TẠP TẠNG
I. NIÊN LỊCH CÁC VƯƠNG TRIỀU BA NƯỚC THEO VƯƠNG LỊCH TRUNG QUỐC
Cổ Triều Tiên (Vương Kiệm Triều Tiên)
Bốn mùa dạo chơi với các trạch.
Kim Yên Trí đời Thoát Giải vương:
Thiện Đức Vương biết ba việc sắp xảy ra:
Thần Võ Đại Vương-Diêm Trường-Cung Ba:
Chân Thánh Nữ Đại Vương-Cừ Đà Tri:
Thuận Đạo đến Cao Ly đầu tiên:
A Đạo đặt nền móng Phật pháp ở Tân La:
Nguyên Tông hưng khởi Phật pháp:
Bảo Tạng Phụng người già-Phổ Đức dời am:
Phiến đá Phật Ca-diếp yên tọa:
Tháp Dục Vương ở thành Liêu Đông:
Bảo tháp Ta-bà tại thành Kim quan:
Tượng Phật (trượng sáu) chùa Hoàng Long:
Tháp chín tầng chùa Hoàng Long:
Tượng Phật Di-lặc bằng đá ở chùa Sinh Nghĩa:
Bức bích họa Phổ Hiền chùa Hưng Luân:
Tượng Đại Bi Thiên Thủ ở chùa Phấn Hoàng-Đứa bé mù được sáng mắt:
Hai vị Đại Thánh ở Lạc Sơn-Quán Âm-Chánh Thú-Điều Tín:
Minh Châu Ngũ Đài Sơn Bảo Sát Đồ Thái Tử truyện ký:
Năm hạng Thánh Chúng ở chùa Nguyệt Tinh, Đài sơn:
Nam Nguyệt Sơn: (còn gọi là Cam Sơn Tự)
Sau vầng hỏa quang của Đức Di-đà Phật có ghi:
Thạch tháp Xá-lợi ở chùa Bá Nghiêm:
Viên Quang sang Trung Quốc cầu học:
Ngài Nguyên Hiểu không bị câu thúc:
Quan Đông Phong Nhạc Bát Uyên Tẩu Thạch Ký:
Tiên Đào Thánh Mẫu tùy hỷ Phật sự:
Tỳ nữ Úc Diện niệm Phật sinh về Tây Phương:
Chân thân thọ nhận cúng dường:
Đâu-suất ca của Sư Nguyệt Minh:
Tuệ Tinh Ca của Dung Thiên Sư-Đời Chân Bình Vương:
Lãng Trí cưỡi mây-Phổ Hiền Thọ:
Năm vị Tỳ-kheo ở núi Bố Xuyên:
Tốt Ngũ nuốt lệ cố quyết chối từ, nói rằng:
Đại Thành hiếu dưỡng cha mẹ hai đời:
Xá nhân Hướng Đắc cắt thịt đùi dâng cha:
Bộ Tam Quốc Di Sự này do vị tăng tên là Nhất Nhiên soạn vào thời Trung Liệt vương nước Cao Ly, kế tiếp bộ Tam Thị Sử ký, nội dung ghi chép những việc đời trước ít được truyền nghe của ba nước Tân La, Cao Cú Ly và Bách Tế. Sách gồm năm quyển, phân làm chín môn. Đầu tiên không có lời tựa và bạt, chỉ lập niên biểu của ba nước, sau đó là ghi chép những việc thần kỳ linh diệu, chủ yếu là tôn sùng Phật, hoằng dương chánh pháp. Những người luận bàn cho rằng hoang đường, không có chứng cứ, khó có thể tin, nhưng phong quy đã lưu truyền, những tục chế để lại đều rải rác có ghi; cho đến địa thế, khởi nguồn của châu, huyện, quận, thị đều có ghi chép đầy đủ. Nếu muốn trình bày sự việc của ba nước này một cách đầy đủ như dùng rau phong, rau phỉ, thì đâu cho phép bỏ sót điều nào?
Sách này hoàn thành trong khoảng niên hiệu
Chí Nguyên và Đại Đức (1264-1267); hơn hai trăm năm sau nhằm năm Nhâm Thân, niên hiệu Chánh Đức thứ bảy đời Minh mới tái bản, có Phủ Doãn Khánh Châu là Lý Kế Phước viết lời bạt rằng: "Ba nước ở phương Đông của ta, có hai bản Bản Sử Dị Sự, nhưng họ không ấn hành, chỉ còn ở tại bổn phủ một bản, nhưng trải qua thời gian lâu xa đã bị hư nát, thiếu khuyết, một hàng chỉ có thể đọc được năm, sáu chữ... Vì muốn khắc bản, nên tôi đã tìm cầu bản hoàn chỉnh khắp nơi, nhưng trải qua mấy năm mà chẳng được... May thay Mục Lại Tinh Châu là Quyền Công nghe tôi tìm cầu, nên ông đã tìm được một bản toàn vẹn gởi cho... " Như thế việc tái bản là xuất phát từ Kế Phước. Nhưng nói là bản hoàn chỉnh, nhưng thật ra chẳng phải thật là hoàn chỉnh, e rằng trong đó còn thiếu sót hơn bản chép tay. Nước ta có lưu truyền hai bản, một bản giữ tại Đức Xuyên hầu ở Vĩ châu, một bản cất tại Nam Tước Thần Điền, đều được tái bản vào niên hiệu Chánh Đức, trong đó văn tự sai sót, lầm lẫn rất nhiều, tựa như bản cũ, thậm chí còn rớt mất, hoặc không còn chữ, làm cho văn đứt quãng, nghĩa chẳng thông, không thể đọc xem được. Do đó mới dùng bản của hai nhà làm chính, đồng thời dùng các bộ như Tam Quốc Sử Ký, Cao Ly Sử, Đông Kinh Tạp Ký, Đông Quốc Thông Giám, Văn Hiếu Bị Khảo, Dư Địa Thắng Lãm, Hải Đông Kim Thạch Uyển Ký, Hán Thổ Lịch Đại Sử Thư, Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng truyện, Đường Tục Cao
Tăng Truyện để kiểm xét đính chính, bỏ những điều ngụy vọng, thêm những việc thiếu sót, dùng Hoạt tự ấn hành để lưu thông ở đời.
Từ năm Chí Nguyên đến nay đã hơn sáu trăm năm, chúa Nguyên là Hốt Tất Liệt thành lập Chinh Đông tỉnh, dùng Cao Ly dẫn đường đem quân sang cướp phá nước ta, bị các đội quân trấn giữ phía Tây đánh giết hết. Sau khi bại trận chúa Cao Ly muốn sung tất cả Nho sinh vào quân ngũ, nhưng Nhất Nhiên là người Cao Ly lại siêng năng cẩn mẫn soạn sách trong thời gian này. Tiếc rằng ngòi bút của sư lúc bấy giờ không được khúc chiết gãy gọn để gây niềm tin trong thiên hạ ở đời sau, khiến cho quan hệ giữa Tam Hàn và nước ta đã xa cách từ thời trước. Sách này ghi chép, trong đó có đề cập đến nước ta; vả lại trong sách có đưa vào Hương Ca thì phần nhiều là dùng tiếng Tân La; nói Hương Ca giống như nói quốc phong vậy. Cổ ngữ Tân La đã mất, chỉ còn hơn mười bài Hương Ca, thật là hạt châu còn sót trong biển xanh. Thế thì chẳng cần phải trực tiếp khảo cứu việc xưa của Tân La, mà cũng đủ để tham cứu cổ ngữ của nước ta. Các nhà khảo cổ truy tầm cái nguồn mà cứu xét cái gốc, ngõ hầu có được điều lợi ích.
Thượng tuần tháng chín, năm Nhâm Dần, năm Minh Trị thứ ba mươi lăm.
Phàm Lệ.
1. Thiên này vốn không có mục lục, nay căn cứ theo các tiêu đề trong đó mà lập ra.
Quyển một, điều Mạt Thát, Bột Hải thiếu hai trang. Quyển ba, điều Nam Nguyệt Sơn thiếu một trang, điều Bá Nghiêm Tự Thạch Tháp xá-lợi thiếu hai trang, còn những sự thiếu sót khác hoặc mất tiêu đề, hoặc mất tên biển, chẳng thể khảo chứng thì tồn nghi để khuyết.
2. Về niên biểu, đầu tiên thiếu hai trang, nay chẳng thể bỏ khuyết.
Trong sách, như văn tự bị thiếu, hoặc mờ nhạt đọc chẳng được in lại mẫu để tồn nghi, hoặc giả theo ý mà định văn tự, thì thêm dấu () để phân biệt. Nếu mất thiếu chữ thì làm dấu [ ] để biết.
3. Các chữ số và can, chi có lúc cũng sai sót, trong lúc hành văn có sai lạc, hoặc chấm phết lầm lẫn thì đính chính. Trong đó có lúc cũng luận về đúng sai ở trên.
4. Những chữ chung mượn âm thì không dám cải chính, chỉ nêu nguyên do ở trên. Các chữ húy kỵ cũng thế, chỉ tĩnh lược các nét chữ, như viết, viết thì sửa lại. Như chữ là tên húy của Thái tổ nước Cao ly, là tên húy của vua Tuệ Tông, đồng thời để cho khó đọc được một cách phổ biến. Tô Thức nói rằng: "Bậc tiền bối còn chẳng dám sửa đổi cổ thư! Cho nên văn tự, những chữ thuộc về biệt thể, chỉ cần giữ được hình tướng xưa. " Vâng giữ theo cổ đức là một việc, nhưng dùng hoạt tự in ấn thì việc lầm lẫn văn tự như Ô () và Yên () rất dễ xảy ra. Xin người đọc lượng thứ.
-------------------------
Môn thứ nhất là Kỷ dị, gồm các điều:
1. Cổ Triều Tiên.
2. Ngụy Mãn Triều Tiên.
3. Mã Hàn.
4. Nhị Phủ.
5. Bảy mươi hai nước.
6. Nhạc Lương quốc.
7. Bắc đới phương (phương Bắc).
8. Nam đới phương (phương Nam).
9. Mạt Thát Bột Hải.
10. [] [] [] []
11. Biện Hàn-Bách Tế.
12. Thần Hàn.
13. Tứ Tiết Du Thạch.
14. Thỉ Tổ Tân La-Hách Cư Thế vương.
15. Đệ Nhị Nam Giải vương.
16. Đệ Tam Nổ Lễ vương.
17. Đệ Tứ Thoát Giải vương.
18. Kim Ứ Tri-Đới Thoát Giải vương.
19. Diên Ô Lang-Tế Ô Nữ.
20. Vị Trâu vương-Trúc Diệp Quân.
21. Nại Vật vương-Kim Đê Thượng.
22. Đệ Thập Bát Thật Thánh vương.
23. Xạ Cầm Hạp.
24. Trí Thiết Lão vương.
25. Chân Hưng vương.
26. Đào Hoa nữ-Tỵ Kinh Lang.
27. Trời ban đai ngọc.
28. Thiện Đức vương ba việc biết cơ.
29. Chân Đức vương.
30. Kim Dữu Thí.
31. Thái tông Xuân Thu Công.
32. Trường Xuân Lang-Bãi Lang.
1. Văn Hỗ Vương Pháp Mẫn.
2. Văn Ba Tức Địch.
3. Đời Hiếu Chiêu vương-Trúc Chỉ Lang.
4. Thánh Đức vương.
5. Phu Nhân Thủy Lộ.
6. Hiếu Thành vương.
7. Cảnh Đức vương-Trung Đàm Sư.
8. Biểu Huấn Đại Đức.
9. Tuệ Cung vương.
10. Nguyên Thánh Đại vương.
11. Tảo Tuyết.
12. Hưng Đức vương-Anh Vũ.
13. Thần Võ Đại vương-Diêm Trường.
14. Cung ba.
15. Đời bốn mươi tám Cảnh Văn Đại vương-Xử Dung Lang.
16. Vọng Hải tự.
17. Chân Thánh nữ Đại vương-Cư Đà Tri.
18. Hiếu Cung vương.
19. Cảnh Minh vương-Cảnh Ai vương.
20. Kim Phó Đại vương.
21. Nam Phù Dư.
22. Tiền Bách Tế-Bắc Phù Dũ.
23. Võ vương.
24. Hậu Bách Tế-Chân Huyên.
25. Giá Lạc quốc ký.
Môn thứ 3: Hưng pháp, gồm các điều:
1. Thuận Đạo đến Cao Ly đầu tiên.
2. Nan-đà sang Bách Tế khai pháp.
3. A-đạo đặt nền móng ở Tân-La.
4. Nguyên Tông hưng pháp-Yểm Độc diệt thân.
5. Pháp vương Cấm Sát.
6. Bảo Tạng phụng người già-Phổ Đức dời am.
7. Mười vị Thánh ở Kim Đường chùa Hưng Luân ở Đông kinh.
8. Tòa đá của Phật Ca-diếp.
9. Tháp A-dục ở thành Liêu Đông.
10. Thạch tháp Ta-bà ở thành Kim Quan.
11. Chùa Linh Tháp ở Cao Ly.
12. Tượng Phật một trượng sáu chùa Hoàng Long.
13. Tháp chín tầng chùa Hoàng Long.
14. Chuông chùa Hoàng Long.
15. Dược sư chùa Phân Hoàng.
16. Chuông chùa Phụng Đức.
17. Tượng Phật một trượng sái chùa Linh Diệu.
18. Tứ Phật sơn.
19. Quật Phật sơn.
20. Vạn Phật sơn.
21. Tượng Phật Di-lặc bằng đá chùa Sinh Nghĩa.
22. Bách họa Phổ Hiền chùa Hưng Luân.
23. Đức Quán Âm ở ba nơi-Chùa Chúng Sinh.
24. Chùa Bá Lật.
25. Chùa Mẫn Tạng.
26. Thỉnh Xá-lợi. [] [] [] []
1. Di-lặc Tiên Hoa-Vị Thi Lang.
2. Chân Từ Sa.
3. Hai vị Thánh ở Nam Bạch Nguyệt.
4. Nổ bi phù đắc-Đát đát phác phác.
5. Đức Thiên Thủ Đại Bi chùa Phân Hoàng.
6. Đứa bé mù sáng mắt.
7. Hai Đại Thánh ở Lạc sơn-Quán Âm-Chánh Thú.
8. Điều trí.
9. Ảnh Phật ở Ngũ sơn.
10. Năm vạn châu thân ở Đài sơn.
11. Minh Châu Ngũ đài sơn Bảo Sát Đồ Thái Tử truyện ký.
12. Năm loại Thánh chúng chùa Nguyệt Tinh ở Đài sơn.
13. Nam Nguyệt sơn.
14. [] [] [] []
15. [] [] [] []
16. Điện Di-đà chùa Mâu tạng-Thạch tháp Xálợi chùa Bá nghiêm.
-Môn thứ năm là nghĩa giải, gồm các điều:
1. Viên Quang Tây du cầu học.
2. Cây lê của ngài Bảo Nhưỡng
3. Lương chi phi trượng.
4. Các sư thị tịch ở Tây trúc.
5. Hai tuệ đồng trần.
6. Từ tạng định luật.
7. Nguyên Hiểu chẳng bị trói buộc.
8. Nghĩa tương truyền giáo.
9. Xá Phước chẳng nói.
10. Chân Biểu truyền thẻ.
11. Khai Đông Phong Nhạc Bát Uyên Tẩu Thạch ký.
12. Thắng Thuyên đầu lâu.
13. Tâm địa kế tổ phong.
14. Hiền Du-già.
15. Pháp Hoa Nghiêm
-Môn thứ sáu là Thần chú, gồm các điều:
1. Mật Bản phá tà.
2. Tuệ Tông chế phục rồng.
3. Minh Lãng ấn thân.
-Môn thứ bảy, cảm thông, gồm các điều:
1. Tiên Đào Thánh mẫu tùy hỷ Phật sự.
2. Úc-diện-tỳ niệm Phật vãng Tây phương.
3. Quảng Đức-Nghiêm trang.
4. Cảnh Hưng gặp Thánh.
5. Chân thân thọ cúng dường.
6. Sư Minh Nguyệt làm Đâu-suất-ca.
7. Thiện Luật sống lại.
8. Kim Hiện cảm hóa cọp.
9. Sư Dung Thiên soạn Tuệ tinh ca.
10. Đời Chân Bình vương.
11. Sư Chánh Tú cứu người nữ sinh con.-Môn thứ tám ẩn cư, gồm các điều:
1. Lãng Trí cưỡi mây-Phổ Hiền thọ-Duyên Hội mai danh-Văn-thù thiếp.
2. Tuệ Hiện cầu ma tỉnh.
3. Tín Tuệ từ quan.
4. Hai vị Thánh ở Bào sơn.
5. Vĩnh Tài gặp giặc.
6. Vật Kê Tử-Sư Nghinh Như.
7. Bố Xuyên sơn-Năm vị Tỳ-kheo đời Cảnh Đức vương.
8. Sư niệm Phật.
Môn thứ chín, Hiếu Thuận, gồm các điều:
1. Sư Chân Định hiếu và thiện đều đủ.
2. Đại Thánh có hiếu với hai đời cha mẹ-Đời Thần Văn vương.
3. Hướng Đắc Xã Tri cắt thịt đùi dâng cha mẹ. Thời Cảnh Đức vương.
4. Tôn Thuận chôn con-Thời Hưng Đức vương.
5. Người con gái nghèo nuôi mẹ.
6. Lời bạt.
Thời Tiền Hán Trung Hoa:
* Đời Tuyên Đế: Niên hiệu Ngũ Phượng, năm năm, bắt đầu từ năm Giáp Tý.
-Nước Tân-La.
Đời thứ nhất vua Hách Cư Thế: Vua họ Phác thuộc Noãn sinh, năm Giáp Tý được mười ba tuổi thì lên ngôi, tại vị sáu mươi năm, cưới Nga Y Anh Nga Anh, đặt quốc hiệu là Từ La Phiệt, Từ Phiệt hoặc Tư La, hoặc lầm gọi là La Lâm. Đến đời Thoát Giải vương mới đặt hiệu là Kê Lâm.
* Đời Tuyên Đế niên hiệu Cam Lộ, bốn năm bắt đầu vào năm Mậu Thìn; đến niên hiệu Hoàng Long, bốn năm, bắt đầu từ năm Nhâm Thân.
Đời Nguyên Đế niên hiệu Sơ Nguyên, năm năm, bắt đầu từ năm Quý Dậu; niên hiệu Vĩnh Quang, năm năm bắt từ năm Mậu Dần; niên hiệu Kiến Chiêu, sáu năm bắt đầu từ năm Quý Mùi.
- Tân La.
Năm Giáp Thân xây dựng Kim thành.
- Cao Ly.
Đời vua thứ nhất là Đông Minh vương lên ngôi năm Giáp Thân, tại vị mười chín năm, họ Cao, tên Chu Mông, còn gọi là Trâu Mông, con của Đàn Quân.
* Đời Thành Đế: Niên hiệu Kiến Thỉ, bốn năm, từ năm Kỷ Sửu; niên hiệu Hà Bình, bốn năm, từ năm Quý Tỵ; niên hiệu Dương Sóc, bốn năm, từ năm Đinh Dậu. Niên hiệu Hồng Mạ, bốn năm, từ năm Tân Sửu; niên hiệu Vĩnh Thủy, bốn năm, từ năm Ất Tỵ.
- Tân La.
- Cao Ly.
Đời vua thứ hai là Lưu Ly vương, còn gọi là Lụy Lợi vương, còn gọi là [] Lưu, là con của Đông Minh, lên ngôi năm Nhâm Dần, tại vị ba mươi sáu năm, họ Giải.
- Bách Tế.
Đời vua thứ nhất là Ôn Tộ vương, con thứ ba của Đông Minh, Khuê là con thứ hai, lên ngôi năm Quý Mão, tại vị bốn mươi lăm năm, đóng đô ở Úy Lễ thành, còn gọi là Xà Xuyên, nay là Lăng sơn. * Đời vua Ai Đế: Niên hiệu Kiến Bình, bốn năm, từ năm Ất Mão.
Năm Bính Thìn dời đô về Hán sơn nay là Quảng châu.
* Đời vua Ai Đế, niên hiệu Nguyên Thọ, hai năm, từ năm Kỷ Mùi.
* Đời vua Bình Đế: niên hiệu Nguyên Thỉ, bảy năm, từ năm Tân Dậu.
-Tân La
Đời vua thứ hai là Nam Giải vương tức Thứ Thứ Hùng, cha là Hách Cư Thế, mẹ là Yến Anh, họ Phác, vợ là Vân Đế phu nhân, lên ngôi năm Giáp Tý, tại vị hai mươi năm. Vương vị này cũng gọi là Cư Tây Can.
* Đời Nhụ Tử, niên hiệu Sơ Thỉ, hai năm, từ năm Mậu Thìn. Năm Quý Hợi, Cao Ly dời đô về thành Quốc nội cũng gọi là thành Bất nhi.
* Đời Tân Thất, niên hiệu Kiến Quốc, năm năm, từ năm Kỷ Tỵ; niên hiệu Thiên Phượng, sáu năm, từ năm Giáp Tuất.
-Nước Cao Ly.
Đời vua thứ ba là Đại Hổ Thần vương, tên là Vô Tuất, còn gọi là Vị Lưu, họ Giải, con thứ ba của Lưu Ly vương, lên ngôi năm Mậu Dần, tại vị hai mươi sáu năm.
* Niên hiệu Địa Phượng, hai năm, từ năm Canh Thìn.
-Tân La.
Đời vua thứ ba là Nổ Lễ, còn gọi là Nổ Ni Sất Kim, cha là Nam Giải, mẹ là Vân Đế, vợ là Kim Thị con gái của Từ Yếu vương, lên ngôi năm Giáp Thân, tại vị ba mươi ba năm. Ni Sất Kim hay gọi là Ni Sư Kim.
* Đời vua Canh Thỉ, niên hiệu Canh Thỉ, hai năm, bắt đầu từ năm Quý Mùi.
* Thời Hậu Hán, đời Võ Đế, niên hiệu Kiến Võ, ba mươi mốt năm từ năm Ất Dậu.
- Tân La.
- Cao Ly.
Đời vua thứ tư là Mẫn Trung vương, tên Ấp Chu, họ Giải, là con của Đại Hổ, lên ngôi năm Giáp Thìn, tại vị được bốn năm.
Đời thứ năm là Mộ Bản vương là anh của Mẫn Trung, tên là Ái, còn gọi là Ưu, lên ngôi năm Mậu Thân, tại vị năm năm.
- Bách Tế.
Đời vua thứ hai là Đa Lâu vương là con thứ hai của Ôn Tộ, lên ngôi năm Mậu Tý, tại vị bốn mươi chín năm.
- Nước Giá Lạc.
Còn gọi là Già-da, nay là Kim châu.
Đời vua thứ nhất Thủ Lộ vương, thuộc Noãn sinh vào tháng 3 năm Nhâm Dần, lên ngôi ngay tháng này, tại vị một trăm năm mươi tám năm. Do từ trứng vàng sinh ra nên lấy họ Kim, mở đầu năm Hoằng Lịch.
- Nước Cao Ly.
Đời vua thứ sáu là Quốc Tổ vương, tên là Cung, còn gọi là Đại Tổ vương, lên ngôi năm Quý Sửu, tại vị chín mươi ba năm. Theo Hậu Hán truyện thì lúc vương mới sinh, vừa mở mắt đã biết mai sau người kế vị là Thủ Đại vương, là em cùng mẹ.
* Đời vua Võ Đế, niên hiệu Trung Nguyên, hai năm, từ năm Bính Thìn.
-Nước Tân La.
Đời vua thứ tư là Thoát Giải vương, còn gọi là Sất Giải Ni Sất Kim, họ Tích, cha là Hàm Đạt Bà vương nước Hoàn Hạ, còn gọi là Hoa Hạ Quốc vương, mẹ là con của quốc vương nước Tích Nữ, vợ là A Lão phu nhân, con của Nam Giải vương, lên ngôi năm Đinh Tỵ, tại vị hai mươi ba năm thì băng hà, thủy táng tại Mạt [] Sơ Tĩnh Khâu, lập tượng ở Đông Khâu, nay gọi là Đông Khâu Đại vương.
* Đời vua Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Niên, mười tám năm, từ năm Mậu Ngọ.
* Đời vua Chương Đế, niên hiệu Kiến Sơ, tám năm, bắt đầu từ năm Bính Tý.
- Nước Tân La.
Đời vua thứ năm là Bà Bà Ni Sất Kim, họ Phác, cha là Nổ Lễ vương, mẹ là con gái của Từ Yếu vương, vợ là Sử Tiếu phu nhân, lên ngôi năm Canh Thìn, tại vị mười hai năm.
- Bách Tế.
Đời vua thứ ba là Kỷ Lâu vương, là con của Đa Lâu vương, lên ngôi năm Đinh Sửu, tại vị năm mươi lăm năm.
* Đời vua Chương Đế, niên hiệu Nguyên Hòa, ba năm, từ năm Giáp Thân; niên hiệu Chương Hòa, hai năm từ năm Đinh Hợi.
* Đời vua Hòa Đế, niên hiệu Vĩnh Nguyên, mười bảy năm, từ năm Kỷ Sửu.
* Đời vua Thương Đế, niên hiệu Nguyễn Hưng, một năm Ất Tỵ
* Đời An Đế, niên hiệu Diên Bình, một năm Bính Ngọ; niên hiệu Vĩnh Sơ, bảy năm, từ năm Đinh Mùi.
-Tân La.
Đời vua thứ sáu là Kỳ Ma Ni Sất Kim, còn gọi là Kỳ Vị, họ Phác, cha là Bà Sa, mẹ là Sử Tiếu phu nhân, vợ là con gái của Ma Đế quốc vương, tên [] Lễ phu nhân, họ Kim. Vua lên ngôi năm Nhâm Tý, tại vị hai mươi hai năm, vào thời vua này đã diệt được nước Âm Chất, nay là nước An Khương và Áp Khương, tức [] Sơn ngày nay.
* Đời An Đế, niên hiệu Nguyên Sơ, sáu năm, từ năm Giáp Dần, niên hiệu Vĩnh Minh, một năm Canh Thân; niên hiệu Kiến Quang, một năm Tân Dậu; niên hiệu Diên Quang, bốn năm, từ năm Nhâm Tuất.
* Đời Thuận Đế, niên hiệu Vĩnh Kiến sáu năm từ năm Bính Dần.
- Nước Tân La.
Đời thứ bảy Dật Thánh Ni Sất Kim vương, cha là anh của Nổ Lễ vương, hoặc gọi là Kỳ Ma vương. Vợ là [] Lễ phu nhân, cha của Nhật Tri Cát Văn vương. [] [] Lễ phu nhân là con gái của Kỳ Ma vương. Mẹ là Y Lợi Sinh phu nhân, hoặc gọi là [] [] vương phu nhân. Vương họ Phác, lên ngôi năm Giáp Tuất, tại vị hai mươi năm.
- Nước Bách Tế.
Đời vua thứ tư là Cái Lâu vương, con của Kỷ Lâu, lên ngôi năm Mậu Thìn, tại vị ba mươi chín năm.
* Đời Thuận Đế niên hiệu Dương Gia, bốn năm từ năm Nhân Tý; niên hiệu Vĩnh Hòa, sáu năm, từ năm Bính Tý; niên hiệu Hán An, hai năm, từ năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Kiến Khang năm Giáp Thân.
* Đời Xung Đế, niên hiệu Vĩnh Gia năm Ất Dậu.
* Đời Chất Đế, niên hiệu Bản Sơ, năm Bính Tuất.
-Cao Ly.
Đời vua thứ bảy là Thứ Đại vương, tên là Toại, em cùng mẹ với Quốc Tổ vương, lên ngôi năm Bính Tuất, tại vị mười chín năm.
* Đời Hoàn Đế, niên hiệu Kiến Hòa, ba năm, từ năm Đinh Hợi; niên hiệu Hòa Bình năm Canh Dần; niên hiệu Nguyên Gia, hai năm, từ năm Tân Mão; niên hiệu Vĩnh Hưng, hai năm, từ năm Quý Tỵ.
-Tân La.
Đời vua thứ tám là A Đạt La Ni Sất Kim.
* Niên hiệu Vĩnh Thọ, ba năm, từ năm Ất Mùi.
-Cao Ly.
Năm Ất Tỵ, Quốc Tổ vương đã một trăm mười chín tuổi; hai anh em đều bị Tân vương giết hại.
* Đời Hoàn Đế, niên hiệu Diên Hy, chín năm, từ năm Mậu Tuất.
- Tân La.
Giao thông với Nhật Bản.
- Cao Ly.
Đời vua thứ tám là Tân Đại vương, tên là Bá Cố, Bá Câu. Lên ngôi năm Ất Tỵ, tại vị mười bốn năm.
- Bách Tế.
Đời vua thứ năm là Tiếu Cố vương, còn gọi là Tố Cổ, là con của Cái Lâu, lên ngôi năm Bính Ngọ, tại vị năm mươi năm.
* Đời Hoàn Đế, niên hiệu Vĩnh Khương, năm Đinh Mùi.
-Tân La.
Lập Di-lặc Đại Viên ở Đông Nham hiện nay.
* Đời Linh Đế, niên hiệu Kiến Ninh bốn năm, từ năm Mậu Thân; niên hiệu Hy Bình, sáu năm từ năm Nhâm Tý; niên hiệu Quang Hòa, sáu năm, từ năm Mậu Ngọ.
-Cao Ly.
Đời thứ tám là Cổ Quốc Xuyên vương, tên là Nam Hổ, hoặc gọi là Y Mô, lên ngôi năm Kỷ Mùi, tại vị hai mươi năm. Quốc Xuyên cũng gọi là Quốc Nhưỡng, là nơi an táng.
* Đời Linh Đế, niên hiệu Trung Bình, năm năm, từ năm Giáp Tý.
-Tân La.
Đời thứ chín là Phiệt Mộc Ni Sất Kim.
* Đời Hồng Nông Vương Hiến Đế niên hiệu Vĩnh Hán năm Kỷ Tỵ; niên hiệu Sơ Bình, bốn năm, từ năm Canh Ngọ; niên hiệu Hưng Bình, hai năm, từ năm Giáp Tuất; niên hiệu Kiến An hai mươi bốn năm, từ năm Bính Tý.
- Tân La.
Đời thứ mười một là vua Nại Giải Ni Sất Kim.
- Cao Ly.
Đời vua thứ mười là Sơn Thượng vương.
- Bách Tế.
Đời vua thứ sáu là Cừu Thủ vương, còn gọi là Quý Tu, con của Tiếu Cổ vương, lên ngôi năm Giáp Ngọ, tại vị hai mươi năm.
- Gia Lạc (Già-da).
Đời thứ hai là Cư Đăng vương, con thứ hai của Thủ Lộ, mẹ là Hứa hoàng hậu, lên ngôi năm Kỷ Mão, tại vị năm mươi lăm năm, họ Kim.
* Thời Tào Ngụy, đời Văn Đế, niên hiệu Hoàng Sơ, bảy năm, từ năm Canh Tý.
* Đời Minh Đế, niên hiệu Đại Hòa, sáu năm, từ năm Đinh Mùi.
- Tân La.
Đời thứ mười một là Trợ Phần Ni Sất Kim.
- Cao Ly.
Đời thứ mười một là Đông Xuyên vương.
* Đời Minh Đế, niên hiệu Thanh Long, bốn năm, từ năm Quý Sửu.
-Bách Tế.
Đời thứ bảy là Sa Ban vương, còn gọi là Sa Phật, Sa Y, là con của Cừu Thủ vừa lên ngôi liền bị phế.
* Đời Minh Đế, niên hiệu Cảnh Sơ, ba năm, từ năm Đinh Tỵ.
* Đời Tề vương, niên hiệu Chánh Thỉ, chín năm, từ Canh Thân.
- Tân La.
Đời thứ mười hai là Triêm Giải Ni Sất Kim, còn gọi là Triêm Giải vương, họ Tích, em đồng mẹ với Trợ Phẩn vương, lên ngôi năm Đinh Mão, tại vị mười lăm năm. Bấy giờ mới bang giao với Cao Ly.
- Bách Tế.
Đời thứ tám là Cổ Nhĩ vương, em cùng mẹ với Tiêu Cố vương, lên ngôi năm Giáp Dần, tại vị năm mươi hai năm.
* Đời Tề vương, niên hiệu Gia Bình, năm năm, từ năm Kỷ Tỵ.
-Cao Ly.
Đời thứ mười hai là Trung Xuyên vương.
* Đời Cao Quý Hương Công, niên hiệu Chánh Nguyên, hai năm, từ năm Giáp Tuất; niên hiệu Cam Lộ bốn năm, từ năm Bính Tý.
-Gia Lạc (Già-da).
Đời thứ ba là Ma Phẩm vương, cha là Cư Đăng vương, mẹ là con gái của Tuyền Phủ Khanh thân phủ, gọi là Mộ Trinh phu nhân, lên ngôi năm Kỷ Mão, tại vị ba mươi hai năm.
* Trần Lưu vương, niên hiệu Cảnh Nguyên, bốn năm, từ năm Canh Thìn.
-Tân La.
Đời vua thứ mười ba là Vị Trâu Ni Sất Kim, còn gọi là Vị Chiêu, Vị Tổ, họ Kim, mới lập. Cha là Cừu Đạo Cát Văn vương; mẹ là Sinh Hồ, còn gọi là Thuật Lễ phu nhân, con gái của Y Phi Cát Văn vương, họ Phác. Vua cưới Quang Minh Nương là con gái của Gia Phần vương, lên ngôi năm Nhâm Ngọ, tại vị hai mươi hai năm.
* Đời Tây Tấn vua Võ Đế, niên hiệu Thái Thủ, mười năm từ năm Ất Dậu.
-Cao Ly.
Đời thứ mười ba là Tây Xuyên vương, tên là Dược Lô, còn gọi là Nhược Hữu, lên ngôi năm Canh Dần, tại vị hai mươi hai năm.
* Đời Võ Đế, niên hiệu Hàm Ninh, năm năm, từ Ất Mùi; niên hiệu Đại Khang, mười một năm, từ năm Canh Tý.
- Tân La.
Đời vua thứ mười bốn là Nho Lễ Ni Sất Kim, còn gọi là Thế Lý Trí vương, họ Tích, cha là Gia Phân vương, mẹ là [] Chiêu phu nhân, họ Phác. Vua lên ngôi năm Giáp Thìn, tại vị mười lăm năm, xây dựng Nguyệt thành.
- Bách Tế.
Đời vua thứ mười chín là Trái Kê vương, con của Cổ Nhĩ, gọi là Trái Thế là lầm lẫn; lên ngôi năm Bính Ngọ, tại vị mười hai năm.
* Đời Huệ Đế, niên hiệu Nguyên Khang, chín năm, từ Tân Hợi.
-Cao Ly.
Đời thứ mười bốn là Phung Thượng vương, còn gọi là Trỉ Cát vương, tên là Tướng Phu, lên ngôi năm Nhâm Tý, tại vị tám năm.
* Đời Huệ Đế, niên hiệu Vĩnh Ninh năm Tân Dậu.
- Tân La.
Đời thứ mười lăm là Cơ Lâm Ni Sất Kim, còn gọi là Cơ Lập vương, họ Tích, là con thứ hai của Gia Phần vương, mẹ là A Nhĩ Hề phu nhân; lên ngôi năm Mậu Ngọ, tại vị mười hai năm.
- Bách Tế.
Đời thứ mười là Phần Tây vương, con của Trái Kê vương, lên ngôi năm Mậu Ngọ, tại vị sáu năm.
- Gia Lạc.
Vua thứ tư là Cư Sất Di vương, còn gọi là Kim Vật, cha là Ma Phẩm, mẹ là Hiếu Cừu, lên ngôi năm Tân Hợi tại vị năm mươi lăm năm.
* Đời vua Huệ Đế niên hiệu Đại An, hai năm, từ năm Nhâm Tuất.
-Cao Ly.
Đời vua thứ mười lăm là Mỹ Xuyên vương, còn gọi là Diệu Phước, tên là Ất Phất, Ưu Phất, lên ngôi năm Canh Thân, tại vị ba mươi mốt năm.
* Đời Huệ Đế, niên hiệu Vĩnh Hưng hai năm, từ năm Giáp Tý.
-Bách Tế.
Đời thứ mười một là vua Tỳ Lưu vương, con thứ hai của Cừu Thủ, em của Sa Ban, lên ngôi năm Giáp Tý, tại vị bốn mươi năm.
* Đời Huệ Đế, niên hiệu Quang Hy năm Bính Dần.
-Tân La.
Năm Đinh Mão đổi quốc hiệu thành Tân la. Tân tức là đức nghiệp ngày càng sáng tỏ, La tức che chở nhân dân bốn phương. Hoặc gọi là đời Trí Chứng Pháp Hưng.
* Đời Hoài Đế, niên hiệu Vĩnh Gia sáu năm, từ năm Đinh Mão.
-Tân La.
Đời thứ mười sáu là Khất Giải Ni Sất Kim, họ Tích, cha là Vu Lão Âm Giác Can, con thứ hai của Sát Giải vương. Khất Giải lên ngôi năm Canh Ngọ, tại vị bốn mươi năm. Vào đời vua này, quân Bách tế mới sang xâm lấn.
* Đời Mẫn Đế, niên hiệu Kiến Hưng, bốn năm, từ năm Quý Dậu.
* Thời Đông Tấn, đời Trung Tông, niên hiệu Kiến Võ năm Đinh sửu; niên hiệu Đại Hưng, bốn năm, từ năm Mậu dần.
* Đời Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Xương năm Nhâm Ngọ; niên hiệu Đại Ninh, ba năm, từ năm Quý Mùi.
* Đời Hiến Tông, niên hiệu Hàm Hòa, chín năm, từ Bính tuất.
- Tân La.
Năm Kỷ Sửu mới xây dựng đê Bích Cốt, chu vi [] vạn bảy ngàn không trăm hai sáu bộ, [] [] trăm sáu sáu bộ, ruộng nước mười bốn ngàn không trăm bảy mươi bộ.
- Cao Ly.
Đời vua thứ mười sáu là Quốc Nguyên vương, tên là Lưu, còn gọi Tư Do, Cương Thượng, lên ngôi năm Tân Mão, tại vị bốn mươi năm. Năm Giáp Ngọ xây dựng thành Bình Nhưỡng; tháng tám năm Nhâm Dần dời đô về thành An Thị tức là thành Hoàn Đô.
* Đời Hiển Tông, niên hiệu Hàm Khang, tám năm, từ năm Ất Mùi.
* Đời Khang Đế, niên hiệu Kiến Nguyên, hai năm, từ năm Quý Mão.
-Bách Tế.
Đời vua thứ mười hai là Khế vương, con trưởng của Phần Tây, lên ngôi năm Giáp Thìn, tại vị hai năm.
* Đời Hiếu Tông, niên hiệu Vĩnh Hòa mười hai năm, từ năm Ất Tỵ.
- Tân La.
Đời vua thứ mười bảy là Nại Vật Ma Lập Can, còn gọi là [] vương, họ Kim. Cha là Cừu Đao Cát Văn vương, em của Vị Chiêu Vương, tên là Vị Cừu Giác Can, mẹ là Hưu Lễ phu nhân họ Kim; lên ngôi năm Bính Thìn, tại vị bốn mươi sáu năm, lăng xây tại Tây nam Chiêm Tinh Đài.
- Bách Tế.
Đời vua thứ mười ba là Cận Tiếu vương, con thứ hai của Tỳ Lưu, lên ngôi năm Bính Ngọ, tại vị hai mươi chín năm.
- Gia Lạc.
Đời thứ năm là Y Phẩm vương, cha là Cư Sất Nhĩ, mẹ là A Chí, lên ngôi năm Bính Ngọ tại vị sáu mươi năm.
* Đời Hiếu Tông, niên hiệu Thăng Bình, năm năm, từ năm Đinh Tỵ.
* Đời Ai Đế, niên hiệu Long Hòa năm Nhâm
Tuất; niên hiệu
Hưng Ninh ba năm, từ năm Quý Hợi.
* Đời Phế Đế, niên hiệu Đại Hòa, năm năm, từ năm Bính Dần.
* Đời Giản Văn Đế, niên hiệu Hàm An, hai năm, từ Tân Mùi.
- Cao Ly.
Đời vua thứ mười bảy là Tiểu Thú Lâm vương, tên là Khâu Phu, lên ngôi năm Tân Mùi, tại vị mười ba năm.
- Bách Tế.
Năm Tân mùi dời đô về Bắc Phố sơn.
* Đời vua Liệt Tông, niên hiệu Ninh Khang, ba năm, từ năm Quý dậu.
-Bách tế.
Đời thứ mười bốn là Cận Cừu Thủ vương, con của Cận Tiếu Cổ, lên ngôi năm Ất Hợi, tại vị chín năm.
* Đời Liệt Tông, niên hiệu Đại Nguyên, hai mươi mốt năm, từ năm Bính Tý.
- Cao Ly.
Đời thứ mười tám là Quốc Nhưỡng vương, tên là Y Tốc, Ư Chỉ Chi, lên ngôi năm Giáp Thân, tại vị tám năm.
- Bách Tế.
Đời thứ mười lăm là Chẩm Lưu vương, con của Cận Cừu Thủ, lên ngôi năm Giáp Thân, tại vị hai năm.
* Đời An Đế, niên hiệu Long An, năm năm, từ năm Đinh Dậu.
- Cao Ly.
Đời thứ mười chín là Quảng Khai vương, tên là Đàm Đức, lên ngôi năm Nhâm Thìn, tại vị hai mươi mốt năm.
- Bách Tế.
Đời thứ mười sáu là Thần Tư vương, em của Chẩm Lưu vương, lên ngôi năm Ất Dậu, tại vị bảy năm.
Đời thứ mười bảy là A Tân vương, còn gọi là A Phương, là con của Thần Tư vương, lên ngôi năm Nhâm Thìn, tại vị mười ba năm.
* Đời An Đế, niên hiệu Nguyên Hưng ba năm, từ năm Nhâm Dần.
- Tân La.
Đời thứ mười tám là Thật Thánh Ma-lập-can, còn gọi là Thật Chủ vương, Thật Kim vương, cha tên là Đại Tây Tri Giác Can, em của Vị Trâu vương; mẹ là Lễ Sinh phu nhân, họ Tích, tên Đăng Dã A Can, [] dã; vợ là A Lưu phu nhân; lên ngôi năm Nhâm Dần, tại vị mười lăm năm. Vương là cha của Xi Thuật.
- Bách Tế.
Đời vua thứ mười tám là Điến Chi vương, còn gọi là Chân Chi vương, tên là Anh, con của A Tân, lên ngôi năm Ất Tỵ, tại vị mười lăm năm.
* Đời An Đế, niên hiệu Nghĩa Hy, mười bốn năm, từ năm Ất Tỵ.
- Tân La.
Đời thứ mười chín là Nột-kỳ Ma-lập-can, còn gọi là Nội Chỉ vương, họ Kim, cha là Nại Vật vương, mẹ là Nội Lễ Hy phu nhân họ Kim, con gái của Vị Trâu vương. Vương lên ngôi năm Đinh tỵ tại vị bốn mươi mốt năm.
- Cao Ly.
Đời thứ hai mươi là Trường Thọ vương, tên Thần Liên, lên ngôi năm Quý Sửu, tại vị bảy mươi chín năm.
- Gia Lạc.
Đời thứ sáu là Tọa Tri vương, còn gọi là Kim Thổ vương, cha là Y Phẩm, mẹ là Trinh Tín, lên ngôi năm Đinh Mùi, tại vị mười bốn năm.
* Đời Cung Đế, niên hiệu Nguyên Hy năm Kỷ Mùi.
* Đời Tống Võ Đế, niên hiệu Vĩnh Sơ, ba năm từ năm Canh Dần.
- Bách Tế.
Đời thứ mười chín là Cửu Nhĩ Tân vương, con của Điến Chi, lên ngôi năm Canh thân, tại vị bảy năm.
- Gia Lạc.
Đời thứ bảy là Xuy Hy vương, còn gọi là Kim Hỷ, cha là Tọa Tri vương, mẹ là Phước Thọ, lên ngôi năm Tân Dậu, tại vị ba mươi năm.
* Đời Thiếu Đế, niên hiệu Cảnh Bình, năm Quý hợi.
* Đời Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia, hai mươi chín năm, từ năm Giáp Tý.
-Cao Ly.
Năm Đinh Mão dời đô đến thành Bình Nhưỡng.
* Đời Thế Tổ, niên hiệu Đại Sơ, năm Quý Tỵ.-Bách Tế.
Đời thứ hai mươi là Tỳ Hữu vương, con của Cửu Nhĩ Tân, lên ngôi năm Đinh Mão, tại vị hai mươi tám năm.
-Gia lạc.
Đời thứ tám Xi Tri vương, còn gọi là Kim Xi, cha là Xuy Hy, mẹ là Nhân Đức, lên ngôi năm Tân Mão, tại vị ba mươi sáu năm.
* Đời Thế Tổ, niên hiệu Hiếu Kiến ba năm, từ năm Giáp Ngọ; niên hiệu Đại Minh, tám năm, từ năm Đinh Dậu.
- Tân La.
Đời thứ hai mươi là Từ Bi Ma-lập-can, họ Kim, cha là Nột Kỳ, mẹ là A Lão phu nhân, còn gọi là Thứ Lão phu nhân, con gái của Thật Thánh vương; lên ngôi năm Mậu Tuất, tại vị hai mươi mốt năm, vợ là con gái của Ba Hồ Cát Văn vương, còn gọi là Vị Sất Hy Giác Can, Vị Hân Giác vương.
- Bách Tế.
Đời thứ hai mươi mốt là Cái Hàm vương, còn gọi Cận Cái Hàm vương, tên là Khánh Ty, lên ngôi năm Ất Mùi, tại vị hai mươi năm.
* Đời Đại Tông, niên hiệu Thái Thỉ, tám năm, từ năm Ất Tỵ.
* Đời Hậu Phế Đế, niên hiệu Nguyên Vi, bốn năm, từ năm Quý Sửu.
-Tân La.
Lần đầu bang giao với nước Ngô. Năm Kỷ Mùi, Nhật Bản đem quân xâm lấn, mới xây thành Minh Hoạt để ẩn tránh. Nhật vây thành Lương châu, không lấy được nên phải trở về.
* Đời Thuận Đế, niên hiệu Thăng Minh, hai năm, từ Đinh Tỵ.
-Bách Tế.
Đời thứ hai mươi hai là Văn Châu vương, còn gọi là Văn Minh, con của Cái Hàm, lên ngôi năm Ất Mão, dời đô về Hàng châu, tại vị hai năm. Đời thứ hai mươi ba là Tam Cận vương, còn gọi là Tam Khất vương, con của Văn Châu, lên ngôi năm Đinh Tỵ, tại vị hai năm.
* Đời Thái Tổ nhà Tề, niên hiệu Kiến Nguyên bốn năm, từ năm Kỷ Mùi.
- Tân La.
Đời thứ hai mươi mốt Tỳ-xứ Ma-lập-can, còn gọi là Chiếu Tri vương, họ Kim, con thứ ba của Từ Bi vương, mẹ là con gái của Vị Hân Giác Can, lên ngôi năm Kỷ Mùi, tại vị hai mươi mốt năm, vợ là con gái của Kỳ Bảo Cát Văn vương.
- Bách Tế.
Đời thứ hai mươi bốn là Đông Thành vương, tên là Mâu Đại, còn gọi là Ma Đế, Dư Đại, là em cùng mẹ với Tam Cân vương, lên ngôi năm Kỷ Mùi, tại vị hai mươi sáu năm.
* Đời Võ Đế, niên hiệu Vĩnh Minh, mười một năm, từ năm Quý Hợi.
* Tiền Phế Đế.
- Cao Ly.
Đời thứ hai mươi mốt Văn Tư Minh vương, tên là Minh Lý Hiếu, còn gọi là Cá Vân, Cao Vân, lên ngôi năm Nhâm Thân, tại vị hai mươi bảy năm.
- Gia Lạc.
Đời thứ chín là Kim Tri vương, cha là Xi Tri vương, mẹ là Bang Viện, lên ngôi năm Nhâm thân, tại vị hai mươi chín năm.
* Đời Cao Tông, niên hiệu Kiến Võ, bốn năm, từ năm Giáp Tuất; niên hiệu Vĩnh Thái năm Mậu Dần; niên hiệu Vĩnh Nguyên, hai năm, từ năm Kỷ Mão.
-Tân La.
Đời thứ hai mươi hai là Tri Đính Ma Lập Can, còn gọi là Tri Triết Lão, Tri Độ Lộ vương, họ Kim, cha là Kỳ Bảo Cát Văn vương, em của Nột Kỳ vương; mẹ là Ô Sinh phu nhân, con gái của Nột Kỳ vương, vợ là Nghinh Đế phu nhân Kiệm Giảo Đại Mạc, con gái của Chỉ Đăng Hứa Tác Giác Can, lên ngôi năm Canh Thìn, tại vị mười bốn năm.
* Đời Hòa Đế, niên hiệu Trung Hưng năm Tân Tỵ.
- Tân La.
Các đời ở trên là Thượng cổ, từ đây trở xuống là Trung cổ.
- Bách Tế.
Đời thứ hai mươi lăm là Võ Ninh vương, tên Tư Ma, con thứ hai của Đông Thành vương, lên ngôi năm Tân Tỵ, tại vị hai mươi hai năm. Nam Sử Ghi vương tên là Phù Dư Long là lầm lẫn. Vì Long là Thái tử của Bảo Tạng vương (xem Đường sử).
* Đời Cao Tổ nhà Lương, niên hiệu Thiên Giám, mười tám năm từ năm Nhâm Ngọ.
- Tân La.
Đời thứ hai mươi ba là Pháp Hưng vương, tên Nguyên Tông, họ Kim. Sách Phủ Nguyên Quy ghi Vương họ Mộ tên Thái, cha là Tri Đính, mẹ là Nghinh Đế phu nhân; Pháp Hưng là thụy hiệu. Tên Thụy bắt đầu có từ đây. Vương lên ngôi năm Giáp Ngọ, tại vị hai mươi sáu năm, lăng tại phía Bắc chùa Ai Công. Vợ là Ba Sửu phu nhân, sau xuất gia có pháp danh là Pháp Lưu, trụ chùa Vĩnh Hưng. Từ đây mới ban hành luật lệnh. Đầu tiên hành mười hạnh, cấm sát sinh, độ làm Tăng ni.
- Cao Ly.
Đời thứ hai mươi hai là An Tạng vương, tên là Hưng An, lên ngôi năm Kỷ Hợi, tại vị mười hai năm.
- Bách Tế.
Đời thứ hai mươi sáu là Thánh vương tên là Minh Nùng, con của Võ Ninh, lên ngôi năm Quý Mão, tại vị ba mươi mốt năm.
* Đời Cao Tổ, niên hiệu Phổ Thông, bảy năm, từ năm Canh Tý.
-Gia Lạc.
Đời thứ mười là Cừu Xung vương, con của Kìm Tri, mẹ là Thục Nữ, lên ngôi năm Tân Sửu, tại vị bốn mươi hai năm. Nhưng vào năm Đại Thông thứ tư, năm Nhâm Tý dâng đất, sáp nhập vào Tân la.
Như vậy tính từ đời vua thứ nhất là Thủ Lộ vương, lập quốc vào năm Nhâm Dần đến năm Nhâm Tý, tổng cộng là bốn trăm chín mươi năm.
* Niên hiệu Đại Thông hai năm, từ năm Đinh Mùi.
-Cao Ly.
Đời thứ hai mươi ba là An Nguyện vương, tên là Bảo Nghinh, lên ngôi năm Tân Hợi, tại vị mười bốn năm.
* Niên hiệu Trung Đại Thông sáu năm, từ năm Kỷ Dậu.
-Tân La.
Đặt niên hiệu là Kiến Nguyên mười lăm năm, từ năm Bính thìn.
Từ đây mới bắt đầu lập niên hiệu.
* Niên hiệu Đại Đồng mười một năm, từ năm Ất mão.
- Tân La.
Đời thứ hai mươi bốn là Chân Hưng vương, tên là Sam Mạch Tông, còn gọi là Lật Mạch Tông, họ Kim, cha là em của Pháp Hưng vương tên Lập Tống Cát Văn vương, mẹ là Chỉ Triệu phu nhân, còn gọi Tức Đạo phu nhân họ Phác; vợ là Trung Điêu phu nhân, con gái của Anh Thất Giác Can, sau bà xuất gia là ni. Vua lên ngôi năm Canh Thân, tại vị ba mươi sáu năm.
- Cao Ly.
Đời thứ hai mươi bốn là Dương Nguyên vương, còn gọi là Dương Can vương, tên Bình Thành, lên ngôi năm Ất Sửu, tại vị mười bốn năm.
- Bách Tế.
Năm Mậu ngọ dời đô về Tứ Thử gọi là Nam Phù Dư.
* Niên hiệu Trung Đại Đồng năm Bính Dần; niên hiệu Đại Thanh, ba năm, từ năm Đinh Mão.
* Đời Giản Văn Đế, niên hiệu Đại Bảo năm Canh Ngọ; thời Hầu Cảnh, niên hiệu Đại Thỷ năm Tân Mùi.
-Tân La.
Đặt niên hiệu Khai Quốc mười bảy năm, từ năm Tân Mùi.
* Niên hiệu Thừa Thánh ba năm, từ năm Nhâm Thân.
* Đời Cảnh Đế, niên hiệu Thiệu Thái năm Ất Hợi.
-Bách Tế.
Đời thứ hai mươi bảy là Oai Đức vương tên là Cao, Minh, lên ngôi năm Giáp Tuất, tại vị bốn mươi bốn năm.
* Đời Cảnh Đế, niên hiệu Đại Bình, năm Bính Tý.
* Cao Tổ nhà Trần, niên hiệu Vĩnh Định ba năm, từ năm Đinh Sửu.
* Đời Văn Đế, niên hiệu Thiên Gia, sáu năm, từ Canh Thìn.
-Cao Ly.
Đời vua thứ hai mươi lăm là Bình Nguyên vương, còn gọi là Bình Cương, tên Dương Thành, Động Chi, Cao Dương lên ngôi năm Kỷ Mão, tại vị ba mươi mốt năm.
* Đời Văn Đế, niên hiệu Thiên Khang năm Bính Tuất; niên hiệu Quang Đại, hai năm, từ năm Đinh Hợi.
-Tân La.
Niên hiệu Đại Xương, bốn năm, từ năm Mậu
Tý.
* Đời Tuyên Đế, niên hiệu Đại Kiến, mười bốn năm, từ năm Kỷ Sửu.
-Tân La.
Đời Hưng vương, niên hiệu Hồng Tế, mười hai năm, từ năm Nhâm thìn.
Đời thứ hai mươi lăm là Chân Trí vương, tên Kim Luân còn gọi là Xá Luân, họ Kim, cha là Chân Hưng vương, mẹ là một Tỳ-kheo-ni, con gái của Anh Thất Giác Can, gọi là Sắc Điêu phu nhân họ Phác. Vua cưới Như Điêu phu nhân, con gái của Khởi Ô Công, họ Phác, lên ngôi năm Bính Thân, tại vị bốn năm thì suy, nhưng giỏi chinh phạt (Bách tế).
Đời thứ hai mươi sáu là Chân Bình vương, tên là Bạch Tịnh, Luân Vân Đông Ngữ, cha là Thái tử, mẹ là con gái của Lập Tông Cát Văn vương, tên là Vạn Hô, còn gọi là Vạn Ninh phu nhân, Hành Tận Ni. Vua cưới Ma-da phu nhân, họ Kim, tên là Phước Bi [], sau cưới Tăng Mãn phu nhân, họ Tôn. Vương lên ngôi năm Kỷ Hợi, tại vị năm mươi ba năm.
* Đời Tuyên Đế, niên hiệu Chí Đức, bốn năm, từ năm Quý Mão.
-Tân La.
Đời Chân Bình niên hiệu Kiến Phước năm mươi năm, từ Giáp Thân.
* Niên hiệu Trịnh Minh ba năm, từ năm Đinh Mùi.
* Đời Tùy Văn Đế, niên hiệu Khai Hoàng, mười một năm, từ năm Canh Tuất.
- Cao Ly.
Đời thứ hai mươi sáu là Anh Dương vương, còn gọi là Bình Dương, tên là Nguyên, Đại Nguyên, lên ngôi năm Canh Tuất, tại vị hai mươi tám năm.
- Bách Tế.
Đời thứ hai mươi tám là Đức vương, tên là Quý, còn gọi là Hiến vương, con của Oai Đức vương, lên ngôi năm Mậu Ngọ.
* Đời Tùy Văn Đế niên hiệu Nhân Thọ, bốn năm, từ Tân Dậu.
* Tùy Dạng Đế, niên hiệu Đại Nghiệp, mười hai năm, từ Ất Sửu.
-Bách Tế.
Đời thứ hai mươi chín là Pháp vương, tên là Hiếu Thuận, con của Tuyên Đức vương, lên ngôi năm Kỷ Mùi.
* Đời Tùy Cung Đế, niên hiệu Nghĩa Ninh năm Đinh Sửu.
-Bách Tế.
Đời thứ ba mươi là Võ vương, hoặc gọi là Võ Khang Hiến Bính, lúc nhỏ tên là Nhất Kỳ Sức Đức, lên ngôi năm Canh Thân, tại vị bốn mươi mốt năm.
* Đường Thái Tổ, niên hiệu Võ Đức chín năm, từ năm Mậu Dần.
-Cao Ly.
Đời thứ hai mươi bảy là Vinh Lưu vương, tên là Kiến Võ, Kiến Thành, lên ngôi năm Mậu Dần, tại vị hai mươi bốn năm.
* Đời Đường Thái Tông, niên hiệu Trinh Quán, hai mươi ba năm, từ năm Đinh Hợi.
- Tân La.
Đời thứ hai mươi bảy là Thiện Đức nữ vương, tên Đức Mạn, cha là Chân Bình vương, mẹ là Mada phu nhân, họ Kim. Vì không có con trai, nên lập nữ làm vương, chồng là Ẩm Cát Văn vương; nữ vương lên ngôi năm Nhâm Thìn, tại vị mười sáu năm. Đổi niên hiệu Nhân Bình, mười bốn năm, từ năm Giáp Ngọ.
- Cao Ly.
Đời thứ hai mươi tám là Bảo Tạng vương lên ngôi năm Nhâm dần, tại vị hai mươi bảy năm.
- Bách Tế.
Đời thứ ba mươi mốt là Nghĩa Từ vương, con của Võ vương, lên ngôi năm Tân Sửu, tại vị hai mươi năm.
* Đời Đường Cao Tông, niên hiệu Vĩnh Huy, sáu năm, từ Canh Dần.
-Tân La.
Đời thứ hai mươi tám là Chân Đức vương, tên là Thắng Man, họ Kim, cha là em của Chân Bình vương, tên Quốc Kỳ An Cát Văn vương, mẹ là Ani phu nhân, họ Phác, con gái của [] [] [] Cát Văn vương, gọi là Nguyệt Minh thì chẳng đúng. Vương lên ngôi năm Đinh Mùi, tại vị bảy năm. Đổi niên hiệu là Đại Hòa, hai năm, từ năm Mậu Thân.
Ở trên là Trung cổ Thánh Cốt, từ đây trở xuống là Hạ cổ Chân Cốt.
Đời thứ hai mươi chín là Thái Tông Võ Liệt vương, tên là Xuân Thu, họ Kim, cha là Long Xuân Trác Văn Hưng Cát Văn vương, con của Chân Trí vương. Long Xuân còn gọi là Long Thọ. Mẹ vương là Thiên Minh phu nhân Thụy Văn Trinh Thái hậu, là con gái của Chân Bình vương. Vua cưới Huấn Đế phu nhân, thụy là Văn Minh Vương Hậu, em của Dữu Công, lúc nhỏ là Văn Cơ. Vương lên ngôi năm Giáp Dần, tại vị bảy năm.
* Đời Đường Cao Tông, niên hiệu Hiện Khánh, năm năm, từ năm Bính Thìn.
-Bách Tế.
Năm Canh thân mất nước, từ đời vua Ôn Tộ lập quốc năm Quý Mão đến đây là sáu trăm bảy mươi tám năm.
* Đời Cao Tông, niên hiệu Long Sóc, ba năm, từ năm Tân Dậu; niên hiệu Lân Đức, hai năm, từ năm Giáp Tý.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi Văn Võ vương, tên là Pháp Mẫn, con của Thái Tông, mẹ là Huấn Đế phu nhân, phi là Từ Nghĩa còn gọi là Từ Nột vương hậu, con gái của Thiện Phẩm Hải Vu. Vương lên ngôi năm Tân Dậu, tại vị hai mươi năm, lăng xây chùa Cẩm Ân ở Đông Hải.
* Đời Đường Cao Tông, niên hiệu Càn Phong, hai năm, từ năm Bính Dần; niên hiệu Tổng Chương, hai năm, từ năm Mậu Thìn.
-Cao Ly.
Năm Mậu Thìn mất nước, từ đời Đông Minh lập quốc năm Giáp Thân đến đây là bảy trăm lẻ năm năm.
* Đường Cao Tông, niên hiệu Hàm Thuần bốn năm, từ năm Canh Ngọ; niên hiệu Thượng Nguyên hai năm, từ năm Giáp Tuất; niên hiệu Nghi Phượng ba năm từ năm Bính Tý; niên hiệu Điêu Lộ năm Kỷ Mão; niên hiệu Vĩnh Long năm Canh thìn, niên hiệu Khai Diệu năm Tân Tỵ.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi mốt là Thần Văn vương, họ Kim, tên Chánh Minh, tự Nhật Chiêu, cha là Văn Võ vương, mẹ là Từ Nột vương hậu, phi là Thần Mục vương hậu, con gái của Kim Liên Công.
Vương lên ngôi năm Tân Tỵ, tại vị mười một năm.
* Đời Cao Tông, niên hiệu Vĩnh Thuần năm Nhâm Ngọ.
* Đời Võ Hậu, niên hiệu Hồng Đạo năm Quý Mùi; niên hiệu Văn Minh năm Giáp Thân; niên hiệu Thùy Cũng bốn năm, từ năm Ất dậu; niên hiệu Vĩnh Xương năm Kỷ Sửu.
* Đời Chu Võ Hậu, niên hiệu Thiên Thọ hai năm, từ năm Canh dần; niên hiệu Trường Thọ hai năm từ năm Nhâm Thìn.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi hai là Hiếu Chiêu vương, tên là Lý Cung, còn gọi là Hồng, họ Kim, cha là Thần Văn vương, mẹ là Thân Mục vương hậu; lên ngôi năm Nhâm Thìn, tại vị mười năm, lăng xây ở phía Đông chùa Vọng Đức.
* Võ Hậu, niên hiệu Diên Tải năm Giáp Ngọ; niên hiệu Thiên Sách năm Ất Mùi; niên hiệu Thông Thiên năm Bính Thân; niên hiệu Thần Công năm Đinh Dậu; niên hiệu Thánh Lịch hai năm, từ năm Mậu Tuất; niên hiệu Cửu Thị năm Canh Tý; niên hiệu Trường An bốn năm, từ năm Tân Sửu.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi ba Thánh Đức vương, tên Hưng Quang, vốn tên là Long Cơ, em cùng mẹ với Hiếu Chiêu; đầu tiên cưới Bội Chiêu vương hậu, thụy là Nghiêm Trinh, con gái của Nguyên Đại A Can; sau cưới Chiêm Vật vương hậu, thụy Chiêu Đức, con gái của Thuận Nguyên Giác Can. Vương lên ngôi năm Nhâm Dần, tại vị ba mươi lăm năm, lăng xây tại phía Nam đông thôn, còn gọi là Dương Trường Cốc.
* Đời Đường Trung Tông, niên hiệu Thần Long hai năm, từ năm Ất Tỵ; niên hiệu Cảnh Long ba năm, từ năm Đinh Mùi.
* Đường Duệ Tông, niên hiệu Cảnh Vân hai năm, từ năm Canh Tuất.
* Đường Huyền Tông, niên hiệu Tiên Thiên năm Nhâm Tý; niên hiệu Khai Nguyên hai mươi chín năm, từ năm Quý Sửu.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi bốn là Hiếu Thành vương, họ Kim, tên Thừa Khánh, cha là Thánh Đức vương, mẹ là Chiêu Đức Thái hậu, phi là Minh Đức vương hậu, con gái của Chân Tông Giác Can; lên ngôi năm Đinh Sửu, tại vị năm năm, băng hà hỏa thiêu tại chùa Pháp Lưu, tro cốt rải xuống biển Đông.
* Đường Huyền Tông, niên hiệu Thiên Bảo mười bốn năm, từ năm Nhâm Ngọ.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi lăm là Cảnh Đức vương, họ Kim, tên là Hiến Anh, cha là Thánh Đức, mẹ là Chiêu Đức Thái hậu, phi trước là Tam Mao phu nhân bị phế vì không có con kế thừa; hậu phi là Mãn Nguyệt phu nhân, thụy là Cảnh Thùy vương hậu, Thùy có bản ghi là Mục, con gái của Y Trung Giác Can. Vương lên ngôi năm Nhâm Ngọ, tại vị hai mươi ba năm. Đầu tiên an táng tại ngọn đồi phía Tây chùa Khoảnh Chỉ, dùng đá làm lăng, sau cải táng tại Dương Trường Cốc.
* Đường Túc Tông, niên hiệu Chí Đức hai năm, từ năm Bính Thân; niên hiệu Càn Nguyên hai năm, từ năm Mậu Tuất; niên hiệu Thượng Nguyên hai năm, từ năm Canh Tý; niên hiệu Bảo Ứng năm Nhâm Dần.
* Đời Đại Tông niên hiệu Quảng Đức hai năm, từ năm Quý Mão; niên hiệu Vĩnh Thái năm Ất Tỵ.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi sáu Tuệ Cung vương, họ Kim, tên Càn Vận, cha là Cảnh Đức vương, mẹ là Mãn Nguyệt vương hậu, phi trước là Thần Ba phu nhân, con gái của Ngụy Chánh Giác Can, hậu phi là Xương Xương phu nhân con gái của Kim Tướng
Giác Can; lên ngôi năm Ất tỵ, tại vị mười lăm năm.
* Đường Đại Tông, niên hiệu Đại Lịch mười bốn năm, từ Bính ngọ.
* Đường Đức Tông, niên hiệu Kiến Trung bốn năm, từ Canh thân.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi bảy Tuyên Đức vương, họ Kim, tên Lượng Tướng, cha là Hiếu Phương Hải Can sau truy phong là Khai Thánh Đại vương tức con của Nguyên Điều Giác Can; mẹ là Tứ Chiêu phu nhân thụy là Trinh Ý thái hậu, con gái của Thánh Đức vương; phi là Cụ Túc vương hậu, con gái của Lang Phẩm Giác Can; vương lên ngôi năm Canh thân, tại vị năm năm.
* Đường Túc Tông, niên hiệu Hưng Nguyên năm Giáp Tý; niên hiệu Trinh Nguyên hai mươi năm, từ năm Ất Sửu.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi tám là Nguyên Thánh vương, họ Kim, tên là Kính Thân, còn gọi là Kính Tín. Đường thư ghi: "Kính Tắc", cha là Hiếu Nhương Đại A Can, truy phong là Minh Đức Đại vương, mẹ là Nhân, họ Phác, còn gọi là Tri Ô phu nhân, thụy là Chiêu Văn vương hậu, con gái của Xương Cận Y Kỷ; phi là Thục Trinh phu nhân con gái của Thần Thuật Giác Can; lên ngôi năm Ất Sửu, tại vị mười bốn năm, lăng xây tại chùa Hộc, nay ở chùa Sùng Phước cũng có lăng, hoặc là lập vọng bia.
* Đường Thuận Tông, niên hiệu Vĩnh Trinh năm Ất dậu.
-Tân La.
Đời thứ ba mươi chín là Chiêu Thánh vương, còn gọi là Chiêu Thành vương, họ Kim, tên là Tuấn Ung, cha là Tuệ Trung Thái tử, mẹ là Thánh Mục Thái hậu; phi là Quế Hoa vương hậu, con gái của Túc Minh Công; lên ngôi năm Kỷ Mão liền băng hà.
Đời thứ bốn mươi Ai Trang vương, họ Kim, tên là Trọng Hy, còn gọi là Thanh Minh, cha là Chiêu Thánh, mẹ là Quế Hoa vương hậu, lên ngôi năm Canh Thìn, tại vị mười năm. Ngày 19 tháng 7 năm Kỷ sửu, vua bị hai người chú là Hiến Đức và Hưng Đức Giác Can hãm hại mà băng hà.
* Đường Hiến Tông, niên hiệu Nguyên Hòa mười lăm năm, từ Bính Tuất.
-Tân La.
Đời thứ bốn mươi mốt Hiến Đức vương, họ Kim, tên là Ngạn Thăng, em cùng mẹ với Chiêu Thánh, phi là Quý Thắng Nương, thụy là Hoàng Nga vương hậu, con gái của Trung Cung Giác Can; lên ngôi năm Kỷ sửu, tại vị mười chín năm, lăng tại phía Bắc Tuyền lâm thôn.
* Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh bốn năm, từ năm Tân Sửu.
* Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo Lịch hai năm, từ năm Ất Tỵ.
-Tân La.
Đời thứ bốn mươi hai Hưng Đức vương, họ Kim, tên là Cảnh Huy, em cùng mẹ với Hiến Đức vương, phi là Xương Hoa phu nhân, thụy là Định Mục vương hậu, con gái của Chiêu Thánh vương, lên ngôi năm Bính ngọ, tại vị mười năm, lăng ở Tỷ Hỏa Nhưỡng phía Bắc An Khương, hợp táng với Xương Hoa phu nhân.
* Đường Văn Tông, niên hiệu Đại Hòa chín năm, từ năm Đinh mùi; niên hiệu Khai Thành năm năm, từ năm Bính Thìn.
-Tân La.
Đời thứ bốn mươi ba là Hy Khang vương, họ Kim, tên là Khởi Long, còn gọi là Để Ngung, cha là Hiến Trinh Giác Can, thụy là Hưng Thánh Đại vương, còn gọi là Dực Thành, con của Lễ Anh Táp Can; mẹ là Mỹ Đạo phu nhân; còn gọi là Thâm Nãi phu nhân, Ba-lợi phu nhân, thụy là Trinh Thành Thái hậu, con gái của Trung Thành Đại A Can; phi là Văn Mục vương hậu, con gái của Trung Hiếu Giác Can, còn gọi là Trọng Cung Giác Can; lên ngôi năm Bính thìn, tại vị hai năm.
Đời thứ bốn mươi bốn là Mẫn Ai vương, họ Kim, tên là Minh, cha là Trung Cung Giác Can, truy phong là Tuyên Khang Đại vương, mẹ là con gái của Tuệ Trung vương (truy phong), tên là Quý Ba phu nhân, thụy là Tuyên Ý vương hậu; phi là Duẫn Dong hoàng hậu, con gái của Vĩnh Công Giác Can, lên ngôi năm Mậu Ngọ, đến ngày 22 tháng giêng năm Kỷ Mùi thì băng hà.
Đời thứ bốn mươi lăm là Thần Võ vương, họ Kim, tên Hựu Trưng, cha là Quân Trinh Giác Can, truy phong Thành Đức Đại vương, mẹ là Trinh Kiều phu nhân, truy phong Ý Sam thái hậu, tổ phụ là Lễ Anh truy phong Tuệ Khang Đại vương, phi là Trinh Tùng, còn gọi là Trinh Kế thái hậu, con gái của Minh Hải Giác Can; vương lên ngôi tháng tư năm Kỷ Mùi, đến ngày hai mươi ba tháng bảy thì băng hà.
Đời thứ bốn mươi sáu Văn Thánh vương, họ Kim, tên Khánh Ưng, cha là Thần Võ vương, mẹ là Trinh Tùng thái hậu, phi là Chiêu Minh vương hậu, lên ngôi tháng 4 năm Kỷ Mùi, tại vị mười chín năm.
* Đường Võ Tông, niên hiệu Hội Xương sáu năm từ năm Tân Dậu.
* Đường Tuyên Tông, niên hiệu Đại Trung mười ba năm, từ năm Đinh mão.
-Tân La.
Đời thứ bốn mươi bảy Hiến An vương, họ Kim, tên Nghi Tỉnh, em của Thần Võ vương, mẹ là Hân Minh phu nhân, lên ngôi năm Mậu dần, tại vị ba năm.
* Đường Ý Tông, niên hiệu Hàm Thông mười bốn năm, từ năm Canh Thìn.
-Tân La.
Đời thứ bốn mươi tám Cảnh Văn vương, họ Kim, tên Ứng Liêm, cha là Khải Minh Giác Can, truy phong Hy Ý, còn gọi là Cung Đại Vương là con của Hy Khang vương; mẹ là con của Thần Võ vương, Quang Hòa phu nhân, phi là Văn Tư hoàng hậu, con gái của Hiến An vương, lên ngôi năm Tân Tỵ, tại vị mười bốn năm.
* Đường Hy Tông, niên hiệu Càn Phù sáu năm, từ năm Giáp Ngọ.
-Tân La.
Đời thứ bốn mươi chín là Hiến Khang vương, họ Kim, tên là Chánh, cha là Cảnh Văn vương, mẹ là Văn Tư hoàng hậu, phi là Ý Minh phu nhân còn gọi là Hy Minh vương hậu, lên ngôi năm Ất Mùi, tại vị mười một năm.
* Hy Tông, niên hiệu Quảng Minh năm Canh Tý; niên hiệu Trung Hòa bốn năm từ năm Tân Sửu.
-Tân La.
Đời thứ năm mươi, Định Khang vương, họ
Kim, tên Hoảng là em cùng mẹ với Hiến Khang vương, lên ngôi năm Bính Ngọ và băng hà trong năm này.
* Đường Hy Tông, niên hiệu Quang Khải ba năm, từ năm Ất Tỵ.
-Tân La.
Đời thứ năm mươi mốt là Chân Thánh nữ vương, họ Kim, tên là Mạn Hiến em cùng mẹ với Định Khang vương, chồng là Ngụy Hoằng Đại Giác Can truy phong là Tuệ Thành Đại vương, lên ngôi năm Đinh Mùi tại vị mười năm. Năm Đinh tỵ nhường ngôi cho Thái tử Hiếu Cung vương, đến tháng 12 thì băng hà, hỏa táng, rải tro cốt tại Tây Biện ở Mâu Lương, còn gọi là Vị Hoàng sơn.
* Đường Chiêu Tông, niên hiệu Văn Đức năm Mậu Thân; niên hiệu Long Kỷ năm Kỷ Dậu; niên hiệu Đại Thuận hai năm, từ Canh tuất.
-Hậu Cao Ly.
Cung Duệ vào năm Canh Tuất niên hiệu Đại Thuận mới vào Bắc Nguyên chiếm Lương Cát Truân, đến năm Bính Thìn đóng đô ở thành Thiết Viễn tức Đông châu ngày nay; đến năm Đinh Tỵ dời đô về quận Tòng Nhạc.
* Đường Chiêu Tông, niên hiệu Cảnh Phước hai năm, từ Nhâm tý.
-Hậu Bách Tế.
Chân Huyên, đến năm Nhâm Tý đóng đô ở Quang châu.
* Chiêu Tông, niên hiệu Càn Ninh bốn năm, từ năm Giáp Dần.
-Tân La.
Đời thứ năm mươi hai Hiếu Cung vương, họ Kim, tên là Nghiêu, cha là Hiến Khang vương, mẹ là Hy Tắc thái hậu, lên ngôi năm Đinh tỵ, tại vị mười lăm năm, hỏa táng ở phía Bắc chùa Sư Tử, tro cốt chôn ở Đông sơn thuộc Cừu Tri đê.
* Đường Chiêu Tông, niên hiệu Quang Hóa ba năm, từ năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiên Phục ba năm, từ năm Tân Dậu.
-Hậu Cao Ly.
Xưng Quốc hiệu là Cao Ly vào năm Tân Dậu.
* Đường Cảnh Tông, niên hiệu Thiên Hựu ba năm, từ năm Giáp Tý.
-Hậu Cao Ly.
Năm Giáp Tý đổi quốc hiệu là Ma Chấn, niên hiệu là Võ Thái.
* Đời Chu Lương, niên hiệu Khai Bình bốn năm, từ năm Đinh Mão.
-Tân La.
Đời thứ năm mươi ba Thần Đức vương, họ Phác, tên Cảnh Huy, vốn tên là Tú Tông, mẹ là Trinh Hoa phu nhân con của Khoảnh Hoằng Giác Can được truy phong thụy là Thành Võ Đại vương, tổ phụ là Nguyên Lân Giác Can là cháu nhiều đời của Đạt-la vương. Cha là Văn Nguyên Y Can truy phong Hưng Liêm Đại vương, tổ phụ là Văn Quan Hải Can, nghĩa phụ là Nhuệ Khiêm Giác Can truy phong Tuyên Thành Đại vương. Phi là Tư Thành vương hậu, còn gọi là Ý Thành, Hiếu Tử. Vương lên ngôi năm Nhâm Thân, tại vị năm năm, hỏa táng chôn tro cốt ở phía Nam Châm Hiện.
* Chu Lương, niên hiệu Càn Hóa bốn năm từ năm Tân Mùi.
* Lương Mạt Đế, niên hiệu Trinh Minh sáu năm, từ Ất Hợi.
- Tân La.
Đời thứ năm mươi lăm Cảnh Minh vương, họ Phác tên là Thăng Anh, cha là Thần Đức vương, mẹ là Tư Thành vương hậu, phi là Trường Sa Tha, con gái của Đại Tôn Giác Can; Đại Tôn là con của Thủy Tông Y Can, được truy phong là Thánh Hy Đại vương. Vương lên ngôi năm Đinh Sửu tại vị bảy năm thì băng, hỏa táng tại chùa Hoàng Phước, rải tro cốt ở phía Tây Nhưng sơn, Tỉnh Đẳng.
- Hậu Cao Ly.
Năm Giáp Tuất trở về Thiết Nguyên.
Thái Tổ: Tháng 6 năm Mậu Dần, Cung Duệ qua đời, Thái Tổ tức vị tại kinh đô Thiết Nguyên, qua năm Kỷ Mão thì dời đô về quận Tòng Khâu. Vào năm này vua sáng lập mười ngôi chùa lớn là
Pháp Vương, Từ Vân, Vương Luân, Nội Đế Thích, Xá-Na, Thiên Thiền viện (chùa Phổ tế), Văn-thù... Năm Canh thìn lập Du Thị ở dưới Khổng nham, nay tục gọi Lợi Thị là Khổng hạ. Tháng mười lập chùa Đại Hưng; hoặc cho là lập vào năm Nhâm Ngọ, nhưng Nhâm Ngọ lại lập chùa Nhật Nguyệt, hoặc cho là năm Tân Tỵ; năm Giáp Thân lập Ngoại Đế Thích, Thần Chúng viện, Hưng Quốc tự; năm Đinh Hợi sáng lập [] Diệu tự; năm Kỷ Sửu sáng lập Quy Sơn; năm Canh Dần...
* Đời Mạt Đế, niên hiệu Long Đức hai năm, từ năm Tân Tỵ.
* Đời Hậu Đường, niên hiệu Đồng Quang ba năm từ năm Quý Mùi.
-Tân La.
Đời thứ năm mươi lăm, Cảnh Ai vương họ Phác, tên Ngụy Tùy, em cùng mẹ với Cảnh Minh vương, mẹ là Tư Thành vương hậu, lên ngôi năm Giáp Thân, tại vị ba năm.
* Đường Minh Tông, niên hiệu Thiên Thành bốn năm, từ năm Bính Tuất.
-Tân La.
Đời thứ năm mươi lăm là Kính Thuận vương, họ Kim, tên Phó, cha là Hiếu Tông Y Can, truy phong là Thần Hưng Đại vương, tổ phụ Quan [] Giác Can truy phong là Ý Hưng Đại vương, mẹ là Quế Nga thái hậu con gái của Hiến Khang vương, lên ngôi năm Đinh Hợi tại vị tám năm, đến năm Ất
Mùi dâng đất quy phục Thái Tổ; năm Mậu dần niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ ba thì băng hà; lăng xây tại Đông hướng Đông [] [].
* Niên hiệu Trường Hưng bốn năm, từ năm Canh Dần.
* Đời Ai Đế. Đời Mạt Đế, niên hiệu Thanh Thái hai năm, từ năm Giáp Ngọ.
-Tân La.
Từ năm Giáp Tý, niên hiệu Ngũ Phượng đến đây là chín trăm chín mươi hai năm.
* Đời Thạch Tấn, niên hiệu Thiên Phước tám năm, từ Bính Thân.
- Cao Ly.
Năm Bính Thân, thống nhất ba nước.
- Bách Tế.
Năm Ất mùi con của Chân Huyên là Thần Nhận soán ngôi của cha, tự lập làm vua, đến năm Bính Thân thì mất nước. Từ Nhâm Tý đến đây là bốn mươi bốn năm.
- Thời Tiền Hán gồm các đời vua: Cao Đế, Tuệ Đế, Lã Hậu, Văn Đế, Cảnh Đế, Võ Đế, Chiêu Đế, Tuyên Đế, Nguyên Đế, Thành Đế, Ai Đế, Bình Đế, Nhụ Tử Anh.
- Hậu Hán: Quang Võ, Minh Đế, Chương Đế, Hòa Đế, Thương Đế, An Đế, Thuận Đế, Xung Đế, Chất Đế, Hoàn Đế, Linh Đế, Hiến Đế.
- Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy.
- Đời Lý Đường: Cao Tổ, Thái Tông, Cao Tông, Tắc Thiên, Trung Tông, Duệ Tông, Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông, Đức Tông, Thuận Tông, Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông, Văn Tông, Võ Tông, Tuyên Tông, Ý Tông, Chiêu Tông, Cảnh Tông.
- Châu Lương, Hậu Đường, Thạch Tấn, Lưu Hán, Quách Chu.
- Đại Tống.
----------------------------
Những bậc Thánh xưa, hầu hết đang khi dùng lễ, nhạc để dựng nước, dùng nhân nghĩa để lập giáo, thì chẳng nói đến những thế lực quái dị nhiễu loạn tâm thần; nhưng Đế vương muốn làm hưng thịnh quốc gia, nhận phù mệnh, lãnh đồ lục ắt phải có chỗ khác người, rồi sau đó mới có thể thừa đại biến nắm đại khí mà thành tựu đại nghiệp. Cho nên Hà (sông Hoàng hà) xuất Đồ, lạc (sông Lạc) xuất Thư, mà Thánh nhân lấy đó làm phép tắc; cho đến cầu vồng nhiễu quanh Thần Mẫu mà sinh ra Hy, rồng cảm người nữ mà sinh ra Viêm, Hoàng Nga dạo cả ruộng dâu, bỗng nhiên có thần đồng tự xưng là con của Bạch Đế, hai người giao phối mà sinh Tiểu Hạo. Giản Địch nuốt trứng mà sinh ra Khế; Khương Nguyên dẫm lên dấu chân mà sinh ra Khí, mang thai mười bốn tháng mà sinh ra Nghiêu; rồng giao với Đại Trạch mà sinh ra Phái Công; từ đó về sau, việc xảy ra đâu thể ghi chép hết. Thế thì Thỉ Tổ của ba nước, đều khởi phát từ việc thần dị, đâu đủ để cho là quái dị? Nguyên do ghi chép các việc thần dị ở trong các thiên, chính là tại ý này.
Ngụy Thư ghi: Cách đây hai ngàn năm năm có Đàn Quân Vương Kiệm, đóng đô ở A-tư-đạt (kinh ghi là Vô Diệp Sơn, cũng gọi là Bạch Khâu, tại thành Bạch Châu, hoặc cho là ở phía Đông Khai thành, nay chính là Bạch Khâu cung), đặt quốc hiệu là Triều Tiên, đồng thời với Cao ly. Cổ ký ghi: Xưa có Hoàn Nhân (Đế Thích) có một người con thứ là Hoàn Hùng luôn luôn nghĩ nhớ đến thiên hạ, tham cầu làm người thế. Đế Thích được tâm ý này, ông liền xuống trần, thấy Tam Nguy Thái Ba có thể làm lợi ích nhân gian, Đế trao cho ba ấn phù của trời và sai đến nơi ấy quản lý. Hoàn Hùng dẫn ba ngàn bộ hạ xuống cội cây nơi thần đàn trên đỉnh núi Thái Bá (nay gọi là Diệu Hương sơn), nơi đó gọi là Thần Thị, gọi Hoàn Hùng là Thiên Nương. dẫn Phong, Bá là thầy mưa, thầy mây..., làm chủ về ngũ cốc, chủ về mệnh, chủ về bệnh, chủ về hình, chủ về thiện ác, làm chủ hơn ba trăm sáu mươi việc ở nhân gian, ở tại thế gian để coi sóc và giáo hóa.
Bấy giờ có một con gấu và một con cọp đang sống trong hang, thường cầu khẩn Thần Hùng, xin hóa thành người. Thần bèn trao cho một cọng Linh Ngãi, hai mươi củ tỏi, bảo hai con vật hãy ăn vào, trong một trăm ngày chẳng nhìn ánh sáng mặt trời, thì sẽ được hình người. Gấu và cọp liền ăn vào, gấu không nhìn trong hai mươi mốt ngày nên được thân nữ, còn cọp không làm được, nên chẳng được thân người. Người nữ không có ai để hôn phối, nên thường cầu nguyện dưới cây này, mong được có thai; Hoàn Hùng bèn giả hóa hiện để lấy người nữ gấu kia, sau đó có thai và sinh ra một đứa con, đặt tên là Đàm Quân Vương Kiệm. Đường Nghiêu (Cao) tức vị năm mươi năm nhằm năm Canh dần thì lên ngôi đóng đô ở Bình Nhưỡng (nay là Tây kinh) (Đường Nghiêu lên ngôi năm thứ nhất là Mậu Thìn, năm mươi năm sau đúng là năm Đinh Tỵ, chẳng phải là Canh Dần. Ở đây sợ ghi chưa đúng), đầu tiên gọi là Triều Tiên, sau dời đô về Atư-đạt ở Bạch khâu sơn, còn gọi là Cung (hay là Phương) Hốt Sơn, tức Di-đạt hiện nay. Vương Kiệm ở ngôi được một ngàn năm trăm năm, Chu Võ vương lên ngôi năm Kỷ Mão phong Ky Tử đất Triều Tiên, Đàn Quân bèn dời về Tạng Đường kinh, sau trở về ẩn cư ở A-tư-đạt làm sơn thần, thọ một ngàn chín trăm lẻ tám tuổi.
Đường Bùi Củ truyện ghi: Cao ly vốn là nước Cô Trúc (nay là Hải Châu), nhà Chu phong, Ky Tử đất Triều Tiên. Đời Hán phân làm ba quận, gọi là Huyền Thố, Nhạc Lương, Đới Phương (Bắc Đới phương); Thông điển cũng đồng với thuyết này (Hán thư thì cho là bốn quận Chân, Lâm, Nhạc, Huyền. Nay nói ba quận mà tên cũng khác là vì sao?)
Tiền Hán Triều Tiên truyện ghi: Đầu tiên, triều đình nhà Yên thường đánh lấy được Chân Phiên Triều Tiên (sử cổ ghi: Thời chiến quốc, nước Yên mới cướp được đất này), đặt quan lại, xây thành trì. Nhà Tần diệt Yên, thì Triều Tiên thuộc Liêu Đông. Nhà Hán lập, cho rằng vùng đất này xa, khó giữ, nên lại tu sửa ải Liêu Đông lấy sông Bái làm ranh giới (sử cổ cho rằng sông Bái tại quận Nhạc Lương), Triều Tiên lại thuộc về Yên. Yên Vương Lê Quán làm phản nhập Hung Nô, người Yên là Ngụy Mãn lưu vong, tụ tập lại hơn một ngàn người đi về Đông, ra khỏi quan ải, vượt sông Bái và dừng tại vùng đất bỏ hoang của nhà Tần khi xưa, xây thành trên dưới để ngăn chận, rồi dần dần xâm lấn các vùng lệ thuộc Chân phiên Triều Tiên là Mandi và đất của Yên Tề xưa, người lưu vong là Ngụy Mãn lên làm vua, đóng đô ở Vương Kiệm (Lý ghi: Vương Kiệm là địa danh. Thần Tán ghi: Thành Vương Kiệm ở Nhạc Lương quận, phía Đông sông Bái. Kế đến dùng quân đội chiếm Tiểu ấp khiến cho Chân Phiên, Lâm Truân đều đến xin thần phục, bờ cõi mở ra vài ngàn dặm, truyền ngôi đến cháu là Hữu Cừ (Sử cổ ghi: Chánh tên Hữu Cư) Chân phiên thần quốc. (Sử cổ ghi: Thần tức là Hàn) muốn dâng sớ gặp Thiên tử, nhưng lại bế tắc, không bang giao được. Đến năm Nguyên Phong thứ hai nhà Hán sai sứ là Thiện Hà chiêu dụ Hữu
Cừ, nhưng Cừ không chịu phụng chiếu. Hà bèn đến biên giới quan sông Bái, khiến người hành thích Tống Hà một vương trưởng nhỏ của Triều Tiên rồi vượt sông, trở về triều báo cáo, Thiên tử bèn phong Hà làm Bộ đô úy Liêu Đông. Triều Tiên oán hận Hà, nên tập kích giết chết. Thiên tử bèn sai Lâu Hàng tướng quân Dương Phác dẫn năm vạn binh từ ngã Tề Phù, Bột Hải, Tả tướng quân Tuân Trệ từ Liêu đông xuất binh thảo phạt Hữu Cừ, Cừ đem binh án ngữ nơi hiểm yếu, Lâu Hàng bèn dẫn bảy ngàn quân đến thành Vương Kiệm trước, Hữu Cừ thủ thành thấy binh của Lâu Hàng quá ít, bèn xuất kích đánh Hàng đại bại, Lâu Hàng mất quân, trốn vào núi mà thoát chết. Tả tướng quân đánh đội quân phía Tây của Triều Tiên ở sông Bái, cũng không phá được. Thiên tử thấy hai tướng chưa đánh thắng, bèn sai Vệ Sơn nương oai binh đến dụ hàng Hữu Cừ. Hữu Cừ xin hàng sai Thái tử dâng ngựa, Thái tử bèn dẫn theo hơn một vạn binh, sắp qua sông Bái, thì sứ giả là Vệ Sơn và Tả tướng quân nghi Thái tử làm biến nên nói rằng: Thái tử đã quy phục, không nên dẫn binh sang! Thái tử cũng nghi sứ giả có gì trá ngụy, nên chẳng qua sông mà dẫn quân trở về. Sơn báo với Thiên tử, Thiên tử trách phạt Sơn. Lúc ấy Tả tướng quân đã phá được thượng quân trên sông Bái, rồi tiến lên phía trước vây mặt Tây bắc của thành, Lâu Hàng cũng dẫn quân đến đóng ở phía Nam thành. Hữu
Cừ trong thành cố thủ, qua mấy tháng mà chẳng thể hạ được. Thiên tử thấy lâu mà không xong bèn sai thái thú Tế về Nam xưa là Công Tôn Toại đến chỉ huy. Toại đến buộc Lâu Hàng tướng quân và quân của ông ấy cùng với Tả tướng quân gấp rút đánh Triều Tiên. Tướng Lô Nhân, Tướng Hàn Đào, Ni Khê, Tương Sâm và tướng quân Vương Khiêm (Sư cổ ghi: Ni khê là địa danh, chỉ có bốn người) cùng nhau bàn luận muốn hàng. Vua không chịu, Đào, Khiêm và Lô Nhân qua hàng Hán, Lô Nhân chết trên đường chạy trốn. Mùa hạ năm Nguyên Phong thứ ba, Ni Khê, Tương Sâm sai người giết vua là Hữu Cừ rồi ra hàng. Thành Vương kiệm vẫn chưa bị hạ, đại thần của Hữu Cừ là Thành Dĩ làm phản; Tả tướng quân khiến con của Hữu Cừ là Trường, con của Lô Nhân là Tối hiểu dụ nhân dân, mưu sát Thành Dĩ. Do đó định yên được Triều Tiên, gồm bốn quận: Chân Phiên, Lâm Truân, Nhạc Lương, Huyền Thố.
Ngụy Chí ghi: Ngụy Mãn đánh Triều Tiên, Vương Chuẩn của Triều Tiên dẫn cung nhân quần thần vượt biển về Nam đến đất Hàn lập quốc, đặt quốc hiệu là Mã Hàn. Chân Huyên dâng thư lên Thái Tổ rằng: "Khi xưa, lúc Mã Hàn mới dựng nước, là do Hách Cư Thế hưng khởi. Bấy giờ Bách Tế khai quốc ở Kim Mã sơn. Thôi Trí Viễn ghi: "Mã Hàn tức Cao ly; Thần Hàn tức Tân la. " (Theo Bản kỷ thì Tân la khai quốc trước, vào năm Giáp Tý; Cao ly lập quốc sau, vào năm Giáp Thân, nhưng ở đây ghi như thế là vì Vương Chuẩn đã nói vậy. Do đó biết rằng Đông Minh lập quốc đã cùng với Mã Hàn mà làm nhân, cho nên gọi Cao ly là Mã Hàn, người ngày nay hoặc cho đó Kim Mã sơn, cho Mã Hàn là Bách tế đều là lầm lẫn, Cao ly tự có thành ấp riêng, nên gọi là Mã Hàn.)
Nói Tứ Di, Cửu Di, Cửu Hàn, Uế Mạch; trong chân lễ nói phong cho họ Phương cai quản Tứ Di Cửu Mạch.
Một giống người phương Đông tức Cửu Di. Tam quốc sử ghi: "Minh châu là Uế quốc xưa. Bấy giờ Dã Nhân cày ruộng được Uế vương hiến cho. " Vả lại Xuân châu và Ngưu thủ châu xưa là Mạch quốc xưa. Hoặc cho rằng: Thành Bình nhưỡng là Mạch quốc; hoặc cho rằng Sóc châu là Mạch quốc. Hoài Nam tử chú rằng: Di ở phương Đông có chín loại. Luận ngữ Chánh Nghĩa ghi: Cửu Di là Huyền thố, Nhạc lương, Cao ly, Mãn sức, Phù canh, Tố gia, Đông đồ, Oa nhân, Thiên bỉ.
Hải Đông An Hoằng ký nói Cửu Hàn là Nhật Bản, Trung Hoa, Ngô Việt, Thác La, Ứng Du, Mạt Thát, Đơn Quốc, Nữ Chân và Uế Mạch.
Tiền Hán thư ghi: Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Thủy Nguyên thứ năm đời Chiêu Đế, lập hai phủ ở ngoại biên, một là Bình Quận lưu địa của Triều Tiên và Huyền Thố quận làm Bình Châu Đô Đốc phủ. Hai là hai quận Lâm Truân và Nhạc Lương đặt là Đông Bộ Đô Úy phủ.
(Nay cho rằng: Theo Triều Tiên truyện thì bốn quận Chân Phiên, Huyền Thố, Lâm Truân và Nhạc Lương; ở đây lại có Bình quận mà không có Chân Phiên, là một quận mà hai tên gọi.)
Thông Điển ghi: Nhân dân Triều Tiên phân lập thành hơn bảy mươi nước, mỗi mỗi rộng hơn một trăm dặm. Hậu Hán thư ghi: Vào thời Tây Hán, đầu tiên đặt vùng đất Triều Tiên xưa thành bốn quận, sau lại đặt hai phủ, nhưng pháp lệnh phiền toái, lại phân thành bảy mươi tám nước nhỏ, mỗi mỗi khoảng một vạn hộ dân.
(Mã Hàn ở phía Tây gồm năm mươi bốn tiểu ấp, đều xưng là một nước; Thần Hàn ở phía Đông có mười hai tiểu ấp mỗi mỗi cũng tự gọi là nước; Biện Hàn ở phía Nam gồm mười hai tiểu ấp, mỗi mỗi cũng tự gọi là một nước).
Vào thời Tiền Hán mới lập quận Nhạc Lương.
Ưng Thiện ghi: "Đó là nước Triều Tiên xưa. "
Tâm Đường Thư Chú ghi: Thành Bình Nhưỡng tức là quận Nhạc Lương thời cổ Hán.
Quốc sử ghi: Năm thứ ba đời vua Hách Cư Thế, người Nhạc Lương đến đầu hàng. Lại năm thứ tư đời Nổ Lễ vương, đời thứ ba vua Cao Ly là Vô Tuất vương, Nhạc Lương bị diệt vong. Người nước này và Đới phương (Bắc đới phương) nhập vào Tân La. Năm thứ hai mươi bảy đời Vô Tuất vương, Quang Võ Đế sai quân chinh phạt Nhạc Lương, chiếm đất làm quận huyện, từ sông Tát trở về Nam thuộc nhà Hán.
(Căn cứ các văn trên thì Nhạc Lương tức thành Bình Nhưỡng là đúng. Hoặc cho rằng dưới Trung Đầu sơn của Nhạc Lương là giới hạn với Mạt thát. Sông Tát tức sông Đại Đồng ngày nay, chưa biết cái nào đúng?)
Vả lại thời Ôn Tộ nước Bách Tế nói rằng: "Phía Đông có Nhạc Lương, Bắc có Mạt thác thì nguy. Vào thời cổ Hán thì quận Nhạc Lương là một huyện, người Tân La cũng gọi là Nhạc Lương. Cho nên nay bản triều nhân đó mà gọi là Nhạc Lương quận phu nhân. " Vả lại trong Thái Tổ Giáng Nữ Ư Kim Truyện cũng ghi: "Nhạc Lương công chúa".
Bắc Đới Phương vốn là Trúc Đàm thành, năm thứ tư (hoặc thứ mười bốn) đời Nổ Lễ vương nước Tân La, người Đới Phương và Nhạc Lương hàng Tân La (Đây là hai quận thời tiền Hán, sau tự xưng là một nước, nay lại đến hàng).
Thời Tào Ngụy mới lập Nam Đới phương (nay là phủ Nam Nguyên); Nam Đới Phương là một vùng biển nước rộng cả nghìn dặm, nên gọi là Hàn Hải (vào năm Kiến An đời hậu Hán, triều đình đặt vùng hoang địa Nam Mã Hàn là Đới Phương quận thuộc Oa Hàn).
Thông Điển ghi: Bột Hải vốn là Lật Mạt Mạt Thát, đến khi Vĩnh Tộ Vinh lập quốc mới tự đặt tên nước là Chấn quốc. Vào đời Tiên Thiên (con của Huyền Tông) mới bỏ tên Mạt Thát mà xưng là Bột Hải. Năm Khai Nguyên thứ bảy (Kỷ Mùi) Tô Vinh qua đời, thụy là Cao Vương, con trưởng lên kế vị. Minh Hoàng ban cho chế độ kế thừa làm vương, lập riêng niên hiệu, thành một nước mạnh ở vùng Hải đông. Nước này gồm năm kinh, mười lăm phủ, sáu mươi hai châu. Năm Thiên Thanh thứ nhất đời hậu Đường, Khiết Đan đem quân đánh phá, sau đó bị Khiết Đan chế phục.
(Tam quốc sử ghi: Năm Nghi Phượng thứ ba, năm thứ ba đời Cao Tông, tàn quân của Cao Ly tụ tập ở phía Bắc nương vào chân núi Thái Bá, đặt quốc hiệu là Bột Hải. Trong khoảng năm Khai Nguyên thứ hai mươi, Đường Minh Hoàng sai tướng đánh dẹp. Đến năm thứ ba mươi hai đời Thánh Đức vương, năm Giáp Tuất đời Cao Tông, Bột Hải Mạt Thát vượt biển xâm chiếm Đăng châu của nhà Đường, Huyền Tông đánh dẹp được. Tân La Cổ Ký ghi: "Cựu tướng của Cao Ly là Tô Vinh, họ Đại tụ tập tân binh lập quốc ở Nam Thái Bá sơn, đặt tên nước là Bột Hải. " Xét các văn trên thì Bột Hải là tên khác của Mạt Thát, nhưng sử dụng khác nhau mà thôi. Căn cứ theo Chỉ Chưởng Đồ thì Bột Hải nằm ở góc Đông bắc bên ngoài Trường thành).
Cổ đam quận quốc chí ghi: "Bốn phủ Áp Lục, Nam Hải, Phù Du, Lỗi Thành của Bột Hải đều là vùng đất cũ của Cao Ly. Từ quận Tuyền tỉnh của Tân La (theo Địa lý chí thì Lãnh huyện của Sóc châu có Tuyền tỉnh quận, nay là Dũng châu) đến phủ Lỗi Thành gồm có ba mươi chín trạm. "
Tam quốc sử ghi: Những năm cuối cùng của Bách Tế, các nước Bột Hải, Mạt Thát và Tân La phân chia chiếm lấy Bách Tế (theo đây thì Bột và Mạt là hai nước. Người Tân la nói rằng: "Bắc có Mạt thát, Nam có Oa nhân, Tây có Bách tế, đều là mối nguy của đất nước. "
Xét Mạt Thát tức là A-sát-la châu. Vả lại Đông Minh ký có ghi rằng: "Đất của Tốt Bản thành tiếp giáp với Mạt Thát (nay là Đông châu). Vào năm thứ mười bốn đời Kỳ Ma vương, Tân La (tức năm Ất Sửu) quân Mạt Thát vào đất Bắc, tập kích Đại Lĩnh, vượt Ni hà. " Vào thời Hậu Ngụy gọi là Mạt Thát là Vật cát. Chỉ Chưởng Đồ ghi: "Ấp Tằng và Vật Cát đều là Túc Thận". Về Hắc thủy và Ốc thủy, theo Chỉ Chưởng Đồ của Đông Pha: "Phía Bắc là Thần Hàn có Nam, Bắc Hải thủy. Năm thứ mười đời Đông Minh Đế thì Bắc Ốc Thư bị diệt; năm thứ bốn mươi hai đời Ôn Tộ hơn hai mươi nhà của Nam Ốc thư đến hàng. Vả lại năm thứ năm mươi hai đời Hách Cư Thế, Đông Ốc Thư đến dâng nạp lương thực và ngựa. " Thế thì biết có Đông Ốc Thư. Theo Chỉ Chưởng Đồ thì Hắc thủy ở phía Bắc Trường thành, Ốc Thư ở phía Nam Trường thành.
Năm thứ mười bốn đời Nổ Lễ vương, quân Y Tây đánh phá Kim Thành. Theo Vân Môn Tự Cổ Truyện Chú Tự Nạp Điền Ký ghi: "Năm Nhâm thìn, niên hiệu Trinh Quán thứ sáu, chùa Linh Vị ở Kim Quận Thôn, Y Tây quận đến nạp ruộng đất. " Như thế thì Kim Quận Thôn nay thuộc Thanh Đạo quận, một phần của Y Tông quận thời xưa.
(Theo Già lạc ký tán ghi: Thùy Nhất Tử Anh sinh ra sáu cái trứng, một cái đặt tại thành này về sau là Thủ Lộ vương, còn năm cái kia, về sau làm chủ năm Già-Da; Kim Quan chẳng tính vào năm cái này là đúng. Nhưng Bản Triều Sử Lược, lại tính có Kim Quan mà lại ghi là Xương Ninh, tức lầm lẫn).
Gồm A-La (còn gọi Da), Già-Da (Hàm An ngày nay), Cổ Ninh Già-Da (Hàm Ninh ngày nay), Đại Già-Da (Cao Linh ngày nay), Tinh Sơn GiàDa (Kinh Sơn Huyền ngày nay), Bích Trân Tiểu Già-Da (Cố thành ngày nay).
Bản Triều Sử Lược ghi: Niên hiệu Thiên Phước thứ năm đời Thái Tổ, tức năm Canh Tý, đổi tên năm Già-Da là:
1. Kim Quan là Kim Hải phủ.
2. Cổ Ninh là Gia Lợi huyện.
3. Phi Đại nay là Xương Ninh, e rằng lầm lẫn với Cao Linh.
4-5. A-la và Tịnh sơn giống như trước, gọi là Tinh sơn, hoặc gọi là Bích Trân Già-da).
Cổ Ký ghi: Vào ngày tám tháng tư năm Nhâm Tuất, niên hiệu Thần Tước thứ ba, Thiên đế giáng hạ Ngặt Thảng Cốt Thành (nay là địa phận Y châu của Đại Liêu), cưỡi xe Ngũ long, lập đô xưng vương, đặt quốc hiệu là Bắc Phù Dư, tự xưng là Giải Mộ Sấu, sinh con tên là Phù Lay họ Giai. Sau vương vâng mệnh trời dời đô về Đông Phù Dư, Đông Minh Đế kế thừa ngôi ở Bắc Phù Du mà hưng khởi sự nghiệp đóng đô ở Tốt Bản châu gọi là Tốt Bản Phù Dư, tức Thủy tổ của Cao Ly.
Tướng của vua Giải Phù Lâu Đông Phù Dư là A-lan-phất, một hôm nằm mộng thấy Thiên đế giáng hạ bảo rằng: "Ta sẽ sai con cháu của ta đến lập quốc ở đất này, ngươi nên tránh nơi khác (Điềm Đông Minh hưng khởi), ở vùng Đông hải có một nơi tên là Ca-diếp, là vùng bình nguyên đất đai màu mỡ, nên đến đó lập đô!" A-lan-phất bèn khuyên vua dời đô đến nơi ấy, lấy quốc hiệu là Đông Phù Dư. Phù Lâu đã già mà không có con, một hôm cúng tế núi sông cầu tự, ông đi ngựa đến Uyên Côn, bỗng thấy một tảng đá lớn đối diện chặn dòng chảy, lấy làm lạ, bèn sai người di chuyển tảng đá đi nơi khác, thì thấy một đứa bé thân màu vàng ròng, hình dạng như con ếch (oa), vua vui mừng nói rằng: "Đó là trời ban cho ta có được người kế nghiệp ư?" Liền đem về nuôi dưỡng, đặt tên là Kim Oa, đến lớn thì phong làm Thái tử. Sau khi Phù Lâu mất, Kim Oa kế vị làm vua, sau đó truyền cho Thái tử là Đới Tố. Mãi đến năm Nhâm Ngọ, nhằm vào năm thứ ba đời Địa Hoàng, vua Cao Ly là Vô Tuất đem binh đánh chiếm, giết Đới Tố, Đông Phù Dư đến đây thì mất nước.
Cao Cú Ly tức là Tốt Bản Phù Dư, hoặc nay gọi Hòa châu, Thành châu đều là sai lầm. Tốt Bản châu thuộc cảnh địa của Liêu Đông. Quốc sử Cao Ly Bản Ký ghi rằng: Thủy Tổ Đông Minh Thánh Đế họ Ngôn, húy Chu Mông. Đầu tiên vua Bắc Phù Dư là Giản Phù Lâu dời quốc đô về Đông Phù Lâu, đến khi Phù Lâu qua đời, Kim Oa kế vị, bấy giờ gặp một người con gái ở sông Ưu Bột phía Đông Thái Bá sơn, Kim Oa hỏi thăm thì người nữ trả lời rằng: "Tôi là con gái của Hà Bá, tên là Liễu Hoa, một hôm cùng với các em ra ngoài dạo chơi, lúc ấy có một người nam, tự xưng là Giải Mộ Sấu, con của Thiên đế dụ dẫn tôi đến ngôi nhà ở bên Áp Lục, dưới chân Hùng Thần sơn để tư thông rồi đi mà chẳng trở lại, (Đàm Quân ký ghi: Vua kết thân với con gái của Hà Bá ở Tây hà mà sinh ra một người con tên là Phù Lâu. Nay xét văn ký này thì Giải Một Sấu tư thông với con gái của Hà Bá mà sinh ra Chu Mông. Đàn Quân Ký lại ghi: Sinh một người con đặt tên là Phù Lâu, vậy Phù Lâu và Chu Mông là anh em khác mẹ). Cha mẹ trách tôi không có mai mối mà dám theo người, bèn đày đến nơi đây. " Kim Oa nghe nói làm lạ. Người nữ này ẩn kín trong nhà, mỗi khi có ánh mặt trời chiếu vào thì né tránh, nhưng ánh nắng vẫn cứ di chuyển theo chiếu vào người. Do đó từ thai sinh ra một cái trứng lớn bằng năm tháng, vua ném cho chó heo thì chó heo chẳng ăn, bỏ ngoài đường thì trâu ngựa đều tránh, bỏ ở đồng hoang thì chim thú che đậy, vua sai người bổ ra thì không thể bổ được, cuối cùng trả lại cho người mẹ. Người mẹ dùng vật bọc lại, đặt vào nơi ấm. Thời gian sau có một đứa bé phá vỏ thoát ra. Đứa bé có cốt cách phi phàm, năm lên bảy tuổi đã thông minh lạ thường, tự tạo cung tên, bắn trăm phát trăm trúng. Người trong nước cho rằng thiện xạ là Chu Mông, nên lấy đó làm tên. Kim Oa có bảy người con thường chơi đùa với Chu Mông, nhưng tài nghệ chẳng bằng. Con trưởng là Đới Tố nói với vua rằng: "Chu Mông chẳng phải do người sinh ra, nếu chẳng sớm tính liệu, e rằng sau có hại. " Vua chẳng nghe, sai đi nuôi ngựa. Chu Mông biết con ngựa nào hay thì giảm phần ăn khiến cho gầy, con nào tồi thì cho ăn nhiều để mập thêm. Vì thế vua sử dụng con mập, còn con gầy thì ban cho Chu Mông. Khi ấy các người con của vua và các quan bày mưu hãm hại Chu, người mẹ biết được nói rằng: "Người trong nước sẽ hãm hại con. Con đã có tài trí, mưu lược thì đi đâu mà chẳng được, hãy tính nhanh đi!" Chu Mông cùng với Ô, Y kết bạn trốn đến sông Yêm (chưa biết ở đâu), Chu nói với sông rằng: "Ta là con của Thiên đế, cháu của Hà Bá, hôm nay chạy trốn, người truy đuổi sắp đến, phải làm sao?" Liền lúc ấy cá rùa kết thành cầu, ba người qua được bên kia thì cầu tan, kẻ truy đuổi chẳng qua được. Đi mãi đến Tốt Bản châu (địa phận huyện Huyền Thố) thì dừng, đóng đô ở đây, chưa kịp làm cung điện, chỉ kết nhà tranh trên dòng Phí lưu mà ở, đặt quốc hiệu là Cao Cú Ly, nhân đó lấy họ Cao.
(Vốn họ Giải, nay tự xưng là con Thiên đế, nhờ vào ánh mặt trời mà sinh, nên lấy họ Cao).
Năm mười hai tuổi, nhằm Giáp Thân, niên hiệu Kiến Chiêu đời Hán Nguyên Đế, Cao lên ngôi xưng vương. Thời Cao Ly toàn thịnh, dân số đến hai trăm mười ngàn năm trăm lẻ tám hộ. Châu Lâm truyện quyển hai mươi mốt ghi: "Xưa Thị Tỳ của Ninh Bẩm Ly vương có thai, thầy tướng đến xem nói rằng: "Rất quý, sẽ làm vua!" Vua nói rằng: "Không phải là người nối dõi của ta, nên giết đi!" Tỳ nữ tâu rằng: Khí từ trời nhập thân, nên tôi có thai. "
Đến khi sinh ra, vua cho là điềm chẳng lành, nên bỏ vào chuồng lợn thì lợn ủ ấm, ném vào chuồng ngựa thì ngựa cho bú, mà không chết, cuối cùng làm vua nước Phù Dư. (Tức Đông Minh Đế làm vua Tốt Bản Phù Dư, đó cũng là đô thành riêng của Bắc Phù Dư. Cho nên nói Phù Dư là tên khác của Lâu Vương).
Biện Hàn-Bách Tế (cũng gọi là Nam Phù Dư, tức Tứ Thử Thành)
Năm thứ mười chín đời Hách Cư Thế, thỉ tổ Tân La, nhằm năm Nhâm Ngọ, người Biện Hàn dâng nước hàng phục. Tân Cựu Đường Thư ghi: "Dòng dõi của Biện Hàn ở đất của Nhạc Lương. " Hậu Hán Thư ghi: "Biện Hàn ở phía Nam, Mã Hàn ở phía Tây, Thần Hàn ở phía Đông. " Trí Viễn ghi: "Biện Hàn tức Bách Tế. " Theo Bản Kỷ, Ôn Tộ dựng nước vào năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Gia thứ tư, thì sau đời Hách Cư Thế và Đông Minh hơn bốn mươi năm, mà Đường Thư lại nói dòng dõi của Biện Hàn tại đất Nhạc Lương, là vì cho rằng dòng của Ôn Tộ xuất xứ từ Đông Minh vậy. Hoặc có người cho rằng xuất từ Nhạc Lương, lập quốc ở Biện Hàn, đồng thời với các nước Mã Hàn..., trước thời của Ôn Tộ chứ không phải đóng đô ở Bắc Nhạc Lương. Hoặc tạm gọi Cửu Long Sơn Biện Na Sơn, nên cho Cao Cú Ly là Biện Hàn, tức lầm lẫn. Nên theo thuyết của bậc hiền xưa là đúng, Bách Tế vốn có Biện Sơn nên gọi là Biện Hàn. Thời kỳ toàn thịnh, Bách tế có đến một trăm năm mươi hai ngàn ba trăm hộ dân.
Hậu Hán Thư ghi: Các bậc kỳ lão của Thần Hàn nói rằng những người vong quốc thời Tần đến nước Hàn, được Mã Hàn cắt đất phía Đông trao cho, nên cùng nhau mà đến. Vì có tiếng nói giống như tiếng Tần, nên gọi là Tần Hàn, gồm mười hai nước nhỏ, mỗi một nước gồm một vạn hộ. Thôi Trí Viễn ghi: Người Thần Hàn vốn là dân Yên tỵ nạn, lấy tên Trác Thủy để gọi làng ấp mà họ cư trú là Sa trác, Tiệm trác...
(Phương ngôn Tân La đọc trác là đạo, nên nay gọi là Sa lương, Lương cũng đọc là đạo).
Thời kỳ Tân La toàn thịnh, trong kinh thành gồm một trăm bảy mươi tám ngàn chín trăm ba mươi sáu hộ dân, một ngàn ba trăm sáu mươi phường, năm mươi lăm làng, ba mươi lăm kim nhập trạch (khu vực lớn màu mỡ); Nam trạch, Bắc trạch, Vu trạch, Bản Bỉ trạch, Lương trạch, Trì Thượng trạch (Bản Bỉ bộ), Tài Mại Tỉnh trạch (Tổ tông của Du Tín công), Bắc Duy trạch, Nam Duy trạch (phường dưới chùa Phản hương), Đội trạch, Tân Chi trạch (thuộc chùa Phản hương) Trường Sa trạch, Thượng Anh trạch, Hạ Anh trạch, Thủy Vọng trạch, Tuyền trạch, Dương Thượng trạch (Nam lương), Hán Kỳ trạch (Nam chùa Pháp lưu), Tỷ Huyệt trạch (như trên), Bản Tích trạch (phường trên Phấn Hoàng tư), Biệt Giáo trạch, Nha Nam trạch, Kim Dương Tông trạch (phía Nam chùa
Lương quan), Khúc Thủy trạch (phía Bắc xuyên), Liễu Dã trạch, Tự Hạ trạch, Sa Lương trạch, Tỉnh Thượng trạch, Lý Nam trạch (Vu Sở trạch), Tư Nội Khúc trạch, Trì trạch, Tự Thượng trạch (Đại Trúc trạch), Lâm Thượng trạch (phía Đông chùa Thanh long có ao), Kiều Nam trạch, Hạnh Sát trạch (Bản Bỉ bộ), Lâm Thượng trạch, Lý Thượng trạch, Mạng Nam trạch và Tĩnh Hạ trạch.
Mùa Xuân thì đến Đông Dã trạch, mùa Hạ thì vào Cốc Lương trạch, mùa Thu thì ghé Cửu Trì trạch, mùa Đông thì ở Gia Y trạch. Vào đời vua thứ bốn mươi chín là Hiến Khương Đại vương, trong kinh thành không còn một ngôi nhà tranh, mà toàn là nhà xây tường liên, góc tiếp, người người ca múa đầy đường ngày đêm chẳng dứt.
Thỉ Tổ Tân La, Hách Cư Thế vương Đất Thần Hàn, xưa có sáu thôn:
1. Yên xuyên Dương Sơn thôn: Phía Nam chùa Đàm Nghiêm ngày nay, trưởng thôn tên là Yết Bình, đầu tiên giáng hạ ở Biền Nham sơn, đó là tổ của họ Thị ở Cập Lương bộ.
(Lập vào năm thứ chín đời Nỗ Lễ vương, tên là Cập Lương bộ; năm Tiên Phước thứ năm đời Thái Tổ của Bản Triều, nhằm năm Canh Tý đổi tên là Trung Hưng bộ; Ba thế Đông sơn và Bỉ thượng thuộc về Đông thôn).
2. Đột Sơn Cao Khư thôn, trưởng thôn tên là Tô Phiệt Đô Lợi đầu tiên giáng hạ tại Huynh sơn, là tổ của họ Trịnh ở Sa Lương bộ (lương đọc là đạo, hoặc viết là trách cũng đọc là đạo), nay là Nam Sơn bộ. Cừu Lương Phiệt ma..., Ô Đạo, Bắc Huýnh đức... thuộc về Nam thôn (nay là Nam Sải bộ là do Thái Tổ đặt ra, các thôn sau cũng thế).
3. Mậu Sơn Đại Thọ thôn, trưởng thôn tên là Câu (Cừu) Lễ Mã, đầu tiên giáng hạ ở Y sơn (còn gọi là Tỷ sơn) thuộc Tiềm Lương (còn gọi là trác) bộ, là tổ của họ Tôn ở Mâu Lương bộ, nay gọi là Trường Phước bộ. Phác Cốc thôn... thuộc về Tây thôn.
4. Chủy Sơn Trân Chi thôn (còn gọi là Tân Chi, Tân Tử, Băng Chi), trưởng thôn tên là Trí Bá Hổ, đầu tiên giáng hạ ở Vu Hoa sơn, là tổ của họ Thôi ở Bán Bỉ bộ. Nay gọi là Thông Tiên bộ, như Sài Ba... thuộc về Đông Nam thôn. Trí Viễn là người của Bản Bỉ bộ. Nay ở phía Nam Vị thôn tự phía Nam chùa Hoàng Long có một nền cũ gọi là Thôi Hầu Cổ trạch, thì rõ ràng như thế.
5. Kim sơn Gia Lợi thôn (nay là Kim Cang sơn, phía Bắc chùa Bá Lật), trưởng thôn tên là Kỳ-Đà (còn gọi là Chỉ Tha) đầu tiên giáng ở núi Minh Hoạt, là tổ của họ Bùi ở Hàn Kỳ bộ, nay gọi là Gia Đức bộ; Thượng hạ Tây Tri, Nãi mạo... thuộc về Đông thôn.
6. Minh Hoạt sơn Cao Da thôn, trưởng thôn là Hổ Trân, đầu tiên giáng ở núi Kim Cang, là tổ của họ Tiết ở Tập Tỉ bộ, nay là Lâm Xuyên bộ. Vật Y thôn, nhưng Cừu Ư thôn, Khuyết Cốc (còn gọi là Cát cốc)... thuộc về Đông Bắc thôn.
Xét đoạn văn trên thì tổ của sáu thôn này, tựa như từ trời giáng hạ, đến năm thứ chín đời Nổ Lễ vương mới đổi tên sáu bộ, ban cho sáu họ. Nay tục gọi Trung Hưng bộ là mẹ, Trường Phước bộ là cha, Lâm Xuyên bộ là con, Gia Đức bộ là con gái, kỳ thật chưa được rõ biết. Năm Nhâm Tý niên hiệu Địa Tiết thời Tiền Hán (Cổ bản nói là Kiến Võ Nguyên niên), hoặc nói là Kiến Nguyên năm thứ ba đều là sai lầm). Ngày mồng một tháng ba, tổ của sáu bộ dẫn con, em tập hội bên bờ sông Yên cùng nghị bàn rằng: "Trên chúng ta chưa có một vị vua làm chủ lãnh đạo cai trị, giúp đỡ nhân dân, khiến nhân dân buông lung, chạy theo những ham muốn, cần phải tìm người có đức làm bậc quân chủ, dựng nước, lập đô. " Bấy giờ họ trèo lên cao nhìn về hướng Nam, thấy ở một bên La tỉnh dưới núi Dương có một luồng khí lạ như ánh chớp chiếu xuống mặt đất, có hình dạng con ngựa trắng đang quỳ lạy; mọi người bèn kéo nhau đến tìm thì được một cái trứng màu tía (hoặc nói một trứng lớn màu xanh), ngựa thấy người đến liền hý dài thấu đến trời cao. Mọi người đập vỡ trứng, thấy trong đó có một đồng tử hình nghi đoan chánh xinh đẹp, thì rất kinh nghi. Đồng tử xuống tắm tại suối Đông (chùa Đông Tuyền ở phía Bắc Từ Não Dã) xong, thân thể phát ánh sáng rực rỡ, chim thú đến múa hót, trời đất chấn động, nhật nguyệt trong sáng, nhân đó mà đặt tên là Hách Cừ Thế vương.
(Đó là người ở làng nói vậy; hoặc gọi là Phất Củ Nội vương, tức sáng suốt trị quốc. Thuyết Giả ghi rằng: Đó là do Tây Thuật Thánh Mẫu sinh ra, nên người Trung Hoa tán thán rằng: "Tiên Đào Thánh mẫu mang thai bậc hiền tài lập quốc. " Cho đến gà rồng hiện điềm lành, sinh Yên Anh. Vả lại đâu biết rằng chẳng phải do Tây Thuật Thánh mẫu hiện ra? Lên ngôi, lấy hiệu là Cư Sắt Hàm (hoặc gọi là Cư Tây Can. Lúc mới mở miệng, tự xưng là "Yên Trí Cư Tây Can vừa hưng khởi". Nhân lời này mà từ đó về sau lấy đó làm lời tôn xưng vua), mọi người tranh nhau đến chúc mừng và nói rằng: "Nay Thiên tử đã giáng trần, hãy tìm một người nữ có đức để vua cưới làm hoàng hậu. Ngày hôm ấy ở Yên Anh tỉnh (còn gọi là Nga Lợi Anh tỉnh) có một con Kê long hiện đến; bên hông trái sinh ra một đồng nữ (có thuyết nói Kê long hiện ra rồi chết, mọi người mổ bụng ra mới thấy một đồng nữ) dung nhan đẹp đẽ lạ thường, nhưng môi lại giống mỏ gà, đến khi tắm tại con sông phía Bắc Nguyệt thành thì cái mỏ gà ấy tự rơi rớt, nhân đó gọi con sông này là Bát Xuyên. Mọi người xây cung thất ở chân phía Tây Nam sơn phụng dưỡng hai Thánh nhi. Nam sinh ra từ trứng, trứng như trái bầu, mà người làng cho là quả phác, nên đặt họ Phác. Người nữ xuất sinh từ một bên giếng (tỉnh) Yên Anh, nên lấy đó làm tên cho cả hai. Đến năm mười ba tuổi, nhằm năm Giáp Tý, niên hiệu Ngũ Phượng thứ năm, người nam được lập làm vua, người nữ được lập làm hoàng hậu, đặt quốc hiệu là Từ La Phiệt, Từ Phiệt (nay tục gọi chữ kinh là Từ Phiệt là do cố sự này), hoặc gọi là Tư La, Tư Lô. Vì vua sinh ra ở Kê tỉnh; hoặc gọi là Kê Lâm quốc; vì có Kê long hiện thụy mà lấy tên nước như thế. Có thuyết cho rằng vào thời Thoát Giải vương, tìm được Kim Yên Tri, mà gà (kê) gáy trong rừng (lâm) mới đổi quốc hiệu là Kê Lâm, đời sau mới định quốc hiệu là Tân La. Vua tại vị sáu mươi mốt năm, sau khi vua về trời bảy ngày thì thân thể rơi rớt trên đất, hoàng hậu cũng qua đời theo; người trong nước muốn hợp táng, nhưng có một con rắn lớn ngăn cản nên mỗi mỗi được chia làm năm phần táng tại năm lăng gọi là Xà lăng, tức là các lăng ở phía Bắc chùa Đàm Nghiêm. Thái tử là Nam Giải vương lên kế vị.
Tên là Nam Giải Cư Tây Can cũng gọi là Thứ Thứ Hùng, là danh xưng của bậc tôn trưởng, chỉ có vị vua này gọi thế mà thôi; cha của vương là Hách Cư Thế, mẹ là Yên Anh phu nhân, phi là Vân Đế phu nhân (còn gọi là Vân Thê, nay ở phía Tây huyện Nghinh Nhật có thánh mẫu núi Vân Thê, cầu mưa có ứng nghiệm). Vua lên ngôi năm Giáp Tý, niên hiệu Nguyên Thỉ thứ tư đời vua Bình Đế thời tiền Hán, tại vị hai mươi mốt năm, băng hà vào năm Giáp Thân, niên hiệu Địa Hoàng thứ tư. Vua này là em của Tam Hoàng. Theo Tam quốc sử: Tân La xưng vương thì gọi là Cư Thế Can, Thần Hàn thì gọi là vương, hoặc tôn xưng quý nhân, hoặc gọi là Thứ Thứ Hùng, hoặc gọi là Từ Duẫn. Kim Đại Vấn ghi: Thứ Thứ Hùng theo phương ngôn nghĩa là Vu (đồng cốt), người đời dùng đồng cốt để phụng sự quỷ thần, tôn sùng tế tự, cho nên sợ và cung kính việc ấy, do đó gọi bậc tôn trưởng là Từ Duẫn. Hoặc gọi là ni sư Kim, phương ngôn nghĩa là Xỉ lý (tính số răng để định người có đức). Khi Nam Giải vương băng hà, con là Nổ Lễ vương nhường ngôi cho Thoát Giải, Thoát Giải nói rằng: "Tôi nghe nói rằng bậc Thánh trí thì nhiều răng", bèn cắn bánh để thử, xưa truyền như thế. Hoặc gọi vua là Ma Lập Can (lập hoặc gọi là Tụ), Kim Đại Vấn ghi: "Ma Lập, phương ngôn là quyết (cây cọc, cái que), cây que căn cứ theo thứ bậc mà cắn, thì que của vua là đầu tiên, que của các quan đặt phía dưới, nhân đó mà lập tên. "
Sử luận ghi: Tân La, vua gọi là Cư Tây Can, Thứ Thứ Hùng là một vị, xưng Ni Sư Kim là mười sáu người, xưng Ma Lập Can là bốn người. Vào cuối triều đại Tân La, danh Nho Thôi Trí Viễn đặt ra lịch niên đại các đế vương, từ đó thì gọi là vua nào, chứ không gọi là Cư Thế Can... Đâu thể cho rằng lời ấy thô lậu không đủ để tôn xưng? Nay ghi lại các việc của Tân La thì cũng nên giữ lại các phương ngôn vậy.
Tân La, người được truy phong gọi là Cát Văn vương, chưa rõ vì sao. Vào đời vua này quân Nhạc Lương đến đánh Kim thành, nhưng không thắng phải trở về. Vào năm Mậu Dần, niên hiệu Thiên Phượng thứ năm, bảy nước nhỏ thuộc Cao Ly đến hàng.
Tên là Phác Nỗ Lễ Ni Sất Kim (còn gọi là Nho Lễ vương). Lúc đầu vương nhường ngôi cho em rễ là Thoát Giải. Thoát Giải nói rằng: Người có đức thì nhiều răng, nên tính số răng để định, do đó hai vị cùng cắn bánh để nghiệm biết. Cuối cùng vương nhiều răng hơn, nên làm vua trước, nhân đó mà gọi là Ni Sất Kim. Danh từ Ni Sất Kim bắt đầu từ đây. Năm Quý Mùi, niên hiệu Canh Thỉ nguyên niên, đời Lưu Thánh Công, vương lên ngôi (trong niên biểu ghi tức vị năm Giáp Thân); thay đổi tên của sáu bộ ban đặt sáu họ; soạn Đâu-suất ca, có thán từ và từ mở đầu; chế ra lưỡi cày, tạng băng khố, xe cộ. Năm Kiến Võ thứ mười chín, diệt nước Y Tây, cũng năm này Cao Ly đem quân xâm chiếm.
Tên là Thoát Giải Xỉ Sắt Kim (còn gọi là Thổ Giải Ni Sư Kim). Vào thời Nam Giải vương, (Bản xưa ghi: Năm Nhâm Dần đến... là sai lầm. Vì gần thì sau khi Nỗ Lễ vương lên ngôi, không có việc nhường ngôi vị. Trước thì thuộc thời Hách Cư Thế, cho nên biết nói Nhâm Dần là không đúng), có một chiếc thuyền cập vào nước Giá Lạc ở ngoài biển, bấy giờ vua nước ấy là Thủ Lộ vương và nhân dân vui mừng đón tiếp nồng nhiệt, muốn lưu lại, nhưng thuyền lại bay đến phía Đông Kê lâm hạ xuống bến A Trân ở Tây Tri thôn. Lúc ấy gần bên bến A Trân có một cụ già tên là A Trân Nghĩa Tiên là mẹ của Hải Xích Thời Hách Cư vương nói rằng: Trong biển không có núi đá, vì sao chim thước lại tụ tập kêu vang như thế, bèn theo thuyền mà tìm kiếm, thấy chim thước lại tụ tập bên trên một chiếc thuyền, trong thuyền này có một cái hòm dài hai mươi thước, rộng mười ba thước, bà bèn kéo thuyền này buộc vào gốc cây, "Ôi! Chưa biết lành hay dữ?" bà ngửa mặt lên trời mà kêu như thế. Bỗng chốc chiếc hòm này mở ra, bên trong có một nam tử diện mạo đoan chánh và nô tỳ cùng bảy báu chất đầy trong đó. Sau bảy ngày cung cấp, người nam bèn nói rằng: "Ta là người nước Long thành (cũng gọi là nước Chánh Minh, Hoàn Hạ, hoặc Hoa Hạ; nước này nằm cách Nhật Bản một ngàn dặm về phía Đông bắc). Nước ta có hai mươi Long vương từ thai người mà sinh ra, lúc năm tuổi, sáu tuổi thì lần lượt làm vua, dạy dỗ nhân dân tu tập chánh mạng. Lại có tám bậc Tánh cốt, nhưng không chọn lựa, tất cả đều lên ngôi vị. Đến đời phụ vương ta là Hàm Đạt Bà cưới con gái của Tích Nữ quốc vương làm phi; nhưng đã lâu mà chưa có con kế nghiệp, bèn cầu khẩn; bảy năm sau vương phi sinh ra một cái trứng lớn. Vua liền hội quần thần bàn rằng: Người mà sinh ra trứng là việc xưa nay chưa từng có, ắt chẳng phải là điềm lành. Do đó mới đóng một cái hòm đặt ta vào trong đó cùng với bảy báu và nô tỳ, bỏ xuống thuyền, thả nổi trôi trên biển, chúc rằng: Tùy vùng đất có duyên đến được mà lập quốc, thành gia. Sau đó có rồng đỏ bảo vệ thuyền, đưa ta đến đây. " Nói xong người nam cầm trượng dẫn theo hai nô tỳ lên Thổ hàm sơn lập một hang đá, lưu lại bảy ngày, nhìn vùng đất có thể lập nghiệp trong thành, thấy một ngọn núi như ba mặt trời, mặt trăng, địa thế có thể trụ lâu dài, bèn xuống quan sát, đó là đất của Biều Công. Người nam bèn lập một ngụy kế, lén chôn than quặng vào khu đất này. Sáng sớm hôm sau người nam đến nhà Biều Công nói rằng: "Đây là nhà của tổ tiên ta!" Công không chịu, hai bên tranh cãi qua lại không giải quyết được, bèn dẫn đến quan phân xử. Quan nói: "Lấy gì để làm chứng cứ đây là nhà của ngươi?" Người nam nói rằng: "Tôi vốn là một người thợ đúc, vừa mới qua làng bên cạnh, mà người này đến chiếm, xin đào đất lên để nghiệm xét!" Khi đào lên quả thật có than, quặng, bèn chiếm lấy mà ở. Bấy giờ Nam Giải vương biết Thoát Giải là người trí bèn gả Trương công chúa cho, tức là A-ni phu nhân.
Một hôm Thổ Giải lên Đông nhạc, vì đường xa nên khát bèn sai Bạch Y tìm nước; Bạch Y đi lấy nước, về giữa đường bèn nếm trước mới dâng, tự nhiên góc bát dính chặc vào miệng không thể bứt ra được, do đó mà phun nước ra mà thề rằng: "Từ nay về sau, dù gần hay xa cũng đều chẳng dám uống trước. " Lúc ấy bát nước rời khỏi miệng. Từ đó Bạch Y mới kính phục, chẳng còn dám xem thường. Nay ở Đông nhạc có một cái giếng tục gọi là Dao Nãi tỉnh chính là việc này. Đến khi Nỗ vương băng hà, vào tháng sáu năm Đinh Tỵ, niên hiệu Trung Nguyên thứ hai đời Quang Vũ Đế, vương lên ngôi. Vì khi xưa (Tích) nhà ta là lấy nhà của người, nên lấy họ Tích; hoặc cho rằng nhờ chim thước () mở hòm, nên bỏ chữ điểu () còn lại chữ tích () lấy làm họ. Mở (giải) hòm, "thoát" ra khỏi vỏ trứng mà sinh, nên lấy tên là Giải Thoát; tại vị hai mươi ba năm, vào năm Kỷ Mão, niên hiệu
Kiến Sơ thứ tư thì băng hà. Đầu tiên an táng Sơ Xuyên khâu, sau thành thần ban chiếu: "Nên cẩn thận mai táng hài cốt của ta. " Nên mọi người khai quật thì thấy đầu lâu có chu vi ba thước hai tấc, xương thân hình dài chín thước bảy tấc, răng kết lại thành một, các đốt xương liên kết nhau, đúng là một bộ xương của một lực sĩ vô địch trong thiên hạ; bèn nghiền nát ra để tạo thành tượng tôn thờ trong cung. Vua lại báo mộng: "Hài cốt của ta đặt tại Đông nhạc"; nên mọi người cải táng nơi đó.
(Có thuyết cho rằng, sau khi vua băng hà, mãi đến đời thứ hai mươi bảy là Văn Võ vương, vào ngày Tân Dậu mười lăm tháng ba năm Canh Thìn, niên hiệu Điều Lộ thứ hai, ban đêm vua nằm mộng thấy ở Thái miếu có một ông già tướng mạo rất uy mãnh nói rằng: "Ta là Thoát Giải, hãy đem hài cốt của ta ở Sơ Xuyên khâu về làm thành tượng, thờ ở Thể Hàm sơn. " Vua nghe theo lời này. Cho nên đến nay vẫn tế tự không dứt, đó là Đông Nhạc thần.
Ngày mồng bốn tháng tám năm Canh Thân, niên hiện Vĩnh Bình thứ ba (có nơi ghi là Trung Nguyên năm thứ sáu là sai lầm. Vì niên hiệu Trung Nguyên chỉ có hai năm mà thôi), ban đêm Biều Công đi đến ngôi làng phía Tây của Nguyệt thành, thấy một vầng ánh sáng lớn trong Thỷ lâm (còn gọi là Cửu lâm), có đám mây tía từ trên không trung bay xuống đất, trong đám mây có một cái hòm màu vàng ròng, treo trên cành cây, ánh sáng từ hòm phát ra, cũng có gà gáy nơi gốc cây. Mọi người tâu lên vua, vua liền đến, sai người mở hòm ra thấy một đồng nam đang nằm bỗng ngồi dậy, giống như sự việc của Hách Cư Thế khi xưa, nhân lời nói của đứa bé mà đặt tên là Yên Trí. Yên Tri, phương ngôn là từ gọi trẻ con. Vua lại sai người bồng về cung, chim thú liền theo sau, vui mừng nhảy nhót. Vua bèn chọn ngày tốt lập làm Thái tử, sau nhường cho Ta-bà, không lên ngôi. Vì từ hòm bằng vàng mà sinh ra nên lấy họ Kim. Yên Tri sinh Nhiệt Hán, Hán sinh A-Đô, Đô sinh Thủ Lưu, Lưu sinh Úc Bộ, Bộ sinh Câu Đạo (còn gọi là Cừu Đạo), Đạo sinh Vị Trâu, Trâu lên ngôi vua. Họ Kim ở Tân La khởi đầu từ Yên Trí.
Vào năm thứ tư đời A-đạt-la vương, nhằm năm Đinh Dậu, ở bờ biển Đông có Diên Ô Lang và Tế Ô Nữ, vợ chồng sống chung với nhau, một hôm Diên Ô ra biển lấy rong, bỗng nhiên có một tảng nham thạch (có thuyết nói là một con cá) mang đến Nhật Bản. Người Nhật thấy được cho rằng chẳng phải là người thường, bèn lập làm vua (theo Nhật Bản Đế Kỷ thì trước sau không có người Tân La đến làm vua. Có lẽ đây là một Tiểu vương ở vùng biên địa, chẳng phải là vua chánh). Tế Ô sợ chồng không về nên đi tìm, thấy đôi giầy của chồng để lại, Tế Ô cũng leo lên tảng nham thạch ấy, thì cũng được đưa đến nơi trước kia. Người trong nước kinh ngạc, tâu với vua; bỗng nhiên vợ chồng sum họp, Tế Ô được lập làm quý phi. Bấy giờ ở Tân La, mặt trời mặt trăng không phát ánh sáng, quan thiên văn tâu rằng: "Tinh của trời, trăng giáng xuống nước ta, nay đã đi đến Nhật Bản rồi, nên mới có điềm quái dị này!" Vua liền sai sứ cầu hai người trở về. Diên Ô nói: "Ta đến nước này là do trời sai bảo, nay đâu thể trở về!" Tuy thế phi của trẫm có dệt một tấm lụa rất mịn, dùng để tế trời thì có thể được. Vua bèn ban cho tấm lụa này, sứ giả trở về tâu bày rồi y theo lời mà tế trời, sau đó mặt trời mặt trăng phát ánh sáng như xưa. Vua Tân La cất tấm lụa này vào ngự khố xem như một quốc bảo, gọi là quý phi khố. Nơi tế trời gọi là Nghinh Nhật huyện. Dời đô về Kỳ Dã.
Đời vua thứ mười ba là Vị Trâu Ni Sất Kim (còn gọi là Vị Tổ, Vị Triệu), vua là cháu bảy đời của Kim Yên Trí, là người tài giỏi mà có Thánh Đức, được Lý Giải vương truyền ngôi (nay tục gọi lăng của vua là Thỉ Tổ Đường, bởi vì họ Kim lần đầu tiên làm vua, cho nên các vua họ Kim đời sau đến tận Vị Trâu là Thỉ Tổ, thật đúng vậy), vương tại vị hai mươi ba năm thì băng hà, an táng tại lăng phía Đông chùa Hưng luân). Đến đời vua thứ mười bốn là Nhi Lý vương, quân Y Tây đánh phá Kim thành, quân ta dốc toàn lực phòng ngự, lâu ngày mà chẳng thể đẩy lui được. Bỗng có một đội quân lạ, binh lính đều có giắt lá trúc bên tai đến hỗ trợ quân ta đánh phá được quân giặc. Khi lui quân thì không biết đội quân kia về đâu, chỉ thấy lá trúc tụ ở trước lăng Vị Trâu vương, thì mới biết Tiên vương âm thầm giúp sức. Nhân đó gọi là Trúc Hiện lăng.
Đến đời thứ ba mươi bảy là Tuệ Cung vương, vào tháng tư năm Kỷ Mùi, niên hiệu Đại Lịch thứ mười bốn, bỗng nhiên có một cơn trốt từ lăng mộ Dữu Tín Công phát khởi, trong gió có một người oai vệ như tướng quân, cưỡi tuấn mã, lại có hơn bốn mươi người đầy đủ giáp trụ binh khí đi theo vào trong lăng Trúc Hiện, bỗng chốc trong lăng có âm thanh như tiếng khóc chấn động vang ra, hoặc như tiếng tỏ bày. Tiếng nói phát ra rằng: Bình sinh thần có công giúp vua, cứu nạn, khuông phò xã tắc, nay lại làm hồn phách cứu giúp quốc gia, tấm lòng trừ tai, cứu hoạn không một mảy may thay đổi. Nhưng trước kia vào năm Canh tuất, con cháu của thần vô tội mà bị tru lục, vua tôi chẳng nghĩ đến công lao của thần, nên thần muốn đến nơi khác, chẳng còn phải lao nhọc khổ nữa, xin vương cho phép!" Vương đáp rằng: "Chỉ có ta và ông, nếu chẳng giúp đỡ nước này, thì thứ dân làm sao đây?" Công lại ra sức cầu xin, ba lần thì ba lần chẳng chấp nhận. Cuối cùng cơn trốt trở về nơi cũ.
Vua nghe thế lấy làm kinh sợ, bèn sai quan bộ công là Kim Kính Tín đến lăng Kim Công tạ lỗi, lại lập ba mươi mẫu công đức ở chùa Linh Thứu để cầu minh phước. Tức chùa do Kim Công lập ra để tạo phước đức, sau khi thảo phạt Bình Nhưỡng. Nếu chẳng có sự hiển linh của Vị Trâu vương, thì không có sự phẩn nộ của Cát Văn Công. Công lao hộ quốc của vương rất lớn. Vì thế người trong nước ghi nhớ mãi đức của vương, đồng tế tự với Tam Sơn mà chẳng kém, vượt trên cả Ngũ lăng mà gọi là Đại miếu.
Nại Vật vương: (còn gọi là Na Mật vương) Kim Đê Thượng.
Năm Canh Dần, nhằm năm thứ ba mươi sáu đời thứ mười bảy Na Mật vương, vua Nhật Bản sai sứ thần đến hiến tâu rằng:
"Quả quân (vua tự xưng) nghe Đại vương thần thánh, nên mới sai sứ thần đến báo tội của Bách Tế với Đại vương, xin Đại vương cho một vương tử sang để biểu thị thành tâm đối với quả quân!"
Vương bèn sai vương tử thứ ba là Mỹ Hải (còn gọi là Vị Sất Hỉ) đi sứ sang Nhật. Mỹ Hải mới mười tuổi, tất cả lời nói, cử chỉ chưa đầy đủ, nên vua sai nội thần là Phác Ta Lãm làm phó sứ điều khiển. Vua Nhật giữ lại ba mươi năm chẳng cho về, mãi đến năm Kỷ mùi đời Nột Kỳ vương năm thứ ba, Trường Thọ vương vua Cao Ly sai sứ đến triều tâu rằng:
"Quả quân nghe em của Đại vương là Bảo Hải thông minh tài giỏi muốn kết thân, nên đặc biệt khiến tiểu thần đến khẩn cầu. "
Vua nghe thế cho là may mắn, nhân đó mà kết tình giao hảo. Nên sai em là Bảo Hải cùng với nội thần là Kim Chánh Yết phụ tá sang Cao Ly. Trường Thọ vương cũng giữ lại không cho về. Đến năm thứ mười Ất mùi, vua triệu tập quần thần và hào kiệt trong nước về triều ban ngự yến, sau ba lần dâng rượu, mọi người mới vừa vui vẻ, thì vua bỗng nhiên rơi lệ nói với quần thần rằng: "Khi xưa Tiên vương vì thành tâm lo cho dân, nên mới sai con yêu quý của mình sang làm tin ở Nhật Bản, đến lúc băng hà mà chẳng thấy mặt. Đến đời trẫm lên ngôi, lân bang binh rất hùng mạnh, chiến tranh liên miên; Cao Cú Ly chỉ có một lời kết thân, trẫm tin lời này mà cho người em thân thiết sang làm tin. Cao Cú Ly cũng chẳng cho về. Trẫm tuy sống trong phú quý mà chưa từng có một ngày tạm quên, chẳng khóc. Nếu được thấy hai em, cùng tạ tội trước miếu Tiên vương thì mới báo được ân với nhân dân trong nước! Ai có thể hoàn thành được kế sách này?"
Bấy giờ trăm quan đều tâu là việc này rất khó, ắt phải có người đầy đủ trí dũng mới làm được. Chúng thần cho rằng chỉ có thái thú Siêm La quận là Đê Thượng mới làm được. Vua bèn triệu đến hỏi, Đê Thượng lạy đáp rằng: "Thần từng nghe nói hễ chúa lo thì tôi nhục, chúa bị nhục thì bầy tôi chết. Nếu bàn đến khó dễ rồi mới làm thì gọi là bất trung, tính chuyện sống chết rồi mới hành thì đó là vô dũng; thần tuy bất tài nhưng cũng phụng mệnh mà làm". Vua vô cùng vui mừng chia rượu mà uống, nắm tay tiễn biệt. Đê Thượng nhận mệnh vua, thẳng đường lên Bắc hải, thay đổi y phục vào Cao Ly, đến nơi ở của Bảo Hải định ngày trốn về. Đầu tiên định ngày mười lăm tháng năm khởi sự, đến cửa khẩu Cao thành mà đợi. Ngày hẹn sắp đến, Bảo Hải cáo bệnh, mấy ngày không vào chầu. Ban đêm lén đi đến bờ biển Cao thành. Vua biết được sai mấy mươi người đuổi theo, đến Cao Thành thì bắt kịp. Nhưng hằng ngày Bảo Hải thường thi ân cho mọi người, nên quân sĩ thương mến, lấy hết đầu tên sắt nhọn rồi mới bắn, vì thế trốn thoát được mà trở về. Vua đã gặp được Bảo Hải, thì lại càng nhớ đến Mỹ Hải, một buồn một vui lẫn lộn, rơi lệ mà nói với các quan rằng:
- Như thân mà có một tay, mặt có một mắt, tuy được một mà mất một, sao chẳng đau xót?
Đê Thượng nghe lời này, thì đến bái biệt, cưỡi ngựa đi thẳng không về nhà. Khi đến bến Lật Phố, người vợ nghe tin liền cưỡi xích mã đuổi theo, đến Lật Phố thì thấy chồng đã lên thuyền, người vợ khẩn thiết kêu gọi mà Đê Thượng chỉ vẫy tay chứ chẳng dừng. Đến Nhật Bản, Đê Thượng đến nói với vua rằng: Vua Kê Lâm vô cớ giết cha anh của tôi, nên tôi phải trốn sang đây!". Vua tin nên cấp cho nhà cửa sinh sống.
Đê Thượng bấy giờ thường cùng với Mỹ Hải ra bờ biển bắt cá bẩy chim đem về cho Nhật Vương. Vua rất vui mừng, không nghi ngờ gì. Đến một hôm trời giáng sương mù dày đặc, Đê Thượng nói: "Bây giờ là lúc nên đi!". Mỹ Hải nói: "Thế thì cùng đi!". Đê Thượng nói: "Nếu thần đi e rằng người Nhật biết đuổi theo. Thần nguyện ở lại ngăn cản sự truy đuổi của họ!". Mỹ Hải nói: "Nay ta và người như cha anh, làm sao có thể bỏ người ở đây mà trở về một mình!". Đê Thượng nói: "Thần có thể cứu được mạng của Ngài, làm yên được lòng của Đại vương, thì đâu cần phải sống nữa?". Nói xong dâng rượu cho Mỹ Hải. Bấy giờ có người Kê lâm là Khang Cừu Lệ sống ở Nhật Bản cũng cùng trốn theo. Đê Thượng vào phòng Mỹ Hải, đến sáng ra, mọi người muốn vào phòng để gặp, Đê Thượng bước ra ngăn rằng: "Hôm qua đuổi bắt chim cá nên bị bệnh nặng chưa dậy được, nằm mãi trời đã quá chiều rồi!". Mọi người lấy làm lạ bèn hỏi lại, Đê Thượng nói: "Mỹ Hải đã đi từ lâu rồi!". Quan quân bèn chạy đến tâu với vua, vua sai kỵ binh truy đuổi nhưng chẳng kịp, bèn bắt giam Đê Thượng và hỏi rằng:
- Tại sao ngươi lại lén thả con của vua nước ngươi?
- Thần là bầy tôi của Kê Lâm, chẳng phải là bầy tôi của Nhật Bản, nay muốn hoàn thành chí nguyện của vua mình, thì đâu dám nói với bệ hạ!
Vua Nhật nổi giận nói rằng: Nay ngươi đã là bầy tôi của ta mà nói là bầy tôi của Kê Lâm, thì ắt sẽ bị đủ năm hình phạt, nếu ngươi nói là bầy tôi của Nhật thì sẽ được ban thưởng bổng lộc!
Đáp rằng: Thà làm heo chó của Kê Lâm, chứ không bao giờ nhận bổng lộc của Nhật Bản!
Vua nổi giận sai lóc da dưới gót chân Đê Thượng, rồi cắt cỏ liêm, cỏ tiết bắt Đê Thượng bước lên trên ấy, (ngày nay trên cỏ liêm, có tiết có vết máu, tục gọi là máu Đê Thượng), khi ấy lại hỏi rằng:
- Ngươi là bầy tôi nước nào?
- Là bầy tôi Kê Lâm!
Vua lại bắt đứng trên que sắt nhọn rồi cũng hỏi là bầy tôi nước nào, Đê Thượng vẫn đáp là làm tôi Kê Lâm.
Nhật Vương biết chẳng thể thuyết phục được, bèn sai người đốt chết trên Mộc đảo.
Mỹ Hải vượt biển trở về, sai Khang Cừu Ly báo trước với người trong nước. Vua nghe được vừa kinh ngạc vừa vui mừng, khiến bá quan ra Khuất Yết nghinh đón. Vua và em là Bảo Hải tiếp đón ở Nam giao, rồi vào cung mở đại yến, đại xá thiên hạ, phong vợ Đê Thượng làm quốc đại phu nhân, con gái làm Mỹ Hải Công phu nhân. Bàn rằng: Khi xưa tôi nhà Hán là Châu Hà bị quân Sở bắt tại Vinh Dương. Hạng Võ nói rằng: "Nếu ngươi làm bầy tôi của ta, thì sẽ được tước Vạn lộc Hầu!". Châu Hà liền mắng chửi không chịu khuất phục, bị Hạng Võ giết. Sự trung liệt của Đê Thượng ở đây đâu khác gì Châu Hà.
Lúc Đê Thượng mới ra đi, phu nhân nghe tin đuổi theo nhưng không kịp, bèn đến bãi cát (sa) phía Nam chùa Vọng Đức nằm trên đó kêu gào mãi không dứt (trường), nên gọi bãi cát đó là Trường Sa. Hai người thân thuộc đến xốc nách đem về, nhưng bà ngồi duỗi chân không chịu đứng dậy nên gọi nơi đó là Phiệt Tri Chỉ. Thời gian lâu sau, phu nhân không ngăn được lòng nhớ thương, bèn dẫn ba người con gái lên ngọn Si Thuật hướng về Nhật Bản kêu khóc mà chết, làm Si Thuật Thần Mẫu, ngày nay đền thờ vẫn còn.
Thật Thánh Vương: (đời thứ mười tám)
Vào năm Quý Sửu, niên hiệu Nghĩa Hi thứ chín, vua sợ Thái tử Nột Kỳ con của vua trước là người hiền đức, muốn hãm hại, bèn mời quân Cao Ly đến Đại Kiều thành ở Bình Nhưỡng châu (e rằng phía Nam Bình nhưỡng nay là Dương châu) trá ngụy nghinh đón Nột Kỳ. Người Cao Ly thấy Nột Kỳ là người hiền nên trở giáo đâm chết vua, lập Nột Kỳ lên làm vua rồi ra đi.
Năm Mậu Dần tức năm thứ mười đời vua thứ hai mươi mốt là Tỳ Xử Vương (còn gọi là Chiêu Trí Vương), một hôm vua xuất cung đến Đình Thiên Tuyền, bấy giờ có một con chim và một con chuột đến kêu vang. Chuột nói tiếng người rằng: "Đi theo con chim này mà tìm!" (có thuyết cho rằng Thần Đức Vương muốn hành hương ở chùa Hưng Luân, giữa đường thấy một bầy chuột đều ngậm đuôi, vua lấy làm lạ trở về chiếm quẻ, sáng hôm sau theo con chim kêu đầu tiên mà tìm. Thuyết này chẳng đúng), vua bèn sai kỵ sĩ đuổi theo, đi về hướng Nam đến Tị thôn (nay là thôn Nhưỡng Tị Tự, tại chân núi phía Đông của Nam sơn), kỵ sĩ mãi xem hai con heo húc nhau nên mất dấu chim. Kỵ sĩ đang ngơ ngác bên đường, bỗng có một ông lão từ ao xuất hiện tay cầm một quyển sách, bên ngoài có đề câu: "Mở ra xem thì hai người chết, không mở ra xem thì một người chết", khiến dâng lên vua. Vua nói: "Để hai người chết, chẳng thà để một người chết!". Nhật quan tâu rằng: Hai người chết là dân, một người chết là vua!". Vua đồng ý mở ra xem thấy trong sách ghi: "Xạ cầm hạp" (bắn hộp đàn). Vua trở về cung thấy hộp đàn liền bắn. Số là vị Tăng hương đăng trong nội điện lại thông gian với cung chủ, hai người liền bị giết chết. Từ đó người trong nước cứ vào các ngày hợi, tý, ngọ thượng tuần tháng giêng thì kiêng kỵ, trăm việc đều chẳng dám làm. Đến ngày mười sáu là ngày kỵ chim, phải cúng tế cơm gạo..., đến nay tục lệ ấy vẫn còn lưu hành. Phương ngôn nói Đát đao, nghĩa là sầu bi mà cấm kỵ các việc. Vua đặt ao nước tên là Thủ Xuất Trì.
Đời vua thứ hai mươi hai là Tri Triết Lão Vương, họ Kim tên là Trí Đại Lộ, Trí Độ Lộ, thụy là Trí Trừng, thụy hiệu bắt đầu có từ đây. Người làng gọi vua là Ma Lạp Can cũng bắt đầu từ đây. Vua lên ngôi năm Canh Thìn niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ hai (hoặc nói là năm Tân Tỵ tức thứ ba). Âm tàng của vua dài một thước năm tấc, khó tìm người phối ngẫu. Vua sai sứ đi khắp ba đạo tìm cầu. Khi đến Mâu Lương bộ, thấy dưới cây Đông Lão hai con chó tranh nhau ăn một đống phân lớn như cái trống. Sứ hỏi người trong làng, có một bé gái trả lời rằng: "Con gái của Tướng công ở Bộ này tắm rửa tại Ẩn Lâm đã để lại như thế!". Sứ giả liền tìm đến nhà để kiểm nghiệm, thì thấy cô gái cao bảy thước năm tấc. Sứ bèn dâng tấu văn về triều trình bày đầy đủ, vua bèn khiến xe ngựa đến rước về cung phong làm hoàng hậu, quần thần đều chúc mừng.
Đông Hải thuộc châu A Sắt La (nay là Minh châu) đi hai ngày đường biển thì gặp đảo Vu Lãng (còn gọi là Vũ lăng) chu vi hai mươi sáu ngàn bảy trăm ba mươi bộ. Dân trên đảo cậy có biển sâu, nên kiêu ngạo không thần phục, vua sai tướng Y Tự Phác Y Tông đem binh thảo phạt. Y Tông tạo tượng Sư tử đặt trên chiến hạm để thị uy, nếu chẳng hàng thì thả thú ra đánh phá. Dân trên đảo sợ hãi xin hàng. Vua phong Y Tông làm Châu Bá.
Đời thứ hai mươi bốn là Chân Hưng Vương lên ngôi năm mười lăm tuổi, có Thái hậu nhiếp chính. Thái hậu là con gái của Pháp Hưng Vương, được lập làm phi của Tông Cát Văn Vương. Vào cuối đời bà cạo tóc đắp pháp y mà qua đời. Tháng chín niên hiệu Thừa Thánh, quân Bách Tế xâm chiếm Trân thành, bắt ba mươi chín ngàn nam nữ, tám ngàn con ngựa mà về. Trước đó Bách Tế muốn cùng Tân La hợp binh đánh Cao Ly, Chân Hưng
Vương nói: Sự hưng vong của một quốc gia là do trời, nếu trời chưa bỏ Cao Ly thì ta đâu dám vọng động?". Lời này đến tai người Cao Ly, người Cao Ly cảm ơn lời này mà giao hảo với Tân La. Còn Bách Tế thì oán, cho nên nay đến đánh phá.
Đời vua thứ hai mươi lăm là Xá Luân Vương, thụy là Chân Trí Đại Vương, họ Kim, phi tên là Trị Đao phu nhân, con gái của Khởi Ô Công, lên ngôi năm Bính Thân, niên hiệu Đại Kiến thứ 8 (bản xưa ghi năm Kỷ Hợi, Đại Kiến mười một là lầm), tại vị bốn năm, vì hoang dâm, trị chánh rối loạn nên người trong nước truất phế. Trước đó, ở Sa Lương Bộ có một người con gái dung nhan kiều diễm, người thường gọi là Đào Hoa Nương, vua nghe được, triệu về cung, muốn gần gũi. Đào Hoa tâu: Điều mà người đàn bà giữ gìn là không thờ hai chồng. Người con gái đã có chồng, theo về với chồng rồi, dù có uy của quân vương rốt cuộc cũng chẳng thể đoạt!". Vua lại hỏi rằng: "Nếu giết chết thì sao?". Đào Hoa đáp: "Thà bị chém chết ngoài chợ, chứ nguyện không xa lìa chồng mình!". Vua vui vẻ hỏi rằng: "Vậy không có chồng thì có thể chứ?".
Vua tha cho trở về. Cũng năm ấy vua bị phế mà qua đời. Hai năm sau chồng của Đào Hoa cũng chết. Vừa giáp tuần, bỗng nhiên một đêm vua như người lúc xưa đến phòng Đào Hoa nói rằng: "Khi xưa nàng có hứa, nay không có chồng, vậy có thể chăng?"
Đào Hoa chẳng dám vội nhận, đến bày tỏ với cha mẹ. Cha mẹ nàng nói rằng: "Lời dạy của vua đâu thể trốn tránh được?" Vì thế cùng với người nữ vào phòng, ở lại bảy ngày, thường có mây năm sắc phủ trên nhà, mùi hương xông đầy thất. Sau đó thì không thấy tung tích gì nữa. Đào Hoa Nương nhân vậy mà có thai, sắp đến kỳ sinh trời đất chấn động, một bé trai ra đời, đặt tên là Tỵ Kinh. Chân Bình Đại Vương nghe việc kỳ lạ, bèn đem về cung nuôi dưỡng. Năm lên mười lăm tuổi trao cho làm chức Chấp Sự. Mỗi đêm Tỵ Kinh thường vượt thành đi xa. Vua sai năm mươi dũng sĩ theo giữ gìn, thấy thường bay qua Nguyệt Thành đến bờ sông Hoang ở phía Tây (phía Tây Kinh thành). Các dũng sĩ nấp trong rừng nhìn thấy Tỵ Kinh thống lãnh quỉ chúng dạo chơi, khi nghe tiếng chuông chùa buổi sáng thì biến hết. Kinh Lang cũng trở về. Quân sĩ tâu sự việc lên vua. Vua triệu Kinh Lang đến hỏi rằng: Ngươi thường dẫn chúng quỉ đi chơi, có thật không?
Đáp rằng: Thật đúng vậy!
Vua hỏi: Vậy ngươi có thể khiến quỷ chúng làm một chiếc cầu bắc qua con lạch phía Bắc chùa Thần Nguyện chăng? (còn gọi là chùa Thần Chúng là sai. Có thuyết cho là con lạch sâu ở phía Đông sông Hoang). Kinh Lang phụng chỉ, sai quỷ chúng luyện đá tạo thành một cây cầu lớn chỉ trong một đêm, gọi là Quỷ kiều. Vua lại hỏi: Trong loài quỷ, vị nào có thể xuất hiện ở nhân gian, phụ giúp triều chánh được?"
Đáp: Có Cát Đạt làm được!
Vua bảo gọi đến. Hôm sau Kinh Lang và Cát Đạt cùng đến, vua ban làm chấp sự, thật trung thành chánh trực vô cùng. Bấy giờ Giác Can Lâm Tông không có con, nên phong Kinh Lang làm Thái tử. Lâm Tông sai Cát Lâm xây một lâu môn ở phía Nam chùa Hưng Luân, ban đêm thường đến đó ngủ nghỉ, nên gọi là Cát Đạt Môn. Một hôm Cát Đạt biến thành con chồn chạy trốn, Kinh Lang sai quỷ bắt giết. Vì thế quỷ chúng nghe danh Tỵ Kinh đều sợ hãi bỏ chạy. Người thời bấy giờ có làm bài Từ rằng:
Hồn Thánh đế sinh con Nhà đình Tỵ Kinh Lang
Bay đuổi các chúng quỷ Nơi đây chẳng được dừng.
Nhân gian dùng bài ca này để trừ quỷ.
(Tháng năm, năm Đinh Dậu, niên hiệu Thanh Thái thứ tư, Chánh Thừa Kim Phó hiến tặng một đai thắt lưng bằng vàng kết ngọc dài, lớn, có sáu mươi hai khóa, tâu rằng: "Đây là đai do trời ban cho Chân Bình Vương! Thái Tổ nhận lấy, cất vào kho báu trong cung).
Đời thứ sáu mươi hai là Bạch Tịnh Vương, thụy hiệu là Chân Bình Đại Vương, họ Kim, lên ngôi vào tháng tám năm Kỷ Hợi niên hiệu Đại Kiến thứ mười một, thân cao mười một thước. Một hôm vua xa giá đến nội đế Thích cung (còn gọi là Thiên Trụ tự do vua sáng lập), vua bước lên bậc đá, ba bậc đá đều bị gãy. Vua bảo quần thần rằng: "Không được thay đổi các bậc đá này, lấy đây để chỉ cho hậu thế!". Đây là một trong năm nơi trong thành có đá bị gãy không được thay (bất động thạch). Vào năm thứ nhất, có Thiên sứ giáng xuống điện nói với vua rằng: "Thượng Hoàng sai ta xuống đây truyền ban cho đai ngọc". Vua quỳ lạy nhận lãnh. Sau đó sứ trở về trời. Phàm có tế tự lớn ở giao đàn hoặc Thái miếu đều có mang đai ngọc này. Sau vua Cao Ly muốn mưu đánh Tân La, quần thần tâu rằng: "Tân La có ba vật báu, nên không thể xâm phạm được: Một là tôn tượng Phật trượng sáu ở chùa Hoàng Long, hai là ngôi tháp chín tầng ở chùa này, ba là đai ngọc trời ban cho Chân Bình Vương". Do đó ngăn chặn được mưu này.
Người đời có thơ khen rằng:
Biên ngoại trời ban cho đai ngọc
Thắt với long bào thật uy nghi
Từ đó thân vua càng thêm nặng
Ngày mai phải dùng sắt làm thềm.
Đời hai mươi bảy là Đức Mạn (còn gọi là Vạn), thụy là Thiện Đức Nữ Đại Vương, họ Kim, cha là Chân Bình Vương; lên ngôi năm Trinh Quán thứ sáu tức là năm Nhâm Thìn, tại vị mười sáu năm. Vương biết ba việc sắp xảy ra: Đầu tiên Đường Thái Tông gởi cho một bức vẽ hoa Mẫu đơn ba màu là đỏ, tía và trắng và ba thăng hạt. Vương nhìn bức họa liền nói: Hoa này nhất định không có hương"; nhưng vẫn bảo trồng trước sân. Đến lúc cây trổ hoa quả thật như thế. Hai, trong ao Ngọc Môn ở chùa Linh Miếu, loài ếch nhái tụ tập lại kêu suốt ba, bốn ngày, người trong nước lo sợ hỏi Vương. Vương liền sai Giác Can, Yên Xuyên, Bật Thốn... luyện tập hai ngàn binh, gấp đến Tây Giao tìm Nữ Căn Cốc, có giặc, thì phục binh đánh úp. Hai vị Giác Can, mỗi người lãnh một ngàn binh đến Tây Giao hỏi thăm, quả nhiên dưới Phú Sơn có Nữ Căn Cốc, năm trăm quân Bách Tế đã ẩn núp ở đây, cả hai đồng đến bắt giết hết. Tướng quân của Bách Tế là Vu Chiêu nấp tại Lĩnh Thạch ở Nam sơn, bị bao vây bắn chết. Lại có hậu quân của Bách Tế một ngàn hai trăm người cũng bị giết, không ai trốn thoát. Ba, vua không lo buồn khi nói với quần thần rằng: "Vào ngày đó, tháng đó, năm đó ta sẽ qua đời, an táng ở trong Đao-lợi thiên!" Quần thần không biết nơi nào bèn hỏi rằng: "Đó là nơi nào?" Đáp: Phía Nam Lang sơn.
Đến ngày tháng ấy quả nhiên vương băng hà. Quần thần an táng ở phía Nam Lang sơn. Hơn mười năm sau, Văn Võ Đại Vương xây chùa Tứ Thiên Vương phía dưới lăng của Thiện Đức Nữ Vương. Kinh Phật nói: "Trên Tứ Thiên Vương, có Đao-lợi thiên!" mới biết được linh trí của Bà.
Đương thời quần thần hỏi vương rằng: "Làm sao biết hai việc hoa và ếch?" Vương đáp: "Vẽ hoa mà không có bướm thì biết hoa chẳng có hương. Đó là vua Đường khi quả nhân không có chồng. Ếch hiện dáng giận dữ là tượng của binh sĩ. Ngọc môn tức là nữ căn, nữ thuộc âm, màu trắng, thì ứng với hướng Tây, nên biết binh phục tại phía Tây. Nam căn nhập nữ căn thì ắt chết. Vì thế biết để đánh bắt được. "
Bấy giờ quần thần mới khâm phục Thánh trí của Bà. Người tặng hoa ba màu đã biết Tân La có ba nữ vương như thế chăng? Đó chính là Thiên Đức, Chân Đức và Thánh Đức vậy. Vua Đường đã có được lời huyền giải. Việc Thiện Đức sáng lập chùa Linh Miếu có ghi đầy đủ trong Lương Chí Sư Truyện. Biệt Ký ghi: Đời vua này, đã luyện đá xây Chiêm Tinh đài.
Đời hai mươi tám là Chân Đức Nữ Vương, sau khi lên ngôi đã tự soạn Thái Bình Ca, dệt gấm có đường vân, rồi sai sứ dâng tặng vua Đường.
(Có bản cho rằng vương sai Xuân Thu Công đi sứ xin binh. Vua Thái Tông chuẩn y cho Tô Đình Phương... đây là lời sai lầm. Trước năm Hiện Khánh, Xuân Thu Công đã lên ngôi; năm Canh Thân niên hiệu Hiện Khánh không phải là đời Thái Tông mà là đời Cao Tông. Định Phương đến là vào năm Canh Thân niên hiệu Hiển Khánh. Nên biết dệt gấm có vân hiến dâng chẳng phải lúc xin binh mà là đời Chân Đức là đúng. Bởi vì đây là lúc xin tha Kim Khâm).
Vua Đường vui mừng ban thưởng và cải phong là Kê Lâm Quốc Vương. Bài văn ghi:
Đại Đường khai nghiệp lớn
Vòi vọi sáng đạo trời
Uy võ dứt can qua
Văn chương hợp trăm vương
Khắp trời ban mưa móc,
Phép trị thật rõ ràng.
Lòng nhân hòa nhật nguyệt
Thuận thời gặp Đường Ngu
Nào cờ xí rợp trời
Nào trống chiêng dậy đất
Man di không tuân mệnh
Tên đạn phủ đất trời
Thuần phong lặng, tối tăm
Xa gần đều an lành
Tứ thời soi đuốc ngọc
Thất diệu chuyển vạn phương
Tứ nhạc làm Tể tướng
Thánh đế dụng trung lương
Năm, ba thành một đức
Sáng mãi đường triều ta.
Vào triều đại của vương có Yên Xuyên Công, Lâm Tông Công, Thuật Tông Công, Võ Lâm Công (cha của Từ Tạng), Khương Trường Công và Dửu Tín Công; sáu vị này cùng tụ hội về Vu Tri Nham ở Nam sơn luận bàn việc nước. Bỗng có một con hổ lớn chạy vào, các Công đều kinh hãi đứng dậy, nhưng Yên Xuyên Công vẫn làm ngơ không động, nói cười như không có việc gì xảy ra, tay nắm đuôi quật hổ xuống đất chết ngay. Sức mạnh của Yên Xuyên Công như thế, là bậc nhất trong hội này. Nhưng mọi người đều kính phục oai của Dửu Tín Công. Tân La có bốn linh địa, khi sắp có việc lớn, các Đại Thần về đây họp bàn thì việc lớn ắt sẽ thành công. Đó là:
1. Thanh Tòng Sơn ở phía Đông.
2. Vu Tri Sơn ở phía Nam.
3. Bì Điều ở phía Tây.
4. Kim Cang Sơn ở phía Bắc.
Đời vua này mới định lễ tết nguyên đán; mới lập chức Thị lang.
Là con của Hổ Lực Y Can, tên Thủ Huyền Giác Can. Trưởng tử của họ Kim gọi là Dửu Tín, em gọi là Khâm Độn, chị là Bảo Cơ, lúc nhỏ tên là A Hải, em gái là Văn Cơ, lúc nhỏ tên là A Chi. Dửu Tín Công sinh vào năm Ất Sửu, đời Chân Bình Vương năm mười bảy. Ông bẩm thọ cái tinh của Thất Diệu, nên trên lưng có hiện các vân Thất Diệu. Ông có rất nhiều điều thần dị. Năm mười tám tuổi, tức năm Nhâm Thân, ông luyện kiếm đạt được yếu thuật, được phong làm Quốc Tiên. Bấy giờ có một người tên là Bạch Thạch chẳng biết từ đâu đến vào làm bộ hạ cho Công đã nhiều năm, Công thường đem việc chinh phạt Cao Ly, Bách Tế ra bàn luận với Bạch Thạch. Bạch Thạch biết mưu tính của Công nên thưa rằng:
- Thuộc hạ xin ngài hãy do thám hai nước ấy trước, rồi sau hãy định liệu như thế nào!
Công vui mừng, đêm đến cùng với Bạch Thạch ra đi, lúc nghỉ ngơi ở Hiện sơn, bỗng có hai người con gái đi theo Công; đến Cốt Hỏa Xuyên nghỉ đêm lại có một người con gái nữa đến nhập đoàn. Lúc Công và ba người con gái vui vẻ chuyện trò, thì một người trao cho Công một quả ngọt, Công nhận lấy và ăn, trong lòng thầm chấp nhận nhau, và bày tỏ tình ý. Người con gái nói rằng:
- Lời của ngài nói, đây xin vâng theo! Xin ngài hãy rời Bạch Thạch, cùng nhau vào rừng để thiếp tỏ bày tình thật! Công bèn để Bạch Thạch lại, cùng với các người con gái vào rừng; các người con gái bỗng hiện thành các vị thần và nói rằng: "Chúng tôi là ba vị thần hộ quốc Nại Lâm, Huyệt Thể và Cốt Hỏa, nay người của nước địch dụ dẫn Công mà Công chẳng biết lại cùng đi. Chúng ta muốn giữ Công lại nên đã cùng đến đây!". Nói xong liền biến mất.
Công nghe xong kinh hãi, lạy tạ mà trở ra. Đêm ấy tá túc tại Cốt Hỏa Quán, Dửu Công nói với Bạch Thạch rằng: "Đi đến nước khác mà quên giấy tờ quan trọng, chúng ta cần phải trở về nhà để lấy!". Đến nhà, Công liền bắt trói Bạch Thạch tra hỏi sự tình. Bạch Thạch khai rằng:
Tôi là người Cao Ly (cổ bản ghi người Bách Tế là sai. Vì Thu Nam là quan viên Cao Ly. Hơn nữa việc nghịch hành đạo âm dương là chuyện xảy ra vào thời Bảo Tạng Vương), quần thần nước tôi nói Dửu Tín nước Tân La chính là Thu Nam, một quan Bói toán ở nước tôi (bản xưa ghi Xuân Nam là sai). Lúc ấy trong nước có một con sông chảy ngược (hoặc gọi là việc thư hùng phản phúc), vua sai Thu Nam bốc quẻ; xong tâu rằng: "Phu nhân của Đại vương nghịch hành đạo âm dương, nên hiện điềm như thế!".
Đại Vương lấy làm kinh sợ, còn Vương phi thì phẫn nộ, cho là lời yêu mị, nói với Vương rằng: "Nên dùng một việc khác để kiểm nghiệm ông ta, nếu nói sai sẽ bị trọng hình". Vua y lời sai người nhốt một con chuột trong hộp, rồi hỏi Thu Nam là vật gì? Tâu rằng: "Trong đó là con chuột, có tám mạng!". Mọi người cho là nói sai, bèn đem xử tội chết. Trước khi chết Thu Nam thề rằng: "Sau khi ta chết nguyện sẽ làm Đại Tướng diệt Cao Ly!". Vua bèn sai người chém đầu. Sau đó mổ chuột thấy trong đó có bảy con chuột con, bấy giờ mới biết lời ấy là đúng. Đêm ấy Đại Vương mộng thấy Thu Nam nhập vào thai Tư Huyền phu nhân ở Tân La, mới bảo quần thần rằng: "Thu Nam mang lòng thề nguyện mà chết, quả nhiên đúng vậy".
Do đó bèn sai tôi đến đây mưu tính.
Công bèn giết Bạch Thạch, sắp đặt thức ăn một trăm vị để cúng tế, ba thần đều hiện thân hưởng thọ.
Tông Tài Mại phu nhân họ Kim khi mất, an táng tại một cái cốc trên Thanh Uyên, do đó mà gọi là Tài Mại cốc. Hằng năm cứ đến mùa xuân thì trai gái của một dòng, thiết yến tại nam giản của cốc này. Bấy giờ cỏ cây tươi tốt, hoa tòng nở đầy động phủ, sau lập am nơi lâm cốc khẩu, đặt tên là Tòng Hoa Phòng. Sau truyền làm chùa Sắc Nguyện. Đến triều Cảnh Minh Vương, đời thứ năm mươi bốn, truy phong Dửu Công là Hưng Võ Đại Vương, xây lăng tại Hương tẩu phong, Đông bắc chùa Mao Chỉ, Tây sơn.
Đời vua hai mươi chín là Thái Tông Đại Vương, tên là Xuân Thu, họ Kim, con của Long Thọ (Long Xuân) Giác Can truy phong Văn Hưng Đại Vương; mẹ là Thiên Minh phu nhân con của Chân Bình Đại Vương, phi là Văn Minh hoàng hậu Văn Cơ, tức em gái út của Dửu Tín Công. Lúc đầu chị của Văn Cơ là Bảo Cơ nằm mộng thấy lên Tây nhạc xả nước chìm ngập cả kinh thành. Sáng ngày thuật lại với Văn Cơ. Văn Cơ nghe xong nói rằng: "Em mua điềm mộng này!".
Bảo Cơ nói: "Đổi cho vật gì?" Đáp: "Quần gấm đước chăng?"
Người chị đồng ý, Văn Cơ bèn mở vạt áo để nhận điềm mộng.
Bảo Cơ nói: "Điềm mộng hôm nào, ta trao lại cho em!" Văn Cơ bèn trao quần gấm cho chị.
Khoảng mười ngày sau, nhằm ngày Ngọ tháng giêng là kỵ nhật (xem việc bắn hộp đàn ở trên, là thuyết của Thôi Trí Viễn) Dửu Tín và Xuân Thu chơi Tựu cúc ở trước nhà của Dửu Tín (người Tân La gọi Tựu cúc tức chơi ném châu). Dửu Tín cố ý đạp quần của Xuân Thu, làm rách khuy áo, bèn nói:
-"Xin mời vào nhà tôi để kết lại". Xuân Thu đồng ý. Dửu Công bảo A Hải đem kim ra, A Hải nói rằng:-"Đâu thể vì một việc nhỏ mà khinh suất gần gũi một quý công tử sao?"
Bảo Cơ bèn từ chối, nên Dửu Công bảo A Chi. Xuân Thu biết ý của Dửu Tín, nên gần gũi, từ đó về sau qua lại nhiều lần. Dửu Tín biết em mình có thai bèn trách rằng: Ngươi chẳng báo cha mẹ mà có thai là làm sao? Liền tuyên bố khắp thiên hạ là muốn thiêu em mình. Một hôm đợi Thiện Đức Vương đến Nam sơn, Dửu Tín Công chất củi trong sân đốt lửa, khói xông lên. Từ xa Vương thấy bèn hỏi là khói gì? Quần thần tâu đó là Dửu Tín Công đốt em gái. Vương hỏi đến nguyên do. Đáp rằng: "Em của Dửu Tín không có chồng mà có thai". Vua lại hỏi: "Do ai gây ra?"
Bấy giờ Xuân Thu Công đang hầu cận ở trước vua, mặt biến sắc. Vua trông thấy liền nói: "Là ngươi tạo ra phải chăng, mau đến cứu gấp!"
Công vâng mệnh phi ngựa, truyền chỉ ngăn cản. Sau đó tổ chức hôn lễ. Sau khi Chân Đức Vương băng hà, vào năm Vĩnh Huy thứ năm nhằm năm Giáp Dần, Công kế vị, ở ngôi được tám năm, năm Tân Dậu, Long sóc nguyên niên thì băng hà, thọ năm mươi chín tuổi, an táng ở phía Đông chùa Ai Công, có lập bia. Vương và Dửu Tín định mưu thần, chung sức thống nhất Tam Hàn, có công rất lớn với xả tắc, nên miếu hiệu là Thái Tông. Vương có các thái tử là Pháp Mẫn, Giác Can Nhân Vấn, Giác Căn Văn Vương, Giác Can Lão Đán, Giác Can Trí Cảnh, đều do Văn Cơ sinh ra. Đó là minh chứng cho việc mua điềm mộng thời ấy. Các con thứ có Giai Tri Văn Cấp Can, Xà Đắc Lịnh Công, Mã Đắc A Can, và năm người con gái.
Mỗi ngày vương ăn ba đấu gạo cơm, chín con chim trĩ trống, sau khi diệt Bách Tế vào năm Canh Thân, vương không ăn bữa trưa, chỉ ăn sáng và tối mà thôi; nhưng mỗi ngày dùng hết sáu đấu gạo, sáu đấu rượu, mười chim trĩ. Giá cả trong thành, một xấp vải ba mươi thạch hoặc năm mươi thạch, nhân dân gọi là thời đại Thánh. Khi còn ở vị Đông cung, vì muốn chinh phạt Cao Ly, nên đến Đường Triều xin binh, vua Đường thấy phong cách của Vương cho là thần nhân, cố giữ lại làm thị vệ, nhưng Vương ra sức xin trở về. Bấy giờ ở Bách Tế có Mạt Vương Nghĩa Từ là con trưởng của Võ Vương, hùng mãnh, can đảm, rất có hiếu với cha mẹ, thân thiết với anh em, người đương thời gọi là Hải Đồng Tăng Tử. Đến năm Tân Sửu, niên hiệu Trinh Quán thứ mười lăm, người này lên ngôi, sau đó thì đam mê tửu sắc khiến việc trị chánh rối loạn đất nước đảo điên, quan Tả Bình (một tước của Bách Tế) Thành Trung ra sức can gián mà vua chẳng nghe, còn bắt quan hạ ngục, khốn khổ ốm gầy, trước khi chết Thành Trung viết biểu tâu rằng:
- Trung thần dầu chết cũng không quên vua, nay xin có một lời rồi chết, thần từng xem thời thế biến chuyển sắp tới ắt có chiến tranh. Phàm dùng binh, phải chọn địa thế, nên ở thượng lưu mà nghinh địch, mới có thể bảo toàn. Nếu binh nước khác đến, đường bộ thì chẳng cho vượt qua Nham Hiện (còn gọi là Thẩm Hiện, một yếu địa của Bách Tế). Còn như đường thủy thì chẳng cho vào Kỷ Phiết Phố (tức Trường Nham, còn gọi là Chỉ Hỏa Phố, còn gọi là Bạch Giang). Trấn giữ nơi hiểm yếu để ngăn chặn địch, thì mới được".
Vua chẳng nghe theo. Vào năm Kỷ Mùi, niên hiệu Hiện Khánh thứ tư, tại chùa Ô Hội ở Bách Tế, có một con ngựa đỏ ngày đêm sáu thời nhiễu quanh chùa. Tháng hai các loài chồn vào cung Nghĩa Từ, một con chồn trắng đến ngồi trên bàn sách của Tả Bình. Tháng tư gà mái và chim sẻ giao cấu trong cung Thái tử; tháng năm cá lớn dài ba trượng chết bên bờ sông Tứ Thử (tên sông ở Phù dư), người ăn cá này đều bị chết. Tháng chín cây hòe trong cung cất tiếng khóc như người, ban đêm quỷ khóc trên con đường phía Nam của cung.
Đến mùa Xuân năm Canh Thân, niên hiệu Hiện Khánh thứ năm, nước giếng ở kinh đô có màu máu, ở bờ Tây Hải có nhỏ vọt lên chết vô số, người ăn chẳng hết. Nước sông Tứ Thử đỏ như máu. Tháng tư bỗng nhiên có hàng vạn con ễnh ương tụ tập trên cây. Người dân ở kinh đô tự nhiên bỏ chạy tán loạn như có ai đuổi bắt, kinh sợ té chết trên một trăm người, mất tiền của vô số. Tháng sáu, chư Tăng ở chùa Vương hưng thấy một vật như mái chèo theo nước lụt trôi vào cổng chùa, lại có một con chó lớn như con nai rừng, từ phía Tây chạy đến bờ sông Tứ Thử, hướng vào vương cung mà sủa, bỗng chốc chẳng thấy đâu. Chó trong thành tụ tập trên đường, hoặc là sủa, hoặc là khóc, hồi lâu mà chẳng đi. Lại có một con quỷ vào trong cung la lớn rằng: "Bách Tế mất! Bách Tế mất!". Rồi chui xuống đất. Vua kinh lạ bảo đào đất, sâu đến ba thước thì thấy một con rùa, trên lưng có hàng chữ: "Bách Tế như mặt trăng tròn, Tân La như trăng mới hiện". Vua hỏi, người bói toán tâu rằng:
- Mặt trăng tròn thì đã mãn, mãn thì sẽ khuyết. Mặt trăng mới hiện thì chưa mãn, chưa mãn thì dần dần sẽ mãn.
Vua nổi giận chém đầu. Hoặc có người lại tâu rằng:
- Mặt trăng tròn tức thịnh, mặt trăng mới hiện tức là suy vi. Nghĩa là quốc gia hưng thịnh, còn Tân La sẽ dần dần suy vi.
Vua vui mừng.
Bấy giờ Thái Tông của Tân La nghe nói ở Bách Tế xuất hiện nhiều điềm quái lạ; nên năm Canh Thân, niên hiệu Hiện Khánh thứ năm, sai sứ là Nhân Vấn sang Đường triều xin viện binh. Đường Cao Tông hạ chiếu sai Tả võ vệ đại tướng quân khinh quốc công Tô Định Phương làm Thần khâu đạo hành sách tổng quản, dẫn Tả vệ tướng quân Lưu Bá Anh tự Nhân Viễn, tả võ vệ tướng quân Phùng Sĩ Quý, tả kiêu vệ tướng quân Bàng Hiếu Công cùng mười ba vạn quân sang chinh phạt (Hương ký ghi một trăm hai mươi hai ngàn bảy trăm mươi một quân và một ngàn chín trăm chiếc thuyền, mà Đường sử nói chẳng rõ). Tân La quốc vương Xuân Thu làm Ngung Di Đạo Hành Quân Tổng Quản, lãnh quân bản quốc hợp binh. Tô Định Phương dẫn binh từ Thành Sơn vượt biển đến đảo Đức Vật. Tân La Vương sai Kim Dửu Tín dẫn năm vạn tinh binh đến hợp chiến. Nghĩa Từ Vương nghe tin liền hội quần thần tìm kế chống giữ. Quan Tả Bình Nghĩa Trực tâu rằng:
- Binh Đường từ xa vượt biển, không quen sóng nước, quân Tân La cậy vào viện binh của nước lớn, có tâm khinh địch, nếu thấy binh Đường thất bại, ắt sẽ nghi sợ mà chẳng dám tiến binh. Vì thế, trước phải quyết chiến với binh Đường mới được!
Đạt Suất và Thường Vĩnh... nói rằng: Như thế thì chẳng được! Quân Đường từ xa đến, muốn đánh nhanh, nhuệ khí ấy ta khó chống cự. Quân Tân La từ bị bại trước quân ta nay đang mong gặp được ta, thế lực ấy chẳng thể chẳng e ngại. Vì thế hôm nay nên chặn quân Đường, để đợi quân mỏi mệt. Trước chỉ nên đánh quân Tân La để bẻ gãy nhuệ khí, sau đó thừa cơ mà hợp chiến, như thế quân mới an toàn mà bảo vệ đất nước!
Vua còn do dự chưa quyết định theo kế của ai. Bấy giờ có Tả Bình Hưng Thủ bị tội lưu đày ở huyện Cổ Mã Tộ Tri, vua sai người đến hỏi kế sách rằng: "Việc đã cấp bách lắm, bây giờ phải làm sao?"
Hưng Thủ đáp: "Đại khái nên làm theo lời của Tả Bình Thành Trung!"
Các đại thần chẳng tin nói rằng: Hưng Thủ còn là kẻ bị tội, oán chúa, chẳng yên nước nhà, lời nói của người ấy chẳng thể dùng! Chi bằng khiến quân Đường vào Bạch giang (tức Kỷ Phiệt Phố) hẹp, thuyền chỉ xuôi dòng mà không đi song song được. Lại nhữ quân Tân La lên Hiện Sơn, do đường hẹp chẳng thể đi hai ngựa ngang nhau được, bấy giờ tung quân đánh úp, giống như bắt gà trong lồng, cá trong lưới vậy.
Vua y theo kế này. Lại nghe quân của Đường và Tân La đã qua Bạch giang và Nham Hiện, bèn sai tướng quân Hài Bá lãnh năm ngàn quân ra Hoành sơn giao chiến với quân Tân La. Lúc đầu thắng bốn trận, nhưng binh ít lực tàn rốt cuộc đại bại, Hài Bá tử trận. Tân La tiến lên hợp binh, đồn trú tại Tân giang ở Bạch Tân khẩu. Bỗng nhiên có một con chim bay vòng trên doanh trại của Định Phương. Phương sai người giải đoán, nói rằng: "Ắt thương tổn đến nguyên soái!". Định Phương lo sợ muốn dãn binh. Dửu Tín nói với Định Phương rằng:
- Đâu thể vì sự kỳ quái của con chim mà nói Thiên thời; hợp với trời thuận lòng người, đánh dẹp kẻ quá bất nhân, thì đâu có gì là chẳng lành?
Nói xong bạt thần kiếm chém vào con chim, chim bị đoạn đứt rơi xuống trước mặt. Bấy giờ Định Phương xuất binh giao chiến tại Thừa sơn ở Tả nhai, quân Bách Tế đại bại. Vương thống lãnh quân sĩ dong thuyền cưỡi sóng nối đuôi dõng mãnh tiến lên. Đinh Phương dẫn kỵ binh theo đường bộ tiến thẳng đến kinh đô, cách ba mươi dặm thì dừng. Trong thành đem quân ra chống cự, lại đại bại chết trên một vạn binh tướng. Quân Đường thừa thắng công thành. Vua Bách Tế biết việc chẳng xong liền than rằng:
- Hận vì không nghe lời của Thành Trung, để đến nỗi này! Rồi cùng với Thái tử Long (gọi Hiếu là sai) chạy ra phía Bắc. Đinh Phương vây thành. Con thứ của vua là Thái tử tự lập làm vua đôn đốc quân dân chống cự. Con của thái tử là Văn Trung nói với Thái Vương rằng: "Vương và thái tử đã chạy rồi mà chú lại tự lập làm vương, nếu binh Đường chiếm thành, chúng ta làm sao toàn mạng". Do đó bèn dẫn quân thần xuất thành, dân chúng cũng đi theo. Thái không thể ngăn chặn được. Định Phương sai quân sĩ vượt thành cắm cờ xí quân Đường. Quẩn bách, Thái phải mở cửa thành xin hàng. Bấy giờ Vương, thái tử Long, Vương tử Thái, đại thần Trinh Phước và toàn thành đều hàng. Định Phương dẫn Vương làm Nghĩa Từ, thái tử Long, Vương tử Thái, Vương tử Diễn, tám mươi tám đại thần, tướng quân và mười hai ngàn tám trăm bảy mươi người dẫn về kinh đô.
Bách Tế gồm năm bộ, ba mươi bảy quận, hai trăm thành, bảy trăm sáu mươi ngàn hộ. Đến đây thì lập năm đô đốc phủ là: Hùng Tân, Mã Hàn, Đông Minh, Kim Liên, Đức An, phong Cừ làm Đô Đốc Thứ Sử để cai trị, sai Lang Tướng Lưu Nhân Nguyện trấn thủ Đô thành, Tả vệ Lang Tướng Vương Văn Độ làm Đô đốc Hùng Tân, vỗ an dân chúng. Định Phương dẫn những người bị bắt trình lên Đế, Đế trách nhưng lại khoan thứ. Nghĩa Từ Vương bị bệnh qua đời, được tặng tước Kim Tử Quang Lộc Đại Phu Vệ Úy Khanh, cho phép cựu thần đến thăm, Đế ban chiếu an táng bên cạnh mộ của Tôn Hạo Trần Thúc Bảo và dựng bia.
Năm Nhâm Tuất, niên hiệu Hiện Khánh thứ bảy, Đường Cao Tông sai Định Phương làm Liêu Đông Đạo Hành Quân Đại Tổng Quản bất ngờ tấn công Đạo Bình Nhưỡng, phá quân Cao Ly ở Phối Giang, đoạt Mã Ấp sơn lập doanh trại, bao vây thành Bình Nhưỡng. Nhưng gặp tuyết rơi quá dày nên phải trở về, được phong làm Lương Châu An Tập Đại Sứ, để bình định Thổ phồn. Nhưng đến năm Càn Phong thứ hai thì Định Phương qua đời, vua Đường thương tiếc truy tặng tước Tả Phiêu Kỵ đại tướng quân U châu đô đốc, thụy là Trang (trên đây là văn của Đường sử).
Còn Tân La Biệt Ký ghi: "Văn Võ Vương tức vị vào ngày Canh Tý, tháng tám mùa Thu năm Ất Sửu niên hiệu Hiện Khánh thứ năm. Vương đích thân thống lãnh đại quân đến thành Hùng Tân, hội cùng Giả Vương của Phù Dư là Long, lập đàn, giết ngựa trắng để kết thề. Trước tế cáo trời thần và linh khí núi sông, sau mới uống máu, làm văn mà thề rằng: "Khi xưa Tiên Vương của Bách Tế mê muội việc nghịch thuận, chẳng dốc lòng giao hảo lân bang, chẳng hòa ái với tình thân hôn ước, mà lại kết nối với Cao Cú Ly, thông đồng với Nhật Bản, cùng làm nhiều điều tàn bạo, xâm phạm Tân La, phá ấp đánh thành, không năm nào an ổn. Thiên tử thương xót đồng loại mất nơi chốn, bá tánh bị khổ sở; nên mới sai sứ đến khuyến dụ kết giao hòa hiếu. Nhưng ỷ vào địa thế hiểm trở, đường sá xa xôi nên khinh mạn đạo trời khiến Hoàng đế phẫn nộ, kính tuân chinh phạt, cờ xí trực chỉ, dùng binh yên định, chắc chắn làm cho cung điện biến thành ao hồ, để răn dạy đời sau; lấp nguồn bạt gốc để huấn dụ đàn hậu tấn. Giữ lòng hòa hiếu, dẹp kẻ phản đồ là cố mệnh của Tiên vương, hưng vong đoạn tuyệt là phép chung của cổ thánh. Dụng tâm theo phép tắc xưa, truyền ghi trong sử sách. Cho nên lập vua trước của Bách Tế làm Nông Chánh Khanh, Phù Sư Long làm Hùng Tân Đô Đốc lo việc tế tự, giữ gìn xã tắc, nương nhờ Tân La, mãi mãi là đồng minh, trừ bỏ các oán thù xưa để kết tình hòa hiếu.
Cung kính vâng theo chiếu chỉ, vĩnh viễn làm phiên thuộc. Vua lại sai sứ là Hữu uy vệ tướng quân Lỗ Thành Huyện Công Lưu Nhân Nguyên đến khuyến dụ và tuyên chỉ. Dùng hôn nhân để kết giao, dùng minh thệ để rõ lòng, giết vật uống máu ăn thề, trước sau đồng lòng dốc sức, họa cùng chia, hoạn đầy giúp ân như anh em. Kính phụng chiếu vua, không dám quên sót. Sau khi đã kết minh, thì cùng giữ gìn lòng trung trinh son sắt, nếu ai phản bội, sinh lòng tráo trở, khởi binh kinh động nhân dân, xâm phạm biên cương thì thần minh soi xét, giáng trăm tai ương, con cháu không thể dưỡng nuôi, xã tắc không người gìn giữ, tế tự vĩnh viễn diệt tắc không còn gì. Vì thế lập sách vàng, khế sắt cất tại Tông miếu, để con cháu đời đời không dám sai phạm.
Thần minh chứng giám, thọ hưởng phước này!" Uống xong, chôn tiền lụa tại Đàn thệ, cất văn thề trong Thái miếu.
Văn này do Đái Phương Đô Đốc Lưu Nhân Quỷ soạn.
(Xét theo Đường sử thì Định Phương đã đưa Nghĩa Từ Vương và Thái tử Long về kinh. Ở đây lại nói hội minh cùng Phù Sư Vương là Thái tử Long, thì biết vua Đường đã tha thái tử Long trở về, lập làm Hùng Tân Đô Đốc. Cho nên văn minh có nói rõ, lấy đây mà nghiệm biết).
Cổ ký ghi: Năm Mậu Dần, niên hiệu Tổng Chương thứ nhất (nếu nói năm Mậu Dần, niên hiệu Tổng Chương thì đó là việc Lý Tích, nhưng văn sau nói là Tô Định Phương thì sai lầm). Nếu là Tô Định Phương thì phải nói là năm Nhâm Tuất, niên hiệu Long Sóc thứ hai đến vây thành Bình Nhưỡng), quân nhà Đường theo lời xin của Tân La mà đến đồn trú tại bên ngoài thành Bình Nhưỡng, đã gởi thơ về triều đình Tân La nên gấp chuyển vận quân lương. Vương bèn họp quần thần và hỏi rằng:
-Vào nơi đóng quân của binh Đường trong nước của địch thì thế thật nguy hiểm, còn người xin quân lương mà mình không chuyển đến thì cũng không được, vậy phải làm sao?
Dửu Tín tâu rằng: Thần sẽ chuyển vận quân lương ấy, xin Đại Vương không nên lo nghĩ!
Bấy giờ Dửu Tín, Nhân Vấn... thống lãnh mấy vạn người chuyển vận hai vạn hộc lương vào Cao Cú Ly rồi trở về. Vua rất vui mừng, muốn khởi binh hội với quân Đường. Dửu Tín trước sai người đến hỏi ngày giờ hội quân. Nguyên soái quân Đường là Tô Định Phương lấy giấy vẽ hình con trâu nghé và chim loan gởi về, người trong nước chưa hiểu, mới mời Pháp sư Nguyên Hiểu đến giải. Pháp sư nói rằng: "Nên gấp lui binh, vẽ trâu nghé và chim loan là hai con vật khắc nhau". Bấy giờ Dửu Tín liền lui quân, ra lệnh nội trong ngày phải qua sông Bái, ai qua sau bị chém đầu. Do đó quân sĩ tranh nhau qua sông được một nửa, thì quân Cao Ly đến tấn công giết những người chưa kịp qua. Sáng hôm sau, Dửu Tín dẫn binh phản công truy đuổi quân Cao Ly, giết chết trên một vạn người. "Bách Tế Cổ ký ghi: Ở góc phía Bắc thành Phù Dư có một ngọn núi lớn, bên dưới là Giang thủy. Tương truyền, nghĩa Từ Vương và các cung phi biết không tránh khỏi cái chết, mới nói với nhau rằng: Thà tự vẫn, chứ không để chết trong tay người khác!". Nên cùng dẫn đến đây nhảy xuống sông tự vẫn. Do đó mà tục gọi đó là "Đọa Tử Nham". Đây là lời nói ngoa của ngạn ngữ dân gian mà thôi. Chứ Nghĩa Từ Vương mất ở Đường. Đường Sử đã nói rõ.
Tân La cổ truyện ghi: Định Phương đã thôn tính hai nước Cao Ly và Bách Tế, lại mưu đồ đánh chiếm Tân La mà lưu luyến ở đây. Dửu Tín biết ý đồ này nên bày yến tiệc thiết đãi quân Đường rồi hạ độc, khiến tất cả đều chết, rồi đào hố mà chôn. Nay ở Thương Châu có Đường Kiều là hố chôn quân Đường khi xưa.
(Xét Đường sử thì không ghi vì sao chết, chỉ viết là chết mà thôi, vì sao? Vì kỵ ư? Lời dân gian vô căn cứ ư? Nếu trong chiến dịch Cao Ly năm Nhâm Tuất, người Tân La giết tướng Định Phương, thì sau đó năm Mậu Thìn niên hiệu Tổng Chương đâu có việc xin binh diệt Cao Ly. Do đó biết đây là lời dân gian lưu truyền không có căn cứ.
Nhưng sau khi diệt Cao Ly năm Mậu Thìn, thì có xảy ra việc không thần phục, nhưng chỉ có đất này mà thôi, chẳng phải đến giết Tô và Lý).
Vương, đem binh yên định Bách Tế sau khi trở về, lại sai các tướng truy bắt tàn quân Bách Tế đồn trú tại Hán Sơn thành ở Thứ Vu. Quân Cao Ly và Mạt Thát đến bao vây, hai bên đánh nhau nhiều trận mà chưa giải vây được. Từ ngày mười một tháng năm đến ngày hai mươi hai tháng sáu quân ta thật nguy cấp, Vương nghe tin họp quần thần nghị bàn, vua hỏi: "Định tướng nào xuất binh?" Còn đang do dự chưa quyết định thì Dửu Tín vội tâu rằng: "Việc gấp lắm rồi, sức người không thể đến kịp, chỉ có sức thần mới cứu được!"
Nói xong Dửu Tín bèn lên núi Tinh Phù lập đàn, luyện thần thuật, bỗng nhiên có một vầng ánh sáng lớn bằng cái hủ, chói lòa từ đàn vọt ra, như ngôi sao bay thẳng về hướng Bắc (do đó gọi là Tinh Phù Sơn. Hoặc có thuyết khác cho rằng: Núi này ở phía Nam Đô lâm, có một ngọn cao vút, trong kinh thành có một người mưu cầu quan tước, mới sai con của mình thắp một cây đuốc lớn, ban đêm, lên đó học hành. Đêm ấy người kinh thành nhìn lên thấy, đều cho là ngôi sao xấu xuất hiện ở đó. Vua nghe được thì lo sợ, tìm người nhương tinh. Người cha nhận lời, nhưng sáng hôm sau, có quan tâu rằng: Đó chẳng phải là điều quái dị gì lớn, chỉ là điềm con chết cha khóc đó thôi!". Vua chẳng làm phép nhương tinh. Đêm ấy người con xuống núi bị cọp vồ chết). Bấy giờ quân lính trong thành Hán sơn oán thán vì viện binh chẳng đến, chỉ biết nhìn nhau khóc lóc mà thôi. Quân địch lại muốn gấp công thành. Bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ phía Nam xẹt đến tạo sấm sét lớn đánh nát hơn ba mươi nơi đặt máy bắn đá, kích mâu, cung tên của giặc đều bị gãy và té ngã trên đất, hồi lâu mới tỉnh, giặc vội vàng tháo chạy trở về. Quân ta cũng rút lui.
Lúc Thái Tổ mới lên ngôi, có người dâng hiến một con lợn một đầu, hai thân, tám chân, quần thần bàn rằng: "Đây ắt là điềm thôn tính lục hợp!". Đời của Vương mới bắt đầu sử dụng áo, mũ, hốt ngà của Trung Quốc, do Pháp sư Từ Tạng xin vua Đường truyền vào. Thời Thần Văn Vương, vua Cao Tông sai sứ đến Tân La bảo rằng: "Tiên Vương của Trẫm được các hiền thần là Ngụy Trung, Lý Thuần Phong... hiệp tâm đồng đức phò tá, thống nhất thiên hạ, nên mới tôn là Thái Tông Hoàng Đế; còn Tân La các ngươi là một nước nhỏ ở ngoại biên mà lấy hiệu là Thái Tông, đó tức tiếm danh Thiên tử, theo nghĩa là bất trung, hãy gấp thay đổi!"
Quốc Vương Tân La dâng biểu rằng: "Tân La tuy là một nước nhỏ mà được Kim Dửu Tín là Thánh nhân phò tá, thống nhất Tam Hàn, nên phong là Thái Tông!
Cao Tông thấy tờ biểu bèn nghĩ đến Thái tử, bỗng trên hư không có tiếng nói rằng:
-Trời Tam thập tam có vị giáng xuống Tân La đó là Dửu Tín, đã ghi chép rõ trong thư, hãy mở ra mà xem!
Cao Tông vô cùng kinh sợ, lại sai sứ sang cho phép không đổi hiệu Thái Tông.
Đầu tiên khi giao chiến với quân Bách Tế ở Hoàng sơn thì Trường Xuân Lang và Bãi Lang bị tử trận. Về sau khi đã thôn tính Bách Tế, báo mộng với Thái Tông rằng: Chúng thần khi xưa đã vì nước vong thân, đến nay tuy đã thành xương trắng, nhưng muốn hoàn thành việc bảo vệ đất nước, nên đi theo quân chinh chiến không hề mỏi mệt, ngặt vì sợ oai của Nguyên Soái Đường là Định Phương nên chỉ theo sau quân mà thôi! Xin Đại Vương ban cho chúng tôi thế lực nhỏ!"
Đại vương kinh lạ, nên vì hai vong hồn này mà sai lập đàn thuyết kinh một ngày ở đình Mâu Sơn, đồng thời lập chùa Tráng nghĩa ở châu Hán sơn để trợ tiến, cầu phước chốn u minh.
Vương lên ngôi vào năm Tân Dậu, niên hiệu Long Sóc. Ở vùng biển Nam thuộc Tứ Thử có xác chết một người nữ thân cao bảy mươi ba thước, chân dài sáu thước, âm dài ba thước. Hoặc có người nói thân mười tám thước, đó là năm Đinh Mão, niên hiệu Càn Phong thứ hai.
Năm Mậu Dần, niên hiệu Tổng Chương,
Vương thống lãnh đại quân cùng với Nhân Vấn, Khâm Thuần... đến thành Bình Nhưỡng hội cùng binh Đường diệt Cao Ly, Nguyên Soái quân Đường là Lý Tích bắt Cao Tang Vương (vì tánh cao ngạo nên gọi là Cao Tang. Theo Cao ký trong Đường thư, vào năm Canh Thân, niên hiệu Hiện Khánh thứ năm, Tô Định Phương... chinh phạt Bách Tế, sau mười hai tháng lại đánh Cao Ly thì làm sao hợp với đại tướng quân) về kinh Vương làm Phối Đạo Hành Quân Đại Tổng Quản, Tô Định Phương làm Liêu Đông Đạo Đại Tổng Quản, Lưu Bá Anh làm Bình Nhưỡng Đạo Đại Tổng Quản để đánh Cao Ly. Tháng giêng năm Tân Dậu, Tiêu Từ Nghiệp làm Đại Phù Dư Đạo Tổng Quản, Nhậm Nhã Tương làm Phối Giang Đạo Tổng Quản dẫn ba mươi lăm vạn quân đánh Cao Ly. Tháng tám năm Mậu Tuất, Tô Định Phương... giao chiến với quân Cao Ly ở Phối giang, Phương đại bại. Đến tháng sáu năm Bính Dần, niên hiệu Càn Phong thứ nhất, sai Bàng Đồng Thiện, Cao Khản, Tiết Nhân Quý, Lý Cẩm Hành... làm hậu viện. Tháng chín Bàng Đồng Thiện giao chiến với quân Cao Ly, bị đại bại. Tháng mười hai năm Kỷ Dậu, Đế phong Lý Tích làm Liêu Đông Đạo Hành Đại Tổng Quản thống lãnh quân của sáu tổng quản chinh phạt Cao Ly. Đến ngày Quý Sửu tháng chín năm Mậu Thìn niên hiệu Tổng Chương thứ nhất, Lý Tích bắt được Cao Tang Vương dẫn về Kinh. Ngày Đinh Dậu tháng mười hai năm ấy đưa tù binh trình lên Đế. Tháng hai năm Giáp Tuất, niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất, Lưu Nhân Quỷ làm Kê Lâm Đạo Tổng Quản, đem binh đánh Tân La; nhưng Hương Cổ Ký ghi: Vua Đường sai Lục Lộ Tướng Quân là Khổng Cung, Thủy Lộ Tướng Quân là Hửu Tương, cùng với tướng Tân La là Kim Dửu Tín... diệt Cao Ly. Còn ở đây lại nêu Nhân Vấn, Khâm Thuần mà không có Dửu Tín, chưa rõ vì sao?
Bấy giờ các đoàn quân lưu động của nhà Đường đã có nơi trấn thủ, nhưng các tướng này lại bày mưu đánh quân ta. Vương biết được bèn phát binh. Năm sau Cao Tông sai sứ triệu Nhân Vấn đến trách rằng: Nước các ngươi xin binh ta diệt Cao Ly mà nay lại hại quân ta là vì sao?
Bèn hạ chiếu sai Viên Phi thao luyện năm mươi vạn binh, phong Tiết Bang làm Nguyên soái, chinh phạt Tân La. Bấy giờ Nghĩa Tương Pháp sư sang Đường cầu học, đến gặp Nhân Vấn, Nhân Vấn thuật lại việc trên, ngài Nghĩa Tương bèn gấp về báo lại. Vương nghe được vô cùng kinh hãi hội quần thần tìm kế sách phòng ngự. Giác Can Kim Thiện Tôn tâu rằng: Gần đây có Pháp sư Minh Lãng xuống Long cung, được truyền cho bí pháp mà trở về, xin Đại vương ban chiếu thỉnh đến thực hỏi. Minh Lãng nói rằng: Hãy xây chùa Tứ Thiên Vương ở rừng Thần Du phía Nam Long sơn, khai mở đạo tràng thì mới chống giữ được. Bấy giờ có sứ giả ở Trinh châu chạy về cấp báo rằng: Quân Đường đã vào địa phận nước ta, nhưng còn đang đi thuyền trên biển. Vương lập tức triệu ngài Minh Lãng đến báo rằng: Việc đã cấp bách lắm rồi, phải làm sao?
-Lấy lụa năm màu giả tạo thành chùa, lấy cỏ kết thành tượng thần ngũ phương. Chọn mười hai vị Tăng Du-già, ngài Minh Lãng làm thượng thủ tu pháp bí mật Văn Đậu Lâu; bấy giờ quân Đường và quân Tân La chưa giao chiến. Bỗng nhiên cuồng phong thổi đến, biển dâng ba đào nhận chìm tất cả thuyền bè của quân Đường. Sau sáng lập chùa này đặt tên là Tứ Thiên Vương Tự, đến nay đạo tràng vẫn hưng thịnh (quốc sử nói sáng lập vào năm Kỷ Mão niên hiệu Điều Lộ thứ nhất).
Đến năm Tân Mùi, vua Đường lại sai Triệu Hiến làm soái dẫn năm vạn binh sang đánh Tân La. Ngài Minh Lãng cũng thực hành phép này và thuyền của quân Đường cũng chìm như trước.
Bấy giờ Hàn Lâm Thị Lang Phác Văn Tuấn cũng cùng ở trong ngục với Nhân Vấn, được vua Cao Tông triệu đến hỏi rằng: "Nước ngươi có mật pháp gì mà ta hai lần phát đại binh đi mà không có người trở về?"
Văn Tuấn tâu rằng: "Bồi Thần đến Thượng quốc đã hơn mười một năm rồi, không biết việc trong nước mình. Chỉ từ xa nghe được một việc thế này: Vì mang nặng ân đức của thượng quốc, thống nhất Tam Hàn, muốn báo đáp, nên vua nước Thần mới sáng lập một ngôi chùa tên là Tứ Thiên Vương ở Nam Lang sơn, đã cầu chúc cho hoàng đế thọ vạn niên, và mãi mãi khai pháp tịch mà thôi!"
Vua Cao Tông nghe nói vui mừng, sai lễ bộ thị lang Nhạc Bằng Quý đi sứ sang Tân La để quan sát ngôi chùa này. Vương nghe sứ nhà Đường sắp đến, vì chẳng muốn cho thấy ngôi chùa này, nên lại xây một ngôi chùa khác phía Nam Tứ Thiên Vương tự để tiếp đãi. Sứ đến nói rằng: "Đầu tiên phải dâng hương tại chùa Tứ Thiên Vương, nơi chúc Hoàng đế vạn thọ". Vương bèn dẫn đến ngôi chùa mới lập.
Sứ giả đứng trước cổng nói rằng: Đây chẳng phải là chùa Tứ Thiên Vương, mà là chùa Vọng Đức Diêu Sơn.
Vì thế không vào chùa, mọi người bèn tặng cho một ngàn lạng vàng. Sứ trở về tâu rằng: "Tân La lập chùa Tứ Thiên Vương, nhưng chúc Thánh thọ ở chùa mới mà thôi.
Nhân sứ nhà Đường gọi như thế nên đặt tên cho ngôi chùa mới là Vọng Đức tự (có người nói vào đời Hiếu Chiêu Vương là lầm).
Vương nghe Văn Tuấn khéo tâu bày, Đế lại có ý muốn tha về, nên sai Cường Thủ Tiên Sinh soạn biểu xin tha Nhân Vấn, sai Xá nhân Viễn Vũ dâng biểu lên vua Đường. Vua xem xong, cảm động rơi lệ, bèn tha tội cho Nhân Vấn và an ủi rồi tiễn về. Khi Nhân Vấn ở trong tù thì người trong nước vì ông lập chùa, đặt tên là Nhân Duy tự, lập đạo tràng Quan Âm, đến khi được trở về, bị chết trên biển thì đổi làm đạo tràng Di-đà, đến nay vẫn còn.
Đại vương ở ngôi hai mươi mốt năm, đến năm Tân Tỵ, niên hiệu Vĩnh Long thứ hai thì băng hà, di chiếu an táng trên đảo trong biển Đông. Bình sinh Vương thường nói với Pháp sư Trí Nghĩa rằng: "Thân sau của Trẫm nguyện làm Hộ quốc Đại Long để phụng sự Phật pháp, bảo vệ quốc gia!".
Pháp sư nói: "Rồng là quả báo súc sinh thì sao?" Vương đáp: "Trẫm đã chán vinh hoa thế gian từ lâu rồi, nếu được quả báo làm súc sinh, thì hợp với lòng của Trẫm!".
Thời gian Vương tại vị đã lập kho ở Nam sơn, dài năm mươi bộ, rộng mười lăm bộ, tàng trữ gạo thóc, binh khí, gọi là Hữu Thương; lại lập Tả Thương ở trên núi phía Tây Bắc chùa Thiên Ân. Biệt Bản ghi: "Năm Tân Hợi niên hiệu Kiến Phước thứ tám xây thành Nam sơn, chu vi hai ngàn tám trăm năm mươi bộ". Đó là xây dựng vào đời Chân Đức Vương, đến nay mới trùng tu. Lại mới lập thành Phú sơn, ba năm mới xong. Bên sông An Bắc xây Thiết thành. Lại muốn xây thành quách ở Kinh đô, đã sắp xếp đầy đủ quan lại, bấy giờ Pháp sư Nghĩa Tương gởi thơ nói rằng: "Nếu việc trị chánh của vua sáng tỏ thì tất cả cỏ cây gò núi đều là thành quách; dân chẳng dám vượt qua, khả dĩ trừ được tai họa, tăng được phước đức. Nếu việc trị chánh của vua bất minh thì dù có thành rộng dài, thì cũng không trừ được tai họa".
Vua nghe thế bèn bãi bỏ công việc này. Ngày mười tháng ba năm Bính Dần, niên hiệu Lân Đức, nô tỳ tên là Cát Y sinh ba đứa con. Ngày mồng bảy tháng giêng năm Canh Ngọ, niên hiệu Tổng Chương thứ ba, tỳ nữ của Nhất Sơn Cấp Can còn gọi là Thành Sơn Hà Can ở Hán Kỳ Bộ, một người sinh bốn con, một người sinh ba con, triều đình cấp cho hai trăm thạch để giúp đỡ.
Lại chinh phạt Cao Ly, vì cháu của vua nước ấy trở về nước, lập lại vị chân cốt (vương).
Một hôm vương nói với người em kế là Xa Đắc Công rằng: "Khanh nên làm Tể Tướng, đứng đầu trăm quan, trị an bốn biển".
Xa Đắc Công nói: "Nếu bệ hạ phong cho Tiểu thần làm tể tướng, thì thần xin ngầm đi khắp nước xem xét dân tình hỏi về sự an nhàn hay khổ nhọc của việc phu dịch, thuế má nặng nhẹ, quan lại trong đục, sau đó mới nhận chức. "
Vương cho phép, Công bèn mặc áo thâm, cầm đàn tỳ bà, giả hình cư sĩ, xuất phát từ kinh đô, qua Sắt La châu (nay là Minh châu), Ngưu Thủ châu (nay là Xuân châu), Bắc Nguyên kinh (nay là Trung châu) đến Võ Trân châu (nay là Hải Dương), đi khắp thôn xóm; quan châu là An Cát thấy một dị nhân bèn mời về nhà, tận tình tiếp đãi, đến đêm An Cát gọi ba thê thiếp lại mà nói rằng: "Người mà hầu hạ vị cư sĩ tá túc đêm nay, sẽ cùng vị ấy suốt đời chung thân!"
Hai người nói rằng: "Đâu chẳng từng chung sống, vì sao lại cùng qua đêm với người khác!"
Một người thiếp khác nói rằng: "Nếu ngài chấp nhận suốt đời chung sống, thì thiếp xin tuân mệnh!"
Công chấp thuận. Sáng sớm hôm sau, Cư sĩ từ giả lên đường, trước khi đi có nói rằng: "Tôi là người ở kinh thành, nhà ở khoảng giữa hai ngôi chùa Hoàng Long và Hoàng Thánh, tôi tên là Đoan Ngọ (tục gọi Đoan Ngọ là Xa Y), chủ nhân nếu đến Kinh đô, xin tìm đến nhà tôi! Nói xong Công trở về kinh đô nhậm chức Tể Tướng. Theo phép của triều đình, thường dùng một vị quan ở các châu về kinh đô nhận chức Thượng Thú. Nay các bộ ghi thiếu người này. Vừa lúc đến lượt An Cát làm Thượng Thú kinh đô. An Cát hỏi nhà của Cư sĩ Đoan Ngọ ở giữa hai ngôi chùa, nhưng không ai biết. An Cát đứng bên đường một hồi lâu, bỗng nhiên có một ông lão đi qua; nghe An Cát nói, ông lão cũng suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
-Ngôi nhà giữa hai chùa chính là Đại nội, Đoan Ngọ tức là Xa Đắc Lịnh Công. Lúc mật đi tuần thú các quận bên ngoài, ắt đã có duyên hội ngộ với ông ư?
An Cát trình bày sự thật. Ông lão nói:
Ông đến phía Tây hoàng thành, đứng ngay cửa chánh đợi các cung nữ ra vào mà báo. An Cát nghe theo, báo rằng: "An Cát ở Võ Trân Châu đang đứng ngoài cửa!"
Công nghe được, liền ra cầm tay dẫn vào cung, mời phi của Công ra gặp mặt, thiết đãi yến tiệc có hơn năm mươi món. Công tâu lên Vương, Vương lấy những mẫu ruộng dưới chân Tinh Phù Sơn (còn gọi là Tinh Tổn Hồ Sơn) làm Võ Trân Châu Thượng Thú Nhiễu Mộc Điền, cấm người chặt cây phá hại, mọi người chẳng dám đến gần; trong ngoài đều kính mộ Công. Dưới núi có ba mươi mẫu ruộng gieo cấy được ba thạch giống. Nếu ruộng này được mùa thì Võ Trân Châu cũng được mùa, ruộng này mất mùa thì Trân Châu cũng mất mùa.
Đời ba mươi mốt là Thần Văn Đại Vương, húy là Chánh Minh, họ Kim, lên ngôi ngày bảy tháng bảy năm Tân Tỵ, niên hiệu Khai Diệu thứ nhất, vì vua cha là Văn Võ Đại Vương mà sáng lập chùa Cảm Ân ở bên bờ Đông hải (Bài Ký của chùa ghi: Văn Võ Vương muốn trấn dẹp binh Nhật Bản nên mới lập chùa này, nhưng chưa xong thì Võ Vương đã băng hà, làm Hải Long; con của Vương là Thần Văn kế vị xây dựng đến niên hiệu Khai Diệu thứ hai thì hoàn thành; dưới nền của Kim đường có khai một cái hang hướng về phía Đông, đủ để rồng vào chùa uốn lượn, là nơi đặt hài cốt của vua theo di chiếu, gọi là Đại Vương Nham. Chùa tên là Cảm Ân, sau gọi nơi thấy rồng hiện hình là Lợi Kiến đài). Ngày mồng một tháng năm năm Nhâm Ngọ (có bản ghi niên hiệu Thiên Thọ nguyên niên là lầm) quan lo về biển là Ba Trân Tự Phác Túc Thanh tâu rằng: "Trong biển Đông có một ngọn núi nhỏ trôi về hướng chùa Cảm Ân, theo sóng nhấp nhô".
Vua lấy làm lạ bảo quan coi về ngày tháng là Kim Xuân Chất (còn gọi là Xuân Nhật) chiếm một quẻ. Xuân Chất tâu rằng: "Tiên đế nay làm Hải Long trấn giữ Tam Hàn, hơn nữa Kim Công Dửu Tín là một Thái tử của trời Đế Thích giáng làm đại thần, hai vị thánh này đồng đức, muốn đưa ra vật báu giữ thành; nếu bệ hạ xa giá đến biển Đông ắt sẽ được vật báu vô giá. "
Vương vui mừng, đến ngày mồng bảy tháng ấy ngự giá đến Lợi Kiến đài, nhìn về hòn núi kia và bảo người quan sát, thì thấy núi có hình thế như đầu rùa, trên có một cành trúc ban ngày thì phân làm hai, ban đêm thì hợp làm một (có thuyết nói rằng, núi cũng ngày đêm khai hợp như thế). Sứ đến tâu xong, Vương về chùa Cảm Ân nghỉ đêm. Đến giờ Ngọ hôm sau, khi thanh trúc hợp lại làm một thì trời đất chấn động, gió mưa mờ mịt đến ngày mười sáu mới gió lặng sóng yên. Vương ra biển rồi vào núi ấy. Bỗng có một con rồng dâng hiến một đai ngọc màu đen, vương ra nghinh tiếp rồi cùng ngồi mà hỏi rằng: "Núi và cành trúc này lúc phân lúc hợp là thế nào?" Rồng đáp: "Ví như một tay thì không thể vỗ vào nhau để phát ra âm thanh, hai tay vỗ vào nhau thì mới phát ra âm thanh. Cành trúc này là một vật, hợp lại thì mới phát ra âm thanh. Đây là điềm Thánh Vương dùng âm thanh trị vì thiên hạ. Vương nên lấy cành trúc này làm cây Địch mà thổi thì thiên hạ thái bình. Nay Hoàng Khảo của Vương làm Đại Long trong biển, Dửu Tín Công làm Thiên thần, hai vị Thánh đồng tâm mà xuất sinh ra vật báu vô giá này và sai tôi dâng cho vương!"
Vương vừa kinh sợ vừa vui mừng dùng gấm lụa năm màu và vàng ngọc để đáp trả, sai người chặt cành trúc kia. Khi vừa trở lại biển thì rồng và trúc đều biến mất. Đêm ấy Vương ở lại chùa Cảm Ân, qua ngày mười bảy đến bên bờ suối phía Tây chùa Kỳ Lâm để dùng cơm trưa. Thái tử Lý Cung (tức Hiếu Chiêu Đại Vương) đang xử lý triều chánh nghe tin này liền phóng ngựa đến chúc mừng. Từ Tế tâu rằng: "Các hạt ngọc của đai ngọc này đều là các con rồng thật!" Vua nói: "Làm sao ngươi biết được?". Thái tử tâu rằng: "Ném một hạt xuống nước thì rõ". Bèn ném hạt thứ hai bên trái xuống dòng suối, tức biến thành một con rồng lớn bay lên trời, và nơi đó trở thành một cái vực sâu, gọi là Long Uyên. Vua trở về cung, lấy cành trúc ấy làm ống địch, cất giữ trong Thiên Tôn Khố ở Nguyệt thành. Khi thổi ống địch này thì binh liền lui, bệnh tật tiêu trừ, trời hạn thì tuôn mưa, trời mưa thì liền tạnh, gió lặng sóng yên, gọi là Vạn Ba Tức Địch, là quốc bảo. Đến thời Hiếu Chiêu Đại Vương, năm Quý Tỵ niên hiệu Thiên Thọ, nhân điều linh dị Thất Lễ Lang sống lại, nên phong hiệu là Vạn Vạn Ba Ba Tức Địch. Xin xem rõ nơi truyện ấy.
Trúc Chỉ Lang (còn gọi là Trúc Mạn Lang, cũng gọi là Trí Quan) Vào đời vua thứ ba mươi hai là Hiếu Chiêu Vương, có học trò của
Trúc Mạn Lang là Đắc Ô Cấp Can, nổi tiếng là phong lưu và thông kinh sử, ngày ngày theo đuổi con đường làm quan, nhưng mười ngày qua chẳng gặp mặt. Trúc Mạn đến hỏi mẹ của Cấp Can rằng: "Con của bà nơi đâu?"
- "Ích Tuyên A Can quan tổng binh Mâu Lương bắt con tôi làm sai dịch ở kho thành Phủ sơn, dẫn đi luôn, vì quá gấp nên chẳng đến cáo từ ông. "
- "Con bà nếu vì việc tư mà đến đó thì chẳng cần phải tìm đến hỏi, nay vì việc công mà đi, thì cần phải dẫn trở về. "
Nói xong liền chuẩn bị một hộp bánh, một bình rượu, rồi liền cùng đi với Tá nhân (phương ngôn gọi Giai Sất Tri là nô bộc). Học trò của Trúc Chỉ gồm một trăm ba mươi bảy người đầy đủ oai nghi đi theo. Đến thành Phú Sơn hỏi lính canh hiện giờ Đắc Ô Thất ở đâu; lính canh trả lời là đang làm việc tại ruộng của Ích Tuyên. Trúc Chỉ đến ruộng lấy bánh và rượu dâng cho Ích Tuyên xin phép được dẫn Đắc Ô Thất trở về. Ích Tuyên nhất định không cho phép. Bấy giờ có sứ là Lại Khản Trân quản lý việc thâu thuế ở quận Thôi Hòa, thu chuyển ba mươi thạch lúa thuế vào thành, khen ngợi Trúc Chỉ trọng kẻ sĩ có phong cách, chê Tuyên ngu si chẳng biết, nên tặng ba mươi thạch lúa mà mình đã lãnh cho Ích Tuyên để hỗ trợ việc xin về. Nhưng Ích Tuyên vẫn không chịu, lại phải đưa bộ yên cương của một nô bộc nhà Khản Trân, lúc ấy mới ưng thuận. Hoa chúa ở triều đình nghe tin sai người bắt Ích Tuyên đem đi tắm rửa sạch những xấu xa dơ uế. Ích Tuyên bỏ trốn, quan quân bắt con trưởng của Ích Tuyên dẫn đi. Bấy giờ là tháng mười một mùa Đông, trời rất lạnh, tắm tại hồ nước ở thành, nước đóng băng mà chết. Đại Vương nghe được, ban sắc rằng: Dân ở Mâu Lương, nếu làm quan thì bị truất bỏ, không được đến công sở, không được mặc y phục màu đen, nếu làm Tăng thì không được đến chùa Chung Cổ, lại ban sắc cho Sử Thượng, Khẩn Trân, Tử Tôn làm Bình Định Hộ, Tôn rất lấy làm kỳ lạ. Bấy giờ Pháp sư Viên Trắc là bậc cao đức ở Hải Đông, vì là người ở Mâu Lương nên không được trao cho tăng chức.
Thuật Tông Công làm Đô Đốc Sứ Hồ châu, lên đường nhận nhiệm sở, bấy giờ Tam Hàn loạn lạc khắp nơi, nên cấp ba ngàn kỵ mã hộ tống. Đi đến Trúc Chỉ lãnh, ông thấy một cư sĩ đang dọn dẹp bằng phẳng con đường này liền khen ngợi, Cư sĩ cũng khen ông có uy phong lẫm liệt, cả hai đồng cảm nhận trong lòng như thế. Tông Công đến nhiệm sở, một tháng sau, nằm mộng thấy Cư sĩ bước vào phòng. Cả nhà đồng thấy như thế, ông vô cùng kinh ngạc, nên sáng hôm sau sai người đi hỏi thăm Cư sĩ có được an ổn chăng, được mọi người trả lời là: "Cư sĩ mới chết chưa lâu". Người trở về thưa lại với Tông Công rằng:
"Ông ấy chết đồng một ngày mà chúng ta mộng thấy!" Tông Công nói: "Chắc Cư sĩ sinh vào nhà ta!"
Ông liền sai người lo sắp đặt an táng Cư sĩ tại ngọn phía Bắc trên Trúc Chỉ Lãnh, tạo tượng Dilặc bằng đá tôn trí trước mộ.
Sau đêm mộng thì một người vợ của Tống Công có thai, đến khi sinh ra, đặt tên là Trúc Chỉ. Trúc Chỉ còn trẻ mà đã làm quan, từng làm phó soái cho Dửu Tín Công thống nhất Tam Hàn, là Tể Tướng của bốn đời vua Chân Đức, Thái Tông, Văn Võ, Thần Văn, để an định bờ cõi.
Lúc đầu Đắc Ô Cốc mến mộ Trúc Chỉ, nên làm bài ca:
Khứ ẩm xuân giai lý mễ
Mao Đông cư sất sa khốc ốc thi dĩ ưu âm
A đông âm nải sất hảo chi tứ ô ẩn
Mạo sử niên số tựu âm đọa chi hành tề
Mục yên hồi ư thi thất sử y y
Phùng ô chi ác tri tác bình hạ thị
Lang dã mộ lý thi tâm vị
Hành hồ thi đạo thi
Bồng thứ sất hạng trung túc thi dạ âm hữu sất hạ thị.
Đời vua ba mươi ba là Thánh Đức Vương, năm Bính Ngọ, niên hiệu Thần Long thứ hai, mất mùa, nhân dân đói khát. Ngày mồng một tháng giêng cho đến ngày ba mươi tháng giêng năm Đinh Mùi triều đình cứu dân cấp lương thực, mỗi nhân khẩu một ngày là ba thăng làm chuẩn, tính tổng cộng sau khi hoàn tất là ba vạn năm trăm ngàn thạch. Vương lập chùa Phụng Đức để cầu phước cho Thái Tông Đại Vương, lập Nhân Vương Đạo Tràng bảy ngày, đại xá thiên hạ. Vào đời vua này mới có chức Thị Trung (có bản ghi là đời Hiến Thành Vương).
Vào thời Thánh Đức Vương, Thuần Trinh Công trên đường nhận chức Thái Thú Giang Lăng (nay là Minh Châu), một hôm đi đến biển kia thì dừng lại dùng cơm trưa, ở đây có vách đá cao ngàn trượng như tấm bình phong ngăn bờ biển. Trên vách đá hoa nở đầy. Phu nhân của Công tên là Thủy Lộ thấy thế mới bảo mọi người rằng:
- Ai lên hái hoa dâng cho ta? Tùy tùng đáp rằng:
- Người không thể lên đến đó được!
Tất cả đều từ chối, không làm được. Bỗng có một ông lão dắt một con trâu cái đi ngang qua, nghe phu nhân nói hái hoa, bèn ca một bài để tặng. Nhưng chẳng biết ông lão đó là ai. Lại đi thêm hai ngày đường nữa, một hôm ăn cơm trưa tại một cái đình bên bờ biển bỗng nhiên Hải Long bắt phu nhân xuống biển mất tăm, Trinh Công kinh hãi té ngã trên đất, không có kế gì để Hải Long xuất hiện. Bỗng nhiên có một ông lão bảo rằng:
- "Người xưa từng bảo: "Lời nói của nhiều người làm chảy cả vàng ròng". Nay loài bàng sinh trong biển này há chẳng sợ lời nói của nhiều người ư? Ngài nên huy động nhân dân trong vùng tụ tập bên bờ biển, soạn lời ca cho họ xướng, cầm gậy đánh vào bờ biển thì có thể gặp được phu nhân!"
Trinh Công làm theo lời chỉ bảo, thì rồng biển liền ôm phu nhân rời biển trả lại cho Công, Công hỏi phu nhân về việc dưới biển. Phu nhân nói rằng:
- "Cung điện toàn làm bằng bảy báu, thức ăn thơm ngon vô cùng, nhân gian chẳng thể nấu nướng được. "
Áo quần của phu nhân, lúc ấy vẫn còn mùi hương lạ, không có ở thế gian này.
Thủy Lộ phu nhân dung nhan tuyệt thế, mỗi khi đi qua núi sâu, sông lớn thường bị thần, vật bắt cóc.
Mọi người xướng bài Hải ca rằng:
Rùa ơi! Rùa ơi! Trả Thủy lộ,
Bắt vợ của người tội cực nặng,
Nếu ngươi trái nghịch không chịu dâng
Ta đây quăng lưới bắt nướng ăn.
Hiến Hoa Ca của ông lão. Tử
Bố Nham hồ quá hy chấp âm hồ
Thủ mẫu ngưu phóng giáo khiển
Ngô bị bất dụ tàm bi y tứ đăng
Hoa bi chiết sất khả hiến hồ lý âm như.
Tháng mười năm Nhâm Tuất, niên hiệu Khai
Nguyên thứ mười, mới lập khuyết môn ở quận Mao Hỏa, nay là Thôn Mao Hỏa thuộc phía Đông nam Khánh châu, là nơi hiểm yếu đề phòng Nhật Bản, có chu vi sáu ngàn bảy trăm chín mươi hai bộ năm thước, do Nguyên Chân Giác Can đốc suất ba mươi chín ngàn hai trăm sáu mươi hai dân phu xây dựng. Năm Quý Dậu, niên hiệu Khai Nguyên hai mươi mốt, nhà Đường chinh phạt Bắc Địch, xin quân Tân La, đoàn sứ thần gồm hơn sáu trăm lẻ bốn người đến nước Phiên thuộc.
Biểu Huấn Đại Đức
Vương sắm sửa đầy đủ lễ nghi lãnh thọ Kinh Đức... Vương tại vị hai mươi bốn năm, các vị thần năm non ba núi có lúc đến chầu nơi triều đình. Ngày mồng ba tháng ba, vương ngự giá đến lầu Bá Chánh Môn, nói với tùy tùng rằng:
- "Ai có thể mời một vị Tăng mặc ca-sa màu đỏ đi trên đường về đây cho ta gặp mặt chăng?" Vừa lúc ấy có một Đại đức oai nghi sáng rỡ, an tường đang đi đến, các tùy tùng trông thấy và đến mời diện kiến Vương. Vương nói: "Đây không phải là vị Tăng mà ta muốn gặp!" Vị Tăng này lui ra. Lại có một vị Tăng đắp y Bá nạp mang một cái ống tròn làm bằng cây anh, từ phía Nam đi đến, Vương vui mừng nhìn vị Tăng này và sai người dẫn lên lầu; nhìn xem trong ống, thấy toàn là vật dụng để pha trà mà thôi. Vương hỏi:
- Hòa thượng pháp hiệu là gì? Đáp:
- Là Chí Đàm.
- Hòa thượng từ đâu đến?
- Vào các ngày Trùng Tam, Trùng Cửu, chư Tăng thường nấu trà hiến cúng Di-lặc Thế Tôn ở Tam Hoa lãnh tại Nam sơn. Hôm nay bần Tăng vừa hiến cúng trở về.
- Quả nhân cũng có phần, được một chén trà chứ?
Vị Tăng bèn đun trà dâng Vương, khí vị của trà rất khác thường, mùi hương vi diệu trong chén trà xông lên ngào ngạt. Vương nói:
- Trẫm từng nghe Từ Não Ca Tán Kỳ Bà Lang của Sư ý nghĩa rất cao, thật thế chăng?
- Đúng vậy.
- Thế thì Tăng nên vì Trẫm làm Lý An Dân Ca, được chăng?
Vị Tăng tức thời phụng chỉ ca trình vương. Vương rất vừa lòng, phong làm Vương Sư, nhưng vị Tăng cung kính quyết chối từ, không nhận.
An Dân Ca: Quân ẩn phụ dã
Thần ẩn ái tứ thi mẫu sử dã
Dân yên cuồng thi hận a hài cổ vi tứ thi tri dân thị ái thi tri cổ như.
Quật Lý Sất đại bi sinh dĩ chi sở âm vật sinh thử bi thực ác chi trị lương la.
Thử địa bị xả khiển chỉ ư đông thị khứ ư định.
Vi thị tri quốc ác chi trì dĩ.
Chi tri cổ như. Câu sau:
Quân như thần da chi dân ẩn như
Vi nội thị đăng yên quốc ác thái bình luận âm sất như. Tán Kỳ Bà Lang Ca
Yết ô nhĩ xứ mễ, lộ hiển tà ẩn nguyệt la lý Bạch Vân âm toại vu phù khứ ẩn an chi hạ Sa thị bát làng ẩn định lý dã trung
Kỳ lang hỷ mạo sử thị sử sồ tà Dật ô xuyên lý sất tích ác hy
Lang dã trì dĩ chi như tứ ô ẩn tâm vị tế sất bi toại nội lương tề a da
Bá nữ sất chi thứ cao chi hảo
Tuyết thị mao đông nải hồ thi hoa phán dã.
Ngọc hành của vương dài tám tấc (24 cm), không có con, bèn phế hoàng hậu làm Sa Lương phu nhân, lập Mãn Nguyệt phu nhân làm hậu, thụy là Cảnh Thùy thái hậu, con của Y Trung Giác Can. Một hôm vương ban chiếu triệu Biểu Huấn Đại Đức vào triều nói rằng:
- Trẫm không có phước nên chẳng có người kế thừa, cầu Đại đức xin Thượng đế ban cho!
Biểu Huấn tâu với Thiên đế, rồi trở về tâu lại với Vương rằng:
- Thiên đế nói rằng cầu con gái thì được! Còn con trai thì chẳng thể!. Vương nói:
- Xin chuyển nữ thành nam!.
Biểu Huấn lại lên trời xin Thiên đế. Đế nói:
- Được thì được, nhưng thành nam thì nước loạn.
Huấn muốn trở về hạ giới, thì Đế lại triệu đến nói rằng:
- Người và trời không thể phá phép tắc được, nay Sư lên xuống giống như qua làng bên cạnh, sẽ tiết lậu thiên cơ, từ nay về sau chớ nên lên nữa!
Huấn trở về nói lại với Vương, Vương nói rằng:
- Tuy nước loạn, có người kế vị đủ rồi!
Đủ ngày tháng vương hậu sinh hạ một Thái tử. Vương vui mừng không xiết. Khi Thái tử tám tuổi thì vương băng hà, Thái tử kế vị, là Tuệ Cung Vương. Vì còn nhỏ nên Thái hậu lâm triều, không định được việc triều chính, giặc cướp nổi lên khắp nơi, không kịp phòng ngự. Lời của Biểu Huấn đã ứng nghiệm.
Vương vốn là nữ mà thành nam, cho nên từ lúc mới một tuổi đến khi lên ngôi đều thích vui đùa với người nữ, thích đeo túi gấm, nô đùa cùng các đạo sĩ, nên trong nước sinh đại loạn. Sau bị Tuyên Đức và Kim Lương Tướng giết chết. Sau Biểu Huấn, Thánh nhân không xuất hiện ở Tân la.
Năm Đại Lịch thứ nhất, phía Đông đại sảnh của dinh quan Khang Châu, đất dần dần sụp biến thành một cái hồ rộng ngang bảy thước, dài mười ba thước; bỗng có năm, sáu con cá chép sống trong hồ này dần dần lớn lên, hồ cũng theo đó rộng thêm.
Năm Đinh Mùi, niên hiệu Đại Lịch thứ hai; Thiên Cẩu (chó trời) rơi ở phía Nam Đông lâu, đầu bằng cái bát, đuôi dài ba thước, màu như lửa cháy đó, trời đất cũng chấn động. Cũng trong năm này, năm khoảnh ruộng ở huyện Kim phố, đã có hạt tự nhiên trở thành bông lúa. Tháng bảy có hai sao rơi trong cung đình, kế đó một sao lại rơi, rồi cả ba chui hết vào lòng đất. Nhà cầu ở phía Bắc cung mọc hai cọng sen, ruộng ở chùa Phụng Thánh cũng sinh hoa sen, hổ đột nhập cấm thành, truy tìm thì không thấy. Trên cây lê nhà của Giác Can Đại Cung, chim sẻ tụ tập vô số. Theo An Quốc Binh Pháp quyển hạ nói: "Thiên hạ có chiến tranh, đại loạn, bấy giờ nên đại xá, tu tĩnh thân tâm". Ngày ba tháng ba Đại Cung Giác Can làm giặc. Chín mươi sáu Giác Can ở kinh đô và các châu quận trong năm đạo đánh giết lẫn nhau. Đại Cung Giác Can nhà cửa tan nát, chuyển gia đình và của cải vào Vương cung. Trường thương (kho) ở Tân thành bị cháy. Nghịch đảng Bảo Xác gồm những người ở Sa Lương, Mâu Lương cũng chuyển đến Vương cung. Loạn lạc trải qua ba tháng mới dứt. Người được khen thưởng rất nhiều, mà người bị giết chết cũng vô số.
Lời của Biểu Huấn nói nước loạn thật ứng nghiệm.
Đầu tiên Y Thực Kim Chu Nguyên làm Thượng Tể, Vương là Giác Can làm Nhị Tể, một hôm nằm mộng thấy cởi khăn bịt đầu, mà đội nón trắng, cầm đàn hai mươi dây vào trong giếng ở chùa Thiên cung. Tỉnh dậy bảo người giải mộng. Người nói rằng:
"Cởi khăn bịt đầu là điềm mất chức. Cầm đàn hai mươi dây là điềm bị gông cùm. Vào giếng là điềm vào ngục". Lúc ấy Vương nghe nói rất sợ hãi, đóng cửa không giao tiếp và ra ngoài. Bấy giờ A Thực Dư Tam (có bản ghi là Dư Sơn) đến muốn gặp mặt. Vương cáo bệnh chối từ chẳng gặp. A Thực lại thông tri rằng: "Xin được gặp một lần".
Vương đồng ý. A Thực nói:
- Ngài kiêng kỵ điều gì?
Vương liền kể lại lời giải mộng trên. A Thực vội lễ bái nói:
- Đây là một điềm mộng lành, nếu ngài lên ngôi vị mà chẳng bỏ tôi, thì tôi sẽ giải điềm mộng này.
Vương lánh vào trong, cấm kẻ tả hữu đến rồi xin A Thực giải mộng. A Thực nói rằng:
- Cởi khăn bịt đầu, tức không còn ai ở trên mình. Đội nón trắng là điềm đội vương miện. Cầm đàn hai mươi dây là điềm truyền được hai mươi đời. Vào giếng Thiên Tỉnh tức là điềm vào cấm cung.
Vương nói:
- Trên còn có Chu Nguyên, làm sao ta đạt được thượng vị? A Thực nói:
- Xin bí mật cầu thần Bắc Xuyên thì được!
Vương nghe theo, không bao lâu Tuyên Đức Vương băng hà, quần thần muốn lập Chu Nguyên làm Vương, sắp đón vào cung, vì nhà ở phía Bắc sông, hôm ấy bỗng nhiên nước dâng cao không qua được. Vương nhập cung trước lên ngôi, đồ chúng của Thượng tể đều đến ủng hộ, lễ lạy chúc mừng Tân vương, hiệu là Nguyên Thánh Đại Vương, húy là Kính Tín Kim Võ. Đó là sự ứng nghiệm của điềm mộng lành. Chu Nguyên lui về Minh châu. Khi Vương lên ngôi thì Dư Sơn đã qua đời, Vương triệu con cháu của ông vào ban cho quan tước. Vương có năm người con là Tuệ Trung Thái tử, Hiến Bình Thái tử, Lễ Anh Táp Can, Đại Long phu nhân, Tiểu Long phu nhân. Đại Vương biết một cách chân thật, thông đạt cùng tận sự biến diệt, có soạn bài: "Thân không từ não ca" (đã thất lạc). Cha của Vương là Đại Giác Can Hiếu Nhượng được truyền ống sáo Vạn Ba Tức từ Tổ tông rồi truyền đến Vương, nên Vương còn mang nặng ân của Trời cao, khiến cho đức chiếu soi tận nơi xa. Ngày mười một tháng mười năm Bính Dần niên hiệu Trinh Nguyên thứ hai, vua Nhật Bản là Văn Khánh (theo Nhật Bản Đế Kỷ năm mươi lăm, thì nghi là vào niên đại của Văn Đức Vương; không có vị vua tên Văn Khánh, hoặc có thể là Thái tử của vua), đem binh muốn đánh Tân La, nhưng nghe Tân La có ống sáo Vạn Ba Tức nên lui binh. Sau đó sai sứ dâng cho năm mươi lạng vàng để xin ống sáo này. Vương nói với sứ rằng: "Trẫm đã nghe vào đời Chân Bình Vương có vật này, nhưng nay chẳng biết đâu!" Ngày bảy tháng bảy năm sau vua Nhật Bản lại sai sứ mang một ngàn lượng vàng đến và nói rằng: "Trẫm muốn thấy thần vật này rồi trả lại".
Vương cũng nói như trước mà chối từ, chẳng nhận vàng, mà còn ban cho sứ giả ba ngàn lạng bạc. Tháng tám sứ trở về Nhật, Vương sai người cất ống sáo trong điện Nội Hoàng. Năm Ất Sửu, Vương lên ngôi được mười một năm, thì đoàn sứ thần nhà Đường đến kinh lưu lại một tháng rồi trở về, một ngày sau có hai người con gái vào triều tâu rằng: "Hai thiếp là vợ của hai rồng ở Đông Trì và Thanh Trì (Thanh Trì tức dòng suối ở chùa Đông Tuyền. Tự Ký ghi: Suối này là nơi mà loài rồng ở Đông Hải qua lại nghe pháp; chùa thì do Chân Bình Vương sáng lập, gồm năm trăm thánh chúng, có tháp năm tầng, có dân canh tác ruộng đất). Đường sứ đem hai người ở Hà Tây quốc đến đây chú nguyện biến hai chồng của hai thiếp và một rồng trong giếng chùa Phấn Hoàng thành ba con cá nhỏ, rồi bắt bỏ trong ống mà mang về. Xin bệ hạ khiến hai người kia để chồng chúng tôi lại, làm thần long bảo hộ xã tắc!".
Vua liền đuổi theo đến Hà Dương quán, tự thân ban yến tiệc, rồi bảo hai người Hà tây rằng:
- Vì sao các người bắt ba con rồng của ta đem đến đây? Nếu chẳng khai thật, ắt sẽ bị gia hình!
Bấy giờ hai người kia dâng lên ba con cá nhỏ, Vương sai thả ở ba nơi, mỗi mỗi dậy nước hơn một trượng, vui mừng mà đi. Người Đường khâm phục Vương là một bậc Thánh minh. Một hôm Vương thỉnh Pháp sư Thích Trí Hải trụ chùa Hoàng Long (lời ghi chú hoặc có bản ghi là chùa Hoa Nghiêm, hoặc chùa Kim Cang; vì dùng tên chùa hoặc dùng tên kinh để gọi lẫn lộn nhau) vào cung tụng kinh Hoa Nghiêm năm tuần (năm mươi ngày). Bấy giờ Sa-di Diệu Chánh thường rửa bát bên giếng Kim Quang (nhân Đại Hiền Pháp Sư mà có tên). Bấy giờ có một con Miết rất lớn (ba ba) sống trong giếng. Sa-di thường cho nó thức ăn thừa, nên vui mừng. Pháp hội sắp kết thúc, Sa-di nói với Miết rằng:
- Ta ban ân huệ cho ngươi nhiều ngày rồi, nay ngươi lấy gì báo đáp đây?
Vài ngày sau Miết nhả ra một hạt ngọc nhỏ tặng Sa-di. Sa-di buộc hạt ngọc vào đầu sợi dây đai. Từ đó về sau, Vương rất yêu quý Sa-di, cho triệu vào nội điện, gần gũi chẳng rời. Bấy giờ có một Táp can phụng chiếu đi sứ sang Đường triều, vị này cũng yêu mến Sa-di, xin Vương cho đi cùng. Vương đồng ý. Khi vào đến Đường triều, Đường đế cũng rất sủng ái Sa-di, đến cả Thừa tướng và các quan đều kính tin. Có một vị quan nói rằng:
- Xem kỹ vị Sa-di này, thì chẳng thấy có một tướng cát tường nào, nhưng lại được mọi người tin kính, ắt là có mang di vật ở bên mình!
Liền sai người khám xét thì được một hạt châu nhỏ ở đầu sợi đai.
Đế nói:
- Ta có bốn hạt châu như ý, năm trước mất một hạt, nay thấy hạt châu này, chính là hạt đã mất của ta. Đế bèn hỏi Sa-di, Sa-di trình bày rõ sự việc trước kia. Kiểm nghiệm lại thì thấy ngày Đế mất hạt châu trùng với ngày Sa-di được hạt châu. Đế bèn giữ lại hạt châu và quở trách Sa-di. Từ đó về sau không còn ai kính tin Sa-di này nữa.
Lăng của Vương được lập ở chùa Động Hạc, phía Tây Thổ hàm khâu (nay là chùa Sùng Thiền), có Thôi Trí Viễn soạn văn bia; Vương đã lập chùa Báo Ân, Vọng Đức lâu, truy phong Tổ phụ Huấn Nhập Táp Can làm Thần Anh Đại Vương, Cao Tổ Pháp Tuyên Đại A Can làm Huyền Thánh Đại Vương, cha của Huyền Thánh là Ma Sất Thứ Táp Can.
Cuối đời bốn mươi là Ai Trang Vương, ngày mười lăm tháng tám năm Mậu Tý có tuyết rơi.
Ngày mười bốn tháng ba năm Mậu Tuất, niên hiệu Nguyên Hòa mười ba đời vua thứ bốn mươi mốt Hiến Đức Vương có tuyết lớn (có bản ghi là năm Bính Dần là sai. Niên hiệu Nguyên Hòa chỉ có mười lăm năm, không có năm Bính Dần).
Ngày mười chín tháng năm năm Kỷ Mùi đời bốn mươi sáu Văn Thánh Vương có tuyết lớn; mồng một tháng tám trời đất tối tăm.
Đời bốn mươi hai là Hưng Đức Đại Vương, lên ngôi năm Bính Ngọ niên hiệu Bảo Lịch thứ hai. Chưa bao lâu có người đi sứ sang Đường, mang về một cặp chim anh vũ. Không lâu sau thì chim mái chết, chim trống lẻ loi, buồn thương kêu không thôi, Vương bèn sai người treo gương trước nó. Chim trông thấy hình mình trong gương, nghĩ là chim mái, bèn mổ vào gương thì biết là hình của mình, do đó buồn bã kêu mãi mà chết. Vương làm bài ca (đã thất lạc).
Đời bốn mươi lăm là Thần Võ Đại Vương. Lúc chưa lên ngôi, một hôm nói với giáp sĩ Cung Ba rằng: "Ta có mối thù không đội trời chung, ngươi có thể vì ta trừ khử, để chiếm vương vị, thì ta sẽ cưới con gái ngươi làm phi!". Cung Ba đồng ý, đồng tâm hiệp lực, đem binh đánh về kinh, mưu đồ thành công. Sau khi soán ngôi, Vương muốn cưới con gái của Cung Ba làm phi, quần thần ra sức can gián, cho rằng Cung Ba là kẻ phản trắc, vương lấy em gái người ấy làm phi thì chẳng thể được. Vương nghe theo. Bấy giờ Cung Ba đang ở tại Thanh Hải trấn làm quân nhung (Tổng binh) oán Vương trái lời, muốn mưu loạn. Bấy giờ tướng quân Diêm Trường nghe được tâu rằng:
- Ba là kẻ bất trung, Tiểu Thần xin được trừ diệt!
Vương vui mừng ưng thuận. Diêm Trường lãnh binh đến Thanh Hải trấn báo rằng:
- Tôi có chút oán thù với quốc quân, muốn đến Minh công nương gá để toàn thân mạng.
Cung Ba nghe thế, nổi giận nói rằng:
- Các ngươi can gián vua phế bỏ con gái ta, sao nay còn đến gặp ta?
Diêm Trường lại thưa rằng:
- Đó là do trăm quan can gián, chứ tôi không can dự vào, minh công không nên nghi ngờ!
Cung Ba nghe vậy, liền dẫn vào đại sảnh hỏi rằng:
- Vậy ngài có việc gì mà đến đây?
- Có việc trái nghịch với Vương, nay muốn vào nương dưới trướng Ngài để tránh bị hại!
- Thật hân hạnh!
Cung Ba vui mừng dọn tiệc rượu tiếp đãi. Bỗng nhiên Diêm Trường rút trường kiếm của Ba chém Ba chết, các quân sĩ thuộc hạ của Cung Ba vô cùng kinh khiếp, đều quỳ mọp dưới đất, Diêm Trường bèn dẫn về kinh phục mạng rằng: "Đã chém chết Cung Ba rồi!".
Vương vui mừng khen thưởng, phong tước A Can. Đời bốn mươi tám Cảnh Văn Đại Vương Vương húy là Ứng Liêm, năm mười tám tuổi làm Quốc Tiên, đến năm hai mươi tuổi, Hiến An Đại Vương triệu vào cung ban yến tiệc, hỏi rằng:
- Khanh làm Quốc Tiên đi khắp các nơi thấy có điều gì lạ chăng?.
Ứng Liêm đáp:
- Thần thấy có ba hạng người có phẩm hạnh tốt đẹp. Vương hỏi:
- Xin được nghe khanh nói. Ứng Liêm đáp:
- Một người là bậc Thượng nhân mà tự khiêm hạ ngồi dưới người; hai, có người giàu có mà tiết kiệm giản dị; ba, có người đầy đủ quyền thế mà chẳng dùng oai lực.
Vua nghe thì biết đây là người hiền, bỗng nhiên rơi lệ nói rằng:
- Trẫm có hai người con gái, mong được nâng khăn sửa túi cho khanh!
Ứng Liêm liền rời chiếu lễ lạy, cúi đầu mà lui về. Sau đó thưa lại với cha mẹ; hai người vừa mừng vừa kinh ngạc hội họp với anh em trong gia đình lại bàn luận, rồi nói rằng: "Công chúa thứ nhất thì dung mạo rất xấu xí, công chúa thứ hai dung nhan tuyệt mỹ, cưới được người ấy thì may mắn lắm!"
Môn đồ thượng thư của Ứng Liêm là Phạm Giáo sư nghe tin đến nhà hỏi rằng:
Đại vương muốn gả công chúa cho ngài, đáng tin chăng?
- Đúng vậy!
- Ngài cưới người nào?
- Cha mẹ bảo, ta nên cưới công chúa thứ hai.
- Nếu ngài cưới công chúa thứ hai, thì tôi nhất định chết trước mặt ngài. Còn cưới công chúa thứ nhất thì sẽ có ba điều tốt, ngài hãy quyết định đi!
Ứng Liêm nghe theo, không bao lâu Vương sai sứ đến nói rằng: "Hai công chúa đó, nay xin chủ ý của ngài?". Sứ trở về tâu rằng: "Tuân phụng chọn công chúa thứ nhất!".
Hơn ba tháng sau, Vương bị bệnh nặng, triệu quần thần đến bảo rằng: "Trẫm không có con trai, việc an táng nên để cho Ứng Liêm phò mã của công chúa thứ nhất kế thừa". Ngày hôm sau Vương băng. Ứng Liêm theo di chiếu lên kế vị. Bấy giờ Phạm Giáo sư đến nói rằng: "Thần nêu ba điều tốt, nay đều đã đến vậy.
1. Vì cưới công chúa trưởng nên nay được ngôi vương.
2. Xưa kính ngưỡng công chúa thứ hai diễm lệ thì nay cũng có thể dễ dàng lấy được.
3. Lấy công chúa trưởng thì Vương và phu nhân vui lòng.
Vương tri ân lời nói ấy nên ban tước là Đại Đức, thưởng một trăm ba mươi lạng vàng. Sau Vương băng hà, thụy hiệu là Cảnh Văn.
Phòng ngủ của Vương, mỗi bữa tối thường có vô số rắn tụ tập, cung nhân rất kinh sợ, muốn đuổi đi. Vương nói: "Nếu không có rắn thì quả nhân ngủ không yên, không nên cấm!". Mỗi khi ngủ Vương le lưỡi phủ cả ngực, đến khi lên ngôi, tai của Vương bỗng nhiên dài như tai lừa, Vương hậu và các cung nhân đều chẳng biết, chỉ có người thợ bịt khăn trên đầu cho Vương mới biết, nhưng chưa từng nói cho ai nghe. Khi người này sắp chết, vào rừng trúc chùa Đạo Lâm, là một nơi không có người, la lên với các cây trúc rằng: "Tai của vua Ta như tai lừa!". Sau đó gió thổi trúc phát ra âm thanh: "Tai của vua Ta như tai lừa!". Vua ghét, bảo chặt cả rừng trúc rồi trồng cây thù du núi, khi gió thổi vào chỉ phát ra tiếng: "Tai của vua ta dài!" mà thôi (chùa Đạo Lâm, xưa ở bên rừng Nhập đô).
Khi Quốc Tiên mời Nguyên Long, Dự Hân Lang, Quế Nguyên, Thúc Tông Lang, kết bạn vân du đã ngầm có ý muốn làm vua cai trị đất nước, nên làm đề của ba bài ca khiến nô bộc tâm phúc cẩn thận mang đến Đại Cự Hòa Thượng, khiến làm ba bài ca là Huyền Sắc Bảo Khúc, Đại Đạo Khúc, Vấn Quần Khúc, vào tâu với Vương, Vương vui mừng khen thưởng. Ba bài ca đã thất lạc.
Vào đời vua thứ bốn mươi chín là Hiến Khang Đại Vương, nước Tân La từ kinh thành cho đến vùng biển nhà gạch liên tiếp, không còn một ngôi nhà tranh, trên đường người ca hát, đàn sáo chẳng dứt, 4 mùa mưa thuận gió hòa. Bấy giờ Đại vương xa giá đến Khai Vân Phố (nay là Úy Châu, Tây Nam Hạc Thành). Khi vua sắp xa giá hồi cung, tạm nghỉ ở bên bờ biển, bỗng mây đen kéo đến đen kịt, bầu trời tối tăm chẳng thấy đường. Vương lấy làm lạ hỏi tả hữu. Nhật quan tâu rằng: "Đây là do Đông Hải Long vương biến hóa, nên làm các việc tốt thì sẽ giải trừ!". Bấy giờ Vương ban chiếu cho quan Hữu ty vì loài rồng mà xây chùa ở gần đây. Lịnh vừa ban thì mây đen tan biến, do đó mà gọi là Khai Vân Phố. Đông Hải Long vui mừng dẫn bảy rồng con hiện hình trước Vương, khen ngợi đức độ, ca múa tấu nhạc dâng hiến. Khi ấy một rồng con biến hình người theo vua vào cung phụ giúp vua về việc trị chánh, tên là Xử Dung, Vương gả con gái đẹp của mình cho, có ý muốn lưu giữ. Lại ban cho chức Cấp Can. Vợ Xử Dung rất đẹp khiến cho Dịch Thần luyến mộ, biến thành người vô hình ban đêm đến nhà, trộm ngủ với công chúa. Xử Dung từ bên ngoài trở về, thấy trong phòng ngủ của mình có hai người, liền ca múa mà trở lui. Ca rằng:
Đông kinh minh kỳ nguyệt lương dạ nhập y du hành như khả nhập lương sa tẩm hỷ kiến côn khước ô y tứ thị lương la nhị bi ẩn ngô hạ ư sất cổ nhị bi ẩn thùy chi hạ yên cổ bản hỷ, ngô hạ thị như mã ư ẩn đoạt sất lương sất hà như vị lý cổ.
Bấy giờ Dịch Thần hiện nguyên hình quỳ xuống nói rằng: "Tôi vì đam mê vợ của ngài, nên nay xúc phạm. Nhưng ngài không giận dữ. Vì cảm động trước hành động cao đẹp ấy, nên từ nay về sau, thấy nơi nào có hình của ngài, thì tôi thệ không vào cửa". Do đó người trong nước thường dán hình của Xử Dung nơi cửa để tránh tà được phước.
Vua trở về xem thấy vùng đất tại chân núi phía Đông Linh Thứu sơn là một thắng địa, nên xây dựng một ngôi chùa lấy tên là Vọng Hải, cũng gọi là Tân Phòng. Đó là vì loài rồng mà lập. Vương lại đến Bào Thạch đình, thì Thần Nam sơn hiện hình múa trước kiệu; Vương bèn tự chế vũ điệu, dùng hình tượng để chỉ bày. Tên vị thần này là Tường Thẩm; nên đến nay nhân dân lưu truyền điệu múa này gọi là Ngự Vũ Tường Thẩm hoặc gọi là Ngự Vũ Sơn Thần. Hoặc cho rằng thần đã xuất hiện múa hát, Vương phỏng theo dáng điệu ấy, bảo thợ khắc theo để lưu lại cho đời sau, nên gọi là Tương Thẩm. Hoặc gọi là Sương Nhiêm Vũ, là căn cứ theo hình dáng thần để đặt tên.
Khi Vương đến Kim Cang Lãnh, thì Bắc Khâu Thần hiện hình múa hát, gọi là Ngọc Đạo Cầm. Khi Vương đến dự yến tiệc tại Đồng Thể Điện thì Địa Thần hiện lên ca múa gọi là Địa Bá Cấp Can. Ngữ Pháp Tập ghi: "Bấy giờ Sơn thần nhảy múa, ca rằng: "Tri Lý đa! Đô ba! Đô ba đẳng!" Nghĩa là "Người dùng trí trị quốc thì biết mà bỏ trốn đã nhiều, thành ấp sắp bị phá rồi!" Sơn thần, Địa thần biết nước sắp mất, nên hiện hình ca múa để cảnh tỉnh, nhưng vua quan chẳng biết cho là điềm lành, lại càng thêm đam mê lạc thú, nên nước mất.
Đời năm mươi mốt là Chân Thánh Nữ Vương, lên ngôi đã nhiều năm mà nhũ mẫu là Phù Hiếu phu nhân, chồng là Ngụy Hoằng Táp Can, gồm ba, bốn sủng thần chuyên quyền, phá rối triều chánh, giặc giả nổi lên khắp nơi, người trong nước lo sợ, bèn chép mật ngữ Đà-la-ni rải trên đường, Vương và các quyền thần nhặt được đồng cho rằng: "Đây chẳng phải là do Vương Cư Nhân viết, thì còn ai nữa!". bèn giam Nhân vào ngục. Cư Nhân làm thơ cáo lên trời, trời liền làm chấn động ngục tù để Cư Nhân được tha. Thơ rằng:
Yên Đan lệ máu, mống xuyên trời
Trâu Diễn đau buồn, hạ sương rơi
Ta nay tội tù tựa như trước
Trời cao sao chẳng hiện cát tường?
Đà-la-ni ghi: "Nam-mô vong quốc, Sát ni na đế, phán ni phán ni, tô phán ni, can can tam a can, phù y ta bà ha". Người bàn cho rằng: Sát ni sát đế nghĩa là Nữ Chúa, phán ni phán ni tô phán ni là hai vị Tô phán; Tô phán là tên một tước phẩm. Can can tức ba vị A Can; phù y tức Phù Hiếu.
Vào đời vua này, A Thực là con út của Lương Bối Vương đi sứ sang Đường triều, nghe hải tặc Bách Tế nổi dậy ở vùng Tân Phù, bèn tuyển chọn năm mươi người đi theo. Một hôm thuyền đến đảo Hạc (phương ngôn gọi là đảo Cốt Đại) bỗng nhiên biển nổi sóng lớn, phải nghỉ lại mười ngày. A Thực sợ hãi, bảo bốc một quẻ. Có người thưa rằng: "Trên đảo có ao thần, cần phải cúng tế mới được!". Bấy giờ A Thực sai người sắm sửa lễ vật tế lễ bên bờ ao, nước trong ao tự nhiên vọt cao hơn một trượng. Ban đêm mộng thấy một ông già đến nói rằng "Bây giờ nên để lại người nào?" Tất cả nói rằng: "Hãy để lại một người thiện xạ ở lại trên đảo, thì gió sẽ thuận!". Khi thức dậy, ông kể lại cho mọi người đồng nghe và nói rằng: "Làm năm mươi cái thẻ gỗ, viết tên của từng người lên đó rồi thả vào nước để đoán chọn". Ông nghe và làm theo. Bấy giờ trong quân có một người tên là Cư Đà Tri, thẻ của người này chìm trong nước, nên phải ở lại đảo. Lúc ấy gió thuận liền khởi thuyền đi không trở ngại.
Cư Đà buồn rầu đứng tại bãi biển trên đảo, bỗng có một ông lão từ dưới ao bước lên nói rằng:
- Ta là thần Tây Hải Nhược, lâu nay thường có một Sa-di, hằng ngày mỗi khi mặt trời mọc thì từ trên trời hạ xuống đây, tụng Đà-la-ni, nhiễu quanh ao ba vòng, thì ta và vợ cùng con cháu nổi hết trên mặt nước, Sa-di bắt con cháu của ta, rồi ăn hết ruột gan; đến nay chỉ còn hai vợ chồng ta và một đứa con gái; sáng sớm mai nó sẽ đến nữa, xin ngài bắn trừ cho!
Cư Đà nói:
- Việc cung tên thì tôi rất rành, xin nghe và làm theo lời ông!
Ông lão cảm tạ rồi lặn xuống nước. Cư Đà mai phục chờ đợi. Hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, quả nhiên Sa-di lại đến, tụng chú như trước, vừa muốn bắt rồng để ăn gan thì Cư Đà bắn trúng, Sa-di liền biến thành một con chồn rơi chết trên đất. Bấy giờ ông lão lại xuất hiện cảm tạ, nói rằng:
- Nhờ ân của ngài mà tôi được toàn mạng, xin dâng con gái tôi làm thê thiếp cho ngài!
Cư Đà đáp:
- Được ban cho thì chẳng dám chối từ, xin nhận sở nguyện của ngài!
Ông lão bèn biến con gái thành một cành hoa rồi đặt vào lòng Cư Đà, kế đó sai hai con rồng khiêng Cư Đà đuổi kịp đoàn thuyền sứ, rồi bảo vệ đoàn thuyền vào đất Đường. Người ở đây thấy thuyền Tân La có hai con rồng khiêng đi, thì liền tâu với vua. Vua nói: "Sứ thần Tân La ắt là người phi thường". Do đó ban yến tiệc cho ngồi trên quần thần, đồng thời ban thưởng cho nhiều vàng bạc lụa là. Sau khi về nước, Cư Đà lấy cành hoa ra, cành hoa biến thành người nữ, từ đó hai người chung sống với nhau.
Vào năm Nhâm Thân, niên hiệu Quang Hoa mười lăm, đời vua thứ năm mươi hai là Hiếu Cung Vương (đúng là niên hiệu Càn Hóa thứ hai đời Chu Lương), hai phía Đông và Tây bên ngoài cổng chùa Phụng Thánh có hai mươi mốt ổ chim Thước. Năm Ất Hợi, tức năm thứ tư sau khi Thần Đức Vương lên ngôi (Bản xưa ghi là năm Thiên Hựu mười hai, nên ghi là Trinh Minh nguyên niên), tại hành lang trong cung Hiếu Cung Vương có ba mươi bốn tổ chim thước, bốn mươi tổ quạ. Tháng hai trời giáng sương mù, tháng sáu nước sông Trảm Phố và sóng biển xung đột với nhau ba ngày.
Đời năm mươi bốn là Cảnh Minh Vương, vào năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Minh thứ năm, hình con chó trong bức bích họa chùa Tứ Thiên Vương bỗng nhiên cất tiếng sủa, tụng kinh ba ngày để trừ, hơn nửa ngày lại sủa tiếp. Tháng hai năm Canh Thìn, niên hiệu Trích Minh thứ bảy, ảnh tháp chùa Hoàng Long đứng ngược ở sân nhà Kim Mao Xá Tri trong một tháng. Đến tháng mười các dây cung của thần ngũ phương tại chùa Tứ Thiên Vương đều bị đứt hết. Con chó trên tấm bích họa chạy xuống sân chùa rồi lại trở vào.
Đời năm mươi lăm là Cảnh Ai Vương. Ngày mười chín tháng hai năm Giáp Thìn niên hiệu Đồng Quang thứ hai, chùa Hoàng Long lập một trăm tòa thuyết kinh, cúng dường trai tăng ba trăm vị thiền sư, Đại Vương đích thân đến dâng hương cúng dường. Pháp hội trăm tòa này là khởi đầu cho Thiền giáo giảng chung.
Đời năm mươi sáu là Kim Truyền Đại Vương, thụy là Kính Thuận. Vào tháng chín năm Đinh Hợi, niên hiệu Thiên Thành thứ hai. Chân Huyên của Bách Tế xâm lược Tân La, quân đã đến phủ Cao Tước, Cảnh Ai Vương xin viện binh nơi Thái Tổ ta (Hậu Cao Ly). Thái Tổ sai đem một vạn binh mạnh sang cứu giúp, nhưng cứu binh chưa đến, vào tháng mười một Chân Huyên dẫn quân đánh úp kinh đô, bấy giờ Vương đang cùng với phi tần, tôn thất dự yến tiệc vui chơi tại Bảo Thạch đình, chẳng ngờ binh giặc đến, hoảng hốt chẳng biết làm gì. Vương và phi chạy trốn vào hậu cung, còn thân thích và các Công khanh, đại phu, sĩ nữ... chạy tứ tán, đều bị giặc bắt làm tù binh, không kể quý tiện đều cho làm nô tỳ. Chân Huyên cho quân tự do cướp bóc tất cả tài sản công tư, rồi vào Vương cung sai tả hữu tìm Vương. Bấy giờ Vương và phi cùng mấy người thiếp đang ẩn núp tại hậu cung đều bị giặc bắt dẫn đến quân doanh. Chân Huyên bức tử Vương, cưỡng dâm vương phi, cho thuộc hạ hãm hiếp phi tần, rồi lập người em họ của Vương là Truyền lên ngôi. Như thế Kim Truyền là do Chân Huyên lập làm Vương. Thi hài của Vương trước đặt ở Tây đường, vương cùng quần thần đến khóc than. Bấy giờ Thái Tổ (Cao Ly) cũng sai sứ đến phúng điếu. Đến tháng ba năm Mậu Tý, Thái tổ dẫn năm mươi kỵ binh đến kinh đô Tân La, Vương và trăm quan ra ngoài thành nghinh tiếp, rồi đưa vào cung đàm luận, hết lòng cung kính, thiết yến tiệc ở điện Lâm Hải, vui cùng chén rượu. Bỗng vương nói: "Tôi không được trời phò trợ, nên dẫn đến đất nước tai họa loạn lạc. Chân Huyên làm điều bất nghĩa, làm tan nát xã tắc của tôi. Vì sao lại đau xót như thế!". Rồi vương rơi lệ, quần thần ai cũng nghẹn ngào. Thái Tổ cũng cảm động tuôn nước mắt, nên lưu lại vài tuần mới trở về, đồng thời Thái Tổ ban nghiêm lệnh cho quân sĩ không được chạm đến tơ hào của dân. Nhân dân trong kinh thành vui mừng nói với nhau rằng: "Xưa Chân Huyên đến, như gặp sài lang, nay Vương công đến, như gặp cha mẹ".
Tháng tám, Thái Tổ sai sứ đem vải lụa, yên cương, ngựa tốt tặng vương, đồng thời cũng phân biệt ban cho quần thần tướng sĩ.
Tháng mười năm Ất Mùi, niên hiệu Thanh Thái thứ hai, vì các vùng đất ở bốn phương đều bị người chiếm đoạt, nước yếu thế cô, chẳng thể tự giữ yên, Vương hợp quần thần định kế. Vương nói: Dâng đất hàng Thái Tổ được chăng?
Mọi người còn do dự chưa quyết, thì Thái tử của Vương tâu rằng: "Sự mất còn của một nước ắt do số trời, nên cùng với trung thần nghĩa sĩ cùng nhau thâu phục dân tâm, hết sức mới thôi; đâu thể dễ dàng dâng xả tắc đã ngàn năm cho người khác!" Vương nói: "Đơn độc nguy cấp như vậy, thế lực mình chẳng thể tự bảo toàn, đã chẳng thể chống cự, lại chẳng thể giữ gìn, khiến cho dân chúng vô tội óc gan lầy đất, thật ta không chịu nổi!"
Vương bèn sai thị lang Kim Phong Hưu viết thư hàng Thái tổ. Thái tử khóc lóc từ biệt Vương, đi thẳng lên núi Giai Cốt lập am tranh, mặc áo gai, ăn rau trái ẩn cư suốt đời. Con út của Vương cạo tóc xuất gia ở Hoa Nghiêm, lập chùa gọi là Phạm Không, sau trụ trì chùa Hải Ấn ở Pháp Thủy.
Thái Tổ nhận được thư, liền đưa Tể tướng Vương Thiết đi nghinh đón. Vương dẫn bá quan quy phục thái tổ, xe đẹp, ngựa quý kéo dài hơn ba mươi dặm, đường sá tắt nghẽn, người xem đông nghịt. Thái Tổ ra ngoài thành nghinh tiếp, ban cho một khu ở phía Đông hoàng cung, gã trưởng nữ là Nhạc Lãng công chúa làm vợ. Vì Vương xa rời nước mình đến sống ở nước người, nên dụ như chim Loan, do đó cải hiệu là Thần Loan Công, đặt thụy là Hiếu Mục, phong làm chức Chánh Thừa, giai vị trên Thái tử, cấp bổng lộc một ngàn thạch, các quan tướng đi theo đều được trọng dụng; đổi Tân La làm Khánh Châu, dùng làm thực ấp cho Loan Công.
Đầu tiên, Vương nạp đất xin hàng, Thái Tổ vui mừng khôn xiết, dùng hậu lễ tiếp đãi rồi nói rằng: "Vương đã dâng đất nước cho quả nhân, ân ấy thật to lớn, xin được kết hôn trong tôn thất, để vĩnh viễn giữ mối giao hảo thông gia".
Lúc ấy vương nói: "Bá phụ của thần là Ức Liêm (cha của Vương là em của Hiếu Tân Giác Can được truy phong Thần Hưng Đại Vương) có một người con gái sắc đẹp và đức hạnh vẹn toàn, không thể không chọn làm phi!"
Thái tổ bèn cưới, đó là Thần Thành Vương Hậu họ Kim (trong Vương Đại Tông Lục do Đăng Sĩ
Lang, Kim Khoan Nghị của bản triều soạn ghi:
"Thần Thành Vương Hậu họ Lý. Vốn khi xưa Thái Úy Lý Chánh Ngôn người Khánh châu làm Thái thú ở Hiệp châu, lúc Thái Tổ đến châu này, đã chọn con gái Thái thú làm phi. Hoặc cho là Hiệp Châu quận. Mất vào ngày hai mươi lăm tháng ba tại chùa Huyền Hóa, Nguyện Đường, an táng ở Trinh Lăng, sinh được một người con là An Tông. Có lẽ đây là vị vương hậu ngoài hai mươi lăm phi chính nên không ghi. Việc của Kim thị chưa rõ, nhưng lời bàn của Sử gia cũng cho An Tông là ngoại tôn của Tân La, nên cho điều mà Sử đã truyền là đúng).
Cháu của Thái Tổ là Cảnh Tông. Do lấy con gái của Chánh Thừa làm phi, tức Hiến Thừa (Túc) hoàng hậu, phong Chánh Thừa làm Thượng Phụ, năm Mậu Dần, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thì băng hà, thụy là Kính Thuận. Sách phong Thượng phụ ghi:
Lúc Cơ Châu mới khai nghiệp Thánh, trước phong cho Lã Thái (Lã Vọng); khi Lưu Hán vừa sáng Vương triều, cũng đã sắc phong cho Tiêu Hà. Từ khi yên định hoàn vũ, mở rộng cơ nghiệp, đã ba mươi đời, trải qua bốn trăm năm, nhật nguyệt thêm sáng tỏ, trời đất thật thái bình. Tuy do chúa thuận vô vi, nhưng cũng có thần phò tá cai trị, khiến cho đất nước rỡ ràng, thuận lòng dân trị hóa. Vệ quốc công thần Thương Trụ Quốc Nhạc Lương Vương Chánh Thừa Thực ấp Bát Thiên Hỗ Kim Truyền quê tại Kê Lâm, thân làm Vương vị, oanh liệt khí ngút trời mây, văn chương thật trác tuyệt, giàu thì như xuân thu, quý thì ở vị chư hầu, lục thao tam lược đều trọn nơi lòng. Bảy tụng năm giáp nắm tại bàn tay. Thái Tổ ta trước đã kết mối hòa hiếu lân bang, sớm nhận ra oai phong ấy, tức thời nhận làm phò mã, hầu trong đáp lại khí tiết lớn lao. Nay nước nhà đã quy về một mối, quần thần tụ hội nơi Tam Hàn; để hiển rõ thanh danh cao quý, tôn sùng khuôn phép tốt đẹp, nay tăng gia hiệu Thượng Phụ Đô Đốc Lịnh, lại ban hiệu Suy Trung Thận Nghĩa Sùng Đức Thủ Tiết Công Thần. Công huân phong như cũ, thực ấp cộng với trước là một vạn hộ. Quan Hữu ty chọn ngày, sắp đặt đủ lễ nghi để phong tặng; chủ sự thi hành.
Ngày mười tháng mười năm Khai Bảo thứ tám. Đại Khuông Nội Nghị Lịnh kiêm Tổng Hàn Lâm (thần) Cách Tuyên tuân phụng thi hành.
Phụng sắc như trên, công văn đến tuân hành. Ngày mười tháng mười niên hiệu Khai Bảo thứ tám, Thị Trung ký tên, Nội Phụng Lịnh ký tên, Quân bộ Lịnh ký tên, Quân bộ Lịnh ký tên, Binh Bộ Lịnh không ký tên, Binh Bộ Lịnh ký tên, Quảng Bình Thị Lang ký tên, Quảng Bình Thị Lang không ký tên, Nội Phụng Thị Lang không ký tên, Nội Phụng Thị Lang ký tên, Quân bộ Khanh không ký tên, Quân Bộ Khanh ký tên, Binh Bộ Khanh không ký tên, Binh Bộ Khanh ký tên.
Báo cho Suy Trung Thận Nghĩa Sùng Đức Thủ Tiết Công Thần, Thương Phụ Đô Đốc Lịnh, Thương Trụ Quốc Nhạc Lãng Quận Vương Thực ấp Nhất Vạn Hồ Kim Truyền phụng sắc như trên, lệnh phù đến thì Phụng hành phụng. Chủ sự không ghi tên, Lang Trung không ghi tên, Thư Lịch Sử không ghi tên, Khổng Mục không ghi tên.
Ngày mười tháng mười niên hiệu Khai Bảo thứ tám...
Sử Luận ghi: Thỉ Tổ họ Phác, họ Tích đều từ trứng sinh ra, họ Kim thì từ hòm vàng trên trời mà giáng sinh, hoặc cho là cưỡi xe vàng mà đến, tất cả đều là chuyện kỳ quái không đáng tin. Nhưng thế tục truyền nhau cho là thật. Hôm nay chỉ truy cứu về khởi đầu, thì những chuyện trên biểu thị rằng: Như đối với mình thì cần kiệm, đối với người thì rộng rãi, lập quan thì ước lược, hành sự thì đơn giản; cho đến chí thành quy phục Trung Quốc, sai sứ đi thuyền sang triều cống theo lệ không đoạn dứt. Lại thường cho con em vào triều làm Túc vệ, vào trường học để đọc sách, hầu noi theo phong hóa của thánh hiền, xa rời tập tục hoang sơ, làm một quốc gia có lễ nghi. Lại nhờ vào oai linh quân đội của vua mà bình định Bách Tế, Cao Cú Ly, chiếm quận huyện của họ. Thật có thể nói là hưng thịnh vậy.
Nhưng sau lại tuân phụng Phật pháp, chẳng biết đến điều tệ hại, dẫn đến việc làng mạc thành chùa tháp, dân chúng trốn làm Tăng, binh lính nông dân ngày càng ít dần, khiến cho đất nước ngày càng suy. Bấy nhiêu đó làm sao mà nước chẳng loạn mà mất cho được? Hơn nữa lúc ấy Cảnh Ai Vương chỉ biết vui chơi, đang cùng các cung nữ dạo ở Bão Thạch đình, uống rượu, lơ là việc phòng vệ đến nỗi chẳng biết Chân Huyên đến, chẳng khác gì ngoài cửa Hàn bắt hổ, trên lầu họ Trương ngắm hoa. Như Kính Thuận quy mệnh Thái Tổ, tuy là điều bất đắc dĩ, nhưng cũng có thể cho là tốt đẹp, nếu lúc trước dốc sức chiến đấu, liều chết để giữ, chống lại quân binh của các Vương; như đến khi lực hết thế cùng, thì không chỉ Tông miếu ắt bị vùi lấp, mà còn hại đến dân lành vô tội. Bởi chẳng đợi ban lệnh, mà niêm phong kho phủ, sổ sách quận huyện dâng lên, quy phục Thái Tổ. Việc ấy đã có công với triều đình mà còn có đức lớn với nhân dân nữa. Khi xưa họ Tiền đem Ngô Việt sáp nhập vào Tống, Tô Tử khen đó là trung thần, nay công đức của Tân La còn hơn thế rất xa.
Thái Tổ ta, con cháu cũng rất nhiều, mà Hiển Tông là ngoại tôn của Tân La đã lên ngôi báu; từ đó những người kế thừa đều là cháu con của họ, đó há chẳng phải là âm đức đó ư?
Tân La đã dâng đất, quốc gia không còn, A Can Thần Hội bãi quan từ châu quận trở về, thấy kinh đô ly tán thì cảm than rơi nước mắt, mà làm một bài ca (nay đã thất lạc).
Nam Phù Dư-Tiền Bách Tế-Bắc Phù Dư: (đã ghi ở trên) Quận Phù Dư tức kinh đô của Tiền Bách Tế, hoặc gọi đó là Sở
Phù Lý Quận. Theo Tam Quốc Sử Ký, mùa xuân năm Mậu Ngọ, năm hai mươi sáu đời Thánh Vương của Bách Tế, Vương nước này đã dời đến Tứ Thử, nay là Cổ Tỉnh Tân. Sở Phù Lý là tên riêng của Phù Dư, đã ghi chú ở trên. Lương Điền Trướng Tịch (sách sổ ghi chép về ruộng đất) thì ghi là ruộng đất quận Sở Phù Lý. Nay nói Phù Dư Quận là vì theo tên gọi thời thượng cổ, vua Bách Tế họ Phù, nên đặt là Phù Dư. Hoặc gọi là Dư Châu, vì bức trướng thêu treo trên tòa cao ở chùa Tư phước phía Tây của quận có ghi: "Tháng năm năm Đinh Dậu niên hiệu Thống Hòa mười lăm, Dư Châu Công Đức Đại Tự Túc Trướng". Vả lại khi xưa ở Hà Nam đặt chức thứ sử Dư châu, bấy giờ trong bản đồ có ghi hai chữ Dư châu, Lâm châu. Lâm châu nay là quận Quế Lâm, Dư châu nay là quận Phù Dư.
Bách Tế địa lý chí ghi: Hậu Hán thư nói: Tam Hàn gồm bảy mươi tám nước, Bách Tế là một trong số đó.
Bắc sử ghi ghi: "Nước Bách Tế, phía Đông giáp Tân La, phía Tây sát Đông Hải, phía Bắc gặp sông Hán, đó là quận Cư Bạt Thành. Lại ghi: Cố Ma Thành, bên ngoài lại có Ngũ Phương Thành".
Thông Điển ghi: Bách Tế, phía Nam giáp Tân La, bắc giáp Cao Ly, phía Tây giáp biển lớn.
Cựu Đường Thư ghi: Bách Tế là một chủng tộc riêng của Quyết Dư, Đông bắc giáp Tân La, Tây vượt biển thì đến Việt châu, Nam vượt biển thì đến Nhật Bản, Bắc giáp Cao Ly, nơi vua nước này lập đô có hai thành là Đông và Tây.
Tân Đường Thư ghi: Bách Tế phía Tây giáp Việt châu, Nam giáp Nhật Bản, đều phải vượt biển, Bắc giáp Cao Ly.
Quốc sử Bản Kỷ ghi: Thỉ Tổ của Bách Tế là Ôn Tộ, cha ông là Sồ Mâu Vương, hoặc gọi là Chu Mông, từ Bắc Phù Dư lánh nạn đến Tốt Bản Phù Dư, Vương của châu này không có con trai, chỉ có ba người con gái, thấy Châu Mông biết là người khác thường nên gả con gái thứ hai cho. Không bao lâu, Vương của Phù Dư băng hà, Chu Mông kế vị, sinh được hai con trai, trưởng là Phí Lưu, thứ là Ôn Tộ. Sợ sau này Thái tử không dung nạp, nên Ôn Tộ dẫn mười vị đại thần như Ô Can, Mã Lê đi về Nam, nhân dân đi theo rất đông, đi mãi đến Hán sơn, lên đồi Phụ Nhi, quan sát vùng đất nào mà có thể an cư được. Phí Lưu muốn đóng đô ở gần bờ biển, mười vị đại thần can gián rằng: Chỉ có đất Hà Nam này, Bắc giáp sông Hán, Đông dựa vào núi cao, Nam nhìn ra Ốc Trạch, Tây có biển lớn ngăn chặn, thật là thiên hiểm, địa lợi, là một vùng đất khó được, đóng đô nơi đây, cũng chẳng phải là hợp lắm ư?
Phí Lưu chẳng chịu, chia dân dẫn trở về đóng đô tại Di Sồ Hốt. Ôn Tộ đóng đô tại Úy Lễ Thành ở Hà Nam, dùng mười vị đại thần làm phụ chánh, đặt tên nước là Thập Tế.
Vào niên hiệu Hồng Gia thứ ba đời Hán Thành Đế. Vì Di Sô Hốt là đất ẩm thấp ngập mặn, không thể sống được nên Phí Lưu trở về, thấy Úy Lễ Thành đã định xong đô ấp, nhân dân an thái, bèn hỗ thẹn mà chết, thần dân đều đến Úy Lễ Thành; từ đó về sau nhân dân vui hòa yên ổn, bèn đổi hiệu là Bách Tế.
Vì tổ tiên Bách Tế cũng như Cao Cú Ly, đồng xuất từ Phù Dư nên đều lấy họ Giải. Đến đời Thánh Vương dời đô về Tứ Thử nay là quận Phù Dư (Di Sồ Hốt, Nhân Châu, Úy Lễ nay là Lăng Sơn). Cổ Điển Ký ghi: Con thứ ba của Đông Minh Vương là Ôn Tộ, vào năm Quý Mão, niên hiệu Hồng Gia thứ ba đời Tiền Hán đã từ Tốt Bản Phù Dư đến Úy Lễ thành lập đô xưng Vương; đến năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Gia mười bốn dời đô đến Hán Sơn (nay là Quảng châu). Trải qua ba trăm tám mươi chín năm, đến đời thứ mười ba là Cận Tiếu Cổ Vương chiếm Nam Bình Nhưỡng của Cao Cú Ly rồi dời đô về Bắc Hán Thành (nay là Dương châu). Lại trải qua một trăm năm mươi năm, đến đời hai mươi hai là Văn Chu Vương, năm Ất Mão, niên hiệu Nguyên Huy thứ ba lại dời đô về Hùng Xuyên (nay là Công Châu). Lại trải qua sáu mươi ba năm, đến đời hai mươi sáu là Thánh vương lại dời đô đến Sở Phủ Lý, đổi quốc hiệu là Nam Phù Dư. Đến đời ba mươi mốt là Nghĩa Từ Vương, đã trải qua một trăm hai mươi năm, vào niên hiệu Hiển Khánh thứ năm nhà Đường, bấy giờ Nghĩa Từ Vương đã tại vị được hai mươi năm, Kim Dửu Tín của Tân La và Tô Định Phương của Đường chinh phạt bình định Bách Tế.
Nước Bách Tế xưa có năm bộ, phân chia thống lãnh ba mươi bảy quận, gồm hai trăm thành, bảy mươi sáu vạn hộ. Nhà Đường phân chia, đặt đất này làm năm Đô Đốc Phủ là Hùng Tân, Mã Hàn, Đông Minh, Kim Liên và Đức An, vẫn dùng các Tù trưởng của Bách Tế làm Thứ sử Đô Đốc Phủ. Không bao lâu thì Tân La chiếm nước này lập thành ba châu là Hùng, Toàn và Võ cùng với các quận huyện.
Ở chùa Hổ Nham có gộp đá Chánh Sự, mỗi khi quốc gia muốn nghị bàn về chức Tể Tướng, thì viết tên những người được tuyển chọn vào ba hoặc bốn cái hộp niêm phong kỷ, rồi đặt trên gộp đá này, trong giây lát mở ra xem, nếu trên tên của ai có dấu ấn thì người ấy làm Tể tướng. Vì thế có tên là Chánh Sự.
Bên bờ sông Tứ Thử có một gộp đá, Tô Định Phương từng ngồi nơi đây câu cá, có rồng xuất hiện, nên trên đó có dấu vết rồng quỳ, do đó gọi là Long nham.
Trong quận này có ba ngọn núi là Nhật sơn, Ngô sơn và Phù sơn. Khi đất nước toàn thịnh, mỗi núi đều có thần nhân cư trụ, bay qua lại với nhau, ngày đêm chẳng dứt.
Bên bờ sông Tứ Thử có một phiến đá lớn có thể ngồi trên mười người, vua Bách Tế muốn đến chùa Vương Hưng lễ Phật, thì trước đứng trên phiến đá này từ xa bái Phật, thì phiến đá này tự nhiên ấm lên. Do đó mà gọi là Noãn thạch. Hai bên bờ sông Tứ Thử cảnh vật giống như bức họa, vua Bách Tế thường đến đây dự yến tiệc thưởng thức ca múa, nên đến nay gọi là Đại Vương Phố. Thỉ Tổ của Bách Tế là Ôn Tộ, là con thứ ba của Đông Minh, ông có thân hình cao lớn, tánh tình hòa hiếu, giỏi cưỡi ngựa bắn tên. Còn Đa Lâu Vương thì tánh tình khoan dung nhân hậu, có uy thế. Sa Thế Vương (còn gọi là Sa Y Vương), khi Cừu Thủ Vương băng hà thì lên ngôi, nhưng còn nhỏ chẳng thể nắm giữ triều chánh nên bị phế, đồng thời lập Cổ Nhĩ Vương. Hoặc cho rằng năm Kỷ Mùi niên hiệu Lạc Sơ thứ hai Sa Thế Vương băng hà, Cổ Nhỉ mới lên ngôi.
(Bản xưa ghi là Võ Khang, thì chẳng phải, Bách Tế không có Võ Khang)
Đời thứ ba mươi là Võ Vương, Vương tên là Chương, mẹ cô quả, làm nhà bên bờ ao ở phía Nam (Nam trì) kinh thành sinh sống, nhân tư thông với con rồng dưới ao mà có thai sinh ra Vương. Thuở nhỏ tên là Thự Đồng, khí lượng khó biết, thường đào củ hoài sơn (Thự dự) bán lấy tiền nuôi sống, do đó mọi người gọi là Thự Đồng. Một hôm nghe nói công chúa thứ ba của Chân Bình Vương nước Tân La là Thiện Hoa (còn gọi là Thiện Hóa) dung nhan tuyệt thế, Thự Đồng bèn cạo tóc đến kinh đô Tân La, đem củ hoài sơn cho các đứa trẻ trong thôn xóm ăn, nên tất cả đều gần gũi thân mật. Thự Đồng bèn làm một bài đồng dao rồi dụ dẫn các đứa trẻ hát lên, loan truyền khắp kinh thành. Bài ca rằng:
Công chúa Thiện Hoa, chỉ cưới Thự Đồng
Thự Đồng ban đêm sẽ đến mang đi.
(tạm dịch theo ý)
Bài ca-sau đó truyền vào cấm cung, trăm quan cực lực khuyên bảo nên đem công chúa trốn ở một nơi xa. Lúc sắp đi, Vương hậu ban cho một đấu vàng làm lộ phí. Khi công chúa sắp đến nơi ẩn trốn, Thự Đồng xuất hiện lễ bái công chúa giữa đường, xin đi theo làm thị vệ. Công chúa tuy chưa biết Thự Đồng từ đâu đến, cũng vui vẻ tin tưởng chấp nhận. Nhân đó mà đi với nhau, rồi ngầm tư thông. Sau khi biết được tên là Thự đồng, thì mới tin bài đồng dao kia có ứng nghiệm. Cả hai trở về Bách Tế, công chúa đem số vàng mà mẫu hậu đã tặng lúc ra đi đưa cho Thự Đồng để làm kế sinh sống. Thự Đồng hỏi rằng:
- Đây là vật gì?
- Đây là vàng ròng, có thể làm cho giàu có cả đời đấy! Công chúa trả lời.
Thự Đồng nói:
- Từ nhỏ ta đào đất lấy Hoài sơn, nhặt cái này chất như bùn đất, hàng đống.
Công chúa kinh hãi nói:
- Đó là vật báu trong thiên hạ, nay chàng đã biết nơi có vàng, thì nên chuyển vào cung điện cho cha mẹ, được chăng?
Thự Đồng trả lời: Có thể được!
Bấy giờ hai người liền dồn chất vàng thành đống cao lớn như ngọn đồi, rồi đến Pháp sư Trí Mạng ở chùa Sư Tử, núi Long Hoa, hỏi về phương kế chuyển vàng. Pháp Sư nói: "Ta có thể dùng thần lực để chuyển, hãy đem vàng đến đây!"
Công chúa viết thơ, đồng thời chuyển vàng đến trước chùa Sư Tử. Sư dùng thần lực, trong một đêm đã chuyển hết số vàng vào trong cung điện của Tân La. Chân Bình Vương vô cùng kinh dị với thần biến ấy, nên rất tôn kính, viết thơ vấn an luôn. Thự Đồng do đó mà được lòng người, nên về sau lên ngôi vương Bách Tế. Một hôm Vương và phu nhân muốn đến chùa Sư Tử, ngang qua một cái ao lớn dưới chân núi Long Hoa, bỗng nhiên Di-lặc Tam Tôn xuất hiện trong ao, Vương và phu nhân dừng lại đảnh lễ. Phu nhân nói rằng: "Cần phải lập một ngôi Già lam lớn nơi đây để làm kiên cố thêm sở nguyện. " Vương đồng ý, đến nơi Pháp sư Tri Mạng thưa hỏi về việc lấp ao. Pháp Sư cũng dùng thần lực trong một đêm bạt núi lấp ao thành đất bằng. Vương và phu nhân sai lập Pháp Tượng Dilặc Tam Tôn, điện tháp, sảnh đường... mỗi mỗi đều ba tòa, đặt tên là Di-lặc Tự (quốc sử ghi là Vương Hưng Tự). Chân Bình Vương sai một trăm thợ giỏi phụ giúp.
Đến nay chùa vẫn còn (Tam Quốc sử ghi: Là con trai của Pháp Vương, mà ở đây truyện ghi chỉ có con gái. Chưa rõ vì sao?)
Tam Quốc Sử bản truyện ghi: Chân Huyên người huyện Gia Ân, Thượng châu, sinh vào năm Đinh Hợi niên hiệu Hàm Thông thứ tám, vốn họ Lý, sau đổi thành họ Chân, cha tên là A Từ Cá, làm nghề nông. Trong năm Quang Khải, Huyên chiếm cứ thành Sa Phất, tự xưng là tướng quân (Sa Phất nay là Thượng châu), có bốn người con trai đều nổi tiếng ở đời.
Huyên là người kiệt xuất, nhiều tài trí mưu lược; Lý Bi Gia ký ghi: Chân Hưng Đại Vương có người phi là Tư Đao, thụy là Bạch Tung phu nhân. Con của người con thứ ba Cừu Luân Công là Ba
Trân Can Thiện Phẩm, con của Thiện Phẩm là Giác Can Chước Trân cưới Vương Giảo Ba Lý sinh ra Giác Can Nguyên Thiện, đó là A Từ Cá. Vợ thứ nhất của A Từ Cá là Thượng Viện phu nhân, người vợ thứ hai là Nam Viện phu nhân, sinh ra năm người con trai và một người con gái. Trưởng tử là Thượng Phụ Huyên, người thứ hai là Tướng quân Năng Ai, người thứ ba là Tướng quân Long Cái, thứ tư là Bảo Cái, thứ năm là Tướng quân Tiểu Cái, một người con gái là Đại Chúa Đao Kim.
Cố Ký ghi: Xưa có một người rất giàu sống tại Bắc Thôn ở Quang Châu, sinh được một người con gái, dung mạo đoan chánh. Một hôm người con gái nói với cha rằng: "Thường có một người con trai mặc áo tím tối đến giao hôn". Người cha nói: "Lấy sợi chỉ dài xâu vào cây kim rồi ghim vào áo của hắn!". Người con gái nghe theo. Đến sáng lần theo hết sợi chỉ đến chân tường phía Bắc, thì thấy cây kim đang cắm vào lưng một con giun. Sau đó người con gái có thai, sinh ra một bé trai, năm mười lăm tuổi tự xưng là Chân Huyên. Đến năm Nhâm Tý niên hiệu Cảnh Phước thứ nhất xưng Vương, định đô ở quận Hoàn Sơn, tại vị bốn mươi ba năm, đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thanh Thái thứ nhất, con thứ ba của Huyên soán ngôi, Huyên phải chạy qua đầu hàng Thái Tổ, con là Kim Cang lên ngôi. Năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Phước thứ nhất, giao chiến với quân Cao Ly ở Nhất thiện quận, Bách Tế liên tiếp bại trận, cuối cùng thì mất nước".
Khi Huyên còn ở tuổi ẵm bồng, cha mẹ thường mang theo ra đồng ruộng, cha cày ruộng, mẹ đặt con bên rừng để lo nấu cơm, khi ấy thường có cọp đến cho bú. Người trong làng nghe biết cho là kỳ lạ. Đến lúc tráng niên thì tướng mạo kỳ vĩ, chí khí lỗi lạc bất phàm; theo quân vào kinh đô, đến biển tây nam chặn gối trên mác đợi địch, chí khí mạnh mẽ luôn luôn dẫn đầu quân sĩ, vì có công lao nên được làm phó tướng. Năm Cảnh Phước thứ nhất đời Đường Chiêu Tông, tức năm thứ sáu đời Chân Thánh Vương Tân La. Các tiểu quan được Vương sủng ái ở trong triều trộm lộng quyền hành, làm rối loạn kỷ cương phép nước, lại thêm đói kém, nhân dân lưu tán, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Bấy giờ Huyên thầm khởi tâm mưu phản, nên tụ tập đồ chúng bạn bè đánh chiếm các châu huyện phía Tây nam kinh thành, nơi Huyên đến thì mọi người đều hưởng ứng. Trong khoảng từ mười ngày đến một tháng mà quân đã lên đến năm ngàn, bèn chiếm Vũ Trân Châu, tự lập làm vương, nhưng chưa dám công khai xưng vương; tự đề là Tân La Tây Diện Đô Thống Hành Toàn Châu Thứ Sử kiêm Ngự Sử Trung Thừa Thượng Trụ Quốc Hán Nam Quận Khai Quốc Công.
Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Long Kỷ thứ nhất (có thuyết nói là năm Nhâm Tý, niên hiệu Cảnh Phước thứ nhất), giặc Bắc Nguyên là Lương Cát hùng mạnh, Cung Duệ đầu quân vào đây. Huyên nghe được, từ xa trao cho Lương Cát làm Tỳ tướng (phó tướng). Một hôm Huyên tuần thú đến Hoàn Sơn Châu nhân dân ra nghinh đón thăm hỏi, Huyên vui mừng vì đã được lòng người, nói với kẻ tả hữu rằng: "Bách Tế khai quốc được hơn sáu trăm năm, do Tân La xin binh, nên Đường Cao Tông sai Tô Định Phương tướng quân đem mười ba vạn quân đi thuyền vượt biển, còn Kim Dửu Tín của Tân La theo đường bộ vượt Hoàng Sơn hợp với binh Đường diệt Bách Tế. Vậy nay ta chẳng dám lập đô để rửa mối hận xưa hay sao?". Từ đó bèn xưng là Hậu Bách Tế Vương, sắp đặt quan tước, chức vị, đó là vào năm Quang Hoa thứ ba nhà Đường, năm thứ tư đời Hiếu Cung Vương của Tân La.
Năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Minh thứ tư, nhân tâm ở kinh đô Thiết Nguyên bỗng nhiên sinh biến, tôn Thái Tổ ta lên ngôi. Huyên nghe tin sai sứ sang chúc mừng. Thái tổ tặng quạt Khổng tước, mũi tên tre ở Địa lý sơn... Huyên và Thái Tổ về dương thì hòa về âm thì khắc. Huyên tặng ngựa quý cho Thái Tổ. Nhưng đến tháng mười mùa đông năm thứ ba, Huyên dẫn năm ngàn quân kỵ đến Tài Vật Thành (nay chưa rõ ở đâu), Thái tổ cũng đem tinh binh đến giao chiến. Binh của Huyên mạnh, đánh lâu mà không phân thắng bại, Thái Tổ muốn tạm hòa để dưỡng quân, do đó viết thư xin hòa, cho em ruột là Vương Tín sang làm con tin, Huyên cũng gởi cháu ngoại là Chân Võ sang làm con tin. Tháng mười hai Huyên đánh chiếm hơn hai mươi thành như Cư Tây... rồi sai sứ vào triều Đường xưng phiên hầu. Vua Đường phong Huyên làm Kiểm Hiệu Thái Úy Kiêm Thị Trung Phán Bách Tế Quân Sự, y như trước giữ chức Đô Đốc Hành Toàn Châu Thứ Sử Đông Hải Tây Diên Đô Thống chỉ huy binh mã. Cắt đặt các việc, Bách Tế Vương hưởng thực ấp hai ngàn năm trăm hộ. Tháng tư Chân Võ bỗng nhiên qua đời, Huyên nghi do cố sát nên cầm tù Vương Tín, sai người qua đòi lại ngựa đã hiến khi trước, Thái Tổ cười rồi trao lại.
Tháng chín năm Đinh Hợi, niên hiệu Thiên Thành thứ hai Huyên lại đánh chiếm Cận Phẩm Thành (nay là huyện Sơn Dương) và đốt cháy. Vua Tân La cầu cứu Thái Tổ, Thái Tổ sắp xuất quân, thì Huyên đã đánh úp phủ Cao Tước (nay là Úy Châu) tiến thẳng đến Tộc Thủy lâm (còn gọi là Kê lâm ở phía Tây kinh đô), đột nhập kinh thành Tân La. Bấy giờ vua Tân La và phu nhân đang dạo chơi tại Bào Thạch Đình, do đó bị đại bại. Huyên cưỡng ép phu nhân và hãm hiếp, đưa em họ của Vương là Kim Truyền lên ngôi. Sau đó bắt Vương đệ là Hiếu Liêm, Tể tướng là Anh Cảnh, cướp đoạt của cải châu báu, binh khí, thiếu nữ và thợ giỏi về nước. Thái tổ dẫn năm ngàn kỵ binh tinh nhuệ chận Huyên tại chân Công Sơn giao chiến, tướng của Thái Tổ là Kim Nhạc, Sùng Khiêm tử trận, bại quân chạy về Bắc, Thái Tổ chỉ vì thoát thân nên chẳng dám chống cự, khiến cho Huyên càng tung hoành, thừa thắng chuyển đánh cướp thành Đại Mộc (nay là Nhược Mộc), phù Kinh Sơn, Khang Châu; lại công phá thành Phửu Cốc. Lại tướng giữ phủ Nghĩa Thành là Hồng Thuật đã chống cự mà tử trận. Thái Tổ than rằng:
- Ta mất cánh tay phải rồi!
Năm Canh Dần, năm thứ bốn mươi hai (nhằm niên hiệu Trường Hưng thứ 1), Huyên muốn đánh chiếm quận Cổ Xương (An đông) nên dẫn đại quân đến Thạch Sơn hạ trại. Thái Tổ cũng dẫn đại quân đến hạ trại ở Bình sơn, phía Bắc quận, cách Huyên một trăm bộ. Hai bên bày trận, quân của Huyên đại bại, Thế Tổ bắt sống Thị Lang Kim Ốc. Sáng hôm sau, Huyên thâu quân, tập kích thành Thuận châu, thành chủ là Nguyên Phùng không kháng cự nổi bỏ thành chạy trốn. Thái Tổ giận dữ, biếm làm tri huyện Hạ Chí (nay là huyện Phong sơn. Nguyên Phùng là người thành Thuận châu).
Vua quan Tân La vì vận nước suy vi, khó có thể phục hưng được, nên bàn muốn cùng Thái Tổ ta kết mối giao hảo để nhờ cứu giúp. Huyên nghe được, muốn vào kinh đô Tân La để công phá, e sợ Thái Tổ vào trước, nên gởi thư đến Thái Tổ, thư ghi:
- Hôm qua, tướng của Tân La là Kim Hùng Liêm... đến triệu túc hạ vào kinh, đó giống như ba ba đáp ứng tiếng kêu của ba ba, muốn chim sẻ mà mang cánh đại bàng, nhất định sẽ khiến sinh linh lầm than, xã tắc hoang phế! Ta bấy giờ trước cầm ngọn roi của tổ, lia lưỡi búa của Hàn, thề cùng trăm quan lòng sáng như mặt trời, dụ cùng sáu bộ nên lấy nghĩa cao. Chẳng ngờ gian thần chạy trốn, Quốc quân thăng hà. Ta bèn khuyên lập ngoại tôn của Hiến Khang Vương (em của Cảnh Minh Vương) lên ngôi. Mất vua mà còn có vua tại vị! Túc hạ chẳng tin lời trung thật mà lại nghe lời đồn hư, tính trăm mưu ngàn kế rình rập, nhiều lần sâm phạm quấy nhiễu, mà còn chẳng thể thấy được đầu ngựa của ta cắt được lông trâu của ta. Như đầu mùa đông Đô Đầu Sách Sương chịu trói ở trận Tinh Sơn; trong tháng này tả tướng Kim Nhạc phơi thây trước chùa Mỹ Lợi, bị giết đã nhiều mà bị bắt cũng chẳng ít. Mạnh yếu như thế thì thắng bại có thể biết, ta mong túc hạ treo cung nơi lầu Bình Nhưỡng, cho ngựa uống nước nơi Phối giang. Nhưng ngày bảy tháng trước nước Ngô Việt sai sứ là Ban Thượng Thư đến truyền chiếu chỉ của vua nói rằng: "Biết khanh và Cao Ly vốn có tình hòa hiếu từ lâu, đã cùng kết minh thân cận. Nhân hai người làm tin bị chết mà khiến cho mất đi tình hòa thân vốn có, xâm đoạt cương thổ lẫn nhau, can qua chẳng dứt. Nay trẫm truyền sứ thần đến địa phận của khanh, lại chuyển thư đến Cao Ly, mỗi mỗi nên giúp đỡ nương nhau, vĩnh viễn tin tưởng nhau mà chấm dứt can qua...!"
Ta về nghĩa rất tôn trọng Vương, về tình dốc lòng phụng sự Đại quốc, vừa nghe chỉ dụ liền muốn vâng theo. Nhưng suy nghĩ túc hạ cũng muốn bãi binh, chẳng thể khốn khó mà độc chiến, nên nay lục lại chiếu thư gởi trình túc hạ, xin để tâm xem rõ. Nếu như Thỏ hay cho giỏi đều thất bại ắt chuốc lấy lời đàm tiếu, ngao cò tranh nhau thì cũng làm người chê cười. Thế nên lấy đó để răn mình, tự chiêu họa thì không còn cơ hối hận.
Tháng giêng niên hiệu Thiên Thành thứ hai Thái Tổ viết thư phúc đáp rằng:
- Kính nhận một đạo chiếu thư của quốc vương nước Ngô Việt do Thông Sứ Ban Thượng Thư truyền đến, đồng thời nhờ ân túc hạ khuất mình gởi cho một lá thư dài trình bày mọi việc:
Sứ thần ngồi xe đẹp, truyền đến một đạo chiếu thư; lời hay trên lụa trắng ban cho lời chỉ dạy. Tay cầm Thánh chỉ mà tăng phần cảm kích, tay mở thư xem mà lòng khó tránh nổi hiềm nghi. Nay gởi trở về lòng chân thành bày tỏ. Tôi trên được trời sai bảo dưới thì được nhân dân suy tôn, quá to với quyền tướng soái, mong đạt đến vận hội an bang. Bỗng chốc Tam Hàn nguy ách, cửu thổ loạn ly, dân đen phần nhiều làm giặc cướp, vườn ruộng đều trở thành hoang sơ. Bởi mong ngăn dứt được cảnh phong trần kinh sợ, cứu giúp được xã tắc tai ương, bèn tự đến thân gần để kết tình hiếu hảo. Quả thật đã thấy được vài ngàn dặm ruộng đồng xanh tốt, nhân dân lạc nghiệp, binh lính an nhàn nghỉ ngơi được bảy, tám năm. Cho đến năm Quý Dậu đây, đúng vào tháng mười, bỗng nhiên sinh việc, dẫn đến giao binh. Túc hạ đầu tiên khinh địch tiến lên phía trước, như bọ ngựa chống với bánh xe, rốt cuộc biết khó thắng mà rút lui, như loài muỗi mòng vác mang núi lớn, phải vòng tay mà xin bày tỏ, chỉ trời mà tự thệ rằng: "Từ nay về sau vĩnh viễn hiếu hòa. Nếu như phản lời thề thì thần minh tru diệt!"
Ta cũng chuộng chánh nghĩa chấm dứt can qua, cầu đức nhân không lòng sát hại, nên mới giải trùng vây để quân nghỉ dưỡng, không chối từ việc gởi con tin muốn dân an lạc. Đó là ta có đức lớn đối với dân Nam vậy. Đâu ngờ máu thề chưa ráo, lòng hung dữ đã lại khởi lên; ong rết dùng nọc độc để sát hại dân lành, sói lang điên cuồng xâm hủy kinh đô khiến cho Kim thành quẩn bách, Hoàng thất sợ kinh. Bậc trượng nghĩa phò Chu, có ai giống như Hoàn Văn Bá; thừa cơ đoạt Hán chỉ thấy có Vương Mãng Đỗng Trác gian thần. Khiến cho bậc quân vương chí tôn, hạ mình xưng thần với túc hạ. Thế thì tôn ti lẫn lộn, trên dưới đồng lo, cho rằng như chẳng có bậc trung trinh phụ tá, thì xã tắc đâu lại được an khương; ta lòng không dấu ác, chí tha thiết tôn vương, muốn cứu khổn triều đình, khiến phò nguy đất nước. Còn túc hạ chỉ thấy cái lợi nhỏ bé mà đánh mất ân dày của trời đất. Chém chết quân vương, thiêu đốt cung điện, sát hại quần thần, cướp bóc nhân dân; gái đẹp thì bắt để cưỡng dâm, tiền của thì cướp đem về nước. Thật là ác hơn Kiệt, Trụ, bất nhân vượt cả loài cú mèo, ác cảnh (chim, thú ăn thịt cha mẹ). Lòng ta oán túc hạ thật ngút trời, tâm ta chí thành sáng hơn nhật nguyệt. Thề đánh đuổi loài ưng chiên (một loài chim dữ) để tỏ rõ bổn phận khuyển mã, nên lại phát động can qua, hai lần thay đổi tướng soái. Đánh trên bộ thì như sấm vang chớp giật, đánh dưới nước thì như hổ tát rồng bay, đuổi chư tướng ra tận bờ biển, giáp chất như non; bắt Sồ Tổ ở bên thành, thây phơi đầy đồng nội. Lại nơi quận Yên sơn chém Cát Hoán trước ba quân, thành Mã Lợi (nghi là quận Y sơn) giết Tùy Ngộ bên cờ soái. Ngày chiếm Nhâm Tồn (nay là quận Đại Hưng) vài trăm người như Hình Tích... phải bỏ mạng, lúc phá Thanh Xuyên (một huyện thuộc Thương châu), bốn, năm tướng như Trực Tâm... phải mất đầu. Nơi Đồng Tẩu (nay là chùa Đồng Hoa) thấy tinh kỳ mà tan tác, ở Kính Sơn dâng lễ mà đầu hàng. Khương Châu thì quân từ hướng Nam mà đến La Phủ thì từ phía Tây mà vào, thế tấn công như vậy thì việc thâu phục đâu còn xa, ắt hẹn trên sông để rửa sạch mối hận một ngàn thuyền của Trương Nhĩ, bên bờ Ô giang hoàn thành tâm nhất thống của Hán Vương. Ngừng dứt phong ba, trời trong biển lặng. Được Hoàng Thiên trợ giúp, mạng vận muốn về đâu? Hà huống thừa chiếu chỉ của Ngô Việt Vương, đức nhuần thắm khắp cùng, lòng nhân sâu xa dưỡng sinh muôn loài nơi Cấm thành đã đặc ban chiếu chỉ, hiểu dụ cấm chiến nạn ở Thanh Khâu (Hải Đông), mà dám chẳng tuân mạng ư? Nếu Túc hạ vâng theo thánh chỉ sáng suốt kia, dẹp bỏ tất cả hung đồ, thì không chỉ hợp với lòng nhân của Thượng quốc, mà còn tiếp nối được vận tuyệt của Hải Đông. Nếu chẳng thông đạt mà chống trái thì có hối cũng chẳng kịp!" (Thôi Trí Viễn soạn).
Niên hiệu Trường Hưng thứ ba, Cũng Trực được một mưu thần dõng mãnh có trí lược của Chân Huyên qua đầu Thái Tổ. Chân Huyên bèn bắt hai con trai và một con gái của Cung Trực đốt cháy, cắt đứt gân đùi của họ. Đến tháng chín, mùa thu năm ấy Huyên sai Nhất Cát dùng thủy binh vào bờ sông Lễ Thành của Cao Ly, ở lại ba ngày cướp đốt hơn một trăm chiếc thuyền của ba châu Diêm, Bạch, Chân rồi rút lui.
Năm Giáp Ngọ niên hiệu Thành Thái thứ nhất, Huyên nghe Thái Tổ đóng binh ở Vận châu (chưa rõ nơi đâu) bèn tuyển chọn binh sĩ tinh nhuệ, ăn cơm sớm rồi đến tấn công, chưa đến đồn doanh thì bị Tướng quân Kiềm Bật dẫn quân kỵ tập kích, chém hơn ba ngàn thủ cấp, Huyên đại bại; từ Hùng
Tân trở về phía Bắc hơn ba mươi thành vừa nghe thì đầu hàng. Bộ hạ của Huyên như Thuật Sĩ Tông Huấn, thầy thuốc Chí Khiêm, dõng tướng Thượng Đạt, Thôi Bật... đều hàng Thái Tổ.
Tháng giêng năm Bính Thân, Huyên nói với các người con rằng: "Vào cuối đời Tân La, Lão phu lập Hậu Bách Tế đến nay đã nhiều năm rồi, binh lính nhiều hơn Bắc quân, mà còn chẳng thắng lợi, đó là do trời ban cho đất Cao Ly vậy. Nay nên quy thuận Bắc Vương để bảo toàn mạng sống".
Ba người con của Huyên là Thần Kiếm, Long Kiếm, Lương Kiếm đều không chịu. Lý Đề Gia Ký ghi: "Huyên có chín người con: Trưởng là Thần Kiếm (còn gọi là Chân Thành), thứ hai là Đại Sư Khiêm Não, thứ ba Tả Thừa Long Thuật, thứ tư là Đại Sư Thông Trí, thứ năm là Đại A Can Tông Hữu, thứ sáu Khuyết danh, thứ bảy là Tả Thừa Vị Hưng, thứ tám là Đại Sư Thanh Khâu, và một con gái là Quốc Đại phu nhân, tất cả đều do Thượng Viện phu nhân sinh ra". Huyên có rất nhiều con, hơn mười người. Trong đó người con thứ tư là Kim Cang, thân hình cao lớn, nhiều tài trí, Huyên rất yêu mến ý muốn truyền ngôi vị. Các người anh là Thần Kiếm, Lương Kiếm, Long Kiếm biết được nên rất lo buồn. Bấy giờ Lương Kiếm làm Đô Đốc Khương Châu, Long Kiếm làm đô đốc Võ châu, chỉ còn một mình Thần Kiếm ở bên Huyên. Bấy giờ Năng Hoán sai người đến hai châu Lương và
Võ để lập mưu; cho đến tháng ba, mùa Xuân năm Ất Mùi, niên hiệu Thanh Thái thứ ba, cùng với Anh Thuận... nhốt Huyên tại Kim Sơn Phật Tự, sai người giết Kim Cang, Thần Kiếm tự xưng Đại Vương. Đại xá trong nước.
Đầu tiên Huyên ngủ chưa dậy, từ xa nghe trong cung đình có tiếng kêu la, Huyên hỏi:
- Tiếng gì vậy? Đáp rằng:
- Vương nay đã già, mờ mịt với việc trị chánh của triều đình, nay trưởng tử là Thần Kiếm nhận lấy Vương vị của cha, đó là tiếng các tướng sĩ tung hô chúc mừng!
Lát sau chuyển Huyên đến Kim Sơn Phật Tự, cho Ba Đạt và ba mươi tráng sĩ canh giữ; có bài đồng dao rằng: "Đáng thương đứa bé Hoàn Sơn, mất cha lệ tuôn như mưa". Huyên cùng với hai người một nam một nữ trẻ tuổi của hậu cung, một thị tỳ là Cổ Tỉ, một nội nhân là Năng Hựu đều bị cầm tù. Đến tháng tư, chuốc rượu cho ba mươi lính canh say ngũ, Huyên và mọi người được Nguyên Phủ Hương Văn, Ngô Diễm, Trung Chất theo đường biển đón đến Cao Ly. Khi đã đến, vì Huyên lớn hơn mười tuổi nên tôn là Thượng phụ, cho ở Nam Cung, ban cho điền trang thực ấp ở Dương châu, bốn mươi nô tỳ, chín con ngựa. Những người từ nước này đến hàng từ trước như Tín Khang làm Nha tiền. Con rễ của Chân Huyên là Tướng Quân Anh Quy, mật nói với vợ rằng: Đại vương khổ nhọc hơn bốn mươi năm trời, công nghiệp sắp thành, bỗng chốc vì cái họa trong nhà mà mất đất, phải chạy sang Cao Ly. Phàm trinh nữ không thờ hai chồng, tôi trung không phò hai chúa. Nếu bỏ chúa mình mà theo phụng sự nghịch tử thì còn mặt mũi nào gặp nghĩa sĩ trong thiên hạ? Hà huống nghe nói vua Cao Ly công minh nhân hậu, cần kiệm, thâu phục được nhân tâm, được trời khai phát chỉ dạy, nhất định sẽ làm chủ Tam Hàn; ta nên gởi thư an ủi vua ta, đồng thời ân cần thăm hỏi các Vương công, để mong cầu được phước mai sau?
Người vợ nói rằng: Lời phu quân nói rất hợp ý thiếp. Bấy giờ vào tháng hai năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Phước thứ nhất, Anh Quy sai người chuyển ý mình đến Thái Tổ, viết rằng: "Đại vương dựng cờ đại nghĩa, đây xin làm nội ứng để đón Vương vào kinh!"
Thái Tổ vui mừng ban thưởng cho sứ rất nhiều, rồi nói với sứ cảm tạ Anh Quy rằng: Nếu nhờ ân mà thống nhất được, quân tiến không bị ngăn ngại, thì trước đến ra mắt tướng quân, sau thăng đường lễ phu nhân, phụng sự như anh, tôn kính như chị, đồng thời sau nhất định sẽ báo đáp. Xin trời đất quỷ thần nghe chứng cho lời này!
Tháng sáu, Huyên thưa với Thái Tổ rằng: Lão thần sở dĩ quy hàng Điện hạ, vì muốn xin nhờ uy dũng của Điện hạ, diệt trừ các nghịch tử. Cúi mong Đại vương dùng thần binh thảo trừ tặc loạn, thì thần dù chết vẫn không hối tiếc.
Thái Tổ nói: Chẳng phải không muốn chinh phạt, nhưng phải đợi thời cơ!
Trước tiên Thái Tổ sai Thái tử và Chánh tướng quân Thuật Hy lãnh một vạn quân kỵ thẳng đến phủ Thiên An. Đến tháng chín Thái Tổ thống lãnh ba quân đến phủ Thiên An hợp binh rồi tiến đến Nhất Thiện. Thần Kiếm dẫn binh ngược lên đến Giáp Ngọ, hai bên đối diện cách nhau bởi Lợi Xuyên. Vương bày trận theo thế "Cấn" là lưng, diện là "Khôn". Xong Thái Tổ và Huyên ra xem trận, bỗng có một làn mây trắng hình như lưỡi kiếm hiện ra, quân ta cứ theo đó nổi trống mà tiến lên. Các tướng quân của Bách Tế là Hiếu Phụng, Đức Thuật, Ái Thuật, Minh Cát... thấy quân ta thế lực lớn mạnh mà tề chỉnh, bèn cưỡi ngựa giáp quy hàng ngay tại trận. Thái Tổ đến ủy lạo và hỏi tướng soái đóng tại đâu? Hiếu Phụng trả lời rằng: "Nguyên soái Thần Kiếm đóng tại trung quân!"
Thái Tổ bèn sai tướng quân Công Huyên... dẫn ba quân đồng tiến lên giáp công, quân Bách Tế tan vỡ, chạy lên phía Bắc, đến Khôi Hiện ở Hoàng sơn thì Thần Kiếm cùng hai người em và tướng quân Phú Đạt, Năng Hoán, cả thảy hơn bốn mươi người xin hàng. Thái Tổ cho hàng, vỗ yên tất cả, cho phép cùng với vợ con về kinh. Thái Tổ hỏi Năng Hoán rằng:
Người đầu tiên cùng với Lương Kiếm... âm thầm bày mưu cầm tù Đại vương để đưa Thần Kiếm lên ngôi, chính là ngươi. Vậy nghĩa của kẻ làm tôi như thế ư?
Năng Hoán gục đầu không thể đáp được. Bèn chém đầu. Còn Thần Kiếm tiếm vị là do người bức bách chẳng phải là bản ý, hơn nữa đã ra hàng xin tội, nên đặc biệt tha cho tội chết. Chân Huyên quá lo buồn mà tái phát bệnh ung thư, vài ngày sau thì qua đời tại chùa Phật ở Hàng châu, thọ bảy mươi tuổi.
Thái Tổ ban quân lịnh nghiêm minh, quân sĩ không dám phạm mảy may, châu huyện đều an bình, già trẻ đều tung hô vạn tuế. Thái Tổ nói với Anh Quy rằng:
-Sau khi vua của khanh mất nước, tất cả thần tử không một ai an ủi lo lắng, chỉ độc có vợ chồng khanh từ ngàn dặm đưa thư, để tỏ lòng thành; lại đem đến điều tốt đẹp cho quả nhân. Nghĩa ấy chẳng thể nào quên. Nay ban cho chức Tả Thừa, một ngàn khoảnh ruộng. Cho mượn ba mươi con ngựa trạm để trở về đón gia nhân. Đồng thời phong hai người con làm quan. Chân Huyên dựng nghiệp từ năm Cảnh Phước thứ nhất đời Đường, đến năm Thiên Phước thứ nhất đời Tấn, tổng cộng là bốn mươi bốn năm, diệt vào năm Bính Thân.
Sử gia luận rằng: Tân La số đã cùng, đạo đã mất. Trời không giúp đỡ, dân không có chỗ nương. Bấy giờ giặc giã thừa cơ nổi lên khắp nơi, trong đó mạnh nhất chỉ có Cung Duệ và Chân Huyên mà thôi. Cung Duệ vốn là một vương tử của Tân La mà làm phản, lấy tổ tông đất nước làm thù địch, đến nổi chém cả tượng vẽ của tiên tổ, thật là kẻ bất nhân. Chân Huyên vốn cũng là thần dân của Tân La, hưởng bổng lộc của Tân La mà ôm lòng gây họa, thừa lúc đất nước lâm nguy mà xâm chiếm thành ấp, bắt giam vua quan như cầm thú, thật là loại hung ác trong thiên hạ. Cho nên về sau Cung Duệ bị bầy tôi của mình giết, Chân Huyên bị họa bởi các con của mình. Tất cả đều do tự thân tạo ra, đâu có gì là kỳ lạ? Tuy Hạng Vũ, Lý Mật thật có hùng tài, mà không thể địch với Hán, Đường hưng khởi huống gì Duệ, Huyên là kẻ ác, đâu thể chống cự lại với Thái Tổ ta?
Sự Văn Nhân Tri Châu Kim Quan soạn vào năm Đại Khương, triều Văn Miếu (nay chỉ lược ghi)
Sau khi khai mở, cõi này không có tên nước, cũng không có các danh xưng vua tôi... chỉ có chín can: Ngã Đao Can, Nhữ Đao Can, Bỉ Đao Can, Ngũ Đao Can, Lưu Thủy Can, Thần Thiên Can, Ngũ Thiên Can, Thần Quỷ Can, là các tù trưởng lãnh đạo bách tánh. Tất cả gồm một trăm bộ, bảy mươi lăm ngàn người, phần lớn ở nơi sơn dã, đào giếng lấy nước uống, cày ruộng để lấy lúa dùng. Vào ngày Tỵ thượng tuần tháng ba năm Nhâm Dần niên hiệu Kiến Võ thứ mười tám đời Hậu Hán Quang Võ, tại Bắc Quy Chỉ (đây là từ gọi các ngọn núi chập chùng uốn lượn giống như mười võ sò úp liền nhau, nên gọi như thế), bỗng nhiên có âm thanh kêu gọi rất khác thường, khiến hai, ba trăm người tụ tập nơi đây. Có tiếng giống như tiếng người, ẩn hình mà phát ra rằng: Ở đây có người không?
Chín Can đồng đáp: Có chúng tôi ở đây.
Âm thanh kia lại phát ra rằng: Nơi ta đang ở là đâu? Đáp: Là Quy Chỉ.
Hỏi: Hoàng Thiên bảo ta ngự đến nơi này, an định nước mới, lập quân chủ, vì thế nay ta xuống đây! Các ngươi nên đào đỉnh núi, tập họp mọi người lại mà ca rằng:
"Rùa đâu (Quy hà)? Rùa đâu? Rùa đâu? Hiện đầu ra, nếu chẳng hiện, sẽ nướng mà ăn", rồi nhảy múa, thì sẽ đón được Đại Vương".
Chín Can theo lời dạy vui mừng ca múa, không bao lâu thì ngửa mặt lên không mà nhìn, chỉ thấy một sợi dây, màu tía từ trên trời kéo dài xuống đất, tìm đến dưới sợi dây thì được một cái hộp bằng vàng gói trong một tấm vải đỏ, mọi người bèn mở ra xem, thì thấy sáu quả trứng màu vàng ròng tròn như mặt trời, tất cả đều vui mừng, lạy một trăm lạy, rồi gói vào bọc ôm về nhà Ngã Đao Can, đặt trên giường, mọi người mỗi mỗi đều tản mác. Qua một ngày, bình minh hôm sau, mọi người lại tụ tập đến thì sáu trứng đã hóa ra một đứa bé có dung mạo kỳ vĩ, vẫn còn ngồi trên giường, nhân dân lễ bái chúc mừng, hết lòng cung kính, đứa bé lớn theo từng ngày. Mới mười ngày mà đã cao chín thước như Thiên Ất nhà Ân, dung mạo như rồng giống Cao Tổ nhà Hán, mi dáng chữ Bát () như Cao Tổ nhà Đường, mắt có hai con ngươi như vua Thuấn nhà Ngu; ngày mười lăm tháng ấy lên ngôi. Vì mới xuất hiện nên húy là Thủ Lộ, hoặc nói Thủ Lăng (Thủ Lăng là tên thụy sau khi băng hà), đặt tên nước là Đại Giá Lạc. Còn gọi là Già Da quốc, là một trong sáu Già da. Năm người kia mỗi mỗi làm vua một Già da. Nước này phía Đông đến sông Hoàng Sơn, Tây nam giáp biển xanh, Tây bắc giáp Địa Lý Sơn, Đông bắc giáp Nam Già Da sơn, đây là phần cuối của nước. Sai người xây Giả cung để ngự. Chỉ cần bền chắc đơn sơ, không cắt phá cỏ tranh, chiếm đất chỉ ba thước. Qua năm thứ hai, Vương nói với dân rằng: "Trẫm muốn định kinh đô". Bèn đến Tân Đạp Bình (vùng này xưa nay là ruộng hoang, vì mới canh tác nên gọi như thế. Đạp là lời tục gọi). Phía Nam Giả cung, xem thấy bốn phía đều có núi non, Vương nói với kẻ tả hữu rằng:
Đất này rất hẹp như là rau đắng, nhưng rất kỳ dị, có thể là trụ xứ của mười sáu La-hán, huống gì từ một thành ba, từ ba thành bảy. Trụ xứ của bảy Thánh chắc chắc là hợp với nơi đây". Lấy đất mà khai lập bờ cõi, rốt cuộc đã thành sự thật ư?
Vương lập La Thành, chu vi một ngàn năm trăm bộ, trong đó gồm xây cấm cung điện đường, nhà cửa các quan, kho vũ khí, kho lương thực... sau khi xong việc Vương về Giả cung, trưng dụng tất cả trai tráng, dân phu, thợ giỏi. Vào ngày hai mươi tháng này xây dựng tường thành kiên cố, đến ngày mười tháng ba thì xong, còn những cung điện, nhà cửa thì đợi xong nông vụ rồi mới làm. Lại bắt đầu từ tháng mười năm ấy đến tháng hai năm Canh Thìn thì hoàn thành. Sau đó chọn ngày giờ đại cát, Vương ngự giá về cung mới, trị vì vạn dân, siêng năng với quốc sự. Một hôm bỗng có phu nhân của Hàm Đạt Vương nước Hoàn Hạ có thai, đủ tháng sinh ra một cái trứng, trứng hóa thành người đặt tên là Thoát Giải, từ biển mà vào, thân cao ba thước, đầu tròn một thước, vui mừng vào cung cấm nói với Vương rằng:
- Ta muốn đoạt lấy vương vị, nên đến đây! Vương đáp rằng:
- Trời ban cho ta ngôi vị này, để định yên đất nước, vỗ an muôn dân, chẳng dám trái mệnh trời mà trao ngôi vị, lại chẳng dám trao nước và dân của ta vào tay ngươi!
Thoát Giải nói:
- Như ngài có thể cùng tôi đấu pháp thuật chăng? Vương nói:
- Được! Có thể!
Trong khoảnh khắc Giải hóa làm chim ưng, Vương hóa làm chim Thứu, Giải lại biến thành chim sẽ, Vương hóa thành chim diêu (chim cắt); bấy giờ chưa dời được tấc bóng. Giải thâu phép trở lại nguyên hình, Vương cũng thế. Giải vòng tay nói rằng:
- Tôi cũng vừa ở nơi đấu phép thuật, ưng bằng thứu, sẽ bằng diêu, tất cả đều không tổn thương. Đó là do lòng nhân từ, ghét sát sinh của bậc Thánh mà như thế. Ta và Vương cũng rất khó tranh vương vị!
Nói xong liền bái từ mà đi. Giải đi đến đầu bến ngoài Lân Giao, muốn đợi đến sáng mai ghé bến theo đường thủy mà đi. Vương sợ Giải ở lại sẽ mưu loạn, nên gấp sai năm trăm chiến thuyền đuổi theo. Giải chạy đến địa phận Kê lâm thì các chiến thuyền trở về.
Bài ký này ghi chép rất khác với Tân La.
Ngày hai mươi bảy tháng bảy năm Mậu Thân, niên hiệu Kiến Võ hai mươi bốn, chín Can vào chầu tâu rằng:
- Từ ngày Đại Vương giáng xuống nơi đây, đến nay mà chưa có phối ngẫu thích hợp, xin cho chúng thần tuyển chọn các cô con gái của mình, ai tuyệt mỹ sẽ được tiến cung làm phu nhân Đại vương!
Vương nói:
- Trẫm xuống đây là do mệnh trời, phu nhân của trẫm cũng phải do trời định! Các khanh chớ nên lo lắng!
Sau đó Vương sai Lưu Thiên Can dẫn thuyền nhẹ, dắt tuấn mã đến đảo Vọng sơn đứng chờ. Vương lại sai Thần Quỷ Can đến Thừa Cổ (Đảo Vọng sơn tức là một hòn đảo nhỏ của Kinh Nam Đảo. Thừa Cổ tức là Liển Hạ Quốc). Bỗng nhiên ở góc Tây nam của biển hiện các cánh buồm lụa, giương cờ đỏ tiến thẳng lên hướng Bắc. Lưu Thiên Can... đốt lửa trên đảo, thì các cánh buồm tranh nhau chạy vào đất đảo, rồi tranh nhau đến nơi đốt lửa. Thần Quỷ Can thấy vậy liền vào cung tâu với Vương, Vương nghe được thì rất vui mừng, sai chín Can giương cánh buồm lan, bạt mái chéo quế ra đảo nghinh đón. Đến nơi đoàn người muốn mời Vương hậu vào cung. Bà nói rằng: "Ta với các khanh bình sinh chưa từng quen biết, đâu dám khinh suất mà đi theo!".
Lưu Thiên... trở về tâu lại lời của Hậu. Vương nói đúng thế, rồi sai quan lên đường, tính từ cung cấm đi về phía Tây nam sáu mươi bộ chọn khu đất bên núi giăng màn làm cung điện chờ đợi. Vương Hậu ở Biệt Phố Tâm bên ngoài núi, ngồi thuyền lên đất liền, dừng nghỉ ở một mõm đá cao, cởi khố lụa đang mặc làm lễ vật, tặng sơn thần. Những người đi theo gồm hai viên thị thần là Thân Phụ và Triệu Khuông, và hai người vợ của hai viên quan này là Mộ Trinh, Mộ Lương, và các tôi tớ tổng cộng hơn hai mươi người, cũng dâng tặng gấm lụa, vải vóc, quần áo, vàng bạc, châu ngọc... nhiều không thể tính kể.
Vương Hậu dần dần đến gần hành cung thì Vương ra nghinh tiếp, đưa vào trướng, thị thần và các người đi theo đều đến yết kiến Vương rồi lui ra. Vương bảo quan Hữu Ty rằng: "Vợ chồng của Thị thần thì sắp đặt mỗi mỗi một phòng, còn các tôi tớ thì sắp xếp năm, sáu người một phòng, ban cho nước thơm, rượu ngon; ngủ thì đệm hoa, chiếu đẹp; đến như y phục cũng toàn là các loại vải lụa đắt tiền, đồng thời tuyển chọn những binh sĩ tài giỏi bảo vệ.
Bấy giờ Vương và Hậu cùng nghỉ tại Ngự Quốc Tẩm, Hậu từ tốn nói với Vương rằng:
- Thiếp là Công chúa nước A Du Đà, họ Hứa, tên là Hoàng Ngọc, năm nay mười sáu tuổi; vào tháng năm này, lúc còn ở tại bản quốc, phụ vương và mẫu hậu nói với thiếp rằng: Cha mẹ một hôm nằm mộng đồng thấy Hoàng Thiên thượng đế đến nói rằng: "Vua nước Già Lạc là Thủ Lộ, được trời sai xuống làm vương; là thần là Thánh chỉ có người này vậy! Hơn nữa vừa mới lập nước chưa có người phối ngẫu, khanh nên sai công chúa đến đó mà làm Vương hậu!"
Nói xong liền trở về trời. Lúc tỉnh dậy mà lời của Thượng Đế vẫn còn ở bên tai. Do đó con nên mau từ song thân mà lên đường đến nơi ấy!"
Thiếp cũng bồng bềnh trên biển vời vợi tìm cảnh Bồng Lai, đi khắp bầu trời thênh thang mà đến hội Bàn Đào; người đẹp tạ ân long nhan ban cho sự gần gũi này!
Vương liền đáp:
- Trẫm sinh vào thời ít Thánh nhân, biết trước công chúa sẽ từ xa đến, các đại thần có lời xin nạp phi mà trẫm chưa dám nghe theo. Nay Trinh Thục đã tự đến, người hèn mọn như ta đây thật là may mắn lắm!
Nói xong cả hai cùng hợp hoan. Qua hai đêm một ngày thì trở lại đoàn thuyền đã đưa mình đến, ban thưởng cho mười lăm thuyền trưởng và các tay chèo, mỗi người mười thạch lương thực, ba mươi xấp vải cho trở về bản quốc. Ngày mồng một tháng tám Vương và Hậu cùng ngồi chung xe khởi giá về cung; vợ chồng hai thị thần cũng đều theo hầu giá. Những đồ vật của đất Hán, cũng sai người chuyên chở, dần dần tiến vào cung. Bấy giờ đúng vào giờ ngọ. Vương Hậu ở tại trung cung; sắc ban cho vợ chồng các thị thần và những vật dụng tư thuộc phân ra ở hai phòng trống, còn những người tùy tùng khác cho ở một tòa gồm hơn hai mươi gian phòng khách, tính số người mà phân chia sắp xếp. Hằng ngày cung cấp đầy đủ. Còn các của cải mà đã mang theo thì cất giữ trong Nội khố để tiện làm chi phí bốn mùa cho Vương Hậu.
Một hôm Vương nói với các quan rằng:
- Chín Can đều là những người đứng đầu các quan mà vị và danh đều là tên gọi của hàng thứ dân thấp kém, chưa phải là tên gọi các quan vị, ví như truyền ra đến các nước, ắt họ sẽ có ý khinh thị chê cười; do đó nay thay đổi, gọi Ngã Đao là Ngã Cung, Nhữ Đao là Nhữ Hài, BỈ Đao là Bỉ Tạng, Ngũ Đạo là Ngũ Thường, Lưu Thủy và Lưu Thiên không đổi chữ trước, chỉ đổi chữ sau gọi là Lưu Công, Lưu Đức. Đổi Thần Thiên thành Thần Đạo; Ngũ Thiên thành Ngũ Năng, Thần Quỷ thì giữ nguyên. Đổi Huấn làm Thần Quý. Dùng các chức vị lễ nghi của Kê Lâm, đặt các phẩm trật Giác Can, A Sất Can, Cấp Can, còn các quan liêu thấp thì theo cách định đặt của nhà Chu, lễ nghi của nhà Hán mà phân định. Đó là khởi đầu cho các Đạo phân quan lập chức thay cũ theo mới vậy.
Bấy giờ Vương định nước yên nhà, thương dân như con ruột, giáo chẳng khắc khe mà có uy, chánh chẳng hà khắc mà dân yên trị. Lại có Vương hậu chung sống như trời có đất, nhật có nguyệt, dương có âm. Công lao của Hậu cũng bằng Đồ Sơn giúp nhà Hạ. Đường Hoản hưng thịnh nhà Kiều. Trải qua nhiều năm, một hôm Vương hậu nằm mộng được điềm sinh con trai, nên sau đó sinh hạ thái tử Cư Đăng Công. Vào ngày một tháng ba năm Kỷ Tỵ niên hiệu Trung Bình đời Hán Linh Đế, Vương Hậu băng hà thọ một trăm năm mươi bảy tuổi, người cả nước than khóc như đất trời sụp lở. An táng tại đồi phía Đông bắc Quy Chỉ. Vì muốn cho mọi người chẳng quên ân thương dân như con, nên đặt tên cho thôn có bến thuyền mà lúc Hậu mới ghé lại là Chủ Phố Thôn, gò cao ngồi cỡi khố là Lăng Hiên. Vùng biển mà cờ đỏ xuất hiện gọi là Kỳ Xuất Biên. Các thị thần là Tuyền Phủ Khanh Thân Phụ, Tông Chánh giám Triệu Khuông đến nơi đây đã được ba mươi năm, về sau mỗi người sinh được hai người con gái, vợ chồng cách một, hai năm thì qua đời. Còn những kẻ nô bộc từ khi đến nước này trải qua bảy, tám năm mà chưa muốn sinh con, chỉ ôm lòng sầu nhớ cố hương, nên lần lượt mà qua đời, khiến cho nơi ở vắng người. Vương mỗi khi ca bài Quan Chẩm (goá vợ) thì than thở hồi lâu. Mười năm sau, vào ngày hai mươi ba tháng ba năm Kỷ
Mão, niên hiệu Kiến An thứ tư đời Hiến Đế, Vương băng hà thọ một trăm năm mươi tám tuổi. Người trong nước cảm thấy như mất trời, buồn đau còn hơn ngày Vương hậu mất. Thần dân và các quan chọn vùng đất bằng phẳng, đông bắc cung điện xây dựng một lăng mộ cao một trượng, chu vi ba trăm bộ để an táng Vương, hiệu là Thủ Lăng Vương Miếu. Từ con của Vương là Cư Đăng Vương đến đời cháu thứ chín là Cừu Xung đều được thờ phụng tế lễ lại miếu này. Mỗi năm vào mồng ba mồng bảy của tháng giêng; mồng năm của tháng năm; mồng năm và mười lăm tháng tám đều có tế lễ lớn liên tục chẳng dứt. Đến ngày ba tháng ba năm Tân Dậu niên hiệu Long Sóc thứ nhất; đời ba mươi của Tân La là Pháp Mẫn Vương ban chiếu rằng: "Trẫm là Cừu Xung Vương cháu chín đời của Nguyên Quân (Thủ Lộ Vương) nước Già Da giáng sinh đến đất nước này, dẫn theo Can là con của Thế Tông và con của Hữu Công (Dữu Công). Con gái của Thứ (Thư) Vân Táp Can là Văn Minh hoàng hậu chính là mẹ ta, cho nên Nguyên Quân người Ấn Xung là Thỉ Tổ mười lăm đời. Tuy nước đã bị mất mà lăng miếu vẫn còn, vậy nên tiếp tục tế lễ ở Tông Diêu (miếu thờ tổ tiên nhiều đời trước). Bèn khiến sứ đến vùng đất ở Tất Ly chọn lấy ba mươi khoảnh ruộng tốt gần Thái miếu để lo việc tế tự, gọi đó là Vương vị điền, giao cho địa phương quản lý. Cháu mười bảy đời của Vương là Tái Thế Cấp Can vâng lãnh thánh chỉ canh tác ruộng này. Hằng năm dâng rượu, bánh trái, cơm nước trà cùng các phẩm vật khác để tế lễ chẳng bao giờ đoạn tuyệt. Ngày cúng tế thì chẳng bỏ năm ngày mà Cư Đăng Vương đã định đặt trong một năm. Hương thơm hiếu tế lúc bấy giờ là do ta!"
Từ năm Kỷ Mão Cư Đăng Vương lên ngôi lập Tiện Phòng đến đời Cừu Xung, trong thời gian ba trăm ba mươi năm, các lễ nghi nhạc khúc cúng tế ở miếu không có người trái phạm. Đến lúc Cừu Xung mất, vong quốc đến năm Tân Dậu, niên hiệu Long Sóc thứ nhất, gồm sáu mươi năm, tế lễ ở miếu này hoặc giả đã đoạn dứt.
Quý thay! Võ Vương (thụy hiệu của Pháp Mẫn) trước thì thờ phụng Tôn Tổ, hiếu thật là chí hiếu! Nối lại việc tế tự đã đoạn tuyệt, khôi phục khiến thực hành.
Vào cuối đời Tân La có Trung Chí, Giác Can đánh chiếm thành Kim quan làm thành chủ Tướng quân. Lại có Anh Quy A Can mượn uy của Tướng quân đoạt miếu đường làm dâm từ; một hôm nhằm tiết Đoan Ngọ mà A Can tế cáo, bỗng cây xà của từ đường vô cớ gãy rơi xuống đè chết A Can. Bấy giờ Tướng quân tự nghĩ rằng: "Do nhân đời trước ta quá may mắn! Làm nhục nơi Thánh Vương cư ngụ, nơi tế lễ của quốc thành mà bị như thế. Nay ta nên họa chân tượng, hương đèn cúng tế, để đáp lại ân đức kia!"
Tướng quân bèn dùng ba thước lụa tốt phỏng vẽ hình tướng của Vương, treo lên vách ngày đêm đốt đèn chí thành chiêm ngưỡng. Mới được ba hôm, từ hai con mắt của ảnh bỗng nhiên tuôn hai dòng lệ máu đọng lại trên đất cả đấu. Tướng quân kinh hãi lấy chân tượng đem đến miếu mà đốt, rồi triệu cháu chi chánh của Vương là Khuê Lâm đến nói rằng: "Hôm qua có việc chẳng lành, vì sao lại chồng chất như thế! Đó ắt là do oai linh của miếu nổi giận, vì ta họa hình tượng thờ cúng mà không phải là con cháu. Anh Quy đã chết, ta rất kinh lạ; nay ảnh đã cháy, ắt là bị âm linh trách phạt. Khanh là cháu chính của Vương, nên y theo lệ cũ mà tế tự! Khuê Lâm kế tục đời đời cúng tế, đến năm tám mươi tám tuổi thì qua đời; con là Gian Nguyên cũng tiếp tục việc này. Ngày Đoan Ngọ đến miếu tế lễ, bỗng con của Anh Quy là Tuấn Tất phát cuồng chạy đến khiến triệt bỏ những vật tế của Gian Nguyên, rồi đặt vật cúng của mình lên mà tế, chưa xong ba tuần trà hiến cúng thì phát bạo bệnh, đưa về đến nhà, thì chết. Người xưa có câu rằng: "Dân từ thì vô phước, trái nghịch gặp tai ương. Trước có Anh Quy, sau có Tuấn Tất, chính là cha con người này. "
Lại có một bọn cướp cho rằng trong miếu có nhiều vàng ngọc, muốn đến trộm lấy. Lần thứ nhất, có một lực sĩ thân mang giáp trụ, tay giương cung lắp tên, từ trong miếu bước ra bắn tên như mưa bốn phía, trúng chết bảy, tám tên. Bọn cướp liền bỏ chạy tán loạn. Vài ngày sau lại đến, thì có một con rắn lớn, thân dài hơn ba mươi thước, mắt chiếu sáng như hai luồng điện, từ miếu bò ra, mổ chết tám, chín người; những kẻ may mắn thoát được, thì đều hoảng sợ bỏ chạy té ngã tứ tán. Cho nên biết trong ngoài khu vực lăng nhất định có thần vật bảo vệ. Từ năm Kỷ Mão niên hiệu Kiến An thứ tư, mới tạo dựng đến nay là năm Bính Thìn niên hiệu Đại Khang thứ hai, Thánh Thượng lên ngôi ba mươi mốt năm, gồm tất cả là tám trăm bảy mươi tám năm, phàm những ruộng đất tốt được ban tặng vẫn không thiếu, không lở, cây cối trồng vẫn chẳng khô, chẳng mục, hà huống những mảnh ngọc được sắp đặt trang trí cũng chẳng hư hoại đổ vỡ. Do đó mà xét lời Tân Thế Phủ ghi: "Từ xưa đến nay đâu có nước nào chẳng mất, phần mộ nào chẳng bị phá, chỉ có nước Giá Lạc khi xưa đã bị mất" thì biết có chứng cớ. Nếu miếu Thủ Lộ chẳng bị phá hủy, thì lời của Thế Phủ chưa đủ tin.
Ở đây lại có một việc rất vui nhộn đáng ghi nhớ, ngưỡng mộ. Tức mỗi năm vào ngày hai mươi chín tháng bảy, quan, dân vùng này đều leo lên Thừa Hổ, giăng màn trướng, uống rượu ăn thịt hò hét, mắt nhìn khắp nơi. Những người khỏe mạnh phân chia làm hai bên trái phải, từ hướng Sơn đảo, phi ngựa chạy nhanh tranh nhau ghé vào đất liền; một bên thì làm các con thuyền nhấp nhô trên biển, hướng về phía Bắc tranh nhau mà bơi đến Cổ phố. Đó là sự tích của Lưu Thiên, Thần Quỷ... mong Vương hậu đến, rồi chạy nhanh về tâu lại cho Vương.
Sau khi nước mất, trải qua các đời, gọi vùng đất này với nhiều tên khác nhau. Đời vua ba mươi mốt của Tân La là Chánh Minh Vương lên ngôi năm Tân Tỵ, niên hiệu Khai Diệu thứ nhất, gọi nơi này là Kim Quan Kinh, đặt chức Thái Thú. Sau hai trăm năm mươi chín năm, khi Thái Tổ thống nhất thì gọi là huyện Lâm Hải, đặt chức Bài Ngạn Sứ, được bốn mươi tám năm. Kế đến đổi thành quận Lâm Hải hoặc phủ Kim Hải, đặt Đô Hộ Phủ, được hai mươi bảy năm. Lại đặt quan Phòng Ngự Sử, được sáu mươi bốn năm. Đến năm Thuần Hóa thứ hai thì quan Lượng Điền Sứ Trung Đại Phu Triệu Văn Thiện ở Kim Hải Phủ dâng tấu văn cho rằng ruộng đất thuộc miếu của Thủ Lộ Lăng Vương quá nhiều, nên để lại mười lăm khoảnh như trước, còn lại bao nhiêu phân chia cho dân trong phủ. Bấy giờ Miếu Triều tuyên chỉ rằng: "Trứng từ trời giáng hạ, hóa làm Thánh quân tại vị rất lâu, đến một trăm năm mươi tám năm. Từ Tam Hoàng đến nay ít có ai sánh được. Sau khi băng hà, từ các đời trước đã cấp cho ruộng đất thuộc lăng miếu, mà nay giảm bớt, thật đáng nghi sợ". Do đó chẳng chấp thuận. Sứ lại dâng tấu văn, thì triều đình đồng ý, cho một nửa số ruộng không được động đến thuộc về miếu, một nửa phân ra cấp cho các hộ trong làng. Tiết Sứ (tức Lương Điền Sứ) lãnh chỉ, phân một nửa thuộc về lăng miếu, một nửa chia cấp cho các hộ lao dịch trong phủ. Việc sắp xong nhưng rất mỏi mệt. Bỗng một đêm nằm mộng bảy, tám quỷ thần cầm dây, mang đao kiếm đến nói rằng: "Ngươi có tội rất nặng, nên đến chém đầu đây!"
Sứ cho rằng thật lãnh thọ hình phạt nên rất khổ sở, kinh hoàng mà giật mình thức giấc, nhân đó mà phát bệnh, nhưng chẳng cho mọi người biết, nửa đêm trốn đi, không quản gì đến bệnh hoạn, vừa qua khỏi quan ải thì chết. Vì thế sổ sách của Lượng điền đô không có đóng dấu. Sau có người phụng chỉ đến kiểm tra lại số ruộng trên thì mới được một kết (mẫu), mười hai phụ, chín thúc, còn thiếu ba kết, tám mươi bảy phụ, một thúc, bèn tra xét chỗ không chính đáng, báo cáo các quan viên trong ngoài phủ. Vua hạ chiếu bổ sung cho đủ mà phân chia.
Lại có một việc mà xưa nay mọi người đều than thở; số là cháu tám đời của Nguyên Quân (Thủ Lộ Vương) là Kim Trất Vương siêng năng việc triều chánh, lại rất tôn sùng chân đạo, vì muốn tạo minh phước cho Tổ mẫu là Hứa hoàng hậu, nên vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Nguyên Gia hai mươi chín, ngay trên khu đất Nguyên Quân hoàng hậu hợp hôn, Vương cho xây một ngôi chùa đề là Hoàng Hậu Tự, sai người chọn mười mẫu ruộng tốt gần một bên chùa để làm tư tài cúng dường Tam bảo. Từ khi có chùa này đến năm trăm năm sau, cứ sai chùa Trường Du nạp ruộng vào rừng lấy củi đến ba trăm mẫu. Bấy giờ Tả Tự Tam Cang nằm trong khu vực Đông nam rừng củi chùa Hoàng Hậu, đã bị đổi thành trang trại làm kho cất chứa gạo thóc, và chuồng nuôi trâu ngựa. Thật đáng buồn thay!
Từ Thế Tổ trở xuống trải qua chín đời được lược ghi ở văn sau. bài minh ghi:
Hổn độn vừa khai
Thái dương mới hiện
Loài người tuy có
Thánh chúa chưa thành
Trung Quốc nhiều đời
Đông Hải mới phân
Kê Lâm định trước
Gia Lạc lập sau
Như không chủ tể
Ai dắt ngu dân
Do đây huyền tạo
Cứu giúp sinh linh
Trời trao mạng lịnh
Sai khiến tinh linh
Trứng giáng non cao
Hình ẩn sương mù
Trong còn tăm tối
Ngoài cũng mịt mờ
Xem chẳng thấy hình
Nghe trời có tiếng
Đồng hát mà tâu
Cùng múa để trình
Đến bảy ngày sau
Tất cả yên bình
Gió thổi mây tan
Trời xanh lồng lộng
Ban sáu trứng tròn
Từ sợi tơ đỏ
Xứ kia cõi nọ
Nhà cửa nối liền
Xem giống như tường
Nhìn đông như nước
Năm về các xứ
Một trụ thành này
Đồng thời đồng chốn
Như đệ như huynh
Thật đức trời sinh
Khuôn phép cho đời
Vừa lên vương vị
Cõi muốn thanh bình
Lầu các theo xưa
Phòng ốc đơn giản
Vạn dân vừa gắng
Chánh trị thi hành
Không thiên không lệch
Nhất nhất tinh cần
Người đi nhường đường
Nhà nông nhường cấy
Bốn phương yên giấc
Vạn thánh thanh bình
Bỗng chốc sương khô
Chẳng toàn thọ mạng
Đất trời biến đổi
Triều, dã tang thương
Vàng hiện dấu tích
Ngọc phát âm thanh
Hậu duệ chẳng dứt
Phẩm vật ngát hương
Ngày tháng đã xa
Phép tắc chẳng mất.
Cư Đăng Vương.
Cha là Thủ Lộ Vương, mẹ là Hứa Hoàng Hậu, lên ngôi vào hai mươi ba tháng ba năm Kỷ Mão, niên hiệu Lập An thứ tư, tại vị bốn mươi chín năm, băng hà vào ngày mười bảy, tháng chín năm Quý Dậu, niên hiệu Gia Bình thứ năm. Vương phi là Mộ Trinh, con gái của Tuyền Phủ Khanh Thân Phụ. Sinh thái tử tên là Ma Phẩm. Khai Hoàng Lịch ghi: Họ Kim; vì Thế Tổ khai quốc từ trứng vàng (Kim) mà sinh, nên lấy họ là Kim.
Ma Phẩm Vương, còn gọi là Mã Phẩm, họ Kim, lên ngôi năm Quý Dậu niên hiệu Gia Bình thứ năm, tại vị ba mươi chín năm, băng hà vào ngày hai mươi chín tháng giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Vĩnh Bình thứ nhất. Vương phi là Hiếu Cừu cháu gái của Tông Chánh Giám Triệu Khuông, sinh thái tử là Cư Sất Nhĩ.
Cư Sất Nhĩ Vương còn gọi là Kim Vật, họ Kim, lên ngôi vào năm Vĩnh Bình thứ nhất, tại vị năm mươi sáu năm, băng hà vào ngày mồng tám tháng bảy năm Bính Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ hai. Vương phi là A Chí cháu gái của A Cung A Can, sinh thái tử là Y Phẩm.
Y Thi Phẩm Vương, họ Kim lên ngôi vào niên hiệu Vĩnh Hòa thứ hai, tại vị sáu mươi hai năm, băng hà vào ngày mười tháng bốn năm Đinh Mùi, niên hiệu Nghĩa Hi thứ ba. Vương phi tên là Trinh Tín, con gái của Tư Nông Khanh Khắc Trung. Sinh được thái tử là Tọa Tri.
Tọa Tri Vương, còn gọi là Kim Sất, lên ngôi năm Nghĩa Hi thứ ba, cưới một tỳ nữ làm phi, dùng các người nữ làm quan, nước sinh biến loạn, nước Kế Lâm muốn mưu đồ chinh phạt. Có một vị quan tên là Phác Nguyên Đạo can gián rằng: "Xem di cảo của người xưa cũng còn bao hàm những lời phò giúp, hà huống gì người, như trời tan đất hoại, thì người bảo vệ cơ nghiệp gì?". Vả lại Bốc Sự cũng gieo cho Vương được quẻ "giải": Lời quẻ ghi: "Giải thì hối lỗi, kết bạn đến đây mà thôi! Vương nên xét quẻ dịch này!".
Vương cảm tạ và nói: "Nên đuổi tỳ nữ kia, đày đến đảo Hà Sơn. Sửa đổi việc trị chánh, dùng thưởng pháp để trị an dân. Vương tại vị mười lăm năm; băng hà vào ngày hai mươi tháng năm năm Tân Dậu, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ hai. Vương phi là Phước Thọ, con gái của Đại Ninh Đại A Can, sinh thái tử là Xuy Hi.
Xuy Hi Vương còn gọi là Sất Gia, họ Kim, lên ngôi vào năm Vĩnh Sơ thứ hai, tại vị ba mươi mốt năm, băng hà vào ngày ba tháng hai năm Tân Mão, niên hiệu Nguyên Gia hai mươi tám. Vương phi là Nhân Đức, con gái của Tấn Tư Giác Can, sinh vương tử là Trất Trí.
Trất Trí Vương còn gọi là Kim Trất Vương, lên ngôi vào năm Nguyên Gia hai mươi tám. Năm sau vì muốn cầu minh phước cho Vương hậu Hứa Hoàng Ngọc của Thế Tổ, nên đầu tiên xây chùa Vương Hậu trên mảnh đất mà bà cùng với Thế Tổ hợp hôn, ban cho mười mẫu ruộng để lo Tam bảo. Vương trị vì bốn mươi hai năm, băng hà vào ngày bốn tháng mười năm Nhâm Thân, niên hiệu Vĩnh Minh thứ mười. Vương phi là Bang Viện, con gái của Kim Tương Sa Can, sinh thái tử là Kiềm Tri.
Kiềm Tri Vương, còn gọi là Kim Kiềm Tri lên ngôi năm Vĩnh Minh thứ mười, tại vị ba mươi năm, băng hà vào ngày bảy tháng tư năm Tân Sửu, niên hiệu Chánh Quang thứ hai. Vương phi là Thục, con gái của Xuất Trung Giác Can, sinh thái tử là Cừu Xung.
Cừu Xung Vương, họ Kim lên ngôi năm Chánh Quang thứ hai trị vì bốn mươi hai năm. Tháng chín năm Nhâm Ngọ, niên hiện Bảo Định thứ hai, Chân Hưng Vương của Tân La (đời hai mươi bốn) đem binh chinh phạt. Vương thân chinh cầm quân, nhưng quân Tân La đông, quân ta ít nên chẳng thể chống cự được, bèn sai thân thuộc là Thoát Tri Nhĩ Sất Kim ở lại bản quốc, còn Vương cùng với Vương Tử, Thượng Tôn Tốt Chi Công... sang hàng Tân La.
Vương phi là Quế Hoa con gái của Phân Sất Thủy Nhỉ Sất, sinh được ba người con: Một là Thế Tông Giác Can, hai là Mậu Đao Giác Can, ba là Mậu Đắc Giác Can.
Khai Hoàng lục ghi: Năm Nhâm Tý, niên hiệu Trung Đại Thông thứ tư đời Lương, Bách Tế hàng Tân La.
Bàn rằng: Xét Tam Quốc Di Sử, vào năm Nhâm Tý niên hiệu Trung Đại Thông thứ tư đời Lương, Cừu Xung dâng đất hàng Tân La. Nếu tính từ năm Nhâm Dần, niên hiệu Kiến Võ mười tám đời Đông Hán Thủ Lộ lên ngôi, đến năm Nhâm Tý cuối triều Cừu Xung tổng cộng được bốn trăm chín mươi năm. Nếu lấy đây mà khảo cứu, thì dâng đất hàng vào năm Nhâm Ngọ niên hiệu Bảo Định thứ hai đời Nguyên Ngụy, thì thêm ba mươi năm tổng cộng là năm trăm hai mươi năm. Nay hai thuyết vẫn còn.
(Kế tiếp Thuận Đạo cũng có Pháp Thâm, Nghĩa Uyên, Đàm Nghiêm tiếp tục hưng khởi giáo pháp, nhưng xưa truyền mà không có văn, nên nay cũng chẳng dám ghi. Nên xem rõ ở Tông truyện).
Cao Ly Bản Kỷ ghi: Vua Tiểu Thú Lâm lên ngôi đến năm Nhâm Thân là năm thứ hai tức nhằm năm Hàm An thứ hai, Hiếu Võ Đế triều Đông Tấn lên ngôi. Phù Kiên của Tiền Tần sai sứ và tăng nhân Thuận Đạo chuyển tượng Phật và Kinh văn (bấy giờ Phù Kiên đóng đô ở Quan Trung tức Trường An) đến Cao Ly. Đến năm Giáp Tuất, niên hiệu Hàm An thứ tư lại có A Đạo từ Tấn đến; qua năm sau, tức tháng hai năm Ất Hợi lập chùa Tiêu Môn thỉnh ngài Thuận Đạo trụ trì, lập chùa Y Phất Lan thỉnh ngài A Đạo trụ trì. Đó là khởi đầu Phật pháp hoằng hóa tại Cao Ly. Tăng Truyện ghi hai vị Tăng tên Đạo đều đến từ nước Ngụy là sai. Đúng ra là đến từ Tiền Tần. Lại nói chùa Tiêu Môn là chùa Hưng Quốc hiện nay, chùa Y Phất Lan là chùa Hưng Phước hiện nay cũng là lầm lẫn. Vì lúc ấy Cao Ly đóng đô tại thành An Thị, còn gọi là An Định Hốt, phía Bắc sông Liêu; sông Liêu còn gọi là sông Áp Lục, nay gọi là sông An Dân, thì đâu có tên chùa Hưng Quốc ở Tòng kinh. Tán ghi:
Áp Lục ngày xuân bãi cỏ xanh Bạch Sa cò trắng ngủ yên lành Bỗng tiếng chèo khua xa giật tỉnh Thuyền đâu chẳng thấy, thấy khói lan.
Bách Tế Bản Kỷ ghi: Đời vua mười lăm (Tăng Truyện ghi đời mười bốn là sai) của Cao Ly là Chẩn Lưu Vương lên ngôi vào năm Giáp Thân (tức năm Đại Nguyên thứ chín đời Hiếu Võ Đế nhà Tấn), có vị Phạm Tăng tên là Ma-la-nan-đà từ Tấn đến, Vương thỉnh vào cung lễ kính. Qua năm sau, tức năm Ất Dậu, lập chùa tại Hán Sơn Xuyên ở Tân đô, độ mười vị tăng. Đây là khởi đầu cho việc Phật pháp truyền bá ở Bách Tế.
Lại A Tân Vương tức vị vào tháng hai năm Đại Nguyên mười bảy, hạ chiếu dạy nhân dân nên sùng tín Phật pháp để cầu phước. Ma-ha-nan-đà, Hán dịch là Đồng Học (những sự tích kỳ dị của vị Tăng này có ghi rõ trong Tăng truyện). Tán rằng:
Trời đất mới phân mãi đến nay
Làm người ca kỹ cũng khó thay
Ông ông tự biết trình múa hát
Dẫn được người bên ghé mắt nhìn.
(A Đạo còn gọi là Ngã Đạo, A Đầu)
Tân La Bản Kỷ quyển bốn ghi: Thời Nột Kỳ Vương (đời mười chín) Sa-môn Hắc Hồ Tử từ Cao Ly đến quận Nhất Thiện. Người trong quận là Mao Lễ (còn gọi là Mao Lục) làm một ngôi thất dưới đất thỉnh về an trụ. Bấy giờ nhà Lương sai sứ ban cho y và hương (Cao Đắc Tướng Vịnh Sử thì ghi: Lương sai sứ tăng tên Nguyên Biểu, đưa sang minh đàn và kinh tượng). Vua tôi chẳng biết loại hương gì và sử dụng thế nào, bèn sai người mang hương đi khắp nơi trong nước để hỏi. Hắc Hồ Tử thấy được liền nói: Đây là hương, đốt lên thì mùi thơm lan tỏa, dùng để bày tỏ tâm thành đối với Thần thánh. Thần thánh không đâu hơn Tam bảo. Nếu đốt hương này mà phát nguyện, nhất định có linh nghiệm (Nột Kỳ vào thời Tấn Tống mà nói là Lương sai sứ, e là lầm). Bấy giờ con gái của Vương bị bệnh nặng nguy cấp, Vương sai sứ triệu Hắc Hồ Tử đốt hương phát thệ nguyện, thì bệnh của công chúa thuyên giảm. Vương vui mừng ban thưởng rất nhiều. Bỗng chốc không biết đi về đâu.
Vào đời Tỳ Xứ Vương (hai mươi mốt) có một vị Hòa thượng Ngã Đạo và ba vị thị giả cũng đến nhà Mao Lễ, nghi biểu tựa như Hắc Hồ Tử, ở lại vài năm, sau không bệnh mà thị tịch. Ba vị thị giả ở lại giảng thuyết Kinh Luật, dần dần có người tin phụng (có bản chú nói khác với bia minh và các truyện ký, Cao Tăng Truyện nói là người Tây Trúc, hoặc nói từ nước Ngô đến). Ngã Đạo Bi ghi: Ngã Đạo người Cao Ly; mẹ là Cao Đạo Ninh, trong năm Chánh Thủy, có Quật Ma họ Ngã, người Tào Ngụy đi sứ sang Cao Ly, có tư thông với Đạo Ninh rồi trở về nước. Nhân đó bà có thai sư. Năm lên năm tuổi, mẹ bảo xuất gia, mười sáu tuổi trở về Ngụy, dò kiếm Quật Ma, rồi làm môn hạ Hòa thượng Huyền Chương. Năm mười chín tuổi lại trở về với mẹ. Người mẹ nói: "Người nước này, nay chưa biết Phật pháp, sau hơn ba ngàn tháng ở Kê Lâm có Thánh Vương ra đời, làm hưng thạnh Phật giáo. Ở kinh đô có bảy nơi xây Già-lam:
1. Đông Thiên cảnh lâm ở Kim Kiều (nay là chùa Hưng Luân, Kim Kiều tức là Cầu Tây Xuyên, tục gọi lầm là Tong Kiều. Chùa được lập vào thời ngài Ngã Đạo, nửa chừng bị hoang phế, đến thời Pháp Hưng Vương mới xây dựng lại. Bắt đầu vào năm Ất Mão đến đời Châu Hưng Vương mới thành)
2. Ở phía Nam Long cung (nay là chùa Hoàng Long, do Chân Hưng Vương sáng lập vào năm Quý Dậu).
3. Tam Xuyên Kỳ (nay là chùa Vĩnh Hưng, xây dựng đồng thời với chùa Hưng Luân).
4. Ở phía Bắc Long Cung (nay là chùa Phấn Hoàng xây dựng vào năm Giáp Ngọ đời Đức Vương).
5. Ở Sa Xuyên Vĩ (nay là chùa Linh Diệu, xây dựng vào năm Ất Mùi đời Thiện Đức Vương).
6. Ở rừng Thần Du (nay là chùa Thiên Vương, xây dựng vào năm Kỷ Mão đời Văn Võ Vương)
7. Ở Tê Thỉnh Điền (nay là chùa Đàm Nghiêm), tất cả đều đất già lam của Phật quá khứ, là nơi dòng nước Pháp chảy mãi.
Con nên qua đó mà truyền bá Phật pháp, hướng về Đông mà nối dòng Phật pháp". Ngã Đạo theo lời chỉ dạy đến nước Kê Lâm, ngụ tại một ngôi làng ở phía Tây Vương Thành, nay là chùa Trang Nghiêm. Bấy giờ là năm thứ hai đời Vị Trâu Vương tức năm Quý Mùi, sư đến cung xin truyền bá Phật pháp. Vì từ trước đến nay chưa từng thấy qua, nên hiềm nghi đến nỗi có người muốn giết, do đó Sư phải trốn đến nhà Mao Lộc (Lộc là viết lầm của chữ Lễ có hình giống nhau). Cổ Ký ghi: Đầu tiên Pháp sư đến nhà Mao Lộc. Bấy giờ trời đất chấn động. Mọi người chẳng biết danh từ Tăng, nên mới gọi là A Đầu Sam Ma; Sam Ma là phương ngôn dùng gọi các vị Tăng, giống như nói Sa-di) ở Tục Lâm (nay là huyện Nhất Thiện) và ở đây ba năm. Một hôm Công chúa Thành Quốc bị bệnh, thuốc men hay cúng tế đều không hiệu nghiệm. Vương sai sứ đi khắp nơi tìm danh y, Sư liền đến triều chữa trị, bệnh của công chúa thuyên giảm. Vương rất vui mừng, hỏi Sư cần điều gì. Sư đáp:
-Bần đạo không mong cầu điều gì, chỉ xin được lập chùa Phật ở rừng Cảnh lâm, hưng khởi Phật pháp, cầu phước cho nước nhà mà thôi!
Vương chấp thuận, sai người khởi công, theo phong tục nơi này chuộng đơn giản thuần chất, nên lập nhà tranh thất cỏ, an trụ mà diễn giảng, bấy giờ hoa trời rải đầy đất, nên đặt tên là Hưng Luân tự. Em của Mao Lộc là Sử Thị lễ cầu Sư xuất gia làm ni, lập chùa ở Tam xuyên kỳ mà trụ, gọi là Vĩnh Hưng tự. Chưa bao lâu Vị Trâu Vương băng, người trong nước muốn hãm hại, nên Sư trở về nhà Mao Lộc, tự đào phần mộ, đóng cửa tuyệt giao, không còn xuất hiện nữa. Nhân đó mà giáo pháp cũng suy tàn. Đến đời hai mươi ba là Pháp Hưng Vương lên ngôi vào năm Giáp Ngọ niên hiệu Thiên Giám thứ mười ba đời Tiêu Lương, lại đại hưng khởi Phật pháp. Từ đây tính ngược lên đời Vị Trâu Vương là hai trăm năm mươi hai năm. Như vậy là lời của Đạo Ninh sự đoán sau hơn ba ngàn tháng là có ứng nghiệm.
Theo đây thì Bản Kỷ và Bi Ký trái nhau. Ta hãy thảo luận xem. Hai bộ Lương Cao Tăng Truyện,
Đường Cao Tăng Truyện và
Tam Quốc Bản Sử đều ghi Phật giáo truyền vào Cao Ly và Bách Tế đầu tiên là trong khoảng niên hiệu Đại Nguyên cuối đời Tấn, thì việc hai vị Tăng Thuận Đạo và A Đạo đến Cao Ly vào năm Giáp Tuất đời vua Tiểu Thú Lâm đã rõ ràng rồi, truyền thuyết này chẳng sai. Nếu cho rằng vào đời Tỳ Xứ Vương mới đến Tân La thì A Đạo phải lưu lại Cao Ly hơn một trăm năm rồi mới sang. Tuy rằng hành nghi đến đi ẩn hiện của bậc Đại Thánh bất thường, nhưng chưa hẳn đều như thế, hơn nữa cũng chưa phải Tân La tin phụng Phật giáo muộn quá như vậy. Còn như đến vào đời Vị Trâu Vương, thì vượt qua trước Cao Ly vào năm Giáp Tuất hơn một trăm năm. Lại bấy giờ Kê Lâm là một nước chưa có văn vật lễ nghi, còn chưa có quốc hiệu, vậy đâu có việc A Đạo đến triều xin tin phụng Phật giáo lại chẳng hợp với việc chưa đến Cao Ly mà đã vượt đến Tân La. Giả sử tạm thời hưng khởi rồi bị phế, thì vì sao ở khoảng giữa vắng lặng không nghe nói đến, lại còn chẳng biết danh từ hương nữa? Một thì quá muộn, một thì quá sớm. Như xét theo thế dần dần tiến về Đông, ắt trước phải đến Cao Ly, Bách Tế rồi cuối cùng mới qua Tân La thì Nột Kỳ Vương và Tiểu Thú Lâm kế tiếp nhau. A Đạo từ giã Cao Ly đến Tân La vào đời Kỳ Nột. Hơn nữa công chúa được cứu chữa đều lưu truyền là việc của A Đạo. Thế thì người có tên là Hắc Hồ chẳng phải là tên thật, chắc đây là chỉ cho con mắt, như người đời Lương gọi ngài Đạt Ma là Bích Nhãn Hồ, người đời Tấn vui gọi ngài Thích Đạo An là Thất Đạo Nhân. Đó là vì hành nghi của A Đạo cao tột, nên người đời kỵ không dám gọi chánh danh, cũng từ đó người trong nước, mỗi mỗi nghe được một tên rồi cho A Đạo là Hắc Hồ là hai người mà lưu truyền vậy, hà huống ở trên có ghi: "A Đạo có nghi biểu giống với Hắc Hồ", lấy đây mà nghiệm thì biết là một người. Đạo Ninh nói bảy nơi, chính là lấy việc sáng lập trước sau mà dự ngôn, nhưng truyền sai lệch, vì thế nay đặt Sa Châu Vĩ làm thứ năm. Còn nói hơn ba ngàn tháng thì chưa hẳn đúng là sử ghi. Vì từ đời Nột Kỳ Vương đến năm Đinh Mùi đời Pháp Hưng tổng cộng hơn một trăm năm, nếu nói hơn một ngàn tháng thì gần đúng. Nói là họ Ngã, vì đây chỉ là đơn danh nên nghi, thật giả thật khó biết rõ!
Theo truyện Thích Đàm Thủy đời Nguyên Ngụy (Đàm Thủy hoặc gọi là Tuệ Thủy) ghi:
Đàm Thủy người Quan Trung, sau khi xuất gia đã có rất nhiều hành tích kỳ dị. Vào cuối niên hiệu Đại Nguyên đời Tấn Hiếu Võ, Sư mang vài mươi bộ kinh luật đến Liêu Đông hoằng hóa, chỉ dạy giáo Tam Thừa, trao truyền quy giới, đó là khởi đầu Cao Ly được truyền nhập giáo pháp. Đầu niên hiệu Nghĩa Hi, Sư trở lại Quan Trung giáo hóa ba khu vực phụ cận kinh thành (tam phụ). Chân của Sư trắng như mặt, đi trên bùn nước mà chẳng dính ướt. Mọi người đều gọi là Bạch Túc Hòa thượng. Vào cuối đời Tấn Hung Nô phương Bắc là Hách Liên Bột Bột đánh chiếm Quan Trung chém chết vô số người; Sư cũng bị hại, nhưng đao chém chẳng đứt, Bột Bột than thở rồi ban lệnh tha tất cả Sa-môn, không được giết. Bấy giờ Sư lánh vào núi sâu tu hạnh Đầu Đà. Sau đó Thát Bạt Đảo lại đánh phá Trường An, dương oai ở Quan lạc. Bấy giờ các Bác Lăng Thôi Hạo, nhỏ học tập bàng môn tả đạo, ganh ghét Thích giáo, làm đến chức Ngụy Phụ được Đảo tin dùng đã cùng với Thiên Sư Khấu Liêm nói với Đảo là Phật giáo không có ích lợi, mà còn làm tổn hại đến lợi ích của dân, khuyên nên phá dẹp. Đến cuối năm Đại Bình, Sư biết được thời cơ cải hóa Đảo đã đến, bèn vào ngày Nguyên Hội, Sư chống tích trượng đến cấm cung, Đảo sai người chém, nhưng không tổn thương, Đảo tự tay chém cũng không hề hấn gì; lại thả cho cọp nuôi ở Bắc Viên, cọp cũng không dám đến gần. Đảo quá kinh sợ, nên phát bệnh hủi. Thôi và Khấu cũng bị ác bệnh. Đảo cho rằng có tội là do hai tên kia nên ra lệnh tru diệt toàn gia của Thôi và Khấu, lại ban chiếu trong khắp cả nước tin phụng Phật pháp. Sau không biết Sư thị tịch nơi đâu.
Bàn rằng: Đàm Thủy đến Đông hải vào cuối niên hiệu Đại Nguyên, đến đầu niên hiệu Nghĩa Hi lại trở về Quan Trung, tức đã ở đó trên mười năm, vì sao Đông Sử chẳng ghi. Đàm Thủy là vị Tăng có hành nghi kỳ bí khó lường, giống với A Đạo, Hắc Hồ, Nan Đà. Ba người này nghi là một, ắt đều là đổi tên húy mà thôi. Tán rằng:
Tuyết phủ Kim Kiều lạnh chẳng tan
Xuân sắc Kê Lâm e chưa toàn
Khá thương Thanh Đế nhiều tài trí
Ẩn mình nơi đất của Mao Lang.
(cách Kỳ Nột Vương trên một trăm năm) Yểm Độc diệt thân.
Tân La Bản Kỷ ghi: Năm thứ mười bốn đời Pháp Hưng Vương có một vị quan nhỏ tên là Dị Thứ Đốn vì pháp diệt thân, tức là vào năm Đinh Mùi, niên hiệu Phổ Thông triều Tiêu Lương, là năm mà tổ Bồ-đề-đạt-ma đến Kim lăng. Bấy giờ Lãng Trí Pháp Sư mới vừa đến trụ chùa Linh Thứu sơn khai pháp. Như thế thì đại pháp hưng suy, xa gần đều có cảm nhau, nhất thời có thể tin về điều này. Trong niên hiệu Nguyên Hòa, Sa-môn Nhất Niệm chùa Nam Giản soạn Độc Hương Phần lễ Phật kết xã văn có ghi chép rõ việc này. Nay lược ghi như sau: Xưa Pháp Hưng Đại Vương nơi điện Tử Cực dùng đạo vô vi mà trị, nơi cõi Phù Tang cúi đầu soi xét. Cho rằng khi trước Hán Minh Đế cảm mộng, mà Phật pháp lưu truyền về đông. Quả nhân từ khi lên ngôi đến nay, nguyện vì nhân dân mà tạo nơi tu phước diệt tội. Bấy giờ triều thần (tương truyền là Công Mục, Yết Cung...) chưa biết được ý sâu xa của Trẫm. Chỉ biết tuân theo nghĩa lớn trị quốc, chẳng theo mưu thần tạo tự. Vương than rằng: Than ôi! Quả nhân vì vô đức mà lại kế thừa đại nghiệp, nên trên thì thiếu sự biến hóa của âm dương, dưới thì không được lòng hoan hỷ của lê thứ; những lúc rảnh rỗi việc triều chánh, ta chỉ lưu tâm nơi Thích giáo, ai cùng ta làm bạn đây! Bỗng đâu có một quan Nội Dưỡng họ Phác, tên Yểm Độc (hoặc gọi là Dị Thứ, Y Thứ đều là sự sai biệt của phương ngôn. Dịch là Yểm Độc, Đốn, Đạo, Đổ, Độc... đều là tùy tiện theo người viết, tất cả đều là trợ từ mà thôi. Nay dịch chữ trước không dịch chữ sau, nên gọi là Yểm Độc, Yểm Đỗ...). Cha là Vị Bình, tổ phụ là A Trân Tông, tức là con trai của Tập Bảo Cát Văn Vương (theo Tân La, quan tước gồm mười bảy bậc, bậc thứ tư là Ba Trân Thực cũng gọi là A Trân Thực. Tông là tên; Tập Bảo cũng là tên. Nếu truy phong là Vương thì đều gọi là Cát Văn Vương. Kỳ thật quan viết sử cũng nói chưa rõ. Căn cứ theo A Đạo Bi do Kim Dụng Hành soạn: Bấy giờ có xá nhân hai mươi sáu tuổi cha là Cát Thăng, Tổ là Công Hán, Tằng Tổ là Khất Giải Đại Vương); Yểm Độc theo trúc bá mà làm chất, lấy nước và gương mà lập chí, tích thiện cho cháu con, mong làm dũng sĩ trong nội cung, trung thần của thánh chúa, cầu được hầu hạ nơi triều đình. Năm hai mươi hai tuổi đang làm xá nhân (ở Tân La có lập Đại Xá và Tiểu Xá, là phẩm trật thấp) thấy diện mạo của Vương đã rõ biết tâm tình, nên tâu rằng:
- Thần nghe nói người xưa từng hỏi kẻ dân dã; thần nguyện chịu tội xin được tâu bày!
Vua đáp:
- Không phải là việc của ngươi! Xá nhân nói:
- Vì nước quên thân là khí tiết lớn của bầy tôi. Vì vua bỏ mình là nghĩa cả của nhân dân. Thần xin dùng lời giả dối để lan truyền, bệ hạ chém đầu thần trị tội thì vạn dân đều phục, chẳng dám chống trái việc trị hóa.
Vương nói:
- Cắt thịt đánh cuộc với thân để đổi mạng một con chim, làm thương mạng máu chảy để cứu bảy con hổ, lòng trẫm vì muốn lợi ích cho người, đâu thể giết kẻ vô tội. Tuy ngươi tạo công đức, nhưng chẳng bằng vô tội.
Xá nhân tâu:
- Cái mà khó xả bỏ nhất, chẳng gì hơn thân mạng. Nhưng thần chết buổi chiều thì sáng mai Đại giáo lưu hành, mặt trời Phật lại hiện, thánh chúa an khang.
Vương nói:
- Phượng hoàng con, tuy nhỏ đã có tâm vút hư không, Hồng hộc bé tuy mới sinh mà đã ôm thế vượt sóng. Ngươi đã như thế, có thể nói là hạnh của bậc Đại sĩ vậy!
Bấy giờ đại vương giả bộ oai nghiêm, mặt đằng đằng sát khí triệu tập quần thần hỏi rằng:
- Các khanh cho ta muốn tạo lập tinh xá, cho nên ngăn cản phải chăng? (Hương truyện ghi: Độc lấy mệnh vua truyền cho khởi công xây dựng chùa Phật, quần thần đến can gián, Vương bèn nổi giận, gia hình Độc vì đã dối truyền mệnh vua).
Quần thần sợ hãi run rẩy, vẻ mặt khốn khổ thề thốt, tay chỉ đông chỉ tây. Vương bèn gọi xá nhân ra cật vấn. Xá nhân mặt mày thất sắc, không nói được lời nào, Đại Vương nổi giận, ban lịnh chém đầu. Quân sĩ trói lại dẫn đến nha môn, xá nhân thề nguyện xong, đao phủ chém đầu, từ cổ vọt lên một vòi sữa trắng cao một trượng (Hương truyện ghi: Xá nhân thệ rằng: Bậc Đại Thánh Pháp Vương muốn hưng khởi Phật pháp, chẳng tiếc thân mạng, nhiều kiếp kết duyên, trời hiện điềm lành, chỉ khắp cho nhân dân. Bấy giờ đầu bay lên hư không rơi xuống đỉnh Kim Cang Sơn).
Lúc ấy trời, bốn phương ảm đạm, chiều tà vì thế mà mịt mờ; đất khởi sáu cách chấn động, mưa hoa vì thế mà bay tan tác. Thánh quân sầu đau lệ ướt long bào, Tể tướng buồn thương mồ hôi thấm mũ, suối ngọt bỗng nhiên khô cạn, rùa cá vẫy vùng; cây thẳng tự dưng gãy đổ, khỉ vượn kêu la; bạn quý ở vương cung tuôn máu lệ nhớ thương, thân bằng nơi hậu cấm dứt ruột gan tiếc nuối... nhìn theo linh cửu khóc la như cha mẹ mất. Tất cả cho rằng Giới Tử Thôi cắt thịt đùi chưa đủ sánh với khí tiết này, Hoằng Diễn mổ bụng cũng đâu so cùng tráng liệt ấy. Đó là nâng dậy lòng tin cho Đan Trì, thành tựu bản tâm của A Đạo. Chính là bậc thánh vậy! Vương bèn ban chiếu an táng tại Tây lĩnh ở Bắc sơn (tức Kim cang sơn. Truyền rằng là nơi đầu bay đến, do đó mà chôn thân. Nay chẳng nói đến là vì sao?). Người trong nước thương tiếc bèn chọn nơi thắng địa để tạo già lam, gọi là Thích Thu Tự. Bấy giờ nhà nhà đến kính lễ, ắt được hiện đời vinh hoa; người người tu đạo, sẽ thấu rõ được lợi ích của pháp.
Năm Giáp Tý, nhằm năm thứ năm đời Chân Hưng Đại Vương, xây dựng chùa Hưng Luân (theo Quốc Sử Hưng Bang Truyện, thì thật ra đến năm mười bốn đời Pháp Hưng Vương, tức năm Đinh Mùi đặt móng, đến năm Ất Mão tức năm thứ hai mươi mốt, đốn phá rừng Thiên Cảnh, bắt đầu khởi công làm kèo cột, cây gỗ trong rừng này cung cấp đủ, có cả bậc thềm, khám đá. Đến năm Giáp Tý, tức năm thứ năm đời Chân Hưng Vương thì hoàn thành. Vì thế ghi là Giáp Tý. Tăng Truyện ghi năm thứ bảy là sai lầm).
Đầu niên hiệu Đại Thanh, nhà Lương sai sứ là
Thẩm Hồ mang xá-lợi đến dâng hiến cho chùa.
Năm Thiên Thọ thứ sáu, khi sứ nhà Trần là Lưu Trung và vị Tăng Minh Quán tuân chỉ mang kinh điển đến thì thấy chùa viện khắp nơi, tháp miếu vô số, dựng pháp tràng cao vút, treo gương phạm sáng ngời. Thích môn long tượng làm phước điền trong cả nước, pháp Đại Tiểu thừa là mây lành phủ cả non sông. Bồ-tát ở phương kia xuất hiện nơi đời (Bảo vật trần na phù thạch ở chùa Phấn Hoàng chính là đến từ Lạc sơn và Ngũ đài), danh tăng Tây Vực quang lâm nơi cảnh địa. Do đó hợp Tam Hàn mà làm nước, định bốn biển mà làm nhà. Cho nên viết đức danh trên cây Thiên trấn, vẽ thần tích nơi mặt nước Tinh hà. Như thế há chẳng phải do oai đức của ba bậc thánh dẫn đến hay sao? (tức Ngã Đạo, Pháp Hưng và Yểm Độc). Sau lại có Quốc Thống Tuệ Long Pháp Chủ, Hiếu Viên Kim Tướng Lang, Đại Thống Lộc Phong Đại Thư Tỉnh, Chân Nộ Ba Trân Thực Kim Nghi, xây cất phần mộ xưa, dựng lập bia lớn. Ngày năm tháng tám năm Đinh Dậu, niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười hai, nhằm năm thứ chín đời bốn mươi mốt Hiến Đức Đại Vương, Thiền sư Vĩnh Tú (ở Tân La bấy giờ các sư Du-già đều gọi là Thiền sư) tập hội tại phần mộ này, dâng hương lễ Phật mỗi tháng năm ngày; lại vì kỳ nguyện cho cô hồn mà lập đàn tụng niệm. Hương truyện ghi: Các người già trong làng vào ngày kỵ, thường tụ tập về chùa Hưng Luân". Thì ngày mồng năm tháng này chính là ngày mà xá nhân vì pháp vong thân.
Than ôi! Không có vua này thì không có bầy tôi này, không có bầy tôi này thì không có công đức này. Có thể cho đó là một sự cảm ngộ toàn mỹ, như Lưu Bị gặp Gia Cát, cá gặp nước, rồng gặp mây ư? Pháp Hưng Vương khôi phục Phật pháp đã suy đồi, dựng lập chùa viện, sau khi hoàn thành thì cỡi bỏ vương miện đắp ca-sa, cho cung nhân vào chùa làm công quả (Tự Lệ đến nay gọi là Vương Tân. Sau vào thời Thái Tông Vương, Tể phụ Kim Lương Đồ Tín quy hướng Phật pháp, có hai người con gái là Hoa Bảo và Liên Bảo, xả thân làm công quả chùa này. Lại lấy tộc họ của nghịch thần Mao Xích vào chùa làm người giúp việc. Hậu duệ của hai tộc họ này đến nay vẫn còn). Vương trụ trì chùa này, đích thân đảm nhiệm việc hoằng hóa. Chân Hưng Vương kế tục đức nghiệp, tôn trọng thánh giáo, vâng thừa lãnh ngôi Cửu ngũ, thống lãnh trăm quan, hiệu lịnh gồm đủ. Nhân đó ban hiệu là Đại Vương Hưng Luân Tự. Vương trước họ Kim, sau khi xuất gia lấy pháp hiệu là Pháp Vân, tự là Pháp Không (trong Tăng Truyện và các thuyết cũng nói Vương phi xuất gia có pháp danh là Pháp Vân. Chân Hưng Vương là Pháp Vân, phu nhân của Chân Hưng cũng là Pháp Vân; quá nhiều Pháp Vân như vậy, e là có lẫn lộn).
Sách Phủ Quy Nguyên ghi: Họ Mộ, tên là Tần. Vào năm Ất Mão, lúc mới khởi công thì vương phi cũng lập chùa Vĩnh Hưng sau vì mến mộ đức hạnh của Sử Thị mà xuất gia làm ni, pháp hiệu là Diệu Pháp, cũng trụ tại chùa Vĩnh Hưng, qua nhiều năm sau mới thị tịch.
Quốc Sử ghi: Năm Kiến Hưng ba mươi mốt, tượng đắp ở chùa Vĩnh Hưng tự nhiên hư hoại, không bao lâu thì Vương phi của Chân Hưng là Tỳ-kheo-ni qua đời. Xét Chấn Hưng là cháu gọi Pháp Hưng bằng bác, phi là Tư Đao phu nhân họ Phác, là con gái của Anh Thất Giác Can làng Mâu Lương cũng xuất gia làm Ni, nhưng chẳng phải là người sáng lập chùa Vĩnh Hưng, thì e rằng chữ Châu nên viết là Pháp. Nghĩa là Vương phi của Pháp Hưng là Ba Diếu phu nhân làm ni đã qua đời, mới là người sáng lập chùa Vĩnh Hưng, tạo tượng Phật.
Hai vị Hưng Vương bỏ ngôi vua xuất gia, sử không nói đến, vì chẳng phải là lời dạy kinh bang tế thế.
Lại vào năm Đinh Mùi niên hiệu Đại Thông thứ nhất, vì Lương Võ Đế mà sáng lập chùa Đại Thông ở Hùng Châu Xuyên (Hùng Châu tức là Công Châu, bấy giờ thuộc Tân La. Nhưng e rằng chẳng phải vào năm Đinh Mùi, mà vào niên hiệu Trung Đại Thông thứ nhất là năm Kỷ Dậu mới sáng lập. Bởi vì năm Đinh Mùi mới lập chùa Hưng Luân, không rảnh để lập thêm một ngôi chùa ở quận khác. Tán rằng:
Thánh trí xưa nay mưu vạn thế
Dư luận cỏn con dối được gì
Pháp luân đã theo Kim luân chuyển
Thuấn nhật vừa nâng Phật nhật cao.
(khen Nguyên Tông)
Theo nghĩa khinh thân đã đủ kinh
Hoa trời, sữa trắng thật lắm tình
Bỗng một nhát đao hồn lìa xác
Chùa viện chuông rền động đế kinh.
(Khen Yểm Độc)
Đời thứ hai mươi chín của Bách Tế là Pháp Vương, Vương húy là Tuyên hoặc gọi là Hiếu Thuận, lên ngôi năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười. Mùa đông năm này, Vương hạ chiếu cấm sát sinh, thả tất cả gia súc mà nhân dân đã nuôi như ưng, chiên (các loại chim dữ), đốt tất cả các dụng cụ săn bắn chài lưới. Qua năm sau, tức năm Canh Thân độ ba mươi vị tăng, lập chùa Vương Hưng ở kinh đô bấy giờ là Thành Tứ Thử (nay là Phù Dư). Khai móng chưa được bao lâu thì thăng hà, Võ Vương kế vị. Cha đặt nền móng, con tiếp tục xây dựng, trải qua vài mươi năm thì hoàn thành đặt tên là Di-lặc Tự. Chùa tựa vào núi, gần bên sông, bốn mùa cỏ hoa khoe sắc, cây cối tốt tươi. Vương thường đi thuyền men theo dòng sông mà vào chùa, để thưởng ngoạn phong cảnh tráng lệ tuyệt mỹ ở đây (ở đây có vài điểm hơi khác với cổ ký. Mẹ của Võ Vương là một người nghèo tư thông với một con rồng dưới ao mà sinh ra Vương. Lúc nhỏ tên là Thự Dự, sau khi lên ngôi thụy hiệu là Võ Vương, đã cùng với vương phi sáng lập chùa này). Tán rằng:
Lệnh thả thú rừng huệ khắp ngàn non
Cấm giết lợn heo nhân nhuần bốn biển
Chớ nói Thánh quân xem nhẹ hạ giới
Phương trên Đâu-suất đúng gặp ngày xuân.
Cao Ly bản ký ghi: "Trong khoảng niên hiệu Trinh Quán, tức đời Lý Võ Đức ở Cao Ly, người trong nước tranh nhau tin phụng đạo Ngũ Đấu Mể. Đường Cao Tổ nghe được, sai đạo sĩ đem tượng Thiên Tôn đến, giảng Đạo Đức Kinh. Vương và người trong nước đều nghe". Đó tức là vào năm Giáp Thân niên hiệu Võ Đức thứ bảy đời Vinh Lưu Vương. Qua năm sau Vương sai sứ đến Đường cầu học Phật và Lão. Vua Đường (Cao Tổ) chấp thuận. Đến khi Bảo Tạng Vương lên ngôi (năm Nhâm Dần, niên hiệu Trinh Quán mười sáu), cũng muốn đồng thời hưng khởi ba giáo. Bấy giờ Sũng tướng là Cái Tô Văn nói với Vương rằng:
-Nho và Thích đều đã hưng thịnh, mà Đạo thì chưa thịnh, nên đặc biệt sai sứ sang Đường cầu học Đạo giáo.
Bấy giờ Hòa thượng Phổ Đức trụ ở chùa Bàn Long xót thương tà đạo sánh ngay với chánh pháp, vận nước sẽ lâm nguy, nên từng đến can gián, nhưng Vương chẳng chịu nghe. Sư bèn vận thần lực làm cho phương trượng bay về hướng nam đến Cô Đại sơn ở Hoàn châu (nay là Toàn châu) mà ẩn cư. Đó là vào tháng sáu năm Canh Tuất niên hiệu Vĩnh Hưng thứ nhất (Bản truyện ghi: Ngày mồng ba tháng ba năm Đinh Mão, niên hiệu Càn Phong thứ hai), không bao lâu thì nước bị diệt (nước bị diệt vào năm Mậu Thìn, niên hiệu Tổng Chương thứ nhất, cách năm Canh Tuất mười chín năm).
Nay ở chùa Cảnh Phước có Phi Lai Phương Trượng chính là việc này (theo Quốc sử), Châu Lạc Công đã đề thơ tại nơi ấy, đồng thời Văn Liệt Công có soạn truyện ký lưu hành ở đời.
Xét Đường Thư ghi: Khi Tùy Dạng Đế chinh phạt Liêu Đông, có Tỳ Tướng Dương Mãnh cầm quân thua trận, lúc sắp chết có thề rằng:
- Ta sẽ là Sũng thần để diệt nước ấy!
Đến lúc họ Cái chuyên quyền; lấy Cái làm họ, chính là lấy sự ứng nghiệm của Dương Mãnh. Cao Ly cổ ký ghi: Năm Nhâm Thân niên hiệu Đại Nghiệp thứ tám, Tùy Dạng Đế dẫn ba mươi vạn quân vượt biển chinh phạt. Tháng mười năm Giáp Tuất, niên hiệu Đại Nghiệp thứ mười, vua Cao Ly (tức Anh Dương Vương, đời ba mươi sáu, tại vị hai mươi sáu năm) dâng biểu xin hàng; bấy giờ có một người lén dấu một cái nỏ nhỏ trong người theo đoàn sứ giả dâng biểu đến thuyền của Dạng Đế, Đế mở biểu đọc, thì phát nỏ trúng ngực Đế. Lúc sắp dẫn quân về kinh, Đế nói với tả hữu rằng:
- Trẫm làm chủ thiên hạ, nay thân chinh một nước nhỏ mà một thất bại ắt bị vạn thế cười chê! Bây giờ Hữu Tướng Dương Mãnh tâu rằng:
- Thần chết sẽ làm một đại thần của Cao Ly mà diệt nước này để báo thù cho Đế vương!
Đế băng hà. Sau Mãnh chết thì sinh sang Cao Ly. Năm mười lăm tuổi đã thông minh thần võ. Võ Dương Vương nghe người hiền tài (Quốc sử nói Vinh Lưu Vương tên là Kiến Võ; hoặc nói Kiến Thành, mà ở đây nói Võ Dương thì chưa rõ) liền triệu vào làm quan; tự xưng là họ Cái tên là Kim, làm đến chức Tô Văn, tức là Thị Trung (Đường Thư nói: Cái Tô Văn tự xưng là Mạc Ly Chi, giống như Trung Thư Lịnh. Theo Thần Chí Bí Từ Tự ghi: Tô Văn Nhân Anh Hoằng Tự Tịnh Chú thì Tô Văn là tên một chức vụ, có văn chứng minh, nhưng truyện ghi: Văn nhân Tô Anh Hoằng Tự thì chưa biết là người nào?). Cái Kim tâu rằng:
- Đỉnh thì phải có ba chân, nước ắt có ba đạo, Thần thấy trong nước chỉ có Nho và Thích, chưa có Đạo giáo, nên phải chịu nguy ách.
Vương đồng ý. Kim lại tấu nên qua Đường mà thỉnh. Thái Tông sai tám đạo sĩ là Tư Đạt... sang (Quốc sử ghi: Năm Ất Dậu, niên hiệu Võ Đức thứ tám, Vương sai sứ sang Đường thỉnh cầu Phật Lão. Đường Đế chấp thuận. Theo đây thì Dương Mãnh chết năm Giáp Tuất, thác sinh đến nước này, bấy giờ mới hơn mười tuổi mà đã là một sũng thần, dụ vua sai sứ; ắt ngày tháng có lầm lẫn. Nay vẫn giữ hai thuyết). Vương vui mừng lấy chùa Phật làm Đạo quán, xếp Đạo sĩ ngồi trên Nho sĩ. Các Đạo sĩ đi khắp nơi trong nước như Danh Sơn Xuyên, Cổ Bình Nhưỡng Thành, Thế Tân Nguyệt Thành, các Đạo sĩ dùng thần chú sai rồng ở Nam Hà xây thành Mãn Nguyệt, cũng do đó mà gọi là Long Yến Đổ. Lại nói lời sấm rằng:
- Long Yến Đổ hãy nói Thiên Niên Bảo Tạng Đổ. Hoặc đục phá linh thạch (tục gọi là Đô Đế Nham, còn gọi là Triều Thiên Thạch, vì khi xưa Thánh Đế thường cưỡi tảng đá này mà về chầu Thượng đế). Cái Kim tâu xây trường thành từ đông sang bắc, từ tây sang nam. Bấy giờ người Nam thì phu dịch, người nữ thì lo cày bừa, phu dịch đến mười bảy năm mới xong. Đến đời Bảo Tạng Vương, Đường Thái Tông dẫn sáu quân sang đánh Cao Ly, nhưng thất bại mà trở về. Đến năm Mậu Thìn, niên hiệu Tổng Chương thứ nhất, Đường Cao Tông sai Hữu Tướng Lưu Nhân Quỹ, Đại Tướng Lý Tích và Kim Nhân Vấn của Tân La đem đại quân tiêu diệt Cao Ly, bắt sống Tạng Vương dẫn về Đường. Con thứ của Tạng Vương dẫn hơn bốn ngàn nhà sang đầu hàng Tân La (ở đây có vài điểm hơi khác với Quốc sử nên nêu lên).
Năm Tân Mùi, Hựu Thế Tăng Thông đến Phi Lai Phương Trượng ở chùa Cảnh Phước, Cô Đại Sơn, lễ chân tượng Phổ Thánh Sư, và có làm bài thơ rằng:
Giáo Niết-bàn Phương Đẳng
Từ thầy ta truyền thọ... đến câu:
Đáng tiếc sau phi phòng (phương trượng bay)
Cổ Đông Minh suy tàn.
Vua Cao Ly tin thuận Đạo giáo, chẳng tin Phật pháp, Sư bèn vận thần thông khiến phương trượng bay về nam đến núi này. Sau có thần nhân ở Mã lĩnh Cao Ly báo với mọi người rằng:
-Đất nước các ngươi không biết ngày nào diệt vong đây?
Sự tích đã ghi đầy đủ trong Quốc Sử, Bản truyện và Tăng Truyện. Sư có mười một đệ tử xuất sắc: Vô Thượng Hòa Thượng và các đệ tử như Kim Thú... sáng lập chùa Kim Động; Tịch Diệt và Nghĩa Dung sáng lập chùa Trân Khâu. Trí Tẩu sáng lập chùa Đại Thừa, Nhất Thừa và Chánh Tâm Đại Nguyên sáng lập chùa Đại Nguyên. Thủy Tinh sáng lập chùa Duy-Ma; Tứ Đại và Khế Dục sáng lập chùa Trung Đài; Hòa Thượng Khai Nguyên sáng lập chùa Khai Nguyên; Minh Đức sáng lập chùa Yên Khẩu; Khai Tâm và Phổ Minh cũng có truyền thừa, như Bản Truyện đã ghi đầy đủ. Tán rằng:
Biển Thích mênh mông không bờ mé
Trăm sông Nho Lão thảy dồn về
Nực cười Ly vương theo bùn đất
Chẳng biết biển xanh, uổng Ngọa Long.
Mười vị Thánh được thờ ở Kim đường chùa Hưng Luân tại Đông kinh
Tượng đất tôn trí ở hướng Canh, vách phía Đông gồm: Ngã Đạo-Yểm Độc-Tuệ Tú-An Hàm-Nghĩa Tương. Tượng đất tôn trí ở hướng Giáp, vách phía Tây gồm:
Biểu Huấn-Xà Ba-Nguyên Hiểu-Tuệ Không-Từ Tạng.
Ngọc Long Tập, Tử Tạng Truyện, Chư Gia Truyện Ký đều nói ở phía Nam Long cung, Đông Nguyệt thành ở Tân La có phiến đá Phật Ca-diếp yên tọa, đó là đất Già-lam của Phật quá khứ, nay là chùa Hoàng Long, là một trong bảy Già-lam. Theo Quốc Sử, vào tháng hai năm Quý Dậu, niên hiệu Khai Quốc thứ ba, tức năm thứ mười bốn đời Chân Hưng Vương, xây dựng Tân Cung ở phía Đông Nguyệt thành, vì có rồng vàng hiện ở đất này, Vương nghi ngờ, bèn đổi tên là Hoàng Long tự; phiến đá Phật yên tọa ở sau điện Phật. Tôi đã một lần đến xem thấy phiến đá cao năm, sáu thước, chu vi chỉ ba cánh tay, cao và phẳng. Từ khi Chân Hưng Vương sáng lập chùa đến nay, trải qua hai lần hỏa tai, phiến đá có nơi bị nứt nẻ, Tăng chúng trong chùa dùng sắt ràng lại để giữ gìn. Có bài tán rằng:
Tuệ nhật tắt rồi đã bao năm
Chỉ còn Yên Thạch vẫn y nhiên
Ruộng dâu mấy lần thành biển rộng
Tiếc thay sừng sững vẫn chẳng dời.
Không bao lâu đại binh Tây Sơn khởi, chùa tháp đều bị tiêu hủy, do đó phiến đá này cũng tan hoại, chỉ còn lại khoảng đất bằng phẳng. Theo kinh A-hàm, Phật Ca-diếp là Đức Phật thứ ba của Hiền kiếp, xuất hiện vào thời kỳ mà con người có tuổi thọ hai vạn năm. Căn cứ theo đây để dùng phép tăng giảm tính toán; vào đầu kiếp Thành con người thọ vô lượng tuổi, dần dần giảm còn tám vạn tuổi là đầu của kiếp Trụ, lại từ đây cứ mỗi một trăm năm thì giảm một tuổi, cho đến thọ mạng còn mười tuổi là một lần giảm. Sau đó theo mạng tăng tám vạn tuổi là một lần tăng. Cứ hai mươi lần tăng hai mươi lần giảm như thế là một kiếp Trụ. Trong kiếp Trụ này có một ngàn vị Phật xuất thế, Đức Bổn Sư Thích-ca là vị thứ tư, bốn tôn vị đều xuất hiện vào lần giảm thứ chín. Từ Đức Thích-ca tuổi thọ một trăm năm đến Phật Ca-diếp tuổi thọ hai vạn là hơn hai trăm vạn năm. Nếu tính đến đời Phật Câu-lưutôn, là tôn vị thứ nhất vào đầu thời Hiền kiếp thì biết bao nhiêu vạn năm. Từ Phật Câu-lưu-tôn trở lên đến kiếp Sơ, lúc con người thọ vô lượng tuổi thì biết bao nhiêu? Từ Đức Thích-ca trở về sau đến năm Tân Tỵ niên hiệu Chí Nguyên mười tám là hai ngàn hai trăm ba mươi năm. Từ Phật Câu-lưu-tôn trải qua Phật Ca-diếp đến hôm nay thì biết bao nhiêu là vạn năm. có danh sĩ Ngô Thế Văn của triều ta soạn lịch Đại Ca, từ năm Kỷ Mão niên hiệu Trinh Hựu triều Đại Kim, tính ngược về trước đến hơn bốn mươi chín ngàn sáu trăm năm, nhằm năm Mậu Dần là Bàn Cổ khai sáng. Lại theo Đại Nhất Lịch Pháp do Kim Hy Ninh chức Diên Hy Cung Lục Sự soạn thì từ lúc khai sáng năm Giáp Tý thời Thượng cổ đến năm Giáp Tý niên hiệu Nguyên Phong là một trăm chín mươi ba vạn bảy ngàn sáu trăm bốn mươi mốt năm. Theo Toản Cổ Đồ thì từ lúc khai mở trời đất đến khi bắt được lân là hai trăm bảy mươi sáu vạn năm. Theo các kinh nếu tính thời Phật Ca-diếp đến nay làm tuổi thọ của phiến đá này, thì còn cách thời kiếp Sơ khai lập là một đứa bé. Thuyết của ba nhà còn không đề cập đến năm phiến đá mới thành, đối với thuyết khai mở thì rất xa.
Tam Bảo Cảm Thông Lục ghi: Ngôi tháp ở bên thành Liêu Đông Cao Ly, theo Cổ Lão truyện thì khi xưa vua Cao Ly trong một lần đi tuần xét trong nước, khi đến thành này thì thấy mây năm sắc phủ khắp mặt đất, đến tìm trong đám mây thì thấy một vị Tăng đang đứng tay cầm tích trượng, đến gần thì biến mất, ở xa nhìn thì thấy, một bên có ngôi tháp bằng đất ba tầng, phía trên như một cái nồi úp lại, Vương không biết là gì, mới đến tìm vị Tăng, thì chỉ còn thấy một bãi cỏ hoang. Vương sai người đào đất, đào hơn một trượng thì được gậy và giầy, đào thêm thì được phiến đá, trên có Phạm thư. Thị thần tâu rằng: "Đó là tháp Phật!". Vương lại hỏi han nguồn gốc. Thị thần đáp rằng:
-Nước Hán cũng có tháp này. Nhân mộng thấy được Bồ-đề Vương (có bản ghi là Hưu Đồ Vương, xét có lẽ là người vàng) mà sinh tín tâm Phật pháp, nên tạo tháp gỗ bảy tầng, sau đó Phật pháp mới đến mà biết rõ đầu cuối, nay đã giảm chiều cao vì tháp cũ đã hư hoại. Đến khi A-dục Vương thống nhất châu Diêm-phù-đề, thì tạo tháp khắp nơi, không có gì phải kinh ngạc. Trong năm Long Sóc đời Đường, Hữu Sự Liêu Tả Hành Quân Tiết Nhân Quý đến vùng đất mà Tùy Đế chinh phạt khi xưa, thấy nơi đây hoang vắng điêu tàn không người lai vãng mới hỏi người già trong làng thì được trả lời là: "Đây là vùng đất đời trước đã cai trị". Nhân Quý liền vẽ bản đồ đem về kinh đô (đầy đủ tại hòm chữ NHƯỢC). Theo Tam Quốc Địa Lý Chí thì thành Liêu Đông bên ngoài Áp Lục, thuộc U châu của Hán, vua Cao Ly bấy giờ chưa biết là ai, hoặc cho là Đông Minh Vương, nghi chẳng phải. Vì Đông Minh lên ngôi năm Kiến Chiêu thứ hai đời Nguyên Đế thời Tiền Hán, băng hà năm Nhâm Dần, niên hiệu Hồng Gia đời Thành Đế. Bấy giờ ở Hán chưa thấy Kinh Phật thì làm sao các quan lại ở hải ngoại biết được chữ Phạm? Nhưng gọi Phật là Bồ-đề Vương thì tựa như thời Tây Hán, bấy giờ có người biết văn tự Tây Vực nên nói là "Phạm thư". Theo truyện xưa A-dục Vương sai quỷ thần cứ mỗi khu vực gồm chín vạn dân thì tạo một tháp, như thế cõi Diêm-phù-đề có tám mươi bốn ngàn ngôi tháp, trong những phiến đá lớn cất giữ trong tháp. Ngày nay nơi nơi đều hiện những điềm lành khác nhau. Đó là do Xá-lợi chân thân cảm ứng nên, thật khó nghĩ bàn. Tán rằng:
Bảo tháp Dục Vương tạo khắp nơi
Mưa ướt mây che phủ rêu phong
Tưởng tượng đi đường năm nay thấy
Bao người chỉ điểm tế mộ thần.
Tháp Bà Sa chùa Hổ Khê tại thành Kim Quan, là do khi xưa nơi này còn là nước Kim Quan, có Hứa hoàng hậu của Thế Tổ Thủ Lộ Vương tên là Hoàng Ngọc, vào năm Giáp Thân niên hiệu Kiến Võ hai mươi bốn đời Đông Hán đã đưa đến từ nước A-du-đà ở Tây Vực. Đầu tiên Công chúa vâng lệnh cha mẹ đi thuyền vượt biển về Đông, nhưng bị thần sóng nổi giận ngăn trở, phải trở về tâu lại vua cha, vua cha bảo phải chở tháp này, vì thế thuyền đi thuận lợi mà ghé đến Nam Nhai, có buồm đỏ, cờ hồng, ngọc châu xinh đẹp. Ngày nay gọi đó là Chủ Phố. Nơi gộp đá cưỡi khố lụa lúc mới đến gọi là Lăng Hiện; nơi cờ hồng mới xuất hiện ở góc biển gọi là Kỳ Xuất Biên. Thủ Lộ Vương đem sính lễ nghinh đón, đồng cai trị đất nước hơn một trăm năm mươi năm. Nhưng Hải Đông lúc bấy giờ chưa có việc tôn pháp, lập chùa, tượng giáo chưa đến, người dân ở đây chưa tin phụng, nên Bản Kỷ không có ghi việc lập chùa. Đến đời thứ tám là Trất Tri Vương năm thứ hai, nhằm năm Nhâm Thìn mới tạo lập chùa ở xứ này. Lại tạo chùa Vương Hậu (vào đời Nột Kỳ Vương, A Đạo; trước thời Pháp Hưng Vương), đến hôm nay chùa dùng để tu phước và trấn giữ Nhật Bản. Việc này có ghi chép đầy đủ ở Bản Ký. Tháp này hình vuông, bốn mặt, năm tầng, được điêu khắc chạm trỗ rất kỳ lạ. Đá có màu hơi đỏ, loang lổ, chất rất giòn, chẳng phải là loại đá ở cõi này. Bản Thảo nói: "Điểm thêm màu máu của mồng gà để chứng nghiệm" chính là việc này. Kim Quan Quốc còn gọi là Giá Lạc Quốc, đã chép đủ trọn Bản Ký. Tán rằng:
Buồm đỏ, cờ hồng chở nhẹ tênh
Hiển linh ngăn chặn những ba đào
Đâu chỉ đến bờ phò Hoàng Ngọc
Ngàn năm thôi dứt nạn Nam Oa.
Tăng Truyện ghi: Thích Phổ Đức Tự Trí Pháp, người ở huyện Long Cương thuộc Tiền Cao Ly (xem đầy đủ ở phần Bản Truyện sau) thường trụ tại Hữu Sáo Phương Thành Bình Nhưỡng, có một Tăng đến thỉnh Sư giảng kinh, Sư cố chối từ không được, bèn đến giảng kinh Niết-bàn hơn bốn mươi quyển, sau khi giảng xong, Sư đến một hang động ở Đại Bảo sơn phía Tây thành thiền quán. Bỗng có một thần nhân đến thỉnh trụ ở đất này, Sư bèn cắm tích trượng trước mặt, rồi chỉ xuống đất mà nói rằng:
- Dưới đất này có ngôi tháp đá tám mặt, bảy tầng.
Đào lên quả nhiên như thế, nhân đó bèn lập tinh xá tên là Linh tháp tự để an trụ.
Vào tháng hai năm Quý Dậu, nhằm năm thứ mười bốn đời Chân Hưng Vương (đời hai mươi bốn) Tân La, lúc sắp xây dựng Tử Cung ở phía Nam Long Cung thì có rồng vàng xuất hiện trên vùng đất ấy, nên lại đổi xây chùa Phật, tên là Hoàng Long tự. Đến năm Kỷ Sửu mới khởi công xây tường chung quanh, mười bảy năm mới hoàn thành. Chưa bao lâu, có một chiếc thuyền lớn từ Hải Nam đến, ghé ở Tư Phố huyện Hà Khúc (nay là Cốc Phố, Huyện Úy Châu). Xét điệp văn thấy có ghi: "A Dục Vương ở Tây Trúc dùng năm vạn bảy ngàn cân đồng, ba vạn phân vàng ròng (Biệt truyện ghi: bốn vạn bảy ngàn cân sắt, một ngàn lượng vàng, e rằng có lầm. Hoặc nói ba vạn bảy ngàn cân) dùng để đúc Tôn Tượng Thích-ca Tam Tôn, chưa thành tựu, nhưng chở trên thuyền vượt biển nguyện rằng: Xin đến cõi nước có duyên, thành tựu tôn dung một trượng sáu". Đồng thời thấy trên đó có chở hình mẫu một tượng Phật hai tượng Bồ-tát. Quan huyện dâng biểu lên Vương, Vương sai người chọn khu đất thoáng mát cao ráo ở phía Đông của Huyện thành lập chùa Đông Trúc, an trí tượng mẫu Tam Tôn. Chuyển vàng và sắt vào kinh đô. Tháng ba năm Giáp Ngọ, niên hiệu Đại Kiến thứ sáu (Bài ký của chùa ghi là vào ngày mười bảy tháng mười năm Quý Tỵ) đúc Tôn tượng Thích-ca, một lần liền thành tựu, nặng ba mươi lăm ngàn bảy cân sắt và mười ngàn một trăm chín mươi tám phân vàng. Hai tôn tượng Bồ-tát gồm một vạn hai ngàn cân sắt, một vạn một trăm ba mươi sáu phân vàng, thờ ở chùa Hoàng Long. Năm sau các tượng tuôn nước mắt thấm đến chân, chảy ra đất một thước, đó là điềm Đại Vương băng hà. Hoặc nói tượng đúc thành vào đời Chân Bình là sai lầm. Biệt Bản ghi: Vua A-dục ngự ở nước Hương Hoa tại Tây Trúc, sinh sau Phật khoảng một trăm năm, hận không được cúng dường chân thân, nên quyên góp biết bao nhiêu là vàng và sắt, ba lần đúc mà chẳng thành công, bấy giờ chỉ có Thái tử là không tham dự. Vua hỏi đến, Thái tử liền tâu rằng:
- Nếu chỉ dùng sức thì chẳng thể thành tựu, đã từng biết chẳng thành!
Vua đồng ý, bèn sai người đặt trên thuyền vượt biển đi khắp nơi; Nam Diêm-phù-đề gồm mười sáu nước lớn, năm trăm nước trung, một vạn nước nhỏ, tám vạn thành ấp đều đã ghé qua, nhưng không đâu đúc thành. Cuối cùng đến nước Tân La, Chân Hưng Vương đúc tại rừng Văn Nhưng thì liền thành công. Tượng có đầy đủ ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Vua A-dục, Trung Quốc dịch là Vô Ưu. Sau Đại Đức Từ Tạng sang Trung Quốc tu học, đến núi Ngũ đài, cảm được Bồ-tát Văn-thù hiện thân, trao cho khẩu quyết và dặn rằng: Chùa Hoàng Long ở nước ngươi là đạo tràng mà Phật Thích-ca và Phật Cadiếp giảng thuyết, phiến đá các ngài ngồi vẫn còn, nên vua Vô Ưu ở Thiên Trúc gom góp biết bao nhiêu sắt và vàng, nổi trôi trên biển trải qua hơn một ngàn ba trăm năm mới đến nước ấy, đúc thành, tôn trí tại chùa này. Đó là do oai duyên khiến như thế (giống với Biệt Ký đã ghi). Sau khi tượng thành, ba tôn tượng mẫu ở chùa Đông Trúc cũng dời đến chùa Hoàng Long. Tự Ký ghi: Vào năm thứ sáu đời Chân Bình Vương, xây dựng xong Kim Đường. Đời Thiện Đức Vương, đệ nhất trụ trì là Chân Cốt Hoan Hỷ, đệ nhị trụ trì là Từ Tạng Quốc Thống. Kế Quốc Thống là Tuệ Huấn, rồi đến Luật Sư Sương. Từ ngày chiến tranh xảy ra đến nay ba tôn tượng đều bị nấu chảy, chỉ còn một tượng Thích-ca nhỏ mà thôi. Tán rằng:
Trần thế nơi nào chẳng thật quê?
Nhân duyên hương lửa tại nước ta
Chẳng phải Dục Vương, đâu làm được
Nguyệt Thành tham hỏi chính chốn xưa.
Năm Bính Dần, niên hiệu Trinh Quán thứ mười, nhằm năm thứ năm đời Thiện Đức Vương, đời hai mươi lăm của Tân La, Pháp Sư Từ Tạng sang Trung Quốc tu học. Khi đến núi Ngũ Đài, Sư cảm được Bồ-tát Văn-thù trao cho pháp yếu. Bồtát bảo rằng: "Quốc vương nước ngươi thuộc dòng Sát-lợi ở Thiên Trúc, Vương sẽ được Phật thọ ký, nên có nhân duyên riêng biệt, chẳng đồng như các dòng cộng công ở Đông Di. Nhưng vì núi sông hiểm trở, tánh người thô lậu, tin theo tà giáo. Bấy giờ trời thần sẽ giáng tai họa nhưng có nhiều Tỳ-kheo đa văn trụ trong nước này, nên vua tôi vẫn an ổn, nhân dân khương thái".
Nói xong Bồ-tát liền biến mất. Từ Tạng biết là bậc Đại thánh biến hiện, nên khóc mà lui. Sư đi khắp nơi. Một hôm đến bờ hồ Thái hòa, bỗng có một vị thần xuất hiện hỏi rằng:
- Đến đây vì việc gì? Đáp:
- Đến cầu Bồ-đề!
Vị thần liền lễ bái và hỏi tiếp rằng:
- Nước của ngài có chướng nạn gì? Đáp:
- Đất nước của tôi, phía Bắc giáp Mạt Thát, phía Nam gần Nhật Bản, hai nước Cao Ly và Bách Tế thay nhau xâm lấn biên thùy, giặc lân bang tung hoành cướp phá. Đó là họa của nhân dân!
Thần nhân nói:
- Nước của ngài tôn phụ nữ làm Quốc vương thì chỉ có đức mà không có uy, cho nên lân quốc có mưu đồ, nên mau chóng trở về nước.
Từ Tạng Pháp sư hỏi rằng:
- Trở về nước, nên làm gì để được lợi ích?
Thần nhân đáp: Rồng hộ pháp ở chùa Hoàng Long là trưởng tử của ta, vâng mệnh Phạm vương đến hộ trì chùa ấy. Ngài trở về nước nên xây dựng tháp chín tầng trong chùa, thì lân quốc hàng phục, chín Hàn triều cống, xã tắc của Vương vĩnh viễn an bình. Sau khi lập tháp nên tổ chức hội Bát quan trai, đại xá tội nhân, thì giặc bên ngoài chẳng dám đến xâm hại. Ngài lại vì tôi mà lập một ngôi tịnh thất ở bờ nam kinh kỳ, cùng nhau cầu phước cho tôi, tôi sẽ báo đáp ân đức này.
Nói xong, thần nhân tuân phụng Vương mà dâng hiến, rồi bỗng nhiên biến mất (bài ký trong chùa ghi: Nhận lãnh nguyên nhân lập tháp ở trụ xứ của Thiền sư Viên Hương, núi Chung Nam)
Ngày mười sáu tháng(?) Năm Quý Mão, niên hiệu Trinh Quán mười bảy, Từ Tạng mang tất cả kinh, tượng, ca-sa, vải lụa, mà vua Đường ban tặng trở về nước, tâu bày việc xây tháp lên Vương, Thiện Đức Vương liền triệu tập quần thần nghị bàn. Quần thần đều tâu rằng: "Nên mời thợ ở Bách Tế thì mới làm được!"
Vương bèn sai đem lụa quý sang Bách Tế xin thợ giỏi. Bấy giờ có một người thợ tên là A Phi Tri vâng mệnh mà đến, trù liệu tính toán gỗ đá, Y Can Long Xuân (còn gọi là Long Thọ), chỉ huy, đốc suất hai trăm thợ phụ. Vào ngày dựng trụ, người thợ chính nằm mộng thấy điềm nước Bách Tế của mình diệt vong, bèn sinh tâm nghi ngờ, nên dừng công việc. Bỗng mặt đất chấn động, trong khoảng mờ tối thấy có một vị Tăng và một tráng sĩ từ kim điện bước ra dựng cây trụ, rồi biến mất. Người thợ liền hối cãi, xây dựng đến khi thành tựu. Tháp Sát Trụ Ký ghi: Từ luân bàn trở lên cao bốn mươi hai thước, từ luân bàn trở xuống là một trăm tám mươi ba thước. Pháp sư Từ Tạng phân chia tôn trí một trăm viên xá-lợi được trao ở Ngũ Đài sơn vào cây trụ tháp này. Đồng thời lập giới đàn ở chùa Thông Độ và lập Đại Hòa tự tháp để hợp theo lời cầu xin của rồng ở hồ Thái Hòa (Đại Hòa tự ở phía Nam huyện Hà khúc, nay là Úy châu, cũng do ngài Từ Tạng sáng lập). Sau khi xây tháp xong thì đất trời rộng mở, Tam Hàn hợp nhất, đó há chẳng phải là sự linh ứng của tháp ư? Về sau Vua Cao Ly mưu chinh phạt Tân La, có người nói: Tân La có ba báu vật, không thể xâm phạm được, đó là: Tượng Phật và tháp chín tầng ở chùa Hoàng Long, đai ngọc trời ban cho Chân Bình Vương, vua Cao Ly bèn từ bỏ. Nhà Chu có chín đỉnh, quân Sở không dám dòm ngó, cũng giống như thế; tán rằng:
Quỷ giúp thần phò chốn đế kinh
Tường vàng rực rỡ mái vút cong
Lên cao đâu chỉ chín Hàn phục
Mới biết càn khôn cũng thái bình.
Đông Đô Thành Lập ký của An Hoằng, một danh hiền ở Hải Đông có ghi: Đời hai mươi bảy của Tân La, Nữ Vương làm chủ, tuy có đạo mà không có uy, nên chín Hàn xâm lấn gây lao khổ. Từ khi xây tháp chín tầng tại chùa Hoàng Long ở phía Nam Long cung, thì trấn áp được tai họa lân quốc. Tầng thứ nhất là trấn Nhật Bản, tầng thứ hai là Trung Hoa, tầng thứ ba là Ngô Việt, tầng thứ tư là Thác La, tầng thứ năm là Ưng Du, tầng thứ sáu là Mạt Thát, tầng thứ bảy là Đan Quốc, tầng thứ tám là Nữ Địch, tầng thứ chín là Uế Mạch". Theo quốc sử và cổ ký trong chùa, Chân Hưng Vương khởi công xây chùa vào năm Quý Dậu, đến đời Thiện Đức Vương năm Ất Tỵ, niên hiệu Trinh Quán mười chín mới hoàn thành. Đến tháng sáu năm Mậu Tuất, niên hiệu Thánh Lịch thứ nhất, nhằm năm thứ bảy đời Hiếu Chiêu Vương, tháp bị sét đánh hư hoại (Cổ ký của chùa nói là đời Thánh Đức Vương là sai, vì đời vua này không có năm Mậu Tuất). Năm Canh Thân đời ba mươi ba Thánh Đức Vương trùng tu. Tháng sáu năm Mậu Tý đời bốn mươi tám Cảnh Văn Vương tháp lại bị sét đánh hư hoại, cũng trong năm này tháp lại được trùng tu. Đến tháng mười năm Quý Sửu, tức năm thứ năm đời Quang Tông của bản triều, tháp lại bị sét đánh lần thứ ba, đến năm thứ ba đời Hiện Tông tức năm Quý Dậu, tháp được trùng tu. Năm Ất Hợi, năm cuối đời Hiến Tông, sét đánh lần thứ năm, năm Bính Tý đời Túc Tông thì trùng tu. Đến mùa đông năm Mậu Tuất, năm thứ mười sáu đời Cao Tông, trong chiến loạn Tây sơn, tháp chùa, tượng Đức Thích Tôn, điện đường đều bị tiêu hủy.
- Đại Hồng Chung chùa Hoàng Long
- Tượng Dược Sư chùa Phấn Hoàng
- Đại Hồng Chung chùa Phụng Đức.
Cảnh Đức Đại Vương đời ba mươi lăm của Tân La, vào năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thiên Bảo mười ba đúc Đại Hồng Chung chùa Hoàng Long.
Chuông cao một trượng ba tấc, dày chín tấc, nặng bốn trăm chín mươi bảy ngàn năm trăm tám mươi mốt cân, thí chủ là Tam Mao phu nhân của Hiếu Trinh Y Vương, thợ đúc là Nhất Điển ở Lý Thượng Trạch. Đến triều Túc Tông lại đúc quả chuông mới cao sáu thước tám tấc. Qua năm sau tức năm Ất Mùi, đúc tượng đức Dược Sư bằng đồng ở chùa Phấn Hoàng, nặng ba trăm lẻ sáu ngàn bảy trăm cân, thợ đúc là Cường Cổ Nãi Vị ở Bản Bỉ Bộ. Lại thâu thập mười hai vạn cân đồng muốn đúc một quả chuông để cầu phước cho Tiên vương là Thánh Đức Vương, nhưng chưa xong thì thăng hà, con là Tuệ Cung Đại Vương Càn Vận, vào tháng mười hai năm Canh Tuất, niên hiệu Đại Lịch sai người gom tập công nhân đúc tạo mới hoàn thành, đặt tại chùa Phụng Đức. Chùa này do Hiếu Thành Vương xây dựng vào năm Mậu Dần, niên hiệu Khai Nguyên hai mươi sáu để cầu minh phước cho Tiên Vương là Thánh Đức Đại Vương. Cho nên bài minh trên chung ghi là:
- "Thánh Đức Đại Vương Thần Chung chi minh. "
(Thánh Đức là Hưng Quang Đại Vương cha của Cảnh Đức. Quả chuông này vốn do Cảnh Đức vì Thánh Đức mà thí vàng đúc tạo, nên gọi là Thánh Đức Chung).
Triều Tán Đại Phu Tiền Thái tử Tư Nghị Lang Hàn Lâm Lang Kim Bật Áo phụng sắc soạn. Văn bài minh dài nên không chép vào đây.
Nhân duyên Thiện Đức Vương lập chùa tạo tượng đã ghi đầy đủ trong Lương Chí Pháp Sư Truyện. Năm hai mươi ba đời Cảnh Đức Vương, đổi tượng Thích-ca thành tượng vàng, chi phí hai mươi ba ngàn bảy trăm thạch lúa (Lương Chí Truyện gọi đó là chi phí lúc tượng mới đúc thành.
Nay vẫn giữ hai thuyết).
-Tứ Phật Sơn-Quật Phật Sơn-Vạn Phật Sơn.
Phía Đông Trúc lãnh khoảng hơn một trăm dặm, có một ngọn núi cao ngất, vào năm Giáp Thân tức năm thứ bốn mươi sáu đời Chân Bình Vương, bỗng có một tảng đá lớn hình khối vuông, mỗi cạnh một trượng, bốn mặt khắc tứ phương Như Lai, và dùng vải mỏng màu hồng bảo vệ, từ trên trời rơi xuống đỉnh núi. Vương nghe được, xa giá đến chiêm lễ, xây chùa Phật bên cạnh tảng đá, đề là Đại Thừa Tự, thỉnh một vị Tỳ-kheo chuyên tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa trụ trì, quét dọn, cúng dường tảng đá, ngày đêm hương khói không ngừng. Đặt tên núi là Diệc Đức sơn, Tứ Phật Sơn; sau vị Tỳ-kheo thị tịch cũng an táng nơi ấy, thời gian sau trên mộ có sinh hoa sen.
Một hôm Cảnh Đức Vương xa giá đến chùa Bá Lật, vừa đến chân núi, thì nghe trong lòng đất có âm thanh niệm Phật, Vương sai người đào nơi ấy, thì được một tảng đá lớn, bốn mặt khắc tứ phương Phật, nhân đó mà xây chùa nơi đây, đặt tên là Quật Phật, nay lầm gọi là Quật Thạch. Vương nghe Hoàng Đế Đại Tông nhà Đường sùng kính Phật pháp, bèn sai người dệt tấm thảm lông năm màu, lấy gỗ trầm chiên đàn và minh châu bảo ngọc khắc tạo thành giả sơn cao hơn một trượng đặt lên trên tấm thảm. Trong giả sơn có núi hiểm trở, đá kỳ dị, khe nước, hang động, phân chia làm nhiều khu vực, mỗi khu có hình trạng người ca múa, núi sông các nước. Gió lùa nhẹ vào nhà, bươm bướm chập chờn, yến sẻ bay lượn, lúc ẩn lúc hiện, khó phân biệt được thật hay giả. Trong đó còn tôn trí một vạn đức Phật, tượng lớn thì hơn tấc vuông, tượng nhỏ thì tám, chín phân, đầu tôn tượng hoặc bằng hạt lúa, hoặc bằng nửa hạt đậu; nhục kế bạch hào, mắt mày sáng rỡ, đầy đủ tướng quý và các vẻ đẹp, nhưng chỉ thấy phảng phất không được rõ ràng. Do đó mà gọi là Vạn Phật Sơn. Lại khắc chạm vàng ngọc làm tràng phan bảo cái tinh xảo, hoa quả chiêm-bặc Am-la để trang nghiêm. Lầu các, đền đài, chùa viện tinh xảo, tuy tất cả đều rất nhỏ mà thật sinh động, phía trước có hơn một ngàn tượng Tỳ-kheo đi nhiễu, phía dưới có đặt ba quả chuông vàng đều có gác, có chày kình, gió thổi lay động thì chuông vang. Lúc ấy các hình tăng đi nhiễu đều dập đầu sát đất lễ bái, văng vẳng có tiếng Phạm âm, then chốt là ở nơi các quả chuông. Tuy gọi là Vạn Phật, kỳ thật chẳng thể ghi hết. Sau khi hoàn thành, Vương sai sứ dâng hiến vua Đường. Vua Đường thấy khen rằng: "Cái khéo léo của Tân La, trời tạo cũng chẳng khéo bằng!". Rồi đặt quạt Cửu Quang trong hang núi, do đó gọi là Phật Quang. Ngày mồng tám tháng tư, vua lệnh cho Tăng chúng của Lưỡng Nhai vào nội đạo tràng lễ Vạn Phật Sơn, lại thỉnh Tam tạng Bất Không tụng một ngàn biến Tán Mật Bộ Chân Thuyên để chúc mừng. Người xem đều thán phục sự tinh xảo. Tán rằng:
Trời điểm trăng tròn chiếu bốn phương
Một đêm đại địa xuất minh hào (tia sáng)
Diệu thủ lại phiền khắc vạn Phật
Chân phong cần thổi khắp Tam tài (thiên, địa, nhân).
Vào đời Thiện Đức Vương, Thích Sinh Nghĩa thường trụ tại chùa Đạo Trung, một hôm mộng thấy có một vị Tăng dẫn mình lên đỉnh Nam sơn đi dạo, khiến kết cỏ làm dấu. Khi đến một hang động ở phía Nam của núi, vị Tăng nói: "Ta được chôn ở nơi này, xin Sư đào lên an trí trên đỉnh núi". Khi tỉnh giấc liền cùng mọi người lên núi tìm nơi có đánh dấu, đến hang động đào đất lên thì gặp một tôn tượng Phật Di-lặc, bèn tôn trí trên đỉnh Tam Hoa. Năm Giáp Thìn, nhằm năm thứ mười ba đời Thiện Đức Vương, Sinh Nghĩa lập chùa ở đây để trụ. Về sau gọi là Sinh Nghĩa tự (nay lầm gọi là Tánh Nghĩa tự. Mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba, mồng chín tháng chín, sư Trung Đàm đều có nấu trà dâng cúng tôn vị này).
Đời năm mươi bốn Cảnh Minh Vương, ở cửa Nam và hai dãy nhà hai bên trái phải của chùa Hưng Luân bị lửa thiêu chưa kịp xây dựng lại. Bấy giờ có hai vị Tăng là Tỉnh Hòa và Kế Quyên góp tiền của để trùng tu, bỗng ngày mười lăm tháng năm năm Tân Tỵ, niên hiệu Trinh Minh thứ bảy, Đế Thích giáng hạ ở lầu chứa kinh bên trái chùa, lưu lại mười ngày; tất cả điện tháp, cỏ cây đất đá đều phát ra mùi hương lạ, mây năm màu che phủ ngôi chùa, cá rồng ở Nam trì vui mừng, vùng vẫy, bơi lội tung tăng. Người trong nước đều đến xem, khen là việc chưa từng có, nào là vàng ngọc, gấm lụa, lúa thóc đem đến chất thành gò đống, thợ giỏi tự nhiên tìm đến, không bao lâu thì hoàn thành việc trùng tu. Công việc đã xong, Thiên đế sắp trở về, hai vị Tăng tâu rằng: "Nếu Thiên đế muốn về cung, xin được vẽ Thánh dung để chí thành cúng dường, cũng nhân đây xin được lưu lại hình ảnh để vĩnh viễn trấn giữ hạ giới!".
Đế Thích nói: "Nguyện lực của tôi chẳng bằng Bồ-tát Phổ Hiền giáo hóa chúng sinh, hãy vẽ hình tượng vị Bồ-tát này, chí thành cúng dường không được phế bỏ".
Hai vị Tăng theo lời dặn dò, thành kính vẽ tôn tượng Bồ-tát Phổ Hiền trên tường, đến nay vẫn còn.
- Đức Quan Âm ở ba nơi.
- Chùa Chúng Sinh.
Tân La cổ truyện ghi: Thiên tử Trung Quốc có một người thiếp yêu, dung nhan tuyệt mĩ vô song, có thể nói những bức họa xưa nay rất ít có bức họa người nữ nào đẹp như thế. Vua bèn sai họa sĩ giỏi vẽ hình người thiếp này (họa sĩ đã mất tên, hoặc cho là Trương Tăng Dạo, người nước Ngô, trong niên hiệu Thiên Giám đời Lương làm quan đến chức Vũ Lăng Vương Quốc Thị Lang Trực Bí Các quản lý về việc vẽ họa; sau thăng Hữu Tướng Quân Thái Thú Ngô Hưng. Như thế thì biết các Thiên tử trong khoảng đời Lương đời Trần, nhưng truyện nói là Đường Đế, vì người Hải Đông thường gọi Trung Quốc là Đường, thật ra chưa biết là vị vua nào? Nay vẫn giữ hai thuyết). Họa sĩ này vâng sắc vẽ xong, nhưng đặt nhầm bút làm ố màu đỏ, khiến phần dưới rốn bị hư, muốn sửa mà chẳng thể làm được. Tâm nghi rằng phần xích chí ắt là do trời sinh nên thôi. Họa thành dâng lên vua. Vua xem và nói rằng: Hình tướng thì rất giống, ngặt vì phần chí dưới rốn là bộ phận kín của con người, làm sao biết được mà vẽ ra. Vua liền nổi giận, sai đem hành hình. Thừa tướng can rằng: Người này tâm tánh ngay thẳng, xin khoan thứ.
Đế nói: Nếu là người hiền, ngay thẳng thì hãy vẽ lại cảnh mà trẫm mộng thấy đêm qua, nếu chẳng sai thì tha tội.
Họa sĩ liền vẽ Đức Quan Âm mười một mặt dâng lên, rất hợp với cảnh mộng. Bấy giờ Đế đã hiểu nên tha cho. Sau khi được tha, người này nói với Bác sĩ Phấn Tiết Ước rằng: Tôi nghe người Tân La kính tin Phật pháp, nên cùng với tôi vượt biển đến nơi ấy cùng làm Phật sự, mở rộng lòng nhân, chẳng phải có lợi ích ư?
Hai người bèn cùng nhau đến nước Tân La, nhân đó vẽ tượng Đại Bi tôn trí ở chùa này. Người trong nước đến chiêm ngưỡng, lễ bái cầu khẩn, đạt được phước lợi rất nhiều. Trong đời Lý Thiện
Thành của nước Tân La, ông Thôi Ân Hàm đã lớn tuổi mà chưa có con nối dõi, bèn đến chùa này trước tượng Đại Từ cầu khẩn, sau đó vợ ông có thai sinh ra được một bé trai. Chưa được ba tháng, Chân Huyên của Bách Tế xâm phạm kinh đô, trong thành rối loạn, Ân Hàm bồng con đến thưa rằng: "Quân lân bang chợt đến, sự việc quá gấp, nếu mang nặng con nhỏ thì đều không thể trốn thoát. Nếu thật đây do Đại Thánh ban cho, thì xin sức Đại Từ dưỡng nuôi che chở, khiến sau này cha con còn được gặp mặt!".
Ân Hàm khóc lóc buồn than, ba lần khóc ba lần tỏ bày, rồi bọc đứa bé trong tả lót dấu kín dưới ghế tòa, rồi liếc nhìn mà bước ra. Nửa tháng sau, quân giặc rút lui, Ân Hàm đến tìm thì thấy thân thể đứa bé như mới vừa tắm xong dung mạo tươi sáng, mùi thơm của sữa còn phản phất nơi miệng. Ân Hàm bồng về nuôi dưỡng, đến khi lớn lên lại thông minh hơn người, đó là Thừa Lỗ, làm quan đến Chánh Khuông. Thôi Lỗ sinh Lang Trung Thôi Túc, Thừa Túc sinh Lang Trung Tề Nhan. Từ đó kế thừa chẳng đoạn dứt.
Ân Hàm theo kính Thuận Vương sang Cao Ly ta là một dòng họ lớn. Tháng ba niên hiệu Thống Hòa thứ mười, trụ trì chùa này là Tỳ-kheo Thích Tánh Thái, một hôm quỳ trước tượng Bồ-tát bạch rằng: "Đệ tử trụ trì chùa này đã lâu, siêng năng hương khói, ngày đêm chưa từng biếng trễ, ngặt vì chùa này không có ruộng, không biết tính kế gì để chi phí tế sự, nên muốn sang chùa khác, nay đến đây từ biệt ngài".
Hôm ấy để nguyên y hậu vừa chợp mắt, mộng bỗng thấy một vị Đại Thánh đến nói rằng: Thầy hãy trụ nơi đây không được từ bỏ, ta sẽ hóa duyên sung vào chi phí trai lễ.
Vị Tăng trụ trì vui mừng, thức giấc không có ý định đi đến chùa khác. Mười ba ngày sau, bỗng có hai người dùng ngựa và bò chở đồ vật đến trước cổng chùa; Tăng chúng trong chùa ra hỏi rằng:
- Các vị từ đâu đến đây? Hai người kia đáp rằng:
- Chúng tôi là người ở Kim châu, hôm trước có một vị Tỳ-kheo đến nói rằng: "Ta trụ tại chùa Chúng Sinh ở Đông Kinh đã lâu, nay vì Tứ sự khó khăn nên đến đây mộ hóa". Vì thế chúng tôi quyên góp trong làng xóm được sáu thạch gạo, bốn thạch muối chở đến đây!
Chúng Tăng nói:
- Chùa này không có người đi hóa duyên, e rằng các vị nghe lầm rồi!
Hai người kia trả lời:
- Khi nãy vị Tỳ-kheo ấy dẫn chúng tôi đi, đến bên giếng Thần kiến mới nói rằng: "Ở đây cách chùa không xa, Ta đến đó trước đợi các vị!". Chúng tôi liền theo sau mà đến đây.
Chúng tăng dẫn vào trước pháp đường, hai người chiêm ngưỡng lễ tượng Đại Thánh rồi cùng nói rằng:
- Đây là tượng vị Tỳ-kheo hóa duyên!
Mọi người bấy giờ mới kinh ngạc, tán thán không dứt. Từ đó hằng năm đều dâng cúng gạo muối, không phế bỏ.
Lại một đêm kia lửa cháy ở cửa chùa, mọi người cùng nhau cứu chữa, lên pháp đường thì không thấy Thánh tượng ở đâu, nhìn quanh thì đã thấy đặt ở ngoài sân rồi. Hỏi ai thỉnh ra thì không người nào biết, mới hay là Đại Thánh hiển oai linh. Trong năm Quý Tỵ, niên hiệu Đại Định mười ba, có một vị Tăng tên là Chiêm Sùng đến trụ trì chùa này. Chiêm Sùng không biết chữ, nhưng bản tính thuần hậu siêng năng hương khói. Có một vị tăng khác muốn đoạt chức vị của Chiêm Sùng, nên báo với Sẩn Y Thiên Sứ rằng: Chùa này là nơi cầu ân đức, phước lợi cho quốc gia, cần phải chọn vị nào biết tụng đọc sớ văn làm chủ trì. Thiên Sứ (sứ của vua) đồng ý, muốn thử Chiêm Sùng, bèn trao ngược sớ văn, Chiêm Sùng thuận tay nhận lấy mở ra đọc tụng thông suốt như nước chảy. Thiên Sứ khâm phục trở về ngồi trong phòng, bảo Chiêm Sùng đọc lại, thì cứng miệng không đọc được một lời. Thiên sứ nói: Thượng nhận được Đại Thánh phò trì.
Rốt cuộc không thể đoạt được. Người đồng trụ ở đây với Chiêm Sùng là Xử Sĩ Kim Nhân Phu kể chuyện này với các người già trong làng, đồng thời ghi chép lại để lưu truyền.
Ngọn núi phía Bắc Kê lâm gọi là Kim Cang lãnh, phía Nam của núi có chùa Bá Lật, trong chùa có một tôn tượng Đại Bi, không biết tạo từ bao giờ mà rất linh dị. Hoặc cho rằng họa thần của Trung Quốc vẽ tượng Đại Bi chùa Chúng sinh, đồng thời vẽ cả tượng này. Dân gian cho rằng Đại Thánh từng lên trời Đao-lợi, khi trở về bước vào pháp đường, dấu chân in trên nền đá đến nay vẫn chưa mờ. Hoặc cho rằng khi cứu Phu Lễ Lang trở về thì có dấu vết này. Ngày mồng bảy tháng chín năm Nhâm Thìn niên hiệu Thiên Thọ thứ ba, Hiếu Chiêu Vương tôn phụng phu lễ lang con của Đại Huyền Tát San làm Quốc Tiên, trong cả ngàn môn khách chỉ thân thiết nhất với An Thường. Vào tháng ba năm Quý Tỵ niên hiệu Thiên Thọ thứ bốn (tức niên hiệu Trường Thọ thứ hai), Quốc Tiên dẫn đồ chúng vân du Kim Lan, khi đến địa phận Bắc Minh thì bị rợ Địch bắt dẫn đi mất, môn khách đều thất lạc, sau đó trở về, chỉ có một mình An Thường truy tìm tông tích. Ngày mười một tháng ba ấy, Đại Vương nghe tin vô cùng kinh hãi nói rằng: Tiên quân được cây Thần Địch truyền đến đời ta, nay cất chung với Huyền Cầm ở nội khố, khốn nỗi bỗng nhiên Quốc Tiên bị giặc cầm tù, biết làm sao đây?
Bấy giờ có mây lành phủ Thiên Tôn khố, Vương lại càng kinh sợ, sai người kiểm xét, thì trong kho đã mất hai vật báu là đàn và địch. Vương nói:
- Vì sao Trẫm chẳng dự tính, hôm qua mất Quốc Tiên, nay lại mất đàn và địch.
Vương hạ ngục năm người giữ nội khố là Kim Trinh Cao... Đến tháng tư, treo bảng khắp nơi trong nước ghi rằng: "Nếu ai tìm được đàn và địch thì thưởng một năm thuế". Ngày mười lăm tháng năm Lang Nhị Thân đến chùa Bá Lật, nhiều đêm khẩn cầu trước tượng Đại Bi, một hôm bỗng thấy trên án hương có hai bảo vật, và hai người là Lang và Thường đã đến sau tượng. Nhị Thân vô cùng mừng rỡ, hỏi nguyên do. Lang đáp: "Sau khi tôi bị bắt, quân giặc cho làm người chăn dắt của gia đình Cừu La ở đại đô nước ấy, hằng ngày thường thả trâu bò ở đồng Đại Ô La Ni (có bản nói là làm nô dịch cho nhà Đô Cừu, chăn thả súc vật ở đồng Đại ma). Một hôm bỗng nhiên có một vị Tăng dung nghi đoan chánh, tay cầm đàn và địch đến an ủi ta rằng: "Nhớ quê hương ư?" Bất giác tôi quỳ xuống trước mặt vị Tăng mà nói rằng:-"Nhớ quân vương, cha mẹ không thể kể xiết!" Vị tăng nói: "Thế thì nên theo ta trở về!"
Nói xong dẫn ta đến bờ biển gặp An Thường rồi chẻ cây địch ra làm hai phần trao cho ta và An Thường mỗi người một bên và cưỡi trên đó, còn vị tăng thì cưỡi trên cây đàn, cả ba lướt sóng vượt biển trở về, bỗng chốc đến nơi đây. Bây giờ cả ba ghi chép đầy đủ sự việc tấu trình lên vương. Vương vô cùng kinh ngạc, sai người đến đón về. Lang mang đàn và địch vào cung; Vương dùng vàng và bạc đúc năm món giáp khí, gồm hai loại, mỗi loại năm mươi lượng; năm ca-sa ma nạp, ba ngàn tấm lụa, một vạn khoảnh ruộng, tất cả dâng hiến cho chùa để báo đáp từ ân; đại xá thiên hạ, mỗi viên quan được thăng ba cấp, miễn thuế cho dân ba năm. Vị tăng trụ trì chùa này chuyển sang trụ trì chùa Phụng Thánh, phong làm Đại Giác Can (tức Tể Tướng của Tân La), Đại Huyền A San làm Đại Đại Giác Can, mẹ Lang là Long Bảo phu nhân phong làm Cảnh Tỉnh Cung chủ của Sa Lương Bộ; Sư An Thường làm Đại Thống, năm người giữ kho được xá tội, thăng mỗi người năm bậc tước vị. Ngày mười hai tháng sáu sao chổi xuất hiện ở phương Đông, ngày mười bảy xuất hiện ở phương Tây. Quan thiên văn tâu rằng:
- Vì chẳng phong tước cho đàn và địch đã hiện điềm ấy!
Vương bèn phong Thần địch hiệu là Vạn Vạn Ba Ba Tức, sao chổi liền biến mất. Về sau còn rất nhiều điều linh dị nhưng sợ dài dòng không ghi hết.
Đời gọi An Thường là môn đồ của Tuấn Vĩnh Lang thì không chính xác, vì môn đồ của Vĩnh Lang chỉ có Chân Tài, Phồn Hoàn là nổi tiếng, cũng đều là những người khôn lường (xem rõ ở phần Biệt truyện).
Người đàn bà nghèo tên là Bảo Khai ở làng Ngu kim có một đứa con tên Trường Xuân theo đường biển đi buôn bán xa lâu ngày không có tin tức gì, người mẹ vào chùa Mẫn tạng (chùa này do Mẫn Tạng Giác Can cải gia vi tự) đến trước tượng Quán Âm cầu nguyện bảy ngày thì Trường Xuân trở về. Người mẹ hỏi nguyên do, Trường Xuân đáp:
-Bị gió lớn trên biển, thuyền hư hoại, những người đồng hành đều chết, mình con ôm được một tấm ván bơi vào bờ biển nước Ngô; người Ngô bắt được sai con cày ruộng. Một hôm có một vị Tăng lạ, giống như người làng mình đến ân cần an ủi rồi dẫn con đi, khi đến một cái đầm sâu phía trước, vị tăng liền kẹp con mà lướt đi, trong lúc mơ màng nghe văng vẳng như có âm thanh quê mình và tiếng khóc, mở mắt ra thì đã đến nơi đây. Vừa quá trưa thì rời khỏi nước Ngô, đến đây thì mới đầu giờ Tuất. Bấy giờ là ngày mồng tám tháng bốn năm Ất Dậu, niên hiệu Thiên Bảo thứ tư, Cảnh Đức Vương nghe tin liền cúng dường ruộng đất, tài vật, vải lụa cho chùa.
Quốc sử ghi: Năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Đại Thanh đời Chân Hưng Vương, sứ nhà Lương là Thẩm Hồ đem sang biết bao nhiêu là viên xá-lợi. Đến năm Quý Mão niên hiệu Trinh Quán thứ mười bảy, đời Thiện Đức Vương Pháp sư Từ Tạng lại đem về xương đầu, răng Phật cùng với một trăm viên xálợi và một mảnh ca-sa hồng kết vàng mà Phật đã đắp. Xá-lợi phân làm ba phần; một phần tôn trí tại tháp Đài Hòa, một phần tôn trí tại tháp Hoàng Long, một phần và ca-sa thờ tại giới đàn chùa Thông Độ, phần còn lại chưa biết tôn trí ở nơi nào. Giới đàn có hai tầng, ở tầng trên đặt một lọng đá như một cái vạc úp lại. Tục truyền rằng: Khi xưa ở bản triều có hai vị quan lần lượt đến lễ giới đàn, nâng vạc đá lên để lễ kính xá-lợi. Lần đầu cảm được một con rắn lớn trong hòm bò ra. Lần sau thì thấy một con cóc lớn nhảy vào vạc đá từ đó về sau không ai dám nâng nữa. Gần đây có Thượng Tướng Quân là Kim Công Lợi Sinh và Dữu Thị Lang vào đời Cao Miếu vâng chỉ chỉ huy Giang Đông dẫn quân binh đến chùa, muốn nâng tảng đá lên để chiêm lễ. Chư Tăng trong chùa kể lại việc xưa để can ngăn. Hai vị liền sai quân sĩ ra sức nâng tảng đá lên thì thấy bên trong có một hòm đá nhỏ, trong hòm đá lại có một ống lưu ly, trong ống có bốn viên xá-lợi. Hai vị truyền lệnh cho mọi người xem và lễ kính. Ống lưu ly có một vết rạn nứt nhỏ. Bấy giờ Dữu Công đang đem theo một hòm thủy tinh, bèn dâng cúng để cất giữ xá-lợi. Ghi chép để biết rồi dời cung đến Giang đô, đó là năm Ất Mùi, năm thứ tư.
Cổ ký nói một trăm hạt xá-lợi phân chia cất giữ ở ba nơi, mà nay chỉ còn bốn hạt. Đó là ẩn hiện tùy người, nhiều hay ít cũng chẳng có gì là kỳ lạ.
Tục truyền rằng: Ngày mà tháp chùa Hoàng Long bị hỏa tai, thì mặt phía Đông của vạc đá mới có vết loang lổ lớn đến nay vẫn còn, đó là vào năm Quý Sửu, niên hiệu Ứng Lịch thứ ba triều Đại Liêu tức là niên hiệu Quang Miếu thứ năm của triều ta, tháp bị hỏa tai lần thứ ba. Vô Y Tử ở Tào Khê có để lại bài thơ rằng:
Nghe nói Hoàng Long tháp lửa thiêu
Cháy mãi một bên không ngừng dứt.
Chính là việc này. Từ năm Giáp Tý niên hiệu Chí Nguyên đến nay, khi Thiên Triều giúp đỡ bản quốc thì hoàng gia tranh nhau đến chiêm lễ, bốn phương chen nhau đến tham quan, hoặc nâng hoặc chẳng nâng vạc đá, ngoài bốn hạt xá-lợi chân thân, còn có xá-lợi toàn thân nát nhỏ như cát hiện ở bên ngoài vạc đá, mùi hương lạ lan tỏa, cả ngày chẳng dứt. Đó là việc kỳ lạ của một phương vào thời mạt pháp.
Vào năm Tân Mùi niên hiệu Đại Trung thứ năm đời Đường, sứ sang Đường là Nguyên Hoằng đã có thỉnh về răng Phật (chưa biết tôn trí nơi đâu. Văn Tân La nói vào đời Thánh Vương). Sau vào năm Quý Mùi, niên hiệu Đồng Quang thứ nhất, tức là năm thứ sáu đời Thái Tổ triều ta, sứ sang Đường là Y Chất có thỉnh về năm trăm tượng La-hán, nay tôn thờ tại chùa Thần Quang ở Bắc Sùng Sơn. Năm Kỷ Hợi (Duệ Miếu năm thứ mười lăm) niên hiệu Tuyên Hòa thứ nhất, các sứ đi triều cống là Trịnh Khắc Vĩnh, Lý Chi Mỹ... đã thỉnh về răng Phật, nay tôn thờ tại nội điện. Tương truyền, khi xưa Pháp sư Nghĩa Tương sang Đường triều, đến chùa Chí Tướng ở núi Chung Nam, là trụ xứ của Trí Nghiễm Tôn Giả để tham học, gần đó có Tuyên Luật Sư hằng ngày thường được chư Thiên cúng dường, mỗi khi đến giờ thọ trai thì bếp nhà trời dâng thức ăn. Một hôm Luật sư thỉnh ngài Nghĩa Tương thọ trai, ngài Nghĩa Tương đến ngồi nhập định đã lâu, quá giờ mà Thiên sứ cúng vẫn chưa đến, ngài Nghĩa Tương bèn ôm bát không mà trở về, thì Thiên Sứ lại đến. Luật sư hỏi hôm nay vì sao đến trễ.
Thiên sứ đáp:
- Thần binh đứng đầy động ngăn chặn, không vào được. Bấy giờ mới biết ngài Nghĩa Tương có thần nhân bảo vệ, thần phục đạo lực cao tột, bèn giữ lại vật cúng, hôm sau lại mời ngài Trí Nghiễm và Nghĩa Tương đến thọ trai, trình bày nguyên do chậm trễ, ngài Nghĩa Tương ung dung nói rằng:
- Ngài đã được Thiên Đế cung kính, tôi từng nghe tại cung của Đế Thích có một trong bốn mươi cái răng Phật, nay chúng tôi muốn thỉnh về nhân gian để tạo phước, có được chăng? Sau đó Luật sư bảo Thiên sứ truyền đạt ý này lên Đế Thích. Đế Thích hẹn bảy ngày sau sẽ chuyển xuống. Ngài Nghĩa Tương lễ kính xong, xin được tôn trí ở đại nội.
Đến đời Huy Tông nhà Tống, triều đình tin theo Tả đạo, bấy giờ người trong nước truyền lời sấm rằng: "Kim nhân bại quốc", môn đồ của giặc khăn vàng truyền tụng. Nhật quan tâu rằng: "Kim nhân (người vàng) tức là Phật giáo, không có lợi cho quốc gia". Rồi cùng nhau nghị bàn phá diệt Phật pháp chôn Sa-môn, đốt kinh điển, đóng một chiếc thuyền nhỏ chở răng Phật thả ngoài biển lớn, tùy duyên trôi nổi. Vừa lúc sứ thần của bản triều vào Tống, nghe được chuyện này bèn dùng năm mươi tấm nhung thiên hoa, ba trăm xấp vải tặng cho nội quan áp tải thuyền, để lén trao cho răng Phật, chỉ thả thuyền không trên biển. Sứ đã được răng Phật trở về tâu lại, Duệ Tông vô cùng mừng rỡ, tôn trí trong một điện nhỏ bên trái Thập Viên điện, luôn luôn khóa chắc cửa điện, thắp hương đèn bên ngoài. Đến ngày vua thân hành đến thì mới mở cửa để chiêm lễ. Đến năm Nhâm Thìn, một hôm dời cung, nội quan trong lúc bận rộn đã quên không thâu kiểm lại. Đến tháng bốn năm Bính Thân, Thích Ôn Quang trụ trì chùa Thần Hiếu ở ngự Nguyện Đường xin được lễ kính răng Phật, tâu lên vua, vua sai nội quan tìm khắp trong cung mà không được. Bấy giờ Bá Đài thị ngự sử Thôi Xung sai Tiết Thân gấp đến phòng của các xá nhân điều tra, nhưng không ai biết nơi đâu. Lúc ấy nội quan Kim Thừa Lão tâu rằng:
- Lúc dời cung vào năm Nhâm Dần, hãy xem lại nhật ký của Tử Môn mà suy tìm.
Vua thuận theo. Nhật ký ghi: "Nhập nội thị Đại Phủ Khanh Lý Bạch Toàn nhận hòm răng Phật". Triệu Lý đến tra hỏi. Lý đáp: "Xin trở về nhà tìm lại nhật ký riêng". Lý trở về nhà kiểm lại xem thì có ghi: "Xá nhân Tả Phan tên là Kim Thụy Long ký nhận một hòm răng Phật"; đến trình, liền triệu Thụy Long đến hỏi; Thụy Long không trả lời được. Vả lại Kim Thừa Lão tâu rằng:
- Năm Nhâm Thìn đến năm Bính Thân là năm năm, hạ ngục tra hỏi tất cả các Thượng Thú ở Ngự Phật đường và Cảnh Linh điện!
Vua còn do dự chưa quyết định, thì ba hôm sau, trong đêm bỗng có tiếng một vật gì ném rớt ở trong tường rào nhà Thụy Long, đốt đèn kiểm tra thì thấy hòm chứa răng Phật. Hòm vốn có năm lớp: Lớp thứ nhất trong cùng là trầm hương, lớp thứ hai là vàng ròng, lớp thứ ba là bạch ngân, lớp thứ bốn là lưu ly, lớp thứ năm ngoài cùng là hộp khảm xa cừ; mỗi mỗi lớp hộp đều có bọc lụa, nay chỉ còn hòm lưu ly mà thôi.
Tìm được mọi người đều vui mừng dâng nạp vào nội cung. Quần thần nghị bàn nên chém Kim Thụy Long và Thượng Thú của hai điện. Nhưng Tấn Dương Phủ tâu rằng: Vì Phật sự, chẳng nên làm tổn thương nhiều người, vua bèn tha tất cả, lại sai tạo điện Phật Nha trong sân Thập Viên điện để tôn thờ, phái tướng sĩ canh giữ nghiêm ngặt. Lại chọn ngày tốt thỉnh Thượng Phòng Ôn Quang ở chùa Thần Hiếu và ba mươi đồ chúng vào cung thiết trai cúng dường. Ngày hôm ấy Nhập Trực Thừa Tuyên Thôi Hoằng, Thượng Tướng Quân Thôi Công Diễn, Lý Linh Trường, nội thị, trà phòng... đều đứng trước sân Phật nha điện theo thứ tự quỳ lạy kính lễ. Răng Phật đã được đặt vào hang động, còn xá-lợi chẳng biết số lượng, Tấn Dương Phủ dùng hòm bạch ngân để cất chứa và tôn thờ. Bây giờ Chúa thượng nói với quần thần rằng: Từ khi mất răng Phật đến nay, trẫm có bốn điều nghi:
1. Nghi hết hạn bảy ngày của Thiên cung mà trở về trời.
2. Nghi trong nước có loạn như thế mà răng Phật là linh vật, ắt dời đến nước có duyên và vô sự.
3. Nghi kẻ tiểu nhân tham tài trộm lấy hòm, lụa rồi vứt bỏ ngoài bờ ao hốc núi.
4. Nghi kẻ trộm lấy vật báu không có kế gì tự trả xá-lợi, mới cất giấu trong nhà.
Nay đúng vào điều nghi thứ bốn. Nói xong bèn khóc lớn, tất cả quần thần đều rơi lệ, rồi hiến lễ chúc thọ Thánh quân đến nỗi có người đốt đỉnh đầu, đốt cánh tay không thể kể hết.
Được sự thật này là vào trước lúc tịnh tu ở Nội điện, lúc bấy giờ Đại Thiền sư Giác Thu ở chùa Kỳ Lâm nói chính mắt trông thấy, bảo tôi ghi chép lại. Đến năm Canh Ngọ gặp phải loạn Xuất Đô, tình thế còn rối ren hơn cả năm Nhâm Thìn, bấy giờ Thiền sư Tâm Giám là Giám chủ Thập Viên điện liều thân ôm giữ bảo vệ xá-lợi chạy thoát quân giặc, đưa vào đại nội. Vua vô cùng vui mừng ban thưởng công lao, rồi cho trụ một danh sát (chùa lớn), đến nay trụ chùa Băng Sơn. Điều này cũng chính nghe Thiền sư Giám kể lại.
Năm Ất Dậu niên hiệu Thiên Gia đời Chân Bình Vương, sứ nhà Trần là Lưu Trung và Thích Minh Quán mang đến hơn một ngàn bảy quyển kinh luận nhà Phật; năm Trinh Quán thứ mười bảy, Pháp Sư Từ Tạng thỉnh về Tam Tạng Kinh Điển gồm hơn bốn trăm hòm tôn trí tại chùa Thông Đô. Năm Đinh Mùi, niên hiệu Đại Hòa thứ nhất đời Hưng Đức Vương, vị Tăng Cao Ly vào tu học là Thích Khâu Đức đã mang đến rất nhiều hòm kinh Phật, Vương và chư Tăng các chùa đều ra trước chùa Hưng Luân nghinh đón. Trong niên hiệu Đại Trung, sứ thần Nguyên Hoằng sang Đường thỉnh về rất nhiều pho kinh điển. Cuối triều đại Tân La, Thiền Sư Phổ Diệu một lần nữa lại sang Ngô Việt thỉnh về một bộ Đại Tạng Kinh, ngài là Tổ Khai Sơn chùa Hải Long Vương. Năm Giáp Tuất, niên hiệu Nguyên Hựu đời Tống có người đặt bài chân tán rằng:
Lớn lao thay Sơ Tổ!
Uy nghiêm thay chân dung!
Lại sang cõi Ngô Việt
Thỉnh Đại Tạng hoàn thành
Sắc ban hiệu Phổ Diệu
Hạ chiếu khắp bốn phương
Nếu hỏi đến đức Sư
Đồng trăng trong gió mát.
Trong niên hiệu Đại Định, Hán Nam Quản Ký Bành Tổ Địch có bài thơ rằng:
Dạo chơi Lan-nhã, trụ không vương,
Hà huống Thần Long hộ một phen
Rốt ráo danh lam ai được thế
Sơ truyền tượng giáo từ nam phương.
Lại có lời bạt rằng: Khi xưa lúc Thiền sư ở Phổ Diệu mới thỉnh Đại Tạng ở Nam Việt, đến khi trở về, sóng gió ở biển khơi bỗng nổi mạnh, thuyền lên xuống trong sóng dữ. Sư nói rằng: "Ắt là Thần Long muốn giữ kinh lại!", bèn chú nguyện chân thành, gồm đưa Thần Long cùng trở về. Lúc ấy gió yên biển lặng. Sau khi trở về, Sư đi khắp các núi sông để tìm nơi tôn trí Đại Tạng, khi đến núi này bỗng nhiên thấy mây lành hiện trên đỉnh, bèn cùng với đệ tử là Hoằng Khánh sáng lập Liên xã. Như thế tượng giáo truyền đến phương Đông thật bắt đầu từ đây. Hán Nam Quản Ký Bành Tổ Địch Tự có Long Vương Đường, thường hiện nhiều điềm linh dị, đó là Thần Long bảo hộ Đại Tạng Kinh theo về dừng trụ tại chùa này đến nay vẫn còn. Vào năm Mậu Tý, niên hiệu Thiên Thành thứ 3, Hòa thượng Mặc sang nước Đường cũng đã thỉnh Đại Tạng Kinh về nước. Vào thời Duệ Miếu của Bản Triều, Quốc sư Tuệ Chiếu vâng sắc sang Trung Quốc cầu học thỉnh về ba bộ Đại Tạng bản đời Liêu, một bản nay còn cất giữ tại chùa Định Tuệ (chùa Hải Ấn có một bản, nhà Hứa Tham Chánh có một bản). Niên hiệu Đại An thứ hai, nhằm đời Tuyên Tông của triều ta, Hựu Thế Tăng Thống là ngài Nghĩa Thiên sang Tống, thỉnh về các bộ Thiên Thai Giáo Quán, ngoài các kinh sách này ra thì không mang về những gì. Còn tất cả những kinh sách mà các Cao Tăng tín sĩ qua lại hai nước mang theo về thì không thể ghi chép rõ ràng hết được. Thật là Đại giáo ở phương Đông dần dần hưng thịnh, mừng thay! Tán rằng:
Trăng Trung, gió Hàn còn cách biệt
Vườn nai, cây hạc đã hai ngàn
Nay truyền hải ngoại nên chúc tụng
Đông Chấn Tây Càn chỉ một trời.
Theo truyện ngài Nghĩa Tương trong bộ Thật Lục này thì đầu niên hiệu Vĩnh Huy sang Trung Quốc tham yết ngài Trí Nghiễm. Nhưng theo Phù Thạch Bản Bi thì ngài Nghĩa Tương sinh vào niên hiệu Võ Đức thứ tám, hai mươi tuổi xuất gia, năm Vĩnh Huy thứ nhất tức năm Canh Tuất, cùng với ngài Nguyên Hiểu kết bạn muốn sang Trung Hoa cầu học, nhưng đến Cao Ly, gặp lúc nước này có loạn nên trở về. Đến năm Tân Dậu, niên hiệu Long Sóc thứ nhất, ngài Nghĩa Tương sang Trung Quốc tham học nơi ngài Trí Nghiễm. Năm Mậu Thìn niên hiệu Tổng Chương thứ năm ngài Trí Nghiễm thị tịch. Năm Hàm Thuần thứ hai, Sư trở về Tân La; năm Nhâm Dần niên hiệu Trường An thứ hai Sư thị tịch thọ bảy mươi tám tuổi. Vậy nghi rằng Sư và ngài Trí Nghiễm thọ trai tại trụ xứ của Tuyên Luật Sư, xin rằng Phật từ Thiên Cung trong khoảng thời gian bảy, tám năm từ năm Tân Dậu đến năm Mậu Thìn. Cao Miếu của bản triều vào Giang Đô là vào năm Nhâm Thìn, vậy nghi hết hạn bảy ngày của Cung trời là sai lầm. Vì một ngày một đêm ở cõi Đao-lợi bằng một trăm năm ở nhân gian, mà từ ngài Nghĩa Tương mới vào Trung Quốc năm Tân Dậu, tính đến năm Nhâm Thìn đời Cao Miếu thì mới có sáu trăm chín mươi ba năm, đến năm Canh Tý mới tròn bảy trăm năm, mà nói là mãn bảy ngày. Nếu tính đến lúc xuất Đô năm Canh Ngọ, niên hiệu Chí Nguyên thứ bảy thì thành bảy trăm ba mươi năm. Nếu như lời Đế Thích nói sau bảy ngày trả về (?) Thiên Cung, thì khi Thiền sư Tâm Giám gặp loạn phải xuất đô, mang theo bên mình vào đại nội dâng lên vua, e rằng đó chẳng phải là răng Phật thật. Bởi vì mùa xuân năm này trước khi xuất đô, các bậc danh đức của các Tông vân tập tại đại nội để xin răng Phật và xá-lợi, tuy rất thiết tha thành khẩn mà chẳng được một hạt; thế thì hết bảy ngày răng Phật trả về Thiên Cung là không đúng. Đến năm Giáp Thân, niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi mốt khi tu bổ Kim tháp chùa Quốc thanh, Quốc Vương và Trang Mậu Vương Hậu đến chùa Diệu Giác, sau khi tập chúng chúc mừng xong bèn thỉnh răng Phật, xâu chuỗi thủy tinh ở Lạc sơn và như ý châu cho quần thần và đại chúng chiêm bái kính lễ. Sau đó đồng đặt vào kim tháp.
Tôi cũng có tham dự hội này, chính mắt trông thấy răng Phật dài khoảng ba tấc, mà không có xálợi (Vô Cực ghi).
- Di-lặc tiên hoa
- Mạt Thị Lang
- Sư Chân Từ
Đời thứ hai mươi bốn của Tân La là Chân Bình Vương, họ Kim, tên là Sam Lăng Tông, còn gọi là Thâm Lăng Tông, lên ngôi năm Canh Thân, niên hiệu Đại Đồng thứ sáu đời Lương. Vì mến mộ chí lớn của bá phụ là Pháp Hưng Vương nên một lòng phụng Phật, xây dựng chùa Phật khắp nơi, giúp độ người làm Tăng Ni. Vương có bản tính phong lưu chuộng thần tiên. Chọn những người con gái tuyệt đẹp phong làm Nguyên Hoa, mục đích là tụ tập đồ chúng, tuyển chọn học sĩ dạy cho hiếu để, trung tín và cả việc lớn trị quốc. Vương chọn hai hoa là Nam Mao Nương và Giao Trinh Nương rồi tụ tập ba, bốn trăm người. Giao Trinh ganh tị với Mao Nương, chuốc rượu cho Mao Nương say rồi lén khiêng bỏ vào trong Bắc Xuyên, dùng đá lấp chết. Đồ chúng không biết Mao Nương đi đâu, khóc lóc buồn bã mà tản mác hết. Sau có người biết âm mưu này, làm bài ca rồi dụ các đứa bé trong thôn xóm ra đường ca hát, đồ chúng của Mao Nương nghe được, nên tìm thấy xác Mao Nương trong Bắc Xuyên, rồi giết chết Giao Nương. Từ đó Vương hạ chiếu phế bỏ Nguyên Hoa. Trải qua nhiều năm Vương lại nghĩ rằng muốn làm cho đất nước hưng thịnh, trước cần phải có đạo phong nguyệt, do đó hạ lệnh tuyển chọn những người nam có đức hạnh trong các gia đình hiền lương làm Hoa Lang; đầu tiên tôn Tiết Nguyên Lang làm Quốc Tiên; đây là khởi đầu của Quốc Tiên Hoa Lang, cho nên dựng bia ở Minh châu. Từ đó dạy mọi người bỏ ác tu thiện, kính trên thuận dưới, Ngũ thường lục nghệ, Tam Sư lục chánh* được thực hành rộng rãi trong đời (Quốc sử nói năm Bính Thân, niên hiệu Đại Kiến thứ tám đời Chân Trí Vương mới đặt ra Hoa Lang, e rằng sử ghi lầm). Đến đời Chân Trí Vương có Sa-môn Chân Từ (còn gọi là Viên Từ) thường đến trước tượng Bồ-tát Di-lặc phát nguyện rằng:
- Xin Đức Đại Thánh hóa làm Hoa Lang xuất hiện ở đời, con nguyện luôn gần gũi chiêm ngưỡng tôn dung, phụng sự đầy đủ!
Chân Từ với tâm chí thành cầu khẩn, ngày càng thêm tha thiết. Một đêm nằm mộng thấy một vị Tăng đến nói rằng: "Ngươi đến chùa Thủy Nguyên ở Hùng Xuyên (nay là Công châu) sẽ gặp được Dilặc Tiên Hoa!". Chân Từ tỉnh thức lòng vừa sợ vừa mừng, liền lên đường tìm đến chùa này, cứ mỗi bước một lạy, trải qua mười ngày thì đến được. Vừa đến cổng chùa thì thấy một người nhỏ nhắn, chân thật, vui vẻ đón tiếp dẫn qua một cửa nhỏ rồi mời vào phòng khách. Chân Từ vừa đứng dậy vừa chắp tay vái mà nói rằng:
- Xưa nay ngài chưa từng quen biết tôi, vì sao vừa gặp lại đón tiếp ân cần như thế?
Vị kia đáp rằng:
- Tôi cũng là người kinh thành, thấy thầy hành nghi cao vời, từ xa nhọc nhằn mới đến được đây nên như vậy.
Nói xong liền ra khỏi cửa không biết đi đâu. Chân Tạng cho rằng việc ngẫu nhiên, nên không lấy làm lạ lắm. Chỉ thuật lại giấc mộng hôm trước và ý muốn đến đây cho chúng tăng trong chùa biết, rồi hỏi rằng:
- Xin tạm trú ở nơi đây, muốn đợi Đức Di-lặc Liên Hoa phải làm thế nào?
Chúng Tăng trong chùa khinh thường, cho Sư đãng trí, nhưng thấy Chân Từ tỏ vẻ chân thành kính cẩn mà nói rằng:
- Gần đây về hướng Nam có ngọn Thiên sơn, là nơi mà xưa nay các bậc Hiền Thánh cư ngụ, thường có cảm ứng, Sư nên đến đó.
Chân Từ nghe theo, vừa đến chân núi, Sơn thần hóa thành một ông lão ra đón tiếp và hỏi rằng:
- Ngài đến đây làm gì? Chân Từ đáp rằng:
- Cầu được thấy Di-lặc Tiên Hoa! Ông lão bèn nói:
- Đã thấy Di-lặc Tiên Hoa nơi cổng chùa Thủy Nguyên khi trước rồi, còn đến đây tìm gì?
Chân Từ nghe nói vậy thì thất kinh toát mồ hôi, vội trở về bản tự. Được hơn một tháng, Chân Trí Vương nghe được bèn triệu đến hỏi nguyên do. Chân Từ đáp:
- Người ấy tự xưng là người kinh đô, thật lời của bậc Thánh chẳng hư dối, vậy nên tìm kiếm trong thành!
Chân Từ phụng chỉ tập họp đồ chúng, đi khắp thôn xóm thăm hỏi tìm cầu. Bấy giờ có một đứa bé hai má hồng hào, mắt mày thanh tú, xinh đẹp đang ung dung dạo chơi nơi gốc cây bên đường ở đông bắc chùa Linh Diệu. Chân Từ vừa trông thấy kinh ngạc tự nói rằng: "Đây hẳn là Di-lặc Tiên Hoa! Rồi đến hỏi rằng:
- Nhà con ở đâu, tên họ là gì? Đứa bé đáp:
- Tôi tên là Vị Thi, lúc mới sinh ra cha mẹ đều qua đời nên chưa biết họ gì?
Chân Từ liền bồng lên xe đưa về cung diện kiến Vương. Vương rất thương kính, tôn làm Quốc Tiên. Quốc Tiên luôn hòa hiếu với mọi người, lễ nghi cốt cách khác với người thường, phong độ sáng ngời nơi trần thế. Đến năm bảy tuổi bỗng nhiên không biết đi đâu, Chân Từ buồn nhớ không nguôi. Nhưng đã thấm nhuần từ ân, vâng theo sự giáo hóa mà có thể tự cải hối, siêng năng tu đạo; về già không biết Sư thị tịch ở đâu. Người thuyết cho rằng: Chữ Vị với chữ Di đồng âm, chữ (thi) và chữ (lực) tựa đồng hình. Đó là nhờ sự tương cân để so sánh đối chiếu. Bậc Đại Thánh không chỉ cảm tâm chí thành của Chân Từ mà còn có duyên với cõi này, cho nên thường thị hiện như thế. Đến nay mọi người gọi Thần Tiên là Di-lặc Tiên Hoa. Phàm việc gì có quan hệ đến người thì gọi là Vị Thi, đó là di phong của ngài Từ Thị. Cây bên đường nay gọi là Kiến Lang thọ, tục gọi là Tự Như thọ (còn gọi là Ấn Như thọ). Tán rằng:
Mỗi bước một lễ tìm tôn dung
Chốn chốn vung trồng cõi đức công
Khắp nơi xuân về không tung tích
Nào hay bỗng chốc hiện bên rừng.
- Hai vị Thánh ở Nam Bạch Nguyệt
- Nỗ Bi Phu Đắc
- Đát Đát Phác Phác
Bạch Nguyệt Sơn Lưỡng Thánh Thành Đạo Ký ghi: Núi Bạch Nguyệt ở về phía Bắc quận Cừu Sử, Tân La (xưa là Khuất Tư quận nay là Nghĩa An quận), cảnh trí thật kỳ tú, núi non uốn lượn chập chùng, kéo dài vài trăm dặm, đúng là một dãy núi lớn. Từ xưa đã tương truyền rằng: Hoàng đế nhà Đường từng sai người đục một cái hồ, cứ trước ngày rằm mỗi tháng ánh trăng trong sáng chiếu soi xuống mặt hồ, trong đó có ánh hiện một hòn núi đá, tựa như hình con sư tử ẩn trong một đóa hoa, bấy giờ vị hoàng đế ấy sai người vẽ lại hình ảnh này, rồi đi khắp trong thiên hạ tìm kiếm, khi đến Hải Đông thấy núi này có ngọn Sư Tử nham, cách núi này khoảng hai bộ có ba hòn núi khác, gọi là Hoa sơn (núi này một thân mà ba ngọn, nên gọi là Tam Sơn), giống với bức họa, nhưng chưa biết là thật hay giả, mới treo một chiếc giày trên đỉnh Sư Tử nham rồi sai người về tâu lên hoàng đế, thì thấy chiếc giày cũng có hiện trong mặt hồ, Đế cho là điều lạ, mới đặt tên là Bạch Nguyệt Sơn (ảnh hiện trong đêm trăng sáng trước ngày rằm, nên đặt tên như thế), sau đó thì trong hồ không có hiện núi. Cách núi khoảng ba ngàn bộ về phía Đông nam có Tiên Xuyên Thôn, trong thôn có hai người, một người tên là Nổ Bi Phu Đắc (hoặc Đẳng) cha là Nguyệt Tạng, mẹ là Vị Thắng; một người tên là Đát Đát Phác Phác, cha tên là Tu Phạm, mẹ là Phạm Ma (Hương truyện ghi: Trỉ Sơn Thôn là sai lầm tên của người này thuộc phương ngôn. Hai nhà này mỗi mỗi lấy hai nghĩa đằng đằng và khổ tiết về tâm hạnh của hai người con ấy mà đặt tên). Cả hai đều cốt cách bất phàm, có tâm vượt ngoài thế tục, kết bạn nhau rất thân. Đến năm hai mươi tuổi cả hai đến lễ ngài Pháp Tích Phòng ở ngọn núi phía Đông bắc Thôn cầu xuất gia làm Tăng. Chưa bao lâu nghe nói ở Tăng đạo thôn thuộc pháp Tông Cốc, Tây nam Trỉ Sơn thôn có một ngôi chùa cổ, có thể làm nơi an dưỡng tu tập, nên hai người đến hai động Đại Phật Điền và Tiểu Phật Điền để ở. Phu Đắc ngụ tại Hoài Chân am còn gọi là Hoài tự (nay ở động Hoài Chân còn nền chùa cũ). Phác Phác trụ tại chùa Lưu Ly Quang (nay trên Lê Sơn còn nền chùa cũ). Cả hai đều dẫn theo vợ con kinh doanh sản nghiệp, qua lại giao du tu tâm an dưỡng mà chí xuất trần chưa từng phế bỏ; luôn quán xét thân này vô thường. Nhân đó cả hai nói với nhau rằng:
- Ruộng tốt được mùa tuy thuận lợi, nhưng chẳng bằng vừa khởi niệm thì y thực liền đến, được ấm được no. Vợ con nhà cửa tuy tình đẹp, nhưng chẳng bằng nơi ao sen, hoa tạng cùng ngàn thánh dạo chơi, đồng anh vũ không được kia vui thú huống gì học Phật sẽ được thành Phật, tu chân ắt sẽ chứng chân. Nay chúng ta đã bỏ danh lợi làm tăng thì nên xa lìa sự trói buộc, thành tựu đạo vô thượng, đâu để chìm nổi chốn phong trần, đồng với thế tục được ư?
Do đó cả hai xả bỏ thế gian, vào ẩn cư nơi hang sâu núi thẳm, một đêm kia mộng thấy một luồng ánh sáng trắng từ phía Tây chiếu đến, trong có cánh tay màu vàng ròng đưa ra xoa đỉnh đầu của hai người. Đến khi thức dậy kể lại với nhau thì đều phù hợp, cả hai cảm thán hồi lâu, rồi vào Vô Đẳng cốc (nay là động Nam Tẩu) ở Bạch Nguyệt sơn, Phác Phác đến Sư Tử nham ở Bắc núi lập một am bằng ván mỗi bề tám thước để cư trụ, cho nên gọi là Bản Phòng. Phù Đắc đến nơi có suối dưới Lỗi Thạch ở Đông của núi mà lập một phương trượng để cư trụ, nên gọi là Lỗi Phòng (Hương truyện ghi, Phù Đắc ở tại động [] [] phía Bắc, nay là tên phức hợp. Còn Phác Phác trụ tại Lỗi Phòng động Pháp Tịnh ở phía Nam; như thế thì trái ngược với ở đây. Lấy đó mà xét thì Hương Truyện lầm). Phù Đắc siêng năng cầu ngài Di-lặc, Phác Phác chuyên lễ niệm Đức Diđà. Chưa đầy ba năm, vào ngày mồng tám tháng bốn năm Kỷ Dậu, niên hiệu Cảnh Long thứ ba nhằm năm thứ tám đời Thánh Đức Vương, lúc trời sắp tối có một người con gái độ hai mươi tuổi, dung nghi tuyệt mỹ, thân tỏa hương thơm bỗng nhiên đến Bắc am (Hương truyện ghi là Nam am, xin tá túc qua đêm. Nhân đó làm bốn câu thơ rằng:
Lữ hành trời tối gặp ngàn non
Đường hiểm thành xa chẳng xóm làng
Nay muốn vào am xin tá túc
Hòa thượng Từ bi chớ nổi sân.
Phác Phác nói rằng: "Lan-nhã, giữ cho thanh tịnh là cần yếu, chẳng phải là nơi để cô tá túc, không thể lưu lại nơi đây". Nói xong đóng cửa mà vào (Ký ghi: Ta đã bặt dứt các niệm, nay không vì lòng xót thương mà bị thử thách). Cô gái phải đến am phía Nam (truyện ghi là Bắc) cũng xin như thế. Phụ Đắc hỏi:
- Cô ở nơi nào mà đêm hôm nay lại đến đây? Cô gái đáp:
- Trong lặng đồng như thái hư, nào có đến đi. Chỉ được nghe hiền sĩ có chí nguyện sâu nặng, đức hạnh cao vời bền vững, nên muốn đến trợ giúp thành Bồ đề. Nói xong đọc bài kệ rằng:
Tối trời gặp ngàn non
Bốn phía không xóm làng
Trúc tòng bóng đã sẫm
Khe động âm còn vang
Xin ở, chẳng lạc đường
Tôn sư muốn đến bờ
Xin theo lời tôi thỉnh
Chớ hỏi là người nào!
Sư Phu Đắc nghe xong kinh hãi nghĩ rằng: Nơi đây không thể để phụ nữ làm dơ uế, nhưng vì tùy thuận chúng sinh, cũng là một trong Bồ-tát hạnh. Huống gì lúc đêm hôm, nơi thâm sơn cùng cốc này ta có thể làm ngơ ư? Do đó mới đón người con gái vào am cho nghỉ ngơi. Đến đêm khuya thức dậy lắng tâm, nhiếp định, ngồi một mình bên ngọn đèn lờ mờ lâm râm niệm Phật. Trời gần sáng bỗng người con gái gọi rằng:
- Chẳng may tôi vừa đến kỳ sinh sản, xin Hòa thượng chuẩn bị đầy đủ đệm cỏ.
Phu Đắc xót thương, không dám trái lời, bèn đốt đèn ân cần lo liệu. Người nữ đã sinh xong lại xin được tắm rửa. Phu Đắc trong tâm vừa xấu hỗ vừa kinh sợ, nhưng lòng xót thương càng tăng thêm chứ không mất, nên lại chuẩn bị than bồn, đặt người nữ ngồi trong đó rồi nấu nước nóng tắm rửa. Không bao lâu nước trong bồn xông mùi thơm ngào ngạt, biến thành nước vàng, Nổ Bi vô cùng kinh sợ. Người nữ bèn nói: "Thầy cũng nên tắm nước này đi!". Nổ Bi miễn cưỡng nghe theo, thì bỗng nhiên thấy tinh thần hào sảng, da dẻ có màu vàng ròng, nhìn qua bên thì thấy hiện một đài sen. Người nữ bảo Nổ Bi ngồi lên đó, rồi bảo rằng: "Ta là Bồ-tát Quan Âm đến giúp Đại sư thành tựu Bồđề". Nói xong liền biến mất.
Đêm đó Phác Phác cho rằng Nổ Bi đã phạm giới, nên đến để xét xử. Vừa đến đã thấy Nổ Bi ngồi trên đài sen như Tôn tượng Di-lặc phóng ánh sáng, toàn thân màu vàng Diêm Phù đàn, bất giác Phác Phác dập đầu lễ lạy và hỏi rằng:
- Vì sao mà được như thế?
Nổ Bi thuật lại đầy đủ sự việc đã xảy ra. Phác Phác nghe xong tự than trách rằng:
- Tôi có tội chướng sâu dày, may mắn gặp bậc Đại Thánh mà trái lại chẳng được gặp. Đại Đức là bậc chí nhân, thành tựu trước tôi. Xin chớ quên lời hẹn khi xưa, về sự phải đồng dẫn dắt nhiếp phục.
Nổ Bi nói rằng:
- Còn một ít nước trong bồn, có thể dùng để tắm! Phác Phác liền nghe theo, thì cũng như Nổ Bi, thành Đức Vô Lượng Thọ, hai tôn vị uy nghiêm ngồi đối diện nhau. Nhân dân trong thôn dưới núi nghe tin tranh nhau đến chiêm ngưỡng, khen là việc chưa từng có. Hai vị Thánh cùng thuyết pháp yếu rồi toàn thân thăng lên mây mà đi mất. Vào năm Ất Mùi, niên hiệu Thiên Bảo mười bốn, tức năm mười bốn đời Cảnh Đức Vương của Tân La
(Cổ ký ghi: Năm Ất Mùi, niên hiệu Thiên Giám hai mươi bốn, Pháp Hưng Vương lên ngôi. Vì sao lại lầm lẫn trước sau như thế!). Vương nghe được việc này, nên năm Đinh Dậu sai người xây dựng đại Già-lam, đặt tên làm Bạch Nguyệt Sơn Nam tự; ngày năm tháng bảy năm Giáp Thìn, niên hiệu Quảng Đức thứ hai (Cổ ký ghi: Năm Đại Lịch thứ nhất là lầm) thì hoàn thành. Lại tạo tôn tượng Dilặc thờ ở Kim Đường, đề là: Hiện Thân Thành Đạo Di-lặc Chi Điện, tạo tôn tượng Di-đà thờ ở Giảng Đường. Vì nước còn lại chẳng đủ, tắm rửa không được chu toàn nên tượng Di-đà cũng có những vết loang lổ, đề là: Hiện Thân Thành Đạo Vô Lượng Thọ điện.
Bàn rằng: Về người nữ này, có thể nói là:
"Đáng dùng thân phụ nữ để nhiếp hóa vậy". Kinh Hoa Nghiêm nói Ma Gia Phu Nhân là Thiện tri thức, nương vào mười một cõi sinh Phật là pháp môn giải thoát, như huyễn. Nay người nữ này sinh thì mật ý ở tại đây. Xem lời thơ thì thật là ai oán đáng thương, nhưng lại uyển chuyển có ý thú của bậc thiên tiên. Than ôi! Ví như người nữ kia không biết ngữ ngôn Đà-la-ni tùy thuận chúng sinh, mà có thể như thế ư? Cuối cùng nên nói: "Gió mát một giường chớ nổi sân", nhưng không như thế, bởi vì chẳng muốn đồng với lời nói của thế tục vậy. Có bài tán:
Bắc am:
Ngoài động thẩm xanh có tiếng kêu
Đêm tối mà ai gõ then mây?
Nam am gần đó xin tìm đến
Chớ dẫm rêu xanh nhớp chốn này.
Nam am:
Cùng cốc, đêm đen đến chốn nào?
Cửa Nam có mở hãy tạm vào
Đêm khuya thức giấc thầm thầm niệm
Chỉ sợ khách nghe thức giấc nồng.
Thánh nương:
Mười dặm mịt mờ lạc mất tăm
Hỏi Tăng đến tạm ngụ qua đêm
Ba bồn tắm xong trời sắp sáng
Sinh hạ hai con ném về Tây.
Vào đời Cảnh Đức Vương, có một người đàn bà tên là Hy Minh ở làng Hán Kỳ sinh một đứa con trai, vừa lên năm tuổi, bỗng nhiên hai mắt bị mù. Ngày kia người mẹ bồng đứa bé vào chùa Phấn Hoàng, đứng trước họa tượng Thiên Thủ, Đại Bi ở tường phía Bắc của Tả Điện, bảo đứa bé xướng lời ca cầu nguyện, thì mắt trở lại sáng như xưa.
(Bài ca)
Tất bi cổ triệu
Nhị thi chưởng âm mao hồ chi nội lương
Thiên Thủ Quán Âm sắt tiền lương trung
Kỳ sĩ chi bạch ốc thi trí nội hồ đa
Thiên ẩn thủ
Sất thiền ẩn mục bi
Nhất đẳng hạ sất phóng nhất đẳng bi trừ ác chi
Nhị vu vạn ẩn ngô la nhất đẳng sa ẩn tứ dĩ cổ chỉ nội hồ sất đẳng tà a dã
Ngô lương di tri chi tứ thi đẳng yên Phóng đông hỷ dụng ốc thi từ bi dã căn cổ.
Tán rằng:
Ngựa trúc, sáo hành đùa khắp nẻo
Một hôm hai mắt bỗng bị mù
Chẳng nhờ Đại sĩ ban từ nhãn
Luống uổng bao xuân hoa liễu khoe.
Khi xưa, lúc Pháp sư Nghĩa Tương mới từ Đường trở về, nghe nói chân thân của Đức Đại Bi trụ trong hang động bên bờ biển này, do đó mà đặt tên là Lạc Sơn. Vì Tây Vực có Bảo Đà Lạc Già Sơn, Trung Quốc dịch là Tiểu Bạch Hoa, là trụ xứ của Chân Thân Bạch Y Đại Sĩ, nên mượn địa danh ấy mà đặt tên cho núi này. Ngài Nghĩa Tương trai giới bảy ngày trải tọa cụ trên sông Thần, Long Thiên Bát Bộ theo sau đồng vào hang động tham lễ, từ không trung ban cho một xâu chuỗi thủy tinh, ngài Nghĩa Tương lãnh thọ rồi lui ra, bấy giờ rồng ở Đông Hải cũng hiến một viên Như Ý Bảo Châu, Sư cũng thọ nhận. Lại trải qua bảy ngày trai giới nữa thì thấy được Thánh dung. Đại sĩ dạy rằng: Nơi đỉnh núi, phía trên tòa này có hai cây trúc từ đất vọt sinh, nên tạo điện đường nơi ấy!".
Sư nghe xong liền lên đỉnh núi quả thật có hai cây trúc, bèn lập Kim đường, tạo tượng mà tôn thờ. Điện đường thật hoàn hảo, xinh đẹp, uy nghiêm như trời tạo ra, còn hai cây trúc thì biến mất, mới biết đúng là nơi chân thân an trụ. Do đó mà đặt tên chùa là Lạc Sơn. Sư dùng hai hạt châu đã được ban tặng trấn giữ nơi Thánh điện rồi đi. Sau đó có Pháp Sư Nguyên Hiểu, tiếp tục đến đây muốn được chiêm lễ, đầu tiên sư đến một đám ruộng ở phía Nam thành, thấy một người phụ nữ đang gặt lúa. Sư vui đùa xin lúa, người phụ nữ đùa trao cho sư lúa xấu. Sư lại đến bên một chiếc cầu, thấy có một người nữ đang giặt khăn, Sư bèn xin nước, người phụ nữ rót nước dơ cho Sư, Sư đổ đi rồi múc nước sông mà uống. Bấy giờ một con chim xanh đậu trên cây tòng trong rừng cất tiếng kêu rằng: "Hòa thượng Hưu Đề Hồ", rồi ẩn mất, chỉ thấy dưới cây tòng có một chiếc giày. Sau đó Sư đến chùa, lại thấy dưới tòa Quan Âm lại có một chiếc giày mà đã thấy trước đó. Bấy giờ mới biết Thánh nữ vừa gặp đúng là Chân thân Đại Sĩ. Vì thế người bấy giờ gọi Quan Âm Tòng.
Sư muốn vào hang động để thấy chân dung, nhưng sóng gió nổi lên không thể vào được, nên phải trở về. Vào niên hiệu Đại Hòa, Quật Sơn Tổ Sư Phạm Nhật sang Đường, lúc đến chùa Khai Quốc thấy có một vị Sa-di mất tai trái đang ở cuối chúng tăng nói với Sư rằng: "Tôi cũng là người cùng quê hương, nhà ở Phường Đức Kỳ, huyện Dực Lĩnh, Minh Châu; khi ngài trở về nước xin đến nhà tôi!"
Không bao lâu Sư đi khắp các Tòng lâm tham học, đắc pháp nơi ngài Diêm Quan (sự tích ghi đầy đủ ở Bản truyện), đến năm Đinh Mão, niên hiệu Hội Xương thứ bảy sư mới trở về nước. Đầu tiên Sư lập chùa Quật Sơn để truyền pháp. Ngày rằm tháng hai năm Mậu Dần niên hiệu Đại Trung thứ mười hai, ban đêm nằm mộng thấy vị Sa-di khi xưa đến bên cửa sổ nói rằng:
-Khi xưa tại chùa Khai Quốc ở Minh châu có ước hẹn với Sư, và đã được hứa khả, vì sao lại quá trễ như thế?
Tổ sư giật mình tỉnh giấc, dẫn vài mươi người đến huyện Dực Lĩnh, tìm hỏi nhà của vị Sa-di. Bấy giờ gặp một người đàn bà sống trong một thôn xóm dưới chân Lạc Sơn, hỏi tên thôn thì đáp là Đức Kỳ. Người này có một đứa con mới tám tuổi, thường đến chơi bên chiếc cầu đá ở phía Nam của thôn này, đứa bé nói với mẹ rằng: "Những đứa bé cùng chơi với con có một đồng tử thân màu vàng ròng!". Người mẹ thuật lại với Sư, Sư vừa mừng vừa sợ, cùng với đứa bé tìm đến bên chiếc cầu kia, thấy trong dòng nước có một tượng Phật bằng đá, sai người vớt lên thì thấy mất một tai trái, giống như vị Sa-di đã gặp khi trước, tức liền biết là tượng Bồtát. Nhân đó Sư bèn làm thẻ gieo quẻ chọn đất xây chùa, thì chọn được phía trên của Lạc Sơn là cát địa. Sư liền xây ba gian điện đường để tôn thờ Thánh tượng (Cổ ký chép việc của Phạm Nhật ở trước, việc của Nghĩa Tương và Nguyên Hiểu sau. Nhưng xét ra hai Sư Tương và Hiểu sống vào đời Cao Tông, còn Phạm Nhật sau năm Hội Xương, cách nhau hơn một trăm bảy mươi năm. Cho nên nay biên lại theo thứ tự. Hoặc cho rằng Phạm Nhật là môn đồ của Ngài Nghĩa Tương thì cũng sai lầm). Sau hơn một trăm năm lửa đồng hoang cháy lan đến núi này, chỉ có hai điện Thánh là không cháy, còn tất cả đều bị thiêu rụi. Từ khi chiến loạn Tây Sơn khởi đến nay, trong khoảng các năm Quý Sửu Giáp Dần, chân tượng hai vị Thánh và hai bảo châu được dời vào thành Tương Châu. Đại binh đến công phá thành rất gấp, lúc thành sắp bị phá, vị thiền sư trụ trì là A Hành (xưa gọi là Hy Huyền) dùng hộp bằng bạc đựng hai bảo châu rồi mang theo người chạy trốn. Một người giúp việc trong chùa tên là Khất Thăng đoạt lại, chôn sâu dưới đất và thệ rằng:
"Nếu tôi không tránh khỏi chết nơi binh loạn, thì hai hạt bảo châu này vĩnh viễn không còn xuất hiện ở nhân gian, vì không ai biết được. Nếu tôi không chết thì sẽ dâng hiến bảo châu cho đất nước!"
Ngày hai mươi hai tháng mười năm Giáp Dần thành bị phá vỡ, A Hành bị chết, nhưng Khất Thăng thì tránh được. Sau khi quân binh rút lui, Thăng đào hai bảo châu lên và nạp cho Giám Thương Sứ Minh Châu là Lang Trung Ký Lục Tuy. Sứ nhận lãnh cất trong kho Giám Thương, mỗi lần thay đổi chức vụ đều có truyền trao. Đến tháng mười một năm Mậu Ngọ, bậc kỳ túc trụ trì chùa Kỳ Lâm là đại Thiền sư Giác Thu tâu rằng: "Hai bảo châu ở Lạc sơn là thần bảo của quốc gia, khi thành Tương châu bị công phá, người giúp việc của chùa là Khất Thăng chôn trong thành. Sau khi quân binh rút lui đã đào lấy lên nạp cho Giám Thương Sứ cất trong kho ở Minh châu. Nay thành Minh châu sợ rằng chẳng thể giữ được, vậy nên chuyển về an trí ở nội phủ. "
Chúa Thượng y lời, ngay trong đêm đặc biệt sai mười người dẫn Khất Thăng đến thành Minh châu lấy đem về tôn trí ở nội phủ. Vương ban thưởng cho mười người phụ tá, mỗi mỗi một cân bạc và năm thạch gạo.
Khi xưa, lúc Tân La còn là kinh đô, có chùa Thế Quỳ (nay là chùa Hưng Giáo), trang viện của chùa này ở tại quận Nại Lý thuộc Minh châu (theo Địa Lý Chí, ở Minh châu không có quận Nại Lý, chỉ có quận Nại Thành, tức là quận Nại Sinh, nay là Ninh Việt. Nhưng huyện Lĩnh ở Ngưu Thủ châu có quận Nại Linh, vốn là quận Nại Dĩ, nay là Cương châu. Ngưu Thủ châu nay là Xuân châu. Ở đây nói Nại Lý quận thì chưa biết là quận nào?). Chùa sai vị Tăng tên là Điều Tín làm Tri trang. Tín đến trang xá thấy con gái của châu thú Kim Hân Công thì liền bị mê hoặc đắm say, thường đến trước tượng Đại Bi ở Lạc sơn khẩn cầu được gần gũi. Vài năm sau người con gái ấy có chồng. Tín đến trước điện đường oán than Đức Đại Bi không thỏa mãn lời khẩn cầu của mình, khóc lóc mãi đến chiều tối, tâm tư mỏi mệt, bỗng chốc thiếp đi. Trong mộng thấy Kim thị khoan thai từ ngoài cửa bước vào, tươi cười nói với Tín rằng: "Tôi sớm biết thượng nhân, gặp một lần lòng đã thương yêu, chưa từng phút giây quên lãng, ngặt vì cha mẹ cưỡng ép theo người nên mới đến đây xin nguyện kết thành vợ chồng. "
Tín vô cùng vui mừng, đồng dẫn về làng, chung sống hơn bốn mươi năm, sinh được năm con. Gia cảnh nghèo túng, cơm cháo không đủ ăn, khốn cùng ý mới dắt díu nhau, lây lất sống khắp bốn phương. Mười năm như thế, lưu lạc khắp xóm làng, áo quần rách nát không đủ che thân. Một hôm vừa đến Giải huyện ở Minh châu thì đứa con lớn nhất mười lăm tuổi vì đói quá nên lăn ra chết. Vợ chồng vô cùng thống khổ, vội chôn bên đường, rồi dắt bốn đứa còn lại đến huyện Vũ Khúc (nay là Vũ huyện), làm một túp lều tranh bên đường. Vợ chồng đã già mà còn bị bệnh, đói khát không thể nhấc nổi tay chân. Vì thế đứa con gái mười tuổi phải đi xin ăn, bị chó cắn đang nằm kêu la trước mặt. Cha mẹ thấy vậy cũng sụt sùi tuôn đôi dòng lệ. Bỗng người vợ lau khô nước mắt, tỉnh táo nói rằng:
"Khi tôi mới gặp anh thì tuổi còn trẻ, nhan sắc xinh đẹp, quần áo lụa là đầy đủ, được một món ngon thì cùng chia, được vài thước vải thì cùng hưởng, tình chẳng hề trái nghịch, ân ái thật khắn khít, có thể nói là duyên tình sâu đậm. Nhưng mấy năm gần đây bệnh tật ngày càng nặng, đói lạnh ngày càng bức bách, nhà nhà một miếng nước cũng chẳng cho, sự sĩ nhục của ngàn người nặng như gò núi. Con, đứa thì lạnh, đứa thì đói mà không kịp chu cấp, vậy đâu rảnh mà nghĩ đến tình vợ chồng vui thú? Cái cười diễm lệ của kẻ hồng nhan như giọt sương trên ngọn cỏ, tình nghĩa chi lan như tơ liễu trước gió. Anh vì có tôi mà bị lụy, tôi vì có anh mà phải phiền. Nghĩ kỹ thì ngày vui khi xưa chính là chỗ gá nương cho sầu khổ. Nào chàng, nào thiếp đến đây là cùng tận; đồng chịu đói khổ như bầy chim, mà nào biết một chim Loan kia có gương, lạnh thì bỏ, nóng thì mang theo, lòng chẳng nhẫn chịu được nữa. Nhưng đến đi chẳng phải do người, ly hợp đều có số mạng. Xin được từ biệt nơi đây!" Tín nghe nói vậy thì vui mừng đồng ý, mỗi người nuôi hai đứa con. Lúc sắp lên đường, người vợ nói rằng: "Tôi trở về quê cũ, còn anh nên đi về Nam!"
Mới vừa chia tay lên đường thì Tín liền tỉnh giấc. Bấy giờ đèn sắp tàn ánh sáng hiu hắt, đêm lại sắp qua; đến sáng thì đầu tóc đã bạc trắng, chán nản không còn nghĩ đến nhân thế, nhàm chán cuộc đời lao nhọc, như đã nhận đủ trăm năm cay đắng. Tâm tham nhiễm vĩnh viễn tiêu tan. Bấy giờ Điều Tín hỗ thẹn quỳ trước Thánh tượng chí thành sám hối không thôi. Sau đó đến Giải Hiện nơi chôn đứa con đã thấy trong mộng, thì gặp một tôn tượng Dilặc bằng đá, Tín liền lau rửa sạch sẽ an trí tại một ngôi chùa gần đó, rồi trở về kinh đô, không làm Tri trang nữa, dùng tất cả tài sản riêng lập chùa Tịnh độ, siêng năng tu tịnh nghiệp. Về sau không biết sư thị tịch ở đâu.
Bàn rằng: Đọc truyện này xong rồi xếp sách lại mà suy nghĩ xem, hà tất phải tin giấc mộng của Sư là thật như thế, nhưng nay đều biết rằng người đời cho là vui thú, rồi hoặc là sung sướng hoặc lao nhọc, chỉ vì chưa giác ngộ mà thôi! Nên làm vài lời thơ mà khuyên rằng:
Sướng thay bỗng chốc đã nhàn
Ngầm từ sầu khổ phai tàn dung nhan
Chẳng cần đợi chín kê vàng
Mới bừng giấc mộng nhân gian nhọc nhằn
Tu thân, trước ý phải thành
Từ trong mộng đẹp ẩn tàng ác mơ
Đâu như thu đến giấc hồ
Thường hằng say ngủ bên bờ thanh lương.
Cổ Ký ghi: Vạn Ngư tự xưa ở Từ Thành sơn. Lại bên cạnh A Da Tư Sơn (thường gọi là Ma Da Tư, dịch là Ngư) có nước Ha La, khi xưa trứng trời rơi xuống bờ biển, nở ra người, làm vua nước này, tức là Thủ Lộ Vương, bấy giờ trong nước có ao ngọc, trong ao có một con rồng dữ. Còn tại Vạn Ngư sơn có năm nữ La-sát thường giao du với nhau, nên trời thường nổi sấm chớp mưa lớn, trải qua bốn năm như thế, ngũ cốc không gieo trồng được. Vương thi triển cấm chú cũng không được, mới cúi đầu xin Phật thuyết pháp. Sau đó La-sát nữ thọ năm giới không còn làm hại nữa. Cho nên cá rồng ở Đông Hải bèn hóa làm những tảng đá chất đầy động, mỗi mỗi đều phát ra âm thanh như tiếng chuông tiếng khánh (theo Cổ Ký).
Xét vào năm Canh Tý niên hiệu Đại Định mười hai, tức là năm mười một đời Minh Tông mới lập chùa Vạn Ngữ. Quan đại thần Bảo Lâm dâng biểu tấu nói trong núi này có những di tích kỳ lạ, có ba điều phù hợp với việc Phật hiện ảnh ở nước Ha La, Bắc Thiên Trúc:
1. Ở ao Ngọc thuộc Lương Châu gần núi này cũng có một con rồng dữ ẩn náu.
2. Có lúc mây từ bờ sông bốc thẳng lên đỉnh núi, trong đó có tiếng nhạc.
3. Phía Tây bắc của Phật ảnh có một bồn đá không bao giờ cạn nước, là nơi mà đức Phật giặt ca-sa.
Ở trên đều là thuyết của Bảo Lâm. Nay đích thân đến chiêm lễ, cũng thấy hai việc rõ ràng đáng kính tin: 1. Đá trong động; hai phần ba đều có âm thanh như tiếng vàng tiếng ngọc; từ xa nhìn thì có hiện, đến gần thì chẳng hiện, hoặc thấy chẳng hiện. Văn nói về Bắc Thiên Trúc sẽ nói rõ ở sau. Kinh Quan Phật Tam-muội quyển bảy hòm chữ Khả ghi rằng: "Khi Đức Phật đến phía Nam núi A-na-tư trong hang La-sát phía Bắc núi Thanh Liên Hoa ở một bên rồng độc rừng Chiêm-bặc hoa núi Cổ Tiên nước Na-càn-ha-la, bấy giờ trong hang có năm vị La-sát nữ hóa làm rồng nữ qua lại với rồng độc. Rồng độc tuôn mưa đá các La-sát chạy loạn, đói khát bệnh tật, trải qua bốn năm, Vua rất lo sợ, cầu khẩn thần linh nhưng đều vô ích. Lúc bấy giờ có một phạm chí thông minh nhiều trí tâu rằng: "Tâu đại vương! Thái tử của vua Tịnh Phạn nước Giàtỳ-la nay đã thành đạo hiệu là Thích-ca!". Đại vương nghe thế thì vô cùng hoan hỷ hướng về Phật đảnh lễ và bạch rằng: "Vì sao hôm nay mặt trời Phật đã chiếu soi mà chưa đến nước này?"
Bấy giờ Đức Như Lai bảo các Tỳ-kheo đã được sáu thần thông đi theo mình, thuận lời thỉnh cầu của vua nước Na-càn-ha-la là Phất-bà-phù-đề, lúc ấy từ đỉnh đầu Thế Tôn phóng ánh sáng hóa ra một vạn chữ Thiên và hóa Phật đến nước kia. Các Long vương và La-sát nữ thấy Phật thì liền đảnh lễ và cầu Phật xin thọ giới. Đức Phật liền thuyết Tam quy, Ngũ giới. Long vương nghe xong, quỳ xuống chắp tay thỉnh: " Xin Phật thường trụ nơi này. Nếu Phật không trụ ở đây, con có ác tâm, không biết làm sao để thành A-nậu Bồ-đề. " Bấy giờ Phạm Thiên Vương lại đến lễ Phật, thỉnh: "Xin Đức Bà-già-bà vì các chúng sinh đời vị lai, không nên chỉ vì một con rồng nhỏ này. " Trăm ngàn Phạm Thiên đều thỉnh cầu như thế. Bấy giờ Long vương dâng đài bảy báu cúng dường Như Lai. Đức Phật bảo Long vương rằng: "Không cần đài này, chỉ cần ngươi cúng cho ta hang đá La-sát mà thôi!"
Long vương vui mừng vâng theo. Thế Tôn an ủi Long vương rằng: "Ta nhận lời thỉnh của ngươi; an trụ trong hang đá này!"
Trải qua một ngàn năm trăm, Đức Phật hóa toàn thân nhập vào đá, giống như tấm gương sáng người soi thấy mặt mày. Các Long vương đều hiện đến, Đức Phật trong đá ảnh hiện ra ngoài, các Long vương đều chắp tay, vui mừng không rời khỏi hang động, luôn thấy Phật. Bấy giờ Thế Tôn ngồi kiết già trong tường đá, khi chúng sinh từ xa nhìn thì hiện cho thấy, nếu đến gần thì chẳng hiện. Khi chư Thiên cúng dường ảnh, thì ảnh Phật cũng thuyết pháp. Khi Phật bước trên đá thì liền phát ra âm thanh như tiếng vàng ngọc chạm nhau.
Cao Tăng Truyện ghi: "Ngài Tuệ Viễn nghe nói ở Thiên Trúc có ảnh Phật; là khi xưa Đức Phật vì Long vương mà lưu lại trong thạch thất ở Cổ Tiên sơn, phía Nam thành Na-kiệt-ha nước Nguyệt chi Bắc Thiên Trúc. "
Tây Vực truyện của Pháp Hiển ghi: "Cách phía Nam thành Na-kiệt nước Na-kiệt khoảng nửa dotuần có một thạch thất, trong đó Đức Phật lưu lại ảnh ở mặt Tây nam của Bắc sơn, từ đây đứng cách xa hai mươi bước mà nhìn thì như thấy được chân hình của Phật, ánh sáng rực rỡ, đến càng gần thì thấy càng mờ. Các quốc vương thường sai họa sĩ mô phỏng vẽ lại, nhưng không giống. Người trong nước truyền rằng: "Một ngàn Đức Phật thời Hiền kiếp có lưu ảnh nơi đây. Cách nơi ảnh hiện khoảng một trăm bước là chỗ mà khi Phật còn tại thế ngồi cạo tóc và cắt móng tay... ".
Tây Vực Ký quyển hai, hòm chữ Tinh ghi: "Khi Như Lai còn tại thế con rồng này làm kẻ chăn bò, khi dâng sữa lạc cho vua, không đúng phép tắc nên bị khiển trách, từ đó sinh tâm oán hận, dùng tiền vàng mua hoa cúng dường tháp Thọ Ký, nguyện sinh làm rồng dữ phá nước hại vua này, xong đâm đầu vào vách tường mà chết. Sau đó sinh làm Đại long vương sống ở đây. Vừa khởi tâm ác, Như Lai liền biết, ngài dùng thần thông hiện đến. Rồng thấy Phật, tâm ác liền dứt, thọ giới chẳng sát sinh, thỉnh Phật thường trụ nơi hang động thọ nhận cúng dường của mình. Đức Phật bảo: "Ta sắp tịch diệt, nhưng vì ngươi mà lưu lại hình ảnh. Khi nào ngươi khởi tâm ác thì hãy quán ảnh Ta, tâm độc tự dứt. "
Nói xong Như Lai thâu thần vào thạch thất, từ xa mà nhìn thì hiện; đến gần thì không hiện. Lại khiến đặt bảy báu trên đá. " Các kinh đều lược ghi như thế, người Hải Đông gọi núi này là A-na-tư lẽ ra nên gọi là Ma-na-tư, dịch là Ngư. Đó là lấy việc ở Bắc Thiên Trúc mà đặt tên.
Theo Cổ Ký của Đài sơn thì núi này nổi tiếng là một trụ xứ của các bậc chân thánh. Đầu tiên từ ngài Từ Tạng. Khi xưa ngài Từ Tạng muốn thấy chân thân của Bồ-tát Văn-thù ở Ngũ đài sơn Trung Quốc, nên vào đời Thiện Đức Vương, nhằm năm Giáp Thân, niên hiệu Trinh Quán thứ mười đời
Đường (Đường Tăng truyện nói năm mười hai.
Nay theo Tam Quốc Bản Sử) sang Trung Quốc. Đầu tiên Sư đến trụ xứ của ngài Văn-Thù bên bờ hồ Thái Hòa, chí thành cầu khẩn. Trải qua bảy ngày, một hôm mộng thấy Đại Thánh trao cho một bài kệ bốn câu, khi thức dậy cũng còn ghi nhớ. Nhưng vì bốn câu kệ tiếng Phạm, nên sư mờ mịt chẳng hiểu. Sáng sớm có một vị Tăng đến bên Sư mang theo một ca-sa hồng viền vàng, một bình bát của Phật, và một mảnh xương đầu của Phật hỏi Sư rằng: Vì sao lại buồn bã như thế?
Sư thuật lại việc bốn câu kệ đã được trao trong mộng đều là Phạm âm không thể hiểu được.
Vị Tăng liền dịch rằng:
Ha la bà ta nẳng (liễu tri nhất thiết pháp) Đạt lệ đá khư dã (Tự tánh vô sở hữu)
Nẳng già tứ già nẳng (Như thị giải pháp tánh) Đạt lệ lô xá na (Tức kiến Lô-xá-na)
Đọc xong liền trao ca-sa... cho Sư rồi dặn dò rằng: "Đây là đạo cụ của Đức Bổn Sư Thích-ca, ông hãy khéo giữ gìn!"
Lại nói: "Ở địa phận Minh châu ở nước ông có Ngũ Đài sơn một vạn Văn-thù thường trụ nơi đó, ông hãy đến tham kiến. "
Nói xong liền biến mất.
Sư tiếp tục đi khắp các linh tích, sắp muốn trở về Đông, khi đến hồ Thái Hòa thì Long vương hiện thân thỉnh cúng dường bảy ngày và nói rằng: "Lão Tăng truyền kệ khi xưa chính là Bồ-tát Văn-thù. " Cũng có phó chúc việc lập chùa tạo tháp, sự tích chép đầy đủ ở phần Biệt truyện.
Năm Trinh Quán mười bảy Sư đến núi này, muốn chiêm lễ chân thân, nhưng trải qua ba ngày, sắc trời mờ mịt chẳng thấy được nên trở về, trụ tại chùa Nguyên Ninh thì lại thấy Đức Văn-Thù. Sư lại đến Cát Bàn, nay là chùa Tịnh Nham. Về sau có Đầu-đà Tín Nghĩa môn hạ của ngài Phạm Nhật đến tìm nơi mà ngài Từ Tạng đầu tiên nghỉ ngơi để lập am cư trụ. Sau khi Tín Nghĩa tịch thì am cũng hoang phế, một thời gian lâu sau có Trưởng lão chùa Thủy Đa có duyên đến đây lập thành chùa để cư trụ, nay chính là chùa Nguyệt Tinh. Khi Từ Tạng trở về Tân La, thì hai anh em Thái tử Bảo Xuyên và Hiếu Minh của Tịnh Thần Đại Vương (theo Quốc sử thì không có văn nói rõ ba cha con Tịnh Thần, Bảo Xuyên và Hiếu Chiêu nhưng văn sau đây lại ghi: Năm Thần Long thứ nhất hiến đất xây chùa. Thần long là năm Ất Tỵ nhằm năm thứ bốn đời Thánh Đức Vương. Vương tên là Hưng Quang, vốn tên là Cơ Long, con thứ hai của Thần Văn; anh của Thánh Đức Vương là Hiếu Chiêu tên là Lý Cung, còn gọi là Hồng, cũng là con của Thần Văn. Thần Văn Chánh Minh tự là Nhật Chiếu. Thế thì nói là Tịnh Thần e rằng đọc lầm của Chánh Minh Thần Văn. Hiếu Minh là lầm của Hiếu Chiếu (Chiêu). Ký ghi Hiếu Minh lên ngôi, mà nói là năm Thần Long mở đất lập chùa, thì lời này cũng chẳng rõ ràng. Năm Thần Long lập chùa, tức là thời Thánh Đức Vương) đến phủ Hà Tây (nay là Minh Châu, cũng gọi là quận Hà Tây, còn gọi là huyện
Hà Khúc, nay nói là Úy châu là sai) tạm trú tại nhà Thế Hiến Giác Can một đêm, sáng hôm sau qua Đại Lãnh, mỗi mỗi dẫn một ngàn người đến tỉnh Ô Bình du lãm mấy ngày. Bỗng một hôm hai anh em thầm ước hẹn lập chí xuất trần không cho người biết, lén đến Ngũ Đài sơn (Cổ Ký ghi: "Tháng tám năm Mậu Thân niên hiệu Thái Hòa thứ nhất, Vương ẩn trong núi"; e rằng có lầm. Hiếu Chiếu (Chiêu) lên ngôi năm Nhâm Thìn niên hiệu Thiên Thọ thứ ba, bấy giờ là mười sáu tuổi, băng hà năm Nhâm Dần niên hiệu Trường An thứ hai thọ hai mươi sáu tuổi, năm này Thánh Đức lên ngôi, đã hai mươi hai tuổi. Nếu nói năm Thái Hòa thứ nhất là năm Mậu Thân thì trước khi Hiếu Chiếu lên ngôi năm Giáp Thìn bốn mươi lăm năm thuộc đời Thái Tông Văn Võ Vương. Lấy đây mà suy thì biết văn trên ghi sai, không theo được). Thị vệ không biết hai vương tử đi đâu bèn trở về nước.
Hai Thái tử vào núi, bỗng nhiên có hoa sen xanh mọc trên đất. Người anh bèn kết am tranh ở đây cư trụ. Cùng ngày ấy tại chân núi phía Nam của Bắc Đài cách am của Bảo Xuyên về phía Bắc sáu trăm bộ cũng xuất hiện hoa sen xanh, người em liền đến đó lập am cư trụ. Mỗi mỗi đều siêng tu tịnh nghiệp. Một hôm đồng lên ngọn Ngũ Đài chiêm lễ, bỗng thấy chân thân một vạn Quán Âm hiện ở núi Mãn Nguyệt ở Đông Đài. Hiện tại ở núi Kỳ Lân thuộc Nam Đài có tám vị Bồ-tát làm thượng thủ một vạn Địa Tạng. Đức Vô Lượng Thọ Như Lai ở núi Trường Lĩnh thuộc Tây Đài là thượng thủ của một vạn Đại Thế Chí; ở núi Tượng Vương thuộc Bắc Đài, có Đức Thích-ca Như Lai là thượng thủ năm trăm Đại A-la-hán; tại núi Phong Lô thuộc Trung Đài, cũng gọi là Địa Lô sơn có Đức Tỳ-lô-xá-na là thượng thủ của vạn đức Văn-thù. Năm vạn chân thân như thế hai anh em, mỗi mỗi đều chiêm lễ. Mỗi ngày vào lúc sáng sớm, Đại Thánh Văn-thù đến Chân như viện, nay là Thượng Viến, biến hiện thành ba mươi sáu hình loại, có lúc hiện mặt Phật, có lúc hiện hình bảo châu, có lúc hiện mắt Phật, có lúc hiện tay Phật, có lúc hiện bảo tháp, có lúc hiện vạn đầu Phật, có lúc hiện vạn ngọn đèn, có lúc hiện cầu vàng ròng, có lúc hiện hình trống bằng vàng, có lúc hiện chuông vàng, hoặc có lúc hiện hình thần thông, có lúc hiện hình lầu vàng, hoặc bánh xe vàng, hoặc chày Kim Cang, hoặc hủ vàng, hoặc bông cài tóc bằng vàng, hoặc hiện ánh sáng năm màu, hoặc viên quang năm màu, hoặc cỏ cát tường, hoặc hiện hình hoa sen, hoặc ruộng vàng, hoặc ruộng bạc, hoặc hình chân Phật, hoặc hình sấm chớp, hoặc hình từ xa đến vọt lên, hoặc hình từ đất vọt lên, hoặc hình chim phượng vàng, hoặc hình ó vàng, hoặc hình sư tử do ngựa sinh, hoặc hình chim phượng do gà sinh, hoặc hình rồng xanh, hoặc hình voi trắng, hoặc hình chim thước, hoặc hình sư tử do trâu sinh, hoặc hình heo dạo chơi, hoặc hình rắn xanh. Hai vị thường lấy nước trong động để nấu trà dâng cúng, đến đêm mỗi mỗi về am của mình để tu tập. Em của Tinh Thần Vương tranh giành vương vị nên người trong nước bèn phế bỏ, rồi sai bốn vị tướng quân vào núi nghinh đón. Đầu tiên đến trước am của Hiếu Minh tung hô vạn tuế, bấy giờ có mây năm màu che phủ các am, người trong nước theo mây mà tìm đến, sắp bày nghi vệ của Thiên tử để mời hai Thái tử về cung. Bảo Xuyên khóc lóc chối từ, nên phải rước Hiếu Minh trở về lên ngôi, cai trị nước được nhiều năm (Ký ghi: Tại vị hơn hai mươi năm rồi băng hà năm hai mươi sáu tuổi là sai lầm, tại vị chỉ mười năm. Vã lại việc em của Thần Văn tranh giành vương vị, Quốc sử không ghi nên chưa rõ), ngày mồng bốn tháng ba năm Ất Tỵ, tức niên hiệu Thần Long thứ nhất (là năm Đường Trung Tông khôi phục đế vị, cũng là năm thứ bốn đời Thánh Đức), mới trùng tu Chân Như Viện. Đích thân Đại vương dẫn bá quan đến núi, xây dựng điện đường, đồng thời đắp tượng Đại Thánh Văn-thù bằng đất để tôn thờ; sai năm vị như Tri Thức, Linh Biện... luôn luôn tụng kinh Hoa Nghiêm, kết Hoa Nghiêm xã, cúng tế vào hai kỳ Xuân Thu mỗi năm. Đồng thời trưng thu một trăm thạch lương thực, một thạch dầu ở các châu huyện gần núi để lo chi phí, và định thành thường quy. Từ viện đi về phía Tây sáu ngàn bộ đến Mâu-ni Hỗ có đất lấy củi ngoài cổ Y Hiện gồm năm trăm mẫu, rừng dẻ hai mẫu, trang viện hai mẫu. Bảo Xuyên uống nước trong linh động ấy, nên về già thân có thể bay lên hư không đến hang Chưởng Thiên, nước Úy Trân, ngoài địa phận sông Lưu Sa thì dừng trụ, chuyên tụng Tùy Cầu Đà-lani làm thời khóa sáng tối. Thần của hang động hiện thân nói:
-Tôi là thần coi hang động này đã hai năm, hôm nay mới nghe được chân ngôn tùy cầu, xin được thọ giới Bồ-tát. Thần thọ giới xong, hôm sau hang động cũng biến mất. Bảo Xuyên kinh dị, lưu lại hai mươi ngày rồi trở về hang Thần thánh ở Ngũ Đài. Lại tu tập đúng năm mươi năm, chư Thiên cõi Đao-lợi ba thời đều đến nghe pháp. Chư Thiên trời Tịnh Cư nấu trà cúng dường. Thường có bốn mươi vị Thánh bay lên hư không cách mặt đất mười thước hộ trì. Tích trượng của Sư mỗi ngày ba thời phát ra âm thanh, nhiễu phòng ba vòng, lấy đó làm tiếng chuông, tiếng khánh, tùy thời tu đạo nghiệp. Bồ-tát Văn-thù rưới nước lên đỉnh đầu của Sư, thọ ký thành đạo. Ngày Bảo Xuyên sắp viên tịch đã ghi lại việc ngày sau nên làm gì để lợi ích cho đất nước: "Nơi đây là mạch núi lớn của Bạch đầu sơn, là nơi chân thân ở mỗi Đài thường niệm. Xanh là thuộc Đông Đài, cuối chân núi phía Nam Bắc Đài, dưới góc phía Bắc nên lập Quán Âm phòng, tôn trí tượng Quán Âm, đồng thời vẽ một vạn tượng Quán Âm trên thanh địa. Đặt năm viên quan lo về phước điền, ban ngày tụng tám quyển kim kinh, Nhân Vương Bát-nhã Thiên Thủ Chú, ban đêm tụng Quan An lễ sám, gọi là Viên Thông xã.
Màu đỏ tại Nam Đài, phía Nam lập Địa Tạng Phòng tạo tượng Địa Tạng tôn thờ. Trên xích địa vẽ tám vị Đại Bồ-tát Thượng Thủ và một vạn tượng Địa Tạng. Đặt năm viên Phước điền Tăng, ban ngày tụng kinh Địa Tạng, Kim Cang Bát-nhã; ban đêm tụng Chiêm Sát lễ sám, gọi là Kim Cang xã.
Màu trắng tại Tây Đài, ở mặt phía Nam lập Diđà phòng, tạo tượng Vô Lượng Thọ tôn thờ và trên Bạch địa vẽ Vô Lượng Thọ Như Lai làm thượng thủ và một vạn Đại Thế Chí, đặt năm viên Phước điền Tăng, ban ngày tụng tám quyển kinh Pháp Hoa, ban đêm lễ sám Di-đà gọi là Thủy Tinh xã.
Màu đen tại Bắc Đài, phía Nam nên lập La-hán đường, tạo tượng Thích-ca tôn thờ và trên Hắc địa vẽ Thích-ca Như Lai, làm thượng thủ năm trăm Lahán. Đặt năm Phước điền Tăng ban ngày tụng kinh Phật Báo Ân, kinh Niết-bàn; ban đêm hành Niếtbàn lễ sám, gọi là Bạch Liên xã.
Màu vàng tại Trung Đài, trong viện Chân Như tôn trí tượng Văn-thù Bất Động bằng đất, phía sau tường an trí hình vẽ Đức Tỳ-lô-giá-na làm thượng thủ và ba mươi sáu hóa thân trên Hoàng địa. Đặt năm vị Phước điền Tăng ban ngày tụng kinh Hoa Nghiêm và sáu trăm quyển Bát-nhã; ban đêm lễ sám Văn-thù, gọi là Hoa Nghiêm xã. Am Bảo Xuyên đổi thành chùa Hoa Nghiêm, tôn trí Tỳ-lôgiá-na Tam Tôn và Đại Tạng Kinh, đặt năm vị Phước điền Tăng thường xuyên đọc Đại Tạng, ban đêm tụng kinh Hoa Nghiêm thần chúng. Mỗi năm lập hội Hoa Nghiêm một trăm ngày, gọi là Pháp Luân xã, lấy chùa Hoa Nghiêm làm Bản tự của
Ngũ Đài kết xã, hộ trì vững chắc, sai các vị Tăng Phước điền thanh tịnh giữ mãi hương đèn. Được như thế thì quốc vương vạn tuế, nhân dân an lạc, văn võ hòa bình, ngũ cốc được mùa. Lại lập Hạ Viện Văn-thù để làm nơi tụ hội của các kết xã, đặt bảy vị Phước điền Tăng ngày đêm thực hành Hoa Nghiêm Thần Chúng lễ sám.
Tất cả chi phí về tứ sự... của ba mươi bảy vị Phước điền Tăng ở trên đều dùng thuế của tám châu thuộc phủ Hà Tây chu cấp. Quân vương các đời luôn tuân hành không phế bỏ thì may mắn lắm!"
Thái tử Bảo Sát Đồ của Tịnh Thần Vương nước Tân La cùng với em là Thái tử Hiếu Minh đến phủ Hà Tây tá túc một đêm tại nhà Thế Hiến Giác Can, sáng hôm sau đến Đại Lãnh, mỗi mỗi dẫn một ngàn đồ chúng đến Tỉnh Ô Bình du ngoạn nhiều ngày. Đến mồng năm tháng tám năm Đại Hòa thứ nhất anh em âm thầm vào ẩn ở Ngũ Đài sơn, thị vệ và mọi người đi theo tìm kiếm chẳng được nên đồng trở về nước.
Anh là Thái Can thấy hoa sen xanh nở ở nền Chân Như viện tại mặt Nam của Trung Đài, bèn đến đó kết thảo am ẩn cư. Người em thấy hoa sen xanh nở ở cuối chân núi phía Nam của Bắc Đài nên cũng đến đó kết thảo am ẩn cư. Hai anh em lễ sám niệm Phật tu hành, thường lên Ngũ Đài chiêm bái. Màu xanh tại núi Mãn Nguyệt Đông Đài có một vạn chân thân Quán Âm thường trụ, tại núi Kỳ Lân Nam Đài có tám vị Đại Bồ-tát làm thượng thủ của một vạn Bồ-tát Địa Tạng thường trụ; màu trắng tại núi Trường Lĩnh Tây Đài có Vô Lượng Thọ Như Lai làm thượng thủ của một vạn Bồ-tát Đại Thế Chí thường trụ; màu đen tại Tướng Vương Sơn Bắc Đài có Thích-ca Như Lai làm thượng thủ của năm trăm Đại La-hán thường trụ. Màu vàng tại Phong Lư sơn Trung Đài, cũng gọi là Địa Lư sơn có Tỳ-lô-giá-na làm thượng thủ và một vạn Vănthù thường trụ. Tại viện Chân Như, mỗi ngày sáng tối hai lần Đại Thánh Văn-thù đến hóa hiện ba mươi sáu hình tượng. Hai vị Thái tử đồng lễ bái, đồng thời múc nước trong động nấu trà cúng dường một vạn chân thân Văn-thù. Sau người em của Tịnh Thần Vương làm Thái tử tại Tân La vì tranh giành vương vị nên bị tru diệt, do đó quần thần sai bốn vị tướng quân đến Ngũ Đài sơn, quỳ trước Hiếu Minh Thái tử tung hô vạn tuế, tức thời có mây năm màu từ Ngũ Đài hiện dài đến Tân La ánh sáng chiếu bảy ngày bảy đêm, người trong nước đều theo ánh sáng kéo đến Ngũ Đài, muốn đón hai thái tử về kinh. Bảo Sất Đồ Thái tử khóc lóc không chịu về, nên chỉ đón Hiếu Minh về nước lên ngôi, tại vị hơn hai mươi năm. Ngày mồng tám tháng ba năm Thần Long thứ nhất mới lập viện Chân Như...
Bảo Sất Đồ Thái tử thường uống nước trong động, nên nhục thân bay lên hư không đến hang động Chưởng Thiên, nước Úy Trân bên bờ sông Lưu Sa tu đạo, rồi lại trở về hang Thần Thánh ở Ngũ Đài tu tập năm mươi năm... Ngũ Đài là mạch núi chính của Bạch Đầu sơn, là nơi chân thân của các Đài thường trụ...
Cổ Ký của chùa ghi rằng: Đầu tiên Pháp sư Tinh Từ đến Ngũ Đài muốn thấy được chân thân, nên kết thảo am dưới chân núi mà trụ, qua bảy ngày mà chẳng thấy nên đến núi Diệu Phạm lập chùa
Tịnh Nham. Về sau có Cư sĩ Tín Hiếu, hoặc cho là hóa thân của Bồ-tát, còn gọi là Ấu Đồng, nhà ở Công châu, rất có hiếu với mẹ. Một hôm trong bữa ăn không có thịt, người mẹ chẳng chịu ăn cơm, Tín Hiếu phải vào núi rừng tìm thịt, đi nửa đường thấy có năm con hạc, Tín Hiếu bèn bắn một mũi tên, nhưng chỉ làm rơi một cái lông, Tín Hiếu nhặt lông ấy rồi che mắt mà nhìn thì thấy người người đều là súc sinh, vì thế không tìm được thịt. Nên phải cắt thịt đùi dâng mẹ. Về sau Tín Hiếu xuất gia đổi nhà làm chùa, nay là Hiếu Gia viên. Tín Hiếu từ Khánh châu đến Hà Suất, thấy người phần lớn có hình người, nên có ý muốn trụ ở đây. Lúc đi đường thấy một bà lão, bèn hỏi nơi có thể trụ được, bà lão đáp:
-Đến Tây Lĩnh có một hang động hướng về Bắc là nơi có thể trụ được!
Nói xong liền biến mất. Tín Hiếu biết là Bồ-tát
Quán Âm chỉ dạy, nên đến tỉnh Ô Bình, vào nơi mà đầu tiên Từ Tạng kết thảo am để cư trụ. Một hôm bỗng có năm Tỳ-kheo đến nói rằng: "Ngài mang đến đây một tấm ca-sa, nay cất đâu rồi?". Tín Hiếu chẳng hiểu. Năm vị Tỳ-kheo lại hỏi: "Ngài chính là người mang chiếc lông chim phải chăng?"
Tín Hiếu đưa lông chim ra, vị Tỳ-kheo bèn đặt chiếc lông chim vào chỗ bị thiếu trên chiếc ca-sa thì rất vừa vặn, thì ra đó là mãnh vải chứ chẳng phải lông chim. Xong các vị Tỳ-kheo từ biệt Tín Hiếu. Về sau mới biết năm Tỳ-kheo là năm hạng Thánh chúng hóa thân.
Chùa Nguyệt Tinh này, đầu tiên là thảo am của ngài Từ Tạng, kế đến Tín Hiếu trụ, kế đến có Tín Nghĩa đầu đà môn hạ của ngài Phạm Nhật đến lập am cư trụ. Sau cùng có trưởng lão chùa Thủy Đa có duyên đến trụ, mở rộng thành một ngôi chùa lớn.
Năm hạng Thánh chúng, trong tháp đá chín tầng đều là Thánh tích. Thầy địa lý cho rằng: Các danh sơn trong nước, thì nơi đây là bậc nhất, là nơi Phật pháp mãi hưng thịnh.
Chùa Cam Sơn nằm cách kinh thành khoảng hai mươi dặm về phía Đông Nam. Sau vầng hỏa quang của tôn tượng Di-lặc đặt tại Kim Đường ghi: "Ngày mười lăm tháng hai năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khai Nguyên thứ bảy, Trùng A San Toàn Vong Thành vì cha là Nhân Chương Nhất Cát Can, phi là Quán Tiếu Lý phu nhân mà kính tạo một pho tượng Di-lặc bằng đá chùa Cam Sơn. Đồng thời vì Khải Nguyên Y San Đệ Khẩn Thành, em là Huyền Đô Sử, chị là Cổ Ba Lý, vợ trước là Cổ Lão Lý, vợ sau là A Hải Lý, hợp cùng thứ tộc và Hán Nhất Cát San, Nhất Tràng, Tát San Thông Mẫn, Vọng Xá Muội Thủ với Trí... đồng tạo phước thiện này. Vì Vong Tỉ Tiếu Lý phu nhân, người xưa đã thành nơi Đông hải, vụt chốc đã trở về chốn an nhàn (Cổ nhân thành chi Đông Hải, du phải biện tán), (lời này chưa rõ được muốn nói ý gì, chỉ theo văn bản xưa mà ghi lại. Đoạn sau cũng giống như thế).
Trùng A San Kim Chí Toàn, từng dâng áo mũ cho vua, lại giữ chức Thị lang, đến năm sáu mươi bảy tuổi thì cáo lão nhàn cư, phụng vì Quốc Chủ Đại Vương Y San Khởi Nguyên, cha là Nhân Chương Nhất Cát Can, vong phi, vong đệ, tiểu xá Lương Thành, Sa-môn Huyền Độ, vong thê Cổ Lộ Lý, vong muội Cổ Ba Lý; lại vì vợ là A Hảo Lý... mà dâng điền trang Cam Sơn để lập Già lam và tạo một pho tượng Di-Đà bằng đá. Phụng vì vong khảo là Nhân Chương Nhất Cát Can, người xưa đã thành nơi Đông hải, bỗng chốc trở về chốn an tĩnh (cổ nhân thành chi Đông hải, du phản biên tán).
(Theo phổ hệ của Vương thì Khải Nguyên là thái tử Khải Nguyên Giác Can, em của Thái Tông Xuân Thu, do Trượng Hy sinh ra. Thành Chí Toàn là con của Nhân Chương Nhất Cát Can. Nói Đông Hải Du Phản e rằng đó là nói Pháp Mẫn táng tại Đông Hải).
Phía Nam của Nam sơn ở Đông đô có một ngọn núi cao vút, tục gọi là Cao Vị Sơn, phía Nam của núi có một ngôi chùa, người trong làng gọi là Cao Tự, hoặc gọi là Thiên Long Tự. Thảo Luận Tam Hàn Tập ghi: Trong nước Kê Lâm có hai con sông khách và một con sông nghịch. Hai con sông này nếu không trấn áp được lửa trời, thì dẫn đến Thiên Long bị ngập chìm. Tục truyền rằng Nghịch Thủy là sông Nam lưu ở thôn Mã Đẳng Ô, phía Nam Giả châu. Nguồn của sông này ở chùa Thiên Long. Sứ Trung Quốc là Nhạc Bằng Quy đến thấy và nói rằng:
"Nếu phá chùa này, không bao lâu sẽ vong quốc!".
Tương truyền xưa có một Đàn-việt sinh được hai người con gái tên là Thiên Nữ và Long Nữ. Cha mẹ vì hai người con gái mà lập chùa, nên chùa có tên Thiên Long, cảnh chùa dị thường là nơi trợ giúp việc tu đạo, nhưng cuối thời đại Tân La chùa đã bị tàn phá. Thôi Ân Hàm con của Đại Thánh chùa Chúng Sinh sinh ra Thừa Lỗ, Lỗ sinh ra Túc, Túc sinh ra Thị Trung Tề Nhan. Tề Nhan trùng tu ngôi chùa đã hoang phế, lập đạo tràng Thích-ca Vạn Nhật. Vâng chiếu chỉ của triều đình, lại có tín thư, nguyện văn còn được lưu giữ ở chùa. Tín thư lược ghi:
Đàn-việt là nội sử thị lang đồng với môn hạ của nội sử là Bình Chương Sự Trụ Quốc Thôi Tề Nhan dâng trạng rằng: Chùa Thiên Long ở núi Cao Vị tại kinh đô bị đổ nát đã lâu, đệ tử chỉ vì chúc thánh thượng thọ như đất trời, nhân dân được an thái nên nay mới trùng tu điện đường phòng xá, lầu gác kho lẩm đồng thời tạo vài tôn tượng Phật để thờ phụng, mở đạo tràng Thích-ca Vạn Nhật. Đã vì nước tu sửa, quan gia định đặt chủ trì thì cũng có thể được. Nhưng gặp lúc thời đại đổi thay, tông chúng trong chùa không được an tâm; ghé mắt nhìn xem các chùa viện được ban cấp đủ ruộng nương như chùa Địa Tạng ở Côn sơn hai trăm mẫu, chùa Đạo Tiên ở Tỳ Sắt sơn hai mươi mẫu, Tứ Diện sơn tự ở Tây kinh, mỗi mỗi có hai mươi mẫu, tất cả đều không luận là có chức hay không có chức, mà chỉ cần tuyển chọn bậc tài đức cao vời, giới hạnh tinh nghiêm, được trọng vọng trong chúng, kế thừa trụ trì, tu tập để làm pháp tắc muôn đời, đệ tử nghe phong cách mà hoan hỷ.
Đối với chùa Thiên Long ta đây cũng nên từ trong xã chúng tuyển chọn một vị Đại đức gồm đủ đức tài làm rường cột, định người chủ trì hằng giữ việc tu tập. Ghi chép đầy đủ trong văn thư giao cho Cương Ti. Người chủ trì hôm nay là đời thứ nhất.
Chuyển thư trình lên quan Lưu Thú đồng thời thông báo cho tất cả mọi người trong Đạo tràng được biết.
Ngày sáu tháng sáu niên hiệu Trùng Hi thứ chín, đã ký.
Xét năm Trùng Hi là niên hiệu của Hưng Tông nước Khiết Đan, nhằm năm Canh Thìn, tức năm thứ bảy đời Tỉnh Tông của bản triều.
Phía Bắc thôn Ám Cốc cách Kinh thành khoảng hai mươi dặm về Đông bắc có chùa Mâu Tạng do cha của Nguyên Thánh Đại Vương đời 38 là Đại A Can Hiếu Nhương truy phong Minh Đức Đại Vương, vì truy tiến thúc phụ Ba Trận Tự mà sáng lập. Hang động rất kỳ tuyệt, giống như đẽo gọt thành, khung cảnh mờ ảo diệu kỳ, làm người tự sinh tâm rỗng lặng. Thật là một linh địa lắng tâm vui đạo. Phía trên chùa có điện Di-đà thời xưa do Quế Hoa vương hậu của Chiêu Thành (Thánh) Đại Vương vì đại vương qua đời trước, một mình trong cung huy hoàng tráng lệ, nên vô cùng sầu khổ, rơi máu lệ, xót tâm can. Bà suy nghĩ muốn vì đại vương mà cầu minh phước, nghe nói Tây phương có Đại Thánh Di-đà, nếu ai chí thành quy ngưỡng, thề sẽ dùng phương tiện khéo léo cứu độ, nghinh tiếp. Đây là lời chân thật, há có dối ta ư? Do đó bà xả bỏ trang phục tốt đẹp, dốc hết tài sản của chín phủ, sai các thợ giỏi, tạo một tôn tượng Di-đà và các thần chúng để tôn thờ. Đầu tiên chùa này có một lão Tăng, một hôm nằm mộng thấy một chân nhân ngồi trên gộp đá phía Đông nam thạch tháp, hướng về Tây thuyết pháp cho đại chúng nghe, ý nói đất này ắt là nơi trụ của Phật pháp, nhưng giữ kín không nói cho mọi người biết.
Nơi đây toàn là núi đá hiểm trở, khe suối cách ngăn, các người thợ không để ý đến, và đều cho là không tốt. Đến khi khai dọn đất đai thì mới được một khu vực bằng phẳng có thể xây dựng chùa viện, giống hệt như đất thần, người thấy đều khen là tốt. Đến gần đây điện đường đều bị sụp đổ chỉ còn một ngôi chùa. Tương truyền sau khi Thái Tông thống nhất Tam Hàn thì thường cất giữ binh khí, mâu thương trong cốc, nên có tên như thế.
Ngày hai mươi chín tháng mười năm Bính Ngọ, niên hiệu Khai Vận thứ ba Khang Chân Giới Nhậm Đạo Đại Giám Trụ Thiếp ghi: Bá Nghiêm Thần tự tọa lạc tại huyện Thảo Bát (nay là Thảo Khê). Tăng Khản Du Thượng Tòa của chùa này ba mươi chín tuổi nói rằng về khởi đầu của chùa này thì chẳng biết, nhưng theo xưa truyền, vào thời tiền Tân La, Bắc Trạch cúng nền nhà để làm chùa, sau đó bị hoang phế một thời gian lâu. Đến năm Bính Dần, Hòa thượng Sa Mộc Cốc Dương Phù trùng tu và tu trì, ngài thị tịch năm Đinh Sửu. Năm Ất Dậu Cạnh Nhưởng Hòa Thượng ở Hy Vương Sơn đến trụ mười năm, đến năm Ất Mùi thì trở về Hi Dương. Bấy giờ lại có Thần Trác Hòa Thượng từ Bạch Nham Tẩu ở Nam Nguyên đến viện như pháp trụ trì. Lại đến tháng giêng năm Hàm Ủng thứ nhất, vị trụ trì đương thời là Đắc Áo Vi Định Đại Sư Thích Tú Lập đặt mười điều làm thường quy cho viện, tạo lập thạch tháp năm tầng bằng đá, tôn trí bốn mươi hai viên xá-lợi chân thân của Phật. Như đều dùng tư tài lập bảo vật cúng dường hằng năm; đều lập bảo vật cúng dường ba vị minh thần hộ Pháp kinh Tăng bậc nhất của chùa là Nghiêm Hân, Bá Hân và Cận Khâu (truyền rằng Nghiêm Hân và Bá Hân đổi nhà thành chùa, do đó chùa tên là Bá Nghiêm, sau làm thần hộ pháp); điều cúng dường gạo trong bát gỗ vào ngày mồng một hằng tháng trước tượng Dược Sư ở Kim đường... không ghi hết.
Cổ ký chùa ghi: Đời thứ hai mươi mốt là Chủ Thần Văn Vương, chân cốt của Tân La, vào năm Quý Mùi, niên hiệu Vĩnh Thuần thứ hai (bản văn ghi thứ nhất là sai), một hôm Tể tướng Trung Nguyên Công tắm rửa ở Ôn tỉnh Trường sơn quốc (tức huyện Đông Lai) trở về thành, đến rừng Đông Chỉ_ Khuất Tỉnh dịch nghỉ ngơi, bỗng thấy một người thả chim ưng đuổi chim trĩ, trĩ bay đến Kim Khâu thì không còn thấy tung tích, chỉ nghe theo tiếng linh mà tìm, đến bên giếng Bắc của huyện quan Khuất Tỉnh thì chim ưng đậu trên cây, trĩ nấp trong giếng, nước giếng lẫn màu máu. Trỉ mở chiếc cánh phía Tây ôm lấy hai con chim con, chim ưng thấy vậy khởi lòng thương xót chẳng dám cướp lấy. Công thấy thế cũng cảm động, hỏi Bốc sư nói đất này có thể lập chùa. Sau khi về kinh, Công tâu lên Vương, dời huyện này đến nơi khác và lập chùa tại nơi đây, đặt tên là Linh Thứu tự.
Đại Phu Giác Can Thôi Hửu Đức của Tân La dùng phủ đệ của mình làm chùa, đặt tên là Hữu Đức tự. Đến đời cháu là Thôi Ngạn Vi, một công thần của Tam Hàn tôn trí chân ảnh và lập bia.
Thạch Tháp Ký chùa Văn-thù ở Ngũ Đài sơn
Thạch tháp bên sân do người Tân La sáng lập. Tạo hình tuy thuần phác chẳng tinh xảo, nhưng lại rất linh ứng, không thể ghi hết. Trong đó có một việc nghe các cụ già kể lại rằng: Khi xưa ở huyện Liên Cốc, người dân đều dùng thuyền đánh cá ở ven biển, một hôm bỗng thấy bóng một ngôi tháp cứ chuyển theo thuyền, các loài thủy tộc vừa thấy bóng của tháp liền bơi tứ tán, vì thế ngư dân không bắt được con nào. Không nén được lòng tức giận, ngư dân tìm đến chỗ tháp này, cùng nhau đập phá rồi bỏ đi. Vì thế nay bốn góc của tháp đều bị khuyết. Tôi nghe việc này kinh ngạc than thở không thôi. Nhưng lạ một điều là tháp đặt hơi chếch về Đông, mà chẳng chánh giữa. Bấy giờ nhìn lên thấy treo một tấm bảng đề là: Tỳ-kheo Xử Huyền từng trụ nơi đây. Bèn dời đặt ở giữa sân, thì trong hai mươi năm không có một điềm linh ứng. Cho đến một ngày kia Cầu Cơ đến đây than rằng: Giữa sân chẳng phải là nơi đặt tháp, sao chẳng dời đi? Bấy giờ chúng Tăng mới tỉnh ngộ, di chuyển về nơi cũ, chính là vị trí tháp bây giờ.
Tôi vốn chẳng thích những việc kỳ quái, nhưng thấy oai thần của Phật nhanh chóng hiện thần tích để làm lợi ích chúng sinh như thế, là Phật tử há có thể im lặng không nói ư?
Ngày mười tháng mười năm Bính Tý, niên hiệu Chánh Phong thứ nhất, Bạch Vân ghi.
Đường Tục Cao Tăng truyện mười ba ghi: Tăng Thích Viên Quang chùa Hoàng Long ở Tân La họ Phác, vốn trụ Tam Hàn là Biện Hàn, Thần Hàn và Mã Hàn, Quang là người Thần Hàn. Gia đình ở Hải Đông, kế thừa tập ấm nhiều đời của Tổ tông. Quang có thần khí khôi vĩ, ưa thích văn chương, theo đuổi huyền nho, nghiên tầm kinh sử. Tuy tài hoa bậc nhất ở Tam Hàn, mà sức uyên bác còn thẹn với trung thổ. Do đó đoạn dứt tình thân bằng, phát chí cao rộng. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư đi thuyền đến Kim Lăng, gặp đời Trần, tự hiệu là Văn Quốc, nên được thưa hỏi những điều nghi từ trước, học tập các ý nghĩa rốt cùng. Đầu tiên nghe đệ tử của Trang Nghiêm Mân Công giảng kinh, thì các sách thế gian đã học mà Sư cho là lý đã cùng tận, đến nay khi nghe đến Thích Giáo, thì trái lại đồng như cỏ mục, luống uổng bao công theo danh giáo, thật kinh sợ thế trần. Do đó Sư bèn tâu Trần Đế xin được trở về với Đạo pháp, Đế ban sắc chấp thuận. Không bao lâu Sư thế phát xuất gia, rồi liền thọ Cụ túc giới, đi khắp các đạo tràng, thấu rõ được ý sâu xa, thông đạt các lời vi diệu, chẳng lìa quang cảnh, nên được yếu chỉ của Thành Thật, Niết-bàn, nghiên cứu tất cả thích, luận trong Tam Tạng. Cuối cùng Sư đến núi Hổ khâu ở đất Ngô ẩn tu, bấy giờ niệm định nương nhau, chẳng quên giác quán, dứt bặt các tâm, kết am nơi lâm tuyền; nghiên cứu bốn A-hàm, công phu chuyên nơi bát định. Rõ biết dạy thiện thì dễ hành trì, còn chỉ thẳng thì khó nắm bắt, lại xứng hợp được túc tâm, nên có chí ẩn suốt đời. Do đó bặt dứt việc người, dạo chơi nơi thánh tích, nhiếp tâm rỗng lặng, xa lánh suốt đời. Bấy giờ có một Tín sĩ sống nơi chân núi thỉnh Sư ra thuyết giảng, kiên quyết chối từ nhưng không được. Vì khổ công nài thỉnh nên phải thuận ý. Đầu tiên Sư giảng Thành Thật sau cùng lại diễn Bát-nhã, tất cả đều có những kiến giải thấu triệt, tiếng tăm vang xa. Đồng thời khéo dùng văn từ hoa mĩ, tổng gom từ nghĩa khiến người nghe vui mừng đạt được tâm yếu. Từ đó tuân theo phép tắc của người xưa lấy việc giáo hóa làm nhiệm vụ. Mỗi khi pháp luân vừa khởi động, thì bỗng chốc pháp vị tuôn khắp sông hồ; tuy truyền bá khắp dị quốc nhưng đều được tắm gội đạo màu, nên chóng trừ các hiềm khích. Do đó danh vang khắp quốc nội, tiếng truyền đến ngoại biên. Người học gian khổ tìm đến đông vô kể. Lại được Hoàng hậu nhà Tùy ngự giá đến giảng trường, nên oai phong càng vang Nam quốc.
Nhưng cuối đời nhà Tùy, quân vào Dương đô, Sư bị loạn binh bắt sắp gia hình, bỗng Đại chủ tướng từ xa thấy chùa tháp bị lửa thiêu nên nhanh đến cứu chữa; đến gần tuyệt nhiên chẳng thấy cháy, chỉ thấy Sư bị trói trước tháp sắp hành hình, Tướng quân lấy làm lạ, liền ra lệnh phóng thích. Đó là Sư sắp gặp nguy ách mà cảm ứng như thế. Sư học thông Đạo ở Ngô Việt, liền muốn giáo hóa ở Chu, Tần. Do đó năm Khai Hoàng thứ chín, Sư đến Đế kinh, gặp lúc Phật pháp mới hội nhập, Nhiếp Luận vừa hưng khởi, Sư liền mang văn tài ra để chấn hưng công nghiệp cao đẹp của người xưa; dùng tuệ giải để tuyên dương đạo màu khắp chốn. Công nghiệp đã thành, Đạo nơi Đông Hải cần kế tục. Người trong nước xa nghe, dâng biểu thỉnh cầu; có sắc chỉ ban thưởng và hỏi thăm, đồng được cho về cố quốc. Sư qua lại nhiều năm, nên khi trở về già trẻ đều mừng rỡ. Quốc vương Tân La họ Kim gặp mặt, chí thành kính ngưỡng, xem như Thánh nhân. Sư vốn tính rỗng lặng, mà tình thương đồng khắp, khi nói miệng thường mỉm cười, không bao giờ sân hận. Nhưng dâng biểu, khải thư, đối đáp vì quốc mệnh thì lời nói xuất phát từ tâm can. Bất cứ việc gì cũng hết lòng tuân phụng, chỉ bày cho Vương về các phương cách trị thế, han hỏi về việc hóa đạo. Về sự, thì khác với hàng công khanh, về tình thì đồng chăm lo việc nước. Sư thường tùy cơ để giáo hóa, làm mô phạm cho đời. Đến lúc tuổi cao, được phép ngồi xe vào cung cấm, y thực thuốc men đều tự tay Quốc vương lo hết, không cho ai giúp đỡ. Dùng phước đức hi hữu, khiến người cảm kích kính ngưỡng là như thế. Trước khi Sư thị tịch, đích thân Vương đến nhận lãnh lời phó chúc di pháp, đồng thời nói về việc cứu giúp nhân dân, ban bố sự an lành khắp Đông Hải. Vào năm Kiến Phước năm mươi tám, Sư cảm thấy không khỏe, trải qua bảy ngày khẩn thiết chỉ dạy rồi ngồi yên thị tịch tại chùa Hoàng Long, thọ chín mươi chín tuổi, nhằm vào niên hiệu Trinh Quán thứ tư (đúng là thứ mười bốn). Lúc thị tịch, có tiếng nhạc vang trong hư không phía Đông bắc chùa, mùi hương lan tỏa khắp viện, đạo tục vừa buồn vừa vui, biết sự linh cảm của Sư, an táng ở ngoại thành. Nghi thức và vật dụng an táng đồng như Quốc vương.
Về sau có thai nhi chết, phong tục nước này cho rằng: "Nếu chôn thai nhi nơi mộ người có phước đức thì dòng dõi đời đời chẳng tuyệt", do đó người ấy mới lén tự chôn bên phần mộ của Sư. Ngay ngày ấy sét đánh bật xác thai nhi chết ra khỏi mộ. Do đó chẳng làm mất lòng sùng ngưỡng của người đã tôn kính.
Sư có đệ tử là Viên An là bậc có thần trí, căn cơ thông lợi, tánh ưa sự lịch lãm, mến mộ Sư tìm cầu học hỏi, nên lên đến Cửu Đô, xuống phương Đông xem mà chẳng vừa ý, lại về Tây đến Yên Ngụy, sau lại đến Đế kinh, thông thạo tất cả phong tục địa phương, tìm học tất cả kinh luận, nắm vững đại cương, thấu suốt chỉ thú. Về già Viên An trở về định học, nêu cao phép tắc soi sáng thế trần. Đầu tiên trụ tại kinh đô, đạo tục đều nghe danh tiếng, được tiến cử lên Tiêu Vũ tâu thỉnh trụ chùa Tân Lương do Giám Điền xây dựng, cung cấp tứ sự sáu thời chẳng thiếu. Viên An từng nói về thầy của mình như sau: Quốc vương ta có một lần bị bệnh nặng, tất cả ngự y chữa trị đều chẳng thuyên giảm, bèn thỉnh ngài Viên Quang vào cung, an trí tại một nơi riêng biệt, một đêm phân làm hai thời thuyết pháp sâu xa, thọ giới sám hối. Vương tin thuận. Một hôm, vào lúc đầu đêm Vương thấy trên đầu của ngài Viên Quang có tỏa ánh sáng màu vàng ròng, mặt trời tùy thân mà đến. Vương hậu và các cung nữ ở hậu cung đều thấy, do đó càng phát tâm thù thắng; ánh sáng lưu lại phòng bệnh của Vương, không bao lâu thì bệnh của Vương thuyên giảm.
Ngài Viên Quang truyền bá chánh pháp thạnh hành ở vùng Thần Hàn và Mã Hàn, mỗi năm đều giảng hai lần: Khéo giúp thành tựu cho hàng hậu học. Nhưng của cải cúng dường, Sư đều dùng để tạo chùa viện. Còn riêng Sư chỉ có y bát mà thôi (chép tại hòm chữ Đạt).
Lại có Cổ bản cất giữ tại nhà An Dật Hộ Trưởng Trinh Hiếu ở Đông Kinh thì truyền ghi rất khác lạ về Viên Quang Pháp Sư truyện ghi:
Pháp sư họ Tiết, người Kinh đô, đầu tiên học Phật pháp đến năm ba mươi tuổi nghĩ đến việc sống an tĩnh tu đạo, một mình trụ tại núi Tam Kỳ. Bốn năm sau có một Tỳ-kheo đến gần đó lập tịnh thất trụ được hai năm. Tỳ-kheo là người cương mãnh, thích tu chú thuật. Một hôm Pháp sư đang ngồi một mình tụng kinh, bỗng nghe có tiếng nói rằng:
- Lành thay! Lành thay! Sự tu hành của ngài! Phàm người tu hành tuy đông, mà hành trì như pháp thì rất ít. Nay thấy Tỳ-kheo sống bên cạnh đây, chỉ chuyên tu chú thuật mà không có sở đắc, gây ồn náo não loạn trụ xứ an tĩnh của người, lại còn chướng ngại đường đi của ta, mỗi khi ta qua lại nơi đây, hầu như muốn khởi ác tâm. Pháp sư hãy vì ta mà báo với Tỳ-kheo ấy nên dời đi nơi khác, nếu ở đây lâu, sợ rằng bỗng nhiên ta tạo tội nghiệp!
Sáng hôm sau Pháp sư đến nói với vị Tỳ-kheo rằng:
- Đêm qua tôi nghe Thần nhân bảo rằng ngài nên dời đi nơi khác, nếu chẳng nghe thì sẽ có tai họa!
Vị Tỳ-kheo đáp rằng:
- Người tu hành chí thiết thường bị ma đến mê hoặc, sao Pháp sư lại lo sợ bởi lời của loài ma quỷ? Đêm ấy Thần nhân lại đến hỏi rằng:
- Việc ta nói đêm qua, Tỳ-kheo kia trả lời thế nào? Pháp sư sợ thần nhân nổi giận nên đáp rằng:
- Rốt cuộc cũng chưa nói xong, nếu dùng lời mạnh mẽ, thì Tỳ-kheo kia đâu dám chẳng nghe!
Thần nhân nói:
- Ta đã nghe hết rồi, Pháp sư đâu cần phải nói thêm, chỉ nên im lặng xem ta làm đây.
Nói xong liền đi, trong đêm ấy bỗng nhiên phát ra một tiếng nổ rất lớn như sấm. Sáng hôm sau thấy núi lở chôn vùi tinh thất của vị Tỳ-kheo kia. Thần nhân lại đến hỏi rằng:
- Pháp sư thấy thế nào? Pháp sư đáp:
- Trông rất kinh sợ! Thần nhân nói rằng:
- Ta đã ba ngàn tuổi, thần thuật rất mạnh, đây chỉ là việc nhỏ, đâu có gì phải sợ. Việc mai sau có gì mà ta chẳng biết, chuyện trong thiên hạ, không gì mà ta chẳng thông. Nay ta nghĩ rằng Pháp sư trụ nơi đây thì tuy có hạnh tự lợi, nhưng không có công đức lợi tha, hiện tại chẳng hiểu được cao danh, mai sau không chứng được quả thù thắng. Pháp sư nên sang Trung Quốc học đạo để trở về dẫn dắt quần mê nơi Đông Hải.
Pháp sư đáp:
- Sang Trung Quốc học đạo là sở nguyện của tôi, ngặt vì biển lớn cách ngăn, không thể tự qua được mà thôi!.
Thần nhân liền chỉ bày rõ ràng về phương kế sang Trung Quốc. Pháp Sư y theo lời sang Trung Quốc, ở lại tu học mười một năm, làu thông Tam Tạng, đồng thời học cả Nho thuật.
Năm Canh Thân, nhằm năm hai mươi hai đời Chân Bình Vương (Tam Quốc Sử ghi: Sang năm Tân Dậu sứ đến, Sư theo sứ thần Tân La vào triều cống Trung Quốc mà trở về bản quốc. Sau đó Sư muốn tạ ơn thần, nên đến Tam Kỳ sơn tự, nơi đã trụ khi xưa. Đêm ấy Thần đến gọi tên Pháp sư và hỏi rằng:
- Trong khi qua lại trên biển lớn hay trên đất liền như thế nào? Pháp sư đáp:
- Nhờ ân to lớn của Thần nên đi, về đều được bình an! Thần nói:
- Ta cũng xin thọ giới nơi Pháp sư, đồng thời kết hẹn đời đời cứu giúp nhau!
Pháp sư lại nói:
- Có thể thấy được chân dung của Thần chăng? Thần đáp:
- Nếu Pháp sư muốn thấy hình Ta, sáng ngày mai nhìn về chân trời hướng Đông.
Sáng hôm sau Pháp sư nhìn thấy một cánh tay xuyên qua mây tiếp đến chân trời. Ban đêm thần lại đến hỏi rằng:
- Pháp sư thấy cánh tay của ta chăng? Pháp sư đáp:
- Thấy rồi! Rất kỳ tuyệt, khác thường.
Nhân đó tục gọi là Tý Trường Sơn. Thần nói:
- Tuy có thân này, nhưng cũng không tránh khỏi sự nguy hại của vô thường. Vì thế không bao lâu ta sẽ xả thân ở núi này, xin Pháp sư đến tiễn đưa vong hồn ta vĩnh viễn đi xa, đợi ngày ước hẹn sẽ đến thăm. Sau đó Sư thấy một con chồn đen như than chỉ còn thoi thóp, bỗng chốc thì chết.
Lúc Pháp sư mới từ Trung Quốc trở về, tất cả quần thần trong triều đều kính trọng tôn làm thầy. Sư thường giảng các kinh điển Đại Thừa. Bấy giờ Cao Ly, Bách Tế, thường xâm phạm biên cương, Quốc vương rất lo sợ, muốn xin binh của nhà Tùy (nên viết là Đường), nên thỉnh Sư soạn bài biểu xin viện binh. Hoàng đế liền thân chinh dẫn ba mươi vạn quân phạt Cao Ly. Từ đó mới biết Sư còn gồm thông Nho thuật. Sư thị tịch năm tám mươi tư tuổi, an táng phía Tây thành Minh hoạt. Tam Quốc Sử Liệt Truyện ghi:
Hiền Sĩ Quý Sơn người Sa Lương Bộ kết bạn với Trửu Hạng là người cùng làng. Hai người nói với nhau rằng: "Chúng ta hẹn cùng đi với các sĩ nho, nếu trước không chánh tâm giữ thân, thì e rằng không tránh khỏi bị sĩ nhục, nay cần phải hỏi đạo nơi Hiền giả mới được!"
Bấy giờ nghe nói có Viên Quang Pháp sư vừa từ Tùy trở về đang trụ tại Gia Sắt Giáp (hoặc gọi là Gia Tây, Gia Tê đều là phương ngôn. Giáp tục gọi là Cổ Hộ, nên gọi là Cổ Hộ tự là Giáp tự. Nay cách chùa Vân Môn khoảng chín ngàn bộ về phía Đông của Gia Tây Hiên, hoặc gọi Gia Sắt Hiện. Động phía Bắc của Gia Tây Hiện có nền cũ của chùa này), hai người bèn đến cửa thưa rằng:
- Hàng tục sĩ ngu muội chúng tôi không có tri thức, xin ban cho một lời để làm lời răn nhắc suốt đời!
Ngài Viên Quang nói rằng:
- Phật giáo có giới Bồ-tát, nếu phân biệt thì gồm mười điều, các vị là hàng thường nhân e rằng chẳng kham nhận được. Nay ta nói năm giới thế tục là: Một là trung với Vua, hai là hiếu với cha mẹ, ba là giữ tín với bạn bè, bốn lâm trận không được thoái lui, năm là sát sinh có chọn lựa, các vị nên siêng năng thực hành!
Hai người thưa rằng:
- Những điều khác thì đã vâng lãnh nhưng nói sát sinh có chọn lựa thì chưa được hiểu.
Ngài Viên Quang nói:
- Trong một năm có sáu kỳ trai là các tháng mùa xuân và mùa hạ không được sát sinh, đó là chọn thời; các loại súc vật dùng sai khiến như trâu, bò, gà, chó... không được giết; các con vật bé nhỏ, cho rằng không được một miếng thịt, đó là chọn vật; cũng nên tùy theo nhu cầu, không được đa sát.
Như trên là giới thiện của thế tục.
Quý Sơn... thưa:
- Từ nay về sau chúng tôi xin giữ trọn vẹn, không dám quên sót.
Về sau hai người gia nhập quân binh, lập được công lớn cho quốc gia. Mùa thu năm Quý Dậu, niên hiệu Kiến Phước ba mươi (tức năm thứ ba mươi lăm đời Chân Bình Vương), Sứ nhà Tùy là Vương Thế Nghi sang, lập đạo tràng trăm tòa tại chùa Hoàng Long, thỉnh các đại đức cao tăng thuyết kinh. Ngài Viên Quang là bậc thượng thủ. Thế Nghi nói:
- Từ khi Nguyên Tông hưng khởi pháp đến nay tuy bến bờ mới lập mà chưa đặt ra bí pháp. Vì thế nên dùng pháp quy giới và sám hối để khai ngộ quần mê!
Vì vậy ngài Viên Quang về trụ xứ của mình tại Gia Tê Giáp dùng Chiêm Sát Bảo làm phép tắc hằng thường. Bấy giờ có một Đàn-việt nữ dâng nạp ruộng vào Chiêm Sát Bảo. Tức một trăm mẫu ruộng ở quận Đông bình ngày nay.
Theo sử sách còn để lại, ngài Viên Quang tánh thích rỗng lặng, miệng nói thường mỉm cười, không bao giờ lộ sắc giận. Lúc tuổi đã cao, được phép ngồi xe vào cung. Bấy giờ các bậc anh tài, hàng đức nghĩa trong nước, không có ai dám đứng trên Sư. Văn tài của Sư trác tuyệt, khuynh loát cả một góc trời. Sư thị tịch vào năm Trinh Quán, thọ hơn tám mươi tuổi, tháp thờ được xây tại chùa Kim Cốc, núi Tam Kỳ (nay là Nam Động ở phía Tây An Khang, cũng thuộc phía Tây của Minh Hoạt).
Đường truyện ghi: Thị tịch ở chùa Hoàng Long () thì chưa rõ ở đâu, nghi là Hoàng Long () mà viết lầm. Giống như Phấn Hoàng () mà viết là Vương Phấn (). Căn cứ theo Đường truyện và Hương truyện ở trên thì có họ Phác họ Tiết, xuất gia ở Đông ở Tây giống như nói về hai người. Vì chưa dám quyết định, nên ghi cả hai thuyết nhưng các truyện ký ở trên không ghi các việc Thước Áp, Ly Mục và Vân Môn, mà người trong nước là Kim Thiểm Minh lầm dùng lời truyền tụng rồi nhuận văn ghi truyện sư Viên Quang hợp với sự tích Tổ Bảo Nhưỡng Khai Sơn Vân Môn tự làm một truyện. Về sau người soạn Hải Đông Tăng Truyện lại theo sự lầm lẫn này mà sao chép vào. Cho nên người thời bấy giờ có nhiều nghi hoặc. Nhân luận đến việc này nên ghi lại đầy đủ văn của hai truyện, không thêm bớt một chữ.
Vào đời Trần, Tùy, ở Hải Đông rất ít người hỏi về đường biển, dẫu có thì cũng còn chưa thịnh hành. Sau ngài Viên Quang thì người sang Trung Quốc tham học kế tục ngày càng nhiều. Như thế ngài là người mở đường vậy. Tóm rằng:
Mở đường hàng hải sang đất Hán
Bao người qua lại rót hương thơm
Năm xưa lưu dấu nơi non thẳm
Gia Tây, Kim Cốc, việc từng nghe.
Thích Bảo Nhưỡng Truyện không ghi tộc họ và quê quán của Sư, nhưng xét sổ bộ ở Thanh Đạo quận thì có ghi rằng: Mồng một tháng giêng năm Quý Dậu, niên hiệu Thiên Phước thứ tám (năm hai mươi sáu đời Thái Tổ), Lý Thẩm Sứ Thuận Anh, Đại Nải, Mạt Thủy Văn của Thanh Đạo quận gởi công văn ghi rằng: Vân Môn Sơn Thiền Viện Trường Sinh Nam A Ni Cổ, Đông Gia Tây Hiện... Đồng Tẩu Tam Cương Điển Chủ Bảo Nhưỡng Hòa Thượng, Viện chủ Huyền Hội Trưởng Lão, Trinh Tọa Huyền Lưỡng Thượng Tòa Trực Tuế Tín Nguyên Thiền Sư (công văn trên là căn cứ theo Đô Điền Tướng Truyện của Thanh Đạo quận).
Năm Bính Ngọ niên hiệu Khai Vận thứ ba, gởi một đạo công văn về Trường Sinh Tiêu Tháp của Vân Môn Sơn Thiền Viện rằng: Trường Sinh gồm mười một A Ni Cổ, Gia Tây Hiện, Mẫu Hiện, Tây Bắc Mãi Hiện (còn gọi là Diện Tri Thôn), Bắc Trư, Túc Môn...
Năm Canh Ngọ, Phủ Tấn Dươu gởi công văn cho Án Sát Sứ năm Đạo rằng: Tự Viện Thiền, Giáo ở các Đạo mới sáng lập nên ghi ngày tháng năm, hình thức, nơi chốn khi kiểm xét thành lập sổ bộ thì khiến Đông Kinh làm thư ký còn Lý Thiện kiểm tra việc ghi chép.
Tháng chín năm Tân Tỵ, niên hiệu Vương Phong thứ sáu (niên hiệu của nhà Kim, nhằm năm mười sáu đời Nghị Tông của Tân La), bây giờ Tỳ Bổ Ký của Cổ Tịch trong quận đã căn cứ theo tin tức của các quan tiền nhiệm là Phó Hộ Trưởng Ngữ Hối, Phó Úy Lý Tắc, Trinh Hộ đã ghi ở trên thuộc quận Thanh Đạo và các lời tục truyền đã ghi chép, đồng thời theo lời kể của Thượng Hộ Trưởng về hưu Kim Lương Tân, Hộ Trưởng về hưu Mân Dục, Hộ Trưởng Đồng Chánh Y, Ứng Tiền Kỳ, Nhân Trân Kỳ và đương thời Thượng Hộ Trưởng Dụng Thành. Bấy giờ Thái Uy Lý Tư Lão, Hộ Trưởng Lượng Tân đã tám mươi chín tuổi, các người còn lại đều đã trên bảy mươi, Dụng Thành thì cũng trên sáu mươi tuổi... Từ thời Tân La đến nay, các tự viện của quận này từ Thước giáp trở xuống là các tự viện bậc trung và tiểu. Trong thời kỳ Tam Hàn bị loạn lạc thì Đại Thước giáp, Tiểu Thước giáp, Sở Bảo giáp, Thiên Môn giáp, Gia Tây giáp đều bị hư hoại; năm Giáp này quy gom về Đại Thước Giáp. Tổ Sư Tri Thức (trên ghi là Bảo Nhưỡng) từ Đại Quốc truyền pháp đến, trên đường trở về, lúc đi trong biển Tây (Tây Hải) Long vương xuất hiện thỉnh xuống Long cung giảng kinh, Long vương cúng dường Ca sa Kim Lan và cho một người con tên là Ly Mục theo làm thị giả, đồng thời dặn rằng:
- Thời nay Tam Quốc loạn lạc, chưa có một bậc quân chủ nào quy y Phật pháp, nếu ngài cùng với con của ta trở về Thước Giáp của bản quốc lập chùa mà trụ thì có thể tránh được giặc, có lẽ cũng không quá vài năm ắt sẽ có Hiền Quân hộ pháp xuất hiện định yên Tam Hàn.
Long vương nói xong liền từ biệt. Tri Thức trở về động này, bỗng thấy có một vị lão tăng tự xưng là Viên Quang ôm một cái rương bước ra trao cho rồi biến mất (ngài Viên Quang sang Trung Quốc vào cuối đời Trần, năm Khai Hoàng trở về Đông, trụ ở Gia Tây giáp, thị tịch ở Hoàng Long tự, như tính đến năm Thanh Thái thứ nhất thì đã ba trâm năm. Nay buồn than vì các giáp đã hoang phế, nay vui mừng thấy Bảo Nhưỡng trùng hưng nên đến báo). Bấy giờ Bảo Nhưỡng sắp trùng hưng những ngôi chùa hoang phế, nên lên ngọn Bắc Lĩnh mà quan sát, bỗng thấy có một ngôi tháp năm tầng màu vàng, liền xuống tìm, nhưng không thấy dấu tích gì, lại trở lên nhìn thì thấy một vùng đất có bầy chim thước tụ tập kêu vang, thì nhớ lại lời Thước giáp của Long vương khi trước. Bảo Nhưỡng liền tìm hang động, quả nhiên có vô số gạch đá còn để lại, ngài bèn gom lại, xây thành ngôi tháp. Tháp hoàn thành thì không còn viên gạch nào nữa. Do đó mới biết đây là di tích của già lam đời trước. Sau cùng Sư lập chùa để an trụ gọi là chùa Thước giáp. Không bao lâu Thái Tổ thống nhất Tam Hàn, nghe Sư đến nước này lập chùa mà trụ, bèn hợp ruộng đất của năm giáp gồm một trăm mẫu sung vào chùa. Đến năm Đinh Dậu, niên hiệu Thanh Thái thứ bốn ban cho chùa tấm bảng đề là: "Vân Môn Thiền Tự". Để phụng trì sự linh ứng của casa, Ly Mục thường trụ tại một đầm nhỏ cạnh chùa, âm thầm giúp đỡ việc giáo hóa. Bỗng một năm kia trời hạn hán, hoa màu đều bị khô héo, Bảo Nhưỡng sai Ly Mục làm mưa, cả một vùng đều đầy đủ. Thiên đế biết được nên tru diệt, Ly Mục chẳng biết làm sao đến cấp báo với Sư, Sư bèn giấu dưới giường của mình. Bỗng chốc có Thiên sứ đến xin trao Ly Mục, Sư chỉ cây lê, Thiên sứ đánh cây lê rồi trở về trời. Cây lê khô héo, rồng đến vuốt ve thì liền tươi tốt (có thuyết nói do Sư chú nguyện mà sống lại).
Gần đây cây lê này đã ngã trên đất, có người lấy gỗ của nó làm Kiền chùy treo ở Thiện pháp đường và trai đường, cán của chùy có bài minh. Lúc Sư mới từ Đường trở về thì trụ tại chùa Phụng Thánh ở Chùy Hỏa. Gặp lúc Thái Tổ Đông chinh đi ngang qua quận này, sơn tặc tụ tập, reo hò ở Khuyển thành (thành cao có núi hiểm sông sâu. Nay người đời ghét tên ấy nên đổi là Khuyển thành) cao ngạo, không thể đánh được. Thái Tổ xuống núi đến hỏi Sư về thuật chế địch. Sư đáp:
Phàm chó là con vật chủ về ban đêm, không thể chủ về ban ngày, giữ được phía trước mà bỏ mất phía sau, nên đánh vào hướng Bắc và ban đêm. Thái Tổ nghe theo, quả nhiên sơn tặc đại bại xin hàng. Thái Tổ khen là mưu thần. Hằng năm chu cấp năm mươi thạch thuế của huyện gần đó cho chùa để lo việc nhang đèn. Vì thế chùa này có thờ chân dung hai vị Thánh và cũng nhân đó mà gọi là Phụng Thánh tự. Sau Sư dời đến Thước giáp sáng lập đại Già-lam và trụ đến suốt đời. Hành trang của Sư, trong truyện xưa chẳng ghi. Nhưng tục truyền Sư và ngài Bị Hư ở chùa Thạch Quật là huynh đệ. Ba chùa Phụng Thánh, Thạch Quật và Vân Môn ở trên các ngọn núi liền nhau như răng lược, thường qua lại giao du nhau; người đời sau soạn Tân La Dị Truyện lạm ghi việc Thước Tháp, Ly Mục vào truyện ngài Viên Quang, lại ghi việc Khuyển Thành vào truyện của ngài Tỳ Hư (Bị Hư) là sai lầm. Rồi người soạn Hải Đông Tăng Truyện cũng theo đó mà chép thành văn, làm mất đi truyện của ngài Bảo Nhưỡng, gây nghi lầm cho người sau, thật là hư vọng biết bao?
Thích Lương Chí: Không rõ quê quán và dòng họ của Sư, chỉ biết thị hiện hàng tích vào triều Thiện Đức Vương mà thôi. Trên đầu tích trượng của Sư thường treo một cái bao vải, tích trượng tự bay đến nhà Đàn-việt, rồi chấn trượng để kêu cửa, gia chủ biết mà cúng dường tài vật, khi bao vải đã đầy vật cúng thì tích trượng tự bay trở về, vì thế gọi nơi Sư trụ là Tích Trượng tự. Những thần dị khó lường của Sư đại loại như thế. Sư còn thông thạo những công việc khác, cũng thần diệu không ai sánh bằng. Lại khéo vẽ viết, linh miếu, đắp tượng Tam Tôn, tượng Thiên Vương, điện tháp. Như tượng Bát Bộ Thần Tướng nơi tháp chùa Thiên Vương, Tam Tôn Phật ở chùa Pháp Lâm, và Kim Cang Thần trái phải cũng ở chùa này đều do Sư tạo, viết bảng chùa Linh Miếu và Pháp Lâm. Sư còn tạc một tháp đá nhỏ, tạo tượng Tam Thiên Phật tôn trí trong đó rồi đặt trong chùa để kính lễ. Tượng Phật ở Linh Miếu, do Sư nhập định dùng cảnh quán của chánh định mà làm mô thức để tạo hình. Vì thế trai gái trong thành đều tranh nhau mang đất đến. Ca rằng: "Lai như lai như lai như, lai như suy phản đa lạ, suy phản đa hỷ đồ lương, công đức tu sất như lương lai như. "
Đến nay các công việc xay giả đều dùng việc ấy, vì khởi đầu từ đó. Chi phí để hoàn thành pho tượng là hai vạn ba ngàn bảy trăm thạch (hoặc cho là thuế vào đời Kim). Bàn rằng: Có thể cho Sư là người tài đức vẹn toàn, mà dùng đại phương tiện ẩn nơi tầm thường vậy!.
Tán rằng:
Trai xong tích trượng nhàn trước cửa
An tỉnh phần hương cắm trong lư
Tụng kinh đã hết không còn việc
Lại tạo chân dung để kính nhìn.
Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (hòm chữ Quảng) ghi: Thích A Ly Na (Da) Bạt Ma người Tân La. Lúc đầu vì cầu chánh giáo nên Sư sớm sang Trung Quốc, sau đó ý muốn chiêm ngưỡng thánh tích ngày càng mạnh mẽ; nên trong khoảng niên hiệu Trinh Quán, Sư rời Trường An đến Ngũ Thiên Trúc trụ tại chùa Na-lan-đà, xem đọc nhiều luật, luận, sao chép kinh điển; thấy khổ vì sự mong cầu đạt tâm không thành tựu; bỗng nhiên vô thường đến, Sư thị tịch tại chùa Na-lan-đà, thọ hơn bảy mươi tuổi; kế thừa ngài Bạt-ma có Tuệ Nghiệp, Huyền Thái, Cầu Bản, Huyền Cách, Tuệ Luân, Huyền Du, và hai vị Sư mất tên, tất cả đều quên thân để phụng pháp. Những vị sang Thiên Trúc quán xét sự giáo hóa thì hoặc là qua đời trên đường đi, hoặc là trụ luôn bên chùa ấy, rốt cuộc chưa có người trở về Kê Quý và Đường Triều. Chỉ có Huyền Thái trở về Đường, nhưng cũng chẳng biết thị tịch tại nơi nào. Người Trung Thiên Trúc gọi Đông Hải là Củ Củ Trá Ê Thuyết La, Củ Củ Trá là Kê, Ê Thuyết Tra là Quý. Cõi ấy tương truyền rằng: Nước kia kính ngưỡng Thần Kê (thần gà) mà lập làm chủ tôn, cho nên thường đội các chiếc lông để trang sức. Tán rằng:
Thiên Trúc mờ xa núi điệp trùng
Thương thay Du sĩ tận lực sang
Bao lần trăng tiễn thuyền cô lữ
Chưa thấy mây đưa chiếc trượng về.
Thích Tuệ Tú: Đầu tiên Sư ẩn tích làm môn hạ Hiếu Thế Lang, khi Thế Lang lui về Hoàng Quyển, thì Sư cũng ẩn cư tại Xích Thiện thôn (nay ở huyện An Khang, có Xích Cốc thôn) hơn hai mươi năm. Bấy giờ Quốc Tiên là Cù Sảm Công thường ra ngoài thành tự do săn bắn. Một hôm Tú ra đứng bên trái đường chận xe của Quốc Tiên mà thưa rằng: "Bần tăng cũng xin theo, có được chăng?" Sảm Công chấp thuận. Tú tung hoành xung đột, đơn thân xông lên trước, Công thấy rất vui mừng. Đến lúc ngồi nghỉ ngơi, liền sai nấu nướng thịt săn để cùng ăn, Tú cũng cùng ăn với mọi người, tuyệt không tỏ vẻ chống trái, lát sau bước đến trước Sảm Công thưa rằng: "Nay có một món rất ngon nơi đây, xin dâng thêm lên được chăng?". Công đáp: "Được!". Tú bèn che người rồi cắt thịt đùi của mình đặt lên mâm dâng cho Sảm Công, máu tuôn ướt áo. Công kinh ngạc nói rằng: "Sao phải đến như thế?"
Sư đáp: "Lúc đầu tôi cho rằng Công là người nhân từ, hay khoan thứ với mình mà cảm thông với muôn vật, cho nên mới đi theo. Nay xét thấy Công chỉ ham giết chóc, dốc tâm hại vật để dưỡng thân mà thôi. Như thế đâu phải là hành động của người quân tử; chẳng phải là đường của tôi!"
Nói xong phủi áo mà đi. Công rất hỗ thẹn, nhìn lại thức ăn trong mâm thì thấy miếng thịt sống vẫn còn, Công rất kinh ngạc trở về tâu với triều đình, Chân Bình Vương nghe được sai sứ đến mời thỉnh, bấy giờ Tú đang nằm ngủ trên giường của đàn bà, Trung Sứ cho là tầm thường, bèn quay trở về. Đi được bảy, tám dặm thì gặp Sư trên đường. Sứ liền hỏi: "Sư từ đâu đến đây?"
Sư đáp: "Dự trai thất tại nhà Đàn-việt trong thành. Vừa xong thì ta liền đến đây. "
Quan Trung sứ thuật lại lời này với Vương. Vương sai người kiểm tra nhà Đàn-việt, thì sự thật đúng như thế. Không bao lâu Sư bỗng nhiên thị tịch, người trong thôn khiêng an táng phía Đông Nhĩ Hiện (còn gọi là Loát Hiện). Trong thôn có người từ phía Tây Nhĩ Hiện đến thì lại gặp Sư trên đường, người ấy bèn hỏi: "Sư đến đâu?"
Sư đáp: "Ta sống ở đây đã lâu, nay muốn đến nơi khác. " Nói xong vái chào rồi từ biệt. Sư đi được khoảng nửa dặm thì vọt lên mây đi mất. Người kia đến phía Đông Nhĩ Hiện thì đám tang chưa xong, bèn thuật lại nguyên do, quật mộ lên xem thì chỉ thấy một chiếc giày cỏ mà thôi. Nay ở phía Bắc huyện An Khương có chùa Tuệ Tú, là nơi Sư đã trụ, tại đây cũng có tháp thờ Sư.
Thích Tuệ Không: Sư là con của một nô tỳ trong nhà Thiên Chân Công, lúc nhỏ tên là Ưu Trợ (phương ngôn). Chân Công thường lo sợ bệnh ung nhọt của mình phát tác mà chết, nên người đến thăm hỏi an ủi rất đông. Lúc Ưu Trợ lên bảy tuổi, một hôm hỏi mẹ rằng: "Nhà có việc gì mà khách khứa đông như thế?" Người mẹ trả lời: "Chủ nhân bị ác bệnh sắp chết, con chẳng biết ư?" Trợ nói: "Con có thể giúp được!" Người mẹ kinh ngạc thưa lại với Chân Công. Công cho người gọi đến. Trợ đến ngồi bên giường im lặng không nói một lời, trong giây lát nhọt vỡ mũ lành bệnh, Công cho là việc ngẫu nhiên, không lấy làm lạ. Khi Ưu Trợ đã lớn, lo việc nuôi giữ chim ưng, rất hợp ý Công. Một hôm người em của Chân Công được bổ làm quan trấn nhiệm bên ngoài, xin Công chọn chim ưng đem về trị sở. Một đêm Công nhớ lại việc chim ưng, định sáng bảo Ưu Trợ bắt đến. Ưu Trợ đã biết trước việc này, liền bắt ưng, mờ sáng thì đem đến. Công rất kinh ngạc, lúc ấy mới biết việc cứu chữa ung nhọt ngày trước thật khó lường. Công liền thưa: "Tôi chẳng biết bậc Chí Thánh đã nương gá vào nhà tôi, nên có những lời ngông cuồng, không kính lễ, làm ô nhục ngài, tội ấy làm sao rửa sạch!
Từ nay về sau xin làm Đạo sư dẫn dắt tôi!"
Nói xong liền lễ bái. Linh dị đã hiển lộ, nên Ưu Trợ xuất gia làm Tăng đổi tên là Tuệ Không, thường trụ tại một ngôi chùa nhỏ; mỗi khi say sưa khật khưỡng, Sư thường mang một sọt tre (ký) ca múa khắp xóm làng, nên có hiệu là Phụ Ký Hòa thượng, ngôi chùa Sư trụ cũng nhân đó mà gọi là Phu Các tự, vì phương ngôn gọi Ky là Phu cái. Mỗi khi Sư vào trong giếng của chùa thì vài tháng chẳng ra, nên lấy tên Sư đặt tên cho giếng ấy. Khi Sư sắp ra khỏi giếng thì có một vị thần có dáng một đứa trẻ mặc áo xanh vọt lên trước, vì thế chư Tăng trong chùa lấy đó để chờ đợi, Sư từ giếng lên, nhưng y phục chẳng ướt.
Về già Sư dời đến chùa Hằng Sa (nay ở chùa Ngô Ngự, huyện Nghinh Nhật có câu: Hằng sa nhân xuất thế, nên gọi là Hằng sa động). Bấy giờ ngài Nguyên Hiểu soạn các kinh sớ, thường đến Sư để chất vấn những điều nghi, hoặc cùng nhau du hí. Một hôm hai Sư men theo suối bắt cá, ốc để ăn rồi phóng uế trên tảng đá, Sư chỉ và đùa rằng: Phân của người còn cá của ta (nhử thỉ ngô ngư), do đó gọi là Ngô ngư tự. Có người cho lời này của ngài Nguyên Hiểu là sai). Người đời lầm gọi suối này là Mạo Hỉ xuyên.
Cù Sảm Công, một hôm dạo núi bỗng thấy Sư đã chết từ lâu trên đường núi, thi thể sình chương, thối rửa dòi bọ lúc nhúc, Công than thở hồi lâu rồi trở về thành, thì lại thấy Sư đang say sưa nghêu ngao múa hát trong phố chợ. Lại một hôm Sư mang các sợi dây se bằng cỏ vào chùa Linh Miếu, giăng kết quanh Kim đường, trái phải lầu kinh và phòng xá ở Nam Môn, rồi nói với Cương Ty rằng: "Sau ba ngày mới được lấy các sợi dây này!". Cương Ty lấy làm lạ, nhưng cũng vâng theo. Quả nhiên ba ngày sau, Thiên Đức Vương xa giá đến chùa, Chí Quỷ nổi giận thiêu cháy tháp, chỉ những nơi có sợi cỏ giăng kết thì tránh khỏi.
Thần Ấn Tổ Sư Minh Lãng xây dựng chùa Kim Cang, tổ chức lễ Lạc thành, các bậc long tượng trong Phật môn đều vân tập, chỉ một mình Sư không đến. Lãng Sư đốt hương chí thành cầu khẩn, lát sau thì Sư đến, bấy giờ trời mưa lớn, nhưng áo Sư chẳng ướt, chân chẳng dính bùn đất, Sư nói với ngài Minh Lãng rằng: "Ngài hạ mình, ân cần triệu thỉnh, nên bây giờ Tôi đến đây!"
Những linh tích về Sư rất nhiều. Đến lúc sắp thị tịch, Sư bay lên hư không mà báo; trà tỳ thâu được vô số xá-lợi. Bình sinh Sư từng xem Triệu luận và nói rằng: "Đây là bộ sách khi xưa ta soạn", mới biết Sư là hậu thân của ngài Tăng Triệu. Tán rằng:
Săn bắn chốn thảo nguyên, nằm tựa đầu giường,
Nơi quán rượu cuồng ca, ngủ yên đáy giếng
Quảy chiếc dép đạp hư không đến chốn nào
Một đôi xin tạm biệt sen trong lửa đỏ.
Đại đức Từ Tạng họ Kim, là con của quan Tô Phán Mậu lâm thời? Chân Cốt ở Thần hàn. Cha ngài làm quan rất thanh liêm, nhưng chưa có con nối dõi, do đó tâm hướng về Tam bảo, tạo tượng Thiên Bộ Quán Âm mong cầu một nam kế nghiệp. Nguyện rằng: "Nếu sinh được một nam sẽ cho xuất gia làm bến bờ cho biển pháp. Một hôm người mẹ nằm mộng thấy ngôi sao rơi vào lòng, nhân đó có thai, sau sinh ra đồng ngày sinh với Đức Thích-ca, đặt tên là Thiện Tông Lang. Sư có trí tuệ trong sáng, văn tài ngày càng trác tuyệt, nhưng lại chẳng nhiễm thế trần, cha mẹ mất sớm, Sư càng nhàm chán vinh hoa nên lìa vợ con, bỏ ruộng vườn, thí làm chùa Nguyên Ninh, vào chốn rừng sâu núi hiểm một mình ẩn tu, chẳng cần tránh cọp sói, tu khô cốt quán. Vì thường bị mỏi mệt, nên Sư cất một ngôi thất nhỏ, trong đó chất đầy gai nhọn chung quanh, rồi để trần ngồi vào giữa, nếu cử động thì bị gai chích, còn đầu thì cột vào dây kéo thẳng lên xà nhà để trừ hôn trầm.
Lúc ấy triều đình vừa khuyết một Thái phụ, vua quan bình nghị chọn Sư, nhưng nhiều lần thỉnh mời, nhưng Sư kiên quyết từ chối. Cuối cùng Vương ra lịnh rằng: "Nếu không trở về thì chém!". Sư bèn nói: "Ta thà trì giới một ngày mà chết, chứ không thể phá giới để được sống một trăm năm. "
Sứ về tâu lại, Vương phải cho phép xuất gia. Sư lại vào sâu nơi núi rừng ẩn tu, lương thực không người cung cấp. Bấy giờ thường có một con chim lạ ngậm quả đến cúng dường; Sư chỉ thuận tay mà lấy ăn. Một hôm mộng thấy người trời đến Sư lãnh thọ năm giới. Lúc ấy Sư mới ra khỏi cốc, trai gái trong làng tranh nhau đến cầu thọ giới. Sư thường tự than là mình sinh ở nơi biên địa, muốn đến phương tây nhận sự đại giáo hóa. Năm Bính Thân niên hiệu Nhân Bình thứ ba (tức năm Trinh Quán thứ mười), Sư vâng sắc cùng hơn mười đệ tử là Tăng Thật... sang Đường. Đầu tiên tham bái tại núi Thanh Lương. Núi có chân tượng Đức Vănthù. Nước ấy truyền rằng: "Tượng do tướng trời của Đế Thích xuống đắp tạo!". Từ Tạng khẩn cầu trước tượng xin thầm cảm ứng. Đến đêm Sư mộng thấy tượng dùng tay xoa đầu mình và trao cho các câu kệ tiếng Phạm. Lúc thức dậy Sư chẳng hiểu nghĩa bài kệ. Đến sáng bỗng có một vị Tăng lạ đến giải thích (đã ghi ở thiên Hoàng Long Pháp) và nói rằng: "Tuy có học vạn kinh giáo, cũng chẳng hơn các câu văn này!
Nói xong vị tăng trao cho Sư ca-sa và xá-lợi rồi biến mất (lúc đầu ngài Từ Tạng ẩn tích, nên Đường Tăng Truyện chẳng ghi các việc này). Sư biết đã được Đại Thánh thọ ký, nên xuống Bắc Đài đến hồ Đại Hòa rồi vào kinh đô. Vua Thái Tông sai sứ đến phủ dụ mời trụ tại Biệt Viện Thắng Quang, ân tứ rất trọng hậu. Sư ngại nơi đó ồn náo nên dâng biểu xin đến sườn núi phía Đông chùa Vân Tế ở Chung Nam chất đá làm thất, ẩn cư ba năm, người thần đều đến thọ giới, sự linh ứng ngày càng nhiều; sợ dài dòng nên chẳng ghi hết. Không bao lâu Sư lại về kinh, được vua ban sắc thăm hỏi cấp cho hai trăm xấp lụa để làm phí dụng và y phục. Năm Quý Mão, niên hiệu Trinh Quán mười bảy, Thiện Đức Vương của Tân La dâng biểu xin cho Sư được phép trở về. Vua hạ chiếu chấp thuận, đồng thời triệu nhập cung ban cho một áo lụa, năm trăm tấm vải lụa năm màu, Đông cung cũng ban hai trăm tấm, cùng với nhiều lễ vật khác. Sư biết trong nước chưa đủ kinh tượng, nên xin một bộ Đại Tạng Kinh. Đến các vật như tràng phan, hoa cái... có thể làm phước lợi, nên Sư đều mang trở về tất cả. Khi Sư vừa về đến, cả nước đều vui mừng, thỉnh trụ tại chùa Phấn Hoàng (sử Đường ghi là Vương Phấn), cấp cho một ngôi nhà lớn, Vương lại thỉnh Sư vào cung giảng về luận Đại thừa. Sư lại đến chùa Hoàng Long giảng Bồ-tát giới Bản bảy ngày bảy đêm, trời làm mưa cam lộ; mây mù, sương khói che mát cả giảng đường. Tất cả bốn chúng đều kính phục điều thần dị này. Triều đình nghị bàn rằng: "Phật giáo du nhập đến Đông quốc này, tuy đã trải qua trăm ngàn năm, mà đối với việc trụ trì, tu tập, kính lễ còn thiếu phép tắc nghi quỷ. Như chẳng có kỷ cương thì lý không làm sao để ngay thẳng trong sạch. Nay xin ban sắc cho Sư Từ Tạng làm Đại Quốc Thống. Phàm tất cả nghi quy phép tắc của tất cả tăng ni đều ủy thác cho Tăng Thống định đoạt (vào niên hiệu Thiên Bảo đời Bắc Tề, Trung Quốc lập Thập Thống, quan Hữu ty tùy thuận phân chia. Bấy giờ Hoàng Đế phong Pháp sư Pháp Thuận làm Đại Thống, còn chín người còn lại là Thông Thống. Lại vào thời Lương Trần có lập ra Quốc Thống, Châu Thống, Quốc Đô, Châu Đô, Tăng Đô, Tăng Chánh, Đô Duy... tất cả đều thuộc Chiêu Huyền Tào. Tào tức chức quan thống lãnh Tăng ni. Đến đầu đời Đường thì lập mười vị Đại đức. Năm Canh Ngọ, nhằm năm thứ mười một đời Chân Hưng Vương, Tân La tôn Pháp sư An Tạng làm Đại Thư Tỉnh, và lập thêm hai Tiểu Thư Tỉnh. Qua năm sau, tức năm Tân Mùi tôn Pháp sư Tuệ Lượng người Cao Ly làm quốc thống, cũng gọi là Tự Chủ. Pháp Sư Bảo Lương làm Đại đô duy na và chín vị Châu Thống, mười tám vị Quận thống. Đến ngài Từ Tạng thì lại lập Đại quốc thống một vị. Đây chẳng phải là chức vị thường định, cũng giống như phu lễ lang là Đại A Can, Kim Dửu Tín là Đại Đại Giác Can. Về sau đến năm thứ nhất đời Nguyên Thánh Đại Vương lại lập danh xưng Tăng quan trao cho Pháp Điển, lập một vị Đại Xá, hai vị lại làm Ty Đống. Trong Tăng thì có Tài Hành quản chúng, nếu qua đời thì thay thế chứ không định niên hạn. Ngày nay có hàng Tử Y cũng là biệt chế của chùa Luật.
Hương Truyện ghi rằng: "Lúc ngài Từ Tạng đến Đường, vua Thái Tông thỉnh đến điện Thức Càn giảng kinh Hoa Nghiêm, trời tuôn mưa cam lộ, phong làm quốc sư". Đây là lời hư vọng. Đường Truyện và Quốc Sử không có văn này). Ngài Từ Tạng lập hội Tư Da, mạnh mẽ hoằng truyền, khiến Tăng Ni năm bộ mỗi mỗi tăng tấn cựu học. Nửa tháng thì thuyết giới một lần, đến Đông, Xuân thì khảo thí chung, khiến tất cả biết rõ trì phạm, đặt người quản lãnh để duy trì, lại sai tuần sứ đi kiểm tra bên ngoài chùa, khuyên bảo răn dạy Tăng phạm lỗi, trang nghiêm kinh tượng, lấy đó làm quy tắc thường hằng. Một đời hộ pháp hưng thạnh từ đây, như Khổng Phu Tử từ Vệ trở về Lỗ, nhạc chánh, nhã tụng, mỗi mỗi đều có phép tắc. Trong thời gian này, người Trung Quốc thọ giới phụng Phật thì mười nhà hết tám, chín nhà có người xin thế phát xuất gia, ngày càng tăng thêm, bèn xây chùa Thông Độ, lập giới đàn độ bốn chúng (việc lập giới đàn đã nêu ở trên). Sư lại dùng nhà cửa ruộng vườn của mình làm chùa Nguyên Ninh, tổ chức lễ lạc thành giảng một vạn bài kệ kinh Tạp Hoa, cảm được năm mươi hai người nữ hiện thân nghe pháp, Sư sai môn nhân trồng năm mươi hai cây để biểu thị điềm linh dị này, nhân đó Sư có hiệu là Tri Thức Thọ. Sư từng cho rằng áo mão cân đai của nước nhà chẳng giống với Trung Quốc, nên đem ra luận nghị trong triều, mọi người đều đồng ý khen hay vì thế đến năm Kỷ Dậu nhằm năm thứ ba đời Chân Đức Vương vua quan bắt đầu mặc triều phục như Trung Quốc. Qua năm sau tức năm Canh Tuất, vào ngày mồng một tháng giêng thì ban hành niên hiệu Vĩnh Huy. Từ đó về sau mỗi lần có triều kiến, Sư được xếp đứng đầu các quan, đó là vì công của Sư vậy.
Về già Sư rời kinh đô đến quận Giang Lăng (tức Minh châu) lập chùa Thủy Đa để cư trụ. Một hôm mộng thấy một vị chân Tăng, hình giống như người đã gặp ở Bắc Đài thuở xưa đến bảo rằng: "Hôm sau đến gặp ta tại Đại Tòng Đinh" (tại Tòng Đinh đến nay cũng không sinh gai góc, cũng không có các loài ưng, thước đậu).
Sư kinh sợ tỉnh thức, hôm sau đến Tòng Đinh, quả nhiên cảm được Bồ-tát Văn-thù đến, Sư bèn thưa hỏi pháp yếu. Bồ-tát lại nói: "Hẹn gặp lại tại nơi có sợi dây cuộn tròn tại Thái Bá sơn. Nói xong thì biến mất. Từ Tạng bèn đến Thái Bá tìm kiếm bỗng thấy có một con rắn lớn đang cuộn tròn bên gốc cây thì nói với thị giả rằng: "Đây là nơi có dây leo cuộn tròn (cát bàn). "
Sư bèn lập am ngay tại đó gọi là Thạch Nam viện để trụ, đợi Đại Thánh đến. Một hôm bỗng có một vị cư sĩ đắp tấm y cũ rách, mang một giỏ đan bằng vỏ cây trong đó có một con chó chết đến nói với thị giả của Sư rằng:
- Muốn gặp Từ Tạng nên đến đây vậy! Thị giả nói rằng:
- Từ khi theo hầu đến nay chưa thấy ai dám ngỗ nghịch phạm húy thầy ta, nay ông là ai mà cuồng ngôn như thế?
Cư sĩ đáp:
- Chỉ cần báo với thầy của ngươi!
Thị giả vào báo, Từ Tạng chẳng biết vội nói:
- Chỉ là kẻ cuồng ư?
Các đệ tử bèn ra nhục mạ đuổi đi. Vị Cư sĩ liền nói:
Trở về thôi! Trở về thôi! Kẻ có ngã tướng đâu thấy được ta! Nói xong đổ giỏ xuống đất, con chó chết rơi ra biến thành tòa báu
Sư tử, cư sĩ thăng tòa phóng ánh sáng mà bay đi. Từ Tạng nghe nói vội chỉnh trang oai nghi theo luồng ánh sáng lên đến Nam lĩnh, nhưng đã mịt mờ chẳng kịp, bèn tự vẫn mà chết. Trà-tỳ thâu linh cốt thờ trong hang đá ấy.
Sư tạo lập được hơn mười ngôi chùa tháp, mỗi một lần xây dựng thì đều có các điềm lành linh dị hiện đến, cho nên tiền bạc cúng rất nhiều, không bao lâu thì hoàn thành. Còn những đạo cụ, y áo của Sư cùng với chiếc gối mộc áp mà Long vương hồ
Đại Hòa dâng hiến và chiếc ca-sa của Thế Tôn thì tôn trí tại chùa Thông Độ.
Lại ở huyện Hiến Dương (nay là huyện Ngạn Dương) có chùa Áp Du. Vì gối mộc áp thường hiện điềm linh dị ở nơi đây, nên đặt tên như thế. Có Sư Thích Viên Thắng sang Trung Quốc tu học trước ngài Từ Tạng, nhưng đồng trở về quê giúp việc hoằng truyền Luật bộ. Tán rằng:
Đến núi Thánh Lương mộng trở về
Bảy thiên, ba tụ nhất thời trao
Muốn khiến tục, Tăng thêm hổ thẹn
Áo mão triều thần theo Trung Hoa.
Thánh sư Nguyên Hiểu họ Tiết, tổ phụ là Nhưng Bì Công còn gọi là Xích Đại Công, nay ở bên cạnh vực Xích Đại còn miếu thì Nhưng Bì Công. Cha của Sư là Đàm Nại Nải Mạt. Sư sinh nơi cội cây Sa-la, Bắc Lật cốc, thôn Phật Địa, phía Nam quận Áp Lương (nay là quận Chương Sơn). Thôn tên là Phật Địa, hoặc gọi là Phát Trí (tục gọi là Phất Đẳng Ất thôn); cây Sa-la, truyền rằng gia đình của Sư vốn ở phía Tây nam của cốc này, mẹ Sư có thai đã đến ngày sinh, vừa lúc đi ngang qua cây lật (cây dẻ) bên cốc, bỗng nhiên sinh ra Sư, vì việc quá cấp bách không thể về nhà được, nên dùng áo của người chồng treo giăng trên cây để làm nơi ngủ nghỉ. Do đó mà gọi là cây Sa la. Quả của cây này cũng khác thường, đến nay gọi là Sa la lật cổ. Tục truyền rằng, xưa có vị chủ tự cấp cho mỗi người giúp việc chùa một tối hai quả dẻ thức ăn, người này kiện lên quan, quan lấy làm lạ mới kiểm xét hạt dẻ, thì mỗi một hạt dẻ được một bát thức ăn, bèn phán chỉ cấp một hạt mà thôi. Do đó mà gọi là lật cốc.
Sau khi Sư xuất gia thì đổi nhà làm chùa, tên là Sơ Khai, bên cội cây lập chùa gọi là Sa-la. Hành trạng của Sư ghi: Sư là người Kinh đô, từ đời Tổ khảo. Đường Tăng Truyện nói Sư người ở Hạ Tương châu. Xét trong khoảng năm Lân Đức thứ hai, Văn Võ Vương cắt đất của Hạ châu, Thượng châu lập thành Áp Lương châu, thế thì Hạ châu nay là quận Xương Ninh. Quận Áp Lương vốn là một huyện của Hạ châu; còn Thượng () châu thì nay là Thượng () châu, cũng gọi là Tương châu. Thôn Phật Địa nay thuộc huyện Từ Nhân, tức là vùng đất phân chia từ huyện Áp Lương.
Lúc Sư mới sinh đặt tên là Thệ Tràng, em tên là Tân Tràng (Tràng, tục gọi là Mao). Mẹ Sư nằm mộng thấy một ngôi sao rơi vào người mà có thai, lúc sắp sinh Sư có mây năm màu che phủ mặt đất, đó là vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Đại Nghiệp mười ba nhằm năm thứ ba mươi chín đời Chân Bình Vương của Tân La. Sư rất thông minh đĩnh ngộ, học tập chẳng từ nơi thầy. Việc trước sau du phương, hoằng hóa, hành tích của Sư đều chép đủ trong Đường Tăng Truyện và Hàng Trạng, ở đây không ghi lại, chỉ thuật một, hai đoạn dị sự ghi trong Hương Truyện mà thôi.
Một hôm Sư làm một người phong điên đi trên đường ca rằng: "Ai cho một cây búa, ta sẽ chặt trụ trời!". Mọi người đều chẳng hiểu. Bấy giờ Thái Tông nghe được nói rằng: "Vị Sư này hầu như muốn được quý phụ sinh hiền tử đây! Trong nước mà có người Đại hiền thì lợi ích thật vô cùng!".
Bấy giờ trong Dao Thạch Cung (nay là Học viện) có một công chúa đang cô độc, Vương sai sứ tìm Hiểu dẫn vào. Sứ vâng sắc tìm kiếm, khi từ Nam sơn đến cầu Văn Xuyên (Sa Xuyên, tục gọi là Mâu Xuyên, Văn Xuyên; cầu tên là Du Kiều) thì gặp, Hiểu giả vờ rơi xuống sông làm ướt cả quần áo. Sứ bèn dẫn vào cung thay y phục hong phơi, nhân đó tá túc qua đêm. Sau quả nhiên công chúa có thai sinh ra Tiết Thông. Thông rất thông minh, làu thông kinh sử, là một trong Thập Hiền của Tân La. Tiết Thông dùng phương ngôn để hội thông danh vật phong tục của Trung Hoa và các Biên quốc, đồng thời giải thích Lục Kinh, văn học. Cho đến nay, những người theo việc giải thích kinh sử ở Hải Đông vẫn truyền thọ không dứt).
Sư đã mất giới mà sinh ra Tiết Thông, về sau mặc áo quần thế tục, tự gọi là Phác Tánh Cư sĩ, chợt gặp người diễn trò đang đùa giỡn với một chiếc hồ lô lớn, hình trạng rất kỳ lạ. Cư sĩ bèn phỏng theo hình dáng ấy mà chế thành một loại đạo cụ, lấy ý nghĩa câu: "Nhất Thiết vô ngại nhân, nhất đạo xuất sinh tử" trong kinh Hoa Nghiêm mà mệnh danh là "Vô ngại", soạn các bài ca lưu hành ở đời. Cư sĩ thường mang theo vật này đi khắp ngàn thôn vạn xóm vừa ca vừa múa, dùng ngâm vịnh giáo hóa để trở về, khiến cho tất cả mọi loài từ hàng dân dã đến kẻ quyền quý và cả khỉ vượn... đều biết danh hiệu Phật-đà, đều xưng tiếng "Nam-mô". Sự giáo hóa của ngài Nguyên Hiểu rất lớn vậy.
Thôn mà ngài đã sinh ra tên là Phật Địa, chùa mà ngài đã xây dựng gọi là Sơ Khai. Còn tự xưng là Nguyên Hiểu là ngầm biểu thị ý nghĩa mới làm sáng tỏ mặt trời Phật. Nguyên Hiểu cũng là phương ngôn, người thời bấy giờ dùng phương ngôn gọi ngài là Nguyên Hiểu, là khởi đầu. Ngài từng trụ chùa Phấn Hoàng, soạn Hoa Nghiêm Kinh Sớ đến phẩm Thập Hồi Hướng thứ bốn mươi thì qua đời. Lại nhân nơi tụng mà phân thân trên một trăm cây tùng, nên mọi người đều cho ngài đã đạt giai vị Sơ địa. Cũng nhân nơi lời dụ dẫn của Long vương, thừa chiếu chỉ của vua mà trên đường đi, soạn Tam-muội Kinh Sớ. Ngài đặt bút nghiên ở khoảng giữa hai sừng trâu để viết, nhân đó mà gọi là Giác Thừa, cũng để hiển bày yếu chỉ Bản Giác Thủy Giác. Pháp sư Đại An sắp xếp phân biệt phẩm kinh và dán thành quyển, cũng là người biết âm điệu xướng hòa với Sư.
Sau khi ngài thị tịch, Tiết Thông nghiền nát di cốt đắp thành chân tượng tôn thờ nơi chùa Phấn Hoàng, để biểu thị lòng kính ngưỡng suốt đời. Có lần Thông quỳ một bên đảnh lễ, bỗng tượng quay nhìn, đến nay vẫn còn nguyên trạng như thế. Chùa hang mà ngài Nguyên Hiểu từng cư trụ, ở bên cạnh có nền móng nhà của Tiết Thông. Tán rằng:
Giác thừa mới khai Tam-muội sớ
Múa hồ theo gió khắp xóm thôn
Trăng sáng Dao cung xuân một giấc
Phấn Hoàng đóng cửa ảnh quay đầu.
Pháp sư Nghĩa Tương họ Kim, cha là Hàn Tín, năm hai mươi chín Sư vào chùa Hoàng Phước ở kinh đô thế phát xuất gia, không bao lâu lại muốn sang Trung Quốc tham học, nên cùng với ngài Nguyên Hiểu ra khỏi Liêu Đông, lính tuần biên cho là gián điệp, bắt giam nhiều tuần, sau được tha mà trở về (sự việc chép tại Thôi Hầu Bản Truyện và hành trạng của ngài Nguyên Hiểu). Năm Vĩnh Huy thứ nhất, Sư theo sứ Đường vào Trung Quốc. Đầu tiên ngụ tại Dương châu, Châu tướng là Lưu Chí Nhân mời trú tại nha môn, cúng dường đầy đủ. Kế đó Sư đến chùa Chí Tướng ở núi Chung Nam tham yết ngài Trí Nghiễm. Đêm trước ngài Trí Nghiễm mộng thấy một cây lớn mọc ở Hải Đông, cành lá trải rộng, phủ bóng mát đến tận Thần châu, trên đó có một tổ phượng, Sư leo lên xem thì thấy có một viên ma ni bảo châu, ánh sáng chiếu xa. Tỉnh giấc rất kinh ngạc liền quét dọn già lam để đón. Sư đến, trong lúc dùng lễ nghinh tiếp, ngài Trí Nghiêm từ tốn nói rằng:
-Đêm qua mộng thấy điềm ông đến chỗ ta.
Sư được nhận làm đệ tử nhập thất; Diệu chỉ của Hoa Nghiêm, Sư phân tích đến chỗ u vi, ngài Trí Nghiễm rất vui mừng, gặp được tri âm ắt phát được điều mới lạ. Có thể cho rằng móc sâu, dây ẩn, xanh đỏ hòa hợp làm biến hoại sắc xưa. Không bao lâu sau thừa tướng của bản quốc là Kim Khâm Thuần còn gọi là Nhân Vấn, Lương Đồ bị cầm tù ở Đường, Cao Tông sắp đem đại binh chinh phạt Tân La. Khâm Thuần bí mật bảo Sư về trước báo tin. Vì thế năm Canh Ngọ, niên hiệu Hàm Thuần thứ nhất Sư trở về nước, trình tấn sự việc trước triều. Vương mời Thần Ấn Đại Đức Minh Lãng giả lập Mật đàn để cầu khẩn. Quả nhiên nước nhà tránh được binh loạn.
Năm Nghi Phượng thứ nhất, Sư trở về núi Đại Bá, vâng sắc lập chùa Phù Thạch, xiển dương Đại thừa, có nhiều linh cảm. Bấy giờ ngài Hiền Thủ, môn hạ của Tổ Chung Nam soạn Sưu Truyền Sớ gởi phó bản sang cho Sư, đồng thời gởi thư khẩn thiết tỏ bày rằng: "Pháp Tạng, tăng nhận chùa Sùng
Phước ở Tây kinh, gởi thư đến Hoa Nghiêm Pháp sư ở Tân La Hải Đông: Từ khi chia tay đến nay đã hơn hai mươi năm, lòng chân thành ngưỡng vọng chẳng lúc nào quên, ngặt vì vạn dặm mịt mù, biển non ngăn cách. Hận rằng đời này chẳng được tái hội, đành ôm lòng luyến nhớ, đâu thể nói nên lời. Chắc hẳn do đời trước đồng nhân, nên kiếp này đồng nghiệp, được lãnh thọ báo thân này, gội nhuần bộ kinh lớn quý, lại được Tiên sư trao cho bí điển này, mong nhờ Thượng nhân sau khi trở về cố quốc khai diễn Hoa Nghiêm, tuyên dương pháp giới vô ngại duyên khởi, trùng trùng đế võng, khiến cho cõi Phật ở Tân La lợi ích được rộng lớn, niềm vui càng sâu dày. Thế mới biết sau khi Như Lai diệt độ, người làm Phật nhật sáng soi, pháp luân lại chuyển, chánh pháp trụ lâu chỉ có Pháp sư mà thôi!
Tạng tôi tiến bước thì chẳng thành, quay lui thì đơn độc, nghĩ đến sách này, hổ thẹn gánh vác cho Tiên sư, nên cứ tùy phần mà thọ trì, không dám lìa xa. Chỉ mong nhờ vào công nghiệp này để kết nhân duyên ở tương lai. Nhưng vì chương sớ của Hòa thượng, nghĩa thì phong phú, văn lại giản lược, người đời sau phần nhiều khó thấy được chỗ vào, do đó mới chép những lời hay ý đẹp của Hòa thượng lại rồi soạn thành nghĩa ký. Gần đây nhờ có Pháp sư Thắng Thuyên sao chép lại đem về quê lưu truyền xin Thượng nhân xem đọc, kiểm định dở hay, mong được lời chỉ dạy!
Cúi nguyện đời đời kiếp kiếp ở mai sau, dù xả thân hay thọ thân, cũng đều cùng nhau tại Lô-xána, nghe nhận diệu pháp vô tận như thế, tu hành vô lượng hạnh nguyện Phổ Hiền như thế, trừ sạch nghiệp ác. Nếu như một mai kia đọa lạc, cúi xin Thượng nhân chẳng bỏ duyên xưa vào trong các đường dạy cho chánh đạo. Người tin điều này, lúc bấy giờ hỏi còn hay mất, không ghi hết lời!
Ngài Nghĩa Tương bèn khiến mười ngôi chùa truyền giáo, đó là chùa Phù Thạch ở núi Đại Bá, chùa Hải Ấn ở Tỳ-ma-la Già-da tại Nguyên châu, chùa Ngọc Tuyền ở Tỳ Sắt, chùa Phạm Ngư ở Kim Tỉnh, chùa Hoa Nghiêm ở Nam nhạc... Sư còn Pháp Giới Đồ Thư và Lược Sớ, gồm thâu yếu chỉ Nhất thừa, lời giáo giới của ngàn năm vô cùng trân quý, ngoài ra Sư không còn soạn thuật gì. Mùi vị của một vạc, chỉ nếm một miếng thịt cũng đã biết đủ. Năm Mậu Thìn, niên hiệu Tổng Chương sách hoàn thành, cũng năm này ngài Trí Nghiễm thị tịch, cũng giống như Khổng Tử qua đời khi soạn xong bài Hoạch Lân (bắt lân). Người đời tương truyền ngài Nghĩa Tương là hóa thân của Bảo Cái ở Kim sơn.
Đệ tử của Sư có Ngộ Chân, Trí Thông, Biểu Huấn, Chân Định, Chân Tạng, Đạo Dung, Lương Viên, Tướng Nguyên, Năng Nhân, Nghĩa Tịch, là mười vị Đại đức Thượng thủ đều là Á Thánh, mỗi vị đều có truyện ký. Ngộ Chân từng trụ tại chùa Cốt Nham, ở núi Hạ Kha, mỗi đêm thường duỗi tay thắp đèn ở Phù Thạch thất. Trí Thông soạn Chùy Động Ký, vì tự thân lãnh thọ lời giáo huấn, nên lời lẽ hợp với diệu chỉ. Biểu Huấn từng trụ tại chùa Phật Quốc, thường đến cung trời. Khi ngài Nghĩa Tương trụ chùa Hoàng Phước, thường cùng đại chúng nhiễu tháp, ai cũng đều bước trên hư không mà lên, không cần thềm bậc, cho nên tháp này không xây các bậc thềm, đồ chúng đi trên không cách mặt thềm ba tấc, Sư quay lại nói rằng:
-Người đời thấy thế này thì cho là kỳ lạ, không thể dùng để giáo huấn họ được!
Tất cả đều ghi đủ trong Bản Truyện do Thôi Hầu soạn.
Tán rằng:
Trèo non, vượt sóng, dãi khói mây
Chí tướng khai môn tiếp bảo trân
Rực rỡ Hoa Nghiêm soi cố quốc
Chung Nam, Thái Bá một mùa xuân.
Một ngôi làng phía Bắc Vạn thiện ở Kinh đô có một người đàn bà không chồng mà có thai, sinh ra một bé trai. Năm lên mười hai tuổi mà chẳng nói, chẳng đứng dậy, nhân đó mà gọi là Xà Đồng (ở sau hoặc gọi là Thôn Bốc, Ba, Phục đều có nghĩa là Đồng). Một hôm người mẹ qua đời. Bấy giờ ngài Nguyên Hiểu đang trụ tại chùa Cao sơn thấy Xà Phước đến bèn lễ tiếp, Xà Phước chẳng đáp lại mà nói rằng:
- Con trâu cái chở kinh ngày xưa của ngài và tôi nay đã chết, đồng đến chôn được chăng?
Ngài Nguyên Hiểu đáp:
- Vâng!
Xong bèn đưa về nhà, khiến ngài Nguyên Hiểu Bố tát trao giới.
Ngài Nguyên Hiểu đến bên tử thi nói rằng:
- Chẳng sống chừ, mà chết cũng khổ, chẳng chết chừ, mà sống cũng khổ. Xà Phước nói:
- Lời lẽ dài dòng quá! Phải nói: Sống chết đều khổ chứ!
Cả hai bèn chở đến chân núi phía Đông Hoạt Lý sơn.
Ngài Nguyên Hiểu nói:
- Chôn cọp trí tuệ ở trong rừng trí tuệ được chăng? Xà Phước nói kệ rằng:
Khi xưa Thích-ca Mâu-ni Phật
Ta-la song thọ vào Niết-bàn
Hôm nay cũng có người như thế
Muốn nhập vào Liên hoa tạng giới.
Nói xong liền nhổ một cọng cỏ, bỗng nhiên bên dưới hiện ra một thế giới rộng lớn sáng tỏ, có bao lơn bảy báu, lầu gác trang nghiêm, ắt chẳng phải là cảnh nhân gian, Xà Phước mang xác mẹ bước vào cõi ấy, sau đó tự nhiên đất hợp lại, ngài Nguyên Hiểu trở về. Sau có người lập chùa ở phía Đông nam Kim Cang sơn đặt tên Đạo Tràng tự, mỗi năm đến ngày mười bốn tháng ba thì thực hành hội Chiêm sát và lấy đó làm lệ thường. Xà Phước ứng hiện ở thế gian chỉ có như thế. Thế tục phần nhiều dùng các chuyện hoang đường để ghi vào, thật đáng cười!
Tán rằng:
Vực sâu rồng ngũ há được nhàn,
Lên đường một đoạn lắm thuyền tan
Khổ chừ sống chết nào phải khổ
Thích Chân Biểu người huyện Vạn Khoảnh (còn gọi là huyện Đậu Nãi Sơn, Na Sơn. Xưa gọi là Đậu Nãi Sơn. Phụ Ninh truyện giải thích rõ việc này. Dân làng nói người huyện Kim Sơn là dùng tên chùa làm tên huyện, lẫn lộn nhau). Hoàn Sơn châu (nay là Toàn châu mục), cha tên là Chân Nãi Mạt, mẹ là Cát Bảo, họ Tỉnh. Năm mười hai tuổi, Sư cầu Pháp sư Thuận Tế ở chùa Kim Sơn xuất gia học đạo. Vị thầy từng nói rằng: "Ta đã qua Đường học tập nơi ngài Tam tạng Thiện Đạo, sau đó vào núi Ngũ Đài, Bồ-tát Văn-thù linh cảm hiện ra trao cho năm giới". Sư hỏi rằng: "Siêng năng tu tập bao lâu thì đắc giới?"
Ngài Thuận Tế nói: "Nếu tinh tấn thì không quá một năm. " Sư nghe nói thế liền đi khắp các danh sơn rồi trụ tại am Bất Tư Nghị núi Tiên Khê, chuyên tu ba nghiệp, quên thân sám hối cầu đắc giới. Đầu tiên lấy bảy đêm làm kỳ hạn, năm vóc gieo trên đá, chân, đầu gối đều dập nát, máu tuôn trên sườn núi, nếu không có Thánh ứng hiện thì quyết chí lìa bỏ, lại qua kỳ bảy ngày nửa thành mười bốn ngày thì thấy Bồ-tát Địa Tạng hiện thân trao cho tịnh giới, đó là vào giờ Thìn ngày mười lăm tháng ba năm Canh Thìn, niên hiệu Khai Nguyên hai mươi tám. Khi ấy mới hai mươi ba tuổi. Nhưng ý vẫn muốn gặp Bồ-tát Di-lặc, nên không dám bỏ nửa chừng, bèn đến chùa Linh Sơn (còn gọi là Biên Sơn, Lăng-già Sơn), cần tu như lúc đầu, quả nhiên sau cảm được Bồ-tát Di-lặc hiện thân trao cho kinh Chiêu Sát hai quyển (kinh này đã dịch ở nước ngoài vào khoảng đời Trần Tùy, chẳng phải nay mới có. Bồ-tát Từ Thị đã lấy kinh trao cho) và một trăm tám mươi chín cái thẻ chứng quả vị, đồng thời dạy rằng: "Thẻ thứ chín là dụ cho người mới được diệu giới, thẻ thứ tám là dụ cho tăng tiến được Cụ túc giới, hai thẻ này là xương ngón tay của ta, các thẻ còn lại đều bằng gỗ chiên đàn trầm thủy dụ cho phiền não. Ngươi nên dùng đến để truyền pháp nơi thế gian, làm thuyền bè, bến bờ để cứu người!"
Sư được bậc Thánh thọ ký xong, thì đến trụ tại Kim Sơn, mỗi năm đều có khai đàn, rộng hạnh pháp thí, đạo tràng trang nghiêm, chưa từng có ở thời mạt pháp này.
Việc giáo hóa đã chu toàn, Sư đến châu A Sắc La, cá rùa bắc cầu giữa đảo và bãi biển, thỉnh Sư vào thủy cung giảng pháp truyền giới. Đó là ngày rằm tháng hai năm Nhâm Thìn, niên hiệu Thiên Bảo thứ mười một (nói năm Nguyên Hòa thứ sáu là lầm vì Nguyên Hòa thuộc vào đời Hiến Đức Vương, cách Thánh Đức bảy mươi năm). Cảnh Đức Vương nghe được thỉnh Sư vào cung, Vương thọ giới Bồ-tát, cúng dường bảy mươi bảy ngàn thạch lúa. Tất cả quan dân đều đến cầu thọ giới, phẩm vật cúng dường gồm năm trăm tấm lụa, năm mươi lạng vàng ròng, Sư đều nạp thọ rồi phân phát khắp các tòng lâm để thực hành Phật sự.
Cốt thạch của Sư hiện được thờ tại chùa Bát Uyên, là nơi dạy giới cho loài thủy tộc. Những đệ tử đắc pháp của sư gồm có Vĩnh Thâm, Bảo Tông, Tín Phương, Thể Trân, Trân Hải, Chân Thiện,
Thích Trung đều là Tổ của một sơn môn. Vĩnh Thâm thì được chân truyền các thẻ, trụ tại Tục Ly Sơn, là đệ tử nối gia nghiệp. Pháp lập đàn hơi khác với Chiêm Sát Lục Luân, tu tập như bổn quy mà trong sơn môn đã truyền thọ.
Theo Đường Tăng Truyện: Vào khoảng niên hiệu Khai Hoàng mười ba, tại Quảng châu có vị tăng thực hành pháp Sám hối, dùng da làm hai cái thẻ viết trên đó hai chữ thiện và ác, bảo người gieo quẻ, nếu gặp được chữ thiện là tốt. Lại hành sám pháp Tự phác để diệt tội, nhưng khiến nam nữ quây quần ôm nhau, vọng cho là hành mật pháp, lan rộng đến Thanh châu. Quan tra xét cho đó là yêu thuật. Những người ấy bèn nói: Pháp Đáp Sám này là y theo kinh Chiêm Sát, còn pháp Phác sám là y theo các kinh, gieo thân đập mạnh xuống đất như núi lỡ. Bấy giờ có người dâng tấu văn như thế. Triều đình sai nội sử thị lang Lý Nguyên Soạn đến chùa Đại Hưng hỏi các đại đức. Bấy giờ có Đại Samôn Pháp Kinh, Ngạn Tông v. v... nói rằng: Kinh Chiêm Sát có hai quyển, trên đầu ghi là Bồ-đề, dịch văn tại nước ngoài. Giống bản gần đây xuất hiện, có người chép lại mà lưu truyền. Kiểm xét trong tất cả các sách đều không có ghi tên người dịch, thời gian dịch và nơi dịch. Pháp Đáp Sám ấy khác với các kinh, thì không nên thực hành theo.
Do đó triều đình ban lệnh cấm truyền bá.
Nay thử bàn xem: Các việc như cư sĩ ở Thanh Châu hay Pháp Đáp Sám cũng giống như các Đại nho dùng Thi, Thư để đào mã mồ. Có thể cho rằng vẽ cọp mà thành chó vậy. Điều mà Phật giáo phải đề phòng chính là các việc ấy. Nếu nói kinh Chiêm Sát không có người, nơi chốn, thời gian dịch ra thì đáng nghi ngờ. Đó cũng là gánh cỏ mà bỏ vàng, đâu thể thấy rõ được văn kinh ấy? Là tất đàn sâu xa bí mật, hay rửa sạch các vết nhơ, kích phát kẻ biếng trễ thì không kinh nào hơn kinh này. Vì thế cũng gọi là Đại Thừa Sám. Lại nói xuất từ trong sáu căn tụ, trong hai bộ Trinh Nguyên và Khai Nguyên Thích Giáo Lục, được xếp vào Chính Tạng. Tuy ngoài Tánh Tông, nhưng lại thuộc về Đại Thừa Tướng Giáo thì cũng tốt vậy. Đâu thể nói là đồng hai pháp sám trên?
Như trong kinh Xá-lợi Phật Vấn, Đức Phật bảo Trưởng giả Ban-nhã-đa-la rằng: "Ngươi có thể trong bảy ngày bảy đêm sám hối tất cả tội lỗi gây tạo từ trước, khiến cho thảy đều thanh tịnh!".
Đa-la vâng lời dạy, ngày đêm khẩn thiết hành trì, đến đêm thứ năm, bỗng nhiên trong thất mưa xuống đủ các vật nào khăn, nào màn, nào chổi, đao, chùy, búa... rơi xuống trước mặt. Đa-la vui mừng hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo rằng đó là tướng lìa trần, là các vật cất trừ, phủi sạch.
Căn cứ theo đây thì đâu khác gì với việc gieo mình được thấy trong kinh Chiêm Sát? Thế mới biết ngài Chân Biểu hành sám được thẻ, nghe pháp thấy Phật, đâu phải là việc hư dối. Nếu kinh này ngụy vọng thì Đức Từ Thị đâu đích thân trao cho Sư, như cấm kinh này thì cấm cả kinh Xá-lợi Vấn ư? Có thể cho rằng Ngạn Tông... chỉ biết chộp lấy vàng mà không thấy người, người đọc nên xét rõ.
Tán rằng:
Mạt thế, hiện thân cứu ngu mê
Linh nhạc, Tiên Khê cảm Thánh nhân
Chớ cho cần chuyên truyền Đáp Sám
Bắc cầu vượt biển độ các rồng.
(Ký này do Tự chủ Vinh Sầm Kim soạn, dựng vào năm Kỷ Mùi niên hiệu Thừa An thứ tư)
Luật sư Chân Biểu người ở làng Đại Tỉnh, thôn Na Sơn, quận Bích Cốt, Toàn châu. Năm mười hai tuổi phát tâm muốn xuất gia, cha cho phép, Sư đến Pháp sư Thuận Tế ở chùa Kim Sơn cầu xuất gia. Ngài Thuận Tế trao giới Sa-di, đồng thời truyền giao Cúng Dường Thứ Đệ Bí Pháp một quyển, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo hai quyển rồi dặn dò rằng:
- Ngươi mang giới pháp này đến trước ngài Địa Tạng và Di-lặc khẩn thiết cầu sám hối, thì sẽ được các ngài đích thân trao giới pháp, lưu truyền ở đời. Sư bèn đi khắp các danh sơn, mãi đến năm hai mươi bảy tuổi tức nhằm năm Canh Tý niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất, Sư nấu hai mươi đấu gạo phơi khô làm lương thực, thẳng đến huyện Bảo An, vào am Bất Tư Nghị ở Biên Sơn, định mỗi ngày dùng năm hộp cơm khô (một hộp bằng một phần mười thăng) và một hộp bố thí cho chuột, ngày đêm siêng năng cần khổ cầu giới pháp trước tượng Đức Di-lặc. Trải qua ba năm mà chưa được thọ ký, Sư phẫn chí gieo mình xuống sườn núi, bỗng có một đồng tử áo xanh xuất hiện đỡ thân đặt lại trên đá. Sư lại lập chí phát nguyện kỳ hạn hai mươi mốt ngày. Từ đó Sư ngày đêm siêng tu, dập mình trên đá sám hối, mới ba ngày mà tay đã gãy lìa, đến đêm thứ bảy Bồ-tát Địa Tạng tay cầm gậy vàng đến gia trì, thì tay liền trở lại như cũ. Bồ-tát lại trao cho Sư ca-sa và bình bát. Sư đã cảm được Đại Thánh ứng hiện, nên càng tinh tấn gia công tu tập, hết hai mươi mốt ngày thì chứng được Thiên nhãn, thấy được tướng Thiên chúng cõi Đâu-suất giáng lâm. Bấy giờ Đại Thánh Địa Tạng và Từ Thị hiện ra trước mặt Sư nói rằng:
- Lành thay, Đại trượng phu! Cầu giới như thế, chẳng tiếc thân mạng!
Sư khẩn thiết sám hối, được Đức Địa Tạng trao cho giới bản; ngài Từ Thị trao cho hai cái thẻ, một ghi số chín, một ghi số tám, đồng thời dạy rằng: "Hai thẻ này là xương ngón tay của ta, biểu thị cho Bản giác và Thỉ giác. Thẻ số chín là Chủng tử pháp nhĩ, thẻ số tám là dụ cho Chủng tử Tân huân thành Phật. Dùng hai thẻ này để biết được báo quả. Sau khi ngươi xả thân này sẽ thọ thân đại quốc vương, kế đó sinh về cõi Đâu-suất!
Nói xong hai Thánh liền biến mất, bấy giờ là ngày hai mươi bảy tháng bốn năm Nhâm Dần. Sư thọ nhận giáo pháp xong thì muốn lập chùa Kim Sơn, bèn xuống núi đến bến Đại Uyên, bỗng nhiên Long vương xuất hiện dâng ca-sa ngọc, đồng thời dẫn tám vạn quyến thuộc hộ vệ đến Kim Sơn Tẩu. Mọi người trong bốn phương đều đồng đến xây dựng, không bao lâu thì hoàn thành. Lại có Bồ-tát Từ Thị từ cung trời Đâu-suất cưỡi mây xuống trao giới pháp cho Sư. Do đó Sư khuyến mộ tài vật đúc chân tượng Đức Di-lặc, đồng thời vẽ oai nghi giáng hạ truyền giới ở vách phía Nam của Kim đường. Ngày mồng chín tháng sáu năm Giáp Thìn tượng đúc thành, đến ngày mồng một tháng năm năm Bính Ngọ thỉnh tôn trí tại Kim đường, đó là năm Đại Lịch thứ nhất. Một hôm Sư rời Kim đường đến Tục Ly sơn, giữa đường gặp một chiếc xe bò, con bò cứ kéo xe đến trước Sư rồi quỳ xuống mà khóc, người đi trên xe bước xuống hỏi rằng:
- Vì sao con bò này thấy Hòa thượng lại khóc, Hòa thượng từ đâu đến đây?
Sư đáp:
- Tôi là Chân Biểu, làm Tăng ở chùa Kim Sơn. Tôi từng đến am Bất Tư Nghì ở Biên sơn, thân thọ giới pháp và thẻ nơi Bồ-tát Địa Tạng và Di-lặc, nay muốn tìm nơi lập chùa lâu dài tu đạo, cho nên mới đến đây. Các con bò này tuy bên ngoài ngu, nhưng bên trong rất sáng tỏ, biết tôi thọ giới pháp, vì trọng pháp nên quỳ mà khóc.
Người kia nghe thế liền nói rằng: "Loài súc sinh còn có tín tâm như thế, huống gì ta là người mà lại vô tâm ư?". Tức thì cầm liềm cắt tóc. Sư từ bi xuống tóc và truyền giới cho. Sư đi tiếp đến Tục Ly sơn, vào động thấy nơi cỏ cát tường mọc mà biết được, rồi trở về biển ở Kinh châu, đang từ từ bước bỗng có cá, rùa, ba ba từ biển xuất hiện bơi đến trước Sư, rồi xếp như đất liền, Sư bước trên đó mà vào biển, xướng niệm giới pháp rồi trở ra, đi đến quận Cao Thành lập chùa Bát Uyên ở núi Giai Cốt, khai hội Chiêm sát, trụ lại đây bảy năm. Lúc bấy giờ ở Minh châu bị mất mùa, nhân dân đói khát, Sư bèn thuyết giới pháp, mọi người đều phụng trì, tin kính Tam bảo, khi ấy tự nhiên ở bờ biển vùng Cao Thành vô số cá bỗng nhiên chết, nhân dân lấy làm thức ăn nên tránh khỏi chết đói. Sư rời Bát Uyên trở về am Bất Tư Nghị, sau đó trở về nhà thăm cha, hoặc Sư đến trụ tại am Đại Đức ở Chân Môn. Bấy giờ lại có Đại đức Vĩnh Thâm ở Tục Ly sơn và các Đại đức Dung Tông, Phật-đà đến trụ xứ của Luật sư bạch rằng:
- Chúng con chẳng quản đường xa ngàn dặm đến đây cầu giới pháp, xin trao cho pháp môn!
Sư im lặng chẳng đáp. Ba người bèn trèo lên cây đào rồi tự té ngã xuống đất, dõng mãnh sám hối, Sư thấy thế bèn truyền pháp quán đảnh, đồng thời trao cho ca-sa, bát, cúng dường Thứ Đệ Bí Pháp một quyển, Nhật (nghi là Chiêm) Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh hai quyển, một trăm tám mươi chín cái thẻ và hai thẻ số tám và số chín của Bồ-tát Di-lặc; Sư dạy rằng: Thẻ số chín là pháp nhĩ, thẻ số mười là chủng tử Tân huân thành Phật, nay ta đã phó chúc cho các ngươi, hãy mang những món này trở về Tục Ly sơn, nơi có cỏ cát tường mọc mà sáng lập tinh xá, y theo giáo pháp này mà rộng độ trời người, lưu truyền hậu thế!
Vĩnh Thâm... tuân lời dạy trở về Tục Ly sơn, tìm đến nơi có cỏ cát tường mà lập chùa đặt tên là Cát Tường tự. Vĩnh Thâm trụ nơi đây bắt đầu khai pháp hội Chiêm Sát. Riêng Sư cùng với cha mình lại đến Bát Uyên đồng tu tạo nghiệp, phụng dưỡng cha đến cuối đời. Sắp đến giờ, Sư lên trên Đại nham ở phía Đông chùa mà thị tịch. Môn nhân không động đến chân thể mà để như vậy cúng dường cho đến khi hài cốt tan rã mới dùng đất lấp kín, làm u cung. Sau đó mọc lên một cây tòng xanh nơi mộ, trải qua nhiều năm cây tòng khô héo, lại mọc một cây khác, sau từ một gốc ấy lại nứt một cây nữa, đến nay song thọ vẫn còn. Phàm có người muốn kính lễ, đến tìm chân cốt dưới cây tòng thì hoặc là được, hoặc chẳng được. Tôi sợ Thánh cốt bị mai một nên vào tháng chín năm Đinh Tỵ, đến dưới cội tòng thập thâu được ba hộp xương cốt, cho vào trong ống mang lên Đại nham đặt dưới gốc song thọ rồi lập mộ đá an trí.
Đoạn văn trước ghi chép sự tích của Luật sư Chân Biểu có điểm chẳng đồng với Bát Uyên Thạch Ký, nên sách chép thêm phần của Vinh Sầm Kim soạn. Người học đời sau nên khảo xét (Vô Cực ghi).
Thích Thắng Thuyên, chưa rõ Sư xuất thân từ đâu, chỉ biết là Sư theo thuyền đến Trung Quốc, làm môn hạ ngài Hiền Thủ, lãnh thọ được lời huyền, nghiên cứu rõ được diệu chỉ; lại gương tuệ siêu xuất, chiếu rõ điều ẩn, soi xét nghĩa sâu, thông đạt tận nguồn ảo diệu. Sư suy nghĩ rằng muốn được sự cảm ứng ắt phải có duyên, nên trở về cố quốc. Xưa kia ngài Hiền Thủ và ngài Nghĩa Tương là đồng môn, cùng được ngài Trí Nghiễm giáo huấn. Ngài Hiền Thủ y cứ theo lời của thầy dạy mà diễn thuật thành các nghĩa sở khoa chú, nhân Sư trở về quê mà gởi đến ngài Nghĩa Tương. Ngài Nghĩa Tương gởi ngụ thơ. Hiền Thủ soạn gồm có: Thám Huyền Ký hai mươi quyển, trong đó có hai quyển chưa hoàn thành; Giáo Phần Ký ba quyển, các loại Huyền Nghĩa Chương, Tạp Nghĩa một quyển, Hoa Nghiêm Phạm Ngữ một quyển, Khởi Tín Sớ hai quyển; Thập Nhị Môn Sớ một quyển, Pháp Giới Vô Sai Biệt Luận Sớ một quyển, cũng nhờ Sư sao chép lại mang về nước.
Một hôm có vị Tăng Tân La tên là Hiếu Trung chuyển cho chín phân vàng nói là của Thượng nhân gởi, ngụ ý rằng: Tuy chẳng được thư nhưng cũng cúi mang ân vô tận. Nay phụ lòng vua Tây Quốc, đặc biệt tắm gội thân mình bày tỏ chút lòng thành, kính mong thọ nhận. Kính tỏ!
Sư trở về nước trao thư cho ngài Nghĩa Tương, ngài Nghĩa Tương xem văn của Pháp Tạng như đang nghe lời dạy của thầy là ngài Trí Nghiễm. Xem đọc vài tuần rồi truyền trao cho đệ tử. Diễn rộng văn này là do lời của ngài Nghĩa Tương. Xét rằng giáo nghĩa Viên dung truyền khắp vùng Hải đông thật là do công của Sư.
Về sau có một vị Tăng tên Phạm Tụ, viễn du đến nước kia thỉnh được bản Hoa Nghiêm tân dịch và Hậu phần Hoa Nghiêm Kinh do ngài Trừng Quán tạo nghĩa sớ, đem về nước lưu truyền, đó là vào năm Kỷ Mão niên hiệu Trinh Nguyên. Đây cũng là bậc cầu pháp tiếng tăm vậy! Sư lập chùa ở quận Khai Ninh, Thượng châu, lấy đầu lâu đá làm quyến thuộc, diễn giảng Hoa Nghiêm. Sau đó có một vị Sa-môn người Tân La tên là Khả Quy rất thông minh, rõ đạo lý kế tục truyền đăng có soạn Tâm Nguyên Chương, lược ghi rằng:
- Pháp sư Thắng Thuyên lãnh đồ chúng đá luận nghĩa diễn giảng, nay chính là chùa Cát Hạng. Tất cả gồm hơn tám mươi đầu lâu đá được Cương Ty lưu truyền, có hiện rất nhiều điềm linh dị. Các sự tích khác ghi đủ ở văn bia, như trong Đại Giác Quốc Sư Thật Lục.
Thích Tâm Địa là con của Hiến Đức Đại Vương, chủ đời bốn mươi mốt của Thần Hàn, họ Kim. Bình sinh Sư rất có hiếu để, thiên tánh thông minh. Đến năm mười lăm tuổi, Sư cạo tóc theo thầy, khẩn thiết tu đạo, đầu tiên Sư trụ tại Trung khâu (nay là Công sơn) nghe ngài Vĩnh Thâm truyền thẻ cốt Phật của Luật sư Chân Biểu và lập pháp hội Quả Đính, Sư quyết chí tìm cầu. Sư đến nhưng đã trễ nên không cho tham dự, Sư bèn quỳ trước sân theo chúng sám hối. Trải qua bảy ngày trời bắt đầu đổ tuyết lớn, nhưng trong khoảng mười thước vuông mà Sư đứng, tuyết không rơi đến. Đại chúng thấy việc thần dị như thế, mới dẫn vào pháp đường, nhưng Sư khiêm hạ nói là bị bệnh, nên lui vào phòng ngầm hướng về điện đường lễ sám, đến nỗi tay và trán đều rướm máu, giống như lúc ngài Chân Biểu hành sám tại Tiên Khê sơn, Bồ-tát Địa Tạng hàng ngày đến thăm hỏi, lúc pháp hội đã mãn, Sư trở về núi, đi nửa đường bỗng phát hiện hai cái thẻ đang dắt trong vạt áo của mình, liền trở lại báo với ngài Vĩnh Thâm. Thâm nói:
- Thẻ cất kỹ trong hòm, đâu thể đến đây?
Bèn lấy hòm xem thì niêm phong vẫn như cũ, nhưng mở ra thì thẻ đã mất. Ngài Vĩnh Thâm rất kinh dị, bèn gói lại mà cất. Sư lại lên đường, lát sau cũng trở lại báo như thế. Ngài Vĩnh Thâm bảo:
- Ý Phật đã định Sư thì Sư nên tuân hành!
Nói xong ngài Vĩnh Thâm truyền trao thẻ Phật cốt cho Sư. Sư đảnh lễ thọ nhận mang về núi. Sơn Thần dẫn hai vị Tiên ra nghinh đón Sư lên đỉnh núi, dẫn đến ngồi trên tảng đá rồi quỳ ở phía dưới mà xin thọ chánh giới. Sư nói:
- Nay muốn chọn nơi tôn trí các thẻ này, nhưng chúng ta chẳng thể định được, mời ba vị cùng tôi lên trên cao ném thẻ mà chọn đất. Tâm Địa cùng với ba vị thần tiên lên đỉnh núi, hướng về phía Tây mà ném, các thẻ bay theo gió. Bấy giờ thần ca rằng:
Ngại núi xa hư xuống đất bằng chừ!
Lá bay tan tác sinh hiểu biết chừ!
Tìm được thẻ Phật cốt chừ!
Thỉnh đến nơi an tỉnh chí thành lễ thọ chừ!
Ca xong thì được thẻ tại Lâm Tuyền, liền chọn nơi ấy xây dựng điện đường để an trí. Nay chính là giếng nhỏ ở phía Bắc Thiêm đường (nhà đặt các thẻ xăm) chùa Đồng Hoa. Sau đó Duệ Vương của bản triều nghinh thỉnh các thẻ thánh này vào cung lễ kính, bỗng nhiên mất một thẻ số chín, bèn dùng ngà làm thẻ thế vào rồi đưa về chùa cũ. Đến nay thì đã dần dần biến thành đồng một màu, khó phân biệt được mới cũ, chất liệu chẳng phải ngà chẳng phải ngọc.
Kinh Chiêm Sát quyển thượng có ghi tên 189 cái thẻ: thẻ số một là cầu thượng thừa được bất thoái, thẻ số hai là quả sở cầu hiện đời sẽ chứng; thứ ba thứ bốn là cầu Trung Hạ thừa được bất thoái; thứ năm là cầu thần thông được thành tựu, thứ sáu là tu bốn phạm được thành tựu, thứ bảy là tu thiền thế gian được thành tựu, thứ tám là cầu thọ thì được diệu giới, thứ chín đã thọ thì được đầy đủ giới (dùng văn này mà xét thì biết ngài Từ Thị nói mới đắc giới là đời này mới đắc giới, còn cựu đắc giới là quá khứ đã thọ, đời này lại thọ thêm nữa. Chứ chẳng phải là mới cũ của Tu sinh và Bản hữu); thẻ thứ mười là cầu Hạ thừa mà chưa trụ nơi Tín, kế đến là cầu Trung thừa chưa trụ tín. Cứ như thế đến thẻ một trăm bảy mươi hai đều là nói các việc thiện, ác, được mất trong đời quá khứ và hiện tại. Thẻ thứ một trăm bảy mươi ba là nói sau khi xả thân thì vào địa ngục (là quả vị lai), một trăm bảy mươi bốn là sau khi chết vào súc sinh, như thế cho đến ngạ quỷ, Tu-la, người, nhân vương, Trời, Thiên vương, nghe pháp, xuất gia, gặp Thánh tăng, sinh về cõi Đâu-suất, sinh về Tịnh độ, thấy Phật, trụ Hạ thừa, trụ Trung thừa, trụ Thượng thừa được giải thoát là thẻ một trăm tám mươi chín (ở trên nói trụ Hạ thừa cho đến Thượng thừa được bất thoái, ở đây phân biệt nói trụ Thượng thừa được giải thoát). Tất cả đều là tướng sai biệt của quả báo thiện ác trong ba đời, lấy đây mà chiêm xét, nếu được thẻ tương ứng với hành sự của tâm thì có cảm ứng, nếu không thì chẳng chí tâm, mà gọi là hư dối. Thế thì biết hai thẻ tám, chín là từ một trăm tám mươi chín thẻ mà có. Nhưng đời Tống truyền chỉ có một trăm lẻ tám thẻ đó là thế nào? E rằng đó là lấy tên một trăm lẻ tám phiền não để gọi mà không tìm xét văn kinh vậy.
Theo Vương Đại Tông Lục hai quyển do Văn sĩ Kim Khoan Nghị của Tân La soạn thì ghi rằng: Vào cuối triều Tân La, vị Tăng nước này là Thích Xung đã hiến cho Thái Tổ một tấm ca-sa và một trăm tám mươi chín thẻ giới của Luật sư Chân Biểu, nay chưa biết là các vật này là đồng hay khác với các thẻ mà chùa Đồng Hoa đã truyền. Tán rằng:
Sinh trưởng trong cung, sớm thoát ly
Kiệm cần thông tuệ tự thiên tư
Tuyết dày trước điện, thâu thẻ Phật
Đến ngọn Đồng Hoa ném chọn nơi.
Tổ Du-già là Đại Đức Hiền trụ tại chùa Nhĩ Trường ở Nam sơn. Chùa có chân tượng Đức Từ Thị một trượng sáu tạc bằng đá. Mỗi khi Đại Hiền nhiễu tượng, thì tượng cũng xoay mặt theo Hiền. Ngài Đức Hiền có tuệ biện rất thông lợi, quyết trạch thật rõ ràng rốt ráo. Phàm luận về Tướng Tông thì chỉ thú rất sâu kín khó phân tích. Như danh sĩ Bạch Cư Dị của Trung Quốc đã từng nghiên cứu đến tận cùng mà chưa đạt được, bèn nói rằng: "Duy Thức rất sâu kín khó phá, nhân minh rất chặt chẻ chẳng thể phân khai, vì thế người học khó lãnh thọ đã từ lâu rồi!". Chỉ có một mình Đại Hiền phân định chỗ sai lầm, dần dần mở bày chỗ sâu kín; khiến cho dễ dàng thâm nhập; hàng hậu học ở Hải Đông đều tuân theo lời chỉ dạy của Sư, đồng thời các học sĩ của Trung Hoa cũng dần dần lấy đó làm quy tắc. Năm Quý Tỵ niên hiệu Thiên Bảo thứ mười hai, đời Cảnh Đức Vương, vào mùa hạ đại hạn, vua triệu Sư vào nội điện giảng kinh Kim Quang Minh để cầu mưa cam lồ, một hôm thọ trai xong, Sư giở bát hồi lâu, mà chưa hiến tịnh thủy, giám quan cật vấn, người cúng dường đáp:
-Giếng trong cung đã khô cạn, phải đi lấy nước ở xa, cho nên chậm trễ.
Sư nghe được nói rằng: Vì sao chẳng nói sớm!
Đến lúc giảng Kinh, Sư bưng lò hương im lặng, bấy giờ nước từ giếng Tư Tu bỗng nhiên vọt lên cao khoảng bảy trượng bằng cột cờ trước sân, cả cung đều kinh hãi. Do đó gọi là giếng Kim quang. Sư tự gọi là Thanh Khâu Sa-môn. Tán rằng:
Nam sơn nhiễu Phật, tượng xoay đầu
Phật nhật Hải Đông lại hiện ra,
Thuyết giáo giếng cung phun nước sạch,
Ai biết lò vàng một nén hương.
Mùa hạ năm sau, nhằm năm Giáp Ngọ, Vương lại thỉnh Đại đức Pháp Hải giảng kinh Hoa Nghiêm ở chùa Hoàng Long, Vương đích thân đến dâng hương, ung dung nói rằng: "Mùa hạ năm trước Pháp sư Đại Hiền giảng kinh Kim Quang, nước từ giếng vọt lên cao bảy trượng, còn Đại đức đạo pháp thế nào?"
Sư đáp: "Đó chỉ là việc nhỏ, đâu đáng để xưng tán, dẫu có làm nghiêng đổ biển lớn, dời Đông nhạc, trôi kinh sư cũng chẳng có gì khó. " Vương chẳng tin cho là lời đùa cợt. Đến thời ngọ giảng, Sư nâng lư hương nét mặt trầm tịch, trong chốc lát nghe trong cung có tiếng la khóc, người trong cung chạy ra báo rằng: "Nước ở Đông hải đã đầy tràn, tuôn chảy ngập hơn năm mươi gian trong nội điện. Vua hoảng hốt thất kinh. Sư cười nói:
-Đông hải muốn đổ rồi, nên mạch nước trước tiên dâng cao vậy!
Vương bất giác lễ bái. Hôm sau chùa Cảm ân tâu rằng trưa hôm qua nước biển dâng cao ngập đến bậc thềm trước chánh điện, khoảng bữa ăn thì rút. Vương càng kính tin hơn. Tán rằng:
Biển pháp sóng xao cùng pháp giới
Bốn biển vơi đầy thật dễ thay,
Chớ nói trăm ức Tu-di lớn,
Đều tại trên đầu ngón tay ta.
Thiện Đức Vương Đức Mạn bị bệnh đã lâu ngày, tăng Pháp Dịch chùa Hưng Luân vâng chiếu vào chữa trị, nhưng lâu rồi mà không công hiệu. Bấy giờ có Pháp sư Mật Bản đức hạnh vang khắp nước, quần thần xin thay Dịch. Vương bèn thỉnh Sư vào nội cung. Sư ngồi bên ngoài phòng tụng kinh Dược Sư vừa xong, Sư cầm sáu cái vòng phi thân vào phòng ngủ của Vương đâm một con chồn và Pháp Dịch ném ngược ra sân. Bệnh của Vương liền hết. Bấy giờ trên đảnh đầu của Sư có thần quang năm màu, ai nhìn thấy cũng đều kinh sợ.
Lại Thừa tướng Kim Lương Đồ khi còn trẻ, một hôm bỗng nhiên thân thể cứng đơ, miệng không nói được, không cử động được. Thường thấy một con quỷ lớn dẫn bầy quỷ nhỏ đến, trong nhà phàm có thức ăn gì chúng đều nếm hoặc ăn hết; mời thầy cúng, đồng cốt đến thì bầy quỷ tụ tập lại tranh nhau bức hiếp. Lương Đồ tuy rất muốn trừ khử mà miệng không thể nói được. Gia đình thỉnh một vị tăng (đã quên tên) ở chùa Pháp Lưu đến tụng kinh, quỷ lớn bảo bầy quỷ nhỏ dùng chùy sắt đánh vào đầu vị Tăng khiến vị này té trên đất thổ huyết mà chết. Vài ngày sau, người nhà đến thỉnh Pháp Sư Bản. Người ấy trở về nói rằng:
- Pháp sư đã nhận lời mời, sắp đến đây!
Các quỷ nhỏ nghe vậy thì thất kinh nói rằng:
- Pháp sư đến thì sẽ bất lợi, trốn đi cũng đâu thoát. Quỷ lớn thì ung dung ngạo mạn nói:
- Đâu có ai làm hại được ta!
Bỗng chốc có Đại Lực Thần Tướng ở bốn phương mang giáp vàng cầm trường kích đến bắt trói bầy quỷ dẫn đi, kế đến có vô số thiên thần đến vây quanh chờ đợi, lát sau Sư đến, chẳng đợi khai kinh, bệnh đã hết, miệng nói được, thân cử động được, bèn kể lại tất cả mọi chuyện.
Từ đó Lương Đồ dốc lòng tin Phật, một đời không biếng trễ, lại đúc tạo chân tượng Di-đà chủ tôn tại Ngô đường chùa Hưng Luân, đồng thời dùng nhủ vàng vẽ hai tôn tượng Bồ-tát ở hai bên trái phải Đức Di-đà trong Ngô đường này. Sư thường trụ tại chùa Kim Cốc.
Bấy giờ Kim Dửu Tín kết thân giao với một vị cư sĩ, mọi người chẳng biết cư sĩ là ai. Dửu Tín có một người thân tên là Tú Thiên mang ác bệnh đã lâu, Tín mời cư sĩ chẩn đoán chữa trị. Vừa lúc ấy một bạn cũ của Tú Thiên là Sư Nhân Tuệ từ Trung Khâu đến thăm hỏi, thấy Cư sĩ, liền tỏ vẻ khinh mạn nói rằng:
- Xem hình nghi của ông thì biết là kẻ tà nịnh, đâu được để chăm sóc người bệnh.
Cư sĩ liền nói:
- Tôi vâng lệnh Kim Công, thật là việc bất đắc dĩ mà thôi! Nhân Tuệ nói:
- Ngươi hãy xem thần thông của ta đây!
Nói xong bưng lư, chú hương, bỗng chốc trên đầu hiện mây năm sắc xoay chuyển, hoa trời rơi khắp đất.
Cư sĩ thưa:
- Thần lực của Hòa thượng thật chẳng thể nghĩ bàn, đệ tử cũng có biết đôi chút vụng về, xin Hòa thượng xem thử. Thỉnh ngài đứng ra trước!
Nhân Tuệ nghe theo. Cư sĩ liền khảy móng tay một tiếng tức thời Nhân Tuệ lộn ngược đầu xuống đất, vọt thẳng lên cao một trượng, hồi lâu mới từ từ hạ ngược xuống, đầu chạm đất, toàn thân thẳng đứng, mọi người đến xô đẩy mà vẫn bất động. Cư sĩ bỏ đi mà Tuệ vẫn như thế. Sáng hôm sau Tú Thiên sai người đến báo cho Tín Công, Công nói Cư sĩ đến giải, Nhân Tuệ không dám biểu diễn thần thông để mưu lợi nữa. Tán rằng:
Tía hồng xen lẫn loạn cả chu (đỏ)
Khá thương mắt cá dối ngu phu
Chẳng nhờ Cư sĩ cho đàn chỉ
Bao nhiêu tài sản bị dối lừa.
Thích Tuệ Thông: Sử sách không rõ tộc họ, chỉ biết lúc chưa xuất gia, nhà Sư ở tại cửa động Ngân Xuyên (nay là ngôi làng phía Đông chùa Nam Giản) tại chân phía Tây của Nam sơn. Một hôm đến suối ở phía Đông nhà bắt một con rái cá làm thịt ăn, ném xương trong vườn, sáng hôm sau xương bị mất, bèn theo dấu máu đi tìm, thấy bộ xương trở về hang cũ đang ngồi ôm năm rái con. Lúc ấy Sư rất kinh sợ, cảm thán do dự hồi lâu rồi bỏ tục, xuất gia đổi tên là Tuệ Thông. Đầu tiên Sư sang Trung Hoa, tham học nơi Tam tạng Vô Úy. Ngài Vô Úy nói rằng: "Ngươi là người Man di đâu thể kham làm pháp khí!". Do đó chẳng truyền dạy. Sư không dám tạ từ ra đi, mà ở lại siêng năng làm việc ba năm, nhưng vẫn không chấp nhận. Sư phát phẫn, ra đứng trước sân đầu đội chậu lửa, bỗng chốc đầu xé nổ phát ra một tiếng lớn như sấm, Tam tạng nghe được bước ra xem, dẹp chậu lửa, dùng ngón tay chận nơi bị nứt vỡ rồi tụng thần chú, vết thương liền lại như cũ, chỉ còn lại một vết sẹo giống như chữ vương, nên gọi là Vương Hòa thượng. Ngài Vô Úy cho là một bậc pháp khí bèn truyền ấn quyết.
Bấy giờ nhà Đường có một công chúa bị bệnh, vua Cao Tông thỉnh cầu Tam tạng Vô Úy, ngài Vô Úy cử Sư thay mình đến chữa trị, Sư vâng lời dạy đến một nơi riêng, dùng một đấu đậu trắng chú nguyện vào thau bằng bạc, biến thành thần binh giáp trắng, đuổi không được tà quỷ; Sư lại dùng một đấu đậu đen chú nguyện trong thau bằng vàng, biến thành thần binh giáp đen, khiến thần binh hai màu hợp sức đuổi tà. Bỗng nhiên có một con rồng bay ra. Từ đó bệnh của công chúa tiêu trừ. Rồng oán hận Sư đã đuổi mình nên đến rừng Nhưng lâm ở Tân La hại người rất tàn độc. Bấy giờ Trịnh Cung làm sứ sang Đường, gặp Sư nói rằng:
- Con rồng dữ mà Sư đuổi, nay đến nước ta phá hại rất nhiều, hãy mau trở về trừ diệt!
Năm Ất Sửu, niên hiệu Lân Đức thứ hai, Sư cùng với Cung trở về nước đuổi rồng. Rồng lại oán hận Cung, nên gá làm cây liễu mọc trước cửa nhà Cung, Cung chẳng hay biết gì, chỉ nếm mật của cành cây này mà trở nên vô cùng yêu quý nó. Bấy giờ Thần Văn Vương vừa băng hà, Hiếu Chiêu lên ngôi, ban lịnh dọn dẹp đồi núi, sửa sang con đường mai táng, cây liễu của Trịnh Cung nằm ngay đường, quan quân muốn chặt bỏ, Cung tức giận nói rằng:
- Thà chém đầu ta, chớ chặt cây liễu này!.
Quan quân về tâu lại. Vương tức giận nói với quan Tư Khấu rằng:
- Trịnh Cung cậy nơi Vương Hòa thượng có thần thuật nên mưu đồ phản nghịch, khinh thường Vương mệnh, nói là "Hãy chém đầu mình", như thế thì nên làm theo điều mà hắn thích!
Vương bèn ra lệnh giết Cung, chôn tại nhà. Quần thần bàn rằng:
- Vương Hòa thượng và Cung giao du rất thân mật ắt sẽ có lòng ghen ghét, nên trừ khử trước!. Hiếu Chiêu sai quân lính tìm bắt. Sư đang ở tại chùa Vương vọng thấy quân lính đến, liền lên gác mang theo một cái bình; nghiên, mực đỏ và bút, rồi gọi quân lính nói rằng:
- Các ngươi hãy xem ta làm đây!
Rồi Sư dùng bút chấm mực đỏ vạch ngang một vạch ngay nơi cổ của cái bình, rồi nói tiếp rằng:
- Các ngươi mỗi người hãy xem cái cổ của mình! Mọi người nhìn nhau đều thấy trên cổ của mình cũng có một vạch đỏ, đồng ngạc nhiên mà nhìn. Sư lại nói:
- Nếu ta chém ngay cổ bình này, là chém cổ các ngươi đấy phải chăng?
Quân lính bèn sợ hãi bỏ chạy, về chỉ Vương xem vết mực trên cổ.
Vương nói:
- Hòa thượng có thần thông, há sức người mà mưu hại được ư?. Bèn bãi bỏ lịnh ấy. Một hôm con gái của vua bỗng phát bệnh, thỉnh Sư vào cung chữa trị, bệnh lành, Vương rất vui mừng. Nhân đó Sư nói:
- Trịnh Cung bị rồng ác làm xấu nên chịu hình pháp. Vương nghe thế tâm sinh hối hận, tha tội tất cả vợ con thê thiếp của Cung, đồng thời tôn Sư làm quốc sư. Rồng ác đã báo oán nơi Trịnh Cung thì đến núi Cơ trương làm Thần gấu, thì càng độc ác hơn, nhân dân phần nhiều oán thán. Sư đến núi giáo huấn rồng thọ giới chẳng sát sinh, từ đó mới dứt sự tàn hại. Lúc Thần Văn Vương phát bệnh ung nhọt trên lưng, mời Sư vào chữa trị. Sư đến tụng thần chú thì bệnh liền hết. Sư nói:
- Khi xưa lúc bệ hạ làm thân tể quân đã lầm phán quyết một người tốt là Tín Trung làm khổ sai, sau Tín Trung oán hận, đời đời báo oán, ung nhọt hôm nay cũng là do Tín Trung gá vào! Vương nên vì Tín Trung tạo lập Già-lam cầu minh phước để giải oan! Vương y lời, xây dựng một ngôi chùa đặt tên là Tín Trung Phụng Thánh tự. Chùa hoàn thành, trên hư không bỗng có tiếng nói rằng: "Nhờ Vương lập chùa, nên được thoát khổ, sinh về cõi trời, oán thù đã giải!" (có bản ghi việc này tại truyện ngài Chân Biểu là sai lầm), nơi phát ra lời nói ấy ứng với dưới đất, lập Chiết Oán đường. Đường này và chùa nay vẫn còn. Đầu tiên có Mật
Bản, sau có Minh Lãng vào Long cung được ấn thần (tiếng Phạm là Đậu-lâu, dịch là Thần ấn). Tổ sáng lập Thần Du Lâm (nay là chùa Thiên Vương) từng cầu đảo trừ giặc lân bang, nay Hòa thượng truyền cốt tủy của ngài Vô Úy, đi khắp các nơi cứu người độ vật, lại dùng Túc mệnh minh mà bảo lập chùa, giải oan. Mật giáo đại chấn bắt đầu từ đây vậy. Tổng Trì Nham ở Thiên Ma, Chúc Tích Viện ở Mẫu Nhạc đều là hậu duệ của Sư. Hoặc cho rằng thế tục gọi Sư là Tôn Thắng Giác Can, Giác Can là phẩm cấp cao nhất ở Tân La, tức Tể tướng. Chưa nghe nói Sư hiện tích làm quan, hoặc nói bắn được sài lang v. v... đều chưa xác định được. Tán rằng:
Núi đào khe hạnh ánh tà dương
Xuân đến hoa khai rộ bên đường
May nhờ lang quân được rái cá
Quỷ ma ngoại đạo lánh kinh kỳ.
Theo Kim Quang Tự Bản Kỷ thì Sư vốn sinh ở Tân La, sang Đường học đạo, lúc sắp trở về thì Long vương thỉnh vào long cung truyền trao bí pháp, cúng dường một ngàn lượng vàng (hoặc nói là một ngàn cân). Sư đi dưới mặt đất rồi vọt lên từ đáy giếng của nhà mình. Sư cải nhà làm chùa, dùng vàng mà Long vương đã cúng để trang nghiêm tượng tháp sáng chói rực rỡ phi thường, nhân đó mà đặt tên là Kim Quang (Tăng truyện ghi Kim Vũ là sai).
Sư húy là Minh Lãng, tự là Quốc Dục, con của Sa Can Tài Lương, mẹ là Nam Giản Phu Nhân, hoặc nói mẹ là Pháp Quai Nương, con gái của Tô Phán Mậu Lâm, em gái của ngài Từ Tạng. Gia đình Sư có ba anh em: Thứ nhất là Quốc Giáo Đại Đức, thứ hai là Nghĩa An Đại Đức, thứ ba là Sư. Một hôm người mẹ nằm mộng thấy một hạt châu màu xanh mà có thai sinh ra Sư. Năm thứ nhất đời Thiện Đức Vương, Sư sang Trung Hoa đến năm Ất Mùi, niên hiệu Trinh Quán thứ ba thì trở về. Năm Mậu Thìn niên hiệu Tổng Chương thứ nhất, tướng nhà Đường là Lý Tích thống lãnh đại binh hợp với binh Tân La diệt Cao Ly. Sau đó giữ lại một số quân đồn trú ở Bách Tế, muốn đánh úp diệt luôn Tân La. Người Tân La biết được, phát binh chống cự, Cao Tông nghe được rất tức giận sai Tiết Bang đem binh thảo phạt. Văn Võ Vương nghe tin rất kinh sợ, thỉnh Sư hành bí pháp để cầu đảo (sự việc đã chép tại truyện của Văn Võ Vương), nhân đây mà tôn là Thần Ấn Tông Tổ. Đến khi Thái Tổ ta sáng lập cơ nghiệp, cũng có lần bị hải tặc đến quấy phá, bèn thỉnh hậu duệ của An Tuệ, Lãng Dung là hai vị Đại đức Quảng Học, Đại Duyên hành pháp cầu đảo để trấn giữ, đó cũng là dòng phái của Sư. Nếu tính từ ngài Long Thọ trở xuống thì Sư là Tổ thứ chín (Tự Ký ghi ba Sư đều là Tổ Luật Tông, chưa rõ vì sao?)
Thái tổ có sáng lập chùa Hiện Thánh làm căn cứ địa của Tông này. Lại cách Đông nam của kinh thành Tân La hơn hai mươi dặm có chùa Viễn
Nguyên tương truyền do bốn vị Đại đức là An Tuệ... cùng với Kim Dửu Tín, Kim Nghĩa Nguyên, Kim Thuật Tông đồng tạo lập. Di cốt của bốn vị Đại đức đều tôn thờ ở ngọn núi phía Đông chùa, nhân đó mà có tên là Tứ Linh sơn Tổ sư Nham. Thế thì bốn vị Đại đức đều là các bậc cao đức thời Tân La.
Theo Trụ Thiếp chú cước chùa Bạch thì con gái của Hộ trưởng Khánh Châu Cự Xuyên Mẫu A là Nữ Mẫu Minh Châu Nữ, con trai của Nữ Mẫu Tích Lợi Nữ là Quảng Học Đại Đức và Đại Duyên Tam Trọng (xưa gọi là Thiện Hội) hai anh em đều là môn đồ của Thần Ấn Tông, năm Tân Mão niên hiệu Trường Hưng thứ 2, theo Thái Tổ về Kinh đô, theo Vương tu tập. Vì thưởng công lao khó nhọc nên Vương cấp tiền bạc cho ngày kỵ cha mẹ của hai vị tại chùa Bạch và nhiều mẫu ruộng...
Thế thì Quảng Học và Đại Duyên là những người theo Thánh Tổ về Kinh, còn An Tuệ... là những vị đã cùng Kim Dửu Tín lập chùa Viễn Nguyên. Linh cốt của Quảng Học và Đại Duyên cũng chuyển về thờ tại đây, chứ chẳng phải bốn vị Đại đức đồng sáng lập chùa Viễn Nguyên, chỉ đi theo Thánh Tổ mà thôi!
---------------------------
Vào thời Chân Bình Vương có một Tỳ-kheo-ni tên là Trí Tuệ là người hiền đức đầy đủ giới hạnh, trụ tại chùa An Hưng, muốn tu sửa điện Phật, nhưng không đủ sức. Một hôm mộng thấy một Tiên nữ phong cánh dung nghi rất thùy mị và xinh đẹp, ngọc thúy trang sức trên mái tóc, đến an ủi rằng: "Ta là Thần Mẫu của Tiên Đào Sơn, vui mừng vì biết Sư muốn tu sửa điện Phật, xin cúng mười cân vàng để trợ giúp. Sư lấy vàng nơi tòa ta ngồi, trang nghiêm ba tượng chủ tôn trên tường, vẽ năm mươi ba tượng Phật, sáu bộ loại Thánh chúng, các Thiên Thần và Thần quân năm núi (năm núi của Tân La bấy giờ là Đông Hàm sơn, Nam Trí Dị sơn, Tây Kê Long sơn, Bắc Thái Bá sơn, Trung Phụ Khâu cũng gọi là Công Sơn). Trong mười ngày của hai mùa xuân thu phải tụ họp thiện nam tín nữ, vì tất cả hàm linh mà lập pháp hội Chiêm Sát, và lấy đó làm định kỳ (việc này giống với điềm mộng mà rồng ở hồ Khuất Phất báo cho Đế, thỉnh khai đạo tràng Dược Sư tại Linh Thứu sơn để an định đường biển).
Trí Tuệ giật mình tỉnh giấc dẫn đồ chúng đến miếu thờ, đào dưới tòa ngồi được một trăm sáu mươi lượng vàng, liền trở về khởi công, tất cả đều y theo lời Thần Mẫu dặn dò. Đến nay việc ấy vẫn còn mà pháp hội đã bị phế bỏ.
Thần Mẫu lúc sinh tiền vốn là con gái của một Hoàng đế Trung Quốc tên là Sa Tô, sớm được thuật thần tiên, đến trụ tại Hải đông đã lâu mà chẳng chịu trở về. Phụ Hoàng buộc thư vào chân diều hâu gởi đi. Công chúa nhận được thư nói rằng: "Tùy nơi nào chim dừng thì lấy đó làm nhà", xong thả chim bay đi, diều (diên) bay một mạch đến núi này thì dừng, Sa Tô bèn đến đó làm Địa Tiên nên gọi là Tây Diên sơn. Thần Mẫu trụ tại núi này đã lâu, trấn giữ quốc gia, hiện rất nhiều điềm linh dị. Từ khi lập quốc đến nay đền thờ này thường là một trong ba ngôi lớn, lộc hưởng tại các núi chung quanh. Đời vua thứ năm mươi bốn là Cảnh Đức Vương rất thích dạy chim ưng, thường lên núi này thả chim, một hôm chim bị mất, vua cầu Thần Mẫu rằng: "Nếu được lại chim, sẽ phong tước cho!". Bỗng chốc chim ưng quay về đậu trên ghế. Nhân đó Vương phong tước cho Thần Mẫu là Đại vương.
Thần Mẫu đầu tiên đến Thần Hàn sinh ra Thánh Tử làm vị vua đầu tiên của Đông Quốc, là chỗ khởi đầu của hai Thánh là Hách Cư và Át Anh. Cho nên gọi là Kê Long, Kê Lâm, Bạch Mã, vì Kê là thuộc về hướng Tây. Thần Mẫu khi ấy thường sai các
Tiên Thiên dệt lụa, nhuộm màu sắc, may triều phục tặng cho chồng. Người trong nước lúc đó mới biết sự thần nghiệm của bà. Lại Quốc sử sứ thần nói rằng: Trong khoảng niên hiệu Chánh Hòa, Thức từng đi sứ sang Tống, đến Hựu Thần Quán, có một ngôi điện thờ tượng Nữ Tiên, người bạn trong Quán này là Học sĩ Vương Phủ nói rằng: "Đây là một vị thần của quý quốc, ngài biết chăng? Xưa có một người con gái của Hoàng đế Trung Quốc đi thuyền vượt biển sang Thần Hàn sinh được người con trai, sau làm Thỉ Tổ của Hải Đông, người con gái ấy làm Địa Tiên, thường trụ tại núi Tiên Đào. Đây là tượng của nữ Tiên ấy. "
Lại sứ của Đại Tống là Vương Tương đến triều ta tế Đông Thần Thánh Mẫu có câu: "Mang thai sinh bậc hiền khai mở quốc thổ", nay lại dâng vàng phụng Phật, vì tất cả hàm sinh khai pháp hội làm bến bờ. Như thế đâu chỉ học phép trường sinh mà quẩn quanh trong chỗ mờ mịt ư?
Tán rằng:
Đến định Tây Diên mấy mươi thu
Gọi kêu Thiên nữ dệt y thường
Trường sinh, vô sinh chưa hẳn khác
Cố hỏi Kim Tiên lập ngọc hoàng.
Vào đời Cảnh Đức Vương, ở vùng Khang châu (nay là Tấn châu; còn gọi là Cương châu thì nay là Thuận an) có khoảng vài mươi Thiện sĩ phát tâm cầu sinh Tây Phương. Trong địa phận châu này có lập chùa Di-đà, thời gian vạn ngày làm kỳ hạn niệm Phật. Bấy giờ nhà của A Can Quý Trân có một nô tỳ tên là Úc Diện thường theo chủ nhân về chùa đứng trước sân theo chúng Tăng niệm Phật. Người chủ ghét tỳ nữ không xứng đáng, nên trước khi đi chùa, bà giao cho Úc Diện phải giả hai thạch lúa trong một đêm. Úc Diện giả đến canh một thì xong liền đến chùa niệm Phật. Lâu ngày quá mỏi mệt, Úc Diện dùng dây xỏ ngang qua hai bàn tay của mình rồi giăng cột vào hai cây trụ hai bên trái phải sân chùa, cứ thế mà chắp tay niệm Phật. Mọi người qua lại sách tấn. Bấy giờ trên hư không chư Thiên xướng lên rằng: "Úc Diện hãy vào Điện đường niệm Phật!". Đại chúng trong chùa nghe được, khuyên Úc Diện vào. Cô vào cũng tùy thuận phép tắc mà tinh tấn tu tập. Không bao lâu nhạc trời từ phương Tây vọng đến, Úc Diện vọt lên nóc nhà mà ra, đi theo hướng Tây đến ngoài thành, thì xả bỏ thân này, hiện thành chân thân, ngồi trên đài sen, phóng ánh sáng rồi từ từ bay xa, tiếng nhạc trời trên hư không vẫn không dứt. Điện đường ấy ngày nay vẫn còn một lỗ trống, nơi mà Úc Diện đã thoát ra (đó là theo Hương Truyện).
Theo Tăng Truyện thì Đống Lương Bát Trân là do Đức Quán Âm ứng hiện tụ tập đồ chúng gồm một ngàn người, phân làm hai nhóm: một là chúng lao lực, hai là chúng tinh tu. Vị tri sự trong chúng lao lực vì phạm giới nên đọa vào đường súc sinh, làm trâu trong chùa Phù Thạch, thường chở kinh điển, lại nhờ sức của kinh mà chuyển sinh làm nô tỳ trong nhà A Can Quý Trân, tên là Úc Diện. Nhân có việc đến Hạ Kha Sơn một hôm cảm mộng mà phát đạo tâm. Nhà của A Can cách chùa Di-đà của Pháp sư Tuệ Tú sáng lập không xa, A Can thường đến chùa niệm Phật, nô tỳ đi theo đến chùa đứng trước sân niệm Phật... Trải qua chín năm, đến ngày hai mươi mốt tháng giêng năm Ất Mùi, sau khi lễ Phật xong Úc Diện vọt lên nóc chùa mà ra, đi đến Tiểu Tú Sơn thì đánh rơi một chiếc giày, nơi này sau là chùa Bồ-đề; xuống núi thì xả thân này, nơi này sau là chùa Nhị Bồ-đề. Tấm bảng của điện đường này ghi: Úc Diện Đăng Thiên Chi Điện. Khoảng trống trên nóc chùa rộng khoảng năm thước, nhưng mưa lớn tuyết dày vẫn không rơi ướt. Sau có một hiếu chủ tạo một ngôi tháp bằng vàng đặt trên thừa trần (còn gọi là Tảo Tỉnh, Thiện Hoa Bản) ngay khoảng trống khi trước để ghi nhớ việc kỳ lạ này. Nay tháp và bảng vẫn còn. Sau khi Úc Diện đi rồi, Quý Trân cũng cho rằng nhà mình là nơi dị nhân gá sinh, nên cải làm chùa, đặt tên là Pháp Vương, hiến ruộng cho dân làng. Lâu ngày chùa bị đổ nát chỉ còn nền mà thôi. Về sau có Đại sư Hoài Cảnh, cùng với Thừa Tuyên Lưu Thạc, Tiểu Khanh Lý Nguyên Trường nguyện trùng tu. Đại sư Cảnh tự thân lo việc dọn dẹp cây cối đất đá. Đầu tiên thiếu cây gỗ, một hôm mộng thấy một ông già đến tặng cho một chiếc giày, một sợi gai, một dây sắn, lại đến miếu thần, dùng Phật lý trình bày, xin chặt được một số cây gỗ bên miếu, trải qua năm năm thì xong. Về sau có thêm người giúp việc, nên phát triển thành một danh lam ở miền Đông nam. Mọi người đều cho rằng Đại Sư Hoài Cảnh là hậu thân của Quý Trân.
Bàn rằng: Theo lời truyền xưa trong làng thì Úc Diện là việc xảy ra vào thời Cảnh Đức Vương. Nhưng căn cứ theo truyện của Trưng (nghi là Trân, văn sau cũng thế) thì năm Mậu Tý, niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba là thuộc đời Ai Trang Vương. Sau đời Cảnh Đức Vương là trải qua năm đời theo thứ tự Tuệ Cung, Tuyên Đức, Nguyên Thánh, Chiêu Thánh và Ai Trang, tổng cộng là hơn sáu mươi năm. Nêu Trưng (Trân) trước, Diện (Úc Diện) sau, trái nghịch với Hương Truyện. Nhưng cả hai vẫn còn tồn nghi. Tán rằng:
Chùa xưa Tây cảnh sáng Phật đăng
Giả xong lên điện đã canh hai
Tự hứa một lời thành một Phật
Dây ấy xuyên tay tức quên hình.
Vào thời Văn Võ Vương có hai vị Sa-môn tên là Quảng Đức và Trang Nghiêm, kết giao thân thiện, ngày đêm thường ước hẹn nhau rằng: "Người nào trở về nước An Dưỡng trước thì phải báo!". Đức ẩn cư tại ngôi làng phía Tây chùa Phấn Hoàng (hoặc nói chùa Hoàng Long có một cái am ở phía Tây. Chưa biết lời nào đúng), cùng sống với vợ con, lấy việc đan giày cỏ làm kế sống. Trang cất am sống ở núi Nam, cày cấy trồng trọt mà sống. Một hôm vào lúc hoàng hôn, bên ngoài bỗng nhiên có tiếng báo rằng:
- Ta đi về Tây đây, chúc bạn ở lại mạnh khỏe, rồi mau chóng đi theo tôi!
Trang bồi hồi bước ra nhìn theo, trên mây có tiếng nhạc trời, ánh sáng chiếu khắp mặt đất. Sáng ngày đến thăm hỏi nơi ở của Đức, quả thật Đức đã qua đời. Bấy giờ Trang cùng với vợ Đức thâu hài cốt, đồng lo an táng. Việc xong Trang nói với vợ của Đức rằng:
- Nay chồng đã qua đời, có thể cùng ta chung sống được chăng? Người đàn bà trả lời:
- Có thể!
Trang bèn ở lại; đến đêm khuya, lúc Trang sắp muốn tư thông, người đàn bà trêu rằng:
- Sư cầu Tịnh Độ, có thể cho rằng bắt cá mà leo cây ư? Trang kinh dị hỏi rằng:
- Đức đã như thế, ta cũng làm như thế, đâu có ngại gì! Người đàn bà nói:
- Tôi cùng sống với chồng hơn mười năm, nhưng chưa từng có một đêm chung giường, hà huống là có việc xúc chạm ư? Phu quân hàng đêm đoan thân yên tọa, niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hoặc tu mười sáu phép quán. Quán thành thục, lúc trăng sáng chiếu vào nhà thì bước lên vầng ánh sáng ngồi kiết già. Chí thành như thế, tuy muốn chẳng đến Tây mà lại đến; phàm người đi xa ngàn dặm thì một bước đầu là quy tắc. Nay xem ra Sư có thể nói là về hướng Đông, còn Tây thì chưa thể biết được!
Trang hổ thẹn trở về, thẳng đến ngài Nguyên Hiểu khẩn thiết cầu yếu pháp. Ngài Nguyên Hiểu dạy pháp quán "Tranh". Bấy giờ Trang khắc kỷ hối lỗi, chuyên tâm tu quán, về sau cũng được về Tây phương. Pháp tranh quán ghi trong Nguyên Hiểu Bản Truyện và Hải Đông Tăng Truyện. Người đàn bà kia là nô bộc ở chùa Phấn Hoàng, thị hiện một đức trong mười chín đức ứng thân. Ca rằng:
Nguyệt hạ y để diệc
Tây phương niệm định khứ tứ lý khiển
Vô lượng thọ Phật tiền não
Não sất cát âm (phương âm nói là Báo Nguyên) đa khả chi bạch khiển tứ lập
Thệ âm thâm sử ẩn tôn y hi ngưỡng chi
Lưỡng thủ tập đao hoa hồ bạch lương vãng sinh, nguyện vãng sinh
Mộ nhân hữu như bạch khiển tứ lập a tà
Thử thân khiển dã trí khiển
Tứ thập bát đại nguyện thành khiển tứ khứ.
Cảnh Hưng gặp Thánh:
Vào đời Thần Văn Vương có Đại đức tên là Cảnh Hưng, họ Thủy, người châu Hùng Xuyên. Sư xuất gia vào năm mười tám tuổi, làu thông Tam tạng, được trọng vọng một thời. Năm Khai Diệu thứ nhất, lúc Văn Võ Vương sắp thăng hà, dặn dò Thần Văn rằng: "Có thể tôn Pháp sư Cảnh Hưng làm quốc sư, chớ quên lời Trẫm!". Khi Thần Văn lên ngôi, phong Sư làm quốc lão, trụ ở chùa Tam Lang. Bỗng bị bệnh nhiều tháng mà chưa hết. Một hôm có một vị Ni đến thăm, dùng thuyết "gốc bệnh của Thiện Hữu" trong kinh Hoa Nghiêm mà bảo rằng:
- Nay bệnh của Sư là do nơi lắng mà sinh, nếu vui vẻ tươi cười thì bệnh lành.
Nói xong bèn thể hiện mười một diện mạo, mỗi mỗi đều kèm theo nhảy múa hài hước lúc mạnh mẽ, lúc mềm mại biến chuyển kỳ diệu không thể nói hết, tất cả đều có thể làm người vui tươi, do đó bệnh của Sư lành hẳn. Vị Ni ra khỏi nhà đến chùa Nam Cảng (chùa này phía Nam chùa Tam Lang) mà ẩn, cây gậy đặt tại trước bức tranh Đức Quán Âm mười một mặt. Một hôm Sư sắp vào cung, những người đi theo đã tụ tập trước bên ngoài cửa Đông. Ngựa xe rất đông, giày nón la liệt, người đi đường phải tránh. Bỗng có một vị cư sĩ (có nơi nói là một Sa-môn) hình mạo lôi thôi, tay cầm gậy, lưng mang sọt đến ngồi nghỉ trên Hạ mã đái. Mọi người nhìn trong sọt thấy có cá khô, bèn quở trách rằng:
- Ông đã xuất gia sao lại mang vật cấm kỵ? Vị Tăng kia liền nói:
- Đối với việc các ngươi kẹp miếng thịt sống giữa hai đùi, thì chuyện lưng ta mang cá khô của ba chợ đâu thấm tháp gì?
Nói xong đứng dậy đi. Lúc ấy Sư mới ra khỏi cửa nghe mọi người thuật lại, liền sai người đuổi theo đến ngoài cổng chùa Văn-thù ở Nam sơn thì vị Tăng ném sọt mà ẩn, cây gậy còn đặt trước tượng Thánh Văn-thù, cá khô là vỏ cây tùng. Người ấy trở về kể lại, Sư nghe xong than rằng: Đại Thánh đến khuyên răn ta về việc cưỡi ngựa! Từ đó về sau đến cuối đời Sư không bao giờ cỡi ngựa.
Hương đức và vị hạnh của Sư ghi chép đầy đủ nơi bia chùa Tam Lang do Thích Huyền Bản soạn. Từng thấy lời Bồ-tát Di-lặc trong kinh Phổ Hiền Chương rằng: "Ở đời vị lai ta sẽ sinh vào cõi Diêmphù-đề, trước độ các đệ tử đời mạt pháp của Phật Thích-ca, chỉ trừ những Tỳ-kheo cưỡi ngựa thì không được thấy Phật". Như thế mà có thể chẳng kinh sợ ư? Tán rằng:
Thánh xưa dạy dỗ ý rất nhiều
Cớ sao con cháu chẳng thiết tha
Lưng mang khô cá còn có thể
Ngày sau đâu đến được Long Hoa.
Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Trường Thọ thứ nhất, Hiếu Chiêu lên ngôi, sáng lập chùa Vọng Đức để cầu phước cho nhà Đường. Đến năm thứ mười bốn đời Cảnh Đức Vương, chùa tháp bị chấn động, năm ấy ở Trung Quốc có loạn An Sứ, người Tân La nói rằng:
- Chùa này lập là vì nhà Đường, nên có ứng như thế.
Đến năm Đinh Dậu, năm thứ tám đời Hiếu Chiêu, tổ chức lễ lạc thành, Vương đích thân đến cúng dường. Bấy giờ có một vị Tỳ-kheo hình tướng thô lậu đơn độc đứng giữa sân thưa rằng:
- Bần đạo cũng mong được thọ trai.
Vương cho phép ngồi ở cuối. Sắp kết thúc pháp hội, Vương vui vẻ hỏi rằng: Trụ tích cất giữ nơi đâu?
Vị Tăng thưa:
- Giữ tại Tỳ Sắt Nham. Vương nói:
- Từ đây về sau chớ nói với người là đến thọ trai do quốc vương đích thân cúng dường.
Vị Tăng ấy cười nói:
- Bệ hạ cũng chớ nói với người là đã cúng dường chân thân Thích-ca!
Nói vừa xong liền vọt thân lên hư không bay về hướng Nam.
Vương kinh hãi chạy lên Đông Cương hướng theo kính lễ, rồi sai người đi tìm, đến cốc Tham tinh ở Nam sơn, hoặc nói ngài đã đặt tích trượng và bát trên tảng đá ở Đại Tích Xuyên rồi ẩn mất. Sứ trở về tâu lại, Vương bèn lập chùa Thích-ca dưới Tỳ Sắt Nham và lập chùa Phật Vô Tại nơi mất bóng hình, phân chia trượng và bát ra tôn thờ. Hai chùa đến nay vẫn còn mà trượng và bát đã mất. Trí Luận quyển bốn ghi: Xưa có Kế Tân Tam tạng, hành pháp A-lan-nhã đến chùa Nhất Vương, gặp lúc chùa đang tổ chức pháp hội, người giữ cửa thấy Tam Tạng y phục thô xấu, nên chặn không cho vào, nhiều lần như thế, vì mặc y phục thô rách nên đều không được vào. Ngài liền lập phương tiện, mượn y áo tốt đẹp mặc vào, người gác cổng thấy vậy thì không ngăn cản nữa. Khi Sư đã được nơi ngồi, được các món ăn ngon, trước tiên Sư cho cái y thức ăn. Mọi người hỏi vì sao làm như thế? Sư đáp: "Ta đã mấy lần đến đây đều không được vào, nay nhờ y này mà ta được ngồi tòa này, được các món ăn ngon, vì thế nên cho thức ăn cái y này!".
Việc này xét về sự thì đồng với chuyện ghi ở đây. Tán rằng:
Đốt hương chọn Phật xem tranh mới
Biện cúng trai tăng hỏi người xưa
Từ lúc thưởng trăng trên Tỳ Sắt
Luôn luôn mây chặn, chậm đến đần.
Ngày mồng một tháng bốn năm Canh Tý, tức năm mười chín đời Cảnh Đức Vương, trên không đồng thời xuất hiện hai mặt trời, kéo dài cả tuần mà chẳng mất, Nhật quan tâu rằng: "Xin thỉnh tăng hóa duyên tạo công đức rải hoa thì có thể cầu dứt được!". Vương nghe theo, lập đàn tại điện Triều Nguyên, Vương thân hành đến Thanh Dương Lâu mong đón Tăng hóa duyên. Bấy giờ sư Nguyệt Minh đang đi trên bờ ruộng phía Nam, Vương sai người triệu đến, mời lập đàn, làm khải tấu trời. Minh tâu rằng:
- Bần Tăng là môn hạ của Quốc Tiên, chỉ biết Hương ca, chẳng rành âm Phạm".
Vương nói:
- Đã chọn Tăng hóa duyên rồi, thì dù có dùng Hương ca cũng được!
Sư Nguyệt Minh bèn xướng bài Đâu-suất ca rằng: Kim nhật thử hỷ tán hoa xướng lương ba bảo hồ ẩn hoa lương như ẩn trực đẳng ẩn tâm âm hỷ mạng sất sử dĩ ác chỉ. Di-lặc tòa chủ bồi lập la lương.
Dịch rằng:
Lầu rồng hôm nay xướng tán hoa
Đào hoa tống tiễn phiến mây xanh
Ân trọng tâm ngay đang sai bảo
Cầu xin Đâu-suất Đại tiên gia.
Nay tục gọi đây là Tán Hoa ca là không đúng, mà nên nói là Đâu-suất ca, còn có một bài Tán Hoa ca riêng khác, nhưng văn dài dòng không tiện ghi chép. Không bao lâu tướng lạ của mặt trời diệt, Vương vui mừng ban cho một hộp trà ngon và xâu chuỗi thủy tinh một trăm lẻ tám hạt. Bỗng có một đồng tử hình nghi xinh đẹp quỳ dâng trà và xâu chuỗi, từ cửa nhỏ phía Tây điện bước ra. Minh cho rằng người trong nội cung, còn Vương thì cho rằng thị giả của Minh, đến khi hai người ngầm nêu ra đều không phải, Vương rất kinh lạ, cho người đi theo, thấy đồng tử ẩn vào ngôi tháp ở nội viện. Trà và xâu chuỗi thì ở trước bức bích họa tượng Di-lặc tại phía Nam. Biết Minh là người chí thành chí đức mới có thể cảm nhờ đến bậc Thánh như thế. Trong triều hay nơi dân dã đều nghe biết, Vương lại càng thêm kính trọng, ban thêm cho một trăm xấp lụa để bày tỏ lòng thành to lớn của mình. Nguyệt Minh Pháp sư từng vì em gái đã mất của mình mà thiết lễ trai tăng, soạn Hương ca để tế lễ, bỗng nhiên có gió mạnh thổi đến làm bay tiền giấy về hướng Tây rồi biến mất.
Ca rằng:
Sinh tử lộ ẩn
Thử hỷ hữu a mễ thứ bi y khiển
Ngô ẩn khứ nội như từ sất đô
Mao như vân khiển khử nội ni sất cổ
Ư nội thu sát tảo ẩn phong vị
Thử hỷ bỉ hỷ phù lương lạc thi diệp như nhất đẳng ẩn chi lương xuất cổ
Khứ nô ẩm xứ mao đông hồ đinh
A dã
Di-đà sát lương phùng hồ ngô đạo tu lương đãi thị cổ như.
Sư thường trụ tại chùa Tứ Thiên Vương, thổi địch rất hay. Những đêm trăng Sư thường đến con đường lớn trước cổng chùa thổi địch, khiến vầng trăng dừng lại, nhân đó gọi con đường ấy là Nhật Nguyệt Minh Lý, Sư cũng nhân đó mà đặt tên là Nguyệt Minh. Sư là môn hạ của Năng Tuấn Đại sư. Người Tân La chuộng Hương ca đã từ lâu, bởi vì đó là một loại thi tụng. Vì thế đã nhiều lần làm cảm động được trời đất quỷ thần, chứ chẳng phải là một.
Tán rằng:
Giấy tiền cúng tế gió thổi bay
Tiếng địch đêm trăng giữ hằng nga
Chớ nói suất đà trời xa thẳm
Hoa nghinh vạn đức một khúc ca.
Ở chùa Vọng Đức có một vị tăng tên là Thiện Luật quyên góp tiền bạc để khắc in bộ kinh Bátnhã sáu trăm quyển, nhưng chưa thành tựu. Bỗng một hôm bị quỷ sứ bắt dẫn về Minh phủ. Diêm Vương hỏi rằng: "Trên nhân gian ngươi làm nghề gì?" Thiện Luật đáp: "Những năm về già bần đạo muốn hoàn thành bộ Bát-nhã Đại Kinh, công chưa hoàn thành mà nay đã đến đây!" Diêm Vương nói: "Tuy số thọ của ngươi đã hết, nhưng nguyện lớn quý (chưa xong), nên cho ngươi trở lại nhân gian hoàn thành bảo điển. "
Nói xong bèn cho trở về. Đi nửa đường gặp một người con gái khóc lóc quỳ lạy thưa rằng: Tôi cũng là người Tân La ở cõi Nam Diêm-phù, nhân vì cha mẹ ngầm lấy một mẫu ruộng nước của chùa Kim cang, nên bị Minh phủ truy xét phạt tội chịu khổ đã lâu. Nay nếu Sư trở về quê xưa, xin bảo cha mẹ tôi mau trả lại ruộng ấy. Khi tôi còn tại thế, có chôn dấu dầu mè dưới giường, và cất giữ vải lụa trong tấm chăn. Xin Sư lấy dầu ra thắp đèn cúng Phật, bán vải lụa lấy tiền in kinh thì Hoàng Xuyên cũng được ân, ngõ hầu cứu thoát khổ nạn cho tôi!" Thiện Luật hỏi: "Nhà của cô ở đâu?"
Đáp: "Ở ngôi làng phía Tây Nam chùa Cửu Viễn thuộc Sa Lương Bộ. "
Thiện Luật nghe xong liền đi. Sau đó sống lại. Bấy giờ ở nhân gian, Thiện Luật chết đã mười ngày, thân xác được an táng tại chân núi phía Đông ngọn Nam sơn. Sư ở trong mã kêu gọi ba ngày, các mục đồng nghe được đến báo cho chùa. Các Tăng liền đến đào mộ đem lên, Sư thuật lại sự việc đã xảy ra. Sư hỏi thăm nhà của người nữ kia, quả nhiên đã chết cách mười lăm năm. Thiện Luật tìm thấy dầu và vải vẫn còn nguyên. Sư làm theo lời của người nữ để tạo minh phước. Sau đó người nữ hiện hồn đến báo rằng: "Nhờ ơn của Sư mà tôi đã lìa khổ!"
Người trong làng nghe biết, ai cũng kinh sợ, nên trợ giúp hoàn thành bộ kinh. Kinh hiện nay còn giữ tại Tăng Ty Tạng ở Thúc Đô, hằng năm hai kỳ xuân thu đều có đem ra tụng để trừ tai họa! Tán rằng:
Khá mừng thầy ta có thắng duyên
Hồn du địa phủ lại trở về
Mẹ cha nếu hỏi con có khỏe
Hãy vì con yêu trả ruộng xưa.
Theo phong tục của Tân La, mỗi năm từ mồng tám đến rằm tháng hai thì nam nữ già trẻ đều chen nhau đến chùa Hưng Luân để tham dự phước hội nhiễu điện nhiễu tháp. Vào đời Nguyên Thánh Vương có một người nam tên là Kim Hiện, đêm đã khuya mà vẫn còn nhiễu tháp không nghỉ, lại cũng có một người con gái vừa niệm Phật vừa nhiễu theo sau. Đồng cảm nhau mà liếc mắt đưa tình, nhiễu xong cả hai cùng dẫn nhau vào nơi kín để tư thông. Người nữ muốn trở về nhà, Kim Hiện đi theo, người nữ không chịu, nhưng Kim Hiện ép cưỡng dẫn, người nữ đành phải chịu. Đi đến chân núi Tây Sơn thì dẫn vào một ngôi nhà tranh, có một lão bà ra hỏi rằng: "Con dẫn ai theo đấy?"
Người con gái bèn kể lại mọi sự việc. Bà mẹ nói rằng: "Tuy là việc tốt chẳng bằng không có vẫn hơn, nhưng việc cũng đã rồi không thể ngăn cản. Nay hãy ẩn nấp cho kín, sợ ác tâm của anh em ngươi. "
Nói xong hai người dẫn Kim Hiện dấu vào một nơi kín đáo. Một lát sau có ba con cọp gầm gừ tiến đến nhà, một con nói tiếng người rằng: "Nhà có mùi tanh, đang lúc đói sao may mắn thế?"
Hai mẹ con bèn nói: "Mũi của các ngươi hôm nay lầm rồi ư? Sao nói cuồng thế?"
Bấy giờ có vị trời nói rằng: "Các ngươi giết hại sinh mạng quá nhiều, nay nên diệt một mạng nhà ngươi để trừng trị cái ác. "
Ba con cọp nghe nói tỏ sắc âu lo, người con gái nói rằng: "Ba anh nếu có thể tránh một nơi xa mà tự răn mình, thì tôi sẽ chịu tội thay cho tất cả!"
Ba con cọp vui mừng cúi đầu vẫy đui mà trốn đi. Người con gái trở vào nhà nói với Kim Hiện rằng: "Lúc đầu tôi hổ thẹn khi người quân tử hạ cố đến nhà, nên mới ngăn cản từ chối, nay đã không còn che dấu nữa, xin được bộc bạch nỗi lòng. Tiện thiếp và chàng tuy không đồng loại, nhưng đã có cuộc vui một đêm bồi tiếp, tình giao hảo nghĩa trọng kết duyên. Ba người anh của thiếp vì ác nay trời đã đày xa, tai ương một nhà thiếp đây muốn gánh chịu tất cả. Nếu như bị chết dưới tay của một kẻ tầm thường, chẳng thà phủ phục dưới đao của chàng để báo đáp ân đức? Như thế này, ngày mai thiếp vào chợ phá hại, mọi người trong nước không ai làm gì được thiếp, nhất định Đại vương sẽ dùng tước lộc trọng hậu để chiêu mộ người đến bắt thiếp. Chàng chớ sợ, truy tìm thiếp tại khu rừng phía Bắc của thành, thiếp sẽ đợi ở đó. " Kim Hiện nói rằng: "Người giao kết với người là đạo thường tình, còn khác loài mà giao nhau là chuyện lạ thường, nhưng nay đã được bình yên, chắc chắn là do nơi trời thương xót, như thế đâu thể nhẫn tâm lấy cái chết của vợ để được tước lộc kiêu hãnh một đời?" Người nữ bảo rằng: "Chàng chớ nói như thế! Nay thiếp qua đời là hợp với thiên mệnh, cũng là nguyện của thiếp, là niềm vui của chàng, là phước của tộc họ thiếp, nhân dân trong nước vui mừng. Vậy một người chết mà được năm điều lợi như thế, thì có thể chống lại ư? Nhưng sau đó chàng hãy vì thiếp lập chùa, diễn giảng chân kinh trợ giúp cho quả báo tốt đẹp, như thế ân huệ của chàng chẳng lớn lắm sao?"
Nói xong hai người khóc lóc từ biệt. Hôm sau quả nhiên có một con cọp dữ vào thành phá hoại, không ai dám bắt. Bấy giờ Nguyên Thánh Đại Vương nghe được, đích thân ban lệnh rằng: "Ai giết được cọp sẽ ban hai cấp tước lộc!"
Kim Hiện đến triều đình tâu rằng: "Tiểu thần làm được!" Vương ban tước trước để khuyến khích. Hiện cầm đoản đao vào rừng, cọp đã biến thành người con gái đêm trước, vui mừng cười nói rằng: "Hôm qua đã cùng chàng gắn bó vợ chồng, mong chàng không quên. Hôm nay người bị móng vuốt làm tổn thương, nên dùng nước tương chùa Hưng Luân để thoa, khi nghe tiếng bát ốc của chùa này thì chữa trị". Nói xong lấy đao mà Kim Hiện mang theo tự đâm vào cổ mà chết, biến làm thân cọp. Kim Hiện ra khỏi rừng giả vờ nói rằng: "Nay cọp này đã bị giết rồi!"
Kim Hiện không tiết lộ nguyên do chỉ y theo lời dặn mà chữa trị, tất cả vết thương đều lành. Ngày nay người đời cũng còn dùng phương thuật này. Hiện đã có quan tước, bèn xây chùa ở bờ Tây Xuyên đặt tên là Hổ Nguyệt tự, thường giảng kinh Phạm Võng để dẫn dắt cọp nơi cõi u minh, cũng để báo đáp ân sát thân mà thành toàn sự nghiệp cho mình. Lúc lâm chung, Hiện quá cảm xúc vì việc lạ trước kia nên dùng bút viết thành truyện lưu hành ở thế gian. Tôi nghe biết được, nên nhân đó mà gọi là luận Hổ Lâm như ngày nay.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ chín, Thân Đồ Trừng từ Hoàng Quan được bổ nhiệm làm Huyện Úy huyện Thập Phương ở Hán châu. Khi đi đến phía Đông cách huyện Chân phù khoảng mười dặm, thì gặp trời nổi giá rét, tuyết rơi dày, ngựa không thể tiến bước được. Thấy bên đường có một ngôi nhà tranh, bên trong có một lò lửa hồng ấm áp, Trừng bèn soi đèn xuống ngựa bước vào nhà, thấy hai ông bà và một cô gái đang ngồi quanh lò lửa, cô gái khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, tuy đầu tóc hơi rối và áo quần dơ dáy nhưng da trắng như tuyết, mặt đẹp như hoa, cử chỉ rất yêu kiều; ông bà thấy Trừng đến thì đứng dậy nói rằng: "Khách đi ngoài tuyết lạnh, mời đến lò sưởi ấm!" Trừng ngồi đã lâu, trời ngày càng tối tăm, gió và tuyết chẳng dứt. Trừng bèn hỏi: "Từ đây đến huyện còn xa, xin được tá túc một đêm?" Cha mẹ cô gái liền nói: "Nếu chẳng chê nhà tranh thô lậu, thì xin tuân mệnh!".
Trừng liền tháo yên cương, trải chăn màn. Người con gái thấy khách vừa nghỉ, thì sửa soạn dung nghi từ bên trong rèm bước ra, tư thái rất nhàn nhã, còn hơn cả lúc mới thấy. Trừng vội thưa rằng: "Cô nương đây ắt là thông minh hơn người, như may mắn chưa hứa hôn, thì tôi đây dám xin có lời dạm hỏi, được chăng?
Người cha đáp rằng: "Đâu dám, mong quý khách thâu nhận, đây ắt là định phận vậy!
Trừng liền dùng danh phận rể để thi lễ. Sau đó dùng xe ngựa của mình rước về huyện. Trừng làm quan nhưng bổng lộc rất ít, nhờ sức của vợ mà chu toàn, cả nhà ai cũng vui vẻ. Về sau khi sắp về hưu thì người đã sinh được một nam một nữ cũng đều rất thông minh. Bấy giờ Trừng càng thêm kính yêu vợ, từng làm thơ tặng vợ rằng:
Tặng nội thị:
Làm quan thẹn cùng mai phước
Ba năm hỗ với Mạnh Quang
Tình này đâu thể ví được
Bên sông có đôi uyên ương.
Người vợ suốt ngày ngâm nga, tựa như đã thầm có người họa nhưng chưa từng nói ra. Sau khi Trừng về hưu thì gia tài cũng đã khánh tận, bèn trở về nhà cũ. Bỗng người vợ buồn bã nói với Trừng rằng: "Xin tặng một bài thơ, tìm tức có bài họa", bèn ngâm rằng:
Tình cầm sắt tuy nặng
Chí rừng núi rất sâu
Thường do thời tiết đổi
Cô phụ tâm trăm năm.
Hai người hỏi tìm được nhà, nhưng lại chẳng có người, nên vợ luyến nhớ, suốt ngày than khóc. Bỗng nhiên người vợ thấy ở góc tường có một tấm da cọp, liền cười nói: "Chẳng biết vật này vẫn còn!"
Bèn lấy xuống mang vào và biến thành cọp gầm gừ vồ bắt rồi phá cửa mà ra. Trừng vô cùng kinh hãi, dắt hai con tìm đường chạy trốn, rồi nhìn về núi rừng mà kêu khóc. Trải qua mấy ngày chẳng biết đi đâu.
Ôi vợ Trừng và Hiện đều khác loài, biến thành người làm vợ thì đồng, nhưng tặng bài thơ cách biệt người, sau đó gầm gừ vồ bắt mà đi thì khác con cọp của Hiện. Cọp của Hiện thì bất đắc dĩ mới làm tổn thương người, nhưng lại chỉ cho phương thuốc hay để cứu người. Loài thú mà có con vì lòng nhân như thế, loài người mà có người chẳng bằng thú là vì sao? Xét rõ toàn bộ sự việc, từ khi cảm người trong khi nhiễu chùa Phật, trời xướng lời trừng ác tự mình nhận chịu thay, truyền phương thuốc thần để cứu người, dặn lập chùa giảng kinh Phật, đó ắt hẳn chẳng là tánh nhân của loài thú, mà chính là bậc Đại Thánh dùng phương tiện ứng cơ hóa vật, cảm được Kim Hiện tỏ tình trong lúc nhiễu tháp, muốn báo đáp lợi ích âm thầm đó, nên hiện đời được phước lợi ư? Tán rằng:
Sơn gia chẳng nệ ba anh ác,
Nàng thưa, đâu vội dám nhận lời.
Nghĩa nặng vài điều khinh cái chết
Thân hẹn bên rừng hoa vội rơi.
Tam Hoa là Thái tử thứ năm Cư Liệt, thứ sáu là Thật Xứ (còn gọi là Đột Xứ) và thứ bảy là Bảo Đồng muốn đến Phong nhạc, bỗng có sao chổi (Tuệ Tinh) xuất hiện phạm vào giữa Đại Hoàng, các Thái tử sinh nghi, muốn bãi bỏ cuộc đi. Bấy giờ Sư Dung Thiên soạn ca rồi xướng lên, thì sao dữ liền diệt, binh Nhật Bản lui về, trở thành niềm vui. Vua mừng rỡ bảo các Thái tử du sơn.
Ca rằng:
Cựu lý đông thi đinh sất
Càn đạt bà hỷ du ô ẩn thành sất bi lương vọng lương cổ
Oa lý sất quân trí lai sất đa phong thiên tà ẩn biên dã tẩu da.
Tam hoa hỷ nhạc âm kiến tứ ô thi văn cổ.
Nguyệt trí bát thiết nhỉ số ư tương lai thi ba y
Đạo thi tảo thi tinh lợi vọng lương cổ
Tuệ Tinh dã bạch phản dã nhân thị hữu sất đa.
Câu sau: Đạt a la phù khứ y sất đẳng tà
Thử dã hữu vật tỉ sở âm sất tuệ sất chỉ hữu sất cố.
Vào đời vua Tân La thứ bốn mươi là Ai Trang Vương, có Sa-môn Chánh Tú trụ tại chùa Hoàng Long. Một hôm vào buổi chiều tối mùa đông, tuyết rơi rất dày, Sư từ chùa Tam Lang trở về. Khi đi đến bên ngoài cổng chùa Thiên Nham thì thấy có một nữ ăn xin sinh con, gặp trời quá lạnh sắp chết. Sư xót thương bèn đến bồng đứa bé, một lúc lâu hơi ấm tỏa ra, Sư cởi y đắp kỹ rồi để trần đi về chùa mình, dùng tranh cỏ che thân ngủ qua đêm. Khuya có vị trời xướng ngay tại triều đình rằng: "Nên phong cho Sa-môn Chánh Tú chùa Hoàng Long làm Vương sư!" Gấp sai người đến kiểm xét, sứ trở về tâu trình lên Vương. Vương chỉnh trang đầy đủ oai nghi thỉnh Sư vào đại nội, phong làm quốc sư.
------------------------------------
Tại núi Linh Thứu, huyện A Khúc, Áp Lương châu (Áp Lương nay là Lương châu. A khúc còn gọi là Tây, là cầu Phật, Khuất Phất; nay ở Úy châu có đặt Khuất phất nhật, đến nay vẫn còn tên ấy) có một dị tăng, lập am sống đã nhiều năm mà dân làng đều chẳng biết Sư là ai. Sư cũng chẳng nói tên họ, thường giảng kinh Pháp Hoa, có sức thần thông. Niên hiệu Long Sóc thứ nhất có một Sa-di tên là Trí Thông vốn là gia nô của Y Lượng Công, xuất gia năm bảy tuổi, bấy giờ có một con chim đến kêu rằng: "Hãy đến Linh Thứu sơn làm đệ tử Lãng Trí!'. Thông nghe được liền tìm đến núi này, nghỉ ngơi bên gốc cây trong động. Bỗng thấy một người lạ xuất hiện nói rằng:
- Ta là Đại sĩ Phổ Hiền, muốn trao giới phẩm cho ngươi, nên mới đến đây!
Đại Sĩ tuyên giới xong thì biến mất; tâm của Trí Thông hoát nhiên khai ngộ, trí chứng tròn sáng, liền tiếp bước lên đường. Gặp một vị Tăng, Thông hỏi rằng:
- Ngài Lãng Trí trụ nơi nào?
Vị Tăng hỏi lại rằng:
- Hỏi Lãng Trí làm gì?
Sa-di Thông kể lại chuyện chim thần.
Vị tăng mỉm cười nói rằng:
- Ta là Lãng Trí đây! Hôm nay trước điện đường của ta cũng có chim đến báo là có Thánh nhi vào làm môn hạ sắp đến rồi, nên ra nghinh tiếp, nên ta đến đây đón vậy! Liền cầm tay mà cảm thán rằng:
- Chim Linh cảnh tỉnh ngươi đến nơi ta, báo cho ta ra nghinh đón ngươi, sao có điềm lành này? Ắt là do âm linh của núi phò trợ. Tục truyền rằng Sơn chủ là Biện Tài Thiên Nữ.
Trí Thông nghe xong, thì khóc mà cảm tạ, đảnh lễ Lãng Trí làm thầy. Không bao lâu, đến lúc sắp truyền giới, Trí Thông nói rằng:
- Con đã được Đại Sĩ Phổ Hiền truyền trao chánh giới, lúc con nghỉ trong động khi trước rồi!
Lãng Trí than rằng:
- Lành thay! Người đã thọ nhận mãn phần giới của Đại sĩ; còn ta từ lúc mới sinh đến nay, sớm tối siêng năng, tha thiết nghĩ đến việc được gặp bậc chí Thánh mà vẫn còn chưa thể minh cảm. Nay người đã thọ, thì ta đây còn cách người rất xa.
Nói xong, trở lại lễ Sa-di Trí Thông. Do đó gọi cây trong động là Phổ Hiền Thọ. Trí Thông hỏi:
- Pháp sư trụ ở đây đã được bao lâu? Đáp:
- Tôi trụ ở đây vào năm Đinh Mùi đời Pháp Hưng Vương, chẳng biết đến nay là bao nhiêu năm!
Khi Trí Thông đến núi này là vào năm Tân Dậu, năm thứ nhất đời Văn Võ Vương, tính ra đã một trăm ba mươi lăm năm. Sau Trí Thông đến thất của ngài Nghĩa Tương, thăng đường diễn bày yếu nghĩa, trợ giúp cho việc giáo hóa, thật là chủ của Chùy Động Ký.
Lúc ngài Nguyên Hiểu trụ tại chùa Bàn Cao thì thường đến tham yết ngài Lãng Trí; Hiểu soạn Sơ
Chương Quán Văn và An Thân Sự Tâm Luận, soạn xong, sai ẩn sĩ Văn Thiện mang đến trình, cuối thiên có câu kệ rằng:
Sa-di Tây cốc cúi đầu lễ
Trước tòa Thượng đức tại núi Đông
Thổi hạt bụi thêm vào Linh thứu
Gởi giọt nước đưa đến Long uyên.
(Chùa Bàn Cao ở phía Tây bắc Linh Thứu, nên nói Sa-di Tây cốc là tự xưng mình). Phía Đông của núi có sông Đại Hòa, vì tạo lập ra để trồng cội phước cho rồng ở hồ Đại Hòa Trung Quốc, nên gọi là Long Uyên. Thông và Hiểu đều là bậc Đại thánh mà còn cung kính thờ thầy, đạo hợp có thể biết. Sư thường cưỡi mây đến Thanh Lương sơn Trung Quốc theo chúng nghe giảng, xong rồi trở về. Chư tăng cho rằng Sư trụ gần đó, nhưng chẳng biết chính xác là nơi nào. Một hôm trước đại chúng có người bảo rằng:
- Trừ chúng thường trụ tại đây, còn tất cả những vị trụ ở chùa viện khác, mỗi người hãy mang danh hoa dị thảo nơi mình cư trụ đến cúng dường Đạo tràng!
Sáng hôm sau, Sư (Lãng Trí) mang đến một loại cây lạ dâng cúng.
Vị tăng kia nói rằng:
- Cây này tên tiếng Phạm là Đát-đề-già, Trung Quốc gọi là Hách. Chỉ có tại hai núi Linh Thứu ở Tây Trúc và Hải Đông mà thôi. Hai núi này là trụ xứ của Bồ-tát Pháp Vân Địa. Đây ắt là bậc Thánh! Chư tăng mới truy xét hình nghi, dung mạo mới biết Sư trụ tại Linh Thứu sơn Hải Đông. Do đó mà thay đổi cách đối xử. Sư nổi tiếng khắp trong và ngoài nước, người trong làng gọi nơi Sư trụ là Hách Mộc am; nay còn nền cũ ở tại núi phía Bắc chùa Hách Mộc.
Linh Thứu Tự Ký ghi: "Lãng Trí từng nói nền của am này là nền chùa thời Phật Ca-diếp"; đào lên thì được hai cái bầu đèn lớn. Đến đời Nguyên Thánh Vương, Đại Đức Duyên Hội đến trụ nơi đây, soạn truyện ký về Sư lưu hành ở đời. Theo kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Địa thứ mười là Pháp vân địa. Nay đám mây mà Sư cưỡi che phủ hang Phật-đà dày ba ngón tay, ắt là giống với việc ngài Nguyên Hiểu phân thành một trăm thân ư?
Tán rằng:
Tưởng rằng ẩn tích cảm trăm năm
Danh cao chưa lộ đến nhân hoàn
Đâu cấm chim rừng nhiều miệng lưỡi
Cưỡi mây qua lại chẳng tích tông.
Cao tăng Duyên Hội từng ẩn cư nơi Linh Thứu thường tụng kinh Pháp Hoa, tu quán hạnh Phổ Hiền, trong ao trước sân thường có vài đóa sen nở, bốn mùa chẳng khô héo (Long tạng điện chùa Linh Thứu hiện nay vốn là nơi ngài Duyên Hội ở trước kia). Quốc chủ là Nguyên Thánh Vương nghe điềm linh dị này, muốn thỉnh phong làm Quốc sư, Sư nghe được bèn bỏ am lánh đi nơi khác. Vừa đi đến khoảng Tây Lĩnh thì gặp một ông lão đang cày ruộng. Ông lão hỏi rằng:
- Sư đi đâu thế? Đáp:
- Tôi nghe triều đình lầm nghe lời đồn nên định phong cho tôi quan tước, vì thế mới lánh đi!
Ông lão nói:
- Ở đây có thể mua, đâu cần phải đi xa để bán. Có thể Sư mua danh chẳng chán ư?
Hội cho rằng ông già này khinh mạn mình, nên không nghe theo, bỏ đi được vài dặm thì gặp một bà lão bên suối. Bà hỏi Sư rằng:
- Sư đi đâu đó?
Duyên Hội cũng đáp như trước. Bà lão lại hỏi:
- Lúc nảy có gặp người nào chăng? Đáp:
- Có gặp một ông già khinh mạn tôi quá, nên tức giận mà đến đây!
Bà lão nói:
- Đó là Đại Thánh Văn-thù, ngài nói mà chẳng chịu nghe sao?
Duyên Hội nghe vậy thì vô cùng kinh hãi, vội quay về chỗ ông lão khi trước dập đầu sám hối rằng:
Lời của Đại Thánh đâu dám chẳng nghe, nay đã trở về. Còn bà lão bên bờ suối là ai?
Ông già nói:
- Đó là Biện Tài Thiên Nữ.
Nói xong liền biến mất. Duyên Hội trở về am cũ. Không bao lâu Sứ triều đình chiếu mang thỉnh, Hội biết túc nghiệp rồi, nên nhận lãnh, bèn tuân chiếu vào cung, được phong làm Quốc sư (Tăng Truyện ghi: Hiến An Vương phong làm Nhị Triều Vương Sư, hiệu là Chiếu... (nghi mất chữ). Vào niên hiệu Hàm Thông thứ tư, còn ở đây ghi là vào đời vua Nguyên Thánh, chưa biết ai đúng). Sư cảm niệm ân đó nên đặt nơi gặp ông lão là Văn-thù Cổ, nơi gặp bà lão là A Ni Cổ. Tán rằng:
Phố phường khó ẩn, lánh đã lâu
Chùy lộ khỏi bao, dễ cấm đâu?
Từ khi sân trước lầm sen nở,
Chẳng phải non mây, gốc chưa sâu.
Thích Tuệ Hiện người Bách Tế, xuất gia từ nhỏ, siêng năng cần khổ, chuyên tâm tụng kinh Pháp Hoa làm đạo nghiệp, trừ họa hay cầu phước đều có linh ứng. Sư còn gồm học Tam Luận, nghiên cứu thông suốt. Đầu tiên Sư trụ tại chùa Tu Đức ở Bắc Bộ, khi có chúng thì giảng, không có chúng thì trì tụng. Bốn phương đều khâm ngưỡng nên đến tham học rất đông. Vì chán cảnh ồn náo, nên Sư đến núi Đạt Noa cư trụ. Núi này rất hiểm trở, đi đến thật khó khăn gian khổ. Tuệ Hiện tỉnh tọa nơi đây cầu diệt thân, cuối cùng thị tịch trong núi. Bạn đồng học đem nhục thân đặt vào thạch thất, hổ ăn hết chỉ còn lại đầu lâu và lưỡi. Trải qua ba mùa mà lưỡi vẫn còn hồng và mềm. Sau cùng biến thành màu tím và cứng như đá. Đạo tục kính ngưỡng cất giữ trong thạch tháp. Sư thọ năm mươi tám tuổi, đó là nhằm năm Trinh Quán thứ nhất.
Sư không sang Trung Quốc tham học, lặng lẽ ẩn cư đến cuối đời mà danh vang khắp Hoa Hạ, nổi tiếng ở Đường triều. Lại tăng Thích Ba Nhã người Cao Ly đến núi Thiên Thai Trung Quốc, học giáo quán nơi ngài Trí Khải, xem được sự thần dị ấy mà vào núi thị tịch. Đường Tăng Truyện cũng có nêu rất nhiều khuôn phép linh dị khác. Tán rằng:
Nghiệp quý truyền kinh mệt một phen
Năm sau dứt tụng ẩn trong mây
Trước gió danh lưu trong sử sách
Sau lửa lưỡi còn tỏa hương sen.
Khi Hiếu Thành Vương chưa lên ngôi, thì thường cùng với Hiền sĩ Tín Trung đánh cờ vây nơi cội bá trong cung đình; Vương cũng đã từng nói rằng: "Nếu ngày sau quên khanh, thì sẽ như cây bá này!". Tín Trung lạy tạ. Vài tháng sau Vương lên ngôi, ban thưởng cho các công thần. Nhưng quên Trung không ban thưởng. Trung oán làm bài ca dán trên cây bá. Cây bá bỗng nhiên úa vàng. Vương lấy làm lạ sai người ra xem, lấy được bài ca về dâng lên. Vương vô cùng kinh ngạc nói rằng: "Quốc sự nhọc nhằn, hầu như quên mất bạn thân!". Bèn triệu Trung vào ban cho tước lộc. Cây bá lại xanh như cũ. Ca rằng:
Vật sất hảo chi bá sử
Thu tế thi bất đông nhỉ ốc chi địa mễ.
Nhử ư đa chi hành tể giáo nhân ẩn
Ngưỡng đến ẩn diệu hỷ cái y tứ hồ ẩn hỷ dã
Nguyệt la lý ảnh chi cổ lý nhân uyên chi sất
Hành thi láng
A sất sa hỷ dĩ chi như chi
Nghê sử sa sất vọng a nải
Thế lý đô
Chi sất dật ô ẩn đệ dã.
Câu sau bị mất.
Do đó ân sủng Tuệ Hiện ở hai triều. Năm thứ hai mươi hai đời Cảnh Đức Vương (là em của Hiếu Thành Vương), Tín Trung cùng với hai người bạn ước hẹn nhau từ quan, lánh vào Nam nhạc, Vương hai lần chiếu mời mà chẳng đến, lại cạo tóc làm Samôn, vì Vương sáng lập chùa Đoạn Tục để trụ, nguyện suốt đời lập chùa để cầu phước cho Đại vương. Vương cho phép, giữ chân dung trên bức tường sau của Kim đường. Phía Nam có một thôn tên là Tục Lâm, nay lầm gọi là Tiểu Hoa (Theo Tam Hòa Thượng Truyện thì có Tín Trung ở chùa Phụng Thánh, lẫn lộn với ở đây. Nhưng tính là vào đời Thần Văn, mà Thần Văn cách Cảnh Đức đã hơn một trăm năm, hà huống Thần Văn và Tín Trung là việc đời trước. Như thế chẳng phải là Tín Trung này, nên phân biệt rõ).
Lại Biệt Ký ghi: Vào đời Cảnh Đức Vương có Trực Trưởng Lý Tuấn (Cao Tăng Truyện ghi là Lý Thuần) sớm đã phát nguyện rằng: "Đến năm năm mươi tuổi cần phải xuất gia xây dựng chùa Phật". Năm Mậu Tý, niên hiệu Thiên Bảo thứ bảy, Tuấn vừa đúng năm mươi tuổi, sửa sang ngôi chùa nhỏ ở Tào Uyên thành một ngôi Đại Tòng Lâm đặt tên là Đoạn Tục Tự, bản thân cũng cạo tóc xuất gia lấy pháp danh là Khổng Hoằng Trưởng Lão, trụ trì hai mươi năm thì thị tịch. Việc này khác với chuyện Tam Quốc Sử đã chép. Cả hai vẫn còn tồn nghi.
Tán rằng:
Công danh chưa trọn, tóc điểm sương
Vua tuy ân sủng, nhọc trăm năm
Cách bờ có núi, dần vào mộng
Nguyện thờ Phật pháp chúc Thánh vương.
Vào thời Tân La có hai bậc Thánh là Quán Cơ và Đạo Thành chẳng biết hai ngài người xứ nào, đồng ẩn cư ở Bao Sơn (dân làng gọi là Sắt Sơn; Sắt là âm Phạm, dịch là Bao). Quán Cơ lập am tại núi Nam, Đạo Thành cất cốc tại động Bắc, cách nhau khoảng mười dặm, vẹt mây gọi trăng thường qua lại nhau. Khi Đạo Thành muốn mời Quán Cơ thì cây cối trong núi đều cúi rạp về hướng Nam như nghinh đón vậy, Quán Cơ thấy vậy thì sang. Khi Quán Cơ muốn thỉnh Đạo Thành thì cũng như thế, cây cối đều cúi rạp về Bắc, Đạo Thành liền đến; trải qua nhiều năm như thế. Ngài Đạo Thành thường yên tọa trên gộp đá cao phía sau nơi trụ. Một hôm từ trong động theo khe hở của động mà vọt ra ngoài, toàn thân bay lên hư không mà đi xa, chẳng biết đến nơi đâu. Hoặc nói là đến quận Thọ Xương (nay là quận Thọ Thành). Ngài Quán Cơ cũng đoạn tục về châu. Nay lấy tên hai vị Thánh mà gọi hai nơi ấy, vẫn còn những di tích. Đạo Thành nham cao vài trượng, người sau lập chùa dưới hang động. Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ bảy có vị Tăng pháp danh Thích Thành Phạm, đầu tiên đến trụ chùa này, lập đạo tràng Vạn Nhật Di-đà, siêng năng tu tập hơn năm mươi năm, từng xuất hiện các điềm linh dị. Bấy giờ có Tín sĩ Huyền Phong và hơn hai mươi người, hằng năm thường kết xã nhặt gỗ hương cấp cho chùa. Mỗi khi vào núi nhặt xong thì đoạn cắt, tẩy rửa sạch sẽ rồi treo trên rèm, đến nửa đêm các đoạn gỗ hương này phát ánh sáng như đuốc. Do đó người trong quận nơi cổ đều đeo hương này, chỉ mong được một năm tốt đẹp làm điều chúc mừng. Đó là sự linh cảm của vị Thánh, hoặc cho là nhạc thần (sơn thần) thầm giúp đỡ. Thần tên là Tỉnh Thánh Đại Vương, từng được Phật Ca-diếp thời quá khứ phi chúc; có thệ nguyện thọ dư báo. Nay đã ghi được sự tích của chín vị Thánh; chưa rõ thế nào. Chín vị là: Quán Cơ, Đạo Thành, Ban Sư, Điệp Sư, Đạo Nghĩa (có nền cũ ở Bá Nham), Tử Dương, Thành Phạm, Kim Vật Nữ, Bạch Ngưu Sứ.
Tán rằng:
Quan lại đùa trăng giỡn suối mây
Phong lưu hai lão mấy trăm năm
Khói sương mờ động còn hương mộc
Chiếc hình cúi người vẫn đón đưa.
Bàn: Phương ngôn gọi là Mộc, Điệp phương ngôn là Gia sất mộc. Hai Sư này ẩn cư nơi núi rừng rất lâu, tuyệt giao với người đời, kết lá cây làm y phục để chống lạnh nóng, ngăn trừ ướt, che xấu hỗ mà thôi. Cho nên lấy đó làm tên gọi. Từng nghe ở Phong Nhạc cũng có những tên gọi này, mới biết rằng ẩn sĩ thời xưa phần nhiều đều dấu tên như thế, rất khó mà biết dấu tích. Tôi từng đến trú ngụ ở Bao Sơn có ghi lại được những di tích quý giá về hai vị Thánh này. Tán rằng:
Lá cây làm áo chẳng màng vải tơ
Tòng xanh núi đá hoang sơ
Tiều về dưới núi lặng tờ chiều sang
Đêm khuya ngồi ngắm trăng vàng
Nửa bay theo gió tỏa lan khắp trời
Đệm cỏ một giấc tuyệt vời
Mộng hồn chẳng đến cõi đời hoang tham
Mây xa nền cũ hai am,
Thích Vĩnh Tài tánh tình rất vui vẻ phóng khoáng, không bị ràng buộc nơi cảnh vật, giỏi về Hương ca. Về già Sư ẩn cư ở Nam nhạc. Khi đi đến Hiện Nham thì gặp hơn sáu mươi tên cướp muốn hại Sư. Lúc sắp bị giết, sắc mặt vẫn không lộ vẻ sợ hãi, vẫn an nhiên chịu chết. Bọn cướp lấy làm lạ hỏi tên, Sư đáp là Vĩnh Tài. Bọn cướp từ trước đã nghe tên Sư, bèn [] [] [], Sư soạn ca rằng:
Tự hỷ tâm mễ
Nhi sử mao đạt chỉ tương lai, thân ẩn nhật viễn ô dật [] [] quá xuất tri khiển
Kim thân tẩu vị khứ khiển tỉnh như
Đản phi hồ ẩn yên phá [] chủ thứ phất [] sử nội ư đô hoàn ư thi lãng dã
Thử binh vật sất sa quá hồ hảo thi viết sa dã nội hồ thốn ni
A da
Duy chỉ y ngô âm chi sất hận ẩn thiện lăng ấn an chi thượng trạch đô hồ ẩn dĩ đa.
Bọn cướp cảm động ẩn ý nơi bài ca nên tặng cho Sư hai xấp lụa hoa, Sư cười cảm tạ rằng: Đã biết tài vật là gốc của địa ngục mới lánh vào núi sâu để qua một đời, thì đâu dám nhận!
Nói xong liền đặt xuống đất. Bọn cướp cảm nhận được lời nói này, liền bỏ đao ném giáo theo Sư cạo tóc xuất gia, đồng ẩn cư nơi Trí dị sơn, không trở về thế tục nữa. Sư tịch năm chín mươi tuổi, vào đời Nguyên Thánh Đại Vương. Tán rằng:
Chống gậy lên non ý cao thâm
Lụa ngọc nào đâu trị được tâm
Lục lâm các vị thôi chớ tặng
Địa ngục không căn chỉ tấc vàng.
Năm Nhâm Thìn, nhằm năm mười bảy đời Nại Giải Vương Tân La có tám nước nhỏ là Bảo La, Cổ Tự (nay là Cố Thành), Sử Vật... đồng ra sức xâm phạm biên cương. Vương sai Thái tử Nại Âm, Tướng quân Nhất Phật... đem quân chống cự, tám nước đều hàng. Bấy giờ Vật Kê Tử công lao đệ nhất, nhưng bị Thái tử tị hiềm, nên chẳng ban thưởng. Hoặc có người hỏi rằng:
- Công lao trong trận này chỉ có ngài mà thôi, nhưng lại không được ban thưởng, ắt là do Thái tử tị hiềm, quốc vương oán ư?
Kê Tử nói:
- Quốc quân là bậc trưởng thượng, đâu thể oán bề tôi được! Lại nói:
- Thế thì tâu trình lên Vương biết! Kê Tử đáp:
- Khoe công tranh lợi, tôn mình ép người chẳng phải là hành vi của bậc chí sĩ, phải cố gắng đợi thời mà thôi!
Năm Ất Mùi, Quốc vương của ba nước là Cốt Phố... đem quân đánh Kiệt Hỏa (nghi là Khuất Phất, tức Úy châu ngày nay). Vương đích thân cầm quân chống cự. Ba nước đều bại trận. Kê Tử chém được vài mươi thủ cấp, nhưng mọi người chẳng luận công của Kê Tử. Kê Tử nói với vợ rằng:
- Ta nghe nói đạo Vua tôi rằng: Thấy nguy thì liều mình, gặp nạn thì quên thân, nương vào tiết nghĩa, chẳng kể đến việc sống chết, đó gọi là trung. Nay việc Bảo La đánh Kiệt Hỏa là cái nạn của nước, cái nguy của vua, mà ta chưa từng có cái dũng liều mình, quên thân, đó quá bất trung. Đã chẳng trung lại còn làm liên lụy đến tổ tiên, thì chính là bất hiếu. Ta đã mất trung, hiếu, thì đâu còn mặt mũi nào mà đứng trong triều đình hay đi ra ngoài phố chợ?
Do đó Kê Tử bèn từ quan mang đàn vào núi Sư Trệ (chưa rõ ở đâu); khi buồn với tánh bệnh của cỏ cây thì gởi gắm vào lời ca, khi vui cùng tiếng khe suối thì gãy đàn soạn nhạc khúc, ẩn cư suốt đời không trở về thế tục.
Tăng Thích Nghinh Như ở chùa Thật Tế, không rõ tộc họ, nhưng đức hạnh đều cao vời. Cảnh Đức Vương thiết trai cúng dường, sai sứ thỉnh Sư, Sư tuân chiếu vào cung thọ trai xong, lúc sắp trở về, Vương sai người tiễn đến tận chùa, vừa vào cửa Sư liền biến mất, chẳng biết Sư ở đâu. Sứ về tâu lại, Vương rất kinh ngạc, truy phong Quốc Sư. Từ đó về sau cũng không còn xuất hiện nữa. Đến nay gọi nơi đó là Quốc sư Phòng.
Vào đời Cảnh Đức Vương, ở núi Bố Xuyên cách Áp Lương châu khoảng hai mươi dặm về phía Đông bắc, có một hang động vô cùng kỳ tú giống như người đẽo gọt, trong đó có năm vị Tỳ-kheo không rõ tên họ ẩn cư, chuyên niệm Di-đà cầu sinh Tây Phương đã mấy mươi năm. Một hôm bỗng có thánh chúng từ phương Tây đến nghinh tiếp. Bấy giờ năm vị Tỳ-kheo đều ngồi trên đài sen, bay đi trong hư không. Khi đến ngoài cổng chùa Thông Độ thì lưu lại, nhạc trời trổi vang, chư tăng trong chùa ra xem, năm vị liền thuyết lý vô thường khổ không rồi thoát bỏ sắc thân, phóng ánh sáng rực rỡ đi về phương Tây. Nơi các ngài bỏ thân, chư Tăng trong chùa lập một ngôi nhà gọi là Trí Lâu, đến nay vẫn còn.
Tại vùng chân núi phía Đông của Nam sơn có làng Tị Lý, trong làng có một ngôi chùa, vì đặt theo tên thôn nên gọi là Tị Lý tự. Có một vị tăng lạ không cho biết tên họ trụ nơi chùa này, thường xướng niệm danh hiệu Phật Di-đà, âm thanh vang khắp thành, tất cả mười bảy vạn hộ của ba trăm sáu mươi phường đều nghe rõ. Âm thanh niệm Phật của Sư không cao thấp, cứ trong trẻo một giọng. Vì điều kỳ lạ này mà ai ai cũng kính lễ, gọi ngài là Niệm Phật Sư. Sau khi Sư thị tịch, mọi người dùng đất tạo đắp chân tượng của Sư thờ tại chùa Mẫn Tạng. Ngôi chùa Tị Lý đổi tên là chùa Niệm Phật; ngôi chùa bên cạnh đó đặt là chùa Nhương Tị, tức lấy theo tên của thôn này.
---------------------------------
Pháp sư Chân Định người Tân La, khi chưa xuất gia, Sư là một sai dịch tên Tốt Ngũ. Nhà rất nghèo không thể cưới vợ. Những lúc rảnh rỗi công việc của quan, Tốt Ngũ làm thuê lấy gạo đem về nuôi mẹ. Tài sản trong nhà chỉ có một cái vạc nhỏ đã gãy chân mà thôi. Một hôm có một vị tăng đến nhà hóa duyên tiền vật để làm chùa viện. Người mẹ bèn cúng dường cái vạc này. Lát sau Tốt Ngũ từ ngoài trở về, người mẹ thuật lại và hỏi rằng: "Ý của con thế nào?". Tốt Ngũ vui mừng hiện rõ nói rằng: "Cúng dường Phật sự thì đâu có gì may mắn bằng? Tuy không có vạc cũng chẳng có gì phải lo".
Tốt Ngũ dùng chậu đất thay nồi nấu cơm cho mẹ ăn. Lúc ở trong hàng ngũ, từng nghe nói pháp sư Nghĩa Tương trụ tại Thái Bá Sơn thuyết pháp làm lợi ích cho mọi người, Tốt Ngũ đã có tâm ngưỡng mộ. Một hôm nói với mẹ rằng: "-Khi báo hiếu xong, con sẽ đến lễ pháp sư Nghĩa Tương cầu xuất gia học đạo. " Người mẹ nói rằng: "Phật pháp rất khó gặp, đời người lại trôi qua mau. Con nói báo hiếu xong, thì chẳng phải là đã muộn mất ư? Chi bằng nhân khi ta chưa qua đời, để nghe được Đạo, thì cẩn thận chớ theo thường tình, mau chóng đi ngay mới được. " Tốt Ngũ nói rằng: "Lúc mẹ già nua, chỉ có một mình con bên cạnh, mà bỏ mặc để xuất gia, đâu dám nhẫn tâm như thế?" Người mẹ nói: "Ôi! Vì ta mà trở ngại việc xuất gia, ắt khiến ta đọa vào Nê lê mất! Tuy con có dùng ba lao, bảy đỉnh để phụng dưỡng ta, cũng đâu đáng gọi là hiếu.
Áo quần, cơm gạo ta ở nơi cửa nhà người cũng có thể giữ được tuổi trời. Nếu muốn báo hiếu ta chớ nên nói như thế!"
Tốt Ngũ im lặng suy nghĩ hồi lâu. Người mẹ bỗng đứng dậy dốc bao đổ hết số gạo để dành, được bảy thăng, trong ngày ấy đem nấu hết, rồi nói: "Sợ con vì lo việc ăn mặc mà chậm đến đó, nên phải ở trước ta đây ăn một phần, còn sáu thăng gói lại mang đi nhanh, đi nhanh lên!"
-Bỏ mẹ xuất gia, việc ấy phận làm con cũng khó mà kham chịu được; hà huống lương thực dành cho mẹ mấy ngày lại mang đi hết, như thế người trong thiên hạ sẽ nói con như thế nào?
Bao lần từ chối, bấy lần khuyên bảo, cuối cùng Tốt Ngũ đành trái ý mình, nửa đêm lên đường. Trải qua ba ngày, đến được Thái bá sơn, lễ ngài Nghĩa Tương cạo tóc xuất gia làm đệ tử, pháp danh là Chân Định. Tu học được ba năm, một hôm nghe tin mẹ qua đời, Sư kiết già nhập định bảy ngày mới xuất. Có người nói rằng: "Vì sợ đau thương cùng tột không thể chịu nỗi, nên mới dùng nước định để rửa sạch". Hoặc cho rằng: "Đó là Sư nhập định quán sát nơi sinh về của mẹ". Hoặc cho rằng: "Đó là Sư theo lý như thật để cầu phước cho mẹ".
Sau khi xuất định, Sư thưa lại với ngài Nghĩa Tương, ngài Nghĩa Tương bèn dẫn môn đồ đến Chùy động ở Tiểu bá sơn kết thảo am, tụ tập ba ngàn người, lập kỳ hạn chín mươi ngày giảng kinh Hoa Nghiêm, có môn nhân là Trí Thông theo lời giảng tóm lược yếu chỉ, biên thành hai quyển gọi là Chùy Động Ký lưu hành ở đời. Sau đó người mẹ báo mộng rằng: "Ta đã sinh về cõi trời!"
Người đàn bà nghèo ở thành Mâu Lương (còn gọi là Phù Vân thôn) tên là Khánh Tổ sinh được một con trai. Vì đầu lớn mà đỉnh đầu bằng, nên đặt tên là Đại Thành. Vì gia đình nghèo khó nên phải làm công nơi tiệm buôn nhà Phước An, được gia đình này cấp mấy mẫu ruộng để làm tài sản sinh sống. Một hôm có một vị Khai sĩ tên là Tiệm Khai muốn lập hội Lục Luân ở chùa Hưng Luân, nên đến nhà Phước An quyên góp, An cúng dường năm mươi xấp lụa. Khai sĩ chúc rằng: "Đàn-việt thành tâm cúng dường, thiên thần thường hộ trì, thí một được vạn, gia đình an lạc, thọ mạng dài lâu!".
Đại Thành nghe như thế liền trở về nhà nói với mẹ rằng:
- Con nghe vị tăng kia nói rằng: Thí một được vạn, con nghĩ rằng đời trước chúng ta không tạo phước thiện, nên ngày này mới khốn khổ. Nếu nay lại chẳng bố thí thì đời sau lại càng nghèo khổ hơn.
Cúng dường mấy mẫu ruộng thuê ấy vào pháp hội, để mong phước báo mai sau, mẹ thấy thế nào?
Người mẹ đồng ý, do đó cúng tất cả ruộng cho vị tăng. Không bao lâu Đại Thành qua đời. Đêm hôm ấy nơi nhà của Tể tướng Kim Văn Lượng có chư Thiên xướng rằng:
- Đại Thành ở làng Mâu Lương sẽ gá sinh vào nhà ngươi! Mọi người trong nhà đều kinh hãi, sai người đến Mâu Lương kiểm nghiệm, quả thật Thành đã mất. Ngày hôm ấy, đồng thời với lúc trời xướng, thì người có thai sinh ra một bé trai, tay trái nắm chặt, bảy ngày sau mới mở, trong đó có một thẻ vàng, trên khắc hai chữ Đại Thành, do đó cũng đặt tên là Đại Thành. Gia đình Tể tướng lại đón người mẹ trước vào dinh nuôi dưỡng.
Đại Thành lớn lên rất thích săn bắn; một hôm lên núi Thổ Hàm săn được một con gấu, đêm ấy nghỉ lại ở một làng dưới núi này, mộng thấy gấu biến thành quỷ nói rằng: "Vì sao ngươi giết ta, ta sẽ ăn thịt lại ngươi!". Đại Thành sợ hãi xin dung tha. Quỷ nói rằng: "Có thể vì ta mà lập chùa chăng?". Thành đồng ý và phát thệ. Tỉnh giấc mồ hôi đã toát ra ướt cả chăn. Từ đó về sau cấm săn bắn. Vì gấu lập chùa Trường Thọ tại nơi săn bắn. Cũng nhân đó mà tâm có cảm, bi nguyện càng tăng cao, bèn vì cha mẹ hiện đời mà lập chùa Phật Quốc, vì cha mẹ đời trước mà lập chùa Thạch Phật, thỉnh hai Thánh sư là Thần Lâm và Chân Biểu trụ trì, mở rộng việc giáo hóa. Báo đáp công dưỡng dục, một thân mà hiếu dưỡng cha mẹ hai đời, thật xưa nay ít nghe nói. Sự ứng nghiệm của cúng dường có thể chẳng tin ư?
Đại Thành định tạc tượng Phật bằng đá, lại muốn dùng tảng đá lớn làm khám thờ, bỗng nhiên tảng đá vỡ làm ba. Đại Thành tức giận rồi thiếp đi. Ban đêm mộng thấy Thiên Thần đến tạo xong rồi trở về trời, mà Đại Thành mới tỉnh giấc. Thành liền đến Nam lĩnh đốt gỗ hương cúng Thiên thần. Do đó núi này gọi là Hương Lĩnh. Nghệ thuật điêu khắc, tạo tạc gỗ đá trên tháp Vân Thê chùa Phật Quốc, không có các chùa nào ở Đông đô hơn được. Đó là những điều mà Hương Truyện đã ghi. Còn Tự Ký trong chùa thì ghi rằng: "Vào năm Tân Mão, niên hiệu Thiên Bảo thứ mười, đời Cảnh Đức Vương, Tể tướng Đại Thành xây dựng chùa Phật Quốc, đến ngày hai tháng mười hai năm Giáp Dần, niên hiệu Đại Lịch đời Tuệ Cung thì Đại Thành qua đời, người trong nước tiếp tục xây dựng mới hoàn thành. Đầu tiên thỉnh vị Đại Đức Du-già Hàng Ma trụ chùa này, kế tục mãi đến nay". Như thế thì khác với truyện xưa. Chưa rõ là thuyết nào đúng. Tán rằng:
Mâu Lương xuân qua thí ba mẫu
Hương Lĩnh thu về được vạn kim
Nhà Huyên trăm năm nghèo chợt quý
Sân Hòe nhất mộng trải ba đời.
Vào đời Cảnh Đức Vương, ở Hùng Xuyên châu có xá nhân Hướng Đắc, gặp năm mất mùa, cha của Đắc hầu như sắp chết đói, Hướng Đắc bèn cắt thịt đùi của mình để nuôi cha. Người trong châu huyện tâu việc này lên Vương, Cảnh Đức Vương liền ban cho năm trăm thạch lúa.
Vào đời Hưng Đức Đại Vương có Tôn Thuận (bản xưa ghi là Tôn Thuấn) người ở làng Mâu Lương, cha là Hạc Sơn. Cha qua đời, Tôn Thuận cùng với vợ chỉ biết đến giúp việc nhà người, kiếm gạo thóc về nuôi mẹ. Người mẹ tên là Vận Ô. Vợ chồng Thuận có một đứa con, thường giành hết phần cơm của mẹ. Thuận rất khó xử. Một hôm bàn với vợ rằng: "Con thì còn có thể có được, mẹ thì khó tìm cầu, nay nó giành phần ăn của mẹ, mẹ đói làm sao chịu nổi. Hãy chôn đứa con để mong cho mẹ được no đủ". Vợ chồng bèn mang con đến phía Bắc Túy sơn (tại Tây bắc thôn Mâu lương), đào huyệt để chôn con, bỗng nhiên nhặt được một cái chuông đá rất kỳ lạ. Vợ chồng kinh ngạc treo chuông lên một cành cây rồi đánh thử. Chuông phát ra âm thanh từ hòa dễ nghe. Người vợ nói rằng: "Được vật lạ, ắt là phước của con, chẳng thể chôn nó". Tôn Thuận cũng cho là thế. Vợ chồng mang đứa con và chuông đá trở về, treo chuông lên xà nhà rồi đánh. Tiếng chuông vang đến cung đình. Hưng Đức Vương nghe được nói với mọi người rằng: "Ngoại thành phía Tây có tiếng chuông lạ, trong mà vang xa, không giống các tiếng chuông khác, các ngươi nhanh đi tìm hiểu xem!".
Người của vua đến kiểm xét nhà của Thuận, rồi trở về tâu lại đầy đủ. Vương nói:
-Ngày xưa Quách Cự chôn con, trời ban cho vạc bằng vàng; ngày nay Tôn Thuận chôn con, đất lại xuất hiện chuông đá. Hiếu xưa, hiếu nay đất trời đồng soi xét.
Nói xong Vương ban cho Thuận một ngôi nhà, hàng năm cấp cho năm mươi thạch lương thực, để tỏ lòng chuộng sự thuần hiếu. Tôn Thuận đổi nhà cũ của mình thành chùa, đặt tên là Hoằng Hiếu, cất giữ chuông đá ở đây. Đến đời Chân Thánh Vương, giặc Bách Tế xâm nhập vào làng, nên chuông đã mất mà chùa vẫn còn. Nơi được chuông gọi là Hoàn Hô Bình, nay lầm gọi là Chi Lương Bình.
Hiếu Tông Lang đến Bào Thạch Đình (hoặc gọi là Tam Hoa Thuật), môn khách đi theo rất đông, nhưng chỉ có hai người còn ở lại phía sau. Hiếu Tông hỏi nguyên do, hai người ấy nói rằng: Tại ngôi làng phía Đông chùa Phấn Hoàng có một người con gái khoảng trên dưới hai mươi tuổi đang ôm người mẹ mù lòa, cả hai đang than khóc. Hỏi người trong làng, thì được kể rằng: "Người con gái này nhà rất nghèo, đi xin về nuôi mẹ đã nhiều năm. Gặp năm mất mùa đói kém, đi xin cũng rất khó được người giúp đỡ. Cô gái liền bán thân vào nhà người được ba mươi thạch gạo, gởi trong một nhà giàu để làm việc. Chiều tối mang gạo về nhà, nấu đến nửa đêm, sáng sớm thì đến nhà giàu kia làm việc. Trải qua vài ngày như thế, người mẹ nói rằng: "Lúc trước ta ăn cám mà tâm bình ổn, gần đây ăn được cơm ngon mà gan ruột như có gai đâm, mà tâm thì chẳng an. Vì sao thế?"
Người con gái bèn nói ra sự thật. Người mẹ liền thống khổ khóc lóc; người con gái than thở cho mình, chỉ vì muốn phụng dưỡng mẹ mà mất đi nhan sắc. Vì thế mẹ con ôm nhau khóc. Chúng tôi thấy vậy nên dừng lại xem!
Hiếu Tông Lang nghe nói thầm cảm động, gửi tặng một trăm hộc lúa, cha mẹ của Tông gởi một bộ áo quần, một ngàn môn đồ của Tông thu góp cho một ngàn thạch lúa. Sự việc truyền đến cung đình, Chân Thánh Vương ban cho năm trăm thạch lúa, một ngôi nhà. Sai quân lính bảo vệ, đề phòng trộm cướp. Ban biển đề là "Hiếu Dưỡng Chi Lý". Sau hai mẹ con cải nhà làm chùa, đặt tên là Lưỡng Tôn Tự.
----------------------------------
Ba nước phương Đông ta có hai bản Bản Sử Di Sự, họ Không ấn hành, nên chỉ còn một bản ở phủ ta; nhưng trải qua thời gian lâu xa nên bị rách nát, thiếu khuyết, một hàng chỉ có thể đọc được bốn, năm chữ. Tôi chỉ là kẻ sĩ đời này, xem khắp tất cả kinh sử, những việc trị loạn, hưng suy trong thiên hạ, cùng các sự tích kỳ lạ còn muốn biết rõ; hà huống gì người sống ở nước ấy, mà chẳng biết việc của nước mình, có thể được ư? Do đó muốn khắc lại, nên tôi đã tìm cầu bản hoàn chỉnh khắp nơi, tìm đọc mấy năm mà chẳng có. Bởi vì nó rất ít lưu hành ở đời, mọi người chẳng dễ gì gặp được. Như thế có thể biết, nếu nay không khắc lại thì việc xưa ở phương Đông sẽ thất truyền, người đời sau chẳng thể nào nghe biết, thật đáng than tiếc mà thôi! May thay cho bản văn của tôi! Mục sứ Tinh châu là Quyền Công nghe tôi tìm cầu, nên tìm được một bản hoàn chỉnh gởi đến. Tôi vui mừng lãnh nhận, trình lên Giám Ti An Tướng Quốc, Đô Sự Phác Hầu, mọi người cho là việc tốt. Bấy giờ phân chia khắc bản ở các nơi rồi đem trở về giữ tại bản phủ. Ôi! Vật đã tồn tại lâu ắt sẽ phế, đã phế thì ắt có hưng; hưng rồi phế, phế rồi hưng đó là lẽ thường. Biết lẽ thường thì có lúc sẽ hưng thịnh. Để vĩnh viễn lưu truyền, thì cũng hy vọng nơi bậc tuệ học đời sau vậy.
Tháng chạp mùa đông năm Nhâm Thân, niên hiệu Chánh Đức triều Minh, Phủ Y Suy Thành Định Nạn Công Thần, Gia Thiệu Đại Phu, Khánh Châu Trấn Binh Mã Tiết Chế Sứ Toàn Bình Quân Lý Kế Phước kính ghi lời bạt.
Hiệu chính:
Sinh viên Lý Sơn Phụ, Thôi Khởi Đồng.
Trung Thuận Đại Phu Hành Khánh Châu Phủ Chế Quan, Khánh Châu Trấn Binh Mã Tiết Chế Đô Úy Lý Lưu.
Phụng Trực Lang Thú, Khánh Thượng Đạo Đô Sự Phác Toàn. Suy Thành Định Nạn Công Thần Gia Tỉnh Đại Phu Khánh Thượng Đạo Quán Sát Sứ kiêm Binh Mã Thủy Quân Tiết Độ Sứ An Đường.