu năm Canh Thìn Sư có chút bệnh mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi hai hạ lạp, thờ linh cốt ở một thất riêng. Sư có pháp ngữ kệ tụng để lại, gọi là Thặng Ngữ.
Năm Tân Dậu, niên hiệu Gia Tỉnh thứ bốn mươi, Đế hỏi Tiên thuật nơi một dị nhân, được trao cho Phù lục bí phương.
Năm Nhâm Tuất Nghiêm Trung về quê, gia tài bị sung quân. Năm Quý Hợi, niên hiệu Gia Tỉnh thứ bốn mươi hai.
Ngọc Chi Thiền sư húy là Pháp Tụ, hiệu Nguyệt Tuyền, họ Phú, người Gia Hòa, mẹ là Phùng thị. Thuở nhỏ Sư theo Nho học, thông suốt các sách, theo hầu hạ Vương Dương Minh Tiên Sinh, đạt được yếu chỉ "Lương Tri". Sau Sư xuất gia, tham yết Thiền sư Mộng Cư trình hai bài kệ rằng:
Ánh hồ nương gá ba ngàn khoảnh
Sắc núi mở ra năm sáu tầng.
Chạm mắt xưa nay thành hiện thực,
Chẳng tọa bồ đoàn luyện không ngơ
Cảnh sắc phô bày chốn an cư
Đất bằng ai dám nói thân sơ
Dẫu có Đạt Ma truyền tâm ấn
Mịt mờ chẳng biết hắn là ai!
Rồi hỏi đáp rất nghiêm cẩn thiết tha, do đó mà liễu ngộ. Sư kết am tranh ở Kính sơn ẩn tu, vì dưới tòa có mọc cỏ cho nên mọi người gọi Sư là Ngọc Chi Hòa thượng. Sau Sư trụ ở núi Thiên Trì đến cuối đời. Các bậc Nho học đương thời như Nhất Am Đường, Long Khê Vương, Bạch Thạch Tế, vào núi tìm Sư để chứng nghiệm yếu chỉ Nho Thích đạo đồng. Sư đề nghị Tế Công. Quách Nhiên Đường nói rằng: "Nho nói đại công thì thích nói vô tránh, chẳng hai chẳng một, bóng trăng trong nước, gương hư không, tâm chẳng phải đồng với vật, vật chẳng thể sách cùng ngã. Hải ấn sum la, lặng lẽ thì có cảm được cái ứng này, đó là diệu viên. Sư ngăn lại và nói: "Chỉ có Chánh định!"
Năm Quý Hợi, niên hiệu Gia Tỉnh, Sư thị tịch.
Có để lại Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Vân Đình Thiền sư húy là Chánh Tông, trụ ở Thiên Trì, là bạn đạo với ngài Ngọc Chi. Sư thấu triệt được tâm tông, hiểu sâu giáo lý, phóng khoáng ngay thẳng, có phong cách của người xưa. Sắp thị tịch, tắm rửa sạch sẽ, ngồi kiết già trước Phật, lấy giấy bút viết kệ rằng:
Sáu mươi bốn năm đúng chánh Tông
Hôm nay đặc biệt hiển gia phong
Năm uẩn cấu trần đều tẩy sạch
Thiên trì, ánh nguyệt rạng trời không.
Mộng Cư Thiền sư trụ tại núi Bích Nham ở Kim Lăng, là thầy đắc pháp của Ngọc Chi. Lúc tiếp ngài Ngọc Chi đọc hai bài kệ trên, Sư quát rằng:
- Chẳng phải! Chẳng phải! (phi, phi) Ngọc Chi nói:
- Vì sao chẳng phải chẳng phải? Sư đáp:
- Ông chẳng phi phi, còn ai thì phi phi? Lương Võ đế và Đạt-ma đều chẳng thấy cơ, cần gì phải bẻ cành lau, lại bảo người đuổi theo; xưa cũng thế, nay cũng thế, đều rơi vào phép tắc của người.
Ngài Ngọc Chi lại hỏi:
- Làm thế nào chẳng rơi vào phép tắc của người? Sư liền đánh một thoi và nói:
- Đây là rơi hay chẳng rơi? Ngài Ngọc Chi liền lễ bái.
Vô Hà Thiền sư, Phật Giám Thiền sư, Phi Huyễn Thiền sư, Hội Nguyên Thiền sư, Đạo Trí Thiền sư, Tịnh Giới Thiền sư.
Vạn Tòng Thiền sư tên là Tuệ Lâm, hiệu Vạn Tòng, họ Thẩm, người Nhân Hòa, xuất gia ở chùa Pháp Luận. Đầu tiên Sư lễ Bình Dã lão nhân ở Thiên Mục mà được nghe tâm yếu. Sau Sư đến Kinh đô, dự nghe khắp các trường giảng, nghiên cứu đến chỗ huyền áo. Sư đến lễ ngài Không Huyễn Tẫu để trình kiến giải và được nối pháp. Sau Sư đến núi Chư Ký, rồi đến Kính sơn tiếp dẫn người học. Lúc sắp tịch sư viết kệ:
Bảy mươi bảy năm qua
Tông tích đâu nương gá
Vốn chẳng có đến đi
Chỉ ứng duyên mà đến.
Tháp xây ở Truyền Y am, Xương Bồ điều.
Tháng năm năm Giáp Tý, ban đêm Đế đang ngồi nơi sân, trong phòng bỗng nhiên nhặt được một hạt đào, sáng ngày nhặt được một hạt.
Tháng ấy thỏ trắng lại sinh ra hai con, không bao lâu nai cũng sinh hai con. Quần thần dâng biểu chúc mừng. Đế ban chiếu đáp.
Năm Ất Sửu. Phương sĩ Hùng Hiển, người Giang Tây dâng một bộ Pháp Thư gồm sáu mươi sáu quyển. Đế triệu kiến ban cho mũ, đai, vàng bạc mà trở về. Lại Triệu Thiêm Thọ dâng phù pháp gồm ba mươi sáu bản cũng được Đế ban mũ, đai, rồi cho trở về quê.
Năm Bính Dần, niên hiệu Gia Tỉnh thứ bốn mươi lăm. Hải Thụy người Quảng Đông, dùng lời nói thẳng viết sớ dâng lên Đế, Đế hạ chiếu giam vào ngục, các quan trong ngoài đều kinh sợ. Hải Thụy là người nổi tiếng chánh trực. Ngày mười bốn tháng mười hai, Đế băng hà ở Càn Thanh cung, Dụ Vương kế vị. Hải Thụy ở trong ngục nghe tin Đế băng hà, thì vô cùng xúc động, chết đi sống lại, khóc suốt đêm không ngủ.
Mục Tông Trang hoàng đế là con thứ ba của Thế Tông, đầu tiên được phong làm Dụ Vương, Thái tử mất, Đế băng hà, ông được kế vị. Ở ngôi được sáu năm, đến ngày hai mươi sáu tháng năm năm Nhâm Thân thì băng hà. Phong hiệu là Khế Thiên Minh Đạo Uyên Ý Khoan Nhân Hiển Văn Quang Võ Thuần Đức Toàn Hiếu Trang Hoàng đế, miếu hiệu Mục Tông, an táng ở Chiêu lăng. Thọ ba mươi sáu tuổi.
Năm Đinh Mão, niên hiệu Long Khánh
Nguyên niên, Trần Dĩ cầu dâng lên Đế mười việc phải cẩn thận lúc khởi đầu là: Định chí, bảo vị, úy thiên, pháp tổ, ái dân, sùng liễm, lãm quyền, dụng nhân, tiếp hạ, thính ngân.
Vua hạ chiếu tước bỏ quân tước của Chân nhân Thiệu Nguyên Tiết, Đào Trọng Văn, ban cáo mệnh phá nhà bia, tịch thu điền sản.
Phong tặng Dương Kế Thạnh là Quang lộc Tự Thiếu Khanh, thụy là Trung Mẫn, con là Ứng Vĩ làm Quốc tử sinh.
Tháng mười một sao Kim vào khu vực của Nam đẩu.
Tháng mười hai trống trời vang. Sao băng lớn như cái chén, kéo đuôi sáng dài hơn ba trượng.
Kinh Sơn Pháp sư húy là Kha, từng hội tập ba bản dịch kinh Lăng-già để tiện việc xem đọc cho người học. Vào năm Long Khánh thứ nhất, Sư hoằng pháp ở Phi Anh tháp viện tại Hồ Thành. Đệ tử truyền pháp là Thứu Nham Thiên Cơ...
Ngu Xuyên Thiền sư húy Chân Tuệ, họ Phù, người Trỉ thành. Đầu tiên sư hầu hạ ngài Cảnh Không ở chùa Lộc sơn, chép mười hai bộ kinh Pháp Hoa, cúng dường đến các chùa. Lễ sám ba nghiệp thanh tịnh, lâu ngày có cảm, trí tuệ siêu việt. Sư đến Thiên Trì tham lễ ngài Ngọc Chi, được trao cho công án "vạn pháp", nhất tâm tham cứu, viết hai chữ Vô Thường ngay trên án, tay cầm giới phách để cảnh tỉnh lúc hôn trầm, tán loạn. Lâu ngày tỉnh ngộ, được ngài Ngọc Chi ấn khả.
Sau sư làm Thủ chúng nơi pháp tịch của ngài Kinh Sơn ở Phi Anh, bị quan huyện lệnh bức bách, sư quyết giữ giới mà tịch, có để lại kệ rằng:
Vô minh giống khổ cấy khi nào
Mà nay tụ hội bức xiết bao?
Đau xót vì chưa không sắc uẩn
Vui nhân bởi biết được an hòa
Hoa trời chẳng rải trong không ấy
Trống canh chỉ đánh lúc trăng qua.
Có ai trốn được phần định nghiệp.
Thân này sống chết mặc do tha.
Sư thọ bốn mươi sáu tuổi, có Ngu Xuyên Cảo. Vân Cốc Thiền sư húy Pháp Hội, họ Hòa, người Gia Thiện. Đầu tiên Sư học giáo Du-già ở chùa Đại Vân tại Gia Hòa, kế đó tham kiến ngài Pháp Chu Tế ở Thiên Ninh, được chỉ dạy rằng: Người học đạo nên lấy ngộ làm chủ; đồng thời trao cho công án chữ "Thùy" (ao?). Sư gia công tham cứu, một hôm ăn cơm, chén rơi xuống đất mà tỉnh ngộ. Sư trụ ở Tòng Quế am, Thiên Khai nham, có người hỏi rằng: Thế nào là ý từ Tây Thiên đến?
Sư đáp:
Có nước thì trăng đều hiện
Không núi nào mây chẳng vờn.
Sư lại thị chúng rằng: Người xưa nói suốt ngày ăn cơm mà chẳng nhai một hạt gạo, suốt ngày đi trên đường mà chẳng bước qua một tấc đất, dụng tâm như thế mới có phần tương ưng.
Sư trụ tại Thê Hà, từng chỉ dạy Viên Liễu Phàm về huyền đàm lập mệnh.
Tháng ba năm Mậu Thìn, niên hiện Long Khánh thứ hai lập Hoàng thái tử. Tháng năm Lý Lương Vũ ở Thiểm Tây biến thành phụ nữ (bán vợ con). Trương Cư Chính dâng lên Đế sáu việc như chấn chỉnh kỷ cương, củng cố quốc gia, xây dựng quân đội.
Năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Long Khánh thứ ba, Cao Củng kiêm chức Thái sư Thượng thư học sĩ được vào nội các tham dự việc cơ mật, quản lý việc ở Bộ lại. Hải Thụy làm Thiềm Đô Ngự Sử, Tổng Lý Tào Vận, Tuần phủ Ứng Thiên.
Tháng tám năm Canh Ngọ, niên hiệu Long Khánh thứ tư, các phủ Triết Giang, Hồ châu núi lở thành sông. Hoàng hà vỡ đê, một vùng ba trăm dặm ở Tiểu hà khẩu đều ngập, núi lở thành sông dìm mất vô số người và ruộng lúa.
Năm Tân Mùi niên hiệu Long Khánh thứ năm, ở Triết giang, Hàng châu, cây dẻ sinh cành đào. Tế Nhữ Hiền nói: "Dương yếu ớt mới sinh, thì cần phải dứt dục để dưỡng tâm an tỉnh". Dương Cư Chánh từ Thiếu phó thăng làm Thái tử Thái sư, Thượng thư bộ lại, Kiến Cực Điện đại học sĩ.
Tháng tư năm Nhâm Thân, niên hiệu Long Khánh thứ sáu, ở Triết giang vầng khí đen hiện lúc ban ngày. Hàng châu, trong đám sương màu đen có một vật như bánh xe lượn qua lại, ánh trăng, sấm chớp, mưa đá theo đó mà giáng xuống.
Tháng năm, giếng nước Long Mục ở Nam Trực Lệ hóa thành rượu. Ngày hai mươi sáu tháng năm
Đế băng hà ở cung Càn Thanh. Tháng sáu, Hoàng Thái tử kế vị. Thần Tông Hiển Hoàng đế là con trưởng của Mục Tông, do Lý Quý phi sinh ra. Năm mười tuổi Mục Tông băng hà, ông tức vị, ở ngôi bốn mươi tám năm. Ngày hai mươi mốt tháng bảy năm Canh Thân thì băng hà, thọ năm mươi bảy tuổi, hiệu là Phạm Thiên Hợp Đạo Triết Túc Đôn Giản Quang Văn Chương Võ An Nhân Chỉ Hiếu Hiển Hoàng Đế, miếu hiệu Thần Tông, táng ở Khánh lăng.
Năm Quý Dậu, niên hiệu Vạn Lịch Nguyên Niên, Đế nói với Trương Cư Chánh rằng: "Trẫm may mắn được khanh tận tâm phụ giúp!" do đó mà ban cho vàng bạc. Cư Chánh khóc lạy tạ ân. Cư Chánh dâng Giám đồ lên Đế, chỉ rõ đại nghĩa. Đế vui mừng lộ rõ.
Minh Long Thiền sư họ Dao, người Hoài Nam, tên là Đông Dương, từng được bổ dạy ở trường học Huyện nhà, rất thích đọc sách. Đầu tiên Sư lễ Hòa thượng Đại Quang cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc, kế đó đến trụ tại am Tú Phong ở Dương sơn, hằng ngày chỉ một nạp y, các người giàu có ở Chư Lăng đồng đến giúp đỡ. Mộc Ninh Uông, Tư Mã Đạo Côn nghe tiếng sư, nên đến cung kính chiêm lễ. Hỏi rằng: "Có thể là thường trụ chăng?" Sư đáp:
"Không thường không trụ!" Các vị ấy cáo từ trở về.
Đêm trừ tịch, sư tập chúng dạy rằng: "Ngày mồng một năm mới ta sẽ đi!" Nửa đêm Sư bảo đệ tử nhìn Trung tinh (một ngôi sao) mà nói rằng: "Giờ Ngọ ngày mai ta mới đi!"
Sáng mồng một Tết toàn khu Dương sơn phóng ánh sáng năm màu, đến giữa trưa, sư từ biệt đại chúng rồi thị tịch. Toàn chúng hướng theo ánh sáng mà lễ bái đồng thời kêu lên rằng: "Đức Phật! Đức
Phật! Cầu xin ánh sáng này chiếu khắp hạ giới!" Uông Công làm bài minh về Sư.
Năm Giáp Tuất, niên hiệu Vạn Lịch thứ hai, phong Ngô Nhạc làm Nam kinh Lại bộ Thượng thư. Nhạc là người trong sạch, tiết tháo trên đời ít có, chỉ có ngôi nhà tranh, mấy mảnh ruộng bạc màu. Hằng ngày chỉ một mình ngồi im lặng trong ngôi nhà, xem đọc vài quyển thiền kinh, chẳng tiếp khách, đi đâu chỉ cưỡi một con lừa, vô cùng đơn giản. Có người muốn lập một ngôi chùa trong cung để làm nơi Thánh thượng khói nhang tu tập, ông khéo léo dâng sớ can ngăn.
Ngày mồng một tháng mười năm Đinh Sửu, Vạn Lịch thứ năm, sao Chổi xuất hiện ở khu vực giữa sao Đẩu và sao Ngưu, đuôi chỉ vào sao Vụ nữ, dài mấy mươi trượng, tia sáng chiếu rực trời giống như lụa, khí biến thành mống bạc. Hoàng cung phát hỏa.
Trâu Huynh Tiêu nói: "Thân mặc gấm nhung, tâm đồng dê chó!".
Biện Dung Thiền sư, đầu tiên sư trụ ở Lô sơn, chứng được Pháp Hoa Tam-muội, đắc pháp môn Đại giải thoát; sau vào kinh làm đại Phật sự, hóa độ các loại căn cơ, Vương, Công, Đại thần đều tôn ngưỡng kính phục. Vân Thê đại sư cùng với đại chúng đến tham kiến, sư nói: "Chẳng nên tham danh cầu lợi, chẳng được theo vào cửa quyền quý, chỉ chuyên tâm hành đạo, chân thật trì giới và niệm Phật".
Tiếu Nham Thiền sư thuộc dòng dõi thế tộc ở Yên kinh, cha là Ngô Môn, mẹ là Đinh thị. Sư xuất gia năm hai mươi tuổi lễ Hòa thượng Đại Tịch Năng làm thầy, kế đó tham vấn khắp các bậc thiện tri thức, tiến tu mà được khai ngộ. Sau sư lánh mình trong một xóm nhỏ ở Kinh đô, ít tiếp kiến người, Vân Thê đại sư từng đến đây hỏi pháp, hai bên rất khế hợp, sư thầm trao tâm yếu cho ngài Vân Thê. Sư có để lại Tiếu Nham Tập bốn quyển lưu hành ở đời.
Tố Am Pháp sư húy là Châu Tiết, hiệu Tố Am, người Tương Dương, lúc nhỏ là nho sinh ở quận nhà. Bỗng nhiên căn lành kiếp xưa phát khởi, Sư cắt ái từ thân, lễ Hòa thượng Minh Hưu cầu xuất gia, sư đến Yên kinh vào làm môn hạ Pháp sư Tú, đạt được sâu xa ý chỉ Hiền Thủ. Nội ngoại điển đều thông, được xem là bậc long tượng. Thời gian lâu sau mới trở về, trụ trì chùa Thê Hà, học chúng trên ba trăm vị. Sư chỉ dạy đầy đủ Tam quán, Ngũ thừa.
Sư trụ ở đây mười năm, các danh sĩ có tiếng tăm như Lục Ngũ Đài, Lý Thạch Ly... đều kết bạn phương ngoại với sư. Sư giảng kinh Pháp Hoa, đến phẩm Hiện Bảo Tháp, bỗng nhiên trên hư không bảo tháp hiện ra trước tòa, như lời kinh đã dạy. Đại chúng đều trông thấy, thật là việc hy hữu. Quan trung sứ tâu trình, Từ Thánh hoàng Thái hậu triệu kiến, đồng thấy được điềm lành này. Do đó bèn ban cho Sư một bộ y Tăng-già-lê thượng phương kim lũ, đồng thời xây ở phía Tây giảng đường một ngôi chùa để hiển dương thần hóa. Uông Đạo Côn có ghi chép việc này.
Năm Canh Thìn, niên hiệu Vạn Lịch thứ tám, trên tảng đá kê trụ phía Tây điện Văn hóa có bốn chữ "Thiên Hạ Thái Bình", chùi lau chẳng mất. Trương Cư Chánh bèn nói: "Đây là điềm lành, thỉnh Thánh thượng đến xem!" Đế trông thấy liền nói: "Đây là việc hư giả!" không vui mà trở về.
Vô Thú Lão Nhân húy Như Không, người Tú Thủy, họ Thi, tục hiệu là Tỉnh Trai. Sư chuyên tâm đến nội điển, chí mến mộ Tổ đạo, cùng với bạn bè là Tề Pháp Chu đi tham học khắp nơi trong tám năm, tham yết Thiền sư Dã Ông Hiểu, được trao cho câu thoại đầu: "Một trở về đâu?" Sư dốc sức hạ công, một hôm nghe tiếng gà gáy mà tỉnh ngộ, liền đến xin ấn chứng, được ngài Dã Ông chấp nhận truyền trao y pháp và bài kệ rằng:
Chẳng pháp chẳng phải chẳng pháp,
Chẳng tánh chẳng phải chẳng tánh,
Chẳng tâm chẳng phải chẳng tâm
Nay trao tâm pháp cho ông rồi!
Sau khi cạo tóc xuất gia, sư trụ ở Kính Úy, ngày sáu tháng tám năm Canh Thìn, niên hiệu Vạn Lịch sư thị tịch, thọ chín mươi tuổi, sắp thị tịch sư nói kệ rằng:
Sinh đến chết đi như không hoa
Chết đi sinh đến như giấc mộng
Thân hôi thối này trao bính đinh
Xương trắng trôi theo dòng Đoạn Kiều
Nay đùa trăng thanh cùng gió mát.
Năm Đinh Hợi. Hải Thụy là một người thanh liêm, cương trực, nắm pháp luật, giữ công lý, qua đời trong lúc đang làm quan, được vua tặng hiệu là Thái tử Thiếu Bảo, thụy là Trung Giới, lại sai hành nhân hộ tống linh cửu về quê an táng. Các sĩ đại phu gom góp vàng bạc khâm liệm, tất cả dân chúng lớn nhỏ đều tụ tập khóc lóc tiễn đưa cả trăm dặm chẳng dứt.
Thiên Tòng Thiền sư húy là Minh Đắc, hiệu là Nguyệt Đình, đắc pháp nơi Pháp sư Vạn Tòng, nên lấy hiệu là Thiên Tòng. Sư họ Chu, người Ô Trình, Hồ châu, năm mười ba tuổi xuất gia tại am Khánh Thiện ở Song Lâm thuộc quận nhà. Đầu tiên Sư tham yết Bách Xuyên Hải Công nhưng không khế ngộ, kế đến gặp Vạn Tòng Thiền sư, được trao cho yếu chỉ Lăng-nghiêm, sư nổ lực tham cứu mà tỉnh ngộ, bèn làm kệ rằng:
Trong kinh Lăng-nghiêm chẳng có kinh
Thấy mặt đâu cần hỏi tánh danh
Tháng sáu mùa hè như lửa đốt
Mùa đông tháng chạp lạnh như băng.
Sư còn đạt được yếu chỉ Hoa Nghiêm. Một hôm mộng thấy dạo chơi nơi thế giới Đâu-la-miên, thăng tòa giảng kinh thuyết kệ rằng:
Từ xưa vốn đã không
Thì nay đâu từng có
Trên đầu lòng hiển hiện
Hư không mở miệng cười.
Quát một tiếng, hạ tòa.
Thức dậy Sư kể lại với ngài Vạn Tòng, ngài Vạn Tòng nói rằng:
-Đó là sức Thánh thầm gia bị cho ông.
Sau sư trụ nơi ngọn Lăng Tiêu ở Kính sơn, dốc sức Kham cứu. Sư có thuyết kệ rằng:
Trúc biếc ngàn năm, vạn tuổi tòng
Cành cành lá lá thật Tổ phong
Vân nhạc cao xanh là nơi trụ
Vô ngôn, trời rộng thảy đều đồng.
Mùa thu năm Đinh Hợi niên hiện Vạn Lịch, sư nói với đại chúng rằng: "Ta vì các ông mà chuyển pháp luân Thủ-lăng-nghiêm, để làm lời khai thị cuối cùng, không còn lần nào chuyển lại cho các ông nữa!" Mùa đông năm ấy Sư thị hiện có bệnh, qua ngày mười bảy tháng giêng năm sau, Sư nằm theo thế cát tường mà tịch. Thọ năm mươi tám tuổi, bốn mươi sáu hạ lạp, trà-tỳ, xây tháp thờ ở Kính sơn.
Ly Đình Thiền sư tức là Thích Tổ Trụ, tự Huyễn Y, hiệu Ly Đình, người Đơn Hồ, họ Dương; mẹ sư là Chu thị, một hôm nằm mộng thấy vị Tăng vào nhà mà có thai sinh ra sư. Năm mười ba tuổi, sư vào núi Long Phan nương Hòa thượng Triệu Dương học tập các bộ kinh lớn là Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. Sau khi cạo tóc xuất gia và thọ giới Cụ túc, sư đã thông hiểu ý nghĩa các kinh. Sư đến Thiếu Thất tham bái Hòa thượng Đại Chương, rồi đến Phục Ngưu tham yết ngài Cao An, đến kinh đô lễ hai vị Thiền sư là Tòng và Tú, đạt được yếu chỉ thanh lương, lại vào chùa Vạn Thọ cũng tại Kinh đô giảng Hoa Nghiêm Đại Sao, đến phẩm Nhập Pháp Giới, tự nhiên mặt đất chấn động, trời mưa hoa báu, bấy giờ có các ngài Vô Cực, Diệu Phong, Thừa Ấn đồng dự hội.
Ngày hai mươi hai tháng chín năm Đinh Hợi, niên hiệu Vạn Lịch, sư tắm gội xong ngồi kiết già nói kệ rằng:
Hư không chẳng có mặt mày
Không vị mà gượng lập bày
Thoại đầu với chẳng thoại đầu
Chốn chốn đều là Như Lai.
Lại nói tiếp:
Năm nay sáu mươi sáu
Chẳng biết làm việc gì
Ôi! Các người ghé mắt
Nhìn xem tin tức này
Phật tổ đã đến rồi
Dùng nó cũng chẳng được.
Nói xong thì thị tịch, thọ sáu mươi sáu, năm mươi bốn hạ lạp.
Tháp thờ xây phía Bắc ngọn Liên Hoa.
Đại Trí Thiền sư là bậc lập chí vững chắc, siêng năng tu tập, giới luật tịnh nghiêm. Đầu tiên sư trụ tại Hải Triều am ở Phổ Đà, thời gian lâu sau, sư trùng kiến trở thành một ngôi chùa lớn, thâu nhận hơn một ngàn chúng. Người khắp nơi đến dâng hương đảnh lễ Đại sĩ, được chiêm ngưỡng một lần là điều may mắn. Đàn-việt cúng dường rất thịnh, phước duyên to lớn. Triều đình giáng chỉ ban vải lụa, Lộ Vương dâng y, nghiễm nhiên có một đại sĩ hiện trong núi này. Sư có đệ tử là Thiên Nhiên ở Thiên Bộ Sa, có thể bước trên dây mà đi, là người chấn chỉnh Tây phong hưng thịnh sau này.
Lý Trác Ngô húy là Chí, làm quan đến chức Thứ sử, sau từ quan thế phát xuất gia, trụ trì Long Hồ, lãnh chúng tu học. Sư là người hào sảng, thông minh, soạn thuật rất nhiều, như Hoa Nghiêm Hiệp Luận Giản Yếu và Phần Thư mấy quyển, phần nhiều luận về Phật pháp lý tánh...
Năm Mậu Tý, niên hiệu Vạn Lịch thứ mười sáu. Sông Hổn hà đến từ Tây bắc, tức sông Cổ tạng càn, xuất phát từ Thiên Tân ở Lô Kiều chảy thẳng ra biển. Sông Hoàng hà phát nguyên từ Côn Lôn, chảy vào Trung Quốc qua mấy ngàn dặm, các sông nhỏ đều đổ vào đây gây nguy hại rất lớn.
Tượng Tiên Thiền sư trụ chùa Từ Vân ở Thiên Thai, tên là Thích Chân Thanh, hiệu Tượng Tiên, họ La, người Tương Đàm, Trường Sa. Lúc mới sinh ra, sư đã đĩnh ngộ lạ thường. Vừa lớn lên, ngày có thể đọc vài ngàn lời kinh sử, suốt đời chẳng quên một chữ. Năm mười lăm tuổi, sư được bổ dạy ở trường quận nhà. Năm mười chín tuổi, sư lễ Hòa thượng Bảo Châu ở Nam nhạc cầu xuất gia và thọ giới Cụ túc. Sư khán câu thoại đầu "chữ Vô", trải qua thời gian lâu, một hôm thuyền chạm vào bờ phát ra tiếng, bỗng nhiên sư tỉnh ngộ, Hòa thượng Châu vui mừng phó chúc rằng: "Nên khéo giữ gìn". Sau khi ngài Bảo Châu thị tịch, sư trụ ở Giác Hoàng, một hôm bị bệnh, mộng thấy quan công trao thuốc uống mà hết bệnh.
Đại chúng đến thất của sư, sư ung dung nói rằng:
Viên tông không hình tượng
Mãn giáo khó suy lường!
Người thể hội được ý chỉ này thì núi non cũng dễ dời; kẻ trái tông này thì mảy may cũng khó vào". Đại chúng lễ tạ rồi lui ra. Một hôm sư mộng thấy ngọc cung Bảo Thọ và Di-đà Tam Thánh, vừa lễ bái thì một vị Sa-di đứng bên cạnh trao cho sư một tấm thẻ có viết: "Giới hương huân tu, ngộ trung phẩm vãng sinh chi tượng".
Tháng tám năm Đinh Hợi, niên hiệu Vạn Lịch, sư được Từ Thánh Thái hậu ban cho kim tử y để tỏ lòng ân sủng.
Ngày hai mươi chín tháng giêng năm Mậu Tý, sư bảo đại chúng rằng:
- Duyên ở Tịnh độ của ta đã thành thục, thánh cảnh đã thầm hiện, cõi thế gian này chắc chắn chẳng thể ở lại lâu!". Đến tối sư từ biệt chúng rồi thị tịch. Trà-tỳ thu được xá-lợi đỏ, trắng và xanh, hương thơm ngào ngạt. Sư thọ năm mươi bảy tuổi, ba mươi bảy hạ lạp, tháp thờ lập ở suối Trung Văn phía Tây chùa.
Tây Phương Hợp Luận do Trung Lang Viên Hoằng Đạo soạn, phân làm mười môn là: Sát độ môn, Duyên khởi môn, Bộ loại môn, Giáo tướng môn, Luận lý môn, Xứng tánh môn, Vãng sinh môn, Kiến võng môn, Tu trì môn, Thích dị môn. Trung Lang soạn thuật rất nhiều, luận này là căn bản của việc vãng sinh.
Em của Trung Lang là Tiểu Tu Trung Đạo chuyên tu tập tịnh nghiệp. Trung Lang qua đời trước Tiểu Tu; sau Tiểu Tu qua đời thấy Trung Lang đến, mới cho rằng đã vãng sinh Tịnh độ, nay đến rước mình về nơi ấy. Tiểu Tu hỏi rằng:
- Vì sao anh được vãng sinh?
- Vì tôi có công soạn Tây Phương Hợp Luận mà được sinh về nơi ấy.
Tiểu Tu lại hỏi đến các việc khác, nhưng Trung Lang đáp rất ít lời, chỉ nói Vũ Lâm Ngu Thuần Hy vì soạn Tịnh độ Thi mà được vãng sinh.
Năm Canh Tý, niên hiệu Vạn Lịch hai mươi tám, Thông Chánh Thẩm Tử Mộc tấu rằng: "Nhà thờ Kiến Văn Đế không có được một chén cơm, tệ bạc đồng với dân thường, đối với nghĩa thì quá nhẫn tâm, hoặc thờ cúng vật thực ở Cao miếu, một bên ý văn".
Phật Pháp Kim Thang Biên (lục) do Châu Cư Sĩ Xích Thủy Đồ Long soạn, nội dung là phát minh lý sâu xa của Thánh giáo đồng thời nêu lên các bậc anh tài trong tăng sĩ đương thời. Kim Thành và Thang Trì là vật để bảo vệ vòng ngoài nghiêm ngặt.
Tịnh Độ Tư Lương do Đồng Hương Cư Sĩ Trang Quảng Hoàn soạn gồm sáu quyển. Quảng Hoàn tự là Phục Chân, ông tham lễ ngài Vân Thê, rồi tuyển chọn thâu thập những điều cốt yếu trong kinh điển và trong các ngữ cú của các bậc Tăng tục thuộc Liên tông soạn thành sách này, mục đích ra sức khuyên người tu tập, làm tư lương cho việc vãng sinh Tịnh độ.
Diệu Phong Thiền sư húy là Chân, đệ tử nối pháp của ngài Thiên Tòng, hiệu là Bách Tòng. Sư trùng hưng học thuyết Tam quán thập thừa của Thiên Thai; xiển minh tông yếu Tánh Cụ Lý Cụ, phán định Lăng Nghiêm thuộc về giáo Phương Đẳng thật tướng. Sư có soạn Bách Vấn lưu hành ở đời.
Nguyệt Xuyên Pháp sư húy Châu Trừng, trụ nơi Ngũ Đài sơn, Sư đến Kinh đô hoằng hóa, có các tác phẩm Lăng-nghiêm Chánh quán sớ, Vĩnh gia tập chú lưu hành ở đời.
Đại Hưu Thiền sư tên là Thật, hiệu là Tế Am, người ở Tân Trịnh. Đầu tiên sư đến núi Phục ngưu tham yết ngài Cổ Tâm, kế đó đến tham học nơi ngài Thiên Kỳ và được phó pháp. Sư có nói kệ rằng:
Pháp thân vốn không tướng
Chân tánh xưa nay không
Biết được tin tức này
Trong ngoài lộ gia phong.
Diệu Hữu Thiền sư tên là Trí Không, họ Cát, quê Vân Nam. Sư trụ ở Thương sơn, tham yết ngài Vạn Tòng, được thọ ký; kế đến sư trụ ở Thiên Giới, Siêu Giới. Từ Thái sư thỉnh sư trụ Từ sơn. Sư đã khế ngộ được đạo trực chỉ, niệm niệm đều lấy chỗ Tịnh độ làm chỗ về.
Dị Am Thiền sư tên Như Thông, tự xưng là Lô Giang Lão Tẩu. Đầu tiên sư tham yết ngài Vạn Tòng để quyết trạch tâm yếu. Các danh sát ở vùng Ngô Việt nhờ sư mà hưng khởi. Sau sư đến chùa Quốc Thanh ở Thiên thai thuyết kệ rồi thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi.
Tuệ Quảng Thiền sư húy Châu Duyên, nhân thấy được Như Lai thân vàng một trượng sáu ở chùa Dục Vương, sư cảm khích đốt thân, bỗng nhiên trên đảnh hiện hóa Phật và nhiều điều linh ứng kỳ lạ.
Tử Bá Đại sư húy Tăng Khả, hiệu Đạt Quán, người Ngô Giang, họ Thẩm. Lúc nhỏ sư đã có chí khí gánh vác việc người, lớn lên sư lễ ngài Hổ Khâu Tuệ Luân cầu xuất gia, rồi đến Thanh lương, Yên kinh, dựng lập pháp tràng. Sau sư bị vu cáo mà phạm tội chết, có Tử Bá Lão Nhân tập lưu hành ở đời.
Tuyết Lãng Pháp sư, sư là người phát kiến việc giảng kinh điển theo chánh văn, không lệ thuộc vào chú sớ, được danh sĩ đương thời kính trọng. Sư có để lại Tuyết Lãng tập.
Thiệu Giác Pháp sư húy Quảng Thừa, sư trụ ở Liên am xiển dương tánh tướng học, khai phát cho các hậu học hiền tài.
Vô Huyễn Thiền sư húy Tánh Xung, đắc pháp nơi Vô Thú Lão Nhân, có lưu lại ngự lục ở đời.
Nhất Tâm Thiền sư trụ tại núi Long Trì, Nghi Hưng, xiển dương Thiền tông, tiếp dẫn hậu học.
Nghi Phong Thiền sư húy là Phương Thoán, người Quỳ châu, Sư tham yết ngài Kim Am, rồi nương học nơi ngài Biến Dung mà các mối nghi đều tiêu trừ. Sư làm bài tụng rằng:
Tam huyền, tam yếu chẳng do đâu
Nghĩ suy cùng tận chẳng thể cầu
Trước cửa bước đi ngang qua bếp
Mây trắng núi xanh thảy gật đầu.
Cô Nguyệt Thiền sư tên là Tịnh Trừng, họ Trương, người Yên kinh. Đầu tiên sư tham yết Nguyệt Khê lão nhân, được khai thị mà tỉnh ngộ. Sau sư nghe tiếng tre nổ mà hoát nhiên tâm được rỗng rang, bèn đến ngài Vân Cốc cầu kiến và được trao cho y pháp. Sư làm thơ rằng:
Nghèo ở núi rừng ý thảnh thơi.
Giường trúc giấc ngon đá gối đầu
Thế ngoại sinh nhai tùy phận đủ
Đều do hông ngực chứ không cầu.
Sư có để lại Thanh Lương lục lưu hành ở đời.
Vân Thê Đại sư húy Châu Hoằng, tự Phật Tuệ, hiệu Liên Trì, họ Thẩm, một thế tộc danh gia ở Hàng châu. Đầu tiên sư là một Nho sinh, đến năm hơn ba mươi tuổi, sư mới lễ Hòa thượng Tánh Thiên cầu xuất gia. Kế đó sư du phương tham học trong nhiều năm, nếm đủ các gian khổ, rồi lại trở về Vân Thê ở Hàng châu, lập chùa tập chúng đồng trụ, chuyên tu Tịnh độ đạo màu, chấn chỉnh nghi quỷ yết-ma. Sư trụ thế tám mươi mốt năm, soạn ba mươi hai bộ sách, danh tiếng vang khắp nơi, đại pháp trải cùng chốn, thật là bậc thiện tri thức của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, là đại Hòa thượng của Thiền Giáo Luật. Khi còn sống thì phước duyên sâu rộng, lúc xả thế thì ân đức nhuần thấm đến vô cùng.
Sư thị tịch vào năm Ất Mão.
Nạp Xuyên Pháp sư tên là Châu Hải, biệt hiệu Học Đình, người Ninh Hải, đắc pháp nơi Hòa thượng Thiên Tòng. Sư giảng thuyết ở các chùa lớn như Thiên Thai, Thái Bình, Tiên Cư và Tư Phước ở Biện sơn. Năm bảy mươi ba tuổi, một hôm sư nói kệ từ biệt đại chúng xong thì thị tịch.
Thọ Xương Thiền sư tên là Tuệ Kinh, tự Vô Minh, nhân xem kinh Kim Cang mà phát tâm tỉnh tu hai mươi bốn năm, sau sư tham yết Hòa thượng Thụy Phong, thưa hỏi có khế hợp. Sư trụ Thọ Xương. Năm bảy mươi mốt tuổi, một hôm sư viết bốn chữ "Kim Nhật Phân Minh" lớn để chỉ thị cho đại chúng rồi thị tịch.
Năm Đinh Tỵ niên hiệu Vạn Lịch mười lăm, đế ban chiếu lập Long Hoa đại hội ở núi Ngũ Đài, ban cho một ngàn hai trăm năm mươi bộ tích trượng, y bát, xiển dương rộng lớn tông phong, liên tiếp ba năm ba lần như thế. Bấy giờ do hai ngài Cổ Tâm và Thừa Phương trụ trì.
Hám Sơn Đại sư húy Đức Thanh, khôi phục hàng Na-la-diên, trùng hưng đạo tràng Tào Khê. Sư có soạn Lăng-nghiêm Thông Nghĩa, Pháp Hoa Thông Nghĩa, Lăng-già ký, Viên Giác Giải, Kim Cang Quyết Nghi, Đạo Đức Kinh Chú, Nam Hoa Kinh Chú... lưu hành thế gian.
Giới Sơn Pháp sư húy là Truyền Như, họ Cố, người Hải Diêm, đắc pháp nơi ngài Diệu Phong. Sư có các tác phẩm Lăng Nghiêm Tiệt Lưu, Pháp Hoa Trử Hải, Đạo Đức Phương Tiếu, Trang Sâm... lưu hành ở đời.
Huyễn Cư Pháp sư húy là Châu Giới, hiệu Duyệt Đường, là cao đồ của ngài Thiên Tòng. Sư trụ tại am Truyền y ở Kính Sơn. Sư có soạn các tác phẩm: Lăng Nghiêm Toản Chú, Khởi Tín Chú, Kim Cang Trực Giải, Nhân Minh Duyên Duyên... Sư thường thuyết pháp tại chùa Viên Chứng ở Thành sơn.
- Tây Phương Chỉ Quy do Cư sĩ Lục Điền Nhất Niệm soạn.
- Pháp Hỷ Chỉ do Băng Liên Đạo Nhân soạn.
- Pháp Giới An Lập Đồ do Yên Sơn Bối Lâm húy là Châu Giám soạn.
- Pháp Hoa Tri Âm do Pháp sư Ẩn Phát soạn.
- Pháp Hoa Đại Khoản do Pháp sư Nhất Vũ soạn.
- Lăng-Nghiêm Trực Giải do Pháp sư Nhân An soạn.
- Lăng-Nghiêm Hợp Triệt do Pháp sư Nhất Vũ soạn.
- Lăng-Nghiêm Viên Thông sớ do Pháp sư Vô Tận húy Truyền Đăng soạn.
Tháng bảy năm Canh Thân, niên hiệu Vạn Lịch thứ bốn mươi tám, Đế bệnh, đến ngày hai mươi mốt thì băng hà ở cung Càn Thanh. Mồng một tháng tám Hoàng Thái tử lên ngôi, đổi niên hiệu là Thái Xương thứ nhất. Quang Tông Trinh Hoàng đế là con trưởng của Thần Tông do Vương Quý Phi sinh vào năm Nhâm Ngọ, đến ngày mười tháng mười năm Tân Sửu được lập làm Hoàng Thái tử. Khi Thần Tông băng hà, ngày mồng một tháng tám ông lên ngôi, tại vị một tháng, đặt niên hiệu Vĩnh Xương, thọ ba mươi chín tuổi. Tôn hiệu là: Sùng Thiên Khế Đạo Anh Duệ Cung Thuần Hiếu Văn Cảnh Võ Uyên Nhân Ý Hiếu Trinh Hoàng Đế, miếu hiệu Quang Tông, an táng ở Khánh lăng.
Mồng một tháng tám năm Canh Thân, niên hiệu Vĩnh Xương thứ nhất, Hoàng Thái tử lên ngôi, đại xá thiên hạ. Ngày một tháng chín, Đế băng hà ở cung Càn Thanh, ngày sáu tháng chín hoàng thái tử lên kế vị.
Hi Tông Triết Hoàng đế là con trưởng của
Quang Tông do Vương Tài Nhân sinh. Năm mười lăm tuổi, Quang Tông băng hà, ông lên Đế vị, tại ngôi bảy năm, thọ hai mươi hai tuổi. Tôn hiệu là Đạt Thiên Diễn Đạo Đôn Hiếu Đốc Hữu Chương Văn Tượng Võ Đoan Tỉnh Mục Trang Triết Hoàng đế, miếu hiệu Hy Tông, an táng ở Đức lăng.
Tháng hai năm Tân Dậu, Thiên Khải Nguyên niên, hai bên mặt trời có tai giống như mặt trăng, dài như vòng ngọc, lớn khắp cả bầu trời. Tháng mười hai, trên mặt trời mờ mờ có một vật cũng lớn bằng mặt trời ép sát vào mặt trời.
Trạm Thiên Hòa thượng trụ ở Vân Môn, truyền tông Tào Động, phục hưng các ngôi chùa cổ, đắp đê ngăn biển. Sư có Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Nga Hồ Thiền sư húy Quảng Tâm, hiệu Dưỡng Am. Sư từng tham lễ ngài Thúy Phong, ngài Biện Dung, sau cùng đắc pháp nơi ngài Vân Thê.
Năm Đinh Mão, niên hiệu Thiên Khải thứ bảy. Hoàng Bá Vô Niệm húy là Thâm Hữu, hiệu Tây Ảnh. Sư từng tham lễ ngài Đại Hưu... lúc sắp thị tịch, sư có nói bài kệ rằng:
Hơn bốn mươi năm nào trụ công
Đến đi cùng khắp chẳng tích tông
Mà nay rốt ráo không nơi gá
Mới ngộ từ xưa lầm dụng công.
Ngày hai mươi tháng bảy năm Đinh Mão, niên hiệu Thiên Khải thứ bảy, sư thị tịch, có Ngữ Lục lưu hành ở đời.
Tổng cộng một trăm năm mươi vị.
Bắt đầu từ năm Giáp Tý đời Thế Tổ nhà Nguyên đến đây là năm Đinh Mão, niên hiệu Thiên Khải đời Hy Tông nhà Minh, tổng cộng là ba trăm sáu mươi bốn năm, ghi chép hơn bốn trăm ba mươi vị Tăng.
Thích Văn tự thuật xong, kính ghi!
[1] Kho tàng danh sơn: Tức là tác phẩm có giá trị có thể lưu truyền cho hậu thế
[2] Tượng Khuyết: Chỉ cho triều đình, hoàng cung.
[3] Triền độ: Sự vận hành của tinh tú.
[4] Tiềm Phiên: Còn là một vị Vương chưa lên ngôi Hoàng để.