TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2042 - TRUYỆN A-DỤC VƯƠNG

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư An Pháp, nước An Tức.

MỤC LỤC

SỐ 2042 - TRUYỆN A-DỤC VƯƠNG

QUYỂN 1

BỔN DUYÊN VỀ VIỆC BỐ THÍ ĐẤT

BỔN DUYÊN VỀ TRUYỆN CỦA A-DỤC VƯƠNG

QUYỂN 2

BỔN DUYÊN VỀ NGƯỜI EM CỦA VUA ATHỨ-GIÀ

QUYỂN 3

NHÂN DUYÊN VỀ TRÁI AM-LA

NHÂN DUYÊN NÓI VỀ ƯU-BA-ĐỀ-CÚC

QUYỂN 4

NHÂN DUYÊN NGÀI MA-HA CA-DIẾP NHẬP NIẾT-BÀN

NHÂN DUYÊN VỀ MA-ĐIỀN-ĐỀ

QUYỂN 5

NHÂN DUYÊN VỀ ƯU-BA-CÚC-ĐA

QUYỂN 6

QUYỂN 7

A-DỤC VƯƠNG HIỆN BÁO NHÂN DUYÊN ĐỆ TỬ.

 


QUYỂN 1

BỔN DUYÊN VỀ VIỆC BỐ THÍ ĐẤT

Tất cả trí đều quy mạng về Đức Bạc-già-bà. Tại Trúc lâm, Già-lan-đà nơi thành Vương xá

Bấy giờ Đức Thế Tôn, đến giờ đi khất thực, liền đắp y trì bát, cùng với chư Tỳ-kheo, thứ tự đi về thành Vương xá khất thực.

Có lời nói rằng:

"Bất động như Kim sơn
Khoan dung như voi chúa
Đầy đủ như trăng tròn
Chúng Tỳ-kheo tiếp nhau
Đến đại thành Vương xá
Oai nghi theo thứ lớp".

Bởi thế, khi chân bước vào cổng thành thì mặt đất trong sáu cõi đều chấn động và nói:

Nước biển trang nghiêm đất
Núi thành cũng như vậy
Mâu ni bước chân đi
Tất cả đều yên lặng
Cứ thế đi vào thành
Nam nữ sinh tín tâm
Khắp nơi đều chấn động
Như gió thổi sóng biển
Vang lừng tiếng hòa reo
Thế gian chưa từng có
Khi Phật tịch diệt rồi
Đất gò đều bằng phẳng.

Không còn đất cát đá Gai góc phẩm uế dơ Người mù nếu được thấy Kẻ tai điếc được nghe Người câm ngọng lại nói Nghèo hèn được chia của Bệnh tật mau chóng khỏi Không đánh tự kêu vang Bảo khí kêu vang rền

Phật Quang chiếu sáng tỏ Như muôn ngàn mặt trời Chiếu sáng vàng rực rỡ Phóng muôn đại Quang minh Ánh sáng soi muôn vật

Đem nấu cất lương dược Trị bệnh khắp thế gian Thảy đều tiêu diệt cả.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng A-nan đang đi trên con đường tắt, bỗng gặp hai đứa bé. Một đứa tên Đức Thắng, thuộc dòng họ lớn nhất. Đứa thứ hai tên Vô Thắng, thuộc dòng họ kế tiếp. Chúng đang lấy đất làm thành ấp để vui chơi. Trong thành đó cũng có nhà cửa kho trữ. Trong kho lại chứa lương thực bằng đất.

Hai đứa bé thấy, Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm rực rỡ, phóng ánh sáng vàng chiếu khắp cả trong và ngoài thành. Đức Phật đi đến đâu ánh sáng vàng này cũng chiếu sáng đến đó. Chúng thấy vậy ý quá đổi vui mừng. Đức Thắng lấy trong kho ra một thứ gọi là gạo để cúng dường Đức Phật. Vô Thắng thì đứng một bên chắp tay tùy hỷ. Đức Thắng nói bài kệ tán thán:

Bậc Vô giác đại bi
Ánh sáng chiếu toàn thân
Gặp rồi sinh kính tin
Lấy gạo cúng dường Phật
Cúi đầu lạy Thế Tôn
Đã đoạn hết sinh tử.

Lúc Đức Thắng cúng dường Đức Phật xong liền phát nguyện: Khiến con đời vị lai làm chủ khắp đất trời, liền nói kệ cúng dường Đức Phật:

Phật biết tâm tiểu nhi
Hằng phát lời chánh nguyện
Do phước này thù thắng
Sẽ gặp được quả lành
Đấng đại bi cứu thế
Lãnh nhận đất cúng dường
Khiến cho tâm hoan hỷ
Gieo duyên làm vương nghiệp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe xong mỉm cười.

Ngài A-nan quỳ xuống chắp tay bạch Đức Phật:

Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật không bao giờ cười mà không có duyên cớ. Vậy hôm nay vì nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn lại mỉm cười. Rồi Anan nói kệ:

Đoạn trừ tâm kiêu mạn
Bậc Vô thượng thế gian
Chắc có nhân duyên gì
Phật mới mỉm miệng cười
Như mây kéo sấm chớp
Ngưu vương mắt tỏ thông
Nguyện nói báo cúng đất
Đức Phật duyên mỉm cười

Phật bảo A-nan:

-Đúng thế, đúng thế này A-nan! Phật mỉm cười chắc hẳn là có duyên cớ. Ông có thấy hai đứa bé này không? Chúng đã gặp và cúng dường Đức Thế Tôn như thế.

Đức Phật lại nói:

Sau khi ta vào Niết-bàn khoảng một trăm năm. Đứa bé này lúc ấy làm một trong bốn vị Chuyển luân Thánh vương. Ở thành Hoa thị làm vua hiệu A-thứ-già. Lúc ấy phân chia xá lợi của ta làm tám vạn bốn ngàn bảo tháp, để làm lợi ích cho chúng sinh. Khi đó Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Sau khi ta diệt độ
A-dục vương Thứ-già
Danh tiếng khắp mọi nơi
Trang nghiêm Xá-lợi-phất
Khắp cõi Diêm-phù-đề
Người trời đều cúng dường
Do duyên cúng thí đất
Thọ quả báo vô cùng.

Phật nói kệ xong, liền cầm lấy nắm đất và bảo A-nan đem nắm đất đó rải lên chỗ Đức Như Lai đi kinh hành. Nhân đó Đức Phật lại nói:

-Này A-nan, con của vua Tần-bà-ta-la tên Axà-thế. Con của A-xà-thế là Ưu-đà-na Bạt-đà-la. Con của Ưu-đà-na Bạt-đà-la tên là Văn-trà. Con Văn-trà tên Ô-nhữ. Con của Ô-nhữ là Ta-phá-la. Con của Ta-phá-la là Đâu-la-quý-chi. Con của Đâu-la-quý-chi tên là Ta-ha Mạn-trà-la. Con của Ta-ha Mạn-trà tên Ba-tư-nặc. Con của Ba-tư-nặc tên là Nan-đà. Con Nan-đà tên Tần-đầu-la-vương. Vua Tần-đầu-ta-la ở trong thành Hoa thị tên Túcthi-ma-thời.

Lúc ấy ở nước Chiêm-bà-la có một người Bàla-môn sinh ra một cô con gái có quý tướng. Tướng sư coi tướng bảo: Ngày sau ắt được làm vương hậu, được vua sủng ái, sinh ra hai quý tử. Một vị ở thế gian làm bậc Chuyển Luân Thánh Vương. Một vị đi xuất gia chứng quả A-la-hán.

Bà-la-môn nghe nói vậy thì rất vui mừng. Sau đó đưa con gái vào thành Hoa thị, trang điểm các thứ trân bảo anh lạc, rồi đem gả cho vua Tần-đầuta-la. Vua lấy về để ở sau hậu cung. Các phi tần trong cung thấy cô xinh đẹp khả ái thì sinh lòng ganh ghét và nghĩ rằng: Vua ắt sẽ yêu quý người này mà lạnh nhạt với chúng ta. Vì vậy ta phải dạy cho ả kia làm các việc hạ tiện để cho vua ghét bỏ.

Thế là khéo léo tìm cách để cho cô gái làm nghề cạo râu tóc. Rồi đợi khi vua ngủ thì cho vào cạo râu tóc cho vua.

Khi thức dậy vua hỏi cô gái:

- Ngươi cạo tóc cho ta xong chưa? Cô gái thưa:-Thưa đã xong.

Vua đứng dậy soi gương, thấy râu tóc sạch sẽ thì hỏi:

- Ngươi có ước nguyện gì không? Cô gái thưa:-Chỉ muốn cùng vua giao hợp. Vua nói:

- Ta thuộc dòng Sát-đế-lợi, còn người là hạng tôi tớ làm sao có thể giao hợp.

Cô gái nói:

- Tôi không phải thuộc dòng hạ tiện. Tôi chính là con gái của vị Bà-la-môn. Bà-la-môn đã gả tôi cho vua làm vợ. Khi vào đây vì các cung phi khác ganh ghét nên mới bảo tôi làm nghề hạ tiện này. Vua nói:

- Từ nay về sau ngươi chớ làm việc này nữa.

Sau đó vua lập cô gái ấy làm Đệ nhất phu nhân, cùng yêu mến quyến luyến không rời. Phu nhân không bao lâu thì sinh một hoàng tử. Người mẹ nghĩ: Ta nay mọi ưu phiền đã dứt, nên đặt con tên là A-thứ-già (dịch là Vô Ưu).

Sau lại sinh một hoàng nam nữa đặt tên là Tập Ưu.

A-thứ-già vì thân hình thô xấu nên không được cha yêu mến. Vua Tần-đầu-ta-la cũng có nhiều con với các bà phi khác. Một hôm, vua cho gọi các thầy tướng lại, cùng các vị vương tử. Có vị tướng sư tên Tân-lăng Già-bà-sa. Vua hỏi vị này:

- Xem trong số vương tử, ai có tướng làm vua.

Tướng sư nghĩ: Nếu nói A-thứ-già mới có tướng làm vua, ắt vua sẽ nổi giận, mạng ta khó toàn vẹn. Nay ta phải tìm phương tiện mà nói. Nghĩ rồi liền thưa:

- Nên đem các vương tử đến vườn Kim địa.

Người mẹ mới bảo A-thứ-già:

- Con cũng nên đến đó. A-thứ-già nói:

- Vua không yêu con, làm sao con lại đến đó.

Mẹ lại bảo:

- Con nhất định phải đến đó. A-thứ-già thưa:

- Vâng! Con sẽ đi. Sau khi dâng thức ăn cho phụ vương con sẽ ra về.

Khi ra khỏi thành Hoa thị, A-thứ-già thấy quan phụ tướng Sa-đề-khuất-đa. Quan phụ tướng hỏi:

- Vương tử muốn đi đâu? Đáp:

- Vua cùng các vương tử đến vườn Kim địa, tôi cũng muốn đến đó.

Quan phụ tướng liền đưa cho A-thứ-già một con voi già và bảo cỡi voi đi đến đó.

Lúc đến vườn thì A-thứ-già xuống voi bước vào, đến chỗ các vương tử cùng ngồi. Các vị hoàng tử đều dâng các thức ăn trâm bảo, quý giá thơm ngon. Còn A-thứ-già chỉ có thức ăn bằng bột gạo, đựng trên đồ bằng sành, dùng sữa làm thức khai vị và dùng nước để uống. Vua bảo tướng sư và các vương tử:

- Sau khi ta mất thì ai xứng đáng làm vua.

Tướng sư nghĩ thầm nếu ta tâu A-thứ-già có tướng làm vua, thì vua chắc hẳn không thích mà có thể giết ta. Ông liền thưa với vua:

- Không thể nêu tên ra mà chỉ nhận xét qua hình tướng thôi. Nếu ai trình bày các thứ vật dụng và trang phục quý nhất thì có tướng làm vua.

Các vương tử mỗi người đều trình bày trang phục và vật thực của mình ra. Nào là xe quý nhất, chỗ ngồi cũng tốt thắng nhất. Thức ăn đồ dùng, thức cũng là đệ nhất. A-thứ-già cũng nói:

- Ta cũng có thể làm vua. Vì sao? Vì ta cỡi voi làm phương tiện đệ nhất. Đất làm chỗ ngồi đệ nhất. Lúa gạo làm thức ăn đệ nhất. Đồ dùng bằng ngói nung đệ nhất. Sữa làm khai vị đệ nhất. Nước làm thức uống đệ nhất. Như thế thì tôi cũng có thể làm vua.

Tướng sư xem tướng đã xong. Vua cùng các vị vương tử sửa soạn trở vào thành.

Vị tướng sư nói lại với mẹ của A-thứ-già rằng:-A-thứ-già sẽ được làm vua. Người mẹ nói:

- Ông chớ có ở đây, nên đi xa để bảo toàn sinh mạng. Đợi khi nào A-thứ-già lên ngôi rồi hãy trở về.

Lúc này ở nước Xoa-thi-la có kẻ tạo phản không chịu thần phục. Vua Tần-đầu-ta-la liền sai A-thứ-già đem binh đi chinh phạt. Vua chỉ giao cho bốn bộ binh mà không đưa vũ khí.

A-thứ-già vâng lệnh, đem quân ra khỏi thành Hoa thị. Kẻ hầu cận mới thưa:

- Không có vũ khí thì làm sao cùng kẻ địch giao chiến. A-thứ-già nói:

- Ta có phước lực ứng làm vua. Nếu khi cần thì đao kiếm sẽ tự nhiên có.

Vừa nói xong thì Địa thần xuất hiện, đưa đao kiếm cho quân sĩ. Thế là đạo quân tứ binh cùng tiến vào vây kín nước Xoa-thi-la.

Nhân dân trong nước đó, nghe tin A-thứ-già đến thì tất cả dân chúng đều quy phục. A-thứ-già thu phục được thành ấp trang nghiêm bình trị khắp đường phố. Dân chúng các nơi đều lấy bình đựng đầy các vật thực, rồi lấy hoa phủ trên, gọi đó là Kiết bình. Đây là biểu tượng của sự hàng phục. Cả nửa do-tuần đều nghênh tiếp như thế mà nói rằng:

- Chúng tôi không phản vua. Cũng không phải vương tử. Chỉ có bọn ác thần xúi vua làm nghịch thôi. Nay xin cung kính cúng dường, xin tùy ý vào thành.

Khi đã điều phục được nhân dân nước đó, liền mang quân trở về. Vua lại sai A-thứ-già đi chinh phục nước Pháp sa. Nhân dân ở đó cũng đều đồng lòng quy thuận. Chinh phục xong, A-thứ-già lại trở về nước.

A-thứ-già có hai người lực sĩ hầu cận. Vương tử cũng phong ấp cho hai người này. Thiên Thần lúc đó cũng làm bậc hộ quốc và thường nói với hai vị đó:

- Phải cẩn thận chớ có phản nghịch. Làm sao để A-thứ-già làm một trong bốn vị Chuyển luân Thánh vương, dần dần chinh phục, bốn biển đều được quy phục.

A-thứ-già có người anh là Tô-tham-ma. Hôm ấy đang đi vào thành Hoa thị, có quan Đệ nhất phụ tướng từ trong thành đi ra. Hai người gặp nhau. Quan phụ tướng vì đầu bị hói nên Tô-tham-ma thấy vậy cười cợt rồi lấy tay đánh vào đầu. Quan phụ tướng nghĩ: Vị vương tử này chưa làm vua mà đã dùng quyền thế đánh vào đầu ta như thế. Nếu được làm vua tất sẽ lấy đao mà chém ta mất.

Thế rồi Quan liền nói với năm trăm vị phụ tướng khác về hành động thái quá của Tô-thamma. Cho là không thể làm vua được, duy chỉ có Athứ-già thì tướng sư đã bảo là một trong bốn vị Chuyển Luân Vương. Chúng ta nên cùng nhau lập vị này.

Sau đó nước Xoa-thi-la lại có ác thần tạo phản. Vua sai Tô-tham-ma đi chinh phạt. Khi Tô-thamma đến nơi thì không thể làm cho dân nước kia quy thuận được. Vua Tần-đầu-ta-la nghe nói Tô-thamma không thể điều phục được nước kia, liền sinh bệnh.

Khi ấy vua ra lệnh cho với Tham-ma trở về làm thái tử. Rồi sai A-thứ-già cầm binh chinh phạt.

Các vị đại thần liền bày kế đem lưu huỳnh bôi vào người A-thứ-già rồi dấu đi, giả nói là bị thổ huyết không thể đi chinh phạt được. Lúc này, vua bệnh rất nặng, biết mình khó qua khỏi, muốn truyền gọi Tô-tham-ma về để truyền ngôi.

Quan phụ tướng sửa soạn cho A-thứ-già xong, liền đưa đến thưa với vua:

- Xin nhà vua truyền ngôi cho A-thứ-già trị vì đất nước.

Còn Tô-tham-ma trở về thì nên phế truất.

A-thứ-già cũng nói:

- Nếu như ta có phước đức làm vua, thì trời ứng hiện đem mũ lụa kết trên đầu ta.

Nghĩ xong, thì có một dãy lụa kết trên đầu. Vua thấy A-thứ-già có thiên thần kết lụa trên đỉnh đầu thì rất tức giận, hộc máu ra mà băng hà.

Quần thần lập A-thứ-già lên làm vua và La-đềquật-đa làm đệ nhất phụ tướng. Tô-tham-ma nghe tin cha đã băng hà và A-thứ-già lên làm vua, thì rất phẫn nộ và đem binh kéo về thành Hoa thị.

A-thứ-già nghe nói Tô-tham-ma đã về, liền sai một vị đại lực sĩ trấn giữ cửa thứ nhất. Vị lực sĩ thứ hai trấn giữ cửa thứ hai. Đệ tam lực sĩ trấn giữ cửa thứ ba. Điều quan phụ tướng La-đề-quật-đa trấn giữ cửa phía Đông, còn A-thứ-già tự lãnh đạo cơ quan, làm bạch tượng. Trên có làm tượng của Athứ-già, xung quanh thì đào hầm lửa, phủ cỏ rác lên trên. Tô-tham-ma khi đến cửa phía Đông thì gặp La-đề-quật-đa. Quan phụ tướng nói:

- Nay A-thứ-già đang thống lĩnh cửa phía Đông. Ngài có thể đến đó. Nếu vào được thì tôi sẽ làm tôi thần của ông. Còn không thể giết được Athứ-già thì có vào cửa này cũng không làm được gì?

Tô-tham-ma bèn xông vào cửa phía Đông, đến chỗ voi đang đứng muốn nhào tới bắt A-thứ-già, liền bị rớt xuống hầm lửa mà tử vong. Tô-tham-ma có vị đại lực sĩ tên Thiền Dũng thấy vậy, liền đem vài vạn quân binh vào trong cửa Phật xin xuất gia, đều đắc quả A-la-hán.

Các quan phụ tướng đại thần dường như muốn xem thường vua A-thứ-già. Vua muốn trị tội họ nên nói với các quan rằng:

- Hãy bẻ bỏ những cây hoa đẹp đang vây lấy những bụi gai góc. Các quan thưa:

- Xưa nay chỉ nghe nói gai góc vây lấy hoa quả, chứ không nghe hoa quả vây lấy gai góc bao giờ.

Vua nói lại ba lần như thế mà chư thần vẫn không chịu nghe. Vua nổi giận, tự tay mình giết hết năm trăm vị đại thần.

Một lần vào cuối mùa xuân, vua cùng với cung nhân dạo chơi trong vườn. Trong khu vườn đó có một cây hoa tên là A-thứ-già rất đẹp. Vì thấy cây cùng tên với mình nên vua rất yêu quý. Nhà vua do thân hình thô xấu nên các thể nữ thường không yêu kính, không thích gần gũi. Họ đợi khi vua ngủ thì vào trong đó vui chơi, đến chỗ cây A-thứ-già bẻ hết hoa lá. Khi vua thức dậy, hỏi hầu cận:

- Ai phá cây hoa vậy? Đáp:

- Chính bọn cung nhân.

Vua tức giận, liền đem năm trăm cung nữ đứng sắp xung quanh cây và nổi lửa đốt họ. Nhân dân trong thành cho là vua quá tàn ác, nên gọi là ác Athứ-già.

Lúc này quan phụ tướng La-đề-quật-đa mới tâu với vua:

- Việc giết hại trị tội chẳng phải là điều mà vua nên làm. Nay nên tìm những kẻ thích giết hại để về làm việc này.

Vua nghe theo cho đi tìm những kẻ thích làm điều ác về để trị những kẻ có tội.

Khi đó ở ngoài biên thùy, phía dưới chân núi có một gia đình làm nghề thợ dệt, sinh một đứa con tên Kỳ-lê tánh tình rất là hung tợn, thường mắng cha mắng mẹ, tay thì quăng lưới, chân thì đạp khung. Bất cứ loài vật cây cỏ trên đường hễ gặp là hắn giết hại phá sạch. Mọi người đều gọi là Ác-kỳlê. Cả nước đều biết hắn là kẻ đại ác. Sứ của vua liền tìm đến nói với Kỳ-lê:

- Anh làm người trị tội nhân cho nhà vua được không? Kẻ ấy đáp:

- Người ác trong thiên hạ tôi đều có thể trị, thì sao lại không làm cho vua được.

Sứ thần liền về tâu lại với vua. Vua cho gọi y đến. Kỳ-lê nghe có lệnh vua gọi thì vào từ biệt cha mẹ. Cha mẹ không cho đi thì anh ta lại giết chết cha mẹ, vì thế nên đến chậm. Khi sứ giả hỏi thì anh ta kể lại như vậy.

Khi vào ra mắt vua thì thưa rằng:

- Tôi sẽ làm một ngục to lớn, nghiêm trang cho vua vui lòng.

Ngục khi đã làm xong thì được đặt tên là Áilạc-ngục.

Hắn lại thưa với vua:

- Nếu có ai vào đây, thì quyết không cho ra. Vua bằng lòng.

Sau đó Ác-kỳ-lê đi đến chùa Kê-đầu. Trong chùa có vị Tỳ-kheo đang tụng kinh có câu: "Như đứa bé ngu ác, thích nấu vạc lửa, thích đâm giã, thích làm cối xay thịt. Nếu bị đọa vào địa ngục, phải nuốt hòn sắt nóng, chảy ra cho vào miệng." Hắn nghe xong thì nghĩ rằng: "Trong địa ngục của ta cũng phải làm như vậy."

Trước đó, có hai vợ chồng một vị trưởng giả cùng đi ra biển để kiếm trân bảo. Ra đến giữa biển thì hạ sinh một bé trai, liền đặt tên là Hải. Trải qua mười hai năm mới ra khỏi biển, thì gặp bọn cướp năm trăm tên, cướp hết tài sản và giết cả hai vợ chồng. Đứa con tên là Hải thoát được liền đi xuất gia học đạo. Lần hồi đi khất thực đến thành Hoa thị. Vì không biết đường xá xóm làng nên lạc vào ngục Ái lạc. Nghĩ rằng: "Ngoài thì xem có vẻ vui, mà trong như địa ngục". Khi ấy, muốn đi ra nhưng Kỳ-lê không cho, bảo rằng:

- Tỳ-kheo! Ông đã vào trong này thì phải chịu tội chết.

Sao lại còn muốn ra.

Tỳ-kheo nghe nói thì òa lên khóc. Kỳ-lê hỏi:

- Vì sao ông lại khóc như con nít vậy? Tỳ-kheo nói:

- Tôi không phải sợ chết mà khóc, mà là sợ mất đi sự thiện lợi. Bởi do tôi chỉ mới xuất gia chưa chứng đạo pháp. Mà thân này thì khó được, Phật pháp lại khó gặp, cho nên mới khóc.

Kỳ-lê nói:

- Vua đã ra lệnh, nếu ai vào đây thì phải chịu chết chứ không cho ra.

Tỳ-kheo nói:

- Cho tôi được sống thêm bảy ngày nữa. Rồi tùy ông muốn xử thế nào cũng được.

Khi ấy vua A-thứ-già có người cung nhân cùng một vương tử tư tình. Vua biết được và bắt đem cho vào ngục Ái lạc xử trị. Kỳ-lê cho đem vào cối giả nát. Khi chày đánh trúng vào đầu thì óc tủy, con ngươi vọt ra. Tỳ-kheo nhìn thấy rõ thì sinh tâm nhàm chán mà nghĩ rằng: "Than ôi! Thật là đáng thương xót. Nhan sắc thế gian quả là nguy hại. Như bọt nước tụ không lấy gì làm chắc chắn. Sự hủy hoại thật là mau chóng. Dù cho dung mạo đoan chánh, mà đem vào đây, thì da thịt nhan sắc cũng tan hoại. Kỳ lạ thay! Việc sinh tử này, trẻ con lại ưa thích. Nếu không thấy được chánh pháp, thì cảnh giới này càng bị chìm trong biển khổ". Do đây mà vị Tỳ-kheo quán xét thâu đêm, đoạn trừ hết kiết phước mà chứng quả Tu-đà-hoàn. Lại tinh cần tu tập cho đến chứng được A-la-hán, đủ bảy ngày thì Kỳ-lê đến nói:

- Bảy ngày đã qua, đến ngày thứ tám thì phải chịu hành hình. Tỳ-kheo đáp:

- Tôi ban đêm đã trải qua và ban ngày cũng đã thấu rõ, lợi ích đã đạt được, vậy tùy người xử trí.

Kỳ-lê hỏi:

- Tại sao lại nói "Đêm đã qua, ngày sáng tỏ lại đạt được lợi ích".

Hãy nói cho ta biết. Tỳ-kheo đáp:

- Tôi ngày trước ở trong đêm tối vô minh, ám độn. Nay thì mọi oán tặc triền phược đã tan, cho nên mới nói đêm đã qua. Tâm trí huệ rỗng không, tỏ thông cả tam giới cho nên nói ngày sáng tỏ. Phật pháp đạo quả nay cũng đã chứng ngộ, cho nên nói lợi ích đã đến. Nay ông đã hiểu rõ thì mặc ý xử trị. Kỳ-lê vì tâm tàn ác giết hại không cùng nên không biết thương xót, không tin có đời sau nên càng tức giận. Bèn bắt cái vạc lớn cho đầy nước và cả huyết mủ tủy não cùng các đồ dơ uế vào, rồi bắt vị Tỳ-kheo ném vào. Bỗng nhiên lửa củi bên dưới đều tắt ngấm. Kỳ-lê nổi giận lấy cây thọt vào, nhưng lửa vẫn không cháy, mà cây củi dường như có vẻ xanh tươi trở lại. Nước trong nồi cũng không nóng. Lấy làm lạ, anh ta mới nhìn vào trong chảo, thì thấy vị Tỳ-kheo đang ngồi kiết già. Dưới tòa có cả ngàn cánh sen đỡ. Lúc này Kỳ-lê rất đổi kinh ngạc, sợ hãi, liền vào tâu với vua.

Vua liền tức tốc đến xem, nhân dân trong thành cũng theo vào với vua, có tới vài ngàn người.

Lúc này Tỳ-kheo thấy có vô số chúng sinh đến xem nên nhân đó khuyến hóa để cho mọi người thấy. Tỳ-kheo liền từ trong chảy bay ra, y phục đều sạch sẽ. Mọi người thấy Tỳ-kheo bay lên hư không biến hóa không lường. Trên thân ra dưới, dưới thân ra lửa. Chẳng khác nào một ngọn núi lớn hiện tỏ giữa hư không. Vua thấy vậy thì tâm rất hoan hỷ ít có, liền chắp tay cung kính chiêm ngưỡng mà nói rằng:

- Vị Tỳ-kheo này cùng thọ thân người như ta, nhưng uy biểu xuất thế, công đức thật là tối thắng, bay lên hư không hiện đủ loại thần thông. Tôi nay cúi xin Tôn giả nói ra, để cho chúng tôi biết được việc làm của bậc Thánh, rồi tùy theo lực mà tôi có thể quy hướng tu tập.

Bấy giờ Tỳ-kheo biết A-dục vương là Đại Đànviệt, sau này sẽ phân bố xá-lợi của Phật làm lợi ích cho trời người.

Tỳ-kheo liền nhân đây mà thuyết về sự đại từ bi của Đức Như Lai, đã đoạn hết kiết phược; là pháp Vương tử đã được giải thoát trong ba cõi; là đấng Điều ngự trong chỗ đáng điều ngự; là bậc Tịch diệt trong chỗ đã tịch diệt; là bậc Giải thoát trong tất cả sự giải thoát. Đại vương nên biết, Phật đã thọ ký cho ông về tương lai sau khi Đức Phật nhập diệt một trăm năm. Vua ở thành Hoa thị hiệu là A-thứ-già, xây dựng tháp Phật xá-lợi đến tám vạn bốn ngàn.

Vua nay lại tạo ra địa ngục này giống như cảnh địa ngục để tàn hại chúng sinh. Đại vương! Ông nên gia ân để cho chúng sinh không còn lo sợ, cũng là theo ý nguyện của Phật. Là bậc Đế Thích ở trong loài người, tất phải thi ân vô úy, khởi lòng đại Từ bi. Đem phân bố xá-lợi để làm lợi ích cho muôn người.

Vua nghe lời này, thì càng kính tin Tam bảo, liền chắp tay cung kính hướng về mười phương chư Phật, phát nguyện rằng:

- Tôi từ trước đã tạo ra cực tội, nay xin sám hối, xin quy y Phật. Quy y thắng pháp mà Đức Như Lai đã dạy và đang khai phước nghiệp làm trang nghiêm khắp cả cõi Đại địa.

Bấy giờ, Tỳ-kheo nương theo hư không mà đi ra ngoài. Vua cũng trở ra.

Ác-kỳ-lê tâu rằng:

- Vua trước kia đã nói với tôi: "Nếu ai vào đây thì không cho ra".

Vua nói:

- Vậy ngươi muốn giết ta phải không? Đáp rằng:

- Muốn giết. Vua nói:

- Vậy ngươi vào đây trước hay ta vào trước.

Đáp:

- Tôi ở đây trước. Vua nói:

- Ngươi đã vào trước thì phải chịu tội trước.

Vua ra lệnh bắt Kỳ-lê trói lại. Còn nhà Ái-lạc cũng cho thiêu hủy đốt sạch, để cho dân được an ổn không còn lo sợ.

Sau đó vua đi về thành Vương xá, đến chỗ của vua A-xà-thế, thì thấy có bốn ngàn viên xá-lợi. Tại chỗ này vua cho xây đại tháp. Thế rồi chỗ thứ hai, thứ ba, cho đến bảy chỗ. Nơi nào có xá-lợi vua cũng đều cho xây tháp tại đó.

Sau đó vua lại tìm đến tụ Lạc-la-ma Long vương để lấy xá-lợi. Long vương muốn xin để lại xá-lợi, liền hiện lên mời vua đi vào long cung.

Long Vương thưa:

-Xin nhà vua lưu lại, xá-lợi nơi đây.

Chúng tôi sẽ cung kính cúng dường cẩn thận, xin chớ lấy đi.

Vua thấy Long vương cung kính cúng dường còn hơn cả người thế gian, thì liền để lại mà không mang đi nữa.

Vua trở về bổn quốc, tạo lập ra tám vạn bốn ngàn hòm bằng bảy báu dùng các thứ vàng bạc lưu ly để trang sức. Một hòm báu đựng một viên xálợi. Lại tạo lập tám mươi bốn ngàn cái hũ và tám mươi bốn ngàn tấm lụa để che phủ bên ngoài, cùng với tám vạn bốn ngàn bảo cái. Mỗi hũ xá-lợi đem giao cho một Dạ-xoa mang đi khắp cõi Diêm-phù-đề. Cứ một vạn người thì tạo một tháp. Thế là quỷ thần đều mang xá-lợi đi khắp bốn phương để xây tháp. Có một Dạ-xoa, đem hộp xá-lợi đến nước

Xoa-thi-la để tạo lập phù đồ, nhân dân trong nước nói:

- Dân chúng tôi có ba mươi sáu ức, nay phải cho ba mươi sáu hòm xá-lợi.

Dạ-xoa trở về bạch với vua. Vua nghĩ: "Dân chúng quá đông. Nếu chia như vậy, thì xá-lợi sẽ không đủ khắp cả cõi Diêm Phù này, vậy phải tùy phương tiện mà rút bớt." Bèn sai Dạ-xoa đến đó nói:

- Nước ngươi nay trừ bớt đi ba mươi lăm vạn, chỉ lưu lại một vạn cùng một viên xá-lợi.

Dân nước kia nói:

- Tôi không cần đủ ba mươi sáu hòm nữa, có một cũng đã đủ lắm rồi, xin chớ giết chúng tôi.

Thế là nước đó chỉ lưu lại một hòm xá-lợi. Vua lại nói:

- Nếu có chỗ nào nhiều hơn một ức hay ít hơn cũng chớ để xá-lợi lại.

Khi làm việc này vua cũng đã đến chùa Kêđầu-ma và đến trước thượng tọa Da-xá chắp tay thưa:

- Tôi nay muốn ở trong cõi Diêm-phù-đề tạo lập tám vạn bốn ngàn bảo tháp.

Thượng tọa đáp:

- Lành thay! Lành thay! Vua nếu như muốn xây tháp lúc này, ta cùng làm với vua.

Tôn giả liền lấy tay che mặt trời, biến ra các cõi nước trong Diêm-phù-đề, rồi cùng vua xây dựng tháp xá-lợi ở tại các nước đó.

Khi tháp đã tạo lập xong, nhân dân đều gọi vua là Chánh pháp A-thứ-già vương, khéo đem lại an ổn lợi ích cho khắp thế gian. Vì đã xây tháp ở khắp nơi, nên mọi điều ác của vua cũng bị tiêu trừ. Từ đây thiên hạ đều gọi vua là Chánh pháp vương.

---------------------------

BỔN DUYÊN VỀ TRUYỆN CỦA A-DỤC VƯƠNG

Vua A-thứ-già khi xây tháp xong rồi thì rất vui mừng hớn hở, cùng chư quần thần đi đến chùa Kêđầu-ma, đến trước Thượng tọa thưa rằng:

- Ở cõi Diêm-phù-đề này, có ai được Phật thọ ký như tôi không? Thượng tọa Da-xá đáp:

- Có nhiều vị cũng được thọ ký như vua. Xưa Đức Phật ở tại nước Ô trường, từng hàng phục rồng A-ba-ba. Ở nước Kế tân giáo hóa hàng phục sư Phạm chí, ở nước Kiến-đà-vệ giáo hóa chim Đà-la, ở nước Kiến-đà-la hàng phục Ngưu long. Sau lại đến nước Mạt-đột-la bảo với A-nan rằng:

- Sau khi ta diệt độ một trăm năm, ở xứ Mạtđột-la này có trưởng giả Cúc-đa, con của ông là Ưu-ba-cúc-đa. Tuy không có tướng hảo như Đức Phật, mà ở trong một do-tuần thấy được tâm tướng của chúng sinh, là bậc thầy dạy Thiền pháp đệ nhất lúc bấy giờ và làm nhiều điều Phật sự giáo hóa chúng sinh.

Khi ấy Phật bảo với A-nan rằng:

- Ông có thấy khu vườn xanh từ xa kia không?-Có thấy, thưa Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo:

- Ở đó có núi tên là Ưu-lưu-mạn-trà, ở đó có A-lan-nhã La-bạt-lợi, phòng xá đầy đủ rất thuận lợi có thể phát sinh định tâm làm các việc như Đức Phật đã thọ ký.

Vua nghe thế liền bạch Tôn giả:

- Tôn giả thanh tịnh kia đã ra đời chưa? Đáp:

- Đã ra đời, tu hành thanh tịnh diệt hết mọi kiết phược, đắc quả A-la-hán, cùng với tám vạn đang đi nhiễu quanh núi Ưu-lâu-mạn-trà ở A-lan-nhã La-bạt-lợi. Vị Tôn giả này có đầy đủ trí tối thắng thanh tịnh. Vì chủ Hiền thánh và tất cả chúng sinh diễn nói pháp môn nhiệm mầu. Khiến cho hàng Thiên, Long, Dạ-xoa, cùng các loài phi nhân đều được giải thoát.

Vua liền ra lệnh cho quần thần mau sửa soạn binh xa tướng mã:

- Ta nay muốn đến núi Ưu-lâu-mạn-trà để được xem các bậc Tôn giả giải thoát. Đó là Đại đức Ưuba-cúc-đa, đã dứt trừ hết mọi lậu hoặc phiền não.

Các quan phụ tướng liền tâu với vua:

- Nước kia hiểm trở kẻ tiểu sĩ rất nhiều. Chỉ nên sai sứ bảo vị La-hán đến đây là được.

Vua nói:

- Ta muốn thỉnh Tôn giả đến tham kiến, nhưng vì ta chưa đắc Kim cang tâm thì làm sao khiến cho mọi người chịu nghe như Đức Phật được.

Rồi vua sai sứ đến thưa với Tôn giả Ưu-ba-cúcđa rằng:

- Tôi nay muốn đến tham vấn Tôn giả.

Tôn giả nghe xong liền suy nghĩ: "Nếu để vua đến đây thì đất đai hiểm trở rất là cực khổ. Vậy thì ta nên đi đến đó."

Tôn giả liền cho hợp các thuyền lại, làm thành một thuyền rộng lớn mười hai do-tuần để cùng tám vạn chư vị La-hán lên thuyền đi đến thành Hoa thị. Có người bảo vua rằng:

- Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa vì muốn làm lợi ích cho vua nên đích thân đi đến, vì lợi ích mà làm thuyền lớn.

Vua nghe nói thì rất hoan hỷ liền cởi chuỗi anh lạc giá trị đến trăm ngàn lượng vàng để cúng dường, rồi bảo kẻ tả hữu đánh trống làm hiệu lệnh. Vì muốn tạo phước sinh lên cõi trời, muốn cầu giải thoát, ra mắt Đức Như Lai, nên thành kính cúng dường Tôn giả. Vua nói kệ:

Chư vị muốn thấy Lưỡng Túc Tôn
Cúng dường thế hùng Vô sư giác
Giáo hóa Đức Phật khắp ba cõi
Các nơi tụ tập cùng cung nghênh.

Vua nói kệ xong rồi, liền sai sửa soạn quét dọn trang nghiêm thành ấp, đường xá. Vua cùng chư quần thần và dân chúng, trổi kỹ nhạc đốt hương hoa đi ra ngoài thành Hoa thị đến nửa do-tuần.

Từ xa đã nhìn thấy Tôn giả cùng một vạn tám ngàn La-hán đang đi đến, ví như cùng vây quanh nửa mặt trăng. Vua liền xuống voi, một chân bước lên thuyền, một chân để dưới đất. Rồi đưa tay đỡ Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa. Sau đó vua năm vóc phủ phục xuống chân. Khi Tôn giả gọi vua đứng dậy thì vua cung kính chấp tay chiêm ngưỡng và thưa rằng:

-Tôi nay đã diệt trừ hết mọi oán cừu, được sự giàu có khắp cả đại địa sông núi nơi cõi Diêm-phùđề này, mà vẫn không vui bằng hôm nay được gặp Tôn giả. Vì sao? Vì được gặp Tôn giả cũng như gặp được Đức Phật, đối với ngôi Tam bảo càng thêm kính tín.

Vua nói kệ:

Phật tuy đã nhập diệt đáp:

Tôn giả bổ xứ sinh
Huệ nhật đã tiêu mất
Tôn giả tiếp chiếu soi
Nay thùy từ dạy bảo
Tôi tùy thuận nghe theo.

Tôn giả nghe vậy liền đưa tay xoa đảnh đỉnh của vua và nói kệ:

Cẩn thận mọi điều chớ buông lung
Ngôi vị phú quý khó bảo toàn
Tất cả rồi đây cũng hủy diệt
Thế gian đâu có gì thường trụ
Tam bảo khó gặp ông đã gặp
Nên cúng dường luôn chớ bỏ qua.

Đại vương nên biết! Đức Phật đem giáo pháp giao phó cho ông và cũng phó chúc cho ta. Chúng ta nên kiên quyết giữ gìn.

Vua lại nói kệ:

Lời Phật phó chúc tôi đã làm
Các tháp báo xây khắp nơi nơi
Tràng phan bảo cái cũng đủ cả
Muôn loại chúng sinh đều trang
Bố thí xá-lợi cõi Diêm phù
Thân mình vợ con và kho báu
Cung điện phòng xá cùng nhân dân
Nơi nơi chốn chốn đều cúng thí
Cúng dường pháp bảo cùng chúng Tăng.

Tôn giả khen ngợi:

- Lành thay! Lành thay Đại vương! Ông làm các việc này, đem thân mạng tài vật giữ gìn giáo pháp Phật mãi cho đến ngày sau, đừng bao giờ hối hận thì sẽ được giải thoát, sinh lên cõi trời.

Nói xong vua thỉnh Tôn giả đi vào trong cung, trải giường tòa để Tôn giả lên an nghĩ trên đó. Thấy thân của Tôn giả mềm mại như bông Đâu-la-miên.

Vua chắp tay thưa:

- Thân của Tôn giả mềm mại như bông Đâu-lamiên. Còn thân của tôi thì thô xấu ít phước.

Tôn giả nói:

- Ta khi trước tu hạnh bố thí, thường đem vật thanh tịnh thắng diệu, chưa từng lấy đất mà cúng dường bố thí.

Vua nói:

- Tôi ngày trước vì ngu muội không biết, nên gặp được bậc Thế Tôn tối thượng phước điền, lại lấy đất cúng dường. Nay được quả báo này.

Tôn giả sắc mặt hiền hòa nói:

- Phước điền thắng diệu có thể khiến cho việc bố thí đất đạt được quả báo ngôi vị tôn quý.

Vua nghe như vậy thì lòng rất vui mừng hoan hỷ chưa từng có, liền nói với chư quần thần:

- Ta ngày trước cúng dường đất cho Phật mà nay được ngôi Chuyển luân Thánh vương. Vì vậy, khuyên mọi người cũng sinh tâm kính cẩn cúng dường Tam bảo.

Vua thưa với Tôn giả:

- Con muốn biết các nơi mà Phật từng du phương hành đạo để xây tháp cúng dường, để ngày sau chúng sinh cung kính cúng dường.

Tôn giả khen:

- Lành thay! Lành thay! Đại vương, tôi sẽ chỉ cho ông biết các nơi ấy.

Vua liền đem các loài hương hoa cúng dường Tôn giả. Sau đó vua cử binh xa tượng mã, theo Tôn giả đi đến vườn Lâm-tỳ-ni. Tôn giả chỉ nơi này cho vua:

- Đây là chỗ Đức Phật đản sinh, ông nên cúng dường đầu tiên. Đây là chỗ Đức Phật đi bảy bước. Khi mới sinh ra, lấy tay chỉ bốn phương mà nói rằng: "Đây là thân cuối cùng của ta, thân cuối cùng ở trong bào thai".

Vua nghe lời nói này, cúi đầu lạy xuống đất cung kính làm lễ chắp tay rơi lệ mà thưa rằng:

Tuy thắng lợi kiết lợi
Được thấy Mâu-ni Tôn
Thấy nơi Phật đản sinh
Nghe được lời Pháp ngữ
Ta không có thắng phước
Không được thấy Thế Tôn
Không thấy Phật đản sinh
Cũng không nghe Pháp ngữ.

Tôn giả lại dẫn vua đến chỗ phu nhân Ma-da, vịn vào nhánh cây rồi đản sinh ra vị Bồ-tát. Tôn giả lấy tay chỉ vào cây Am-la mà nói với vị thần của cây đó:

- Ngươi vốn đã thấy Phật. Nay có thể hiện lên cho vua thấy, để cho vua thêm lòng kính tin.

Lúc này thần cây Am-la hiện ra. Tôn giả nói với vua:

- Đây là thần cây, đã nhìn thấy Phật sinh ra.

Vua liền chắp tay, hướng về thiên thần nói:

Người thấy được hảo tướng
Phật đản sinh hay không?
Mắt Phật có sắc sáng
Như lá hoa sen không?
Ngươi nghe từ Ngưu vương
Nói lời nhu nhuyến không?

Thần cây nói kệ đáp:

Tôi thấy thân kim sắc
Lưỡng Túc Tôn tối thắng
Cùng lúc đi bảy bước
Nghe lời Thế Tôn nói.

QUYỂN 2

Vua lại hỏi rằng:

- Khi Đức Phật đản sinh, thì sự việc như thế nào? Thần cây đáp:

- Nếu dùng ngôn ngữ thì không thể nào nói cho hết được.

Nay xin lược nói kệ:

Thân sắc vàng chói sáng
Trời người đều mừng vui
Núi sông đều chấn động
Như thuyền gặp sóng to.

Vua liền xuất trăm ngàn lượng vàng để tại đó xây tháp rồi đi. Tôn giả dẫn vua vào trong thành Ca-tỳ-la, lấy tay chỉ và nói:

- Đây là nơi ở của vua Tịnh Phạn, là nơi mà Bồtát hiện thân, Tôn giả lại chỉ đền thờ của Đế Thích và nói Bồ-tát khi vào đây thì tượng Nê-mộc đều đến cung nghinh cúi mình làm lễ; ngài lại chỉ chỗ các vị tướng sư xem tướng cho Bồ-tát, vị tiên Atư-đà xem tướng Bồ-tát ngày sau ắt sẽ thành Phật.

Ngài lại chỉ chỗ của bà Xa-bà-đề nuôi dưỡng

Bồ-tát và chỉ chỗ của Bồ-tát học tập, chỗ cưỡi voi, chỗ tập cưỡi ngựa, chỗ cưỡi xe, chỗ học bắn cung, phóng lao… chỗ của Bồ-tát thấy cảnh sinh già bệnh chết mà sinh tâm nhàm chán sinh tử.

Tôn giả lại dẫn vua đến gốc cây Bồ-đề, lấy tay chỉ và nói:

- Đây là chỗ của Bồ-tát ngồi tọa thiền.

Ngài lại dẫn vào rừng chỉ chỗ Bồ-tát tư duy dứt trừ mọi tham dục bất thiện, giác ngộ quán xét ly sinh hỷ lạc và chứng quả Sơ thiền. Những cành cây khi đó cong xuống che chở Bồ-tát ngồi thiền nay vẫn không dời đổi.

Nơi nào vua cũng cúi mình đảnh lễ.

Tôn giả lại chỉ cửa thành mà nói với vua:

- Đây là chỗ của Bồ-tát đem năm ngàn chư Thiên lần lượt cùng đi nhiễu quanh ra khỏi thành Ca-tỳ-la.

Lại chỉ chỗ mà Bồ-tát cởi châu anh lạc và đưa ngựa cho Sa-nặc đem về. Ngài chỉ chỗ Bồ-tát một mình vào rừng sâu, lại chỉ chỗ của Bồ-tát cầm dao cắt tóc, ném lên hư không, được trời Đế Thích đỡ lấy, rồi lại chỉ chỗ Bồ-tát đem áo mão trang nghiêm đưa cho thợ săn để lấy ca-sa. Ngài lại chỉ chỗ vua Tần-ba-ta-la lấy nửa giang sơn để dâng cho Bồ-tát, Tôn giả lại chỉ chỗ của Bồ-tát đến A-lan-già-la Uất-đầu-lam và lại chỉ chỗ Bồ-tát tu khổ hạnh sáu năm.

Rồi nói kệ rằng:

Bồ-tát sáu năm tu khổ hạnh
Thân ngồi trên tro lửa gai chông
Biết đây là hạnh không phải đạo
Liền bỏ quay về tu chánh pháp.

Tôn giả chỉ chỗ của Bồ-tát thọ bát sữa của Nanđà Bạt-nan-đà, lại chỉ chỗ của Bồ-tát hướng về cây Bồ-đề thiền định.

Những chỗ mà Tôn giả chỉ ra đó, vua đều ghi nhớ mà xây tháp tại đó. Tôn giả lại chỉ chỗ mà CA-la Long vương khen ngợi vị Bồ-tát. Vua liền đảnh lễ dưới chân và chắp tay thưa rằng:

- Tôi nay muốn hỏi những việc mà Ca-la Long vương đã diện kiến Đức Phật.

Tôn giả liền nói với Long vương:

- Mau lại đây! Long vương! Vua muốn hỏi các việc mà trước kia ngươi đã gặp Đức Phật.

Long vương liền hiện đến bên Tôn giả, chắp tay thưa:

- Đại đức có điều gì chỉ dạy? Tôn giả liền nói với vua:

- Đây là Ca-la Long vương, là vị mà đã dùng kệ tán thán Đức Phật.

Vua liền chắp tay nói kệ:

Người thấy chơn kim
Sắc vàng rực rỡ
Vô thượng Thế Tôn
Mặt như trăng đầy
Nay vì ta nói
Mười phần diệu lực
Vì sao đoan nghiêm
Hướng Bồ-đề thọ.

Long Vương đáp:

- Việc này trang nghiêm không thể bàn. Nay xin lược, liền nói kệ:

Phật bước chân đi
Sơn hà đại địa
Thảy đều vang lên
Lục chủng chấn động
Thân sáng Như Lai
Trùm cả nhật nguyệt
Chiếu khắp mười phương
Lợi ích khôn cùng.

Vua cho xây bảo tháp ở chỗ đó, rồi vua lại đi cùng với Tôn giả đến chỗ cây Bồ-đề. Tôn giả lấy tay chỉ và nói:

- Nơi cây Bồ-đề này, Phật đã dùng lực từ bi phá hoại chúng ma vương, thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề.

Vua cũng cho xây tháp ở chỗ này và lấy trăm ngàn lượng vàng đem cúng dường bố thí.

Lại chỉ chỗ tứ Thiên vương cúng dường Đức Phật bốn cái bát, Như Lai thọ nhận một cái. Đây cũng là chỗ mà năm trăm khách buôn cúng thí thức ăn. Lại chỉ chỗ mà Bà-la-môn khen ngợi Đức Phật.

Đối với những chỗ này vua đều cho xây tháp.

Tôn giả lại đưa vua đến rừng Cổ tiên và nói:

- Đây là chỗ mà Đức Như Lai đã chuyển pháp luân.

Vua lại đem trăm ngàn lượng vàng cho xây tháp ở tại nơi đây.

Tôn giả lại chỉ chỗ Như Lai độ một ngàn người Bà-la-môn.

Tôn giả lại chỉ chỗ vua Tần-bà-ta-la nghe pháp ngộ được Chân đế, lại chỉ chỗ của tám vạn bốn ngàn Thiên vương xa lìa trần cấu, đắc được pháp nhãn thanh tịnh, cũng là chỗ có vô lượng Bà-lamôn và hàng cư sĩ đắc quả Tu-đà-hoàn. Tôn giả cũng chỉ chỗ Đế Thích được lãnh thọ giáo pháp.

Tôn giả lại chỉ chỗ Đức Như Lai biến hóa thần thông. Lại chỉ chỗ mà Đức Như Lai lên cõi trời Đao lợi, thuyết pháp cho mẹ rồi trở xuống. Mỗi chỗ ở trên, vua đều cho xây tháp bảo. Tôn giả lại đưa vua đến thành Câu-thi-la và chỉ nói:

- Đây là chỗ khi xưa Đức Như Lai hóa duyên xong rồi nhập Niết-bàn.

Vua nghe nói thì buồn rầu áo não, ngất xỉu. Kẻ tả hữu lấy nước rửa mặt hồi lâu vua mới tỉnh dậy. Vua cho đem trăm ngàn lượng vàng để xây tháp tại đây. Sau đó vua chắp tay lễ bái dưới chân Tôn giả thưa:

- Tôi nay muốn lễ tháp của chư vị Thanh văn đệ tử của Đức Phật.

Tôn giả tán thán:

- Lành thay! Lành thay! Do đây mà vua lại càng có tâm cung kính tín hướng về Phật pháp.

Rồi Tôn giả đưa vua đến rừng Kỳ-đà và nói:

- Đại vương! Đây là tháp của Tôn giả Xá-lợiphất.

Ông nên cung kính cúng dường.

Vua hỏi:

- Vị này có hạnh đức gì? Đáp:

- Đây là vị đại đệ tử lớn của Đức Như Lai, ngài có thể chuyển pháp luân. Đức Như Lai đã thọ ký cho vị đại đệ tử ấy là bậc Đại trí huệ bậc nhất. Ngoài Đức Phật ra thì tất cả chúng sinh không ai có được trí tuệ như ngài. Đây chỉ có thể sơ lược qua, chứ không thể nào nói hết.

Vua nghe nói thì rất hoan hỷ, liền đem trăm ngàn lượng vàng để cúng dường xây tháp. Vua hướng về tháp ngài Xá-lợi nói kệ:

Giải thoát mọi triền phược
Xưng danh khắp thế gian
Là bậc tối thượng nhất
Trong tất cả trí tuệ.

Rồi ngài lại dẫn vua đến tháp ngài Mục-kiềnliên và nói:

- Đây là tháp Tôn giả Mục-kiền-liên, ông nên cung kính cúng dường.

Vua lại hỏi:

- Vị này có đức hạnh gì? Tôn giả đáp:

- Như Lai đã thọ ký, đây là vị đại Thần thông đệ nhất. Tôn giả có thể duỗi chân phải động đến cung Đế Thích; lại có thể hàng phục được Long vương Nan-đà Bạt-nan-đà. Vì vậy, không thể nào nói hết được công đức của ngài.

Vua lấy ra trăm nghìn lượng vàng để xây tháp cúng dường.

Lại chắp tay nói kệ:

Quy mạng Đại danh xưng
Bậc thần túc đệ nhất
Chỗ sinh lão bệnh tử
Mà đắc hạnh giải thoát.

Tôn giả chỉ vua:

- Đây là tháp ngài Ca-diếp, ông nên cung kính cúng dường.

Vua hỏi:

- Vị này có công đức gì? Tôn giả đáp:

- Vị này tu hạnh Đầu-đà thiểu dục trí túc. Ngày trước Như Lai chia nửa tòa để cho ngài cùng ngồi. Phật cởi y trao cho Tôn giả Ca-diếp, vì thương cảm Tôn giả tu hành khổ hạnh hộ trì giáo pháp của Phật. Ở đây chỉ nói lược chứ không thể nói hết.

Vua cũng lấy trăm ngàn lượng vàng cho xây tháp và nói kệ:

Ở trong hang núi
Trừ bỏ đấu tranh
Không còn sân giận
Thường tu thiền định
Thiểu dục trí túc
Công đức tối thượng
Ta nay đảnh lễ
Đem tâm quy mạng.

Tôn giả lại chỉ chỗ tháp của vua Ba-câu-la. Vua hỏi:

- Vị này có công hạnh gì? Đáp:

- Như Lai thọ ký không bị bệnh suy, là người thiểu dục đệ nhất, chưa từng dạy người dù một bài kệ bốn câu.

Vua sai người lấy một đồng tiền vàng để cúng dường xây tháp.

Quan phụ tướng tâu vua:

- Cũng đồng là tháp của bậc Đại đức La-hán.

Vì sao vị này chỉ có một đồng cúng dường xây tháp.

Vua đáp:

- Vị này chỉ tu để độ mình mà không độ người, cho nên chỉ đem một đồng để cúng dường.

Khi ấy thần giữ tháp hiện lên hoàn trả lại tiền cho vua.

Quan phụ tướng lại nói:

- Thật là thiểu dục, nhẫn đến một đồng còn không nhận.

Tôn giả lại dẫn vua đến tháp A-nan, vua nên cúng dường. Vua hỏi:

- Vị này có công đức gì? Đáp:

- Như Lai đã thọ ký vị này là bậc Tổng trì đệ nhất, bậc Đa văn trí tuệ như biển, ghi nhớ chấp trì giáo pháp của Phật, đem nghĩa lý vi diệu tuyên nói lại cho khắp cõi trời người cúng dường. A-nan cũng có thể thấu rõ tâm ý của Đức Phật cùng tất cả công đức thiện xảo của các pháp.

Vua nghe lời này thì rất vui mừng, lấy một ức lượng vàng để bố thí cúng dường xây tháp. Đại thần hỏi:

- Tại sao các tháp được cúng dường, mà tháp này lại tối thắng hơn cả?

Vua đáp:

- Vì đây là bậc tổng trì pháp thân của Đức Phật khiến cho ngọn đèn pháp đến nay vẫn chưa bị hủy diệt. Công lực của Tôn giả cũng như trân châu không nhận nước biển. Còn trí tuệ của Đức Phật thì A-nan đều lãnh thọ. Vì nhân duyên đó mà trong các tháp cúng dường tháp này là hơn cả.

Vua đã cúng dường tháp của chư đại đệ tử xong thì rất vui mừng đảnh lễ Tôn giả, rồi chắp tay cung kính nói kệ:

Trải qua ngàn năm
Mới được làm người
Tôi nay đã được
Lãnh thọ thân này
Thật là phước điền
Đầy đủ nhân duyên
Xả mọi ác tái
Mà tu pháp đạo
Tạo tháp khắp nơi
Trang nghiêm Phù-đề
Dụ như mây trắng
Che cả hư không
Nay gặp Phật pháp
Thanh tịnh vô biên.

Nói kệ xong, rồi kính lễ trở về. Vua A-thứ-già cho xây tháp nơi Phật đản sinh tại gốc cây Bồ-đề. Cho xây tháp nơi Phật chuyển pháp luân, nơi Phật nhập Niết-bàn. Mỗi nơi đều cúng dường trăm ngàn lượng vàng. Riêng tháp nơi cây Bồ-đề thì lòng tôn trọng hơn hết. Vì sao? Vì Phật ở chỗ này tu hành Chánh giác. Từ đó về sau, đạo pháp được lưu chuyển khắp nơi. Vua thường đem trân báu đến cúng dường nơi tháp Bồ-đề này. Vị Đệ nhất phu nhân của vua là Đế-thất-la-xoa suy nghĩ: "Vua đem bảo vật cúng dường cho tháp Bồ-đề quả là ít thấy." Bà liền cho gọi Chiên-đà-la Ma-đăng-già đến nói:

- Ngươi có thể hủy hoại cây này được không?

Đáp:

- Nếu cho tôi tiền thì tôi làm được.

Bà liền cho tiền người kia. Ma-đăng-già vì tâm ý không thấu triệt, bèn đến cây Bồ-đề đọc chú thuật làm cho cây khô héo dần. Người giữ cây vào thưa với vua là cây Bồ-đề nay đã khô héo, lại nói kệ:

Như Lai tại chốn này
Giác ngộ khắp thế gian
Đều đắc đạo Bồ-đề
Chứng thành nhất thiết trí
Nay cây sắp bị hoại
Lần hồi muốn héo khô.

Vua nghe lời này thì tâm sầu não, ngã quỵ xuống đất, kẻ tử sĩ lấy nước rửa mặt hồi lâu vua mới tỉnh dậy. Vua lại khóc lóc than rằng:

- Ta nay thấy cây thọ vương này cũng như được thấy Đức Phật.

Nay cây mà bị hủy hoại thì ta tất sẽ chết.

Đề-xá-la-xoa liền bạch với vua:

- Cây Bồ-đề tuy đã chết, thì vẫn còn có thiếp đây vui vẻ cùng đại vương.

Vua nói:

- Bồ-đề là cây chứ chẳng phải nữ nhân.

Đó là chỗ Đức Phật đắc đạo quả Vô thượng.

Đề-xá-la-xoa nghe lời này thì tâm kinh sợ hối hận, bèn nói lại với Ma-đăng-già rằng:

- Ngươi có thể làm cho cây xanh trở lại như cũ không? Đáp rằng:

Nếu cây chưa khô hết, còn một ít sinh khí thì có thể xanh lại.

Sau đó thì giải chú cho cây, rồi lấy nước tưới vào. Chẳng bao lâu cây xanh tốt như cũ. Người giữ cửa lại đến thưa với vua là cây đã xanh lại. Vua nghe nói thì hết sức vui mừng, liền đi đến chỗ cây xem xét và nói:

- Vua Tần-bà-ta-la không có chỗ nào mà không làm. Còn ta, ngày nay làm được hai việc. Một là tạo ngàn cái bình bằng báu vật đựng đầy hương hoa để cúng dường tưới cây Bồ-đề; hai là thiết đại hội trai đàn thật trang nghiêm vĩ đại.

Vua cho đem các loại kim ngân, lưu ly làm thành ngàn cái bình báu đựng đầy nước hương để tưới cây. Vua tự tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới, thọ trì tám ngày trai giới. Sau đó vua đứng trên lầu quán xét khắp bốn phương, khấn nguyện:

- Xin chư vị chúng Thanh văn đệ tử của Phật, tu hành chánh kiến, các căn an định, diệt hết mọi tham dục kiết phược. Trời, người, A-tu-la đều cúng dường, nguyện xin rũ lòng lân mẫn, thọ trì lời thỉnh cầu của con, cùng vui trong pháp thiền định, trí huệ giải thoát cùng chư vị chúng tăng tối thắng. Ở trong pháp thiện thệ mà thường nhận lời thỉnh cầu của con, nơi nước Kế tân ngày đêm đều vô úy. Chư vị Thánh giả cũng thùy từ nhận lời lãnh thọ của con. Đấng A-nậu ở những nơi sông núi hang đá, từ các chốn hương sơn, xin từ mẫn nhận lời thọ thỉnh của con.

Vua thỉnh cầu như thế xong. Ở khắp bốn phương, có ba mươi vạn vị Tăng cùng đến. Mười vạn Tăng là A-la-hán. Hai mươi vạn là các bậc Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và các bậc phàm phu thanh tịnh đều cùng đến an tọa. Duy có chỗ ngồi trên thượng tọa thì không ai dám ngồi. Vua hỏi chư vị Thượng tọa:

- Vì sao chỗ này để trống? Đáp rằng:

- Vị Thượng tọa sẽ ngồi vào đây? Vua hỏi:

- Vị Thượng tọa đó lớn hơn quý vị nữa sao? Da-xá đáp:

- Xưa Phật có thọ ký cho một vị Sư tử hống tối ưu đệ nhất tên là Đầu-lô-bạt-la Đậu-bà-la. Vị này rất tôn trọng trong Phật pháp.

Vua nghe nói thì các lỗ chân lông đều dựng đứng lên như hoa Già-đàm. Vua lại hỏi:

- Có vị nào thấy Phật không? Da-xá đáp:

- Có Tân-đầu-lô A-la-hán thấy Phật lúc đương thời. Vua hỏi:

- Nay có thể gặp vị ấy được không? Đáp:

- Được. Rồi vua sẽ thấy. Vua rất vui mừng nói:

- Tôi quả thật được nhiều lợi ích. Nay xin lân mẫn cho tôi thấy được vị Tân-đầu-lô.

Nói xong thì vua chắp tay chiêm ngưỡng đứng đợi.

Vừa lúc đó thấy vị Tân-đầu-lô hình như nửa mặt trăng, lại giống như nga vương, cùng vô số bậc A-la-hán, từ trên không trung đi xuống ngồi trên tòa cao.

Ba mươi vạn chúng đều sinh lòng cung kính. Vua thấy vị Tân-đầu-lô tóc trắng, lông mày thanh tú, thân tướng hảo như Bích-chi-phật, bèn năm vóc lễ lạy xuống đất, nói kệ rằng:

Như Lai tuy diệt độ
Tôn giả bổ xứ sinh
Ai mẫn thùy giáo thọ
Con nay tùy thuận theo.

Nói xong, bèn hỏi Tôn giả rằng:

- Ngài có thấy Đức Như Lai không? Đáp:

- Ta có thấy, sắc Phật như vàng rồng, mặt như trăng đầy, có ba mươi hai tướng trang nghiêm nơi thân. Tiếng phạm âm thâm diệu, lòng đại bi soi khắp đất trời.

Vua lại hỏi:

- Ngài thấy Đức Phật ở chỗ nào? Tôn giả đáp:

- Đức Phật cùng năm trăm vị A-la-hán, tại thành Vương xá kiết hạ an cư. Ta ở trong đó thấy đầy đủ phước điền. Phật ở tại thành Xá-vệ hiện thần thông hàng phục các ngoại đạo, những người ấy rồi được Đức Phật hóa độ mà lần lượt tu đạo giải thoát, ta cũng ở trong đó. Khi Đức Phật lên cung trời Đao lợi thuyết pháp độ mẹ, chư Thiên đều vây quanh. Khi Phật trở xuống ta cũng ở trong đó. Khi Phật đến ao Tăng-già-thi-sa, ta cũng ở tại đó. Khi Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc Chuyển luân Thánh vương ta cũng có mặt. Khi Tô-ma-già-đề ở thành Mãn phú thỉnh Đức Phật, có năm trăm vị Lahán hiện thần thông bay đến thành Mãn phú. Khi ấy ta đang hóa đạo ở núi Báo. Từ trong hang báu đi đến thành Mãn phú. Khi Đức Phật đi khất thực ở thành Vương xá, ngươi đem đất đến cúng dường, còn La-đề-cúc-đa chắp tay tùy hỷ. Khi Đức Phật thọ ký cho ngươi ta cũng có thấy.

Vua lại hỏi Tôn giả:

- Gần đây Đức Phật ở đâu? Tôn giả đáp:

- Ngài ở tại núi Hương sơn. Lại hỏi rằng:

- Thế thì đại chúng có bao nhiêu? Đáp:

- Sáu vạn người. Này Đại vương! Còn bao nhiêu câu hỏi hãy đợi chúng Tăng thọ thực xong ta sẽ trả lời đầy đủ, đến giờ chúng Tăng thọ thực rồi.

Vua nói:

- Xin vâng lời Tôn giả dạy.

Tôi trước đây phát tâm luôn nghĩ đến Đức Phật. Vậy nên tưới cây Bồ-đề trước rồi sau hãy thọ thực.

Vua liền gọi Duy-na Tát-bà-mật-đa lại nói rằng:

- Ta đem mười vạn lượng vàng để cúng dường chúng Tăng và lấy ngàn bình báu đựng đầy hương để tưới cây Bồ-đề. Có thể đánh kiền chùy xưng ta là Đàn-việt làm trai đàn cúng dường chư Thánh chúng.

Lúc này vương tử Câu-na-la đứng đối diện mà không nói gì, chỉ đưa tay lên ngụ ý nói: "Tôi sẽ cúng gấp bội." Mọi người trông thấy đều cười. Vua cũng cười, nói với La-đề-cúc-đa:

- Ông thấy thế nào? Đáp:

- Chúng sinh quá tham lam làm phước. Vua bảo:

- Tôi sẽ đem ba mươi lượng vàng cúng dường chúng Tăng. Dùng ba mươi sáu ngàn bình báu đựng đầy nước hương hoa để tưới cây Bồ-đề.

Bấy giờ Câu-na-la lại đưa lên bốn ngón tay.

Vua nói với La-đề-cúc-đa:

- Có ai cùng ta cạnh tranh?

La-đề-cúc-đa quỳ xuống thưa:

- Ai có thể dám cạnh tranh cùng nhà vua. Vương tử chỉ nói đùa thôi.

Lúc này, vua quay qua thấy Câu-na-la thì thưa với Thượng tọa:

- Tôi đem cả kho tàng, cùng tất cả cung nhân trong cung, các quan phụ tướng, cùng vương tử Câu-na-la và cả thân tôi đều cúng dường chúng tăng. Xin ghi tên tôi lên bảng công đức.

Bố thí xong rồi, chư Tăng cùng chú nguyện. Thọ chú nguyện xong ở nơi gốc cây Bồ-đề, bốn bên đều có phân cách ra, vua đứng ở trên cao lấy bốn ngàn bình báu đựng đầy hương hoa để tưới cây. Tưới cây xong, lại thiết trai cúng dường cho đại chúng.

Thượng tọa Da-xá nói:

- Vua gặp được thắng phước điền, chớ sinh lòng ưu não.

Vua tự mình đi chia thức ăn cho các vị Sa-di. Lúc bấy giờ có hai vị Sa-di nhỏ tuổi đang hành trì rất kính cẩn. Vị này đem cơm cúng dường vị kia. Vị kia lại lấy phần cơm cúng lại cho vị này, lại lấy bánh cúng dường cho nhau. Cả hai cùng hoan hỷ cúng và cúng dường qua lại. Vua thấy thế thì cười mà nói rằng:

- Các vị tuổi trẻ thích vui chơi nhỉ?

Khi vua đưa thức ăn đến chỗ Thượng tọa. Thượng tọa hỏi:

- Vua thấy việc mất oai nghi, có sinh tâm hiềm tỵ không? Vua nói:

- Không có, chỉ có hai vị Sa-di trẻ tuổi, vui đùa như trẻ con.

Thượng tọa nói:

- Đại vương! Xin chớ có hiềm tỵ. Hai vị Sa-di này đã giải thoát chứng quả A-la-hán rồi.

Vua nghe nói thì càng hoan hỷ, nghĩ rằng: "Ta nay nên cúng dường cho hai vị Sa-di này mỗi vị một tấm lụa dài."

Hai vị Sa-di biết được tâm niệm của vua liền nghĩ: "Nay phải làm cho vua càng phát lòng kính tin."

Thế là một vị đem một cái chảo ra, vị kia đem thuốc nhuộm. Vua trông thấy liền hỏi:

- Hai vị định làm việc gì? Đáp:

- Muốn nhuộm vải. Vì biết Vua cúng cho chúng tôi một tấm lụa dài.

Vua nghe nói vậy liền nghĩ: "Hai vị Sa-di này đã biết được tâm niệm của ta." Lúc này vua càng hoan hỷ, năm vóc lễ lạy xuống chân Sa-di, sau đó rồi đứng dậy, chắp tay thưa:

- Quyến thuộc chúng con hôm nay thật đại lợi nên gặp được đại phước điền. Chúng con xin đem hết sức để cúng dường.

Rồi vua nói với hai vị Sa-di:

- Nay vì chúng Tăng xin cúng mỗi vị ba y.

Sau đó vua lại thiết đại hội, đem bốn vạn lượng vàng, cùng thân mình Quốc độ, chư quần thần, cung nhân và vương tử Câu-na-la để cúng dường chúng Tăng, cúng dường xong rồi thì trở về cung.

Vua A-thứ-già lòng kính tin đã đầy đủ, khởi tâm xây tám vạn bốn ngàn tháp báu cùng thiết lễ cúng dường xong. Nhân dân khắp cả cõi Diêmphù-đề đều kính tin và hướng về Phật pháp.

--------------------------------

BỔN DUYÊN VỀ NGƯỜI EM CỦA VUA ATHỨ-GIÀ

Em của vua A-thứ-già là Túc Đại Sĩ, tin theo ngoại đạo chê bai Phật pháp, ông thường nói rằng:

- Những người xuất gia làm Sa-môn đều không được giải thoát.

Lúc đó A-thứ-già nói với Túc Đại Sĩ:

- Làm sao ngươi biết? Đáp:

- Các Sa-môn không tu khổ hạnh mà chỉ thích đắm trước lạc thú, vui chơi.

A-thứ-già liền bảo:

- Những điều đáng tin thì ngươi lại không chịu tin.

Còn điều không đáng tin thì lại tin.

Đối với Phật, Pháp, Tăng phải sinh lòng chánh tin mới phải.

Một lần vua cùng đi săn bắn với Túc Đại Sĩ.

Thấy một vị Bà-la-môn nướng thân mình trên ngọn lửa.

Túc Đại Sĩ sinh tâm kính tin, mới đến bên lễ lạy thưa rằng:

- Đại sĩ tu khổ hạnh này đã được bao lâu? Vị kia đáp:

- Đã mười hai năm. Hỏi:

- Việc ăn uống như thế nào? Đáp:

- Tôi chỉ ăn rễ và trái cây. Hỏi:

- Mặc những gì? Đáp:

- Mặc áo cỏ. Hỏi:

- Thế thì Lấy gì để nằm ngồi? Đáp:

- Trải chiếu cỏ để ngồi. Lại hỏi:

- Ngài vì cớ gì lại tu pháp khổ hạnh này? Đáp:

- Tôi vì thấy các loại côn trùng cùng muôn thú thì sinh tâm sát hại rất mạnh, cho nên mới tu pháp khổ hạnh này.

Túc Đại Sĩ nói:

- Ông mặt áo xấu, ăn ở cực khổ mà vẫn sinh tham dục. Huống chi các vị Sa-môn thích mặc y phục tốt đẹp, ăn ngon thì sao lại có thể đoạn dục? Anh của tôi là vua A-thứ-già, quả thật không biết phân biệt, bị bọn Sa-môn lừa dối.

A-thứ-già nghe người em nói vậy liền bảo với quan phụ tướng:

- Phải tìm cách để cho Túc Đại Sĩ sinh lòng tín giải.

Quan phụ tướng thưa:

- Xin vua cứ ra lệnh.

Vua liền cởi mũ và châu báu anh lạc, y phục ra để đi tắm.

Quan phụ tướng bảo với Túc Đại Sĩ:

- Vua nếu mất thì Ngài sẽ thay thế. Nay thử đội mũ, mặc y phục vua vào và các châu báu anh lạc xem có đẹp không?

Túc Đại Sĩ nghe lời mặc y phục của vua vào rồi lên ngai vàng của vua mà ngồi. Vua tắm xong ra thấy vậy thì nói:

- Ta còn chưa chết mà ngươi đã muốn làm vua.

Liền kêu to lên:

- Có ai ở đây không?

Bấy giờ có Chân-đà-la chạy ra, một tay cầm kiếm, một tay cầm linh đến bên vua thưa:

- Ngài ra lệnh gì? Vua truyền lệnh:

- Ta và Túc Đại Sĩ không còn tình nghĩa gì nữa.

Các ngươi hãy mau trị tội cho ta.

Quan phụ tướng tâu:

- Túc Đại Sĩ là em của ngài, xin cho được sám hối sửa đổi. Vua nói:

- Theo lời xin của ngươi, ta cho làm vua trong bảy ngày, rồi sau hãy giết. Trong bảy ngày đó cho trăm ngàn loại kỷ nhạc, trăm ngàn vị Bà-la-môn chắp tay xưng tụng, trăm ngàn kỹ nữ vây quanh hầu hạ. Sẽ có bốn Chân-đà-la, tay cầm hung khí, mặt hầm hầm sát khí, đứng trong bốn cửa cất tiếng lớn rằng: "Một ngày đã qua, chỉ còn sáu ngày nữa, sẽ mổ xẻ thân ngươi ra từng phần. Ngày đoạn tuyệt mạng ngươi sẽ không còn bao lâu nữa."

Một ngày cho đến bảy ngày đều xướng lên như thế. Qua bảy ngày thì đem Túc Đại Sĩ ra, vua hỏi:

- Trong bảy ngày qua ngươi có được vui vẻ không? Đáp:

- Tôi trong bảy ngày mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi mùi vị. Vì sao? Vì thấy bọn Chân-đà-la tay cầm kiếm xướng lên: "Ngươi đã một ngày làm vua, chỉ còn sáu ngày nữa." Ngày ngày đều nghe như thế. Trong suốt bảy ngày đó lửa sinh tử luôn bức bách bên mình, cứ lo sợ đêm ngày không ngủ được thì lấy gì làm vui.

Vua nói:

- Ngươi vì sợ thân mình chết mà không thấy ngôi vị là vui thích. Huống chi các vị Sa-môn Thích tử, luôn quán xét sự khổ ưu bi của sinh lão bệnh tử. Cái khổ của cảnh địa ngục thiêu đốt, cái khổ về sự bị tàn hại khủng bố của loài súc sinh. Cái khổ đói khát của ngạ quỷ. Người có nhiều phước lạc mà còn phải chịu tám khổ bức bách nơi thân, huống chi là người không có phước. Chư Thiên tuy được hưởng thọ lạc thú mà khi năm tướng suy hiện ra cũng phải chịu khổ. Tất cả loài người trong tam giới luôn bị khổ về thân, về tâm bức bách. Năm ấm như bọn Chân-đà-la, sáu tình như tụ giữa hư không. Năm trần như oán tặc. Tam giới đều là lửa vô thường thiêu đốt. Tất cả sự vô thường khổ không ấy chính là ta. Như thế, thì tại sao cho là các bậc Sa-môn Thích tử không tu khổ hạnh thì không giải thoát. Chí nguyện của Sa-môn, dù ở trong cảnh vui thú mà vẫn không bị ô nhiễm. Thí như hoa sen tuy ở trong bùn mà vẫn không bị bùn làm cho ô nhiễm. Sự chán ghét của cái hoạn sinh tử ở thế gian cũng như thế. Làm sao lại không đạt được quả giải thoát.

Vua dùng đủ phương tiện để giải bày cho Túc Đại Sĩ. Túc Đại Sĩ nghe xong liền chắp tay thưa:

- Đại Vương! Tôi nay muốn quy y Tam bảo. Vua A-thứ-già liền ôm lấy cổ em nói:

- Ta vì muốn em tin Phật pháp cho nên mới bày ra cách này, chứ nào muốn giết em.

Túc Đại Sĩ đem hương hoa đến cúng dường tháp Phật, cầu xin nghe pháp, cúng dường cho chúng tăng. Sau đó đến chùa Kê-đầu-ma của Thượng tọa Da-xá ngồi trước pháp tòa để nghe thuyết pháp. Khi ấy thượng tọa Da-xá quán thấy Túc Đại Sĩ đã trồng thiện căn nhiều đời, nay đã đến lúc thuần thục, hiện thân để nhập Niết-bàn. Thế là Thượng tọa tán thán về pháp xuất gia. Túc Đại Sĩ nghe xong thì rất vui mừng, muốn cầu xin xuất gia liền đứng dậy thưa:

- Xin Tôn giả cho tôi ở trong Phật pháp, hôm nay muốn được xuất gia học đạo.

Tôn giả hỏi:

- Vương tử nên về thưa lại với Vua trước. Túc Đại Sĩ về tâu với vua:

- Đại Vương! Xin cho tôi được xuất gia. Tôi lâu nay là kẻ cuồng si như voi ác không có câu móc kìm giữ. Vua dùng phương tiện dẫn dắt cho tôi được trở lại thuần lương chơn thiện. Vậy xin thương xót cho tôi được xuất gia tu đạo giải thoát.

Vua nghe nói thì ôm lấy em mà rơi lệ nói rằng:-Chớ nên phát ý tưởng như vậy. Vì sao? Vì xuất gia là lãnh nhận các pháp xú lậu. Mặc y vải thô xấu, ăn thức ăn của người ta bỏ ra, ngủ thì dưới gốc cây, nằm ngồi thì cũng trên cây cỏ, bệnh thì uống thuốc bằng lá cây. Em nay từ nhỏ đã quen sống sung sướng, không kham nổi việc đói khát nóng lạnh đâu. Em nên từ bỏ ý định này đi.

Túc Đại Sĩ nói:

- Tôi nay không ham thích ngôi vị, cũng không thích sự hưởng lạc của cõi trời, cũng không vì các khổ não bức bách, cũng không tham tiền tài trân bảo, cũng không lo sợ kẻ oán địch mà xuất gia. Duy chỉ vì sợ các khổ sinh tử lão bệnh mà cầu xuất gia.

Vua nghe lời này liền khóc lớn lên. Túc Đại Sĩ nói:

- Đại Vương đừng khóc. Việc sinh tử mãi mãi lưu chuyển không ngừng, có hợp tất có chia lìa, thì có gì phải khóc lóc.

Vua nói:

- Em nay phải thử việc đi khất thực đã, cũng như việc tọa thiền dưới gốc cây, ngủ trên cỏ.

Thế rồi vua đưa bình bát tích trượng cho em và bảo vào cung khất thực.

Bọn cung nhân thấy vậy đều đem các món ăn ngon ra cúng dường.

Vua trách:

- Tại sao các ngươi chỉ cúng các thức ăn ngon thế này. Phải đem các thức dư thừa, bình thường mà đem cúng thí cho vương tử.

Túc Đại Sĩ thọ nhận các món ăn dở xấu mà cũng không hề chê trách. Vua thấy vậy thì nói:

- Nay cho em xuất gia. Sau khi xuất gia phải về đây thăm ta.

Túc Đại Sĩ được vua cho phép liền nghĩ: "Nếu ta đến chùa Kê-đầu-ma xuất gia, thì nơi đây huyên náo sẽ gây chướng ngại."

Thế là Túc Đại Sĩ đi đến một nơi cách xa Vương thành xin xuất gia học đạo. Ngài chuyên tâm tu tập nên chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán.

Ngài lại suy nghĩ: "Ngày trước vua A-dục cùng ta có lời giao kết: Nếu ta xuất gia phải về thăm vua."

Túc Đại Sĩ liền đắp y trì bát đi về thành Hoa thị khất thực. Lần đến trước cung vua, nói với người giữ cửa:

- Túc Đại Sĩ muốn ra mắt vua. Người giữ cửa liền vào tâu với vua:

- Túc Đại Sĩ đang ở ngoài cửa muốn vào ra mắt vua.

Vua nghe vậy liền cho vào. Vừa thấy mặt em liền bước xuống tòa, năm vóc làm lễ sát đất, rồi đứng dậy chắp tay nhìn Đại Sĩ, rơi lệ nói rằng:

Tất cả loài sinh chủng
Gặp nhau đều hoan hỷ
Ta nay trông thấy em
Không cảm tình thân ái
Người chắc chứng thắng quả
Cam lồ trải đầy thân.
La-đề-cúc-đề trông thấy.

Túc Đại Sĩ mặc y phấn tảo, chấp trì bình bát đi khất thực, ngon dở đều thọ nhận, thì cũng hướng về mà nói kệ:

Quán Túc Đại Sĩ Thiểu dục tri túc
Việc làm đã xong Cho nên hoan hỷ
Bỏ ngôi vị vua Cùng thành Hoa thị
Trân bảo kho tàng Vinh quang lộc phước
Như bỏ nước bọt Vào hàng Thánh chủng
Đoạn trừ kết sử Đầy đủ nhân duyên
Được đại danh xưng Ai cũng khen ngợi.

Khi đó vua A-thứ-già đỡ Túc Đại Sĩ lên ngồi trên tòa rồi bày những thức ăn ngon tự tay cúng dường Tôn giả. Ăn xong thì dâng nước uống thanh tịnh. Xong vua lấy tòa nhỏ đặt trước mặt Tôn giả mà cầu nghe thuyết pháp. Túc Đại Sĩ liền nói kệ:

Vương vị cao quý chớ buông lung
Tam bảo khó gặp nên cúng dường.

Thuyết kệ xong liền đứng dậy khỏi tòa đi ra. Vua cùng năm trăm quần thần và nhân dân trong thành vây quanh cung kính tiễn đưa ra tới cổng. Ai cũng muốn được trông thấy Tôn giả thị hiện chứng quả Sa-môn. Túc Đại Sĩ suy tư: "Anh ta ngày trước đã dùng nhiều phương tiện để khuyến hóa ta quay về Phật pháp. Nay phải khiến cho người tăng thêm lòng kính tin". Tôn giả liền bay lên hư không biến hóa khôn lường. A-dục vương cùng các quần thần chắp tay nói kệ:

Đoạn trừ mọi tình thâm
Như chim bay không về
Ta ở ngôi vị vua
Lãnh thọ muôn việc đời
Vì hiềm trách lòng này
Mà tự tìm giải thoát
Phước báo như thế này
Do tâm được tự tại
Quả báo tu thiền định
Kẻ ngu lầm không thấy
Người nay phi thân đi
Phá lòng kiêu mạn ta
Ta trí lực tuy nhỏ
Cũng khởi niệm xa lìa.

Thế là Túc Đại Sĩ đi về cõi biên địa tịnh tu.

Đi đến nước khác thì bị bệnh nặng, đầu tóc đều rụng hết.

Vua nghe Tôn giả bị bệnh thì sai thầy thuốc mang lương dược đến chữa trị. Bệnh có hết chút ít rồi sau lại phát sinh như cũ. Vua lại phái thầy thuốc đến nữa. Về sau Túc Đại Sĩ nhân uống sữa mà thân thể dần mạnh khỏe trở lại. Rồi vào trong núi hoang vắng tu tập.

Lúc này có Phất-na-bàn-đặc là đệ tử của Nikiền Đà.

Vẽ hình tượng Phật làm hình Ni-kiền Đà để lễ bái.

Hàng phật tử Ưu-bà-tắc đem việc này tâu lên vua A-thứ-già rằng:

-Đệ tử ngoại đạo của Ni-kiền Tử tự họa hình phật làm hình Ni-kiền-tử để cho ngoại đạo lễ bái.

Vua nghe nói thì giận dữ ra lệnh bắt hết bọn Nikiền Tử trong khoảng chu vi bốn mươi dặm.

Trong một ngày mà giết hết tám vạn bốn ngàn bọn Ni-kiền Tử.

Tại thành Hoa thị cũng có bọn Ni-kiền Tử họa hình Phật làm hình

Ni-kiền Tử để lễ lạy. Cũng có Ưu-bà-tắc tâu với vua. Vua nổi giận cho bắt hết bọn Ni-kiền Tử và quyến thuộc cho vào lửa thiêu.

Lại đánh trống ra lệnh nếu ai bắt được Ni-kiền Tử thì thưởng tiền.

Khi đó, Túc Đại Sĩ đến chỗ Ni-kiền Tử tá túc qua đêm. Vì vừa bệnh xong nên áo quần dơ xấu tóc tai dài lượt thượt, hình hài rất giống Ni-kiền Tử. Có một ác quỷ cầm dao bước đến đứng trước mặt.

Túc Đại Sĩ liền nghĩ: "Ta nay do túc duyên nhiều đời, nên trả báo bị quỷ sát hại."

Quỷ vì cho đây là Ni-kiền Tử liền chém đầu, đem đến vua để cầu lãnh thưởng.

Vua nhìn thấy biết là Túc Đại Sĩ, lại nghe nói Sa-môn bị hại lầm rất nhiều. Nên đau đớn muộn phiền té xỉu xuống đất. Khi vua tỉnh dậy, quan phụ tướng liền thưa:

- Nay chư Sa-môn bị lạm sát rất nhiều. Vua nên ban chiếu thi ân để dân chúng yên ổn không lo sợ.

Vua liền ra lệnh:

- Từ nay về sau cấm không được giết hại Samôn.

Chư Tỳ-kheo lòng đầy nghi hoặc mới bạch Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa:

- Vì nhân duyên gì mà Túc Đại Sĩ bị quỷ sát hại? Đáp:

- Các ông nên lắng nghe đây: Về đời quá khứ có một người thợ săn đặt bẫy ở bên dòng sông. Có một Bích-chi-phật khất thực đi ngang qua đây. Đến bên chỗ đặt bẫy dưới gốc mà ngồi. Người thợ săn không thể bẫy được con này mới nghĩ không hiểu vì sao hôm nay sao không có con thú nào đến. Liền đi đến xem thì thấy vị Bích-chi-phật ngồi đó, thì tức giận lấy dao chém chết. Người thợ săn nay chính là Túc Đại Sĩ. Vì do túc nghiệp giết vị Bíchchi-phật nên bị đọa vào địa ngục. Trải qua vô lượng kiếp chịu nhiều khổ não. Cho đến ngày đắc đạo còn phải trả báo bị quỷ chém chết.

Vị Tỳ-kheo lại hỏi:

- Còn nhân duyên gì mà được sinh ra vào nhà quý tộc, tu hành đắc đạo A-la-hán.

Đáp:

- Vào đời quá khứ vào thời Đức Phật Ca-diếp, vị ấy thường cúng dường chúng Tăng. Do phước báo này mà sinh vào nhà quý tộc. Khi ấy lại phát tâm xuất gia, trải qua một vạn năm tu hành khổ hạnh. Do thiện nhân đó mà đắc quả A-la-hán.

QUYỂN 3

Phu nhân của vua A-thứ-già tên là Liên Hoa, hạ sinh một hoàng tử tên là Pháp Tăng. Quan phụ tướng bạch vua rằng:

- Vua nên vui mừng, vì sao? Vua đã có một hoàng tử diện mạo khôi ngô, đoan chánh, lại có đôi mắt rất xinh đẹp tối diệu.

Vua nghe nói thì rất đỗi vui mừng mà nói rằng:

- Hậu tự của tiên nhân đều có đại danh xưng. Ta nay được tăng trưởng đạo pháp mới sinh được đứa con này.

Rồi vua đặt tên cho con là Tăng Pháp. Người nhũ mẫu bế đứa bé đến chỗ vua. Vua trông thấy con lòng càng yêu mến, liền nói kệ:

Đôi mắt này tối thắng
Vì có nhiều phước đức
Như sinh vào Liên Hoa
Trang nghiêm trên vẻ mặt
Cũng như mặt trăng đầy
Người thấy đều hoan hỷ.

Nói kệ xong, vua quay qua hỏi quan phụ tướng:

- Có thấy ai có đôi mắt như hoàng tử của ta không? Quan phụ tướng đáp:

- Ở loài người thì chưa từng thấy, duy chỉ nghe trên núi Tuyết sơn có chim tên Câu-na-la, có đôi mắt rất đẹp.

Vua liền gọi Dạ-xoa đến:

- Người đến ngay núi Tuyết bắt chim Câu-nA-la về cho ta.

Ta muốn được nhìn thấy tận mắt.

Dạ-xoa theo lệnh vua đi đến núi tuyết, chỉ trong khoảnh khắc là bắt được chim Câu-na-la và bắt về cho vua.

Vua thấy chim mắt nhỏ mà lại đẹp, giống như mắt hoàng tử. Do đó mà đặt tên cho con là Câu-nA-la. Tên này được lưu bố rộng rãi, mọi người đều biết đến. Từ đó lấy hiệu là Câu-na-la. Sau này vương tử Câu-na-la lớn lên có vợ tên là Chơn-kimman. Khi ấy, vua cùng với hoàng tử đi đến chùa Kê-đầu-ma, vị Thượng tọa ở đó quán thấy Câu-nA-la không bao lâu nữa sẽ bị mất đôi mắt. Thượng tọa nói với vua:

- Sao không bảo hoàng tử Câu-na-la phải thường đến đây để nghe pháp.

Vua bảo hoàng tử:

- Con phải tùy thuận theo lời Hòa thượng dạy.

Câu-na-la chắp tay thưa:

- Ngài có điều gì chỉ dạy con nguyện nghe theo. Thượng tọa nói:

- Mắt là vật vô thường, ta không thể nương cậy suốt đời.

Ngươi nên phát nguyện tu theo Giới Định Tuệ. Câu-na-la nghe theo lời dạy của Hòa thượng, trở về cung tìm chỗ tự tư duy. Quán mắt là khổ không vô thường, khổ không vô ngã.

Lúc này bà Đệ nhất phu nhân của vua A-dục là Đế-thất-la-xoa nhìn thấy Câu-na-la ngồi một mình. Bà cảm thấy yêu mến cặp mắt của vương tử, bèn tới ôm lấy Câu-na-la và nói:

- Lửa dữ đang thiêu đốt cả núi rừng hoang dã, lòng dâm dục cũng bức bách ta như thế. Ngươi nay hãy cùng với ta chung vui lạc thú nơi đây.

Câu-na-la nghe lời này thì lấy hai tay bịt tai lại nói rằng:

Đây là lời bất thiện
Bịt tai không muốn nghe
Người là bậc làm mẹ
Sao cùng con vô luân
Tâm phi pháp không đoạn
Cửa ác càng vào sâu.

Đế-thất-la-xoa nổi giận:

- Người không đồng ý thì chẳng bao lâu nữa ta sẽ giết ngươi.

Câu-na-la lại nói kệ tiếp:

Chết mà giữ pháp tịnh Không thuận ý tà tâm

Phá hoại đạo thiên nhân Thánh hiền đều quở trách.

Đế-thất-la-xoa từ đó về sau thường tìm lỗi của Câu-na-la.

Lúc này ở phía Bắc có nước tên là Kiền-đà-la. Thành nước này là Xoa-thi-la. Nhân dân trong thành đó tạo phản nghịch không phục vương triều của vua A-dục. Vua A-dục muốn tự mình đi thảo phạt.

Quan phụ tướng liền can:

- Vua không cần phải đi, chỉ cần sai một vương tử đi chiêu dụ là được.

Vua bảo Câu-na-la:

- Con có thể thay ta đi chinh phục được không?

Đáp:

- Tâu phụ vương! Con xin đi.

Vua biết ý con muốn đi bèn cho sửa sang đường sá, ra lệnh cho những kẻ bệnh hoạn già yếu và bọn ăn mày phải tránh xa con đường mà vương tử đi qua. Vua A-thứ-già cùng lên xe đưa thái tử ra khỏi thành. Lúc sắp chia tay liền ôm lấy cổ con khóc rồi nói rằng:

- Người kia phước đức rồi sẽ nhìn thấy mắt con. Có vị tướng sư bảo ta yêu đôi mắt này mà nó không bao lâu nữa sẽ bị hủy hoại. Thấy đôi mắt con lòng thật vui vẻ. Mai này mắt kia mất đi thì đau xót vô cùng.

Câu-na-la đi lần đến nước Xoa-thi-la. Dân chúng trong thành nghe Câu-na-la đến đều lo sửa sang đường phố, đem đầy hương hoa phủ đầy ngoài đường để cung nghinh. Khi nhìn thấy Câuna-la đến liền thưa:

- Nhân dân nước tôi không có lòng phản vua, cũng không phản vương tử, chỉ có bọn ác thần ở bên vua xúi dục tạo phản mà thôi.

Sau đó mọi người thiết bày đủ nghi thức cung kính vây quanh thái tử rồi đưa Câu-na-la vào thành. Khi ấy vua A-thứ-già sinh trọng bệnh. Trong miệng đầy mùi hôi thối, các lỗ chân lông đều tỏa mùi hôi như vậy mà không ai trị được. Vua bảo với đại thần:

- Đi gọi Câu-na-la về để lên ngôi. Ta chắc chẳng sống bao lâu nữa.

Đại phu nhân Đế-thất-la-xoa nghe vậy liền suy nghĩ: "Nếu Câu-na-la lên làm vua, thì ta khó mà sống được." Bà liền tìm cách thưa với vua:

- Chớ cho thầy thuốc vào nữa, thiếp sẽ trị lành bệnh cho vua.

Vua không cho các thầy thuốc vào cung nữa. Đệ nhất phu nhân ra lệnh cho bọn họ rằng:

- Nếu ai có bệnh như vua, cẩn thận chớ có chữa trị mà phải đem vào đây.

Khi đó có một người cũng có bệnh như vua.

Người vợ liền tìm đến thầy thuốc nói:

- Chồng tôi cũng bị bệnh như thế.

Thầy thuốc bảo đem lại đây. Khi người bệnh được đưa vào thì thầy thuốc bèn đưa vào cung cho phu nhân. Đế-thất bèn giết người ấy, mổ bụng ra xem thì thấy một con trùng lớn trong đó. Khi trùng bò lên thì phân cũng theo lên. Trùng bò xuống thì phân cũng theo xuống. Đem bỏ các loại mạt tiêu, các loại thức cay khác mà nó vẫn không chết. Sau cùng bà bèn đem hành bỏ vào thì trùng mới chịu chết và phân được tống ra ngoài. Do đây mà khuyên vua nên ăn hành.

Vua nói:

- Ta là dòng Sát-đế-lợi, vì sao lại có thể ăn hành? Phu nhân nói:

- Vì trị bệnh thì cũng cần phải ăn nó.

Vua khi ăn hành vào thì liền hết bệnh. Vua cho gọi Đế-thất vào nói:

- Khanh có ước nguyện gì không? Đáp:

- Thiếp muốn được làm vua bảy ngày.

Vua bằng lòng. Khi được toại ý, Đế-thất bèn nghĩ: "Ta nay đến lúc phải báo oán Câu-na-la." Nghĩ rồi bà liền viết chiếu thư cho người đem đến thành Xoa-thi-la nói rằng:

- Vì Câu-na-la phạm đại tội, phải móc mắt và đuổi đi.

Vua A-thứ-già vốn rất nghiêm khắc, vì sợ chậm trễ phạm vào vương chết. Nhưng thư viết xong cần phải đợi ấn đóng vào.

Đế-thất-la-xoa chờ khi vua ngủ để bà trộm lấy ấn đóng vào chiếu thư. Vua khi ấy giật mình tỉnh giấc. Đế-thất hỏi:

- Vì sao vua lại thức? Vua nói:

- Vì nằm ác mộng thấy hai con chim Thứu muốn mổ mắt Câu-na-la.

Nói xong lại nằm ngủ tiếp. Lần hai vua lại thức giấc nói với phu nhân:

- Ta lại nằm ác mộng. Phu nhân hỏi:

- Nhà vua trông thấy gì? Đáp:

- Mộng thấy Câu-na-la, đầu tóc thật dài trải dưới đất mà ngồi.

Phu nhân nói:

- Vua cứ ngủ yên đi, chẳng ai dám làm hại vương tử đâu.

Vua lại nằm ngủ. Phu nhân lén lấy được ấn vua đóng vào thư, rồi sai người mang đi.

Vua lại nằm mộng thấy răng bị rụng.

Sáng hôm sau bèn gọi tướng sư đến đoán mộng.

Tướng sư nói rằng:

- Điềm mộng này ứng vào việc Vương tử đã bị mất đôi mắt.

Vua nghe lời này chắp tay hướng về bốn phương, phát tâm tin Pháp, tin Tăng, xin hộ trì phật đạo, xin nguyện cầu gia hộ cho vương tử Câu-nA-la.

Khi thư đưa đến thành Xoa-thi-la, vì dân trong thành rất yêu quí Pháp Tăng có lòng nhân đức nhân hậu, do đó không đưa thư ra mà cùng thương nghị:-Vua còn không thương con của mình, thì với dân chúng làm sao có thể yêu tiếc. Câu-na-la thường đem lòng từ xót thương cứu giúp các loài quần sinh. Các căn điều thuận không có kiêu mạn. Con như thế mà lại muốn hủy hoại, huống gì bọn ta.

Sau đó họ mới đưa chiếu thư ra cho Câu-na-la.

Câu-na-la đọc thư thì tin và nói rằng:

- Tùy các ngươi, cứ việc móc mắt.

Lúc này, không có người nào chịu lấy mắt của vương tử. Bèn cho gọi Chân-đà-la đến, nhưng Chân-đà-la cũng không chịu và nói:

- Thà hủy hoại mắt của tôi chứ làm sao tôi có thể lấy mắt của người.

Câu-na-la đem ra một hộp báu trị giá mười vạn lượng vàng, thưởng cho Chân-đà-la để móc mắt, Chân-đà-la quyết vẫn không chịu.

Vì nghiệp duyên đã đến, nên tự nhiên có người mặt xấu xí như quỷ đến xin móc mắt. Câu-na-la thấy vậy liền nhớ lại lời của Thượng tọa Da-xá nói mắt là vô thường, liền nghĩ: "Bởi người biết ta phải trả nghiệp báo bị móc mắt, cho nên mới nói lời này. Quả thật là bậc thiện tri thức. Vì thương cảm nên đem lời từ mẫn dạy ta. Chính là khiến cho ta nhận sự báo oán này mà không sợ hãi. Lại dạy ta: Nên biết ba cõi là vô thường, sự nguy ách như huyễn. Ta từ lâu biết mắt này là hoại tướng, nên đã quyết kiên trì giữ đạo pháp mà thôi." Nghĩ vậy nên nói với xú nhân rằng:

- Ngươi có thể móc lấy một mắt trước, rồi đem bỏ vào lòng bàn tay của ta.

Xú nhân tiến đến bên Câu-na-la móc lấy một mắt bỏ vào tay Thái tử. Mọi người trông thấy thì khóc to lên nói:

- Lạ thay! Khổ thay! Mắt sáng tinh anh mà nay lại bị mù. Hoa sen vi diệu mà sớm bị hủy diệt.

Hàng ngàn người kêu khóc buồn than không ngớt. Câu-na-la quán con mắt trong lòng bàn tay mình và nói:

- Thương thay! Đôi mắt! Từ nay ngươi làm sao còn có thể trông thấy sắc nữa. Ai cũng cho là ngươi đẹp, nay chỉ còn là miếng thịt bỉ lậu hư hoặc kẻ ngu tình. Giờ đây còn gì để ta yêu mến trọng vọng. Thật chỉ là các duyên giả hợp lại mà thành thôi. Đâu có gì là thật của mắt, có khác nào như bọt nước. Nếu không buông lung phóng dật thì pháp quán này sẽ giúp người thoát ra sinh tử.

Khi Câu-na-la tư duy đến đó thì liền chứng quả Tu-đà-hoàn, đắc được kiến đế, liền bảo với xú nhân:

- Ngươi móc luôn mắt kia của ta đi.

Mắt kia móc ra cũng được đặt vào lòng bàn tay của Câu-na-la. Lúc này người lại quán tưởng về mắt và chứng quả Tư-đà-hàm. Xả bỏ hết mắt thịt ô uế mà chứng pháp nhãn tịnh, liền nói rằng:

- Bỏ nhục nhãn mà được tuệ nhãn, xả xác thân do cha mẹ tạo thành mà được pháp vương tử. Tuy mất sự giàu sang nhân thế, mà được pháp tài vĩnh viễn xa lìa ưu não.

Sau này, Câu-na-la mới biết đây là do thư của Đế-thất viết chứ không phải nhà vua, liền phát nguyện rằng:

- Nguyện cho đại phu nhân được trường thọ an lạc, không bị hoạn nạn bức bách. Vì sao? Bởi do người tìm cách hại đôi mắt mà giúp ta có nhân duyên đắc được pháp lợi.

Vợ của Câu-na-la là Chơn-kim-man, nghe tin chồng bị móc mắt, liền tìm đến thì thấy đôi mắt đã bị khoét, máu chảy đầy thân thể. Nàng kêu khóc bi ai, té xỉu xuống đất. Mọi người lấy nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh. Nàng lại đứng lên kêu khóc nói:

- Đôi mắt thanh tịnh xinh đẹp mà nay bị hủy hoại như thế. Câu-na-la nói kệ đáp:

Tự tạo ra ác nghiệp
Nay phải chịu nhận lấy
Tất cả khổ thế gian
Ân ái rồi xa lìa
Nàng hãy thôi khổ não
Còn khóc để làm gì?

Nhân dân trong thành lại đuổi hai vợ chồng đi. Câu-na-la và vợ lâu nay đều sống trong cảnh sung sướng, chưa từng làm lụng cực khổ. Nay phải lấy nghề đàn hát xin ăn mà nuôi sống. Lần hồi đi về đến thành Hoa thị. Khi đến trước cung vua thì muốn vào. Người giữ cửa vì không nhận ra nên không cho vào. Câu-na-la đành tá túc bên ngoài chuồng voi. Sáng sớm lại khảy đàn. Mượn tiếng hát để nói lên sự đau đớn bị móc mắt và nhân duyên đắc đạo. Người giữ cửa nghe tiếng đàn đó thì tự quán ấm nhập mà lìa khổ sinh tử.

Vua khi nghe tiếng đàn thì vội nói:

- Âm thanh của tiếng đàn này sao giống của Câu-na-la. Trong ấy vang lên những lời đau đớn, dường như có điều gì lớn lao. Ta nghe tiếng này có cảm giác như mất mát cái gì, như voi mẹ bị đánh mất con.

Vua bảo người ra xem. Người này trông thấy Câu-na-la gầy đen tiều tụy, lại mù lòa thì không nhận ra, bèn trở lại tâu với vua:

- Có một người ăn xin, đôi mắt bị mù, lại gầy đen rách rưới đi cùng với vợ.

Vua nghe nói thì suy nghĩ: "Ta nằm mộng thấy Câu-na-la mất cả hai mắt, không biết đây có phải không? Ta luôn nhớ con không nguôi, nay nên gọi vào thử xem.

Vua bảo người hầu trở ra hỏi:

- Người là người nào? Con của ai? Người mù đáp:

- Cha tôi là vua A-dục, làm chủ cõi Diêm-phùđề, là bậc cao quý tự tại trong tất cả loài người. Tôi là con của người, tên Câu-na-la, cũng là con của đấng Đại Pháp vương, hiệu Phật-đà.

Hai vợ chồng người mù được dẫn vào chỗ vua. Vua trông thấy Câu-na-la mắt mù, thân thể gầy đen, áo quần lam lũ, thì vẫn còn nghi hoặc mới hỏi:

- Ngươi là Câu-na-la à?

- Thưa vâng! Chính là con.

Vua nhận ra lời nói của con thì đau đớn té xỉu. Người hầu lấy nước rửa mặt giây lâu mới tỉnh dậy. Vua ôm lấy Câu-na-la đặt trên đầu gối, lấy tay rờ vào mắt con than khóc:

- Mắt con vì giống chim Câu-na-la, cho nên ta mới lấy tên đó mà đặt. Nay mắt không còn thì gọi tên mà làm gì? Con hãy nói cho ta biết ai đã móc đôi mắt của con. Mắt không còn thì chẳng khác nào như hư không, không có mặt trăng cũng không có tinh tú. Chỉ kẻ vô tâm không có lòng từ mới hủy hoại đôi mắt này. Ai gây thì trọn đời phải chịu đau khổ. Câu-na-la, ai đã làm đôi mắt con thế này?

Mau nói cho ta biết. Nay thấy thân con hình hài tiều tụy, thiêu đốt cả lòng ta. Thân ta đau đớn chẳng khác nào như đụng vào tảng đá Kim cang.

Câu-na-la thưa:

- Xin cha bớt ưu não. Cha không nghe là Phật cũng có quả báo. Dù là phàm phu hay Thanh văn, Độc giác không ai mà thoát được. Nghiệp thiện ác đã gây thì phải trả báo không thể trốn chạy. Con đã tạo nghiệp, nay phải trả oán cho người. Chẳng phải do đao kiếm hại, cũng chẳng phải do Kim cang hại, chẳng phải lửa, cũng không phải độc xà ác thú, chẳng phải là do người đem khổ đến cho con. Đây chính là do nghiệp đời trước gây tạo, nay phải thọ báo. Nếu làm cho người khổ não thì thật là không phải.

Vua nghe nói vậy nhưng lòng giận dữ đau đớn vẫn không nguôi.

Lại hỏi con:

- Ai đã móc mắt con? Câu-na-la đáp:

- Chính cha đã ra lệnh móc mắt con. Vua bảo:

- Nếu như ta sai người móc mắt con thì nay ta phải tự cắt lưỡi mình.

Câu-na-la nói:

- Đó là ấn cha đóng vào chiếu thư. Vua nói:

- Nếu do ấn của ta thì nay phải nhổ răng ta. Đã làm cho mắt con như thế thì ta cũng phải tự móc mắt của mình.

Đế-thất-la-xoa gọi phu nhân Liên Hoa đến nói:

- Nếu như ta có bị móc mắt thì nên cầu xin cho toàn mạng sống.

Vua nghe lời này liền suy nghĩ: "Đây hẳn là Đếthất-la-xoa ra lệnh khoét mắt con ta". Vua cho gọi Đế-thất lại:

- Người làm điều tàn ác, trời đất không dung. Ngươi quả thật là người oan gia của ta, lừa dối hại cả thâm tình cốt nhục của ta.

Vừa từ đau khổ mà trở thành giận dữ, quát mắng:

- Ngươi đã hại mù đôi mắt của con ta. Nay phải lóc thịt xương ngươi treo trên lầu cao, lấy cưa mà cưa ra từng khúc, lấy đao mà cắt lưỡi, lấy búa lớn sắt bén mà băm dầm cả xương tủy đem bỏ vào trong hầm lửa, để cho loài độc xà gặm nhấm.

Vua mắng chửi một hồi. Câu-na-la nghe thì khởi lòng từ bi thương xót liền thưa với cha:

- Đế-thất-la-xoa làm các điều ác như thế, cha nay cũng nên đem chánh pháp tu tập mà tha thứ, chớ nên sát hại một người phụ nữ, cũng như trẻ con ngu muội chớ có giận dữ.

Vua không nghe theo, truyền đem vào nhà Hồ. Giao lấy lửa thiêu đốt. Vua cũng ra lệnh thiêu hết dân chúng trong thành Xoa-thi-la.

Lúc này chư Tỳ-kheo thấy việc như vậy thì lòng rất nghi hoặc, liền hỏi Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa rằng:

- Câu-na-la vì nhân duyên gì mà bị móc mắt như thế? Tôn giả đáp:

- Các ngươi phải khéo nghe lời ta nói đây! Ngày trước ở nước Ba-la-nại có một người thợ săn. Mùa Hạ thì ở trong nhân gian. Mùa Đông thì vào rừng săn bắn. Một lần lên núi tuyết thì gặp trận mưa đá. Có năm trăm con nai cùng núp vào hang đá. Người thợ săn nghĩ: "Nếu ta giết hết chúng thì thịt sẽ hư thúi. Vậy chỉ nên khoét mắt để chúng khỏi đi mà giết lần". Do tạo nghiệp duyên đó mà nay bị người móc mắt.

Chư Tỳ-kheo lại hỏi:

-Vậy nhờ nhân duyên gì mà được sinh vào nhà vương giả? Đáp:

-Ngày xưa khi con người thọ đến bốn vạn tuổi. Bấy giờ có Phật ra đời hiệu là Già-la-già Tôn-đại. Khi hóa duyên xong thì nhập Niết-bàn Vô dư. Lúc này có vua tên Đoan Nghiêm, vì kính tin Phật mà xây tháp bằng bảy báu, trang nghiêm tường vách đến bốn mươi lý. Khi vua Đoan Nghiêm mất, thì có vị vua tên Bất Tín. Vua này lấy hết trân bảo nơi tháp, chỉ lưu lại cây đá. Nhân dân thấy vậy thì than khóc buồn đau. Có vị trưởng giả hỏi mọi người:

- Vì sao lại khóc? Đáp rằng:

- Tháp Phật Già-la-tôn-đại làm bằng bảy báu nay đã bị phá hoại, họ đã lấy hết vàng báu chỉ còn là cây đá. Do đó, chúng tôi thấy vậy mà than khóc buồn thương.

Lúc ấy trưởng giả liền tu sửa tháp báu trở lại như cũ. Nhân đó lại phát nguyện vào đời vị lai được diệu quả tối thắng giải thoát thanh tịnh như Phật. Vì nhân duyên tạo pháp mà được sinh vào nhà hào tộc tôn quý. Do đời trước tạo tượng Phật mà được thân đoan chánh. Vì phát chánh nguyện mà gặp được đạo quả.

--------------------------------

NHÂN DUYÊN VỀ TRÁI AM-LA

Vua A-thứ-già đối với Phật pháp rất có tín tâm, vua hỏi Ưu-ba-cúc-đa rằng:

- Khi Đức Phật còn tại thế thì ai là Đại thí chủ. Đáp rằng:

- Có vị trưởng giả tên Tu-đạt-đa là một bậc thí chủ. Lại hỏi:

- Vị ấy cúng khoảng bao nhiêu? Đáp:

- Vàng ròng cả trăm ức. Vua nói:

- Vị trưởng giả kia còn có thể bố thí trân bảo nhiêu đó. Huống gì ta nay là vua cõi Diêm-phù-đề sao lại làm không được.

Thế là vua đem cả thân mình, Câu-na-la cùng đại thần, đất đai đều cúng dường hết. Rồi lại khởi công xây dựng tám vạn bốn ngàn bảo tháp Phật và tháp Thanh văn, làm bình tưới cây Bồ-đề, tổng cộng tất cả được chín mươi sáu ức lượng vàng.

Lúc bấy giờ vua lại bị bệnh, biết mình không qua khỏi nên u buồn than khóc. Quan phụ tướng La-đề-cúc-đề ngày xưa khi vua A-thứ-già cúng đất cho Đức Phật, thì cũng tùy hỷ theo, cho nên được phước báo làm quan Nhất đại phụ tướng. Khi thấy vua cảm thấy không vui chắp tay thưa:

- Muôn tâu Đại vương! Oai đức của vua như mặt trời soi sáng, tất cả nhân dân đều không dám nhìn mặt. Duy chỉ có bốn ngàn thể nữ được trông thấy vua mà thôi. Nay thấy vua bị bệnh thì chẳng khác nào như mặt trời sắp lặn. Ba cõi dời đổi thì cũng đến lúc phải hoại diệt. Nếu suy nghĩ được sự vô thường như thế thì vì sao mà lại không vui.

Vua đáp:

- Ta nay không phải sợ mất ngôi vị mà ôm lòng áo não. Cũng chẳng phải vì sắp phải bỏ thân mạng mà ưu phiền buồn sầu; lại cũng chẳng phải vì xa lìa cung nhân kho tàng báu vật mà thêm lo sợ. Chính là vì ta sắp rời xa chư Hiền Thánh Tăng mà ưu tư phiền muộn. Ta vốn có phát nguyện cúng dường chúng Tăng đủ trăm ức lượng vàng. Nay chỉ mới cúng chín mươi sáu ức còn bốn ức nữa thì chưa làm được nên mới ưu sầu khổ não như thế.

La-đề-cúc-đề nói:

- Kho tàng vua rất nhiều có thể đem ra bố thí cúng dường cho đủ.

Vua sai người đem kim ngân trân bảo đến chùa

Kê-đầu-ma để cúng dường. Vua cũng lập con của Câu-na-la là Ni-ma-đề làm thái tử. Bọn ác thần tà kiến nói với thái tử:

* Vua đã sắp băng hà và lại đem kho tàng phân tán gần hết. Tương lai ngài sẽ làm vua. Phàm làm vua thì phải có kho tàng trân bảo để chi dụng. Nay thái tử nên ngăn chận vua cha chớ để tiêu hoang hết.

Thế là Ni-ma-đề cùng chư đại thần, vì vua bệnh nặng nên cắt hết mọi thứ chi dụng. Duy chỉ để lại một cái mâm vàng, một mâm bạc để đưa thức ăn cho nhà vua. Vua lấy mâm đem cúng dường chùa Kê-đầu-ma. Thái tử lại sai người đưa đến cho vua mâm dựng bằng gạch nung. Sau cùng chỉ cho vua nửa trái Am-la. Vua cầm lấy quả, cho tụ tập chư đại thần đến hỏi:

* Cõi Diêm-phù-đề này ai làm chủ? Quần thần thưa:

* Chỉ có vua làm chủ. Vua bảo:

* Các người chỉ toàn nói chỉ nói lời hư vọng. Ta chẳng phải là vua.

Vì sao? Ta nay chỉ được nửa quả Am-ma-lặc này là của mình thôi.

Than ôi! Phú quý thường hay đem lại điều xấu xa đê tiện. Ta làm vua mà lúc gần lâm chung lại trở thành kẻ bần cùng nghèo khổ? Chỉ còn nửa trái Am-la này thôi. Chẳng khác nào như nước xoáy mạnh, gặp núi thì dừng. Lại nói kệ:

Lời Phật quả chân thật
Thuyết pháp cũng chân thật
Tất cả đều ân ái
Rồi cũng phải xa lìa
Ta xưa làm chiếu lệnh
Không thể nào dứt tuyệt
Ngày nay như nước dốc
Húc vào núi liền ngưng
Ta nay có giáo lịnh
Không làm cũng như thế
Ta xưa trong đại địa
Làm chủ vương khắp cả
Các nơi có kiêu mạn
Ta đều hay chế phục
Nghèo khổ không chỗ nương
Ta đều ra tay cứu
Trước vì người che chở
Nay lực đã không còn
Ví như xe bị hoại
Chẳng có chỗ quay về
Cũng như cây già thứ
Rễ khô cành lá héo
Hoa lá cũng chẳng còn
Thảy đều là hư giả
Sức nay đã chẳng còn
Cũng lại là như thế.

Nói xong thì gọi vị cận đến và nói:

- Ngươi đem quả Am-ma-lặc này đến chùa Kêđầu-ma cúng dường cho chúng Tăng ở đó và bạch Thượng tọa rằng:

- Đây là vật cúng dường cuối cùng của vua Athứ-già. Duy chỉ có quả Am-ma-lặc này được tự tại. Còn vật sở hữu thì đã mất hết. Xin chư Tăng lân mẫn thọ của nghèo khổ cuối cùng để cho ta được lợi phước.

Thượng tọa Đa-xá nói cùng chúng Tăng:

- Các ông đã thấy vua A-thứ-già được hưởng phước an vui tự tại uy quyền nhất trong trời đất. Vậy mà ngày nay một chút tự do vương quyền cũng chẳng còn. Duy chỉ có nửa trái Am-la là được tùy ý đắc dụng, rồi đem tâm ân cần trân trọng cúng dường chư Tăng.

Thượng tọa sai đem trái này bằm nhỏ ra cho vào nồi canh để chúng Tăng cùng được thọ dụng.

Rồi bảo chúng Tăng nên lấy đó mà nhàm chán việc sinh tử. Dù có giàu sang phú quý rồi thì không bao lâu cũng tàn lụi. Dù có uy quyền tự tại thì rồi cũng mất. Than ôi! Việc sinh tử rất đáng nhàm chán. Nên lấy đây để truyền lại cho các vị vua sau này. Lúc còn phú quý tự tại chớ để như vua A-thứgià bị quần thần ngăn cấm. Vậy lúc thế lực chưa suy yếu, nên đem hết tâm lực ra mà làm điều công đức.

Lúc ấy, vua A-thứ-già đã gần mạng chung và kêu La-đề-cúc-đề lại nói:

- Trong cõi Diêm-phù-đề này ai là người được uy quyền tự tại. La-đề-cúc-đề đáp:

- Chỉ có Đức Thế Tôn được tự tại hơn cả.

Vua nghe vậy liền ngồi dậy chắp tay nhìn khắp bốn phía mà nói rằng:

- Chỉ trừ kho tàng cung điện, còn trong bốn biển, khắp đại điện đều cúng dường chúng Tăng, những công đức mà đã làm trước đây, không cầu phước lạc nhân thiên cùng hàng Thích phạm Chuyển luân Thánh vương. Duy nguyện đời sau được sinh nơi chỗ luôn được tự tại, mau chứng thánh quả.

Sau đó vua viết chiếu thư rồi đóng dấu vào rồi giao cho quan phụ tướng La-đề-cúc-đề. Chẳng bao lâu vua băng hà. Chư quần thần làm lễ chuyển luân thánh vương mà an táng cúng dường thật trang nghiêm và lập Ni-ma-lưu lên làm vua. La-đề-cúcđề triệu tập chư quần thần lại nói rằng:

Vua A-thứ-già đem cả đại địa ra cúng dường cho chúng Tăng, là muốn noi theo trưởng giả Tuđạt cúng dường đủ trăm ức. Khi sinh tiền vua chỉ cúng dường chín mươi sáu ức. Nếu đem bốn ức chuộc lại cõi Diêm-phù-đề này thì mãn được sở nguyện của Tiên vương.

Quần thần nghị bàn rồi đem bốn ức lượng vàng chuộc lại cõi Diêm-phù-đề này. Trải qua mấy đời hậu tự của vua Nị-ma-lưu, con của vua này là Kỳha-đề. Con của Kỳ-ha-đề tên là Phất-xa-ma, con của Phất-xa-ma là Phất-xá-mật-xỉ.

- Lúc đó Phất-xá-mật-xỉ cùng quần thần thương nghị, mới hỏi rằng:

- Làm sao khiến cho danh tiếng được lưu bố khắp thế gian? Quan phụ tướng thưa:

- Ngày trước có vua A-thứ-già. Tiên vương của vua ở nơi cõi Diêm-phù-đề này khởi xây tám vạn bốn ngàn tháp, đem trăm ức lượng vàng để bố thí cúng dường cho chúng Tăng và làm nhiều công đức khác nữa. Nay vua cũng có thể xây tám vạn bốn ngàn tháp, thì danh tiếng cũng sẽ lưu lại đời sau. Vua nói: "Tiên vương của ta ngày có đủ uy đức, nên mới có thể làm được việc này. Nay ta làm sao có thể làm được."

Có một tà kiến phụ tướng thưa;

- Tu phước làm ác cả hai đều nổi tiếng. Tiên vương đã lập tám vạn bốn ngàn bảo tháp mà danh đức còn lưu lại mãi mãi. Nay nếu vua đem phá hoại hết thì danh tiếng cũng lưu mãi đời sau.

Phất-xá-mật-xỉ nghe lời này liền quy tập tứ binh đi đến chùa Kê-đầu-ma muốn phá hoại chùa này. Trụ trì ở đây là một vị Sư tử hống. Vua cảm thấy sợ không dám vào chùa liền đem quân trở về. Cứ như thế có đến ba lần mà không thể vào chùa được. Sau vua cho người đến bảo với chư Tỳ-kheo rằng:

- Ta muốn hoại Phật pháp. Các Tỳ-kheo muốn lưu lại Phù-đồ hay Tăng phòng.

Tỳ-kheo đáp:

- Muốn lưu Phật-đồ.

Thế là Mật-xỉ bèn giết hại chúng Tăng và phá hoại phòng xá. Lần hồi thì giết hại đến nước Xágià-la và chiếu mộ rằng:

- Nếu ai đem đầu Sa-môn đến thì được thưởng tiền. Bấy giờ ở trong nước có một vị A-la-hán hóa ra vô số đầu Sa-môn bảo dân chúng mang đến cho vua. Vua nghe nói thì muốn giết A-la-hán. Nhưng A-la-hán đã nhập diệt tận định nên vua không giết được. Vua đi đến nước Thâu-la quyết sát để phá hoại Phật pháp. Trong nước này có thần hộ Phật pháp. Vị thần suy nghĩ: Ta thọ trì giới pháp nên không thể làm ác. Vậy thì làm sao để hộ trì Phật pháp. Ngày trước quỷ Mật-xá có cầu hôn con gái ta. Vì làm điều ác cho nên ta không chịu. Nay vì Phật pháp mà phải đưa con gái cho hắn. Vì nhân duyên đó mà nước Thâu-la quyết sát có đại quỷ thần ủng hộ. Vì vậy, Phật-xá-mật-xỉ không thể làm hại. Quỷ thần đưa vua đến Nam Hải để cho quỷ Mật-xá lấy đá đè vua và quan binh chết hết. Cho nên gọi chỗ này là Thân tạng và Già-đề. Dòng họ vua A-dục đã chấm dứt từ đây.

----------------------------------

NHÂN DUYÊN NÓI VỀ ƯU-BA-ĐỀ-CÚC

Khi Đức Thế Tôn ở nước Ma-đột-la có bảo với A-nan rằng: Sau khi ta diệt độ một trăm năm tại nước Ma-đột-la có con của trưởng giả Cúc-đa tên là Ưu-ba-cúc-đa làm bậc giáo thọ thiền đệ nhất. Tuy không có tướng hảo hóa độ như ta. Nhưng sau khi ta nhập Niết-bàn rồi thì vị nầy sẽ làm các việc Phật lớn lao, giáo hóa chúng sinh được giải thoát đến vô lượng vô số.

Mỗi vị đắc quả A-la-hán đều lấy một thẻ tre bốn tấc đem đặt vào hang. Hang nầy dài ba mươi sáu thước, rộng hai mươi bốn thước Đức Phật lại hỏi A-nan:

- Ông có thấy khu rừng xanh kia không?

- Thưa Thế Tôn có thấy!

- A-nan! Ở đó có núi Ưu-lưu-man-trà. Sau khi ta diệt độ một trăm năm, có Tỳ-kheo tên Thươngna-hòa-tu, ở trong núi này, tạo lập tăng phường, sau đó độ Ưu-ba-cúc-đa, ở nước Ưu-lưu có hai vị trưởng giả. Một tên là Na-la và một tên là Bạt-lợi. Hai vị lên núi Mạn-trà xây dựng tăng phòng, là chỗ thanh tịnh u nhàn, có thể phát sinh thiền định. Nơi đây phòng xá, tọa cụ đều có đầy đủ. Bèn đặt tên là Na-la-bạt-sất A-lan-nhã.

A-nan bạch Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Ưu-ba-cúc-đa hóa độ chúng sinh thật nhiều lợi ích.

Đức Phật bảo:

- Ưu-ba-cúc-đa chẳng phải chỉ có ngày nay mới hóa độ chúng sinh có nhiều lợi ích, mà từ vô lượng kiếp, cũng từng làm nhiều lợi ích như thế. Nếu ông muốn nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Thuở xưa, ở núi Ưu-lưu-mạn-trà có năm trăm vị Bích-chi-phật đến trụ vào một bên núi. Có năm trăm vị tiên cũng đến ở một bên núi. Lại có năm trăm con khỉ đi đến chỗ của năm trăm vị Bích-chi-phật, sinh lòng hoan hỷ rồi cùng hái hoa quả cúng cho Bích-chi-phật. Chư vị Bích-chi-phật ngồi kiết già nhập thiền, bầy khỉ cũng bắt chước làm theo. Về sau chư vị Bích-chiphật nhập Niết-bàn. Bầy khỉ kéo đến kéo áo kéo chân thì thấy bất động, nên biết chư vị đã nhập Niết-bàn. Bọn chúng u buồn ảo não, bỏ đi đến bên kia núi thì thấy năm trăm vị Bà-la-môn, có vị ngồi trên cỏ gai, hoặc nằm trên tro đất, có người dơ một chân lên, hoặc dơ một tay, hoặc có người treo lộn ngược, hoặc nướng thân trên năm ngọn lửa. Bầy khỉ liền tới phá rối. Người ngồi trên cỏ gai, thì khỉ đem cỏ gai quăng ra xa. Người nằm trên tro đất, khỉ cũng lấy tro đất đem bỏ đi. Người dơ một tay thì khỉ kéo tay xuống. Dơ một chân thì khỉ dơ chân ra. Người treo mình ngược thì khỉ cắt dây cho đứt. Người nằm trên lửa thì lại dập tắt lửa. Năm trăm vị tiên thấy như vậy thì bảo nhau: Lũ khỉ này làm các điều quái lạ ở chỗ ta. Chúng ta thử bắt chước làm theo chúng.

Thế là năm trăm vị ngồi kiết già tư duy buộc niệm, không có thầy mà vẫn tỏ ngộ, tâm giác ngộ tự nhiên tỏ rõ, rồi đắc quả Bích-chi-phật. Các vị liền suy nghĩ: Chúng ta nay đã chứng Bích-chiphật, là do Di hầu khai hóa, nay nên đem hoa quả đến cúng dường cho Di hầu.

Sau đó, bầy Di hầu mạng chung cũng lấy củi thơm mà thiêu đốt cúng dường. A-nan! Di hầu lúc ấy nay là Ưu-ba-cúc-đa, ngày trước Di hầu làm lợi ích cho năm trăm vị tiên nhân được đắc quả Bíchchi-phật.

Đức Phật lại bảo A-nan:

- Ông nắm lấy y của ta.

Bấy giờ Đức Phật đưa A-nan đi đến nước Kế tân, đến nơi Đức Phật lại bảo A-nan:

- Đất này bằng phẳng lại rất rộng lớn. A-nan bạch Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Quả là như vậy.

Phật lại bảo A-nan:

Sau khi ta diệt độ một trăm năm, có Tỳ-kheo tên là Ma-điền-địa, lo làm phòng xá ngọa cụ tạo ra chỗ tu thiền bậc nhất tại đây.

Từ nước Kế tân, Đức Phật cùng A-nan đi lần vào thành Câu-thi-na. Khi ấy Đức Phật muốn nhập Niết-bàn liền bảo Tôn giả Ca-diếp:

- Sau khi ta diệt độ thì nên tuyển chọn lại pháp nhãn, để cho Phật pháp được trụ lại đời một nhàn năm, làm lợi ích chúng sinh.

Ca-diếp thưa:

- Xin lãnh thọ lời Đức Thế Tôn dạy.

Đức Phật nhập vào thế tục tâm nghĩ rằng: Thích Đề-hoàn Nhân nên đến chỗ ta.

Thích Đề-hoàn Nhân biết tâm của Đức Phật liền tìm đến. Đức Như Lai liền nói với Thích Đềhoàn Nhân:

- Sau khi ta diệt độ nên hộ trì thiện pháp.

- Bạch Đức Thế Tôn! Con xin nguyện lãnh thọ. Đức Phật cũng nhập thế tục tâm nghĩ.

Tứ Thiên vương nên đến chỗ ta. Tứ Thiên vương biết tâm niệm Phật liền tìm đến. Phật bảo Tứ Thiên vương!

- Sau khi ta vào Niết-bàn, phải ủng hộ Phật pháp.

Phật nói với ngài Ca-diếp về Thích Đề-hoàn Nhân và Tứ Thiên vương rồi, Ngài liền đi đến rừng Ta-la trong rừng Thi-la. Ngài đến nằm chỗ giữa hai cây Ta-la vào buổi tối. Khi sắp vào Niết-bàn, Đức Phật liền bảo A-nan:

- Trong rừng Ta-la này vào lúc nữa đêm này ta sẽ này ta sẽ nhập Niết-bàn. Ông nên đặt đầu ta xoay về hướng Bắc.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Chư hữu thật vô cùng
Sinh lão như sóng dâng
Vượt qua biển tử này
Xả thân như rác rưởi
Đến vô úy Niết-bàn
Quỷ chết liền sợ hải
Biển Tam giới mênh mông
Bờ giải thoát vượt qua.

QUYỂN 4

Khi Đức Phật nói kệ xong thì nhập Niết-bàn. Chúng Tăng khởi xây tám tháp xá-lợi. Tháp thứ chín, mười thì đựng tro than. Thích Đề-hoàn Nhân và Tứ Thiên vương, đem kỹ nhạc, hương hoa, mạt hương, đồ hương đến cúng dường xá-lợi và nói:

- Đức Phật trước khi Niết-bàn đã phó chúc cho ta, vậy từ nay về sau phải hộ trì Phật pháp.

Đế Thích bảo Thích Đề-hoàn Nhân:

- Ngươi nên hộ trì Phật pháp tại hướng Đông.

Lại bảo Tỳ-lâu-lạc: Ngươi hộ trì ở hướng Nam.

Lại bảo Tỳ-lâu-bác-xoa:

- Ông nên ủng hộ Phật pháp tại phương Tây. Bởi đời vị lai có ba vua tà kiến hủy diệt đạo pháp.

Đức Phật đã thọ ký, các ông nên giữ gìn.

Sau khi Đức Phật diệt độ, có vô số chư vị Lahán cũng nhập Niết-bàn. Chư Thiên ở trên không trung, đồng thanh lớn tiếng:

- Chư đệ tử đều đi theo Đức Phật. Ngọn đàn pháp đã gần hủy diệt. Nếu không hội tập tụng lại Tam tạng kinh điển, thì khi chư vị La-hán nhập Niết-bàn thì Phật pháp cũng diệt.

Thích Đề-hoàn Nhân đem Tứ Thiên vương và Thiên chúng, đến chỗ ngài Ca-diếp cúi đầu làm lễ thưa:

- Giáo pháp Đức Như Lai, phó chúc lại cho Tôn giả, Tôn giả nên tu tập pháp nhãn. Để cho ngàn năm sau, các chúng Thiên nhân đều được lợi ích.

Ngài Ca-diếp bay lên hư không đánh kiền chùy, cả ba ngàn thế giới đều nghe. Năm trăm vị La-hán liền tụ tập lại trong thành Câu-thi-na.

Ngài Ca-diếp hỏi A-na-luật:

- Chư Bồ-tát có ai chưa đến không? A-na-luật đáp:

- Duy chỉ có Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề, ở tại cung Thi-lợi-sa là chưa đến.

Ngài Ca-diếp hỏi:

- Hôm nay tụ chúng có ai là Hạ tọa không?

Ngài Phất-na đáp:

- Có tôi là Hạ tọa. Tôn giả hỏi:

- Ông có theo Tăng như pháp học không? Phấtna thưa:

- Dạ có tùy thuận. Tôn giả nói:

- Lành thay! Ông có thể làm bậc Hạ tọa trang nghiêm chúng Tăng.

Nay ông có thể đến cung trời Thi-lợi nói với Kiều-phạm-ba-đề rằng:

- Ngài Ca-diếp và chúng Tăng có việc tăng sự cho gọi ngài gấp. Phất-sa liền đến cung Thi-lợi-sa mà thưa với Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề:

- Ngài Ca-diếp và chúng Tăng đợi ngài. Tôn giả nói:

-Trưởng lão! Ông nên nói là Đức Như Lai và chư Tỳ-kheo đang đợi. Sao lại nói Ca-diếp và chư Tỳ-kheo. Vì Phật không nhập Niết-bàn. Dừng để ngoại đạo nhân đây phá hoại Phật pháp và các ác Tỳ-kheo cũng sẽ phá Phật pháp.

Phất-na thưa:

-Đức Như Lai đã nhập Niết-bàn. Cầu pháp đã bị hoại, núi Tu di cũng đã băng. Chư Thanh văn ở Kiền-đà-sơn cũng nhập diệt.

Tôn giả nói:

-Đức Như Lai vẫn còn ở cõi Diêm-phù-đề thì ta có thể đến đó. Nay Phật đã nhập diệt, cõi Diêmphù-đề trở thành hoang vắng không an vui. Ta làm sao đến đó được. Nay ta cũng muốn nhập Niết-bàn. Ta nay hướng về đó đảnh lễ ngài Ca-diếp và chúng Tăng. Nói xong liền nhập Niết-bàn.

Phất-na trở lại cõi Diêm-phù-đề, đến trong chúng Tăng thưa với Thượng tọa:

- Kiều-phạm-ba-đề đã lạy Thượng tọa và Tăng chúng mà nhập Niết-bàn rồi.

Đến đây thì chư Thượng tọa liền nói:

- Đại tướng đã mất thì hàng tiểu tướng cũng không còn. Chư La-hán thì phần nhiều cũng theo Đức Phật nhập diệt.

Ngài Ca-diếp liền ra lệnh cấm:

- Chưa kết tập pháp tạng thì không cho chư Tỳ-kheo nhập Niết-bàn.

Ngài bèn tập hợp năm trăm vị La-hán cùng hòa hợp để kết tập kinh tạng.

Lại bảo A-nan:

- Ông là đệ tử Đa văn đại trí tuệ của Đức Phật. Thường theo Phật tu hạnh thanh tịnh, có đầy đủ tri kiến tối hậu, làm lợi ích cho Phật pháp, mà Đức Phật đã từng khen ngợi.

Tôn giả lại bảo Tỳ-kheo:

- Phật nhập Niết-bàn rồi, mọi người tu tập tại đây làm huyên náo sẽ ngăn ngại chúng ta. Vậy thì nên tìm chỗ yên tịnh để tuyển tập lại kinh pháp. Thế là cùng năm trăm La-hán đi về thành Vương xá.

Tôn giả A-nan đem đệ tử là Phất-xỉ du hành lên tọa lạc Ba-lợi-xà. Mọi người ở trong tụ lạc đều buồn rầu ảo não. Ngài A-nan thấy vậy khởi lòng thương xót mới đăng tòa thuyết pháp để dẫn giãi những yếu chỉ cần thiết.

Khi đó đệ tử là Ba-xà-phất-đa thấy Tôn giả vẫn chưa đắc quả, liền hướng về ngài nói kệ:

An định dưới gốc cây
Tịch diệt chứng Niết-bàn
Cù-đàm nên nhập định
Chớ tu hành phóng dật
Không lâu đắc tịnh diệt
Niết-bàn pháp thanh tịnh.

A-nan nghe bài kệ thì tỉnh ngộ. Ngay đêm đó đi kinh hành tọa thiền nhập định. Hôm sau vừa hừng sáng, định đặt lưng xuống đất nằm nghĩ, đầu chưa đụng gối thì thoát nhiên đại ngộ chứng A-lahán. A-nan liền đi về thành Vương xá. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp cũng đem năm trăm vị La-hán đến thành Vương xá.

Vua A-xà-thế, con của bà Vi-đề-hy nghe Tôn giả đến, liền cho sửa soạn thành trì, tu bổ lại đường xá. Vua cũng ra khỏi thành cung nghinh. Ngày trước vua vì lòng bất tín, nên khi gặp Đức Phật tự ném mình xuống chân voi. Nay gặp Tôn giả, cũng ném mình như thế. Ngài Ca-diếp dùng thần lực đỡ nên vô hại. Tôn giả nói với vua:

Thần túc Như Lai thật vô cùng, hàng Thanh văn không thể sánh bằng, Thanh văn công phu thật lực mới có thần túc. Từ nay về sau nếu thấy Tỳ-kheo thì chớ có ném mình xuống chân voi như thế mà nguy hại.

Vua thưa:

- Xin vâng lời Tôn giả.

Vua A-xà-thế cúi lạy xuống chân Tôn giả, xong đứng dậy chắp tay thưa:

- Đức Như Lai nhập Niết-bàn tôi không được trông thấy.

Nếu Tôn giả nhập Niết-bàn thì xin cho tôi được thấy.

Tôn giả nói:

- Được.

Hứa khả với vua rồi, vua lại nói:

- Ta nay muốn kết tập pháp nhãn của Như Lai.

Xin Đại vương vì ta mà làm Đàn-việt.

Vua nói:

- Xin nguyện dâng cúng cho chư Tỳ-kheo trọn đời các vật thức y cụ phòng xá thuốc men.

Tôn giả Ca-diếp ấn khả nhận lời, sau đó đi đến rừng Trúc suy nghĩ:

- Nơi đây nhiều phòng xá lại đông chúng Tăng.

Có thể làm phương hại. Nơi hang Tát-bát-la phòng xá cũng đủ dùng. Ta nay nên đến đó mà tụng tập pháp nhãn.

Thế là Ca-diếp cùng năm trăm vị La-hán đi đến hang Tát-bát-la.

Trải tọa cụ xuống ngồi và bảo:

- Các Tỳ-kheo sau cùng thường ít có ghi nhớ. Chúng ta nên kiết tập bằng kệ cho dễ nhớ. Mỗi sau bữa ăn thì bắt đầu kiết tập.

Lúc này năm trăm vị La-hán đã vân tập đủ. Chư vị hỏi:

- Chúng ta nên tụng tập pháp nào trước? Tôn giả đáp:

- Tụng Tu-đa-la trước. Chư Tỳ-kheo nói:

- Nay trong chúng này ai có thể tụng lại Tu-Đa-la?

Tôn giả A-nan là bậc Đa văn đệ nhất, các pháp tạng Tu-đa-la, A-nan đều lãnh thọ ghi nhớ hết.

Chúng ta nên thỉnh A-nan trùng tuyên lại.

Liền bảo A-nan:

- Ông thông suốt hết pháp tạng Tu-đa-la mà Đức Phật đã nói ra.

Lấy sự đa văn để ruồng bỏ hết duyên đời, giữ gìn pháp tạng duy chỉ có mình Ngài. Nay kiết tập pháp bảo, ông nên tuyên tụng lại.

A-nan nghe nói vậy trước pháp tọa, quan sát tâm của đại chúng mà nói kệ rằng:

Tỳ-kheo chỗ hành đạo
Lìa Phật không trang nghiêm
Giống như trong hư không
Tinh tú không bóng trăng
Tăng chúng không có Phật
Bỉ lậu cũng như thế.

Nói xong kệ thì năm vóc sát đất lễ Thượng tọa, rồi bay lên tòa cao thưa:

- Có Tu-đa-la nghe chính Đức Phật nói, có Tuđa-la nghe từ Thanh văn nói ra.

Tôn giả hỏi:

- Lúc đầu Đức Phật nói Tu-đa-la tại chỗ nào? A-nan đáp:

- Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở tại trú xứ Cổ tiên trong vườn Lộc giả, thành Ba-la-nại. Vì năm trăm vị Tỳ-kheo mà ba lần chuyển pháp luân, rộng nói pháp Tứ diệu đế... Tôn giả Kiều-trần-như suy nghĩ:

- Xưa Đức Phật vì bọn ta mà nói pháp này, nay A-nan nói lại đều không khác.

Tôn giả liền từ tòa đứng dậy, bước xuống đất nói kệ:

Than ôi! Các chúng khổ
Khuấy động như trăng nước
Không bền như ba tiêu
Như bóng nhiều hình huyền ảo
Như Lai đại dõng mãnh
Công đức khắp Tam giới
Do vì gió vô thường
Bay đi mà không trụ.

Năm trăm vị La-hán nghe nói kệ này liền từ tòa khởi dậy bước xuống đất ngồi. Tôn giả Ca-diếp bảo chư Tỳ-kheo:

- A-nan tuyên tụng lại có đúng không? Đáp:

- Thưa đúng.

A-nan sau đó nói lại hết tạng kinh Tu-đa-la.

Tôn giả Ca-diếp nghĩ:

- Nay ai sẽ tụng lại tạng Tỳ-ni.

Lại nghĩ đến Tôn giả Ưu-ba-ly. Đức Phật thường nói vị nầy là bậc trì Luật đệ nhất. Tất cả tạng Tỳ-ni vị nầy đều lãnh thọ đầy đủ từ Đức Phật. Nay nên bảo Ưu-ba-ly tụng lại.

Ma-ha Ca-diếp liền hỏi Ưu-ba-ly:

- Ông thọ trì tạng Tỳ-ni, nay có thể tụng lại?

Ưu-ba-ly đáp:

- Được.

Ca-diếp hỏi:

- Đức Phật nói Tỳ-ni lúc đầu ở chỗ nào? Đáp:

- Tại nước Tỳ-xá-ly, nhân do Tu-đạt Già-lanđà-tử mà chế giới thứ nhất. Như thế lần lượt đến các giới sau đều rộng tuyên nói thành một tạng Tỳ-ni.

Tôn giả Ca-diếp nghĩ: Ta nay nên tự mình tụng Ma-đắc Lặc-già-tạng. Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo... phân ra làm bốn Nan hành đạo, bốn Dị hành đạo, Vô tránh Tam-muội, Nguyện trí Tam-muội... Thế luận ký, Kiết sử ký, Nghiệp ký, Định tuệ ký v.v... Chư trưởng lão gọi đây là Ma-đắc-la-tạng.

Kiết tập các pháp tạng xong. Tôn giả Ca-diếp liền nói kệ:

Pháp luân tối thượng nầy
Tế độ khắp quần sinh
Thập lực Tôn giả nói
Nên cần chuyên phụng trì
Pháp nầy là Minh đăng
Phá tan mọi tăm tối
Tàn lọng của vô minh
Nhiếp tâm chớ phóng dật.

Tôn giả A-nan nghĩ rằng: Đức Phật trước khi nhập Niết-bàn có nói: "Nếu bỏ bớt những giới vi tế thì tăng thêm an lạc. Ta nay nên hướng về chúng

Tăng mà nói điều này."

Tôn giả A-nan hướng về phía Thượng tọa nói:

- Tôi từng nghe Phật nói là xả bớt những giới vi tế thì tăng được an lạc.

Tôn giả Ca-diếp hỏi:

- Ông có hỏi Đức Như Lai những giới vi tế nào không? Đáp:

- Không hỏi. Ca-diếp nói:

- Ông không hỏi việc này, nên phạm tội Đột-kiết-la. A-nan thưa:

- Tôi vốn ưu não cho nên không hỏi, tôi thật xấu hổ vì đã không hỏi.

Ca-diếp bảo:

- Ông cũng có lỗi, khi Đức Phật sắp nhập Niếtbàn có bảo ông đi lấy nước uống, mà ông không chịu lấy.

A-nan đáp:

- Tôi thật xấu hỗ vì không chịu lấy nước. Vì lúc bấy giờ, có năm trăm cỗ xe vừa lội qua làm nước đục cho nên tôi không lấy.

Lại nói:

- Ông cũng có tội là khi theo sau Đức Phật lại giẫm chân lên y Kim sắc của Đức Phật.

Đáp:

- Tôi thật là xấu hỗ, vì lúc đó không có vị Tỳ-kheo nào đứng gần cầm lấy y này cùng tôi.

Ca-diếp đáp:

- Nếu không có người cùng nắm y, thì sao ông không ném lên hư không cho chư Thiên cầm lấy. Lại nữa, ông cũng có tội khi Đức Phật nói: Nếu có Tỳ-kheo khéo tu đức như ý túc thì sẽ thọ mạng một kiếp rưỡi.

Trong pháp bốn Như ý túc Đức Phật đã nói ba lần, mà ông vẫn im lặng, không chịu cầu thỉnh Đức Phật trụ thế lâu đời. Do đấy mà ông cũng phạm Đột-kiết-la.

A-nan đáp:

- Tôi thật đáng xấu hổ.

Bấy giờ vì ác quỷ che mờ tâm khiến cho tôi không nghe lời Đức Phật nói.

Lại bảo:

- Ông cũng có tội, vì đã cho người nữ thấy được ẩn tướng của Đức Phật khi Niết-bàn.

Đáp:

- Tôi thật xấu hổ vì đã để cho người nữ thấy ẩn tướng của Đức Như Lai. Bởi vì tôi muốn cho họ nhàm chán thân nữ mà cầu thân nam tử.

Lại nói:

- Ông cũng có tội. Ngày trước ông khẩn cầu xin Đức Như Lai điều này, là vì tôi nghe trong quá khứ chư Phật đều có bốn bộ chúng, nên mới ân cần cầu thỉnh. Tôn giả Ca-diếp dạy cho A-nan tác pháp lục Đột-kiết-la sám hối xong liền bảo chư Tỳ-kheo:

- Chúng ta không nên bỏ những giới vi tế. Vì sao? Vì có Tỳ-kheo nói thất Diệt tránh là giới vi tế. Lại có vị cho pháp học chúng là giới vi tế. Lại có Tỳ-kheo nói pháp tứ Ba-la-đề-xá-ni là giới vi tế. Lại có Tỳ-kheo cho Ba-dật-đề là giới vi tế, nên bỏ hết các giới vi tế nầy. Có vị lại bảo nên bỏ hai pháp bất định, mười ba việc, nhẫn đến tứ sự đều xả bỏ. Ngoại đạo mà nghe được sẽ cho là Sa-môn Cùđàm, pháp tu như mây khói. Khi Đức Phật còn tại thế thì tu trì giữ giới, còn khi Đức Phật nhập Niếtbàn rồi, thì muốn trì thì trì, muốn bỏ thì bỏ.

Tôn giả Ca-diếp bảo chư Tỳ-kheo:

- Như Lai từng nói rằng: Những gì cần chế giới thì ta đã nói hết. Những gì không chế giới thì cẩn thận chớ có chế. Nay những gì ta nói đều không thêm không bớt. Chư Tỳ-kheo nên giữ gìn giới này, để cho thiện pháp ngày càng tăng trưởng, các pháp bất thiện vĩnh viễn tiêu diệt. Vì nghĩa này mà Đức Phật chế giới. Vì vậy phải nên hộ trì, để cho chánh pháp được cửu trụ.

-------------------------------------

NHÂN DUYÊN NGÀI MA-HA CA-DIẾP NHẬP NIẾT-BÀN

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp kết tập Tu-đa-la và Atỳ-đàm xong, nhập vào nguyện trí Tam-muội quán sát pháp tạng có gì khiếm khuyết không. biết là không còn khiếm khuyết gì. Năm trăm vị La-hán cũng nhập nguyện trí mà quán xét.

Ca-diếp tự nghĩ: Đức Như Lai là bậc Đại Thiện Tri Thức của ta, vậy cần phải báo ân Đức Phật. Báo ân xong thì những gì muốn làm ta đã làm xong. Vì sự lợi ích của các pháp mà cùng tu phạm hạnh, vì chúng sinh mà làm nhiều lợi ích, muốn khai thị chúng sinh đời vị lai mà tưởng đại Bi. Muốn cho các pháp được lưu truyền không dứt. Vì người không biết tàm quý mà làm pháp Yết-ma. Vì người biết tàm quý làm pháp an lạc. Như thế chính là báo ân của Đức Phật.

Lại suy nghĩ: Ta nhiều năm đối với thân già yếu này rất nhàm chán. Giờ Niết-bàn đã đến. Tôn giả Ca-diếp đem phó chúc lại cho A-nan mà nói rằng:-Này Trưởng lão A-nan, Phật đem giáo pháp phó chúc cho ta. Ta nay muốn nhập Niết-bàn nên phó chúc lại cho ông, ông phải giữ gìn.

Ngài A-nan thưa:

- Xin thọ giáo Đức Thế Tôn, trong thành Vương Xá có một trưởng giả có đứa con trai, khi sinh ta đã có vải Thương-na khoác sẵn trên người, cho nên đặt tên là Thương-na, tức Thương-na-hòA-tu. Người này lớn lên đi vào biển tìm báu vật.

Ca-diếp nói với A-nan:

- Thương-na-hòa-tu phát ý nguyện đi ra biển khi trở về muốn thiết lập hội cúng dường chúng Tăng, khi lập hội xong ông nhớ độ cho vị ấy xuất gia và giao lại giáo pháp. Ngài Ca-diếp phó chúc cho A-nan xong liền suy nghĩ: Nay ta đối với lòng đại Bi khổ hạnh khó làm Bà-già-bà Thiện tri thức tu vô lượng tịnh thiện công đức để đạt được chỗ chân diệu xá-lợi. Tiếp đến Tôn giả đảnh lễ tháp Đức Phật. Lần lượt lễ tháp Đức Phật xong, Tôn giả lại lên cung trời Đế Thích đảnh lễ răng Đức Phật. Lúc này Thích Đề-hoàn Nhân cùng chư Thiên đến cúng dường lễ lại Tôn giả Ca-diếp.

Sau đó trời Đế Thích thưa:

- Tôn giả hiện nay muốn đến cúng dường xá lợi để nhập Niết-bàn, cho nên mới đến đây.

Tôn giả đáp:

- Ta muốn lễ bái răng Đức Phật, cùng tóc, mão thiên và bình bát của Đức Như Lai. Nay ta đến cúng dường lần cuối.

Trời Đế Thích và chư Thiên nghe xong thì rất áo não. Thích Đề-hoàn Nhân cung kính dâng răng Đức Phật cho Tôn giả. Tôn giả đem hoa Chiên-đàn Mạn-đà cúng dường răng Đức Phật, cúng dường xong Tôn giả bảo chư Thiên tinh tấn chớ có phóng dật. Sau đó, trưởng lão trở về thành Vương xá. Bấy giờ, A-nan nhận lời phó chúc xong, sợ Tôn giả Niết-bàn mà không thấy, cho nên luôn đi theo bên cạnh không xa rời.

Tôn giả bảo A-nan:

- Ông nên đi riêng một mình vào thành khất thực để làm ba điều thiện.

1. Có sắc mạo chân thật.

2. Đa văn chân thật, khiến cho người nghe không nhàm chán.

3. Tên của A-nan cũng được lợi ích chân thật.

Bấy giờ Tôn giả A-nan vào thành khất thực. Chợt nhớ đã hứa về thăm vua A-xà-thế trước khi nhập Niết-bàn. Tôn giả liền đi vào cung vua.

Người giữ cửa nói:

- Vua đang ngủ nên tôi không dám đánh thức.

Tôn giả nói:

- Khi vua thức, ông nên nói lại là Tôn giả Cadiếp muốn nhập Niết-bàn, nên đến để từ biệt vua.

Thế là tôn giả Ca-diếp đi đến núi Kê khước Tam nhạc, trải tòa cỏ mà ngồi kiết già, suy nghĩ: Ta nay đắp, mặc y phấn tảo của Đức Phật, tự trì bát của Đức Phật, cho đến khi Đức Phật Di-lặc ra đời chớ cho hủy hoại. Khi ấy, để cho đệ tử Di-lặc thấy thân ta mà nhàm chán ác đạo.

Tôn giả lại nghĩ:

- Nếu vua A-xà-thế không thấy thân ta, thì sẽ hộc máu từ trên mặt xuống, mạng khó bảo toàn. Tôn giả Ca-diếp đã xả bỏ thân xác, chỉ lưu lại tiểu thọ, liền khi đó cả đại địa lục chủng đều chấn động.

Tôn giả Ca-diếp muốn nhập định liền nghĩ: Nếu A-nan và A-xà-thế đến núi thì núi mở khiến cho được vào, khi trở về thì núi lại mở ra. Thích Đề-hoàn Nhân đem vô số chư Thiên và hoa trời

Mạn-trà-la, mạt hương đến cúng dường, xong núi liền đóng lại che thân Tôn giả.

Thích Đề-hoàn Nhân thấy Tôn giả xã bỏ báo thân thì lòng rất áo não.

- Như Lai Niết-bàn, sự khổ não chưa dứt. Nay Tôn giả cũng lại nhập Niết-bàn, sự khổ não cũng gấp bội.

Thần của hang Tất-bát-la nghe Tôn giả Niếtbàn liền nói:

- Ngày nay hang này trở thành hoang vắng, nước Ma-kiệt-đà cũng thành trống không, người bần cùng già khổ từ nay mất nơi nương tựa, không còn lòng từ mẫn xót thương của người làm cho lợi ích. Từ đây trở thành kẻ nghèo thiện pháp. Núi đã băng hoại núi pháp cũng chìm mất, cây pháp bị chặt phá, biển pháp thành khô cạn. Ngày nay cõi Ma đang vui sướng, còn chốn nhân thiên ai bi sầu não. Nói xong Thích Đề-hoàn Nhân cùng chư

Thiên bay về cõi trời.

Tôn giả A-nan đi khất thực xong, liền tư duy sâu lắng về các pháp chư hành vô thường. Bấy giờ vua A-xà-thế nằm mộng thấy cây xà nhà bị gãy đổ, tỉnh dậy thì hoang mang lo sợ. Khi đó người giữ cửa vào tâu:

- Ngài Ca-diếp có đến từ giả vua để nhập Niếtbàn.

Vua nghe nói liến đau đớn té xỉu xuống đất. Người hầu lấy nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh. Vua liền đến vườn trúc lễ lạy Tôn giả A-nan mà thưa:

- Tôn giả ngày nay muốn vào Niết-bàn. A-nan bảo:

- Tôn giả đã nhập Niết-bàn rồi. Vua lại hỏi tiếp:

- Xin chỉ cho tôi biết thân xác của Tôn giả chỗ nào, tôi muốn cúng dường.

A-nan dẫn vua đến núi Kê túc. Khi vua đến thì núi tự mở ra. Vua và Tôn giả A-nan vào trong trông thấy ngài Ca-diếp ngồi bất động. Khắp thân mình và nửa đầu đầy ngập các loại hoa trời. Vua năm vóc lạy xuống đất. Sau đó đứng dậy cầm khúc khải Chiên-đàn, A-nan hỏi vua muốn gì?

Vua đáp:

- Muốn hỏa thiêu Tôn giả. A-nan bảo:

- Tôn giả dùng đinh để trụ thân lại mà đợi Đức Phật Di-lặc ra đời nên không thể hỏa thiêu. Khi Đức Phật Di-lặc ra đời, chúng sinh đến núi này sẽ trông thấy Tôn giả. Lúc này mọi người sẽ nghĩ: Hàng Thanh văn thân nhỏ, Đức Phật kia chắc cũng nhỏ, như vậy nên tỏ ý xem thường. Ma-ha Ca-diếp liền bay lên hư không, biến hóa thân lớn thành mười tám lần, ngài Di-lặc cũng nói là Đức Phật Thích-ca cùng Tăng-già-lợi đều biến hiện vô cùng như Ca-diếp.

Chín mươi sáu ức Sa-môn thấy được thân tuy nhỏ mà đạo đức thần thông sáng chói viên mãn như thế. Tự lấy làm hổ thẹn, liền dứt trừ tâm kiêu mạn mà chứng quả A-la-hán. Vua thiết lễ cúng dường rồi thì trở về, A-nan cũng theo ra. Sau khi hai vị đi ra khỏi, thì núi tự nhiên khép lại. Vua chắp tay bạch với Tôn giả:

- Khi Như Lai Niết-bàn, tôi đã không được thấy. Tôn giả Ca-diếp nhập Niết-bàn tôi cũng không được thấy. Vậy Tôn giả có Niết-bàn xin cho tôi được thấy.

A-nan nói:

- Được.

Khi đó Thương-na-hòa-tu từ biển trở về được bình an, liền đem trân báu đến Trúc lâm cúng dường. Lúc này Tôn giả A-nan đang đi kinh hành trước cửa tịnh xá. Thương-na-hòa-tu liền bước tới lễ lạy Tôn giả rồi đứng một bên thưa:

- Tôi có phát ý đi biển, nay bình yên trở về, vì chư Phật và chúng Tăng sẽ thiết lễ cúng dường.

Nay Thế Tôn đang ở chỗ nào.

Tôn giả đáp:

- Đức Phật đã nhập Niết-bàn.

Nghe xong Thương-na-hòa-tu ngã quỵ xuống đất. Đem nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh dậy, lại hỏi các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp ở chỗ nào?

Đáp:

- Các vị ấy cũng đã nhập Niết-bàn. Thương-nahòa-tu thưa:

- Thưa Đại đức! Tôi muốn vì chúng Tăng thiết lễ cúng dường.

Tôn giả bảo:

- Có thể tùy ý.

Khi làm xong, A-nan lại nói:

- Ông đã làm tài thí thì nay cũng có thể làm pháp thí. Hỏi:

- Tôn giả muốn tôi làm pháp thí gì? Tôn giả nói:

- Ở trong Phật pháp xuất gia chính là pháp thí.

Hòa-tu đáp:

- Được, con xin y giáo.

A-nan liền độ cho xuất gia và thọ giới Cụ túc, cho đến bạch tứ Yết-ma. Thương-na-hòa-tu nói, con vốn sinh ra đã mặc y Thương-na. Con sẽ mang y này suốt đời. Thế là tổng trì tám vạn bốn ngàn pháp tạng của ngài A-nan, chứng đầy đủ ba Minh sáu Thông rõ suốt cả Tam tạng.

Tôn giả A-nan ở trong vườn Trúc lâm nghe một vị Tỳ-kheo tụng pháp cú rằng:

- Nếu người sinh ra đời được một trăm tuổi, mà không thấy nước Cô quán, không bằng sống một ngày mà thấy nước Cô quán. Tôn giả A-nan đứng một bên thấy lỗi này liền nói:

- Đệ tử Đức Phật không nên tụng như vậy. Lời Đức Phật dạy là: Người sinh ra đời một trăm tuổi mà không giải thoát sinh tử, không bằng sinh một ngày mà được giải thoát sinh tử.

A-nan lại nói:

-Người Phật tử có hai hạng người hủy báng Phật: Một là người đa văn mà giải nghĩa lý rơi vào chỗ không có nhân quả. Hai là điên đảo mà giải nghĩa, đó cũng là tà độc. Nếu giải đúng chánh nghĩa thì chính là quả Niết-bàn.

Vị Tỳ-kheo này liền đến bạch với thầy:

- Tôn giả A-nan nói bài ấy không phải do Phật nói ra. Vị thầy nói:

- Tôn giả A-nan vì già cả nên quên đấy thôi.

Người cứ tụng y như vậy à!

A-nan khi trở lại vẫn nghe vị Tỳ-kheo tụng như cũ, Tôn giả bảo:

- Ta đã bảo là đây không phải lời Đức Phật dạy.

Ông không nghe, đáp:

- Thầy Hòa thượng của con bảo là A-nan già cả rồi nên không nhớ và bảo con tụng y như vậy.

A-nan nghĩ:

- Nếu ta tự thân làm hay nói thì sẽ không được tin thọ. A-nan nhập định quán xem có vị Tỳ-kheo nào khiến cho Tỳ-kheo này thay đổi không? Nhưng thấy là không có ai có thể làm sửa đổi được. Những vị Tôn túc Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp đều đã nhập Niết-bàn. Ta nay biết hướng về ai để nói điều này. Thôi ta cũng nên nhập Niết-bàn. Chư thiện hữu cùng học với ta nay đã nhập Niết-bàn từ lâu. Vậy thì ta cũng chớ lưu lại thân với trụ xứ này nữa.

Tôn giả A-nan nói với Thương-na-hòa-tu:

- Đức Phật đem pháp phó chúc lại cho ngài Cadiếp. Ngài Ca-diếp giao lại cho ta. Nay ta muốn nhập Niết-bàn, vậy ông nên truyền thừa gìn giữ, ở nước Ma-đột-la có núi Ưu-lưu-mạn-trà, ông nên lập tháp tự ở nơi đó.

Bấy giờ, có hai anh em nhà trưởng lão kia, một người tên Na-la, một người tên Bạt-lợi, Đức Phật nói đây là hai vị Đàn-việt, sẽ tại núi này tạo lập tăng phường A-lan-nhã. Ở nước Ma-đột-la, có con trưởng giả tên Cúc-đa, ông nên theo độ cho xuất gia. Phật đã thọ ký vị này, sau một trăm Đức Phật nhập diệt vị ấy sẽ làm Phật sự tại núi này, độ chúng vô lượng.

Thương-na-hòa-tu lãnh thọ lời dạy của ngài Anan

Sáng sớm Tôn giả A-nan cầm y bát vào thành khất thực, mà khởi ý nghĩ: Vua A-xà-thế có cùng ta giao ước, nay ta phải đến từ tạ, liền đi đến cung vua nói với người giữ cửa:

-Vào thưa với vua là có Tôn giả A-nan đến.

Người giữ cửa vào thấy vua còn ngủ liền trở ra thưa là vua đang ngủ.

A-nan bảo:

- Ông vào đánh thức đi Đáp:

- Vua tánh rất hung dữ, nên không dám đánh thức A-nan nói:

- Nếu khi vua thức thì bạch lại rằng: A-nan muốn nhập Niết-bàn nên đến đây từ biệt vua.

Tôn giả A-nan khất thực xong trở về suy nghĩ: Nếu ta ở thành Vương xá nhập Niết-bàn. Vua Axà-thế cùng nước Tỳ-xá-ly không thuận nhau. Vua A-xà-thế sẽ không chia xá-lợi cho nước kia. Còn như ta đến nước Tỳ-xá-ly nhập Niết-bàn thì nước kia cũng không chia xá-lợi của ta cho A-xà-thế. Hai nước sẽ tranh giành nhau. Ta nên đến giữa sông Hằng mà nhập diệt. Vua A-xà-thế nằm mộng thấy cái bảo cái đang cầm bị người ta bẻ mất cái chuôi đi.

Vua thấy vậy thì rất sợ hãi, bèn tỉnh dậy. Người giữ cửa vào thưa là có Tôn giả A-nan đến từ biệt để nhập Niết-bàn. Vua nghe vậy thì buồn đau té xỉu xuống đất. Người hầu phải lấy nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh.

Vua vội hỏi:

- Tôn giả đã đi bao lâu. Đến chỗ nào để nhập Niết-bàn. Lúc này có thần Trúc viên đến bảo vua:

- Tôn giả A-nan đến nước Tỳ-xá-ly để nhập Niết-bàn.

Vua nghe nói liền tụ tập bốn bộ binh, kéo đến bờ sông Hằng. Thần Trúc viên cũng đến nói với dân Tỳ-xá-ly. Tôn giả A-nan nhập Niết-bàn ở thành Viên xá dân Tỳ-xá-ly nghe nói cũng cử đại binh đến bờ sông Hằng. Thần Trúc viên cũng đến nói với dân Tỳ-xá-ly. Ngài A-nan nhập Niết-bàn ở thành Viên xá. Dân Tỳ-xá-ly nghe nói cũng cử đại binh đến bờ sông Hằng.

Tôn giả A-nan đang ở trên thuyền nơi giữa dòng sông. Vua A-xà-thế trông thấy Tôn giả thì đảnh lễ thưa:

- Ngọn đèn trong Tam giới là Đức Như Lai đã bỏ chúng tôi. Ngài là ngọn minh đăng để chúng tôi nương về. Nguyện xin lòng Từ mẫn chớ nhập Niếtbàn.

Dân Tỳ-xá-ly cũng lễ Tôn giả mà nói:

- Tôn giả A-nan, nếu muốn nhập Niết-bàn xin đến nước Tỳ-xá-ly.

Lúc nầy cả đại địa đều chấn động, có năm trăm vị tiên nhân có đầy đủ ngũ thông đều tư duy: Đất nầy do nhân duyên gì nay lại chấn động. Quán xét thì thấy A-nan nhập Niết-bàn nên mặt đất chấn động. Vị thủ lảnh tiên nhân liền dẫn năm trăm vị tiên kia đến chỗ A-nan, đảnh lễ dưới chân Tôn giả rồi thưa:

- Xin cho con được xuất gia. A-nan nghĩ:

- Hàng đệ tử Thánh hiền của ta nên đến đây.

Năm trăm vị A-la-hán tự nhiên cũng đến.

Tôn giả A-nan biến dòng sông Hằng thành đất vàng, rồi xuất gia cho năm trăm vị tiên nhân và họ đều chứng quả A-la-hán. Thế là tiên nhân ở nơi giòng sông Hằng được thọ giới, lấy tên là Ma-điềnđề. Khi đã đắc quả A-la-hán liền làm lễ dưới chân Bồ-tát mà thưa rằng:

- Đệ tử cuối cùng của Như Lai là Tu-bát-đà đã nhập Niết-bàn trước Đức Phật. Con nay cũng là đệ tử cuối cùng của ngài, nên cũng muốn nhập Niếtbàn, không nở nhìn Hòa thượng nhập Niết-bàn trước.

Tôn giả A-nan nói:

Đức Thế Tôn đem giáo pháp phó chúc cho ta rồi nhập Niết-bàn, vậy thì ông nên nước Kế tân mà khởi hưng Phật pháp. Phật đã thọ ký, sau khi ta Niết-bàn có Tỳ-kheo Ma-điền-đề hành trì Phật pháp tại nước Kế tân. Tôn giả A-nan đem giáo pháp phó chúc cho Ma-điền-đề xong, thì bay lên hư không, biến hóa khôn lường khiến cho Đàn-việt trông thấy thì rất hoan hỷ, gió lớn Tam-muội phân thân làm bốn phần. Một phần bay lên cung trời Đao lợi của Thích Đề-hoàn Nhân. Một phần bay lên Đại hải của long vương Ta-kiệt-la. Một phần đến nước của vua A-xà-thế. Một phần đến nước Tỳ-xá-ly.

Thế là bốn nơi đều xây tháp cúng dường.

--------------------------------------

NHÂN DUYÊN VỀ MA-ĐIỀN-ĐỀ

Ma-điền-đề nghĩ rằng: Hòa thượng A-nan phó chúc pháp cho ta, dạy ta đem pháp mà an định nước Kế tân. Lúc này, nước Kế tân có Đại long, trước nay đã từng ở đó. Ma-điền-đề liền đến nước Kế tân ngồi kiết già nghĩ rằng:

- Nếu ta không làm xúc não, thì rồng sẽ không chịu hàng phục.

Liền nhập định làm cho nước Kế tân bị chấn động. Rồng tức giận cũng làm sấm chớp mưa đá vân vũ tràn ngập. Tôn giả liền nhập từ bi tâm Tammuội, làm cho điên đảo một giọt nước cũng không động đến y, huống gì là thân, hóa giải hết sấm chớp mưa đá thành ra hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vậtđầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Ưu-bát-la, rồng liền tạo ra mưa kiếm dao búa và các khí trượng. Ma-điềnđề liền hóa thành bảy báu, lại hóa thành mưa cây đá núi, Ma-điền-đề hóa cây đá thành thức ăn y phục, rồng lại làm cho mưa lớn trong bảy ngày. Tôn giả hóa giải đưa nước vào trong biển lớn, rồng phun lửa muốn đốt Tôn giả, Tôn giả biến lửa thành chân châu, rồng lại hóa vô số rồng con, Tôn giả hóa vô số kim xí điểu. Rồng thấy kim xí điểu thì lo sợ đến chỗ Tôn giả nói:

- Tôn giả muốn gì?

- Ngươi có thể thọ Tam quy. Rồng lại hỏi:

- Tôn giả muốn gì nữa?

- Cùng ta ở đây. Rồng nói:

- Không thể ở cùng. Tôn giả bảo:

- Đức Phật trước khi nhập Niết-bàn đã thọ ký đất này làm nơi an ổn để tọa thiền.

Rồng nói:

- Phật thọ ký chỗ nào? Đáp:

- Chính là chỗ nầy. Rồng:

- Muốn khoảng bao nhiêu? Đáp:

- Muốn được một chỗ ngồi.

Ma-điền-đề liền hóa thân khắp cả nước Kế tân cùng ngồi. Rồng hỏi:

- Dùng bao nhiêu đất? Đáp:

- Tôi nay có nhiều chúng bạn. Hỏi:

- Có bao nhiêu người? Đáp:

- Có năm trăm La-hán. Rồng nói:

- Nếu thiếu một người thì không được, Tôn giả nhập định quán coi có đủ năm trăm vị không? thì thấy đủ.

Sau đó đem vô số người đến xứ này tự lập ra thành ấp thôn xóm, Ma-điền-đề đưa người đến núi Hương sơn, muốn lấy các thứ trân báu đem đến nước Kế tân. Bấy giờ, Long thần ở Hương sơn đều ủng hộ. Rồng hỏi:

- Cần bao nhiêu? Tôn giả đáp:

- Tùy pháp trụ ở đời. Lại hỏi tiếp:

- Phật pháp trụ bao lâu? Đáp:

- Một ngàn năm. Rồng nói:

- Ông tùy đó mà lấy.

Sau đó Ma-điền-đề lại nghĩ: Hòa thượng dạy ta đến nước Kế tân này để hoằng truyền Phật pháp. Nay đã xong ta nên nhập Niết-bàn. Tôn giả liền bay lên hư không biến hóa mười tám lần khiến cho Đàn-việt đều sinh lòng hoan hỷ, cùng làm lợi ích mà tu phạm hạnh. Thí như nước hết lửa tắt, rồi nhập Niết-bàn. Đại chúng lấy củi chiên-đàn thiêu xong thu lấy Xá lợi xây tháp.

QUYỂN 5

Khi Tôn giả A-nan nhập Niết-bàn. Thương-nahòa-tu đi đến nước Ma-đột-la, giữa đường gặp ngôi chùa tên Tỳ-đa, lúc này trời đã tối, liền vào chùa tá túc. Trong chùa có hai vị Tỳ-kheo Ma-ha-la đang cùng luận đàm.

Tôi ngày trước có nghe Thương-na-hòa-tu nói rằng:

- Nếu có vị Tỳ-kheo giữ giới nhỏ mà không phạm thì gọi là Thắng giới. Nghe các việc tường tận mà không nghe các việc khác thì gọi là đa văn.

Thương-na-hòa-tu nghe lời này liền nói với Ma-ha-la:

- Thương-na-hòa-tu không nói lời này, mà nói rằng, thấy người thanh tịnh thì gọi là tịnh trì giới, người tịnh trì giới thì gọi là Đệ nhất giới. Nếu nghe mà hành trì theo thì gọi là đa văn, chứ không như ông nói.

Ma-ha-la hỏi:

- Ngài là Thương-na-hòa-tu. Đáp:

- Chính là tôi. Ma-ha-la hỏi:

- Vì nhân duyên gì mà ngài lấy tên Thương-nahòa-tu. Vì thọ y Thương-na nên lấy tên Thươngna-hòa-tu. Hay là quá khứ tạo thiện duyên nên có tên này? Đáp:

- Vì cả hai nhân duyên nên có tên Thương-nahòa-tu. Một là thọ trì y Thương-na, hai là quá khứ tạo thiện duyên, cho nên tên là Thương-na-hòa-tu.

Lại hỏi:

-Nhân duyên quá khứ như thế nào?

Đáp:

- Đời quá khứ ở nước Ba-la-nại có một thương chủ, cùng năm trăm thương nhân đi vào trong biển thấy một vị Bích-chi-phật bị bệnh. Bấy giờ thương chủ cùng đoàn thương nhân dừng lại. Đem thuốc thang ẩm thực để điều trị cho vị Phật này, vị Bíchchi-phật dần được khỏi bệnh, khi ấy vị Bích-chiphật mặc y vải Thương-na. Thương chủ hỏi ngài có muốn y len thì nên bỏ y Thương na chúng con sẽ cúng y len.

Bích-chi-phật đáp:

- Y nầy ta dùng khi xuất gia và cho đến nay lúc thành đạo và nhập Niết-bàn vẫn giữ y này.

Thương chủ nói:

- Xin Tôn giả chớ vào Niết-bàn để cùng chúng tôi ra biển. Ra biển trở về chúng tôi sẽ trọn đời cung cấp cho Tôn giả y thực, ngọa cụ, thuốc men đầy đủ.

Bích-chi-phật nói:

- Ta nay không thể đi biển. Nay chỉ phát lòng hoan hỷ cho ông làm đại công đức.

Liền ngay trước mặt Thương chủ, Bích-chiphật bay lên hư không biến hóa vô cùng mà nhập Niết-bàn.

Thương chủ đó nay chính thân ta. Ta khi ấy cúng dường Xá lợi cho Phật xong thì phát nguyện.

- Nguyện đời vị lai gặp được Thánh sư. Rồi trải qua trăm ngàn vạn ức cũng được công đức như Thánh sư, trong tương lai chỗ sinh ra đều có uy đức pháp tắc và y phục như Bích-chi-phật. Vì vậy khi ta sinh ra liền có y Thương-na mặc trên người. Ngày xuất gia vẫn đắp y này. Cho nên trọn đời vẫn trì y.

Lại hỏi:

- Làm sao để thọ trì y? Đáp:

- Khi ta thọ Cụ túc giới, đã cầu trọn đời thọ trì y này. Vì vậy, nên được thọ trì.

Ma-ha-la nói:

Ngài quả thật là chơn hảo.

Tôn giả Thương-na-hòa-tu lần lần đi đến nước Ma-đột-la, đến núi Ưu-lưu-mạn-trà ngồi kiết già, núi này có hai Long tử và quyến thuộc cùng ở.

Tôn giả nghĩ:

- Nếu ta không xúc não, thì rồng sẽ không đi.

Bèn làm cho cả núi chấn động. Rồng nổi giận làm mưa gió lớn tràn đến chỗ Tôn giả. Tôn giả liền nhập định từ bi Tam-muội, đem tâm từ hóa giải nên trùng độc nước lửa đều không làm thương hại. Cũng như tôn giả Ma-điền-đề hàng phục được rồng.

Long tử thấy việc chưa từng có liền phát lòng tin, đến chỗ tôn giả thưa:

- Ngài muốn dạy gì? Tôn giả đáp:

- Cho ta cùng chúng Tăng trụ xứ tại đây. Rồng nói:

- Không được. Tôn giả bảo:

- Đức Phật trước khi Niết-bàn có thọ ký tại núi Ưu-lưu-mạn-trà này có trú xứ A-lan-nhã. Tên gọi là Na-la-bạt-lợi tọa thiền đệ nhất.

Long tử nói:

- Đức Phật đã thọ ký thật sao? Đáp:

- Có thật. Rồng nói:

- Nếu Đức Phật đã thọ ký thì tùy ý sử dụng.

Tôn giả nhập định quán xét xem thử Đàn-việt ra đời chưa. Biết đã ra đời nên sáng sớm đắp y trì bát đi vào thành Ma-đột-la đi khất thực từng nhà, vừa đến trước cửa nhà trưởng giả Na-la-bạt-lợi, nói với trưởng giả:

- Ông cho tôi tiền, tôi nay muốn ở trong núi Mạn-trà tạo trú xứ A-lan-nhã.

Trưởng giả nói:

- Tại sao tôi phải cho tiền? Đáp:

- Đức Phật trước đã thọ ký, sau khi ta Niết-bàn, ở nước Ma-đột-la có một trưởng giả, huynh đệ hai người, một người tên Na-la, một người tên Bát-la, tại núi Mạn-trà phát tâm tạo dựng trú xứ A-lan-nhã.

Trú xứ lấy tên Na-la-bạt-lợi.

Trưởng giả nói:

- Đức Phật đã thọ ký.

Thế là trưởng lão liền xuất tiền vàng lên núi tạo dựng tăng phương trú xứ. Đặt tên là tinh xá Na-labạt-lợi.

Thương-na-hòa-tu nhập định quát xét xem Cúc-đề trưởng giả đã ra đời chưa thì thấy đã ra đời. Lại quán con của Cúc-đề sinh ra chưa? Vẫn chưa sinh, thế là lần hồi đi đến nhà Cúc-đề giáo hóa khiến cho người hướng về Phật pháp. Lúc đầu Tôn giả đem theo nhiều vị Tỳ-kheo đến, sau dần ít lại. Rồi chỉ còn một mình đi đến đó. Trưởng lão hỏi:

- Tôn giả không có đem vị đệ tử nào đến nhà tôi sao? Đáp:

- Tôi không có đệ tử theo phụng trì, nếu có lòng kính tin thì nên theo tôi.

Cúc-đề thưa:

- Thân tôi hãy còn tham lạc thú thế gian, nên chưa thể xuất gia đi theo Tôn giả được. Nếu có con thì sẽ cho theo.

Tôn giả nói:

- Ông có ý tốt, xin cẩn thận giữ lời đừng có quên.

Cúc-đề sau đó sinh một con đặt tên là A-thấtbà Cúc-đa.

Đứa bé ấy lớn lên. Tôn giả mới nói:

- Ông trước có hứa, nếu có con thì cho theo tôi xuất gia.

Nay đứa con ấy đã lớn thì nên cho.

Đáp:

- Tôi chỉ có một con, không thể cho theo được.

Nếu có đứa nữa thì cho đi.

Tôn giả nói:

- Được.

Sau sinh một đứa khác đặt tên là Đàn-ni Cúcđa, đứa bé rồi cũng lớn lên, Tôn giả tìm đến nói, ông có nói nếu có đứa nữa thì hứa cho theo tôi. Nay nên cho đi xuất gia.

Cúc-đề đáp:

- Tôi có một đứa để giữ tài của. Một đứa cho ra ngoài để kiếm tiền, nếu có đứa thứ ba thì sẽ cho đi.

Tôn giả nói:

- Được.

Không bao lâu lại có đứa thứ ba, được đặt tên là Ưu-ba-cúc-đa, vì dung mạo rất đoan chánh khác thường.

Đứa bé dần dần lớn lên, ở trong cửa hàng coi việc bán hương, người đến mua rất nhiều, nên thu lợi vô cùng.

Tôn giả quán sát thấy trưởng lão Cúc-đề đã sinh con, liền đến bảo:

- Ông trước hứa sinh đứa thứ ba sẽ cho theo tôi để xuất gia.

Nay đã có thì nên giữ lời mà cho theo tôi.

Cúc-đề nói:

- Nếu không làm mất nguồn lợi của tôi thì tôi sẽ cho theo Tôn giả.

Lúc này Ma vương thông báo cả nước Ma-độtla, có thể đến nhà Cúc-đề để mua hương. Do có nhiều người mua nên lợi lộc rất nhiều.

Tôn giả đi đến chỗ Ưu-ba-cúc-đa đang bán hương trong chợ, Tôn giả đến bảo:

- Ông ở đây bán hương là vì tịnh tâm hay bất định tâm. Ưu-ba-cúc-đa đáp:

- Con không biết, vì sao gọi là tịnh tâm. Vì sao gọi là bất định tâm.

Tôn giả nói:

-Nếu tâm người tương ứng với tham dục sân nhuế thí là bất định tâm. Nếu không cùng tương ứng là tịnh tâm. Ngươi nên biết chỗ sở duyên của tâm đó. Nếu tâm duyên theo bất thiện thì lấy hòn đá đen đặt bên trái. Nếu tâm duyên theo thiện thì lấy hòn đá trắng đặt bên phải. Lại dạy Cúc-đa niệm Phật và quán Bất tịnh. Ngày đầu được hai phần đen, một phần trắng, ngày thứ hai được phân nữa đen, phân nữa trắng, dần dần chỉ thuần là trắng mà không còn đen nữa. Tâm lúc nầy chỉ thuần là thiện.

Như pháp mà đoạn hết mọi điều phi pháp.

Ở thành Ma-đột-la có một dâm nữ tên là Bà-tuđạt-đa, sai người tỳ nữ đến chỗ Ưu-ba-cúc-đa mua hương, khi tỳ nữ mua hương về thì dâm nữ giận nói:

- Nhà ông ta có trộm đạo hay sao mà có nhiều hương tốt vậy? Tỳ nữ thưa:

- Đây là do có con của Cúc-đề tên Ưu-ba-cúcđa, tánh tình bình đẳng như pháp, đang mua bán ở chợ.

Dâm nữ liền đến nhà Ưu-ba-cúc-đa mà lòng khởi tà dục, liền sai tỳ nữ đến chỗ Ưu-ba-cúc-đa nói:

- Đại gia tôi muốn gặp mặt ông! Cúc-đa đáp: ư

- Chẳng phải là lúc gặp mặt Bà-tu-đạt-đa dâm nữ trước nay vẫn đặt ra phép năm trăm tiền vàng cho người một đêm. Dâm nữ lại sai tỳ nữ đến nói với Cúc-đa:

- Tôi không lấy tiền, có thể cùng tôi một lần gặp mặt. Bấy giờ có đại trưởng giả, trước đã cùng với dâm nữ qua đêm. Ở phương Bắc có một thương khách đem nhiều trân bảo đến nước Ma-đột-la.

Thương khách hỏi người:

- Trong thành có ai là Đệ nhất kỹ nữ?

Có người đáp có Bà-tu-đạt-đà là đệ nhất dâm nữ ở đây. Muốn đến đây phải đem đến năm trăm tiền vàng cùng người qua một đêm.

Thương chủ nghe nói liền đem vàng và nhiều y phục tốt đẹp, cùng anh lạc đến cho dâm nữ. Lúc này dâm nữ tham của thương chủ nên giết đại trưởng giả đem chôn ở trong nhà. Con của trưởng giả cùng quyến thuộc tìm đến nhà dâm nữ khai quật nền nhà lên rồi đem đến trình vua là Bà-tuđạt-đà đã sát hại trưởng giả. Vua liền cho bắt dâm nữ, đem ra cắt hết tai mũi và chân tay rồi ném vào hầm. Ưu-ba-cúc-đa nghe việc này liền nói:

- Cô gái này vốn đã đem thanh sắc dục lạc làm nhân duyên mời gọi ta. Nay bị cắt tai mũi chân tay, nay chính là lúc phải đến đó. Người kia lúc còn trang nghiêm y phục, hiện tưởng tham dục nên không đến. Nay tham dục không còn thì nên đến. Bèn đem người hầu đến chỗ hầm. Người tỳ nữ vì ân nghĩa với chủ cũ, cho nên theo đến đó để đuổi chim. Tỳ nữ nói với chủ có Ưu-ba-cúc-đa. Dâm nữ bảo nữ tỳ đem tai mũi chân tay ở gần đó lấy mền để che lại. Ưu-ba-cúc-đa đến đứng ở trước mặt. Bà-tu-đạt-đa nói với Ưu-ba-cúc-đa rằng:

- Tôi bình thường có sai người gọi ông đến mà ông không đến.

Ngày nay tôi bị khổ nạn, thân thể bị cắt ra thì sao lại đến thăm tôi.

Ưu-ba-cúc-đa đáp:

- Tôi vốn không vì lòng tham dục mà đến thăm cô. Ta vì muốn thật tướng của dục nên mới đến đây. Còn cô vì lòng tham dục che mờ cho nên không nhận thấy thật tướng. Cô đem thanh sắc ra để lừa dối thế gian. Nay trở về với căn bổn thật tướng được da thịt che kín bên trên. Một khi máu chảy thịt tan gân cốt mạch máu đều không còn. Sự béo tốt bên ngoài xem thì rất đẹp, còn bên trong thì nhơ uế xấu xa đầy dẫy. Bên ngoài thì hương hoa che phủ lên. Bên trong thì ô uế hôi thối thật là đáng chán.

Nếu nghe được Phật pháp thì sự tham dục ấy gây ra nhiều khổ não lo sợ, trăm ngàn tai họa đều từ tham dục mà sinh ra. Nếu có bậc Trí giả dẫn dắt quở trách thì có thể xa lìa tham dục ô uế mà được giải thoát đi vào con đường chánh đạo để đến Niếtbàn. Dâm nữ nghe lời dạy đó rồi thì sinh lòng nhàm chán Tam giới, phát lòng tin Phật pháp thâm sâu. Liền nói với Ưu-ba-cúc-đa. Như ngài nói có bậc Trí giả quở trách dạy bảo pháp thật tướng như vậy. Xin nhủ lòng bi mẫn nói cho tôi nghe. Ưu-ba-cúcđa liền nói pháp Tứ đế. Khổ đế như sắt nung chảy; Tập đế như loài cây độc; Diệt đế là đoạn si ái, nương theo bát Thánh đạo mà ra lại nói khổ thể như loài ung nhọc độc khởi, gồm có sinh, già, bệnh, chết, ái biệt ly khổ, oán trắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm thanh khổ thì ở trong Tam giới hễ có sinh là có khổ?

Ưu-ba-cúc-đa quán thấy dâm nữ, thân thể thật tướng đều đã tỏ ngộ. Vì thấy được chơn đế mà xa lìa dục, chứng quả A-na-hàm. Bà-tu-đạt-đa nghe pháp Kiến đế, đắc kiến đế rồi thì khen ngợi Ưu-bacúc-đa: Lành thay! Lành thay. Ngài nay đã vì tôi mà nói về ba đường ác. Khai mở thiện pháp, đi đường tắt đến cõi Niết-bàn. Tôi nay xin quy y Phật Pháp Tăng.

Ưu-ba-cúc-đa nghe lời ấy thì trở về. Không bao lâu thì Bà-tu-đạt-đa qua đời được sinh lên trời Đao lợi khi ấy có Thiên thần nói với dân trong thành Ma-đột-la: Ưu-ba-cúc-đa vì Bà-tu-đạt-đa mà nói pháp khiến cho cô chứng được quả Tu-đà-hoàn, khi qua đời được sinh lên cõi trời Đao lợi. Người trong nước nghe thế liền đem thân Bà-tu-đạt-đa để cúng dường. Lúc này Thương-na-hòa-tu đến chỗ Cúc-đề nói:

- Nên cho Ưu-ba-cúc-đa theo tôi xuất gia. Đáp:-Nếu khiến cho việc lợi lạc của tôi không dứt, thì tôi cho đi. Tôn giả Thương-na-hòa-tu, dùng thần thông khiến cho lúc Cúc-đề được lợi không dứt. Cúc-đề ngày ngày được lợi nhiều nên không muốn cho đi.

Thương-na-hòa-tu nói rằng Đức Phật đã thọ ký cho Ưu-ba-cúc-đa. Sau khi Đức Phật Niết-bàn một trăm năm, đây là người hoằng truyền Phật sự, vậy ông nên cho đi.

Cúc-đề nghe vậy liền cho đi xuất gia. Tôn giả Thương-na-hòa-tu đem Ưu-ba-cúc-đa đến chỗ A-lan-nhã A-na-bạt-lợi. Cùng bạch tứ yết ma thọ giới Cụ túc, vừa thọ xong liền đắc quả A-la-hán. Thương-na-hòa-tu nói với Ưu-ba-cúc-đa rằng:

- Đức Phật đã thọ ký cho người, một trăm năm sau Đức Phật Niết-bàn có Tỳ-kheo Ưu-ba-cúc-đa, tuy không tướng hảo như Đức Phật mà hoằng truyền Phật sự, ở trong hàng Thanh văn làm bậc giáo thọ tọa thiền đệ nhất. Nay chính là lúc tốt, ngươi nên làm Phật sự.

Ưu-ba-cúc-đa xin tùy nguyện thọ giáo Ưu-bacúc-đa muốn thuyết đại pháp nơi nước Ma-đột-la. Người dân trong nước nghe Ưu-ba-cúc-đa thuyết pháp liền kéo tới nghe rất đông. Ưu-ba-cúc-đa quán lúc Đức Như Lai thuyết pháp, đại chúng ngồi nghe pháp vây thành nửa vòng tròn như thế nào. Ngày nay cũng khiến cho tứ chúng ngồi y như trước. Quán Đức Phật thuyết pháp như thế nào? Đức Phật trước nói về các pháp thì giới cầu sinh nhân thiên, vì muốn lấy pháp bất tịnh xuất thế làm trọng yếu. Như chư Phật vẫn thường thuyết tứ thánh đế Ưu-ba-cúc-đa cũng lần lượt thuyết tứ đế pháp như thế. Ma vương làm mưa đầy những chơn châu trân báo để làm hoại tâm chúng khiến cho không ai đắc đạo. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa quán xét thì biết được việc của ma làm.

Cuối ngày đó có vô số người đến nghe Ưu-bacúc-đa nói pháp. Mưa trân báo đều muốn đi đến lấy, vì nhân duyên đó mà nhiều người đến. Đến ngày thứ hai thuyết pháp lại có mưa báu, đến nỗi không có người nào được đắc đạo.

Tôn giả nhập định quán xét để xem ai làm, thì biết là Ma vương làm. Đến ngày thứ ba nhân dân trong nước lại đến nghe Tôn giả nói pháp. Ngày đầu thì mưa báo trân châu. Ngày thứ hai thì mưa vàng báu. Ngày thứ ba thì ma biến làm tiên nữ, làm thiên nhạc khiên cho tâm người não loạn. Người chưa đắc đạo đều mê hoặc đắm theo tiếng nhạc nhẫn đến không có một người đắc đạo. Ma thấy vậy rất vui mà nói rằng ta có thể phá hoại Ưu-bacúc-đa nói pháp.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa, ngồi ở dưới gốc cây, nhập định quán xét sự việc ma liền lấy hoa Mạnla-đà-la làm hoa man choàng trên cổ Ưu-ba-cúcđa. Tôn giả liền quán xem ai làm, mới biết là do quỷ làm. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa liền nghĩ: Ma phá hoại việc thuyết pháp của ta. Đức Phật vì sao lại không hàng phục. Lại quán xét biết ý Đức Phật vốn muốn để cho Ưu-ba-cúc-đa điều phục Ma vương. Vì vậy mà Đức Phật không hàng phục. Tôn giả quán sát để coi ma đã đến lúc điều phục được. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa liền đem ra ba thây chết. Một là thây của rắn, hay là thây chó, ba là thây người. Ba thây này hóa thành hoa man đem đến chỗ ma. Ma trông thấy thì rất vui mà nói rằng: Ưu-ba-cúc-đa đối với ta cũng không được tư tại. Ma liền cúi đầu thọ nhận tràng hoa man này. Ưu-ba-cúc-đa, để ba thây chết vào cổ của Ma vương. Ma thấy ba thây chết ở cỡ mình thì nói: Dám đem thây chết tròng vào cổ ta sao?

Tôn giả nói:

- Như Tỳ-kheo không nên đắm trước hương hoa mà ngươi lại đắm trước. Cũng như ngươi không nên đeo thây chết vào cổ mà ta kết thành. Nay thì tùy lực ngươi mà làm. Tại sao ngươi lại cùng với Phật tử đấu tranh. Như giữa biển lớn sóng luôn khuấy động phá vào sườn núi mà vẫn không hề hấn gì cũng như ma muốn tháo những thây chết này ra vậy. Như muốn dời núi Tu-di mà không sao lây động được. Ma muốn tháo những thây chết nơi cổ ra cũng như thế. Ma rất giận dữ bay lên hư không mà nói rằng:

-Ta tuy không tự mình giải thoát được, thì chư Thiên của ta sẽ đủ sức để phá.

Ưu-ba-cúc-đa nói:

- Người đến Phạm thiên, Thích Đề-hoàn Nhân tỳ Sa-môn thiên đi đến Ma-hải-đầu-la thiên, Balầu-na thiên cho đến vào trong đại hỏa mà vẫn không bị thiêu đốt vào trong đại thủy mà vẫn không ướt. Chư Thiên dù muốn giải thoát cho ngươi vẫn không thể được.

Khi đó Ma vương không tin lời Tôn giả mà tìm đến chư Thiên muốn cầu cởi ra, nhưng chư Thiên các nơi đều nói:

- Ta không thể cởi được. Rồi đến chỗ Phạm thiên chắp tay nói vì ta mà cởi ra giúp.

Phạm thiên đáp:

- Đây là do thập lực đệ tử Đức Phật làm, lực của ta yếu kém không thể cởi được. Giả như gió thổi mạnh cũng không thể thổi được. Dù có lấy rẽ cây treo được núi Tu-di lên, cũng không thể tháo được.

Ma nói Phạm vương:

- Ngươi không thể giải thoát cho ta thì ai tháo được. Phạm vương nói:

- Ngươi nên mau quy y với Ưu-ba-cúc-đa mới có thể giải thoát được. Như đại địa bị nghiêng đổ được trở lại. Nếu không quy y thì hoại thân ngươi, mà hại cả lạc thú trên cõi trời của người và hủy nhục tất cả niềm vui tôn quý.

Ma thấy thế lực của đệ tử Đức Phật thật lợi hại và nghe Phạm Thiên vương nói những lời cung kính, thì nghĩ đến thế lực của Đức Phật. Quả thật độ lượng làm sao? Nếu muốn làm khổ não ta hơn nữa, thì làm sao mà không thể được. Vì lòng từ bi lân mẫn cho nên không làm khổ não thân nữa. Ngày nay ta mới biết Đức Như Lai có đầy đủ lòng đại bi, do thành tựu lòng đại bi này mà đắc chân giải thoát. Ta vì vô minh che mờ tâm trí làm xúc não cho người khắp nơi, nhưng Đức Phật vì lòng từ bi bình đẳng chưa từng có lời nói ác ngữ đối với ta. Khi nghe lời nói của Phạm vương thì tâm kiêu mạn của ma liền dứt trừ. Ma đi đến chỗ Ưu-ba-cúcđa năm vóc lạy sát đất, rồi quỳ dài chắp tay bạch với Tôn giả rằng:

- Tôn giả! Ngài có thể biết, tôi thường làm xúc não Đức Thế tôn từ khi Ngài chứng đạo dưới cội Bồ-đề cho đến khi Niết-bàn, Tôn giả hỏi:

- Người làm điều gì? Đáp:

- Ngày trước khi Đức Phật đến tụ lạc Bà-lamôn khất thực, tôi che hết tâm mọi người khiến chẳng ai cúng dường làm cho Đức Phật không có ăn. Vì vậy Đức Phật có làm kệ:

Khoái lạc không tích chứa
Thân thể an khinh liền
Nếu trong sự ẩm thức
Tâm không sinh tham trước
Tâm người thường hoan hỷ
Dụ như trời quan âm.

Lại nữa, khi trước tôi ở trong hang Kỳ-xà-quật, hóa thành đại ngưu phá bát của năm trăm vị Tỳ-kheo, duy có bát của Đức Phật bay lên hư không. Tôi bèn ở chỗ khác hóa thành hình rồng, trói hình Đức Phật bảy ngày bảy đêm. Khi Đức Phật gần Niết-bàn tôi hóa thành năm trăm cỗ xe, làm cho nước sông dục ngầu khiến Đức Phật không có nước uống. Tóm lại, tôi đã làm cả trăm việc xúc não Đức Phật như thế. Mà Đức Như Lai từ mẫn, chưa từng nói một lời nào nặng với tôi. Còn ngài là bậc A-la-hán lại không có lòng từ mẫn đối với nhân thiên, A-tu-la nên nay đã làm hủy nhục đến tôi. Ưu-ba-cúc-đa đáp:

- Ba-tuần! Người không thể so sánh hàng Thanh văn ta cứu độ người khác với Đức Như Lai, không thể đem hạt cải mà so với núi Tu-di. Ánh sáng đom đóm mà sánh với vầng nhật nguyệt. Một giọt nước lại ví với đại hải. Như Lai vì lòng đại Bi, lòng Từ bi nên không thể trị ngươi. Thanh văn không đồng với Đức Phật nên mới trị được ngươi. Ma nói:

- Vì nhân duyên gì mà Đức Phật nhẫn nhục tôi từ lúc làm tiên nhân cho đến khi Ngài thành Phật, tôi luôn làm xúc não mà vẫn từ mẫn không làm hại tôi.

Đáp:

- Có nhân duyên bất thiện. Người dù tạo ác mà Phật không hề quở trách, sở dĩ như thế là ý Đức Phật muốn ta điều phục người. Khiến cho người đối với Đức Phật vẫn giữ lòng kính tin. Do tâm này mà sẽ bị đọa vào trong địa ngục, ngạ quỷ súc sinh. Vì vậy mà từ đầu Đức Phật đã không có một lời hủy trách người. Đức Phật đối với người vẫn giữ tâm Từ bi. Đức Phật đã dùng các phương tiện khéo léo khiến cho người sinh tín tâm. Do chút ít lòng tin này mà làm nhân duyên về Niết-bàn. Nay ta chỉ lược nói thôi. Ngươi đối với Đức Phật mà sinh được chút tín tâm thì do dây mà tiêu trừ hết tội xúc não Đức Phật xưa kia. Ma nghe nói lời này thì nhảy xổng lên, chẳng khác nào như hoa Già-ưu-từ rễ đến thân và cành lá.

Ma vương vui vẻ toàn thân đứng thẳng lên. Đức Phật vì lòng từ bi từ khi ngồi dưới cây thọ vương cho đến lúc Niết-bàn. Lòng từ nhẫn ấy chẳng khác nào như cha mẹ luôn nghĩ đến con, để tiêu trừ lỗi cho ta.

Ma vương đối với Phật pháp đã sinh lòng hoan hỷ, liền đứng dậy chắp tay bạch với Tôn giả:

- Ông đã khiến cho tôi sinh lòng hoan hỷ thì ông cũng là bậc đại ân vậy xin giải giùm tôi ba thây chết này.

Tôn giả nói:

Trước đã nói những yếu chỉ cho người rồi sau mới cỡi ra. Từ nay về sau đối với Phật pháp, ngươi tuyệt đối không được xúc não Tỳ-kheo Ma nói:

- Xin thọ giáo Tôn giả. Lại nói với ma:

- Ngươi hãy vì ta mà làm điều này. Ta tuy đã thấy được Như Lai pháp thân, mà vẫn chưa thấy được thân kim sắc của người. Vậy hãy vì ta mà hiện ra sắc thân Phật, để cho sinh tâm yêu kính.

Nếu làm việc này thì là tối thượng.

Ma đáp:

- Tôi cũng nói trước với Tôn giả điều trọng yếu này. Là lúc tôi hiện thân Phật, Ngài cẩn thận chớ có đảnh lễ tôi. Vì sao? Vì như thế tôi sẽ tổn phước và sẽ không hiện ra nữa.

Tôn giả nói:

- Được, ta sẽ không đảnh lễ ngươi. Ma nói:

- Đợi một chút để tôi vào trong rừng. Tôi vốn hiện ra hình Phật để dối trưởng giả Thư-la. Ngày trước đã làm, nay cũng vì ngài mà làm.

Tôn giả liền giải thoát ba thây chết trên cổ ma. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ngồi quán tưởng được thấy Phật. Ma liền vào trong rừng hóa ra thân Phật. Hóa ra thân Phật rồi, bèn hóa ra tượng Xá-lợi-phất ở bên trái, hóa hình Mục-kiền-liên ở bên mặt, A-nan ở phía sau. Ma-ha Ca-diếp, A-nậu-lâu-đầu, Tu-bồđề v.v… hai ngàn năm trăm mười vị đại A-la-hán cùng đi theo sau, lần lượt từ trong rừng đến chỗ Ưu-ba-cúc-đa. Lúc này Tôn giả thấy liền đứng dậy chắp tay ngắm nhìn, rồi nói kệ rằng:

Than ôi! Vô thường
Không lòng từ mẫn
Hủy hoại như thế
Sắc thân thương diệu.

Thân Phật như thế này mà bị vô thường hoại. Thân tâm của Tôn giả quán tưởng nhìn Phật không thôi. Tôn giả chắp tay nói kệ rằng:

Vui thay thanh tịnh nghiệp
Hay thành tựu diệu quả
Không phải từ trời sinh
Cũng không phải nhân tạo
Sắc mặt như hoa sen
Mắt sáng như minh châu
Đoan chánh hơn nhật nguyệt
Thắng diệu hơn muôn hoa
Lặng yên như đại hải
An trụ như Tu-di
Oai quang hơn mặt trời
Bước đi như sư tử
Hướng nhìn như Ngưu vương
Sắc thắm màu vàng tía
Trăm nghìn vô lượng kiếp
Tịnh tu thân khẩu ý
Mới được như thế này
Như thế thân thắng diệu
Kẻ oán thấy cũng vui
Làm sao ta không kính.

Tôn giả nói kệ rồi, trong tâm quán tưởng Phật đến quên lời hứa.

Hốt nhiên năm vóc làm lễ bát kính.

Ma liền nói:

- Tôn giả! Vì sao lại trái lời hứa.

Tôn giả nói:

- Lời hứa gì? Ma vương nói:

- Ông đã hứa không làm lễ. Nay vì sao lại lễ lạy xuống đất.

Tôn giả nói:

- Ta biết đấng vô thượng nhập Thế Tôn nhập Niết-bàn đã lâu. Nay thấy hình dạng giống như Đức Phật, vì Phật mà làm lễ chứ không phải lễ ngươi.

Ma nói:

- Ngài trông thấy tôi làm lễ, vì sao lại nói không lễ? Tôn giả lại nói:

- Ngươi nên biết là ta không trái lời hứa, cũng không phải làm lễ ngươi. Như lấy bùn cây tạo nên Thiên tượng và Phật tượng. Vì kính trời Phật cho nên mới làm lễ, chớ đâu phải lễ bùn đất. Ta cũng như vậy. Bất ngờ thấy Phật nên sinh lòng hoan hỷ mà làm lễ, chớ không phải nghĩ tưởng đến mà làm lễ.

Ma liền hoàn trở lại hình cũ. Lễ bái Tôn giả mà trở về cõi trời. Đến ngày thứ tư Ma liền nghĩ nhớ. Tôn giả thân làm mọi ân đức từ cõi trời trở xuống, là khiến cho mọi loài phá trừ hết những tham dục bần cùng mà được quả Niết-bàn. Vậy ta nên đến chỗ ngài Ưu-ba-cúc-đa. Không thấy được đức Như

Lai từ bi thuyết pháp, nên đến Tôn giả để nghe thuyết pháp.

Trong thành Ma-đột-la mọi người nghe Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa đã điều phục được Ma vương, hàng vạn người đều kéo đến chỗ Tôn giả. Tôn giả thấy mọi người vân tập, liền bước lên tháp tọa diễn nói giáo pháp vi diệu. Khiến cho trăm ngàn người đều được đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm. Một vạn tám ngàn người xuất gia đều chứng quả A-la-hán. Tôn giả ở trong núi Ưu-lưu-mạn-trà làm phòng xá, rộng 2 trượng 4, dài 3 trượng 6. Người đắc quả A-la-hán lấy một thẻ tre 4 tấc ném vào hang đó. Trong một ngày có đến một vạn tám ngàn thẻ được đặt vào đó.

Tôn giả như thế mà danh tiếng vang khắp cõi Diêm-phù-đề, đều ca tụng ở nước Ma-đột-la có Ưu-ba-cúc-đa, Đức Phật đã thọ ký làm giáo tọa thiền đệ nhất. Tôn giả Thương-na-hoà-tu độ cho Ưu-ba-cúc-đa, đem giáo pháp phó chúc mà nhận thọ Đức Phật thọ ký. Việc tu thiền ở nước Kế tân đều không có chướng ngại, giường nằm ngọa cụ đều tốt nhất, đều mát lạnh ít bệnh. Tôn giả Thươngna-hòa-tu phó chúc pháp xong rồi thì đi đến nước Kế tân, nhập vào thiền định hoan hỷ thoát lạc mà nói kệ rằng:

Mặc y phục Thương-na
Thành tựu cả ngủ thiền
Núi sâu hang trống không
Tọa thiền mà tưởng định
An nhẫn gió chẳng lay
Thương-na A-la-hán
Tâm thiện được giải thoát
Tâm được tự tại tuệ.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa tại nước Ma-đột-la ở núi Ưu-lưu-mạn-trà, tại tinh xa Na-la-bạt-lợi A-lan-nhã. Ở trong núi này có một con hổ già, sinh ra hai con hổ con. Hổ mẹ không có gì ăn nên chết. Hai hổ con mất mẹ rất là khốn cùng. Tôn giả Ưu-ba-cúcđa đến chỗ đó đưa thức ăn cho hổ con mà nói kệ rằng:

Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt làm vui.

Ngày ngày hổ được cho ăn và được nghe bài kệ này. Không bao lâu thì hổ mạng chung, sinh vào nhà Bà-la-môn ở nước Ma-đột-la. Tôn giả thường dẫn các Tỳ-kheo đi đến nhà Bà-la-môn, rồi dần dần ít đi, sau cùng chỉ còn một mình ngày đến đến nhà Bà-la-môn.

Bà-la-môn hỏi:

- Tôn giả! Vì sao lại đi một mình vậy? Đáp:

- Người xuất gia không có người theo hầu. Bàla-môn nói:

- Vợ tôi mới mang thai. Nếu sinh con trai tôi sẽ cho theo Tôn giả.

Sau sinh ra được hai đứa con.

Tôn giả đi đến xin, Bà-la-môn nói:

- Đợi chúng lớn lên sẽ cho ngài.

Đến năm tám tuổi lại tìm đến xin hai đứa bé.

Bà-la-môn đem một đứa cho Tôn giả.

Đứa kia nói:

- Con cũng có thể đi.

Hai đứa bé đều tranh nhau đòi đi. Tôn giả nói:

- Hai cậu bé này đều có thể đắc đạo Bà-la-môn liền giao cả hai con cho Tôn giả. Tôn giả liền độ cho xuất gia và cũng chứng quả A-la-hán. Tôn giả dạy đi hái hoa.

Đáp rằng:

- Thấy hoa cúc trên cao nên không thể hái được.

Tôn giả nói:

- Các ngươi há không dùng thần thông.

Hai Sa-di liền bay lên hư không mà hái hoa. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa cùng với đệ tử ở một chỗ. Các đệ tử nói hai vị Sa-di nhỏ tuổi này có thần đức sao?

Tôn giả đáp:

- Đây chính là hai con hổ ngày trước. Khi đó các người có nói. Vì sao lại cho hổ ăn. Nay các ngươi có thể thấy được thần lực của hổ chư đệ tử nghe lời này thì liền hiểu.

Ở nam Thiên trúc có một người cùng với vợ người khác thông dâm. Người mẹ mới nói với con:

Giao hợp với vợ người là đại xé pháp. Đã gian dâm thì không có việc ác nào mà không làm. Người kia nghe nói vậy thì liền giết mẹ. Rồi đi đến nhà người cầu xin người phụ nữ đó mà không được. Lúc đó sinh tâm nhàm chán, liền đi xuất gia. Chẳng bao lâu thì thông làu Tam tạng, dạy chúng rất đông. Một hôm Tỳ-kheo đem đồ chúng của mình đến chỗ của Ba Cúc Đa. Tôn giả biết người này phạm tội nghịch ác, nên không nói lời nào. Mà nghĩ: Người phạm tội nghịch ác, không có đạo quả. Vì Tôn giả Ưu-ba không nói gì nên vị ấy đem đồ chúng trở về, năm trăm vị đệ tử phàm phu có lời hiềm trách Tôn giả nói: Hòa thượng độ cho Tam tạng Pháp sư Ma-ha-la, mà sao vị này đem đồ chúng đến lại không nói gì?

Tôn giả quán biết năm trăm vị đệ tử này cùng ta không có duyên. Nhưng đối với Hòa thượng của ta thì có nhân duyên. Hòa thượng Thương-na-hòA-tu dùng thần lực đến tinh xá Na-la-bạt tại A-lan-nhã này, đến chỗ Ưu-ba-cúc-đa. Ưu-ba-cúc-đa không có ở đó, duy chỉ có đệ tử, vị này thấy Thương-na-hòa-tu mặc áo thô xấu tóc râu lại quá dài, liền nói rằng:

- Hòa Thượng của tôi cùng Ma-ha-la này thân thiện như thế, mà cùng Tam tạng Pháp sư lại không nói gì?

Tôn giả Thương-na-hòa-tu đi đến chỗ Ưu-bacúc-đa lên tòa mà ngồi. Đệ tử của Ưu-ba-cúc-đa thấy vậy sinh tâm giận muốn đuổi Tôn giả đi. Nhưng Tôn giả vững như núi Tu-di không làm sao di động được. Lại muốn buông lời nói ác mà vẫn không thể nói được, liền cùng kéo đến chỗ Ưu-bacúc-đa, bạch rằng:

- Có Tỳ-kheo Ma-ha đến ngồi vào chỗ Hòa thượng Cúc-đa nói: Trừ Hòa thượng của ta thì không có ai có thể ngồi vào đó được. Ưu-ba-cúcđa trở về phòng thấy Tôn giả Thương-na-hòa-tu, liền sụp xuống lễ lạy.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nói với đệ tử: Nay Hòa thượng của ta nên lễ lạy cung kính. Tri kiến và thần lực của người thù thắng hơn ta.

Tôn giả Thương-na-hòa-tu, quán xét xem đệ tử Ưu-ba-cúc-đa đã dứt trừ tâm kiêu mạn chưa? Thì biết tâm họ vẫn cho thầy của mình là thù thắng hơn. Tôn giả Thương-na-hòa-tu đưa tay chỉ lên hư không hứng đầy sửa trong tay. Rồi hỏi Ưu-ba-cúcđa:

- Thế nào là Tam-muội tướng?

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nhập định quán liền hỏi thầy:

- Thế nào là tướng Tam-muội? Tôn giả:

- Đây là Tam-muội long phấn thế (rồng bay nhanh).

Ưu-ba-cúc-đa nói:

- Chỗ sở đắc của con đều thọ nhận từ Hòa thượng.

Duy có Tam-muội này, con chưa được thọ nhận.

Tôn giả Thương-na-hòa-tu nói:

- Tam-muội của chư Phật, tất cả hàng Duyên giác không thể biết tên. Tam-muội của Duyên thì Thanh văn cũng không thể biết. Tam-muội của Xá lợi phất hàng Thanh văn khác không thể biết. Chỗ nhập Tam-muội của Mục-kiền-liên hàng Thanh văn khác cũng không thể biết. Thầy ta là A-nan, chỗ sở nhập Tam-muội của ngài, ta cũng không thể biết. Nay Tam-muội của ta thì người cũng không thể biết được. Ta nhập Niết-bàn, thì Tam-muội này cũng diệt theo ta. Bảy ngàn bảy vạn kinh bổn sinh cũng diệt theo ta; một vạn A-tỳ-đàm cũng diệt theo khi ấy tâm kiêu mạn của đệ tử Ưu-ba-cúc-đa không còn, liền nghĩ: Hòa thượng của ta, tất không bằng Tôn giả Thương-na-hòa-tu liền đối với Tôn giả sinh lòng cung kính thâm sâu. Tôn giả Thương-nahòa-tu tùy nhân duyên mà nói: Người nghe pháp đều đắc quả A-la-hán.

Thương-na-hòa-tu nói với Ưu-ba-cúc-đa. Như Lai đem giáo pháp phó chúc lại cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp phó chúc cho Hòa thượng của ta là ngài A-nan. Hòa thượng lại phó chúc cho ta. Ta nay phó chúc lại cho ông. Ở nước Ma-đột-la này có thiện nam tử tên Đề Địa Già, ngươi nên độ cho xuất gia mà phó chúc Phật pháp lại cho người này. Lúc này Tôn giả Thương-na-hòa-tu bay lên hư không biến hóa vô cùng, sau đó liền nhập vào Niếtbàn. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa đem một vạn tám ngàn La-hán cúng dường xá-lợi và xây tháp thờ phụng.

-------------------------------------------------

NHÂN DUYÊN VỀ ƯU-BA-CÚC-ĐA

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa, ở tại A-lan-nhã tinh xá Na-la-bạt-lợi thuộc nước Ma-đột-la. Lúc này ở phương Bắc có một nam tử, xuất gia học Phật, thông suốt cả Tam tạng khéo diễn pháp Phật. Ở nơi trụ xứ, tụng làu tam tạng, khế hợp các kinh kệ rồi sau mới thuyết pháp. Sau đó tự suy nghĩ rằng: Việc tụng kinh này quả là mệt mỏi, ta nay muốn cầu tọa thiền. Nghe ở nước Ma-đột-la có Ưu-ba-cúc-đa. Tuy không có tướng hảo, nhưng là bậc giáo thọ thiền pháp đệ nhất.

Nghĩ rồi đi đến chỗ Tôn giả thưa: Tôn giả! Xin dạy con thiền pháp. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa quán xét thấy vị này đã dứt hết lâu hoặc, đắc được pháp thân. Lại tư duy suy nghĩ nên dạy pháp gì để lên Thánh vị. Mới biết vị này vì thuyết pháp cho người mà nhập vào Thánh vị. Liền nói với vị Tỳ-kheo đó rằng:

- Người theo lời ta dạy, nên làm giáo thọ cho người. Tỳ-kheo đáp:

- Xin nguyện nghe theo. Tôn giả nói:

- Đêm nay ông nên vì người mà thuyết giảng pháp tạng. Tỳ-kheo liền làm lễ tam bái để thuyết pháp, liền hỏi Tôn giả rằng:

- Nên nói pháp nào? Tôn giả đáp:

- Nói năm việc lợi ích của sự đa văn là khéo giải thích chư Đại Tỳ-kheo biết hết các ấm, nhập, biết mười hai nhân duyên, tự hiểu biết mà không từ nơi người khác.

Vị Tỳ-kheo giác ngộ rồi thì lễ bái thuyết pháp xong, liền đắc quả A-la-hán. Ưu-ba-cúc-đa nói:

- Ông lấy thẻ ném vào trong hang cho đủ số. Lúc này ở trong thành Túc-la có một vị thương chủ, tên là Thiên Hộ, đối với Phật pháp thường kính tin và hoan hỷ cúng dường, muốn đi ra biển để tìm trân báo nên nói rằng:

- Nếu tôi ra biển được an ổn trở về, thì sẽ vì Phật pháp mà thiết lễ cúng dường Tăng chúng xin chư Thiên thần ủng hộ tôi.

Sau đó đi đến chỗ có trân báu, lấy được rất nhiều và an ổn trở về. Bấy giờ có La-hán Tỳ-kheo-ni nhập định quán xét để xem vị trưởng giả kia có làm không. Quán thấy sẽ làm. Rồi lại tư duy: Ai có phước điền. Biết là có một vạn tám ngàn La-hán, gấp đôi các bậc học nhân và người trừ tịnh giới ra khỏi sinh tử, nên làm phước điền và quán trong đại chúng ai là Thượng tọa, mà Thượng tọa là La-hán hay là phàm phu. Biết đây chẳng phải là La-hán, nhẫn đến cũng chưa phải là Tu-đà-hoàn. Đó là người trì giới thanh tịnh tên là A-sa-la. Ta nếu khuyến ngộ tất sẽ nghe lời. Liền đến chỗ Tăng nói với vị Thượng tọa đó rằng:

- Vì sao không thích tự trang nghiêm thượng tọa lầm tưởng, là chê trách tóc tai dài y phục cấu bẩn, nên cạo bỏ râu tóc, tự tắm giặt sạch sẽ.

Tỳ-kheo-ni nói:

- Thượng tọa không hiểu được lời nói của tôi.

Hôm sau lại đến trước Thượng tọa, cũng nói như vậy:

- Vì sao không tự trang nghiêm? Thượng tọa cho là vì y sắc bất chánh liền nhuộm y mà đến trong tăng.

Tỳ-kheo-ni lại đến chỗ thượng tọa A-sa-la mà hỏi rằng:

- Vì sao không thích tự trang nghiêm? Thượng tọa giận nói:

- Ta tắm rửa sạch sẽ mặc y mới nhuộm. Vì sao lại không tự trang nghiêm.

Tỳ-kheo-ni nói:

- Đây chẳng phải là sự trang nghiêm trong Phật pháp. Phật pháp lấy quả Tu-đà-hoàn, A-na-hàm, A-la-hán mà làm trang nghiêm. Lại hỏi rằng:

- Thượng tọa! Ông có nghe trưởng giả Thiên

Hộ đi biển trở về thiết trai đàn cúng dường không?

Thượng tọa đáp:

- Có biết Lại hỏi:

- Người có phước điền được bao nhiêu? Ông có biết không? Đáp:

- Không biết.

Tỳ-kheo-ni nói: Người có phước điền thuần là bậc A-la-hán, thì có một vạn tám ngàn bậc học giả tịnh giới thì gấp đôi. Ông là Thượng tọa, vì sao trong tâm vẫn còn hữu lậu, lại thọ nhận người khác cung kính cúng dường.

Thượng tọa nghe xong liền muốn rơi lệ, Tỳ-kheo-ni nói:

- Vì sao sầu bi rơi lệ. Thượng tọa đáp:

- Ta nay đã lão niên, làm sao có thể diệt hết các lậu. Tỳ-kheo-ni nói:

- Phật pháp ngay hiện tại cũng khiến cho người được đắc quả không phải lựa chọn thời tiết. Sự tán thán của bậc thiện trượng phu, nếu có thể tu hành thì có thể đoạn diệt lậu, nên trong tất cả thời có thể chứng quả. Nay thượng tọa có thể đến tinh xá NA-la-bạt-lợi tại A-lan-nhã, có Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa đang ở đó, có thể làm giáo thọ cho ông.

Thế là thượng tọa liền đến chỗ của Tôn giả Ưuba-cúc-đa. Tôn giả liền ra ngoài nghênh tiếp, đem nước đến cho rửa chân.

Thượng tọa nói:

- Nếu không thấy trưởng lão Ưu-ba-cúc-đa thì quyết không rửa chân.

Các vị đệ tử bèn nói:

- Đây là Cúc Đa.

Thế rồi Thượng tọa liền rửa chân mà vào. Ưuba-cúc-đa giáo hóa cho các Đàn-việt đem thức ăn cho chúng Tăng. Chúng Tăng tẩy dục xong Tôn giả liền sai Duy-na đánh kiền chùy, xướng lên rằng: Cung kính giải thoát.

La-hán liền nhập vào thiền phường.

Khi ấy, A-sa-la ngủ nên không nghe lời xướng, liền nhập vào thiền phường vào rồi thì lại ngủ. Chúng Tăng làm pháp chế, nếu có ai ngủ thì đem đèn đến cúng dường. Duy-na liền đem đèn đến ba lần đờn chỉ. A-sa-la liền tỉnh dậy lấy đèn tuần tự mà cúng dường.

Ưu-ba-cúc-đa nhập vào hỏa quang Tam-muội, một vạn tám ngàn La-hán cũng hướng về mà nhập hỏa quang Tam-muội: A-sa-la thấy vậy thì rất hoan hỷ, tự mình lấy làm xấu hổ mà nói rằng:

Hòa hợp cùng một chỗ
Kiết già như rồng cuộn
Trải đầy trên mặt đất
Tâm định mà đoan nghiêm
Nhập vào thắng Tam-muội
Tỏ rực như cây đèn
Bẩm thọ hình như người
Chiêm ngưỡng đến không cùng.

QUYỂN 6

Tôn giả thấy A-sa-la tâm đã được điều phục, liền cho thọ giáo pháp mà đắc quả A-la-hán.

Thế là A-sa-la trở về bổn quốc Tỳ-kheo-ni thấy thượng tọa đến thì hỏi:

- Hôm nay mới đoan nghiêm. Đáp:

- Nhờ ơn người nên nay mới được đoan nghiêm. Lúc này trưởng giả Thiên Hộ liền làm trai đàn cúng dường tu tập mười sáu vạn tám ngàn Lahán, lại có gấp đôi hai bậc tịnh nhân trì giới. Lúc này A-sa-la là bậc thượng tọa tối thượng làm chú nguyện. Sự cúng dường thì chỉ ít mà thọ quả báo thù thắng.

Trưởng giả hỏi:

- Đức Phật thuyết pháp vô lượng, vì sao chỉ có chín mươi ngày.

Xin hỏi ý nghĩa hai lời nói này.

Thượng tọa đáp:

- Đây là do ông có thiện căn nhiều đời nên mới pháp lời nói này ông nay nên biết, thời quá khứ trải qua chín mươi mốt kiếp trong thời Đức Phật Tỳbà-thi lúc đó ông cùng ta đều là thương chủ. Sửa soạn thuyền bè để đi ra biển, được châu báu rất nhiều, nhưng tàu bị đắm nơi biển cát, vì Đức Phật Tỳ-bà-thi xây tháp bằng cát, trang sức châu báu có thần nói rằng: Qua bảy ngày, sẽ có sóng to gió lớn cho ngươi an ổn trở về cõi Diêm-phù-đề mà cúng dường.

Ta cùng ông có duyên tạo tháp, trong chín mươi mốt kiếp không bị đọa vào tam đồ bát nạn thường sinh vào cõi nhân thiên. Ta hôm nay đã đắc quả A-la-hán, còn ông gặp được phước điền tối thắng mà làm pháp cúng dường một vạn tám ngàn A-la-hán. Chẳng phải là cúng thì ít mà quả báo thật nhiều. Trưởng giả tử việc sinh tử đã trải qua nhiều vì sao không xuất gia theo Phật.

Lúc này vị trưởng giả đó liền đi xuất gia và đắc quả A-la-hán.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nơi tinh xá Na-la-bạt-lợi tại A-lan-nhã. Lúc đó ở nước Ma-đột-la có một người Bà-la-môn rất chấp trước ngã kiến. Có một vị Ưu-bà-tắc nói với Bà-la-môn rằng:

- Chỗ nào là của ta? Bà-la-môn nói:

- Có ai nói pháp vô ngã.

Ưu-ba-cúc-đa nói về pháp Vô ngã. Thế là Bàla-môn liền đi đến chỗ A-lan-nhã. Thấy Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa cùng hàng ngàn đại chúng đang vây quanh để nghe thuyết pháp. Tôn giả thấy Bà-lamôn thì biết được tâm niệm, liền nói về pháp vô ngã và vô ngã sở. Cũng không có người, không có trượng phu, không có chúng sinh, các ấm đều là pháp sinh diệt, cũng đều là pháp khổ không.

Bà-la-môn nghe nói lời này đều đoạn thân kiến mà chứng ngộ quả Tu-đà-hoàn. Sau đó xuất gia học đạo và chứng quả A-la-hán.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nói:

- Ông nên lấy thẻ ném vào hang.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ở tại nước Ma-đột-la. Bấy giờ, có một người dòng họ quý tộc đi xuất gia. Vị ấy thường hay ngủ mỗi khi nghe pháp và lời dạy của giáo thọ.

Tôn giả liền dạy rằng:

- Đến dưới gốc cây trong A-lan-nhã chỗ che khuất mà thiền. Tôn giả liền hóa ra một trăm cái hố sâu xung quanh chỗ ngồi của vị đó. Thế là kinh hãi giật mình dậy rất đổi lo sợ, tâm liền nghĩ đến Hòa thượng Ưu-ba-cúc-đa. Tôn giả liền hóa ra một con đường tắt nhỏ để vị đó đi ra. Vị kia đi đến chỗ của Tôn giả ngài dạy nên trở về chỗ cũ, khi đi đến dưới gốc cây thì rất đổi hoan hỷ: Hòa thượng giải thoát cho ta khỏi nạn hố sâu này. Tôn giả liền đứng trước mặt nói rằng:

- Hố này không sâu. Nếu rớt vào hố ba đường ác, đọa vào trong hầm sinh lão bệnh tử, thì sâu nặng hơn đây nhiều. Ông nên không thấy được Thánh đế, thì sẽ bị đọa vào hố sinh tử còn hơn thế nữa. Vị ấy nghe lời này thì ra khỏi hầm sinh lão bệnh tử, mà không còn ngủ nữa. Từ đó vị ấy tinh tấn tư duy mà đắc quả A-la-hán. Tôn giả Ưu-bacúc-đa liền sai lấy thẻ bỏ vào hang.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ở tinh xá Na-la-bạt-lợi tại A-lan-nhã, khi đó ở phía Đông có một người trong tộc tánh, đi xuất gia học đạo pháp, rất khéo các việc doanh sự, nên đến chỗ của chư Tỳ-kheo, đều khuyên ông nên làm các việc Tăng sự, nói rằng:

- Trưởng lão nên xây dựng Tăng sự, để cho Đàn-việt nhân đây mà được cúng dường. Sau đó vị Tỳ-kheo rất nhàm chán việc đa sự, nên không chịu việc sửa sang doanh sự. Nghe nói Tôn giả Ưu-bacúc-đa là bậc giáo thọ đệ nhất, liền tìm đến chỗ Tôn giả mà bạch rằng:

- Xin nguyện Tôn giả, cho con được lãnh thọ giáo pháp.

Tôn giả quán sát vị này, đây là thân tối hậu được đắc đạo quả, có điều phước chưa đầy đủ, vì thế chưa được. Tôn giả nói:

- Nếu nghe theo lời dạy của ta, thì ta sẽ làm giáo thọ cho ông. Đáp:

- Xin y giáo thọ trì. Tôn giả nói:

- Ông nên vì chúng Tăng mà khuyến hóa việc cúng dường. Bạch:

- Tôn giả! Con chưa biết ở trước này, ai là người có tín tâm. Đáp:

- Ông đến khuyến hóa, tất có người tín tâm.

Vị Tỳ-kheo nghe nói liền đắp y cầm bình bát đi vào thành Ma-đột-la. Có một vị trưởng lão tối thắng, thấy vị Tỳ-kheo này thì sinh tâm chưa từng có, liền bước tới lễ kính mà thưa rằng:

- A-xà-lợi, ngài muốn dùng vật gì? Đáp:

- Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa dạy tôi đi giáo hóa. Tôi nay không biết dân ở đây ai có tín tâm, ai không có tín tâm.

Trưởng giả nói:

- A-xà-lợi! Xin chớ ưu lo. Những gì ngài cần tới đều có thể liệu. Đáp:

- Ngày mai muốn cúng dường chúng Tăng. Trưởng giả liền lo liệu đầy đủ. Tỳ-kheo khuyến hóa xong rồi thì trở về chỗ Tôn giả quỳ xuống rồi thọ thực. Thượng tọa và chúng Tăng cũng đều chú nguyện. Chú nguyện xong thì liền đắc quả A-lahán. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa liền bảo vị ấy lấy thẻ tre ném vào hang đá.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ở tại nước Ma-đột-la, ở nơi tinh xá Na-la-bạt-lợi tại A-lan-nhã. Bấy giờ ở nước Nam thiên trúc có một người tộc tánh đi xuất gia học đạo, khéo kiến tạo chùa tháp. Thường qua lại nơi chỗ của chư Tỳ-kheo thỉnh chư Tăng xây dựng phòng xá tháp chùa. Không bao lâu thì tâm sinh nhàm chán việc doanh vụ. Liền đi đến chỗ ngài Ưu-ba-cúc-đa, bạch Tôn giả:

- Xin Tôn giả dạy cho con pháp tu thiền định.

Tôn giả quán xét vị Tỳ-kheo này, hiện thân này diệt hết lậu hoặc mà được đắc đạo. Nhưng phước tu còn chưa đủ. Lại quán xét, vì duyên sự gì mà thể thành đạo. Liền nói rằng:

- Nếu nghe lời ta, thì ta sẽ làm giáo thọ cho ông. Đáp:

- Xin nghe lời. Tôn giả dạy rằng: chỗ nào chưa có tháp tự thì nên xây dựng, chỗ chưa có tăng phòng thì cũng nên xây. Vì chưa có Hiền thánh mà tạo lập Tăng phòng.

Bạch Tôn giả:

- A-xà-lê! Con chưa biết trong nước ai có tín tâm, ai không có tín tâm.

Tôn giả nói:

- Ông chỉ cần đi khuyến hóa thì tất cả sẽ có.

Sáng sớm vị Tỳ-kheo đắp y, cầm bình bát đi vào thành khất thực.

Thấy một vị trưởng giả. Trưởng giả tỏ vẽ cung kính lạy thưa rằng:

- A-xà-lê! Từ đâu đến đây? Đáp:

- Tôi từ nam Thiên trúc đến. Tôn giả hỏi:

- Ngài muốn làm điều gì? Đáp:

- Tôi đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa thọ giáo thiền pháp. Tôn giả dạy tôi phải kiến tạo tháp tự và Tăng phòng.

Trưởng giả nói:

- Ngài chớ lo lắng. Tất cả những gì cần tôi đều có thể cung cấp.

Thế là Tỳ-kheo đem vị trưởng giả này cùng đến đất Phật. Đi chưa đến nơi thì Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Đức Phật sai đem thẻ tre bỏ vào hang đá. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ở tại nước Ma-đột-la, có một người tộc tánh đến chỗ Tôn giả cầu xin xuất gia. Rất ham thọ hưởng ẩm thực do đây mà không thể nào chứng đắc đạo. Tôn giả liền mời vị Tỳ-kheo ngày mai thọ thực cùng ta.

Ngày mai Tôn giả nấu cháo sữa đổ đầy bát đưa cho và nói:

- Đợi nguội thì ăn.

Vị kia liền dùng miệng thổi cho mau nguội, rồi thưa Hòa thượng:

- Đã nguội. Tôn giả nói:

- Thức ăn này tuy đã nguội mà lòng tham muốn của người như lửa đốt. Vậy nên đem bất tịnh quán mà rửa sạch tâm tham muốn, khiến cho ngọn lửa kia tiêu diệt.

Tôn giả đem một bình bát không, đặt trước Tôn giả nói:

- Nhổ hết cháo vào đây. Tôn giả lại bảo:

- Ăn lại cháo trong bát này vị kia không muốn ăn cháo đã nhổ ra.

Liền cúi xuống nói:

- Đây là cháo đã nhổ ra. Nước dãi đính đầy làm sao mà ăn cho được.

Tôn giả nói:

- Tất cả đồ ăn cùng với bọt nhổ cũng không khác, do ông không quán xét. Ông nay nên quán tưởng bất tịnh.

Vị Tỳ-kheo nghe pháp mà dứt hết mọi kiết sử đắc được quả A-la-hán.

Tôn giả lại khiến vị ấy lấy thẻ tre ném vào hang đá. Ở nam Thiên trúc có một người thích ăn vận vải thô xấu, sống đời thiểu dục tri túc, không trao chuốt thân mà cũng không tắm rửa bằng nước nóng ấm áp cũng không ăn sữa lạc tô do vì chán việc sinh tử, làm cho thân thể suy yếu nên không đắc đạo. Vì thế suy yếu nên nghĩ rằng: Ai sẽ làm giáo thọ cho ta. Nghe nói Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ở nước Ma-đột-la, liền tìm đến. Tôn giả quán xét vị này, hiện thân diệt hết lậu hoặc vì cơ thể suy yếu nên không thể chứng ngộ. Tôn giả liền làm sạch và hơ nóng tất cả phòng thất và ngọa cụ. Dạy vị đạo nhân trẻ tắm rửa sạch sẽ cho vị này và cho ăn tô sữa và các món ngon ngọt, làm cho thân tâm trở nên thư thái. Sau khi nghe Tôn giả nói phái yếu, thì dứt hết lậu tận mà đắc quả A-la-hán, liền lấy thẻ tre bỏ hang đá.

Ở nước Ma-đột-la có một người, từ biệt cha mẹ muốn đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa để cầu xuất gia. Đã xuất gia rồi, lại yêu mến đắm trước thân mình cho nên lại muốn trở về nhà. Thế là đến từ biệt Tôn giả để mà trở về.

Tôn giả nói:

- Hãy để ngày mai.

Ngày mai đến lễ dưới chân Tôn giả để trở về giữa đường trông thấy một ngôi chùa thiên bèn nghĩ rằng: Nếu trở về, cha mẹ hoặc có thể vì ta mà làm to chuyện, không bằng vào chùa này tá túc. Ngày mai trở lại chỗ Tôn giả.

Tôn giả đêm đó hóa làm một kẻ Dạ-xoa, vác thây chết đến. Khi đó có một con quỷ Dạ-xoa đi tay không đến hai quỷ mới tranh luận nhau.

Một con nói:

- Ta mang thây chết này đến. Con thứ hai cũng nói:

- Chính ta mang đến. Con quỷ trước nói:

- Ta có người làm chứng. Chính người này thấy ta mang thây chết đến trước.

Lúc đó người này nghĩ ta tất là phải chết, nên cứ nói thật, liền nói với con quỷ đến sau:

- Thây chết này chính quỷ kia đã mang vào trước, chẳng phải là của ngươi.

Con quỷ sau giận dữ bẻ lấy một chân của người đó. Con quỷ trước lại lấy xác chết buộc lại như cũ. Con quỷ sau lại bẻ một cánh tay. Quỷ trước lại lấy tay người chết gắn lại. Quỷ sau lại bẻ cả hai chân. Quỷ trước lại bẻ hai chân của thây chết gắn lại cho. Như thế, hai con quỷ ăn hết chỗ thịt mới bẻ ra, xong rồi bỏ đi. Thế là tâm yêu tiếc thân sức của người kia liền diệt xuất. Sau đó trở lại chỗ Tôn giả xin xuất gia, được nghe pháp yếu mà đắc quả A-la-hán, bèn đem thẻ tre bỏ vào hang.

Ở nam Thiên trúc có một người vào trong Phật pháp xin xuất gia, vì yêu mến thân xác nên tắm rửa dùng tô sửa xoa chà thân và thích ăn ngon. Nên thân thể mập phì không thể đắc đạo, liền đến chỗ Tôn giả thưa rằng:

- Xin Tôn giả làm bực giáo thọ.

Tôn giả quán xét vị Tỳ-kheo này hiện thân đã dứt lậu hoặc vì đắm trước thân cho nên không thể đắc đạo.

Tôn giả nói:

- Có thể nghe ta, thì ta sẽ làm giáo thọ cho ngươi. Liền hóa làm một cây cao bảo vị kia lên ngồi ở trên. Bốn bên hóa thành bốn cái hố sâu, nói với vị kia rằng:

- Thả chân mặt xuống. Lại nói:

- Thả chân trái xuống, sau thả chân mặt. Lại nói:

- Tất cả đều thả. Vị này khi tay chân và thân thể đều thả, thì liền rớt xuống đất, không thấy hố sâu mà cũng không thấy cây, được nghe pháp thâm sâu mà đắc quả A-la-hán, liền đem một thẻ tre bỏ vào hang đá.

Ở nước Ma-đột-la có một người, đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa muốn cầu xin xuất gia. Tôn giả liền độ cho xuất gia vì tâm còn bỏn xẻn cho nên không thể đắc đạo.

Tôn giả dạy rằng:

- Ông nay có thể tu hạnh bố thí.

- Bạch Tôn giả! Con không có sở hữu, lấy gì để bố thí. Tôn giả nói:

- Như pháp mà làm thì ẩm thực y bát đều có dư. Liền pháp nguyện bố thí khắp cho cả Thượng hạ tọa. Ngày đầu thì lòng vẫn chưa muốn cho. Ngày hôm sau Tôn giả sai hai người đệ tử ngồi hai bên vị Tỳ-kheo này. Đều ở bên tai nói khiến cho vị này sinh kính tâm, lấy bớt thức ăn đem bố thí cho thượng hạ tọa. Ngày hôm sau nữa có người Đànviệt đem lại các thức ăn ngon, thì vị Tỳ-kheo này trong lòng vui vẻ mà nghĩ rằng: Do mấy ngày trước đem cho bớt, hôm nay mới được nhiều, lại lấy phần nhiều đem cúng dường cho Thượng hạ tọa.

Như thế mà dần phá được tâm tham tiếc. Được Tôn giả diễn nói pháp yếu mà đắc quả A-la-hán.

Ở nước Ma-đột-la cũng có một người đến chỗ Tôn giả cầu xin xuất gia, liền cho xuất gia. Vì thích ngủ nghĩ cho nên chưa thể đắc đạo, Tôn giả Ưuba-cúc-đa bảo vào trong A-lan-nhã mà ngồi thiền.

Ngồi thiền rồi lại ngủ. Tôn giả liền hóa ra bảy cái đầu Tỳ-xá-xà treo ngược ở trên không. Vị kia hốt nhiên tỉnh ngủ, rất đổi kinh hãi chạy đến chỗ Hòa thượng.

Hòa thượng hỏi:

- Ngươi vì sao lại đến đây? Bạch Hòa thượng:

- Ở trong A-lan-nhã có bảy cái đầu của Tỳ-xáxà, treo ngược trên không, rất là kinh sợ.

Tôn giả nói:

- Ông phải trở lại chỗ đó để tọa thiền. Thưa rằng:

- Rất sợ nên không dám trở lại. Tôn giả nói:

- Quỷ Tỳ-xá-xà không đủ để làm kinh sợ như thế. Có thứ còn đáng sợ hơn, mà ngươi lại không sợ. Việc ngủ nghỉ rất đáng sợ, còn hơn cả Tỳ-xáxà. Tỳ-xá-xà ngăn không cho ngươi ngủ. Việc ngủ nghỉ lại ngăn không cho người đắc Thánh đạo. Tỳxá-xà chỉ hại có một thân. Còn ngủ nghĩ hại đến vô lượng thân. Tỳ-xá-xà không làm cho người ở mãi trong sinh tử, còn tai họa của ngủ nghĩ nhận chìm ngươi mãi trong sinh tử. Người nay phải trở về chỗ đó để tọa thiền.

Từ đó về sau, vì sợ Tỳ-xá-xà cho nên không dám ngủ. Tư duy các pháp mà hoát nhiên được giác ngộ đắc quả A-la-hán.

Có một người đến chỗ Ưu-ba-cúc-đa để cầu xin xuất gia, Tôn giả liền độ cho xuất gia. Vì nghe thuyết pháp mà đắc quả Tu-đà-hoàn. Tôn giả nói rằng: các pháp sinh tử không hỏi nhiều ít, đều có thể là ác tặc. Ngươi cần nên cầu thượng quả. Vị Tỳ-kheo nghĩ rằng: Ta đã đoạn ba đường ác, vì sao lại còn cầu quả vị thượng thắng nữa. Qua lại trong cõi nhân thiên trong bảy lần ở những nơi vì sao lại không đủ để tiến tu.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa đưa vị Tỳ-kheo vào thành Ma-đột-la để khất thực. Vào trong thôn Chơn-đà-la, trông thấy một đứa bé, toàn thân đầy ghẻ, các mụn ghẻ đầy cả vi trùng.

Tôn giả nói với vị Tỳ-kheo:

- Ông thấy đứa bé này không? Đứa bé này ngày trước đã chứng quả Tu-đà-hoàn.

Tỳ-kheo Tộc Tánh thưa:

- Vì nhân duyên gì mà sinh vào nhà Chân-đàla, toàn thân lại sinh đầy ghẻ, trùng cắn dơ bẩn.

Tôn giả đáp:

- Khi Đức Phật còn tại thế, có một thiền phường, trong đó có một vị Duy-na. Có một vị Lahán Tỳ-kheo, thân thể có ít ghẻ ngứa gãi ra tiếng kêu. Vị Duy-na giận nói:

- Thân thể có ghẻ phải không? Nếu có gãi thì vào trong thôn Chân-đà-la mà gãi.

Vị Tỳ-kheo La-hán nói:

- Chớ nói lời này khiến cho ông phải mắc tội.

Lúc này vị Duy-na khởi lòng sám hối tinh tấn tu hành đắc quả Tu-đà-hoàn, mà không cầu tiến lên nữa. Do đây mà sinh vào nhà Chân-đà-la, toàn thân bị mụt ghẻ, chịu nhiều khổ não.

Vị Tỳ-kheo nghe lời nói ấy liền tinh cần tu niệm mà đắc quả A-la-hán. Còn đứa bé Chân-đàla, Tôn giả Cúc-đa liền thuyết pháp nghe mà đắc quả A-na-hàm, được sinh lên cõi Tịnh cư.

Ở nước Ma-đột-la có một người tộc tánh đến chỗ Tôn giả để cầu xin xuất gia. Xuất gia rồi, Tôn giả dạy quán bất tịnh, dần dần các kiết sử không còn hiện ra, liền tự cho là đã đắc Thánh quả. Mà không cầu tiến thêm.

Tôn giả nói:

- Ngươi chớ buông lung mà phải cầu tiến tu Thánh đạo. Thưa rằng:

- Bạch Hòa thượng! Vì sao vậy? Tôi nay đã đắc quả A-la-hán. Tôn giả nói:

- Ông còn chưa thấy được nước Kiền-đà-việt, Già-la-hòa-nữ mà tự cho là đắc quả A-la-hán, vì chưa đoạn kiết lại sinh tâm kiêu mạn.

- Bạch Hòa thượng! Con muốn du hành vào trong thôn xóm. Tôn giả nói:

- Ông cứ đi.

Thế là vị Tỳ-kheo ấy đi vào trong thôn xóm, dần dần đi đến nước Càn-đà-việt, đến thành Xoathi-la. Sáng sớm đắp y, cầm bình bát đi vào thành khất thực. Lần lượt đến nhà của một người Bà-lamôn. Một người con gái đem thức ăn ra đưa, mà ít hở môi. Thế là vị Tỳ-kheo khởi dục tâm điên đảo đắm trước. Lấy bình bát để đựng sữa cơm. Người con gái kia cũng sinh dục tâm mà nói rằng:

- A-xà-lê! Không đụng vào tôi. Không nghe tiếng tôi. Từ xa trông thấy tôi mà đã sinh dục tâm. Vị Tỳ-kheo này từ lâu đã quán bất tịnh. Khi thấy răng của cô con gái liền quán xương trắng của người đó mà đắc quả A-la-hán. Liền nói kệ:

Sắc ngoài hiện tốt đẹp
Kẻ ngu thì mê trước
Người trí lại nhàm chán
Cũng không hề giảm tổn
Thấy tướng thật kia rồi
Tâm liền được giải thoát.

Rồi lại trở về đến nước Ma-đột-la. Thấy Tôn giả Cúc-đa. Tôn giả nói:

- Ông có thấy Ma-đăng-già nữ không? Đáp:

- Đã thấy. Tôn giả nói:

- Lành thay! Chỗ sở tác của ngươi nay mới được thành tựu.

Ở nước Ma-đột-la có một vị trưởng giả tiền tài sở hữu lần lần bị hao hụt, gia kế chẳng còn bao lâu. Duy chỉ còn năm trăm tiền vàng. Liền suy nghĩ: Ta nay đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa mà cầu xin xuất gia. Còn số tiền này để lo thang thuốc khi có bệnh. Liền đến chỗ Tôn giả xin xuất gia, khi xuất gia rồi liền nhờ vị Sa-di khác giữ giùm tiền.

Tôn giả nói:

- Nếu biết ngã và vô ngã thì mới gọi là xuất gia. Năm trăm tiền này có thể đem cúng cho chúng Tăng.

Đáp:

- Hòa thượng! Số tiền này tôi để dành may y phục và thuốc thang. Tôn giả liền hướng về phòng hóa ra một ngàn đồng tiền vàng, rồi nói:

- Một ngàn tiền vàng này để ông may y phục thuốc thang.

Còn năm trăm của ông thì nên cúng dường cho chúng Tăng.

Theo lời Hòa thượng dạy, ông liền đem cúng cho chúng Tăng. Tôn giả làm giáo thọ thuyết pháp liền chứng quả A-la-hán không còn tham trước tiền tài.

Ở nước Ma-đột-la có một người tộc tánh đến chỗ Tôn giả xin xuất gia học đạo. Nghe Tôn giả thuyết pháp mà đắc quả Tu-đà-hoàn, đắc quả rồi lại không lại chịu tiến tu.

Tôn giả dạy:

- Ông cần phải tiến tu đạo nghiệp. Đáp:

Hòa thượng! Tôi đã đoạn ba đường ác. Vì sao lại phải tu nữa? Hôm sau Tôn giả đắp y trì bát cùng vị Tỳ-kheo này vào thành

Ma-đột-la khất thực từng nhà. Thấy một đứa bé Chân-đà-la, mình đầy ghẻ chóc. Cho mẹ chà rửa bôi thuốc làm cho máu chảy ra, đau đớn thật không thể chịu nỗi. Tôn giả liền nói với đệ tử:

- Ông có thấy đứa bé này không? Đứa bé này trước kia đã chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi:

- Bạch Hòa thượng! Vì duyên nghiệp gì mà chịu khổ não như thế.

Tôn giả đáp:

- Lúc Đức Phật tại thế, ở trong tăng phường có một vị Duy-na, bấy giờ có La-hán Tỳ-kheo, thân đầy ghẻ chốc gãi lên tiếng làm cho vị Duy-na giận dữ nói:

- Ông bị ghẻ sao không sát thuốc sát vào. Rồi lấy tay kéo ông ra mà nói:

- Ông nên đi vào trong thôn Chiên-đà-la. Vị A-la-hán nói:

- Ông mang đại tội, phải nên sám hối.

Bấy giờ vị Duy-na rất hối hận tinh cần tu tiến đắc quả Tu-đà-hoàn. Đắc đạo rồi lại không cầu tiến tu, cho nên chịu khổ não trong nhà Chiên Đà La. Lúc này vị Tỳ-kheo nghe lời này, tâm được khai ngộ, tinh tấn tu trì không bao lâu đắc quả A-la-hán, Tôn giả liền thuyết pháp cho đứa bé Chiênđà-la, khiến đắc quả A-na-hàm. Sau khi mạng chung được lên cõi trời Tịnh cư.

Ở nước Ma-đột-la có vị trưởng giả bậc nhất, sinh một đứa con, vừa đúng một tuổi thì chết. Đứa bé ấy lại sinh vào nhà trưởng giả khác cũng đúng một tuổi thì mạng chung. Như thế lần lượt sinh vào nhà thứ sáu của vị trưởng giả. Đều vừa một tuổi thì chết. Lần thứ bảy lại sinh vào nhà trưởng giả, khi lên bảy tuổi thì bị giặc cướp bắt đi. Tôn giả Cúcđa thấy đứa bé kia, hiện thân này mà được đắc đạo. Ma lại bị bọn cướp làm cho khổ não. Tôn giả muốn độ cho đứa bé, liền vào nhà hóa thành binh lính muốn đuổi hết bọn cướp. Bọn cướp sợ hãi hướng đến Tôn giả khấu đầu lễ bái. Tôn giả thấy vậy thuyết pháp khiến được đắc quả Tu-đà-hoàn, liền đưa đứa bé cho Tôn giả. Tôn giả độ cho đứa bé và cả tên cướp đề cùng xuất gia, đều đắc quả A-lahán.

Tôn giả nói với đứa bé này:

- Có thể quán tưởng đến thân tộc mà hóa độ.

Thế là đứa bé liền đọa thiền quán sát. Thấy bảy đời cha mẹ đều ưu sầu khổ não liền đi đến từng nhà mà nói rằng:

- Tôi là con của người, chớ có buồn đau liền thuyết pháp cho đắc quả Tu-đà-hoàn, lần lượt bảy vị trưởng giả cũng đều đắc quả Tu-đà-hoàn.

Ở nước Ma-đột-la có một người tộc tánh đến xin Tôn giả xuất gia. Tôn giả dạy bảo ngồi thiền, liền đắc Thế tục định, từ Sơ thiền, Nhị thiền cho đến Tứ thiền. Khi đắc Sơ thiền tự cho là đã chứng Tu-đà-hoàn, đắc nhị thiền thì cho đắc Tư-đà-hàm, Tam thiền thì cho là đắc A-na-hàm, đắc Tứ thiền thì cho đã chứng A-la-hán, thế nên không cầu tiến tu thắng pháp.

Tôn giả dạy rằng:

- Ông chớ có buông lung, phải cầu tiến tu thêm nữa. Đáp:

- Con đã đắc quả A-la-hán, còn cầu thắng pháp làm gì?

Tôn giả muốn hóa độ vị này, liền khéo dùng phương tiện mà nói rằng:

- Ông có thể đi du hóa vào trong tụ lạc.

Nghe lời dạy, vị Tỳ-kheo liền đi. Tôn giả ở giữa đường bèn hóa làm một phú thượng. Lại hóa ra năm trăm tên giặc đến sát hại vị phú thương.

Vị Tỳ-kheo thấy thể thì sinh lòng sợ hãi, tự biết mình chưa chứng A-la-hán, tự nói:

- Ta tuy chưa chứng A-la-hán thì cũng là A-nahàm.

Sau khi người khách thương bị giết chết, thì có con gái của trưởng giả nói với vị Tỳ-kheo rằng:

- A-xà-lê! Hãy nên cùng tôi đi mau. Tỳ-kheo đáp:

- Đức Phật không cho tôi cùng đi riêng với người nữ? Trưởng giả nữ nói:

- Tôi sẽ theo sau A-xà-lê từ xa. Tỳ-kheo nên thương xót cho tôi cùng đi.

Tôn giả liền hóa thành con sông lớn. Trưởng giả nữ nói:

- A-xà-lê! Hãy đưa tôi qua sông.

Vị tu sĩ ở dưới dòng. Người phụ nữ ở trên dòng, bị rớt xuống sông.

Phật dạy Tỳ-kheo, ở trong nạn lửa nước nên cứu người nữ ra.

Người phụ nữ rớt xuống sông la lên:

- Cứu tôi với.

Lúc này vị Tỳ-kheo liền đến cứu. Vì có sự xúc chạm cho nên sinh dục tâm. Thế là biết mình chưa chứng quả A-na-hàm, khi ra khỏi sông rồi, người con gái lại nói:

- A-xà-lê đã cứu mạng tôi, tức là đại gia của tôi. Tỳ-kheo liền vọng khởi tà tâm, bèn nắm tay cô gái kéo vào chỗ vắng để cùng hành dục, liền thấy Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa.

Tôn giả nói:

- Ông là A-la-hán vì sao lại thế.

Tôn giả liền dẫn về Tăng phòng dạy cho pháp sám hối và nói pháp yếu khiến đắc quả A-la-hán.

Ở nước Ma-đột-la có con của một vị trưởng giả mới lấy vợ, rồi từ biệt cha mẹ tìm đến Tôn giả xin xuất gia. Tôn giả liền độ cho xuất gia và dạy cho thiền pháp. Trong khi ngồi thiền lại nghĩ đến vợ mình nhan sắc đoan chánh. Tôn giả liền hóa làm vợ của vị ấy đứng ngay trước mặt.

Tỳ-kheo thấy liền hỏi:

- Nàng vì sao lại đến đây. Đáp:

- Chàng kêu tôi đến. Tỳ-kheo lại nói:

- Ta đang ngồi thiền mặc niệm không nói, làm sao mà gọi.

Đáp:

- Miệng chàng tuy không gọi mà lòng luôn nghĩ đến tôi. Nếu dùng miệng gọi thì xấu hổ, còn dùng tâm gọi thì không xấu hổ. Thà để tâm xấu hổ mà miệng không xấu hổ. Miệng do tâm sinh, tâm không do miệng sinh. Chàng nếu không muốn gần không muốn thấy. Vì sao lại quán tưởng này. Chàng đã lìa bỏ tham dục, mà vẫn luôn nghĩ đến, chẳng khác nào ói ra luôn nghĩ đến, chẳng khác nào ói ra rồi trở lại ăn. Lúc này Tôn giả lại hiện lại như cũ. Vì Tỳ-kheo mà thuyết pháp yếu liền đắc quả A-la-hán.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa du hành khắp tu lạc, đến chỗ vắng vẻ thấy một người đang thả năm trăm con trâu, liền đến lễ bái dưới chân Tôn giả và ngồi sang một bên và được Tôn giả nói pháp yếu cho mà đắc quả Tu-đà-hoàn. Sau đó đem trâu trả về cho chủ. Người giữ trâu liền đi xuất gia và đắc quả A-lahán.

Ở nước Ma-đột-la có một người tộc tánh, đến Tôn giả cầu xin xuất gia học đạo. Tôn giả dạy cho pháp tu thiền liền đắc trí thiền của thế tục. Khi đắc Sơ thiền thì tự cho mình đắc quả Tu-đà-hoàn. Cho đến đắc được Tứ thiền tự cho đã đắc quả A-la-hán.

Tôn giả liền nói:

- Ông cần nên tinh tấn tu thêm. Đáp:

- Hòa thượng! Tôi đã đắc quả A-la-hán.

Tôn giả muốn cho vị này thọ trì thiền pháp, khiến cho ở trong A-lan-nhã. Tôn giả liền hóa một vị đạo nhân hỏi thăm. Hỏi thăm xong rồi liền đứng qua một bên.

Hóa đạo nhân hỏi:

- Ông xuất gia với ai vậy? Đáp:

- Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa xuất gia cho tôi.

Hóa nhân lại hỏi:

- Ông thật là đại phước đức.

Hòa thượng của ông là vô tướng hảo Phật.

Hóa đạo nhân lại nói:

- Ông tụng kinh gì? Đáp:

- Tôi tụng kinh Đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm. Lại hỏi:

- Ông chứng ngộ chưa?

Đáp:

- Tôi có chỗ sở chứng, đã đắc quả Tu-đà-hoàn, nhẫn đến quả A-la-hán.

Lại hỏi:

- Ông tu đạo gì mà đắc bốn quả này. Đáp:

- Tôi tu thế tục đạo. Hóa Tỳ-kheo nói:

- Nếu ông tu thế tục đạo, thì chẳng phải là đạo quả, mà chỉ là phàm phu.

Vị Tỳ-kheo nghe vậy, liền khởi tâm nhàm chán việc sinh tử trong tam giới liền đến chỗ Tôn giả:

- Bạch Hòa thượng! Tôi chẳng phải đắc đạo, xin Hòa thượng dạy cho pháp tu.

Tôn giả liền dạy cho pháp tu thiền đạo. Tu tấn tu hành mà đắc quả A-la-hán.

Ở nước Đột-kiết-la có con một vị trưởng giả, mới vừa cưới vợ liền suy nghĩ: Ta đối với Phật pháp luôn mong cầu xuất gia. Liền vào từ biệt cha mẹ.

Cha mẹ nói:

- Ta chỉ có mình con.

Có chết cũng không cho đi, huống chi là còn sống.

Người con nói với cha mẹ:

- Nếu không cho con đi, thì sẽ không ăn cơm.

Thế là tuyệt thực từ ngày thứ nhất cho đến ngày thứ sáu.

Cha mẹ sợ con chết nên nói:

- Cho tùy nguyện con.

Nhưng sau khi xuất gia phải về gặp cha mẹ con nói:

- Nếu cho con đi, thì con sẽ về thăm viếng.

Thế là cha mẹ cho đi xuất gia, liền đi đến chỗ Tôn giả xin xuất gia. Khi đã xuất gia liền nghĩ: Ta đã hứa với cha mẹ. Nếu xuất gia thì trở về thăm. Liền vào thưa Tôn giả cho trở về thăm cha mẹ và thăm vợ. Khi trở về người vợ mới nói: nếu không cùng tôi giữ đạo vợ chồng, tôi sẽ giết anh chết.

Lúc này, vị Tỳ-kheo sinh tâm hối hận muốn xã giới. Liền nghĩ: Ta nên gặp Hòa thượng trước, rồi sau mới xã giới. Khi đến chỗ Hòa thượng cúi đầu lễ lại thưa rằng:

- Con muốn hoàn tục.

Tôn giả bảo:

- Hãy đợi đến ngày mai.

Thế là Tôn giả trong đêm ấy hóa làm giấc mộng, khiến cho Tỳ-kheo trở về nhà thấy vợ chết, cha mẹ thân tộc đều đến đầy đủ, đưa đám người vợ ra nhà mồ. Trong kho ảnh giây lát thấy máu mủ nhơ uế và đầy những vi trùng trong đó, đột nhiên tỉnh dậy liền bạch Hòa thượng. Hòa thượng nghe rồi liền bảo:

- Ông có thể về xem, có như trong mộng không?

Lúc này Tỳ-kheo nương theo thần lực của Tôn giả. Đột nhiên đến trước cửa nhà, thấy cha mẹ đang đưa đám ma người vợ ra nhà mồ, cũng đầy máu mủ trùng bọ như trong mộng. Tỳ-kheo lại càng tư duy sinh tâm nhàm chán mà đắc quả A-la-hán, liền trở về.

Hòa thượng nói:

- Ông thấy vợ chưa? Đáp:

- Đã thấy được thật tướng.

Có một người đến chỗ Tôn giả xin xuất gia học đạo. Lãnh thọ lời dạy Tôn giả liền đắc Tứ thiền, tự cho mình đã đắc tứ quả Sa-môn. Tôn giả biết là chưa chứng đắc, bèn làm phương tiện, khiến làm pháp cúng dường chúng Tăng trong sáu ngày. Vị Tỳ-kheo đến trong thành Ma-đột-la, thấy năm trăm vị Ưu-bà-tắc, đều đến lễ bái và bạch với vị Tỳ-kheo rằng:

- A-xà-lê! Ngài muốn làm điều gì? Đáp:

- Ở trong A-lan-nhã, tôi muốn cúng dường chúng Tăng sáu ngày.

Ưu-bà-tắc nói:

- A-xà-lê! Chớ ưu lo, chúng tôi sẽ có đủ.

Khi đó Tỳ-kheo liền sinh tâm kiêu mạn nên nghĩ: Ta chưa phải là A-la-hán. Vì A-la-hán đã đoạn tâm kiêu mạn, liền đến chỗ Hòa thượng mà thưa điều này:

- Duy nguyện Hòa thượng, xin dạy cho con giáo pháp tu hành, con còn chưa đắc quả A-la-hán. Thế là Tôn giả diễn thuyết pháp mầu khiến cho đắc quả A-la-hán.

Bấy giờ, ở nước Kế tân có vị Tỳ-kheo tên là Thiện Kiến, đắc được

Tứ thiền, đắc ngũ thần thông. Nếu trời không mưa thì có thể cầu mưa, vì thế mà khởi tăng thượng mạn. Tự cho đã đắc quả A-la-hán. Tôn giả muốn độ người này. Hóa một nơi trong mười hai năm hạn nắng khiến cho mọi người lo sợ rồi đến chỗ Tôn giả thưa xin chú nguyện cho mưa.

Tôn giả đáp:

- Ta không thể cầu mưa được, nên đến chỗ Tỳ-kheo Thiện Kiến ở nước Kế tân để xin cầu mưa.

Thế là mọi người trong nước đó kéo đến chỗ Tỳ-kheo Thiện Kiến mà cầu thỉnh. Tỳ-kheo bằng lòng liền dùng ngũ thông thế tục bay đến nước Mađột-la. Người trong nước đều ân cần mời thỉnh:

- A-xà-lê! Xin vì chúng tôi mà làm mưa.

Thế là làm phép cho mưa tràn ngập khắp cõi Diêm-phù-đề. Mọi người đều rất hoan hỷ, đều thiết lễ đầy đủ mà đến cúng dường. Thế là Thiện Kiến được nhiều lợi dưỡng. Tâm khởi kiêu mạn nói:

- Tôn giả của Ưu-ba-cúc-đa không được cúng dường bằng ta.

Rồi lại suy nghĩ: A-la-hán không có ngã mạn. Vậy thì ta chưa chứng quả. Liền tìm đến Tôn giả cầu pháp.

Tôn giả nói: Ông không kiên trì tu tập Phật pháp, làm sao mà dạy? Đức Phật không cho Tỳ-kheo làm mưa. Ông lại sinh kiêu mạn cho là mình đắc quả A-la-hán, vị Tỳ-kheo liền chí tâm sám hối, nghe Tôn giả dạy bảo liền đắc quả A La-hán.

Tôn giả Cúc-đa, khởi tâm nghĩ rằng: Đề-đa-già không biết đã ra đời chưa? Quán tưởng biết là vẫn còn chưa ra đời! Tôn giả liền đem chúng Tỳ-kheo đến nhà cha mẹ Đề-đa-già, rồi mỗi ngày một bớt lại, duy chỉ còn hai vị Tỳ-kheo đến nhà của người kia, rồi sau lại đến một mình.

Trưởng giả liền hỏi:

- A-xà-lê! Vì sao lại đi có một mình. Không có đệ tử à! Sao lại có một mình, có muốn gì thì tôi sẽ cung cấp.

Khi đó Tôn giả sinh con đều chết cả. Sau sinh ra một đứa, đặt tên là Đề-đa-già. Đứa bé dần dần lớn lên đến chỗ Tôn giả, xin xuất gia học đạo. Đủ hai mươi tuổi cho thọ giới Cụ túc. Lúc sơ bạch đắc Tu-đà-hoàn. Đệ nhất yết ma thì đắc Tư-đà-hàm. Đệ nhị yết ma thì đắc A-na-hàm. Đệ tam yết ma liền đắc A-la-hán. Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa khi ấy liền tư duy: Ta hóa duyên đã xong, các pháp cúng dường Đức Phật cũng xong. Làm lợi ích cho chư vị đồng phạm hạnh, chánh pháp nối tiếp không bị diệt mất. Rồi lại nghĩ: Ta làm nhiều lợi ích cho chúng sinh. Xây hang có bề rộng 2 trượng 4, dài 3 trượng 6, những vị đắc A-la-hán, đều ghi vào thẻ 4 tấc để đầy ở trong hang. Nay thì Niết-bàn đã đến, liền nói với Đề-đa-già:

- Đức Phật đem giáo pháp phó chúc cho Tôn giả Ca-diếp, Ca-diếp phó chúc cho ngài A-nan. Anan phó chúc lại cho Hòa thượng Thương-na-hòA-tu. Thương-na-hòa-tu giao lại cho ta. Ta nay giáo phó lại cho ông.

Tôn giả bảo đại chúng chư Thiên: Sau bảy ngày nữa thì ta Niết-bàn. Lúc này triệu tập mười vạn La-hán. Bậc học nhân cùng người tịnh trì giới thì không thể đếm hết. Chúng bạch ý cũng vô lượng. Tôn giả liền bay lên hư không biến hóa khôn lường, làm cho tứ chúng đều sinh lòng hoan hỷ đối với quả vị Vô dư Niết-bàn. Đem hết thẻ trong hang ra để thiên pháp thân của Tôn giả. Một vạn La-hán thấy Tôn giả nhập Niết-bàn cũng nhập diệt theo. Chư Thiên đều cúng dường đầy đủ, rồi sau mới xây tháp.

Như Lai đem giáo pháp phó chúc cho người, thì Phật pháp cũng không được cửu trụ. Vì sao? Vì chư Thiên sẽ thấy cũng hộ. Còn nếu đem giáo pháp phó chúc cho chư Thiên, thì cũng không lâu dài. Vì chư Thiên thường phóng dật. Vì vậy mà Như Lai đem phó chúc cho cả nhân thiên, khiến cho Phật pháp được cửu trụ. Lúc Như Lai muốn nhập Niết-bàn, nhập thế tục tâm mà tư duy rằng: Tứ Thiên vương nên đến chỗ ta lúc này Tứ Thiên vương biết được tâm Phật liền đi đến. Đi nhiều bên phải ba lần, đầu lễ chân Phật rồi ngồi qua một bên. Phật bảo Tứ Thiên vương: Ta không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn. Sau khi ta Niết-bàn, các ông nên ủng hộ Phật pháp. Đức Phật lại nói riêng với Đềđầu-la-sát:

- Ông có thể ủng hộ Phật pháp ở phương Đông. Nói với Tỳ-lâu-lặc:

- Ông ủng hộ Phật pháp ở phương Nam. Nói với Tỳ-lâu-bạt-xoa:

- Ông nên ủng hộ Phật pháp ở phương Tây. Lại bảo Tỳ-sa-môn:

- Ông nên ủng hộ đạo pháp ở phương Bắc.

Đủ một ngàn năm khi Phật pháp nhập diệt. Chúng sinh tin theo ngoại đạo rất nhiều, ở trong cõi Diêm-phù-đề phá hoại thập thiện, thổi cơn gió đại ác. Rời không mưa, lúa thóc khan hiếm, sông suối khô cạn mưa đá làm hại, cây không ra hoa quả. Người có uy đức dần dần ít đi. Đời vị lai lại có ba vị vua ác đạo ra đời. Một tên là Thích-câu, hai tên là Diêm-vô-na, ba tên là Bát-la-ưu. Tàn hại bá tánh, phá huỷ Phật pháp. Nhục thân và răng của Phật đều đến phía Đông Thiên trúc. Nam phương có vua tên Thích-câu, đem mười vạn quyến thuộc phá hoại tháp chùa, sát hại chúng Tăng phương Tây; lại có vua tên là Bát-lao, cũng đem mười vạn quyến thuộc phá hoại chùa tháp và sát hại đạo nhân. Phương Bắc có vua tên Diêm-vô-na cũng đem mười vạn quyến thuộc phá hoại Tăng phường chùa tháp, sát hại Sa-môn. Vào thời này loại phi nhân quỷ thần cũng làm khổ não người, đạo tặc cũng nhiều. Ác vương gây cảnh nhiễu nhương khủng bố. Khi đó ở phương Đông có nước Câu-xá-di tên là Đại Quân, cũng có mười vạn quân vây quanh. Vua có một người con từ trong thai mẹ ra đã mặc áo giáp sắt tay cầm đao huyết. Ngày hôm đó, trời đổ mưa huyết lớn. Vua Đại Quân cho gọi tướng sư lại xem cho con. Tướng sư nói:

- Đứa bé này sẽ làm vua khắp thiên hạ duy có lỗi là giết hại quá nhiều.

Ngay hôm đầu sinh ra, vua đã cho thiết đại lễ cúng dường rất có oai đức, uy nạn như ngày đó đều có thể thấy biết, cho nên gọi là nạn có thể xem thấy, cho đến năm hai mươi tuổi. Lúc này ba ác vương đang huỷ diệt Phật pháp sát hại tất cả, lại muốn hướng về phương Đông. Vua Đại Quân nghe điều này thì rất sợ hãi.

QUYỂN 7

Vua rất sợ hãi nói rằng:

- Ngày nay ba vị vua này đồng tâm đánh ta. Ta nên làm gì? Có vị Thiên thần nói:

- Vua nên đem vương miện đội cho vương tử. Bỏ ngôi vị vua cùng vương tử và đem năm trăm lực sĩ đủ để khôi phục. Vua Đại Quân bỏ ngôi vua và đem vương miện đội lên cho con. Vị vương tử này gọi là vua Nan Khan. Có năm trăm vị lực sĩ làm phụ tướng, năm trăm phụ tướng lo sửa soạn binh mã khí trượng để cung giao chiến, giết ba vu ác đạo và quyến thuộc, trừ diệt hết binh chúng rồi trở về Xá-di, làm vua cõi Diêm-phù-đề.

Lúc này ở trong thành Hoa thị có Bà-la-môn tên là Đại Đữ, là bậc bác học đa văn, thông suốt hết các kinh sách. Ông lấy vợ cũng thuộc giòng họ lớn như mình. Người đại phước đức cũng từ đây sinh ra, nên khi hoài thai, cũng muốn tất cả vị luận sĩ cùng luận nghị sĩ. Tướng sư bói rằng:

- Đứa bé sinh ra tất có thể hàng phục tất cả luận sư.

Khi đủ mười tháng thì đứa bé sinh ra, diện mạo rất đoan chánh. Khi lớn lên, thông đạt kinh sử. Có năm trăm vị Bà-la-môn theo thọ học làm đệ tử. Từ đó người này học tập các kinh luận chú thuật mà có nhiều đệ tử, cho nên gọi là đa đệ tử. Thế rồi vị ấy từ biệt cha mẹ mà xin xuất gia học đạo. Làu thông cả tam tạng kinh điển. Lúc bấy giờ trong thành hoa thị có một vị trưởng giả tên là Tu-đạtna, lấy con gái nhà môn hộ làm vợ, có thắng phước nên sinh con cũng như thế. Đến khi hoài thai, người mẹ thích chỗ yên tịnh, tu hành nhẫn nhục ưa làm điều thiện.

Tướng sư bói rằng:

-Đứa bé này có chí từ lúc sơ sinh. Nên đặt tên là Tu-đạt.

Sau lớn lên thì từ biệt cha mẹ đi xuất gia. Tu hành tinh tấn đắc quả A-la-hán, sống đời thiểu dục tri túc, trí thức rộng sâu, tâm ưa thích những nơi nhân tịnh thanh vắng, đến ở trong núi Hương sơn. Khi ấy, vua Đại Quân vừa băng hà. Vua Nan Khán xót thương áo não bèn thiết lễ cúng dường các nơi, sau mới xây tháp.

Tam tạng đa đệ tử đem theo trăm ngàn chúng đệ tử đi đến thành Câu-xá-di để nói pháp. Vua Nan Khán nghe Tam tạng thuyết pháp mà dần trừ được lòng ưu buồn, đối với Phật pháp đều sinh lòng kính tin. Nghĩ đến công đức của Như Lai cùng chư Samôn làm pháp thí vô uý.

Sau đó vua hỏi chư Tỳ-kheo:

- Ba vị ác vương, hủy diệt Phật pháp trong bao lâu. Đáp:

- Trong hai mươi năm. Vua nói:

- Ta nay cũng trong hai mươi năm làm các thứ công đức.

Thế là vua ở tại nước Câu-xá-di làm trai đàn cúng dường. Trong ngày ấy, trong cõi Diêm-phùđề mưa cam lồ rưới khắp khắp nơi cây trái lúa thóc đều tươi tốt ra hoa. Người trong cõi Diêm-phù-đề vì muốn cúng dường chúng Tăng nên đi đến thành Câu-xá-di. Lúc này chúng Tăng được nhiều lợi dưỡng thọ sự cúng dường y phục ẩm thực, nên lơ đễnh việc tu tập tụng kinh hành đạo. Ban ngày thì đàm thoại việc thế tục, ban đêm thì lo ngủ nghỉ. Chỉ biết tham trước lợi dưỡng, trao chuốc thân thể mặc y phục tốt đẹp. Lúc này tu hành không còn niềm vui xa lìa, cũng chẳng có niềm vui tịch tịnh, không vui trí tuệ. Duy chỉ cho thân này là chắc thật, là của mình, Phi pháp thì tăng trưởng, đạo tràng gần như muốn nghiêng đổ, chánh pháp muốn diệt. Lửa mạnh đang thiêu đốt pháp luân, biển pháp cũng muốn khô cạn.

Chư Thiên Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà đều sinh lòng hiếm trách bảo:

- Đây là do chúng Tăng không tu hành thập thiện. Thường huân tập các việc ác làm nhiều điều không tốt, khiến cho kẻ ác hoại diệt Phật pháp. Vì tà kiến phá hoại nên ít có người tín tâm, làm cho thiện căn xưa nay đều bị đoạn diệt. Vì không có tâm Từ bi nên không sợ tai ương lầm lỗi, xa lìa chơn đế, làm nghiêng ngã đạo tràng. Vì bất tín, bất điều phục cho nên gây nên ác nghiệp, phá luật phá kinh tàn hại người xuất gia. Vì thích làm điều ác nên cùng nuôi dưỡng lòng kiêu mạn, lại hư dối cho là thời mạt pháp, Phật pháp suy diệt nay đã hiện rõ. Pháp hãi đạo quang chẳng còn bao lâu nữa. Người học theo cú pháp không có trí tuệ tất sẽ làm cho Phật pháp tiêu diệt. Chư Thiên không vui cho nên không ủng hộ. Do đây mà chư thiên ở trên không trung thấy vậy rất là áo não. Phát ra âm thanh lớn nói rằng:

- Chánh pháp của Như Lai sau bảy ngày đêm, vì chúng Tăng đấu tranh nhau cho nên bị huỷ diệt. Lúc này ở thành Câu-xá-di có năm trăm vị Ưubà-tắc, vì Phật pháp cho nên hết lời can gián chư Tỳ-kheo diệt bỏ sự đấu tranh nhau.

Họ đồng nói rằng:

- Than ôi! Chánh pháp của Như Lai tất sẽ bị tiêu diệt, dòng pháp lưu đoạn diệt, hàng Thích tử cũng không còn, bèn làm kệ rằng:

Thân tâm dù Kim cang
Còn có lúc hoại diệt
Huống chi thân tứ đại
Làm sao được trường tồn
Nếu thấy nghe được pháp
Tánh liền tự tiêu diệt
An ổn mà vượt qua
Độc ác cùng thế lực
Người trí đều tận diệt
Ác pháp hiện nơi đời
Tướng Phật cũng chẳng còn
Thế gian đầy tăm tối
Pháp vô cấu đã chìm
Khổ đau càng mau đến
Cứu pháp Thế Tôn này
Thiện ác ai biết được
Nếu không biết điều thiện
Làm sao mà cứu vãng
Việc giải thoát chánh yếu
Và con đường nhân thiện
Nếu không biết điều ác
Làm sao mà xa lìa
Phật pháp như đèn soi
Để tu tiến muôn thiện
Phật pháp nếu tại thế
Ruộng phước thật vô cùng
Phật pháp nếu diệt mất
Ruộng phước nay còn đâu
Đạo pháp kể từ này
Diệt tận sao quá sớm.

Năm trăm tăng phòng ở thành Câu-xá-di. Vào ngày bố tát, hàng Ưu-bà-tắc vì có duyên sợ cho nên không đến. Ở trong núi Hương sơn có một vị A-lahán tên là Tu-đà-la, quán xét chúng Tăng ở cõi Diêm-phù-đề này nơi nào có Bồ-tát, liền biết phàm là đệ tử Phật đều vân tập đến Câu-xá-di để bố tát. Chúng Tăng đã vân tập đầy đủ. Khi ấy tăng sai vị Duy-na xương lên:

- Nay mười phương Tăng cùng hòa hợp bố tát.

Tam tạng Tỳ-kheo đa hữu đệ tử làm bậc Thượng tọa tối thượng, bạch với chư chúng Tăng rằng:

- Đệ tử mười phương của Như Lai đều đã vân tập tại đây. Trong đại chúng này tôi làm bậc Thượng tọa. Tôi đã là bậc đa văn bỉ ngạn mà đối giới luật vẫn chưa trì giữ đủ. Nay trong chúng đây ai có thể trì giới Tỳ-kheo thì nên thuyết giới. Nay là ngày 15 rất là ưu vui, nhật nguyệt phân minh, chúng Tăng vì thuyết giới cho nên cùng hòa hợp thiện các Sa-môn trong cõi Diêm-phù-đề, hàng Thích tử cùng tu tập về, là ngày tối hậu. Trong đây ai có thể trì giới. Tu-đà-la đứng dậy đến trước Hòa thượng chắp tay thưa rằng:

- Tôi nay có thể thuyết giới Bồ-tát như khi Phật còn tại thế, ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đều trì giới. Tôi nay đã trì giới đầy, xin nguyện thuyết giới.

Đệ tử của Tam tạng tên là Y-già-độ, có tánh ác lại không có lòng từ bi sinh tâm tật đố, đứng dậy cầm dao giết Tu-đà-la. Lúc này có Dạ-xoa tên là Lạc Diện, thấy vậy nói rằng:

- Cõi Diêm-phù-đề này duy chỉ có một vị A-lahán, tại sao lại giết.

Thế là liền cầm lấy chày Kim cang đánh Y-giàđộ ra làm bảy mảnh.

Đệ tử Tu-đà-la lại giết Tam tạng. Từ đó về sau Phật pháp lần suy diệt. Lúc này đại địa đều chấn động, đại tinh tú sa xuống. Các phương hỏa loạn nổi lên. Chư Thiên ở trên không trung đều thất thanh rơi lệ. Có một Dạ-xoa đã từng thấy Phật lúc còn tại thế, lúc này năm vóc lạy xuống đất, che mặt nhìn xuống mà nói rằng:

- Từ nay về sau không còn nghe Phật pháp, không còn nghe Tỳ-ni, không nghe giới luật. Cầu pháp đã gãy làm đoạn dứt cả dòng pháp. Biển pháp đã khô cạn, núi pháp đã băng hoại, chùa pháp cũng không còn. Pháp hành đã tuyệt, pháp tạng cũng dứt, pháp cam lồ đã cạn. Có thể Phật pháp từ đây đã diệt, chư thiền giả cũng tiêu tan.

Phật mẫu Ma-ha Ma-da từ trên cõi trời nhìn xuống rơi lệ bi ai.

- Than ôi! Thương thay! Giáo pháp con ta tạo lập trong ba a-tăng-kỳ kiếp, ngày nay đã bị tận diệt. Đồ chúng của con ta đều là bậc Sư tử hống nay vì sao lại như vậy. Những bậc dũng kiện oai đức có thể chấn động, ma động nay vì sao lại không có. Những vị từ pháp thần sinh ra nay cũng ở chỗ nào? Bậc nạp y tịch tịnh nay cũng ở đâu? Các bậc tu pháp thí, tài thí, vô úy thí, nhẫn nhục đều đang ở phương nào? Phật mẫu bi ai than khóc một lúc thì liền trở về cõi trời. Năm trăm vị Ưu-bà-tắc nghe Phật pháp sắp diệt tận, liền đi khỏi Câu-xá-di đến chỗ tăng phòng. Hai tay giơ lên tự đánh vào ngực vào lưng khóc la áo não mà than rằng:

- Thật là xót xa! Thật là đau đớn lại nói kệ rằng:

Lời thiện nay xa lìa
Ác nạn tai sẽ tới
Ai trao thọ giới pháp
Ai thuyết lời pháp âm
Ngu si đang lần tới
Ánh sáng diệt càng mau
Thế gian đều tăm tối
Đắm chìm trong ác nghiệp
Tất cả vì vô minh
Không có tướng xa lìa
Lời Phật không còn nữa
Nghiệp thanh tịnh đều buông
Đại tử nay đã đến
Điều theo đường ác đạo
Thế gian như hư không
Xa lìa hết sao trăng
Như hoa không có ong
Rừng không còn cây cối
Trí tuệ và niệm định
Pháp thập lực Thế Tôn
Nay thảy đều tiêu diệt
Chúng sinh chẳng còn nương

Bấy giờ vua nước Câu-xá-ly nghe Tam tạng Tỳ-kheo và Tu-đà-la A-la-hán hai người đều chết, thì buồn bả giận dữ, bèn giết hết các đạo nhân và phá hủy cả Phật pháp.

Ngày trước Đức Phật đã bảo Tứ Thiên vương:

- Ông nên ủng hộ Phật pháp, cho đến khi pháp diệt.

Tứ Thiên đại vương bạch với Đức Phật rằng:

- Thế Tôn! Xin thọ giáo!

Nói xong chư Thiên đều bay về trời.

A-DỤC VƯƠNG HIỆN BÁO NHÂN DUYÊN ĐỆ TỬ.

Ngày xưa vào thời vua A-thứ-già, có vua nước Sư tử đem cống hiến cho vua năm cây Như ý bảo châu. Vua liền đem một cây cúng nơi tháp chỗ Đức Phật đản sinh. Cây thứ hai cúng nơi tháp cây Bồđề. Cây thứ ba cúng nơi tháp mà Đức Phật Chuyển pháp luân. Cây thứ tư cúng nơi tháp Đức Phật Niếtbàn. Còn lại một cây muốn đem cho các vị phu nhân. Nếu cho một người thì sợ các người kia sẽ giận. Vua liền cho gọi mọi người vào cung mà nói rằng:

- Nếu ai có y phục trang sức anh lạc đẹp nhất thì ta sẽ cho cây này.

Tất cả các vị phu nhân đều tự mình tìm phương tiện để có được trang phục anh lạc đẹp nhất. Duy chỉ có một vị phu nhân nhỏ tên là Tu-xà-di, nhớ lời Đức Phật dạy lấy giới làm y phục, anh lạc là tốt nhất, nghĩ thế liền thọ trì tám giới, mặc thuần bạch y.

Vua A-thứ-già lần lượt xem các vị phi hậu, phu nhân trang sức anh lạc. Thấy các vị phu nhân đều dùng kỹ nhạc để tự làm vui. Khi đến chỗ phu nhân Tu-xà-di thấy mọi người đều có vẻ tịch mặc, dung nghi tề chỉnh, mặc y phục mới trắng tinh. Tâm vua tự nhiên sinh cung kính. Lại khi đó ở trong chúng có thuyết pháp tọa. Vua liền bước đến kính lễ mà nói rằng:

- Các vị phu nhân kia đều trang sức thương phục kỹ nhạc đầy đủ.

Các người vì sao mà yên lặng ở đây?

Phu nhân đáp:

- Thiếp có nghe Đức Phật dạy, lấy sự tàm quý để làm thương phục. Lấy giới để làm anh lạc tối thắng. Lấy pháp âm để làm kỹ nhạc, chúng tôi đều thọ trì bát giới để làm anh lạc. Thường tự mình hổ thẹn cho nên mặc đồ trắng. Để cùng thuyết pháp để làm âm nhạc.

Vua nghe lời này trong lòng rất hoan hỷ vui mừng liền nói rằng:

- Ta trước đã có nói, nếu ai có trang sức y phục anh lạc đệ nhất thì cho cây bảo châu. Nay ngươi chính là đệ nhất cho nên được cây này. Về sau, các vị phu nhân thấy bảo châu, đều cùng học tập theo mà trì bát giới.

Vua A-thứ-già thường thỉnh chúng Tăng vào cung thọ thực. Có một vị Tỳ-kheo tên Ưu-bát-la. Thuở nhỏ đã đoan chánh mãnh mẽ khác người. Trong miệng của Ưu-bát-la có mùi hương. Vua tự dâng nước sau bữa ăn. Nghe hơi thở của vị Đạo nhân này có mùi hoa sen Ưu-bát-la. Vua liền tác niệm, vị Tỳ-kheo này tuổi trẻ đoan chánh. Trong miệng lại có mùi hương.

Vua liền bảo vị ấy lấy nước xúc miệng. Miệng lại tỏa mùi hương gấp bội.

Vua hỏi:

- Mùi hương này đã có bao lâu? Đáp:

- Từ thời quá khứ có Đức Phật hiệu là Ca-diếp, Đức Phật lúc này thọ đến hai vạn tuổi. Tôi lúc này làm Pháp sư ngồi trên tòa cao, thường tán thán Phật pháp. Trải qua bốn mươi chín ức kiếp sinh vào trong cõi nhân thiên, không đọa trong ba đường ác. Trong miệng lại tỏa hương thơm như thế.

Vua nghe lời này thì sinh lòng hoan hỷ cung kính tác lễ.

Ngày trước vua A-thứ-già, có thỉnh một vị đạo nhân thuyết pháp. Dùng bức trướng ngăn lại cho phụ nữ ngồi trong mà nghe pháp. Lúc này Pháp sư vì các phụ nữ mà nói pháp. Thường thuyết các pháp thí giới, cầu phước báo để sinh thiên. Có một người phụ nữ vi phạm vương pháp, cởi bức màn ra, hướng đến trước vị Pháp sư hỏi:

- Đấng Đại Giác Như Lai giác ngộ các pháp ở dưới gốc cây Bồ-đề, giác ngộ các pháp thí giới và còn các pháp nào khác?

Pháp sư đáp:

- Phật biết tất cả pháp Hữu lậu đều là khổ, dụ như thiết nóng chảy ra. Khổ này nhân nơi tập khí mà sinh ra chẳng khác nào như cây độc. Người tu tám Thánh đạo sẽ diệt được khổ tập này.

Người phụ nữ nghe được lời này liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Sau đó đem dao buộc vào cổ đến chỗ vua mà thưa rằng:

- Tôi nay đã phạm vương pháp, xin vua trị tội.

Vua hỏi:

- Ngươi đã phạm tội gì? Đáp:

- Tôi phá cấm chế của vua để đến chỗ đạo nhân. Chẳng hạn như trâu khát không tránh được cái chết. Tôi thật là khát Phật pháp. Thế nên đã mạo phạm đến nghe pháp.

Vua nói:

- Ngươi nghe pháp có chỗ sở đắc gì không? Đáp:

- Đã đắc pháp, thấy được bốn chân đế, giải trừ ấm nhập giới và rõ tứ đại đều là Vô ngã. Từ đó mà đắc pháp nhãn.

Vua nghe lời này thì vui mừng hớn hở liền thi lễ nói rằng:

- Từ nay về sau không cần che màn trướng nữa. Ai thích nghe pháp thì cho đến thẳng đối diện với Pháp sư mà nghe, rồi khen rằng:

- Kỳ diệu thay! Ở trong nội cung có nhân bảo. Vì có nhân duyên nên biết nghe pháp có lợi ích lớn. Ngày trước vua A-thứ-già thấy một vị Sa-di bảy tuổi, đang đi đến chỗ khuất, liền làm lễ thì vị Sa-di nói chớ có làm lễ tôi.

Bấy giờ trước mặt Sa-di có một cái bồn tắm. Sa-di liền ẩn vào trong bồn tắm này mà trốn. Một lát sau trở ra liền nói với vua:

- Vua cẩn thận chớ có lễ lạy Sa-di. Ở trong các kinh đều có nói:

- Sa-di tuy nhỏ cũng không được khinh. Vương tử tuy nhỏ cũng không thể xem thường. Rồng tuy nhỏ cũng chớ coi nhẹ.

Sa-di tuy nhỏ mà có khả năng độ người. Vương tử tuy nhỏ nhưng có thể giết người. Rồng tuy nhỏ mà có thể kéo mây làm mưa, sấm chớp bão táp. Cho nên dù nhỏ mà vẫn không thể xem thường được.

Vua A-thứ-già rất thâm tín Phật pháp Tam bảo. Thường thiết lễ cúng dường chúng Tăng. Hàng Bàla-môn thấy thế sinh lòng đố kỵ. Họ cùng tụ tập lại, lựa chọn các bậc cựu túc lấy ra năm trăm người, đều tụng làu bốn bộ Phệ-đà và thông đạt thiên văn địa lý. Cùng luận bàn rằng:

- Vua A-thứ-già đã tận lực cúng dường bọn đầu trọc. Các bậc Cựu túc chúng ta chưa từng được mời đến. Nay phải tìm phương cách gì khiến cho vua hối tâm.

Có một Thiện chú Bà-la-môn bảo các vị Samôn rằng:

- Các vị nên đi theo sau tôi. Đến ngày thứ bảy tôi sẽ dùng chú lực làm M-ế-thủ-la bay thân đến thành Vương xá. Các vị lần lượt đi theo tôi. Tôi có thể khiến cho vua thiết lễ đại cúng dường.

Các vị Bà-la-môn đều cho là phải. Đến ngày thứ bảy, Thiện chú Bà-la-môn dùng chú thuật hóa làm Ma-đế-đầu-la, ở trên hư không bay đến cửa cung vua. Các vị Bà-la-môn cũng đi theo sau đến trước cung vua. Sai người vào thưa với vua:

- Ở trong hư không có Ma-đế-thủ-la, đem bốn trăm chín mươi chín Bà-la-môn từ hư không đi xuống. Nay đang ở ngoài cửa. Các vị Bà-la-môn khác đang dưới đất cũng muốn vào cung vua liền cho người ra mời vào, cùng thưa hỏi mời ngồi và hỏi:

- Ma-ế-thủ-la, có điều gì lại đến đây. Có cần gì không? Đáp:

- Cần ẩm thực.

Vua liền ra lệnh cho dọn năm trăm mâm thức ăn ra trước. Ma-đế-thủ-la đều lấy tay đẩy ra nói!

- Tôi từ sinh đến giờ chưa từng ăn thế này. Vua đáp:

- Vì không nói trước, nên không biết chư vị thích món gì? Ma-đế-thủ-la đồng thanh nói:

- Thức ăn của tôi là bọn đầu trọc đấy. Vua liền gọi một vị quan:

- Người đến chùa Kê đầu thưa với Tôn giả Daxá, ở trong cung có năm trăm vị Bà-la-môn, một người tự xưng là Ma-đế-thủ-la, không biết đây là người hay là La-sát. Xin thỉnh A-xà-lê đến vì tôi mà đuổi bọn họ đi.

Nhưng vị quan này là đệ tử của bọn tà kiến Bàla-môn. Đi đến lại không nói thật như lời vua, mà nói rằng:

- Vua A-thứ-già đang mời năm trăm vị Bà-lamôn, nói là hình tướng thì giống người còn ngôn ngữ thì giống La sát. Họ nói rằng: Muốn thấy các vị Sa-môn đến cùng ăn.

Thượng tọa Da-xá liền bảo Duy-na đánh kiền chùy tập hợp chúng.

Nói lời từ tạ với đại chúng!

- Ta nay tuổi đã già yếu. Ta vì chúng tăng nên biết việc này.

Chúng tăng an ổn hộ trì Phật pháp, để cho ta đi. Đệ nhị Thượng tọa nói:

- Thượng tọa không nên đi. Thân tôi không thể kham việc hộ trì Phật pháp, xin để cho tôi đi.

Đệ tam Thượng tọa cũng nói:

- Đệ nhị Thượng tọa không nên đi, nên để cho tôi đi.

Như thế lần lượt cho đến vị Sa-di cuối cùng. Trong mười sáu vạn tám ngàn Tăng chúng, Sa-di nhỏ nhất mới bảy tuổi. Đi ra khỏi chúng chắp tay quỳ dài xuống thưa rằng:

- Chư tăng không nên đi, con còn nhỏ không thể kham nhiệm việc hộ trì Phật pháp. Xin đại chúng cho con được đi.

Thượng tọa Da Xà rất vui mừng; đưa tay xoa đảnh đầu Sa-di và nói:

- Ngươi có thể đi, để người không đợi thế là Sa-di liền đi. Lúc này vua A-thứ-già nói:

- Có đến không? Người hầu cận đáp:

- Các vị nhường nhau. Nay thì vị Sa-di nhỏ nhất đến.

Vua nói:

- Thật là xấu hổ, cho nên mới để người nhỏ đến.

Người hầu đáp phải.

Vua nghe Sa-di đến liền ra nghinh tiếp. Mời Sa-di ngồi trên tòa cao. Các vị Sa-môn rất giận dữ:

- Vua A-thứ-già không biết phân biệt. Chúng ta là bậc túc đức mà vua không nghinh tiếp. Còn vị Sa-di này nhỏ tuổi mà vua tự ra nghênh tiếp.

Sa-di hỏi vua:

- Vì sao lại cho gọi? Vua đáp:

- Vị Ma-đế-thủ-la muốn ăn thịt A-xà-lê. Vậy tùy A-xà-lê có cho ăn không?

Sa-di nói:

- Tôi tuổi còn nhỏ, hồi sáng giờ chưa ăn gì. Vua nên cúng cho tôi ăn trước. Rồi sau tôi sẽ cho quý vị Bà-la-môn ăn.

Vua liền sai nhà bếp làm thức ăn mang đến. Sa-di ăn sạch một mâm. Lần lượt dọn ra năm trăm mâm cũng đều ăn hết sạch.

Vua hỏi:

- Đủ chưa? Đáp:

- Đều chưa đủ.

Vua lại gọi nhà bếp nói:

- Còn bao nhiêu thức ăn nên đem lên hết, Sa-di lại ăn hết. Vua hỏi:

- Đủ chưa? Đáp:

- Chưa đủ vẫn còn đói khát. Nhà bếp bạch vua:

- Thức ăn đã hết. Vua nói:

- Trong kho còn gì đều đem ra dọn. Vua hỏi:

- Đủ chưa. Đáp:

- Chưa đủ. Vua nói:

- Tất cả đồ ẩm thực đều đã hết không còn gì để ăn.

Sa-di nói:

- Xin lấy thức ăn của vị nhỏ nhất Bà-la-môn đem đến cho tôi ăn. Rồi cũng ăn hết, cho đến bốn trăm chín mươi chín mâm của các vị Bà-la-môn cũng ăn hết sạch. Ma-ế-thủ-la rất đỗi kinh sợ bay lên hư không. Sa-di ngồi trên tòa đưa tay lên. Từ trên hư không lại nắm đầu Ma-ế-thủ-la ăn hết.

Vua thấy vậy kinh sợ nghĩ nếu ăn hết Bà-lamôn, lại ăn ta không?

Sa-di biết tâm niệm của vua, liền nói với vua:

- Vua là Đàn-việt của Phật pháp, sẽ không làm tổn hại, xin chớ sợ.

Rồi lại nói với vua:

- Vua có thể cùng đến chùa Kê đầu không? Vua nói:

- A-xà-lê muốn đem tôi đi đâu thì tôi cũng xin đi.

Sa-di liền cùng vua đi về chùa. Vua thấy Sa-di đem tất cả thức ăn từ sáng đem chia cho chúng Tăng trong chùa cùng ăn. Lại chia cho năm trăm vị Bà-la-môn, lúc này đều cạo bỏ râu tóc, đắp mặc pháp y, đang ở trong chúng ngồi ở hàng phía sau, có cả vị bị Sa-di ăn đầu tiên.

Ma-ế-thủ-la ngồi ở hàng cuối cùng, năm trăm người thấy vua thì rất lấy làm xấu hổ nghĩ:

- Chúng ta còn không thể cùng vị Sa-di này đấu tranh huống chi cùng với đại chúng tranh lực. Dụ như lông chim rớt vào tro bếp, như muỗi cùng bay với kim xí điểu. Dụ như thỏ con cùng Sư tử vương tranh thế lực, do đây thì không tự biết độ lượng. Năm trăm Bà-la-môn sinh tâm hổ thẹn mà đắc quả Tu-đà-hoàn.

Vua A-thứ-già khi thấy người xuất gia, bất luận lớn nhỏ cũng đều cung kính lễ bái. Còn các đại thần tà kiến cho là kỳ quái. Nếu thấy bậc tôn túc đại đức thì mới lễ bái, còn người tuổi nhỏ không đức thì vì sao lại phải lễ kính. Nhà vua là vua khắp cõi Diêmphù, vang danh là bậc Thánh đức, rất đáng trọng vọng, cớ sao lại tự khinh mình mà lễ bái. Lời nói này truyền ra và vua nghe được. Vua liền tập họp các quần thần lại. Đem đến bốn đầu người và hàng trăm đầu thú ngựa trâu, ra lệnh cho đại thần Da-xa đem các đầu này đi bán. Tất cả đầu thú đều có người mua. Duy có đầu người không có ai mua.

Mọi người đều nói:

- Tất cả đầu đều có người mua, duy có đầu người thì không ai mua.

Vua hỏi:

- Vì sao lại không bán. Tất cả muôn vật cái gì quý nhất. Các quan đều nói:

- Duy có con người là quý nhất.

Nếu người quý nhất thì phải có giá? Vậy sao lại bán không được?

Đáp:

- Người lúc sống thì quý, mà khi chết thì là hèn.

Đầu người còn không muốn thấy, chớ nói gì mua.

Vua lại hỏi:

- Tất cả đều là hèn, hay chỉ là đầu. Đáp:

- Tất cả đều hèn. Vua nói:

- Nếu tất cả đều hèn, thì đầu ta cũng là hèn sao?

Lúc này Da-xa sợ không dám trả lời.

Vua nói:

- Da-xa hãy thành thực trả lời ta đi. Da-xa đáp:

- Thật như vua nói. Thật không khác gì? Vua nói:

- Đầu ta cùng đây không khác vậy các ngươi vì sao lại ngăn ta không cho lễ bái. Các ngươi nếu thật là tri thức của ta thì phải khuyên ta lễ bái. Cớ sao ta đã tự lễ bái mà các ngươi chê cười. Đầu ta nay nếu có giá trị thì nên lễ kính. Làm sao có thể đem nó mà mua bán được. Nếu là thiện trí thức thì nên khuyên ta lễ kính Tam bảo, cho đời sau ta được sinh thiên, được thọ nhận đầu của bậc Thánh hiền mời phải.

Vua A-thứ-già thường thiết lễ cúng dường chúng Tăng. Lúc này ở trong cung có một nô bộc thấy vua làm phước điền mong cầu tiêu nghiệp.

Trong lòng không vui mới nghĩ rằng:

- Vua phước ngày một tăng, còn ta tội ngày một nhiều. Vì đời trước vua tu phước, đời này được phú quý. Ngày nay làm phước ngày sau càng phú quý hơn nữa. Ta đời trước tạo tội nay mới làm kẻ hạ tiện. Ngày nay không có gì để tu phước, thì đời sau đâu thể thoát khỏi kiếp hèn hạ này. Khi chúng Tăng ăn rồi, người nữ tì này quét dọn được một đồng tiền vàng, liền đem tiền này cúng dường chúng Tăng nên tâm rất hoan hỷ. Sau đó không lâu thì bị bệnh chết thác sinh làm con gái của vua, rất là đoan chánh khác thường. Nhưng bàn tay mặt lúc nào cũng nắm lại cho đến khi năm tuổi. Phu nhân tâu với vua:

- Đã sinh một đứa con gái, một tay luôn nắm chặt. Vua bảo đem đứa bé ra. Vua kéo tay thì tay liền mở ra. Giữa lòng bàn tay có một đồng tiền vàng lớn. Lấy đồng tiền vàng đi, thì lại có đồng khác không bao giờ hết. Vua kinh ngạc mới đến hỏi Thượng tọa Da-xa:

- Đứa bé này đời trước đã tạo phước đức gì, khiến cho trong tay lúc nào cũng có đồng tiền vàng như thế?

Da-xa đáp:

- Đời trước, là người ở trong cung vua quét dọn mà được đồng tiền vàng, đem cúng dường chúng Tăng. Vì nhân duyên đó mà được sinh vào cung vua. Vì công đức cúng dường này mà tay lúc nào cũng có đồng tiền vàng.

Trong kho tàng của vua có một viên khuyết như ý châu. Đây là bảo vật của vua A-xà-thế. Ở mặt trên có dòng chữ ghi rằng:

- Vua A-xà-thế thấy viên châu này trên có dòng chữ ghi là: để lại cho vua nghèo cùng đời sau là Athứ-già. Vua đọc lời này thì rất giận dữ nói:

- Vua A-xà-thế chỉ làm vua có một nước, còn ta làm vua cả cõi Diêm-phù-đề. Tại sao lại bảo ta là vua nghèo cùng được.

Có một vị đại thần có trí đáp rằng:

- Nên thử viên châu này có công năng gì, vua liền sai người thử châu. Đem châu này chẻ ra thì vẫn không dùng được. Khi đó thân bị mụn ghẻ, đem châu đặt vào thì liền lành. Trời lạnh thì ấm, nóng thì mát, đều do lực của viên châu. Lại có thể làm cho loài độc hại bị tiêu hóa. Nếu đem để vào dòng nước đục hơn ba mươi dặm thì nước sẽ trở nên lắng trong. Các loại châu trong kho tàng của vua đều không sánh được.

Vua liền nghĩ:

- Ta thật là bần cùng, vua A-xà-thế còn có viên bảo châu này. Dù bị khuyết một mặt mà đức lượng còn như thế. Đủ biết khi Đức Phật còn tại thế thì phước đức của người rất sâu dày. Ta vì đức bạc cho nên ra đời sau khi Đức Phật Niết-bàn.

Vua A-thứ-già nhờ Thượng tọa Da-xa thỉnh Tôn giả Tân-đầu-lô. Da-xá bảo vua:

- Nên nấu sữa tô cho thật ngon. Tôn giả Tânđầu-lô sẽ mang theo tám vạn bốn ngàn La-hán đến. Khi Tăng chúng tụ tập an tọa, vua tự mình đem nước sau bữa ăn. Tôn giả Tân-đầu-lô chỉ dùng toàn sữa tô.

Vua bạch Tôn giả:

- Tô là khó tiêu, có thể gây bệnh không? Tôn giả đáp:

- Không có gây hoạn đâu. Vì sao? Đức Phật lúc còn tại thế cùng với sữa tô ngày nay khí lực đều bằng nhau. Thân ta là thân của thời Đức Phật, cho nên không có tai hoạn gì?

Vua nói:

- Vì sao lại như vậy?

Tôn giả Tân-đầu-lô lấy tay vạch đất sâu đến bốn vạn hai ngàn dặm. Lấy chỗ đất tốt đưa cho vua xem và nói:

- Người đời nay bạc phước, khiến cho đất tốt ở sâu dưới lòng đất. Do đây biết khi Đức Phật còn tại thế, con người thật nhiều phước đức.

Thời vua A-thứ-già, có quan thái sử xem tướng vua rồi nói rằng:

- Vua có tướng suy. Vua hỏi:

- Làm sao trừ được. Thái sử đáp:

- Duy chỉ có tu phước.

Vua liền tạo công đức xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp. Vua hỏi thái sử?

- Tướng xấu đã diệt chưa? Thái sử đáp:

- Vẫn chưa diệt.

Lại hỏi Tôn giả Da-xá:

- Làm các nào để diệt. Tôn giả đáp:

- Vua phải nên tu phước. Nếu chuyên tự kỷ thì phước rất ít, phải khuyên mọi người cùng tu phước một cách chân thành thì phước càng sâu rộng, có thể tiêu tai trừ mọi hoạn nạn.

Vua nghe lời này liền mặc y phục thô sơ, đi khuyên hết mọi người trong nước cùng tạo phước. Khi đến nhà một người nữ nghèo khó. Lúc này người nữ duy chỉ có một cái khố để che thân thể. Nghe nói làm phước thì lòng rất hoan hỷ. Liền vào trong nhà, đưa cái khố ra xin thọ nhận.

Vua hỏi:

- Vì sao không ra ngoài này đưa. Đáp:

- Duy chỉ có cái khố che thân. Nay cởi ra đem bố thí làm cho thân hình lão thể nên không thể ra được.

Vua nghe thế thì khen việc chưa từng có. Trở về cung, sai đem trang phục của các vị phu nhân đến cho người con gái này và xin làm chị em, lại phong cho thôn ấp. Công đức bố thí được hoa báu như thế, thọ báo về sau.

Vua A-thứ-già đi khắp khuyên hóa mọi người nghèo kia. Vua A-thứ-già đi khắp khuyên hóa mọi người làm phước. Đến nhà hai vợ chồng người nghèo kia chỉ có áo vải thô sơ che lấy thân thể.

Vua nói:

- Vua A-thứ-già vì thương xót bá tánh, muốn cho mọi người cùng làm phước.

Vợ chồng người nghèo trong lòng tự trách:

- Đời trước do ta xan tham cho nên nay mới bị nghèo cùng, ngày nay lại không có tài vật tu phước. Vợ chồng lại bàn với nhau:

- Chúng ta nên đem thân này thế tài vật. Phước nghiệp khó gặp, đem tài vật cho người mà không vui sao?

Hai vợ chồng đi đến nhà người giàu kia mà nói:-Cho tôi bảy đồng tiền vàng. Vợ chồng tôi đem cầm thân mình bảy ngày. Nếu không có trả thì chúng tôi sẽ làm nô bộc.

Trưởng giả nghe nói thì vui mừng đem đưa cho bảy đồng. Hai vợ chồng đem tiền đến cho người khuyến hóa. Người này hỏi:

- Các vị do đâu mà có tiền để đem cúng thí. Vợ chồng đều đáp:

- Chúng tôi nghèo tuyệt không có tiền tài. Mừng có gặp phước điền mà không có tài vật cúng dường. Nhờ nhà phú trưởng giả mượn tiền này đem thân thế chấp. Nếu quá hạn không trả thì chúng tôi sẽ làm nô bộc.

Người khuyến hóa nói:

- Đem thân thế chấp để có tiền cúng dường thật là khó gặp. Vì sao lại bố thí?

Người nghèo kia đáp:

- Vì đời trước không tạo phước. Ngày nay gặp tai ách chịu nghèo khổ cho nên nay nổ lực làm thuê mượn tiền để cúng dường. Vì nhân duyên này nguyên đời sau được hưởng phước lạc. Vua về đến cung liền lấy y phục anh lạc của mình và y phục của các phu nhân bỏ lên xe ngựa chở đi cho người kia lại phong cho thôn ấp.

Vua A-thứ-già khuyên hóa mọi người cùng làm phước, cho nên tướng xấu liền biến mất.

Xưa có vua A-thứ-già muốn lấy xá-lợi mà vua A-xà-thế cho xây tháp trước kia. Vua A-xà-thế xây tháp xá-lợi ở giữa dòng sông Hà, tại đó có đặt một cơ quan kiếm thép bằng bánh xe quay khiến cho nước chỗ đó chảy xiết. Muốn tìm cách để lấy xálợi chỗ đó thật không dễ dàng.

Vua mới hỏi Tỳ-kheo Liên Hoa rằng:

- Làm cách nào để lấy được Xá lợi? Tỳ-kheo đáp:

- Vua nên lấy một ngàn gốc cây đem thả nơi dòng nước ấy, thì nước sẽ dừng chảy.

Vua y theo lời của Tỳ-kheo cho tìm đủ số gốc cây. Rồi đem thả nơi dòng nước. Cây trôi đến chỗ cơ quan của kiếm thép thì chặn lỗ kiếm lại làm cho nước ngừng chảy. Nhưng có đại Long vương trấn giữ nơi dòng nước này, nên không thể lấy được.

Vua lại hỏi Tỳ-kheo:

- Làm cách nào để lấy. Tỳ-kheo đáp:

- Vì Long vương phước đức thù thắng nên không thể lấy. Vua hỏi:

- Vì sao lại biết Long vương có phước. Đáp:

- Nên lấy vàng đúc một pho tượng của vua và một tượng của Long vương. Sau đó đem cân thử, tượng nào nặng thì có phước hơn.

Vua y theo lời nói cho đúc tượng rồi đem cân, thì thấy tượng Long vương nặng gấp đôi. Thấy vậy vua do đó liền chuyên tu phước. Khi tu phước rồi, thì đúc tượng và cân thử, thấy cả hai tượng đều nặng bằng nhau.

Vua càng tu phước thêm nữa. Sau đó đúc tượng và cân lại thì tượng vua nặng hơn. Khi biết tượng mình nặng hơn. Vua bèn đem quân đi đến dòng nước đó. Long vương tự thân lên đón vua và dâng hiến nhiều châu báu.

Vua hỏi Long vương:

- Ngày trước vua A-xà-thế có để lại xá-lợi cho ta. Nay ta muốn lấy về.

Long vương tự biết uy lực của mình không bằng nên đưa vua đến tháp xá-lợi, rồi mở cửa lấy xá-lợi đưa vua.

Khi trước vua A-xà-thế có làm một cây đèn dầu thắp trong tháp. Lúc này thì dầu cháy gần hết. Đến khi Xá lợi được lấy ra thì đèn cũng vừa tắt.

Vua lấy làm lạ hỏi Tỳ-kheo Liên Hoa:

- Vì sao vua A-xà-thế lại để đủ số lượng dầu cho đến nay khi lấy Xá lợi ra thì đèn mới tắt.

Tôn giả đáp:

- Vua này rất có tài tính toán. Đã tính đủ số lượng dầu thắp trong một trăm năm cho đến nay mới tắt.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]