TẠP TẠNG
SỐ 2061 - TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG
Tả Nhai Đại Sư Thông Tuệ trụ chùa Thiên Thọ, đời Tống, Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v... vâng chiếu kính soạn.
SỐ 2061 - TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG
CHƯƠNG III: TẬP THIỀN TRONG PHẦN 4 CỦA CHƯƠNG III
1. Truyện ngài Tự Tại trụ núi Phục Ngưu ở kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Vô Nghiệp trụ chùa Khai Nguyên ở Phần Châu, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Như Hội chùa Đông, ở Trường Sa, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Thiên Nhiên trụ ở núi Đan Hà ở Nam Dương, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Thái Dục ở núi Phù Dung thuộc Thường Châu, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Đàm Tạng ở Lan-nhã Tây Viên thuộc Nam Nhạc, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Vô Đẳng trụ viện Đại Tịch, ở Ngạc Châu, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Minh Giác ở viện Thiên Khoản, núi Thiên Mục, thời Tiền Đường:
9. Truyện Viên Tu núi Tần Vọng, Hàng Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Phổ Nguyện ở viện Nam Tuyền thuộc Trì Châu, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Đàm Thịnh chùa Linh Nham, ở lễ Dương, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Chân Công trụ chùa Phước Thọ, ở Kinh Châu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Tùng Thẩm ở Đông Viện thuộc Triệu Châu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Trí Tạng chùa Hoa Nghiêm ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Trí ở núi Đạo Ngô, thuộc Đàm Châu, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Pháp Thường trụ núi Đại Mai ở Minh Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Sùng Diễn chùa Tuệ Chiếu, ở Dương Châu, thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Tề An trụ viện Hải Xương, ở Diêm Quan, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:
19. Truyện ngài Hằng Chính chùa Thánh Thọ ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Linh Hựu ở núi Đại Quy, thời Tiền Đường:
21. Truyện ngài Huyền Sách ở Cửu Tỉnh, thuộc Hoàng Châu, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG III: TẬP THIỀN TRONG PHẦN 5 CỦA CHƯƠNG III
1. Truyện ngài Hoàn Trung ở núi Đại Từ thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Hoàn Phổ ở Thiều Sơn, thuộc Lạc Dương, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Nhật Chiếu ở núi Ngang Đầu, thuộc Hành Sơn, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Tuyên Giám ở viện Đức Sơn, thuộc Lăng Châu, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Tạng Hoán chùa Thệ Tâm, ở Minh Châu, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Nghĩa Huyền trụ viện Lâm Tế, ở phủ Chân Định, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Tung Gián trụ chùa Quảng Ái ở kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Lương Giới ở Động Sơn, thuộc Hồng Châu, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Tạng Dị ở Tô Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Khánh Gia trụ núi Thạch Sương ở Trường Sa, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Đại An ở viện Di Sơn thuộc Phước Châu, thời Tiền Đường:
12. Thích Đạo Ưng ở núi Vân Cư, thuộc Hồng Châu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Hữu Duyên ở viện Liên Vân, thuộc Tấn Vân, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Nghĩa Tồn trụ viện Quảng Phước ở Vân Phong, thuộc Phước Châu, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Nguyên An ở Tô Khê, thuộc Lễ Châu, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Hằng Thông ở viện Tuyết Đậu, Minh Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Tuệ Tịch ở Ngưỡng Sơn, thuộc Viên Châu, thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Tuệ Cung ở núi Tử Ngưng, thuộc Thiên Thai, thời Tiền Đường:
19. Truyện ngài Văn Hỷ ở viện Long Tuyền, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Duy Tĩnh ở núi Phục Long, thuộc Minh Châu, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG III: TẬP THIỀN TRONG PHẦN 6 CỦA CHƯƠNG III
1. Truyện ngài Viên Thiệu chùa Phong Thiền, ở Đông Kinh, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Pháp Phổ ở núi Hoàng Cương thuộc Kỳ Châu, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Trí Nhàn ở viện Hương Nghiêm, thuộc Đặng Châu, thời Hậu Lương:
4. Truyện ngài Quang Nhân ở Sơ Sơn, thuộc Phủ Châu, thời Hậu Lương:
5. Truyện ngài Sư Bị ở viện Huyền Sa, thuộc Phước Châu, thời Hậu Lương:
6. Truyện ngài Tồn Thọ ở núi Thê Nham, thuộc Phủ Hà Trung, thời Hậu Lương:
7. Truyện ngài Sư Ngạn ở viện Thụy Nham, thuộc Đại Châu, thời Hậu Lương:
8. Truyện ngài Bổn Tịch ở Tào Sơn, thuộc Phủ Châu, thời Hậu Lương:
9. Truyện ngài Quế Sâm ở viện La-hán, thuộc Chương Châu, thời Hậu Lương:
10. Truyện ngài Tuệ Lăng trụ viện Trường Khánh ở Phước Châu, thời Hậu Đường:
11. Truyện ngài Đạo Phu trụ chùa Long Sách ở Hàng Châu, thời Hậu Đường:
12. Truyện ngài Toàn Phó trụ viện Thanh hóa, ở Cối Kê thời Hậu Tấn:
13. Truyện ngài Thiện Tĩnh trụ viện Vĩnh An ở Vĩnh Hưng thời Hậu Tấn:
14. Truyện ngài Văn Ích Viện Thanh Lương ở Kim Lăng thời Hậu Chu:
15. Truyện ngài Hạnh Nhân trụ trên đỉnh núi Phật Thủ ở Lô Sơn, thời Hậu Chu:
16. Truyện ngài Duyên Đức viện Viên Thông ở Lô Sơn, thời Bắc Tống:
17. Truyện ngài Đức Thiều ở núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:
CHƯƠNG IV: MINH LUẬT TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG IV
1. Truyện ngài Đạo Tuyên chùa Tây Minh ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Đạo Thành chùa Hằng Tế ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Văn Cương trụ chùa Sùng Thánh ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Hoài Tố trụ chùa Hằng Tế ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Đạo Ngạn ở Quang Châu thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Chân Biểu ở chùa Kim Sơn nước Bách Tế, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Tú Công trụ chùa Thập Lực ở An Châu, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Linh Ngạc trụ chùa Sùng Thánh ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Mãn Ý chùa Sùng Phước ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Sùng Nghiệp trụ chùa Tây Minh ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Huyền Nghiễm trụ chùa Pháp Hoa ở Việt Châu, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Đức Tú trụ chùa Linh Trí ở Hàng Châu thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Ái Đồng trụ chùa Khai Nghiệp, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Luật sư Thuyên ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Pháp Thận chùa Đông Hưng ở Dương Châu, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Đạo Quang chùa Hoa Nghiêm ở Hàng Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Giám Chân chùa Đại Vân ở Hàng Châu, thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Thủ Trực trụ chùa Linh Ẩn ở núi Thiên Trúc, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:
19. Truyện ngài Nghiêm Tuấn ở chùa Đại Minh ở Hồng Châu, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Đàm Nhất trụ chùa Khai Nguyên ở Cối Kê, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG IV: MINH LUẬT TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG IV
1. Truyện ngài Linh Nhất trụ chùa Nghi Phong ở Dư Hàng, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Tề Hàn trụ chùa Hồ Khâu ở phía đông Quận Ngô, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Lãng Nhiên trụ chùa Chiêu Ẩn ở Nhuận Châu thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Đại Nghĩa chùa Xứng Tâm ở Việt Châu, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Nghĩa Tuyên trụ chùa Hưng Ninh ở Thường Châu, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Biện Tú trụ chùa Khai Nguyên ở Tô Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Như Tịnh chùa An Quốc ở kinh đô, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Giám Nguyên trụ chùa Khai Chiếu ở Hán Châu, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Chí Hồng trụ chùa Song Lâm ở Quận Ngô, thời Tiền Đường:
10. Thích Thừa Như chùa An Quốc ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Thanh Giang chùa Biện Giác ở Tương Châu, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Linh Triệt chùa Vân Môn ở Cối Kê, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Tỉnh Cung chùa Tuệ Chiếu ở Dương Châu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Thần Hạo ở núi Bao thuộc Quận Ngô, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Tạng Dụng chùa An Quốc ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Chân Thừa ở chùa Bát Thánh Đạo ở Hồ Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Đạo Tiêu trụ núi Linh Ẩn ở Hàng Châu, thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Đàm Thanh ở chùa Hành Nhạc, thời Tiền Đường:
19. Thích Viên Chiếu trụ chùa Tây Minh ở kinh đô, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG IV: MINH LUẬT TRONG PHẦN 3 CỦA CHƯƠNG IV
1. Truyện ngài Biện Tài trụ chùa Long Hưng ở Sóc Phương, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Đạo Trừng trụ chùa Chương Tín ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Thanh Triệt trụ chùa Long Hưng ở Chung Lăng, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Thượng Hằng trụ chùa Cảnh Vân ở Phủ Châu, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Tuệ Lâm trụ chùa Vĩnh Phước ở Tiền Đường, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Tấu trụ chùa Hưng Quả ở Giang Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Tuệ Linh trụ chùa Thánh Thọ ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Thường Đạt trụ chùa Phá Sơn ở Quận Ngô, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Đan Phủ trụ chùa Khai Nguyên ở Việt Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Pháp Tướng trụ chùa Linh Quang ở Gia Hòa, thuộc Ngô Quận, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Văn Cử ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Duẫn Văn trụ chùa Khai Nguyên ở Cối Kê, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Tuệ Tắc chùa Tây Minh ở Kinh Triệu, thời Hậu Lương:
14. Truyện ngài Ngạn Xưng trụ chùa Hưng Phước, ở Phá Sơn thuộc Tô Châu, thời Hậu Đường:
15. Truyện ngài Tùng Lễ trụ chùa Phước Điền ở núi Thiên Thai, thời Hậu Đường.
16. Truyện ngài Cảnh Tiêu trụ chùa Chân Thân Tháp, ở Hàng Châu, thời Hậu Đường:
17. Truyện ngài Trinh Tuấn trụ chùa Tướng Quốc ở Đông kinh, thời Hậu Đường:
18. Truyện ngài Hy Giác trụ chùa Thiên Phật ở Tiền Đường, thời Hậu Hán:
19. Truyện ngài Trừng Sở trụ chùa Tướng Quốc ở Đông Kinh, thời Hậu Chu:
1. Truyện ngài Uy Tú trụ chùa Đại Trang Nghiêm, ở Kinh đô thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Phục Lễ trụ chùa Đại Hưng Thiện, ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Tuệ Lập trụ chùa Ngụy Quốc ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Huyền Nghi trụ chùa Phật Thọ Ký ở kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Pháp Minh ở phủ Giang Lăng, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Thần Ngộ ở núi Thạch Di, thuộc Nhuận Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Nguyên Sùng ở Chung Sơn, thuộc Kim Lăng, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Lợi Thiệp trụ chùa Đại An Quốc ở kinh Triệu, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Thần Ung trụ chùa Đại Lịch ở Tiêu Sơn, thuộc Việt Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Duy Nghiễm, ở Dược Sơn, thuộc Lũng Châu, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Sùng Tuệ trụ chùa Chương Tín ở kinh đô, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Vô Danh trụ chùa Đồng Đức ở Lạc Dương, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Trí Thường trụ chùa Quy Tông ở Lô Sơn, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Sở Nam ở núi Thiên Khoảnh, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Huyền Thái trụ chùa Thất Bảo Đài ở Nam Nhạc, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Huyền Sướng trụ chùa Phước Thọ ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Duy Kính trụ tại Đạo tràng Ban-Chu ở Nam Nhạc, thời Hậu Đường:
18. Truyện ngài Đạo Phi trụ chùa Phước Tiên ở kinh đô Lạc Dương, thời Hậu Chu:
CHƯƠNG VI: CẢM THÔNG TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG VI
1. Truyện ngài Đàn Đặc ở phủ Tây Lương, thời Hậu Ngụy:
2. Truyện ngài Hà Thốc Sư ở Tấn Dương thời Hậu Ngụy:
3. Truyện ngài Huyền Quang người Nước Tân-la, đời Trần:
4. Truyện ngài Pháp Hỷ ở cung Giang Đô đời Tùy:
5. Truyện ngài Khâm Sư ở Lạc Châu đời Tùy:
6. Truyện ngài Tăng Già trụ chùa Phổ Quang Vương ở Tứ Châu, thời Tiền Đương:
7. Truyện ngài Tuệ An trụ chùa Thiếu Lâm ở Tung Nhạc, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Vạn Hồi ở Văn Hương Tại Quắc Châu, Thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Đạo Giám trụ chùa Linh Nham, ở Tề Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Tuệ Chiêu tại chùa Khai Nguyên ở Võ Lăng, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài thiền sư Ngạn thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Hậu Tăng Hội trụ chùa Vĩnh Hưng ở Cối Kê thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Đạo Anh trụ chùa Pháp Hải ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Pháp Tú ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Phổ Minh trụ chùa Long Hưng ở Hoạt Châu thời Tiền Đường:
CHƯƠNG VI: CẢM THÔNG TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG VI
1. Truyện ngài Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Nguyên Khuê trụ chùa Nhàn Cư ở Tung Nhạc thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Huệ Phù trụ chùa Thiên Trụ ở Tiềm Sơn, thuộc Lô Giang, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Tuệ An tại chùa Tây Minh ở Trường An, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài An Tỉnh ở Tây Vực, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Như Nhất trụ tại Chung Sơn ở Phước Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện vị tăng mất tên người Tây Vực, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Bão Ngọc ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài A Túc Sư ở Văn Hương thuộc Quắc Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Can ở núi Thiên Thai thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Vô Tướng trụ chùa Tịnh Chúng ở Thành Đô, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Hoài Tín trụ chùa Tháp Tây Linh ở Dương Châu thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Tân Thất Sư ở Thiểm Phủ, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Hòa Hòa trụ chùa Đại An Quốc ở Kinh đô thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Lăng Đại Sư Thích Quảng trụ chùa Hiếu Cảm ở Dương Châu thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Minh Toản ở núi Nam Nhạc thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Đãi Giá trụ chùa Từ Vân ở Giản Châu thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Hoài Đạo trụ chùa Ái Đồng ở Phước Châu thời Tiền Đường:
19. Truyện ngài Tuệ Trung trụ chùa Trang Nghiêm ở Thăng Châu, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Tuệ Tú chùa Thiên Cung ở kinh đô Lạc Dương thời Tiền Đường:
21. Truyện ngài Thích Duy Trung trụ chùa Pháp Định ở Huyện Bỉ, thuộc Thành Đô, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG SÁU: CẢM THÔNG TRONG PHẦN 3 CỦA CHƯƠNG VI
1. Truyện ngài Xử Tịch trụ tại Lan Nhã Sơn Bắc ở Tư Châu, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Vô Trước chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Phổ Hóa ở Phủ Chân Định thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Đại Xuyên chùa Thê Hiền ở Hán, Châu thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Nan-Đà ở Tây Vực thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Huyền Tông ở núi Tử Kim thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Quảng Phu trụ núi Dương Kỳ ở Viên Châu, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Viên Chấn trụ núi Ô Nha ở Đặng Châu, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Thích Địa Tạng trụ chùa Hóa Thành ở núi Cửu Hoa, thuộc Trì Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Thần Huyên trụ núi Kim Hoa ở Vụ Châu, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Đạo Hạnh trụ chùa Khai Nguyên ở Lễ Châu thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Hoài Không trụ núi An Phong ở Từ Châu thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Viên Quán trụ chùa Tuệ Lâm ở kinh đô Lạc Dương thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Pháp Tạng trụ trên ngọn Ngũ Lão ở Lô Sơn thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Giám Không ở chùa Hương Sơn thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Đạo Hạnh trụ núi La Phù ở Quảng Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Phổ Mãn ở Lộ Châu thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Ta Ta ở phủ Giang Lăng thời Tiền Đường:
19. Truyện ngài Nghĩa Sư ở Quận Ngô thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Thần Giám trụ núi Linh Tú ở Đường Châu thời Tiền Đường:
21. Truyện ngài Thanh Quán trụ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai thời Tiền Đường:
22. Truyện ngài Hy Vận trụ núi Hoàng Bá ở Hồng Châu thời Tiền Đường:
CHƯƠNG SÁU: CẢM THÔNG TRONG PHẦN 4 CỦA CHƯƠNG VI
1. Truyện ngài Thần Anh trụ viện Pháp Hoa ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Ngưu Vân trụ chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Đạo Nghĩa ở chùa Thanh Lương, núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Pháp Chiếu trụ chùa Trúc Lâm ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Thường Ngộ ở Bí Ma Nham, thuộc núi Thanh Lương, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Vĩnh An ở phủ Thành Đô thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Tuệ Văn trụ chùa Linh Thạch ở Cù Châu, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Vô Lậu trụ hạ Viện Linh Võ ở Sóc Khương, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Bảo Đạt trụ chùa Linh Ẩn ở Hàn Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Ẩn Phong trụ núi Bắc Đài ở Đại Châu thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Tọa Vong Danh ở chùa Lương Sơn thuộc Phủ Hưng Nguyên, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Văn Sảng, trụ chùa Sùng Phước ở Thái Nguyên, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Bổn Tịnh trụ chùa Bảo Phước, ở Phước Châu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Pháp Giang, trụ chùa Pháp Tụ, ở phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài La Tăng trụ núi Trà Lung ở Cửu Lũng thuộc Bành Châu, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Khế Thử trụ huyện Phụng Hoá ở Minh Châu, Thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Trí Biện trụ chùa Khai Nguyên ở Nghiệp Đô, thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Ninh Sư ở phủ Phụng Tường, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG SÁU: CẢM THÔNG TRONG PHẦN 5 CỦA CHƯƠNG VI
1. Truyện ngài Như Mẫn trụ viện Linh Thọ ở Thiều Châu, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Toàn Tể ở núi Thiên Thai, thời Hậu Đường:
3. Truyện ngài Hoài Tuấn ở Ba Đông, thời Hậu Tấn:
4. Truyện ngài Hạnh Tuân trụ Viện Quang Quốc ở Lãng Châu thời Hậu Tấn:
5. Truyện ngài Vong Danh ở Tương Châu, Thời Hậu Tấn:
6. Truyện vị Cuồng Tăng ở Huyện Cáo Thành ở kinh đô Lạc Dương, thời Hậu Hán:
7. Truyện ngài Tăng Giam trụ chùa Tịnh Chúng ở Ngụy Thục, thời Hậu Chu:
8. Truyện ngài Sư Giản trụ Viện Hồ Quang ở Hàng Châu, thời Hậu Chu:
9. Truyện ngài Vương La-hán trụ chùa Càn Phù ở Minh Châu, thời Bắc Tống:
10. Truyện ngài Tông Hợp trụ Viện Diên Thọ ở Đàm Châu, thời Bắc Tống:
11. Truyện ngài Điểm Điểm Sư trụ chùa Linh Thứu ở Đại Ấp thuộc Ngang Châu đời Tống:
12. Truyện ngài Hạnh Mãn trụ Thiền Viện Trí Giả ở núi Thiên Thai thời Bắc Tống:
13. Truyện ngài Pháp Viên trụ Viện Mão Trai ở Ngụy Phủ, thời Bắc Tống:
1. Truyện ngài Tăng Tạng ở Phần Châu, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Chánh Thọ trụ chùa Sơn Quang ở Hán Đông, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Vô Nhiễm trụ viện Thiện Trụ ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Định Lan ở chùa Phước Cảm, thuộc phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Toàn Khoát trụ viện Nham Đầu ở Ngạc Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Nguyên Tuệ trụ chùa Pháp Không Vương ở Gia Hưng, thuộc Quận Ngô, thơi Tiền Dường:
8. Truyện ngài Trúc Thảo Sư trụ chùa Bồ Đề ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Hạnh Minh trụ tại Lan-nhã ở Nam Nhạc, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Thích Tức Trần trụ Viện Tam Học ở Vĩnh Hòa, thuộc Thái Nguyên, Thời Hậu Tấn:
11. Truyện ngài Đạo Dục trụ chùa Bình Điền ở núi Thiên Thai, thời Hậu Tấn:
12. Truyện ngài Cảnh Siêu trụ Am Hương Tích ở Lô Sơn, thuộc Giang Châu thời Hậu Tấn:
13. Truyện ngài Chí Thông trụ Chùa Pháp Môn ở Phủ Phụng Tường, thời Hậu Tấn:
14. Truyện ngài Đạo Chu, trụ chùa Vĩnh Phước ở Linh Võ, Sóc Phương, thuộc thời Hậu Tấn:
15. Truyện ngài Thích Hồng Chân trụ chùa Quảng Khánh ở kinh đô Lạc Dương thời Hậu Hán:
16. Truyện ngài Tuệ Minh trụ chùa Báo Ân ở Tiền Đường thời Hậu Chu:
17. Truyện ngài Phổ Tĩnh trụ chùa Từ Vân ở Tấn Châu thời Hậu Chu:
18. Truyện ngài Thủ Hiền trụ chùa Đại Thánh ở Hành Dương thời Bắc Tống:
19. Truyện ngài Sư Uẩn trụ chùa Bát-nhã ở núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:
20. Truyện ngài Thiệu Nham trụ chùa Chơn Thân Bảo Tháp ở Hàng Châu, thời Bắc Tống:
21. Truyện ngài Văn Liễn ở núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:
22. Truyện ngài Hoài Đức trụ chùa Phổ Chiếu Vương ở Lâm Hoài, thời Bắc Tống:
CHƯƠNG TÁM: ĐỌC TỤNG TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG VIII
1. Truyện ngài Hạnh Kiên, đời Tùy:
2. Truyện ngài Pháp Trí ở núi Thiên Thai đời Tùy:
3. Truyện ngài Tuệ Ngộ trụ chùa Thiền Định ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Minh Tuệ trụ chùa Đại Từ Ân ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Tuệ Cảnh trụ chùa Sùng Phước ở phủ Thái Nguyên thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Sùng Chính trụ chùa Sùng Phước ở Phủ Thái Nguyên, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Tư Duệ trụ chùa Sùng Phước ở phủ Thái Nguyên thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Thích Pháp Lãng trụ chùa Thanh Long ở Thượng Đô thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Tăng Huyễn ở Hà Đông đời Đường:
10. Truyện ngài Huyền Trang trụ chùa Bạch Mã ở Kinh Châu, Thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Thích Hồng Chánh trụ Lan-nhã ở huyện Linh Trì, phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:
12. Truyện Sa-môn Chí Huyền thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Nguyên Kiểu trụ chùa Khai Nguyên ở phủ Phụng Tướng, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Sở Kim trụ Chùa Thiên Phước ở Kinh Đô thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Hoi Ngọc trụ chùa Dõng Tuyền ở Đài Châu thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Đại Hạnh ở Thái Nhạc thuộc Duyện Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Vong Danh trụ chùa Quảng Ái ở Lạc Dương thời Tiền Đương:
18. Truyện ngài Thích Hùng Tuấn ở phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:
19. Truyện ngài Pháp Sư Tam Đao trụ chùa Long Hưng, ở Cát Châu, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Thích Đại Quang trụ chùa Pháp Hoa ở Hồ Châu thời Tiền Đường:
21. Truyện ngài Trí Đăng trụ chùa Thiên Sùng ở Kinh Châu thời Tiền Đường:
CHƯƠNG TÁM: ĐỌC TỤNG TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG VIII
1. Truyện ngài Minh Độ trụ chùa Thạch Bích ở Tinh Châu, thời Tiền Đường:
2. Truyền ngài Thanh Hư trụ chùa Tuệ Nghĩa ở Tử Châu thời Tiền Đường:2
3. Truyện ngài Thiểu Khương trụ Đạo tràng Tịnh Độ ở núi Ô Long, thuộc Mục Châu, thời Tiền Đường.
4. Truyện ngài Pháp Chánh trụ chùa Khai Nguyên ở Giang Châu thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Thích Thủ Tố trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
6. Truyện Hoa Nghiêm Hòa-thượng ở U Châu thời tiền Đường:
7. Truyện ngài Văn Chiếu ở núi Bách Thê thuộc phủ Hà Trung thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Pháp Chiếu ở Thiểm Phủ thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Tuệ Phổ trụ tại Thiền Viện Thanh Trước, ở huyện Quảng Tế, thuộc Kỳ Châu, đời Đường.
10. Truyện vị Khách Tăng ở xứ nay là Đông Kinh, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Linh U trụ chùa Đại Ôn Quốc ở Thượng Đô thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Duy Cung trụ chùa Pháp Tánh ở Kinh Châu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Thích Toại Đoan trụ chùa Đức Nhuận ở Minh Châu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Thần Trí trụ viện Bảo Thọ ở Gia Kỵ, thuộc Việt Châu, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Thích Tùng Thẩm trụ chùa Thiền Trí ở Dương Châu, thời Hậu Lương:
16. Truyện ngài Hồng Sở trụ chùa Đại Vân ở Ôn Châu, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Thích Hồng Cử trụ tại núi Tiểu Tùng ở Ôn Châu, thời Hậu Đường:
18. Truyện ngài Đạo Hiền ở phủ Phụng Tường, thời Hậu Đường:
19. Truyện ngài Nhược Hư trụ tại Lô Sơn ở Giang Châu, thời Hậu Hán:
20. Truyện ngài Hạnh Thao trụ chùa Đại Thiện ở quận Cối Kê, thời Hậu Chu.
21. Truyện ngài Thủ Chân trụ chùa Khai Bảo ở Đông Kinh, thời Bắc Tống.
CHƯƠNG CHÍN: HƯNG PHƯỚC. TRONG PHẦN THỨ NHẤT CHƯƠNG IX
1. Truyện ngài Pháp Thành ở kinh đô, thời Hậu Chu. (Theo niên biểu thì phải là thời Tiền Đường).
2. Truyện ngài Nghiệp Phương trụ chùa Chiêu Quả, ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.
3. Truyện ngài Quang Nghi trụ chùa Thanh Long ở Thượng Đô, thời Tiền Đường.
4. Truyện ngài Tự Giác trụ chùa Đại Bi ở Trấn Châu, thời Tiền Đường.
5. Truyện ngài Tuệ Vân ở chùa Tướng Quốc nay là xứ Đông Kinh, thời Tiền Đường.
6. Truyện ngài Huyền Lãm trụ chùa Hoa Nghiêm ở Hàng Châu, thời Tiền Đường.
7. Truyện ngài Huyền Lãng trụ chùa Thanh Thái ở Đông Dương, thời Tiền Đường.
8. Truyện ngài Tuệ Minh trụ Phật Xuyên ở Hồ Châu, thời Tiền Đường.
9. Truyện ngài Tử Vũ trụ chùa Đại Vân ở Hồ Châu, thời Tiền Đường.
10. Truyện ngài Duy Thật trụ chùa Hương Sơn, thuộc Từ Khuê ở Minh Châu, thời Tiền Đường.
11. Truyện ngài Tăng Nhẫn trụ chùa Long Hưng ở Sóc Phương, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Văn Toản trụ chùa Hà Ân ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Hoài Ngọc trụ chùa Sùng Phước ở phủ Thái Nguyên, thời Tiền Đường.
14. Truyện ngài Đại Bệnh Sư trụ chùa Đại Phạm ở Tấn Châu, thời Tiền Đường.
CHƯƠNG CHÍN: HƯNG PHƯỚC TRONG PHẦN 2 CHƯƠNG IX
1. Truyện ngài Tăng Kiệt trụ chùa Quang Trạch ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Định Quang trụ chùa Phước Cảm ở Thành Đô, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Trinh Cán ở Gia Hòa, thuộc Quận Ngô, thời Tiền Đường.
4. Truyện ngài Đạo Tuân trụ núi Chi Hình ở Tô Châu, thời Tiền Đường.
5. Truyện ngài Hàm Quang trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường.
6. Truyện ngài Tịch Nhiên trụ Thiền Viện Châu Sơn ở Diễm Ốc, thời Tiền Đường.
7. Truyện ngài Phổ Ngạn ở chùa Phước Điền núi Thiên Thai, thời Tiền Đường.
8. Truyện ngài Duy Tắc trụ chùa Phụng Từ ở Kinh đô thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Minh Chuẩn trụ chùa Thiền Định ở Trường An, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài U Huyền trụ chùa Bảo Lịch ở Hồng Châu, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Trí Quân ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Văn Chất trụ núi Lã Hậu ở Cối Kê, thời Tiền Đường.
13. Truyện ngài Tông Lượng trụ chùa Quốc Ninh ở Minh Châu, thời Tiền Đường.
14. Truyện ngài Đàm Hưu trụ chùa Khai Nguyên ở Việt Châu, thời Tiền Đường.
15. Truyện ngài Trí Quảng trụ chùa Khai Nguyên ở Nhã Châu, thời Tiền Đường.
16. Truyện ngài Pháp Tạng trụ chùa Bảo Đài ở Phu Châu, thời Tiền Đường.
17. Truyện ngài Hải Vân ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.
18. Truyện ngài Pháp Hưng trụ chùa Phật Quang ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.
19. Truyện ngài Hạnh Nghiêm ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Nguyện Thành trụ chùa Phật Quang ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:
21. Truyện ngài Thành Tuệ trụ chùa Thiên Tử ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.
CHƯƠNG CHÍN: HƯNG PHƯỚC TRONG PHẦN 3 CHƯƠNG IX
1. Truyện ngài Trí Huy trụ viện Tham Dục ở Lạc Dương, thời Hậu Đường.
2. Truyện ngài Quang Tự trụ Viện Chân Dung ở núi Ngũ Đài, thời Hậu Tấn.
3. Truyện ngài Tuân Hối trụ chùa Tướng Quốc ở Đông Kinh thời Hậu Tấn:
4. Truyện ngài Trí Lãng trụ Viện Hỗ Thông ở Tào Châu thời Hậu Tấn:
5. Truyện ngài Sư Hội trụ Thiền Viện Thiên Thọ ở Đông Kinh thời Hậu Hán:
6. Truyện ngài Trí Giang trụ viện Quảng Thọ ở Tống Châu thời Hậu Chu:
7. Truyện ngài Quang Dự trụ Viện Chân Dung, ở núi Ngũ Đài, thời Hậu Chu:
8. Truyện ngài Nham Tuấn trụ Thiền Viện Quán Âm ở Đông Kinh thời Bắc Tống:
9. Truyện ngài Ngạn trụ viện Bảo Đàn ở Tây Kinh thời Bắc Tống:
10. Truyện ngài Giác trụ viện Phổ Tịnh ở Đông Kinh thời Bắc Tống:
11. Truyện ngài Vĩnh An trụ chùa Báo Ân ở Hàng Châu thời Bắc Tống:
12. Truyện ngài Diên Thọ trụ chùa Vĩnh Minh ở Tiền Đường, đời Tống:
13. Truyện ngài Nghĩa Trang trụ chùa Thiên Cung ở Tây Kinh, thời Bắc Tống:
14. Truyện ngài Phổ Thắng trụ chùa Quảng Ái ở Tây Kinh, thời Bắc Tống:
15. Truyện ngài Sư Luật trụ chùa Khai Bảo ở Đông Kinh, thời Bắc Tống:
CHƯƠNG MƯỜI: TẠP KHOA THANH ĐỨC TRONG PHẦN 1 CHƯƠNG X
1. Truyện ngài Nhất trụ chùa Linh Ẩn ở Tiền Đường thời Nam Tống:(1)
2. Truyện ngài Tuệ Ngưng ở Lạc Dương, thời Nguyên Ngụy:
3. Truyện ngài Viên Tướng trụ chùa Pháp Tụ ở phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Tăng Đạt trụ chùa Diệu Hỷ ở Việt Châu thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Thần Đảnh ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Hoằng Sư ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Tuệ Nhật trụ chùa Võng Cực ở Lạc Dương, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Thần Huýnh trụ chùa Đại Vũ ở Việt Châu thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Thuần Đà trụ chùa Trấn Quốc ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Đạo Thúy trụ chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai, thời Tiền Đường.
11. Truyện ngài Tấn Bình trụ núi Tây Ẩn ở Quận Hoài An, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Đạo Ẩn trụ viện Nhị Thánh, ở Nam Sơn, thuộc Ninh Châu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Đạo Ngộ ở Đào Sơn, thuộc Ôn Châu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Hoan Hỷ ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Kiểu Nhiên trụ tại Trữ Sơn ở Hồ Châu, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Hoài Không trụ núi Định An ở An Lục, thời Tiền Đường:
17. Truyện ngài Tuệ Diễn ở Lễ Châu, thời Tiền Đường:
18. Truyện ngài Hạnh Giác trụ chùa Quốc Xương, ở Kinh Châu, thời Tiền Đường.
19. Truyện ngài Huyền Yến trụ chùa Khai Nguyên ở Ngọc Châu, thời Tiền Đường:
20. Truyện ngài Trừng Tâm ở Nam Nhạc thời Tiền Đường.
21. Truyện ngài Đạo Tề trụ chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu, thời Tiền Đường.
22. Truyện ngài Tuệ Thiệp trụ chùa Trang Nghiêm ở Kim Lăng, thời Tiền Đường.
23. Truyện ngài Vân Thúy trụ chùa Thiên Phước ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường.
24. Truyện ngài Pháp Chân trụ chùa Bảo Thọ ở Kinh đô, thời Tiền Đường.
25. Truyện ngài Ninh Bí ở Đạo Tràng núi Lã Hậu, thời Tiền Đường.
26. Truyện ngài Pháp Dung trụ chùa Trường Lạc ở Lãng Châu, thời Tiền Đường.
CHƯƠNG MƯỜI: TẠP KHOA THANH ĐỨC TRONG PHẦN 2 CHƯƠNG X
1. Truyện ngài Hảo Trực trụ chùa Đại An Quốc ở Thượng Đô, thời Tiền Đường.
2. Truyện ngài Quảng Tu ở chùa Thiền Lâm núi Thiên Thai, thời Tiền Đường.
3. Truyện ngài Nguyên Biểu người nước Cao Ly, thời Tiền Đường.
4. Truyện ngài Đầu-đà trụ chùa Long Hưng ở Trấn Châu thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Toàn Thử ở núi Nam Nhạc thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Tuệ Mộc trụ viện Minh Tâm ở Việt Châu thời Tiền Dường:
7. Truyện ngài Vong Danh trụ trong lò nung ngói gạch ở phía Nam U Châu thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Thê Ẩn trụ chùa Khai Nguyên ở Hồng Châu thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Hòa-thượng Kim trụ chùa Huyền Úng ở Hà Đông thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Vô Tác, ở núi Tây Minh thời Hậu Lương:
11. Truyện ngài Quán Hưu trụ viện Đông Thiền ở Phủ Thành Đô, thời Hậu Lương.
12. Truyện ngài Quốc Đạo Giả trụ Viện Song Khê ở Lô Sơn, thời Hậu Lương.
13. Truyện ngài Trí Tuyên ở Tuyền Châu, thời Hậu Lương.
14. Truyện ngài Tề Kỷ ở chùa Long Hưng phủ Giang Lăng, thời Hậu Lương.
15. Truyện ngài Vô Tích trụ chùa Quảng Phước ở Linh Châu, thời Tiền Đường.
16. Truyện ngài Biện Quang trụ chùa Quốc Ninh ở Minh Châu thời Hậu Đường.
17. Truyện ngài Tự Tân ở Tuyên Châu, thời Hậu Đường.
18. Truyện ngài Hạnh Tu trụ viện Nhĩ Tướng ở Hàng Châu, thời Hậu Hán.
19. Truyện ngài Tông Uyên trụ núi Bá Các ở Nghi dương, thời Bắc Tống.
(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có bốn vị).
Thích Tự Tại, họ Lý, người ở xứ Ngô Hưng. Lúc sanh Sư có điềm kỳ lạ, khi vừa khôn lớn, mỗi lúc ngồi thì Sư bắt chân kiết già, người thân lấy làm lạ. Sư giã từ cha mẹ, đến xin xuất gia ở Kính Sơn, thọ giới cụ túc tại Tân Định. Đến lúc du phương tham học, Sư theo pháp tích của Thiền Sư Đạo Nhất ở Nam Khương, mở giải chân tông, vượt hẳn đồng bạn, Đạo dự Khổng Chiêu, đi đứng ưu du, thường ẩn trong hang núi. Thiền lữ bốn phương tìm đến rất đông.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư ở tại Hương Sơn thuộc Lạc Kinh, cùng với Thiền sư Thiên Nhiên kết bạn không trái nghịch. Sư thường thích đến các cảnh xưa, nghĩ có được vết tích của các bậc Tiền Hiền để ưa thích quan sát, như tại núi Long Môn thấy được chỗ Tam Tạng Pháp sư dịch kinh vào thời Hậu Ngụy, tại núi Vương Ốc thấy được nơi Hổ đấu của Thiền sư Trù, ở núi đó uống nước suối ngọt nên đổi tên thành chùa Cam Tuyền.
Tại Tung Sơn là suối Ngựa quỳ của Pháp sư Phạm, Sư ở mà không đắm luyến, Sư có soạn "Tam thương ca", từ ý đều hay đẹp. Cảnh tỉnh khai mở kẻ mê mờ, có lợi ích ở đời trước.
Khoảng đầu niên hiệu Càn Đức (963..., thời Bắc Tống), tại đất Thục, dòng họ Vương, có Tiểu Quân Sứ Trần Công lấy vợ và các cháu gái của Cao Trung Lệnh Biền. Như người giữ giới bất sát hơn hai mươi năm, sau ở tại đất Thục làm Nam hôn thú, lễ phải giết hại. Ban đầu Cao không muốn. Thân thích bà con nói: "Tự mình giữ giới, hành lễ đãi rượu, thì lấy gì làm vui khách". Cao trái phạm trong chốc lát bèn có nhiều nguy hại, bỗng nhiên chưa tới mười ngày mà mắc bệnh rất lạ, miệng chỉ nói hoảng, như thế qua ba đêm rồi sống lại, kể lại việc ở minh giới rằng: "Ban đầu bị kẻ sứ mặc áo đen đuổi bắt đem vào miếu Thành Hoàng ở Kỳ Phủ. Thần miếu mặc áo tay rộng, đội mũ cao cùng với một võ sĩ mặc áo giáp vàng ngồi đối mặt nhau, kẻ sứ dẫn Cao đến gặp Thần. Võ sĩ nói năng lăng xăng, khiển trách Cao phá giới. Bèn chèn giữ lấy cổ tay quát mắng: "Ta là thần tướng hộ giới, vì ngươi hai mươi năm ăn ngủ không rảnh, đâu ngờ bỗng dưng ngươi chợt khởi tâm giết hại, chóng khuyết giới kiểm. Mạng sống ngươi tuy chưa hết mà tội cũng rất sâu nặng, phải đưa đến minh ty để trừng phạt tội cố phạm ấy". Thần Thành Hoàng hỏi Cao rằng: "Ngươi còn tu pháp lành gì để chuộc lại lỗi lầm chăng?" Cao tuy thường tụng Kinh "Thượng Sanh" rất nhiều biến, đến lúc hoảng hốt đó đều không nhớ biết. Trong khoảng khắc lo sợ, Cao thưa rằng: "Tụng được Tam Thương tụng, Nhất Bát Hòa-thượng ca", bèn chắp tay hướng về Thần, gắng tiếng mà niệm. Thần và võ sĩ đều rung tai chống tay đứng nghe, nhan sắc dần dần vui vẻ, đến hết chương thần đều rơi lệ. Mới nói với Cao rằng: "Tha ngươi trở về nhân gian, nhưng phải tha thiết tu đạo pháp lành". Cao vái từ chưa xong, bỗng nhiên ngồi dậy trình bày sự việc như thế. Từ đó, hai bài ca tụng "Tam thương" và "Nhất bát", mọi người đều truyền viết đọc tụng. Bài Nhất Bát Hòathượng, ca từ hợp với lý, khuyên nhủ suy nghĩ rất sâu sắc, nhưng văn thể quá vắn tắt, không bằng điển nhã của bài Tam Thương.
Trở lại, Sư sai đệ tử đến Giang Nam chọn lựa nơi núi non đẹp nhất, bảo: "Ta nguyện sang đó ở tới già!" Đệ tử đến huyện Đô Xương; thuộc Giang
Châu, thấy có rừng suối tốt đẹp nên trở về báo lại.
Trên đường đi trải qua huyện Diệp, kẻ tăng người tục thỉnh Sư ở lại, đến chùa Khai Nguyên ở Tùng Châu Sư thị tịch, thọ tám mươi mốt tuổi. Nhằm niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821).
Liên hệ thử bàn:
1. Xét theo các luật tạng, người xuất gia phạm giới thì vời lấy hai tội: là trái với Phật chế, và 2. là thẳng vào nghiệp đạo. Ông Cao là người cư sĩ vốn không thọ giới, không trái phạm lỗi lầm với Phật chế, chỉ có tội nghiệp đạo, đâu được có thần hộ giới? Huống gì ông Cao đã giữ giới bất sát thì thầm cảm quả sanh thiện của chỉ trì vô tác. Nhân tốt đẹp hay có đến cuối cùng gặp phải u trách. Xin báo cùng các vị trong năm chúng đệ tử Phật phải sợ thần Hộ giới là vậy đó. Ngay thế giới sáng tỏ thì có giới pháp, trong thế giới âm thầm thì có quỷ thần.
Kế nữa có ngài Thích Nam Ấn trụ chùa Nguyên Hòa Thánh Thọ, ở phủ Thành Đô. Sư họ Trương. Tánh thức sáng suốt, thọ học ích lợi không thỏa mãn. Sư được ý chỉ sâu mầu của Tổ Tào Khê mà không lấy làm sở chứng. Sư đến gặp thầy ở chùa Tịnh Chúng, chỗ gọi là "Gấm rơi máy rửa để mài thêm, Rồng ngậm đuốc đi mà phá tối". Sư từ Giang Lăng đi đến đất Thục, ở phía Nam Giang Thục, Sư cắt cỏ kết am, Tăng chúng đều quy ngưỡng dần thành chùa Phật.
Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (785), Cao Tư Không Sùng Văn Bình sau khi cởi mở, đổi tên chùa là Nguyên Hòa Thánh Thọ, ban đầu tên là Bảo Ứng. Sư hóa duyên sắp mãn, đến đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Sư thị tịch, xây tháp an táng trong chùa. Trong thời Pháp nạn Hội Xương, tháp bị phá hủy. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860), Sư phục hồi lại trên nền cũ chùa Bảo Ứng ở Giang Bắc, xây dựng chùa nầy và lấy lại tên Thánh Thọ. Sư có đệ tử nối dõi là Ngài Nghĩa Phục, phục hưng thiền pháp.
Thích Vô Nghiệp, họ Đỗ, người ở xứ Thượng Lạc, thuộc Thương Châu. Mẹ của Sư họ Lý, bỗng nhiên nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: "Xin ở nhờ được chăng?" thế rồi mang thai, đêm sanh ra Sư có ánh sáng khác lạ soi chiếu khắp phòng. Đến tuổi nhi đồng, Sư chẳng ham thích vui đùa, đi thì nhìn thẳng, ngồi thì kiết già. Sư đến chỗ chúng tăng, mọi người thấy đều ngợi khen "đây là bậc pháp khí vô thượng, nên mau cho xuất gia để tiếp nối làm ngời sáng Tam bảo".
Năm chín tuổi, Sư thưa với cha mẹ: "Xin được nương tựa Thiền sư Chí Bổn ở chùa Khai Nguyên trong bổn quận". Và Sư được ngài trao cho các Bộ kinh Kim Cương, Pháp Hoa, Duy-ma, Tư Ích, Hoa Nghiêm v.v... Cứ năm hàng trở xuống, Sư tụng một lần không sót. Năm mười hai tuổi, Sư được xuống tóc xuất gia. Hễ tham dự ở các trường giảng tịch, hễ Sư nghe liền hiểu. Những bạn đồng học có điều chưa hiểu, Sư tùy theo đó mà mổ xẻ khiến đều đến được cửa huyền. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc với Luật Sư U ở Tương Châu. Đối với bộ Tứ Phần Luật sớ, chỉ qua một mùa hạ tập học, Sư có thể diễn giảng lại. Sư kiêm giảng kinh Niết-bàn cho chúng tăng nghe, pháp hội mở hoài, đông hạ chẳng mỏi mệt. Có thể gọi Sư là: "Đạo Sanh Tăng Triệu chẳng mất, Tuệ Lâm Tuệ Viễn phục hưng".
Sau, Sư nghe (vị đệ tử) Thượng Thủ của Thiền sư Đại Tịch ở Hồng Châu đặc biệt đến chiêm lễ. Thân vị nầy cao hơn sáu thước, đứng như ngọn núi, mắt nhìn thẳng ngưng tròng hé mắt, tiếng nói như hồng Chung. Ngài Đại Tịch mới một lần gặp, lấy làm lạ, cười mà nói rằng: "Điện Phật cao ngất trong đó không có Phật". Khi đó, Sư đảnh lễ, quỳ thưa rằng: "Đến như văn học Tam thừa, ý chỉ từ thô đến tế, thường nghe ở cửa thiền nói "tức tâm là Phật", thật sự con chưa thể hiểu". Ngài Đại Tịch bảo: "Chỉ chưa rõ đáy tâm chính là. Vật khác thì không, khi chưa hiểu tức là mê, nếu hiểu được tức là Ngộ. Mê tức là chúng sanh, ngộ tức là Phật. Chẳng lìa chúng sanh có Phật đâu riêng. Cũng như tay nắm lại thành quyền, quyền hoàn toàn là tay: "Ngay lời nói đó, Sư hoát nhiên khai ngộ, tuôn lệ buồn khóc, hướng nhìn ngài Đại Tịch mà thưa rằng: "Vốn là Phật đạo lâu dài, phải trải qua nhiều kiếp mới được thành. Ngày nay con mới biết pháp thân thật tướng vốn tự đầy đủ. Tất cả muôn pháp từ tâm sanh khởi, chỉ có tên gọi mà không thật có". Ngài Đại Tịch bảo: "Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh, bất sanh bất diệt, tất cả các pháp vốn tự vắng lặng. Trong kinh nói rằng: "Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng". Hay là: "Rốt ráo đều là nhà vắng lặng". Hay là: "Các pháp không làm tòa". Đó tức là các Đức Phật Như Lai trụ ở chỗ Vô sở trú. Nếu biết được như thế tức là đang ngồi tòa pháp; ở nhà vắng lặng. Giở chân lên, đặt chân xuống chẳng lìa đạo tràng. Ngay lời nói đó liền rõ, không còn thứ lớp. Đó gọi là chẳng động chân mà lên núi Niếtbàn".
Sư đã được truyền Tâm Ấn, liền đến Tào Khê, đảnh lễ Tháp Tổ, trở về vân du tới Lư Nhạc, Thiên Thai, cho đến các danh sơn, Sư tìm khắp các Thánh tích. Từ Lạc kinh đến Ung Châu, Sư dừng nghỉ tại chùa Tây Minh. Tăng chúng đều muốn đề cử thỉnh Sư sung nhậm "Lưỡng Nhai Đại Đức". Sự im lặng, than rằng: "Gần gũi các bậc Quốc Vương Đại Thần, chẳng phải chí ý của tôi!". Từ đó, Sư đến Thượng Đang, Tiết Độ Sứ Tướng Quốc Lý Bảo Chân cùng Mã Toại đã có nhiều chiến công, lại khởi phát Vương Võ Tuấn đồng phá chu thao, công nhiều thế lớn, nhưng thích nghe đến những bậc Hiền thiện. Tuy ngoài ngàn dặm mà thường mang lễ vật đến cúng dường. Rất kính trọng danh hạnh của Sư, nên sớm tối chiêm lễ, cờ phướn tới lui. Sư thường tỏ vẻ mỏi mệt, nói với môn nhân rằng: "Ta vốn lánh Thượng Quốc, đông đúc danh lợi. Nay đây lại phiền tiếp quân hầu, làm vui lòng được ư!" Nói xong, Sư tự tại đi lên chốn cao xa, ôm lấy bụng núi. Sư lại sang núi Thanh Lương, trụ chùa Kim Các, đọc xem Đại Tạng kinh. Tám sao đầy trời, nguyện ấy mới xong. Sư lại chấn tích xuống phương Nam, đến Tây Hà, lúc đầu, Ngài dừng ở chùa Chúng Hương. Đổng thúc ở Châu Mục thỉnh Sư trụ tinh xá Khai Nguyên, Sư nói với đệ tử rằng: "Từ khi ta đến đây, không còn có ý Du phương nữa, há là ta có duyên ở đây ư?"
Từ đó, Sư gióng chuông cáo chúng, làm sư tử hống, tuôn pháp mưa lớn, suốt hai mươi năm, tinh phần dân chúng đều được ảnh hưởng sự giáo hóa của Sư. Vua Hiển Tông lên ngôi đến năm thứ 14 (820), vốn cảm hưởng ân đức của Sư, mới ban chiếu thỉnh mời vào nội cung. Sư lấy cớ bệnh mà khước từ chẳng đi. Năm sau, nhà vua lại ban sắc luân chỉ, Sư cũng nói bệnh như trước. Năm vua Mục Tông mới lên ngôi (821) tâm vua kính trọng, nghĩ muốn được một lần chiêm lễ, mới bảo Lưỡng Nhai Tăng Lục Linh Chuẩn Công, từ xa mang sắc chỉ đến đón rước, Linh Chuẩn đến đảnh lễ, thưa với Sư rằng: "Biết Sư tuyệt trần ngoài vật, việc tục là trấu lép. Pháp Giao Quốc Vương đã lo chín muồi, cầu thỉnh Sư. Ân chỉ này mang trở về, chẳng sánh lúc thường, xin Sư hãy thuận theo lòng trời, không nên lấy cớ bệnh mà khước từ, hợp thời mà động, chẳng hệ lụy người sau!" Sư cười, bảo: "Bần đạo có đức gì mà phiền lụy đến Thánh chúa, đi thì đi vậy, nhưng đường đi có khác".
Khi đó, Sư cạo tóc, tắm gội. Đến nửa đêm, Sư bảo các đệ tử Tuệ Âm v.v... rằng: "Tánh thấy nghe hay biết của các ông cùng với thái hư đồng thọ mạng bất sanh bất diệt. Tất cả cảnh giới vốn tự vắng lặng, không một pháp nào thật có. Người mê chẳng rõ tức là bị cảnh mê hoặc, một lúc bị cảnh làm mê thì trôi lăn không cùng. Các ông thường biết tâm tánh vốn tự có, chẳng do Nhân duyên tạo tác mà thành, Nó như kim cương không thể phá hoại. Tất cả các pháp như hình bóng như tiếng vang, hoàn toàn không thật có. Nên trong kinh nói: "Chỉ có một sự thật, ngoài ra có hai thì chẳng phải chân. Thường rõ tất cả là không, không có một vật. Ngay nơi hữu tình là chỗ các Đức Phật dụng tâm. Các ông phải siêng năng thực hành!" Nói xong, Sư ngồi kiết già, an nhiên thị tịch. Than ôi! Có thể nói "Đây là sanh tử được tự tại". Sư thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi hai Hạ lạp.
Kẻ tăng người tục gào khóc kính mến như chịu tang cha mẹ, bèn sắm đủ hương hoa phan phướn, đón rước toàn thân Sư đến Luyện-nhã ở phía Tây thành, chất củi thơm mà cử hành lễ trà-tỳ. Có vầng mây từ trời, năm mầu ngưng tụ giữa hư không, mùi hương lạ từ phía Tây bay đến xông ngát khắp nơi, các hàng sĩ thứ ở miền quê thảy đều nghe thấy. Đến lúc củi tàn lửa tắt, hiển bày xá-lợi như châu ngọc. Các đệ tử Tuệ Âm, Hạnh Cần, Kiền Túng, Nghĩa U, Nguyên Độ, Hằng Thái v.v... khóc than, liệm vào kim quan, bảo thợ đất Dĩnh chạm đá làm tháp. Đến ngày 21 tháng 12 niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (823), an táng tại sân Luyện-nhã.
Năm Sư thị tịch, Châu Mục Dương Tiềm được Tăng Lục Linh Chuẩn kể lại việc đó, bèn làm bia soạn văn khen ngợi. Vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Đạt Quốc Sư", tháp hiệu là "Trừng Nguyên".
Thích Như Hội, người xứ Thỉ Hưng, thuộc Thiều Châu. vào niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Sư nương tựa dưới Pháp tịch của Thiền sư Quốc Nhất, sau trở về pháp tòa của Thiền sư Đại Tịch. Bấy giờ, Thiền khách ngưỡng mộ, quyết cầu tâm yếu, nên trong tăng đường giường chõng vì thế mà thiếu gãy. Bấy giờ gọi là "Hội gãy giường", còn gọi là "giường tạc Phật".
Sau, Sư theo lời mời đến trụ chùa Đông ở Trường Sa. Từ lúc Thiền sư Đại Tịch thị tịch, là lúc đảnh cao hưng thạnh pháp môn của Sư không ai hơn được. Nên ngạn ngữ có câu: "Chùa Đông là Hang Thiền", suy đoán có thể biết. Bấy giờ, Tướng Quốc Thôi Công Quần kính mến đạo phong của Sư, nên đến tham yết tận chùa. Ngài đối đáp rành rẽ, từ hợp thấu lý. Từ đó mà kết bạn thầy trò. Ban đầu Thôi Công Quần cùng với Hoàng Phụ Bác bàn nhau tấu trình tôn xưng hiệu Sư lên vua Hiến Tông. Vì bị Hoàng Phụ Bác dắt ra làm quán sát ở Hồ Nam. Nhàn dự quy tâm về Sư.
Đến năm Quý mão (823) thuộc niên hiệu Trường Khánh (821-825) thời vua Mục Tông, Sư thị tịch tại chùa, thọ tám mươi tuổi. Khi ấy, suối giếng cạn khô, có mùi hương lạ xông lên thơm ngát, nhập tháp ở phía Nam thành. Liêm Sứ Lý Cao đập phá hết các tháp mộ gần thành, chỉ để lại Bảo tháp Sư mà thôi. Và lấy bút đề rằng: "Chỉ để lại ngôi này để phân biệt hiền ngu". Lưu Thiện Bộ Kha soạn văn bia. Vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Truyền Minh Đại Sư", tháp đề là Vĩnh Tế, cũng gọi chỗ Sư ở là "Giáp Sơn Hòa-thượng".
Thích Thiên Nhiên, không biết Sư là người xứ nào. Thuở thiếu thời, Sư vào pháp môn mà tính bướng bỉnh. Sư đến tham kiến Thiền sư Thạch Đầu, Thiền sư lặng thinh chấp nhận, nghĩ với tự thể Sư được thật nên đặt tên là Thiên Nhiên. Sư đích thân làm việc bếp núc suốt ba mươi năm mới cạo tóc, mặc pháp phục. Sau, Sư đến luật sư Hy ở chùa Nhạc thọ giới cụ túc, Sư đến pháp hội của ngài Đại Tịch ở Giang Tây, ngài Đại Tịch dùng ngôn từ mà khuyến dụ, Sư ứng đáp nhã chánh. Ngài Đại Tịch rất lấy làm lạ. Kế đó, Sư lại đến trụ Hoa đảnh, thuộc Thiên Thai ba năm. Sư lại tham lễ Đại sư Quốc Nhất.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư lên Hương Sơn, thuộc Long Môn, cùng với Thiền sư Phục Ngưu kết bạn vật ngoại. Sau, Sư ở tại chùa Tuệ Lâm, gặp lúc rét lạnh, Sư bèn đốt tượng Phật bằng gỗ để sưởi ấm. Có người chê trách việc đó, Ngài bảo: "Tôi trà-tỳ tìm xá-lợi!" vị ấy nói: "Ở trong gỗ làm gì có xá-lợi?" Sư lại bảo: "Nếu vậy, sao lại trách tôi ư?"
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 3 (808), vào một buổi sáng, Sư đến nằm ngang trên cầu Thiên Tân. Gặp Lưu Thú Trịnh công đi ra, quở trách Sư chẳng đi. Từ từ, Sư mới ngửa mặt, bảo: "Tôi là Tăng vô sự". Lưu Thú thấy làm lạ, bèn dâng hai chiếc áo trắng; hằng tháng cung cấp gạo bún, khắp ở Lạc Kinh, mọi người đều quy ngưỡng kính tin. Đến mùa xuân niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 (820), Sư nói: "Ta nhớ tưởng đến suối rừng!" Rồi bèn vào Nam Dương cất am ở núi Đan Hà.
Đến tháng 6 niên hiệu Trường Khánh thư 4 (824), Sư bảo môn nhân rằng: "Hãy chuẩn bị tắm gội, ta sắp đi xa!" Nói xong, Sư đội nón, sách gậy và giày cỏ, thòng một chân xuống chưa tới đất thì thị tịch, thọ tám mươi sáu tuổi. Thiên Bộ Viên Ngoại Lang soạn văn bia, ghi lại đức hạnh Sư. Vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Trí Thông Thiền Sư", tháp hiệu là "Diệu Giác".
Thích Thái Dục, họ Phạm, người ở xứ Kim Lăng. Mới mười tuổi Sư đã phát chí xuất gia, bèn đến lễ bái Thiền sư Trung ở núi Ngưu Đầu và thờ làm thầy. Từ đó, Sư tinh tấn mạnh mẽ, cầu được huyền chỉ. Pháp khí sáng rỡ bên ngoài, thần dung bền chặt ở trong. Thấu suốt Nhất thừa, đầy đủ muôn hạnh, Sư sang chùa An Quốc ở Ung Kinh cầu thọ giới cụ túc, vẻ vang xuất chúng. Lại thêm oai nghi khoan thai, tướng đẹp lạ thường, như biển cả đâu thể đo đạt, tợ hư không khá chẳng so lường. Sư đến tham lễ khắp các đạo tràng, nhưng nhiếp tâm ở cảnh tịnh. Tuy trí năng thông đạt, nhưng không nương nhờ thầy, mà ấn khả chứng minh hẳn do Tiên giác. Sư bèn đến tham yết Thiền sư Đại Tịch ở Hồng Tỉnh. Vừa thấy tướng Ngài, Sư đã liễu đạt pháp thân, chỉ khoảnh khắc mà chóng thành Đại giác.
Bấy giờ, Phật pháp thạnh hành trong nước, chẳng đâu bằng ở Hồng Phủ. Dưới tòa các bậc Hiền Thánh kề vai nhau đắc đạo, số đó rất nhiều. Ngài cùng Thiền sư Thiên Triệt, Thiền sư Đại Tuyên giáo, Thiền sư Đại Trí đều là những vị quan trọng. Sư vân du khắp Nam Bắc, không hề lo sợ, khiến thêm rộng thấy nghe, tập quen nuôi dưỡng mầm Thánh.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 13 (819), Sư tới dừng trụ tại núi Phù Dung, ở Nghĩa Hưng, thuộc Tỳ Lăng, nên được trụ ở núi, Sư gây duyên tạo nhân, có ứng mà không mê đắm, nên chỗ Sư ở thì có cảm hóa và nơi Sư đến thì có người ưa thích tu theo. Tăng tục cùng nhau kính ngưỡng, cảm động đến hàng muôn người. Từ đó, mọi người ở Giang Nam ngộ được lý thiền có đông nhiều. Bấy giờ, Tướng Quốc Thôi Công Quần bị thất thủ ra phân ty. Sau vì Hoa Châu, từ Tam Phong mà ra trấn giữ Tuyên thành. Chỗ đất ấy tuy gần mà người thì xa. Thôi Công rất ưa thích lễ yết, dốc lòng thành thật cầu thỉnh, Sư vì lòng cảm niệm mà hiện tâm đại bi, không đâu chẳng muốn thành quả, nên tùy duyên du phương.
Niên hiệu Bảo Lịch thứ nhất (825), Sư thuận mạng đến trụ chùa Thiền Định tại Uyển Lăng. Tùy thuận mà mở mang giáo pháp. Năm sau, Sư cáo lui về núi Tề Vân. Đến ngày mồng một tháng 9, sắc tướng Sư chẳng đổi thay mà bỗng nhiên thị tịch tại viện ở núi ấy, thọ tám mươi tuổi, năm mươi tám hạ lạp.
Ngày đó, đất trời như thảm sầu, cỏ cây như đổ ngã, chim thú buồn kêu, mây suối sờ sửng, từ tăng chúng cho đến sĩ thứ dường như trẻ thơ mến tiếc khắp cùng. Qua tháng 10 dừng thần tại sân viện, theo chỗ nên làm. Các đệ tử Chí Phu, Khế Chân, Thanh Cán v.v... bùi ngùi khóc than: "Thầy ta thị tịch, mà đàn hậu học đang còn!" Đến niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828) Tướng Quốc Vi Xử Hậu vốn kính chuộng huyền phong, đạo tâm thuần thục, đem sự việc tấu trình, vua kính Tông ban giáng đức âm, dùng thù lễ khen thưởng, truy tặng thụy hiệu và tên tháp. Việt Châu Thứ Sử Lục Tuyên cầm bút soạn luận.
Thích Đàm Tạng, không biết Sư là người xứ nào. Sư đắc thiền quyết với Thiền sư Đại Tịch. Sau, lại tham kiến Thiền sư Hy Thiên Thạch Đầu. "Cái gọi là tái nhiễm là mầu đỏ".
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), Sư lánh đến Xung Nhạc, dừng ẩn trên chóp núi. Cuối năm đó, Sư bị đau ở chân nên dời xuống cất am ở Tây Viên. Mọi người đến tham cầu, lễ thỉnh rất đông. Đến niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Sư thị tịch tại núi, thọ bảy mươi tuổi.
Trước đây, Sư có nuôi một con chó rất linh. Một đêm, Sư kinh hành ngồi nghỉ ở tòa thì nó ngậm y Sư về phòng và nằm ở ngạch cửa và sủa mãi không dứt tiếng, thân mình luôn phấn phát với thế dữ dằn. Đến sáng ra trông xem thì tại Đông trù có con trăn rất lớn, thân dài mấy trượng, cuộn quanh nhà nhỏ, vì vậy rất cao lớn. Nó há miệng thẳng tiếng gầm gừ tỏa khí độc mịt mờ. Vị thị giả vào thưa Sư nên gấp lánh đi. Ngài bảo: "Chết mà có thể trốn đi xa được sao? Nó nhả độc ra thì ta dùng lòng từ mà nhận lấy. Độc không tự tánh, kích động thì cương. Lòng từ nếu là vô duyên thì oán thân một đường. Không người không ta, pháp tánh đều không". Ngài nói xong, con trăn đó nép đầu, từ từ lánh đi, tự nhiên không thấy nữa. Lại, có một đêm, bọn cướp đến, con chó cũng ngậm y của Sư. Ngài nói với bọn cướp rằng: "Các ông, Lão già này ở nhà tranh trong núi. Các ông có ý lấy vật gì cứ lấy đi, để khởi có chút tiếc rẻ". Bọn cướp cảm kích lời nói đó, bèn phân tán xuống núi.
Kế nữa, có ngài Thích Linh Thoán trụ chùa Vĩnh Thái ở Kinh Châu. Sư họ Tiêu, người ở xứ Lan Lăng. Con cháu đời sau của Sư vào thời Hậu Lương (907-923) bị nhà Chu tận diệt, chi thuộc tinh phần. Cha của Sư lúc ở Trường Sa, làm Biên Độ. Khi sanh ra thì Sư đã có chí xuất trần. Với các Thiền hội, ít nơi nào chẳng đến, sống đơn sơ đạm bạc, ưu du tự tại.
Niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821), Sư trụ tại chùa Bách Gia. Sau đó không lâu, Sư đi bộ đến Giang Lăng, Thái Thú Vương Tiềm thỉnh Sư đến trụ chùa Vĩnh Thái. Đến ngày 23 tháng 6 niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư thị tịch tại chùa, thọ bảy mươi lăm tuổi. Xây tháp tại Bắc Châu, hiện nay vẫn còn.
Lại có ngài Thích Siêu Ngạn, người ở xứ Đan Dương. Trước tiên, Sư gặp Thiền sư Tố ở Hạc Lâm. Sư ở trong chúng, chỉ cung kính im lặng mà thôi. Niên hiệu Thiên Bảo thứ 2 (743) Sư đến Lan-nhã ở Phủ Châu, được Thiền sư Đại Tịch khai phát. Người học khắp bốn phương cùng nhau đến nương tựa.
Thích Vô Đẳng, họ Lý, nay là họ uất; ở Đông Kinh. Sư mang chí siêu việt, từ khí trinh chánh. Thuở thiếu thời, Sư theo cha làm quan ở Nam Khương. Sư luôn đến thăm viếng các chùa, kính mến chư tăng, chiêm lễ tượng Phật. Hễ Sư sang chùa thì quên về. Sau khi xuất gia, Sư gặp được Thiền sư Đạo Nhất ở núi Cung Công; nơi có học chúng rất đông. Sư cầu pháp ở đó chỉ một thời gian, đã vượt trội hơn cả.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (812), Sư đến Hán Thượng. Sau, đến Võ Xương, thấy núi Hoàng Hộc ở quận Tây đẹp đẽ khác lạ, bèn dựng am đi khất thực. Từ đó, những người kính chuộng huyền lý ở các xứ Ba Thục, Kinh, Tương, không nơi xa nào chẳng tìm đến. Niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Thuộc Tướng Quốc Ngưu Công Tăng Nhụ ra trấn giữ vùng Tam Giang, nghe hương đạo của Sư xông khắp xa gần, bèn mạng xa giá uốn mình tới hỏi. Phong Hổ cùng phải vì pháp mà trọng người. Ngưu Công lo ngại Lan-nhã ấy chẳng thuộc danh tịch nên đặc biệt vì Tần đề là "Đại Tịch", tấp nập qua lại, đường pháp không có hư vị. Đến tháng 10 niên hiệu Thái Hòa thứ 4 (830), Sư thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi. Đệ tử Thệ Thông đón rước toàn thân Sư nhập tháp.
Thích Minh Giác, họ Du, người ở xứ Hà Nội. Ông nội của Sư làm quan ở Lãnh Nam, sau dời đến làm người Kiến Dương. Sư là con nhà Nho, phong lưu chứa nhóm, thích thưa hỏi, mong cầu hiểu biết, không hề mệt mỏi, sớm mang tánh đạo.
Nghe Thiền sư Đạo Nhất đang lãnh chúng hành trì thiền pháp tại Phật Tích, Sư bèn tìm đến đó và được nương tựa, xuống tóc xuất gia. Từ đó, Sư phát nguyện du phương. Các nơi như Hành nhạc, Thiên Thai, Tứ Minh, Sư đều đến thưởng thức pháp vị. Sư lại đến Kính Sơn, lưu tâm thỉnh cầu quyết trạch, qua vài năm vác củi mà mặt nám tay chai. Sư xuống núi, đến chùa Đại Vân ở Hàng Châu, cấm túc trong viện. Rồi tiếp tục dời đến bờ hồ trên đảnh Thanh Sơn, cất am mà ở. Chúc Phạm Dương Lư Trung thừa nghe đạo phong của Sư mà đích thân đến tham yết mời Sư về trụ trì chùa Đại Vân ở Châu Trị.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 (821), Ngài lánh hiềm, xa ồn náo, nên đến ẩn cư tại núi Thiên Mục, núi đó Kỳ lạ khác thường, gò nền cao dài vượt qua trên bốn Quận, dưới có đầm rồng sâu chẳng lường được, quái vật thường hay xuất hiện, trong đó có con nai trắng, chất lông lạ thường, người dân ở đó gọi là thần núi. Sư trốn ở trong đó, các Đàn Việt vì Sư mà dựng lập Thiền Vũ.
Từ mùa xuân đến mùa đông niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (821) cho mãi sang tháng 2 năm sau, trời nắng hạn, lửa đồng bốc cháy cuồn cuộn như muốn thiêu đốt am viện, tăng chúng sợ hãi, Sư bảo: "Ta có duyên với núi này, lửa sẽ mau tắt thôi". Chỉ chốc lát, sấm sét nổi đùng, chợt có mưa khiến lửa tắt hết, khắp nơi xa gần đều kinh ngạc khen ngợi.
Đến ngày 19 tháng 7 niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (832), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch.
Thích Viên Tu, họ Phan, người ở đất Mân, thuộc Phước Châu, khi mới sanh ra Sư đã có tánh khác thường, đến lúc trưởng thành càng tuấn tú hơn, bỗng nhiên Sư nghĩ muốn dứt tục, tìm thờ danh sư, cắt tóc đổi y. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Hội thiện ở Tung Dương. Thế rồi, oai nghi phô bày, hình dung ngày một đời mới, quyết đức nghiên cùng kinh luận, tự nhiên Sư ước muốn du phương, gặp được Thiền sư Hoài Hải ở núi Bạch Trượng, căn giáo phù hợp, bèn rõ tâm yếu. Sư ôm bát chống tích mà đến Hàng Châu, thấy núi Tần Vọng với thế cao vời, có cây tùng già cánh nhành sầm uất, Sư bèn dừng ở trên ngọn thông. Bấy giờ, cảm kích loài chim thước lại làm ổ ở cành ngang. Người vật đều quên, loài lông cánh quen dần. Từ đó, Sư chẳng xuống núi, gần bốn mươi năm. Mỗi một Thái thú đến trấn nhậm thì bèn đến chiêm ngưỡng, xưng gọi Sư là "Điểu sào Thiền Sư".
Mãi đến đầu niên hiệu Nguyên Hòa (806), Bang Bá Bùi Thường Lệ kính trọng đạo phong của Sư, nên đến ba bốn lượt thỉnh Sư xuống cất am. Sư hoặc vì người tới tham thỉnh mà nói pháp. Bùi Hầu sai tám vị thuộc Tể Quan chung sức xây dựng Giàlam, phế bỏ biển ngạch, đề là "Chiêu hiền, dựng ở đó. Đến ngày 22 tháng 9 năm Quý sửu, tức niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (833), Ngài ngồi thẳng an nhiên thị tịch, thọ chín mươi chín tuổi, tám mươi hạ lạp. Nhiều Quan Chính Lương Thú ở Hoàng Châu đều hết lòng kính trọng, thuế giá dựng che, thỉnh đàm luận Huyền Cực, bất chợt đổi chức thay giờ. Nay tháp thờ Sư hiện còn ở dưới núi Thạch Tằng. Sa-môn Duy Trinh ở Nam Nhạc làm bài minh cho tháp. Gần đây có bọn cướp phát hiện tháp đó còn nhiều thứ quái lạ, chỉ thâu nhặt được bài bia ký mà thôi.
Thích Phổ Nguyện, họ Vương, người ở xứ Tân Trịnh, thuộc Trịnh Châu. Tổ tông của ngài Đại Tịch là ngài Hoài Nhượng ở viện Quán Âm, thuộc Nam Nhạc, ngài Hoài Nhượng lại là đệ tử của ngài Tuệ Năng ở Tào Khê. Đối với Sư (Phổ Nguyện) là Thái Phụ, nên cao tằng của Sư có thể biết được. Và thiền của Nam Tuyền có bắt đầu từ đó.
Lúc mang thai Sư, mẹ của Sư không thích ăn các thứ máu thịt tanh nồng. Đến niên hiệu Chí Đức thứ 2 (757), Sư quỳ cầu xin cha mẹ cho phép được xuất gia, thoát nhiên Sư có vẻ cởi bỏ sự ràng buộc. Sư bèn đến thọ nghiệp với Thiền sư Đại Tuệ ở núi Đại Ổi, Sư gắng sức khổ nhọc tiết chế, đến nỗi tay chân chai phồng nứt nẻ, mà chẳng dám làm chủ thân, thầy Sư thấy vậy lấy làm lạ.
Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), lúc đó, Sư ba mươi tuổi, bèn đến Luật Sư Hạo ở chùa Hội Thiện ở Tung Sơn thọ giới cụ túc. Học tập tướng bộ cựu Chương, nghiên cứu luật tạng; học các thiên tụ. Sau, Sư đến các trường giảng, lên đảnh Lăng-già, vào hội lớn Hoa Nghiêm, cởi mở then chốt của bách môn quán, lãnh hội huyền cơ ngoài sớ luận. Bấy giờ, những bậc tài giỏi đều nêu cao chạy theo vết loạn. Học chúng của ngài Đại Tịch có hơn tám trăm vị, mỗi lúc sau khi tham thính, Sư tìm hiểu điều thầy giảng, phân tích đúng sai. Sư hoặc nói bằng cách im lặng, các sự bàn luận đều thôi, bảo nhau rằng: "Người chẳng nói mới là nói". Từ đó về sau, Sư che cảnh, ẩn sáng, dường như người không nói được. Có người cho rằng Sư không có pháp để nói, hoặc có người đến gõ cửa, Sư vẫn kiên quyết không tiết lộ. Bấy giờ, có người thầm trách có phong của Sư, hơi bày đầu sừng, mới biết chẳng phải Sư không có pháp mà vì lúc nói chưa đến.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (795), Sư chống tích trượng đến núi Nam tuyền, thuộc Trì dương. Lấp hang chặt cây để xây dựng thiền vũ, tơi nón cơm nước như mục đồng nơi chuồng bò, phá núi khai khẩn ruộng đất làm hoa mầu để sống chẳng dưới ba mươi năm ở tại Nam Tuyền.
Hồng Chương chẳng phải vì dây cỏ khua phát ra tiếng, mà vì tiếng nên có chờ đợi. Đầu niên hiệu Thái Hòa (827), Tuyên Sứ Lục Công Hằng Tiền là Thái Thú Trì Dương, đều biết đó là chối bỏ ngoài trần tục, làm pháp nhãn cho bốn phương, nên cùng Hộ Quân Bành Thành Lưu Công đồng đón rước Sư xuống phía bắc núi để đích thân lễ bái. Không sang đến năm sau, mà người đến học rong ruổi trên đường đạo chẳng dưới mấy trăm người.
Đến ngày 21 tháng 10 năm Giáp Dần (834) thuộc niên hiệu Thái Hòa, Sư thị hiện bị bệnh. Qua ngày 23 tháng 12 năm đó, có cầu vồng xuyên suốt từ thiền thất của Sư đến đỉnh núi phía sau. Những người đoán tướng cho đó là ngài Nam Tuyền tạ thế? Ngày đó, ở đỉnh núi phía Tây, có tảng đá lớn lăn đổ, vang tiếng động đến vài mươi dặm. Cũng ngay ngày đó có con hổ dữ đi nhiễu quanh thiền lâm mà kêu gào. Tăng chúng đều lấy làm lạ. Tới ngày 25, lúc mặt trời mới mọc, Sư bảo tăng chúng rằng: "Sao che đèn huyễn cũng lâu, chớ cho rằng ta có đến đi!" Nói xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi bảy tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Các vị Khế Nguyên, Văn Sướng v.v... gồm chín trăm người đều mặc áo vải chít khăng đen, buồn khóc ở cửa núi. Người đến dự lễ thọ tang nối nhau cúng dường. Tiếng buồn khóc rung chuyển cả sườn núi hang cốc. Qua đến năm Ất Mão (835), môn nhân đón rước toàn thân Sư nhập linh tháp, thể theo sự chỉ giáo của Sư. Thiện Bộ viên ngoại Lang Quán tu soạn. Lưu Kha Khâm Nhã Tiền Liệt, truy niệm khen ngợi đức tốt của Sư.
Thích Đàm Thịnh, họ Vương, người ở xứ Kiến Xương, thuộc Chung Lăng. Lúc mới sanh, tự thân Sư đã có tấm y từ trong bào thai để bày vai cánh phải như y phục người xuất gia. Bèn xin xuất gia ở Thạch Môn. Năm đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc rồi đến tham kiến Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách Trượng. Suốt hai mươi năm, Sư làm thị giả. Chức đồng như ngài Khánh Hỷ, pháp hẳn tôi nghe, thân như dòng nước trong, tâm ở Tán vị. Sư tiếp tục thọ học Dược Sơn cử phát hoàn toàn rõ suốt không nghi. Sư dạy dỗ đồ chúng rất ân cần, người thọ nhận ích lợi rất nhiều.
Đến ngày 27 tháng 10 năm Kỷ Dậu (829), thuộc niên hiệu Thái Hòa năm thứ 3, Sư thị tịch. Vua kính Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Vô tướng Đại Sư", tháp hiệu là "Tịnh Thắng".
Liên quan thử bàn: "Thương-Na-Hòa-tu", Hán dịch là "Thai y". Vì lúc mới sanh, Sư đã mang y che thịt mà ra. Và chẳng phải chỉ bảo bọc thân thuở ấu thơ mà đến lúc trưởng thành cũng xứng thân. Lúc xuất gia, trở thành pháp phục, đến khi thị tịch, trà-tỳ mới cháy tiêu. Ngài Đàm Thịnh cũng có thai y, chỉ không bằng là chỉ mặc lúc còn nhỏ mà thôi. Đây gần giống như Tôn giả Thúc-Ly-Ni-ThươngNa. Tư duy quá nửa. Vì sao ngài Đàm Thịnh cách đời Phật quá xa, ngài Thương-Hòa-tu thì cách Phật diệt độ chừng một trăm năm, mà mang thai y là để nói lên hạng người có hạnh quả? Nay, ngài Đàm Thịnh dùng thai bào lộ bày vai phải quấn quanh mà hoằng hóa giáo lý ấy ở đời, thế đó chẳng khó ư?
Nên bảo rằng tư duy quá nửa.
Thích Chân Công, họ Lỗ, người ở xứ Giang Lăng. Thuở thiếu thời mà Sư đã cảnh tỉnh phát tuệ, năm bảy tuổi, tụng thông thi nhã, bèn đến ứng châu thi cử, ba lần trúng tuyển, còn chưa mở áo thô, bàn luận huyền lý với các Sa-môn, mới phát nguyện xuất gia, đến chùa Phước Thọ, Thiền sư Biện Sơ cho là khuôn mẫu. Sau, Sư đến chùa Chiêu Thành ở kinh đô Lạc Dương, giảng pháp vài tòa. Nhân đó, Sư lại đến tham lễ Thiền sư Tung Sơn mà thông suốt tâm quyết, rồi Sư mới đến Mao Sơn ở Đan Dương. Bỗng dưng Sư lại chống tích trượng đến núi Lăng-già ở Tô Châu. Những người tham cầu Huyền Đạo ở bốn phương xa xôi chen chân kề vai tìm đến. Bấy giờ, Bạch Lạc Thiên đang trấn giữ tại quận đó, tiếp Sư đàm đạo, bất chợt khoác áo mở đai, tâm vân du ở ngoài vật, được then chốt của Sư, bèn cố thỉnh Sư ra ở chùa Thủy Lưu, nhưng Sư chẳng thích dừng ở, chỉ lấy nước non làm thú vui tình.
Niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ chín mươi tuổi. Đến ngày 17 tháng 4 năm đó, đón rước nhập tháp.
Thích Tùng Nẫm, Thẩm người xứ Lâm Truy, thuộc Thanh Châu. Mới ở tuổi nhi đồng mà Sư có tính cách khác biệt mọi người, vượt cả sự ràng buộc của cha mẹ. Siêu nhiên lìa tục. Sư đến chùa Long Hưng thuộc Bổn Châu, theo thầy xuống tóc xuất gia. Sư đến giới đàn lưu ly ở Tung Sơn thọ giới cụ túc. Thầy Sư khuyên gắng tập học kinh luật, Sư chỉ nhiễm được điều chỉ bảo mà thôi.
Nghe Thiền sư Phổ Nguyện ở Trì Dương hóa đạo hợp như, Sư giữ tâm định chí dùi mài quên mệt nhọc. Nên được ngài Nam Tuyền (Phổ Nguyện) thầm truyền thọ cho. Sư dứt bặt dấu vết, thảng nhiên an vui. Sau, Sư đến Triệu Quận, khai hóa vật mê, thực hành thiền đạo. Do Chân Định Soái họ Vương cậy binh phong cương thường ngang bướng. Triều đình lo ngại. Họ Vương kháng cự quá chế mà quy tâm nghiêng về Sư. Sư thường gởi trên cây phất tử cho họ Vương và bảo: "Nếu họ Vương hỏi từ đâu mà có được cây phất tử này, thì xin đáp đạo của Lão Tăng nửa đời dùng chưa hết".
Phàm những gì Sư nêu lên, thiên hạ đều truyền nhau, gọi là "Triệu Châu Khứ Đạo". Ngữ lục của Sư lưu hành rộng khắp, được đời rất quý trọng.
Thích Trí Tạng, họ Hoàng, người ở xứ Thượng Cao, thuộc Dự Chương. Cha của Sư làm nhân viên của Hồng Châu. Sư theo cha vào chùa Báo Quốc, thấy cúng phụng ngài Hạo Nguyệt, giảng Kinh Niết-bàn, hơi thể hội được ý kinh, Sư thích vào cửa Phật.
Năm mười ba tuổi, Sư cắt đứt ân ái, giã từ cha mẹ, đến thọ học với Pháp sư Tông ở chùa Khai Nguyên. Sau, Sư tu thiền pháp và chứng ngộ tông yếu của Thiền sư Đại Tịch. Niên hiệu Kiến Trung năm đầu (780), Sư đến Trường An. Lư Nguyên Cảnh vốn rất kính phụng đạo của Sư, nên đề cử tấu trình thỉnh mời Sư vào nội cung để cúng dường. Vua Đức Tông ban sắc Sư trụ chùa Hoa Nghiêm. Trong thời gian Sư dẫn dắt, các vị ưa thích huyền học bừng dậy tìm đến dưới pháp tòa của Sư như nước sông quy tụ về biển, tợ như hang hóc có gãy Đàn cầm.
Đến niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (835), Sư thị tịch tại chùa và nhập tháp vào ngày 12 tháng 3.
Thích Viên Trí, họ Trương, người ở xứ Hải
Hôn, thuộc Dự Chương. Năm mới độ tuổi tết tóc, Sư chóng cầu lìa tục, đến lễ bái Hòa-thượng Niếtbàn, tự thân lo giữ việc giữ giày gậy. Tới lúc đã thọ giới cụ túc Sư liền phát nguyện tham yết thiền môn, được ngài Dược Sơn chỉ bày tâm yếu. Sau, Sư đến trụ núi Đạo Ngô ở Trường Sa, đồ chúng theo Sư như ong kiến phụ chúa. Sư thị tịch ngày 11 tháng 9 năm Ất mão, nhằm niên hiệu Thái Hòa năm thứ 9 (835), thọ sáu mươi bảy tuổi.
Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt được vài mảnh xương không cháy. Hộp não đặc biệt khác lạ và trong sáng, mầu sắc như vàng, tiếng vang như đồng, bèn xây dựng tháp ở núi Thạch Sương, vua Kính Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Tu Nhất Đại Sư", tháp hiệu là "Bảo tướng". Chứng đắc đạo Sư thì có Phổ Hội. Trước kia, lúc Sư lãnh ngộ tông chỉ ở ngài Dược Sơn, ngài Dương Sơn chỉ dạy Sư rằng: "Ta không có ngọc báu, cung lớn để làm phần khí, nay thưởng cho ông một yêu Độc Tỷ, tuy là nhỏ nhoi vụn vặt mà biểu lộ sự thân tiết". Sa-môn Huyền Thái ở Nam Nhạc soạn văn bia khen ngợi.
Thích Pháp Thường, họ Trịnh, người ở xứ Tương Dương. Từ thuở bé, Sư đã theo thầy trụ chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu. Cả trăm quyển kinh sách chỉ một lần xem qua thì Sư thuộc lòng không quên sót. Đến lúc đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Long Hưng. Sư có dung mạo thanh cao, tánh tình độ lượng, nhưng thẳng thắn thông minh, thân mặc áo nạp, mang bình bát, giữ chí ngày ăn một bữa vào giờ mão.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12 (896), Sư từ Thiên Thai đi đến phía Nam Dư Dao, thuộc Tứ Minh, suốt bảy mươi dặm, và ngụ lại nơi ẩn cư xưa kia của Tiên úy Mai Tử Chân. Ngày xưa, Mai Phước lúc ban đầu mới vào núi thấy có nhiều hang rồng, thần rắn thường nhả khí thành lầu các, mây mưa mịt mờ tăm tối. Bên cạnh có cái kho bằng đá, phía trong cất chứa thuốc tiên và kinh sách của thần tiên. Sư dừng nghỉ qua đêm tại phòng (kho) đó, mới mộng thấy vị thần nói với Sư rằng: "Sư không phải là phàm phu". Nhân đó cùng nói chuyện, đề cập đến sách thánh trong kho huyền ký việc đã qua và việc ở tương lai. Người thọ nhận đó hẳn làm chủ đất này, chẳng vậy mà còn làm thầy truyền dạy cho cả Đế Vương. Sư nói với vị thần rằng: "sách trong kho chẳng phải thứ tôi ưa thích. Xưa kia, ngài Tăng Trù chẳng để ý đến kinh tiên, rồi kinh ấy tự mất. Tôi chỉ lấy Niết-bàn làm vui, quyết thọ nhận sao chỉ cùng các vị trời già thôi ư?" Vị thần nói: "Linh Phủ ở đất này, người tục khí khó mà ở đây lập chí biến quái". Sư bảo: "Tôi ngụ nhờ ẩn vết tại làng Mai Úy, chẳng y cứ lâu". Do đó mà gọi là Mai Sơn. Từ đó, Sư bện cỏ chặt cây làm chòi che thân mình. Sư ở đó chỉ bốn mươi năm, nghiệm xét thật là người phi thường.
Những năm đầu niên hiệu Khai Thành, viện hoàn thành, đồ chúng nhóm họp đông đúc thưa hỏi quyết nghi, chư tăng có đến bảy, tám trăm vị. Tới niên hiệu Khai Thành thứ 4 (839), Sư thị hiện bị bệnh, qua ngày 19 tháng 9, núi rừng rung chuyển, chim thú kêu buồn. Ngài từ biệt tăng chúng mà thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi, sáu mươi chín hạ lạp. Đến ngày 19 tháng 10, cử hành lễ Trà-tỳ tại Nam giản, thâu nhặt xá-lợi năm mầu sáng trong tròn đẹp. Trước kia, Sư ẩn cư ở Mai lãnh có vị tăng đến cầu, thưa cùng Thiền sư An ở Diệm Quan rằng: "Quả mài đã chín. Các ông hãy đi tìm, có thể trị khát". Tiến sĩ Giang Tích soạn văn bia khen ngợi Sư.
Thích Sùng Diễn, họ Đoàn, người xứ Đông Bình, Ngài xin xuất gia với Pháp sư Tuệ Siêu tại chùa Long Hưng, thuộc bổn quận. Sư du phương học đạo, được Thiền sư Thiện Tịch ở Tung Dương chỉ bày tâm pháp. Sau, Sư về trú tại núi Đô Lương. Bấy giờ tại Hoài Phố, người tham học ở khắp nơi đến nương ở. Tướng Quốc Lý Công Thân trấn phủ Quảng Lăng mà tánh cứng rắn nghiêm khắc, ít có giao tiếp, lại riêng xem thường Thích Tử. Hoặc đáng việc cùng gặp thì hẳn hỏi vặn khó khăn, chỉ đáp lại mà chẳng cung kính, phần nhiều quát rồi bỏ đi. Thân sai Nha Lại Chương, từ lúc nhỏ đã thành truyện ý, mời Sư vào phủ, Sư dạy đáp ý chỉ diệu lý, đàm luận chan chác. Thân mịt mờ chẳng thể đo lường ngăn mé, nên đặc biệt quy kính tin tưởng, thỉnh Sư ở chùa Tuệ Chiếu. Sư hóa đạo, đồng thanh tương ứng, chúng có đến ngàn người.
Đến niên hiệu Khai Thành thứ 2 (837), Sư thị tịch tại Bổn viện, thọ tám mươi bốn tuổi. Ngày 23 tháng 10 năm đó, đón rước toàn thân Sư nhập tháp.
Thích Tề An, trụ họ Lý, thật là người tài giỏi của dòng họ vua Đường. Cha của Sư đến đất Việt nên sanh Ngài tại quận Hải Môn. Lánh xa vinh hoa ở đời, giấu kín dòng họ. Lúc Sư còn trong bào thai, mẹ Sư mộng thấy mặt trời điềm lành, đến lúc sanh Sư thì ánh sáng thần chiếu xuống. Khi Sư mới vài tuổi, có vị tăng lạ đến gõ cửa. Sư mời vào và được xoa đầu bảo: "Hang phụng chấn nghi, cung rồng cất của báu. Tiếp nối sự nghiệp đến cùng là ở đây!" Vừa đến tuổi tết tóc, Sư cầu xin xuất gia, cha mẹ Sư quở trách không cho. Sư thưa: "Nuôi dưỡng lợi lộc thì dừng ở gần, lợi về minh báo thì chẳng xa ư? Sư vinh hạnh của Khuê Tổ chỉ ở trong nhà, lợi ích cứu giúp chẳng rộng thay". Cha mẹ Sư cảm kích lời nói đó mà cho phép. Sư bèn đến nương tựa Thiền sư Vân Tông trong bổn quận.
Sư tuy cần lao khiêm mặc hòa quang đồng trần mà đom đóm và mặt trăng khác nhau, hình thái gà và hạc khác nhau. Năm đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc, bèn đến luật sư Trí Nghiêm ở Nam Nhạc. Bên ngoài thúc liễm, trong chiều soi thật tướng. Sau, nghe Thiền sư Đại Tịch ở núi Cung Công, thuộc Nam Khương tùy duyên hóa độ, người có lắm thần cảm, Sư bèn bó chân chống tích, một ngày tìm đến, ngài Đại Tịch mừng vui thấy Sư y cứ nương luật hành trì chẳng tỏ nhọc mệt. Đến lúc ngài Đại Tịch thị, tịch, Sư hết lòng lo việc lễ tang.
Đến cuối niên hiệu Nguyên Hòa (821), Sư đã ngoài bảy mươi tuổi, mà đi đến đất Việt trụ chùa Pháp Lạc ở Tiêu Sơn. Vì chùa nầy xây dựng từ xưa nên tường nhà không hoàn bị, chắp vá tu bổ nơi hư hoại, đâu thể ngồi được. Bấy giờ, tại Hải Xương, có Sa-môn Pháp Hân, là bậc trội vượt trong hàng Thích Tử, bỏ đất bên ao phóng sanh, để triệu tập thiền cư. Pháp Hân nhún nhường mà chẳng tự có. Mời thỉnh Sư làm chủ ở đó. Các vị tham học từ bốn phương xa đến, Sư hóa đạo rất hưng thạnh, tự nhiên mà hàng phục. Sư không hề nói nóng lạnh, chẳng xuống Đường Vũ, không trông nhìn, chẳng lắng nghe. Sở dĩ như thế là vì Sư đã già, thân hình Sư lại cao lớn, tướng tốt trang nghiêm, lông mi xanh biếc rũ xuống, cốt đảnh tròn cao. Ai trông thấy Sư như kính ngưỡng Tung Hoa mà vái chào Thương minh. Sư không hề suy lường sự cao sâu ấy.
Đến ngày 22 tháng 12 năm Nhâm Tuất, nhằm niên hiệu Hội Xương thứ 2 (842), Sư thản nhiên an tọa, bỗng chốc thị tịch. Trước lúc đó, tùng bách đều chết hết, tới khi ấy, tinh thần thể sắc Sư càng phấn chấn, nên có âm hưởng trong lành gõ cửa, ánh sáng tốt đẹp khắp phòng, như tiếng va chạm của vòng ngọc bội, như kiếm kích giao bắn. Điềm lành rất nhiều, sự việc ghi riêng.
Thêm nữa, Sư từng dự biết Hoàng Đế Tuyên Tông vi truy hành sắp đến pháp hội. Sư dự răn vị tăng Tri sự rằng: "Sẽ có dị nhân đến đây. Cấm nói tạp, dừng làm mọi việc, sợ hệ lụy đến Phật pháp". Ngày hôm sau, có vài vị tăng hành cước vào tham lễ. Sư im lặng mà biết đó là nhà vua, bèn bảo vị tăng Duy Na mời vào nơi cao quý, lễ trọng đối với các vị ấy v.v... Sư tiếp mời trò chuyện càng biết rõ là hám của hàng quý phái, bèn bảo: "Bần đạo vì tăng chúng vây quanh đông nhiều, sợ cúng trai chẳng cung kính!" Bèn đến bên cạnh tòa trên xin một sớ cúng.
Vua Tuyên Tông liền vì cầm bút phê vào. Sư xem kinh sợ, biết cúng dường chư tăng mang đi, có được phong nhiêu nồng hậu, cho nên khác với thường độ. Sư bèn tâu với nhà vua rằng: "Thời khắc đã đến, không thể ngưng trệ nằm cuộn với bùn!" Sư bèn phó chúc hậu sự Phật pháp rồi đi.
Vua Tuyên Tông (847-860) vốn là con thứ tư của vua Hiến Tông (806-821), và là em cùng cha khác mẹ với vua Mục Tông (821-825). Vua Võ Tông (841-847) rất lo sợ chống kỵ với Tuyên Tông, nên thầm ở nhà xí trong cung, có quan Cừu Công Võ, ngầm phóng thả cứu giúp Tuyên Tông và khuyên nên cạo tóc làm tăng. Do sự phóng thả đó mà Tuyên Tông ẩn dật, phiêu du khắp thiên hạ, nếm đủ mọi gian nan nguy hiểm. Nhân duyên ra trao Giang Lăng ít người, thật ghét khi ở tại triệu. Đến lúc Võ Tông băng hà (847), Tả Thần Sách Quân, Trung Úy Dương Công nói cùng Tể tướng các quan đón rước Tuyên Tông mà lập ngôi. Vua Tuyên Tông nghe Sư thị tịch, nên buồn thương rất lâu, bèn ban tặng Sư thụy hiệu là "Ngộ Không Đại Sư", và tự soạn ngự thi mà kính viếng. Sau, Hữu Điêu Lư Giản xin xây tháp thờ Sư.
Thích Hằng Chính, họ Chu, người ở xứ Bình Nguyên. Trước khi chưa vào pháp, Sư theo vào trường làng. Nhưng rất khác lạ; chẳng ham thích sách vở, mà hễ thấy được kinh sách Phật thì đam mê pháp vị chẳng bỏ được. Sau đó, Sư bỏ tục theo thầy, đến xin thọ học kinh pháp dưới pháp tòa của Pháp sư Thuyên Trừng ở chùa Diên Hòa. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư đến tham hỏi đạo ở Tung Thiếu, quyết liễu không khuất lấp. Sư ẩn tích với ngài Tam Phong, ung dung tự tại. Sau đó không lâu, Ngài vào núi Thái Nhất, phủ hành phong giáo, người học rất kính mến.
Vào niên hiệu Thái Hòa (827-836), Hoàng Đế Văn Tông rất ưa thích ăn thịt loài nghêu sò, các quan lại ở ven biển thời bấy giờ luôn dâng hiến. Người cũng nhọc công. Một hôm, trong lúc ngự soạn đầy mâm bàn mà dâng, có con chẳng há miệng ra, Vua Văn Tông xem xét lấy làm lạ, bèn đốt hương chúc nguyện. Bỗng chốc biến thành hình tướng Bồ-tát, phạm tướng hoàn toàn, nghi dung đáng kính, vua bèn đặt ở trong hộp đàn hương Kim Túc, che phủ gấm ngọc lên trên. Rồi ban tặng cho chùa Hưng Thiện, bảo tôn thờ mà kính lễ. Ban đầu, Vua hỏi các quan đó là điều gì? Tướng Quốc Lý Công Đức dụ tấu rằng: "Thần chẳng thể biết, chỉ biết Thánh đức chiêu ứng, đó là lý của các Đức Phật.
Nghe nói ở núi Chung Nam có Thiền Sư Hằng
Chính thông hiểu Phật pháp, thấy rộng hiểu nhiều... " Nhà vua bèn ban chiếu mời vào cung, Vua hỏi. Sư đáp: "Bần đạo nghe vật không đối ứng, nên đây là khơi mở lòng tin của Bệ hạ vậy. Nên trong khế kinh chép: "Với người đáng dùng thân này để được độ thì liền dùng thân này mà nói pháp cho họ nghe. " Vua Văn Tông nói: "Thân Bồ-tát thì đã thấy nhưng chưa nghe nói pháp". Sư hỏi: Bệ hạ thấy đó là thường hay phi thường? Tin hay chẳng tin ư? Vua bảo: "Sự việc ít có kỳ lạ, trẫm rất kính tin!" Sư nói: "Bệ hạ đã nghe nói pháp rồi vậy!" Vua Văn Tông tỏ vẻ vui mừng, được điều chưa từng có. Bèn ban sắc các chùa viện trong nước, mỗi nơi đều thiết lập tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm để báo đáp phúc lành đặc biệt. Tôn tượng đó đến pháp nạn Hội Xương, chùa Phật bị phá hủy mới mất. Và cũng nhân đó mà vua Văn Tông lưu giữ Sư ở trong nội đạo tràng. Sư nhiều lần khước từ muốn trở về núi, triều đình bèn tuyên ban Sư trụ tại chùa Thánh Thọ. Đến lúc vua Võ Tông lên ngôi (841), bỗng nhiên Sư bỏ vào Chung Nam. Có người hỏi Sư về nguyên nhân. Sư bảo: "Ta lánh oán cừu quạ đen có thể được ư!" Sau, Sư thị tịch tại núi, thọ tám mươi bảy tuổi. Sau khi trà-tỳ thâu nhặt được bốn mươi chín viên xá-lợi. Nhập tháp ngày mồng 4 tháng 9 niên hiệu Hội Xương thứ 3 (843). Sau có sắc chiếu phá hủy Phật giáo (dưới thời vua Võ Tông). Sư dự biết trước hợp với lời đoán.
Liên quan thử bàn:
Vì sao trong loài nghêu sò mà có được tôn tượng Bồ-tát? Thông đáp: Hễ lúc nào có sự kính phát thì hiện ra. Gần đây nghe-dòng họ Lý dưới thời Hậu Đường, khắp cả nước đói kém suốt 3 năm, ở ven bờ hồ tự nhiên sanh ra nhiều trai sò, trăm họ đua nhau bắt lấy mà ăn. Năm đó cứ mười người thì có đến bảy, tám người khỏi chết đói. Qua năm sau, lúa thóc được mùa, dân chúng vẫn còn đi lượm bắt loại đó, bỗng nhiên bắt được con trai hơn hai thước, mang về đập ra nhưng không một chút sứt mẻ. Người ấy bèn chú nguyện mà đem thả, chốc lát nó tự hé mở, nhả ra tượng Phật cao chỉ một thước, đầy đủ tướng tốt như mầu ngọc thật, gọi đó là "Châu Phật". Đem hiến dâng triều đình. Sau đó đưa tặng cho một vị Phạm tăng, Ý này có chỗ không hợp lý. Hiện hình là như trong kinh nói hóa hiện ra núi thịt, cá gạo để cứu giúp đói khát, đến năm trúng mùa, vì sao chẳng nhàm chán, nên hiện tướng dừng đủ.
Thích Linh Hựu, họ Triệu, ông nội Sư Ngài đều là người xứ Trường Khê, thuộc Phước Châu. Ở tuổi tết tóc, Sư đang vui đùa giữa sân, ngước lên nhìn thấy điềm khí mây lành ùn ùn cuộn tụ. Lại như có nhạc trời tấu lên, chân thân ban giáng linh thiêng, quan sát kỹ các vị già lão ở trong hang cùng ngõ hẻm chẳng lường biết được là gì. Bỗng chốc có ông lão ở núi Hoa, dung mạo như người nước Kế-tân, nói với ông lão trong nhà rằng: "Đây là các vị Linh Thánh nêu bày điều lạ, đứa bé (Linh Hậu) là con thật của Phật, hẳn sẽ làm cho Phật pháp ngời sáng, giây lát sau, vị đó búng ngón tay vài lần rồi đi.
Sư lúc còn trẻ để chơn, mặc áo ngắn, tìm đến nương tựa luật sư Pháp Tuyên trong bổn quận, chấp lao phục dịch thường rất nặng nhọc. Đến hai mươi tuổi Sư xuống tóc, ba năm sau đó, Sư thọ giới cụ túc, bấy giờ, thượng sĩ Nghĩa Tân ở Tiền Đường trao truyền cho khoa luật. Đến lúc, Sư vào Thiên Thai, đi giữa đường gặp Hàn Sơn Tử, Hàn Sơn nói với Sư rằng: "Ngàn non muôn nước, gặp sông thì ở, có được vật báu vô giá, cứu giúp mọi người". Sư khi thuận đường thì nhớ, lúc nguy ách thì nghĩ, vụt chốc đến chùa Quốc Thanh, gặp được dị nhân Thập Đắc và cũng bày tỏ ý trước, như có sự phù hợp. Sư bèn đến Lặc Đàm, tham yết ngài Đại Trí, sớm chứng ngộ ý Tổ.
Vào cuối niên hiện Nguyên Hòa Sư tùy duyên đến Trường Sa. Nhân đi ngang qua núi Đại Quy, bèn muốn dừng ở đó, núi ấy cách quận chừng mười xá, xa tít không có khói nhà người, ví đó như là hang thú, sống xen tạp cùng khỉ vượn, ăn hạt giẻ để sống. Chỉ có mười ngày, có người ở núi trông thấy Sư rồi cùng nhau nhóm họp xây dựng chùa viện. Bấy giờ, Tương Dương Liên suất Lý Cảnh Nhượng thống nhiếp Tương Đàm, nguyện dự
Lương duyên, mới tấu xin đặt hiệu sơn môn là chùa Đồng Khánh. Sau, Tướng Quốc Bùi Công tương thân hợp đạo. Sư gặp phải pháp nạn Hội Xương thanh trừng đào thải, thì lại gặp được Tướng Quốc Thôi Công Thuận kính phụng sùng lễ.
Đến ngày mồng 9 tháng giêng năm Quý Dậu (853), thuộc niên hiệu Đại Trung (847-860), Sư tắm gội xong, ngồi kiết già, an nhiên thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi, năm mươi chín hạ lạp, đón rước nhục thân an táng tại vườn Thạch Chi ở trong núi. Tứ Trấn Bắc Đình hành quân Kinh Nguyên, Tiết Độ Sứ là Kính châu là Hữu Tán Kỵ Thường Thị Lư Giản, xin được làm bia, Lý Thương Ẩn đề chữ trên biển ngạch.
Thích Huyền Sách, họ Lỗ, người ở xứ Cối Kê. Thuở nhỏ Sư theo cha buôn bán. Đến hội Quang Minh ở núi Thiên Thai là chỗ Thiền sư Trí Khải lập giáo vào đời Tùy. Cách 9 tháng sau, Tăng tục ở các châu ấp xa gần nhóm họp, Sư thấy đặc thù khác lạ, bèn đến cầu xin xuất gia với ngài Quảng Trí tại chùa Thiền Lâm. Đến lúc du phương, được gặp ngài Đại Tịch tại Giang Tây nên Sư sớm bỏ được sự ngăn chướng. Sư Tham vấn khắp nơi, thấy núi Cửu Tỉnh thuộc vùng ven Hoàng Châu đẹp lạ, bèn kết cỏ làm nhà, học chúng đến đông như ve. Có người an ủi hỏi Sư rằng: "Sao Ngài nhẫn nại ở chỗ tối tăm như thế này?" Sư bảo: "Chí đạo là quên tâm. Tôi rất thích như thế". Đến niên hiệu Đại Trung thứ 8 (854), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, tục ban sắc cho Sư thụy hiệu là "Viên tịch Đại Sư", tháp tên là "Trí Giác".
(Quyển 11 hết).
(chánh truyện có hai mươi vị, phụ có bốn vị).
Thích Hoàn Trung, họ Lư, người ở xứ Bồ Phản, thuộc Hà Đông. Sư bẩm tánh đặc dị, hình vượt khác thường. Thân thể cao lớn. Đỉnh cốt tròn cao, âm thanh như chuông vang, hình sắc tợ phấn sáp. Sư học thông điển cổ, từ thật dồi dào. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư theo kế trúng tuyển khoa giáp mà chưa lấp kín nỗi đau buồn! Sư lại nghĩ phải nhanh hơn nữa, không gì buồn bằng chịu tang mẹ, bèn đến dựng chòi tranh ở bên cạnh mộ, cho đến lúc mãn tang, Sư tới cầu xin xuất gia tại chùa Đồng Tử. Chưa tròn hai năm, mà các kinh Sư đều đã xem đọc. Năm sau, Sư đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc, rồi tập học luật bộ, từ đó, Sư thông rành, bỗng nhiên kính mến thượng thừa, kế nữa, Ngài tìm đến núi Bách Trượng và chứng được huyền chỉ sâu mầu.
Sau, Sư đến ẩn cư tại chùa Thường Lạc ở Nam Nhạc, dựng lập am tranh ở Sơn Tiêu. Giản Nghị Đại Phu Nhai Công rất kính trọng tiết tháo của Sư, nhân đó mà lập riêng phương trượng. Sư vui sâu với cảnh mặt trời ló dạng chỉ ăn một bữa là trọn ngày. Nhưng ở đó thiếu nước đổ bình phải đi tìm ở xa. Bỗng nhiên, vào một đêm khuya có tiếng hổ gào thét bên cạnh am. Đến sáng ra xem thì thấy suối nước đầy tràn từ đất nức nẻ tuôn trào, đủ để cấp dùng. Sau, ở phía Bắc Chiết Giang; Hàng Châu, có một ngọn núi tên là Đại từ, Sư đến ở đó chưa bao lâu, Đàn tín bèn tìm đến và tạo thành viện lớn. Học tăng bốn phương đến tham lễ như mây nhóm. Gặp lúc vua Võ Tông phả hủy Phật giáo, Sư mặc áo ngắn, có người thỉnh Sư về ở tại biệt thự nhà họ Đới.
Đến năm Nhâm Thân (852) thuộc niên hiệu Đại Trung, Thái Thú Lưu Công Thủ mạng thế nhiễm, trùng hưng thành thiền lâm. Đến ngày 15 tháng 2 năm Nhâm ngọ (862), Sư di chúc vừa dứt lời thì thị tịch. Bấy giờ, trời dầu nắng nóng mà xem xét nhục thân Sư không hề biến đổi, và trên đỉnh đầu nóng ấm, tới mùa đông thì nhập tháp, Sư thọ tám mươi ba tuổi, năm mươi bốn hạ lạp.
Có thuyết nói: Tại chùa Thường Lạc có hổ quỳ ở bờ suối. Trong ngày Sư thị tịch, bỗng nhiên khô cạn. Thật kỳ lạ thay! Chỉ giúp Sư thọ dụng. Đến năm Đinh Dậu (877) thuộc niên hiệu Càn Phù, vua Hy Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Tánh không Đại Sư", tháp hiệu là "Định Tuệ". Tấn Vân Thái Thú Đoàn Thành Thức soạn bài tán.
Thích Hoàn Phổ, không biết Sư là người xứ nào. Sư vốn bẩm chất thuần túy, giữ tánh khiêm hòa. Sư ở dưới phong hóa xấu xa mọi rợ mà thỉnh nghiệp. Vời vọi thay sự nhận biết suy lường, thật khó suy nghĩ, phỏng bàn. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư ôn tầm kinh luận. Sau đó, Sư chống tích vân du đến Lễ Dương ở phương nam, gặp Giáp Sơn khế hợp tâm ý, có người tham học nên hỏi, Sư rũ tay đắt dẫn về, chẳng để một căn cơ nào mất thiếu sự chỉ dạy của Sư. Nếu người nào có sự không thăng tiến, thì Sư khuyên xem đọc kinh pháp, cũng gần như Di Phong của ngài Thần Tú, Đại Tịch.
Thích Nhật Chiếu, họ Lưu, người ở xứ Kỳ Hạ, thuộc gia đình giàu sang. Sư vâng lời chỉ dạy của cha mẹ, xem đọc khắp các kinh sách, lại đối với Trang Lão mà Túc Tuệ phát huy, nghĩ theo Thích Tử. Sư đến Pháp Sư Đàm Quang chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An, xin xuất gia cầu học thọ giới. Truyền nhận kinh pháp, không gì Sư chẳng hiểu rành. Nhân đó, Sư đến Tung Nhạc hỏi về bí quyết Viên Thông, Sư vui mừng thú nhập. Sau, Sư đến Nam Nhạc, lên núi Ngang Đầu, thẳng tới non xanh, bèn có ý ở đó trọn đời. Sư cất am tranh ở được hai mươi năm, gặp phải pháp nạn Hội Xương; vua Võ Tông phá hủy Phật giáo, Sư vào hang núi sâu, ăn hạt dẻ uống nước suối mà kéo dài sự sống. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860) vua Tuyên Tông phục hưng Phật giáo, Ngài dẫn đồ chúng chừng sáu mươi vị trở về lại nền cũ ở núi Ngang Đầu, bện tranh cỏ, cất am viện, lại ở đây thêm mười lăm năm nữa, học chúng đua nhau tìm đến như sóng gợn. Sư thị tịch vào niên hiệu Hàm Thông (860-874), thọ một trăm lẻ tám tuổi, ngày mồng 3 tháng 2 niên hiệu Hàm Thông thứ 3 (862) nhập tháp, tạo lập bia văn, hiện nay vẫn còn. Trong nước gọi Thiền học của Sư là "Ngang Đầu Chiếu".
Thích Tuyên Giám, họ Chu, người xứ ở Kiếm Nam. Khi sanh ra Sư đã không thích các chất tanh nồng, đến thuở thiếu thời, Sư khôi ngô thông minh. Sớm mang tiết tháo khác thường, khẩn cầu xuất trần. Rồng lớn chẳng chịu ở sân nhỏ, Ngạc (chim thư cưu) xinh phải bay nơi khoảng trời rộng. Đã bỏ mọi trang sức xinh đẹp, sẽ dự vào hàng chúng tăng. Sư theo thọ giới cụ túc, nghiên cứu rõ luật tạng. Đối với các pháp tánh tướng, Sư tập học thông suốt.
Nghe ở Trọng Hồ, Thiền đạo hưng thạnh, Sư bèn dốc chí vân du tìm đến Thiền Sư Tín ở Long đàm, thì tông Thạch Đầu chia làm hai nhánh. Ban đầu chỉ cùng ở một thất, Sư mạnh dạn cung kính theo hầu. Một đêm, ngài Long Đàm (Tín), trao một ngọn lửa cho Sư, Sư nhận lấy mà đi. Chỉ bước vài bước, Sư lại nói: "Từ lâu nghe nói Long Đàm (Đầm Rồng), mà đến đây thì Long lẫn Đàm đều chẳng thấy!" Thiền Sư Tín bảo: "Ông lại gần đây!" Cơ giáo hợp nhau, hằng ngày gần gũi bên trượng thất hơn ba mươi năm. Sau Sư đến dừng ở tại Lễ Dương. Tự nhiên vua Võ Tông nổi loạn dấy khởi, đến hiệu Đại Trung (847-860), phục hồi Nghi pháp. Đầu niên hiệu Hàm Thông, Võ Lăng Thái Thú Tiết Diên Vọng cố thỉnh Sư đến ở Đức Sơn, Đạo Sư lạn xa phỏng phất, thiền chúng bốn phương tụ về rất đông. Trong Phục Lạp Đường thường có năm trăm người. Sư trao dạy như trời biển sâu khó đo lường ngăn mé, Tuyết Phong tham kiến xét sâu đáng trọng.
Đến ngày mồng 3 tháng 12 năm Ất Dậu, tức niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (865), bỗng nhiên, Sư bảo với đồ chúng rằng: "giữa hư không mà truy tìm âm hưởng, thật nhọc tinh thần các ông. Tỉnh mộng, rồi thì chẳng có vật gì!" Nói xong, Sư an tọa mà thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp. Nhục thân Sư để ngồi yên trên giường, bảy ngày sau vẫn ngồi thẳng bình thường như lúc còn sống. Trong thiên hạ nói người có Thiền đạo mạnh mẽ thì có môn Phong của Đức Sơn, hiện nay có pháp Tôn Đặng Hán Đông ở Tương Châu rất thạnh.
Thích Tạng Hoán, họ Chu, người ở xứ Hoa Đình, thuộc Tô Châu. Từ khi mang thai đến lúc sanh, mẹ của Sư mẫu Ngài thường nghe có mùi thơm khác lạ. Tuổi còn bé, Sư từng bị rơi xuống giếng mà có vị thần hộ trì đưa lên. Sư xuất gia ở độ tuổi tết tóc, với Thiền Sư Đạo Khoáng. Lúc đủ hai mươi tuổi, Sư đến Tung Nhạc cầu thọ giới cụ túc. Mẹ của Sư thường nhớ thương Sư mà buồn khóc đến nỗi mờ hết một mắt. Đến ngày Sư trở về tỉnh thì mắt sáng lại. Mẹ mất rất buồn thương, Sư dựng chòi ở bên cạnh mộ, và có nhiều điềm tốt lành, tâm hiếu của Sư cảm kích đến thế, và cũng do đó mà Sư nổi tiếng.
Lúc Sư du phương hỏi Đạo, thì lại đến núi Ngũ Tiết gặp được Đại Sư Linh Mặc. Một lời phân biệt, phù hợp chỉ thú, đạo lý hiển mật như trời trăng sáng tỏ. Từ niên hiệu Hội Xương (841-847) đến niên hiệu Đại Trung (847-860), trở lại Huông thạnh, chỗ Sư ở bị thiêu hủy, mà chẳng thể mê hoặc, đốt không thể nóng, nhận chìm chẳng thể ướt. Đến lúc Chu Lạc xây dựng lại chùa Trường Thọ, vua ban sắc Sư ở đó. Bấy giờ, nội điển đều đã bị thiêu hủy, kinh sách thảy thành tro bụi, Sư góp nhặt rơi rớt qua lại thành Đại Tạng. nhiên Nam Hải Dương Công thâu điển cô tô thỉnh Sư trở về Cố lâm để xây dựng tinh xá.
Niên hiệu Đại Trung thứ 12 (858) Ngân thủy Đàn Việt Nhậm Cảnh xin xả cúng nhà mình tạo lập viện và thỉnh Sư ở đó. Diệm khấu cầu phụ dẫn hai ngàn học trò cầm nắm binh khí giữa ban ngày đi vào, Sư nhắm mắt ngồi yên, sắc mặt không đổi khác. Bọn trộm cướp đều sợ hãi nép mình cúi đầu tạ lỗi. Khấu Bình Châu tấu trình xin đổi biển ngạch, đề là chùa "Thê Tâm", để biểu dương đức hạnh của Sư. Phàm nỗi một tác cử chỉ, thiền giả phải huân tập, quanh nhà giường chõng đứng như mây nhóm, học thức của Sư như suối tuôn, chỉ tay soi thấy nhiều đường rẽ, bắt bẽ những người thao túng. Công Kiên Sách là kẻ sĩ ẩn cư đều đứng dưới sương lạnh, ngồi trên băng cứng. Một lời đã nhập thần thì phá trừ hẳn trầm hoặc.
Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), ngày mồng 3 tháng 8, Sư thị hiện bị bệnh mà qua đời, thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi bảy hạ lạp. Sư bảo mang nước thơm đến, cạo tóc tắm gội xong, bảo với đệ tử rằng: "Ta còn trụ thế bảy ngày, đến ngày đó thì thị tịch". Môn nhân khóc thương kính mến, bàn phương tiện an táng nhục thân Sư trên đỉnh núi Thiên Đồng. Đến khi tròn ba năm, một ngày nọ, có mùi thơm khác lạ ngưng tụ giữa hư không, xa gần đều phảng phất, các đệ tử Sư nói với nhau rằng: "Ngày xưa, thầy có chúc lụy sau ba năm phải thiêu đốt thân thầy. Nên nay có mùi hương thơm khác lạ như thế". Bèn cùng nhau đào mở miệng tháp để xem thì nhục thân Sư vẫn nghiễm nhiên như lúc còn sống. Đến ngày mồng 3 tháng 8 năm đó, y theo pháp trà-tỳ của Tây Vức, thâu nhặt được mấy ngàn viên xá-lợi, sắc mầu hồng xanh. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 13 (872), Đệ tử Sư là Giới Hưu mang xá-lợi Sư, thuật lại hành trạng, đến cung thỉnh ích, Vua Tuyên Tông ban sắc khen ngợi kính viếng đổi lại tên Sư là "Tâm Giám", tháp hiệu là "Thọ Tưởng".
Lúc Sư trụ tại chùa Trường Thọ, ở Lạc Hạ nói với chúng Tăng rằng: "Xưa kia, Sa-môn Đàm Túy ở núi Thiên Đồng thuộc Tứ Minh là thân trước của ta". Nay phần tháp hiện còn nhưng vì cách quá lâu năm nên có người nghi ngờ không tín. Đến lúc truy tìm xét nghiệm sự thật đều như lời Sư nói. Kế nữa, lúc ban đầu nhậm sanh sắp đón rước Sư, thì có người hỏi khó, Sư đáp rằng: "Khi bắt đầu sửa nhà, có vị tăng lạ bảo làm lớn cửa ấy, hai mươi năm sau sẽ có bậc thánh đến ở đây". So tính lại tới lúc Sư đến ở quả đúng hai mươi năm. Kế nữa, lúc Sư sắp rời Cô Tô, bị đồ chúng giữ lại, Sư bèn trao cây phất trần cho đó, bảo: "Ta ở đây, sao các ông nghi ngờ!" Đến lúc Sư trốn đi mọi người mới hiểu được ý chỉ sâu xa của Sư. Sư lại bảo "ở góc đông bắc của chùa nên đắp năm trăm ụ đất để trấn giữ". Có người nói: "Sức đâu làm đến thế?" Sư bảo: "không vậy, thì đắp một ụ rồi trồng năm trăm gốc thông cũng được!" Tất cả những lời tinh yếu, ý chỉ sâu xa của Sư, đại loại đều như thế. Thứ Sử Thôi Kỳ soạn văn bia ở tháp thờ Sư, Uất Thiệu Lãng ở huyện Kim Hoa đề biển ngạch.
Thích Nghĩa Huyền, họ Hình, người ở xứ Nam Hoa, thuộc Tào Châu. Sư đến các nơi tham học chẳng sợ gian khổ. Nhân gặp được Thiền Sư Linh Vận ở núi Hoàng Nghiệt, mổ kêu đồng thời, rõ ràng thấu suốt. Sư bèn trở về quê cũ ở phương bắc, thuận theo Triệu Nhân đến thỉnh trụ viện Lâm Tế thuộc phía nam thành. Đồ chúng đề xướng kinh luận đều đến gần gũi đường thất, Sư chỉ bày tâm yếu cho người tương tự như ngài Đức Sơn (Tuyên Giám).
Sư thị tịch ngày 10 tháng 4 năm Bính Tuất (866) tức niên hiệu Hàm Thông thứ 7. Vua Tuyên Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Tuệ Chiếu Đại Sư", tháp hiệu là "Trừng Hư". Ngôn giáo của Sư lưu hành ở đời rất thạnh. Nên nay, Hằng Dương gọi là "Lâm Tế Thiền Tông".
Thích Tung Gián, họ Trương, vốn người xứ Nam Dương, dời đến ở Quảng Lăng và sanh Sư tại Hoài Điện. Tánh Sư thẳng thắng, khí mạo cao vời, ở trong xóm Sư được người nể phục, kính sợ. Gặp Tướng Công bảo Sư rằng: "Ông thân cao tám thước, mặt mày sáng đẹp, ngày sau chắc chắn được Vinh hoa". Sư nói: "Trong tâm không muốn làm quan, đối với vinh hoa sao có được?" Tướng Công bảo: "Sự vinh hoa chẳng thể lường được!"
Qua khỏi độ tuổi có gia đình, bỗng nhiên Sư tin sâu Lý Phật, bèn bỏ vợ con, xin cạo tóc làm tăng. Vừa mới lên giới địa mà rất giữ gìn tâm châu. Nhân tỏ ngộ thiền-na, sớm thấu đạt huyền lý, chỉ mới vài mươi năm mà những người đồng hảo từ xa tìm đến thưa hỏi. Ngài chỉ dạy từng điều khiến cho mở giác. Sau đó Sư đến ở chùa Quảng Ái ở Lạc Hạ, khi ấy thiền khách nhanh họp như con hiếu phụng thờ cha mẹ. Ở trong kinh đô có thiết trai thỉnh Sư thì bày vị trí đối diện với tôn giả Tân-Đầu-Lô, Sư được mọi người khâm phục kính trọng đều như thế. Gặp niên hiệu Hội Xương thứ 4 (844) vua Võ Tông ban chiếu phá hủy tháp miếu Phật giáo, ra lệnh các Sa-môn phải trở về cuộc sống ruộng vườn, Sư cũng bị trong hang thanh lọc đào thải đó. Sư bèn chít khăn quạ, mặc áo gai, lẩn trốn vào nơi suối nước nóng của dòng họ Hoàng Phủ, lập nghiệp riêng ở, phía trên sau sườn núi. Tại đó, cây cao nương nhau sầm uất, có tảng đá lớn bằng phẳng. Giữa mùa hạ, Sư thường đến đó nhập định, hoặc bổ sung các việc nhỏ. Bỗng nhiên mây đổ mưa nhanh, sấm sét đánh vào đá, gió dữ kéo đến, mọi người ở đó kinh hãi bỏ chạy sợ nép. Sư vẫn vui vẻ ngồi kiết già an nhiên như người không nghe thấy gì. Có người hỏi Sư: "Sao ghét súc sanh, như thế?"
Đến đầu niên hiệu Đại Trung (847), vua Tuyên Tông ban chiếu phục hưng Phật giáo, Sư trở về chỗ cũ tại Lạc ấp. Một hôm, con của Sư từ Quảng Lăng đến hầu thăm. Vừa gặp Sư tại cửa viện, vì dáng mạo oai nghi trang nghiêm của Sư nên không nhận biết được, bèn hỏi rằng: "Xin hỏi chỗ ở của Đại Đức Tùng Giám?" Sư chỉ người đó đi về hướng Đông nam thì sẽ tìm thấy. Người con đó đã đi rồi, Sư bèn đóng cửa không ra ngoài, Sư cắt đứt dây lưới ân ái như thế đó!
Đến tháng 5 năm Bính Tuất (866) tức niên hiệu Hàm Thông thứ 7, bỗng nhiên Sư ra và đến nhà đoàn việt từ biệt rằng: "Hãy khéo tạo phước nghiệp, bần đạo vào đầu mùa thu sẽ đi xa, nên nay đến thăm!" Đến ngày mồng 1 tháng 7, vào lúc sáng sớm, Sư rửa tay, đốt hương, xưng niệm danh hiệu Đức Từ Thị Như Lai rồi, rồi nghiêng hông bên phải, gọi đệ tử Huyền Chương đến răn dạy rằng: "Thân người khó được mà dễ mất, mau mau đối với mọi vật mà vô tâm vô vi lưu chuyển, pháp vô sanh diệt, tất cả hiện còn. Nay ta đời sống này đã có bến bờ, tạm từ biệt ông!" Ngày đó, Sư không bệnh, an nhiên thị tịch, thọ hơn tám mươi tuổi.
Các đệ tử như Huyền Chương v.v... vâng theo di chỉ của Sư, đón rước nhục thân ra ngoài cửa Kiến Xuân bỏ vào rừng Thi-Đà thí cho các loài chim thú. Ba hôm sau trở lại xem thì da thịt, sắc mặt Sư vẫn như lúc sống, không ai dám lại gần, bèn đem bánh bột rải phủ lên, qua một đêm thì thấy có vết chân của loài chồn sói, chỉ ăn chỗ phủ bột bánh, mà thân vẫn nghiễm nhiên. Mọi người mới bàn với nhau thể theo pháp nước ngoài mà trà-tỳ thân, nhặt hài cốt còn lại, xây tháp trắng bên cạnh đường đi, mọi người rất qui kính tin tưởng, dâng cúng hương đèn không ngớt.
Kế nữa, có ngài Thích Giám Tông, người ở xứ Trường Thành, thuộc Hồ Châu, Sư vốn họ Tiền, là cháu của Lễ Bộ Thị Lang Huy. Cha của Sư húy là Thịnh, bị bệnh, Sư cắt thịt ở bắp đùi đem dâng cho cha ăn, mà nói dối thịt của loài vật, sau đó không lâu bệnh được khỏi. Tiếng tốt hiếu hạnh của Sư nghe khắp bà con làng xóm. Sư bèn xin xuất gia.
Bấy giờ, tại Chùa Khai Nguyên, trong bổn châu có Ngài Cao Nhàn, làm chức Lâm Đàn Thập Vọng Đại Đức nội cung phụng, ở Thượng đô, rất giỏi chữ thảo chữ lệ, từng viết chữ trước chỗ vua Ỷ Tông ngự, hoa vọng rất cao. Sư bèn đến lễ làm thầy. Sau Sư xuất gia học thông các Kinh Tịnh Danh, Tư Ích, nên thường giảng tập. Ngài Cao Nhàn cũng chỉ dạy Sư về bút pháp, dần được tài giỏi. Bỗng nhiên, Sư đến tham yết Đại sư Ngộ Không ở Diêm Quan, theo chúng tham thỉnh mà thấu triệt được nguồn tâm. Rồi Sư từ giã trở về quê cũ khuyên mọi người tạo phước.
Đến niên hiệu Hàm Thông thứ ba (862) tức năm Tân Tỵ (? Phải là năm Nhâm Ngọ mới đúng), Ngài đến khắp các Danh sơn, bèn dừng ở Kính Sơn, là ngọn núi phía đông Thiên Mục, người xuất gia tại gia thảy đều quy tâm, khôi phục mở mang giáo pháp, xuất ra các đệ tử, nhất là các vị tài giỏi, đều khai mở khắp núi Thiên Đồng. Vua Ỷ Tông ban tặng y tía. Sau lưng núi Hành mãn đều phân cảnh hóa vật. Đến ngày mồng 5 tháng 3 nhuần năm Bính Tuất (866), tức niên hiệu Hàm Thông thứ bảy, Sư thị tịch, nhập tháp tại dưới đỉnh núi Đại Tịch.
Đến thời Hậu Lương, niên hiệu Càn Hóa thứ năm, Ngô Việt Quốc Vương thượng phụ dòng họ Tiền, dâng biểu xin truy tặng Sư thụy hiệu là "Vô Thượng Đại sư", Tổ môn truyền pháp hiệu là "Kính sơn đệ nhị Tổ". Bấy, giờ Ngô Hưng trầm tu tự lấy hiệu là "Bạch Nha Tiên Sinh" thuật lại đức hạnh của Sư, làm bài ký khen ngợi.
Thích Lương Giới, họ Du, người ở xứ Gia Kỵ, thuộc Cối Kê. Thuở nhỏ, Sư theo thầy ở chùa Ngũ Tiết. Năm 21 tuổi, Sư mới đến Tung Sơn thọ giới cụ túc. Vừa thọ giới xong, Sư liền du phương, gặp được thiền sư Nam Tuyền, lãnh hội Huyền khế sâu xa. Sư tiếp tục đi đến Linh Nham, mọi nghi ngờ vướng mắc chóng dứt.
Cuối niên hiệu Đại Trung (860), Sư trụ tại núi Tư Phong, mở mang truyền bá thiền pháp rất mạnh, sau lại thạnh hành giáo hóa ở Dự Chương, Cao An, Động Sơn. Nay đều thuộc Quân Châu. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 10 (869) sáng sớm ngày mồng 1 tháng 3 năm Kỷ Sửu, Sư bảo cạo tóc tắm gội, khoác mặc y phục rồi bảo đánh chuông, chợt Sư thâu thần. Bấy giờ, các đệ tử buồn khóc. Bỗng dưng, Sư mở mắt ngồi dậy, bảo rằng: "Hễ là người xuất gia, thì tâm chớ nương vào vật, đó mới thật tu hành, nhọc sanh dứt tử, có gì phải buồn, đắm chìm bởi tình, quá thô trước vậy!" Rồi gọi vị Tăng chủ sự; bảo thiết trai diên: "Trai nghi xong ta sẽ tịch". Nhưng nỗi lòng luyến mến của tăng chúng từ ngày đó kéo dài đến bảy ngày, trai diên mới hoàn bị. Sư cũng thuận theo, bảo chúng rằng: "Trai hội này đặt tên là "Ngu si". Bởi trách mọi người thiếu trí tuệ Bát-nhã. Đến lúc, vị tăng Xướng "tùy ý". Sư bảo: "Người xuất gia chớ vướng sự gì, ngay lúc cần kíp sắp đi như vầy mà huyên giáo như thế". Qua ngày mồng 8, tắm gội xong, Sư an tọa thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi hai hạ lạp. Vua Tuyên Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Ngộ Bổn Thiền Sư", tháp hiệu là "Tuệ Giác".
Liên quan thử bàn:
Đã đi rồi mà lưu lại nhiều ngày, thuở xưa cũng có việc như thế. Như ngài Lương Giới đây là bậc đến đi tự tại. Ở đời gần đây chỉ có một người là Sư mà thôi.
Thích Tạng Dị, họ Trình, người ở xứ Tín An, thuộc Cù Châu. Thuở bé, thần khí Sư xán lạn, dáng mạo khôi ngô. Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806821), Sư xin cha mẹ cho phép xuất gia, chí không thể bỏ. Sư thẳng đến nhạc Lộc ở Trường Sa, tới chỗ luật sư Linh Trí xin xuống tóc xuất gia. Ngài Linh Trí thấy Sư có chí nguyện mạnh mẽ khác thường bèn tiếp nhận Sư. Sau khi đã được đắp mặc pháp phục, Sư tìm đến Luật sư Trí Tổng chùa Khai Nguyên ở Võ Lăng cầu thọ giới cụ túc. Bấy giờ là niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (823).
Nhân nghe khuôn phép Luật tạng, thấu rõ thiên tụ, Sư nói với bạn đồng học rằng: "Giáo môn nhiều rộng, nhưng có một cửa chung, điểm cần kíp của cửa chung là chưa qua chớ bỏ bè!" Sư bèn du tham học khắp thiền tông, gặp được đệ tử tài giỏi của ngài Mã Tố ở núi Long Nha, biết Sư là bậc pháp khí, một hôm ngài Long Nha hỏi Sư rằng: "Uẩn giới chẳng phải chân, Phật chúng sanh chẳng phải ta. Gốc chính của ông phải từ đâu mà có tên gọi, và do từ ai mà được?" Ngay lời nói đó Sư lãnh hội được ngàn vết đồng quy. Ngài Long Nha bảo: "Pháp nhãn, của ta chẳng bị mờ che". Đã toại nguyện mong cầu, được đại an tĩnh, Sư bèn từ giã trở về Kha Sơn, để tránh pháp nạn Hội Xương.
Đến niên hiệu Đại Trung thứ 6 (852), quận Thâu Thôi Công Thọ rất kính trọng Sư, nên dựng lập một thiền thất riêng tại chùa Long Hưng thuộc trong bổn châu và thỉnh Sư ở đó. Được vài năm, Sư đi đến Gia Hòa ở phương Bắc. Các hàng tín sĩ quay về nương tựa thỉnh Sư lưu lại tại chùa Chí Đức. Sư lại đến Cô Tô. Bấy giờ, Thôi Công Quân làm Thái thú tại quận đó, nghe danh tiếng Sư đã từ lâu, bèn thỉnh Sư đến trụ tại viện Nam Thiền. Mùa thu năm đó, Sư từ giã về lại Gia Hòa. Có Tín Sĩ Lã Kinh xả thí biệt thự tạo lập viện Vĩnh An. Bấy giờ, khoảng niên hiệu Càn Phù (874-880), có bọn giặc cướp khuấy phá, thiền khách phân tán, Sư bảo: "Bọn trộm cướp không bao giờ đến đây". Mãi đến lúc bọn giặc cướp đi theo đường khác, quả thật không tổn hại gì, Sư thấy biết trước đến như thế.
Đến ngày 12 tháng 10 niên hiệu Càn Phù thứ 3 (878), mây phủ khắp cả viện, có tiếng gà gáy chim kêu, Sư an tọa mà thị tịch. Chúng đệ tử gào khóc, Sư sống lại. Đến trước rằm tháng 3 năm sau (879), Sư từ biệt chúng mà thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi sau hạ lạp. Bấy giờ, Đạm Giao vì Sư mà làm Chân Tán. Đến khoảng niên hiệu Càn Ninh (894-898), Sa-môn Thần Tán tấu dâng hành trạng của Sư, xin truy tặng thụy hiệu và tên tháp của Sư.
Danh sĩ Ngô Trọng Du viết văn bia.
Thích Khánh Gia, họ Trần, người làng Ngọc Tứ, thuộc Tân Cam, ở Lư Lăng. Từ ông nội đến cha Sư đều chẳng làm quan, Sư là người có lời nói thanh bạch, phóng khoáng.
Năm mươi ba tuổi, Sư đến lễ bái Thiền Ông Thiệu Loan, thờ Ngài làm thầy, và được xuống tóc xuất gia tại phía Tây núi Hồng Tỉnh. Năm hai mươi ba tuổi, Sư sang Tung Sơn thọ giới cụ túc. Rồi tiếp đến học luật tại Đông Lạc. Đã biết thính chế, trọn gọi là Tiệm Tông. Sư trở về núi Nam Nhạc, đến núi Đại Quy, kế là đến Vân Nham, gặp được Đạo Ngô, hỏi rõ biết ý mới là vị tăng hai hạ. Sư đến được núi Thạch Sương, bèn có ý nghĩ trọn đời ở đó. Ngài Đạo Ngô đích thân đến núi Thạch Sương, thường ngày siêng năng hầu hạ qua lại hỏi đáp. Ngữ lục có chép trong Biệt Lục.
Sư có dung mạo cổ khí, thật ở đời không ai biết được. Bấy giờ, Ngài Động Sơn (Lương Giới) vừa mới viên tịch. Bỗng nhiên tại chỗ Ngài trở thành nơi mà Thiền khách phương xa đến vây quanh. Nhân đó, Sư vào núi sâu nơi cảnh không người, dựng am yên ở. Khi đó, chúng tăng truy tìm, bỗng có người thấy được, mọi người đều khóc gào, cùng nhau thỉnh Sư ra làm bạn với họ. Sư sắp an vãng nên sớm tối đều bị các vị du học thưa hỏi, nhưng Sư không lời khiếp sợ ứng đáp với họ. Và cứ thế, suốt hai mươi năm, ở trong Pháp đường, các bậc Lão Túc đều ngồi thẳng chẳng nằm, cao vợi như gốc cây khô. Trong thiên hạ gọi đó là "chúng cây khô ở Thạch Sương". Ở phương Nam gọi đó là Tòng lâm, dịch Thiền-na là Tòng lâm công đức. Các bậc làm khuôn phép thanh tịnh cho bốn phương không ngoài đó.
Đến ngày Kỷ Hợi tháng 2 năm Mậu Thân (888) tức niên hiệu Quang Khải thứ 4, Sư thị hiện bị bệnh và thị tịch tại Sơn Viện, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Qua ngày rằm tháng 3, an táng ở góc phía Tây Bắc cách chùa vài trăm bước. Môn nhân đệ tử xây tháp thờ theo hình búi tóc. Đến ngày mồng 1 tháng 4 có ngài Thích Xử Nột kính mến đức hạnh của Sư, lo để lại danh thơm tiếng tốt, nên bảo Sa-môn Huyền Thái ở Nam Nhạc, ghi lục ngôn hạnh của Sư. Đệ tử ở các phương phân nhau hành hóa đạo của Sư. Vua Hy Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Phổ Hội Đại Sư", tháp hiệu là "Pháp tướng".
Kế nữa, có ngài Thích Hồng Nhân ở viện Kính Sơn, thuộc Hàng Châu. Sư họ Ngô, người xứ Ngô Hưng. Năm mười chín tuổi, Sư đến đảnh lễ Đại sư Vô Thượng ở chùa Khai Nguyên, xin xuống tóc xuất gia, Sư tinh chuyên trong mọi Phật sự mà không trễ nải việc hậu hạ khăn bình. Năm hai mươi hai tuổi Sư được đưa sang chùa Hội Thiện ở Tung Nhạc thọ giới cụ túc. Sư được bảo tụng giới bổn Tỳ-khưu, đến bảy ngày thì nhớ trọn bộ, bèn tập học Tỳ-ni, tầm truyền kinh giảng. Sư tự bảo: "Hễ làm tăng, thì phải có sự nghiệp trội vượt mọi người". Ngài trở về lễ bái Bổn sư. Thầy Sư hỏi: "Ông, trong suốt một ngày đêm lấy cái gì để báo đáp bốn ân trong ba cõi?" Sư nghe lời hỏi vặn đó mà kinh sợ, mất hết bình tĩnh, ba ngày quên cả ăn uống. Thầy Sư gọi lại dẫn dụ chỉ dạy, Sư mới rõ được bổn sự. Như vậy, Sư gài trở về Vân Nhạc, rồi đến núi Đại Quy, mỗi mỗi đều là thiết tha, chứa thành tài giỏi. Thế rồi gặp phải pháp nạn Hội Xương, Sư cũng đồng bị trục xuất đuổi về, trong chúng tăng, có người thì buồn khóc, có người tức hận thán oán v.v..., Sư vẫn điềm nhiên bảo: "Là đại trượng phu cùng gặp phải ách nạn này, há chẳng do mạng hay sao? Vì sao lệ tình Nhi nữ như thế ư!" Lúc đó, Sư đến Trường Sa, gặp Tín nữ La Yến mời Sư về ở tại nhà mà cúng thí. Bởi Sư giữ pháp Bạch Y và Tỳ-kheo nên như lúc đầu không sai sót, nên trải qua hai năm mà như khách mới tới nhà.
Đến niên hiệu Đại Trung (847), mới bỏ luật phá hủy Phật pháp, Sư mới quyết định trở về viện Tây Phong ở quê nhà. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (865), Sư lên Kính Sơn thăm hầu Bổn sư. Qua năm sau, Đại sư Vô Thượng viên tịch, Tăng chúng thỉnh Sư tiếp nối ngôi pháp. Ban đầu chỉ có khoảng một trăm vị tăng, sau đông đến số ngàn. Bấy giờ, chúng tăng cùng chung sống nghiêm túc, không trái phạm gì. Vua Hy Tông ban tặng viện với biển ngạch đề là "Càn Phù Trấn Quốc". Đến niên hiệu Trung Hòa thứ 3 (883), nhà vua ban tặng Sư y tía. Tới niên hiệu Cảnh Phước thứ 2 (893), Ngô Việt Quốc Vương Thượng Phụ họ Tiền đề cử tấu trình ban thưởng Pháp Tế Đại sư.
Đến ngày 28 tháng 9 niên hiệu Quang Hóa thứ 4 (901), Sư từ biệt chúng tăng mà thị tịch v.v... Thích Trường Sử ở Tráp Khê đắp họa tôn tượng Sư. Võ Túc Vương soạn chân tán. Đệ tử được truyền pháp của Sư có các vị như Tịch Công ở chùa Thê Hiền, thuộc Lô Sơn, ngài Nghĩa Trực ở Lâm Xuyên, ngài Linh Đạt ở viện Công Cự, Ngài Linh Đạt hoằng hóa thạnh hành ở cả Lưỡng Chiết. Cuối cùng thụy hiệu Sư là "Quy Tịch Đại Sư".
Lúc còn sống, Sư có sự biết trước rõ ràng. Võ Túc Vương nhà ở tại núi Thạch Giám, đến lúc ứng mộ vào lính làm quân. Sư vừa trông thấy, cầm tay, cùng nói với những người đứng chung quanh rằng: hãy tự thương mình, ngày sau rất giàu sang, cùng các Đức Phật làm chủ". Sau nhiều lần lập chiến công, Võ Túc Vương làm Hàng Châu mục. Nên tấu đặt hiệu cho Sư, ai thấy phải quỳ lạy, đàn thí nồng hậu, khác với người thường. Lúc Sư thị tịch, giữ lấy lễ tang bởi nhớ lại lời Sư nói lúc còn bé.
Thích Đại An, họ Trần, người ở xứ Mân Thành. Ngài vào đạo từ thuở nhỏ, sớm phải bỏ bụi.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (818), vua Hiến Tông ban sắc thiết đàn Đâu-suất tại chùa Càn Nguyên ở huyện Bồ Thành, thuộc Kiến Châu, mới toàn bị giới pháp. Bấy giờ, trời mưa mùi quế và đất mọc cỏ son. Thứ Sử Nguyên Tích viết sớ tay về điềm đó tấu trình lên đến Miện lưu, bèn trở về ngự lễ, ban chiếu đổi chùa Phụng Thê hiệu là đàn Linh Cảm. Sư nhân đó mà sang Hồng tỉnh, trên đường ra thượng nguyên, bỗng gặp một ông Lão bảo rằng: "Ông đến Nam Xương, chắc chắn sẽ được việc". Đến lúc Sư tham vấn luật học, ban đêm nghe hai vị tăng đàm luận, chợt tỏ ngộ ý chỉ của ba thừa, Sư bèn đem sự tu tập trao cho đồng bạn, rồi đi đến Lâm Xuyên, gặp được Thiền sư Tuệ Tạng ở núi Thạch Củng. Ngài Tuệ Tạng đề xướng, phải dùng cung nỏ mà dò xét người học. Trong lúc Sư đang lạy chưa ngẩng đầu lên, thì ngài Tuệ Tạng xướng: "Xem mũi tên bắn". Sư với thần sắc chẳng đổi thay, đối đáp không sai lầm. Ngài Tuệ Tạng bèn ném nỏ, bảo rằng: "Đã mấy năm mới bắn trúng có nửa người!"
Sư đi đến Ngũ Đài, xuống tắm rửa dưới ao rồng, tuy ngâm lâu sóng lăn tăn, nhưng hoàn toàn không có sự quái lạ mưa đá. Người thấy Sư tắm rất kinh sợ. Sau, Sư dừng tại núi Đại Quy, tham lễ Thiền sư Đại Viên. Lại chứng được điều đã nghe trước kia mà làm lương quả. Bấy giờ, Dư Chương Liên Sứ khen tặng Thái Úy Thôi Trinh Hiếu Công là chú út của Ngụy Công, rất khế hội Huyền Cơ, dốc tin đạo của Sư, bèn viết sớ đưa đi nhanh để thỉnh Sư, lời khen ngợi càng xán lạn.
Niên hiệu Hàm Thông thứ 14 (874), vua Tuyên Tông ban chiếu tặng Sư danh hiệu là "Diên Thánh
Đại Sư" và tặng một bo pháp ý ca sa tía. Đến niên hiệu Trung Hòa thứ 2 (882) Sư thị hiện bị bệnh, cây đèn dong lớn trong pháp đường nơi chỗ Sư thị hiện ở bị cong gãy. Đến ngày 22 tháng 10 năm Quý Mão, tức niên hiệu Trung Hòa thứ 3 (883), Sư an tọa mà thị tịch ở trượng thất Di Sơn, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi bảy hạ lạp. Tục ban chiếu tặng Sư thụy hiệu là "Viên Trí Đại Sư". Tháp hiệu là "Chứng Chân".
Lúc bình thường, Sư không hề khạc nhổ dưới đất, chẳng ở trong phòng ấm, tùy hóa mà mặc áo, trời mưa mới tắm. Sư có đệ tử hỏi pháp là Ngài Tuệ Trường, nhập quan tán dương đức hạnh của Sư, nên có truy tặng thụy hiệu cho Sư. Bát Lăng Tư Không Tướng Quốc kính mến những bậc đi trước, bèn soạn thuật văn khen ngợi công đức. Thi nhân Chu Phát dốc lòng kính trọng Sư, lúc bấy giờ vào núi thành kính đảnh lễ.
Thích Đạo Ưng, dòng họ Vương, người ở xứ Ngọc Điền, thuộc Tô Môn. Sư lúc mới sanh tinh thần đã đặc dị, hình thể sáng ngời. Lúc còn bé, bẩm khí đã không đồng, túc tâm vượt tục, tránh lìa cửa nhà lửa, lau mắt tìm thầy, nên thuộc về con của người luyện vàng. Thầy trao cho kinh pháp, tụng thông hết lại xin nữa. Năm tháng dần qua đến hai mươi lăm tuổi, Sư mới tới chùa Diên Thọ ở Phạm Dương cầu thọ giới cụ túc, thầy bèn bảo Sư tập học luật nghi Thanh Văn. Sư than rằng: "Với Đại Trượng Phu có thể dùng gông cùm mà trói buộc được ư?" Từ đó, bèn ôm tuyến nạp, chống tích hoàn vào núi Thúy Vi hỏi đạo. Suốt ba năm an cư tại đó, bỗng thấy có hai sứ giả áo mão khác thường, khuyên Sư rằng: "sao không đến phương nam tham vấn thiện trí thức ư?"
Sau đó không lâu, có vị tăng từ Dự Chương đến, thạnh xưng ngôn yếu của Thiền sư Động Thượng, Sư cảm động thần cơ, bèn chuyên đến đó. Như vậy, Thiền Sư Động Thượng rũ lòng tiếp nhận, Sư lại lãnh hội. Có lần hỏi Sư rằng: "Ta nghe Thiền sư Tư Đại đến Oa Quốc làm vua, việc ấy có thật hay không?" Sư đáp: "Nếu thật là Thiền Sư Tư Đại thì Phật còn chẳng làm, huống gì là Quốc Vương!" Từ đó, Thiền sư Động Thượng ấn chứng hứa khả. Ban đầu, Sư trụ tại Tam Phong, sau đến Vân Cư đề xướng. Bấy giờ, dòng họ Quý Chung đời Đường, nương cậy có Hồng tỉnh khuynh uy tín thành, mỗi lần thỉnh Sư vào châu thì dự bày thanh khiết tại Cam tử Đường để kính lễ Sư. Và dâng biểu trình tấu lên vua Chiêu tông ban tặng một bộ pháp y ca sa và phong hiệu cho Sư. Song, Sư đều chẳng lưu tâm để ý. Đồ chúng nơi Ngài dạy dỗ, mặc dù nóng lạnh xen nhau mà thường có hơn ngàn vị. Những thứ vây quanh cây hương ngưu đầu chiên đàn đều là Chiên-đàn, loài bay liệng cao quanh chim đại bàng chúa chẳng loài nào bằng chim yến. Bốn phương dâng cúng ngàn dặm cùng theo gió, như Kinh Nam Soái thành Nhuế sai mang đàn thí, động doanh đến hằng muôn.
Đến mùa thu năm Tân Dậu (901) tức niên hiệu Thiên Phục thứ nhất, Sư hiện bị bệnh, qua ngày mồng 3 tháng 1 năm sau (902), Sư thị tịch, Dự Chương Nam Bình Vương họ Chung cúng dường chu cấp mọi sự trong tang lễ. Bấy giờ các đạo Thiền Tử cứ theo điều kính chuộng của xứ sớ, tùy theo kinh khám đưa rước đến đâu thì đều liệt bày cây hoa, màn chướng thiết, soạn thức ăn đến đó, gọi là Trác tế. Một thời hung lễ hưng thạnh không đâu hơn. Thật tốt lành thay! Sư ra đời độ người suốt ba mươi năm, thì để lại sự kính ái như thế nào có thể biết.
Thích Hữu Duyên, họ Phùng, người ở xứ Tử Đồng; thuộc Đông Xuyên. Ở độ tuổi tiểu học, Sư đến chùa Phước Cảm ở Thành Đô, phụng thờ ngài Định Lan Khai Sĩ, tức là thầy của vua Tuyên Tông. Sư theo hầu, ra vào thường ở trong cung. Một hôm, vua Tuyên Tông mời Sư đến và cầm nắm bút viết lên lưng Sư rằng: "Đồng tử này có duyên với trẫm!
Do đó mà mời đến lễ".
Niên hiệu Đại Trung thứ 9 (855) bạch Công Mẫn Trung ra trấn giữ Ích bộ, mở giới đàn, Sư liền thọ giới cụ túc tại chùa Tịnh Chúng, rồi tiếp tục tập học kinh luật ở trong cung vua. Qua sau năm hạ, thân Sư mặc áo vải thô, tay cầm sắc mực, vân du khắp trong nước, tham kiến Tiểu mã thần chiếu, Phàm các tòng lâm thiền tổ ở đương thời, nơi nào Sư cũng chẳng đến lễ yết. Sư dừng trụ tại Hoa Sơn, thuộc Trừ Châu. Đến lúc Sư tới núi Võ Di ở phương Nam. Bấy giờ, Liêm Sứ Lý Hối xây dựng Thiền Thất cho Sư ở. Đến niên hiệu Càn Phù thứ 3 (876), Sư đến lập viện tại núi Đại Trại, ở Long Tuyền, thuộc Tấn Vân. Nhân đó tấu trình Tư Bộ cấp biển ngạch đề hiệu là Long An, ban sắc độ bảy vị tăng. Sư ở đó mười tám năm. Tuy an mà hay dời đổi đến ở viện Liên Vân. Thái Thú Lư ước, với tâm thành tin thực thỉnh Sư đến trụ biệt viện ở chùa Khai Nguyên, thuộc bổn châu, cúng dường tứ sự.
Đến ngày mồng 8 tháng 4 năm Đinh mão (907) thuộc niên hiệu Thiên Hậu, Sư thị hiện bị bệnh, qua ngày rằm tháng 6, Sư thị tịch tại Giải Thự, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Sư để lại di chúc Chế Trí Dương Tập Tư không lo làm chủ Tang Lễ, trà-tỳ ở phía Nam vườn chùa, sau khi lửa tắt phân chia xá-lợi khoảng mấy trăm viên. Sau, thâu nhặt bốn mươi chín viên và một bình di cốt, an táng trong tháp đá. Đến thời Hậu Tấn, niên hiệu Khai Vận thứ 2, tức năm Ất Tỵ (945), Luật Sư Văn Thái soạn văn bia tháp Sư.
Thích Nghĩa Tồn, họ Tằng, sanh năm Nhâm Dần (822) tức niên hiệu Trường Khánh thứ 2 ở huyện Nam An, thuộc Tuyền Châu. Từ Vương Phụ trở xuống đều làm bạn với chư tăng gần gũi Phật pháp, thanh tịnh kính nguyện. Vừa mới sanh mà mũi Sư đã không ưa ngửi mùi máu thịt tanh nồng, đang ôm bầu sữa, mà nghe tiếng chuông khánh, hoặc thấy hình bóng vị tăng thì sắc mặt Sư liền tươi tắn lên. Do đó mà được mọi người mến thương từ khi còn ở dưới gối.
Năm chín tuổi, Sư cầu xin xuất gia, tức giận vì chưa được chấp thuận, năm mười hai tuổi, Sư theo gia quân đến chùa Ngọc Nhuận ở Bồ Điền. Tại đó có Luật sư Khánh Huyền trì hành cao khiết, Sư vội đến lễ bái và nói: "Đây là thầy tôi!" Ngài Khánh Huyền bèn giữ Sư lại làm thị giả. Năm mười bảy tuổi, Sư xuống tóc, đến tham yết Đại sư Hằng Chiếu ở núi Phù Dung, thấy lạ, nên Sư dừng ở tại chỗ đó. Đến thời vua Tuyên Tông phục hưng Phật giáo, đạo đó nhuộm mà chẳng đen, thân đó bóng nhoáng lộ bày ra, Sư vân du đến phương Bắc, tới các xứ Ngô, Sở, Lương, Tống, Yên, Tần. Và thọ giới cụ túc tại chùa Bảo Sát ở U Châu. Xong, Sư đến tham kiến các Danh sơn, khấu lễ các Thiền Sư, tự tại phiêu diêu, mây liệng chim qua. Bèn đến Võ Lăng, một mặt ở Đức Sơn, chỉ ở trân trọng mà ra. Đồ chúng tại đó khoản vài trăm vị đều chẳng thể lường biết. Ngài Đức Sơn bảo: "Đây là không thềm bậc mà ta được nó!"
Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (865), Sư trở về núi cũ Phù Dung. Năm đó Đại sư Viên Tịch cũng dẫn dắt đồ chúng từ núi Đại Quy đến Di Sơn; chỗ đất Vương Chân Quân thượng thăng. Trong đồ chúng đó, ai đến Sư đã tiếp nối Đức Sơn, nhiều lớp ở trong cửa nghi. Sư cầm cự lâu ở đó thì có hành thật mới đầu cùng bàn luận rằng: "Đạo của ta cao vời vợi, chỗ vây quanh pháp môn không thể vội vàng. Tại đất nầy nếu như hình trải vàng có thể biết xinh đẹp ngần nào. Ở phía tây cách phủ hai trăm dặm có quả núi vây quanh kéo dài bốn ấp cao vợi vượt cả muôn nhận, nơi chót vót dùng viên ngọc tròn, lầu cao để trông thấy các núi xanh, đá quái tùng xưa nương nép rùa hạc, ao linh hang thẳm ẩn thấy rồng sấm. Trên đỉnh núi trước đây mùa đông tuyết đóng, giữa hè lạnh băng, cây cối ở đó đều có dây leo lòng thòng, phong rêu xanh rờn dùng làm áo mặc, giao thố mà chẳng phô bày hình thể. Dáng kỳ cảnh lạ chẳng thể nói hết tướng trạng. Tuy Hoắc Đồng Võ Di cũng chẳng thể thêm. Thật là thần tú của đất Việt Mân mà các tiên xưa kia không hề đến ở. Thật là hữu đãi đối với ta". Cầu nguyện đồng đi, mùa thu tháng bảy, xuyên mây nhẹ bước, rêu leo hiểm trở lên điểm u huyền, sắp đến nơi đó. Sư bảo: "Thật là ta ở đây!" Đêm đó, quả thật thần núi hiểu linh, ngày mai hang núi sáng lãng, ráng khói bay động mây che đã đứng, trăng dựng sáng cùng. Xoay bánh xe pháp ở vô vi, dựng không môn nơi Hữu địa. Hành thật mới xin đặt tên núi đó là "Tuyết Phong". Bởi vì ở đó mùa đông tuyết đóng, mùa hè lạnh băng, lấy ý nghĩa của sông Hầu núi Thứu.
Như vậy, từ năm Canh dần đến năm Ất mùi (870-875), Sư lấy núi làm nơi mở mang đạo. Núi nhờ Sư mà hiển bày danh tiếng. Thích Tử trong nước chẳng chấp Hoa Hạ, kéo đến đó như mời gọi. Vào niên hiệu Càn Phù, có quán sát Sứ Kinh Triệu Vi Công, vào niên hiệu Trung Hòa, có Tư Không Dĩnh Xuyên Trần Công, thường khát Đề Hồ mà chẳng chịu đến uống, sai sứ đến khẩn gấp, Sư vì thế mà vào phủ, theo ước nguyện của người. Khi đó, trong nội quan có người chống lại lệnh ban vào kinh để nói về đạo Sư, trong chúng đó lại có người vượt tục tỏ ngộ Lý không, xin xác Phù hoa mà lại cởi giày cỏ. Vua Hy Tông nghe như thế. Hàn Lâm Học Sĩ phỏng hỏi Trần Diên Hiệu-người đất Mân, và được tấu trình về sự thật. Khi đó, vua mới ban tặng Sư danh hiệu là "Chân Giác Đại Sư". Và lấy một bộ y tía bảo Trần Diên Hiệu đến trao dâng Sư.
Sư thọ nhận đó mà như không thọ nhận, đắp mặc đó mà dường không đắp mặc. Sư trụ ở đó thêm nhiều mùa hạ, đến đầu năm Tân Hợi (891), bỗng nhiên, Sư chống gậy mang giày, đồ chúng thưa hỏi mà Sư chẳng đáp, nhóm họp theo Sư về phương Đông đến Đan Khâu Tứ Minh. Năm sau (892) thuộc Vương Thị Trung bắt đầu chiếm cứ Mân Việt, bèn tắm gội binh lính dưới mưa pháp, dốc lòng kính lễ chốn thiền lâm, phảng phất đạo của Sư, thường trông về phía Đông. Hai năm sau đó (894) từ xứ Ngô trở về đất Mân, càng thêm lễ khác. Đến lúc Mân Dương, họ Vương phát thệ, ngoài việc chăm dưỡng muôn dân còn tôn sùng hưng thạnh đạo của Sư. Phàm mỗi lúc trai tăng xây chùa thảy đều thưa hỏi Sư. Vì thế, mà thêm nhiều chùa viện, thiết trí tôn tượng, đúc chuông để trang nghiêm núi đó. Vui mừng cúng thí để sung túc cho tăng chúng. Bấy giờ, từ Quan đến Phủ khắp đông tây đều là quý tộc, thường cùng trang nghiêm, cờ xí, lãnh hội pháp luận chẳng hề đổi thời. Chỉ suốt mười năm khẩn thiết ân cần, các Tăng sĩ xán láng đều theo vết Đàn-Na, những người săn bắn, chài lưới vội bỏ, tâm bắt cá bẫy chim.
Đến tháng 3 năm Mậu thìn (908), Sư thị hiện bị bệnh, Mân Vương vội chạy thuốc. Đến lúc trao thuốc, Sư bảo: "Ta chẳng tật bệnh gì, không thể công không". Cuối cùng chẳng uống dùng. Sau đó, Sư viết kệ phó chúc pháp tử, viết thư từ biệt Vương Đình. Tới ngày mồng 2 tháng 5, chim thú buồn kêu, mây trôi ảm đạm. Đêm đó, lúc 18 giờ, Sư thị tịch, thọ tám mươi bảy tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Tới ngày 15 tháng đó (05) xây tháp an táng. Ngày đó, Tăng Ni Sĩ thứ ở đất Mân vội vã tìm đến, nơi các đường hẻm không người ở. Mân Vương rơi lệ, nói rằng: "Thầy bỏ chúng ta sao vội thế!" Sai con là Trần Diên Bẩm đích thân đến cúng tế, lại làm lễ trai tăng vậy.
Sư hành hóa hơn bốn mươi năm, Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến chỗ Sư giảng tông không thể kể xiết, bất luận mùa đông hay mùa hạ đều chẳng dưới ngàn rưỡi người, đồ chúng vây quanh chân Sư là hàng đi rảo, vội mà càng lìa xa, biện luận mà càng mê mờ. Trong đó hy vọng có các vị: 1. Ngài Sư Bị, dẫn dắt Đồ chúng ngài Huyền Sa (nay là nước An Quốc). 2. Ngài Khả Hưu, dẫn dắt chúng ở Động Nham, thuộc Việt Châu. 3. Ngài Trí Phu, dẫn dắt đồ chúng ở Nga Hồ, thuộc Tín Châu. 4. Ngài Tuệ Lăng, dẫn dắt đồ chúng ở Chiêu Khánh, thuộc Tuyền Châu. 5. Là ngài Thần Yến trú tại Cổ Sơn; Phước Châu, phân đèn hóa vật đều đáng thánh thưởng, ban tặng ca sa tía. Mà Huyền Sa cấp cho Đại Sư Tông Nhất.
Liên quan thử bàn:
Đạo của Tuyết Phong rộng lớn, người học tài giỏi trải khắp bốn biển. Song, môn sinh lưu xuất hình sắc chẳng đồng loại là tại sao? Huyền Sa nương Lăng-nghiêm mà vào đạo, sự thấy biết khác xa. Còn như ngạn ngữ nói: "mầu xanh thành mầu lam; mầu lam rời mầu xanh, thầy sao thường tại Minh kinh, cho nên có thuyết hơn thầy. Một là do Tuyết Phong tự soạn bài minh ở tháp, đã đến chỗ cùng tận. Và một là do Huyền Sa an lập ba câu quyết trạch mọi sở kiến, cực thành thấu suốt. Nay, giang biểu phần nhiều ưa chuộng phép học đó. Học đó hư thông không phiền toái, liễu đạt tiêu diêu chẳng bó buộc. Biết là gấp. Tuyết Phong hóa chúng thiết thực ở im lặng ngồi thiền, biết là giới gấp. Đó là bỏ một hoãn để thành một toàn, thì có thể biết vậy.
Thích Nguyên An, họ Đạm, người ở xứ Du Lân, thuộc Phụng Tường. Vừa độ tuổi tết tóc, Sư đến chùa Hoài Ân ở Kỳ Dương, xuất gia với anh là Luật Sư Hựu. Chỉ có kinh và luận, không gì chẳng thông suốt. Sư mới đến hỏi đạo Thúy Vi, kế tiếp Lâm Tế. Mỗi nơi hưởng thọ pháp vị no nê, chứa nhóm mùi thơm đầy bát. Đẽo gọt chạm trổ, lại phác tiêu diêu tự như. Nghe ở Giáp Sơn Đạo Thạnh Chí Đức, Sư đến Lễ Dương thưa hỏi nhiều việc, lại thêm sáng tỏ. Sau, Sư mở núi Lạc Phổ, rồi trụ ở Tô Khê. Sư đáp dạy cho những người đến thưa hỏi tham học, phần nhiều lời văn hay đẹp, lưu truyền khắp bốn phương.
Sư thị tịch vào tháng 12 năm Mậu ngọ (898) tức niên hiệu Quang Hóa thứ nhất, thời vua Chiêu tông, thọ sáu mươi lăm tuổi, bốn mươi sáu hạ lạp. Trước lúc thị tịch, Sư dạy chúng rất nhiều từ cú Cảnh sách.
Thích Hằng Thông, họ Lý, người xứ Bình Ân, thuộc Hình Châu. Gia đình nhiều đời làm quan, Sư từ thuở ấu thơ đã biết học. Tô Tần hiển đạt vẫn còn ôm hoài hai khoảnh ruộng, Nguyên Lượng cao vợi chẳng tham năm đấu lộc, dù cho vượt trời ném đất, kéo tía yêu vàng, nháy mắt phù hoa đâu bổ ích, cuối cùng lễ cha mẹ!
Năm mười ba tuổi, Sư trốn vào Thước Sơn, hỏi đạo nương thầy, đã bỏ sách Nho, chỉ thích kinh Phật, Sư tinh cần sám tụng, khẩn thiết tham hầu khăn bình chẳng thôi, lúc đầu như cuối, được ân thế độ. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Khai Nguyên trong Bổn châu. Sau đó, Sư đến chùa Thuần Phước ở kinh Triệu nghe đọc kinh luật, suốt thời gian bảy, tám năm nghiên cứu tận cùng tạng giáo. Ngài mới tự bảo rằng: "Tôn giả MaĐằng vào Trung Hoa ở thời Hậu Hán dịch soạn văn kinh này. Thánh Trụ đến đời Lương lại làm sáng tỏ việc gì?" Nhân đó, Ngài khước từ Bắc Quyết, trải qua tham thỉnh ở phương Nam, gặp được Đại sư Chiêu Hiền Cảnh Sầm. Đại sư hỏi: "Ông người xứ nào?" Sư đáp: "Người ở Hình Châu". Ngài Chiêu Hiền bảo: "Đạo ta chẳng từ kia lại!" Ngài nói: "Hòa-thượng còn trú tại đây chăng?" Từ đó, có chỗ vướng mắc đều bày tỏ, không nghi ngờ nào chẳng quyết trạch. Sau, Sư đến động Sơn, Thạch Sương, Sư đều đến tham lễ. Khi Ngài Chiêu Hiền thị tịch thì Sư giữ lễ đệ tử mà kính thờ.
Cuối niên hiệu Hàm Thông (874), Sư đến Tuyên thành: Thượng Thư Thôi Ngụ vốn kính phụng thiền môn, đón rước cung kính, thấy Sư nghi mạo thoát tục, hỏi đáp qua lại, ông rất vui mừng kính phục, bèn tấu đặt thiền viện ở núi Tạ Tiên hiệu là "Thụy Thánh" và thỉnh Sư ở đó. Học chúng đạo Phật ở bốn phương chẳng khơi mà tự nhóm họp. Bát Lăng phương bèn tấu dâng tặng hiệu cho Sư. Sư cương quyết từ chối bèn thôi. Cuối niên hiệu Trung Hòa; đầu niên hiệu Văn Đức (885888), bọn giặc cướp đua nhau dấy động, Sư lãnh đạo đồ chúng đến Tứ Minh.
Tới niên hiệu Đại Thuận thứ hai (891), Quận mục Hoàng Quân Thịnh thỉnh Sư dừng ở tại Tuyết Đậu, giáo hóa hưng thạnh.
Tháng 7 năm Thiên Hựu thứ 2 (905), Ngài thị hiện bị bệnh, qua ba ngày, Sư tự vào phòng tắm gội, xong an tọa trên dường dây, nhóm chúng đốt hương, ân cần phó chúc, sau đó Sư chắp tay thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Đến ngày mồng 7 tháng 8 năm đó, dựng tháp đá an táng tại phía Tây nam cách viện hơn hai trăm bước. Có thuyết nói rằng: lúc sắp thị tịch Sư nói "Ta là Bàng Huân". Đó là không đúng. Cao Tăng vô tác vì hành lục nên không nói thế. Nếu xem xét về niên lạp thì Bàng Huân đâu chính lúc tuổi hai mươi lại trốn nạn ư?
Thích Tuệ Tịch, họ Diệp, người xứ Tu Xương, thuộc Thiều Châu. Năm mười lăm tuổi, Sư khẩn thiết cầu xin xuất gia mà cha mẹ không chấp thuận, đành thôi. Đến năm mười bảy tuổi, Sư lại cầu xin nữa, cha mẹ Sư vẫn còn do dự chưa quyết định. Đêm đó, có hai luồng ánh sáng trắng từ Tào Khê phát ra chiếu thẳng đến nhà Sư. Lúc ấy, cha mẹ Sư mới tỏ ngộ con mình chí thành mà cảm cách như thế! Sư chặt đứt ngón út và ngón vô danh ở cánh tay trái để trong bát đặt trên chiếu, quỳ thẳng trước thềm nhà, nói: "Đáp tạ công ơn cù lao như thế". Cha mẹ Sư biết không thể giữ Sư được nữa nên đành chấp thuận. Sư đến nương tựa Thiền sư Thông ở chùa Nam Hoa, cầu xin xuất gia. Năm mười tám tuổi, Sư còn là Sa-di, mà mang đạo cụ đi tìm tri thức. Trước tiên gặp ngài Đam Nguyên, vài năm sau, đã có sở đắc. Sau, Sư đến tham yết thiền sư Linh Hựu ở núi Đại Quy, Sư nương ở đó mười bốn, mười lăm năm chân bị khập khiễng, nên người thời bấy giờ gọi Sư là "Chân khập khiễng đuổi quạ". Phàm ở Thương Hoắc thường hay chỉ bày tướng đó. Bấy giờ, Vi Trụ đến chỗ Sư xin kệ, Sư lấy giấy bút, vẽ hình vòng tròn, dưới vòng tròn ghi chú rằng: "Nghĩ mà biết đó thì rơi vào đầu thứ hai, chẳng nghĩ mà biết thì rơi vào đầu thứ ba". Và phong dáng lại trình đạt. Từ đó có bấy nhiêu thế để chỉ bày cho người học, gọi đó là "Tông Phong của Ngưỡng Sơn"! Đồ chúng vén y đắc đạo khôn lường tính hết, thường hay có điềm thần dị, chợt đến chợt đi, mọi người chẳng ai lường hết được.
Sau, vua ban sắc truy tặng Sư thụy là "Trí Thông Đại sư", tháp hiệu là "Diệu Quang". Hiện nay truyền Pháp của Ngưỡng sơn, chỉ bày thành đồ tướng lưu hành ở đời.
Thích Tuệ Cung, họ La, người ở xứ Mân, thuộc Phước Châu, gia đình nhiều đời theo Nho giáo, vốn chẳng giao thiệp với đạo khác. Lúc mới mang thai Sư, mẹ Sư mộng thấy tại chỗ ở nổi lên một ngôi tháp, cao lên tới tận trời. Đến lúc sanh Sư thì thông minh dĩnh ngộ. Năm mười bảy tuổi, Sư thì đỗ Tiến sĩ, danh tùy kế xa, dẫn đến kinh quyết. Nhân đến chùa Phụng Nhật ở núi Chung Nam, mắt nhìn tôn tượng Tổ sư mà cởi mở vòng lưới thế tục, bèn xin xuất gia.
Sư giữ gìn tiết tháo, chăm việc tăng chúng, trải qua đủ thứ gian khổ đắng cay. Năm hai mươi hai tuổi Sư đến chùa An Quốc-vừa mới dựng lập, thọ giới cụ túc. Sau đó du phương, Sư men theo núi hiểm nguy lội qua chống hoang dã, mà không lộ vẻ khó khổ. Sư từng bị rắn cắn vào tay, chẳng tìm cầu thầy thuốc, mà độc tố tự tiêu. Sư gặp quỷ mị chiếm núi, bèn dẫn dụ tội phước mà yêu vật ngưng dứt. Sư đến Đức Sơn, thuộc Võ Lăng, tham yết Thiền sư Tuyên Giám, lãnh hội phong khí, do đó hợp đạo. Nhân chống tích trượng thi lễ của môn nhân. Sau khi Ngài Tuyên Giám thị tịch, Sư bèn đến Ngọc Sơn, kế đến Tín Châu. Thứ Sử xây dựng viện Tây Thiền lễ thỉnh Sư ở đó. Đồ chúng có đến mấy trăm vị, Sư ở đó hơn một năm, vì chốn thành quách ồn ào phiền tạp, nên Sư lại vào núi Mã Quan, ở Trường Khê, thuộc Phước Châu. Rồi từ núi Mã Quan đến núi Phú Dương ở Tuyền Châu. Những chỗ Sư đến, đàn việt đua nhau tìm tới, đồ chúng ở phường giải bát thiền lập thành. Đó là vì các hàng sĩ thứ ảnh hưởng kính phụng như vậy.
Niên hiệu Cảnh Phước thứ 3 (894), Sư cùng môn nhân đến Thiên Thai, ở Châu Mục, thuộc Kinh Triệu, Đỗ Hùng lưu giữ nên Sư ở lại. Đỗ Hùng Nhân đó mà lập viện Thụy Long ở núi Từ Ngưng, thỉnh cầu Sư mở mang trường giảng để khai ngộ người mê. Tăng tục cùng nhau tụ hội, hương hoa chất thành núi. Vào giờ ngọ tháng 12 năm Quý hợi (903) tức niên hiệu Thiên Phục thứ 3, Sư bảo chúng đánh chuông, ngoái nhìn chung quanh, bỗng nhiên Sư nói: "Đi!" và ngồi kiết già, nhắm mắt an nhiên thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi hai hạ lạp.
Ngài mở mang Tông Viên Đốn, ở ngôi vị đạo đức tối cao, thị tịch không đổi tên, tháp không có bảng đề đủ thấy rằng phù danh là gông cùm. Môn nhân thượng túc của Sư bèn trồng cây thông, mang đất góp sức tôn thờ tháp miếu, cái gọi là "pháp không chẳng hoại nhân duyên". Nhân duyên có đó, hiếu hạnh không tổn thương đạo.
Thích Văn Hỷ, họ Chu, người ở xứ Ngự Nhi, thuộc Gia Hòa. Lúc mang thai Sư, mẹ Sư mộng thấy ăn nuốt ba lá đào. Đến lúc sanh Sư, càng chẳng ưa thích mùi vị tanh nồng.
Năm bảy tuổi, Sư đến chỗ Sa-môn Thanh Quốc ở chùa Thường Lạc trong ấp, cầu xin xuất gia. Ngài Thanh Quốc liền cho Sư đến Vị Dương để tụng kinh và sám văn mười quyển, xong mới xuống tóc. Ngài đến chùa Khai nguyên ở Việt Châu, học kinh Pháp Hoa, tập văn cú Thiên Thai liền diễn giảng được, nghiên cứu tỉ mỉ phân trung nên có thể giảng dạy người. Niên hiệu Khai Thành thứ 2 (837), Sư đến Quận Triệu thọ giới cụ túc, tập học Luật Tứ Phần. Đến thời pháp nạn Hội Xương thanh trừng đào thải Sư mặc áo trắng, mà trong tâm kín giữ không đổi. Vào những năm đầu niên hiệu Đại Trung theo lệ có Trùng sám độ, Sư đến chùa Tề Phong ở Diêm Quan giảng thuyết. Sau đó, Sư sang lễ yết Thiền Sư Tánh Không ở núi Đại Từ. Ngài Tánh Không dạy bảo Sư rằng: "Sao ông chẳng học theo Đồng tử Thiện Tài mà tham lễ khắp nơi?"
Đến năm Nhâm ngọ (862) thuộc niên hiệu Hàm Thông, Sư tới viện Quán Âm ở Dự Chương, được gặp ngài Ngưỡng Sơn ngay lời dạy bảo mà Sư tỏ ngộ tâm mình. Ngài Ngưỡng Sơn cho Sư giữ chức thường trụ. Một hôm nọ, có vị tăng dung mạo khác lạ đến cầu xin trai thực, Sư liền giảm bớt phần ăn của mình mà dâng hiến. Ngài Ngưỡng Sơn biết trước, nên hỏi Sư rằng: "Vị tăng ấy đã chứng quả đến cầu thực, ông cung cấp có chu toàn chăng?" Sư đáp: "Bớt phần mình mà cúng dâng". Ngài Ngưỡng Sơn bảo: "Ông được lợi ích lớn!" Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), Sư đến Triết Hữu, dừng ở núi Thiên Khoảnh, cất thất mà ở đó.
Niên hiệu Hàm Thông thứ 10 (869), Lưu Nghiêm Hợp Mã ở Dư Hàng, thỉnh Sư đến trụ viện Cổ Thành, ở Long Tuyền. Sư đến ở đó được mười một năm. Tới năm Kỷ Hợi (879) thuộc niên hiệu Càn Phù, giặc cướp đất đến Dư Hàng, Sư lánh nạn đến ở Hồ Châu, ngoài ra chẳng dừng ở đâu. Thứ Sử Đỗ Nhụ Hưu thỉnh Sư đến ở viện Nhân Vương. Đến niên hiệu Quang Khải thứ 3 (887), Võ Túc Vương họ Tiền mới lấy lại Quận Hàng, ban sớ thỉnh Sư đến ở Giải thự thuộc Long Tuyền, nay là viện Từ Quang. Đến niên hiệu Đại Thuận thứ 2 (891), Uy Thắng Quân Tiết Sứ Huân Xương, và Võ Túc Vương đồng năm phát biểu dâng luận, cả hai đều ban tặng y tía. Niên hiệu Càn Ninh thứ 4 (898), tấu trình tôn xưng Sư hiệu là "Vô Trước".
Đến niên hiệu Quang Hóa thứ 3 (901), Sư thị hiện bị bệnh, qua ngày 27 tháng 10, Sư ngồi kiết già mà thị tịch tại giải thự thuộc Châu Quách, thọ tám mươi tuổi, sáu mươi hạ lạp. Lúc Sư thị tịch trên phương trượng phát ra luồng ánh sáng mầu trắng. Cây trúc biến thành mầu trắng. Đến ngày 22 tháng 11, thỉnh nhập tháp tại gò ở phía Tây núi Linh Ẩn.
Sư vốn có hình mạo cổ phác, xương cứng mà gầy. Giới đức ở thiền môn thật là bậc tri thức. Ban đầu, lúc Sư ngụ ở tại Tráp Xuyên. Mùa hè niên hiệu Quảng Minh thứ nhất (880), có loài sâu Hoàng bay che khắp trời đất, ăn hại lúa mạ, Sư tự chống tích trượng treo máng áo ca-sa lên trên, dựng giữa khoảng trống. Loài sâu trùng đó sắp xuống, bèn gắng tiếng kêu nó, tất cả đều vụt bay đi, lúa mạ trong mười khoảnh riêng năm đó được mùa. Ngài có sự cảm thông đến như thế! Có thuyết nói rằng: Sư được truyền y ca-sa của ngài Mã Tố, để làm Tín Bảo. Sau khi an táng, vào tháng 8 năm Nhâm tuất (902) tức niên hiệu Thiên Phục thứ 2, Tuyên thành soái Điền Quân Ứng Hàng cùng định làm loạn, thao túng binh lính, cướp bóc cùng khắp, đập phá tháp Sư, thấy nhục thân chẳng mục rã, như đang nhập thiền định, tóc móng tay đều dài ra. Võ
Túc Vương lấy làm lạ, sai Tướng Thiệu chí cúng Tế, sau đó bít lấp lại.
Thích Duy Tĩnh, người xứ Ngô Môn. Năm đã ba mươi tuổi, hình mạo kỳ lạ, lại giống như ám độn, Sư vào chùa Quốc thanh đi khắp tăng phòng mà xướng rằng: "Xin người xuất gia hãy giữ gìn. Sư xuống tới viện Kinh Tạng, thấy Đại Đức Tuệ Chính là bậc thầy Xà-lê của cả hai chúng, Sư liền quỳ lạy, tỏ bày ý nguyện thành thực xin được tiếp nhận, ngài Tuệ Chính liền chấp nhận và cho xuống tóc, thọ giới cụ túc ở Thiên Thai, Sư tạm trở về bái tạ ngài Tuệ Chính, rồi bèn tìm phỏng các danh sơn, nơi nào có thiện tri thức, thì Sư hẳn trải qua ấm lạnh. Từ đó, Sư chuyên cần đối với thiền pháp, không hề phát ngôn, và liền đến ở đạo tràng kim địa; nơi Thiền Sư Định Quang phế bỏ, Rồi Sư lấn sao đến chùa Thiền Lâm vào lúc dùng cháo sáng mà có nhiều Hổ Báo theo đến cửa chùa. Hổ quỳ dưới đất như đợi hầu, lúc Sư trở ra, lại theo Sư trở về đến kim địa, mãi đến sáng, thấy nhiều dấu vết rất lớn, Sư sợ mọi người biết nên dùng bừa để cào xóa vết chân hổ. Bỗng nhiên Sư mắc bệnh ung nhọt sau lưng khó ngủ. Có phân loài chim bôi thoa vào vết thương, chẳng bao lâu thì lành hẳn. Sư lại dự liệu mùa băng tuyết nên chuẩn bị nửa hộc lúa canh, mỗi ngày dùng xoong kèm với rau để nấu ăn, Sư để lúa canh giữa đất trong hầm hố, trải qua thời gian lâu mà gạo vẫn thường đầy đủ chẳng phải cày cấy. Sư bèn xây dựng lại mà bảo rằng: "Ta nhờ vật này mà biết là phi lý". Rồi Sư tìm đến ở núi Phục Long, ở núi đó có thể nhìn ra biển, thế núi cao chót vót. Xưa kia Sa-môn Giám Gia từng ẩn cư tại đó, ngài Giám Gia là em ruột của thân mẫu Đường Vương Tướng Quốc, giỏi về văn, chuyên tu đạo, Thứ Sử thường đến đó tham yết ngài Giám Gia. Sư cũng tiếp nối ẩn cư ở núi đó. Thứ Sử Hoàng Thịnh thường đến thỉnh Sư ra khỏi châu, cúng thí rất nhiều. Cuối cùng Sư đến lập viện ở núi tại phía bắc
Phụng Xuyên, Sư thị hiện bị bệnh mà an tọa thị tịch, thọ hơn bảy mươi tuổi, an táng ở dưới núi.
Tháp thờ Sư đến nay vẫn còn.
(Quyển 12 hết)
(chánh truyện có mười bảy vị, phụ có sáu vị).
Thích Viên Thiệu, họ Tôn. Tổ Tiên Sư vốn người Phú Dương, ông nội của Sư làm quan tại Nam Yên, do đó trở thành người xứ Bạch Mã, thuộc Cốt Đài. Năm Sư vừa mới hiểu biết thì thiên nhiên tuấn tú, bọn trẻ ở gần đùa vui thì Sư chỉ điềm nhiên, chúng rượt đuổi nhau thì riêng Sư nhàn tĩnh. Năm mười tám tuổi, Sư mới toại chí nguyện xuất gia, kính thờ Thiền Sư Chánh Giác ở chùa Minh Phước làm thầy. Ngài Chánh Giác lấy làm lạ, tuy dạy các đệ tử nhưng riêng chấp nhận Sư, nói rằng: "Đây là pháp khí vĩ đại trong cửa chân không". Năm hai mươi hai tuổi, Sư đến Luật sư Hương Đăng, ở nghĩa đàn thuộc Tương Châu cầu thọ giới cụ túc. Sau đó, Sư lên đường hỏi đạo tìm thầy, bắt chước Tổ sư tham học đạo huyền, ngoài ba y như chim ha cánh và một bình bát thì Sư không có một vật gì khác, chỉ thệ nguyện học
Thiền tông, đứng dưới tuyết truyền y. Đó vốn là ước vọng của Sư. Các xứ Tam Tương, ngũ lãnh, nhị thục, lưỡng kinh hễ nơi nào có tòng Lâm, thì Sư đều đến tham lễ, đã thấu suốt thâm sâu, tỏ ngộ cơ tâm, Sư bèn chống tích đến Di môn, tức chùa Thủy Nam, ở Thương Viên, nay là chùa Khai Bảo.
Niên hiệu Đại Trung thứ 10 (856), Sư đến gặp Đường Tướng Quốc Bùi Công Hưu, Thôi Điều thương đảnh đến trấn Ngụy Giao, đồng khí tương cầu, một lời hợp đạo, liền ban cho Sư ở viện Kim Đông Thượng Phương. Sư nhóm họp thiền chúng, khổ nỗi ở đó chật hẹp, bèn mở ở phía Tây của Thượng viện, tổn hại ở trên, ích lợi ở dưới. Bấy giờ, đàn thí tìm đến rất đông, người mặc áo nạp có đến mấy trăm, sư mở rộng núi Di môn đến cao vợi. Sư là pháp tôn của Thiền sư Hà Trạch Thần Hội Tổ thứ 7, Sư diễn pháp vô niệm, chỉ bày chân tâm, thấy suốt Mật truyền của Đạt-ma, thông cùng thú hướng sâu xa của Tuệ Năng-Nam Tông. Bấy giờ, những người tham học dẫn dắt Đồ chúng đến càng đông. Gặp Nguyên soái Tướng quốc Vương Tấn Công Đạc cho rằng: "Đạo của Sư hành hóa thông cảm đến thần kỳ, công hiệu linh nghiệm, ban rưới cam lồ nơi khoảng trời cao, thấm điềm tốt lành khắp cùng cây cối". Bèn trình tấu lên vua Hy Tông ban sắc biển ngạch của viện là "Song Lâm" và tặng Sư danh hiệu "Pháp Tế", riêng sắc lệnh độ cho bảy vị thị giả. Thời gian đó, pháp hội hưng thạnh, các hàng sĩ thứ thảy đều quy tâm, chỉ hơn bốn mươi năm mở mang mà có đến cả muôn người, đệ tử tăng ni hơn năm trăm vị.
Đến ngày mồng 4 tháng 7 năm Ất Mão (895) tức niên hiệu Càn Ninh thứ 2, Sư bảo chúng rằng: "Hãy mau tự liễu đi, vốn là thoát sanh tử, nếu không rõ huyền chỉ, lúc nào mới được thoát? Tôi như cảnh trời chiều xế bóng, đây là lời nói sau cùng!"
Rồi Sư ở trong phương trượng vắng lặng mà thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. Vua Chiêu Tông ban sắc xây tháp ở góc Tây Nam của Bổn viện để thờ. Qua năm năm, đến ngày mồng 2 tháng 2 lại mở tháp ra, thì thấy tóc dài nửa tấc, nghi mạo vẫn như lúc còn sống, mới dâng hương hoa cúng dường bảy ngày, mọi người xa gần chiêm ngưỡng lễ bái, khen ngợi lạ lùng đó. Thế rồi, hành pháp trà-tỳ, trong lửa chợt phát ra ánh sáng thần năm mầu, thâu nhặt được hơn trăm viên xá-lợi, tùy ý mang đi khắp nơi. Đãi nhặt gần được ngàn viên, mầu tươi như ngọc sạch, xán lán tợ châu tròn, ứng nghiệm thật do năm phần hương huân thành, chẳng phải là một đời chứa nhóm. Bốn chúng lại kính thành đón rước nhập tháp. Năm đó là năm Mậu Ngọ (898) dưới thời vua Chiêu Tông. Huy Dương Tướng Quốc Viên Tượng trước trấn giữ tại Lăng Giao, đệ tử của Sư là Tuệ Ái v.v... cùng chung hưởng pháp nhũ, nên nêu bày hành trạng của Sư và xin hành lễ ban thụy hiệu, trong năm Quý Dậu (913) tức niên hiệu Càn Hóa thứ 3 đời Hậu Lương, vua Thái Tổ sắc tặng Sư danh hiệu khác là "Định Giác", tháp hiệu là "Linh Hóa" đến tháng 9 niên hiệu Trinh Minh thứ 4 (918) Ngài Tuệ Ái v.v... muốn phô bày tán dương đức hạnh của Sư nên dựng lập bia. Vua Mạc Đế (thời Hậu Lương) ban sắc chấp thuận. Khai Phủ Y Vương Công Toản soạn văn bia.
Thích Pháp Phổ, họ Phan, người ở xứ Lư Giang, dáng mạo khô gầy, tánh tình khoan dung, Sư mặc áo nạp mà du phương.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư thấy núi Hoàng Cương sắc mầu đẹp lạ, đỉnh núi cao chót vót, trong rừng rậm rạp ấy có đàn đá bằng phẳng và cao, Sư bèn cởi giày, chống tích trượng vào trong trải chiếu gai mà ở, thời gian lâu, bèn dựng cây lợp tranh chỉ để dung thân mà thôi. Sau đó không lâu, có một người từ tiểu kinh đi đến thấy Sư bèn kinh sợ. Sư hỏi: "Có duyên sự gì đi đến nơi này?" Người ấy đáp: "Tôi vốn đi qua Sơn Lộc, thấy trên đỉnh núi cao hơi khí mầu tía phát túa cuộn quanh, thật là thích ý, nghĩ rằng núi này có lắm vật nên lại đây!" Rồi người ấy nhìn Sư chập lâu mới đi. Hành giả dưới núi nghe nói tìm đến, chưa được mấy năm mà những người học thiền có tới cả trăm người. Sư từ khước mà bảo rằng: "Lão Tăng đây ở một mình, không vật lợi người. Các ông cũng không thiếu thốn gì". Từ đó, am nầy ở rất đông người. Đệ tử Sư là Quảng Nghiêm, v.v..., xây dựng thành Đại Viện. Tự nhiên thiền khách truyền đạo của Sư nhiều không thể tính kể. Một hôm, Sư nhóm chúng để từ biệt, bảo rằng: "Ta đến lúc đi rồi, các ông hãy khéo trụ mà quý tiếc!" Rồi ngồi kiết già trên giường mà thị tịch. Nhục thân Sư không rã hoại. Sau đó, dùng bùn thơm bôi phết lên. Đến niên hiệu Càn Phù (874-880) lại sửa sang và dựng lập bia tụng v.v...
Kế nữa, có ngài Thích Hữu Tĩnh trụ chùa Hoa Nghiêm ở kinh thành Lạc Dương, không rõ Sư là người xứ nào, Sư thuộc phong hạnh Thiền đạo của Động Sơn. Sư đến xây dựng ở đó, giải thích điều nghi nhanh như chớp, rồi trở về vị trí cũ. Đi ngược lên phương bắc, Sư đến Ấp Lạc khai diễn. Nhân ứng phó thỉnh trai ở nội cung, các danh công đều cầm lấy kinh đọc tụng, riêng Sư và các đệ tử Sư đều ngồi im lặng. Đế Tuyên hỏi: "Sao chẳng tụng kinh?" Sư trả lời vẫn làm vui lòng Đế Tuyên. Sư trở về Bình Dương mà thị tịch, thâu nhặt được xálợi, bốn phương xây dựng tháp, Sư được ban tăng thụy hiệu là "Bảo trí Đại Sư", tháp hiệu là "Vô vi".
Thích Trí Nhàn, người ở xứ Thanh Châu, thân cao bảy thước, nghe rộng nhớ nhiều, có tài năng sách lược. Bà con bạn thân thấy vậy, nói với Sư rằng: "Ông hãy cố sức học thì ngày sau sẽ thành đồ tốt để giúp ích cho đời". Không bao lâu, Sư từ biệt thân thích mà xuất tục. Thế rồi, tâm bền chắc kính mến Phật pháp, Ngài đến phương nam, tham lễ Thiền Sư Linh Hựu ở núi Đại Viên. Cả chúng hội đều tôn sùng Sư là bậc tài giỏi thông minh. Một hôm, ngài Đại Viên gọi Sư đến mà đối đáp, Sư mịt mờ, Ngài bèn đem tất cả các ngữ yếu của thiền đức các nơi cùng một lúc thiêu đốt, bảo rằng: "Bánh vẽ không no được bụng kẻ đói!" Rồi hướng về vết tích của Quốc Sư Trung ở Nam Dương mà sống, tình cờ cắt phát cỏ cây, đánh chạm vào hòn sỏi, Sư bèn phát cười, thầm có sở chứng, mà tuôn trào các bài tụng xướng. Từ đó, Sư mở mang thạnh hành, sau khi thị tịch, vua ban tặng Sư thụy hiệu là "Tập Đăng Đại Sư", tháp hiệu là "Đình Phước".
Kế nữa, có ngài Thích Đại Đồng ở núi Đầu Tử, thuộc Đồng Thành, ở Dã Châu. Sư họ Lưu, người ở xứ Hoài Ninh, thuộc Dã Châu. Từ thuở bé, Sư đã có tánh cứng rắn, ngay thẳng; khí độ của bậc lão thánh. Nhân đến cầu xin xuất gia với Thiền Sư Mãn ở Bảo Đương, thuộc Lạc Hạ. Ban đầu, Sư tập học kinh An-ban, quán nghiệp sắp thành, bèn cầu biển tánh Hoa Nghiêm. Sư lại mang Tích trượng đến tham yết pháp hội ở núi Thúy Vi, đồng lúc Phục Ngưu Nguyên Thông khơi phát thỉnh ích mà Sư tỏ ngộ ý Tổ. Từ đó, Sư du trở về quê cũ, ẩn náu tại núi Đầu Tử, xây dựng am tranh, nương sống đạm bạc để cầu chí ấy.
Vào niên hiệu Trung Hòa (881-885), giặc cướp lan tràn khắp kinh, thiên hạ nghịch loạn. Có bọn giặc cầm mũi nhận đến hỏi Sư: "Ông ở đây làm gì?" Sư dùng Phật pháp mà đối đáp, Khôi Cừ nghe mà lạy dài, cởi bỏ áo giáp trên thân mình bỏ xuống núi. Đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Tuất (914) tức niên hiệu Càn Hóa thứ 4 đời Hậu Lương, Sư ngồi kiết già mà thị tịch, thọ chín mươi sáu tuổi, bốn mươi sau hạ lạp. Sư hoằng hóa ở núi đó hơn ba mươi năm.
Thích Quang Nhân, không rõ Sư là người xứ nào, thân hình thấp bé. Từ thuở nhỏ khí phách Sư đã trội vượt người khác. Tinh sáng khác với người thường. Sư sớm tham học ở Đông Sơn, vào sâu nghĩ lý kín mật, biện luận lại hơn người. Sư từng hỏi Thiền sư Hương Nghiêm, nhưng điều giải đáp có sự thiên lệnh. Sư bảo: "Tôi vì lụy kén trọng tơ mà đến, chẳng lẽ không mệt nhọc ư?" Rồi bèn thóa nhổ giữa đất, bỏ đi. Sau, Sư trú tại Sơ Sơn, thuộc Lâm Xuyên, những người học thiền tìm đến thưa hỏi, rất có ngôn từ. Sư có soạn các bài tụng về "Tứ Đại"; "Lược Hoa Nghiêm trưởng giả luận" lưu hành ở đời. Sau khi Sư thị tịch, nhập vào trong khám, đã có con nai trắng đến trước linh quỳ gối, Tăng chúng lúc bấy giờ cho đó là Nai kính điếu.
Kế nữa, có ngài Thích Bản Nhân, ở viện Bạch Thủy, thuộc Quân Châu, không rõ Sư là người xứ nào. Sư đắc tâm ấn ở pháp tịch ngài Động Sơn. Tuy Sư ít đàm đạo, nhưng người khắp nơi tìm theo như bóng theo hình. Sư khước từ họ lại tìm đến. Sư bèn theo sự thỉnh mời của người Đan Dương mà đến ở. Sau đó không bao lâu, vào niên hiệu Thiên Phục (901-904), Sư đến viện Bạch Thủy ở Cao An, thuộc Hồng Tỉnh nhóm chúng, Sư sắp nhập diệt, trước xúc xứ bảo trái, bèn nhóm chúng, đốt hương, bảo: "Đến lúc khói hương cháy tan hết là ta nhập tịch". Và đúng như lời nói, Sư an nhiên ngồi thẳng thị tịch.
Kế nữa, có ngài Thích Cư Tuần, ở núi Long Nha. Sư họ Quách, người ở xứ Nam Thành, thuộc lâm Xuyên. Năm mười bốn tuổi, Sư thức tỉnh cuộc đời là vô thường mà giữ sự điềm đạm, cầu xin cha mẹ được xuất gia tại chùa Mãn Điền, ở Lô Lăng. Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc, đã nghĩ chọn gỗ, mới tham thiền hội Thúy vi, mê lại chưa trở về chẳng biết chỗ đến. Nghe lời huyền cách cao xa của Động Thượng, Sư đích thân tìm đến, Sư bước tới hỏi: "Thế nào là ý Tổ?" Động Thượng đáp: "Nếu nước trong động chảy ngược sẽ nói cho nghe. " Ngay lời đó Sư thấu suốt huyền vi. Ngài ẩn chúng bặt tăm suốt bảy, tám năm, chăm chăm dấu sự tỏ sáng, nhưng lâu thì thông. Sở Vương dòng họ Mã ở phủ Thiên Sách vốn cậy nhờ Phương âm, kính thờ Sư như cửa hiếu để bẩm phụng Tỳ trưởng, nên thỉnh Sư đến trụ tại Thiền Viện Diệu Tế ở núi Long Nha, đông đúc đồ chúng thường nhóm họp cả năm trăm vị, bèn tấu trình đề cử triều đình ban tặng Sư y tía, tôn xưng hiệu Sư là "Chứng Không", lúc đó là đầu niên hiệu Trinh Minh (915) thời Hậu Lương. Ở dưới Phương Nhạc gọi đó là Thiền Quật, xem thất đó được môn đó cũng nối nhau. Đến tháng 8 năm Quý Mùi (923) tức niên hiệu Long Đức thứ 3, Sư bị bệnh kéo dài đến ngày 13 tháng 9 thì thị tịch.
Sư ra đời hơn bốn mươi năm, có nói rõ ở Biệt lục.
Thích Sư Bị, họ Tạ, người ở đất Mân. Thuở nhỏ, Sư dũng cảm sáng suốt, đam mê câu cá, thường thả thuyền nhỏ nổi trôi trên sông Nam Đài để tự vui. Thuyền đó lơ lửng như rỗng không, đồng loại chẳng thề lường biết. Một hôm, Sư bỗng nhiên phát ý xuất trần, Sư ném cần câu, bỏ thuyền lên núi Phù Dung xuất gia. Lúc đó là đầu niên hiệu Hàm Thông (860).
Sau, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Dự Chương thọ giới cụ túc rồi trở về quê cũ. Ở trong Sơn Môn, Sư gắng sức làm việc nặng nhọc, không việc gì chẳng dẫn đầu. Thân mang áo vải thêm giày gai quấn cỏ, bớt ăn vật thực mà nói nín có thường, mọi người đều kính sợ. Sư mênh mông đại độ, dù có chước khéo kế hay cũng chẳng thể lường biết. Sư có bạn đồng học là pháp huynh Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong. Qua một vài lần cùng gặp, ngài Nghĩa Tồn phần nhiều chăm chú vào Sư cho là "Bị Đầu-đà". Một hôm, hỏi ngược Sư rằng: "Đầu-đà sao chẳng đi tham lễ các nơi?" Sư đáp: "Đạt-ma chẳng đến Đông Độ, Nhị Tổ không sang Tây Thiên". Ngài Nghĩa Tồn rất mến quý Sư và lúc khai hoang Tuyết Phong thì Sư cũng đổ lắm công sức, dòng họ Vương mới có đất Mân, tấu trình triều đình ban tặng Sư y tía, tôn xưng hiệu là "Tông Nhất Đại Sư". Đến niên hiệu Khai Bình thứ 2 (908), thời Hậu Lương, ngày 27 tháng 11 năm Mậu thìn, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp. Mân Việt Trung Ý Vương, họ Vương xây tháp thờ Sư.
Suốt ba mươi năm, Sư mở mang hoằng hóa, thiền khách có bảy trăm vị, trong đó, vị đắc pháp của Sư, thì tăng chúng đều suy cử ngài Quế Thâm là Thượng túc. Đến nay, môn nhân ở Lưỡng triết, đều thạnh hành truyền bá rộng tông đó, đệ tử nối pháp rất nhiều nhiều. Với sự kiến lập của Sư thấu quá sơ môn Đại thừa. Người học ở Giang Biểu không ai chẳng nương gió mà đè cỏ.
Thích Tồn Thọ, không rõ Sư là người xứ nào, Sư là người thanh cao, khuôn mẫu, người vội vàng làm sao sáng bằng, Sư tìm khắp kinh luận, vượt hơn mọi người, đến cầu hỏi luật ở Thiền Sư Thạch Sương, quyết rõ nghi ngờ, thuyền rỗng chẳng phiền, giống như cây khô, khác với mọi người. Sau, Sư trở về Bồ-Phà, Tăng tục đều quy tâm. Bấy giờ, Ký Vương Hữu nhường nhận Phong tịnh Hàn, ưa thích theo lạ, nghe người làm được một việc lành thì ban tặng lễ hậu. Vương mời Sư vào phủ thiết trai cúng dường, luận đạo đàm huyền, bất chợt quỳ gối trước chiếu. Lại thêm sự tôn sùng kính tin, Sư tiếp tục làm thầy truyền giới Bồ-tát, cúng thí càng thêm nhiều. Ngài độ môn nhân có đến bốn trăm vị, ni chúng có đến số trăm. Thường ngày, Sư ít nói, hễ nói thì có lợi ích chúng sanh, sắc mặt mừng giận, mọi người chưa từng thấy, trông Sư như cây thông già trên tuyết. Sư thị tịch lúc chín mươi ba tuổi, ngồi kiết già, một tháng sau, râu tóc mọc dài, phải cạo lại mới nhập tháp. Trong sân tháp thường có hổ đi nhiễu quanh, có nhiều dấu chân. Triều đình ban tặng Sư thụy hiệu là "Chân Tịch Đại Sư".
Thích Sư Ngạn, họ Hứa, người ở xứ Mân Việt, sớm tỏ ngộ mọi sự ràng buộc, gấp cầu thoát tục. Sư thuận theo giới luật, bỗng nhiên muốn du phương. Gặp được Thiền Sư Nham Đầu được lãnh hội không nghi ngờ gì.
Ban đầu, Sư ưa thích sự nín lặng dường như người không biết nói. Sau được Đôn Dụ Doãn thỉnh Sư trụ viện Thụy Nham thuộc Thai Châu. Bấy giờ, Đạo Phu đến tham vấn, Sư đối đáp nhanh nhẹn, Đạo Phu bèn thuần phục. Sau cả hai chúng đồng chung sống, oai đức của Sư lạnh lùng như Nghiêm Sương, Sư Cáo Chánh tăng ni, không dụng lầm lẫn, nên Giang Biểu nói rằng: "Người chế ngự chúng cho bằng đều, thì Thụy Nham là trên hết". Từng có ba vị tăng, hình dáng người Hồ, thanh nhã cao ráo, tròng mắt thường lay động như sấm chớp. Sai Kiên Tịnh túc trí lễ. Ngạn hỏi rằng: "Các vị từ đâu đến?" Đáp: "Từ Thiên Trúc đến". Ngài hỏi: "Bắt đầu đi từ lúc nào?" Đáp: "Đi từ sáng sớm, giờ mới đến". Ngài hỏi: "Có nhọc mệt chăng?" Đáp: "Vì pháp nên quên mất nhọc mệt". Sư bèn xem kỹ thì chân các vị đó đều chẳng chạm đất, Sư bảo mời họ vào an nghỉ tại Đường thượng, sáng sớm, bỗng nhiên không còn thấy, họ nữa, bảo đó là "Bích-Chi-ca quả nhân", nhưng chẳng biết thuộc giai cấp nào. Bấy giờ, có những người chẳng thể lường vào trong pháp hội chẳng phải chỉ một lần. Lúc Sư tham học, gọi là "Tiểu Ngạn Trưởng Lão". Lưỡng Triết Võ Túc Vương nhiều lần thỉnh Sư mới chấp thuận lai nghi, cuối cùng khổ nhọc từ khước. Nhà kho trong chùa thường đầy đủ mọi vật. Từng có bà lão ở trong làng đến tham lễ, Sư bảo: "Bà hãy thôi lạy, chẳng bằng mau trở về nhà cứu lấy mấy trăm mạng sống sinh vật có nhiều ích lợi hơn". Bà lão mờ mịt trở về đến nhà, đứa con dâu, dùng nôm bắt ốc ruộng cũng vừa trở về, bà lão liền đón lấy mà thả xuống sông. Có lúc mấy nhà cùng thỉnh Sư chứng trai trùng một ngày, mà mỗi nhà đều trông thấy Sư đến. Đến sau khi Sư thị tịch, lúc trà-tỳ, có con rắn lớn, men cây leo lên cành cao rồi lao mình vào trong lửa, tới khi lửa tắt, xá-lợi bay rải rác, hoặc theo gió động trên cỏ cây lăng xăng rơi xuống. Sư có lắm điều thần dị, ghi chép đầy đủ ở Biệt lục.
Thích Bổn Tịch, họ Hoàng, người ở xứ Bồ Điền, thuộc Tuyền Châu. Tại ấp Sư ở vào cuối đời Tiền Đường có nhiều y quan, các hàng sĩ tử ngụ ở, Nho phong hưng khởi gọi đó là "Tiểu Tắc Hạ". Thuở thiếu thời, Sư nhiễm phong hóa xứ Lỗ, theo nhiều cường học, từ đó thuần túy bất động, đạo tánh thiên phát.
Năm mười chín tuổi, cha mẹ mới cho Sư xuất gia, Sư vào núi Vân Danh ở Phước Châu. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Mọi hành động cử chỉ của Sư đều như vị Tỳ-kheo lão túc. Vào đầu niên hiệu Hàm Thông (860) thời Tiền Đường, Thiền Tông hưng thạnh, phong khởi từ núi Đại Quy. Còn như Thạch Đầu; Dược Sơn danh tiếng đều lắng dừng, gặp Động Sơn thương vật cao hơn Thạch Đầu. Qua lại thưa hỏi ích lợi, học đồng với Thù Tứ. Sư ơ trong chúng như người Ngu, nói năng như người ngọng. Sau, được thỉnh đến trụ tại Tào Sơn, thuộc Lâm Xuyên. Người đến tham học thường đầy đường chật thất. Ngài đối đáp chẳng ngừng. Đặc biệt là tiêu chuẩn người học thiền, nên bày năm vị để đo lường khu vực, không đâu chẳng hết bờ mé. Sư lại chú đối thơ đối Hàn Sơn Tử, lưu hành trong chỗ trú ngụ. Bởi vì, Sư vốn có nghiệp tu cử rất giỏi. Văn từ rắn rỏi nhã lệ, gọi là "giàu có pháp tài". Bỗng dưng, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch tại núi, thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy hạ lạp.
Đệ tử đón rước khám mà xây tháp thờ. Sau, Samôn Huyền Thái ở Nam Nhạc soạn bài minh tháp.
Thích Quế Sâm, họ Lý, người ở xứ Thường Sơn, vừa mới tuổi nhi đồng mà dốc cầu lánh tục, ăn ngày một bữa, điều hòa hơi thở suốt ngày. Giữ tâm nên được bà con xóm làng mến phục, cha mẹ thương quý ràng buộc khó từ, quanh theo tình trói khó thoát. Đã ngoài hai mươi tuổi, Sư tiếp gót vượt thành, tìm thầy được đồng bạn mở Hổ, bèn kính thờ Đại sư Vô Tướng chùa Vạn Tuế ở bổn phủ.
Lúc mới thọ giới, Sư học luật, Sư vì chúng mà lên đài tuyên tụng giới bổn. Sẽ biết chỉ lớn, đâu bó buộc ở đạo nhỏ ư? Sư tự răn mình rằng: "Trí phạn bó buộc thân chẳng phải giải thoát. Vậy, y văn mà hiển đâu phát Thánh ư?" Từ đó, Sư phát thệ hội đạo ở Nam Tông, lộ trình cả muôn dặm. Trước tiên, Ngài đến yết kiến ngài Vân Cư, kế đến hai hội Tuyết Phong, Huyền Sa, siêng năng tham phỏng, chỉ bởi nối duyên ở đó, Ngài được ngộ yếu chỉ ở Đại Sư Tông Nhất. Sáng tối, sắc không rỗng rang hết hoặc, Sư giữ mật hạnh nhiều năm, ở trong chúng nhưng ẩn dấu vết. Tuy ẩn che dạ quang mà vật báu trọn khác, nên được Cố Chương Mục Thái Nguyên Vương Công Thành thỉnh mời, Sư đến Thạch Sơn ở phía Tây Mân Thành, dựng lập liên cung mà dừng ở, Sư chống tích mười lăm năm, học chúng qua lại mấy trăm vị. Sư dùng Bí trọng Diệu Pháp, không xem thường việc chỉ bày đồ chúng. Lúc có người khẩn cầu mật học thì Sư giảng nói cho nghe. Sau, Long Khê Vi quân tốt, cần Châu Thái Bảo Lang Da Công Chí thỉnh Sư đến trú viện La-hán, tuyên giảng diệu cho đồ chúng nghe pháp. Từ chối chẳng được, Sư bèn mở phương tiện, chẳng mấy năm sau mà những người tham thiền ở Nam Bắc có điều nghi mà tìm đến nhiều chẳng thể tính xiết. Trong đó, các vị có góc đứng như Văn Ích ở Tào Sơn, thuộc Phủ Châu, Hưu Phục ở Đông Thiều, thuộc Giang Châu đều mở mang truyền bá diệu chỉ của Sư. Mỗi vị làm pháp nhãn của một phương, nhìn người con thì biết được cha!
Đến mùa thu năm Mậu tý (928), tức niên hiệu Thiên Thành thứ 3 thời Hậu Đường, Sư lại bảo trở về ở tại chỗ cũ Mân Thành, đến viếng thăm các chùa viện gần thành, rồi Sư thị hiện bị bệnh, vài ngày sau Sư an tọa thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi hạ lạp. Sư căn dặn lại "chớ theo lễ nghi thế tục sắm quan làm mộ". Khi đó, trà-tỳ ở sườn núi phía Đông của viện, Tây thành, thâu nhặt xálợi, xây tháp phụng thờ tại phía tây viện, đó là vâng theo di giáo. Đến niên hiệu Thanh Thái thứ 2 (935), ngày rằm tháng 12, người đắc pháp mật truyền của Sư là Đại sư Thần Yến, rất được dòng họ Vương kính trọng, dùng ngôn sự hiếp khiến bỏ Huyền sa mà nối pháp Tuyết Phong, đích thực là chẳng phát triển. Cuối cùng bởi vì Thần Yến gièm pha mà lăng lậu. Thật tiếc thay!
Thích Tuệ Lăng, họ Tôn, người ở xứ Hải Diêm, thuộc Hàng Châu. Lúc sanh Sư đã mang thai y mầu tím, ở tuổi bé thơ, Sư tài tuấn sáng suốt. Sau khi thọ giới cụ túc tại chùa Thông Huyền ở Ngô Uyển, nghe ở Phương Nam có thiền học, Sư bèn tìm đến Mân Lãnh tham yết Tuyết Phong, kề tai chỉ bảo, đốn rõ bổn tánh, Sư bèn nói kệ rằng:
"Ngày trước dối theo học giữa đường
Nay đây nhìn lại băng trong lửa".
Như vậy, Sư gần gũi nương tựa suốt ba mươi năm chẳng xuống khỏi núi. Thầm trốn định nghiệp, khéo nhiếp sáu căn. Thứ Sử Tuyền Châu là Vương Diên Bân mời Sư đến trụ viện Chiếu Khánh, người tu thiền đua nhau nhóm họp, chỉ Ngu đến sau. Đến lúc Ngài trụ tại viện Trường Khánh ở phủ Trường Lạc, hơn hai mươi năm năm ra đời chẳng dưới một ngàn năm trăm chúng. Sư tánh tình từ nhẫn, chẳng dối hứa với người. Hay xét lại ba góc mới ấn khả. Sư thị tịch ngày 17 tháng 5 năm Nhâm thìn (932) tức niên hiệu Trường Hưng thứ 3, thọ bảy mươi chín tuổi, sáu mươi hạ lạp, Mân Quốc họ Vương riêng kính viếng suy tặng Sư thụy hiệu là "Siêu Giác Đại Sư". Xây tháp, chi phí lễ tang đều xuất kinh phí của quan cúng dường. Chế Quan
Lâm Văn Thạnh soạn văn bia ghi lại đức hạnh của.
Thích Đạo Phu, họ Trần, người ở xứ Vĩnh Gia. Mới đen tuổi tết tóc mà tánh Sư đã khác thường, ghét mùi máu huyết. Bà con có gượng ép thì chỉ ăn cá khô mà lại ưa nôn oẹ. Sư đến xin xuất gia tại chùa Khai Nguyên. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư vân du đến đất Mân và đất Sở, nói rằng đi tham vấn thiện tri thức, cần kíp quyết dứt cội nguồn sanh tử. Sư gặp được Tịch Công ở Tào Sơn, thuộc Lâm Xuyên, có nhiều người thưa hỏi như Đàm Tuân thưa hỏi Tăng Điều. Cuối cùng Sư dứt sạch nghi tình ở Tuyết Phong. Trong xứ Mân gọi Ngài là "Tiểu phu bố nạp". Bấy giờ, Thái Nguyên đồng danh, niên lạp hẳn cao hơn, khi trở về đất Chiết trụ viện Giám Thanh ở Việt Châu. Khi đó, người sáng nghiệp bên ngoài là con của Nhật Hưu, từ học Hoằng Thiệm, tham cùng thấu suốt thiền môn, thường đến vặn hỏi, khi trở về nói với mọi người rằng: "Đạo của Phu công sùng luận hoành nghi chưa đến chỗ cùng cực". Võ Túc Vương họ Tiền khâm phục kính mến ban thỉnh Sư ở chùa Thiên
Long, nơi ở riêng của Đại sư Thuận Đức. Kế đến,
Văn Mục Vương cũng họ Tiền xây dựng chùa Long Sách, thỉnh Sư đến ở đó. Và thiền học xứ Ngô Việt từ đó mà hưng thạnh.
Sư thị tịch vào tháng 8 năm Đinh Dậu (937) thuộc môn hiệu Thiên Phước, thời Hậu Đường, thọ bảy mươi tuổi. Trà-tỳ tại gò núi Đại Từ, thâu nhặt xá-lợi, xây tháp thờ ở trước núi Long Mục. Tăng Chủ Vựng Chinh soạn bài minh tháp. Nay tại viện Xá-lợi, đệ tử chủ sự ở đó thay nhau hương khói.
Thích Toàn Phó, người ở xứ Côn Sơn, thuộc Quận Ngô. Thuở nhỏ theo cha đi buôn, đến Dư Khương, nghe thuyết thiền tịch, Sư bèn có chí nhàm chán thế tục, cầu xin xuất gia. Cha của Sư có vẻ buồn giận, khi cha hết giận, Sư lại cầu xin đến ba lần. Cha của Sư lấy làm lạ về sự chân thành đó, bèn cho phép. Sư liền tìm đến Đại sư Thanh Bình ở Giang Hạ. Ngài Thanh Bình hỏi: "Ông đến đây cầu cái gì?" Sư đáp: "Chí nguyện mong cầu pháp". Ngài Thanh Bình thương Sư còn nhỏ mà có chí khí lớn nên vỗ về mà thâu nhận.
Ngài dậy sớm thức khuya, khác hẳn các trẻ nhỏ đồng bạn. Đến lúc lớn khôn, ngài Thanh Bình cho xuống tóc rồi đăng đàn thọ giới cụ túc. Ngài phụng thờ thầy càng kính cẩn, nghiệm xét tự thân càng chín chắn. Hỏi pháp không chán no nê, thấy tánh chẳng buộc ràng. Ngài Thanh Bình gật đầu chấp thuận. Một sáng nọ, Sư nói với mọi người: "Tôi nghe học thầy vô thường, tôi chẳng phải là dưa bầu, há hệ lụy ở đây mà bỏ trống nơi kia ư?" Sư bèn từ giã thầy, đi đến Nghi Xuân, tới Ngưỡng Sơn, đảnh lễ Nam Tháp thiền sư Dũng. Sư ứng đối ngữ ngôn, nhận biết sâu sắc về thế mạnh của Ngưỡng Sơn. Chóng tỏ rõ tâm ngay đó, ngài Ngưỡng Sơn nhoẻn cười mến quý, chăm chăm mến phục, giữ lấy nhiều năm lắng thần.
Sau, Sư đến Lô Lăng, Tể Dương Công ở huyện An Phước xây dựng thiền viện Ứng Quốc, thỉnh Sư ở đó, người tu thiền tìm đến đông chật Thất. Đến lúc Tể Dương Công bãi nhiệm, dân chúng trong làng lại đến núi Cáp Hồ lập viện, thỉnh Sư đến ở đó. Liêm Sử đề cử tấu trình, triều đình sắc ban danh hiệu là "Thanh Hóa Thiền Viện", người tu thiền tìm đến thưa hỏi đông đầy chật cả tường vách, đều chẳng ngã khuất, đâu nhượng nhiều đối với tiền bối. Có vị tăng ở cùng quê nói với Sư rằng: "Làng quê của cha mẹ sao có thể bỏ vậy? Tùy duyên theo thời thế, xin thỉnh Sư trở về". Sư bèn từ giả Cáp Hồ mà trở về quê cũ. Bấy giờ, Ngô Việt Văn Vương, họ Tiền bảo ban thăng cấp, ban tặng các thứ xiêm y, bình bát càng thêm lễ hậu.
Đến năm Đinh Dậu (937) Tiền Thành Nhung Tướng mở núi Vân Phong, xây dựng thiền viện Thanh Hóa, thỉnh Sư về ở đó. Tiếp theo, Trung Hiếu Vương họ Tiền, sai sứ mang y tía đến dâng tặng, Sư tấu chương nhiều lần từ chối, Trung Hiếu Vương lại ban tặng, Sư lại từ chối, bèn đổi lấy áo nạp. Sư nói: "Tôi chẳng vinh hạnh vì sự ban tặng đó mà trang sức, nên có khước từ. Sợ người đời sau bắt chước theo tôi mà khoe khoang ham muốn. Vua lại ban tặng Sư danh hiệu "Thuần Nhất Thiền Sư". Sư lại cố từ chối.
Sư vốn chẳng vì tình mà quên tình cho nên tình chân thật, chẳng vì đạo mà cầu đạo nên đạo thẳng thắng. Điện Vũ phòng nhà nơi viện Sư ở, mọi người đua nhau xây dựng. Đúc Đại Hồng chung nặng hơn ngàn cân. Đề biển ngạch mới là: "thiền viện Vân Phong Thanh Hóa, đồng bạn mây nước đông đúc kéo đến quyện quanh chẳng muốn lìa bỏ.
Đến tháng 7 năm Đinh Mùi (947), niên hiệu Khai Vận thứ 4 thời Hậu Tấn, Sư thị hiện bị bệnh, bảo với chúng rằng: "Sanh là pháp khởi, chết là pháp diệt. Khởi diệt chẳng thể dùng ngôn luận mà nói được!" Rồi Sư an nhiên thị tịch, có mưa lớn gió dữ chấn động gãy đổ cả rừng cây, Sư thọ sáu mươi sáu tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp. An táng tại gò ở phía bắc núi. Sư có tất cả hơn mười vị đệ tử như Ứng Thanh v. v…, vâng theo di huấn của Sư chẳng để đạo đó rơi rụng. Tăng chủ Vựng Chinh soạn bài minh tháp, xây dựng vào niên hiệu Kiến Long thứ 2 (961) thời Bắc Tống.
Thích Thiện Tĩnh, họ Vương, người ở xứ Kim Thành, thuộc Trường An. Cha của Sư là Lãng Đường thứ sử Oai Châu, mẹ Sư họ Lý. Nhân mộng thấy Thánh Dung soi chiếu ngời sáng, từ đó bèn mang thai Sư. Đến lúc sanh ra Sư tướng mạo cao ráo, hầu như biết học thông rành các thứ ngữ ngôn. Nhân cầm sách trong tay tấu đến Thần Sách Quân, Trung úy vô cùng mến quý Sư. Sư chợt nhàm chán thế sự phù hoa, bèn trốn đến chùa Phong Đức ở Chung Nam, đảnh lễ Thiền sư Quảng Độ xin xuất gia, lúc đó Sư đã hai mươi bảy tuổi.
Sau khi xuống tóc, thọ giới cụ túc, vào hiệu Thiên Phục (901-904) thời Tiền Đường. Sư đến Lạc Phổ ở phương Nam, gặp được Pháp Duệ của thiền sư Nguyên An mới dung thông tâm yếu, trở lại phương Bắc giáo hóa đồ chúng ở quê nhà. Sư gài dựng am tranh tại núi Vân Cư ở Chung Nam. Tăng tục kéo về đông như chợ. Sư lại vân du đến Gia Ni, lễ bái thế giới Sắc bạc của Bồ-tát Khổ Hiền, rồi trở về Hưng Nguyên. Liên soái Vương Công Lễ Trọng lưu giữ Sư ở lại. Sau đó Sư lại trở về quê cũ, đều đã lìa xa! Lưu Thủ Vương Công xây dựng thiền viện Vĩnh An để Sư ở đó.
Đến mùa Đông năm Bính Ngọ (946) thuộc niên hiệu Khai Vận thời Hậu Tấn, Sư đánh kiền-chùy nhóm chúng, dặn dò mọi việc rồi trở về phương trượng, xoay mặt về hướng Đông, nằm nghiêng bên hông hữu mà thị tịch, thọ tám mươi chín tuổi, sáu mươi hạ lạp. Đồ chúng tăng tục như chịu tang cha mình vậy, qua ngày mồng 8 tháng giêng năm sau (947), trà-tỳ tại phía Nam thành, thâu nhặt được vài ngàn viên xá-lợi. Đến ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Tuất (950), tức niên hiệu Càn Hựu thứ 3, thời Hậu Hán, dời tháp đến làng Nghĩa Dương, thuộc Trường An, tháp đá cao sừng sững.
Trước kia, Sư dẫn nhiều vị Tiên giác đến Oanh đạo lánh mông trần của Chiêu Tông. Lại lúc bình thường, khi tắm gội, Sư xá-lợi rơi rớt Sư đều lượm nhặt lại kín không cho đệ tử chỉ bày với mọi người. Lại những lúc Sư thiền tịch, ở ngoài cửa sổ tự nhiên có con hạc trắng đến quanh quẩn giữa sân, như có ý muốn nghe pháp, Sư bảo người đuổi nó đi. Tất cả những điều hiển bày đặc biệt có mà chẳng có.
Tấn Xướng Quân Phủ Chúa Quách Công rất kính ngưỡng sùng tín, xây dựng thiền viện thỉnh Sư ở. Hàn Lâm học sĩ Ngư Sùng Lượng soạn bài minh trên tháp, ghi lại đức hạnh của Sư.
Kế nữa, có ngài Thích Linh Chiếu trụ chùa Long Hoa ở Hàng Châu. Sư vốn là người nước Cao-Ly, xem trọng việc dịch mà lại học Tổ Pháp, lại vào đất Mân Việt, đắc tâm ấn với Tuyết Phong, Sư dốc chí tham bồi để tiết kiệm, siêng năng mọi việc trong chúng, hiệu là "Chiếu Bố Nạp". Cả ngàn chúng đều sợ phục, mà Sư nói rằng tợ như lội qua Đảo Di, cá tánh đặc biệt điềm đạm tự giữ. Ban đầu, Sư trú ở núi Tề Vân, kế đến Sư trụ tại viện Giáp Thanh, Việt Châu, thường chỉ đối phó với sứ Bỉ Quang Nghiệp, lời nói chẳng hợp nhau, Bị đề cử tẫn xuất đến Long Hưng. Đến lúc Thái Thú Hồ Châu là Tiền Công xây dựng viện Bảo Từ, thỉnh Sư đến ở đó. Thiền chúng tụ như nhóm họp hội. Chư tăng trong Ngô Hội, hạng người xả bỏ ba y mà mặc Ngũ Nạp nhiều không thể kể xiết. Trung Hiếu Vương, họ Tiền xây chùa Long Hoa, đón rước Kim Hoa, linh cốt đạo cụ của đại sĩ Phó Hấp đời Lương tôn trí tại chùa đó, xây tháp, thỉnh Sư trụ trì. Sư thị tịch tại chùa đó, nhập tháp tại đỉnh núi Đại Từ.
Thích Văn Ích, họ Lỗ, người ở xứ Dư Hàng. Năm bảy tuổi, đã phát chí xuất tục, xuống tóc xuất gia tại viện Trí Thông, ở Tân Định, Sư nương tựa ngài Thiền Bá, ở Toàn Vĩ. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Khai Nguyên ở Việt Châu, bấy giờ, rời tục lụy để đắp y, rời phần lũng đến Kiểu Dục. Thuộc luật tượng ở Đại sư Hy Giác, đang thạnh hành hoằng hóa Đồ chúng tại chùa Dục Vương, ở Mậu Sơn. Ngài rất được chỉ thú trì phạm, lại đến trường của Văn Nhã. Ngài Hy Giác hứa ban làm đệ tử, sau đó Huyền vừa phát thì mọi việc đều dứt.
Ngài chống tích đến phương Nam, dừng ở pháp hội của Thiền sư Trường Khánh. Đã dứt sạch nghi trệ, Sư lại ước hẹn cùng bạn đi về phía Tây đến Hồ Tương. Ngày đổ mưa bão chẳng thể đi, Ngài tạm vọng trông về Tây viện, gởi đạt tín tức, lánh hoạn khê trướng. Bèn tham yết Đại sư Tuyên Pháp, từng trụ tại viện La-hán ở Chương Bồ. Người dân xứ Mân chỉ gọi là La-hán. La-hán vốn biết Sư đang ở tại Dĩnh thoát thuộc Trường Khánh, duệ ý tiếp nhận. Nguyên do xướng đạo từ Huyền sa và Tuyết Phong, huyết mạch khác nhau. Núi nghi của Sư đốn bẻ gãy đường chánh từ đây được, mừng rỡ mà treo đãy dừng ở. Biến bùn đất thoa vết trở lại xác thực chẳng phát triển. Ngài lại du phương đến Lâm Xuyên Bang Bá bảo mời Sư ở tại Sùng Thọ. Chư tăng khắp bốn phương xa gần đến tham cầu Sư chẳng dưới ngàn vị. Giang Nam Quốc chúc Lý Thị Thỉ Tổ, biết kính trọng đón rước Sư đến ở thiền viện Báo Ân; biệt thự hiệu là "Tịnh Tuệ". Sau đó, lời thâm huyền sắp dứt, mộng lớn ai tỉnh. Đã truyền pháp mà có chỗ về, cũng đồng với phàm phu mà thị hiện diệt độ.
Đến ngày 17 tháng 7 năm Mậu ngọ (958) tức niên hiệu Hiển Đức thứ 5 thời Hậu Chu, Sư thị hiện bị bệnh, Quốc chúa vội đến phương trượng thăm hỏi bệnh Sư. Qua ngày mồng 5 tháng 7 nhuận, Sư cạo tóc tắm gội, giã biệt đại chúng, ngồi kiết già mà thị tịch, nhan sắc vẫn như còn sống. Sư thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Thụy hiệu riêng là "Đại Pháp Nhãn", tháp hiệu là "Vô Tướng". Khiến các chùa chư tăng dưới thành đều đủ lễ uy nghi đón rước, đón rước toàn thân Sư đến làng Đơn Dương, ở huyện Giang Ninh, xây tháp thờ.
Sư giỏi làm văn, đặc biệt mến mộ thể của Chi Thang. Bấy giờ làm kệ tụng chân tán, Biệt hình toản lục, đệ tử nối pháp của Sư có các vị như Đức Thiều, Tuệ Minh ở Thiên Thai, Trí Y, Đồng sơn, Đạo Khâm ở Chương Châu, Quang Dật ở Mân
Châu, Văn Toại ở Cát Châu, Hậu Chủ ở Giang Nam, soạn văn bia khen ngợi đức hạnh Sư, Hàn Hy soạn bài minh ở tháp v.v...
Thích Hạnh Nhân, không rõ Sư họ gì, người ở Nhạn Môn. Sư du phương hỏi đạo, đến Giang Hoài thấy phía bắc Lô Sơn có đỉnh núi đứng xa trông giống như duỗi tay. Dưới tay thì sâu thẳm đến ba, hoặc năm trượng. Nhân đó, một mình Sư vào trong đó dừng ở mà Thiền Quán. Ngụy Đường chúa Nguyên Tông nghe thế, ba lần thỉnh Sư chẳng ra. Đêm khuya trong hang núi, có con nai lạ đến nằm bên cạnh hang đá của Sư. Lại có con chim Cẩm... phủ phục dưới vách đá, hai con đều không sợ hãi. Sư chẳng độ đệ tử, có vị tăng ở gần am đến cúng dường hầu hạ. Một hôm, bị bệnh nhẹ, Sư nói vị Tăng hầu Sư rằng: "Quấn rèm lên, tôi đi đây. Rèm vừa quấn tới móc, Sư bước xuống giường đi vài bước rồi đứng thẳng thị tịch, thọ bảy mươi tuổi. Vua Nguyên Tông bảo thợ đắp họa chân tượng Sư. Và Trà-tỳ, thâu nhặt hài cốt, xây tháp trắng tại lưng chừng núi để thờ.
Ban đầu, Sư truyền thiền pháp tại Lộc Sơn, thuộc Tương Dương. Sau đó vì vua Nguyên Tông cố thỉnh Sư đến trụ chùa Thê Hiền, xây giảng đường giảng đạo. Khi chiều tối trăng lặn Sư trở về hang núi. Ban đầu tại đỉnh núi đó như năm ngón tay, trên ngón giữa có một gốc thông. Ngày Sư thị tịch, gốc thông đó cũng khô chết, Sư có học kinh sách, có người hỏi thỉ chỉ trích chỗ được mất, chương cú đúng sai của các vị Tiên Nho, đàm luận chẳng dính mắc bởi phương góc, mở bày dẫn dụ, hẳn hợp với giáo hóa, Sư thật là bậc lương sĩ đắc đạo!
Liên hệ thử bàn:
Phàm phu xả bỏ báo thân thì giống nhau, Phật thì nằm nghiêng phía hông hữu, các bậc chứng đắc quả vị thì ngồi mà thị tịch, hoặc chống đầu xuống đất hiện thần thông, thân đứng hiện bày khác lạ. Ở đây chỉ có Sư đi bộ mà thị tịch, trừ ngài Tăng Hội ra thì chỉ có một mình ngài Hạnh Nhân.
Kế nữa, có ngài Thích Đạo Tiềm trụ chùa Tuệ Nhật ở Vĩnh Minh, đời Tiền Đường. Sư họ Võ, người xứ Bồ Tân. Vừa mới sanh mà Sư lớn mạnh, dáng dấp đoan nhã. Đứng thì thân cao bảy thước, trước ngực có bảy chấm đen như bảy sao Bắc đẩu.
Sư vào núi Trung Điều, dừng ở tại Thiền viện Đại thông trên đỉnh núi, lễ bái Thiền sư Chân Tịch làm Thân giáo. Răn kiểm nghiêm minh, nói năng chậm chạp, làm việc nhanh nhẹn. Sau khi ngài Chân Tịch thị tịch, Sư phát nguyện đến núi Ngũ Đài ở Nhạn Môn. Do tinh cần kính ngưỡng, mà Sư đích thân thấy được thánh dung đức Văn-thù. Sau đó, các phương chưa định đi về đâu, Sư đến chưa tới Lâm Xuyên, gặp được Thiền sư Văn Ích ở chùa Sùng Thọ, mà chóng tỏ được tâm quyết. Kế đến,
Sư dừng ở tại một ngôi chùa xưa ở Cù Châu, xem đọc kinh tạng, thường trong lúc ngồi thiền thấy được Đức Văn-thù hiện hình, bất chợt, Sư đứng dậy đảnh lễ. Đến lúc Sư tới Hàng Châu, lễ bái tháp vua A-dục, Sư quỳ mà đảnh đội dòng lệ tuôn như mưa, Sư hỏi vị tăng giữ tháp rằng: "Xá-lợi là vật báu, mắt người không trông thấy, vậy thật có hay không?" Vị tăng đó đáp: "Căn cứ theo truyện ghi rằng: "Xá-lợi ẩn táng ở góc phía trong, trông như huyền chung". Sư nghi ngờ chưa thôi, bèn khổ chí quỳ lễ không hề ngừng nghỉ. Bỗng chốc trông thấy xá-lợi sắc hồng ở ngoài huyền chung ngọ ngoạy mà đi. Khi đó, Sư mừng buồn lẫn lộn. Lại có Đại sư Quang Văn Vựng Chinh hẳn bằng trọng tự làm Đàn Việt, thỉnh Sư đến núi thiết trai, hành trì sám pháp Phổ Hiền suốt mười một ngày. Bỗng thấy khắp nơi tốt lành, voi ngựa, tại tháp, dưới đình Tam môn, của chùa. Con voi đó đưa mũi gối thẳng đến chỗ lễ sám. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền thỉnh Sư vào vương phủ để cầu thọ giới Bồ-tát, xây dựng đại già-lam, đề hiệu là "Tuệ Nhật Vĩnh Minh", thỉnh Sư ở đó, giả hiệu là "Từ Hóa Định Tuệ Thiền Sư", riêng cấp nguyệt bỗng để cúng thí, lại thêm ưu lễ.
Đến ngày 18 tháng 9 năm Tân Dậu (961) tức niên hiệu Kiến Long thứ 2 thời Bắc tống, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch. Lúc nhập quan có luồng ánh sáng mầu trắng họa phát chữ "bột" (sao chổi) sáng rực. Cả chúng đều trông thấy, đến tháng 10, cử hành lễ trà-tỳ tại núi Long Tỉnh, thâu nhặt được nhiều viên xá-lợi. Có người làm nghề giết mổ, chỉ chuyên nghiệp ác, mở vạt áo đến bên đống lửa cầu xin, trong phút chốc có được bảy viên, cả nhà mang đến in họ trong tháp. Đến năm Canh ngọ (970) thuộc niên hiệu Khai Bảo, thời Bắc Tống, Thiền sư Thiều ở Thiên Thai xây dựng tháp đá, lấp bít chân cốt Sư, tới năm Quý Dậu (973), trên đảnh tháo phát ra luồng ánh sáng mầu trắng.
Thích Duyên Đức, họ Hoàng, người ở xứ Tiền Đường. Cha của Sư là siêu, tu nho học nhưng phát triển nghề vẽ họa, truyền cho Chu Phường, Phật phấn bổn, thọ bút pháp ở Ngô Hưng Lý Chiểu Trường Sử.
Thuở tuổi còn bé mà Sư đã có chí muốn xuất gia, tâm tánh cô tịch má ít hợp, Sư bèn sang Thiên Thai thọ giới cụ túc, tập học Thiền Quán ở Thiền sư Đạo Phu tại chùa Thiên Long. Sau đó, Sư đến Giang Tây hỏi đạo, từ núi Vân Cư sang Lô phụ, cô tiết cao ngạo thật chẳng thấy có chỗ đáng ưa thích. Giang Nam Quốc Chủ-họ Lý-mời Sư vào Nội đạo tràng để ở. Lo ngại Sư chẳng thích ồn náo, nên xây riêng viện La-hán để Sư ở. Sư khổ cầu vào núi. Nên thỉnh Sự trụ tại Tân Viện ở Lô Sơn, mới liệt bày oai nghi dẫn đạo. Sư chuẩn bị sửa sang y phục mang vác mà vào. Nhưng sau đó, Sư lên tòa đối đáp mọi người đến thưa hỏi. Quốc chủ ban tặng mọi thứ mà Sư không hề dùng Biểu Điệp đáp tạ. Có Quốc Lão Tống Tề Khâu kính lễ theo đạo thờ thầy.
Ngài thị tịch vào niên hiệu Khai Bảo (968-976) tại viện ở núi. Một đời Sư mặc dùng thục vi khố miệt mà thôi. Hành đỗ nhiều pháp, cung cấp đầy đủ cho các Thiền lữ, nhà trù kho lẫm chẳng hề thiếu thốn. Có ngươi cho rằng Sư có "thuật Hoàng Bạch".
Thích Đức Thiều, họ Trần, người ở xứ Tấn Vân. Ngài xuất gia từ thuở nhỏ tại bổn quận. Sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc, vào niên hiệu Đồng Quang Sư tìm phỏng các danh sơn, tham kiến thiện tri thức. Quật chỉ chẳng hơn được số, ban đầu, Sư phát tâm đến Hòa-thượng ở núi Đầu Tử, sau tham kiến Thiền sư Pháp Nhãn ở Lâm Xuyên, liễu ngộ tâm yếu, Sư bèn nối pháp như vậy.
Ban đầu, mới vào núi Thiên Thai, dựng lập chùa viện đạo tràng, không bao lâu, Sư liền hưng phát đạo pháp Huyền Sa. Người đến quy y rất đông. Hán Nam Quốc Vương, họ Tiền, từng trị vị tại Đan Khâu, Sư có sự thấy biết trước rõ ràng, nói rằng: "Ngày sau làm Quốc Vương, sẽ làm hưng thịnh Phật pháp". Lời Sư nói thật đáng tin cậy, sai sứ vào núi Bàng ngọ, sau đặt hiệu "Đại Thiền Sư", mỗi lúc Sư nói gì thảy đều phù hợp. Tiết Sứ Tô Châu là Tiền Nhân Phụng bị bệnh, sai người mang hương đèn sang cầu nguyện. Sư đề sớ rằng: "Lệnh công tám mươi mốt, Nhân Phụng được như thế". Tiền Nhân Phụng rất vui mừng nói: "Tôi thọ tám mươi mốt tuổi!" Đến ngày 11 tháng 8 năm đó thì qua đời. Sư có nhiều việc đồng loại như thế. Trước lúc Sư thị tịch, đá trên ngọn Hoa đảnh sụp đổ rung chuyển cả trăm dặm, từ núi cho đến đồng hoang đều bị đốt cháy tràn lan, quả thật ứng điềm Sư thị tịch! Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi, xây dựng nhiều ngôi tháp. Ban mời Đồ Tăng Chánh Tán Minh làm văn bia ở tháp. Sư hưởng thọ tám mươi hai tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp. Sư thị tịch, ngày 28 tháng 6 năm Nhâm thân (972) tức niên hiệu Khai Bảo thứ 5, thời Bắc Tống. Có Ngữ lục lưu hành ở đời. Ngài có đệ tử truyền pháp đến trăm vị. Sư lại hưng khởi Đạo tràng Trí giả mấy mươi chỗ. Sư công thành mà chẳng hể, tâm địa thẳng ngay, thuật số rất tinh thông, lợi người là trên cả. Đến nay, tại Giang Triết gọi Sư là "Đại Hòa-thượng".
Thử luận bàn:
"Thiên-Na" là tiếng Phạn, Hán dịch là Niệm Tu. Vì, Xúc tình niệm mà vô niệm, suốt ngày tu mà vô tu. Còn gọi là Chánh Định, hay Chánh Thọ. Chánh thì hoát nhiên thầm lặng mà định. Chánh thọ là phân biệt với tà tư duy tăng thêm Biến Kế. Do đó, xa-ma-tha có nghĩa là Tịch tĩnh, tam-MaĐề nghĩa là Quán như Huyễn. Còn Thiền-Na đều lìa Tĩnh huyễn. Mới gọi là Bồ-tát chẳng trú bờ này, chẳng trú bờ kia mà độ chúng sanh khiến lên bờ kia. Nếu vậy thì trú xứ của các Thánh tức như thế, còn các Thánh Độ sanh thì như thế nào?
Xét kỹ, pháp diễn ở Hán Đình danh từ cực chứng không chấp đắm, phong hành Lô phụ, môn học Thiền-na mới manh nha. Phật-Đà-thập ở đời Tần tẫn xuất mà đến, Bát-Nhã-Đa đời Tấn mời mà đến. Bấy giờ, Viễn Công mật truyền tọa pháp xoáy sâu huyền cơ, dần nhiễm thì hạnh thí trái noi theo. Ngài Tăng Hội thời Ngô cũng chỉ bày hữu duyên, đều chưa rõ ràng, thiết lập nhiều ẩn mật. Đến thời Tuệ Văn Đại Sĩ mới tầm tông của Long Thọ, Tư Đại Thiền Ông truyền diệu chỉ ba Quán. Thiên thai Trí giả dẫn mà trình bày, hoằng hóa khai đạo ở đời Trần, đời Tùy, gọi là "Chỉ Quán", ở đất Việt có Trung Thiên Đạt-ma. Buồn thay! Chúng sanh chúng ta biết kinh điển mở mang truyền bá mà đắm chìm nơi danh tướng. Chỉ nhận ngón tay, quên bặt ánh trăng. Đã được cá lại giữ lấy nôm. Chỉ giữ gìn niệm tụng lấy đó làm công phu, chẳng tin chính mình là Phật. Vì vậy mà xướng lời rằng: "Ta chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, chẳng lập văn tự". Đó là nương phương tiện Ba-la-mật qua thẳng mà độ khỏi xa vời. Than ôi! Kinh có Điển Chỉ, Điển Chỉ thì tiệm tu. Còn thấy tánh thành Phật tức đốn ngộ tự tâm xưa nay thanh tịnh, vốn không phiền não. Trí tánh vô lậu, vốn tự đầy đủ. Tâm này tức là Phật, hoàn toàn không có gì khác. Tu chứng như thế tức là tối thượng thừa thiền. Nói "không lập văn tự" tức trong kinh nói rằng: "Chẳng chấp trước Văn tự, chẳng lìa văn tự, mà chẳng phải không có văn tự, nếu tu được như thế tức là chẳng thấy tướng tu.
Kế nữa, Tổ Sư Đạt-ma lập pháp yếu chỉ có hai thứ, đó là "Lý" và "Hạnh". Thế thì thắng mà chẳng xa, nhanh mà chẳng vội. Nói chẳng lập văn tự tức trái với duyên để hợp với đạo. Thời bấy giờ, vua Võ Đế nhà Lương chẳng biết, còn người đất Ngụy chưa tin trọng, nên Tổ Sư Đạt-ma thẳng đến Thiếu Lâm ngồi xoay mặt vào vách. Chỉ có ngài Tuệ Khả dùng thần giao, cũng như Bạch Tuyết tuy Ca-Ba Đồng ít hòa, sau thì con cháu Lâm thông Mục Ngữ, cuối cùng gọi đó là Cương Tần lánh địch. Kỳ Bân văn võ mới thành Vương Đạo. Ngài Tuệ Khả xuất sanh ra Tăng, ngài Tăng lại xuất sanh ra Đạo Tín, ngài Đạo Tín lại xuất sanh chia thành hai nhánh, đó là Hoằng Nhẫn và Pháp Dung. Ngài Pháp Dung ở Ngưu Đầu. Còn ngài Hoằng Nhẫn thì xuất sanh ra Thần Tú và Tuệ Năng. Ngài Tuệ Năng được truyền tín y, như chư hầu giao phó phần khí cho con cháu. Sau đó tông này thành vượt, như đoàn xe trăm cổ, Cây Ni-Câu-Đà xoay vần mà rũ cành rưới mưa muôn phương, rồng hồ A-nậu mà ban rải khắp nhuần. Bấy giờ, ứng vào Huyền ký mà thuộc người nầy. Về sau, số người đắc đạo nhiều không thể kể xiết. Lại nói rằng: "Thiền là vật vì nó lớn ư! Các Đức Phật được nó mà chứng Đẳng Giác, Diệu Giác. Rồng coi được nó mà phá chướng triền do cửa nhanh vội không gì hơn đây.
Nên nay, ở trong thời tượng pháp mạt pháp, đấu tranh lại sanh khởi. Chân thầy đã bị thương, mà sự tranh giành chưa thôi! Nếu như nghe "Tâm này là Phật", thì liền nói: "sao ba mươi hai tướng tốt không có?" Hoặc nghe "Một con đường Niết-bàn" thì liền bảo: "Tám mươi muôn pháp môn ở đâu?" Mà chẳng hề biết trong kinh nói phát tâm Bồ đề tức là thấy được Phật tánh nầy. Thế nào là tu hạnh Bồ-tát? Đây là hành bố tu hành. Vì đức tin không bằng với sự vô minh che mờ khuất lấp chìm đắm quên trở về. Sao lại do nghiệp. Hoặc có người nêu trong kinh để chỉ bày đó, thì nên đáp rằng: "Đây là tông Pháp Tánh". Hoặc cho đó là: "Chẳng phải ma nói, thì có thể thiêu hủy đó chăng?" Hãy để yên chớ luận bàn. Nếu muốn bỏ, hoặc muốn giữ lại, chẳng vì thế mà mê lầm. Xưa kia, các bộ ở nước Vu-Điền cho rằng: "kinh Đạo Hạnh" là sách của Bà-la-môn. Ô-trà Tiểu thừa phỉ báng học Đại thừa là Không hoa ngoại đạo. Ở Tây Vực còn như vậy, tại đây sao chẳng kinh hãi ư? Chỉ bởi sáu đời Tông Sư một thời nên xướng, chỉ phá bóng tối trăm năm. Chẳng xây một ngôi nhà đến lúc hủy nát thì rất không biết thiền có lý, thiền có hạnh. Thoát hoặc giới thừa đều gấp. Mắt và chân nương giúp nhau, chẳng phế bỏ mà Lý càng sáng tỏ, pháp không thiên lệch mà công đức gồm cứu giúp. Sau đó mới có thể cùng nhau nói thiền.
Như Huyền học, thường bài xích giảng gia, người chỉ biết đếm của báu cho người mà trọn đời khốn khổ bởi trong nhà thường trống không! Sao chẳng thấy kinh là lời Phật, Thiền là ý Phật. Tâm và miệng các Đức Phật nhất định chẳng trái nhau, thi thiết thì tùy căn cơ mà dụng hẳn có thời gian và nơi chốn. Huống gì sông kinh Cao Quốc ghi tên đó, biển luận tổng triều hội của Tông. Một môn luật học khuôn phép cả ngàn đường, trao hình đều dựng lập nền tảng của Thích tử, xướng tùy hạnh nghiệp thanh tịnh của Sa-môn. Nếu như mất cả ba sự thì đâu thể cỡi Nhất thừa. Trọn đời ôm lấy mà chẳng đáng xấu hổ. Đâu trái với địa vị chuyển y. Người thông chẳng trách, trẻ nhỏ sao biết. Trong môn Phật sự chẳng bỏ một pháp. Tiếng chó sủa đáng trách đổi giận tổn thương người, do đập chuột mà làm vỡ chén bát, bởi căn nhau mà cắn chủ. Tự tha đều có, Bỉ Ngã thảy quân bình. Ngang dọc hết mà thành nhất Tần. Khí tể hòa mà thành một vị.
Nay đây, từ niên hiệu Trinh Quán, đời Tiền Đường, cho đến đời Bắc Tống đây, đối với chọn núi lộ bày Tu-di mà xuất hiện biển cả. Đối với lông lại tìm lông phóng thả chim đại bàng bay nhảy giữa hư không, khiến mọi hạng người phá xích và kính ngưỡng đều kính mến đạo bền chắc cao cả này. Tôi luống thông đạt vô tướng đạt luân, thí như văn võ là tài nghệ của một người, nếu không kiêm gồm để hỗ tương thì chẳng thể phá xích. Nếu cùng suy trọng Phật pháp thêm ngời sáng, thì đền trả được ân của quân vương độ mình, và báo đáp đức Phật là bậc thầy chỉ dạy. Cẩn trọng thay! Cẩn trọng thay!
(Quyển 13 hết)
(chánh truyện có hai mươi vị, phụ có năm vị).
Thích Đạo Tuyên, họ Tiền, người ở xứ Đan Đồ, có thuyết nói Sư là người xứ Trường Thành. Đó trước phát xuất từ sau Quảng Lăng Thái Thú Hộ, đến lúc Thái Sử Linh Lạc soạn tập "Thiên văn tập chiêm" một trăm quyển, Cha của Sư húy là Thân, làm Phủ Quân Trần Lại Bộ Thượng Thư, đều là khuôn cao Đạo lệnh, nhân hạnh chu toàn, đức lớn trăm đời, quân tử muôn năm. Lúc mang thai, mẹ của Sư mộng thấy ánh trăng soi suốt trong bụng. Lại mộng thấy có vị Phạm tăng nói rằng: "Thai nhi bà đang mang chính là Luật Sư Tăng Hựu đời Lương!" Ngài Tăng Hựu tức là Tăng Hộ chùa Ẩn
Nhạc ở Diệm Khê thời Nam Tề. Và Ngài (Đạo
Tuyên) theo vị ấy xuất gia.
Theo "Sùng thọ Thích Giáo" chép: Sư ở trong thai mẹ mười hai tháng, sanh ngày mồng 8 tháng 4. Năm chín tuổi, Sư đã biết làm Phú. Năm mười lăm tuổi, Sư nhàm chán thế tục, siêng năng tụng tập các kinh, đến nương Luật Sư Trí Quân mà thọ nghiệp, qua năm sau, Sư xuống tóc, cái gọi là dứt bỏ kết phược, lìa dục nhuộm y, bèn thuộc Đạo tràng Nhật Nghiêm. Năm hai mươi tuổi, Sư ra sức hộ trì tinh chuyên khắc niệm, cảm được xá-lợi hiện trong rương báu. Vào niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) đời Tùy, Sư nương Luật sư Trí Thư thọ giới cụ túc. Đến khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, Ngài nương tựa ngài Trí Thư học luật, vừa mới nghe một biến, liền bàn tính tu thiền. Ngài Trí Quân quở rằng: "Phàm muốn đến xa phải từ gần, nhân nhỏ nhiệm mà biết rộng rãi, tu xả có lúc, công nguyện phải đủ. Chưa nên bỏ ngay Luật học như thế" và ép buộc Sư nghe được hai mươi biến. Sau đó, Sư mới tĩnh tọa ở sơn lâm, tu tập định tuệ. Sư ẩn tích tại hang Phong Chưởng ở Chung Nam. Tại chỗ Sư ở thiếu nước, có vị thần chỉ Sư xuyên thủng đất hơn một thước, thì có dòng suối nước tự tuôn trào. Bấy giờ, gọi chỗ Sư ở là Bạch Tuyền. Các thú dữ thuần phục, có chỗ nương cậy, có hoa thơm phảng phất, cỏ lạ mọc lan tràn. Cuối đời Tùy Sư dời đến ở tinh xá Sùng Nghĩa, lại dời đến chùa Phong Đức. Sư thường những lúc ngồi một mình, có thần Hộ Pháp đến báo rằng: "ở thôn Thanh Quang kia có chùa Tịnh Nghiệp, đất sẽ là thế báu, Đạo có thể tu thành". Sư nghe lời đó bèn xem xét, đốt hương công đức, thực hành Định BátChu. Bấy giờ, có đàn rồng đến lễ yết, hoặc nam hoặc nữ hóa thành hình người. Có vị Sa-di tán tâm tán loạn nhìn ngó bất chánh. Rồng bừng bừng phát giận, sắp muốn cả đánh, liền truy hối nhả độc xuống giếng, trình bày đầy đủ rồi bỏ đi. Sư mới bảo người bít lấp miệng giếng, có người lén mở, thường có khói xông lên. Xét về mọi sự thần biến, hoặc như có người đưa tặng một hộp hoa lạ, hình dạng giống như hoa táo, lớn cỡ quả du, mùi thơm ngào ngạt, mấy năm vẫn còn thơm. Lại có người dâng cúng quả lạ, như lệ cuối mùa, mùi vị ngon ngọt mà sắc thanh khiết. Ở trên nhân gian chẳng có.
Đồ chúng thường muốn Sư nêu bày ân sự, trước là ngầm thông. Sư dùng định lực xem xét căn cơ, tùy bệnh mà cho thuốc, đều cùng một loại như thế. Có xử sĩ Tôn Tư Mại thường ở ẩn tại núi Chung Nam, cùng Sư giao tiếp kết bạn dưới rừng. Cứ mỗi lần qua lại bàn luận suốt đêm. Bấy giờ, gặp lúc trời nắng hạn, có vị tăng người Tây Vực đến kết đàn cầu mưa tại hồ Côn Minh. Nhà vua ban chiếu bảo Hữu ty chuẩn bị đầy đủ hương hoa cúng cụ. Trong vòng bảy ngày nước trong hồ dâng lên vài thước. Có một người già ban đêm đến chỗ Sư xin cầu cứu, trong dáng vẻ vội vàng, thưa rằng: "Đệ tử là rồng ở hồ Côn Minh, hiện thời không mưa là do ý trời, chẳng phải do đệ tử. Nay có vị tăng người Hồ lấy lợi nơi đệ tử, khinh thường lời của Thiên tử mà cầu mưa, nên mạng sống của đệ tử chỉ còn trong sớm tối, cúi xin Hòa-thượng dùng pháp lực che chở cho!" Sư bảo: "Ta không thể cứu được ông, nên ông hãy mau đến cầu xin Tôn tiên sinh". Người già đó liền đến hang đá của Tôn Tư Mại, kêu oan hai ba lần, bảo rằng: "Luật sư Đạo Tuyên chỉ bày cho tôi, nên mới dám đến đây!" Tôn Tư Mại bảo: "Ta biết tại cung rồng ở hồ Côn Minh có ba mươi bài thuốc, nếu chỉ bày cho ta thì ta mới cứu nhà ngươi". Người già nói: "Phương thuốc ấy hiện tại cõi trên chẳng cho phép truyền ngay, nay việc gấp gáp vì sao lại tiếc rẻ". Giây lát chọn bưng phương thuốc mà đến. Tôn Tư Mại bảo: "Ngươi hãy mau trở về, chớ sợ vị hồ tăng ngươi Hồ!" Từ đó, nước hồ dâng mạnh, chỉ vài ngày tràn ngập cả bờ, thuật của vị tăng người Hồ sắp hết, không thể làm nữa.
Lúc ban đầu, Sư mới tới chùa Tây Minh, có chiếu sung Sư vào chức Thượng tòa. Khi Pháp sư Huyền Trang đến ở, lại có chiếu ban tham dự phiên dịch. Lại đưa tiễn chân thân sang chùa Vô Ưu Vương ở Phù Phong, gặp sắc lệnh Tăng bái v.v... dâng tấu khải Triều Tể. Hộ pháp lại như thế đó. Sư lựa chọn "pháp môn văn ký, Quảng Hoằng Minh
Tập, Tục Cao Tăng truyện, Tam Bảo Lục, yết-ma giới sớ, Hành sự sao, nghĩa sao v.v... " hơn hai trăm hai mươi quyển. Sư mặc ba y đều là vải sợi gai, ngày ăn một bữa, chỉ thuần là đậu. Đi thì gậy roi, ngồi chẳng dựa giường. Chấy rận theo đi ở vậy trừ thọ. Đất gỗ tự đắc vững mình quên thân.
Sư có dựng lập một cái đàn, bỗng nhiên có vị tăng lông mày dài đến đàm đạo. Sư biết đó là ngài Tân-Đầu-Lô. Lại có vị Phạm tăng đã chứng đắc quả thứ ba đến lễ đàn, khen ngợi rằng: "Từ sau khi Đức Phật diệt độ đến thời tượng pháp, hưng phát Tỳ-ni chỉ một mình Sư". Mùa xuân niên hiệu Càn Phong thứ 2 (667), Sư thầm cảm Người trời đến đàm luận về luật tướng, nói rằng: "Trong "Sao văn Khinh Trọng Nghi" có sự sai lầm, đều do lỗi của người phiên dịch, chẳng phải lỗi của Sư. Xin Sư cải chính lại". Nên nay lưu hành các tác phẩm phần nhiều là bản sửa lại. Lại có người trời nói rằng: "Từng soạn "Kỳ hoàn đồ kinh", tính theo số trang ở nhân gian độ chừng trăm quyển". Sư liền hết lòng khẩu chiêm, mỗi mỗi đều sao chép hai quyển thượng hạ. Lại có khẩu truyền kệ tụng, gọi là "Phó Chúc Nghi" mười quyển.
Vào niên hiệu Trinh Quán (627-650), Sư từng ẩn cư tại núi Vân Thất, thuộc Thấm Bộ. Có người thấy Thiên đồng hầu hạ hai bên. Ở chùa Tây Minh, ban đêm Sư hành đạo bước đi sẩy chân, trước thềm có vật nâng đỡ, bước đi trên hư không chẳng hại gì, nhìn kỹ mới thấy đó là một gã thiếu niên, Sư liền hỏi: "Người là ai mà trong đêm lại ở đây?". Gã thiếu niên đáp: "Tôi chẳng phải là người thường, mà chính là Na-tra, con của Thiên Vương Tỳ-Samôn. Vì hộ pháp nên ủng hộ Hòa-thượng đã lâu". Sư nói: "Bần đạo tu hành vô sự, sao phiền Thái tử? Thái tử có uy thần tự tại, vậy ở Tây Vực có thể làm nên Phật sự, xin hãy đến đó!". Thái tử nói: "Tôi có răng Phật và tay báu, tuy từ lâu đầu mắt còn xả bỏ, dám chẳng dâng hiến". Nói đoạn liền dâng cho Sư. Sư bảo trọng ghi lục cúng dường. Lại nữa, trước sân thềm có vị trời đến lễ yết nói với Sư rằng: "Luật sư sẽ sanh lên tầng trời Đổ-Sử". Và mang đến một cái bao, nói đó là hương Táo Lâm. Sau đó mười tuần (100 ngày) Sư an tọa thị tịch. Lúc đó là ngày mồng 3 tháng 10 niên hiệu Càn Phong thứ 2 (667), Sư thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Nhiều môn nhân an táng ở hang đá Đàn Cốc, sau đó xây ba ngôi tháp.
Vua Cao Tông ban chiếu trang nghiêm các tháp, đắp họa chân hơn tượng của Sư, do người thợ đắp tượng Hàn Bá Thông đắp vẽ. Bởi vì truy kính đạo phong của Sư. Từ ngày đăng đàn thọ giới cụ túc cho đến ngày thị tịch, trong quãng thời gian đó, đệ tử đến Sư thọ pháp truyền giáo có đến trăm ngàn người. Trong đó, đích thân Sư độ thì có Luật sư Đại Từ, truyền pháp thì có ngài Văn Cương v.v... chiếc răng Phật do người trời trao phó, Ngài kín bảo ngài Văn Cương giữ gìn hộ trì, thỉnh đến Đông tháp ở chùa Sùng Thánh. Đến đầu niên hiện Thái Hòa (827), Thừa tướng Vi Công Xử Hậu xây lập tháp ở Tây Lang.
Sư giữ luật tiếng tăm vang dội tới Tây Trúc, sự biên tập tốt đẹp của Sư lưu truyền khắp trong nước. Cho nên, Tam Tạng Pháp Sư Vô Úy đến Đông Hạ triều yết, nhà vua hỏi: "Ngài từ xa có mệt nhọc chăng? Muốn dừng nghỉ ở nơi nào?" Ngài Vô Úy tâu rằng: "Lúc ở Tây Trúc thường nghe luật sư Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh nghiêm trì giới luật bậc nhất. Nên tôi xin muốn đến đó để nương tựa". Nhà vua liền ban sắc chấp thuận. Sư giữ giới cấm bền bỉ, bắt chấy rận bỏ vào trong giấy lụa rồi bỏ dưới đất. Ngài Vô Úy nói: "Tiếng đánh hữu tình trên đất". Tất cả các mật hạnh có chế có già, nên có thể biết đó. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), vua Đại Tông ban sắc cho Tam Cương ở chùa nầy. Nếu nghe chùa ấy có Đại đức luật sư Đạo Tuyên truyền trao chiếc răng và Xá-lợi của Đức Phật Thích-ca, Sư liền dâng đến cửa Ngân Đài phía hữu, trẫm muốn được xem và đảnh lễ. Đến tháng 10 niên hiệu Đại lịch thứ 11 (776), lại ban sắc trong nội cung thường năm xuất ra một hộp hương đưa đến chỗ thờ Cố Luật sư Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh, vì nước nhà mà đốt hương cầu nguyện.
Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 10 (870) đời vua Ý Tông, các Sa-môn Tả Nhai, Hữu Nhai như Linh Tiêu, Huyền Sướng v.v... dâng biểu xin truy phong hiệu Sư. Tháng 10 năm đó, vua Ý Tông sắc truy phong Sư thụy hiệu là "Trừng Chiếu", tháp hiệu là "Tịnh Quang". Nhân trước kia, Sư ở lâu đài tại Chung Nam nên gọi là "Nam Sơn Luật Tông", niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (742), Linh Xướng Thái Thú Lý Ung, và niên hiệu Hội Xương thứ nhất (841) Công Bộ Lang Trung Nghiêm Hậu Bổn, mỗi vị đều làm văn bia khen ngợi đức hạnh của Sư.
Liên hệ thử bàn: Luật Tông, hễ Phạm thì hỏi tâm, tâm có hư thực, nếu chưa đắc đạo, khởi ý tưởng che giấu, thì phạm tội trọng. Nếu thật có trời rồng đến chỗ ta mà nói, thì Phạm trọng vời lấy tội, đồng với phỉ báng A-la-hán. Ngài Đạo Tuyên thường có người trời làm sứ giả, hoặc dâng răng Phật, hoặc sung cấp sứ, chẳng phải do Sư tự nói. Như sai bảo rồng đến chỗ Tôn tiên sinh, đâu phải Sư tự nói ư? Còn như trong khoảng thời gian thuộc niên hiệu Càn Phong (666-668), có trời thần hợp đạp, hoặc biên chép "Kỳ Hoàn Đồ kinh", "Phó Chúc Nghi" v.v... thả chẳng phải là ngụ ngôn ở quỷ vật. Ông chẳng thấy trong Luật Thập Tụng nói các Tỳ-kheo còn nói: "Mục-Liên phạm tội nói dối". Phật dạy: "Mục-Liên tùy tâm tưởng mà nói nên không tội". Lúc Phật tại thế còn như vậy, huống gì ở thời tượng pháp mạt pháp, sự hiềm tật Hiền thánh đó đâu đáng lấy làm lạ. Thêm nữa nói về ngài Vô Úy chẳng phải là người trong niên hiệu khai nguyên (713-742), từ niên hiệu Trinh Quán đến niên hiệu Hiển Khánh (627-661) trở lại, chẳng có ngài Vô Úy chăng?
Thích Đạo Thành, không rõ Sư là người xứ nào. Sư ở tại Ấp Thiên, giảng về luật thừa. Trăng giới chiếu sáng, tròn đầy chẳng khuyết, bình đức bày thật, đầy mà không nghiêng.
Vào niên hiệu Hiển Khánh (656-661), phô bày tông Tứ Phần, có đồng vụ thị. Bấy giờ, Luật Sư Văn Cương, tuy trước kia nương tựa Đại Sư Trừng Chiếu (Đạo Tuyên), sau kết tập Luật văn mới đến nơi Đường Áo của Sư. Lại các tác phẩm của ngài Hoài Tố đều xuất phát từ môn tịch của Sư. Đến niên hiệu Thùy Củng (685-689), ngài Tam Tạng Pháp Sư Nhật Chiếu phiên dịch các kinh "Hiển Thức" v.v... Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) ban chiếu mời mười vị danh đức để giúp cho việc pháp hóa. Khi đó, Sư cùng các ngài Minh Tuân, Gia Thượng đồng tham dự chứng nghĩa. Do đó mà tiếng tăm bay đến thần điện, địa vị đứng đầu phương Đàn. Gọi đó là Ngô Đồng có lắm chim phụng nương đậu, gọi đó là bãi cỏ thơm có lan tùng rất đẹp. Môn sinh phần nhiều không hơn sự tu tập ở đây. Chẳng rõ về sau Sư tịch ở đâu!
Liên quan thử bàn:
Thành Công và ngài Đạo Thành ở Tương Châu, đời Tùy, tuy đồng hiệu mà thật là khác người. Hai vị đó ai trước?
Thông đáp: "Ngài Đạo Thành ở đời Tùy tinh thông Luật Thập tụng, sau thuật rất nhiều. Còn ngài Đạo Thành ở đời Tiền Đường, mở mang truyền bá Luật Tứ phần, dịch giảng đều hay khéo. Nhưng Sư soạn tập thì mở cho người mê. Xét về phiên dịch và truyền bá của Sư thì đào luyện giáo đạo. Thí như Diệm-ma sau và ánh sáng trước, dường như vật báu hoặc hổ thẹn với vật báu thật, cùng có hay dở, nhưng Dụng thì không hề sót.
Thích Văn Cương, họ Khổng, người ở xứ Cối Kê. Tằng Tổ của Sư húy là Phạm, làm Trần Đô Quan Thượng Thư, ông nội sư húy là Tự, làm Từ Bộ Thị Lang. Cha của Sư húy là Đảnh, vượt biển để tránh nhà Tùy, chọn gỗ để trở về Thuấn. Vào niên hiệu Trinh Quán (627-650), mới bái Thượng thừa trực trường, vào niên hiệu Hàm Quang trở lại Nho nghiệp, bên cạnh thông hiểu Thích Giáo, cho nên Sư cũng gieo trồng gốc lành đời trước theo tập khí. Lúc mang thai, mẹ của Sư bỏ các tạp thực, có vị tăng dòng dõi Ba-la-môn tu hạnh Đầu-Đà nói với mẹ của Sư rằng: "Nếu đây là bé trai thì sẽ trọn kiếp nối tiếp Tam Bảo". Từ đó, thường nghe giữa hư không có mùi hương lạ xen lẫn nhạc trời, đến ngày sanh Sư, có hạc trắng bay liệng nhóm nhóm như đến trông xem, trong khoảng thời gian đang còn lót tả, sau giờ ngọ Sư đã chẳng chịu bú, còn kiên trì chay tịnh. Lại đến tuổi thay răng sữa, Sư theo thầy hỏi đạo. Năm mười hai tuổi, Sư xuất gia, năm hai mươi tuổi, Ngài thọ giới cụ túc. Tinh lo khổ hạnh, chuyên niệm dứt tâm. Ngài chỉ ăn dùng lương khô, rau lê..., mặc áo gai, nằm chiếu cỏ. Tiết tháo thường xem xét, miệng không nói quá lời. Sư tìm đến Luật sư Đạo Thành ở kinh triệu thọ học luật tạng. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư giảng luật, năm ba mươi tuổi, Sư đăng đàn. Mỗi lần khuyên tu, Sư nghĩ sâu, lắng nhìn và nghe lại. Trong sạch như nước đứng, cao vợi tợ đoán sơn. Hoặc gió mưa vẫn yên ở, hoặc ngày đêm riêng đắc, nên bình cát tường thường ở trong tay chẳng bỏ. Oai đức đón gió chẳng dứt hơi khí, Nhạn ra khỏi lồng, bay giữa hư không. Sư khởi dựng nhà tầng dưới tự nhiên thành tựu. Chỉ một giọt cam lồ, miệng dụ như kiếm bén làm thương tổn người, hãy thận trọng! Rất rộng lớn! Từ đó, người khắp tám phương tìm đến cầu học, luật Tứ phần mãi lược lưu truyền. Hạng người đến hỏi điều lợi ích, nâng tay áo che kín mây, hạng người khen ngợi phát tiếng như sấm sét hãi hùng. Lâu sau, Sư trông thấy giữa trời mưa dầm, mọi người tỏ vẻ lo âu, Sư thương tưởng đó mới ngồi thẳng tư duy, bỏ dựa vách nhà lâu đến nửa đêm, lửa bốc lên nửa khoảnh chỉ còn trống sau lưng, cao vợi như ngọn núi đứng. Hàng thức giả cho đó là Sư đắc thần thông nhờ nơi định lực, nên Nhật Nguyệt linh tích, u hiểu ngầm cảm. Điềm lành ở tập sự, ứng cảm tại Di ngôn. Chung quanh đều lấy làm lạ. Sư bảo: "Chân thật vô tướng, sắc trần vốn không, chánh giác viên thường, đại bi lắng định, chẳng nên chấp lấy". Thế nên, một thời Sư làm pháp chủ, thầy của cả bốn đời vua. Đồng như Ca-diếp vào thành, gặp vua Ba-tư-nặc mà thuyết giới. Ngoài cửa Trúc Viên, riêng có vị Sa-di ở cuối cành cây cao, rộng nghe tiếng chim... Do đó, được thấm nhuần rộng khắp, vào tri kiến được sâu, muôn bệnh đã lành, được thuốc vui mừng, nhất tâm chẳng nhiễm, mở trói phiền não.
Ngài lại cung thừa Ty luân, đến kinh đô tham dự phiên dịch. Sư truy luận chuyên dụng, xa hợp như nhân, kiều thành đầy triều, Đàn thí địch quốc. Song Sư chỉ nương Bồ-tát, tận dụng trang nghiêm, Sư trải qua hơn hai mươi ngôi già-lam. Hễ các nơi tháp miếu Sư dâng hoa kính lễ. Còn chích máu viết kinh đến sáu trăm quyển, đăng đàn thọ giới cụ túc đến mấy ngàn vị. Sư rất khổ tiết rất ân cần vào biển vô ngã, chẳng ngủ, chẳng ăn, gieo ruộng vô sanh.
Niên hiệu Trường An thứ 4 (705), Sư vâng sắc đến chùa Vô Ưu Vương ở Kỳ Châu, đón rước Xálợi. Niên hiệu Cảnh Long thứ 2 (708), vua Trung Tông thỉnh Sư vào Nội Đạo tràng hành đạo, đưa rước chân thân Xá-lợi sang chùa Vô Ưu Vương nhập tháp. Năm đó, tại cung Càn Lăng, Sư làm thầy cho chư ni trong cung thọ giới. Sư lại an cư nhập hạ ở trong cung. Vì nhị Thánh nội Ni giảng luật Tứ Phần một biến. Vua Trung Tông vui mừng kính chuộng, Sư độ làm đệ tử. Vua ban dâng thập vật, ba ngàn xấp lụa màu. Nhân Sư tấu trình về việc của đạo tràng linh cảm, ngày mồng 7 tháng 6, ngự trác đề bảng là chùa Linh Cảm. Các chùa mời các bậc Thạc Đức để làm tiêu biểu. Phàm ở đó, phía tả là Ngự túc, phía hữu là Thượng lâm, Nam đài chung sơn, Bắc hồ vị thủy. Ngàn cửa cung quyết hóa ra Vân Tiêu, vạn nương Tinh kỳ trời xoay vốn thấp.
Vào niên hiệu Tiên Thiên (712-713), vua Duệ Tông lại tại biệt điện thỉnh Sư làm giới sư truyền giới Bồ-tát. Phi chúa bao quanh, theo hầu bái lạy. Trên trời Đâu-suất gần mà nghe lời pháp, trong thành Vương-Xá đồng nghe tịnh giới. Ân chỉ ban tặng hơn ba ngàn xấp lụa sống. Sư đều giao phó cho thường trú tùy việc tu sửa dựng xây. Hoặc đất vàng quấn tường, để tăng thêm thượng giá. Hoặc phường báu, lầu cao, hay trang trí toàn khuôn mẫu. Hoặc Giảng đường, Lầu kinh, Xá-lợi Tịnh độ. Hoặc hiên lang đồ vật, bếp kho vườn rừng, đều do tín thí pháp tài chu cấp Tăng Bảo. Vừa sắp chỉ bày bến mê, dẫn dắt lên đường giác, rửa nhà lửa nóng, vớt đắm dòng độc. Mà vội dời thần phút chốc củi hết. Tuy có ứng hóa, sao nhanh vội thế!
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 15 (727), ngày 15 tháng 8, Sư an nhiên thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi, tới ngày mồng 4 tháng 9 năm đó, nhập tháp ở bên cạnh chùa. Nghe tin buồn vội đến thọ tang, đón rước dự táng, hương hoa phướn lọng, Tăng Tục Hoa di đông đảo, lấp bít thành châu... mây dồn che cảnh, bởi cả mấy muôn người. Trong đó có các pháp lữ của Sư như Hoài Tố, Mãn Ý, Thừa Lễ ở Kinh Triệu, Sùng Bạt ở Tương Dương, Phụng Lâm ở Phù Phong, Hằng Cảnh ở Giang Lăng, Danh Khác ở Truy Xuyên v.v... hơn trăm vị, đều nói rằng: "Sông trí đổi thuyền, rường cột ngôi nhà pháp!" Có các đệ tử của Sư như: Đạo Ngạn ở Hoài Nam, Thần Tích ở Thục Xuyên, Tuệ Khải ở Kỳ Lũng, Thần Tuệ, Tư Nghĩa, Thiệu Giác, Luật Tạng, Hằng Hoàng, Sùng Nghiệp ở Kinh Triệu v.v... hơn năm mươi vị đều dùng mắt từ vào nơi cửa độ, kim quan chẳng truy, tro xương không đáp. Bèn thỉnh Thái Thú Hoạt Đài Lý Ung làm bia, Ung Tượng đổi dòng họ Ban. Vì hai người đồng truyện, hẳn trăm hạnh đều ngang vai. Chẳng nhục trước Hoài Tố, chẳng thẹn sau Đạo Tuyên. Lý bắc hải đề phẩm chẳng trái ư?
Kế nữa, tại Truy Châu có Luật sư Danh Khác, tinh ròng luật tạng, thiết tha chuyên cần cầu giải, thường ở bên cạnh pháp tịch của luật sư Đạo Tuyên, đích thân hỏi về Sao Tự Nghĩa, Sư cũng đích thân lục tùy hỷ Linh Cảm Đàn, ban danh ở kinh. Về sau lại giúp sức làm ngời sáng pháp môn của ngài Văn Cương.
Thích Hoài Tố, họ Phạm, tổ tiên Sư là người xứ Nam Dương. Tằng tổ của Sư húy là Nhạc, ở triều vua Cao Tông, được chọn làm Giáng Châu Khúc Ốc Huyện Thừa. Ông nội của Sư húy là Huy, làm Diên Châu Quảng Võ Huyện Lệnh. Cha của Sư húy là Cương làm Tả Võ Vệ Trường Sứ, cho nên trở thành người xứ Kinh Triệu. Mẹ của Sư họ Lý, bà nằm mộng thấy mây sấm chấn động kinh hãi, nhân đó mang thai Sư. Đến lúc sanh Sư có ánh sáng Thần soi chiếu khắp phòng. Thấy vậy, bèn tìm thầy đoán mộng, nói rằng: "Người con này rất quý, sẽ làm thầy dạy của bậc Vương giả".
Từ thuở bé Sư đã thông minh, khí độ rộng rãi. Hàng thức giả nói: "Ngài học chắc chắn thành công, tài đáng vượt cách". Tai nghe miệng tụng đều đáng gọi là Lão thành. Năm lên mười tuổi, bỗng nhiên Sư phát ý muốn xuất gia. Tánh tình lanh lợi, cha mẹ khó bề cản trở. Niên hiệu Trinh Quán thứ 19 (646), Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang từ Tây Vực vừa mới trở về, Sư liền đến cầu xin làm thầy. Mây và rồng mà đồng vật, trăng và sao cùng sáng soi, đều treo giữa trời họ Thích, rực rỡ cảnh tượng sáng trong. Ban đầu, Sư tìm kinh luận, chẳng phí thời gian. Sau khi thọ giới cụ túc, về sau, Sư chuyên ròng Luật bộ. Có luật sư Pháp Lệ ở quận Nghiệp, danh khí một phương, tông sự luật Ngũ phần. Người lạc hướng thảy đợi Sư chỉ nam, kẻ được đường đều suy tôn Sư là người chỉ nẻo về quê cũ. Sư soạn thuật sớ mười quyển, riêng là Mạng gia. Được tiếp Ngài (= Hoài Tố) mà biết thành luật tượng, nghiên cứu học tập ba năm mới thấy được các vết lỗi, Sư bùi ngùi than rằng: "Người xưa, nghĩa chương chưa thể toàn thiện!"
Niên hiệu Hàm Hanh thứ nhất (670), Sư phát khởi tâm mạnh mẽ, riêng soạn bộ "Khai Tứ Phần Luật Ký". Đến năm Bính tý (676) tức niên hiệu Thượng Nguyên thứ 3, Sư trở về kinh, vâng sắc ở tại chùa Thái Nguyên tây, bên cạnh được nghe luật sư Đạo Thành giảng dạy, Sư chẳng ngừng ghi chép. Đến niên hiệu Vĩnh Thuần thứ nhất (682) thì mười quyển hoàn thành, một nhà mới lập. Đàn hợp cổ sớ có mười sáu lỗi. Tân sớ có năm trăm điều. Truyền cánh đến hổ đánh bắt mà có biết đều sợ, nương gió đến chấn động rầm rầm mà không chỗ xa xôi nào chẳng nghe. Sự hoằng hóa thích hợp, sự truyền trao rất nhiều. Sư lại soạn "Câu-xá luận Sớ" mười lăm quyển, "Di giáo kinh sớ" hai quyển, "Sao" ba quyển, "Tân sớ Thập Di sao" hai mươi quyển, "Tứ phần Tăng Ni yết-ma văn" hai quyển, "Tứ phần Tăng Ni giới Bổn" mỗi loại một quyển, "Nhật Tụng Kim Cương Kinh" ba mươi quyển. Sư giảng Đại Luật đã sớ giải hơn năm mươi biến. Ngoài ra, Sư viết kinh vẽ tượng, nhiều không thể tính biết số lượng.
Tại Bổn tự nơi biệt viện, bỗng nhiên Sư thị hiện bị bệnh. Sức lực vẫn tự nhiên. Ngài bảo với Tú Chương rằng: "Tôi luật hành lắm khiếm khuyết, báo thân này sắp dứt rồi". Khi đó, giữa hư không có tiếng nhạc trời réo rắt, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Ngày an táng có chim hồng chim hạc bay nhiễu quanh tháp kêu buồn đến chiều tối mới bay đi!
Sư soạn thuật Tông Tát-Bà-Đa, Sư dùng pháp Mật Bộ duyên với Hóa Địa Bộ, xuất ra Hóa Địa từ Hữu Bộ sanh, nên xuất thọ thể lấy vô biểu sắc. Sư lại bác bỏ hai tông rằng: "Tướng Bộ vô tri thì mở lớn trong lượng, được tự lấy Đại tiểu hạnh. Nam Sơn phạm trọng thì bàn luận với Thiên thần, là tự nói Đắc Pháp của bậc thượng nhân, đại để, Sư sớ giải lưu xuất, gọi đó là Tân Chương. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), luật sư Tân ở Tung Sơn soạn "Sức Tông ký" để giải thích đối chiếu với cựu sớ của luật sư Pháp Lệ, lại gọi đó là "Đông Tây Tháp Luật Tông", vì lấy chỗ truyền Tập mà đặt tên. Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780) Tướng Quốc
Nguyên Công lại tấu trình xin thiết lập giới đàn tại chùa Bảo Viên ở Thành Đô để truyền "Tân Sớ". Dùng tiền bổng lộc để soạn "sớ" bốn mươi bản, "Pháp Hoa kinh sớ" ba mươi bản, giao phó cho ngài Quang Dực ở chùa Bảo Viên truyền hành. Sau đó, Nguyên Công mời Như Tịnh Công soạn tự truyện của Sư, Vi Nam Khương Cao soạn Linh Đàn Truyền Thọ Tỳ-ni, "Tân Sớ ký" có được sự truyền thừa tiếp nối, khắc danh vào đá, ngôn từ đẹp đẽ, nét bút mề mại. Là khẩu thật ở đất Thục.
Thích Đạo Ngạn, họ Đường. Nhiều đời ở tại Dĩnh Xuyên, đó là một dòng họ lớn, là con cháu của Hán Thượng Thư Lệnh Lâm; Tư Không Trân, Ngô Thượng Thư Bộc Xạ Cố, Ung Châu Thứ sử Bân, Lương Trấn Bắc Tướng Quân Dao. Vĩnh gia đi về phương Nam, dời tới Quang Châu, áo mão người vật chói sáng xưa nay. Sư vừa mới sanh đã chẳng đồng như bọn trẻ, có khí khái kỳ đặc. Ở độ tuổi tết tóc đã có dáng dấp của bậc lão thành. Đến tuổi đội mũ gắn liền trường lớp, nhanh chóng ngang bằng Phần Điển, Sư còn sợ sự thấy nghe chưa rộng rãi, nghề nghiệp có sai sót, bèn bềnh bồng sông Hoài tìm tới Thù Tứ, thâm cứu Võ huyệt, bước lên Khổng Đường, trải qua nhiều năm lắm chốn. Theo sự cổ xúy của Hàng Lâm, lội dòng sóng giữa biển học, thảo luận Bách gia, bàn bạc Tam giáo, Sư mới than rằng: "Học người xưa vào làm quan quấn vàng nhặt tía, đó là Nho giáo. Thưởng thức thông, nếm thử bách, nương hạc cỡi rồng, đó là Đạo giáo, không ra khỏi luân hồi, chẳng phải nghĩa bè dụ. Đâu như ba thừa diệu chỉ, sáu độ hoằng công, thâu nhặt thế gian, nắm giữ cả sa giới. Sư bèn xuống tóc xuất gia, rửa tâm tìm đạo, nhất âm nêu bốn câu rành thông, học tu luật nghi, vào sâu thiền tuệ. Đêm mộng thấy Ca-diếp đến làm thầy dẫn lối, sáng sớm xem đọc chân kinh rõ ràng phù hợp với mộng thầm. Do đó, thanh danh vang dội, xa gần đều nghe tiếng. Làm bến bờ của xuất thế, hẳn là lãnh tụ của kinh hành, các bậc Long tượng ở mười phương đều là khuôn p phép, uyển loan khắp muôn nước không dám răn đáp. Hướng như xoay lại đó, khéo biết đến kia khác đường. Tài bàn luận hẳn gồm cả bốn khoa, sức cứu đời nhã hợp với ba kiệt. Có như Pháp sư sơ ở đất Việt, Bí tạng tinh vi không gì chẳng luyện rõ. Đạo cao gồm hoàn vũ, đức trọng dường Khâu sơn. Sư nghe Thiện như kinh sợ đồng thanh tương ứng, cưỡi thuyền đến Sở, chống tích sang Ngô. Mây móc một khi đã vén thì chuông trống đồng vang động. Kỳ Nha khế hợp, Trừng Thập liền phương. Từ đó, Sư thường trụ chùa Long Hưng ở Cối Kê. Các hàng sĩ thứ ở Dương Châu, Việt Châu hay Thích tử ở Giang Hoài, đông đúc ô hợp, ngõ hẹp thiếu người ở, ít lên cửa nguyên lễ, lại thấy Sư lên chợ. Sư thân tuy còn trong bó buộc mà tâm đồng như hư không. Chẳng chọn hiền ngu, không kẻ sang hèn, sắc diện ôn hòa tiếp đãi, khéo dẫn dụ siêng năng xét soi, sáng tỏ chẳng mỏi mệt, chuông lớn hẳn ứng, đều trông trời rót biển, hư đi thật về. Lợi ích đó rộng lớn thay! Không thể xứng được. Bấy giờ, gọi Sư là Đại Hòa-thượng, lên tòa Vô Úy, giảng luật mộcxoa, dung mạo cử chỉ trang nghiêm, từ biện rõ trong giảng nói. Nối liền tan rã, lý sạch mảy may. Người chiêm ngưỡng thảy đều do lòng thật, kẻ nghe nhận được chưa từng có. Do đó, các bậc cao Tăng Đại sĩ tâm say thần ngã, bỏ hết những gì thấy nghe xưa cũ, bội phục Tân nghĩa. Khắp cả thế gian đều biến đổi. Đạo Sư hành hóa hưng thạnh.
Vua Trung Tông tinh ròng Bạch nghiệp, đến nghề huyễn thân, nghe mà lấy làm lạ, bèn sai sứ thỉnh, trước sau có đến mấy lần, nhưng Sư mới vào triều cùng với vài vị Đại Đức đồng ở nội điện. Vua Trung Tông Nhân lúc việc triều chính rảnh rỗi, đích thân xem duyệt thanh ngôn. Tuy mắt trời thường ngó lại mà Thánh uy khó phạm. Phàm vua thẳng mắt đối đáp, không ai chẳng kinh hồn, nên đều trông trời nhìn gió để dứt nghe bặt thấy. Sư, trong dáng vẻ tuy trọng nhưng hạ lạp chưa cao, nên còn vấn vít ngồi nơi dưới chiếu, cách xa các bậc tiên bối. Tiếc rằng nhà vua có ngôi vị Luân Vương, chẳng đứng dậy đón rước, cho rằng ta là sau Xána, mới an nhiên ngồi. Nhà vua thấy Sư cao thượng, nên kính phục sự tôn nghiêm, riêng ban tặng y bát, đặc biệt tỏ bày sự sủng ái, nhân đó thưa hỏi pháp vị của Như Lai. Ngài liền vì làm thầy trao truyền giới Bồ-tát. Nhà vua dẫn dắt thân quyến ở sáu cung vây quanh cúng dường, và bèn đắp họa ở cung Lâm Quang, ngự chế ca ngợi Đồ họa. Với bài Từ rằng:
"Giới Châu sáng sạch
Giòng tuệ trong veo
Thân bó buộc cùng năm thiên
Tâm thung dung tám định
Học cùng chân Điển
Quán suốt thật tánh
Duy trì pháp vụ.
Giềng mối thống lãnh Tăng chính.
Luật tạng nhờ đây mà lan truyền hương thơm
Tượng giáo nhờ đó mà rạng ngời hưng thạnh".
So với Linh Đài ảnh tượng, lâu gác đan thanh, công đức có ý nghĩa khác nhau, vua tôi khác lễ, lựa chọn người làm cương quản, thống soái tăng đồ, lãnh trách nhiệm của Hữu ty. Cho rằng Sư là bậc Đức thạnh rộng lớn, chí hạnh cao xa, nghĩ trùm mưa móc, đặc biến chương trình trải khắp thành đô, Bạch Mã, Trung Hưng. Cương duy tổng vụ của các chùa Trang Nghiêm, Tiến Phước, Võng cực v.v... đều vâng thừa sắc mạng, hợp sâu với tâm chúng sanh. Thiên hạ lấy đó làm vinh hạnh, là điều xưa nay chưa từng có.
Vua Trung Tông có hoài bão võng cực, truy phước nhân tâm, trước tiên tại trường an xây dựng chùa Tiến Phước, việc chẳng đến lúc, người làm phiền nhọc. Bèn ban sắc cho Sư cùng với Công Bộ Thượng thư Trương Tích cùng trông coi công việc đó. Sư bèn mở rộng phương tiện, ban rải từ bi. Người hoặc con lại phục dịch, không lưu giữ việc chuyên, tổn phí ước lược công cán gấp bội, nhà vua rất vui mừng, từng mời đến ban thưởng. Lúc nào tối sáng đã mang đội ân trời, nói thù đáp ân đất bèn trở lại Quang Châu, độ ngươi, xây dựng chùa. Từ đó vườn uyển kỳ đà tạo dựng tăng phường, Tỳ-kheo Câu-lân bèn làm người báu. Việc đó hoàn tất đâu hối hận gì? Sông biển một từ, sương sao hai kỷ. Thường nhớ nghĩ chỗ thành đạo, lại bức hối mong chung lậu. Bèn rời bỏ thượng kinh về đến bổn xứ. Sắp bày đoái hoài thọ mạng, tinh chọn môn nhân xuất gia như Hạnh Siêu, Huyền Nghiễm, đáng gọi là người tài giỏi, liền truyền ngọc báu nơi búi tóc, giúp ban lời của miệng vàng, rồi Sư nằm nghiêng bên hông phải mà phô bày thân bào huyễn. Đến ngày mồng 10 tháng 8 năm Đinh Tỵ (717) tức niên hiệu Khai Nguyên thứ 5, Sư thị tịch tại Đạo tràng chùa Long Hưng ở Cối Kê, thọ sáu mươi bốn tuổi. Biển khô làm sao nương ở, núi đổ làm sao cậy nhờ! Trời người cảm động, tăng tục khóc buồn, đến dự đưa tang lễ, chế phục tính tới số muôn. Các đệ tử như Sa-môn Nghĩa Hải ở chùa Long Hưng kiêm tự chủ chùa Tuệ Võ, Đô Duy Na Đạo Dung, Hoài Tắc ở chùa Đại Võ, Đạo Siêu ở chùa Đại Thiện, Tư nhất ở chùa Tề minh, Hoài Oánh ở chùa Hồng ấp, Tuệ Châu ở chùa Vân Minh, Hoài Ngạn ở chùa Hương Nghiêm, Đạo Cương ở chùa Bình Nguyên, Tử Võ ở chùa Đại Vân thuộc Hồ Châu, Tuệ Toản ở chùa Hưng Quốc v.v... Đẹp lạ là bẩm chất khuê chương, thành đồ vật nương nhờ mài giũa, đội sức chỉ dẫn mê mờ, mang ân quát vũ. Nghĩ muốn truyền lưu hương thơm ở cõi trần để đề danh trên Trinh Thạch, bèn thỉnh lễ bộ thị lang Diêu Dịch soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư.
Trước kia, Sư vốn là đệ tử tài giỏi của Luật sư Văn Cương, đến lúc vua Trung Tông kính trọng đạo đó, khắc rằng: "Ở giang biểu phần nhiều hành trì luật thập tụng, chư Tăng tại Đông nam kiên chấp không biết Luật Tứ Phần". Sư bèn tấu thỉnh vua mặt sắc ban lệnh chấp hành "Nam Sơn Luật Tông". Tông đó hưng thạnh hoằng truyền ở Giang Hoài là do công sức của Sư.
Thích Chân Biểu, người xứ Bách Tế, gia đình ở tại Kim Sơn, nhiều đời sống bằng nghề săn bắn, Sư bước đi nhanh nhẹn, khéo giỏi cung tên.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), ngoài việc rượt đuổi thú, Sư đến nghĩ nơi ruộng sâu, bẻ cành liễu bắt ếch xỏ thành một xâu để dưới nước, định làm món ăn, bèn vào núi giăng lưới bắt thú. Nhân rượt đuổi nai nên từ đường ở phía bắc núi trở về nhà, quên lấy xâu ếch đó. Đến mùa xuân năm sau, trong lần đi săn, nghe tiếng ếch, Sư đến trong nước thấy xâu ếch năm trước khoảng ba mươi con vẫn còn sống. Khi đó, Sư bùi ngùi tự trách rằng: "Khổ thay! Tại sao ta vì miệng bụng mà khiến cho chúng phải chịu khổ cả năm như thế". Sư bèn bẻ gãy cành liễu, từ từ nhẹ nhàng thả chúng đi. Nhân đó Sư phát chí nguyện muốn xuất gia.
Sư tự nghĩ rằng: "Như ta từ giã cha mẹ cắt đứt ân ái trong nhà. Vẫn còn khó lìa biển tham dục, chẳng tỏ lộ lồng ngu mê". Do đó, Sư trốn vào núi sâu, dùng dao cắt tóc, khổ chí sám hối, nâng thân đập đất, chí cầu giới pháp, phát thệ nguyện cầu mong Bồ-tát Di-lặc trao truyền giới pháp cho mình. Ban đêm Sư gia công gấp bội ban ngày, đi nhiễu quanh khấu gõ, tâm tâm không xen hở, niệm niệm tha thiết. Trải qua bảy ngày đêm, đến rạng sáng, thấy Bồ-tát Địa Tạng tay cầm gậy vàng vì Sư mà sách tấn, phát giáo phát giới, duyên tác thọ tiền phương tiện. Sư cảm nhận điềm ứng đó, vô cùng mừng vui, khắp thân mạnh mẽ hơn trước. Đến hết ngày thứ 14, có con Đại quỷ hiện tướng đáng sợ xô Sư té xuống hang núi nhưng toàn thân Sư không thương tổn gì. Ngài lại lăn lóc leo lên Thạch Đàn, tướng ma quỷ lại tăng thêm chẳng thôi, trăm ngàn manh mối. Mãi đến sáng ngày thứ 21, có con chim cát tường cất tiếng kêu rằng: "Bồ-tát đang đến!" Sư thấy mây trắng dần dần lan tỏa, lại không có cao thấp, núi sông đều bằng phẳng, trở thành thế giới ngàn mầu. Đâu-suất thiên chủ đi lượn, nghi vệ nối tiếp vây quanh Thạch Đàn, gió mưa hương hoa, chẳng phải cảnh vật của phàm tình ở thế gian. Khi đó, Đức Từ Thị từ từ đi bộ đến Thạch Đàn, duỗi tay xoa trên đảnh đầu Sư, bảo rằng: "Lành thay! Đại trượng phu cầu giới như thế!" Đến lần thứ 2, lần thứ 3, thì núi Tô-mê-lô có thể duỗi tay mà buông. Khi đó tâm Sư không hề thối động, Đức Từ Thị mới trao pháp cho. Thân tâm Sư hòa duyệt như đang ở cõi thiền thứ 3, ý thức và lạc căn tương ưng nhau. Bốn mươi hai ngàn sông phước thường chảy, tất cả công đức bỗng phát thiên nhãn. Đức Từ Thị đích thân trao cho Sư ba pháp y và bình bát, lại ban tặng Sư danh hiệu "Chân Biểu".
Khi đó, dưới đầu gối lại xuất ra hai vật, chẳng phải ngà, chẳng phải ngọc, mà đó là chế thẻ kiểm, một vật đề chữ cửu (số 9) và một vật đề chữ bát (số 8). Cả hai vật, Đức Từ Thị đều trao phó cho Sư, bảo rằng: "Người cầu giới, trước tiên phải sám tội, tội là tánh của trì phạm. Lại thêm một trăm lẻ tám thẻ, trên mỗi thẻ đặt ghi danh mục một trăm lẻ tám phiền não. Như người cầu giới hoặc chín mươi ngày, hoặc bốn mươi ngày, hoặc hai mươi mốt ngày hành trì tinh tấn, đến lúc kỳ hạn đã mãn, đem hai thẻ và Cửu Bát trộn chung với một trăm lẻ tám thẻ đó, đối trước tôn tượng Phật, ngửa trông giữa hư không tung số thẻ đó rơi xuống đất để kiểm nghiệm tướng tội đã diệt hay chưa diệt. Nếu một trăm lẻ tám thẻ bay quanh bốn phía, chỉ hai thẻ Cửu và Bát nghiễm nhiên đứng giữa tim đàn, tức là đắc Thượng thượng phẩm giới. Nếu các thẻ tuy xa, nhưng, có một vài thẻ xúc chạm hai thẻ Cửu và Bát, thì rút lấy xem đó là tên phiền não gì, thì bên bảo người trước lại nên sám hối, chỉ đem thẻ trùng hối phiền não hòa với hai thẻ Cửu Bát, ném thẻ phiền não ấy đi, gọi đó là Trung phẩm giới. Nếu các thẻ vùi lấp hai thẻ Cửu Bát, thì tội không diệt, và không đắc giới. Giả sử lại gia tâm sám hối qua chín mươi ngày thì đắc hạ phẩm giới". Đức Từ Thị lại dạy Sư rằng: "Bát tức là Tân huân, Cửu tức là Bổn hữu". Dặn dò xong, thiên trượng đã trở về, núi sông mây tạnh. Khi đó, Sư trì thiên y, mang bình trời giống như vị Tỳ-kheo năm hạ, dò theo đường xuống núi. Cỏ cây vì Sư mà che phủ không có đường khác lạ, không khe hang cao thấp. Chim bay thú chạy thuần phục dẫn đường trước, lại nghe giữa hư không có tiếng bảo khắp trong thôn xóm rằng: "Bồ-tát xuống núi sao chẳng đón rước?"
Khi đó, dân chúng nam nữ có người trải tóc che bùn, có người cởi áo lót đường, có người dùng nệm giạ nâng đỡ chân, có người dùng hoa đẹp khỏa lấp hố hầm, Sư đều biểu lộ nhân tình, mỗi mỗi đều bước lên. Có một người nữ đem nửa xấp bạch điệp ra trải giữa đường đi, Sư dường như e ngại tránh sang một bên. Người nữ đó lấy làm lạ cho rằng không bình đẳng. Sư bảo: "không phải tôi chẳng có tâm từ, không bình đẳng, nhưng vừa trông xem tấm lụa đều là lợn con, vì sợ thương tổn sanh mạng nên tôi tránh ngộ phạm ấy vậy!" Nguyên vì người nữ đó gia đình vốn làm nghề mổ giết buôn bán, mà mua được tấm vải đó. Từ đó thường có hai con hổ đi theo hai bên, Sư bảo nó rằng: "Không lâu nữa, ta sẽ vào Phu Quách hai ngươi hãy thể vì dẫn đường giúp ta. Đến chỗ có thể tu hành mới đi thong thả. " Đi khoảng chừng ba mươi dặm, tới một sườn núi, hổ ngồi xoạc đùi ở trước. Khi đó, Sư treo tích trượng trên cành cây, lót cỏ mà ngồi. Các hàng tín sĩ từ bốn phương chẳng khuyên mà lại cùng nhau xây dựng một ngôi chùa, đặt tên là "chùa Kim Sơn". Người sau đến cầu giới, hằng năm người sám tội rất đông. Hiện nay trong ảnh Đường, đạo cụ của Sư vẫn còn.
Liên quan thử bàn:
Ngài Chân Biểu đổi tâm thay hạnh, một ngày đi ngàn dặm, quả thật đáng được Đức Từ Thị trao cho giới pháp. Song, trong năm mươi pháp thọ thì đó là pháp thọ gì? Thông đáp: gần Thượng Pháp Kiến Đế tự thệ. Phát thiên nhãn thông là chứng sơ quả, nhị quả. Phi Đế Lý hiện quán mà sao chuyên cứ nơi Thạch Đàn và trước tháp Đa tử tự phát thệ là đồng.
Hoặc có thuyết nói rằng: trao thẻ kiểm để nghiệm tướng tội diệt, trong các Thánh giáo không thấy có văn đó, vậy, chẳng đồng với các vị trời truyền trao, hoặc là ma quỷ làm, không thể làm Hậu pháp ư? Thông đáp: nếu bày thiện ghét ác, thì lợi ích chẳng khác. Di-lặc Thiên chủ là Thiên truyền trao, chắc chắn chẳng phải ma quỷ. Trong các Thánh giáo, có sám hối cầu hiện điềm lành để chứng minh tội đó diệt hay chẳng diệt. Nhưng sau khi Đức Phật diệt độ, ngài Di-lặc xuất hiện ở Diêm-Phù-Đề giảng nói Du già, há có thể đó là pháp đời sau hay sao? Trong luật thập tụng nói rằng: "Tuy chẳng phải do Phật chế, nhưng những vị ở các phương vì thanh tịnh mà nói ra thì không thể chẳng vâng hành.
Thích Tú Công, người xứ Tề An. Lúc còn nhỏ, Sư đã có ý muốn lìa tục, mãi đến tuổi mười tám, Sư bèn đến Thục Quận, đảnh lễ luật sư Hưng. Sư đọc tụng kinh điển dễ như ôn tầm. Lại nương tựa đó mà đăng đàn thọ giới cụ túc. Quả thật Sư thông đạt Tỳ-ni mới làm đệ tử thượng túc, được Hưng Công truyền luật. Như vậy trải qua bốn năm. Sư đến Trường An, vào môn tịch của luật sư Đạo Tuyên làm khách nương tựa, Sư siêng năng quên cả khổ nhọc, trải qua mười sáu năm chẳng lìa rương gậy, Sư nghiên cùng các bộ sâu mầu, hun đúc mấy nhà, đem thủ sớ làm Tông Bổn. Sư hướng đến Hoàng Châu đáp trả nơi sanh thành, kế lại sang An Lạc mở mang giảng dạy. Tiếng hay vang vọng, các vương mục thủ chợt cùng vâng theo. Sư chính vì giáo hóa hàng xuất gia, nên đều nêu tế hạnh. Có luật sư Trinh Cố ở thượng tịch, cởi mũ cho các môn sanh, danh tiếng thanh tịnh hiển bày, ngoài ra đều có Hậu Điện. Các sự nghiệp thành tựu của Sư nhiều chẳng thể kể xiết. Sư thọ hơn bảy mươi tuổi, thị tịch tại Bổn phòng ở chùa Thập lực.
Thích Linh Ngạc, không biết Sư là người xứ nào, siêng năng tha thiết học hỏi, chẳng ngại tìm thầy. Vào niên hiệu Càn Phong (666-668), Sư trụ chùa Tây Minh, đích thân tham dự pháp tịch của luật sư Đạo Tuyên. Song, Sư chẳng câu nệ thường ở một nơi, nên hoặc đến chỗ Ngài Văn Cương, hay gần gũi cận ngài Đại Từ đều cầu thỉnh học hỏi điều ích lợi. Cuối cùng Sư sợ mất ý của Luật Sư Đạo Tuyên, nên tùy theo chỗ giảng dạy, thâu nhặt những điều được nghe, gọi đó là ký, để giải san bổ sao. Như vậy thì nghiên cứu soạn bộ "Nghĩa chương" chỉ có ngài Đại Từ và Sư (Linh Ngạc). Sư lại riêng soạn bộ "kinh trọng Quyết", Cổ Huyền Trụ ở Uyển Lăng đích thân xem đọc văn bản, nên dẫn đó để giải thích bộ "Lượng Xứ Khinh Trọng Nghi". Trong biến cố Kim Cách, bộ "Khinh trọng Quyết" bị tiêu mất, không tìm lại được!
Thích Mãn Ý, không biết Sư người xứ nào. Sư thần cách cao vợi, thức lượng khoan hòa. Kinh luận thông hiểu, lại chuyên tinh về luật học. Cuối niên hiệu Võ Đức (627), Sư gặp được luật sư Pháp Lệ ở Nghiệp Đô, sớ giải luật Đàm Vô Đức, Sư bèn đến làm sáng tỏ sự truyền thọ. Như vậy, Sư giảng giải dẫn dắt suốt ba mươi năm, rồi mới truyền trao cho Luật sư Đại Lượng ở chùa Quán Âm, ngài Đại Lượng lại truyền trao cho ngài Đàm Nhất ở Việt Châu, suốt một thời gian mở mang hưng thạnh, vốn lưu xuất ra nhiều bậc Long tượng, tất cả đều không qua môn tịch của Sư.
Thích Sùng Nghiệp, không biết Sư là người xứ nào. Ban đầu, Sư cùng ngài Đạo Ngạn ở Dặc Dương tập học Tỳ-ni tại pháp tập của ngài Văn Cương. Sư chuyên cần phục dịch, tôi luyện giũa mài chẳng hề biếng trễ. Khoảng niên hiệu Hoàng Tứ, Sư được suy cử đến ở Nguyên Trường, cùng nổi tiếng ngang hàng với Ngài Danh Khác ở Truy Châu, Sư trội vượt Cương Nghị quá xa. Tiếng tốt vang tới chốn cung đình. Vua Duệ Tông giữ tâm phúc Đạo, ban sắc lấy cung cũ để xây chùa An Quốc. Lại có chiếu mời Sư vào Thừa Minh để huân tu ở điện riêng, truyền giới Bồ-tát cho nhà vua. Vật thí dồi dào đều xả bỏ để tu sửa Điện Vũ chùa Bồ đề, vì trước kia chẳng thuận tiện xây dựng lớn ở đó.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), Sư bị bệnh nhẹ, dặn bảo với đệ tử rằng: "Cơ duyên ta giáo hóa đã đến cùng, thọ mạng sắp hết. Các ông phải bền chắc đề phòng, chớ có buông lung!" Nói xong, Sư thị tịch tại phòng riêng trong chùa Sư ở.
Sư là pháp tôn nối pháp ngài Nam Sơn vậy.
Thích Huyền Nghiễm, họ Từ, nhà Tấn dời đến Phương Nam, nhân làm quan tại Gia Ký, nên làm huyện tộc.
Năm mới mười hai tuổi, Sư giã từ cha mẹ theo thầy, vâng thờ ngài Tăng Huy ở Phú Xuân. Niên hiệu Chứng Thánh thứ nhất (695), Vũ Hậu ân ban chế điệp độ người. Sư bèn theo vài vị tăng thuộc chùa Huyền Lưu. Sư thuở bé đã thông minh, lớn lên thì khôi ngô, tính cách cao vợi, phong nghi lạnh lùng. Đến tuổi hai mươi, Sư mới theo luật sư Đạo Ngạn ở Quang Châu tìm hỏi thọ giới cụ túc. Sau đó, mới đến Thượng Kinh nghiên cứu luật phạm. Gặp được luật sư Mãn Ý ở chùa Sùng Phước, và Luật sư Dung Tế đều là những bậc danh tượng một phương và là đệ tử tài giỏi của ngài Nam Sơn. Sư có khả năng thăng đường, thấy chỗ sâu kín, đều được ấn khả. Do đó mà đạo tôn giới khiết, danh tiếng vang cả đến chốn kinh đô, An Quốc trao ghi và sung và hàng Đại Đức.
Sau, Sư trở về Giang Tả, riêng hành hóa luật Tứ Phần, nhân đó soạn "Phụ thiên ký" mười quyển, "Yết-ma thuật chương" ba thiên. Đến nay, tăng chúng xa gần truyền nhau biên chép. Trước kia, Luật Sư Đạo Ngạn ở Quang Châu, có lần nằm mộng thấy vì Thần tăng bảo rằng: "Huyền Nghiễm sẽ là bậc Pháp khí, cớ sao dùng pháp Tiểu thừa mà chỉ dạy?" Sau đó, ngài Đạo Ngạn mới bảo Sư tuyên dương Bát-nhã. Do đó, Sư nghiên cứu tính sâu, tư duy góp nhặt cựu học, soạn bộ "Kim Cương nghĩa sớ" bảy quyển. Chỗ các bậc Cổ Đức không hiểu là điều các bậc Tiên Đạt không rõ. Ta thì phát huy quang minh như chỉ trong lòng bàn tay, thệ nguyện một đời này sẽ tuyên giảng trăm lần. Bấy giờ, tại tinh xá Việt ấp xưng dương Pháp Hoa. Ở đời Tấn, Sa-môn Đàm Dực từng kết am trên đỉnh núi, nhập định Pháp Hoa tam-muội, cảm được Bồ-tát Biến Cát. Đồ chúng trông xem tháp báu Đa Bảo vọt lên để chứng minh, Kinh cung như chuyển luân bay đi mà nghe pháp. Hai con quạ vì thế bày hiện điềm, đến nay vẫn còn bay liệng kêu hót, sáu con voi vì đó mà lộ vẻ kỳ đặc, lúc này vẫn còn ẩn hiện. Không thể được mà suy nghĩ bàn luận. Bởi vì đó gọi là tin sâu phước của Như Lai là núi ẩn của Bồ-tát. Sư mới khảo bàn là bốc xem, buộc bát nương gá sâu, kiến lập giới đàn, vời nhóm luật hạnh, như, Cao Tăng đời Yên, Thượng Sĩ Hành đời Phù Tần, số như lúa mè, tính đồng tre lau. Phục ứng thưa hỏi điều ích lợi, dẫm đạp giày gai, vác lọng dù. Sư vẫn yên tọa chẳng ra, ròng rã suốt ba mươi năm.
Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 24 (736), vua Huyền Tông chú sớ "Kinh Kim Cương Bát-nhã", hạ chiếu ban khắp trong nước đều nên tuyên giảng. Đô Đốc Hà Nam Nguyên Ngạn xung đích thân thỉnh Sư khơi sáng mặt trời Thánh, Sư bèn mở mang u tán, đáng hợp Thiên tâm, giúp người mù thấy được ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, người điếc nghe được âm vang của sấm sét. Sự diễn xướng của Sư thật có hiệu lực. Phàm kẻ ham ưa Tiểu pháp mê mờ tự ngã thành bệnh, Người thông Đại lực hiểu rõ pháp đạo khai không. Nếu phàm phu hiểu được ba quy y, mỗi lúc chạm lý thì mịt mờ sự. Từ ngài Ưu-Ba-ly về sau còn có các hoặc bệnh như thế, mà Sư giữ giềng mối Tiểu pháp, diễn xướng Đại pháp. Ngộ Phật cảnh chẳng phải có, hiểu cõi ma là không. Nên có khả năng khiến Niếtbàn và sanh tử là như một, phiền não và Bồ-đề như nhau. Phát tâm mà lên quả vị Phật-Đà chẳng phải ta thì ai? Tăng tục quy tâm đáng là bậc Nhân chẳng ai bằng.
Xưa kia, Pháp sư Tăng Hộ thường ở nơi Thạch thành, ngồi yên xoay mặt vào vách rêu, ngưỡng trông trung phong như có tượng Phật, nguyện tạo mười trượng để vẽ cảnh Đâu-suất, nguyện lành chưa thỏa, thì ngài Tăng Hộ thị tịch! Đời Lương, vua Võ Đế ban chiếu thỉnh luật sư Tăng Hựu gấp truyền kinh lý, khắc họa quy mô, ý tượng mới thi hành bỗng chốc núi gò đổ ngã, toàn thân hiện ngồi, cả thảy cao hơn trăm thước. Tuy vàng đá tơ trúc, bốn trờ cúng thí, thường nghe công đức trang nghiêm Thập địa, sửa khắc thượng quyết. Sư bèn trong nghiêng y bát, ngoài dấn Đàn Na. Trải khắp mầu vàng ròng, đúc dùng tướng bạc trắng. Đồng; thiếc; chì; khải; cầu; ngọc; lan; can; bảy báu do đó mà hỗn thành, tám trân nhờ đó mà đầy đủ. Tuy Bảo Tích hiến lọng, cõi hiện ba ngàn, Ca-diếp dâng y, vàng hơn mười muôn. Như Tu-di hiện giữa biển lớn, tợ mặt Nhật ló trên núi cao. Đó lại là công đức không thể suy nghĩ bàn luận của Sư! Nên Thứ sử lạc châu là Từ Kiệu, Công bộ Thượng Thư Từ An Trinh, đều đem tông thất thiết lễ bạn đạo. Quốc tử Tư nghiệp Khương Hy, Tiễn Thái Tử Tân khách Hạ Tri, chương Triều Tán Đại Phu Huyện Lệnh Lâm an ở Hàng Châu, Chu Nguyên Thận cũng dùng phép làng để đủ hợp với Bạn Pháp.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ 26 (738), vua Huyền Tông ban chế độ người, chọn phỏng sứ Thứ sử Nhuận Châu là Tề Cán, Đô Đốc Việt Châu là Cảnh thành chọn phỏng Lư Kiến Nghĩa, Thứ Sử Tứ Châu là Vương Bật, không ai chẳng dừng cờ xe nơi cảnh tịnh, bẩm thọ vâng thừa pháp huấn. Tề Bật mới dùng thuyền kết chở, đón rước Sư đến các quận Đan Dương, Dư Hàng, Ngô Hưng ban lệnh cho các vị tăng mới độ, đích thân Sư trao giới cụ túc. Từ Quảng Lăng đến tận Tín An địa phương cách xa cả ngàn dặm. Tăng lục thọ pháp vượt ngoài muôn người. Phải lễ kinh Phật danh một trăm biến, lập đại hội vô già mười lượt. Và vào trong nội cảnh trú trì khắp không thể sánh ví. Phàm nắm giữ giáo pháp, truyền trao từ miệng Phật sanh, Sư có các môn nhân như Đàm Tuấn, Sùng Mặc ở chùa Pháp Hoa, Sùng Nhất ở chùa Long Hưng, Trí Phù, Xứng Tâm, Sùng Nghĩa ở chùa Khai Nguyên, Hoài Tiết ở chùa Hương Nghiêm, Hồng Bái, Giác Dẫn, Quán Đảnh ở chùa Bảo Lâm đều chẳng làm nghiêng bát dầu, không làm thủng phao nổi, kinh chẳng nói vậy ư? Như rừng Chiên Đài thì cây Chiên Đàn bao bọc, như Sư Tử đầu đàn thì đàn sư tử vây quanh. Tin oai thần của Sư là có, mà công đức của pháp chủ chẳng khắc. Sư sắp biết ba cõi chẳng an, trăm loài đều diệt tận. Đời nay đã đến hơi thở cuối cùng, kiếp khác ứng hiện ngay ở trước tâm! Đến năm Nhâm ngọ (742) tức niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất, cơ duyên hóa đạo của Sư đã mãn. Ngày 3 tháng 11, Sư thị hiện bị bệnh ở trên giường dây, tới ngày mồng 7 vào giờ ngọ, Sư an tọa thị tịch ở viện Giới Đàn, thọ sáu mươi tám tuổi. Mãi đến ngày 25 tháng 11, an táng dưới núi Tần thuộc phía Nam của chùa. Xây hai ngôi tháp cao, ánh sáng chói vượt mây trắng, trồng ngàn gốc thông, sắc đẹp bao trùm cả trăng sáng. Kinh thỉ thì Thần Ung; Sùng Hiểu, Trú Trì thì Duy Trạm, Đạo Chiếu đều đích thân hộ trì thánh trường, truyền trì trí ấn. Ngoài ra, Sư còn có ba ngàn môn nhân, năm trăm đệ tử, nương pháp sâu mầu của Bát-nhã, thọ trì mật hạnh của Tỳ-ni. Đều gọi là chuyên môn, chẳng đợi chờ Di-lặc. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 15 (756) tức năm Bính thân,
Vạn Tề Dung soạn văn bia, tán dương đức hạnh của Sư.
Thích Đức Tú, họ Tôn, người ở xứ Phú Dương, từ thuở thiếu thời Sư ra khỏi vực trần, sớm nương nơi Phạm Vũ, tròn đầy giới hạnh, giữ gìn phao nổi, chẳng định thường sư, lưu thần nơi Luật phủ, ngoài việc giảng đàm, Sư thường buồn thương Thần quỷ thiếu ăn, những lúc đêm khuya sư hay cấp thí cho chúng ăn uống. Dân chúng ở vùng Chiết, Nhuế đều khuynh thành kính phục. Đến lúc Sư thị tịch, tại núi Sư ở có nhiều việc linh dị. Lúc đó là đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), khi đón rước thần tòa nhập tháp thì từ giữa trời có bảy viên xá-lợi rơi xuống. Môn nhân dùng bình đựng. Lúc bít cửa tháp lại thấy được trên răng Sư phát sanh xá-lợi lăng xăng rơi xuống. Người sau lại dùng nhiều viên gạch lớn đắp thành tháp. Có người trong làng nói rằng: "Ở đó thường có con rắn trắng nằm cuộn quanh giữ tháp. Nên các trẻ nhỏ hái củi, chăn thú chẳng dám đến gần tháp".
Thích Ái Đồng, họ Triệu, vốn là người xứ Thiên Thủy, gia đình nhiều đời làm quan. Từ thuở nhỏ, Sư đã trội vượt, ân ban cho đến làm con nhà Phật. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư giảng luật Di-Satắc, xa gần đến thọ học như loài lông vẩy tôn sùng Côn phụng.
Trước kia vào thời Nam Tống, Tam Tạng Pháp sư Giác Thọ người nước Kế-tân dịch thành bộ luật nầy. Nhân đó trích ra yết-ma một quyển. Bởi vì thời vận đổi dời, bản đó lưu lạc, tìm lại không được nên các hàng học giả không do đâu mà y cứ. Sư bèn y ăn cứ trong đại luật sao xuất ra yết-ma một quyển. Nên học giả tông đó hưng thạnh mở mang truyền bá, việc đó mới toàn hảo.
Vào niên hiệu Thần Long (705-707) dưới thời vua Trung Tông, rất thạnh việc phiên dịch mở mang truyền bá. Sư cùng các ngài Văn Cương v.v... đồng tham dự dịch trường, và suy cử Sư làm chứng nghĩa. Các bộ kinh do Ngài Nghĩa Tịnh dịch ra đều có có công sức của Sư. Sư soạn "Ngũ phần luật sớ" mười quyển, lại di chúc cho luật sư Huyền Thông ở chùa Tây Minh lo việc nhuận sắc. Sau, An Sử Thục nhiễu loạn đốt cháy tiêu chùa, nên nay không còn loại ấy!
Luật sư Thuyên, người huyện Ngũ Đài, ăn mặc theo người xuất gia, đến tuổi hai mươi thọ giới cụ túc. Sư có nghi tắc thanh nhã, giữ gìn chừng mực, tập học Tỳ-ni làm chính, thực hành hạnh Bồ-tát. Ngoài việc dạy dỗ đồ chúng ra, Sư giữ sự nghiêm mặc không phiền nhiễu xa gần, có việc gì Sư thảy đều dự biết. Nên mọi người cho rằng Sư Đắc Tha tâm thông. Ngày ăn một bữa, áo xấu che thân, chẳng cất giữ hạt gạo, phòng không vải vóc. Sư vốn tiết dụng, nhanh nhẹn không ai bằng. Ngày Sư thị tịch, có mây lành ùn đến bít kín, tiếng nhạc trời nghe văng vẳng. Tăng chúng cả chùa đều nghe mùi hương lạ phảng phất. Sư mới nhóm họp tăng chúng trong chùa, rồi chắp tay dặn dò, từ biệt môn nhân, xong, Sư ngồi kiết già mà thị tịch.
Thích Pháp Thận, họ Quách, người xứ Giang Đô, ở độ tuổi bé thơ còn bồng ẵm mà Sư phát chí muốn sống ở cửa Không. Thân ái ràng buộc chẳng đoạt được ý chí Sư. Sư theo Luật Sư Thành ở Diêu Đài thọ giới cụ túc. Đến nương tựa Đông tháp ở chùa Thái Nguyên mà hiểu suốt văn Luật, dứt sạch nghi ngờ. Các bậc hiền giả thời bấy giờ đều suy phục, hoặc một lời chiết phân đối với trượng biểu, tinh lý tự đắc trong Hoàn Vũ. Tiếng tăm rung chuyển chốn kinh kỳ, như rạng đông trong ngày đẹp trời, chúng Tăng các chùa đều thỉnh Sư làm cương lãnh. Sư im lặng trở về phương Đông.
Khi đã trở về Dương Đô, Phú Duẫn quận xin thỉnh Sư tụng Kim Cương Bát-nhã kinh Như Ý Luận. Bát-nhã là tâm Phật, ta đắc tâm đó, chúng sanh cũng đắc. Như ý thắng nguyện, ta nguyện như ghế, chúng sanh cũng thế. Cho rằng Thiên Thai chỉ quán bao trùm nghĩa của tất cả các kinh, pháp môn Đông Sơn là tất cả Phật thừa. Sắc không cả hai đều mất, định tuệ song chiếu, không thật có nên không thể xưng gọi. Đối với Sư, nắng nóng chẳng bận tâm, ăn chẳng cầu no, ở không đổi tòa, bốn phương cúng thí, Sư đều quy về của đại chúng. Một thân có không đều ở dưới thấp nhất, kẻ sĩ triều đình vâng mạng qua lại. Ra đường chỉ ngợi khen, trọn năm trăm số. Chẳng bước đến ngạch cửa lấy làm rất xấu hổ. Ngưỡng mong tiếp nhận được cái liếc nhìn như tẩy rửa cơn đói khát. Sư cùng người con nói dựa vào hiếu, cùng kẻ bề tôi nói dựa vào trung, cùng với người trên nói dựa vào nhân, cùng với người dưới nói dựa vào lễ. Đem Phật chỉ dạy lấy Nho thực hành hợp thành một. Hàng học giả rơi dòng lầm lẫn, nên gần gũi bắt chước theo kinh luận, Sư mời lại nghe nhận. Nên xây dựng tăng phường lớn để cảnh tỉnh quần mê, nên vẽ rộng bức tranh nhân địa của Bồ-tát, khéo giữ gìn sanh mạng, nên cứu giúp tuổi thọ của chúng sanh. Dùng văn tự độ người, nên miệt mài nơi bút mực. Vì tất cả các pháp đều là Phật pháp, nên gồm nhặt dòng Nho. Vì ngã mạn chướng ngại, nên tự mang y bát. Vì khuôn phép là trách nhiệm nên thẳng hơn trong chúng tăng. Vì phát huy đạo tông nên chỉ hành cung lễ.
Vì cảm mộ Di tích nên nước khác chẳng xa. Vì Long Tượng tham bàn nên lại đến Kinh Quốc. Vì khuôn phép nghiêm minh, nên tinh nghiên Luật Bộ.
Hoàn Môn Thị Lang Lư Tạng dùng tài cao danh trọng, ít chú ý hèn kém, chỉ một lần gặp Sư mà mến mộ pháp vị tuần hoàn, chẳng thể lìa khỏi tòa. Lúc lui về, khen ngợi rằng: "Trong vũ trụ phải tin có cao nhân!" Hoàn môn ở trong viện thiết trí kinh tạng, dùng hương hoa để trang nghiêm, trời đất không ngằn mé, tượng pháp thường còn. Thái Tử Thiếu Bảo Lục Tượng Tiên, Binh Bộ Thượng Thư tất cấu Thiếu Phủ Giam Lục Dư Khánh, Lại Bộ Thị Lang Nghiêm Đĩnh Chi, Hà Nam Duẫn Thôi Hy Dật, Thái Úy Phòng Quan Trung Thư Thị Lang Bình Chương Sự Thôi Hoán, Lễ Bộ Thượng Thư Lý tranh, Từ Nhân vương xương linh soạn lang Kỳ Mẫu Tiềm thêm sự chiêm ngưỡng phụng thờ, cầu xin Sư đồng quét tước. Sư có sự cảm động đến cả triều đình tế thần như thế.
Ngày 14 tháng 10, đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 7 (748), sáng sớm tắm gội xong, đến thẳng giường ngồi kiết già, tâm hướng phụng Tây phương, mãi đến sẩm tối thì thị tịch tại biệt viện chùa Long Hưng, thọ tám mươi ba tuổi, sáu mươi hai hạ Lạp. Đệ tử tăng tục ở Tứ Nghi thuộc phương Bắc, ở phương Nam vượt quá biên lãnh. Cả ngàn họ hướng vọng buồn khóc, đến dự lễ tang có đến muôn người.
Sư có các đệ tử tài giỏi như Đàm Nhất ở Cối Kê, Hoài Nhất ở Đất Mân, Sùng Duệ ở Phương Nam, Nghĩa Tuyên ở Tấn Lăng, Tuệ Loan trụ chùa Đàm Sơn ở Tiền Đường, Pháp Du Sùng Nguyên ở Lạc Kinh, Pháp Lệ; Pháp Hải; Duy Dương; Tuệ Ngưng; Minh U; Linh Hựu; Linh Nhất v.v... ở chùa Hạc Lâm không ai chẳng thành nhạo thuyết biện tài, nhập Pháp Hoa tam-muội. Mọi người đều biết, chỗ cậy nhờ của muôn vật. Trên cõi trời cam lồ chánh vị điều nhu, trong loài người là Tượng Vương lợi căn thành thục. Dưới cây Nhạc Âm dòng suối Phước Tuệ chảy dài, trên đỉnh Linh Phong ngưỡng nhìn vầng trăng trong mát. Kim Cương quyết định, phiền não không còn, đàm hoa rộ nở tỏa ngát hương trong, ân pháp thì cảm kích khắp cả quận. Mọi người buồn bã kính thỉnh sắc thân Sư tôn trí vào linh tháp tại gò của Thục cương phía Tây Yên thành. Trong thời Tượng giáo, Ngài Minh U từ thuở nhỏ đến lúc già suy thường ở bên cạnh hầu thờ. Sau, mời Lại Bộ Viên Ngoại Lang Triệu Quận Lý Hoa làm văn bia ghi chép. Tháng 12 năm Quý Sửu (773) tức niên hiệu Đại Lịch thứ 8, Đại Lý Tư Trực Trương Tùng Thân ghi chép, Triệu Quận Lý Dương Băng đề biểu ngạch của tháp, và cũng do chính ngài Minh U chọn địa thế xây tháp. Ngang rộng như tố, cao thấp vừa chừng, chung quanh thông bốn ngã đường, bằng phẳng nhìn suốt ngàn dặm. Môn nhân chung quanh bày thì bày biện, dâng cúng danh hương. Trong pháp nạn Hội xương, ngôi tháp nầy cũng cùng chung số phận bị phá hủy.
Thích Đạo Quang, họ Chữ, xuất gia từ thuở bé, đến tuổi hai mươi, thọ giới cụ túc. Sư đến Hòathượng Quang Châu (Đạo Ngạn) học thông Tỳ-ni. Bấy giờ đang mùa hạ, Thiển Đức Sùng đàn tràng chúc vọng, bởi trời ban chân sĩ làm nghĩa hổ Đông Nam, mây mưa từ muội, tiếng Đạo sênh ca. Sư trì kinh Pháp Hoa, xây dựng tháp miếu, mãi đến lúc thị tịch, thân chẳng trễ nải. Tháng 8 năm Canh tý (760) tức niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất, Sư thị tịch tại bổn tự, hưởng thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi tám Hạ lạp.
Ngày đó, mặt trời mờ tối, mưa dầm rả rích, gió dữ trọn buổi sáng cây tốt bị gãy, đó là điềm ứng hết phước nơi Đông độ. Bỗng nhiên khí lành năm mầu dong dõng như lọng che, dời nêu xế bóng chẳng tan, riêng sáng tinh lô, tức là ý vãng sanh Tây phương. Trước lúc chưa thị tịch, ngày mồng 3 tháng 8, thân phần Sư bị bệnh nhẹ, Sư bèn ngưng thần, y cứ sắc thân mà quán chiếu, thấy Đức Phật
A-di-đà đầy đủ tướng tốt hiển hiện trước mặt, khắp sân hoa ngọc bích trước đây chưa từng thấy. Đến mờ sáng hôm sau, có một người lạ đến mời Sư làm Hòa-thượng, Sư bèn mở mắt búng ngón tay, bảo: "Chỉ phát tâm Bồ-đề!" Đến ngày mồng 5, hoa mạnđà từ giữa hư không rơi xuống như mưa. Các vị trong môn nhân như Thần Liệt, Nghĩa Tân truy mộ vội vàng, mỗi người tự phân chia pháp vị, lưu bố hành hóa, chăm lo hương hỏa chẳng cùng, v.v...
Thích Giám Chân, họ Thuần, người ở huyện Giang Dương thuộc Quảng Lăng. Ở tuổi tết tóc mà Sư đã thông minh, khí độ rộng rãi, giỏi về điển yết. Sư theo cha vào chùa Đại Vân, thấy Tôn tượng Phật mà cảm động tâm xưa, nhân đó, Sư trình với cha, xin được xuất gia. Cha thấy Sư có ý chí kỳ đặc bèn chấp thuận. Sư liền đến Thiền sư Trí Mãn được Ngài dạy dỗ.
Niên hiệu Trường An thứ nhất (701), Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) ban chiếu độ tăng khắp trong nước, lúc đó, Sư đang là Sa-di nên phối hợp trụ ở tại bổn tự, sau đổi là Long Hưng. Đến niên hiệu Thần Long thứ nhất (705) thời vua Trung Tông, Sư theo Luật Sư Đạo Ngạn, thọ giới Bồ-tát. Đến niên hiệu Cảnh Long thứ nhất (707), Sư đến Trường An. Tới ngày 28 tháng 3 năm sau (708) Sư trụ tại chùa Thật Tế, Sư nương tựa bên cạnh Luật sư Hằng Cảnh ở Kinh Châu mà đắc giới. Tuy Sư mới phát tâm mà có phong thái của bậc lão thành. Hai kinh Quán, Quang, danh sư hun đúc dẫn dụ, giáo pháp Tam Tạng chỉ vài năm mà gồm thông. Động hẳn nghiêm tầm căn cơ, không hề thưởng phạt. Nói kịp Hoài Hải dùng giới luật để chỉ bày dẫn dụ, hun đúc thành tông thư một phương, hồ băng in vầng trăng đến chân trong sáng, mạo tòa nêu cao âm thanh, nhiều lành ứng đáp.
Bấy giờ, ở nước Nhật-bản có các Sa-môn Vinh Duệ, Phổ Chiếu v.v... từ phương đông đến vì kính mến pháp dùng bổ khuyết. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thì các vị đó tới Dương Châu, bèn đến thưa hỏi Sư; sau khi đảnh lễ dưới chân Sư rồi thưa rằng: "Đất nước chúng con ở dưới biển, không biết khoảng cách đến Tề Châu là mấy ngàn muôn dặm. Tuy có pháp mà không người truyền pháp. Thí như suốt đêm có người ở trong nhà tối không đèn đuốc mà mong cầu, làm sao thấy được! Xin thỉnh Sư hãy dừng nghỉ lợi lạc ở phương này mà làm bậc Đạo Sư ở Hải Đông có được chăng?" Sư quán về nguyên do đó và xét về sự thiết tha của họ, mới hỏi rằng: "Xưa kia, nghe Thiền sư Tuệ Tư ở Nam Nhạc sanh làm Quốc Vương ở nước đó, Phật pháp rất phát triển, phải vậy chăng? Lại nghe Trường ốc nước đó từng sắm sanh hàng ngàn chiếc áo Ca-sa đem đến cúng thí các bậc danh đức tại Trung Hoa và trên mép viền y có thêu lời kệ rằng:
"Núi sông khác cõi
Trăng gió cùng trời
Gởi người con Phật
Kết duyên đời sau".
Lấy đó mà suy thì đó thật là nơi có duyên với Phật pháp. Sư bèn im lặng mà hứa đi, gọi là Trường ốc tức là Tướng Quốc.
Thật ra là kính mến mười bốn vị như, Tỳ-kheo Tư Thác v.v... mua thuyền từ Quảng Lăng mang kinh luật pháp lìa bờ, phát xuất lúc đó là tháng 6 niên hiệu Thiên Bảo thứ 2 (743) vậy. Đến phố Việt Châu, dừng ở nơi biệt thự Phong sơn. Ban đêm, Sư mộng thấy điều rất linh dị. Vừa mới ra biển, gặp phải sóng gió dữ dội, người và thuyền đều bị đắm, có người ném cây sạn... hương, nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: "chớ nên ném bỏ". Khi đó thấy ở đầu và đuôi thuyền mỗi nơi đều có thần đem giới giáp chống đỡ. Chốc lát, gió ngưng lặng, bỗng trôi dạt vào biển rắn. Rắn ở đó dài hơn ba trượng, mầu vặn vện như gấu. Sau lại xuống trong biển, cá ở đó dài hơn cả thước, bay đầy trong hư không. Thứ đến một bể cá thấy toàn chim bay nhóm họp trên lưng thuyền, muốn nhận chìm đó. Vừa kịp lên khỏi biển chim thì thiếu nước, ghé vào một đảo nhỏ, có ao nước trong rất sâu, mọi người uống cảm thấy ngọt và mát. Tiếp đến là tới được nước Nhật-bản. Vua nước đó rất vui mừng đón rước vào trong một ngôi chùa lớn ở trong thành để an nghỉ.
Trước tiên, Sư thiết lập đàn tràng trước điện Lô-Xá-Na, truyền giới Bồ-tát cho vua nước đó, và tiếp theo là các hàng phu nhân, Vương tử, v.v... Sau đó Sư bảo các Sa-môn hữu đức ở nước đó đủ số mười vị, độ cho các Sa-di Trừng tu v.v... tất cả bốn trăm vị. Sư dùng nghi thức tác pháp bạch tứ yết-ma. Có vương tử nhất phẩm Thân Điền sửu nhà thành chùa, đặt tên là "Chiêu đề", cúng thí một trăm khoảng ruộng nước. Từ đó về sau, Sư luôn giảng giải luật tạng, người đến thọ học rất đông. Ở nước đó tôn xưng Sư là "Đại Hòa-thượng", là vị Thỉ Tổ mở mang giới luật.
Thích Thủ Trực tự là Kiên Đạo, người xứ Tiền Đường, họ Phạm, là cháu đời thứ tám của Tín An Thái Thú Hoàng đời Tề. Sư đến tuổi hai mươi, các bậc quân tử đều quý trọng. Sớm có ước mong của
Khâu Viên, chẳng đoái hoài sự ban tặng của Huyền...
Sư đến Đại sư Viên trụ chùa Chi Hình ở Tô Châu cầu thọ giới Cụ túc. Đêm đó trong mắt Sư phát ra luồng sáng xa hơn cả trượng, giữ rất lâu mới tắt mất. Đó là ứng nghiệm của sự đắc giới. Sau, Sư đến nương tựa Chân Công ở Giang Lăng, suốt ba năm luyện hạnh. Sư tìm lễ khắp trong nước hơn hai trăm quận, các nơi có thánh tích Sư đều đến. Sư được Tam Tạng Pháp sư Vô Úy truyền cho giới Bồ-tát. Nghe Đại sư Phổ Tịch đang truyền dạy kinh Lăng-già Tâm Ấn, giảng Khởi Tín Tông luận hơn hai mươi biến, Nam Sơn Luật sao bốn mươi biến, như một cơn mưa bình đẳng thuận theo cả hai căn cơ Đại Tiểu, trong một viên âm không hề khác nhau. Sư bèn lập nguyện tụng kinh Hoa Nghiêm, lại nửa đêm mộng thấy vị Thần ban cho một viên ngọc báu, đến lúc thức dậy vẫn còn mơ màng như viên ngọc còn nắm trong tay. Năm đó, Sư vào núi Ngũ Đài đọc tụng kinh Hoa Nghiêm hai trăm biến, tìm lại tâm xưa. Đọc xem Đại Tạng kinh ba lược, mở rộng thêm chánh kiến.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 26 (738), vua Huyền Tông có ban chế đề cử chư tăng cao hạnh, Tăng tục thỉnh chánh danh thuộc chùa Đại Lâm, sau dời tịch đến Thiên Trúc, trụ tại núi Linh Ẩn, lúc đó là niên hiệu Đại lịch thứ 2 (767). Đến tháng 3 niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (770), Sư đang trụ viện Tịnh Độ thuộc chùa Long Hưng, nói với những người chung quanh rằng: "Bậc chí nhân nương chân như mà đến, nương chân như mà đi. Chỉ bày tâm ấy, mà hàng phàm phu ham muốn dùng sợi dây dài để ràng buộc vầng mặt trời trong sáng kia, làm sao được ư? Nay tôi như mặt trời xế bóng trên đầu cây dâu, đâu có lâu dài!". Đến ngày 29 tháng 3, Sư thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp.
Suốt quãng thời gian Sư lâm đàn, độ người rất nhiều, trong đó có những vị nổi tiếng như Biện Tú ở Động Đình, Hạo Nhiên; Huệ Phổ, Đạo Trang ở Hồ Châu, Thanh Giang, Thanh Nguyên ở Cối Kê, Trạch Lân, Thần Yển ở Hàng Châu, Đạo Tấn ở Thường Châu, Trú Công soạn bài minh trên tháp.
Thích Nghiêm Tuấn, họ Phàn, người ở xứ Duy Châu. Cha của Sư giữ chức Hợp Châu Trường Sứ Chiêu Vương Phủ Tư Mã. Tánh Sư vốn thấp kém nhưng học tập thông minh lanh lợi. Năm mười chín tuổi, Sư ứng cử khoa thi Tiến sĩ, chợt gặp phải trà liêu, nghĩ lo báo đáp cù lao! Sư đến chùa Phật ở Nam Dương, sau đến lan-nhã ở núi Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu, gặp được Thiền sư Chân chỉ dạy pháp Thiền Quán, Sư vào thành ghé trụ chùa Đại Vân, Ngài giữ gìn Giới ấn, sử dụng không cùng, nương phao nổi mà qua sông, thoáng sang chúng thỉnh lâm Đàn, lại nêu Tông chủ Luật Tạng, kim nghê vâng mạng. Bỗng gặp được Thiền sư Quán Tịnh, chóng tỏ ngộ Tâm pháp.
Niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766) Sư muốn đến núi Thạch Lương, chưa tới Lô Lăng, gặp Ngạn Lỗ Công, mỗi lời khế hợp nhau như keo sơn. Mùa Xuân năm sau (767), Nghi Xuân Thái Thủ Tỷ Tăng Chánh thỉnh Sư. Đến mùa xuân niên hiệu Đại Lịch thứ 4 (769), Hồng Châu thứ sử Lý Hoa Viên Ngoại thỉnh Sư vào trú chùa Đại Minh. Khoảng giữa tháng 4, bỗng nhiên Sư bảo tắm gội thay áo rồi hướng lên hư không, chắp tay mà thị tịch, thọ năm mươi chín tuổi.
Các đệ tử Viên Ước v.v... đón rước nhập tháp, lập văn bia ở suối lớn trước chùa.
Thích Đàm Nhất, họ Trương, người ở xứ Cái Hàn. Tổ tiên Sư là người Hiên Viên, giúp cho dòng họ rất tốt lành, phụ giúp Hán Hầu lưu lại. Trong khoảng thời Ngụy-Tấn đã hoàn ý mão để kế thừa. Tằng tổ Sư húy là Hằng, làm chức Thái thường khanh ở đời Tùy, theo đường vua đi tới Dương Đô bèn làm nhà ở đất Việt, sanh ra ông nội Sư là Hiếu Liên Dực, Dực lại sanh ra Xứ Sĩ Siển tức cha của Sư, tính tới Sư là đời thứ 4 ở Giang Nam.
Sư sớm gieo nhân thanh tịnh, sanh tánh trí tuệ, thuở nhỏ đã dĩnh ngộ, lúc trưởng thành thì thông minh. Năm mười lăm tuổi, Sư theo Lý Thao tiên sanh tập học Thi lễ, suốt ngày chẳng trái. Năm mười sáu tuổi, nghe pháp sư Lượng ở chùa Vân Môn giảng giải kinh luận, nghe qua một biến Sư thấu suốt nghĩa mầu. Pháp sư Lượng lấy làm lạ, nói với mẹ của Sư họ Mạnh rằng: "Đây là Phật tử, nếu cho xuất gia thì ta sẽ chấp nhận!" Pháp sư Lượng là thầy truyền giới Bồ-tát cho vua Trung Tông, nên Sư nghe mà vui mừng, có ý chí muốn độ đời. Vào niên hiệu Cảnh Long (707-710), Sư vâng thừa ân ban của cha mẹ mà xuất gia, thuộc nơi Tăng Lục. Năm đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc với Luật Sư Huyền Sưởng ở Đan Dương, Sư học thông bộ "sự sao" với Luật Sư Đàm Thắng ở Đương Dương. Thế rồi, mái gỗ thấy khói, trông nhìn tường vách thấy được chỗ sâu mầu.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ 5 (717), Sư đến Trường An, nương Luật Sư Đại Lượng ở chùa Quán Âm và được truyền trao Tỳ-ni Tạng. Sư lại nương Pháp Sư Đàn Tử ở chùa Sùng Thánh học các luận Duy thức, Câu-xá v.v... Sư đến chùa An Quốc theo vị Sa-môn người Ấn Độ thọ giới Bồ-tát. Từ đó Sư thật trọn nghĩa hoa sen chẳng nhiễm bùn, thành đạt ý chỉ cam lồ sâu lắng. Sư truyền đuốc tuệ, rõ làm Phạm Hùng, xa gần đều chiêm ngưỡng như Tông Sư. Nhưng sự bén nhạy có dư, thời gian gồm ngoại học. Sư từng hỏi về Chu Dịch với Tả Thường thị chữ vô lượng, luận bàn về sử ký với Quốc Tử Tư Nghiệp Mã Trinh, bèn suốt cùng mọi nghề săn bắn chài lưới trong trăm họ, bao trùm cả sáu sách, sự thấy biết thêm rộng lớn. Từ đó, đối với Sư thì Nho gia, Điều ngự, Trời, người đều là nhân Phật sự, Công Khanh kính mến, kinh đô lắm nhờ. Bấy giờ, Thừa tướng Yên Quốc Công Trương Thuyết Quảng Bình, Tống Hoàn Thượng Thư Tô Hoài Duyên, Quốc Lăng Trượng Tiên bí thư giam gia tri chương, Tuyên Châu kinh huyện lệnh Vạn Tề Dung vì đồng thanh, đều làm thầy bạn. Tuy chi nhánh đã nhóm họp, luống mừng cho Sư nhóm họp của Tông. Lôi, Lô Khâu chưa gọi là nhiều.
Luật Tứ Phần, do Tam Tạng Pháp sư Phạm Tăng đời Hậu Tần là Phật-đà-da-xá truyền tụng đến Trung Hoa, cùng với Pháp sư La-thập phiên dịch, trao nguyền từ đó đến đất Ngụy, do pháp sư Pháp Thông là người đầu tiên diễn giảng, truyền cho ngài Đạo Thông, Đạo Thông truyền cho Quang. Đến đời Tùy luật sư Lệ thuộc tướng bộ soạn sớ mười quyển, luật sư Mãn Ý chùa Sùng Phước ở Tây Kinh truyền bộ sớ đó rất thạnh hành, và trao truyền cho luật sư Lượng, luật sư Lượng mở mang truyền bá mỗi mỗi đều y cứ theo sớ giải của luật sư Lệ, và đến đầu thời Tiền Đường luật sư Đạo Tuyên ở Chung Nam soạn thuật bộ Tứ Phần luật sao, ba quyển, nói rõ sơ lược về sự đồng dị, Sư tự soạn bộ Phát Chánh Nghĩa Ký, mười quyển, nói về sự lẫn lộn giữa hai tông, phát ra mấu chốt của năm bộ. Hàng hậu học tỏ ngộ như đi đêm có đuốc. Nghi ngờ trước kia tan vỡ, mặt trời lên thì băng tiêu. Mặt trời Phật soi sáng trở lại Trung Hoa, rường cột giáo pháp cao ngất. Trong phát chánh ký bác bỏ Nam Sơn, trong trì phạm có thể thấy rõ.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 25 (737), Sư chống tích trượng trở về phương Đông. Năm sau (738), vua Huyền Tông ban chiếu mời Sư trụ chùa Khai Nguyên, Trưởng Sứ Trương Sơ đề cử Sư làm tự chủ, nhân đó mà Sư ở vậy. Tiếng tăm Sư rung chuyển đến Kinh Hoa, đạo cao tới ngô Hội. Sư ban rải lòng đại từ để nhiếp chúng, tu muôn hạnh để hiển bày oai nghi. Thuận phong hỏi đạo như đánh xác xoa vai, người đến thưa hỏi nhiều như sóng chồng chất, mây tụ hội. Hạn lượng luống thọ, Sư tùy đó giảng nói. Nên trước sau Sư đã giảng luật Tứ phần ba mươi lăm biến, san bổ sao hơn hai mươi biến. Các hàng Thích tử ở Giang Hoài cầu thọ giới, nếu chẳng phải do Sư đăng đàn thì là không đắc giới. Hạng thọ trì Tăng luật, Sư độ người có đến cả mười muôn.
Vào niên hiệu Chí Đức (756-758), nước nhà trải qua lắm sự khó khăn, Tăng đồ mạn pháp, ít học kinh giáo. Quốc tướng vương công ra trấn tại đất Việt cho rằng Sư là bậc Danh Đức vốn cao nên thỉnh làm Tăng Thống. Sư hoàn toàn thanh tịnh, mở mang huân tu, chỉ thời gian mười ngày mà bỏ tà nhập về chánh. Sư khéo dẫn dụ ngầm khai hóa đều giống như vậy.
Đầu tiên, Sư vào quan yết kiến Pháp sư Minh Đạt. Ngài Minh Đạt chăm chú nhìn Sư và bảo: "Ông là bậc sư tử trong loài người!" Ngài lại gặp Tỳ-kheo-ni Từ Hòa ở chùa Tuân Thiện và được khen ngợi rằng: "Sư Đàm Nhất Giảng Giải Tỳ-ni, Sư rất thông minh lại không nghi, Sư thật xứng đáng như đồn đãi là bậc Đạt Nhân!"
Vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 14 (756), Chế Hà Triều thủy nam khơi Tiền Đường, chùa Đại Vân đang lúc cần kíp, nhân đó thỉnh Sư giảng luật. Học chúng đông đến cả ngàn người, đều phát đại nguyện, thường xưng niệm Ma-ha Bát-nhã, bèn dừng sóng gió, do phước ngũ tư Long Vương, dùng đó để trang nghiêm mong cầu che chở. Giữa đêm 30 tháng 5, Sư thấy một vị thần áo mão rất hùng vĩ đến cúi đầu bái tạ rằng: "May nhờ Sư ban trải pháp thí nên thay đổi dòng sóng, chưa đến chín mươi ngày mà bãi cát trương xa đến năm mươi dặm". Tăng tục đều kinh lạ, khen ngợi được điều chưa từng có! Sư làm pháp chủ, mở rộng dấu vết giáo pháp, phát sáng sự phó chúc của các Đức Phật trước, bảo chứng hộ niệm cho các Đức Phật ngày sau. Sư làm kệ bốn câu, người thọ trì rõ được điều chưa rõ. Một lời Sư giảng pháp, người lắng nghe được điều chưa nghe. Há chẳng phải là trời đất thuần tinh, núi sông hiển linh cùng với pháp hiển bày mà sanh, ai có thể huyền thông mật chứng, lớn lao như vậy ư? Trong chùa đúc một quả chuông lớn, xa thì trưng bày họ phù gần cửa Pháp Lôi, sống còn nhiều năm đúc nắn thành quy chế. Sau khi Sư thị tịch ba ngày trở thành nơi đúc tạo. Âm ba vang đến ngàn dặm, khiêng vác muôn câu, bồ lao kêu mà đất rung chuyển, sư tử gồm mà núi ngã lăn, thức tỉnh kẻ tục tai điếc, dẫn dắt người lạc lối, đâu có thể nói hết ư? Pháp tạ hình lìa củi tàn lửa tắt. Đến ngày 17 tháng 11 niên hiệu Đại Lịch thứ 6 (771), Sư thị tịch tại luật viện của chùa, thọ tám mươi tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp. Đến ngày 24 tháng 11 năm sau, dời tòa đến núi Tần Vọng, theo nghi thức của các vị Hòa-thượng trước.
Sư một đời niên lạp đã cao, tinh sáng càng giũa mài. Đã không suy yếu, ban đầu không bệnh khổ. Bỗng nhiên Sư bảo cùng thị giả rằng: "Ta sắp quét tước lễ bái phần tháp, quy cốt tại đây". Sau đó vài ngày, Sư an nhiên thị tịch. Ở phía ngoài Hà Lạc thuộc phía Nam Giang Hoài, y theo chế phục đến tiễn đưa lễ tang đầy núi, phướn đẹp che rải đồng quê, sánh như mẹ của Phu Kịch Mạnh đưa ngàn cỗ xe đến mộ của Khổng Khâu, trồng muôn gốc cây, có thể đồng năm ư?
Ngài có các Môn nhân đệ tử như: Thường chiếu chùa Diệu Hỷ ở Việt Châu, Thanh Nguyên chùa Kiến Pháp, Thần Ngoạn chùa Long Hưng ở Hồ Châu, Đạo Ngang chùa Ẩn Tĩnh ở Tuyên Châu, Nghĩa Tân chùa Long Hưng ở Hàng Châu, Trạm nhiên chùa Quốc Thanh ở Đài Châu, Biện Tú chùa
Khai Nguyên ở Tô Châu, Chiếu Lượng chùa Thê
Hà ở Nhuận Châu, Pháp Tuấn chùa Long Hưng ở Thường Châu v.v... sớm khai phát người mới học, nhưng nhờ chỉ dạy ba ngàn đệ tử, kính ngưỡng Lương mộc mà thêm buồn thương, tám mươi ngàn môn nhân trông ngóng Chiêu Đàn mà chẳng kịp. Bấy giờ, Từ Công Hoạt ở Cối Kê vốn xưa là Đôn hương Lý soạn văn bia khen ngợi đức hạnh của Sư.
Lúc đó là niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776).
(Quyển 14 hết).
(chánh truyện có mười chín vị, phụ có ba vị)
Thích Linh Nhất, họ Ngô, người ở xứ Quảng Lăng, Sư thần thanh khí hòa, tâm ý rỗng suốt, cùng Thái Hòa nguyên tinh hợp thuần túy đó. Năm chín tuổi, Sư lánh nhà mục nát, quyết vào vườn Thanh Phạm, vào làm Sa-di, bẩm thọ quy chế xuất gia. Đến tuổi hai mươi Sư thọ giới cụ túc. Học tập không biếng trễ, luật nghi luôn chỉnh tu. Bày thấy nói cười, muốn làm sáng tỏ giải thoát, chỉ người nghề văn để dẫn dụ thế trí. Ban đầu không chấp trong thân có ngã, trong ngã có thân, Đức toàn Đạo thành, duyên dứt thì thân tàn. Sư thị tịch tại chùa Long Hưng ở Hàng Châu vào ngày 16 tháng 10 niên hiệu Bảo ứng thứ nhất (762), thọ ba mươi lăm, trọn mười lăm mùa an cư!
Lúc sắp thị tịch, Sư xoay lại bảo đệ tử nên theo pháp trà-tỳ, xây một ngôi tháp nhỏ. Bấy giờ, Tả Vệ Binh Tham Quân Lý Thư Hỷ, Hưng Huyện Lệnh Lý Thang, Tả Kim Ngô Vệ Binh Tào Tham Quân Độc Cô Cập, cùng nhau ai điệu Lương mộc đã mất, lo ngại Lăng dung đang đổi dời. Người sau đảnh lễ tháp bà của bậc ứng chân mà mịt mờ đức hạnh của bậc ứng chân, cho nên khắc bia đá dựng ở phía Nam của Đông Phong núi Võ Lâm. Một nhà giàu có lắm của đã cắt tóc, đưa tài sản ngàn vàng thảy đều nhường cho các anh em cô đơn, chỉ giữ lấy nạp y tích trượng. Từ đó đến đảnh lễ ngài Pháp Thận ở Duy Dương học Tướng Bộ luật, thấu chỗ tinh vi đạt điểm cùng cực. Cùng các bạn lành là Tuệ Ngưng, Minh U, Linh Hựu, Đàm Nhất ở Cối Kê, Nghĩa Tuyên ở Tấn Lăng, Đồng môn tam ích tác giả bảy vị. Sư nhổ bỏ cảnh trần, nhiều ngày nối nhau kinh hành, yên tọa thì chọn dưới cây trên đỉnh núi. Ban đầu nhà tại chùa Huyền Lưu ở Nam Sơn, thuộc Cối Kê, Sư tiếp thiền khách ẩn giữa trời không thanh tĩnh cùng bàn luận Đệ nhất nghĩa đế. Hoặc lúc Sư đến chùa Khánh Vân, trở lại trụ chùa Nghi Phong ở Dư Hàng, gần chùa là núi Sanh Đan, cửa đối Cảnh đẹp, bước đi một mình, gió dữ đè ép núi, chánh trí không lay động. Sóng lớn va đập suốt ngày, phao nổi chẳng trôi dạt. Từ đó, Sư soạn Luận Pháp Tánh để nghiên cứu Chân Đế, đó là Liễu ngữ của Sư. Mỗi lần nhàn rỗi thiền tụng liền giải bày thi ca, việc nghĩ không gián đoạn, phát sang loài hàm thức, bay nhảy cựa động. Di vận của Phan Nguyễn, khuyết văn của Giang tạ, sẽ có thể tiếp theo đó, không thẹn với người xưa, theo thứ lớp mà khéo dạy dỗ, môn nhân đệ tử thọ giáo như Lương Điền được lớn. Dâu chân Sư chẳng đến nhà giàu sang. Chỉ cùng đạo sĩ Phan chí Thanh ở Thiên Thai, chu phóng ở Tương Dương, Trương Kế ở Nam Dương, Hoàng Phủ Đằng ở An Định, Trương Nam ở Phạm Dương, Lục Tấn ở Quận Ngô, Từ Nghi ở Đông Hải, Lục Hồng ở Cảnh Lăng tạm làm bạn ngoài đời. Sư giảng đức vị Đạo lãng vịnh suốt ngày. Đến cuối thiên sẽ rộng dùng văn ước lược để sửa chữa. Sư lượng căn cơ cao thấp mà trao cho thuốc. Sư ở chùa trên góc cao, ban đầu không có suối giếng, một hôm tự nhiên có dòng nước chảy tuôn, phun cát sỏi vàng đến chung quanh sân, rót mà càng trong, lường mà chẳng cạn. Sư có tâm tinh cần cảm kích đến như vậy. Thi ca lưu hành ở đời, có chọn những bài hay nhất để đưa vào Gián khí tập.
Thích Tề Hàn tự là Đẳng Chí, Sư con nhà họ Trầm ở Ngô Hưng, cao tổ Sư làm Quốc tử tế tửu thời nhà Trần, Tằng Tổ của Sư làm Ngụy Châu Tư Mã thời nhà Tùy. Từ ông nội, cha của Sư đến Sư là ba đời chẳng ra làm quan. Sư khi còn bé theo cha đến chùa, giẫm chân lên đất cao tĩnh không mảy trần, bùi ngùi như có biết túc mạng, nên cố xin bỏ tục.
Đến ngày mồng 5 tháng 8 niên hiệu Thiên Bảo thứ 8 (749), Sư vâng theo chế độ phối danh vào chùa Vĩnh Định. Tháng 10 năm sau (750), Sư lên Đàn Ngũ Phần thọ giới Cụ túc và dời đổi tên đến chùa Khai nguyên. Vào niên hiệu Đại Lịch (766780), Sư chuyển đến Võ Khâu, đều do Tăng tục của hai châu cầu thỉnh. Sư Đạo tánh lắng sâu, ngoài thì điềm nhiên, vết tích chẳng gần danh vọng, thân chẳng liên quan mọi sự. Sư ở lâu trong một ngôi thất vắng lặng như không người. Đâu sánh như kẻ sĩ phù khi đi trống kèn inh ỏi. Chuyên môn; tướng bộ nghĩa sớ tinh mẫn ít người cùng đồng bạn. Sư thông suốt kinh Pháp Hoa, làm đàn chủ các giới đàn ở Tô; Hồ, thường phải thỉnh trước, như đời nay gọi đó là Đàn đầu. Niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), Sư vào đạo tràng Lưu Thủy niệm Phật. Đêm đó, cảnh Tây phương trong niệm chóng hiện, bởi do sự thuần thành cảm nên như vậy. Và năm đó, Sư thị tịch tại Bổn Viện, thọ sáu mươi tám tuổi, hai mươi sáu hạ lạp.
Ngày Sư bị bệnh, nói với môn nhân đệ tử rằng: Có chim hạc từ giữa hư không bay xuống liệng quanh trước ta, các ông có thấy không? Hẳn là đến lúc ta phải từ giã. Các bậc tiểu thánh còn bệnh, làm sao có thể khỏi ư!" Có các môn nhân thọ nghiệp ở Sư như: Như Ẩn, Giới Đàn, Tuyên Đoài v.v... cùng với Ngô Hưng, Kiểu Nhiên kết giao làm anh em trong pháp môn, đều là những bậc cao khiết, khó có thể khinh mộ.
Thích Lãng Nhiên, họ Ngụy. Gia đình Sư nhiều đời làm nối quan. Tổ tiên Sư theo nhà Đông Tấn đến Phương Nam nên là người Nam Từ.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742) Sư vào đạo, thọ nghiệp với Đại sư Tề chùa Khai Nguyên ở Đan Dương. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), Sư thọ giới Cụ túc với Luật sư Quang tại chùa Hoa Nghiêm ở Hàng Châu. Sau, Sư dời đến chùa Linh Ẩn, nương tựa Luật sư Viễn học thông bộ Tứ Phần Luật sao. Sư lại đến bẩm thọ Luật sư Đàm Nhất ở Việt Châu, tinh cần nghiên cứu Luật Bộ, Sư giảng dạy cho đồ chúng, bốn phương xa gần đều hưởng ứng.
Niên hiệu Chí Đức thứ 2 (757), vua Túc Tông ân ban đề cử Sư dời đến thuộc danh ở chùa Từ Hòa. Vào niên hiệu Thượng Nguyên (760-762), Thứ sử
Vi Hoàn lại thỉnh Sư làm Chiêu Ẩn Thống Lãnh Đại Đức. Trong năm đó những lúc rảnh rỗi việc giảng dạy, Sư soạn bộ "Cổ kim quyết" một quyển, giải thích Tứ Phần Luật sao đến mấy mươi muôn lời. Phồn tạp nghĩa lệ điều xuyên suốt rất rõ ràng, truyền bá rộng rãi ở đời. Xem xét trong đó trước tiên nêu bày nghĩa của người xưa, nếu có chỗ không ổn thì phán đoán, nên gọi là "Quyết". Trong lời tựa của "Quyết", Sư nói rõ ban đầu nương theo luật sư Uy-người Thiên Trúc mà học tập, sau lại theo một vài bậc thầy ở xa. Phàm các giới đàn Sư đã dự chứng tất cả là hai mươi sáu đàn và đều làm chủ của Đàn tịch. Sư đã giảng bộ luật sao qua hai mươi tám biến. Nếu có người dâng cúng gì, bất kể quý giá hay không, Sư đều thọ nhận rồi chuyển sang gieo trồng ở hai ruộng phước Bi, Tín. Đối với giáo lý Sư bày văn nghiên cứu Nghĩa, đều nói do nhờ năng lực học tập xưa trước. Sư hành trì giới kiểm, trong khoảng khắc cũng không trái phạm. Đến mùa Đông năm Quý mão, tức niên hiệu Đại Lịch thứ 12, Sư ngồi kiết già như thường, an nhiên thị tịch, thọ năm mươi bốn tuổi, ba mươi lăm hạ lạp. Qua mười ba năm sau; đến mùa Xuân năm Tân Dậu (781) mới xây tháp ở gò Sơn Tây. Đồ chúng đệ tử mặc áo gai, khóc nước máu mắt có cả ngàn người.
Sư có các đệ tử cao hạnh như: Thanh Hoạt, Trạch Ngôn v.v... và Đệ tử thưa hỏi điều lợi ích như: Ngự sử trung thừa Hồng Phủ Quán Sát Sứ Ni Hoàn, Lại Bộ Viên Ngoại Lý Hoa, Nhuận Châu Thứ sử Hàn Phần, Hồ Châu Thứ Sử Vi Tổn, Ngự Sử Đại Phu Lưu Hoàng, Nhuận Châu Thứ Sử Phiền Miện đều quy tâm kính tin. Truân Điều Viên Ngoại Lang Liễu Thức soạn văn bia khen ngợi đức hạnh Sư.
Thích Đại Nghĩa, tự là Nguyên Trinh, họ Từ, người ở xứ Tiêu Sơn, thuộc Cối Kê. Ngày mồng 5 tháng 5 niên hiệu Thiên Thọ thứ 2 Sư ra đời. Năm Sư bảy tuổi, được cha dạy cho kinh điển, thường ngày Sư tụng đọc mấy ngàn lời.
Năm mười hai tuổi, Sư xin phép cha mẹ đến chùa Linh Ẩn ở Sơn Âm tìm thầy học đạo. Nhân đó, Sư tập học nội pháp, vừa mở quyển kinh thì liền thông hiểu. Mọi người đều khen ngợi. Gặp thời vua Trung Tông đang tại vị (705-710), ân ban chế văn độ người xuất gia, Đô Đốc Hồ Nguyên Lễ Khảo thí kinh nghĩa, Sư trúng cách bậc nhất. Sau khi xuất gia, Ngài được phối danh vào chùa Chiêu Huyền, từ đó Sư nghe nhận tu học, cạnh đó là học thêm Huyền Nho. Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713), Sư thọ giới Cụ túc với Luật sư Viên ở Ngô Quận. Sư lại trở về nương tựa Luật sư Thâm ở chùa Khai Nguyên ở bổn châu học Luật Tứ Phần. Nhân lúc Sư đến Trường An, Luật sư Thâm thị tịch, Sư bèn đến Luật sư Huyền Nghiễm ở chùa Pháp Hoa để cầu học. Sư tuấn tú vượt xa đồng bạn, nên Ngài Huyền Nghiễm bảo: "Đời nay truyền pháp, chẳng phải ông thì là ai?" Đến lúc Luật sư Siêu ở chùa Xứng Tâm thỉnh Sư làm tự chủ.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), Sư chịu tang cha mẹ, nên phát nguyện vào chùa Phật Lũng ở Thiên Thai, đọc tụng kinh tạng, để báo đáp ân sâu cù lao. Đến niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Sư bèn dựng Thất ở Bắc ổ, tức địa vức của Châu Chi Tuần Ốc. Ban đầu, Sư mộng thấy có hai vị Phạm tăng đến bảo Sư rằng: "Ông hãy ở đây với thời gian hai mươi ngày". Đến đầu niên hiệu Bảo Ứng (762), lại mộng báo rằng: "Vốn kỳ hạn hai mươi ngày, nay đã mãn, ma giặc sắp đến không nên nán ở nữa". Tự nhiên hải tặc Viên Triều Thiết đóng cứ tại Diệm Ấp tìm đến Đan Khâu. Nhân đó, Sư cùng Luật sư Quýnh ở chùa Đại Vũ đồng đến chỗ Thiền sư Lãng ở Tả Khê, tập học chỉ quán, và được nhiều tinh đạt.
Trước sau, các hàng Triều Quý quy tâm về Sư như Tướng Quốc Đỗ Hồng Tiệm, Thượng thư Tiết Kiêm Huấn Trung Thừa Độc Cô Lăng, Lạc Châu Thứ Sử Từ Kiểu, tiếp theo có Từ Hoạt đều là Tông nhân. Đến tháng 5 năm Kỷ mùi (779) thuộc niên hiệu Đại Lịch, Sư thị tịch tại Bổn Viện, thọ tám mươi chín tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. An táng tại chỗ ở xưa kia của Sư thuộc phía Bắc chùa, nhân đó xây dựng tháp thờ.
Từ trước đến sau, Sư đã tự chứng minh hai mươi bảy giới đàn, đệ tử thọ giới hơn ba muôn người. Lúc Sư thị tịch, ở trong thất nghe có tiếng nhạc trời để chứng nghiệm sự vãng sanh. Sư thường tụng Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niếtbàn, giới bổn Đại thừa và Tiểu thừa. Lấy từ khẩu nghiệp và đức hạnh chẳng về Đâu-suất, chẳng sanh Tịnh Độ, không ai có thể bàn luận được nơi chốn Sư hướng sanh.
Thích Nghĩa Tuyên, người xứ Tấn Lăng. Sớm gieo gốc lành, nghiễm nhiên xuất tục, chẳng phiền thầy chỉ dạy, Sư quyết tâm giũa mài. Sau khi đã thọ pháp, Sư chăm chăm vào Luật khoa, chẳng để thời gian luống qua không. Bên cạnh là Huyền Nho Sư cũng kiêm thông, tăng trưởng Thiên Chương, cuối hỏi tiệp cấp, mà bẩm thọ phong thái của Cung nhượng, ở Diên Lăng, Nhã đắc thể của Tỳ-ni.
Ban đầu ở Dương Châu, Ngài Pháp Thận mở mang truyền bá cựu chương, học chúng ở vùng Hoài Điện tôn xưng là Thạc Tượng. Khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), Sư lặn lội đi, tìm hỏi càng sâu, đồng bạn đều noi theo kính phục, Ngài Pháp Thận khen ngợi rằng: "Thật đáng sợ!" Ngài tuyên giảng bộ Sự Sao của luật sư Đạo Tuyên ở Chung Nam, đến thỉnh nghiệp tại sân của Luật sư Châu, khảo hạch rất tinh tường, Ngài bèn soạn bộ "Chiết Trung Ký" sáu quyển để giải thích. Bởi có sự dung tế thẳng thắn hơn các vị kia có chỗ lầm lẫn. Khiến những điều thị phi đều tự hết, và mọi người khỏi y cứ vào Tông mà gièm pha. Do đó mà đặt ra tên gọi.
Tỳ Lăng xuất sanh ra nhiều danh sĩ, trong đó, chư tăng có các vị Tam Tuyên, Tuệ Đức, Nghĩa Thị. Lúc ở tại Giang Đô tập nghiệp Sư cùng với Đàm Nhất ở Cối Kê, Hoài Nhất ở Mân Xuyên, Linh Nhất ở Khánh Vân đều là bạn đồng môn. Tại Tấn Lăng đã có Tam Tuyên, Ngài Pháp Thận lại xuất sanh ra Tam Nhất. Giang Biểu giúp cho Mỹ đàm, cuối niên hiệu Thiên Bảo (756), Sư hoằng hóa khai dẫn đạo rất thạnh hành, không biết về sau Sư mất ở đâu.
Liên quan thử bàn:
Phàm danh (tên) là để chế nghĩa, nghĩa sanh ra không cùng. Vì sao thầy trò dẫm gót lên nhau mà phạm húy của Giáo Tổ? Thông đáp: Vào thời Xuân Thu, sang hèn chẳng ngại đồng hiệu.
Hoặc có người nói rằng: Thái Tề chẳng địch nổi câu thư Hầu, mới nói là chẳng ngại đồng hiệu, hiệu và danh đâu được lệ theo điều đó. Thông đáp: Hiệu lớn chẳng hiềm, danh nhỏ hiềm gì. Huống gì "Nghĩa Tuyên" mới đầu đó là danh (tên người), đâu biết được đệ tử mình thành đạt sự nghiệp dưới cửa Chung Nam ư? Nhưng, người xuất gia hẳn không phòng ngại. Một phần thì, tánh (dòng họ) đã lấy Hoa theo Phạm, đều xưng là họ Thích, và một phần thì ở Tây Vực không có húy, đây là hợp theo. Vả lại, húy của người thời nhà Chu dùng để phụng thờ Quỷ thần. Trong thời nhà Hạ, nhà Thương không có húy điều đó rõ ràng. Huống gì Tuyên sư đã sanh lên Đâu-suất, nhỏ thì làm trời, lớn thì làm Bồ-tát, đâu nên lấy Quỷ thần mà phụng thờ đó sao? Còn như, đầu đời Đường, những bậc Cao Đức Thắng sĩ thường chỉ còn một chữ "danh", chức là cùng cực của húy, thuộc tu soạn ngày nay mới khuyết văn. Mới biết rằng Chân Đế không húy, tục đế nghe tương tự thì lo sợ.
Hoặc có người nói rằng: Sa-môn đời nay dòng họ đã là họ Thích, Danh lại không húy, nói ta chẳng theo Tục Đế, cớ sao đối với Quân Vương mà xưng là thần (bề tôi), chẳng là ở Tây Vức có vậy sao? Thông đáp: Tánh danh chẳng đối với Vương giả, thần thiếp biểu sớ hợp nhiên. Xưa kia, vua nhà Tề hỏi Vương Kiệm, bèn bảo hễ gặp thì xưng danh. Từ đời Hán đến đời vua Túc Tông; thời nhà Đường, mới thấy xưng Thần, từ đó noi theo mà chẳng sửa đổi. Cũng bởi Sa-môn đức mỏng ngày một suy vi, hễ đi thì chẳng trở lại. Thêm nữa, pháp nương vào Quốc Vương, nên thật khó sửa đổi. Vương bảo làm vậy là khuôn phép chớ sửa đổi. Nên Phật dạy "Tuy chẳng phải do ta chế, nhưng các phương vì sự thanh tịnh, mà đặt ra thì chẳng thể không thực hành".
Thích Biện Tú, họ Lưu, là cháu đời thứ 31 của Hán Sở Vương Giao. Sư mồ côi từ thuở bé. Chư phụ ai tự, Sư lễ kính như sự dạy răn, lập hiếu tự trời sanh, sớm gieo trồng duyên sâu, ruộng tâm sắp chín muồi. Nhân đó, Sư xin người bác họ được xuất gia tu hành, người bác buồn thương mà cho phép. Sư bèn thờ Thiền sư Mưu ở Linh Ẩn để có thể hỏi bến bờ, đồ họa ý vào đạo. Với điều nghe được chỉ dạy như gió mát vào lòng, Sư tỉnh nhiên thanh thoát tỏ ngộ.
Niên hiệu Thiên Bảo thứ 4 (745), Sư thọ giới với Đại Sư Giám Chân tại Đông Hải, được ngài Đàm Nhất ở Cối Kê truyền luật. Vào niên hiệu Chí Đức (756-758), Sư đề cử những bậc cao hạnh thuộc danh vào chùa Khai Nguyên ở Quận Ngô. Đến niên hiệu Càn Nguyên (758-760), vua Túc Tông ban chiếu cho hai mươi lăm ngôi chùa trong nước, mỗi ngôi đều cử bảy vị Đại đức lớn giảng giới luật, Sư bèn ra ứng trong số đó. Trong khoảng một năm, đối với pháp môn Tịnh Độ, Sư chẳng sai lầm nơi niệm, Sư từng nói với mọi người rằng: "Xưa kia nghe nói hạnh của Tây phương có tướng Đại thừa. Đó mới là bày tâm không thẳng, chẳng phải thuyết của Đạt Quán. Vì sao? Vì hễ mở lời tức tánh, phát ý đều như, và một sắc một hương không gì chẳng phải là Trung Đạo. Huống gì chính ta có chánh niệm ư?"
Sư đã mười sáu lần lược dự chứng Đàn Tràng, Độ người cơ chế, then chất giới luật chánh trì, Tăng cương tự bằng lòng. Khắp năm bắc Hồ Châu đều kính ngưỡng. Đến ngày 15 tháng 6 niên hiệu Kiến Trung thứ nhất (780), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, ba mươi lăm hạ lạp. Trong ngày Sư thị tịch, trong sân có một gốc cây cành lá phù sơ, buổi sớm hoa nở mà vội tàn tạ rụng rơi. Đến ngày mồng 5 tháng 7, đón rước linh khám an táng ở tháp đến bên phải cửa Tùng của chùa Võ Khâu tây.
Sư có các môn nhân như Đạo Lượng, Đạo Cai, Thanh Hội đều là những cây thơm vây quanh chiên đàn vậy. Nên Quán Sát Sứ Vi Nguyên Phủ Lý Thê Quân, Quắc Châu Thứ Sử Lý Trử, Ngự Sử Trung Thừa Lý Đạo Xương đều hết lòng khâm phục, kính mến đức hạnh của Sư đã qua và cũng là những người bạn thâm giao dưới rừng. Tấn Trú soạn văn bia khen ngợi đức hạnh của Sư.
Thích Như Tịnh, không rõ Sư là người xứ nào. Phủ tham pháp vị, đáng thọ giới luật, sáng suốt tinh luyện tỳ-ni, giũa mài danh tiết. Bây giờ Sư thường giảng khuyên chúng bạn Vân Truân, ngôn từ nét bút dài rộng thâm đạt Nho điển.
Nguyên trước ở Quan Trung, thực hành hóa Tứ Phần Luật sớ của Luật Sư Trí Thủ, Luật Sư Pháp Lệ ở Ngụy quận soạn sớ giải hành hóa riêng biệt. Bấy giờ, Quan Phụ Hà Bắc, thường tự cạnh tranh tông phái, tợ như tham thần. Cuối đời Tùy, đầu đời Đường. Luật Sư Đạo Tuyên dùng bản đại sớ của ngài Trí Thủ làm gốc, rồi soạn san bổ Luật sao ba quyển, sao thành hội yếu, hành sự hộp cơ. Vào niên hiệu Trinh Quán (627-650) Sư lại đến, Tam Phụ, Giang Hoài, Mân Thục, thường truyền bá luật. Kế đến có đệ tử của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang là ngài Hoài Tố, trước tu học theo Sao Tông, sau bỏ pháp học của ngài Đạo Tuyên và Pháp Lệ. Đến niên hiệu Hàm Hanh (670-674), Ngài Hoài Tố soạn bộ "Khai Tứ Phần Luật ký", sau đó lấy hiệu là "Tân chương". Đến niên hiệu Đại Lịch (766780) thời vua Đại Tông, hai bộ Tân Chương và cựu sớ đắp đổi sở trường sở đoản lẫn nhau. Niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (779), nhóm họp các bậc giỏi về luật trong ba Tông để trùng định hai nhà Long Sát. Lúc đó, Sư được suy cử làm Tông chủ, nói ở truyện ngài Thích Viên Chiếu. Đến niên hiệu Kiến Trung thứ 2 (781), tấu trình hai bộ sớ giải đều hành hóa, đó là do năng lực của Sư. Bởi vì lúc Quốc Tướng Nguyên Công Tải dốc lòng kính trọng Tố Công (Hoài Tố), kính mến luật giáo, mới mời Sư làm chủ Tân sớ và soạn truyện.
Thích Giám Nguyên, không rõ Sư là người xứ nào, vốn hạnh chân minh, khuôn phép luật đạo, các vị Tỳ-kheo tiêu biểu nổi bật không vị nào chẳng xuất thân từ đó. Sau, Sư giảng Kinh Hoa Nghiêm gọi là Thắng Tập. Thường ngày cúng dường cháo cho cả ngàn người ăn, trong kho gạo thóc mới vài trăm hộc, lấy dùng mà chẳng hết, từ mùa hạ qua mùa thu mà chưa từng báo hết. Sư có sự minh cảm như thế.
Chùa Sư ở núi có nhiều sự linh ứng, có Thiền Sư Tuệ Quán thấy có hơn ba trăm vị tăng cầm đèn hoa sen vượt hư không mà đến, rõ ràng như dòng sao chảy. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), Thôi Ký Công Minh nghi đó là do yêu dị mê hoặc, nên đích thân tự vào núi trong đêm. Dự cấm bốn phía núi mỗi mặt cách ba mươi dặm không được có ánh lửa. Đến đêm thứ 3, có hơn trăm cánh đèn xuất hiện, ánh sáng mầu hồng có đến hơn ngàn thước. Ký Công tự nhiên đảnh lễ khen ngợi là chưa từng có. Lúc đó, từ khoảng cây thông đưa duỗi ra cánh tay sắc và dài chừng bảy thước, có hai vị Bồtát loáng thoáng các mầu vàng nhạt. Thế rồi, cây bách ở trước sân hóa hiện thành một cây đèn sáng tỏ như mặt trời, pha lê rải khắp, cách núi chừng khoảng ba dặm có viên ngọc báu tròn khoảng một trượng chói lòa đáng yêu. Tại cửa núi Tây lãnh treo hiện một vầng cầu vồng lớn, trên cầu có vị Phạm tăng già và đồng tử, khoảng giữa phát ra hai cây đuốc sáng rực giữa hư không, hình trạng như cùng đón rước đưa tiễn qua lại. Phía dưới có bốn vị Bồtát, cứ hai vị đứng sánh đôi phát ra ánh sáng khắp thân, cao chừng sáu, bảy mươi thước. Lại thấy sau rừng thông lớn, bỗng có biển ngạch chùa đề hai chữ "Tam học" theo lối chữ Triệu. Thêm nữa phía dưới ánh đèn rũ hai dải lụa, khoảng phía Đông Lâm ban đêm xuất hiện núi vàng. Bấy giờ đang là tháng 5, đèn hai mầu vàng bạc sáng bày ở bên cạnh phần tháp ngài Tri Huyền (Ngộ Đạt). Vi Nam Khương Cao mỗi ba tháng một lần đến chùa thiết trai hội lớn cúng dường ba trăm vị Bồ-tát. Bồ-tát hiện hình bưng đèn, chư tăng cầm hương đèn dẫn đưa vào lò tại cửa chùa.
Bạch Trung Linh Mẫn Trung thấy điềm lành hưng phát đó nên xây dựng chùa ấy. Đến niên hiệu
Đại Trung thứ 8 (854) đổi biển ngạch đề là "khai chiếu". Luật Sư Giám Nguyên hành đạo hóa độ cùng với Địa vực đều linh ứng. Đó là chính Tông của đệ tử truyền giảng ở Đông Xuyên.
Thích Chí Hồng, họ Tiền, người xứ Hạ Nhã ở Trường Thành, thuộc Hồ Châu. Sư vốn tên là Nghiễm, Chí Hồng là tự.
Thuở thiếu thời, Sư xuất tục, vào chùa làng Thạch Môn, bắt chước Lương Tĩnh Lâm. Sau khi cắt tóc thọ giới xong, Sư sang Mậu Uyển gần gũi Đại Sư Đạo Hằng tu tập nghiên cứu tinh ròng. Bấy giờ, Đàm Thanh và Tỉnh Cung rất tha thiết nhau, cuối cùng trở thành Hồng Chử. Nhưng ân hận các bậc Tiên Đức giải thích Nam Sơn Luật sao, thương lược chẳng đồng đều, phải chăng trong Tạng không chuẩn định! Bắt quyên nối liền, sau bổ túc chẳng hoàn bị. Gồm từ các vị Đại Từ, Linh Ngạc trở xuống tất cả hơn bốn mươi vị ghi chép Huyền Sao, khắc thành hai mươi quyển, đề hiệu là "Sưu Huyền Lục".
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), Hoa Nghiêm sớ chủ là Trừng Quán tìm, bèn soạn tựa đặt ở đầu, nhưng Sư giải thích đều có sở trường, nhưng khoa tiết phiền toái đó là sở đoản.
Sư thọ một trăm lẻ tám tuổi, triều đình ban sắc cho Sư hiệu là "Trường thọ Đại Sư". Gần đây, chỉ hành tên tự mà thôi. Nay chùa Song Lâm trải qua nhiều lần chiến tranh, lại thêm nước lụt nên trụ bia cột mốc đều mất dấu, càng giấu kín ngôn hạnh. Ôi! Nghiễm Công dòng tộc bổn sanh hẳn đồng với Luật Sư Đạo Tuyên ở Nam Sơn, và cũng là việc tốt.
Thích Thừa Như, không rõ Sư họ gì. Sư tinh cần nghiên cứu Luật Bộ, rất khéo giảng nói, mực thước với tăng chúng, không gì chẳng theo phép tắc.
Trong thời vua Đại Tông, với công việc phiên dịch kinh điển, Sư tham dự đảm nhiệm, ứng với Tả Hữu nhai lâm Đàn độ người, đệ tử có đến ngàn vị. Nguyên xưa kia, năm chúng xuất gia đệ tử Phật lúc quá vãng, các thứ y phục của cải mọi vật đều sung nhập vào kho của quan, nhưng trải qua nhiều triều đại đã hết bởi do đổi chôn. Sư mới viện dẫn các bộ luật nói: "Tỳ-Kheo xuất gia sống hễ được vật lợi gì, thì lúc chết vật lợi ấy quy kết về của tăng. Ý nói đến đi không vật, nếu Tỳ-kheo tham chứa nhóm, từ đây mà giảm chức do đó. Nay nếu kết quy vào của quan thì lệ đồng với sung công. Đời trước để lại việc đó bởi không người nêu lên, nay chúc văn đã rõ ràng, xin hãy vâng theo luật pháp, dứt sự khinh trọng ấy".
Ngày 27 tháng 11 niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), vua Đại Tông ban sắc rằng: "Kể từ nay, sau khi Chư tăng thị tịch, mọi của cải tùy quy kết về của chúng tăng. Nhân ban cáo trung thư môn điệp, trong nước nên y cứ!" Sư là bậc Luật tượng chẳng những trên dạy răn hai chúng mà còn, phấn phát di sự của nội chúng, lập công chẳng mất. Như Công là thế đó! Về sau Sư làm Thượng tọa cả hai chùa Tây Minh và An Quốc, có bộ "Văn Tập" ba quyển, Ngài Viên Chiếu gom góp lưu bố.
Thích Thanh Giang, người xứ Cối Kê, không rõ họ gì, thuở bé Sư đã tỏ ngộ thân bọt bóng ràng buộc nhọc nhằn! Nhân vào tinh xá, bèn luyến mến cửa không môn. Cha mẹ Sư ngăn cản nhưng khó khuyên được. Sư bèn đến lễ thỉnh Luật chủ Đàm Nhất làm Thân giáo sư, Sư đọc tụng kinh pháp, vừa ghé qua mắt liền thông. Trưởng giả phẩm lường đó mà bảo rằng: "Ngựa hay ngàn dặm của họ Thích!" Ngài đến Giới Đàn Thiên Trúc ở Chiết Dương cầu thọ giới pháp cùng các vị đồng học như Thanh Nguyên theo dưới Hòa-thượng Thủ Trực, làm đệ tử. Sư lại trở về nghe Tướng sớ và Nam Sơn Luật Sao với ngài Đàm Nhất, chỉ khoảng một năm mà tinh nghĩa nhập thần, thảy đều thông sướng và Ngài rất khéo giỏi Thiên Chương, Nho gia bút ngữ thể cao từ điển, lại chuyên tốt đẹp một góc. Bấy giờ, vì tánh Sư hẹp buồn chẳng giống như mọi người. Sư từng đối với ngài Đàm Nhất ít nhân chẳng đủ, cũng có xả bỏ gièm trách Hòa-thượng. Từ đó Sư du phương siêng năng, tất cả các pháp tịch giảng luật không nơi nào Sư chẳng đến dự. Sư tự trách mình rằng: Thiên hạ chỉ dành có một nửa, ít có ai như thầy ta!" Sư trở về Cối Kê, ngài Đàm Nhất đã già. Đang lúc chúng tăng nhóm họp, đánh bản gỗ xướng "Ai đến quy đầu Hòa-thượng nhiếp thọ". Khi đó, Sư Đàm Nhất mắng nhục, còn Sư khóc như mưa mà sám hối rằng: "Niệm trước không biết, tâm sau có tỉnh ngộ, xin Hòa-thượng đại từ ban thí cho vui mừng. Nếu như không thâu nhận thì kẻ cao vượt hơn người chẳng thể gượng bán Chương phủ!" Ngài Đàm Nhất xót thương Sư qua mấy phen cầu xin tha thiết, mới báo rằng: "Vì ngươi mà ta mang lấy dơ bẩn". Rồi trở thành thầy trò như lúc đầu. Sư có học Thiền Quán. Niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), ở Nhữ Phần gặp được Quốc sư Trung. Nhân đệ tử nói với Quốc sư Trung rằng: "Luật Sư này (Thanh Giang) là người cùng quê với Hòa-thượng". Bèn vui mừng gặp nhau, tìm đến Nam Dương, Sư lại yết kiến Quốc Sư và được mật truyền tâm yếu.
Liên hệ thử bàn:
Ngài Thanh Giang có làm bài thơ "Thất tịch" (bảy đêm). Có người nói đó là một bối trong bốn bối. Thông đáp: Thi nhân hưng vinh dụng ý chẳng thường. Tuệ Lâm có "oán biệt", Lục Cơ có "khiên ngưu tinh", Khuất Nguyên có "Sương phu nhân", há là sắc tà, đều là ngụ ngôn hưng loại ở đương thời mà thôi. Nếu vậy thì nói lửa tức là đốt miệng, nói ăn thì hết đói. Ngài Thanh Giang trước bỏ thầy, sau mới nâng cao điều tốt đẹp của thầy, bỏ quyền hợp đạo. Thật ra thơ đó là khuyên răn đời vô thường để dẫn khiến vào Phật Trí. Vì sao? Vì có thể thấy rõ ngài Thanh Giang gặp được Quốc sư Trung mà lại tỏ huyền lý, không thể dùng pháp Tiểu thừa trong nội vực mà bó buộc được.
Thích Linh Triệt, không rõ Sư là người xứ nào, bẩm khí trong trắng tốt lành, Sư chấp tháo không đổi bỏ, mà tánh tình ưa thích ngâm vịnh là sơ trường. Sư trụ tại chùa Vân Môn ở Việt Khê. Năm thành lập là năm Dự tập viễn làm văn. Sư giảng suốt không mỏi mệt, nên học chúng đến nương ở rất đông. Nên Bí thư Lang Nghiêm Duy Lưu, Tùy Châu Trường Khanh Tiền Điện Trung Thị, Ngự Sử
Hoàng Phủ Hội, trông thấy mặt luận bàn tâm bền chặt như keo sơn, phân tiếng xướng hòa danh tan bốn góc.
Sư đi đến Ngô Hưng, cùng sư Tấn Trú, ở Trữ Sơn, vừa mới gặp liền kết bạn giao du dưới rừng, khuyến khích lẫn nhau. Tấn Trú trình thư lên Bao Cát Trung Thừa, thạnh nêu bày chọn lấy câu cảnh tỉnh rất mực quan trọng, trong đoạn "Quy tương nam" viết rằng:
"Có sườn núi ven sông đợi trăng tỏ Tạm hướng nhân gian gá đi đường Như nay xoay hướng, đi bên núi Chỉ có nước hồ không lối đi".
Các tác phẩm của vị tăng (Linh Triệt) đều là khéo léo hay ho, nhưng riêng một thiên nầy khiến lão tăng tôi (Tấn Trú) muốn vụt bỏ bút nghiên. Cúi mong Trung Thừa Cao xem xét tiến như thế nào và xả bỏ như thế nào? Mới nay trong nước có bậc Đại hiền khuyên vua, liền cho là chẳng gấp can, xin nên xem nghe, cũng soi chiếu ngu lão tăng tôi chẳng đạt thời!" Nhưng Sư vẫn giữ tâm lập tiết, không thể được nhiều, Đạo hạnh Sư như Không tuệ chẳng thẹn với An Viễn. Sư lại soạn bộ "Luật Tông dẫn nguyên" hai mươi mốt quyển, làm chỗ quay về nương tựa cho chư tăng. Đến như Huyền ngôn đạo lý ứng tiếp chẳng ngưng trệ, trong khoảng gió trăng cũng đủ để giúp cao hứng của quân tử. Đó là đồng bạn kính trọng Sư đến thế. Tấn Trú lại mang thơ phụ ngài Khứ Kiến, Bao Cát kính lễ lúc gặp chẳng xem thường. Lại có Quyền Đức Dư nghe được thanh danh Sư viết thư hỏi Tấn Trú, được nghe đáp khen ngợi hết bút mực.
Từ niên hiệu Kiến Trung, Trinh Nguyên (780805) về sau, ở Giang Biểu có ngạn ngữ nói rằng: "Triệt đồng băng tuyết ở đất Việt, đáng gọi là thắng sĩ một đời, đáng phân đảnh với Hàng Tiêu Tấn Trú.
" Không biết về sau Sư mất ở đâu.
Thích Tỉnh Cung, người xứ Đông Lô, ở Mục Châu. Thuở nhỏ Sư đã nhớ dai. Có vị lão túc lấy lạm lạ về ý chí Sư lớn mà nói lời cao. Khi Sư đã nhàm chán sự trói buộc, bèn vào chùa Thánh Đức, kính mến đạo, theo thầy. Gặp lúc triều đình hạ sắc ban ân, Sư được độ xuất gia. Sư có tánh linh, thiên phát đối với đạo Tỳ-ni, học như ôn tập lại. Sư lại chọn gặp Đại sư Đạo Hằng trụ chùa Khai Nguyên ở Cô Tô là bậc Danh sư.
Ngài Đạo Hằng bảo rằng: "Tốt lắm! Ta có được Cung". Môn nhân ngày càng gần gũi, đến lúc tham cứu tinh vi, càng đi càng xa. Bấy giờ nếu có ai kích luận chỉ làm mê lầm thì xin thưa hỏi Sư, Sư đó phán định phân tách ngôi chia cong thẳng. Ngạn ngữ nói rằng: "Tận nghĩa với Tỉnh Cung, nói đến Cung, không nghĩa gì chẳng cùng tận". Sư thông đạt luật thừa, gánh vác được môn tịch của thầy như vậy. Ngài Đạo Hằng nói: "Từ lúc ta có Cung, không còn nghe tiếng xấu ác!" Sư lánh mặt lá chắp tay đáp rằng: "Con chẳng dua nịnh, chỉ kính mến đạo của thầy, như lượm nhặt lá dâu để tằm ăn, nhưng bởi sự bệnh hoạn, chưa thể nhả nhiều tơ để báo đáp cho chủ". Ngài Đạo Hằng bảo: "Trong thấy con nhả tơ năm mầu nơi vườn khách, có thể giúp cho tơ mầu, lời nói quá khiêm nhường". Về sau, Sư đáp lại lời thỉnh của Duy Dương, rộng dạy dỗ đồ chúng. Nhưng Sư hết lời thư hoàng phẩm tảo, che giấu nghĩa xưa nay. Trong đồ chúng, những vị thông minh tài giỏi đều tự ghi chép lại, đều có thêm nhuận sắc, đặt hiệu là "Thuận Chánh ký" mười quyển, ban bố lưu hành. Ngài lại soạn bộ "Phân khinh trọng vật nghi biệt hành Duyên tập" mười ba chương môn. Sư đều nêu ra, còn thêm gần đây hiện có các vật trọng khinh, rất là yếu dụng. Sư lại là bậc tài cao về Nho học nên soạn văn bia tán tụng rất nhiều. Vì Sư có hành hóa ở Hàn Cấu nên gọi là "Hoài Nam Ký Chư", tự lấy hiệu là "Thanh lãnh sơn Sa-môn".
Thích Thần Hạo, tự là Hằng Độ, họ Từ. Tổ tiên đời thứ 8 của Sư bày vẽ Tề Cảnh Lăng Vương Tây Đề Học Sĩ. Tử Lăng Lương Thượng Thư Tả bộc xạ. Văn ấy nổi tiếng ngang với Dữu Tý. Đến khi nhà Trần mất nước, nhân giúp Ngô ấp bèn dời nhà đến Cô Tô, Sư mới là người Quận Ngô. Ngài thiên tánh điềm đạm thanh khiết, phong vận sáng ngời cao xa. Từ thuở bé đã mong dáng dấp thoát tục, tìm đến nương tựa Nhất Công ở đạo tràng Long Tuyền xứ Tiền Đường xin xuất gia.
Niên hiệu Thiên Bảo thứ 6 (747), vua Huyền Tông ban chiếu dán bảng lựa chọn các bậc chân hạnh, mỗi châu được độ ba vị. Sư được đề cử ở đầu, nhân đó mà thuộc tăng tịch của đạo tràng Phước Nguyện ở núi Bao. Ban đầu, Sư đăng đàn thọ giới cụ túc với Đại sư Hưng, Sư học thông luật sao với ngài Đàm Nhất. Kế là giảng luật sao, năm lần lên đàn tràng, Sư bèn nương thuyền trở về núi Bao, khiến cho ông lão nhà quê cắt cỏ, tiểu đồng ở núi quét đá, tiêu dao nương náu tiêu tức, thoáng chốc sửa thêm phòng nhà.
Niên hiệu Càn Nguyên thứ nhất (758), vua Túc Tông ban chiếu 27 chùa trong nước, mỗi chùa đề cử tấu trình bảy vị Đại Đức lớn để giảng giới luật. Nhân đó mà thỉnh Sư trụ chùa Khai Nguyên. Sư muốn tròn sở nguyện lại sợ giản thư, bèn gắng theo mạng lệnh. Đệ tử vâng giữ giới pháp Thứ sử Khai Châu là Lục Hướng tiền cấp sự Trung Nghiêm Cổn Phục Đạo. Đệ tử Lễ Bộ Thị Lang Lưu Thái Chân, Tiền Đại Lý Bình Sự Trương Tương. Đệ tử khâm trọng Đạo phong ở Sư như Tiền Liêm Sứ Á Tướng Lý Thê Quân thỉnh Sư Cương nhậm Hải Ngung, một ấp mà tăng chúng ba lần biến động đến đạo. Đến cuối năm công việc được viên Tông. Sư an trí riêng tại Tây phương Pháp xã, tụng kinh Pháp Hoa hơn chín ngàn bộ.
Đến tháng 10 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 6 (790), Sư đang trụ tại chùa Khai Nguyên, bị mắc bệnh, qua tháng 12 Sư dặn dò với đệ tử Duy Lượng rằng: "Sau khi ta xả bỏ báo thân, hãy mang về động đình chốn núi cũ xây tháp" và Sư nói pháp mà thị tịch. Đêm đó sắc trời lưu ly tinh chất như mưa, dấu hiệu Tây phương thầm hiện ở trước, Sư thọ bảy mươi lăm tuổi, bốn mươi ba hạ lạp. Sư có môn nhân đệ tử Duy Lương là bậc có văn có đạo; một mình một bóng ở đương thời, giữ việc lễ tang của thầy, chẳng vì chứng đắc mà phế bỏ giáo môn.
Sư có các đệ tử được truyền pháp như là: Đạo Siêu, Linh Tuấn, Đạo Tuấn, Đạo Lăng, Duy Nhượng, Duy Thành đều là những bậc tài giỏi một thời. Tấn Trú làm thần pháp, soạn bia văn khen ngợi đức hạnh Sư.
Thích Tạng Dụng, không rõ Sư là người xứ nào. Sư là con người bạt tục, đến nương tựa Không Công ở núi Thê Tung, tôn sùng làm thầy, đến tuổi ứng pháp, Sư nương tựa luật sư Cự ở phần Xuyên thọ thượng phẩm hình câu pháp. Sư tìm đến giảng tịch của Nghiệp Công ở Lạc Trung, nghiên cứu tìm kiếm văn luật, theo chỗ sâu mầu huyền diệu, không đâu Sư chẳng đến.
Đến khi nghe có môn học Thiền Quán, Sư bèn đến đất Lô, vượt qua Hoắc, lội dòng Hán, trôi nổi sông Tương, vọng hướng tòng lâm của song phong. Sư lại trở về khai pháp ở chốn kinh kỳ. Đạo Sư đã tinh túy, dạy răn lại bình đẳng phô diễn, hòa nhã tự nhiên làm vật khuôn pháp, hưởng phong tông trọng. Vào niên hiệu Kiến Trung (780-784), Sư đã mãn ba mươi hạ lạp, bỗng ứng chiếu mời sung vào giới đàn đứng đầu pháp tịch. Sư tiếp tục độ đệ tử rất nhiều. Đến lúc Sư trở về, trụ tại Hóa Tháp ở Đông Thành, là nơi ở của em vua Đại Tông. Lại suy cử Sư làm chủ cương nhậm. Các hàng Tỳ-kheo cho đến Sa-di đều tuân phục kính sợ. Chiếu trải mời mời khách đến để khai đàm, chỉ có Hành Sơn Thạch. Vì có biết tiền thân, truyền bát của Tào Khê, vì có biết mé sau. Vì vậy cửa ngõ lắm vết của Trưởng giả, phòng nhà đầy ắp đồng bạn độ người, lợi vật tốt sâu, ngồi giữ nhã tục.
Vào niên hiệu Trinh Nguyên (786-805), Tả Ly Chánh Lang Vương Quyên, Nam Đài Thôi Công Kế hòa theo đó, như thế mấy vị cùng bàn luận tiêu đề. Binh Bộ Chánh Lang Trình Hoạt làm Đồ tự, Chức Phương Chánh Lang Tri chế cáo, Ngô Thông
Vi ghi chép. Lúc đó là năm Mậu Thìn (788) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 4.
Sư lớn lên từ luật học, gấp giữ nhậm trì, làm bậc khuôn phép tiêu biểu ở Thượng Đô.
Thích Chân Thừa, họ Thẩm, người xứ Đức thanh. Cha là Huyền Vọng Hiếu Liêm Cử Điều Duyên Châu Tư Mã. Lúc mang thai, mẹ của Sư có điềm ứng ánh sáng thần mùi thơm lạ. Có người biết chuyện, bảo rằng: "Nhà họ Thẩm ắt là thế gia đại tộc!" Đến lúc sanh Sư thì như Hoài Vĩ. Lúc lớn khôn cư xử với mọi người trong tông tộc, Sư tợ như kỳ thọ ở giữa các cỏ cây. Đến độ tuổi tết tóc, Tư Mã dùng văn học để dẫn dụ Ngài, khuyên lo tu sửa Quan Nghiệp, vả lại, Sư lo lắng, tỏ vẻ chẳng đặng đừng. Ở chỗ vui chơi thì Sư đem tượng Phật ra ban bố. Cha của Sư xem xét tập khí đời trước, quả nhiên xin xuất gia. Gặp được Ngạn Lỗ Công cho phép thi kinh sẽ được độ, lúc đó Sư đã tụng đọc thuộc lòng được năm trăm trang kinh, thử bảo Sư tụng, không sai sót một chữ, Đại Kiến khen lạ.
Sau khi xuống tóc, Sư được phối vào ở tại chùa Bát Thánh Đạo và đắc giới tại đó. Sau, Sư đến nương tựa Đại sư Thường Tấn ở chùa Thông
Huyền, tập học tỳ-ni. Ngài Thường Tấn thấy Sư tài giỏi, nên răn bảo trong đồng môn rằng: "Chân Thừa tuy trẻ tuổi, nhưng không thể đem Bá Trọng đế so sánh". Sau, Sư đến phương Tây lên chùa Vân Hoa ở kinh đô tập học Pháp Hoa Thiên Thai sớ nghĩa, tiếng tăm vang xa. Sau đó, chúng tăng chùa Chương Tín thỉnh Sư giảng pháp. Như kẻ say ngàn ngày chỉ một lần nghe mà tự tỉnh, tợ kẻ mê trọn đời vừa tạm nghe mà tỏ ngộ hẳn. Với kinh luật, thông suốt, Sư đều giảng giải không thiếu sót. Tịch rất thạnh hành, xán lạn kinh ấp.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (795), Công Đức Sứ Lưu Đại Phu vì vua Đức Tông đến chùa An quốc trình với Sư thay đổi để chuẩn bị ứng đối, sung vào số Đại Đức cung phụng. Lúc đó, thầy Sư cũng không ngăn ngại gì. Cũng muốn đạo nghiệp thật nhờ ân mưa móc, tấu cử Sư vì nước nhà mà cầu phước không trệ ngại. Bỗng nhiên mộng thấy Sư cầu một đóa hoa sen trắng đi về phương Nam. Tự nhiên, Sư bị bệnh nên xin trở về vườn quê. Vua Đức Tông ban sắc chấp thuận. Sư đã về đến đầu làng thì Bổn Quận Thú Lý Công Kỳ Điền Công Đôn Chiếc Đông Suất Tiết Công Giới đã bước chân tới cửa mời Sư lên pháp tòa, hoặc vội mang thẻ mà mời tới giới đàn. Sư bức bách vì pháp duyên thảy đều là gắng gượng. Do đó, tám lần sư làm tòa chư luật học, bốn lượt Đăng Đàn làm Chánh viên. Hễ Sư dạy răn trao truyền độ người, nếu có ai dâng cúng khăn giày v.v... để kết duyên, thì Sư không bao giờ nhận một vật gì. Sư đến núi Ngũ Đài, đảnh lễ Thánh dung Bồ-tát Văn-thù, thấy tướng điềm lành không thể nói xiết. Sau, Sư trụ tại chùa Hộ Quốc, lễ kinh Phật danh một trăm biến. Ngoài sám pháp ra, Sư còn tuyển soạn "Pháp Hoa Kinh Giải sớ ký" mười quyển.
Đến tháng mười niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 (821), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch tại Bổn tự. Sư rất tinh thông luật pháp, lại có sở trường giảng nói. Đến ngày 13 tháng 10 niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (822) trà-tỳ nhục thân Sư tại góc phía Tây thôn Thiều, đó là tuân theo di mạng của Sư. Úy Vương Chân ở huyện Vạn Niên xây dựng văn bia, ghi lại đức hạnh Sư.
Thích Đạo Tiêu, người xứ Phú Dương, họ Tần, tổ tiên xa xưa của Sư và cùng với Doanh (Tần Thỉ Hoàng) là cùng một họ, trải qua nhiều đời là một dòng họ lớn ở Thiên Lũng. Đến lúc nhà Tấn dời về phương Đông thì Sư cũng mang áo mão mà theo, sau trở thành người xứ Hàng Châu.
Từ Cao tằng đến vua cha, dòng họ Sư đều giữ lấy Nho nghiệp, chẳng chịu làm quan, nên khắp cả châu lý đều tôn sùng. Sư lúc mới sanh thì sáng suốt, lúc lớn lên thì chí thú sâu xa, khi về già càng vững chắc. Nhân lương thiện có từ đó. Năm bảy tuổi, Sư có thần sắc trong thanh, khí lực tốt lành, chẳng xen tạp như bao trẻ nhỏ khác. Chợt có vị Đại Sa-môn đưa tay xoa đầu Sư, bảo rằng: "Đứa trẻ này đôi mắt sáng đẹp như hoa sen xanh, có phải chăng là oai phụng của dòng họ Thích ta ư? Nếu có thể bỏ nhà thế tục thì sẽ có tiếng tốt. Nếu không như thế thì cưỡi mây mà nhìn ngắm trời Hán. Ta không thể biết được!" Người cha chấp nhận lời thỉnh, Sư bèn làm đệ tử Hòa-thượng Bạch Vân Phong Hải ở núi Linh Ẩn. Trên núi Diệu cao chỉ có Nhật Nguyệt là sáng đẹp. Trong cung Ta-kiệt-la hẳn nhiên chứa nhóm mây sấm.
Niên hiệu Chí Đức thứ 2 (758), vua Túc Tông ban chiếu những ai trong hàng tại gia thông suốt kinh Phật bảy trăm trang thì được độ làm Tỳ-kheo. Sư đứng đầu trong số lựa chọn đó. Và trong ngày đắc độ, được ban phối ở chùa Thiên Trúc. Đầu niên hiệu Vĩnh Thái (765), Sư cầu thọ giới Cụ túc luật sư Khải ở chùa Linh Quang. Ngài giữ giới trang nghiêm. Người đương thời suy tôn Sư là bậc giảng nói Tỳ-Nại-Đa-La, không gì chẳng thông suốt. Về độ người thọ giới, Sư đã sáu lần đăng đàn làm khuôn phép cho chúng. Suốt mười hai năm, đặt xuống mẫu ruộng, hằng năm thâu lấy muôn hộc, đặt để của cải vô tận, chung với cùng chúng.
Vào niên hiệu Trinh Nguyên (785-805), Sư cho là việc chùa đã sung túc, ta nên nghỉ ngơi, mới chọn được phía dưới Tây Lãnh là nơi cao sáng, bện cỏ làm nhà, chẳng can dự việc người, lấy đó mà nuôi dưỡng hạo khí. Ngoài việc kinh hành, Sư rất tôi luyện thi chương, từ thể cổ kiện, sánh với Phan Lưu. Đương thời, ở Ngô Hưng có Tấn Trú, ở Cối Kê có Linh Triệt cùng nhau đáp xướng lần lượt làm sánh ca. Nên người đời nói là: "Ở Tấn có Trú hay trong nhã, ở Việt có Triệt suốt cả băng tuyết, ở Hàng có Tiêu sờ đến mây xanh, thường bay chương ngụ vận hư, trúc đêm hoa ngày. Ba vị thượng nhân ấy đáng địch cả bốn mặt. Do đó mà Từ Lâm nhạc Phủ từng lượm nhặt tiếng thơ của họ". Vì vậy, Hữu thứ tử Cô Tàng Lý Công Ích viết rằng: "Dưới trọng danh quả thật có văn đó". Khi trở về phương Tây, đến chốn kinh đô có đem khoe soi sáng. Thêm nữa, Cảnh Lăng Tử Lục Vũ nói rằng: "Phàm nhật nguyệt, vầng mây là Thiên Tiêu, núi sông cỏ cây là Địa Tiêu, suy đưa tài năng quy về tốt đẹp là Đức Tiêu, sống nhàn ưa vắng là Đạo Tiêu, danh thật song toàn phẩm tảo tương đương". Từ đó về sau, tiếng tăm danh giá của Sư vang bóng đến chốn công khanh, nên thâm thiết với Sư có các vị như Tướng Quốc Lý Công Cát, Phủ Đại Tư Không Nghiêm Công Thụ, Hữu Bộc Xạ Hàn Công Lao, Lễ Bộ Thị Lang Lã Công Vị, Cốt Hào Tiết Chế Lô Công Quần, Tương Dương Tiết Chế Mạnh Công Giản, Đồng Châu Thứ Sử Lý Công
Phu, Phụng Tường Duẫn Tôn Công Thọ, chiếc Đông Liêm Sứ Giả Công Toàn, Trung Thư Xá Nhân Bạch Công Cư Dị, Tùy Châu Thứ Sử Lưu Công Trường Khanh, Hộ Bộ Thị Lang, Khâu Công Đan, Ngoại Lang Bùi Xu, Bí Các Nghiêm Duy, Tiểu Giản Chu Phóng Việt, Liêm Vấn Tiết Nhung Tịch, Bái Lô Nguyên Phụ, Thường Châu Thích Nguyên Hạo, Thượng Đô Thích Trí Sùng, Nhuận Châu, Thích Nam Dung, Kim Hoa Thích Càn Phụ, Ngô Môn Thích Quang Nghiêm Thích Trí Sùng ở Thượng đô v.v... đều là những vị tâm giao ngoài trần, phân hợp trong rừng. Muôn cảnh đều không, xua đuổi để tạ ngự, năm núi đầy mắt, đứng làm cương trường, văn hùng mà lại cổ xúy chẳng suy, Thần Vương một lần đánh tự thắng!
Đến niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (823), Sư thị hiện bị bịnh nhẹ, tới ngày mồng 7 tháng 6, Sư thị tịch tại lan-nhã; nơi Sư ở. Đến ngày mồng 3 tháng 10, an táng tại Cựu Sơn, Sư thọ tám mươi bốn tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Ngài có các đệ tử: Như Biện, Hạnh Kiệm, Tỉnh Ngôn, Thường Kiệm, Trí Du, Nhật Siêu v.v... đều là những vị đắc pháp từ Sư, kính làm theo chẳng dám nhàn rỗi, vườn không vây quanh chiên Đàn hận đầy nơi hang đá. Đến nay dân chúng ở Hàng Châu tôn xưng Sư là "Tây Lãnh Hòa-thượng". Niên hiệu Khai Thành thứ 5 (840), Trịnh Tố Khanh ghi chép đức hạnh Sư khắc văn bia khen ngợi dựng tại gò phía Đông núi Thiên Trúc, hiện nay vẫn còn.
Thích Đàm Thanh, không rõ Sư là người xứ nào. Thuở nhỏ Sư gìn giữ biên bức, không lầm lẫn phương hướng. Vì cẩn trọng nghiên cứu tận cùng ý chỉ Phật, mới mong dù đến viện Ngô Bắc, nơi Pháp Hội của Tông sư Đạo Hằng, cùng với Tỉnh Cung còn trước sau Đằng Tiết. Sư lưu lại Nam Nhạc hoằng hóa đồ chúng.
Gặp hội trong niên hiệu Nguyên Hòa (806821), kiết giới tại chùa Long Hưng ở Mân Châu. Bấy giờ, ngài Nghĩa Tung giảng bày Tân Sớ là bậc tài giỏi trong bối lưu, nhân đó nói rằng: "Trong luật Tăng-kỳ nói "Ngang bảy cây cùng đi, chỗ ông tác pháp yết ma, gọi đó là khéo làm yết-ma. Chuẩn định bốn mặt đó đều lấy ba mươi sáu bước v.v... " Như vậy, giới tự nhiên y cứ khiến giới tăng tác pháp lên, đợi đến lúc tập hết, Sư rộng nêu bày vấn nạn. Như vậy qua lại kinh châu vượt tỉnh, Dưới Lưỡng Nhai, Tân Cựu Chương, Nam Sơn Tam Tông cùng định đoạt. Ngài Nghĩa Tung thiếu lý. Bấy giờ, tướng lệnh Cô Sở Do làm lễ Bộ Ngoại lang phán chuyển, điệp văn chuẩn cứ lưỡng nhai truyền luật quyết đoán lấy nghĩa của Sư làm chính, trong thiên hạ xướng tiếng. Sự mạnh mẽ gìn giữ kỷ cương, có khả năng đến thành vực. Sau, viết lại ký hiệu là "Hiển Tông".
Liên hệ thử bàn:
Ngài Đàm Thanh từ Tông Nam Sơn quật khởi biệt phong. Cùng với hai ngài Nghĩa Tung, và Ngộ gặp nhau hẳn là phân tranh địa thế. Ngài Đàm Thanh quả thật được tài tuấn, huống gì là cao sáng, ít dùng văn luật, ba góc chẳng trái. Đã thành Đồ Trạng, học giả rất mực truyền bá, còn ngài Nghĩa Tung như trấn giữ ở đáy biển. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860), các ngài Huyền Sướng, Công Tiến còn thêm khen chê, chê ngài Nghĩa Tung chuyển trầm trong vĩ lư.
Thích Viên Chiếu, họ Trương, người ở xứ Lam Điền, thuộc Kinh Triệu. Năm mười tuổi, Sư dốc lòng nguyện xin nương tựa luật sư Cảnh Vân ở chùa Tây Minh. Ngài Cảnh Vân cũng là bậc tài giỏi một phương, bốn bộ quy tâm kính mến.
Sư đang là Sa-di mới thọ giới cụ túc, kính cẩn chấp trì như yêu quý vật báu. Sư nghiên tầm kinh luận, nương thầy thưa hỏi các kinh Duy-ma, Pháp Hoa, Nhân Minh, Duy Thức, Niết-bàn, Trung Quán, kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch, v.v... hoặc vào sâu đường hoàng, hoặc lược theo nhiễm chỉ, bên cạnh đó còn tìm học Nho Mặc, lại chuyên khéo phong nhã. Đối với luật tạng như trân châu, Sư chuyên tham nhật dụng. Sau thì Sương Đàn bỉnh pháp, nhạn tựa độ người, đến niên hiệu Khai Nguyên (713-742), vua Huyền Tông ban sắc lựa chọn các Sa-môn danh đức tham dự việc phiên dịch, Sư mới dự vào. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778) thời vua Đại Tông, Sư lại vâng chiếu lưỡng nhai, cùng mười bốn vị Đại đức làm đàn, đồng đến chùa An Quốc để đoán định sự phải trái của hai bản Tân sớ và Cựu sớ, bởi vì hai tông đều thạnh. Cả hai kẻ mạnh tranh nhau, ngư ông được lợi, đánh nhau sẽ tổn thương chân thầy. Đã luôn tranh giành lời tiếng, lắm vang đến tai vua. Nên có sắc chiếu bảo đem hai bản luật sớ quyết định thành một nhà. Lúc đó, Sư v.v... soạn lời tựa tấu trình rằng: "Căn cứ Tứ Phần Luật Bộ Chủ, tiếng Phạn gọi là Đàm-Vô-Đức, đời Tần dịch là Pháp Tạng. Từ năm Nhăm Dần tức niên hiệu Hoằng thỉ thứ 5, đời Diêu Tần, ngài Tam Tạng Pháp sư Phật-ĐàDa-Xá, đời Tần dịch là Giác Minh, người nước Kếtân, tụng ra bản Phạn, Sa-môn Trúc-Phật-Niệm nghe và ghi lại thành bốn mươi lăm quyển. Đến năm Mậu thân, tức niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 11, ngài Chi-Pháp-Lãnh lại từ Tây Vực mong bản Phạn đến ở chùa trong thành Trường An, so sánh hiệu đính lại, đến năm Tân Hợi tức niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 14 phiên dịch mới xong, do các Samôn Tuệ Biện v.v... biên chép thành sáu mươi hai quyển. Sau, vào đời Ngụy, có Luật sư Đạo Phú, do dưới sự giảng dạy của ngài Pháp Thông mà biên tập thành sớ sáu quyển. Kế đến, có ngài Đạo Huy soạn sớ bảy quyển. Trong đời Tùy, có ngài Pháp Nguyện soạn tài sớ mười quyển. Từ đời Đường thống nhất đất nước, bốn phương xương cao, Tam bảo thêm ngời sáng, có Luật sư Trí Thủ Soạn bộ sớ mười hai quyển, tiếp theo, Luật sư Tuệ Mãn soạn sớ hai mươi quyển, mỗi bộ phụng sự một thời, lưu thông chẳng dứt. Mãi đến niên hiệu Mậu Dần (618) tức niên hiệu Võ Đức thứ nhất, có Luật sư Pháp Lệ trụ chùa Nhật Quang ở Tương Châu soạn sớ, đến năm Bính Tuất (626) tức niên hiệu Võ Đức thứ 9, mới hoàn thành mười quyển. Phần chính nương tựa vào Luận Thành Thật. Nay gọi đó là bản cựu sớ. Đến năm Canh Ngọ (670) tức niên hiệu Hàm Hanh thứ nhất, thời vua Cao Tông, có Luật sư Hoài Tố trụ chùa Thái Nguyên tây, soạn bộ "Khai Tứ Phần Luật Tông ký" mười quyển, phần chính y cứ các Luận căn bản thuyết nhất thiết Hữu Bộ Tý-Nại-Da, Câu-Xá, v.v... Nay gọi đó là "Tân chương sớ". Đến thời Hoàng Đế của ta vâng theo di chúc của Phật, khâm chuộng Sa-môn, kính tín Đại thừa, vâng theo Mật giáo, thấy hai bộ Luật sớ truyền trao, mỗi bộ tự chuyên môn, học giả đông đúc như rừng, chấp chặt kiến giải khác nhau, đã mấy lần nổi lên tranh luận. Thánh từ nghĩ thương muốn dứt cội gốc đó, khiến như nước với sữa không trái mà chỉ một vị hòa hợp".
Bấy giờ, vua Đại Tông sai Nội Cấp Sứ Sự Lý Hiến Thành tuyên cáo sắc chiếu câu đương các chùa ở kinh thành, Công Đức Sứ Trấn Quân Đại Tướng Quân Lưu Sùng Huấn tuyên cáo sắc chiếu rằng: "Các bản Tân sớ, Cựu sớ của Luật Tứ Phần, nên ban sắc lệnh các Đại đức Như Tịnh v.v... lâm đàn, đến luật viện tại chùa An Quốc đều cùng định thành một bản sớ để truyền bá. Mười bốn vị Đại Đức ở Lưỡng Nhai lâm đàn đều nhóm họp tại chùa An Quốc, sai Trung Quan Triệu Phụng thuyên sắc Thượng thực cục sách lo trai thực 1260 vị, và quả thật bày một việc trai chúc, như trên mà ứng phó". Tức ở chùa An Quốc cúng dường mười bốn vị tăng như Tuệ Triệt, Như Tịnh v.v... và dâng cúng trai thực sung suốt chín mươi ngày, dùng hai mươi lăm... phần giấy bút mực. Sung các Đại Đức Như Tịnh v.v... đều định dụng Luật sớ, kiêm hỏi các Đại Đức mỗi vị có được khỏe chăng? Lại ban sắc Tam cương chùa An Quốc đều định Luật sớ viện, tất cả Tăng tục đều không được vào. Nếu ai trái phạm thì ghi tên tấu trình lại v.v...
Bấy giờ, các ngài Đàm Thúy ở chùa Thiên Trường, Sùng Duệ ở chùa Tịnh Trú, Đạo Thúy,
Hưng Thử ở chùa Tây Minh, Bảo ý, Thần Lãng, Trí Chiêu, Siêu Sài ở Bổn tự (chùa An Quốc), Siệu Chứng ở chùa Sùng Phước, Như Tịnh ở chùa Tiến Phước, Duy Các ở chùa Thanh Long, Hy Chiếu ở chùa Chương Tín, Huệ Triệt, Viên Chiếu ở chùa Bảo Thọ cùng dâng biểu tạ. Vua Đại Tông lại ban chiếu đáp rằng: "Các sư v. v.. trọng đạo y kinh, công vượt tự giác, vâng thừa ý chỉ sâu kín của Tuyết Cung, làm gió mát nơi nhà lửa, Luật Tứ Phần nghi, then chốt của Tam thừa, phải quy kết tổng hội, dứt hẳn nhiều môn. Một nước mà ba vua, ai chịu lỗi quấy. Sơ cơ mờ mịt mê lại nhiều lỗi, bèn ban Hữu ti hèn mọn cung cấp tư phí, lao phiền bút tước, đợi thấy vừa thành. Có sự cảm tạ phải biết". Hôm ấy, phẩm quan Dương Sùng Nhất tuyên cáo sắc chiếu ban Tam cương hai chùa Tiến Phước và Ôn Quốc, kiểm hiệu tăng ở viện Tịnh Độ v.v... trang nghiêm đạo tràng, cho phép chư tăng hành đạo, mời năm mươi bốn vị bắt đầu từ ngày mồng 1 tháng nay (có lẽ trong năm 778?) tụng kinh lễ Phật, sáu thời hành đạo cho đến ngày mồng 1 tháng 2 năm sau thì bãi tán. Ở đó lo việc trai thực, liệu toan mỗi việc như trên. Ban sở ty cầu cúng, nên mỗi người tự kính thành, thăm hỏi các sư có khỏe chăng v.v... đến lúc giải đạo tràng, Trung Quan Lý Hiến Thành tuyên cáo sắc chiếu ban các Đại Đức Lâm đàn ở chùa Ôn Quốc chuyển niệm tụng đạo tràng Luật Tứ Phần rằng: "Ba học trong cửa Phật dùng tâm ấn truyền nhau, Đạo Bồ-đề vô thượng lấy giới pháp làm căn bản. Ngày Đạo tràng hoàn mãn, tất cả đều nên đến chùa An Quốc để Khải Định Luật sớ mười quyển mà truyền bá".
Đến ngày mồng 8 tháng 2 niên hiệu Đại Lịch thứ 14 (779), vua Đại Tông lại ban chiếu kiểm hiệu đạo tràng, các Đại Đức Đàm Thúy; Phi Tích v.v... Đạo tràng định lấy mười ngày thì bãi tán. Thiết trai bên ngoài ban tặng gấm lụa. Mười bốn vị Luật Sư đó đều đến chùa An Quốc sửa chữa luật sớ, trình trì phẩm dụng đều được thích nghi. Đại chúng suy cử ngài Như Tịnh, Tuệ Triệt đồng cầm bút nhuận sắc, ngài Viên Chiếu ghi chép. Phần chánh tự do ngài Bảo Ý biên tập văn và kiểm định, ngài Siêu Sài ghi chép. Ngoài ra, từ ngài Sùng Duệ trở xuống gồm chín vị cùng chứng nghĩa. Các Ngài cùng bàn luận thiên đề rằng: "sắc ban thiêm định Tứ Phần Luật sớ quyển thứ nhất, các Đại Đức Lâm Đàn ở kinh thành, chúng tôi v.v... vâng sắc mà an định, lấy đây làm đề". Do Sư (Viên Chiếu) xướng đầu, còn lại các vị ấy hòa theo. Thời gian đó, quyết nghĩa chẳng dài như người làm ruộng cắt cỏ, nghĩa đó hợp lý, vẫn còn giống như khách ra biển nhặt châu. Có thể gọi tên là "Giải Tỳ-ni chẳng xem mặt khác". Bỗng chốc, vua Đức Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Kiến Trung (780). Đến tháng 5 năm đó, bản thảo luật sớ được soạn xong. Qua ngày rằm tháng 6, vua Đức Tông ban sắc cho Sư y cứ Quốc tử Học Đại Lịch Tân định tự dạng sao tả tiến bản. Đến ngày 12 tháng 12, đưa sang Từ Bộ tiến Tân Thiêm định sớ mười quyển. Bèn xin hai bản Tân sớ, Cựu sớ đều được truyền bá, vì được người theo học ưa thích. Vua Đức Tông ban sắc chuẩn định.
Ngài chuyên công việc sưu tập nghiên tầm, biên soạn các bộ như "Đại Đường An Quốc Tự Lợi Thiệp Pháp Sư Truyện" mười quyển. "Tập Cảnh Vân Tiên Thiên Khai Nguyên Thiên Bảo Cáo Chế" ba quyển. "Túc Tông, Đại Tông Chế Chỉ Bi biểu tập" cộng chung hai quyển. "Bất Không Tam Tạng Bi biểu tập" 3 quyển. "Lưỡng Tự Thượng Tọa Thừa Như tập" ba quyển. "Thiêm Định Luật Sớ Nhất Hạnh Chế biểu tập" ba quyển. "Bát Nhã Tam Tạng Tục Cổ Kim Phiên dịch Đồ kỷ" ba quyển. "Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa kinh Âm nghĩa" hai quyển. "Tam giáo Pháp Vương Tồn một Niên Đại bổn ký" ba quyển (trong đó, quyển thượng nói về Phật giáo, quyển trung nói về Đạo giáo, quyển hạ nói về Nho giáo). "Phiên kinh Đại Đức Hàn Lâm Đãi Chiếu Quan Trạch Tự Lợi ngôn tập" hai quyển. "Tái Tu Thích-ca Phật pháp Vương Bổn ký" một quyển. "Phật hiện Bát tướng thân lợi ích Nhân Thiên Thành Chánh Giác ký một quyển". "Phán Phương Đẳng Đạo Tràng Dục Thọ Cận Viên Sa-di Sám hối Diệt tội Biện thụy tướng ký" một quyển, "Ngũ Bộ Luật Phiên dịch Niên Đại truyền thọ Nhân ký" một quyển. "Trang Nghiêm Tự Phật Nha Bảo Tháp Ký" ba quyển. "Vô Ưu Vương Tự Phật Tốt Tháp Ký" ba quyển. "Truyền pháp Tam học Đại Đức Bi ký tập" mười lăm quyển. "Kiến Trung, Hưng Nguyên, Trinh Nguyên Chế Chỉ
Thích môn biểu Tấu ký" hai quyển. "Ngự Đề Chương Tín tự Thái tử Bách Liêu Phụng hòa tập" ba quyển. "Trinh Nguyên tục Khai Nguyên Thích Giáo Lục" ba quyển. Sư tự soạn lời tựa rằng "Kính vì: từ năm Canh ngọ (730) tức niên hiệu Khai Nguyên thứ 18, Sa-môn Thích Trí Thăng tu soạn Thích Giáo Lục, đến năm Giáp tuất (794), trong thời gian sáu mươi lăm năm, các vị Tam Tạng Pháp sư phiên dịch kinh Tạng, đều chưa thâu quản. Sợ niên đại cách biệt xa người, nghi là Ngụy kinh. Lại nữa, trong niên hiệu Đại Lịch thứ 7 (772) Tiên Thánh (vua Đại Tông) cho phép biên nhập. Nay chế văn hiện vẫn còn". Khi đó, vua Đức Tông ban sắc nên y cứ. Đến nay ở giang biểu phần nhiều biên tập kinh nầy từ trong kinh ấy mà thi dụng.
Sư (Viên Chiếu) đối với Luật Đạo rất có công. Là bậc tài giỏi suốt hai đời vua Đại Tông (763780), Thức tông (780-805). Sư trải qua nhiều đời vua ứng phụng ban tặng ý tía sung Lâm Đàn Lưỡng Nhai thập vọng Đại Đức Nội cúng Phụng kiểm hiệu Hồng Lô Thiếu Khanh. Phong tặng lộc thực trăm hộ. Sau Sư thị tịch tại Bổn viện, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi tám hạ lạp v.v...
Liên quan từ bàn:
Hai Tông San, Chánh, hội quy nhất kiến, ngõ hầu biết có định phận để chẳng rong ruổi tìm cầu. Cớ sao các Ngài lại xin truyền bá cả hai, chẳng chiêu cảm ư? Thông đáp: Sư nêu bày chính là điều Nguyên Tải thỉnh cầu, vua Đức Tông bèn nói: cứu xét về nguyên nhân đầu tiên thì là Tân Sớ, hiệp lực suy tôn tướng bộ, chỉ còn mình ta chuyên làm lợi ích cho người. Cũng như Kỷ Xương bỗng gặp phi vệ đều do Tiễn thuật mà thành. Ta là Tài Quan Ngự Đại lộ mà phế bỏ chùy luân, được phát sanh lửa mà đốt củi mẹ. Trộm suy lường các Đại Đức do chút tức giận bất bình, nên tấu trình xin truyền bá cả hai, đồng chẳng thiêm định thì đâu khác gì trên con mắt lại sanh thêm mắt nữa? Chẳng thành chữ Y ba điểm, phải tiếng sau biết âm mới nghiệm một là đủ. Vì bác bỏ ba bản của luật sư Pháp Lệ mà sanh, xưa có bốn nhà xuất xứ từ Nam Sơn. Lại như cuối thời Đông Hán. Chỉ diệt một Bạt Hỗ mà sanh ra bốn thần mạnh, ban đầu chỉ chính xuất sanh ra một môn mà cuối cùng bảo là hối lộ để trở về bốn quý. Nếu vậy thì cặp đôi ngón tay cái bị ứ máu, tuy rất vô dụng, thế nên ta khéo dùng nhiều. Kinh Đại Tập chép: "Các thứ kiến giải như thế chẳng phòng ngại pháp giới và Niết-bàn của các Đức Phật. Nương tựa đó mà tu hành đều được giải thoát". Đó là sự thông hiểu rộng lớn của thông phương.
(Quyển 15 hết)
(chánh truyện có mười chín vị, phụ có hai vị).
Thích Biện Tài, họ Lý, người ở xứ Tương Dương. Mẹ Sư lúc mang thai Sư, chợt chán ghét các chất tanh huyết cay nồng, thầm lặng ăn một bữa đạm bạc trọn ngày mà thôi, đến lúc sanh ra Sư, có mùi thơm lạ xông khắp phòng, thân tộc bà con đều lấy làm lạ.
Năm bảy tuổi, Sư đến nương tựa Thiền Sư Tịnh ở núi Hiện xin xuất gia. Đến lúc lớn lên, Sư có trí nhớ dai, mỗi mỗi lúc thọ học kinh pháp thì lấy thân làm kỳ hạn. Chữ không hỏi lại, nghĩa chẳng nghĩ lại, thầy Sư rất quý mến. Năm mười sáu tuổi, Sư xuống tóc và thuộc danh ở chùa Đại Vân trong Bổn Châu. Kế đến, Sư vân du khắp quận, đến các danh sơn, tới chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu, cầu thọ giới cụ túc. Nghe có Luật Sư Hoài Uy trụ chùa An Quốc ở Trường An, Luật sư Nghĩa Ban ở chùa Báo Ân, có các pháp môn, Sư đều đến chiêm lễ, thầy trò biểu suốt, Sư bèn phục ứng thỉnh nghiệp, có điều gì nghi thì giải quyết cho dứt, không nghĩa nào chẳng thông, cho nên hai tông, đều suy tôn Sư là Thượng thủ.
Niên hiệu Thiên Bảo thứ 14 (756), vua Huyền Tông cho rằng người ở phương Bắc bẩm chất cứng cỏi, có lắm phong tục sai lầm, xếp vào nghề sát hại, ngoài ra chuyên tập cưỡi ngựa bắn cung, không cách gì sửa đổi. Biết làm sao để chấm dứt, bèn ban chiếu mời Sư đến đó giáo giới, lâm đàn độ người. Đến đầu niên hiệu Chí Đức (756), khi vua Túc Tông lên ngôi, tại bang vực đó có Tể Thần Đỗ
Hồng Tiệm tấu trình thỉnh Sự trụ chùa Long Hưng. Vua Túc Tông lại ban chiếu cho Sư kiêm thêm quản định các vị Đại đức giáo thọ nội điển ở Sóc Phương giúp họ cố gắng dạy dỗ, đổi bỏ phong tục mọi rợ Thiêm Duẫn. Theo Đạo Tỳ-ni, vua lại ban lệnh vì nước nhà mà thiết lập đạo tràng Pháp Hoa, đến lúc lên giá trở về đã đến lưỡng kinh, triều đình nhiều lần ban ấn thư, đến cuối cùng rất lưu tâm Đại thừa Đốn giáo. Đến niên hiệu Vĩnh Thái thứ 2 (766) Tặc Thần bộc cố Hoài ân, ngoài thì chiêu dụ Phiên nhung, trong thì gắng hỏi kim cách, Sư bèn khuyên răn Tuyệt Cầu chớ giết hại Hoa tộc. Đến niên hiệu Đại lịch thứ 3 (768) suy cử nhập vào các Đại đức chùa Chương Tín. Bấy giờ, phủ soái nước Quắc là Thường Công vốn kính mến danh Sư, cùng họ Nhung Nhậm công luôn gần gũi luận Đạo.
Mùa Đông niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), Sự thị hiện bị bệnh nhẹ. Đến ngày mồng 8 tháng 12, Sư răn dạy môn nhân đồ chúng rồi, an tọa trên giường dây, an nhiên mà thị tịch, thọ năm mươi sáu tuổi. Qua đến tháng 2 năm sau, mới nghinh thần đến góc Tây bắc trong nội tự.
Trước đó, có Ấp tử Thạch Ngung làm lính ở trên thành. Đêm đó mọi người nghe có tiếng Đàn sáo từ phía Tây vọng lại, đó là nhạc trời, mùi thơm lạ từ hư không tỏa xuống, là điềm sanh về Tịnh Độ. Sư từ Trường An mà vụt chốc đến Tái Thượng, đã được sự tri ngộ của Quắc Công, tạo dựng phước nghiệp thành Tinh Xá ấy, đó đều do sự đôn đốc khuyên răn của Sư. Vua Đại Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Năng Giác Đại Sư" và thưởng ban một chiếu y tía. Thanh danh Sư vang xa ra Tái ngoại. Vào niên hiệu Thiên Phục (901-904), Túc úy Bình Vương đảm nhiệm việc làm văn bia, khen ngợi đức hạnh của Sư v.v...
Thích Đạo Trừng, họ Lương, người ở xứ Kinh Triệu. Cha của Sư từng là Trung thư xá nhân. Sư vừa mới sanh đã biểu lộ sự kỳ đặc, chán ghét mọi vật tanh nồng. Khi được xuất gia như là quay về, chẳng đoái hoài luyến tiếc, bỗng gặp được vị Thiền tăng đưa tay xoa đầu và đặt cho tên Đạo Trừng. Bình bát, tích trượng thường mang theo bên mình, thầm hợp luật phép, gọi Sư là "Luật Sa-di".
Sau khi thọ giới Cụ túc, Sư học Luật Nam sơn ở các học xứ, thấy các nơi ấy có chút khiếm khuyết, mà tánh Sư thì suất lược nên chẳng thường ở một chùa. Hoặc là Phụng Ân, Trang Nghiêm, Thảo Đường v.v... các chùa, nơi Sư đến bèn ở lấy Hộ sanh làm chính. Niên hiệu Kiến Trung thứ 2 (781), Sư kiết hạ tại núi Vân Hương, có hổ đến gầm thét vào cửa, Sư từ từ nói dạy răn nó, hổ ấy bèn vẫy đuôi cụp tai mà lui. Khi Sư dời đến trụ chùa Chương Tín, có người hỏi nguyên nhân. Sư bảo: "Người xuất gia đâu để dính mắc ở một nơi? Tại Tây Vực ba mùa phân chia phòng, để không bị tham trước, Quán môn dễ lập. Nếu chẳng thế thì đâu thể thông phương rộng thứ ư?
Ngày mồng 8 tháng 2 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), vua Đức Tông đến chùa cầu thọ giới Bồ-tát, Kinh Điện Khuynh Chiêm thiết trai rất lớn. Sư thọ nhận mọi vật rồi trở lại ban thí ở hai ruộng phước. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 5 (789), vua Đức Tông lại đến chùa Chương Tín, hỏi Sư về pháp môn tu tâm. Và ban lệnh cho phi chúa Tần ngự cầu thọ giới Bồ-tát. Đến tháng 4 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 16 (800) vua Đức Tông ban tặng Sư hiệu là "Đại Viên". Tới ngày 18 tháng 9 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 18 (802), Sư thị tịch tại chùa Chương Tín.
Thích Thanh Triệt, chưa rõ Sư là người xứ nào, Sư chu du khắp các pháp tịch giảng luật, thầm giữ gìn căn môn, tức không thường ở một vị thầy nào, chỉ nương tựa vào pháp lành mà thôi.
Ban đầu, Sư ở chỗ luật sư Đạo Hằng trong bắc viện chùa Khai Nguyên thuộc Ngô Uyển, gần gũi then chốt sâu mầu bao gồm lý trí, mà Chung Hoa Vọng, đều suy tôn khen ngợi. Trong niên hiệu Quý Tỵ (813) tức niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 thời vua Hiến Tông, ngài y theo chí nguyện soạn "ký" hai mươi quyển, cũng nhóm họp các nhà có các thuyết chính yếu đích đáng để giải Nam Sơn luật sao, đặt hiệu là "Tập Nghĩa", hoặc gọi là "Hậu Đường", mãi đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10 (815) mới xong. Nay, các bậc giảng sĩ ở Dự Chương, Võ Xương,
Tấn Lăng phần nhiều thực hành theo nghĩa đó. Từng xem bộ ký" đó rất nhiều rộng, không rõ về sau, Sư thị tịch ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Ngôn hạnh của Sư không là quá đơn giản ư? Thông đáp: Rông hay lược có chứng cứ gọi là "thực lục". Ngày xưa, Thái Sử Công có thể chẳng muốn thế sự rộng đến ba hay năm đời ư? Vì trước đời Đường, Ngu các nhà làm sử chuyên thuần sơ lược. Đời sau làm sao ghi được. Nay chẳng toại Phú Đam Chức do đó. Lại cũng chẳng lai phó cáo chẳng ghi đồng. Nên các nơi có sự rộng lược chẳng đều, phải bỏ sự chê trách ấy.
Thích Thượng Hằng, họ Nhiêu, người ở xứ Nam Thành, thuộc Lâm Xuyên. Thuở nhỏ Sư đã có sự hiểu biết, đến năm phát tâm học thì phát tâm bỏ tục. Sư theo mẹ đến chốn không môn xin nhiếp thọ. Thầy dạy tụng đọc kinh sách Phật mỗi ngày đến ngàn lời. Đến tuổi tráng niên, Sư theo Đại sư Đại Tịch ở Nam Nhạc mà xin thọ giới và nghe học tinh cần vượt mọi gian khổ, khó nhọc.
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), Sư chẳng xa bỏ làng nước của cha mẹ, xin được thuộc danh ở chùa Cảnh Vân, Ngài tu tập không khuyết sót, chỉ thấm thoát năm đầu mà bộ "Nam sơn sự sao" Sư đã giảng suốt rất chuyên. Đến đầu niên hiệu Trinh nguyên (785), Sư dời đến trụ chùa Long Hưng ở Dự Chương, cùng đi với Ngài Pháp Chân ở Lô Phụ, Linh Hựu ở Thiên Thai, Pháp Duệ ở Kinh Môn, Thần Thấu ở Hưng Quả, Tuệ Tấn ở Kiến Xương. Như Huân Trì hợp vận, nước sữa giúp nhau, pháp giao Vương Thần, nên Sư cùng Khương Tướng Quốc Công Phủ Ngạn, Lỗ Công Chân Khanh Dương Phùng Vị Đan, bốn người kết bạn lành, làm lành cấm phòng nên Sư giảng Luật Tứ Phần mà hạng người làm lành bỏ ác đông không xiết kể. Sư ngồi Đàn Cam Lồ trong hai mươi năm có mười tám hội, cứu vớt chúng sanh. Các hàng nam nữ được Sư độ ở Diệm-phù Đông Chấn có tới một muôn năm ngàn người.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10 (815), Sư bị bịnh nhẹ, đến ngày Kỷ Hợi tháng 10, Ngài thị tịch tại chùa Đông Lâm ở Lô Sơn, đón rước toàn thân về an táng trong Thạch Phần ở Nam Cương, Sư thọ bảy mươi bảy tuổi, qua năm mươi lăm mùa hạ an cư. Các hàng môn nhân v.v... trồng Tùng Bách. Bạch Cư Dị ở Thái Nguyên soạn bài minh ở tháp thờ Sư.
Thích Tuệ Lâm, tự là Bảo Ngọc, họ Kha, người ở xứ Tân An. Đến tuổi tết tóc, Sư tới thọ nghiệp ở Linh Ẩn thuộc Tây Phong, làm đệ tử Hòa-thượng Kim. Các pháp yếu được trao truyền, Sư không hề hỏi lại. Đầu niên hiệu Đại Lịch (766), Sư thọ giới cụ túc tại Hội Linh Sơn.
Tu học Tam giáo, mỗi điều đều lãnh hội không để sót, Ngài chẳng ham danh hoa, chỉ ưa thích suối đá. Có lần vào Thiên Nhãn hơn hai mươi năm; Thiên nhãn tức là Thiên mục, núi đó cao ba ngàn trượng, chu vi rộng ba trăm dặm, xấp xỉ như Thiên Trụ, Lô Phụ v.v... trên núi có hai cái hồ gọi là Tả Hữu mục. Leo lên núi ấy gian nan hiểm trở qua mấy ngày mới tới đỉnh. Trên đỉnh có nhiều Giao long, có 3 cái ao đầm. Cái ao hồ cao nhất người không thể đến gần được, mùi thối bay ngược nên người không thể đến gần lâu. Có thuyết nói là thần núi hiện hình con nai trắng, hằng năm vào tháng 5 tụ hội với rồng, chắc chắn là có mưa bão dữ dội. Ngài ở đó quản lãnh nhiều yêu dị mà tâm không bị nhiễu loạn.
Đến năm Đinh hợi (807) thuộc niên hiệu Nguyên Hòa, Thái thú Lễ Bộ Viên Ngoại Thành Nam xã tìm vượt lên đó thỉnh ra đăng đàn ở chùa Vĩnh Phước. Đến mùa xuân năm Kỷ sửu (809) Thứ sử Binh Bộ Lang Trung Bùi Thường Lệ mời Sư lâm đàn tại chùa Thiên Trúc. Độ người xong, Sư trở lại chùa, giảng dạy Đồ chúng suốt hai mươi năm. Quận thú Tả Tỳ Lang Trung Lục Tắc, Hình Bộ Thị Lang Dương Bằng, Cấp Sự Trung Lô
Nguyên Phụ, Trung Thư Xá Nhân Bạch Cư Dị,
Thái Phủ Khanh Lý Ấu Công, Hình Bộ Lang Trung Thôi Thiện, Hình Bộ Lang Trung Lộ Dị, Tương Kế Cửu Bang Bá đều đến viện kính lễ Sư, cúi đầu thưa hỏi Tông ý Phật pháp, nhiễm chỉ Tánh tướng. Các bậc danh công ấy đều thuộc hàng thượng lưu, từ học cao độ. Hoặc hiệu là "Tỳ-đàm Khổng Tử" hoặc hiệu là "Thắng lực Bồ-tát". Nếu chẳng phải Sư thì ai có thể cảm động ư?
Đến ngày 25 tháng 4 niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (832), Ngài thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp. Tới ngày 12 tháng 5 mới an táng tại phía trái gò mã não, tức phía Nam của núi, là phía Tây của chùa Vĩnh An ngày nay. Tháp đá vẫn nghiễm nhiên hiện còn.
Thích Thần Tấu, họ Thành, người ở xứ Lam Điền, thuộc Kinh Triệu. Vừa mới sanh mà Sư đã lanh lợi khác thường, đến tuổi tết tóc thì phát tấm xuất trần, xa kính mến giới luật, nên Sư đến Nam Nhạc, cầu Đại Sư Hy Tháo xin thọ giới cụ túc. Sư lại đến tham yết thiền sư Đại Tịch ở Chung Lăng, nhưng mục đích là muốn học Kinh Lăng-nghiêm, hạnh ở Luật Tứ Phần. Ngoài ra đối với các giáo nghĩa thì thừa sức thông hiểu.
Niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), vua Đại Tông ban chế treo ba khoa kinh Luật luận, để thi chọn người xuất gia trong nước, ai trúng được Đẳng mới được độ. Sư ứng trúng kỳ tuyển chọn đó, vua bèn ban chiếu phối danh vào tinh xá Hưng Quả ở Cửu giang. Sau, theo sự trông mong của chư tăng nên Sư dời đến trụ chùa Đông Lâm, tức đạo tràng xưa của Giả Viễn ở Nhạn môn. Có Giới Đàn Cam Lồ tại ao Bạch Liên. Sư ở đó tiếp nối chấn hưng Phật sự, tuy kinh luận giúp thần, nhưng Sư trọn nghiên cứu luật thành chuyên. Sư suy yếu gầy ốm, trông rõ nét rã rời, môn nhân ở trong châu quận cùng nhau lo liệu thuốc thang nhưng Sư chẳng mong dâng thuốc đến.
Đến tháng 9 niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (817), Sư bị bệnh, tới ngày 26, Ngài an nhiên ngồi thẳng mà thị tịch. Qua ngày 19 tháng 10, môn nhân đón rước toàn thân Sư an táng chung ở phía trái phần mộ Nhạn môn, tại phía Bắc Đường thuộc hướng Tây của chùa Như Tăng Thuyên an táng gần mộ của Quách văn. Sư thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi mốt hạ lạp.
Sư dùng tâm tinh tấn mà quay bánh xe không lui sụt, dùng năng lực mạnh mẽ mà đánh trống vô úy. Nên đăng đàn Bỉnh pháp suốt ba mươi năm mà chỉ ăn một Bát, chỉ ngủ một giường, áo chằm dây gai, ngồi trên rơm cỏ. Do đó, Đàn thí đem đến dâng cúng Sư đều đưa vào của vô tận của thường trụ và sử dụng chung với chúng tăng. Thường đêm, Sư bưng lò cầm đuốc lễ Phật hành đạo, theo 12 giờ khắc ít có khi thiếu sót. Như vậy, trải qua bốn mươi lăm năm. Lúc Sư sống thường gặp Bạch nhạc thiên làm phép tắc, giờ ngọ đến quận cùng thân thiện, lúc Sư thị tịch thì buồn thương điếu viếng làm bài minh ở tháp thờ Sư rằng:
"Vốn kết Bồ-đề thờ hương hỏa Cùng hiềm phiền não sấm bạt thân
Chẳng phải buồn phiền theo thầy bỏ (Đi) Trước thỉnh Tây phương làm chủ nhân".
Thích Tuệ Linh, không rõ Sư là người xứ nào. Từ thuở nhỏ, Sư đã thoát duyên trần, siêng năng theo học tụng tập, đến lúc ứng pháp giới phẩm mới tròn đầy, tâm ý Sư bén nhạy đối với tỳ-ni, nghiên cứu sâu trì phạm, dùng hạnh giúp giải, tâm miệng hợp nhau. Do đó mà Sư giảng dạy danh vọng hợp như, mọi người đều kính sợ như thần minh.
Niên hiệu Đại trung thứ 7 (853), vua Tuyên Tông đến chùa Trang Nghiêm, đảnh lễ răng Phật. Bước lên Đại tháp, vua Tuyên Tông hỏi Sư về tuổi tác và ban tặng cho Sư y tía. Tháng 6 năm đó, vua ban sắc bổ nhậm Sư làm Thượng tọa ở chùa mới. Vua Tuyên Tông trông về phía Tây bắc của chùa mà phế bỏ chùa Tổng trì, bèn ban sắc chiếu rằng: "Trẫm nhân lúc rảnh việc triều chính nên đến chùa Trang Nghiêm thưởng cảnh. Chùa đó lắm điện nhiều hành lang, rui liền với đòn tay, phòng tối nhà kín sâu thẩm sơ thông, trúc dày thông biếc rũ che, vén khéo đẹp xinh. Người đi lạc lối. Đó là cung trời trong nước, cao sáng ít nơi đâu sánh bằng. Đang lúc xây dựng, vì hồ Côn Minh ở phía Tây kinh thành thế nhỏ xuống, mới xây tháp bằng cây gỗ cao ba trăm thước. Đang lúc phiên để, đi đến ngôi già-lam đó thấy được sự tốt đẹp ấy. Chùa Tổng Trì đó lập nên quy chế vào khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617, đời Tùy) cũng đồng thời với chùa Trang Nghiêm. Nay, tôn tượng thì bị hủy hoại, cỏ cây phủ hoang, Hương kinh Vũ xâm hiện còn nền móng. Chùa đó nên hứa thuận xây dựng lại để xứng với lòng ta". Ngày 11 tháng 3, vua ban lệnh Thủ tọa Tam giáo Biện Chương Câu đứng ra sửa chùa. Đến lúc công thợ xong, suy tôn Sư làm cương nhậm. Sắc tử Duệ Xuyên ở chùa Sùng Thánh sung làm Tự chủ, Đại Đức Lâm Đàn chùa Phước Thọ là Huyền Sướng được sung làm Đô Duy-Na. Ngài đảm nhiệm chức ở chùa, Tăng chúng đều thanh tịnh thuần hòa, vua Tuyên Tông rất khâm phục kính trọng, trong chùa thường dâng cúng mật hoa lê, mầu trắng, mùi vị hơn sáp thường. Sư thị tịch ở tại chùa mới.
Nghiên tầm về hành trạng của Sư thì Sư có tham dự việc phiên dịch, chứng nghĩa trong khoảng niên hiệu Vĩnh Thái (765-766) dưới thời vua Đại Tông, cho nên có khả năng Sư thọ ngoài trăm tuổi. Như chẳng thấy Bất Không Lương Phần, cho nên tuổi tác, hạ lạp không thể biết được.
Thích Thường Đạt, tự là Văn Cử, họ Cố, người ở xứ Hải Ngung, Ngài phát tích từ núi Đại Phước ở Hà Dương, đến tham học tại chùa Gia Thắng ở Giang Hoài. Sư bản tánh trung hòa, giữ trọn giới pháp, chuyên giảng luật sao của Nam sơn. Sau cầu các Kinh Niết-bàn, Viên âm, Pháp Hoa, Chỉ Quán. Sư lại thông cả sách Âm phù, trăm nhà Hiền triết, ngoài ra học hết phân thời, bút tích của hai vua. Sư lại du phương tham yết thiền pháp đến chỗ tông cực.
Khi gặp nạn vua Võ Tông phá hủy Phật pháp, Sư than rằng: "Ta sanh không phải thời, chẳng tự sau ta!" Từ đó, Sư trầm mặc ẩn náu chốn núi rừng, lánh đời mà không buồn phiền. Đến lúc vua Tuyên Tông dựng lại cờ Pháp, trùng hưng tinh xá, dân chúng khắp nơi đều được Sư giáo hóa dẫn dắt. Nên Thái úy Vi Thự càng thêm sùng kính tôn trọng. Thân Sư chẳng mặc áo bông tơ thêu thùa, thất chỉ lợp bằng tranh cỏ. Bốn chúng biết nên quy hướng, các phương kính mến phong hóa, Sư trắng sạch tợ như hạc cò.
Niên hiệu Hàm Thông thứ 12 (871), khắp thành quách Tăng chúng cầu thỉnh Sư tiếp tục vì bốn chúng mà dạy răn. Sư hoặc có thú thung dung như mục đồng, có lúc tiếu ngạo ngoài ven bể. Chẳng ra khỏi ven rừng suốt trong mấy năm. Tuy các hàng quý sĩ đơn xe đến cửa, Sư cũng chẳng màng, chẳng thấy trong lời thơ thất ngôn ngũ ngôn, dùng theo thể của Nguyên Hòa. Sư có soạn "Thanh Sơn Lý đạo" truyền bá qua miệng mọi người". Bỗng vào lúc sáng sớm ngày tự tứ, nhóm chúng trước mái hiên, chắp tay bày tỏ giã biệt, lời lẽ rất cứng rắn. Rồi bị bệnh chẳng dậy, tuyệt thực bảy ngày mà thị tịch. Lúc đó là ngày 16 tháng 9 niên hiệu Hàm Thông thứ 15 (874). Sư thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi mốt hạ lạp.
Môn nhân đệ tử là Hội Thanh, truyền lang đón rước linh cửu an táng ở phía Đông nam chùa, cách ba trăm bộ. Năm sau, xây tháp nơi phần mộ. Dĩnh Xuyên Trần Ngôn soạn bài minh ở tháp thờ, Ấp Đại Phu Nhữ Nam Chu Tư Tập làm Đàn Tín. Đến niên hiệu Càn Phù thứ 4 (877) mới lập bia.
Thích Đan Phủ, không rõ Sư là người xứ nào. Tánh thường kính đạt, nói năng thẳng thắng, ân cần giảng dạy, giữ gìn nhã chánh. Phong thổ ở Cối Kê, khuôn phép ở Uyên phủ. Sư xướng đạo, mọi người vâng theo, như kim vàng đến nam châm.
Sư vốn tập học nơi pháp tập của Luật sư Tuyên Văn, ngài Tuyên Văn là đệ tử tùng hạ với ngài Tĩnh Cung, như vậy, ngài (Đan phủ) tức là pháp tôn của ngài Tỉnh Cung. Sư thuận theo chánh mạng chương cán, thông suốt sâu mầu, vượt sau từ ngài Đàm Nhất, Huyền Nghiễm, ít ai có thể tìm được dấu vết. Thanh trần đối với Sư xa vời bày trước, nhưng bấy giờ có ngài Doãn Văn là một bậc tượng thủ tướng bộ phong hành. Sư phân ranh Đại luật, khi hành sự thì như cỏ bị đè sát theo gió.
Cuối niên hiệu Hàm Thông (874), Sư nêu ra môn sanh Trí Chương v.v... truyền giảng. Đến nay người nối tiếp dòng pháp của Sư hiệu còn. Có nghe rằng Sư có soạn "Thủ ký", nhưng tìm mà chưa gặp.
Ôi! Thật tiếc thay!
Thích Pháp Tướng, họ Du, người xứ Trường Thủy, thuộc Quận Ngô. Sư ra đời vào khoảng niên hiệu Thiên Bảo (742-756). Thuở bé, Sư rất khác lạ. Năm bảy tuổi, Ngài tìm đến thầy, cầu thọ học kinh pháp, chỉ mới một tháng mà Sư thông suốt toàn bộ Kinh Pháp Hoa. Đến tuổi hai mươi, Ngài sang chùa
An Quốc ở Trường An cầu thọ giới cụ túc, tức trong khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-780).
Sau đó, Sư bèn đến Thượng Kinh, tập học Đạo Tỳ-ni. Với mọi sự đồng dị của các bộ, Sư thảy đều thấu suốt, trải qua mười một năm, Ngài chứa nhóm thành Đạo Nghiệp. Sư trở về phương Đông truyền pháp. Người đến cầu học rất đông. Thái thú Ngô Quận tấu trình xin lập giới đàn ở chùa Khai Nguyên, tuyển chọn thỉnh Sư lâm đàn, tầm sung y chỉ, cả chúng cùng suy tôn Sư làm cương quản chùa. Sư thường trao thí quy giới cho hai chúng. Sư thực hành đeo đãy lọc, bát chẳng chứa dư, từng có con chim đến đậu bên cạnh tòa, đuổi cũng chẳng đi.
Vào giờ ngọ khắc thứ 3, ngày mồng 10 tháng 2 niên hiệu Hội Xương thứ nhất (841), Sư bảo các đệ tử Thanh Tuấn, Thanh Cao rằng: "Ta sắp tịch!" Rồi an nhiên xếp chân nằm nghiêng phía hữu mà thị tịch. Lúc đó, cả chúng đều nghe có tiếng Đàn sáo lảnh lót, đó là nhạc trời, và đêm đó, thấy được ánh sáng lạ thường. Sư thọ tám mươi chín tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp. Tới tháng 4 mới đón rước nhập tháp ở gò Tô Hương. Đó là ngôi tháp trắng vậy.
Sau, đệ tử Sư đúc suất Nghĩa Châu thứ sử Tào Tín, Đại Lý Ty Trực Ngô Phương sửa sang lại tháp. Khi quật khởi thấy di cốt Sư mầu như Đồng, chiếc lưỡi không rã, dường như hoa sen, răng nguyên vẹn bốn mươi hai cái, bèn dùng nước thơm tắm gội rồi an táng lại. Lúc đó là ngày 22 tháng 5 năm Quý sửu (893) tức niên hiệu Cảnh Phúc thứ 2. Sư có người đệ tử giỏi là Công Tĩnh, ngài Công Tĩnh có đệ tử là Hành Uẩn, ngài Hành Uẩn có đệ tử là Nhân Biểu, ngài Nhân Biểu có đệ tử là Huyền Cảo, ngài Huyền Cảo vốn là vị tăng thanh bạch, cùng ngài Hồng Khải sửa sang lại chùa Linh Quang sau khi bị binh giặc phá hủy. Sau, ngài Hồng Khải và ngài Huyền Cảo đều ẩn cư tại Thiên Thai, hành tập Thiền Quán và lần lượt thị tịch tại núi, trà-tỳ đều thâu được xá-lợi.
Thích Văn Cử, họ Trương, người ở xứ Đông Dương, thuộc Vụ Châu.
Tuổi còn bé đã có chí học, Sư bèn tìm đến chỗ thầy thưa hỏi Phật thỉnh pháp. Năm mười chín tuổi, Sư mới xuống tóc thọ giới Sa-di. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 3 (786) vua Đức Tông ban chiếu độ người xuất gia, Sư đắc giới cụ túc. Sau thời gian mười lăm năm, Sư chuyên học Luật Tứ Phần. Bấy giờ, ngày đêm siêng năng, nên Sư được lên toà giảng dạy. Kế đến, Sư thông rành bộ Pháp Hoa Kinh Nghĩa Sớ, đạt được phần ruột của ngài Trí Giả. Ngài thân cao hơn 6 thước, thể hình như núi, dung mạo tợ ngọc, tĩnh như nước dừng, động tợ mây nổi, mắt chẳng liếc nhìn, miệng không đùa cợt. Trong bốn oai nghi đều là khuôn phép. Hai chúng Đan Khâu kính ngưỡng lấy làm chuẩn mực, họ đi khắp nơi để thính thọ, cùng thiền đạo của Phật Quật Tắc công đều cao siêu ngang nhau. Sau đó, có sắc chiếu ban Sư làm Đại Đức chùa Quốc Thanh.
Trước kia, Đại sư Trí Giả trả lời điều hỏi của Tùy Dương Đế về việc lập "Đạo Tràng kim Quang Minh bảy ngày". Mỗi năm đến tháng 9, xa gần chinh trấn, Hầu Bá sai người đem đồ cúng dường đến, sự việc đã vô ngại. Các hàng Tăng tục không nơi xa nào mà chẳng đến. Người mới bổ sung đến nên thức ăn uống bị khuyết thiếu, vị Tăng Điển tòa rất lo ngại. Vào niên hiệu Thái Hòa (827-836), vị Tăng chủ sự là ngài Thanh Uẩn, hỏi Sư mua thêm mười hai khoảnh ruộng cho chùa. Từ đó, pháp hội Đạo Tràng Kim Quang Minh không còn nghe nói bị thiếu thốn nữa. Đó là do công của Sư.
Khoảng tháng 5, niên hiệu Hội Xương thứ 2 (842), Sư thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Đệ tử Ấu Thanh xây tháp ở ngọn núi phía Tây chùa, Hàn Hựu soạn văn bia khen ngợi đức hạnh Sư.
Thích Duẫn Văn, tự là chấp kinh, họ Chu, người ở xứ Gia Hòa, thuộc Tú Châu ngày nay. Vừa mới chín tuổi, cha Sư đã mất, nhưng về lý là dạy bỏ Sư thờ Phật. Được thầy trao cho hai bộ kinh Duy-ma và Pháp Hoa. Với tánh thông minh nhanh nhẹn nên qua năm sau, Sư đều thông suốt. Các bậc Cao Đạt đều gọi Sư là "Trọng Lý". Có người đùa hỏi Sư rằng: "Sau khi xuất gia, ông sẽ tạo dựng sự nghiệp thế nào?" Ngài hững hờ đáp: "Sẽ lên đài hoa sen, làm Sư tử hống". Có người chê trách nói mát với Sư rằng: "Trước các bậc kỳ túc mà dám nói thế". Hoặc có người bảo: "Chí muốn được lớn, ông này trong tương lai chưa dễ mà suy lường". Đến năm mười sáu tuổi, Sư cắt đảnh Chu-La, đắp y An-Đà-hội, kế là giẫm chân đến phương Tây, vào Tung Sơn làm Đại Đức Lâm Đàn, Sư ở bên cạnh Hòa-thượng Viễn mà đắc pháp vô tác. Lúc đó, Sư hai mươi ba tuổi.
Mùa hạ năm đó, Sư đến Trung Kinh, học Tướng Bộ Luật Tông và Luận Trung Quán, vá y đi khất thực nóng lạnh khắp nơi, đã gõ được nghĩa môn thì được vào thất thầy. Then huyền khuôn luật, Sư thấy biết rất tinh vi. Tới niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (831), vì tư duy định tĩnh, bỗng Sư than muốn trở về. Về đã tới quê cũ, thấm thoát thời gian chưa rảnh mà giảng xướng, sau nghe chùa Thiên Trúc ở Tiền Đường có giảng kinh Đại Niết-bàn, phát triển thành thắng tập, Sư bèn sang đó học.
Chưa đầy năm mà sự nhạy bén đã lộ bày. Đến niên hiệu Khai Thành thứ nhất (836) nhân đi đến Đài Kiểu, dừng nghỉ tại chùa Gia Trường, ở đất Việt. Chúng nhờ đào luyện thanh phân, thỉnh Sư giảng nói kinh Luật, mà Sư y theo thính chúng rất nghiêm nghị. Sư thường răn dạy rằng: "Hễ là bí-sông thực hành pháp phi gia, đầy đủ luật nghi biệt giải thoát, chúng đồng phần là tự tánh. Nên đối với hình sắc mà tinh tấn, lo sợ, giữ gìn, như thế mới mau thành đạt Đạo quả. Nếu không như thế thì chẳng những đệ tử sa đọa mà đạo thầy cũng chỉ nhọc ban thí". Nghe lời khuyên răn sách tấn đó, có người lệ trào hoen mi, thay tâm đổi hạnh, tư duy hơn một nửa vậy.
Niên hiệu Hội Xương thứ 3 (843), Sư dời đến ở chùa Tĩnh Lâm, chuyên giảng Kinh Niết-bàn. Gặp lúc vua Võ Tông gạn lọc đào thải, Sư cũng bị tìm bắt. Ngày thì mặc áo vá, đêm đắp y man điều, không khuyết thiếu tăng hạnh, chỉ trốn tránh thế tục gièm pha. Đến đầu niên hiệu Đại Trung (860) mới chấn chỉnh lại cửa Không, sửa sang pháp nghi, Sư mới phối danh ở chùa Khai Nguyên, cùng trong số ba mươi vị. Tới niên hiệu Đại Trung thứ 7 (866), các bậc Lão túc trong chùa thỉnh Sư giảng Luật thừa. Đến mùa thu năm Bính thân (876) tức niên hiệu Càn Phù thứ 3, Ngài thôi giảng mà xem đọc kinh Tạng. Tới ngày 29 tháng 6 năm Nhâm dần (882) tức niên hiệu Trung Hòa thứ 2, Sư thị hiện bịnh nhẹ mà thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Để tới ngày 12 tháng 7 năm đó mới an táng tại phía nam núi Thạch Kỳ. Sư để lại di ngôn chẳng được phong thọ.
Ban đầu, mỗi lúc Sư thăng tòa diễn giảng, học chúng rất lo sợ. Trong khoảng khắc thầm kêu mọi người mới tan không. Đó là do oai đức của giới khiến như thế. Sư trụ ở ba chùa Gia Tường, Tĩnh Lâm và Đại Thiện hiện nay, giảng tướng sở ở hai mươi bảy tòa, đại kinh ở hai mươi lăm tòa. Ngài dáng mạo người xưa mà râu dài, đảnh nhọn mặt đen, giữ gìn sít sao, cứu giúp cò ở sân, chưa đủ để nói lên sự khiết tịnh ấy. Nhưng Sư cũng nghiên cứu Nho mặc, hâm mộ Bạch truyện tự soạn văn chí, dự soạn bài minh của phần mộ cất giấu trong rương tráp. Môn nhân là Hoài Ích do tìm đọc văn tịch, thấy mà buồn nghẹn, bèn theo văn chí của Sư mà xây một ngôi tháp nhỏ. Sau, môn nhân Hoài Túc, Tư Tịch bảo danh đức hư thọ tăng thêm phần hậu tựa. Tán Ninh mỗi lúc đến Cối Kê có đảnh lễ chân tướng của Sư, thấy pháp tôn Khả Tường khổ tiết tấn tu hợp hạnh đầu-đà, nên hiểu rõ sự tích Sư.
Thích Tuệ Tắc, họ My, người ở xứ Côn Sơn, thuộc Quận Ngô. Năm chín tuổi, Sư đã cùng Tài Nghĩa, thưởng ngoạn khắp Nho kinh, khéo gieo phát mầm cành nhưng nhàm chán thế tục.
Niên hiệu Đại Trung thứ 7 (853), Sư đến chùa Tây Minh ở Kinh Triệu xin xuất gia, siêng biết trì tụng đều như đã từng tập học, hai năm sau (855), ở tại bổn tự, Sư được độ. Đến niên hiệu Đại Trung thứ 14 (860), Sư dừng ở pháp tịch của Đại sư Pháp Bảo mà đáp giảng. Năm đó, vua Tuyên Tông ban sắc Sư bổ nhậm Viên Đại Đức. Tới niên hiệu Hàm Thông thứ 3 (862), Sư đến chùa Sùng Thánh giảng "Luận Câu-xá" và "Táng phục nghi xuất tam giới đồ" một quyển. Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), Sư ở tại Tổ viện thay thế Đại sư Sướng để giảng. Niên hiệu Hàm Thông thứ 15 (874), vua Ý Tông ban sắc đặt cử Sư làm chánh viên lâm đàn. Đến niên hiệu Quảng Minh thứ nhất (880) giặc Sào đến cửa cung, ở Quan trung sắp nhiễu loạn, Sư ra Hạ Khuê ở Hoa Châu lánh loạn. Niên hiệu Trung Hòa thứ 2 (882), Sư đến Hoài Nam, Cao Tông mời Sự trụ chùa Pháp Vân. Sau khi thôi giảng, Sư trở về đất Ngô. Thứ Sử Dương Công khổ nhọc muốn giữ lại, nhưng Sư từ chối, đến chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai treo tích tại đó. Niên hiệu Càn Minh thứ nhất (894), Sư đến chùa Dục Vương ở Minh Châu, soạn "Tháp ký" một quyển "Xuất tập yếu ký" mười hai quyển. Võ Túc Vương họ Tiền thỉnh Sư lâm đàn tại Việt Châu.
Đến niên hiệu Khai Bình thứ 2 (908) thời hậu Lương, ngày mồng 8 tháng 8, Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi bốn hạ lạp, đệ tử thọ tám giới là Thứ sử Hoàng Thịnh xây tháp, an táng tại ven núi Mậu Sơn.
Bình thường, Sư chẳng thích bới móc, hay nói thẳng, luôn nhún nhường đưa người lên trên. Trừ việc giảng dạy ra, Sư luôn tụng niệm kinh chú, từ Kinh Pháp Hoa trở xuống có thể tới ba bốn mươi bổn, để giúp cho khẩu nghiệp. Sư xem đọc Đại Tạng kinh giáo hai biến, giảng sao bảy biến, Câuxá Táng Nghi, Luận ngữ, mỗi loại vài biến. Sư thanh tịnh khổ tiết chấp trì, gần khổ ít có. Có đệ tử nhập thất là Hy Giác rất nhạy bén thông minh.
Lại có ngài Nguyên Biểu thật là bậc trinh lượng, Ngài thường nói thẳng, thích phẩm tảo nhân sự, mà cao vời nghĩa giải, tập học tỳ-ni, kiêm siêng năng ngoại học. Thư, sư, phương, thuật, không thứ gì chẳng xem đọc, Sư sớm dự học nơi pháp tịch của Đại sư Pháp Bảo ở chùa Tây Minh. Mãi đến niên hiệu Quảng Minh (880-881) thời Tiền Đường, Thần Đô bản đãng, Sư bèn đến Giang biểu, trụ chùa Đại Thiện ở Việt Châu, chuyên giảng Nam Sơn Luật Sao. Người học ở các Quận không ai chẳng tìm đến. Sư thấu suốt nghĩa lý đọc ngang, lại hay khéo giảng nói, mỗi lần Sư giảng nói, người nghe quên cả mỏi mệt. Sư hiệu là "Giám Thủy Xàlê". Sư có soạn bộ "Nghĩa ký", cũng đề hiệu là "Giám Thủy". Trong các môn nhân của Sư thì Thanh Phước là người đứng đầu.
Thích Ngạn Xưng, họ Cung, người ở xứ Thường Thục, thuộc Quận Ngô. Ngài miệt mài giới luật, xem nhẹ việc đời, chuyên cần tìm cầu bậc thầy khuôn phép, chỉ làm theo điều lành. Cuối cùng học với Kế Tông ký chủ và thành đạt được sự nghiệp, Sư bèn trở về quê cũ giảng dạy dẫn dắt. Những người cùng chung chí hướng tốt lành cùng nhau nhóm họp, phong thái luật học phát huy. Gọi đó là "Tỳ-ni Quật Trạch".
Trước kia ở Hải Ngung, dòng họ Vu Hàm để lại sự tàn hoại, mời sửa chữa lại, gò cũ chùa xưa chung quanh chẳng còn gì, chỉ có móng tường vách mà thôi. Một đêm, có con hổ bị trúng tên của thợ săn, nằm ở gác chùa gầm thét không thôi. Sư thương xót nó, vội vã mang giày cầm đuốc xuống gác, định nhổ mũi tên giúp nó. Các đệ tử cùng nhau ngăn cản đến ba-bốn lượt, Sư đành dò xét đợi mọi người đi ngủ, mới tự cầm đuốc đến nhổ mũi tên cho hổ. Hổ le lưỡi liếm máu ở mũi tên, ngoái nhìn lại Sư rồi nhắm mắt nằm yên. Tới sáng sớm, thợ săn Chu Đức đến chùa tìm hổ. Sư chỉ cho thấy mũi tên. Chu Đức liền chừa bỏ tâm sát hại, thôi việc săn bắn. Võ Túc Vương họ Tiền biết nên kính trọng Sư. Từng thiết lập Minh trai thỉnh Sư hành trì minh pháp. Khi đó, Sư đắp y phú kiên mà y từ trên vai rơi xuống lại hoàn trả về trên tháp. Hoặc thấy có Quỷ vật theo hầu Sư, cái gọi là bậc Đại Đức thì Quỷ thần theo hỗ trợ.
Đến tháng 6 niên hiệu Trinh Minh thứ 6 (921) thời Hậu Lương, Sư qua đời tại sơn phòng, thọ chín mươi chín tuổi.
Kế nữa, có ngài Thọ Xà-lê. Hai bên Hoài phố trinh lượng khác thường. Sư giữ gìn chánh niệm, ít khi gặp hai lần. Sư mở mang truyền bá Nam Sơn Luật sao, rất thành đạt, chẳng nhìn mặt người khác. Cuối thời Tiền Đường có dòng họ Dương, ở lâu tại Quảng Lăng, từng mời Sư cúng thí, bốn phương xa gần thảy đều kính trọng. Sư thọ thực chỉ vì chánh mạng, chẳng chứa nhóm nhiều, phòng nhà không cửa nẻo, đến lúc lâm đàn độ đệ tử, chánh giữ ngôi vị yết-ma, chưa hết ba lần yết-ma, bỗng nhiên Sư an tọa thị tịch bên cạnh phú phủ. Mọi người nghe thấy đều khen ngợi.
Thích Tùng Lễ, người ở xứ Tương Dương, khéo phụng thờ cha mẹ, rất nêu cao danh dự của quê nhà. Sau khi cha mẹ đều qua đời, Sư mới quả quyết xả bỏ nhà thế tục, lúc đó Sư đã ở độ tuổi tráng niên.
Lúc đăng đàn thọ giới cụ túc, thỉnh Giáo thọ Sư trao truyền giới răn. Sư nghĩ tánh rất trái cuối cùng khó bỏ gốc. Khi ngủ, Sư thường thấy hình ảnh ma quái quấy nhiễu. Tức giận sự hôn trược đó nên Sư đốt cháy dùi đâm biển ngạch kiêm chưởng, vì vậy mà chảy máu, hơn nửa năm sau mới tụng thông. Từ đó, Sư siêng năng cần hành trì phép luật, hoạn nạn dứt hẳn từ đó.
Vào niên hiệu Càn Hóa (911-913) thời Hậu Lương, Ngài đến Thiên Thai, bèn treo tích trượng ở tinh xá Bình Điền. Sau, suy cử Sư làm Thượng tọa của chùa. Sư trì tụng an tường, vui buồn chẳng lộ vẻ nơi thân. Sư chỉ thực hành tâm từ nhẫn, thường răn dạy đại chúng rằng: "Giữ giới Ba-lamật là bậc Đại Sư của ta". Phải biết người xuất gia không giữ giới pháp chẳng khác gì khỉ vượn được thoát khỏi gông cùm!" Mỗi điều hành trì, Sư đều tha thiết, mỗi lúc Bố-tát, Sư khuyên dạy chúng phải giữ gìn mến tiếc như chiếc phao nổi. Bấy giờ, đang lúc mùa hạ nắng gắt, vị tăng chủ sự đến báo sắp thiết trai cúng dường La-hán, biết làm sao vườn hoang khô rụi, xin thỉnh Xà-lê cầu nguyện. Sư bảo: "Chỉ cần đốt hương ở Chân Quân Đường. Chân Quân tức là Thái tử của Chu Linh Vương. Từ lâu nghe nói Tiên đi, dùng tiên quan mà thọ nhậm, làm chân nhân Hữu Bật bằng gỗ Đồng Bách, Vương thống lãnh ngũ nhạc ty hầu đế lúc sáng sớm, còn Vương Tử Kiều đến trị vì ở núi này. Vì thế các Tăng phường, Đạo Quán ở núi Thiên Thai đều đắp họa hình tượng Hữu Bật, chỉ dâng cúng hương hoa trái quả mà thôi. Từ đó trong thế gian gọi là Sơn Vương thổ địa là chẳng đúng". Khi đó, vị Tăng chủ sự tới chỗ đền thờ tiên mà chú nguyện rằng: "Thượng toà cần có mưa để tưới nhuần cây khô".
Tới đêm đó, mây nổi mưa suốt ba ngày mới thôi. Thêm nữa, vị Tăng lo việc nhà trù dùng máng hứng nước để dùng, mà trên núi có cây xích thọ làm máng được, đến thưa với Sư, Sư bảo: "Ông hướng theo đường chân nhân đi chỉ sắm đủ đồ, khí cụ để dò theo". Bỗng nhiên gió lớn nổi dậy làm ngã cây, lấy dùng đầy đủ. Sư có nhiều sự cảm động đến quỷ thần, đại loại như thế. Võ Túc Vương họ Tiền ở Lưỡng Chiết nghe vậy, thỉnh Sư vào Châu Phủ thiết lập Đạo tràng Kim Quang Minh. Đàn thí rất dồi dào, Sư đều đem ban thí chúng tăng. Thân Sư chỉ mặc y nạp vải bố, ngày ăn một bữa, suốt đêm không nằm ngủ chỉ thường ngồi và cũng không tạo dựng, chứa nhóm gì.
Sư thị tịch vào tháng 11 năm Ất dậu (925) tức niên hiệu Đồng Quang thứ 3, thời Hậu Đường, thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Sau khi trà-tỳ thâu nhặt được Xá-lợi, xây tháp phụng thờ, hiện nay vẫn còn.
Thích Cảnh Tiêu, họ Từ, người xứ Đan Khâu. Ban đầu, Sư đến nghe qua nơi pháp tịch của Biểu Công, sau Sư kính mến nghe lời Xà-Lê Nghĩa tập phu diễn ở Đan Khâu. Sư giữ tánh nghiêm nghị, ít giao tiếp với người, Cao khiết tự giữ, nhiều việc bận rộn, hình tướng xấu kém. Sau, Sư nhận lời thỉnh mà đến núi Đông bạch ở Kim Hoa giảng dạy hàng sơ học. Bấy giờ, có Ngài Huy Du ở Giang Tây là bậc luật tượng, có soạn bộ nghĩa ký đề là "Quy giám lục", nhiều người học đến chùa Sư, gặp đang lúc Sư giảng vừa tới Thiên trì Phạm, mà đã hai-ba lần ngợi khen. Từ đó tiếng tăm Sư van xa. Mỗi sáng sớm Sư thường pha trà, một sáng nọ bỗng hóa thành sữa.
Ngài có soạn bộ ký hai mươi quyển, tên là "Giản chánh". Ý nói do năng lực tư duy và chọn lựa nên bỏ tà thuyết mà giữ lấy chánh nghĩa. Võ Túc Vương họ Tiền mời Sư đảm nhậm chùa Trúc Lâm ở quê cũ Lâm An, sau đó không lâu lại mời Sư lâm đàn tại chùa Bắc tháp. Lúc đó là niên hiệu Thiên Thành thứ 2 (925) thời Hậu Đường. Tiếp theo lại thỉnh Sư trụ chùa Nam chân thân Bảo Tháp. Và Sư thị tịch tại đó. Đón rước an táng tại gò núi Đại Từ, vì vốn nhận làm thầy, nên hiệu tháp là "Thanh Lương".
Thích Trinh Tuấn, họ Trương, người ở xứ Tân Trịnh, thuộc Trịnh Châu, vốn là con cháu của Tiên sanh Trương Quả thời Tiền Đường. Nay ở Vinh Dương có làng Trương Quả, bến bờ thu giả cũng hiện còn.
Sư có phong độ rộng rãi, chẳng mân mê răng tóc. Năm mười bốn tuổi, bỗng nhiên phát chí muốn lìa tục, ta chẳng biết người. Tuy cha mẹ níu kéo, anh em cản đường, nhưng không thể trở ngại Sư. Sư đến Luật sư Quy Chánh ở chùa Tướng Quốc, xin xuất gia. Thần cơ nhạy phát. Chợt trông thấy mà đánh kính. Tuy lưng có bia che nhưng chưa đủ nhiều. Với thời gian không lâu, Sư đọc tụng thông suốt các kinh Tịnh Danh, Nhân Vương, tính có mấy muôn lời. Bấy giờ, đồng bọn cười đùa bảo Sư rằng: "Chân ông có hòm rương đựng kinh". Sư từ chối, chỉ cung kính khiêm tốn mà thôi. Đến lúc xuống tóc trở thành tăng tướng, Sư liền nghe giảng Luận Câu-xá, tùy chỗ giảng mà Sư đọc tụng trong tám phẩm có đến sáu trăm hàng. Năm mười tám tuổi, Sư đã lên tòa luận đạo. Tuổi đủ hai mươi, Sư đến giới đàn ở chùa Hội Thiện ở Tung Sơn cầu thọ giới cụ túc. Nhân đó, Sư dừng trụ tại chùa Phong Thiên, nay gọi là Khai Bảo Luật Viện, học Tân chương luật sớ, năm hai mươi ba tuổi đã giảng trao, mọi người đều lấy làm lạ.
Vào niên hiệu Đại Thuận thứ 2 (892) thời Tiền Đường, chùa Tướng Quốc bị hỏa tai, Tam môn tầng lầu, điện Phật bảy báu, gác báu bày mây, điện Văn-thù, tính ra hơn bốn trăm gian đều bị cháy rụi. Khi ấy chúng tăng trong chùa bàng hoàng lo sợ chẳng biết tìm đâu ra vết tích cũ! Có người bảo rằng: "Nếu như thỉnh được Trinh Tuấn trở về lại chùa, thì chùa sẽ thành", bèn cùng nhau tìm đến chùa Phong Thiền, bền bỉ thỉnh Sư trở về sung cử làm Thượng tọa của Bổn tự. Trước sau chỉ vài năm, mà tạo dựng mới lại lang vũ Điện đường thêm hoa lệ. Lại thỉnh Sư làm Tân Chương Tông chủ. Sư khai hội giáng luật, Tăng ni đệ tử thường ngày có hơn năm mươi vị, cầm sớ nghe nhận. Sư luật hạnh cao như băng tuyết, ngày nắng không ý để khỏa mình, mùa lạnh rét cũng chỉ một áo kép. Ăn chỉ biết lượng, thanh ý rất cao. Từ niên hiệu Càn Hóa thứ nhất (911) thời Hậu Lương, Sư lâm đàn bỉnh pháp, cho đến lúc nhà Lương cách mạng (923), Sư độ Tăng ni hơn ba ngàn vị.
Đến niên hiệu Đồng Quang thứ 2 (924) thời Hậu Đường, ngày 12 tháng 4, Sư bị bệnh nhẹ mà thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi tám hạ lạp. An táng tại nghĩa trang của chùa, bên cạnh tháp Thiền sư Tuệ Vân vậy.
Thích Hy Giác, tự là Thuận Chi, họ Thương, Gia tộc vốn ở Tấn Lăng. Ngài sanh ở Lật Dương trong gia đình Nho mặc. Gặp lúc cuối thời Tiền Đường loạn lạc, phần nhiều bị phiêu tán. Từ đó mà khốn khó, Sư có viết thuê ở nhà Cấp Sự trung La Ẩn. Tình cờ hỏi về dòng họ tên tuổi và nơi ở. La Ẩn mới nói rằng: "Con nhà họ Thương ở Tỳ Lăng sao đến nỗi này!" Than thở đôi ba phen, rồi cấp giúp đoái hoài, khuyên thẳng nên trở về quê cũ mà tu học.
Đến năm hai mươi lăm tuổi, Sư tự than rằng: "Ta chẳng gặp thời vận, hoặc phục vãng cưỡi xe, đều một thời kỳ!" Bỗng nhiên, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Ôn Châu, cầu xin xuất gia. Lúc đó là niên hiệu Văn Đức thứ 7 (888) thời Tiền Đường. Vào niên hiệu Long Kỷ (889-890) thời Tiền Đường, Sư thọ giới cụ túc, Sư tiếp tục suy lường tìm hiểu Luật bộ. Đến bẩm thọ giáo với Luật Sư Tuệ Tắc ở chùa Tây Minh, khi đó đang ở núi Thiên Thai. Ngài Tuệ Tắc là đệ tử tài giỏi của Đại sư Pháp Bảo. Vào niên hiệu Quảng Minh (880-881) thời Tiền Đường, ở Quang Trung tán loạn nên ngài Tuệ Tắc mới lánh đến Giang Biểu. Sư mới thấy được sự chướng ngăn, trọn thấy được sự giàu có của Ngài Tuệ Tắc, vì ngài Tuệ Tắc có lưu xuất tập yếu ký giải Nam Sơn sao mà chẳng xứng với hoài bảo. Vì sao? Bởi vì, Cổ Đức Vọng cùng xuyên tạc, đều tự tranh giành sư môn, lưu đãng vọng phản. Sư bèn soạn ký. Xét rộng mà đề là "Tăng Huy Lục", bởi vì y theo Tào Thực mà gọi là: "Ánh sáng cuối đuốc tăng thêm ánh sáng mặt trời, mặt trăng, nói với cách khiêm nhường là "Tăng huy Tập yếu chi nhật nguyệt", trọn bộ hai mươi quyển, khắp Đông Tây vùng Chiết Giang rất thạnh hành bộ "Lục" ấy. Đến lúc ngài Tuệ Tắc thị tịch, Sư mới giảng dạy ở Vĩnh Gia. Em út của Võ Túc Vương họ Tiền tên là Hoa trấn nhậm tại quận đó, rất trọng vọng kính lễ. Sư vì sự vu cáo của ngu tăng, Sư bèn dời đến chùa Đại Tiền ở Hàng Châu. Văn Mục Vương xây dựng chùa Thiên Phật, thỉnh Sư làm tự chủ ban y tía riêng đặt hiệu Ngài là "Văn Quang Đại Sư". Học chúng bốn phương đua nhau tìm đến tấp nập.
Riêng ngoại học, Sư có nhiều sở trường, giỏi về Dịch Đạo, soạn bộ "Hội Thích ký" hai mươi quyển. Giải dịch đến thượng hạ rất nhiều và cuối văn rất hoàn bị. Sư thường vì người mà giảng giải kinh đó. Và Sư trao phó cho Đô Tăng Chánh Tán Ninh. Đến lúc già bệnh, Sư xin giải nhậm tăng chức, rồi theo chỗ ước mong, chỉ thong dong nơi sơn phòng, lấy sự ngâm vịnh làm vui. Năm tám mươi mốt tuổi, trong lúc Sư đang soạn viết thư tịch, chẳng hề bảo là mỏi mệt. Trước lúc chưa tịch, Sư xả tất cả y vật, để cúng thí hiện tiền tăng. Sư lại cúng dường trai phạn chư tăng khắp cả thành. Từ đó, Sư uể oải mỏi mệt, mỗi lúc ngủ, thấy có một người mặc thuần y phục sắc tía, da dẻ mềm yếu như bông tơ vậy, ý tợ như cùng bạn. Sư vừa muốn gọi đệ tử sắp đến thì người ấy nhẹ nhàng từ từ bước xuống giường, sau đó lại như cũ. Ngài Tán Ninh nói "Tôi biết đó là người trời". Sau khi Sư căn dặn phó thác mọi việc vừa dứt lời thì thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi.
Lúc sanh tiền, Sư soạn thuật phỏng theo Giang Đông Sàm thư năm quyển, Tạp thi phú mười lăm quyển, chú Lâm Đảnh Kim Lăng Hoài Cổ bách vận thi tạp thể; bốn mươi chương. Sư giữ gìn không hề buông lung, chuyên cần đối với việc giảng dạy, tha thiết với sự tiến tu. Học thì càng già mà chẳng thôi nghỉ. Quan chức thì giữ thân mà biết thối lui. Đáng gọi đó là sự cao thượng, danh tiết đều hoàn toàn. Lúc lớn lên phong nhã cao xa như tại chỗ ở. Hiệu là "Thích Thị Tây Trai". Mộ Ngô cẩn thận uẩn tích biên tập đơn giản.
Thích Trừng Sở, họ tông, không rõ Sư là người xứ nào. Từ đời ông đến cha Sư đều ở yên nơi vườn ruộng, chẳng ra làm quan. Mẹ của Sư họ Triệu, lúc mang thai Sư, bỗng nhiên chán sợ mùi hôi tanh nồng. Đến đêm sanh Sư, có ánh sáng khắp phòng, chung quanh thôn xóm đều kinh lạ. Năm bảy tuổi, Sư được bà con dẫn vào chùa, thấy tôn tượng Phật, Sư liền khen ngợi mà đảnh lễ. Lúc trở về nhà, Sư hỏi cha rằng: "Chỉ riêng mình Phật như thế, ngoài ra có ai được như vậy chăng?" Cha của Sư đáp: "Loài xuẩn động côn trùng đều là Phật, huống gì loài người!" Sư liền thưa: "Vậy, con nguyện học Phật nhờ đó mà báo đáp ân cù lao của cha mẹ!" Cha Sư im lặng mà chấp thuận.
Năm mười tuổi, Sư đến chùa Tướng Quốc, đảnh lễ ngài Trí Minh mà tôn thờ làm thầy. Sau đó không lâu có các đồng tử nhóm họp vui đùa mời gọi dụ dỗ Sư, Sư bảo: "Các ông sao ngu ngơ lẩn thẩn, ham thích vui đùa như vậy? Tuyết Sơn Thiện Tài cũng là Đồng Tử mà đâu có như thế?" Bên cạnh có người nghe thấy lạ, nói với Sư rằng: "Ngày sau, ông sẽ thành vĩ khí trong pháp môn". Sau khi thọ giới cụ túc về sau, Sư tập học Tân chương Luật sớ. Riêng hay hướng vào Tỳ-Nại-Da Quật Huyệt. Nhưng ở đó kích nạn, đối đáp lộ bày nanh vuốt. Bấy giờ, gọi Ngài là "Luật Hổ". Các hàng vương công, Đại nhân đến thưa hỏi được ích lợi ngày một đông. Vua Cao Tổ (Thạch kính Đường, thời Hậu Tấn) nghe rất khâm phục kính ngưỡng, bèn ban chiếu mời Sư vào nội đạo tràng, ban tặng pháp phục ca-sa sắc tía, kế đó ban tặng danh hiệu cho Sư là "Chân pháp". Từ đó, các hàng phi chúa trong
Hoàng cung, ai kính mến Phật pháp, cầu xin xuất gia, nhà vua đều ban thỉnh Sư đến làm lễ xuống tóc truyền giới. Trong ngoài như sương tuyết, không hề có vật gì khác. Ban mời Sư làm chủ Tân chương Luật tông.
Đến niên hiệu Hiển Đức thức 6 (960) thời Hậu Chu, ngày 11 tháng 10, Sư không bệnh mà thị tịch. Đầu nằm xoay về hướng bắc, mặt xoay hướng Tây hiển bày tướng Phật nhập Niết-bàn. Sư thọ bảy mươi mốt tuổi, năm mươi hạ lạp. Trước sau, Ngài lâm đàn thí giới Độ Tăng Ni hơn tám ngàn vị. Môn nhân như Tuệ Chiếu v.v... y theo pháp Tây vực mà trà-tỳ, thâu nhặt toái thâu, phân chia, xây dựng tháp gạch mà phụng thờ. Tả nhai thủ tòa Ngộ kiểu soạn bài ký cho tháp Xá-lợi.
Liên hệ thử bàn:
Ngài Trừng sở, khi thấu suốt luật thì gọi là Tông chủ hay sao? Thông đáp: Luật có ba tông; đó là phát xuất từ ba ngài Pháp Lệ, Hoài Tố và Đạo Tuyên. Mỗi Tông đều tự có chủ nên nói như vậy.
Xét hễ là tên gọi há không y cứ từ xưa hay chăng? Thông đáp: Hai chữ "Tông chủ" phát xuất từ trong kinh A-hàm.
Luận rằng: Hễ là người thì có nhân, pháp, tức là giới cấm và oai nghi. Trời thì có thiên pháp, tức là sáng sạch và tĩnh lự. Đức Phật, Thế Tôn của chúng ta với sự thấy biết bén nhạy, y cứ vào Đại thiên hóa cảnh đó mà khoan đặt pháp môn thì hẳn là nhiều. Nhưng điểm cốt yếu là không ngoài giới, định, và tuệ. Ba thứ này làm đường vượt ra làng sanh tử, chuyên nhất làm cửa, đạt đến bờ cõi Niếtbàn. Nếu là giúp thì phải mau dùng tỳ-ni. Tỳ-ni là ngăn phòng ba nghiệp. Ba nghiệp đều thanh tịnh thì sáu trần đều tự dứt, Thánh hiền tu hành, ai chẳng từ đường ấy. Nên luận rằng! Sanh tử trôi lăn do ba triền trói buộc tâm, tâm khó giải thoát. Phải biết đó chỉ là khéo nói, pháp luật khiến cho giải thoát, chẳng phải do ác thuyết. Do đó mà thấy. Luật cấm là xem xét độ đời. Vả lại, hễ Bồ-tát giới tịnh thì hiển bày lìa cấu, Bích-Chi giới hoàn bị thì dẫn dắt trí vô sư, Thanh Văn giới đầy đủ thì câu giải thoát có thể hy vọng. Nội chúng giới vững chắc thì chiêu cảm chẳng sa đọa của trời người. Từ đó mà quán xét giới pháp thật lớn vậy.
Từ chỗ suy hay theo lời mà tìm lý thì là tỳ-ni, là Mộc-Xoa. Nhân là âm thanh giáo luật mà quả là biệt giải thoát. Lấy thẳng ngay thời mà luận về các Đức Phật ba đời đều đồng chế. Rộng, theo cảnh giới mà nói thì cõi tịnh mười phương đều cùng thực hành. Do đó, Ưu-Ba-Ly bảy Đức Phật thời quá khứ đều phó chúc giới luật cho Ngài.
Luận rằng: giới như bắt giặc, là khéo giam giữ. Định như trói giặc, là dùng gông cùm. Tuệ như giết giặc, làm sạch đường đi. Vì thế mà thành công lập hiệu, khắc lấy cùng tận Tam-Bồ-đề, quyết đạt tới cảnh giới thanh tịnh. Về công đức, của giới luật, thì Công không gì so sánh được, huống gì pháp này chỉ ở tại Thầy mà không ở tại trò. Chỉ nghe Phật chế, hành bên trong mà chẳng lưu thông bên ngoài, không cho phép truyền trao cho thế tục. Nên nói là "pháp trao bí phương, ban các nội chúng". Sự có huyền pháp, vật nên tượng cầu ở nhà người, Nghiêm Quân bày răn dạy, mọi người trong nhà đều nghiêm khắc thì đồng với Phật chế giáo. Vợ con cùng cười thì đồng với Phật, lắng nghe pháp môn. Một nghe một chế, thấy được sức mạnh đó mà khoan dung cứu giúp, một âm một dương thấy mở vật ấy mà thành việc. Nếu biết được giới luật như vậy tức là nhà pháp của Phật sáng tỏ. Đại thì ba nhóm cảm ba thân ở trong quả, tiểu thì hình câu trì tận, hình nơi nhân địa, thọ đã như thế, còn tùy thì thế nào? Có oai nghi, có Tế hạnh. Vì có thuận nghịch mới sanh ra trì phạm. Do đó mà vấn đề phiền toái nhiều rộng, nhân nơi sự mà chế nghi. Mãi đến sau khi Phật nhập Niết-bàn, lập thành luật tạng, ban đầu như nước hòa với sữa hòa hợp, nghiệp của một nhà không khác nhau. Sau thì tham thần mỗi tự một gò, sự phân chia năm Bộ chẳng giống nhau, đoán bày điềm mộng. Luận Tông Luân được soạn ra, ánh sáng nối tàng cây cao, phân ảnh vẫn quy về Nguyệt quật. Hồ A-nậu nước tràn xuống hạ lưu, phải chảy đến Mạnh Tân.
Mãi đến khi Đại giáo truyền đến phương Đông, phạm thư từ tây đến cam lộ vốn là thức ăn của trời, người, đất Hán tranh thưởng. Đảo vàng bay về trên biển, phương Đông xưa nay trừ kinh đã phiên dịch, hỏi đến luật do từ ai truyền? Phát xuất từ niên hiệu Kiến Ninh thứ 3 (170), đời vua Linh Đế (Lưu Hoành) đời Hậu Hán, ban đầu dịch nghĩa Quyết Luật, tiếp theo có các luật cấm của Tỳ-kheo đưa đến, tức do Tam Tạng pháp sư Pháp Thời ở thời Tào Ngụy đi đến Hứa Lạc, thấy chư tăng ở xứ Ngụy không có luật Phạm, nên vào niên hiệu Gia Bình (249-254) thời tiền Ngụy, Sư dịch bộ "Yết-ma Tăng Kỳ Giới Bổn", đó là luật giới đầu tiên ở Trung Quốc. Từ đó Luật Tát-Bà-Đa trước tiên hoằng hóa ở Quang Trung, Ngũ Phần Tăng Kỳ phong hành như mưa ban, Ca-diếp-Di Bộ Giới Bổn riêng đến, Bà-Thô-Phú-la chỉ nghe tên mà thôi, huống gì là Tăng-kỳ Bộ, ngài Pháp Hiển mang về và do các Sư chú thích rằng: "đó là Căn bản Đại Chúng truyền, chẳng phải là năm Tông sau trăm năm Phật nhập Niết-bàn". Nay các nhà soạn truyện nghi là chưa hẳn đúng. Vì sao? Vì theo sự xem xét Tăng-kỳ hiệu bản chỉ có ba mươi quyển. Nhân trên mặt văn tự có vài điểm nghi: một là gốc nhỏ mà ngọn lớn (nghĩa là trong các đoạn văn tự thì rộng mà ở quyển tăng-kỳ thì lược), hai là không hợp với ý của năm Bộ, ba là không ứng đối với Đại Tập Huyền Ký. Có thuyết cho rằng: "đó là lược bản truyền ở phương này, như các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v... trong muôn ức bài tụng mà chỉ lược nêu ra một phần. Tăng kỳ cũng vậy". Lại nói: luật Đàm-vô-đức có bản Trùng dịch và bản Đơn dịch. Y cứ theo Tăng truyện là chỉ có ngài Giác Minh từ miệng bụng xuất ra. Song căn cứ theo lời tựa bản luật thì có văn trùng dịch của ngài chi Pháp Lãnh. Như vậy, xưa nay tranh cạnh nhau, không có chỉ quy, dùng nghĩa giao trưng, từ ngữ ấy sẽ dứt. Tìm bản luật văn liền biết đồng dị. Như đầu đề của giới chúng học nói: "Thi-Xoa-Kế-Lại-Ni như là y-lan bị rách", ý nói đây là bản của ngài Giác Minh. Còn như nói: "Thức-Xoa-Ca-La-ni như lá y-la bị rách", tức là bản của ngài Chi Pháp Lãnh. Thêm nữa, một bản chỉ ba mươi quyển, một bản đến sáu mươi quyển, nghĩa là giấy mực phân khai bất định, là không đúng. Phân ba mươi làm thành sáu mươi. Chẳng phải là quá sai lầm ư? Như thế hai bản dịch trắng đen đã phân rõ.
Thêm nữa, từ thời Nguyên Ngụy về trước, các người thọ giới, dùng "tứ phần Yết-Ma" để nạp giới và khi hành sự tức y cứ các luật làm tùy, vì sao khác ư? Cầm bản kinh của họ Tả, chuyên theo văn truyền của Công Dương. Đến đời Ngụy, Hiếu Văn Thế có ngài Pháp Thông là một bậc Luật tượng ở núi Bắc Đài, mới tay phanh khui, miệng giải thích. Luật sư Đạo Phú theo chỗ dựa được nghe mà ghi chép lại, bèn chép thành bản "nghĩa sớ". Quyền dư đã thế, gây dựng nhiều ư? Thiên Luân mà chỉ hầu trung tinh, Đại Đảnh mà chỉ nêu phụ nhĩ. Ở đất Nghiệp có ngài Pháp Lệ, ở đời Đường có ngài Hoài Tố tầm theo Tổ Tát-Bà khai tông độc bộ. Kế đó lại có Đại sư Trừng Chiếu là bậc thượng sĩ ở Chung Nam, hưng thạnh ba đời, vượt xa ngàn dặm. Giao tiếp mé trời người, ưu du trong quả chứng, biết mà không gì chẳng làm, sửa lại chỗ lỗi lầm, lấy sự giữ gìn giáo pháp làm nhiệm vụ của mình. Thật xứng đáng là vĩ nhân của một đời.
Vì thế mọi người hạ nói hành sự tức lấy Nam Sơn làm Tư Nam. Đến niên hiệu Đại Lịch (766780), các nhà Tân sớ, cựu sớ đua nhau bày những điều hay dở. Vua Đại Tông ban sắc vời các bậc luật sư của ba tông đến cùng nhau gia tâm phán định. Bấy giờ, ngài Như Tịnh làm Tông Chủ, phán định hai nhà. Đến niên hiệu Kiến Trung (780-784), mới nói là Khải Chánh, đề hiệu là "Thiên định sớ". Đến nay, ở Đông Kinh, ba tông đều hưng thạnh. Còn như ra vào chẳng thường, khác đường đồng về, thầy trò còn khác. Còn ngài Đạo Thành giảng nói, ngài Linh Ngạc mở mang, chẳng lìa trong khoảng Tam Phụ, đều y cứ vào sự khéo léo của Bách Công. Các ngài Văn Cương, Đạo Ngạn từ Bắc đến Nam, phát xuất "Chánh Phụ Thiên" từ nhỏ đến lớn, Đạo truyền đến Quận Ngô, thuộc Cối Kê, thật là nhờ người ấy. Sư làm bậc thầy bình gia, vốn chuộng đến chỗ cảm thông, hoặc chống đối Biểu Luận, mất vật của quan, hoặc thành Đồ chứng chẳng kiết giới, hoặc bậc tài giỏi lập ở một phương, hoặc kẻ tài giỏi trong bảy chúng, thuật nghĩa sớ bén nhọn, nêu bày các văn nghi tầm thường, hoặc dán thiếp phấn noa, hoặc ngay ngắn so le. Nếu chẳng là bậc hiền triết nương thời, thì đáng là anh tài vượt khí, chẳng để cho vận mạng tượng pháp bị suy sụp, rốt ráo làm cho sao thọ chiếu xuống pháp mạng lâu dài. Đạo do người phát triển là ở đó. Gần thì lấy vị nước sống Đề chuyển chẳng bằng như trước, tòa tượng bụi lấp vẫn quán xét càng chìm. Đại tiểu thừa giao ác lẫn nhau, thượng trung hạ giẫm đạp chất chồng, khắp gởi bốn tà, hành trái bảy nhóm, oai nghi đã khuyết, sanh thiện toàn thiếu, cho rằng luật là văn chẳng cần kíp, tăng buông lung rơi rớt tự do, ngựa khiến thoát khỏi cùm, voi thiếu móc câu. Không tập học luật nghi, khó điều phục như voi ngựa, nên làm cho giáo pháp ngày một bị suy tàn. Đoản thì hạnh quả nhỏ mất, chiết thì niên xỉ giảm bớt. Hợp, với khuôn phép lớn lao chính là đoản chiết.
Lại nói là: cha từ lắm bại hoại, con thoát hoặc bỏ ác ban lành, biến đổi phạm thành trì. Hoặc chúng chủ khuyên tu, hoặc danh sư dắt dẫn. Nương gá ngoại hộ vương thần, chắc chắn trung hưng giáo pháp, như vậy thì đồng một thọ trong năm phước, tức năm đời cha mẹ qua đời. Lại nói: nghiêm gia không cách lỗ. Nên nói: tỳ-ni là thọ mạng của chánh pháp. Khoa nầy là người luyện vàng thành đan, khuyên người uống vào, Khiến gần thì tăng thêm tuổi thọ, xa thì sinh lên cảnh tiên. Nên Đức Phật, Thế tôn của chúng ta, hễ chế mỗi một điều giới đều thành tựu được mười công đức lợi ích. Đó là đặt ý ở vấn đề khiến chánh pháp thường trụ lâu dài.
(Quyển 16 hết).
(Chánh truyện có mười tám vị, phụ có một vị)
Thích Uy Tú, không rõ Sư là người xứ nào, Sư là người thông đạt nhiều tài, thường chuyên giảng dạy, chí mang vác mạnh mẽ mà có oai nghi. Sư giỏi về viết lách, đàm luận, đặc biệt thông minh. Thiên hoàng Vô Hà lên ngôi (Thiên hoàng tức vua Cao Tông Lý Trị, lên ngôi năm 650).
Ngày 15 tháng 4 niên hiệu Long Sóc thứ 2 (622), vua Cao Tông ban sắc ép buộc tăng sĩ, Đạo sĩ đều phải thực thi bái lạy người thế tục. Bấy giờ, tăng chúng bàng hoàng không biết làm sao, Sư than thở giáo Đạo đang trong thời kỳ suy vi, quân vương xem thường Phật Pháp, mới dâng biểu xưng là Sa-môn chẳng nên bái lạy. Sư nêu dẫn các sách sử, trình bày nhiều triều đại bức ép, sáng vừa mới phát lệnh, tối liền đổi mưu đồ, đều chẳng xa xôi gì.
Sư mới dẫn kinh luật luận để lường quả. Ngôn từ đều nhẹ nhàng, lý hẳn sâu sắc rõ ràng. Như nói: "Đã là xuất gia, chẳng còn lễ bái người trong nhà. Người xuất tục không thấm nghi ở tục. Đạo lý đó hiển nhiên, trăm đời không đổi thay". Biểu văn đã dâng tấu. Vua lại ban sắc nhóm họp các quan đến trong đài cùng nhau bàn luận việc đó. Khi ấy, các hàng tể quan trong triều có năm trăm ba mươi chín vị xin không bái lạy, ba trăm năm mươi bốn vị xin bái lạy. Đến tháng 6, vua Cao Tông ban sắc "Chẳng bái lạy quân vương mà bái lạy cha mẹ". Nhưng dần cũng phế bỏ. Sư vì đạo pháp, thật đáng gọi là quên mình. Sư dâng biểu chống đối, lúc đó là ngày 21 tháng 4. Bấy giờ, chư tăng từ kinh đô đến thôn ấp hơn hai trăm vị cùng nhau vào cung Bồng Lai trình bày biểu văn của Sư để cầu thỉnh. Khi đó, triều đình cùng nói với Sư, v.v... rằng: "Sắc lệnh đang cần bàn rõ, bái lạy hay không chưa quyết định, hãy đợi sau sẽ tụ tập". Sư, v.v... bèn lui về. Khi đó, nhóm họp đông đảo tại chùa Tây Minh, cùng nhau bàn luận mưu tính, cùng đề đạt khải trạng đến các hàng đạt quan quý thích, như cứu lửa cháy đầu. Bấy giờ, Tuyên Luật sư dâng khải văn lên Ung Châu Mục Bái Vương, riêng dâng khải văn lên Vinh Quốc Thái Phu nhân, v.v... tất cả đều do Sư phê. Thật đáng tôn xưng Sư là gởi thân cho Đạo pháp.
Thích Phục Lễ, người ở xứ Kinh Triệu, họ Hoàng Phủ. Sư xuất gia từ thuở thiếu thời tại chùa Đại Hưng Thiện. Tánh tình Sư lặng lẽ ít ưa thích, luôn đặt tâm nơi nội điển, hiểu thông cả Huyền Nho, rất giỏi phú vịnh, khéo hay soạn thuật, các bậc danh sĩ tục lưu thảy đều kính mến. Các vị Tam Tạng Pháp sư Địa-Bà-Ha-La, Thật-Xoa-Nan-Đà v.v... phiên dịch các kinh Đại Trang Nghiêm, Hoa Nghiêm, v.v... đều mời Sư cùng phiên dịch. Trong đó những việc chuốt văn cắt nghĩa đều do Sư đảm nhiệm.
Năm Tân Tỵ (681), tức niên hiệu Vĩnh Long thứ 2, thuộc đời vua Cao Tông, nhân Thái tử Văn Học Quyền không hai thuật lại sách Phật, xét có mười điều nghi ngờ, bèn đem hỏi Sư, xin được giải thích nghi ngờ vướng mắc. Sư bèn vì đó mà giải đáp và soạn thành ba quyển đề tên là "Luận Thập môn biện hoặc ". Chủ khách đối đáp, phân biệt rạch ròi mối nghi, văn thoát khỏi trí phủ, nghĩa ở tại ngoài tâm. Đối đáp như thế, trận vững khó xô ngã. Cờ đỏ kéo mà chúng ma hàng, trống trời trỗi mà Tu-la thối lui. Chỗ nêu mối nghi của Quyền Văn Học chỉ là vài nghĩa, ngoài ra mọi bắt bẻ đối với Sư thật dễ làm sao? Bởi vì không biết Giáo có buông có giữ, văn còn nơi quyền thật, nghĩa là vì mâu thuẫn. Cho nên, Sư thực hành điếu phạt, như nhỏ riêng giúp phải thỉnh mang lệnh của quân môn. Không hai đã vạch trần, lại lập luận hoàn toàn giải thích các mối nghi xưa. Thái tử đáp thư rằng: "Tiếp nối chân thần, đục khoét hang hỗn độn, nghi trăm năm chỉ một sớm mai dứt sạch, mãi vâng theo đường giác, ngộ mãi nguồn mê, đốt cháy củi phiền não, thưởng thức cơm Niết-bàn, xin phụng sự lời nói ấy đến tận cùng những năm còn lại, v.v... ". Đây tuy là chỉ phân giải nhất thời mà thật là chuẩn mực gương soi của muôn đời!
Nghĩa học của Sư, thời bấy giờ ít người sánh bằng. Sư còn có tập văn lưu hành ở đời, lại rất sâu mầu bao gồm huyền cơ, đặc biệt sáng tỏ hợp tâm. Sư soạn "Chân vọng tụng" đem hỏi các bậc đạo sĩ trong nước.
Chỉ có vài vị đánh hòa. Bấy giờ, có ngài Tông Mật ở chùa Thảo Đường cân nhắc chọn lựa đến cùng, chỉ có ngài Trừng Quán ở chùa Thanh Lương đạt được chỉ thú đó, giống như gạo thóc của Lô Lang. Ngoài ra chưa thấu suốt được kiến giải của Sư, cho nên các tác phẩm dịch vào đời Đường đều cõi Sư là bậc Tông thượng, và như Ngài Tuệ Lạp gọi Sư là Dịch chủ. Danh từ Dịch chủ phát xuất từ Sư. Sư khéo thông cả năm xứ Thiên Trúc, dung hợp ba thừa, xưa nay các bậc được nêu lên trong đời ít ai sánh bằng. Hai bộ Luận (luận Thập môn biện hoặc và Chân vọng tụng) của Sư được biên tập đưa vào Tạng, đối đáp công kích của ngoại nạn, chỉ dùng qua luận nầy.
Thích Tuệ Lập, Sư vốn tên là Tử Lập, do vua Cao Tông đổi Tuệ Lập. Sư họ Triệu, người ở xứ Thiên Thủy. Tổ tiên xa trước của Sư nhân làm quan mà dời đến ở Tân Bình, nên thành người xứ Bân (Thiểm Tây). Ông nội và cha của Sư đều rong ruổi theo danh dự cao sang. Sư là con thứ ba của Khởi Cư Xá Nhân Tư Lệ Tùng Sự Nghị đời Tùy. Vừa mới sanh mà Sư đã có dáng cao siêu, có chí muốn thoát tục.
Niên hiệu Trinh Quán thứ ba (629) Sư vừa mười lăm tuổi, đến xuất gia và trụ chùa Chiêu Nhân ở Bân Châu, chùa đó tức là chiến trường phá Tiết cử. Sư mẫn đạt tài giỏi, thần thanh cao xa, phong cách cao thượng. Sư có thức lượng như Ngài Tăng Triệu, Đạo Dung. Tiếng tăm vang vọng xa gần, vua Thái Tông (Lý thế Dân) ban sắc mời Sư sung vào Đại Đức phiên dịch kinh ở chùa Đại Từ Ân. Tiếp theo đó, bổ nhiệm Sư nhận lãnh chức Đô Duy Na ở chùa Tây Minh. Sau lại trao Sư làm Tự chủ chùa Thái Nguyên, đều có ban giáng luân chỉ, khiến đảm nhận việc chùa.
Đến thời vua Cao Tông cho rằng Sư là người thông hiểu Nho Thích, biên soạn thiên chương, khéo biệt biện như mây bay, ích nghĩ như suối tuôn. Lại thêm vì thẳng lời, sắc chánh, chẳng sợ oai nghiêm, Sư vào lửa nóng đạp nước sôi chẳng hề nao núng, nên từng mời Sư vào nội cung cùng đối luận với Hoàng quan, đều hợp ý vua, việc nầy có nói rõ ở biệt truyện.
Sư nghĩ rằng Pháp sư Huyền Trang đến Ấn Độ thỉnh kinh pháp, nếu không ghi lại sự việc đó thì đời sau sẽ ít được nghe, bèn soạn "Từ Ân Tam Tạng Hành Truyện", chưa xong Sư đã thị tịch. Sau đó, Sa-môn Ngạn Tông ở chùa Quảng Phước tiếp tục biên soạn thành mười quyển, nên ở đầu đề ghi rằng: "Sa-môn Tuệ Lập bổn, Thích Ngạn Tông tiên". Sư sửa sắp bảo là xong, lo để lại những điều tốt đẹp, bèn cất giấu nơi các địa phủ, ở đời chẳng được nghe. Sau đó, lúc sắp tịch, Sư bảo môn nhân thị giả đào lấy để mở xem, sắp lấy ra thì Sư liền tịch.
Trước kia, Sư thấy Thượng Y Phụng Ngự Lã Tài vọng soạn "Thiên nhân minh đồ chú" ba quyển, chẳng bác bỏ chánh nghĩa của các Sư, Sư liền gởi thư quở trách. Trong thư có câu cảnh tỉnh viết rằng: "Phụng Ngự các tục sự ít nhàm bèn cho là Chân tông có thể liễu ngộ. Đâu khác gì chuột nhắt thấy nồi trên bếp có thể trèo lên được bèn nói là vượt gò chẳng khó. Như nhền nhện thấy gai rừng dễ kéo tơ giăng lưới cũng cho là phù tang có thể giăng lưới, chẳng lường được thân phận và bờ mé, đâu khác thế ư?" Lã Tài do đó mà thôi nghỉ. Thái Thường Bác sĩ Liễu Tuyên nghe việc đó chấm dứt, bèn quy tín, đưa thư đến tăng chúng phiên dịch kinh, viết rằng: ngoài chống lại kẻ lấn áp đó là con đường cuối trong cửa Phật.
Thích Huyền Nghi, họ Đỗ, thuở nhỏ Sư đã vào Huyền môn, mới thông Kinh Pháp, học bạn trong Hoàng quan suy cử Sư là bậc minh triết, Ngài vượt trội ngoài đồng bạn, nên đặc biệt được gọi Ngài là "Đỗ Nghệ Luyện Sư". Sư mới lên Cực Lục liền làm chủ Đại Hằng Quán ở Lạc Đô, Sư du tâm bảy lược, được lý Tam Huyền. Các hàng Đạo thuật suy cử Sư là cương lãnh.
Bấy giờ, Thiên Hậu (Võ tắc Thiên) đặc biệt có tâm sùng kính đại Pháp, mở mang Phật giáo. Lại ngộ rằng ăn rau đắng chẳng ngon, bước đi thì xa nhà nguyện, trở lại ban đầu phục hướng Phật mà trở về, bèn khẩn cầu xuống tóc. Thiên Hậu ban chiếu cho phép xuất gia. Sư bèn ở chùa Phật Thọ Ký, sau đó làm Tự đô. Cho nên biết rằng ở loài cỏ thì làm cỏ thơm, ở loài chim thì làm con trống, thật có việc đó. Sau đó, Sư tham dự việc phiên dịch, thảy đều trái ngược với tông kia, Sư biết rõ Chánh giáo đáng nương nhờ. Có người hỏi rằng: "Sao ông tin Phật?" Sư đáp: "Sanh tử vùn vụt nên sớm lo tính, không để đến ngã tư đường mới chỉnh thúc dây cương, tới giữa dòng mới mong đợi mái chèo. Có như hoàng sa trông đấu, hặc quỷ cầu tiên, dụng tâm như vậy chẳng phải rốt ráo. Sư soạn "Chân chánh luận" một bộ, bác bỏ lỗi lầm kia, khiến trở về với chánh chân, thiết lập chủ khách hỏi đáp, rất là tinh yếu. Không biết về sau Sư mất ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Biết tình địch, giúp dẫn dắt về quê cũ, hoặc vào thì sẽ tranh giành địa vức, khỏi bị cười chê bỏ đất. Lại như cầm đuốc đi trong đêm, chẳng phải như người vào chỗ tối. Nghe qua, Ngài Huyền Nghi từng gởi Hoàng Quan, thấu suốt được bổn giáo đó, kịp tới lúc quy hướng dòng họ Thích, bác bỏ nguồn vọng kia, chẳng cần bốn tháng mà thử đó, đã nạp khoản của một thành. Do đó mà xét, nếu có kẻ ngỗ nghịch thì nói: "Tôi sẽ nói ông chân chánh". Nghĩa là như vậy.
Thích Pháp Minh, vốn là người Kinh Sở, Sư hiểu rành kinh luận Sư còn khéo suất các sách, biện cấp như dòng chảy, khuôn p phép giới luật kiên trì chân chánh.
Thời vua Trung Tông (705-710), Sư đến Trường An tìm hỏi phỏng các bậc cao đạt, mới gặp chiếu ban các hàng tăng sĩ đạo sĩ cùng quyết định "Hóa Hồ thành Phật Kinh" là chân hay ngụy. Bấy giờ, nhóm họp đông đúc tại nội điện, có bá quan hầu nghe. Các bậc long tượng ở địa vị cao kháng ngự, Hoàng quan tráo trở, chưa thể phân biệt, khó quyết định rõ ràng. Ban đầu, Sư chẳng tham dự chọn ra những điều tốt đẹp. Hỏi các Đạo sĩ rằng: "Lão Tử hóa Hồ thành Phật, vậy Lão tử vì làm Hán ngữ hóa hay làm Hồ ngữ hóa? Nếu là Hán ngữ hóa Hồ thì người Hồ không hiểu, còn nếu là Hồ ngữ hóa thì Kinh ấy truyền đến cõi này thì phải phiên dịch. Đấy là chưa xét kinh ấy thuộc vào ngày tháng năm nào, thuộc triều đại nào, ai tụng đọc Hồ ngữ và ai là người ghi chép lại". Khi đó, các Đạo sĩ hết đường cứu chữa, vô phương đối đáp. Các hàng công khanh rất mực ngợi khen Sư. Lúc đó nhằm niên hiệu Thần Long thứ nhất (705).
Đến ngày 14 tháng 9 năm đó (705), vua Trung Tông ban sắc rằng: "Các quan sở tại phế bỏ kinh ấy". Khắc vào bia đá dựng tại chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương để chỉ bày cho đời sau. Trong sắc chiếu vua viết rằng: "Trẫm đội ân ở nơi ngôi báu, sửa mới, mở chánh, lại an tông xã, thiết lập đại lễ cung kính, ban ân lớn mưa sấm. Bèn cùng Tăng sĩ, Đạo sĩ đều bày điều đáng răn bảo. Như nghe trong nước, các Đạo quán đều họa biến tướng "hóa Hồ thành Phật", nơi chùa chư tăng cũng họa hình Huyền Nguyên, tôn dung của hai giáo, cả hai đều không thể được. Chế định từ nay về sau trong hạn mười ngày, tất cả đều phải phá hủy. Nếu cố lưu giữ kính ngưỡng, thì sẽ giao các quan định liệu tội trái với sắc lệnh. Hóa Hồ Kinh đã qua nhiều triều đại đã bị sắc chiếu cấm đoán rõ ràng. Gần đây được biết ở ngoài vẫn còn lưu hành. Từ nay về sau, các bộ Hóa Hồ Kinh và các bản ký lục có việc Hóa Hồ đều phải dứt bỏ. Nếu có kẻ nào chứa để thì y cứ theo sắc lệnh mà định tội". Trong tháng đó, Hoàn Đạo Ngạn là chủ ở Đại Hằng Đạo Quán dâng biểu cố chấp. Vua Trung Tông lại ban sắc phê rằng: "Trẫm vì phải vì tự thân làm, thêm kế thừa việc lớn. Tuy vỗ về thà có nhiều lỗi mà bình thứ thật chuyên, huống gì Tam Thánh sáng ngời, Huyền nguyên tỏ rạng, há quên Lão giáo mà chuyên ý ở Thích tông! Chí ý trẫm thật thuần lưu lại tình mà dứt bỏ ngụy hoặc. Lý trái sự sai, tuy là người thân cũng phải dứt bỏ. Nghĩa hợp danh đáng, tuy có kẻ oán cũng phải ghi chép. Thửa dùng muôn cơ thừa chút nhàn rỗi, lược tìm văn của Tam giáo. Còn như hai thiên Đạo Đức Kinh, cảnh diệu tuyệt ít có. Thiên Trúc có hai đế Hữu, Không, đàm lý bí chân như. Không lúc nào chẳng phu xướng Huyền môn, mở mang chí trách, sao lại mượn sự ngụy vọng của
Hóa Hồ để làm hưng thạnh tông của Lão quân?
Nghĩa có sai trái, văn không cổ điển, thành Phật thì bốn người khác nhau, luận về đệ tử thì lắm người nghe lầm lỗi. Y Hy đã xưng thành Phật, đã rất rỗng không. Lại nói hóa thành A-nan, bị thành ô hợp. Như bọn Quỷ Cốc Bắc Quách, chưa dẫn lên đất Trung thiên, các bậc Xá-lợi, Văn-thù vọng bày nơi Đông độ, Hồ Hán xen lẫn, niên đại cũng trái. Giẫm nước mà nói Niết-bàn, không hề có điển cứ, đạp lửa mà bàn pháp mầu, có loại phường chèo, giả dối tự bày, sao nói phiền lũ? Kinh chẳng phải do Lão quân chế ra, hủy bỏ thì chẳng phải thiếu lòng hiếu. Văn do bỉ nhân đàm luận, dứt trừ lại bày tiên đức. Lại nói tuy thiết tha mà lý thật chưa an, nên thảy đều là trẫm mong, liền dứt bỏ biểu dâng. Rõ ràng khẩn cấp đương thời vô luân, giúp cửa Hộ Pháp. Do đó mà chống lại lấn áp. Lời xấu ác chẳng để tồn tại. Nghĩa là như thế.
Liên hệ thử bàn:
Hóa Hồ Kinh, hai tông giáo (Phật và Đạo giáo) bất bình, có lắm tranh cãi, không như một lời của ngài Pháp Minh xử quyết đó. Giả sử hoặc ngưng thần mở toang suy tư, lâu nhưng chẳng thể đối đáp. Huống gì lại trước cả muôn thừa ai có thể chọn lời đáp lại? Ngày xưa, Dương Tố thấy ở Tung Dương Quán đắp vẽ cảnh Hóa Hồ, bèn hỏi: "Sao chẳng Hóa Hồ thành Đạo mà thành Phật ư?" Đạo sĩ không trả lời. Xét đó, rõ được câu hỏi nghĩa gồm hai ý, chính vì Hóa Hồ thành Phật, cạnh đó, các vị trời, tiên, ngôn ngữ chẳng đồng với người. Lời tiếng của trời truyền thọ các kinh là do ai biên dịch, việc ấy giống một mũi tên mà bắn được hai con chim le. Lại như một phát mà bắn được hai con.
Thích Thần Ngộ, tự là Thông Tánh, họ Lý, ở Lũng Tây, tổ tiên Sư thuộc bản đãng, thời Tây Tấn, dời nhà đến Trường Thủy, thuộc đất Ngô. Nhiều đời nối tiếp Nho nghiệp. Thuở nhỏ sư là môn sanh. Năm hai mươi tuổi bị bịnh nặng, có hiện trạng như không thể cứu được. Sư khởi tâm giúp hạnh, năng lực sẽ thực hành thế nào?
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), sư đến chỗ Luật sư Khê Quang, cầu xin phương thuốc của Kỳ Vực, giữ lễ của kẻ môn nhân. Thầy dùng giáo lý chỉ bày cho thấy để chuyển hóa nghiệp, bằng cách một là Lý sám, hai là Sự sám. Hai pháp sám đó do bậc Thánh truyền trao, thực hành sẽ có chứng nghiệm. Sư bèn đối trước tượng Bồ-tát, giữ tâm không lui sụt, đốt cánh tay khó bỏ. Khi ấy, có ánh sáng lạ như vầng trăng lờ mờ nơi cung biếc. Khổ đến cùng tột có thể cảm động đến thần minh, tinh thành chí thiết sẽ rung chuyển cả đất trời. Bởi vì đó là việc khó làm của con người.
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ Tư (745), Sư thọ giới cụ túc, thân mới đắp Pháp y. Tới niên hiệu Thiên Bảo thứ 8 (749), Sư có những hành vi khác thường và danh phối thuộc ở chùa. Lúc về già, Sư tiết tháo càng thấy gắng tâm. Hễ mỗi lúc gặp đạo tràng Pháp Hoa, suốt chín tuần (ba tháng), Sư vào đạo trường thực hành lễ niệm, Quán Phật Tammuội ở ngay trước mắt. Nhân đó, Sư bảo môn nhân rằng: Phàm âm bạc, mặt trời làm sao tổn thương, gió chuyển, hư không chẳng động. Nếu thấu đạt hư vọng, thì ai chẳng có tánh? Sư bèn dựng nhà ở phía Đông núi Lao Lao, bên trong dựa vào cách đá, đạt được phần tiên kinh. Các giống thú dữ dần quen đến bên giường Thiền, mây lành bủa giăng khắp Pháp đường. Nửa đêm có thần núi hiện hình nói với Sư: "Đệ tử tức là cố Tân Thành Hầu Từ Thế An ở đời Tùy. Sống thì làm Liệt Hầu, chết lại giữ lấy Nam Lãnh. Nay Sư đến dừng ở, nguyện xin đem chốn này dâng cúng hẳn cho Sư làm nơi kinh hành". Nói xong liền biến mất, không còn thấy nữa. Nên Lại Bộ viên ngoại Lý Hoa, Điện Trung Thị Ngự Sử Thôi Ích cùng đến tham yết Sư, có hỏi về sự ưu liệt của đạo Khổng, đạo Lão, và Thánh giáo. Xin Sư phân bày bình phẩm. Sư đáp rằng: "Giáo điển Lộ-già-đa đều là Pháp ngoài tâm, cầu hướng vị ấy chỉ luống nhọc mà không chứng. Nó tợ như đầm khô mà nghĩ tới ánh nguyệt ở ao hoa cạn. Lấy đó mà so với giáo điển họ Thích, sao xa vời như thế?". Như thế mà ứng đáp qua lại như dòng chảy. Lý Hoa và Thôi Ích chỉ khoanh tay không chống chọi, và họ giữ gìn bờ cõi Thích môn, có lũ nào dám xâm lược. Lý Hoa là Văn tông của một đời, ngang danh cùng Tiêu Vĩnh Sĩ, mà bút ngữ trội vượt hơn đó. Như vậy trong làng Nho, ai dám chạm sừng. Phàm đồ chúng có những điều không sướng thích hay nghi kinh, vấn nạn Pháp, Sư thảy đều dùng cách gần thì lấy ở thân, xa thì lấy ở vật, đúng như lý mà giải đáp, không ai chẳng cúi đầu chắp cánh.
Đến năm Tân Mão (751), tức niên hiệu Thiên Bảo năm thứ 10, Sư bị bịnh, ngồi kiết già mà thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, hai mươi sáu hạ lạp. Ngày trà-tỳ thâu nhặt hơn năm trăm viên xá-lợi, như hạt châu lớp lớp sáng ngời. Các môn nhân như Trạm Nhất, Viên Nhất chủ trương xây tháp phụng thờ.
Thích Nguyên Sùng, họ Vương, người ở xứ Lâm Nghi, thuộc Lang Da. Từ Tần Phi Tướng hưng khởi mới khởi văn hiến, sau công tử Oát, từ khi Nam triều suy vọng, gia đình Sư nhiều đời ở tại Cú Dung, từ cha ông trở xuống nếu chẳng hiền thì triết. Từ bé thơ, Sư riêng một mình tuấn tú, cao vợi như núi đứng. Tâm dụ như hoa sen, hình đồng như ngọc sạch. Bụi trần chẳng thể làm tạp nhiễm, lập chí cao nhã.
Năm mười lăm tuổi, Sư từ bỏ gia đình, kính thờ Đạo giáo, mang tráp Động Thiên, hưởng ráng, nằm mây, khuôn phép hun đúc, tinh nghiên diệu cú, riêng chứng vi ẩn, bèn sợ chí lý chẳng dung giải thoát lại trở ngăn. Nhân đó, Sư hướng tâm về sách Phật, truyền xướng Phật thừa, Tam giáo phát triển ngang nhau, gặp Tâm Thế Biểu, từ đó, thanh danh vang vọng khắp xứ Ngô Việt, các hàng tăng tục đều lấy làm lạ. Thứ sử Nhuận Châu là Tề Bình Dương Công nghe hạnh nghiệp của Sư đã lâu. Vừa gặp ân ban chế độ người xuất gia, nhóm tụ đông đúc sung cử Sư đứng đầu.
Vào những năm cuối niên hiệu Khai Nguyên, nhân theo Thiền sư Quỳnh ở chùa Ngõa Quan, cầu hỏi tâm yếu, suốt ngày đêm Sư không biếng trễ, chẳng quên thưa hỏi điều lợi ích. Thiền sư Quỳnh bèn lường cốt ngàn dặm mới đủ biết được sức ngựa. Nhân đó trao cho Sư Pháp sâu xa. Sùng Linh Đài rỗng suốt, có thể xả trăm thần, gương tâm treo cao, bụi trần không riêng ẩn. Thế rồi, thanh giá sáng xa, vật trông chỗ biết, các bậc cao đức ở Kim Lăng thỉnh dời chỗ phối về chùa Thê Hà. Tuổi tác càng cao, Sư càng chuyên cần đạo nghiệp, Đạo thường có manh mối, chúng cùng chiêm ngưỡng.
Đến đầu niên hiệu Chí Đức, Sư đều từ tạ dứt tuyệt việc đời, chống tích bỏ quận tìm đến kinh đô, khắp kính thờ minh sư, gá tâm nơi nhàn cảnh, ít giao tiếp với thế tục. Sư bèn vào Chung Nam, trải qua Vệ Tạng, đến Bạch Lộc, lên Lam Điền, ở tại Võng Xuyên được nghiệp riêng của Hữu Thừa Vương Công Duy. Thông mộc trên đá, nước chảy dưới thông. Vương công đốt hương nơi tĩnh thất cùng Sư đồng gặp, Thần giao trung đoạn. Khi đó trời đất chưa thanh thái, sói lang gây hoạn nạn. Hiền thần của triều đình, vật báu của nước nhà, hoặc ở nơi yên ổn. Tiêu Xá Nhân mừng cùng Hữu Thừa Các Công đều là thạc học hùng tài, tôn Nho trọng Đạo, tình cờ gặp ở một nơi, kháng luận trọn ngày, móc sâu dây ẩn, ôm mong hứa cho. Vương Tiêu khen ngợi rằng: "Phật Pháp, người không nên khinh bàn. Đến khi nói trở lại Hà lạc, leo vượt lên Trung Thất, ở Tung Sơn, ôm hoài chỉ yếu của Đạtma, được chỗ hội quy của Hoa Nghiêm, thanh giá dần cao, áo mão ham thích. Các bậc danh đức ở Kinh đô đều thỉnh Sự trụ trì. Chỉ ở tại vô vi, điềm nhiên chẳng đoái hoài, Sư mới quên đi người đời, truy tìm vết tích đạo lưu, khảo xét dấu mờ của Bàng Linh, bèn trở về phương Đông, đến xứ Ngô Việt, Thiên Thai, Tứ Minh lắng tâm dưỡng tố. Sau vài năm xa tưởng đến Chung Sơn, bèn chống tích về chỗ ở cũ, tìm lấy phòng mây, Đạo tục đều mừng, ngọc soi phản chiếu núi sáng.
Đến niên hiệu Đại Lịch thứ Năm (770), Thứ sử Nam Dương là Phàn Công Nhã Thích Thiền Tịch và Chúc Huyện Hạnh Xuân thuận phong cúi đầu thưa hỏi đạo yếu, càng thêm giữ lễ thờ thầy. Bấy giờ, các hàng đạo tục cho rằng ở chùa đó linh thiêng nên tìm đến ngơi nghỉ rất đông. Giám chủ hộ trì, phải chọn danh đức, đều bàn nhau không vì dời Thiền sư đó. Sư khẩn thiết hết lời cáo từ, song chúng đều đôi ba phen cầu thỉnh, sự chẳng đặng đừng, nên Sư thuận nhận Di Phùng suốt trong hai mươi năm, nhờ tài vật của bốn phương, nhân sức của đạo hóa, biến Lô Vân tạo dựng thành Đan Hộ ngày một thêm mới. Bởi ở chỗ vô vi nhưng không điều gì chẳng làm, công việc thành tựu, thân thối lui an nghỉ nơi đảnh cao của Thiền. Học đồ trước sau cầu học không thể kể xiết. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (787), Sư thị hiện bị bịnh, nói sẽ quy tịch, không uống thuốc thang. Tới ngày mùng 2 tháng 8, Sư thị tịch tại sơn viện, thọ sáu mươi lăm tuổi.
Trước khi thị tịch, Sư bảo với môn nhân không nên xây tháp. Đệ tử Như Tuyền, Trừng Thiêm v.v... hoàn toàn vâng theo lời Sư chỉ dạy. Đến ngày mùng 8 tháng 8 an táng tại phía Nam Nhiếp Sơn, nương núi cao mà làm huyệt, chất đá chẳng mài chẳng xây, vì vâng theo di cảo. Sư thân cao sáu thước, nghi biểu đoan nghiêm, trông thấy nghiễm nhiên liền phát sợ, ý Sư sâu kín, tánh tình khoan dung, tâm hòa hạnh cao, dáng trời long tượng, sanh ra đã có khí độ. Sư thọ không lâu thật là đáng tiếc, các đệ tử cùng nhau dựng lập phong bia, ghi lại dấu tích hoằng hóa của Sư dựng ở trước cửa chùa.
Thích Lợi Thiệp, vốn là người Tây Vực, thuộc chủng tộc Đại Phạm Bà-la-môn. Từ thuở bé, chí Sư đã mạnh mẽ, cơ cảnh vượt hơn người bình thường, trong bà con thân tộc đều suy tôn Sư là người đạt Pháp, Sư muốn đến Chấn Đán (Trung Hoa) kết bạn với phương Đông. Vừa đến đảnh núi Kim Thoa, Sư gặp được Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Sư đảnh lễ Ngài Huyền Trang cầu xin được độ. Thế rồi với các kinh luận, Sư nghiên tầm học hỏi đến chỗ sâu mầu. Đặc biệt lánh bỏ xa trần quy về Chánh Đạo. Nếu chẳng phải là Ngài Huyền Trang thì khó chuyển đổi được Sư.
Dưới môn tịch của Ngài Huyền Trang, các bậc hiền triết quy về rất đông. Sư chỉ là bé nhỏ, mạnh chừng khoản của Quang Bảo. Song, Sư vì người cũng giống như Bạch Cao Tọa. Vua Trung Tông rất khâm phục kính trọng. Các hàng khanh tướng trong triều đình cảm nghĩa cùng giao du.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), Sư trụ chùa An Quốc, giảng kinh Hoa Nghiêm. Bốn chúng đến giảng đường, chậm chân không chỗ dung chân, đàn thí đông đúc, lợi lớn làm động tâm người. Có Vi Đinh người ở xứ Dĩnh Dương, nhân trước kia, vào niên hiệu Thùy Củng (658-689), Trung Đệ Điều chọn Hà Trung Phủ Văn Học, đổi Đại Lý Bình Sự Bí Hiệu, thấy chỗ giảng của Sư, của cải lụa là chất thành đống, bèn đến xin lựa chọn làm vốn liếng, với những gì có được mà chẳng hề biết thỏa mãn. Bèn dâng biểu xin hai giáo Thích, Đạo cùng định đoạt sự hơn kém, nói rằng trong Thích giáo, Đạo giáo có những kẻ làm hại Chánh chân, nên dứt bỏ đi. Vua Huyền Tông bèn ban chiếu cho Tam giáo (Thích, Nho, Đạo) mỗi giáo tự chọn ra trăm người, đều nhóm họp ở nội điện. Vi Đinh lên trước trên tòa cao, Tỏa Diệp Tĩnh Năng và Không Môn Tư Minh đều từ chối. Sư bèn tiếp rước lên tòa, mở giải nghi kết, đối địch có thừa, cùng với Vi Đinh đối đáp qua lại đến mấy trăm ngàn lời. Đầu mối giao loạn, theo thứ lớp chống lại, tơ rối tự sửa, ngay thẳng có chỗ quy về. Sư Ngài lại hỏi Vi Đinh rằng: "Ông trước khi lên tòa, có phải chẳng là chủ ư? Đó là chưa xét người chủ họ gì". Vi Đinh nói: "họ Vi". Sư liền lấy chữ Vi làm vần, cất điệu ngâm dài, lời kệ rằng:
"Phật pháp ta là vô vi
Vì sao triều này được hữu vi?
Vô vi mới được vài ba năm
Chẳng biết đây lại trái điều chi".
Sư ngâm vịnh khiến cho các quan sửng sốt. Vua Huyền Tông quả thật ghi nhớ việc sai trái, lạnh lùng đổi sắc mặt bảo: "Vi Đinh là tông tộc thứ nhân, dám khinh miệt Huyền Nguyên tổ giáo của Trẫm, và lăng lận đến dòng họ Thích. Vi Đinh hãy xuống điện phủ, phục tùng đợi tội". Vi Đinh liền dập đầu nói: "Thần chẳng thuộc thứ nhân". Sư thương cho Vi Đinh nhanh nhẹn lợi khẩu, vì cởi mở sơ cuồng, nên tâu rằng: "Vi Đinh là người quan ngoại, chẳng phải tộc ngoại Huyền Nguyên". Vua Huyền Tông bèn ban sắc biếm trăm họ ở Tượng Châu, ban thưởng Sư các thứ tiền lụa, trợ giúp ủng hộ xây dựng chùa Minh Giáo, thêm hiệu là Minh Giáo. Hai tông giáo (Phật, Đạo) trở lại ngời sáng là do công đức của Sư. Nhân đó, Sư soạn "Lập Pháp Tràng Luận" một quyển. Trong hàng công khanh có người nói: "Sư là bịnh độc dữ của Vi Duyện". Sư bảo: "Đó là như mũi tên đã lắp vào dây cung, không thể không bắn". Từ đó khắp kinh thành, đều thay đổi quán. Trong hàng đàm luận diễn giảng cho rằng Sư là tối ưu hơn cả.
Lúc tuổi về già, Sư bị đày đến Hán Đông, liền mở rộng khoan thứ, dời tới chùa Long Hưng ở Nam Dương. Bấy giờ, quốc sư Tuệ Trung biết quý trọng danh Sư, nhờ các quan cùng tham yết, thưa rằng: "Nạp y tiểu tăng hướng trước Sư gia bị cho môn đồ sớm cần liên tọa ở đây. Đến Quán sư đang có Quý Khí, có thể làm Cao Đạo Quốc Đức, chẳng đồng với tôi". Sư mở tráp lấy y vật bảo Quốc sư Tuệ Trung kéo dây. Do đó mà dân chúng ở Tương Đặng đều kinh ngạc Sư huyền ký như thế, danh tiếng đạo hạnh Sư Tuệ Trung càng ngời sáng hơn, do Sư được trọng vọng. Niên hiệu Thượng Nguyên thứ Hai (761), vua Túc Tông ban chiếu mời Quốc sư Tuệ Trung vào cúng dường. Khi đó, vua vào cung, Thái Thượng Hoàng (vua Huyền Tông) dẫn Ngài Tuệ Trung yết kiến Thượng Hoàng (vua Túc Tông), bảo: "Người này đâu giống như Lợi Thiệp". Vậy thì biết tài nghiệp của Sư vô cùng ưu trường, đế vương mến trọng, Sư lại có nhiều tác phẩm. Đến niên hiệu Đại Lịch (766-780), có Sa-môn phiên dịch kinh điển là Ngài Viên Chiếu ở chùa Tây Minh soạn truyện về Sư thành mười quyển, đủ biết Sư có lắm ngôn hạnh.
Thích Thần Ung, tự là Đạo Cung, họ Thái. Sư là cháu đời thứ 15 của Thái Úy Mô, tức Độ Giang Tổ thời Đông Tấn, nhân làm quan nên ở Ký Dương, Sư sanh ra tại ấp đó. Mẹ của Sư họ Tuyên, lúc mang thai Sư, có nhiều điềm lạ, đến lúc Sư đang được ẵm bế trong tã mà chợt nghe tiếng xướng niệm kinh, thì liền có tỏ vẻ như ngưng thần lắng nghe. Đến độ tuổi tết tóc, Sư thông minh vượt trội hơn người. Năm mười hai tuổi, Sư giã từ cha mẹ để đi học Đạo, đến thỉnh nghiệp với Đại sư Tuấn ở chùa Pháp Hoa. Sư thường xem đọc kinh điển Phật giáo, Khổng giáo. Chỉ một lần đọc qua thì có thể tụng thầm lại được, nên đồng bạn ai cũng mến mộ.
Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 16 (728), vua Huyền Tông sắc ban độ người xuất gia, Sư bèn phối thuộc danh tịch vào chùa Hương Nghiêm ở Gia Ky. Sư nương tựa Luật sư Huyền Nghiễm ở chùa Pháp Hoa mà học thông Tứ Phần Luật Sao, Ngài Huyền Nghiễm biết được chí khí của Sư, nên nói với mọi người rằng: "Ông (Thần Ung) này vài năm sau sẽ hoàn tất Tư Nam của người học". Khi đó, Sư càng gắng sức hơn. Ngài Huyền Nghiễm vừa mới soạn ra "Phụ Thiên Luật Ký", Sư quyết nghiên cứu, suốt cùng được mọi lối thông. Học giả cả một tông ít người có thể ngang hàng với Sư. Tánh Sư chẳng hạn cục, Sư lại theo Đại sư Huyền Lãng ở Tả Khê, học các Pháp Thiên Thai chỉ quán thiền môn, Pháp Hoa Huyền Sớ, Kinh Phạm Võng, v.v... Các nghĩa của Tứ Giáo, Tam Quán v.v... Bí kiện Tải Khải, Quán tánh biết Không. Vừa mới năm hạ quả nhiên Sư tinh thông diễn giảng, mọi người cầu học ở từ Cối Kê, Ngô Quận đều theo về.
Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Quách Mật ở trong bổn ấp đến thỉnh Sư trụ chùa Pháp Lạc ở phía Tây Phường, nâng cấp khôi phục Phật xá, tầng gác cao tận mây, nửa lắng giang ảnh, lang vũ hoàn bị. Sau Sư đến Trường An, dừng ở chùa An Quốc. Các hàng công khanh nhờ phong vũ đó, hạng người ở gần kính mến liền theo vết mà đến. Sư muốn mở mang Thiền Luật, bỗng nhiên gặp phải binh loạn Lộc Sơn nên trở về Giang Hồ ở phía Đông, trải qua Tương Dương. Ngự Sử Trung Thừa Dữu Quang trước ra trấn tại Kinh Nam, thong dong ở lại vài tháng. Bấy giờ, Cấp Sự Trung tiếp nối Trung Tư Xá Nhân Uyển Hàm xét ngưỡng càng cao nên đều thọ nhận tâm yếu. Sư soạn Lang Vi Tử Xuân, có ngoại thần của đời Đường. Khí phách cứng rắn mà ham học, cùng Sư huấn kháng. Tử Xuân gãy sừng, khắp tòa đều kính phục. Uyển Xá nhân khen ngợi rằng: "Xà-lê đáng gọi là ngọc Mani ngoài trần, sư tử trong luận". Bấy giờ, mọi người cho là năng ngôn. Sư trở lại trụ chùa Pháp Hoa ở quê cũ, Điện Trung Thị Ngự Sử Hoàng Phủ, Tăng Đại Lý Bình Sự Trương Hà Kim Ngô Vệ Trưởng Sứ Nghiêm Duy Binh Tào Lã Vị Gia Kỵ Trưởng Khâu Đan Hiệu Thư Trần Duẫn, ban đầu thơ phú qua lại. Lô Sĩ Thức vì đó soạn tựa để nối tiếp sự ngao du của chi hứa, làm cố sự ở trong ấp. Bấy giờ, ngoài việc tu niệm ra, Sư còn trau chuốt văn cú, có tập đến mười quyển. Hoàng Phủ Tăng soạn lời tựa. Trong khoảng thời gian từ niên hiệu Chí Đức đến Đại Lịch (756-780), Sư từng nhận lời thỉnh đăng đàn độ giới. Phát xuất từ Đan Dương, dần thấm tới Kim Hoa, các hàng Thích tử đều tôn xưng Sư là Thân Giáo Thọ. Sư lại vì con đường thông suốt từ Huyện Nam đến Cù Vụ, khoảng giữa đó hơn trăm dặm không có một ngôi chùa nào để cho các hàng Thích tử qua lại ngơi nghỉ. Được Kỵ Đô Úy Trần Thiệu Khâm v.v... dân chúng trong ấp đốc suất, những người kính tin bèn xây dựng chùa, suốt một năm mới xong. Tiến Lại Bộ Thị Lang Từ Hoạt ra giúp Minh Châu, vì nước nhà xóm làng mới nói cùng Liêm sứ Hoàng Phủ Ôn trình tấu ban sắc biển ngạch đề "Đại Lịch".
Trước kia, Trung Nhạc Đạo Sĩ Ngô Quân soạn "tà luận" mấy thiên, bác bỏ Thích giáo, những người mờ tối bị mê lầm. Bổn Đạo Quán Sát Sứ Trần Thiếu Du thỉnh Sư quyết trạch hai giáo Thích, Lão ai là chí Đạo. Sư bèn noi theo cách nhiếp phục tà kiến của Đức Thế Tôn mà phá ma ở Bảo Lâm dựa vào thành lũy ao hào, dùng chánh chế cuồng, cờ trống mới kéo đến mà Ngô quân xóa vết. Sư bèn soạn "Phá đảo phiên mê luận" ba quyển. Phật pháp ở phương Đông hưng thịnh trở lại, thật là do công đức của Sư. Cuối cùng Sư đến Thiên Thai, lại soạn Địa chí hai quyển, đều dựa vào tân luận. Sư quyết trách phong giác, phong vận lãng bạt, trước sau đều hỏi, đều mời an trí nơi giường riêng, thỉnh Sư làm Tăng Thống, lễ bái tôn sùng.
Đến ngày 14 tháng 11 năm Mậu Thìn, tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 4, Sư bị bịnh, dạy răn môn nhân rồi ngồi kiết già, thân tướng trang nghiêm mà thị tịch tại Pháp đường Đại Lịch. Sư thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi hạ lạp. Đến ngày 14 tháng 12 mới đón rước linh nghi an táng tại gò phía Bắc chùa, hoàn toàn vâng theo tăng chế. Tới tháng 11 năm sau (789) mới xây tháp. Bí Thư Tỉnh Hiệu Thư Lang Lục Hoài soạn bài minh trên tháp. Các đệ tử tài giỏi của Sư như Trí Ngang, Linh Triệt, Tấn Minh, Tuệ Chiếu v.v... đều lộ bày phong dĩnh, thay nhau mở mang truyền bá Thiền Luật. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (795), Hộ Bộ Viên Ngoại Viên Khâu Thượng Khanh soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư.
Thích Duy Nghiễm, họ Hàn, người ở huyện Giáng, từ thuở bé, Sư đã lanh lợi thông minh hơn người.
Năm mười bảy tuổi, Sư từ Nam Khương đến phụng thờ Thiền sư Tuệ Chiếu ở Sơn Tây, thuộc Hồ Dương. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Sư thọ giới cụ túc với Luật sư Hy Tháo ở chùa Hành Nhạc. Sư mới tự bảo rằng: "Đại trượng phu phải lìa Pháp để được thanh tỉnh, sao lại vụn vặt vâng theo tế hạnh nơi khăn vải ư?" Sư liền đến tham yết Thiền sư Thạch Đầu và được mật chứng Tâm Pháp. Sư trụ tại Dược Sơn. Đêm đó trăng sáng, Sư vượt lên đỉnh núi cao ngất, cười lớn một tiếng, vang vọng tới Lễ Dương ở phía Đông chừng chín, mười dặm. Đêm đó ở Lễ Dương đều nghe tiếng Sư cười, và đều bảo là "Đông gia". Sáng sớm hôm sau, họ lần lượt tìm hỏi, đắp đổi suy tìm thẳng tới Dược Sơn. Đồ chúng hỏi rằng: "Đêm qua Hòa-thượng đứng ở đỉnh núi cười lớn vậy ư?" Từ đó tiếng tăm Sư vang vọng, xa gần đều náo động.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Lý Cao làm Khảo Công Viên Ngoại Lang, cùng Lý Cảnh Kiệm kết bạn thân thiện, Lý Cảnh Kiệm hạ bị gián nghị, tiến cử Lý Cao tự thay, đến lúc Kiệm bị khiển trách, từ đó Cao mới bị ra làm Thứ Sử Lãng Châu. Những lúc nhàn rỗi, Lý Cao đến tham yết Sư mà trở thành tỉnh ngộ. Thêm nữa, lúc ban đầu, thấy Sư cầm quyển kinh chẳng ngó lại, vị thị giả mới thưa Sư rằng: "Thái Thú ở đây!" Lý Cao tánh tình nhỏ hẹp hấp tấp, mới nói rằng: "Thấy mặt chẳng giống như nghe danh". Sư bèn gọi, "Cao đáp Dạ, nói: thưa Thái Thú, sao quý lỗ tai mà xem nhẹ con mắt?" Lý Cao khoanh tay cảm tạ, và hỏi Sư rằng: "Thế nào là Đạo?" Sư đưa tay chỉ trời, chỉ tịnh bình, bảo: "Mây ở giữa trời xanh, nước ở trong bình". Lý Cao lúc đó như nhà tối đã được sáng, khối nghi vỡ tan, chốc lát nói kệ khen ngợi rằng:
"Luyện được thân hình tợ hình Hạc.
Dưới ngàn gốc thông hai hòm kinh.
Tôi đến hỏi không nói gì khác,
Mây ở trời xanh, nước trong bình".
Ban đầu, Lý Cao, Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích kết bạn văn hội. Tự cùng nhau soạn "Cổ ngôn pháp lục tịch". Làm văn truất bỏ phù hoa, chuộng lý trí. Nên nói làm văn tức là Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích. Lại Bộ Thường Luận Trọng Ni đã mất, các đệ tử tin theo khác mối. Nên Mạnh đáp lời. Dòng Hàn Dương mặc tẩy nhiên sót lạc. Mãi đến đời nhà Chu, nhà Tùy; Vương Đạo chẳng hưng thịnh, nên các người trong làng văn có soạn tác phẩm cũng chỉ thích ứng chung quanh chư tử. Đến đời Đường, Hưng Phòng Ngụy đã để mất đạo, chuộng lấy phù hoa, đến nỗi có các điều xấu tệ của Võ Hậu, tàn dư của An Sử. Tôi ước hai ba ông đồng với trí quân, khôi phục Đạo của Nghiêu, Thuấn, không thể bỏ lời, thánh mà phế Nho, túng Phạm thư mà loạn Hạ. Người có tà tâm dám quy hướng họ Thích, có vượt lời thề, chẳng hưởng tước người, chẳng trọn năm trời, tiên thánh minh thần là trói buộc là giết chóc, Lý Cao lại gặp gỡ được Sư mà chóng rõ bổn tâm. Cuối cùng do Hộ Bộ Thượng Thư Thứ Sử Tương Châu sung làm Sơn Nam Đông Đạo Tiết Độ Sứ, lại gặp được Tử Ngọc Thiền Ông, càng thêm sáng tỏ Đạo thú. Lý Cao bèn soạn "Phục tánh thư" hai thiên thượng, hạ. Đại khái nói rằng: Bổn tánh sáng sạch, chỉ bởi sáu căn nhiễm ô, mê mà chẳng trở lại, nay kéo dắt phục hồi. Như địa lôi lại thấy được tâm trời đất. Tức Nội giáo nói đó là trở về cội nguồn. Sách ấy vừa lộ bày lại vừa mờ ẩn, che mà lại tỏ. Lời văn thì có liền quan đến Trung Dung mà chẳng viện Thích giáo. Nghĩa lý thì theo chân bỏ vọng, sáng tỏ mới hiển bày tự tâm, chẳng sự gì bày tỏ nơi lời, chỉ manh nha ý tưởng.
Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên xem đọc rồi than rằng: "Đạo ta khô héo chậm chạp mà Lý Cao lại bỏ mặc đó". Sư đào luyện những người khó giáo hóa, công sức hộ pháp rất nhiều. Xoay tâm của đứa con nầy, nhổ núi khiêng đảnh vẫn còn là dễ. Tướng Quốc Thôi Quần Thường Thị Ôn Tạo Kế hỏi đạo, Sư hay khai phát Đạo ý.
Đến niên hiệu Thái Hòa năm thứ 2 (828), lúc sắp thị tịch Sư bảo với đại chúng rằng: "Pháp đường sẽ đổ ngã". Đại chúng đều chẳng hiểu ý chỉ, đốc suất người đem cây gỗ dài mà chống đỡ. Sư lại vỗ tay cười lớn, bảo rằng: "Đều chưa hiểu được ý ta". Rồi chắp tay thị tịch, thọ bảy mươi tuổi.
Liên hệ thử bàn:
Đọc hai thiên "Phục tánh" của Lý văn Công (Lý Cao), thấu rõ Phật lý mà chẳng dẫn nơi sách Phật. Viện chứng mà bày lấy lễ nghi dễ dàng mà thôi. Có thể gọi đó là ngoài mềm thuận mà trong nghịch cứng. Nên nói được tượng thì quên lời. Trong kinh nói rằng: "Dùng lời lẽ mà trị thế đều thành Chánh Pháp". Lý Cao có được điều đó, Ngài Duy Nghiễm cười một tiếng mà vang thấu làng xa. Tuy chưa nhọc mắt liền xa tìm mà dễ so sánh với trường hợp khác. Long Trì Vĩnh thường than thở, hang xa sẽ đầy. Đạo Sư cảm như vậy mà không biết như thế.
Thích Sùng Tuệ, họ Chương, người ở xứ Hàn Châu. Thuở còn bé thấy Sư đã có khí phách, chim thứu khó giam lồng, tâm Sư tha thiết muốn xuất trần, sang đảnh lễ Thiền Sư Quốc Nhất ở Kính Sơn, cầu xin làm đệ tử. Tuy chuyên cần Thiền quán, nhưng Sư thường lấy Tam Mật Quán làm việc làm thường ngày.
Ban đầu, ở Xương Hóa, trên đảnh núi cao ngàn khoảnh, Sư kết cỏ làm am, chuyên trì tụng chú Phật Đảnh suốt mấy năm. Sư lại sang Diêm Quan Giáp Thạch Đông Sơn, đựng thất cỏ nhỏ đầu nhọn cao, ở đó nhiều năm. Sư lại phát chí nguyện muốn ngầm tìm theo vết đến chùa Lạc Vân, bỗng nhiên có vị thần thưa với Sư rằng: "Sư trì Phật Đảnh, ít kết SaHa, khiến mật ngữ chẳng viên mãn. Sa-Ha nghĩa là thành tựu. Nay Kinh Thất Phật giáo bị ngoại giáo dày xéo. Khổ ách ấy như khấu liền cờ quân, đợi Sư giải cứu!" Sư rảo bước lên Trình Tây, tâm cũng nhọc nghỉ. Vì chọn cây cũ nên ở chùa Chương Tín mà treo tích trượng. Lúc đó là đầu niên hiệu Đại Lịch (766). Đến ngày 23 tháng 9 năm Mậu thân (768) tức niên hiệu Đại Lịch thứ 3, Đạo sĩ Sử Hoa ở Cung Thái Thanh trình tấu xin được cùng các bậc danh tăng đương thời trong Thích Tông so sánh Phật lực và Đạo pháp xem ai hơn ai kém. Bởi vì, lúc bấy giờ vua Đại Tông khâm trọng kính chuộng Không môn, nên hàng dị Đạo tức giận sự thiên trọng đó mà có lời tấu thỉnh ấy. Bèn ở trước đàn Đông Minh Quán gác dao thành bậc thang, Sử Hoa đạp lên như đi trên đường mặt đá phẳng lỳ. Khi đó, chư tăng ngó ngoái lẫn nhau suy bái mà không ai dám bước lên. Sư nghe như thế bèn đến tham yết Khai Phủ Ngư Triều Ân. Ngư Triều Ân tấu xin ở sân chùa Chương Tín dựng thang chung quanh giá mũi nhọn lấp lánh như sương tuyết, tăng cao trăm thước, còn thềm thang ở Đông Minh Quán rất thấp. Bấy giờ, triều đình công quý cho đến cư dân nơi phố chợ chen chân kề vai mà đến xem sự việc đó. Khi ấy, Sư đi chân trần lên cấp xuống thềm như đi trên đường bình thản, không tỏ vẻ khó khăn. Sư lại đi trên lửa nóng, đưa tay vốc lấy dầu bỏng, ăn lá sắt mà gọi là bánh bột, nhấm đinh dài tiếng như dòn dẻo. Sử Hoa khiếp sợ, xấu hổ bàng hoàng, ôm áo mà lui. Khi đó, chúng đông búng ngón tay ngợi khen tiếng vang như sấm. Vua Đại Tông sai Trung Quan Củng Đình Ngọc Tuyên yên ủy đôi ba phen và mang tặng một chiếc y tía, ban chiếu phong tước
Hồng Lô Khanh, tặng hiệu là Hộ Quốc Tam Tạng, ban sắc mời dời về trụ chùa An Quốc. Từ đó thanh danh Sư phát vượt, đức vọng cao vời. Vua Đại Tông lại nghe Sư là đệ tử tài giỏi trong thân môn của Thiền sư Quốc Nhất thì càng thêm kính trọng. Người đời tôn xưng Sư là "Cân Tử Sơn Hàng Ma Thiền Sư".
Liên hệ thử bàn:
Có người cho rằng Ngài Sùng Tuệ là huyễn tăng, việc ấy thế nào? Thông đáp: Hễ đối với năm trần mà biến hiện, gọi đó là thần thông. Nếu tà tâm biến việc năm trần thì là huyễn ảo. Ngài Sùng Tuệ hành trì pháp Tam Mật Du-già Hộ-ma, do đó giúp Sư có được Chánh Định, đạp lên mũi nhọn, đi trong lửa dữ, đó đâu đáng để kinh sợ? Vậy làm gì có huyễn thay! Luận Du-già có các Tam thần Biến vậy.
Thích Vô Danh, họ Cao, người ở xứ Bột Hải, ông nội của Sư làm quan ở xứ mà nay gọi là Tây Kinh, nên trở thành người Lạc Dương. Ở tuổi bé thơ mà Sư có cuộc sống khác thường, miệng chẳng nếm ăn các chất cay n ồng máu huyết, tánh không quen rầm rĩ. Xa mong xuất trần, nên khó mà ngăn giữ.
Năm hai mươi tám tuổi, Sư như nhạn sầu sổ lồng, tìm thầy tập học, nương theo tùy thuộc ở chùa Đông Đức, đến lúc tinh thông Luật tạng, giải một chữ không nghi, nghe có Thiền tông, nghĩ phải ngàn dặm mà thỉnh quyết, Sư bèn nắm được cốt yếu, mở cửa thấy đường, từ bay bút khỏe, tư tưởng như suối tuôn. Nhân đó Sư theo thầy du phương phỏng dò di tích của Tổ Sư. Được Đại Sư Hội truyền trao Tâm An, Đại Sư Hội nói trước đồ chúng rằng: "Ta trao Pháp không có tên gọi". Vì vậy mà gọi Sư là Vô Danh. Từ đó Sư phát chí muốn đi khắp bốn phương, chu du đến Ngũ Đài. Với các xứ La Phù, Lô Phụ, Song Phong, Hoàn Công, Lự Lãnh, Ngưu Đầu, Diệm Khê, Nhã Da, Thiên Thai, Tứ Minh không nơi nào Sư chẳng dò hỏi tìm đến.
Sư với phong cách cao xa, thần thác sáng suốt, người hiểu biết rộng thấy dáng mạo Sư liền kính phục, người thấy biết hẹp hòi thì mở lời hẳn là bị chiết phục. Bấy giờ, vua Đức Tông mời nạp Tiên Vu Thúc Minh Linh Cô Hoàn coi về việc chọn lựa tăng ni, khi đó Sư có dâng biểu can ngăn thẳng và đều đình chỉ. Sau đó, Tiên Vu Thúc Minh Linh Cô Hoàn v.v... xuôi xuống bá tánh ở Nam Hải.
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ Sáu (790), Sư đến núi Ngũ Đài, nơi ở không cố định, tới ngày 12 tháng 12 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 9 (793), đang ở tại chùa Phật Quang, thọ trai xong, Sư ngồi nghiễm nhiên mà thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi ba hạ lạp, đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 13 (795), trà-tỳ nhục thân Sư, thâu nhặt được một thăng xá-lợi. Trạch Lộ Tiết Độ Sứ Lý Bảo Chân xây tháp thờ Sư tại chùa Phật Quang vào năm Canh Ngọ (790) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 6.
Có thuyết nói Sư có soạn sớ giải Kinh A-di-đà.
Thích Trí Thường, Ngài trội vượt khác thường, đi khắp các nơi, tham yết các Thiện tri thức, bóng nương Nam Tuyền, đồng đến môn tòa của ngài Đại Tịch, mới thấy Đạo của Giang Tây.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư chống gậy đến Tịnh viện Quy Tông ở Lô Sơn. Đồ chúng hưởng ứng, Pháp của Sư thịnh hành lan đi như gió, Bạch Lạc Thiên biếm truất Giang Châu Tư Mã, rất khâm Phục kính trọng Sư. Vào niên hiệu Nguyên Hòa thứ 6 (811), tiếp theo lại có Lý Bột Viên Ngoại ẩn cư tại Tung Thất để soạn trưng khởi. Đỗ Nguyên Dĩnh đuổi đi, ra làm thứ sử Kiền Châu, ở Nam Khang chưa đầy một năm, rồi lại làm Thứ Sử Giang Châu. Lý Bột nghe rộng biết nhiều, sách của trăm nhà hiền triết không thứ nào mà chẳng xem đọc, nên được mệnh danh là "Lý vạn quyển". Vừa đến Quận liền mừng được cùng gặp Bạch Lạc Thiên. Nhân nói về những nhân vật hiền triết ẩn dật tại các nơi Tầm Dương, Lô Phụ, Sơn Thủy, luận về vết tích ngài Tuệ Viễn, bèn thuật lại Thiện Đàm Thiền Yếu của Thiền sư Quy Tông. Lý Bột nói: "Bảng vàng nơi triều đình sớm chiều có danh mục, ưa thích rau A-sư". Bạch Lạc Thiên nói: "Như thế thì chưa biết ăn rau A-sư ư?" Bạch Lạc Thiên mạnh dạn khuyên đến Nhị Lâm, ý đồng với gặp Sư, lúc đến Tịnh Viện Quy Tông, Lý Bột hỏi rằng: "Trong giáo điển có nói: Núi Tu-di chứa hạt cải, hạt cải chứa núi Tu-di. Vậy làm sao hạt cải chứa được núi Tu-di ư?" Sư bảo: "Người ta nói ông là kẻ sĩ thông bác học, xem cả muôn quyển sách, mà lại thấp bé như thế ư?" Lý Bột nói: "Thật hổ thẹn cái hư danh ấy!" Sư bảo: "Sờ từ gót chân lên đến đỉnh đầu, chỉ như thân chừng thước, muôn quyển sách hướng nơi não mà ở?" Lý Bột cúi đầu không nói, lại suy nghĩ mà ngợi khen.
Lại có Sa-môn Thần Kiến ở chùa Đông Lâm, giảng các kinh luận, hỏi: chạm mắt là Giác ngộ, Sư lược nêu cử, Thần Kiến không hiểu, bèn phát lời tụng, Sư chỉ bày cảnh giới xấu. Khi đó Sư phán khu phận nghe ý chỉ.
Sư có dị tướng, mắt sáng tròng đôi; bèn lấy thuốc thoa tay, xoa mãi, bất giác mà vành mắt đỏ hồng, nên mọi người xưng gọi Sư là "Xích Nhãn Quy Tông" vậy.
Liên hệ thử bàn:
Phật lý sâu mầu, một lời xử quyết. Lời của Huyền giải, hợp với mãnh lợi, ứng nghiệm tợ thuốc tốt mầu, bịnh liền hết.
Thích Sở Nam, họ Trương, người ở đất Mân. Khi đang tuổi tết tóc, tự nhiên Sư quỳ trước cha mẹ tỏ bày chí nguyện muốn xuất gia. Sư đến chỗ Đại Sư Đàm Yết ở chùa Khai Nguyên và được dạy bảo. Lúc thầy trao kinh pháp, mắt Sư thấy qua miệng liền đọc tụng, Sư cầm khăn lau hầu quét tước, ứng đối, rất khéo léo cẩn trọng.
Đến năm hai mươi tuổi, Sư mới xuống tóc, đến núi Ngũ Đài thọ giới cụ túc, đến Thiệu Quận học Luật Tướng Bộ, rồi sang Thượng Đô học Kinh Tịnh Danh. Một kinh, một luật, lược thông Tông chỉ, thì biết Đốn cơ, chẳng cam chịu ràng buộc nơi Tiệm giáo, Sư bèn sang núi Phù Dung, căn tánh chưa phát, Sư tham yết Thiền Sư Hoàng Bá. Hỏi đáp nhiều nên cơ nghi chóng tỏ ngộ. Gặp nạn vua Võ Tông phế hủy Phật giáo, Sư trở về phương Nam trốn sâu nơi hang hóc núi rừng. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860) phục hưng giáo pháp, ra gặp thăng bình. Tướng Bùi Công Hưu ra trấn tại Uyển Lăng, thỉnh Thiền sư Hoàng Bá ra núi, Sư theo hầu từ đó. Tiện dịp, Sư đến chùa Báo Ân ở Cô Tô, chuyên thực hành thiền định, suốt hơn hai mươi năm, chân Sư chẳng đến nhà thế tục
Đến niên hiệu Càn Phù năm thứ 4 (877), Thái thú Cô Tô là Chu Thận Tự, do ảnh hưởng đạo phong nên thỉnh Sư đến trụ Viện Bảo Lâm. Lại thỉnh Sư đến trụ Núi Chi Hình. Tới niên hiệu Càn Phù năm thứ 5 (879), Xương Hóa Huyện Lịnh Từ Chánh Nguyên và Tử Khê Nhung Tướng Nhiêu Kinh đồng thỉnh Sư đến trụ Viện Từ Vân ở núi Thiên Khoảnh. Ngoài việc dạy bảo thiền chúng ra, Sư nghiễm nhiên thiền định suốt tháng hoặc cả tuần. Đến niên hiệu Quang Khải năm thứ 3 (887), Tiền Lưỡng Chiết Võ Túc Vương Tiền thỉnh Sư xuống núi để cúng dường. Vua Chiêu Tông nghe Đạo hóa của Sư nên ban tặng Sư lộc Bào Y Ngũ Sự, riêng mang đến y phục sắc tía.
Đến tháng 2 niên hiệu Văn Đức thứ Sáu (888-899) bỗng nhiên có hai vầng cầu vồng soi suốt đường thất, sau đó có hai con nai chạy thẳng vào chùa, đòn dông trên pháp đường gãy lìa. Tới tháng 5, Sư từ biệt tăng chúng rồi vào giường Thiền, xuôi hai chân, duỗi hai cánh tay tới đầu gối, an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tuổi, năm mươi sáu hạ lạp, xây tháp thờ ở góc phía Tây của viện.
Đến tháng 2 năm Nhâm Tý (892), tức niên hiệu Đại Thuận năm thứ 2, Tôn Nho Khấu ở Tuyên Châu bởi phong lược của Tiền Đường, binh sĩ phá tháp, thấy toàn thân Sư không tiêu rã, móng tay và tóc đều dài ra, bèn ăn năn hối tội mà bỏ đi. Lúc bình sanh, Sư có soạn "Bát-nhã Kinh Phẩm tụng kệ" một quyển, "Phá tà luận" một quyển. Vì Chi, Ngô khác tông nên ngoại địch xem là quý ở đương thời.
Thích Huyền Thái, không rõ Sư là người xứ nào, tánh Sư ngang thẳng, chẳng nói lời vô nghĩa, tâm tĩnh nơi tình nghĩa mà hậu động, Lan-nhã Sư ở phía Đông của Hành Sơn, đề hiệu là Thất Bảo Đài. Sư chẳng mặc y phục tơ tằm gấm lụa. Người bấy giờ gọi Sư là Thái Bố Nạp.
Từ khi gặp được Thiền Sư Đức Sơn, hoát nhiên như tự đến. Sư phát nguyện chẳng lập môn đồ, tiêu diêu cầu chí, mà đối với từ bút của Sư, bút như có thần. Bốn phương hậu tiến tuần lễ thấy nhau, đều dùng lễ của Bình Hoài. Sư từng vì phía Nam của Hành Sơn bị dân núi, bọn Mạc Diêu, chặt cây đốt núi tổn hại rất lắm, Sư bèn làm bài ca "Xa Sơn" truyền bá xa gần, vang thấu triều đình. Nhà vua ban sắc khiển trách Thái Thú Hành Châu cấm chỉ việc đó, Lan-nhã ở trong núi do đó mà được tồn tại, không bị cháy lan là do công đức của Sư.
Sư thị tịch lúc sáu mươi lăm tuổi, trước khi tịch
Sư nói kệ rằng:
"Không cần cạo tóc
Chẳng cần tắm gội
Một đống lửa dữ
Ngàn đủ vạn đủ".
Nói xong, Sư duỗi một chân mà thị tịch. Trà-tỳ thâu nhặt được Xá-lợi an táng chung ở phía trái, tháp của Đại sư kiên cố, xây một ngôi tháp nhỏ. Lại làm tượng cốt, bài minh ca tụng, v.v... nơi tháp các Tổ sư, người giỏi việc biên chép thành tập mà lưu hành ở đời.
Thích Huyền Sướng, tự là Thân Chi, Ngài dòng họ Trần, người xứ Tuyên Thành. Từ thuở bé, Sư đã giữ gìn tiết tháo khác thường, những lúc vui đùa thì nhóm cát làm tháp, nhóm lấy lá làm hương.
Năm chín tuổi, Sư đến chùa Thủy Tây ở Kinh Ấp, nương tựa Thanh Nhật Thượng Nhân mà được trao kinh pháp. Năm mười chín tuổi, Ngài xuống tóc, năm hai mươi tuổi Sư sang giới đàn Đâu-suất ở Phước Châu cầu thọ giới cụ túc, nghe nhận luật khoa, thâm đắc Tông chỉ, mới thêu một Pháp y bằng tơ mịn nhuận mầu sắc đẹp mà sang Việt Trung cầu nghe dị thuyết. Sư kính mến ở chùa Tây Minh ở kinh thất có viện cũ của Luật sư Đạo
Tuyên, còn cất giấu nhiều vết tích Tỳ-ni Giáo, nhân nương gá ở Pháp tịch của Luật sư Tuệ Chánh, tự đến Kinh hoa, dần được sự thấy nghe rộng lớn từ các vị Đại đức Tam học ở kinh thành. Sư mới chuyên việc giảng đàm, vội đúc chung để lấp ách thì gặp pháp nạn Hội Xương phế hủy Chánh Pháp. Bấy giờ, các Pháp lữ ở kinh thành rất lo sợ bàng hoàng. Lưỡng Nhai tăng lục Linh Yên, Biện Chương đồng suy cử Sư làm đầu để dâng biểu luận bàn can ngăn. Sư bèn soạn "Lịch Đại Đế Vương Lục" tấu trình nhưng vua Võ Tông chẳng nghe. Do đó, Sư cùng chung số phận theo tục phục. Thà khéo Đạo tình như rồng rắn nép phục mà đợi thời, ngọc đá đều cháy mà chẳng cứu. Mãi đến lúc vua Võ Đế băng, vua Tuyên Tông lên ngôi (847). Cửa đóng lại mở, núi dữ dứt cháy. Vào niên hiệu Đại Trung (847-860), Sư gặp những ngày Đản thần, vào nội cung bàn luận, vua Tuyên Tông ban tặng Sư một bộ Pháp y ca sa sắc tía, sung vào Đại Đức Lâm Đàn trong ngoài. Vua Ý Tông rất khâm trọng túc đức của Sư, phiên tích thường đến, Sư mới tấn phải tu thêm "Kinh Sám Hối Nhất vạn ngũ Thiên Phật danh". Lại tấu xin "kinh Bản sanh tâm địa quán " một bộ tám quyển, đều nhập Tạng.
Bấy giờ thỉnh Sư sung làm thủ lãnh Viện Truy Phước, lại sung làm Đô Duy Na làm tổng trì, sau đó thỉnh đặt Thượng tọa. Ngài giảng Luật 60 tòa. Đệ tử được độ Pháp vài ngàn vị. Sư soạn "Hiển chánh ký" mười quyển, "Khoa lục điểm danh nghĩa đồ" ba quyển, "Tam Bảo ngũ vận" ba quyển. Tuy thuật lại những điều nghe xưa mà nêu đề mục mới, nghĩa vượt ngoài ý, văn giúp thời cần. Vào niên hiệu Càn Phù (874-880), vua Ý Tông chọn từ Thượng Tâm, ban tặng Sư hiệu là Pháp Bảo. Đến ngày 21 tháng 3 niên hiệu Càn Phù năm thứ 2 (875), Sư thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi chín hạ lạp.
Đệ tử Tứ Tử là Tuệ Nhu Đại Đức Sư Toại Tông Thiệu để đến ngày 25 tháng 4 năm đó mới đón rước an táng tại thôn Tiểu Lương, làng Cao Dương, Ấp Trường An. Đến năm Đinh Dậu (877), tức niên hiệu Càn Phù thứ 4, Thượng Thư Lễ Bộ Thị Lang Thôi Hãng là người đã cùng Sư giao phân rất sâu sắc, soạn văn bia thuật lại di tích của Sư.
Thích Duy Kính, người xứ Trường Khê, thuộc Phước Châu. Sư có tiết tháo tinh ròng, nuôi dưỡng ý chí, phá nạp che thân, y phục không lụa là thêu thùa, gọi là Đầu-đà.
Ban đầu, Sư tham Tuyết Phong, sau thám thấu uyên phủ. Vào niên hiệu Càn Hóa (911-913), thời Hâu Lương, Sư vào núi trú tại Báo Từ Đông Tạng, đó cũng gọi là "Tam Sanh Tạng". Ở trong thấy đèn gương của Thiền sư Pháp Tạng, chóng tỏ rõ được môn Pháp Giới Quảng Đại Trùng Trùng Đế Châu Như thị, nhân đó mới khen ngợi rằng: "Các bậc Thánh tiên đạt đầy đủ trí tuệ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn như thế hàng tiểu trí chẳng thể biết được!" Lại nữa, trong Nhạc Đạo Quán cũng thiết bày đèn ấy, qua thời gian, nhân phế giáo nên thầm dời vào Tiên đàn, có Đạo sĩ Tài Nhân Du Nhạc giữ đề rất nhiều. Sư bèn than rằng: "Quýt mùa Hạ nóng nhiệt thà trồng ở thần đô, Thuấn Thiều đều nghe chẳng rõ biết liền quên mùi thịt. Ôi! Hạng người không biết chẳng nghiên tầm đầu mối cội gốc, trận thanh chiên của họ Vương cho là vật cũ, nhận Khổng Tước của Lãnh Nam để làm gia cầm, đời sau đâu biết! Nên ở đây phải phân biệt". Sư bèn soạn "Ngũ tự tụng, Tụng ngũ chương". Người đọc xem biết được Lý Sự dụng nhau, đèn có sở thuộc, thuộc ở hỗ tương, vượt vào quang ảnh, hàm dung hiển bày biển Tánh Hoa Nghiêm. Chủ bạn giao quang, chẳng phải khí dụng của Đạo gia. Sở Vương tấu trình ban tặng Sư hiệu là "Bảo Văn đại sư".
Vào niên hiệu Khai Bình (907-911) thời Hậu Lương, Sư tiếp tục soạn "Bảo Lâm Truyện" tức là ghi lục nguyên phái Tổ Tổ kế thừa nhau trong Thiền môn từ niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thời Tiền Đường về sau. Sư còn soạn riêng "Nam Nhạc Cao Tăng Truyện" không rõ bao nhiêu quyển. Đó cũng là một đời Thiền tông đạt sĩ văn thể đáng xem. Sau, Sư thị tịch ở trong núi.
Vật vượt nghi dường như khó liền phân biệt. Ngài Duy Kính ghi chép đèn gương, như di vật được mang trở về nhà, người đời sau ắt chẳng dám trộm lấy về nhà họ. Nên nói: "Việc trước không quên là nguyên quy của đời sau ".
Thích Đạo Phi, Sư người làng Quý Trụ ở Trường An, gia đình thuộc Tông Thất của nhà Đường. Cha của Sư theo Yến Tương tông đứng đầu Ngũ Viện ở Duyên Đường. Mẹ của Sư họ Hứa, vì cầu tin tức nên thường trì tụng Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm. Bỗng mộng thấy ánh sáng thần chiếu soi vào mình, nhân đó mang thai Sư. Đến lúc sanh thì Sư mặt mũi khôi ngô, hình chất trang nhã. Bà con thân thích lấy làm lạ và mến yêu như là đồng tử cõi trời. Năm mới tròn một tuổi, cha của Sư làm tướng lãnh tại Phấn Tấn dẫn quân đến Hoắc Sơn mà qua đời vì vương sự. Sư còn bé thơ, nên nhóm tụ nô đùa, hình dáng cười tươi.
Năm bảy tuổi, bỗng nhiên Sư bỏ không ăn chất máu thịt tanh nồng, mỗi lúc đến tinh xá thì vui vẻ quên trở về. Sư bèn xin mẹ sang chùa Bảo Thọ đảnh lễ Pháp Sư Kế Năng, tôn xưng làm thầy. Năm chín tuổi, Sư khéo thông lễ tán theo Phạn âm. Năm đó, Tương Tông đến Thạch Môn, Sư theo thầy đến nghinh giá. Năm mười chín tuổi, Sư học thông Kim Cương Kinh nghĩa, bèn hành trì và giảng suốt, lại giá trở lại kinh đô Lạc Dương ở Trường An bị đốt phá rã tan, Sư bèn vai cõng mẹ đi về hướng Đông, đến Hoa Âm. Lưu Khai Đạo làm loạn, Sư lại mang mẹ đến vào Hoa Sơn an nghỉ trong hang núi. Bấy giờ, gạo thóc hiếm quý, mỗi đấu đến muôn đồng tiền. Sư lần lượt đi khất thực trong thôn xóm, tự chuyên thai tức, chỉ cung cấp cho mẹ Sư dùng. Mẹ hỏi Sư đã ăn chưa, Sư đáp: "Vừa rồi ra ngoài đã thọ trai xong". Sư sợ thương tổn ý của mẹ mà giữ tâm chí hiếu như thế!
Năm Sư hai mươi tuổi, mẹ của Sư bảo rằng: "Cha của con đến Hoắc Sơn bỏ mạng nơi chiến trường, hài cốt phơi dầm sương móc, con có thể đi thâu nhặt đem về an táng, làm thế chẳng là hiếu ư?" Ngài bèn từ giã mẹ già, đi sang ấp Hoắc, dựng am tranh, nhóm công tích tập cốt xương trắng lại một nơi, suốt ngày đêm tụng kinh, và chú nguyện rằng: "Người xưa tinh thành có sự cảm ứng giọt máu nhận xương. Nay ta chí làm con hiếu há không linh nghiệm gì ư? Nếu trong đống xương này có cái nào nhúc nhích, thì đó tức là di hài của cha ta ". Sư nhứt tâm chú tưởng như vậy, mắt chẳng tạm rời. Trong khoảng thời gian vài ngày, quả nhiên có các xương từ trong đống xương vọt ra tranh nhau phóng túa trước Sư, lay động giây lâu. Ngài liền khèo lấy hai chân nhảy vọt ôm chầm lấy như hiện đang sống, rồi mang trở về Hoa Âm. Đêm đó, thân mẫu Sư mơ thấy người chồng trở về nhà, tới sáng mai thì Sư mang xương về đến. Sư giữ hạnh hiếu vô cùng cảm kích, tiếng tăm ngày một vang xa.
Đến năm Sư hai mươi bảy tuổi, gặp Diệu Châu Mục Lâu Kế thỉnh Sư tới trụ viện Di Lặc, của chùa Phước Tiên ở Lạc Dương. Là chỗ tẩy rửa vết thương của Pháp Sư dịch Kinh Thích Đạo An đời nhà Tấn. Đến năm Bính Dần (906), tức niên hiệu Thiên Hựu năm thứ 3, thời Tiền Đường, Tế Âm Vương ban tặng Sư Pháp y sắc tía. Vua Trang Tông (923
-926), thời Hậu Đường tặng Sư danh hiệu "Quảng Trí Đại Sư". Dưới thời Hậu chủ đời Hậu
Lương, thời vua Trung Tông, vua Minh Tông (923-934) đời Hậu Đường, hễ trong nội cung có kiến lập hương đàn, thì Sư đều ứng chế đàm luận, phần nhiều là đứng đầu. Đến thời Hậu Tấn dời đô, nay là xứ Đông Kinh, niên hiệu Thiên Phước thứ 3 (938), vua Cao Tổ (Thạnh Kính Đường) ban chiếu mời Sư vào Lương Uyển, làm chức Phó Lục Tả Nhai tăng sự, Sư cùng với Đại Sư Chiêu Tín, là bậc truyền Pháp A-xà-lê đều có dung mạo trẻ thơ, nên gọi là hai vị Bồ-tát. Và cũng vì vậy mà các triều quý, sĩ thứ phần nhiều thỉnh Sư để học phương pháp sống lâu. Sư luôn tinh cần không biếng trễ.
Mỗi danh hiệu Phật Sư lạy một lạy, từ Kinh Phật Danh cho đến bốn bộ Kinh Pháp Hoa, Kim Cương, Nhân Vương, Thượng Sanh, Sư đều mỗi chữ mỗi lạy. Nhưng Sư giữ hạnh Đầu-đà, đến lúc phân vị có hai đệ tử theo hành.
Đến năm Giáp thìn (944) thuộc niên hiệu Khai Vận, thời Hậu Tấn, Sư giữ chức Tả Nhai Tăng Lục, tuy làm việc của chúng tăng mà Sư vẫn giữ thời khóa tu trì thường ngày. Tướng quốc Lý Công Đào, Tây Khu Mật Thái Phó Vương Công Phác, Hàn Lâm Thừa Chỉ Đào Công Cốc v.v... đều hết lòng kính trọng. Đến niên hiệu Càn Hựu (948-951) thời Hậu Hán, Sư cáo bịnh từ tạ xin trở về phương Tây. Trong lúc chưa được chấp thuận, gặp phải thời nhà Hán suy bại, binh lửa nổi dậy lan tràn, phóng túa cướp bóc. Sư ở dưới mái hiên tụng niệm suốt hai ngày, mọi lộn xộn không còn thấy gì. Khi đó, mọi người ở kinh thành thấy nghe như thế càng thêm khâm phục kính trọng. Sư lánh về Lạc Ấp, vua Thái Tổ (951-954) thời Hậu Chu vốn đã ngầm kính trọng Sư, nên trong niên hiệu Quảng năm Thuận thứ nhất (951), vua ban sắc mời Sư làm Tả Nhai Tăng Lục, chẳng cho từ chối. Sư lại trở về Đông Kinh đảm nhận việc chúng tăng. Thế Tông y sửa sang phủ chính, sợ Không môn phiền tạp, muốn tấu trình sa thải, mời Sư cùng bàn bạc. Khi đó Sư hỏi nạn giao phát mở dụ tâm vua Thế Tông. Sư bảo: Sự thanh tịnh cao quý của chư tăng hẳn không lộ bày ở trước người. Trong tăng hoặc có người hung ác, bướng bỉnh, riêng giao du trên đời, ắt sợ chánh thi, cỏ Bao cùng với Lan chỉ mà cắt bỏ, mới có việc đào thải vàng, trục bùn cát mà khuấy động. Đại vương anh minh muốn soi chiếu súc dưỡng trí đáng hành, là vì ích lợi cho hoàng đế hay tổn hại cho người thân của vua? Nếu vì ích lợi cho quân vương thì chẳng nên khiến một vật mất chỗ, nếu vì tổn hại thân thuộc tức là phá hoại ruộng phước lục hòa. Huống gì thiên hạ mới tạm bình yên, vết thương lở loét chưa kín miệng, xin đợi để lúc sau tìm bắt cũng không muộn! Nên Lão Tử nói: "Sửa trị nước lớn như nấu con cá tươi sống nhỏ, sợ nó quẫy động mà tan rã". Vua Thế Tông rất lấy làm thấm thía lời nói đó, và bèn theo đó mà dừng. Đến lúc vua Thế Tông lên ngôi (954), Sư bảo với chư tăng rằng: "Tôi cùng với Hoàng Đế sớm đã có chí, các ông nên răn nhắc, giữ gìn lẫn nhau, kiên quyết cầu xin mở giải trở về Lạc Dương". Ngài lại lập lễ bái Kinh Thủ-lăng-nghiêm, hai năm sau quả nhiên ban sắc đều hủy chùa tăng, đồng thời lập tăng trướng, bởi sự hạn chỉ ấy. Hủy phá chánh giáo không sâu là nhờ sức của Sư.
Đến Ngày mùng 8 tháng 6 năm Ất Mão (955) tức niên hiệu Hiển Đức thứ 2, Sư thị hiện bị bịnh, qua ngày mùng 10, Sư bảo đệ tử sớm lo cháo để dùng, và Sư bảo: “Có chúng Bồ-tát Thủ-lăngnghiêm rất đông cùng đến đón rước". Sư bảo đánh bảng, chốc lát thì thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, bốn mươi bảy hạ lạp. Tăng tục đều gào khóc, các chùa lo đầy đủ oai nghi, đón rước về an táng ở phía trái chùa Quảng Hóa ở Long Môn và xây tháp đá để thờ. Lúc Sư chưa tịch, hồng chung trong chùa tự nhiên tắt tiếng, đầu rồng ở ngoài chùa bỗng nhiên cũng gãy rơi, Sa-môn Trừng Thanh mộng thấy đòn dông ở chánh điện bị gãy rơi. Rất lắm điều quái lạ.
Liên hệ thử bàn:
Thời nhà Chu, vua Võ Đế phá Phật, đến năm Tân Hợi (591) thuộc niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, Thái Úy Thừa Triệu Văn Xương xuống minh phủ thấy Võ Văn Ung (vua Võ Đế 561-579 thời Bắc Chu) đang chịu hành xử, gởi lời xin vua Văn Đế), Dương Khiêm (581-602) đời Tùy tìm cách cứu giúp. Đến thời Hậu Chu, vua Thế Tông (Sài Vinh 954
-960) đào thải hủy phá tư ấp, khắc lập tăng trướng nên nói rất có thể vời lấy quả báo xấu ác đó, hoặc có xuống minh phủ thấy điều đó. Đều tán thành kẻ quyết sự, đồng ở phụ xứ, lược đồng như vua Võ Đế thời Bắc Chu, chưa biết việc đó ư?
Thử luận bàn:
Cửu trùng sở dĩ thành thâm nghiêm, do nhờ bảy lễ giữ gìn ưu hoạn. Thành cao tường lớn thêm hiệu úy mà giữ gìn. Đãy tê da hủy giúp tướng quân mà chiến đấu. Vua đã an chỗ thì bề tôi cũng lập công. Giống như bên ngoài Thích môn kẻ xem thường bỗng đến đắc pháp, dắt đó ở trong quyền mà có sự đối địch nầy, khiến cho Đại Đạo tan mất mà trùng phục huyền cương, dứt bặt mà lại trưng bày. Ta có Trọng Do là người lời ác chẳng để vào tai. Ngoài chống lại sự khinh thường, không thể tạm mất. Than Ôi! Chân giáo (P. giáo) truyền đến phương Đông đã qua nhiều niên kỷ, hứng chịu lấy gian truân chẳng khuất chỉ để tìm. Pháp ràng buộc hữu vi, bốn tướng vì đó mà dời đổi, ánh sáng tuy không tổn, song vầng mặt trời mặt trăng, vì đó mà có sứt mẻ, Hoàn Sở không mối manh, bắt chước chạy theo, được thời mà biến Pháp, đức dư ấy bắt đầu từ đó, riêng thừa lực mà trách tăng. Nhờ Viễn Công gởi thư đến, nhân triều đạt kháng sớ, chỉ thành bạo chính, không nịnh hót nhân tình. Thời Nguyên Ngụy ôm lòng tà, Chu Ung chuộng biện. Ngài
Đàm Thỉ mới vạch trần vết tích dối trá, Ngài Đạo An phấn phát ngôn từ bén nhọn, là đợi hố Tần có thể trốn lánh luật Hán, mới an định được hai đức, nghi đó trú thọ ứng chân, vào ra hình thái ấy giúp người ách nạn, cứu kẻ đắm chìm. Ngài Uy Tú suy lường ách vận đó, giận trái thường này. Trên nếu công kích thì cộng lũy lên trước. Vì Pháp tình cờ phạm mà Nhan bất tử. Sư phục lễ đáp từ khó của Quyền văn Học, nhóm thành giải phán, Ngài Tuệ Lập bác bỏ Lã Phụng, ngự đồ chú khỏi lan tràn Khuy du, cả hai mặt đều thông. Ngài Huyền Nghi soạn "Chân chánh luận", một trường vọt giá. Ngài Pháp Minh phán định việc, Hóa Hồ, đáp về Khổng Lão với Lý Hoa, các danh Nho đều nhiếp phục. Nêu rõ đúng sai đối với họ Vi, biện thế tù cưỡng. Ngài Thần Ung lấp bít Từ độc ký ở Thiên Thai, Ngài Duy Nghiễm sai Lý Thành soạn ở "Luận Phục Tánh ". Trong đó, hoặc xúc chạm với thuật của Sử Hoa, nhân đạp lên thang dao, cản ngăn điều quấy của vua Đức Tông, mới đình chỉ sự sa thải, bày đáp cảnh tỉnh Lý Bột làm lời vè để chiếm Hành Sơn. Luận phá tà thật đáng lấy làm tông, bài tụng Giám Đăng quy về ta.
Trên đây là các đức hạnh vượt tục cao vợi, thử cản ngăn giặc thù, chống lại xem thường. Nói nó mỏng manh thì phát giận quên ăn, rất chẳng phòng trở lại vấy bẩn. Như cao nguyên phóng lửa, mùi hôi của lan ngãi cùng cháy, cây cối thiếu gió, thì ổ chim loan, chim si đều úp đổ. Đó chỉ dùng để gọi sự bạo ngược phá diệt đạo pháp ta trong niên hiệu Hội Xương. Từ đời Hán đến đời Đường, trải qua mấy phen nguy ách, nhưng nặng nhất là thời Võ Tông. Ban đầu có Đạo sĩ Triệu Quy Chân trao thuật lưu niên cho nhà vua, sủng ngộ không gì sánh được. Mỗi lần đối đáp tâng bốc, bài bác phá hủy Phật giáo nên dứt bỏ hết, bởi vì Triệu Quy Chân từng ở dưới thời vua Kính Tông vào ra nơi ngõ ngách cung cấm, thế lực như dò xét nước sôi. Đến lúc họa buộc, bạo giết tự nhiên sự thể như tương, chư tăng khắp kinh ấp đều cùng nhau phát sanh nhạo báng chê cười. Triệu Quy Chân thống thiết tâm cốt, biết ngày nào quên được, trở lại gặp Võ Hoàng nhân duyên quen lớn gần gũi, vì là Lưỡng Nhai Giáo thọ tiên sanh. Khi can gián thần khán sớ, Tể thần Lý Đức Dụ thường nói Triệu Quy Chân sợ nó lay động, nên tấu đón rước La Phù Triệu Nguyên Khởi, Nam Lạc Lưu Huyền Tĩnh vào. Nhà vua cho rằng thần tiên đến như thế là do cùng làm kỳ, giác đồng hủy Thích môn, ý muốn báo thù cho việc chư tăng bị cười chê. Chúng khinh phủ xe, bầy thước táo sợ núp. Tu-di nghiêng đổ, khốn cùng thay phong hóa của kiếp tận, Hữu đảnh thấp tịt, cậy vào chày túc thông, há gọi là cuối cùng ư? Sẽ có lúc phục hội, vào niên hiệu Đại Trung thực hành tru diệt kẻ phế giáo, thời Hội Xương chẳng phải là Lão của ngày sau. Than ôi! Thuật kỳ bí của Triệu Quy Chân xưa nay không có. Sao ta có thể gởi mừng giận đối với tâm của Thiên tử, tuy Vương Tấn An, Kỳ đều phế như vậy. Bấy giờ, có các Đại sư Huyền Xướng, Pháp Bảo nhận mời làm chức Lưỡng Nhai, quơ một dao đồng loạt cắt đứt, biên tập xưa nay, sưu tầm kinh sử, soạn thành biệt lục dâng tấu phơi bày nêu mốc trái ngược, tay long lân đã duỗi, tâm tham dò hang hổ càng mạnh. Bịnh độc dữ tan, thì dao con huơ làm gì, sông vẩn đục, một ít keo dính mà man giải, như đều sợ chấn động, cái gọi là tọa khán. Ngài Huyền Sướng tay nâng chẳng khắp núi, chẳng khỏi sợ xúc chạm bẻ gãy của công sức chung. Phàm chư tăng ngày nay không buông lung hủy mạn, hủy mạn là tiểu nhân, đến lúc vây bủa độc họa, quân tử chịu lấy, cũng như lửa tại cửa thành mà cá trong ao bị chết. Thảng bảo: Chu Võ chẳng rơi nơi địa ngục A-tỳ, Triệu Quy Chân tự lên tiên cảnh, vua Tuyên Tông phá diệt đó đã lấp trách. Cho nên Tỳ-kheo chỉ nên quán xét lại thân hành, chớ dò xét huyền môn, việc chẳng liên can đến mình. Lại vì không môn nhiễm tập như thế, không đấu đánh ở tứ chi mà tổn thương thân thể. Mỗi vị đều là bậc Thánh lập giáo, vô tướng đoạt luân, khi thực hành như vậy gọi là chân chánh hộ Pháp. Lão Tử nói rằng: "Lục thân chẳng hòa thì có hiếu tử, nếu không có tên gọi hiếu tử, thì tin lục thân rất hòa ".
Các vị trên đây đều là trong nhà có tranh giành mà gào khóc. Nhân được tên gọi là cha mẹ tốt lành. Nay tôi, nhà lưu truyền chỉ khuyên ở tương lai, hai tôn giáo hòa đồng chớ trông đời sau, học trách móc thẳng, nguy hiểm ở trong đó. Làm quân vương chẳng lấy, cho nên gặp việc có thể dùng, cùng việc đáng làm, hẳn nhậm buông giữ, chớ nên giao trụ. Sau đó, biết thời gọi là Đại Pháp Sư. Truyền lại thế nào? Cùng thời mà động, chẳng lụy đến người sau.
Nghĩa là như thế đó!
(Quyển 17 hết)
❑
(chánh truyện có mười lăm vị, phụ có ba vị).
Thích Đàn Đặc, còn có tên gọi khác là Tuệ Phong, không rõ Sư là người xứ nào, thân tuy xuất gia mà Sư thường thô tháo không kìm chế được, uống rượu ăn thịt, nói nín chẳng thường. Bàn luận toàn điều trái ngược, nhưng sau khi sự việc xảy ra thì đều đúng như điều Sư đã nói. Sư ở tại Võ Uy, phóng ý buông lung.
Bấy giờ, Vũ Văn Trọng Hòa làm Thứ sử, mời Sư vào Châu. Ngài rảo xem qua gia sản của Trọng Hòa rồi mới bảo rằng: "Ý nghĩ thế nào mà chứa để tài vật của quan vậy ư?" Trọng Hòa không hiểu được ý chỉ, tức giận nên không cho Sư ở trong thành. Sau đó không lâu, Trọng Hòa chống cự chẳng chịu thay, triều đình sai Độc Cô Tín bắt lấy.
Trọng Hòa thân chết, tất cả của cải đều sung vào của quan. Chu Văn nghe vậy ban thư thỉnh Sư, Sư đến Ký Châu, gặp Tề Thần Võ đến đánh cướp ngọc bích. Sư bảo: "Loài chó đâu thể đến cửa rồng ư?" Thần Võ quả nhiên không đến cửa long mà tự trở về. Hầu Cảnh lúc chưa làm phản, trước cửa Đông Ngụy bỗng cầm một chiếc gậy, trên đầu gậy có chạm hình con khỉ luôn khiến mặt nó xoay về phía Tây, ngày đêm đùa giỡn, lại tìm một góc cung để buộc kéo nó. Bỗng nhiên Hầu Cảnh khải giáng, tầm xoay lưng quay về đất Lương. Đều có chứng nghiệm.
Đến đầu mùa xuân niên hiệu Đại Thống năm thứ 17 (552), thời Tây Ngụy, tự nhiên Sư đội chiếc mũ vải. Chu Văn và mọi người chung quanh đều kinh sợ hỏi lý do. Sư bảo: "Ông cũng đội và vua cũng phải đội vậy". Đến tháng 3 thì Ngụy Văn Đế (Nguyên Bảo Cự) băng. Sau Sư lại lấy lụa trắng làm mũ đội, mọi người chung quanh hỏi về lý do thì Sư bảo: "Các ông cũng phải đội và nhà vua cũng phải đội vậy". Sau đó không lâu thì phu nhân của Thừa Tướng qua đời. Sau, lại thêm một lần Sư đội mũ và hỏi đáp đều giống như trước. Bỗng nhiên Võ Ấp Công là người con thứ hai của Thừa Tướng qua đời. Sư có nhiều việc ứng nghiệm đều đại loại như thế. Không bao lâu thì Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch, Chu Văn lo việc an táng.
Hà Thốc Sư, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Hiếu Xương (526-528) thời Bắc Ngụy, Sư thường qua lại chợ Tấn Dương, với hình tướng Sa-môn mà vừa ngu vừa trí. Người thời bấy giờ chẳng ai lường biết được về Sư, mà chỉ gọi là Hà Thốc Sư.
Đến lúc Tề Hoàn Võ sanh người con thứ hai, tức Cao Dương, là Vua Văn Tuyên Đế. Võ Minh Thái Hậu thấy nhà Sư rất nghèo khổ, cùng thân thích bàn về gia kế, chỉ lo đói lạnh mà chết. Cao Dương mới sanh chỉ được vài tháng chưa biết nói, chợt nói "sống được", hai chữ rõ ràng. Mọi người chung quanh Thái Hậu đều kinh hãi mà chẳng dám nói, chỉ cho là yêu quái. Bấy giờ, có sự rao truyền Hà Thốc Sư là bậc thần dị soi xét mọi việc thường rất đúng, khéo dẫn dụ Sư đến. Ý của Thái Hậu muốn đoán biết đứa bé nói sớm có quái lạ chăng, mới tìm kiếm khắp chư tử. Văn Tương Ngụy Vĩnh Hy Hậu bên cạnh dùng lục vị trải qua dò h ỏi. Đến Cao Dương vài ba phen đưa tay chỉ trời mà thôi, miệng không nói lời nào. Như chư tử đều không có cử chỉ riêng. Sau không Sư tịch ở đâu.
Thích Huyền Quang, người ở xứ Hùng Châu, thuộc Hải Đông. Thuở thiếu thời mà Sư đã dĩnh ngộ thông minh, sớm nhàm chán tục trần, quyết tìm cầu danh sư, chuyên tu phạm hạnh. Đến lúc lớn khôn, Sư phát nguyện vượt biển đến Trung Hoa cầu học Thiền Pháp. Lúc đó, Sư từ Quốc lợi đến núi Hành Sơn. Gặp được Hòa-thượng Tuệ Tư đang khai vật thành hóa. Thần giải cùng tham. Ngài Tuệ Tư xem xét nguyên do, bèn thầm trao cho pháp môn An Lạc Hạnh trong tinh thần Kinh Pháp Hoa. Sư bén nhạy như thần chùy chẳng cứng thì không phạm, mới như kiếp bối có nhuộm đều đẹp. Sư bẩm thọ vâng hành, siêng năng không đổi thay. Không bao lâu Sư chứng đắc "Pháp Hoa Tammuội", bèn thỉnh cầu ấn chứng. Ngài Tuệ Tư chứng minh cho, dạy rằng: "Sở chứng của ông là chân thật bất hư, hãy khéo hộ niệm, khiến Pháp trường tồn tăng trưởng. Ông về lại bổn độ, thiết lập thiện quyền, khéo gánh vác, loài sâu hại đều biến thành tò vò!" Sư lễ tạ mà rơi lệ buồn khóc!
Từ đó, Sư trở về Tích Giang Nam, thuộc bổn quốc, thuyền bè chuyên chở rời bến. Khi đó, mây nhiều mầu giăng bủa làm tán loạn cả mắt, tiếng nhạc thanh nhã vang vọng giữa hư không, giáng tiết cầu vồng, truyền gọi mà đến. Giữa hư không nghe có tiếng bảo rằng: "Thiên Đế thỉnh mời Thiền Sư Huyền Quang ở Hải Đông". Sư khoanh tay lánh nhường. Chỉ thấy vị đồng tử mặc áo xanh dẫn đường phía trước, trong khoảnh khắc đã tới kinh thành, vả lại, nếu chẳng phải quan phủ ở nhân gian thì thiết vũ vệ đó chẳng khác gì lân giới, tham tạp quỷ thần, hoặc có người nói: "Ngày nay Thiên Đế xuống cung vua rồng, thỉnh cầu Sư nói Pháp môn Thân chứng. Chúng tôi thuộc loài Thủy phủ mong đợi lợi ích từ Sư". Ngài đã lên Bảo Điện, kế đến vượt bước lên Đài Cao, như điều thưa hỏi mà lược bàn, qua bảy ngày, sau đó Long Vương đích thân đưa tiễn và từ biệt. Chiếc thuyền kia vẫn lênh đênh giữa biển khơi chẳng tiến tới, Sư lại lên thuyền. Mọi người trên thuyền nói mới trải qua nửa ngày mà thôi. Sư trở về Ông Sơn, thuộc Hùng Châu, chống tích kết am mới dựng thành phạm sát. Hạng người Đồng thanh tương ứng, đắc Pháp như cửa trập vừa mở. Hạng ưa thích Tiểu thừa hồi tâm như loài kiến trùng ham mê máu thịt, tiếp nối nhau chật đến. Trong đó như thăng đường thọ có riêng một vị, vào Hỏa Quang Tam-muội có một vị, vào Thủy Quang Tam-muội có hai vị, cùng nhau chứng được hai thứ Pháp môn. Hàng vâng theo mà phát khởi làm rõ được tên gọi Tam-muội. Môn sanh của Sư thí như đàn chim nương tựa vào núi Tu-di, đều đồng một mầu.
Sau, Sư thị tịch hay về đâu, không được rõ! Tổ Nam Nhạc dựng lập ảnh đường. Phía trong đắp họa tôn tượng hai mươi tám vị, Sư ở hàng đầu. Và ở Tổ đường chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai cũng giống như vậy.
Liên hệ thử bàn:
Sau khi Phật diệt độ, xét về người nhập Đạo, dùng bốn pháp: Giáo, Lý, Hạnh, Quả để minh xác thì không thể ẩn tránh. Cách Thánh càng gần thì người tu hành thành quả vị chứng. Cách Thánh hơi gần thì người tu hành học Giáo dễ thấy Lý. Cách Thánh càng xa thì người học Giáo chẳng siêng năng và thấy Lý cũng chẳng chân thật. Hễ một niệm không sanh thì khoảng thời gian trước sau đều dứt bặt, ấy là đốn tâm thành Phật. Lý Phật cụ túc, thực hành hạnh Bố thí, chưa từng nói về hạnh Phật, cụ thể mà vi diệu. Tại Đông Hạ (Trung Hoa) từ thời Lục Tổ về sau, phần nhiều bàn nói về lý thiền, ít nói về hạnh Thiền. Vả lại, khiến người thấy Đạo như cứu lửa cháy đầu cho nên như thế. Thiền sư Tuệ Tư ở Nam Nhạc, thiết tha kiêm tu thừa giới đều gấp. Vì thế người học ứng nghiệm về các hạnh quả. Trong đó như người nhập Hỏa Quang Tam-muội mà trong Kinh Xử Thai cho là dùng thiền định nhiếp ý nhập Hỏa Giới Tam-muội thì cảnh giới rỗng suốt mà kẻ ngu cho đó là bị thiêu đốt. Như nhập vào Thủy giới Tam-muội thì kẻ ngu thấy mà cho đó là nước mà ném vật vào. Tâm Bồtát như h ư không, bất giác xúc nhiễu. Đó chẳng phải chỗ mà hàng Nhị thừa thành tựu mỹ mãn. Đó mới là sự cấp thiết ở hạnh quả. Nếu miệng nói mà thân ý chẳng tu thì do đâu mà trợ Đạo ư?
Thích Pháp Hỷ, người xứ Nam Hải, hình dạng thấp xấu, yếu ớt, tuổi chừng bốn mươi. Các bậc lão túc ở Lãnh Biểu đều nói: "Từ thuở còn bé mới thấy biết thì dáng mạo của Sư cũng như nay không khác. Ở xứ mọi rợ man diên có tương truyền là Sư đã ba trăm tuổi. Và Sư cũng tự nói: "Xưa kia cũng từng gặp biết Đại Sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn". Sư nói lại mọi việc ở đời Tống, Nhà Tấn rành rẽ như tin tức mới xảy ra ở đêm trước. Lúc bình thường thì Sư lặng lẽ, gặp người thì nói, mà nói thì có mang thâm ý, mọi việc lành dữ sự tốt xấu đều như có ảnh hưởng. Nên mọi người cũng chẳng muốn thấy mặt Sư, vì sợ Sư nói thẳng ý tai ác ngỗ nghịch.
Dưới đời Trần, Mã Tĩnh làm Thứ Sử Quảng Châu vừa mới lên nhận nhiệm, Sư đi thẳng vào Châu, lên trên sảnh sự có vẽ hình đầu ngựa dưới đất, chỉ cho con ông ta thấy rồi bỏ đi. Mã Tĩnh vốn là dòng họ có tiếng ở Phù Phong, hùng dũng có lắm võ lược, biết rõ sự thể. Đến lúc vào Châu, mỗi lần xuất hành cả mấy muôn bộ tùng binh sĩ, cờ xí kiếm kích như cầu vồng, sáng ngời tợ sương tuyết, nói lấy đó có thể dùng để tuần xét. Ông ta xa xỉ quá độ đến nỗi các hàng vương giả củng chẳng bằng, bị dân chúng vu cáo là có mưu ý phản loạn. Mã
Tĩnh lo sợ liền sai người dẫn vợ con hơn cả trăm người vào triều trình bày không có âm mưu biến đổi. Trần chúa vẫn còn lầm hoặc, sai Lâm Nhữ qua thời gian xem xét thân thế, bảo rằng: "Nếu có hành động phản loạn thì sẽ bị hành xử. Còn thật không mưu nghịch thì đi thẳng mà thay thế". Lâm Nhữ ham lợi tài sản của Mã Tĩnh, khi đến Châu chẳng xem xét đúng sai. Mã Tĩnh ỷ cậy tâm mình không đổi khác bèn thốc tay đến chỗ Lâm Nhữ. Lâm Nhữ bèn quát bảo mọi người chung quanh bắt lấy chém đầu Mã Tĩnh. Đến đó mới thấu suốt việc họa vẽ dưới đất của Sư có hiệu nghiệm. Những điều thấy trước của sư đều giống đồng như thế.
Vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) nghe thế, truy tìm lại Dương Châu. Sau đó không lâu, trong cung xây cất một ngôi nhà mới hoàn thành. Sư vội vàng bước lên nhà ấy xem xét rồi bỗng nhiên kinh hãi chạy xuống tầng cấp bảo rằng: "Không bao lâu sẽ đè chết". Đêm đó mưa lớn, ngôi nhà đó sụp đổ đè chết mấy người. Sau đó, Sư lại đi rảo quanh trong cung bảo là cần tìm kiếm đầu đê. Vua Dương Đế nghe rất ghét và trách Sư cho đó là lời nói cuồng, ra lệnh trói lại giam trong một căn phòng suốt mấy ngày. Tam vệ ra chợ thấy Sư đang thong dong đi lại, bèn trở về trình tấu. Vua sai sở ty xét xem lại chỗ giam giữ cửa khóa vẫn như cũ, người đang coi giữ nói là Sư đang ở trong phòng. Khi đó, mở cửa xem thì thấy áo cà sa phủ che trên một đống xương cốt mầu trắng. Sợi xích trói ngang cổ vẫn không mở. Vua Dương Đế rất kinh hãi, lấy làm quái lạ, liền sai Trưởng sử Vương Hằng mau xem xét thì thực sự thấy áo cà sa che phủ trên đống xương trắng, xương cốt đều móc nối liền nhau, xích sắt quấn ở cổ bộ xương. Vua nghe thế kinh ngạc mà khen ngợi, càng thêm kính tin tôn trọng. Ra lệnh không được xem thường dời động và bảo rằng: "Các bậc Thánh có thần biến vô phương. Đến chiều Sư trở lại phòng đó, hoặc nói, hoặc cười v.v... người coi giữ lại trình tấu vua Dương Đế bảo hãy mở xích thả ra, Sư đi đâu tùy ý.
Có lúc, trong một ngày Sư đến thọ trai thực ở mấy nhà. Hoặc có lúc Sư uống rượu ăn thịt đều không kiêng cữ. Không bao lâu Sư thị hiện bị bịnh, thường nằm trên giường, vứt bỏ chiếu cỏ v.v... mà nằm dài, bảo người đốt than đỏ cháy ở phía dưới, vài ngày sau thì Sư thị tịch, nửa thân bị cháy bỏng, an táng ở cạnh chùa Hương Sơn. Sau đó bốn năm, tại quận Nam Hải trình tấu thấy Sư hiện vẫn còn ở tại quận. Nhà vua ban sắc khai quật mở nắp quan tài thì chỉ thấy trống rỗng, chẳng có gì cả.
Thích Khâm Sư, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Đại Nghiệp (605-617), Sư đến xứ
Quảng Bình, hình thần trái lầm, vội vàng khó dò biết, nói năng bất thường. Sư vào trong viện thấy ở chùa Linh Thông xây dựng ngôi tháp năm tầng bằng gạch, định mở mang cao lớn, công việc đang lộn xộn. Sư trông thấy mỉm cười, bảo với chúng tăng trong chùa rằng: "Xây cất cái ấy làm gì vậy?" Chư tăng bảo: "Công đức Phật sự phải dùng cảnh hùng vĩ, sao Pháp sư hỏi kỳ vậy?" Sư cười bảo: "Xây dựng lầu phong hỏa (đồn lửa canh phòng) vậy!" Chư tăng lúc đó cùng nhau chê trách Sư rằng: "Hạng người điên khùng ấy nói đâu đáng để ý". Đến niên hiệu Đại nghiệp thứ 9 (613), tháp vẫn chưa xây xong, giặc cướp bốn phương nổi dậy, ở Châu Quan cảnh phòng nghiêm mật, trên tháp có đặt Hầu Vọng Hỏa Phong. Khi đó mới tin lời Sư nói không luống dối. Các vị kỳ cựu cũng không biết Sư từ đâu đến, ngay chỗ nghỉ ở cũng không dấu vết gì nhưng mà luôn luôn biến thân ở chuồng heo, tức đồng tử theo đàn heo. Mấy người như Mã Thế Đạt, v.v... thấy Sư lúc mới biến, bèn dừng lại có ý dò xét xem thử Sư hiện lại hình người như thế nào. Sau đó, quả thật bỗng nhiên hiện lại hình người đứng ở phía sau nhìn mọi người và gọi lớn rằng: "Bọn các ông muốn nhìn cái gì?" Mọi người kinh hãi chắp tay bái lạy Sư, Sư biến hiện chẳng thường đều như thế. Đến lúc mọi người tán loạn, tiếng tăm vết tích về Sư cũng mất hẳn.
Liên hệ thử bàn:
Chư tăng ở đời Ngụy, đời Tùy sao có lắm sự ứng hiện như vậy? Thông đáp: Các vị Bồ-tát vận dụng tùy loại hóa thân. Dùng thần thông để du hí. Ngay sự du hí mà làm lợi ích cho thế chủ. Có người nói rằng: Trong thời Ngụy, Tề, Trần, Tùy cùng với Luật sư Đạo Tuyên có sự tương tiếp tai mắt, cớ sao không đưa vào tục truyện? Thông đáp: Có chỗ không biết nên thiếu sót như vậy, và cũng do đến thời nhà Tống văn quỹ đã đồng, đất đai bờ cõi rộng rãi, thường hay có những chuyện kỳ lạ khó biết hết được. Nếu có vị tăng nào vậy mà sử thị chưa biên, thì các nhà viết truyện không có bằng cứ, nên cũng thiếu sót, nên chẳng kịp ghi chép. Để đợi các bậc hiền giả đời sau.
Thích Tăng Già, Sư người nước Hà ở phía Bắc Thông Lãnh. Sư tự nói là dòng họ Hà, cũng như Ngài Tăng Hội vốn người nước Khương Cư, nên gọi là Khương Tăng Hội.
Nhưng hợp có tên Hồ Phạm. Tên đã là tiếng Phạn, họ có thêm tiếng Hoa, rõ biết nước Hà ở phía Đông Bắc nước Toái Diệp, là Phụ Dong Toái Diệp. Sư ở tại quê nhà, xuất gia từ thuở nhỏ. Sau khi đã là tăng sĩ, Sư phát chí du phương, Ban đầu Sư đến phủ Tây Lương, kế đến là trải qua Giang Hoài.
Lúc đó, khoảng đầu niên hiệu Long Sóc (661). Khi đã ghi danh phối thuộc chùa Long Hưng ở Sơn Dương, từ đó Sư mới phát bày thần dị. Ban đầu, Sư dẫn đệ tử là Tuệ Nghiễm đồng đến Lâm Hoài, tới cư dân ở phường Tín Nghĩa xin đất hạ nêu, lời ký quyết định tại xứ đó có xây chùa. Trong hang đất có được bia đá cổ mới biết đó là chùa Hương Tích thuộc nước Tề. Được một tôn tượng vàng lá y khắc chữ "Phổ chiếu" Vương Phật ". Cư dân ở đó khen ngợi điều kỳ lạ, bảo rằng: "Thiên nhãn thấy trước, chúng ta sao chẳng xả thí ư?". Bia đá và tôn tượng đó đến niên hiệu Trinh Nguyên cho đến niên hiệu Trường Khánh (785-805)-(821-825), qua hai lần gặp phải hỏa tai nên mất hẳn dấu vết.
Sư thường nằm ở nhà của Hạ Bạt, thân hình bỗng nhiên dài ra mà giường chõng cũng tự dài ra ba thước, mọi người không ai chẳng kinh hãi lấy làm quái lạ. Kế đến, Sư hiện hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mười một mặt. Cả gia đình cho đến dòng họ vui mừng gấp bội, càng thêm kính tin tôn trọng, bèn xả thí ruộng vườn làm nền chùa Hương Tích, tức là nền chùa hiện nay vẫn còn. Do đó mà vết tích kỳ dị vụt chốc nẩy nở không ngừng.
Đến niên hiệu Cảnh Long thứ 2 (708) vua Trung Tông sai sứ mang chiếu thỉnh Sư vào Nội Đạo tràng. Nhà Vua đến tại Pháp Diên bàn luận về tháo tất, hỏi đáp tốt xấu thảy đều phù hợp. Vua ngợi khen ban sắc sửa sang ngôi chùa đó và đề hiệu là “Phổ Quang Vương". Đến năm Canh Tuất (710) tức niên hiệu Cảnh Long thứ 4, Sư thị hiện bị bịnh. Vua Trung Tông ban sắc đón rước Sư từ Nội Đạo tràng sang tĩnh dưỡng tại chùa Tiến Phước. Tối ngày mùng 2 tháng 3, Sư nghiễm nhiên an tọa thị tịch, thần sắc vẫn như còn sống, chỉ nhắm mắt lại thôi. Sư thọ tám mươi ba tuổi, không biết bao nhiêu hạ lạp. Sư ở tại bổn quốc (nước Hà) ba mươi năm, mở mang tại Đường Độ (Trung Hoa) 53 năm. Vua Trung Tông buồn thương đến viếng điếu. Khi đó uế khí xong nghẹt mà hình thể Sư vẫn tươi tắn, hiện nhiều linh tích. Nhà vua ban sắc Ty thuộc cung cấp ba trăm xấp lụa, giúp đỡ đón rước về an táng tại Hoài Thượng, lệnh cho các quan đồng tiễn đưa, dân chúng sĩ thứ đông nghẹt đường. Tối ngày 15 tháng 5 là đến chỗ huyện nầy.
Vua Trung Tông vì kính mến không quên, nhân đó hỏi Ngài Vạn Hồi rằng: "Ngài Tăng Già là người thế nào? "Ngài Vạn Hồi đáp: "Sư là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm! Trong Kinh há không nói đó sao? Đối với người đáng dùng thân hình Tỳ-kheo để được độ, thì hiện tướng Sa-môn để độ!"
Ban đầu, Sư hóa hành tại Giang Biểu, dừng nghỉ tại chùa Linh Quang ở Gia Hòa. Đó là nước Trạch. Dân chúng phần nhiều đắp bờ bắt cá, bắn tên săn thú giao ngọ. Sư tha thiết đôn đốc dẫn dụ, chỉ cho các nghiệp sát ấy làm cho con người bị đọa, nên gấp tìm kế sinh nhai khác. Bấy giờ, rất nhiều người nghe theo mà phá lưới bẻ câu. Những lúc nhàn rỗi Sư yên nghỉ, thấy vị thần đến mách bảo rằng: "Ở phương trên nắng hạn, lúa mạ của trăm họ khô chết, đó là do rồng biếng nhác?" Sư bảo: “Như thế biết làm sao?" Thần nói rằng: "Như đêm nay, chỉ đưa ngón tay nhỏ ra ngoài ngạch cửa sổ, xem người như thế nào". Sư bèn y theo. Đêm ấy sấm sét khác thường. Đến sáng sớm mai xem ở ngón tay nhỏ thấy có gân mạch như chỉ hồng. Sư tự bảo: "Ta không có duyên với xứ nầy". Ngài bèn đến Tấn Lăng, thấy chùa Quốc Tường bị hoang phế, bèn để lại chiếc y trên đòn dông trên chánh điện mà đi. Sau đó, mọi người nghe có mùi hương thơm lạ phảng phất. Sư có ghi ở đó rằng: "Chùa ấy sẽ có vua cõi người xây dựng lại". Ba mươi năm sau quả nhiên có vị tăng dòng họ Toàn làm đàn-na. Vào khoảng niên hiệu Thông Thiên Vạn Tuế (696-697), đang lúc ở trong chúng tại Sơn Dương, dự biết ganh ghét đối với Sư, (vị tăng đó) bèn nói rằng: "Tôi có năm mươi muôn đồng tiền, kính dâng hỗ trợ công đức, chớ sanh bàn tán rộng rãi". Sư bèn ở trên bờ sông Hoài, gọi một chiếc thuyền mà bảo rằng: "Ông có của cải cúng thí, tôi có thể khoan thứ hình ngục. Những gì ông chuyên chở sẽ bị cướp đoạt hết! " Bọn trộm nghe theo lời nói đó bèn xả bỏ hết và điện Phật do đó mà được xây thành. Sau đó không lâu, bọn trộm cướp bị lộ, bị bắt giam tại ngục ở Huyện Dương Tử. Sư cưỡi mây xuống an ủi rằng: Đừng lo. Chưa qua ngày đó đều được phóng thả, khỏi phải chết.
Xưa kia, tại Trường An, phụ mã Đô Úy Võ Du Kỵ bị bịnh, Sư lấy nước ở bồn tắm giặt phun vào mà lành. Hoặc cầm lấy bình nước, hoặc bảo sám tạ lỗi lầm, ứng nghiệm chẳng dối bày, thành công không tổn mất. Trừ thân tai họa kia rồi thì cầu xin ngựa, thí như trời nóng nực thì kiếm tìm quạt. Hoặc nhận tiền của kẻ trộm, hoặc trói cổ bằng dây đen, hoặc tìm giếng của La-hán, hoặc tỏ ngộ đắm chìm của họ Bùi, hoặc dự biết có tuyết lớn, hoặc cứu hạn bằng mưa bay. Thần biến vô phương, đo lường chẳng có độ thường.
Vua Trung Tông ban ân sắc, Sư độ ba vị đệ tử Tuệ Ngạn, Tuệ Nghiễm và Mộc-Xoa, mỗi vị đều được ban tặng y bát và được bảo tiếp nối hương hỏa, mãi đến lúc Sư đã thị tịch, trải qua nhiều năm và nơi chốn. Sư từng hiện hình ra chợ Hán Nam mua đồ vật, đến lúc thương nhân Lý Thiện Tín đưa thuyền đến chùa kiếm tìm người mua đồ vật cúng trai. Chư tăng thấy trong tháp hình tượng Sư nghiễm nhiên mà đưa tay chỉ: "Chính là vị tăng này đến xin mua!" Xa gần mọi người đều khen ngợi. Sư từng tới Hồng Tỉnh đổi cây gỗ, kết bè mà đến.
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), chùa Tướng-lặc ở Trung Châu trông coi mười dịch, khiến xuất tiền của cung cấp người thừa truyền.
Đến lúc sẩm tối vào tháng 7 niên hiệu Đại Lịch thứ 15, Sư hiện hình vào Nội Điện, xin miễn dịch bưu đình. Vua Đại Tông ban sắc Trung Quan Mã Phụng Thành tuyên cáo phóng thả. Nhà vua bèn mang xả thí ba trăm xấp lụa và hơn ngàn đoạn lụa mầu, bồn tắm bằng vàng, một bộ y phục của Hoàng Thái tử. Bảo đắp vẽ tôn dung của Sư đưa vào trong cung để cúng dường. Thêm nữa, vào niên hiệu Càn Nguyên (758-760), Châu mục Lý có suy bộ, nói là thổ tú thêm tai họa sẽ phải yếu kém. Sư bỗng hiện hình vỗ vào lưng Lý, bảo rằng: "Ta đem nước đến, ra mồ hôi thì tai họa tiêu ". Sau quả nhiên không có lỗi. Sư từng đến Yên Sư cầu chiên kế, ít lâu sau, Sa-môn Yên sai người mang vật cần cầu đến, nhận ra hình trong tháp nên rất kính tin, bèn họa vẽ tôn dung Sư mà mang về. Từ Yên kế xoay vần truyền tả có mặt ở khắp nơi.
Đến niên hiệu Trường Khánh thứ nhứt (821), bỗng dưng vào nửa đêm nọ, ở trước nhà ngủ của Châu mục Tô Công có tiếng khen ngợi rằng: "Hoài Nam, Hoài Bắc phước vốn ở đây. Từ Đông sang Tây đều thành đất Thục ". Năm đó chỉ trong địa vực Hoài được mùa. Đến năm sau (822), chùa tháp đều bị thiêu cháy, chỉ di thể Sư nghiễm nhiên không tổn hoại gì. Vào niên hiệu Hàm Thông (860-874), có Bàng Huân vốn là binh lính ở Từ Châu, chuyên lìa Quế Quan, men đường cướp bóc mà tiến đánh Tứ Châu vây hãm lấy thành. Sư hiện hình trên đảnh tháp, giặc cướp bên ngoài đều ngủ, trong thành chợt phát ra tiếng nói, giặc kinh hãi chạy trốn mà thối lui. Tô Châu đem việc ấy tấu trình, Vua Tuyên Tông bèn ban tặng sư hiệu là "Chứng Thánh Đại Sư". Đến niên hiệu Văn Đức thứ nhứt (888), bên ngoài giặc cướp xung đột, Châu tướng là Anh Thành chống địch. Sư hiện hình ở góc Tây Bắc thành. Giặc thấy biết là thành lũy vững chắc khó hạ, kinh hãi mà trốn mất. Đến niên hiệu Đại Thuận (890-892), Bành Môn Soái Thời Đoàn sai Trương Gián đánh phía Bắc thành. Ngoài tru lục, có hơn năm trăm người, giam hãm tại các đạo tràng. Trương Gián, trong lúc đang hoảng hốt, thấy một vị tăng mặc y sắc tía dạy rằng: "Hạng người bình dân như thế sao lại giết họ, chẳng bằng hãy thả họ đi!" Nói xong liền biến mất. Trương Gián bèn thả mọi người mà trốn. Đến niên hiệu Càn Ninh thứ nhất (894) Thái Úy Đài Mông mộng thấy Sư bảo rằng: "Hàn rét ở Đông Nam hãy chuẩn bị". Đài Mông không hiểu được ý chỉ, bèn đem chăn bông pháp phục cúng thí Sư. Đến hôm 30 tháng 12, có một binh sĩ nhảy thành lũy mà vào, lúc đầu Đài Mông không biết. Lại mộng thấy một vị tăng dùng tích trượng ấn lên trên tim, lạnh buốt cả tim gan, kinh hãi mà vùng dậy. Đài Mông ra lệnh đánh động trống sừng. Bọn giặc kinh hãi bỏ chạy. Bắt được tên thủ lãnh vốn họ Hàn. Đến lúc đó Đài Mông mới hiểu. Do đó, trên đảnh tháp, thường hay hiện hình tướng tiểu tăng, khắp cả Châu Quận đều chiêm ngưỡng, hễ có điềm lành dữ thì báo điềm. Bấy giờ, nếu cầu xin gió thì thổi gió, cầu xin con thì được con. Nay nghe có người đích thân đến lễ bái, thường chẳng thấy hình tướng Sư, hoặc thấy dáng vẻ mỉm cười tức là tốt lành, nếu không như thế tức là hung dữ. Còn nếu không thể độ thì như thế.
Đến thời vua Thế Tông (956-960) thuộc thời Hậu Chu, Sư có việc đi đến Giang Nam, trước tiên đến Tứ Thượng, Sư gá mộng vào dân chúng trong Châu mà bảo rằng: "Không nên khinh địch". Như thế cả Châu Mục đều chưa tin. Từ đó nhà nhà đều nằm mộng thấy mách bảo như thế, nên thông báo cho toàn cả Quận. Đó đều là nhờ Sư giúp đỡ. Trong nước hễ nơi nơi nào tạo lập tinh xá, đều lập chân tướng của Sư và dề bản là Đại Thánh Tăng Già Hòa-thượng. Có điều gì mong cầu nguyện ước thường toại lòng người. Lý Bắc, Hải Ung Hồ đều soạn bia ca tụng đức hạnh Sư. Nay Thượng Ngự Vũ lưu tâm đối với điều đó. Tháng Ba năm đó, có vị Ni đi đến núi Ngũ Đài trở về, nhân thấy Sư hiện tướng hài nhi trên đảnh tháp, bèn lên sát trụ (cột chùa) xả bỏ thân mạng mà cúng dường.
Vào niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 7 (982) thời Bắc Tống, vua Thái Tông, tức Triệu Quýnh hoặc là Quang Nghĩa, ban sắc cho Cao Phẩm Bạch Thừa Duệ sửa sang lại tháp thờ Sư, mở mang rộng rãi, xây thêm nhiều tầng cấp. Qua năm sau (983), vua lại sai sứ đón rước Xá-lợi bảo hóa đồng an táng dưới nền tháp. Ngày đó, có Sa-môn Hoài Đức xây dựng lầu củi tự ôm đuốc thiêu thân cúng dường, trong lúc lửa cháy dữ dội có tiếng tụng kinh không dứt. Thêm nữa, lúc sắp xây dựng tháp, có cây gỗ lớn ba rễ cong theo sông Hoài mà xuống, đến gần Phù Kiều thì dừng, bèn nhặt lấy làm trụ tim tháp. Vua Thái Tông ban sắc cho Điện Đầu Cao Phẩm Lý Đình Huấn làm chủ ở đó. Trước kia chùa đó có pho tượng bằng vàng khắc đề hiệu là Phổ Chiếu Vương, mới lấy làm biển ngạch chùa. Sau, để tránh ngự danh của Thiên Hậu (tức Võ Hậu, Võ Chiếu, Võ Tắc Thiên) mới dùng chữ Quang để thay. Gần đây Tuyên Sách Tăng Già Thực Lục tấu trình nhà vua xem xét xong, ban sắc để trả lại biển ngạch là Phổ Chiếu Vương.
Ngài Mộc-Xoa, là đệ tử Sư lấy tiếng Tây Vực làm tên, Hán dịch là Giải thoát. Từ thuở nhỏ, Ngài Mộc-Xoa theo Sư làm đệ tử, nhưng thường hiển bày lắm việc linh dị. Niên hiệu Trung Hòa năm thứ 4 (894, thời Tiền Đường, vua Hi Tông), Thứ sử Lưu Nhượng Quyết Phụ Trung Thừa, một đêm nọ bỗng thấy có vị tăng mặc y phục sắc tía bảo rằng: "Ta có đệ tử tên là Mộc-Xoa an táng tại phía Tây chùa, vì ngày tháng đã qua lâu, ông hãy đào lên". Và bèn chỉ cho chỗ an táng. Mới nằm mộng đều không để ý, sau lại mộng như trước, Trung Thừa được chỉ chỗ trong mộng, muốn thi hành đoán đó, thấy có hai họ chiếm cứ. Bấy giờ là họ Nhiêu Tiền, khai quật đến ba thước mới có được hòm ngồi, bèn mở ra trên cốt đảnh có xá-lợi phát ra ánh sáng, sai đem thiêu và thâu nhặt hơn tám trăm viên xá-lợi, bèn dâng biểu tấu trình vua Hy Tông, vua bèn ban sắc đem tro thiêu đốt đó đắp thành tôn tượng và vua phong tặng thụy hiệu là "Chân Tướng Đại Sư". Đến nay đang đứng hầu ở bên trái như phối hưởng. Thứ nữa, có Ngài Tuệ Nghiễm cũng là đệ tử của Ngài Tăng Già, không rõ dòng họ và quê quán, Ngài thường theo thầy ôm bát cầm gậy. Phát xuất từ Sở Châu đến Hoài Âm. Đồng khuyên vợ của Bùi Tư Mã ở Đông Hải là khúc bạch Kim Sa La mở giếng La-hán, sớm mừng Bạt huyền giúp nhà. Ngài Tuệ Nghiễm đứng hầu bên cạnh tôn tượng Bồ-tát Quán thế Âm mười một mặt. Từ đó, vua ban chiếu mời Ngài Tăng Già đến chốn kinh đô. Vua Trung Tông riêng sắc độ ba vị: Tuệ Nghiễm, cùng Tuệ Ngạn và Mộc-Xoa. Mỗi vị đều được ban tặng y bát.
Thích Tuệ An, họ Vệ, người ở xứ Chi Giang, thuộc Kinh Châu. Dáng mạo Sư đoan nhã, tóc biếc mắt xanh. Ngài ra đời vào niên hiệu Thiên Hoàng thứ nhứt (581) đời Tùy. Sư bản tánh khoan dung rộng rãi, chẳng nhiễm tục trần, tu học các Pháp môn thảy đều thông suốt.
Niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (594), vua Văn Đế (Dương Kiên, đời Tùy) ban sắc khắp trong nước riêng độ tăng ni. Khám Vân nói: "Vốn không tên họ, mất vào hang núi". Vào niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) đời Tùy, khai thông tế cừ, truy tập phu đinh, đói chết nhìn nhau. Sư đi quanh xin nhiều bát thức ăn cứu giúp người bịnh, còn lại mới ban cấp chúng. Vua Dương Đế (Dương Quảng) nghe thế bèn ban chiếu thỉnh Sư, Sư bèn lẫn trốn vào núi Thái Hòa. Đến lúc nhà vua tới Giang Đô, trong nước nhiễu nhương, Sư bèn chống tích lên chùa Hành Nhạc, thực hành Pháp Đầu-đà.
Vào niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời Tiền Đường, Ngài đến Kỳ Châu lễ yết Đại Sư Hoằng Nhẫn. Niên hiệu Lân Đức thứ nhứt (664), Sư đến Thạch Bích ở núi Chung Nam và dừng ở. Bấy giờ, quanh vùng Nguyên Cốc chỗ ở bị sương sớm làm hư hại lúa mạ, riêng chỗ Sư ở thì không. Ngoài bốn mươi dặm đều bị tai họa của Thanh nữ làm khổ. Thiên Hoàng Đại Đế (tức Thái Tông, Lý Thế Dân) nghe thế nên thỉnh Sư, Sư chẳng vâng theo thánh chiếu. Tới niên hiệu Vĩnh Thường thứ hai (683), Sư đến cất đài dựng am tranh mà ở. Bên trong, Sư ngồi trên giường dây, bốn phía để tường trống bày. Vua Cao Tông ban sắc lập chùa để Sư ở, đề hiệu là Chùa Chiêu Đề. Như vậy, Sư lại bỏ, trở về chùa Ngọc Tuyền ở quê cũ.
Đến tháng 4 niên hiệu Thánh Lịch thứ 2 (699), dưới thời Võ Hậu, Sư bảo với môn nhân học chúng rằng: "Các ông ai đâu về đấy đóng cửa". Đến canh 3, có vị thần tới hỗ vệ đông đúc hòa cùng tiếng linh long bong, gió mưa đều đến. Vị Thần đó đi nhiễu quanh viện mấy vòng. Sư nói chuyện với vị thần, vị thần tha thiết chỉ dạy. Thần lại bái lạy mà đi. Có người hỏi Sư về lý do. Sư bảo: "Tôi vì thần của Tung Sơn mà truyền trao giới Bồ-tát ". Thiên Hậu (Võ Hậu-Võ Tắc Thiên) có lần hỏi Sư về năm sanh. Sư bảo: "Không nhớ". Thiên Hậu lại hỏi: "Tại sao không nhớ?" Ngài bảo: "Thân sanh tử như vòng tuần hoàn, vòng đã không điểm khởi và điểm cùng tận, lấy đâu mà nhớ. Hơn nữa, tâm này lưu trú trong không gian không xen hở, thấy bọt khởi diệt cũng là vọng tưởng, từ sơ thức đến lúc tướng động bị diệt cũng chỉ như thế, làm gì có năm tháng để ghi nhớ?" Thiên Hậu sụp đầu cúi lạy. Nghe Sư bị thiếu giếng nước, bèn ban sắc sai người đến đào. Sư bảo: "Dưới đây có điềm lành, phải cẩn trọng, đừng để thương tổn loại vật ". Khi sắp đến nước, thấy có loài tôm mầu vàng ròng, khuấy động dưới bùn, hợp với lời huyền ký của Sư, Thiên hậu càng tín phục kính trọng gấp bội.
Đến tháng 9 niên hiệu Thần Long thứ hai (706) vua Trung Tông ban sắc sai Trung Quan mang đến dâng tặng Sư áo ca sa sắc tía và lụa, độ hai mươi bảy vị đệ tử. Nhà vua lại ban chiếu thỉnh Sư cùng
Thiền sư Tĩnh vào nội cung chứng thọ cúng thí.
Năm sau (707) nhà vua ban tặng một bức ma-nạp. Sư bèn từ tạ trở về chùa Thiếu Lâm. Đến ngày 13 tháng 9 niên hiệu Cảnh Long thứ ba (709), Sư dặn dò môn nhân rằng: "Sau khi tôi chết, đem thi thể bỏ trong rừng, đợi lửa giữa rừng đồng hoang tự thiêu đốt nó. Chớ trái ý nguyện của tôi". Không bao lâu, Hòa-thượng Vạn Hồi đến, thấy Sư càn rỡ, bèn nắm tay nói bàn trong di khắc. Người hầu đứng bên cạnh chú ý lắng nghe, nhưng không biết hai Ngài nói gì. Đến ngày mùng 8, Sư đóng cửa phòng nằm nghiêng mình mà thị tịch, thọ một trăm ba mươi tuổi, tính bắt đầu từ niên hiệu Thiên Hoàng thứ 2, đời Tùy đến niên hiệu Cảnh Long thứ 3 (709), thời Tiền Đường.
Sau khi lửa cháy thiêu đốt nhục thể xong, thâu nhặt được tám mươi viên xá-lợi. Đem năm viên có mầu hồng tía dâng vào nội cung. Ngoài ra đem ban tán cúng thí cho mọi nơi, tùy sức mà xây dựng tháp thờ. Đến niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 (713), môn nhân mới xây tháp cúng dường.
Thích Vạn Hồi, họ Trương, người ở xứ Văn Hương, thuộc Quắc Châu. Lúc tuổi còn thơ, Sư đần độn, ít nói năng. Cha mẹ buồn thương khí trược đó. Bị những trẻ thơ quanh xóm khinh lờn, nhưng Sư không hề có thái độ đua tranh, nhưng miệng Sư tự nói hai chữ Vạn Hồi. Nhân đó mà đặt tên. Hơn nữa, Sư chẳng nói nóng lạnh, thấy người nghèo khổ hèn mọn Sư chẳng sanh khinh mạn, với kẻ giàu sang phú quý cũng không đáng để Sư Phải cung kính. Đông Tây rảo khắp suốt ngày chẳng nghỉ. Hoặc cười hoặc khóc, thái độ chẳng thường. Ở nơi khóe miệng thường chảy nước dãi, mọi người đều kinh dị. Ngài chẳng ưa thích xa hoa, rất ít nói năng, hễ nói tức như sấm ký, việc qua rồi mọi người mới biết.
Năm Sư mười tuổi, anh Sư đi lính ở Liêu Dương, có thuyết nói là An Tây, đã lâu không có tin tức. Mẹ Sư rất mến thương trông nhớ, bèn thiết trai cúng dường cầu phước. Sư chợt thưa với mẹ rằng: "Anh An rất dễ biết, đâu có gì mẹ phải lo âu". Sư liền đem các thực phẩm cúng dường còn thừa mang đi, đến lúc chiều tối thì trở về mang theo thư của người anh viết là "bình thường tốt lành". Hỏi về nguyên do, Sư chỉ im lặng không nói. Sư đi lại cả muôn dặm. Lúc sau người anh trở về nói: “Ngày đó gặp em nói từ nhà đến thăm, nhân đó mà trao cho Sư bánh bột để ăn mà trở về". Cả nhà đều kinh hãi mà mừng vui. Từ đó, mọi người đổi cách nhìn đối với Sư.
Vua Trang Tông ban chiếu sùng trọng. Niên hiệu Thần Long thứ hai (706) ban sắc riêng độ một mình Sư mà thôi. Từ cuối thời vua Cao Tông (684) đến suốt thời Võ Hậu (685-705), vua thường ban chiếu mời Sư vào nội Đạo tràng, ban tặng y phục lụa là, người trong cung lo cung cấp mọi việc.
Trước kia, khi còn bé, Sư thường đến chùa Hưng Quốc ở Văn Hương chất ngói đá làm tháp Phật, sau khi Sư đã vào Nội Đạo tràng, thì tháp đó phát ra ánh sáng. nhân đó làm các lọng lớn che ở trên và mọi sự cúng thí để xây dựng đều không thể suy lường được, hễ Sư mở lòi thì có liền. Triều đình sắc tặng Sư hiệu là Pháp Vân Công. Người ngoài không thể thấy được. Trước kia vào thời Vũ Hậu, Nhậm Khốc Lại làm điều thêu dệt, các quan hơi cao thì ngày một cách biệt vợ con. Bác Lăng Thôi Huyền Vĩ, địa vị và danh vọng đều cao cực, mẹ ông ta là bà họ Lô, hiền mà rất âu lo, bảo ông ta rằng: "Con có thể một ngày nào đó đón Ngài Vạn Hồi, vị tăng đó thuộc dòng Ngài Bảo Chí, nên có thể nhìn cử chỉ mà biết được họa phước ". Khốc Vĩ bèn thỉnh Sư đến nhà, mẹ ông sụp khóc đảnh lễ, cúng thí một đôi muỗng đũa bằng vàng. Sư bỗng nhiên bước xuống bực thềm ném muỗng đũa ấy lên trên nhà rồi phủi tay bỏ đi. Cả nhà đều cho đó là điều không tốt lành. Qua vài ngày sau, bảo người lên nhà lấy muỗng đũa đó xuống thì có kèm thêm một quyển sách, xem kỹ thì đó là sách sấm vĩ, bèn vội bảo đốt đi. Vài ngày sau, bỗng nhiên có Ty sở đến nhà lục soát tìm kiếm đồ sấm, chẳng tìm được tuyết. Bấy giờ, Khốc Lại thường hay khiến trộm cướp ném vật cổ đạo và ngụy tạo bí sấm để lừa dối người. Trở lại khiến vu cáo được Thực Đồ Lục, làm mất nhiều nhà. Họ Thôi (Thôi Huyền Vĩ) chẳng phải là bậc Thánh ném đũa muỗng thì đâu thể biết được đó là ngụy đồ sấm. Cuối cùng vua Trung Tông thường mắng trách Vi Hậu thường làm phản bội nghịch, chẻ đầu nó đi, tìm mà giết chết. Công Chúa Thái Bình vì tạo vườn nhà ở trong phường Hoài Viễn nên có trước sau với chủ nhà vườn. Hơn nữa, Vua Trung Tông đích thân đưa Công Chúa Kim Thành ra hàng Thổ Phiên, đến lúc thái bình trở lại đón rước.
Bấy giờ, Thôi Nhật Dụng, Võ Bình Nhất, Tống Chi hỏi Trầm Thuyên Kỳ Sầm Nghĩa, Tiết Tắc đều nhóm họp trịnh trọng. Sư dò hỏi các công rằng: "Các ông muốn cầu một lời của bậc Thánh để định được điều tốt xấu ư?" Và Sư vỗ vào lưng Trầm thuyên, bảo: “Ông thật là người tài". Trầm Thuyên vui mừng không gì hơn, nói rằng: "Bậc Thánh đã thọ ký cho ta, các ông chớ nên cạnh tranh nữa". Sư lại nói với Võ Bình Nhất: "Cùng làm với ông gọi là Phật đồng, chớ nên lo lắng". Sư đưa mắt nhìn Sầm Nghĩa và Tiết Tắc với vẻ mặt không tốt lành, Sầm Nghĩa bèn dùng ngựa chạy lánh. Sư nhìn Tiết Tắc, bảo: "Ông này thường là chồn hoang". Lời nới đó đâu đáng sợ. Sư ngoảnh lại bảo: "Ông cũng không tránh khỏi bị giết như Sầm Nghĩa và Tiết Tắc". Mọi người càng thêm quý trọng.
Bấy giờ, có Ngài Tăng Già hóa tích bất thường. Vua Trung Tông hỏi Sư rằng: "Ngài Tăng Già là người thế nào?". Sư đáp: "Ngài Tăng Già là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm".
Vào niên hiệu Trinh Quán (627-650), Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang từ Tây Vực trở về kể rằng: “Ở Thiên Trúc có chùa Thạch Tạng, khi Ngài Huyền Trang đến đó thấy có một căn nhà trống, chỉ có giường chõng, tích trượng của người Hồ mà thôi. Nhân đó, Ngài hỏi phòng đó của Đại Đức nào, chư tăng đều trả lời là: “Vị tăng ở phòng đó do thiếu pháp sự, nên bị phạt ở phương Đông, nước hiệu là Chấn Đán, địa phương hiệu là Thọ Hương, chính là Vạn Hồi ". Ngài Huyền Trang trở về tìm kiếm Ngài Vạn Hồi. Bèn thiết lễ hỏi Tây Vực, rõ ràng như mắt trông thấy tiếp xúc. Ngài Huyền Trang sắp hỏi tìm đến nhà. Ngài Vạn Hồi nói với mẹ rằng: "Có khách đến xin chuẩn bị thức ăn để tiếp đãi". Lác sau thì Ngài Huyền Trang đến nhà. Vết tích thần dị Của Ngài (Vạn Hồi) có lắm việc như thế. Chánh Gián Đại Phu Minh Sùng Nghiễm là kẻ sĩ Đạo thuật, nói với mọi người rằng: "Ngài Vạn Hồi là bậc thần tăng ".
Vua Huyền Tông lúc chưa lên ngôi cùng với môn nhân Trương Vĩ, v.v... đồng đến bái yết Sư, Sư thấy vua rất phiền nhiễu nên lấy tất trượng kêu gọi đuổi đi. Các người cùng đi đều bị đuổi ra, Sư kéo riêng mình vua vào bên trái phía sau cánh cửa, đều như người thường, lại không có gì kính trọng lắm, Sư vỗ vào lưng vua bảo: "Ông năm mươi năm ngồi trên ngai vàng hãy tự vui mừng", sau đó thì không biết. Trương Đỗ Vĩ đứng ở ngoài cửa nghe lời nói đó rõ ràng nên hết lòng kính trọng. Sau năm mươi năm chỉ cho ương họa Lộc Sơn.
Vua Duệ Tông lúc còn ở ngôi, có lúc du hành trong nhân gian, Sư đứng nơi đường cái ở trong xóm, lớn tiếng gọi rằng: "Thiên tử đến!". Hoặc gọi: "Bậc Thánh đến!". Xứ đó tín túc nhàn, vua hẳn trải qua bồi hồi. Thái Tử Tuệ Trang là con thứ hai của vua Duệ Tông, Thiên hậu từng ẵm đến cho Sư xem và nói: "Đứa bé này là do Đại Thọ ở Tây Vực nuôi dưỡng, nên đáng anh em". Công Chúa An Lạc là em gái út của vua Huyền Tông, gán ghép Vi Hậu, lửa nóng có thể cháy tay, mọi người ngoài đường xá đều kinh sợ. Ngài thấy xa liền nhổ nước bọt bảo rằng: "Loài Tinh tinh không thể gần nó, không trở lại dẫm đạp mà họa diệt". Vua càng biết rõ Sư chẳng phải người thường, bèn ban xuất hai người trong cung suốt ngày đêm lo việc hầu hạ Sư.
Nhà vua lại đặc biệt ban sắc tại viện Tập Hiền, vẽ hình Sư. Đến lúc sắp viên tịch, Sư gọi lớn sai người tìm cầu nước sông của bổn hương. Môn nhân đồng bạn tìm kiếm không đâu ra, Sư bảo phía trước nhà chính là nước sông vì sao không lấy?" Mọi người bèn xuống thềm đào giếng, nước sông tuôn trào, Sư uống xong, bèn thị tịch. Giếng trong phường Sư ở nước đều mặn đắng, chỉ có nước giếng đó là ngọt ngon. Sau có người lừa dối, tự xưng là Tiểu Vạn Hồi để mê hoặc trong xóm chợ, phần nhiều bị giết chết. Đến sau khi Sư thị tịch, Hữu Thường Thị Từ Ngạn Bá soạn văn bia dựng tại Đường phía Tây Ngọc Giản ở Văn Hương.
Liên hệ thử bàn:
Một ngày đi muôn dặm, thì chẳng phải là người. Là quỷ thần ư? Hay là tiên thuật? Thông đáp: Quán xét hạnh biết là người, Ngài Vạn Hồi không có tà hạnh nên không phải là quỷ thần, không ý cố làm nên chẳng phải là tiên thuật. Đó chính là đắc thần thông. Trong Luận Đại Trí Độ, nói thần thông có bốn năng lực: Một là thân bay đi như chim, không ngăn ngại gì, hai là dời xa khiến gần, chẳng đi mà đến; ba là vào đây ra kia và bốn là một niệm thì đến được.
Có người lại hỏi: Trong bốn năng lực đó, Ngài Vạn Hồi có được loại nào? Thông đáp: Đều có đủ cả, nên xưng gọi là Như ý thông. Trong luận Dugià nói Thần Cảnh tức đồng với ở đây. Hoặc nói La-hán có đại kham năng hiện ba thứ thần biến.
Thích Đạo Giám, họ Phùng, người ở Quận Ngô, không rõ từ đâu đến, mà Sư trụ chùa Linh Nham ở Lịch Hạ. Là vị tăng có tung tích thần dị chẳng thể suy lường.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), có Phùng Sanh cũng người ở Quận Ngô, vì minh kinh điều tuyển chưa lanh lợi, nhân đó đến ngụ ở Trường An. Một hôm, có vị lão tăng đến chỗ Phùng Sanh ở, bảo rằng: "Ông và tôi cùng một dòng họ", do đó cùng nhau lui tới. Chỉ hơn một năm bèn được mời làm Úy ở Đông Việt, mới làm nhiệm vụ chỉnh trang sửa trị. Sư mang tích trượng đến cáo từ để đi. Phúng Sanh hỏi: "Sư đi sẽ ở chỗ nào?" Sư đáp: "Chòi tôi ở là mái hiên phía Tây Linh Nham thuộc Tề Châu, lãng du nơi chốn thần kinh đến nay đã mười năm. May được đi với ông, nay trở về chỗ cũ, nên đến giã biệt ông. Nhưng con tôi là Úy Vu Việt Hương, Đạo xuất dưới chùa Linh Nham, phải nên một lần hỏi tôi ". Phùng Sanh vâng theo, nói rằng: "Kính cẩn xin nghe lời chỉ dạy". Vài ngày sau khi Phùng Sanh ra nhậm chức ở Quan Đông, đến cửa chùa Linh Nham, dừng ngựa, nhìn lên bảo rằng: "Há chẳng phải là chùa Ngài Đạo Giám ở ư?" bèn liền đi vào dò hỏi. Khi đó có một vị tăng đứng ở sân chùa, Phùng Sanh đến hỏi: "Phòng nhà của Đạo Giám Thượng Nhân ở đâu?" Vị tăng ấy đáp: "Chùa này không có ai là Đạo Giám". Phúng Sanh nghi lạ, im lặng mà nghĩ rằng: "Đạo Giám là người ngay thẳng chẳng lẽ lừa dối ta ư?" Khi đó, một mình Phùng Sanh đi vào trong chùa, bước đến dưới mái hiên ở phía Tây, bỗng thấy ở vách tường có vẽ hình của một vị tăng dung mạo giống như ngài Đạo Giám, Phùng Sanh kinh ngạc khen ngợi: "Sư Đạo Giám quả thật là dị nhân, hãy giáng thần kết giao với tôi". Giây lâu, nhìn bên cạnh chân tướng có đề rằng: "Sư con nhà họ Phùng, người ở Quận Ngô. Năm mười tuổi, theo học Pháp Phật, có danh tiếng đạo hạnh, thị tịch năm 78 tuổi". Phùng Sanh đọc lời đề đó mới tỏ ngộ lời nói trước kia là "Ông và tôi cùng một họ". Lời nói thật chẳng sai lầm.
Có thuyết nói ở phía Tây Tô Châu, cách thành hai mươi dặm, có chùa Linh Nham. Dưới hàng hiên phía Tây Bắc chùa đó có đắp vẽ hình tượng vị Sa-môn và đề rằng: "Đó là hình tượng của một cư sĩ du phương, nhằm niên hiệu Thiên Giảm thứ 15 (516), thời Nam Lương. Nhân đi qua chùa núi, ở ngủ qua đêm mà vào tăng trù mượn bút nghiên, chúng tăng đều không để ý. Tới sáng sớm tìm kiếm khắp nơi thấy có người khách qua đời và thấy ở góc điện họa vẽ hình tượng vị Phạm Tăng, xương mặt lạ kỳ, sắc da nứt nẻ đen nám, mày dài rũ xuống, tròng mắt như điện chớp, vành mắt xanh nhạt, mũi ngang miệng vuông, môi trề, bày răng, nắm tay gác trên vai phải, thân cong, dài chừng một trượng năm tấc, mặc ca-sa áo nạp vải bố, tay chống viên châu lớn từ dưới gót chân, mọi người trông thấy đều kinh sợ, chẳng lường biết từ đâu đến, xa gần đều cảm kích, đốt hương lễ bái ngợi khen, hoặc có người đến cầu phước trừ họa, hoặc trong điện sáng tối chợt nghe có tiếng hành đạo, do đó mà chim muông chẳng dám giẫm xéo dơ bẩn trên mái nhà hay đầu cột, và người trong làng quê gọi đó là "Hòa-thượng Linh Nham" hoặc là "Linh Nham Thánh Tăng". Tượng đó từng hiện hình nói với một bà lão rằng: "Bần đạo ưa thích ăn rau giao, bánh nếp". Bà lão nghi đó là Thánh Tăng, sáng hôm sau mang giỏ vào điện cúng dường. Cầu xin năm nay, ngày mùng 3 tháng 3, dân chúng đua nhau đưa đến, dùng rau nấm cô tương xóc nấu với gạo. Người ở Ngô Quận gọi đó là bánh nếp rau giao.
Niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 (713) thời Tiền Đường, Công tử Lục Lỗ bị bịnh, các thầy thuốc đều bó tay, Công tử càng âu lo dữ dội. Ngoài cửa bỗng nhiên có vị tăng vạch đường đi vào, bèn tìm lấy bình nước ngậm phun vào mình, tức thời bịnh khỏi. Lỗ Công tử vui mừng dâng tặng các vật rất nồng hậu, vị tăng ấy chẳng hề đoái hoài. Lỗ Công Tử bèn hỏi: “Hòa-thượng ở chùa nào?" Vị tăng ấy đáp: "Bần đạo trụ chùa Linh Nham, ở phía Tây Quận Ngô thuộc Tô Châu. Lang quân làm quan ở Giang Biểu, hy vọng vào chùa sẽ gặp nhau". Trong chốc lát, vị tăng ấy bỏ đi. Sau đó không lâu, Lỗ Công tử được điều bổ làm Thượng thư Từ bộ Lang, rồi tiếp tục dời làm Quế Châu liêm sứ, thường luôn nhớ nghĩ tới vị tăng đã cứu bịnh mình trong năm qua, nên đường xa vẫn tìm đến Tô Châu, vào chùa Linh Nham tìm kiếm, bèn tả về hình dáng vị tăng ấy. Chư tăng trong chùa đều nói ở đó không có vị tăng nào hình dáng như thế. Lục Lỗ cả ngày bồi hồi chẳng nở bỏ đi. Bỗng vào trong điện thấy hình bóng Thánh giả, liền nói: "Người năm trước trị bịnh cho tôi chính là vị tăng này". Chư tăng trong chùa bảo: "Đó là do sự cảm thông khó thể lường biết được". Công tử Lục Lỗ xả thí mấy muôn đồng tiền để làm hương hỏa, lưu ở lại cả mười ngày cúng dường xong mới đi. Thêm nữa, trong chùa có người tịnh nhân, mỗi lúc đối trước tôn tượng đốt hương đèn, châm thêm dầu, có ý trộm lấy dầu thoa vào tóc, tự nhiên tóc bị cháy quắn mà rơi rụng, có người làm chung ở bên cạnh khuyên nên lễ bái sám hối, riêng mua dầu mè rót thêm để được đầy lại như ban đầu.
Lại nữa, lúc vua Võ Tông sắp phá hủy Phật giáo. Bên cạnh chùa có Lục Tuyên thấy Thánh tăng dạy bảo rằng: "Ta thọ nhận sự cúng thí của đệ tử đã nhiều năm, nay đến cùng từ biệt để trở về Tây Thiên". Lục Tuyên vội bảo thợ họa vẽ tôn dung của Thánh tăng. Đến niên hiệu Hội Xương thứ năm (845), chùa bị phá hủy, mới biết được ý của Thánh tăng đến từ biệt. Khoảng niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), có tai họa bởi nạn châu chấu, không chỉ ăn phá lúa mạ của dân chúng ngoài đồng ruộng mà còn gặm nhắm mọi vật lụa là gấm vóc trong nhà. Trăm họ đều bàng hoàng lo lắng, chưa biết tính phương kế gì. Bấy giờ, dân chúng Quận Ngô như Diên Nhượng, v.v... dẫn mấy ngàn người ở Kỳ Ngãi đến trước tôn tượng đốt hương khóc cáo. Ngay ngày đó, loài sâu trùng phá hoại bay đi nơi khác.
Niên hiệu Càn Phù thứ 5 (878), chư tăng trong chùa đang đến quan ải xin thỉnh chuông về chùa, sai một vị tăng là Tuyển Nhật đăng đồ, Thánh Giả trước nhập và sách quân bổn cục, của Hữu Thần, dự bày chúc thác. Đến lúc thỉnh chuông chúng tăng đến thấy. Tư lại lấy làm lạ hỏi: Mấy ngày trước có vị tăng đến nói trụ chùa Linh Nham ở Tô Châu. Vị tăng ấy bảo tôi đi không có bạn". Sau đó, Hữu quân nhân Tư có việc đến Quận Ngô vào chùa Linh Nham thấy trên vách có bức họa, bèn nói: "Đây là vị tăng đã dự hội thỉnh chuông tại Ty nội trong tháng 7 vừa qua". Và ở trong Quận Ngô có lắm điều linh dị, chẳng thể lường biết được nguyên do. Từng có vị tăng đến lễ bái tôn tượng đắp họa đó mà xưng gọi rằng: “Bồ-tát Trí Tích có duyên sự gì mà trụ ở đây?" Khen ngợi càng lâu, và từ đó gọi tôn tượng là ứng thân của Bồ-tát Trí Tích.
Liên hệ thử bàn:
Các thuyết đồng dị là có nhiều ở các sử gia. Nay rõ chùa đề hiệu là Linh Nham, có tôn tượng đắp họa Thánh tăng đó là đồng. Châu đề là Lịch Hạ Thỉ Tô, người gặp là Phùng Sanh và Công Tử Lục Lỗ, đó là dị. Đây là vì thấy nghe khác nhau nên sự ghi chép do đó nên có khác nhau. Phàm bậc thánh ứng thân, hoặc Nam, hoặc Bắc, hoặc Hán, hay Hồ, hoặc hình dáng bình thường, hoặc tướng trạng quái lạ sai khác, nên khiến người thấy nghe hẳn có khác lạ. Thêm nữa, khiến sự truyền bá tự nhiên có nhiều thuyết. Thí như ngoài ngàn dặm trông nhìn mặt trời, mặt trăng đều đồng một lúc, nhưng bên cạnh có mây mờ thì hình dạng có khác. Đã là ứng hiện không thể nghĩ bàn thì tùy duyên mà phó cảm, tứ là khó đồng, có thể phát lệ, chỗ truyền nghe có khác.
Thích Tuệ Chiêu, không biết Sư là người xứ nào. Tánh rộng mà cao, thường tu thiền định, dáng mạo rất suy tư, ưa nói việc vui buồn của mọi người mà đều đúng cả. Sư giao tiếp với người nói năng chẳng thuần hợp, nên đóng cửa tự sống, chung quanh không trẻ nhỏ hầu hạ. Thường ngày đi khất thực. Dân chúng trong xóm có hơn tám mươi người bảo rằng: "Sư ở đó đã hơn sáu mươi năm. Dung mạo Sư không đổi khác so với thuở trẻ ngày trước, chỉ không biết Sư sanh năm nào.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) có Trần Quảng do Hiếu Liêm điều đến làm quan ở Võ Lăng, nhưng rất kính mến Phật pháp. Một hôm, nhân đến chùa, hỏi Đạo khắp cùng chư tăng. Sư thấy Trần Quảng vừa buồn vừa mừng, bảo: "Trần Quân sao đến muộn vậy?" Trần Quảng kinh ngạc tự nghĩ "Ta thuở bình sanh chưa hề biết vị tăng này, cớ sao bảo là ta đến muộn", bèn nói rằng: "Tôi chưa hề gặp sư sao trách tôi đến muộn?" Sư bảo: "Đây là chuyện chẳng như binh lính có thể nói. Phải cùng ông với một đêm tĩnh lặng bàn nói mới hết ý này". Trần Quảng rất lấy làm kinh lạ.
Sau đó, Trần Quảng mới đến ở lại trong đêm tại chỗ Sư, nhân thưa hỏi điều đó. Sư bảo: "Tôi là con nhà họ Lưu, là huyền tôn của vua Hiếu Văn Đế (424-454) đời Tống, Tằng tổ là bà Vương Dương Hưu Nghiệp Tổ Sĩ Hoằng, đều ghi rõ trong sách sử. Người trước văn học tự phụ, là chỗ quen biết với Tề Cảnh Lăng Vương Tử Lương. Tử Lương mời nhóm họp các bậc sĩ hiền tài văn học, mà người trước có dự đó. Sau ra làm quan, trong thời nhà Tề, nhà Lương từng làm Cối Kê lệnh. Tôi sanh vào tháng năm niên hiệu Phổ Thông thứ 7 (526) thời Nam Lương. Năm ba mươi tuổi, mới ra làm quan chức ở xứ Trần. Đến thời vua Tuyên Đế (tức Tiêu Sát 557-562) thời Hâu Lương làm chức quan nhỏ, chẳng được mọi người biết. Vốn cùng Thẩm Ngạn Văn kết bạn làm thơ uống rượu. Sau, Trường
Sa Vương Thúc Kiên và Thỉ Hưng Vương Thúc Lăng đều nhóm họp khách bạn đông nhiều, làm lớn thanh thế, mỗi người tự cậy quyền được sủng ái nên có chỗ tâm bất bình. Tôi và Thẩm Ngạn Văn đều ở dưới Trường Sa, đến lúc Vương Thúc Lăng bị giết, tôi lo sợ không tránh khỏi, nhân đó đều xóa tên ẩn tích chốn hang núi, lượm nhặt hạt dẻ để ăn, vốc nước khe suối mà uống, chỉ mặc áo vải thô, tuy có nóng lạnh cũng chẳng đổi thay, vì đợi chỗ định thay chỗ lo, tự nhiên có một vị Sa-môn già đến chỗ tôi ở, bảo rằng: "Ông có cốt pháp rất kỳ đặc, sẽ không bịnh tật gì". Ngạn Văn đôi phen bái thỉnh cầu xin thuốc đó. Vị Sa-môn ấy bảo Ngạn Văn: "Ông không có được tuổi thọ như Lưu Quân, phải làm sao? Tuy có uống thuốc của ta cũng không bổ ích, toại ý gì!" Khi cáo biệt sắp đi, lại nói với tôi rằng: "Trong trần tục vì danh lợi mà cùng tranh hơn, rốt cùng đâu có gì? Chỉ có dòng họ Thích mới xả bỏ điều ấy!". Tôi kính cẩn nghe nhận lời nói ấy. Từ đó, chẳng hay biết đến việc người đời suốt mười lăm năm. Tôi lại cùng Ngạn Văn đến đất Kiến Nghiệp. Bấy giờ, triều đại nhà Trần (557-589) đã mất, cung khuyết đều bị phá hủy, đài thành lao lạc, gai bụi loáng đường, Cảnh Dương đều tắt nghẽn, Kết Kỳ nền đổ, Văn Vật Y Quan rộng lớn tự nhiên mất hết. Nên già gặp nhau cùng dẫn nhau mà khóc. Lại bảo: "Một người vô lương đã đến như thế, dòng họ nhà Tùy diệt hết người tốt lành thật đáng buồn thương thay!" Lại nghe Hậu chủ cùng các Vương đều vào Trường An, tôi mới dẫn Thẩm Ngạn Văn mang chiếc đãy cùng khất thực ở đường để đến Quan Trung. Tôi hẳn là khách cũ của Trường Sa Vương, nên ân tình gặp gỡ rất nồng hậu, nghe ông ta dời đến ở Quan Châu thì liền sang yết kiến. Trường Sa Vương lớn ở Kỳ Hoàn, mà sớm quý thạnh, tuy thời gian lưu phóng còn chẳng phải việc nuôi sống, bấy giờ mới cùng Thẩm Phi đối ẩm, tôi cùng Thẩm Ngạn Văn lại bái nhau như trước. Trường Sa Vương buồn thương giây lâu, rơi lệ mà nói với tôi rằng: "Một ngày mà nước nhà đắm mất, cốt nhục phân tán, há chẳng phải do trời ư?" Từ đó tôi lưu lại đồn canh của Để Khương ở Tấn Xương, vài năm thì Trường Sa Vương qua đời. Lại qua vài năm nữa thì Thẩm Ngạn Văn cũng qua đòi, tôi nhân đó xuống tóc làm tăng, theo vết trụ ở chùa Sơn Phật ở Cối Kê suốt hai mươi năm. Lúc đó tôi đã trăm tuổi.
Tôi tuy dung mạo dáng thể khô gầy mà sức lực chẳng suy, mỗi ngày đi cả muôn dặm. Nhân đó, tôi cùng với một vị tăng đồng đến Trường An. Bấy giờ, vua Cao Tổ (Lý Uyên 618-627) thời Tiền Đường đã có được đất nước, lấy niên hiệu là Võ Đức. Đến niên hiệu Võ Đức thứ 6 (623), từ đó, tôi có lúc ở kinh đô Lạc Dương, hoặc đến Giang Tả, đến Tam Thục, Ngũ Lãnh, không nơi nào chẳng dừng ở, mãi đến nay đã hai trăm chín mươi năm rồi. Tuy trải qua rét cóng hay nóng cháy mà không hề bị chút tật bịnh. Khoảng cuối niên hiệu Trinh Quán (650), khi đó tôi đang ở tại chùa này, mộng thấy một bậc trượng phu, áo mão rất lớn tốt, nhìn kỹ thì ra là Trường Sa. Tôi mới vào cùng ngồi bàn luận chuyện cũ, thương cảm như lúc còn sống. Và Trường Sa nói với tôi rằng: "Mười năm sau, Tôn Quản là cháu đời thứ 16 của tôi (Trường Sa) sẽ làm quan tại quận này. Sư hãy nhớ lấy đó!" Tôi bèn hỏi Trường Sa: "Vua hiện nay như thế nào?" Trường Sa đáp: "Minh quan cực tôn!" Rồi lại khóc mà nói rằng: "nay Sư vẫn còn, mà tôi đã đến đời thứ sáu, thật buồn thay!". Tôi thức giấc, nhân đó ghi tên của Quân (Trần Quảng) vào trong hòm kinh. Đến nay đã mười năm, mới đem tên họ của Ông dò hỏi dân chúng trong Quận, thật là quái lạ sao Ông chưa đến. Hôm qua nhân đi khất thực trong làng, gặp được Ấp Lại mà dò hỏi, quả nhiên biết được, đến lúc Ông đến, lại giống hệt diện mạo của Trường Sa. Nhưng từ lúc gặp trong mộng cho đến nay đã mười một năm rối, nên tôi ngờ lạ bảo Ông sao đến muộn vậy!"
Thế rồi buồn cảm, khóc rơi hai hàng lệ, nhân đó Sư đem hòm kinh ra chỉ cho Trần Quảng xem. Trần Quảng đôi phen bái lạy xin mang cầm giầy tích, nguyện làm đệ tử. Sư bảo: "Ông hãy trở về, ngày mai hãy đến!" Trần Quảng vâng lời chỉ bảo mà trở về. Ngày hôm sau tìm đến chỗ Sư ở, thì Sư đã bỏ đi chẳng biết từ bao giờ! Lúc đó là niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10 (815). Đến đầu niên hiệu Thái Hòa (827), Trần Quảng làm nhân viên ở Ba Châu, gặp Sư tại đường đi ở phía chân núi. Trần Quảng vừa kinh hãi vừa vui mừng, lại bái lạy thưa rằng: "Nguyện bỏ quan chức theo Sư kết giao du vật ngoại". Sư cũng chấp thuận. Đêm đó, Sư xả bỏ nhà cửa nghịch lữ, đến lúc trời sắp sáng, Trần Quảng dậy sớm thì Sư đã đi mất rồi. Trần Quảng thẩn thờ như có tang người thân! Như thế Sư sanh vào niên hiệu Phổ Thông thứ 7 thời Nam Lương, tức là năm Bính Ngọ (562), mãi đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười thời Tiền Đường, tức năm Ất Mùi (815), suốt quảng thời gian đó là hai trăm chín mươi năm, hợp với lời Sư.
Liên hệ thử bàn:
Ngài Tuệ Chiêu trụ thế đã ba trăm năm, trước không ngằn, sau chẳng mé, cũng như Ngài TânĐầu và Tôn giả La-Hầu đông nhất quán cơ, sao chẳng nghĩ nhớ ân đất đến cháu con ư? Thông đáp: 'Thần tiên chỉ cách một mảy trần còn không thể cùng đi. Vã lại, Trần Quảng là kẻ phàm phu còn đủ thứ ràng buộc, Ngài Tuệ Chiêu là bậc thượng sĩ độ đời. Như diều hâu bay và cá lặn vực sâu, dấu vết khác xa, ấy có gì phải quái lạ ư!"
Thích Ngạn Thiền Sư, người ở xứ Tinh Châu, ước cùng Tịnh Độ làm nơi chân quy, thực hành Sám pháp Phương Đẳng, siêng cần không thiếu sót thời khóa. Vừa bị bịnh nhẹ, Sư hành thiền quán không thiếu, thấy hai vị Bồ-tát Quán thế Âm và Đại Thế Chí hiện giữa hư không hiển hiện thời gian lâu chẳng biến mất. Sư mời các thợ vẽ khắp nơi mà không ai vẽ được. Bỗng nhiên có hai người đến nói với Sư rằng: "Từ Tây Kinh đến, muốn tới ngũ Đài, tự ưa thích chuyên dốc việc đắp họa hình tướng Bồ-tát!" Sau khi họa vẽ xong, bèn tặng hai đôi giầy, bỗng nhiên biến mất không thấy vết tích đâu cả. Sư biết duyên Tây phương đã thuần thục, nên bảo các đệ tử: "nay tôi vãng sanh, có ai cùng đi không?" Có một đồng tử nhỏ cúi đầu sụp lạy thưa rằng: "Xin nguyện được theo thầy". Đồng tử bèn trở về từ giã cha mẹ, cha mẹ cho đó là lời nói đùa nên bảo tắm gội đắp mặc y phục thanh tịnh vào đạo tràng niệm Phật. Chỉ trong khoảnh khắc thì thị tịch. Sư bèn trách rằng: "Cớ sao lại đi trước". Khi đó, Sư cầm bút viết kệ khen ngợi hai vị Bồ-tát rằng:
Quán Âm giúp xa tiếp Thế Chí đón từ xa Bình báu trên mũ hiện Hóa Phật trước đảnh sáng Đi khắp mười phương cõi Cầm hoa đợi chúng sanh
Nguyện dùng tay từ bi
Dẫn cùng về Tây Phương!"
Ngài nói kệ xong, bèn từ biệt đệ tử, vào đạo tràng, bảo môn đồ giúp niệm Phật. Sư an tọa mà thị tịch, thọ tám mươi tuổi. Lúc đó là ngày 17 tháng Giêng niên hiệu Thùy Củng thứ nhứt (685) vậy.
Thích Hậu Tăng Hội, vốn người nước Khương Cư. Vào niên hiệu Xích Ô (235-251) thời Đông Ngô, Sư đến yết kiến Đại đế (tức vua Tôn Quyền 222-252). Ban đầu, người xứ Đông Ngô không biết hình tướng chư tăng, chỉ gọi là người Hồ nhập cảnh, Ngài bèn cầu xá-lợi, khiến Đại Đế khai ngộ. Đến niên hiệu Thiên Kỷ thứ 4 (280) thời mạc Chúa (tức Tôn Hạo), Sư bèn bày mở chân thân ẩn. Vào niên hiệu Vĩnh Huy (650
-656), Sư hiện thân ở đất Việt, xưng là Du Phương Tăng, mà thần khí khác lạ, mày cao sáng sủa, má gồ mắt đỏ mà khô héo, lộ vế kỳ cốt, thật là dung mạo Phạm Tăng. Mọi người trông thấy, mịt mờ không biết Sư thuộc giai vị nào. Bấy giờ, vị Cương Duy trong chùa hỏi vặn về nguyên do, bèn mắng chửi đuổi đi. Sư bước ra tới cửa, mới nói với vị Cương Duy rằng: "Ta là Khương Tăng Hội. Nếu biết lưu giữ chân thể của ta thì đó là phước của chùa các ông ". Sư bước tới rồi đứng yên mà thị tịch. Thế rồi mắt xanh nhắm lại, tinh sáng chẳng tiêu, đưa tay như đón rước, chân gác tựa muốn đi. Tăng chúng cùng bàn nhau, xếp linh cốt ấy an táng nơi huyệt mả, dùng hết sức người mà chẳng khiêng đổi, tuy sắc thân bền chặt mà cưỡng sự như keo sơn. Bèn đón rước đến nơi thắng địa, lập riêng nhà phụng thờ. Bấy giờ, dân chúng đất Việt đua nhau dùng hương hoa đến đuốc, lụa là phướn lọng, quả thực y khí, đến cúng dường cầu mong tỏ bày tâm nguyện, thường vừa ý người.
Ban đầu, quân lính của xứ Việt thường đóng tại chùa Vĩnh Hưng, trong đó có phụ nữ sinh sản, binh lính ăn uống các thứ máu thịt tanh hôi làm ô uế chốn chùa chiền. Mọi người không kham nhẫn nỗi sự dơ bẩn đó lâu dài. Ngài mới hiện hình đến yết báo cùng Mân Liêm Sứ Lý Nhược Sơ, và nói: "Quân hầu tức Phiên Điều của Lãnh Việt, xin hãy dời quân lính di!" Nói xong Sư bèn vén áo mà đi, bỗng mất tông tích. Lý Nhược Sơ vừa mừng, vừa kinh sợ, ghi nhớ lời nói đó. Sau, quả nhiên đến quận đó. Và khi nhận việc xong bèn đến lễ yết linh tích, nhận ra người nói lúc đó chính là vị tăng này, bèn ra lệnh cho quân lính đến doanh mạc khác.
Lại có sản phụ, ban đêm sắp sanh mà không có đèn đuốc, gần đó cũng không có lỗ hổng có ánh sáng, bỗng nhiên có vị tăng tự khoét vách cằm đuốc đi vào. Sáng sớm hôm sau, người chồng vào chùa Vĩnh Hân, nhận ra dung mạo Sư là vị tăng đã trao lửa cứu giúp lúc sanh nở hiểm nguy. Từ đó trong dân gian có nhiều người đến cầu sanh con trai, con gái. Gặp lúc Pháp nạn Hội Xương phá hủy chùa Vĩnh Hân, nay chỉ ở chùa Đại Thiện riêng lưu lại tên gọi Khai Nguyên. Bèn dời thân Sư vào chùa đó. Sau, vào niên hiệu Đại Trung (847-806), có Luật sư Đàm Hưu vì tôn kính Sư nên dựng lập riêng Đường Vũ, mở rộng các vật cúng. Sư lại thường đến trong nhà người dân làng quê xin giầy cỏ. Đến nay người dân đất Việt thường hay đem giầy cỏ, dầu, phướn dâng cúng. Sư có lắm việc cảm ứng, thường đến nhà người, không thể thuật hết. Nay tôn xưng Sư hiệu là "Siêu Hóa Đại Sư". Từ niên hiệu Vĩnh Huy (650-656) đến nay không hề thiếu thốn sự cúng thí. Sa-môn Hư Thọ lập văn bia ghi lại sự tích Sư.
Liên hệ thử bàn:
Thái Ung là thân sau của Trương Hành, Trí Uy vốn là việc trước của Từ Lăng. Nghiệm xét đều rõ ràng, lý chẳng luống dối. Còn như bậc Thánh có lắm công dụng tự tại, mất đây hiện kia, lợi ích không ngừng. Ngài Tăng Hội thị tịch đã lâu, đến thời Tiền Đường lại hiện hóa tại đất Việt, đứng mà thị tịch sừng sững thật là khác lạ trong mọi sự khác lạ. Giả như chẳng phải ứng vật hiện hình như trăng trong nước thì ai có thể dự biết ấy vậy ư?
Thích Đạo Anh, không rõ Sư là người xứ nào.
Giới đức vẹn toàn, tiếng tăm vang khắp Thiên ấp. Sư trụ chùa ở phường Bố Chánh.
Vào niên hiệu Hàm Hanh (670-674), Sư thấy quỷ vật, Sa-môn Tuệ Giản là tự chủ có nói: "Lúc sáng sớm thấy hai người đi chân chẳng đụng đất đi vào phòng viện của Sư". Ngài Tuệ Giản lấy làm quái lạ nên đem hỏi Sư, Sư bảo rằng: "Sứ thần của Trang Tương Vương (Doanh Sở 249-246 trước Tây Lịch) thời nhà Tần đến nói là "chịu đói khát đã lâu, vì thấy tôi có lòng đại từ nên muốn xin cho thức ăn. Xin chớ từ khổ nhọc ". Tôi bảo với họ là sáng ngày hôm sau sẽ thiết bày đầy đủ nên hãy đến cùng thọ hưởng". Ngài Tuệ Giản nghe nói như thế, đem rượu phụ giúp, và quả thật họ có đến, người hầu theo rất trang nghiêm, đang ngồi ăn, Thương Hoàng nói với Sư rằng: "Đệ tử không được ăn đã tám mươi năm". Sư hỏi về nguyên do, đáp rằng: "Tôi từ lúc mới sanh về sau không gì chẳng có sai lầm, như diệt Đông Chu, dứt bặt cơ tự, hoặc trách móc công đức. Tôi thường ngày chưa được có Phật pháp để dùng sám độ, chỉ do xá hựu giúp đỡ, trơ trọi riêng một mình bị lấp bít, không hề được bù đắp, bởi vì phước ít mà tội nhiều, thọ nghiệp chưa hết. Nay được ăn một bữa ngon lành nầy, phải bốn mươi năm sau mới được ăn lại!" Nhân đó nhìn quanh rồi chỉ lên Thượng tọa mà nói rằng: "Đó là Bạch Khởi Vương Tiễn vì giết hại lắm tội, quả báo chưa hết". Lại nói: "Đây là Trần Chẩn, do tội luống dối... " Sư bảo: "Sao Vương không theo người để xin thức ăn mà cam để bụng đói, như thế làm sao chịu nổi?" Vương đáp: "Người có tâm từ rất ít. Người khác không thấy được. Tôi duyên với quý nhân chẳng thể vọng làm việc họa phước, vì thế nên đành chịu". Sư chỉ vào bình rượu bảo rằng: "Đó là do Ngài Tuệ Giản tự chủ ở đây biếu tặng". Vương rất có sự hổ thẹn, lúc sắp đi nói với Sư rằng: "Rất cảm ơn phí tổn hành thương này, no nê như thế nào có thể biết, đệ tử có ít vật, xin đưa để tưởng thưởng, ngoài cửa Thông Hóa ở phía Đông thành có mả cao nhọn, trên chóp nhọn cao lớn, đó là chỗ lầu thần của tôi, người đời không biết lầm cho đó là phần mộ của Lã Bất Vi. Sư bảo: "Xưa từng được Xích My khai phát, đâu thấy có vật gì?" Đáp rằng: "Giặc lấy không thể được". Sư bảo: "Bần đạo chẳng phải là Phát Khâu Trung Lang, mà chính là người xuất gia không dùng vật ấy, hãy chớ đem đến!" Nói xong đưa tay vái chào mà đi. Sư có các sự cảm thông với hạ thú như thế. Không biết về sau Sư mất ở đâu.
Thích Pháp Tú, không rõ Sư là người xứ nào. Sư trụ tại chùa Kinh, thường lui tới vùng Hàm Hạo để khuyên dẫn các duyên, thành tựu nhiều việc lành, mãi đến lúc già, Sư chưa từng nghỉ ngơi.
Cuối niên hiệu Khai Nguyên (742), Sư mộng thấy có người bảo rằng: "Đem khăn tay, pháp phục ca-sa mỗi thứ năm trăm cái vào cúng thí ở chùa Hồi Hướng". Khi tỉnh giấc, Sư hỏi mọi người chung quanh, đều nói là không có chùa nào tên là Hồi Hướng. Sư lại tìm rộng ra hỏi những người may khăn tay, áo ca sa, và cả những người xuất gia, tại gia lão túc khắp nơi có ai biết chùa ấy không. Khi đó, có một vị tăng hình dáng khôi ngô, mọi người đều chẳng biết, bảo rằng: "Tôi biết chùa Hồi Hướng". Sư hỏi: "Cần mang theo những vật gì và bao nhiêu người cùng đi?" Vị tăng ấy bảo: "Chỉ mang theo một cân Danh Hương là được, và khăn tay áo cà-sa". Sư bèn y theo lời nói đó mà trao các vật cúng thí, và vị tăng đó cùng Sư đồng đi. Lộ trình vượt qua núi Chung Nam, đi chừng hai ngày đường, đến chỗ núi rất cao. Ban đầu không thấy vật gì, lại tiến bước đi nữa, thấy một trục lăng bằng đá. Sư kinh hãi hỏi: "Ở đây không vết chân người bước, sao lại có vật này?", bèn đem danh hương mang theo ra đốt, đôi ba phen đặt lễ, tha thiết nguyện cầu từ buổi trưa giờ Ngọ cho đến chiều tối, trong hang khí sương tỏa ra, chỉ chừng một thước không thấy được gì. Xum xoe trong chốc lát bỗng sáng tạnh, ngay giữa lưng chừng núi có khung cửa đỏ phân vách lục khoét toàn đề, cột phướn bay yêu kiều, lầu thẳng góc ảnh cao. Chốc lát thấy một ngôi chùa rõ ràng giữa bóng mây, Tam môn treo bản lớn đề là "Chùa Hồi Hướng". Sư cùng vị tăng ấy rất vui mừng, men theo thềm cấp bước lên. Khi đó đã hoàng hôn, nghe có tiếng chuông khánh xướng tụng. Người giữ cửa hỏi từ đâu đến, rồi từ từ dẫn vào bái kiến một vị lão tăng đôi ba phen an ủi thăm hỏi, Lão tăng nói rằng: "Đường Hoàng Đế vạn phước chăng?" Rồi bảo một vị tăng khác dẫn đường đi qua các phòng chia cúng khăn tay và pháp phục ca-sa. Chỉ còn dư một phần, trong đó có một phòng trống không có người mà có giường chõng, y phục, tòa tịch v.v... dường như có sự thích hợp. Thế rồi bỏ qua, trở lại chỗ vị lão tăng, như người đứng đầu cương nhậm bảo với Sư rằng: "Vị tăng ở phòng trống đó ra ngoài sẽ trở lại". Sư cùng vị tăng ấy lại muốn đến vị tăng đó để trao khăn tay v.v... Một phòng chỉ giường chõng để trống, cũng không có người. Lại nói đầy đủ về việc đó. Vị lão tăng cười bảo Sư ngồi, rồi đi đến trong phòng ấy lấy xích bát đến, cho đến xích bát bằng ngọc. Lão tăng bảo rằng: "Ông có thấy vị tăng người Hồ kia chăng?" Sư đáp: "Thấy!". Lão tăng bảo: "Đó là người trong tương lai sẽ quyền thay cho chúa của ông. Ở Kinh đô, sẽ loạn lạc, người chết rất nhiều. Vị tăng người Hồ đó tên là Ma Diệt Vương. Còn ngôi thất kia là phòng của chúa của ông. Chúa của ông lúc ở tại chùa này ưa thích thổi xích bát nên bị phạt xuống nhân gian. Đây là xích bát mà chúa của ông thường thổi. Nay thời hạn sắp mãn nên bỏ lại ". Sáng sớm hôm sau, bảo Sư đến trai đường thọ thực. Thọ trai xong, lão tăng bảo Sư: "Ông phải trở về, hãy đem xích bát này và Pháp phục ca-sa, khăn tay trao cho chúa của ông, thì liền tự nhận!" Sư bèn lễ bái và trở về. Vị đồng tử lại đưa ra, chỉ mới vài mươi bước thì mây phủ khắp bốn bề, và bỗng nhiên không còn thấy ngôi chùa đâu nữa.
Sư bèn đem khăn tay pháp phục ca sa và xích bát bằng ngọc đó dâng lên vua Huyền Tông. Nhà vua bèn mời Sư đến kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vua Huyền Tông rất cảm động mừng vui, lắng thần giây lâu rồi lấy ống sáo thổi, tiếng uyển nhã như trước ngự. Sau đó vài năm, bỗng nhiên có tai họa Lộc Sơn. Vị Hồ tăng mà Sư thấy trước kia chính là Lộc Sơn. Sư cảm kích sự gặp gỡ đó nên càng tinh tấn gấp bội. Không biết về sau Sư thị tịch ở đâu. Người đời truyền rằng chùa Thánh ở Chung Nam lại có chùa Hồi Hướng.
Liên hệ thử bàn:
Xưa kia, thời vua Võ Đế nhà Lương, bảo đưa Pháp phục ca-sa vào núi Thượng Hải. Ngài Pháp Tú lại đến chùa Hồi Hướng. Yên sư sai sứ tìm chùa Trúc Lâm Đại Thánh. Ba duyên đó tên gọi tuy khác mà sự việc chỉ là một. Chẳng là lẫn nhau đổi thành cắt tiệt chim hạc nối tiếp chim le chăng? Thông đáp: "Việc làm của bậc Thánh dường như trong làm tạo xe mà ngoài cửa hợp vết, tuy việc xa đến ngàn muôn dặm cũng phù hợp. Bởi chẳng khác đường, nên như Tiêu Tử trông xem Tiên Kỳ đốt cháy cây, chẳng phải chỉ Vương Chất, có nhiều người gặp Tiên Kỳ, vả lại tên họ khác nhau, bởi thiêu đốt búa chặt cây chẳng phải một. Nay đây, đưa y phục vào chùa Thánh, phần nhiều cũng như thế.
Thích Phổ Minh, không biết Sư là người xứ nào. Có thuyết nói Ngài là tăng sĩ người Tây Vực. Sư thường bàn luận thiền pháp, nêu rõ huyền vi, chẳng thể lường biết sự cao xa trầm lắng của Sư.
Vào niên hiệu Đại Lịch thứ nhứt (766) Sư nhận lời người ở Tạc Huyện thỉnh đến trụ A-lan-nhã. Các học giả kéo đến đông đúc, thường luôn qua lại, các cư sĩ lễ bái mà cúng thí. Thường ngày dùng đến ngàn kế, hoặc hễ vừa thấy tướng tự nhiên tức giận quở trách bít lấp sự ham muốn, đâu nhớ tiếng, làm lành quên ác. Chỉ một năm mà chẳng lường biết số là bao nhiêu. Hữu Bộc Xạ Nghĩa Thành Quân, Tiết Độ Sứ Giả Đam vốn là tiên bị giáng trần, ưu du đạo học dẫn lược Không môn, vừa mới trông thấy Sư mà như biết Cựu Hoàn của Dương Hựu, thấy mẹ hiền của Thái Thuận, hạ tâm mời thỉnh Ngài đến trụ chùa trong Châu Quận, đón rước đến nỗi nghiêng thành quách, nơi ngõ tắt không người ở.
Do đó, Sư nói Pháp cho người nghe. Tuy thân già mà chẳng mỏi mệt, Sư đi nhanh như gió, hình dáng nhẹ nhàng mạnh khỏe. Đến ngày mùng 10 tháng 12 năm Nhâm Thân (792) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 8, Sư dặn dò môn nhân rồi an nhiên ngồi thẳng thị tịch.
Có thuyết nói Sư thọ ba trăm tuổi. Bởi vì năm đó có người trăm tuổi thấy Sư dung nhan vẫn như xưa chẳng đổi khác. Bèn y theo pháp Tây Vực tràtỳ, thâu nhặt được hai mươi bảy viên xá-lợi, cứng chắc tròn sáng. Các thiện tín xây một ngôi tháp nơi thiền đình chỗ Sư ở, sau dời tòa xuống dưới tháp.
Sau khi Sư tịch khoảng mười năm, Vương Sư Tây Chinh an tĩnh biên tái, người dân Hoạt Châu có Sài Thanh rất tài dũng, nhân đánh chiếm loài mọi rợ đi thẳng sâu vào Lỗ đình. Binh lính tuần canh phần nhiều ban ngày núp phục, ban đêm hoạt động, bèn lạc lối quên mất đường đi, thẳng xa chẳng phân biệt. Sài Thanh thấy Sư đi trước dẫn đường như ngựa già làm tiên khu, khi đã tới Hán Thành bỗng nhiên không thấy nữa, bèn trở về Châu Quận đến chỗ tháp lễ bái. Xa gần đều truyền tụng.
(Quyển 18 hết)
(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có tám vị)
Thích Phá Táo Đọa, không rõ Sư là người xứ nào. Trong thời Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) Sư đến tham sự với Thiền Sư An ở Tung Nhạc, hiệu là Lão An. Sư thấu suốt thiền pháp, tiêu diêu chẳng buộc ràng. Thường cầu lý mà chẳng thấy ở trước, riêng đường mà chẳng thấy rảo bước ở sau.
Sư từng gặp thầy đồng bóng cùng với người cúng tế ông Táo để cầu nguyện, như Lý thiếu Quân ở đời Hán Võ vì thờ ông Táo mà đặt để vật đồng. Hễ lúc thầy đồng giải tấu thì thường thấy hình quỷ vật hiện điềm, dân chúng ở trong làng nhiều người lo sợ, lan truyền trong nhiều người, thường hay giết hại dê để cúng tế giao Ngọ. Trọng chủ Táo ấy bèn dùng phướn lọng để che, bí mật mà ít thấy. Khi Sư đến đó, ban đầu thì khuyên dụ thầy đồng, sau cùng thì nói Pháp cho thần nghe. Xong rồi thần nói rằng: "Tôi nghe sư chỉ dạy, chắc chắn sẽ sanh lên cõi trời". Thần bèn hiện hình để đảnh lễ từ tạ Sư. Lại nói rằng: "Mong sư được lợi ích càng sâu xa, được sanh lên cõi trời tốt đẹp!" Thần nói xong liền ẩn hình. Táo đó chính là thần từ, theo đó mà hiểu thị tự nhiên rỗng suốt, chẳng do sức người, xa gần đều kinh hãi. Sư vốn chẳng xưng danh, do đó hoàn toàn lấy danh hiệu của người khác, nên gọi là Phá Táo Đọa.
Thích Nguyên Khuê, họ Lý, người xứ Y Quyết. Sư bẩm khí anh kỳ, rộng rãi nhàn nhã, đã có duyên tu tập từ trước bèn phát chí xuất gia.
Vào niên hiệu Vĩnh Thuần thứ hai (683) Sư đăng đàn thọ giới cụ túc, bèn thuộc danh ở chùa Nhàn Cư, tập học tỳ-ni. Sư siêng năng không biếng lười, sau đó, ngộ Thiền Tông ở chùa Thiếu Lâm, thông suốt tâm yếu, vào sâu huyền vi, Sư bèn từ bốc lô đến Lũng Ổ ở Tung Nhạc, Sư bảo với Nhân Tố là đệ tử của Sư rằng: "Ta mới ở tại ngọn núi phía Đông chùa này, sau khi ta thị tịch ông nên xây tháp an táng hài cốt ở đây!" Sư trụ tại Nham A, bấy giờ có Nga Quan khố tập, Bộ Khúc đông nhiều, bước nhẹ khoan thai, tham yết Đại Sư. Sư thấy Nga Quan diện mạo kỳ vĩ, tinh sáng khác thường, bèn nói rằng: "Lành thay nhân giả! Ai cho biết mà đến vậy?" Nga Quan hỏi: "Sao Sư biết tôi ư?" Ngài bảo: "Tôi quán thấy Phật và chúng sanh đều bình đẳng. Tôi chỉ nhìn như một, đâu phải do phân biệt biết!" Nga Quan nói rằng: "Tôi thần ở núi nầy, tôi có khả năng làm cho người được lợi hại và sống chết, sao Sư có thể nhìn tôi như một ư?" Sư bảo: "Ông có thể gây ra sự sanh tử đối với mọi người. Tôi đây vốn chẳng sanh, làm sao ông có thể khiến cho tử. Ta xem thân ta cùng với hư không là bình đẳng. Tôi xem tôi cùng với ông là bình đẳng. Ông có thể phá hoại hư không và phá hoại ông chăng? Nếu như có thể phá hoại hư không và phá hoại ông, thì tôi đây cũng chẳng sanh chẳng diệt. Ông còn chưa thể như thế thì làm sao có thể gây ra sự sanh tử đối với tôi?" Thần núi bèn cúi đầu bái lạy đôi phen, nói rằng: "Tôi cũng thông minh chánh trực hơn các thần khác, đâu thể biết được sư có trí biện rộng lớn như thế?! Xin nguyện trao cho tôi chánh giới, khiến tôi độ đời để giúp thêm oai phước!" Sư bảo: "Thần đã cầu xin giới tức là đã có giới. Vì sao? Vì ngoài giới không có giới, còn gì là giới ư?" Thần thưa: "Với lý ấy tôi nghe mà mịt mờ, chỉ cầu xin sư trao giới. Thân tôi đây nguyện xin làm đệ tử trong pháp môn!" Sư khước từ không được, bèn lập tòa đốt hương, bưng lò hương bảo: "nay Tôi trao cho ông năm giới, giới nào ông có thể vâng giữ được thì đáp là được, giới nào không được thì im lặng. Thần thưa: "Tẩy rửa tai để lắng nghe, dùng tâm rỗng không mà nhận lãnh!"
Sư bảo: "Ông có thể không tà dâm chăng?" Thần đáp: "Cũng lấy vợ". Sư bảo: "Không phải như thế, mà là không có lưới dục ". Thần đáp: "Được". Sư bảo: "Ông có thể không trộm cắp chăng?" Thần nói: "Sao khi dễ vậy! Làm gì có trộm lấy?" Sư bảo: "Chẳng phải vậy, mà có nghĩa là cúng mà phước dâm, chẳng cúng mà họa thiện!" Thần đáp: "Được". Sư bảo: "Ông có thể chẳng sát hại chăng?" Thần nói: "Chính giữ quyền bính tại thân, sao bảo là chẳng giết hại. Sư bảo: "Không phải như thế, mà nghĩa là có lạm ngộ hỗn nghi vậy". Thần đáp: "Được". Sư bảo: "Ông có thể chẳng nói dối chăng?" Thần đáp: "Tôi vốn là ngay thẳng, đâu có luống dối!" Sư bảo: "Không phải vậy, mà nghĩa là trước sau chẳng hợp tâm trời". Thần đáp: "Được". Sư bảo: "Ông có thể chẳng bị rượu làm bại hoại chăng?" Thần đáp: "Được". Sư bảo: "Như trên là giới của Phật!" Sư lại nói: "Dùng hữu tâm để vâng giữ mà không tâm câu chấp, dùng hữu tâm vì mọi vật mà không tâm tưởng thân. Nếu được như thế thì trước lúc trời đất sanh chẳng là tinh, sau khi trời đất diệt chẳng là lão. Suốt ngày biến hóa mà chẳng bị động. Tất cả đều vắng lặng mà chẳng phải là dừng ngộ. Được như vậy thì tuy có gia đình mà chẳng phải vậy, tuy có hưởng mà chẳng phải lấy, tuy có bính mà chẳng phải quyền, tuy là làm mà chẳng phải cố, tuy say mà chẳng phải mê. Nếu vô tâm đối với muôn vật thì dẫu có lưới dục chẳng là dâm, họa dâm họa thiện chẳng là trộm cướp, lạm ngộ hỗn nghi chẳng là giết hại. Trước sau trái với trời chẳng là luống dối, dẫu có mê man điên đảo cũng chẳng là say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì không giới. Không giới thì không tâm, không Phật không chúng sanh, không ông không tôi. Không tôi không ông thì ai có thể răn giới ư?"
Thần nói: "Thần thông của tôi chỉ kém thua Phật". Sư bảo: "Thần thông của ông trong mười cú (câu), năm cú được còn năm cú chẳng thể được. Thần thông của Phật thì trong mười cú thì bảy cú được, còn ba cú chẳng được". Thần khiếp sợ lánh khỏi chiếu đứng dậy lạy quỳ rất cung kính thưa rằng: "Tôi có thể được nghe điều đó chăng?" Sư bảo: "Ông hãy hầu Thượng Đế từ trời Đông đến trời Tây thất diệu chăng?" Thần đáp: "Không thể được". Sư lại hỏi: "Ông có thể đoạt lấy địa kỳ, bao dung ngũ nhạc mà kết bốn biển chăng?" Thần đáp: "Chẳng thể được". Sư bảo: "Đó là năm thứ ông không có khả năng thực hành". Sư lại bảo: "Phật có khả năng thấy tất cả tướng là không mà thành tựu trí muôn Pháp, nhưng không thể diệt trừ định nghiệp. Phật có khả năng biết được tánh của chúng sanh, biết việc trong ức kiếp, mà không thể hóa đạo chúng sanh vô duyên, Phật có khả năng độ vô lượng hữu tình mà không thể độ hết thế giới chúng sanh. Đó là ba thứ không thể được của Phật. Định nghiệp chẳng phải bền chặt lâu dài, vô duyên cũng chỉ là nhất thời, thế giới chúng sanh vốn không thêm bớt. Quanh quẩn không một người có thể làm chủ hữu pháp, Hữu pháp đã không chủ, ấy gọi là vô pháp. Không pháp không chủ đó gọi là vô tâm. Như chỗ tôi hiểu về Phật thì cũng không có thần thông. Chỉ dùng vô tâm mà thông đạt tất cả pháp, tác dụng thầm hiện trước chúng sanh. Nếu có tâm có tạo tác thì tác dụng sẽ chẳng cùng khắp".
Thần núi thưa rằng: "Tôi thật hiểu biết cạn cợt mê muội, chưa được nghe về nghĩa Không. Xin Sư trao cho tôi giới để tôi vâng giữ. Lại do nghiệp nhân gì có thể ràng buộc cõi trần. Tôi nguyện báo đáp từ đức, xem xét lại điều tôi có thể làm được!" Sư bảo: "Ta quán thân không vật, quán Pháp vô thường, như thế đâu còn gì ham muốn?" Thần thưa: "Sư hẳn bảo tôi làm việc thế gian, xoay vần chút ít thần công của tôi. Khiến cho năm hạng người: đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm và không có tín tâm sanh khởi tín tâm, v.v... nhìn dấu vết thần của tôi, biết có Phật, có thần, có khả năng được, có không khả năng được, có tự nhiên, có chẳng phải tự nhiên". Sư bảo: "Không làm thế!
Không làm thế!" Thần thưa: “Phật cũng sai thần hộ trì pháp, sao sư lại hủy báng Phật? Tùy ý mà chỉ bảo!" Sư bất đắc dĩ mà bảo rằng: "Ở chùa Đông Nham bị chướng, trống rỗng không có cậy cối, ở Bắc tụ có cây mà chẳng che lấp, ông có thể dời cây ở phía Bắc đến Đông lãnh chăng?" Thần thưa: "Tôi đã nghe lời Sư dạy bảo", lại trình bày rằng: "Trong đêm tối, tôi sẽ sử dụng gió sấm làm cho rung chuyển. Xin Sư chớ kinh hãi" Và thần liền trịnh trọng lễ bái từ giã mà đi. Sư đưa ra tới cửa, Sư nhìn thần, thấy rõ nghi vệ đi lượn như hành trượng của Vương giả, lại có khí đỏ ráng hồng nham tía, hạo khí dãi bày tụ tán, phướn lọng hoàn bội, giáo mác um tùm, lên cao lẫn giữa khoảng không, mịt mờ ẩn hiện. Đêm đó quả nhiên có gió bảo sấm sét tung tóe vang động nối nhau, rường cột mái hiên cao vợi như sắp đổ. Định tăng trông nhìn xao động, có tiếng chim kêu hoảng cuồng, đánh vật với nhau chẳng yên chỗ. Sư bèn bảo chúng tăng rằng: "Chớ khiếp sợ! Chớ khiếp sợ! Thần và ta đã đính ước". Đến sáng sớm, trời tạnh thì các cây thông ở Bắc Nham đều đã dời về Đông Lãnh, rậm rạp trồng thành hàng, và Sư bảo với đồ chúng rằng: "Sau khi ta tịch chớ để cho người ngoài biết. Nếu là khẩu thật thì người sẽ lấy làm quái lạ về ta".
Đến năm Bính Thìn (716) tức niên hiệu Khai Nguyên thứ 4, Sư dặn dò môn nhân rồi thị tịch như bỏ xác, Sư thọ bảy mươi ba tuổi. Bèn xây tháp thờ tại Đông Lãnh ở Tung Nhạc. Ảnh đường ở phía sau bổn viện, mãi tới niên hiệu Khai Nguyên thứ 12 (724) mới hoàn thành. Huyên Úy Hứa Trù ghi lại đức hạnh của Sư.
Thích Tuệ Phù, họ Thích, người ở xứ Gia Kỵ, thuộc Việt Châu. Đến tuổi hai mươi, Sư có dõng khí hơn người, sức lực nhanh nhẹn, không ai sánh bằng. Nhưng Sư nhậm hiệp, nhàm chán ở nhà, bèn đến chùa Hương Nghiêm, tâm tánh mềm mỏng, thuần thục mau biến đổi. Sau khi thọ lãnh giới pháp, Sư luyện hạnh cô tiêu. Hằng đêm thường men theo núi trải cỏ an tọa thiền định bất động. Sư lại nghiên tầm kinh luận. Thấy ở Tiềm Huyện có Hoắc Sơn, là nơi mà ngày xưa Hán Võ từng cúng tế Nam Nhạc ở đó, thật là cảnh đẹp. Trong đó có chùa Thiên Trụ, nơi có thể để lắng thần. Sư bèn đến đó cất am mà ở. Sau đó không lâu, có con rắn lớn đến há miệng phun lửa độc dữ dội. Sư từ từ nói với nó rằng: "Ngươi tìm túc trái, ta có thể ăn nuốt ngươi". Con rắn bất chợt tẩy thân định ý, như vận nghiệp thông đến. Sư vì nó mà cho thọ giới, trong chốc lát nó mà bò đi, và quả nhiên hóa thành thân người, trở lại cầu xuất gia. Sư lại vì đó mà xuống tóc đắp pháp y cho. Nhận lời dự ký rồi lễ bái từ tạ mà đi. Sau bị cáo Sư riêng độ, phải đầy đủ để thật đối biện. Sư bảo: "Nếu riêng độ mà có tội lỗi, thì xin nhận nghe tội ấy". Quan lại thấy Sư khác thường nên bèn tha cho. Hễ Sư thấy ai mắc phải các bịnh nạn ung nhọt rôm sẩy máu mủ chảy tràn mà chú nguyện thì liền lành.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 18 (730), Sư tự nhiên không bịnh mà thị tịch. Nhìn theo ngọn lửa trà-tỳ thì thấy bộ xương liền nhau.
Thích Tuệ An, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Thần Long (705-707) Sư đến xứ Kinh Triệu, thường có nhiều việc thấy biết trước.
Bấy giờ, Đường Hưu Cảnh đã lập Biên Công, sang trọng hưng thịnh không ai bằng. Sư đến nhà ông ta bảo rằng: "Tướng Công rất tốt đẹp, ắt có điều rất xấu ác, sắp có họa lớn, và chỉ trong vài tháng nữa nhưng cũng có thể chóng trừ. Hưu Cảnh vốn biết Sư có khả năng hơn người, bèn vâng nghe và bái lạy. Sư bảo: "Ta không có thuật gì khác, chỉ hiến cho một kế. Há chẳng phải chú nghĩ quan phẩm có ra từ sự hun đúc, xin chọn một người tài giỏi dùng làm Tào Châu". Nhân đó chọn được Trương Quân vốn là quan trong kinh. Ngay ngày đó liền lên, cung tán theo thứ lớp giữ gìn Định Đào, sai tìm kiếm hai con chó cao chừng vài thước rất khôn lanh. Trương Quân đến nhậm nhuệ ý tinh cầu, tìm được hai con chó như điều ước muốn đem hiến tặng Hưu Cảnh. Hưu Cảnh rất vui mừng mời Sư đến xem xét. Sư bảo: "Rất tốt!". Sau đó hơn tuần lễ, Sư trở lại bảo rằng: "Sự cố xảy ra trong đêm nay, xin tướng quân cẩn thận phòng cảnh đầy đủ". Hưu Cảnh bèn giữ Sư ở lại trong đêm. Đêm đó, Hưu Cảnh ngồi trước hiên nhà, bảo ở chung quanh có đến mấy mươi người, cầm nắm cung tên đứng ở góc cạnh giường. Hưu Cảnh cùng Sư ngồi ở một giường. Đến nửa đêm, Sư mỉm cười bảo rằng: "Họa của Tướng quân đã khỏi, chúng ta có thể yên ngủ". Hưu Cảnh mừng và cảm tạ Sư, bèn cho mọi người chung quanh cùng đi ngủ. Đến sáng sớm, Sư gọi Hưu Cảnh thức dậy. Hưu Cảnh hỏi Sư: "Vì sao dùng hai con chó ấy?" Bèn tìm theo vết chân nó đi đến trong vườn, thấy một người nằm chết dưới đất, xem ở cổ thấy có vết máu bởi một vật cắn. Lại thấy hai con chó đang nằm dưới gốc cây lớn, ngửa nhìn lên cây thấy vai một người đang núp, Hưu Cảnh kinh hãi, vặn hỏi, người đó vừa khóc vừa chỉ vào người chết mà nói rằng: "Tôi và người ấy đều là giặc, đêm qua cùng đến muốn hại tướng quốc. Bởi gặp hai con chó này vây quanh sủa rân, người ấy bị nó cắn đã chết. Tôi núp mình dưới đất, lưới trời vây bủa, bị chó ngồi trông giữ. Nay đành chịu muôn tội chết!". Hưu Cảnh bảo người trói lại và bảo với tên giặc rằng: "Tội này đáng chết, nhưng vì nhà ngươi chẳng có chủ tâm, mà là do ngươi sai". Rồi bèn phóng thả. Kẻ giặc bái lạy khóc mà đi. Hưu Cảnh bái lạy cảm tạ, thưa Sư rằng: "Nếu không có Sư thì tôi chẳng thể thoát chết bởi tay hai kẻ đó". Sư bảo: "Đó là phước của Tướng quốc, đâu phải tôi có được thay!"
Lại nữa, biểu đệ của Hưu Cảnh là Lô Chẩn ở tại kinh môn, có vệ sĩ đến báo rằng: Ông sắp có tai họa, phải cầu điềm lành để dứt trừ, may ra mới khỏi được". Lô Chẩn biết Sư có thuật lạ, đạo hạnh thanh bạch, được mọi người đương thời kính trọng, bèn đưa thư đến nhờ Hữu Cảnh mời thỉnh, Sư liền trao cho một lá thư và bảo: "Mọi sự như trong thư vậy". Và lúc thư được mang đến Giang Lăng thì Lô Chẩn đã qua đời. Hữu Cảnh càng thêm kính trọng. Sau vài năm qua lại, không biết Sư đi đâu!
Thích An Tĩnh, vốn người Tây Vực. Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 15 (727), Sư chống tích đi về phía Đông đến Định Đào, hỏi thẳng Cư sĩ Định ở đâu? Người trong làng báo với Sư là: "Cư sĩ Định đã qua đời ba năm và an táng tại ngoại ô!" Lại nói với Sư rằng: "Cư sĩ ấy là Bồ-tát tại gia, siêng giữ phạm hạnh, thường đến lễ bái phụng sự thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn, đã đắc pháp thậm thâm, lúc sắp qua đời, chắp tay ngồi kiết già, an nhiên mà hóa. Chuông khánh trong các chùa viện ở Tạo Thành chẳng đánh mà tự kêu". Sư đi đến chỗ phần mộ cư sĩ Đinh, đích thân khai quật. Khi đó có khí mây năm mầu phun thẳng lên, Sư bèn thâu nhặt lấy hài cốt đều mầu vàng ròng, nối liền nhau như dây xích, dài chừng năm trượng, có tiếng kêu leng keng rõ ràng. Sư treo ở đầu trượng mà đi, xây riêng một ngôi tháp mà an táng lại. Mọi người đều kinh sợ khen ngợi, trong chốc lát, Sư liếc nhìn rồi diệt độ. Liên hệ thử bàn:
Di cốt của hữu tình, dẫn nhân cho tới quả, trong thân phàm phu tiết chẳng cùng đến, Bồ-tát Thập Địa cốt tiết giải bàn long tướng kết. Các Đức Phật thì toàn thân xá-lợi. Nay cốt của cư sĩ Đinh có hình móc xích liền nhau, thì vượt phàm phu, chưa là giai vị thứ 10, mà đó là thân Bát Tý Na-La-Diên, đầu cốt tiết móc liền nhau. Chứng nghiệm sức lượng của cư sĩ đã đến nước. Thí như cát từ trong vàng ra thì gọi đó là hồn chứ không thể gọi là cát. Đá ngậm ngọc thì gọi đó là phác chứ không thể gọi là đá.
Lại nữa chùa Đại Vân thuộc phủ Thành Đô, có Ngài Từ Quả Sư, sống chung với mọi người, giấu bặt vết tích, người ít lường biết, hoặc nhập Tammuội chẳng mất luật nghi, hoặc hiện tướng cuồng si, nói đúng lắm việc. Trước làm Vệ Nguyên Tung, là kẻ sĩ khó suy lường, khắp trong đất trời thường luôn có người gọi đó là Từ Quả Sư. Từ là họ, Quả là tên, Sư là gọi chung. Đây cũng là cương luyện luân loại của Ngài Chí Công. Không biết về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Như Nhất, không rõ Sư người ở xứ nào. Vào cuối niên hiệu Khai Nguyên (742), Sư làm vị Tăng coi về giường tòa. Bỗng nhiên có vị tăng khắp thân mình lở lói, áo quần dơ dáy đi quanh trong chùa, tăng chúng trông thấy ai cũng chán ghét, chỉ mình Sư gài thấy mà xót thương, mời vào trong nhà riêng của thường trụ, chăm sóc qua mùa Hạ. Đến cuối Hạ, vị tăng đó từ tạ ra đi. Sư hỏi vị tăng đó đi về đâu. Đáp rằng: "Trở về trong am". Sư lại hỏi: "Am ở xứ nào?" Đáp: "Ở phía Đông chùa Đại Thừa". Sư bảo: "Tôi thường ngày đi ngang đó đâu thấy có am nào". Vị tăng ấy bảo: "Không tin thì hãy đến đó hỏi xem, hai ngày sau tôi sẽ đến". Sư bèn đến đó, quả nhiên thấy vị tăng đó đứng ở miệng hang núi có vẻ trông đợi. Nhân đó nắm tay Sư dẫn vào một Tinh xá, lầu gác nguy nga, điện đường xen nhau, chẳng giống như cảnh vật ở nhân gian. Ba ngày sau, vị tăng đó lại đưa Sư xuống núi. Sư quay đầu nhìn lại, thấy đều là núi đá mới biết là chùa Thánh. Do đó Sư càng gắng sức tinh tấn tu trì, nguyện dự vào dòng Thánh.
Vị tăng mất tên, không rõ Sư người xứ nào ở Ấn Độ. Ngài diện mạo xấu xí, quấn y man điều, mầu sắc càn-đà, chân mang giầy da kéo lê miếng thiếc, hành hóa ở chốn kinh đô.
Bấy giờ, Vi Nam Khương Cao vừa sanh mới chỉ 3 ngày, trong nhà thỉnh chư tăng đến thiết trai cúng dường, Sư là vị tăng không mời mà tự đến. Ngày đó chư tăng đều là những vị trải qua nhiều chùa liền tên được thỉnh mời đến. Đứa gia đồng trong nhà họ Vi rất tức giận Sư, đem chiếc chiếu rách trải giữa sân cho Sư ngồi. Thế rồi cúng dường trai diên xong, trong nhà họ Vi bảo người mẹ ẵm đứa bé ra, trong ý muốn thỉnh chư tăng chú nguyện cho nó. Sư từ chỗ ngồi đứng dậy trước, vén y bước lên thềm cấp nhìn đứa bé và bảo: "Sao cách biệt đã lâu không thấy tăm dạng đâu vậy?" Đứa bé tỏ vẻ vui mừng như có ý nhận biết, chư tăng đều lấy làm lạ. Vi Quân nói rằng: "Đứa con này vừa mới sanh ba ngày, sao thầy ta lại nói cách biệt từ lâu?" Sư bảo: "Đàn việt chẳng thể biết việc nầy!" Vi Quân cố hỏi, Sư bảo: "Đứa bé này là thân sau của Gia Cát Lượng. Ở thời Võ Hầu Đảnh Quốc làm Thục Thừa Tướng Quân là chỗ quen biết với tôi. Duyên người xứ Thục được sự ban tặng đã lâu, nay giáng sanh ở đời, sẽ làm Thục Soái, hẳn là Phước của người xứ Khôn Duy. Tôi sang ở Kiếm Môn là bạn lành với đứa bé này, đã biết nó sanh ở nhà ông, tôi chẳng ngại xa xôi mà đến. Đứa bé này sẽ làm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ hai mươi năm, quan vị cực tôn quý là Trung Thư Lịnh Thái Úy. Ngoài ra chẳng phải là điều tôi biết". Cha đứa bé (Vi Nam Khương Cao) im lặng. Nhân đó, lấy chữ Võ Tử làm tên tự, lại gọi tắt là Võ. Trương Dật ra làm Tiết Độ Lũng Châu ở Phụng Tường, tấu trình Vi Nam Khương Cao quyền coi về Lũng Châu. Đến lúc Trương Dật bị Lý Sở Lâm giết chết, Ngưu Vân Quang mời Vi Cao làm soái. Chu Thử bất đắc dĩ dùng Vi Cao làm Phụng Tường Soái vua Đức Tông đặt Phụng Nghĩa Quân Tiết để biểu dương. Lại tiếp tục thêm chức Lễ Bộ Thượng Thư. Vào niên hiệu Hưng Nguyên (784-785) bèn xa giá trở về kinh đô, bày làm Tả Kim Ngô Vệ Tướng Quân. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ nhứt (785) là Thành Đô Duẫn đại Trương Diên Thường, đến nhậm Hòa Nam Man đều thành đạt chiến công, phong làm Nam Khương Quận Vương. Đến lúc vua Thuận Tông lên ngôi (805) lại tiến lên làm Thái Úy. Vi Cao nhậm chức tại Nam Khương suốt hai mươi mốt năm. Cuối cùng rất kính sùng Phật giáo, thường lần chuỗi niệm danh hiệu Phật. Vi Cao có nuôi một con chim oanh võ dạy nó tụng kinh, đến khi nó chết, thiêu có xá-lợi. Vi Cao lại rất hướng tâm đến Thiền Đạo Nam Tông, học tâm pháp với Thiền sư Thần Hội ở chùa Tịnh Chúng. Tại xứ Thục, Phú quý ngầm sai Trọng phú liễm. Bấy giờ bàn luận cho rằng chẳng đúng, nhưng hợp với sự huyền ký của Sư.
Thích Bảo Ngọc, có hạnh nghiệp cao lạ, ít tiếp việc người, thường lúc nói việc tương lai như chính mắt thấy. Thấy Ngài Thích Đại Quang bèn răn dạy rằng: "Ông tụng kinh nên xướng cao pháp âm, thấu đến các vị trời lắng nghe, sẽ được các thần ủng hộ". Sau đều phù hợp với những điều Sư đã nói. Khắp Kinh ấp quy hướng kính tin có đến ngàn vị.
Hằng đêm, Sư ở một mình trong thất, đóng của tắt đèn. Từng có vị tăng ở ngoài lỗ hổng nhìn vào xem Sư làm gì, thấy trong miệng Sư tuôn ra áng mây lành, hoa nhiều mầu dễ thương. Sau, năm Sư khoảng chín mươi tuổi thì thị tịch. Lúc Sư thị tịch, trời rất nắng nóng mà nhục thân Sư chẳng hề bị hư hoại. Tể Thần đệ ngũ Kỳ và Sư là bạn thân. Khi Sư tịch, kỳ đến dự lễ tang rất buồn thương. Kỳ đem hương nhũ rót vào miệng Sư, theo đó có ánh sáng tốt lành phát ra soi chiếu khắp bốn phía. Kỳ càng lấy làm lạ. Tháng 10 niên hiệu Càn Nguyên thứ 2 (759) Kỳ bị giáng chức làm Thứ Sử Trung Châu. Đến đầu niên hiệu Bảo Ứng (762) vào làm tân khách cho Thái Tử. Đến Kinh Duẫn, Sư đều đã nói trước, mọi sự vinh quý và không yên ổn đều như Sư nói, nên Kỳ khắc ý quy tín.
Thích A Túc Sư, chẳng rõ Sư xuất xứ từ đâu, hình chất si độn, dơ bẩn, tinh thần mịt mờ. Nhưng lúc Sư có nói gì thảy đều như đã biết trước. Tuy Sư ở không nơi nhất định nhưng thường ngụ ở Vân Hương. Vì Sư quanh quẩn ngài Pháp Vân Công, tới lui qua lại, tranh đường lễ yết. Đàn thí cúng dường các vật chất như núi mà Sư chẳng đoái hoài. Người nào mắc phải nổi buồn lo ẩn uất, thân bị các điều đau khổ mà được Sư chỉ bảo thì ứng nghiệm nhanh chóng như thần.
Bấy giờ, tại Thiểm Châu có gia đình giàu có tên là Trương Trăn. Sản nghiệp rất nhiều, của cải tràn đầy. Có được đứa con lại chết mất từ tuổi thiếu niên. Trương Trăn luôn lo sợ tất cả tiền của sau khi qua đời không người trông coi! Sau đó, lại sanh được một đứa con trai, đã ngu lại đần độn, tay chân co quắp, nói năng ngọng nghịu. Chỉ ham thích ăn uống. So với người thường thì có khác, miệng như hang khe suốt ngày ăn chẳng chán. Năm mười bảy tuổi, cha mẹ tiếp nối mến thương cung cấp mọi thứ đòi cần, tìm cầu thầy thuốc xa cả ngàn dặm, mấy mươi năm sau, gia sản sắp khốn cùng. Có người thấy vậy bảo với Trương Trăn rằng: "A Túc Sư là di lưu của Ngài Bảo Chí, sao chẳng bày trải tâm can cầu Sư cứu giúp bệnh tật ấy?" Khi đó cả hai vợ chồng đi đến Vân Hương, cúi đầu rơi lệ tỏ bày cầu Sư cứu giúp. Sư nhắm mắt giây lâu rồi bảo với Trương Trăn rằng: "Oan trái nhà ngươi chưa tan, còn phải trải qua vài năm nữa. Ta thương xót nhà ngươi tha thiết nên trừ diệt cho!" Sư gài liền bảo chọn ngày, đến bên bờ sông thiết trai, thỉnh mời đông chúng tăng. Mọi người đồng đến xem Sư độ thoát, bèn dẫn đứa con trai ấy đến chỗ đạo tràng. Bấy giờ, cả chúng đều biết Sư có lắm điều kỳ dị nên đến xem rất đông. Trong chốc lát, Sư kêu gọi vài người rất khỏe mạnh, quát mắng kéo đứa con trai ấy ném xuống sông cho dòng nước cuốn trôi mà chết. Trương Trăn vừa buồn thương, vừa kinh sợ, chẳng lường biết nguyên do thế nào. Sư bèn nói với Trương Trăn rằng: "Ta đã trừ tai họa cho ngươi xong". Giây lâu, đứa con trai đó nổi mình trên mặt nước cách bờ sông vài mươi bộ, quơ tay xỉ mắng cha mẹ nó (vợ chồng Trương Trăn) rằng: "Ta và nhà ngươi có oán cừu, duyên nghiệp đời trước. May nhờ gặp được Thánh giả giải phân. Nếu chẳng như thế thì kỳ hạn chưa đến ngày dứt". Nó trồi thân hô cao, từ lý rõ ràng, không có tướng trạng si trược. Bỗng chốc chìm trong nước, chẳng biết gì khác nữa. Từ đó, rao truyền về Sư, mọi người quy hướng kính tín đông như đến chợ. Sư hành hóa dẫn đạo phần nhiều đều như thế. Lúc đó là khoảng thời gian từ niên hiệu Đại Lịch (766-780) đến niên hiệu Kiến Trung (780-784). Đến năm Bính Tý (796) tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12, vua Đức Tông sắc phong tặng Sư thụy hiệu là Đại Viên Thiền Sư. Đến nay, tại xứ Thiểm Châu, Quắc Châu vẫn còn sùng kính Sư.
Thích Phong Can, vốn trụ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai. Cắt tóc ngang mày, mặc áo vải lông cừu che thân, Sư cao hơn bảy thước. Nếu có ai muốn hỏi điều gì, Sư chỉ trả lời bằng hai chữ "tùy thời" mà thôi, chứ không nói gì khác. Sư riêng thích việc giã gạo, làm việc nặng nhọc đồng với Thành Đán, ứng phó việc nấu nướng. Sư từng cưỡi hổ đi thẳng vào cửa thông, chúng tăng thấy mà kinh sợ. Miệng Sư luôn nghêu ngao đạo ca, bấy giờ chúng mới đều tôn sùng kính trọng. Sau khi Sư thị tịch, vào niên hiệu Tiên Thiên (712-713) thì Sư hành hóa tại kinh Triệu, chẳng thường điều như người thường. Các hàng sĩ thứ trông thấy Sư không ai chẳng nghiêng mình kính lễ, Ngài nối tiếp sau gót chân của Đại Sư Vạn Hồi, những điều nhiệm mầu cũng tương tự nhưng tướng phong cuồng thì quá hơn. Sư nói năng có nhiều điều đúng.
Vốn ở trong tăng trù chùa Quốc Thanh có hai vị tu khổ hạnh đó là Hàn Sơn Tử và Thập Đắc. Phần nhiều hai vị đó ở tại nhà trù chăm lo việc nấu nướng. Nấu nướng xong, hai vị gặp nhau nói chuyện. Có người lắng nghe nhưng thường chẳng hiểu họ nói chuyện gì. Và cũng rất điên cuồng, trác hợp tương thân, bởi đồng loại tương cầu. Bấy giờ, có Lư Khâu Dận ra trông coi Đan Khâu, sắp bàn luận khăn xe, khổ nỗi đầu rất đau nhức, các thầy thuốc chữa trị đều không hiệu nghiệm. Bỗng nhiên gặp Sư đến bèn nói rằng: "Tôi từ núi Thiên Thai đến yết kiến sứ quân". Lư Khâu Dận đem chứng bịnh thưa với Sư, Sư bảo: "Sứ quân sao lo vậy". Ngài bèn tìm cái bình sạch rót nước vào mà phun vào đầu, chỉ trong khoảnh khắc, cảm thấy trong thân thể khỏe mạnh. Lư Khâu Dận lấy làm lạ, bèn xin Sư nói cho một lời để định sự tốt xấu của hạnh ấy. Sư bảo: "Đến nhậm chức nhớ tới lễ yết ngài Văn-thù". Lư Khâu Dận thưa rằng: "Bồ-tát Vănthù hiện ở đâu?" Sư bảo: "Đó là người đang lo việc nấu nướng chùi rửa các vật ở nhà trù chùa Quốc Thanh!". Đến lúc vào chùa ở núi, Lư Khâu Dận hỏi chư tăng ở đó: "Ở chùa này có Thiền Sư Phong Can chăng?" Đáp: "Có!". Lư Khâu Dận lại hỏi: "Vậy phòng viện của Ngài ở đâu? Và Hàn Sơn và Thập Đắc là người thế nào?" Khi đó, Sa-môn Đạo Kiều đáp rằng: "Phòng viện cũ của Ngài Phong Can ở phía sau kinh tạng, nay để trống không người, chỉ có loài hổ báo thường hay lui tới sản sanh bú mớm. Còn Hàn Sơn và Thập Đắc, hai người đó hiện phục dịch trong nhà trù. Lư Khâu Dận vào phòng Sư, chỉ thấy dấu vết tung hoành của hổ báo. Lại hỏi rằng: "Ngài Phong Can ở đây chuyên làm việc gì?" Đáp: "Ngài chỉ chuyên việc giã gạo, cúng dường cháo cho chư tăng. Đêm đến thì xướng ca phúng tụng chẳng thôi". Lư Khâu Dận đôi ba phen khen ngợi rồi mới vào nhà trù, thấy có hai người đang chụm củi, có dáng vẻ như đang vây quanh lò. Lư Khâu Dận bèn vái chào, hai người luôn miệng quát tháo. Sau đó, nắm lấy tay Khâu Dận mà đùa giỡn như trẻ thơ, cười ha hả không thôi. Vừa đi vừa nói: "Phong Can lắm lời". Từ đó, hai người cùng dẫn tay nhau đi ra cửa thông, không trở lại chùa nữa.
Sư lại thường đến Ngũ Đài lễ bái, gặp một Ông lão, Sư hỏi: "Có phải là Văn-thù chăng?" Ông lão bảo: "Chẳng lẽ có hai Văn-thù!" Sư liền đảnh lễ Ông lão, chưa ngẩng đầu lên thì ông lão đã biến mất dạng.
Kế nữa, có Ngài Mộc Cống, thường hay vào trong xóm làng chợ búa, cũng giống như Ngài Phong Can. Mọi người chẳng dám xem thường, hai chữ Phong Phong vào ra khác nhau: Vi Thuật sử quan là Phong của Phong cương, Lư Khâu Dận tự Tam Hiền làm Phong của Phong Nẫm, chưa biết là ai đúng.
Kế nữa, có Ngài Hàn Sơn Tử, người đời gọi Sư là Bần tử, là kẻ sĩ phong cuồng, chẳng thể suy lường. Sư ẩn cư cách bảy mươi dặm về phía Tây Huyện Thỉ Phong núi Thiên Thai, gọi đó là Hàn Ám Nhị Nham (Hai ngọn núi lạnh tối), Sư thường ở trong hang núi tối lạnh chuyên thực hành định chỉ. Bấy giờ, tại chùa Quốc Thanh có ngài Thập Đắc, chư tăng trong chùa cắt cử coi về công việc ở trai đường. Ngài Thập Đắc thường thâu nhặt các vật ăn thừa của chúng tăng cất dấu trong ống tre lớn, khi nào Ngài (Hàn Sơn) đến, thì lấy mang đi. Hoặc có lúc Ngài đi chậm rãi dưới hành lang, có lúc kêu réo làm ồn mọi người, có lúc ngửa mặt giữa trời mà mắng chửi. Chư tăng trong chùa có người không chịu nổi thì dùng gậy xua đuổi, Ngài bèn xoay mình vỗ tay cười ha hả rồi chạy đi. Ngài thường mặc áo cánh vải bố xục xịch, dáng mặt khô gầy, lấy vỏ cây hoa làm mũ, chân kéo lê đôi guốc gỗ lớn. Hoặc có lúc Ngài phát ngôn hiền hòa mềm mỏng, có chỗ kết quy, đó là quy về Phật lý.
Ban đầu, có Lư Khâu Dận vào chùa hỏi về Ngài (Hàn Sơn), khi đó, Sa-môn Đạo Kiều trả lời rằng: "Ông ấy là người mắc bịnh điên, vốn ở Hàn Nham, ưa thích ngâm ca từ kệ, nói năng bất thường, hoặc che giấu, rốt cuộc chẳng thể biết. Ông ấy cùng hành giả Thập Đắc ở chùa này là bạn rất thân, thường luôn dụm đầu trò chuyện, chẳng biết nói gì". Chư tăng thấy Thái Thú (Khâu Dận) bái lạy hai ngài, liền kinh hãi hỏi rằng: "Đại quan sao lại lễ bái gã điên cuồng ấy ư?" Hai Ngài (Hàn Sơn và Thập Đắc) nắm tay nhau cười ngạo nghễ đi ra khỏi chùa. Lư Khâu Dận lại sang Hàn Nham lễ yết, thưa hỏi và dâng y phục, thuốc thang mọi vật, mà Ngài lại lớn tiếng hô rằng: "Giặc đến ta, giặc lui đi!". Bèn lùi thân vào hang đá bít lại ở trong. Ngài lại bảo: "Bảo cùng các ông mỗi người hãy tự cố gắng". Hang đá bít lại liền khớp không dấu vết gì. Lư Khâu Dận mới nói Sa-môn Đạo Kiều tìm lại di vật của Ngài, chỉ thấy ở rừng khâu lá viết thơ tụng và trên vách tường nhà người ở trong xóm sao lục được hơn hai trăm bài, nay biên thành một tập, có nhiều người phúng tụng. Sau, Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch có chú giải, gọi đó là Hàn Sơn Tử Thơ. Vì Ngài vốn không có họ, dân chúng xứ Việt chỉ gọi là Hàn Sơn Tử, cho đến có câu "mé sân làm sao có. Mây trắng ôm u thạch". Mềm mại rõ ràng. Nay ở dưới núi có Đình Đá. Đình mà Đứng, gọi đó là U Thạch.
Kế nữa, có Ngài Thập Đắc. Vốn trước kia Thiền sư Phong Can ngụ ở núi, đi đến Xích Thành, đang trên đường bỗng nghe có tiếng trẻ nhỏ khóc, bèn tìm thấy đứa bé mới vài tuổi. Ban đầu, Ngài Phong Can cho đó là đứa trẻ chăn trâu, Sư an ủi vỗ về hỏi, đứa bé mới đứng gục đầu nói: “Không nhà cửa, mồ côi bị vất bỏ ở đây!" Ngài Phong Can mới dẫn đến chùa Quốc Thanh giao cho vị tăng Điển tọa, nếu có ai đến nhận thì trả lại. Sau, Sa-môn Linh Tập nhận nuôi (tức Ngài Thập Đắc), bảo trông coi việc hương đèn ở trai đường.
Bỗng một hôm, thấy Ngài leo lên tòa, ngồi đối mặt với tôn tượng mà ăn, lại gọi Tôn giả Kiều-trầnnhư là Tiểu quả Thanh văn, bên cạnh như không người, cầm đũa cười lớn. Chúng tăng bèn ới quở trách xua đuổi Ngài. Ngài Linh Tập đem việc ấy hỏi các vị tôn túc v.v... đều bảo cho Ngài thôi giữ việc trai đường mà bảo vào nhà trù lo chùi rửa các vật. Khi tẩy rửa xong, Ngài lắng gạn thức ăn thừa để đầy trong ống tre, khi nào Ngài Hàn Sơn đến sẽ mang đi. Lại nữa, tại miếu thần hộ vệ già-lam, chư tăng trong nhà trù thường ngày đưa các vật thực ra cúng, bị chim quạ mổ ăn rơi vãi, Ngài dùng gậy đánh vào tượng đất mấy cái mà mắng rằng: "Thức ăn của ông còn chẳng giữ gìn được vậy làm sao che chở, giữ gìn già-lam ư?" Đêm đó, thần gá mộng nói với chư tăng trong chùa là: "Thập Đắc đánh tôi". Sáng hôm sau, chư tăng kể lại chuyện trong mộng đều như nhau, cả chùa lộn xộn mới biết Ngài chẳng phải là người thường. Bấy giờ, ở dưới phù hiệu châu, huyện, quận ghi là: "Hiền sĩ ẩn lánh, Bồtát ứng thân". Nên dùng đó mà biểu dương, gọi Thập Đặc là Hiền sĩ.
Lại nữa, lúc Ngài chăn giữ trâu ở trang trại của chùa, ca vịnh gọi trời, đang lúc chúng tăng trong chùa bố-tát, Ngài vì trâu đến trước giảng đường nơi chúng tăng nhóm họp, rồi đứng tựa cửa vỗ tay cười lớn bảo rằng: "Dằng dặc kẻ dụm đầu". Khi đó, vị Thủ tọa trì luật quát mắng Ngài rằng: "Gã phong cuồng sao ồn ào làm chướng ngại sự thuyết giới vậy?" Ngài nói: "Tôi đâu có phóng thả trâu. Đàn trâu nầy phần nhiều là người đã từng làm tri sự tăng trong chùa". Ngài bèn lần lượt xưng gọi pháp hiệu của chư tăng đã tịch, trong đàn trâu mỗi con tự ứng theo gọi tên mà đi qua. Cả chúng đều trố mắt kinh ngạc, đều suy nghĩ sửa đổi tu trì, cảm đức Bồ-tát rũ vết độ thoát. Lúc Sa-môn Đạo Kiều ghi chép văn cú của Ngài Hàn Sơn, ở trên vách tường miếu thần Thổ Địa của chùa thấy có kệ từ của Ngài, bèn ghi phụ trong tập của Ngài Hàn Sơn.
Liên hệ thử bàn:
Căn cứ vào việc Ngài Phong Can vân du chốn kinh thất vào niên hiệu Tiên Thiên (712-713) thì biết các vị Lư Khâu Dận, Hàn Sơn Tử và Thập Đắc là người sống trong triều đại vua Duệ Tông (710-712). Vậy cớ sao trong Cao Tăng Truyện, ngài Đạo Tuyên có Lư Khâu Dận là Võ Thần, là người sống vào đầu đời Đường (618-?). Trong lời tựa, Lư Khâu ghi ba người không nói về niên đại, khiến mọi người mờ mịt. Lại Tứ Phi là văn tư. Như vậy là có hai người cùng trùng tên họ là Lư Khâu. Lại nữa, Đại Sư Linh Hựu ở núi Đại Quy sống vào thời vua Hiến Tông, gặp được Hàn Sơn Tử chỉ cho Lặc Đầm, bèn gặp được Ngài Thập Đắc ở chùa Quốc Thanh. Như vậy, rõ biết ba người đến cuối đời Đường vẫn còn. Phàm, Ngài Phong Can trầm ẩn nơi Thiên Thai mà xuất hiện ở Kinh Triệu. Ngài Thập Đắc sống vào niên hiệu Tiên Thiên (712-713) mà đến niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) còn gặp là tuổi thọ lâu dài ư, hay là ẩn hiện bất thường ư? Trong dịch tượng có việc ấy. Tiểu Hồ Ngật Tế, nghĩa là như thế.
Thích Vô Tướng, vốn người nước Tân-la, là con thứ ba của vua nước đó. Sư sanh vào tháng chánh sóc niên, xuống tóc xuất gia đăng đàn thọ giới tại chùa Quần Nam.
Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 16 (728), Sư theo đường biển đến Trung Hoa, vào chốn kinh đô. Vua Huyền Tông mời Sư vào diện kiến rồi phối thuộc danh ở chùa Thiền Định. Sau, Sư đến Thục Tư, bái yết Luật Sư Trí Tiên, ở đó có ngài Xử Tịch là bậc dị nhân. Vũ Hậu (Tắc Thiên) đã từng mời Sư vào cung ban tặng Pháp y ma nạp chín điều. Sư dự biết mọi việc không gì chẳng đúng. Trước lúc Sư chưa đến, ngài Xử Tịch nói rằng: "Có khách ở ngoài, ngày mai sẽ đến, các ông hãy lo quét tước để đón rước". Cách một ngày sau quả nhiên Sư đến. Ngài Xử Tịch gọi ban cho Sư hiệu là Vô
Tướng. Vào nửa đêm trao truyền cho Sư pháp y ma nạp.
Thế rồi, Ngài vào trong khe hang dưới núi sâu ngồi thiền. Có con trâu nghé mầu đen, hai sừng giao nhau lẫn lộn dưới tòa, gần thân rất gấp, lông tay rơi vào trong tay áo. Nó lạnh như băng, sờ mó đến bụng, Sư rất bình thản chẳng lay động. Mỗi lần Sư nhập định, kỳ hạn là năm ngày. Bỗng nhiên trong tuyết sâu có hai con thú dữ đi đến, Sư tự tẩy rửa đến khỏa mình trước nó, nguyện đem thân thí cho nó ăn. Hai con thú dữ chỉ ngửi quanh từ đầu đến chân thân Sư rồi bỏ đi. Thường vào ban đêm dưới sàng tòa quắp lấy râu của hổ. Thế rồi, Sư sống ở núi rừng hơi lâu, y phục rách rưới, râu tóc dài ra. Có người thợ săn thấy, nghi là thú lạ, định bắn lại thôi. Sau, Sư lại vào trong thành chợ, ban ngày thì ở nhà người, đêm đến ngồi dưới gốc cây thực hành hạnh Đầu-đà, mọi người thấy đều quý trọng, cất tinh xá ở trước loạn mộ để Sư trụ. Trưởng Sứ Chương Cừu Kiêm Quỳnh đến lễ yết. Gặp lúc Minh Hoàng lánh nạn đến đất Thục, đón rước Sư vào Nội Điện cúng dường kính lễ.
Bấy giờ, Thành Đô Huyện Lệnh Dương Dực nghi Sư là yêu hoặc mới trình thiếp đuổi đi, sai bảo đồ lính hơn hai mươi người đến lôi kéo Sư. Đồ lính đến gần thân Sư, ai ai cũng run sợ, tâm thần đều mất. Trong chốc lát, gió đến nỗi cát đá bay tán loạn vào thẳng nơi quan sảnh tung rèm quấn màn
Dương Dực cúi đầu bái phục, thở gằn chẳng nói gì.
Sám hối xong thì gió ngừng thổi, rồi đón rước Sư về chỗ cũ. Do đó, bèn khuyên đàn việt xây dựng các chùa: Tịnh Chúng, Đại Từ, Bồ-đề, Ninh Quốc và các lan-nhã chuông tháp ngoài đô ấp nhiều vô số kể. Ban đầu, Sư trú tại viện ở chùa Tịnh Chúng, sau gọi là Tùng Khê.
Khi Sư đến thành đô, bỗng có một lực sĩ đến xin xả bỏ công sức chặt củi cúng dường chư tăng nấu nướng trong nhà trù. Sư có người em vừa mới lên ngôi ở tại bổn quốc, lo sợ Sư trở về đoạt ngôi vị, bèn sai thích khách đến giết hại Sư, Sư đã thầm biết như thế. Bỗng một hôm, vị hiền giả cúng dường củi đến nói với Sư rằng: "Đêm nay có khách, nên bảo đốt sáng". Sư lại bảo: "Chớ làm thương tổn Phật tử". Đêm đến, người cúng củi nắm dao xốc chiếu ngồi bên cạnh thiền tòa của Sư. Bỗng nhiên nhìn lên trên vách tường dường như có vật gì đang xuống, liền nhảy bổ dậy dùng dao phang một nhát, con hổ lớn thân đầu đứt lìa nơi dưới đất. Phía sau cửa vốn có một hố lớn, liền kéo tới đó vùi chôn, lại lấy đất bụi bôi thoa hết dấu vết mà đi. Sáng hôm sau, Sư bảo người tìm mời người chặt củi đến tạ ơn nhưng không thấy.
Sư từng chỉ ngồi bảo tháp và cây bách phía trước mà bảo rằng: "Cây ấy và tháp ngang chùa sẽ bị phá hủy!" Đến lúc pháp nạn Hội Xương thì cây ấy và tháp đều bị phá hủy. Sư lại bảo: "Ở trước chùa có hai cái ao nhỏ, ao bên trái là canh, ao bên phải là cơm, lúc ít trai chủ cúng thí thì bảo đãi gạo qua đó". Quả nhiên có người đến thiết cúng. Sư có lắm điều thần dị đại loại như thế.
Đến ngày 19 tháng Năm niên hiệu Chí Đức thứ nhất (756), Sư không bịnh mà thị tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi. Lúc sắp tịch, có người hỏi Sư: "Ai là người có thể tiếp nối trú trì ở chùa đó?" Sư bảo đưa giấy bút và viết chữ trăm số, đều ẩn chẳng thể biết. Hài mà hiệp vận. Sư dự ghi mọi việc trong thời gian tám, chín mươi năm. Xem xét lại không gì sai lạc.
Trước kia, lúc vua Võ Tông phế bỏ Phật giáo, khắp thành đô chỉ giữ lại chùa Đại Từ. Còn chùa Tịnh Chúng cũng cùng chung số phận bị phá hủy. Ở chùa Tịnh Chúng có Đại Hồng Chung rất lớn bèn dời đến chùa Đại Từ.
Đến lúc vua Tuyên Tông trùng hưng Phật giáo thì Đại Hồng Chung đó trở về chùa Tịnh Chúng. Chuông đó đã lớn lại cách sông, nên tính ra công sức phải mất hai ngày mới đi đến. Lúc sớm mai vừa muốn thiết trai để đi đón rước, lúc ấy là giờ Thìn mà sang giờ Tỵ là đã đến. Thế lực đưa đẩy thẳng như bay, đều lấy làm quái lạ sự nhanh chóng ấy chẳng phải sức người mà có được. Vốn Xá-lợi của Sư phân đắp họa chân tượng. Ngày đó ở mặt đều rịn đổ mồ hôi. Đệ tử tài giỏi của Sư là Lý Tăng dùng khăn lau, có dính vào tay, mồ hôi ấy rất mặn, mới biết thần lực của Sư tự kéo chuông. Biến dị như thế, thật kỳ vĩ thay! Sau, tháp Sư đề hiệu là "Đông Hải Đại Sư Tháp". Đến niên hiệu Càn Nguyên thứ 3 (760) Thứ Sử Tư Châu Hàn Hoành soạn văn bia. Vào niên hiệu Khai Thành (836-841), Lý Thương Ẩn làm nhà bia "Tử Châu Tứ Chứng" tôn phong Sư là Đệ Nhất Chứng.
Thích Hoài Tín, ở tại Quảng Lăng, không có kỳ tích riêng, năm Quý Hợi (843) tức niên hiệu Hội Xương thứ 3, vua Võ Tông vì Triệu Quy Chấn phá hủy Phật giáo, lúc sắp phá hủy giáo pháp, thì có Hoài Nam Từ Khách Lưu Ẩn Chi đến Tứ Minh, giữa đêm nằm mộng thấy như đang trôi nổi giữa biển, ngoảnh đầu nhìn thấy một ngôi tháp đang tiến về hướng Đông. Nhìn kỹ đó là tháp chùa Tây Minh ở Hoài Nam. Tháp đó chế độ cao vót, so với tháp của Hồ Thái Hậu Vĩnh Ninh thì nhỏ hơn. Tại tầng thứ ba của Tháp thấy Sư tựa lan can cùng Ẩn Chi giao đàm. Sư bảo: "Tạm đưa tháp qua Đông Hải, trong chừng tuần lễ thì hoàn trả lại". Vài ngày sau Lư Ẩn Chi trở về Dương Châu liền đến tham yết Sư, Sư hỏi rằng: "Có nhớ được lúc cùng gặp trên biển chăng?" Lưu Ẩn Chi bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sau đó vài ngày, lửa trời thiêu đốt tháp cháy hết, có mưa mầu trắng tưới mát, bên cạnh có thảo đường không hề tổn hại gì. Do đó mà xem xét người ở Đông Hải thấy được tháp Vĩnh Ninh, chẳng phải sai lầm.
Liên hệ thử bàn:
Tháp bị thiêu đốt, đều nói là dời sang Đông Hải, biển há bị đốt cháy ư? Thông đáp: Ngũ hành là vật, cũng là tánh của bảy đại, có thể chẳng cùng khắp pháp giới ư? Thuận thì cùng sanh, nghịch thì cùng hại. Tuy nghịch thuận mỗi thứ khác nhau, nhưng cùng đồng với pháp giới, ngằn mé chứng biết đó chỉ có thức. Vả lại, trời tiên quỷ vật cùng với người có sự khác nhau. Các trời tốt đẹp thì định quả cung điện. Thần tiên thì gá vật biến hóa, quỷ thần thì hưởng dòng thực khí chất ngại, lửa hóa thì được thọ dụng. Phàm tháp chùa trang nghiêm rực rỡ phần nhiều bị quỷ thần lấy, biển như sông hầu cũng là phi nhân. Như lửa trời thiêu đốt điện của Trần Trọng Vân, khi ấy người ở Đông Hải thấy ảnh điện. Lại ở gần Mã thị Phách ở Hồ Nam, cuối niên hiệu Thiên Sách thì gác bị lửa trời thiêu đốt, đêm đó ở Lãng Châu nghe giữa hư không có tiếng la quát rằng: "Lánh hồi Thiên Sách Các đến". Từ trong mây vọt thẳng như ngàn muôn người khiêng vát vật nặng, nhưng nhiều ngày lửa mới đến Đàm Châu. Nếu Ngài Hoài Tín thấy Lưu Ẩn Chi nằm mộng, thì Sư cũng là vị tăng chẳng thể lường.
Thích Tân Thất Sư, không rõ hiệu xuất gia của Sư. Bấy giờ, dòng họ theo hàng lớp mà xưng gọi, người ở Ký Thục, lại không có vời thể riêng. Thật ra Sư là người Thiểm Quận.
Ban đầu, thuở Sư còn nhỏ chăm chú lắng nghe rất nghiêm túc cẩn trọng, không hề khinh thường. Tuy bé thơ mà đã có tướng lão thành. Cha ca Sư làm Thiểm Quận thú, thấy hành vi của Sư mà nói với mẹ Sư rằng: "Đứa con này chẳng như trẻ nhỏ bình thường, hãy khéo nuôi dưỡng nó". Năm lên mười tuổi, Sư đã biết Phật pháp rất đáng kính chuộng. Đối với Kinh quyển tự nhiên Sư phân rành đó là Hoa ngữ, đó là Phạn văn, đều chẳng nhờ Thầy chỉ dạy. Và Sư pha trà rất đậm, tuy thân thuộc khuyên cố gắng, Sư càng xài hủy. Trước kia ở phía Nam Quận Thành có bảy lò nung ngói gạch. Một hôm, sau khoảnh khắc khóc gào, Sư phát cuồng bỏ trốn đi. Bọn trẻ nhỏ trong nhà men theo vết chân mà tìm đến, thấy Sư vào trong một cái lò mà ngồi thẳng, thân có ánh sáng lạ phát ra như sắc vàng, các trẻ nhỏ kinh hãi đến hỏi mà Sư chẳng nói gì. Chúng lại càng sợ mà chạy ra chỗ khác, đến một lò khác, lại thấy Sư trong tướng trạng như trước. Cứ như thế trải qua bảy lò, mỗi mỗi đều thấy Sư ngồi thẳng thân phát ánh sáng. Do đó, những người ở đất thiểm càng phục Sư như thần, hễ gặp thì liền lễ bái.
Thích Hòa Hòa, không rõ Sư họ gì và quê quán ở đâu. Ngài là vị tăng cuồng mà chẳng loạn, ngu mà có biết. Chẳng lường được nguyên do Sư. Sư mở lời thì có nhiều việc đúng. Người thời bấy giờ gọi Sư là Thánh. Sư trụ tại chùa An Quốc, vào ra chẳng buộc ràng, thấy trong chùa đang sửa chữa điện các chưa hoàn thành. Có Việt Quốc Công Chúa và Giáng Vinh Dương Trịnh Vạn Quân tuy cầm sắt hài hòa đã vài năm mà không có con. Nhân đó Sư đến chỗ công chúa, Vạn Quân đang đốt hương quét tước mà đón đợi Sư. Công chúa quỳ lạy quy hướng. Vạn Quân cầu nguyện khẩn báo với Sư rằng: "Tôi tự tham chọn muốn sanh được một đứa con để nối dõi, chỉ Sư có thể làm việc đó?" Sư bảo: "Dễ thôi! Chỉ đưa cho ta ba ngàn xấp lụa, Công chúa sẽ sanh hai người con trai!" Vạn Quân ân cần kính trọng như nghe lời Phật nói, bèn cúng thí số lụa như chỗ Sư cần. Sư lấy đó đem giao lo việc tu sửa điện các ở chùa, và hồi hướng công đức cho thí chủ. Sư mới bảo rằng: "Công chúa có mang, ta khiến hai người trời xuống làm con của Công chúa, chỉ có điều lo là Công chúa không thể cùng mang thai hai đứa con trong một. Ta giúp cho chúng nó đồng năm mà sanh có trước sau". Quả nhiên như lời Sư nói. Đầu năm sanh một đứa và cuối năm sanh một đứa. Đứa lớn tên Tiềm Diệu, đứa nhỏ tên Hối Minh đều xinh đẹp có tướng trượng phu, sau thành việc rộng khắp. Khắp trong kinh ấp truyền dương phất vị, lường về địa vị của Sư chẳng thể khinh bàn.
Thích Quảng Lăng Đại Sư, người xứ Duy Dương, không biết rõ Pháp danh. Vào thời Ngài Hoài Hải, người ta đua nhau xưng gọi Sư là Quảng Lăng Đại Sư.
Thân tướng Sư lùn xấu, tánh rất thông minh, tướng trạng chân xuất, tương tự như hạng người giết thịt bán rượu, chỉ khác là hình dáng Sa-môn mà thôi. Sư ưa thích uống rượu ăn thịt, thường mặc áo vải lông cừu, dày nặng có thể biết. Lúc trời nắng nóng cũng chẳng tạm cởi, thấy rận nhóm tụ ở trên. Sư ngụ tại chùa Hiếu Cảm riêng trong một phòng. Ban đêm đóng cửa ngủ, việc ấy là thường. Hoặc có lúc tánh bộc phát cuồng, giết chết chó lợn. Ban ngày thì nhóm tụ bọn xấu ác đánh đấu, có khi nằm bên vệ đường, dân chúng ở Dương Châu vì thế mà chán ghét Sư.
Vào niên hiệu Trinh Nguyên (785-805), có một gã Thiếu niên cường tráng, vốn có tiếng là người mạnh mẽ. Một ngày nọ, gã thiếu niên ấy đánh cờ với người, Sư rất tức giận, đưa tay đánh nát con cờ. Gã thiếu niên ấy cười bảo: "Trẻ con lẩn thẩn sao dám nghịch với tráng sĩ ư?" Sư lại mắng chửi, nhổ nước dãi vào mặt nó, khi đó đòi đánh nhau với nó, mọi người trông coi vây quanh có đến cả ngàn. Gã thiếu niên ấy bị Sư đánh khốn đốn, sợ hãi tìm đường chạy trốn. Từ đó, mọi người mới biết Sư có sức thần.
Lại nữa, cũng ở giữa chúng đông người, Sư tự phụ sức lực của mình, luôn vào nơi quán chợ, cướp đoạt tiền vật của người. Người trong chợ đều sợ sức mạnh của Sư nên không dám chống cự. Sau có một vị tăng trưởng thượng gọi Sư đến mà răn dạy, bảo rằng: "Ông sao bất cẩn chẳng giữ giới pháp. Cớ sao ăn thịt uống rượu, giết hại chó lợn, cướp đoạt tiền vật của người ở chợ, lại đánh đấu với hạng người vô lại, rất không có luật nghi. Đâu là bổn phận của người xuất gia ư? Một ngày nào đó, mọi người chẳng dung thứ, bắt đến quan lại, căn cứ luật pháp mà trị phạt. Khi đó biết lẫn trốn nơi nào! Vả lại, rất ảnh hưởng đến Phật pháp". Sư tức giận đổi sắc mặt đáp lại vị tăng ấy rằng: "Loài ruồi ve bu theo thứ máu thịt tanh hôi, ông sao biết được chí khí của chim Hồng, chim Hộc ư? Nhưng mà Đạo của ta, ông chẳng thể biết được. Hơn nữa, ta bên trong thanh tịnh ngoài dơ bẩn, đâu giống như các ông hẹp hòi không rộng lượng ư?" Vị tăng trưởng thượng ấy không thể làm Sư khuất phục. Sau, một ngày nọ, từ ngoài trở về, Sư vào thất đóng cửa. Có người nhìn qua lỗ hổng ở cửa, thấy Sư ngồi trên chiếu phát ra ánh sáng thần từ giữa hai đầu chân mày, soi suốt mọi vật, người nhìn thấy kinh hãi trở về báo lại. Trong chốc lát chư tăng trong chùa đua nhau kéo đến chiêm lễ xưng tán, hoặc có người tự sám hối tội lỗi đã từng phỉ báng Sư, hoặc có người búng ngón tay khen ngợi ca vịnh. Đến sáng ngày, chư tăng đến hầu Sư đi ra, đốt hương đến lễ. Đến lúc mở cửa thì Sư nhắm mắt như nhập thiền định, mà sự thật là Sư đã thị tịch.
Thích Minh Toản, không rõ Sư thuộc họ gì và quê quán ở đâu. Ban đầu Sư du phương đến núi Tung, nơi Thiền Sư Phổ Tịch đang mở mang thiền pháp hưng thạnh, Sư bèn theo đó, và thầm chứng được tâm khế của Ngài Phổ Tịch. Ít người tôn trọng. Sau đó, Sư đến Hành Nham nhàn cư. Chúng tăng có làm việc gì, Sư vẫn yên nhiên. Giả sử như có người mắng chửi, Sư vẫn không xấu hổ. Bấy giờ, mọi người gọi Sư là "Toản biếng lười", có thuyết nói vị tăng ấy là mọi rợ sai vượt. Hoặc có lúc Sư theo chúng thọ trai, có lúc Sư dùng nồi đất nấu đất mà ăn, bảo là ứng thân Phật Di-đà. Chẳng biết Sư chứng nghiệm gì. Có thuyết nói là Sư ưa thích ăn đồ thừa của chúng tăng. Hoặc theo đó thì lúc Sư mở lời nói năng đều khế hợp với Phật lý. Sự tích về Sư thật khó biết rõ.
Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), Sư đến chùa Nam Nhạc làm lụng mọi việc, hết chuyện trên chùa, đêm đến dừng nghỉ dưới đàn bò, suốt hai mươi năm như thế mà chẳng hề mỏi mệt. Tướng quốc Nghiệp Công Lý Bí lánh nạn Thôi Lý nên ẩn cư tại Nam Nhạc mà lầm xem xét việc làm của Sư, bảo rằng: "Sư là người khác thường". Lắng nghe Sư trong đêm đọc tụng kinh điển, âm hưởng vang vọng tận hang núi. Lý Công tai nghe âm thanh phân biệt được tốt xấu, nên nói với Sư rằng: "Tiếng đọc tụng kinh nghe buồn thương mà sau lại vui thích, ắt là lúc người giáng chức đày đi!" Vào nửa đêm, Lý Công Ngầm vào tham yết Sư, trông vào tịch môn mà tự khen ngợi và bái lạy. Sư quát mắng lớn và ngửa mặt giữa hư không mà mắng chửi rằng: "Đó là sắp hại ta!". Lý Công càng thêm trịnh trọng chỉ bái lạy mà thôi. Ngài lấy củ khoai lùi trong lửa phẩn bò ra ăn, giây lâu mới bảo là "Hãy dùng chiếu đất", và lấy nửa củ khoai Sư ăn trao cho Lý Công. Lý Công quỳ mà nhận lấy, ăn hết rồi tạ ơn. Sư bảo Lý Công rằng: "Cẩn thận chớ lắm lời, làm tể tướng trong mười năm!" Lý Công bái lạy mà lui.
Vào một tháng, Thứ sử Tế Nhạc sửa chữa đường đi rất bằng phẳng. Nửa đêm gió thổi sét đánh, một ngọn núi đổ ngã, đường men theo núi bị đá lớn cản ngăn, bèn dùng vài con trâu buộc vào đá mà kéo đi, lại dùng vài trăm người cổ xúy hô hào để đẩy đi. Sức vật đã hết mà đá lại bền chắc, không còn phương cách gì hết. Sư bảo: "Vì sao phải cần dùng nhiều người như thế? Ta mới trừ đi!". Mọi người đều cười lớn. Sư dùi vào đá mà lay động. Bỗng nhiên đá chuyển thế mà xuống, âm thanh va chạm như sấm sét rung chuyển, đường núi được mở thông, chúng tăng kính lễ Sư mà mừng vui hớn hở. Cả Quận đều gọi Sư là bậc chí thánh. Thái Thú kính thờ Sư như thần minh. Sư vẫn lặng yên có ý muốn đi. Phía ngoài chùa, hổ báo tự nhiên nhóm họp thành đàn, hằng ngày gây thương tổn không biết làm sao để cấm ngăn. Sư bảo: "Đưa cho ta một cây roi nhỏ, ta sẽ trừ diệt nạn đó cho các ông". Mọi người nói với nhau rằng: "Đá lớn còn đẩy đi được, hổ báo sẽ dễ cưỡng chế!" Bèn đưa cho Sư một cây roi gai và đều nép mình phía sau để xem. Sư bước ra cửa, một con hổ ngậm vào đó mà đi, Sư đã đi, hổ báo cũng mất dấu vết.
Đến những năm cuối niên hiệu Thiên Bảo, vua Túc Tông đi tuần về phía Bắc đến Linh Võ thì dừng. Sai sứ tìm mời, gặp được Lý Bí từ Tung Dĩnh vội chạy đến hành sở tại, vua vui mừng dùng đó giúp cho Chưởng Xu Vụ Quyền Du Tể Tướng phán xét việc Quảng Bình Vương Phủ Tư Mã. Vua Tuệ Tông bảo: "Khanh là thầy bạn của trẫm, nay cha con ba người giúp Khanh đạo nghĩa". Liền bị Thôi Viên Lý Phụ Quốc làm hại khả năng, Lý Bí lo sợ xin đi đến Hành Nhạc, vua ban chiếu chấp thuận. Tuyệt thực vài năm, bỗng thấy Sư. Sau qua đời đang ở tướng vị. Đó là huyền ký về Sư. Vua Túc Tông hạ sắc tặng Sư thụy hiệu là "Đại Minh
Thiền Sư", tháp thờ Sư hiện còn ở Nhạc Trung, v.v...
Thích Đãi Giá, họ Vương, người ở huyện Kim Thủy, xuất gia từ thuở bé, làm những điều lạ lùng. Cha của Sư đặt tên là Đãi Giá. Lúc ấy là cuối niên hiệu Thiên Bảo (756). Sư luyện hạnh tinh tấn, bấy giờ được gọi là Đầu-đà. Đến lúc vua Huyền Tông đi dạo, Sư tự đến phủ cạo tóc làm tăng, đến đây, Sư được độ. Lời ấy đáng tin.
Sư đi cách xa huyện ấp hai mươi dặm, cắt cỏ dựng am riêng trên đảnh núi, sau, trở thành một ngôi chùa. Núi nầy có nhiều binh tích. Ban đầu tên là Thạch Thành, đến lúc Minh Hoàng đến núi Kiếm môn, thần thấy hình nghinh giá, xứng với họ Lý, bèn ban sắc cho tên gọi Huyền tôn. Sau, Trắc Võ gánh vác Đông Đài, xa trông thấy mây lành khí tía cuộn kết giữa hư không, bèn hỏi mọi người chung quanh rằng: "Đó là xứ nào?" Đáp rằng: "Đó tên là Thành Sơn", mới tỏ ngộ ý của thần núi hỗ vệ, bèn đổi tên là Vân Đảnh và làm chùa Từ Vân. Sau, Sư thị tịch tại chùa đó.
Kế nữa, có Ngài Thích Hoài Nhất trụ chùa Lăng-già ở Phước Châu. Vào niên hiệu Cảnh Long (707-710), Sư có ý xây tinh xá ở phía Đông chùa Ái Đồng, nhưng dò xét địa hình không có nước để cấp dùng mới bỏ đi. Bỗng nhiên có loài chim đầu đà trên đất, Sư lấy làm lạ, bèn bảo thợ đào xem, mới sâu hơn một thước thì có dòng suối tuôn chảy, về sau, dùng quanh năm mà chẳng hao hụt, mỗi lúc trong chùa có chuyện buồn vui, thì nước mới tạm giảm hao.
Đến niên hiệu Vinh Thái thứ 2 (766), Sư thị tịch, đệ tử Sư là Siêu Ngộ tấu xin vua Đại Tông đề cho biển ngạch chùa. Đệ tử tài giỏi thủ của Sư là Trí Hằng và kế tiếp là Hạnh Bật. Thứ sử Việt Châu là Hoàng Phủ Chính soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư và do Tiết Độ Sứ Dương Châu là Vu Giáp viết chữ.
Thích Hoài Đạo, là người đức xa tình cao, từ nhẫn tế vật, suy nghĩ dạt pháp, thường hằng mà du phương. Hễ gặp được người thông hiểu, thì lễ bái cầu ích lợi. Đến ngày trở về quê cũ, Sư lễ Phật siêng năng, lúc vén thâu tọa cụ nhặt được viên ngọc, sau tôn trí ở tim tượng họa của Bồ-tát Vănthù. Viên ngọc đó tròn sáng mà khác hẳn ngọc trai. Lại lặng lễ giáng xuống cốt xá-lợi, Sư bèn phân đặt trong tháp Nam Giản. Đến niên hiệu Chí Đức năm thứ 2 (757), Sư bảo đệ tử là Tăng Thường trì tụng Kinh Pháp Hoa, suốt ngày đêm chẳng phế bỏ. Bỗng nhiên có một bộ pháp phục ca-sa bằng lụa trắng giáng xuống trong tháp, chẳng biết từ đâu đến. Đó là do tâm Sư tu luyện mà cảm đến Minh Lý. Về sau, cốt đài thú Lý Ung soạn văn bia đều có ghi rõ.
Kế nữa, có ngài Thích Trí Hằng kế tiếp ở Viện Pháp Hoa. Ngài Trí Hằng là đệ tử Ngài Hoài Nhất. Đạo hạnh cũng sánh ngang với Ngài. Sau khi tịch, Lễ Bộ Thị Lang Lưu Thú Chân soạn văn bia kệ tụng, tường tựa ghi rõ trong văn thơ. Kế đến lại có các ngài Siêu Ngộ, Hạnh Bật đều là những bậc có tiếng tăm như nhau, và hành hóa ở đất Mân, người thế tục ai cũng kính trọng.
Thích Tuệ Trung, họ Vương, người ở xứ
Thượng Nguyên, thuộc Nhuận Châu. Lúc đầu, mẹ của Sư mới mang thai, bỗng gặp một vị tăng lạ bảo rằng: "Sẽ sanh quý tử, làm thầy trời, người". Sau khi sanh, Sư chẳng ăn các thứ máu thịt tanh nồng. Có tướng khác thường, bẩm tánh thuần hậu.
Năm hai mươi ba tuổi, Sư nhờ hiểu Kinh nên được độ, lúc đó là niên hiệu Thần Long thứ nhứt (705), Sư được phối thuộc ở chùa Trang Nghiêm, chí tiết cao giản, đồng bạn đương thời đều tôn kính. Nghe Thiền sư Oai ở núi Ngưu Đầu, tiếp nối vết chân của Tổ Sư Đạt-ma, đắc Phật tâm ấn, Sư bèn đến núi lễ bái tham yết, Thiền sư Oai thấy Sư liền bảo rằng: "Chủ núi đã đến!". Nhân đó mà giảng pháp đốn ngộ thượng thừa. Thiền sư Oai có được Sư như Lão Tử gặp được Y Hỉ, mới bảo Sư nhận thất trao pháp truyền đăng và giao phó mọi việc trong sơn môn, bèn ra khỏi ly tụ. Sư nối gót ở núi đó, sớm tối tinh tấn, thường hành hạnh Đầu-đà nơi núi đầm, uống nước suối nằm chiếu cỏ, ăn một bữa đúng thời. Sư thường dùng một cái chỏ nấu chung các thứ. Dùng xong treo móc ở cành cây, mới lên giường dây an tọa suốt ngày như chiếc ghế nhỏ, y phục chẳng đổi thay, nóng lạnh cũng chỉ một áo nạp. Như thế suốt bốn mươi năm, bèn hiển bày linh ứng chẳng phải một. Châu Mục Minh Hiền từng đến núi lễ yết, lại thỉnh Sư đến Quận giáo hóa đạo tục.
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ nhứt (742), Ngài mới ra trụ chùa Trang Nghiêm. Sư bảo rằng: "Xưa kia, dưới thời nhà Lương, chùa Trang Nghiêm rất hưng thạnh, nay đã lâu năm tàn tạ". Sư có tâm muốn sửa chữa, bèn ở phía Đông Chánh điện, định xây pháp đường, trước đó có cây cổ thụ, có chim thước làm ổ trên đảnh, khi người thợ sắp muốn chặt nó, Sư bảo: "Đợi chim thước dời đi hãy chặt". Và nhân đó Sư đến bên gốc cây, chú nguyện rằng: "Chỗ đất này xây Pháp đường, nên chóng dời đi nơi khác". Sư nói vừa xong, chim thước ấy đua nhau ngậm cành dời sang cây khác. Tăng tục khắp thành quách đều nhìn, không ai chẳng khen lạ. Lại nữa, lúc đặt nền móng chưa quyết định, có hai vị thần đến chỉ nơi chốn, nhân đó mà quyết định. Cấp dẫn không bỏ phế. Thần khoáng chẳng quấy nhiễu, đồng bạn bốn phương đồng nương tựa ngày một kéo đến rất đông.
Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 3 (768), trước hang đá ở cửa chùa, có treo chiếc y của Ngài trên lùm cây. Năm đó, giữa mùa Hạ, tự nhiên héo khô, nấm tiên Linh Chi cũng chẳng sống lại. Tới tháng Chín, Sư đang giảng Pháp nơi tòa cao, tự nhiên nước tuôn chảy quanh tòa. Đến ngày rằm tháng 6 năm sau (769), nhóm chúng tăng Bố-tát tới chiều tối, Sư bảo thị giả cao tóc và tắm gội. Đêm đó có mây lành giăng phủ khắp chùa, nhạc trời nghe vang vọng giữa hư không. Qua sáng sớm ngày 16, Ngài an nhiên ngồi thẳng mà thị tịch. Khi đó, mưa gió chấn động, cây cối đổ ngã. Tăng chúng chùa Diên Tộ ở Hòa Châu đêm đó đều thấy có vầng cầu vồng từ Đông sang Tây xuyên suốt vào trong núi. Chim thú kêu buồn tận hang hóc núi chầm, tiếng khóc suốt mười ngày mới ngưng nghỉ! Nhạc mục Vi Công Tổn nghe mà buồn thương, sai sứ mang tặng lễ vật phúng điếu và sai bảo Thượng Nguyên Lịnh Lưu Quân đầy đủ oai nghi, đón rước về núi. Lúc đó trời đang nắng nóng như thiêu đốt. Đến ngày mùng 7 tháng 7, trời mưa tưới mát, qua ngày mùng 8, thần quan đưa ra, mảy bụi chẳng bay. Lại có bầy chim hạc bồi hồi bay che ở trên, đưa đến sơn môn. Sau khi đã an táng vài ngày, trong phần mộ phát ra ánh sáng chiếu suốt núi rừng. Đến mùa Xuân niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (770), y theo pháp ngoại quốc tràtỳ, thâu nhặt được vô số xá-lợi tròn nhỏ như hạt ngọc, màu sắc sáng chói. Tăng tục xa gần có người buồn không khắc nhặt được, bèn đến nơi chỗ tro bụi củi tàn thiêu đốt tìm cầu đến trăm ngàn người đều có được xá-lợi. Cho nên biết pháp thân viên ứng, cảm vật vô cùng, thánh lực ngầm thông, sáng vượt ngàn xưa. Môn nhân dựng tháp gỗ để thờ. Sư thọ tám mươi bảy tuổi, thân cao hơn bảy thước, lông mày điểm sương dài hơn cả tấc, nghi dung lớn khác y hàm long, tai thần khí cô bạt, sắc da như đấng vàng, đều sáng ngọc nhuận như Phạm tăng. Tại chỗ Sư ở màn trướng chẳng giăng, muỗi mòng không xúc phạm.
Sư từng ở chốn lan-nhã vắng lặng, thông trúc mọc dày, từng có loài hổ và nai đến sản sanh, thuần quen vào ra nơi thất không tỏ vẻ kinh sợ. Trong niên hiệu Khai Nguyên thứ 27 (739), Thượng Nguyên Lịnh Trương Tôn Toại ban đầu được nghe sơ sơ những điều khác lạ về Sư, bèn đích thân đến núi dò xét kiểm nghiệm. Khi vừa đến nửa núi, có con hổ dữ đón đường gầm thét, bèn kinh sợ chẳng biết làm sao. Sư nghe nên xuống núi dẫn dụ, hổ nhân đó mà lặng tiếng ẩn mình vào rừng. Trương Tôn Toại khiếp sợ liền chắp tay lễ tạ mà lui. Lại nữa, khi Sư đến trong viện Cụ Giới ở Quận Ngô có bụi cây lăng vân đang giữa mùa Hạ mà khô héo, mọi người nghĩ chặt bỏ nó đi, Thiền sư Oai bảo rằng: "Chớ nên chặt bỏ nó. Ngày Tuệ Trung trở về, bụi cây ấy sẽ sống lại". Mọi người không tin. Đến mùa Thu, Sư trở về, bụi cây ấy liền tươi tốt trở lại. Lại nữa, xưa kia, có người cúng gạo thóc cho chư tăng ở trang trại, ban đêm có Trương Đạo đến trộm lấy, hổ bèn gầm thét đuổi đi, Đạo bèn vất bỏ mọi vật mà chạy trốn, đại loại như thế rất nhiều, khó ghi lại hết. Sư có soạn "Kiến tánh tự" và "Hành lộ nan", tinh chỉ diệu mật, lưu hành ở đời.
Kế nữa, có Ngài Thích Viên Tịch ở đất Nghiệp, họ và nơi sanh của Sư không tìm được. Ban đầu, Sư từ Tung Sơn gặp được Thiền sư Lão An. Đạo khế hợp nhau chẳng lường được ngằn mé. Đến niên hiệu Hàm Hanh thứ 2 (671) thời vua Cao
Tông, Sư thị tịch, thọ trên trăm tuổi. Tương Châu Tiết Độ Sứ Nghiêm Thụ khuynh tâm cúng dường cũng tôn xưng Sư là "Vô Sanh Hòa-thượng".
Thích Tuệ Tú, họ Lý, người ở xứ Trần Lưu, nay là Đông Minh. Ngài xa lìa trần cấu, mến chuộng tiêu dao. Ban đầu dùng giới luật để tự tiết chế tự thân, sau dùng thiền định để chuyên tu. Sư đến đất Kinh Dĩnh tham vấn Tổ sư, tỏ rõ an nhiên, Sư bèn trở về chùa Thiên Cung ở Lạc Ấp. Gặp lúc Võ Hậu (Tắc Thiên) thường đến thần đô, mà tiếng tăm của Sư vang vọng tơi tai, Võ Hậu thường mời Sư vào kính lễ tôn trọng. Sư dự ghi mọi việc chưa xảy ra, sau đều khế hợp.
Vào niên hiệu Trường An (701-705) Sư đến chùa Từ Thành, nói đạo dạy người, tự nhiên đều quy hướng. Bỗng nhiên Sư bảo đệ tử trong thiền viện tắt hết đèn đuốc. Có người thưa Sư rằng: "Đèn lớn chiếu sáng nên để lại". Sư bảo cũng tắt luôn. Nhân đó, Sư nói: "Hỏa tai khó lường, không thể không chuẩn bị. Đã từng có nhà chùa không coi sóc đèn lửa nên điện Phật bị thiêu cháy. Lại có chùa mà lầu chuông bị lửa cháy, lại có chùa mà kinh tàng cháy thành tro bụi, rất đáng đau tiếc". Khi đó, chúng tăng không hiểu ý chỉ của Sư, đến đêm tối để lửa lại; nên điện Phật, lầu chuông, kinh tàng ba nơi đều biến thành tro than; mới tỏ rõ Sư dự biết trước nên cảnh báo.
Lại nữa, lúc vua Huyền Tông đang trên đường cùng các vương giả đồng đến chỗ Sư để hỏi Pháp, thì ung dung tặng Sư một ống sáo. Khi vua Huyền Tông đi ra rồi, Sư gọi đệ tử đến bảo: "Hãy cẩn thận gìn giữ ống sáo ấy, sau có lúc cần hãy dâng". Sau, nhận vua Duệ Tông để truyền Thiền Pháp, đệ tử của Sư là Đạ-ma v.v... mới hiểu lời Sư nói, nên đem ống sáo đó kính dâng. Vua Duệ Tông mừng vui, biết trước nên trở lại ban tặng rất nồng hậu. Tự nhiên Sư thị hiện bị bịnh nhẹ, dặn dò cùng môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ một trăm tuổi.
Yên Quốc Công Trương Thuyết vốn quy tâm, bèn đón rước về an táng ở núi Long Môn, tăng tục có đến mấy ngàn người đến dự lễ tang buồn thương ai điếu.
Thích Duy Trung, tăng từ thuở bé, trong đồng bạn không ai chẳng tôn kính. Sư xuất gia tại chùa Pháp Định.
Vào niên hiệu Vĩnh Bình (58-76) thời Hậu Hán, khi Phật pháp mới lưu truyền đến Trung Hoa, có lập "Tịnh Đức già-lam", ánh sáng thần luôn hiển hiện. Đến đời Tống, Ngài Thích Tuệ Trì, từ Lô phụ, giã từ Pháp huynh Tuệ Viễn, phát thệ nguyện đến hoằng hóa xứ Mân Thục. Gặp lúc tao loạn vô đạo, có vài bọn cầm mũi nhọn muốn đến giết hại ngài Tuệ Trì. Ngài Tuệ Trì bèn búng ngón tay bọn chúng kinh sợ vấp ngã. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ 4 (584) đời Tùy, mới đổi tên là chùa Pháp Định. Trong chùa có thánh tượng Đức Di-lặc. Vào niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, bỗng nhiên có cây gỗ khô theo mé sông trôi đến, ban đêm phát ra ánh sáng, nhân đó chạm trổ làm đầu tượng. Vào nên hiệu Trinh Quán (627-650), Đậu Quỹ làm Trưởng Lại Kiếm Môn. Đầu tượng Phật phát sáng soi suốt đến cung phủ, Đậu Quỹ mới bảo người đến rước lấy. Cả mấy trăm người cũng không khiêng nổi, mới bảo nên chú nguyện tùy muốn đem đến phương nào, và nói: "Có thể đến chùa Pháp Định chăng?" Liền đó. chỉ một người đã bưng lên nổi. Đậu Quỹ bèn tạo thân tượng Phật. Trưởng sử Cao Sĩ Liêm làm lọng điện để che. Sau, có Sa-môn Phiếm Ái dựng xây tháp, bắt được một con cua lớn, thân và chân dài hơn hai thước. Tháp đó rất nhiều đời linh dị, nếu có người nào đem rượu thịt say sưa đến trước Thánh tượng, thì liền bị tai họa.
Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Sư đang ở tại chùa đó, càng thêm tinh tấn, tự nhiên tháp bị sét đánh nhổ bứt trụ tim tháp văng ra ngoài. Bỗng co ý muốn thay lại bằng cây gỗ nhỏ, chúng tăng đều lấy làm lạ, không ai lường dược nguyên nhân. Sư bèn cúi cầm thánh tượng đức Di-lặc, khấn cáo với trời rồng gia tâm úy trọng, cớ sao sét đánh đoạt mất trụ tim của tháp vậy? Cho nên biết Thử Nữ kêu mà sét đánh Đài Cảnh Công. Thật có sự chiêu cảm.. Một hôm, sét lại đánh có gió dữ cùng chấn động như trước, lại thấy đó là Long thần đưa trụ cũ an trí như xưa. Đang Lúc thay đổi trụ, mây phủ bốn bề, có bốn thần dùng sức mang vác, đứng ngang với tháp. Sư có sức cảm kích tới vật như thế! Trước Pháp nạn Hội Xương, chùa bị nứt rạn, có bảy viên xá-lợi vọt ra trên tướng luân, ánh sáng mầu trắng đầy khắp giữa hư không hướng về phía Tây bay đến đất Thục, đều là chỗ tự trông thấy. Khi sắp đảo lộn, có ánh sáng mầu đỏ thấy thấy nửa ngày. Thêm nữa, tại chùa đó có một cây táo rất lớn, trong năm sắp phá hủy chùa, cây táo ấy khô héo. Mãi đến niên hiệu Đại Trung (847-860) sắp đặt trở lại, cây táo đó lại tốt tươi. Sau, Sư thị tịch tại chùa đó.
Liên hệ thử bàn:
Giáo Pháp hưng suy há chẳng phải là số phận ư? Số toán đã định, thời khắc chẳng dời. Như trước Pháp nạn Hội Xương (841-847), xá-lợi dự bay, cây táo khô héo. Ấy là biết số suy đang cường mạnh mà số hưng là suy yếu. Hưng chẳng hơn suy. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860) trở lại hưng thịnh, thì ấy là số suy chẳng hơn được hưng. Như chẳng là sự đổi dời của bốn tướng, chẳng hệ lụy số phận hưng suy. Giáo Pháp là Pháp hữu vi, làm sao khỏi sự đổi dời biến chuyển? Than ôi!
(Quyển 19 hết)
❑
(chánh truyện có hai mươi hai vị, phụ có bốn vị)
Thích Xử Tịch, họ Chu, người ở xứ Thục. Sư kính thờ Thiền sư Bảo Tu, làm việc chuyên cần ít muốn, thông hiểu sâu xa.
Lúc Sư ở Bắc Sơn, thực hành pháp Đầu-đà, Thiên Hậu nghe thế bèn ban chiếu mời Sư vào cung, dâng tặng y ma nạp tăng-già-lê. Sư từ giã xin trở về núi, trải qua suốt bốn mươi năm chân Sư chẳng vào xóm làng. Sư ngồi trên chiếc giường người Hồ, lẳng lặng chẳng ngủ, thường có con hổ nằm ở phía dưới như vật nuôi trong nhà. Dân chúng Tư Châu vô cùng kính trọng. Những người học theo Đạo của Sư đua nhau tìm đến. Từ đó, có lắm điều kỳ lạ, như Đại sư Vô Tướng từ nước Tânla sắp đến tham yết Thiền sư Tiên, Sư biết trước bảo đồ chúng rằng: "Có khách từ ngoài ngày mai sẽ đến, nên lo quét tước để đợi đón rước". Ngày hôm sau quả nhiên có khách người Tân-la (Ngài Vô Tướng) đến.
Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) có Tân Trừ Thái Thú Vương Hoa, vốn là một vị Hoàng Quan, vào niên hiệu Cảnh Vân (710-712) có lập chút công, cắm giữ ở quận đó, cuối cùng có tâm muốn gieo họa đối với Phật giáo. Khi mới lên nhậm xử phân ban, ra lịnh khắp trong cảnh vức phải ứng theo đó. Các Sa-môn bị tìm kiếm gom về, riêng Sư từ lâu chẳng xuống núi, có người khuyên Sư nên sang tham yết để khỏi phải bị để ý. Sư bảo với đệ tử rằng: "Ông xuất gia nhưng vẫn chưa biết nghiệp. Ta đây chưa chết, Vương Hoa làm gì ta được". Đến lúc Vương Công lên quan 3 ngày, các hàng tăng sĩ đều nhóm đến. Có người nói: "Chỉ có Xử Tịch khi miệt Phiên Hầu chẳng đến đặc giá". Vương Hoa hơi có chút giận. Lúc chúng tăng đều vào chỗ nghe rồi, Hoa tức giận, hỏi lý do vì sao Sư chống cự. Tự nhiên đổi sắc mặt bừng bừng, chư tăng đều lo sợ. Bỗng chốc Vương Hoa ngã lăn ra đất, mọi người chung quanh, ẵm dìu về nhà. Sau khi về đến sảnh sự đứng lặng như có tiếng đánh tát vào má, giây lát bèn tắt thở. Từ đó mọi người cho đó là vọng muốn thêm các đạo nhân, mới một mà đã đến như thế.
Đến tháng Giêng niên hiệu Khai Nguyên thứ
22 (734) Sư thị tịch, thọ tám mươi bảy tuổi. Trong xứ Tư Châu đến nay vẫn còn tôn sùng kính ngưỡng.
Thích Vô Trước, người xứ Vĩnh Gia, thức đạt khoan minh, tiết tháo cứng cỏi, để tâm nơi Đại Đạo, ước chí du phương. Sư đến chùa Vân Hoa, chỗ Pháp sư Trừng Quán, nghiên cứu tập học giáo điển Hoa Nghiêm. Tất cả các kinh luận, chí Sư gồm thông, đối với biển Pháp Hoa Tạng, Sư trọn hẹn dạo chơi trong đó.
Vào niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), Sư đến núi Ngũ Đài, Sư muốn dạo đến cảnh giới của bậc Thánh. Tháng 5, Sư đến chùa Hoa Nghiêm. Ban đẩu ở trong nhà nếm trà, thấy một lão tăng, thân hình thấp xấu, nằm ở giường phía Bắc, nói với Sư rằng: "Ông từ phương Nam đến, còn mang theo xâu chuỗi, xin cho được xem!" Sư cung kính đưa đến, quay lại nhìn thì không thấy vị tăng ấy đâu nữa. Khi đó tinh thần Sư hoảng hốt, vừa nghi vừa mừng, tự bảo rằng: "Xưa kia Tăng Minh vào đây trông thấy cối đá chày gỗ, sau được vào chùa Thánh, được trông thấy các bậc Thánh Hiền. Nay ta nguyện ở đây, đó chẳng vui thích ư?" Kế đến, lúc ở lầu kinh Bát-nhã, Sư thấy được chim Cát tường lông cánh sặc sỡ liệng bay trên đảnh, trông về hướng Đông Bắc có trống dục mà đi. Ngày hôm sau, có hai vầng ánh sáng trắng phóng vào nhà rất nhanh chóng, chỉ khoảnh khắc liền biến mất, có Tăng pháp v.v... ở cùng phòng cũng thấy mà lấy làm quái lạ, nói rằng: "Đây là điềm lành gì vậy? Mong thấy hiện lại để dứt nghi của chúng sanh!" Bỗng chốc thấy lại ánh sáng như trước.
Nhân đó, Sư sang hang Kim Cương, vọng lên hư không kính lễ, vừa ngồi muốn ngủ, nghe có tiếng bò rống ba tiếng rằng: "Uống nước". Có một ông già dáng mạo suy hoại, mặc áo vải thô ngắn, chân mang giầy gai, khăn lót rất kỳ lạ. Sư bèn đứng dậy đón rước nắm lấy tay hỏi: "Từ đâu đến?" Ông lão đáp: "Ở phương ngoài núi tìm cầu thức ăn".
Ngài hỏi: "Dùng lại ở xứ nào?" Đáp: "Tìm thức ăn ở Đài Sơn". Ông lão lại hỏi Sư rằng: "Sư định ở nơi nào?" Sư đáp: "Nghe nói ở đây có hang Kim Cương, nên đến tùy hỷ". Ông lão hỏi: "Sư có nhọc mệt chăng?" Sư đáp: "Không!" Ông lão bảo: "Đã không nhọc mệt sao vội ngủ vậy?" Sư đáp: "Phàm phu hôn trầm, đâu có gì lạ ư!" Ông lão bảo: "nếu Sư hôn trầm thì hãy đi nếm thử chè nấu đi?" Và liền chỉ về hướng Đông Bắc thấy một Tinh xá cách khoảng hơn vài bộ. Ông lão liền dẫn trâu đi trước, Sư tiếp bước theo sau. Đến cửa chùa, Ông lão kêu ba tiếng "Quân Đề", có đồng tử đáp tạ và ra mở cửa, tuổi chừng mười bốn, mười lăm, tóc để ngang mày, mặc áo vải thô lót mình. Dẫn trâu vào chùa.
Sư trông thấy đất ở đó toàn bằng lưu ly, đường sá mái hiên đều có ánh sáng mầu vàng. Ở đó xinh đẹp, chẳng như cảnh giới ở nhân gian. Ông già ngồi trên giường ngà trắng, chỉ cái đôn gấm, bảo Sư ngồi. Đồng tử bưng hai chung trà đến, cùng uống xong, lại đưa đến hai chén bằng đồi mồi trong toàn là chất tô lạc, mỗi chén một thìa. Sư ngậm nuốt vào mà như có sở chứng, thần phủ hoát tỏ ngộ mọi việc xưa trước. Ông lão hỏi: "Từ lúc Sư xuất gia đến nay, có làm gì, có lo nghĩ gì chăng?" Sư đáp: "Có tu mà không chứng, đối với đại tiểu hai thừa nhiễm chỉ mà thôi". Ông lão hỏi: "Chẳng hay lúc mới xuất gia là cầu tâm gì ư?" Sư đáp: "Cầu tâm đại thừa Bồ Đề". Ông già bảo: "Sư dùng tâm ban đầu mà tu tức đắc". Ông lão lại hỏi: "Sư bao nhiêu tuổi?" Sư đáp: "Ba mươi mốt tuổi". Ông già bảo: "Sư thuần thục, năm ba mươi tám tuổi thì gốc rễ phước đó trồng ở đất này rất tươi tốt! Vả lại hãy từ từ xuống núi, khéo tìm đường đi, chớ làm thương tổn hại chân. Nay tôi tuổi đã già nua, từ ngoài núi đến rất là mệt nhọc, muốn được yên nghỉ ". Sư hỏi: "Ở lại qua đêm tại đây có được chăng?" Ông lão bảo: "Không được! Vì Sư có hai người bạn đi theo, đêm nay không thấy sư về sẽ rất lo buồn. Đó là Sư còn chấp bám lấy tình". Sư nói: "Đệ tử Cù-Đàm có chỗ nào để chấp. Tuy có bạn cũng không đoái hoài luyến tiếc". Ông lão lại hỏi: "Sư có mang theo ba y chăng?" Sư đáp: "Từ khi thọ giới đến nay luôn mang theo". Ông lão bảo: "Đó là chỗ chấp". Sư nói: "Cũng có trong Thánh giáo mà, nếu cho phép dừng ở qua đêm thì tạm niệm xả y, nếu có nhân duyên ngoài ý muốn, thì Phật cho phép". Ông lão bảo: "Nếu theo pháp Tiểu thừa, không nạn chẳng được xả y, phải nên gìn giữ". Ông lão bèn phẩy vạt áo, Sư cũng rảo bước. Ông lão lại bảo: "Hãy nghe tôi nói kệ đây:
"Nhất niệm tịnh tâm là Bồ-đề
Hơn tạo vô số tháp bảy báu
Tháp báu cuối cùng cũng đổ nát
Nhất niệm tịnh tâm thành Chánh Giác"
Sư lắng thần cúi nghe, cảm tạ rằng: "Được nghe một kệ như uống đề hồ. Dung nhập vào trí môn đâu dám quên chỉ quyết. Trượng nhân có thể gọi là biết lời minh khắc vào tâm phủ". Ông lão gọi: "Quân đề! Hãy đưa Sư đi". Khi sắp đi, Ông lão lại vỗ vai Sư, bảo: "Khéo đi!". Sư lại cúi mình, cùng đồng tử sánh ngang cùng bước. Đến trước hang Kim Cương, Sư hỏi Đồng tử rằng: "Đây là ngôi già-lam gì mà không treo bảng chùa?" Đồng tử chỉ hang Kim Cương, mà lại hỏi Sư rằng: "Ấy là hang gì ư?" Sư đáp: "Đời trước tương truyền tên là hang Kim Cương". Đồng tử hỏi: "Dưới Kim Cương có chữ gì?" Sư chỉ suy nghĩ giây lát đáp: "Dưới Kim Cương có Bát-nhã". Đồng tử mỉm cười rồi chỉ vào chùa Bát-nhã. Sư nắm tay Đồng tử vái chào mà từ biệt. Đồng tử đưa mắt nhìn thẳng vào Sư như muốn nói điều gì. Sư nói: "Tiễn đưa tôi có thể dùng lời thay cho vải the và ngọc chuyết chăng?" Đồng tử bén nói kệ rằng:
"Trên mặt không sân đủ cúng dường
Trong miệng không sân nhả hương thơm
Trong tâm không sân là tâm báu
Không nhiễm không dơ ấy chân thường."
Nói kệ xong, trong khoảnh khắc, đồng tử và chùa Thánh đều biến mất, chỉ còn thấy núi rừng đất đá. Sư buồn bã dâng đầy, sùi sụt không thôi, bèn thán rằng: "Lời đầu dư luận như sênh ca, âm hưởng sau cùng vẫn còn!" Sư nhìn kỹ lại chỗ núi ông lão đứng, có mây trắng ùn ùn nổi dậy cách đất khoảng một lần, biến thành sáng mây năm mầu, trên có đức Đại Thánh cưỡi sư tử và các Bồ-tát vây quanh. Chỉ chừng trong khoảng bữa ăn, ở phương Đông có một đoạn mây trắng tạm che mặt Bồ-tát, các tượng và mây đều biến mất. Sư chợt thấy sáu vị Sa-môn Tu Chính, chủ chùa Bồ-đề ở Phần Châu đều sắp trở về đến trước hang để làm lễ, bỗng nhiên nghe tiếng đá núi rung chuyển như sấm sét, chư tăng vội bỏ chạy, giây lâu vắng bặt không thấy gì. Sư bèn trình bày lại cuộc gặp gỡ, cả sáu vị đều hối hận tự trách không thấy được tôn dung Đại Thánh, chỉ thước miên mạc biết tội chướng khó ngăn che. Sư bèn ẩn cư tại núi đó đến ngày viên tịch.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), môn nhân là Văn Nhất truy niệm thuật lại.
Thích Phổ Hóa, không biết Sư là người xứ nào, bản tánh khác thường có lắm chân suất, cử chỉ phóng khoáng, nói năng chẳng bó buộc.
Sư tự thân kính thờ Thiền Sư Tích ở Bàn Sơn, kín đáo chỉ dạy, vào sâu chỗ mầu nhiệm, khuyên răn Sư gìn giữ, nhưng Sư phát cuồng bột, thường gặp gỡ ngài Nghĩa Huyền-Lâm Tế, mới đối đáp với đó bằng tiếng lừa kêu, đứng hầu bên cạnh mà chẳng mỉm cười. Có lúc Sư ca múa, có khi Sư buồn khóc, hoặc có lúc tiếp người, biến hóa muôn ngàn sắc thái, hời hợt bất thường. Một hôm, Sư vác hòm gỗ đi tuần giữa đường cái, lần lượt từng nhà mà cáo tử rằng: “Ngày mai Phổ Hóa tôi chết rồi". Khi đó, những người trông thấy biết không thể mắng trách. Dân chúng đất Triệu cùng dẫn nhau đưa ra cửa thành phía Đông. Rồi Sư lớn tiếng bảo rằng: "Hôm nay an táng chẳng hợp với thanh ô!". Qua hai ngày sau, đi ra cửa Nam mọi người cùng theo đưa. Sư lại bảo: "Ngày mai mới tốt". Như vậy rồi đến cửa Tây cửa Bắc đi ra rồi trở lại. Mọi người phiền ý biếng lười. Bỗng một hôm, Sư an tọa giữa chỗ hoang vắng như nhập thiền định. Trong Thiền tông có ai soạn thuật gì, lấy đó làm lời phát ngôn, bậc Tiên giác xếp Sư vào trong khoa mục Tán Thánh, lời nói chẳng phải chánh viên.
Thích Đại Xuyên, không rõ Sư là người xứ nào. Trầm mặc tự sống, tiết tháo nghiêm khắc, giới không thiếu sót, nói năng chẳng buông lung. Sư trụ tại chùa Thê Hiền ở Hán Châu, thực hành pháp Tứ Thánh Chủng, khắc khổ tinh tấn. Sư vui thích, chẳng trễ nải, không già trẻ nào chẳng tôn sùng kính phụng. Đến lúc Sư thị tịch, nằm ở ngoài chùa, các hàng tại gia trang nghiêm giường chõng cùng nhau đón rước vào trong chùa để cử hành tang lễ. Bỗng nhiên có hai con nai dẫn trước như đi hầu. Mới đến ngưỡng cửa, biển ngạch tự nhiên rơi xuống đất. Mọi người xa gần đều kinh ngạc, khen ngợi.
Lại nữa, ở núi đó vô cùng kinh dị, chẳng dung chứa thô bỉ. Có Sa-môn Thâm Tạng, bất cẩn chí nguyện, có nhiều trái phạm, bị vị thần ném xuống núi xa chừng bảy dặm, chỉ thương tổn ngón chân. Từ đó, không ai chẳng chừa đổi giữ giới. Vào khoảng đầu niên hiệu Đại Lịch (766), ở phía Bắc núi biến thành mầu vàng ròng, phía trên có lầu gác, có Bồ-tát hành đạo, chỉ trong phút chốc có đến muôn hình ngàn trạng. Sư vốn ở chùa đó, cùng đất đều linh, nên lưu lại di ảnh cúng dường như kính tụng thờ linh từ.
Kế nữa, có Ngài Pháp Cảnh ở đất Mân Thành, không rõ Sư là người xứ nào. Sư hành trì Pháp hạnh Đầu-đà, chuyên cần khắc khổ, khơi bày khuyến hóa dân chúng đất Mân, từ khí thẳng thắn. Nghe ở Giang Nội thuộc luyện môn Hải Đàn có quả chuông lớn, tương truyền rằng: "Xưa kia có người sang Quảng Châu, kính mến chuông trống, đến bằng thuyền lớn nhưng vừa đến gặp phải sóng gió nên bị chìm. Mỗi tháng vào ngày rằm, triều dâng đến, nước thối lui, bờ lau mới xuất hiện có thể dung chứa một người, từ trong xuyên qua chu vi đường kính khoảng hơn một trượng. Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), Sư muốn ra chuông đó, trước đó chùa Khai Nguyên thiết đại trai hội, tự chủ sai một vị tăng nhỏ đến Long cung cầu thỉnh chuông để đem về nơi nhân thế đánh lên để cảnh tỉnh hôn mê. Vị tăng nhỏ ấy thấy thần biển nói rằng: "Ta tiếc vì trấn biển, riêng ban tặng ba viên châu nhỏ để làm tin". Đương lúc đó, vị tăng nhỏ ấy như tỉnh giấc mộng thì có ba viên châu đã ở trong tay.
Thích Nan-Đà, Hán dịch nghĩa là "hỷ". Không rõ Sư thuộc họ gì và người ở nước nào. Sư là người lạ lùng khác thường, cung kính khinh mạn bất định.
Khoảng niên hiệu Kiến Trung (780-784), tự nhiên Sư đến xứ Mân Thục. Bấy giờ, Trương Ngụy Công mời Sư trấn nhậm ở Thành Đô. Sư tự nói: "Ta đã thành tựu Tam-muội Như Huyễn, từng xuống nước không ướt, vào lửa không cháy, có thể biến ra vàng đá, hóa hiện vô cùng". Ban đầu, Sư đến đất Thục cùng ba cô Ni trẻ đồng đi, hoặc có lúc say mèm, điên cuồng ca hát, có khi nhóm chúng nói Pháp. Nhung Tướng rất giận ghét, kíp bảo bắt trói, Sư bị bắt đến, bèn nói rằng: "Bần đạo gá vết nơi tăng môn, riêng có dược thuật". Nhân đó, Sư chỉ ba cô Ni mà bảo rằng: "Đây là những người khéo múa hát". Nhung Tướng mới tôn trọng Sư, giữ Sư lại thiết bày rượu thịt dạ yến cùng chung ăn uống hát xướng. Sư bèn mượn áo cánh, quần dài, khăn lược, ba cô Ni mới tự son phấn cùng bày ngồi, ngắm nhìn cười cợt trạng thái trội vượt tuyệt trần, cùng uống đến nửa cuộc vui, Sư nói với các cô Ni rằng: "Hãy vì Áp Nha nhảy múa?" Nhân đó, chậm rãi tiến đối, múa men quay vòng, thoắt nhanh đứng dậy xoa đùi, tài khéo chẳng ai bằng. Giây lâu khúc nhạc đã hết mà múa vẫn chưa thôi. Sư mới quát rằng: "phong cách Phụ nữ như vậy hay sao". Sư vụt đứng dậy lấy dao của Nhung Tướng, mọi người đều cho là tửu cuồng. Những người ngồi thảy đều kinh sợ bỏ chạy, Ngài bèn chặt đầu ba cô Ni đều ngã lăn ra đất, máu chảy lan đến vài trượng. Nhung Tướng rất kinh hoảng, kêu mọi người chung quanh bắt trói Sư lại. Sư cười bảo: "Không sao". Rồi từ từ nâng ba cô Ni dậy và dùng gậy trúc chống đỡ, máu chảy đến chỗ rượu uống. Sư lại bỏ ngồi uống tiếp, riêng sai người chặt đầu dùng đinh đóng hai tai vào cột, đều không có máu dơ, thân thể đã ngồi trên chiếu, rượu mang đến thì đều rót vào chỗ chặt, sắc mặt cũng đỏ, miệng lại ca múa, tay lại đánh vỗ ứng tiết, đến lúc tiệc tan, thân tự đứng dậy đến nơi trụ lấy đầu đặt vào, liền không vết sẹo gì.
Sư thường luôn nói chuyện lành dữ của người, phần nhiều là câu đố, sau đó mới ngộ hiểu. Tại Thành đô có người cúng dường vài ngày, Sư chợt không muốn ở, bèn đóng cửa lưu giữ Sư lại. Sư liền vào vách tường bít lại, và dẫn đó tạm vào, chỉ chừa lại một góc áo ca-sa, xa xa lại chẳng thấy. Ngày hôm sau, thấy trên vách tường có họa ảnh vị tăng, hình dáng như thường ngày, cách ngày dần dần rơi xuống, qua bảy ngày nữa thì không có vết mực đen, đến ngày thứ tám thì vết mực đen cũng biến mất. Có người sớm thấy Sư đã sang cõi Bành Châu. Sau không biết Sư đi đâu!
Liên hệ thử bàn:
Hình trạng vết tích của Ngài Nan-đà là tà hay chánh? Tà mà tự nói đã đắc Tam-muội Như Huyễn thì đồng như vua Vô Yểm Túc. Tam-muội đó tức là Đại định của các Đức Phật. Chỉ như huyễn thấy như huyễn, không thể dùng ngôn luận mà phân cảnh giới. Trong bốn thứ thần thông có Như Huyễn thông, có khả năng chuyển biến vật bên ngoài, nên Ngài Nan-đà cảnh giác dân chúng đất Thục phần nhiều kính chuộng quỷ đạo thần tiên. Nếu chẳng phải loại Tam-muội đó thì không đủ để cảm hóa thế tục khó cảm hóa.
Thích Huyền Tông, họ Ngô, người ở xứ Vĩnh Gia. Sư xuất gia từ thuở thiếu thời, khí độ rộng rãi. Sư ở tự viện Bảo Thọ, núi Vĩnh Định trong bổn bộ, nương tựa Thường Tỉnh làm Sư Chiếu. Sau khi đắc giới, Sư lại du phương tham học. Sư đến môn tịch của Thiền Sư Từ Lãng ở Giang Lăng, như vàng ròng đã được đúc, quyết rõ nghi lầm, Sư lại chống tích đến phương khác, thấy núi Tử Kim mà vui thích ở tự tâm nên dừng lại hành trì thiền quán. Núi đó trước kia có lắm hổ dữ, hoặc cắn người đi buôn, làm tổn thương kẻ tiều phu hái củi. Người lánh hà khắc khóc vợ rất u buồn. Từ khi Sư đến ở thì tiếng gầm thét cũng mất, từ đó, người vào núi không còn phải lo sợ. Một hôm, Thiền chúng nhóm họp, thấy có một ông lão rảo bước đến trước tòa quỳ lạy rất cung kính. Sư hỏi: "Ông là ai" Ông lão đáp: "Tôi vốn là hổ ở trong núi này ăn thịt chúng sinh. Nhờ Đại sư đến hành hóa ở đây, thầm xoay tâm tôi nên được thoát nghiệp thân hổ, đã sanh lên cõi trời, nên trở lại báo tạ, trong khoảnh khắc ông lão biến mất. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), Sư dặn dò giã biệt môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ tám mươi sáu tuổi, tháng 2 nhập tháp, lập văn bia, nay vẫn hiện còn.
Thích Quảng Phu, họ Trịnh, người ở xứ Nam Yên, thuở nhỏ Sư nương tựa Đại Đức Tư Hạo ở Kinh Vọng, dưới nương thừa pháp huấn. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư đến hai Kinh Tung Sơ, Thiếu Thất, gặp được Thiền Sư Thần Tú mà tỏ sáng huyền chỉ. Sư đến núi Dương Kỳ ở Nghi Xuân, dừng ở. Là nơi Trung Phong Loan Tích Thúy Động Huyệt Thiệp u nhàn, mầm mống nấm chi bám vào cỏ bôn. Sư suốt ngày nhắm mắt, ăn dùng cỏ cây qua bữa. Khi đó có những người đội mũ cao, choàng khoát áo lông, cỡi hạc ngồi xe loan, ban đầu thì chợt qua chợt lại, sau thì lên am đến cầu cạnh. Đó là các khách tiên đến, hẳn là mây nhẹ sương bạt từng bước mà đến, những người theo ủng hộ là thiên đinh lực sĩ khiến đi xa, cùng đối gặp đàm luận qua thời gian. Sau khi đạo hóa đã hoàn thành, đến ngày mùng 4 tháng 3 niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ nhất (758) Sư thị tịch, thọ chín mươi mốt tuổi.
Liên hệ thử bàn:
Thần tiên khác đạo, đàm luận há đồng ư? Thông đáp: Thuở xưa, còn nhỏ có vị chân nhân hay đàm luận về lý Không. Thần tiên các núi bèn xây tháp, tin sùng Phật đạo, chỉ không cạo bỏ râu tóc, không đắp mặc pháp y, gọi đó la Bồ-tát tại gia. Lại nữa, các vị tiên ở núi Tuyết, giỏi về luận ngũ minh mà cầu độ, là đồng. Nhung Đạo tương tự ấy phải phân biệt cho rõ. Như năm trong hai mươi đế ở Tây Vực, chỉ lượng về năm đại thì tên gọi đồng với Pháp của Phật giáo, còn sở chấp thì khác xa, thật là khó phân biệt!
Thích Viên Chấn, họ Trần, người ở xứ Trung Sơn. Từ thuở nhỏ, Sư đã cảnh ngộ mà ham học, vào trường học nghiên cứu Ngũ Kinh. Chợt gặp một vị Sa-môn vân du ở nghỉ qua đêm, cha của Sư làm Châu Nha lại, rất có Đạo tâm, giữ vị tăng ấy lại cúng dường. Sư kính lễ phụng sự vị tăng ấy, được nghe đàm đạo rất tỏ ngộ nhập thần, bèn bỏ sách Nho, tìm học kinh Phật, chóng giã từ thân thích, sang núi Bạch Tư kính lễ phụng thờ Ngài Trí U làm thầy mà thọ giáo. Sau gặp được thiền Sư Hà Trạch nên đắc Pháp. Sư đến ẩn cư tại núi Ô Nha ở Nam Dương. Trong núi đó trước kia vốn có nhiều con rắn lớn, trong hang đầm lại có rồng độc, dân chúng bản xứ rất lo sợ. Từ lúc Sư đến ở thì hai loài vật đó đều biến mất, từng có một người hình hài sắc phục lạ thường đến lễ bái, thưa Sư rằng: "Tôi ở tại đây đã hai trăm năm, ngày nay cảm được sụ giáo hóa vô tâm, tu hành không lo lắng, bọn chúng tôi thầm cảm được siêu thăng, há chẳng do năng lực của Sư ư?" Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 6 (790), Sư thị tịch, thọ tám mươi sáu tuổi, đệ tử đón rước toàn thân nhập tháp.
Thích Địa Tạng, họ Kim, là chi thuộc của Quốc vương Tân-la. Sư từ tâm mà dáng mạo xấu ác, thông minh dĩnh ngộ tự nhiên, thân cao bảy thước, đảnh cốt nhô cao, đạc biệt có tài cao, sức lực có thể địch nổi mười người. Sư thường tự hối rằng: "Trong Lục tịch hoàn và Tam thanh thuật, chỉ có đệ nhứt nghĩa hợp với phương thốn". Khi đó, Sư xuống tóc, vượt biển bỏ thuyền mà đi. Sư chống tích du phương, tình cờ đến Trì Dương thấy núi Cửu Tử mà trong tâm ưa thích, bèn dò bước lên trên đảnh được chỗ đất trong hang, mặt sáng mà khoan bằng. Đất ở đó mầu đen mềm, suối nước ngon ngọt, Sư ở trên khe múc lấy dùng qua ngày. Sư từng bị nọc độc mà vẫn an nhiên doan tọa không lo nghĩ. Bỗng có cô gái đẹp lạ đến lễ bái dâng cúng thuốc men, và thưa rằng: Tiểu nhi không biết, xin nguyện ra khỏi suối để tạ lỗi!" Nói xong, bèn biến mất, Sư trông thấy chúng quanh tòa nước chảy đầy. Khi đó, cho là thần núi Cửu Tử khơi dòng nước để giúp dùng.
Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Lý Bạch đến núi nầy, gọi là núi Cửu Hoa. Tục truyền rằng thần núi đó là phụ nữ. Trên đảnh núi phần nhiều thường có sương mù mây tụ, ít lúc nào lộ bày đảnh. Sư vốn nguyện hành trì bốn bộ kinh lớn, bèn xuống núi đến Nam Lăng, có Tín Sĩ viết giúp, được kinh rồi Sư thỉnh trở về núi.
Những năm đầu niên hiệu Chí Đức, có Gia Cát Tiết dẫn Thôn Phụ từ chân núi lên chỗ cao sâu không người, thương ngày có mây sáng đẹp, chỉ Sư ở một mình mà lại nhắm mắt xoay vào hang đá. Trong phòng có cái đảnh gãy chân, trong đảnh có đất trắng hòa với gạo rang mà ăn dùng. Quận lão kinh hãi than rằng: "Hòa-thượng khổ hạnh như thế, bọn chúng tôi có lỗi riêng ở dưới núi!". Bèn cùng nhau xây dựng Thiền vũ, không mấy năm mà thành ngôi chùa lớn. Đến những năm đầu niên hiệu Kiến Trung Trương Công Nghiêm nhậm trị bang đó, do kính mến cao phong của Sư, nhân đó đổi bản ngạch cũ, tấu trình đặt thành chùa, tại bổn quốc (nước Tân-la) nghe thế, bèn cùng nhau vượt biển tìm đến. Từ đó, đồ chúng rất đông mà không vật thực để cung cấp cho đồ chúng ăn. Đồ chúng đó vốn muốn thỉnh pháp để nuôi thần chẳng vì ăn uống mà dưỡng mạng. Ở phương Nam gọi đó là chúng Khô Cảo, không ai chẳng tôn sùng kính ngưỡng. Bên cạnh Long Đàm có đất mài mầu trắng lấy mãi mà chẳng hết.
Đến mùa Hạ niên hiệu Trinh Nguyên thứ 9
(793), bỗng nhiên Sư nhóm chúng mà cáo biệt. Không biết cái gì vụt qua, chỉ nghe tiếng núi đá rơi đổ gõ vào chuông phát tiếng. Sư ngồi kiết già mà thị tịch, thọ chín mươi chín tuổi. Nhục thể Sư an trí ngồi trong hòm, ba năm sau mở đêm ra nhập tháp, nhan sắc cũng như lúc còn sống. Nâng khiêng xương cốt bị động phát ra tiếng như lay lắc xích khóa vàng, bèn xây một ngôi tháp nhỏ ở Nam Đài, đó vốn chỗ đất Sư yên tọa. Bấy giờ, chúng sĩ hữu thâu nhặt di phí, quan khanh tựa sự vẫn còn. Vào niên hiệu Đại Trung (847-860), Sa-môn Ứng Vật cũng ghi lại đức hạnh của Sư.
Thích Thần Huyên, họ Lưu, người ở xứ Kiến Dương. Từ thuở nhỏ Sư đã trầm tĩnh, không hỏi chẳng nói, Sư đến chùa Khai Nguyên mà phát chí nguyện xuất gia. Tự nhiên bổn quận Thái Thú vào chùa hỏi thầy Sư, trông thấy Sư có thần thái lãng luyện, Thái Thú khéo xem tướng người. Ngoảnh trông nhìn kỹ đôi ba phen, lại bảo: "Đứa trẻ nầy thật là pháp khí xuất trần. Ngày sau đến nương thọ Pháp mầu có cả ngàn chúng vây quanh, hẳn vượt thượng quả, chẳng phải là phàm khí". Và khi trì tụng thần chú Thất Phật Câu-Chi, tối sáng chẳng dứt. Sau khi thọ giới, Sư đến dừng ở trong hang đá tại động Bách Gia Nham thuộc phía Bắc núi Kim Hoa, chẳng dựng lập am thất, thực hành hạnh Đầuđà lộ địa, lại không giường chõng, nhưng có vị thần nhả mây khí sắc tía che chở, xa trông nhiễm nhiễm như Độc Trụ Quán. Vị thần đó có lúc đến hỏi đạo, khoanh tay thưa Sư rằng: "Đảnh núi phía Đông Động Xích Tùng có rừng suối trác dị, Sư có thể đến ở đó chăng?" Sư thuận theo lời thỉnh sang đó ở vài năm, có nhiều điều ứng tốt lành.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), gặp Thiền Sư Chí Hiền nói với Sư rằng: "Trì tụng như thế ma sự sẽ sanh. Muốn diệt ma oán phải biết gốc thân. Gốc thân thật không ma không Phật". Sư hoát nhiên khai ngộ, lý sự đều thành, công năng thần chú càng gấp bội. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (813), Phạm Dương Tung Thừa biết kính ngưỡng, sai sứ mang sữa, hương, giạ, len, các đồ vật đến cúng dường Sư và hồi thí cùng đại chúng hiện tiền.
Tiếp theo có Trung Thư Xá Nhân Vương Trọng thỉnh Sư đến chùa Đại Vân truyền giới Bồ-tát cho đại chúng. Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12
(817), Bình Xương Mạnh Giản Thượng Thư từ Cối Kê thỉnh mà Sư không đến. Tới tháng 8, bỗng nhiên Sư trở về viện cũ, mọi người chẳng lường rõ, bỗng chốc bảo là thị tịch, Sư thọ bảy mươi sáu tuổi, các đệ tử xây tháp thờ.
Có thuyết nói: lúc Sư ở tại núi Kim Hoa, tại phía Bắc lạnh nhiều ít nắng. Vị thần hỏi Sư rằng: "Sư cần vật gì?" Sư bảo: "Phía Nam núi tôi ở bị khổ vì quá lạnh". Thần nói: "Ấy là việc nhỏ". Đến đêm nghe tiếng của Sư, đến sáng sớm thấy một ngọn núi nhỏ đã dời đổi.
Thích Đạo Hạnh, họ Lương, người ở xứ Quế Dương. Từ lúc sanh Sư về sau, Sư vốn thần phủ thông minh, cơ thể như băng tuyết.
Năm mười hai tuổi, Sư phát tâm kính mến đạo, đến thọ học tại Đạo Tràng Bát-nhã ở Nam Nhạc. Ngài đến Chung Lăng cầu quyết trạch, tự thầm chứng pháp, hiệu là Tự Tại Tam-muội. Từ đó Sư mặc áo nạp vải bố, mang giầy cỏ Bồ, để dưỡng hơi tàn mà thôi. Sư đến phía Tây Nam Lễ Dương, chặt cây làm thất phương trượng mà ở. Tại đó có lắm hổ báo thường đến nằm quanh giường chõng. Sau có người mang gỗ tốt đến xây dựng nhà cửa, chưa đến mười ngày đã hoàn thành. Nhìn lại thì vắng bặt không có người nào cả. Mới biết là quỷ thần xả thí gỗ và giúp sức. Thái thú khổ nhọc mới thỉnh được Sư đến trụ chùa Khai Nguyên ở Châu Trị.
Sau đó không lâu, Sư thị tịch vào niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15, thọ sáu mươi chín tuổi. Tràtỳ thâu nhặt xá-lợi xây tháp thờ.
Thích Hoài Không, họ Lương, người ở xứ Mân Châu. Từ thuở bé, Sư đến Viện Quảng Phước ở núi Kỳ-Xà thuộc trong bổn Châu, cạo tóc xuất gia. Sau khi đắc giới, Sư du phương tham học. Ngài ở trong thiền pháp của Thiền Sư Đại Tịch gột rửa tỏ sáng. Sau Sư đến núi An Phong ở Bình Thành mà trụ ở đó. Sư trụ ở đó chưa được mấy năm mà đã trở thành một đại già lam, từng có một vị tăng nương giữa hư không mà đến, đi nhiễu quanh tường không nghỉ, hoặc có lúc nhẹ bước trên hoa sen, hoặc có lúc phủ đất, mọi người đều trông thấy. Sau vài ngày, bèn đảnh lễ Sư mà từ giã. Lại nói: "Tôi từ ba đến năm năm trở lại nương nhờ". Nói xong liền biến mất.
Đến niên hiệu Hưng Nguyên thứ nhất (784) Sư thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi. Sang tháng 2 niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821) mới dời nhập tháp, v.v...
Thích Viên Quán, không rõ Sư là người xứ nào, Sư ở tại Lạc Trạch, tánh tình đơn giản, hoặc chuyên cần Phạn học, giỏi sanh kế, được lợi ruộng vườn. Bấy giờ, Sư được gọi là "Không môn y đến". Ngoài ra, Sư có lắm thi vi tuyệt dị, lại thông rành âm luật.
Cuối niên hiệu Đại Lịch (780), Sư cùng Lý Nguyên kết bạn vong hình. Thân phụ Lý Nguyên là Lý Trùng ở Thủ. Khoảng cuối niên hiệu Thiên Bảo (756) bị vùi lấp trong giặc, bèn đem gia nghiệp xả thí vào chùa Tuệ Lâm ở phía Bắc Lạc Thành, tức ruộng nhà riêng của Lý Trừng. Và cho đó là "Công dụng vô tận tài". Nhưng thường ngày cung cấp một đồ vật, theo chúng tăng ăn uống mà thôi. Như vậy suốt ba năm. Lý Nguyên khéo phục vụ thức ăn. Bỗng hẹn cùng Sư đi đến các núi động như Nga Mi ở Thanh Thành,... để tìm thuốc. Sư muốn đi Trường An từ đường Gia Cốc. Lý Nguyên muốn từ Kinh vào Hạp, tranh luận hai đường đến nửa năm chưa quyết định. Lý Nguyên nói: "Tôi đã không thờ phụng Vương Hầu, nên đi chẳng muốn trải qua đường của hai Kinh!" Bèn từ Kinh lên Hạp, đi đến Nam Phố, ghé thuyền thấy vài phụ nữ điều đạt đeo nhiều châu ngọc, mang thùng gánh nước, Sư cúi đầu khóc nói: "Tôi không muốn đi qua đường này là sợ thấy người phụ nữ ấy!" Lý Nguyên nói: "Người phụ nữ mang thai đó vốn họ Vương, là nơi tôi gá thân, đã qua ba năm còn chưa sanh nở, chỉ vì tôi chưa đến. Nay đã thấy thì thân mạng này sắp kết quy. Đó là việc trong Phật giáo gọi là tuần hoàn. Xin ông dùng phù chú làm cho người đó chóng sanh. Vả lại, xin nán lại thời gian dùng thuyền đưa xác thân tôi an táng nơi hang núi. Và lúc nhà người ấy tắm gội cho đứa bé, cũng mong ông đến hỏi thăm. Nếu ngoảnh lại nhìn cười, thì ấy là còn nhận biết ông. " Sau mười hai năm, vào đêm Trung Thu sẽ cùng gặp ông ở phía ngoài chùa Thiên Trúc thuộc xứ Tiền Đường. Đó là kỳ hạn gặp gỡ ông!". Lý Nguyên hối hận về chuyến đi đó. Còn Sư lúc đó buồn thương gần tuyệt. Mới kêu gọi ngươi phụ nữ mang thai ấy mà nói cho biết sự việc. Người phụ nữ ấy mừng vui, hớn hở trở về. Trong chốc lát thì bà con thân tộc nhóm họp đông đúc, đem cá khô rượu đục bày tiệc ở trên bờ sông. Lý Nguyên bèn sang trao nước có chú nguyện. Sư tắm rửa xong xuôi thay đổi y phục, và Sư vừa tắt hơi thở thì người phụ nữ ấy liền sanh.
Ba ngày sau, Lý Nguyên sang xem đứa bé mới sanh, đang ấp trong tã bồng đến chỗ sáng, quả nhiên mỉm cười. Lý Nguyên khóc mà nói rõ với Vương Thị. Vương Thị lo việc tang lễ của Sư rất nồng hậu. Ngày hôm sau, Lý Nguyên quay thuyền trở về chùa Tuệ Lâm, hỏi đệ tử của Sư mới biết Sư đã thị tịch. Lý Nguyên luôn nhớ nghĩ ước hẹn đến Hàng Châu. Khi đã đến kỳ hạn bèn đến chùa Thiên Trúc. Đêm đó ánh trăng sáng ngời, bỗng nghe bên bờ giếng Cát Hồng có tiếng mục đồng ca khúc nhạc Trúc Chi, đang cỡi bò, gõ sừng, đầu để hai búi tóc, mặc áo ngắn, từ từ đi đến trước chùa. Đó chính là thân sau của Sư. Lý Nguyên liền rảo bước lại vái chào hỏi rằng: "Quán Công khỏe chăng?" Sư bảo: "Lý Công thật là kẻ sĩ giữ niềm tin, tôi và ông khác đường, cẩn thận chớ gần nhau, ông chưa hết duyên đời, chỉ nên tinh tấn tu tập, không sa đọa thì sẽ gặp nhau!" Lý Nguyên không do đâu mà mở lời, chỉ biết trông nhìn lặng lẽ. Sư lại ca hát khúc nhạc Trúc Chi, Tra y đi trước, ngôn từ tha thiết, khúc điệu xa vời, chẳng biết nói làm sao. Lý Nguyên bèn khen rằng: "Quán Công thật là vị tăng đắc đạo! Chỉ trong thước tất cách biệt mà thánh phàm khác lối, xét thật có điều ấy!".
Ban đầu, Lý Nguyên buồn hận cha mình bị giặc làm hại. Lúc đó chỉ mới tám tuổi lại bị bọn giặc bắt tù, trôi giạt khắp Nam Bắc, xoay vần nơi quê người, sáu mươi năm sau mới trở về chỗ gần gũi. Vua Đại Tông nghe thế, trao ban chức Hà Phủ Duyện. Lý Nguyên dứt bỏ hẳn rượu thịt, không lập gia đình, chẳng kẻ tôi tớ chăm sóc, thường nương tựa chùa Tuệ Lâm, ở trong một thất, theo chúng trai thực. Lo trước huyệt mộ ở quê nhà, chuẩn bị mọi việc sau khi qua đời, và thường luôn sang nghỉ ở đó. Còn mọi sự vinh nhục, thị phi mỗi mỗi đều bình đẳng. Bấy giờ, Tướng Quốc Lý Công Đức dụ dâng biểu tiến cử, triều đình bèn ban chức "Giản Nghị Đại Phu". Khi đó, Lý Nguyên đã hơn tám mươi tuổi, bèn dâng biểu từ chối, hai năm sau thì qua đời, nhằm niên hiệu Trường Khánh thứ 2
(822).
Liên hệ thử bàn:
Ngài Viên Quán chưa chết mà đã gá thai trước như thế, nghe hẳn không tin. Vì sao? Vì trái với Thánh giáo! Từng nghe Mân-Ni có lắm như thế, làm con ở nơi nhà dòng tộc phụ nữ, nói là "Tiện lai", và đến khi sắp chết dùng son chấm trên đùi. Ngay ngày đó có nhà sanh con, trên thân có viết hai chữ "Tiện Lại" màu đỏ. Cùng loại như vậy cũng nhiều. Chỗ Trang Tử gọi là Khúc Sĩ không thể cùng nói Đạo. Bó buộc bởi giáo. Đó cũng như dị kế hữu giáo ở Tây Vực chưa truyền đến, Phật hoặc riêng đàm từng hội, thấy có Tông ta tự như thế. Nếu vậy thì chưa thể chấp nhất định đã hành. Đó như ngài Viên Quán quả chứng đã cao sâu, đồng như Luận Trí Độ nói có nhiều thứ không thể suy nghĩ bàn luận. Tâm nghĩ miệng nói ngàn dặm khó đuổi theo.
Thích Pháp Tạng, họ Chu, người ở xứ Nam Khương. Thuở còn nhỏ, Sư đã thông minh giỏi giang, bèn nghiên tầm sách sử và rất giỏi về Y Phương Minh, đồng với diệu dụng của Chi Pháp Tồn. Trong chúng tăng có vị bị bịnh, nhiều người bảo không thể cứu nổi. Sư đến bắt mạch bổ thuốc, chỉ vài hôm trở lại bình phục. Vị tăng ấy hay tiếp Sư bàn nói huyền Pháp, từ đó, Sư nảy ý xuất trần, khi ấy tuổi đã lớn. Sư khẩn thiết giã từ cha mẹ, đến Viện Bảo Tích ở núi Bình Điền trong bổn quận theo Đại Sư Nguyện tầm học thọ giới.
Sau, Sư đến tham yết Thiền Sư Đại Tịch nói dụ như đá chọi nước, bỗng nhiên Sư sang phương Bắc xuống Lô Sơn, lên đỉnh núi Ngũ Lão bèn mến thích ở đó linh dị, nên riêng ở nơi rừng lạnh, hái nhặt trái rừng, vốc nước khe suối để qua ngày. Sư dừng ở đó vài năm. Có hai vị tiên cưỡi mây mà đến, suốt ngày bàn luận có lúc ở lại qua đêm, hoặc trải qua cả tháng chẳng đến, hoặc đến nhiều ngày liên tiếp, những người chung quanh có thấy, nói lại khác nhau. Đến lúc học chúng nhóm họp đông đúc thì hoàn toàn không thấy tông tích. Lại một hôm, hai vị tiên cáo từ, nói với Sư rằng: "Xin trở về núi, Sư ở lại an lành!" Từ đó đạo hạnh Sư lan tỏa, đàn việt cùng nhau xây dựng một ngôi viện.
Khoảng niên hiệu Bảo Lịch (827), Sư thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi. Ngày mùng 4 tháng 3 năm đó nhập tháp, v.v...
Liên hệ thử bàn:
Lúc Ngài Pháp Tạng ẩn cư ở núi Ngũ Lão, có hai vị tiên đến đàm luận suốt ngày như thế là sao? Thông đáp: Xưa kia, Lưu Hướng ghi tập Liệt Tiên nói rằng: "Có bao nhiêu người thấu suốt nội điển ư? Lại nữa, Bùi Chu Đồng Bách, đệ tử Tam chân nhân, đều học Phật pháp phân nửa, có thể chẳng đến hỏi đạo ư? Trong thơ có nói: "Thảo trùng ứng vơi phụ chung" là đồng.
Thích Giám Không, họ Tề, người ở Quận Ngô. Thuở bé nhỏ nghèo khổ, Sư siêng năng học tập mà ít ghi nhớ. Đến tuổi tráng niên, Sư làm thơ, chẳng bóng bẩy lắm. Thường khốn khổ qua lại xứ Ngô Sở đã bốn, năm năm. Cầu chỗ đượm nhuần ở Yết Hầu Bá chẳng bao nhiêu. Tiền hoặc xâu đầy thì bịnh sanh, tiêu dùng hết mới lành!
Đầu niên hiệu Nguyên Hòa (807), Sư đến Tiền Đường, gặp phải hoang sơ nghèo thiếu, mới tự bàn nghĩ xin ăn ở chùa Thiên Trúc. Đến chùa Cô Sơn thì quá đói chẳng tiến bước, nhân đó đến bên dòng tuyết, rơi lệ khóc buồn mấy tiếng. Bỗng nhiên có vị Phạm tăng ngồi trên dòng tuyết, ngoảnh nhìn Sư, bảo rằng: "Pháp Sư Tú Tài Lư Du thức ngon nhiều chất bổ đã đủ chưa? Sư đáp: "Lư Du, tư vị đã đủ". Pháp sư gọi một tiếng sao trái lầm vậy?" Bởi Sư lúc chưa làm tăng tên là Quân Phòng. Vị Phạm tăng ấy bảo: "Ông không nhớ giảng Kinh Pháp Hoa ở chùa Đồng Đức sao?" Sư nói: "Thân tôi nay đã bốn mươi lăm tuổi, quanh quẩn vùng đất Ngô Sở, chưa từng bước đến Kinh Khẩu, làm gì có việc ở Lạc Trung?" Vị Phạm Tăng ấy bảo: "Ông đang bị lửa đói thiêu đốt, chưa rảnh để nhớ lại việc cũ". Bèn lấy trong đãy ra một trái táo lớn bằng nắm tay, và bảo: "Vật này sản sanh ở nước tôi. Người ăn nó, nếu là thượng trí thì biết được việc ở quá khứ và vị lai, hạng hạ trí thì chỉ biết được việc đời trước". Sư quá đói bèn ăn táo và vốc nước suối mà uống, bỗng nhiên ngáp dài rồi gối đầu vào đá mà ngủ, trong khoảnh khắc thức dậy, nhớ lại việc giảng kinh ở chùa Đông Đức như mới hôm qua. Nhân đó, lại khóc gào, hỏi vị Phạm tăng ấy rằng: "Hòa-thượng Chấn ở đâu?" Đáp: "Chuyên tinh chưa thấu đáo nên trở lại làm vị tăng ở đất Thục, nay đã dứt bỏ phan duyên". Hỏi: "Thần thượng nhân ở đâu?" Đáp: "Nguyện xưa chưa mãn". Hỏi: "Pháp sư Ngộ ở đâu?" Đáp: "Há không nhớ ở trước tượng Hương Tích đùa phát đại nguyện ư? Nếu chẳng chứng Vô Thượng Bồ-đề nguyện làm quỷ thần có sức mạnh. Hôm qua nghe đã được làm đại tướng quân. Trong lúc năm người lưu lạc khắp nơi, chỉ có mình tôi được giải thoát, và riêng mình ông là kẻ sĩ đói lạnh". Sư khóc, nói: "Tôi bốn mươi năm, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, hơn ba mươi năm chỉ mặc một chiếc áo vải thô. Mải nổi trôi việc trần tục, quyết dứt nguồn gốc, sao cầu phước mà chẳng hoàn bị, lại mắc phải đói lạnh!" Vị Phạm Tăng ấy nói: "Bởi Sư lúc ngồi trên tòa sư tử, giảng nói những việc lạ lùng, khiến người học đối với nghĩa "Không" sanh tâm nghi ngờ. Giới châu từng bị sứt mẻ, mùi tanh hôi hiện còn chút ít, tiếng uế trược ảnh hưởng, thanh tịnh chưa đến được, thân hình gầy còm, báo ứng nên như thế". Sư nói: "Vậy thì làm sao?" Vị tăng ấy nói: "Việc ngày nay tôi không tính, việc đời khác cảnh tỉnh với ông". Bèn tìm trong đãy đựng bát lấy ra một cai gương hai mặt đều trong sáng, và nói với Sư rằng: "Muốn biết được thân phận sang hèn, kỳ hạn ngắn dài, Phật pháp hưng suy, Đạo ta thạnh suy, nên nhìn vào gương một cái". Sư soi chiếu xem xét giây lâu, mới cảm tạ rằng: "Sự báo ứng, lý hưng suy, cẩn trọng mà biết đó". Vị Phạm Tăng ấy lấy lại gương cất vào trong đãy, đi chừng hơn mười bước thì vụt biến mất. Đêm ấy, Sư vào chùa Linh Tả xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Sau vân du các danh sơn, càng cao khổ tiết.
Niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Sư đến Lạc Dương, trụ chùa Thiên Trúc ở Long Môn, gặp Liễu Trình ở Hà Đông. Sư nói nguyên do với Trình, Trình nghe việc Sư nói đều chẳng thường mà lại còn lắm kỳ dị. Sư nói: "Tôi sống nay đã bảy mươi bảy tuổi, ba mươi hai hạ lạp, còn chín năm trì bát khất thực ở giữa đời. Ngày tôi thị tịch là Phật pháp suy diệt!" Liễu Trình hỏi nguyên do, Sư yên lặng không đáp. Mới bảo Liễu Trình đưa bút nghiên đề vài hàng ở vách tường phía Bắc Kinh tàng mà đi. Sư viết rằng: "Hưng chỉ như một hạt cát, suy thì như số cát sông Hằng. Thỏ mà vất bỏ, chó mà bắt lấy. Trâu hổ giao nhau bằng sừng nanh, nhưng không thể nào phá diệt Hoa Đàn bảo".
Liên hệ thử bàn:
Ngài Giám Không ăn táo của Phạm tăng mà biết được túc mạng. Cùng như thuốc của Tuyết Sơn giải ngôn âm các nước là đồng. Soi gương mà biết được tốt xấu, cùng như dòm ngó Đồ Trừng bôi xoa vào tay là đồng. Ăn táo soi gương há là ngẫu nhiên ư? Đó là sự gặp gỡ của người phi thường. Ngài Giám Không đề sấm mà lấp bít câu hỏi của Liễu Trình. Xét việc phá hủy Phật giáo vào niên hiệu Hội Xương (841
-847), bấy giờ, vua Võ Tông bắt ép tăng ni hoàn tục có hơn hai trăm lẻ bảy ngàn người, phá chùa viện lan-nhã có đến bốn mươi bảy ngàn ngôi. Nên Sư đề: "Hưng chỉ như một hạt cát mà suy thì như số cát sông Hằng, thỏ mà vất bỏ, chó mà bắt lấy". Đó là nói tàn hại rất lắm. Vào năm Ất Sửu (845) phá hủy Pháp, đến năm Bính Dần (846) thì xuất gia!
Phật pháp dụ như cây đèn báu không bao giờ tắt mất, hoa nó vẫn phảng phất, cho nên nói như vậy. Nếu chẳng phải là dị nhân thì đâu thể giấu giếm việc đã qua và khảo cứu việc tương lai?
Thích Đạo Hạnh, họ Mai, người ở xứ Cối Kê. Cha Sư làm nha lại Việt Châu. Thuở bé, Sư đã sớm biết viết, so với người thì đã thành tựu tốt đẹp. Có vị tăng khất thực, Sư đón rước cùng đàm luận rất tinh thông thiền quán. Sư bèn xin xuất gia, đến Viện Bảo Thọ ở núi Tứ Minh chỗ Thiền sư Trí U mà bẩm thọ tiến tu, thường ngày lo việc lượm củi, múc nước.
Sau Sư đến Nam Nhạc, nghe Thiền sư Đại Tịch đang hóa đạo tại Giang Tây, Sư bèn sang đó theo hầu nương tựa, nuôi dưỡng mầm Thánh. Thấy núi La Phù kỳ dị, cao ba ngàn trượng, có bảy mươi hang đá, bảy mươi hai khe suối dài, Tiên Nhân cầm cây ngọc lá đỏ mọc ở trên, một nửa đuổi xuống biển. Sư ở trong hang đá vắng lặng an thiền. Nhưng cũng có lúc Sơn Tinh Thủy Quái thường hay kêu réo kinh hãi, Sư vẫn xem thường. Có một ông lão dung mạo quắc thước, áo mão sáng đẹp, đến lạy cúi đầu thưa với Sư rằng "Tôi ở trong đây đã hai trăm năm, nay nhờ Sư đến ở, thầm cảm vô cùng, được tiêu dao thoát khổ, sanh lên làm người hưởng vui". Sư cảm hóa vật tình phần nhiều giống như thế.
Vào niên hiệu Bảo Lịch thứ 9 (825-827), Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch, thọ chín mươi lăm tuổi.
Ngày 19 tháng 9 năm đó nhập tháp.
Thích Phổ Mãn, không biết Sư là người xứ nào. Sư từng ở tại Phần Tấn, phóng ý buông lung, chẳng giữ tăng thể, hoặc ca hoặc khóc, chẳng ai hiểu được ý Sư. Sư nói năng bài bác gì, việc qua rồi thì có chứng nghiệm. Nên người đương thời gọi Sư là Vạn Hồi. Hoặc có lúc Sư vào Kê Hồ khuyên người tu điều lành đến nỗi có người bỏ nghề săn bắn.
Đầu niên hiệu Kiến Trung (780), Sư vào trong Phật xá ở Lộ Châu, ghi vào bài thơ mà thị tịch. Sư có viết bài thơ rằng:
"Sông liền sông Kinh
Hai giọt máu đỏ sông
Trâu xanh dắt hổ đỏ
Lại gọi năm thái bình".
Sư viết vậy mà người sau chẳng biết. Đến Chu Thử là nguồn của sông Kinh, phản đường suy ủng giá đến Phụng Thiên. Khi đó mọi người mới thấy binh quan bổ giặc chiếm cứ vây bức liền đánh. Mọi người mới tỏ rõ. "Sông Thử" (vốn Sư viết là Thử thủy, nghĩa là nước Thử) tức chỉ sông Thử. "Sông Kinh" tức là Kinh Châu, giặc mới làm loạn. Hai giọt máu đỏ (song chu huyết) tức là sông Thử và sông Thao. Trâu Xanh (thanh ngưu) tức chỉ niên hiệu Hưng Nguyên thứ nhất, là năm Ất Sửu (845). Ất là thuộc hành Mộc, sắc xanh; Sửu là trâu (ngưu). Bính thuộc hành Hỏa, là sắc đỏ, Dần là hổ. Đến lúc đó giặc mới trở lại bình lặng nên Sư viết là "lại gọi là năm thái bình".
Thích Ta Ta, Sư còn tên là Thanh. Vì Sư giao tiếp với mọi người, miệng tự nói Ta Ta, nên gọi Sư như thế.
Dưới triều vua Đức Tông, Ngài lãng du ở Chử Cung, y phục sách rưới, tướng trạng rất ngu si mà lại giỏi ca hát "Hà mãn Tử". Sư có hành vi buông lung nên không định kiểm, có lần gặp Túy Ngũ Bá, Ngũ Bá ở giữa đường làm nhục Sư, bắt Sư xướng ca. Sư liền cất cao tiếng xướng điệu, trong ngôn từ đều bới móc việc xấu vết ố âm tư từ trước của Ngũ Bá, điều mà mọi người đều chưa nghe biết. Ngũ Bá xấu hổ bàng hoàng. Những người bên cạnh nghe được, biết Sư là Thánh tăng, nên quỳ lạy sám hối tội lỗi.
Khoảng đầu niên hiệu Trinh Nguyên (785), Sư vào trong quán chợ, lũ trẻ con chạy theo. Dân chúng nước Sở đều cười nhạo. Sau, không biết Sư mất ở đâu!
Kế nữa, có một vị tăng cuồng, du hành vô độ. Mỗi lần đoán trúng, chỉ ăn mấy thăng dầu mè. Nếu được ai bố thí cho bát lớn đựng đầy dầu mè thì mừng vui. Có một nhà Kinh chữ đặc biệt mời nếm dầu mè, ngày đó Sư lại ứng trai ở Hồ Nam, Sư phân thân ứng cúng, nên hiệu là "Thực Du Sư" (ông thầy uống dầu).
Liên hệ thử bàn:
Chữ Ta là âm Thương hay Vũ? Thông đáp: "Truyện Gia Thể Lục nên hai hai trường hợp: Một là căn cứ theo văn chẳng âm, hai là miệng trao biết vận. Nay được như thế tức là căn cứ theo văn. Như tiếng thừa của Sở từ thì là Tô cá thiết (tức là âm ta). Vị Sư này là việc ở kinh Sở.
Thích Nghĩa Sư, không rõ Sư người xứ nào. Tướng mạo phong cuồng, nói năng đảo loạn. Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (758), Sư đến xứ Ngô Uyển để khất thực, các việc thường biết trước. Mọi người vì thế mà sinh nghi về Sư. Dân chúng ở trong phố chợ có vài căn nhà, bỗng nhiên Sư mang vác búa đến chặt phá mái nhà. Mọi người can ngăn mà Sư không dừng. Những người ấy vốn biết Sư là thần dị nên mới đến lễ bái mà thưa rằng: "Đệ tử nhờ đó mà sanh sống, xin Sư chớ phá nhà chúng tôi!" Sư xoay lại bảo: "Các ông tiếc ư?" rồi ném búa mà đi. Đêm đó trong chợ bỗng nhiên phát hỏa thiêu cháy, chỉ mấy ngôi nhà bị Sư chặt phá là còn. Sư lại thích ở trong chùa đổ nát, chẳng kể Đông Hạ, thường gom các phướn lọng, tượng Phật bằng gỗ bửa chặt đem đốt, lại đem cá chép nướng trên lửa, mà phần nhiều là uy nạ trong tro, than càng đầy dẫy. Sư vỗ tay cười lớn, chẳng có đủ thìa muỗng mà ăn. Mặt mày dơ bẩn nhưng Sư chẳng rửa, nếu rửa thì trời liền mưa. Vì thế dân chúng đất Ngô cho là chiêm hầu. Đến lúc sắp tịch, Sư uống nước tro than chừng vài mươi hộc và ngồi niệm Phật. Các hàng sĩ thứ trông chừng thì mãn bảy ngày Sư mới tịch. Lúc đó, trời nắng rất nóng mà nhan sắc Sư chẳng biến đổi, các chi phần chẳng gãy. Dân chúng thỉnh nhục thân Sư ra ngoại ô mà trà-tỳ.
Kế nữa, tại chùa An Quốc ở Kinh Triệu có một vị tăng. Sự tích cũng bất thường. Đất chín mà đốt Phật gỗ. Chỗ gọi là việc người hẳn không hư phát.
Đó cũng là vị tăng chẳng thể lường biết!
Kế nữa, có Ngài Thích Chứng Trí trụ chùa Vĩnh Thọ ở Kinh đô, không rõ Sư họ gì. Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (875-805), Sư ở chùa Kinh, thường phát thần dị mà mọi người không biết. Hoặc ban ngày ở tại Trương Độc Lan-nhã chăm sóc đất ruộng, đêm đến về lại trong chùa. Lan-nhã đó ở tại Kim Châu thuộc Hán Âm. Khu Kinh ấy rất lớn đến bảy trăm dặm. Người thời bấy giờ gọi là Thiền sư Trí. Đó đến trưởng túc An Pháp Vân Công đều có thể đến nơi xa trong nháy mắt. Đạo gia gọi đó là Súc Địa Mạch mà có khả năng vượt xa. Nếu đối với sắc trần mà hóa hiện thần biến thì tuy xa mà gần.
Lại nữa, có vị lão tăng ở chùa Tiến Phước, chuyên tinh trì tụng, ít có lúc khuyết sót. Nói điềm việc chưa đến, xảy ra thảy đều đúng cả. Đầu niên hiệu Thái Hòa (827), Tướng Quốc Vi Công đối xử nồng hậu đãi trọng Không môn, liên tiếp nhiều tháng riêng thỉnh các Sa-môn danh đức thiết trai cúng dường. Lão tăng thấy Vi Công vừa mới đăng dong, bèn bảo rằng: "Kỳ lạ thay! Tướng công có được chỗ qua đời tốt đẹp như thế!" Mọi người đều không hiểu. Sau, nhân đối tấu trước ngai bệ vua Văn Tông, Tướng công vội vã nên bị té nơi thềm cấp điện, lúc khiêng ra cửa điện thì đã tắt thở. Mới nghiệm lời Lão tăng nói chết ở trong điện, nên trước kia Sư bảo là "được chỗ qua đời tốt đẹp". Lúc đó là khoảng niên hiệu Khai Thành (836-841).
Sau không biết Sư tịch ở đâu.
Thích Thần Giám, họ Hàn, người ở xứ Tầm Dương. Thuở bé, Sư thuần tĩnh lặng, chẳng xen tạp với các đứa trẻ khác. Cha của Sư là nhân viên huyện Tề An, tâm rất quy hướng Phật pháp, thường ở nơi dinh sở thiết trí tôn tượng, thỉnh mời tăng chúng tụng kinh bái sám, xướng trỗi pháp nhạc. Sư vốn có dáng vẻ xinh đẹp, luôn theo chư tăng chẳng tạm rời, cầu xin xuất gia. Cha mẹ Sư không phương kế gì để ngăn cản được. Sư bèn đến chùa Đông Lâm, dưới pháp tòa Thiền Sư Trinh Tố cầu xin tu học. Sau giảng thông Kinh Đại Niết-bàn, Sư bèn đến dự chương ở phương Nam, tham vấn Thiền sư Đại Tịch rồi tiếp tục đến phía Tây Bắc núi Hoài An và ở tại đó. Núi đó trước kia có nhiều thú dữ, cứ đến gần trưa hay phá hoại. Kể từ lúc Sư đến ở thì tai họa bởi hổ cũng biệt tăm, mọi người xa gần đều khen ngợi. Bỗng có một người nam đội khăn, vén tóc ngang bằng, hướng về pháp tòa lễ kính rất tôn trọng, trong chốc lát liền biến mất. Bảy ngày sau có người mang đội mão xiêm huyễn dị ở trước phương trượng của Sư bay lên hư không xướng lời rằng: "Đại Sư đây thật là pháp bảo, khai mở mắt mũi cho trời người nên đến báo". Đồ chúng nghe thấy, biết Sư đạo cao. Sư thị tịch vào niên hiệu Hội Xương thứ 4 (844). Đến ngày 15 tháng 8 nhập tháp.
Hễ là người tu hành đắc đạo thì địa thần báo với không thần, lần lượt cho đến cõi trời Hữu Đảnh, ở đây thấy rõ.
Thích Thanh Quán tự là Minh Trung, người ở xứ Lâm Hải, họ Khuất. Lúc mới sanh, giữa các kẻ ngón tay ngón chân đều có màng mỏng liền nhau, như trong kinh gọi là "Võng man tướng". Đến độ tuổi nhi đồng, Sư có thần thái thông minh trội vượt, bèn phát chí xuất trần. Sư bèn đến chùa Quốc Thanh nương Luật sư Nguyên Chương, chấp trì bình bát, cha mẹ không ngăn trở được. Như chim Ca-lâu-la mổ xé muôn trùng vây. Năm mười tám tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Bởi do căn lành đã trồng sâu từ trước nên Sư ngộ giải thiên nhiên. Giáo văn của Thiên Thai, Sư thấu suốt tam quán, kiêm đắc đại định sâu mầu, thần dị cảm thông, chúng ta chẳng thể biết được. Chỉ một thời gian ngắn, Sư xem đọc Bách Gia nên càng thông Tam Giáo. Sư khéo thuộc văn lại có sở trường thơ bút. Phàm các bang bá du hiên đều ảnh hưởng đạo phong của Sư mà đến tham yết. Ngài trì tụng như nghiêm quân, nên vừa trông thấy thì liền nể sợ kính phục, chỉ đến nơi kỷ trượng để tiếp đãi quý nhân. Nếu có người cúng thí vật báu, Sư đều đưa hết vào của thường trụ, không chứa nhóm riêng tư. Có người nói với Sư rằng: "Quý nhân cúng dường Sư đều là thí riêng, sao Ngài chẳng để riêng mình sử dụng?" Sư đáp rằng: "Còn hận chưa thể xả bỏ đầu mắt, huống gì là của cải trong đời!"
Đầu niên hiệu Đại Trung (847), chùa viện trong nước được trùng hưng, Sư vào kinh thỉnh Đại Hồng Chung về chùa để đóng và trùng huyền sắc ngạch, thì nhờ Hiền Viện Học Sĩ Liễu Công Quyền để viết. Liễu Công Quyền lại có bài thơ đề tựa "Tiễn đưa Sư trở về phương Đông". Sư lại đi thỉnh tạng Kinh về chùa. Năm Quý Dậu (853), thuộc niên hiệu Đại Trung, tại Giang Biểu có nhiều người bị đói khát mà chết, Sư bèn dốc hết lương thực mà ban thí cho họ.
Kế nữa, trong sơn tăng có Ngài Vật Ngoại Độ Hoang, tự nhập thất thiền định, bảo với đệ tử rằng: "Nếu ta không chết thì đến lúc lúa thóc chín, nên gõ khánh để dẫn ta ra!" Qua như lời nói, tới năm sau Sư mới xuất định. Một hôm, có người ở Khê Nam thỉnh Sư đến chứng trai diên thường cách xa chùa hơn hai mươi dặm. Đêm đó nước khe suối dâng tràn, không người nào vượt qua được nên cho rằng "Sư không đến". Chỉ trong khoảnh khắc thì Sư đến và cũng không bị thấm ướt gì. Tác dụng thần diệu của Sư có thể biết như thế nào, mọi người đều lấy làm lạ. Dân chúng xa gần đến chiêm lễ ngày một đông đảo, ồn ào phiền nhiễu đáng chán, Sư bèn sang núi Thúy Bình lập lan-nhã ở riêng một mình. Kế đó thì chúng tăng ở núi Thiên Thai lại thỉnh Sư làm Tăng chánh, Sư giả vờ rồ dại mà ẩn tránh. Châu Mục Đỗ Hùng bèn tấu trình lên vua Chiêu Tông ban sắc tặng Sư y phục sắc tía, Sư nghe thế mà như buồn lo không vui. Sau, không bịnh tật gì mà Sư thị tịch.
Thích Hy Vận, người đất Mân. Vào tuổi đến trường làng, đồng bạn đều xem Sư là người thông minh nhanh nhẹn. Sư bèn giã từ thân thích đến chùa Hoàng Bá, ở Cao An xin xuất gia. Tới tuổi trưởng thành, thân lượng giảm dần, vương thương giảm bớt một thước, nơi ngạch cửa lớn đề hiệu là "Nhục Châu". Nhưng Sư thoải mái, chẳng ràng buộc mà người chẳng lường được. Sư vân du đến núi Thiên Thai, gặp một vị tăng cùng đi, nói cười tự tại. Sư lén nhìn vị tăng ấy trong ánh mắt lóng lánh ngời sáng như bắn tóe vào người, cùng sánh vai mà đi. Đến cùng đường gặp một khe lớn, nước bồng bềnh tràn ngập. Sư bèn cầm nón chống gậy mà đứng. Vị tăng ấy đốc thúc Sư lội qua, Sư bèn nói rằng: "Sư cần lội qua cứ lội". Nói xong, vị tăng đó liền vén áo đạp sóng đi qua như bước trên đất bằng không thấm ướt gì. Khi đã đến bờ kia rồi, vị tăng ấy xoay lại đưa tay vẫy gọi bảo Sư: "Lội qua!". Ngài chỉ tay quở rằng: "Ôi! Nếu tôi sớm biết thì đã chặt chân ông". Vị tăng ấy ngợi khen rằng: "Sư thật là pháp khí Đại thừa, tôi đây không sánh bằng. Giả sử có làm tổn thương, tôi chỉ nhận lấy nhục mà thôi!". Rồi trong khoảnh khắc đã biến mất. Sư bàng hoàng chợt tỉnh.
Đến lúc Sư đãng du chốn kinh quyết, đến một ngôi nhà, nghe sau cây ngăn che có tiếng bà lão nói: "Rất không nhàm chán!". Sư hỏi: "Chủ chẳng đãi khách, làm sao không chán?". Bà lão bèn mời Sư vào cúng dường. Sư thọ thực xong, bà lão nói: "Thân hèn năm chướng hổ then từng đến đảnh lễ Quốc sư Tuệ Trung. Xin khuyên Sư hãy sang tìm Thiền sư ở núi Bách Trượng. Chỗ đáng ghi nhớ, lồng lộng thay! Lớn lao thay! Thật là pháp khí Đại thừa! Sư nhớ nghĩ nhận hai lời dự ký vừa qua là đồng, bèn trỏ lại Hồng tỉnh, gặp được Thiền sư Hoài Hải khai rõ tâm thú, danh tiếng càng cao, và Sư bèn vâng lệnh đến ở tinh xá Hoàng Bá.
Bấy giờ, Thăng Bình tướng Bùi Công Hưu rất khâm phục kính trọng Sư nên đến lễ yết, có đề thơ dâng tặng Sư, đề rằng:
Từng truyền ấn trong tâm Đạt sĩ
Ngạch có châu tròn, thân bảy thước
Treo gậy mười năm gá đất Thục
Chén nổi ngày nay lội sông Chương.
Một ngàn long tượng theo bước cao
Muôn dặm hương hoa kết nhân tốt.
Nguyện muốn thờ thầy làm đệ tử
Không biết trao pháp cho người nào!
Cho nên Bùi Tướng Công đắc pháp xuất phát từ môn tịch của Sư.
Vào niên hiệu Đại Trung (847-860) Sư thị tịch tại chùa. Vua Tuyên Tông sắc phong thụy hiệu là "Đoạn Tế Thiền Sư", tháp tên là "Quảng Nghiệp".
Sư có ngữ lục lưu hành ở đời.
❑
(chánh truyện có mười tám vị, phụ có ba vị).
Thích Thần Anh, không biết Sư họ gì. Có túc duyên ngộ đạo, năm mới lên tuổi tết tóc, Sư theo thầy, phúng tụng siêng năng, suốt ngày đêm chẳng trễ nải, biếng lười. Năm đang tuổi Sa-di, Sư được thọ giới Cụ túc. Sau mới chống tích, ôm bát du tìm hỏi tri thức. Sớm thông được huyền thoại, giỏi cả Kinh Luận. Sư lần lượt đến tham yết Thiền sư Thần Hội. Ngài Thần Hội nói với Sư rằng: "Ông có duyên ở núi Ngũ Đài, nên chóng sang đó chiêm lễ Bồ-tát Văn-thù và tìm hỏi di tích".
Đã được sự chỉ bảo, vào trung tuần tháng 6 niên hiệu Khai Nguyên thứ 4, Sư đến núi chiêm lễ, ghé dừng nghỉ nơi tăng trù một ngày. Sau khi thọ thực xong, Sư đi đến Tây Lâm, bỗng thấy một Tu Viện đề hiệu là Pháp Hoa. Sư bèn vào trong, thấy một ngôi tháp Đa Bảo, đẹp đẽ rực rỡ, đồng như trong kinh Pháp Hoa nói. Ở đó có bốn cửa bằng Ngọc thạch, công đức nhỏ nhiệm sáng rỡ, thần công khó lường, mặt sau có lầu của Hộ Quốc Thiên Vương, phía trên có tôn tượng hai vị Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền bằng ngọc thạch. Ở trước Tam môn có mười ba gian, trong cửa hai bên có hành cung đạo tràng. Đó là nghi trượng của Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền. Ngoài tam môn, núi Trạng Đài có mười ngôi chùa, mịt mờ ngoài vật, trông xem mênh mông, thần tình lâng lâng. Sư thử ra viện, lại thấy có chúng tăng, khác hẳn những điều thường thấy, lại nhiều việc lạ lùng, dự nghi chưa quyết định, Sư lại ra cửa đi về hướng Đông chừng ba mươi bước, bỗng nghe tiếng khua đóng cửa, đưa mắt nhìn lại thì không hề thấy vật gì. Sư bèn buồn khóc tự nhủ: "Đại Thánh giật tỉnh ta ư? Ở chốn này hẳn có duyên!" Bèn đến chỗ tháp Đa Bảo, Sư dựng am mà ở. Sư phát nguyện rằng: "Ta nương tựa Hóa Viện, xây dựng một cơ sở mà trú trì". Sư ở chừng một tháng, tín thí đến như rừng, người quy y đông nhiều. Bèn kiếm tìm công thọ, có người cao giá thệ chẳng đáp trả, Sư bèn đến Dịch Châu xa ngàn dặm lấy ngọc thạch để tạo công đức, nhiệm mầu sáng rỡ, công đức đều thấy. Vách tường đó là vết tích của Ngô Đạo Tử bạn của Vương Phủ. Sáu Pháp tuyệt diệu, được mọi người mến chuộng. Viện đó xây dựng trước sau hoàn tất, nhân đó đặt hiệu là "Pháp Hoa". Ngài giảng pháp và trụ trì. Ở đó bằng thẳng như kéo cắt. Sau, tự nhiên không bịnh, Sư gọi môn nhân dặn dò mà thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Mộ tháp hiện nay vẫn còn.
Thích Ngưu Vân, họ Triệu, người ở xứ Nhạn Môn. Thuở bé, Sư tợ như chẳng có tinh thần, đưa vào trường làng tập học mà cả ngày không biết một chữ. Chỉ khi thấy tăng ni thì chắp tay có dáng mạo như sợ sệt. Năm mười hai tuổi, cha mẹ Sư đưa sang viện Thiện trụ ở chùa
Hoa Nghiêm trên núi Ngũ Đài cầu xin xuất gia, đảnh lễ Ngài Tịnh Giác làm thầy. Thường ngày luôn bảo vác củi, gánh nước. Bấy giờ mọi người xem thường Sư ngu độn, phần nhiều hay đem điều trái ngược kết quy về Sư. Sau khi giới cụ túc, Sư càng khó tụng tập. Đến năm ba mươi hai tuổi, Sư mới dự nói rằng: "Ta nghe trên núi Ngũ Đài, thường có Bồ-tát Văn-thù hiện hình, nay ta cất bước đến đó, nếu được thấy Bồ-tát Văn-thù thì chỉ cầu được thông minh để học tụng Kinh Pháp!" Khi đó, Sư mạo hiểm xông vào trong tuyết lạnh, tâm tình chẳng thối lui sụt, đi đến đảnh Đông Đài, thấy có một ông lão ngồi đốt lửa. Sư hỏi rằng: “Tuyết lạnh như vậy, ông từ đâu đến?" Ông già đáp: "Tôi từ dưới Tứ Xuyên đến". Sư hỏi: "Đi đường nào mà không thấy dấu giầy?" Ông lão đáp: "Tôi đến đây trước khi tuyết phủ". Và lại hỏi Sư rằng: “Ông có tâm nguyện gì mà đi trong sương tuyết đến đây, há không khổ nhọc ư!" Sư đáp: "Tôi tuy là một vị tăng mà tự hận ngu dốt, không tụng niệm được Kinh Pháp, đến đây, muốn được trông thấy Bồ-tát Vănthù để cầu xin có được quả báo thông minh!" Ông lão bảo: "Kỳ lạ thay!" Lại hỏi tiếp: "Đến xứ này mà không thấy được Bồ-tát Văn-thù thì muốn đến nơi nào nữa?" Sư đáp: "Muốn lên Bắc Đài". Ông lão bảo: "Ý tôi cũng vậy", và tiếp: "Xin mời Sư đi trước!" Sư bèn đi khắp đảnh Đông Đài rồi cáo biệt ông lão và từ hướng Tây mà đi.
Đến sẩm tối, Sư mới tới Bắc Đài, lại thấy một ông lão ngồi đốt lửa, Sư kinh hãi lấy làm quái lạ hỏi rằng: "Vừa cùng từ biệt ở Đông Đài, do đâu ông lại đến đây trước?" Ông lão bảo: "Sư không biết đi đường tắt nên mới đến trễ!" Sư tuy vâng nhận lời nói đó mà trong tâm vẫn do dự, nhưng nghi đây là Bồ-tát Văn-thù ứng hiện!" Sư bèn xưng gọi mà đảnh lễ sát chân. Ông lão nói: "Tôi là người phàm tục không nên làm lễ", Sư chỉ tham thiết lễ tình thuộc chẳng dời. Giây lâu ông lão lại bảo: "Hãy thôi lễ lạy, đợi tôi nhập định xem ông đời trước tạo hạnh nghiệp gì mà hôn mê ngu độn như vậy!" Ông lão bèn nhắm mắt, trong chốc lát lại mở mắt bảo Sư rằng: "Đời trước ông làm trâu, nhờ chuyên chở Kinh Tạng nên đời nay được xuất gia làm tăng mà ám độn. Ông hãy đến bên cạnh Long Đường lấy một cái vạc đến đây, tôi sẽ cắt bỏ thịt dư trên đầu ông thì liền sáng suốt". Sư bèn được vạc độ cho. Ông lão bảo: "Ông hãy nhắm mắt, đợi tôi bảo mở mới mở". Nhân đó Sư nhắm mắt, kế đến dường như tâm đang ở trong vạc mà thân không đau khổ. Tâm hoát nhiên tỏ rõ, tợ như trong nhà tối mà có ngọn đèn sáng, đêm dài mà có ánh trăng tròn. Sư mở mắt bèn thấy ông lão ứng hiện hình tượng Bồ-tát Văn-thù và nói với Sư rằng: "Từ nay về sau ông tụng niệm Kinh Pháp qua tai liền không quên mất, lại có nhân duyên rất lớn đối với Viện Giản Đông ở chùa Hoa Nghiêm. Ông không được lui sụt". Sư bèn vừa buồn vừa khóc, tiếp chân mà lạy, trong khoảnh khắc chưa ngẩng đầu lên thì Bồtát đã biến mất.
Sau đó, Sư xuống núi, tay chân chẳng tổn hại gì, tất cả các kinh điển, xem qua mắt một lần, miệng liền đọc tụng. Tháng 5 năm sau, Sư đi nhiễu quanh tháp A Dục Vương, hành đạo tụng kinh. Đến đầu canh thấy một luồng ánh sáng thẳng từ đảnh Bắc Đài đến nền tháp rất lâu mà chẳng tan. Ở trong luồng ánh sáng đó hóa hiện một ngôi lầu tháp, phía trước có bảng vàng đề là "Thiện Trụ". Sư nhớ lại lời dự ghi của Bồ-tát bèn y cứ theo lầu báu hiện trong luồng ánh sáng mà xây dựng. Sư mở mang đạo pháp, mọi người đều quý trọng.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 23 (735) tự nhiên không bịnh mà Sư thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi bốn hạ Lạp. Tên Sư mất chữ trước, nhân theo sự ghi nhận của Bồ-tát Văn-thù mà biết được bổn tích là trâu nên người đương thời gọi Sư là Ngưu Vân.
Thích Đạo Nghĩa, người xứ Cù Châu, thuộc Giang Đông. Vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742) Sư đến núi Ngũ Đài, dừng ở Viện Chúc thuộc chùa Thanh Lương. Vị Điển tọa mời khắp mọi người chuyển củi mang vác vật nặng leo lên cao. Luôn có những dáng vẻ khó khổ, Sư mang một đôi giầy tre thay đổi cùng mọi người mang vác. Nhân đó, Sư đắp mặc luôn ba áo nạp. Từ Đông Bắc mà đi có tới ba dặm. Lại ở núi Lăng-già đi xuống gặp một vị lão tăng dáng mạo già xấu dắt một đồng tử, tên tự là Giác Nhất. Lão tăng đi trước, đồng tử mời Sư vào chùa Đông Biên uống trà rồi hãy đi. Sư bèn theo vào chùa, đảnh lễ khắp các Viện. Thấy một lầu cao ba tầng, trên dưới có chín gian, tất cả đều mầu vàng lánh sáng cả mắt. Lão tăng bảo Sư hãy sớm trở về chỗ ở, ở đó núi lạnh khó ở. Sư vâng lời từ giã đi ra khỏi chùa mới chừng năm bước, ngoảnh nhìn lại chỉ thấy toàn là núi rừng, mới biết đó là ngôi chùa hóa hiện. Sư bèn trở về Trường An. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766) Sư bày tỏ nguyên do cớ sự ấy, tấu trình với Bảo Ứng Nguyên Thánh Văn Võ Hoàng Đế (tức vua Đại Tông) mong được ban sắc đặt tên chùa là "Kim Các", tuyên bảo mười tiết độ trợ duyên. Bèn mời người đến tính toán vật liệu. Có một vị Sa-môn tên Thuần-đà vì tính toán đất cát cây gỗ, xây dựng chùa Kim Các. Ngài Thuần-đà vốn là tăng chúng ở trong viện Hỷ Thước, thuộc chùa Na-Lan-Đà ở Tây Vực. Sau khi chùa xây dựng xong, vua sắc tặng danh hiệu Bất Không Tam Tạng. Không lường biết về sau, Sư tịch ở đâu.
Thích Pháp Chiếu, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767) Sư trụ chùa Vân Phong ở Hành Châu, chuyên tu không biếng trễ. Một hôm, tại tăng đường, theo chúng ăn cháo, bỗng nhiên Sư thấy trong bát cháo có áng mây lành năm mu. Trong áng mây có ngôi chùa, cách phía Đông Bắc chùa trong khoảng năm mươi dặm lại có mốt quả núi. Dưới núi có khe, phía Bắc khe có một cửa đá, đi vào khoảng năm dặm lại có một ngôi chùa, có bảng vàng đề là "chùa Đại
Thánh Trúc Lâm". Tuy mắt thấy rõ ràng nhưng tâm Sư vẫn hoài nghi. Ngày khác đến giờ thọ trai, lại cũng thấy trong bát có áng mây năm mầu, trong mây hiện rõ các chùa trên núi Ngũ Đài, đều là đất vàng, không có núi rừng dơ xấu, toàn là ao đài lầu quán, thuần là các báu trang nghiêm. Bồ-tát Vănthù ở trong một muôn thánh chúng, lại hiện ra các cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật. Đến lúc ăn xong mới biến mất. Tâm nghi ngờ Sư vẫn chưa quyết dứt. Trở về viện, Sư hỏi chư tăng: "Có vị nào đã từng đến núi Ngũ Đài chăng? " Khi đó có hai Ngài Hỷ Diên và Đàm Huy nói đã từng đến, và nói đều phù hợp như những gì Sư thấy trong bát, nhưng vẫn còn chưa được tin tức về núi Ngũ Đài.
Đến mùa Hạ niên hiệu Đại Lịch thứ 4 (769), tại chùa Hồ Đông ở Hành Châu có lập một đài cao. Suốt chín tuần phát khởi năm hội niệm Phật đạo tràng. Vào giờ Mùi ngày mùng 2 tháng 6, từ xa trông thấy mây lành trên cao che phủ đài chùa. Trong áng mây có lầu gác, trong lầu các có vài vị Phạm tăng, vị nào cũng cao một trượng, cầm tích trượng hành đạo. Khắp thành quách Hành Châu đều thấy Phật A-di-đà và Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và một muôn vị Bồ-tát đều dự trong Pháp hội đó. Thân tướng các Ngài cao lớn. Những người trông thấy đều khóc mà thiết lễ. Đến hướng Tây thì biến mất. Chiều hôm đó, Sư ở ngoài đạo tràng gặp một ông lão, nói với Sư rằng: "Sư trước phát nguyện sang thế giới vàng ròng phụng hầu đức Đại Thánh, sao nay không đi?" Sư lấy làm lạ hỏi rằng: "Thời gian đường xá khó khăn làm sao đi được? "Ông lão nói: "Chỉ mau gấp đi, dường xá không gây hiểm trở". Nói xong, liền biến mất. Sư kinh hãi vào đạo tràng, trùng phát thệ nguyện thành khẩn, ước chừng mãn Hạ sẽ đi. Dẫu cho lửa nhóm sông băng cũng không bao giờ lùi bước.
Ngày 13 tháng 8, Sư phát xuất từ Nam Nhạc cùng vài người đồng chí hướng, quả nhiên không trở ngại gì, tới ngày mùng 5 tháng 4 niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (770) thì đến Huyện Ngũ Đài, xa thấy ở phía Nam chùa Phật Quang, quả như chỗ thấy trong bát không gì sai khác. Canh tư đêm đó, thấy một luồng ánh sáng từ dưới Bắc Sơn soi chiếu thẳng đến Sư, Sư mịt mờ đi vào trong nhà hỏi mọi người: "Đó là điềm gì? Tốt xấu thế nào?" Có một vị tăng đáp rằng: "Đó là ánh sáng không thể suy nghĩ bàn luận của Đức Đại Thánh, thường đáp lại đối với những người có duyên". Sư nghe rồi liền sửa sang oai nghi, tìm theo ánh sáng mà đến chùa. Ở phía Đông Bắc chùa trong chừng năm mươi dặm quả nhiên có ngọn núi, dưới núi có khe. Phía Bắc khe co một cửa đá, thấy có hai đứa trẻ mặc áo xanh, chừng tám chín tuổi, mặt mũi xinh đẹp đứng ở trước cửa. Một người xưng là Thiện Tài, một người xưng là Nan-đà, cùng ngắm nhìn vui mừng thăm hỏi làm lễ, dẫn Sư vào cửa. Theo hướng Bắc đi tới khoảng năm dặm, thấy có một lầu cửa vàng, dần đến nơi cửa, thì đó là một ngôi chùa. Trước chùa có bảng vàng lớn đề là "Chùa Đại Thánh Trúc Lâm". Mỗi mỗi đều như những gì đã thấy trong bát. Chu vi khoảng hai mươi dặm, có một trăm hai mươi phòng viện, đều có tháp báu trang nghiêm, đất ở đó thuần bằng vàng ròng. Dòng chảy, cây hoa đầy đủ trong đó. Sư vào chùa, đi vào trong giảng đường, thấy Bồ-tát Văn-thù ở phía Tây, Bồ-tát Phổ Hiền ở phía Đông, mỗi Ngài đều ngồi trên tòa sư tử, tiếng giảng pháp rõ ràng nghe được. Chung quanh Bồ-tát Văn-thù có hơn muôn vị Bồ-tát và Bồ-tát Phổ Hiền cũng có vô số Bồ-tát vây quanh. Sư đến trước hai vị Bồ-tát đảnh lễ và thưa hỏi: "Hang phàm phu trong đời mạt pháp cách Thánh xa xôi, sự nhận biết yếu kém, cấu chướng rất sâu nặng, Phật tánh không do đâu mà hiển hiện. Biển Phật pháp thì mênh mông, chẳng hay tu hành pháp môn nào là thiết yếu nhất, cúi mong Đại Thánh xé trừ lưới nghi của con!" Bồ-tát Văn-thù dạy rằng: "Nay ông niệm Phật, chính là đúng lúc. Trong các pháp môn tu hành, không gì hơn niệm Phật. Cúng dường Tam Bảo, phước tuệ song tu. Hai pháp môn ấy là cần yếu nhất. Vì sao? Vì trong đời quá khứ, ta nhân quán tưởng các Đức Phật, xưng niệm danh hiệu Phật, cúng dường các Đức Phật, nên nay thành tựu trí Nhứt thiết chủng. Cho nên trong tất cả các pháp Bát-nhã Ba-la-mật, thiền định sâu mầu, cho đến các Đức Phật đều từ niệm Phật mà sanh. Nên biết niệm Phật đứng đầu trong các Pháp. Ông phải thường niệm Pháp Vương Vô Thượng, không để dừng nghỉ". Sư lại hỏi: "Phải niệm như thế nào?" Bồ-tát Văn-thù đáp: "Phía Tây thế giới này có Đức Phật A-di-đà, nguyện lực của Đức Phật ấy không thể suy nghĩ bàn luận. Ông phải xưng niệm nối nhau, đừng để đứt quãng. Sau khi qua đời chắc chắn sẽ vãng sanh, không bao giờ còn lui sụt". Nói lời ấy rồi, hai vị Bồ-tát mỗi vị đều duỗi tay xoa đảnh đầu Sư mà trao thọ ký, dạy rằng: "Ông đã niệm Phật, nên không bao lâu sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-Đề. Nếu người thiện nam tín nữ nào phát nguyện, mong chóng được thành Phật thì không gì hơn pháp môn hành tri niệm Phật, có khả năng mau chứng Vô Thượng Bồ-đề". Dạy xong, hai vị Bồ-tát cùng nhau nói kệ. Sư nghe rồi mừng vui hớn hở, lưới nghi đều dứt sạch. Trở lại đảnh lễ. Đảnh lễ xong lại chắp tay. Bồ-tát Văn-thù dạy rằng: "Ông hãy sang viện của các vị Bồ-tát lần lượt lễ bái". Thọ giáo rồi, Sư lần lượt đảnh lễ chiêm ngưỡng, và đến vườn trái cây bảy báu. Trái cây ở đó vừa mới chín, lơn như cái bát. Sư bèn lấy ăn, ăn xong thân ý thư thái, rồi trở lại trước Bồ-tát đảnh lễ mà giã từ thối lui. Sư trở lại thấy hai đứa bé mặc áo xanh tiễn ra ngoài cửa. Lễ bái xong, ngẩng đầu lên, thì mọi cảnh tượng đều biến mất. Sư càng buồn cảm gấp bội, bèn dựng lập trụ đá ghi dấu, ngày nay vẫn còn.
Lại nữa, từ ngày mùng 8 tháng 4, niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (775), Sư nghỉ ở dưới lầu phía Tây Chùa Hoa Nghiêm, mãi đến ngày 13, Sư cùng hơn năm mươi vị tăng đồng đến hang Kim Cương, tới chỗ Ngài Vô Trước được thấy đức Đại Thánh, thành tâm kính lễ hồng danh ba mươi lăm Đức Phật. Sư mới đảnh lễ mười biến, bỗng thấy tại chỗ đó rộng rãi trang nghiêm, có cung điện lưu ly. Bồ-tát Vănthù, Phổ Hiền cùng muôn vị Bồ-tát và Phật-Đà-BaLợi đều trụ tại đó. Sư thấy rồi chỉ tự mừng vui, sau đó theo chúng tăng trở về chùa. Vào canh 3 đêm đó, trên lầu phía Tây Viện Hoa Nghiêm, bỗng nhiên Sư thấy nửa núi phía Đông của chùa có năm ngọn đền Thánh to hơn cả thước, Sư bèn chú nguyện rằng: "Xin phân thành trăm ngọn đèn kết quy về một bờ". Bèn phân như ý nguyện. Sư lại chú nguyện phân thành ngàn ngọn đuốc, nói xong bèn phân thành số ngàn, hàng hàng đối nhau, khắp cả nửa núi. Sư lại một mình đến hang Kim Cương, cầu nguyện được trông thấy đức Đại Thánh. Hết canh 3, Sư thấy một vị Phạm tăng xưng là Phật Đà Ba Lợi, dẫn Sư cùng vào chùa Thánh (nói rõ trong chuyện Ngài Giác Cứu).
Đến Đầu tháng 12, Sư vào đạo tràng niệm Phật của Viện Hoa Nghiêm tại chùa Hoa Nghiêm, tuyệt thực làm kỳ hạn, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Đến đầu hôm ngày mùng 7, trong lúc đang niệm Phật, Sư lại thấy một vị tăng vào Đạo tràng, bảo Sư rằng: "Ông thấy được cảnh giới ở núi Ngũ Đài, vì sao không nói?" Nói xong liền biến mất. Sư nghi vị tăng đó cũng định không nói. Hôm sau, vào giờ Thân, cũng trong lúc đang tụng niệm, lại thấy một vị Phạm tăng, tuổi chứng tám mươi, đến nói với Sư rằng: "Sư thấy được cảnh giới linh dị ở núi Ngũ Đài, sao không truyền bá chỉ bày cho khắp chúng sanh biết, giúp cho những người thấy nghe phát tâm Bồ-đề, gặt hái được lợi lạc lớn lao ư?" Sư nói: "Thật không có tâm niệm che dấu bí ẩn về Thánh Đạo, chỉ sợ người sanh nghi phỉ báng. Vì thế nên không nói". Vị Phạm tăng ấy bảo: "Đức Đại Thánh Văn-thù hiện tại núi này còn vời sự phỉ báng, huống gì cảnh giới mà ông thấy được, chỉ khiến chúng sanh những người thấy nghe phát tâm Bồđề làm duyên trống độc". Sư nghe lời ấy rồi bèn tùy sự nhớ biết mà ghi chép lại.
Bấy giờ vào niên hiệu Đại Lịch thứ 6 (771) vào tháng giêng, có Sa-môn Thích Tuệ Tùng ở Giang Đông cùng các Sa-môn Sùng Huy, Minh Khiêm... hơn ba mươi vị ở chùa Hoa Nghiêm, theo Sư đến hang Kim Cương, đích thân gần chỉ bày viện Bátnhã, dựng trụ đá để ghi dấu. Khi đó cả đồ chúng thành tâm chiêm ngưỡng. Buồn vui chưa thôi, bỗng nghe có tiếng chuông, âm vang êm ái, tiết giải rõ ràng, cả chúng đều nghe, rất đối kinh dị. Xét những điều đã thấy thật không luống dối, nên viết lại trên vách thất, khiến khắp mọi người thấy nghe đều phát tâm cao quý, cùng cầu Phật tuệ. Từ đó về sau, Sư lại y cứ vào chỗ chùa Trúc Lâm hóa hiện đã thấy mà xây dựng một ngôi chùa trang nghiêm rực rỡ và lấy hiệu là "Trúc Lâm".
Lại nữa, đến ngày 13 tháng 9, niên hiệu Đại Lịch Thứ 12 (777) Sư cùng tám vị đệ tử ở Đông Đài, đôi ba phen thấy ánh sáng mầu trắng, kế đến có mây lạ kéo đen nghịt. Trong mây mở thấy ánh sáng năm mầu soi suốt thân mình. Trong ánh sáng ấy lại có vòng sáng mầu hồng, Bồ-tát Văn-thù cưỡi sư tử lông mầu xanh, cả chúng đều thấy rõ. Kế đến có tuyết mịn rơi xuống và vòng sáng năm mầu phủ trùm cả hang núi. Các đệ tử cùng thấy với Sư như Sa-môn Thuần Nhất, Duy Tú, Quy Chính,
Trí Viễn, Sa-di Duy Anh, Ưu-bà-tắc Trương Hy
Tuấn, v.v...
Sau, Sư dốc lòng bền chặt, tu luyện không bỏ thiếu, và không rõ về sau Sư tịch ở đâu! Ráng Châu Binh Duyện Vương Sĩ chiêm thuật lại bài ký chùa Thánh.
Liên hệ thử bàn:
Các Đức Phật thành tựu ba thân hẳn ở ba cõi nước. Hiển bày chánh báo, y báo trang nghiêm, Bồ-tát chưa thấm tên cõi nước mà chỉ gọi là trụ xứ, tu nhân làm thanh tịnh cõi nước Phật, tùy sanh vào nhà Phật. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm nói về "Trú xứ của Bồ-tát ". Kinh Bát Tự Đà-la-ni chép: "Đại nguyện lực của Bồ-tát Văn-thù cùng Phật đồng cảnh giới". Cảnh giới thanh tịnh thì nói Pháp thanh tịnh, cho nên ba cõi nước nghĩa ngang nhau.
Có người hỏi rằng: "Trong các kinh nói Phật trụ tại thành Vương-Xá v.v... há chẳng phải là trú xứ ư?" Thông đáp: Ở đây nghĩa thì đồng mà tên gọi thì khác nhau. Hoặc có thể là trên đạt được kiêm luôn cả dưới. Lại như cung viện Đâu-suất là Tịnh Vực của bổ xứ. Các núi Bảo Đà Lạc, Thanh Lương, Chi Đề v.v... đều là những cõi nước do tịnh thức của các vị Bồ-tát biến hiện ra. Như vậy thì Tịnh Độ và trú xứ nghĩa đồng mà tên khác. Như chỗ Ngài Pháp Chiếu vào chùa Thánh Trúc Lâm được trông thấy Bồ-tát Văn-thù là tịnh cảnh. Ngoài ra như các chỗ khác tới đỉnh núi thấy ông lão và hai đứa trẻ, v.v... là uế độ được trông thấy bậc Thánh.
Thích Thường Ngộ, họ Âm, người ở xứ Uyển Dương. Xuất gia tại chùa An Tập ở Yên Bắc. Bụng dạ Sư phóng khoáng, đạo mạo thanh bạch cao kỳ. Sư ẩn dật nơi chốn lâm tuyền, lánh thoát thanh danh lợi lộc.
Niên hiệu Đại Trung thứ 4 (850), Sư chống tích lìa đất Yên, một mình dấn bước đang lúc gió tuyết lạnh rét, ngàn dặm vượt qua năm non, đến giảng đường Bồ-tát ở chùa Hoa Nghiêm, chiêm ngưỡng tôn dung Bồ-tát Văn-thù. Xả thí ngón giữa tay phải, dùng mỡ thơm rót vào lửa nóng mà đốt. Ánh sáng vượt cao soi suốt nửa ngày mà sắc mặt Sư vẫn an nhiên. Kế đến, Sư đi khắp các Thánh cảnh trước sau trọn hai năm. Những điềm lành tướng tốt Sư trông thấy không thể ghi lại hết. Sau, Sư đến Tây Đài gặp một Thánh tích xưa đề là "Bí Ma Nham", là nơi Bồ-tát Văn-thù hàng phục rồng. Sư cúi đầu trong chốc lát, bỗng thấy mây nhẹ ánh sáng mầu vàng rực rỡ lóe mắt, dần phân thành tường ngắn phương thế như thành, tất cả đều là thế giới vàng ròng. Hóa sự vừa xong, Sư bèn hỏi về chỗ đó, có một vị tăng bảo rằng: "Đó là chỗ các cổ đức thường dừng ở, nước tặng hiệu là Kim Quang Chiếu Đại Sư. Danh tiết cao vợi, thần dị chẳng thể lường, ghi chép đồ ký mọi người đều chiêm ngưỡng". Sư buồn vui lẫn lộn cảm động thời gian lâu mà chẳng thôi, bèn cất am ranh ở đó, tẩy rửa lo nghĩ, gạn lọc tinh thần. Sư nhập Tam-ma-đề thường mỗi lần là bốn mươi chín ngày. Chim bày mưa hoa, người nhóm mây hương, phẩy cao tay áo, vén y phục đến quy y đông như chợ. Sư bèn xây cất miếu Phật tăng phòng, suốt mười bảy năm chẳng xuống núi. Hằng ngày đem chín hội Tạp Hoa, năm bộ Đẳng Pháp, ngoạn thưởng Pháp vị, thời khóa tinh cần, chẳng để tấc bóng luống không. Sư hiểu rõ Thánh lực ngầm thông, Đạo vượt cảnh phàm, sự hoặc lễ hỏi, chủ trương khác chẳng tìm, các hàng sĩ thứ ảnh hưởng tựa nương khắc niệm như Thánh. Mãi đến cuối thời vua Ý Tông (874) Sư sửa đổi khuôn phép cũ.
Hoặc vỗ tay lớn, hoặc gỗ đá phát tiếng lạ, giống như thọ Ký của Thường Bất Khinh, đồng như giả vờ khờ dại của Sở Khách, đến lúc họa phát, ở trung nguyên giặc cướp giao thẳng san bằng, vất bỏ cung hồ loạn lạc mông trần. Nhân đó xét lời Sư nói rất khế hợp. Bấy giờ, gặp lúc Hà Đông Võ Hoàng từ xa nghe chân đức đến núi rất kính tin. Qua tháng 4, niên hiệu Văn Đức thứ nhất (888) sai Thứ Sử Hiến Châu là Mã Sư Tố truyền ý muốn thỉnh mời, Sư nói: "Ân sủng trong đời là phù hoa, vì sao lụy đến tôi như vậy ư?" Và kiên trì chống cự, xa bày xác thực chẳng dời đổi. Đến ngày 18 tháng 7, năm đó, Sư gọi đệ tử đến bảo rằng: "Các ông nên giữ gìn giới luật, khéo sống những ngày còn lại. Ta cùng các ông quyết biệt!" Nói xong, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi mốt hạ Lạp. Môn nhân là Thái Văn v.v... buồn thương nghẹn ngào. Tới ngày 18 tháng 4 niên hiệu Long Kỷ thứ nhất (889) trà-tỳ, thâu nhặt được mấy mươi viên xá-lợi. Văn Công kiên trữ hiếu tư, biểu dương xây dựng linh tháp, ngậm buồn vào ra tìm đến Thiên Phủ, Võ Hoàng ban tặng thêm v.v... Văn Võ tôn sùng, Mục thủ các Châu như Lam Hiến, v.v... lệ khắc thanh bổng, hổ trợ nhân tốt, kiến tạo mộ tháp. Đến ngày 25 tháng 9 là xây xong gò tháp.
Thích Vĩnh An, người ở xứ Hồng Nhã, thuộc My Châu. Thân hình Ngài nhỏ thó, sắc mặt đen sạm, nói năng thô lỗ mà thức lượng khoan thứ. Đại khái là không thể lường được.
Tháng 3 niên hiệu Đại Trung thứ 8 (867), Sư đến thành đô, tới yết kiến phủ Soái Bạch Công Mẫn Trung xin tấu trình biển ngạch chùa, Sư dùng túc bạt My dư mà đến, mọi người đều chưa từng thấy, Ngài bước lên nhà xí mà tiểu tiện. Nên người thời bấy giờ gọi Sư là "Vô Lậu Sư" và an trí Sư ở chùa Thánh Thọ, trong mười ngày Trung Lệnh sai năm, sáu vị tăng ngày đêm cùng nhau gìn giữ mà dò xét. Trong ngoài ăn uống với người thường, không giải y mà đi, bỏ ý hai hàng, tỏ rõ sự tích chứa của mười ngày. Đại tiểu tiện nơi nào rốt ráo không thể biết. Tư Đồ Bạch Công tấu trình biển ngạch. Đến ngày Sư bèn giã từ My Bộ. Phán quan Lư Cầu thấy thế cho là Sa-di nhỏ. Có người bảo: "Sư ấy tuổi đã ngoài tám mươi vậy!" Liên hệ thử bàn:
Người dân xứ Thục cho rằng Ngài Vĩnh An là Vô Lậu Sư là chẳng đúng. Hễ dứt phiền não, thì chẳng còn tùy tăng, nên không bao giờ gieo trồng, chứa nhóm, mới gọi là Vô Lậu. Nay sự thừa thải của thức ăn uống kết quy về chín lỗ bài tiết. Ngài Vĩnh An dừng hai lỗ chẳng lưu xuất. Trong Luận Du-già chép: "Không có phần bức não bên trong, nhưng vị thứ ấy nhẫn trú khó biết. Ăn nếm như thường, do duyên gì chẳng lưu xuất ở hai lỗ bài tiết. Về Quán, trong Luận Đối Pháp nói có Thanh Tịnh Y chỉ Trụ, thực là thực hiện hai thứ, y chỉ trụ thực thì đó là La-hán và Bồ-tát, chư Phật vậy. Nếu thế thì Ngài Vĩnh An là thị hiện y chỉ trú thực. Tuy ăn mà chẳng ăn, cặn bả uế đục làm sao sanh? Cho nên, dùng chánh danh để gọi thật thể của Sư.
Thích Tuệ Văn, người xứ Tín An, Sư thường khuyên đàn việt tu tạo phước nghiệp là trên hết. Sư từng nói: "Chưa dự được Thánh vị, còn trôi lăn trong năm đường, nếu không có phước lấy gì nương tựa". Ngài từng ở Cốc Giang chú đúc tôn tượng thân vàng trượng tám. Trong Châu quận chưa chấp thuận đồng từ đâu có. Sư lại bảo: "Chờ đợi bảy đại thí chủ". Tự nhiên có hai vợ chồng ở huyện Thanh Khê đem cái gương đến xả thí. Sư chú nguyện cho họ rằng: "Cái gương cổ này lúc chú đúc nếu nằm ngay trước tim Phật, ấy mới là sự chí thành phát tâm của hai vợ chồng". Đợi đến lúc rã khuôn tượng, quả nhiên gương kia nằm ở ngực tôn tượng Phật.
Ngài lại từng đến Dự Chương khuyến hóa, quyên được vài dật vàng ròng, bỗng gặp giặc muốn cướp lấy. Trong lúc gấp rút Ngài bèn ném vàng xuống nước và nói rằng: "Sợ tổn mất ruộng phước của quân tử, xin tự mò lục mà thả tôi". Sư đi rồi, bọn giặc lặn hụp xuống dưới nước tìm cầu mà không được. Khi Sư về tới Châu thì vàng đã thầm ở trong phòng viện. Như người làm việc nặng nhọc dùng thợ chẳng lánh cơ hiềm. Được vật thấy nhiều, sư nắm cá xỏ suốt cho các người thợ. Lại ở đường núi có hổ báo, Sư gặp nó, bèn lấy gậy gõ vào đầu nó bảo: "Ngươi chớ hại người. Ta tạo công đức sao chẳng đến kết duyên?" Ngày hôm sau, hổ ngậm con heo đồng đến bỏ trước mặt Sư rồi chuôi đuôi mà đi. Phàm Sư đề cử làm việc gì thì đều thành tựu. Mọi người quy hướng kính tin như dòng chảy.
Sư thường hiển hiện lắm điều kỳ dị.
Thích Vô Lậu, họ Kim, là con thứ ba của vua nước Tân-la. Tại bổn thổ dùng địa cư ấy Đích Trưởng, sắp lập Trữ Phó, mà Sư từ thuở bé đã kính mến sự khiêm nhường của Diên Lăng, nên nguyện làm Thích Ca Pháp Vương Tử. Bèn trốn nương thuyền biển đi đến Trung Hoa. Muốn tới năm xứ Ấn Độ đảnh lễ tám tháp thờ Phật. Sư đã qua sa mạc, vượt đến Vu-điền, ở phía Tây sắp đến thành cổ ở Thông Lãnh, vào trong Đại Già-lam. Trong đó các Tỳ-kheo đều là những vị tăng không thể suy lường, hỏi Sư rằng: "Ý của hữu lậu thường đến, chưa có kỳ tiết mà đến Thiên Trúc?" Có vị tăng bảo rằng: "Xưa ghi vô danh chưa thể liền đi. Tại đây có ao rồng dữ, hãy đến đó giáo hóa, nếu có ứng nghiệm mới có thể chóng vượt".
Sư theo lời thỉnh mời đó, bèn đến nơi bờ ao, chỉ thấy một chiếc giường người Hồ, Sư bèn ngồi. Đến lúc đêm sáp hết, bỗng nhiên sấm sét vang dậy, quái vật nhả khí, bồng bột các thứ biến hiện làm lóa mắt bất thường. Sư nhắm mắt không nhúc nhích, thí như cây gỗ đứng chót vót, làn gió nhẹ có thể làm khuynh động ư? Gìn giữ giây lâu, có con rắn lớn trương đầu lên đùi vế Sư, Sư rất thương tưởng nó nên trao cho pháp ba Quy y rồi nó bò đi. Nó lại hiện hình ông lão đến cảm tạ, thưa rằng: "Được Sư độ thoát, nghĩa không ở lâu, ba ngày sau tôi sẽ xả bỏ y báo đau khổ của loài lông vảy, được sanh về nơi tốt lành. Từ đây di về phía Nam có một tảng đá lớn, đó là chỗ đệ tử xả bỏ thân hình, cũng mong Sư khi rảnh rỗi có thể sang tìm nhặt hài cốt cho". Sau, thấy thân nó lớn dài ngã trên tảng đá, tăng chúng trong chùa đều thầm lặng mà hứa thuận. Lại nói rằng: "Người cầu nguyện sang Thiên Trúc, ở đây có Thánh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, cầu nguyện không luống ứng, nên hãy đến khẩn cầu. Nếu được điềm lành thì nên đi, chớ nghi ngờ". Sư bèn đến đứng trước thánh tượng nhập thiền định suốt bốn mươi chín ngày, thân bị bịnh hư thủng, song không nghiêng tựa. Chợt có một con chuột nhỏ như viên đạn gặm vỡ ngang chân trái Sư, nước mủ mầu vàng tuôn chảy chừng vài đấu mà lành. Đến lúc mãn hạn, Sư có được điềm ứng. Chúng tăng nói với Sư rằng: "Thấy Sư hóa duyên hợp tại đất nhà Đường (Trung Hoa), tâm còn hóa vật lợi ích lớn nhiều. Chân mỏi mệt mà du phương không thêm sự thấy nghe, chẳng nên gượng hóa. Đó là điều Sư đáng biết vậy". Trong ý Sư cho đó là lời của Thánh Hiền hẳn không nói khống. Lúc sắp đi lại bảo với Sư rằng: "Gặp Lan thì trụ".
Trên đường trở về có một ngọn núi tên là Hạ Lan, Sư mới nhớ lại lời dự ghi trước, bèn vào trong đó, có được hang cốc cỏ trắng, Sư liền kết cỏ dựng am mà ở. Tự nhiên, binh lính An Sư nổi loạn ở Lưỡng Kinh phản đảng. Vua Huyền Tông bèn đến đất Thục, Túc Tông huấn luyện binh lính Linh Võ. Vua thường mộng thấy một người thân mầu vàng ròng xưng niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng ở trước ngai vàng. Hôm sau đem việc trong mộng hỏi người hầu cận. Có người trả lời rằng: "Có vị Samôn mà không biết rõ hành trạng, tung tích hiện ở tại Bắc Sơn, và thường tụng niệm danh hiệu Đức Phật ấy". Vua Túc Tông mới tuyên cáo thỉnh mời, nhưng Sư không xuất định. Vua bèn bảo Sóc Phương Pháp Nguyên Soái Trung Thư Lịnh Quách Tử Nghi gần gũi sang dụ thỉnh Sư, Sư bèn chấp nhận đến. Vua trông thấy Sư liền nói rằng: "Thật là người thấy trong mộng!". Đến lúc Yết Lỗ bình yên, Thúy Hoa bình phục, Vua thỉnh Sư an trú trong nội tự, thiết lễ cúng dường. Sư xem như khỉ khinh khóa vàng, chim chán lồng chạm, nhiều lần Sư dâng biểu trình bày muốn trở về chỗ ẩn cũ. Trong tâm vua rất quyến luyến mến trọng nên đáp chiếu muốn Sư ở lại thêm một thời gian, chưa dược toại nguyện trở về núi, thì không bao lâu Sư đã thị tịch. Một ngày nọ, trên cánh cửa phải của nội cung, Sư hóa hiện thành hai chân, thân hình cách hỏng đất chừng vài thước. Quan lính giữ cửa lên tấu trình, vua liền cưỡi kiệu bộ đích thân đi đến chỗ đó, thấy được di biểu của Sư xin đưa về an táng dưới núi, nơi Sư ẩn cư ngày trước. Vua liền y cứ theo đó. Mọi sự trong lễ tang đều do các quan lo liệu cung cấp. Vua mới truyền bảo môn phiến thiết đặt lễ điện, sai Trung Thứ Giám Hộ, Hàm bộ đưa dẫn.
Trước kia, Sư hành hóa phần nhiều là ở huyện Hoài Viễn, nhân đó mà thiết đặt dinh sở, gọi đó là Hạ Viện, lễ tang đến đó, thần tòa không thể giở lên được, mọi người bàn với nhau dời vào an trí trong nhà riêng. Lúc đó nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ 3 (762). Đến nay, chân thể Sư vẫn an nhiên không biến hoại. Trong chỗ Sư nằm là cửa cấm, là chỗ hiện điềm ở đương thời, hiện nay vẫn còn.
Thích Bảo Đạt, không biết Sư là người xứ nào, Sư ẩn cư tại danh sơn, cao lớn đạo vọng, hiệu là Sát Lợi Pháp Sư. Sư thường xuyên hành trì Mật chú. Trong phòng viện của Sư có sàng giường Ấn Sa và gương chiếu Phật.
Sư đến Chiết Giang, gặp lúc gió to sóng lớn, làm hại rất lớn. Khi triều dâng lên thì sóng bắn lên các núi trên Kim Hồ. Sư buồn thương cho cảnh đất dâu mè đều biến thành sông, bèn trì tụng chú để ngăn cản bớt tai họa bởi sóng thần. Đêm đó giữa cơn sóng dữ dưới sông có một người to lớn, đội mũ cao đen, mặc áo mầu đỏ dẫn theo tùy tùng rất đông mà đến, thưa với Sư rằng: "Đệ tử là Ngô Ngũ Viên, báo thù rửa hận, chẳng phải người khác. Với từ tâm vì vật của Sư, đệ tử đã vâng mạng!". Nói xong liền biến mất. Sáng hôm sau, chúng tăng trong chùa lấy làm lạ hỏi rằng: "Đêm qua có tiếng náo động xe ngựa là của ai đến vậy?" Sư bèn kể lại đầu đuôi sự việc ấy. Sư có sự thầm cảm thần lý phần nhiều đồng loại như vậy. Từ do ở bờ phía Tây cát đất bồi đắp, chỉ chừng một năm trả lại sự gieo trồng ích lợi cho bá tánh. Bấy giờ, mọi người cùng khen ngợi Sư hợp nhiên mà phô diễn sự hoằng hóa. Về sau, không biết Sư mất ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Giường Ấn-Sa là gì? Thông đáp: Kẻ sĩ có Đạo ở nơi núi rừng hẳn chẳng có đồ vật quý báu, nghi là dùng cát sông theo khuôn phép khéo léo tạo thành giường. Gương chiếu Phật là gì? Thông đáp: Tức gương đèn vậy. Vì vào khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) có Lục Hồng Tiệm nhiều lần đến núi ấy ghi chép, ghi lại về Sư Bảo Đạt tiết kiệm mà dụng tâm điều độ.
Thích Ẩn Phong, họ Đặng, người ở xứ Thiệu Võ, thuộc Kiến Châu. Thuở bé Sư ngu độn, chẳng vâng lời cha mẹ. Sau khi xuất gia thọ giới, Sư bắt đầu du phương tham quán. Được Thiền Sư Nam Tuyền ở Trì Dương bảo lấy bình tắm, đề cử tương ưng mà được Nguyện Công chấp thuận. Về sau Sư nối Pháp Thiền Sư Mã Tổ!
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư nói đến núi Ngũ Đài, xuất phát ra đi từ Hoài Tây, gặp phải Ngô Nguyên Tế cậy binh lính chống cự Vương mạng, quan quân giao nhau với giặc, đánh nhau chưa phân thắng bại. Sư nói: "Ta phải đi hóa giải sự giết hại ấy!" Bèn ném tích trượng giữa hư không, phi thân nhiễm nhiễm tùy đi qua giữa hai bên quân trận. Chiến sĩ mỗi người thấy vị tăng bay qua bất giác rút mác cho vào vỏ, thế rồi, Sư vân du khắp các xứ linh tích, tình cờ đến trước hang Kim Cương, chổng ngược thân mình mà thị tịch, dong dõng tự nhiên, thẳng đứng như cây trồng. Khi đó, mọi người bàn với nhau đào một linh huyệt trước rồi khiêng vác đến mà thiêu đốt, nhưng nhục thân Sư an định như núi, dốc hết sức lực mà chẳng lay động. Xa gần mọi người đến chiêm ngưỡng, trông thấy kinh hãi mà khen ngợi ly kỳ. Sư có người em gái xuất gia làm Ni đi đến Ngũ Đài trừng mắt quát rằng: "Lão Huynh! ngày trước làm điều chẳng theo luật pháp, đến lúc chết còn mê hoặc mọi người. Bây giờ mọi người đều đã biết. Em tuy là cốt nhục nhưng đâu dám kéo dắt sai lầm ư! Xin theo lẽ thường vậy!". Rồi đưa tay đẩy nhẹ tự nhiên nhục thân Sư ngã té, bèn trà-tỳ và thâu nhặt xá-lợi mà nhập tháp. Đề hiệu là "Đặng Ẩn Phong" có để lại một bài tụng rằng:
"Độc huyền cầm tôi vì anh gảy
Thông bách xanh hoài chẳng sợ lạnh
Vàng khoáng hòa nhau tánh tự khác
Tùy hướng trước anh thử lấy xem!"
Liên hệ thử bàn:
Người chết thây nằm xếp chân là việc đồng nhất. Đứng mà quá vãng, ngồi mà xả thân, đó là người tu tam-muội. Ở đây, Ngài Ẩn Phong, đầu chống đất dày, chân đạp trời xanh, trái với lý thường nên khó lường biết. Người ấy mà chẳng lường được, như đây đặt ngược, xưa nay một người. Và cô Ni, em gái của Sư đưa tay đẩy nhẹ mà ngã xuống bình thường, là lời thóa mạ của nữ ty. Công năng như huyễn, chước hay khéo lớn. Hoặc có người nói: Binh lính của Hoài Tây, Đường Thư sao chẳng ghi chép việc Ngài Ẩn Phong ném bay tích trượng giải trừ chiến trận ư? Thông đáp: Tiểu thuyết lưu truyền hoặc được sự thật. Cho nên chỉ một quyển Kinh Xuân Thu mà năm nhà làm, sử truyện há là đồng nhau?!
Kế nữa, có Ngài Thích Vong Danh trụ chùa Khai Hóa ở Hán Châu. Trước tiên nhân vào chùa thấy được điềm lành ứng hiện giao nhau, bèn phát nguyện xả thân chịu khắc khổ làm kỳ hạn. Ở trong Chánh Điện, Sư lần lượt đốt hương, bỗng thấy đất giữa nền thất đều mầu lưu ly, có vị Bồ-tát nương mây năm mầu giáng xuống sân, bảo Sư rằng: "Sư rất bền chí, trong vòng ba năm sẽ đắc Đạo. Ta cầu chứng cho Ông". Ngài liền cúi đầu lẽ bái, trong khoảnh khắc bèn không thấy nữa. Tăng chúng trong chùa đến nói rằng: "Trong học viện đều biến thành mầu lưu ly!" và khen ngợi không thôi. Chư tăng ở đó lại chuyên cần tiết chế khổ hạnh.
Lại có vị tăng vong danh ở Đặng Châu, tuổi đã già suy, thường du hành quanh vùng Đặng Châu thuộc đất Nhưỡng. Hằng ngày, Sư ăn thịt hai con chim cưu, Tăng tục đều chê bai, Sư không hề lánh né. Có lần Sư đang ăn uống ngon lành, có một bần sĩ đến xin ăn, Ngài liền tách hai chân của con chim cưu đưa cho người ấy cùng ăn. Ăn xong, Sư súc miệng, hai con chim từ trong miệng Sư bay ra, một con thì đi được, còn một con lăn lóc trên đất, kẻ bần sĩ đó cũng kinh ngạc quái lạ, bèn ói ra thì hai chân con chim cưu hoàn toàn bình phục như cũ, vị tăng ấy thật chẳng ăn thịt chim ấy. Từ đó, mọi người đều sùng kính tôn trọng, gọi Sư là "Nam Dương Trĩ Cưu Hòa-thượng".
Có người khen ngợi Sư rằng: "Xưa kia Xà-Lê Hương ở núi Thanh Thành uống rượu ăn thịt. Nhưng sau ói nhả toàn thịt gà dê, đều hóa thành nguyên hình, bay nhảy kêu hót mà chạy vào hang huyệt, là đồng.
Thích Vong Danh, không rõ Sư là người xứ nào, ở cách Bao Thành vài mươi dặm, hiệu là Trung Lương Sơn. Vài ngọn núi có màu xanh bất động giữa hư không. Lúc Sư ở Quyết Trung, thì hành vi lạ lùng, nói năng bất thường. Người thường thấy thì chẳng kinh hãi, người mới thấy thì quái lạ. Bình thường, Sư rất ưa thích uống rượu và ăn thịt, thô trọng công hành, lại cương nhậm việc chúng tăng nhưng thường chiết trung, chư tăng cũng khiếp sợ, gọi Sư là Thượng Tọa. Bấy giờ, trong hàng xuất gia, tất cả đều tập học theo, chỉ Sư là không sợ. Sư xét biết mà lớn lời than rằng: "Chưa trụ tịnh tâm địa, làm sao dám nghịch hạnh? Nghịch hạnh chẳng phải là cảnh giới của các ông!" Vả lại, trong đời thường nói rằng: "Vàng nên dùng lửa để thử", hãy đợi tôi một ngày, một lúc nào đó thử qua!" Khoảng niên hiệu Khai Thành (836-841), bỗng nhiên Sư làm một chiếc bình lớn rồi nhóm họp đồ chúng, bảo rằng: "Ta và các ông di đến rừng Thi-Đà". Bởi vì núi rừng ở ngoài thành có nhiều mồ mả, chỗ bỏ thây người chết, nên nói như vậy. Sư ngồi xổm dưới đất, mở bình ra, trong toàn là thây chết thối rã, đưa vào miệng liền ăn nuốt, với trạng thái vui vẻ ưa thích. Các vị tăng cùng đi chung đều bịt mũi, thóa nhổ nước dãi dưới đất rồi bỏ đi. Sư lớn tiếng gọi rằng: "Các ông hãy ăn thử thứ thịt này mới nên ăn thứ thịt khác!" Từ đó, các hàng xuất gia đều cảnh ngộ, Sư cảm hóa họ trở thành tinh tấn, xa gần thảy đều quy y kính tin. Bấy giờ, có Hữu Bộc Xạ Liễu Trọng Trình trấn nhậm tại Lương Phủ thường qua lại gần gũi lễ trọng.
Lúc thị tịch, Sư khoảng tám mươi chín tuổi, chân ảnh hiện vẫn còn ở chùa Núi. Đến nay, các xứ Lương Ích, Tam Phủ v.v... chỉ gọi Sư là Hưng Nguyên Thượng Tọa. Tông tích kỳ dị chẳng ít, không thể nói rõ hết được.
Liên hệ thử bàn:
Thượng Tọa (Vong Danh) ban đầu thì như thế mà giáo hóa. Sau thì mọi người đều bắt chước the. Không hề biết người chứng quả, trái ngược với sự hoằng hóa mọi vật nhưng trọn đều là làm Phật sự, lấy đó mà cảnh tỉnh người chưa nảy mầm, cho nên nếu quy về điểm thật, thì đó là như trong Đối Pháp Luận nói các vị Bồ-tát oai đức thị hiện thực lực trụ nên vậy. Nếu có người vọng bảo là đắc quả, trường hợp nầy khác gì loài dã can (chó sói) kêu sủa mà bắt chước sư tử gầm rống ư?
Thích Văn Sảng, không rõ Sư họ gì và người ở xứ nào. Sư sớm hiểu cõi trần, là ràng buộc quyết mở lưới ái, theo thầy học Đạo. Sư tự nhiên chẳng ngủ, giả sử có đau khổ rất lắm cũng chỉ ngồi kiết già. Đó là hành hạnh trường tọa đầu-đà.
Sau, một mình Sư ẩn cư ở vùng Khâu Lũng, trời mưa dầm suốt tuần, bên cạnh không có thị giả hầu hạ. Có con rắn vào trong tay Sư nằm cuộn tròn.
Lúc đó, có người thỉnh Sư chứng trai, cảm thấy quái lạ sao tới giờ mà Sư không đến. Người đó lại đến thỉnh Sư, thấy rắn như thế bèn sợ hãi thất thanh. Rắn bèn từ từ bò xuống. Người đó cố thỉnh Sư sang chứng trai, Sư từ khước bảo là quá giữa ngày rồi không ăn. Cuối đêm gần đến sáng hôm sau, có một con chó sói nhe răng há mồm nhảy nhót, hình trạng như muốn ăn nuốt lấy Sư, Sư xót thương nó đang bị lửa đói thiêu đốt. Lại tự nghĩ rằng: "Đãy thân hình dơ uế này ta không nên luyến tiếc, xả thí cho nó một bữa ăn ngon. Nguyện ta chóng được thành tựu thân bền chắc, và người thọ nhận sự xả thí của ta cùng đồng trở về thiện hội!" trong chốc lát, con chó sói ấy bèn chuôi tai mà đi. Đến ngày Sư thị tịch, giữa hư không có tiếng chuông khánh xen nhau, thời gian rất lâu mới dứt. Môn đồ và mọi người trong làng cùng nhau nhóm họp đón rước an táng. Ngày đó, có mấy mươi lá phướn che rợp giữa hư không, dẫn dường đi trước, có mùi hương thơm lạ xông khắp, cả chúng đều buồn than như mất nơi nương tựa.
Thích Bổn Tịnh, không rõ Sư là người xứ nào. Ngài có đạo khí cao sáng, người thấy cung kính. Nghe tại xứ Mân Lãnh có nhiều trí thức Thiền tông, nên Sư đến khắp tham vấn. Lại nghe núi Hoắc Đồng ở huyện Trường Khê có lắm động phủ thần tiên, là chỗ trong kinh gọi là Bồ-tát thiên quan nhiếp lãnh đồ chúng cư trú ở đó nói Pháp biển tánh Hoa Nghiêm. Những người hái củi thường được nghe thấy điềm lành như nhạc trời, hương lạ, chim thú, nhưng trong núi chẳng dung chứa kẻ phàm xấu ác, nên phần nhiều lại bị đuổi ra khỏi. Sư vào núi kết cỏ làm thất. Ở đó có một động đá gọi là hang độc, Sư sống cạnh hang đá. Có con rồng ở đó thỉnh thoảng bò ra, biến hiện bất thường. Sư bèn gọi nó mà răn bảo để thuần quen. Lại có các hổ dữ chặn đường làm hại, người hái củi không dám vào sâu. Ngài gõ vào đầu nó răn bảo dặn bò, xong, nó chuôi tai mà di. Có lần trong đêm thanh vắng, có chín người khăn mũ quấn kín đến xin nghỉ lại qua đêm. Sư đều bằng lòng cho ở lại trong am thất. Đến sáng cáo từ, cả 9 người đều hóa thành chim hạc kêu hót vang giữa hư không mà đi. Không biết về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Pháp Giang, người xứ Giang Đông, vân du đến chùa Pháp tụ ở Mân Thục. Chùa đó do Thục Vương Tú xây dựng vào đời Tùy. Trong chùa có tháp Xá-lợi do vua Văn Đế (Dương Khiêm) xây dựng vào niên hiệu Nhân Thọ (601-605, đời Tùy). Sư lấy tâm từ thương xót làm bổn hoài, biết được nhiều điều trái ngược, nhưng sự việc xảy đến thì không chút sai lầm. Sư từng ở trong phòng, bảo với môn nhân rằng: “Ở ngoài có hơn muôn người đều đội khăn, thân hình lại bị co quắp đang tìm đến ta để xin cứu giúp. Ông mau ra cửa mà đón rước". Người đệ tử ấy ra tìm xem chẳng thấy người nào, lấy làm quái lạ sao lời thầy nói mà lầm loạn như thế. Đợi chốc lát, có mấy mươi người mang vác đồ vật bằng vành tre trong đựng đầy ốc đi đến. Sư bảo: "Họ đã đến rồi!", bèn bảo đem tiền mua chuộc lấy và thả xuống sông.
Kế nữa, ở Trường An có chùa Đại Hưng Thiện vốn là chùa Xá-Vệ đời Tùy. Đến niên hiệu Tiên Thiên (712-713) thời Tiền Đường, chùa bị lửa thiêu đốt, điện vũ cháy sạch chỉ còn lại nền móng. Đến niên hiệu Minh Khánh có Đạo sĩ Lý Vinh ở Đông Minh Quán, vốn người xứ Ba-tây, khéo giỏi việc bạc đồ, thường cùng chư tăng tranh hơn thua. Lý Vinh đến Huyền Đô Quán, nhân dẫn các Hoàng Quan chỉ vào đống tro tàn mà diễu cợt rằng: "Nói thiện mà không hề thiện, nói hưng mà lại chẳng hưng. Như Lai cháy rụi hết, chỉ còn một nhóm tăng". Trong tăng chúng có người tức giận dị tông chê bai như thế, bèn gấp chiêu mộ khuyến hóa xây dựng kết cấu mới lại rộng lớn hơn trước, có đến mười hai mẫu đất. Hóa duyên tuy ngày một hưng thạnh, đầy ngàn vạn mà chưa thể thành. Tăng chúng gãi đầu trù trừ chưa biết giải quyết cách nào để chóng hoàn thành! Bỗng nhiên có một vị tăng y phục rách rưới hình sắc gầy ốm, mang một chiếc đãy rách đến kết duyên, nói rằng: "Phải sớm xong điện Phật", rồi đưa chiếc đãy và bước đi. Mở ra xem thì toàn là vàng ròng, cân tất cả có một ngàn lượng. Mọi người lúc đó đều lấy làm lạ, do đó đàn việt ngày một thêm đông đảo, Chánh Điện chóng được hoàn thành.
Thích La Tăng trụ chùa Thục Thánh. Bên trong, Sư là người đã đắc quả vị, có lần bị bịnh nằm ở núi Ngũ Đài, các vị tăng đồng hội đều chẳng thể lường biết, thấy Sư không hề biếng trễ, gần chín tuần thì bịnh Sư lành. Lúc sắp từ biệt, Sư nói rằng: "Thâm cảm nổi niềm đau khổ mà nhọc phiền chăm sóc, nay tôi được bình phục, là do nhờ công sức của các Sư. Tôi ở tại núi Trà Lung ở quận Cửu Lũng thuộc kiếm ngoại. Ngày sau có dịp du phương xin chớ quên ghé thăm!". Cuối năm vị tăng ấy đến đất Thục, trải qua hỏi khắp các ngọn núi, các người già hái củi đều bảo là "chưa từng nghe tên núi ấy". Vị tăng ấy mới than rằng: "Ôi! Sự luống dối của người bị bịnh Thiền!". Khi sắp quay đầu trở lại, thì gặp một đứa bé ở núi bảo rằng: "Tôi là người nhóm cát ở núi ấy". và liền dẫn đường đi trước. Bỗng chốc thấy điện tháp uy nghiêm, phòng viện hành lang hoàn bị, quả nhiên gặp được vị tăng mắc bịnh ngày trước (La Tăng) đứng chờ đón tại cửa từ lâu, lúc đó trời sắp tối, Sư (Vị tăng mắc bịnh) nói với vị tăng ấy rằng: "Chùa này nếu người chưa đắc Lậu Tận thông thì không đến được. Nhưng vì ông và tôi có túc duyên một lần gặp gỡ". Vị tăng ấy nói: "Muốn ở lại qua đêm có được chăng?" Sư bảo: "Chưa thể được, ông nên khắc cần tu chứng, đến đây đâu khó gì!" Rồi bảo đứa bé hồi nãy đưa Sư trở về. Vị tăng ấy xoay đầu nhìn lại chỉ thấy vách núi cao vót, sam hội dâu xanh mà thôi. Lúc đó nhằm niên hiệu Khai Thành (863-841).
Bấy giờ, lúc Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền soạn truyện gặp được vị tăng rất thông hiểu địa lý, bảo là đất Tri huyền làm về sau là đất an Doanh Triệu, được núi trước cảnh Chu, núi đó hình trạng như bức tường thấp, tuy có cao thấp không đều mà bên trong bằng phẳng. Bỗng chốc có vị lão túc trong xóm bảo là: "Xưa kia tương truyền gọi đó là núi Trà Lung".
Thích Khế Thủ, không rõ Sư họ gì, có thuyết nói Sư là người xứ Tứ Minh. Thân lùn, ngực to, mũi nhăn bụng lớn, nói năng bất thường, ngủ nghỉ tùy tiện. Sư thường dùng gậy mốc mang đầy vải bố vào trong quán chợ, thấy vật liền xin, đến nỗi tương giấm cá cũng bốc nhón lấy đưa vào miệng, dành lại chút ít để vào trong đãy. Người đương thời gọi Sư là "Trường Đinh Tử Bố Đại Sư". Sư từng nằm trên tuyết mà trên thân không có tuyết. Mọi người lấy đó làm quái lạ. Sư nói kệ rằng: “Di-lặc chân Di-lặc". Người đương thời đều chẳng hiểu những câu ấy. Có người nói rằng: "Ngài là Đức Từ Thị thùy tích!". Sư lại lên trên cầu lớn mà đứng, có người hỏi: "Hòa-thượng làm gì đứng đây?" Sư bảo: "Ta đứng đây tìm người". Sư thường đến người xin nếm thử. Trong quán tiệm thì đều là vật bán, mà trong đãy vải của Sư đều là trăm vị cung cấp thân có dư. Sư chỉ điềm tốt xấu của người thì hiện tướng bày điềm. Những lúc trời nắng gắt thì Sư kéo lê guốc gỗ lên trên chợ cầu, chổng đùi mà ngủ, lúc mưa bão thì Sư mang giầy cỏ, mọi người lấy đó mà nghiệm biết.
Vào khoảng niên hiệu Thiên Phục (901-904), Sư thị tịch tại Phụng Xuyên. Dân chúng trong làng cùng nhau lo an táng. Sau ở châu khác lại thấy bóng dáng Sư cũng mang đãy vải mà đi. Ở các vùng Chiết Giang phần nhiều vẽ hình tượng Sư phụng thờ.
Thích Trí Biện, không biết Sư là người xứ nào. Thuở thiếu thời, Sư rất giỏi giang, lúc lớn lên siêng tu Phạm hạnh. Đối với các kinh luận hễ một lần nghe qua thì liền nhập thần, Sư tuyên giảng ngôn từ rõ ràng lưu loát. Mỗi lúc lên đài tòa tự nói năng siêu tuyệt, nhưng có điều buồn lo là thính chúng không khế hợp căn cơ. Sư đo lường như rót nước vào đồ vật, vật vật chẳng không, buộc ta riêng không, là tội với ý Phật, Sư bèn mang vác hòm sách đi khắp các danh sơn để tìm hỏi các bậc trí giả. Cuối cùng Sư đến chùa Hành Nhạc dừng ở hơn một tháng. Sư thường ở tại trai đường của chùa, lúc nhàn rỗi riêng tự tìm thích nghĩa sớ. Lại tự trách lỗi mình rằng: "Chẳng biết nghĩa giải thích có trái ý Thánh không? Đang suy nghĩ miên man, tình cờ ngẩng đầu thấy một lão tăng đang chống gậy bước đi và hỏi Sư rằng: "Sư đọc kinh luận gì và thấu suốt nghĩa lý gì vậy?" Sư nghi trong danh sơn này, trong dấu vết xe nầy có các bậc La-hán lẫn lộn trong phàm tình, không sao lường biết được, nên bèn tự thuật bổn duyên, nhân đó thêm phần hối trách. Lại thưa rằng: "Kính mong bậc Hiền đạt chỉ dạy, xin hết lòng nghe nhận, khóa buộc miệng lưỡi chẳng còn giảng nói!" Vị Lão tăng ấy cười, bảo: "Sư hiểu biết rộng, há không biết nghĩa đó! Đức Đại Thánh còn không thể độ được người vô duyên, huống gì hàng sơ tâm ư? Sư chỉ vì vô duyên với chúng sanh!" Sư liền hỏi: "Há trọn đời như thế sao?" Vị lão tăng ấy bảo: "Tôi thử vì ông mà giúp kết duyên" Và bèn hỏi Sư rằng: "Nay sư có được bao nhiêu của cải lương thực". Sư đáp: "Từ Bắc đến Nam rách cả xiêm y giày dép, đã trải qua muôn dặm nên mọi vật mang theo đều hết. Hiện tại tôi chỉ thọ trì Pháp Y chín điều mà thôi!" Vị Lão Tăng ấy bảo: "Chỉ từng ấy cũng được. Hãy nên bán Y, lấy đó đổi vật để làm các thứ cháo nhừ, bánh bột, dầu ăn... Sư nghe lời đó bèn làm, có chừng vài mươi người ăn và cùng đem đến chỗ hoang vắng rải tán bánh bột, đốt hương, quỳ thẳng chú nguyện rằng: Những ai ngày nay thọ nhận sự cúng thí của tôi, xin nguyện đời sau sẽ làm quyến thuộc Phật pháp với tôi, tôi sẽ giáo hóa cho đến thành tựu quả Vô Thượng Bồ-đề". Sư nói xong, chim quạ đua nhau bay xuống mổ lượm ăn trên đất; dế, kiến, ruồi, sâu nhiều vô số kể. Vị Lão tăng ấy bảo: "Hai mươi năm sau, ông mới nên trở về khai giảng Pháp tịch, nay hãy vân du các nơi, chưa nên giảng thuyết!" Nói xong, liền bỏ đi. Từ đó, Sư càng thêm tinh tấn Đạo lực, chẳng mệt mỏi nghiên mài, nghĩa vị thấm đượm rất nhiều, chỉ khí vẫn tại truyền trao. Hai mươi năm sau, Sư lại trở về Hà Bắc, hoằng hóa hưng thịnh tại Nghiệp Đô, Thính chúng đông đến hàng ngàn người, đều là độ tuổi hai mươi trở xuống, còn người già không có đến vài ba người.
Liên hệ thử bàn:
Trong hiện tại có địa vị cuối cùng, biến dịch khó đổi dời. Sự tu nhân ngày nay chắc chắn vời lấy quả tương lai. Nay ngài Trí Biện nương theo sự chỉ dạy của vị tăng lạ bảo hai mươi năm sau đợi chờ đồ chúng nghe Pháp. Mỗi mỗi đều như lời vị tăng lạ nói. Như vậy thị hiện đời này tu, hiện đời này đắc quả, chẳng phải luống dối. Trong sách Thi nói: "Đợi nước sông trong lắng, người sống thọ bao nhiêu, sắp biết người sống lâu, nước sông trong thường thấy".
Thích Ninh Sư, người xứ Kỳ Dương, mất tên hiệu, nên người đương thời dùng dòng họ để gọi người. Sư qua lại bất thường, chỉ có xuất xứ là như bình thường.
Năm thứ nhất khi vua Chiêu Tông mới lên ngôi (889), Sư ở trong chùa Núi. Bỗng nhiên Sư nằm chết giấc, thân thể vẫn ấm nóng, chốc chốc sắp tẩm liệm, tăng chúng vây quanh gìn giữ mà không dám tẩm liệm. Ba ngày sau, Sư sống lại, mọi người lấy làm lạ đua nhau thăm hỏi. Sư kể lại: "Tôi bị Minh Ty dẫn đi. Ban đầu đến gặp một phán quan hỏi rằng: "Hòa-thượng thọ sao không có lộc?" Rồi gọi một vị quan lại bảo cùng xem xét, quan lại nói "chỉ có ba thạch lá sen". Nhân đó bảo ghi vào sổ sách. Lại bảo một người khác dẫn tôi đi xem khắp các nơi. Mới đi vào một cửa, thấy mấy điện đường, mỗi nơi đều có đề bảng. Tôi dời bước đến một điện đề là "Lý Khắc Dụng", nhìn qua song cửa thấy một con rồng đen mà mất một mắt, có trụ sắt đứng ở trong khóa, bị trói buộc trong lưới đó. Tiếp theo đến một điện khác đề là "Chu Toàn Trung", là da xanh trán trắng hổ khóa buộc như trước, mà trước có hình trạng ăn nuốt máu thịt người vung vãi. Tiếp theo đến một điện khác đề là "Vương Kiến", có giường bằng vàng ròng và một thỏ trắng nằm trên. Tiếp theo lại đến một điện khác đề là "Lý Mậu Trinh", có đủ thứ mũ mão như vương giả, chung quanh có vài cô gái hầu. Tiếp theo đến một điện khác đề là "Dương Hành Mật", qua song cửa thấy la liệt đen tối, không thể nhìn rõ. Tôi hỏi sứ giả: Các hình trạng quái lạ ấy là gì?" Sứ giả đáp: “Ấy là vương giả trong tương lai". Bên trái có vài điện, nhìn vào thấy tối đen. Sứ giả chẳng cho dẫn đến, bèn quay trở lại chỗ cũ. Phán quan tại sảnh bảo sứ giả: "Khéo đưa Sư (tôi) trở về, và sư chỉ cẩn trì tụng nhiều Kinh Công Đức". Tôi hỏi: "Kinh gì là Kinh Công Đức?" Phán quan đáp: "Đó là Kinh Kim Cương Bát-nhã. Kinh ấy tại cõi tối tăm (minh gian) công lực cứu giúp không gì sánh bằng". Mãi đến lúc sống lại, nhìn bốn phía giây lâu, và kể lại việc trước. Mọi người nghe kinh hãi bèn truyền đạt đến quan. Hậu Kỳ Soái lấy làm quái lạ cho là to tát xa vời và luống vọng đều chẳng tin.
Sau đó, Mậu Trinh quả nhiên được phong làm Tần Vương, Lý Khắc Dụng uổng lạm giết hại, gọi là rồng một mắt. Dòng họ Chu cách mạng nhà Đường, tàn hại sao nỡ chặt cánh lóc thịt, đấy chẳng phải hổ là gì? Thục Vương Kiến thuộc Thơ cản trở binh lính từ cũ. Đến năm Đinh Mão (907), thuộc niên hiệu Thiên Hựu, tiếm ngụy hiệu, dùng vàng làm giường trang sức. Mỗi mỗi đều phù hợp. Sư từ đó thường đoán trúng, chỉ uống nước lá sen mà thôi, đối với các thức ngon lạ đều là nghịch miệng chẳng ăn. Dân chúng ở vùng Tần Lũng thường thỉnh Sư nhập minh, dự nói mọi việc lành dữ, không hề sai lạc.. Hoặc thỉnh Sư chứng trai, tranh biện ao sạch sen non, gọi Sư là "Nhập Minh Hòathượng". Sau, Sư thị tịch ở Kỳ Hạ.
Liên hệ thử bàn:
Lời nhập minh và giấc mộng hơi giống nhau. Mục Vương sắp hóa người vui mừng. Tần Mục được Thượng Đế cắt thuần, hình thể ở tại nhân gian mà thần đến cõi trên. Lời trước đã phát, việc sau chắc vậy, cho nên biết sáu Hầu tám Trưng lường xét chẳng luống dối. Ngài Ninh Sư nhập minh cũng như Mã Tuần ở thời Hậu Đường thấy được dưới Thiên phủ, cho Lộ Vương là Thiên tử. Mọi cảnh vật hình tượng đề bảng trong điện mà Sư thấy cuối cùng đều phù hợp theo lời kể lại. Có người cho đó là mộng tưởng, mộng tưởng có chứng cớ. Cho đó là thần du, thần du chẳng sai quấy. Cùng biết mộng và tỉnh chỉ là một, tối sáng có khác. Như trong Nhiếp Luận nói: Như các thứ trong mộng, đến lúc tỉnh, tất cả mọi thứ chỉ có Thức!" Có như Cổ Mãng Quốc ngủ nhiều đến năm tuần, lúc tỉnh lại lấy mông làm thật, lấy tỉnh làm vọng. Nếu vậy thì mọi việc làm lúc tỉnh là điềm trước của mộng. Và lấy thật ở trong mộng, ấy là chân thật. Mộng và tỉnh trái dụng, đó còn chỉ là một. Ngài Ninh Sư quả nhiên chẳng luống vọng, khi thời Hậu Lương cách mạng Tiền Đường, hai Lý Vương Dương đều chống đối Thiên tử. Các điện xa trông được chẳng phải thừa, cát cứ quần hùng thiên bá hay sao? Điều Sư ăn lá sen cùng việc Sa-môn Pháp Khánh đời Tùy là đồng, nên những ghi chép trong chốn u minh, như Khương Hà Đức, kế nữa là Lý Sơn Long vào cõi tối mà trở lại nói mọi sự đều ứng nghiệm. Trong kinh nói rằng: "Thí như người ngủ mộng thấy biết tất cả mọi vật, có thân mà chẳng dời bổn xứ.
(Quyển 21 hết)
(chánh truyện có mười ba vị, phụ có năm vị)
Thích Như Mẫn, người ở đất Mân. Ban đầu gặp được Thiền sư An, bèn hoằng hóa hưng thạnh ở Lãnh Ngoại, Sư thật có nhiều dị tích. Sư là người khoan dung, đốc lòng, không duyên cớ thì ít nói. Thương xót sâu sắc những kẻ ngu mê, dẫn hạnh khuyên răn. Phiên Bá Phiên Ngung họ Lư mỗi lúc đến thưa hỏi, thường biết ngược trở lại, xem xét đều khế hợp. Quảng chủ Dịch Thế kính phụng chu toàn thường luôn lễ yết, nếu có điều nghi ngờ chưa quyết đoán, thì đến thẳng thưa hỏi. Sư cũng không ghét ganh, mở miệng nói ra đều là phép tắc, bấy giờ gọi đó là khất nguyện, bèn riêng gọi Sư là "Tri Thánh Đại Sư".
Ban đầu, Sư dùng một người chuyên tu khổ hạnh làm thị giả, rất xứng hợp tâm ý, gọi người đó là Sở Do. Một hôm, sở do theo Sư lên Sơn Tích. Sư lại, ngầm bảo xuống núi, Sở Do quay lại trông thấy Sư ẩn xuống đất, và Sở Do bèn ẩn mình trong cỏ, phủ che kín thân hình, giây lâu dò xét, thấy Sư mới xuất hiện, liền chạy đến nghinh đón hỏi rằng: "Sư sang nơi nào?" Khi đó như có người chết từ huyệt đất mà ra, Sư nghiêm răn rằng: "Sở Do! Ông không nên nói ra ngoài, kéo ta mất việc nhàn".
Sau, Sư thị tịch tại Viện, toàn thân không rã. Mọi việc trong lễ tang, xây tháp đều do quan cúng dường. Nay xưng hiệu Sư là "Linh Thọ Thiền Sư", tháp hiệu là "Chân thân".
Liên hệ thử bàn:
Nếu Linh Thọ gặp Đại An, thì thọ lạp lâu dài mãi, tuổi thọ con người cũng có thường hạn. Nghi đó cũng là chỗ nghe dị từ.
Thích Toàn Tể, họ Thẩm, người xứ Tiền Đường. Lúc còn ẵm, Sư đã không thích ăn các thứ máu huyết tanh nồng. Mẹ của Sư nhiều lần trông thấy điềm lành, khuyên đưa Sư đến Đại Sư Pháp Tế ở Kinh Sơn cạo tóc xuất gia.
Đến lúc tu Thiền quán, Sư thường vượt trội, chẳng xen tạp phong trần. Sư kính mến mười hai môn đầu-đà, dùng đó để trang nghiêm đạo hạnh. Đến nỗi có lời đồn Sư là: "Tể Đạo". Đến lúc du phương tham thỉnh, Sư được Thiền Sư Thạch Sương ấn chứng, thầm bảo nhậm cho. Sư đến núi Thiên Thai trong hang tối, để trọn chí khí. Tại hang núi ấy cùng với Hàn Sơn Tử Ân Cư ở Đối Trĩ, đều là nơi có lắm quỷ mị mộc quái. Sư ẩn cư tại đó hơn hai mươi năm, khiến chim ác đổi hót, sơn tinh nhường hang. Sư vào ra kinh hành, quỷ thầm chăm lo mọi việc, hoặc quét dọn đường đi, hoặc theo hầu bên cạnh, hoặc thay việc múc nước, hái trái cúng dường. Bấy giờ mọi người thường thấy chứ Sư không hề nói.
Sau, đến niên hiệu Thiên Thành thứ 5 930), các Thiền lữ ở Kính Sơn thỉnh Sư về ở tại Viện Trấn Quốc. Sư thị tịch tại bổn viện, nơi Sư xuất gia.
Thích Hoài Tuấn, không rõ Sư là người xứ nào, Sư là vị tăng vừa ngu độn lại vừa ngông cuồng. Ngài biết trước việc chưa xảy ra nhưng ứng hợp như thần.
Trong niên hiệu Càn Ninh (894-898) thời Tiền Đường, tự nhiên Sư đến Ba Đông. Sư lại có tài
Thảo Thánh, bút pháp thiên nhiên, hoặc trên vách tường chùa quán tiệm chợ viết lời kinh Phật, Pháp Đạo. Cho đến những ngôn từ thi ca quê kịch, thô bỉ không thứ nào chẳng nhóm họp ở đầu ngọn bút của Sư. Sư nói với họ là: "A-Duy!" mà thôi. Dân chúng trong vùng coi như bậc thánh hiền. Thứ sử Vu Công sợ đó là Sư mê hoặc quần chúng bèn bắt giam vào ngục mà vặn hỏi, Sư bèn dùng thơ đáp suốt hành trạng. Từ ý thì Tây Đông của Mân Xuyên, nhưng chướng cú bóng bẩy. Châu Tướng lấy làm lạ nên thả Sư. Lại rõ được yếu chỉ, nghi Sư ở trong biển chẳng lẽ thuộc dòng phái của Ngài Bôi Độ ư? Hành lữ đi qua đều neo thuyền mà yết lễ. Sư biện rõ mọi việc tốt xấu trên dưới eo biển, các việc lợi độn của việc kinh cầu buôn bán mọi vật.. Nếu các khách khẩn cầu, Sư chỉ viết năm ba hàng, không hề nói rõ. Việc ấy rất kín nhiệm mà ứng nghiệm. Bấy giờ, Kinh Nam Đại Hiệu Chu Sùng Tân đến tham yết, Sư để thư cho biết "Giao cho Hoàng Đô khám xét". Sau đó, Sùng Tân vào triều cống, nhân bị Vương Soái Nam khám xét, bèn trói giam tại Nam Phủ, cuối cùng bị giết chết. Áp Xuyên Tôn Đạo Năng qua đòi bèn an táng tại nền chùa cổ Trúc Lâm. Hoàng Phủ Huyễn Tri Châu, bèn họa một người mang gậy, một người nữ ở bên cạnh, sau đó lấy con gái nhà dân, bị kiện tụng, thêm giam hãm vào Phủ. Có Mục Chiêu tiếp nối, vốn chủng tộc Ba-tư, thuở nhỏ rất giỏi nghề thầy thuốc, theo cha đến tham yết. Sư bèn họa hình Đạo Sĩ cỡi mây nâng một cái bầu, Sư viết rằng: "Chỉ huy Sứ Cao mổ điệp nha thôi". Mục Sanh sau lấy y thuật hữu hiệu. Nam Bình Vương Cao theo lời dạy răn khuyên bỏ Đạo theo Nho, giản trao cho nhiếp phủ nha thôi. Gặp lúc Vương Soái đánh phạt Kinh Châu Sư bèn làm thơ đưa sang Nam Bình Vương đề rằng: Đầu ngựa tạm vào đường Dương Châu, thân quyến phải nên sửa mắt xem". Năm đó, Cao Thị thua thật ở Hoài Hải, bèn mở trùng vây. Sư có các dị tích khác phần nhiều như thế cả. Bỗng một hôm, Sư đề trên lá chuối: "Ngày nay đã trả lại nghiệp trái" để ở giữa sân. Châu Huyện không còn tra xét đến cùng, mọi người qua lại phần nhiều thấy lạ mà chẳng để ý. Bỗng nhiên Sư bị người giết hại, thân một nơi đầu một chỗ. Thứ sử vì thế, lo việc lễ tang trà-tỳ.
Thích Hạnh Tuân, là con thứ của Mân Vương, họ Vương ở Phước Châu. Lúc Vua Trang Tông thời Hậu Đường lên ngôi Sư vào Phương Vật thuộc Lạc Tiến. Nhân đó dừng ở tại Kinh Để. Cuối niên hiệu Đồng Quang (926) gặp phải vua Minh Tông sắp vào. Binh lính nổi loạn, Sư bèn tự cắt tóc thay đổi sắc phục làm tăng, ẩn thân tại Ba Thục, mãi đến niên hiệu Khai Vận (944-947) thời Hậu Tấn.
Dung mạo Ngài như người hơn bảy mươi tuổi, nhưng sức lực chẳng suy kém, nếu có người hỏi Sư về tuổi tác thì Sư im lặng. Sư đến ngụ tại Thiền Viện Quang Quốc ở Lãng Châu. Tăng chúng trong Viện chuyên hành trì pháp luật, mọi người không biết Sư có tuân theo chăng? Có người nhà họ Lý thiết trai cúng dường, đang lúc ăn uống, Sư vụt đứng dậy đi nhanh ra cửa, gọi gắt như có diều trách. Sư bảo người nhà họ Lý rằng: "Đêm nay có hỏa tai phát xuất từ phía Đông Nam đến đường cái phía Tây Bắc, những người ở chung quanh đều bảo họ chuẩn bị". Quả nhiên đêm đó lửa cháy thiêu rụi không sót một thứ gì. Mọi người đến hỏi Sư về nguyên nhân, Sư bảo: "Hôm qua thấy một người phụ nữ mặc áo mầu hồng cầm đuốc đi ngang qua, Lão tăng chận đuổi theo không kịp!" Sư lại đến nhà Triệu Pháp Tào, chỉ dưới gốc cây đào, bảo: Dưới đó có tiền" mà không nói rõ số lượng bao nhiêu, Triệu Pháp Tào bèn gọi người đến đào bới, có được cái xoong lớn, vừa lúc đó gặp khách đến, vì đứa bé trong nhà mà lấy. Ồn ào trong chốc lát, đều hóa thành bùn xanh. Mọi người đều tranh giành được hơn trăm. Sau kêu người trát quét vách cửa bị hư mục đó, thường thường có vậy. Có lẽ Sư đi ngang qua phần mộ người chết mà biết được sự tốt xấu ở trong nhà người đó. Còn như phong giác chim thú, đối với sự thấy nghe mà dự nói họa phước, thì sau lại khế hợp. Nên khắp Châu Lư xa gần đều lấy lời nói trước là sự thật.
Sau, Sư thị tịch ở núi An Ngọc, vào thời Hậu Tấn, tăng đồ lo việc tang lễ trà-tỳ.
Thích Vong Danh, không rõ Sư là người xứ nào. Ngài du phương hỏi Đạo, chẳng sợ gian truân khó khổ. Các chốn danh sơn thằng cảnh đều đi hỏi khắp.
Vào niên hiệu Thiên Phúc (936-943), Sư đến Tương Châu trụ trong một thiền viện, cùng một vị tăng thuần lương giữ Pháp, đồng cấm túc ba tháng, vị tăng ấy tuần tự nói lắm điều lạ lùng, tự xưng tên là Pháp Bổn. Sớm tối cùng ở một nơi, tâm thanh nhã cùng ở như quyến thuộc Phật pháp đã từ lâu. Ngài Pháp Bổn nói: "Tôi xuất gia tu học tại chùa Trúc Lâm ở phía Tây Nghiệp Đô. Phía trước chùa có một trụ đá, sau nầy, lúc nào nhàn rỗi xin mời Ngài cùng ghé thăm". Về sau, Sư nhớ nghĩ lời ước hẹn trước, nhân tiện sang tìm hỏi. Sư đến trong một ngôi làng dưới núi, vào một A-lan-nhã dừng nghỉ qua đêm, hỏi vị tăng ở đó rằng: "Từ đây đến chùa Trúc Lâm xa hay gần?". Vị tăng ấy đưa tay chỉ bên cạnh một ngọn núi riêng lẻ ở xa xa mà bảo rằng: "Ở nơi ấy", những người già xưa tương truyền đó là chỗ ở của bậc Thánh Hiền xưa kia, nay chỉ còn tên gọi mà thôi, nên không có nơi để làm tinh lô, tịnh xá, lập Phật an tăng". Sư sanh nghi ngờ, đợi đến sáng hôm sau liền đến đó. Khi đã thấy được rừng trúc, trong rùng trúc quả thật có trụ đá. Sư mịt mờ chưa biết đâu là ven bờ, bỗng nhớ lại lới Ngài Pháp Bổn nói lúc từ biệt rằng "Chỉ gõ vào trụ đá thì liền thấy người". Sư bèn lấy gậy nhỏ đành vào trụ đá vài tiếng, mới thấy gió mây nổi lên bốn bề, cách chừng một thước là không thấy gì. Chỉ trong chốc lát tự nhiên mở toang lầu đài đối nhau cao vút, thân Sư đang sùi sụt dưới Tam môn, Ngài Pháp Bổn từ trong đi ra, trông thấy rất vui mừng, hỏi việc xưa cũ của Nam Trung, nói về phong thổ của Tương Châu, Đặng Châu. Bèn dẫn Sư bước qua trùng môn đi lên bí điện, lãnh tham yết các bậc tôn túc như Cương Nhậm, cố hỏi hai ba lần, Ngài Pháp Bổn nói: "Năm trước vị này (Vong Danh) cùng tôi đồng thời cấm túc tại Tương Dương, có hẹn cùng nhau thăm viếng, nên nay vừa mới đến Son Môn". Các bậc tôn túc khen ngợi: "Lành thay! Sau khi thọ trai hãy thỉnh trở về, tại đây không có tòa, bởi vì không có vị thứ của phàm tăng". Thọ trai xong, Ngài Pháp Bổn đưa Sư đến Tam Môn và từ biệt nhau. Thế rồi trời đất tối đen, không còn biết phương hương, chỉ trong khoảnh khắc tự nhiên Sư đang đứng bên cạnh trụ đá trong rừng trúc. Ngoài ra đều chẳng thấy gì.
Sư trở về kể lại việc ấy, không biết về sau Sư mất ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Vị tăng vào chùa Trúc Lâm (Ngài Vong Danh) ấy là ai? Thông đáp: Người gặp tiên thì cũng là tiên. Vân du đến chùa Thánh há dung nạp kẻ phàm uế? Vì một là hiển hiện chùa Thánh ở tại nhân gian, và một nửa là biết được Thánh tăng cùng tham dự trong hàng chúng tăng, nên chớ xem thường tăng bảo, trong đò Thánh phàm lẫn lộn. Truyện này lúc mới kể cho vài người nghe, thì từ trước đã nghe ở vài nơi. Lại như vào niên hiệu Võ Bình (570-576) thời Bắc Tề, có Sa-môn Thích Viên Thông từng chăm sóc vị tăng bị bịnh dưới giảng tòa, đến lúc mãn hạ vị tăng ấy cũng lành bịnh, ước hẹn đến chùa Trúc Lâm ở núi Cổ thuộc Nghiệp Đô, sự tích hơi giống. Vì ở đây trước sau đều đến chùa Thánh.
Thích Cuồng Tăng, vào niên hiệu Khai Vận (944-947) thời Hậu Tấn, Sư đi khắp ấp Hạ, xin tro than đá, suốt ngày đêm mang vác vào trong hai núi Đại Lưu và Tiểu Lưu nói với người qua lại hay các ông lão rằng: "Phải xây dựng một cung quyết". Nhưng chẳng ai lường xét được điều đó, đều cho là điên khùng, không có gì làm y cứ. Sư cứ vẫn như thế vận chuyển đến mấy ngàn thạch, lấp bít rất vững chắc. Sau đó, người trong làng không để ý, Sư vắng bặt tông tích.
Vào niên hiệu Càn Hựu (948) vua Cao Tổ (Lưu Trí Viễn, thời Hậu Hán) đã đến nơi nay là xứ Đông Kinh và lên ngôi chưa đầy một năm thì vua băng. Đang lúc đó, có chiếu cho Bốc Duệ Lăng đến dưới núi Đại Lưu, người tính toán bảo rằng: "Gạch ngói cần đến vài trăm muôn, trong núi này có thể đào đất mà đốt, nhưng như tro khoáng thì làm sao có được ư?" Bỗng chốc có Lý Tư nói: "Ở vùng này vốn có một vị tăng chứa nhóm than đến mấy ngàn thạch, sử dùng chắc đủ". Án Hành Sứ Sơn Lăng thảy đều dùng không để lại gì. Như thế Sư chẳng phải vị tăng điên cuồng, nhờ đây mới chứng biết.
Kế nữa, có Thích Tào Hòa-thượng ở Trấn châu, Sư là người xứ Hằng Dương, chỗ ở bất thường, nói năng tín tít, mặc áo cánh rách rưới, mang giầy gai, mặt mày dơ bẩn, sắc da đen sạm. Mọi người gọi Sư là người bị bịnh, điên cuồng tán loạn. Dân chúng Tề Triệu đều chẳng lường biết nên phần nhiều kính trọng. Hoặc có người mời ăn, ăn xong im lặng bỏ đi. Hình trạng Sư như chẳng say mà tức giận.
Phủ Soái An Trọng Vinh trấn nhậm được vài năm, dân chúng ở Lại Châu thuộc Phúng Quân bày thỉnh xin triều đình dựng lập bia Đức Chính, ngày sắp dựng bia đá với hình trạng cao vợi, Sư chỉ vào đó cười lớn mà bảo rằng: "Dựng không được! Dựng không được!". Mọi người đều nhìn nhau thất sắc. Người chủ trương công việc xua đuổi Sư đi, nhưng miệng Sư vẫn không dứt lời nói đó. Đến lúc An Trông Vinh ngầm manh nha chẳng theo chăn ngựa, lợi binh lính rủ sắp làm phản nghịch, triều đình bắt lấy diết mất, bia đá bỗng nhiên bị phá hủy. Hễ Sư có chỉ bày điều gì thì như vang theo tiếng.
Sau không biết Sư mất ở đâu.
Thích Tăng Giam, tên tục là Giam, họ Vương, người ở xứ Kinh Triệu, thuở thiếu thời mà Sư đã có trí tuệ quán sát hơn mọi người.
Vào niên hiệu Đại Trung thứ 11 (857) thời Tiền Đường), Đỗ Thẩm Quyền xuống đối sách thành sự. Bí thư Giám Phùng Quyên tức Đồng Niên. Đến niên hiệu Càn Phù (874-880) thời Tiền Đường, hang ổ giặc cướp dẫy đầy, Sư bèn theo dòng lánh loạn, tìm đến chỗ cung, nương nhờ Trung Lịnh Thành Nhuế, Thành Nhuế đánh Hoài Hải nhưng không thắng, Sư bèn cắt tóc xuất gia. Gặp lúc Lôi Mãn chiếm cứ Kinh Châu, Tại Tương Châu có Triệu Ngưng Cung đánh phá. Lương Tổ sai Cao Quý Xương trụ diệt lại, đất Giang Lăng bèn thuộc dòng họ Cao, Ngài lánh ở đất Quỳ Giáp. Đến niên hiệu Đồng Quang thứ 3 (326) thời Hậu Đường, Sư vào đất Thục đi tìm thì Phùng Quyên đã qua đời, nên bèn trụ tại chùa Tịnh Chúng. Râu tóc Sư bạc trắng mà sắc da đỏ thắm tiêu dao, mọi người chẳng thể lường biết về tình ngụy.
Có Hoa Dương Tiến sĩ Vương Xử Hậu thi hỏng khóa thi năm Ất Mão(955) tức niên hiệu Viễn Đức thứ 2 thời Hậu Chu, vào chùa dốc nỗi lo âu nơi vườn trúc, Hậu thấy Sư, Sư liền hỏi: "Có phải là Vương Xử Hậu chăng?" Hậu kinh hãi nói: "Không hề quen nhau, sao vội gọi thế?" Sư nói: "Tình cờ mà biết thôi". Sư bèn kể vốn sanh vào đầu niên hiệu Thái Hòa (827) thời vua Văn Tông, Tiền Đường cách nay hơn một trăm ba mươi năm. Xử Hậu nói: "Dấu vết thân tôi đâu sánh bằng, việc tương lai của ông rất cùng cực ở năm sau, việc hiện nay và việc tương lai có thể biết". Ý muốn nói đất Thục sắp mất. Sư bảo chớ tiết lộ. Ngày hôm sau lại bỗng trầm lắng tiếng tăm dấu vết. Một hôm, Xử Hậu gõ cửa tự đến nói rằng: Tạm đi tham lễ ở Nga My, kiết hạ ở Mặc Thủy mới trở về". Sư đến đầu áng sách rút lấy quyển văn đọc xem bản cảo thi phú do Xử Hậu góp nhặt, Xử Hậu nói rằng: "Thử xét là thật hay giả", đó là văn chẳng phải dưới đèn của ông, sao lắm luống dối vậy?". Sư bèn xét nhớ kéo ra bản cảo thi phú mà chỉ bày đó, bảo rằng: "Đây há chẳng phải trình thức của bản thật ư?" Xử Hậu kinh hãi sững sờ không thôi, mới nói rằng: "Kẻ hèn này sau khi khảo thí, tình cờ thêm nhuận sắc, bổ khuyết lỗi quá vội vã lúc dưới đèn, Sư từ đâu mà có được bản ấy?" Sư nói: "Không phải một bản thi phú này mà bình sanh ông biên soạn những gì tôi đều tích trữ lại đó". Ngày hôm sau, Xử Hậu đến phỏng hỏi, Sư mới dẫn Xử Hậu vào góc phía Bắc chùa đồng bái yết bàn thờ của cố Thái Úy Bân Công Đỗ Tông ở dưới mài phía Tây, bỗng chốc có vài quan lại mặc sắc phục vằn tạp từ trong đường vũ nối nhau đi ra, vừa bước xuống thềm cấp vừa bái lạy. Sư bảo: "Tân quan ở đây, hãy vào trước sân mà tham yết". Xử Hậu kinh sợ bàng hoàng làm theo. Sư bảo: "Bọn ấy sắp làm kẻ sai sử của ông cớ sao ông lại sợ? Há không biết Thái Son đề cử ông làm Tư mạng ư? Nhưng vì túc trái trang đồ chưa đáp trả chí trước, xin đợi sau khi đỗ đạt sẽ thi hành. Lại xem xét sổ bộ quan lục, thấy một bảng đề số người đã định trong kỳ thi mùa Xuân sắp tới, ông cũng có dự phần trong đó. Đó là âm chú mà dương thọ. Sách tên của người đời ăn lộc của u phủ, đó là âm chú dương thọ". Xử Hậu kinh hãi chẳng biết làm sao, chỉ hỏi họ tên người đỗ đạt sang năm là những ai? Sư bèn tìm lấy giấy bút đứng viết một đoạn thư ngắn mà đưa cho và căn dặn Xử Hậu phải nghiêm mật cất giữ, nếu tiết lộ thì mang họa không kịp trở gót. Trong phút chốc các quan giải tán, Sư mới dẫn tay Xử Hậu dẫn đi ra miếu và nhắm mắt mà đi.
Đến mùa Xuân năm sau, khi khóa thi đã bãi, Sư đến nhà Xử Hậu để lại cái thẻ ghi rằng: "Tạm trở về chòi rách, không còn gặp mặt nữa!" Sau đó, Xử Hậu sang chùa vào trong tăng đường hỏi thì Sư đã đi nơi khác rồi! Bèn đem lá thư ngắn ra xem, trong đó Sư chỉ viết bốn câu:
Chu thành đồng thành
Hai vua khác tên
Ngôi vua thứ nhất
Hạn chừng trăm ngày.
Và đến lúc có bảng treo, xét đó có tám người đỗ đạt mà hai người họ Vương tức Vương Xử Hậu và Vương thận Ngôn. Vương Xử Hậu đỗ vị thứ nhất, nên căm ghét thời hạn chu trình chỉ chừng trăm ngày. Vương Xử Hậu chỉ quen với Đồng Niên, nên thiết đạt Tửu Cao hội, rất mừng vui đã toại tánh, do đó hoang loạn chẳng khởi. Đêm đó bỗng qua đời. Đồng Niên đều mộng thấy Vương Xử Hậu mặc áo lam bào cầm hòe hốt đi trong điện. Nghiệm xét tên trong danh sách chỉ được một trăm hai mươi ngày. Và rõ biết được Sư sanh vào đầu niên hiệu Thái Hòa (827) thời vua Văn Tông, thành thân trong khoảng niên hiệu Đại Trung (847-860) thời vua Uyên Tông (thuộc thời Tiền Đường). Lúc Vương Xử Hậu gặp Sư thì đã hơn một trăm ba mươi năm.
Kế nữa, chùa Đại Từ ở Thành Đô, vào thời Ngụy Vương Thục có một vị tăng vong danh, thường trì tụng Kinh Pháp Hoa, khiến người thích nghe, thời đến, khất thực chỉ dùng đủ mà thôi. Sư có chút bịnh khổ về thân, có người chỉ cho phương thuốc. Ngài bèn cụ bị roi gậy vào núi Đại Điện ở Thanh Thành để tìm hái thuốc, men theo khe suối vượt qua hiểm nguy. Bỗng nhiên mây sương phủ khắp bốn phía không còn nhận biết chỗ đến, chừng trong khoảnh khắc thấy có một ông lão, Sư liền vái chào, rồi tuần tự hàn huyên. Ông lão hỏi: "Sư có duyên sự gì đến đây?" Sư đáp: "Vì muốn tìm hái ít thuốc". Ông bảo: "Vườn nhà gần đây, hơi xa thần túc, có được chăng?" Sư nói: "Tôi bị lạc đường, xin tùy cư sĩ!" Chỉ trong thời gian ngắn, thấy một ngôi nhà, bóng mát đã gần. Ông bảo: “Hãy vào báo trước với người chủ vườn". Sư vào đến cửa, thấy mọi sự đều chẳng như phàm tình. Hỏi Sư thọ trai chưa? Sư đáp: "Chưa!" Bỗng đốt hương, cảm thấy khác thường xông tỏa ngùn ngụt. Lại thỉnh Sư trì tụng Kinh thường tụng. Sư liền lớn tiếng tụng Kinh Pháp Hoa rõ ràng. Lại khuyên Sư tụng hết cả bộ, dâng biếu các thứ trai soạn đều là thức ăn trước cửa chùa Đại Từ. Sau khi thọ trai xong, có người mặc áo xanh mang đồ tre đựng cỏ thơm dâng Sư và cúng thí năm quan tiền để Sư làm chi phí mua bánh hồ. Ông lão chắp tay tiễn Sư đi ra. Có người nói rằng: "Đó là Tôn Tư Mạc tiên sanh. Đến chùa đã hơn tháng nay" tiền đó sẽ vào chùa, vàng ròng sẽ hóa nhiều như mới. Họ Vương nghe thế, bèn thâu lấy tiền vàng, cấp riêng năm trăm quan tiền, Sư đêm tiền đó tán thí cả rồi mới biết dân tiên thường ở tại danh sơn. Kế nữa, tại huyện La Mục, thuộc Gia Châu có người ở núi Tố Tôn, thuê lừa chẳng đến trả thẳng. Bèn xin lùng bắt hỏi. Có đứa bé bảo: "Đó là Tôn Tư Mạc". Khi ra tới huyện lộ thấy Tôn Công lấy hai trăm đồng tiền trao cho bảo rằng: "Tôi vốn dò xét ông ở đây, sao vội quái lạ ư?" Sư được tiền vàng, không biết về sau Sư qua đời ở đâu.
Thích Sư Giản, họ Triệu, người ở xứ Đan Khâu, chẳng tuân theo giới luật, buông lung tự nhiên, mặc áo nạp rách rưới, thường hay đọc tụng từ kệ, khéo huyền ký, ở vùng Hàng Việt có các sự tai ương hay phước lộc, ban đầu không ai tin nhưng sau nghiệm xét phù hợp. Đối với Nhất Hạnh cảnh thuần, sơn kinh địa lý, riêng được Kính Sơn. Sư thường nói: "Xưa ở núi Thái, Đạo Biện Tướng trủng đắc thuật, ngoài ra không lấy gì vậy". Sư vui vì người dời núi tướng trủng, mọi việc tốt xấu đều như lời Sư nói. Sư ở không có nơi nào nhất định, phần nhiều hay đến nhà dòng tộc, nói là đang đói bụng, bèn tìm thịt gà để ăn, lại thêm có được rượu ngon, nếm thử vài cốc mà đi. Ban đầu thì không nói lời cảm tạ, nhưng viết chữ lớn đề bia. Ngạch cửa chùa viết thành tướng đó, lành dữ tùy lời, lâu sau có ứng nghiệm.
Ban đầu, Sư trụ tại Viện Hồ Bàng ở phía Tây Hàng Châu, tự nhiên không bịnh mà thị tịch. Sau đó, có vị hành khách từ trong chợ Trường Sa trông thấy Sư bèn nắm tay nói về chuyện cũ. Sư gởi lời nói với Viện Chủ Viện Sùng Thọ: "Ông trước mắc nợ bao nhiêu tiền, nay đều xả thí cho ông đó. Tôi ngủ giường chiếu cỏ ở tầng dưới có nem thịt trong giấy, hẳn đã thối rữa nên vất bỏ đi". Chư tăng trong viện y theo lời nói tìm xem quả nhiên là có. Do đo mà vẽ tôn dung Sư phụng thò cúng dường. Sư có nói rằng: "Góc nhọn đầu nhà về sau sẽ bị lửa cháy đến tháp Châu Nam!". Đến năm Mậu Ngọ (958), quả nhiên bị lửa trời thiêu đốt, ứng lời Sư nói không sai lầm.
Thích Vương La-hán, Sư là vị tăng không thể lường biết. Rất ưa thích thịt lợn. Nói năng như kẻ điên khùng nhưng sau có lắm ứng nghiệm. Có lần Sư bị kẻ trộm sắp muốn rút y. Sư cúi đầu giả vờ ngủ. Người có vật đến tìm, Sư không hề tỏ vẻ keo lận. Đến tháng 6 niên hiệu Khai Bảo thứ nhất (968), bỗng nhiên Sư an tọa mà thị tịch. Ba ngày sau dùng sơn phết lên vải bố, tự nhiên nghe ở hai gò má có tiếng nói lúng búng. Mọi người đều bảo là vỡ thối. Đêm đó, Sư gá mộng cùng vài người, bảo rằng: "Vải sơn làm ta mê muội, làm sao phá mở ra! Sáng sớm bèn gọi thợ sơn đến mở phá, bên trong thịt mầu hồng trắng, có xá-lợi viên tròn rơi rớt, liền thâu nhặt lấy để cúng dường. Đến nay, nhục thân Sư vẫn còn tại bổn tự. Bấy giờ, Tăng Chánh Tán Ninh làm văn bia ghi lại điều kỳ dị. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền đổi tên, gọi Sư bằng danh hiệu "Mật Tu Thần Hóa Tôn Giả".
Thích Tông Hợp, người xứ Mân Việt. Sư vân du Nam Nhạc, bềnh bồng sông Tương để tìm cầu tri thức. Sư là vị tăng giới lập ít muốn, ở chung quanh trọn ngày, chỉ cười mà thôi. Người ở Nam Sở phần nhiều rất kính tin tôn trọng. Sau, Sư trụ tại Viện Diên Thọ. Cố Gián Nghị Đại Phu nghe thế bèn đến yết kiến. Sư khước từ chẳng tiếp, bàn nói với người rằng: "Người đắc Đạo há vào trong thường độ ư?" Giả Công Thử bèn kiên trì thỉnh thỉnh Sư sang trụ trì viện Văn-thù. Ngày đó, Sư lên pháp tòa liên tiếp nêu lên thiền yếu mà giải tán. Hôm sau, Sư báo với chúng rằng: "Có việc xin tạm đi ra, xin các hiền giả không nên gây trở ngại". Ngài sửa sang thúc buộc, tướng trạng như hành cước, vượt qua Bành Lễ, đến trước trạm Hoàng Châu, đứng sững mà thị tịch. Xa gần mọi người đều đua nhau tìm đến chiêm ngưỡng kính lễ. Lúc đó, Mã Phố Sứ Quan về lo việc lễ tang, xây tháp ngay chỗ Sư đứng tịch. Lúc đó là niên hiệu Khai Bảo thứ 2 (969). Nay gọi đó là viện Chân Thần.
Kế nữa, có Ngài Thích Đạo Nhân trụ chùa Đại An ở Mẫn Trì. Không rõ Sư là người xứ nào, thường đến ở vùng Sái Giản, thuộc Mẫn Trì, Sư tự nói: "Người xuất gia giữ sự cần kiệm thì ít đến với người, làm bạn đồng hành với súc vật thì không nhiều điều phải quấy". Sư nuôi một con chó mực, vào ra ngồi nằm chẳng hề tạm xa Sư. Thường ăn bằng bát sắt, đến lửa mà nấu thổi, cháo chín thì cùng chó đồng ăn, hoặc có lúc trước lúc sau, đi đứng rất kỳ lạ, mọi người chẳng thể lường biết. Một buổi sáng, S thị tịch, con chó cũng ngồi mà chết. Nay tại chùa Đại An có đắp họa hình tượng Sư, mà nhục thân của con chó cũng hiện còn. Lúc đó là vào niên hiệu Khai Bảo (968-976). Dưới kinh đô Lạc Dương, mọi người sùng tín, dâng cúng hương hoa đầy khám thờ.
Thích Điểm Điểm Sư, không rõ Sư là người xứ nào, họ Mạnh. Vào niên hiệu Quảng Chính, Sư ẩn cư tại chùa Đại Ấp ở phía Nam Ngang Châu. Sư thường đến trong quán tiệm, tuy hình tướng cạo tóc xuất gia mà thường như điên khùng. Hoặc tiếp xúc với người thì chỉ điểm mà nói. Nên vì thế mà gọi tên Sư như vậy. Nếu có người mời Sư ăn chay, thì rượu thịt không xen lẫn, đều suất là việc bình thường. Những người quê kệch cũng chẳng vì thế mà chán ghét. Đến chiều, Sư mới vào chợ mua giấy gai vàng trắng cùng bút mực bỏ vào tay áo mà trở về. Đi được vài dặm lại đắm chìm vui chén đến nỗi nhắm mắt. Trong phòng thất, chỗ Sư ở tuy có cửa ngoài, nhưng không có bốn vách tường. Sau khi vào Sư đóng cửa, mọi người không vào được. Ban đầu trong chúng tăng ở gần có một trẻ nhỏ theo gót chân Sư mà dò xét, thấy Sư cầm đuốc ngông ngáo, bày giấy bút trước mặt, quở trách việc lớn, chẳng biết là văn tự gì. Thường thường chốc lát như quyết đoán xử đặt. Giây lâu, giữa khoảng tối sáng, trông nhìn kỹ ánh sáng như có nhiều người, tướng trạng như hàng quan lại, xiêm áo phục sức khác đời, người nhìn thấy kinh sợ mà rút lui. Đến sáng hôm sau, đem bày hỏi việc đó, Sư tỏ vẻ tức giận mà chẳng trả lời. Sư ở tại Ngang Châu được vài năm, mọi người đều cảm thần dị, sau không biết Sư tịch ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Ngài Điểm Điểm Sư có khả năng bắt tội quỷ, tánh tình cao khiết, làm khuôn phép cho người sanh điều lành, cũng đồng như người xưa phán định việc âm ty. Ấy đồng ư? Thông đáp: Việc làm tại tâm, nếu chẳng theo năng lực Chánh Đạo mà sanh thì đồng như năm đấu gạo. Nếu chẳng theo có tâm phù cấm mà sanh khởi thì cảm đến quỷ thần quy y kính tín mà sai sử chúng. Nên trong kinh Thiện Giới chép: "Nếu cần thần thông cảm ứng hóa độ thì hiện bày thần túc". Trong Luận Trang Nghiêm, Bồ-tát dùng thần thông biến hóa để vui chơi. Lại hoặc đây là người ờ hành vị Bích-Chi. Nên trong luận nói: "Các hàng Độc Giác nương thần thông, vào trong thôn xóm tụ lạc khất thực, dùng thân mà cứu giúp, chẳng dùng đến ngữ ngôn. Thị hiện các thứ cảnh giới thần thông, vì khiến những người phỉ báng quy hướng về Chánh Đạo".
Thích Hạnh Mãn, là người xứ Nam Phổ, thuộc Vạn Châu. Ky quán thành đồng quyết tánh sáng suốt, quyết từ thân thích, cầu làm Phật tử. Thọ giới mới xong, Sư nghe xứ Trọng Hồ thiền đạo đang hưng thịnh, nơi cửa Thạch Sương có nhiều bậc sĩ tế độ, bèn sang đó cầu giải. Gặp lúc các Thiền Sư bỏ thây, Sư bèn sang Dự Chương xem xét các Pháp tịch, đã được an nhiên. Kế đó nghe các Thánh tích ở Thiên Thai nên kết thúc tìm đến, dừng ở dưới
Thiền viện Trí Giả trên ngọn núi Hoa Đảnh, chuyên lo việc nấu trà cho chúng tăng. Thấy người vui vẻ, Sư ở đó mấy mươi năm mà không hề thấy tỏ vẻ tức giận. Sư nằm trên một chiếc giường bằng đất, phía dưới rỗng không, thiêu đốt phấn tảo để sưởi ấm. Thường ngày, Sư cởi áo để trên giường thì rận rệp chui rúc có tiếng lẹt xẹt và có được chỗ để sống. Sư trở lại mặc áo như cũ. Hoặc có người ngầm vỗ vào áo, rận rệp đều vắng lặng không tiếng tăm.
Trước chỗ phòng Sư ở, phía ngoài hiên có một cây thông rất lớn, trên cành rộng có một cây nhỏ sống nhờ. Mỗi lúc gặp Sư ra ngồi thì cây sống nhờ ấy phất phơ nghiêng mình. Người thời bấy giờ cho đo là cây tác lễ trà đầu. Có người không tin, chuyên dò xét Sư ra ngồi thì lăng xăng, khi Sư đứng dậy đi thì cây đứng thẳng, không lay động. Tùy theo chúng thọ thực phần lượng có ít, mà Sư suốt trong bốn mươi năm, mọi người chưa từng thấy đại tiểu tiện.
Đến niên hiệu Khai Bảo (968-976), Sư hướng về mọi người, bảo rằng: "Ta sẽ đi!". Và bảo chúng tăng xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Văn-thù để hỗ trợ. Sư lặng lẽ an tọa mà thị tịch, thọ trên tám mươi tuổi. Đời Sư soạn rất nhiều kệ tụng, để xướng đạo.
Thích Pháp Viên, họ Hác, người ở xứ Chân Định, họ Nguyên.
Sớm gieo duyên xuất trần chẳng dính mắc.
Vào niên hiệu Trường Hưng thứ 2 (931), thời Hậu Đường, Sư đến Viện Quán Âm ở bổn phủ, chuyên cần tụng tập, được thầy cho cạo tóc xuất gia, chừng khoảng một năm thì thọ giới cụ túc. Sau đó, chuẩn bị roi trượng, mang đãy tham lễ các phương. Sư đến trụ ở Thiền Sơn, xem đọc Đại Tạng kinh. Đến niên hiệu Khai Vận thứ 3 (946) thời Hậu Tấn, Sư trở về quê cũ, ngụ ở Viện Thiên Vương. Qua năm sau, Khiết Đan phạm quyết, Nhung Vương Da Luật Đức Quang, về đến Loan Thành ở Thường Sơn mà chết. Vĩnh Khương Vương Ngột Cốc thay làm chúa của Phiên Quốc. Bấy giờ, Toàn Quân từ Trấn Châu đem quân đi đánh. Ở phía Bắc trở lại lưu giữ, Du Trường Ma Đáp Da Luật thoát khỏi làng, giữ ở Hạ Kinh, tức là Thường Sơn. Quan liêu binh sĩ của Tấn đều ở tại đó. Hán Nhi Tướng Soái mưu đuổi tù binh, phương kế chưa quyết định phân rõ hai lối đường thông và ngõ tắt. Người Hán ở trong đất Phiên, người Phiên phát hiện trước, chẳng phân già trẻ đều bị giết chết. Chư tăng trong viện Thiên Vương cũng có tám vị bị giết chết, và có Sư trong số đó. Khi đó, những người trông thấy giết hại rất nhiều. Lúc ấy, Sư đưa cổ hai lần nhận chịu mũi nhọn như bắn vào gỗ đá. Sư bèn kêu bảo rằng: "Xin cho một nhát kiếm mạnh!" Thân đầu Sư liền lìa nhau. Đến chiều tối, Sư như trong mộng bỗng thấy vãn chiếu, cũng hơi hiểu là bị giết. Trong ý Sư tự cho rằng: "Chết đã tịch mịch, cũng thấy nhật nguyệt!" bèn đưa một cánh tay tự sờ vào đầu, mới biết là vẫn còn như cũ, đôi ba phen Sư nghi ngờ nên chẳng dám nhúc nhích, sợ đầu bị rơi. Lại tự cho là huyết máu ngưng động ở chỗ nối liền, Sư lại sờ quanh cổ có dấu vết may vá như chỉ lớn, toàn thân cũng như thế. Bây giờ, trong thành đã đuổi Phiên bộ ra nên hơi yên định, người bên cạnh đỡ Sư dậy. Đến sáng hôm sau thì đưa Sư về Viện, khi đó chư tăng trong viện sắp sửa ăn cháo, trông thấy Sư cho là quỷ vật, tất cả đều bỏ chạy. Giây lâu, nhìn kỹ biết là Sư thật, mừng nói là sống lại. Mọi người xa gần đều đến chiêm lễ và khen ngợi là kỳ lạ ít có. Dân chúng ở Thường Sơn đua nhau thiết bày cúng chỉ. Từ đó về sau, Sư lại đến các nơi, sống không có chỗ nhất định.
Mãi đến niên hiệu Hiển Đức (954-960) thời Hậu Chu, Sư đến ngụ tại Viện Mão Trai, thuộc huyện An Thành, Phủ Đại Danh, ôn tầm Tạng Giáo. Đến niên hiệu Khai Bảo thứ 6 (973), bỗng nhiên Sư răn bảo chúng tăng rằng: "Đời người hư huyễn đâu có lâu dài, mọi vật đến cùng thì đổi dời, Sanh Tử Niết-bàn hẳn không khác nhau chút nào!" Sau đó chưa đầy vài ngày thì Sư thị tịch. Các hàng tăng tục đều cảm nhận như chịu tang người thân, đến ngày trà-tỳ, cảm có xá-lợi như hạt thóc, hạt mè. Sư thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi mốt hạ lạp. Bấy giờ, Phạm Lỗ Công Chất đích thân hỏi về nguyên do của Sư, càng thêm trịnh trọng. Lại dò xét về lý lịch, hành trạng của Sư thì đã hai lần xem đọc Đại Tạng Kinh.
Kế nữa, có Ngài Khoáng Sư trụ chùa Lăng-già ở Phước Châu. Sư là con của Hải Đàn Thú Tốt. Lúc mới mang thai Sư, mẹ của Sư tự nhiên không thích ăn các thứ tanh nồng máu huyết, đến lúc sanh ra nuôi dưỡng, Sư tỏ vẻ khôn ngoan khác thường và cũng không ăn các thứ cá thịt. Năm tám tuổi, Sư chỉ ưa thích ăn rau lá đồng nội. Nếu thấy người cày bừa trồng trọt, Sư liền nói: "Làm như vậy tức là giết hại, tổn thương vật mạng". Những lúc thấy trong nhà bếp nấu nướng các loài vật, Sư liền nắm vốc cát tro vung vãi vào soong chảo, chẳng chịu ăn. Sư tự nói: "Chùa Khai Nguyên đời Tùy là do tôi xây dựng". Sư nói nhiều việc không có manh mối, nhưng sau, mọi việc xảy ra đều khế hợp. Sư xin cha mẹ xuất gia, nhân đó đắp mặc pháp phục, trên đỉnh đầu Sư có mùi thơm như đốt hương chiên đàn trầm thủy. Mọi người gọi Sư là Thánh Tăng. Bấy giờ, sau khi Thị Ngự sử Hoàng Phủ Chính bị lưu giữ, bèn thỉnh Sư vào Phủ Thự, nhân đó thiết bày các thức ăn máu thịt có đến hàng trăm món, trong đó chỉ có một món chay tịnh, xen bày lẫn lộn trên mâm bàn ở trước, vì trong ý muốn nghiệm biết Sư là phàm hay Thánh. Sư vào trong tiệc hội đi thẳng đến lấy thứ chay tịnh mà ăn, ngoài ra đều phẩy tay không dùng. Khi đó Hoàng Phủ Bộ Khúc, đều kinh hãi khen ngợi! Những lúc Sư đi ra các đường thông hay ngõ hẻm mọi người đều vây quanh. Sư tự nói: "Sống chỉ đến mười ba, sẽ định quy tịch". Đến lúc ấy quả nhiên Sư thị tịch. Bèn cử hành lễ trà-tỳ ở phía trước chùa. Các hàng sĩ nữ khắp thành đều khóc thương, y theo Pháp luân Vương xây tháp thờ.
Kế nữa, vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời Tiền Đường, ở phía Đông Bắc Thái Nguyên có ngài Lý Thông Huyền, nghe nói là đế vị của nhà Đường, nhưng chưa rõ là con cháu của Vương Viện nào! Ngài xem thường xe sang mũ quý, mến chuộng suối rừng. Mọi cử chỉ hành động của Sư chẳng thể lường biết. Sư thân cao hơn bảy thước, sắc da mầu tía, mày dài quá mắt, râu rìa như vẽ, tóc mầu xanh mà xoắn tròn, môi đỏ hồng đượm, răng đều khít nhau. Đội mũ vỏ cây Hoa, mạc áo vải lớn vá nách, lưng không thắt dây, chân chẳng đi giày, tuy mùa Đông giá lạnh mà da không bị nứt nẻ, mùa nóng Hạ không mồ hôi và cáu bẩn bám dính. Sư phóng khoáng tự tại chẳng hề câu nệ bó buộc, hiểu rộng kim cổ, thấu suốt Nho Thích. Nói năng hơi hám như đồng lớn phát tiếng, mà chú tâm vào Hoa tạng, chưa từng thôi bỏ hoài bão. Mỗi lần xem đọc nghĩa sớ của các nhà phiên dịch kinh điển, thấy các học giả cùng năm vẫn không công tiến thủ. Nên mùa Xuân niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 (719) Sư mang bộ Kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch, kéo lê gậy trúc từ Định Tương đến nhà Cao Sơn Nô ở Đại Hiền, thuộc làng Đồng Dĩnh ở phía Tây Nam Tinh Bộ Vu Huyện, dừng ở trong một phòng riêng, soạn luận mở mang giáo nghĩa Hoa Nghiêm, suốt ba năm chẳng bước ra khỏi cửa. Trong nhà họ Cao cùng mọi người chung quanh trong làng đều lấy làm lạ mà chẳng thể lường biết. Mỗi ngày Sư chỉ ăn mười quả táo và một cái bánh lá Bách, ngoài ra không dùng gì khác.
Sau, Sư dời đến bên cạnh Cổ Phật Đường của nhà họ Mã ở Nam Cốc, cất một ngôi nhà nhỏ để ở, nhà họ Cao cũng vẫn mang táo bánh đến cúng dâng.
Sư từng mang bộ luận do mình sớ giải và kinh đến trang sở nhà họ Hàn, tức ở thôn Quan Cái, giữa đường gặp một con hổ. Thấy nó Sư bèn vỗ vào lưng, bảo nó chở mang kinh luận vào trong khám đất. Con hổ ấy bèn chuối tai mà đi. Tại vùng đó không có suối nước để cấp dùng, tự nhiên gặp phải một cơn gió bão, mưa lớn nhổ cuốn đi một gốc thông già đi xa hơn trăm thước tạo thành cái ao, sâu chừng một trượng, nước ở đó có mùi vị ngọt thơm. Đến nay vẫn gọi đó là "Suối Trưởng Giả". Người trong làng phần nhiều nhân những lúc nắng hạn, đến để khẩn cầu mưa, và thật có lắm ứng nghiệm. Kế nữa, trong thời gian Sư soạn luận, trong thất không có đèn nến, mỗi đêm nắm lấy sợi lông từ hai khóe miệng phát ra ánh sáng mầu trắng dài hơn thước, chiếu soi suốt cùng, lấy đó làm thường. Từ lúc Sư đến ở trong khám đất, bỗng có hai cô gái mặc áo vải, dùng khăn vải trắng quấn đầu đem một hộp thức ăn đến trước khám, Sư chỉ ăn đó mà thôi. Suốt trong năm năm, cho đến như các thứ giấy bút cung cấp không thiếu sót. Đến lúc Sư soạn luận hoàn tất thì hai cô gái biến mất. Bộ Luận Sư soạn có bốn mươi quyết, bao gồm văn nghĩa của quyển kinh, tổng thâu huyền yếu của mười hội nhân quả, nêu bày pháp môn của năm mươi ba quả vị.
Một hôm, dân chúng trong làng đang tụ tập uống rượu, Sư đến nói với họ rằng: "Các người ở lại, nay ta đi!" Mọi người kinh hãi, hỏi: "Sư đi đến xứ nào?" Sư đáp: "Ta thị tịch!" Mọi người buồn khóc, luyến mến đưa Sư về lại trong khám đất. Sư bảo: "Đi, ở là việc bình thường!" mọi người đi xuống sườn núi, ngoảnh nhìn lại chỗ đó, thấy mây mốc kéo phủ tối đen. Đến giờ Tý, Sư nghiễm nhiên ngồi trong khám mà thị tịch. Có luồng ánh sáng mầu trắng từ trên đảnh đầu Sư phát ra chiếu thẳng giữa hư không, lúc đó là ngày 28 tháng 3, niên hiệu Khai Nguyên thứ 18 (730), Sư thọ chín mươi sáu tuổi. Đến sáng hôm sau có vài người lên núi thấy trong khám thất Sư có rắn rít đầy khắp, không làm sao bước tới được, bèn cùng nhau khải cáo, rắn rít mới tản mác. Mọi người già trẻ đều truy cảm đạo hạnh Sư, kết xe đón rước đến phía Bắc của Đại Sơn, chất đá làm thành mà an táng tại Lan-nhã Phương Sơn rừng Thệ Đa ở núi Thần Phước. Ngày an táng có hai con nai đốm, hai con hạc trắng cùng các thứ chim thú đến tỏ vẻ buồn thương quyến luyến.
Trong tháng 6, niên hiệu Đại Lịch thứ 9 (774), có Sa-môn Quảng Siêu đến Lan-nhã, thâu góp hai bộ luận, mời các thư sinh đến núi biên chép rồi đem về Phần xuyên để lưu hành, luận ấy từ đó được thạnh hành. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860), có Sa-môn Chí Ninh ở Mân Việt đem Luận chú ở dưới kinh soạn thành một trăm hai mươi quyển, có luận thích bảy quyển, chẳng nhập vào chú văn, cũng viết phụ ở đầu. Đến năm Đinh Mão (967) thuộc niên hiệu Càn Đức thời Bắc Tống ở Mân Châu có Sa-môn Tuệ Nghiêm lại sửa chữa đặt tên là "Hoa Nghiêm Kinh hợp luận" lưu hành ở đời, được mọi người quý trọng.
Liên hệ thử bàn:
Dưới thời Bác Tề có Nội Thị Lưu Khiêm Chi theo Vương tử vào núi Ngũ Đài thiêu xả thân mạng. Khiêm Chi qua bảy ngày hành đạo, cảm được tướng trượng phu, thầm tỏ ngộ nghĩa lý Hoa Nghiêm bèn soạn Luận gồm sáu trăm quyển. Lâu sau mất. Đến Lý Trưởng Giả hành hóa ở đất Tấn, có nhiều việc thần biến vô phương. Ứng theo đó dùng thân nầy mà nói pháp. Có người nói: Trong Luận của Lý Trưởng Giả thêm mười hội, trong Kinh thiếu phần ấy. Y theo Phạn tự sanh giải có thể chẳng mê lầm tên ư?, sao Lý Trưởng giả có nói Pháp? Thông đáp: Lý mười hội có, nên đợi kinh sau sẽ đến. Chỗ giải nói Nam-mô là lìa luống dối ở trong, đây là phối với pháp quán tâm. Nếu biết xúc vật đều là tâm mới rõ được tâm tánh. Cho nên Kinh chép: "Biết tất cả tức tâm tự tánh thì thành tựu Tuệ thân, không do người khác mà ngộ". Đó chính là tâm cảnh Như Như thì bình đẳng vô ngại. Quán xét sự phán giáo của Lý Trưởng Giả bao gồm rộng rãi, có thể chẳng biết nghĩa của tiếng Hán ư?. Từng nghe ở U Châu có Sa-môn Tuệ Minh tập hợp các ngụy Kinh và Hoa Nghiêm Luận mà đốt hết. Bởi vì Pháp Môn không tương nhập. Song, ngụy Kinh bị cháy mà Luận của Lý Trưởng Giả thì khó đốt. Bởi vì đó chẳng phải là cảnh giới của Tiểu Thánh, cũng như thuyết của Dương Mặc cùng với Nho có trái nghịch nên những người hành hóa ở phương ngoại lại ghét trách Khổng Mạnh. Nước lửa cùng xấu, chưa bắt đầu đã có sự cùng cực. Giả sử hỏi người thông minh thì phần nhiều đều tiến, vô tướng đoạt luân.
Luận rằng: Đan Thành chuyển số, uống thì lên tiên. Tuệ luyện công phu, nghiệm mà quả chứng. Nếu như tên chưa nêu nơi sổ sách, sức chưa hợp với Kinh Vương, thì làm sao đem kinh nêu lên thân này vượt ngoài phàm thế. Luống chỉ mịt mờ mắt thịt, xao động chộn rộn tâm khỉ vượn. Chỗ gọi là sự cao thấp trong họ Thích có khác. Cũng ví như đàn voi, ngà có khả năng va chạm, mũi khéo cuộn nhả, sức lực địch nổi chín con bò, đi nhanh hơn xe bốn ngựa. Riêng có hương tượng ở bờ ao A-nậu ở phía Bắc Túy Sơn, thì cổ xúy cả hai cánh để vọt bay, dùng cả bảy chi mà khéo léo, so với voi ở các sông biển thì vượt hơn trăm lần, quyết hiệu là Yết-ma-Phạt-Noa, là rồng trong voi. Xét biết Sa-môn có chỗ cảm thông chính là ở đây. Nếu chiêu cảm được chỗ thông thì năng lực tu hành đến mức sẽ có thiên thần theo cung cấp hầu hạ, còn thông suốt được sự chiêu cảm thì ta thi vi thần biến hiện hiển bày nơi người khác. Còn năng sở đều cảm thông thì đó là cực quả của Tam thừa không đâu chẳng cảm thông.
Xưa kia, vào đời Lương có ngài Tuệ Kiểu được truyền sáng lập một khoa thần dị, đây chỉ gồm nhiếp Thánh Hiền ở ngôi vị đến cùng cực, hoặc giúp thứ lớp chưng bày giai vị tốt lành ban giáng đặc biệt, sẽ thâu nhiếp chẳng hết nên có thiếu sót. Đến lúc Đại Sư Đạo Tuyên không nối tiếp mà lại sửa sang cảm thông. Bởi vì lấy các cảm mà bèn thông, thông thì trí tánh, tu thì ảm đối với quả mới thông. Xét kỹ lý ấy dài không thể bao gồm. Cũng giống như Ban Cố tăng thêm chín dòng biến thư làm chí đồng. Lại thí như bậc Thánh treo móc lại cũng chẳng hơn người ban đầu phát họa. Nhưng mà trước chẳng ngửa cúi xét, sau có thể biến thông, đó chẳng phải chỗ hay y cứ của Đại Sư Đạo Tuyên, tốt lành biến bày mà có công năng. Vốn là nhà tĩnh lặng thì sanh trong sạch rỗng rang, tâm tĩnh lặng thì thần thức thông suốt. Nho Huyền còn được, Đạo ta sao chẳng bằng? Dẫn phát tĩnh lự tự tại hiện tiền. Pháp chẳng rộn ràng, muôn duyên ồn náo đều bặt hết. Chỗ cửa trí mở, sáu thông do đó mà sanh, lúc tướng động diệt, năm mắt tùy đây chiếu rọi. Ngài Mục-liên vận dụng rõ ràng sao gọi là bậc Nhất. Ngài Na-luật quán xét có vậy thấy nửa đầu là mê đưa vào trong hạt cải. Nước biển dung chứa trong lỗ chân lông. Lúc chẳng thể suy nghỉ bàn luận, tâm miệng của phàm phu cả hai đều tiêu tán, thần thông sanh ra là cảnh giới như một của các Đức Phật.
Thứ nữa, trong giáo pháp ta lấy tin hiểu, tu chứng làm chuẩn đích. Còn như dịch kinh, truyền pháp là sanh tín. Nghĩa giải, tập thiền, là ngộ giải. Minh luật, hộ Pháp là tu hành. Thần dị cảm thông là quả chứng. Ai nói trong thời tượng pháp, mạt pháp không có hạnh quả ư? Cũng từ phần nhiều phân chia lắm thuyết. Chỉ như Ngài Đàn-đặc khắc hình Hầu Cảnh trên đầu gậy hướng quay về phương Tây, ngài Hà Thốc chỉ trời biết được phía Nam của Văn Tương có Quang Sư nhập vào hạnh an lạc, đệ tử chứng môn Tam-muội. Trên sông Tứ, ngài Tăng-già ứng hiện mười chín thứ thân. Tôn giả Vạn Hồi qua lại hơn năm ngàn dặm. Ở phương khác lại có tên khác của Ngài, tại cõi nay còn quán kỳ tích, khó bó buộc trạng thái an định, chẳng thể xem xét hình thể thường hằng!
Từ biển nguyện mà khởi thân, vốn chỉ có Ngài Trí Tích, từ ý sanh mà phân chất vốn là Ngài Khương Tăng. Trên bờ sông thấy Bồ-tát đến đón rước vãng sanh, Anh đến Tần Tương mà thọ thực. Lưu lại năm khác mà chẳng lường biết hiện bày vết tích vô phương. Hoặc mở rộng giáo hóa ở nhiều triều vua, hoặc sống lâu đến ba trăm năm, hoặc khiến cho bàn thờ Táo vỡ bể rơi rớt, hoặc được trao ống sáo của vua mà trở về. Khuê Giới Nhạc Thần sao cứu được Đường Tướng. Hoặc lọc hết rồng con mà đến, hoặc đánh xương khóa mà sang. Vào chỗ chùa Thánh nhận biết Gia Cát Lượng. Hoặc ánh sáng thần phát ra từ miệng, hoặc quái vật đắm chìm dưới sông, Phong Can nhận biết đó là Văn-thù, Vô Tướng chẳng phải nhậm hiệp. Mộng thấy trao tháp mà qua biển, phân thân trong lò nung gạch để an thiền. Hoặc phát ra ánh sáng của sợi lông trắng, hoặc khiến công chúa sanh con, hoặc được châu ngọc sáng lạng, hoặc nuôi hổ thuần hiền vui vẻ, hoặc dự ghi nhậm chức Tể Quan, hoặc dời ổ chim thước, hoặc thọ hơn trăm tuổi, ẩn thân ở núi Ngũ Đài. Hoặc đề sấm thảo thư, hoặc cầu thính chúng, hoặc ẩn hình mà để bóng, hoặc thấy mẹ mà liền sanh. Hoặc đề dị từ, hoặc hóa tiếng thú dữ gầm gừ, dự ghi sự diệt độ của Vi Công, kinh hãi sự trong đêm trở về của Trương Độc. Chẳng thấm ướt y phục mà lội qua khe suối, chẳng tạp nhạp dơ uế mà thường ăn. Hoặc chết theo kiểu chồng chuối. Hoặc nhả ngay chim cưu. Hoặc thân đầu lìa nhau mà nối liền lại. Hoặc nửa năm ngồi chết mà sống lại. Như dùng pháp luân mà dẫn dắt, phần nhiều làm hình tướng Sa-môn, bày như dị tích hóa thành, hoặc làm dung mạo ông lão (Hàn Sơn, Thập Đắc) vỡ loét đáng gớm, hôi hám rất ghê. Hoặc ngỗ nghịch với thường lưu, hoặc lừa dối với loài dưới. Đó đều chẳng thể lường biết. Ai bảo là dễ biết? Đem nghịch lấy nguyên do của thuận, trái quyền hợp với ý đạo. Hoặc có người bảo: "Thuyết cảm thông gần như quái lạ vậy?". Đáp rằng: "Quái thì quái thật, vì ở ngoài nhân luân. Giả sử quái lạ gần với nhân tình mới phản với bọn thường trái đạo, đó là quái lạ, tâm chẳng lường biết được, miệng chẳng thể nói được mà đến được bờ mé, khiến cho thần tiên quỷ vật thảy đều kinh quái. Tiên thì tu luyện thành quái, quỷ thì tự nhiên thành quái. Quái trong Phật pháp thì khác như thế. Vì sao? Vì trải qua vô số đời kiếp nương chánh pháp mà tu đạt đến lúc tự nhiên vận dụng hiển bày trong quả vị vô lậu. Biết quái ấy là chánh quái. Ở các bậc Thánh thì cho đó là cảm thông mà bèn thông, cho nên có thiên chương. Nên trong Luận Trí Độ nói là: "Dùng năng lực thiên định, uống thuốc trí tuệ, được năng lực rồi mới hóa độ chúng sanh. Lại đặt thế giới trên đầu sợi lông, ngưng lóng nước biển làm thành năm vị".
Nên nói rằng: "Duyên vào pháp mà quán xét cảnh, chỉ tịch mới chiếu, mới nghiệm biết các bậc long tượng trong cửa Phật một đời xuất hiện ở thế gian mà có khả năng nhiếp hóa các kẻ chẳng biết hổ thẹn.
(Quyển 22 hết)
(Chánh truyện có hai mươi hai vị, phụ có hai vị)
Thích Tăng Tạng, người xứ Hà Tây. Từ thuở tuổi nhỏ mà đã bạt tục, khí tốt thần thanh, theo con đường lành, ở nơi ngôi vị thấp. Đến lúc thấm nhuần thiện giới, thầm giữ căn trần. Thấy đền thờ các bậc hiền nhân thì kính lễ, gặp những bậc thạc đức thì thấy đều lễ bái, như gặp kẻ tăng người tục bái lạy lại thì Sư liền cúi đầu khom mình mà chạy như lánh né lịnh trưởng. Như đang lúc làm việc chúng tăng thì đồng như tịnh nhân, khuất mình như che giấu. Thấy y phục cũ của người khác thì ngâm dầm giặt nhuận, riêng việc may vá, đến lúc nắng thì cởi áo vào trong lùm cây rậm, bị các loài thuồng luồng, ve, ruồi, đỉa, bò cạp hút máu, máu đổ mà chịu đựng thấm ướt mồ hôi. Và Sư thường xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà. Tuy khéo trải qua mà chẳng thể định được toán số. Đích xác chí thầm lặng tâm không hề thiếu sót. Đến lúc dự biết báo thân đã sắp cùng tận, Sư nói với thầy thuốc chăm sóc bịnh Sư rằng: "Sơn Tăng nhiều may mắn được các trời người lần lượt đến đón rước!" Sư lại nói: "Lúc tôi nhắm mắt nghe vãng sanh Tịnh Độ. Nhóm tụ các bậc thượng thiện nhân rải hoa, sẽ trở lại cõi nầy". Ngay lúc xả bỏ thọ mạng, Sư chắp tay niệm Phật, an nhiên thị tịch.
Thích Chánh Thọ, không rõ Sư là người xứ nào. Phong nghi vời vợi trang nghiêm, tiết tháo cao cường. Sư mang tích cầm đãy, các Tông Sư đều đến tham yết, nhưng vì nhân duyên hòa hợp, nương tựa có chỗ kết quy, Sư ở trong môn phong của Thiền sư Tháo ở Nam Tháp, quyết xé lưới nghi, thầm tu dưỡng ích. Sau, Sư lại trầm lắng tại chùa núi ở Tùy Bộ, mọi người đều không biết.
Bấy giờ, Tiều Vương Trùng Khước, tức con thứ của vua Trung Tông, vào đầu niên hiệu Thần Long (705), Vi Thứ Nhân gièm pha mách bảo là cùng anh em Trương Dịch tạo thành tội Trùng nhuận, bèn đổi đến làm Thứ Sử Quận Châu, kín thêm gìn giữ, chẳng việc thấy nghe. Vi Hậu vào triều thêm binh sĩ phòng vệ, đến lúc dòng họ Vi bị giết hại, vua Duệ Tông lên ngôi (710) thì chuyển đến làm Thứ Sử Tập Châu, chưa thực hành mà chốc chốc tỏ vẻ chẳng vui, luôn quy tâm về Thiền sư Tháo, xây dựng tháp Sanh Tạng mà cúng dường Thiền sư Tháo, cao chừng bảy mươi thước rất rực rỡ rộng lớn. Đến lúc Thiền sư Tháo lâm bịnh đã nguy nan, Tiều Vương sai người thưa hỏi: "Sau khi
Ngài thị tịch ai là người tiếp nối Tông phong?"
Thiền Sư Tháo bảo: "Bần đạo có đệ tử là Chánh Thọ sẽ ở đây". Tiều Vương hỏi: "Trong chúng tăng ai là Chánh Thọ?" Có người nói: "Hòa-thượng có vị đệ tử đang ẩn dấu ở Sơn Quang". Tiều Vương liền sai sứ thỉnh Sư Chánh Thọ đến. Sư thưa với Thiền Sư Tháo: "Mừng thay! Tiều Vương làm đàn việt! Tháp thầy xây dựng đã hoàn thành, đệ tử muốn vì thử trước có được chăng?" Thiền Sư Tháo bảo: "Ông khéo thử!" Khi đó, Sư vén y chắp tay vào trong tháp, thúc liễm tôn dung nhắm mắt ngồi kiết già mà thị tịch, toàn thân không rã hoại. Bấy giờ, xưng hiệu Sư là: "Thí Pháp Hòa-thượng". Tiều Vương nghe thế rồi khen ngợi suốt ngày, nói rằng: "Đệ tử còn được như thế!" Mới riêng bàn đổi tháp khác, xây dựng tháp khác cho Thiền Sư Tháo.
Liên hệ thử bàn:
Người trước có tâm đoạt người, Ngài Chánh Thọ trước Thiền Sư Tháo. Phàm người trực vãng hẳn có khả năng qua lại. Nghiệp lụy chẳng nhờ, lồng châu chẳng đậy. Thoát khỏi nương nhờ, mở toang lồng đậy, sanh tử tự tại. Đã là tự do tức đã vượt lên quả vị. Từ tục đế mà quán xét thì Ngài Chánh Thọ thoát ra mầu xanh Từ mầu Lam, mà hay nương tâm mạnh chân thoát ra trước cả thầy mình, một ngày ngàn dặm, là nghĩa nầy vậy.
Thích Vô Nhiễm, Sư chẳng thuộc dòng tộc nào. Từ núi Trung Điều Thọ Nghiệp, Sư giảng Luật Tứ Phần, Kinh Niết-bàn, Luận Nhân Minh và Bách Pháp. Người học pháp lành nương theo đó.
Ngài trì tụng Kinh Hoa Nghiêm, nói đến trú xứ của các vị Bồ-tát ở thế giới vàng ròng ở phương Đông Bắc, Bồ-tát Văn-thù cùng một muôn thánh chúng từ xưa đến nay thường trú trong đó mà giảng nói Pháp. Hoặc hiện hình ông lão, hoặc hiện hình trẻ con. Gần đây nghe có Ngài Phật-Đà-Ba-Lợi từ Tây Vực đi đến, chẳng mỏi mệt vượt qua sa mạc, không từ nan tuyết lãnh mà quyết tìm Thánh tích.
Dưới thời vua Cao Tông (650-683), Sư đến đảnh Tư Lương ở núi Ngũ Đài, đảnh lễ khải cáo cầu thỉnh, mới thấy được ông lão, tức là Bồ-tát Văn-thù. Ngài Phật-Đà-Ba-Lợi tuy nói rằng: "Mặt tuy tiếp nhận mà chưa quyết tâm nghi. Bèn bảo đến nước phương Tây thỉnh nhận kinh, đến hang Kim
Cương vào cảnh giới của Bồ-tát Văn-thù, đến nay chưa trở lại. Các bậc cổ đức được như thế, ta đây há chẳng có duyên ư?" Sư bèn theo gót Ngài-ĐàBa-Lợi cất bước tham phỏng các vị nổi tiếng, thành gặp Thiền tông, thấu cùng lý tánh. Hoặc từ trong Kinh pháp tịch, nghiên cứu huyền vi.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ (791), Sư đến viện Thiện Trụ ở núi Ngũ Đài. Bấy giờ, có Sa-môn Trí Quân là Đô Kiểm Hiệu Thú của mười chùa ở Ngũ Đài, là người đứng đầu trong các Tăng trưởng. Ngài bèn dừng ở nương tâm, phát thệ nguyện chẳng ra khỏi núi. Thường nghĩ đến hóa cảnh của Bồ-tát Văn-thù chẳng phải phàm tình mà hơn được, đâu nên lười biếng. Mùa Đông thì lượm củi cúng dường chúng tăng, mùa Hạ thì cất bước vân du, mùa Xuân mùa Thu chẳng đổi dời hơn hai mươi năm, trước sau hơn bảy mươi biến, Sư đi khắp các Đài, trông xem hóa hiện cầu vàng, tháp báu, chung khánh sáng ngời, chẳng tận cùng ngằn mé. Sư nói: "Chuột của tùng bách chẳng biết trong nhà thầm có cây tùng tốt đẹp ư? Nói càng có hơn so với các điềm lành. Ta chỉ được chút ít chưa lấy làm đủ" Cuối cùng ở trong Đông Đài bỗng nhiên trong thấy một ngôi chùa đề biển hiệu là "Phước Sanh". Trong đó, phạm tăng có đến muôn vị. Sư từ đầu lễ bái lần lượt thăm hỏi. Thấy Bồ-tát Văn-thù cũng là vị tăng, bảo với Sư rằng: "Ông có duyên ở đây, phải nên gánh vác việc chúng, chớ được bỏ mất, có nguyện không hạnh mà thôi". Nói xong ngôi chùa và tăng chúng hóa hiện biến mất không còn nữa.
Sư bèn khen ngợi rằng: "Thấy được điềm linh dị này, há có thể theo sao? Đây là thân nguy ách có gì lâu bền!" Bèn vâng theo lời nói đó mà rộng bày cúng thí. Mỗi lần thiết trai cúng dường một trăm muôn vị tăng và đốt một ngón tay để ghi nhớ, dần dần đến số năm trăm muôn, xa gần đều ủy thác, như nước biển chảy vào ao. Mãi đến lúc cúng dường hoàn tất ngàn muôn vị tăng thì mười ngón tay đều đốt hết. Đến niên hiệu Khai Thành (836-841), Sư bạch với đại chúng rằng: "Ở núi này tôi có nhân duyên mỏng manh! Đã bảy mươi hai lần đi khắp các Thánh tích, chỗ mọi người chưa đến tôi đều đã đến. Lại chẳng ra khỏi núi này là đã báo nguyện sâu xa, hạnh chẳng có gì lớn lao, biết làm sao vì đã già suy, nay đã tuổi bảy mươi bốn, năm mươi lăm hạ lạp, và còn được chút hơi thở thừa, muốn đến trên đỉnh Trung Đài nhóm đốt nén nhang, cáo từ mười phương các đức Như Lai và một muôn vị Bồ-tát. Hoặc tôi tắt hơi qua đời, thì ai là người chịu thay thế! Huống gì các người đều là môn nhân của Bồ-tát, là quyến thuộc của Long Vương, gieo trồng hạt giống lành, được ở núi này, sớm tối tinh cần buộc ràng ba nghiệp. Long Hoa Tam Hội cùng kết yếu kỳ. Đây là lúc tôi xuống núi, xin chớ gây trở ngại!" Sư lại chắp tay nói rằng: "Xin trân trọng!" mà đi. Tăng chúng lúc đầu không hiểu ý chỉ của Sư, đều bảo là: “sớm trở về!"
Sư bèn đem theo bình bát, tích trượng, chỉ đốt ít danh hương, và bèn bảo Triệu Hoa họ Quý đem theo sáp ong, hai cây vải bố, một bó gai thô, một đấu nhựa hương đi đến đảnh Trung Đài. Từ sáng đến chiều tối, Sư đốt hương lễ bái, không tạm nghỉ chút nào, chẳng hề ăn uống, kính thành niệm Phật, tiếng không xen hở. Đã đến canh khuya, họ Triệu thị lấy làm quái lạ về việc của Sư, bèn trèo lên chỗ cao, thấy Sư chẳng đổi dời chỗ cũ mà càng thêm tinh chuyên. Sư nói với họ Triệu rằng: "Tôi có ước nguyện sâu kín, ông hãy trọ duyên cho tôi, không nên ngăn cản. Nên lây sáp vải gai đến bó ràng vào thân tôi. Vào giữa giờ Tý đêm nay, tôi muốn đốt thân cúng dường các Đức Phật. Nếu tôi đắc đạo sẽ độ cả ông!" Họ Triệu can ngăn khổ thiết khuyên cầu mà Sư chẳng từ bỏ. Đem vải quấn vào thân, trải lên lớp gai đã rưới dầu từ đảnh đầu mà đốt. Sư lại bảo: "Đem cốt tro của tôi phải thổi cho tan chớ để cho hiển bày quái dị!" Họ Triệu mỗi mỗi đều vâng theo chẳng dám sửa đổi. Sư đốt từ đầu, lửa cháy đến chân mới ngã. Họ Triệu bèn khen ngợi rằng: "Xưa kia được nghe Bồ-tát Dược Vương thiêu thân, nay thật thấy được Thượng nhân. Thật kỳ đặc thay! Tha thiết thay!
Sau, môn nhân thâu nhặt chân cốt, xây tháp ở phía Nam núi Phạm Tiên. Đến nay vẫn còn.
Thích Định Lan, họ Dương, người ở Thành Đô. Vốn là hạng người hung ác, rượu thịt nơi chốn cửa chợ. Trời ban cho quyết tánh, sửa đổi lỗi lầm trước, Sư phát thệ nguyện dự vào lục hòa, hành hóa khắp tam Thục. Người thời bấy giờ thảy đều quy y kính tín, xây dựng một ngôi chùa lấy hiệu là Thánh Thọ. Nhân duyên chưa phát, Sư vẫn phải ẩn tàng để giữ gìn. Cha mẹ Sư đã sớm qua đời, không vốn liếng để có thể truy vãng. Mỗi lúc đến ngày húy kỵ, Sư khóc nghẹn ngào, khỏa mình vào trong núi Thanh Thành, tùy tiện để cho các loài thuồng luồng, muỗi, ve, nhặng, ruồi cắn ăn da thịt. Sư nói rằng: "Xả bỏ Nội tài là để báo đáp ân cù lao!" Trong xứ đất Thục có loài ễnh ương đen trắng, thân hình như hạt thóc, gặm ăn miệng và thịt người nhưng ít thấy chúng. Kế đến Sư chích máu viết kinh, sau thì thiêu đốt cánh tay, cho đến xẻo tai móc mắt thí cho chim thứu, thú dữ ăn. Thế rồi Sư bước đi bộ, chẳng người nâng đỡ dẫn dắt mà va chạm vật bị vấp ngã. Sau, có một người lạ trên tay cầm một vật như hạt ngọc sáng, bên trong trống rỗng, khoảnh khắc nhìn kỹ như cũ, thầm bảo rằng: "Nam Thiên Vương hoàn trả lại Sư nhãn châu!" Mọi người xa gần đều kinh hãi. Sư thường nói với mọi người rằng: "Tôi nghe trong Kinh Thiện Giới nói là "Vô Thượng Thí", tôi nguyện siêng năng thực hành để mau đạt được thượng quả!"
Niên hiệu Đại Trung thứ 3 (849), vua Tuyên Tông ban chiếu thỉnh Sư vào nội cung cúng dường, vì kính ngưỡng sự cảm ứng của Sư, nên dùng ưu lễ mà phụng dâng. Đệ tử là Hữu Duyên thường lo mọi việc chung quanh. Đến tháng 2 niên hiệu Đại Trung thứ 6 (852), Sư lại phát nguyện thiêu đốt bắp tay. Vua nhiều lần khuyên can, cho rằng Sư tuổi đã già lại thêm siêng năng tu luyện lâu dài. Sư chẳng vâng theo chiếu chỉ, bèn tự thiêu đốt mà thị tịch. Ngài Hữu Duyên dâng biểu xin đổi tên xây tháp. Vua Tuyên Tông ban sắc tặng Sư thụy hiệu là "Giác Tánh", Tháp hiệu là "Ngộ Chân".
Mọi người ở xứ Thục Đô chỉ gọi là "Định Lan Tháp Viện". Đến nay hương hỏa vẫn chưa dứt.
Thích Hồng Hưu, không rõ Sư là người xứ nào. Thẩn vũ tiêu đĩnh, huyền cơ cán vận. Sư trụ tại chùa Hoàng Bá thuộc đất Mân, luôn đông đúc người đến thưa hỏi. Ngoài việc chỉ bày dạy dỗ, Sư luôn vui vẻ. Sư từng nói rằng: "Nợ trước phải đền trả, đền trả hết thì đâu còn gì phải lo sợ. Ta và vật đều tiêu dao". Mọi người đều không hiểu được ý chỉ ấy. Đến niên hiệu Quảng Minh (880-881) giặc cướp dẫy đầy. Sư ra phía ngoài chùa cởi bỏ áo nạp, đứng trên tảng đá dưới gốc thông, nói rằng: "Thệ nguyện chẳng làm dơ bẩn chốn đất thanh tịnh". Và an tường ngửa cổ đợi đón mũi nhọn. Mũi nhọn rơi xuống mà không chảy máu. Bọn giặc lật lại, kinh hãi lấy làm lạ, lạy dài mà sám hối. Đệ tử Sư là Cảnh Quang trà-tỳ di thể thâu nhặt được bảy viên xá-lợi, đựng trong đãy rất quý trọng. Có người dốc lòng kính tin đem hạt đậu đúng như số lượng mà đổi lấy, đuổi theo mà chẳng kịp, bèn sang bói cỏ thi. Với quẻ đoán nói rằng: "Sinh tử sang hèn không phân quẻ ta, tại hay chẳng tại, mất hay chẳng mất. Ai biết thể nào?". Đến lúc có được bèn tôn trí vào tháp, phân bảy hạt đựng trong bình lưu ly tỏa ánh sáng rực rỡ. Bấy giờ, có Sa-môn Thanh Khoát soạn văn tụng ghi lại đức hạnh của Sư.
Thích Toàn Khoát, họ Kha, người ở xứ Tuyền Châu. Thuở thiếu thời Sư tài trí trội vượt, khí độ rộng xa mà khoan dung. Sư đến đảnh lễ Đại Sư Nghị Công ở Thanh Nguyên, tôn làm thầy. Rồi sang Trường An, đến chùa Tây Minh nơi Đại Sư Chiếu Công, được thọ giới cụ túc, tức ở chùa Bảo Thọ ở Tả Nhai, nghe tầm kinh luật, quyết chọn cương tông, thành tự dẫn giảng. Ngài chống tích về hướng Nam, đi đến bái yết ngài Đức Sơn ở Võ Lăng. Thuốc bịnh tương ưng, không còn nghi ngờ vướng mắc. Sau, Sư ở chỗ gần Động Đình, đất đó gọi là Ngọa Long, Sư bèn cất thất mà ở. Đồ chúng đồng bạn đến nương theo, Sư lại đến ở núi Đường Niên. Núi đó có Thạch Nham cao vợi mà hiểm hóc. Sư lập biển hiệu của Viện là "Nham Đầu". Hễ có thi dụng đều phải chân thật, ngồi sừng sững, nhậm chúng vây quanh. Sư bảo: "Các ông sao không nghĩ chỉ trong nhà có ít nhiều công việc, thật đối với cảnh thuận nghịch chứng đắc tướng siêu việt?" Vào niên hiệu Quang Khải (885-888) Sư lại đến Trung Nguyên, vốn có lắm sự, chư hầu lập riêng từng góc, giặc cuồng lại đánh cướp, đồ chúng đều trốn lánh, Sư vẫn an nhiên, giặc trách Ngài không cung cấp biếu dâng, tức giận khiến khua ném mũi nhọn. Sư vẫn không tỏ vẻ sợ hãi. Ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Mùi (887) thuộc niên hiệu Quang Khải, môn nhân tạm an táng, sau đó lại tràtỳ có được bốn mươi chín viên xá-lợi. Vua Hy Tông ban tặng Sư Thụy hiệu là "Thanh Nghiêm", tháp hiệu là "Xuất Trần". Mọi việc trong lễ tang đều do đàn việt anh em Điền Vịnh chi xuất của cải lo liệu. Sa-môn Thích Huyền Thái ở Nam Nhạc soạn văn bia khen ngợi đức hạnh Sư đề xướng cao vợi. Bấy giờ, Sư được gọi là Nham Đầu Pháp Đạo" khó mà lãnh hội.
Liên hệ thử bàn:
Hai Ngài Hồng Hưu và Toàn Khoát lâm nạn sao không tránh khỏi ư? Thông đáp: Cái khó của phàm phu là cái dễ của Bồ-tát, trải qua nhiều đời kiếp xả bỏ, đó đâu có gì hy hữu ư?. Xưa kia, Ngài An Thế Cao nhiều lần đền trả oan trái, xả bỏ như phủi nghiệp, trần lụy mới nhẹ, khổ nương thân hết, đổi thể bền chắc. Thần tiên từ mũi nhận mà chết, gọi đó là "Kiếm giải", huống gì các Sư là người chánh tu chứng quả, đạo lý quán đãi chẳng vì không chết mà hổ thẹn.
Thích Nguyên Tuệ, họ Lục, là cháu của Tấn Bình Nguyên Nội Sử Cơ, cha của Sư là Đan Văn Lâm Lang Văn Kỵ Úy Ôn Châu Liệu Tào Tuệ, tức là Trọng Tử. Thuở bé Sư dĩnh ngộ, lúc trưởng thành thì hài hòa, sợ làm rùa khô, lo làm nhạn gầy. Niên hiệu Khai Thành thứ 2 (837), Sư từ giã thân thích, đến chùa Pháp Không Vương, nương tựa Ngài Thanh Tấn làm đệ tử. Niên hiệu Hội Xương thứ nhất (841) Sư sang Hằng Dương thọ giới pháp, mới tập học tỳ-ni, Sư vào lễ bái núi Ngũ Đài, bèn quán các điềm lành. Năm sau, Sư trở về Ninh Gia Hòa, trụ chùa Kiến Hưng, lập chí hành trì Tam Bạch Pháp, trì tụng năm bộ Mạn-noa-la.
Trên cánh tay Sư thiêu đốt hương cúng dường. Đến niên hiệu Hội Xương thứ 5 (845), cùng bị pháp nạn nên bị đào thải thanh trừng, Sư tạm ẩn làm người tại gia. Đến niên hiệu Đại Trung thứ nhất (847), Sư trở lại Pháp môn, đến niên hiệu Đại Trung thứ 7 (853), Ngài xây dựng lại chùa Pháp Không Vương, lại đốt hương trên cánh tay để cúng dường báo ơn Sơn Phật Nha. Tiếp đến, Sư sang núi Thiên Thai độ Thạch Kiều, lợi đã đi qua, không còn lo lắng. Vào niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư theo đón rước xá-lợi cốt ngón tay giữa của Phật đến chùa Trùng Chân ở Phụng Tường. Sư tự đốt ngón cái tay trái, miệng luôn trì tụng Kinh Pháp Hoa, ngón tay ấy chưa qua một tháng đã mọc lại như cũ.
Niên hiệu Càn Ninh thứ 3 (896), tình cờ Sư nói: "Trái tôi!". Qua ngày 28 tháng 9, Sư thị tịch tại Viện Tôn Thắng, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Đệ tử Sư là Đoan Túc v.v... đón rước thần tòa an táng ở xứ Ngô Hội, xưng hiệu Sư là Tam Bạch Hòa-thượng. Sư Lễ bái trì tụng, nhiều chẳng thể tính kể số, như ở biệt lục có ghi.
Liên hệ thử bàn:
Đốt ngón tay cái, lửa hết tro bay, làm sao ở chỗ đã bị cháy, xương thịt lại mọc chẳng bao lâu lại như cũ. Đây cùng với hoa sen trong lửa đồng chủng loại mà khác trạng thái ư? Và sao gọi là Tam Bạch? Thông đáp: Hai thứ sự lý, một bạch phạn, bạch thủy, bạch diêm là sự vậy; hai thân chẳng biến xúc, miệng tụng chân kinh, ý chẳng vọng duyên. Ba diều minh bạch chẳng phải là hắc nghiệp, nên có tên ấy.
Thích Thúc Thảo Sư, không rõ Sư từ đâu đến, trụ chùa Bồ-đề trong phường Bình Khương ở Kinh Triệu. Sư là người hình vóc chẳng đủ mà thần thái tài giỏi, ngâm vịnh ca hò tự đắc, ít giao tiếp với người đương thời, vả lại chẳng nói rõ tên họ. Sư thường mang bó rơm khô, ngồi nằm dưới hai hành lang, chẳng thích ở trong phòng nhà. Có người nói đó là hạnh đầu-đà. Qua vài năm, các vị cương nhậm trong chùa khuyên Sư nên ở trong phòng, cũng có người cười chê Sư như vậy là là bê bối. Sư bảo: "Chán ghét tôi ư? Ở đời chẳng kham mến thương, sao có thể lớn được!" Đêm đó, Sư bèn dùng bó rơm thiêu đốt thân mình, đến sáng hôm sau chỉ còn tro than, không lưu lại hài cốt, lược hết mùi bụi dơ, lại không tiếng lúng búng kinh hãi. Tính thấy một ít rơm khô ấy không thể thiêu đốt toàn xác thân này, không còn chút gì, nhưng đó là Sư nổi lửa Tam-muội mà tự đốt thân. Cả chúng đều khen ngợi, rất nhiều người dân đến trông xem kính lễ. Các hàng tín sĩ khắp kinh ấp bèn đắp tro ấy thành hình tượng vị tăng, tôn trí phụng thờ bên cạnh tượng Phật. Người đời xưng hiệu Sư là "Thúc Thảo Sư". Cầu nguyện có nhiều ứng nghiệm.
Liên hệ thử bàn:
Trong Kinh Xử Thai chép: "Bồ-tát thiền định nhiếp ý nhập hỏa giới Tam-muội. Hàng chúng sanh ngu mê cho đó là Bồ-tát gặp phải kiếp lửa thiêu. Tỳ-kheo chưa được như thế. Không dùng việc nầy để huyễn hoặc người. Nếu dùng ít rơm khô mà đốt được hình hài lớn, thì đáng tin. Nên trong sách nói rằng: Dân không dò xét trù trướng là huyễn! Than ôi!
Thích Hạnh Minh, họ Lỗ, người ở xứ Trường Châu thuộc Quận Ngô. Thuở nhỏ, Sư theo thầy ở bổn bộ, sau du phương theo học Đạo. Ngài có chí khí hiên ngang, kiêu ngạo phóng khoáng.
Ban đầu, Sư đi khắp núi Ngũ Đài, Nga My, đảnh lễ các vị Bồ-tát ở hai thề giới sắc vàng, sắc bạc và thảy đều tùy tâm ứng hiện. Từ đó, Sư lên Thiên Thai, vượt qua La Phù, vào Hành Nhạc, đến Tử Đồng. Gặp lúc Đường Quý Sương nhiễu loạn chung quanh, tranh giành tầm thường mà chưa dứt, chẳng có năm nào yên ổn. Khi ấy, Sư nương gá dưới ngọn núi Chúc Dung, có chí nguyện sống đến cùng tại đó. Sư dừng ở đài Thất Bảo, làm bạn kết giao với Ngài Huyền Thái. Tánh Sư tốt xấu thế nào Ngài Huyền Thái cũng không chống đối sự khinh trọng ấy. Sư có nói với bạn đạo rằng: "Tôi không nguyện theo Tăng Nhai tự thiêu thân ở lầu gỗ, cũng chẳng muốn làm như Khuất Nguyên vùi chôn mình trong bụng cá, mà trọn thệ nguyện xả bỏ thân mình, học hạnh của Thái tử Tát-đỏa vượt qua nhiều kiếp mà thành Quả Thánh, có thể được chăng?" Tuy Sư thường nói như thế nhưng đều chẳng tin. Bỗng nhiên ở giữa khoảng rừng thưa, Sư gieo thân mình trước loài hổ dữ, nó tranh giành nhau mà gặm ăn, trong chốc lát thịt hết sạch. Khi đó, Ngài Huyền Thái thâu nhặt xương cốt còn lại thiêu đốt và có được Xá-lợi. Mới hái hoa, rưới nước làm văn mà cúng tế. Trong văn từ nói rõ năng lực mạnh mẽ có thể bỏ hết nội tài, phá pháp keo kiệt thành đàn độ, chưa xả, đã xả và đang xả; ba luân chóng không, nhận lấy quả lớn như cúi nhặt hạt cải.
Liên hệ thử bàn:
Phật dạy bố thí thân mạng cho chúng sanh thọ thực, được hai đời thuận ích cảm quả chẳng phải nhẹ. Như Ngài Hạnh Minh thành đại đàn độ, lìa bỏ keo kiệt, tham lam. Thành tựu năng lực mạnh mẽ, được sức vô úy, thành tam luân không, công đức vô vi, thành tựu khó xả, tâm thanh tịnh cõi Phật. Chỉ một lần xả bỏ thân mình mà lợi ích rộng lớn thay! Thí như tổn phí của người khéo thưởng là ít mà khuyên gắng thì nhiều, nghĩa là như vậy.
Thích Tức Trần, họ Dương, người ở xứ Tinh Châu. Cha của Sư mua bán có không kiếm lời mà thôi. Mẹ của Sư nằm mộng thấy một người ăn mặc trang nghiêm kỳ vĩ xinh đẹp đến nói xin ở nhờ qua đêm. Lúc tỉnh giấc bà liền mang thai. Khi mới sanh có tướng đứa bé khác thường, chẳng giống như bao trẻ khác. Mỗi lúc nghe tiếng chuông khánh hay tán tụng thì liền ngưng thần lắng nghe.
Năm mười hai tuổi, nhân mộng thấy người vàng, hình trạng lạ lùng dẫn Sư vào Tinh Lô (tịnh xá). Sáng hôm sau, Sư liền thưa với cha mẹ cầu xin xuất gia. Trước khi chưa được chấp thuận, Sư khóc mà chẳng ăn, cha mẹ thương xót đó là thiên nhiên, tình cảm làm sao có thể cản ngăn, bèn bằng lòng. Sư liền vào Viện Thảo Đường, theo Thầy trì tụng Kinh Duy-ma, giới Bồ-tát, đến nửa đêm chẳng ngủ. Sắp tròn một năm thì Sư bỏ bổn, tụng thuộc lòng. Năm mười bảy tuổi, Ngài đến Giảng Tịch nghe và tập học Kinh Duy-ma, hiểu biết đại khái về nghĩa lý. Đến năm hai mươi tuổi Sư thọ giới cụ túc, hành trì luật nghi, không hề thiếu sót. Năm hai mươi ba tuổi, văn nghĩa Sư đã thông nhiều. Bèn đến chùa Sùng Phước, chỗ Pháp Sư Tông Cảm đang thắng tập truyền trao. Sư lại học các luận
Nhân Minh, Duy Thúc, chẳng thiếu phu diễn. Học đồ dĩnh đạt vượt thoát chỉ được vài người, có Đại sư Biện Tài Tùng Thức ở chùa Sùng Phước tài giỏi nhất.
Vào niên hiệu Thiên Hựu thứ 2 (905) thời Tiền Đường, Lý thị Yêm Hữu Hà Đông, Võ Hoàng Đế thỉnh Sư đến ở viện Tịnh Độ chùa Đại An, chuyên cấp cúng dường tứ sự. Sư lại chuyên ròng xem đọc Tạng Giáo, tu luyện nghiệp thượng sanh, thiết bày Đại Trai hội Vô Giá, trước sau có đến năm hội. Sư từng vào chốn sơn cốc đem thân mình muốn bố thí cho loài cọp sói. Các loài thú ấy chỉ đến gần ngửi thử mà bỏ chạy. Sư lại đến khoảng giữa rừng thưa khỏa thân cho loài muỗi nhặng cắn đốt. Sư bèn đến chùa Tiên Nham Nhạc để dưỡng Đạo lắng thần, lại xem đọc Đại tạng kinh khắp một lượt rồi thiết trai, Ngài đốt một ngón tay, tỏ bày báo đáp diễm phúc ấy. Tại chùa đó có tôn tượng đức Đại Thánh Bồtát Quán Thế Âm, Sư sắm sanh bảy cây đèn lớn dài và hoa hương để dâng cúng. Sau, bị mọi người đến thỉnh Sư xuống núi, vào nội thành truyền giảng, mở mang Đại Luận, suốt năm không thôi nghỉ, cứ hằng tháng bày tắm gội. Sư đến nơi sông, ao hồ bố thí thức ăn cho loài thủy tộc. Lấy đồ cúng của mình để chuộc mạng loài chim muông. Sư trầm lắng cao minh để toại sanh tánh, hoặc cấp thí cho người tù tội được ăn, hoặc ban ân cứu giúp cho kẻ nghèo khổ, hoặc quyên tạo phướn lọng ở hai ngôi tháp Tịnh Minh, và Kim Tạng.
Niên hiệu Trường Hưng thứ 02 (931) thời Hậu Đường, đại chúng thỉnh Sư đến sau chùa Đại An Quốc xây dựng Viện Tam Học, cúng đãi thính chúng bốn phương. Bấy giờ, Sư giảng Kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch, truyền trao cho Đại Sư Kế Huy ở chùa Sùng Phước. Do đó, suốt ba năm Sư không ra khỏi cửa viện, cứ mỗi chữ một lạy trọn bộ Kinh Hoa Nghiêm, trọn một biến cứ mỗi chữ một lạy Kinh Đại Phật Danh, cộng cả thảy một trăm hai mươi quyển. Ngài lại tự đốt một ngón tay, trước sau đốt tất cả năm ngón tay. Bấy giờ, Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) ngầm kích động ở Tấn Dương, rất kính trọng Sư. Đến lúc lên ngôi (936
-943), cứ mỗi lần Sư vào kinh đô Lạc Dương chầu hầu, thì Nhà vua đều thỉnh Sư vào Nội điện, thung dung ban tặng rất nồng hậu, nhà vua ban tặng Sư y phục sắc tía và ý hiệu, Sư cố từ chối mới thôi. Sư nghe tại chùa Pháp Môn ở Phụng Tường có chân thân cốt tiết ngón tay giữa của Đức Phật, bèn giã từ nhà vua, sang Kỳ Dương chiêm lễ. Sư trông thấy rất hy hữu kỳ đặc, nên lại đốt thêm một ngón tay để cúng dường. Hai bàn tay của Sư chỉ còn hai ngón mà thôi. Sư lại tiếp tục đến chùa Thiên Trụ, tập học luận Câu-Xá với Pháp Sư Sở Luân. Mới qua vài ngày, Sư bị bịnh nhẹ. Đến giờ Thìn ngày 27 tháng 7, Sư nằm gối trên cánh tay mà thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp.
Bình thường, Sư chỉ mặc áo vải thô chẳng chứa để vật gì. Thường ngày sáu thời lễ bái không hề thiếu sót, khắp vùng Lũng Để nghe tin Sư thị tịch, kẻ tăng người tục đều đầy đủ oai nghi tiễn đưa, tràtỳ thâu nhặt được mấy trăm viên xá-lợi. Đệ tử đem linh cốt Sư về Thái Nguyên. Vua Cao Tổ thời Hậu Tấn ban sắc an táng tại Tây Sơn thuộc Tấn Thủy.
Ngôi tháp nhỏ đến nay vẫn hiện còn.
Liên hệ thử bàn:
Sư xả bỏ hết như thế có thể hơn được năng lực tinh tấn của Sư ư? Thoát lạc phù vinh há có thể hơn được nghĩa giải ấy ư? Nếu như thế thì không thể dùng một tên mà xưng gọi, nhất quyết như hoa chiêm bặc. Mầu sắc vàng mà đẹp thì vàng ròng phải tạ sắc ấy, hương thơm tỏa xa thì Ngưu Đầu còn thẹn mùi hương ấy. Nhiều tên sanh từ một thể.
Đó là Ngài Tức Trần.
Thích Đạo Dục, là người nước Tân-la. Dòng họ và quê quán của Ngài tại bổn quốc chưa biết rõ.
Năm Nhâm Tý (892) thuộc niên hiệu Cảnh Phúc, thời Tiền Đường, Sư đến núi Thiên Thai, lúc trở về, Sư trụ trong chúng đường chùa Bình Điền, luôn tỏ tâm từ ái tiếp vật, mà chẳng hề bỏ tiếng nói của vùng đất mọi rợ, Sư thường chấp trì mọt bình bát mà thọ thực, ăn xong kinh hành, và thường hay ngồi, khi nằm lưng hông chẳng đặt trên chiếu. Hằng ngày Sư lo việc lau quét Chánh điện hành lang, sửa sang trong thường trụ, được thức ăn thừa thì ăn. Tuy thức ăn có mầu xấu đã đổi mùi nhưng đều thâu nhặt để trong bình bát đến giờ thọ trai thì tự ăn. Sư lo nấu nước trà quét dọn buồng tắm, thấy các loài trùng nhỏ trong cây củi thì bắt lấy để nơi đất xa, Sư bảo hộ sanh mạng rất tha thiết như thế. Sư chỉ mặc áo nạp vải thô, rất nặng nề khó mang. Từ đầu mùa Hạ đến cuối mùa Thu, lúc mặt trời xế bóng, Sư cởi áo để mình trần cho các loài muỗi, ve, nhặng, đỉa v.v... đốt chích hút máu, đến nỗi máu chảy ra trên đất. Sư luôn thực hành như thế hơn bốn mươi năm không hề phế bỏ. Hễ tình cờ gặp khách đến thăm hỏi, Sư chỉ nói hai chữ: "Ấy! Ấy!" mà thôi. Sư thật sự không biết tiếng Trung Hoa nhưng lại nhận hiểu ý người không sai lầm. Tóc trên đảnh Sư rũ xuống tận bạch mày và rối bù, thân Ngài thường lưu xuất xá-lợi có mầu xanh đỏ, tợ như những hạt châu. Nếu có người khẩn cầu đều tùy ý mà được.
Đến ngày mùng 10 tháng 10 năm Mậu Tuất (938) tức niên hiệu Thiên Phước thứ 3 thời Hậu Tấn, Sư thị tịch trong tăng đường. Tính ra lúc đó Sư đã hơn tám mươi tuổi. Chư tăng đón rước lên phía sau núi trà-tỳ, trong tro than nhặt được xá-lợi nhiều vô số kể. Hoặc có người nhặt được xương lớn.
Niên hiệu Thanh Thái thứ 2 (935) thời Hậu Đường, Sư từng đến Thạch Lương, lúc trở về Sư nghỉ trong phòng nhà. Lúc đó đang mùa Xuân ấm, Sư cũng đốt gốc cây để sưởi, trong miệng luôn nói láp váp suốt đêm chẳng thôi. Có người bảo: "Hễ ngày thiết Đại trai cúng dường La-hán thì Sư không ăn. Có người thấy nghinh đón La-hán khi đó hỏi Sư sao chẳng vào nội điện thọ cúng, thì miệng Sư bảo: "Ấy! Ấy!" rồi bỏ đi. Hoặc nói là thí cho các loài trùng ăn. Khi đó liền thấy bầy hổ đến ngửi rồi bàng hoàng bỏ đi.
Thích Cảnh Siêu, không rõ Sư là người xứ nào. Vốn nghiêm trì giới luật như tiếc giữ chiếc phao nổi. Tánh Sư thẳng thắn, nói chẳng tùy theo mặt. Đến lúc du phương dời chân, Sư chọn chỗ tốt lành mà gá thân. Sư đến Lô Phong, bèn có ý muốn ở luôn tại đó, chỉ trì tụng Kinh Pháp Hoa, nuôi chí làm việc thường ngày. Dân chúng vùng Cửu Giang phần nhiều rất có ảnh hưởng. Sư từng lễ bái Kinh Hoa Nghiêm, cứ mỗi chữ một lạy, tính ra đã hai biến. Sư bèn đốt một ngón tay để cúng dường mừng việc lễ bái trọn bộ Kinh. Tiếp theo Sư lại lễ bái Kinh Pháp Hoa cũng đồng như trước. Trên da dẻ trong thân Sư ẩn ẩn hay lưu xuất xá-lợi, long lanh tròn sáng. Nếu có người khẩn cầu thì nơi chiếu ngồi hoặc nơi đất đi thâu nhặt được xá-lợi vô số. Vào niên hiệu Thiên Phước (936-943) Sư thị tịch tại Am. Đến nay, mộ tháp Sư vẫn hiện còn tại Lô Phụ. Mọi người du phương đến đó hết lòng đảnh lễ khen ngợi.
Liên hệ thử bàn:
Nói di thân tức xả bỏ toàn thân như Thái tử Tátđỏa. Nay chỉ dùng ngón tay làm đèn, hay đem cánh tay làm đuốc, đâu được xếp vào cùng hàng như thế, há chẳng quá may mắn chăng? Thông đáp: Đốt một ngón tay, cắt một cánh tay, đó là gia hạnh của di thân. Huống hồ trong thời tượng Pháp, mạt pháp thì đó lại là việc rất khó. Giống như Liêm Ngung giữ phần ít, khi nhập vào Tuần Lại Truyện thì đồng.
Thích Chí Thông, họ Trương, là con nhà tiếng tăm ở Hữu Phù Phong. Sư sớm biết xả bỏ thế tục, khắc chí chuyên việc ở tịnh môn. Chọn lễ các bậc danh sư, bước lên thượng phẩm. Các giảng tịch ở mọi nơi Sư đều đến khắp và lưu tâm để ý.
Cuối thời Hậu Đường (936), binh giặc dấy động, từ đó Sư đặt giá lần dò đi về phương Đông, đến Lạc Hạ. Gặp được Tam Tạng Pháp Sư PhiệtNhật-Ra đang hành trì pháp Du-già, Sư bèn kính lễ mà phụng thờ. Khi đó Sư bèn có ý vượt qua Thiên Thai tìm tới La Phù, nên bèn từ giã. Ngài PhiệtNhật-Ra nói: "Tôi tới đây cầu phiên dịch, gặp phải trung nguyên có lắm việc. Ông thử bàn đi đến phương Nam, làm sao có thể đi con đường thẳng ư?" Sư thưa: "Bồng bềnh thiên tiệm, Ngài sao giống con vậy!" Ngài Phiệt-Nhật-Ra bảo: "Nếu như đến dược Ngô Hội thì có thể giao cho ông kinh điển bản Phạn, hoặc có duyên tụ hội thì truyền dịch!" Sư thưa: "Đã nghe lời chỉ bảo.
Đến năm Kỷ Hợi (939) tức niên hiệu Thiên Phước thứ 4, thời Hậu Tấn, Thiên Vương sắc ban đến Ngô Việt, Sư bèn nương theo thuyền biển đi đến Chiết Trung. Bấy giờ, Văn Mục Vương họ Tiền vâng lệnh triều đình thỉnh đón Sư, đầy đủ oai nghi nhạc bộ đón rước Sư vào phủ đình để cúng dường, và an trí Sư trụ tại chùa tháp Chân Thân, cúng dường ban thưởng rất nồng hậu. Sư xin đến núi Thiên Thai. Do đó, Sư lên Xích Thành, vượt qua Hoa đảnh. Thế rồi đến dừng ở tại đạo tràng của Đại Sư Trí Giả. Nhân xem đọc bộ "Tây Phương Tịnh Độ Linh Thụy truyện", bèn đổi hạnh hồi tâm nguyện sanh về cõi nước ấy. Lúc bình sanh, Sư ngồi chẳng quay lưng về hướng Tây. Trong núi có "tảng đá vẫy tay" là chỗ xưa kia Đại Sư Trí Khả mộng thấy trên tảng đá ấy có vị tăng đến trên biển với hình trạng đưa tay vẫy gọi, khi Ngài Trí Khả vào núi Thiên Thai thấy vị tăng đó tên là Định Quang, vành tai cao vót quá đảnh, và cũng chẳng biết đó là thần tăng. Vừa mới gặp, vị tăng ấy nói với Ngài Trí Khả là "lúc trở về có thể ghi lại được tướng vẫy gọi chăng?" Ngài Trí Khả nói: "Ở tảng đá ấy cao vót, trông nhìn xuống không thấy đất". Sư leo lên trên tảng đá ấy tự gieo mình, nguyện chóng sanh về Tịnh Độ, thân rơi xuống trên một cành cây đại thọ, cành nhánh mềm mại như có người nâng đỡ, rất lạ là không thương tổn gì. Sư lại gieo mình rơi xuống núi nằm trên cỏ non, có tổn thương chút ít, giây lát sau Sư tỉnh lại. Tăng chúng trong chùa cho rằng Sư đã bị chó sói, hổ ăn thịt, đến lúc trông thấy Sư còn sống mà bị tổn thương, bèn khiêng Sư đến trong đạo tràng. Lúc Sư đi không báo cho chúng tăng biết, nên mọi người chia nhau đi ở các đường tìm kiếm, đến xóm Loa Khê, ở đó có vị đồng bống nói lắm việc rất ứng nghiệm, nên chư tăng bèn đến hỏi thử. Thần nói: "Vị tăng ấy (Chí Thông) hiện ở phía Tây Nam, có thần Kim Khải bảo hộ không chết. Ta đến đó, vì khí thần hết, nên khó có thể lại gần". thảy đều phù hợp vơi lời thần nói.
Sau, Sư sang Việt Châu trụ ở núi Phát Hoa, lắng tu tịnh nghiệp. Lúc sắp thị tịch, tại phòng Sư ở, đất đều biến thành mầu trắng, mọi vật như truyền phân. Sau đó không lâu, Sư ngồi trên giường thiền mà thị tịch. Lúc rước tòa trà-tỳ, có khói năm mầu phủ trên đảnh đầu, trong sông Pháp Hoa đều nghe có mùi hương.
Liên hệ thử bàn:
Xưa kia, Ngài Bạc-Câu-La có năm lần chẳng chết, nay Ngài Chí Thông có hai lần chẳng chết. Xưa kia, Ngài Pháp Sung ném lò hương ngàn nhận mà chẳng mất, nay Ngài Chí Thông cũng đồng. Há chẳng được trời, rồng nâng đỡ, che chở mà chẳng tổn hại mảy lông ư? Và có khả năng kéo dài, gìn giữ sắc tâm không đứt đoạn như thế, làm sao giúp Sư tăng tu tịnh nghiệp như vậy.
Thích Đạo Chu, họ Quảng, Người ở xứ Hồi Lạc, thuộc Sóc Phương. Thuở bé, Sư thông minh thanh nhã, rõ ràng có oai nghi. Tuy tụng đọc thi thư mà Sư lại thích nghe sách Phật, quyết tâm xuất gia, trụ viện Khổng Tước Vương ở chùa Long Hưng, thành tựu được giới châu, dần trình trăng tâm. Sư ngâm nga tán tụng rõ ràng, mọi người rất thích nghe. Sư đốc xuất các hàng tín sĩ xây dựng chùa Vĩnh Hưng. Công việc hoàn thành Sư chẳng nắm giữ, bèn giã từ Linh Soái Hàng Công Thù vào hang động Cỏ Trắng ở núi Hạ Lan, lập nguyện hẹn thời gian trì niệm, cảm cách đến suối khô nên nước lại tuôn chảy, có rắn linh bơi lội ở trong, bèn trèo lên pháp đài mà đàm luận, người tại gia, xuất gia đông đúc như ong bướm nhóm họp, đàn thí cung cấp chất thành núi. Sư tán xướng âm hưởng có thể ngăn cả mây bay, cách vận cả những người hung dữ nhu cú vọ. Sư chích máu viết thần chú Đại Bi Thiên Thủ Thiên Nhãn mà lập tượng. Gặp lúc trời nắng hạn, Sư tuyệt thực nhắm mắt, lấy kỳ hạn trời mưa mới nói đến việc no bụng.
Vào niên hiệu Trung Hòa thứ 2 (882) thời Tiền Đường, nghe ở Quyết Phụ nhiễu loạn, Sư bèn đến dưới tháp viện Định Niệm ở Nam Thành, chặt cành tay trái và đốt để cúng dường tôn tượng Đại Bi, nguyện chiến tranh chấm dứt, trên bình nguyên sớm thấy binh lính thôi nghỉ. Sư nói vừa xong thì sấm gió nổi dậy, mưa tuôn xối xả. Sư lại cắt xẻo vành tai trái vì dân chúng ma cầu mưa. Sư lại tuyệt thực bảy ngày để thỉnh cầu tuyết rơi thảy đều như ý nguyện, đến Phiên Lạc thì ai cũng sợ hãi. Đến ngày mùng 6 tháng 2 năm Tân Sửu (941) tức niên hiệu Thiên Phước thứ 6 thời Hậu Tấn, hôm đó, chưa quá nửa đêm, Sư ngồi kiết già dặn dò môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi.
Di thể Sư không tan rã, như nhập thiền định, bèn sơn phết lên.
Vào niên hiệu Kiến Long (960-963) thời Bắc Tống, có Quách Trung thứ xem đọc các sách, thuở nhỏ học rất giỏi, có tài viết chữ Triện, chữ Lệ, nhiều việc đều biết rành. Nhân đi đến Bắc Duệ dò hỏi sự tích của Sư mà soạn văn bia xưng tụng.
Thích Hồng Chân, họ Thuần Vu, người ở xứ Toan Tảo, thuộc Hoạt Châu. Thuở nhỏ, Sư tỏ ngộ được trần lao, quyết cầu xuất gia. Tánh Sư an nhiên, như mây hạc cùng cao. Thầy Sư trao cho bộ Kinh Pháp Hoa, bèn tùy theo văn mà Sư phát sanh hiểu biết. Sư mặc áo giáp tinh tấn, nhiếp phục mọi sân nhuế. Nếu thấm đượm của đàn thí thì Sư xoay mặt mà xả. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa khoảng chừng muôn bộ. Đến cửa triều đình dâng biểu xin được tự thiêu đốt toàn thân để cúng dường tháp Phật. Nhà vua ban sắc bảo không đúng thời. Chính là phát xuất ra nhiều cửa, hoặc có người gièm pha là người mê hoặc quần chúng, có người nói là chẳng lợi gì cho nước nhà. Nên triều đình ban sắc nghiêm ngặt ngăn cản. Sư than rằng: "Căn lành trồng cạn, ma chướng rất mạnh dữ, chẳng lẽ ta lại dừng!" Sư bèn trở vè chùa Quảng Khánh, dốc hết của cải y phục vật dụng thực hiện bố thí Phi thời, sở nguyện được hoàn mãn. Ngay năm đó, không bịnh tật gì, Sư an tọa mà thị tịch, qua mấy ngày sau mà sắc mặt vẫn như lúc còn sống, bèn đón rước trà-tỳ, chỉ chiếc lưỡi không cháy mà càng thêm hồng đẹp. Bấy giờ, những người trông thấy đều khen ngợi là việc ít có. Sư thọ năm mươi hai tuổi. Khắp vùng kinh đô Lạc Dương đều kính trọng như khi Sư còn sống.
Thích Tuệ Minh, họ Tương, người ở xứ Tiền Đường. Sư nghiên cùng Tam học, dần vào tinh vi. Sau Sư lên Mân Việt, dần đến Lâm Xuyên, đảnh lễ Thiền Sư Văn Ích, hợp sâu Chánh lý. Sư tỏ ngộ được tâm yếu, trước tiên chẳng khởi tình kiến sanh diệt. Sau Sư trở về đất Chiết, ẩn cư tại vùng cát trắng núi Thiên Thai, dựng lập liêu cỏ, có đạo phong như Ngài Tuyết Phong Trường Khánh. Người đến ngày một ít dần, cho rằng lời Sư là ma nói.
Vào niên hiệu Càn Hựu (948-951) thời Hậu Hán, lúc Sư từ núi xuống, có Thúy Nham Sâm Công đốc suất các thiền bá đến viện Tư Hiến của tăng chủ định đoạt định đoạt đúng sai. Lời nói của Sư không thể bị chiết phục. Bỗng nhiên, Hán Nam Quốc Vương họ Tiền xây dựng chùa Đại Báo Ân, thỉnh Sư nhậm chức Trụ trì, hiệu là Viên Thông Phổ Chiếu Thiền Sư, mà Sư lại hành trì Huyền Sa Chánh Nhãn. Nếu chẳng phải là Sư thì sao có thể đến đó được.
Đến niên hiệu Hiển Đức (954-960) thời Hậu Chu, Sư thị tịch, lúc đó trời rất nắng nóng, mọi người muốn an táng nhục thân Sư. Có đệ tử của Ngài là Vĩnh An nói rằng: " Hiểu thầy (Tuệ Minh) chỉ có tôi thôi! Xin nên trà-tỳ sẽ có được xá-lợi năm mầu, mỗi mỗi đều tròn sạch.
Ban đầu, Sư đốt một ngón tay làm đèn cúng dường ở núi Thiên Thai. Sau Sư lại thiêu đốt ba ngón mà chuyên cần giữ đúng thời khóa hành trì, xương sườn Sư hơi dính vào chiếu. Lúc Sư nói Pháp, tánh rất thẳng thắn, nói lắm điều trái ngược sự vật. Đó là sở đoản của Sư.
Thích Phổ Tỉnh, họ Như, người ở xứ Hồng Động, thuộc Tấn Châu. Sư xuất gia từ thuở thiếu thời, nương tựa Pháp sư Tuệ Trừng ở tại Bổn Bộ. Tối tụng các kinh, sáng trì mật chú. Nghĩ muốn lên thượng Phẩm, nguyện cắt đứt tóc xanh. Đã xuống Đàn Vuông mà theo luật kiểm. Sư sang đảnh lễ Chân thân tại chùa Pháp Môn ở Phụng Tường, mới đến Tuy Dương thính thiệp. Sư tới chùa Long Hưng giảng dạy đồ chúng đồng bạn như Cá Chiên Vị đến gặp Giao Long. Sư lại hứa đến Cầm Đài thỉnh chuyển Phạn Luân. An mà hay dời đổi, lại ở Trần Thái Tào Hào Túc Tứ, mỗi nơi đều tùy duyên mà dẫn đạo. Sư trở lại chốn nầy là Dương Hóa thuộc Đông Kinh, những người hiện thiện đều nương theo. Năm Quý Mão (943) thuộc niên hiệu Thiên Phước thời Hậu Tấn.
Sư nhớ đến bổn độ, muốn trở về quê cũ, bèn tuyệt thực phát nguyện: "Nguyện một ngàn lần xả thân để chóng thành Chánh Giác. Đến niên hiệu Hiển Đức thứ 2 (955) thời Hậu Chu, Sư gặp thỉnh chơn thân vào chùa bèn dâng trạng trình bày với Châu Mục Dương Quân "Nguyện thiêu đốt tự thân để cúng dường", Dương Quân chấp thuận ý nguyện của Sư, Sư bèn sang chùa Quảng Thắng. Dân chúng khắp Châu hoặc đem dâng hiến hương hoa trái quả, hoặc dùng tràng hoa đưa dẫn, hoặc khóc lệ cùng đi theo, hoặc chúc tụng dẫn đường. Đến ngày mùng 8 tháng 4, ở trước tháp Chơn Thân, Sư phát Đại Nguyện rằng: “Nguyện ngan lần tự thiêu đốt thân mạng, bây giờ là một trong ngàn lần". Xong rồi Sư từ từ đi vào trong am củi, tự đốt lửa lớn. Khi đó thì khói bay xác thảm, khí hương mây sầu, cả chúng cùng khen ngợi, các hàng dân thứ buồn khóc. Sư thọ sáu mươi chín tuổi. Các đệ tử thâu nhặt tro tàn còn lại để cúng dường.
Thích Thủ Hiền, họ Khâu, người ở xứ Vĩnh Xuân, thuộc Tuyền Châu. Thuở thiếu thời, Sư thông minh mẫn đạt, trầm lắng sâu sắc, phát nguyện đến Viện Cát Tường theo thầy xuống tóc, đắp mặc pháp phục. Sau du phương tham học, Sư đến nương tựa đạo tràng của Thiền Sư Vân Môn mà tỏ rõ được tâm quyết. Sư lại đến Hành Dương, đại chúng suy cử Sư Giảng Pháp. Sư là người mặc áo nạp luyện nhã, như sự hội tụ của trăm Châu về ao sớm tối. Sư không mặc y phục gấm vóc thêu thùa, chỉ mặc áo vải khố da mà thôi, suốt năm không đổi khác. Lưng Sư chẳng hề dính chiếu, chỉ ngồi trên giường dây nhắm mắt suốt đêm, trừ có ai hỏi điều gì, Sư tùy đó mà mở phát, ung dung tự giữ.
Đến niên hiệu Càn Đức (963-968) thời Bắc Tống, một hôm, tự nhiên Sư bảo với đại chúng rằng: "Tôi có trái nguyện chưa đáp trả, tâm chưa được yên". Sáng hôm sau, Sư vào núi Nam Diêu, gieo mình cho hổ ăn. Khi các đệ tử cùng nhau đi tìm, thấy hai chân và khố da của Sư hiện còn, bèn thâu nhặt mà trà-tỳ có được vô số xá-lợi, Sư thọ bảy mươi bốn tuổi. Hiện nay, di thể Sư đang được tôn trí trong tháp nhỏ.
Thích Sư Uẩn, là người ở xứ Kim Hoa, quyết tánh chân thật, chẳng thích phong thực, gặp việc thuộc tình, có nhiều thẳng thắn.
Vào niên hiệu Long Đức (912-923) thời Hậu Lương, Sư cùng Thiền Sư Đức Thiều kết bạn đi xa, du phương tham phỏng danh sư thắng cảnh. Sư đến Bắc Đại núi Thanh Lương, lắng tâm đi lễ bái khắp. Sau lên chỗ hoang vắng Thương Ngô, trèo đến ngọn núi Chúc Dung, nhưng, Ngài Đức Thiều hoặc có lúc theo lúc không, khi trở về đất Chiết, Sư lại dừng ở trong Pháp hội của Ngài Đức Thiều. Sư là người điều người quản chúng, thường luôn nói chuyện khôi hài. Nếu có người thích cười giỡn thì Sư cùng đùa bỡn như keo sơn, nên những bậc cao đạt đặt để Sư ngoài khuôn phép, chỉ có mình Ngài Đức Thiều im lặng mà biết rõ Sư. Ngài Đức Thiều nói với mọi người rằng: "Ngài Sư Uẩn si cuồng, tôi đây chẳng lường biết được ngằn mé". Nhân bị bịnh, Sư cầu thỉnh chư tăng thực hành văn sám hối, tụng kinh và mật chú, mỗi luận có đến mấy trăm tạng làm hạn độ, mới biết rằng Sư thầm hành trì chẳng biếng trễ. Sư từng nói với các bạn đạo rằng: "Tôi sống không ích lợi gì cho mọi người, muốn ngồi yên trên đỉnh núi, chợt xuống dưới Thạch
Kiều, sở nguyện của tôi là mong sớm dự vào hàng Thánh Hiền". Bạn đạo phần nhiều cản ngăn ước tính ấy.
Đến tháng 7 niên hiệu Khai Bảo thứ 6 (973) tự nhiên không bịnh, Sư an trụ mà thị tịch, như nhập thiền định. Đến lúc thiêu đốt thi thể, dựng đứng suốt mười bốn ngày mà thân không tựa nghiêng, các khiếu huyệt không mùi hôi hám, bèn nghinh dời thần tòa đến góc phía Đông chùa mà trà-tỳ. Trong lửa cháy hết, ngoài sự thâu nhặt xá-lợi còn chiếc lưỡi không rã hoại, lúc tro tàn thâu nhặt lấy, sắc mầu hồng đỏ như phù cừ, rất mềm mại. Có người bảo rằng: "Vị tăng ấy (Sư Uẩn) không có điều kỳ dị riêng, đây là vật tình cờ còn lại". Mới đốt lại, chiếc lưỡi ấy tùy đồng như sắc lửa, lâu sau trở lại như lá sen, mọi người bàn nhau làm một tháp nhỏ để tôn trí trong chùa. Sau, có người không tin, lại đốt qua vài mươi lần.
Lúc bình sanh, Sư không nói rõ về dòng họ và tuổi tác, nên mọi người nhìn vào dung mạo mà ước đoán Sư ngoài tám mươi tuổi.
Thích Thiệu Nham, họ Lưu, người ở xứ Ung Châu. Mẹ của Sư họ Trương, lúc mới mang thai
Sư, nằm mộng rất kỳ lạ. Đến lúc sanh, dáng vẻ Sư như thần vĩ, ở tuổi trưởng thành Sư có khí độ rộng sâu. Năm bảy tuổi, Sư khổ thiết cầu xin xuất gia, nương tựa Thiền Sư Cao An. Năm mười tám tuổi, Sư thọ giới cụ túc với luật sư Hoài Huy. Trăm bộ Kinh sách xem đọc như ôn tập. Từ đó, Sư đến chiêm lễ Thánh tích ở các nơi, dần đến Ngô Hội, dừng nghỉ tại núi Thiên Thai thuộc Tứ Minh, cùng Thiền sư Đức Thiều đồng quyết dứt nghi ngờ dính mắc nơi Pháp Tịch của Ngài Lâm ích ở Lâm Xuyên, Sư bèn đến chùa Hồ Thủy Tâm ở Tiền Đường nương ở, thường trì tụng Kinh Pháp Hoa bất kể ngày đêm. Bỗng nhiên cảm ứng trên đất liền ở giữa sân mọc lên hoa sen, dân chúng khắp thành đều đến chiêm ngưỡng, Sư vội nhổ lấy mà dẫm đạp đi.
Năm Tân Dậu (961) tức niên hiệu Kiến Long thứ 2, Sư tụng Kinh và phát nguyện rằng: “Mong tròn ước nguyện đồng như Bồ-tát Dược Vương đốt thân để cúng dường". Bấy giờ, Hán Nam Vương Quốc họ Tiền rất dốc lòng kính trọng quy ngưỡng Sư, khổ thiết lưu giữ Sư lại. Bỗng nhiên Sư ngầm trốn tự gieo mình xuống sông Tào Nga, muốn dùng thân mình cho cá ăn, lại được ngư ông cứu vớt, bảo rằng có vị thần nâng chân cứu, chìm chẳng được, y phục nổi bồng bềnh trên mặt nước mà kích sóng khơi đưa, Sư như người trên đài báu. Hai duyên nước lửa đều chưa thể giúp, Sư luôn tấm tức ân hận ước mong, mới đến núi Pháp Hoa mà dừng ở. Tiếp theo, Sư lại được mời đến chùa Tháp ở Hàng Châu, xây dựng Tịnh Viện Thượng Phương để Sư an trú.
Đến tháng 7 niên hiệu Khai Bảo thứ 4 (971), Sư bị bịnh nhẹ, chẳng tìm cầu thuốc thang, làm nhiều bài kệ tụng, dặn dò với môn nhân rằng: "Tôi tụng kinh hai muôn bộ, lấy sự vãng sanh An Dưỡng làm mục đích!" Rồi Sư ngồi kiết già mà thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Mọi việc trong lễ tang đều do các quan cúng dường, tràtỳ tại núi Long Tỉnh, thâu nhặt được xá-lợi rất nhiều, di cốt như ngọc sáng ngời, bèn làm một hòm đá, để vào mà tôn trí tại Ảnh Đường. Thái Minh Quân Tiết Độ Sứ ban tặng, Thái Sư Tôn Thừa Hựu làm văn bia, ghi lại sự tích Sư.
Thích Văn Liễn, người xứ Bình Dương, thuộc quận Vĩnh Gia. Gặp gỡ cầu thầy thọ nghiệp tại Kim Hoa. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư chuyên cần dốc lòng cố gắng, học tam thừa mỗi mỗi đều nhiễm dần. Nhân đến Pháp hội của Thiền Sư Minh Chiêu ở Tấn Vân, chẳng có việc phồn tạp, chỉ trong nháy mát quyết sạch không vướng mắc, cuối cùng gặp được thiền sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai, giảng đạo của Đại Sư Tông Nhất, Sư lại lắng lòng nhận lãnh không nghi ngờ. Chẳng bị duyên khác dẫn chuyển, nên ba mươi năm Sư thường theo Thiền Sư Đức Thiều lắng nghe giáo pháp. Sư từng nói với mọi người rằng: "Duyên ngộ nhập như sâu tạm phải ẩn mình nơi lá, ăn lá vàng thì thân mầu vàng, ăn lá xanh thì thân mầu xanh, tướng trạng ẩn mình ấy không biến đổi. Tôi lúc đầu gặp được Thiền Sư Minh Chiêu là như vậy, nay học Huyền Sa lại như vậy. Đây gọi là khác đường mà đồng kết quy về một đích. Nay lại lấy lời Phật để làm định lượng". Sư bèn xem đọc Đại Tạng Kinh suốt ba biến, từ đó trở đi, Ngài tiêu dao không còn dính mắc.
Đến niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978), bỗng nhiên Sư tự tháo cây búa nói chặt cây đàn, khéo lung linh trùng tán, giống kết như đề tấu. Và gọi đó là Phù-đồ. Bên trong mở cửa, Sư vào ngồi kiết già, tự nắm bó đuốc lớn, phát thệ nguyện rằng: "Tóm thâu hơi thở còn thừa này thiêu đốt cúng dường các Đức Phật mười phương, các vị Hiền Thánh". Nói xong, bèn phát lửa lớn phô bày giữa hư không, có làn khói năm mầu xoay chuyển điều hòa, còn nghe tiếng Sư tụng kinh, chốc lát mới dứt bặt. Những người nhìn thấy đều gào khóc. Đến lúc tro tàn thâu nhặt xá-lợi chẳng biết số lượng bao nhiêu viên. Sư thọ tám mươi bốn tuổi.
Lúc đầu, Sư có nói với chư tăng chùa Thiện Kiến rằng: "Tôi chết đã không chiếm đất của giàlam, chẳng bằng tự thiêu đốt thân mình để cúng dường, mong các vị hiền giả lúc đó đến dưới đống củi niệm Phật độ giúp tôi vãng sanh, chỉ làm phiền chút ấy vậy". Nay trong chùa Thiện Kiến chất nhiều đá làm tháp nhỏ.
Liên hệ thử bàn:
Giáo điển Tiểu Thừa cho việc tự sát là phạm trọng giới, tội của các phương tiện trước, vì thế không dám tự thiêu đốt. Nhưng tự sát có hai trường hợp: Một là úy sát phải kết thâu-lan-già và Đột-kiết-la, và hai là nguyện vãng sanh. Tâm cứng rắn mạnh mẽ, thân qua đời thì sẽ vãng sanh, thâu-langià và đột-kiết-la đâu thể làm chướng ngại? Kế nữa, đại tâm một khi đã phát thì như ngôi nhà tối suốt trăm năm, một ngọn đèn có khả năng xua tan bóng tối được. Vậy có tội gì? Cho nên hành nhân không vì tiểu đạo mà bó buộc đại căn.
Thích Hoài Đức, vốn người ở xứ Giang Nam. Từ thuở bé, Sư đã lìa tục, cẩn nguyện tiết chế tự thân. Sư tụng rành Kinh Pháp Hoa nên được độ. Từ đó, tuy lên giảng tịch mà Sư trọn lấy sự trì tụng làm việc chính. Lúc tuổi về già, Sư đến Tứ Thượng lễ bái tháp tượng Tăng-già, gặp lúc vua Thái Tông (Triệu Quýnh thời Bắc Tống) sai cao phẩm Lý
Thần Phước mang tràng hoa đến dâng cúng, đều cảm ứng xá-lợi đến, an táng trong hang rất sâu ở dưới nền tháp mới. Sư bèn phát thệ nguyện tự thiêu đốt thân mình để cúng dường. Trước tiên Sư xả bỏ hết y phục, các vật trong đãy cung cấp tự thân, cúng dường chúng tăng một lần, sau đó Sư tự mặc áo giấy, thân bôi thoa dầu sáp, đảnh lễ từ giã chư tăng, rồi tay nắm hai cây đuốc bước lên trên đống củi, châm lửa mà tụng kinh. Mọi người trông thấy, không ai chẳng rơi lệ gào khóc. Đến lúc lửa cháy bốc cao, thân mình Sư dựa nghiêng, mà vẫn còn nghe tiếng tụng kinh rất nhỏ. Dân chúng cả thành đều buồn thương kính viếng, lượm nhặt được rất nhiều xá-lợi. Lúc đó là ngày mùng 8 tháng 4 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (983). Các sứ thần đồng tấu trình, vua Thái Tông nghe tin biến đổi sắc mặt.
Thử luận bàn:
Lao tù phiền lụy do còn ngã sở, mạng vận phù sanh ở tại sắc thân, đều do tự quý trọng chính mình mà khinh rẻ kẻ khác, thảy đều bởi ta nhiều mà kia ít, càng thêm keo lận bền chắc, chỉ nuôi lớn san tham. Như lân rồng tiếc rẻ hạt châu, trâu mao mến quý đuôi mình, công tiếc lông đẹp, xạ giữ hương rốn. Ấy như Thường Luân ở đạo Nho, sách vở của Khổng Môn, cho rằng có thể của riêng mình chính là lông tóc da thịt của cha mẹ, chẳng dám làm tổn thương hủy hoại, luôn biết giữ gìn cẩn trọng. Lại có người khéo tự nêu gặp ba năm chẳng thấy ở môn sanh, hãy trang nghiêm một tòa tôn nghiêm, chẳng để nơi mái hiên. Đến lúc tâm phiêu du phương ngoại, giáo nghĩa vượt cõi vực, hoặc khắc thành Đại Thiện, chẳng thể trói buộc nơi tội nhỏ, dùng cái chết hứa cùng bạn, giết thân mình mà thành nhân, tạm khế chẳng bó buộc, sắp gần đạo thẳng. Đến nỗi có truất phế lễ nhạc, gạn mỏng trung tín, bỏ kiện khang, tham uống thuần hòa, mới có rửa tai Từ Vinh, ôm đá chìm nước, gấp bội trái ngược với nhà Nho, sánh với nhà Phật thì gần nhau phân tấc, Phật mới vì vật bỏ thân, lợi sanh mà tổn mạng. Cùng đó chẳng nhổ lông cẳng chân vì lợi. Hạ Đông tuy khác thời, cùng đó mến tiếc thân thể của mẹ cha. Tham thần mỗi tự thấy như thế mới nghiệm biết được sự sâu cạn của giáo điển, điều phải quấy của hành nhân. Thí như xuất ra của cải thì nhập vào nhiều lời chẳng ít.
Đức Phật, Thế Tôn chúng ta khi đang ở nhân địa, ban đầu chỉ giảm khẩu, kế đến là thoát thân. Xa phục vượt cùng tâm quyết đoán, voi ngựa thì nhờ người cưỡi, thôi an rau ở đất, phán thành của thọ phong. Dùng như phẩy bụi, xả bỏ tợ cởi giầy. Kế nữa, cho ăn da thịt đợi no nê, khoét tự phó cầu, hoặc chỉ đốt một ngọn đèn, hoặc thân đều trăm bí, cứu hổ già suy, hóa độ cá dài lớn. Nhân vượt bỏ kiết quy, trước đức Di-lặc, trước thành Phật hưởng địa vị Đức Thích-ca, đều theo thói quen ban đầu thì ngoại tài mà sau cùng thì nội tài, đến lúc gốc lành thành thục, biến khó xả bỏ thành dễ xả bỏ. Phàm nghĩ ngoại tài, ngoại tài khó xả bỏ, khó xả bỏ là phàm phu. Bỏ nội tài, nội tài dễ bỏ, dễ bỏ là Bồ-tát. Nên biết rằng các Đức Phật ba đời đều khen ngợi hạnh môn ấy. Đó là tu hành chân thật, đó là bố thí bậc nhất. Há chẳng thấy Bồ-tát Tăng Nhai khoan thai leo lên lầu củi, đạo nhân Đại Chí hăng hái tự thiêu đốt cổ tay. Mọi người đều tỏ vẻ khó khăn, song hai vị ấy khuôn mặt lộ điều dễ dàng. Bởi vì nhiều kiếp đã từng làm, đời nay lại xả bỏ. Xả bỏ mà lại xả bỏ, đánh giá bảy báu chẳng lấy làm quý giá, không mà lại không, vì ba luân đã bặt vết. Nương đó đạt đến bờ. Đó gọi là trở về chân thật, thành tựu thân Kim Cương bền chắc, lưu lại hạt ngọc ứng với Đà-đô. Nay đây ghi lại.
Ngài Tăng Tạng đang mùa tròi nắng nóng mà khỏa thân mình cho muỗi nhặng chích hút máu. Ngài Chánh Thọ xin thử vào an tọa bên trong tháp mà thị tịch. Ngài Định Lan cảm đến Thiên Vương hoàn trả nhãn châu. Ngài Hống Hưu chống cự giặc cướp mà lại thường oan. Ngài Hạnh Minh xả mình cho thú dữ ăn mà phá san tham. Vượt Nhiên Đăng mà thêu đốt ngón tay, lại thêm chiếc lưỡi chẳng rã hoại, thân đắm mà chẳng chìm. Vào trong tháp củi mà tự thiêu đốt, lộ bày thân hình sắc đỏ mà bị chê trách. Trên đây là những đức hạnh, niệm nghiệp khác thời thành thục, làm chỗ nương hướng tói, biết thân là huyễn tạm, huyễn thể đâu đáng cậy nhờ, rõ hình chất là bọt bóng, hình bọt bóng tạm khởi. Huyễn từ tâm tạo, giả ngụy tìm nhau, bọt bóng tan nước lắng trong nổi chìm cùng có. Cho nên Đại Thánh bao đời tính toán, Tiểu thừa nhuận sanh hết kỳ. Quý là dứt khổ, nương nghĩ trừ diệt ngã đảo, chẳng thể xem đồng như trấu lép, xét tợ bụi tro. Thí như nương gá học tập ở chòi tranh, cậy nhờ Loan Cung ở trên đất. Vì chọn đường lên mây, vì cầu công ra khỏi ải, sau đó thì tặng một căn nhà, cửa lưới tám kích, mới gọi là quý, đất ban đầu lợi ở phong hầu, đem đãy da do bú mớm đổi thành đồ vật Na-la-diên, cũng giống như vậy.
Có người cho rằng: Mở mang Thanh giáo hóa độ người Trung Hoa, chẳng phải là chỗ lo của hàng Lại Bộ, chẳng là Dương tức Mặc huống gì thêm nơi Phật ư? Công kích dị đoan, hại nầy làm Khổng lớn mạnh! Đáp rằng: Chánh bàn luận về nhân nghĩa thì đạo đức cùng cao, chính nói năng về khổ không thì trung tín có thể mỏng. Lại mượn hàn mà dụ, huống gì ngồi dưới đáy giếng mà nhìn trời, ấy chẳng phải lỗi của trời. Đại yếu chỉ của cửa Khổng chưa thể biết được điều sống, làm sao biết được việc chết?" Nếu quán xét về cổ xúy ích lợi mà ngợi khen thì tợ như biết được bất tử. Cả hai tông giáo từng chẳng nói người chết thần minh bất diệt ư? Tùy theo nghiệp duyên thiện ác mà chịu quả báo nên có tốt xấu, nếu do nghiệp nhân thì đó là dùng thô đổi tế, dùng yếu đổi mạnh. Bán hình giòn của rau giền trên đất, đánh trân phục của Hoa Man. Đã huân đương chủng mà khởi hiện hành. Sanh thắng đã sanh, báo mạnh hơn quả báo trước. Móc mắt thịt mà vời lấy mắt Phật, cắt thân phàm mà đổi lấy thân vàng. Hạt cây Ni-Câu-Đà rất nhỏ mà tàng cành che phủ hình xe không nhơ. Đó là lời nói chân thật, chẳng thể cho là nuốt lời. Bồ-tát vì lợi tha thật đáng để học. Có người nói rằng: Phàm thực hành việc đốt luyện, người lành thì chẳng gì nghi ngờ, nhưng có kẻ bất thiện bắt chước thành hại, cho đau đớn là khôi hài. Chịu đựng sự hành hình tàn khốc thì cho sự đốt nướng đó là hý kịch, hoặc dạy người tình cờ làm, hoặc lừa dối đời gượng làm. Đó thì trồng gốc lành gì mà tự cầu khổ độc vậy? Đáp rằng: Tuy là người ngu dốt vui lòng chịu đựng ác ít, chịu khó tổn thương. Vả lại tụng kinh để thiêu đốt, hoặc lòng chí thành cạn cợt mà cho kẻ khác ăn, thầm vời lấy quả báo tốt lành, bởi đã gieo nhân tốt lành. Nếu dùng tâm hời hợt thì được quả báo hời hợt. Xưa kia, có cô gái đùa giỡn mặc lấy áo cà-sa, Bà-lamôn say rượu đắp lên mình pháp phục, duyên đó hội tụ gặp gỡ đạo quả trọn thành.
Hoặc có người nói rằng: Ngài Nghĩa Tịnh truyền dịch, đôi ba phen khuyên bảo chớ đốt luyện. Người ấy đích thân đi cùng Tây Vực, đầy đủ chín chắn phương nghi. Còn như giáo thừa thảy đều nghiên cứu rõ ràng mà chẳng cho phép hủy hoại tổn thương là tại sao? Đáp rằng: Đó là giáo điển chuyên phược A-Cấp-Ma, đâu thể cản trở, chướng ngăn Pháp Ma-Ha-Diễn ư? Giả sử lược xả bỏ nội tài, quyết định sẽ viên mãn đàn độ, cho nên trong luận Trang nghiêm chép: “Nếu bố thí thân mạng mình là ít có, sẽ thành tựu đàn độ của Bồ-tát". Sẽ biết lúc Tứ luân xuất thế thực hành mười điều lành, có đạo thì dưới chân vua Nghiêu toàn là thuần dân, kính phụng hiếu thì từng nhà sanh ra lệnh tử. Đức Thánh Thượng ta mới ở ngôi bốn năm, từ Lưỡng Chiết đến chùa A-Dục Vương xây dựng lớn tháp xá-lợi Phật Thích-ca. Ban đầu cúng dường ở điện Tư Phước, sau thì đón rước vào trong nội Đạo tràng, có hiện điềm lành kỳ lạ. Ngày rằm tháng 2 năm thứ 8, vua ban chiếu tại chùa Khai Bảo xây tháp cao đến ngàn thước. Ban đầu tháp ấy ẩn tàng trong giếng gạch sâu, ngày đó phát ra ánh sáng thần phô bày khắp quả đất. Lúc đó trong các hàng tăng tục, có người tự thiêu đốt đầu ngón tay, có người đốt hương chú, tuyên ban vật có khác nhau. Nếu chẳng phải Đại Quyền Bồ-tát, Đại Phước Thiên Vương thì đầu thể kích phát, khuyến hóa hạ dân mà vất bỏ thân báu ư? Khiến ngay chốn này thấy búi tóc mà thành châu báu. Lại có cảm giác khi đó Thứu phong thanh tịnh mà đất ruộng biến đổi.
Phạm Vân biên tập sử ghi điềm hiển bày tốt lành nhiều mầu sắc, Vương Thiệu biên văn thư tán tháp của Cơ Châu. Đời Tùy phân chia xá-lợi, đời Đường chôn giấu chân thân. So với triều đại hiện tại của chúng ta thì Điền Lũng cùng Thiết Vi tranh giành bờ cõi. Biên tập thiên này thành truyện mở tông, giúp những căn cơ nào có khả năng nhẫn chịu những việc khó nhẫn, đã mất mà như hiện còn, khiến những người xả thân và thọ thân tuy đã chết mà như vẫn sống. Vẽ ngũ chi ở trên cây cỏ, xếp tứ thụy tại ngoài vẩy lông. Trong sách Thi nói rằng: “Hình nghi của Văn Vương, làm khuôn mẫu cho muôn nước!"
(Quyển 23 hết)
(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có ba vị).
Thích Hạnh Kiên, chẳng biết Sư là người xứ nào. Thường tu Thiền Quán, tiết tháo rất trang nghiêm. Tình cờ có việc đi đến phương Đông, trên đường ra Thái Sơn, mặt trời đã tối, Sư vào Nhạc miếu, xin ngủ ngờ qua đêm. Người giữ miếu nói: "Đây không có nhà riêng, chỉ có mái hiên dưới miếu thần có thể nghỉ được, nhưng những người đến đây dừng nghỉ qua đêm, đều mắc phải tai ương bạo tử. Sư nên tính liệu". Sư bảo: "Không sao!" Người giữ miếu bất đắc dĩ phải thuận theo, và đem chiếu cỏ trải dưới mái hiên. Sư ngồi trang nghiêm tụng đọc kinh pháp, vào canh một nghe trong phòng ốc có tiếng vòng ngọc leng keng, chỉ chốc lát, vị thần đi ra, áo mão rực rỡ, bộ tùng trang nghiêm, chắp tay hướng về chỗ Sư. Sư hỏi: "Nghe nói những người nghỉ qua đêm ở đây phần nhiều bị chết, có phải do Đàn Việt hại họ chăng?" Thần đáp: "Người đặc biệt đến đây, nghe tiếng đệ tử mà tự chết, chẳng phải do đệ tử giết hại. Xin Sư chớ lo ngại!" Sư cố mời vị thần cùng ngồi nói chuyện, chỉ trong khoảng bửa ăn, nhân đó Sư hỏi Thần rằng: “Ở đời truyền là Thái Sơn trị quỷ, có thật như thế chăng?" Thần đáp: "Đệ tử phước mỏng, đâu muốn thấy người chết!" Sư hỏi: "Tôi có hai vị tăng là bạn đồng học đã chết, xin được trông thấy họ". Thần hỏi tên hai vị đó rồi đáp: "Một người đã sanh lên nhân gian, còn một người hiện thọ báo trong địa ngục, không thể gọi đến được, Sư đến đó thì sẽ thấy". Sư nghe thế rất mừng, nhân đứng dậy đi ra, chẳng xa bèn đến một xứ nọ, thấy lửa trong ngục sáng rực cháy dữ. Có sứ giả dẫn Sư vào trong tường viện, xa thấy có một người đang ở trong lửa, kêu gào chẳng nói năng được, hình sắc biến đổi không còn nhận biết, máu thịt cháy hôi tanh, khiến người phải thương tâm. Sư chẳng nỡ trông nhìn, quá thương xót mà cầu xin lui ra, chỉ chốc lát tại ở dưới mái hiên nơi miếu, lại cùng ngồi với vị thần như cũ. Sư hỏi rằng: "Tôi muốn cứu bạn đồng học, vậy phải làm cách nào?" Thần đáp: "Hãy vì họ mà viết chép Kinh Pháp Hoa, ắt sẽ được khỏi". Thế rồi trời sắp sáng, thần từ giã Sư vào lại trong phòng nhà. Đến lúc trời sáng hẳn, người giữ miếu trông thấy Sư không chết lấy làm kinh dị. Sư đi gấp báo nguyện trước. Kinh viết được trang nghiêm hoàn chỉnh, Sư liền mang đến nơi miếu trong đêm, Thần lại xuất hiện như trước, mừng vui lễ lạy hỏi thăm về ý Sư trở lại, Sư trình bày việc ấy, Thần nói: "Đệ tử biết thầy chép kinh cho mình, vừa viết đề mục, thì người ấy đã thoát khỏi, hiện giờ đã sanh lên nhân gian. Và ở đây không được tịnh khiết không nên tôn trí kinh pháp, xin sư thỉnh đưa về lại trong chùa". Nói xong trời vừa sáng, Thần cùng Sư từ biệt nhau mà đi. Lúc đó là khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617). Sư đi ở không nhất định, chẳng biết về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Pháp Trí, không rõ Sư là người xứ nào. Từ thuở bé, Sư thoát lìa thế tục rồi ứng pháp, thăng đàn, như cây thẳng mọc thẳng vượt giữa hư không, ngọc cứng bặt vết ô uế. Phàm cả trăm nơi giảng tịch thảy đều đến nghe. Lúc về già, Sư cho rằng các pháp môn thẳng tắt, không gì bằng niệm Phật. Sư từng vì mọi người mà nói rằng: "Tôi nghe trong kinh nói: Phạm một tội Đột-kiết-la phải đọa vào địa ngục trong một trung kiếp". Điều ấy đáng tin. Lại cũng nghe trong kinh nói: "Một tiếng xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà thì diệt trừ được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Điều đó không đáng tin". Có người hỏi vặn rằng: "Cớ sao sanh đại tà kiến như thế? Tất cả đều là lời Phật dạy, phải gấp niệm Phật, lâu sau thì tam-muội sẽ hiện tiền". Sư bèn đến Đài Đâu-suất ở chùa Quốc Thanh, suốt ngày đêm tinh tấn niệm Phật. Bỗng nhiên từ biệt với kẻ tăng người tục rằng: "Tôi sanh về phương Tây! Xin tất cả thân thức vì tôi mà thiết trai cúng dường trọn ngày!" Vào nửa đêm cùng ngày đó, Sư không bịnh mà thị tịch, khi đó, có ánh sáng mầu vàng ròng soi chiếu đến đón rước, suốt cả mấy trăm dặm, thuyền trên sông đều cho là trời sáng nhưng rất lâu sau mới sáng. Do đó mà biết đó là điềm Sư vãng sanh.
Thích Tuệ Ngộ, chẳng biết Sư là người thuộc dòng tộc nào. Sư ẩn cư trong núi Thái Bạch, trì tụng Kinh Hoa Nghiêm, uống bột cây thông. Bỗng một lúc nọ thấy một cư sĩ đến thưa rằng: "Xin thỉnh Sư cử thân bay lên giữa hư không!" Rồi bảo Sư vào trong vạt áo ngồi nhiếp để bay đến một đạo tràng, thấy có năm trăm vị tăng lạ vầng liệng giữa hư không mà đến. Sư vội bước đến hàng cuối. Vị cư sĩ ấy nói với Sư rằng: "Sư thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới của các Đức Phật, đâu được ngồi ở hạ tòa của Tiểu Thánh?" Bèn dẫn Sư đến trước nửa ngàn người mà ngồi. Sau khi trai hội hoàn tất, cư sĩ ấy lại nói với Sư: "Bổn ý thiết trai này là chỉ tại một mình sư, tuy có năm trăm vị La-hán cùng đến thọ thực, nhưng đều gặp lúc cùng thỉnh!" Xong rồi bèn thỉnh Sư về chỗ cũ. Điều đó xảy ra như mộng tỉnh. Lúc đó nhằm niên hiệu Vĩnh Huy (650-656) đời vua Cao Tông.
Thích Minh Tuệ, không rõ Sư là người xứ nào, trầm tĩnh khiêm cung, chí khí trong sáng, không ngại gì đói lạnh, phát thệ cầu Đại thừa, mặc giáp tinh tấn, nghiêm giữ tự thân, khiến ma ngủ nghỉ phải lùi bước. Cho nên, đầu hôm, nửa đêm, cũng như gần sáng luôn tụng niệm kinh hành.
Bấy giờ, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang đang ở cung Ngọc Hoa thuộc phường bộ phía Bắc Kinh Triệu, dịch Kinh Đại Bát-nhã vừa hoàn tất. Vào niên hiệu Lân Đức thứ nhất (664) thì Ngài Huyền Trang viên tịch. Giờ Tý đêm đó Sư đang đi nhiễu tại Phật đường, bỗng thấy ở phía Bắc có bốn vầng cầu vồng mầu trắng từ Bắc suốt đến Nam, rộng gác qua phía đông thẳng đến soi suốt tháp viện ở chùa Từ Ân, thảy đều rõ ràng sáng tỏ. Trong tâm Sư lấy làm quái lạ, liền tự suy nghĩ rằng: "Xưa kia lúc đức Như Lai diệt độ, có mười hai vầng cầu vồng mầu trắng từ phía Tây xuyên suốt tới Thái Vi, khi ấy có sự diệt độ của Như Lai tại Song Lâm. Nay có hiện tướng này, há chẳng là Pháp sư ở cung Ngọc Hoa có sự vô thường ư!" Đến sáng sớm Sư vào giữa chúng kể lại những điều trông thấy, đại chúng đều lấy làm lạ. Chín ngày sau, hung tin loan truyền đến xứ Kinh Triệu, thật phù hợp với điều Sư thấy. Sư càng dốc lòng siêng tu cho đến già vẫn không biếng trễ, không biết về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Tuệ Cảnh, họ Trương, người ở xứ Kỳ. Thuở nhỏ Sư rất thông minh dĩnh ngộ, trong lúc còn ấp tả Sư đã biết nói. Cha mẹ của Sư rất mến thương nuôi dưỡng. Bà con gần gũi gọi Sư là kỳ đồng. Gặp trong Kinh Đại Vân bổn tân dịch có đoạn văn huyền ký về nữ chúa. Thiên Hậu (tức Võ Tắc Thiên) cảm lời Thánh dự ghi đó nên rất trọng kinh ấy. Sư vừa mới ba tuổi mà có dạy tụng thuộc kinh ấy. Sư đọc đi đọc lại, điều hòa thiên nhiên, bèn thấu triệt đến cửu trùng, mới ban chiếu bảo Sư phúng tụng. Vua rất vui mừng xoa đảnh đầu Sư và ban cho một bộ pháp phục ca-sa sắc tía.
Sau, nhân xuất gia, Sư có khí mạo cương giới, sở học rất vững chắc, được sung làm Thượng thọ nơi bổn tự, Sư chỉnh đốn giềng mối đang bị suy đồi, mọi người đều kính sợ. Hoặc ở giữa đường thông thương gặp hai chúng có cử chỉ mất oai nghi thì Sư vời đến quở trách, xấu xa lắm mới bàn bạc răn trừng, xử đoán không khoan dung. Sau, Sư tu Thiền Pháp, rỗng suốt thanh bạch. Lúc Sư thị tịch là đã hơn tám mươi tuổi. Tại Viện Cửu Tử Mẫu có di ảnh và y phục sắc tía được vua ban tặng hiện còn.
Thích Sùng Chính, họ Hầu, là người trong bổn phủ. Thuở nhỏ Sư rất mẫn đạt, cố nguyện xin xuất gia. Sư tụng kinh thông rành hơn cả ngàn trang. Được các bậc lão túc ngợi khen, gọi Sư là Kinh tạng. Sư có thần khí trầm ước, nghi dung đạo mạo, mày đẹp mắt lớn, chỉ trội cao kỳ. Tuy thông rành các sách, song, chỗ chuyên tinh của Sư là Luận Câu-xá. Tướng Quốc Vương Công Tấn đích thân đến thỉnh Sư tuyên giảng. Bấy giờ, tụ hội đàm đạo phát sanh tốt đẹp, lời nói trôi chảy, khiến giúp người nghe không nhàm chán, tuy dời đổi quá mốc mà cho như là trong khoảng bửa ăn. Sư phân tích phán định rất giỏi, không được hình tợ.
Vua Đại Tông ban sắc chiếu nên cử Sư sung chức Đại Đức ở chùa Chương Tín, Sư cáo bịnh chẳng đến. Sau, Sư tịch tại bổn viện, thọ năm mươi tám tuổi.
Thích Tư Duệ, họ Vương, người ở xứ Thái Nguyên. Sớm thông Thiền lý, lại thấu suốt luật tông. Ngài từ bi nhân nhượng, nếu có kẻ trái nghịch, thì Sư chẳng tỏ vẻ phiền giận. Sư vốn mắc bịnh suy gầy ốm yếu, bèn lập chỉ Pháp diên, chuyên cầu Bồ-tát Dược Thượng, kính cẩn chuyên cần chẳng biếng trễ, bèn thấy được điềm cảm ứng, bỗng nhiên tâm lực mạnh mẽ, tài biện như rót bình. Nhân tụng Kinh Thập Luân, một ngày thấu suốt vài trang, ngày hôm sau lại gấp bội, sau nữa lại càng gấp bội. Từ đó trí nhận của Sư không ai có thể sánh bằng.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), Sư chống tích đến khắp Tung Thiếu hỏi Đạo. Bấy giờ, Sư đến chốn thiền lâm đông đúc của thiền sư Nghĩa Phước, Sư đến thưa hỏi tham vấn, một lời cùng nhập, như đá chọi nước. Thế rồi, tợ như uống cam lồ, suốt năm năm Sư mới trở lại. Sư ngồi kiết già an định suốt ngày chẳng xả thiền, xa gần mọi người đến thưa hỏi Sư về huyền lý, rất đông. Năm sáu mươi sáu tuổi, Sư thị tịch tại viện Sư ở.
Liên hệ thử bàn:
Tụng kinh chẳng quý ở nhiều, mà chính yếu là ở thần giải. Sư Tuệ Cảnh mới ba tuổi mà thông Kinh Đại Vân, rất là tài giỏi. Ngài Sùng Chính trọn thông ngàn trang, có được năng lực, chẳng vâng chiếu đến chùa Chương Tín. Ngài Tư Duệ tụng suốt Kinh Thập Luân, sau hỏi về Thiền Đạo. Nên trong kinh có bài kệ rằng:
"Tuy tụng ngàn chương chẳng bằng người thấu suốt một
câu.
Như người bơi lội qua khe suối, đến bờ thì roi trượng đều bỏ".
Thích Pháp Lãng, người ở xứ Cô Tô, bẩm chất ôn nhuận, tâm ý vững chắc. Sư trì tụng Quán Âm Minh Chú, thần hiệu thường hiển bày. Khắp kinh đều thấy sáng, mọi người đều kính trọng.
Niên hiệu Long Sóc thứ 2 (662), Công chúa Thành Dương bị bịnh rất nặng, thuốc men chữa trị khắp nơi đầu mang đến. Công chúa là em gái cùng một mẹ với vua Cao Tông, tình thương rất nồng hậu, ban đổ như Hối Tử Hà. Hà chết lại hành tiết quán, đã đến lúc cơn bịnh triền miên khốn đốn, có người mách bảo rằng: "Ngài Pháp Lãng hành trì bí chú, trị bịnh lành rất nhiều". Đến lúc vời Sư đến tới, thiết đàn trì tụng chỉ qua vài ngày đã được bình an. Công chúa tấu xin đổi biển hiệu chùa là "Chùa Quán Âm" để Sư trụ ở đó. Chùa ấy vốn tên là chùa Linh Cảm được thiết lập từ niên hiệu Khai Hoàng thứ 3 (583) đời Tùy. Lúc vua Văn Đế (581-605) đời Tề dời đô phần nhiều đào bới lăng viên phần mộ ở trong thành ra an táng chốn hoang vắng ở vùng ngoại ô nên ở chùa nầy. Đến niên hiệu Võ Đức thứ 4 (621) thời Tiền Đường, chùa bị hoang phế đổ nát. Tới nay đề lại biển ngạch. Về sau, Sư thị tịch tại chùa đó.
Thích Tăng Huyễn, người ở xứ Tinh Châu. Vốn học gồm thông, giải hạnh cùng có. Năm chín mươi sáu tuổi, gặp được Thiền Sư Đạo Xước soạn "An Lạc Tập" giảng về Quán Kinh, mới hồi tâm niệm Phật. Sư lo sợ tuổi thọ sắp hết nên ngày đêm lễ Phật một ngàn lạy, niệm hồng danh Phật A-di-đà tám trăm ngàn biến. Suốt thời gian năm năm, Sư nhất tâm không biếng trễ. Sư bảo với đệ tử rằng: "Phật A-di-đà đến trao cho tôi hương y, các vị Bồ-tát Quán thế Âm, Thế Chí bày hàng ở trước, các vị hóa Phật khắp đầy giữa hư không. Từ đây trở về phương Tây thuần là Tịnh Độ". Nói xong, Sư liền thị tịch.
Lúc bấy giờ, có hai Pháp Sư là Khải Phương và
Viên Quả cùng ở chùa Ngộ Chân tại huyện Lam Điền, trong một mùa Hạ kết bạn cùng xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà, cùng bẻ một cành dương liễu đến cắm trong tay tôn tượng Đức Quán Thế Âm mà phát lời thệ nguyện rằng: "Nếu được sanh về cõi nước Phật, nguyện bảy ngày sau cành dương liễu không héo rũ". Đến kỳ hạn, thật vẫn tươi đẹp. Lại mộng thấy trong một cái ao ở phía Đông có màn trướng báu lớn, bèn bay vào trong đó. Gặp được một vị tăng bảo rằng: "Chỉ chuyên niệm Phật đều sanh vào đó". Lại thấy Bồ-tát Quán Thế Âm ngồi duỗi chân, Ngài Khải Phương bèn nâng chân đội trên đảnh đầu. Thấy một ao hoa sen, có đức Phật A-di-đà từ phương Tây đến, Ngài (Khải Phương) thưa hỏi Đức Phật rằng: "Chúng sanh ở cõi Diêm-phù nương theo kinh giáo niệm Phật, được sanh về đó chăng?" Đúc Phật dạy: "Chớ nghi ngờ, chắc chắn sẽ sanh về cõi nước của ta!". Thả thấy được thế giới Cực Lạc bằng phẳng như gương, thế giới Ta-bà thuần là núi sông. Âm nhạc, trướng báu thẳng hướng Tây mà đi. Có một vị tăng tên là Pháp Tạng ngồi trên xe lớn đến đón rước. Ngài Khải Phương thấy tự thân mình ngồi trên hoa sen trăm báu, thành Đẳng Chánh Giác. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khen ngợi Kinh Pháp Hoa. Lại thấy có ba đường thềm cấp báu thẳng đến hướng Tây. Trên thềm cấp dường thứ nhất toàn là người tại gia, trên thềm cấp đường thứ 2, có người xuất gia, tại gia lẫn lộn cùng đi, và trên thềm cấp đường thứ 3 chỉ có chư tăng, bảo đó đều là những người niệm Phật được vãng sanh. Hai Pháp Sư Khải Phương và Viên Quả đều nói chính mình thấy như thế.
Thích Huyền Trang, người ở xứ Giang Lăng. Học thông giáo điển Đại Tiểu thừa, rất giỏi kinh Pháp Hoa, riêng là mạng gia. Trong năm mươi năm, mỗi ngày trì tụng bảy biến. Thường nhân nơi tịnh thất đốt hương, cảm trời người đến lắng nghe. Những lúc trai giảng hiện bày điềm lành rất nhiều. Sư và ngài Đạo Tuấn đều được mời đến kinh đô hai năm.
Ngày mùng 8 tháng 2 niên hiệu Cảnh Long thứ 3 (709), vua Trung Tông đến tại điện Lâm Quang để giải trai hội. Khi đó các học sĩ đồng quán nhóm họp rất đông. Sư, v.v... cáo từ xin trở về quê cũ, nhà vua ban sắc tặng Sư ngự thi. Các học sĩ đại liêu vâng sắc cùng hòa. Trung thư lệnh Lý Kiêu có bài thơ tặng Sư rằng:
"Ba thừa quy cõi tịnh
Muôn thặng tiễn Thông Trang
Đến ngày lìa đình gần
Trời cao biệt đường xa
Kinh Nam quảy gậy bát
Vị Bắc hạn cầu bờ
Ngày nào tích chân quả
Trở lại vào đế hương".
Trung Thư Xá Nhân Lý Xoa lại có thơ tặng Sư rằng:
"Ngày đầu vâng quy chỉ
Gió thu thổi tặng lời
Hán Châu lưu đạo vị
Ngọc Giang về nguồn chân
Đất bày ải Nam xa
Trời xoay Bắc Đẩu quý
Thà biết một trụ quán
Bỏ mở cửa Tứ thiền".
Lại còn có thơ văn của Chủ Công đưa tiễn Sư. Ở đây chẳng ghi chép hết. Sau, Sư thị tịch tại bổn tự.
Thích Hồng Chánh, họ Thường, không biết Sư là người ở xứ nào. Sư trụ trong một Lan-nhã thuộc vùng Mân Thục. Trước kia, Sư bị bịnh khốn khổ triền miên, đến lúc bình phục, Sư phát thệ nguyện thường trì tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, lấy chuẩn mực mỗi ngày hai mươi biến. Sư tinh tấn hành trì chẳng bỏ phế. Bấy giờ, có vị tăng ở gần là Ngài Thủ Hiền, ban đêm tĩnh tọa thấy hai quỷ sứ, tay rút văn điệp riêng cùng nói với Ngài rằng: "Sư Hồng Chánh mặc niệm Bát-nhã, bên cạnh có Đại Kỳ mang vác che chở, không cách gì đến gần được. Lại lo trách hạn lâu dài chậm trễ. Nay riêng có được một kế là thẳng cửa phía Đông của phủ có một người họ Thường, lại đồng tên là Hồng Chánh mà lại là đã từng xuất gia làm tăng., tra hỏi đó mà bắt đi để lắp kín trái điện". Ngài Thủ Hiền nghe thế lấy làm kinh lạ, ghi nhớ việc ấy, sáng hôm sau, thầm hỏi người ở phía Đông, quả nhiên Thường Hồng Chánh đã chết.
Ngài Thủ Hiền trước kia vốn hành trì Kinh Adi-đà, sau đổi nghiệp. Còn Ngài (Hồng Chánh) về sau không biết tịch ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Làm sao có việc đồng tên thật ra khác người mà lại có thể chết thay như vậy? Nghiệp chẳng thể dời đổi, sao đây lại dời đổi được như vậy? Cùng như đồng cốt ở đời vẽ hình giống như mình, nói có thể dùng để thay suy ách, cũng giống như vậy? Thông đáp: vua Diêm-Ma hoặc la Bồ-tát lấy người thiện đồng tên thì xả, người bất thiện thì bắt lấy. Đây có lẽ là tội sương đợi khô, Ngài Hồng Chánh thêm tuổi thọ, nên được xả. Lại như người kia ác khí mới đầy lại sẽ có kỳ hạn chung cùng, nên bắt lấy đó. Nếu vì thay đổi thật mà bắt lấy thì đó là thực hành giáo hóa. Ngoài việc xả đó thì thường lý chẳng thể biết được.
Thích Chỉ Huyền, người ở xứ Hà Sóc, hành trì Ngũ Thiên Cấm Chú, thân mặc áo vải gai, thường đi khắp các Châu Ấp, chẳng ở nơi thành thị chùa chiền, đêm lại chỉ ngủ ở chốn hoang vắng rừng thưa. Sư có ý chí muốn tìm phỏng các danh tích.
Đến Giáng Châu, ban đêm Sư ghé nghỉ trong rừng mộ. Đêm đó dưới ánh trăng sáng như ban ngày, Sư thấy một con cáo từ dưới rừng đem cái đầu lâu đạt lên đầu nó, động đậy mà rơi thì chẳng ngó lại, không rớt thì đội. Nó lại lấy lá khoai môn che phủ lên thân mình, xum xoe biến thành một cô gái yêu kiều, toàn thân mặc lụa trắng đứng bên trái đường di. Nghe có tiếng yên ngựa đi từ phía Đông Bắc, người phụ nữ gào khóc buồn thương chẳng tự kềm chế được. Giây lát sau có gã cưỡi ngựa đi đến, thấy vậy, bèn xuống ngựa hỏi rằng: "Cô nương! Chốn hoang vắng giữa đêm khuya sao cô gào khóc như thế ư?" Người phụ nữ ấy liền gạt lệ lừa dối bảo rằng: "Nhà của tiện thiếp ở Dịch Thủy, năm trước che mẹ gả thiếp làm vợ người nhà họ Trương ở xứ này, không may chồng thiếp năm qua đã chết yểu, gia nghiệp tiêu tan, không nơi nương tựa chu cấp.
Cha mẹ của thiếp đâu biết thiếp lẻ loi khổ sở như vầy! Có một nỗi đau đớn cắt xé ruột gan như thế này, bất chợt buồn tủi mà khóc. Thiếp nghĩ biết về đâu, có được hay chăng? Sao anh lấy làm lạ mà hỏi như thế?" Gã cưỡi ngựa bảo: "Nghĩa là cô nương buồn oán việc riêng, nếu muốn trở về quê hương. Tôi đây quân hành dịch định, sẽ sai sứ trở lại đưa cô nương về Dịch Thủy. Cô nương hãy đi bằng xe thô đó!" Cô gái ấy bèn gạt lệ cảm tạ, vừa định vin đạp đi thì Sư từ trong rừng mộ bước ra bảo: "Nầy người quân tử! Cô gái này chẳng phải là người thật mà chính là loài cáo hóa ra". Gã cưỡi ngựa nói: "Nhà tu há lấy tướng nầy mà vu cáo, định có mưu đồ gì ư?" Sư bảo: "Nếu anh không tin xin hãy dừng chốc lát, tôi sẽ biến cô gái ấy trở lại nguyên hình cho anh xem". Sư bèn dộng tích trượng, tụng vài tiếng bằng Hồ Ngữ, cô gái ấy liền hiện trở lại nguyên hình con cáo mà bỏ chạy, và đầu lâu không che lấp thân. Gã cưỡi ngựa cúi đầu sám hối lỗi thưa rằng: "Nếu chẳng được Sư cứu mạng, sẽ theo yêu quái mà chết rồi!"
Sư hành từ cứu vớt chúng sanh phần nhiều đều thuộc loại như vậy.
Thích Nguyên Kiểu, người xứ Linh Võ, có chí tháo, không thích ở chung với chúng, lấy việc trì minh làm việc chính của mình.
Vào cuối niên hiệu Thiên Bảo (756) vua Huyền Tông đi đến đất Thục. Túc Hoàng ở Linh Võ huấn luyện binh lính muốn chiếm đánh lấy Kinh đô. Vì vật bàn luận là đồng, bèn mời cha (Túc Tông) lên ngôi, đổi niên hiệu là Chí Đức. Đến niên hiệu Chí Đức năm thứ 2 (757) trở xe chỉ thẳng đến Phù Phong. Nhà vua vốn nương tựa Phật giáo, chọn người thanh bạch, kính chuộng chư tăng làm đầu, để cầu phúc. Suy cử từ vùng đất Bắc cho đến sông Tây, Sư ứng trong kỳ chọn lựa ấy, được mời vào nhận sắc chỉ, theo giá trượng nội vào kinh. Sau đó, vua ban sắc cho Sư hướng về phía trước đến Phụng Tường, tại chùa Khai Nguyên thiết đặt "Ngự Dược Sư Đạo Tràng", lại chọn hai mươi mốt vị tăng, mỗi ngày sáu thời hành Đạo, đốt hương đèn, tán tụng Kinh Pháp, không dám nói mỏi mệt. Tinh khiết có thể lường biết. Bỗng nhiên trong Pháp Hội mọc một lùm cây lý có bốn mươi chín gốc. Bèn nêu đủ sự việc mà tấu trình. Triều đình tuyên bảo nội sứ xem xét hư thật. Vua rất kinh ngạc vui mừng bảo rằng: "Đây là điềm lành lớn!" Ngày 18 tháng 4, chư tăng xem xét "Dược Sư Đạo Tràng" tụng niệm như Sư, v.v... dâng biểu văn chúc mừng. Vua Túc Tông ban sắc đáp rằng: "Tướng cây lý tốt tươi ấy là điềm lành thạnh vượng của nước nhà, phát sanh từ trong chốn già-lam. Vậy đủ biết sự hưng thạnh của cây Tuệ giác, cảm điềm lành đặc biệt này, trẫm cùng các sư đồng chúc mừng!"
Sư trì tụng có công năng thông cảm phần nhiều giống như thế.
Nhà vua càng thỉnh thêm các vị nội cung phụng.
Thích sở Kim, là con nhà họ Trình, vốn ở quận Quảng Bình, nay là xứ Chu Ốc thuộc Kinh Triệu. Mẹ của Sư họ Cao, ban đêm nằm mộng thấy các Đức Phật, nhân đó mang thai Sư. Đến lúc sanh ra Sư thật là con đấng Pháp Vương. Hạnh tố dáng ngọc, thần hòa khí thanh.
Năm bảy tuổi, Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa, đến năm mười tám tuổi Sư thông suốt yếu nghĩa. Năm ba mươi tuổi, Sư xây dựng ngôi tháp đề hiệu là "Đa Bảo". Năm bốn mươi tuổi, Sư vào mộng của vua ở Cửu Trùng, vua Huyền Tông thấy Pháp danh Sư chữ dưới là chữ Kim, bèn hỏi vặn các Sứ trong triều, ai cũng kính tin. Khi đó tiếng tăm Sư vang khắp chốn kinh kỳ, bèn mộ người xây tháp nhiều cấp mà thành. Có người giúp tay. Sư từng ở chỗ ngài Thúy Vi Ngộ Chân, vỗ vào chân mà bảo rằng: "Đây là chỗ tôi ẩn trốn". Bèn tấu trình xin ở hai chùa mỗi nơi xây dựng một ngôi tháp và đều lấy tên là "Đa Bảo". Ngoài ra, Sư ngâm vịnh Diệu Kinh hơn sáu ngàn biến, dưới cây báu phảng phất thấy phân thân. Trong Linh Sơn nương Hy Dịch đến ba biến. Tâm không sở đắc, lưỡi tuôn cam lộ. Chim điềm lành lầu vàng ngọc ở trong tay, nhạc trời thanh lãnh tấu giữa hư không. Tất cả các điềm lành tốt đẹp đều có ở đó. Sư bèn nói rằng: "Pháp giá của Pháp tượng vương trở về thần quyền của người chủ. Nương ánh sáng ba lần vào dương pháp sáu cung. Hậu phi quỳ thẳng nơi chiếu ngụ, hoa trời phân rải mà chẳng dính mắc. Minh Hoàng đề biển ngạc, vua Túc Tông tặng phướn, đâu chỉ vinh quang một thời, mà cũng ngõ hầu đối với Phật pháp".
Đến giờ Tý ngày mùng 7 tháng 7 niên hiệu Càn Nguyên thứ 2 (759), Sư nằm nghiêng phía hữu mà thị tịch. Đến lúc trà-tỳ củi hết lửa tắt, dáng tuyết vẫn như lúc sống. Rõ ràng chứng được thượng sanh nơi nước An Dưỡng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy hạ lạp.
Vua Túc Tông mến thương kính trọng Sư, Sứ Quan Trung đến viếng điếu, vua ban sắc cho Quang Huy cưỡi ngựa chạy nhanh đến giám hộ, tức dùng theo Pháp an táng vào tháp Pháp Hoa Lan-nhã, ở gò Long Thủ, thuộc phía Tây thành. Thuở nhỏ Sư viết chép kinh Pháp Hoa, chẳng mặc áo thêu thùa, gặp lúc giá lạnh chỉ thêm áo nạp ngải cứu mà thôi. Nên các đệ tử Tuệ Không, Pháp Ngạn, Hạo Nhiên đều là voi con theo voi chúa. Sa-môn Phi Tích ở chùa Thảo Đường núi Tử Các soạn văn bia, Ngô Thông Vi khắc ghi. Đến ngày 13 tháng 4 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 13 (797) Tả Nhai Công Đức Sứ Khai Phủ Ban Quốc Công Đậu Văn Trường trình tấu: "Tiên Sư Sở Kim ở chùa Thiên Phước là Hòa-thượng của hạ thần. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), vì nước nhà mà xây tháp Đa Bảo, thiết đặt đạo tràng Pháp Hoa, mãi đến nay đã hơn sáu mươi năm, chư tăng mỗi ngày sáu thời lễ bái tụng niệm Kinh Pháp không hề dứt tiếng. Đã trải qua bốn triều vua (Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông, Đức Tông) mà chưa đội ân biểu dương công đức". Vua Đức Tông bèn ban sắc truy phong Sư thụy hiệu là "Đại Viên Thiền Sư".
Thích Hoài Ngọc, họ Cao, người ở xứ Đan
Khâu. Sư nghiêm trì luật pháp, danh tiết tiêu nhiên. Ngày ăn một bữa và thường ngồi, mặc tình cho thấy rận sản sanh, chỉ mặc một áo vải bố, hành trì pháp sám hối. Thời khóa mỗi ngày xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà đến năm muôn biến, tụng thuộc kinh A-di-đà ba mươi muôn biến.
Đến ngày mùng 9 tháng 6 niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (742), bỗng nhiên Sư thấy Thánh tượng Tây Phương đông nhiều như số cát sông Hằng, có một vị nâng cao đài bạc từ cửa sổ đi vào. Sư nói: "Tôi xin được đài vàng, đài bạc xin từ chối". Sư càng chí thành hơn. Sau, nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: "Trên đầu đã có ánh sáng. Xin hãy ngồi kiết già, kết ấn Phật Di-đà". Khi đó ánh sáng đức Phật soi khắp phòng nhà. Sư đưa tay ngăn người rằng: "Chớ đụng đến ánh sáng ấy!" Đến giờ Sửu ngày 13, lại có sánh sáng của sợi lông trắng xuất hiện, Thánh chúng rất đông giữa hư không. Sư nói: "Nếu nghe có mùi hương lạ tức báo thân của tôi đã hết!" Đệ tử là Tuệ Mạng hỏi Sư: "nay thầy sanh về cõi nào?" Sư bèn dùng kệ đáp rằng:
"Thanh tịnh sáng sạch không bụi nhơ
Hoa sen hóa sanh là cha mẹ
Ta tu Đạo đến nay mười kiếp
Hiện bày Diêm-phù chán các khổ
Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp
Xa lìa Ta-bà về Tịnh Độ".
Sư nói kệ rồi, nghe có mùi hương xông ngát giữa hư không. Cả đại chúng đều thấy được Đức Phật A-di-đà, các vị Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thân mầu vàng tía cùng ngồi đài Kim Cương đến đón rước. Sư mỉm cười mà thị tịch. Nhục thân nay hiện còn.
Sau có người khen ngợi rằng:
"Thầy ta nhất niệm lên sơ địa
Sánh ca nước Phật hai lần đến
Chỉ có cây hòe xưa trước cửa
Cành thấp chỉ để treo đài vàng".
Có thuyết cho rằng đó là thơ của Thứ Sử Đài châu là Đoàn Hoài Nhiên.
Thích Đại Hạnh, người ở Tề Châu, sau vào Thái Sơn bệnh cỏ làm áo mặc, hái lá cây mà ăn, hành trì Pháp Hoa Tam-muội, chiêu cảm Bồ-tát Phổ Hiền hiện thân. Sư tự than rằng: "Mạng sống vốn vô thường đều trở về ma diệt, chẳng biết đời sau sẽ thọ sanh về nơi nào!" Bèn vào trong tạng tiện tay rút lấy quyển kinh, bèn rút được quyển Tây Phương Thánh Giáo, bèn chuyên tâm nhớ nghĩ xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà suốt hai mươi mốt ngày. Đến nửa đêm, bỗng thấy đất biến thành chất lưu ly, mắt tâm rỗng sáng, thấy được các Đức Phật ở mười phương giống như ảnh tượng soi rõ trong gương. Về sau, nhà vua ban chiếu mời Sư vào nội cung, Sư nghỉ tại Ngự diện. Nhà vua ban tặng Sư hiệu là "Thường Tinh Tấn Bồ-tát ". Sư làm chức Khai Quốc Công, bèn thị hiện bị bịnh nhẹ, nằm nghiêng hông bên phải mà thị tịch. An táng một thời gian lâu sau, mở nắp quan thấy nghi mạo Sư vẫn như khi còn sống, có mùi hương lạ phảng phất.
Thích Vong Danh, người xứ Vinh Dương. Sư trụ chùa Quảng Ái ở Lạc Dương, chuyên tu tập Tỳ-ni, cẩn trọng giữ gìn giới pháp, Sư xa lánh sự cơ hiềm xấu xa, ít có sự thiếu sót.
Vào niên hiệu Thượng Nguyên (760-762), Sư trở về phương Đông, đến Tỉnh Ninh, trên đường đến Vinh Dương, đêm tối dừng nghỉ ở Nghịch Lữ. Vừa mới mở đãy cởi giày, muốn lọc nước để rửa, bèn có một vị tăng đi đến, dáng mạo cứng cỏi mạnh mẽ, cùng Sư đồng nghỉ chung phòng. Vị tăng ấy nói với người chủ nhà rằng: "Bần đạo từ xa đến, rất mỏi mệt lại thêm đói khát. Chủ nhân có rượu ngon bán cho đầy một bình và mua cho nửa vác thịt thú. Các thứ xin đem đến liền chớ chậm trễ!" Chủ nhà vội y theo lời yêu cầu mà mua sắm. Vị tăng ấy ăn uống hết không để lại gì. Sư bèn chê trách vị tăng ấy rằng: "Thân mặc Pháp phục mà đối trước người thế tục buông lung uống ăn, không biết xấu hổ". Vị tăng ấy im lặng không trả lời. Đầu hôm, vị tăng ấy lấy nước súc miệng rửa mặt, ngồi kiết già thân ngay thẳng, khởi xướng Phạm âm tụng Kinh Hoa Nghiêm. Mới đầu xướng cử đề mục, tiếp theo là trì tụng từ "Tôi nghe như vầy, v. v…" trở xuống, nơi khóe miệng vị tăng ấy phát ra hai luồng ánh sáng mầu vàng ròng, khiến người nghe cũng rơi nước mắt. Người thấy thì khen ngợi, Sư cũng sanh tâm kính mến. Trộm tự nghĩ rằng: "Vị tăng ăn thịt uống rượu ấy mà lại có khả năng tụng niệm Đại kinh nầy". Mãi đến canh 3 vẫn còn nghe tụng kinh, từng tiếng rõ ràng chẳng dứt. Và sắp hết quyển thứ 4, ánh sáng trong miệng lại càng sáng rõ thêm, soi khắp cả sân nhà, thấu suốt lỗ hỏng ngạch cửa song, chiếu sáng cả hai phòng. Sư ban đầu không biết ánh sáng ấy, mà tự bảo rằng: "Vị tăng ấy sao chẳng tắt đèn làm hao tốn dầu của chủ nhà". Nhân đó đứng dậy đi đến bên cạnh, thấy ánh sáng vàng ròng ấy phát ra từ hai góc khóe miệng của vị tăng ấy. Đêm sắp đến canh 5, vị tăng ấy tụng vừa hết quyển 6, mới tạm nằm nghỉ trong chốc lát thì trời sáng. Sư rơi lệ gào khóc và gieo cả năm vóc xuống đất, cầu xin sám hối tội lỗi khinh thường phỉ báng Thánh Hiền, và Sư vui mừng gặp được dị nhân, về sau càng thêm siêng năng tinh tấn, cuối cùng trở thành cao danh. Không biết về Sau Sư tịch ở đâu.
Thích Hùng Tuấn, họ Chu, người ở xứ Thành
Đô, có tài giảng nói nhưng không giới hạnh. Nhận của tín thí phi pháp mà vẫn sử dụng. Vả lại có lắm sự lừa dối, chỉ chuyên việc ngông cuồng. Lại hoàn tục, vào trong quân lính, nhân lành nạn mà trở lại trong chúng xuất gia.
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), Sư bị bịnh nặng qua đời, xuống cõi u minh, bị vua Diêm-la quở trách, sau đó, dẫn Sư đi vào ngục, Sư bèn chống cự lớn tiếng bảo rằng: "Hùng Tuấn tôi mà vào địa ngục thì các Đức Phật trong ba đời đều là nói dối. Tôi có đọc Quán Kinh, nói rằng hạng người được hạ phẩm hạ sanh là do gây ra năm tội nghịch mà lúc sắp chết xưng niệm hồng danh Đức Phật chỉ mười niệm còn được vãng sanh. Tuấn tôi đây tuy tạo tội mà chẳng phạm năm tội nghịch. Nếu luận về sự niệm Phật thì chẳng biết số biến là bao nhiêu. Nếu lời Phật nói là đàng tin tin", thì sau chết tôi được sống lại, nói lời của Hùng Tuấn rằng: "Nếu thấy người xuất gia, tại gia trong thành, thì nói với họ rằng tôi đã được vãng sanh Tây phương!" Nói xong, Sư nương đài báu đi thẳng về phương Tây.
Liên hệ thử bàn:
Nhất niệm nhớ biết tự thân mình xưng niệm danh hiệu Phật chẳng ít, dẫu có vào địa ngục thì vẫn trở lại. Bởi vì dùng tâm lành mạnh mẽ mà chuyển tâm ác yếu ớt. Cho nên người tu hành phải biết miệng tụng chẳng bằng tâm trì. Người có năng lực vãng sanh cạn thấp phải học như vậy. Lời Ngài Hùng Tuấn lưu xuất trong dân gian, hẳn là lúc đã chết mà sống lại trao truyền lời ấy.
Thích Tam Đao Pháp Sư vốn họ Tào, người ở xứ Lô Lăng. Bản tánh tự nhiên ưa thích ăn dùng rau cải. Từ thuở nhỏ đã có chí nguyện xuất gia. Thời bấy giờ từ Giang đến Tây, đều bị loạn An Sử, phương Nam không thể nhiều việc thổ phù, nên mạnh kiêm yếu, chiến tranh chưa dứt.
Tháng 11 niên hiệu Đại Lịch thứ 7 (772), Quảng Châu Lã Đại Phu bị Phiên thành vâng theo điệp của Lộ Từ Cung Hồng Châu, Thứ Sử Cát Châu là Lưu Ninh bày binh trận gồm ba ngàn người, đồng đánh lấy Phiên Ngung. Sư trước kia vốn tên là Bá Liên. Sư là người mạnh mẽ mà dung mạo xấu xí. Và lại, tâm thuần lương, thường trì tụng Kinh Kim Cương. Lấy ống trúc đựng đầy kinh đeo trong người, phát thệ chẳng lập gia đình. nhưng chẳng nêu hạnh lành ấy với người khác, chỉ riêng kín đáo hành trì chí thiết. Tự nhiên bị bắt vào quân lính. Lúc trình duyệt lại bị chọn sung vào hàng danh Tiểu Tướng. Thật chẳng phải điều thích hợp với Sư, bèn vong mạng. Bấy giờ, bày binh trận lại rất gấp, các xứ bị hại đuổi bắt. Ở tại cửa bể của bổn Châu, Sư bị bắt đưa đến Lưu Ninh, khiến đưa đến cầu Chu Mộc mà xử tử. Ba lần chém bằng mũi nhọn đều bị gãy. Lưu Ninh lấy làm lạ, hỏi Sư, Sư đáp: "Chí vốn muốn xả bỏ gia đình, thường trì niệm kinh pháp. Như nay khiếp sợ, hèn yếu trước quân oai, vì thế mà mất". Lưu Ninh hỏi: "Kinh hiện tại ở đâu?" Sư đáp: "Lúc bị bắt làm rơi rồi". Lưu Ninh bèn sai người đi tìm, cách ngoài vài trăm bộ quả nhiên tìm được, trong ống trúc có dấu đao gần như mờ hẳn. Lưu Ninh bèn vòng tay ca ngợi, xưng tán, giây lâu bèn trả Sư trở lại làm tăng, và tấu trình cùng triều đình. Vua Đại Tông ban sắc tặng Sư Đạo hiệu là "Tam Đao Pháp Sư", đồng thời phối danh ở chùa Long Hưng trong bổn Châu.
Sau, Sư càng thêm tinh tấn, Sư thị tịch tại chùa.
Thích Đại Quang, họ Đường. Sanh tại ấp An Cát. Mẹ của Sư họ Mai. Lúc mang thai Sư mà mộng hợp với điềm lành. Khi Sư ở trong thai, mẹ Sư không ưa các thứ mùi vị tanh nồng, đến lúc vừa mới sanh, Sư liền biết nói, nhưng chẳng đùa giỡn. Chưa đến tuổi búi tóc, Sư đã suy nghĩ cầu Phật thừa, nguyện tụng niệm Kinh Pháp Hoa, chỉ ba tháng đã thông suốt. Mỗi lúc Sư cất tiếng tụng kinh thì các vật ngu xuẩn thô bỉ đều đổi tâm, Sư bèn xuất gia mà tìm tăng đàn thọ giới. Sư đi về hướng Tây đến Kinh Ấp, triều kiến vua Túc Tông, vua mời Sư vào trong cung cấm, vua khoanh tay mà khen ngợi rằng: "Xưa mộng thấy vị tăng, người xứ Ngô, miệng trì tụng Kinh Pháp Đại thừa, có ánh sáng năm mầu phát ra, lời tiếng dáng vẻ hay ho thật vừa nguyện của trẫm vậy!" Nhân đó vua ban tặng Sư danh hiệu là Đại Quang. Gặp ngày sinh nhật của vua, thiết trai tại chùa Định Quốc, nhân đó ban mặc chiếu cho phép các chùa nổi tiếng trong nước tùy ý Sư đến trụ trì. Ban lệnh cho Trung Quang Triệu Ôn đưa Sư đến ở chùa Thiên Phước nơi đạo tràng Trì Kinh. Sư tụng kinh bàng tiếng xứ Ngô, xa xa Thông đến Thánh thính, Vua rất lấy làm lạ về việc đó, bảo Trung Quang đến tuyên dụ.
Sau Sư đến trụ ở tinh xá Lam Điền. Trước đó chư tăng trong tinh xá mộng thấy có vị Thiên Đồng đến báo rằng: "Tiếng tụng kinh của Sư Đại Quang vang tới cõi trời Hữu Đảnh". Một hôm, Sư đang yên tọa, tự thấy vị thần từ cõi trời đưa tay xuống vỗ xoa ở tim Sư. Sư bèn nhớ ngày trước Đại Sư Bảo Ngọc là bậc tiên đạt có dự ghi lời đó, bảo Sư nên xướng cao pháp âm thì sẽ có thần đến giúp. Lại riêng trong đêm mộng thấy thần tăng có sữa dính nơi tim, bảo Sư mút lấy. Từ đó công lục nơi Sư hiển bày, hình thần chẳng nhọc. Sư lại lên núi đến chỗ sâu thẳm, tình cờ bị rơi xuống hang Long Tuyền, chẳng thể lường biết chỗ đắm chìm là đâu. Trong tâm Sư linh hiển rõ suốt đều không mê mờ, nhân đó Sư nghĩ nhớ trong bổn kinh có phẩm Đa Bảo Tháp, bèn thành tâm nguyện tụng trì Phẩm ấy đến mười muôn biến. Tự nhiên thân bay vọt thoát khỏi suối hang, như có thần nâng đỡ. Sau, có chiếu ban mời Sư đến trụ chùa Tứ Thánh. Chùa ấy vốn do Triệu Quốc Công Trưởng Tôn Không Kỵ Trạch, xây dựng để cầu phúc cho Hoàng Hậu Văn Đức vào niên hiệu Long Sóc thứ 2 (662). Vào niên hiệu Trường An thứ 7 (Trướng An chỉ có bốn năm: 701-705), gặp phải nạn lửa đốt cháy hết, chỉ còn có được vài bộ Kinh trong đống tro tàn không bị cháy một chữ nào, bèn tấu trình việc đó lên vua. Bá tánh đua nhau xả thí cúng dường, chỉ trong vài ngày đã đầy cự vạn, bèn xây dụng lại chùa ấy. Sư đọc xem các bộ kinh ấy, càng dốc lòng tinh tấn gấp bội.
Sau vì riêng cảm thân sinh hiện ở đất Ngô, chưa báo đáp từ lực. Sư bèn dâng biểu xin trở về tĩnh dưỡng. Vua chưa ban chiếu chấp thuận, thì bèn dối bịnh, gắng sức đem ném xuống vực sâu, lừa quỵ chẳng đi tới, đàn quạ phủi đảnh. Tâm đã hiểu rõ, bịnh cũng lành theo, Sư bèn đem Kinh đội trên đầu mà hành đạo. Bỗng có chiếu ban chấp thuận Sư trở về. Đã về ở tại Ô Trình, Sư bèn xây tháp, thường ngày trì tụng Hoa Kệ để báo nguyện xưa.
Đến niên hiệu Vĩnh Thái thứ nhất (765), Chiết Tây Liêm Sứ Vi Nguyên Phủ dâng biểu thỉnh Sư đứng đầu của lục Quận biệt sắc Đạo Tràng trì niệm. Đến năm Quý Sửu (773) thuộc niên hiệu Đại Lịch, Ngạn Lỗ Công Chân Khanh Lãnh Quận, cha của Tướng Quốc Lý Thân làm Ô Trình Tể. Thân chưa tròn năm, bịnh sửa bạo khởi mà chẳng khóc, chẳng săn sóc đến bảy ngày, mời Sư đến, Sư bảo mẹ nuôi tắm rửa rồi xông đốt hương, Sư mới lớn tiếng tụng kinh, phẩm "Phân Biệt Công Đức". Lý Thân bèn chạy ra khỏi chiếu mà ngồi khoanh tay mở mắt nhìn chăm chăm, Sư trao cho uống một chén nước, và bảo gắng mớm sữa đó, bịnh mới lành dần. Sư cười mà nói với Lý Thần rằng: "sao ngươi nguyện trở lại chóng vậy?" Nhân đó, lấy tên Sư mà đổi thành chữ Thân tiểu. Vào niên hiệu Trinh Nguyên (785-805), Lý Thân lại đến Thệ Thượng, lúc ghé thuyền thì Sư đã sớm tiếng đợi chờ ở bờ khe suối mà cười bảo: "Đùa giỡn múa men như con nít!" Sau Lý Thân lại có sắc lệnh đến Ngô Hưng, uống rượu say nằm ở quán, khi đó Sư đang dẫn tú ở Đạo Tràng. Đến nửa đêm gần tỉnh, Lý Thân thấy ánh sáng mầu trắng soi chiếu khắp nhà rõ ràng như ban ngày. Lý Thân bèn sang dò xét, thấy Sư đang yên tọa, Phạm âm vừa mới xướng, ánh sáng phát khởi từ khuôn mặt như khai mở hào tướng, đến lúc lời kinh ngừng dứt thì ánh sáng mầu vàng cũng thâu lại. Lúc Lý Thân từ giã để trở về kinh, thì Sư bảo rằng: "Ông được lời của Kính Sơn, tôi không lấy gì dể dụ. Đi thì tự mến, nhưng đi ở phải có lúc. Ngày sau ngôi vị ở miếu đường, phải dùng giáo pháp mà làm ngoại hộ!"
Đến ngày 30 tháng 12 niên hiệu Vĩnh Trinh thứ nhất (805), Sư thị tịch tại Đạo tràng Trì Kinh. Khi đó, thú gào chim sa, cây rừng kinh hãi rung chuyển, có mùi hương thơm lạ xông ngát mấy ngày chẳng dứt. Thứ sử Ngạn Phóng rất thương xót đến viếng điếu.
Sư mặc một áo nạp suốt bốn mươi năm không giặt nhuộm, mà hương giới xông ngát, ngày ăn một bữa suốt bảy mươi năm. Có rất nhiều điều chứng nghiệm, nên tướng quốc Công Thân vốn ở chốn Không môn, ít niềm tin lại thường dò xét lỗi lầm của chư tăng, mà lại kính trọng Sư, tự soạn bia đề rằng: "Mặc Chiếu Trì Kinh Đại Đúc Thần Dị Bia Minh", Bố y Dương Quỳ viết chữ.
Thích Trí Đăng, không rõ Sư là người xứ nào, trang trọng hạnh mình, trang nghiêm đúng thời, giữ gìn giới phẩm. Sư thường trì Kinh Kim Cương Bátnhã, chuyên cần không biết mỏi mệt.
Vào niên hiệu Trinh Nguyên (875-805), Sư bị bịnh qua đời, đệ tử mở tay thấy còn nóng ấm nên chẳng tẩn liệm ngay. Bảy ngày sau Sư sống lại, kể rằng: "Ban đầu thấy trong cõi u minh như có vua, vì ta tụng kinh nên chắp tay bước xuống thèm cấp, nhân đó hỏi thăm rằng: "Canh Dung Thượng nhân mười năm ở đời, gắng vượt ra sanh tử". Và cũng tiện đó, tôi hỏi rằng: "Chúng tăng trong nhân gian sau giữa ngày ăn dùng "ý dĩ nhân" làm dược thực, như vậy thì thế nào?" Đáp rằng: "Ấy là rất trái với bổn giáo". Tôi bảo rằng: "Trong luật có điều chánh, phi chánh, khai già, như thế nào?" Minh Vương đáp: "Đó là do người sau thêm vào chứ chẳng phải ý Phật".
Mọi người xa gần nghe như thế. Chử Cung Tăng cho đến có người sau giữa ngày không người uống nước.
Liên hệ thử bàn:
Tiểu Thừa chuộng khai ăn ngũ tịnh vật. Ý dĩ chẳng phải thức ăn chính trong ngũ cốc. Nghi đây, Minh Quan nhân căn cơ mà rũ răn dè. Bởi vì đang lúc chư tăng rất xem thường giới pháp, nên nghiêm khắc khai già như thế, thật là Phật thường pháp của các Đức Phật, chẳng phải do người sau thêm vào.
(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có năm vị.)
Thích Minh Độ, không biết Sư là người xứ nào, tập học kinh luận, ba nghiệp siêng năng, tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, giúp cho Tịnh nghiệp, lấy sự từ bi tế đọ làm tâm.
Khoảng cuối niên hiệu Trinh Quán, có chim cáp làm ổ nơi cột nhà, mớm nuôi hai chim con, Sư thường đem cháo thừa đến ổ mớm cho ăn, lại chú nguyện cho nó rằng: "Mong nhờ năng lực ta trì tụng kinh mà lông cánh chóng mọc". Bỗng nhiên hai chim con sớm học tập bay bị rơi xuống đất và đều chết cả. Sư bèn chôn nó. Hơn mười ngày sau, Sư mộng thấy hai đứa bé đến thưa với Sư rằng: "Chúng con vốn thọ nghiệp loài nhỏ sanh bằng trứng, nay nhờ Thượng nhân nuôi nấng, trì tụng Kinh pháp mà hồi hướng, được chuyển sanh lên làm người. Cách chùa nầy về phía Đông chừng mười dặm là nhà của chúng con!" Sư im lặng ghi nhớ việc ấy, mãi đến mãn mười tháng, Sư đến dò hỏi ở nhà đó, quả thật có hai vợ chồng vừa mới sanh hai đứa con. Sư vào nhìn nó, chỉ mới sanh vài ngày mà Sư gọi nó là "Cáp Nhi", một lúc nó xoay đầu như nhận biết. Hơn một tuổi nó đã biết nói và đều được lớn lên. Không biết về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Thanh Hư, họ Đường, người ở Tử Châu. Sư lập tánh cương quyết, thông tuệ khó lường. Bỗng nhiên, Sư hồi tâm, chuyên trì tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, ba nghiệp đều siêng năng không hề biếng trễ. Sư thường hay ở nơi núi rừng trì tụng, có bảy con nai thuần đi nhiễu như lắng nghe, khi Sư dứt tiếng thì nó bỏ đi. Lại nữa, các phòng nhà ở gần lửa cháy rui mè đều rụi hết, chỉ có phòng nhà của Sư lửa dữ bay qua, không hề bị cháy.
Vào niên hiệu Trường An thứ 2 (702), một mình Sư đến chùa Ngộ Chân, ở Lam Điền, tại phương trên phía Bắc viện xưa kia không có giếng nước. Sức người không thể làm nổi, phải đi lấy nước từ khe suối xa, xách gánh mang về rất cực nhọc. Bấy giờ, Đại Sư Pháp Tạng là bậc tinh thông Kinh Hoa Nghiêm, nghe Ngài trì kinh rất linh nghiệm mới thỉnh Ngài đến tìm cầu suối nước. Ngài bèn vào nội các Di-lặc, đốt hương trì tụng kinh đến sáng sớm ngày thứ 3, bỗng trong tâm thấy như có ba ngọc nữ ở lưng chừng núi về phía Tây Bắc của lầu dùng dao con khoét móc đất tùy tiện mà có nước. Ngài ghi nhớ kỹ chỗ đó, bèn đến đào bới, quả nhiên có được dòng suối ngọt, dùng hoài chẳng cạn.
Đến niên hiệu Trường An thứ 4 (704), Sư nương tựa chùa Thiếu Lâm. An cư kiết hạ trên đỉnh núi, ở đó có ngôi Phật thất rất rộng rãi, mọi người đều không dám đến vì cho rằng đó là nhà của quỷ thần. Từng có vị luật sư ỷ cậy mình có giới hạnh, ban đêm đến đó tụng luật, thấy một người to lớn cầm mũi mâu đến đâm, đuổi xuống núi, vị Luật sư sợ quá tắt thở. Lại có vị tăng hành trì Hỏa Đẩu Kim Cương Chú. Bấy giờ rất được mọi người kính trọng, hỏi vị tăng ấy rằng: "Sức Ngài trì chú không ai địch nổi vậy có thể đến ở lại đêm tại đó có được chăng?" Vị tăng ấy bảo: "Ở đó đâu đáng sợ gì!". Rồi bén mang hương đèn vào ngồi trì chú. Không bao lâu vị thần xuất hiện đưa tay nắm lấy chân vị tăng ấy ném xuống dưới khe suối, bảy ngày sau vẫn chưa nói năng gì được, tinh thần hôn mê. Sư nghe thế bảo rằng: "Quỷ vật là loài hạ thú mà dám như vậy ư?" Bèn sang đó tụng kinh như thường, ban đêm nghe ở Đông đường có tiếng động rất mạnh, Sư liền trì niệm chú "Thập nhất diện Quán Thế Âm". Lại nghe ở trong nhà như có hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều lung lay. Chú đã mất hiệu, Sư trở lại tụng trì Bổn Binh Nhất Hiệp, tự nhiên lần lượt mọi ảnh hưởng đều bặt dứt. Từ đó, người ở không còn phải lo sợ, thần bèn dời đi nơi khác.
Đến niên hiệu Thần Long thứ 2 (706), Sư vâng chiếu vào cung cầu mưa, hết mười bốn ngày thì tuyết rơi, vua Trung Tông cho là chưa cứu giúp được hy vọng đương thời, bèn khiến về chùa tiếp tục cầu thỉnh, Sư bèn ở trong điện Phật tinh tấn Khẩn cầu và đốt một ngón tay, vừa mới tròn đêm mà mưa khắp ngàn dặm, ngón tay Sư bình phục như cũ.
Do mới gặp cơn mưa lớn, phòng ốc trong chùa đều thấm ngập, riêng phòng viện của Sư không khổ, như không bị chìm ngập. Tất cả các điều linh nghiệm dị kỳ nơi Sư thảy đều như vậy.
Thích Thiểu Khương, họ Chu, người trụ núi Tiên Đô ở Tấn Vân. Mẹ của Sư họ La, nhân mộng thấy đi đến núi Đảnh Hồ, gặp được Ngọc Nữ tay bưng đóa sen xanh trao cho và bảo rằng: "Đây là hoa Cát tường, nay cho bà, sau này sẽ sanh quý tử, cần phải bảo trọng yêu quý!" Đến ngày sanh ra Sư, có ánh sáng mầu xanh khắp phòng và có mùi hương thơm tợ như hoa sen. Tới lúc Sư còn buộc tã mà mắt mầu xanh biếc, môi đỏ như son, răng được một tướng của Phật. Sư thường ngồi ngay thẳng mỉm cười. Bấy giờ trong làng có người giỏi xem biết tướng đến xem rồi bảo rằng: "Đứa bé này tương lai có tướng tài giỏi, không nói thì tôi chẳng biết".
Năm Sư bảy tuổi, cha mẹ dẫn Sư vào chùa Linh Sơn, nhân ngày Phật đản kính lễ Thánh dung, mẹ của Sư hỏi có biết chăng? Bỗng nhiên, Sư nói rằng: "Đức Phật Thích-ca Mâu-ni!" Mọi người đều nghe đều lấy làm lạ. Bởi từ lúc sinh ra đến nay Sư chưa từng nói năng điều gì. Do đó, cha mẹ Sư cho phép xuất gia. Năm mười lăm tuổi, Sư tụng đọc kinh đã trọn năm bộ. Sư thọ giới tại chùa Gia Tường ở Việt Châu, lại đến chùa đó tập học tỳ-ni. Sau năm năm, Sư đến chùa Long Hưng ở Thượng Nguyên nghe học Kinh Hoa Nghiêm, Luận Du-già.
Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (785) Sư vào điện Phật chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương, thấy có vật phát ra ánh sáng, bèn tìm tòi lấy xem thử là kinh pháp gì, mới biết đó là quyển "Hành Tây Phương hóa đạo" của Đại Sư Thiện Đạo. Sư thấy vậy rất vui mừng, chú nguyện đó rằng: "Nếu ta có duyên với Pháp môn Tịnh Độ thì xin cho tập văn nầy ánh sáng lại hiện". Sư phát thệ nguyện vừa xong, quả nhiên lại thấy sáng loáng, trong ánh sáng đó có hóa Phật và các vị Bồ-tát nhiều vô số. Sư bèn đến trong ảnh đường thờ Đại Sư Thiện Đạo. Từ chân tượng hóa thành thân Phật, nói với Sư rằng: "Ông y theo tôi thi thiết lợi lạc chúng sanh đồng sanh An Dưỡng". Sư bỗng như có sở chứng, bèn hướng về phương Nam đi đến chùa Quả Nguyện ở Giang Lăng, gặp một vị Pháp Sư nói với Sư rằng: "Ông muốn giáo hóa người, nên đến xứ Tân Định, duyên của Ông ở đó". Nói xong, liền biến mất, chỉ còn mùi hương và ánh sáng, hướng về phía Tây mà đi. Đến lúc Sư đến Mục Quận, vào thành khất thực có được tiền, Sư bèn dụ trẻ con xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà, cứ một câu thì trao cho một tiền. Qua hơn một tháng, trẻ con đông đúc kính mến niệm Phật, ai niệm nhiều thì cho tiền, như vậy suốt một năm, tất cả kẻ nam người nữ hễ thấy Sư, thì liền xưng niệm "A-di-đà Phật", Sư bèn lập ra Đạo tràng Tịnh Độ ở núi Ô Long, lập đàn ba cấp, nhóm họp mọi người vào nửa đêm hành đạo xưng tán. Trong hai mươi bốn tiết thường năm thì xưng dương tịnh bang, hễ gặp ngày trai, thì nhóm họp hơn ba ngàn người do Sư giáo hóa lên tòa, khiến kẻ nam người nữ trông thấy khuôn mặt Sư thì liền lớn tiếng xưng niệm "A-di-đà Phật", Phật từ trong miệng ra, liên tiếp niệm mười câu thì có mười Phật nối nhau tuôn ra tướng trạng như xâu chuỗi nối liền. Sư bảo rằng: "Ngươi nào thấy được thân Phật thì được vãng sanh".
Đến tháng 10 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 21 (805), Sư chỉ dạy đại chúng, dặn dò chỉ khuyên gấp tu Tịnh Độ. Nói xong, Sư ngồi kiết già, tự thân phát ra ánh sáng mà thị tịch. Sắc trời biến đổi, gió dữ nổi lên bốn phương, trăm giống chim kêu buồn, núi Ô Long cùng lúc biến thành mầu trắng. Nay mộ tháp Sư hiện còn tại Tử Nham ở Đông Đài thuộc Vu Chân, trải qua năm tháng lâu dài chỉ còn lại nền đá vuông, bên cạnh nền đá có đất, tương truyền đất đó trị bịnh được. Dân chúng trong châu, hễ mắc các chứng bịnh, đều đến đó đốt hương xin lấy đất, uống vào phần nhiều đều lành. Bốn góc nền đá giống như vết bánh xe.
Liên hệ thử bàn:
Ngài Thiểu Khương thuật kệ tán dựa theo tiếng của Trịnh Vệ, biến thể mà thành. Chẳng buồn, chẳng vui, chẳng oán, chẳng giận. Được khúc vận trung bình, thí như người thầy thuốc khéo dùng kẹo mật bôi thoa trộn vào thuốc khó uống để dẫn dụ trẻ nhỏ đưa vào miệng. Nếu chẳng phải đại quyền nhập giả thì sao có thể vận dụng phương tiện độ người nhiều vô cực như vậy.
Thích Pháp Chánh, không rõ Sư là người xứ nào. Tâm Sư rỗng rang, cẩn tu quyết hạnh, giữ gìn ba nghiệp, chế ngự sáu căn. Thường ngày Sư tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã hai mươi mốt biến, hành trì kính cần không hề biếng trễ.
Đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Sư mắc bịnh bị chết giấc. Sư kể lại rằng: "Đột nhiên đến coi u Minh, gặp Minh Vương, Minh Vương hỏi Sư rằng: "Sư bình thường tu tạo ruộng phước gì? Và được thiện quả thế nào?" Sư bèn đem việc tụng kinh mà trả lời. Minh Vương bèn dẫn Sư đến điện, mời Sư lên tòa gấm và thỉnh đọc tụng kinh bảy biến. Từ Minh Vương trở xuống cho đến các người thị vệ không ai chẳng chắp tay. Mọi thứ tra hỏi đánh đập, mách cáo luận bàn dưới thềm thảy đều dừng lặng, không có tiếng động. Sau khi Sư tụng kinh xong, Minh Vương sai một người đưa Sư trở về nhân gian, và tự thân Minh Vương bước xuống thềm cấp vái chào đưa tiễn nói với Sư rằng: "Thượng nhân lại được sống ở đời ba mươi năm, chớ phế bỏ sự tụng trì!" Sư theo kẻ sứ đi được vài dặm, đến một cái hố lớn, tự n hiên bảo Sư cúi đầu nhìn xuống, và bị kẻ sứ xô rớt như rơi giữa khoảng không, tức khắc Sư liền sống lại.
Ban đầu, khi mới chết giấc chỉ có mặt Sư chẳng lạnh, đến lúc Sư sống lại, kể lại việc ấy, khiến người dời tâm cải thiện chẳng phải một. Sau, hơn tám mươi tuổi, Sư mới thị tịch tại chùa Sư ở.
Kế nữa, có Ngài Thích Hội Tông ở huyện Công An, thuộc Kinh Châu. Ban đầu Sư xuất gia làm tăng, không có nghề gì khác. Bỗng nhiên mắc phải bịnh độc cổ chỉ còn da bọc xương. Nhân đó, Sư khổ thiết phát tâm tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, để đợi hết số. Đến qua năm mươi biến, Sư mộng thấy một người bảo há miệng, kéo trong cổ họng ra hơn mười cọng tóc. Đêm đó, Sư mộng thấy ói nhả con giun đất dài hơn một tấc. Hơn tháng sau, nhân đó, Sư lành bịnh. Lúc ấy nhằm khoảng đầu niên hiệu Trường Khánh (821). Có Sa-môn Hạnh Đỗ trông thấy việc ấy. Sau không biết Sư tịch ở đâu.
Thích Thủ Tố, lập tánh cao xa, chẳng giống như đồng bạn. Sư trụ chùa Hưng Thiện ở Kinh Triệu, thường lấy sự tụng trì làm việc gấp. Nơi viện Sư ở vắng vẻ, có bốn gốc ngô đồng xanh tốt đều do tay Sư trồng.
Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), các hàng khanh tướng thường đến thăm viện Sư. Đến giữa mùa Hạ tự nhiên cây ngô đồng chảy mồ hôi rất dơ y phục của người, như dầu mỡ mà không thể tẩy giặt. Bấy giờ, Tướng quốc Trịnh Công Nhân cùng Thừa Lang lánh nắng, lại ghét nó nhỏ giọt thấm rít, bèn thưa với Sư rằng: "Đệ tử xin chặt bỏ cây này giùm thầy, mỗi nơi trồng lại một cây thông có được chăng?" Đến chiều tối, Sư cười đùa chú nguyện, bảo với các cây ngô đồng rằng: "Ta trồng các ngươi đã hơn hai mươi năm nay, ngươi đổ mồ hôi thấm rít khiến người nhàm ghét đồng như loại cây xấu, không thể thôi nhỏ giọt. Năm sau nếu còn như vậy, ta sẽ chặt làm củi!" Từ đó bèn dứt bặt, không còn chảy mồ hôi nữa.
Ngài lập nguyện không ra khỏi viện, trì tụng Kinh Pháp Hoa ba mươi bảy ngàn bộ. Ban đêm thường có con hạc thuần đi nhiễu lắng nghe kinh. Đến giờ thọ trai thì chim thước đến trong tay Sư mổ lấy thức ăn. Có vị tăng khác dùng thức ăn để dụ các loài chim, đều kinh hãi kêu la mà chết. Đầu niên hiệu Trường Khánh (821), có Sa-môn Huyền U, đề ở Viện đó rằng: "Ba mươi năm tụng ba muôn bộ Kinh Pháp Hoa. Nửa đời chân chẳng đạp bụi trần nơi cửa Viện". Người thời bấy giờ cho là trụ cú. Không rõ về sau Sư mất ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Người chích cây sơn thường lo nó ít giọt, vì mến thương nên khó cầu. Người chặt cây cao sợ nó nhiều cay đắng, chán ghét mà dễ được. Ôi! Cây ngô đồng xanh tốt chảy ra mồ hôi, thật ở đời ít nghe. Đến lúc Ngài Thủ Tố rầy la nó thì năm sau dứt vết. Há có người đệ tử xuất gia chẳng như cây gỗ vô tình kia ư? Đã chẳng có khả năng làm sơn cùng vật cách biệt dơ bẩn vì cao cùng ăn thêm mùi vị của nó ư? Nếu được sự đánh mắng của thầy bạn, lấy khiến hoàn toàn thanh tịnh. Truyền rằng: "Có lỗi thì chớ sợ sửa đổi". Theo trong bổn giáo thì "Hối tội thanh tịnh", như vốn không khác, cần suy nghĩ đó!
Thích Hoa Nghiêm Hòa-thượng. Không biết Sư họ là gì. Sư trụ ở phía Bắc thành U Châu, thường tụng Kinh Hoa Nghiêm làm tịnh nghiệp, nên người thời bấy giờ thường lấy đề kinh mà gọi Sư. Những lúc Sư tụng kinh, khắp cả thành đều nghe như ở dưới sân vậy.
Vào niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên (696-697), Hàn Quốc Công Trương Nhân Nguyện đến làm đô đốc U Châu, ban đêm nghe tiếng tụng kinh từng phẩm rõ ràng, đến sáng ngày, nói với phu nhân rằng: "Đêm qua ở phía Bắc thành có tiếng của Đạo nhân tụng kinh, nghe như ở trước nha thự, Bà có nghe như thế chăng?" Phu nhân hỏi: "Đó là xứ nào ở xa mà có thể được nghe vậy?" Trương Nhân Nguyện bảo: "Nếu không tin thì hãy sai đứa bé chạy ngược sang dò xét thử". Quả nhiên trở về báo lại không sai lầm. Trương Nhân Nguyện bèn thỉnh Sư vào thành. Khi gặp gỡ nhau, Sư hỏi Trương Nhân Nguyện rằng: "Có nguyện sao chẳng báo ư?" Trương Nhân Nguyện đáp rằng: "Hiện tại đang sắm sanh năm trăm bộ pháp phục ca sa để đi cúng dường La-hán". Sư bảo: "Chớ đi đâu xa, chỉ cần đưa đến cúng dường chư tăng chùa Trúc Lâm ở núi Mã An thuộc phía Tây U châu" Đến lúc Trương Nhân Nguyện sai sứ mang hương, pháp y, các vật.. lên núi Phật Lũng đã xa, tìm chùa Trúc Lâm, thì không thấy dấu vết gì, cứ thế vào sâu, leo lên núi cao, thấy một ông lão, bèn hỏi, Ông lão bảo: “Cứ đi theo tôi". Đợi thấy mây tan thì chùa hiện, mọi cảnh vật của thế gian chẳng có, vào chùa lần lượt cúng dường pháp y ca-sa, cuối cùng thiếu hai người, thừa hai phần. Vị lão túc ấy bảo: "Hãy mang hai phần ấy về, một phần cho Trương Nhân Nguyện và một phần cúng dường Hoa Nghiêm Hòa-thượng". Từ đó mới biết Sư là người trong chùa Thánh Trúc Lâm mà đến. Người Sứ ở lại trong chùa một đêm, sáng ngày đi ra thì đã qua năm sau rồi.
Sư hành hóa đã lâu, sau Sư an tọa mà thị tịch, nhục thân không khô héo rã nát. Dân chúng ở Phạm Dương phần nhiều hay nguyện cầu, bấy giờ có nhiều điều ứng nghiệm. Tháp thờ Sư gần đây nhân bị chiến tranh mà hư hoại.
Liên hệ thử bàn:
Từ một miệng tuyên tụng làm sao có thể vào thấu tai mọi người ở xa gần ư? Thông đáp: Gần thì như năng lực nguyện trì Kinh Thiện Pháp, xa thì một lời giảng nói mà tùy loại nghe hiểu. Hoa Nghiêm Hòa-thượng là một thành viên trong chùa Thánh, suy đoán có thể biết.
Thích Văn Chiếu, không rõ Sư là người xứ nào. Vốn người thuần phát chậm chạp, nhưng thấy tượng Phật thì liền vui mừng. Một sáng nọ, Sư đến chùa Bách Thê, đảnh lễ Pháp Sư Đàm Diên, vẽ ảnh xuất gia. Sư chuyên tụng các kinh mà không biết giải thích, thường tự tức giận bởi bẩm thọ tánh trí tối tăm. Bỗng nhiên Sư như giả ngủ, thấy Pháp Sư Đàm Diên thân cao một trượng, mắt sáng như xẹt bắn tứ phía, bảo với Sư rằng: "Điều muốn của ông, ta làm sao có thể làm cho toại nguyện, ta có một quyển kinh thông minh, ông mong cầu điều đó phải kính cẩn mà trì, lấy sự cảm ứng như cúi xuống mà lượm nhặt hạt cải dưới đất". Bèn lấy trong tay áo ra trao cho Sư, thì đó là Kinh Kim Cương Bát-nhã. Sư liền cầm lấy đọc tụng bảy biến rồi liền thức giấc, Kinh như ở tại mắt. Sau đó, Sư niệm tụng không trệ ngại, như đã tập học từ lâu. Khoảng giữa cổ họng và lưỡi của Sư khúc chiết trầm bổng tự nhiên biến vào tiết tấu chẳng phải điệu thường. Từ đó Sư thông minh, mỗi ngày một thay đổi, biện luận hợp với miệng. Người thời bấy giờ cho đó là Bồ-tát Quan Âm giúp đỡ cho Sư, Sư còn bảo: “Thầy ta là Chu Tùy quốc sư. Tất cả các biên tập nghĩa sớ của ta đều nương mộng mị mà thần trao.
Ta không hổ thẹn vì đã giúp đỡ.
Thích Pháp Chiếu, không rõ Sư là người xứ nào, đi đứng thường thô tháo, Sư du phương bất thường.
Đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Sư vào nghịch Lữ đụt mưa, trời mưa lắm bùn dơ, đã quá ngọ mà khất thực không được, Sư bèn sai đứa bé mua thịt lợn, nấu với mấy cái bánh Hồ, ăn đến gần hết, không hề tỏ vẻ hổ thẹn và xem chung quanh như không có người. Mọi người khách đều mắng nhiếc, có gã thiếu niên như muốn đánh Sư. Sư rất khác lạ tự nhiên chẳng đối đáp gì. Đến tối Sư tụng Kinh Kim Cương, vốn không có đèn, mà cả phòng đều sáng tỏ, có mùi hương lạ xông ngát, tất cả có hai mươi mốt người khách, đến lễ bái sám tội lỗi. Mỗi người đều cúng thí y vật. Sư vẫn ngồi xoạc chân như không thấy gì. Sau không biết Sư tịch ở đâu.
Thích Tuệ Phổ, họ Tống, người ở xứ Kỳ Thủy, thuộc trong bổn quận, tánh Sư phóng khoáng, thông minh tài giỏi. Sư vâng giữ giới pháp, gìn giữ sạch như băng tuyết.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (817), Sư đến vùng Quảng Tế. Ở đó đất linh núi đẹp, nên Sư nguyện trụ ở đây. Ban đầu, Sư định tụng Kinh Đại Niết-bàn, trải qua một năm, cuối cùng thông suốt bốn mươi hai quyển. Người nghe nói khen rằng: Cả bốn pho Kinh lớn mà như là ôn tập chẳng suy lường mà có thể đạt được ư! Có người nghi đó là nói vọng suốt bộ có loạn tâm, kế đến nêu lên đề phẩm để thử nghiệm, đề không rít sáp vướng mắc. Ít lâu sau, số đó không ai chẳng kính phục. Sư cũng chẳng để ý, tự thân trồng tỉa nấu ăn các thứ đủ dùng mà thôi. Lót cỏ để nằm, mặc áo vải cừu để qua năm tháng, suốt ngày đêm tiếng tụng kinh không dứt. Như vậy trải qua ba mươi năm, mọi người trong ấp cũng như các hàng học giả thảy đều kính trọng, sửa sang viện Vũ.
Đến mùa Đông niên hiệu Đại Trung thứ 03 (849), tự nhiên không bịnh, Sư nhóm chúng cáo từ rồi ngồi kiết già mà thị tịch, an nhiên như đang lắng đọng tư duy. Đệ tử dùng bùn thơm ràng rịt rồi đón rước vào trong tháp Sơn Tiêu, đề hiệu là Niết-bàn.
Đến nay hương hỏa vẫn không dứt.
Không biết Sư tên họ là gì. Vào niên hiệu Trường Khánh (821
-825), Sư từ xa đến. Tướng trạng sư thô bạo. Thấy tịnh nhân ở trong chùa, Sư bèn quát bảo: "Cho ta tiền để mua rượu". Chư tăng trong chùa thấy thế tức giận, Sư chẳng giữ giới hạnh, đã làm nhục tăng phường của mình quá đỗi, bèn đoạt lấy cái bình trên tay Sư quăng vào gốc cây bách ngoài vườn chùa. Chiếc bình tuy cứng nhưng bị vỡ, rượu trong bình ngưng đọng lại chẳng chảy, dính vào thân cây như ngọc xanh, quậy mà chẳng tan, ngửi không nghe mùi hôi, Chư tăng trong chùa kinh hãi lấy làm la, hỏi Sư về nguyên do. Sư bảo: "Tôi thường trì tụng Kinh Kim Cương Bát-Nhã, cần phải uống vật ấy một chén, thì tán tụng mới rõ ràng lưu loát, đó là lệ thường, còn không có thì không thể được, các vị thượng nhân chớ lấy làm lạ!" Chư tăng trong chùa dùng dằng trong chốc lát rồi xỉu mặt đem đồ vật đến gốc cây hứng lấy rượu ấy đều chảy xuống trong đồ vật, không sót một tý nào. Mọi người đều trông nhìn, lâu sau đến nếm thử, bỗng chốc đồ vật ấy dòn vỡ mà cảm thấy ngon lành. Không biết Sư qua lại phương xứ nào.
Thích Linh U, không rõ Sư là người xứ nào. Tánh Sư vắng lặng thuần trực, chuyên cần tụng tập. Tình cờ bị bịnh mà chết giấc, mịt mờ đến chốn Minh phủ, dẫn đến chỗ vua Diêm-la, vua hỏi Sư thường tu hạnh nghiệp gì? Sư đáp: "Bần đạo trì Kinh Kim Cương Bát-nhã đã được mấy năm". Diêm Vương chắp luôn miệng xưng "Tốt thay!" Rồi bảo Sư đọc tụng. Sư bèn đọc tụng chương đoạn rõ ràng. Tụng xong, Diêm Vương bảo: "Chưa thật sự tốt lành! Vì sao? Vì xét còn thiếu một tiết văn. Tại sao chỉ xỏ hoa bị đứt vậy? Sư thọ mạng tuy đã hết, nhưng, sẽ thả trở lại nhân gian mười năm, phải khuyên tất cả mọi người thọ trì kinh điển ấy. Chân bản kinh ấy là trên bia đá tại chùa Chung-Ly ở Hào Châu!" Như thế mà đã trải qua bảy ngày, Sư sống lại, Sư bèn tấu trình và vâng sắc viết lại bổn chính thật của kinh ấy, thêm câu của Diêm Vương nói vào sau câu: "Không Pháp nào nói được, ấy mới gọi là nói Pháp".
Liên hệ thử bàn:
Xuân Thu Hạ Ngũ chẳng dám xem thường mà thêm thắt, Phật pháp cũng nên như vậy, không được vọng vẽ vời! Thông đáp: Ngài Linh U được văn kinh trên bia đá ở chùa Chung Ly, phù hợp không có sai sót.
Như chỗ thêm lẫn lộn của Ngài Đạo Minh khiến người nghi ngờ, không khỏi vời lấy giả dối, phép sửa đổi bày xin khuyên đó thay!
Thích Duy Cung, không rõ Sư là người xứ nào. Thuở nhỏ, Sư xuất gia tại chùa Pháp Tánh. Sư ưa thích bức hiếp kẻ dưới. Phần nhiều kết bạn với hạng người không ích lợi. Tuy trái với pháp hạnh của vị tăng nhưng Sư còn siêng năng trì tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, ít hở môi răng. Bọn trà rượu bài bạc tụ tập nơi cửa nhà, luống dối cùng bảo rằng: "Làm tăng mà không liêm sĩ". Sau Sư mắc bịnh mà tịch.
Cũng tại chùa Pháp Tánh, có Ngài Linh Vị, hành tung cũng tương tợ như Ngài Duy Cung, nên người đương thời cho đó là: Một ngôi chùa mà có đến hai người tệ hại.
Tình cờ, Ngài Linh Vị đi ra khỏi chùa chừng một dặm, gặp sáu bảy người thiếu niên to lớn, ăn mặc rất đẹp, mỗi người đều nắm nhạc cụ như Quy Tư Bộ, hỏi Sư rằng: "Duy Cung Thượng nhân ở đâu?" Sư bèn chỉ chỗ Ngài Duy Cung đang ở, Sư nghĩ là họ đến chùa hành hương trỗi nhạc cúng Phật. Đến sáng sớm hôm sau trở về lại chùa nghe tiếng chuông báo là Ngài Duy Cung thị tịch, Sư mới hiểu những vị gặp gỡ ấy là các vị trời, bởi nương năng lực mầu nhiệm của kinh sẽ được sanh về cõi tịnh. Và cũng dùng sự tích ấy mà khuyên Ngài Linh Vị tấn tu. Ngài Linh Vị cảm ngộ mà kính phục, chư tăng đều kính trọng, sau trở thành bậc cao.
Thích Toại Đoan, họ Trương, không rõ từ đâu mà Sư đến chùa Đức Nhuận cầu thầy. Sư là người chất trực trong sạch, chẳng giao du bừa bãi. Thầy Sư trao cho Bộ Kinh Pháp Hoa, Sư đọc tụng như ôn lại. Đến lúc tuổi già, Sư vẫn chuyên cần không biếng trễ. Trong mười hai thời, luôn trì tụng không thôi nghỉ.
Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 2 (861), bỗng nhiên Sư ngồi kiết già mà thị tịch. Chỉ chốc lát, từ trong miệng Sư mọc ra bảy cánh hoa sen mầu xanh. Xa gần mọi người đua nhau đến chiêm ngưỡng đảnh lễ. Người trong xóm cùng nhau xây khám ở dưới Đông Sơn. Hơn hai mươi năm sau, tại mộ tháp Sư thường luôn có ánh sáng phát ra. Sau, đào lên xem, hình chất Sư vẫn như lúc sống. Mọi người bèn đón rước về chùa sơn phết. Nay gọi là viện Chân Thân hiện vẫn còn. Chùa đó vốn là thư đường của Ngô Thái Tử Thái Phó Đô Hương Hầu Hám Trạch, sau xả thí làm chùa nên biển ngạch chùa lấy chữ "Trạch", nay tức là chùa Phổ Tế.
Liên hệ thử bàn:
Lúc thị tịch, miệng Ngài Toại Đoan mọc hoa sen là sao? Nghe nói lúc các bậc Luân Vương ra đời thì trên đường trong biển mới mọc hoa ấy. Nay vào thời Tượng Pháp, Mạt Pháp há cũng có thế ư? Thông đáp: "Vì cảm người mà ứng, chẳng thể lấy thời gian mà hạn cuộc. Thí như loài lân vốn là loại không có ở Trung Quốc, nhưng, vì cảm Minh Vương mà đến, cũng đồng giống như vậy.
Thích Thần Trí, là người xứ Nghĩa Ô, thuộc Vụ Châu, vốn họ Lực. Tổ tiên Sư họ Lực. Sau thời Hoàng Đế Thần Mục, trong thời nhà Hán có Lỗ Quận Tướng Lực Quy, nhân làm quan ở Duyện Châu, bèn trở thành người đất Lỗ. Tổ khảo của Sư đều là điền chủ mà chất phác nương nhau.
Sư thuở nhỏ có tiết tháo ngay thẳng, tha thiết muốn xin bỏ tục, đến chùa Vân Môn, tôn Ngài Duy Hiếu làm thầy. Năm mười hai tuổi, Sư chỉ ăn một bữa vào bữa trưa, trì chú Đại Bi Tâm, ứng Pháp đăng đàn thọ giới cu túc, Sư luôn nghiêm khắc kính cẩn tinh tấn. Bỗng nhiên gặp lúc pháp nạn Hội Xương, Sư hình phục tuy khác mà thệ quyết làm tăng, mài chẳng mỏng mà nhuộm chẳng thấm. Đến đầu niên hiệu Đại Trung (847), đạo pháp phục được hưng, Sư đi khắp Kỵ Dương, khảo cứu Thiền thất. Sư bảo: "Dựng đình thì cá ở nơi rừng chằm. Nên thay! Xứ này là rừng chằm của ta". Sư thường trì chú vào trong chén nước để cứu các thứ bịnh, mọi người uống phần nhiều đều lành, bá tánh đua nhau kéo đến, thường ngày Sư cung cấp vô số, họ gọi Sư là "Đại Bi Hòa-thượng".
Vào niên hiệu Đại Trung (847-860), Sư đến xứ Kinh Triệu. Bấy giờ, Thăng Bình Tướng Quốc Bùi Công Hưu nằm mộng thấy Sư đến. Tới lúc trông thấy vô cùng mừng vui, con gái của Tướng Quốc bị quỷ thần nhiễu hại. Sư trì chú chữa trị bảy ngày liền được bình phục. Tướng Quốc liền tấu trình xin đề biển ngạch cho Viện Sư ở là "Đại Trung Thánh Thọ", bèn ban tặng một quả chuông Tả Thần Sách Quân, màn gấm của Thiên Hậu, Kinh tạng năm ngàn quyển, Bùi Quân Hưu viết chữ trên tấm biển ngạch của điện.
Đến tháng 12 năm Bính Ngọ (886) thuộc niên hiệu Quang Khải, Sư thị tịch tại núi Đông Bạch, thọ sáu mươi tám tuổi, bốn mươi tám hạ lạp, rước linh tòa về an táng tại núi ở phía Nam Kỵ Dương.
Thích Tùng Thẩm, không rõ Sư họ gì. Từ thuở nhỏ, Sư bỏ nhà vào chùa Thiền Trí ở Giang Đô, trì tụng Kinh hơn mấy muôn lời. Chùa đó là cung điện cũ của vua Dương Đế (605-617) đời Tùy.
Niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (864) thời Tiền Đường, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Phụng Phước ở Yên Đài. Nơi các pháp tịch giảng luật đàm kinh Sư đều biết khắp và đến nghe học. Sau, gom ba y thành ngũ nạp, các danh sơn thắng tích Sư đều đến chiêm lễ. Cuối cùng, Sư trở vè Hoài Điện, mọi người đều suy cử Sư đứng đầu chư tăng, suốt thời gian năm, sáu năm mỗi mỗi thảy đều nghiêm túc, nhưng Sư thường trì tụng Kinh Tịnh Danh, chưa từng sai sót với ngày giờ đã hạn định.
Đến ngày 18 tháng 03, niên hiệu Trinh Minh thứ 2 (916) thời Hậu Lương, Sư phát bịnh, qua hôm sau, hơi thở Sư nhẹ dần mà thị tịch. Nhan sắc vẫn như thường. Sau khi trà-tỳ thâu nhặt được ba mươi viên xá-lợi cứng chắc và sáng, mài giũa vẫn không hao sút. Bèn chất sắp làm mộ. Sa-môn Linh Hộ ở Quân Nguyên soạn bài minh trên mộ.
Thích Hồng Sở tự là Phương Ngoại, họ Đường, người ở xứ Vĩnh Gia. Vừa mới sanh mà hình thể của Sư đã khác hẳn bao trẻ khác, đến tuổi búi tóc, khí độ Sư rộng rãi. Ngoài Sư, các anh em của Sư đều xả tục, vượt đến chùa Long Cung, Sư bèn xin cha mẹ đi theo, như lưới thưa cá thoát, lồng cao hạc bay, tợ cây đỗ trồng ở Lan Châu, tơ mới mà nhuộm sắc đỏ, khuyên gắng lẫn nhau, tụng tập càng thông.
Năm hai mươi ba tuổi, Sư thọ giới cụ túc, sau đó trở về bổn quận. Bấy giờ, Châu tướng Chu Bao biết danh tiết Sư nên khâm kính càng ân cần. Vào niên hiệu Đại Thuận (890-892) thời Tiền Đường, ở phía Nam thành có chùa Đại Vân bị hoang phế, Sư bèn dâng biểu tấu trình muốn xây dựng lại. Vua Chiêu Tông chấp thuận thỉnh nguyện ấy. Do đó, trăm thợ cùng làm, tự thân Sư đứng ra chủ trương, thi lợi trình công, chẳng lỗi nơi vốn, mà Sư giảng kinh lễ tượng, vô tướng đoạt luân.
Đầu niên hiệu Càn Hóa (911) thời Hậu Lương, Võ Túc Vương họ Tiền mở giới đàn độ tăng tại chùa Long Hưng ở Hàng Châu, thỉnh Sư thân lâm làm tôn chứng ở giới đàn, và nhân đó tấu trình vua Thái tổ (Chu Ôn) ban tặng pháp y sắc tía và danh hiệu. Sư cố từ chối chẳng nhận và không hề đắp mặc. Sư tự nói: Lượng đức đâu xứng mặc áo pháp môn mạng số". Bấy giờ, có thi nhân Trịnh Thuyết đi đến phương Nam phỏng hỏi Pháp Sư Hồng Tĩnh, tình cờ gặp được Sư, mới biết Sư là bậc cao hạnh, bèn làm thơ tặng Sư rằng:
"Trên giá, áo tía móc chẳng mặc
Đầu bàn chữ vàng ngồi xem mãi".
Tánh Sư khoan dung từ hòa, mọi người không hề thấy Sư tỏ vẻ nóng giận, thần khí thanh thản thông tuệ, gò má đầy đặn, cái bụng to phệ, mắt chẳng nhìn tà vạy, muốn ngó nơi nào thì xoay cả mình lại, lời của thế tục Sư chẳng khinh thường. Ngài giảng Kinh Pháp Hoa có đến năm Pháp tòa. Một hôm, trong giảng đường của Sư bỗng nhiên có mọc hoa sen, hạt trùng lá kép, mùi thơm phảng phất.
Đến ngày mùng 5 tháng 6 năm Nhâm Thìn (932) thuộc niên hiệu Trường Hưng thời Hậu Đường, Sư không bịnh mà thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Kẻ tăng người tục như trẻ thơ tỏ vẻ kính mến, năm đó dời tháp về tại sườn núi ở phía bên phải chùa Từ Vân.
Thuở bình sanh, Ngoài việc giảng dạy, Sư còn thâu đêm hành đạo tụng kinh. Trong đêm sắp tịch, ánh đèn tự nhiên tắt mất, tiếng Sư tụng kinh nhỏ dần. Sư bảo với môn nhân rằng: "Nhọc các ông phải lo mọi việc, nay ta sắp đi!" Tại giường chỗ Sư nằm trước kia có con rán mầu trắng mình lớn như cổ tay, thường cùng nằm đó, những người lớn răn trẻ nhỏ chớ vọng quấy phá. Sư có soạn "Thượng Sanh Kinh Sao", chích máu viết một bộ kinh Pháp Hoa. Đến nay, dân chúng xứ Vĩnh Gia đều gọi Sư là "Báu lạ trong tăng bảo".
Thích Hồng Cử, họ Đường, người ở xứ Vĩnh Gia, sớm xuất gia tại chùa Long cung ở Việt Châu. Ban đầu, Sư tụng Kinh Pháp Hoa toàn bộ. Sau khi được độ, Sư lần gót đến Trường An tập học luật. Nhân đó đọc văn bia ở chùa Hóa Độ. Bấy giờ có các cử nhân cùng dự nghe, thấy Sư mà đoán biết có lắm hạnh, lấy làm lạ, biết Sư có thể đọc thuộc lòng văn bia, nên thỉnh Sư đọc. Các Nho sanh dò xét văn ấy, rõ ràng không hề sai. Lại cùng dẫn đến chùa Sùng Thánh cũng vậy. Và Sư có trí nhớ dai, được mọi người suy trọng. Nói Sư trở về quê cũ thỉnh thọ hai chúng y chỉ. Sư giữ tế hạnh, từ thuở bé đến lớn, Sư không hề quát mắng chó mèo, huống gì là người khác. Nhưng ngày đêm hành đạo tụng kinh đều có quỷ thần giúp đỡ che chở, hoặc vì đốt đèn, hoặc thay thêm hương, đều do quỷ vật làm.
Đến năm Mậu Tý (928) tức niên hiệu Thiên Thành thứ 3, sau cơn bão lụt lớn, lại nắng hạn gay gắt, dân chúng bị đói kém. Có bọn giặc cướp hung dữ xông vào thất Sư ở, Sư tiếp đãi chúng như khách, tự thân làm cơm cháo cho chúng ăn, và bảo: "Từ từ vào nơi núi sâu, chỗ không người, các ông khốn khổ là do thiên tai gây nên". bọn giặc bái lạy nhận lấy mà đi. Trong hàng đệ tử Sư có người muốn đánh lén bọn giặc mà chưa cụ bị. Sư bảo: Ông chẳng phải là đệ tử của ta, ta thả chúng nó vĩnh viễn vào nơi rừng sâu. Các ngươi thôi bỏ ý khinh thường đánh lén chúng!"
Đến năm Quý Tỵ (933) thuộc niên hiệu Trường Hưng, bỗng nhiên Sư không bịnh mà ngồi kiết già thị tịch. Đến canh ba, ba lần đưa tay gõ vào cửa khám, các đệ tử gào khóc đến mở xem, Sư bảo: "Ta bảo với các ông thay xiêm y mới cho ta, vì ở cõi Phật, các thượng thiện nhân chê trách ta mặc đồ bất tịnh". Thay y phục xong, Sư bèn thị tịch. Bảy ngày sau trên đảnh đầu Sư vẫn nóng ấm. Bấy giờ, trong viện Sư ở có ba con chó rất lớn hay gặm cắn hung dữ. Ngày dời tháp, nó đi theo người như thuần quen. Khi đó trong rừng bầy nai xúm xít, chim bay xen lẫn, chó chẳng vồ đuổi, cầm thú chẳng kinh chạy. Sau khi an táng, có con hổ đi nhiễu quanh mộ tháp gầm thét. Sư chiêu cảm tình của loài vật đến như thế.
Sư có đệ tử Hồng Sở đều là bậc cao hạnh, được người đương thời tôn trọng.
Thích Đạo Hiền, không rõ Sư là người xứ nào, Sư trì tụng Kinh Khổng Tước Vương làm thời khóa hằng ngày. Sau Sư thọ Pháp Du-già Quán Đảnh. Công phu Sư trì minh càng lắm ứng nghiệm. Thường đêm mộng thấy Phật dẫn dắt Sư đi, từng bước đạp trên mây như đi trên vật gì bền chắc. Thường đi không biết bao nhiêu dặm mà chỉ và nói với Sư rằng: "Đây là nước Ma-kiệt-đà, đó là nước Chiêm-Ba, đó là Nam Ấn-Độ, Kia là Tây Ấn-Độ, nọ là nước Ca-Thấp-Di-La v.v... vừa đi vừa ghi nhận, mừng vui hớn hở không gì bằng. Đến lúc tỉnh ngộ thì thầm hiểu biết Phạm âm của năm xứ Ấn-Độ. Bấy giờ, có Sa-môn Tây Vực đến Kỳ Hạ, có các vị Hồ tăng ở phía Bắc Thông Lãnh thường ngụy xưng là người của năm xứ Ấn Độ. Sư bèn dùng một thứ tiếng mà tiếp chuyện với họ, trước hết dò xem mà hỏi rằng: "Ông là người nước nào?". Bắc Nhung Nam Phạm không dám cấp đó, kẻ tăng người tục khắp cùng Lũng Để, đều bẩm thọ thừa lãnh Mật tạng, xưng tôn Sư là A-Xà-Lê.
Đến cuối niên hiệu Trường Hưng (934), Vua Minh Tông băng hà, lập Lý Tùng Hậu (tức vua Mẫn Đế) lên ngôi. Bấy giờ, Phụng Tường Thanh Thái (tức Lý Tùng Kha) chẳng vâng thừa mạng lệnh, sai Vương Tư Đồng dẫn binh lính đánh Lý Tùng Hậu. Lý Tùng Kha bèn đi vòng quanh thành tự giữ, và hỏi Sư rằng: "Nguy ách quá lắm như thế này phải làm sao?" Sư đáp: "Mời Đậu Bát Lang đến hỏi thì sẽ biết được thắng thua". Lý Tùng Kha bèn ra khỏi thành an ủi động viên dân chúng, còn Đậu Bát Lang thì mặc giáp cầm giáo đến trước ngựa, làm bộ dạng nghinh đấu, nhảy nhót rồi cởi giáo ném áo mà bỏ chạy. Sư bảo: "Đó là hiện tượng lính địch ở phía ngoài ắt sẽ hàng". Quả nhiên đúng lời như Sư nói: Lý Tùng Kha bèn đẩy binh lính mà đi về hướng Đông, thỉnh Sư cùng đi, về đến kinh đô Lạc Dương bèn lên ngôi. Và đổi hiệu là "Thanh Thái (934). Sư bèn tâu rằng: "Đặt tên niên hiệu không tốt. Vì sao? Vì nước trong thì thấy đá". Đến hai năm sau (936), vua Phế Đế, Thanh Thái ban sắc dời đến Tinh Châu, bị Thạch Kính Đường (tức vua Cao Tổ Thời Hậu Tấn) là Thiên Bình Quân mới cản trở binh lính tự bền chặt, ngầm liên kết Khiết Đan, Trường Khu vào Lạc Thành, vua Phế Đế bèn tự thiêu, quả ứng lời Sư nói là thấy đá.
Khi binh lính quân Hậu Tấn chưa đến thì Sư đã thị tịch trước tại kinh đô Lạc Dương, nay ở Lưỡng Kinh mở mang truyền bá Đại giáo đều là pháp tôn và tằng huyền của Sư. Đậu Bát Lang là người ở xứ Kỳ, gia đình rất giàu có mà tự mang đồ vật đựng cháo nước, nói năng bất thường, chỉ rãi tóc mặc áo chạy cuồng, giống như Lý Thuận Hưng. Hoặc gặp xe bò xe lừa thì vỗ tay mà cười. Đến khi chết, đem thiêu, trong đống lửa đều hóa thành Bươm bướm mầu vàng ròng mà bay đi, hoặc tay rút lấy áo quạt mà đi, mang về nhà cúng dường.
Thích nhược Hư, Ngài ẩn cư tại Lô Sơn, suốt mấy năm trì tụng Kinh, chẳng bước ra khỏi động đá. Giang Nam Quốc Chúa do Lý rất khâm phục mến chuộng đạo phong của Sư đã nhiều lần thỉnh nhưng Sư chẳng hề đến, chỉ nói là lão tăng không có khả năng. Ninh Tiêu Vương giả quy tâm nhưng lại trốn vào núi sâu. Nếu có cúng dường y vật thì lánh nhường còn hương thì nhận lấy. Vào giữa mùa Hạ trong niên hiệu Càn Hựu (948-951), Sư an tọa mà thị tịch, nhục thân không tan rã. Nay dân chúng vùng Bồn Thành thường cúng dường ảnh tướng.
Lại ở tại Đàm Châu có Ngài Thích Vô Danh, thường tụng kinh Pháp Hoa, miệng không nói lời gì khác. Trường Sa Văn Chiêu Vương họ Mã đặc biệt rất trọng dụng kính lễ, thỉnh Sư vào viện Tương Tây ở phủ Thiên Sách để cúng dường. Nhưng Sư nói việc lạ lùng rất kinh hãi. Một buổi sáng nọ, Sư bảo vị tăng trông coi việc ở điện Phật, hãy gấp thỉnh tượng Phật đặt ở hai bên chái nhà. Chư tăng đều cho là Sư phát cuồng, nên nhìn nhau cười. Mọi cử chỉ của Sư rất cấp thiết, chỉ chốc lát, Sư tự vào trong chánh điện, leo lên tòa thờ Phật mà ngồi và tự nhiên thị tịch. Kẻ tăng người tục khắp cả châu tranh nhau lễ bái đốt hương. Bấy giờ nhằm niên hiệu Càn Hựu (948-951) thời Hậu Hán.
Thích Hạnh Thao, họ Trần, người xứ Trường Thành, thuộc Hồ Châu, cha của Sư húy là "Lương", mẹ của Sư họ Đào, tâm luôn mến thương Sư có khác những người con kia. Sư thông minh lanh lợi vượt trội những trẻ nhỏ tài tuấn trong quận. Cha mẹ Sư có nhiều cách cản trở chí nguyện xuất gia của Sư, nhưng chẳng thể ngăn cấm được.
Niên hiệu Thiên Hựu thứ 2 (905) thời tiền Đường, Sư đến nương tựa Đại Sư Quang Viễn xin xuất gia. Năm mười hai tuổi, Sư tụng Kinh Pháp Hoa, chỉ một tháng lẻ năm ngày thì hết bộ. Tiếp theo, Sư tụng kinh Duy-ma, đều như ngài Đạo An sáng thì thỉnh cầu kinh mà tối thờ lại xếp bổn. Sau đó, Sư đến chùa Long Hưng ở Dư Hàng xin thọ giới cụ túc, bèn đến chùa Song Lâm ở Kim Hoa, chỗ Luật Sư Trí Tân truyền dạy "Nam Sơn Luật Sao". Sư đuổi tiết phục ứng, đồng bạn đều kính trọng. Thường đến giờ ăn thì bỏ gạo còn cám cùng với rau vào trong cái đảnh nhỏ rồi nấu mà ăn, ngoài ra không hề có mùi vị gì. Trong tâm nghĩa giải lý như chẻ cây, đều không tỏ vẻ khó khăn. Sư từng nói với mọi người rằng: "Điều rất tốt lành là chẳng thấy sự tốt lành của vật khác, sự tốt lành của tôi là ưa thích sự không hoang phế!".
Vào niên hiệu Thiên Thành (926-930) thời Hậu Đường, Sư đến ngụ tại U Việt, ưa thích sông núi Nhã Da, xem đọc Đại Tạng Kinh giáo, mặc áo vải sợi gai, chiêu mộ kẻ tăng người tục, đặt "Khán Kinh Đạo tràng", ở góc Tây bắc chùa xây dựng lầu gác Điện Vũ, làm thành Biệt viện, cúng dường cung phụng chư tăng khắp nơi không để thiếu thốn. Đến tháng 7 năm Nhâm Tý (952) tức niên hiệu Hiển Đức thứ 3 (952) (Đúng là phải nói năm Quảng Thuận thứ 2 chứ không phải là năm Hiển Đức thứ 3 (956)), Sư thị hiện bị bệnh và thị tịch tại viện đó, thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp.
Tánh tình Sư thẳng thắn, không rủ rê trước mặt, chẳng oán ghét sau lưng, chân không bước đến nhà giàu sang, đãy chẳng thích chứa vật thừa, phòng không đóng cửa, miệng không nói lời tạp, cũng chẳng xem đọc các sách, lại xem kinh luận. Sư bùi ngùi than rằng: "Âm nghĩa của Quách Di còn quá sơ lược, mà âm nghĩa của Tuệ Lâm thì chẳng truyền!" Bèn soạn "Đại Tạng Kinh Âm sớ" gần năm trăm quyển, nay hiện đang lưu hành chung quanh các tăng phường ở Giang Chiết. Nhưng Sư có điểm kém là không nên gọi là "sớ". Nếu nói "sớ" thì có thể dùng sớ thông cả một tạng kinh, Sư tiện vượt qua Từ Ân gấp bội trăm bổn. Sư có chí tiết là chuyên tinh trì luật cao xa cả xưa và nay.
Thích Thủ Chân, người ở xứ Vạn Niên, thuộc Vĩnh Hưng, họ Kỷ. Thời nhà Hán, tráo Hồng Tự của Đế Tín, là ông nội và cha của Sư, lai lịch tốt đẹp, nhiều đời hiếu hạnh, tràn cả làng quê, nên người trong xóm khéo được hạnh hiếu ấy, bèn gọi là "Kỷ Đinh Lan", còn Sư tức là sau đó, đến lúc Kỷ Hy Tông mông Trần xa giá lánh giặc mà đến phương Tây. Hàm Cảo thất thủ mà chết bởi tay giặc. Nhân đó mà dời nhà đến đất Thục.
Đến tuổi hai mươi, Sư tình cờ vào chùa Thánh Thọ, thấy Luật Sư Tu Tấn đạo hạnh đáng làm gương cho người, nói năng vượt khỏi thường độ, Sư bèn cởi đai mở mũ kính lạy mà phụng thờ. Khi Thất Chi đã hoàn bị, trước hết Sư đến tham yết Đại Sư Tùng Lãng, học Luận Khởi Tín. Tiếp theo, Sư nương Đại Sư Tánh Quang và được truyền Pháp Giới Quán. Sau, Sư đến đảnh lễ A-xà-lê Diễn Bí và được trao giáo nghĩa Du-già. Tất cả đều thành được tâm yếu, đều thấu cùng chỉ quy. Từ khi minh đạt các pháp, tuyên xướng Diệu Điển, suốt bốn mươi năm Sư không hề biếng trễ, và Sư được ban tặng hiệu là "Chiêu Tín". Sư giảng Luận Khởi Tín và Pháp Giới Quán tất cả hơn bảy mươi biến, đều dùng đèn truyền đèn, lấy đồ vật gieo vào đồ vật. Đệ tử nối pháp của Sư có hai mươi vị. Khai mở Đạo Tràng Quán Đảnh gồm năm lần, độ các hàng tăng ni sĩ thứ hơn ban ngàn vị. Khai mở Đạo Tràng Thủy Lục gồm hai mươi lần. Thường từ canh năm, Sư luân kết Văn-thù Ngũ Kế giáo pháp, đến chiều tối vào lúc canh 2, Sư lại xoay chuyển Tây Phương Vô Lượng Thọ giáo pháp, xưng niệm tôn hiệu Phật A-di-đà, tu niệm Phật Tam-muội, mong được vãng sanh cõi tịnh.
Một hôm, Sư bảo với đệ tử là Duyên Ngộ rằng: "Đức Như Lai há chẳng dạy là" Hơi thở ra khó bảo đảm cho hơi thở vào". Thọ mạng của ta may mắn, và tuổi trẻ của ông cũng đã già. Nay muốn thuận tục theo đời, định xây hai ngôi tháp. Như thế có được chăng?" Ngài Duyên Ngộ cúi đầu đáp rằng: Trưởng Lão Quảng Độ Xả thí đất ở phía bên phải viện, xin xây tháp có cả năm rồi. Nay Đại Sư giao phó ý ấy, đó là rất tốt đẹp với Trưởng lão. Nhân duyên thầm khế hợp, đâu thể thôi dừng!" Do đó mà nhóm thợ để xây dựng, từ tháng 10 bắt đầu cưa mài, đến tháng 11 thì họa vẽ khắp cùng.
Đến ngày mùng 9 tháng 8 niên hiệu Khai Bảo thứ 4 (971), Sư bảo đại chúng niệm Phật, xưng niệm hồi lâu, Sư bảo thôi nghỉ, rồi Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Đến ngày 21 tháng 8, trà-tỳ ở cạnh Viện Quảng Trí thuộc phía Bắc ngoài cửa Vĩnh Thái, thâu nhặt được xá-lợi mầu sáng đẹp, đều đem cúng dường.
Kế nữa có Sa-di Di-già, người nước Vu-Điền, chuyên tụng kinh Hoa Nghiêm không hề thôi nghỉ. Vào niên hiệu Thánh Lịch (698-700) đời Tiền Đường, trời Đế-thích thỉnh Sư lên cõi trời để tụng trì, và nói rằng: "Mỗi lúc bị A-tu-la nhiễu loạn, nên xin thỉnh Sư đến đây xưng tụng kinh Hoa Nghiêm để cầu trừ dịch hại ấy". Sư bèn lên tòa, xướng tụng kinh ấy rõ ràng. Khi đó, các chúng A-tu-la nghe kinh bèn hiện oai thần một lúc rồi biến mất.
Lại có Sa-di Đạo Âm, Sư thường xưng tụng kinh Kim Cương. Đầu niên hiệu Bảo Lịch (825)-thời Tiền Đường, nhân từ xa đang trong đêm trở về, giữa đường bỗng gặp Hổ dữ gầm gừ chồm nhảy phía trước, Sư biết không thể thoát khỏi, bèn nhắm mắt ngồi xuống, chỉ thầm tụng kinh Kim Cương, trong tâm mong cầu được cứu hộ, HỔ bèn nằm nơi cỏ mà giữ. Đến sáng, người trong thôn qua lại trông thấy Hổ. Tại chỗ nó ngồi nước dãi chảy trên đất. Sư về sau trì tụng càng thêm cao hạnh.
Thử luận bàn:
Cửa chính yếu để vào Đạo, đó là Tam Tuệ. Nếu lấy Văn Trì thì chẳng gì hơn đọc tụng. Vì sao? Vì ban đầu chỉ y cứ vào Bổn. Bổn lập thì Đạo sanh. Tiếp đến thì xả bỏ giải thích, giải thích lưu giữ thì mặt trăng mất, thí dụ như ngón tay, bóng treo ở bên trời mà lại cho là roi da trên ngựa. Như vậy tức là dính mắc bó buộc, cách đạo càng xa! Nhưng mà căn cơ có tân phát, vết tích hoặc chợt đổi dời, phải khiến xem rộng nghe nhiều. Kế nữa trái với văn mà cao xướng thì ở phẩm vị nào? Trước hết gọi là Pháp sư. Nên trong kinh nói rằng: "Thọ trì, đọc tụng, giải thích, biên chép, đúng như pháp mà tu hành" chính là ở đây nói.
Kinh điển lưu truyền đến Trung Hoa, bản Phạn được dịch thành tiếng Hán. Ở phương Bắc, ngài Trúc-Pháp-Lan ban đầu thẳng theo tiếng mà cắt nghĩa, phía nam chỉ ngài Khương Tăng Hội xướng theo Khúc vận mà đọc thông. Ngài Trúc-Pháp-Lan sanh từ dòng họ Nguyệt Chi, Ngài Khương Tăng Hội là người Khương Cư. Hai nhà có hai kiến chấp khác nhau, ẩn tàng vô vi, như Cáo Thỏ trên băng tuyết hỏi đường bên cạnh Khỉ.
Thông đáp: Chư tăng ở Tây Vực chuyên trì bộ loại, hành sự khác nhau, hoặc chấp đích thân được nghe từ Phật nói nên khó sửa đổi, hoặc xưng tông của ta tự có phân nhiều dòng phái, hoặc thẳng điều mà chất thực ư? Hoặc tiếng ca hay, đến nỗi khiến sự truyền trao đều có sự tranh giành giữa thầy trò, nào đây phải đó quấy, ta đúng kia sai, trọn năm mâu thuẫn chưa có lúc nào thôi dứt. Nên có Nhã Mỹ Bái Nặc (chúc tụng) một thời, tụng Già-Đà (kệ tụng) Tam Khế, cảm có xe ngựa mà chẳng hành động, trời người cùng nghe, đó là sự hiệu nghiệm của tiếng khúc chiếc. Như ngài Bàn-Đặc chỉ đọc ít câu, ngài Bạc-Câu-La chỉ một chương ngắn, chỉ sợ quên mà dính môi, đâu rảnh mà khua lưỡi, vẫn được lên hàng Thánh, hoặc cảm lắm điều linh ứng. Đó là sự ứng nghiệm của tiếng đặt thẳng. Nay vì một lời ngăn che đó, chỉ có cảm động đến long thần, sanh các vật thiện, đó là vì đọc tụng Chánh Âm.
Có người nói rằng: Thường nghe ngữ âm của Trời Quang Âm cho nên Phạm Âm chưa chắc, vậy đâu là Phạm Âm ư? Xin nêu hình trạng để chỉ bày! Thông đáp: Các Đà-La-Ni đều là Phạm ngữ. Tiếng Bái-Nặc là Phạm Âm.
Có người nói rằng: Như ngôn âm trong thiên hạ khiến người thích nghe. Cùng với người xứ Tương Dương làm chuẩn cứ, ấy là âm Hán. Âm gá vào Ngữ âm gọi là Hán Âm Hán Ngữ, cho nên biết Ngữ và Âm khác nhau. Cái gọi là Bái-Nặc chính là Âm Phạm, như điệu ca hát của phương này. Vả lại, Âm Phạm thì gấp chóng mà lời thì phô bày giải thích. Phân hiểu thư thả, từ từ dẫn kéo, đó là Bái-Nặc.
Có người nói rằng: Đây chỉ hợp với chư tăng Tây Vực truyền trao, sao dùng của Tư Vương đời Trần và Thái Tể ở đời Tề kiểm kinh chỉ bày Samôn ư? Thông đáp: Vì hai vị vua đó trước đã thuần thục Khúc Vận của Thiên Trúc, nên nghe âm hưởng của núi và kinh kệ mới có thuyết truyền trao. Ca tán ngày nay nương gá khúc phép của Lệ
Dâm Khuê, âm của Điếm trệ, lại thêm Tương Hoài bao gồm cả mật chú, phu xướng Phạm tấu. Đó thật là Thanh mới. Như nay mở bản Phạm, gọi là Khai đề, chỉ biết đuổi theo câu, tùy theo hàng, đâu rõ suốt chân kinh hay ngụy tạo, sao phân rành chi phẩm, chưa xem xét biệt sanh, năng hiển đã biết, sở thuyên phải hiểu. Đang nghe bỏ bè liền đạt tới quy Tông, thấu đạt tự môn A, vẽ Thể của pháp Thân. Đó là chỗ tới mức của đọc tụng. Như có trường hợp khó thông chữ "Trửu" (chổi) đi đến nhiều gia tộc, gấp bảo miệng tụng một kinh, lại vì thân tham năm chúng. Ỷ vào khả năng tụng thuộc lòng để khỏi bị gọi là vị tăng cơm cháo ư! Như tình cờ lắng trong, trùm đầu về nhà.
Có người nói: Quốc Triều độ giới sao trái với kinh ư? Đâu chẳng nghe ngôn từ của Yết-Ma chỉ là nói tuổi đủ hai mươi, y bát đầy đủ, chẳng nghe nói niệm tụng kinh là tăng thượng duyên? Thông đáp: Đó là lời của bọn phá diệt Phật pháp, không biết mà nói. Bậc thượng căn cảm giới, quả chứng sẽ cùng theo, sao lấy số trang kinh mà khảo thí ư! Bậc hạ căn thoát xả tụng trì, vào pháp chỉ nương bạch nghiệp. Đại Sư Nam Sơn (Đạo Tuyên) nói rằng: "Mới lên cạo tóc, liền phải xem thông". Thêm nữa, đầu thời Hậu Chu, phần nhiều độ tăng ni, ban sắc cho linh tạng cân nhắc phẩm chất hạnh nghiệp, hoặc giảng hoặc tụng, quyển bộ rất nhiều, tùy có văn nghĩa thảy đều xem hết. Bấy giờ, cùng xét lường thông kinh hiểu ý, là bậc nhất. Đây là tinh chọn tụng kinh thông nghĩa làm thềm cấp vào đạo. Không thấy văn nầy rất đau tiếc. Thời nhà Lương tương truyền gọi đó là "Kinh Sư", Đại Sư Đạo Tuyên chẳng y theo mà sửa đổi gọi là "đọc tụng".
Ở đây, gom nhóm các Sư từ thời tiền Đường đến thời Bắc Tống. Rút tỉa lắm điều lành, tông quy về cao hạnh, có cảm thần túc, miếu độ khổ nhân kinh. Ngài Pháp Trí vãng sanh cảm ánh sáng mầu vàng ròng soi chiếu khắp chỗ hoang vắng. Ngài Minh Tuệ hành đạo chiêm đoán tướng cầu vồng soi suốt đến cõi trời. Hoặc được thỉnh ngồi trước các vị La-hán, hoặc trì minh cứu bệnh tật khắp Thành Dương. Hoặc được thơ vua biếu tặng tiễn đưa, thấy Bồ-tát Đại Thế Chí đến đón rước, hoặc sứ giả bắt lấy mà không thể được. Hoặc yêu quái cáo chồn tự biến hình. Tốt đẹp thay! Ngài Nguyên Kiểu đến thì cây lý mọc thành lùm rực rỡ, ngài Sở Kim cảm vào mộng của Đế Vương, Viên Quang trên đỉnh, Tam-muội hiện tiền. Gặp tụng kinh Hoa Nghiêm phát ra ánh sáng mầu vàng ròng ở khóe miệng, sau đọa địa ngục, nương tòa báu mà đến Tây Phương. Ba lát dao khua chém chỉ thương tổn nơi ống trúc. Tiếng tụng kinh từ chùa Thiên Phước vang vọng tới tai vua, kiểm chứng trở lại chẳng ăn dùng chi cả. Tiếng khương chẳng dứt nơi xâu chuỗi. Hoặc thọ thêm ba mươi năm. Hoặc sái cổ độc nơi vài mươi sợi tóc, hoặc kinh âm vang khắp cả yên lũy, hoặc vốn đủ tại chùa Chung Ly. Hoặc Nhạc tượng Quy Tư, hoặc miệng nở hoa sen, hoặc quỷ thần lánh chú. Hoặc trên đất liền mọc lên hoa sen, hoặc mộng Hoa Tư mà đều thông hiểu Phạm Âm. Hoặc ngồi nơi tòa Phật mà liền thị tịch. Các Bậc Thượng Đức, Pháp Sư như thế, khảm ngọc tùy phương, xâu hoa theo thứ lớp. Thêm là trống vàng, đánh khua đều thành âm vang sám hối, miệng là ống sáo ngọc, thổi huýt đó phát ra khúc điệu thần tiên. Nhân nương truyền nhau, dời cậy riêng tuyên, có thể gọi là da lót Pháp Hoa, chân đi Kinh Tạng, khiến pháp âm chẳng dứt bặt, khéo giao phó ba thừa, thảy đều thành Phật không còn sót, lại tuyên bày tám biện tài. Nên có lời thơ rằng:
"Chặt cây Kha, chặt cây Kha, đó thì chẳng xa.
Trông nhìn lại chúng tôi không quên lấy, chính là ở đây".
(Quyển 25 hết).
(chánh truyện có mười bốn vị, phụ có hai vị).
Thích Pháp Thành, vốn họ Vương, tên là Thủ Thận. Làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Gặp lúc Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) nghi ngờ Nhị Tín khốc lại la chức, Sư bèn lánh quan pháp, xin xuất gia làm tăng. Sư khổ hạnh tiết chế tinh tấn đối với việc hóa đạo. Tiếng phát thì âm hưởng liền theo, hạnh cao ngay thẳng.
Vào niên hiệu Trường An (701-705), Sư đến chợ ở phía tây Kinh Triệu, đục thông một lỗ hổng lớn gọi đó là "Hải Trì" (ao biển). Chi phân Vĩnh An Cừ ghi chú ở đó, dùng làm nơi phóng sinh. Phía trên ao có Phật ốc, lầu kinh đều thành chỗ tạo dựng. Lúc đục ao, gặp được phiến đá xưa, có bài minh rằng: "Trăm năm là chợ, sau đó là ao". Từ đời Tùy dựng lập kinh đô lấy làm chợ, đến lúc ấy là trăm năm. Niên hiệu Nghi Phụng thứ 2 (677), có người nhìn hơi khí nói rằng: "Ở phương này có hơi khí khác lạ!" Vua Cao Tông thời tiền Đường bèn ban sắc đào bới, thấy được một cái hòm đá, trong hòm đựng xá-lợi Phật hơn muôn viên, ánh sáng mầu sắc rực rỡ bền chắc, nhà vua bèn ban sắc ở tại đó xây dựng chùa Quáng Trạch, cũng ban rải xá-lợi đến chùa Kinh và các châu phủ mỗi nơi bốn mươi chín viên. Võ Hậu (tức Võ Tắc Thiên-685-705) bèn thiết đặt Đài Thất Bảo và đổi biển ngạch chúa. Sư ở tại chùa đó hành hóa, khuyến khích mọi người, phần nhiều lấy sự sùng phước làm việc chính của mình.
Thích Nghiệp Phương là Pháp tôn của Thiền sư Giải Thoát. Thân Sư cao bảy thước năm tấc, dáng mạo hiên ngang, duỗi tay dài quá gối, lông mày dài mấy tấc, mắt có tròng đôi, mọi người nhìn thấy đáng sợ. Sư lễ Phật tụng kinh không mệt mỏi, nối pháp ngài Giải Thoát. Sư động hợp vô hình, chẳng bỏ lợi vật, lại tu Phạm cung.
Bấy giờ, ở phủ Thái Nguyên có một sĩ nữ đắp một tôn tượng Bồ-tát Văn-thù, sắp đưa lên núi, vừa đến bên bờ sông Hổ Trì sóng lớn lại dâng cao, Sư bèn đứng cách bờ đốt hương khải cáo, nước dòng sông từ từ giảm xuống. Khi tôn tượng đã đưa qua, nước lại dâng tràn. Sau, Sư thị tịch, xây tháp thờ ở phía Tây bắc cách chùa một dặm. Nhục thân Sư đến nay hiện còn và có nhiều thần dị.
Thích Quang Nghi, họ Lý, vốn dòng Tôn Thất thời tiền Đường. Cha của Sư là Lang Da Vương cùng Việt Vương dấy binh muốn lấy lại Bổn Triều, trùng hưng Đế Đạo, nhưng không khắc phục được, bị Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) đánh giết mà không chua xót. Sư lúc còn nằm trong tã lót, được mẹ nuôi bồng chạy trốn. Sau đó vài năm, Võ Hậu trộm nghe Lang Da có người con còn sống giữa dân gian, bèn bàn mưu phải bắt gấp, mẹ nuôi đem Sư đến đất Phù Phong bán Sư cho một nữ công để người nầy nuôi nấng.
Năm tám tuổi, dáng mạo Sư khác bao trẻ khác, thần ngộ vượt cao. Mẹ nuôi nghi sợ bắt gặp tướng mạo thì bại lộ nên rất lo sợ, bèn sắm chiếc áo lót bằng vải bố và bỏ tiền cất ở bụng. Ở dưới rừng dâu, bảo Sư "nên đi, sắc lệnh đã dò tìm chớ khinh thường, ta lo sợ cùng chết mà không ích lợi gì, ngươi thông minh dĩnh ngộ, sẽ có thể tự đứng vững. Nếu một mai giàu sang phú quý, chớ quên bà già này!". Nói xong bà đứng khóc, Sư cũng thương cảm không cầm lòng được, mẹ nuôi sau đó qua đời. Sư mịt mờ đi đến nghịch lữ, nô đùa với bọn trẻ. Có Quận Thúc phu nhân đi sang chỗ ở của chồng bèn dừng nghỉ tại đó, thấy Sư nhóm tụ mà dáng mạo khôi ngô sáng sủa, nhân đó thương xót, bèn gọi Sư đến hỏi rằng: "Nhà của cháu ở đâu mà một mình đến đây vậy?" Sư đáp rằng: "Trang trại ở gần đây, nhân lúc nhàn rỗi nên cùng đùa vui". Phu nhân bèn đem thức ăn và tiền cho Sư, Sư bèn mở áo và cất tiền vào trong. Bóng chiều dần qua, Sư lần dò đi đến nơi thôn vắng, gặp một lão tăng, gọi Sư rằng: "Này đứa nhỏ! Nay ngươi chỉ một mình, nhà đã bị phá hoại, vậy sẽ đi về đâu?" Sư kinh ngạc đứng sững. Vị lão tăng lại bảo: "Xuất gia nhàn rỗi thoải mái và không lo sợ, vậy ngươi có muốn chăng?" Sư đáp: "Đó vốn là ước nguyện của con!". Vị lão tăng nắm tay Sư dẫn đến dưới tàng cây Đại Thọ, bảo Sư đảnh lễ các Đức Phật mười phương, quy y thường trú Phật Pháp Tăng rồi, nhân đó cắt tóc cho Sư và lấy ra cho Sư chiếc y ca-sa để đắp mặc, kích cỡ xứng với thân, Sư chấp trì cầm nắm như vị Tỳ-kheo đã mấy mùa hạ. Vị lão tăng mừng bảo rằng: "Đây là tập tánh khiến, hãy khéo giữ gìn tăng hạnh!" Và bèn chỉ về hướng Đông bắc mà bảo rằng: "Cách đây vài dặm có một ngôi chùa, ông nên đi đến đó bái yết vị trụ trì và nói là ta bảo ông đến xin làm đệ tử ở đó!" Nói xong, vị lão tăng tự nhiên biến mất, mới biết đó là bậc Thánh Tăng.
Ngài theo y lời đó, thưa cùng vị trụ trì chùa ấy. Vị trụ trì kinh hãi đối với lời nói đó, nhân đó mà giữ Sư lại. Trải qua mười năm, Sư đã thấu rõ kinh luật, khéo giỏi Thiền Quán. Đến lúc vua Trung Tông lên ngôi (705), nhà Đường lại hưng thịnh, vua Trung Tông ban sắc tìm kiếm con của Lang Da, Sư bèn đến trước chúng tăng trong chùa nói rõ sự việc. Bấy giờ, tăng chúng thảy đều kinh hãi. Nhân đó Sư đến chỗ Phù Phong Lý Sứ Quân, tức là cha của Sư. Lý Sư Quân trông thấy mà buồn vui lẫn lộn, bèn mời Sư ở tại nhà, và viết trạng văn tấu trình, cố thỉnh Sư mà không thể được. Lý Sứ Quân có một người con gái tuổi tác cũng bằng Sư, khi trông thấy Sư mà lòng vui mừng, muốn đi đến tình khúc. Sư sợ hãi trốn tránh. Một hôm, gặp Sứ Quân phu nhân ra, cô gái ấy trang điểm sắc phục, người đi theo cũng đông, đến cố cưỡng bức, Sư cố chống cự, trăm mối chẳng hề đoái hoài. Sư bảo rằng: "Thân bất tịnh xin hãy tắm gội, sẽ đợi lệnh". Cô gái ấy vâng dạ rồi bảo lấy nước ấm tắm gội. Khi cô gái ấy bước ra, nhân đó Sư đóng cửa. Cô gái ấy trở lại cửa, đã không thể vào được, tự trông qua khe cửa. Sư bèn cầm con dao cạo tóc xoay nhìn lại mà nói rằng: "Vì có căn này nên bị ham muốn bức bách, nay nếu dứt bỏ đi thi lấy gì mà bức bách?" Cô gái ấy lo sợ bèn ngăn cản, nhưng chẳng thể ngăn được. Sư bèn cắt đứt dương vật, quăng dưới đất và Sư cũng bất tỉnh. Cửa đã không mở, bỗng chốc Sứ Quân phu nhân cùng đến, cô gái ấy bèn tình thật tỏ bày. Phu nhân bèn phá cửa vào xem thì Sư cũng dần tỉnh lại. Bèn bảo thầy thuốc khiêng đến nhà tơ tằm, dùng lửa đốt trên đất, lấy rượu đắng rưới vào. Sư ngồi ở trên dùng mỡ đắp vào. Hơn tháng sau thì vết thương được lành. Sứ Quân tấu trình Sư là con của Lang Da Vương. Vua Trung Tông có ban sắc chiếu cho các trạm đưa Sư về kinh đô, dẫn đến yết kiến thăm hỏi rất cảm động. Vua Trung Tông ban chiếu mời Sư nối ngôi vua cha, Sư khẩn thiết từ chối, thệ nguyện làm tăng, chẳng thể nào lung lay. Vua Trung Tông ban sắc cho Sư trông coi đồ chúng, tùy ý xây dựng một lan-nhã và tự do hoằng hóa. Tánh Sư ưa thích núi Chung Nam, nhân đó mà đến trụ chùa Pháp Hưng. Tại các cửa hang, Sư xây dựng am liêu Lan-nhã có đến mấy mươi nơi. Pháp do tiếng đạo vang xa, bàn nói động đến lòng người, nên hoặc đi đường núi dài cả mười dặm mà các hàng tăng tục thị giả thường đến số lượng mấy trăm ngàn vị, đón rước chăm sóc tiếp đãi rất chu đáo như khanh tướng. Sư thường ở trong tịch định, hoặc nói việc tương lai để quyết đoán tốt xấu, đều không sai lầm, nên mọi người càng quy hướng rất đông.
Đến ngày 23 tháng 6 niên hiệu Khai Nguyên thứ 23 (735) trước hết Sư dặn dò đệ tử phải cẩn thận giữ gìn thân miệng, chớ ồn ào ba hoa, ý của các vị Tổ Sư không việc gì khác. Tĩnh lặng thì chân pháp hiện tiền. Ngoài ra đề xướng đều chẳng được gì cho mình. Sư nói rất thiết tha khơi mở. Nhân đó, đầu xoay về hướng Bắc gối cánh tay phải và nằm nghiêng hông bên phải mà thị tịch. Đó là điềm lành Đại Niết-bàn. Sư có căn dặn trước nên an táng ở phía Nam gò Thiếu Lăng, nên bèn đục gò làm thất, tôn trí nhục thân Sư rồi bít lại, nơi kim quan thường tỏa ra mùi hương lạ xông ngát, diện mạo Sư vẫn như lúc sống. Xe tổ vừa ra thành, có đến mấy trăm con hạc trắng kêu la giữa hư không, mây nhiều mầu che phủ xe dài đến mấy mươi dặm. Kẻ tăng người tục khóc than buồn thương, phần nhiều đều mặc hiếu phục. Tại chỗ đất an táng Sư, bèn xây chùa Thiên Bảo. Các đệ tử của Sư đều ở lại đó mà giữ gìn.
Thích Tự Giác, người ở xứ Vọng Đô, thuộc Bác Lăng. Thuở nhỏ, Sư tỏ vẻ nhàm chán thế tục, không bao lâu thưa với cha mẹ già rằng: "Con thích theo Phật để cứu độ đời!" Cha mẹ Sư kinh ngạc quát mắng bảo Sư thôi đi, nhưng Sư vẫn không tủi thẹn, trở lại bái lạy cầu xin. Bèn gượng đến lễ ngài Tri Khâm ở chùa Khai Nguyên trong Bổn Bộ. Ngài Tri Khâm thấy chí khí Sư khác hẳn bao người, bèn đặt tên là Tự Giác và răn bảo Sư rằng: "Ông nghe tên nên suy nghĩ nghĩa". Sư liền thưa: "Hạt giống Phật theo duyên sanh khởi, chỉ nghe là biết sự dạy răn!" Thế rồi, Sư tụng kinh và cách mông độ.
Đến niên hiệu Chí Đức thứ 2 (757) Sư đủ tuổi, và thọ giới cụ túc tại Trấn Châu, liền đến chùa Thiền Pháp ở huyện Linh Thọ học tập kinh luận. Sư chuyên cần học tập suốt chín năm, và đều thấu đạt chỗ sâu mầu. Sư nói: "Sẽ đến núi Thái Hành, trên một tảng đá dựng lập am tranh, ở đó rộng chừng ba mẫu, có một khe suối nhỏ, làm lan-nhã, há chẳng vui thích ư!"
Ngày 39 tháng 9 niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766), Sư đến ranh giới huyện Bình Sơn. Ở đó có Tùng Lâm Sơn Viện, quả ứng như sự mong cầu, Sư bèn ẩn tích tự vui sống. Đến tháng 5 năm sau (767), trời hạn hán, Sư đi chân trần kinh hành, suốt mùa đông vừa qua, Sư mặc áo để bày vai phải, ở đó rừng thưa hang núi, Hổ sói quen vết khắp cùng, ngài chỉ lượm trái hái lá, ngày chỉ ăn một bữa vào giờ mão. Bấy giờ, Hằng Dương Tiết Độ Sứ Trương Quân lo sợ hạn hán, nghe Sư tinh ròng khổ nhọc, nên đích thân vào núi thỉnh Sư cầu mưa. Trương Quân nói với Sư rằng: "Tôi không biết thuật chấp chính, khiến lụy đến trăm họ, ba năm qua trời hạn hán, do khổ mà gây ra tội lỗi, tôi tự trách vốn không bổ ích, nghe nói Long Vương thường đến nương tựa Sư để nghe pháp, quên việc ban thí mưa. Xin thỉnh Sư rũ lòng từ cứu hạn hán, có như Bạch Thủy, như niệm thương sanh. Xin thỉnh Sư tạm nghỉ thiền định, vào nơi quân phủ!" Sư bèn chí thành kính cẩn khải cáo Long Thần, chưa được mấy khắc, trời liền mưa lớn, hai hôm sau báo đã đủ. Trương Quân càng quy hướng ân cần kính trọng, như con phụng hiếu thờ cha mẹ.
Sư kể từ lúc mới vào đạo đến nay, học theo thệ nguyện của các Đức Phật ở nhân địa, Sư cũng phát bốn mươi chín đại nguyện. Trong đó, nguyện thứ nhất là thân lớn tùy theo Bồ-tát Đại Bi, kế là nguyện tạo đúc tượng chùa Đại Bi. Và lúc Sư mở lời thì đều hưởng ứng, Đàn Việt đến đông đúc dùng vàng để cúng dường. cổ vũ đúc thành tượng cao bốn mươi chín thước, phạm tướng trang nghiêm, mắt tay đầy đủ. Và khoảng chừng một năm, chùa cũng hoàn thành. Tức hiện nay là ngôi chùa lớn ở ngọn núi thuộc phía Tây của thành. Sư bèn đứng trước Đàn tụng niệm đến canh ba, thấy hai luồng ánh sáng thần, bên trong sắc mầu vàng ròng. Và trong ánh sáng rực rỡ ấy thấy có Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí theo hầu hai bên, Đức Phật duỗi cánh tay vàng, gọi "Tự Giác", dần dần mây hạ xuống xoa vào đỉnh đầu Sư và bảo: "Giữ nguyện chớ đổi thay, không nên biếng lười phế bỏ, lợi vật là trên hết, ông đi ta sẽ tùy theo ý ông!" Nói xong, mây liền tan biến mịt mờ không dấu vết. Sư dùng nguyện tâm thù đáp đã hoàn tất, bèn trở về núi rừng, chọn nơi sống trọn đời.
Đêm rằm tháng 2 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (759), có vị thần hiện nửa thân hình, tướng trạng như Tỳ-Sa-môn, nói với Sư rằng: "Năm nay Sư diệt độ!" Sư bèn đưa tay cảm tạ vị thần và nói rằng: "Đi ở là định phận, tôi xin nghe lời!" Đến ngày 14 tháng 6 năm đó, ngài lặng lẽ thị tịch. Môn nhân muốn đón rước thần khám trở về chùa núi, mọi người ở Châu Phủ tha thiết muốn giữ lại, cuối cùng xây tháp cúng dường tại phía Nam chùa Đại Bi. Lúc đó là ngày mùng 8 tháng 4 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 13 (797).
Chùa Đại Bi là một kỳ tích của Hằng Dương, có lắm điều cảm ứng ngầm thông. Đến đầu niên hiệu Hiển Đức (954) thời Hậu Chu, có sắc lệnh đúc tiền đồng khắp chín phủ, các tượng đồng trong nước đều bị phá hủy. Bấy giờ, mọi người trong Châu đem tiền để chuộc lại tượng đó, nhưng không được chấp thuận, bị đem lên lò nấu đúc, những người có chân định thảy đều đau buồn thương tiếc. Lúc than nóng đốt cháy, từ trên đỉnh xuống đến ngực Tôn tượng trở thành nước đồng chảy. Bỗng chốc người coi chừng bị chết, do đó đành bãi bỏ. Mãi đến thời Bắc Tống; Thái Tổ Thần Đức Hoàng Đế (960-976) đúc lại khiến Tôn tượng được hoàn thành, thay thế sám hối việc trước đây.
Thích Tuệ Vân, họ Diêu, người ở xứ Hồ Tương, tánh thức trong sáng, khí mạo rộng lớn.
Niên hiệu Lân Đức thứ nhất (664) thời vua Cao Tông, lúc đó Sư vừa mới mười tuổi, tự nhiên có ý chí xuất trần, cha mẹ Sư bày ra nhiều việc để ngăn cản, nhưng tâm Sư chẳng phải như chiếc chiếu nên không thể cuốn lại. Cha của Sư buồn bực trước chí nguyện đó. Sư đến nương tựa Thiền Sư Sơ Tổ ở Nam Nhạc, được Sư chỉ dạy, và Sư có tài năng thông minh, ưa thích pháp vị kinh giáo, trầm lắng như vậy. Đến tuổi hai mươi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Nam Nhạc, tự chuyên hộ trì pháp giới, lại giỏi tỳ-ni. Sau đó, Sư thôi giảng, chuyên làm việc phước. Sư mở lời thì có người hưởng ứng, cải hóa phong tục, lập sự nghiệp dứt bặt riêng tư, các hàng sĩ thứ đều kính trọng vâng theo. Sư mới đến Trùng Hồ và tới Kinh Dĩnh, dấu vết khắp giang nam, mang theo đãy chống tích trượng, chuyên việc khuyên người, khiến xả bỏ bệnh san tham. Tùy nơi mà cho sửa chữa chùa chiền hơn hai mươi ngôi, đều thành công mà không chấp trước.
Niên hiệu Cửu Thị thứ nhất (700) thời Võ Hậu, Sư muốn hành hóa ở Giang bắc nhưng nhân duyên chưa đủ. Đến niên hiệu Trường An thứ nhất (701), Sư đến xem xét ở Lương Uyển, ban đêm nghỉ tại Phồn Đài, nhìn về phía bắc bờ sông, thấy có khí lạ xông giữa trời. Sáng hôm sau, Sư vào thành tìm xem thì đó là nơi ao cong trong vườn ở phía Tây bắc nhà của Hấp Châu Tư Mã. Sư lần bước đến bên bờ ao thấy trong làn sóng có ảnh cung trời, lầu gác cao thấp, ngọc châu chất chồng, khung cửa họa vẽ nghi tượng cửu trùng, uốn lượn cả ngàn hình dáng. Ngài trực nhận đó là cung điện của tầng trời Đâusuất. Sư thấy sự việc kỳ lạ đó, mừng vui suốt cả tâm can, tự nói rằng: "Tôi nghe trong kinh Trí Nghiêm nói ảnh của cung điện hiện trên đất lưu ly, đó là cảnh giới chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Nay quyết định phỏng theo đó mà xây dựng phạm cung để đáp lại điềm ứng hiện đó". Và Sư bèn chống tích đến trụ chùa An Nghiệp.
Đến năm Bính Ngọ (706) tức niên hiệu Thần Long thứ 2, Sư đến chùa Báo Thành ở huyện Chúc, thuộc Bột Châu, phát nguyện vì nước mà mô tả tôn tượng đức Di-lặc cao một trượng tám thước, khuyến mộ mọi người cúng thí vàng đỏ. Bấy giờ, Đàn Việt cúng thí chuyển vận đến chất như gò, Sư bèn mời các thợ khéo, chỉ một lần đúc liền thành tựu. Tôn tượng có tướng tốt đặc biệt, đến tháng 6 năm Canh Tuất (710) tức niên hiệu Cảnh Long thứ 4, Ôn Vương (Lý Long Mậu) nhường ngôi cho
Duệ Tông là chú, năm đó cũng đổi niên hiệu Cảnh Vân năm thứ nhất, Sư an trí tôn tượng nơi biệt điện mới xây dựng nơi góc phía nam thuộc Đông Lang của chùa. Ban đầu Sư bảo: Sửa tài mới bàn dựng bảng, các Đàn Việt bàn luận lăng xăng chưa thành tạo dựng.
Qua năm Tân Hợi (711) tức niên hiệu Cảnh Vân thứ 2, phía bắc Kinh Phường của chùa Phước Tuệ được đổi với nhà của Tân An Điển Ngọ Trịnh Cảnh. Sự việc mới khởi công, bèn đào được tấm bia cổ, biết được đó là "Vào năm Ất Hợi (555) tức năm Thiên Bảo thứ 6 thời Bắc Tề xây dựng chùa Kiến Quốc do vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương) là con nối dõi Cao Hoan". Mọi người trông thấy đó đều kinh hãi khen ngợi, đồng như ngài Xá-lợi-phất thương đàn kiến đùn đống! Thái Phỏng Sứ Quân đều cho là lạ đôi ba phen, bèn men theo bia ký đó mà đổi tên Phước Tuệ thành chùa Kiến Quốc, đồng thời đón rước thánh tượng đức Di-lặc và Điện Tài ở chùa An Nghiệp đến chùa phụng thờ.
Đến ngày 13 tháng 5 niên hiệu Thái Cực thứ nhất (712) vua Tuệ Tông đổi niên hiệu là Diên Hòa. Năm đó, Hình Bộ Thượng Thư Vương Chỉ Âm làm Thái Phỏng Sứ, đến Lăng Giao tuyên cáo sắc lệnh "Tất cả các chùa viện nào không có danh ngạch đều phá hủy hết". Tất cả tượng Phật đồng sắt thâu gom về gần chùa. Sư dời chỗ đúc tượng và xây dựng Môn Lang Điện Vũ, còn thiếu mầu vẽ, gặp sắc lệnh mới ban nên thôi nghỉ công việc. Sư tới trước tượng đức Di-lặc, đốt hương rơi lệ, khẩn thiết kính lễ cáo bạch rằng: "Nếu còn có cơ duyên với nơi này thì xin ứng hiện điềm lạ để sách tấn cải ngộ chúng sanh!" Chỉ trong khoảnh khắc, trên đầu tượng phát ra ánh sáng mầu vàng chiếu soi khắp trời đất. Các hàng sĩ thứ khắp thành đều khen ngợi cho là ít có. Khi đó những người sanh tâm phỉ báng bị mù cả hai mắt, lại có người lưỡi sưng to cả thước. Mọi người xa gần rao truyền lẫn nhau cùng tranh nhau đến chiêm lễ, xả thí chất cao như núi, mới hoàn toàn chiến thắng. Tôn tượng ngồi duỗi một chân, mọi người đến chiêm ngưỡng đều cúi đầu lễ lạy. Những người sống trong ác báo, thì Sư hướng về tôn tượng để sám hối lỗi lầm cho họ. Trong chốc lát, người mất ánh sáng được thấy lại, kẻ bị cuốn lưỡi bèn nói được, và nguyện đều làm kẻ phục dịch trong chùa để đánh chuông quét tước. Thái Phỏng Sứ chí Âm Hạ Lan Vụ Đồng ghi lại điềm lành đó tấu trình. Vua Tuệ Tông lại ngầm phù hợp trong mộng tưởng nên ban sắc đổi bảng hiệu chùa "Kiến Quốc" thành "Tướng Quốc". Bởi lấy các vua do tướng Vương Long Phi, và ban sắc Đại Đức Minh Cán ở chùa Phật Thọ Ký đồng cùng kiểm hiệu Công Đức, không để Châu Phủ phiền nhiễu. Trung Thư Xá Nhân Giả Tăng, Thị Lang Thôi Chiểu, Cấp Sự Trung Lư Dật, Trung Thư Thị Lang Bình Chương Sự Sầm Hy đều quyên bổng lộc cùng tạo nhân duyên, hoặc mở đầu phát tâm, hoặc thí sức ngoại hộ. Vào niên hiệu Tiên Thiên (712-713), hành truyền thần đến lộ để, vua Huyền Tông lên ngôi (712). Đến ngày 15 tháng 8, vua Huyền Tông ngự viết biển ngạch tên chùa. Sư vâng sắc, sai Đại Đức Chân Đế cùng hai người đệ tử, một người Phẩm Quan mang phướn đẹp do vua ban và biển ngạch chùa đến, đón nhận để treo lên.
Sư hoá đạo ở Vườn Lương, thân vinh ở Cây Phước. Trăm tuổi có hạn, bốn tướng đổi dời, Sư thị tịch tại biệt viện trong chùa, an táng tại chùa Đông Giao, nay thuộc xứ Đông Kinh, tháp hiện nay vẫn còn. Bấy giờ, tôn xưng Sư là "Tạo Tự Tổ Sư". Sau Sư thị tịch, đến niên hiệu thứ 4 (745), xây dựng Đại Các, đề hiệu là "Bài Vân". Vào niên hiệu Chí Đức (756-758) thời vua Túc Tông, xây dựng Đông Tháp, đề hiệu là "Phổ Mãn". Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775) mới hoàn tất.
Có thuyết nói là vị tăng xây dựng tháp có khả năng phân thân hành hóa, khó lường biết được giai vị phẩm trật. Văn-thù, Duy-ma là bạn của Vương Phủ đắp họa hình tượng Ngô Đạo Tử. Lại nữa, niên hiệu Khai Nguyên thứ 14 (726), vua Huyền Tông Đông phong ban sắc cho xa chính đạo sang nước Vu-Điền để phỏng tả hình dạng Thiên Vương về đắp họa trên tường vách chùa. Sa-môn Trí Nghiễm khuyến mộ chúng họa vẽ tượng Tam Thừa nhập đạo theo thứ lớp tại tường vách phía bắc nhà kho phía tây, đề xưng là tuyệt diệu kỳ đặc. Nay Điện Vũ đều xây dựng lại sau biến cố hỏa tai vào niên hiệu Đại Thuận (890-892). Vào thời Bắc Tống, vua Thái Tổ (960-976) sửa sang lại, hàn lâm tiếp đãi chiếu, Cao Ích vẽ tranh trên tường vách. Bấy giờ được đề cao là khéo léo của bút mực.
Thích Huyền Lãm, họ Trữ, Tổ Tiên Sư là người xứ Hà Nam. Do làm ăn ở Tiền Đường nên nhà Sư ở đó. Sư ra đời ứng với đức sáng, vừa mới sanh mà hiểu biết cao rộng, thấu đạt được thật tướng. Lấy sự sùng thiện làm gốc. Từ khởi niệm ban đầu đến lúc xả bỏ gia tục, Sư nương tựa ngài Tuệ Sưởng. Ngài Tuệ Sưởng đức hạnh đầy đủ, chúng dùng đều sung túc. Tuổi cao hạnh trọng, từ lâu làm bậc thầy khuôn phép, đến lúc thấy Sư không một khoảnh khắc trái với đức nhân, nên bảo với môn nhân rằng: "Đạo vô thượng lấy sự thanh tịnh làm chính. Nếu nhất niệm dùng được tâm ấy, thì tôi chưa thấy học chẳng đủ. Tại Giang Biểu không có chân tăng đã từ lâu, nay có thể dùng ông này (tức Huyền Lãm) làm pháp cổ ư? Khiến mọi người xa gần đều nghe biết thế. Đó là dự làm chỗ đúc luyện, tạc tượng khác nhau đến như vậy.
Tại bổn ấp có ngôi chùa cổ tên là Hoa Nghiêm, Sư đem đất bao tang gần nơi gò mộ của ngài Huyền Lễ, thuộc thời nhà Tùy chẳng tranh giành pháp vũ, buông thõng suy đồi, vết tích danh tướng Hác Thiên cũng một thời hoang phế. Đến đầu đời tiền Đường, chiêu mộ những người kính tin xây dựng lại. Vào niên hiệu Văn Minh (685), có sắc chiếu hoàn lại biển ngạch cũ. Dưới chế độ Quảng Luân dời đến bên trái núi Lâm Thủy, qua lại hình thắng. Ban đầu, Sư lấy giới cụ túc nương tựa Thiên Trúc, tiếp đến dùng tăng lục ở một chỗ nhàn cư, và sau nhân lão đức nên thống lãnh ba chùa Hoa Nghiêm. Lần lượt đồng đến nơi đạo. Đạo không đâu chẳng có, nhân nơi giáo mà có thay đổi. Sư thường thương xót mọi vật, lấy từ bi cứu giúp làm trách nhiệm của mình, bèn bàn lấy nửa cái hồ phía trước chùa thông suốt với dòng sông làm hồ phóng sanh. Bấy giờ, Thái Thú Viên Tùng Lễ nhân đó mà khuyên gắng vào sâu cửa từ, cấm xa đến sáu dặm. Tư Mã Dương Mẫn nói có cảm mộng, lại dời đến mười dặm để cho cá trở đầu vẫy đuôi, ngậm ngáp nổi chìm, chẳng phải lo hại, được bảo toàn tánh mạng.
Sư lại đem kinh tượng làm tối ưu thì trước điện họa bốn tượng, trong đó tượng đức Từ Thị làm đầu, đúc ba trăm năm mươi pho tượng bằng đồng mạ vàng, trong đó thánh tượng đức Di-đà làm đầu. Viết kinh hơn hai ngàn pho, trong đó kinh Niết-bàn bảng chữ vàng làm đầu. Công đức ấy vì thuận theo hiện báo, nên Vương Khảo Tông truy tặng, Thứ Sử Hà Châu Hữu Tán Kỵ Thường thị phong Thư Quốc Công vô lượng thì là anh em với Sư. Lượng ngày tu học Lâm Bình Hồ Long Kiến, không đâu chẳng đến xem xét. Thư Công an nhiên chẳng lìa án sách. Khí độ đến như vậy. Vào những năm đầu dưới thời Minh Hoàng, Thư Công hầu giảng, nhà vua vui mừng kính chuộng. Về hầu Thái phu nhân khi tuổi đã cao, anh em đều lấy hoa rải nơi đất sớm tối, nói pháp mà thôi. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 20 (732), Sư thị hiện bị bệnh, thị tịch tại chùa do Lâm Bình xây dựng, thọ tám mươi bốn tuổi.
Các vị Sa-môn Minh Liễu, Đại Giác, Phổ Hiền, Thần Mãn, Hoài Tuân đều tham dự trong dòng pháp của Sư, đón rước các pháp khí cất giấu dưới nền của động Tế Lệ. Công Bố Thị Lang Từ An Trinh soạn văn bia ca tụng đức hạnh của Sư.
Kế nữa, lại có ngài Thích Thủ Như trụ chùa Ái Đồng ở Mân Trung. Sư có nhiều việc khuyến dụ. Dân chúng ở Việt Thượng quy hướng mây nhóm. Sư xây dựng Tịnh xá để giúp chúng, gấp kíp việc lợi tha. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 10 (722), Sư cất nhà tắm tại chùa, đang lo thế đất ở chỗ cao vót mà dòng suối trong nằm ở dưới, khô khan không thể dùng cấp dẫn, đi xa thì sẽ mệt nhọc. Sư lo nghĩ chưa kịp không biết do đâu để đổi làm, thì bỗng một đêm, dưới dòng suối chóng khô cạn, và cách nơi chỗ Sư làm nhà tắm chừng hơn hai mươi bước có dòng suối trong tuôn chảy. Người thời bấy giờ cho đó là do công sức thần ngầm làm dời dòng suối ấy. Dân chúng khắp Thất mân không ai chẳng quy hướng kính tin. Sau, Sư thị tịch tại phòng riêng nơi Ôn Thất.
Thích Huyền Lãng tự là Tuệ Minh, họ Phó. Tổ tiên của Sư là con cháu của Phổ Dương Quận Giang Hạ Thái Thú Chửng Công. Dưới thời Tào Ngụy lánh đến Giang Tả, thì là cháu sáu đời của Đại Sĩ Phó Hấp ở đời Lương, nên trở thành người xứ Ô Lương. Mẹ của Sư họ Cát, lúc mới mang thai Sư, bà mộng thấy cỡi xe dê bay nhảy giữa hư không mà cảm thấy thân mình nặng. Từ đó về sau không thích nghe mùi máu huyết tanh nồng, đến lúc sanh ra Sư cũng nằm mộng như trước, sau khi tỉnh giấc, tâm nhẹ thân an, đứa bé (Huyền Lãng) chẳng gào khóc mà mỉm cười.
Năm chín tuổi, Sư xuất gia, thầy trao cho quyển kinh, mỗi ngày phải học qua bảy trang. Ngày 19 tháng 5 nhuận niên hiệu Như Ý thứ nhất (692), Sư được vua ban sắc phối danh chùa Thanh Thái. Năm hai mươi tuổi, Sư đi xa tìm đến Quang Châu chỗ Luật Sư Ngạn, cầu thọ giới cụ túc, trở lại học luật phạm, Sư lại xem rộng kinh luận, tìm cầu chỗ dị đồng, ngài rất tha thiết với Bổn Kinh Niết-bàn. Thường hận người xưa tuy có chương sớ mà phán định chưa bình đẳng xác đáng. Sư đến chùa Diệu Hỷ ở Cối Kê, cùng Thiền Sư Ấn Tông thương bàn luận mật yếu, tuy cùng nhau biên thuật Đại Chỉ, nhưng chưa chu toàn. Nghe Nhất Tông ở Thiên Thai có thể lắng lọc mọi vướng mắc, có thể giúp hướng đến nhất lý, nhân đó, Sư đến chùa Thiên Cung ở Đông Dương chỗ pháp sư Tuệ Uy. Ngài
Tuệ Uy bẩm thọ vâng thừa ngài Trí Uy ở Quát Châu, bấy giờ đang rao truyền ngài Tuệ Uy là đệ tử tài giỏi của ngài Quán Đảnh tức thân sau của ngài Từ Lăng. Sư đến gần gũi nương tựa, chẳng lo nghèo khổ, mà thấu đạt được các kinh luận như Pháp Hoa, Tịnh Danh, Đại Luận, Chỉ Quán, Thiền Môn, Phàm Giáo tích của Nhất Tông Sư đều nghiên cứu cùng đến tinh tường.
Sau, Sư lại nương tựa Thiền Sư Cung, trọng tu Quán Pháp, thấu đạt sách Nho, kiêm thông cả đạo tông, không gì chẳng xem cùng. Tuy thông các kiến giải, nhưng chỉ dùng chỉ quán lấy làm lộ trình nhập đạo, làm địa vực an tâm. Tuy kế thừa tư tưởng của các Thánh, nhưng Sư vận dụng bi trí của Đức Quán Thế Âm, làm bến bờ của hành sự. Tâm Sư dạo trong thập thừa, thầm hợp với Tam Quán, lợi vật bằng bốn Tất-đàn, thể biến khắp sáu tức, tuy thấu đạt tâm bày ngoài vật, thân lắng nơi nhân, tình hết ở nhà cũ, mà chí nương gá nơi núi rừng hang hóc, chỉ giữ lấy mười tám món của mười hai hạnh đầu-đà. Sư ẩn dật tại khe núi, nhân đó lấy làm hiệu, "một mình ở một thất" hơn ba mươi năm dùng sợi gai làm áo mặc, lấy gạo thô cùng rau lá nuôi mạng sống. Có nguyện sanh lên cung trời Đâu-suất thì phải tu tạo việc phước, Sư xây điện vách, vẽ tôn tượng đức Quán Thế Âm và Tân-đầu-lô, Sư đốt hương thúc liễm ý niệm, bèn cảm hiện ánh sáng thần năm mầu, kẻ tăng người tục trông thấy đều khen ngợi là việc ít có. Sau đó, hoặc khỉ vượn đến mà bưng bát, hoặc chim bay ngừng lại lắng nghe kinh. Bấy giờ có một con chó bị mù đến nơi cửa núi, gào khóc lăn lóc dưới đất, Sư thương xót nó mà đốt hương, tinh thành sám hối cho nó, chưa đầy mười ngày thì đối mắt nó được thấy.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 16 (728). Thứ Sử Vương Thượng Khách thỉnh Sư xuống núi tạm ở dưới thành. Sư khước từ bằng cách cáo bệnh mà trở về ở chỗ cũ. Sau đó, Sư dạy người chẳng tỏ vẻ mỏi mệt, giảng nói không cần đợi chúng đông. Sư đắp mặc một pháp y Uất-đa-la-tăng hơn bốn mươi năm, sử dụng một Ni-Sư-Đàn trọn đời chẳng đổi, ăn không xem trọng mùi vị, ở riêng một nhà, chẳng phải nhân sưu tìm kinh điển thì không đốt một ánh đèn, chẳng phải nhân thân hầu Thánh dung thì không đi một bước. Sư tu tâm tế hạnh luôn vâng theo sự chế định của luật pháp, nên được các vị Samôn từ những chốn xa xôi, các bậc lão thành nơi gần gũi tìm đến đầy nhà, như mùa đông được nắng ấm, mùa hè được bóng mát, không mời mà tự đến. Mái chùa đó đến lúc đổ nát, Sư bèn chỉ trao Samôn Linh Bẩm xây dựng Điện Vũ, hình tượng chất chứa đến hai tháp gạch. Việc họa vẽ không dùng đến keo trâu bò, chỉ điều hòa bằng nước thơm. Đỉnh cao giáo pháp của Thiên Thai hưng thịnh đều do từ đó. Một hôm, Sư nói với môn nhân rằng: "Mọi việc của tôi đã hết năm sớm tối!" Tới ngày 19 tháng 9 niên hiệu Thiên Bảo thứ 13 (754) Sư thị hiện bệnh nhẹ mà thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp, xây tháp thờ trên núi.
Thuở bình sanh, Sư có soạn "Pháp Hoa Kinh Khoa Văn" hai quyển. Có các đệ tử được phú pháp như: Ngài Đạo Tân chùa Long Khâu ở Cù Châu, ngài Tuệ Tùng chùa Tịnh An, ngài Pháp Nguyên, ngài Thần Ung chùa Pháp Hoa ở Việt Châu, ngài Thủ Chân chùa Phước Nghiệp ở Thường Châu, ngài Đạo Tuân chùa Báo Ân ở Tô Châu, ngài Đại nguyên chùa Đại Bảo ở Minh Châu, ngài Thanh Biện chùa Khai Nguyên ở Vụ Châu. Còn trẻ đã mến đạo, ý chí cầu thầy, chẳng quá ba năm mà tư duy đã hơn một nửa. Người hành đạo ấy được gọi là "Tả Khê". Thứ lớp truyền pháp gọi là "Ngũ Tổ", Sa-môn Thần Huýnh ở Vũ Sơn soạn chân tán.
Liên hệ thử bàn:
Xét từ đời Đường về trước, người cầu giới được tự chọn các bậc danh đức làm thầy. Đời gần đây do Quan độ dẫn thứ lớp an bài. Lập Tư còn chủ, chẳng do chính mình. Ngài Huyền Lãng cầu giới chẳng thế đó ư? Như vậy, thầy trò cùng luyện, ân nghĩa phát sinh. Thoát gặp việc thỉnh thì thí dụ đồng như dã mã (ngựa do bóng nắng mà có).
Thích Tuệ Minh, họ Trần, là con cháu của Hán Thái Khâu Trưởng Thật, gia đình nhiều đới sống ở Dĩnh Xuyên. Vào niên hiệu Vĩnh Gia (145-146) thời Đông Hán dời lần đến phương Nam. Tổ tiên Sư làm Tư Đồ Duyện, Tằng tổ là Trọng Văn Hữu Tả mạng Hữu Tả Trần, được phong là Đơn Dương Công. Ông nôi là huyện lệnh của hai huyện Song Khê và Cốc Thục. Cha Sư làm Lan Lăng Trưởng, mới thành người xứ Lan Lăng. Mẹ của Sư cảm ngày đầu như giữ giới của Phật, chân không thích bước vào vườn trồng các thứ rau tanh nồng, miệng chẳng dùng chén bát có mùi máu thịt, thần thức trong mộng phảng phất như được nghe Pháp Âm, thế rồi hạ sanh Sư.
Chưa đến tuổi búi tóc mà Sư cầu xin xả tục, cha mẹ Sư đều chấp thuận, đến lúc Sư thọ giới cụ túc, tức niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 (719), tập học luật Tạng, Sư từng nói với mọi người: "Xưa kia, Phồn
Hình Thủ làm cho Bá Thành Tử phải trốn. Tôi tuy chẳng bỏ luật nghi, nhưng chán ghét tranh luận lăng xăng như pháp tâm ấn tâm đến vậy ư?". Sư bèn đi về hướng Tây, tới Phương Nham, chóng mở Tâm địa.
Trong niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Sư có chí nguyện đến núi Thanh Lương, vừa tới sông Hoài, sông Biện bị binh lính cản trở, Sư vội khuyên các thiền khách đồng gặp cùng đi đến Uyển Lăng. Ở cửa Thạch Thương, đặt ba ngôi Lan-nhã. Có Đại hý đến quấy nhiễu như rồng múa. Bấy giờ, gặp lúc đói kém, bọn giặc cướp sắp đến, thì Sư kêu gọi báo trước, luôn có ứng nghiệm. Trước kia tại làng đó, dân chúng chuyên nghề săn bắn, Sư bèn chuyển hóa, họ đều đốt hết võng lưới, phá các khí trượng. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 5 (746) Sư dừng tại đạo tràng Ngư Pha, có ngài Tử Vũ thuộc dòng Bạch Thổ Sử Tông, xa gần đi suốt, người đời chẳng biết. Lúc mới gặp gỡ, Sư bảo: "Nam Tổ truyền giáo, vì sao Bồ-tát đến chậm thế ư?" Ngày khác đồng lên trên đỉnh núi Ngư Pha, thấy ở phía Đông nam có ngọn núi xanh mầu sáng rất đẹp, Sư nói với ngài Tử Vũ rằng: "Tôi và ngọn núi này trước kia vốn có nhân duyên!".
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 8 (749). Vua Huyền Tông có ban sắc chế độ người. Châu Tướng Vi Nam Kim dâng tạng văn đề cử các hàng tăng tục có cao hạnh, thỉnh Sư ghi thuộc danh Đạo tràng
Ninh Hóa ở trong Châu, Sư cố khước từ đổi lệ là "Phật Xuyên". Tức ngày xưa, ngọn núi ở chỗ Ngư Pha đứng trông thấy, vào đời Lương, đời Ngô đều làn nền nhà cũ. Theo địa chí chép: "Ở phía nam đỉnh núi xanh, đào được hai tượng Phật cổ, không biết thuộc niên đại nào. Tại chỗ được tượng Phật có suối linh nước phún lên, nhân đó mà gọi tên là "Phật Xuyên" (Sông Phật). Cạnh dòng suối có đền thờ Ngô Vương cũ". Theo phong tục thì dâm từ lạm dùng hy sinh. Bấy giờ, vào đêm tối, Sư ghé dừng nghỉ nơi miếu, bỗng nhiên sấm sét mưa tuôn kéo đến làm cây rừng đổ ngã, ngói đá lốc bay. Trong chốc lát mưa tạnh, trăng sáng tỏ, thấy một trượng phu dung mạo mạnh mẽ to lớn. Sư bảo rằng: "Quân sĩ! Sống thề làm hiền nhân, chết thà làm minh thần. Cớ sao khiến muôn sanh thường bị huyết thực, đâu biết việc đó ương lụy đến nghiệp ấy ư?" Vị thần đáp: "Chẳng phải bổn ý của đệ tử, đó do mọi người tự làm như thế". Bèn đôi ba phen lễ bái sám hối. Nhân đó mà Sư cho thọ giới Bồ-tát. Vị thần vui mừng nói: "Sư muốn dời chùa, đệ tử nguyên xả bỏ nơi này, vĩnh viễn phụng cúng xây dựng nhà ngồi thiền". Sau, quả thật, Sư dời chùa đến bên cạnh đền miếu, tự nhiên đào được chiếc mâm đồng, dưới đáy có khắc hai chữ "Tuệ Minh". Đến tháng giêng niên hiệu Kiến Trung thứ nhất (780), Sư thị hiện bị bệnh. Ngày đó, đình Thủy Xuân mưa suốt ngày, có Hổ dữ đi nhiễu quanh bờ tường kêu gào buồn thương mà đi. Đến ngày 12 tháng giêng, Sư lặng lẽ thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, năm mươi mốt hạ lạp. Qua ngày 12 tháng 2, xây tháp tại núi ở phía tây chùa. Sư truyền pháp cho ba đệ tử: Tuệ Giải, Tuệ Mẫn và Như Tri. Như thường tình Thu Tử nhặt tiêu. Đệ tử thọ Bồ-tát giới là Thứ sử Lô Ấu Bình Ngạn Chân Khanh riêng một mình hỏi tục Đỗ Vị. Bùi Thanh sâu vào thiền vị, giúp cho thợ vẽ soạn bài minh trên tháp thờ Sư.
Thích Tử Vũ tự là Chân Anh, họ Thẩm, người ở xứ Đức Thanh, thuộc Ngô Hưng. Tổ tiên Sư mất nước ở đất Thẩm, nhân đó mà lấy làm họ. Ngài là con cháu của Thẩm Tử thời xuân thu. Sư vừa mới sinh đã mà tỏ vẻ thông tuệ, chẳng nhờ thầy truyền trao dẫn dắt. Chưa đến tuổi búi tóc mà Sư giã từ cha mẹ, cầu xin xuất gia.
Vào niên hiệu Như Ý (692), có thánh chỉ đại xá độ người. Sư bèn nhuộm áo, cạo tóc, đóng bít việc đời, đến chùa Đại Phước Tiên ở Lạc Kinh, xin được thọ giới. Sư siêng năng thỉnh cầu, trong ba đêm, thấy có vị thần nhân rõ ràng trước mắt, chợt qua chợt lại, hoặc đồng hoặc khác, há có thể chẳng chí thành được ư? Từ đó, Sư đốt đèn Như Lai, đeo ấn Bồ-tát. Đến niên hiệu Chứng Thánh (695) Sư đến "đạo tràng Đại Vân" gìn giữ luật pháp bền chặt, cầm nắm tăng cương, sửa sai cử chỉ, cũng chẳng đáng ư! Sư vốn lai lịch thuần tịnh, không phạm lỗi, chẳng danh dự, khiến các kẻ sĩ trong thiên hạ có người như ngoại đạo, hay xiển-đề.
Tâm như gió thổi, nói năng như suối chảy, sao khuấy nhiễu thánh giáo của ta, diệu môn của ta ư? Sư dùng thong dong mà chỉ bày, lấy phương tiện mà dẫn dụ, không ai chẳng cúi đầu khuất phục mà vâng mạng. Sư thường lễ bái mười lăm ngàn danh hiệu Phật, kiêm lễ sám từ bi, một ngày đêm một vòng, hoặc hai ba ngày một vòng. Ban đêm có chín vị Thánh Tăng xuống tại chỗ ngài lễ sám cùng hành đạo trong chốc lát bèn đi. Hoặc có đêm không đèn đuốc, tâm miệng Sư là niệm, ánh sáng chiếu khắp phòng như đang ngồi dưới ánh trăng. Thường có như thế.
Sư bùi ngùi, vì khắp ấp Đức Thanh chưa có chùa tháp, bèn khởi tâm muốn xây dựng. Sư đề xướng thảy đều hòa ứng, mới thành Tinh xá. Trước sau, Sư đã viết chép ba tạng kinh, gồm tất cả mười sáu ngàn quyển. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), có Pháp Sư Túc ở Lâm An bị chết giấc qua ba ngày đêm, sắp vào địa ngục, trong minh phủ, ngài thấy Sư bị người dẫn đến trước vua Diêm-la và ngươi ấy nói rằng: "Người này hay giảng kinh Niết-bàn, Diêm Vương nên rộng thứ cho!" Diêm Vương nói: "Chỉ nghe có Sư Nham Luân hay giảng, chẳng nghe tên sư này?" Đôi ba phen cứ như thế, Diêm Vương không chịu, do đó mà thả ra. Từng ở tại làng đó, có người thí trâu, tự nhiên không mang thai mà có sữa chảy ra, cảm thông đến như thế.
Đến mùa thu niên hiệu Thiên Bảo thứ 11 (752), Sư an tọa mà thị tịch, qua mùa xuân năm sau (753), sắp mở linh khám, muốn đón rước nhục thân Sư trà-tỳ, nhan sắc chẳng biến đổi, vẫn như lúc sống. Tuy ở Thiếu Lâm mang thai đã có râu, mùa Xuân ở Kỳ Châu dưỡng tóc, sao lại tốt đẹp như vậy! Đại Lý Bình Sự Nhiếp, Giám Sát Ngự Sử Điêu Đạm, Chủ Khách Lang Trung Diêu, Thứ Sử Dương Tuệ Tài đều quy hướng kính tin.
Thích Duy Thật, họ Thang, người ở xứ Phú Dương. Sư thực hành hạnh đầu-đà, tâm an thiền quán, đạm bạc lắng ở, thường ngồi không ngủ. Ban đầu, Mẹ của Sư ức chế tâm nguyện của Sư, không cho xuất gia. Nhưng rồi, lồng mở chim bay, bờ thủng nước chảy. Sư học theo Đồng Tử Thiện Tài tham lễ khắp nơi, đồng với ngài Ca-diếp luyện hạnh.
Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Sư đến núi Nhã Áo ở Minh Châu. Ban đêm thầm nghe có tiếng nói: "Nên đến Bồng Lai Thánh tích danh sơn!" Sáng hôm sau, Sư lên núi đó, hang động cheo leo, vách đá vót thành, có nhiều hang động xinh đẹp khác thường, thật chỉ là cảnh linh, có dấu chân Đức Phật rất lớn. Sư hỏi một ông lão ở núi đó thì ông nói rằng: "Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742) mới hiện điềm ứng nầy!" Sư bèn có chí ý nguyện nương náu tại đó trọn đời. Bấy giờ, gặp lúc giặc biển Viên Triều như ong kiến nhóm họp, phân chia cướp giật giết người vô tội. Nhưng, đến Hương Sơn, chúng đều chạy trốn. Sư ở nơi giường nhắm mắt, trước đó dùng một tảng đá lớn ngăn che cửa động. Bọn giặc cướp khoảng hai ba trăm tên lại khiêng một tảng đá to lớn hơn hai trượng đến lấp bít miệng hang. Sư dậy, cất tiếng kêu, và đưa tay đẩy ra, bọn giặc đều cúi lạy hối lỗi rồi đi. Dân chúng trong ấp vô cùng kính trọng Sư, bèn xây cất tinh xá, chưa tới năm sau đã hoàn thành. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Thái thú Bùi Sưởng tấu trình xin đề hiệu chùa là Hương Sơn. Vua Đại Tông ban chiếu độ tăng có bảy vị thuộc danh ở đó.
Đến mùa Đông niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), Sư thị hiện bị bịnh, ngồi kiết già mà thị tịch tại chùa, thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi mốt Hạ lạp.
Thích Tăng Nhẫn, họ Sử, người ở xứ Trần Lưu, thuộc Bái Quốc. Đến tuổi đi học, Sư tời trường làng, các bạn đều yêu mến, ghé mắt liền nhập thần, lại tài giỏi nghệ văn, mới tùy theo kế, thường nêu không ngừng.
Đầu niên hiệu Hội Xương (841), Sư đi khắp vùng Tái Viên, tìm hỏi núi cổ Hạ Lan, vào trong chọn được chỗ đất sạch, là hang Bạch Thảo, Sư phát tâm Bồ-đề, chóng cởi treo mũ Nho, thẳng quy hướng Thích Giáo, mới cắt cỏ bện tranh làm nhà, càng gấp bội tha thiết tinh tấn, các giống dân Khương, Hồ đua nhau tìm đến cúng dâng tô lạc. Đến niên hiệu Hội Xương thứ 5 (845), Tiết Độ Sứ Lý Ngạn giúp tốt danh tiết, đến chùa Long Hưng, lập ra biệt viện, đề hiệu là Bạch Thảo, bởi lấy tên gốc nơi ban đầu Sư tu đạo.
Sư thường chích máu viết chép các bộ kinh. Niên hiệu Đại Trung thứ 7 (853), Lý Ngạn sợ Sư ốm gầy, bèn sang đôn đốc dẫn dụ, nói rằng: "sao Sư chí tu cho mình, thực hành hạnh Tiểu thừa. Sao chẳng kéo dài tiếc lấy sanh tánh, giữ gìn giáo pháp, ích lợi rộng lớn hơn thay!" Sư chấp tình bền chặt, bèn soạn "Tam giáo hủy thương luận" để thấy rõ chí khí. Lý Ngạn đọc qua càng thêm kính trọng. Đến niên hiệu Đại Trung thứ 9 (855), nhân đọc Kinh Đại Bi, nghiên tầm nghĩa lý bốn mươi hai cánh tay, đến đoạn cành tay Vô Úy, Sư sanh nghi ngờ nên kết đàn, trọn tuần cầu thỉnh. Tự giữa hư không hiển hiện Chánh Ấn, hai nắm tay rõ ràng trông thấy. Ngài bèn bảo thợ vẽ cánh tay ấy. Có người gièm pha phỉ báng, Sư bèn tinh thành tha thiết kính cáo. Thợ vẽ rửa bút trong bát đồng, bỗng chiêu cảm một đóa hoa thật tánh, cành nhánh tua nhụy mỗi mỗi đều sáng đẹp, mọi người trông thấy đều kinh hãi ngợi khen.
Đến ngày mùng 10 tháng 7 niên hiệu Hàm Thông thứ 12 (871), Sư thị tịch tại Viện Bạch Thảo, thọ năm mươi chín tuổi. Qua ngày 17 tháng 10, xây tháp thờ tại phía Nam Thủy Quán.
Ban đầu Sư chích máu viết kinh, tổng cộng hai trăm tám mươi ba quyển, đắp họa tôn tượng LôXá-Na, lầu cao ba mươi lăm thước, cửa cao một trượng sáu thước. Khởi dựng họa Đại Bi công đức ba bước, tự soạn "Luận Đại Bi " sáu quyển, đều cất giữ trong các rương tráp. Sau Tiết độ Sứ Đường Hằng Phu kính ngưỡng di tích Sư, bèn tấu trình xin vua sắc ban thụy hiệu là Quảng Tuệ Đại Sư, tháp hiệu là Niệm Định. Đệ tử của Sư là Vô Triệt cũng là bậc tài giỏi cao xa, mang hai quyển Kinh viết bằng máu và một cành thụy hoa đến cung tấu trình, được triều đình tuyên cáo ban tặng Pháp y sắc tía, thị tịch trong khoảng niên hiệu Thiên Phục (901-904). Đến đầu niên hiệu Càn Hóa (911) thời Hậu Lương, Trung Thư Lệnh Tây Bình Vương Hàn
Công Tốn ghi chép lại di tích của Sư để tấu trình. Vua Thái Tổ (907-911) ban sắc tặng thụy hiệu là "Pháp Không", riêng tặng tử phương bào. Đến niên hiệu Đồng Quang (923-926) thời Hậu Đường, Tùng sự Tịch Chiêu ghi làm văn bia nơi tháp thờ Sư.
Thích Văn Toản, họ Trương, người ở xứ Tấn Dương, Dung mạo Sư trang nghiêm. Thuở nhỏ thờ thầy tại chùa Sùng Phước ở Tinh Châu, học cùng các sách, nắm mang Tam thừa. Đến như sách mạng của Kim Bản Ngân Thằng, văn chương của Long Thao Tượng Bí không thứ gì chẳng xem đọc, tình ruộng sóng cả, miệng biển tuyên xướng, mở mang đối dương phúc trời, mỗi mỗi đều vui mừng tin phục. Có chiếu mời phiên dịch, kiêm làm Đại đức các chùa Phật thọ ký ở Hà Nam, chùa An Quốc, chùa Hà Ân chùa Sùng Phước v.v... ở Kinh Triệu. Sư ưa thích tu phước, thiết trăm hội Vô già, phàm thánh lẫn lộn Sư đều bình đẳng cúng thí. Giả sử như gió mây kéo nổi liên tiếp, nhưng đến ngày trai thảy đều tạnh sáng bình yên. Cảm động đến người cầu phước chẳng luống dối. Sư thọ hơn sáu mươi tuổi, thị tịch tại Bổn Viện. Khắp trong địa vực mây giăng buồn như khóc suốt mấy ngày chẳng tan.
Thích Hoài Ngọc, họ Hứa, người ở Tinh Châu. Thuở nhỏ Sư sáng suốt thông lợi, mỗi ngày xem đọc đến ngàn từ, sớm bày mầm bén nhọn, chóng trội vượt đồng hàng. Đến lúc trưởng thành, giới hạnh tiết tháo Sư càng cao vợi, trường phạm khuôn phép. Sư chí ở tu tập, chẳng gián đoạn đây kia. Hạ ở chùa vũ, kinh có thiếu khuyết thì tu bổ liền, tượng có rách nát tức khắc sửa sang, ba nhậm kỷ cương, riêng có sùng kiến. Sư so sánh Đại Tạng kinh hơn hai mươi bổn. Trời rất rét lạnh hay nắng nóng quá độ, Sư chẳng phế bỏ thời khóa sớm tối, trang nghiêm thêm viện tịnh độ, làm việc tùy sức, càng thêm rực rỡ. Vua Đại Tông ngợi khen, giao phó Sư làm chủ đạo tràng Quán Đảnh, có đầy đủ tất cả chân ngôn bí quyết. Sư thọ sáu mươi ba tuổi, thị tịch tại bổn viện.
Thích Đại Bệnh, ngài người ở xứ Thiên Thai, thuộc Đài Châu. Sư họ Trần, vì Sư có phát đại nguyện hết báo thân này chịu mọi thứ bệnh thay cho chúng sanh, nên chẳng nêu tên gốc.
Sáng hôm Sư chào đời, có ánh sáng lành chiếu soi khắp phòng. Thôn xóm chung quanh đều lấy làm lạ. Năm bảy tuổi, Sư chịu tang cha, buồn thương hầu như mất trí. Sư thưa cùng mẹ cầu xin xuất gia, mẹ Sư vừa mở lời can ngăn, Sư bèn chặt ngón tay. Bà con thân thuộc đôn đốc khuyên răn. Sau đó mẹ đưa Sư đến chùa Quốc Thanh. Khi giới châu hoàn bị, Sư phát chí du phương, ban đầu Sư đến dừng tại nơi hiện nay là Đông Kinh. Tiếp theo, Sư đến Hà Dương, cầu mưa cho dân chúng, căn cứ theo kinh mà vẽ hình tượng tám vị Long Vương, thiết lập đạo tràng, khải cáo chú nguyện xong rồi ném xuống các dòng sông. Cả chúng đều trông thấy các hình tượng vẽ hoặc chìm hoặc nổi, bất định. Trong khoảnh khắc, mây giăng đầy trời, sấm sét nổi vang, mưa tuôn xối xả, khắp ngàn dặm đều tràn ngập. Từ đó mọi người quy tâm kính mến rất đông. Trước đây trong ba thành thường có gió giữ mưa đá, tổn hại đến lúa mạ, thành tường ngăn đổ ngã, mọi người cho đó là do rồng dữ gây nên. Sư vì trì tụng mật ngữ, sau trải qua một năm mọi sự tốt lành, mất hẳn mối lo sợ ấy. Dân chúng khởi tâm lập dựng Đường Vũ như đền thờ sống.
Năm Đại Lịch thứ nhất (766). Sư lên núi Thái Hành, đi đến Hoắc Sơn, vào nơi sâu xa, cất am tranh mà ở. Có kẻ trộm lấy chén bát của Sư ăn, bỗng chốc thấy hai con Hổ đứng cản đường, lại gặp Sư, kẻ trộm mới cúi đầu tỏ bày hối lỗi. Sư an ủi xong, bèn đưa tay xoa đầu hổ. Sư nhiều lần nhiếp phục thú dữ như thế. Kẻ trộm ấy vốn là tiều phu hái củi, xin nguyện nương tựa Sư thực hành hạnh khổ. Trong đó có miếu sơn thần, khắp vùng Tấn Giang tương truyền thần ấy thọ hưởng máu thịt, Sư bèn vào miếu khuyên thần thọ quy giới, dứt bặt sự giết chốc muông sanh. Tượng đá thần ấy thường theo khuyên lãnh thủ, ngoái nhìn lại thần phụ, nhưng không tỏ vẻ trả lời. Sư bèn cắt tóc cho thần và triệt phá thần phụ (vợ của thần), mọi người trong làng lấy làm lạ, rao truyền khắp châu ấp. Thái Thú tức giận việc làm của Sư, bảo rằng: "Triều đại Đường ta đây từ ban đầu Vua Cao Tổ khởi dựng đến nay, khốn khổ đã lâu, thần đó hiện hình chỉ đường để đón rước nghĩa sư, sau đó từ tảng đá lớn tạc thành tượng, thiết cúng chẳng thiếu sót. Nay vị sư hói ấy không tướng trạng gì mà dám làm như vậy". Bèn sai người bắt trói đem về giam giữ tại chùa Gia Truyền, khóa chốt rất nghiêm ngặt. Đến hai mươi ngày sau, mở cửa ra, thấy Sư lặng lẽ thiền định. Khắp cả thành đều đến chiêm ngưỡng kính lễ, nghe tiếng khánh, Sư thư thả xuất định. Thái Thú mời gấp mà Sư chẳng đến, đến nỗi ra lệnh chém đầu, Sư bèn chặt một ngón tay giao kẻ sứ mang về. Thái Thú cảm động, đích thân đến đón rước, thỉnh Sư về trụ chùa Đại Phạm, xây tháp gạch để tôn trí xương ngón tay Sư. Từ đó, các hàng Đàn Việt kề vai chen chân đua nhau tìm đến. Có người bỏ chất độc vào rượu đút lót một cô gái nghèo đem đến cúng thí. Sư đã biết trước, cô gái mang rượu đến, thưa với Sư: "Nhà thiếp ủ men nấu rượu cảm thấy ngon, nên chiết rót đem dâng cúng Hòathượng để cầu phước, huống gì Phật còn chẳng trái nguyện của chúng sanh, v.v... " Sư bảo: "Ngươi cũng là Phật". Nhưng cô gái ấy sợ phải uống trở lại, bèn bày tỏ đầy đủ sự tình. Sư cầm lấy chén rượu nếm thử, chỉ chốc lát hơi rượu thấm vào cổ, đất dưới chân bị nứt ra, mọi người nghe kinh hãi quái lạ, việc dùng rượu cúng dường bắt đầu từ đó. Dân chúng ở vùng Tây Hà thuộc phần thấp bị bệnh, Sư chỉ cho nước sạch mà uống vào thì lành hẳn. Hễ gặp lúc đói kém, Sư xin thức ăn để ban thí. Sau, Sư đến Triệu Châu, cứu nạn đói kém, thiết lập đạo tràng thí thực, trước sau có đến tám hội. Xa gần nương nhờ, đạo cảm có nhiều thứ.
Đến ngày mùng 8 tháng 7 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 19 (803), Sư lặng lẽ ngồi kiết già mà thị tịch. Bốn chúng lúc đầu cho rằng Sư thiền định như trước kia ở chùa Gia Tuyền, bèn sắm sanh hương hoa cúng dường. Cách năm sau, da thịt dần cứng lại mới biết thật là Sư đã thị tịch, bèn sơn phết và dùng vải lụa vẽ đó. Đến thời vua Võ Tông phá hủy tháp tượng, bất kể lớn nhỏ đều bị phá hết, mọi người cùng bàn thỉnh dời vào lò nung, thế rồi mọc lên một lùm cỏ điềm lành, hình dáng cái như lọng bao phủ xung quanh che chở gió mưa. Đến lúc vua Tuyên Tông lên ngôi (847), trùng hưng Phật giáo, phong hiệu Tỳ-kheo xây một ngôi đình nhỏ, thỉnh dời chân hình Sư tôn trí vào đó. Xương ngón tay Sư chặt tôn thờ tại chùa Gia Tuyền đến nay đã hơn trăm năm, mà gân thịt và móng đều sáng đẹp như mầu vàng ròng. Hoặc gặp lúc chiến tranh thành hủy sụp đổ, ngón tay ấy bị mất, sau có người mang đi lành nạn, việc xong trở về lại như cũ, đó cũng là âm phúc. Đến nay, mọi người ở Bình Dương rất tôn sùng kính tin.
(Quyển 26 hết)
(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có ba vị)
Thích Tăng Kiệt, không rõ Sư là người xứ nào, sống ở nhà Phật mà hành hóa ở cõi thần. Sư giữ châu nói giới, dừng nước lắng tâm, thường than rằng: "Keo lận bền chặt đến thế ư, chẳng chịu làm đàn na để cứu giúp!"
Vào niên hiệu Kiến Trung (780-784), Sư xây dựng "Mạn-thù Đường" phỏng theo Thánh tướng ở núi Ngũ Đài. bàn việc xây dựng Đài đến mé nước. Sư lo sợ tổn thương đến sanh mạng, bèn lập đạo tràng ba ngày, chú nguyện cho các loài từ nhiều chân cho đến loài không chân, nên dời sang nơi khác để tránh, chớ để thành nạn phạm hạnh. Để biết sự cảm động của năng lực chí thành thật chứng nghiệm chẳng luống dối, bèn đào đất ra đến suối không hề có một con côn trùng nào. Sư thường lấy lụa dày làm đãy lượt nước, gặp lúc múc nước có côn trùng thì bắt thả vào giếng hố, bấy giờ gọi đó là giếng hộ sanh, nước thường đầy chẳng cạn. Sư lại trông thấy loài sâu ngài mối đất lầm nhận ánh sáng của lửa là đường bay được nên cố bay vào, Sư bèn đúc ống đồng thiều để dứt bớt khói, dân chúng trong nước truyền nhau cách thức đó.
Tại viện Mạn-thù thường trì tụng Kinh Pháp, luôn được sắc tặng hương hoa. Chùa đó vốn có Đài Bảy Báu, trong chùa có đài do chính Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) tạo lập, Sư thường ở trong đó.
Thích Định Quang, không rõ Sư là người xứ nào. Từ lúc nhập Pháp, thì quyết tánh chẳng bó buộc, chỉ ăn dùng gạo dở một bữa vào giữa trưa, mặc áo cánh cụt vải thô quanh năm. Sư đến Xứ Đông Thục hóa đạo những người có duyên, sự việc cũng nhiều ma giáo chẳng tốt đẹp. Không bao lâu thì gặp lúc vua Võ Đế phá hủy Phật pháp, lập bày trở lại Nho tông. Đến ngày Phật pháp trùng hưng, chúng tăng nhóm hội, Sư cùng sửa sang, xây dựng chùa chiền, nhân đó đúc Đại Hồng Chung, tính liệu vàng đỏ hơn muôn cân. Ngày đó, khua khóa tro bay gieo vào lửa dữ, có hai luồng khói lành từ chỗ cao nhất của tướng luận tháp phát ra liên tục bắn lên như cầu vồng. Cả muôn người cùng nhau nhìn thấy năm mầu tuôn vọt giữa hư không, cùng cảm như thế, kính tin cổ động ứng theo.
Tháp đó là nơi Vua A-dục tôn thờ xá-lợi. Đâu niên hiệu Đại Hòa (827). Giống người Nam man Mông say điên cướp dựt vào trộm thành, phân man tốt xả trong chùa, mái hiên vũ lan can đều cháy rụi hết. Chư tăng đều bỏ chạy trốn. Khi đó trên đỉnh tháp phóng ra bốn luồng khói đặc phân túa thẳng lên giữa hư không. Đến tối, bọn man trông thấy kỳ lạ như thế bèn cấm dừng ô uế. Tháp đó, trước kia ở phía Tây bắc cách hơn bốn mươi bộ. Khoảng cuối niên hiệu Thiên Bảo (756) Trưởng Sử Chương Cừu Liêm Quỳnh đến nhậm chức, vừa mới tới Kiến Môn, thấy một người cao hơn một trượng cầm mác đứng trên đường, Liêm Quỳnh kinh hãi bèn hỏi, người đó đáp rằng: "Tối là thần Hộ pháp ở chùa Đại Thạch, nên đến đây để đón rước, vả lại, có ít việc cần cầu hỏi đại phu, đó là vì ở phía Tây nam của tháp chùa Đại Thạch chưa được tốt lành lắm, nay xin dời sang hướng Đông bắc bốn mươi hai bộ. Cúi mong được đào bới phía dưới tảng đá ấy vì để trấn giữ xá-lợi". Liêm Quỳnh nói: "Việc đó dễ thôi". Bèn ấn quyết hình, đến phủ vài ngày, bèn bảo người lường xét chỗ đất ấy trước khi đào bới, quả thật có được tảng đá lớn, sâu không biết tới đâu là ngằn mé. Bèn thúc giục vài người thợ đá đến đục. Đến tối liền bị lấp bít. Liêm Quỳnh sai người ngầm dò xét, thấy có chừng mấy mươi con lợn trắng đưa miệng ủi đẩy đá đến lấp đó và dùng lưỡi liếm cho chặt như đồng sắt. Chương Cừu Liêm Quỳnh bảo ngưng đục phá, bèn dời tháp đến chỗ ở hiện nay, tức nơi nền cũ chùa Kim Hoa. Và Đại Hồng Chung do ngài đúc cũng dời đến chùa mới.
Thích Trinh Cán, họ Võ, người ở xứ Vân Trung. Sư làn người có dáng vẻ cao xa, lấy sự thiền định vắng lặng làm việc chính. Sư chống tích trượng đi về phương Nam dò hỏi linh tích, và khi đến Cố Chướng, ở đó có chùa Côn Sơn, suối rừng xinh đẹp. Đó là nơi vào thời tiền Tống (thuộc Nam Triều). Ngài Chi Đàm Đế từng khảo thất tại đó, thấm mùi vị đạo, sùng hóa hơn hai mươi năm, dấu vết tích còn đó. Đến niên hiệu Nguyên Gia (424-454) thời tiền Tống, thuộc Nam Triều, xây dựng thành ngôi chùa lớn. Mãi đến sau này, gặp lúc vua Võ Tông-thời tiền Đường phá hủy Phật giáo, chùa ấy cũng bị phá hủy.
Ngài đến dừng ở đó, cùng Phạm Dương Lô
Quân Tập đồng hưng khởi, xây dựng danh tích thứ 2 của Pháp sư Hoằng Giác, khi chùa hoàn thành, tiến sĩ Diêu Phù có làm thơ khen ngợi. Sau, Sư đến xứ, nay là Trường Thủy, thuộc Tú Châu, thấy chùa Linh Quang, dân chúng trong ấp muốn dựng xây điện lớn. Bấy giờ, Lô lịnh dời chữ "Ấp", dân chúng vui mừng gặp nhau, Sư đều biết trước. Có người nói "Sư đắc tha tâm thông, túc mạng minh", bèn thỉnh Sư xướng đầu, nhưng Sư nhàm chán sự ồn náo nơi yển thất (nhà nghỉ), bèn ngự ở sau nền điện, bện tranh làm nhà cạn mà ở. Đàn tín bốn phương chẳng mời mà đến. Sư lại cùng các Samôn Linh Cung, Quân Đạo v.v... trải qua nhiều năm mới dựng thành chánh điện như hiện nay. Chánh điện ấy rộng lớn, khắp trong nước thật ít có nơi nào sánh bằng. Sự việc hoàn tất, Sư bèn mang đảy rách và chống tích trượng cũ trở về phương bắc. Không biết về sau, Sư mất ở đâu.
Thích Đạo Tuân, tự là Tông Đạt, họ Trương, người ở xứ Ngô Hưng, sớm mang tiết tháo đặc thù, xứng danh kẻ sĩ thanh khiết. Vinh hoa chẳng đáng ràng buộc nơi tâm, thanh trần không hề xúc phạm đến tánh Sư.
Năm hai mươi tuổi, Sư đến Thiên Trúc; nơi
Luật Sư Nghĩa uy cầu thọ giới cụ túc. Sư phụng thờ Đại Sư Hưng ở chùa Báo Ân là bậc đứng đầu Tông Tỳ-ni truyền giáo. Sau, Dư học pháp môn Nhất Tâm Tam Quán của Thiên Thai. Muốn viết chép "Kinh Pháp Hoa" rộng khắp, dựng lập Đạo tràng, mở mang kinh viện. Ngày thứ nhất phát khởi tâm niệm, ngày thứ hai dựng lập nền móng, làm chẳng vượt quá, tự quyết mà công thành, trụ Phước Địa ở Chi Hình.
Niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766), Châu Tướng Vi Nguyên Phủ, Binh Bộ Thượng Thư Lưu Yên, Thị Ngự Sử Vương Viên, Khai Châu Thứ Sử Lục Hướng, Điện Trung Thị Ngự Sử Lục Tấn, Đại Lý Bình Sự Trương Tượng đua nhau dẫn dụ chân tâm, cùng được thù thắng, mới cùng dâng biểu tấu trình. Vua Đại Tông ban chiếu thư đặc thư làm "Đạo Tràng Pháp Hoa". Từ sông trở về phương Đông tất cả mười bảy ngôi chùa, đều do Sư đứng đầu. Đề cử mười bốn vị Đại Đức có hạnh tinh tấn, thường trì tụng Kinh Pháp Hoa để báo ân quốc chủ. Đúc tôn tượng Phật Lô-Xá-Na, Tỳ-Lô-giá-na và tháp Đa Bảo, tu nghiệp sẽ sanh Tịnh độ, tạo tượng Phật Adi-đà. lại viết chép giáo nghĩa Thiên Thai, ích lợi cho đạo tràng, đặt hai khu vườn thường trú. Bình thường, Sư giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Thiên Thai Chỉ Quán, Tứ phần sao văn, Sư lên pháp đàn độ người, trao tâm, mở mang giới luật, đồ chúng đông đầy cả thạch thất.
Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Sư đến Đạo Tràng Linh Nham, hành trì Pháp Hoa Tammuội, bỗng thấy ánh sáng lớn trên đèn soi suốt giữa trời, thân mình chánh niệm nghiễm nhiên trong ánh sáng. Hôm sau, Sư hỏi Đại Sư Trạm Nhiên ở Kinh Khê rằng: "Ánh sáng trí tuệ từ tâm phát ra, chẳng phải từ ý chí tinh tấn phát ra phải chăng?" Lại ở bổn tự, Sư vào Đạo tràng Pháp Hoa, thấy thân mình ngồi giữa hư không. Các bậc tiên chứng biết đó là tướng gội bụi trần. Năm đó, Sư đã bảy mươi mốt tuổi, bốn mươi sáu hạ lạp.
Đến ngày 29 tháng 7 niên hiệu Nguyên Hưng thứ nhất (784), Sư thị tịch tại chùa Chi Hình. Các Sa-môn Ích Công, Hàn Công đêm đó đều mộng thấy đại điện sụp đổ, quả nhiên là Sư thị tịch. Môn nhân Linh Hàn, Pháp Thạnh, Đạo Hàn, Du Tử, Linh Nguyên kính mến không thôi, bèn xây tháp cúng dường, tán dương đức hạnh của Sư.
Thích Hàm Quang, không rõ Sư là người xứ nào, từ thuở nhỏ đã giác ngộ trần cảnh huyên náo, tìm nơi vắng vẻ.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thấy Tam Tạng Pháp Sư Bất Không là người rất được trọng vọng, kính quý vào thời bấy giờ, Sư bèn đến nương tựa. Đến lúc Pháp Sư Bất Không trở về Tây Vực, Sư cũng theo hầu, chẳng sợ gian nguy khó khổ, chỉ nghĩ tìm cầu thánh tích. Khi đi, thuyền nổi trôi trên biển, gặp cá lớn nhìn ngó vào thuyền như có ý muốn nuốt ăn, hai lần gặp phải gió độc dữ, kỳ quái vật lạ, thế rồi dần dần yên tĩnh, bỗng chốc đã đến nước Sư Tử. Gặp lúc A-Xà-Lê Tôn Hiền dựng lập đàn tràng Từ Bi Thai Tạng, chấp nhận cho Sư và ngài Tuệ Biện đồng thọ pháp Ngũ Bộ Quán Đảnh.
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 6 (747), Sư trở về lại Kinh Triệu. Khi đó, Pháp Sư Bất Không đang phiên dịch kinh, Sư bèn tham dự cùng luận bàn Hoa Phạm. Sau khi Pháp Sư Bất Không viên tịch, vua Đại Tông kính trọng Sư như được thấy Pháp Sư Bất Không. Ban sắc giao phó cho Sư sang núi Ngũ Đài tu công đức. Bấy giờ, học thuyết Tông Thiên Thai có ngài Trạm Nhiên thấu suốt Thiền Quán, thành đạt được cốt lõi của ngài Trí giả, thường cùng các vị Sa-môn hơn bốn mươi vị ở Giang Hoài vào cảnh giới Thanh Lương. Ngài Trạm Nhiên và Sư gặp nhau, bèn hỏi về việc truyền pháp ở Tây Vực. Sư đáp: "Có Sa-môn của một nước thấu hiểu được Không Tông, hỏi về giáo pháp của Đại Sư Trí Giả, thì có vị Phạm Tăng nói là có nghe giáo pháp ấy, phân định tà chánh, thấu hiểu thiên viên, tỏ biết chỉ quán, công lao được suy tôn là bậc nhất, đôi ba phen dặn dò Sư. Hoặc nhân duyên lại đến nên phiên dịch từ Hoa Văn thành Phạm Văn gởi đến, tôi nguyện thọ trì. Thường luôn nắm tay đinh ninh dặn dò, rõ ràng ở đất Nam Ấn có lắm người thực hành giáo nghĩa Tông Long
Thọ, nên có nguyện lưu bố này!" Không biết về sau Sư tịch ở đâu.
Liên hệ thử bàn:
Chưa nghe giảng nói Phật giáo ở Trung Hoa mà lại truyền ngược đến Tây Vực, có việc như thế ư? Thông đáp: Xưa kia, thời vua Lương Võ Đế (502-550), có Thổ-Cốc-Hồn-Khoa-Lã-Kha-Hãn Sứ đến cầu Phật tượng và kinh luận mười bốn điều. Vua trao cho các bản kinh sớ do vua soạn như Niếtbàn, Bát-nhã, Kim Quang Minh v.v... gồm một trăm lẻ ba quyển. Vốn vị sứ giả ấy đã thông rành tiếng Hoa, đã thấu đạt âm tự, đến kia sẽ dùng thổ âm ở đó mà phiên dịch từ Hoa Văn thành tiếng của người Hồ, mới giúp mọi người thông hiểu. Ở kia cũng có chư tăng, sẽ lần lượt truyền dịch từ phía tây biển xanh đến các nước phía bắc Thông lãnh. Không bao lâu thì lưu hành khắp cả năm xứ Ấnđộ, không có gì nghi ngờ. Nên Xa Sư có Mao Thi, Luận Ngữ, Hiếu Kinh, lập ra học quan đệ tử để cùng trao dạy, tập đọc đều là tiếng người Hồ. Lại nữa, vào thời tiền Đường, ở Tây Vực, cầu đổi đạo kinh. Triều đình có ban chiếu các tăng sĩ và đạo sĩ phiên dịch Hoa văn thành Phạm văn. Hai Tông giáo tranh Bồ-đề là Đạo, phân vân không thôi, đến nửa chừng thì dừng nghỉ. Giả sử phiên dịch truyền đến kia (Tây Vực), thấy điển tịch sâu mầu uyên ảo của phương này (Trung Hoa), há chẳng tốt đẹp ư?
Lại nữa, Phật Giáo ở Tây Vực là cội gốc, ở Trung Hoa là nhánh lá. Sự hiểu biết của người đời là biết về nhánh lá mà không biết về gốc rễ, nghĩa là không biết nhánh lá, đất trồng và gốc rễ lớn vậy. Như cây Ni-Câu-Đà. Bởi vì người ở phương Đông thông minh lanh lợi. Vì sao biết? Vì người xứ Tần ưa thích sơ lược, nghiệm ở nói ít mà hiểu nhiều. Còn người ở Tây Vực thì thuần phác, vì sao biết? Vì ở Thiên Trúc ưa thích phiền nhiễu. Chứng nghiệm ở điểm nói lại và sau mới tỏ ngộ. Do đó mà quán xét, thì cái lợi của người Tây Vực là điểm Niệm Tánh, còn cái lợi của người Đông Phương là ở điểm giải tánh. Như Giáo nghĩa "Vô Tướng", "Không" phát xuất từ ngài Long Thọ, nhưng ngài Trí Giả diễn giảng đó khiến Tây Vực kính tin, ngưỡng mộ. Lại như Giáo nghĩa "Trung Đạo" được sanh ra từ ngài Di-lặc. Nhưng, do Đại Sư Từ Ân (Huyền Trang) giảng đó, nghi rằng ở Tây Vực ít có người sánh bằng. Cùng biết hai Tông trên đây đều trồng nhành là trên đất của Trí Giả và Từ Ân, vào đất sanh gốc rễ riêng. Người khéo giao tiếp thấy mà chẳng biết, nghe mà có thể mến thích. Lại như Châu Ngọc của Hợp Phố, người dân đất bắc có được bèn kết lại mà trang sức nơi mũ mão, làm bông tai, người xứ Nam Hải thấy mà không biết, nhưng nghe thì có thể mến thích. Như tơ của tằm phụ, nhà người thợ khéo giỏi có được đó mà thêu thùa làm xiêm y, thành áo Phủ áo Phất, các bà già tham cầm, thấy mà chẳng biết, nhưng có thể mến thích.
Tốt đẹp thay! Đại Sư Trí Giả, Đại Sư Từ Ân, bậc thầy của Tây Vực, có thể chẳng tôn sùng kính ngưỡng được ư?.
Thích Tịch Nhiên, họ Bạch, không rõ Sư là người xứ nào. Danh tiết trong sạch kỳ lạ, nối gót Tứ Thánh chủng, nên hiệu là Đầu-đà.
Niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828), Sư chống tích du phương, tìm hỏi thắng cảnh Thiên Thai, đến Châu Sơn thuộc Diệm Ốc ở phía nam ngọn núi Thiên Mụ, đối diện Xích Thành Hoa Đảnh Thiên Thai, phía bắc trông nhìn về Tứ Minh có núi Kim Đình Thạch Cổ, tại ranh giới phía Tây bắc có ngọn núi Chi Độn, có sườn núi Dưỡng Mã, và ngọn núi Phóng Hạc lần lượt tiếp nối nhau. Từ đời Tấn, đời Tống về sau, tại núi đó hang động mở khai. Ban đầu có La-hán Bạch Đạo Du nói từ Tây Vực đến và ở hẳn tại núi ấy. Tiếp theo có các ngài Trúc Pháp Tiềm, Chi Đạo Lâm đến ở đó. Các bậc cao nhân thắng sĩ nối gót mà ẩn cư trong đó. Đến như Đái Quỳ, Vương Hy Chi, Hy Siêu, Tôn Xước, Hứa Tuân đều đến dừng nghỉ ở đó. Thấy ở trong đó, cảnh trí khác lạ, nghe các bậc danh sĩ phần nhiều đến ở đó, như trở về quê cũ, mến luyến mà chẳng thể bỏ đi. Thế rồi Sư hành đạo, mở mang hưng thạnh, nhóm họp thiền chúng. Chiếc Đông Liêm Sứ Nguyên Tướng Quốc, v.v... nghe thế, ban đầu vì chọn xây dựng, tiếp đến có Lục Trung Thừa Lâm Việt biết thế nên hỗ trợ đến hoàn thành, chỉ ba năm tạo thành Đại Viện, năm năm thì thật sự hưng thạnh. Sư thường vì thiền khách qua lại bàn nói tâm yếu. Sau, Sư thị tịch tại Sơn Viện, lúc đó nhằm niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (833).
Bấy giờ, có Bạch Lạc Thiên ở Bảo Ly thuộc Hà Nam ghi lại, Lưu Tân Khách Vũ Tích biên chép.
Thích Phổ Ngạn, họ Thái, người ở xứ Hán Đông. Thuở bé, Sư đã thông minh hơn hẳn, cốt xương mắt xinh đẹp kỳ lạ, bẩm tánh vốn chẳng ưa thích mùi vị tanh nồng. Đến lúc lớn lên, có ý xuất trần. Cha của Sư nghiêm nghị dạy răn, trao cho kinh sách Sư dần thông nghĩa lý, cầm bút bày từ, bay bướm như hoa tảo. Nhân đó, Sư vào tăng xá được tạm cầm nắm quyển kinh, bèn than rằng: "Phật pháp huyền vi, chẳng thể vội vàng mà đến được!" Và Sư quyết chí từ giã thân thích.
Bấy giờ, Thiền Sư Hoài Hải đang ở núi Bách Tượng, các hàng xuất gia dẫm gót chen vai đông đúc, bấy giờ, gọi đó là Đại Tòng Lâm. Sư đến khấu đầu nơi cửa, được ngài Hoài Hải nhiếp thọ. Thường ngày theo Sư làm việc nặng nhọc, tối đến một mình cầm đuốc tụng kinh, chẳng hề sợ lao nhọc, bèn được xuống tóc, rồi đăng đàn thọ giới. Sư bèn học tập Thiền-Na, ngồi xoay mặt vào tường quên cả mỏi mệt, quán tâm là việc chính thường xuyên. Như hoa Chiêm-bặc nương gió mà hương tỏa bay xa. Mèo nhỏ gặp thú mà kêu lớn. Học giả đến vây quanh thỉnh Sư đến an tọa đạo tràng viện Thọ Sơn ở An Lục. Vây quanh như thế hơn bốn trăm chúng, cầm khí mà nghe thuyết Cù-Sa, ném thẻ đợi độ của Cúc-đa, lợi ích quần cơ, người đắc đạo rất đông.
Vào niên hiệu Thái Hòa (827-836), Sư nói với chúng rằng: "Tôi vân du sông núi chưa khắp đủ, mọi người chớ lưu giữ tôi lại! Xích Thành ở Thiên Thai, nơi Sư Đạo Du từng dừng ở. Thạch Lương ở Hoa Đảnh chỗ xưa kia Đại Sư Trí Giả hàng phục ma. Nay tôi sắp đi đến những nơi ấy". Sư bèn từ Tương Dương quanh co mà đến, Thiên Mụ Từ ở Ốc Châu đến cửa Tây của Thiên Thai, gặp được ngọn núi trong Bình Xuyên Cốc tên là "Đại Xá", hiệu là "Bình Điền". Sư nhìn xem bốn phía núi đó tốt tươi, đông tây hai phía của núi đều có cửa đá, và có ba giếng Long Đàm, ở phía đông đi vào cầu đá có chùa Thánh, đó là nơi Tôn Giả Lục Thân Đạo Du cất am mà ở. Sau đó không lâu, thấy con hổ đang cho con bú trừng mắt nhìn Sư, Sư cầm tích trượng đè vào đầu nó mà bảo rằng: "Bần đạo nghe tại núi này là hang động nhà cửa của thần tiên, có các vị La-hán ẩn cư. Nay muốn dừng nghỉ tại đây để an tĩnh ngồi thiền, Đàn Việt chớ làm kinh nhiễu!" Qua đêm thì hổ dẫn con mà đi.
Ngày 27 tháng 10 năm Quý Sửu (883), Sư xây dựng trượng thất, dẫn theo một đứa trẻ để hầu cấp củi nước. Sang mùa xuân năm sau, thiền lữ tìm đến đông đúc, góp sức tạo thành viện ấy, đề hiệu là "Bình Điền". Đến niên hiệu Khai Thành (836-841), trở thành đạo tràng lớn. Đến tháng 7 niên hiệu Hội Xương thứ 3 (843), Sư giã từ tăng chúng mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi.
Ngài có đệ tử là ngài Toàn Lượng, vốn họ Trần, khi tỏ ngộ được đạo của thầy như được chim Phụng mọc lông, và một vị nữa tên là Duy Ước thị tịch tại Thượng Nguyên, nhục thân không rã hoại, Sư bèn xây tháp tại núi đó.
Trước tại chùa nầy có điện thờ năm trăm vị A-la-hán. Vĩnh Gia Toàn Ức Trưởng Sử, vẽ năm trăm hình tượng, mỗi lúc nghinh thỉnh thì đến nơi Thạch Kiều, ban đêm đốt hương, có đủ phướn lọng, loa bạt, dẫn đường vào điện, hương gió đưa đi, thế của cờ phướn ở trước vào cửa liền dừng. Chúa Thánh Thạch Lương ở trong Thạch Kiều, mỗi lúc chúc tụng, xướng khởi thì mùi hương mới bay, phía trước có chim mầu vàng ròng bay liệng sau rừng cây. Bên bờ đá, thấy có Phạm tăng hoặc đi hoặc ngồi, hoặc tướng trạng như vẫy tay, hoặc hình dạng như nằm giữa hư không, chỉ trong nháy mắt có ngàn muôn biến hóa. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền hằng năm bố thí cúng dường, có nhiều điềm lành. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978), vua Thái Tổ thời Bắc Tống đến điện Tư Phước hỏi Lưỡng Chiết Đô Tăng Chính Tán Ninh rằng: "Thạch kiều ấy dài rộng bao nhiêu?" Ngài Tán Ninh mỗi điều như thật mà tấu trình. Nhà vua khen ngợi hồi lâu. Đến niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (983), nhân có Đạo giả ở chùa Phước Điền tự dò hỏi, phát nguyện chặt đứt cổ tay mà thiêu đốt, xin xây dựng lại chùa đó. Vua Thái Tổ bèn tuyên bảo cho Nội điện Đầu Cao Phẩm Vệ Thiệu Khâm Trương Thừa Quý thay đổi quy chế cũ, như hóa ra thiên cung. Nay ảnh đường phụng thờ Sư ở phía hữu của chùa.
Thích Duy Tắc, Sư có chí cao vượt tục, thần gá ngoài vật. Hễ Sư làm việc lành, đề xướng thì mọi người liền theo. Sư thường nói: "Tượng là duyên mạnh mẽ để sanh thiện, không được không lập nhiều. Ban đầu quán chiếu đó thì như đối trước nghiêm quân, tiếp đến thì tâm chẳng loạn, ở giữa thì quán môn tự thành và sau cùng thì Như Như, thênh thang, Tam-muội làm sao chẳng hiện tiền ư? Vì vậy chúng ta khuyến hóa mê tục đâu được chẳng lấy đây làm trước ư?" Từ đó hoặc chạm trổ, hoặc đắp họa hình tượng rất nhiều, thường việc tấn tu, khắp trong thiên ấp đều khơi động khuyên gắng. Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), gặp lúc vua Hiến Tông vì Thái Hoàng Thái Hậu mà thiết trai cúng dường cả nước, Công Chúa Đại Trưởng truy phước xây cất lập Tinh Xá Phụng Từ, tìm chọn các bậc danh đức, nên Sư được chọn vào ở. Không bao lâu, nghe ở núi Mậu thuộc Tứ Minh có tháp của A-dục, vào thời Đông Tấn có Lưu-Tát-Ha Cầu hiện, Sư bèn đến chuyên lễ. Sư phát tâm nghiền bảy báu thành mạt vụn và dùng keo trộn đắp khuôn thành thủ tả, mở ra rất giống, bèn từ Dũng Đông đích thân mang về cúng dường chùa Phụng Từ. Mọi người khắp Kinh Ấp đều chiêm ngưỡng, quy tín.
Thích Minh Chuẩn, không rõ Sư họ gì, sinh ở đâu. Sư vốn xuất gia tại Đạo tràng Linh Khư ở
Thiên Thai, Sư du phương đến Kinh Ấp, thấy thần tăng Trí Uyển xưa kia đến Uyển Dương Bắc Sơn khắc đá viết kinh, rót sắt để đợi đức Từ Thị Di-lặc hạ sanh, khỏi lo về nước lửa. Lại tại chùa Trường Thọ ở Đông Lạc Sư chép Kinh Hoa Nghiêm, ở chùa Thánh Thiện chép Kinh Pháp Hoa, tại Chùa Nhạc ở Tung Sơn chép Kinh Lăng-già, đều khắc trên đá mân cứng tốt, đồ họa chẳng hư mục.
Tháng Giêng năm Mậu Dần (798) thuộc niên hiệu Trinh Nguyên, Sư thấy chư tăng trong chùa đục núi lấy đá, đá đều cứng chắc, nên biết người thợ chẳng kiền thành, núi Linh bí hiểm. Khi đó, Sư bèn khải cáo âm linh cầu thỉnh hộ giúp việc lành. Bỗng chốc trong định thấy có mấy bức trữ vô lượng đá, trong khoảng mờ tối như có tể cắt, đều có khắc chữ ở trong. Khi đó, liền suất dẫn Bác Lục Thôi Công khơi khuyến Mộ Phủ cùng giúp, mỗi người viết một phẩm. Từ phẩm Tựa đến phần Khuyết phát tất cả hai mươi tám phẩm. Viên lang trội lập, chẳng mong mà hoàn tất. Sư hóa độ người phần nhiều đồng loại như thế. Lúc đó nhằm khoảng tháng 8 niên hiệu Nguyên Hòa thứ nhất (806).
Không rõ về sau Sư tịch ở đâu.
Thích U Huyền, họ Lưu, người ở U Châu, sớm ôm hoài ý nguyện xuất tục. Đến năm hai mươi tuổi mới toại tâm nguyện trước. Sư đến nương tựa Thiền Sư Hiền mà tỏ ngộ huyền khế.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 2 (807), Sư chống tích đến Giang Tả, tới chùa Đại Vân ở Cối Kê, thấy có ba học tăng thay nhau khất thực, duyên giúp đều thiếu, Sư mở lời, đàn việt hưởng ứng cúng dường chiêm ngưỡng. Sau đó không lâu, Sư dời đến trụ chùa Cổ Diệu Hỷ ở Quy Sơn thuộc Hô Tâm. Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9 (814), gặp lúc Bình Xương Mạnh Giản trấn tại đất Việt, xuống tìm Sư hỏi Đạo, bèn xây dựng thành Đại Điện. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (817), Sư lại lên Nam Nhạc, trụ ở trên đỉnh núi. Qua năm sau (818), Dự Chương Thái Thú Thương Hựu dốc lòng kính trọng đạo phong của Sư nên thỉnh Sư tới ở tại chùa Đông Minh, tức ngoi chùa do vua An Đế (397-419) thời Đông Tấn xây dựng. Tăng chúng thường trụ đông đúc. Đến niên hiệu Bảo Lịch (825-827) Thương Hựu lại tấu trình xin đổi hiệu chùa là "Thế Phước", kiêm thiết lập giới đàn, rồi lại tiếp tục đổi hiệu chùa là "Độ Tăng". Hình tượng trong thời gian đó đều do Sư hóa đạo.
Đến niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Thẩm Phó Trung Thừa lại thêm kính tin, Sư xây dựng lầu Phật năm tầng ở phía Nam Viện. Đến lúc công việc hoàn thành, Sư bảo với đệ tử rằng: "Việc phước vô tận, bến bờ sự sống có hạn, vật tuy có thiếu sót, nhưng người sau sẽ làm đầy đủ. Sau khi tôi tịch hãy đem Nhục thân sơn phết quấn bố an táng phía dưới lầu!" Nói xong, Sư bèn thị tịch, môn nhân xây dựng tháp bên cạnh.
Thích Trí Quân, người xứ Trung Sơn. Từ thuở nhỏ, giã từ thân thích, Sư đến viện Thiện Trụ ở núi Ngũ Đài đảnh lễ Ngài Hiền Lâm thờ làm thầy. Sư trì tụng Kinh Pháp xứng hợp tư cách được độ. Thần tình Sư thông sáng, khí điệu cao vợi. Đối với của cải thế gian Sư luôn ít muốn biết đủ, chỉ ăn cơm gạo dở dể no bụng, chỉ mặc áo vải thô đẻ ngăn che rét lạnh. Có tấc vải dư nào Sư đều cấp thí cho những người bịnh khổ. Sư du phương tham ngoạn, đến dự các trường giảng tịch, truyền hai bộ Kinh Pháp Hoa và Duy-ma, cùng nguồn hết lý.
Sau, Sư chống tích đến Cao Phong dứt tâm quét bỏ. Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), chúng tôn Sư làm Ngũ Đài Sơn Đô Kiểm hiệu Thủ Tăng Trưởng. Khi đó Sư cố khước từ nhưng không được, bèn lên làm chức ấy. Sau, gặp năm đói kém, chùa chiền tiêu điều. Có chùa Hoa Nghiêm là chỗ ở của Đại thánh Lâu Chân. Mọi người qua lại rất đông, mà cúng thí sơ sài, viện đường rất nhiều chẳng thể tính kể. Chúng thỉnh Sư làm "Hoa Nghiêm Tự Đô cúng dường chủ". Bấy giờ, có các ngài Pháp Chiếu, Vô Trước, Trừng Quán ra đời, thấy Sư định soạn "Hoa Nghiêm Kinh Sớ". Tăng chúng nhóm họp đông đảo, bèn thỉnh Sư làm giảng chủ. Thường ngày cúng dường cả ngàn vị tăng, có hơn mười năm thọ dụng mà chưa từng nghe nói thiếu, đều bảo là có gạo bột của kho tàng vô tận, càng lâu năm càng thấy sung túc. Có Sa-môn Nghĩa Viên ở gần viện, cũng là bậc Thạc Đức ở đương thời, cho rằng từ lâu Sư trông coi của thường trụ, nên có lời phỉ báng rằng: "tâm Sư không bình đẳng là kẻ san tham". Đêm đó, có vị thần báo với ngài Nghĩa Viên rằng: "Tăng Trưởng (tức Trí Quân)là một trong số ngàn Đức Phật, ông có lời nói xem thường, nếu không sám hối tội lỗi, sẽ bị đọa vào đường ác". Đến sáng sớm, ngài Nghĩa Viên bèn tới đảnh lễ sát chân Sư bày tỏ sám hối. Sư có ứng nghiệm đến như thế.
Lại, gặp lúc vua Võ Tông thanh trừng đào thải, Sư bèn trốn ẩn trong hang núi, chẳng phải xả bỏ hóa cảnh của Văn-thù. Sau đó, chưa đầy một năm, vua Tuyên Tông lên ngôi (847), ban sắc các chùa ở núi Ngũ Đài độ tăng năm mươi vị, cúng dường y pháp. Sơn môn lại suy tôn Sư làm "Tăng Trưởng" của mười chùa, kiêm chức "Sơn môn đô tu tạo cúng dường chủ". Đến niên hiệu Đại Trung thứ 7 (853), Sư cùng Hoàn Hải đi khắp Ngũ Đài, chúng tăng lập đàn tràng Vô Già Tinh Diệu cúng dường. Suốt một tháng trời, Sư mới nói với đại chúng rằng: "Tôi muốn tạm ngừng nghỉ mảnh hình hài nhỏ bé, dứt tâm, giấu vết. Việc giúp đỡ chúng tăng, tôi không thể làm. Xin giao phó cho các bậc tài giỏi anh minh sau này tiếp nối dấu vết của tôi!". Sư bèn vào trong tịnh thất đoan tọa mà thị tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi tám hạ lạp.
Liên hệ thử bàn:
Nhậm chức trong chúng tăng, như giềng mối của mành lưới, như rường cột của ngôi nhà. bắt đầu từ thời Diêu Tần lập là "Chánh Ngụy Thế Suy Đô". Thời Bắc Tề gọi là "Thập Thống Phân Viên", đến thời Tiền Đường thì gọi là "Tăng lục mạng chức". Khác thay những điều thường nghe. Núi Ngũ Đài từ niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) (theo văn truyện tức trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) chứ không phải Trinh Nguyên). Ngài Trí Quân bắt đầu được phong là "Tăng Trưởng".
Cũng như cá muối, nghêu hến cầu mong giữ gìn.
Thích Văn Chất, họ Chúc, là cháu xa của Thượng Khâu. Sư là người xứ Tu Giang, thuộc Cù Châu, có người chú trong họ làm Sa-môn hiệu là Duy Khoan. Ngài Duy Khoan học thông nhiều bổn kinh luận, có được chiếu ban trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An, lại có chiếu mời vào Nội Đạo Tràng, kiêm thỉnh truyền thọ giới Bồ-tát. Sư theo ngài Duy Khoan vào Nội. Năm mười lăm tuổi, Sư trì tụng các bộ kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duyma v.v... Năm hai mươi ba tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Chỉ bảy ngày, Sư tụng suốt giới bổn. Sau hai mùa hạ, ngài giảng Luật Tứ Phần. Năm hai mươi bảy tuổi, ngài giảng thông Luận Câu-Xá. Trong vòng bốn mươi năm, ngài tinh hiểu các bộ kinh luận lớn.
Sau, Sư đến chỗ hai Thiền Sư Đại Bi và Vũ Tích tham hỏi tâm yếu. Khi đã thấu đạt, Sư trở về chùa Pháp Lạc ở Gia Kỵ dẫn dắt đồ chúng. Bấy giờ có con Hổ đến nghe pháp, Sư đưa tay xoa đầu, nó bèn bỏ đi. Sau, Sư đến Vĩnh Gia, gặp lúc suy tra, bắt bớ vào pháp nạn Hội Xương, Sư bèn ẩn cư tại Thai Tức trong núi Đại Phù Dung ở huyện Lạc Thành, mà thôi. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860), trùng hưng Phật pháp, Thái Thú Vi Quân nhiều lần thỉnh mà Sư không đến, bèn cưỡng ép đặt Sư ngồi trên giường khiêng đến ở chùa Khai Nguyên. Đàn Việt đua nhau kéo đến, vội xây dựng Phật điện lớn và phòng nhà, mái hiên, hình tượng, đồng thời viết chép Tạng giáo, thảy đều hoàn bị. Việt Châu Liêm Sứ Thẩm Nhị Khanh thỉnh Sư đến ở viện tại núi Lã hậu. Đó vốn là chỗ hoằng hóa xưa kia của Thiền Sư Ninh Bí. Sư đến chỉ dừng nghỉ nơi thảo am.
Ngày 14 tháng 10 niên hiệu Hàm Thông thứ 2 (861), Sư giã biệt đồ chúng, qua hôm sau (ngày 15), Sư đoan tọa mà thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi hai hạ lạp, xây tháp an táng tại Vân Cốc. Thứ Sử Việt Châu là Đoàn Thức soạn hành lục của Sư.
Thích Tông Lượng, họ Phùng, người ở xứ Phụng Hóa. Nhà ở bên cạnh Nguyệt Sơn, nên sau gọi là Nguyệt Tăng.
Sư xuất gia thọ pháp vào niên hiệu Khai Thành (836-841) chuyên thực hành Tỳ-ni, vâng theo bốn oai Nghi, không có hành vi thiếu sót.
Sư bảo rằng: "Ta sanh không phải thời!" gặp lúc pháp nạn Hội Xương, Sư bèn ẩn trong hang sâu ở núi nhà. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860), xây dựng lại chùa Quốc Ninh, chọn các vị tăng thanh cao, Sư dự làm chức trụ trì. Thái Thú Kiến Châu là Lý Tần làm bia chùa viết rằng: "Với những bậc tâm thanh cao, hạnh chẳng ô nhiễm có hai mươi tám vị. Lấy đủ số đó nhưng rộng trụ trì thì chỉ có Luật Sư Tông Lượng và Thiền Sư Toàn Hựu mà thôi". Tạng kinh được biên chép của chùa Quốc Ninh, do chính Sư đi tìm bản chánh, chọn lựa giấy mực, nhóm chúng cúng thí. Xây dựng Tam Môn Tạng Viện, các công đức mái hiên đều do công sức của Sư. Đến tuổi về già, Sư chuyên tu thiền tịnh, chẳng ra khỏi cửa chùa. Xử Sĩ Phương Can có tặng Sư bài thơ rằng:
"Nước thu trong trẻo thường thấy đáy
Khe thông ngàn thước chẳng mọc cành
Không môn học Phật biết ít nhiều
Chỉ mình sư cắt đứt hoa tâm!"
Sau, Sư thị tịch tại chùa, thọ tám mươi tuổi.
Sư thường cùng Sa-môn Quý Sương, Thế Ngộ, Bất Ngâm, v.v... mấy mươi vị, đều nắm giữ thanh kỳ, thay nhau làm văn hội, kết bạn dưới rừng, soạn bia chùa Nhạc Lâm. Thi tập có đến ba trăm bài tán tụng, đều lưu hành ở đời. Đối với hai thứ ruộng Phước Điền và Kính Điền, tâm càng bén nhạy mà sâu đậm. Sư được Sanh La Ẩn ở Giang Đông kính mến, An Lạc Tôn Cáp rất kính trọng. Soạn "Tứ minh quận tài danh chí", theo thứ tự các Nho sĩ tài tuấn ra, riêng đề Thích Tông Lượng, làm cho nhiều bậc văn sĩ tiên đạt ngưỡng mộ.
Thích Đàm Hưu tự Đức Phu, họ Lý, Khí độ rộng rãi, chí hạnh tinh tu. Sau khi thọ giới, Sư không hề buông lung, thiếu sót chút ít. Sư học thông Tiệm giáo, thấu đạt tinh vi, tứ phần luật tướng bộ sớ tông phát triển thành phủ sâu. Các hàng sơ cơ cầu học đều đạt đến rất sâu.
Ngoài việc giảng dạy. Sư còn gánh vác việc chùa Liệu Thằng. Chùa ấy được xây dựng vào thời Nam Lương (502-557) đã qua bốn trăm năm, chỉ còn quán các trơ trọi, rui mè kèo cột lại đổ nát. Sư bèn thay cũ làm mới, sửa sang xây dựng không lúc nhàn rỗi, đặc biệt càng thêm rực rỡ. Lại nữa, lầu kinh Hộ Quốc, lên đến trên nóc mái đều thấy đỉnh tân. Kế nữa, cửa lầu của chùa, từ niên hiệu Trường An thứ 4 (704) do cố Luật Sư Đàm Nhất là người đầu tiên xây dựng, rồi bị hoang phế và vẫn được sửa sang lại, giống như mới xây. Sư lại buồn vì Đường tòa phụng thờ ứng thân Pháp Sư Khương Tăng Hội xây dựng vào niên hiệu Vĩnh Huy (650-656) quá thấp xấu, Sư bèn khuyến mộ mọi người sửa sang thay đổi khuôn pháp cũ, lúc đó nhằm niên hiệu Hàm Thông (860-847). Mỗi lời Sư nói, Đàn Việt thảy đều hưởng ứng.
Sau, Sư thị tịch tại chùa Sư ở, nay là chùa Đại Thiện.
Thích Trí Quảng, họ Thôi, không rõ Sư là người xứ nào. Bình đức hạnh vốn nguyên vẹn, gốc hóa đạo bền chắc. Sư hành hóa rộng lớn, đặc biệt hiển hiện nhiều ký tích. Hễ trăm thứ bệnh tìm đến Sư, thì Sư chỉ dùng mảnh tre làm que chỉ vào chỗ đau, hoặc đánh vào đó, không bệnh gì chẳng lành ngay. Còn như bị bệnh bại liệt thì ngồi dậy, kẻ què quặt thì đi được. Ngoài ra, những bệnh nhỏ nhặt không có gì đáng nói.
Khoảng đầu niên hiệu Càn Ninh (894), họ Vương mới định chế thành đô, Nhã Quận Thủ La (mất tên) bãi nhiệm, dẫn Sư đến yết kiến Thục chúa. Họ Vương vốn biết thuật kỳ đặc của Sư, nên chỉ gọi là "Thánh Sư". Trước đây, vào niên hiệu Hàm Thông (860-874), vua Nam Man và Thản Xước lại vây hãm phủ thành đô. Bấy giờ, Thiên Vương hiện hình Sa-môn cao năm trượng, trong mắt bắn ra ánh sáng, binh lính Nam Man liền rút lui, nên dân chúng đất Thục dựng lập hình tượng vị tăng cao năm trượng trụ chùa Bảo Lịch ở phía Bắc Thành. Sau, bị Ngưu thượng thư dự định phá hủy, kế là binh lửa cùng dấy khởi. Chỉ sợ tượng Tỳ-sa-môn bị phá hủy. Họ Vương bèn nói với Sư rằng: "Dị thuật đạo đức của Sư động tới lòng người, nương đó có thể sửa sang thiên vương được chăng? Ngày trước, Ngô thượng thư đến đất Lỗ, từng mộng lấy bảo phải sửa lại tượng ta mới lo việc kinh dinh. Trừ thư gấp đến, xin pháp lực thành tựu ". Sư theo đó, dời đến dưới Lầu Thiên Vương, ở nghỉ bằng chiếc giường nhỏ đặt trong góc mà thôi. Hôm sau, người bệnh đến đầy nghẹt cửa, mỗi ngày thâu nhận sự cúng thí tứ hai mươi vạn đồng tiền đến ba mươi muôn đồng tiền. Sư lại mở lời khuyên người đem cúng cây gỗ, chỉ trong tuần lễ, đã vận chuyển đến chất thành đống, Sư bảo Tam Cương trông coi.
Ban đầu, Sư ở tại bổn tự trong Quận Nhã, tại nhà thờ thần Yết-Đế, Sư ở chỉ nửa căn nhà, cửa thấp làm bằng tranh cỏ, không cho người nữ đến cửa, chỉ có một ống trúc không, mỗi lúc đến giờ thọ trai, Sư đem hai mươi văn bỏ đầy vào ống rỗng, đặt trên điện Phật, đánh chuông nhóm họp chúng, tự tha đều bình đẳng phân chia. Thường ngày Tín thí cầu thỉnh cúng trai cũng thể theo ý Sư. Chỉ thí hai mươi văn, cơm tịnh, rau cổ châm, ngoài ra không vật khác, cúng nhiều chẳng lấy. Thọ trai xong thì đi, cũng không có lời cáo từ. Về sau, Sư cũng có thêm nhiều vật thần nghiệm, như gặp người bệnh, thì Sư chỉ đánh hoặc quát mắng liền lành, hoặc bảo đốt giấy mân hòa tan trong thức ăn uống. Hoặc bị bệnh quá thống não, thì vắt giấy thấm nước điểm vào cũng lành.
Niên hiệu Quang Hóa thứ nhất (898), Sư sửa chữa lầu Thiên Vương. Đến lúc hoàn tất, Sư bèn men theo sông ngòi ao, chú nguyện thức ăn cho cá. Qua đêm đó, cá lớn chừng hai thước trở lên, có đến muôn ức con đều chết nổi trên mặt nước, Sư liền nhẹ bước theo dòng nước cứu mười ngàn con cá sanh lên tầng trời là đao-lợi, là đồng.
Thích Pháp Tạng, không rõ Sư họ gì. Bẩm tánh ngay thẳng, thích ban ân cho mọi vật. Sư từng đến Vi Xuyên, khuyên người xây chùa, điện Phật, tăng phòng, mỗi mỗi đều trang nghiêm rực rỡ. Điêu khắc hoa Vi, Phu Trù mời Sư làm Trang Quán. Bỗng nhiên Sư mắc bệnh hiểm nghèo mà chết giấc. Thấy đến một tinh xá bằng bảy báu trang nghiêm, ở thế gian chẳng có. Phía ngoài cửa có vị Phạm Tăng, dáng mạo kỳ lạ, gọi Sư bảo rằng: "Pháp Tạng, ông xây dựng già lam, đều có quả báo tốt. Tại sao đối với vật của Tam Bảo mà ông có lỗi sử dụng lầm lộn? Như vậy, làm sao tẩy rửa cho sạch?" Ngài cúi đầu tỏ bày. Vị Phạm Tăng ấy bảo: "Ông chỉ nên viết chép kinh Kim Cương Bát-nhã và thường thọ trì, chẳng những tiêu tội, mà còn kéo dài thọ mạng nữa!" Vị Phạm Tăng nói xong, Sư sống lại. Từ đó, tự thân sao chép kinh ấy, nửa đêm tụng trì. Đến lúc Sư thị tịch là một trăm mốt tuổi.
Mọi người ở Điêu Âm đến nay vẫn kính tin sùng trọng Sư.
Thích Hải Vân, không biết Sư họ gì quê quán ở đâu. Sư đi đến các Thánh tích, ban đầu tới bên cạnh Nam Đài, chọn lấy ngọn núi cao vót quanh co vắng vẻ hang hóc mà đặt biệt ở đó. Sư khắc khổ vui với đạo, chịu khó làm điều khó làm. Người đi theo Sư rất ít, mà Sư cũng không có chúng đông. Đến lúc Sư thị tịch, môn nhân là Thủ Tiết nhặt lấy xá-lợi xây tháp thờ.
Xưa kia, tương truyền Sư là ứng thân của Bồtát Phổ Hiền, môn nhân Thủ Tiết tức là con của Cao Lực Sĩ. Theo thầy mặc kiệm, có tiến không lùi. Ngài Hải Vân chỉ bày dạy răn rằng: "Ở Thượng Đô có Thiền Sư Ngọa Luân tuy nói là ẩn tích, nhưng thật là mở mang ấn trì của Lục Tổ, một thời khó lường biết. Phương pháp hóa đạo giống như bảy người con cửa Thi Cưu đều nuôi dưỡng. Ông hãy mau đến nương tựa vị ấy!" Đến lúc ngài Thủ Tiết đến diện kiến chưa bao lâu, ngài Ngọa Lu-ân bảo rằng: "Thầy ông là Hải Vân đã thị tịch rồi!" Ngài Thủ Tiết nghe lời đó rất buồn khổ, bèn vội trở về thì đúng như lời ngài Ngọa Luân nói, bèn nối gót hành hóa cùng cày, lúc Sư sắp thị tịch, mây rầu uất kết, quỷ thần buồn khóc, có tháp thờ hiện nay vẫn còn.
Liên hệ thử bàn.
Ngài Hải vân là ứng thân của Bồ-tát Phổ Hiền, phải vậy chăng? Thông đáp: "Bồ-tát mở mang hóa độ chúng sanh chẳng câu thúc nơi bịnh tướng. Như người đáng dùng thân hình Tỳ-kheo để độ thoát liền hiện thân Tỳ-kheo nói pháp cho nghe"-Hỏi: Nếu vậy thì loạn với cảnh giới của Bồ-tát Văn-thù khiến chủ bạn chẳng phân rành ư? Thông đáp: Nếu như đã hỏi tức là sự phân biệt của phàm phu. Các bậc thánh đâu có ngã sở mà cầu ư!
Thích Pháp Hưng, là người ở kinh đô Lạc Dương. Bảy tuổi xuất gia, chẳng dự việc đời. Cầm khăn bưng chậu không sợ khổ nhọc. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa, một năm tròn pho bộ, lại tụng Kinh Tịnh Danh chẳng quá chín tuần (3 tháng). Giới luật oai nghi hành trì không phạm. Lại tìm cầu Thánh tích dừng ở chốn suối rừng, ghi danh thuộc chùa Phật Quang. Tiết tháo Sư đơn lẻ cao vợi, thắm đượm lợi vật, thân không chủ trì, giao phó cho môn nhân, tức tu công đức xây dựng lầu Di-lặc lớn ba tầng bảy gian, cao năm thước, tôn tượng bảy mươi hai vị Thánh Hiền, có tám Đại Long Vương theo tô điểm rất trang nghiêm. Chúng tăng ở núi Ngũ Đài khác miệng đồng lời thỉnh Sư nhậm chức "Sơn Môn Đô", bởi theo thống nhiếp phải có khuôn phép chuẩn mực, hòa xướng không tranh cãi.
Tháng Giêng niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828), nghe giữa hư không-có tiếng bảo rằng: "Giờ nhập diệt đã đến. Nay thiên chúng ở cung trời Đâu-suất đến đón rước". Khi đó, Ngài tắm gội thân mình, đốt hương, ngồi thẳng mà thị tịch, xây tháp thờ cách chùa một dặm về phía Tây Bắc.
Thích Hạnh Nghiêm, là người xứ Vinh Dương, gia đình nhiều đời làm nghề dệt tơ, Sư nối nghiệp kinh sách, Sư bẩm thọ đình cáo để chu toàn, khi nào thành pháp khí có thể dùng cứu giúp. Trong muốn tùy kế, không bao lâu phát khởi túc duyên.
Nhân nghe phẩm Kinh "Diệu Trang Nghiêm Vương", bèn thưa với cha mẹ xin thoát trần lao. Gia đình ngăn cấm, nhưng Sư không lùi chí, thế rồi cắt bỏ trang sức xa hoa. Đến năm đủ tuổi, Sư thọ giới, hỏi đạo các nơi, có thừa khả năng. Nghe ở núi Ngũ Đài, Ngài Văn-thù ứng hiện, phàm Thánh lẫn lộn dấu vết, Sư bèn tìm đến ghi danh ở xứ đó. Từ đó, Sư chỉ trích học, Tam giáo đều thông, đàm luận giữa trời người mà người nghe mịt mờ chẳng biết là trong ngoài khu vực! Các hàng vương công đại nhân không ai chẳng hồi hướng.
Vào niên hiệu Thái Hòa (827-836), Sư thường thực hành và khuyên người tạo phước, tự thiết trai cúng dường lớn, mỗi ngày có đến ngàn vị. Những người thấy nghe đều khen ngợi rằng: "Hạnh hợp với giải thông, báu lạ ít có trên đời. Pháp trợ đạo phải tu như thế!" Niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch. Xây tháp thờ cách chùa một dặm về phía Tây.
Thích Nguyện Thành, họ Tống, vọng gốc Tây Hà, gia đình nhiều đời có gia phong trong sạch, khơi nguồn xa dòng chẳng nổi dậy, con cháu tiếp nối ông cha chẳng ghi chép. Mẹ của Sư họ Âm, ban đêm Bà mộng thấy cây rước sân nở hơn ngàn hoa, hoa lần lượt rơi rụng, chỉ kết một quả. Tỉnh giấc bèn mang thai Sư. Mẹ Sư phát tâm nguyện được mang thai một đứa con trai là đủ. Sau mười tháng, đến ngày sanh quả đúng như ước mong, bèn đạt tên Sư là Nguyện Thành. Sau, chỉ muốn giữ tên đời, chẳng thích Pháp danh, vâng theo ý của từ mẫu. Sư từ nhỏ đã kính mến Không môn. Tuy làm quan học nhưng sanh ra đã có chí dứt trần. Tới lúc nương tựa nơi đất vàng, đảnh lễ Đại Sư Hạnh Nghiêm mà tôn xưng làm thầy. Ngài Hạnh Nghiêm là ngọc khuê, ngọc chương của Nho tông; Là sư tử trong họ Thích. Một ngày nọ bảo Sư rằng: "Ông, thần tình trong sáng đẹp đẽ, nên ở trong núi tinh cần tiết chế, há chẳng thể làm được ư?"
Vào niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư xuống tóc. Hai năm sau (831), Sư thọ giới cụ túc. Trước tiên, Sư trì tụng các bộ kinh thảy đều tinh luyện, khiến các hành nhân ghé tai nghe đạo ngày một đông nhiều.
Bỗng nhiên gặp phải pháp nạn ở niên hiệu Hội Xương (841-847) thảy đều dừng bỏ, chỉ mình Sư giữ chí không lay động. Đến niên hiệu Đại Trung (847-860) Phật giáo được sùng hưng, chọn lựa tăng chúng, riêng Sư đứng đầu. Sư bèn tìm lại chùa Phật Quang, đã bị hoang phế, Sư phát tâm lần lượt xây dựng mới lại. Tiếng tốt lan tràn tới tai vua. Chóng ban thánh chỉ ban tặng pháp y sắc tía. Nhà Hậu Lý từ lâu đã có tinh môn, từ xa kính phụng đức Văn-thù, đích thân đi đến thánh địa, trông thấy lịnh phạm, vỗ tay vui mừng, dâng biểu lên vua nhà Đường, kế đó bèn tặng Sư hiệu là "Viên Tướng" lại sung thêm chức "Sơn Môn Đô Kiểm hiệu"
Niên hiệu Quang Khải thứ 3 (887), Sư sắm sanh các thức ăn ngon, bảo tăng xả y bố thí. Đến lúc tiếng chuông dẫn chúng đều đến Trai Đường, thì Sư nằm nghiêng bên hông phải, gối đầu lên tay, lặng lẽ thị tịch. Xây tháp dựng bia cách chùa một dặm về phía Tây bắc.
Thích Thành Tuệ, ngài là Tông minh tổ phái của ngài Nguyên Lễ, người trong ấp cũ ở Linh Khâu, thuộc Uất Châu. Cha mẹ Sư có đức tin sâu, chú ý đến sự trong mát. Nhân chiêm lễ tôn dung đức Đại Thánh Bà mới cầu con làm hưng thịnh đất nước, thế rồi bà mang thai, bèn sanh hiền tử. Vừa đến tuổi búi tóc mà khí mạo tài năng như trời nương tựa, tự đến núi Ngũ Đài, mãi mãi làm con Phật. Bấy giờ, Thích Pháp Thuận ở điện Chân Dung thấy Sư tỏ vẻ tuấn triết, bèn dùng giáo pháp "Khổ" "Không" chỉ dạy, khuyên Sư xả bỏ thế tục đắp mặc pháp y. Đến lúc đăng đàn thọ giới cụ túc, Sư rất chăm học tỳ-ni. Từ đó về sau, một mình Sư đến chốn khe hang, thường hay ở ven suối rừng. Có các Sa-môn Trạm Sùng, v.v... thỉnh Sư ở chùa nầy. Sư gánh vác chùa đó, những lúc rãnh rỗi, đối với điển giáo nội ngoại, chẳng bỏ mảy may, cúng dường chiêm lễ tinh nghiêm không gì chẳng cung kính. Sư thường trì tụng kinh Hoa Nghiêm đến cả trăm bộ. Mỗi lúc đến cuối quyển, Sư khẩn thiết phát nguyện rằng: "Xin dùng tay tôi cầm kinh cứu người khổ não kia ". Gặp lúc Võ Hoàng cùng vua Thái Tổ (Chu Ôn-907-913) thời Hậu Lương chiến tranh đánh nhau, trung nguyên chưa quyết định. Võ Hoàng trúng phải tên rơi, bị thương đau nhói khó chịu đựng, nghĩ nhớ đến Sư, bèn đốt hương nhớ tưởng, cơn đau bèn dứt, bay xa tới Nhạn trắng, thấu đạt gà vườn, bèn thỉnh Sư xuống núi đón rước vào cung. Võ Hoàng tự thân bái lạy, cảm tạ đức Từ Bi, bèn ban hiệu cho Sư là Quốc Sư. Sau đó, Sư xin trở về chùa cũ, núi vàng ngời sáng, cây ngọc cùng nương. Trân báu khắp chín châu đều đến, lầu đài của trăm chùa thảy dựng xây. Đến lúc Vua Trang Tông (Lý Tần Húc thời Hậu Đường) lên ngôi (923) ban chiếu tặng Sư pháp y sắc tía, và tuyên phong hiệu Sư, nhưng Sư cương quyết chẳng nhận. Nhà vua lại tuyên cáo, sau đó Sư đến nội cung, lại thêm vinh hiển. Sư thọ ân một tháng rồi giã từ trở về núi Ngũ Đài.
Đến tháng 12 năm Ất Dậu (925) tức niên hiệu Đồng Quang thứ 3, Sư dặn dò môn nhân là Đình Khuê rằng: "Nay tôi hóa duyên sắp mãn. Ông nên vì tôi mà dâng di biểu với triều đình. Mỗi người hãy tự gắng sức tu trì, chẳng thể thay nhau được!" Nói xong, bèn vào Trượng Thất, Sư nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch, thọ năm mươi tuổi, ba mươi hạ lạp.
Vua Trang Tông nghe mà xót thương, bèn sai Cao Phẩm trông hộ giúp đỡ lễ tang, và ban sắc cúng tế ba ngày. Sau khi trà-tỳ, còn lại di cốt năm mầu, thâu nhặt xá-lợi xây tháp thờ. Vua ban tặng Sư thụy hiệu là "Pháp Vũ", tháp hiệu là "Từ Vân".
(Quyển 27 hết).
(chánh truyện có mười lăm vị, phụ truyện có một vị)
Thích Trí Huy, họ Cao, người ở xứ Hàm Tần. Vừa đến tuổi búi tóc mà Sư đã khởi tâm muốn lìa tục, chẳng theo lũ trẻ, riêng theo thiên phần. Sau gặp Thiền Sư Khuê Phong Ôn, khí mạo khôi vĩ, tâm rỗng thể đạo, bèn tìm đến cửa, trong lắng nêu riêng. Thiền sư Ôn nói với Sư rằng: "Ông thật là kẻ sĩ tài khí đa năng!" Sư bèn cầu xin xuất gia. Năm hai mươi tuổi, Sư đăng đàn thọ giới cụ túc, phong cốt phóng khoáng, ưa chuộng kỳ đặc. Trong núi thường vắng vẻ không việc gì khác, Sư chỉ gắn liền với Tạng Giáo, thiền luật suốt ngày, trì tụng cả trăm ngàn lời, nghĩa vị đều thưởng thức.
Nghe nói Phật có cho phép nên Sư đọc sách ngoài một thời gian trong ngày, Sư lại rất giỏi về ngâm vịnh, được thể tao nhã. Ngoài việc bút mực còn viết chữ rất khéo, phấn tường mê vui, mây núi trong tay. Sư có nói rằng: "Ta rất kính mến sáu pháp của Tăng Trân Đạo Phân, chỉ tiếc sanh không đồng thời!" Đối diện tường vách, Sư vẽ họa mỗi thứ đều thành hình tượng rất sinh động. Nhưng Sư thật là kẻ sĩ phóng khoáng. Hoặc chấn tích du quán khắp sơn thủy, hoặc nhẹ gót giày rảo xem khắp phố chợ. Ý muốn ở thì dừng, hết hứng thú thì đi, hoặc vào liên xã ở Đông Lâm, hoặc đến kinh hành ở Nam Nhạc. Tỏ ngộ tông chỉ ở Tào Khê, thà khổ nhọc một đêm. Tìm hỏi thần tiên nơi Viện Động, dò đến Tam Thanh, lấy việc chí cầu, không lúc nào phế bỏ. Ngoài ra, Sư hái thuốc nơi sơn cốc, cứu bệnh trong tăng lữ, chỉ khẩn thiết lợi tha, tâm không việc riêng.
Đến niên hiệu Càn Hóa thứ 4 (941) thời Hậu Lương, từ Giang Biểu, Sư đến Đế Kinh, nhìn thấy các phạm cung không đâu chẳng hoàn bị. Chỉ có nhà tắm tẩy rửa bụi nhơ việc còn thiếu sót, bèn dừng lại ở Lạc Châu, đục hang làm thất, ranh giới ở hai bờ nam bắc chất chồng có đến vài mẫu, chỉ bày để nêu bảng, mời những người ưa thích phước nghiệp cùng xem. Chưa đầy một năm mà dần dần xây sắp đủ. Trong viện, tăng phòng rực rỡ có thứ lớp. Từ đó, các bậc thượng lưu nơi đạo quán, chư tăng khắp Lạc Thành, người đến như trở về, người đến không ngăn ngại, thường hợp trước sau, năm ngày một lần mở tắm gội, không hề gián đoạn, trong một năm có hơn bảy mươi hội. Mỗi lần tắm, khắp cả xa gần nhóm tập có đến hai ba ngàn vị tăng. Ngài tự thân làm mọi việc, không hề nói mệt mỏi. Sư dùng gỗ đóng guốc mang chân, lấy sợi gai vá chằm áo mặc. So với Tôn Giả Ca-Diếp-Ba thì cách có bao xa! Hoặc lúc rảnh rỗi, Sư ngâm vịnh cúng dường chư tăng, nhàn rảnh thì chăm việc bút mực, miên tưởng đến Gia Lăng, Bích Lãng, Thái Hoa, Liên Phong, ngưng thần xa tít, có hứng thú thì làm. Khói cảnh Ngũ Khê, bốn vách rừng lạnh, dời ở trước mắt, có đủ nắng nóng và rét lạnh. Lại thêm vận nghĩ khéo léo tạo trục quay múc nước nhanh chóng như thần, không thể sánh bằng. Lại xây dựng nhà tắm ứng chân, phía trong Tây vũ có mười sáu hình tượng và Quán Tự Tại đường, chỉ hơn một năm đều hoàn tất.
Bấy giờ, Dương Thị Lang trấn nhậm tại đó, giả vờ ngông cuồng gọi là Dương Phong Tử, mà dốc lòng kính trọng Sư làm văn bia khen ngợi đức hạnh. Không biết về sau, Sư mất ở đâu.
Thích Quang Tự, họ Lý, người ở Xứ Văn Thủy, thuộc Thái Nguyên. Từ thuở nhỏ, Sư đã thích một mình vắng lặng, ít xen tạp với bọn trẻ, tin chuộng núi Ngũ Đài, mới làm đệ tử tài giỏi của Ngài Hạo Uy ở viện Chân Dung. Sau khi thọ giới, khí vũ Sư rộng lớn, phiền não nhiều bao tang, bèn ra đi cầu thiền Pháp, trải qua năm tháng học nội ngoại giáo điển đều phát triển tốt đẹp, biển lớn sóng dồi thật khó chống chỏi. Do đó, Sư quyết chí vượt Trùng Hồ, lên Mân Lãnh, thạnh hành đàm luận thế giới của Bồ-tát Văn-thù khiến người nghe kinh động. Trung Ý Vương họ Vương cúng thí danh hương sai sứ mang đến chùa.
Năm Quý Dậu (913), Sư đến Lưỡng Chiết, yết kiến Võ Túc Vương họ Tiền và được tiếp đãi rất nồng hậu. Cúng thí Văn-thù Thánh chúng các vật hương trà và một muôn cái bát. Kế nữa, ứng với mục tể các châu Ngô Việt đều khắc bỗng lộc nhập duyên, Sư đi theo đường biển đến Thương Châu, chuyển vận các vật vào núi. Bấy giờ, Đại Sư Hàng Long suất lãnh đè ép, chư tăng đều sợ. Vì Sư phân tán chúng ở các chùa, lan-nhã ít được quân bình, nên lúc đó, đồ chúng kiên quyết thỉnh Sư làm chủ viện. Tuyên cáo bổ sung Tăng Quan Hạc ở Các Đài Chùa Viện, gọi đó là Đô Cương và xưng hiệu Sư là Siêu Hóa. Sư dẫn đầu chư tăng như chim phụng thống lãnh các loài lông vảy. Suốt trong vòng mười lăm năm xây dựng Phạm Vũ cúng dường tăng ni chẳng hơn kỷ cực.
Đến niên hiệu Thiên Phước thứ nhất (947), Sư nhuốm bịnh, tới ngày mùng 5 tháng 9, Sư gài thị tịch. Môn nhân xây tháp an táng linh cốt, Xá-lợi đến nay vãn còn.
Thích Tuân Hối, họ Lý, người ở xứ Tiều Quận. Ông nội Sư chẳng ra làm quan, mẹ của Sư họ Trương, mộng thấy vị thần trao cho mình một viên ngọc báu, bèn có thai Sư. Đến lúc sanh ra Sư rất kỳ lạ, lúc cho bú, Sư khéo biết sự vui buồn của người. Đến khi khôn lớn, hễ thấy chùa quán, Sư hẳn đều đi chậm rãi, lại quay đầu chăm nhìn chẳng tạm bỏ. Năm mười một tuổi, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Hào Thành, đảnh lễ Luật chủ Sùng Nhân, tôn xưng làm thầy. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa hoàn tất được hai bộ, từ đó càng siêng năng học hỏi. Đến tuổi hai mươi, Sư đăng dàn thọ giới cụ túc, hành trì luật nghi bền chặt như chuyển đá. Sư tìm thầy ở Tây Lạc, hỏi đạo ở Kê Viên. Ban đầu, đến nơi Pháp Sư Trí Tiềm, Sư được truyền giảng Kinh Pháp Hoa, tinh nghĩa nhập thần, thư hoàng đầy miệng.
Năm Mậu Thìn (908) tức niên hiệu Khai Bình thứ 2, thời Hậu Lương, Ngài trụ Viện Dược Sư ở Chùa Tướng Quốc, đứng đầu trong việc giảng dạy. Đến năm Tân Mão (931) tức niên hiệu Trường Hưng thứ 2, thời Hậu Đường, môn đồ tiếp tục thỉnh Sư giảng dạy. Đã khắp mười chín biến, lên giảng đường hơn hai mươi vị. Đến niên hiệu Thiên Phước thứ 2 (937) thời Hậu Tấn, có Đại Sư Kế Ngung ở núi Ngũ Đài là người thông hiểu Đại Kinh Hoa Nghiêm, đích thân vào Đông Kinh, đến chỗ vua Cao Tổ (Thạch Kính Đường 936-943) thời Hậu Tấn ban giáng Thánh tiết công đức. Sư kính ngưỡng Ngài Kế Ngung, biện sóng sông Kinh, như gió thổi xuống xu hướng, sung cho việc tuyên giảng. Sư lại khéo phân xuống trăm dòng, chứa thành tạng biển. Khoảng đời Hậu Lương, (907-923) đời Tống, vì Ngài Kế Ngung thôi thuyết giảng nên Thỉnh Sư Phu Dương, khắp giảng đường tăng tục đến đông đúc. Ngài khuyến mộ bốn chúng khắc một bộ Kinh Hoa Nghiêm trên vách đá trong giảng điện khắp ba mặt. Sư than dầu tố khác với tai họa như lửa dữ ở trên, khắc vào đá trinh mân này đâu còn lo sâu trắng ăn phá". Công thợ chưa báo hoàn thành mà đàn thí cúng dường đã đủ. Sư lại mời các hàng tăng tục mỗi người trì tụng một quyển, tất cả có được hai trăm bốn mươi vị thành được ba bộ. Bốn mùa thiết lập kinh hội, gần hai mươi năm không hề gián đoạn. Ngài lại riêng thí Pháp thực cho quỷ thần thủy lục, đều khuyên gắng trang nghiêm tâm hạnh Bồ-đề. Triều đình khen thưởng nêu bày công hạnh, tặng Sư danh hiệu là Chân Hạnh Đại Sư.
Ngày 16 tháng Giêng năm Ất Tỵ (945) tức niên hiệu Khai Vận thứ 2, Sư thị hiện tướng bị bịnh, dạy răn môn nhân đệ tử xong, Sư nằm nghiêng hông bên phải, xưng niệm danh hiệu Phật trong chốc lát thì thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, năm mươi mốt hạ lạp. Môn nhân vâng theo di chỉ an táng tại gò phía Đông, trong rẫy của chùa, thuộc phía Bắc Tùy Hà.
Kế nữa, có Ngài Thích Ngạn Cầu trụ chùa Long Hoa ở Hàng Châu, Sư họ Diệp, người xứ Tấn Vân. Vào niên hiệu Trinh Minh (915
-921) thời Hậu Lương, Sư thọ giới. Sư đến Pháp tịch của Luật Sư Cảnh Tiêu, chóng thấy rõ Tỳ-ni sâu mầu, bèn đem truyền giảng, bỗng chốc tỏ ngộ La-hán Đạp Bà, Sư trở lại cầu Pháp vững bền, mới đến Mân Lãnh đạt được tâm quyết của Thiền Sư Trường Khánh. Sư trở về đất Chiết, nhận sự thỉnh mời của mọi người ở Đôn Khâu mà Sư dừng ở tại Viện Lục Thông. Đạo của Sư chỉ mong thơm cùng Phu Thân, tiêu nấm quế đua tranh phân biệt. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền khâm trọng cao hạnh của Sư nên mời trụ viện Công Thần. Cuối cùng, Sư trở về châu, sửa sang chùa Long Hoa, nhóm họp đồ chúng diễn giảng. Sư thích làm việc chúng, xem trọng hơn thân mình. Chỉ lấy lợi người làm việc gấp, thọ nhận của cúng thí đều sung vào của thường trụ. Phòng Sư ở không khóa cửa, sọt không nắp cài. Chẳng cho Ni chúng đến lễ yết, không câu nệ thanh thế, thường chúc độ giới, người ở bốn phương xa nhóm về, thường ngày cúng dường cả ngàn vị tăng thọ thực, chưa từng nghe báo thiếu thốn. Nói trước tính sau, ăn đến cả muôn người.
Sư thị tịch tại chùa Sư ở vào niên hiệu Kiến Long (960-963) thời Bắc Tống.
Thích Trí Lãng, họ Hoàng, người ở xứ Thành Võ, thuộc Đan Châu. Mẹ của Sư họ Lưu, mộng thấy mấy vị tang môn viên tọa nói Pháp cho mình nghe rõ ràng như ở bên tai, bèn mang thai Sư. Đến lúc lớn lên, Sư khôi ngô có tập khí làm tăng, thuần tĩnh đơn giản, Sư khổ nhọc giã từ thân thích để xuất gia, sang Viện Hỗ Thông ở Tào Châu thờ ngài Hạnh Mãn, cúng dâng cẩn trọng. Đến lúc xuống tóc thọ giới, thành bậc Đại Tỳ-kheo, Sư học luật Tứ phần, Kinh Tịnh Danh, đều rất giỏi. Sư nói: "Người xuất tục sao dính mắc giữ gốc, chẳng thể thoát xiềng xích mở gông cùm?" Đối với tri kiến rộng lớn không gì Sư chẳng kham năng, bèn mang bình bát đi về phía Nam Hành Dương, lên non Nhạc, dừng ở chùa Bát-nhã, hành trì thuật Thai Tức mà xem đọc Kinh tạng, việc xong Sư trở về
Mân Lãnh. Sư không có bè bạn, chỉ có hình với bóng. Đôi ba phen gặp thú dữ đều muốn há mồm cắn xé, rồi lại từ nhẹ bước mà đi. Gặp được hai Tổ Sư Động Sơn và Tuyết Phong mà rõ được Thiền huấn. Có người thưa hỏi thì đáp lời nhanh như bay, bởi liễu đạt không dính mắc. Sau, Sư trở về bổn viện, các người kính tin tìm đến như quay về, mà tứ sự cúng dường chư tăng không hề thiếu thốn, hơn bốn mươi năm làm mọi việc mà không tỏ vẻ mỏi mệt.
Ngày 23 tháng 11 năm Đinh Mùi (947) cuối đời Hậu Tấn, Sư thị tịch. Bấy giờ người tại gia rất đau khổ, còn chư tăng thì buồn thương, thú mất sức mạnh bởi kêu gào buồn khổ, chim ngừng bay mà lờ đờ. Có người kêu than rằng: " Sông ái biển khổ, ai người cứu vớt kẻ đắm chìm!" Sư thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi, xây tháp thờ tại viện.
Sư là bậc Thích Tử y vật thề chẳng qua tay người nữ, giặt rửa chẳng nhọc khổ đến môn đồ đệ tử, vật tượng báu của đàn việt cúng thí không hề dùng lẫn lộn. Bởi được đúc luyện bởi trước luật sau thiền thần dụng nên được vậy. Đại Doanh Phủ Thiếu Duẫn Lý Huyễn soạn văn bia.
Thích Sư Hội, họ Cự, là con cháu của Thứ Sử Kinh Châu tên Võ, đời Hán, Tổ tiên Sư dời nhà đến ở Bắc Yên, nên thành người Kế Môn. Cha của Sư húy là Tri Cổ, mẹ của Sư họ Triệu.
Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, đảnh lễ Đại Sư Đạo Phi viện Ôn Tuyền ở Kế Châu làm thầy. Khi công phu đã thành, tuổi tác đã đủ, Sư thọ giới cụ túc tại giới đàn chùa Kim Đài Bảo Sát. Vào niên hiệu Khai Bình (907-911) thời Hậu Lương, Sư trôi giạt phiêu bồng ở Sông Sóc, ôm bát rảo bộ nơi Giang Hoài, mới đến Hán Nam, gặp Ngài Nham Tuấn ở Viện Quán Âm, bèn trải chiếu đàm đạo, vỗ tay bình luận về tâm. Ngài Nham Tuấn hỏi Sư: "Huynh có nghe ở núi Đầu Tử có Thiền Sư Đại Đồng chăng?" Sư đáp: "Có nghe nhưng chưa gặp". Ngài Nham Tuấn bảo: "Huynh nên mau đến đó!" Đến lúc tham yết ngài Đại Đồng chỉ cách chừng nửa bước chân, ngoài việc nêu cao Sư còn rửa sạch rõ ràng. Sư rất bình an thản nhiên. Đến niên hiệu Càn Hóa thứ 2 (912) thời Hậu Lương, Sư trở lại Lương Uyển lễ tạ Ngài Nham Tuấn mà thưa rằng: "Xưa kia vằng vặc đường cao, mịt mờ sanh tử, tía thật mờ đỏ, cuồng loạn gián triết. Nếu không vâng theo thầy bạn chỉ quy, cơ hồ một đời luống qua! Nay đem cỏ Du dơ uế xin cùng cỏ huân đồng để một nơi cất giữ có được chăng?" Ngài Nham Tuấn cho Sư xét đức mà vào trong Pháp tịch.
Mùa Thu niên hiệu Càn Hóa thứ tư (914) Có
Ngài Chí Tu trụ viện La-hán ở phường Bảo Tích thỉnh Sư đến trụ ở đó, viện ấy chỉ che lợp cỏ tranh năm gian mà thôi, mới cảm đàn việt Thượng Thư Tả Thừa Ngô Ái, Binh Bộ Thị Lang Trương Viên, như Viên Sáng bái yết Bảo Lượng, Từ Trạm kính lễ Tuệ Thông, cùng phát phụng chương, sắc đề biển ngạch là "Thiên Thọ". Chư tăng khắp nơi tự nhiên đến. Qua ba mươi năm cúng dường chư tăng hơn hai trăm vạn, sử dụng vật báu không ít lẫn lộn, chí tiết của Sư có thể biết như thế nào.
Niên hiệu Thiên Phước thứ 7 (942) thời Hậu Tấn, vua Cao Tổ cho rằng "Sư hạnh đã thành ở trong, Thanh văn ở ngoài", bèn sắc tặng Pháp y sắc tía. Đến niên hiệu Khai Vận thứ nhất (944), lại sắc tặng Sư hiệu là Pháp Tướng. Pháp y sắc tía thì Sư cất giữ mà thọ trì, còn hiệu thì Sư xem thường sự tôn xưng đó. Sư bảo: "Ta vốn chẳng cầu danh, danh tự đến cầu ta. Biết thì trong trắng mà chấp lấy thì tối đen, hòa với ánh sáng, đồng với bụi bặm. Đời huyễn hoặc quanh co, ta sanh chẳng nhằm thời!" Đến ngày 26 tháng 7 niên hiệu Khai Vận thứ 3 (946), Sư dặn dò môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, bốn mươi tám hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi được mấy trăm viên. Xây tháp thờ tại làng Biện Dương thuộc Đông Giao. Hình Bộ Thị Lang Biên Duy Đảng soạn văn bia tán dương đức hạnh của Sư.
Thích Trí Giang, họ Đơn, người xứ Nam Quản thuộc Tam Hà, ở U Châu, là con của phú tộc Du Hiệp. Tuy cỡi ngựa tre mà nhàm chán, trở về cửa nhà lửa, chợt vui cùng đống cát, khéo xây đắp phùđồ. Lược nghe giáo pháp của Thiên Trúc, hẳn gạn lóng ngưng tình, như Tiêu Tương gặp lại người xưa.
Niên hiệu Càn Nguyên thứ 4 (897) thời Tiền Đường, mới mười lăm tuổi, Sư đến chùa Cảm Hóa ở Bàn Sơn, xuất gia làm Sa-di, hoàn bị tư cách Sa-di. Đến niên hiệu Thiên Phúc thứ 3 (903) thời Tiền Đường, Sư đến chùa Lô Viên ở núi Ngũ Đài, thọ giới cụ túc. Từ đó, Sư vác dù thỉnh nghiệp, chọn gỗ nương thầy. Hai bộ Kinh Tịnh Danh và Thượng Sanh, Ngài tinh luyện như lửa cháy làm tan băng, mà tâm vẫn không nhàm chán. Niên hiệu Long Đức thứ nhất (921) thời Hậu Lương, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Thương Khâu, thỉnh một chi danh số, cái gọi là Tinh Nghĩa nhập Thần tan thỉ hưng thịnh. Nhân đó, Sư soạn "Thụy Ứng Sao" tám quyển. Các hàng thức đạt truyền nhau, học trò ảnh hưởng nương gá biên chép rất nhiều.
Đến niên hiệu Đồng Quang thứ nhất (923) thời Hậu Đường, Sư trú tại Viện Hư trụ của Vi Tử, sửa sang đường Vũ, thay đổi đáng chiêm ngưỡng. Lại đắp họa tôn tượng đức Từ Thị Di-lặc, Đức-ca Thế
Tôn và mười sáu vị La-hán đều thêm vẽ họa khắc giống như thánh nghi. Công việc mới hoàn thành, bỗng chốc, Sư mắc bịnh lâu ngày khó chữa. Đến tháng 7 niên hiệu Hiển Đức thứ 5 (958) thời Hậu Chu, Sư thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi. Đang lúc chúc khoáng, khắp viện trời người xen lẫn nhau hình trạng như đón rước dẫn đường. Ngày trước Sư thệ nguyện sanh lên cung trời Đâu-suất nên có chiêu ứng.
Lại Bộ Viên Ngoại Lang Lý Huyễn soạn bài minh trên tháp.
Liên hệ thử bàn:
Người trước lập nghĩa đều y cứ vào giáo văn, đâu được thích, ghét theo ý mình, đúng sai mặc biết. Vết xe trước đã đi chẳng xóa vết, xe sau sao chẳng cẩn thận mà theo đó? Thông đáp: Phàm soạn thuật có bốn thứ: Một là thuyết trước rất trái, đối với văn lại mịt mờ, hai là thấy hẹp hiểu lầm nên lãnh hội tự trái, ba là thích dài dòng ghét tóm gọn, bốn là ưa thẳng thắn mà ngờ lạ xa xôi. Có một trong bốn điều đó, thì không gì chẳng soạn thuật được. Ngài Trí Giang soạn "Thụy Ứng Sao", chưa được xem khắp, nghe những lời ở ngoài đường, cũng giúp được điều cần thiết của đương thời. Giả sử chẳng giúp dùng mà biến đổi nghĩa chương của cổ đức thì làm sao khác với lấy cũ sánh với cái bại hoại không được dùng mà phá hoại đó, sẽ có sự thất bại.
Thích Quang Dư, họ Hàn, người ở ấp Kim Thành, thuộc Ứng Châu. Thuở nhỏ, Sư đọc sách Nho, có ý chí muốn giúp nước chăn dân. Có lần nằm mộng thấy có vị thần khuyên bảo rằng: "Đối với Phật pháp Ngài có nhân duyên rất lớn". Sư bèn đến viện Chân Dung, nương tựa Ngài Pháp Uy cẩn trọng giữ phận làm đệ tử. Sau khi thọ giới cụ túc, Ngài trì tụng Kinh Tịnh Danh, thấu suốt đến nỗi chỉ y cứ vào nghĩa, chẳng y cứ vào ngữ. Sư thưa với Bổn sư cầu xin đi nghe giảng tập học. Ngài Pháp Uy chấp nhận.
Sư bèn đến viện Tam Học ở Thái Nguyên, vượt qua nóng lạnh nghiên cùng cứu xét chăm chăm, thường đổi Hòe đàn, Sư giảng hai tòa là Kinh Duyma và Thượng Sanh, bỗng nhiên Sư nói với bạn đồng học rằng: "Tôi nhớ năm trước mỗi lần trì niệm chỉ y cứ vào nghĩa. Gần đây ở trong học viện, nay giảng hai bộ kinh, cùng lý thấy tánh, biết quả nghiệm nhân, có được chẳng y cứ vào giáo khởi hạnh mà khỏi trái với hạnh tứ y chăng?" Sau đó không lâu, Sư từ giã Tấn Thủy trở về núi cũ, đội Kinh Hoa Nghiêm đi nhiễu quanh điện Bồ-tát, mỗi ngày sáu thời đi vòng quanh theo phía Hữu lễ Phật.
Bấy giờ, vua Cao Tổ (Thạch Kính Đường) thời Hậu Tấn, cầm nắm quyền chính đã năm thứ 3 (938), tiếng tăm Sư đã vang vọng đến cấm cung, vua bèn ban tặng Sư Pháp y sắc tía. Năm sau, lại trao cho Sư danh hiệu là "Thông Ngộ". Sơn môn Tăng Quan cùng đại chúng kiên trì thỉnh Sư lâm đàn. Sư cáo từ không chấp thuận. Tăng Quan nói với Sư rằng: “Sư hạnh giải hơn người mà chỉ tu cho chính mình, ngọc phác tốt mà chẳng mổ thì sẽ thấy khóc nước mắt như máu!" Từ chối không được, Sư đã độ hai ba người, trở lại cố cầu thoát khỏi. Gặp lúc thiếu vua nối ngôi, viện thiếu chủ giữ, đại chúng đều đề cử nói rằng: "Nếu không phải sư Quang Dự thì ai có khả năng?" Sư từ chối bảo rằng: "Ở núi này là chỗ khách ở khắp nơi đến. Cớ sao chẳng ra ngoài cửa viện, có tháng năm vậy, để biết cúng dường có gì cần dùng". Tuy khỏi chẳng theo, nhưng từ đó về sau, cúng thí chất chồng, trong mười tám năm cúng dường hơn trăm muôn vị tăng. Một đêm, mây móc nổi lên, sương tuyết rơi lác đác, cái dù của Sư xuyên dọc bằng một dải lụa trắng dài ba bốn thước bỗng nhiên không thấy. Đến hôm sau vào đêm khuya, lụa đã đến bỗng chốc để lại chỗ cũ, bởi do âm thần đưa đến.
Tháng 10 năm Canh Thân (960) nhằm niên hiệu Hiển Đức thứ 7 thời Hậu Chu, Sư thị hiện bị bịnh, nói với đệ tử rằng: "Như rồng nhàm chán đại hoạn, ôi! chim phụng buồn chết trên sông, các hành vô thường là Pháp sanh diệt!" Nói xong, Sư thị tịch, thọ sáu mươi sáu tuổi, bốn mươi sáu hạ Lạp. Trà-tỳ ở dưới Đông Phong, thâu nhặt linh cốt an táng ở tháp tràng. Còn xá-lợi tùy duyên cúng dường.
Thích Nham Tuấn, họ Liêm, người xứ Hình Đài. Từ khi mới sanh về sau, Sư có lắm việc thần dị, trội thân vượt bỏ buộc ràng, thệ nguyện vào chốn Không môn. Theo bưng giới châu, trọn thân tròn sáng. Cầm bưng bình bát tích trượng, Sư nói đi khắp tham tầm. Bước lên Hành Lô kia, vượt đến đất Mân Thục, từng đến Phụng Lâm, chợt gặp một cái hang sâu, thấy sáng rực một khu vực, có bảy báu ngang dọc. Khi đó, người bạn đồng đi nhìn lại mà nói rằng: "Kỳ lạ thay! Có thể cúi xuống lượm nhặt được chăng?" Sư bảo: "Người xưa cày xới đất vườn, gặp dược vàng ròng còn xem như ngói gạch. Nếu muốn ôm hoài đó thì tự chuốc họa. Đợi chốn dân gian ta xây dựng che đảnh, cần phải cúng dường bốn phương tăng". Nói xong, bèn bỏ mà đi. Sư đến yết kiến chủ núi Tử Đầu ở Thư Châu. Chủ núi hỏi: "Khách từ đâu đến ở lại qua đêm?" Sư đáp: "Ở đạo tràng Bất Động". Chủ núi hỏi: "Đã nói là bất động sao còn đến đây?". Sư đáp: "Đến đây há là động ư?" Sư lại nói: "Vốn đến nhưng chẳng hề đắm trước ", Chủ núi im lặng mà chấp thuận.
Mãi đến lúc Sư muốn trở về đất Triệu, trên đường ra Trần Lưu, đến nơi nầy gọi là Đông Kinh, gặp Lương Thiếu Bảo Lũng Tây Công Tư, tức anh của Hà Đương Tiết Độ Sứ tặng anh em của Trung Thư Lịnh Chi. Tuy ở ngôi vị quan quý nhưng rất sùng kính Không môn, tiếp Sư đàm luận lý huyền, như Lưu Di Dân kính phụng Giả Viễn. Cùng bàn định xả thí vườn nhà, khiến xây dựng Nhân từ. Sư chẳng nhường trái, để an hình tánh, đã xét thiền thất mà hành tổ phong, mến đạo cùng huyền đường, Vũ lấp đầy. Hai vua Cao Tổ và Thế Tông thời Hậu Chu, lúc đang còn tiềm ẩn, cùng Sư kết giao bạn áo vải, mỗi lúc đến phương trượng, thì thi lễ quỳ lạy, cho đến lúc lên ngôi, vẫn kéo dài sự ưu ái, đến như sớm đạt kiến hẳn cúi đầu, đàm luận cao hư như đến núi báu. Tháng 3 năm Bính Dần (966) nhằm niên hiệu Càn Đức thứ 4 thời Bắc Tống, Sư thị hiện bị bịnh. Đệ tử là Di Lưu tìm thầy dâng thuốc, Sư trừng mắt ngậm môi chẳng ăn uống, dạy răn môn nhân mọi việc về sau đã, đang dáng bộ vui vẻ, Sư nghiễm nhiên chắp tay quyết biệt với tăng chúng rồi thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp.
Ban đầu, Sư được triều đình ban sắc tặng Pháp y sắc tía, Sư nhận mà không đắp mặc, ban tặng Sư hiệu là "Tịnh Giới Sư". Có mà chẳng xưng gọi. Đến lúc Sư sức khỏa suy yếu, vua Thái Tổ (951-954) thời Hậu Chu bảo với các vị thị giả chớ để Đại Sư chỉ ăn một bữa vào lúc giữa ngày, mà khi xế bóng lại nên dâng khư-xà-ni. Sư tuy vâng thuận mà khó thực hành theo. Sư trải lòng thương dịu dàng với mọi vật, đến chỗ tự hẹp mà rộng, thật cả ba viện mà chỉ một cửa. Ở hai nhà Đông Tây, tăng chúng ở thường chẳng dưới mấy trăm vị. Suốt năm mươi năm, Sư cúng dường chư tăng, tính số đến cả trăm ngàn vạn. Khắp các thiền lâm kinh thành, Sư là người đứng đầu. Đến ngày mùng 8 tháng 4 năm đó (966), đón rước nhục thân Sư về an táng tại làng Phong Đài thuộc Đông Giao, tháp trắng nay vẫn hiện còn. Ngày đó các chùa viện ở Thần Đô, đều tự cầm cờ phướn, thổi loa ốc, náo bạt nối nhau đến hai, ba dặm đường. Kẻ tăng người tục dự lễ tống táng có đến muôn người. Tri Chế Cáo Vương soạn văn bia bộc bạch luyến tiếc, phát quyết đức hạnh của Sư.
Thích Tùng Ngạn, họ Mễ, người ở xứ Yên. Ban đầu, từ thức hoàn, tìm biết quỵ quất, ngung ngang trội chất, hoát đạt an nhiên. Năm mười lăm tuổi, cha mẹ chấp thuận cho Sư xuất gia tại thiền Viện Tuệ Giác ở Tinh Bộ.
Sau khi thọ giới, Sông Kinh Sư khua mái chèo, biển luận Sư hóa cá côn, đồng bạn nể sợ, đều biết sùng phụng. Sư mới lưu tâm đối với Tổ giáo, mong ngài ngọc ở núi khác, do đó, bắc cách biệt trời giá rét, nam quán cùng biển quế, Sư chẳng sợ ác khí chướng, chí kính mộ tòng lâm, mừng vui gặp được Thiền Sư ở núi Long Nha, vì quyết dứt điều nghi thành bậc đạt giả.
Đến năm Bính Thân (936) nhằm niên hiệu Thanh Thái, thời Hậu Đường, Sư lại đến Tung Thiếu, ở Lạc Trung mới an ổn, nhân tình hòa hợp. Sư xây dựng Thiền phường, thỉnh tăng nhóm họp chúng mà cúng dường. Trải suốt ba triều đại Hậu Tấn (936-947) Hậu Hán (947-951) và Hậu Chu (951-960) đều gia tăng ân sủng. Sư nói rằng: "Ân sủng và hổ thẹn nếu làm kinh động ta thì không kinh động lâu dài. Nhưng trong môn Tục Đế cảm Thế Chủ vì đề tú duyên sức gỗ mục!"
Ngày Mùng 3 tháng 8 niên hiệu Khai Bảo thứ 2 (969) thời Bắc Tống, Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch. Đến năm Tân Mùi (971) nhằm niên hiệu Khai
Bảo thứ 4, đổi quyền theo cũ, an táng tại tầng tháp.
Thích Thướng Giác, họ Lý, người ở xứ Trần Lưu. Ban đầu, Sư làm con nuôi, khí điệu tuyệt kỳ, vào trong trường làng, đọc tụng kinh sách, bọn trẻ nhỏ đều ở dưới Sư. Đến tuổi hai mươi, Sư đến Lô Sơn, vân du Nhị Lâm, trèo vượt Ngũ Lão, mới đến lễ yết Thiền Sư ở chùa Quy Tông, sung vào khổ hạnh.
Niên hiệu Càn Hóa thứ 2 (912), thời Hậu Lương, Sư được cạo tóc xuất gia. Năm sau, Sư đến giới đàn Cam Lộ ở chùa Đông Lâm thọ giới cụ túc. Từ đó về sau, tu thân đúng như lời nói. Tuy học ba Tạng nhưng để ở ngoài ý, dùng tâm học để chuyên nghiên cứu đến cùng tận, Ngài lại vào núi Ngũ Đài đảnh lễ linh tích đức Đại Thánh Văn-thù. Mãi đến niên hiệu Thiên Thành thứ 3 (928) thời Hậu Đường, Sư mới đến Đông Kinh, bên phải cửa Lệ Cảnh, có xây dựng Thiền phường nhỏ, đề biển ngạch là "Phổ Tịnh", lần lượt từng tháng ngày 28, thiết bày phương tiện cúng dường chư tăng khắp cả kinh thành tắm gội, như hoặc rót múc nước nóng có hương thơm, củi đuốc thiếu, Sư hẳn bảo phá triệt nhà nhỏ kéo rút cột rui mà yểm trợ. Có công Vương quý mến kính trọng, đề biểu kính dâng Pháp y sắc tía, nhưng Sư từ chối chẳng nhận. Sư miệt mài lấy sự lợi hành cứu vật làm việc chính của mình.
Đến ngày mùng 3 tháng 12 niên hiệu Khai Bảo thứ 4 (971) thời Bắc Tống, Sư mắc bịnh mà vẫn nhẹ nhàng không nhiễu loạn, tới ngày 11, Ngài cáo từ tăng chúng rồi nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi, năm mươi sáu hạ lạp. Trà-tỳ thâu nhặt Xá-lợi năm lầu rất nhiều không thể tính xiết.
Sư từng ở Kinh Ấp, thường lên viện ấy, đọc xem Bắc Hải Đào Thượng Thư Cốc, vì Sương Đông Trương Trọng Tuân soạn lời tựa thơ tặng Sư mà đề rằng: "Bắt đầu từ niên hiệu Thiên Thành (926-930) thời Hậu Đường đến niên hiệu Càn Hựu (948) thời Hậu Hán, mỗi tháng ngày 28, chúng tăng khắp Lạc Thành tắm rửa, trải qua nhiều năm, tổn phí tiền đến số một trăm ba mươi sáu vạn, tính dây xâu tiền có đến ngàn muôn, tuy do đàn việt chung sức mà thành, nhưng kỳ thực chính là do tự khả năng hoằng hóa dẫn dắt của Sư. Ôi! Dưới Đại hỏa Trần Lưu Cổ Phong, từ thời nhà Chu nhà Tần về sau, đó là đất nước chiến tranh. Người vật đông nhiều mà thổ phong còn thuận lợi, xe thuyền tụ hội mà buôn bán nhiều thứ lẫn lộn. Xưa kia, chư hầu của Lương Tuệ Vương có nói với Mạnh Kha rằng: "Đâu vì lợi nước ta, vậy đủ biết chuyển hóa lễ nhượng không hơn tâm ham thích lợi, rõ ràng vậy". Vả lại, xứ Lương cách đất Lỗ ngàn dặm mà gần, Đạo còn chẳng đồng, huống gì mười vạn tám ngàn dặm ư? Vua nhà Lương cùng Mạnh Tử là người cùng thời đại, tâm còn có khác, huống gì là Cù-đàm thượng nhân ư? Mạnh Tử kia thuộc văn đó còn chưa mất mà không thể nêu cao phơi bày ngoài Đạo của vua. Nay Thượng Nhân cách Thánh quá xa, chợt hay thực hành được giáo điển của đấng Pháp Vương. Nếu không phải bậc ba nghiệp bên trong đã tịnh, sáu trần bên ngoài đã trong, thì dùng hạnh của chí công hành hóa". Đào lại nói lời tựa rằng: "Từ Linh Sơn phủ che biển Pháp theo dòng, ngọc hào ẩn tối và lời nhiệm mầu bặt dứt. Gậy vàng gãy mà làm dị đoan, chỉ có Thượng Nhân đối với Sắc, Không đều quán bình đẳng, ta vật đều mất, vừng mè lúa thóc đều là trai, đồng với thiền duyệt. Nóng lạnh chỉ một áo nạp, để che phủ thân khô gầy. Các vương thần trước sau muốn dâng chương biểu tặng hiệu cho Đại Sư, thỉnh Sư đắp mặc y phục phương bào sắc tía, đều đích xác từ chối". Trương Trọng Tuân dâng tặng Sư bình bát, tích trượng, giầy cỏ, mọi thứ đều dùng ngũ ngôn viết thành chương khắc nơi cột đá mốc nhỏ. Đó là danh lưu thạc học, riêng biệt tán dương như thế.
Thích Vĩnh An, họ Ông, người ở xứ Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu. Thuở thiếu thời, Sư thuần hậu, hoàng trung thông lý, gặp được Đại Sư Vị Chinh là người cùng quận, từ Phụng Minh vượt đến Kiệu Ngọc Oánh Lam Điền, gặt rơi Văn Tâm, lắng trầm học sâu kín, lấy đó ra Lạc An Tôn Cáp lượm nhặt môn bỏ sót, nhưng Sư có tâm kính mến hướng thượng, bèn đến lễ bái mà cầu độ. Nhưng, Ngài Vị Chinh tánh cao ngạn, lại ít hợp, nhưng Sư luôn kính thờ vâng theo như vòng xoay.
Bởi thuở nhỏ biết chọn thầy, nên vào khoảng niên hiệu Thiên Thành (926-930) thời Hậu Đường, Sư theo hầu thầy ra Hàng Châu, bỗng nhiên có ý muốn thực hành mười hai hạnh đầu-đà, nên lẻn trốn muốn lên Mân Lãnh tham vấn Thiền tông, gặp phải phong cương gai góc khó khăn, bèn lui trở về dựng thất ở Thiên Thai. Sau gặp được Pháp tập của Thiền Sư Thiều mà chóng dứt bỏ mọi điều nghi. Sư trở lại đảnh lễ Ngài Vị Chinh, ngài Vị Chinh quát mắng rằng: "Bỏ trái hiếu dưỡng, ông tự nhanh chóng chuốc lấy tội, để sót hạnh ở đây, lại có ý nghĩ đắp bù lỗi trước chăng?" Sư quỳ mà đáp rằng: "Từ trước đến giờ không việc gì, xin dùng cho tròn trách nhiệm!" Ngài Vị Chinh gật đầu chấp thuận.
Hán Nam Quốc Vương Tiền Thị thỉnh Sư đến trụ chùa Báo Ân, đặt hiệu là Thiền sư. Sư bèn dùng Hoa Nghiêm lý luận làm hội yếu. Nhân sắp hợp Kinh, Sư khuyến mộ người khắc bản ấn tống mà lưu hành. Mỗi khi có đàn việt cúng thí, ít nghe Sư cất giữ, tất cả đều hồi hướng thí xả vào hai thứ ruộng.
Đến năm Giáp Tuất (974) nhằm niên Hiệu Khai Bảo thời Bắc Tống, Sư thị tịch. Trà-tỳ mà chiếc lưỡi vẫn còn, nhiều lần bỏ vào lò lửa rèn, mầu sắc tuy đồng như than nóng đỏ, nhưng đến lúc nguội lại mềm mại, nay hiện cất giữ phụng thờ trong đạo tràng Phổ Hiền. Sư thọ sáu mươi bốn tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp.
Thích Diên Thọ, họ Vương, người ở xứ Tiền Đường. Ở Lưỡng Chiết có quốc gia, bấy giờ Sư làm Lại Đốc, thâu nhận quân lúc cần. Tánh Sư ngay thẳng, miệng không nói đôi chiều. Trì tụng suốt bộ Kinh Pháp Hoa mà tiếng chẳng thôi vang vọng. Gặp lúc Thúy Nham Tham Công đang hoằng hóa hưng thạnh, Sư bèn bỏ vợ con tôi tớ cạo tóc xuất gia đăng đàn thọ giới. Sư có đến đỉnh núi Thiên Trụ ở Thai Lãnh tập tu Thiền định suốt chín tuần, có loài chim Xích Yến đến đậu làm tổ trong cổ áo. Sư được Thiền Sư Thiều quyết trạch sở kiến. Sư lại đến núi Tuyết Đậu, ngoài việc dạy người, Sư ngồi trước dòng thác trì tụng Thiền mặc. Áo không thêu thùa chỉ mặc vải bố quanh năm, ăn không chú trọng mùi vị chỉ rau cỏ đồng, giữa trưa một bữa.
Hán Nam Quốc Vương họ Tiền rất khâm phục kính chuộng, thỉnh Sư hành trì Pháp Sám Phương Đảng, mua chuộc các loài vật mà phóng sanh dàn trải tình thương rộng rãi. Nếu liên can đến điều phi lý, sắc mặt Sư vẫn không xao động. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa có đến mười ba ngàn bộ. Phần nhiều hay khuyên những người kính tin tạo lập tháp tượng. Sư không chứa để một vật gì. Sư lại có tài giỏi thơ đạo, biên soạn các sách lục như "Vạn Thiện Đồng Quy Tông Cảnh", v.v... đến ngàn muôn lời. Quốc Vương Cao-ly xem đọc bộ lục đó mà sai sứ đem Pháp y Ca-sa sắc tía dệt bằng chỉ vàng ròng, v.v... đến dâng cúng Sư.
Năm Ất Hợi (975) nhằm niên hiệu Khai Bảo thứ 8, thời Bắc Tống, Sư thị tịch tại chùa Sư ở, thọ bảy mươi hai tuổi, ba mươi bảy hạ lạp. An táng tại núi Đại Bi, dựng lập đình chí.
Thích Nghĩa Trang, họ Trương, người ở Xứ Cốt Đài. Từ ngày khỏi bồng ẵm đến năm tới trường học, thần thái Sư sáng suốt, máy trần chóng thoát bỏ, bèn đến chùa Khai Nguyên trong bổn phủ, được xếp ngang hàng như Thiện Tài. Theo lên giới đức, do đó ưa thích du phương.
Ban đầu, Sư đến Lạc Ấp, nghe giảng kinh Pháp Hoa, kiến thức Sư vượt hẳn mọi người, nên mở mang chỉ dạy mọi người. Đại chúng thỉnh Sư ở viện Cửu Diệu, chẳng thiếu thốn Pháp thực để giúp người qua lại, dùng đức từ làm lợi chúng sanh, trước sau không xen hở. Vào những năm đầu niên hiệu Kiến Long Tả Tán Kỵ Thường Than Công trình tấu vua ban tặng Sư Pháp y sắc tía. Học tăng nương tựa bẩm thọ hơn ba mươi vị. Tánh Sư thường luôn siêng năng, Ngoài việc giảng dạy ra, suốt năm mươi năm chăm chăm hai thời lễ sám. Đến tuổi già vẫn không thay đổi.
Đến tháng 8 Năm Mậu Dần (978) nhằm niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, Sư thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Qua tháng 2 năm sau (979) xây tháp tại phía Tây chùa Bồ Đề ở Long Môn.
Thích Phổ Thắng, họ Trương, người ở xứ Lục Trạch, thuộc Thâm Châu. Thuở bé, tình cảm Sư đã cạn mỏng, không bao lâu quyết chí tìm đến chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài, tôn thờ Đại sư Siêu Hóa. Ngài Siêu Hóa hỏi rằng: “Ông sao vượt núi đạp thành mà đến xin xuất gia? Ở Nhiêu Dương kia há không có bậc nhân từ triết tượng ư?" Sư đáp rằng: "Nương cỡi ngựa giỏi, có thể mỗi ngày đi ngàn dặm. Con biết cõi tịnh của Đại Thánh Vănthù cảm chứng giao nhau, giúp kẻ tiểu phàm con chóng thành quả chứng, há có được chăng?" Tăng chúng lắng nghe lời nói đó mà bảo rằng: "Nhậm khí đứa bé nảy mà có khả năng nhận biết cao xa nhu thế, bọn chúng ta đây đều chẳng thể sánh bằng". Sư nói rằng: “Tôi chẳng thể dùng vàng thay đổi cái chết, mà không nhàm chán. Xin nguyện vào cửa từ mà nghĩ làm lợi ích chúng sanh!"
Đến lúc thọ giới cụ túc, Sư tìm tới phương Nam vào Lộ Phủ giảng thông Kinh Thượng Sanh. Nghe Đại Sư Sùng Pháp truyền giảng Luận Duy Thức đang mở mang hưng thạnh ở Lạc Đô, Sư bèn sang đó theo học. Phàm cả trăm chương sớ, qua mắt liền nhận biết. Chưa đầy một năm tập học đã thông rành tinh chuyên, Sư có giảng "Trung Sơn Trinh Biện Sao Giảng" có nhiều chỗ sai lầm, nhưng Sư xướng lời rằng: "Phồn lược không đồng, giải thích chẳng đáng". Mới cắt bớt chỗ nhiều, bù đắp chỗ thấy, làm thành bốn quyển, lưu hành ở đời. Thái Tổ Thần Đức Hoàng Đế ban tặng Sư Pháp y sắc tía, tặng Sư hiệu là Tuyên Giáo.
Ngày mùng 4 tháng 7 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 4 (979), Sư hiện bị bịnh mà thị tịch tại viện Tịnh Độ, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi ba hạ lạp. Môn nhân đệ tử thâu nhặt xá-lợi án táng tại gò phía Tây chùa Bảo Ứng núi Long Môn, xây tháp tán dương đức hạnh của Sư.
Thích Sư Luật, người xứ Mang Dương, họ Giả, là con cháu của Đại Thừa Tướng Ngụy Quốc Công Đam. Trong Đường Thư có truyền: Sư thuở nhỏ đoan nghiêm cẩn trọng, chẳng chơi giỡn với bọn trẻ nhỏ.
Năm mười lăm tuổi, Sư đến chùa Mẫn Trung cạo tóc xuất gia, đảnh lễ thờ ngài Trinh Thiệp làm thầy và được nghiêm túc khuyên răn nên sống chẳng vượt ngoài phép tắc. Ngài Trinh Thiệp thấy làm lạ mà bảo rằng: "Không thể cứ cong mình ở ngôi vị dưới mà đè nén danh tiết của Mình. Đã thành Tỳ-kheo thì hãy bỏ đây mà du phương". Sư vâng lời chỉ bảo đó mà đi thẳng về phương Nam, thành đạt được Thiền yếu, bèn chống tích trở về quê cũ. Từ thời Hậu Lương, mãi đến thời Hậu Chu (907-960), các bậc đế vương trọng thần thảy đều tôn thờ kính ngưỡng đối với Sư.
Sư ở tại Cựu Phong Thiền thuộc núi Di Môn, xây dựng Điện Vũ Thánh Nghi, phong trù bí tạng, cúng tăng dồi dào. Sư ước định khắc tạo Hậu Sanh Biệt Viện, thích hợp chẳng trái với thường kiến. Triều đình đem Pháp y sắc tía và huy hiệu để tán dương công đức, Sư thấy đó vẫn như thường. Một hôm, Sư bảo với đệ tử là Thứ Cơ rằng: "Ta không nguyện chẳng báo quyết linh muốn suy đồi, ông nên biết đó, chớ theo tục tình mà buồn thương ai viếng!"
Ngày 23 tháng Giêng niên hiệu Càn Đức thứ 2 (964), Sư thị tịch, thọ tám mươi mốt tuổi, sáu mươi hai hạ lạp. Đến tháng 3 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980) cải táng tại gò Lăng Nghi thuộc Bắc Bộ, tiến sĩ Giả Thú Liêm làm bài minh cho tháp.
Thử luận bàn:
Đức Phật ra đời kinh dịch lưu truyền, điểm qua trọng là nhân quả, đều đưa về tội Phước, tạo tội thì ở giai vị ba đường phía dưới, làm phước thì ở giai vị của các Thánh phía trên. Giai vị thì đồng mà trên dưới có khác. Ở chương này nói về hưng phước tức là muốn lợi tha. Như cán cân có cao thấp, nhà có sáng tối, vậy thì biết hai sự việc chẳng đồng một lúc, đại loại như có huân, cỏ Du không thể đựng chung trong một cái rổ, vua Nghiêu, vua Thuấn chẳng đồng một nước mà trị vì. Khí phần kẻ phàm phu tuy nói có lắm tội, phẩm vị Thánh giả chỉ nghe phước dày, thuận tánh nên dễ tạo, nghịch lý nên khó tu.
Tu có lắm cửa, hạnh có nhiều đường. Đại khái rộng làm Bố thí Ba-la-mật, để đạt đến vô cực. Ban đầu là phước hạnh của trời người, bố thí thức ăn và cầu thuyền, giếng nghĩa. Tiếp đến là hạ phẩm thiện trong phước hạnh của Luân Vương. Thượng phẩm Thập Thiện là phước hạnh của Phạm Thiên. Trong đó, một là dựng lập thâu-bà (tháp), hai là sửa sang chùa cũ, ba là thỉnh Phật quay bánh xe Pháp. Tiếp đến nữa là phước hạnh thanh tịnh của Nhị thừa, đồng như Tam Phẩm Thiện dừng ở công hạnh tự lợi. Kế nữa là phước hạnh của Cứu Cánh vị, mới thành nhị nghiêm. Trang nghiêm tướng, khéo từ Tam Luân vô ngại mà thấy được thể Không của muôn pháp, được lợi ích rất nhiều tận mé vị lai, phước như thế thật rộng lớn. Mới biết Thánh tạo phước thì dễ. Vì sao? Vì thuần tịnh nên thế, và Phàm phu thì trái lại, bởi lẽ huân nhiễm nên như thế.
Thế nên, Đức Phật còn tạo phước xỏ kim, biết phước không nên nhàm chán. Ngài Mục-kiền-liên nhúm lửa, Ngài Ca-diếp đạp bùn, Ngài Vô Tận Ý hiến dâng châu báu anh lạc, Ngài Đạp-Bà-La phân chia nằm đồ cho chúng tăng. Đó đều là các bậc Đại Nhân có tạo tác phương tiện của Thánh giả. Muốn nhân tội chẳng chán trừ, phước chẳng chán lấy. Huống gì giáo truyền lãnh ngoại, Pháp lưu bố trung, nguyên năm tháng dài xa hành trì dần mỏng mảnh. Nội chúng tu phước, y cứ vào trì môn kia, bậc tiên triết dứt oan khiên thực hành sám pháp ấy. Phàm tu Lý sám thì nhẹ nghĩ quán tâm. Tâm không chỗ sanh, sanh không chỗ trụ. Trong lúc đang tu, thuận nghịch vô tướng, là chỗ tội diệt phước sanh. Còn nếu thực hành Sự Sám thì nương nhờ vào thắng cảnh, cảnh dẫn tâm tăng trưởng, niệm niệm cùng giúp, nối nhau không đứt quãng. Đảnh lễ thì năm vóc sát đất, hối tội thì bảy tụ tâm đầu. Hoặc kỳ hạn mong thấy điềm lành mà chứng biết, mới thấy tướng tội diệt.
Xưa kia, Tề Thái Tể làm pháp "Tịnh Trú", vua Lương Võ Đế sám môn sáu căn, Ngài Trừng Chiếu lược thành biểu đề Trú Pháp, Ngài Chân Quán mở rộng tạo Từ Bi Sám. Vào niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường, Đại Sư Huyền Sướng thỉnh tu thêm Kinh Nhất Vạn Ngũ Thiên Phật Sanh. Vì vậy ở lưỡng Kinh đảnh lễ kinh thì miệng xướng mà cúi đầu đánh một tiếng khánh gọi đó là tiểu lễ. Từ Hòa đến Nam, dân gian chỉ lễ Lương Võ Đế Sám để làm Phật sự. Hoặc vài vị tăng cùng cao tiếng chúc tụng, ca ngâm tán dương thì gọi là Nhương Sám Pháp. Có người ở Giang Biểu hành trì Pháp Thủy Sám, sám hối tội lỗi lạm phí quá độ. Người nầy ngụy tạo, chẳng phải chân pháp. Lại có việc người xưa theo từng chữ mà lạy các Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, cho là lễ Pháp Tạng Vô Lậu. Do đó mà có hàng bốn chúng ở trước chữ ấy đặt thêm chữ Nam-mô và ở sau chữ ấy lại đặt thêm chữ Phật. Đó thật là tham lạm.
Có người đề xướng rằng: "Chỉ chuyên sanh thiện, chỉ mong diệt tội, sao phán quyết là trái ư?" Thông đáp: "Sau khi phiên dịch, truyền bá về sau, như hằng tinh trên trời, hoặc mới nổi khối u, mới làm chai bầm. Ông không thấy Xuân Thu Ngũ Hạ ư? Các nhà Trịnh Đỗ há chẳng thể thêm chữ "Nguyệt" sao? Bởi sợ lời của bậc Thánh, thành chẳng bỏ bớt điển, nên chẳng dám thêm chữ. Phu Tử nói rằng: "Tôi còn kịp khuyết văn của Sử", vậy biết Phật giáo có thể thêm bớt ư? Như Ngài Tuệ Nghiêm dịch lại Kinh Niết-bàn, thêm phần mục lục, bỗng mộng thấy vị thần tức giận quở trách, dáng vẻ nghiêm khắc, bảo rằng: "Niết-bàn tôn Kinh sao dám tự tiện, châm chước như thế?". Vậy đủ biết "làm phước" chẳng bằng lánh tội, lời đó thật đầy đủ. Nay thì chẳng chuyên cần công khóa, gắng sức sự tăng tu. Nhân sưu tầm vài viên đổ nát, trách hiển Tam Bảo ở Vu An, đến nay có làm đời nào mà không có người.
Hoặc như ở Kinh Triệu khai mở biển hồ, hoặc tại Chung Nam dựng lập Lan Nhã. Chú đúc tôn tượng Đại Bi bằng đồng, tạo già lam của tướng quốc, hoặc chịu thay bịnh để lợi ích người, hoặc hộ sanh mà đào bới đất đai, hoặc đúc chuông mà chiêu cảm điềm lành, xây chùa cao đến tận mây, khắc tượng rất nhiều, sửa đài rộng rãi, vạch bụi cây vấn vít nơi Phạm Vũ của Bình Điền, thoát dạng tháp của vua A-dục, chẻ đá làm Kinh, nhóm của cải lập tạng. Hoặc trị bịnh ở Tỉnh Lạc, hoặc chuyển hóa người ở phu Trù, những người như thế vào nước khác dẫn dắt, hợp với lương môi của hai họ. Trời trăng phục căn chiếu suốt tối tăm nơi sân đình, càn khôn huyền tạc mở đầu mối của Hổn Độn. Sở hành rộng lớn, nối tiếp vận dài. Công Dương Tử có đến nói rằng: "Ấy là hạnh trên đới với dưới!" Có lời thơ rằng:
"Giáo của Ông thế, dân đều nghiệm xét,
Nguyện tôi luống trông lên mà học đó,
Khiến nhân từ Thánh tượng không đổ ngã xuống đất!"
❑
(chánh truyện có hai mươi sáu vị, phụ có sáu vị)
Thích Trí Nhất, không rõ Sư là người xứ nào, Sư trụ chùa Linh Ẩn ở lưng chừng núi, ròng giữ khuôn phép giới luật, giỏi huýt sáo, huýt sáo rồi bèn dẫn âm thanh ấy vào trong tiếng, thầm vào trong mé mây, như thổi kèn lá như kéo tơ du, từ từ cử từ từ dương, đầy buồn đầy nghẹn, vù vù thê thiết, khiến người nghe buồn man mác, gọi đó là Phạm Của thông buồn. Vả lại, Sư rất sanh vật thiện, hoặc đối trước tôn tượng tán vịnh lưu loát. Ở bên bờ khe suối Linh Sơn, Sư nuôi một con vượn trắng, có lúc nó len núi vượt khe lâu mà chẳng trở về. Sư bèn mút môi trương cổ họng làm tiếng Phạm mà kêu gọi thì vượn đến liền. Người thời bấy giờ gọi nó là Vượn Trắng Phạm, và gọi Sư là Vượn Cha, giống như Thư Công! Bên bờ khe suối phía sau, bầy khỉ nhóm tụ, mỗi lúc vào trong tăng chúng thọ trai xong, Sư nhặt cơm dư đưa về chỗ vượn ở, sau đó bảo Sơn Đồng gọi vài ba tiếng thì bầy vượn đua nhau chạy đến. Mãi đến thời vua Võ Tông, thời Tiền Đường phế hủy Phật giáo, chùa ấy cũng bị phá hủy, trở thành gò cho cỏ xanh mọc tốt, cơm vượn ở đài, mọi việc đều bị phá hủy. Không rõ về sau Sư tịch ở đâu.
Nam Tống: Có lẽ nhằm lẫn Tiền Đường, xét theo văn truyện.
Thích Tuệ Ngưng ở Lạc Dương, không rõ Sư là người xứ nào, trụ ở Lạc Ấp, không có tài nghề gì khác lạ, chỉ tu luyện tâm giới là chính. Có lần Sư bị nặng chết đi, bảy ngày sau sống lại, kể việc báo ứng ở chốn Minh Phủ. Và thấy khu phân không hề sai mảy may. Đó là thấy về năm vị Samôn: Một là Sa-môn Trí Thánh ở chùa Bảo Minh, nhờ tu tập tọa thiền khổ hạnh, nên được sanh lên cõi trời, hai là Sa-môn Đạo Phẩm ở chùa Bát-nhã, tụng Kinh Niết-bàn bốn mươi quyển, đồng được như Sa-môn Trí Thánh, ba là Sa-môn Đàm-MôTối ở chùa Dung Giác, giảng nói các Kinh Niếtbàn, Hoa Nghiêm, thống lãnh đồ chúng cả ngàn vị.
Vua Diêm-ma bảo rằng: "Người giảng kinh mà có tâm bỉ ngã xem thường mọi vật, đó là hạnh thô bậc nhất trong hàng Tỳ-kheo, nay hãy thử ngồi thiền, tụng Kinh xem!". Sa-môn Đàm-Mô-Tối nói: "Từ lúc lập thân đến nay, bần đạo chỉ ưa thích giảng Đạo, chứ không có khả năng ngồi thiền tụng kinh". Diêm Vương bảo: "Giao cho Ty". Liền có vài kẻ hầu áp đưa Đàm-Mô-Tối đến cửa Tây Bắc, phòng nhà đều tối tăm, dường như chẳng phải chỗ tốt lành. Bốn là Sa-môn Đạo Hằng ở chùa Thiền Lâm dạy dỗ khuyên dạy bốn chúng đàn việt tạo Nhất thiết Kinh và mười tôn tượng ở nhân gian. Diêm Vương bảo: "Thể của Sa-môn là phải nhiếp tâm giữ Đạo, đặt ý chí nơi thiền tụng, không liên can đến việc đời, chẳng chuyên việc phiền não. Tuy tạo Kinh tượng, chỉ muốn được tài vật của kẻ khác, đã có được tài vật thì tâm tham liền khởi. Đã nuôi lớn hạnh tham thì ba độc bừng cháy, đủ cả mọi thứ phiền não". Cũng như Sa-môn Đàm-Mô-Tối đồng vào cửa tối. Năm là Sa-môn Bảo Minh ở chùa Linh Giác, tự nói là lúc chưa xuất gia có làm chức Thái Thú Lũng Tây, xây dựng chùa Linh Giác, sau đó bỏ quan nhập Đạo, tuy chẳng ngồi thiền tụng kinh nhưng lễ bái không thiếu sót, Diêm Vương bảo: "Ngày ông làm Thái Thú, xử trị theo tà lý uổng pháp, cướp đoạt của cải dân chúng, giả tạo lập chùa đó, kỳ thực chẳng phải do sức lực của ông, thì nói ra đây làm gì?" Và cũng giao cho thanh y đưa vào trong cửa tối.
Sư do đó mà tỉnh ngộ. Vì lúc trước Diêm Vương sai sứ lại xem xét sổ ghi tên nên truy bắt nhầm Sư. Bấy giờ, Hồ Thái Hậu nghe thế bèn sai Hoàng môn Thị Lang Từ Hột y theo lời Sư nói mà tìm hỏi biển ngạch chùa và tên của các Sa-môn có hay không để tấu trình báo lại. Hoàng Môn báo lại rằng: "Tại Thành Đông có chùa Bảo Minh, Thành Nội có chùa Bát-nhã, thành Tây có ba chùa Dung Giác, Thiền Lâm và Linh Giác. Đồng thời các Samôn Trí Thánh, Đạo Phẩm, Đàm-Mô-Tối, Đạo Hằng và Bảo Minh đều là thật có". Thái Hậu bèn khen ngợi rất lâu, ban chiếu thỉnh một trăm vị tăng tọa thiền tụng kinh, thường ở tại nội điện mà cúng dường. Lại ban chiếu "không cho các Tỳ-kheo trì Kinh tượng". Tả Nhai Lộ cầu xin "Nếu người nào có của cải riêng muốn tạo kinh tượng thì tùy ý".
Sư vào núi Bạch Lộc, ẩn cư tu Đạo. Từ đó, các vị Tỳ-kheo ở Kinh Ấp trở xuống phần nhiều đều tu thiền quán, tụng trì các bộ Kinh pháp lớn.
Liên hệ thử bàn:
Sa-môn Đàm-Mô-Tối giảng Pháp mà phân biệt nhân ngã, do đó bị vào cửa tối. Nếu người ngồi thiền tụng kinh mà nhân ngã, tùy theo đó tăng lên, thì biết cũng chẳng khỏi. Sa-môn Đàm-Mô-Tối cùng Đạo Sĩ Khương Ban tranh luận công của Hộ
Pháp, có thể bù đáp cho tội lỗi ở trước. Không thể cho rằng người truyền pháp đều đọa vào địa ngục, Hồ Thái Hậu thiên kiến chẳng mất. Than ôi!
Thích Viên Tướng, người đất Thục, bảy tuổi xuất gia, thông hiểu nội ngoại giáo điển, khéo thuộc văn. Người thời bấy giờ gọi Sư là Kỳ Đồng. Bên trong chuyên tu luật Phạm, chẳng liên can đến việc người.
Niên hiệu Long Sóc thứ nhất (661), Sư bị bịnh nên thị tịch tại chùa Pháp Tụ. Lúc mở tay chân trong phòng có vầng cầu vồng dài như dãi lụa mà bay thẳng lên trời. Linh khánh của tháp chùa không gió mà tự kêu. Các bức tranh nơi của lớn, tường vách trong phòng nhà đều rơi xuống. Hằng đêm có tiếng trống kèn trải qua hơn trăm ngày sau mới dứt. Từ đó, chim sẻ không đậu ở nơi phòng nhà. Đến niên hiệu Hàm Hanh thứ 4 (673), cam lồ rưới xuống cây Tông Lư ở trước giảng đường.
Sau khi Sư tịch, đệ tử thâu góp văn tập hơn ba mươi quyển. Văn Bia nơi tượng đá trong chùa do Sư thảo từ cùng Cung Linh Khoáng đồng soạn.
Thích Tăng Đạt, họ Vương, người ở xứ Cối Kê.
Thuở nhỏ Sư anh minh kỳ đặc, chẳng đùa vui chơi giỡn. Sư xuất gia tại Đạo Tràng Diệu Hỷ ở Quy Sơn. Chùa đó xây dựng vào đầu thời Nam Lương (502).
Sau, Sư thích du phương, gặp được Tổ Sư Hoằng Nhẫn ở Huỳnh Mai, Sư như mạ non khô úa gặp được trời mưa, nên vâng theo tu thiền không hề ngơi nghỉ biếng trễ. Gặp được Thiền Sư Ấn Tông, lại được lau chùi gương tâm. Ngài đến Quang Châu gặp được Luật Sư Đạo Ngạn, lại khuyên gắng luật nghi. Bốn chúng nương tựa Sư như nước xuôi về biển cả.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 (791), Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi.
Thích Thần Đảnh, không rõ Sư là người ở xứ nào. Tánh tình cao khiết mà thẳng thắn. Tóc Sư dài tới hai đầu chân mày, thường mang cái đấu đi khắp trong chợ Trương An, làm người hành khất, được thức ăn đem về nhà ăn. Mọi người hoặc cúng thí cho Sư lụa thô, vải xấu, hay bông tơ, lụa se, lưới, sa trun, v.v... Sư đều chắp nối khâu vá thành y mà đắp mặc không hề lựa chọn.
Có lần Sư vào trong chùa thấy Pháp sư Lợi
Trinh đang giảng kinh pháp ở trước tòa, lắng nghe chốc lát rồi Sư hỏi Ngài Lợi Trinh rằng: "Muôn vật là định hay bất định?". Ngài Lợi Trinh đáp: "Định". Ngài hỏi: Nếu như lời Xà-lê nói là Định, vạy sao nhân bờ cao làm hang sâu, hang sâu làm gò cao? Có tử tức là sanh, có sanh tức là tử? Muôn vật cùng hợp lại trôi lăn trong sáu đường, thì làm sao là Định được?" Ngài Lợi Trinh lại bảo: "Vạn vật là bất định". Sư nói: "Nếu là bất định thì sao không chỉ trời là đất, gọi đất là trời? Vời sao làm trăng, bảo trăng làm sao? Như vậy làm sao bất định được?" Ngài Lợi Trinh không biết làm sao mà ứng đối! Bấy giờ đại chúng kinh hãi tài biện luận của Sư phát ra như nước chảy. Ngay như Pháp Sư Lợi Trinh là bậc học thức sâu rộng mà bị bẻ gãy đến nổi tỏ vẻ hổ thẹn.
Trương Văn Thành thấy vậy, ngợi khen Sư, bảo rằng: "Thấy Pháp Sư biện luận, tức là người ở hạnh vị Bồ-tát!" Sư bảo: "Bồ-tát được chẳng vui, mất chẳng oán, bị đánh chẳng giận, bị nhục chẳng sân. Còn tôi nay, xin được liền vui, chẳng được liền oán, bị đánh liền giận, bị nhục liền sân. Do đó mà xét thì còn cách Bồ-tát quá xa!" Bấy giờ, Dược Thố Ngạc chắp tay mà đi.
Liên hệ thử bàn:
Đáp lời hỏi của người, khéo léo mà chậm chạp chẳng bằng vụng về mà mau lẹ. Nay Truyện Gia Cách Cơ trăm năm luôn bày huấn đối! Thông đáp: "Hang sâu biến thành gò cao, dời đổi sanh lại tử qua, muôn vật cùng hợp lại xoay chuyển trong năm đường. Đó chính là Pháp chẳng đổi dời, có thể trái với Định ư? Trong Kinh nói: "Tướng thế gian là thường trú" chính là đó. Lại nói: "Trời đất trăng sao mỗi thứ tự ở điểm thường, song kết quy đều là ma diệt". Há chẳng bất định ư?" Trong Kinh nói: "Khi kiếp lửa thiêu đốt thì cả đại thiên đều chay rụi" là đó.
Nay, ngay nơi tướng thế gian bất hoại mà bàn luận thật tướng thì chẳng phải Định hay Bất Định ư? Định hay Bất Định đều là tướng giải thoát. Lại nói có mừng vui, có giận hờn thì chẳng phải Bồtát, Bồ-tát tuy có mừng giận mà chẳng phải mừng giận, chẳng phải Bồ-tát thì là ai? Nay hãy rủ bỏ sự áy náy chất chồng của Lợi Trinh.
Thích Hoằng Sư, người xứ Tề An. Vào niên hiệu Thần Long (705-707), Sư đến Kinh đô, dáng vẻ cao ngạo tự giữ mà ít nói. Nói thì quỷ quái. Sư lại rất giỏi về học thuật địa lý, đoán chọn mồ mả, quách cảnh thuần nhất thuộc về ác hạnh. Sư vào ra nơi cửa của Vân Công Vi An Thạch, cùng Vi An Thạch rất khắng khít. Một hôm, Sư nói với Vi An Thạch rằng: "Bần đạo thấy ở gò Phụng Lâu có một khoảnh đất rộng chừng hai mươi mẫu, hình dạng như rồng uốn lượn. Nếu có cất giữ ở đó thì sẽ nhiều đời ở đài đảnh". Vi An Thạch nói: “Lão phu có biệt thự ở phía Nam thành, đợi lúc rảnh rỗi, xin mời Quốc Sư đến tận chỗ đất mà dò xét. Hỏi giá bao nhiêu, đồng đến suối rừng, lại giúp cao hứng. Ngày khác, Vi An Thạch tìm phương hướng trước bảo chuẩn bị xa giá cùng đi. Phu nhân của Vi An Thạch nói rằng: "Lệnh công là Đại Thần của vua. Quốc Sư là người thông rành âm dương số thuật, vì sao lại lẩn trốn ra ngoài thành mà kinh doanh sanh tàng? Đó là việc không nên làm!" Bèn thôi. Vi An Thạch nói: "Em ruột là Thao có đứa con trai bị chết chưa chôn", bèn chỉ chỗ đất đó". Sư bảo: "Nếu hiền đệ được chỗ đất đó, ngày sau không cùng được làm tướng mà chỉ xếp vào hàng khanh mà thôi". Thao mua đất đó mà chôn đứa con chết, sau làm Thái Thường Khanh Lễ Nghi Sứ rồi qua đời.
Ngài thường đi xem núi gò mà làm đồ trạng. Có lần ở Lạc Đông, nói với Trương Thuyết rằng: "Ở phía trái đường Khuyết Môn có sườn núi đẹp, thừa tướng có thể dùng đó". Trương Thuyết nói: "Đã ở địa vị trên hết mọi người, nhân thần tốt, ai hơn nữa". Sư bảo: "Không người nào hơn". Trương Thuyết bèn hỏi Nguyên Giám Sát Càn Diệu rằng: "Người trước có di chỉ ". Sau, Càn Diệu xin nghỉ ở Đông Lạc, dời phụng mà trở về. Khi đó đã qua năm sau. Sư lại đến Khuyết Môn, đất đỏ đã thành Mồ mả, hỏi người ở đó trả lời rằng: "Đó là Tùng Bá của họ Nguyên". Sư bảo: "Minh số hợp quy về họ Nguyên, hãy ngồi đợi nó biến hóa". Chưa đầy vài năm sau, quả nhiên Càn Diệu lên ngôi.
Sư từng răn bảo Yên Công rằng: "nhà ở chớ lấy theo hướng Tây Bắc". Sau thành hầm, hai ba chỗ thành hang, Sư kinh hãi bảo Yên Công rằng: "Việc họa giúp ông giàu sang một mình, hai mươi năm sau họa sẽ đến hiền lang". Đến lúc đều, nhận ngụy quan của Lộc Sơn, vua Túc Tông (756-763) lấy lại Kinh đô, dùng luận giảm tội chết, nhưng Thái Thượng Hoàng chấp chặt khiến xử chém, đều hợp với lời Sư nói.
Dưới thời vua Trung Tông (705-710) Vua Dục Tông (710-712) đều tôn sùng kính trọng Sư, xưng gọi là Quốc Sư. Những lời đoán trước của Sư không hề có sai lầm.
Thích Tuệ Nhật, họ Tân, người ở xứ Đông Lai, dưới thời vua Trung Tông (705-710), Sư được độ xuất gia. Sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc, gặp được Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh soạn Nhất Thừa Chi Cực, đích thân đến Thiên Trúc, tâm thường kính mến. Sư bèn Phát thệ nguyện đi Tây Vực. Ban đầu, nương thuyền trôi nổi vượt biển trải qua ba năm, đi khắp các nước Côn Lôn, Phật Thệ, Sư tử châu v.v... thuộc Đông Nam Hải mới đến Thiên Trúc, Sư đảnh lễ tham yết các Thánh Tích, tìm cầu bản Phạm, phỏng hỏi các bậc thiện tri thức suốt mười ba năm. Sư học hỏi các Pháp huấn, nghĩ muốn làm việc lợi người, bèn chống tích trở về quê hương một mình riêng lẻ. Các vùng tuyết lãnh hồ hương lại vượt qua bốn năm. Sư đã trải qua lắm thứ khổ nhọc, rất nhàm chán cõi Diêm-phù. Nước nào chỉ có vui không khổ? Pháp nào hạnh nào tu mau thành Phật? Sư hỏi khắp các Tam Tạng Pháp Sư ở Thiên Trúc, các học giả thảy đều khen ngợi Tịnh Độ, lại hợp với miệng vàng, pháp ấy rất nhanh chóng, là con đường tu trong một đời kiếp, khi xả bỏ báo thân này sẽ được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, gần gũi được kính thờ Đức Phật Adi-đà. Sư nghe thế rồi bèn đảnh lễ thọ nhận.
Sư dần đến nước Kiền-đà-la ở phía Bắc Ấn-Độ. Phía Đông Bắc của Vương Thành có một ngọn núi lớn, ở núi đó có tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. Người có tâm chí thành kính cầu nguyện, thường được thấy Bồ-tát hiện thân. Sư bèn đến đó, suốt bảy ngày đêm cúi đầu, bỏ ăn, dốc hết sinh mạng làm kỳ hạn. Đến ngày thứ bảy, khi đó chưa quá nửa đêm, Bồ-tát Quán Thế Âm từ giữa hư không hiện sắc tướng vàng tía, thân cao hơn trượng, ngồi trên hoa sen báu, duỗi cánh tay phải xoa đảnh đầu Sư, bảo rằng: "Ông muốn truyền Pháp tự lợi tự tha, thế giới Cực Lạc ở Tây Phương Tịnh Độ, là cõi nước của Phật A-di-đà. Khuyên ông nên niệm Phật tụng kinh, hồi hướng cầu nguyện vãng sanh về nước ấy, sẽ được thấy Phật và ta, được lợi ích lớn. Ông phải tự biết Pháp Môn Tịnh Độ cao quý hơn cả các hạnh". Nói xong, Bồ-tát biến mất. Sư bỏ ăn thân tâm khốn khổ, nghe thế tự nhiên mạnh khỏe. Đến lúc Sư vượt Thông Lãnh trở về phương Đông, tính suốt hành trình đi qua hơn bảy mươi nước, và tất cả suốt mười bảy năm.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 (719) Sư mới về đến Trường An, dâng lên vua chân dung Phật tượng, kinh điển bản Phạm v.v... và khai ngộ tâm nhà Vua. Vua Huyền Tông ban tặng Sư hiệu là Từ Mẫn Tam Tạng. Thuở bình sanh Sư chuyên tu Tịnh Độ, có soạn "Vãng Sanh Tịnh Độ Tập" lưu hành ở đời. Đạo của Sư và đạo của các vị Thiện Đạo, Thiếu Khang tuy khác thời mà đồng hóa. Lại vì tăng chúng phần nhiều nhận lầm về Hưng-Cừ trong Ngũ Tân, Hưng-Cừ mọi ngươi nói đều khác nhau, có người bảo là Vân Đài, Hồ Tuy, có người bảo là A Ngùy. Trong Tịnh Độ Tập Biệt Hành Thư nói rằng: "Ngũ Tân, ở xứ này chỉ có bốn thứ đó là tỏi, hẹ, hành, kiệu còn thiếu Hưng Cừ. Tiếng Phạm nói hơi sai nhầm, đúng phải nói là Hình-Cụ. Ở các nước khác không thấy, khi trở về Sư đến nước VuĐiền mới được thấy nó, rễ nó thô như rễ của Tế man thanh mà mầu trắng, mùi hôi như tỏi. Người ở nước đó trồng để láy rễ mà ăn. Khi đó đang là mùa Đông nên không thấy được cành lá. Còn Vân Đài và Hồ tuy chẳng phải là các thứ trong Ngũ Tân nên ăn nó không tội". Đích thân Sư thấy và xem xét như thế.
Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 7 (748), Sư thị tịch tại chùa, thọ sáu mươi chín tuổi, an táng tại gò Bạch Lộc, xây ngôi tháp nhỏ để thờ.
Thứ nữa, có Pháp Sư Chân trụ chùa Hưu Quang ở Dư Dao. Sư người xứ Kim Hoa, họ Vương. Sư từ giã gia đình từ nhỏ, tuổi còn bé đã đồng mong ngộ đạo, phát đại tinh tấn, giữ chắc giới hạnh, trong pháp môn có nhiều người xuất gia. Sư học tập thầy, nghĩa xưa thành Tiên Thánh. Lý của tám bộ kinh thấy rõ như chỉ trong lòng bàn tay, nguồn Pháp Tam Thừa thảy đều rảo khắp ở trong.
Niên hiệu Thiên Bảo thứ 6 (748), Thái Thú Tần Công, Trưởng Sứ Địch Công biết được cao hạnh của Sư, bèn tiến cửa Sư làm chủ chùa Hưu Quang. Cả hai ông thường nói với nhau rằng: "Pháp sư Chân hiểu sâu diệu pháp, giáo nghĩa Vô Thượng, hỏi một được ba, mở lời liền ứng hưởng. Xưa kia, Các vị Lợi Thiệp, Biện Bác, Tăng Hội, Trí Châu ngang hàng với Pháp sư Chân, nhưng không cùng ngày. Niên hiệu Thiên Bảo thứ 8 (850) Sư thị tịch tại chùa.
Bổn Huyện Lệnh Vương Toại khắc bài minh thuật lại đức hạnh của Sư, Hồng Nguyên Đốc viết chữ.
Thích Thần Huýnh, không biết Sư là người xứ nào. Từ thuở nhỏ đã vào dòng Pháp, tự giữ trang nghiêm, tiết cao hạnh vọi, chẳng xấu mà nghiêm. Về già, Sư kính mến Luật Sư Đại Nghĩa ở chùa Xứng tâm, đồng tập giáo nghĩa Tam Quán ở Tông Thiên Thai, thành đạt diệu chỉ ở Thiền Sư Tả Khê. Lúc đó nhằm niên hiệu Bảo Ứng (762-763), Sư lại khéo giỏi bút từ hoằng thiện, hoa tảo phân vân, vẽ họa chân hơn ảnh của Lãng Sư, Viết lời tựa cho Tán Pháp Hoa Kinh Văn Cú. Sư đứng đầu ở đương thời, được người đời quý trọng. Không rõ về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Thuần Đà, vốn người Tây Vực. Tiếng Phạm tên Sư không rõ, chỉ dịch thành Hoa văn như vậy. Sư thong dong đi khắp thôn ấp, được mọi người khâm phục kính trọng.
Vào niên hiệu Thượng Nguyên (760-762) Sư nói đi đến Đông độ, mọi người thấy dung mạo Sư như nhan sắc trẻ nhỏ. Sư nói đã sáu trăm tuổi, lời nói khí trạng của Sư đều không suy yếu. Vua Đại Tông nghe thế, ban chiếu thỉnh Sư vào cung. Kính lễ mừng gặp rất nồng hậu, theo cầu đạo sống lâu năm. Sư bảo: "Tâm thần khéo tĩnh lặng, nay bám trần cảnh, làm sao theo minh tịch được? Nếu xa lìa sự vắng lặng, muốn được sống lâu năm, như leo lên cây mà hái hoa sen thì có thể được chăng? Bệ hạ muốn sống được lâu năm, phải do giản khiết an thần. Thần an thì thọ mạng lâu dài, ít ham muốn thì thân an, trừ phương cách đó, thật bần đạo không biết cách nào nữa vậy!". Vua càng dốc lòng kính trọng Sư.
Đến niên hiệu Vĩnh Thái thứ 3 (niên hiệu Vĩnh Thái chỉ có hai năm 765 và 766) Sư tự biết sắp tịch, bèn sai đệ tử mang y bát đến dâng Vua. Vua Đại Tông ban tặng cho đệ tử Sư pháp y sắc tía. Sư thị tịch tại chùa Trấn Quốc.
Thích Đạo Thúy, không rõ Sư người xứ nào, Sư hiểu có trí hiểu biết sâu xa, giữ chí thường hằng, thấu suốt chân tông chẳng do tà thuật, cuối cùng Sư mở mang giáo đạo của Đại Sư Trí Giả người đời Tùy, bởi Sư vốn đạt được huyền vi dưới cửa Kinh Khê, đạp khó khăn để trông nhìn.
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), Đại Sư Phạm Nhiên giao phó cho "Chỉ Quán Phụ Hành Ký". Sư được bộ nầy phô diễn như ngựa Thần Ký có thể đi đến nơi xa. Bấy giờ, có bạn đồng môn là Nguyên Hạo, xa biết sợ phục mà không thể tranh sở trường.
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 21 (805), có Sa-môn Tối Trừng vốn người nước Nhật-Bổn, cũng là vị tăng minh mẫn Đông Di Hủy phục Trung cương quyết. Sư trôi nổi vượt biển đi đến Giang Đông, kính mến pháp môn của Thiên Thai, tìm cầu Thiền quyết của Đại Sư Trí Khải. Gặp lúc Ngài Đạo Thúy giảng dạy ủy khúc chỉ giáo, Ngài Tối Trừng đạt được yếu chỉ, bèn chép trọn bộ "Nhất Hạnh Giáo Pháp" để mang về Nhật Bổn. Song, lo như có người hỏi nghe từ đâu và được ai ấn chứng, khiến đề phòng nghi lầm, nên mới đến Bang Bá làm Viện chứng. Bấy giờ, Thứ Sử Thai Châu là Lục Thuần phán rằng: "Tối Trừng Xà-Lê (Đại Sư Tối Trừng) hình tuy khác địa vực, nhưng tánh thật đồng cội nguồn. Đặc biệt bẩm sanh biết xúc loại huyền giải, xa truyền giáo chỉ Tông Thiên Thai, lại gặp được Long Trượng Thúy Công, gồm thâu muôn hạnh trong nhất tâm, thấu suốt đường vào Tam Quán, gần nương bí mật, lý dứt danh ngôn, còn lo sợ học chúng ở phương khác chưa dám tin nhận nên cầu xin ấn ký, sao có thể chẳng nhận làm bằng chứng...!" Ngài Tối Trừng bèn theo đường biển mà trở về nước, mang giáo pháp của chỉ một núi hiệu là Thiên Thai, một chùa là Quốc Thanh. Như gió bay điện chớp, giáo pháp ấy hành hóa rộng khắp. Vị tăng thấp lùn nhỏ bé (Tối Trừng) xa tôn sùng Sư làm Tổ Sư.
Về sau, Sư tịch tại chùa Sư ở.
Thích Tấn Bình, họ Ngô, người ở xứ Kinh Triệu, sớm xuất gia tại viện Minh Phước ở núi Vĩnh An. Sư có phong thái thanh nhã. Các kinh luận lớn, Sư thảy đều tìm nghiên cứu, chuốt văn luyện chú khiến người thích nghe, sau Sư tư duy về Thiền Quán, gặp được ngài Thần Hội, Hà Trạch mà liễu ngộ. Sư nói: "Rất chẳng từ bên ngoài mà biết, chỗ biết khó thế ư!". Sau đến Đường Châu, Ngài ở tại núi Tây Ẩn, Thứ Sử Trịnh Văn Giản thỉnh Sư vào thành mở mang tông chỉ. Sư thị tịch năm tám mươi mốt tuổi. Tháng 3 niên hiệu Đại Lịch thứ 14 (779) nhập tháp.
Thích Đạo Ẩn, họ Vương, người ở xứ Bình Nguyên, phong vũ cao kỳ, tánh tình rỗng lặng. Từ thuở thiếu thời, Sư đã vượt thoát trần lao, thệ nguyện theo Xung Mạc. Đã nương tựa Sư Phạm, nhân đó phát thệ du phương, gặp được Thiền Sư Hà Trạch mà chóng rõ nguồn tâm.
Đến lúc Sư trở về quê cũ, tiếng tăm Đạo Hạnh lan xa, người kính mến giáo pháp ấy như lên chợ Hoa Âm, chẳng vời gọi mà tự đến, đàn việt cúng thí tấp nập, xây thành Tinh xá. Cuối tháng 3 niên hiệu Đại Lịch thứ 13 (778), Sư dặn dò bốn chúng. Đến nửa đêm, Sư ngồi kiết già mà thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, ba mươi lăm hạ lạp. Đệ tử là Biện Chân xây tháp để thờ. Đến nay hai tòa tháp Thầy trò toàn thân không rã hoại. Mọi người bàn nhau cho đó là chân chánh đắc đạo, khi ấy cũng vậy. Thí như cái đảnh luyện đơn, thuốc thành thì đảnh cũng hóa vàng. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói có các vị Bồ-tát thành tựu "Như hư không nhẫn", chứng đắc "Vô lai thân" vì vô khứ, thành đạt "Bất sanh thân" vì bất diệt, đạt được "Bất tụ thân" vì không có tan hoại. Đối với Ngài Đạo Ẩn cũng có nghĩa như thế.
Thích Đạo Ngộ, không biết Sư là người xứ nào. Sư là người có thú hướng cao xa, thức lượng khó lường. Sau cùng Sư trụ ở Tinh Xá bên cạnh Đào Sơn, thuộc Vĩnh Gia, là chỗ của ẩn tu của Chân
Cáo. Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), vua Đại Tông vì Ẩn Chân Quân mà xây dựng tinh xá ở đó. Sư trụ tại đó, tấn tu chẳng biếng trễ, mọi người cũng đều khuynh tâm kính ngưỡng. Một đêm, Sư ngồi Kiết già mà thị tịch, thân thịt không nát rã. Mọi người bàn nhau không trà-tỳ hay an táng. Sau năm năm, tự nhiên Sư đưa cánh tay phải lên, tướng trạng như truyền hương. Quan liêu thứ dân khắp châu đều lấy làm lạ đó, bèn đem việc ấy tấu trình, nhà vua ban tặng Pháp Y sắc tía, và sắc phong thụy hiệu là "Thật Tướng Đại Sư". Đến nay, tháp thờ Sư hiện ở Trung Châu. Dân chúng cầu nguyện dâng cúng tràng hoa rất nhiều.
Liên hệ thử bàn:
Phàm các vị khi nhập diệt đưa ngón tay mình lên, đó là chỉ bày dã đắc quả vị trong bốn quả Samôn. Xưa kia, ngài Cầu-Na-Bạt-Ma đưa hai ngón tay mà thị tịch tức là muốn nói đã chứng đắc Nhị quả. Thứ nữa, có Ngài Pháp Kinh, lúc thị tịch cong ba ngón tay, Ngài Tuệ Cảnh nắm duỗi ra thì gở lấy rồi cong lại như cũ. Nay, sự đưa bày tay của Ngài Đạo Ngộ há chẳng đồng với việc ấy ư.
Thích Hoan Hỷ, không rõ Sư là người xứ nào. Tánh tình Sư không ràng buộc, tư nhẫn khoan hòa, mọi người không hề thấy Sư có sắc thái nóng giận, nên xưng hiệu Sư là Hoan hỷ. Xem cái ve vang của đất nước mà đến nơi cung quyết, quý tới hạ dân thỉnh mời Sư, ít thấy chống trái. Ngài nói năng bất thường, có lắm sự tích khó lường biết.
Vua Đức Tông nghe thế mà quý trọng, niên hiệu Hưng Nguyên thứ 12, vua ban sắc thiết lập giới đàn độ tăng tại chùa Vĩnh Thái. Bấy giờ, Sư cùng với Bảo Đường Thiền Tông, riêng được sắc ban thọ giới. Đến ngáy 19 tháng 6 năm đó, Sư thị tịch tại chùa Vĩnh Thái.
Kế nữa, có Ngài Thích Vô Trắc trụ chùa Vân Môn ở Cối Kê. Sư là người nước ngoài, không biết Sư sanh ở Nam hay Bắc Thông Lãnh. Sư vừa như người Hồ vừa như người Phạm, nên không sao phân biệt được. Vào niên hiệu Kiến Trung (783-784) Sư vượt bãi sa mạc đi đến phương Đông. Có được chỗ vừa ý thì Sư đùng ở qua mùa Đông mùa Hạ. Sau, Sư đến trụ chùa Vân Môn ở Việt Khê, tu đạo mà khéo hiểu được ý người, nên mọi người gọi Sư là "Lợi Trí Phạm Tăng". Tương truyền cho rằng Sư là thân sau của Đạo Nhân Khương Bảo Nguyệt, hẳn từng lấy việc chứng nghiệm mà biết. Gặp gỡ các bậc danh đức thì Sư cùng đàm luận thâu đêm, nên Ngài Kiểu Nhiên ở Ngô Hưng viết trên vách tường phòng Sư rằng:
"Vượt núi ngàn muôn, cửa mây dứt
Tăng Tây dáng cũ Khương Bảo Nguyệt
Trời trong quét đá hành đạo về
Ngủ dưới rừng Thiền, xem thông tuyết".
Hình trạng Sư cao xa, có thể trông nhìn nơi họa từ.
Thích Kiểu Nhiên, tên là Họa, họ Tạ, người ở xứ Trường Thành, là cháu đời thứ 10 của Khương Lạc Hầu. Thuở nhỏ, Sư đã có tài khác thường, tánh hợp với Đạo. Ban đầu dứt khoát buộc ràng, dần hồi cạo tóc xuất gia. Sư thọ giới cụ túc tại giới đàn chùa Linh Ẩn, nương tựa Luật Sư Thủ Trực mà thọ học tỳ-ni. Đặc biệt Sư lưu tâm ở thiên Thập Trọng. Sư có tánh thích ngâm vịnh, cái gọi là đạt đến huyền vi vậy, văn chương lại bóng bẩy, người thời bấy giờ gọi Sư là "Thích Môn Vĩ Khí"!
Sau, tham phỏng khắp các danh sơn, các Pháp Tịch ít nơi chẳng đến nghe giảng, nhưng Ngài kiêm công đều tiến, các loại tử sử Kinh thư mỗi mỗi đều đạt đến cùng cực. Hễ Sư đến chốn Kinh đô thì công tướng kính trọng, vào các quận ấp thì ở đó khâm phục. Nơi nào đầu tiên Sư cũng dùng thi cú dẫn dắt khuyên người vào Phật trí, đo là bổn ý hành hóa. Từ đó cho đến tuổi trung niên, Sư đến tham yết các vị Thiền Tổ, tỏ rõ pháp môn tâm địa. Sư và Đại Sư Nguyên Hạo ở núi Võ Khâu, Đại Sư Linh Triệt ở
Cối Kê kết làm bạn Đạo. Nên dương thời có lời truyền rằng: "Họa của Kiểu Nhiên làm cho thanh tú".
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ nhất (785) Sư đến Thảo Đường ở Đông Khê, muốn dứt nghĩ thi đạo, chẳng phải ý của Thiền giả, tự răn mình rằng: "Xưa khiến người có hiểu biết rộng rãi như Tuyên Ni đều là bề tôi học rộng, suốt ngày trước mắt khoe Đạo bày nghĩa, vừa đủ để khuấy nhiễu chân tánh ta. Đâu như thông lẻ áng mây, Thiền tọa cùng đối đáp, không lời mà hợp Đạo, rất tĩnh lặng mà tánh đồng! Ta sắp đến Trữ Phong, cùng thông Mây làm chỗ tình cờ gặp gỡ, sáng tác thi thức và các văn bút đều trầm lắng mà chẳng ghi chép". Nhân đó, xoay nhìn lại bút nghiên mà Sư bảo rằng: "Ta mệt mỏi, ngươi phải chăm làm, ngươi khốn nhọc, ta ngu mê. Trong mấy mươi năm, hoàn toàn không có thất. Huống gì vật bên ngoài, làm sao liên lụy đến người ư? Ở đã vô tâm, đi cũng vô ngã, sẽ phóng thả ngươi, đều tự trở về bổn tánh, khiến vật tự là vật chẳng liên hệ tới người, há chẳng vui ư?" Sư bèn bảo đệ tử phế bỏ. Đến tháng 5 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 5 (789), gặp Tiền Ngự
Sử Trung Thừa Lý Hồng từ Hà Bắc dời về Hồ Thủ. Ban đầu, vừa mới gặp chưa xả giao một lời mà mừng vui như thần hợp. Lý Hồng vốn biết Sư tinh thông Phật lý, nhân đó mà thưa hỏi điều lợi ích. Trước hỏi về cội nguồn tông phong, kế hỏi tiếp về Tâm ấn. Sư cười và sau đó mới đáp. Ngày khác, nói đến nghi thức, Lý Hồng bày tỏ tất cả ý chí năm xưa. Ngài bảo: "Chẳng phải vậy!" Sư có bảo môn nhân xem xét lại các bản thảo, xem qua một lượt mà khen ngợi rằng: “Năm Trước từng thấy Thẩm Ước Phẩm Tảo, Tuệ Lâm Hàn Lâm, Dữu Tín Thi Châm, điều luận bàn của cả ba người rất khác mà chẳng bằng đây. Cớ sao học Tiểu thừa, có sự thấy biết hẹp hòi, lấy túc chí làm tà từ?", bèn nêu từ nhân ấp trung là Ngô Quý Đức tức con cháu của Thường Thị Quân đời Lương. Ông ấy văn vẻ có gia phong, ta rất mến quý. Sư lấy Lục Hồng Tiệm làm bạn chẳng trái nghịch, Tướng Quốc Vu Công Địch Nhan, Lỗ Công Chân Khanh bảo sửa sang "Tán Vận Hải" hơn hai mươi quyển, khéo soạn "Ngũ Tạp To biển", dùng ý kỳ hiểm, thật chẳng nhục con cháu xa xôi của Giang Nam Tạ. Sư ý chí thanh tịnh, tâm tánh cao xa, phù danh bạc lợi chẳng thể cám dỗ. Sư chuyên ở núi rừng qua lại với các Đạo giả, nên trọn đời không có sắc đọa.
Sư lại thiết lập minh trai (cúng thí kẻ âm), bởi theo Đại Sĩ Tiêu Diện nên cúng thí cho quỷ thần ăn. Xưa, Sư trụ tại chùa Hưng Quốc ở trong Châu, khởi ý tự quyên bỏ y đãy mà cúng thí, từng có Quân Lại Thẩm Chiêu, vốn là người Đức Thanh, ban đêm từ Châu đi ra, cưỡi ngựa đến cầu Lạc Đà, dưới ánh trăng sáng tỏ thấy mấy người ăn mặc như quan, Thẩm Chiêu lấy làm lạ hỏi: "Từ đâu đến đây?" Đáp rằng: "Ở đền thờ Hạng Vương ở phía Đông chùa Quốc Hưng có Ngài Kiểu Nhiên thiết lập minh trai nên ở đó dò xét". Sáng hôm sau, Thẩm Chiêu sang dò xét quả thật là quỷ vật. Lại có Trường Thành Củ Tư Tiền Bái đi làm việc cực nhọc, ghé thuyền ở phía Nam Lã Sơn, thấy mấy trăm người được đồ ăn phi đề mang bó lụa vui vẻ nói cười mà đi qua, bèn hỏi về nguyên do thì đáp là "đến nơi trai hội của Ngài Kiểu Nhiên".
Bấy giờ, Nhan Lỗ Công làm thứ quận sớm biết việc giao du mà còn sùng phụng. Tháng Giêng niên hiệu Trinh Nguyên thứ 8 (792), ban sắc viết về văn tập của Sư nhập vào Bí các. Trong nước lấy làm vinh hạnh, xem đọc văn ấy nhiều lượt mà chẳng nhàm chán. Hợp luật thanh trang cũng là một đời tài giỏi.
Thuở bình sanh, Sư thường cùng với Vi Ứng Vật, Lư Ấu Bình, Ngô Quý Đức, Lý Ngọc Hoàng,
Phủ Tăng, Lương Túc, Thôi Tử Hướng, Tiết Phúng, Lã VỊ, Dương Quỳ, hoặc là trâm cài, dây thao quấn buộc, hoặc là áo vải, cùng đó giao kết hẳn cao ngâm vui Đạo. Với người cùng Đạo, thì Sư mới định giáo kết, cho nên soạn "Nho Thích giao du truyện" và "Nội điển loại tụ" tất cả bốn mươi quyển, "Hiệu Noa Tử mười quyển", người đương thời tôn trọng mà truyền bá.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 4 (809) Thái Thú Phạm Truyền Chánh, Sa-môn Thích Linh
Triệt ở Cối Kê đồng sang viện cũ đến nơi ảnh đường kính viếng nhớ thương giây lâu, bèn đề tựa rằng:
"Đạo An trở lại ở làng nào
Tuệ Viễn đi qua thảo đường xưa
Ta cũng đương thời và môn giả
Đồng ngâm cân hay đốt cây hương".
Ngài để lại đức hạnh mà các bậc Hậu Hiền kính mến nối tiếp có đến như thế.
Lại nữa, có ngài Thích Pháp Lâm trụ núi Đại Thạch ở Hoàng Châu cũng thuộc thời Tiền Đường, Sư họ Nguyên, người ở xứ Kinh Châu. Cha của Sư làm Tương Dương phán ty, vốn rất kính mến Phật giáo. Từ thuở nhỏ, Sư đã ưa thích cửa Phật, thường hay xem xét, sớm biết giã từ người thân, đến Đại Sư Khiêm Trước ở chùa Huyền Tĩnh xin xuất gia. Sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc, tự thân Sư đến đảnh lễ Tổ Sư Hà Trạch, mới khế chứng chân tâm. Sau, Sư đến Hoàng Pha, cắt tranh dựng thất, sau trở thành Đại Viện, nhóm tụ thiền tăng ở bốn phương cùng đến tu tập. Sư thị tịch năm tám mươi hai tuổi, ngày mùng 8 tháng 4 niên hiệu Hưng Nguyên thứ 2 (758) nhập tháp.
Thích Hoài Không, họ Thương, người ở xứ Hà Dương, là con của Cao Lương. Thuở nhỏ, Sư rất mạnh khỏe, mới giã từ thân thích, đến viện Quảng Phước, ở núi Đại Đô thuộc trong bổn châu xin xuất gia. Thiền sư Đại Minh thầm biết Sư có khí chất chẳng phải bình thường, bèn chỉ dạy Sư trì tụng các kinh.
Sau khi thọ Pháp, Sư du phương tham quán khắp kinh đô, gặp lúc Thiền sư Thần Tú đang mở mang hoằng hóa, Sư bèn đến đó và được dứt nghi. Sau Sư đến núi Định An ở An Lục, bỗng gặp một ông lão khuyên: "Sư trấn yểm dòng sông tại đó, tôi được đượm nhuần lợi ích lớn". Ngài bèn cất am tranh mà ở. Ông lão trước kia là thần Thổ Địa ở đó. Về sau, nhân dân chúng trong thôn xóm đuổi hổ vào núi, thấy Sư, vui mừng mà thưa với Sư rằng: “Trong núi này có lắm hổ hung dữ, dân chúng trong thôn lạc chẳng an. Xin Hòa-thượng chỉ bày phương pháp diệt trừ tai ương ấy". Sư bảo: "Hổ cũng là chúng sanh. Nếu giết hại nó, nó sẽ đến báo trả, cứ xoay vần đền báo như thế đến bao giò mới dứt ư! Lão tăng vì các người mà chỉ bày pháp lành có thể khẩn cầu cho nó đi". Mọi người trong thôn thưa rằng: "Ngu hạ chúng con không biết, xin nghe theo lời chỉ dạy mà làm". Sư bảo: "Các người trở về nhà đồng tâm thiết lập đạo tràng, cúng thí đại hội". Sư đến dự trong Pháp hội, đến tối hôm đó, có con hổ đến trước am, nằm nhắm mắt. Sư bảo: "Này! Loài thú hung dữ. Quả báo một đời chưa dứt, lại chất chồng lên lắm ương lụy, cắn ăn người thường như thế, trời không giết thì chết cũng đọa vào địa ngục. Ta rất thương xót cho ngươi!" Hổ bị quở trách rồi từ từ quay đầu mà đi. Sáng hôm sau trai hội hoàn mãn, Sư trở về núi, thấy con hổ đó nằm ở trước am và dẫn theo bảy hổ con. Sư cho các thức ăn thừa. Chúng nó mỗi con tự ăn xong, Sư sám hối cho nó. Bảy con hổ lần lượt đều mất, trăm họ cùng nhau mừng vui, thưa rằng: "Theo Sư ở đây, trong thế tục không còn mắc phải các chứng bịnh dịch". Tới mùa lúa thóc chín gặt, mang đến cúng dường rồi ra về.
Bấy giờ, Trương Liêu Đại Phu làm Châu Mục, sai Phủ lại Mộ Dung Hưng sang thỉnh Sư vào Châu. Sư cảm tạ, cáo bịnh mà chẳng đến. Bộ lãnh công thợ vì dựng lập Thiền cung hoàn tất, Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi. Ngày 16 tháng 3 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 3 (787 trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi nhập tháp.
Thích Tuệ Diễn, họ Miêu, người ở xứ Tương Dương. Cha của Sư làm Đông Bình Liệu Tào. Thuở nhỏ, Sư vào chùa Khai Nguyên nghe Kinh mà vui mừng, xin Pháp Sư Biện Chương độ thoát. Thường ngày, Ngài Biện Chương giảng kinh Niếtbàn, Sư thường theo nghe mà nhập thần. Đã tinh thông nghĩa sâu lại giỏi giảng nói. Một hôm, Sư kết bạn đồng đến Hoa Hạ, định lên đỉnh núi Mao An để xem bàn tay tiên, trên đường ra Lạc Trung bèn tham yết Tổ Sư Hà Trạch, thông đạt Đại Quán. Nhân đó Sư đến Nam Nhạc, trụ ỡ Lễ Dương. Tại Giang Nam có lắm người đắc đạo.
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12 (797), Sư thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi.
Thích Hạnh Giác, họ Lưu, người ở xứ Cự Lộc. Thuở nhỏ, Sư khôi ngô thông minh, đứng chẳng đổi hướng, mang chí xuất gia, cha mẹ khó khuyên ngăn. Sư sớm vào chùa Vĩnh Thái trong Bổn Quận xuất gia.
Sau khi thọ giới, Sư đến Lạc Đô, gặp được Thiền sư Thần Hội, nên khai ngộ huyền lý, giữ tâm gắn vết. Đến lúc du phương, thấy ngôi chùa cổ ở Giang Lăng, điện vũ đổ nát mà hoang vắng không người, Sư bèn cởi đãy chống tích dừng trụ ở đây. Sáng hôm sau, Sư gặp một tiều phu, ông ấy lấy làm lạ bảo rằng: "Đó là chùa Quốc Xương đã bị hoang phế suốt ba đời vua!" Sư cũng biết người và việc nhân nhau, đạo theo duyên hội tụ, học giả tìm tới, người trong làng đua nhau kéo đến, xây dựng thành một ngôi chùa. Bấy giờ, Tiết Sứ Thôi Thượng thư thỉnh Sư vào thành nhưng Sư cảm tạ mà chẳng đến. Đàn Việt lại theo nhau kéo đến, Sư hoằng hóa rất hưng thịnh.
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 15 (799), Sư thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi. Mọi người ở kinh sở xây tháp thờ Sư.
Kế nữa, có Ngài Thích Hạo Ngọc, họ Triệu, người ở xứ Thượng Đãng. Sư xuất gia tại chùa Pháp Thanh, sau đến chỗ Pháp Tịch của Thiền sư Hà Trạch mà tỏ rõ tâm ấn. Sư đến lan-nhã Nhạc Trung mà dưỡng Đạo. Thái Thú Hành Dương là Vương Triển Viên Ngoại khuynh tâm kính trọng. Sư thị tịch lúc hơn tám mươi tuổi. Nhập tháp vào niên hiệu Hưng Nguyên (784-785).
Thích Huyền Yến, người ở xứ Giang Hạ, vốn họ Lý. Ông nội của Sư là người hiền thiện mà học nhiều hiểu rộng, chú giải văn tuyển, hành giang tập ở thời nhà Lương, nhà Tống. Cha của Sư húy là Ung, là Thái Thú ở Bắc Hải, trong Đường Thư có nói.
Sư thuở nhỏ quyết chí thoát tục. Đầu niên hiệu Chí Đức (756), Sư tụng kinh đâu được hạng cao, nương Sa-môn Sùng Chân xin xuất gia và được phối danh ở chùa Khai Nguyên. Niên hiệu Đại Lịch thứ 3 (768), Sư theo A-xà-lê Chân Ngộ mà thọ giới cụt, bèn tìm ầm học luật Phạm, mắt chẳng nhìn điều tà vạy, chân chẳng dẫm vào đường tà, trong bốn oai nghi không có hình nghi trái giáo, mày mắt sáng đẹp như chim hồng, chim hạc đứng một mình giữa đầm, trông gió nhìn tưởng tự có xa đến, tánh thường có phần hạn. Giả sử như cùng Tỳ-kheo xấu ác đồng nương ở thì Sư gấp kíp như dùng tro than Khư-Đà-La mà tắm gội thân mình. Sư chẳng ra khỏi cửa nhà, quét đất đốt hương, ngồi thẳng suốt ngày, mọi người đều rất lo, nhưng Sư ở đó như thế, niềm vui cõi thiền thứ 3 cũng chẳng sánh bằng.
Thuở nhỏ, Sư học Tỳ-ni, lúc lớn lên học kinh Kim Cương, giải không phá tướng đến cùng cực chỗ sâu kín, nghe luật tạng có cho phép dành ra một phần thời gian trong ngày để học ngoại học, hoặc một chương thi phú, Sư bèn vận nghĩ nêu bạt cô du ở ngoại cảnh. Bành thành Lưu Trường Khanh là bậc danh trọng ngũ ngôn, ngợi khen tưởng thưởng Sư. Do đó, gió mây cây cỏ thường có phú vịnh, liền làm người soạn văn và ngâm vịnh. Phòng nhà của Sư ở góc phía Bắc của chùa, có cái ao hẹp. Các bậc danh sĩ đương thời cùng nhau dựng lập ngôi nhà tranh, có Viên Tư ở Trần Quận, Lý Tắc ở Triệu Quận, Lư Lai Khanh, Ưu Văn Huyền, Thái Trực đều là Đàn Việt cùng xả thí dựng lập. Ngạc Nhiên Liên Soái Hà Công biểu dương hạnh nghiệp, thỉnh Sư đến Tấn An, Nhưng Sư chẳng hề đổi thay ý chí. Vào niên hiệu Kiến Trung (780-784), mới có Phù Tải cùng với Dương Hành Lý Diễn ước giao kết bạn trần ngoại với Sư. Đến ngày 14 tháng 9 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 16 (800), Sư thị tịch, thọ năm mươi tám tuổi, ba mươi bốn hạ lạp. Dựng lập tháp gò ở phía nam núi Hoàng Hạc.
Thích Trừng Tâm, họ Chu, người ở xứ Đông Hải. Cha của Sư làm Tế Nguyên lệnh, vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756) gặp loạn An Sử nên ông bị hại. Lúc đó, Sư còn bé nhỏ, theo mẹ đến Hà Nội, rất cực khổ. Mẹ của Sư bèn lấy chồng khác, Sư chẳng thích theo mẹ đã có chồng. Chí khí Sư khác với bao đứa trẻ khác, bèn đến Pháp Sư Trí Minh ở chùa Ứng Phước cầu xin chỉ giáo. Ngài Trí Minh khuyên Sư xuất gia. Sau khi thọ giới, Sư vân du khắp nơi, chuyên gấp tham huyền. Sư đến chỗ đệ tử tài giỏi của Thiền sư Thần Tú được tỏ ngộ pháp yếu. Sư bèn đi chiêm ngưỡng danh tích ở các nơi, bèn dừng trụ ở Hành Nhạc. Chư tăng muốn cầu hỏi điều lợi ích nên chen vai kề chân tìm đến.
Bấy giờ, Thái Thú Ngô Hiến Trung thỉnh Sư vào Châu Trị, Sư cảm tạ mà chẳng đi. Lại thỉnh Sư vào chùa Long Hưng. Người đến hỏi đạo, lúc nào trong Trượng Thất cũng rất đông.
Tháng 11 năm Nhâm Ngọ (802) nhằm niên hiệu Trinh Nguyên thứ 18, Sư thị tịch, thọ bảy mươi sáu, đến ngày 27 tháng đó nhập tháp.
Thích Đạo Tề, họ Triệu, người ở xứ Tiền Đường. Thuở nhỏ, Sư đã thông minh, khí độ cao vời, cử chỉ khoan thai, hiểu sâu kinh sách. Tình cờ đứng ở giữa đường cái, thấy chư tăng phân hàng trì tụng kinh Tịnh Danh, Sư thầm lặng vui mừng, bèn thỉnh các vị tăng ấy vào nhà, thiết trai cúng dường, hỏi vị tăng ấy ở chùa nào? Đáp: "Ở chùa Định Thủy". Nhân đó, Sư xin cha mẹ cho phép xuất gia. Mẹ của Sư bảo: "Lúc mẹ sinh con, mộng thấy trong lòng bàn tay có hai vầng nhật nguyệt, có đoán xem thử về mộng đó, thầy tướng bảo quý tử có năm Đẳng phần thoát, hoặc xả bỏ tục gia, mẹ không trông mong!".
Từ đó, Sư sang chùa Định Thủy, theo thầy học đạo. Năm mười bảy tuổi, Sư đăng đàn thọ giới cụ túc, tập học tỳ-ni. Sư lại vào chùa Linh Ẩn học Hoa Nghiêm Kinh Nghĩa. Từ đó, Sư đến chùa Thiên Trúc, tu tập thiền định, thực hành hạnh đầu đà. Tại núi đó có một hang đá, Ngài vào trong đó tĩnh tọa, bỗng nhiên có một con trăn lớn nghiêng đầu hà hơi biểu lộ hình trạng như ăn nuốt, nằm im chẳng lay động. Bấy giờ, có Hổ Báo ở gần hang đá, có đàn nai luôn ở quanh quẩn thuần quen. Ở núi đó thiếu nước, Sư cầm tích trượng đâm xuống đất, tự nhiên có dòng suối tuôn chảy, cung cấp để dùng.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (759), người học khắp bốn phương thỉnh Sư giảng Kinh Hoa Nghiêm. Khi đó có tuyết thổi bay, bỗng sanh ra hai gốc hoa, hình dáng như hoa sen lấp lánh sáng đẹp, mọi người trông tấy đều khen ngợi là thấy được điều chưa từng thấy. Đạo hạnh tiếng tăm Sư phảng phất hương thơm, Sư tiết kiệm chỉ mặc áo xấu, ăn thức ăn chẳng ngon, không người nào hơn. Về sau, Sư thị tịch tại chùa.
Kế nữa, có Ngài Thích Pháp Như ở núi Thái Hành, cũng sống vào thời Tiền Đường. Sư họ Hàn, người ở xứ Từ Châu. Thuở thiếu thời, Sư làm nghề buôn bán, tâm luôn giữ sự cân bằng làm chuẩn. Sư đến chùa Tướng Quốc nay thuộc xứ Đông Kinh, phát tâm nương tựa Pháp Sư Hồng Tư mà xin xuất gia, thuộc nghiệp đều thông. Sư bèn đến Thiếu Thất, đến Lạc Ấp, gặp được Thiền Sư Thần Hội trao cho tâm quyết. Sau, Sư lên núi Thái Hành, thấy nhìn phía dưới ngọn núi Mã Đầu là nơi có thể ẩn cư dưỡng thần, Sư bèn xây dựng am tranh mà ở. Có Trữ Thục Nhung Tướng Vương Văn Tín, dẫn chúng đến xây dựng tinh xá. Thứ Sử Lý Á Khanh
Trung Thừa thỉnh Sư vào thành, nhưng Sư chẳng vào mà thị tịch, thọ tám mươi chín tuổi. Nhập tháp vào tháng 3 niên hiệu Nguyên Hòa thứ 6 (811).
Thích Tuệ Thiệp, họ Tạ, người ở xứ Cối Kê, là con cháu của Thái Phó An thời Đông Tấn. Cho nên biết phát xuất từ đời kiệt khí anh linh, cầu luật lìa tục, khác đời há không. Sư là người trong trắng, giới tiết cao vợi, thích vắng lặng làm vui, chẳng ham tiếng tăm.
Đầu niên hiệu Đại Lịch (766), Sư đến chùa Trang Nghiêm ở Kim Lăng, gặp được Thiền Sư Trung ở núi Ngưu Đầu, chỉ một lời mà biết chỗ trở về, bèn bảo Sư vào thất trao cho pháp yếu. Sư phục ứng đạo hóa, đợi suốt năm dài, chẳng sợ lao nhọc. Đến lúc Thiền sư Trung thị tịch, Sư nối gót Võ Tư lãnh, chẳng tới lui trong cảnh trần, chỉ một y pháp ở nơi phương trượng, tiết tháo càng cao. Từ đó, người đến hỏi đạo càng đông. Khắp nơi không đâu chẳng đượm nhuần. Trong suốt năm mươi năm tự nhiên kết quy về đức hạnh.
Đến niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (822), Sư thị tịch tại viện ở núi, thọ tám mươi hai tuổi. Môn nhân đệ tử như Duy Yến, v.v... xây tháp ở tại phía
Tây bắc chùa. Khắc bài minh, ghi lại công đức.
Như nghệ văn của Khảo Sư thì Thảo Đường, Lô Nhạc đều tự có vẻ đẹp của đương thời.
Thích Vân Thúy, không rõ Sư là người xứ nào. Sư hiểu thông các kinh luận, có đủ hạnh giải. Sư thấu suốt các sách vở, nên người đương thời gọi Sư là "cai bác". Sư khéo mến thương người xa rộng, không ngăn cách. Trải qua nhiều đời vua ban chiếu thỉnh Sư vào Nội Đạo tràng. Từ thời vua Thuận Tông (805-806) về sau, Sư lãnh nhận công việc phiên dịch. Đầu thời Vua Hiển Tông (806). Sư phải biện liệu công việc Hữu Nhai các chùa quán, gồm cả đạo Phật và đạo Lão. Vua Hiến Tông lại riêng ban sắc sung chức Thượng Tọa ở cả hai chùa Tây Minh Và Thiên Phước. Sư phong du uyên nhã, cương nhậm nghiêm túc. Xưa kia, các bậc hiền giả sách Ngài Đạo Sanh với Quách Lâm Tông, thì nay, sánh với Sư.
Kế nữa có Ngài Thích Thanh Nguyên trụ chùa Thê Hà ở Nhuận Châu, Sư họ Phùng, người ở xứ Diên Lăng thuộc Nam Từ. Thuở nhỏ, Sư trong trắng, lúc lớn lên lại chẳng giống như đồng bạn. Tục lụy chẳng buộc ràng, bèn vào nương dòng pháp, Sư đến làm đệ tử Ngài Tuệ Thiệp, học đủ kinh luật, ít người sánh hàng. Sư đến ẩn cứ tại Nhiếp Sơn, chứa nhóm nhiều năm. Đến đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Công Bộ Thượng Thư Lý Tướng Quốc Đức Dụ trấn tại Chiết Tây, rửa tâm mến đạo, thỉnh Sư vào Kinh Khẩu, học hỏi Thiền yếu, nhã hợp túc tâm. Đến lúc Tán Hoàng bỏ quận, Sư chống tích trở lại chùa Thê Hà, và thị tịch tại đó.
Thích Pháp Chân, không rõ Sư là người xứ nào. Khí thức Sư thâm sâu, học vấn rộng rãi, nghiên cùng Phạm Điển, Sư còn tinh thông sách Nho. Ngoài việc giảng đạo dẫn dắt, Sư còn ngâm vịnh tình tánh. Các bậc công khanh quý sĩ không ai chẳng tôn sùng kính trọng.
Vào niên hiệu Trường Khánh (821-825), vua Mục Tông rất bén kính mến Phật sự. Sư từng ứng chiếu thỉnh mời vào Nội Điện Kỳ Phụng.
Suốt bốn năm ở tại Đạo tràng trong cung. Các vua Duệ Tông (710-712) Võ Tông (841-847) Chiêu Tông (889-904) Mẫn Tông đều đến pháp tịch khắp nơi thưa hỏi về Công Năng của Tam Bảo. Sư được đối ứng, biện cấp xoay vần, chứng cứ rõ ràng, các quan đều vui mừng. Nhân đó, thưa hỏi Sư rằng: "Từ lâu phế bỏ đàn giới độ tăng, những vị chưa toàn pháp đều đã già yếu, bởi vì khắp Lưỡng Giang chiến tranh chưa tạm ổn!" Sau đó, bỗng ban chiếu các chùa Phật ở Lưỡng Nhai, mỗi chùa chọn đặt tăng ni thọ giới ở đàn tràng, bắt đầu từ ngày nồng 10 tháng 3 cho đến ngày mồng 10 tháng 4 thì chấm dứt. Bèn bảo Lưỡng Nhai Công Đức Sứ mỗi chùa chọn lựa các vị tăng đức hạnh cao, thỉnh sung vào Đại Đức, khảo thí tăng ni về các kinh v.v... nếu chư tăng tụng thuộc lòng được một trăm năm mươi trang kinh, chư ni tụng thuộc lòng được một trăm trang, thì được độ cho. Sư đã từng vâng sắc tu công đức, nên bèn thấu thỉnh, Đức Vọng của Sư thật đứng đầu các bậc xướng đạo!
Không biết về sau Sư tịch ở đâu.
Thích Ninh Bí, họ Lý, người ở xứ Lũng Tây, nhà ở tại Mông Thành, thuộc Hào Châu. Từ thuở nhỏ, Sư kính phụng Đức Thích tôn mà chẳng nói là đầu mối của không được xứng thay húy ấy. Lời Sư nói ra đều là giác liễu chẳng chấp các tướng, tâm thông định tuệ, cùng tận hư không. Không thể lấy ở giữa hay bên ngằn mé mà có thể lường biết, chẳng có thể dùng văn tự mà cầu ta.
Nhân đó, tìm đến Tổ Sư Đạo Nhất ở Hồng Châu, Ngài Đạo Nhất thấy Sư nói năng lạ lùng, bèn lấy làm lạ, Đại Thừa pháp khí đã có được người!
Sư bèn thọ giới cụ túc, làm đệ tử nhập thất của ngài Đạo Nhất. Thầy trò cùng sống với nhau được vài năm, đạo nghị khác thường. Sư lại muốn đến Thiên Thai, tới lượt núi Lã Hậu, Sầm Liêu bảo rằng: "Đây đã là trụ xứ của các Đức Phật, đầu cần gì đến Thiên Thai?" Sư bèn giác ngộ ngay. Thân tướng Sư khôi ngô, cao bảy thước. Các bậc anh hào kỳ túc trong thôn xóm trông thấy hình trạng đặc dị của Sư mà quy y kính ngưỡng. Già trẻ đua nhau đồng hưởng vị Đề Hồ. Những người bệnh tật cũng đều được lành. Bấy giờ, phần nhiều có cướp bóc trên đường đi hung bạo đối với tăng đồ, Sư bèn dẫn tăng đồ mà Sư đi trước, do oai nghiêm của Sư mà chúng đều thối lui, kinh hãi nghi mạo mà đảnh lễ sát chân xin được quy y. Điều ngự sơn lâm, ma tà đều nhiếp phục. Sư chẳng xuống núi gồm hơn vạn ngày, đạo đức cao xa, tăng đồ càng đông.
Trước đó, tại chỗ Sư ở nhỏ hẹp hiểm nguy và không có điện đường, mọi người bàn nhau muốn xây dựng, mặc tình mọi người giúp phước, từ thôn xa đều đua nhau đến trợ duyên. Cây gỗ đất đá các thứ vật liệu, lo liệu khéo léo, ước tính núi, đo ngang nhà, đến khe hay mái. Thầy rìu trò búa, chim đứng vượn nhảy tính đo cảnh mà ra sức. Sao mọc trở lại thì điện đường hoàn thành, tôn trí tượng Phật, tinh đẹp sáng ngời, cúi ngưỡng chiếu soi, khắp núi Xá Vân. Người trời chẳng khác, riêng mở cõi Phật.
Đến ngày mồng 7 tháng 6 niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828), từ xa nghe Đạo tràng có tiếng kèn ty trúc. Canh 2 đêm đó, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, bốn mươi mốt hạ lạp. Trong tháng đó, tạm phương tiện thiết lễ tôn trí vào Sam Viên, thiết trai cúng tế phẩm cách đặc thù, buồn khóc vang động núi rừng. Cây cối đổi mầu, buồn thảm cảnh thiền, tiếng nước nghẹn ngào nơi hang đá, vật loại còn biết cảm động thì tình người có thể lường biết như thế nào. Đến tháng 9 niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (831) cử hành lễ trà-tỳ, xây tháp ở Đạo tràng Tấn Sơn. Đó là theo Tiên ý.
Thích Pháp Dung, họ Nghiêm, người ở xứ Lãng Trung. Thuở nhỏ, Sư thích thuần trắng, không thích mặc sắc phục hoa hòe. Cha của Sư dạy cầm bút, Sư bèn vẽ hình tượng Phật. Đến lúc nhóm tụ đông đảo đùa vui, Ngài vốc cát đắp tháp, mọi việc làm của Sư không gì chẳng là Phật sự.
Năm mười ba tuổi, thấy vị Sa-môn vén y ngồi, cầm quyển kinh, Ngài tha thiết cầu xin xuất gia. Đến nương tựa làm đệ tử Pháp Sư Tuệ Lưu ở chùa Trường Lạc. Các kinh Sư tụng đều thông, mới đượm nhuần thiện giới, bèn giảng Nam Sơn Luật
Sao. Sau, Sư đến Vân Thủy gặp được Thiền Sư Phổ Tịch ở Tung Nhạc, đạo thiền giáo hóa thạnh hành, thầm trao tâm ấn. Sư lại đến chùa Phước Ninh ở Dặc Dương, tự tại nhàn cư. Các học giả cùng nhau tìm đến.
Đến niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (835), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ tám mươi chín tuổi. Ngày mồng 10 tháng giêng năm đó, môn nhân đón rước thần tòa nhập tháp.
(Quyển 29 hết).
❑
(chánh truyện có mười chín vị, phụ có sáu vị)
Thích Hảo Trực, họ Đinh, người ở xứ Gia Cự, thuộc Cối Kê. Thuở nhỏ, Sư đã chẳng thích việc đời. Rượu thịt, các thứ tanh nồng Sư vốn chẳng hề ăn uống.
Nhân đó Sư đến Đại Sư Tạng ở núi Hàng Ổ xin xuất gia. Đến đầu niên hiệu Nguyên Hòa (806), Sư thọ giới cụ túc tại chùa Thiên Trúc. Trăm thứ kinh luật luận sớ sao, Sư đều ham thích đượm nhuần điều cốt lõi. Một hôm, mang giày gai, cầm tích trượng tìm đếm thiền môn ở Hồng Châu, thấu đạt được tâm yếu, trừ hư giữ thật. Sư trở về lại chùa Đại Khánh trong bổn quận, mọi người đến thưa hỏi điều ích lợi, Sư dẫn dắt chỉ dạy hơn hai mươi năm. Vì các danh tăng ở Giang tả hay coi trọng các nho sĩ, nên những vị có tiếng tăm phần nhiều hay giao du với Sư, thường luôn vui vẻ làm thơ, câu từ đều ngơ ngác. Phàm làm việc xét hỏi Hộ Nhung ở đất Việt nhập cảnh nương gá tiếng tăm thật mà tạo cửa nhà, chẳng riêng dẫn dụ, mà cũng khéo xã giao với người.
Vào niên hiệu Thái Hòa (827-836) Sư đến Ngũ Đài, trên đường ra Kinh Ấp, chỉ đi một đêm. Hộ Nhung trước là Khích chí Vinh và Tống Thường Xuân là hai Nội thị rất đam mê mùi vị đạo của Sư, chăm chăm từ xa thỉnh mời. Đến đầu niên hiệu Khai Thành (836), Sư lại đến Kinh Quốc, hai quý nhân cùng hợp sức xướng hòa, thỉnh Sư đến Đại phương trượng của chùa An Quốc để Sư trụ ở đó. Các bậc vương cơ long tượng, không ai chẳng khâm phục kính trọng, vô cớ thỉnh Sư sung làm cung phụng Đại Đức, đó chẳng phải là điều tốt, nhưng, tùy tục tình mà nhận.
Cuối cùng Sư than chưa từng thiếu bỏ. Đến ngày 25 tháng 10 niên hiệu Khai Thành thứ 4 (839), Sư dặn dò đệ tử xong, an nhiên thị tịch, thọ năm mươi sáu tuổi, ba mươi hai hạ lạp. Khích Chí Vinh và Tống Thường Xuân trích xuất của cải tạm phương tiện an táng ở phía đông Sản Thủy. Mọi người đều buồn thương kính tiếc. Sau, môn nhân là giám gia đón rước về an táng tại chùa Nam Hoa ở Sùng Sơn, xây tháp thờ.
Đến niên hiệu Hội Xương thứ 4 (844), Khởi Cư
Xá Nhân là Vi Huyền làm văn bia ghi về cuộc đời Sư.
Thích Quảng Tu, họ Lưu, người ở xứ Hạ Côn, thuộc Đông Dương. Tánh Sư vốn thuần chất trong sáng, sớm dự vào môn tịch của Đại Sư Vân Thúy, nghiên cùng giáo tích, người học nhóm họp rất đông. Thường ngày Sư trì tụng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Kim Quang Minh, Phạm Võng, Tứ Phần Giới Bổn, sáu thời hành đạo không hề phế bỏ, càng lâu năm càng dốc chí. Cứ mỗi năm, Sư hành pháp sám hối bốn mươi chín ngày. Đến năm thứ 4 Sư chứng đắc Tùy tự ý tam-muội.
Vào niên hiệu Khai Thành thứ 3 (838) có Samôn Viên Tải-người Nhật Bổn tìm đến thưa hỏi pháp. Thứ Sử Thai Châu là Vi Hành mời Sư giảng Luận Chỉ Quán tại Quận Trai. Đến ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (843), nhằm niên hiệu Hội Xương thứ 3, Sư thị tịch tại chùa Thiền Lâm, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi hai hạ lạp, đón rước giác linh đến đạo tràng Kim Địa, phú pháp cho môn nhân vật ngoại. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), môn nhân là Lương Vấn đào phần mộ để hỏa thiêu, thâu nhặt Xá-lợi hơn ngàn viên, xây tháp tôn trí phụng thờ.
Kế nữa, có Ngài Thích Cao Nhàn trụ chùa Khai Nguyên ở Hồ Châu. Sư vốn người xứ Ô Trình. Từ tuổi búi tóc Sư đã vượt trội hơn người, lộ bày dị tài. Đến lúc thọ pháp về sau, lại có chí bền bỉ, khổ học nhọc thân không hề biếng nhác. Sau, Sư đến Trường An, tới các chùa Tiến Phước, Tây Minh nương tựa học tập kinh luật, khắc cần tinh tấn giảng suốt.
Đến lúc Vua Tuyên Tông trùng hưng Phật pháp (847) ban chiếu mời Sư vào đối ngự tiền thảo thánh, vua ban tặng pháp y sắc tía. Sư bèn tới dự tẩy sám giới đàn, gọi là "Thập Vọng Đại Đức". Tánh tình tiết tháo Sư thẳng thắn khó cong. Về già, Sư nghĩ muốn trở về quê cũ. Cuối cùng, Sư thị tịch tại Bổn tự. Đệ tử là vua Giám Tông ban sắc hiệu là "Vô Thượng Đại Sư", cũng được bút pháp của Sư. Ngài thường hay đem sợi gai trắng ở Tráp Xuyên viết chữ chân thảo, cho người làm pháp học.
Thích Nguyên Biểu, người ở Tam Hàn. Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), Sư đến Trung Hoa, sau đó mới sang Tây Vức chiêm lễ các Thánh Tích, gặp được Bồ-tát Tâm Vương chỉ bày cho Linh Phù ở núi Chi-Đề, bèn mang bộ kinh Hoa
Nghiêm tám mươi quyển, tìm hỏi Hoắc Đồng để đảnh lễ Bồ-tát Thiên Quan. Sư đến động đá ChiĐề làm nhà ở đó.
Trước kia ở núi nầy không cho người ở. Nếu ở sẽ có sấm sét, thú dữ trùng độc, chẳng những thế mà còn có lắm quỷ mị làm mê loạn người. Từng có vị tăng chưa đắc Đạo đến ơ nghỉ tại đó qua đêm, bị thần núi xua đuổi, sáng hôm sau chỉ thấy thân bị ném xuống núi cách mấy dặm. Sư mang kinh đến dừng ở chỉ uống nước khe suối ăn cây lá, sau không biết chỗ ra. Bấy giờ, gặp lúc Pháp nạn Hội Xương tra xét phá hủy. Ngài đem kinh sắp vào hòm gỗ Hoa Lư cất giấu trong hang đá. Đến năm Bính Dần, nhằm niên hiệu Đại Trung thứ nhất, thời vua Tuyên Tông, có Thiền sư Tuệ Bình ở chùa Bảo Phước, vốn biết việc trước, bèn dẫn các hàng tín sĩ vào thỉnh Kinh ra Viện Cam Lộ Đô Úy, giấy mực bản kinh vẫn như mới viết. Nay hiện cất giữ tại chùa Tăng ở Phước Châu.
Kế nữa, có Ngài Thích Toàn Thanh ở Cối Kê, Sư người ở xứ Việt, chăm cày bừa đất giới, phân nhiên đổ nhã. Đối với giáo pháp mật tạng cấm chú, Sư có khả năng bắt tội quỷ thần. Bấy giờ, có người phụ nữ trong nhà Thị Tăng Vương mắc bịnh tà khí, nói năng điên cuồng trái ngược, hoặc khóc hoặc cười, như vậy suốt mười năm, thỉnh Sư đến trị bịnh. Sư bèn buộc cỏ làm hình người cao hơn cả thước, mặc y phục năm mầu mà đặt trước đàn, và trì cấm chú giây lâu. Người phụ nữ ấy cầu xin tha mạng. Sư bèn dặn rằng: "Khoảng đến ngày Xuân đến trước đền thờ Võ mà nương gá. Nếu Sư không thấy giết tức thả đi xa". Sư lại lấy một cái vò nhỏ dùng roi xua Sô-linh vào đó mà có tiếng kêu u u, và dùng Lục Ất Phong bít miệng vò lại, lấy đất bùn đỏ viết phù ấn lên trên, đem chôn dưới rừng dâu, bảo người nhà không được đụng đến. Người phụ nữ ấy được lành bịnh. Qua năm năm sau, gặp lúc Lưu Hán Hoàng và Đổng Xương cách sông cùng vượt thành hãm người, cho đó là nơi hầm hố cất giấu các vật, bèn đào xới, đập vỡ cái vò thấy một con quạ khoang đột nhiên bay ra đậu trên cành cây dâu mà nói tiếng người rằng: "Nay mới được thấy ánh sáng mặt trời!" Lúc đó thì Sư đã thị tịch rồi.
Thích Đầu-đà, Ngài vốn con nhà Ma-gia ở Hạ Dã, nhưng khí độ Sư ôn nhuận như khuôn phép của Trưởng giả. Cha của Sư bảo Sư giữ mài, giữa đêm khuya xót thương sự khốn khổ cực nhọc của loài bò lừa, nên tự mình thay thế, thả cho nó ăn cỏ uống nước, sau đó chúng nằm hết, cha mẹ Sư biết thế nên bảo Sư cũng thôi việc ấy, và Sư cũng xin xuất gia, bèn cạo tóc, thọ giới cụ túc, hành trì hạnh không tức giận. Sư chỉ thâu nhặt các vật phẩm phấn tảo may thành y để đắp mặc, nặng đến mấy cân. Sư sử dụng y ấy suốt ba mươi năm không hề thay đổi.
Hạnh kham khổ tiết chế của Sư chẳng thể có người thường nào sánh ví được. Dân chúng ở Chân Định vô cùng kính trọng, mà Sư chẳng nhận thọ sự cúng thí của mọi người, nên họ tôn xưng Sư là "Đầu-đà Thượng Nhân".
Liên hệ thử bàn:
Y phẩn tảo là một trong bốn thánh chủng, hễ người tu luyện thì nguyện thành hạnh ấy, cớ sao ít người kham nhận như thế. Sự cao đẹp ấy phải là người mạnh mẽ mới có thể làm được.
Thích Toàn Thử, Ngài vốn người ở Dư Hàng, Sư đến Kính Sơn, đảnh lễ Đại Sư Pháp Tế xin xuất gia. Sư bẩm chất mạnh mẽ, lại chịu được sự đói lạnh. Các chỗ tham tầm đều cùng khắp, Sư bèn đến ẩn cư ở Hành Nhạc, cất am tranh để ở, ăn cây cỏ uống nước suối, kết bện cỏ mềm làm áo mặc, suốt năm không thay đổi. Có người tặng Sư bài thơ rằng:
"Sau trước ở hang có mấy người Truyền được Như Lai Pháp Ấn chân Hôm qua Chúc Dung nhìn xuống thấy Áo cỏ bèn là thân núi Tuyết".
Đó là do Thái Thường Tôn Ác Phấn Tướng Nam Thiên cảm tác, có nói rõ trong truyện "Các bậc cao tăng ở Nam Nhạc".
Liên hệ thử bàn:
Áo cỏ ở Nam Nhạc, ở phương Nam với những người tuổi tráng niên có thể chưa biết, đến lúc già suy dời về ở U Sóc, có thể nhận chịu chăng? Nếu nhận chịu được tức là Thắng Sĩ thượng thượng căn.
Thích Tuệ Mộc, họ Chúc, gia đình nhiều đời là người xứ Kỵ Dương, lấy làm họ thay. Thuở nhỏ Sư sống trong gia đình có khuôn phép nghiêm minh, được dạy răn chỉ bảo học theo kinh Nho, chứa nhóm thành tiết tháo tài giỏi. Sư đến yết kiến Thiền Sư Khế Chân ở chùa Giác Trí, tức thụy hiệu là Đại Quán, nhờ trì tụng Diệu Pháp, mà Sư được khai ngộ.
Năm sau, Sư được xuất gia, bèn đến Hồng Tỉnh đảnh lễ Thiền Sư Quán Âm mà đốn rõ khế tâm. Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), Sư trở về quê cũ. Ấp tể Vi Công bèn phát khởi tín tâm, xây dựng viện Thê Chân. Thiền khách khắp bốn phương không nơi xa nào chẳng tìm đến. Liêm Sứ Bùi Diên Lỗ thỉnh Sư, nhân xây dựng tịnh Xá ở phường Giám Thủy đã hoàn thành, lấy tên phường đặt để bảng hiệu, thế rồi tuy Sư ở đó nhưng hay đổi dời. Sư hứa thuận sự thỉnh mời của Minh Châu Duyện là Tề Triệu mà đến trụ ở núi Ngọc Tứ, sau đó không lâu Sư thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp. Lúc đó là ngày mùng 3 tháng 7 niên hiệu Càn Ninh thứ 5 (894).
Thích Vong Danh, hành trạng của Sư thật cao vợi. Sư ở riêng một mình tại nhà bếp phía Nam Yên Thành. Vào niên hiệu Thiên Hựu (904
-907), khắp vùng U Kế mất mùa, người chết đói đầy đường. Nhân đi khất thực, vẳng nghe trong vết xe có tiếng khóc oa oa, Sư thương xót bèn bồng ẵm đem về, đó là một đứa bé gái của người đói khổ bỏ rơi. Sư đi xi sữa cho bú và nuôi dưỡng. Lên bảy tuổi, Sư dẫn vào trong thành, xin kiếm vải lụa mầu sắc may cho áo mặc. Đến tuổi cập kê, nhan sắc bé gái xinh đẹp khác hẳn phàm tục. Hoặc có người chê bai gièm pha, nhưng Sư vẫn không để ý. Vừa lúc gặp Yên Soái Lưu nhân Cung theo bắt oan, đưa Sư vào trong lò nung. Có một tên lính thấy có đứa bé gái đứng hầu bên cạnh, bèn tấu trình với Yên Soái. Lưu Nhân Cung đến nơi trông thấy bèn hỏi về nguyên do, Sư trả lời đúng như thật. Lưu Nhân Cung thưa: "Đệ tử muốn thâu nhận bé gái có được chăng?" Sư bảo: "Vâng!" Xét biết Sư không có ý keo lẫn nên tự dẫn đứa bé lên ngựa trở về phủ. Đứa bé gái vốn là con của Chân Xử. Lưu Nhân Cung càng mến thương nó, chẳng bảo xếp ở ngôi vị dưới, càng kính vị tăng ấy, cho rằng Sư là người đã chứng đắc quả vị, nên xây dựng riêng ngôi tinh Xá để Sư ở. Một tuần, Lưu Nhân Cung hai lần đến tham yết. Đến lúc Sư bị bịnh mà thị tịch, môn nhân vào nói cho bé gái ấy biết. Đang lúc ngồi một mình nghe thế, bé gái liền buồn khóc thương mà qua đời! Lưu Nhân Cung vì xây tháp lập bia ghi lại đạo hạnh của Sư.
Kế nữa, có Chúc Dung Phong Thiền, không biết Sư tên là gì. Ngài là người ngay thẳng, chẳng giữ oai nghi, mỗi một cử chỉ đều khéo nêu bày tông yếu. Kẻ tăng người tục quy hướng đông như chợ. Sư từng uống rượu bị ngộ độc, đương lúc ói xuống thối bẩn áo, mà trong cơ thể Sư không hề bị não loạn gì. Thường có một con rắn và một con hổ với tướng trạng làm hộ vệ. Đến lúc Sư thị tịch, trà-tỳ còn lưu lại một mảnh xương lớn hình dạng như dàn Tỳ-Bà. Tăng chúng đốt lửa thiêu lại, khi thiêu, đốt mảnh xương mầu sắc đồng như mầu lửa, song, lửa tắt tro lạnh thì mầu sắc trắng như tuyết. Há chẳng phải được toàn thân phần vững chắc thiết-lợi-la ư? Đến nay, tại Nhạc Trung lưu truyền việc ấy, xây tháp thờ hiệu là "Chúc Dung Phong Đạo".
Thích Thê Ẩn, tự là Cự Trưng, họ Từ. Thuở nhỏ, Sư khôi ngô khỏe mạnh, thần giải thiên nhiên. Đến tuổi búi tóc, Sư rất ưa thích xuất trần. Cha mẹ không thể phá hoại ý chí của Sư. Sau khi cạo tóc xuất gia, thọ giới về sau, trong thời gian đó, Sư siêng năng cần mẫn chăm học đi sâu vào chỗ sâu xa của tỳ-ni. Lại tánh tình Sư phong nhã, chẳng phải điêu khắc mà được thành dáng vẻ tự nhiên
Vào niên hiệu Quảng Minh (880-881), lánh ổ giặc cướp, Ngài vào núi Chiết Quế ở Lô Sơn, thật mừng trốn được. Nhưng nhiều hoa sớm trăng tối chiếu muộn nơi trời cao, luyện câu thành đối, hợp chương thành tập, thường luôn du kiện trong sáng rõ ràng rãi tan nơi miệng người. Thân Sư thường mặc áo gai rách rưới, khiến người không biết cho đó là gã nhà quê chẳng có khả năng gì, người được Thiền Chỉ quy tông cùng đồng nêu cử. Sư chẳng keo bỏn xẻn lận Pháp, thường cùng Ngài Quán Hưu Xử Mặc Tu Nục làm thơ Đạo, Thẩm Nhan, Tào Tùng, trương Ngưng, Trần Xương Phù đều là kẻ sĩ làm bạn với Sư. Sư vì các vị ấy do ảnh hưởng mà nhạt nhẽo như nước. Sau, bọn giặc cướp tạm yên, Sư vào Kinh Sở, lên Chúc Dung với vết tích cao ngạo. Đến niên hiệu Quang Hóa thứ 3 (900), Sư đến Phiên Ngung, được Thái Úy Từ Ngạn Nhã biết đến. Niên hiệu Đồng Quang thứ 2 (924), Sư ở Cự Lộc thuộc Hồng Tỉnh, Ngụy Trọng Phủ gặp gỡ, dùng văn đạo đối đáp làm quen. Sau, Ngài thị tịch vào niên hiệu Thiên Thành (926-930) thời Hậu Đường. Đệ tử sưu tầm thơ của Sư có đến cả trăm bài, giao cho Trọng Phủ làm lời tựa tập thơ, nay hiện lưu hành với tựa đề là "Quế Phong Tập".
Kế nữa, có Ngài Thích Bảo An, trụ chùa Linh Quang ở Gia Hòa. Ngài họ Hạ, người ở xứ Thường Thục, thuộc Cô Tô. Sư thái sáng láng, tánh hạnh thuần hòa. Đến tuổi tráng niên, gia nghiệp đoanh vậy, Sư bèn nghĩ muốn thoát trần. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư chuyên tu tập Thiền Định thấu đạt chân quyết. Sư không mặc tơ lụa, chỉ chuyên khất thực, ngủ thì chiếu manh. Lúc trước Sư lên Ngũ Đài, người phương Nam không biết, bèn dẫn kẻ tăng người tục cùng mô phỏng kiến trúc của Ngũ Đài mà xây dựng chùa Linh Quang. Nay vẫn hiện còn. Sau khi Phật sự hoàn thành, Sư không bịnh mà thị tịch, thọ một trăm mươi tám tuổi, bảy mươi tám hạ lạp. Nhục thân Sư không rã hoại, môn đồ dùng vải và sơn phết, đồng thời xây biệt viện để thờ. Đến pháp nạn Hội Xương phá hủy chùa, tháp nầy bị thiêu đốt.
Thích Kim Hòa-thượng, họ Vương, người ở xứ Bình Diêu, thuộc Hà Tây. Chỗ Sư sanh là Thôn Trư Khanh. Thuở nhỏ Sư khôi ngô, tánh tình ngay thẳng, mọi việc làm của Sư lạ lùng chẳng giống như người bình thường. Sư xuất gia tại núi Tung Nham, thân Sư một trượng, eo rộng một vòng. Nói ra việc gì thường kỳ đặc. Sau khi Sư thị tịch mà vẫn như còn sống. Dân chúng trong làng đến cúng tế cầu nguyện thảy đều toại ý. Từ Tây Hà đến Kê Hồ đều kính trọng.
Thích Vô Tác, tự là Bất Dụng, Sư họ Tư Mã, người ở xứ Cô Tô. Cha của Sư làm Trần Uyển Khâu Huyện Úy, mẹ Sư họ Đái. Lúc mới mang thai, mẹ của Sư mộng thấy có vị Sa-môn lạ tự xưng là họ Từ. trú trì chùa Lưu Thủy, muốn nhờ ở lại đó an cư. Nói xong, ngồi tréo chân kiết già. Cũng trong đêm đó, cha Sư mộng thấy trên bàn viết một chữ rất xứng tâm, tự nói có thể dâng lên Thiên Tử. Đến sáng mỗi người tự kể lại điềm mộng của mình, mẹ Sư nói: "mong cho là hài nhi trong bụng là Samôn". Bèn phát thệ nguyện rằng: "Đến lúc hạ sanh đứa bé, sẽ cho đến chùa Lưu Thủy xuất gia". Đến lúc sanh, quả nhiên Sư khôi ngô rất dễ thương, Sư cũng chẳng ưa thích mùi vị tanh nồng.
Năm lên bốn tuổi, mẹ Sư tự dạy bảo Sư tập tụng. Kim loại bén dễ mài, Sư ghi nhớ không quên sót. Cha Sư muốn Sư ứng theo nghiệp Đồng Tử, dần thấy có phong thái khuôn phép hòa thuận, Sư thường có chí xuất trần. Không bao lâu, cha Sư trộm thấy nhà họ Diêu có người con gái nghi dung xinh đẹp, nên muốn cưới làm dâu. Mẹ Sư liền ngăn cản, mà nói rằng: "Nên để cho con xuất gia, hãy bỏ điều ông muốn!" Cha Sư chấp thuận, bèn đưa Sư đến chùa Lưu Thủy. Vừa mới hơn một tháng thì người con gái nhà họ Diêu ấy liền qua đời, mọi người cho rằng người con gái ấy là Thiện tri thức, làm tăng thượng duyên cho Sư xuất gia.
Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc, lần lượt giảng thông bộ "San bổ luật sao" cùng như các kinh Pháp Hoa, Thượng Sanh, v.v... Luận Bách Pháp. Nhất tánh, Ngũ tánh tông giáo, Sư cố gắng tinh chuyên tầm cứu các thứ sách thiền của Khổng Giáo, Lão Giáo, Sư đều nghiên cứu qua. Sau, Ngài tham cứu Huyền học với Thiền sư Tần ở Tuyết Phong, thâm nhập vào chỗ sâu xa. Sư đến núi Tam Cố, Lô Lăng, đàn việt đến xây dựng đình viện. Ở Dự Chương xây dựng Viện Nam Bình, thỉnh Sư làm trụ trì, Sư đều từ chối. Tiền Tiến Sĩ Đường Bẩm làm văn bia tạng kinh, ghi rõ nguyên do Sư lánh sự thỉnh mời. Ngài ở tại Hồng Tỉnh mười năm, mà Sư chưa từng biết mặt Hồng Soái họ Chung, bèn đến Tứ Minh thuộc Cối Kê, nhân có ý muốn ở đó đến cuối đời. Ngô Việt Võ Túc Vương họ Tiền kính ngưỡng sùng trọng, thỉnh Sư đến Tứ Minh, nhân tiện đó, Sư trở về núi, vì cáo bệnh. Sư có lời thơ trữ ý trình vua, Võ Túc Vương chẳng lưu giữ Sư. Trong lời thơ viết rằng:
"Mây Hạc tánh đơn côi
Tranh hệ lụy danh lợi
Ngậm Ân tuy đến nước
Cáo bệnh bỏ về núi".
Bấy giờ, Phụng Hóa Lạc An Tôn Cáp trở về ẩn cư cao ngạo, chẳng kết giao với chư tăng, chỉ tiếp làm giao đàm với Sư suốt ngày. Tiến Sĩ Dương Yểm cũng kính mến Sư nên làm bạn giao du dưới rừng. Đến niên hiệu Khai Bình (907-911) thời Hậu Lương, Sư thị tịch, thọ năm mươi sáu tuổi.
Ban đầu, Sư khéo làm thảo lệ bút tích du kiện, mọi người thường phỏng theo thành pháp. Ngài biên soạn Chư sắc lễ sám văn có đến mấy mươi bổn, chú thích "Đạo An Lục Thời Lễ Phật Văn" một quyển và thi ca, đều lưu hành ở đời. Sư chẳng đến chùa Ni, chẳng vào cửa công, chẳng theo danh tiếng, chẳng xu hướng lợi lộc, tự lấy hiệu là "Tiêu Dao Tử".
Thích Quán Hưu, tự là Đức Ẩn, họ Khương, người ở xứ Đăng Cao, ở Lan Khê, thuộc Kim Hoa.
Năm bảy tuổi, cha mẹ Sư mến thương con, đưa Sư đến Thiền Sư Viên Trinh ở chùa Hòa An trong bổn huyện xuất gia làm thị giả. Thường ngày, Sư trì tụng kinh Pháp Hoa một ngàn chữ. Tai Sư vừa nghe qua thì nơi tâm chẳng quên. Sư cùng Ngài Xử Mặc cùng cạo tóc ở gần bên cạnh viện, thường đến bên bờ rào luận bàn về thơ, lần lượt ngâm ca tìm ngẫu đối. Trong chúng tăng có người thấy thế, đều kinh lạ. Sau khi thọ giới cụ túc, tiếng thơ Sư vang khắp đương thời. Sư bèn đến Dự Chương, truyền giảng Kinh Pháp Hoa, Luận Khởi Tín đều tinh rành nghĩa sâu kín: Sư giảng dạy lại siêng năng. Thái Thú Bổn Luận là Vương Tháo Di càng dốc lòng kính trọng. Kế là, Thái Thú Tương Hoàn mở giới đàn tẩy sám, thỉnh Sư làm giám đàn.
Đầu niên hiệu Càn Ninh (894-898) thời Tiền Đường, Ngài có chí muốn yết kiến Võ Túc Vương nước Ngô Việt. Nhân đó, Sư hiến tặng năm bài thơ, mỗi bài có tám câu, rất hợp ý chỉ, nên Võ Túc Vương ban tặng Sư cũng rất nồng hậu. Võ Túc Vương liền bỏ Ngụy công, triều đình khen ngợi là công thần, bèn xây nhà lập bia, ghi chép đồng lực bình việt đem xét tra họ tên, bèn khắc thơ của Sư vào dưới văn bia. Đủ thấy sự kính trọng đến như thế nào. Sư khéo viết bút nhỏ có được sáu pháp, lớn nơi thủy mặc họa tướng trạng như hình thật đáng xem. Sư nhận lời thỉnh của tiệm thuốc An
Kiều của họ Tường mời đến La-hán nhất Đường v.v... Hễ họa một tôn tượng thì cầu nguyện được dung mạo Ưng Chân (= La-hán) bèn được thành tựu, chẳng đồng như lễ thường. Từ đó, Sư đến Y Hấp, cùng hợp đạo với Xà Lê-Lan ở chùa Đường An. Sau, Sư muốn đến phía bắc Nam Nhạc, yết kiến Kinh Soái Thành Nhuế. Ban đầu rất lễ trọng. Sư an trụ chùa Long Hưng. Bấy giờ, Nội Hàn Ngô Dung sai Quan đến gặp, qua lại luận đạo bàn thơ. Ngô Dung làm lời tựa cho tập thơ của Sư. Lúc đó nhằm niên hiệu Càn Ninh thứ 3 (896), bỗng nhiên bị vu cáo là tiếm đoạt Kinh Soái, truất đuổi Sư đến đất Công An. Đang trong uất ức, Sư đè vào cái nghiên mực nói rằng: "Vào trong hộp mới an thân!" Đệ tử khuyên Sư đến đất Thục. Bấy giờ họ Vương sắp mưu đồ tiếm Ngụy, phấn khích hiền sĩ khắp bốn phương, có được Sư rất vui mừng, chuẩn bị lễ lớn mừng gặp gỡ, ban tặng rất nồng hậu. Đặt danh hiệu cho Sư là: "Thiền Nguyệt Đại Sư". Thục chúa thường gọi Sư là "Đắc Đắc Lai Hòa-thượng". Bấy giờ, Vi Ái nên nêu mỹ hiệu ấy làm sở trường, ca ngâm khen ngợi Sư còn hoằng hóa. Thể điệu chẳng dưới Lý Bạch thứ hai chúc tụng.
Đến niên hiệu Càn Hóa thứ 2 (912) thời Hậu Lương, Sư thị tịch tại nơi đang ở, thọ tám mươi mốt tuổi. Thục chúa buồn thương. lễ tang đều do quan lo liệu. Tháp hiệu là "Bạch Liên", đón rước an táng ngoài cửa phía bắc Thành Đô, xây tháp thờ. Lúc đó nhằm niên hiệu Càn Đức của Ngụy Thục, tức là năm Quý Dậu (913) là niên hiệu Càn Hóa thứ 3 thời Hậu Lương.
Sư có khả năng thảo thánh xuất. Vào năm Quý Dậu, đệ tử Đàm Vực sưu tập văn tập của Sư. Ở phần đầu để lời tựa do Nội Hàn Ngô Dung soạn, còn Ngài Đàm Vực soạn lời bạt sau cùng. Vi Trang có tặng thơ rằng: "Há là vì cùng thường thấy cách, chỉ nên ghét rượu chẳng cùng qua!". Nét bút Sư tuyệt đẹp, tương truyền có danh hiệu là "Khương Thể". Từng thấy chân tướng Sư mập mạp, Thục tể tướng Vương Thế làm bài khen ngợi. Còn Ngài Đàm Vực giới học tinh vi, triện văn hùng mạnh, có nhóm tập lại "Thuyết Văn" của Hứa Thận, thấy lưu hành ở đất Thục. Và Ngài Đàm Vức cũng có thơ tập, thể văn đứng sau thầy.
Thích Quốc Đạo Giả, không biết Sư là người xứ nào, khí chất bất động thuần túy, hạnh đôn cao xa, ở riêng một mình, hình khí thư thới. Sư tham học sâu rộng, muốn trụ ở Cô Chinh, mến thích Lô Sơn đẹp lạ, bèn phát nguyện ở ẩn để cầu chí khí, Sư xem xét dựng lập nhà tranh, tưới vườn trồng rau, mặc tình để người dân sống ở trong núi cắt lấy. Nếu có người hỏi về nguyên do. Sư đáp: "Bần đạo vô tâm mà gieo trồng, vô tâm mà xả thí!" Xét rằng Sư thấy biết như thế, thật là hàng thượng lưu đắc đạo. Tu mục tăng chánh thường khuynh ý kính trọng. Có lời thơ dâng tặng Sư rằng:
"Vào cửa không, vắng lặng
Có hạnh, quỷ chẳng thấy
Thật một người xuất gia
Vô tâm, người nghi ngờ".
Sau, Sư thị tịch tại viện, an táng tại gò núi Song Khê, xây một ngôi tháp thờ nhỏ. Nay lấy chữ "Quốc" để gọi Sư. Vì Sư tên gì họ gì chưa được biết rõ.
Thích Trí Tuyên người ở xứ Tuyền Châu. Từ tuổi tráng niên Sư đã kính mến Phật pháp, học cách làm người của Pháp Sư Nghĩa Tịnh, xem thường sự sống, thề chết vẫn muốn được đi Tây Vực để chiêm ngưỡng lễ bái ở tám ngôi tháp tưởng niệm về Đức Phật, và cầu thỉnh các kinh pháp còn lại. Cuối thời Tiền Đường, Sư kết bạn cùng vượt sa mạc, các nước Sư đến, Sư đều có tâm tìm thầy, ưa thích sự khác lạ. Sư gom góp được các bản phạm, cầu thỉnh được xá-lợi. Đến tháng 5 niên hiệu Khai Bình thứ 5 (911) thời Hậu Lương, Sư trở về Đông Kinh, kính dâng di cốt Bích-Chi-Phật và Phạm
Thư; Các bổn kinh luật. Sư cất bước ra đi từ tuổi tráng niên, mà khi trở về thì đã già yếu. Vua Thái Tổ (Chu Ôn) vừa đổi vận mạng nhà Đường, nghe Sư trở về, rất vui mừng, ban tặng phân vật, thỉnh Sư phiên dịch các kinh điển mới mang về. Lúc đó, chiến tranh không nhàn rỗi bằng này.
Thích Tề Hỷ, họ Hồ, người ở xứ Ích Dương. Sư giữ tiết tháo cao vợi nhưng khí mạo yếu kém. Từ thuở bé, Sư đã từ bỏ thế tục đến chùa ở núi Đại Duy xuất gia. Ngài thông minh vượt trội người thường, thọ giới cụ túc, tập học Tỳ-ni, tánh Sư đam mê ngâm vịnh, khí điệu thanh đạm. Có Thiền khách ở Đức Sơn đến trình bày về Lý thú, bất chợt thần thức Sư đến nơi đạo tràng rộng mở của khách, Sư bèn đích thân sang đó tìm hỏi lễ kính. Thế rồi tỏ phát ngộ giải đều mất cả dấu tích. Như thế, Dược Sơn, Lộc Môn, Hộ Quốc, gồm cả trăm rừng thiền không đâu Sư chẳng đến thưa hỏi. Sư nhìn danh lợi chỉ như áng mây trôi. Ở pháp Hội Thạch Sương thỉnh Sư trông coi việc tăng chúng. Đến lúc Chu Ôn nhà Hậu Lương thay đổi vận mạng nhà Tiền Đường, trong nước xôn xao. Bấy giờ, Cao Quý Xương vâng mạng Vua Thái Tổ (Chu Ôn-thời Hậu Lương) đánh đuổi Lôi Mãn, ra Chữ Cung bèn làm Kinh Châu Lưu Hậu, rồi chính thức làm Tiết Độ Sứ. Đến lúc Quân Đế mất trấn ngự Hà Đông.
Vua Trang Tông (Lý Tần Húc-thời Hậu Đường) từ Ngụy Phủ vào Lạc Kinh. Cao Quý Xương bèn cát cứ một phương, tìm kiếm nhóm họp các bậc hiền sĩ khắp bốn phương xa, được nghĩa phong của đất Tề và Sư ở Nam Nhạc, lấy làm nghiệm chứng đầu tiên của Trúc Kim.
Vào năm Tân Tỵ (921) tức niên hiệu Long Đế thứ nhất, thời Hậu Lương, lễ thỉnh Sư đến chùa Long Hưng, an trú trong một tịnh viện, cấp lương tháng, thỉnh Sư làm chức Tăng chánh. Đó chẳng phải điều tốt đẹp.
Sư sáng nhàn tối tĩnh, thường chuyên việc sách vở thiên chương, Sư bèn soạn "Chữ Cung Mạc Vấn Thiên" gồm mười lăm chương. Vả lại, nhanh nhẹn theo lời dạy của Cao Quý Xương. Nơi cổ Sư có khối u, bấy giờ gọi Sư là đãy thơ, Sư nương ước tự an, áo nạp che thân mình, dùng dây gai quấn buộc chân, vui thích chốn suối rừng, nhàm chán yết kiến vương hầu. Đến nỗi không hề có đem một chữ dễ dàng yết kiến chư hầu, vì quen thơ của Hoa Sơn Ẩn Sĩ Trinh. Cốc cùng xướng tạc. Sau, có "Bạch Liên tập" lưu hành ở đời, tự lấy hiệu là "Hành Nhạc Sa-môn".
Thích Vô Tích, họ Sử, người ở xứ Sóc Phương, dưới thời vua Tuyên Tông đang trị vì, Phật pháp được trùng hưng. Ngày 13 tháng giêng, niên hiệu Đại Trung thứ 9 (885)-thời Tiền Đường, Sư quyết chí bỏ nhà đến viện Bạch Thảo, làm đệ tử Đại Sư Pháp Không. Tiết tháo Sư nắm giữ kín đáo, phủi bỏ huyên trần.
Niên hiệu Hàm Thông thứ 3 (862) Sư tạo công đức ở Kinh Thất, đắc giới độ ở chùa Tây Minh. Đối với trăm nghề, Sư nguyện đều đi qua. Kính mến Đại Sư Uy ở chùa Định Lâm có tài họa vẽ. Ngài An Đạo hay giỏi đàn cầm, còn ta thì thừa gồm giảng suốt mà học tập tổng quát. Trước kia, dưới thời Tiền Đường, Hằng Phu thường trấn nhậm Sóc Phương. Sau, đến chốn kinh đô cùng gặp Sư, bèn dùng lễ của nhà tăng mà tiếp đãi, bởi biết Sư ngôn hạnh đều cao, lại hay xướng đạo dẫn dắt. Nghe Hằng Phu tấu thỉnh làm "Lưỡng Nhai Công Đức Sứ", phối danh ở chùa Tây Minh. Gặp lúc Vua Ý Tông (860-874-thời Tiền Đường) đón rước chân thân tại chùa Pháp Môn ở Phụng Tường. Hữu Quân Phó Sứ Trương Tư Quảng, tấu thỉnh Sư sung làm Tán đạo. Được vui hợp tâm vua, nên ban thưởng rất nồng hậu.
Vào niên hiệu Quang Khải (885-888), truyền trao pháp "Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Giáng Chư Tinh Tú Cát Tường Đạo Tràng" trở về bổn phủ. Phủ Soái Hàn Công nghe Sư rất có khả năng tiêu trừ tai ương trong phân dã bèn kết đàn tu sức mà có lắm cảm ứng. Vào niên hiệu Cảnh Phước (892-894), Thái Úy Hàn Công Khải sửa sang chùa Quảng Phước, thỉnh Sư trụ trì, mỗi mỗi đều dùng Luật Phạm làm khuôn phép. Khắp tái viên, mọi người cầu giới đều thỉnh Sư làm Hòa-thượng. Đến năm Bính Tý (916), thuộc niên hiệu Càn Hóa, thời Hậu Lương, Trung Thư Lệnh Hàn Công Thú tâu vua ban hiệu cho Sư là "Hồng Viễn Đại Sư".
Đến ngày mồng 1 tháng 4 năm Ất Dậu (925) nhằm niên hiệu Đồng Quang thứ 3 thời Hậu Đường, Sư đoan tọa mà thị tịch tại Trượng Thất, gân xương như con sống, phong thần như lúc Sư còn. Mọi người khắp vùng Phiên Hán đến chiêm ngưỡng kính lễ mà khen ngợi rằng: "Xưa kia, vào niên hiệu Chí Đức (756-758) thời Tiền Đường, tại chùa Long Hưng có bậc Cao Sĩ Biện Tài an tọa mà thị tịch, bèn sơn phết mà phụng thờ. Đến niên hiệu Càn Ninh thứ nhất (894) thời Tiền Đường, phù soái nêu bày tấu trình. Vua Chiêu Tông phong ban thụy hiệu là "Năng Giác". Nay Ngài Vô Tích có thể chẳng khác thời mà cùng việc!" Trung Thư Lệnh bèn bảo thợ sơn phết để phụng thờ. Quân Phủ Tùng Sự Tiết Chiêu kỷ dưới thời Vua Trang Tông (Lý Tần Húc 923-926, thời Hậu Đường) làm văn bia khen ngợi đức hạnh Sư.
Thích Biện Quang tự là Đăng Phong, họ Ngô, người ở xứ Vĩnh Gia, là con cháu của Đường Sứ Quan Tả Thứ Tử Căng. Từ thuở nhỏ, Sư xả tục đến chùa Đào Sơn xin xuất gia. Thường ở một mình, chẳng giao tạp với người thường, tánh thích tự cao, xem thường những người xuất gia. Phần nhiều, Sư làm thơ Cổ Điệu, khổ hẹp hòi, ít ý vị, lúc được câu thì có được sắc, giỏi chữ Thảo chữ Lệ, nghe tiếng Lục Hy trách Quan ở Dự Chương, Sư bèn sang đó để bái yết, Lục Hy điềm tĩnh mà ngạo khí vẫn ngồi ở trong thuyền. Gồm có nhiều giao ném, chẳng hứa tiếp. Một hôm, Sư bày phương kế để yết kiến. Lục Hy cùng nói đôi ba lời, Sư cầu được thảo pháp, mà Lục Hy trao cho năm ngón tay đánh chung quyết, Sư viết thể đang thấy du kiện mà chuyển cổ tay xoay bút chẳng phải chỗ người thường biết được. Mới đến phương Tây, Vua Chiêu Tông ban chiếu đối viết trước giường vua, bèn ban tặng y phương bào sắc tía. Sau, Sư yết kiến Hoa Soái Hàn Kiến, dâng tặng Sư hiệu là "Quảng Lợi". Từ Hoa Hạ trở về quê cũ, Ngài đến yết kiến Võ Túc Vương họ Tiền dùng khách lễ tiếp Sư. Song, tánh Sư cao kỳ chẳng dính mắc vương tình, bèn trở về Dũng Đông mà thị tịch. Sư có văn tập, được người tri âm quý trọng.
Sư lưu xuất bút pháp cho đệ tử Tùng Hoài, Tăng Chính Trí Tông ở Ôn Châu đều được mặc quyết. Có Triều Hiền tặng thơ ca, Ngô Nội Hàn Dung La Giang Đông Ẩn v.v... năm mươi nhà cẩn trọng làm thành một tập. Bấy giờ, Thái Thú Tứ Minh là Ngưỡng Thuyên vốn kính trọng Sư cao ẩn, bèn đích thân làm tang chủ, lo việc an táng. Ba năm sau, căn cứ theo pháp thức của Tây Vực mà thiêu đốt. Khi mở nắp quan, nhục thể Sư vẫn còn nguyên như lúc sống, râu tóc móng tay đều dài ra. Trà-tỳ, thâu nhặt được xá-lợi, xây một ngôi tháp nhỏ để thờ. Lúc đó nhằm niên hiệu Trường Hưng (930-934) thời Hậu Đường.
Thích Tự Tân, họ Tôn, người ở xứ Lâm Truy. Sư rửa giới tìm thầy không hề biếng trễ. Nghe Thiền Sư Ứng đang mở mang giáo ở Chung Lăng, Sư bèn đến đó tham hỏi, theo mây ở lâu dài. Sau, Sư xoay tích trượng thường ẩn cư trong núi Quảng Đức. Gặp lúc Lưỡng Chiết Văn Mục Vương họ Tiền dẫn Lại Sĩ đích thân đến Uyển Lăng vào chùa núi, chư tăng đều trốn đi, riêng mình Sư vẫn tự nhiên. Văn Mục Vương hỏi: "Sao chẳng trốn?" Sư đáp: "Đông Tây đều là giặc, vậy bảo lão tăng trốn đến phương nào!". Văn Mục Vương kinh hãi sự thẳng thán của Sư, bèn xoay giáo mác bảo trở về. Gặp Võ Túc Vương hỏi, Sư nói không chỗ khuất lấp, mà càng thêm cao hạnh, bèn tạo dựng viện Ứng Thụy để Sư ở đó, tôn xưng hiệu là "Quảng Hiện Đại Sư".
Lúc đầu, Sư thường vào núi Tuyên Thành hái thuốc, đi qua hang động sâu. Mới đầu thì tối mịt, dần thấy được mặt trời rõ ràng, đi chỉ vài dặm, bên cạnh động riêng có một cái hang, khe đầy nước, nhưng chỗ uốn cong có một cây thông lớn, phía trước tàng cây có một am tranh, có một vị tăng mày bạc, đắp áo nạp mà ngồi thiền, bên cạnh có chiếc khánh làm đồ đựng lửa. Sư đánh khánh, vị tăng ấy bèn mở mắt, kinh hãi hỏi: "Ôi! Sư có duyên sự gì mà đến đây?" Sư bèn trình bày hành chỉ. Vị tăng ấy mời Sư ngồi nơi tảng đá, đốt lửa nấu nước trà, hương vị thật ngon. Khi đó, trời đã sắp tối, vị tăng ấy nhường am để Sư nghỉ lại. Sư ngoái nhìn lại thấy vị tăng ấy leo lên đỉnh cây thông vào trong một cái ổ lớn. Và nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa, lời tiếng trong trẻo rõ ràng. Chốc lát, lại nghe tiếng quát mắng rằng: "Bầy súc sanh loài mang lông sao dám làm người khiếp sợ? Hãy mau trở lại rừng thưa, hãy mau đi ra!" Sư lén nhìn đó, mới thấy Hổ Báo xuôi tai mà đi. Sáng hôm sau, Sư nói với vị tăng ấy: "Xin được ở lại để được hầu khăn giày!". Vị tăng ấy bảo: "Tự ở chốn nầy trăm thứ chỉ thấy là cỏ khô, bốn phía không thấy hơi khói nhà người, chẳng phải chỗ Sư ở!" Lại hỏi: "Chẳng đói ư?" bèn dẫn đến bên bờ khe suối, có lúa hơn trăm bông, với tay bứt ba nắm lúa vàng, hái lấy rau đồng, trộn chung nấu cùng ăn. Sau cùng đưa Sư trở về. Khi đi đến cửa động. Vị tăng ấy bảo: "Sự gặp gỡ này chẳng phải là tình cờ, uống trà và ăn cháo rau, sư bình sanh chẳng thiếu ăn thế!" Sư bèn men theo đường trở về bổn viện, thì đã trải qua hơn tháng trời. Sư bảo những người đồng ưa thích sự tốt lành cùng trở lại tìm thì dấu vết hang động đã biến mất. Sau, tại Chiết Trung thỉnh Sư sung làm chủ chùa Bảo Tháp. Đến niên hiệu Thiên Phước (935-943) thời Hậu Tấn, Sư thị tịch tại chùa hiện ở. Nay ảnh Sư hiện còn trong ngôi viện nhỏ ở trước vịnh Lãnh Thủy.
Thích Hạnh Tu, họ Trần, người ở xứ Tuyền Châu. Thuở nhỏ, Sư đến viện Bắc Nham, xin xuất gia. Cẩn thận vâng giữ thời khóa tụng niệm siêng năng. Năm mười ba tuổi, Sư được cạo tóc. Sang giới đàn ở Phủ Tường Lạc, thọ giới cụ túc.
Năm mười tám tuổi, Sư mới đến tham yết Thiền Sư Tần ở núi Tuyết Phong, theo chúng thưa hỏi, do chưa biết thuyên chỉ, Sư giã từ Thiền Sư Tần, nói đi đến đất Chiết. Thiền Sư Tần bảo rằng: "Ta sửa sang Dung Nghi cho ông, để khiến người xứ đó trông thấy mà phát tâm!" bèn chỉ vào tai Sư mà bảo rằng: "Vành tai rũ dài mà vòng ngọc đã ngắn, nay ta sẽ kéo dài ra cho ông". Bèn hai tay cùng kéo lên tới mày, làm như thế ba lần, từ đó tai Sư dài duỗi, khiến người trông thấy mà trố mắt. Đến năm Đinh Hợi (927) nhằm niên hiệu Thiên Thành thứ 2 thời Hậu Đường, Sư đến Chiết Trung, mọi người khắp thành đều chiêm ngưỡng, Đàn Việt cúng thí đông đúc, Sư bèn xây thất trên ngọn núi cao ở cửa Tây để yên nghỉ, sau trở thành ngôi viện lớn. Sư riêng không đề xướng, chỉ trầm lắng mà ngồi. Có ai hỏi điều gì thì chỉ cười mà thôi. Các sĩ nữ kéo tai Sư giao kết dưới gò má, nên mọi người ở Hàng Châu gọi Sư là "Trường Nhĩ Hòa-thượng" (= Hòa-thượng tai dài).
Đến tháng 11 năm Canh Tuất (950 nhằm niên hiệu năm Càn Hựu thứ 3, thời Hậu Hán, Sư thị hiện tướng bị bệnh, song vẫn hoạt động như lúc bình thường. Đến giữa đêm tháng 3 Sư an tọa mà thị tịch. Các Đàn Việt, đệ tử dùng sơn tô phết, nay vẫn hiện còn. Sau, Sư gá mộng báo với Thứ Sử Mục Châu là Trần Vinh rằng: "Dưới chỗ ta ngồi chưa được hoàn tất". Xem xét lại thì thật là vốn chưa sơn phết, nên bảo thợ làm lại.
Thích Tông Uyên, họ Cung, người ở xứ Cao Mật. Thuở nhỏ, Sư đã thông rành các kinh sách, sát tuệ như thần. Bỗng nhiên nguyện đến thiền viện ở phía bắc Đông Lai xin xuất gia. Sau, Sư đến tham học với Thiền Sư Nhạc Trung ở Giang Biểu. Tổ sư bạn lành giúp thần, đượm nhuần đến mình, sang tạo thật về, ít thích ngâm thơ ở nơi kinh sở. Thường Sư học ở thể của Ngài Tề Kỷ, tự nói: "Duyên tình tại phẩm vật, lưu ở ngoài hình!" Sư nhìn núi sông khắp thiên hạ rồi lại bảo: "Dẫm bước khắp núi thú lớn không ẩn thân mình!" Thích núi Bá Các ở Nghi Dương, Sư đến đó để cầu chí khí. Tiết tháo Sư cao vợi thanh khiết, hàng phàm tục không thể thấy được. Thường ngày, Sư gài riêng trì tụng phẩm kinh Quán Thế Âm. Bởi từng có người khéo đoán tướng, nói Sư lúc tuổi gấp kíp cần nên thọ trì phẩm kinh khổ môn.
Đến tháng 10 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (890). Sư dự báo lúc thị tịch, bảo thợ mộc làm một cái tòa hình dáng như đầu Nai, và gấp hối thợ mộc, vào giờ thọ trai ngày hôm sau cần dùng. Đến lúc đó, quả nhiên Sư an tọa mà thị tịch. Dân chúng làng quê, khắp nơi xa gần đều đến đốt hương lễ bái. Ngay năm đó xây một ngôi tháp nhỏ đề thờ Sư tại gò núi của chùa Bảo Vân. Sư thọ tám mươi ba tuổi.
Sư có "Lạc Tây Tập" trước soạn các văn từ gồm năm mươi bài, trong đó có một bài viết rằng:
"Khắp trong đời không người trăm tuổi Trăm năm rồi hẳn bụi dưới mồ
Nay tôi tuổi đà tám ba(83) nhỉ Tự soạn lời buồn tiễn thân tôi!"
Chỉ an táng một chiếc áo lót bằng giấy. Về sau, đào lên thần sắc Sư vẫn uyển nhiên. Đệ tử là Đạm nhiên vâng lời dạy bèn an táng trong hang đá.
Thử luận bàn:
Thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh muôn vật. Do khí điều hòa của đất trời mà lưu xuất, cổ động mà nẩy mầm, vì thứ loại bẩm thọ tự nhiên mà rõ ràng. Tự nhiên, tức là Đạo. Đạo, chỉ là Bổn Tâm. Tâm, không đâu chẳng thông. Thông được lý nơi vật đó là Đạo. Đạo ấy chẳng phải một, phiên dứt lưu hình, như cùng tận cầu vồng, vật cũng chỉ là một. Trời là một. Đất là một, đến lúc nhân Động thành Biến, vì Biến cầu chiêm đoán thì sanh tượng chẳng phải một. Đến như chim thú giao khí, cây cỏ cấu tinh. Hoặc dùng giống đực mà thấu suốt các loài cùng giống đực. Hoặc đồng căn mà khác thật. Cá sấu bay tợ như chim, Quýt biến thành chanh, giao nhau thành bầy, loài lông cánh sanh chim phượng. Vật loại thường lẫn lộn như thế mà tạo nên, lúc xen tạp thật lớn. Sự có đổi dời, vật có phân luân, mới rõ ràng tạp danh chẳng phải một, tên gọi bao gồm tất cả. Nên nói nghĩa tuy rộng thì biết có thể dùng một tên mà nêu.
Xưa kia, trong Truyện Các Bậc Cao Tăng đời Lương lập chương thứ 10 này với tên gọi là "Xướng Đạo". Bởi vì lấy ý nghĩa đầu tiên các vị Bồ-tát mà trong kinh nói đều gọi là Xướng Đạo. Xướng thì phải có hòa. Đạo (dẫn dắt) thì phải có Đạt. Chư tăng ở Chung Nam xem xét tựa đề đó có được ở phần biểu dương ca tụng mà thiếu mất phần Kiêm tài biệt Đức. Thí như riêng chia Thiên phân trọng phú toàn tài. Hổ chắp hai cánh mà bay, chim Ưng mọc thêm bốn chân mà đánh bắt. Từ đó mà lập ra tên gọi "Tạp Thiên" (= Chương nói về gồm nhiều thứ) bao gồm Các Đức, đâu chỉ âm thanh phô bày, mà bao gồm tất cả.
Có người nói: "Tục Cao Tăng Truyện" y cứ vào đâu mà sửa đổi Danh Đề?"-Thông đáp: "Tượng ban mạnh bền thêm các dòng phái liễn tạp trong chín dòng phái. Lập giáo như thế, làm người như thế, chẳng phải âm dương riêng, chẳng chuyên hình luật, hoặc gồm danh mặc, hoặc vượt cả ngang dọc, thì có thể xem đó là dòng phái tạp gia. Trong Hán Thư có thâu nhặt những điều để lại của Thái Sử Công. Ngài có chiếu lập đề sửa chữa sự hẹp hòi của Ngài Tuệ Hạo đời Lương.
Có người nói: "Có nghe Dương Tử Vân giận ghét các gian tạp ấy hay chăng?" Thông đáp: "Người ấy ghét Thái Sử Hoài Nam đã không tôn sùng Khổng mà lại chẳng thuần đức. Đó là ứng tạp mà tạp đoán không lỗi tạp. Nay người soạn truyện như du hạ, xét sự khởi ẩn rốt cuộc là buồn, đâu dám sai một từ!
Có người nói: "Sao bỗng đổi "Xướng Đạo" thành "Thanh Đức" làm gì? Thông đáp: Dụng của âm Thanh rất lớn. Bởi vì cõi nước của các Đức Phật riêng dùng một trần để làm cảnh ngộ. Tuy Nhẫn Sĩ rất quý chuộng âm thanh để làm Phật sự. Còn như Bồ-tát Quán Thế Âm nói về Viên Thông, mà Đức Thế Tôn khen ngợi là Văn luân hoàn bị. Cho nên như vị Tiên Tỳ-Mục ở thế giới Hương Tích, lạc hay chẳng lạc đều ở nơi Tai, đoanh vây không lâu mà đục thủng. Vì Thế, Ảnh Thắng Đại Vương chỉ thân đời trước là voi ngựa, do bát đãy của Thích tử động hợp mà gặp gỡ tại Trời Người, kẻ phản hồn theo tiếng chúc tụng mà đến nhà. Người trong sạch nghe tiếng chúc tụng mà hoan hỷ. Mới có thể gọi là Cung thương Phật pháp. Kim Thạch Thiên Âm, buồn mà chẳng thương, vui mà không mất. Dẫn đó vào thành Vực của Từ Bi, khuyên đó lìa chốn lắm ràng buộc. Thoát hoặc chấp nhận thọ chẳng tinh. Khí năng không giữ lấy, thì chẳng thể gọi là Thanh Đức.
Nay đây tìm kiếm các bậc có đức hạnh gần gũi, nhóm họp những người có tài kiêm giảng, trong ba người có thầy ta là đó vậy. Nước bị đánh bốn phía, thì ai dám đánh ư? Được chẳng hoàn bị năm sắc thái mà phục chương, bao gồm tám phong hóa mà thành nhạc, thì có lên Thiên Trúc mà làm Vượn Phạm, lay động linh tháp mà xuyên suốt cầu vồng. Xứng Trời thỉnh mà đều giảng tùy. Chiêm đoán địa lý mà Tể Thần ứng vị. Bồ-tát Quán Thế Âm đưa tay xoa đỉnh đầu. Đức Di-lặc gọi bảo Thần Sấm, mới hóa thành người thấp bé ngồi thị tịch mà đưa tay. Thấy Từ nhan mà chẳng tức giận, làm thơ thức để an Thiền. Trăn lớn chẳng kinh hãi, Ma núi nhiếp phục. Đến gương thần mà dự biết trừng thải, lễ Thiên Quan mà thệ ẩn dật nơi Linh Tích. Đập vỡ vò hũ mà có chim bay ra. Nhọc thân làm lụng thay súc vật. Áo cỏ nơi Hành Sơn, sáng tâm tại chùa Võ. Nuôi dưỡng đồng nữ vì toàn thân, gặp phải dòng độc mà mạng sống tồn tại. Đức phù hợp trăng thiền, thân vượt qua bãi cát. Hoặc biện giải thông suốt, hoặc âm ba lưu loát. Tốt lành thay! Thạc Đức rực rỡ nơi các Ngài, như các căn giúp nhau, đồng với sự nêu bày của năm việc, nên gượng gọi là "Tạp". Như Chiêm Bặc tiếp cây của Chiêm Đàn, mùi hương xông ngát gấp bội. Chim Ưng, chim Chiên nuôi dưỡng trong ổ của Đại Bàng, hơn cả ngàn lần chim Thứu mạnh. Dò hỏi ở đạo tràng lắng nghe nơi lời nói thẳng. Vì bậc tăng chẳng ứng nơi mười khoa, phụng sự Phật theo mất ở trăm năm. Nếu dùng Cao làm gốc, lấy Đức làm cành. Lấy Tu làm đài hoa, lấy Chứng làm hạt, sau đó thì từ cõi Ta-bà trội vượt lên làm dù lọng che kín thành bóng mát, phủ khắp Tam thiên Đại Thiên, gọi đó là "Đại Bồ-đề Thọ".
(Quyển 30 hết.)
-------------------------------------------
Các nhà viết truyện đời trước hoặc gọi là: "Tăng Truyện", "Tăng Sử", "Ký Lục". Đề hiệu đều khác nhau và thanh tích cũng có khác. Đến đời
Lương, Sa-môn Tuệ Hạo gọi là "Cao Tăng Truyện"(= Truyện Các Bậc Cao Tăng). Bởi vì lấy cái "Cao" mà chẳng lấy "Danh", thì Khai mở đức nghiệp, văn chia thành mười chương thấy rõ như trong truyện. Sau đó, lại có "Đường Tục Cao Tăng Truyện" (= Truyện tiếp theo về Các Bậc Cao Tăng đời Đường), mô phỏng theo Đại Thể của đời Lương mà làm thành. Đến thời Hoàng Triều (dưới thời vua Thái Tông-Triệu Quýnh-Bắc Tống) lại có soạn "Tống Cao Tăng Truyện" (= Truyện Các Bậc Cao Tăng đời Tống). Gặp lúc Phong Thái thanh bình nước nhà đang hưng thịnh chẳng sa sút, từ mùa xuân niên hiệu Chí Đạo thứ 2 (996), Sa-môn Tán Ninh vâng phụng, Duệ Ân chấp chưởng lạc kinh giáo môn sự. Trong những ngày tâm nhàn việc rảnh, bèn có được hành trạng của các Ngài Pháp Chiếu v.v... soạn thuật đã sửa đổi. Quyết như từ trước đến nay, tìm nhân chỉnh định nguyên bổn. Đại nghĩa không trái, có chẳng thể vậy, vì có sửa chữa. Trước gọi là thêm ta vài năm, đối với Tăng Truyện thì có thể. Ấy nay lại sửa chữa. Đâu dám vì tuổi xế bóng mà từ chối ư? Khi đó mới triệt giản. Đến đầu niên hiệu Hàm Bình (998), vâng chiếu làm chức Đông Kinh Hữu Nhai Tăng Lục, sau đó lại đổi làm Tả Nhai. Một hôm, ngoái lại nhìn bổn truyện chưa kịp biên chép, bèn bảo các đệ tử đóng bít các thùng sọt, khiến các bậc quân tử ở tương lai biết ta vì Tăng Truyện, kết tội ta cũng vì Tăng Truyện, nên ở cuối quyển mà viết thế này.
1/Tựa đề: Đầu đề của cả quyển 30, thiết nghĩ phải chuyển ngữ là "Truyện Các Bậc Cao Tăng viết dưới thời Bắc Tống" mới đích xác.
2/ Sách y cứ để chua (chú thích) niên hiệu: Ở đây tựa trên 2 bản:
* "Bảng đối chiếu ân dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử" của Nguyễn Trọng Bỉnh, Nguyễn Linh và Bùi Viết Nghị do Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội xuất bản năm 1976 tại Hà Nội.
* "Từ điển Trung-Việt" của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội xuất bản năm 1977 tại Hà Nội.