TẠP TẠNG
SỐ 2043 - KINH A-DỤC VƯƠNG
Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Tăng-già-sa-la, ở đất Phù nam
Phẩm 2: NHÂN DUYÊN GẶP ƯU-BA-CẤPĐA
Phẩm 3: NHÂN DUYÊN CÚNG DƯỜNG CÂY BỒ-ĐỀ
Phẩm 4: NHÂN DUYÊN VỀ CÂU-NA-LA
Phẩm 5: NHÂN DUYÊN NÓI VỀ NỬA TRÁI AM-MA-LẶC, CÚNG DƯỜNG TĂNG
Phẩm 6: NHÂN DUYÊN PHẬT THỌ KÝ ƯU-BA-CÚC-ĐA
Phẩm 7: NHÂN DUYÊN TRUYỀN THỌ PHÁP TẠNG CỦA NĂM VỊ ĐỆ TỬ PHẬT
NHÂN DUYÊN ĐẮC ĐẠO CỦA XÁ-NA-BÀ-TƯ
NHÂN DUYÊN VỀ ĐỆ TỬ ƯU-BA-CẤP-ĐA NHÂN DUYÊN VỀ HỔ TỬ
NHÂN DUYÊN NGƯỜI NAM THIÊN TRÚC
NHÂN DUYÊN NGƯỜI BẮC THIÊN TRÚC
NHÂN DUYÊN VỀ NGÃ KIẾN BÀ-LA-MÔN
NHÂN DUYÊN VỀ CÔNG VIỆC SẮC XẢO
NHÂN DUYÊN ĐỆ TỬ ƯU-BA-CẤP-ĐA NHÂN DUYÊN VỀ CÂY
NHÂN DUYÊN BỊ BÀN CHẢI CHÀ XÁT
NHÂN DUYÊN CHÙA ĐƯỢC GIA PHONG
Bấy giờ, Đức Phật ở tại thành Vương xá, nơi tinh xá Già-lan-đà, trong vườn trúc. Vào buổi sáng đắp y trì bát, cùng với chúng Tỳ-kheo cùng đi vào thành Vương xá khất thực. Lúc bấy giờ, ở trong hư không có lời kệ rằng:
Thân Phật như Kim sơn
Bước đi như voi chúa
Sắc mặt rất đoan nghiêm
Như ánh trăng đầy đặn
Chư Tỳ-kheo vây quanh
Cùng đi vào trong thành.
Lúc này, Đức Thế Tôn chân vừa bước vào cổng thành, thì xảy ra các sự việc không thể ngờ được. Kẻ mù được thấy, người điếc được nghe, người câm đã nói, người què đi được. Lao ngục ràng buộc đều được giải thoát. Kẻ có oán tắng đều sinh từ tâm. Người bị trói buộc tự nhiên được cởi ra. Tất cả loài chim thú thảy đều hoan hỷ mà kêu lên, âm thanh chan hòa. Các loại trang sức bảo châu vàng xuyến ở trong hòm tự nhiên phát ra tiếng kêu, nghe rất vui thích. Muốn thứ kỹ nhạc đều vang lên. Lúc này mặt đất trở nên yên tịnh, không có các loài uế xấu đất cát ngói ngạch, gai gốc cỏ độc. Sáu cõi đều chấn động, phương Đông nổi thì Tây chìm, phương Tây nổi thì phương Đông chìm. Phương Nam nổi thì phương Bắc chìm, phương Bắc nổi thì phương Nam chìm.
Trung ương nổi thì bốn bên chìm. Bốn bên nổi thì trung ương chìm. Rồi các nơi cùng chuyển động, hiện lên các thứ kỳ đặc. Các việc xảy ra trên không trung lại cùng thuyết kệ:
Tất cả đại địa
Lấy biển làm y
Sông, núi, thành, nước
Dùng làm trang nghiêm
Thế Tôn bước đi
Sáu cõi vang động
Như thuyền trên biển
Bị gió thổi đi.
Lúc Đức Phật đi vào thành, dùng thần lực làm cho mọi người đều sinh lòng hoan hỷ, như nước trong biển lớn lại bị gió thổi. Tất cả nhân dân đều nói kệ:
Thế gian đều vui thích
Không bằng thấy Thế Tôn
Sáu cõi đều vang động
Cát đá cũng tung lên
Người căn không đầy đủ
Từ nay sẽ vẹn toàn
Tất cả đồ bảo khí
Tự nhiên phát diệu thanh
Phật quang chiếu khắp nước
Ngàn mặt trời đỏ soi
Đem nước hương rưới đất
Và Mạt hương chiên-đàn
Thành ấp tại nước này
Trang nghiêm đều đệ nhất.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đang đi trên đường lớn. Ở trên con đường đó có hai đứa bé, đứa thứ nhất tên là Xà-da, đứa thứ hai tên Tỳ-xà-da, đều thuộc dòng họ tối thắng. Hai đứa bé đang chơi đùa với cát. Nhìn thấy Đức Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt. Đứa thứ nhất lấy cát làm thức ăn đem cúng dường vào bát của Đức Phật. Đứa thứ hai chắp tay đứng bên tùy hỷ, liền nói kệ:
Đại từ bi soi sáng
Trang nghiêm thân đủ đầy
Đã xa lìa sinh tử
Ta nay một lòng nghĩ
Vì tâm niệm duyên Phật
Dâng cát để cúng dường
Đứa bé Xà-da cúng dường rồi thì phát nguyện:
- Nguyện cho con được làm vua cõi Diêm-phùđề, vì Phật pháp mà cúng dường khắp cả.
Đức Phật biết tâm niệm phát nguyện đó, ở vào đời vị lai sẽ được hưởng quả thắng diệu. Do Đức Như Lai là ruộng phước nên Đức Phật Từ bi nhận lấy cát đó và mỉm cười, thân phát ra hào quang sáng rực, đủ màu xanh vàng đỏ trắng. Hoặc từ trên đảnh phát ra hoặc từ đầu gối phát ra làm chấn động tám tầng địa ngục. Chỗ lạnh thì ấm, chỗ nóng thì mát. Khi ánh sáng này soi đến thân ai thì khổ não đều được trừ. Có chúng sinh tâm khởi nên nghi hoặc nói ta đã thoát khổ, có thể ở lại đây, chẳng cần đi chỗ khác. Thế là Đức Thế Tôn khởi niệm thiện lại hóa ra người đi đến chỗ đó. Chúng sinh kia nhìn thấy lại nói:
- Chúng ta nay chẳng cần đi chỗ khác, ở đây đã có thần lực của người này khiến cho chúng ta thoát khổ.
Hóa nhân liền sinh tâm nghĩ:
- Nghiệp báo ở địa ngục thảy đều tiêu dứt. Người này khi mang chúng sinh vào cõi trời người, thấy được chân đế.
Rồi từ đảnh xuất ra ánh hào quang lên đến cõi trời Tứ Thiên vương cho đến cõi A-già-ni-sất. Trong ánh quang minh ấy diễn thuyết pháp vô thường khổ không vô ngã. Lại nói kệ rằng:
Nên tinh tấn xuất gia
Tương ưng nơi Phật pháp
Diệt trừ quân sinh tử
Như voi phá nhà cửa
Người tu theo Phật pháp
Siêng năng chớ phóng dật
Lìa tất cả sinh tử
Khổ não liền tiêu diệt.
Ánh hào quang của Đức Phật có thể chiếu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Chiếu xong rồi liền nhập vào thân Phật. Nếu Đức Phật muốn nhớ lại nghiệp báo trong quá khứ thì ánh sáng phát ra từ phía lưng. Nếu Đức Phật muốn phát ra nghiệp báo ở vị lai thì ánh sáng ra từ phía trước. Nếu Đức Phật nghĩ đến chúng sinh ở địa ngục thì ánh sáng nhập vào chân. Nếu Đức Phật muốn nghĩ đến chúng sinh ở cõi súc sinh thì ánh sáng nhập vào lòng bàn chân. Nếu Đức Phật nghĩ đến loài ngạ quỷ thì ánh sáng nhập vào các ngón chân. Nếu Đức Phật muốn nghĩ đến chúng sinh ở cõi người thì ánh sáng phát ra từ đầu gối. Nếu Đức Phật nghĩ đến chúng sinh ở Thiết luân vương thì ánh sáng nhập vào lòng bàn tay trái. Nếu Đức Phật nghĩ đến chúng sinh ở Kim luân vương thì ánh sáng nhập vào lòng bàn tay phải. Nếu Đức Phật muốn nhớ sinh ở cõi trời thì ánh sáng nhập vào ngực. Nếu Đức Phật muốn nhớ đến Bồ-đề Thanh văn thì ánh sáng nhập vào miệng. Nếu Đức Phật muốn nhớ Bồ-đề Duyên giác thì ánh sáng nhập vào tướng bạch hào. Nếu Đức Phật muốn nhớ lại Bồ-tát thì ánh sáng nhập vào nhục kế. Ánh quang minh từ tam thiên thế giới trở vào. Trước nhiễu Đức Phật ba vòng, rồi sau mới tùy chỗ mà vào. Nay Đức Phật mỉm cười thân phát ra ánh sáng, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi nhập vào lòng bàn tay trái đều có nhân duyên. A-nan trông thấy thì chắp tay nói kệ:
Phật trừ hết kiêu mạn
Diệt oán thành thắng nhân
Có duyên cớ nên cười
Răng trắng như ngọc tuyết
Có trí tuệ liền biết
Khiến cho người vui nghe
Đem tối thắng quang minh
Người thấy đều diệt nghi
Tiếng Phật như điện chớp
Mắt tợ như Ngưu vương
Phước điền như trời người
Thọ ký duyên thí cát.
Phật bảo:
- A-nan! Ta từ trước nay không phải không có duyên cớ mà cười.
Vì có nhân duyên nên Như Lai ứng chánh biến tri mới mỉm cười.
A-nan! Ông có thấy đứa bé dùng tay đặt cát vào trong bình bát của Như Lai không?
A-nan bạch Phật:
- Thưa con có thấy. Thế Tôn lại hỏi:
- Đứa bé này sau khi ta nhập Niết-Bàn một trăm năm, sinh vào thành Ba-sất-lợi-phất, tên là A-dục vương. Làm vua chuyển luân. Rất kính tin chánh pháp, nên rộng cúng dường xá-lợi, khởi xây tám vạn bốn ngàn tháp làm lợi ích cho muôn người.
Như Lai lại nói kệ:
Sau khi ta Niết-Bàn
Ngươi sinh nhà Khổng Tước
Tên là A-dục vương
Vui thích rộng nghe pháp
Vì ta xây tháp báu
Trang nghiêm cõi Bồ-đề
Thọ báo công đức này
Thí cát cúng dường Phật.
Phật nhận lấy nắm cát kia và nói với A-nan rằng:
- Ông lấy phân bò hòa với cát này rãi trên đất chỗ Đức Phật đi kinh hành.
A-nan làm theo lời Đức Phật dạy lấy cát trải nền đất. Bèn đi đến thành Ba-sất-lợi-phất-đa có vua tên Chiên-na-la Cấp-đa. Vua có con tên Tầnđầu-sa-la. Trưởng tử của Tần-đầu-sa-la tên Tu-tưma. Lúc bấy giờ, ở thành Chiêm-bà có Bà-la-môn sinh một người con gái, dung mạo xinh đẹp đoan chánh bậc nhất trong nước.
Tướng sư đoán rằng: Cô gái này sẽ làm vợ vua và sinh ra hai người con. Một đứa làm vua chuyển luân, một người đi xuất gia đắc đạo. Bà-la-môn nghe vậy thì rất vui mừng hân hoan, muốn hưởng phú quý nên đem con đến nước Ba-sất-lợi-phất-đa. Phục sức trang điểm cho cô gái rồi đem dâng cho vua Tần-bà-ta-la:
- Con gái của tôi là trang quốc sắc, xin dâng làm vợ vua.
Vua liền nhận đem vào trong nội cung. Mọi người trong hậu cung đều nghĩ:
- Người con gái này xinh đẹp bậc nhất. Nếu vua thấy sẽ ưa thích mà bớt sủng ái bọn ta. Thế liền bày cách cho cô gái làm nghề hạ tiện, làm thợ cạo râu tóc cho vua.
Khi vào cạo râu tóc cho vua trong lúc vua đang ngủ.
Một lát sau vua tỉnh dậy thì cạo đã xong.
Vua rất hoan hỷ hỏi rằng:
- Người có ý nguyện gì không? Liền bạch với vua:
- Tôi muốn cùng vua hưởng lạc. Vua nói:
- Nàng là thợ cạo râu, còn ta là vua một nước.
Làm sao có thể kết hợp.
Lại bạch với vua:
- Tôi vốn là con gái của Bà-la-môn chứ không phải là thợ cạo râu.
Bà-la-môn đã gã tôi làm vợ vua.
Vua hỏi:
- Ai bảo nàng làm thợ cạo thế?
Đáp:
- Người trong nội cung. Vua nói:
- Nàng từ đây chớ làm việc này nữa. Thế là vua liền phong làm phu nhân. Một thời gian sau thì có mang và sinh ra một hoàng nam. Bấy giờ phu nhân nghĩ:
- Ta nay đã hết ưu lo, nên đặt tên con là A-thâukha. Sau đó lại sinh đứa thứ hai đặt tên là Tỳ-đathâu-kha. A-thâu-kha tướng mạo thô xấu nên không được cha yêu. Bấy giờ, vua Tần-ba-ta-la muốn xem các con ai có thể kế vương nghiệp, bèn cho mời tướng sư là Tần-già-la-bạt-sa mà nói rằng:
- Nay ta muốn xem trong các hoàng tử, sau khi ta băng hà ai có thể nối ngôi vua.
Tướng sư bảo:
- Đại vương nên gọi các hoàng tử vào trong kim điện. Rồi theo vua đến Kim điện.
Bấy giờ mẹ của A-dục bảo con:
- Đại vương đang cùng các vương tử ở trong kim điện. Con cũng nên đến đó.
A-dục đáp:
- Vua không yêu con. Làm sao đến. Mẹ bảo:
- Con nên đi đi. A-dục đáp:
Con xin đi. Mẹ nên sai người đem thức ăn đến đó.
A-dục liền từ trong thành đi ra, gặp quan đại thần tên là Thành Hộ. Thấy A-dục bèn hỏi:
-Vương tử đi đâu. Đáp:
- Hôm nay Đại vương ở trong kim điện muốn xem tướng các vương tử, nên ta cũng đến đó.
Thành Hộ liền đưa con vua già cho A-dục đi. A-dục cỡi voi đến kim điện, đến chỗ các vương tử mà ngồi. Các vị vương tử này đều làm các thức ăn quý hiếm đựng bằng mâm vàng. Mẹ A-dục sai người làm thức ăn bằng cơm sữa; đựng vào bình bằng đất sét đưa đến cho A-dục.
Lúc này vua nói với tướng sư rằng:
- Ông nên lần lượt xem tướng các vương tử.
Sau khi ta mất thì ai nối ngôi ta.
Tướng sư suy nghĩ:
- Nếu nói A-dục có tướng làm vua. Thì vua không thích tất sẽ giết ta.
Nghĩ thế cho nên nói:
- Tôi nay có nhân duyên nên xem tướng không thể nêu tên ra được. Mà chỉ xem hình trạng.
Vua nói:
- Được! Tướng sư nói:
- Nếu các vương ai có xe đẹp thì có tướng làm vua. Đại vương nói:
- Ông có thể nói thêm. Tướng sư nói:
- Nếu có chỗ ngồi tối thắng thì được làm vua.
Vua nói:
- Ông có thể nói thêm. Tướng sư lại nói:
- Có thức ăn ngon đồ đựng tốt.
Bấy giờ các vương tử nghe lời này thì đều suy nghĩ:
- Nếu có xe, chỗ ngồi tốt thức ăn ngon đồ đựng quý thì ta có thể làm vua.
A-dục cũng suy nghĩ:
- Nay tướng sư không nêu tên, mà chỉ nói như vậy. Thì ta cũng cỡi con voi là vật tối thắng. Ngồi trên đất, ăn cơm sữa thì cũng là đệ nhất. Ta có đồ đựng bằng đất, dùng nước làm thức uống, như vậy thì ta có thể làm vua.
Sau đó tướng sư lại thăm hỏi mẹ A-dục. Người mẹ hỏi:
- Sau khi vua băng hà thì ai sẽ nối ngôi. Đáp:
- A-dục. Lại hỏi:
- Vua có thể nghi hoặc hỏi ai sẽ làm vua. Ông nên đi xa lánh chỗ này, chừng nào A-dục làm vua hãy trở về.
Thế là tướng sư liền đi ra khỏi nước. Lúc này nước Đức-xoa-thi-la muốn làm phản. Vua Tầnđầu-sa-la nói với A-dục:
- Ngươi tập hợp bốn bộ binh đi đến nước kia.
Nhưng vua lại không cấp cho khí cụ, A-dục kéo quân đi đến nước kia.
Kẻ hầu cận hỏi:
- Không có khí giới làm sao chúng ta chinh phạt được nước kia. A-dục đáp:
- Nếu ta có phước đức làm vua, khiến khí giới tự nhiên sẽ có, vua vừa nói xong thì mặt đất liền mở ra, khí giới và các vật dụng đều xuất hiện. Thế là A-dục thống lĩnh đại binh đi sang nước Đứcxoa-thi-la. Lúc này dân chúng ở đây nghe A-dục đến, đều lo sửa soạn đường xá đến nửa do tuần, rải đầy hương hoa để cung nghinh và nói với A-dục rằng:
- Chúng tôi không có ý phản vua, cũng không phản vương tử. Chỉ vì đại thần xúi dục vua nước tôi làm việc vô đạo. Nay xin phế đi, sau đó dân chúng cung phụng vật thực đầy đủ cho A-dục, mời vào trong thành thu phục được nước này.
Khi đó con trưởng của vua Tần-đầu-ta-la từ trong vườn trở về thành Ba-sất-lợi-phất-đa, trông thấy một vị đại thần trên đỉnh không có tóc. Khi hai người gặp nhau thì vương tử mới gõ lên đầu vị đại thần kia. Đại thần mới nghĩ:
- Nay lấy tay đánh vào đầu ta, nếu lên làm vua chắc sẽ lấy dao chém ta phải tìm cách để vương tử này không lên làm vua mới được.
Thế là vị đại thần cùng họp bàn với năm trăm vị đại thần muốn phế bỏ Tu-tư-ma và nói:
- A-dục vương có tướng làm Chuyển luân Thánh vương, vậy chúng ta nên cùng mưu sự lập nên.
Khi ấy dân Đức-xoa-thi-la lại làm phản. Nhà vua nước đó không chịu thuần phục. Vua Tần-bàta-la bèn sai Tu-tư-ma đem binh đi chinh phạt, nhưng Tu-tư-ma không thể làm cho nước kia khuất phục. Lúc này A-dục cũng đã trở về nước.
Vua Tần-bà-ta-la bị bệnh nặng, bảo A-dục đến nước Đức-xoa-thi-la để Tu-tư-ma trở về và nói:-Ta nay muốn giao phó nước cho Tu-tư-ma.
Lúc này quần thần đem nước Huỳnh khương xoa vào người A-dục rồi nói thác bị bệnh. Lại nấu nước Lạc-xoa đổ đầy bát đem đến chỗ A-dục bệnh, lúc đó vua Tần-đầu-ta-la bệnh rất nặng. Quần thần đem A-dục đến chỗ vua và tâu:
- Đây là vương tử, vua nên truyền ngôi lại. Còn Tu-tư-ma trở về thì nên phế đi.
Vua nghe nói vậy thì rất tức giận. A-dục nói:
- Nếu có tướng làm vua thì trời sẽ cho vương miện.
Nói xong thì chư Thiên liền đem vương miện của trời chụp lên đầu A-dục.
Nhà vua thấy vậy thì càng sân giận hộc máu mà băng hà.
A-dục liền nối ngôi, phong Thành Hộ làm đại thần thứ nhất.
Tu-tư-ma nghe vua đã băng hà và A-dục lên ngôi thì rất phẫn nộ, liền đem binh về định đánh Adục.
A-dục vương ở trong thành đốc thốc binh sĩ giữ bốn cửa thành. Sai hai vị dõng tướng đem quân giữ hai cửa Tây và Nam, khiến đại thần Thành Hộ đem quân giữ thành phía Bắc. A-dục giữ cửa phía Đông. Đại thần Thành Hộ đặt cơ quan ở thành phía Đông, đào hố chôn cây nhọn và lửa rồi lấy cỏ che trên. Tu-tư-ma kéo quân muốn tiến đánh cửa Bắc. Thành Hộ nói:
- Ông nên tiến đánh cửa Đông. Nếu giết được A-dục thì tôi sẽ quy thuận.
Tu-tư-ma đem quân kéo về hướng Đông, tiến đánh A-dục làm bằng người máy liền rớt xuống hầm bị lửa thiêu đốt chết. Có bộ hạ tên là Bạt-đàla là một người đại lực sĩ liền đem mấy ngàn quân binh đến cửa Phật pháp xin xuất gia tu đạo đều chứng quả A-la-hán.
Lúc này A-dục vương trị nước, có năm trăm đại thần tỏ ý khinh mạn. A-dục mới nói với các đại thần đó:
- Các ông có thể bẻ lấy hoa quả để bảo hộ gai gốc cỏ lá cho cây không?
Chư thần đáp:
- Không thể được, phải chặt cỏ gai để bảo hộ hoa quả.
A-dục không bằng lòng, nói đến ba lần mà chư đại thần vẫn không chịu nghe. Vua giận dữ liền tự tay chém đầu năm trăm vị đại thần đó.
Một lần vua cùng năm trăm thể nữ ở trong vườn. Vườn đó có cây hoa A-thâu-kha đang ra hoa, vua vừa thấy cây thì nói:
- Cây này cùng tên với ta, nên vua rất yêu thích. Vua A-dục vì thân hình thô xấu, nên nữ nhân không muốn gần. Khi đó vua đang nằm ngủ trong vườn. Bọn thể nữ muốn làm cho vua không vui bèn hái sạch hoa của cây đó. Vua khi thức dậy không thấy hoa thì hỏi:
- Ai hái. Thể nữ nói:
- Chúng tôi hái.
Vua nổi giận đem hết bọn thể nữ thiêu đốt dưới gốc cây. Vì vậy mà dân trong nước đều gọi vua là ác vương. Quan đại thần Thành Hộ nói với vua:
- Việc chém giết vua không nên tự làm, mà giao cho người khác.
Vua liền cho đi tìm một người để làm việc xử tử người. Ở một làng trên núi có gia đình của người dệt vải có một đứa con. Người cha tên là Kỳ-lợikha. Người con thì tánh tình hung dữ thường mắng cha mẹ. Đối với mọi người hay loài vật thì thích đấm đá chém giết. Lại thích đi săn bắn nên chém giết hại vật cũng nhiều. Mọi người đều gọi là Khảúy-sơn. Vua sai sứ đến tìm người này. Hắn liền về nói với cha mẹ, cha mẹ không cho thì hắn giết luôn.
Khi đến gặp sứ thì người này hỏi:
-Sao ngươi đến chậm thế, hắn liền kể lại vì cha mẹ không cho nên hắn giết rồi mới đến.
Vua sai hắn làm lao ngục để trị người có tội. Hắn làm cửa ngục trông rất đẹp, rất hoa lệ, khiến người ngoài nhìn vào rất ưa thích. Lại tâu với vua ra nghiêm lệnh nếu ai vào ngục này thì tuyệt không cho ra. Vua bằng lòng. Thế là Chiên-đà Kỳ-lợi-kha đến chùa Kê-đầu. Trong chùa có Tỳ-kheo đang tụng kinh. Trong kinh có nói về địa ngục về các hình phạt khổ sở như cưa sắt đốt nấu. Nếu có người sinh vào địa ngục thì liền bị trị tội. Chiên-đà Kỳlợi nghe vậy liền về tạo ra các dụng cụ trị tội như thế.
Khi đó ở thành Xá-vệ có một thương chủ cùng vợ đi ra biển. Ra đó thì hạ sinh một đứa con nên đặt tên là Hải. Đến mười hai năm mới trở về, gặp bọn cướp sát hại thương chủ mà cướp đoạt tài vật. Duy chỉ có đứa bé tránh được. Về sau đứa bé vào trong Phật pháp xuất gia. Lần hồi đi đến nước Sấtlợi-phất-đa. Đến đó thì mỗi sáng đắp y trì bát vào trong thành khất thực. Khi ấy nhìn thấy cửa địa ngục thật là tráng lệ trang nghiêm. Liền đi vào trong để khất thực. Vào rồi thì thấy các hình cụ hành hình khổ cực lại muốn ra. Chiên-đà Kỳ-lợikha thấy bèn bắt lại nói rằng:
- Ông đã vào đây thì phải chịu tội chết không được ra.
Tỳ-kheo lúc này tâm sợ hãi la khóc ràn rụa.
Chiên-đà Kỳ-lợi nói:
- Ông vì sao lại khóc lớn như con nít thế? Tỳ-kheo đáp:
- Tôi khóc không phải vì tiếc thân này. Mà vì gặp được đạo giải thoát thật là khó. Xuất gia khó thì nay tôi đã xuất gia. Thích-ca khó gặp tôi cũng đã được gặp. Nhưng ở trong giáo pháp tôi vẫn chưa được chứng ngộ cho nên mới ưu não khóc thương. Chiên-đà Kỳ-lợi nói:
- Tôi đã thọ lệnh của vua, nếu đi vào đây thì không cho ra. Tỳ-kheo lại khóc và xin cho gia hạn một tháng. Chiên-đà Kỳ-lợi không chịu và cho bảy ngày. Lúc này Tỳ-kheo tư duy đến việc sinh tử gần kề nên càng tinh tấn tu trì suốt cả bảy ngày.
Vào lúc đó có một vị vương tử cùng cùng với cung nhân có tư tình. Vua A-dục biết rất giận dữ bèn đem hai người cho vào ngục trị tội. Chiên-đà Kỳ-lợi đem bỏ vào cối sắt rồi dùng búa đập nát.
Tỳ-kheo thấy thế rất sợ hãi, liền nói kệ:
Đấng Thế Tôn Từ bi
Bậc Tiên chánh đệ nhất
Sắc này như bọt tụ
Không thật cũng không trụ
Sắc này dù đoan nghiêm
Diệt rồi đến chốn nào
Vì thế nên xa lìa
Kẻ ngu mê lầm theo
Duyên này ta nên biết
Giải thoát tại ngục này
Nương đây để vượt qua
Bờ biển trong tam giới.
- Lúc này thì Tỳ-kheo đã trải qua một đêm, càng tư duy tinh tấn, dứt trừ hết phiền não, liền chứng quả A-la-hán.
Chiên-đà Kỳ-lợi nói với Tỳ-kheo:
- Đêm đã qua, mặt trời đã hiện, sự thọ khổ sẽ đến ông cần nên biết.
Tỳ-kheo đáp:
- Tôi nay không hiểu lời ông nói, thế nào là đêm đã qua, mặt trời đã hiện. Duy chỉ biết đêm vô minh đã qua, mặt trời trí tuệ đã tỏ. Tôi đem mặt trời trí tuệ soi sáng thấy khắp thế gian đều không có thật, cho nên tôi nay muốn đem Phật pháp nhiếp hộ thế gian.
Rồi nói với Chiên-đà-lợi:
- Thân này của tôi, tùy ông xử sự.
Người chủ ngục tuyệt không có lòng từ bi nên không cảm nhận được lời nói ấy, nên càng tức giận đem Tỳ-kheo đặt vào chảo thiết, trong đó có đầy máu mủ phẩn uế. Rồi lấy nhiều củi để đốt nấu Tỳ-kheo. Nấu đến hết củi mà thân vẫn không chín nát.
Ngục chủ thấy vậy thì giận dữ mắng ngục tốt.
- Người sao không chịu đốt nhiều lửa?
Rồi tự tay ngục chủ cho củi vào đốt mà củi vẫn không cháy, liền nhìn vào trong vạc đồng, thấy Tỳ-kheo đang ngồi kiết già trên tòa hoa sen. Thấy vậy liền tâu lại với vua. Vua nghe nói thì cùng dân chúng kéo đến coi. Tỳ-kheo bèn dùng thần lực chỉ trong khoảng khắc từ trong vạc đồng bay lên hư không, biến hóa đủ mười tám thân. Vua A-dục thấy Tỳ-kheo như phá núi đi thẳng vào hư không như thế, thì tâm sinh hoan hỷ mà nói kệ rằng:
Thân cũng đồng là người
Thần lực lại hơn người
Tôi không biết việc này
Người là ai ở đâu
Xin đem lời chánh thuyết
Khiến tôi được tỏ thông
Nếu tôi biết việc này
Xin nguyện làm đệ tử.
Bấy giờ Tỳ-kheo trong lòng suy nghĩ. Vua hôm nay sẽ lãnh thọ lời Phật dạy, mà rộng truyền việc xây tháp cúng dường Xá-lợi, khiến cho mọi người cùng đạt lợi ích. Suy nghĩ rồi thì muốn hiển rõ công đức của Đức Phật, liền nói kệ rằng:
Phật diệt trừ các lậu
Không hơn lòng Từ bi
Bậc luận sự tối thắng
Tôi là đệ tử người
Đem chánh pháp vô tận
Không đắm trước hữu lậu
Là ngưu vương trong người
Tự lợi mình lợi tha
Khiến ta nay giải thoát
Lao ngục trong ba cõi.
Này Đại vương! Đức Phật đã có lời thọ ký: Sau khi ta diệt độ khoảng một trăm năm, ở trong nước Sất-lợi-phất-đa có vua tên A-thâu-kha làm vua chuyển luân trong bốn cõi. Đem xá-lợi của ta cúng dường khắp nơi và khởi xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp.
Lại này Đại vương! Vua đã tạo ra ngục tù giống như chốn địa ngục giết hại chúng sinh vô số. Vua nên trừ bỏ đi khiến cho dân chúng được an ổn.
Đại vương nay được như thế mới mãn ý nguyện của Thế Tôn! Lại nói kệ:
Làm vua khắp cõi người
Với tất cả chúng sinh
Nên khởi lòng từ bi
Bố thí vô khả úy
Vừa ý nguyện Thế Tôn
Rộng xây xá-lợi tháp.
Lúc này vua A-dục tâm niệm đang nghĩ đến Đức Phật.
Liền chắp tay sám hối mà nói kệ:
Ta quy y Phật Pháp
Là đệ tử Thế Tôn
Ông là con của Phật
Nên khởi tâm nhẫn nhục
Ta tạo ra ác nghiệp
Nay xin sám hối ngài
Cần cầu tinh tấn tu
Thêm sâu lòng cung kính
Ta trang nghiêm đất này
Làm vô lượng tháp Phật
Cũng trắng như ngọc tuyết
Như lời Phật thọ ký.
Tỳ-kheo đáp:
- Tốt! Rồi dùng thần lực bay về chỗ cũ. Vua Adục muốn đi ra khỏi ngục để trở về. Chiên-đà Kỳlợi chắp tay nói:
- Đại vương! Nên biết là tôi đã nhận lệnh, nếu ai vào đây thì quyết không cho ra.
Vua nói: Ngươi nay lại muốn giết ta sao? Đáp: Chính phải.
Vua hỏi: Vậy chúng ta ai vào trước. Đáp: Tôi vào trước.
Vua bèn gọi ngục tốt bắt Chiên-đà Kỳ-lợi vào trong nhà Lạc Khả dùng lửa thiêu đốt và thiêu hủy cả nhà ngục này. Từ đó dân chúng không còn lo sợ nữa. Vua A-dục phát tâm xây bảo tháp khắp nơi. Vua bèn cử bốn bộ binh đi đến chỗ vua A-xà-thế, có tháp tên là Đầu-lâu-na. Sai người phá tháp đó đi để lấy xá-lợi của Đức Phật. bảy tháp khác ở các nơi cũng đều phá để lấy Xá-lợi. Lại đến một thôn có tên là La-na, trong thôn này có một bảo tháp xây đã từ lâu, vua muốn phá tháp đó để lấy xá-lợi. Lúc này có Long vương hiện lên mời A-dục nhập vào Long cung, rồi bạch với vua xin lưu lại tháp này để cúng dường. Vua bằng lòng và Long vương đưa vua trở lại thôn La-na. Vua A-dục suy nghĩ tháp này là tối thắng đệ nhất cho nên Long vương mới hết lòng giữ gìn, ta nay không được xá-lợi ở đây. Sau đó vua liền trở về nước.
Vua cho khởi xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, phân bố xá-lợi khắp các nơi này. Lại làm tám vạn bốn ngàn bình đựng xá-lợi và tràng phan bảo cái giao cho Dạ-xoa đi khắp các vùng đại địa và biển cả để xây tháp cúng dường xá-lợi. Lại các nước lúc ấy có ba loại đại trung tiểu. Mỗi nước đều xuất ra cả ngàn lượng vàng để cho vua nước đó xây tháp. Ở nước Đức-xoa-thi-la xuất ra ba mươi sáu ngàn lượng vàng. Nhân dân trong nước đó thưa với vua A-dục:
- Vua nên cho chúng tôi ba mươi sáu viên xálợi. Vua suy nghĩ muốn đem xá-lợi đến cho khắp nơi. Làm sao lại cho nước này nhiều được. Vua bèn dùng phương chước nói với nhân dân nước đó. Nay nên trừ ba mươi lăm lượng vàng, lại ra lệnh nước có nhiều tháp hay ít từ nay trở đi cũng không có đưa vàng.
Sau đó A-dục vương đến chỗ Đại đức Da-xá nói:
- Tôi muốn trong một lúc khởi xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp đầy đủ hoàn thành, rồi nói kệ rằng:
Trong bảy tháp trước kia
Lấy xá-lợi Thế Tôn
Ta dòng họ Khổng tước
Trong bốn ngày tạo ra
Tám vạn bốn ngàn tháp
Quang minh như tuyết trắng.
Khi vua khởi tu xây tháp và hết lòng ủng hộ Phật pháp. Nhân dân trong nước gọi vua là A-dục pháp vương và nói kệ rằng:
Đại Thánh vua Khổng tước
Biết pháp đại lợi ích
Đem tháp ấn thế gian
Diệt trừ danh xưng ác
Được tên Thiện Pháp Vương
Y pháp được an lạc.
Kinh A-Dục Vương, Quyển 1 (Hết)
Hữu Lương Thiên Lâm năm thứ 11 vào ngày 12 tháng 06 ở đất Phù Nam, Sa-môn Tăng-già-bàla tại Dương đô thọ quang điện dịch kiến bảo xướng lục.
Bấy giờ, vua A-dục khởi tu tám vạn bốn ngàn tháp xá-lợi xong rồi thì rất hoan hỷ. Cùng với chư đại thần đến chùa Kê-đầu, đến trước Thượng tọa chắp tay lễ bái và nói rằng:
- Ngày trước tôi cúng dường cát cho Đức Phật được Đức Phật thọ ký. Nay có phước báo này. Vậy ngày trước có vị nào được Phật thọ ký nữa không. Tỳ-kheo Da-xá đáp:
- Lúc Đức Phật còn tại thế có Long vương tên A-bà Long vương, lại có người thợ gốm và Chiênđà-la Long vương.
Phật đi hóa độ xong liền đi đến nước Ma-thâula. Rồi bảo A-nan rằng:
Ở nước Ma-thâu-la này sau khi Đức Như Lai Niết-bàn một trăm năm có một thương chủ bán hương tên gọi Cấp-đa. Được Đức Phật giáo hóa có thân tối thắng vô tướng. Sau khi ta Niết-bàn, vị này khởi tâm làm Phật sự.
Lại bảo A-nan:
- Ông nay có thấy khu rừng xanh từ xa kia không?
- Thưa Thế Tôn! Có thấy. Phật bảo:
- Ở trong đó có núi tên Ưu-lâu-mạn-trà. Sau khi ta Niết-bàn một trăm năm. Ở núi này có chùa tên Na-sĩ-bà-sĩ là nơi tọa thiền tối thắng đệ nhất. Phật lại nói kệ:
Giáo hóa hàng đệ tử
Trí tuệ đạt tối thắng
Thế Tôn đã thọ ký
Tên Ưu-ba-cúc-đa
Đại đức ở thế gian
Nên rộng làm Phật sự.
Lúc này vua A-dục hỏi Thượng tọa Da-xá:
- Ưu-ba-cấp-đa đã ra đời chưa? Đại đức Da-xá đáp:
- Đã ra đời đang ở trên núi Ưu-lâu-mạn-trà vị này tu hành tinh tấn, diệt hết phiền não. Thường nhiếp hóa chư La-hán ở khắp Diêm Phù và thuyết pháp cho khắp cõi trời, người, A-tu-la cùng chư Long thần. Lúc này Ưu-ba-cấp-đa đang có một vạn tám ngàn La-hán vây quanh cùng ở tại chùa Na-sĩbà-sĩ.
Vua A-dục gọi chư đại thần lại nói kệ:
Các ngươi mau trang nghiêm
Binh xa và tượng mã
Ta muốn đến nước kia
Nơi núi Ưu-mạn-đà
Muốn thấy được Đại đức
Tên Ưu-ba-cấp-đa
Tinh cần diệt tận lậu
Đã chứng quả La-hán.
Chư đại thần tâu:
- Vua nên sai người đến thỉnh vị này cùng chư La-hán đến. Vua bảo:
- Bậc A-la-hán không nên xem thường. Chúng ta phải đến đó lễ bái người.
Lại nói kệ:
Đệ tử Đức Như Lai
Tên Ưu-ba-cấp-đa
Nếu không thọ lời dạy
Tâm người tạo Kim cang.
Sau đó nhà vua sai sứ đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Vua của tôi muốn đến chỗ ngài.
Ưu-ba-cấp-đa nghe sứ nói vậy thì suy nghĩ:
- Nếu vua A-dục đến ắt sẽ mang theo nhiều người rất bất tiện mà có hại cho nước này. Bèn nói:
- Để tôi đi đến chỗ vua.
Vua liền đưa thuyền đi nghinh tiếp Ưu-ba-cấpđa. Sửa sang đường xá khắp nơi. Thuyền đi đến nước Ma-thâu-la để đón Ưu-ba-cấp-đa và chư Lahán. Vì muốn nhiếp thọ vua A-dục nên chư vị đều lên thuyền để đi đến nước Bà-sất-lợi-phất-đa.
Dân chúng của vua A-dục bạch với vua:
- Ưu-ba-cấp-đa vì muốn nhiếp thọ Đại vương, cho nên mới đến nước này.
Vua nên biết Phật pháp sâu rộng như đất. Vua nay do tu thiện tạo phước này có thể vượt ra khỏi biển giới mà đến bờ bên kia.
Hôm sau Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa đi đến chỗ vua. Vua rất hoan hỷ, cởi châu anh lạc giá trị cả ngàn vàng đưa thưởng cho người vào tâu. Sai người nay đánh hiệu lệnh, cho cả nước Ba-sất-lợi-phất-đa nghe biết Tôn giả đã đến nước này.
Lại nói kệ rằng:
Nếu người vui phước lạc
Và nhân giải thoát thiên
Tất cả nên đến gặp
Tôn giả Cấp-đa này
Nếu người không thấy Phật
Bậc Lưỡng túc tối thượng
Lòng đại bi vô lượng
Lậu tận khắp trời người
Vậy nay nên cúng dường
Ngài Ưu-ba-cúc-đa.
Vua sai đem bài kệ này truyền cho nhân dân cả nước cùng nghe. Rồi lo sửa sang đường xá. Vua ra khỏi thành đến nửa do tuần, cùng chư đại thần và nhân dân, đem các loại hương hoa kỹ nhạc ra nghênh tiếp Tôn giả. Từ xa vua trông thấy Tôn giả ở trên bờ cùng với một vạn tám ngàn chư đại Lahán, vây quanh như nửa mặt trăng, vua liền xuống voi đi bộ đến chỗ Tôn giả đưa tay đỡ Ưu-ba-cúcđa ra khỏi thuyền. Rồi năm vóc lạy xuống đất kính lễ Tôn giả. Rồi quỳ dài chắp tay chiêm ngưỡng Tôn giả không biết chán mà nói kệ:
Lấy địa hải làm y
Rừng núi trang nghiêm thân
Trừ oán nơi đất này
Khiến lòng tôi hoan hỷ
Chẳng bằng như ngày nay
Tôi được thấy Đại đức
Lòng càng thêm kính tin
Cũng như thấy Như Lai
Phật đã nhập Niết-bàn
Đại đức làm Phật sự
Thế gian vì vô minh
Người như nhật nguyệt soi
Lấy trí tuệ trang nghiêm
Chẳng khác gì Đại sư
Giáo hóa người muôn cõi
Chúng sinh đều quay về
Nên nay được giáo hóa
Tôi sẽ làm như vậy.
Lúc này Đại đức Ưu-ba-cúc-đa, dùng tay mặt xoa lên đảnh đầu vua A-dục mà nói kệ:
Vua nay được tự tại
Nên nhớ có buông lung
Tam bảo khó gặp đặng
Thường phải nên cúng dường
Thế Tôn giáo pháp tạng
Cho vua và chúng tôi
Nên hộ trì Phật pháp
Vì nhiếp thọ chúng sinh.
Vua A-dục đáp:
- Việc Đức Thế Tôn thọ ký cho tôi nay đã làm xong, liền nói kệ:
Tôi nay đã cúng dường
Thế Tôn xá-lợi tượng
Nơi nơi đều xây tháp
Dùng trân bảo trang nghiêm
Duy không thể xuất gia
Tu hành trong phạm hạnh.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Đại vương! Lành thay! Lành thay! Việc như đây Đại vương nên làm, vì sao?
Vua đem thân mạng tài Mà khởi tu chân bảo Khi thọ thân nơi khác Sẽ không còn khổ não.
Vua A-dục liền thiết đại cúng dường, đưa Tôn giả vào thành, tay đỡ Đại đức lên ngồi trên tòa cao. Thân hình của Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa rất mềm dịu nhẹ nhàng như bông Đâu-la-miên. Vua đụng vào thân liền chắp tay thưa:
Đại đức thân mềm dịu
Như bông Đâu-la-miên
Còn tôi thân thô xấu
Mà chạm thân của người.
Ưu-ba-cúc-đa liền nói kệ:
Tôi cúng dường thắng diệu
Đem dâng Đức Như Lai
Còn vua đem cát đất
Dâng thí trong bát Phật.
Vua A-dục nói kệ:
Tâm tôi trước tiểu nhi
Dùng cát cúng Thế Tôn
Gặp được ruộng công đức
Cho nên nay làm vua.
Lúc này Ưu-ba-cúc-đa, muốn cho vua hoan hỷ liền nói kệ:
Vua gặp ruộng công đức
Mà gieo hạt bố thí
Do đây được phước báo
Được quả vui bất tận.
Vua nghe lời đó lòng rất hoan hỷ, lại nói kệ:
Xưa dùng cát bố thí
Thế Tôn đại phước điền
Nay được vui vô tận
Làm vua khắp bốn châu
Ai nghe việc như vầy
Mà không cúng dường Phật.
Lúc này vua A-dục lễ dưới chân Tôn giả mà bạch rằng:
- Đại đức! Tôi muốn đến chỗ Đức Phật thường đi ở ngồi thiền để cúng dường. Lại muốn xây tháp ở đây để chúng sinh đời sau biết được chỗ Đức Như Lai thường đi kinh hành ngồi thiền. Vua lại nói kệ:
Tôi muốn chỗ Như Lai
Thường đi đứng nằm ngồi
Đều cúng dường đảnh lễ
Để lìa khổ sinh tử
Lại muốn xây tháp báu
Chỗ Phật thường đứng đi
Khiến chúng sinh vị lai
Được nhân duyên thấy Phật.
Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Đại vương! Lành thay! Lành thay! Vua phát tâm này thật là khó gặp, muốn cúng dường Đức Như Lai lúc còn tại thế thường đi đứng nằm ngồi. Lại muốn nhiếp thọ cho chúng sinh đời sau.
Vua A-dục lại cử bốn bộ binh, đem hương hoa kỹ nhạc cùng với Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa đi đến đất Đức Phật.
Tôn giả đưa vua đến chỗ Đức Phật đản sinh trong vườn Lâm-tỳ-ni.
Lấy tay chỉ nói:
A-dục vương! Đây là chỗ Đức Phật đản sinh, rồi nói kệ:
Thế Tôn nơi chỗ này
Sinh ra đi bảy bước
Mắt tịnh xem bốn phương
Làm bậc Sư tử hống
Đây là thân cuối cùng
Nơi trụ thai cũng thế.
Vua A-dục năm vóc quỳ lạy sát đất, đảnh lễ chỗ Đức Như Lai đản sinh, chắp tay nói kệ:
Có người được thấy Phật
Công đức thật vô cùng
Như tiếng vang sư tử
Công đức cũng như kia.
Ưu-ba-cúc-đa muốn vua sinh thêm lòng tin nên nói rằng:
- Có một vị chư thiên thấy Đức Phật lúc mới sinh đi bảy bước. Vua có muốn nghe Sư tử hống nói không?
Vua đáp:
- Đại đức! Tôi nay muốn được nghe Đại đức nói lại việc phu nhân Ma-da lúc mới sinh thái tử, đã vịn vào cành cây ở đây.
Nếu có chư Thiên nhân
Ở tại trong rừng này
Thấy được Phật đản sinh
Lại nghe tiếng sư tử
Nên hiện thân nơi đây
Cho A-dục lòng tin.
Lúc ấy, có chư Thiên hiện thân ra, đứng chắp tay trước mặt Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nói:
- Đại đức muốn tôi làm gì?
Ưu-ba-cúc-đa liền nói với vua:
- Đây là chư Thiên đã thấy Phật lúc đản sinh.
A-dục chắp tay hướng đến vị trời, nên nói kệ:
Ông thấy Phật đản sinh
Trăm phước trang nghiêm thân
Mặt Phật như hoa sen
Thế gian đều vui thích
Lại nghe Sư tử hống
Ở trong vườn Đại lâm.
Chư Thiên lại nói kệ:
Ta đã thấy thân Phật
Ánh sáng như sắc vàng
Bảy bước trong hư không
Bậc nhị túc tối thượng
Cũng nghe Sư tử hống
Đấng trung tôn trời người.
Lúc này vua hỏi:
- Lúc Đức Phật đản sinh có hiện tướng lành gì? Chư thiên đáp:
- Tôi nay không thể nói hết những diệu tướng ấy. Nay chỉ nói sơ lược, liền nói kệ:
Phóng kim sắc quang minh
Chiếu sáng khắp thế gian
Trời người đều ưa thích
Núi sông đều chấn động.
Vua A-dục đem mười vạn lượng vàng cúng dường chỗ Đức Phật đản sinh, để khởi xây tại đây, xong rồi đi chỗ khác.
Ưu-ba-cúc-đa liền đem vua đến chỗ tiên nhân Ca-tỳ-la Bà-tu-đẩu, liền đưa tay chỉ chỗ đó:
- Vị tiên đoán tướng của Bồ-tát cho vua Bạch Phạn. Có ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân sắc.
Vua liền lễ lạy nơi ấy. Có Thích-ca Bạt-đà-na là Thiên thần ở đây hiện lên. Bồ-tát liền đến đảnh lễ thiên thần. Thiên thần không dám nhận lễ, mà lễ lại vị Bồ-tát. Vua Tịnh Phạn thấy vậy liền nói:
- Đứa bé này là trời của cõi trời.
Vua liền đặt tên cho thái tử là Thiên Thiên. Lại chỉ chỗ vị tướng sư Bà-la-môn xem tướng cho Bồtát nói:
- Đây là chỗ tiên nhân coi cho thái tử. Rồi nói tiếp:
- Đứa bé này sẽ là Phật.
Lại chỉ chỗ Ma-ha Ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng Bồ-tát, ông lại chỉ chỗ Bồ-tát đọc sách, lại chỉ chỗ Bồ-tát cưỡi ngựa xe tập bắn cung tên.
Lại nói:
- Đây là chỗ Bồ-tát có đầy đủ đạo quả cứu cánh.
Lại nói:
- Đây là chỗ Bồ-tát chuyển pháp luân. Lại nói:
- Đây là chỗ thái tử cùng sáu vạn thể nữ vui chơi. Lại nói:
- Đây là chỗ Bồ-tát thấy cảnh sinh, già, bệnh, chết mà khởi lòng Từ bi.
Lại nói:
- Đây là chỗ Bồ-tát, ngồi dưới cây Diêm-phù, tu các thiền định xa lìa tham dục ác pháp. Có giác ngộ có quán xét ly sinh hỷ lạc nhập vào cõi Sơ thiền. Bồ-tát tọa thiền, khi mặt trời lên cao, thì cây che bóng mát, các cây khác cũng tùy theo bóng mặt trời mà di chuyển.
Lúc này vua Tịnh Phạn thấy vậy liền năm vóc quỳ lạy sát đất. Khi đó có một vạn trời người, đứng hầu Bồ-tát từ thành Ca-tỳ-la giữa đêm từ giã cung thành ra đi. Lúc này Bồ-tát cởi hết mũ áo trân bảo cùng với ngựa đưa cho Sa-nặc đem trở về. Lại nói kệ rằng:
Bỏ mũ bảo anh lạc
Đưa ngựa cho Sa-nặc
Đem trở về bản quốc
Một thân không thị vệ
Vì tu hành tinh tấn
Vào trong núi học đạo.
Bồ-tát ở chỗ này đem Y-ca-thi đổi lấy ca-sa của thợ săn để xuất gia.
Đây là chỗ Sa-la-già-ba thỉnh Bồ-tát, đây là chỗ vua Tần-bà-ta-la chia cho Bồ-tát nửa nước, là nơi Bồ-tát tham vấn Uất-đầu-lam-phất, lại nói kệ:
Chỗ này có tiên nhân
Tên Uất-đầu-lam-phất
Nghe pháp xong bỏ đi
Vua trời không thấy khác.
Đây là chỗ Bồ-tát tu sáu năm khổ hạn. Lại nói kệ:
Sáu năm tu khổ hạnh
Khó làm nay đã làm
Biết khổ hạnh phi đạo
Bỏ sở hành tu nhân.
Bồ-tát đã ở chỗ này thọ bát sửa của hai người con gái Nan-đà và Nan-đà-ba-la, rồi lại nói kệ:
Bồ-tát ở chỗ này
Thọ bát sữa Nan-đà
Phát lời nói dõng mãnh
Đến ngồi cội Bồ-đề.
Đây là chỗ Già-lê Long vương tán thán Bồ-tát. Như lời kệ nói:
Long vương tên Già-lê Tán thán mà nói rằng Đạo pháp ở tại đây Nơi gốc cây Bồ-đề.
Thế là vua A-dục lễ lạy dưới chân của Ưu-bacấp-đa, chắp tay thưa:
- Tôi muốn thấy Long vương trước đã thấy Đức Như Lai đi kinh hành như voi chúa. Từ đường này đến cây Bồ-đề. Lúc này Ưu-ba-cấp-đa đến chỗ Già-lê lấy tay chỉ nói kệ:
Tối thắng trong Long vương
Ông nên khởi hiện thân
Ông thấy Bồ-tát đi
Đến dưới cây Bồ-đề.
Già-lê Long vương tức thì hiện thân ra, đến trước mặt Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Đại đức! Muốn tôi làm điều gì? Tôn giả nói:
- Đây là Long vương Già-lê. Bồ-tát từ đường này đến cây Bồ-đề và ông đã tán thán như thế nào?
Vua A-dục liền chắp tay hướng về Già-lê Long vương mà nói kệ:
Ông thấy Phật Thế Tôn
Ánh sáng như kim sắc
Chiếu khắp cả thế gian
Mạt như ánh trăng đầy
Mười lực công đức sâu
Ông nên nói một phần
Vì sao từ nơi này
Thần lực Phật đủ đầy.
Già-lê Long vương đáp:
- Tôi nay không thể nói rộng ra hết được, nay chỉ lược nói ra, lại nói kệ:
Bồ-tát đi trên đất
Lục chủng đều chấn động
Núi sông và đại hải đi.
Ánh sáng hơn nhật nguyệt.
Vua A-dục ở nơi chỗ Long vương nói khởi tu xây tháp xong rồi Tôn giả lại đưa vua đến gốc cây Bồ-đề và nói:
- Đại vương! Đây là chỗ Bồ-tát đem lòng từ bi thắng chúng ma vương. Từ đó mà giác ngộ đắc Anậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Rồi nói kệ:
Đầy đủ lòng bi mẫn
Thắng cả chúng ma quân
Đề hồ đều không sánh
Vô thượng Chánh biến tri.
Bấy giờ vua A-dục đem mười vạn lượng vàng cúng dường cây Bồ-đề, cho xây tháp xong thì đi.
Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa nói với vua:
- Đây là chỗ Đức Phật thọ nhận bốn bát của Tứ Thiên vương hợp lại một bát.
Lại nói chỗ này Đức Phật thọ thức ăn cúng dường của hai vị thương chủ Bà-lợi. Đức Phật từ chỗ này đi đến nước Ba-la-nại. Lại nói chỗ này có ngoại đạo tên là Ưu-bà-kỳ, khen ngợi Đức Như Lai.
Tôn giả lại đưa vua A-dục đến một chỗ và nói:
- Đây là chỗ Đức Thế Tôn tam chuyển Thập nhị hành pháp luân. Lại nói kệ:
Chỗ này Phật tam chuyển
Thập nhị hành pháp luân
Pháp chơn thật đã tạo
Vượt thoát khổ sinh tử.
Đây là chỗ một ngàn ngoại đạo xuất gia. Đây là chỗ Đức Phật thuyết pháp cho Tần-bà-ta-la nghe pháp chân đế và có tám ngàn chư Thiên và Bà-lamôn trưởng giả ở nước Ma-già-đà cùng vô số người đến nghe thuyết pháp, được thấy chơn đế.
Đây là chỗ Đức Phật vì trời Đế Thích thuyết pháp và có tám vạn chư Thiên được thấy chân đế.
Đây là chỗ Đức Thế Tôn vì mẹ mà thuyết pháp sau khi hạ an cư xong cùng chư Thiên đến chỗ này, để rộng thuyết pháp.
Ưu-ba-cấp-đa đem vua A-dục đến thành Câuthi-la nơi chỗ Đức Phật Niết-bàn lấy tay chỉ nói:
-Đại vương! Đây là chỗ Đức Như Lai, sau khi hóa độ chúng sinh đã xong liền nhập vào Vô dư Niết-bàn.
Và nói kệ rằng:
Thiên nhân A-tu-la
Dạ-xoa chư Long thần
Cùng tất cả thế gian
Việc giáo hóa đã xong
Đại từ bi tinh tấn
Cho nên nhập Niết-bàn.
Vua A-dục nghe xong thì đau buồn té xỉu xuống đất, phải lấy nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh. Vua đem mười vạn lượng vàng khởi tu tháp ở chỗ này, cúng dường chỗ Như Lai Niết-bàn. Vua lễ dưới chân Tôn giả và nói:
- Chỗ nào Đức Thế Tôn thuyết pháp cho các vị đại đệ tử. Tôi muốn cúng dường xá-lợi.
Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Lành thay! Lành thay! Đại vương tâm thật chí thiện.
Tôn giả liền đem vua đi vào rừng Kỳ-hoàn lấy tay chỉ nói:
- Tại đây tháp của Tôn giả Xá-lợi-phất, ông nên cúng dường.
Vua hỏi Tôn giả:
- Ngài Xá-lợi-phất có công đức trí tuệ gì? Đáp:
- Là đại đệ tử lớn thứ hai của Đức Phật, có thể thay Đức Như Lai chuyển pháp luân. Là đệ tử trí tuệ bậc nhất của Đức Phật. Trí tuệ tối thắng của thế gian đều không bằng một phần mười sáu. Ngoại trừ Đức Như Lai.
Lại nói kệ:
Vô đẳng Chánh pháp luân
Phật vì chuyển thế gian
Xá-lợi-phất tùy thuận
Làm lợi ích chúng sinh
Ai nói được việc này
Công đức sâu như biển.
Tâm vua A-dục rất hoan hỷ, bèn đem mười vạn tiền vàng cúng dường xây tháp thờ Xá-lợi-phất.
Rồi chắp tay nói kệ:
Tôi lễ Xá-lợi-phất
Đem tâm niệm cung kính
Trí tuệ lìa phiền não
Soi sáng khắp thế gian.
Tôn giả lại đưa vua đến tháp Mục-kiền-liên và nói:
- Đây là tháp Mục-kiền-liên vua nên cúng dường. Vua hỏi:
- Vị này có công đức thần lực gì? Tôn giả đáp:
- Đây là Bồ-tát có thần thông bậc nhất trong đệ tử của Đức Phật. Có thể dùng chân làm chấn động pháp đường của Đế Thích. Lại có thể hàng phục Long vương Nan-đà, Ưu-bà-nan-đà.
Liền nói kệ rằng:
Thần lực Mục-kiền-liên
Phật nói là đệ nhất
Có thể làm chấn động
Cung điện của Đế Thích
Hàng phục cả nhị Long
Nan-bà, Bà-nan-đà
Thần lực công đức rộng
Không có thể nghĩ bàn được.
Vua A-dục liền đem mười vạn lượng vàng cúng dường tháp Mục-kiền-liên.
Chắp tay nói kệ:
Thần lực là tối thắng
Lìa sinh tử khổ não
Tôi nay nên đảnh lễ
Nghe danh Mục-kiền-liên
Tôn giả lại nói:
- Đây là tháp Ma-ha Ca-diếp, ông nên cúng dường. Vua lại hỏi:
- Vị này có công đức gì? Tôn giả đáp:
- Vị này tu hạnh Đầu-đà thiểu dục tri túc. Phật bảo đây là bậc tu hạnh Đầu-đà đệ nhất. Phật đem nửa tòa cho Tôn giả cùng ngồi. Lại lấy ca-sa của mình che cho Tôn giả. Tôn giả thọ trì bát tạng, nhiếp hóa chúng sinh đau khổ.
Lại nói kệ:
Phước điền rất thù thắng
Hành thiểu dục tri túc
Thọ trì Phật pháp tạng
Hay nhiếp khổ chúng sinh
Phật chia nửa tòa ngồi
Và che y nơi thân
Không thể nói cùng tận
Công đức sâu vô lượng.
Vua A-dục đem mười vạn lượng vàng, cúng dường tháp Đại Ca-diếp.
Chắp tay nói kệ:
Thường ở hang núi sâu
Hành thiểu dục tri túc
Trừ hết oán phiền não
Được quả vị giải thoát
Công đức không thể bàn
Cho nên đây đảnh lễ.
Lúc này Ưu-ba-cấp-đa đưa vua đến tháp Bạtcâu-la và nói:
- Đây là tháp Bạt-câu-la ông nên cúng dường.
Vua hỏi:
- Vị này có công đức gì? Đáp:
- Trong đệ tử Đức Phật vị này tinh tấn không giải đãi đệ nhất, chưa từng vì người khác nói một hai câu pháp.
Vua sai người lấy hai mươi Câu tử cúng dường xây tháp, có vị đại thần hỏi vua:
- Cùng là La-hán sao các tháp kia cúng dường ngàn lượng vàng, còn tháp này chỉ có hai mươi Câu tử cúng dường.
Vua nói: Ông nên nghe kệ:
Lấy trí tuệ soi sáng
Trừ diệt tối vô minh
Trụ ý làm nhà ở
Ít làm lợi thế gian
Cho nên dùng Câu tử
Cúng dường cho tháp kia.
Lúc này hai mươi đồng Câu tử từ chỗ tháp lại đi đến chân vua. Đại thần thấy vậy lấy làm kinh ngạc và nói:
- Vị La-hán này tu công lực thiểu dục cho đến lúc vào Niết-bàn mà vẫn không thọ vật cúng dường.
Tôn giả lại đem vua đến tháp của Tôn giả Anan và nói:
- Đại vương! Đây là tháp A-nan ông nên cúng dường. Đây là vị đệ tử đa văn đệ nhất của Đức Phật, thường theo hầu cận cung phụng đức Như Lai.
Lại nói kệ:
Là trưởng lão A-nan
Khắp trời người đều quý
Thường hộ trì bát Phật
Đầy đủ niệm tuệ tâm
Đa văn rộng như biển
Miệng nói lời vi diệu
Phương tiện ý chánh giác
Rõ thông tất cả pháp
Giữ tạng pháp công đức
Thế Tôn đều tán thán.
Vua A-dục đem mười vạn lạng cúng dường tháp A-nan. Đại thần hỏi:
- Vì sao tháp này lại cúng dường hơn hết. Vua nói:
- Ông nên nghe kệ:
Pháp thân Đức Thế Tôn
Thanh tịnh không cùng tận
Tôn giả thường thọ trì
Nên cúng dường hơn hết
Ngọn đèn Phật pháp soi
Trừ hết mọi phiền não
Do Ngài mà pháp trụ
Nên cúng dường hơn hết
Như vết trâu trên nước
Không thể xóa đại hải
Trí tuệ của A-nan
Không xóa biển trí Phật
Ở trong Tu-đa-la
Ngọn đèn Phật soi sáng
Cho nên ta hôm nay
Cúng dường tối thắng nhất.
Vua cúng dường các tháp xong thì rất vui mừng.
Làm lễ dưới chân Tôn giả, rồi nói kệ:
Tôi sinh trong cõi người
Không mất quả thiện nghiệp
Vì trước tạo công đức
quốc. Nay được ngôi tự
tại Do không chơn thật
pháp Nay được pháp chơn
thật Xây tháp xá-lợi
Phật Trang nghiêm ở thế
gian Làm sao tu khổ
hành Tôi đây chưa thể
làm.
Bây giờ vua A-dục lễ dưới chân Tôn giả xong rồi trở về bổn Kinh A-Dục Vương, Quyển 2 (Hết)
Bấy giờ vua A-dục, đối với hai chỗ Đức Phật đản sinh chuyển pháp luân và Niết-bàn đều đem mười vạn lượng vàng cúng dường nơi cây Bồ-đề. Từ đó càng sinh lòng tín lạc và suy nghĩ rằng:
- Đây là nơi Đức Thế Tôn đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, ngày ngày vua đều đem trân báu cúng dường cây này.
Lúc bấy giờ đệ nhất phu nhân của vua tên là Vi-diệu-lạc-khởi-đa rất giận dữ.
- Đại vương đã yêu quý ta. Sao lại còn đem trân báu cúng dường cho cây này, bèn cho gọi một người con gái Chiên-đà-lợi lại nói rằng:
- Ta rất ghét cây Bồ-đề này, người có thể phá chết nó được không?
Đáp rằng:
- Nếu cho tôi vàng tôi sẽ làm theo lời phu nhân nói được. Chiên-đà-lợi dùng chú thuật để làm cho cây khô héo gần chết. Có người tâu với vua:
- Cây Bồ-đề đã gần khô chết. Mà nói kệ rằng:
Phật ngồi cây Bồ-đề
Biết tất cả thế gian
Đắc nhất thiết chủng trí
Cây này nay gần chết.
Vua nghe lời này thì đau buồn té xỉu xuống đất, các quan đem nước rửa mặt cho vua tỉnh lại.
Vua than khóc mà nói kệ rằng:
Ta thấy thọ vương này
Như thấy Đức Như Lai
Cây nếu bị khô chết
Mạng ta cũng chẳng còn.
Phu nhân thấy vua đau buồn như thế thì nói:
- Dù tôi không thể làm cho cây này sống lại, nhưng cũng có thể làm cho vua vui.
Vua nói:
- Nếu ngươi làm cho cây này sống lại thì ngươi chẳng phải là nữ nhân. Bởi vì Đức Phật ở tại nơi này đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Phu nhân gọi Chiên-đà-lợi nữ đến nói:
- Ngươi có thể làm cho cây sống lại không?
Đáp:
- Nếu rễ chưa chết thì có thể sống lại.
Thế là Chiên-đà-lợi đọc chú giải cho cây, đào hầm xung quanh lấy nước tưới hằng ngày. Từ đó cây dần dần xanh tốt lại như cũ.
Người giữ cây lại tâu với vua:
- Vua nay đã phát sinh công đức lớn. Cây Bồđề nay đã sống trở lại.
Vua nghe nói vậy thì rất vui mừng, lập tức đến cây Bồ-đề, chiêm ngưỡng cây tận mắt không rời.
Rồi nói kệ:
Từ nơi Bình sa vương
Và các vị quốc vương
Hai nhân duyên vô thượng
Tất đều không thể làm
Nên nơi cây Bồ-đề
Tưới hương hoa nhũ sắc
Lại chuyên tu cúng dường
Thánh chúng ngũ bộ Tăng.
Lúc này vua A-dục, đem một ngàn cái bình bằng vàng bạc lưu ly đựng đầy nước hương cúng dường đem tưới cho cây. Dùng các thứ lụa là làm áo bọc cho cây. Vua lại tự thân thọ trì bát giới. Thọ giới xong, tay cầm lấy lò hương mà để trên điện. Thỉnh bốn phương Tăng lại nói:
-Đệ tử Đức Thế Tôn ở tại bốn phương, vì muốn nhiếp hóa ta cho nên đến đây. Liền nói kệ:
Đệ tử Đức Như Lai
Tu tịch tịnh lìa dục
Ứng cúng đại phước điền
Trời người đều quy về
Tối thắng đệ tử Phật
Tu thiền lìa ái trước
A-tu-la về nương
Đương lai nhiếp thọ ta
Ở nơi nước Kế tân
Đại lâm và ám lâm
Có chư vị La-hán
Đương lai nhiếp thọ ta
Đệ tử Phật tu thiền
Bên bờ ao A-nậu
Và hang núi sông ngòi
Nay vì lòng từ bi
Khéo nói đệ tử Phật
Trụ điện cát xá-lợi
Tâm từ bi vô ưu
Đương lai nhiếp thọ ta
Thần lực đại dũng mãnh
Ở trong núi Hương túy
Ta thỉnh A-la-hán
Cùng đến tại chỗ này.
- Khi vua A-dục nói lời này, có ba mươi vạn Tỳ-kheo hòa hợp lại cùng với mười vạn A-la-hán. Hai mươi vạn học nhân và hàng phàm phu tinh tấn đến vô lượng vô số người. Trong số Tăng chúng có một ghế Thượng tọa không có người ngồi. Vua bạch với Thượng tọa Da-xá rằng:
- Còn một ghế thượng tọa vì sao không có người ngồi. Đáp:
- Đây là chỗ đệ nhất Thượng tọa. Vua hỏi:
- Ngoài Đại đức ra còn có vị Thượng tọa nữa sao? Đáp:
- Đức Phật bảo ở trong hàng đệ tử có vị sẽ làm Sư tử hống đệ nhất. Họ là Phả-la-đọa, tên Tân-đầulô. Chỗ Thượng tọa đây chính là dành cho vị này.
Vua A-dục nghe nói vậy thì lông tóc đều dựng đứng như hoa Kha-đàm-bà.
Lại nói:
- Đại đức! Có vị Tỳ-kheo nào thấy Đức Phật lúc nhập Niết-bàn nay còn tại thế không. Trưởng lão đáp:
- Có. Vị ấy chính là Phả-la-đọa Tân-đầu-lô, đã từng diện kiến Đức Phật.
Vua lại hỏi:
- Tôi có thể gặp vị ấy không? Tôn giả nói:
- Nếu vua cần cầu thì vị ấy sẽ đến.
Bấy giờ vua nghe lời ấy thì rất vui mừng, mà nói kệ rằng:
Tôi nay được lợi lớn
Được nhiếp thọ vô cùng
Nay được thấy Đại đức
Tên gọi Tân-đầu-lô
Bấy giờ vua A-dục, chắp tay ngước nhìn lên hư không mắt vẫn không rời. Lúc này Tân-đầu-lô, cùng vô số chư vị La-hán cùng vây quanh như nửa vầng trăng. Dụ như chim nhạn vương từ trên trời bay xuống; đến nơi tòa thứ nhất ngồi xuống. Vua A-dục thấy Tân Đầu Lô đến và mười phương chư Tỳ-kheo đều từ chỗ ngồi đứng dậy. Lại thấy Tânđầu-lô râu tóc bạc trắng. Lông mày rũ xuống che mặt như thân của Duyên giác.
Vua thấy liền năm vóc lạy xuống chân Tôn giả. Rồi quỳ dài chắp tay chiêm ngưỡng Tôn giả. Mắt rơi lệ mà nói kệ rằng:
Biển đại địa làm y
Núi trang nghiêm bao bọc
Trừ oán được đất này
Khiến tôi sinh hoan hỷ
Cũng không bằng hôm nay
Cùng Đại đức tương kiến
Tôi nay thấy đại đức
Tâm niệm càng bội phần.
Lại hỏi:
- Đại đức có thấy Đức Thế Tôn không? Kế đến lại hỏi:
- Đại đức có thấy Thế Tôn không?
Lúc này Tân-đầu-lô dùng hai tay vạch lông mày ra nhìn vua A-dục, nói kệ:
Ta thấy Phật vài lần
Muôn loài không ai bằng
Có ba mươi hai tướng
Mặt như vầng trăng đầy
Phạm âm trừ phiền não
Vào Tam-muội vô tịnh.
Vua A-dục lại hỏi:
- Đại đức thấy ở những chỗ nào? Trưởng giả đáp:
- Đại vương! Đức Thế Tôn cùng năm trăm vị La-hán đã diệt hết lậu tận cùng đi theo Đức Phật. Lúc đầu ở trong thành Vương xá. Ta lúc đó ở trong chúng được thấy Đức Phật đầy đủ, liền nói kệ:
Vô dục từ vô dục
Thích-ca Mâu-ni Tôn
Thường an cư nơi này
Ta thấy Phật đầy đủ
Như ngươi nay thấy ta
Như ta đã thấy Phật.
Lại nữa Đại vương! Đức Như Lai khi ở trong nước Xá-vệ đã thắng ngoại đạo, hiện ra các loại thần lực, hóa ra vô số hóa Phật, có đầy đủ tướng hảo trang nghiêm. Thứ tự lên đến cõi trời A-già-nịsất. Ta cũng ở trong đó thấy Phật biến hóa thần lực, rồi nói kệ:
Lúc có bọn ngoại đạo
Làm các thứ tà giáo
Thế Tôn dùng thần lực
Thị hiển để hàng phục
Lúc mà ta thấy Phật
Thế gian đều hoan hỷ.
Lại nữa Đại vương! Đức Thế Tôn khi an trú trên cõi trời tam thập tam vì mẹ mà thuyết pháp, rồi cùng chư Thiên chúng đi xuống nước Tăngkha-xà. Lúc ấy ta ở trong chúng nên thấy cả chư Thiên. Lại thấy Tỳ-kheo-ni tên là Uất-ba-na-nikha. Thấy vị này lấy hoa làm chuyển luân thánh vương đủ cả bảy báu, rồi nói kệ rằng:
Lên trời an cư rồi
Phật liền đi trở xuống
Ta đang ở trong chúng
Cho nên được thấy Phật.
Lại nữa Đại vương! Có nữ nhi Tu-ma-đa-già cô độc thỉnh Đức Phật và năm trăm La-hán. Đức Phật dùng thần lực đến nước Ma-kiệt-đà. Ta dùng thần lực cũng đến nước đó. Khi đó Đức Như Lai bảo ta:
-Ông không nên nhập Niết-bàn, phải trụ vào pháp của ta, rồi lại nói kệ:
Tu-ma-già-đà thỉnh
Phật thần lực đến kia
Ta dùng lực dở núi
Theo đến nước Phân đà
Bấy giờ Phật dạy ta
Khiến ta đến trụ pháp
Vì nhân duyên như thế
Ta thấy Phật đủ đầy.
Lại nữa Đại vương! Ông khi đó là một đứa bé, tâm còn trẻ thơ. Khi Phật đi vào thành Vương xá khất thực. Ta đem thức ăn cúng dường, còn ông đem cát cúng dường Đức Phật. Thành hộ lúc đó khởi tâm hoan hỷ. Đức Phật đã thọ ký. Đứa bé này sau khi ta Niết-bàn một trăm năm, sinh vào nước Bà-sất-lợi có tên là A-thâu-kha, làm vua chuyển luân Thánh vương thống lãnh thiên hạ, vua khởi xây tám vạn bốn ngàn tháp, rộng cúng dường xálợi của Đức Phật, lúc ấy nói kệ:
Vua trước làm tiểu nhi
Chắp tay cúng dường cát
Ta cũng ở trong đó
Thấy đủ các sự việc.
Vua A-dục hỏi Tân-đầu-lô:
- Đại đức ở xứ nào? Tôn giả dùng kệ đáp:
Phương bắc ao A-nậu
Ở trong núi Hương túy
Ta ở tại xứ kia
Cùng với chư học chúng.
Vua A-dục lại hỏi Tân-đầu-ta-la:
- Đại đức! Có bao nhiêu người tùy theo. Lại dùng kệ đáp:
Sáu vạn A-la-hán
Vây quanh tùy theo ta
Ta và chư đại chúng
Dứt hết phiền não độc.
Lại nữa Đại vương! Vua còn nghi vấn gì nên đợi chúng Tăng ăn xong. Chúng Tăng dùng rồi sẽ cùng nghị luận.
Vua đáp:
- Thưa vâng, xin theo lời Đại đức dạy. Trước khi dùng nên niệm Phật quán cây Bồ-đề.
Sau khi quán cây Bồ-đề xong, vua mời chúng Tăng thọ thực. Vua đem các vật thực ra cúng dường. Vua nói với Tỳ-kheo tên Nhất Thiết Hữu:
- Tôi sẽ cúng cho chúng Tăng mười vạn tiền và một ngàn bình bằng kim ngân lưu ly. Đại chúng đều gọi tôi là cúng dường ngũ bộ tăng.
Lúc này có người con của vua tên là Câu-na-la đang đứng bên phải của vua. Vương tử vì sợ cha nên không dám nói, liền đưa hai ngón tay ra hiệu cho Tỳ-kheo, biểu thị sự cúng dường còn gấp đôi hơn cha. Mọi người thấy Câu-na-la ra dấu tu phước thì đều cười lớn.
Vua thấy đại chúng cười liền hỏi quan đại thần Thành Hộ:
- Ông làm điều gì không phải cho nên mọi người cười? Thành Hộ đáp:
- Nhiều người muốn làm công đức. Nếu làm sẽ hơn gấp bội. Vua nói:
- Ta nay đem ba mươi vạn lượng vàng cúng dường chúng Tăng. Dùng ba ngàn bình báu đựng đầy hương nước để tưới cây Bồ-đề. Đại chúng sẽ gọi ta là vị cúng dường ngũ chúng.
Câu-na-la lại đưa bốn ngón tay ra dấu cho Tỳ-kheo. Lúc này vua giận nói với Thành Hội:
- Ta tu công đức, nay ai muốn cùng ta tranh giành. Thành Hội thấy vua nổi giận, liền lễ dưới chân vua nói:
- Nào ai dám cùng vua tranh làm công đức này, liền nói kệ:
Ai dám cùng vua Tranh tu công đức Là Câuna-la Cùng vua tranh tu.
Vua A-dục xoay qua bên mặt trông thấy vương tử Câu-na-la, thì hướng về Tân-đầu-ô mà nói rằng:
-Đại đức! Trừ kho tàng thất bảo ra. Tôi nay đem đại địa, cung nhân, đại thần cùng thân mình và Câu-na-la đều cúng dường cho chúng Tăng. Để tên tôi ở trong đại chúng được gọi là cúng dường ngũ chúng, lại nói kệ rằng:
Tất cả nội cung
Duy trừ trân bảo
Cung nhân đại thần
Đều thí chúng Tăng
Tăng là đại chúng
Làm chỗ phước điền
Ta cùng vương tử
Đầy đủ công đức.
Thế là A-dục vương cúng dường Tần-đầu-lô và đại chúng xong. Ở nơi gốc cây Bồ-đề đều làm tường bao quanh. Vua tự mình leo lên tường, dùng bốn ngàn bình đựng đầy nước hương để tưới cây.
Cây lại xanh tốt như cũ, liền nói kệ rằng:
Tưới xong cây Bồ-đề
Bồ-đề cây xanh tốt
Cành lá thật sum suê
Công đức cũng tăng trưởng.
Vua tưới cây xong, thì mầm lá nhú ra xanh tươi như trước. Vua cùng các đại thần và nhân dân rất là vui mừng. Lại thiết trai cúng dường chúng Tăng. Ở trong chúng có vị Đại đức tên là Da-xá. Nói với vua rằng:
- Ngày hôm nay đại chúng đều bình đẳng. Vua cúng dường cũng chớ sinh tâm phân biệt.
Vua tự tay đưa thức ăn cúng dường từ Thượng tọa cho đến chúng nhỏ. Trong chúng có hai vị Sa-di nhỏ tuổi đang đưa thức ăn qua lại cho nhau và cười giỡn. Vua thấy vậy thì cười mà nghĩ:
- Hai vị Sa-di này giỡn vui như con nít.
Khi vua đưa thức ăn đến chỗ Thượng tọa Daxá, thì Đại đức nói:
- Đại vương ở trong chúng Tăng chớ khởi lòng bất tín. Vua đáp:
- Thưa vâng.
Lại bạch với Thượng tọa:
- Có hai vị Sa-di cùng đưa thức ăn cho nhau và cười giỡn. Da-xá nói:
- Hai vị này đã chứng quả A-la-hán. Trí tuệ đã thông đạt giải thoát.
Vua nghe thì lòng rất vui liền khởi tâm nghĩ:-Ta sẽ đem y đẹp cúng cho hai vị Sa-di này.
Sa di biết ý tưởng của vua, liền hiện ra các thần lực công đức. Một vị hóa ra cái chảo thiết đem đặt trước mặt vua. Một vị hóa ra nước Kiền-đà.
Vua thấy liền hỏi:
- Để làm gì? Đáp:
- Đại vương! Chúng tôi thấy đại vương khởi tâm muốn cúng riêng cho chúng tôi y nên tôi muốn đem nhuộm.
Vua nghe thì nghĩ:
- Ta chỉ mới nghĩ chưa hề nói ra. Vì sao hai vị này biết được tâm ta, liền năm vóc cúi lạy xuống chân hai vị Sa-di, rồi nói kệ:
Ta Khổng tước đại vương
Và đại thần nhân dân
Công đức ta phải làm
Tất cả được lợi lớn
Tinh tấn chỗ sinh tín
Vật thí nay đã thí.
Rồi vua nói với hai vị Sa-di:
-Tôi sẽ cúng cho chúng Tăng mỗi vị ba y.
Thế là vua đối với năm chúng làm các việc công đức, lại cúng cho mỗi vị ba y. Đem bốn mươi vạn kim cúng cho chúng Tăng, lại đem vô số kim ngân chuộc lại đại địa cung nhân, đại thần cùng bản thân và Câu-na-la.
-----------------------------------
Vua đối với Phật pháp rất sinh lòng kính tin. Xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp. Mở đại thí cúng dường cho cả năm chúng. Có ba mươi vạn A-lahán, học nhân cùng phàm phu thiện tín thì vô số. Bấy giờ có em vua tên Tỳ-đa-thâu-kha tin theo ngoại đạo liền nói:
- Đệ tử của Thích-ca Mâu-ni không có giải thoát. Vì sao? Vì thích theo pháp thường lạc và sợ tu khổ hạnh.
Vua A-dục nghe vậy liền nói với người em:
- Người em lại tin nơi không đáng tin. Còn Phật pháp đã không tin lại còn phỉ báng.
Một hôm, vua cùng Tỳ-đa-thâu-kha đi săn, trông thấy trong núi có vị tiên nhân đang nướng mình trong năm ngọn lửa. Em của vua thấy tu khổ đạo như vậy thì tỏ vẻ cung kính đến gần vị kia lễ lạy dưới chân nói rằng:
- Đại đức ở đây đã bao lâu? Tiên nhân đáp:
- Đã mười hai năm. Lại hỏi:
- Ông dùng thức ăn gì? Đáp:
- Ăn hoa quả và rễ cây. Hỏi:
- Mặc như thế nào? Đáp:
- Kết cỏ làm y phục để mặc. Lại hỏi:
- Nằm nghỉ ra sao? Đáp:
- Lấy cỏ trải dưới đất. Lại hỏi:
- Vì nhân duyên gì mà khởi tu khổ hạnh? Đáp:
- Thấy loài nai hành dâm, tâm tôi cũng khởi dục vọng, vì dục tâm nên phải dùng lửa thiêu đốt.
Em vua lòng lại càng nghi hoặc nghĩ:
- Tu khổ hành như đây mà còn khởi dục tâm. Còn đệ tử Đức Phật lại tu theo pháp an lạc, thì làm sao dục tâm không khởi. Đã khởi tâm dục thì làm sao giải thoát, liền nói kệ:
Tiên nhân tu khổ hạnh
Ăn hoa trái rễ cây
Y phục bằng cỏ tranh
Không thể diệt ái dục
Đệ tử của Thích-ca
Ăn tô lạc nhủ vị
Với y thực các loại
Đều không thể buông lìa
Nếu hàng phục các căn
Núi Tần-đà mới trừ.
Em vua lại nói:
- Đệ tử Thích-ca đã lừa dối vua A-dục, để cho vua làm các công đức.
Vua A-dục nghe lời này liền nói với quan đại thần:
- Em ta tin theo ngoại đạo, cần phải tìm cách nào để nó trở về với Phật pháp.
Quan đại thần thưa:
- Đại vương dạy thế nào tôi xin làm. Vua nói:
- Nay ta muốn đi tắm, sẽ cởi vương miện và y phục để đây. Ông nên bảo em mặc vào rồi ngồi trên ngai vua.
Quan đáp:
- Dạ được.
Khi vua vào nhà tắm, thì quan đại thần nói với ngự đệ:
- Nếu vua băng hà thì ngài sẽ lên làm vua. Vậy nay mặc thử y phục vào và lên ngai ngồi coi có đẹp không?
Tỳ-đa-thâu-kha nghe lời làm theo. Quan vào thưa với vua. Vua liền trở ra thấy em trên ngai thì giận liền kêu quân đem chém. Quan đại thần vội tâu.
- Đây cũng là em vua xin tha tội chớ đem giết. Xin một hồi vua mới nói với quan:
- Nay ta gia hạn cho bảy ngày. Trong bảy ngày ấy cho tạm quyền làm vua. Cung cấp đầy đủ kỹ nhạc thể nữ để vui thú lạc. Mỗi ngày đều có quần thần đến vấn an. Kẻ đao phủ cầm đao đứng nơi cửa. Ngày ngày đều vào thưa:
- Nay một ngày đã qua chỉ còn sáu ngày nữa. Như thế cho đến ngày thứ bảy, sửa soạn đầy đủ y phục đem đến cho vua A-dục.
Lúc này vua hỏi:
- Người làm vua bảy ngày có an vui gì không?
Người em liền nói kệ:
Nếu người thấy sắc
Và nghe âm thanh
Ăn đủ hương vị
Có thể đáp vua.
Vua lại nói:
- Ta cho người trong bảy ngày làm vua, trăm thứ kỹ nhạc đều được như ý. Có vô số đại thần đến hỏi thăm vấn an. Vì sao lại nói. Không thấy không nghe không có hương vị.
Em vua lại nói kệ:
Tôi ở trong bảy ngày
Không thấy cũng không nghe
Không ngửi không nếm vị
Cũng không hề xúc giác
Thân tôi trang nghiêm đủ
Cùng chư thể nữ đẹp
Mà suy tư sợ chết
Không thiết những thứ này
Kỹ nữ cùng ca vũ
Cung điện và long sàng
Mặt đất đầy châu báu
Mà lòng chẳng thấy vui
Vì thấy người hành quyết
Cầm dao ở cửa ngoài
Lại nghe tiếng linh kêu
Khiến tôi càng sợ hãi
Chết đánh vào tâm mình
Không còn biết ngũ dục
Vì sợ chết mau đến
Làm sao an ổn ngủ
Suy nghĩ về việc này
Bất giác đêm đã qua.
Lúc này vua nói với em:
-Ngươi ở trong một ngày thường lo nghĩ về cái chết, tuy hưởng đủ ngũ dục thượng diệu, mà không ưa thích. Hàng Tỳ-kheo xuất gia đối với mười hai nhập thường tư duy việc sinh tử vô thường. Thì làm sao mà khởi phiền não được. Lại thường tư duy các sự khổ của địa ngục và súc sinh tàn hại nhau, bọn ngạ quỷ đói khát bức bách. Lại nghĩ chúng sinh cõi người sinh lão bệnh tử không có chút an lạc. Sự khổ suy của cõi trời không dứt. Trong năm đạo chúng sinh chịu muôn sự khổ. Nên hàng Tỳ-kheo thường quán năm ấm là vô thường, khổ không, vô ngã không có thật. Thí như xóm làng trống vắng không có người ở, như ngũ ấm chẳng thuộc về ta. Lửa vô thường đốt thiêu khắp thế gian. Hàng đệ tử Đức Phật vẫn thường quán như thế. Thì làm sao mà khởi phiền não được, lại nói kệ:
Ngươi ở trong một ngày
Tư duy sợ sinh tử
Mà không có hoan lạc
Không khởi tâm tham ái
Hàng đệ tử của Phật
Ngày ngày quán sinh tử
Làm sao tham đắm được
Mà khởi tâm phiền não
Với y phục ẩm thực
Và ngọa cụ nghỉ nằm
Tư duy pháp giải thoát
Mà không khởi tham cầu
Quán thân như oán tặc
Tam giới như nhà lửa
Tư duy tìm phương cách
Làm sao được giải thoát
Vui sâu pháp giải thoát
Không tham nơi năm dục
Tâm sạch như hoa sen
Trong bùn mà không nhiễm.
Vua A-dục khéo dùng phương tiện để giáo hóa cho em. Tỳ-đa-thâu-kha hướng đến vua mà nói:
- Đại vương! Tôi hôm nay muốn quy y Phật và chúng Tăng, liền nói kệ:
Tôi muốn quy y Phật
Mặt Phật như hoa sen
Trời người đều trở về
Pháp vô lậu và Tăng.
Vua A-dục lúc này ôm lấy em mà nói:
- Ta không giết em, chỉ làm phương tiện để cho em tin Phật pháp.
Thế là Tỳ-đa-thâu-kha đem các loại hương hoa và kỹ nhạc đến cúng dường tháp Phật. Và các loại vật thực đến cúng dường chúng Tăng.
Hôm sau lại đến chùa Kê đầu của Thượng tọa Da-xá, để nghe pháp. Tôn giả Da-xá liền dùng thần lực, thấy vị này đời trước có gieo thiện nghiệp. Nay là thân cuối cùng đắc quả La-hán. Tôn giả liền thuyết pháp khen ngợi việc xuất gia.
Khiến cho em vua nghe xong liền xin xuất gia, chắp tay bạch Tôn giả rằng:
- Tôi có thể xuất gia thọ giới cụ túc được không? Tôi muốn ở trong Phật pháp tu phạm hạnh. Tôn giả đáp:
- Thiện nam tử! Ông nên trở về thưa với vua xin xuất gia. Tỳ-đa-thâu-kha trở về cung tâu với vua:
- Đại vương! Xin cho tôi xuất gia. Tôi muốn ở trong Phật pháp tu phạm hạnh, liền nói kệ:
Tâm tôi thường loạn động
Như voi không móc câu
Vua đem câu giữ lại
Xin cho tôi xuất gia
Vua làm chủ đại địa
Nên cho tôi xuất gia
Phật pháp chiếu thế gian
Nay muốn tu phạm hạnh.
Vua nghe xong liền ôm lấy cổ em, lòng bi thương rơi lệ mà nói:
- Tỳ-đa-thâu-kha chớ có ý như vậy. Vì sao? Vì người xuất gia y phục ẩm thực đều thô sơ giản dị, ngủ nghỉ thì dưới gốc cây. Em nên nghĩ lại chớ có xuất gia.
Tỳ-đa-thâu-kha đáp:
- Đại vương! Tôi hôm nay không vì giận dữ mà xin xuất gia. Cũng không vì tham dục, vì cầu khổ cũng không trốn thoát oan gia. Chỉ vì thấy thế gian là vô thường sinh, lão, bệnh, tử không bao giờ dứt. Duy chỉ thấy Phật pháp mới là con đường thoát được sinh tử khổ đau. Cho nên tôi mới muốn xuất gia.
Vua nghe nói càng thương khóc.
Tỳ-đa-thâu-kha liền nói kệ:
Sinh tử là dây trói
Có người nên buộc ràng
Có lên rồi cũng đọa
Hòa hợp tất phân ly.
Lúc này vua A-dục lại nói:
- Ngươi phải tập thử việc khất thực. Rồi sau nên xuất gia.
Vua đi ra sau vườn thấy có một cây đại thọ lấy cỏ che dưới đất bảo em ngồi ở đó. Rồi đưa một bình bát bảo vào thành khất thực. Tỳ-đa-thâu-kha cầm bình bát vào cung, được nhận các thức ăn thượng vị.
Vua A-dục giận nói với bọn cung nhân.
- Các người vì sao cứ đưa các món ăn thượng vị. Từ nay về sau chỉ đem cho các món ăn bình thường. Nhẫn đến chỉ lấy cơm bún cho ăn.
Tỳ-đa-thâu-kha thọ nhận các món ăn mà không chê trách. Vua thấy vậy thì nói:
- Người có thể xuất gia. Sau khi xuất gia nên đến gặp ta. Tỳ-đa-thâu-kha suy nghĩ:
- Ta nếu đến chùa Kê-đầu xuất gia, thì người vật ở đây làm náo loạn không thể tu đạo. Vậy ta nên đi xa để xuất gia.
Tỳ-đa-thâu-kha đến nước khác xuất gia tư duy tinh tấn đắc quả A-la-hán, lại suy nghĩ:
- Trước đã giao ước của vua, vậy nay nên đến đó. Thế là lần lượt đi khất thực về đến nước Sấtlợi-phất-đa. Sáng sớm cầm bát đắp y đi khất thực, đến trước cung vua A-dục nói với người giữ cửa:
- Ông vào tâu vua có Tỳ-đa-thâu-kha đang ở ngoài cửa, muốn vào gặp vua.
Người giữ cửa vào tâu vua. Vua nói:
- Nên đưa vào đây.
Tỳ-đa-thâu-kha bước vào, vua nhìn thấy liền bước xuống đảnh lễ, rồi đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng không chán, rơi lệ rồi nói kệ:
Tất cả hàng chúng sinh
Đều vui khi hòa hợp
Ông nay trừ hòa hợp
Mà tâm vui tịch tịnh
Tôi đã biết tâm ông
Trí tuệ không chán đủ.
Quan đại thần Thành Hộ. Thấy Tỳ-đa-thâu-kha đắp y phấn tảo, cầm bình bát đi khất thực, thọ nhận các món ăn ngon dở đều không phân biệt. Liền tâu với vua:
-Tỳ-đa-thâu-kha sống đời thiểu dục tri túc, tu hành phạm hạnh, vậy vua nên vui mừng, liền nói kệ:
Thường hành khất thực
Đắp y phấn tảo
Trụ dưới gốc cây
Tâm thường trong định
Không còn lậu hoặc
Thân thể không bệnh
Chánh mạng tự sống
Thường sinh hoan hỷ.
Vua A-dục nghe xong thì rất vui mừng, lại nói kệ:
Bỏ dòng họ Khổng tước
Và nước Ma-già-đà
Cùng các loại trân bảo
Ngũ dục và thượng diệu
Vui nơi tứ Thánh chủng
Trừ phiền não kiêu mạn
Thường hành đại tinh tấn
Danh vang khắp cả nước
Mười pháp lực tối thắng
Mà người hay thọ trì.
Vua A-dục đỡ Tôn giả lên ngồi trên tòa cao, tự tay cung phụng các vật dụng thức ăn. Ăn xong thì rửa bát đặt qua một bên. Vua ngồi trước tòa để nghe Tôn giả thuyết pháp, lại nói kệ:
Vua nay được tự tại
Thường tu không phóng dật
Tam bảo rất khó gặp
Vua nên thường cúng dường.
Vua A-dục cùng năm trăm vị đại thần và nhân dân cả nước, đều cung kính chắp tay vây quanh Tôn giả. Quần thần và dân chúng liền nói kệ:
Đại huynh A-dục vương
Nay cung kính đưa đệ
Xuất gia có thắng quả
Nay nên làm hiện chứng.
Thế là Tôn giả Tỳ-đa-thâu-kha, muốn mọi người rõ được công đức liền bay lên hư không cho nhân dân được thấy. Vua A-dục cùng đại chúng chắp tay đứng chiêm ngưỡng, mắt không rời và nói kệ rằng:
Không còn tình thân hữu
Như chim bay hư không
Ta vì tham ái buộc
Không thể tự tại đi
Thiền định có thắng quả
Nên thân được tự do
Chỗ làm đều tùy ý
Tất cả không chướng ngại
Vì dục ái mê lầm
Không thể thấy được pháp
Ông nay dùng thần lực
Chê ta khởi dục tâm
Ta vốn có tuệ mạng
Nay ông làm tối thắng
Ta còn đắm thế pháp
Thấy thánh mới biết sợ
Ta nay buồn rơi lệ
Vì người đã bỏ đi.
Bấy giờ, Tôn giả Tỳ-đa-thâu-kha, đi đến biên địa thì bị bệnh, trên đầu phát ra các mụn ghẻ. Vua nghe tin đó liền sai đem thuốc đến cho Tôn giả trị liệu. Sau đó một vị thầy thuốc sai đến bảo phải uống sữa bò. Từ đó mà bệnh thuyên giảm.
Lại có một nước có tên là Phân-na Bà-đà-na. Dân nước đó tin theo ngoại đạo. Có một người theo pháp tu khỏa hình, họa lấy hình Đức Phật để lễ cúng. Có người Phật tử thưa với vua A-dục. Vua nghe việc đó liền ra lệnh cho Dạ-xoa đi bắt kẻ ngoại đạo đó về. Khi thấy người đó vua nổi giận ra lệnh giết hết bọn ngoại đạo ở nước Phân-na Bà-đàna. Chỉ trong một ngày giết một vạn tám ngàn ngoại đạo và quyến thuộc. Vua lại ra lệnh, hễ ai giết được đem về một đầu của Ni-kiền-tử sẽ thưởng vàng bạc. Lúc này Tôn giả Tỳ-đa-thâu-kha vào trong chỗ nuôi bò dừng lại một ngày. Tôn giả bị bệnh từ lâu nên móng tay tóc râu đều dài ra y phục lại xấu dơ, không có tướng sắc.
Bấy giờ cô gái của nhà nuôi bò trộm nghĩ:
- Nay có Ni-kiền-tử vào nhà ta. Liền nói với chồng:
- Ông nên giết Ni-kiền-tử này đem đến vua Adục để lãnh vàng.
Người chồng nghe vậy liền cầm dao đến cổ Tôn giả muốn chém đầu. Tôn giả thấy vậy thì nghĩ:
- Nay nghiệp lực đến không thể thoát được, liền để cho giết.
Người kia đem đầu đến cho vua A-dục để lãnh tiền. Vua thấy đầu tóc thì sinh nghi. Liền hỏi thầy thuốc và người cấp sự. Thì đều bạch với vua đó là Tỳ-đa-thâu-kha. Vua nghe nói thì đau đớn té xỉu xuống đất kẻ tả hữu lấy nước rửa mặt giây lâu mới tỉnh dậy.
Lại có một đại thần tâu với vua:
- Có không ít Sa-môn bị giết lầm xin vua thi ân cho chúng sinh hết sợ.
Vua liền y theo, ra lệnh không sát hại Ni-kiềntử nữa.
Chư Tỳ-kheo trong lòng sinh nghi mới hỏi Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa:
Tỳ-đa-thâu-kha đời trước tạo nghiệp nhân gì mà phải thọ báo bị người giết hại.
Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Các ông lắng nghe! Vào đời quá khứ có một người thợ săn, giết nhiều loài nai. Ở trong khu rừng có một dòng suối, người thợ săn mới giăng bẫy ở bên dòng suối đó. Khi đó Đức Phật chưa ra đời. Có một vị Duyên giác đến bên dòng suối ngồi thọ thực, ăn xong tắm rửa rồi đi đến gốc cây ngồi. Các loài thú và bầy nai thấy vị Duyên giác nên không đến bờ suối nữa. Người thợ săn không thấy nai đến, liền tìm đến thì thấy vị Bích-chi-phật ngồi đó bèn nổi giận lấy dao chém chết.
Các ông nên biết người thợ săn đó chính là Tỳđa-thâu-kha ngày nay. Vì giết nhiều thú nên phải chịu nhiều bệnh khổ. Lại giết chết vị Bích-chiphật, nên nhiều đời thọ khổ trong địa ngục. Nay thân cuối cùng này phải chịu trả báo tuy đắc quả A-la-hán vẫn bị người hại.
Chư Tỳ-kheo lại hỏi Tôn giả:
- Vị này vì sao lại sinh vào nhà tôn quý, lại đắc quả A-la-hán. Tôn giả đáp:
- Vào thời Đức Phật Ca-diếp vị này xuất gia tu hành bố thí, thường giáo hóa đàn việt cúng dường thức ăn cho chúng Tăng. Có một bảo tháp thờ tóc và móng tay của Đức Phật, vị này thường đem hương hoa kỹ nhạc đến cúng dường. Do nghiệp duyên đó mà luôn được sinh vào nhà tôn quý.
Mười vạn năm thường tu hành phạm hạnh, lại phát chánh nguyện. Vì thế mà thọ báo đắc quả A-la-hán. Kinh A-Dục Vương-Quyển 3 (Hết)
Có một vị phu nhân của vua tên là Bát-ma-bàđể (Hán dịch là hoa Phù dung).
Sinh ra một vị hoàng nam, hình sắc đoan chánh có đôi mắt rất đẹp, ai thấy cũng đều yêu mến. Có cung nhân tới thưa vua phu nhân đã sinh con trai.
Vua nghe thì vui mừng nói kệ:
Ta trông hôm nay
Rất là hoan hỷ
Ta dòng Khổng tước
Danh vang khắp nơi
Cung nhân theo pháp
Do đây tăng trưởng.
Đứa bé này được vua đặt tên Đạt-ma Bà-dà-na. Người hầu ẵm đến chỗ vua, vừa trông thấy thì vui vẻ nói kệ:
Con ta mắt đoan nghiêm
Vì công đức sở tạo
Quang minh nhiều thâm diệu
Như hoa Ưu-bà-la
Công đức của mắt này
Trang nghiêm cả khuôn mặt
Dung mạo đều đoan chính
Ví như mặt trăng đầy.
Vua hỏi một vị đại thần:
- Ông có thấy ai có đôi mắt này không? Chư đại thần thưa:
- Ở trong cõi người thật chưa từng thấy. Nhưng ở núi tuyết có chim tên Câu-na-la. Mắt của chim này rất giống vương tử, liền nói kệ:
Trên đinh Tuyết sơn
Có chỗ hoa báu
Chim Câu-na-la
Thường trụ trên đó
Mắt của vương tử
Cùng loại chim kia.
Vua liền ra lệnh đi bắt chim này về. Vua thấy mắt chim giống mắt con nên đặt tên là Câu-na-la cho vương tử, bèn nói kệ:
Vua cõi nhân địa
Yêu đôi mắt con
Tên là Câu-na
Lúc đặt tên con
Khắp cả đại địa
Xa gần nghe danh.
Rồi Câu-na-la lớn lên có vợ tên là Kim-man-hoa (Thiên giá Na-ma-la).
Một hôm, vua cùng Câu-na-la đến chùa Kêđầu. Thượng tọa Da-xá thấy Câu-na-la, chẳng còn bao lâu nữa thì bị mất đôi mắt, liền nói với vua.
- Vì sao không bảo Câu-na-la tạo thiện nghiệp cho mình? Vua liền nói với Câu-na-la:
- Đại đức dạy gì con nên làm theo.
Câu-na-la liền sụp lạy xuống chân Tôn giả thưa:
- Đại đức muốn dạy gì? Da-xá nói:
- Ông nên tư duy về đôi mắt này là vô thường chẳng thật của mình.
Này Câu-na-la Thường tư duy mắt Vô thường bệnh khổ Muôn hoạn tụ tập Phàm phu điên đảo Do đây vượt qua.
Sau đó Câu-na-la trở về cung riêng ngồi tịch tịnh tư duy về đôi mắt và các sự khổ vô thường. Đệ nhất phu nhân của vua tên là Vi-sa Lạc-khởi-đa tới chỗ Câu-na-la thấy ngồi một mình, quán đôi mắt đẹp kia thì sinh dục tâm ôm lấy mà nói kệ:
Như lửa mạnh thiêu đốt
Tâm ta nay cũng thế
Lửa yêu đương hừng hực
Người nên tùy ý ta.
Câu-na-la nghe nói thì lấy tay bịt tai, rồi nói kệ:
Người ở chỗ của ta
Chớ nên nói lời này
Người đã là mẹ ta
Ta cũng như con cái
Sự yêu đương phi pháp
Cần phải nên xa lìa
Cớ gì làm như vậy
Cửa ác đạo mở toang.
Đại phu nhân vì không vừa ý thì nổi giận nói kệ:
Tâm ái trụ chỗ ta
Mà người không tùy ý
Người đã gieo tâm ác
Không lâu sẽ bị hại.
Câu-na-la đáp:
Tôi thà bị giết chết
Giữ pháp lòng thanh tịnh
Chớ không cầu được sống
Mà khởi sinh tà tâm
Nếu người có ác tâm
Mất thiện pháp nhân thiên
Thiện pháp đã không còn
Lấy gì để được sống.
Từ đó phu nhân thường tìm cách để mưu hại Câu-na-la.
Ở phía Bắc của nước tên Đức-xoa-thi-la không chịu thần phục vua A-dục.
Vua nghe tin ý muốn đi chinh phạt.
Đại thần thưa:
Nên sai vương tử Câu-na-la đi. Vua liền gọi Câu-na-la đến bảo:
-Con đến nước kia được không? Vua lại nói kệ:
Ta hôm nay đây
Nghe nói việc này
Nên cho con đi
Mà tâm ta đây
Lòng luôn nghĩ nhớ
Lại càng trang nghiêm.
Vua sai người sửa sang đường xá. Người già bệnh không cho ra ngoài. Vua cùng Câu-na-la cùng ngồi trên xe đưa tiễn đi một đoạn, rồi mới chia tay. Vua ôm con nhìn vào đôi mắt Câu-na-la khóc mà nói:
Nếu có người thấy Mắt Câu-na-la Tâm liền hoan hỷ Tật bệnh tiêu trừ.
Lúc đó có một tướng sư Bà-la-môn, biết Câuna-la không bao lâu sẽ bị mù. Thấy vua chỉ nhìn vào mắt kia mà không màng chuyện khác thì nói kệ:
Vương tử mắt thanh tịnh
Vua thấy lòng hân hoan
Mắt sáng tỏ trang nghiêm
Vì sao lại bị mất
Nhân dân trong nước này
Thấy mắt Câu-na-la
Ai nấy đều vui vẻ
Dụ như cõi lạc thiên
Nếu đôi mắt kia mất
Lòng người sẽ đau buồn.
Câu-na-la đi đến nước Đức-xoa-thi-la. Dân nước đó nghe Thái tử đến thì ra khỏi thành nửa do tuần để sửa sang đường phố mà đón tiếp. Nhân dân cùng nói kệ:
Người Đức-xoa-na-la
Lấy bình báu đựng nước
Và cúng dường đầy đủ
Nghinh tiếp Câu-na-la.
Khi thái tử đến thì nhân dân chắp tay thưa:
- Chúng tôi không có ý đấu tranh, cũng không có phản bội vua cùng Thái tử chỉ vì vua nước tôi nghe lời nghịch thần mới làm điều vô đạo.
Nhân dân đón tiếp Câu-na-la vào trong thành, dùng hương hoa thực phẩm cung phụng đầy đủ cho thái tử.
Lúc này vua A-dục bị bệnh nặng. Mùi hôi thúi từ miệng bốc ra. Nước dơ từ các lỗ chân lông tuôn ra. Tất cả long y đều không thể trị được. Vua liền bảo chư đại thần:
- Triệu Câu-na-la trở về để ta truyền ngôi báu. Ta không còn sống bao lâu nữa.
Phu nhân Vi-sa Lạc-khởi-đa nghe thế liền suy nghĩ:
Nếu Câu-na-la lên làm vua thì ta tất phải chết.
Liền bạch với vua:
- Thiếp có thể trị bệnh cho vua được khỏi.
Xin chớ cho thầy thuốc vào đây.
Vua nghe lời không mời long y nửa.
Lúc này phu nhân nói với một vị lương sư:
- Coi có ai mắc bệnh như vua thì bắt đem về đây.
Ở nước A-tỳ-la có người mắc bệnh giống như vua. Vợ người đó tìm thầy thuốc nói lại các bệnh trạng. Thầy thuốc bảo.
- Nên đem lại đây, ta muốn thấy. Mới có thể trị được.
Khi người bệnh đến thầy thuốc đem vào cho phu nhân. Phu nhân sai người mổ bụng người đó ra thì thấy một con trùn lớn. Trùn bò lên thì phân theo lên, bò xuống thì phân theo xuống. Nếu bò hai bên thì phân tiết ra các lỗ chân lông. Phu nhân bỏ các thứ vào đó mà trùn vẫn không chết. Sau cùng thì bỏ tỏi vào trùn mới chết. Đem việc này thưa lại với vua và khuyên vua nên dùng tỏi.
Vua đáp:
- Ta là dòng Sát-đế-lợi không được ăn tỏi. Phu nhân đáp:
- Để cứu mạng thì cần phải ăn thôi.
Vua nghe lời ăn tỏi thì trùng kia bị chết và bệnh liền khỏi. Vua tắm rửa sạch sẽ rồi nói với phu nhân.
Nay phu nhân có sở cầu gì, ta cũng tùy ý cho được như nguyện. Phu nhân thưa:
- Xin cho tôi làm vua bảy ngày. Vua nói:
- Nếu làm vua nàng tất sẽ giết ta. Phu nhân nói:-Qua bảy ngày tôi sẽ trả lại ngôi vua.
Vua liền bằng lòng. Phu nhân suy nghĩ ta muốn trừng trị Câu-na-la nay đã đến lúc. Phu nhân bèn viết chiếu thư giả của A-dục vương, đưa đến cho dân Đức-xoa-thi-la bảo phải lấy mắt của Câu-nA-la.
Trong thư nói kệ:
Ta nay có đại lực
Uy danh thật vô cùng
Vương tử Câu-na-la
Vi phạm điều trọng tội
Nay khiến cho nhân dân
Hủy cả hai con mắt
Nay ra lệnh các ngươi
Phải nên thi hành nhanh.
Phu nhân viết thư rồi, muốn lấy ấn của vua đóng vào. Đợi vua ngủ phu nhân đến bên vua định lấy, nhà vua tỉnh giấc.
Phu nhân hỏi:
- Vua vì sao kinh sợ. Vua đáp:
- Ta có điềm mộng bất tường. Thấy chim Thứu muốn cướp đôi mắt Câu-na-la. Cho nên lo sợ.
Phu nhân đáp:
Vua chớ lo, thái tử hiện đang rất an ổn.
Lần thứ hai cũng nằm mộng, vua trở dậy bảo với phu nhân:
- Ta lại mộng thấy điềm không lành. Phu nhân hỏi:
- Mộng thấy gì? Vua đáp:
- Ta thấy Câu-na-la đầu tóc, râu, móng tay đều dài ra mà không thể nói.
Phu nhân đáp:
- Thái tử vẫn an ổn xin vua chớ lo.
Một lát sau, khi vua ngủ lại. Phu nhân lấy được ấn vua đóng vào chiếu thư, rồi sai người đem đi đến nước Đức-xoa-thi-la. Vua lại nằm mộng thấy răng rớt ra. Hôm sau vua tắm rửa sạch sẽ cho mời tướng sư đến, vua nói lại các giấc mộng và nói:
- Tướng sư vì ta mà giải thích giấc mộng này. Tướng sư đáp:
- Theo giấc mộng này thì con vua sẽ bị mất mắt, chẳng khác gì mất con, lại nói kệ:
Người mộng thấy răng rụng
Thì con bị mất mắt
Mắt kia đã mất rồi
Chẳng khác gì mất con.
Vua nghe vậy thì liền đứng dậy chắp tay hướng về bốn phương, chú nguyện rằng:
Nay nhất tin quy Phật
Thanh tịnh Pháp cùng Tăng
Chư tiên nhân thế gian
Các vị thần tối thắng
Tất cả chư Thánh chúng
Đều hô Câu-na-la.
Lại nói người sứ đem thư đến cho dân nước Đức-xoa-thi-la. Mọi người đọc thư xong liền nghĩ:
-Vua A-dục thật là đáng sợ. Ngay con của mình mà còn không huống gì là chúng ta, liền nói kệ:
Ngày nay Câu-na-la
Như đại tiên không khác
Trong tất cả chúng sinh
Đều làm cho lợi ích
Vua cha Đại A-dục
Không có lòng thương xót
Huống gì với dân chúng
Lại không thể làm hại.
Rồi đem thư lại cho thái tử. Câu-na-la nhận thư nói với mọi người:
- Nay tùy ý các người cứ lấy mắt của tôi. Có một người kêu một kẻ Chiên-đà-la đến.
- Người có thể lấy cặp mắt của thái tử. Người ấy chắp tay thưa:
- Tôi không thể làm? Vì sao?
Người như mặt trăng đầy Có thể trừ ánh sáng
Nay sao nỡ bỏ đi
Mắt sáng kia của người.
Câu-na-la cởi mũ báu đưa Chiên-đà-la nói:
Ông nên lấy mắt của ta. Ta cho ông vật này.
Lại có một người có hình mạo như quỷ đứng dậy nói:
- Tôi có thể làm được.
Câu-na-la nhớ lại lời dạy của Tôn giả Da-xá và nói kệ:
Hội hợp có ly
Là lời chân thật
Tư duy nghĩ này
Biết mắt vô thường
Là thiện tri thức
Làm lợi cho ta
Người đã thuyết giảng
Nhân duyên khổ không
Ta nên suy tư
Tất cả vô thường
Lời người dạy rõ
Suy nghĩ sâu xa
Ta không sợ khổ
Thấy pháp bất trụ
Y lời vua dạy
Người lấy mắt ta
Ta đã nhiếp thọ
Vô thường chân thật.
Câu-na-la nói với người ấy:
-Người lấy một mắt trước, đặt vào tay ta. Ta muốn xem nó. Khi người quỷ muốn lấy vật, mọi người trông thấy liền kêu khóc:
Mắt thanh tịnh không nhơ Như trăng ở hư không Ngươi nay lấy mắt vua Như nhổ ao hoa sen. Mọi người kêu gào than khóc. Quỷ móc ra một mắt, đặt vào tay Câu-na-la, Câu-na-la hướng về mắt nói kệ:
Ngươi vốn xưa nay
Thấy hình thấy sắc
Mà đến hôm nay
Cớ sao không thấy
Bởi khiến cho người
Sinh lòng yêu mến
Nay thấy không thật
Chỉ là hư dối
Ví như bọt nước
Vật này không thật
Không có tự tại
Hiểu được nghĩa này
Thì xa lìa khổ.
Câu-na-la suy tư về các pháp vô thường liền đắc quả Tu-đà-hoàn, rồi nói với người quỷ:
-Nên móc tiếp con kia.
Mắt lấy ra lại đặt vào tay Câu-na-la. Mất đi nhục nhãn lại được tuệ nhãn lại nói kệ rằng:
Ta hôm nay đây
Xả bỏ nhục nhãn
Tuệ nhãn khó đắc
Ta nay đã được
Vua đã từ ta
Chẳng còn vương tử
Ta đắc pháp đạo
Là đệ tử Phật
Sống đời tự tại
Cung điện khổ đọa
Lại chứng tự tại
Cung điện pháp vương.
Sau đó Câu-na-la biết đại phu nhân viết thư này, liền nói kệ:
Nguyện cho phu nhân
Hưởng phước dục lạc
Thọ mạng lâu dài
Không có tận diệt
Do phương tiện này
Ta được tự tại.
Vợ của Câu-na-la là Thiên-giá-na-ma-la, nghe Câu-na-la mất mắt máu chảy dầm dề bà đau đớn té xỉu xuống đất, mọi người lấy nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh khóc lóc nói kệ:
Mắt sáng tỏ đáng yêu
Xưa thấy đều hoan hỷ
Nay đã bị lìa thân
Lòng nào không đau đớn.
Câu-na-la nói:
-Nàng chớ khóc than. Ta tự gây nghiệp, thì tự thọ báo. Lại nói kệ:
Tất cả thế gian
Vì nghiệp buộc thân
Chúng khổ vì thân
Người nên biết rõ
Muôn sự hòa hợp
Tất cả chia lìa
Nếu đã biết rõ
Chớ nên khóc lóc.
Câu-na-la cùng với vợ từ nước Đức-xoa-thi-la trở về vua A-dục. Hai người chưa từng chịu cực khổ, cho nên thân thể yếu đuối khó lòng kham nổi vất vả. Câu-na-la giỏi việc đàn hát, nên lấy nghiệp này khất thực độ thân để trở về bổn quốc, lần hồi đi đến chỗ cung vua. Lúc này người giữ cửa không nhận ra nên không cho vào. Hai người bèn vào nghỉ trong chuồng ngựa. Nửa đêm gảy đàn lên mà hát.
Hát rằng:
Mắt ta đã mất
Tứ đế đã thông
Lại nói kệ:
Người đạt được trí tuệ
Thấy mười hai nhập xứ
Lấy trí tuệ làm đèn
Được giải thoát sinh tử
Khổ ở trong ba cõi
Đều do nơi tự tâm
Vượt qua được Tam giới
Nay đã được tỏ thông
Nếu muốn cầu thắng lạc
Tư duy mười hai nhập.
Lúc này vua A-dục nghe lời hát này thì tâm rất vui, nói kệ rằng:
Lời kệ nói này
Cùng tiếng đàn ca
Giống như con ta
Tiếng Câu-na-la
Nếu đã đến đây
Sao không gặp ta.
Vua bảo người hầu:
- Ta nghe âm thanh này giống như của Câu-nA-la, nhưng âm thanh hòa dịu kia lại có vẻ ai oán. Nghe lời này làm tâm ta loạn động. Như voi mất con lại được nghe tiếng, tâm rất bồi hồi bất an. Người đến đó xem có phải là Câu-na-la không? Nếu phải thì đưa đến đây.
Người kia liền đi đến chuồng ngựa. Thấy một người bị mù mắt, thân hình tiều tụy thì không nhận ra, trở về thưa vua.
- Đó là một người mù, đi cùng với vợ chứ không phải Câu-na-la. Vua nghe lời này thì buồn bã, nói kệ:
Như điềm mộng ngày trước
Câu-na-la mất mắt
Nay kẻ bị mù này
Có thể là vương tử
Ngươi nên trở lại xem
Đem người ấy về đây
Ta luôn nghĩ đến con
Lòng thật không an ổn.
Người kia đến chỗ Câu-na-la hỏi:
- Ông là ai? Tên họ là gì?
Câu-na-la nói kệ:
Cha tên A-thâu-kha
Dòng họ lớn Khổng tước
Tất cả khắp đại địa
Người đều cùng thống lãnh
Ta chính là vương tử
Tên gọi Câu-na-la
Là dòng họ pháp vương
Nay là pháp vương tử.
Người kia đem vợ chồng Câu-na-la vào cung. Vua lúc này thấy Câu-na-la phong sương dãi dầu, ăn mặc lam lũ thô sơ hình dung tiều tụy nên không nhận ra. Trong lòng vua nghi hoặc liền nói:
-Người là Câu-na-la phải không?
Khi nghe lời đáp vua liền té xỉu xuống đất.
Những người đứng bên liền nói kệ:
Vua thấy Câu-na-la
Đôi mắt đã không còn
Lòng khổ não vô cùng
Từ trên rơi xuống đất.
Người hầu cận lấy nước rửa mặt vua tỉnh lại. Vua ôm lấy Câu-na-la đặt trên đầu gối mình. Lại ôm đầu con khóc than, nhớ lại dung mạo ngày nào nên nói kệ:
Mắt con xinh đẹp
Nay lại thế này
Cớ sao lại mất
Hãy nói ta nghe
Mắt con không còn
Như trời không trăng
Hình dung tiều tụy
Việc này do ai
Ta nhớ hình dung
Tợ như tiên nhân
Ai nỡ lòng nào
Hoại đôi mắt kia
Con ở thế gian
Ai là oán thù
Lòng ta não hận
Cũng do đây ra
Thân con diệu sắc
Ai nỡ hãm hại
Tâm người ác độc
Thiêu đốt lòng ta
Ví như mây đá
Làm gãy cỏ cây
Điện chớp não loạn
Phá nát lòng ta
Nhân duyên thế nào
Con mau nói ra.
Câu-na-la dùng kệ đáp:
Vua không nghe Phật dạy
Nghiệp báo không thể thoát
Dù là Bích-chi-phật
Cũng không thể miễn tránh
Tất cả hàng phàm phu
Đều do nghiệp tạo ra
Nghiệp duyên của thiện ác
Thời đến thì nên thọ
Tất cả loài chúng sinh
Tự làm tự thọ báo
Con tự biết nhân duyên
Không thể thoát mất mát
Khổ này con tự làm
Chớ không do ai làm
Như đôi mắt này đây
Cũng đâu do ai làm
Tất cả khổ chúng sinh
Cũng lại đều như thế
Tất cả nghiệp tạo ra
Vua nên hiểu điều này.
Vua A-dục lòng vẫn ảo não không dứt nói:
Con nói ra người này
Lòng ta mới hết buồn
Con không chịu nói ra
Tâm ta càng bất an.
Thái tử liền nói đại phu nhân làm. Vua cho gọi Vi-diệu Lạc-khởi-đa đến nói:
Người nay làm việc ác
Làm sao tránh tai họa
Ngươi đã không giữ pháp
Phạm trọng tội với ta
Nay đã làm điều ác
Bỏ ngôi vị phu nhân
Còn như người làm thiện
Làm các điều pháp lợi.
Tâm vua giận dữ như lửa thiêu đốt khi nhìn thấy Vi-sa Lạc-khởi-đa, liền nói kệ:
Ta từ hôm nay
Muốn móc mắt ngươi
Muốn đem dao búa
Để chém thân ngươi
Dùng cưa xẻ thân
Dùng dao cắt lưỡi
Dùng kiếm cắt cổ
Dùng lửa thiêu thân
Cho uống độc dược
Để trừ mạng sống.
Vua nói xong, muốn trị tội Vi-sa Lạc-khởi-đa. Câu-na-la nghe thì sinh lòng thương xót, lại nói kệ:
Vi-sa Lạc-khởi-đa
Dù làm muôn điều ác
Đại vương ngày hôm nay
Cũng chớ nên giết người
Tất cả nguyện đại lực
Đều không qua nhẫn nhục
Lời Thế Tôn đã nói
Đều là lời tối thượng.
Vua không nghe lời con, bắt Vi-sa Khởi-đa giam vào nhà lửa rồi thiêu đốt. Lại ra lệnh tàn sát dân Đức-xoa-thi-la.
Hàng Tỳ-kheo thấy việc này thì có lòng nghi mới hỏi Đại đức Ưu-ba-cấp-đa:
- Câu-na-la đã gây ra túc nghiệp gì, mà nay phải thọ báo này.
Đại đức đáp:
- Các ông lắng nghe. Vào đời quá khứ xa xưa ở nước Ba-la-nại có một thợ săn, ở trên núi Tuyết giết hại nhiều loài thú. Có một lần đến núi Tuyết gặp lúc mưa bão sấm chớp, có năm trăm con nai vì sợ nên vào trong hang núp. Người thợ săn thấy bầy nai, bèn vây bắt tất cả, rồi nghĩ:
- Nếu giết hết thì thịt sẽ ương thúi. Vậy ta nên móc mắt để chúng không chết mà cũng không bỏ đi. Sau mới dần dần giết.
Người thợ săn đó chính là Câu-na-la bây giờ. Vì móc mắt nay nên đọa trong địa ngục trải qua vô số kiếp. Ra khỏi nạn địa ngục, thì sinh vào cõi người, năm trăm đời móc mắt, nay là thân cuối cùng thọ khổ báo này.
Chư Tỳ-kheo lại hỏi:
- Vì nhân duyên gì được sinh vào nhà tôn quý, có đôi mắt đoan nghiêm, lại chứng quả A-la-hán.
Đáp:
- Các ông nghe đây. Đời quá khứ xa xưa khi con người thọ đến bốn vạn tuổi. Có Đức Phật ra đời tên là Già-la-cưu-thôn-đại. Thuyết pháp độ chúng sinh xong liền nhập vô dư Niết-bàn. Lúc ấy có vua tên Thâu Pha, vì Đức Phật mà xây tháp cúng dường. Khi vua mất, người em không tin Phật, đem gỡ hết trân châu ngọc báu nơi tháp, duy chỉ chừa lại đất đá cây cối. Nhân dân trong nước thấy tháp bị phá hủy thì đau buồn ảo não. Có vị trưởng giả hỏi mọi người vì sao lại như thế. Có người đáp:
- Tháp của Đức Phật vốn làm bằng tứ báu, nay bị lấy hết khiến cho hư hoại, cho nên chúng tôi buồn thương rơi lệ.
Trưởng giả liền đem bốn báu trang nghiêm tháp lại còn nguy nga hơn cả lúc đầu. Lại xây tường vàng đặt ở trong tháp. Xây xong lại phát nguyện:
- Phật Già-la-thôn-đại là thầy của thế gian. Nguyện tôi đời sau cũng như hôm nay.
Chư Tỳ-kheo nên biết, Trưởng giả đó chính là Câu-na-la bây giờ. Vì sửa sang chùa tháp của Đức Phật, nay được sinh vào dòng họ cao quý, lại được thân đoan nghiêm đệ nhất. Lại phát nguyện gặp được thiện sư, nay gặp Đức Phật Thích-ca và thấy được Tứ đế.
Kinh A-dục vương, Quyển 4 (Hết)
Lúc bấy này vua A-dục đã có lòng tin thâm sâu bèn hỏi chư Tỳ-kheo:
- Ở trong Phật pháp ai là bậc đại thí chủ? Chư Tỳ-kheo đáp:
- Trưởng giả Cấp cô độc là bậc đại thí chủ. Vua lại hỏi:
- Đã cúng dường khoảng bao nhiêu? Tỳ-kheo đáp:
- Cả trăm ngàn lượng vàng. Vua nghe thì suy nghĩ:
- Trưởng giả Cấp cô độc dùng trăm ngàn lượng vàng. Nay ta cũng dùng như thế để cúng dường bố thí.
Vua đến các nơi Phật đản sinh, chuyển pháp luân nhập Niết-bàn và chư La-hán nhập Niết-bàn, mỗi nơi đều cúng dường mười vạn lượng vàng.
Bốn bộ đại hội cũng đã làm xong. Lại đem ba mươi vạn cúng dường chúng Tăng, một phần cho A-lahán, hai phần cho các học nhân và hàng phàm phu tinh tấn. Mỗi ngày đều có cúng dường thực phẩm. Vua chỉ trừ lại các loại trân bảo, còn tất cả cung nhân đại địa, đại thần và Cưu-na-la, cùng bản thân đều cúng dường cho chúng Tăng.
Lại đem bốn mươi vạn lượng để cúng dường chúng Tăng, dùng số vàng này để chuộc lại thân mình, Thái tử, Đại thần, cung nhân…. Sau lại đem chín mươi sáu ngàn vạn lượng vàng để cúng dường cho chúng Tăng. Lúc này vua A-dục bị bệnh nặng, trong lòng rất là ưu não. Quan đại thần Thành Hộ, ngày trước tùy hỷ cúng cát cho Đức Phật. Nghe vua bệnh, liền đến thăm lễ lạy rồi nói kệ:
Xưa mặt như hoa sen
Trần cấu không làm dơ
Đại lực các oan gia
Đều không thể thấy vua
Như mặt trời cháy sáng
Người đâu thể nhìn thấy
Vì sao mà hôm nay
Ưu bi mà rơi lệ.
Vua nói kệ đáp:
Ta nay sinh lo buồn
Không tài vật không mạng
Vì xa lìa Thánh chúng
Cho nên mới lo buồn
Đệ tử của Thế Tôn
Thành tựu các công đức
Đem các thứ ẩm thực
Ngày ngày đến cúng dường
Thường tư duy việc này
Cho nên ta rơi lệ.
Lại nữa Thành Hộ, ngày trước ta muốn đem trăm ngàn lượng vàng để cúng dường Tam bảo, mà ý chưa tròn. Ta nay muốn đem, muốn đem bốn mươi ngàn vạn lượng vàng cúng dường cho đủ bổn nguyện. Nói rồi vua muốn đem đủ số vàng đến cúng dường chùa Kê đầu. Thì lúc này con của Câuna-la là Ba Địa làm thái tử.
Có một đại thần nói với thái tử rằng:
- Vua A-dục chẳng còn bao lâu nữa sẽ qua đời, mà nay muốn đem hết vàng bạc đến chùa Kê đầu. Làm vua ắt cần phải có tài vật của cải, thái tử nên giữ lại chớ cho đem đi, duy chỉ đem đồ kim khí cho vua đựng thức ăn thôi.
Khi vua ăn xong, thì sai người đem những đồ kim khí ấy đưa đến chùa Kê đầu. Thái tử lại không đưa kim khí vào mà đưa đồ ăn bằng bạc. Vua ăn rồi cũng bảo đưa đến chùa. Rồi đưa đồ ăn bằng thiếc vua cũng đưa đến chùa. Sau cùng đưa đồ đựng thức ăn bằng ngói sành. Lúc này vua không còn gì để cúng dường, duy chỉ có nửa trái Am-la trong tay, trong lòng vua rất là ảo não, cho triệu các Đại thần đến nói rằng:
- Ai làm chủ cả đại địa này.
Các Đại thần đều đứng dậy chắp tay lễ lạy:
- Duy chỉ có vua làm chủ, chứ không có ai khác.
Vua liền rơi lệ như mưa, mà nói kệ:
Nay ta A-dục vương
Không còn lực tự tại
Chỉ còn nửa trái này
Ta có quyền tự tại
Sao dùng làm phú quý
Như nước sông Hằng hà
Trước thống lãnh cả nước
Hào phú vào bậc nhất
Nay bỗng nhiên nghèo cùng
Không có chút tự tại
Tất cả sự hội họp
Đều phải có phân ly
Chánh pháp Như Lai nói
Không có thể biết được
Ta trước ra sắc lệnh
Mọi việc không chướng ngại
Dụ như tâm ý thức
Do duyên được tự tại
Ta nay có ra lệnh
Như nước bị đá ngăn
Tất cả loài oán tặc
Ta trước đều hàng phục
Thống lãnh cả đại địa
Nhiếp tất cả khổ nghèo
Nay không còn chói sáng
Như mây che mặt trăng
Như cây A-thâu-kha
Lá hoa đều khô rụng
Ta là A-thâu-kha
Sự khổ nghèo cũng thế.
A-dục vương gọi người hầu cận tên là Bạt-Đa-la Mục-kha tới nói rằng:
- Ta không còn quyền lực tự tại. Ngươi là kẻ hầu cận cuối cùng của ta. Duy có việc này ta muốn nhờ ngươi. Còn nửa trái Am-la này ngươi đem đến cúng chùa Kê đầu và nói lại rằng:
- Vua A-dục lễ lạy dưới chân chúng Tăng. Ngày trước thống lãnh cả cõi Diêm-phù-đề, nay chỉ còn nửa trái Am-la này. Đây là vật cúng dường cuối cùng của ta. Xin chư Tăng thọ nhận, vật này tuy nhỏ, nhưng sự cúng dường chúng Tăng phước đức thật vô cùng, liền nói kệ rằng:
Ta xưa vốn làm vua
Nơi cung điện tự tại
Vô thường làm tự tướng
Không lâu sẽ diệt tận
Có thể trị bệnh này
Duy chỉ thánh phước điền
Nay ta không y dược
Nguyện nay được tế độ
Nửa trái Am-la này
Là vật cúng sau cùng
Cúng ít mà phước lớn
Vì thế nên nhiếp thọ.
Người hầu theo lời vua đem trái Am-la đến chùa Kê đầu, trước mặt Thượng tọa dâng cúng trái Am-la cho chúng Tăng. Lại chắp tay nói kệ:
Tất cả cõi thế gian
Vua lãnh không chướng ngại
Dụ như mặt trời soi
Chiếu khắp cả mọi nơi
Vì nghiệp tự khi huống
Công đức nay đã tận
Như mặt trời đã tắt
Không thể cùng chiếu soi
Nên cung kính đảnh lễ
Cúng nửa trái Am-la
Phước đức tỏ vô tận
Nay cúng thí sau cùng.
Thượng tọa tập họp chư đại chúng lại và nói:
-Các ông nay nên khởi tâm bố úy. Như lời Đức Phật dạy, thấy sự vô thường của người mà đáng sợ ai thấy việc này mà không sinh tâm xa lìa vì sao?
Dõng mãnh hay bố thí Khổng tước A-dục vương Thống lãnh cả đại địa Cõi Diêm-phù tự tại Ngày nay quả báo tận Duy chỉ có A-ma-lặc Đại địa cùng trân bảo Tất vì người hộ trì Nay đây A-dục vương Đem nửa trái Am-ma
Các người là phàm phu Lực phước đức sinh mạng Nên vì nói vô thường Khiến kia sinh nhàm chán.
Chúng Tăng nhận nửa trái Am-ma-lặc của vua A-dục, đem cắt nhỏ cho vào nồi canh để chúng Tăng dùng.
Vua A-dục khi đó nói với Thành Hộ:
- Nay thì ai làm vua?
Thành Hộ lễ dưới chân vua thưa:
- Duy chỉ có Đại vương chứ không ai khác.
Vua nhờ người đỡ dậy, nhìn khắp bốn phương, chắp tay hướng về chúng Tăng thưa:
- Ngoại trừ trân bảo ra thì khắp cả đại địa sông núi, tôi đem cúng dường chư Tăng, liền nói kệ:
Nước làm áo đại địa
Bảy báu trang nghiêm mặt
Đem tất cả chúng sinh
Và núi sông các chỗ
Ta nay đều xả bỏ
Đem cúng dường chúng Tăng
Khi chúng Tăng được quả
Là do tôi cúng thí
Phước đức cúng thí này
Không cầu làm Thiên đế
Cũng không thích Phạm thiên
Và chủ các đại địa
Duy chỉ đem phước này
Cầu được tâm tự tại
Được cùng pháp Thánh nhân
Chỗ người không thể được.
Vua A-dục dùng lá Đa-La viết bài kệ này rồi đóng dấu vào. Cầm thư chắp tay hướng về Tăng nói:
- Tôi đem cả đại địa này cúng thí cho chúng Tăng. Nói xong thì mạng chung.
Lúc này thì chư đại thần dùng lụa năm sắc trang nghiêm cúng dường thân vua. Cúng dường xong thì lấy nước tưới lên đỉnh đầu Thái tử để lên ngôi.
Thành Hộ nói với các đại thần:
- Tất cả đại địa vua A-dục đã đem cúng cho chúng Tăng. Chư Đại thần nói:
- Chúng ta nay phải làm sao? Thành Hộ đáp:
- Tiên vương trước đã có tâm nguyện, muốn đem trăm ngàn vạn lượng vàng cúng thí chúng Tăng. Đã cúng được chín mươi sáu ngàn vạn lượng vàng; muốn cúng cho đủ mà chư đại thần không cho, nên ý vua chưa được trọn vẹn, cho nên vua đem cả đại địa cúng cho chúng Tăng. Nay các quan nên đem bốn mươi ngàn vạn lượng vàng để chuộc lại.
Sau đó, lấy nước biển rưới lên đỉnh đầu thái tử Tam-bà-địa, rồi lên ngôi vị. Con của Tam-bà-địa là Tỳ-lê-kha Bát-để. Có con tên Tỳ-lê-sa Tư-na (Ngưu Tất); Ngưu Tất có con tên Phất-sa-bạt-ma (Hán dịch là Vĩ Khải) lại có con tên là Phất-sa-mậtđa-la (Hán dịch là Soa Hữu). Người này khi lên ngôi vị, tập họp các đại thần lại nói:
- Có cách gì khiến cho tên ta lưu mãi ở đời? Các quan đáp:
- Từ thời vua A-dục, vua đã khởi xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, làm cho Phật pháp không tiêu diệt. Danh của vua cũng lừng vang không dứt, vua nay cũng nên khởi tu tám vạn bốn ngàn tháp.
Vua đáp:
- Vua A-dục có đại thần lực không thể nghĩ bàn khó ai làm được.
Nay có phương cách nào khác để được lưu danh không?
Lúc đó có một người Bà-la-môn có chú nguyện đệ nhất, nhưng không tin Phật mới tâu với vua:
- Có hai loại được lưu danh ở đời. Một là làm ác, hai là làm thiện. A-dục vương đã xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp. Nay vua nếu hủy hoại hết thì cũng được nổi tiếng.
Vua nghe theo, liền đem bốn đại binh muốn hoại diệt Phật pháp, đi đến chùa Kê đầu. Đi đến chùa nghe tiếng sư tử rống, vua rất sợ hãi liền đem quân trở về. Vua ba lần đi đến chùa cũng đều như thế. Khi về nước tập họp chúng Tăng lại mà nói rằng:
- Ta nay muốn hoại Phật pháp, là chúng Tăng, hai là chùa tháp, tôn tượng, các ông nên chọn.
Chúng Tăng đều nói:
- Chúng tôi hộ trì tháp chùa, tôn tượng.
Nghe thế vua liền ra lệnh giết từ Thượng tọa cho đến chúng Tăng và ra lệnh cho khắp nước Sakha-la:
- Người trong nước nếu ai đem một đầu Tỳ-kheo, thì sẽ được thưởng tiền.
Ở nước kia có chùa tên là Pháp vương. Trong chùa đó có một vị La-hán. Có người muốn lấy đầu nên bạch với vua rằng:
- Ở đó có Tỳ-kheo, nay muốn lấy đầu để dâng cho vua.
Vua nghe nói tự mình muốn tới lấy đầu. Bấy giờ Tỳ-kheo nhập định tận diệt. Vì có định lực nên đao kiếm lửa đốt đều không làm tổn hại.
Đã không bị giết lại đi đến nước khác. Đến nước Câu-sắt-tha-ca. Nước này có một vị thần Dạxoa giữ gìn răng Phật. Dạ-xoa nghĩ Phật pháp nay đến hồi bị tiêu diệt, ta đã thọ giới không nên sát sinh. Ta có con gái, Dạ-xoa Lợi Lý muốn cầu thân. Vì kia thường tạo ác nghiệp cho nên ta không chịu.
Nay vì hộ trì Phật pháp cho nên phải ưng thuận.
Lại có đại lực Dạ-xoa thường theo hộ vệ vua Phất-sa-mật-đa-la. Người này dõng mạnh nên không ai hại được. Vị thần giữ răng Phật đem vị Dạ-xoa hộ vua đến trong Nam Hải. Thế là Dạ-xoa Lợi Lý đem núi Thái sơn đè vua và bốn bộ binh đều chết cả. Cho nên núi này có tên là Tu-ni-hỷđa. Vua Phất-sa-mật-đa-la bị giết. Từ đó dòng họ Khổng tước bị diệt.
Lúc bấy giờ, Đức Phật gần nhập Niết-bàn, giáo hóa cho Long vương Ba-la-la và Long vương Cùbà-la Chiên-đà-lợi xong. Đi đến nước Ma-thâu-la, bảo A-nan rằng:
-Sau khi ta nhập Niết-bàn. Ở nước này một trăm năm, có một thương chủ bán hương ở nước này tên là Cấp-đa, có con là Ưu-ba-cấp-đà không có tướng hảo như Đức Phật, làm Phật sự giáo hóa chúng sinh, nhiều người chứng quả La-hán. Ngay nơi hang đá này, bề dài mười tám tốn, rộng mười hai thốn. Vị này bảo đệ tử cầm cái thẻ bốn tấc ném vào hang đá này cho đầy cả tên các vị La-hán.
A-nan nên biết Ưu-ba-cấp-đa là đệ tử giáo hóa bậc nhất của ta.
- A-nan ông nay thấy khu rừng xanh từ xa không? A-nan đáp:
- Có thấy, thưa Thế Tôn. Phật bảo:
- Ở đó có núi Ưu-lâu-mạn-đà. Sau khi Đức Như Lai nhập diệt một trăm năm có Tỳ-kheo Da-xá-bàtư. Ở trong núi đó lập chùa và thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, Ưu-ba-cấp-đa độ cho xuất gia. Ở nước Ma-thâu-la có hai anh em của nhà trưởng lão tên Na-sĩ-bà-sĩ. Hai vị ở núi này làm đàn việt xây tháp chùa, cho nên gọi chùa này là Na-sĩ-bà-sĩ. A-nan nên biết! Chùa này là nơi tu thiền đệ nhất.
A-nan nghe vậy tỏ vẻ kinh sợ việc làm lợi ích cho chúng sinh của Ưu-ba-cấp-đa.
Phật bảo A-nan:
- Ông nay không nên kinh sợ việc làm này. Vào thời quá khứ Ưu-ba-cấp-đa đã sinh vào nhà ngoại đạo đã làm lợi ích cho người.
Lại vào đời quá khứ ở núi Ưu-lâu-mạn-trà, một bên núi có năm trăm vị Duyên giác một bên có năm trăm tiên nhân và một bên có năm trăm con di hầu. Trong đám di hầu có một con đầu đàn. Con di hầu chủ này mới đến chỗ Duyên giác, thấy các vị ấy mới sinh lòng hoan hỷ, hái hoa trái đem cúng dường. Lúc các vị Duyên giác ngồi kiết già, di hầu lần lượt đến đảnh lễ, làm lễ xong rồi. Đến ngồi phía sau chúng Tăng một cách nghiêm chỉnh, mỗi ngày đều như thế cả. Sau đó các vị Duyên giác đều nhập Niết-bàn, di hầu không biết hằng ngày vẫn đến cúng dường, lại không thấy các vị thọ thực, bèn đến lật y dở tay chân tuyệt không thấy cử động.
Di hầu nghĩ:
- Các vị Duyên giác này chắc là đã chết. Thế là khóc thương áo não.
Sau đó di hầu đi đến chỗ tiên nhân. Thấy năm trăm vị tiên nhân đều ngồi trên cỏ gai, thế là di hầu bắt chước tiên nhân ngồi trên cỏ gai. Lại bắt chước nằm trên tro đất. Lại bắt chước nướng thân trên lửa. Sau đó di hầu dùng nước làm cho tắt lửa, lấy tro đất đem dấu đi và nhổ cả cỏ gai ném hết. Các tiên nhân vịn vào cây để treo mình, di hầu lại kéo tay khiến cho đều bị té xuống đất.
Rồi di hầu dạy các vị tiên nhân về tứ oai nghi. Ở trước mặt các vị tiên, di hầu ngồi ngay ngắn tỉnh tọa thiền định. Và nói với tiên nhân:
- Các ông phải ngồi thiên như đây.
Bấy giờ năm trăm vị tiên nhân nghe theo mà cùng ngồi thiền. Các vị tiên không có thầy thuyết pháp, thường tư duy về ba mươi bảy phẩm Trợ đạo mà đắc quả Duyên giác. Khi đã đắc quả thì liền nghĩ:
- Ta được Thánh đạo, đều là do di hầu.
Thế là các vị đem trái cây hoa hương đến cúng dường cho Di hầu, nhẫn đến khi di hầu qua đời, thì các vị Duyên giác đem cây hương mà thiêu đốt.
Phật lại bảo A-nan:
- Di hầu lúc đó chính là Ưu-ba-cấp-đa, Ưu-bacúc-đa ở trong ác đạo, làm nhiều lợi ích cho chúng sinh. Sau khi ta nhập Niết-bàn một trăm năm, Ưuba-cấp-đa ở núi này làm lợi ích chúng sinh. Lúc này Thế Tôn lại nói với A-nan:
- Ông nên nắm lấy chéo y ta.
Đức Thế Tôn đem A-nan bay lên hư không, rồi đi đến nước Kế tân. Đức Phật nói với A-nan:
- Ông thấy xứ này có nhiều rừng núi không? Anan đáp:
- Đã thấy thưa Thế Tôn. Phật bảo A-nan:
- Ở nước này sau khi ta diệt độ một trăm năm, có một vị Tỳ-kheo tên Mạt-điền-địa, ở đất này lập ra nước Kế tân.
Rồi Đức Phật lần lượt đi đến thành Câu-thi-na. Giờ Niết-bàn đã đến. Bảo với Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp rằng:
- Ta nay muốn nhập Niết-bàn. Ông nên kiết tập lại kinh điển, khiến cho chánh pháp lưu lại được một ngàn năm để nhiếp hóa chúng sinh.
Ma-ha Ca-diếp bạch với Đức Phật rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy, con sẽ phụng hành.
Khi đó Đức Phật nghĩ đến trời Đế Thích. Thiên đế biết được tâm niệm của Đức Phật, liền đi đến chỗ Đức Phật. Lúc này Đức Thế Tôn bảo Đế Thích rằng:
- Kiều-thi-ca, ông nên hộ trì pháp tạng. Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Con sẽ vâng giữ.
Đức Thế Tôn lại nghĩ đến Tứ Thiên vương. Lúc bấy giờ Tứ Thiên vương biết ý nghĩ Đức Phật, liền bay đến. Đức Phật lại bảo Tứ Thiên vương:
- Sau khi ta Niết-bàn, ông nên hộ trì Phật pháp. Đến sau có ba vị quốc vương hủy hoại Phật giáo, ông nên hộ trì chớ để dứt mất.
Tứ Thiên vương bạch Đức Phật:
- Xin như lời Đức Thế Tôn dạy.
Đức Phật đem pháp tạng phó chúc cho ngài Cadiếp và Tứ Thiên vương cùng Đế Thích xong. Lại đi đến nước Ma-thâu-la, như thế lần lượt đi đến thành Câu-thi-la nơi Ta-la xong thọ. Rồi bảo A-nan rằng:
- Giờ Niết-bàn đã đến. Nơi cây Ta-la này nên đặt mặt ta xoay về hướng Bắc. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn. Lại nói kệ:
Biển sinh tử không đáy
Sóng dậy chỗ thâm sâu
Lão bệnh để làm bờ
Ta nay đã diệt độ
Muốn về nước vô ưu
Xả bỏ xác thân này
Khi sinh làm biển cả
Già bệnh lại xa lìa
Mâu ni làm ngưu vương
Đưa người vượt sinh tử
Như người nương vào bè
An ổn đến bờ kia.
Rồi Đức Phật lại nói:
- Sau khi Đức Phật Niết-bàn, xây tám tháp xálợi. Tháp thứ chín thứ mười đựng tro, rồi lại nói kệ:
Tám tháp cao như núi
Xá-lợi đều ở dưới
Tháp thứ chín đựng bình
Tháp mười đựng tro than.
Trời Đế Thích và Tứ Thiên vương, đều đem các loại hương hoa kỹ nhạc cúng dường xá-lợi. Nói rằng:
- Đức Thế Tôn giao phó pháp tạng cho chúng ta rồi nhập Niết-bàn. Nay chúng ta phải hết lòng gìn giữ. Đế Thích nói với Trì-lợi-sĩ A-la-sĩ rằng:
- Ông nên hộ trì Phật pháp ở hướng Đông. Lại bảo Tỳ-lưu-đa:
- Ông hộ trì Phật pháp ở hướng Nam. Lại bảo Tỳ-lưu-bác-xoa:
- Ông hộ trì Phật pháp ở hướng Tây. Lại bảo Cưu-la rằng:
- Ông hộ trì Phật pháp ở hướng Bắc. Đức Thế Tôn nói:
- Sau khi ta diệt độ có ba vua ác tặc. Đời sau cùng ở chỗ của các ông. Nếu có hoại Phật pháp thì ông nên hộ trì.
Lúc Đức Phật nhập Niết-bàn có vô số La-hán cũng nhập Niết-bàn. Bây giờ trong không trung có lời kệ:
Khổ thay đệ tử Phật
Tất cả đều Niết-bàn
Thế gian trong ngày nay
Đều trở nên trống vắng.
Vì vô minh che hết ngọn đèn Chánh pháp, các Đại đức La-hán đều cùng vào Niết-bàn. Không còn ai giữ gìn tam tạng pháp bảo. Chánh pháp khó mà cửu trụ lâu dài. Lúc này trời Đế Thích cùng Tứ Thiên vương cùng chư Thiên cùng đi đến chỗ Đại đức Ca-diếp. Đến rồi thì lễ dưới chân Đại đức Cadiếp và nói:
- Đức Thế Tôn phó chúc pháp tạng cho ông và cho ta. Đại đức, nay hãy nên cùng ta hộ trì Phật pháp, giáo pháp Phật cần phải kết tập lại chớ để phân tán. Ngày nay pháp Phật được hàng chư Thiên hộ trì được trụ thế một ngàn năm, để cho chúng sinh được nhiếp thọ.
Đến khi Ca-diếp la lên một tiếng lớn, dùng lực thần thông xuất ra âm thanh vang động, bảo cho tất cả chúng sinh cõi Diêm-phù-đề biết. Có năm trăm vị A-la-hán đến Câu-thi-na-già. Tôn giả Ca-diếp nói với A-nậu-lâu-đà:
- Trưởng lão có biết vị La-hán nào chưa đến không? A-nậu-lâu-đà đáp:
- Có Già-phạm-bà-đề nay ở tại cung điện Thilợi-sa trên thiên cung, vị này chưa đến.
Ca-diếp hỏi chư Tỳ-kheo:
- Trong chúng này ai là nhỏ nhất? Phú Na Lahán đáp:
- Tôi nhỏ nhất.
Ma-ha Ca-diếp bảo:
- Trưởng lão chúng Tăng nay có việc giao phó ông có nhận không?
Phú-na đáp:
- Có thể được. Ca-diếp lại nói:
- Thiện nam tử! Ông nay có thể nhận lời chúng Tăng giao phó, lành thay! Vậy ông nên đến cõi trời Thi-lợi-sa thỉnh Già-phạm-bà-đề mà nói rằng:
- Ngài Ca-diếp và chúng Tăng đang đợi ngài.
Nay có Phật sự, xin ngài mau đến, rồi nói kệ:
Thiện nam tử nên đến
Nơi rừng Thi-lợi-sa
Thỉnh Già-phạm-bà-đề
Đến ngay chỗ chúng Tăng.
Phú-na đến chỗ Già-phạm-bà-đề nói:
- Ngài Ca-diếp và chúng Tăng ở trong cõi Diêm-phù-đề đang hội họp, nay có tăng sự, ngài nên đến mau.
Già-phạm-bà-đề nói:
- Thiện nam tử! Ông phải nói là Đức Phật và chúng Tăng, chớ nói Tôn giả Ca-diếp và Tăng chúng. Vì sao? Vì Đức Phật đã Niết-bàn. Hàng ngoại đạo sẽ khinh Phật pháp. Kế lại nếu có hàng Tỳ-kheo ác pháp muốn phá Tăng sự.
Ngoại đạo sẽ nói:
- Đức Phật đã Niết-bàn, giáo pháp cũng sẽ diệt. Các Tỳ-kheo đều không biết, khi xưa Đức Phật tại thế, dùng trí tuệ quang minh khiến cho thế gian đều được tỏa sáng. Nay Đức Phật đã diệt độ, thế gian đều tối tăm, ta làm sao có thể đến nơi đó. Lại nói kệ:
Tất cả thế gian không
Không còn chỗ vui vẻ
Không còn Phật thuyết pháp
Cõi Diêm-phù trống vắng
Ta nay muốn tại đây
Mà nhập vào Niết-bàn.
Ông nay nên trở về nói lại lời ta. Già-phạm-bàđề lễ Đại đức Ca-diếp và chư chúng Tăng, nói lại lời kệ:
Tất cả thế gian không
Không còn chỗ vui vẻ
Không còn Phật thuyết pháp
Cõi Diêm Phù trống vắng
Ta nay muốn ở đây
Mà nhập vào Niết-bàn.
Già-phạm-bà-đề nói xong liền nhập Niết-bàn, Phú-na trở về cõi Diêm-phù-đề nói kệ:
Đại đức Thánh chúng
Già phạm-bà-đề
Lễ kính nói rằng
Phật đã Niết bàn
Ta trong ngày nay
Cũng nhập Niết-bàn
Như voi mẹ chết
Con cũng chết theo.
Thế là Tôn giả Ca-diếp liền ra giới chế. Từ nay về sau chúng Tăng phải hòa hợp kết tập pháp tạng, việc chưa xong thì không được nhập Niết-bàn.
Liền nói kệ:
Từ hôm nay trở đi
Tất cả Tăng hòa hợp
Chưa kết tập pháp tạng
Đều không được Niết-bàn.
Khi năm trăm vị La-hán đã hòa hợp xong.
Tôn giả Ca-diếp bạch với chúng Tăng.
-Trưởng lão A-nan thường theo hầu Đức Như Lai nay tuổi đã cao.
Tất cả đại chúng phải nên cung kính, liền nói kệ:
Trưởng lão A-nan đây
Thọ trì lời nói Phật
Lợi căn có trí tuệ
Thường theo hầu Như lai
Tâm tịnh giải Phật pháp
Cần phải nên cung kính
Lợi ích cho chúng Tăng
Công lực cần tán thán.
Tôn giả Ca-diếp nói với Tỳ-kheo.
- Chúng ta ở đây kiết tập kinh điển, đại chúng vân tập tất sẽ rơi lệ làm phương hại đến ta. Chúng ta muốn đến chỗ Đức Phật đã đắc đạo là nước Magià-đà để kết tập pháp tạng.
Ngài Ca-diếp và năm trăm vị La-hán đến thành Vương xá. Trưởng lão Tỳ-lê-thời-phất theo hầu cận A-nan. Đi đến nước Tỳ-lê-thời, bốn chúng ở nước kia, nghe Đức Phật Niết-bàn tâm rất áo não.
Lúc này ngài A-nan tư duy:
- Tứ chúng buồn bã làm sao thuyết pháp.
Trưởng lão Tỳ-lê-thời-phất suy nghĩ ta nên quán xét tâm Hòa thượng là bậc thánh nhân hay là phàm phu. Biết vẫn là tâm phàm phu, chưa chán xa dục giới, liền chứng quả A-la-hán, xong rồi nói kệ rằng:
Ngài nên đến gốc cây
Tâm nghĩ đến Niết-bàn
Cù-đàm khi tọa thiền
Không lâu chứng Niết-bàn.
Trưởng lão A-nan nghe lời khuyến hóa của Tỳlợi-thời-phất, đêm đó đi kinh hành xong tọa thiền, tẩy sạch tâm ngũ cái. Như thế từ canh một cho đến canh năm, đến sáng sớm ra ngoài rửa chân, rửa xong trở vào chùa muốn đặt lưng nằm nghỉ, đầu chưa đụng vào gối, hốt nhiên phiền não tiêu tan liền chứng quả A-la-hán.
Trưởng lão liền đi đến thành Vương xá, năm trăm vị La-hán và ngài Ca-diếp cũng đến đây. Vua A-xà-thế con của bà Vi-đề-hy nghe chư vị La-hán và ngài Ca-diếp đến, liền cho sửa sang đường xá cúng dường đầy đủ để nghinh đón đại Ca-diếp. Vua A-xà-thế vì tâm thành thục, ngày trước Đức Phật đến, liền từ trên cao rớt xuống. Đức Phật dùng thần lực đỡ lấy. Ngày nay từ trên voi thấy Tôn giả Ca-diếp cũng nhảy xuống, ngài Ca-diếp cũng dùng thần lực đỡ vua.
Sau đó Tôn giả nói với vua:
- Đức Như Lai dùng thần lực không mượn tư duy. Hàng Thanh văn dùng thần lực cần phải có ý tưởng, nếu không tác ý thì ông nhảy xuống mạng khó bảo toàn. Từ nay về sau đừng nên như vậy nữa.
Vua đáp:
- Xin vâng lời Tôn giả.
Vua liền làm lễ dưới chân Tôn giả rồi đứng lên chắp tay thưa:
- Đại đức! Đức Thế Tôn Niết-bàn tôi không được thấy.
Nếu Đại đức Niết-bàn nên cho tôi biết.
Tôn giả bằng lòng lại nói với vua:
- Đại vương! Chúng tôi muốn ở thành này kiết tập kinh pháp.
Vua nói:
- Từ nay cho đến khi tôi mạng chung, từ thực phẩm, y phục, y dược, ngọa cụ tôi đều cúng dường đầy đủ cho chúng Tăng. Xin chư Tăng đến trong rừng trúc.
Ca-diếp suy nghĩ:
- Chùa này rộng lớn, chư Tỳ-kheo sẽ làm phương hại não loạn việc kết tập.
Rồi Tôn giả nói:
- Ở chùa này có thể làm mà cũng có thể không làm được. Có một hang đá tên là Tất-ba-la-diên, chúng tôi sẽ ở chỗ đó kết tập pháp tạng.
Rồi Ca-diếp cùng năm trăm vị La-hán đi đến hang đá Tất-ba-la-diên, sửa soạn mọi chỗ rồi nói:
- Chư Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đời vị lai, thường mất chánh tâm, chúng ta trước nên kết tập Ưu-đàna-già-đà. Rồi sau mới kết tập tất cả pháp.
Năm trăm vị La-hán lần lượt ngồi vào ni sư đàn, chúng Tăng hỏi rằng:
- Tam tạng giáo điển trước nên kết tập tạng nào? Đại đức Ca-diếp nói:
- Trước nên kiết tập Tu-đa-la. Chúng Tăng lại hỏi:
- Ai sẽ tụng Tu-đa-la. Ca-diếp đáp:
- Trưởng lão A-nan đa văn đệ nhất. Tất cả Tuđa-la ngài A-nan đều thọ trì chúng ta nên thỉnh Anan tụng lại Tu-đa-la.
Ca-diếp liền hỏi A-nan:
- Ông nên tụng lại Tu-đa-la, để cho đại chúng cùng kết tập, rồi nói kệ:
Này Trưởng lão A-nan
Nên biết tạng pháp này
Là Như Lai đã thuyết
Sức ông có thể trì
Ông nắm giữ tạng pháp
Như trâu mang vác nặng
Như Lai trì mười lực
Tối thắng đại dũng mãnh
Nếu khiến tam hữu diệt
Phật pháp như đề hồ
Tất cả trì pháp tạng
Đều sẽ chứng Niết-bàn
Duy chỉ một mình ông
Thọ trì tạng Phật pháp.
Trưởng lão A-nan đáp:
- Như thế!
Liền từ tòa đứng dậy, đến trước Thượng tọa, nhìn khắp tất cả chúng, mà nói kệ:
Chúng Tăng đại kết này
Cách Thế Tôn một người
Tâm tịnh không trang nghiêm
Như trời không có trăng.
Trưởng lão A-nan từ trên tòa lần lần làm lễ hết cả.
Lễ xong lên ngồi trên tòa cao suy nghĩ:
- Có kinh Tu-đa-la tự thân ta nghe Đức Phật nói. Cũng có kinh ta không được nghe từ Đức Phật. Ta nay cũng đều nói câu "Ta nghe như vầy" (như thị ngã văn).
Ca-diếp nói với A-nan:
- Trưởng lão nói lại Tu-đa-la ở chỗ nào? Lại nói kệ:
Đại trí đều khuyến thỉnh
Phật tử ông nên nói
Phật lúc đầu nói kinh
Nói ở tại chỗ nào?
A-nan đáp:
- Lúc đầu Đức Phật vì Tỳ-kheo nói kinh. Ở tại nước Ba-la-nại Đức Phật bảo chư Tỳ-kheo đây là khổ Thánh đế. Cho nên rộng nói:
Lúc này Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như suy nghĩ:
- Ta ở trong chúng nghe lại lời của Đức Thế Tôn thuyết pháp từ thuở ban đầu cho chúng ta như thế. Từ đó đến nay Phật pháp không đoạn, là do pháp Tứ đế ban đầu này.
Rồi Tôn giả trong lòng buồn bã, A-nan thấy
Tôn giả buồn cũng sinh lòng buồn não liền bước xuống tòa ngồi xuống đất liền nói kệ:
Hiển hóa cây ba tiêu
Lại dùng lực trí tuệ
Hay biết các thế gian
Cho nên lìa sinh tử
Mà nhập vào Niết-bàn
Như gió lớn cây ngã.
Lúc này năm trăm vị La-hán đều từ trên sàn xuống đất mà ngồi.
Ca-diếp nói với chư Tỳ-kheo:
- A-nan nói kinh.
Năm trăm A-la-hán nhập vào Tam-ma-địa.
Từ Tam-ma-địa đứng dậy nói.
- Như thế Tu-đa-la! Như thế Tu-đa-la.
Sau đó Tôn giả A-nan rộng nói hết bốn bộ Tuđa-la. Kết tập xong rồi chúng Tăng lại nói:
- Chúng ta nay kết tập tạng Tỳ-ni vậy nên thỉnh ai.
Đại đức Ca-diếp đáp:
- Trưởng lão Ưu-ba-ly là người trì luật đệ nhất, ta nên thỉnh ngài kết tỳ ni.
Thế là Ca-diếp nói với Ưu-ba-ly.
- Trưởng lão ông nên thuyết Tỳ-ni, chúng tôi muốn kết tập. Đáp:
- Xin y giáo. Lại hỏi:
- Phật thuyết Ba-la-di ở chỗ nào? Đáp:
- Ở nước Tỳ thời. Hỏi:
- Vì-ai mà nói? Đáp:
- Vì Tu-đề-na Lam-đà-tử.
Như vậy Tôn giả rộng nói hết tạng Tỳ-ni. Cho đến đệ nhị pháp tọa cũng xong. Ma-ha Ca-diếp lại suy nghĩ ta phải tự nói trí mẫu.
Rồi Tôn giả hỏi chư Tỳ-kheo:
- Làm sao nói trí mẫu.
Trả lời:
- Là tứ Niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như-ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác, bát chánh đạo, tứ biện vô tranh trí, nguyện trí thảy đều kiết tập.
Pháp thân thuyết các pháp tịch tịnh nhẫn đến Đại đức Ca-diếp đã kết tập xong pháp tạng liền nói kệ:
Đã kết pháp tạng xong
Vì lợi ích thế gian
Mười lực Phật nói ra
Các việc không thể lường
Thế gian vô minh tối
Đèn pháp sẽ diệt trừ.
Lúc này Trưởng lão A-nan suy nghĩ:
- Lúc Đức Thế Tôn Niết-bàn có nói nếu phạm lỗi nhỏ thì có thể trừ diệt không phạm giới. Ta nay nên bạch chúng Tăng, liền đến trước thượng tọa chắp tay thưa:
- Tôi có nghe Đức Phật dạy, từ đây nếu có phạm tiểu giới, thì được xả không có định tội. Nếu chúng Tăng đồng ý, thì nên cùng nhau bỏ. Đã không có tội vi tế, thì chúng Tăng sẽ được an lạc.
Ca-diếp hỏi A-nan:
- Ông có hỏi Đức Thế Tôn, là những giới nào nên bỏ và những giới vi tế nào không nên bỏ. Ở trong ngũ thiên là điều thứ tư hay thứ năm?
A-nan đáp:
- Tôi thật không có hỏi. Vì sao? Vì lúc ở bên Đức Phật chư đại Tỳ-kheo đều không có hỏi. Tôi là người tiểu tâm không có xấu hổ cho nên không hỏi. Lại vì lúc Đức Phật gần Niết-bàn, tôi đang áo não cho nên không hỏi.
Tôn giả nói:
- Ông phạm tội Đột-kiết-la, vì Đức Như Lai gần Niết-bàn có nhờ ông lấy nước, mà ông đem nước đục lên cho Đức Phật.
A-nan đáp:
- Vì tiểu tâm không biết hổ thẹn. Vì lúc đó ở sông Kha-khuất-đa có năm trăm đoàn xe vừa đi qua làm cho nước đục. Xe qua chưa lâu tôi mới lấy nước, cho nên còn đục.
Ca-diếp lại hỏi:
- Như Lai đang khát nước, vì sao ông không lấy bát hướng lên trời, chư Thiên sẽ đưa nước xuống. Lại lấy nước đục dâng Đức Phật, cho nên ông nay phạm tội Đột-kiết-la.
Kế đến Tôn giả lại nói:
- Thế Tôn có y ca-sa mới, sắc vàng như kim, ông cớ sao lấy chân đỡ y.
A-nan đáp:
- Chẳng phải tôi không biết hổ thẹn, vì lúc đó không có ai, cho nên tôi mới dùng chân đỡ.
Ca-diếp nói:
- Ông vì sao không đưa y lên trời, chư Thiên sẽ đến cầm. Vì vậy, ông hôm nay phạm tội Đột-kiết-la.
Lại nữa! Đức Phật có hỏi ông. Nếu có người tu tứ như ý túc, thì có thể thọ mạng một kiếp hoặc giảm một kiếp, khiến cho ông rõ việc đó. Mà Đức Như Lai thường thành tựu tứ như ý túc. Ông vì sao không nhân đó mà thỉnh Đức Như Lai trụ thế một kiếp hay giảm một kiếp.
A-nan đáp:
- Đại đức Ca-diếp, không phải là tôi không biết xấu hổ. Bấy giờ có Ma vương mê hoặc tâm tôi, vì vậy mà tôi không thể thỉnh Đức Như Lai trụ thế.
- Như vậy ông cũng đắc tội Đột-kiết-la. Lại nữa, ông vì sao lại cho người nữ thấy ẩn tướng của Đức Như Lai.
A-nan đáp:
- Đại đức! Tôi chẳng phải không có xấu hổ, cho người nữ thấy ẩn tướng của Đức Như Lai. Vì người nữ phần nhiều đều có tâm ái dục. Nếu thấy ẩn tướng của Đức Như Lai, sẽ nhàm chán thân nữ mà cầu thân nam tử, cho nên tôi cho thấy.
Ca-diếp nói:
- Ông cũng phạm tội Đột-kiết-la, ông nên sám hối. Tôn giả Ca-diếp lại nói với chư Tỳ-kheo:
- Chúng ta nay phải nói bảy pháp diệt tránh và các tội vi tế.
Các Tỳ-kheo hoặc nói các giới học chúng là nhỏ; hoặc nói bốn pháp là nhỏ; hoặc nói chín mươi việc là nhỏ; hoặc nói ba mươi việc là nhỏ; cho đến cho hai pháp bất định là nhỏ. Cũng có vị nói chỉ lưu lại bốn giới trọng và mười ba pháp Tăng tàng còn tất cả đều xả.
Bọn ngoại đạo nghe thế thì nói:
- Sa môn Cù-đàm thật là lộn xộn. Khi Phật còn thì hòa hợp; Phật đã diệt độ thì giáo pháp về sau cũng bị diệt. Sau khi Phật Niết-bàn, hàng đệ tử cứ tùy ý muốn thọ thì thọ muốn bỏ thì bỏ.
Đức Phật đã nói rằng:
- Nếu có Tỳ-kheo không nhất tâm thì nên nhất tâm thọ giới. Nếu đã thọ giới thì không được xả bỏ, y theo Đức Phật dạy mà đều phải thọ trì. Nếu Tỳ-kheo như lời Phật dạy mà thọ trì, thì thiện pháp sẽ tăng trưởng mà không có thối chuyển. Vì thế y theo lời Đức Phật dạy nên tất cả giới luật đều thọ trì. Kinh A-Dục Vương-Quyển 6 (Hết)
Như Lai giao phó pháp tạng cho ngài Ca-diếp rồi nhập Niết-bàn. Ngài Ca-diếp giao phó cho Anan rồi nhập Niết-bàn. Tôn giả A-nan giao phó Mạt-điền-địa rồi nhập Niết-bàn. Mạt-điền-địa giao phó cho Xá-na-bà-tư rồi nhập Niết-bàn. Xá-na-bàtư giao lại cho Ưu-ba-cấp-đa rồi nhập Niết-bàn. Ưu-ba-cấp-đa giao phó cho Hy-vi-kha. Ưu-ba-cấp-đa ở tại nước Ma-thâu-la giáo hóa chư đệ tử, có nhiều vị đắc quả A-la-hán. Mỗi vị đắc quả thì Tôn giả cho ném vào hang đá một thẻ tre bốn tấc. Hang đá này dài mười tám khuỷu tay, rộng hai mươi khuỷu tay. Rồi tôn tự lập lời thệ rằng:
- Chừng nào thẻ tre đầy hết thì mới nhập Niếtbàn.
Rồi đem giáo pháp phó chút lại cho đệ tử Hyvi-kha. Hy-vi-kha là đệ tử sau cùng trong số thẻ tre.
Ưu-ba-cấp-đa nói Hy-vi-kha rằng:
- Xưa Đức Phật đem giao pháp phó chúc cho ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp giao lại cho ngài Anan. A-nan giao cho ngài Mạt-điền-địa. Mạt-điềnđịa giao lại cho Hòa thượng. Nay ta đem giao lại cho ông.
Phó chúc xong rồi sau bảy ngày thì nhập Niếtbàn. Hàng nhân thiên ở khắp cõi Diêm-phù-đề cùng bảo nhau đến, chư Bồ-tát mười vạn người hòa hợp cùng đến cúng dường. Kẻ học nhân cùng Ưubà-tắc và Ưu-bà-di thì vô số. Nhẫn đến khi sắp nhập Niết-bàn thân bay lên hư không thể hiện bốn oai nghi. Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa. Hiển hóa mười tám thân hình. Khắp cả trời người đều buồn bã, nhưng sau đem cả thẻ tre đi hỏa táng. Bấy giờ, một ngàn vị La-hán cùng vào Niết-bàn, rồi Tôn giả Hy-vi-kha thọ lãnh pháp tạng.
Nhân duyên Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp Niếtbàn. Bấy giờ Thê-tỳ-lê Ca-diếp, đã tụng tập tam pháp tạng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, đem nguyện trí khiến cho chứng biết tam tạng. Thọ thân chứng được diệt tận Tam-muội. Được tứ biện tổng trì cùng năm trăm vị La-hán kết tập pháp tạng. Giáo pháp của Đức Phật lần lượt phó chúc cho chư thắng nhân. Đem lưu bố cho mọi người cùng đọc tụng chớ khiến cho thất lạc. Vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh, nên thường tự tư duy:
- Ta nay đã gần tới cảnh vô thường lão tử. Do tư duy này rồi nương theo lời Đức Phật dạy mà nổ lực tu trì, liền nói kệ:
Đã tụng Tu-đa-la
Đã mở ra đạo lộ
Pháp ngữ của Thế Tôn
Nơi nơi đều tuyên nói.
Lại nói kệ:
Vô tàm quý đã trừ
Đã nhiếp hết chướng duyên
Đã làm tự lợi ích
Ta Niết-bàn đã đến.
Bấy giờ ngài Ca-diếp đi đến chỗ Tôn giả Anan. Nói với Trưởng lão A-nan rằng:
- Thế Tôn phó chúc pháp tạng cho ta rồi nhập Niết-bàn. Ta nay cũng muốn nhập Niết-bàn và giao phó lại cho ông, ông nên thọ trì.
Lúc này ở thành Vương xá, có một thương chủ sinh một người con, khi sinh ra liền có y xá na trên người, do đó mà đặt tên là Xá-na-bà-tư. Xá-na-bàtư đi ra biển, sau trở về đến nghe pháp ở chỗ Đức Thế Tôn rồi cúng dường. A-nan ông nên giáo hóa người này khiến cho xuất gia. Ông cũng nên giáo phó pháp tạng cho người này.
Ngài Ca-diếp phó chúc xong rồi, lại suy nghĩ:
- Đức Thế Tôn ta vì lòng từ bi, việc khó làm nay đã làm, giáo hóa khắp nơi, đem vô biên công đức để tạo ra thân này. Xá-lợi của Đức Như Lai đã được phân bố khắp nơi, nay ta cũng nhập Niết-bàn. Ông nên biết rằng những gì ta làm đều không có phân biệt, rồi lại nói kệ:
Đức Thế Tôn ta
Đầy lòng từ bi
Xá-lợi của Ngài
Ta đã cúng dường
Bồ-đề Tam-muội
Từ đó sinh ra
Việc khó đã làm
Cúng dường rốt cùng.
Ngài Ca-diếp dùng thần lực đến lễ bái cúng dường khắp tám tháp xá-lợi của Đức Phật. Lại đi vào Long cung để cúng dường. Thí như Sư tử vương nhập vào trong ao hồ, không lo sợ chỗ sâu, tất cả đều bất động thanh tịnh vô cấu. Lại đến cúng dường tháp răng Đức Phật xong, ví như Long vương ra khỏi hư không, trong nháy mắt đã đến cung trời Đao lợi; Đế Thích và chư Thiên đều hoan hỷ cúng dường. Cúng dường xong lại muốn từ chỗ kia mà nhập Niết-bàn. Trời Đế Thích thấy việc này, thưa với Ca-diếp rằng:
- Bậc tu tịnh hạnh thường ở trong hanh núi, vì cớ nào lại có ý này, mà lại đến đây. Chỗ này cô độc không có người quy y.
Ngài Ca-diếp nói với Đế Thích:
- Kiều-thi-la! Ta thích đem răng của Đức Phật và mũ Ma-ni bảo châu Đa-la… Đây là lần cuối cùng vì đó mà cúng dường, lại nói kệ:
Vì thuyết khổ tận
Nên ta đến đây
Vì xem tướng Phật
Nên ta đến nay.
Đế Thích và chư Thiên nghe Ca-diếp nói thì tất cả đều buồn bã, rồi cung kính nâng hai tay đưa răng Đức Phật đến cho ngài Ca-diếp. Ca-diếp nhìn mắt không rời, dùng hoa Mạn-trà-la, hoa Bạc-câu-la, Ngưu đầu Chiên-đàn, Châu-lưu-na để cúng dường. Tôn giả Ca-diếp nói với Đế Thích cùng chư Thiên rằng:
- Các ông chuyên tu đừng có phóng dật.
Sau đó ngài Ca-diếp hốt nhiên từ đinh núi Tudi trở về nơi thành Vương xá. Ngài đem Phật pháp phó chúc cho A-nan. Tôn giả A-nan ngày ngày đi theo sau ngài Ca-diếp. A-nan nói với Tôn giả Cadiếp:
- Xin chớ nhập Niết-bàn. Ca-diếp liền bảo Anan:
- Ta nay và ông nên cùng đi vào thành.
Sáng sớm A-nan trở dậy đắp y cầm bát đi vào thành khất thực. A-nan liền dùng ba khả ái hòa hợp. Một là danh khả ái; hai là văn khả ái; ba là sắc khả ái. Để mọi người thấy sắc mà không chán, nghe pháp mà không nhàm.
Ngài Ca-diếp sáng sớm cũng trở dậy vào thành khất thực. Ngài suy nghĩ:
- Ta trước có hứa! Khi nhập Niết-bàn thì đến thăm vua A-xà-thế. Lúc này Ca-diếp đi vào thành Vương xá, nói với người giữ cửa:
- Ta nay muốn vào thăm vua, ông có thể vào thưa. Người giữ cửa đáp:
- Vua nay đang ngủ. Khi nào vua tỉnh dậy tôi mới dám thưa. Ca-diếp nói:
- Ông có thể vào đánh thức vua. Đáp:
- Nếu đánh thức vua sẽ nổi giận mà trị tội tôi. Trưởng lão liền nói:
- Khi nào vua thức ông nên thưa lại. Ca-diếp nay muốn nhập Niết-bàn. Xin vào ra mắt vua.
Ca-diếp lại đi vào thành khất thực. Khất thực xong liền đi vào núi Kê túc. Núi này có ba phần. Ở giữa núi thì trải cỏ dưới đất. Ngài liền suy nghĩ:
- Ngày trước Đức Thế Tôn dùng y phấn tảo để đắp cho ta, để pháp tạng trụ đến ngài Di-lặc ra đời, rồi lại nói kệ:
Ta dùng lực thần thông
Nên giữ lại thân này
Dùng y phấn tảo che
Đời Di-lặc xuất thế
Để cùng ngài thuyết pháp
Giáo hóa chư chúng sinh.
Bấy giờ ngài Ca-diếp khởi ba lần Tam-muội:
1. Khi nhập Niết-bàn xong đắp-y phấn tảo, đem ba núi che kín thân như con nhập vào trong bụng mẹ mà không bị hủy hoại, cho đến khi ngài Di-lặc xuất thế, pháp vẫn thường trụ.
2. Nếu vua A-xà-thế đến núi nên cho vào. Cadiếp lại nghĩ:
-Nếu vua không thấy thân ta tức sẽ thổ huyết mà chết.
3. Khi A-nan đến núi thì cửa sẽ mở.
Rồi từ Tam-muội này ngài Ca-diếp khởi thân nhập vào Niết-bàn. Khi ngài nhập Niết-bàn thì sáu cõi chấn động. Đế Thích cùng vô số chư Thiên cùng đem hương hoa đến cúng dường thân Cadiếp. Ba núi cùng hợp lại để che thân Ngài. Đế Thích cùng chư Thiên vì sự chia ly khởi lòng áo não mà nói kệ rằng:
Chúng ta hôm nay
Xa ngài Ca-diếp
Tâm rất đau buồn
Không thể chịu được
Hang trời Tất-bát
Các pháp khó sinh
Người Ma-già-đà
Sinh ra cô bần
Tất cả thế gian
Không chỗ nương về
Ca-diếp ngày nay
Nhập diệt sau pháp
Núi chánh pháp băng
Thuyền chánh pháp động
Cây chánh pháp rơi
Biển pháp dậy sóng
Ma vương vui mừng
Nhiễu loạn pháp tạng.
Nói kệ xong rồi liền trở về trời. Lúc này ngài A-nan còn đang ở thành Vương xá. Khi trở về ngài liền tư duy về sự vô thường sẽ đến.
Vua A-xà-thế cũng nằm mộng thấy mẹ mình mất thì hốt hoảng thức dậy. Khi đó người giữ cửa vào thưa với vua:
- Ngài Ca-diếp có vào thăm vua để nhập Niếtbàn.
Vua nghe nói thì đau đớn té xuống đất. Khi vua tỉnh dậy liền đi vào trong rừng trúc, lễ dưới chân A-nan thưa:
- Tôi nghe nói Tôn giả Ca-diếp đã nhập Niếtbàn. A-nan nói:
- Đại tinh tấn đã nhập Niết-bàn. Vua nói:
- Tôi muốn cúng dường thân Tôn giả.
A-nan đưa vua đến núi Kê túc. Ở đây A-nan thấy chư La-sát đang hộ thân của ngài Ca-diếp. Vua cũng thấy các loại hoa trời che phủ đầy thân của Ca-diếp. Thấy vậy vua đem cả thân mình lễ lạy. Lễ xong muốn tìm củi để trà tỳ.
Ngài A-nan nói:
- Đại vương! Chớ làm vậy. Vua nói:
- Tôi muốn thiêu ngài Ca-diếp. A-nan đáp:
- Chớ thiêu, chớ thiêu. Thân này ngài dùng thần lực để bảo trì, cho đến khi Đức Phật Di-lặc ra đời cùng với chín mươi sáu ngàn vạn đệ tử cùng vây quanh đi đến đây. Đem thân Ca-diếp hiện ra cùng chư đệ tử.
Bấy giờ Phật Ca-diếp nói:
- Ca-diếp là đệ tử của Thích-ca Mâu-ni. Là bậc tu thiểu dục tri túc đệ nhất và lại kết tập pháp tạng.
Lại nói kệ rằng:
Vị Tỳ-kheo này họ Ca-diếp
Là đệ tử lớn của Thích-ca
Thiên kiến rốt ráo ích thế gian
Là bậc thọ trì pháp tạng Phật.
Lúc này đệ tử Di-lặc nghĩ:
- Vị kia thân hình nhỏ bé. Thân Phật Thích-ca chắc cũng như thế hay là lớn hơn.
Đức Phật Di-lặc biết được tâm chúng đệ tử liền nói:
- Thân của Ma-ha Ca-diếp đắp y phấn tảo Tăng-già-lê, đó chính là y Tăng-già-lê của Đức Phật Thích-ca.
Chư đệ tử nghe thì rất ưu sầu, cho nên cả chín mươi sáu ngàn vạn ức đệ tử đồng chứng quả A-lahán, lại cùng thọ trì giới hạnh công đức. Lại ở trên đỉnh núi xây tháp. Vua A-xà-thế trở lại kinh thành. Ba núi liền hợp lại che thân Tôn giả. Vua lại xây tháp ở núi này, dùng các thứ hương hoa cúng dường.
--------------------------------
Khi Tôn giả A-nan nhập Niết-bàn. Vua A-xàthế đến lễ dưới chân A-nan thưa:
- Khi Phật nhập Niết-bàn tôi không được thấy. Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp nhập Niết-bàn tôi cũng không thấy. Nếu Tôn giả nhập Niết-bàn, xin cho tôi được thấy.
A-nan đáp:
- Được.
Lúc này Xá-na-bà-tư từ biển trở về, Xá-na đem bảo vật cất trong nhà, rồi đi đến vườn trúc. Lúc này Trưởng lão A-nan đang đứng ở giảng đường, Xána đi đến lễ dưới chân rồi thưa:
- Trưởng lão! Tôi từ biển được an ổn trở về, muốn vì Đức Phật và chúng Tăng làm đại hội công đức năm năm. Nay Đức Phật ở chỗ nào?
A-nan đáp:
- Đức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn.
Xá-na nghe lời này thì đau đớn ngất xỉu khi tỉnh dậy liền nói:
- Trưởng lão! Đức Phật nhập diệt tại chỗ nào? Trưởng lão Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và Ma-ha Ca-diếp nhập diệt tại đâu?
Lại hỏi:
- Tôi nay muốn làm đại hội công đức năm năm.
A-nan nói:
- Tùy ý ông.
Rồi Tôn giả rộng nói về các pháp tác đại hội xong. A-nan lại nói:
- Ông đã ở chỗ Thế Tôn làm công đức pháp hội xong, nay nên làm pháp nhiếp thọ.
Xá-na đáp:
- Trưởng lão! Ngài dạy tôi làm pháp gì? A-nan bảo:
- Ông nên ở trong pháp tạng xuất gia.
Xá-na-bà-tư liền nghe theo. A-nan liền cho thọ giới xuất gia và cụ túc, cho đến Bạch-tứ-yết-ma. Xá-na-bà-tư lại thọ đại giới, phát nguyện đến chết vẫn đắp y Xá-na.
Trưởng lão A-nan thọ trì tám vạn bốn ngàn pháp môn, những đến những lời Đức Phật dạy, lời La-hán nói ngài đều ghi nhớ Xá-na-bà-tư cũng đều có thể thọ trì hết, đầy đủ cả Tam minh, thông đạt hết Tam tạng.
Khi đó A-nan đi đến trong vườn Trúc lâm có nghe một vị Tỳ-kheo tụng Tư-già-đà:
Nếu người sống trăm tuổi Không thấy bạch hộc nước Không bằng người mới sinh Thấy được chim hộc nước Nếu người có trí tuệ
Thù thắng hơn trăm tuổi.
A-nan nghe nói vậy liền bảo:
-Bài kệ này chẳng phải là lời Đức Phật nói. Phải tụng là: "Nếu người trăm tuổi không thấy pháp tạng, không bằng một ngày đã nghe pháp tạng, có đủ trí tuệ hơn người trăm tuổi."
Lại nữa, có hai hạng người hủy báng Đức Phật. Một là do bất tín sân giận mà hủy báng. Hai là tuy có lòng tin mà không như pháp thọ trì Tu-đa-la cũng là người hủy báng Đức Phật. Như người không chân, không miệng thì không thể dùng Sađể A-túc-đa. Đây là hai hạng người không thể khéo thọ trì Tu-đa-la, lại nói kệ:
Người ngu không thông tuệ
Người này không thể dùng
Thông tuệ không thọ pháp
Tuệ kia cũng là hại
Chánh trí nghe đều biết
Thì được quả giải thoát.
Vị Tỳ-kheo tụng bài kệ kia trở về thưa lại với thầy:
- Ngài A-nan nói Đức Phật bảo là: "Nếu người trăm năm không thấy sinh diệt. Nếu người sinh một ngày có thể thấy pháp tạng, thù thắng hơn người trăm tuổi."
Người kia nói lại với đệ tử:
- A-nan đã già rồi nên không nhớ rõ. Lại nói kệ:
Người đã luống tuổi
Mất cả niệm lực
Trí tuệ thông suốt
Cũng thành già lão.
Lại bảo đệ tử cứ y như thế mà tụng chớ nghe lời nói kia.
A-nan khi đi qua đó, vẫn nghe tụng như thế liền nói:
- Ta đã nói với ông, đây chẳng phải lời Đức Phật dạy.
Người kia đáp:
- Thầy tôi nói là ngài A-nan già rồi cho nên không nhớ rõ.
A-nan suy nghĩ: "Muốn tìm đến vị thầy kia để nói. Lại quán xét tâm vị kia có thọ nhận lời của ta không? Biết là không thể thọ nhận. Lại tư duy xem có vị Tỳ-kheo nào có thể nói lại không? Cũng không thấy được vị nào?" A-nan nói:
- Nếu Đức Phật cùng Tôn giả Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên còn ở tại thế thì ta sẽ bạch lại. Nay Đức Phật đã nhập Niết-bàn. Ta đây cũng muốn nhập Niết-bàn. Dùng Phật lực để cho pháp được trụ thế một ngàn năm.
Lại nói kệ:
Như chư vị tiên nhân
Đã qua trong quá khứ
Ta nay cùng với người
Không có tướng sai biệt
Nay ta tự tư duy
Còn như chim gặp gió
Phật đã nhập Niết-bàn
Có thể trừ kiết phược
Nơi thế gian làm đèn
Mà trừ ám vô minh
Cùng tinh tấn trừ bỏ
Người Luật nghi vô lượng
Nay duy chỉ mình ta
Như rừng còn một cây.
Ngài A-nan phó chúc lại cho Xá-na-ba-tư. Lại nói:
- Đức Phật phó chúc cho Ca-diếp xong thì nhập Niết-bàn. Ngài Ca-diếp phó chúc cho ta rồi cũng nhập Niết-bàn. Nay ta cũng muốn nhập Niết-bàn. Pháp tạng từ đây ông nên giữ gìn thọ trì.
Ở nước Ma-thâu-la có núi tên Ưu-lưu-mạn-trà. Ở nước đó cũng có vị trưởng giả sinh ra hai người con, người thứ nhất tên là Na Sĩ, người thứ hai tên là Bà Sĩ. Phật đã thọ ký hai vị ấy ở núi này tạo lập chùa. Lại ở trong nước đó có người thương chủ bán hương tên là Cấp-đa. Cấp-đa có con tên Ưu-bacấp-đa, ông nên giáo hóa để cho xuất gia. Đức Phật đã thọ ký người này truyền thừa pháp tạng, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn một trăm năm thì làm Phật sự.
Tôn giả A-nan phó chúc pháp tạng xong, sáng sớm đắp y trì bát, đi vào thành Vương xá khất thực. A-nan nghĩ ta đã có lời hứa với vua A-xà-thế. Khi nhập Niết-bàn nên đến thăm vua. Liền đi đến cung vua nói với người giữ cửa:
- Ta muốn vào thăm, ông vào thưa lại cho vua biết. Người kia đáp:
- Vua đang ngủ, khi nào vua trở dậy, tôi sẽ thưa lại. A-nan nói:
- Ông có thể vào đánh thức vua. Người kia nói:
- Nếu đánh thức vua sẽ nổi giận, mà trị tội tôi. A-nan nói:
- Nếu vua thức dậy, xin nói lại là A-nan muốn nhập Niết-bàn vào từ biệt vua.
Sau đó A-nan đi vào thành khất thực. Khất thực xong thì suy nghĩ:
- Nếu ta ở đây nhập Niết-bàn, vua A-xà-thế sẽ không cho người nước Tỳ-xá-ly đến lấy phân thân của ta, như thế người Tỳ-xá-ly sẽ nổi giận. Còn ta đến nước Tỳ-xá-ly nhập Niết-bàn, thì ở đó cũng không cho vua A-xà-thế lấy phân thân ta; A-xà-thế cũng thể nổi giận. Vậy ta nên ở giữa sông Hằng mà nhập Niết-bàn.
Thế là Tôn giả A-nan đến ngay sông Hằng. Vua A-xà-thế, nằm mộng thấy cây phượng bị chặt và phượng bị rớt xuống, thì kinh sợ tỉnh dậy.
Người giữ cửa cung vào tâu:
- Ngài A-nan có đến từ biệt vua để nhập Niếtbàn.
Vua nghe thì đau buồn té xỉu xuống. Người hầu cận lấy nước rửa mặt hồi lâu mới tỉnh dậy. Vua suy nghĩ:
- Không biết Trưởng lão A-nan nhập diệt ở chỗ nào? Có vị chư Thiên đến nói:
- Ngài A-nan là đệ tử Đức Phật hộ trì pháp tạng. Nay đã đến nước Tỳ-xá-ly để nhập diệt.
Vua A-xà-thế liền tập họp bốn bộ binh, tượng mã xe cộ đi đến bờ sông Hằng. Dân chúng nước Tỳ-xá-ly cũng có thiên nhân đến nói kệ rằng:
Hôm nay A-nan-đà
Để trừ-ám vô minh
Với chúng sinh thế gian
Đều khởi lòng từ bi
Đến nước Tỳ-xá-ly
Vì muốn nhập Niết-bàn.
Bấy giờ dân nước Tỳ-xá-ly cũng tập họp binh mã đi đến bờ sông Hằng. Ngài A-nan ngồi trên thuyền đi đến giữa dòng sông Hằng. Vua A-xà-thế đi đến kịp chỗ ngài A-nan nói kệ:
Phật tử nhập Niết-bàn
Ở nơi khắp thế gian
Mặt Phật như hoa sen
Nay đã nhập Niết-bàn
Ngài là chỗ nương về
Xin chớ vội xa lìa
Khi đó người dân Tỳ-xá-ly cũng làm lễ Tôn giả và thưa:
- Ngài ở chốn này, mọi người đều tôn kính, mà nay muốn nhập diệt. Đức Cù-đàm ở thế gian là bậc tối thắng tự tại, mắt như hoa sen làm lợi ích cho người cô độc, nhiếp hóa khắp cõi thế gian.
Tôn giả A-nan suy nghĩ:
- Nếu ta nhập Niết-bàn ở nước Ma-già-đà thì dân Tỳ-xá-ly sẽ có áo não. Còn nếu ta nhập nước Tỳ-xá-ly thì nước Ma-già-đà cũng sẽ rất buồn. Ta hôm nay tự biết là đã đến thời. Liền nói kệ:
Đem nửa pháp công đức
Cho vua Ma-già-đà
Còn nửa pháp công đức
Cho dân nước Tỳ-xá ly
Như đây cả hai nước
Phải nên tu cúng dường.
Khi Trưởng lão A-nan nhập Niết-bàn, thì cả sáu đại địa đều chấn động. Lúc này ở núi Tuyết sơn có vị tiên nhân ngũ thông đã đầy đủ cùng năm trăm vị đệ tử, ở trên núi suy nghĩ không biết vì sao núi bị chấn động. Liền biết được A-nan muốn nhập Niếtbàn. Tiên nhân cùng năm trăm đệ tử đến chỗ ngài A-nan, làm lễ chắp tay thưa rằng:
- Tôi muốn được Trưởng lão cho nghe pháp Phật và được xuất gia thọ cụ túc giới tu hành phạm hạnh.
Trưởng lão A-nan khởi nghĩ:
- Tất cả đệ tử của ta nên đến đây.
Lúc đó tất cả năm trăm vị đệ tử La-hán đồng tụ tập. Trưởng lão A-nan dùng thần lực làm chuyển động cả đại địa. Nhẫn đến tiên nhân và năm trăm đệ tử đều được xuất gia thọ cụ túc giới. Bạch một lần yết ma thì tiên nhân cùng năm trăm đệ tử đều chứng quả Tu-đà-hoàn. Bạch nhị Yết-ma thì chứng Tư-đà-hàm. Bạch tam Yết-ma thì đắc A-na-hàm.
Bạch tứ Yết-ma, thì trừ tất cả phiền não đắc quả A-la-hán. Tiên nhân và đệ tử xuất gia ở giữa dòng sông Hằng cho nên có tên là Mạt Điền Địa.
Khi đó Mạt Điền Địa làm lễ dưới chân A-nan và nói:
- Đệ tử cuối cùng của Đức Như Lai là Tu-bạtđà khi xuất gia liền nhập Niết-bàn trước Đức Phật. Nay tôi cũng không vui thấy Tôn giả Niết-bàn. Hòa thượng cũng nên cho tôi nhập Niết-bàn trước.
Trưởng lão A-nan nói với Mạt Điền Địa:
- Đức Thế Tôn phó chúc cho ngài Ca-diếp rồi mới nhập Niết-bàn. Ngài Ca-diếp phó chúc cho ta rồi mới nhập Niết-bàn. Ta hôm nay cũng muốn nhập Niết-bàn. Pháp tạng này ông cũng nên thọ trì Phật đã thọ ký ở nước Kế tân có một ngôi chùa tu thiền đệ nhất sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn một trăm năm có Tỳ-kheo tên Mạt Điền Địa, là người thọ trì pháp tạng vào nơi nước Kế tân. Cho nên ông nay phải đem pháp tạng vào nước kia.
Mạt Điền Địa đáp:
- Vâng.
A-nan phó chúc pháp tạng cho Mạt Điền Địa xong, liền hiện thần lực vô cùng, ở trên không trung hiện đủ bốn oai nghi, nhập vào hỏa Tammuội. Nhập Tam-muội xong, từ nơi thân hiện ra đủ các sắc màu trắng xanh vàng đỏ, hoặc trên thân ra nước, dưới thân ra lửa. Thân A-nan lúc này rất là đoan chánh, thí như ở trên danh sơn chảy ra các dòng nước trong sạch và các loài hoa.
A-nan lại tư duy: Muốn phân thân này nửa cho vua A-xà-thế, nửa cho dân Tỳ-xá-ly. Bèn dùng thần lực cho toại nguyện của chư Đàn Việt. Dùng trí tuệ Kim cang phá thân trên núi, nửa cho nước Tỳ-xá-ly, nửa cho A-xà-thế. Khi A-nan nhập Niếtbàn, vua A-xà-thế cùng chư thiên cúng dường nửa thân của Tôn giả. Người Tỳ-xá-ly cũng cúng dường nửa thân. Xây thành hai tháp, một tại thành Tỳ-xá-ly và một tại thành Vương xá.
---------------------------------
Khi Trưởng lão A-nan đã nhập Niết-bàn.
Mạt Điền Địa suy nghĩ: Hòa thượng dạy ta nên đem pháp tạng vào nước Kế tân.
Sau đó Mạt Điền Địa đi đến nước Kế Tân, ngồi trên giường bằng dây lại suy tư: Nước Kế tân này đã có Long vương thống lãnh, nếu không hàng phục thì không cùng ta ở cùng. Rồi ngài nhập vào Tam-muội, dùng lực Tam-muội, khiến cho nước Kế tân sáu cõi đều chấn động, đến nổi Long vương không an ổn liền đến chỗ Mạt Điền Địa. Mạt Điền Địa nhập vào từ bi Tam-muội, Long vương làm gió nổi lên thổi tung một góc Ca sa. Rồi lại làm sấm chớp mưa bão, Tôn giả dùng thần lực làm cho mưa bão trở thành hoa Ưu-bát-la, hoa Cưu-ni-đầu, Phân-đà-lợi. v.v… tất cả đều rơi rụng xuống đất. Long vương lại biến hóa các loại khí cụ muốn làm hại Mạt Điền Địa. Tôn giả lại dùng thần lực làm cho các khí cụ này trở thành hoa trời. Lại hóa núi lớn đè Mạt Điền Địa. Tôn giả lại biến núi trở thành hoa trời. Rồi bay lên hư không nói lời kệ rằng:
Gió lớn thổi động
Không bay góc y
Mưa bảo khí cụ
Biến thành hoa trời
Thí như Tuyết sơn
Mặt trời tỏa sáng
Thảy đều chảy ra
Không có khiển trừ
Nhập từ bi muội
Lửa không thể đốt
Khí cụ độc hại
Không đến được thân.
Long vương thấy vậy thì kinh sợ, liền đến chỗ Mạt Điền Địa nói:
- Thánh nhân muốn dạy tôi điều gì? Mạt Điền Địa nói:
Chỗ này Đức Phật đã thọ ký là chỗ tu thiền đệ nhất, tên là nước Kế tân.
Long vương nói:
- Đức Phật có thọ ký sao? Đáp:
- Đúng thế! Long vương nói:
- Ngài muốn lớn nhỏ bao nhiêu? Mạt Điền Địa nói:
- Muốn bằng chỗ ngồi. Long vương:
- Như vậy thì tôi cho.
Mạt Điền Địa dùng thần lực phân thân ngồi khắp cả mặt đất như Cửu-đồ-lô-na che khắp cả mặt đất.
Long vương nói:
- Có bao nhiêu người theo ngài. Đáp:
Có năm trăm vị La-hán. Nói:
- Nếu thiếu một người thì không cho đến đất này.
Mạt Điền Địa liền dùng thần lực để xem đủ số năm trăm vị không?
Thì biết là đủ số, mới đáp Long vương:
- Được.
Trưởng lão lại nói: Nếu có tăng chúng thì cần phải có đàn việt. Ta muốn đem bạch y vào nước này.
Long vương nói: Được.
Thế là Tôn giả Mạt Điền Địa đem chúng bạch y vào nước Kế Tân lập ra thành ấp tu lạc. Chư bạch y liền nói với Mạt Điền Địa:
- Ta nay làm sao để tự sống.
Mạt Điền Địa liền dùng thần lực đưa hàng bạch y vào trong núi Hương túy, đào lấy tước Kim hương đem về nước Kế tân. Long vương ở núi này nổi giận. Mạt Điền Địa liền dùng giáo hàng phục, chư Long vương hỏi Mạt Điền Địa.
- Pháp tạng Như Lai trụ được bao lâu? Đáp:
Một ngàn năm.
Chư Long vương lại nói:
- Người đến nước kia để truyền pháp tạng. Đáp: Đúng vậy!
Mạt Điền Địa đem Tước kim hương về nước
Kế tân, rồi theo lời dạy của Đức Thế Tôn. Từ đó về sau, Ngài rộng truyền bá pháp tạng, hiện ra các thứ thần lực cùng chư đàn việt, cùng học Phật pháp khiến cho mọi người được giác ngộ. Về sau nhập Niết-bàn. Như nước diệt lửa, chúng dùng các loài ngưu đầu chiên đàn đem trà tỳ. Rồi thu xá-lợi xây tháp cúng dường.
Khi Trưởng lão A-nan nhập Niết-bàn. Xá-nabà-tư đến nước Ma-thâu-la, giữa đường gặp một ngôi chùa tên Bần-đà-bà-na liền vào tá túc qua đêm. Trong chùa có hai vị Trưởng lão Tỳ-kheo, đang bàn luận nói kệ:
Không phạm giới vi tế
Nghe các việc rõ ràng
Ngài Xá-na đã nói
Là Tỳ-kheo chơn pháp.
Xá-na-bà-tư nói với hai vị Tỳ-kheo, ông nói lời này chẳng phải lời của ta nói. Chỗ ta nói là chánh pháp hòa hợp. Vào đời quá khứ ở nước Ba-la-nại có vị thương chủ cùng năm trăm vị khách buôn muốn đi vào biển, giữa đường gặp Bích-chi-phật đang bị bệnh. Thương chủ và khách buôn lưu lại đem thuốc men chăm sóc trị liệu, khiến cho Bíchchi-phật dần dần hết bệnh. Bấy giờ thương chủ lấy y Xá-na, vốn là loại y xấu, đem nhuộm lại để che thân mình. Khi vị Bích-chi-phật tắm thì đem y cúng dường. Bạch rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn! đây là y thô xấu Đức Thế Tôn đã tắm rữa sạch sẽ nguyện xin nạp thọ y này.
Vị Bích-chi-phật đáp:
- Này thiện nam! Ta thọ nhận, để cho ông xuất gia, đem y này che thân mà đắc Thánh đạo. Nay đắp y này cho đến khi nhập Niết-bàn.
Thương chủ thưa:
- Xin ngài chớ nhập Niết-bàn. Để tôi đi ra biển trở về sẽ đem vật dụng y phục ngọa cụ thuốc men đến cúng dường Đức Thế Tôn, xin chớ nhập Niếtbàn, tôi nay vào biển không thể ở lại.
Bích-chi-phật nói:
- Ta không thể không nhập Niết-bàn. Ông đã làm các công đức lớn không thể không hoan hỷ.
Vị Bích-chi-phật liền biến hóa làm mười tám biến thân hiện thần lực rồi nhập Niết-bàn.
Vị thương chủ cúng dường thân cho Phật xong thì liền phát nguyện, xin đem công đức này, đời sau tôi được thiện căn như thế.
Vị thương chủ ấy chính là ta bây giờ, cho nên nay ta gặp được thắng sư và được đắc đạo. Ta thường mặc y Xá-na-bà-tư, ở nơi pháp tạng của Đức Thế Tôn xuất gia, cũng đắp y này mà được đắc đạo và đắp y cho đến khi nhập Niết-bàn. Vì ta thường đắp y này, lúc ở chỗ bạch y cũng đắp y này cho nên có tên là Xá-na-bà-tư. Khi ta bạch Tứ yết ma thọ cụ túc xong lại cũng đắp y này, cho đến chưa nhập Niết-bàn cũng thường đắp y này.
Sau đó Tôn giả đến nước Ma-thâu-la đi đến núi Ưu-lâu-mạn-đà ngồi trên giường dây. Ở núi này có hai anh em Long vương, cùng vô số Long vương tùy tùng.
Tôn giả nghĩ:
-Nếu không hàng phục thì sẽ không giáo hóa được.
Liền dùng thần lực làm cho núi chuyển động, Nhị Long vương giận bèn đến chỗ Tôn giả, khởi lên mưa bão và xuất ra lửa cháy. Tôn giả liền nhập từ bi Tam-muội khiến cho gió và lửa không đến được nơi thân, biến các thứ đều trở thành hoa trời, rơi xuống. Long vương lại hóa mưa đá, khí cụ và núi để đè Tôn giả. Tôn giả cũng biến núi thành hoa trời, rồi bay lên hư không nói kệ:
Gió lớn mưa to
Không thể làm hại
Sấm chớp khí trương
Biến thành hoa tươi
Thí như núi tuyết
Mặt trời tỏa ra
Thảy đều tan chảy
Không có khiển trừ
Nhập từ Tam-muội
Lửa cháy không đốt
Khí cụ độc hại
Không thể đến gần.
Nhị Long vương tìm đến chỗ Tôn giả nói:
- Thánh nhân muốn dạy tôi điều gì? Tôn giả nói:
- Ta muốn tại núi này, xây dựng chùa, ông nên tùy thuận. Long vương nói:
- Không thể được. Tôn giả nói:
- Đức Phật đã thọ ký, sau khi ta nhập Niết-bàn một trăm năm, có núi lớn Đề hồ thanh tịnh tối diệu để xây chùa, tên gọi là Na-sĩ Bà-sĩ.
Long vương lại nói:
- Nếu Đức Phật đã thọ ký thì tôi ưng thuận.
Tôn giả liền tư duy quán xét, xem đàn việt tạo chùa đã ra đời chưa? Biết là đã ra đời. Hôm sau Xá-na-bà-tư dậy đắp y trì bát đi vào nước Thâu-la khất thực, đi lần đến nhà của vị Đàn-việt nói:
- Thiện nam tử! Ông nên cúng cho tôi tiền, tôi muốn tạo chùa trên núi Đề hồ.
Hai anh em Na-sĩ Bà-sĩ đều nói:
- Tôi không thể cho được. Tôn giả nói:
- Đức Phật đã thọ ký cho hai người làm đàn việt xây chùa trên núi này.
Hai người bảo:
- Nếu Đức Phật đã thọ ký thì chúng tôi xin y lời.
Hai vị cúng thí cho Tôn giả xây chùa và trang sức các vật dụng đầy đủ, cho nên gọi chùa là Na-sĩ Bà-sĩ.
Khi Tôn giả Xá-na-bà-tư đến núi Đề hồ khởi xây chùa xong rồi, liền suy nghĩ xem thương chủ bán hương tên Cấp-đa đã ra đời chưa. Quán thấy vị này đã ra đời. Về sau có con là Ưu-ba-cấp-đa. Đức Thế Tôn đã thọ ký cho vị này có tướng không bằng Đức Phật nhưng sẽ làm Phật sự sau khi Đức Như Lai diệt độ một trăm năm. Đứa bé này vẫn chưa sinh Xá-na-bà-tư dùng phương tiện giáo hóa vị thương chủ để cho tinh tấn. Một hôm Tôn giả đem nhiều đệ tử đi đến nhà của thương chủ, ngày khác chỉ dẫn tới một đệ tử, ngày khác lại đi có một mình, Cấp-đa đang làm Phật sự thấy Xá-na-bà-tư đi một mình liền hỏi:
- Thánh nhân vì sao lại không đem đệ tử cùng đi? Trưởng lão đáp:
- Tôi là lão nhân, đâu có đệ tử theo mình. Nếu có người thích tinh tấn xuất gia thi có người theo.
Cấp-đa thưa:
- Tôi vẫn còn thích thọ ngũ dục lạc, không thể xuất gia. Nếu tôi có con sẽ cho theo Trưởng lão.
Trưởng lão nói:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Nên nhớ nguyện này chớ có quên mất. Sau đó Cấp-đa sinh con tên là
Bà-cấp-đa, đến khi lớn lên. Xá-na-bà-tư đến nói:
- Ông trước có nguyện, nếu sinh con sẽ cho tôi làm đệ tử, nay con đã sinh, đứa bé này có công đức ông nên cho theo tôi xuất gia.
Cấp-đa nói:
- Tôi nay duy chỉ có một đứa con. Nếu có đứa nữa xin cho ngài.
Xá-na-bà-tư quán xem đứa bé này phải Ưu-bacấp-đa không? Thấy đó không phải nên nói:
- Cũng được.
Rồi đến khi đứa bé thứ hai sinh ra đặt tên Đàna-cấp-đa. Đến khi lớn lên, Trưởng lão tới nói:
- Ông trước có nguyện có đứa thứ hai sẽ cho theo tôi, nay đã có, vậy nên cho theo tôi xuất gia.
Cấp-đa nói: Trưởng lão chớ giận, tôi có hai đứa cùng lo gia nghiệp. Một đứa đi tìm, một đứa giữ gìn. Nếu có đứa thứ ba tôi sẽ cho theo Trưởng lão. Xá-na-bà-tư lại tư duy xem đứa bé này phải Ưu-ba-cấp-đa không?
Thấy là không phải, thì nói với Cấp-đa: Cũng được.
Rồi đứa con thứ ba sinh ra, hình dung đoan chánh rất là đáng yêu. Vì sắc vóc hơn cả trời người, cho nên đặt tên là Ưu-ba-cấp-đa. khi người con này lớn lên, thì người cha lưu lại cho làm các công việc pháp thu hoạch rất nhiều lợi ích. Tôn giả lại tìm đến nhà nói:
- Thiện nam tử! Ông có hứa cho tôi đứa con thứ ba. Nay nó đã lớn nên cho theo tôi xuất gia.
Cấp-đa đáp: Tôi đã có thể khiến cho nó làm việc buôn bán, nếu có lợi nhiều thì không cho xuất gia. Nếu không có được lợi, thì mới cho xuất gia.
Bấy giờ Ma vương làm cho dân chúng đến mua vật đó nên đạt lợi lớn. Đến khi Xá-na-bà-tư đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa, lúc này đang bán hương. Trưởng lão nói:
- Ông tâm tâm pháp đã sinh, vậy thế nào là thiện, thế nào là ác. Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Tôi nay không biết tâm tâm pháp, vậy vì sao là thiện, thế nào là ác?
Trưởng lão nói:
- Nếu tâm tâm pháp đó mà cùng tham sân si tương ứng thì đó là thiện.
Lần khác Trưởng lão đến chỗ của Ưu-ba-cấpđa nói:
- Thiện nam tử! Ông vì sao tâm tâm pháp đã sinh vậy sao là thiện, sao là ác?
Đáp:
- Tôi nay không biết tâm tâm pháp. Vì sao là thiện, thế nào là ác?
Trưởng lão: Ông nay muốn biết tâm tâm pháp là thiện hay ác, nếu có thể thọ đạo trừ tâm pháp ác, thì nên làm theo ta.
Trưởng lão liền đem các viên đất đen, trắng ra và nói:
- Nếu tâm ông nghĩ điều xấu thì bỏ hòn đen này vào. Nếu tâm ông nghĩ điều tốt thì bỏ viên trắng vào. Nên quán pháp bất tịnh, như lời Đức Phật dạy mà quán tưởng tư duy.
Khi đó Ưu-ba-cấp-đa còn nhiều tham muốn, khéo tạo tâm pháp nên giữ hòn đen nhiều, cho đến không có viên trắng nào. Lại còn tư duy, còn lại hai phần đen, một phần trắng. Lại còn tư duy, còn lại một phần đen, một phần trắng. Lại tư duy thêm nữa thì còn hai phần trắng, một phần đen. Lại càng nỗ lực tư duy cho đến chỉ còn thuần là trắng. Lúc này ở nước Ma-thâu-la có một dâm nữ tên Bà-sabạt-đa, sai người nô tỳ đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa mua hương. Mua được nhiều hương đem về người chủ mới hỏi:
- Người ở đâu lại mua được nhiều hương vậy?
Không phải trộm từ cửa tiệm về đây chứ?
Nô tỳ đáp:
- Có một chủ tiệm tên Ưu-ba-cấp-đa, hình sắc đoan chánh nói lời vi diệu, đã bán hương này. Người chủ nghe nói thì đối với Ưu-ba-cấp-đa dâm tâm liền khởi lên. Lại sai nô tỳ đến chỗ Ưu-ba-cấpđa.
- Ngươi đến đó nói là ta muốn cùng người hưởng vui dục lạc. Người tỳ nữ đến nói lại thì Ưuba-cấp-đa nói:
- Bấy giờ chưa phải lúc gặp. Nô tỳ về thưa thì dâm nữ nói:
- Người kia có thể không có năm trăm tiền cho ta, nên không đến.
Lại khiến nô tỳ đến nói:
- Ta không cần tiền, chỉ cần người đến vui chơi. Người nô tỳ lại chỗ Ưu-ba-cấp-đa nói lại như vậy.
Ưu-ba-cấp-đa vẫn nói:
- Chưa đến lúc gặp mặt.
Khi đó có một thương chủ từ nam Thiên trúc đến, đem theo năm trăm con ngựa và các loại vật dụng đến nước Ma-thâu-la. Đến nơi liền hỏi mọi người:
- Ở đây có nữa nhân đoan chánh bậc nhất không? Có người nói:
- Có dâm nữ tuyệt thế tên là Bà-sa Bà-đạt-đa. Thương chủ nói:
- Ta đem năm trăm đồng tiền cùng các báu vật đến chỗ đó. Lúc này dâm nữ vì tham các vật này nên giết con của trưởng giả đem chôn ở chỗ bất tịnh, rồi cùng thương chủ vui chơi. Sau đó, thân thích bè bạn của trưởng giả tìm được hài cốt ở chỗ bất tịnh, mới tâu lên vua. Vua sai bắt Bà-sa Bà-đạtđa chặt hết tay chân, cắt tai, mũi rồi đem bỏ ngoài đồng trống. Khi đó Ưu-ba biết được việc này liến nghĩ:
- Ta vốn không thích gặp người này để vui năm dục. Nay muốn đến đó để xem tay chân tai mũi của người này, lại nói kệ:
Xưa dùng y tối thắng
Như thế đủ các loại
Trang nghiêm cho thân này
Nếu người muốn giải thoát
Chán xa dục thế gian
Khi thời không thể thấy
Bảo sức trang nghiêm thân
Nay đúng thời nên xem
Không kiêu, không hoan hỷ
Sắc kia hoàn thân tướng
Thấy rồi sinh xa lìa.
Bấy giờ Ưu-ba-cấp-đa cùng một tiểu nhi đi ra đồng trống. Người nữ tỳ vì nhớ ơn chủ cũ nên ra ngồi một bên, đuổi chim quạ không cho đến mổ.
Lúc này nô tỳ nói:
Trước cô đã vài lần sai tôi đi mời Ưu-ba-cấp-đa, nay người đó đã đến muốn gặp, vậy có gặp không?
- Ta trước xinh đẹp, giờ bị hủy hoại thật là đại khổ. Nay toàn thân máu huyết dầm dề, làm sao có thể gặp mà khởi dục tâm. Rồi bảo tỳ nữ:
- Chân tay tai mũi của ta, nên che lại đừng để cho thấy.
Khi nô tỳ lấy y che lại, thì Ưu-ba-cấp-đa đã đến đứng bên Bà-sa Ba-đạt-đa quán xét, cô kia thấy Ưu-ba-cấp-đa liền nói:
-Thánh thiện đến, tôi lúc trước hình dung yêu kiều, sai người mời mà không chịu đến, nay thân thể tôi, như vậy vì sao người lại tìm đến.
Lại nói kệ:
Thân này trước kia
Dụ như hoa sen
Y báo thượng diệu
Để cùng trang nghiêm
Mà không công đức
Không gặp được người.
- Thân tôi như thế này vì sao người lại đến?
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Tôi chẳng phải vì lòng tham dục mà đến đây. Vì muốn quán tưởng tham dục và quán tưởng bất tịnh cho nên đến, liền nói kệ:
Dùng các bảo y
Và các hương hoa
Trang sức thân này
Thấy tâm kia loạn
Tất cả chúng sinh
Tham dục mà đến
Người không có vật
Thì không được thấy
Nay thân người đây
Phân tán các nơi
Tất cả mọi người
Không ai thăm viếng
Sắc hoàn bổn tướng
Lìa hết trang sức
Nhơ uế như vầy
Tử sinh cùng đến
Thân này đau đớn
Máu nhuộm thắm tươi
Da bọc phủ ngoài
Đống thịt nhầy nhụa
Ngàn thứ buộc ràng
Nơi nơi che lấp
Thân đã như thế
Lấy gì để yêu
Lại nói chị em
Sắc vóc bên ngoài
Thế gian đều thấy
Khởi lòng tham luyến
Nào thấy bên trong
Tức liền giải thoát
Quý tiện tôn ty
Đều cùng thây uế
Người ngu nhìn thấy
Cho là đáng yêu
Người trí nhận ra
Đó là bất tịnh
Thân này nhơ uế
Đủ mọi nhớp nhơ
Lấy muốn thứ hương
Để mà trang sức
Thân này nhàm chán
Máu mủ tanh hôi
Các loại y phục
Để mà trang điểm
Thân bất tịnh này
Dùng nước tẩy tịnh
Tôi đồ ngu si
Đắm trước vì yêu
Nếu có người nghe
Phật nói thiện pháp
Tùy ý thọ trì
Xa lìa năm dục
Tâm vui giải thoát
Vào rừng tịch tịnh
Nương đạo nhiệm mầu
Đến bờ bỉ ngạn.
Bà-sa Bà-đạt-đa nghe lời này thì càng sợ việc sinh tử. Nghe được công đức chư Phật, thì ý vui tưởng đến cảnh Niết-bàn. Liền nói kệ đáp Ưu-bacấp-đa:
Đúng thế, đúng thế
Như lời người nói
Người thật có trí
Lại rất Từ bi
Nay xin nói nữa
Diệu pháp Như Lai.
Thế là Ưu-ba-cấp-đa, lần lượt thuyết pháp Tứ đế của Ưu-ba-cấp-đa quán thân kia, quán xong thì nhàm chán cảnh dục giới này, vì tự thuyết pháp thông đạt tứ đế nên đắc quả A-na-hàm.
Bà-sa Bà-đạt-đa đắc quả Tu-đà-hoàn, liền nói với Cấp-đa rằng:
-Lành thay! Lành thay! Ma-ha Tát-đỏa. Thần lực của ông đã che hết ba ác đạo đại khổ não ở chốn này, đã mở ra con đường Niết-bàn Thiên đạo. Tôi nay quy y Pháp Tăng và Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nói kệ rằng:
Tôi nay quy y Phật
Lưỡng túc đệ nhất tôn
Mắt Phật như sen xanh
Trời người đều tôn quý
Thanh tịnh lìa pháp dục
Vô thượng ứng chân tăng.
Ưu-ba-cấp-đa khi nói pháp xong thì vui vẻ trở về bổn xứ. Đi chưa bao lâu, thì Bà-sa Ba-đạt-đa liền mạng chung sinh lên cõi trời. Chư Thiên nói với dân chúng nước Ma-thâu-la là cô kia đã sinh thiên. Mọi người liền kéo đến hỏa thiêu cúng dường thân xác.
Lúc này Trưởng lão Xá-na-bà-tư đến nhà Cấpđa nói:
- Ông nên cho Ưu-ba-cấp-đa theo tôi xuất gia. Cấp-đa đáp:
- Tôi trước đã nói. Nếu việc của Ưu-ba-cấp-đa bất lợi thì mới cho xuất gia.
Trưởng lão Bà-xá-tư-na dùng thần lực khiến cho việc trị sinh của Ưu-ba-cấp-đa không thuận tiện, Ưu-ba-cấp-đa suy nghĩ:
- Nay việc buôn bán tính toán lại không thuận lợi sắc bén. Xá-na-bà-tư lại đến chỗ Cấp-đa nói:
- Đức Phật đã thọ ký cho con ông, sau khi Đức Phật nhập diệt trăm năm, sẽ hoằng truyền Phật pháp, ông nên cho theo tôi để xuất gia.
Cấp-đa bèn cho đi. Trưởng lão Xá-na-bà-tư đem Ưu-ba-cấp-đa về chùa Na-sĩ Bà-sĩ cho xuất gia và thọ giới Cụ túc. Đến lúc Bạch tứ Yết-ma trừ hết mọi kiết phước đắc quả A-la-hán. Xá-na-bà-tư nói với Ưu-ba-cấp-đa rằng:
- Thiện nam tử! Đức Phật đã thọ ký, sau khi Đức Phật Niết-bàn một trăm năm, có Tỳ-kheo tên là Ưu-ba-cấp-đa vô tướng Phật mà làm Phật sự. Lại nói ông là Phật tử giáo hóa đệ nhất. Thiện nam tử! Ông nên hoằng truyền Phật sự làm lợi ích chúng sinh.
Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Xin vâng lời Hòa thượng, Bà-xá-tư-na bèn bảo ông thuyết pháp, nhân dân trong nước Mathâu-la nghe có vị Tỳ-kheo tên Ưu-ba-cấp-đa đang thuyết pháp. Vô lượng người đều muốn đến nghe, Trưởng lão Ưu-ba-cấp-đa nhập Tam-muội suy tư, thấy chỗ Đức Phật thuyết pháp có bốn chúng vây quanh như hình nửa mặt trăng.
Lại suy nghĩ:
- Thế Tôn thuyết pháp từng chỗ, như thế lần lượt thấy khắp các nơi cho đến khi Ngài nhập Niếtbàn. Ưu-ba-cấp-đa cũng thuyết pháp như thế. Lúc này Ma vương ở trong chúng làm mưa bảo châu để não loạn tâm người, vì vậy mà không thấu hiểu Tứ đế. Ưu-ba-cấp-đa thấy tâm mọi người não loạn liền suy nghĩ xem ai làm việc này liền biết là do Ma vương làm. Ngày thứ hai lại có gấp bội người đến nghe. Ưu-ba-cấp-đa cũng lần lượt nói pháp Tứ đế. Ma vương lại làm mưa vàng để não loạn tâm chúng, cũng không có một người đắc đạo, Ưu-bacấp-đa thấy lại tâm chúng não loạn quán thấy lại do ma làm. Đến ngày thứ ba lại có gấp đôi người đến, Ưu-ba-cấp-đa lại thuyết pháp, lúc này ma làm mưa châu báu và mưa báu và mưa kỹ nhạc. Vì tâm mọi người chưa lìa dục, thấy sắc nghe tiếng tâm liền loạn động, không chịu nghe pháp. Ma vương lại biến các loại buộc vào đảnh của Ưu-ba-cấp-đa. Ưu-ba-cấp-đa tư duy xem ai làm việc này, biết đó là do Ma vương làm. Tôn giả nghĩ Ma vương này vào thời Đức Thế Tôn thường làm não loạn, cớ sao Đức Như Lai lại không giáo hóa. Lúc bấy giờ, Tôn giả quán xét, biết Đức Phật đã thọ ký mình làm vô tướng Phật để giáo hóa nhiếp thọ chúng sinh. Bèn quán sát xem nay có thể giáo hóa được không? Lại thấy đã đến lúc giáo hóa Ma vương được. Tôn giả liến biến ra ba thấy chết. Một là thây rắn, hai là thây chó, ba là thây người. Dùng thần lực biến ba thây chết này làm tràng hoa đưa đến chỗ Ma vương. Ma thấy Ưu-ba-cấp-đa đến thì hoan hỷ cho là đã chịu thần phục mình, liền muốn thọ nhập tràng hoa đó. Ưu-ba-cấp-đa tự tay buộc vào, thây rắn thì buộc trên đảnh, thây người và thây chó thì buộc ở ngay cổ. Ưu-ba-cấp-đa nói với Ma vương. Ngươi trước đã làm điều phi pháp, dùng hoa để làm nhục ta. Hôm nay ta trả lại thây chết buộc vào cổ ngươi. Ngươi nay đã cùng Phật tử hòa hợp, nếu có thần lực có thể hiện thân ta. Thí như gió lớn có thể làm cho nước biển dậy sóng, mà không thể nhấc nổi núi Ma La Da.
Lúc này Ma vương muốn cởi các thây chết, dùng hết sức mình mà vẫn không thể thoát ra. Cũng như con dế làm sao dời được núi. Ma vương giận dữ bay lên hư không, mà nói kệ rằng:
Nếu ta không thể cởi
Các thây chết này ra
Chư Thiên thì có thể
Dùng lực để giúp ta.
Ưu-ba-cấp-đa cũng nói kệ:
Ngươi đến trời Phạm thiên
Và nhật nguyệt Đế Thích
Vào lửa và biển lớn
Cũng không thể nào cỡi
Ta dùng thây chết này
Buộc vào nơi cổ ngươi
Ngươi dù dùng thần lực
Cũng không thể thoát ra.
Lúc này Ma vương đi đến trời Ma-ế-thủ-la và trời Đao lợi, trời Tứ thiên vương, nhờ cỡi thây chết ra mà không được, lại bay đến chỗ Đại Phạm thiên. Đại Phạm thiên nói:
-Thiện nam tử! Đây là thần lực của đệ tử Đức Phật làm, không ai có thể cởi được, như biển lớn, bờ nước không thể phá, liền nói kệ:
Như tơ hoa sen
Buộc vào núi tuyết
Núi không cử động
Việc này rất khó
Dùng lực thần thông
Thây chết buộc thân
Ta nay không thể
Cho người thoát ra
Tất cả chư Thiên
Dùng lực hợp lại
Cũng không bằng Phật
Lực của đệ tử
Thí như ánh sáng
Không thể bằng lửa
Ánh sáng lửa này
Đâu bằng Nhật quang.
Ma vương nói:
- Ngài dạy tôi phải làm sao đây? Tôi phải nhờ ai? Đại Phạm nói:
- Ông nên trở về quy y với Ưu-ba-cấp-đa. như người bị té xuống đất phải tự nơi đó đứng lên, ông nay vì do thần lực vị ấy mà bị đọa, thì cũng do người ấy cỡi ra. Lúc này Ma vương biết thần lực của đệ tử Đức Phật là không thể nghĩ bàn, liền tư duy mà nói kệ rằng:
Như Phạm vương quy y
Pháp tạng đệ tử Phật
Ai có thể so lường
Thần lực của Như Lai
Có thể hàng phục ta
Nhưng vì lòng Từ bi
Cho nên không hàng phục.
Tôi nay biết Phật lực không thể nói bàn, lại nói kệ:
Nay ta đã biết
Thế Tôn từ bi
Tâm lìa phiền não
Thí như núi vàng
Vì ta vô minh
Nơi nơi phá Phật
Chỗ chỗ làm ác
Mà không hàng phục.
Bấy giờ Ma vương chủ của cõi dục giới, biết không thể chạy thoát được, nên suy nghĩ, phải xả bỏ tâm kiêu mạn đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa, lễ dưới chân Tôn giả nói:
- Trưởng lão tôi từ lúc Đức Phật đắc đạo nơi cây Bồ-đề cho đến hôm nay, ở chỗ Đức Thế Tôn thường làm các việc ác không thể kể hết. Lại ở nước Sa-la, trong nhà của Bà-la-môn, Đức Phật đi đến chỗ đó khiến cho không được ăn, đều là do tôi làm. Những việc tôi làm Đức Phật đều không giận tôi. Hoặc tôi hóa ra các loài rồng, rắn, quỷ ác và các thứ độc hại, Đức Phật cũng không giận tôi. Trưởng lão ngày nay không có từ bi, làm cho khắp cả nhân thiên A-tu-la trông thấy đều chê cười, làm cho tôi xấu hổ.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Vì ngươi không có trí nên không thể biết được, lòng từ bi công đức của Đức Như Lai so với chư Tỳ-kheo, thí như cây cải so với núi Tu-di. Cũng chẳng khác gì lửa của đom đóm so với ánh sáng mặt trời. Như một bụm nước hòa vào biển lớn. Cũng vậy, lòng từ bi của Sa môn không bằng thập lực tư bi của Đức Phật. Vì nhân duyên đó, khi ông gây tội Đức Phật đều nhận thọ.
Ma vương nói:
- Đức Phật đã đoạn tất cả hoặc, trừ hết nghi, có đại nhẫn nhục. Tôi vì tâm loạn ác cho nên làm não hại Đức Phật. Đức Thế Tôn đều dùng lòng từ bi che chở cho tôi, vì sao Đức Phật không hàng phục tôi, Trưởng lão nên nói cho tôi.
Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Thiện nam tử! Ngươi nên lắng nghe, ông đối với Đức Phật làm các điều bất thiện. Đối với Đức Như Lai ngươi vẫn tỏ lòng kính tâm nên không thể trừ diệt. Cho nên Đức Phật nhìn thấy được mà không hàng phục ngươi, lại nói kệ:
Tâm ngươi ít kính trọng
Như Lai thì phát khởi
Từ ít tăng trưởng lên
Nên đắc quả Niết-bàn
Người tạo ra các tội
Nay ta chỉ lược nói
Nên lấy nước tuệ niệm
Tẩy trừ phiền não cấu.
Lúc này Ma vương nghĩ đến Đức Phật, toàn thân lông đều dựng đứng như hoa Ca-đàm-bà, lại nói kệ:
Ta làm nhiều điều
Khổ não Thế Tôn
Mà Phật không giận
Ta nguyện tương ứng
Như con tạo tội
Cha không trách mắng.
Lúc này Ma vương nhiều lần suy nghĩ đến ân của Đức Phật.
Vì nghĩ đến Đức Phật nên kính lễ trưởng lão và nói kệ:
Trưởng lão hôm nay
Đã nhiếp thọ tôi
Khiến cho tâm tôi
Cung kính Thế Tôn
Nay xin lấy hết
Thây chết buộc ràng
Ở trên cổ tôi
Duy nguyện đại đức
Đem lòng từ lực
Cỡi trói cho tôi.
Trưởng lão Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Nếu chịu giao ước thí ta mới cỡi trói. Ma vương nói:
- Giao ước thế nào? Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Ông từ nay trở đi chớ làm não loạn chư Tỳ-kheo. Ma vương nói:
Đúng vậy! Đúng vậy! Tôi xin y lời. Ngài lại muốn dạy cho tôi làm gì nữa?
Trưởng lão đáp:
- Pháp tạng của Đức Thế Tôn rộng lưu bố thế nào?
Ngươi nên hiện ra.
Ma vương kinh hãi nói:
- Ngài dạy tôi hiện ra sắc thân Phật. Ưu-ba-cấpđa đáp:
- Ngươi nên biết rằng Đức Như Lai nhập Niếtbàn một trăm năm ta mới xuất gia. Pháp thân của Đức Như Lai ta đã được thấy, còn sắc thân của Phật ta chưa được thấy, ông nay bị ta nhiếp thọ, vậy hãy hiện ra sắc thân của Đức Phật. Ta hôm nay không có gì vui bằng được thấy sắc thân Đức Phật.
Ma vương nói kệ:
Nên dùng giao ước
Nếu thấy tôi hiện
Thân sắc Như Lai
Không nên đảnh lễ
Tất cả điều này
Do trí cung kính
Trưởng lão lễ tôi
Tôi sẽ tự diệt
Vì tôi không lực
Chịu Thánh nhân lễ
Như mầm hoa lan
Không thể giữ được
Cặp ngà của voi
Cho nên giao ước.
Trưởng giả nói:
- Được, ta không thể lễ ngươi. Ma vương lại nói:
- Đợi trong giây lát, tôi sẽ vào rừng, cũng như ngày xưa có vị trưởng lão tên là Thủ-la. Tôi lúc đó muốn làm não loạn cho nên hóa ra thân Đức Phật, ánh sáng vàng chói rực như mặt trời, sắc thân như thế thật không thể nghĩ bàn, tôi cũng muốn làm như vậy, khiến cho người thấy đều sinh lòng tin vui.
Trưởng lão nói:
- Được, liền cỡi ba thây chết trên cổ Ma vương, vì muốn thấy sắc thân của Đức Phật, lúc này Ma vương biến vào trong rừng để hóa ra thân Đức Phật. Hóa thân Đức Phật xong liền từ rừng đi ra. Thí như nữ nhân vào trong màn trướng để trang sức, xong rồi mới bước ra, sắc tướng của Đức Như Lai không có gì có thể thí dụ được, khiến cho người thấy đều vui vẻ, giống như bức hoa có đủ màu sắc. Bấy giờ Ma vương biến hóa ra thân Đức Phật đã xong, lại tạo ra Xá-lợi-phất đặt ở bên phải. Hóa làm Mục-kiền-liên đặt ở bên trái. Lại hóa A-nan cầm bát theo sau và các vị Ma-ha Ca-diếp, A-nậulâu-đà, Tu-bồ-đề v.v...cùng một ngàn hai trăm năm mươi chư Thanh văn, vây quanh hóa Phật như nửa mặt trăng. Hóa hiện xong rồi liền đi đến chỗ Ưuba-cấp-đa. Ưu-ba-cấp-đa thấy được sắc thân của Đức Phật thì rất vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, ngắm nhìn sắc thân Đức Phật không hề dứt đoạn, liến nói kệ rằng:
Vô thường không Từ bi
Phá thân sắc Như Lai
Như Lai vô thường đến
Sắc diệt nhập Niết-bàn.
Ưu-ba-cấp-đa duyên niệm nghĩ đến Đức Phật tâm không xa rời. Ta nay thấy hóa thân này cũng chẳng khác gì thấy chân thân của Đức Phật, rồi nhất tâm chắp tay lược nói kệ khen ngợi:
Mặt sáng như hoa sen
Mắt tợ hoa Ưu-đàm
Sắc hơn các loài hoa
Cũng hơn các chân kim
Đáng yêu hơn mặt trăng
Quang minh hơn mặt trời
Trí sâu hơn biển cả
Bất động hơn Tu du
Bước đi như sư tử
Mắt hơn cả ngựa vương.
Lại vì quá vui mừng Tôn giả lớn tiếng nói kệ:
Đem tâm thanh tịnh nghiệp
Nay đắc diệu quả này
Vì tự nghiệp sơ tạo
Chẳng phải do ai làm
Vô lượng vô số kiếp
Tu tịnh thân khẩu nghiệp
Cụ túc hành lục độ
Trang nghiêm không chướng thân
Người thấy đều hoan hỷ
Oan gia cũng yêu mến
Ta nay thấy Như Lai
Làm sao không hoan hỷ.
Lúc này Tôn giả tư duy nghĩ đến Đức Phật cho nên không biết đó là Ma. Đem thân đảnh lễ dưới chân Ma. Khi đó Ma vương kinh hãi liền nói:
- Trưởng lão đã không giữ lời giao kết. Trưởng lão đáp:
- Giao kết gì? Ma vương nói:
- Trước đã hứa với tôi, nếu tôi hóa ra sắc thân Đức Phật thì không được lễ lạy. Vì sao vừa thấy đã lạy vậy?
Trưởng lão từ đất đứng dậy nhỏ nhẹ đáp:
- Ta chẳng phải không biết Như Lai nhập Niếtbàn đã lâu. Nhưng vì thấy sắc thân vi diệu khôn lường, cho nên mới làm lễ, chứ nào phải lễ nhà ngươi.
Ma vương nói:
- Ông đem thân lễ dưới chân tôi.
Vì sao lại nói không lễ? Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Ta không lễ ngươi, ngươi không trái hẹn, ngươi nên nghe đây, thí như lấy đất để tạo tượng Đức Phật, nếu ngươi lễ kính, thì cũng nghĩ tưởng lễ Đức Phật chứ không phải lễ đất. Ta nay thấy, tâm tưởng nghĩ đến Đức Phật chứ không tưởng ma.
Lúc này Ma vương trở lại thân cũ, cúng dường Ưu-ba-cấp-đa rồi trở về bản xứ. Qua bốn ngày sau Ma vương liền tự mình đánh chuông, khiến cho mọi người cùng nghe biết nếu muốn sinh thiên hay nhập Niết-bàn, thì nên đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cấpđa mà thọ chánh pháp. Nếu có người chưa được thấy Đức Phật, nên đến xem Ưu-ba-cấp-đa.
Sau đó Ma vương lại nói kệ:
Nếu người muốn phú quý
Không thích chốn bần cùng
Nếu thích vui thiên thượng
Và vui Đại Niết-bàn
Nên đến nghe pháp thọ
Tư duy mọi nghĩa thú
Nếu người chưa từng thấy
Tối thắng Lưỡng túc tôn
Đại sư có từ bi
Tự nhiên được Thánh pháp
Tất đều đi đến Chỗ
Ưu-ba-cấp-đa Vị
này vì thế gian Làm
ngọn đèn soi sáng.
Khi những lời này đến khắp cõi nước Ma-thâula nói là Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa đã hàng phục Ma vương rồi. Chư Bà-la-môn ở nước Ma-thâu-la, cùng tất cả nhân dân đều đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa. khi đó Ưu-ba-cấp-đa ngồi trên tòa sư tử vì chúng mà thuyết pháp, tâm không có lo sợ ví như sư tử, liền nói kệ:
Nếu người không có trí
Không lên tòa Sư tử
Ví như lên tòa cao
Càng sinh lòng sợ hãi
Như sư tử không sợ
Hàng phục hết ngoại đạo
Nếu có thể như thế
Kham ngồi tòa Sư tử.
Lúc này Ưu-ba-cấp-đa lúc đầu nói pháp xong rồi, lần lượt nói đến các pháp Tứ đế, có vô số người đắc quả A-na-hàm, quả Tư-đà-hàm, quả Tu-đàhoàn, nhẫn đến có một vạn người xuất gia tọa thiền duy, tinh tấn tu đạo đến đắc quả A-la-hán, Ở núi Đề hồ lớn có một hang đá, dài mười tám khuỷu tay, rộng mười hai khuỷu, khi hàng đệ tử đã chứng đắc. Trưởng lão nói:
-Trong hàng đệ tử của ta được giáo hóa chứng quả A-la-hán. Nếu đắc quả A-la-hán rồi thì lấy tấm thẻ tre bốn tấc bỏ vào hang. Nhẫn đến trong một ngày có đến một vạn tám ngàn A-la-hán đều lấy thẻ bỏ vào trong hang.
Danh tiếng của Tôn giả vang khắp cả đại địa. Ở đâu cũng biết là ở nước Thâu-ma-la có Ưu-bacấp-đa, là đệ tử Đức Phật giáo hóa bậc nhất.
-------------------------------------
Lúc này Xá-na-bà-tư xuất gia cho Ưu-ba-cấpđa xong rồi. Ưu-ba-cấp-đa hàng phục Ma vương cũng xong, rồi nhiếp hóa chúng sinh. Xá-na-bà-tư suy nghĩ, ta nay nhiếp thọ chánh pháp đã xong, nay ta muốn đi đến nước Kế tân để thọ Tam-muội lạc như Đức Thế Tôn đã thọ ký. Nước Kế tân là nơi tọa thiền đệ nhất. Thế là Xá-na-bà-tư liền đi đến nước kia. Vào trong hang đá nhập Tam-muội lạc, có gió thanh tịnh thổi đến mát thân, tức liền chứng quả A-la-hán thọ vui giải thoát. Mà nói kệ:
Trước đắp y Xá-na
Xúc ngũ chủng Tam-muội
Ở trong núi tối thắng
Đoạn tọa nhập thiền định
Khiến trong gió xuất tiếng
Biến khắp nước Kế tân
Là Xá-na-bà-tư
Nay đã đắc pháp lạc
Đem thanh tịnh tự thệ
Đắc vô lậu giải thoát
Nay Xá-na-bà-tư
Tự nói lời kệ này.
Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa, đến chùa Na-sĩ Bà-sĩ trong núi Đề hồ thuộc nước Ma-thâu-la, cách chùa không bao xa có một con hỗ, mới sinh con nên không thể đi tìm thức ăn, đói rét khốn cùng liền bị mạng chung, Ưu-ba-cấp-đa vì lòng Từ bi nên cho hỗ ăn. Lúc này Tôn giả có năm trăm đệ tử chưa đắc đạo, thưa với thầy rằng:
- Vì sao lại đem thức ăn cho chúng sinh bị nạn này. Thầy đáp:
- Thiện nam tử! Vì gieo nhân giải thoát cho nó. Vị đệ tử kia nghe nói thì tâm sinh nghi hoặc nghĩ:
- Chúng sinh nạn xứ này vì sao mà được nhân duyên giải thoát, khi đó hỗ con mạng sống đã gần muốn dứt.
Ưu-ba-cấp-đa nói với hổ rằng:
Tất cả hành đều vô thường, Niết-bàn tịch tĩnh, ngươi nghe ta nói nên sinh tinh tấn, cõi súc sinh nên nhàm chán xa lìa.
Hổ con đối với trưởng lão rất là kính tin, khi sinh lòng kính tin rồi thì mạng chung.
Người trong Ma-thâu-la, có một đứa con đến khi bảy tuổi được Ưu-ba-cấp-đa giáo hóa liền xin xuất gia. Ở trong bảy năm đắc quả A-la-hán, dùng lực thần thông, hái các loài hoa đem đến cúng dường Tôn giả. Lúc này Ưu-ba-cấp-đa cùng các hàng đệ tử vây quanh. Đệ tử La-hán từ trên không trung xuống đến trước mặt Tôn giả. Năm trăm đệ tử trước kia vẫn chưa đắc đạo thưa với thầy rằng:
- Người này cùng học với con từ khi còn nhỏ, vì sao lại có công đức thần thông như thế.
Tôn giả đáp:
- Đây trước kia vốn là hổ con. Ngày đó ngươi bảo vì sao lại cho chúng sinh này ăn. Vì được ta nói pháp cho đến được quả này. Ưu-ba-cấp-đa liền vì năm trăm đệ tử này mà thuyết pháp, chư đệ tử càng sinh tâm hỗ thẹn, đoạn trừ hết phần não mà đắc quả A-la-hán.
Ở Nam Thiên trúc có một nam tử đi xuất gia tu học Phật pháp, thường sợ sinh tử mà không đắc Niết-bàn. Sinh tâm nghĩ rằng:
- Ai có thể thuyết pháp giáo hóa cho ta. Nghe nói ở nước Ma-thâu-la, Thế Tôn có thọ ký cho đệ tử giáo hóa tối thắng là Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa.
Nghe rồi liền tìm đến nước Ma-thâu-la, chỗ Ưu-ba-cấp-đa. Đến rồi lễ dưới chân Tôn giả chắp tay thưa rằng:
- Trưởng lão, Đức Phật đã Niết-bàn, nay Ngài đang làm Phật sự xin thuyết pháp cho con.
Ưu-ba-cấp-đa thấy vị này là thân sau cùng chán sợ khổ sinh tử, lại thấy thân này từ xa đến rất là gầy yếu, bệnh hoạn, liền nói:
- Thiện nam tử! Ông nên nghĩ ngợi và chỉ nên uống ăn nhủ lạc bồi bổ. Nước Ma-thâu-la có các loại ẩm thực mà không có tô lạc. Tôn giả dạy phải đi kiếm chỗ khác. Người ấy đi giữa đường gặp nhiều nữ nhân, đang đem nhủ lạc tô từ nước khác muốn vào nước này. Các nữ nhân đó mới hỏi:
- Vì sao ngài lại gầy yếu thế? Đáp:
- Tỷ muội! Tôi sinh ở Nam Thiên trúc thường ăn nhủ lạc, ở xứ này có các loại thực phẩm khác mà không có nhủ lạc, cho nên mới gầy yếu. Bây giờ các vị nữ nhân lưu lại đó mấy ngày, mỗi người đều đem các loại nhủ lạc tô đến cúng dường. Vị ấy dùng xong thì thân thể trở nên cường tráng. Ưu-bacấp-đa liền thuyết pháp cho nghe, vị kia tinh tấn tu tập không bao lâu liền đắc quả A-la-hán. Ưu-bacấp-đa nói:
- Ông lấy một thẻ tre đem bỏ vào hang, vị ấy liền thọ giáo.
Ở Nam Thiên trúc có một người, thường dâm dục với vợ của người, người mẹ không cho mới nói rằng:
- Nếu người làm việc xấu xa này, thì sẽ gặp điều xấu.
Người này giận dữ liền hại chết mẹ mình, rồi bỏ đi đến nước khác. Đến đó thì không có đầy đủ ngũ dục, lòng rất ưu não. Liền đi xuất gia nương theo Phật pháp, không bao lâu thông đạt cả Tam tạng, thành tựu đa văn, có nhiều đệ tử vây quanh. Rồi đi đến chùa Na-sĩ Ba-sĩ nước Ma-thâu-la đảnh lễ Ưu-ba-cấp-đa.
Tôn giả liền quán xét, thấy vị này hại mẹ tội nặng, cho nên không thể đắc đạo. Tuy ở xa mà cũng không ân cần thăm hỏi. Vị Tỳ-kheo kia thấy vậy tâm rất hỗ thẹn, bỏ đi chỗ khác. Năm trăm Tỳ-kheo đệ tử chưa đắc đạo của Ưu-ba-cấp-đa thấy vậy thì tỏ vẻ không bằng lòng với thầy của mình mà suy nghĩ:
- Hòa thượng rất ít trí, thấy các vị lão Tỳ-kheo tâm trí ám độn thì lại thuyết pháp. Nay Tỳ-kheo này thông minh mẫn tuệ cả tam tạng, có đệ tử theo đông mà lại không thuyết pháp. Ưu-ba-cấp-đa thấy tâm niệm đệ tử như vậy thì có vẻ giận. Lại biết tâm này nên để cho Hòa thượng Xá-na-bà-tư giáo hóa hàng phục. Bấy giờ Xá-na-bà-tư đã đến nước Kế tân. Quán xét thấy hôm nay Ưu-ba-cấp-đa có làm Phật sự được không? Liền thấy năm trăm người đệ tử tâm rất áo não không kinh tín thầy mình.
Thấy rồi thì suy nghĩ:
- Ưu-ba-cấp-đa vì duyên cớ nào mà không giáo hóa được. Lại quán xét thêm, thấy các vị này chỉ có ta mới khuyến hóa được. Thế là Xá-na-bà-tư dùng thần lực đi đến nước kia. Ưu-ba-cấp-đa đi xa. Xá-na-bà-tư liền vào chùa, râu tóc để dài, y phục lại thô xấu. Đệ tử Ưu-ba-cấp-đa thấy vậy thì nói:
- Vô tri lão nhân từ đâu mà đến chùa thầy ta, vị Tỳ-kheo trước thông đạt cả tam tạng, mà Hòa thượng không thuyết pháp, vị này già suy chẳng lẽ lại thuyết pháp cho nghe.
Xá-na-bà-tư vào chùa vào chỗ của Ưu-ba-cấpđa ngủ nghỉ. Đệ tử của Ưu-ba-cấp-đa thấy vậy thì giận lấy tay kéo ra, mà vẫn không thể lay động, ví như núi Tu-di. Liền muốn mắng mà miệng vẫn không thể mở ra. Rồi đến thưa với Ưu-ba-cấp-đa rằng:
- Có một bần lão Tỳ-kheo vào trong chỗ hòa thượng mà nằm. Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Trừ ta và Hòa thượng thì không ai có thể nằm vào chỗ ta. Thế là Ưu-ba-cấp-đa trở về chùa, đem các vật phẩm đến cung kính cúng dường cho Hòa thượng, rồi lấy tòa nhỏ đến ngồi ở một bên thầy.
Các đệ tử của Ưu-ba-cấp-đa thấy vậy thì nghĩ:
- Nếu vị Tỳ-kheo này là thầy của Hòa thượng, nhưng trí tuệ sao lại không bằng Hòa thượng.
Xá-na-bà-tư biết ý đó liền suy nghĩ:
- Ta phải tìm phương tiện gì để trừ tâm kiêu mạn đó. Thế là đưa cách tay mặt phun ra dòng sữa và hỏi Ưu-ba-cấp-đa:
- Thiện nam tử! Đây là Tam-muội gì? Ưu-bacấp-đa đáp:
- Con không biết đây là Tam-muội gì? Hòa thượng nói:
- Đây gọi là long tấn thân Tam-muội.
Lần thứ hai lại xuất ra dòng sữa và hỏi đây là Tam-muội gì? Ưu-ba-cấp-đa đáp:
- Con cũng không biết đây là Tam-muội gì?
Hòa thượng nói:
- Tam-muội này có tên là Thanh hòa hợp giác. Cho đến rộng nói các thứ Tam-muội Ưu-bacấp-đa liền hỏi Hòa thượng:
Hòa thượng thường nói:
- Chẳng phải cảnh giới của ta thì không thể nói được Xá-na-bà-tư nói với Ưu-ba-cấp-đa.
Thiện nam tử! Tam-muội do trí Đức Phật thọ trì. Hàng Bích-chi-phật không thể nghe được tên. Tam-muội của Bích-chi-phật, thì Xá-lợi-phất không nghe được tên. Tam-muội trí của Xá-lợiphất thọ trì thì Mục-kiền-liên không nghe được tên.
Trí Tam-muội của Mục-kiền-liên thọ trì thì Ma-ha Ca-diếp không nghe được tên. Trí Tam-muội của Hòa thượng thì ta cũng không nghe được tên.
Xá-na-bà-tư nói:
- Thiện nam tử! Lúc ta Niết-bàn thì Tam-muội này cũng diệt theo. Lại bản sinh của Đức Thế Tôn có bảy vạn bảy ngàn tên cũng đều mất, một vạn Atỳ-đàm cũng mất.
Hàng đệ tử của Ưu-ba-cấp-đa nghe những lời này thì rất áo não, liền tư duy. Vị Tỳ-kheo này trí tuệ còn thù thắng hơn Hòa thượng ta, bèn diệt trừ ngay tánh kiêu ngạo. Xá-na-bà-tư vì họ mà giáo hóa thuyết pháp, làm cho hàng đệ tử đều đắc quả A-la-hán. Khi đó Trưởng lão Xá-na-bà-tư nói với Ưu-ba-cấp-đa: Thiện nam tử! Thế Tôn phó chúc pháp tụng cho Ma-ha Ca-diếp rồi nhập Niết-bàn. Ma-ha Ca-diếp phó chúc lại cho Hòa thượng ta rồi nhập Niết-bàn. Hòa thượng phó chúc cho ta rồi nhập Niết-bàn. Ta nay cũng phó chúc cho ông để nhập Niết-bàn, pháp tạng đây ông phải khéo giữ gìn. Ở nước Ma-thâu-la này có một người tên là Hy-vi-kha. Hãy giáo hóa cho người này xuất gia và giao phó pháp tạng lại.
Xá-na-bà-tư nói phó chúc pháp lại cho Ưu-bacấp-đa xong rồi, liền dùng thần lực bay lên hư không, hiện đủ bốn oai nghi nhập hỏa Tam-muội.
Nhập Tam-muội xong thì có các thứ hoa xanh vàng đỏ trắng, từ trong thân bay ra, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; trên thân ra lửa, dưới thân ra nước. Thân tướng đoan nghiêm thì như có một ngọn núi ở bên thân xuất ra lửa, phun ra nước.
Xá-na-bà-tư hóa đủ loại thần lực, khiến cho Tỳ-kheo và chư Đàn-việt tâm đều được khai ngộ. Khuyến hóa xong rồi thì trưởng giả liền nhập Niếtbàn, như nước diệt lửa, Ưu-ba-cấp-đa cùng một vạn tám ngàn đệ tử A-la-hán đến cúng dường thân Hòa thượng và khởi xây tháp miếu.
Lúc này Ưu-ba-cấp-đa đi đến nước Ma-thâu-la, chùa Na-sĩ Bà-sĩ, ở phía Bắc Thiên trúc có một thiện nam tử đi xuất gia học đạo. Vị này đa văn túc trí, thông đạt cả tam tạng, khéo thuyết pháp vi diệu ở khắp mọi nơi, tất cả mọi người khi thỉnh ngài thuyết pháp, thì cũng vì họ mà ba lần thuyết. Ngài thường tư duy:
- Ai có thể thuyết pháp pháp khuyến hóa cho ta đắc đạo. Rồi nghe ở nước Ma-thâu-la có Tỳ-kheo tên Ưu-ba-cấp-đa có vô tướng Phật, Đức Phật đã thọ ký là bậc giáo hóa đệ nhất. Nghe rồi thì tìm đến chỗ của Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa thưa:
- Thế Tôn đã Niết-bàn, nay có trưởng lão làm Phật sự xin vì con mà thuyết pháp, liền nói kệ:
Phật có đại Từ bi
Đã lâu vào Niết-bàn
Ngài nay làm Phật sự
Thế gian trừ tăm tối
Trí tuệ ngài soi sáng
Như mặt trời chiếu soi
Không có ai sánh bằng
Duy ngài làm Tôn sư
Hóa đệ tử tối thắng
Trưởng lão nên độ tôi.
Ưu-ba-cấp-đa quán xét tâm vị này, thấy đây là thân cuối cùng thoát được sinh tử, làm sao trước đây chưa đắc được Thánh pháp. Quán thấy được nhân duyên chưa được đầy đủ. Tôn giả liền tạo nhân duyên cho đầy đủ. Lại thấy tâm vị này ham thích tọa thiền mà không ưa thuyết pháp.
Tôn giả nói:
- Thiện nam tử! Nếu ông có thể thọ nhận lời dạy của ta, thì ta sẽ vì ông mà khai đạo.
Đáp:
- Con xin y giáo. Tôn giả liền nói:
- Ông nên nói tam chủng pháp. Vị kia hỏi:
- Tu-đa-la nào mà tôi có thể nói. Tôn giả đáp:
- Có nghe nhiều về năm loại công đức:
1. Ấm phương tiện.
2. Giới phương tiện.
3. Nhập phương tiện.
4. Nhân duyên phương tiện.
5. Giáo hóa thuyết pháp người và đợi người khác giáo hóa.
Nghe Tôn giả giáo hóa, vị ấy nhẫn đến ba lần thuyết pháp và lần lượt thuyết các pháp khác. Thuyết pháp xong thì đắc quả A-la-hán rồi lấy thẻ đặt vào trong hang.
(Đề-bà Lạc-khởi-đa)
Có một người thương chủ tên là Thiên Hộ đi đến nước Lăng-cầu-na, có lòng kính tin Phật pháp ưa việc bố thí, muốn đi ra biển có lời phát nguyện rằng:
- Nếu được an ổn trở về, sẽ đến trong Phật pháp lập đại hội năm năm. Lúc ấy có một vị La-hán Tỳ-kheo-ni đi đến nước kia tư duy quán xét, xem Thiên Hộ đi ra biển trở về có được an ổn không? Biết là người được an ổn trở về; lại biết được người này trở về thì ở trong Phật pháp thiết lập đại hội năm năm. Lại thấy trong đại hội có bao nhiêu vị Tăng hòa hợp, lại có một vạn tám ngàn vị đắc quả A-la-hán. Còn kẻ học nhân và phàm phu tinh tấn thì vô số.
Lại quán sát ai là Hòa thượng ở đó. Lại thấy Thượng tọa tên A-sa-đà, lại quán xem hòa thượng đã chứng quả chưa liền biết là vẫn còn là phàm phu. Quán xét biết vị Thượng tọa này rất tinh tấn tu hành, liền muốn đi đến để gieo nhân làm lợi ích cho người La-hán Tỳ-kheo-ni, đến chỗ Tăng già lam kia, đến chỗ Thượng tọa làm lễ và hỏi:
- Đại đức! Ngài chưa được đoan nghiêm.
Thượng tọa suy nghĩ:
- Vì sao lại nói ta chưa được đoan nghiêm?
Liền tự quán xét thân thể, thấy râu tóc đã dài. Thượng tọa liền gọi một vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi đến cạo râu tóc giúp mình cho sạch sẽ.
Vị Tỳ-kheo-ni lại tư duy xem Đại đức có hiểu lời mình không?
Biết là vị Đại đức chưa hiểu ý.
Tỳ-kheo-ni lại đến trong Già lam, lễ bái và nói:
- Đại đức! Ngài chưa được đoan chánh. Thượng tọa nghĩ:
- Ta đã cạo râu tóc sạch sẽ, vì sao lại còn chưa đoan nghiêm.
Lại quán xét thân thấy y phục thô xấu, liền kêu tiểu Tỳ-kheo đem đi giặt dũ xong thì mặc vào lên tòa ngồi. Vị Tỳ-kheo-ni La-hán biết Đại đức vẫn chưa hiểu ý. Lần thứ ba lại đến chỗ Tăng già lam, Tỳ-kheo-ni lễ bái và nói:
- Đại đức không được đoan nghiêm, thế là làm cho Đại đức nổi giận.
Ta đã cạo râu giặt y sạch sẽ. Vì sao còn cho là ta chưa được đoan nghiêm.
Tỳ-kheo-ni thưa:
- Vì sao lại đem những thứ này trang nghiêm Phật pháp. Nếu đắc được Tứ quả thì mới là trang nghiêm Phật pháp.
Lại nữa, Đại đức có nghe thương chủ Thiên Hộ có phát nguyện, nếu đi biển trở về an ổn sẽ lập đại hội năm năm ở trong Phật pháp không?
Đại đức đáp:
- Có nghe.
Tỳ-kheo-ni nói:
- Đại đức có biết chúng Tăng trong hội này bao nhiêu không? Đáp:
- Không biết? Tỳ-kheo-ni nói:
- Có một vạn tám ngàn A-la-hán, còn học nhân phàm phu thì vô số.
Đại đức là phàm phu Thượng tọa đệ nhất ở trong chúng A-la-hán thọ sự cúng dường trước tiên, có được trang nghiêm không? Đại đức nghe thì than khóc buồn rầu.
Tỳ-kheo-ni nói:
- Vì sao Đại đức lại khóc? Đáp:
- Tỷ muội! Tôi nay đã già, không có thể còn lãnh thọ được. Tỳ-kheo-ni liền nói kệ:
Pháp Như Lai đã thấy
Do chưa có nhân duyên
Nếu muốn được giải thoát
Được thời thì quả đắc.
Đại đức nên đến chùa Na-sĩ Bà-sĩ có Tỳ-kheo tên Ưu-ba-cấp-đa, Đức Phật đã thọ ký, vì này là đệ tử giáo hóa đệ nhất.
Thế là Đại đức liền đi đến nước Ma-thâu-la tới chùa Na-sĩ Bà-sĩ. Ưu-ba-cấp-đa thấy trưởng lão đến liền ra ngoài nghinh tiếp. Hỏi rằng:
- Đại đức! Rửa chân rồi nghỉ ngơi. Tỳ-kheo đáp:
- Tôi chưa rửa chân, muốn gặp Tôn giả Ưu-bacấp-đa. Đệ tử Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Đại đức! Đây chính là Tôn giả đang đến cung nghinh Đại đức.
Tỳ-kheo kia nghe rồi, trong lòng rất vui vẻ, liền đi rửa chân.
Ưu-ba-cấp-đa bèn thuyết pháp giáo hóa vị Tỳ-kheo. Lại có Đàn việt đem vật thực y phục đến cúng dường.
Lại nói với vị Duy-na rằng:
- Nay có được hai vị Tỳ-kheo giải thoát vào chỗ tọa thiền cho đến một vạn tám ngàn vị La-hán liền vào nhập định.
Vị Tỳ-kheo thứ nhất vào ngồi thiền mà lại ngủ gục. Vị Duy-na lấy đèn đặt ở trước vị đó và đàn chỉ. Tỳ-kheo tỉnh dậy, muốn cầm lấy cái đèn. Lúc này, Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa nhập hỏa Tam-muội. Một vạn tám ngàn vị A-la-hán cũng nhập hỏa Tammuội. Vị Tỳ-kheo thấy vậy thì rất vui mừng, liền nói kệ:
Tất cả chư Tỳ-kheo
Kiết già ngồi trên đất
Uy nghi và rạng rỡ
Chói sáng như đèn trời.
Ưu-ba-cấp-đa liền thuyết pháp khuyến hóa, vị Tỳ-kheo tinh tấn tư duy tu niệm liền đặt quả A-lahán. Những việc làm đã làm xong liền trở về bổn tự. La-hán Tỳ-kheo-ni đến Tăng Già lam, lễ bái thưa:
- Nay Đại đức đã được trang nghiêm. Tỳ-kheo đáp:
- Tỷ muội! Đều nhờ lực của người.
Sau đó Thượng tọa Thiên Hộ an ổn trở về, lập đại hội năm năm. Trong hội có một vạn tám ngàn La-hán hòa hợp cùng với chúng học nhân nhiều vô số và phàm phu tinh tấn không kể hết.
Đại đức Thượng tọa liền chú nguyện cho Thiên Hộ: "Đa bạt đa kha đề bạt kha ê bà bạt đa kha khê bạt trẫm bà tỷ sa để".
Cho đến năm năm công đức đã xong. Lại cũng chú nguyện như thế.
Thương chủ Thiên Hộ hỏi Thượng tọa:
- Đức Thế Tôn cũng đọc thần chú như Thượng tọa: "Đa bạt đa kha đề bạt kha ê bà bạt đa kha khê bạt trẫm bà tỷ sa để" mà không có khác.
Thượng tọa đáp:
- Thiện nam tử! Ta thường tư duy để chú nguyện công đức cho ông, trong quá khứ chín mươi mốt kiếp ta cũng làm thương chủ, đóng thuyền lớn để ra biển tìm châu báo, khi đầy rồi thì cho thuyền trở về nước, gặp lúc gió lớn đẩy thuyền đi vào biển cát. Ta vì Đức Phật Tỳ-bà-thi mà lấy cát xây tháp và đem trân bảo cúng dường. Bấy giờ có chư Thiên đến chỉ đường cho bọn ta đi, cả bọn liền sửa soạn lại thuyền. Chư Thiên nói:
- Bảy ngày nữa sẽ có nước lớn dâng lên, đưa cả bọn về. Đó là nhân duyên xây tháp cát. Trải qua chín mươi mốt kiếp không bị đọa vào ác đạo. Cũng do nhân duyên đó mà ta đắc quả A-la-hán, ông nay có thể cúng dường một vạn tám ngàn vị A-la-hán, cùng chúng học nhân gấp đôi và phàm phu tinh tấn thì vô số, ở trong Tam bảo đã cúng dường, cho nên ta đọc chú nguyện.
Lại nữa, thiện nam tử! Sinh, già, bệnh, chết sự khổ thật khôn cùng, ông nên ở trong Phật pháp xuất gia.
Sau đó Thiên Hộ xuất gia đắc được quả A-lahán.
Ở nước Ma-thâu-la có một Bà-la-môn, thường chấp ngã kiến, hỏi đệ tử rằng:
- Có người tạo ra sinh tử không? Người Phật tử đáp:
- Bà-la-môn nên đến chùa Na-sĩ Bà-sĩ, ở đó có Tỳ-kheo Ưu-ba-cấp-đa, thường thuyết pháp vô ngã.
Bà-la-môn đi đến chùa Ưu-ba-cấp-đa đang thuyết pháp cho tứ chúng thấy Bà-la-môn liền thuyết vô ngã kệ:
Thế gian không có ngã
Cũng không có ngã sở
Vô nhân vô thọ mạng
Duy có tâm sinh tử.
Bà-la-môn nghe thuyết pháp vô ngã, thì ngã kiến liền đoạn. Ưu-ba-cấp-đa độ cho xuất gia và thuyết pháp giáo hóa. Bà-la-môn tinh tấn tư duy liền chứng quả A-la-hán. Bà-la-môn những việc làm đã làm xong, lấy một thẻ tre đem để vào hang.
Có một thiện nam nữ theo Ưu-ba-cấp-đa xuất gia, thường hay ngủ nghỉ khi nghe Ưu-ba-cấp-đa thuyết pháp cũng ngủ. Tôn giả dạy vị này vào chỗ tọa thiền, đến dưới gốc cây ngồi kiết già nhưng vẫn cứ ngủ. Ưu-ba-cấp-đa liền dùng thần lực. Ở bên chỗ vị đó ngồi thiền hóa ra các hố sâu, sâu cả ngàn khuỷu tay. Vị Tỳ-kheo thấy các hố sâu thì kinh sợ tỉnh ngủ. Tôn giả lại hóa ra một con đường đi được vị Tỳ-kheo liền nương theo đường đi đó đi đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa. Tôn giả lại bảo đi về chỗ cũ ngồi thiền.
Tỳ-kheo thưa:
- Hòa Thượng! Ở đó có hố sâu cả ngàn khuỷu tay. Tôn giả bảo:
- Hố sâu này chỉ là chuyện nhỏ. Hố sâu sinh tử mới là điều trọng đại, cho đến sự sinh, già, bệnh, chết ưu bi khổ não. Nếu người không chứng tứ đế thì sẽ bị rơi vào đó.
Vị Tỳ-kheo lại đi đến nơi gốc cây kiết già mà ngồi. Tâm tư duy sợ hố sâu cho nên không dám ngủ gật. Vì lo sợ nên rất thích tinh tấn, dứt trừ hết phiền não đắc quả A-la-hán. Rồi lấy một thẻ tre để vào hang.
Có một thiện nam tử, là người ở nước phía Đông. Trong Phật pháp xuất gia làm người cấp sự. Chư Tỳ-kheo ở chùa đó thường hay sai làm các công việc. Chư Tỳ-kheo lại nói:
- Nếu có Đàn-việt đến đến chỗ ông, ông nên giáo hóa khiến cho làm các việc công đức. Vị này khuyến hóa làm công việc cấp sự đến lúc nhàm chán mệt mỏi, bèn suy nghĩ rằng:
- Ai có thể vì ta thuyết pháp giáo hóa lại nghe ở nước Ma-thâu-la có Tỳ-kheo Ưu-ba-cấp-đa, là bậc giáo hóa người bậc nhất liền tìm đến. Đến rồi làm lễ chắp tay thưa:
- Đại đức! Đức Phật đã nhập Niết-bàn. Nay ngài làm Phật sự xin vì tôi mà thuyết pháp.
Tôn giả tư duy thấy vị này, đây là thân cuối cùng để thoát sinh tử, lại suy nghĩ thêm xem vì sao mà chưa đắc thánh quả. Thấy là nhân duyên chưa đủ. Vậy phải dùng phương tiện để cho được đầy đủ nhân duyên.
Nếu càng tạo nhân duyên cấp sự cho đủ, nhưng vì mỏi mệt nên chưa làm đủ.
Tôn giả liền nói:
- Thiện nam tử! Nếu theo lời ta chỉ dạy, thì ta sẽ thuyết pháp. Đáp:
- Con xin nghe theo. Tôn giả nói:
- Ông nên ở trong chúng Tăng khuyên làm các việc cấp sự. Đáp:
- Đại đức! Ở nước Ma-thâu-la này con không biết ai là người tinh tấn còn ai không?
Đại đức nói:
- Ngày mai có thể vào thành sớm được không?
Đáp:
- Có thể.
Tỳ-kheo lại hỏi:
- Chúng Tăng ở chùa này có bao nhiêu vị? Tôn giả đáp:
- Có một vạn tám ngàn La-hán. Chúng học nhân thì gấp đôi, còn phàm phu tinh tấn thì vô số. Thế là vị Tỳ-kheo vì Tăng chúng và làm cấp sự, khiến cho Tăng chuyên tu đạo nghiệp.
Sáng sớm vị Tỳ-kheo đắp y trì bát đi vào thành Ma-thâu-la. Lúc này có một vị trưởng giả, từ thành đi ra gặp Tỳ-kheo. Dù chưa từng gặp, nay được gặp liền lễ lạy rồi thưa:
- Đại đức từ xa đến đây? Tỳ-kheo đáp:
- Tôi từ phía Tây đông. Trưởng lão hỏi:
- Ngài đến đây có việc gì? Tỳ-kheo đáp:
- Tôi đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa để cầu nghe pháp, mà Tôn giả dạy tôi phải vì Tăng chúng làm việc cấp sự.
Tôi nay không ở nước Ma-thâu-la này ai là người tinh tấn làm việc cấp sự.
Trưởng giả nói:
- Ngài chớ lo âu. Tôi sẽ thay người làm việc cấp sự. Tất cả ẩm thực, y phục, y dược của chúng Tăng tôi sẽ cung cấp đủ. Thế là Tỳ-kheo cùng trưởng giả mang các vật phẩm về cúng dường chúng Tăng. Trong ba tháng an cư, Tỳ-kheo luôn tư duy làm các công đức, rồi chứng quả A-la-hán.
Lại đem một thẻ tro bỏ vào hang đá.
Ở nước phía Đông có một thiện nam tử đến trong Phật pháp xuất gia, có thể làm các công việc sắc xảo khéo léo. Chúng Tăng ở trong chùa đều khiến vị này tạo lập chùa cùng các việc phòng xá nhà cửa. Ngày nay đều như thế nên sinh tâm nhàm chán, tự suy tư rằng:
- Ta muốn tọa thiền quán tưởng. Đức Phật trước đã dạy chư Tỳ-kheo nên ngồi thiền tu đạo không được phóng dật lại nghĩ:
- Ai có thể vì ta thuyết pháp giáo hóa. Nghe ở nước Ma-thâu-la có Tỳ-kheo tên là Ưu-ba-cấp-đa. Đức Phật đã giáo hóa vị này là bậc giáo hóa đệ tử đệ bậc nhất. Nghĩ xong liền đi đến chùa kia lễ bái Tôn giả và chắp tay thưa:
- Đại đức! Đức Phật đã Niết-bàn. Nay xin vì tôi mà thuyết pháp.
Tôn giả biết vị này là thân rốt cùng giải thoát sinh tử, nhưng vì sao lại chưa đắc Thánh đạo. Quán thấy nhân duyên chưa đủ, phải tìm phương tiện khiến cho được đầy đủ. Vị này có hạnh nguyện làm các việc thiện xảo, nhưng vì mỏi mệt nên làm chưa đủ.
Tôn giả nói:
- Thiện nam tử! Nếu theo lời ta dạy thì ta sẽ thuyết pháp. Đáp rằng:
- Xin vâng.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Nơi nào chưa có chùa, ông nên khởi xướng làm chùa. Đức Phật có thọ ký rằng:
- Nếu có chỗ nào chưa có chùa mà có người tạo dựng thì công đức thật vô cùng.
- Đại đức! Ở nước này con không biết ai tinh tấn, ai không? Đại đức nói:
- Ông có thể sáng sớm đắp y trì bát đi vào thành.
Vị Tỳ-kheo y lời, khi đó có vị Trưởng giả từ thành đi ra, gặp Tỳ-kheo thì chắp tay làm lễ thưa hỏi:
- Ngài từ đâu đến? Tỳ-kheo đáp:
- Tôi từ phương Đông đến. Hỏi:
- Có chuyện gì? Đáp:
- Tôi đến chỗ Tôn giả của Ưu-ba-cấp-đa để nghe pháp. Nhưng Tôn giả bảo tôi nếu có chỗ nào chưa có chùa thì nên khuyên hóa xây. Tôi nay không biết đây ai làm Đàn-việt.
Trưởng lão nói:
- Đại đức. Xin đừng lo lắng tôi sẽ cùng ngài lo việc này.
Trưởng lão cung cấp vật liệu cho Tỳ-kheo khởi công xây chùa. Tỳ-kheo từ đó trừ hết phiền não, liền đắc quả A-la-hán, liền đem thẻ tre vào trong hang đá.
Ở nước Ma Thâu La có một thiện Nam tử đến cầu Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa xuất gia. Vì còn tham ăn uống nên chưa đắc đạo. Ưu-ba-cúc-đa nói:
- Sáng mai ta cùng ông đi khuất thực. Đến sáng Tôn giả lấy 2 bình bát. Một bát đựng đầy cháo và một bát không đặt trước mặt vị ấy và nói:
- Ông ăn đi.
Rồi đưa bình bát không và nói:
- Ông giữ bát này đợi cháo nguội rồi ăn. Vị Tỳ-kheo cầm bát mà vì muốn ăn liền, cho nên dùng miệng thổi cho nguội. Vài lần như thế rồi bạch Hòa thượng:
- Con đã thổi cháo nguội rồi. Tôn giả nói:
- Ông có thể làm cho cháo nguội, mà tâm ông lại ưa thích việc nóng nảy. Ông thổi cháo nguội là vì muốn được ăn ngay. Nên dùng bất tính quán để trừ tâm nóng nảy này. Nếu thích ăn uống thì nên xem đó như y dược.
Bấy giờ Tỳ-kheo ăn xong, liền trở ra bát. Tôn giả nói:
- Ông ăn đi. Tỳ-kheo thưa:
- Đây là đồ bất tịnh làm sao ăn được? Tôn giả nói:
- Ông nay nên quán tất cả pháp như là đồ bất định.
Tôn giả lại vì Tỳ-kheo mà nói pháp. Nghe pháp xong vị Tỳ-kheo tinh tấn tư duy liền chứng quả A-la-hán. Rồi lấy thẻ tre bỏ vào hang đá.
Ở Nam Thiên trúc có một thiện nam tử, đi xuất gia học đạo, tu hạnh thiểu dục tri túc không thích vinh hoa, không dùng dầu sữa thoa chà trong thân, không dùng nước nóng để tắm rửa, lại không ăn bơ sữa, thường sợ việc sinh tử. Do thân tứ đại không đủ lực cho nên không đắc Thánh đạo, liền sinh tâm nghĩ:
- Ai có thể thuyết pháp độ ta. Nghe ở nước Mathâu-la có Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa liền tìm đến, chắp tay lễ bái thưa:
- Thứ Đại đức, Đức Phật đã Niết-bàn. Ngày nay ngài làm phật sự xin vì tôi mà thuyết pháp.
Tôn giả quán thấy vị này sẽ thoát sinh tử trong đời này. Nhưng chưa chứng Thánh đạo vì tứ đại suy yếu, bởi vì chỉ thích ăn mặc thô sơ, không muốn xa hoa. Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Thiên nam tử! Nên nghe lời dạy của ta, ta sẽ thuyết đáp. Đáp:
- Xin vâng.
Ưu-ba-cấp-đa liền vì ông mà giáo hóa, khiến cho Đàn-việt cúng đủ thứ ẩm thực tắm giặt cho chúng Tăng.
Lại nói với vị Tỳ-kheo:
- Ông nên tắm rửa cho vị Tỳ-kheo này.
Bấy giờ Tỳ-kheo trẻ đem các dầu lạc chà xát lên thân của vị Tỳ-kheo kia, lại đem nước nóng tắm rửa. Đến giờ ăn, đem các thức ăn ngon bổ đến cho Tỳ-kheo. Vài hôm như thế thì thân thể trở nên có khí lực mạnh khỏe. Ưu-ba-cấp-đa vì ông mà thuyết đáp. Vị Tỳ-kheo tinh tấn tu tập liền đắc quả A-lahán, rồi đem thẻ tre bỏ vào trong hang.
Ở nước Ma-thâu-la có một nam tử, khẩn cầu cha mẹ cho đi xuất gia. Rồi đến chỗ Tôn giả Ưuba-cấp-đa, lễ bái thưa rằng:
- Đại đức! Con có thể ở trong phật pháp xuất gia làm Tỳ-kheo cụ túc không? Ưu-ba-cấp-đa quán thấy người này còn đắm trước thân mình liền nói:
- Tốt lắm! Ta sẽ cho ông xuất gia. Người kia nghe xong thì làm lễ Tôn giả muốn trở về nhà. Khi đi được nửa đường thì suy nghĩ:
- Nếu ta trở về nhà thì sẽ khó mà đi xuất gia được.
Bên đường có một ngôi miếu, người này liền vào tá túc qua đêm. Ưu-ba-cấp-đa liền dùng thần lực biến ra hai con ma La-sát. Con thứ nhất đem xác chết vào trong miếu. La-sát thứ hai thì đi tay không vào. Cả hai cùng tranh nhau xác chết. Con thứ nhất nói:
- Thây chết này là của ta.
Con thứ hai cũng nói:
- Đây là của ta.
Hai con La-sát tranh nhau không được liền hỏi người này:
- Ai đem thây chết vào miếu trước?
Vị này suy nghĩ: Nếu ta nói con ma La-sát thứ hai đem thì La-sát đem vào trước sẽ giết ta. Nếu nói thật La-sát thứ nhất đem vào thì La-sát thứ hai sẽ giết ta. Vậy thì chớ nói vọng ngữ liền nói với chúng rằng:
- Kẻ này đem trước. Quỷ La-sát đi tay không nổi giận liền bẻ hết tay chân người ấy muốn ăn. Con quỷ La-sát thứ nhất liền đem chân tay của thây chết ráp vào cho người ấy mà trở nên lành lặn.
Cứ như thế chẳng bao lâu thì trời sáng hẳn. Trải qua hai ngày sau mới tới chỗ của Ưu-ba-cấp-đa. Tôn giả liền cho xuất gia. Vị tinh tấn ta hành được đắc quả A-la-hán. Bèn lấy thẻ tre bỏ vào trong hang.
Ở nước Nam Thiên trúc có một nam tử, đến trong Phật pháp xuất gia học đạo, mà còn yêu thích trao chuốc thân thể. Thường dùng dầu tô lạc để thoa chà thân và dùng nước nóng để tắm rửa. Lại thích việc ăn uống cúng dường nơi thân. Vì vậy nên không đắc đạo. Nên suy nghĩ:
- Ai có thể vì ta thuyết pháp. Nghe biết ở nước Ma-thâu-la có Ưu-ba-cấp-đa, là bậc giáo hóa đệ tử đệ nhất, liền tìm đến lễ bái thưa:
- Đại đức! Nên vì tôi thuyết pháp.
Tôn giả thấy vị này thân cuối cùng sẽ đắc đạo, chỉ vì còn đắm nơi thân nên nói:
- Thiện nam tử, nên làm theo lời ta dạy.
Ưu-ba-cấp-đa đem vị ấy vào trong núi ở trong núi dùng thần lực hóa ra một cây to và nói:
- Ông leo lên cây này. Vị Tỳ-kheo liền leo lên cây. Tôn giả hóa ra cái hố sâu ở dưới gốc cây rồi bảo Tỳ-kheo:
- Con bỏ hai chân xuống. Tỳ-kheo cũng y lời. Tôn giả lại bảo:
- Bỏ một tay ra. Tỳ-kheo y theo lời dạy. Lại bảo:
- Bỏ thêm tay kia. Tỳ-kheo thưa:
- Bỏ cả hai tay sẽ rớt xuống hầm chết. Tôn giả:-Ta trước đã nói. Phải nghe theo lời dạy. Nay vì sao lại không nghe. Vị Tỳ-kheo liền chú tâm không còn đắm trước thân, buông hai tay rớt xuống thì không còn thấy cây và hầm đây nữa. Ưu-bacấp-đa liền thuyết pháp. Vị Tỳ-kheo tinh tấn tu đắc quả A-la-hán, đem thẻ bỏ vào hang.
Ở nước Ma-thâu-la có thiện nam tử, theo Ưuba-cấp-đa xuất gia mà lòng vẫn rất bỏn xẻn. Vì vậy mà không đắc đạo. Tôn giả dạy:
-Ông nên làm bố thí. Ông nay được xuất gia là có được vật các quý nhất chớ tìm cầu vật khác. Lại phải đem pháp bố thí cho người khác. Nhẫn đến có đồ ăn trong bát cũng đem thì cho người. Nếu chưa rộng bố thí, thì tùy theo chỗ có mà bố thí từng phần. Có hai người thường ngồi gần bên vị này ngày thứ nhất, thứ hai vì lòng còn bỏn sẻn nên không cho người. Hai vị kia đều là A-la-hán. Đến ngày thứ ba vì đồ ẩm thực nhiều mới đem cho hai vị kia.
Lúc này Ưu-ba-cấp-đa thuyết pháp giáo hóa. Vị Tỳ-kheo này tinh tấn tư duy tu tập được đắc quả A-la-hán, rồi cũng đem thẻ bỏ vào hang.
Lúc này ở nước Ma-thâu-già-la có một thiện nam tử, đến trong Ưu-ba-cấp-đa thuyết pháp. Ưa thích ngủ nhiều. Ưu-ba-cấp-đa thuyết pháp cho nghe và đem vào trong rừng, bảo ngồi dưới gốc cây tọa thiền, nhưng cũng ngủ gật. Ưu-ba-cấp-đa liền hóa ra một con quỷ bảy đầu, ở trước vị kia, tay nắm cành cây mà thân treo trên hư không. Tỳ-kheo nhìn thấy liền thức dậy và rất lo sợ, liền bỏ chỗ ngồi chạy về Tôn giả lại bảo trở về chỗ tọa thiền như cũ. Tỳ-kheo thưa:
- Hòa thượng ở trong rừng có con quỷ bảy đầu, treo mình trên cành cây thật là đáng sợ.
Tôn giả đáp:
- Tỳ-kheo! Con quỷ này không đáng sợ. Tâm ưa ngủ nghỉ mới là đáng sợ. Nếu ông bị quỷ giết thì không sa vào sinh tử, còn bị ngủ nghỉ giết thì sinh tử thì không cùng. Tỳ-kheo trở về chỗ ngồi cũng lại thấy quỷ. Vì sợ hãi nên không dám ngủ. Do tinh tấn tư duy mà đắc quả A-la-hán. Lại đem một thẻ tre ném vào trong hang.
Lúc bấy giờ ở nước Ma-thâu-la có một nam tử, đến Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa cầu xin xuất gia. Tôn giả thuyết pháp khuyến hóa. Vị Tỳ-kheo tinh tấn tu tập, chứng quả Tu-đà-hoàn. Trong tâm cho mình không buông lung nên thoát khổ ác đạo, được bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh xuống cõi người thọ phước lạc nhân thiên rồi mới đắc quả vào Niếtbàn. Ưu-ba-cấp-đa biết được ý đó. Nên bảo theo mình vào thành khất thực. Đến trước nhà một người Chiên-đà-la thấy một đứa bé đời trước đã đắc quả Tu-đà-hoàn. Nay thân thể đầy, ghẻ lở, khắp nơi bị trùng ăn rất là đau đớn, hơi thở tanh hôi. Ưu-ba-cấp-đa nói với đệ tử:
-Ông xem đứa bé này, đã đắc quả Tu-đà-hoàn mà còn khổ như thế, liền nói kệ:
Sinh vào Chiên-đà-la
Đắm trước trong ba cõi
Trùng dữ ăn thân thể
Vì thích được tự tại
Vào trong ba nẻo khổ
Ông nên thấy người này
Đã đắc quả Thánh đạo
Che lấp ba ác đạo
Do vì không tinh tấn
Sinh vào Chiên-đà-la
Ông chớ mang y này
Nên quán Tam giới khổ
Vì thế muốn thoát ra
Ta nay vì ông nói
Phải chớ nên buông lung
Để mong cầu giải thoát.
Tỳ-kheo lại hỏi:
- Người này vì nhân duyên gì đã đắc quả Tuđà-hoàn mà vẫn chịu khổ này.
Tôn giả đáp:
- Vị này trước kia, trong thời Đức Phật Thíchca xuất gia, làm Duy-na coi chúng Tăng tọa thiền. Trong Tăng có vị A-la-hán, vị này có ghẻ nên gãi ra tiếng. Vị Duy-na nói:
-Thân ông bị trùng ăn sao? Mà lại gãi ra tiếng vậy? Rồi kéo tay đẩy vị ấy ra và nói:
- Ông nên vào trong nhà Chiên-đà-la. Vị Lahán nói với Duy-na rằng:
- Thiện nam tử! Ông nên tinh tấn chớ để rơi vào khổ sinh tử.
Vị Duy-na sau đó liền sám hối. A-la-hán sám hối rồi thì đắc quả Tu-đà-hoàn. Rồi cũng tự nghĩ rằng:
- Ta đã đắc quả Tu-đà-hoàn, không phải nổ lực nữa. Vị Duy-na đó nay là đứa bé này. Vì mắng bậc La-hán và đẩy bảo vào nhà Chiên-đà-la. Nay bị quả báo này. Vị Tỳ-kheo nghe Tôn giả nói thì càng lo sợ, nên chuyên cần tu tập đắc được quả A-lahán. Ưu-ba-cấp-đa cũng thuyết pháp giáo hóa cho đứa bé Chiên-đa-la, khiến cho nhàm chán sinh tử mà đắc quả A-la-hán. Tức liền mạng chung sinh lên cảnh trời Tịnh cư, rồi cũng lấy thẻ bỏ vào hang.
(Quán Tưởng Xương)
Ở nước Ma-thâu-la có một thiện nam tử, theo Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa xuất gia học đạo, Ưu-bacấp-đa thuyết các pháp về bất tịnh quán. Dùng quán bất tịnh này khắc phục phiền não không còn phát khởi nữa. Trong tâm vị này cho là những việc đáng làm thì đã làm xong, không cần phải nổ lực nữa.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Thiện nam tử! Ông nên tinh tấn, chớ nên buông lung. Đáp rằng:
- Tôi đã đắc quả A-la-hán rồi. Tôn giả nói:
- Thiện nam tử! Ông có thấy nước Kiền-đà-la có người con gái làm nghề bán rượu.
Nữ nhân này cho là đã đắc đạo, cũng như ông không khác, phiền não chưa đoạn mà tự cho là đoạn. Đó là tăng thượng mạn. Ông nay quán xem nữ nhân này đã đắc đạo chưa.
Tỳ-kheo đáp:
Tôi chưa thấy được. Nay muốn đi đến nước kia, xin thầy dạy bảo.
Vị Tỳ-kheo đi đến nước Kiền-đà-la. Có chùa tên là Thổ Thạch, liền vào trong chùa đó nghĩ ngơi. Sáng sớm trở dậy đắp y cầm bình bát đi vào trong tụ lạc khất thực. Người nữ nhân bán rượu lấy thức ăn muốn đem cho. Vị Tỳ-kheo thấy cô này thì dâm ý nổi lên, liền lấy đồ ăn trong bát đưa cho cô. Cô gái thấy vậy cũng khởi dâm ý hàm cười hở răng. Vị Tỳ-kheo chưa xúc phạm vào thân cô gái, cũng chưa nói gì, chỉ khởi tà tâm. Bấy giờ vị Tỳ-kheo thấy cô kia hở răng cười, liền quán bất tịnh. Lại quán khắp thân thể ấy đều là xương trắng. Do quán xét mà đắc quả A-la-hán. Mọi việc xong rồi thì nói kệ:
Người ngu vô trí
Thấy sắc bên ngoài
Liền sinh tham trước
Người có trí tuệ
Thấy xấu bên trong
Liền được giải thoát
Còn kẻ vô minh
Bị sắc buộc ràng
Người đủ trí tuệ
Từ sắc giải thoát
Thân này từ đây
Không xả bất tịnh
Lại ở thân này
Cũng chớ trang nghiêm
Đem thân thật quán
Liền được giải thoát.
Bấy giờ, Tỳ-kheo về nước Ma-thâu-la, rồi đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa, Tôn giả hỏi:
-Ông đã thấy người nữ ấy chưa?
Đáp: Đã thấy, rồi đem thẻ cho vào hang.
Ở nước Ma-thâu-la có một trưởng lão. Lúc đầu là cự phú giàu có, rồi sau lần bị khánh kiệt. Duy chỉ còn năm trăm tiền vàng. Trong lòng nghĩ rằng:-Nay muốn đến Phật pháp tu đạo xuất gia. Sau khi ta xuất gia cũng cần phải có y phục thuốc thang phải mua.
Rồi vị này đến chỗ Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa xuất gia. Ngày ngày đều nhờ người cấp sự giữ giùm tiền vàng.
Tôn giả nói:
- Thiện nam tử! Pháp xuất gia, phải nên thiểu dục tri túc. Ông sao lại còn giữ tiền này. Nên đem ra cúng dường chúng Tăng.
Tỳ-kheo đáp:
- Tiền này tôi dùng để may ba y và mua thuốc thang.
Ưu-ba-cấp-đa bảo vị ấy vào trong phòng rồi hóa ra một ngàn tiền vàng và bảo:
- Đây là tiền để may y và thuốc than, cho ông đó. Vị Tỳ-kheo nghe liền đem năm trăm tiền vàng của mình cúng dường cho chúng Tăng.
Ưu-ba-cấp-đa vì ông mà thuyết pháp. Vị Tỳ-kheo tinh tấn tu tập chứng quả A-la-hán rồi lấy thẻ tre đem vào hang đá.
Ở nước Ma-thâu-la có một thiện nam tử đến Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa cầu xin xuất gia. Tôn giả vì ông mà thuyết pháp. Tỳ-kheo tinh tấn tu tập đắc được quả Tu-đà-hoàn. Rồi sinh tâm nghĩ rằng: Ta có đạo đã dứt, việc đã làm xong.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Thiện nam tử! Ông phải nên tinh tấn chớ có buông lung. Tỳ-kheo đáp:
- Tôi đã đắc quả Tu-đà-hoàn, ác đạo đã dứt, không có nỗ lực. Tôi sẽ ở trong cõi trời bảy đời, cõi người bảy đời hưởng vui lạc cảnh rồi mới vào Niết-bàn. Ưu-ba-cấp-đa, vì muốn vị này sinh lòng sợ hãi, sáng sớm bảo cùng đắp y trì bát vào thành khất thực. Đến trước nhà của một người Chiên-đàla, có đứa bé đã từng đắc quả Chiên-đà-la, trên thân có ghẻ lở, thầy thuốc bảo lấy bàn chải chà cho vết thương chảy máu ra, rồi xức thuốc.
Tôn giả bảo với Tỳ-kheo:
- Thiện nam tử! Ông thấy rõ việc đắc quả Tuđà-hoàn mà vẫn còn khổ đó không?
Tỳ-kheo đáp: Hòa thượng! Đây là do tạo nghiệp gì? Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Người này vào thời Đức Phật Thích-ca ở trong pháp xuất gia, làm Duy-na coi chúng tọa thiền, có vị Tỳ-kheo có ghẻ gãi ra tiếng. Vị Duyna nói:
- Đại đức ông bị ghẻ lở sao không chà rửa sứt thuốc. Lại kéo tay vị ấy ra và nói:
- Ông nên đến chỗ Chiên-đà-la chớ ở đây làm động chúng. Vị Tỳ-kheo đã đắc quả A-la-hán nói rằng:
- Ông nên tinh tấn chớ buông lung mà thọ khổ sinh tử.
Vị Duy-na nghe thì liền sám hối, sau đó đắc quả Tu-đà-hoàn, rồi lại nghĩ:
- Ta nay ác đạo đã dứt, không cần phải nổ lực. Tôn giả bảo đệ tử:
- Vị Duy-na đó nay chính là đứa bé này, trước kia mắng vị A-la-hán, nên nay bị quả báo.
Vị đệ tử nghe xong thì tâm rất lo sợ. Lo tinh tấn tu hành liền đắc quả A-la-hán. Đem thẻ bỏ vào hang đá. Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa lại thuyết pháp độ cho đứa bé Tu-đà-hoàn. Khiến cho tinh tấn chán xa cõi này, rồi đắc quả A-na-hàm, sau đó qua đời được sinh lên cõi trời.
Ở nước Ma-thâu-la có một trưởng giả sinh con vừa đúng một tuổi bị chết. Đứa bé ấy lại sinh vào nhà trưởng lão khác được hai tuổi cũng chết, lại sinh vào nhà trưởng lão khác được ba tuổi lại cũng bị chết. Như thế đến lần thứ bảy mới được bảy tuổi, có bọn cướp đem đứa bé vào rừng.
Ưu-ba-cấp-đa quán xét chúng sinh này đây là thân cuối cùng được nhiếp hóa liền vào trong núi ngồi kiết già tịnh tọa. Hóa ra binh lính, xa mã rượt đuổi, làm cho tên cướp lo sợ chạy đến chỗ Ưu-bacấp-đa. Tôn giả liền nhiếp thần lực thuyết pháp. Tên cướp nghe xong liền ngộ được Tứ chơn đế, ở trong Phật pháp xuất gia tu đạo, đem đứa con giao cho Ưu-ba-cấp-đa. Tôn giả cũng xuất gia thuyết pháp khuyến hóa, tiểu nhi tinh tấn tu tập đắc quả A-la-hán. Đã đắc quả rồi liền suy tư thấy cha mẹ đang rất khổ sở. Vị này liền trở về nhà nói với cha mẹ:
- Cha mẹ chớ có đau lòng nữa.
Cha mẹ thấy con trở về thì rất vui mừng. Lahán tiểu nhi liền thuyết pháp cho cha mẹ, khiến đều đắc quả Tu-đà-hoàn. Lại trở về thưa với cha mẹ của sáu đời trước thưa:
- Xin cha mẹ chớ ưu buồn, con là con của cha mẹ đây, cha mẹ ngày trước sinh ra con được vài tuổi thì con đã chết đi.
Cha mẹ nghe thì rất vui mừng, liền vì cha mẹ thuyết pháp khiến đều đắc quả Tu-đà-hoàn.
Ở nước Ma-thâu-la có vị trưởng giả đến cầu Ưu-ba-cấp-đa xin xuất gia. Ưu-ba-cấp-đa liền thuyết pháp khuyến hóa, tinh tấn tu hành chứng quả Trí thiền của thế gian, đắc được định Sơ thiền tưởng đã chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi đến nhị thiền cứ tưởng đắc quả Tư-đà-hàm, đắc đệ tam thiền cho đã đắc quả A-na-hàm. Đắc đệ tứ thiền cho là chứng A-la-hán. Thế rồi không cần nổ lực tinh tấn thêm.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Thiện nam tử! Ông nên tinh tấn, chớ có buông lung. Đệ tử đáp:
- Con đã đắc A-la-hán.
Mọi việc đều đã xong rồi, cần gì nổ lực nữa. Ưu-ba-cấp-đa dùng phương tiện giáo hóa nói:
- Thiện nam tử! Ông có thể đến nước Nam Thiên trúc.
Tỳ-kheo liền đi đến nơi đó, Ưu-ba-cấp-đa giữa đường hóa làm năm trăm phú thương. Tỳ-kheo thấy cướp muốn đến giết mình thì lo sợ, liền tự biết mình chẳng phải La-hán. Nếu là La-hán thì không hề sợ. Ta chắc được quả A-na-hàm.
Trong đoàn phú thương có một người con gái trưởng giả mọi người bị giết, liền đến lễ Tỳ-kheo nói:
- Thánh nhân! Xin cho tôi cùng đi. Tỳ-kheo nói:
- Đức Phật có dạy, không được riêng cùng với nữ nhân đi trên đường. Ngươi nay đi với ta thì như sư tử đi theo từ xa.
Tôn giả lại hóa con rồng lớn. Vị Tỳ-kheo muốn qua sông nên lội xuống nước. Cô gái cũng bước xuống nước gần chết liền nghĩ:
- Phật có dạy nếu thấy người nữ bị rớt xuống nước gần chết thì cứu lên thì không phạm giới.
Suy nghĩ xong liền đến cứu lên, sau đó lại khởi dục tâm, lại tư duy ta chẳng phải là A-na-hàm, vì A-na-hàm không còn dục tâm. Ta chỉ là Tư-đàhàm, Tu-đà-hoàn mà thôi.
Khi đưa cô gái lên bờ liền nghĩ:
- Ta nay nên xả giới, để cùng chung sống với cô gái này.
Ưu-ba-cấp-đa liền nhiếp thần thông đến trước mặt vị kia nói:
- Thiện nam tử! Ông là A-la-hán chăng? Vị Tỳ-kheo xin sám hối.
Tôn giả liền vì ông mà thuyết pháp, vị Tỳ-kheo tinh tấn tư duy liền đắc quả A-la-hán, rồi đem thẻ đặt vào hang đá.
Ở nước Ma-thâu-la có con của vị trưởng giả, nối gia nghiệp chưa được bao lâu thì thưa cha mẹ xin cho xuất gia. Rồi đi đến Tôn giả Ưu-ba-cấpđa. Tôn giả liền cho xuất gia, thuyết pháp khuyến hóa và bảo vào rừng ngồi thiền.
Tỳ-kheo y lời, đến dưới gốc cây ngồi kiết già tọa thiền.
Vị Tỳ-kheo này lúc chưa xuất gia thì đã có vợ rất là xinh đẹp đoan chánh. Nên lúc tọa thiền thường nghĩ đến vợ ở nhà. Tôn giả liền hóa ra người vợ đến trước mặt Tỳ-kheo. Tỳ-kheo thấy thì hỏi, ngươi sao lại đến đây?
Cô đáp:
- Chẳng phải ông gọi tôi đến sao? Tỳ-kheo đáp:
- Ta ngồi thiền ở đây chưa từng nói gì, làm sao mà gọi?
Nữ nhân nói:
- Ông dùng giác quan để gọi, chẳng phải lời nói. Nữ nhân liền nói kệ:
Tàm quý có hai loại
Là miệng và tâm ý
Ở trong hai loại này
Tâm là quan trọng nhất
Nếu tâm không nghĩ tưởng
Thì miệng không nói ra.
Lúc này Ưu-ba-cấp-đa, nhiếp thần lực trở lại thân cũ, ở trước vị ấy nói kệ:
Nếu ông không thích
Quán tưởng nữ nhân
Nếu không muốn thấy
Thì chớ tư duy
Nếu đã xả dục
Chớ nên đam mê
Thí như đồ thải
Không thể ăn lại.
Ưu-ba-cấp-đa liền thuyết pháp khuyến hóa, vị Tỳ-kheo tinh tấn tu đắc quả A-la-hán, liền nói kệ:
Hòa thượng rõ biết
Đã giáo hóa ta
Ta kính tin người
Liền đắc Thánh đạo.
Rồi đem một thẻ tre vào trong hang đá.
Bấy giờ, Ưu-ba-cấp-đa muốn đến nước Nam Thiên trúc, giữa đường gặp năm trăm người đang thả trâu. Năm trăm người đó thấy Ưu-ba-cấp-đa liền tìm đến để nghe thuyết pháp. Nghe xong liền đắc chánh đế. Mọi người đem trâu cúng cho Tôn giả. Rồi cùng xin theo xuất gia học đạo. Ưu-bacấp-đa lại vì họ thuyết pháp khuyến hóa. Tất cả mọi người đều chứng quả A-la-hán, bèn lấy thẻ đặt vào trong hang đá.
Bấy giờ ở nước Ma-thâu-la có một thiện nam tử, đến cầu Ưu-ba-cấp-đa xuất gia học đạo. Ưuba-cấp-đa liền thuyết pháp khuyến hóa, khiến cho người này đắc quả Tứ thiền thế gian. Đắc Sơ thiền định, tưởng là quả Tu-đà-hoàn, đắc Nhị thiền tưởng là Tư-đà-hàm; đắc Tam thiền tưởng là A-lahán. Nói rằng ta đã làm xong cho nên không cần tinh tấn nữa.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Ông chớ buông lung phải cần nổ lực thêm. Vị kia đáp:
- Con đã chứng A-la-hán, mọi việc cần làm thì đã làm xong.
Ưu-ba-cấp-đa đem người ấy vào rừng ngồi thiền. Lại hóa làm một Tỳ-kheo cùng ngồi thiền để vị kia trông thấy. Vị hóa Tỳ-kheo dạy cho Tu thiền pháp. Lại hỏi:
- Ai là Hòa thượng xuất gia cho ông? Tỳ-kheo đáp:
- Hòa thượng của tôi là Ưu-ba-cấp-đa, đã xuất gia cho tôi. Hóa Tỳ-kheo nói:
- Ông thật đại phước, được vị thầy là Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa. Lại hỏi:
- Ông tụng đọc kinh nào? Tỳ-kheo đáp:
- Là Tu-đa-la, Tỳ-ni, Ma-đắc-lặc-già?
- Ở trong Phật pháp đã có sở đắc chưa? Tỳ-kheo đáp:
- Tôi đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán rồi.
Hóa nhân lại hỏi:
- Ông đắc đạo gì? Tỳ-kheo đáp:
- Đắc thế đạo. Hóa nhân nói:
- Chỗ sở đắc của ông chỉ là Thế đế, ông vẫn chưa đắc Thánh pháp.
Vị Tỳ-kheo nghe xong rất là áo não, liền về chỗ Tôn giả thưa:
-Bạch Hòa thượng, con vẫn còn là phàm phu, xin Hòa thượng vì con thuyết pháp.
Ưu-ba-cấp-đa liền thuyết pháp khuyến hóa. Vị Tỳ-kheo tinh tấn tu tập chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán, bèn đem một thẻ tre ném vào hang đá.
Lúc này ở nước Ma-thâu-la có con của một trưởng giả, nối nghiệp gia sự chưa bao lâu thì tâm đã muốn xuất gia, liền thưa với cha mẹ:
- Xin cho con xuất gia tu đạo. Cha mẹ đáp:
- Ta duy chỉ có mình con, ta chưa muốn chết, làm sao con lại muốn bỏ để đi xuất gia.
Người con nghe cha mẹ nói thì lòng rất áo não, cho đến sáu ngày vẫn không chịu ăn cơm, lúc đó cha mẹ mới cho đi xuất gia, lại bảo rằng:
- Xuất gia rồi nên về thăm ta? Đáp: Thưa vâng.
Người ấy liền đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa xin xuất gia. Xuất gia xong lại nghĩ:
- Trước ta có hứa với cha mẹ, khi xuất gia rồi phải về thăm.
Liền bạch Hòa thượng cho về thăm cha mẹ. Người này trước đã có vợ thì buồn bã không chịu trang điểm. Tỳ-kheo trông thấy liền nói:
- Ta nên xả giới về nhà.
Lại đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa lạy và thưa:
- Hòa thượng! Nay con muốn xả giới về nhà. Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Thiện nam tử! Ông chớ có ý nghĩ này. Vả lại hãy đợi ít lâu, ta muốn biết ý ông, khi đã mãn ý rồi sau hãy xả giới.
Lại bảo người ấy đi đến nước Ma-thâu-la. Tôn giả hóa một người nữ chết có bốn người khiên từ trong nước ấy đi ra. Sau đó Tỳ-kheo trở về thăm cha mẹ, giữa đường lại gặp thây chết, mới hỏi người khiên rằng:
- Đây là người nào? Người kia đáp:
- Có con trưởng giả mới xuất gia, người vợ ở nhà buồn rầu mà chết. Tôi nay khiên thây vào rừng. Tỳ-kheo nghe liền muốn đến xem mặt. Tôn giả liền hóa ra vô số trùng huyết từ thây chết bò ra, Tỳ-kheo trông thấy thì quán bất tịnh, tư duy tinh tấn mà đắc quả A-la-hán. Xong rồi đến đảnh lễ dưới chân Tôn giả.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Ông đã thấy vợ chưa? Đáp: Y pháp mà thấy.
Bèn đem đặt một thẻ tre vào hang đá.
Ở nước Ma-thâu-la có một thiện nam tử đến Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa cầu xin xuất gia. Tôn giả liền vì ông mà thuyết pháp. Nghe xong thì đắc quả Tứ thiền thế gian. Tỳ-kheo nghĩ:
- Ta nay chỗ làm đã xong, không cần tinh tấn nữa. Ưu-ba-cấp-đa nói:
- Thiện nam tử! Ông nên tinh tấn chớ có phóng dật. Đáp:
- Hòa thượng! Con nay đã đắc quả A-la-hán.
Hòa thượng sai Tỳ-kheo cầm tích trượng sáng sớm đắp y trì bát, đi theo sau chúng vào thành. Bấy giờ có năm trăm vị Ưu-bà-tắc đem thức ăn cúng dường và cho vị Tỳ-kheo đi sau cùng nhiều hơn cả. Tỳ-kheo biết người ấy rất coi trọng mình, cho rằng mình được công đức thù thắng hơn người nên khởi tâm kiêu mạn. Lại suy nghĩ:
- Ta chẳng phải La-hán. Vì La-hán quả không còn ngã mạn. Liền đến chỗ Hòa thượng bạch rằng:
- Con chưa chứng Thánh đạo nên vì con thuyết pháp.
Tôn giả liền thuyết pháp khuyến hóa, Tỳ-kheo tinh tấn tư duy, không bao lâu đắc quả A-la-hán, bèn đem thẻ tre bỏ vào hang đá.
Ở nước Kế tân có một Tỳ-kheo tên Thiện Kiến, đắc Tứ thiền thế gian. Long vương rất tôn trọng. Lúc ấy ở nước Kế Tân bị hạn hán lâu mà không có mưa. Dân chúng liền thỉnh Tỳ-kheo cầu mưa. Ưuba-cấp-đa nghĩ nên phải hóa độ Thiện Kiến, nay chính phải lúc. Ưu-ba-cấp-đa liền tìm phương tiện. Nơi nước Ma-thâu-la làm mười hai năm trời không mưa. Ngoại đạo thấy thế bảo mọi người rằng:
- Quá mười hai năm trời không mưa, dân chúng nghe rất là áo não. Đến cầu Tôn giả Ưu-ba-cấp-đa cầu cho có mưa.
Ta làm mưa không được. Ở nước Kế tân có Tỳ-kheo tên Thiện Kiến, các ông có thể đến cầu. Mọi người liền cử sứ giả đến nước kia cầu thỉnh. Thiện Kiến đắc Tứ thiền ngũ thông, dùng thần lực bay đến nước Ma-thâu-la. Khi mọi người đến xin làm mưa, Thiện Kiến liền hóa mưa tưới khắp cõi Diêmphù-đề.
Khi đó dân chúng thoát nạn hạn hán cho rằng:
- Tỳ-kheo Thiện Kiến có thể làm mưa! Công đức thù thắng hơn cả Ưu-ba-cấp-đa.
Thiện Kiến được nhiều người theo, còn Ưu-bacấp-đa chỉ được số ít. Thiện Kiến thấy vậy sinh tâm ngã mạn, liền suy nghĩ rằng:
- Ta chẳng phải La-hán, vì La-hán thì không còn tâm ngã mạn.
Liền đến chỗ Tôn giả lễ lạy và thưa:
- Phật đã Niết-bàn, Đại đức nay làm Phật sự, xin vì tôi thuyết pháp.
Ưu-ba-cấp-đa nói:
-Phật nói giới mà không chơn chánh giữ gìn, tự cho thù thắng hơn ta mà sinh kiêu mạn. Phật thuyết giới không cho Tỳ-kheo làm mưa. Rồi Tôn giả vì Tỳ-kheo mà thuyết pháp khuyến hóa. Tỳ-kheo nghe xong tinh tấn tu từ được đắc quả A-la-hán, bèn đem thẻ tre đặt vào hang đá.
Ưu-ba-cấp-đa ở tại nước Ma-thâu-la khởi công xây chùa số đến cả trăm, vua nước đó tên là Chơnđa-kha, không có tín tâm nên thường não loạn Tăng chúng và Đàn-việt cấp sự, chư Tăng và Đànviệt đến chỗ Ưu-ba-cấp-đa nói lại sự việc. Ưu-bacấp-đa suy nghĩ:
- Nếu ta sai người đến thưa với vua thì sợ vua nỗi giận làm hại. Vậy ta phải tự đến. Ưu-ba-cấp-đa dùng thần lực, như một mắt nằm trên đỉnh, đến nơi chùa Thành kê của Bà-đa-lợi-phất-đa. Vua A-dục nghe Tôn giả đến, liền cho sửa sang đường xá, đem hương hoa đến cúng dường trang nghiêm. Rồi vua cùng chư đại thần và nhân dân đều đến cung nghinh Tôn giả. Đến nơi lễ lạy dưới chân cung kính thưa:
- Đại đức! Có duyên cớ gì đến đây? Đáp:
- Muốn đến chỗ vua. Vua lại hỏi:
- Có việc gì? Đại đức đáp:
- Đại vương ủng hộ Phật pháp, ở nước Mathâu-la xây chùa cho cả hàng trăm. Vua nước kia tên là Chơn-đa-kha, không có tín tâm não hại Phật pháp.
Vua A-dục liền sai đại thần tên Thành Hộ.
- Ông có thể sai người đến giết vua kia. Ưu-bacấp-đa liền thưa:
- Xin chớ giết. Vua nên khuyến hóa ra lịnh. Từ nay về sau chớ có làm hại Phật pháp.
Vua A-dục liền tự tay viết thư, đóng ấn rồi sai La-sát mang đi. La-sát nhận thư chỉ trong khoảnh khắc đến được nước kia. Vua Chơn-đa-kha nhận thơ dọa. Đọa xong đánh trống hiệu lệnh triệu tập dân chúng lại ra lệnh:
- Từ nay về sau không được não hại Phật pháp. Vua A-dục hỏi Ưu-ba-cấp-đa:
- Có chùa nào bị bọn cướp quấy nhiễu? Tôn giả nói:
- Chùa Na-sĩ Bà-sĩ.
Vua A-dục tự tay viết thư đóng ấn, cùng với Tôn giả đem quốc phong cung cấp cho chùa này.
Vua A-dục thiết lễ cúng dường. Ưu-ba-cấp-đa thọ cúng dường xong thì trở về chùa Na-sĩ Bà-sĩ.
Bấy giờ Ưu-ba-cấp-đa suy nghĩ: Hy Chưng Kha đã ra đời chưa? Quán biết là chưa ra đời. Từ đó ngày ngày đều đến nhà cha mẹ đó. Lúc đầu đem theo nhiều thầy Tỳ-kheo, sau cùng một vài vị tới. Cuối cùng thì chỉ đi một mình. Bấy giờ trưởng giả thấy Ưu-ba-cấp-đa đi một mình đến thì hỏi:
- Thánh nhân vì sao không có đệ tử đi theo?
Trưởng lão đáp:
- Tôi không có đệ tử. Trưởng giả nói:
- Tôi còn ham thế sự nên không thể xuất gia. Nếu sinh con sẽ cho Đại đức làm đệ tử.
Trưởng lão khi đó sinh ra đứa con đầu không bao lâu thì bị chết. Đứa thứ hai cũng mạng chung. Đến đứa thứ ba đặt tên là Hy Chưng Kha, liền cho theo Ưu-ba-cấp-đa xuất gia và thọ giới Cụ túc. Khi bạch nhất Yết-ma thì đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến bạch tứ Yết-ma đắc quả A-la-hán. Bấy giờ Ưu-bacấp-đa suy nghĩ. Ta nay hóa đạo đã xong, trong nhà đá các thẻ tre của các đệ tử tu chứng cũng đã đầy. Ta nên nhập Niết-bàn, thế rồi Tôn giả đem pháp tạng phó chúc lại cho.
Nói rằng:
- Thiện nam tử! Đức Thế Tôn đem giáo pháp phó chúc lại cho Ma-ha Ca-diếp rồi nhập Niết-bàn. Ma-ha Ca-diếp phó chúc lại cho A-nan rồi nhập Niết-bàn. A-nan phó chúc lại cho Mạt-điền-địa rồi nhập Niết-bàn. Mạt-điền-địa phó chúc lại cho Hòa thượng ta rồi nhập Niết-bàn. Hòa thượng phó chúc cho ta rồi nhập Niết-bàn. Nay ta đem phó chúc lại cho ông, còn bảy ngày nữa ta sẽ nhập Niết-bàn. Bấy giờ chư Thiên báo cho khắp Diêm-phù đề hay biết, có mười vạn A-la-hán, cùng chúng học nhân, phàm phu tinh tấn, hàng bạch y vô số lượng cùng đến.
Đến ngày nhập Niết-bàn, Tôn giả dùng thần lực bay lên hư không, hiện ra các thứ thần thông biến hóa đi đứng nằm ngồi, nhập vào hỏa Tam-muội. Trong Tam-muội có vô số màu sắc vàng đỏ xanh trắng từ thân bay ra. Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa. Dưới thân ra nước trên thân ra lửa. Nhẫn đến biến hóa các thứ thần lựa, khiến cho mọi loài cùng sinh lòng hoan hỷ, tâm được khai mở, rồi nhập Niết-bàn. Đại chúng đem hết thẻ trong hang ra cùng trà tỳ với thân Tôn giả. Rồi xây tháp cúng dường. Ưu-ba-cấp-đa nhập Niết-bàn rồi, thì có một vạn La-hán cũng nhập Niết-bàn theo. Sau đó Hy Chưng Kha thọ trì hoằng pháp xong cũng nhập Niết-bàn.
Nhân duyên về Ưu-ba-cấp-đa đến đây đã xong.
Chánh pháp thường trụ Nhiều đời không diệt Trí tháp xá-lợi
Cũng như thường trụ Người trì hộ pháp
Ái lạc vô cùng Thường trụ bất diệt Cũng lại như thế.
Từ nhân duyên của vua A-dục, cho đến Ưu-bacấp-đa nhập Niết-bàn, phàm ở ngoài nước có ba ngàn một trăm bài kệ, có ba mươi hai bài tựa về bài kệ. Đệ tử có hai mươi tám vị.