TẠP TẠNG
SỐ 2061 - TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG TIẾN CAO TĂNG TRUYỆN BIỂU
SỐ 2061 - TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG TIẾN CAO TĂNG TRUYỆN BIỂU
1. TRUYỆN NGHĨA TỊNH CHÙA ĐẠI TIẾN ĐƯỚC Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
1. TRUYỆN THIỆN VÔ ÚY CHÙA THÁNH THIỆN Ở LẠC DƯƠNG ĐỜI ĐƯỜNG:
2. TRUYỆN TRÍ TUỆ Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI ĐƯỜNG:
3. TRUYỆN HUYỀN GIÁC CHÙA NGỌC HOA ĐỜI ĐƯỜNG.
4. TRUYỆN ĐẠO NHÂN CHÙA ĐA BẢO Ở ÍCH CHÂU ĐỜI ĐƯỜNG: (Tung Công Bảo Tiêm).
5. TRUYỆN TRÍ HIỀN NƯỚC BA LĂNG ĐỜI ĐƯỜNG:
6. TRUYỆN NGÀI GIÁC CỨU CHÙA BẠCH MÃ Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI ĐƯỜNG:
7. TRUYỆN PHẬT-ĐÀ-BA-LỢI Ở NÚI NGŨ ĐÀI ĐỜI ĐƯỜNG:
9. TRUYỆN VÔ CỰC CAO CHÙA TUỆ NHẬT TÂY KINH ĐỜI ĐƯỜNG:
10. TRUYỆN CỰC LƯỢNG CHÙA CHẾ CHỈ Ở QUẢNG CHÂU ĐỜI ĐƯỜNG:
11. TRUYỆN THẬT XOA NẠN ĐÀ CHÙA ĐẠI BIẾN KHÔNG Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI ĐƯỜNG:
12. TRUYỆN NHẬT CHIẾU CHÙA QUẢNG PHƯỚC Ở KINH THÀNH TÂY AN ĐỜI CHU (951-959).
13. TRUYỆN THIÊN TRÍ CHÙA NGỤY QUỐC ĐÔNG Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI CHU:
14. TRUYỆN TUỆ TRÍ CHÙA PHẬT THỌ KÝ LẠC Ở KINH THÀNH DƯƠNG ĐỜI CHU:
15. TRUYỆN TỊCH HỮU Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI CHU:
1. TRUYỆN TRÍ THÔNG CHÙA TỔNG TRÌ Ở KINH ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
2. TRUYỆN TRÍ NGHIÊM CHÙA PHỤNG ÂN Ở KINH ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
3. TRUYỆN BẢO TƯ DUY CHÙA THIÊN TRÚC Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI ĐƯỜNG:
4. TRUYỆN BỒ ĐỀ LƯU TRÍ CHÙA TRƯỜNG THỌ Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG, ĐỜI ĐƯỜNG:
5. TRUYỆN HOÀI ĐỊCH CHÙA THẠCH LÂU Ở NÚI LA PHÙ ĐỜI ĐƯỜNG:
6. TRUYỆN TỊCH MẠC CHÙA TỪ ÂN Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
7. TRUYỆN LIÊN HOA TINH TIẾN Ở CHÙA LIÊN HOA NƯỚC KHÂU TỪ ĐỜI ĐƯỜNG:
8. TRUYỆN GIỚI PHÁP TRỤ CHÙA LONG HƯNG Ở BẮC ĐÌNH ĐỜI ĐƯỜNG:
10. TRUYỆN PHI TÍCH CHÙA ĐẠI THÁNH THIÊN PHƯỚC ĐỜI ĐƯỜNG:
11. TRUYỆN TỬ LÂN CHÙA ĐẠI AN QUỐC Ở KINH ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
12. TRUYỆN BÁT-NHÃ CHÙA LỄ TUYỀN ĐỜI ĐƯỜNG:
13: TRUYỆN NGỘ KHÔNG CHÙA CHƯƠNG KÍNH THƯỢNG ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
1. TRUYỆN NGÀI KHUY CƠ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
2. TRUYỆN ĐẠO THẾ CHÙA TÂY MINH Ở KINH ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
3. TRUYỆN PHỔ QUANG CHÙA ĐẠI TỪ ÂN Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
4. TRUYỆN PHÁP BẢO CHÙA ĐẠI TỪ ÂN Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
5. TRUYỆN VIÊN TRẮC CHÙA TÂY MINH Ở KINH ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
6. TRUYỆN NGUYÊN KHANG CHÙA AN QUỐC Ở KINH ĐÔ ĐỜI ĐƯỜNG:
7. TRUYỆN TĨNH MẠI CHÙA PHƯỚC TỤ Ở GIẢN CHÂU ĐỜI ĐƯỜNG:
8. TRUYỆN THUẬN CẢNH NƯỚC TÂN LA ĐỜI ĐƯỜNG:
9. TRUYỆN GIA THƯỢNG CHÙA ĐẠI TỪ ÂN Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
10. TRUYỆN TUỆ CHIỂU Ở TRI CHÂU ĐỜI ĐƯỜNG:
11. TRUYỆN NGẠN TÔNG CHÙA ĐẠI TỪ ÂN Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
12. TRUYỆN NGHĨA TƯƠNG NƯỚC TÂN LA ĐỜI ĐƯỜNG:
13. TRUYỆN NGHĨA TRUNG CHÙA ĐẠI TỪ ÂN Ở KINH TRIỆU ĐỜI ĐƯỜNG:
14. TRUYỆN NGUYÊN HIỂU CHÙA HUỲNH LONG NƯỚC THIÊN LA ĐỜI ĐƯỜNG:
15. TRUYỆN THẦN KHẢI CHÙA SÙNG PHƯỚC Ở KINH TRIỆU ĐỜI CHU:
16. TRUYỆN HỘI ẨN CHÙA QUẢNG PHƯỚC Ở KINH TRIỆU ĐỜI CHU:
17. TRUYỆN TĂNG VIỆN Ở HỔ KHÂU SƠN TỰ ĐỜI CHU:
18. TRUYỆN ẤN TÔNG CHÙA DIỆU HỶ NÚI CỐI KÊ ĐỜI ĐƯỜNG:
19. TRUYỆN TÔNG TRIẾT CHÙA SÙNG PHƯỚC Ở PHỦ THÁI NGUYÊN ĐỜI ĐƯỜNG:
20. TRUYỆN ĐỨC CẢM CHÙA PHẬT THỌ KÝ Ở KINH THÀNH LẠC DƯƠNG ĐỜI ĐƯỜNG:
21. TRUYỆN PHÙ KHÂU CHÙA SÙNG PHƯỚC Ở THÁI NGUYÊN ĐỜI ĐƯỜNG:
1. Truyện Pháp Tạng Chùa Phật Thọ Ký ở kinh thành Lạc Dương đời Chu:
2. Truyện Hằng Cảnh Chùa Ngọc Tuyền Ở Kinh Châu Đời Đường:
3. Truyện Nhất Hạnh Chùa Tung Dương Ở Trung Nhạc Đời Đường:
4. Truyện Trí Thăng Chùa Tây Sùng Phước ở Kinh Triệu đời Đường:
5. Truyện Viên Huy chùa Trung Đại Vân đời Đường
6. Truyện Huyền Dật Chùa Hoa Nghiêm ở Kinh Triệu đời Đường:
7. Truyện Đạo Nhân Chùa Thanh Long ở Trường An đời Đường:
8. Truyện Lương Bôn Chùa An Quốc Kinh đô đời Đường:
9. Truyện Lễ Tông Ở Việt Châu Đời Đường:
10. Truyện Pháp Sằn Chùa Thiên Trúc Ở Tiền Đường Đời Đường:
11. Thích Tiềm Chân Chùa Hưng Thiện ở Kinh đô đời Đường:
12. Truyện Trừng Quán Chùa Thanh Lương ở núi Ngũ Đài đời Đường:
13. Truyện Lương Tú chùa Tây Minh Kinh đô Đời Đường:
14. Truyện Tuệ Lâm chùa Tây Minh Kinh Sư Đời Đường:
1. Truyện Duy Xác chùa Sùng Phước ở Kinh đô đời Đường:
2. Truyện Hoài Cảm Chùa Thiên Phước ở Kinh đô Đời Đường:
3. Truyện Pháp Hải ở Ngô Hưng Đời Đường:
4. Truyện Tuệ Uyển Chùa Phật Thọ Ký ở Kinh đô Lạc Dương đời Đường:
5. Truyện Trí Uy (Tuệ Uy) Chùa Pháp Hoa ở Xử Châu đời Đường:
6. Truyện Trạm Nhiên Chùa Quốc Thanh ở Đài Châu đời Đường:
7. Truyện Nguyên Hạo Chùa Khai Nguyên Ở Tô Châu Đời Đường:
8. Truyện Trí Tạng ở Núi Hàng Ô, Ký Dương thuộc Việt Châu đời Đường:
9. Truyện Thần Thanh Chùa Tuệ Nghĩa ở Tử Châu đời Đường:
10. Truyện Đoan Phủ Chùa Đại An Quốc ở Kinh đô đời Đường:
11. Truyện Tông Mật Chùa Thảo Đường Ở Khuê Phong Đời Đường:
12. Truyện Thừa Ân Chùa Tây Minh ở Kinh đô đời Đường:
13. Truyện Tri Huyền ở núi Đan Cảnh thuộc Bành Châu đời Đường:
14. Truyện Tăng Triệt Chùa Đại An Quốc Ở Kinh Triệu Đời Đường:
1. Truyện Chí Viễn Chùa Hoa Nghiêm Ơ Núi Ngũ Đài Đời Đường:
2. Truyện Hi Viên Chùa Ứng Thiên Ở Việt Châu Đời Đường:
3. Truyện Huyền Ước Viện Mộc Tháp Chùa Hưng Long Ở Giáng Châu Đời Đường:
4. Truyện Ngạn Huy Chùa Minh Phước Ở Hoạt Châu Đời Đường:
5. Truyện Quy Dư Chùa Tướng Quốc Ở Đông Kinh Đời lương:
6. Truyện Lệnh Yên Ở Trường Thủy Thuộc lạc dương Đời Hậu Đường:
7. Truyện Trinh Biện Chùa Khai Nguyên Ở Định Châu Đời Hậu Đường:
8. Truyện Hư Thọ Chùa Đại Thiện Ở Quận Cối Kê Đời Hậu Đường:
9. Truyện Khả Chu Chùa Long Hưng ở Hàng Châu thời Hậu Đường:
10. Truyện Trinh Hối Chùa Tướng Quốc Ở Đông Kinh Đời Hậu Đường:
11. Truyện Khả Chỉ Chùa Trường Thọ Ở Kinh Đô Đời Hậu Đường:
12. Truyện Cự Mân ở chùa Sùng Phước, ở Thái Nguyên đời Hậu Hán:
13. Truyện Hằng Siêu chùa Khai Nguyên, ở Lệ Châu, đời Hậu Hán:
14. Truyện Tăng Chiếu viện Pháp Lâm, ở Kinh đô Lạc Dương đời Hậu Hán.
15. Truyện Tùng Ẩn chùa Thiên Cung ở Lạc Dương đời Hậu Hán:
16. Truyện Tông Quý chùa Long Hưng ở Hàng Châu đời Hậu Hán:
17. Truyện Trí Thuyên viện Quán Âm ở Phủ Ngụy đời Hậu Hán:
18. Truyện Hạo Đoan chùa Linh Quang, ở Tú Châu đời Bắc Tống:
19. Truyện Phó Chương chùa Thiên Thanh, ở Đông Kinh thời Bắc Tống:
20. Truyện Kế Luân viện Phật Sơn, chùa Sùng Phước, ở Kinh Châu, thời Bắc Tống:
21. Truyện Nghĩa Sơ chùa Khai Nguyên ở Tề Châu, đời Bắc Tống:
22. Truyện Ngộ Ân viện Từ Quang ở Hoàng Châu đời Bắc Tống:
23. Truyện Nghĩa Tịch viện truyền giáo ở
24. Loa Khê thuộc núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:
CHƯƠNG III: TẬP THIỀN TRONG PHẦN 1 CHƯƠNG III
1. Truyện Hoằng Nhẫn ở núi Đông Sơn, thuộc Kỳ Châu, đời Đường:
2. Truyện Tuệ Năng chùa Nam Hoa ở Thiều Châu, thời Tiền Đường:
3. Truyện Thần Tú chùa Độ Môn ở núi Đang Dương, thuộc Kinh Châu, thời Tiền Đường:
4. Truyện Tuệ Minh ở Mông Sơn, thuộc Viên Châu, thời Tiền Đường:
5. Truyện Thần Hội trụ chùa Hà Trạch, ở Kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:
6. Truyện Đàm Thôi trụ chùa Trúc Lâm ở Nhuận Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện Pháp Trì trụ chùa Viên Tộ, ở Kim Lăng, thời Tiền Đường:
8. Truyện Đạo Lượng chùa Vân Môn, ở Việt Châu, thời Tiền Đường:
9. Truyện Đạo Tuấn trụ chùa Bích Giản, ở kinh Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện Huyền Giác trụ chùa Long Hưng, ở Ôn Châu thời Tiền Đường:
11. Truyện Trí Oai tại chùa Thiên Bảo ở Kim Lăng, thời Tiền Đường:
12. Truyện Tuệ Lãng trụ chùa Long Hưng, ở Mục Châu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Cự Phương trụ viện An Quốc, ở Vận Châu, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Hương Dục ở núi Đại Phật thuộc Dĩnh Châu, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Hàng Ma Tạng Sư ở Đông Nhạc, thuộc Duyện Châu, thời Tiền Đường:
CHƯƠNG III: TẬP THIỀN TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG III
1. Truyện người Nghĩa Phước chùa Từ Ân, ở Kinh Triệu đời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Phổ Tịch chùa Hưng Đường, ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Hoài Nhượng ở Đài Quán Âm thuộc Nam Nhạc, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Linh Trước trụ Viện Lănggià, chùa Đại An Quốc ở Kinh đô, thời Tiền Đường:
5. Truyện người Huyền Tố trụ chùa U Thê ở Nhuận Châu, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Tuệ Trung ở núi Võ Đang, tại Quân Châu, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Chí Hiền trụ chùa Cam Tuyền ở Thái Nguyên, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Duy Trung ở núi Hoàng Long đời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Hy Thiên trụ núi Thạch Đầu ở Nam Nhạc, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Thần Hội chùa Tịnh Chúng ở phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Pháp Khâm ở Kính Sơn, thuộc Hàng Châu, đời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Đạo Thọ ở núi Tam Phong, thuộc Thọ Xuân, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Tuệ Không ở chùa Hồi Loan, thuộc Thiểm Châu thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Sùng Khuê ở chùa Long Hưng, thuộc Lạc Kinh thời Tiền Đường:
CHƯƠNG III: TẬP THIỀN TRONG PHẦN 3 CỦA CHƯƠNG III
1. Truyện ngài Đạo Nhất chùa Khai Nguyên, ở Hồng Châu, thời Tiền Đường:
2. Truyện ngài Chí Mãn ở lan-nhã Linh Thang Tuyền, thuộc Tuyên Châu, thời Tiền Đường:
3. Truyện ngài Quang Dao trụ viện Bảo Chân, ở Nghi Châu, thời Tiền Đường:
4. Truyện ngài Linh Thản trụ chùa Huệ Lâm, ở Dương Châu, thời Tiền Đường:
5. Truyện ngài Đạo Thông ở núi Tử Ngọc, thuộc Đường Châu, thời Tiền Đường:
6. Truyện ngài Hoài Huy trụ chùa Chương Kính ở Ung Kinh, thời Tiền Đường:
7. Truyện ngài Duy Khoan chùa Hưng Thiện ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:
8. Truyện ngài Di Tắc trụ trên ngọn Phật Quật ở núi Thiên Thai, thời Tiền Đường:
9. Truyện ngài Linh Mặc trụ núi Ngũ Tiết, ở Vụ Châu, thời Tiền Đường:
10. Truyện ngài Đạo Ngộ trụ chùa Thiên Hoàng ở Kinh Châu, thời Tiền Đường:
11. Truyện ngài Viên Tịch ở Nghiệp Đô, thời Tiền Đường:
12. Truyện ngài Chân Thúc trụ núi Dương kỳ, ở Viên Châu, thời Tiền Đường:
13. Truyện ngài Hoài Hải trụ núi Bách Trượng, ở Tân Ngô, thời Tiền Đường:
14. Truyện ngài Hằng Nguyệt trụ viện Thúy Vi, ở Đàm Châu, thời Tiền Đường:
15. Truyện ngài Tư Công ở núi Giáp Thạch, thuộc Tương Châu, thời Tiền Đường:
16. Truyện ngài Thạch Tạng trụ viện Định Chân, ở núi Đại Tượng, thuộc Kinh Châu, thời Tiền Đường:
(Dâng Biểu về Truyện Cao Tăng)
Chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai, tháng mười niên hiệu Đoan Củng năm đầu.
Đại Sư Thông Tuệ, Tứ Tử thần tăng là Tán Ninh dâng biểu.
Thần Tăng Táng Ninh xin tấu rằng: "Kể từ niên hiệu Thái bình hưng quốc năm thứ bảy, kính vâng sắc chỉ, bắt đầu biên soạn Cao Tăng truyện và các Kinh mới dịch đồng nhập Tạng. Thần tìm tòi sự tích khắp nơi, rộng thu thập văn bia, nay đã soạn tập thành ba mươi quyển, đưa đến cung đình dâng lên Thánh thượng xét duyệt, mong được sự chỉ dạy thêm rộng, cho thêm thời gian để điều chỉnh, chúng thần rất lo lắng mà cẩn thận đến cùng. Nghe nói ngoài trời đất nầy ra, còn có Đức Thích-ca, trong biển pháp sanh nhiều tăng bảo. Đức Thích-ca có pháp. A-nan ký sự ghi rằng: Tăng bảo đáng xưng trí tuệ sáng suốt, soạn thiên chương để lưu truyền, đẹp thay! Phật ta hiệu Đại Biến Tri. Biết giáo pháp không nói nương tựa, phải nhờ vào năng lực của Đế vương. Sau hai ngàn năm, thuộc khởi đầu của mười ngàn năm, cái mong ứng vận khắp trời đất, văn vẻ sáng suốt, anh dũng oai vũ, Đại Thánh Chí Minh Quảng Hiếu Hoàng đế Bệ hạ, thần Long trên trời, mặt trời lên cao, đất đai mở mang, tứ di thần phục, mà cống vật thường được đưa đến đều đều. Mùa màng cây trái đều mở hoa kết quả, nơi ruộng đồng, người cày cấy lại siêng năng, Bệ hạ ban cho ruộng vườn cùng hưởng thú vui được mùa. Nho thuật đặc biệt hưng thịnh, Đạo giáo vì vậy mà phát triển. Kỳ lân không phải con vật của Trung Quốc. Chim Trĩ trắng cũng không phải cầm thú trong cỏ dại, nay dạo chơi trong vườn nhà, giống như thú nhốt trong lồng. Gần đây từ Thiên nguyên đến sông Hoàng Hà, khắp vùng nầy nước đều biến thành trong vắt, từ xưa đến nay sử sách ghi ngàn năm có một.
Đây đều là bệ hạ từ địa vị bất động, biểu thị vị vua trường thọ, phiên dịch thành kinh, dùng ngự bút viết thành bài tựa cao sâu, lời văn nhẹ nhàng làm tụng, diễn đạt pháp âm vô tận, lại hạ chiếu cho biên soạn tăng sử, thuộc vận Ung Hy nầy, tỏ ra phong thái của Trinh Quán (Đường Thái Tông), hợp chọn kiêm tài, đâu còn người ít học, chưa nắm được con Tê Ngưu mà muốn lấy sừng, chưa bắt được chim trả mà bỏ lông, chọn lọc người giỏi, lấy phép sử của biểu niên, đáng buồn là trong của Phật, người xuất gia ít học làm sao biết được, hoặc giả có xem sách vỡ đi chăng nữa, cũng chỉ xem sơ qua sử sách của Trần Thọ (Nhà sử học đời Tấn, biên soạn Tam Quốc Chí 233-297 C.N) làm mất kinh ngay trong bút hoa, đắc tội với Mã Thiên, hợp với lòng bệ hạ, chọn lấy người hiền, trợ giúp sửa chữa sách vở lại cho đẹp, nay gặp Càn Minh (Năm Hiệu Bắc Tề Phế Đế 560 C.N) thánh tiết, ra lệnh cho đệ tử Tứ Tử hiển trung đồng nguyên thụ sắc chùa Tướng quốc Tứ Tử Trí Luân tấn nạp, mong cầu bệ hạ xem sơ qua. Vì Thánh thượng là chúa của văn chương, vi thần chẳng phải là người hiểu rành về sử. Nếu có bại lộ gì về thiên cơ, thì xin hãy cho biết về nguyên tắc, như được Bắc đẩu mà châm chước, hoặc đưa ra đao Khuê (đồ đựng cực nhỏ), mà đo lường, lấy cái ky mà sàng lọc cặn bả, thần mạo phạm thiên nhan, vô cùng lo sợ mà kính lời.
Ban sắc cho Đại sư là Thông Tuệ là Tán Ninh Tỉnh Sở, lệnh Tả Nhai chùa Thiên Thọ Tứ Tử. Tăng Hiển Trung Tiến biên tu Tống Cao Tăng truyện ba mươi quyển, được biết đều là nhất thừa diệu đạo sáu độ Huyền môn. Ở đời có người tài như vậy, làm cho Thánh giáo được khôi phục trở lại, nếu không có biên tập tường thuật rành rẽ, thì làm sao mà truyền bá được, chỉ có Ngài là chân lưu, tựa tâm nơi vườn pháp, biên tập thành bộ sách nầy. Đạt rất nhiều công lao trong cực nhọc, xem ra tập hợp được những điều hay. Thật đáng thán phục và ngợi khen sâu sắc, đã thành Cao Tăng truyện, cũng đã ra lệnh cho Tăng lục biên tập vào Đại tạng. Nay ban cho tơ lụa ba ngàn xấp, sẽ cho người mang đến, xin hãy nhận lãnh, mong hãy giữ sức khỏe trong mùa đông giá lạnh, trong thư không đề cập nhiều. Nay ban sắc ngày mười tám.
Thần nghe rằng: Hiền kiếp kéo dài, thế gian rộng lớn, không gian và thời gian là vô tận, đất chứa nhận muôn vật mà dồi dào vô biên, tràn đầy tinh khí. Trong đó, bậc thầy của Đại thánh ở cõi bề trên, lớn thay! Đức Thích-ca đã ẩn, Đức Di-lặc chưa đến, trong thời gian ấy, người chào đời, phần nhiều là phân thân của Thánh, hiện làm tăng tướng Sa-môn, lời nói và hành vi đáng chiêm ngưỡng, bút với mực tranh nhau sao chép. Lấy khăn vua làm tăng sử. Tôn Xước đạo hiền phỏng theo Liệt truyện mà xoay vần, như dòng đời quý tộc mà ban cho lũ người ấy muốn đạt được lòng người mến mộ. Thành ứng chân của Phi Tích, làm du tăng thể như bậc cao sĩ trên núi. Lúc thì Bùi Tử Dã soạn Cao Tăng truyện. Thích Pháp Tế soạn Cao Dật Sa-môn truyện, Lục Cảo Thuật Sa-môn truyện. Thích Bảo xướng soạn Danh tăng truyện, đều là hà đồ làm khuôn phép rộng lớn. Trống đất là đồ gốm của Hàm Trì, đâu biết người đến trong ruột trống rỗng, người có trí tuệ sáng suốt, việc biên soạn phải dùng tầm mắt tiềm quang như tác phong của Đạo Tuyên tiếp nối lại sự nghiệp, tuy ở bậc cao mà không mang danh, làm cho người hành đạo sáu trăm năm nay đều kính phục. Vậy từ sau khi Trinh Quan đặt tên sách, Tây Minh tuyệt bút đến nay, những tác phẩm nầy không còn được nghe thấy, văn chương thiếu thốn, có lúc trở lại, mùa lạnh qua thì nắng ấm đến, đời không vắng lâu, đất trời giao nhau mà Thánh minh ra đời, ứng theo lòng trời, lời văn sáng suốt, oai Vũ của Đại thánh Quảng Hiếu Hoàng Đế, nêu cao đức đó, thực hành đại đạo, làm việc theo gương Phục Hy và hoàng đế, được nhiều nhân tài trong thiên hạ. Chu Công, Khổng Tử làm đệ tử, giảng tin tu mục sùng đức báo công, thống nhất không sót, các vương quan đều hổ thẹn, thấy bốn biển như nhìn trong lòng bàn tay, bệ hạ trân trọng muôn cơ đều xuất phát tận đáy lòng. Nhưng mà Huyền Tẩn lưu thần, Thích thiện Đạm Lư, dạy thuật sống lâu, hay mở đàn của Thái Nhất (Thiên đế), tục pháp kéo dài, giới của tăng độ gấp ngàn lần. Phật giáo truyền sang đất Hán. Sách Phật được dịch thành tiếng Hoa, đem phong tục của nước Phật cùng hòa hợp với kinh thành, chỉ than rằng tăng ni mỗi đời đều có, nhưng xét về đức hạnh rất ít, trong danh sách tuy có nhiều mà lại thiếu nhân tài. Thần hân hạnh được tuyển dụng, đều kém tài năng về môn dịch, trong cửa Phật không có ai hơn Đổng Hồ, tay yếu ớt khó mà thăm được Võ Huyệt, chỉ dựa theo lệ cũ của thập môn, biên tập thành tên mới của Vạn hạnh, hoặc khảo sát bia văn, hoặc tìm lấy chí ký, hoặc hỏi sứ giả hay người tùy tùng của nhà Vua, hoặc hỏi tiên dân kỳ cựu, nghiên mài kinh luận, đối chiếu với nhau, ăn khớp với sử sách, làm thành ba dật, trên phụ chín tầng, phần trên nêu lên sự cao quý của Tăng bảo, biết sự giàu sang của nhà Phật, ngày xưa ờ Gia Tường có sửa đổi, hoàn thiện ở Đông nam, Trừng Quan chiếu theo mà biên soạn, đủ nhận thấy yếu điểm ở thời nay, đều là lấy theo nguyên hư, truyền mà không tập. Há như hoàng triều, tám cực giăng ra, nêu lên thì không vật nào không đến, di tộc bốn phương đều nể phục, muốn cầu vật gì mà chẳng cung cấp. Thúy Thần chia ra nhiều cách tìm kiếm khắp nơi, thảy đều nhóm hợp, như thấy cái tốt của một nhà, mà không khác với các nước. Cho nên thành mười môn, dễ như nhặt lấy. Chính truyện gồm có năm trăm ba mươi ba vị. Phụ thêm một trăm ba mươi vị, cũng trở lại tận cùng của từng môn mở rộng như sử luận, khi nhân việc mà nói thì do hệ thống truyền thừa của các nhà bị đứt quãng. Nên có Tống Cao Tăng truyện, gần như lựa chọn cái hay, biên soạn thành sách vào niên hiệu Lục Hòa, người xem cầu tiến, người ngộ muốn được nghĩ làm sao cho bằng bước lên núi Tam-Mạo, đều nhập vào cõi Bồ-tát. Vĩnh viễn dựa vào Thánh lịch, trợ giúp nhà Vua, đều thích ánh mặt trời sáng ngời, ứng với Tung Sơn gọi thọ như thế.
Niên hiệu Đoan Củng năm đầu, tiết Càn Minh, Thần Tăng là Tán Ninh, kính dâng.
-------------------------------
Luận rằng: Chẳng có biển chảy mà không có sóng động, nói chung về chữ Phạn, chưa từng nghe, như nghe tiếng dư âm trên bầu trời. Chưa hiểu thì hiểu rõ của thượng pháp bậc Thánh hiền như uống nhằm rượu ngon, bọn hèn như nuốt nhằm cặn bã; người có duyên thì gặp nhau. Kẻ vô đạo thì xa cách nhau; Tần ngục đã có khí giới để phòng ngự đây là vô duyên, nhà Hán đón rước tại Bạch Mã, đây là có sự cảm thông. Nghe tiếng bên ấy khác nhau, nhìn chữ thì lại viết ngang, tưởng là lộn nghịch với nhau, nhưng tuy có khác mà ý lại giống nhau.
Chu Lễ có Tương Tư biết sáu loại tiếng Mang. Địch Đề làm chủ Thất Nhung. Ký Ty cửu Di dịch biết Bát địch, nay quan của bốn phương, chỉ có quan dịch là nổi bậc, tại sao vậy? Hay là từ Hán đến nay phương bắc lắm chuyện tên dịch đã thuộc lòng, lại như sứ giả Chu Tần biết được phương ngôn của nước khác, làm cho Quân vương không ra khỏi hộ đình, ngồi tại chỗ mà biết tiếng nói của dị tục khá xa. Nếu như Tượng Tư biết từ xa, phương ngôn biết ở gần thôi, đại khái chẳng qua là xét dị tục mà đạt viễn tình. Đẹp thay! Đông Hán bắt đầu dịch bốn mươi hai chương kinh, rồi lại phiên lại, phiên có nghĩa là lật lại, như rấm thêu lật lên bề trái cũng là bông hoa. Chỉ là phải trái khác nhau mà thôi, như vậy phiên dịch hai từ hợp lại mà lưu hành, ban đầu là Phạn khách Hoa tăng, nghe tiếng mà phóng ý vuông tròn. Vàng đá mà khó hòa đồng với chén bát, bài Danh tam-muội, gần giữ xa với khó mà gặp mặt, mặt khác ta biết Hán ngữ, ông ấy biết Phạn văn được tám, chín phần, lắm lúc có sai ngược. Nếu mà trố mắt nhìn Thế Tôn, bến đó độ vô cực. Sau đó thì Mạnh Hiển đích thân đến nơi. Như Huyền Trang với Ngộ Không cả hai mặt đều thông suốt. Cầu xin chút mực của thầy như con nga được tí sửa trong nước, bên trong dựng vấn đáp của văn vương, được văn tuyệt vời của Dương Hùng, in tới in lui đều giống nhau, tiếng nầy tiếng nọ cũng không khác. Vậy mới gọi là đầy đủ. Địch Quan và Đạo An cũng luận về Ngũ thất tam bất dịch. Ngạn Tông cũng dựa vào tám cách, nêu rỏ nguyên tắc soạn Phiên kinh. Huyền Trang cũng lập ra năm loại không phiên. Nay lập ý mới thành lục bộ như sau:
1. Dịch chữ và dịch âm.
2. Tiếng Hồ và tiếng Phạn.
3. Dịch tròng và dịch thẳng.
4. Thô ngữ và tế ngữ.
5. Tiếng Hoa nhã và tục.
6. Trực ngữ và mật ngữ.
Về mặt nguyên tắc dịch có bốn câu như sau:
1. Dịch chữ không dịch âm, như: Đà La Ni.
2. Dịch âm không dịch chữ, như chữ ở trước ngực Phật.
3. Cả âm lẩn chữ đều dịch tức trong các kinh luật đều thuần là tiếng Hoa.
4. Cả âm lẩn chữ đều không dịch, như trên đề kinh: hai chữ như vậy.
Vấn đề thứ hai: Là Hồ ngữ hay tiếng Phạn. Ở khắp năm vùng
Thiên Trúc thuần là ngạn ngữ. Phía bắc của Nhị Tuyết Sơn là phía nam của Hồ Sơn, tên là Bà-lamôn. Nước Ấn với Hồ tuyệt thư ngũ bất đồng, từ Kiết Sương Na quốc. Chữ gốc hai chục mãng chữ cái, lăn chuyển mà tương sanh, lưu bố rộng. Sách ấy đọc hàng thẳng như Trung Hoa vậy, đến Thổ Hóa La, tiếng và âm dần dần khác nhau. Chữ gốc có hai mươi lăm chữ cái, sách đọc hàng ngang. Vượt Thông Lỉnh phía nam Ca Thất Thí Quốc. Tiếng và chữ giống như Thổ Hóa La, tạp loại trên đây là Hồ. Nếu chữ nghĩa của Ấn Độ do Phạn thiên chế ra, bốn mươi bảy chữ cái diễn mà rộng ra hiệu là Thanh Tạng. Có mười hai chương vỡ lòng. Đại Thánh Ngũ Minh Luận, đại để với Hồ khác nhau. Năm vùng của Ấn Độ xa cách với nhau sao mà không có chút ít dị biệt được. Bên nầy từ đời Đông Hán truyền dịch đến đời Tùy, đều gọi các nước phía tây là Hồ. Vì truyền dịch mất gốc cũng gọi kinh sách của đất Hồ, riêng Ngạn Tông Pháp Sư, chỉ trong tạo lục chỉ trích. Di Thiên Phù Phật Địa mà hạp A Hàm, được ở bên ta dùng tên Hồ mà quên lẩn gốc Phạn, mất thì trách ai. Tuyên Công đời Đường cũng có đồng điệu. Từ đấy nếu nghe tiếng tặc lưỡi hoặc nhìn thấy mặt đến thì nhận định gọi là Phạn tăng, hễ nghe tiếng thì cho là Phạn ngữ. Tông sư bận về điều chỉnh, cứ chụp đầu nầy mà vuốt đầu nọ. Đã cho là phía tây có Phạn và Hồ. Sao không phân chia ra nam bắc, giản liệu gây ra ba mặt sai:
1. Sửa Hồ làm Phạn, không tách Hồ ra. Hồ vẫn thành Phạn.
2. Không hiểu Hồ, Phạn hai âm, gây nên Hồ cũng như Phạn.
3. Không biết có sai về trùng dịch, lúc ban đầu đều gọi là Hồ, cũng như từ đời Tùy đến nay gọi chung là Phạn. Theo bản gốc mà nói, lấy Phạn làm chủ. Nếu theo ngọn nhánh mà nói, tên gọi của Hồ cũng có thể tồn tại. Sao vậy? Từ ngữ Thiên Trúc, đến bắc Thông Lĩnh, luôn luôn dịch như vậy, tưởng rằng Tông Công lưu lại; cho đến nay không ai án sửa lại.
Vừa Hồ vừa Phạn, như Thiên Trúc kinh luật truyền đến Qui Tư, vì không biết tiếng Thiên Trúc, nên gọi là Ấn Độ Ca quốc, vì vậy mà dịch nêu dễ giải vẫn còn âm tiếng Phạn. Như vậy Hồ, Phạn đều có xen lẩn nhau.
Về trùng dịch hay trực dịch, như Giáp điệp của Ngũ Ấn Độ trực tiếp mang đến Đông Hạ mà dịch ra gọi là trực dịch; nếu như kinh truyền đến bắc Thông Lĩnh, vì không hiểu tiếng Thiên Trúc mà dịch ra Hồ ngữ, như Phạn gọi Ô Ba Đà Da, Sơ Lặc gọi Cốt Xã. Vu Điền gọi Hòa-thượng, lại Thiên vương phạn gọi Câu quân La. Hồ gọi Bỉ Sa-môn v.v...
Vừa thẳng vừa trùng, như Tam Tạng mang thẳng Giáp Điệp mà đến trên đường kinh qua đất Hồ mà có mang tiếng Hồ, như Giác minh Khẩu tụng đàm vô đức trong luật có Hòa-thượng, tức mang kinh Tam Tạng, tuy kiêm tiếng Hồ đến đây không phiên dịch.
4. Thô ngôn tế ngữ, nêu rõ Nhất Tô Mạn Đa, gọi là tiếng của Phàm nhĩ Bình, Nhị ngạn Đa Đê, gọi là tiếng của Điểm Chánh. Phật nói pháp nhiều, y Tô Man nhiều ý, trụ ở nghĩa không dựa vào văn, nếu Ngạn để Đa không thể giải được, tên là Toàn thanh, thì âm tiếng nói rõ ràng, đây là Tế ngữ, Bán thanh thì tiếng nói không rõ ràng mà lại sai lệch, đây là Thô ngữ. 1. Như tiếng nói thời tục của Ngũ Ấn Độ. 2. Tế ngữ như Pháp Hộ Bửa Vân, Trang Sư và Nghĩa Tinh giải rõ âm luật, dùng Trung Thiên Trúc tế ngữ làm điển ngôn mà dịch ra. 3. Vừa thô vừa tế, như lời trong Phạn bản có quan hệ thô, tế, hoặc ghi chú: âm nầy sai lệch, tức thô ngôn.
5. Hoa ngôn nhã tục: Âm của sở hạ giống nhau, nhã ngũ tức lời văn của kinh sách. Tức lời nói thông thường trong hàng xóm, vừa nhã vừa tục, do người tầm thường chấp bút lời văn chưa kinh qua giũa đẽo.
6. Trực ngữ và Mật ngữ: Câu văn thuộc thô tục là trực; thuộc chân là mật, như bà Lưu Sư.
1. Trực không mật: gọi là Lưu Sư phiên làm ác khẩu chú, lấy ác khẩu với người, mọi người điều không thích.
2. Mật không trực: Bà Lưu Sư Phiên làm Bồtát, biết được bến bên kia, đã thông đạt tam vô tính lý, cũng không làm cho chúng sanh được gần gũi, vài ba câu, tức cùng thiện ác chân tục, đều không thể gần gũi được.
Lại có A Bỉ Trì Ha Lâu, Uất Bà Đề, Bà La Các tên trong kinh luận hiểu nghĩa trực lẫn trực mật. Càng có chữ Hồ Phạn, khái quát kinh ấy, người giải cũng chưa thấy được rõ ràng, hoặc rằng: Phiên phạn giáp cần dùng phương văn, chớ không cần phải dùng lời văn nho nhã quá, nhưng dùng để phiên dịch thành sách. Chẳng lẽ áp dụng lời nói trong hàng xóm vậy chăng? Cho nên đạo An tham vãn rằng: Muốn lấy lời nói tinh vi trong ngàn năm. Truyền mà hạp với Bá vương vương cùng với phàm tục. Đây thật là một điều không dễ.
Hoặc rằng: Thời Hán-Ngụy thịnh hành ý nầy, gây nên Trần Quốc thọ chí thuật chuyện Lâm Nhi Quốc nói rằng: Trong Phù Đồ đã ghi với đạo đức kinh của Lão Tử Trung Quốc gần như giống nhau, ấy là Lão Tử đã qua Tây Vực cùng với Thiên Trúc giáo hội hợp với nhau mà người Hồ gọi là Phù Đồ đó chăng? Thật ra là nhìn thấy người dịch dùng đến hai thiên đạo đức trong lời dịch. Vì vậy mà nhận định giống như đạo đức kinh của Lão Tử. Giả thử có người Hoa nói tiếng Phạn với Phạn Tăng, có thể gọi người ấy là người Thiên Trúc chăng? Sao mà không trung tận gốc ngọn vậy. Cho nên Phật rằng: Pháp nhiều thì Y tô mạn nhiều, nay lượt thuật về khái quát, gồm có ba mặt như sau:
1. Hiển giáo, tức Đại Thừa Kinh và Luật luận.
2. Mật giáo, tức Du Ca Quán đỉnh ngũ bộ hộ ma, Tam mật mạn Na la pháp.
3. Tâm giáo, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, tức là Thiền pháp, nối tiếp nhau là Tam luận pháp.
1- Pháp luận tức là Hiển giáo, lấy pháp âm truyền âm, do Ma Đằng làm Tổ sư.
2- Giáo Lệnh Luận, tức Mật giáo, truyền nhau trong bí mật là Kim Cương Trí làm Tổ sư.
3- Tâm Luân, tức là thiền pháp, lấy tâm truyền tâm, do Bồ Đề Đạt Ma làm Tổ sư.
Ba vị tổ sư trên đây đều là từ phía tây sang phương đông hóa phàm mà thành Thánh, trãi qua mười lăm đời là sự hưng thịnh đến đời sau của Chân giáo. Nay dịch Trường kinh quán lập qua phân chức, do tiên tông làm dịch chủ, tức Hiển hay Mật Tam Tạng của hai giáo đảm nhiệm tiếp theo là người ghi chép. Tất nhiên phải thông tiếng Hoa lẫn Phạn. Từ Tây Tấn đến nay, lập việc nầy, tức Sa-môn Đạo Hàm Huyền Sách Diệu Tung và cho con Nhiếp Thừa Viễn v.v... Về nhà vua, tức Diệu Hưng, Lương Vũ, Thiên Hậu hay Trung Tông, tự tay chấp cứu, gọi là Chuế văn độ ngữ. Dịch ngữ, truyện ngư (Lời tựa), như Phiên Hiển thức luận Samôn Chiên Đà dịch ngữ. Tiếp theo là chứng Phạn bản. Có lập chứng viên phạn nghĩa một người, biết rõ về nghĩa được hay không, dưới tiếng Hoa mà không mất Ngạn nghĩa. Lại lập chứng thiền nghĩa một người, Sa-môn Đại Thông đảm nhiệm. Kế đến nhuận văn một người, ngoài ra người phụ giúp không hạn chế nhân số, tùy mỗi bộ phận yêu cầu nội ngoại đều được. Cho nên nghĩa Tịnh dịch trường. Lý Kiều Vi lập Lư tạng, dùng đến hai mươi mấy người nhuận văn sắc. Về mặt chứng nghĩa, như dịch bộ Bà Sa Luận. Tuệ Tung Đạo Lang dùng đến ba trăm người để khảo chứng văn nghĩa. Sau cùng là hiệu đính và giám hộ đại sứ, đối chiếu văn đã dịch so lại với bản gốc một cách thận trọng. Hậu Chu Bình cao công Hầu Thọ làm tổng giám kiểm hiệu, nhà Đường thì phong Lương Công làm giám hộ cho Huyền Trang. Tiếp theo là Hứa Quan,
Dương Hạnh Giao, Đỗ Hạnh Nghĩ v.v... Tùy dùng Minh Mục Đàm Thuyên mười người giám chưởng công việc phiên dịch. Địa điểm làm việc: Tần tại Tiêu Dao Viên, Lương tại Thọ Quang Điện Chiêm Vân Quán. Ngụy dùng Nhữ Nam Vương Trạch. Tùy Vương Đế lập Phiên kinh quán. Dường tại Quảng Phước Tự hoặc tại công viên không chừng. Từ Đường Hiến Tông năm thứ năm về sau công việc ngưng trệ kéo dài hơn một trăm năm chục năm.
Đại Bửa Ngũ niên triều ta, có Hà Trung Phủ truyền hiển một giáo Sa-môn pháp tiến, thỉnh Tây vực Tam tạng pháp thiên dịch kinh tại Bồ Tân. Quan châu phủ dâng biểu lên. Hoàng Thượng rất vui đều ban áo tím, lệnh cho xây dịch kinh viên tại phía tây chùa Thái Bình Hưng Quốc, lại ra lệnh thu mua phạn giáp, có phạn tặng pháp hộ hay thi hộ đều được mời cùng tham gia công việc phiên dịch. Tả Nhai Tăng Lục Trí Chiếu đại sư, Tuệ Ôn chứng nghĩa, lại triệu Thương Châu Tam Tạng Đạo Viên chứng nghĩa chữ phạn. Thận tuyển hưởng nhai nghĩa môn Sa-môn. Chí Hiển viết lách, tuân pháp Định Thanh Chiêu sao chép. Thủ loan Đạo Chân Trí Tốn Pháp Vân, Tuệ Siêu, Tuệ Đạt khả uy. Thiện Hữu khả chi chứng nghĩa. Sứ thần Lưu Tố, cao phẩm vương Văn Thọ giám hộ. Lễ Bộ Lang Trung Trương Ký Quang, Lộc Khanh Thang và Duyệt Thứ Văn nhuận sắc, tiến hiệu lượng Thọ Mạng Kinh, Thiện ác báo kinh, Thiến kiến biến hóa, Kim diệu đồng tử, Cam Lộ Cổ... Có lệnh thụ Tam Tạng thiên tức tại pháp Thiên Thi Hộ Sư, ngoại thí Hồng Lư Thiếu Khanh Trí Cứu Mã. Các Sa-môn sao chép hay chứng nghĩa đều ban tặng áo tím cùng với vải lụa. Ngự chế kinh tự đặt ở trang đầu, xem ngày Phật được trùng quang pháp luân pháp nhẫn. Xích ngọc tương mà khỏi bí, sen xanh đã trổ hoa thơm. Thánh thượng cảm thấy hài lòng, người truyện dịch được vui mà cùng vui. Đời Tùy về trước đề kinh giản gọn, Nghĩa Tịnh đã làm kinh mục dài dọc, sau nầy bày tỏ cho hết ý, trước dịch bí chú, ít có chú thích. Đời Đường dịch minh ngôn có nhiều âm lành, người phụ trách công việc có nhiều kinh nghiệm hơn. Tịnh Sư dịch các kinh thiên về bộ luật, thể hiện văn vẽ khá hay. Kim Cương Trí cũng bí tàng tổ sư. A Mục Khử cũng có nhiều thợ dịch kinh, bậc thầy nối tiếp cảm ứng lẫn nhau. Vận dụng ngôn từ không ngần ngại mà rất chất phát. Giác Cứu thêm câu của Phật Đỉnh, đời người không có ngắt hoản, ánh sáng rọi ra lỗi văn của những người hiểu biết, dao có nơi để chứa. Tư duy thí phải tìm tòi. Học hỷ Hoa Nghiêm, mật ngữ ngắt đứt giữa ganh người lớn, lưu chế Bửu Tích Bồ Đề Mạn Đồ. Lý lẽ tuyệt đẹp gây nên sáng ngời. Phong cách của Quán Đỉnh dựng nên ý nghĩa sâu xa thần bí. Địch Công siêng năng về việc sao chép. Ban Nhược kết thúc nơi dịch trường. Ngoài ra các bậc lão thành cũng tiếp tay phiên giáp điệp. Nếu muốn biết tướng mạo của những người ấy, người giống người, biết làm sao tả cho siết, riêng ai cũng có cái giống, thể như con giống cha, không giống lông cũng giống cánh vậy. Về việc kinh là nguồn gốc lưu truyền Phật pháp, gốc được dựng lên thì đạo sẽ sanh ra, đạo ấy sẽ sanh ra mãi mà chỉ sanh ra Phật tử thôi! Cho nên có câu rằng: Muốn có biển cả, trước tiên phải có sông ngòi, để bài tỏ không vong bản vậy.
-------------------------------------
Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Samôn Tán Ninh v.v... vâng sắc soạn.
Thích Nghĩa Tịnh, tự là Văn Minh, họ Trương, người Phạm Dương (Sơn Đôi). Lúc còn nhỏ đã xuất gia, đến tham học các danh sư khắp nơi, học tập sách vở, xưa nay đều thông suốt, đến năm mười lăm tuổi, nảy sinh ý nghĩ muốn đi Tây vực, noi theo khí tiết tốt đẹp của Pháp Hiển, kính mến phong cách cao cả của Huyền Trang, cộng thêm sư chuyên cần của bản thân, tay không rời quyển sách, đến năm hai mươi tuổi được thọ giới làm tăng chính thức, ý chí càng vững vàng hơn. Niên hiệu Hàm Hanh năm thứ 2, lúc ba mươi bảy tuổi, Sư bèn hạ quyết tâm lên đường, ban đầu đến Phan Ngu (Quảng Đông), có được mấy mươi vị cùng chí hướng, nhưng đến khi xuống thuyền, tất cả đều rút lui. Chỉ có Nghĩa Tịnh một mình chuẩn bị ứng phó với mọi gian hiểm trên hành trình. Đến nơi nào Sư đều học biết được tiếng ở nơi đó, gặp Tù trưởng thì dâng quà cáp. Thứu phong, Kê Túc đều chu du. Lộc uyển chi lâm đều đến chiêm ngưỡng. Các Thánh tích đều tìm đến. Trải qua suốt hai mươi lăm năm, đi qua ba mươi mấy nước, mới trở về đến Hà Lộc, mang về được bản Phạn kinh Luật Luận gần bốn trăm bộ, gồm năm mươi muôn bài tụng, một bức Kim Cương Tọa Chân dung, ba trăm hạt Xálợi, được Thiên Hậu đón rước ngoài cửa đông, cờ phướn nhạc lễ các chùa làm tiền đạo. Vua ban sắc an trí pháp bảo tại chùa Phật Thọ Ký. Ban đầu, Sư cùng ngài Thật-Xoan-Nan-Đà người nước Vu Điền phiên dịch Kinh Hoa Nghiêm, sau đó mới tự mình chuyên dịch, trong thời gian trước sau ba năm, tại chùa Phước Tiên và chùa Tây Minh, dịch các kinh như: Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã, Di-lặc Thành Phật, Nhất Tự Chú Vương, Trang Nghiêm Vương
Đà-la-ni, Trường Trảo Phạm Chí v.v... Căn Bản Nhất Thiết Hửu Bộ Tỳ-Nại-Da, Ni-đà-na Mục-
Đắc-Ca, Bách Nhất Yết-Ma Nhiếp v.v... và các bộ luận như: Trong bàn tay Chưởng Trung Thủ nhân giả thiết, Lục Môn Giáo Thọ, v.v... và Long Thọ Khuyến Giới Tụng, gồm hai mươi bộ. Bắc Ấn Độ Sa-môn A-nễ-chân Na người Bắc Ấn-độ chứng nghĩa văn Phạm, Sa-môn Ba-Luân-Phục-Lễ, Tuệ biểu trí tích v.v... làm người ghi chép chứng văn, Sa-môn Pháp Bảo, Pháp Tạng, Đức cảm, Thắng trang, Thần anh, Nhân lượng Đại nghi, Từ huấn v.v... chứng nghĩa. Thành Quân Thái Học trợ giáo hứa quán giám hộ, biên chép trình lên. Thiên Hậu soạn Thánh giáo tựa đặt ở đầu kinh. Vào năm Ất Tỵ, niên hiệu Thần Long năm đầu, trong nội đạo tràng ở Đông Lạc, Sư dịch kinh Khổng Tước Vương, lại ở chùa Đại Phước Tiên dịch ra bốn bộ như: Thắng Quang Thiên Tử Hương Bồ-tát chú, Nhất Thiết Trang nghiêm Vương kinh v.v... Samôn Bàn Độ đọc văn phạn. Sa-môn Huyền Tán ghi chép, Sa-môn Đại Nghi chứng văn. Sa-môn Thắng Trang Lợi Trinh chứng nghĩa. Binh Bộ Thị Lang Thôi Thật Cấp Sự Trung Lô Xán nhuận văn sửa chữ. Bí Thư Giám Phò Mã Đô Úy Dương Thận Giao giám hộ. Nhà vua kính tin sâu sắc Thích Điển, đặc biệt trù bị tư tưởng viết bài tựa cho bộ Đại Đường Long Hưng Tam Tạng Thánh giáo, lại ở cửa phía Tây thành Lạc Dương công bố với bá quan về kinh mới dịch. Hai năm Sư phải theo ngự giá trở về cung trang trí viện phiên kinh ở tại chùa Đại Tiến Phước, ba năm vua ban chiếu nhập nội, cùng với phiên kinh Sa-môn nhập hạ chín tuần, vua trước đây ở trong nơi tối tăm, mong nhớ thầy thuốc được ban phước mới được trở lại với lớn, vì vậy mà lệnh cho pháp đồ dịch lại tại Đại Phật Quang Điện, hai quyển thành văn rằng: Dược sư Lưu Ly
Quang Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh, Nhà vua ngự ở pháp diên, tự tay ghi chép. Vào năm Canh Tuất, niên hiệu Vĩnh Long năm đầu đời vua Duệ Tông, tại chùa Đại Tiến Phước, Sư dịch ra kinh Dục tượng công đức, Tỳ-nại-da Tạp sự Nhị chúng giới kinh, Duy Thức Bao Sanh Sở duyên Thích v.v... hai mươi bộ. Sa-Môn Đạt-Ma Mạt-Ma người nước Thổ Hỏa Sa, Sa-môn Bạt-nỗ người Trung Ấn-độ Chứng nghĩa tiếng Phạn, Sa-môn Đạt-Ma Nan-Đà người nước Kế-tân chứng văn Phạn, cư sĩ Thủ-lĩnh Y-Xá-La người đông Ấn-độ chứng bản Phạn, Sa-Môn Tuệ Tích, cư sĩ trung Ấn-độ là LýThích-Ca-Độ-phả-đa đọc bản phạn. Sa-Môn Văn Cương Tuệ Chiểu, Lợi Trinh Thắng Trang Ái Đồng, Tư hằng chứng nghĩa. Huyền Tán, Trí Tích ghi chép. Cư sĩ người đông Ấn Độ, là Cù-Đàm Kim Cương, vương tử A-thuận người nước CaThấp-Di-La chứng dịch. Tu văn quán đại học sĩ Lý Kiều, binh bộ thượng thư Vi Tự lập trong thư thị lang Triệu Ngạn Chiêu. Lại bộ thị lang Lư Tạng dùng binh bộ thị lang Trương Thuyết trong thư Xá nhân Lý Hựu hơn hai mươi vị sửa văn nhuận sắc. Tả bộc Xạ Vi Cự nguyên, Hữu bộc xạ Tô uy giám hộ, Bí thư đại giám tự Quắc vương ung đồng giám hộ. Niên hiệu Cảnh Vân năm thứ hai lại ở chùa Đại Tiến phước dịch các kinh như Xưng Tụng Như Lai công đức thần chú v.v... Thái Thường Khanh Tiết Sùng tự giám hộ. Từ thời Thiên Hậu đến Duệ Tông đã phiên dịch năm mươi sáu bộ, hai trăm ba mươi quyển, lại soạn riêng Đại Đường tây vực cầu pháp cao tăng truyện, Nam Hải ký quy nội pháp truyện, Biệt thuyết Tội yếu hành pháp, Thọ dụng Tam pháp thủy yếu pháp Hộ mệnh phóng sanh Quỹ nghi, gồm năm bộ chín quyển, lại dịch thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bạt Suất Đổ, tức các loại Kiền Độ, Bạt Cừ trong các luật, gồm âm Phạn có Sở Hạ nhĩ, ước khoảng bảy mươi tám quyển. Sư tuy dịch khắp Tam Tạng mà chuyên nghiên cứu luật bộ. Khi được rảnh thi chuyển sang dạy học trò, hễ làm việc gì đều cẩn thận giữ gìn, đặc biệt hơn thường tình, học trò truyền đi khắp Kinh Lạc, tốt đẹp thay cũng là sự hưng Thạnh của di pháp. Sư tịch vào niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, hưởng thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi chín tăng lạp, việc mai táng đều do triều đình cung cấp. Các kinh sách do Sư dịch ra chỉ còn chân bản, chưa rảnh chú sớ, Bức nê nói: Sư truyền độ kinh luật của Sư tương đương với đại sư Huyền Trang. So với trước thuật thì Nghĩa Tịnh nhiều hơn, tính truyền mật chú, rất cùng tận chỗ nhiệm mầu. Hai, ba họp thanh bấy giờ mới hiểu. Hiện nay, tháp thờ Sư ở trên gò cao, phía Bắc Long Môn thuộc Lạc Kinh.
Hệ rằng: Người ta cho công việc dịch thuật là chuyện dễ nhưng thật ra là chẳng dễ chút nào đâu. Thí dụ chanh với quít, do dời chỗ mà trồng quít biến thành chanh, tên gọi tuy khác mà cây lá mùi vị cũng như nhau, lại còn cây Ni-câu-luật-đà bên Tây vực chính là cây Dương Liễu của Đông Hạ, tên tuy gọi có khác nhưng cây là một. 2. Kim Cương Trí chùa Quảng Phước, thành Lạc Dương đời Đường. Thích Bạt Nhật La Bồ-Đề, Hán dịch là Kim Cương Trí, người nước Ma-Lại-Da ở nam Ấn
Độ, Hán dịch là Quang Minh, giáp với núi Bồ-Đà-
Lạc-Ca nơi cung điện Quán Âm, cha là Bà-LaMôn, giỏi về ngũ minh luận, là thầy của Vua Kiến Chi. Sư mới sanh được vài năm, hằng ngày đã tụng được hàng muôn lời, mắt nhìn tâm truyền ghi nhớ suốt đời không quên, năm mười sáu tuổi khai ngộ Phật lý, không thích nghiên cứu các luận Ni kiện tử, bèn xuống tóc xuất gia, che nhà tranh tự mình trồng trọt mà sống. Sau, theo thầy đến chùa NaLạn-Đà ở Trung Ấn Độ học Tu-Đa-La A-tỳ-ĐạtMa, v.v... Đến khi thọ giới pháp, nghe hết mười tám bộ luật, lại đến Tây Ấn Độ học các luận Tiểu thừa và Du-già Tam mật Đà-La-Ni Môn, hơn mười năm thông suốt cả ba tạng. Lại đến núi Lăng-già Sư Tử, đi về đông đến hơn hai mươi nước như Phật-thệ lõa nhân, v.v... nghe nói ở Trung Hoa Phật pháp hưng thịnh nên quyết lòng đi thuyền đến, vì nạn sóng gió nên suốt năm mới đến được Quảng Châu, được vua ban sắc đón rước về ở chùa Từ Ân rồi lại dời đến chùa Tiến Phước. Các nơi ở Sư đều xây Đại Mạn Quán đỉnh đạo tràng để độ bốn chúng. Hai vị Thiền sư Đại Trí và Đại Tuệ cùng Tam Tạng Bất Không đều thực hành lễ của người đệ tử. Sau đó đi theo đến Lạc Dương, năm ấy từ tháng giêng đến tháng tư không mưa, Nhạc Độc Linh Từ cầu nguyện không ứng nghiệm bèn mời Sư đến dựng đàn cầu thỉnh, bấy giờ Sư dùng pháp Bất Không Câu Y Bồ-tát, dựng đàn ngay chỗ ở, tự vẽ tượng Thất câu chi Bồ-tát, lập kỳ khai quang, hôm sau nhất định có mưa. Nhà vua sai Thiền sư Nhất Hạnh cẩn mật theo dõi, đến ngày thứ bảy khí trời oi bức, trời nắng chang chang, không có áng mây nào cả. Sau giờ ngọ liền có gió Tây bắc, làm cho ngói bay cây ngã, mây liền rưới mưa, xa gần đều sợ hãi, nơi kết đàn có hang xuyên lên trần nhà, nước ngập đạo tràng mọi người đều nói rằng: Sư cỡi rồng bay lên mái nhà mà đi, những người đến xem hàng ngày có đến ngàn muôn người, đây là thần nghiệm của đàn pháp. Bấy giờ, Vua lưu ý huyền tẫn, chưa trùng tu lại chùa, bộ phận chuyên trách tâu rằng: Phiên tăng nước ngoài được lệnh về nước, đã đi mấy ngày rồi, người hầu báo lại với Sư, Sư bảo rằng: "Ta là Phạn tăng chớ không phải là phiên Hồ, không sắc lệnh rỏ ràng ta không đi đâu. Vài ngày sau, bỗng nhiên có tin sẽ đến Nhạn môn. Vua rất kinh sợ, hạ chiếu giữ lại, công chúa thứ hai mươi lăm của sơ đế bệnh đã lâu ngày mà không chữa khỏi, dời ra nằm tại ngoại quán ở Hàm Nghi, nhắm mắt không nói chuyện được cả chục ngày, có sắc lệnh cho Sư truyền trao giới pháp, đã biết sẽ chết nên mới có lệnh nầy, Sư đến đó, chọn lấy hai bé gái bảy tuổi, dùng lụa đỏ bịt mắt lại cho nằm dưới đất, cho Ngưu tiên đồng viết một tờ giấy đốt ở nơi khác, Sư niệm mật chú hai bé gái đọc lại không sót một chữ. Sư nhập tam-ma-địa dùng năng lực không thể suy nghĩ bàn luận ra lệnh cho hai bé gái nầy đem sắc chỉ đến vua Diêm-Ma, trong khoảng thời gian một bữa ăn, vua cho Vong bảo mẫu của công chúa là Lưu thị hộ tống hồn Công chúa theo hai nữ mà đến. Khi ấy, Công chúa ngồi dậy, mở mắt nói chuyện như thường. Vua nghe tin không kịp chờ hộ vệ, tự mình phi đến ngoại quán. Công chúa tâu rằng: Số Diêm vương đã định khó mà dời đổi, nay được vua Diêm-ma cho trở về gặp Thánh nhan lần cuối mà thôi, được nửa ngày mới chết. Kể từ đó vua mới thêm phần quy ngưỡng.
Vũ Quý phi được phần sủng ái hơn trong sáu cung, tận tình hưởng thú vui chơi. Sư khuyên nên gấp rút tạo dựng tượng Bồ-tát Kim Cương thọ mạng. Lại khuyên quận vương Hà Đông vẽ hình trong tháp Tỳ-lô-giá-na, bảo người trong nhà rằng: Hai người nầy tuổi thọ không còn bao lâu nữa, vài tháng sau quả thật y như đã nói, hễ biết trước phần nhiều đều là loại nầy. Sư về lý đã thông suốt, về sự đều linh nghiệm, kinh luận, giới luật, bí chú các sách, trưng hỏi bất cứ điều gì, đều giải bài suôn sẽ rành mạch. Sư nhìn người thoáng qua một lần thì nhớ mãi không quên. Về nói năng, đi đứng thì bất động không thay đổi. Vui giận, nghịch thuận đều không thay đổi sắc mặc, người chiêm lễ dù chẳng biết đầu đuôi tự nhiên cũng khuất phục.
Từ niên hiệu Khai Nguyên năm thứ bảy Sư mới đến Phan Ngung, dần dần đến Thần điện, truyền bá rộng Mật tạng, dựng Mạn-noa-la, y pháp chế thành, đều cảm ứng điềm linh, Sa-Môn Nhất Hạnh khâm kính giáo pháp nầy, thường đến hỏi thưa, Sư chỉ chỉ dẫn rành rẽ, không hề thiếu sót. Nhất Hạnh tự lập đàn Quán Đảnh, tuân thọ pháp nầy, đã biết có lợi ích cho chúng sanh nên xin dịch ra cho lưu hành. Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười một Sư vâng sắc biên soạn Du-già Niệm Tụng Pháp hai quyển, Thất-câu-chi Đà-la-ni hai quyển tại chùa Tư thánh. Bà-la-môn đạo Thủ người Đông Ấn-độ là Trực Trung Thư Ý-xá-la dịch ngữ, Sa-môn Ôn cổ ở Trung Nhạc ghi chép. Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười tám, tại chùa Đại Tiến Phước, Sư lại dịch Mạn-thù-thất-lợi ngũ tự tâm Đà-la-ni Quán Tự tại Du-già pháp yếu, mỗi thứ đều một quyển, Sa-môn Trí Tạng dịch ngữ, Nhất Hạnh ghi chép, sửa chữa thành văn, xem lại trong bản tùy cầu cũ có chương cú nào thiếu sót bổ sung cho đầy đủ. Tổng trì Ấn Khế do Sư dịch ra hễ đi đến đều độ ứng nghiệm, bị mật lưu hành là tốt nhất. Lưỡng kinh theo học để tế độ rất nhiều. Tại gia hay xuất gia đều truyền bá nối nhau. Ngày rằm tháng 8 niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 20, hai mươi Sư nói với môn nhân chùa Quảng Phước ở Lạc Dương rằng:
Lúc trăng sáng tròn ta sẽ đi, bèn lễ Tỳ-lô-giá-na Phật, đi nhiễu bảy vòng, xong lui về bổn viện thấp nhang phát nguyện, đầu đội kinh tiếng Phạn, đồng thời phó chúc giáo pháp mới dịch xong, lẳng lặng mà ra đi, thọ bảy mươi mốt tuổi, năm mươi mốt hạ lạp, ngày mồng bảy tháng mười một năm ấy an táng tại Long môn, xây tháp thờ bên phải sông Nam y, đệ tử truyền giáo là Bất Không tấu cử, ban sắc thụy hiệu Quốc sư, Quán đỉnh đệ tử Trung thư thị lang Đỗ Hồng Tiệm quy phụng làm bia ghi lại đức hạnh.
Lời rằng: Ngũ bộ Mạn-noa-la Pháp nhiếp lấy quỷ vật, phải phụ thêm bé trai, bé gái xinh đẹp, khứ tật trừ yêu đều rất dễ, nhưng người nay dùng để làm lợi cho bản thân và miệng mình nên ít được ứng nghiệm, bèn dần dần bị xem thường, than ôi!
Chánh pháp bị khinh bạc đến thế.
Chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh Triệu đời Đường. Thích Bất Không, tên tiếng Phạn là A-Mục-KhưBạt-Chiết-La, Hán dịch là Bất Không Kim Cương, vốn là Bà-la-môn tộc ở Bắc Ấn-độ. Cha mất sớm, sống theo chú, tuổi mười lăm theo thầy là Kim Cương Trí. Ban đầu được hướng dẫn bản Phạn TấtĐàm Chương và Thanh minh Luận, giáp tuần đã thấu hiểu thông suốt, thầy cảm thấy rất lạ nên cho thọ giới Bồ-tát, dẫn vào Kim Cương giới đại Mạnđồ-la thử nghiệm bằng cách cho ném hoa. Sau khi biết được thì làm hưng thịnh giáo pháp, thọ giới cụ túc, khéo hiểu Nhất thiết hữu bộ, biết tiếng nước ngoài, thầy biên dịch kinh, thường hay gọi Sư đến cùng dịch. Hễ học Thinh Minh luận thì công trong một kỷ chỉ cần sáu tháng là hoàn tất, tụng Văn-thù Phổ Hiền hạnh nguyện trong thời hạn một năm chỉ cần hai đêm là xong, tính thông minh lanh lợi như thế muốn học thêm tân Du-già ngũ bộ Tam Mật pháp, chờ mãi ba năm mà thầy chưa dạy đến, Bất Không định trở về Thiên Trúc, thầy nằm mộng thấy các tượng Phật, Bồ-tát của các chùa trong kinh thành đều đi về phía Đông. Thức giấc mới biết Bất Không là bậc chân pháp khí, bèn chấp nhận lời cầu xin, dạy cho Ngũ bộ Quán đỉnh Hộ-Ma A-xà-lê pháp, kinh Tỳ-lô-giá-na, Tô-tất-địa quỷ tắc, v.v... đều truyền dạy cho hết. Sau đó, Sư theo thầy đến Lạc Dương. Thầy nhập diệt, niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 20, Ảnh đường đã xây xong, vua ban thay thụy hiệu, Sư vâng theo di chỉ của thầy đến khắp ngũ thiên Trúc (khắp Ấn Độ) và nước Sư Tử. Lúc mới đến quận Nam Hải (Quảng Đông) thăm viếng sứ thần Lưu Cự Lân được khẩn cầu làm Pháp Quán đỉnh, bèn ở chùa Pháp Tánh lần lượt độ cho hàng ngàn hàng muôn người, Bất Không tự đối với bổn tôn cầu thỉnh trong mười ngày, cảm Vănthù hiện thân, trước khi Sư lên đường, sứ thần gọi thủ lãnh của bọn cướp đến nói rằng: Nay Tam Tạng đến, nước sư Tử thuộc nam Ấn-Độ, nên căn dặn chủ thuyền đối xử tốt với thầy trò gồm ba mươi bảy vị cho đến nơi đến chốn, chớ để sơ sót. Tháng chạp, niên hiệu Khai Nguyên năm thứ hai mươi chín. Chính thức ngồi thuyền côn lôn rời Nam Hải, đi đến biên giới nước Ha-lăng, gặp gió xoáy lớn, mọi người trong thuyền đều hoảng sợ, cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi. Bất Không nói rằng: Ta có phép mọi người đừng lo, tay phải cầm chày Ngũ Cổ Bồđề tâm, tay trái cầm Kinh Bát-nhã Phật mẫu tiếng Phạn, làm phép tụng đại tùy cầu một biến, tức thời gió ngừng biển lặng, rồi lại gặp đại kình ngư nổi lên làm dậy sóng như núi, còn hơn cả sóng gió vừa rồi, người trong thuyền chỉ phó mặc cho vận mệnh. Sư vẫn làm phép như trước, cho đệ tử là Tuệ Công tụng kinh Sa-Kiệt Long Vương, các nạn đều dứt, đi đến nước Sư tử, quốc vương cử người đến đón rước, làm đủ mọi lễ nghi, cúng dường trong cung bảy ngày. Hằng ngày dùng than vàng đựng nước thơm, vua đích thân tắm rửa cho Sư, lại có thái Tử hậu phi phụ giúp, dùng lễ đối đãi như bậc Đế vương, Sư mới gặp Phổ Hiền A-xà-lê, bèn dâng hiến châu báu gấm lụa, xin mở Thập bát hội Kim Cương đỉnh Du-già pháp môn, Tỳ-lô-giá-na đại thừa thai Tạng, dựng lập đàn pháp, đồng thời cho phép các đệ tử là Hứa Hàm Quang, Tuệ Công cùng thọ ngũ bộ Quán đỉnh. Sư từ đó học vô thường sư, rộng cầu Mật tạng, cùng các kinh luận hơn năm trăm bộ, bản Tam-muội-da, Chư tôn mật ấn nghi hình sắc tượng đàn pháp tiêu xí. Một hôm, Quốc vương chơi trò múa voi, mọi người đều lên cao mà nhìn, không dám đến gần. Sư miệng tụng tay bắt ấn từ định, đứng ngay giữa đường, mấy con voi cuồng đều té ngã, người xem đều lấy làm lạ. Sau đó Sư đi khắp năm miền Ấn-Độ, đã mấy lần hiển linh như vậy. Đến niên hiệu Thiên Bảo năm thứ năm Sư về kinh, dâng biểu lên Quốc vương nước Sư tử là Thi-La-Mê-Già và vàng bạc, anh lạc, kính Bát-nhã bản Phạn, các thứ ngọc, lụa trắng, vâng sắc tạm dừng ở Hồng-Lô vua ban chiếu nhập nội, dựng đàn làm lễ quán đỉnh cho vua. Sau đó dời ở tại chùa Tịnh Ảnh, suốt mùa hạ năm ấy đều nắng bỏng, vua ban chiếu cho Sư cầu mưa, chế rằng không gặp thời nên trời không mưa. Sư tấu lập đàn Khổng tước vương, chưa đầy ba ngày mưa đã đầy khắp, vua quá vui mừng tự mang đến ban cho một bộ Cà-sa Cà-sa tím, chính tay khoác lên mình Sư, lại tặng hai trăm xấp gấm. Một hôm, bỗng nổi gió lớn, vua gọi Bất Không làm cho gió ngừng, Sư xin một cái bình bạc để làm phép, chốc lát gió tịnh lặng, bỗng bị con ngựa làm lật ngã cái bình gió lại nổi lên dữ dội hơn. Sư vừa làm vừa thấy có hiệu lực, vua bèn ban hiệu là Trí tạng. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ tám mới trở về đến Trung quốc. Đi xe năm ngựa kéo đến quận Nam Hải, vua ban sắc ở lại mười hai năm, vua lại ban sắc đến Hà Lũng, do Tiết độ sứ Ca Thư Hàn thỉnh cầu. Năm thứ mười ba Sư đến trụ chùa Khai Nguyên ở Vũ Uy. Tiết độ sứ Ký Tân Tùng đều nguyện thọ Quán Đảnh, mấy ngàn quan dân đều lên đạo tràng, đệ tử là Hàm Quang v.v... cũng thụ năm bộ pháp, riêng vì công đức sứ khai phủ Lý Nguyên Tông mà thọ pháp, cùng thọ Kim Cương giới đại Mạn-Đồ-La, ngày ấy đất ở đạo tràng rung chuyển. Sư nói: Quần tâm đến đấy! Năm thứ mười lăm Sư được mời về kinh, trụ chùa Đại Hưng thiện, chí đức loan giá tại Linh Vũ phụng tường, Sư thường thầm dâng biểu việc đi lại. Vua Túc Tông cũng thầm sai sứ cầu Bí pháp, đến ngày thu hồi kinh thành đúng theo sự dự đoán. Vào niên hiệu Kiến nguyên vua thỉnh vào cung nội, dựng đạo tràng hộ-ma pháp, trao chuyển luân Vương vị thất bảo Quán đỉnh cho vua. Cuối niên hiệu Thượng Nguyên vua không được khỏe, Sư dùng chân ngôn Đại Tùy cầu bạt trừ đến bảy lần. Hôm sau vua mới khỏi bệnh. Vua càng ban cho thù lễ đặc biệt. Sư dâng biểu xin vào núi. Lý thừa tướng tuyên sắc lệnh cho về chùa Trí Cự ở núi Chung nam tu công đức, đêm tụng niệm cảm được Đại lạc Tác-Đỏa phát ra ánh sáng để chứng nghiệm vị gần tất-địa. Sư nói rằng: "Chúng sanh chưa độ xong lẽ nào ta yên tâm mà tự độ." Túc Tông qua đời, đại Tông lên ngôi, ân đức càng sâu dày, dịch xong hai kinh Mật nghiêm, Nhân vương do nhà vua soạn lời tựa ngày ban hành xuất hiện mây lành, cả triều đình đều chúc mừng. Niên hiệu Vĩnh Thái năm đầu ngày mồng một tháng mười một, vua ban Đặc tiến thí Hồng Lô Khanh, thêm hiệu Đại Quảng Trí Tam Tạng. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ ba lập đạo tràng tại chùa Hưng Thiện, được ban mười hai xấp lụa gấm, ba mươi hai mặt xấp lụa thêu, lương chay cho đạo tràng mười bốn ngày, sắc cho quan thị đại thần hầu như các cấm quân sử cùng nhập Quán đỉnh, cuối mùa đông năm thứ tư, Sư tâu trong nhà ăn của thiên hạ đều an trí Bồ-tát Văn-thù làm Thượng tọa, được vua chấp thuận. Đây là sự bắt đầu cho Kiều-trần-như là Tiểu thừa giáo. Mùa hạ năm thứ năm có chiếu thỉnh Sư đến núi Ngũ Đài tu công đức vì trong lúc nầy có sao chổi xuất hiện. Pháp sư hoàn tất, sao cũng biến mất. Mùa thu, Sư từ Ngũ đài về kinh, vua sai Trung sứ ra ngoại thành đón rước, ban cung trương ở dọc đường, ngày mười hai tháng sáu là sinh nhật của nhà vua, Sư mang các kinh đã dịch dâng biểu rằng: Kể từ nhỏ theo thầy Tam Tạng, mười bốn năm bẩm thọ pháp môn Du-già lại du hành khắp Ấn-Độ, cầu học những điều chưa dạy cùng các kinh luận, gồm hơn năm trăm bộ. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ năm, Sư lại trở về kinh đô. Thượng hoàng vời Sư vào cung, lập Quán đỉnh đạo tràng, các kinh tiếng Phạn Sư mang theo, vua đều cho phép dịch. Túc Tông lập Hộ-Ma và Quán đỉnh pháp, đều thời hai vị thánh, ra lệnh sưu tập các văn phạn đời trước, hoặc có sút chỉ rách nát thì tu sửa lại, chưa dịch thì dịch ra, bệ hạ kính vâng theo di chỉ, lại sai dịch truyền lợi tế quần phẩm, khởi đầu từ niên hiệu Thiên Bảo đến nay, gồm một trăm hai mươi mấy quyển. Bảy mươi bảy bộ cùng mục lục, và tên họ kẻ tăng người tục, kiêm lược nêu ra Niệm tụng nghi quỹ, vừa viết xong nhân dịp lễ thánh đản, kính cẩn dâng trình lên. Vua ban sắc cho lụa gấm tám trăm xấp, mười vị đại đức đồng dịch kinh mỗi vị được ban ba mươi xấp Sa-môn Tiềm chân dâng biểu tạ ban, đệ tử tăng tục ban vật có sai khác. Lại gặp lúc xuân hạ ở kinh đô không mưa, vua vời Bất Không cầu mưa. Nếu mưa trong ba ngày là pháp lực của Hòa-thượng, ba ngày qua rồi mà mưa thì chẳng phải pháp lực của Hòa-thượng. Sư nhận sắc lập đàn đến ngày thứ hai mưa to đầy đủ, vua ban cho ý tím cùng trăm xấp lụa nhiệm mầu, các đệ tử bảy bộ y, thiết thêm tăng chay để chào mừng. Bất Không tiến biểu xin xây dựng lầu Văn-thù, được vua chấp thuận. Quý phi Hàn Vương, công chúa Hoa Dương cũng tán thành, chi tiền trong khố khoảng ba chục triệu quan tiền. Sư lại dịch kinh nghiệt lộ Đồ vương, tuyên ban nối nhau khắp các nẻo đường. Năm thứ chín từ xuân đến hạ, Sư tuyên dương pháp mầu răn nhắc môn nhân, thường nói về Kinh Phổ Hiền nguyện hạnh xuất sinh vô biên pháp môn, khuyên bảo phải tụng trì, Sư khuyên hai ba lần. Người thụ pháp trước thì khiến họ quán Bồ-đề tâm bản tôn đại ấn. Giải thích riêng chữ A là liễu pháp bất sanh, chứng thân đại giác, như chỉ bàn tay, nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Một đêm, Sư sai đệ tử Triệu Thiên đem bút nghiên đến, ta sẽ lược nói ra Niết-bàn Trà tỳ nghi quỹ để lại cho đời sau, khiến y cứ vào đây mà tống chung. Thiên cúi đầu thưa thỉnh ba lần, cầu xin ngài từ bi trụ lại thế gian lâu dài. Nếu không thì hiện bị bịnh, dâng biểu chúng sanh phải nương tựa vào đâu? Sư chỉ cười mà thôi, giây lát thì cáo từ. Vua sai Sứ đến hỏi thăm và ban cho thuốc men, thêm khai phủ nghi đồng tam tư, phong hiệu túc Quốc công, thực ấp ba ngàn hộ, Sư từ chối chẳng được, trong lòng không vui, lại nói thánh chúng nghiễm nhiên như duỗi tay an ủi nhau. Lúc trăng sáng tròn ta sẽ đi. Vì sao lúc sắp qua đời lại mang danh vị, bèn để lại chày ngũ cổ Kim cương linh của tiên sư truyền lại, cùng dĩa bạc, hạt Bồ-Đề, mấy hạt thủy tinh, để lại trong phủ riêng, Lý Hiến Thành tiến dâng. Ngày rằm tháng sáu, dùng nước thơm tắm gội sạch sẽ. Đầu nằm dựa hướng Đông, mặt nhìn phía bắc hướng về cung đình, dùng đại ấn trong thân định mà tịch, thọ bảy mươi tuổi, năm mươi tăng lạp, đệ tử là Tuệ Lãng nối vị Quán Đỉnh. Vua hay tin ngừng việc triều chính ba ngày, ban tiền lụa vải và các tạp vật bốn mươi muôn quan tiền. Tiền xây tháp hơn hai trăm muôn quan tiền, ra lệnh cho công đức sứ Lý Nguyên chăm lo tang sự. Trước khi Sư nhập diệt, chư tăng nằm mộng thấy đài báu cao ngàn nhận bị sụp đổ, lầu mới Vănthù bị hỏng, chày Kim Cương bay lên trời, lại còn sau chùa Hưng Thiện ao nước vô cớ khô cạn, đám tre ra trái, hoa trong đình lại héo, ngày mùng 6 tháng 7, Sư được trà-tỳ, vua ban chiếu vời Cao Phẩm Lưu Tiên Hạc đến chùa cúng tế. Tặng danh hiệu Tư Không, thụy là Đại biện Quảng chánh trí Tam Tạng. Hoả thiêu xong, thu được mấy trăm hạt Xá-lợi. Tám mươi hạt đem vào cung, xương đảnh thì không như thế, trong đó có một hạt xá-lợi nửa ẩn nửa hiện, lệnh vua giao bổn viện xây ngồi tháp khác để thờ. Sư hành hoá lợi vật của Sư rất nhiều, trong Tổng trì môn là hiển bày thù thắng nhất, xét về nhẫn vị không nhất định cao thấp. Ban đầu Huyền Tông rất nể trọng Sư, vì năm ấy gặp hạn hán, lệnh cho Sư cầu mưa, Sư nói: Qua ngày ấy mới cầu được, nếu gượng cầu cho được thì sẽ gặp bạo ác đáng ngại. Vua lại mời Bổn sư Kim Cương Trí thiết đàn, quả nhiên mưa gió không ngừng, trong phố phường có kẻ bị chết, cây cối bị quật ngã. Vua lập tức vời Sư cho dừng lại, Sư ở trong đình chùa lấy đất nắn lính, bà lão năm, sáu tượng, cho nước chảy xiết chửi mắng bằng tiếng Phạn trong khoảnh khắc thì trời tạnh mưa. Huyền Tông cho gọi thuật sĩ La Công Viễn đến đấu phép với Sư, hai vị cùng ở trong điện, Không luôn luôn trở tay gãi lưng, La nói: "muốn mượn như ý của thầy!" Sẵn trên điện có cục đá hoa, Sư quơ như ý đánh nát ngay trước mặt, La hai ba lần vớ lấy cây như ý mà không được, vua muốn đứng dậy lấy, Sư nói rằng: Tam lang chớ lên, đó là cái bóng thôi, bèn giơ tay ra cho La xem, cây như ý vẫn còn trong tay.
Ở phía Bắc núi Mang có con rắn to. Người đốn củi thường hay gặp mỗi khi nó ngất đầu phùng mang lớn như gò đất. Ban đêm thường hay hút lấy mù sương. Khi gặp Sư, nó nói rằng: Đệ tử bị ác báo, Hòa-thượng có độ được chăng? Lắm lúc muốn làm nước sông dâng lên tràn ngập thành Lạc Dương cho khoái lòng, Sư bèn truyền quy giới cho, nói về nhân quả, lại rằng: Ngươi do tâm sân nên phải chịu quả báo, nay lại còn hờn giận chăng? Sức ta làm được, hãy suy nhớ lời ta, thân nầy chắc chắn sẽ xả bỏ thôi! Vài ngày sau, người tiều phu thấy rắn chết dưới khe suối, mùi hôi thối nghe xa đến mấy dặm.
Sư hễ ứng triệu cầu mưa, thì không có khuôn phép nào khác. Chỉ làm một chỗ ngồi thêm, tay cầm cây thần tử dài mấy tấc xoay vòng, niệm chú xong ném đi, khi nó tự đứng trên chỗ ngồi, đã ngay góc nháy mắt thì mưa đến.
Trong niên hiệu Thiên Bảo, ba nước Trung, Tây phiên cùng Đại Thạch Khang mang binh bao vây Phủ Tây Lương. Vua vời Sư đến, vua ngự tại đạo tràng, Sư cầm lư hương tụng Nhân vương mật ngữ mười bốn biến, nhìn thấy thần binh có cả năm trăm tại điện đình. Hoảng hốt hỏi Sư, Sư nói rằng: Thiên vương Tỳ-sa-môn lãnh binh đến cứu Tây an, xin gấp rút thiết đãi ăn uống, ngày 20 tháng 4 quả nhiên có tấu rằng: Ngày 11 tháng 2, cách thành khoảng ba mươi dặm về phía Đông bắc, trên mây mù nhìn thấy thần binh cao lớn, trống giác vang dội rung chuyển trời đất, phiên tướng hoảng sợ, sụp đổ cả tinh thần. Trong doanh lũy ấy có mầu vàng úa, dấy đèn cung nõ đều đứt, trên cửa lầu phía bắc có thiên vương Quang Minh đang trố mắt nhìn Phiên soái bỏ chạy. Vua xem xong tấu chương đáp tạ Bất Không. Lệnh cho các thành lầu dựng lên tượng thiên vương, đó là sự mở đầu.
Bất Không đã khuất, những mặc chế bút tích trong ba triều đã ban nhất đoạt đều tiến nạp, sống vinh quang, chết buồn bã. Các vị tăng truyền, pháp người Tây vực đến đây xưa nay ít có ai giống như Sư. Đệ tử nối pháp có ngài Tuệ Lãng, ngự sử đại phu Nghiêm Sính làm bia. Từ Hạo viết chữ dựng tại bổn viện.
Hệ rằng: Người truyền giáo đông hạ tôn ngài Kim Cương Trí làm Thỉ tổ, Bất Không là Nhị tổ, Tuệ Lãng là Tam tổ. Về sau, phân chia phái biệt. Truyền Du-già đại giáo tuy có nhiều nhưng hiệu nghiệm thì ít, cũng như Vũ Gia sanh ứng Long, Ứng Long sanh Phụng Hoàng, phượng hoàng đã giáng sinh thứ điểu là loại chim thường. Muốn không thay đổi thì làm sao được.
Thích Thiện vô úy, vốn là người Trung Ấn Độ, là con cháu đời sau vua Cam Lộ Phạn, chú út của Phật Thích-ca Mâu-Ni, tên tiếng phạn của Sư là Tuất-Bà-Yết-La-Tăng-kha, Hán dịch là Tịnh sư Tử, dịch nghĩa là Thiện vô uý. Còn một tên gọi là Thâu-Ca-ba-La, tên nầy dịch là Vô úy, cũng gọi là dịch nghĩa. Trước Sư từ nước Trung Thiên Trúc.
Vì quốc nạn phân vương Ô-Đồ, nên người cha nói rằng: vua Phật Thủ thấy Úy có thần tư túc đức, cho nên lần lượt thử: mười tuổi cầm binh, mười ba tuổi nối ngôi vua, được cảm tình của quân dân, bị anh em ganh ghét, dấy binh cấu loạn, vây thành dữ dội, Uý cầm binh đánh lại, bị thương ở đầu, vua thua trận đáng lẽ bị giết, nhưng niệm tình thân tộc mà tha cho, Uý bèn gạt lệ trình bày với mẹ và các quan rằng: Về việc ân nợ đã dứt, nay muốn chừng đất nước lại cho vẹn toàn tình nghĩa, nhân đó nhường ngôi cho người anh, bản thân chỉ cầu nhập đạo, mẹ đau buồn mà buộc lòng chấp nhận. Bí mật chia cho một số châu báu của quý, Uý đi về hướng Nam, đến vùng ven biển gặp ngài Thù thắng Chiêu Đề đắc pháp Hoa tam-muội, gom cát làm tháp được một muôn ngôi, bị rắn độc cắn nhằm ngón tay mà không thối chí, lại gởi thân xuống thuyền lái buôn, chu du các nước. Mật tu thiền tụng, miệng phát ra ánh sáng trắng, ba ngày không gặp gió, thuyền đi muôn dặm, Phong độ của Sư thẳng thắn sáng suốt hơn người, nghiên cứu năm thừa đạo bao gồm ba học, Tổng trì thiền Quán khéo đạt cội nguồn, kỷ năng nghệ thuật đều phải tinh luyện. Ban đầu Sư đến chùa Na-Lan-Đà, Hán dịch là thí vô yểm, như cội nguồn của tượng pháp, hội phủ của các Thánh, Uý đem châu báu để trên trán tượng, ngày như ánh trăng, đêm sáng như mặt trời. Trong chùa có ngài Đạt-Ma-Cúc-Đa nắm chìa khóa bí mật của định môn. Mang mật ấn của Như Lai, vẻ mặt khoảng bốn mươi tuổi, sự thật là tám trăm tuổi. Ngày xưa, Tam Tạng Huyền Trang đã từng gặp qua, Uý quỳ xuống dưới chân, thờ làm Bổn sư hằng ngày hầu việc ăn uống, bên cạnh còn có một vị tăng, người Chấn đán, Uý thấy trong bát đồ ăn cơm canh vẫn còn nóng, kinh ngạc khen rằng: Nước đông cách đây hơn mười muôn dặm, làm sao mà từ bên ấy nấu chín mà mang về đến đây?
Cúc-Đa nói: Người có thể không nói mà học Chân được chăng? Sau đó, Ngài dạy cho Sư tổng trì Du-già tam mật giáo, rồng thân vây chung quang như rừng ở trước mặt, các ấn khế nhất thời đốn thụ. Ngày ấy được Quán Đỉnh, làm thầy trời người, gọi là Tam Tạng. Nghĩa của Tam Tạng, bên trong là giới định tuệ, bên ngoài là kinh luật luận, lấy Đà-la-ni làm tổng nhiếp, Đà-la-ni là pháp luân nhánh chóng đưa đến Bồ-Đề, là biển giải thoát an lành, các Đức Phật ba đời sanh ra từ pháp môn nầy. Tuệ chiếu truyền trao chỉ một ngọn đèn mà thôi, căn tính khác nhau, đèn cũng vô biên. Vì có trăm ức Đức Thích-ca vi trần tam-muội, Bồ-tát dùng lưới nhiếp chung các định. Đốn thăng thứ lớp, gần bậc Đại giác. Đây là chỉ yếu của nó.
Lúc đó, Sư du hành nơi rừng rậm, tham lễ thánh tích khắp nơi. Không ngại gian hiểm. Những nơi đã đến đều ba lần trở lại, lại đi vào núi kê túc cạo tóc cho Ca-diếp, lại được Quán Âm xoa đầu, thường kiết hạ nơi Linh Thứu có thú dữ dẫn đường đi sâu vào hang núi, trong hang sáng như ban ngày nhìn thấy tượng Phật Mâu-ni, người hầu hai bên dáng vẻ như còn sống, đang lúc nầy Trung Ấn-Độ đang gặp nạn hạn hán, thỉnh Sư cầu mưa, Sư nhìn thấy Quán Âm trong ánh mặt trời, tay cầm bình
Quân trì rót nước xuống đất, trong lòng mọi người cảm nhận khoan khoái, được điều chưa từng có, lại luyện vàng như lá bối, viết kinh đại Bát-nhã, trong vàng chảy là ngôi tháp, bằng vàng với thân lượng Phật. Bà mẹ thấy Sư đi đã lâu ngày mà chẳng có tin tức gì cho là Sư đã chết, nên sớm tối đều khóc, khóc mù cả đôi mắt, đến khi có tin tức hỏi thăm thì mắt bà sáng lại như cũ. Hoàn cảnh của ngũ Thiên Trúc, kể từ sau khi Phật nhập diệt thì ngoại đạo tranh giành, Phật giáo chia năm xẻ bảy, hình thành chín mươi sáu tôn phái, lập giáo cương riêng cương với kiến giải khác nhau. Uý đều tùy sở chấp phá dính mắc, giải nghi ngờ. Mở buộc tà nơi cửa tâm, bỏ bến mê nơi đường giác, mây pháp lớn nhỏ đều thấm nhuần. Nước định vuông tròn đều vừa đựng, cờ trống ngã về dị học, dựng cờ xí của tâm vương, làm cho họ lấy niệm chế cuồng tức là thân quán Phật.
Cúc-Đa nói rằng: Nầy, người thiện nam, ông có duyên với Chấn Đản, nay hãy đi đến đó. Sư bèn từ giã thầy mà đến nước Ca-thấp-di-la, trời sắp tối, bên bờ sông lại không có cầu. Sư đi trên hư không mà qua. Một hôm, Sư được mời đến nhà một vị Trưởng giả, chốc lát có La-hán giáng rằng: Ta là hàng Tiểu thừa, Đại đức là Bồ-tát Đăng Địa, bèn nhường cho ngồi chỗ cao. Sư tặng cho chiếc y tốt, xong bay bổng mà đi, lại đến nước Ô trường, có con chuột trắng, hằng ngày hiến cho tiền vàng, giảng Tỳ-lô nơi cung đình nước Đột-quyết, an thiền định nơi cây khả đôn, phép làm chữ vàng xếp trong hư không, bấy giờ cung nhân nước Đột-quyết dùng tay tiếp sữa, sữa có ba tia bay rót vào miệng Sư, Sư chắp tay nghiêm chỉnh nói: là mẹ ta của kiếp trước đấy, ngày xưa bị bọn cướp dùng dao chém ba nhát mà cơ thể không bị thương, người huơ kiếm chỉ nghe tiếng đồng mà thôi. Đi về phía trước là lên ao lớn của Tuyết Sơn, Sư không rành, Cúc-Đa từ trên không nói vọng xuống rằng: Thân Bồ-tát đồng với thế gian, không bỏ sống chết, người rời Tương Ninh thời gian ít lâu thì bị bịnh. Nói xong, bay thẳng lên trời, Sư khỏe ngay. Đi ngang qua nước Thổ-phiên, cùng đi với đoàn người thương buôn, người Hồ tham cướp hành hóa nên tập trung nhiều người đến bao vây, Sư âm thầm vận tâm ấn làm cho phiên hào hoảng sợ mà xin tạ tội, đến cảnh vực phía Tây Đại Đường. Ban đêm có vị thần mách rằng: Phía đông vùng nầy chưa phải là ranh giới của đệ tử, mà là Văn-thù-sư-lợi thật hộ thần châu, lễ dưới chân mà biến mất, đây cũng là Do thần Ca-tỳ-la đưa tiễn liên Mi. Sư dùng lạc đà chở kinh đến sông Thiệp Vụ ở Tây Châu, rồng làm cho sụp chân lạc đà dưới suối, Sư cũng ở dưới suối ba ngày, dừng chân tại cung rồng tuyên dương giáo hóa, khai ngộ rất đông, đến khi dắt lạc đà lên bờ, kinh chẳng bị ẩm ướt gì cả, Úy mới vượt qua xứ bắc Ấn-độ, tiếng tăm đã truyền khắp Trung quốc, Duệ Tông bèn cho Nhược-Na và tướng quân Sử Hiến ra ải ngọc môn chờ đợi. Đầu niên hiệu Khai Nguyên, vua Huyền Tông nằm mộng gặp vị chân tăng, dáng vẻ phi thường, vua tự mình vẽ trên vách cung điện, nay Sư đến khớp với việc vua nằm mộng, vui mừng vì hữu duyên, trang trí nội đạo tràng, tôn làm Giáo chủ, từ Ninh Tiết vương trở xuống đều phải quỳ dưới chiếu dâng đồ, Tân đại sĩ nơi cung trời tiếp phạn diên nơi đế tọa, lễ Quốc sư bằng đạo quảng thành, để người chủ ở thừa của Như Lai, vòi vọi pháp môn hưng thịnh như vậy. Lúc ấy, có người thuật sĩ cầm ấn khế của quỷ thần, tham dự vào phép biến hóa, được vời đến trước vua làm trò thần dị, Sư điềm nhiên bất động mà tay chân thuật sĩ chẳng làm trò gì được. Vào năm Bính Thìn nhằm niên hiệu Khai Nguyên năm thứ tư bản Phạn mới đến Trường an, vua ban sắc cho để tại nam viện chùa Hưng Phước, Sư tiếp tục ở tại chùa Tây Minh, hỏi thăm trùng dặm ban cấp rất hậu, đến năm thứ năm vâng chiếu phiên dịch tại viện Bồ Đề, Sư tấu thỉnh các danh tăng cùng tham gia việc dịch giữa Hoa và phạn, mở đề dịch trước Hư không Tạng Cầu Văn Trì Pháp, một quyển, Sa-môn đều hiểu lời dịch, ngài Vô Trước ghi chép, sửa văn, vua lệnh đưa bản phạn vào cung, trước đây có Sa-môn vô Hành đến Thiên trúc học xong trở về, mới đến bắc Ấn độ không may qua đời, các bản Phạn mang về đều nằm trong chùa Hoa nghiêm ở Kinh Đô. Sư và thiền sư Nhất hạnh chọn được mấy bản và Tổng trì Diệu môn, trước đây chưa dịch. Năm thứ mười hai, Sư theo vua đến Lạc Dương, lại vâng chiếu dịch kinh Đại Tỳ-lô-giá-na tại chùa Phước Tiên, kinh ấy có đủ tiếng Phạn gồm có mười muôn bài tụng, Sư nắm những chỗ quan trọng mà dịch ra, gọi là kinh Đại Tỳ-lô-giá-na Thành Phật Thần Biến Gia trì, bảy quyển, Sa-môn Bảo Nguyệt dịch ngữ, Nhất Hạnh ghi chép, trau chuốt lời văn, văn chất sáng sủa, khéo hài hòa thú sâu xa, trên phù hợp với ý Phật, lại soạn ra kinh Tồ-Bà-Hô Đồng tử, ba quyển, kinh Tô-tất-Địa-Yết-La ba quyển, hai kinh trên đều chứa đủ lời chú của Tỳ-nại-da, tức là bí mật cấm giới, nếu ai chưa từng nhập vào Mạn-đồla thì không được đọc tụng nghe giới luật, giống như người chưa thọ giới cụ túc mà nghe trộm giới luật, cho nên dịch ra hư không tạng Bồ-tát Năng Mãn Chư Nguyện Tối Thắng Tâm Đà-la-ni cầu Văn trì pháp, một quyển, là lược dịch lượt dịch một phần nhỏ của Kim Cương Đảnh phạn bản kinh Thành Tựu nhất Thiết Nghĩa Đồ. Tánh Sư thích giản dị tịnh lự để dưỡng thần, thường khai thiền quan khuyến khích người mới học, rằng người vâng theo oai nghi hình thức như trải hoa sen nơi nhãn giới, người nào bẩm thọ ngôn thuyết thì cho đó là cam lộ thấm nhuần ruộng tâm, người cảm thấy sáng ngời, pháp lữ (bạn đồng đạo) xin yết kiến, chỉ tôn thờ trưởng lão Bảo tư Duy Tam tạng mà thôi. Ngoài ra đều thực hành theo lễ của môn nhân. Thiền sư Nhất Hạnh là người Đế Vương tôn trọng, các bậc Hiền đương thời quy về, ngoài định tuệ, diệu phép của âm dương còn có những việc còn chưa quyết định được, cũng thường hay đến thưa hỏi ý kiến rồi mới thực hành, Sư từng ở tại viện nầy đúc đồng làm tháp, tự tay làm thành khuôn mẫu, khéo hơn trời người, tăng chúng trong chùa đem đồ mấu luyện đến sân rộng đề phòng hỏa hoạn, Sư cười nói: Các thầy lo chi cho nhọc lòng, ngày đúc tiền quả nhiên tuyết rơi mịt trời, khói lên đều thành hoa tuyết rơi xuống, mọi người đều thán phục.
Mùa hè đang hạn hán. Vua sai trung quan cao lực sĩ mau đến vời Sư cầu mưa. Sư nói: Số hạn nầy là đương nhiên, nếu cố gọi rồng làm mưa e sẽ gây tổn hại không nên làm.
Vua gương điệu rằng: Người khổ vì bệnh nóng, dù mưa gió sấm sét cũng vừa lòng.
Từ chối không được, bộ phận chuyên trách cũng đã chuẩn bị sẵn đồ dùng, Sư cười nói: Những đồ nầy không đủ để làm mưa đâu, hãy vứt bỏ đi, bèn lấy một diệm nước, dùng cái dao con để quậy nước, tụng phạn chú mấy trăm câu, khoảnh khắc có con vật giống như rồng, lớn như ngón tay, ngóc đầu lên mặt nước rồi lại phục xuống dưới đáy diệm, Uý vừa quậy nước vừa niệm chú, chốc lát có luồng hơi trắng từ trong diệm bật lên mấy thước, từ từ kéo đi, Uý báo với Cao lực sĩ rằng: Hãy mau chay đi, mưa sẽ đến. Lực sĩ chạy ra nhìn thấy luồng khí ấy xoáy vòng từ giảng đường đi về hướng Tây, như xấp lụa trắng dâng lên bầu trời, kế đến là mầu trời biến thành đen sậm, gió to sấm lớn. Lực sĩ mới về đến cầu Thiên Tân. Mưa gió theo chân ngựa ập đến, cây cối dọc đường đều bị quật ngã. Lực sĩ áo mão bị ướt lã vào tâu, Vua cúi đầu đón rước Sư, hai ba lần cảm ơn. Hôm sau, ở Manh có con rắn to, Sư nhìn mà than rằng: Sắp tràn ngập thành Lạc Dương đấy, bèn niệm phạn chú vài trăm câu, vài ngày sau rắn chết, đó là điềm An Lộc Sơn đánh chiếm Lạc Dương.
Có thuyết nói rằng, Sư từng ở trong phòng của luật sư Đạo Tuyên nơi chùa Tây Minh, hiện ra tướng thô. Đạo Tuyên chê là thấp hèn đồ tồi đến nửa đêm Tuyên bắt vò chết con rệp bỏ dưới đất, Sư liền hô lên: "Luật sư làm chết Phật tử rồi" Tuyên mới biết đó là Đại Bồ-tát. Sáng sớm hôm sau, vén y làm lễ. Vào năm thứ hai mươi, Sư cầu xin trở về Tây vực, được tin chiếu giữ lại, ba năm sau nhằm ngày mồng 7 tháng 10, Sư nằm nghiêng bên hông phải, an nhiên qua đời, thọ chín chín tuổi, tám mươi tăng lạp, được truy tặng Hồng Lô Khanh. Vua sai Hồng Lư thừa Lý Hiện giúp đỡ việc an táng Tân luật sư. Năm năm sau nhằm ngày mồng 3 tháng 10 an táng tại đình chùa Quảng Hoá thuộc Long môn, thi thể được hong khô cho không bị hư hoại để bảo tồn, ngày hội táng khắp kinh đô đều rơi lệ buồn tẻ, sông núi đổi mầu, đệ tử tăng tục như: thiền sư Bảo Uý, thiền sư Minh Uý, Vinh Dương Trịnh thị, Lang Da vương thị, thương xót như mất bậc cha mẹ, thiền sư Nhị Khắc kệ, các thiện tín làm nhà thờ, đệ tử còn cất nhà nhỏ bên mộ, nhìn thấy di hài từ từ bị rút nhỏ, xương lộ ra ngoài da, mỗi năm giữ hai mùa khô ẩm, cầu thỉnh tu chỉnh, mỗi lần đều tắm gội bằng nước thơm dùng lụa gấm bao bọc lại cho nằm yên. Mỗi khi làm lễ cầu siêu triều đình đều cử sứ thần đến cung thí, xứng với tấm lòng thương mến của mọi người.
Thích Trí Tuệ, tiếng Phạn là Bát-thích-nhã, họ Kiều Đáp Ma, người nước Ca-tất-thí thuộc Bắc Thiên Trúc, thiên tư thông minh hơn người, bảy tuổi phát tâm lập ý, xa lìa cha mẹ, quy y Tam Bảo, theo Đại đức Điều Phục quân, dạy tụng bốn Ahàm, đủ, mười muôn bài tụng, A-tỳ-đạt-ma ba muôn bài tụng, đúng tuổi ứng pháp thọ giới cụ túc. Theo thầy du hành nước ngoài, học Tát-Bà-Đa gần bốn muôn bài tụng, Câu-Xá hai muôn tám ngàn bài tụng. Lại tụng Đại Bà-Sa, thông cả nghĩa lý, bảy năm ở đó chuyên học về Tiểu thừa, sau đến chùa Na-Lạn-Đà ở trung Thiên Trúc, học các luận như Đại Thừa Duy Thức Du-già. Trung biên v.v...
Kinh Kim Cương Bát-nhã, Nhân Minh, Thanh Minh, Y Minh, Vương Luật luận, v.v... đồng thời nương ba vị Đại Luận Thừa Trí Hộ, Tiến Hữu, Trí Hữu du hành đến tám ngôi tháp trong Kinh Song Lâm, qua lại chiêm lễ trong mười tám năm. Nghe nam và bắc Thiên Trúc rất chuộng tu hành, bèn đến thăm viếng, bên ấy có vị sư Quán Đảnh tên ĐạtMa-Da-Xá. Nhìn thấy Tuệ siêng năng thận trọng dễ thương, bèn truyền Du-già pháp nhập Mạn-ĐồLa-Tam Mật hộ thân Ngũ Bộ Ấn khế kinh. Trong một năm thuộc lòng ba ngàn năm trăm bài tụng. Tuệ thường hay nghe rằng: Trung Hoa đại quốc có Văn-thù ở đó, nên quyết lòng đi về phương Đông thệ truyền Phật giáo, bèn đi thuyền vượt biển định đến Quảng Châu nhưng bị gió thổi tấp vào phía Đông nước Sư tử. Lại gom góp vốn liếng sửa chữa thuyền bè đến các nước trong vùng Nam Hải. Đến gần Phan Ngung thuộc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, lại gặp sóng to gió lớn ập tới thuyền bị bể hỏng, người thì chìm mất, chỉ có một mình Trí Tuệ sống sót, đêm đến canh năm sóng gió mới dừng, kinh điển mang theo không biết ở nơi nào, đến khi lên bờ, thì những kẹp sách đó đã ở trên bờ rồi, nằm trong một thùng tre lớn, do sóng biển trôi dạt lên, dường như có quỷ thần mang đến vậy, bèn than rằng: Các kinh Đại thừa lý thú nầy tưởng người Trung hoa căn cơ thuần thục: theo hướng đông bắc đi khoảng nửa tháng đến Quảng châu, tức những năm đầu niên hiệu Kiến Trung đời vua Đức Tông, vua còn lánh nạn ở Phụng Thiên. Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2, Sư mới lên đường đến kinh thành, gặp người cùng quê là Thần Sách, Quân Chánh, Tương La có tâm tốt, tức con của người cậu, vui buồn an ủi lẫn nhau, dẫn về nhà giữ lại cúng dường. Đến năm thứ tám mới dâng biểu tấu trình lên nhà vua, Sư được đề cử làm phiên dịch truyện, có sắc lệnh các Đại đức các chùa trong kinh thành có danh nghiệp khác chúng cũng đồng dịch, được Tam Tạng Bát-nhã người nước Kế-tấn giải thích bản Phạn. Các sư Sa-môn chùa Quang Trạch ở Đãi Thiếu thuộc Hàn Lâm là những vị ăn nói lanh lợi, Sa-môn Viên Chiếu chùa Tây Minh ghi chép, ngài Đạo Dịch chùa Tư Thánh, ngài Lương Tú chùa Tây Minh, ngài Ứng Chân chùa Trang Nghiêm, ngài Siêu Ngộ chùa Lễ Tuyền, Đạo Ngạn Biện Không cùng bổ sung chứng nghĩa. Ngày mồng 8 tháng 6, muốn lập kinh đề, sai hữu nhai công đức sứ, là Vương Hi Thiên và hữu thần sách quân, Đại tướng quân Vương Mạnh thiệp, Tiêu Kỵ đại tướng quân Mã Hữu Lân, v.v... đưa kinh Phạn ra khỏi cung, chở bằng xe ngựa xe cùng với uy nghi nhạc bộ. Dọc đường thiện nam, tín nữ ra xem thật là rầm rộ nhất thời, rước về chùa Tây Minh phiên dịch. Nhân đây tặng một ngàn quan tiền, ba mươi cân trà, một hộp lớn nhang, bổ sung trong chùa để sử dụng. Đặt tên là Kinh Đại Thừa Lý Thú và Kinh Lục Ba-BaMật-Đa, thành mười quyển. Lại có Trưởng giả Hoa Nghiêm hỏi về kinh Phật Na-La-Diên Lực và Bátnhã tâm kinh, đều một quyển, vào niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tám là dịch xong, tháng mười cùng năm ghi chép hoàn tất. Ngày 28 tháng 10 có xe hoa uy nghi chào đón, dẫn vào Quang Thuận Môn, Vua xem xong vui vẻ hoi thăm ân cần, sai thần sách quân ban thức ăn, Vua đích thân tặng Trí Tuệ năm trăm xấp lụa, một bộ y phục mùa đông, ngoài ra mỗi vị đều có ban thưởng riêng, Tuệ dâng biểu tạ ơn, đáp lại lòng ưu ái của nhà vua, cùng ngày ấy, xin dịch kinh. Công thần khai phủ Nghi đồng Tam Tự hiệu đính. Thái tử xét việc, La Hảo Tâm dâng biểu rằng: "Em của thần là Sa-môn Bátthích-nhã trước đây có dây kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật bản Phạn. Ngày 19 tháng 4 năm nay kính vâng sắc ban lệnh cho. Vương Hy Thiên chọn nhân sự có đạo hạnh phiên dịch tại chùa Tây Minh, nay đã kết thúc, cùng đưa đến Quang Thuận môn dâng lên, đáp chiếu rằng: Em của khanh sớm ngộ Đại thừa, từ phương Tây xa xôi xin đến Thượng quốc, giảng nói nghĩa sâu xa của sáu Căn, diễn vi ngôn của Song thọ. Niệm lấy chân thành mà kính trọng. Nay lệnh cho lưu hành những bộ kinh đã dịch, khanh vốn có lòng trung thành, siêng năng về chức trách, xem qua biểu sớ lòng ta rất tri ân. Hảo tâm giải vây của Châu Ty rất có chiến công, được vua sủng trọng. Trí tuệ có tâm tốt dẫn dắt, công việc phiên dịch sáng tỏ, vua viết bài tựa ở đầu kinh. Tuệ về sau mất ở Lạc Dương, an táng nơi gò phía Tây Long môn, tháp kỷ niệm nay vẫn còn.
Thích Huyền Giác, người nước Cao Xương, thích học Đại thừa, theo Tam Tạng Huyền Trang, nghiên cứu kính luận, cũng cùng ở cung Ngọc Hoa tham dự phiên dịch, và có thành tựu về Kinh Đại Bát-nhã cùng được mời dịch Kinh Bửu Tích, Huyền Trang từ chối vì mệt mỏi, Huyền Giác mộng thấy một ngôi tháp trang nghiêm, cao lớn đột nhiên sụp đổ, giật mình thức dậy nói với Huyền Trang, Trang nói: "Không thuộc việc của người, đây là triệu chứng ta sắp diệt rồi". Giác rất đau buồn, khuyên các bạn tu hành cùng thỉnh cầu, dùng thuốc chữa trị. Giác sau đó cũng diệt nối theo.
Thích Đạo Nhân, họ Hầu, người ở Bộc Dương, gia đình có cuộc sống hạnh phúc, rượu thịt đầy đủ, người ăn học cũng chẳng kém, nhân lúc mới chào đời trắng trẻo ngộ nghỉnh. Tuổi còn bé thiên tư đặc biệt rất cao, có tiết nghĩa hiếu ái, phong cách từ thuận, tâm nhân từ cùng cực. Năm bảy tuổi, vì mất mẹ mà trong lòng đau khổ đến tột cùng, không ăn không uống, mất mạng. Thể hiện ra đức tính của người lớn, được mọi người thán phục. Sau khi mãn tang, nghĩ sẽ báo ân đến cùng, nên quyết lòng xuất gia không ai ngăn cản được. Bèn đến chùa Linh Nghiêm theo thầy tụng tập, chưa đầy mười ngày đã thông kinh Niết-bàn hai pho, mọi người đều kinh ngạc. Cho là thần đồng, sau khi xuống tóc, trau dồi đức hạnh, nắm được nghĩa lý, hễ giảng Niết-bàn già trẻ hay kẻ có tiếng tăm đều thán phục. Được thăng thượng phẩm chuyển qua học luật nghi, lại được pháp sư Tung ở Bành Thành truyền cho Nhiếp Đại thừa. Đức hạnh Tung Công cao đẹp, danh thơm tỏa khắp mọi nơi, môn đồ từ khắp nơi lũ lượt kéo đến, phòng giảng vừa biến thành nhà ăn, rất ồn ào chật hẹp, bèn chia theo môn giới mà giảng, Sa-môn tuổi trẻ cho học luật, biết luật tứ phân mới, cho vào dự thính. Nhân tuổi tuy còn nhỏ, nhưng đã hơn hẳn mọi người, nên Sư được đề cử làm kiến tập, mỗi khi bổ sung Nhiếp Luận, thầy đều cho ra giảng đàn. Sau nầy đến ở ẩn tại Thái Nhạc. Đọc kinh suốt bốn năm, bèn chuẩn bị đi Lạc Dương, dự tính theo Lý Lăng di, nhưng vì pháp cương quá nghiêm nhặt, tăng không được mang theo đồ đệ, không cho dạo chơi ngoài chùa. Vì vậy mà dời chùa ra núi, đi lang thang một mình, vừa đi vừa Tịnh niệm Quán Âm, trong chốt lát có một vị tăng đi đến, râu tóc bạc phơ, mời cùng đi, đến nơi đường phố bằng đất vàng, ngẩng nhìn lên chẳng biết nơi nào, chẳng bao lâu do tránh nạn Tam Thục nên ở chùa Đa Bảo, có người biết tiếng, mời Sư giảng Nhiếp Luận Duy Na, người nghe có trên một ngàn, lúc ấy có pháp sư Bửu Xiêm, người ở Đông Hải, dạy nghề rất giỏi, lại giỏi về Đại thừa, trong đời đã có danh tiếng, nay Xiêm Công đi tới đi lui ngạo mạn trong đám đông, nhìn mà phát sợ. Mỗi khi đi ngang giảng đàn, nghiêm túc xổ ra vài lời, nhân biện bác như sấm nổ thật hay vô cùng.
Quan tổng quản Ích Châu là Đặng Quốc Công Đậu Tiến hành Đài tả bộc xạ, Thế Quốc Công Đậu quỹ Trường sử, thân Quốc Công Sỉ Liêm, Phạn Dương Công Lư Thừa Khánh và đầu liêu ngục mục Tây nam, cùng với các nhân sĩ nổi tiếng, cùng lập danh sách cung thỉnh rằng: "Bành Môn sơn tự là nơi tập đạo an cư, vì bị bỏ phế nên điêu tàn. Nhân xúc động nên xây dựng lại, chăm chỉ tu chỉnh chưa đây một năm đã biến thành tịnh trường đông đảo, lại lấy chín bộ vi ngôn, ba cõi kính ngưỡng, xong sẽ dự tính che cung rồng, bèn ở bên sườn núi phía Bắc chùa Khắc kinh điển cùng Đa-la Chính Văn của Tỳ-ni, dù cho hồng thủy tượng lăng đời vua Nghiêu, mặc cho Triệu giản canh giữ vùng Bắc sơn nầy, chắc sẽ không có gì đáng ngại. Không ngờ ở nơi xa xôi hiểm trở nầy mà được vua triệu về. Dừng chân tại chùa Đại từ Ân cùng với pháp sư Huyền Trang đảm nhiệm công việc phiên dịch, hiệu đính bản Phạn, kiêm bổ sung chứng nghĩa. Được ngài Huyền Trang tán thưởng, mỗi khi gặp văn khó thì cùng trao đổi với nhau. Những phần kinh mới dịch được nhờ đó góp sức rất nhiều. Tự chủ chùa Tuệ Nhật là pháp sư Khải lần đầu tiên tổ chức cuộc giảng nghĩa về huyền bí cao thâm, do Đạo Nhân đảm nhiệm. Các giới tăng tục trong kinh thành đều đến thưa hỏi. Nhân vui vẻ mà giải đáp. Nhân còn nghiên cứu mấy bộ sách sử, rất thích về lão Trang, rút lấy những tinh hoa, tứ luật bắt đầu ở phong luật, văn tự tổng hợp vào ngũ thanh, cho nên giảng huấn nội ngoại đều thông, những chuyên nghiệp là Niết-bàn, Hoa Nghiêm, Duy-Na, Pháp Hoa, Lăng-già v.v... Thập Địa, Địa Trì, Tỳ-Đàm, Trí Độ, Nhiếp Đại thừa. Đối với pháp như luận Phật Địa và luật Tứ phân, còn Nhiếp luận, Duy-Na vẫn ghi trong chương sớ. Vậy là có khả năng xong việc.
Sư thị hiện bị bệnh, qua đời tại chùa Tuệ Nhật ở Trường an, nhằm ngày 11 tháng 3, niên hiệu Hiển Khánh năm thứ ba, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi. Tháng giêng năm sau chuyển thần tọa về Ích Châu. Ngày mồng 8 tháng 2 an táng tại chùa Quang Hóa, cạnh bên Thạch Kinh. Đạo tục đưa tang có đến mấy ngàn người, đệ tử Huyền ngưng thờ phụng hương hỏa, Long sóc Trung Đài Ty phiên đại phu. Lý Nghiễm soạn văn bia, Âu Dương viết chữ.
Thích Nhã Na-Bạt-Đà-La, Hán dịch là Trí Hiền, người nước Ba-Lăng ở nam hải, giỏi về Tam tạng học. Giữa niên hiệu Lân Đức có Sa-môn Hội Ninh ở thành Đô, muốn đến Thiên Trúc thăm viếng thánh tích. Đi bằng thuyền về phía Tây, trên đường phải đi qua nước Ba-Lăng, bèn cùng với Trí Hiền dịch kinh Niết-bàn phần sau, hai quyển. Đây là dịch ra từ trong kinh A-cấp-na, nói về các việc như Thế Tôn đốt quan tài thu Thiết-Lợi-Na v.v... So với Đại Niết-bàn hoàn toàn không ăn khớp với nhau, dịch xong gởi kinh đến Giao Châu, Tây vực của Ninh phương. Đến những năm đầu niên hiệu Nghi Phụng, Đô đốc Giao Châu là Lương Nan Địch sai sứ là Đồng Hội Ninh cùng với đệ tử là Vận kỳ dâng biểu đem kinh vào kinh. Năm Mậu Dần nhằm niên hiệu thứ 3, Sa-môn Linh Hội chùa Đại Từ Ân, ở đông cung xin được ban hành, Vận kỳ vâng lời thầy dạy, vì không được hài lòng nên thầy cho lệnh mang kinh đi hành hóa nên không rảnh thân mà theo thầy đến Tây vực.
Thích Phật-Đà-Đa-La, Hán dịch là Giác cứu, người nước Kế-tân thuộc Bắc Thiên Trúc. Sư mang kinh đến thệ giáo hóa người dân Trung Hoa. Dừng tại chùa Bạch Mã ở thành Lạc Dương, dịch kinh Đại phương Quảng Viên Giác liễu nghĩa. Kinh này dịch không ghi ở năm nào, mà Long Đạo vì nhớ việc nên hoài chân giả vọng. Nếu biết rõ thời gian năm tháng thì y cứ vào hành tích chớ nghiên cứu nắm lấy chung cuộc. Vào niên hiệu Đại Hòa, ngài Khuê Phong Tông mật soạn sớ giải thích bản kinh một quyển, sau nầy chia ra làm hai quyển, thành bộ, kế tiếp lại soạn sao giải thích chỗ sâu xa nay Đông kinh, Thái nguyên và Tam Thục thịnh hành diễn giảng kinh nầy.
Thích Phật-Đà-Ba-Lợi, Hán dịch là Giác Hộ, người nước Kế-tân thuộc bắc Ấn-Độ, quên thân mà theo đạo, xem qua linh tích khắp nơi, nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ngự ở tại núi Thanh Lương, cho nên không ngại đường xá xa xôi mà tìm đến kính lễ. Vào niên hiệu Thiên Hoàng Nghi Phụng năm đầu, Sư chống gậy đến Ngũ Đài chân thành lễ bái, khóc như mưa rơi, cầu mong được gặp thánh dung, bỗng chót thấy một cụ già từ trong núi đi ra, nói tiếng Ba-La-môn hỏi Ba-Lợi rằng: Sư từ đâu đến?
Ba-Lợi nói: Nghe Văn-thù Đại sĩ ẩn tích tại núi nầy, tôi từ Ấn Độ đến muốn xin chiêm lễ.
Ông cụ nói: Sư từ nước ấy đến có mang theo kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà-la-ni chăng? Chúng sanh đất nầy gây quá nhiều tội lỗi người xuất gia cũng lắm khi phạm sai lầm. Phật đỉnh thần chú là bí phương để trừ tội, nếu không mang theo kinh mà đến không thì đâu có ích lợi gì. Dù có gặp Văn-thù thì cũng không thể biết được. Sư hãy về nước lấy kinh ấy đến lưu truyền ở xứ nầy, tức là thờ khắp các thánh, lợi ích rộng chúng sanh, thừa tiếp U minh báo ân các Đức Phật. Sư mang kinh đến, đệ tử sẽ chỉ rõ nơi ở của Văn-thù.
Ba-lợi nghe vậy, cầm lòng không khỏi vui mừng, bèn quẹt khô nước mắt lạy về núi. Giây lát ngẩng đầu lên, thì cụ già đã biến mất, Ba-lợi càng kinh ngạc. Bèn trở về nước lấy được kinh, trên đường đến kinh thành sẵn dịp cầu kiến nhà vua. Thiên hoàng tặng thưởng lòng chân thành tôn sùng bí điển nầy, hạ chiếu cho làm điển khách Hồng Lô Tự, ra lệnh cho Đỗ Hành Khải và Nhật Chiếu Tam Tạng cùng dịch. Xong nhà vua đích thân tặng ba mươi xấp lụa, còn kinh giữ lại trong cung.
Ba-lợi rơi nước mắt tâu rằng: Ủy bỏ thân mạng, mục đích là lợi người. Nay cầu mong nhà vua cho lưu hành. Vua cảm mến lòng chuyên thiết, bèn giữ lại kinh trao trả bản phạn. Ba-Lợi được lại kinh rất vui mừng. Đến viếng chùa Tây Minh, được người giỏi về tiếng Phạn ngữ là Thuận Trinh. Tấu xin dịch lại, vua chấp nhận. Ba-Lợi cùng với Thuận Trinh và các Đại đức phiên ra gọi là "Kinh Phật Đảnh tôn thắng Đà-La-Ni". So với bản dịch của Đỗ Linh trước kia thì chú vận văn kinh ít có dị đồng, nguyên vọng của ba-lợi đã hoàn tất, lại mang bản phạn đi vào ngũ Đãi, không ai biết về tông tích nữa, có chỗ cho rằng: Ba-lợi ẩn vào hang Kim Cương. Hiện nay, núi Vĩnh Hưng Long Thủ có nơi thời Xá-lợi Ba-Lợi. Khoảng niên hiệu Đại Lịch, Sa-môn Pháp Chiếu của Vân Phong ở Nam Nhạc đến núi Ngũ Đài lễ bái hang Kim Cương, đêm chưa tối gặp một vị tăng, phạn âm sang sảng, tự xưng là Phật-Đà-Ba-Lợi.
Hỏi rằng:
- Vì sao Sư tự khổ như thế, không mệt nhọc sao? Có tâm nguyện gì mà vui?
Đáp rằng:
- Chỉ nguyện được gặp Văn-thù. Lại nói: Nếu ý chí vững bền không gian dối. Người có thể lột giày vớ để trên tảng đá sẽ thấy được Thánh nhan. Pháp Chiếu nhắm mắt lại, chốc lát đã vào trong hang đá, thấy một ngôi viện, đề là chùa Kim Cương
Bát-nhã. Nét bút mạnh mẽ sáng ngời, viện ấy đều bằng dị bảo trang nghiêm, lầu quán nhiều lớp, phòng ốc liền nhau. Có lẽ là hai trăm ngôi. Chính giữa có kho bí mật chứa Kinh Kim Cương Bát-nhã và tất cả kinh pháp. Người vật to lớn phi thường. Đại thánh Văn-thù ngồi chỗ tôn nghiêm. Chiếu được mời vào dùng trà, xong Ba-lợi dẫn ra ngoài chiếu cầu xin ở lại. Ba Lợi không cho, sắp chia tay khuyên rằng: Hãy cố tu hành, sau nầy trở lại thì có thể ở được. Chiếu đến chỗ tảng đá thì dừng lại, Balợi đã biến mất.
Hệ rằng: Theo sự giải thích của đạo thì có nhiều thuyết: hoặc ẩn chân hình mà còn giả chất, hoặc đây còn đó mất, hoặc phân thân đổi dạng coi đó là trò chơi, hay lấy đó làm lợi ích chúng sanh. PhậtĐà-Ba-Lợi ấy không mất, không chừng biến hóa vô cùng, ra hang Kim Cương quật tiếp Pháp Chiếu, là có duyên với nhau mà hiện ra, cũng như Ca-Diếp ẩn lâu trên các ngọn đồi, khi pháp Hiển đến thăm viếng, thì gặp ở dưới núi.
Thích Tôn pháp. Người Tây Ấn-Độ, tên tiếng Phạn Gia-phạn Đạt Ma, Hán dịch là Tôn pháp. Từ xa xôi vượt đá cát đến nước Trung Hoa. Có tấm lòng truyền dịch kinh Phật, nguyện vọng của vững chắc hóa đạo. Khoảng niên hiệu Vĩnh Hưng của thiên hoàng Sư dịch, Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát Quảng đại viên mãn Vô Ngại Đại Bi tâm Đà-La-ni, một quyển, nhưng kinh đề chỉ nêu rằng: Tây Thiên Trúc, Gia-Phạn-đạt-Ma dịch, không ghi rõ năm tháng. Suy về gốc ngọn có thể là trong khoảng thời gian giữa hai niên hiệu Hiển Thánh và Vinh Huy, lại đúng với bài tựa của kinh Thiên Tý rằng: Trí Thông cùng với Tam Tạng nầy dịch ra, về sau không biết Sư mất ở đâu.
Thích Vô Cực Cao, người Trung Ấn-Độ, tên Phạn là A-Địa-Cù-Đa, Hán dịch là Vô Cực Cao. Cao học hết Mãn tự, hạnh trong sạch như viên ngọc sáng, tinh luyện Ngũ Minh, khéo thông Tam Tạng. Tháng giêng niên hiệu Vĩnh Hưng năm thứ ba, Sư từ Ấn-Độ mang kinh đến Trường An, được an trí tại chùa Từ Môn, gồm mười sáu vị như Sa-môn Đại thừa Tông, mười hai vị như Anh Công Lý Thế Tích Ngạc Công uý trì đức, cùng thỉnh Cao xây dựng đàn Đà-La-Ni phổ hội ở tại viện Phù Đồ chùa Tuệ Nhật. Điều cần thiết là ngày khánh thành, phải làm cách cho hiện ra linh dị. Tăng ni hay dân thường trong kinh thành đều thán phục là ít có, Samôn Huyền Khải cố thỉnh dịch cho được bản tiếng Pháp. Trong thời gian bốn năm ở chùa Tuệ Nhật. Từ trong kinh Kim Cương Đại đạo tràng Sư nắm những phần chủ yếu mà dịch, tập thành một bộ gọi là kinh Đà-La-Ni tập, gồm mười hai quyển, do Huyền Khải ghi chép, lúc ấy, có A-Nan-luật-MộcXoa Sư, Ca-Diếp sư, v.v... chùa Đại Bồ-Đề thuộc trung Ấn Độ. Ở chùa kinh Hành dịch Công đức thiên pháp, ở khắp trong tập kinh quyển thứ mười nên không ấn hành riêng.
Thích Cực Lượng, người Trung Ấn-độ, tên tiếng Phạn là Bát-Thích-Mật-Đế, Hán dịch là Cực Lượng có lòng cưa mang Đạo, quán sát các nơi, tùy duyên cứu giúp chúng sanh, lần lượt đi khắp, đến nước Trung Hoa. Bèn trụ tại Đạo tràng Chế Chỉ ở Quảng Châu, dân chúng ở đây biết Sư là người truyền đạt, nên đến thỉnh cầu rất đông. Lượng lấy lợi lạc làm tâm, vì vậy mà truyền trao những điều bí yếu sâu sắc. Ngày 23 tháng 5, vào niên hiệu Thần Long năm đầu, từ trong bộ Quán Đảnh, Sư tụng ra một phẩm, tên là Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa chư Bồ-tát vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm, dịch thành một bộ gồm mười quyển. Sa-môn Di-già Thích-ca người nước Ô-trường dịch ngữ. Bồ-tát giới đệ tử, là tiền chánh nghị đại phu cùng Trung thư môn hạ Bình chương sự Thanh Hà phòng Dung ghi chép. Tuần Châu La Phù Sa-môn Hoài Địch chùa Nam Lâu ở núi La Phù, Độn Châu chứng dịch. Lượng phiên dịch truyện xong, Quốc vương hội Bản tức giận tự tiện sai người mang bản kinh ra nước ngoài, ngồi thuyền về phía Tây. Sau vì nam sứ vào kinh, nên kinh Phật được lưu truyền khắp nơi, có công lao đóng góp của Pháp sư Duy Xác, đều được sớ giải.
Thích Thật Xoa-Nan-Đà, còn gọi là Thi-KhấtXoa-Nạn-Đà, Hán dịch là Học Hỷ, người nước Vu Điền, ở phía Bắc Thông lĩnh. Trí độ rộng lớn, phong cách hơn người, giỏi về Đại Tiểu thừa, lại thông dị học Thiên hậu minh dương Phật rất kính trọng đạo Đại thừa, vì Kinh Hoa Nghiêm ban cựu dịch xứ hội chưa đủ, nghe nước Vu-điền có bản phạn, vua bèn sai sứ đến cầu kinh bản và thỉnh người phiên dịch. Sư cùng với kinh tiếng Phạn đồng đến với hoàng cung. Vào năm Ất Mùi thuộc niên hiệu Chứng Thánh năm đầu, tại chùa Đại Biện Không trong cung phiên dịch, Thiên hậu đích thân đến Pháp tọa viết bài tựa sáng ngời, còn tự cầm bút đề tên cho tên phẩm nầy "Nam Ấn Độ Sa-môn BồĐề-Lưu-Chí, Sa-môn Nghĩa Tịnh đồng tuyên phạn bản". Sau nầy giao cho Sa-môn Phục lễ Pháp tạng v.v... Tại chùa Phật Thọ Ký dịch thành mười tám quyển. Vào niên hiệu Thánh Lịch năm thứ hai hoàn tất thành, bốn năm sau, Vua đích thân đến cung Tam Dương ỡ Dĩnh Xuyên ban chiếu cho Sư dịch Kinh Đại thừa Nhập Lăng-già. Thiên hậu lại soạn bài tựa. Tại chùa Thanh Thiền ở Kinh Đô và chùa Phật Thọ ký ở Đông Đô. Sư dịch Văn-thù thọ ký v.v... Trước sau gồm mười chín bộ. Sa-môn Ba Luân Huyền quỹ ghi chép. Sa-môn phục lễ chuốt văn. Sa-môn Pháp Bảo, Hằng Cảnh v.v... chứng nghĩa. Thái tử Trung Xá Giả ưng phước giám hộ. Niên hiệu Trường An năm thứ tư, Sư lấy cớ mẹ già yếu muốn về quê thăm nom, vua truyền lệnh cho Ngự sử Hoắc Từ Quang đưa về tới Vu-điền. Sau nầy, Hòa Đế Long Hưng có ban sắc trưng dụng lại. Niên hiệu Cảnh Long năm thứ hai, Sư đến kinh thành. Nhà vua đích thân ra đón ngoài cửa ngỏ. Tăng ni, dân chúng khắp kinh thành đều chuẩn bị cờ xí dẫn đường, lại trang điểm con voi xanh cho cỡi vào thành, được an trí tại chùa Đại Tiến phước. Chưa kịp vào việc phiên dịch đã bị mắc bệnh bán thân bất toại, nhập diệt vào ngày 12 tháng 10, nhằm niên hiệu Cảnh Vân năm đầu, thọ năm mươi chín tuổi. Y theo tập tục cử hành pháp táng. Ngày 12 tháng 11, hỏa thiêu tại đài Cổ Nhiên đăng, củi hết lửa tàn, còn lại cái lưỡi, ngày 23 12, môn nhân là Bi Trí cùng sắc sứ Ca Thư Đạo nguyên, đưa di hài và chiếc lưỡi nầy trở về Vu-điền, xây tháp cúng dường, người đời sau tại chỗ Trà-tỳ lại xây tháp bảy tầng, tục gọi là Hoa nghiêm Tam tạng tháp.
Thích Địa-Bà-Kha-La, Hán dịch là Nhật Chiếu. Người Trung Ấn-độ, Thông rõ tám tạng, hiểu rộng năm Minh. Giới hạnh cao kỳ, học nghiệp siêng năng. Chú thuật rất giỏi. Thời Thiên Hoàng, Sư đến nước nầy. Tháng 5 niên hiệu Nghi Phụng năm thứ 4, Sư dâng biểu xin dịch các kinh đã mang đến, nhà vua chấp nhận cho xếp vào đội ngũ của Huyền Trang, được đặt tại trí tại một ngôi chùa lớn với ba mươi lăm vị Đại đức cùng dịch tại chùa Thái Nguyên và chùa Quảng Phước. Dịch kinh Đại thừa Hiển Thức Luận, Đại thừa ngũ Uẩn, gồm mười tám bộ, Sa-môn Chiếu-Đà, Bát-nhã Đề-Bà dịch ngữ. Sa-môn Tuệ Trí chứng tiếng Phạn, vua ban sắc cho các danh đức giúp sức, cho việc pháp hoá. Sa-môn Đạo Thành, Bạc Trần Gia, Thượng Viên Trắc, Linh Biện Minh, Tuần Hoài độ chứng nghĩa. Samôn Tư Huyền, phục lễ chuốt văn, ghi chép. Thiên Hậu đích thân ban bố lời tựa ở đầu. Sư cùng giác hộ dịch Phật đỉnh, thể nhận sâu sắc tiếng Hán đời Đường, khéo truyền ý Phật. Mỗi khi tiếng dâng nhiều kinh mới được thưởng rất hậu. Sau Sư qua đời tại căn phòng nhỏ dịch kinh, thọ bảy mươi lăm tuổi, Thiên Hậu ban sắc cho an táng tại Hương Sơn thuộc Long môn, ngoại thành Lạc Dương, tháp hiện nay vẫn còn.
Thích Đề-Vân-Bát-nhã, hoặc là Đề-Vân-Đànhã-Na, Hán dịch là Thiên Trí, người nước VuĐiền, học thông đại tiểu, hiểu cả Chân tục, Chú thuật thiền Môn đều thông hiểu. Vào niên hiệu Thủy xương năm đầu Sư đến đây, yết kiến Thiên Hậu tại Lạc dương, cho trụ tại chùa Quốc Đông phiên dịch. Một năm sau dịch ra Luận Hoa Nghiêm Kinh Pháp giới Vô Sai Biện v.v... gồm sáu bộ bảy quyển. Sa-môn Xử Nhất ghi chép, Sa-môn Phục Lễ chuốt văn, Sa-môn Đức Cảm, Tuệ Nghiễm, Pháp Minh, Hằng Cảnh v.v... chứng nghĩa. Sư mất năm nào và ở đâu không rõ.
Thích Tuệ Trí, cha là người Ấn-Độ, thuộc giòng dõi Bà-La-Môn, vì làm sứ đi đến đây mà sanh ra Sư. Sư còn nhỏ đã tính cần, có chí xuất gia.
Thời Thiên Hoàng, Sư theo vị tăng Trường Niên Bà-la-môn, vị nầy vâng sắc được độ làm đệ tử. Gốc là người Phạm nên rất rành về tiếng Thiên Trúc, sanh tại Trung Hoa vào Đường, lại luyện thêm tiếng nói ở đây. Tam Tạng Địa-Bà-ha-la, Đề-Vânnhã Na, Bảo Tư Duy, v.v... tất cả sách đã phiên dịch đều mời Trí làm chứng, kiêm độ tiếng với nhau. Niên hiệu Trường Thọ năm thứ hai, tại chùa Phật thọ ký ở Đông Đô, Sư tự dịch Quán Thế Âm Tụng, một quyển, không rõ về sau sách nầy ở đâu. Có Sa-môn Minh Thuyên, không biết người ở đâu, xuất gia học tập đều tại chùa Phật Thọ Ký, rất giỏi tỳ-ni và các Kinh Luận, vào niên hiệu Thiên sách vạn tuế năm thứ nhất, vua ban sắc lệnh sửa chữa mục lục các kinh, Sư chuyên trách soạn lục, có những nghi vấn thì giữ lại, cùng với hai mươi mấy vị đại đức, cùng nhau tham khảo đính chính, đặt tên là Đại Chu Kinh Lục. Trí Thăng nói: Tuy sửa chữa có nhiều chỗ sai lệch, nhưng đã được lưu hành, thật khó lấy gì làm chuẩn mực, cho nên bộ lục nầy có nhiều kinh rời phẩm riêng, lộn xộn không giống nhau, khiến cho Trí Thăng phải cắt bỏ.
Thích Di-đà Sơn, Hán dịch là Tịch Hữu, người nước Đổ-Hóa-La, xuất gia từ thuở nhỏ, du hành các vùng Ấn-Độ, học khắp các kinh luận, Lănggià, Câu-Xá rất thông suốt. Chí truyền tượng pháp, không ngại các vùng xa xôi hẻo lánh, vẫn chống gậy đi tới. Sư cùng Thật-Xoa-Nan-Đà cùng dịch Kinh Đại Thừa Nhập Lăng-già. Lại trong niên hiệu Thiên Thụ Sư và Sa-môn Pháp Tạng, v.v... dịch Kinh Vô Cấu Tịnh Quang Đà-La-Ni, một quyển, kinh nầy Phật nói cho Bà-la-môn Kiếp-tỳ-la Chiến-Độ nghe, để kéo dài thọ mạng, dịch xong dâng vào cung và từ giã nhà vua về quê. Thiên Hậu tặng lễ rất hậu để đưa tiễn.
(Chánh truyện Mười Bốn vị, phụ thêm Ba vị).
Thích Trí Thông, họ Triệu, vốn người ấp An ở Thiểm Châu. Xuất gia thọ giới cụ túc vào niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy. Hiểu nhiều Kinh luận, thuở nhỏ khôi ngô có chí làm du tăng bốn phương, vì vậy mà đến phiên kinh quán ở thành Lạc Dương học sách Phạn và tiếng Phạn, học đâu biết đó. Trong niên hiệu Trinh Quán có vị tăng từ bắc Thiên Trúc mang đến kinh Thiên Tý thiên nhãn bằng bản phạn, Vua Thái Tông ban sắc cho tìm những vị tăng học giỏi trong nước sung vào Phiên Kinh quán để chuốt văn, ghi chép, chứng nghĩa, v.v... Sư được chọn cùng với phạn tăng đối chiếu, dịch thành hai quyển. Vào niên hiệu Thiên Hoàng Vĩnh Huy năm thứ tư, Sư lại dịch Thiên chuyển Đà-la-ni Quán Thế Âm Bồ-tát Chú một quyển, Quán Tự Tại Bồ-tát Tùy Tâm chú một quyển, Thanh Tịnh Quán Thế Âm Bồ-tát Đà-La-Ni một quyển, gồm bốn bộ năm quyển. Sư giỏi về chữ Phạn, lại nghiên cứu thêm tiếng Hoa, khi đối chiếu phiên dịch đều sát nghĩa, khiến mọi người kính phục, lại nói Sư thực hành Du-già bí mật giáo rất có cảm thông. Sau không biết Sư mất ở đâu.
Thích Trí Nghiêm, họ Úy Trì, vốn là con người họ Chất ở nước Vu-điền tên Lạc, tánh thông minh, thuộc chùa Hồng Lô, được ban Tả Lãnh quân vệ Đại tướng quân thượng trụ quốc phong Kim Mãn Quận công. Nhưng cảm thấy việc đời cực nhọc, chỉ nghĩ về việc cởi giầy (bỏ chức quan tướng). Vào tháng 5 niên hiệu Thần Long năm thứ hai, Sư dâng tấu biểu xin nhà thành chùa, vua ban sắc chuẩn y, tiếp theo cầu xin bỏ quan nhập đạo vào ngày 24 tháng 11, được sắc lệnh chấp nhận. Sư xuống tóc vào ngày mồng 5 tháng 11 niên hiệu Cảnh Long năm đầu, nhằm ngày lễ sinh nhật của Hòa Đế, lại vâng lệnh ở tại chùa dịch kinh, kiểm chứng văn Phạn. Sư có công lớn trong việc sắp xếp các kinh thành bộ. Sư lại dịch Kinh Xuất Sanh Vô Biên Pháp Môn Đà-La-Ni, sau ở Thạch Miết cốc thực hành Pháp Đầu-Đà, lại được sung làm Thượng tọa của chùa Chí tướng ở núi Chung Nam, thể đạo dung hòa, giữ gìn sự thanh cẩn, sau không biết Sư tịch ở đâu.
Thích A-nễ-chân-ma, Hán dịch là Bảo Tư Duy, người nước Ca-thấp-mật-la thuộc Bắc Ấn-Độ, thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi, tuổi nhỏ bỏ nhà, lấy thiền tụng làm sự nghiệp, sau khi thọ giới, chuyên tinh luật phẩm, sự hiểu biết hơn hẳn mọi người, kiêm học chân tục. Nghiên cứu cái hay của Kiền văn chú thuật, lại thêm hóa đạo tâm, không quyến luyến quê nhà. Niên hiệu Thiên Hậu Trường Thọ năm thứ hai, Sư đến kinh thành Lạc Dương, được bố trí trụ tại chùa Thiên Hậu, bắt đầu công việc dịch thuật. Niên hiệu Thần Long Cảnh Ngọ đời vua Trung Tông, tại các chùa Phật Thọ Ký, Thiên Cung, Phước Tiên v.v... Sư dịch ra Kinh Bất không Chuyên sách Đà La Ni v.v... bảy bộ. Vào tháng 4, niên hiệu Thái Cực năm đầu đời vua Duệ Tông, Thái tử Tẩy Mã, Trương Tề Hiền v.v... ghi chép xong dâng vào nội cung, tháng sáu năm ấy vua lệnh cho Lại bộ Thượng thư Tấn quốc Công Tiết Tắc hữu thường thị Cao Bình Hầu Từ Ngạn Bá, v.v... xét định kỹ, nhập vào mục lục và ban hành. Kể từ sau niên hiệu Thần Long, Sư không còn làm việc phiên dịch, chỉ chuyên cần lễ tụng, tu các phước nghiệp, mỗi sáng sớm mài hương thành nước để tắm gội Phật, xong mới ăn uống, hằng ngày đều làm như vậy, ngoài y bát, hễ được bao nhiêu thì bố thí bấy nhiêu, sau nầy Sư xin xây dựng một ngôi chùa tại núi Long Môn, chế độ phong cách đều y theo Tây vực, vì vậy mà đặt tên là chùa Thiên Trúc, môn đồ bạn học đều cùng ở tại đây, do tinh thành mà chiêu cảm linh ứng thật nhiều. Sư thọ trên một trăm tuổi. Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 9, Sư qua đời tại chùa, được xây tháp thờ.
Thích Bồ-Đề-Lưu-Chí, người Nam Thiên Trúc, họ Ca-diệp thuộc dòng dõi Tịnh Hạnh BàLa-Môn. Năm mười hai tuổi, Sư xuất gia với ngoại đạo, học các luận như Thanh Minh Tăng Khư, v.v... với Bà-La-Sa-La, Lịch số, chú thuật Âm Dương, Sấm vĩ v.v... chẳng môn nào không thông hiểu, đến tuổi sáu mươi mới hồi tâm, biết sự trái nghịch của ngoại pháp, ngộ được sự sâu sắc của Thích môn, nên ẩn cư nơi sơn cốc, tu tập hạnh Đầuđà, ban đầu học các kinh luận với Da-Xá-Sa Tam Tạng, sau đó đến năm vùng Ấn-độ, đi khắp các trường giảng. Cao Tông Đại Đế nghe tiếng tăm Sư. Niên hiệu Vĩnh Thuần năm thứ hai, vua sai sứ đón rước. Thiên Hậu lại càng trịnh trọng hơn, lệnh cho tại chùa Pháp Tiên phía đông Lạc Dương, dịch các kinh như Phật Cảnh Giới Bảo Vũ, Hoa Nghiêm v.v... gồm mười một bộ. Vào niên hiệu Thần Long năm thứ hai, đời vua Trung Đông, Sư lại ở tại chùa Sùng Phước, Sư dịch kinh Đại Bửu Tích. Vua Hiếu Hòa qua đời, Duệ Tông lên ngôi, ban lệnh cho Sư ở tại đình Cam Lộ thuộc ao Bạch Liên trong khu vườn ở phía Bắc, tiếp tục công việc dịch thuật, biên soạn hoàn tất, vua ban lời tựa ở đầu các bản, các kinh cũ mới gồm bốn mươi chín bộ, tổng cộng một trăm hai chục quyển. Ngày mùng 8 tháng 4, niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, Sư dâng vào cung. Trong dịch trường nầy Sa-môn Tư Trung Thiên Trúc đại thủ lãnh Y-Xá-La v.v... dịch văn Phạn. Sa-môn người Thiên Trúc, Ba-Nhược-Khuất-Đa, Sa-môn Đạt-ma chứng nghĩa, Sa-môn Lý Phương Tông, Nhất Tuệ Giác ghi chép, Sa-môn Thâm Lượng, Thắng Trang, Trần Ngoại, Vô Trước, Hoài Địch, Chứng Nghĩa, Sa-môn Thừa Lễ, Vân Quán, Thần Giản, Đạo Bản sắp xếp văn, lại có quan sửa Văn Lư Xán học sĩ Từ Kiên Trung Thư, Xá Nhân Tố Tấn, Cấp Sự Trung Thôi Cừ, Trung thư Môn hạ tam phẩm Lục Trượng Tiên, thượng thư Quách Nguyên Chấn, Trung thư lệnh Trương Thuyết, Thị Trung Ngụy Tri Cổ. Nho học và Thích học hợp thành sự toàn mỹ. Bửu Tích sử dụng nhân tài rộng rãi, Lưu Chí Vận công nhiều nhất, nhưng điều đáng buồn là xưa nay cùng dịch tất cả Đà-La-Ni câu cuối đều là Sa-phược-ha hoặc Sát-Bà-Kha, hoặc là CặpBà-Kha, đều không có khảo cứu thanh thăng hay trầm, làm cho mạng chương có khác. Xác định phạm âm đều không có ý chỉ nhất định, đây chẳng phải Phạn tăng truyền tụng không đích xác mà do người cầu bút làm sai mà thôi.
Vào niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười hai, Sư theo vua đến Lạc dương trụ tại chùa Trường Thọ. Nhằm ngày mười bốn tháng mười một năm thứ mười lăm dặn dò các đệ tử ngày mùng năm dùng chay xong, để người hầu tan đi mới đi nằm nghỉ, bỗng nhiên Sư qua đời, thọ một trăm năm mươi sáu tuổi, vua nhận được tin, ban sắc cho Thí Hồng Lô Khánh, thụy hiệu là Khưu Nguyên Nhất Thiết Biến Tri Tam Tạng, sai nội thị Đỗ Hoài Tín giám hộ tang sự, xuất vật trong kho, cung ứng đầy đủ, dùng lễ bộ Vũ nghi, cờ xí, lọng hoa, huyên náo đầy đường. Ngày mùng 1 tháng 12, an táng ở phía Tây bắc Long Môn, phía nam thành Lạc Dương, có xây tháp và khắc bia đá để kỷ niệm.
Hệ rằng: Tang lễ bên Tây vực rất đơn giản. Hoặc có Quốc Vương hay tù trưởng mới long trọng, nhưng chẳng qua cũng là hỏa táng mà thôi, như ở Đông Hạ (Trung Hoa), tăng dùng Lỗ bộ để an táng thân, thật ít nghe thấy. Ô Hô! Đạo được tôn, Đức được quý, không nói đến việc kể công, đây chẳng phải là một việc hưng thịnh hay sao?
(Bát-nhã Lực Thiện Bộ Mạt Ma).
Thích Hoài Địch, người Tuần Châu, trước nhập pháp tại chùa Nam lâu, La Phù, núi nầy một nửa ở dưới biển, một nửa trên đất liền, là nơi linh địa lý tưởng của các Tiên Thánh đến ở. Địch nghiên cứu với kinh luận đã lâu, thông hiểu rất nhiều. Bảy lược chín dòng, lại thêm tâm trì nghiên cứu nơi góc biển ở trước bến bãi, nên thường hay có vài vị Phạn tăng ngụ cư hay dừng chân ở đây. Địch học sách và tiếng Phạn do đó mà thông suốt.
Bồ Đề Lưu Chí mới dịch Kinh Bửu Tích, gọi Địch đến kinh thành chứng nghĩa, xong việc trở về Nam, sau nầy ở Quảng châu có một vị Phạn tăng mang một bản kinh trên lá Đa-la đến, thỉnh Địch cùng phiên dịch, thành mười quyển, tên là Kinh Đại Phật Đảnh Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm. Địch ghi chép ý chỉ kinh, sau mới viết lại thành văn bản, xong gởi kinh vào cung. Vào niên hiệu Càn Nguyên năm đầu, có Tam Tạng Bát-nhã Lực người Kế-tân, Bà-La-Môn Tam Tạng Thiện-Bộ-Mạt-Ma người Trung Thiên Trúc, Cố Thất Mật Tam Tạng Xá-Na, cùng mộ hóa vào triều. Vua ban chiếu cho Lực làm Thái Thường Thiếu Khanh, Mạt-Ma làm Hồng Lô Thiếu Khanh, cùng viên ngoại thả về quê cũ. Có cỗ cho rằng họ đều có mang kinh đến, bị Yến Triệu làm trở ngại nên không rảnh phiên dịch, vì thế cho quan phẩm là vinh hạnh.
Thích Mâu-ni Thất-lợi, Hán Dịch là Tịch-Mặc, Sư là người có phong cách cao thượng, độ lượng thẳng thắng. Vào niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ chín đời vua Đức Tông, Sư xuất phát từ chùa Na Lạn Đà đi về phía Đông, tự nói là từ bắc Ấn Độ đến chùa nầy xuất gia, thọ giới, học pháp tại chùa nầy. Năm thứ mười sáu, Sư đến Trường An trụ chùa Hưng Thiện, năm thứ mười chín dời đến chùa Lễ Tuyền ở Sùng Phước, lại về chùa Từ Ân, được thỉnh làm việc phiên dịch, lại đem bản phạn của pháp sư Huyền Trang dịch ra Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà-La-Ni, mười quyển, lại dâng lên vua Lục Trần Thú Đồ, vua vui mừng ban cho tặng phẩm rất nhiều. Ngày 19 tháng 6, nhằm niên hiệu Nguyên Hoa năm đầu, Sư nhập diệt tại chùa Từ Ân.
Tịch Mặc có nói rằng: Chùa Na-Lạn-Đà nước Ma-gi-đà thuộc Trung Thiên Trúc. Với chu vi bốn mươi tám dặm, gồm chín ngôi chùa chỉ có một cửa, là do gọi Thiên vương xây dựng, khi Sư còn ở đây thì chúng tăng ở đây có đến hơn mười ngàn vị, do đại pháp sư Xử Lượng Cương nhiệm. Các chùa vùng Tây vực không nơi nào lớn hơn nữa, theo sự phỏng đoán thì kinh Thủ hộ Quốc giới chủ là do Bát-nhã dịch, Mâu-ni chứng bản phạn, Hàn Lâm đãi Chiếu là Trí Chân chùa Quang trạch tự dịch ngữ, Viên Chiếu ghi chép, Giám Hư nhuận văn, Trừng Quán chứng nghĩa.
Thích Vật Đề Đề sằn Ngư, Hán dịch là Liên Hoa Tinh Tiến. Vốn là người nước Khuất Chi. Tức nước Qui Tư, cũng gọi là Khâu-từ. Gọi đúng là Khuất-Chi, sứ thần nhà Đường vâng lệnh đến nước ấy, cửa thành phía Tây có chùa Liên Hoa. Sư trụ trong chùa nầy, hiệu là Tam Tạng Bí-Sô, với lòng chân thành thỉnh cầu của triều đình, dịch kinh phạn truyền về Đông Hạ, Tiến vui lòng chấp nhận, bèn dịch ra kinh Thập Lực, dùng ba tấm giấy thành một quyển, là về Phật ở tại nước Xá-Vệ nói. Trong vùng An Tây có núi Tiền Tiễn, dưới núi có giàlam, nước nhỏ giọt tạo thành âm thanh đáng yêu, người ở đó hằng năm cùng lúc nhóm các âm thanh đó thành một khúc điệu, cho nên gọi là Da-Bà-SắtKê. Khoảng niên hiệu Khai Nguyên dùng làm tên khúc yết-cổ. Kỹ thuật khó nhất của nhạc công là huơ gậy. Chùa Liên Hoa Tinh Tiến ở gần những giọt nước nhỏ giọt. Kinh ấy do Sa-môn Ngộ Không cùng với kinh Thập địa hồi hướng luân, gồm mười một quyển mang đến vào niên hiệu Trinh Nguyên thỉnh được biên nhập vào tạng, do Viên Chiếu sao lục.
Thích Thi-La-Đạt-Ma, Hán dịch là Giới Pháp, vốn người Vu-điền, học nghiệp thông suốt, giỏi tiếng Hoa lẫn Phạn. Ở trong nước ấy là Đại pháp sư. Vào niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, Ngộ Không về đến Bắc Đình, Bản đạo Tiết Độ sứ Dương Tập Cổ, và chư tăng chùa Long Hưng đến thỉnh Sư làm dịch chủ, dịch kinh Thập Địa. Sư tự mình đọc văn phạn, đồng thời dịch ngữ. Sa-môn Đại Chấn ghi chép, Pháp Siêu nhuận văn, Thiện Tín chứng nghĩa. Ngộ Không chứng văn Phạn, lại dịch kinh hồi hướng luân. Dịch truyện vừa xong, viết chép sắp kết thúc, gặp Bắc Đình tuyên uý trung sứ Đoàn Minh Tú xong việc trở về, cùng với Bắc Đình tấu sự quan Ngưu Hân An, tây tấu sự quan Trình Ngạc, v.v... theo nhau vào kinh, vì Sa Hà không thông, phải đi vòng theo đường xấu, bản phạn được cất lại chùa Long Hưng, chỉ mang bản dịch vào kinh, công việc dịch thuật của Sư mới kết thúc, lại trở về Hoát Đan, Hoát Đan gọi là Vu-Độn là cách gọi của người ở phía bắc thông lĩnh, nếu theo tiếng của năm xứ-Độ là Cù-Sát-Đát-Na, Hán dịch là Nhũ Quốc, cũng gọi là Địa Nhũ.
Thích Liên Hoa, vốn là người Trung Ấn-Độ. Vào niên hiệu Hưng Nguyên năm đầu, Sư chống gậy đến yết kiến vua Đức Tông, xin một cái chuông để đem về Thiên Trúc sử dụng. Vua ra lệnh cho tiết độ sứ Quảng Châu là Lý Phục đúc xong chuông, đưa đến chùa Kim Đôi ở nam Thiên Trúc, Liên Hoa an trí chuông nầy trong tháp Tỳ-lô-giána ở nước Bảo Quân, sau đó lấy phần sau kinh Hoa Nghiêm bằng bản phạn gởi thuyền trở về để làm tin, Tam Tạng Bát-nhã ở tại chùa Sùng Phước dịch thành bốn mươi quyển. Thuyết cho rằng bản Phạn vốn là của nước Ô-Đồ ở Nam Thiên-trúc hiến cho Thiên Tử Trung Hoa. Sách nói rằng: Liên Hoa tự tay viết trăm ngàn bài kệ tụng kinh Hoa Nghiêm nói Đồng Tử thiện tài năm mươi lăm vị thánh, thiện tri thức nhập vào cảnh giới giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận, Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm v.v... kính dâng lên vua nguyện ở trong hội Long Hoa. Phụng cận rằng: vào niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ mười một, đến tháng sáu năm sau, vua ban chiếu phiên dịch tại chùa Sùng Phước. Sa-môn Bát-nhã người nước Kế-tân tuyên đọc văn phạn, ngài Quảng Tế chùa Thiên Long ở kinh đô Lạc Dương dịch ngữ, Viên Chiếu chùa Tây Minh ghi chép. Trí Nhu và Trí Thông sửa văn, ngài Đạo Hằng, Giám Hư chùa Chánh Giác ở phủ Thành Đô nhuận văn, Đại Thông chùa Thiên Phước chứng nghĩa, Trừng Quán và Linh Thúy thẩm định kỹ, thần sách quân hộ quân Trúng Úy Hoắc Tiên Minh tả nhai công đức sứ Đậu văn Trường ghi chép dâng lên, tháng hai năm thứ mười bốn thì giải tòa.
Thích Phi Tích vẻ người cao ngạo, hiểu biết hơn người, ban đầu học luật nghi, sau đối với pháp môn Thiên Thai nhất tâm ba quán. Cùng Sa-môn Sở Kim chuyên tâm nghiên cứu tu tập, lúc đầu dạo chơi chốn kinh thành, thường dừng chân tại chùa Thảo Đường ở ngọn Tử Cách thuộc núi Chung nam, được Bất Không giao cho việc truyền dịch, dần dần làm đảm nhiệm việc ghi chép và sửa văn. Vào ngày rằm tháng 4 thuộc niên hiệu Vĩnh Thái năm đầu đời vua Đại Tông, Sư Vâng Chiếu ở đạo tràng trong cung Đại Minh, cùng mười sáu vị Samôn nghĩa học là Lương Phấn, v.v... tham dự dịch kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát-nhã và Kinh Mật Nghiêm. Trước là vào thời Đa-la diệp, đồng thời là kệ tụng. Người đời nay dịch phần nhiều là văn xuôi. Bất không và Phi Tích, v.v... cùng Hàn Lâm học sĩ Liễu Kháng xét định rõ ràng lại. Phi Tích được bổ sung vào chứng nghĩa, Chứng Viên ghi chép, không hổ thẹn với chức vụ nầy.
Hệ rằng: Phi Tích ngoài việc nghiên cứu Nho Mặc còn được thỉnh soạn luận, như bia Sở Kim, v.v... của Trung Quốc Sư và Tấn Lăng, Đức Tuyên, Ngô Hưng, Trú Công, Đồng Lạp, Quảng Nguyên, không biết mai chết do tay người nào, nhưng Phi Tích và Đức Tuyên cũng có chỗ sơ suất, nguyên cớ là tô điểm quá sự thật, như Trụ Công hợp cùng một thể, trở ngại việc sắp xếp, chỉ là hư và thực không thể cùng ngày.
Thích Tử Lân họ Phạm người làng Đại Phạm, thuộc Càn Phong, Duyên Châu. Cha là Tuấn Triêu không ưa Tam Bảo, mỗi khi gặp chư tăng đứng ngoài cửa liền nhổ nước bọt. Có người hỏi lý do thì trả lời rằng: muốn đuổi đi. Lúc Lân mới vài tuổi thì nảy sinh tâm kính mến Cà-sa, vào những năm đầu niên hiệu Khai Nguyên, luật sư Khánh Tu chùa Quảng Ái ở Đông Đô thường hay giao du với vua Đại tông, đi qua nhà họ Phạm ấy. Lân hiện ra vui vẻ trên gương mặt, cầu xin xuất gia, Sư hỏi rằng: Cha mẹ nói sao? Lân trả lời rằng: Đừng để cha mẹ biết, biết sẽ bị đánh đòn đó, thầy cứ đi trước, con theo sau, luật sư đi khoảng năm dặm, Lân đã theo đến, ở tại chùa học rất dễ mà học đâu biết đó, nên xuống tóc thọ giới gọi là Chí Lân. Đến năm thứ mười một, bổng nhiên nhớ cha mẹ bèn từ giã nhà chùa về quê thăm viếng, cha bị mù mắt, mẹ thì đã mất ba năm rồi. Vì vậy đến nhạc miếu cầu hồn mẹ để biết vui buồn dưới âm ty. Sư ngồi xếp bằng tụng kinh Pháp Hoa, tối hôm ấy, Nhạc thần quả nhiên hiện đến hỏi vì sao mà cầu khuẩn tha thiết như vậy? Lân rằng: Mẹ tôi họ Vương chết đến nay đã mãn tang xin hỏi Đại Vương hiện nay bà ấy ở đâu?
Vương gọi quan sổ bộ tra xét cho hay rằng: bà Vương bị trói dưới ngục chịu khổ.
Lân hỏi: Mẹ tôi tội gì?
Vương nói: Bà ấy lúc sanh Hòa-thượng mà ăn hột gà, lại lấy bạch phó đầu sang nên bị tội như vậy.
Lân khóc lóc cầu khẩn xin miễn.
Vương nói: Hình phạt đã có phần, không có cửa để thả nhưng vì pháp sư xin hãy đến núi mậu lễ tháp vua A-Dục, hoặc giả có thể được tha tội. Lân hỏi đường đi đến Cú Chuông sơn tự, cúi đầu sát đất mà van xin. Lân bỗng nghe tiếng gọi, nhìn thấy mẹ trong đám mây trên bầu trời nói rằng: Nhờ công đức của con nay mẹ đã sanh lên tầng trời Đao lợi nên đến báo tin với con. Bổng chốc biến mất.
Lân sau nầy cầu hiểu kinh luận đến nơi đến chốn. Đạt được tiếng tăm tốt, với tư cách danh tăng, được chọn vào cung nội miệng lưỡi lanh lợi, giỏi về đối đáp, ngự tiền khẩu chiến tự thuật hoàng đạo, áp đảo mọi người được vua ban tử phương bào, vua Đại Tông lên ngôi, lại càng ưa thích Phật, vào niên hiệu Vĩnh Thái, Bất Không dịch lại kinh Nhân Vương Hộ Quốc, Mật Nghiêm, Sư cùng ngài pháp Sùng chùa Thiên Phước, Tuệ Tịnh chùa Tây Minh, Viên Tịch chùa Bảo Thọ, thay nhau chứng nghĩa, cùng Lương Bôn chuốt văn. Không biết Sư qua đời ở đâu. Ngôi tháp trước đây, Sư lễ hiện nay là nên của một am tranh nằm trên ngọn núi tranh ở phía sau chùa A-dục núi Mậu và giếng vẫn còn, giếng thật ra là cái ao vuông, nước xanh mầu bích, rong xanh rờn rợn, những nơi nầy là xa rời với du khách, nhưng lại được ngâm thơ tụng vịnh rất nhiều.
Thích Bát-nhã, người nước Kế-tân. Dáng vẻ khôi ngô, giữ giới nghiêm chỉnh, làm Sa-môn nghĩa học tại kinh thành. Vua Hiến Tông tôn sùng đạo Phật, rất muốn phiên dịch, nhưng lại có chuyện ở Tây thục, Lưu Tịch chống lại mệnh lệnh, vương Thừa Tông chưa bình được, triều đình còn lắm việc. Đến niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ năm, vua ban chiếu cho Triệu công bộ thị Lang, Quy Đăng,
Mạch Giản, Lưu Bá Sô, Tiêu Miễn, v.v... đến chùa Lễ Tuyền, dịch ra kinh tám quyển, hiệu là "Bổn sinh tâm Địa Quán, bản phạn nầy là thời Cao Tông do nước Sư Tử dâng đến. Viết hoàn tất trình lên, vua xem xong soạn cho bài tựa, đặt ở đầu bản, Tam tạng thì ban lụa, các Sa-môn chứng nghĩa đều có tặng thưởng khác nhau. Trước đây, vào niên hiệu Trinh nguyên dịch phần sau của kinh Hoa Nghiêm bốn mươi quyển, đó là cống phẩm của quốc vương Ô-Đồ. Lúc ấy, đã ban y tía, sau nầy đại sư Pháp Bảo thỉnh tấu nhập vào Tạng kinh.
Thích Ngộ Không, người ở Vân Dương thuộc Kinh Triệu, họ Xa, cháu xa của Thác Bạt Hậu Ngụy, Thiên tính thông minh lanh lợi, ham thích học sách vở, lòng hiếu thảo có tiếng trong thôn xóm. Đức của vua Huyền Tông khắp đến phương xa. Nước Kế-tân nguyện phụ thuộc vào Đại Đường. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ chín vua sai Đại thủ lĩnh Tát-bà-đạt-cán cùng Tam Tạng Xá-lợi đến việt-ma triều đình thình sứ tuần án. Năm sau, vua ban sắc cho các Trung sứ Trương Đạo Quang, đem quốc tín hành và hơn bốn mươi vị quan đến công cán tại Tây Vực. Lúc ấy, Ngộ Không chưa xuất gia, triều đình phong chức Tả vệ kinh Châu
Tứ Môn phủ biệt, tướng lệnh tùy xứ từ Tây An lên đường, đến năm thứ mười hai, tới nước Kiện-ĐàLa là thành phía đông của Kế-tân Quốc vướng làm lễ tiếp đón sứ Đường. Đoàn tiếp tục lên đường. Sư bị bệnh nên ở lại Kiện-Đà-La, trong lúc bệnh có phát nguyện hết bệnh sẽ xuất gia, bèn vào Xá-lợiViệt-ma xuống tóc, hiệu là Đạt-Ma-Thác-Độ, Hán dịch là Pháp Giới, bấy giờ là niên hiệu Chí Đức năm thứ hai đời vua Túc Tông, đến năm thứ hai mươi chín thì Sư thọ giới cụ túc ở nước Cá-ThấpDi-la, Văn-thù-Thỉ-Niết-Địa làm thân Giáo sư. Ổ-
Bất Sằn Đề làm yết-ma A-già-lợi, Đà-Lý NgụyĐịa làm Giáo hạ. Ở chùa Mông Đề, nghe giới luật, học luật nghi căn bản, nhưng bắc Thiên Trúc đều học Tát-bà-đa, sau nầy đi du lịch vài năm chiêm ngưỡng tám ngôi tháp, vì nhớ người thân quê nhà, nên cầu khẩn Bổn sư Xá-lợi-Việt-Ma, hai ba lần chấp thuận. Ma tự tay trao cho bản Phạn ba kinh Thập địa, hồi hướng luân, và Thập Lực. Cộng chung là một hòm, cùng với Xá-lợi răng Phật làm tặng phẩm lúc chia tay. Sư đi từ đường phía bắc đến nước Đổ-Hoá-La. Trong năm mươi bảy phen chỉ có một ngôi thành hiệu là thành cốt xuất quốc, quả có biển nhỏ. Sư vòng xuống phía Nam, đất cát bỗng dao động, mây đen mưa to sấm sét rầm rộ, bèn chạy đến một gốc cây lớn, lúc nầy có rất nhiều người buôn bã đến đây, chủ buôn cho mọi người biết rằng: "Có ai mang Xá-lợi Phật hay dị vật chăng?", bằng không sao mà thần rồng nổi giận như thế. Ai có thì hãy vất xuống biển đi chớ nên gây cho mọi người sợ hãi, nếu cất giấu thì phải gánh lấy hậu quả đó. Sư vì mang Lợi ích cho đông Hạ (Trung Hoa) nên khẩn cầu thần rồng thứ lỗi cho. Vì vậy mà trận mưa từ sáng sớm đến chiều tối mới được tạnh. Đến Qui-tư trụ tại chùa Liên Hoa gặp Tam Tạng pháp sư Vật-Đề đề Sằn-Ngư, giỏi về truyền dịch, vì vậy Sư đem hộp kinh Thập Lục thỉnh Ngài phiên dịch, tầm đến bắc đình đại sứ phục mệnh. Sư đưa ra bản phạn. Vu-Điền Tam Tạng Giới Pháp là dịch chủ. Sư là người chứng văn Phạn và độ ngữ, dịch xong kinh Thập Địa, Hồi Hướng Luận, xong việc, theo Trung sứ Đoàn Minh Tú. Vào niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ năm đã đến kinh thành, được an trí tại sứ viện Dước Long Môn, dâng lên Xá-lợi răng Phật và kinh bản, vua giao cho tả thần sách quân biên chép, công đức sứ Đậu văn Trường, viết xong trình lên, sắc phong Không Tráng Vũ tướng quân Thí Thái Thường Khanh. Sư trở về chùa Chương Kính, kế trở về Vân Dương, thăm phần mộ cha mẹ, vì từ khi rời nhà đến nay đã bốn mươi năm, lúc nầy tuổi đã sáu mươi mấy, phiên dịch được ba bộ kinh, gồm mười một quyển, đều được biên vào kinh tạng.
14. Truyện Mãn Nguyệt ở Kinh đô, Đời Đường:
(Trí Tuệ Luân).
Thích Mãn Nguyệt, người Tây Vực, vì đến Trung Hoa với mục đích chính là phiên kinh truyền đạo. Pháp môn Du-già nhất đều quán luyện đã đạt được nhiều thần hiệu, được chúng khâm phục. Khoảng niên hiệu Khai Thành Sư tiến dâng bản Phạn, gặp lúc ngụy Cam lộ đi chưa trở về, triều đình chưa phục hồi được kỷ cương, không rảnh phiên dịch. Giữa lúc nầy, Quốc Sư Ngộ Đạt Trí Huyền ưa học Thanh Minh, Lễ Nguyệt làm thầy, tình cảm qua lại, chỉ dạy chữ Phạn và duyên giới của âm chữ, tiết-đàn tám chuyển mà được ý thú sâu xa.
Huyền nói: Lạ thay! Ta biết ngôn ngữ của đôi bên, vì vậy được mời phiên dịch các cấm chú, bèn cùng với Bồ-tát Phược-Viết Kim Cương Thức Địa dịch lại Đà-La-Ni tập bốn quyển. Lại Phật Vì TỳTuất-Đà Thiên Tử nói kinh Tôn Thắng một quyển, ghi chép rõ ràng ba lần ý Phật. Ở đây trước đã có Đà-La-Ni tập mười hai quyển, bốn quyển mới biên chưa được vào tạng. Sư bất ngờ nhập diệt, tiếp theo có Tam Tạng Bát-nhã-chước-ca, Hán dịch là Trí Tuệ Luân, cũng là người Tây vực, thực hành pháp Đại-Mạn-Noa-La, đã thọ quán đỉnh làm A-xà-lê, giỏi về phương ngôn, thông về mật ngữ, mang căn bản của Phật pháp tức Đà-La-Ni, y cứ vào Tỳ-lôgiá-na, sanh ra vô biên pháp môn, người học tu giới định tuệ lấy làm tổng trì giáp thành, là pháp quan trọng nhanh chóng không gì hơn. Lại nói lời chỉ dạy gồm hơn mười lời, đều là then chốt của đại giáo, truyền cho đệ tử Thiệu Minh. Vào niên hiệu Hàm Thông khắc bia ghi truyện.
(Chính Truyện Hai Mươi Mốt vị, Phụ thêm Bảy vị).
Thích Khuy Cơ, tự Hồng Đào, họ Úy Trì, người ở Trường An thuộc Kinh Triệu, trước Úy Trì thì cùng Hậu Ngụy đồng khởi, hiệu là Úy Trì Bộ, như các nước chư hầu ngày xưa ở Trung Hoa, sau khi nhập vào nội địa, lấy tên của bộ tộc làm họ. Ngụy Bình Đông tướng quân nói rằng: cháu sáu đời là Mạnh Đô sanh La Ca, là châu tây trấn tướng đời Tùy, là ông nội của Khuy Cơ Húy là Tông, Tả Kim Ngô tướng quân đời Đường, Tùng Châu Đô Đốc, Giang Do Huyện, Khai Quốc Công, Ngạc Quốc Công Đức là những người cha. Đường thư có ghi truyện, mẹ Bùi Thị đêm nằm mộng thấy nuốt mặt trăng mà có thai, thời thơ ấu Sư khác hẳn với các đứa trẻ khác, tụng tập thuộc lòng sáng suốt như thần. Trang sư trên bờ ruộng thấy Sư mặt mày sáng sủa khôi ngô, thật không sai là giòng giống của nhà tướng, vì vậy mà cố tình tranh thủ thâu làm đệ tử.
Người cha nói: Đứa trẻ thô xẵng này, làm sao dạy dỗ được. Trang sư nói: Khí độ nhân tài này, ngoài tướng quân chẳng sanh, ngoài ta chẳng hiểu.
Người cha tuy chấp nhận lời thỉnh cầu của đại sư Huyền Trang, nhưng Khuy Cơ lại chống đối mạnh mẻ, yêu cầu phải chấp nhận ba điều kiện mới chịu xuất gia. Một: Không dứt bỏ tình dục, Hai: được ăn đồ máu tanh, Ba: Ăn quá giờ ngọ. Trang Sư vì muốn nắm bắt cho được, nên giả vờ chấp nhận. Cơ sau này mỗi khi đi đâu, đều phải có ba xe, một chở người đẹp cùng thức ăn, một chở kinh kệ và một tự ngồi, gọi là Tam xa Hòa-thượng.
Niên hiệu Trinh Quán năm thứ 22, Khuy Cơ tự làm lời tựa rằng: Chín tuổi mất mẹ, ưa vui chơi, nhưng về chuyện ba xe, đó là chuyện đùa ngoài đời thôi. Năm mười bảy tuổi tham dự việc tu hành, bái Trang sư làm thầy, ban đầu ở tại chùa Quảng Phước. Có lệnh tầm người thông minh sáng suốt, vào chùa Đại Từ Ân hầu hạ Trang sư, học tiếng năm xứ Thiên Trúc, giải quyết thắc mắc, mở lối rành rẽ, mọi người nghe đến đều thán phục. Gồm một trăm Kiền-Độ-Bạt-Cừ, hễ nhìn qua thì đọc không sai. Tuổi hai mươi lăm, vâng theo chiếu vua dịch kinh, giảng thông suốt Đại Tiểu Thừa giáo hơn ba mươi quyển, còn chuyên cần để ý về soạn thuật, sớ có trên trăm bản. Trang sư dịch Luận Duy Thức, ban đầu Sư và bốn người cùng làm việc cầm bút nhuận văn, xem xét ý nghĩa, vài hôm sau, Cơ xin rút lui. Trang sư hỏi tại sao?
Sư trả lời rằng: Đêm mộng thấy kim dung, sáng sớm cỡi ngựa trắng, tuy được cặn bã của pháp môn, nhưng mất chỗ thuần túy của nguồn mầu, không nguyện lập công lẫn lộn, nếu ý thành một bản, chịu trách cũng có chỗ trở về.
Huyền Trang chấp nhận sự yêu cầu của Sư. Dùng lý trách ba vị Hiền chỉ có Khuy Cơ, đây là lượng tài mà trao trách nhiệm. Lúc ấy, vừa phụ trách công việc soạn lục, vừa giảng sớ, không ngờ Pháp sư Trắc ở chùa Tây Minh cũng là người tài giỏi. Ở trường giảng Luận Duy Thức mua chuộc người canh cửa để lẻn vào nghe lén, nghe sơ qua mạch lạc, đã mấy lần tập hợp chúng tăng ở chùa Tây Minh giảng về kinh nầy. Cơ nghe hổ thẹn phải tuột hậu, trong lòng không được vui.
Tranh sư an ủi rằng: Trắc công soạn sớ chưa đạt Nhân minh, mà giảng luận của Trần-Na. Cơ rất giỏi về tam chi, ngang dọc lập phá, thuật nghĩa mạng chương, trước giờ không ai sánh bằng. Cơ thỉnh Trang sư giảng Luận Du-già cho riêng mình, lại bị Trắc Công nghe trộm về giảng trước. Trang sư nghĩ rằng: Ngũ tánh tông pháp chỉ có ông mới thông hiểu, người khác không hiểu đâu.
Sau nầy Sư tự mình đến núi Ngũ Đài, lên Thái hành, đến ngôi chùa Cổ Phật ở Tây Hà, đêm mộng thấy thân mình ở giữa sườn núi. Nghe dưới hang núi có vô số người than vãn kêu khổ, bèn đi từng bước mà xem, đều là mầu pha-lê, nhìn thấy một ngôi thành, có tiếng gọi ra rằng: dừng lại, dừng lại Khuy Cơ chưa nên đến đây. Có hai thiên đồng từ trong thành chạy ra hỏi rằng: Ngài nhìn thấy chúng sanh tội khổ dưới núi chăng?
Sư đáp: Ta chỉ nghe tiếng mà không thấy hình. Đồng tử trao cho lưỡi kiếm nói rằng: Ngài mổ bụng ra sẽ thấy.
Sư tự mổ bụng ra, có hai tia sáng rọi xuống dưới núi, nhìn thấy vô số người đang chịu những cảnh rất khổ, lúc này đồng tử vào thành lấy hai cuộn giấy và bút trao cho Sư, Sư nhận lấy. Đến sáng thức dậy, suốt đêm qua trong chùa có ánh sáng, rất lâu mà không tắt, dò ra mới biết phát ra từ gáy một cuốn sách, đó là Kinh của Di-lặc Thượng Sanh, bèn nhớ lại những cảnh tượng trong mộng, ắt phải do Từ thị ban lệnh cho ta, soạn sớ thông sáng quyết lý, ban cho cây bút, trên ngọn có gắn mười bốn hạt Xá-lợi, màu hồng đáng yêu.
Có thuyết nói rằng: Sư đến Thái Nguyên truyền pháp mang theo ba xe: xe trước chở kinh kệ, xe giữa tự ngồi, xe sau chở kỹ nữ và thức ăn, trên đường gặp một ông lão, hỏi rằng: Xe chở người nào?
Gia quyến.
Hiểu pháp tinh thâm như vậy mà mang theo gia quyến sợ rằng không hợp.
Sư nghe vậy, lập tức ăn năn những điều sai trái trước đây, bèn tự đi một mình. Ông lão ấy tức Bồtát Văn-thù, trên đây cũng là lời nói dựa theo thời thế mà thôi, thử hỏi lúc theo Trang sư ở tại Cung Ngọc Hoa, giữa lúc tham gia phiên dịch, ba cỗ xe ấy để ở đâu nhỉ? Sư hóa độ tùy nơi, người được lợi ích rất đông, phía đông đi đến Bắc lăng, được thỉnh giảng kinh Pháp Hoa, còn soạn đại sớ, mỗi khi về đến bổn tự, thường hay tới lui với đồng nghiệp cũ, thường đi yết kiến Tuyên luật sư, mỗi khi có sứ giả của Thiên vương đến làm việc, Sư thường hay lẩn tránh, hôm sau mới đến, Tuyên trách trễ nải.
Sư trả lời rằng: Vừa rồi Bồ-tát Đại thừa ở đây, thiện thần theo hầu quá đông, con vì bị thần thông cản trở, đành phải vậy thôi!
Niên hiệu Vĩnh Thuần năm đầu, Sư cáo bệnh, đến ngày 13 tháng 11, Sư qua đời tại Phiên kinh viện chùa Từ ân, thọ năm mươi mốt tuổi, an táng tại Bắc cừ ở làng Phan, dựa bên cạnh mộ của Huyền Trang, đệ tử thương xót vô cùng, trong đám táng mang tang trắng đen đầy sơn cốc.
Lúc còn sống, Sư thường mạnh dạn tạo tượng Di-lặc, đối trước tượng nầy hằng ngày tụng giới Bồ-tát một biến, nguyện sanh Đâu-suất, khắp mình bèn phát ánh sáng rực rỡ, lại còn ở núi Ngũ Đài tạo tượng Bồ-tát Văn-thù, bằng đá trắng, viết kinh Bátnhã bằng chữ vàng xong cũng phát ra ánh sáng lạ, đệ tử nối nhau tôn thờ Sư làm chiết trung, xem như Huyền Trang vậy. Vào tháng 7 niên hiệu Thái Hòa năm thứ 4, dời tháp xuống đồng bằng, Sa-môn chùa Đại An Quốc cho kiểm soát lại tháp đình, phát hiện hàm răng bốn mươi cây vẫn còn nguyên vẹn, trắng như ngọc, mọi người cho rằng là một tướng của Phật! Nay các chùa Phật trong nước đều hạ có đồ hình, gọi Sư bằng hiệu: Bách bản sớ chủ chân. Cao Tông đại đế soạn bài tán rằng: Huyền Tông hoàng đế nhưng cơ khôi ngô đường đường có chí khí thế oai hùng, với tâm từ bi cưu giúp. Dạy người không mệt mỏi. Đó là biểu tượng tự thiên nhiên. Sau khi Sư yên nghỉ, chung quanh quay vòng gấm vóc, đầu kê gối ngọc, khuôn mặt hùng vĩ, hai tay chéo lại, ngón như ấn khế. Sau khi nhập diệt có nhiều tên gọi khác nhau, trong Từ Ân truyện có ghi rằng: Vào niên hiệu Long Sóc năm thứ ba, Huyền Trang dịch xong kinh Bát-nhã tại cung Ngọc Hoa, ngày 22 hai tháng 11 năm ấy, gọi Đại Thừa Cơ dâng biểu thỉnh vua soạn chế lời tựa, đến ngày mồng 7 tháng 12 thông sự Xá nhân Mã Nghĩa tuyên, do vậy nên nói: Linh Cơ khai nguyên Lục là Khuy Cơ, nếu gọi Thừa Cơ là sai, gọi Đại Thừa Cơ ấy, là do Tuệ lập Ngạn Tông, không hoàn toàn bác bỏ là: Đại Thừa Cơ, nghe không được suôn tai, nên gọi là Thừa Ân pháp sư.
Thích Đạo Thế tự Huyền Uẩn, họ Hàn, tổ tiên là người Y Quyết. Đời ông nội làm quan tại kinh Triệu. Lúc mới sanh thì khù khờ nhưng dần dần thông minh, thường ghét cát, hay cứu giúp loài kiến, được cha mẹ yêu chuộng, năm mười hai tuổi, Sư xuất gia tại chùa Thanh Long. Từ chấp đức bình, nghiên cứu luật Tông, tìm đọc sách vở, đặc biệt ham mộ thượng thừa, sáng tỏ thật tánh. Vào niên hiệu Hiển Khánh, kinh luận của Huyền Trang chưa được chiếu đem vào cung, các đại đức chùa Từ Ân thay nhau hành đạo, Sư cũng dự tuyển. Hoàng Thái tử xây chùa Tây Minh, vì Sư mặt mũi xuất chúng nên được tuyển chọn. Lúc luật sư Đạo Tuyên đương hành luật, Sư dựa theo dự thính, đồng đuổi theo xe năm bộ, cùng dẫn dắt khuôn phép cho ba thừa, cho là xưa nay nhiều người chế tác nối nhau, tuy nhã thú đẹp nhưng từ chưa đủ để làm truyện ký, vì nắm lấy văn vẻ, ngửi đại nghĩa mà ngưỡng phục, y cứ vào loại biên lục mà gọi là Pháp Uyển Nghĩa Lâm, tổng cộng có một trăm thiên, đóng thành mười pho, bắt đầu từ kiếp lượng, kết thúc là tạp ký. Các bộ đều có bài tựa riêng, để người đọc dựa theo từng môn, từng bộ mà tìm, cũng như đề cương vậy. Sự dụng tâm của Sư tròn mười năm, đến niên hiệu Tổng Chương là hoàn tất, do Lan Đài Lang, Lý Nghiêm soạn lời tựa, lại tiếp tục biên soạn Thiện Ác Nghiệp báo và Tín Phước luận, gồm hai mươi ba quyển. Đại tiểu thừa thiền môn quán, và Đại Thừa quán, gồm chung mười một quyển, thọ giới nghi thức, Lễ Phật nghi thức gồm sáu quyển. Tứ Phần Luật Thảo Yếu năm quyển, Kim Cương kinh Tập Chú ba quyển. Tất cả mười bộ một trăm năm mươi ba quyển. Sư có rất nhiều trước thuật. Không biết Sư mất ở đâu, tên gọi để tránh với miếu vua Thái Tông là Đa Hạnh, nên người đương thời là Huyền Uẩn.
Thích Phổ Quang, tính thông minh, xin theo thờ Tam Tạng Huyền Sư, lòng siêng năng hơn mọi người, đến khi trí tuệ khai thông có thể ví dục với tuần hoàn, nghe ít mà chứng nhiều, Trang sư đã âm thầm chấp nhận. Chưa tham gia phiên dịch, tiếng tăm đã nổi, có thể sánh bên cạnh với Tam Tạng. Huyền Trang, ý nghĩa của Câu-Xá cổ có nhiều thiếu sót, tự mình đem bản Phạn dịch lại, theo trí nhớ truyền lại cho Quang, phần nhiều là dựa theo truyền nghĩa của Tát-Bà-Đa, sư Quang vì trước sớ giải phán rằng: Sớ ấy xoay vần lại lược ra mười quyển, Sư lại thường hay theo Trang sư đến cung Ngọc Hoa dịch kinh Đại Bát-nhã, công cán đóng góp rất đáng khen. Lúc ấy, được gọi là Đại Thừa Quang. Kể từ Trang sư sáng lập dịch ký cho đến viên tịch tại Cung Ngọc Hoa trọn hai mươi năm, dịch ra kinh và Luật luận Đại Tiểu Thừa gồm bảy mươi lăm bộ, tổng cộng là một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển. Bảy, tám phần là do chính tay Phổ Quang ghi chép.
Thích Pháp Bảo, cũng là đệ tử tài giỏi học pháp của Tam Tạng Huyền Trang, tính lanh lợi, Trang vừa dịch xong Luận Bà-Sa. Sư có thắc mắc, xin thầy chỉ dạy. Huyền Trang riêng dùng mười sáu chữ riêng nhập vào luận để ngăn từ khó. Sư thưa với ngài Huyền Trang rằng: hai câu, bốn câu nầy là có hay không trong bản Phạn? Huyền Trang nói: ta lấy nghĩa ý châm chước theo tình mà làm.
Sư nói: Thầy có nên bớt phàm ngữ mà thêm Thánh ngôn lượng chăng?
Huyền Trang: Điều này không được, ta đã biết. Kể từ đấy, Sư hiên ngang lên xuống trong cửa của Huyền Trang, đến lúc làm Lục Ly hợp thích nghĩa và tông Câu-Xá lấy Sư làm định lượng vì Quang sư thường hay cùng các thầy Ca-thấp-di-la và Lễ ký sửa chữ, giữa lúc ấy Quang và Sư là ánh sáng của thập môn. Sau này Sư tham dự dịch trường của Nghĩa Tịnh, cùng với Pháp tạng, Thắng Trang làm chứng nghĩa, lúc này Sư rất nổi tiếng.
Thích Viên Trắc thuở nhỏ thông minh, trí tuệ mở mang, Tam Tạng Huyền sư giảng luận Duy Thức mới dịch cho Khuy Cơ nghe thì Viên Trắc mua chuộc người canh cửa cho vào nghe lén, lúc trở về gom góp thành nghĩa chương, ở chùa Tây Minh đánh chuông nhóm họp tăng chúng lại cũng gọi là giảng Luận Duy Thức; đến khi Trang sư giảng Du-già, thì Sư cũng nghe trộm như lúc trước, rồi cũng về giảng lại. Thời Thiên Hậu, Sư được chọn vào Dịch Kinh Quán và dịch kinh Đại Thừa Hiển Thức. Sư đảm nhiệm chứng nghĩa và soạn Duy Thức Sớ Sao, giải thích tỉ mỉ kinh luận, phân bố lưu hành trong nước.
Thích Nguyên Khang vào niên hiệu Trinh
Quán du học ở kinh ấp, hình dáng mập mạp mà lùn, tính mạnh mẽ, nghe ít hiểu nhiều, được cùng trang lứa tuổi kính nể, ban đầu ở nơi sơn dã, kiên trì tụng kinh Quán Âm Bồ-tát để cầu thêm trí tuệ.
Sư cảm nhận con nai có cặp sừng chia ra tám nhánh, hình thù thật tuyệt vời, dùng tay vuốt ve mà tuần phục, bèn nuôi dưỡng nó, để cỡi đi xa, chưa hề thấy nó mệt mỏi. Sư dùng văn Tam luận chất lên lưng nai, lại mang theo chiếc xe nhỏ cột theo sau đuôi. Kéo vào kinh thành, ý muốn làm trò đùa cho kẻ chưa đạt được tánh không, để xe ta cán cho ngộ chân lý.
Có một nông dân mặc áo vải đang cày ngoài ruộng, đâu đội nón tre, rộng một trượng hai, ăn mặc kỳ lạ như vậy làm cho người qua đường dừng lại nhìn. Vào kinh thành gặp một Pháp sư đang tập giảng kinh hóa đạo, Sư đến gần bên tòa, bèn y theo nghĩa đã giảng mà hỏi lại đến mấy trăm lời, mọi người đều kinh ngạc vì Sư có biện tài hay như thế. Sư đùa với Pháp sư rằng: Đào ngọt không đậu trái, lý chát mà trái oằn nhánh.
Pháp sư nói: Luân vương ngàn người con, ông cụ ở ngõ cụt chẳng có con cháu, hàm ý là nói Sư không có đồ đệ.
Sư nói: Tạng của Đan là màu đỏ, Tạng của tất là mầu đen, màu đỏ của thầy chẳng phải là đỏ, màu đen của thầy cũng chẳng phải là chì hay mực. Mọi người đều cho rằng: từ Lý rõ ràng, chẳng phải Đại sĩ thùy tích đó sao? Nhà vua nghe vui mừng nói rằng: Đời nào mà chẳng có người ấy, bèn vời vào chùa An Quốc, giảng Tam luận này, lại soạn sớ giải về lý của Trung quán, lại soạn riêng Huyền Khu hai quyển, nói chung về tôn chỉ của Trung Bách môn, sau Sư mất ở đâu không rõ.
Thích Tĩnh Mại người ở Tử Đồng, lúc còn bé đã giữ lấy ý chí thanh cao, đặc biệt nghiên cứu về kinh luận, tính khí trầm lặng, không thích vui chơi bè bạn, du hành thì phải chọn nơi, vì vậy mà đến kinh thành.
Vào niên hiệu Trinh Quán, nhằm lúc Huyền Trang tứ Thiên Trúc trở về, vâng lệnh Thái hậu Thái Mục xây dựng chùa Quảng Phước ở kinh đô để phiên dịch kinh sách, cần phải mời một số đại đức rành về các kinh luận đại tiểu thừa, rốt cuộc chọn được mười một vị, Sư cũng được chọn ở tại chùa Từ Ân cùng với Thê Huyền chùa Phổ Quang,
Minh Duệ chùa Quảng Phước, Biện Cơ chùa Hội
Xương, Đạo Tuyên chùa Phong Đức núi Chung Nam, cùng chấp cầm bút ghi chép, phiên dịch kinh bản sự bảy quyển. Sau, Sư Thần Phưởng ghi chép tại cung Ngọc Hoa, sau Sư soạn Dịch Kinh Đồ Kỷ bốn quyển, chú thích kinh mục xưa nay, người dịch, đơn vị, dịch lại hoặc nghi vấn v.v... đều được nhập vào kinh tạng.
Thích Thuận Cảnh người ở Quận Lãng, chú trọng về dịch học, nghe kinh, đó là xuất phát từ lẽ thiên nhiên, huống gì môn học Nhân Minh, Huyền Trang tinh nghiêm dạy lại, tăng ni người Hoa chưa đạt được nhiều, mà Sư đã được thông suốt, nếu không nhờ nhân duyên kiếp trước thì làm sao đạt được như vậy. Sư tiếp nhận được chân duy thức lượng của Huyền Trang bèn quyết định trái với bất định luân: Vì Chân nên cực thành sắc, định lìa nhãn thức, tự chấp nhận ba nhiếp đủ, vì không thuộc về nhãn cho nên giống như nhãn căn. Khéo dùng Tam tạng ẩn mật châu phòng, không rời nơi nhãn thức, như vậy khéo thành nghĩa khác. Lúc ấy, khuy có xem tác phẩm Đại thừa, nhận thấy những điều Sư còn chưa hiểu, mặc dù dựa theo kiến thức bên ngoài như vậy, nên than rằng: pháp sư Thuận Cảnh người Tân-la nổi tiếng ở Đại Đường và nước Phiên, học gồm Đại tiểu thừa, Nghiệp tôn sùng theo Ca-diếp, chỉ chấp hành nơi Đổ Đa, tâm ưa đơn giản, nổi tiếng nhờ ít muốn, đã ẩn nghề ở Tây Hạ mà truyền rọi đến phương Đông, tiếng tăm ngày càng nổi bật, thật là đáng nể. Bên ấy tuy là người tài không hiếm. Nước ngoài gọi là độc bộ, mà làm thì quyết định trái ngược với lượng trên đây.
Khuy Cơ nghĩ rằng: Người nước ngoài có trí tuệ lợi hại này mà gặp Ngài Huyền Trang, ngấm ngầm cơ phát khéo thành Tam Tạng.
Tiếc thay! Sư ở tại nước mình có khá nhiều tác phẩm, cũng có truyền đến Trung nguyên, dựa theo gốc Đại thừa pháp tướng liễu nghĩa giáo, xem trong kinh Hoa Nghiêm, bắt đầu từ phát tâm thành Phật mà thôi, bèn nẩy sanh phỉ báng không tin, có chỗ nói: Đang giơ tay, giơ chân gọi các đệ tử thì té xuống đất, dưới mặt đất từ từ nứt ra, bấy giờ thân còn sống mà đã đọa vào địa ngục. Nay vẫn còn lỗ rộng một trượng mấy. Thật đáng đau buồn gọi là Thuận cảnh Nại-Lạc-Ca.
Hệ rằng: Khúc sĩ không thể lấy lời nói mà bó buộc giáo. Vì người thích mầu trắng thì cho mầu đen là dơ, người thích mầu đen thì cho là mầu trắng dơ bẩn. Sư vì lòng sân mộ quá nặng, nghiệp mạnh mẽ tăng thêm, như bắn tên chốc lát rơi vào địa ngục, vậy sắp hạng cao tăng lấy vì dơ bẩn mà tự cho là tự thối hay sao? Pháp khó tin thì dễ mau hủy báng, hủy báng đâu chỉ một người, mà còn làm cho những người chịu ảnh hưởng đều rơi thẳng xuống ba đường, cho nên biết Thuận Cảnh là Bồ-tát Chân Hiển Giáo, huống hồ Triệu Thuẫn vì pháp mà chịu ác. Bồ-tát vì pháp mà vong thân, đây đâu có gì là lạ. Ngài chẳng thấy ngoại đạo Ni-kiền mỗi mỗi chỉ trích Phật, khiến cho Đề-bà bị hãm sống, sau nầy trong hội Pháp Hoa được thọ ký thành Phật, các ngài hãy lẳng lặng mà suy nghĩ.
Thích Gia Thượng. Tuệ tính thiên tư, khí chất uy kỳ, siêng năng tiến tu, mục đích là phiên dịch, xa gởi tâm nơi cửa Tam Tạng Huyền Trang, khảo cứu Du-già-địa sư và luận Phật Địa, nắm được nghĩa sâu của Luận Duy Thức. Theo Huyền Trang dịch kinh Đại Ba-nhã tại Cung Ngọc Hoa, phụ trách bổ sung chứng nghĩa và sửa văn, thể hiện rất xuất sắc, đến khi Tam Tạng bị bệnh, Tam Tạng sai Sư ghi chép đủ kinh luận Phiên dịch gồm bảy mươi lăm bộ, tổng cộng một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển, lại ghi chép tượng vẽ câu-chi một ngàn tấm, tạo mười pho tượng câu-chi, trong viết kinh phóng sanh, đốt đèn bảo Sư tuyên đọc. Trang chấp tay vui vẻ nói: Lòng ta toại nguyện rồi, người thay ta mà dẫn dắt thì không làm thất vọng đâu. Trang mất, có soạn sớ sao rất nhiều, bạn cùng môn cũng đông. Thời kỳ Thiên Hậu, Bạc trần Linh Biện v.v…, Dự dịch Trường chứng nghĩa, công đức chứa nhóm càng thịnh. Sư ban đầu theo hầu Huyền Trang dịch kinh tại cung Ngọc Hoa, đến hội đầu phẩm Nghiêm Tịnh Phật độ nói các Đức Phật, Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông đựng mọi đồ quý trên thế giới Đại Thiên cùng các bông hoa thơm cùng năm trần do ý vui sanh ra mà cúng dường trang nghiêm nơi nói pháp. Cùng tự chủ là Tuệ Đức, ban đêm thấy kỹ nhạc Nghiêm tịnh rộng rãi đầy đủ, lại nghe tam đường giảng pháp, hôm sau bạch lại với Trang, vui mừng phù hợp, không biết Sư mất ở đâu?
Thích Tuệ Chiểu, tuổi nhỏ đã lanh lợi, bắt đầu vào trường học, tụng tập đều thông suốt, đến khi nhập pháp tu thân thì không trái phạm giới luật, được thời ấy gọi là "Chiểu-xà-lê", kế là chuyên học kinh luận, có tài phiên dịch truyện.
Từ khi Tam Tạng Huyền Trang về kinh, Sư thường hay để ý những chỗ sâu xa, sau nầy được gần gũi Đại thừa Cơ, lại càng hăng hái, đến khi BồĐề-Lưu-Chí ở chùa Sùng Đức dịch kinh Đại Bửu Tích. Chiểu được chọn làm người chứng nghĩa, do pháp sư Thắng Trang người Tân-la ghi chép. Các Sa-môn có đại nguyện ngoài trần đều là những người tài ba một thời. Lúc ấy, Vũ bình Nhất được sung làm sứ. Lư Tạng cùng Lục Cảnh Sở làm tổng quản. Trung thư Thị Lang Thôi Thị Nhân hành hương đến phiên kinh Viện, than rằng: Các Thanh lưu đều ở đây cả, đâu nên cách ngại nhau, vì vậy tấu thỉnh cùng tham gia nhuận sắc tân kinh, lúc ban đầu Sư chứng nghĩa tại dịch trường Nghĩa Tịnh, phần nhiều là đính chính sai lời, lệch nghĩa, đều vâng theo chỉ định, không được vượt mức, sau nầy tự biên soạn các nghĩa sớ, hiệu là Tri Châu Chiểu.
Thích Ngạn Tông, cầu pháp với Tam Tạng pháp sư, nhưng tài không bằng Quang Bảo, học tập khắp nơi. Về huyền học, và Nho học thì rất tinh vi, văn bút vượt hơn đồng bạn. Có Sa-môn Ngụy Quốc Tây tên Tuệ Lập, tánh khí ngạo mạn, lấy việc hộ pháp coi là nhiệm vụ của mình, soạn truyện năm quyển. Chuyên ghi về việc Tam Tạng trên đường đi Tây vực, trải qua sự nguy hiểm và khó khăn, v.v... Hiệu là Từ Ân truyện, lấy tên chùa làm tên sách, lại đặt lời cuối cùng ở sau sách rằng: Vì ngại còn sót những cái hay, nên chôn cất dưới đất, đến khi sắp chết, mới gọi đệ tử đào đất lên. Bản gốc ấy mấy năm lưu lạc, nhưng tìm mua trở lại được, các đệ tử sai Mạng Tông theo thứ lớp sắp ra, lời tựa dẫn mà văn chưa chấp nhận, hoặc còn thiếu kém, phải nêu rõ lại, được gọi là Tiên thuật, có lời hỏi rằng Ngài và Tùy Ngạn Tông quan hệ thế nào?
Trả lời rằng: Đâu dám so với người đời xưa, chỉ là lòng kính mến như nhau nên lấy biệt hiệu giống nhau mà thôi.
Có thơ rằng: "Nói nhớ quân tử, ấm êm như ngọc, tự cho là bậc sĩ cao đẹp, mà người có chấp nhận vậy chăng?" Không biết Sư qua đời ở đâu.
Thích Nghĩa Tương, họ Bộc, người Phủ Kê Lâm, lúc nhỏ tuấn tú dễ thương, lớn lên xuất gia, tiêu diêu nhập đạo, thiên tánh hồn nhiên, lúc tuổi lên đôi mươi, nghe xứ Đại Đường giáo tông hưng thạnh, nên cùng với Pháp sư Nguyên Hiểu đồng lòng đi về phía Tây, đến cửa biển, ranh giới của Đường châu, định đi thuyền lớn để vượt biển, bỗng bị mưa dầm trên dọc đường, bèn ở lại cái khám nhỏ bên lề đường để đụt mưa, đến sáng nhìn lại, thì ra là ở bên hài cốt của ngôi mộ cổ, trời vẫn còn mưa dây dưa không ngừng, khắp nơi đều là bùn lầy, khó mà bước chân, đành phải ở lại trong lò gạch, đêm chưa khuya đã có quỷ quái xuất hiện. Nguyên Hiểu than rằng: Đêm qua ở nơi mồ mã mà lại yên thân, đêm nay ở nhằm chốn quỷ mà bị quấy rầy, đã hiểu rằng tâm sanh nên các pháp sanh, tâm diệt nên khám mồ không hai. Lại ba cõi chỉ do tâm, muôn pháp chỉ do thức. Ngoài tâm vô pháp còn gì mà cầu, thôi ta không đi nước Đại Đường nữa, nói xong Nguyên Hiểu mang hành lý trở về.
Nghĩa Tương một thân đơn độc nhưng thề chết không lùi, năm sau được quá giang thuyền buôn đến Đăng Châu, tá túc tại nhà một tín đồ, nhìn thấy Tương mặt mày tuấn tú, ở lại trong nhà đã lâu, có một thiếu nữ tên là Thiện Diệu ăn mặt đẹp đẽ thường hay đến tán tỉnh, nhưng tấm lòng sắt đá của Tương không thể nào lay chuyển. Cô gái thấy trêu ghẹo không có kết quả, bèn phát tâm đạo, thệ nguyện sẽ đời đời kiếp kiếp quy mạng Hòa-thượng, học tập Đại thừa, thành tựu việc lớn, đệ tử đàn việt sẽ cung cấp tư duyên.
Sư lên đường, đến Trường An, ở chỗ Tam Tạng Trí Nghiêm tại núi Chung Nam, tổng tập Kinh Hoa Nghiêm. Lúc ấy, Quốc sư Khang Tạng là bạn đồng học. Cái gọi là biết ít biết nhiều, biết đầu biết đuôi, bình đức đã đầy rong chơi nơi biển tạng, xong lại tính trở về truyền pháp, mở lối dẫn dụ, trên đường về trở lại thăm nhà Đàn Việt. Cảm tạ việc mấy năm qua đã cúng thí, nhân tiện chờ đợi tàu thuyền. Thiện Diệu chuẩn bị mua sắm pháp phục và các đồ dùng, chất đầy một giỏ, khi đem đến bờ biển, thì thuyền đã ra khơi, Thiện Diệu chí nguyện rằng: Ta vốn thật tâm cung dưỡng Pháp sư, thì nguyện giỏ y nầy sẽ tiến về thuyền ở trước, nói xong ném giỏ vào sóng biển, gió thổi thể như lông hồng lướt đi trên ngọn sóng, xa xa nhìn thấy tấp vào thuyền, lại thệ nguyện rằng: Ta nguyện hóa thân làm con rồng, để nâng đỡ con thuyền ấy đến nước kia truyền pháp, vì vậy mà săn tay áo nhảy xuống biển, năng lực nguyện khó dời, lòng thành ấy cảm ứng được thần linh, quả nhiên biến hình ra uốn mình lượn dưới đáy thuyền, nâng thuyền bình yên đến bờ bên kia. Sau Sư về nước, du ngoạn khắp nơi núi sông, đến nơi xa xôi hẻo lánh, những vùng khỉ ho cò gáy, cho rằng: Nơi đây là đất Linh, núi đẹp thật là nơi để quay bánh xe pháp. Không có tông phái, dị bộ nào nhóm họp giáo đồ khoảng năm trăm người. Sư thầm nghĩ như vậy. Đại Hoa Nghiêm giáo chẳng phải nơi đất lành thì không thể hưng khởi. Lúc nầy, rồng Thiện Diệu thường theo che chở, biết được ý nghĩa ấy, bèn biến thành Đại thần hiện ở trên không, hóa ra một khối đá lớn kê ngay trên nóc chùa, toòng ten lủng lẳng sắp rơi mà không rơi, chúng tăng sợ hãi, chẳng biết họa phước người ra sao, hoảng chạy tứ tán. Sư lập tức vào chùa đạo giảng nói kinh nầy. Ngày qua tháng lại không gọi mà tự đến rất đông. Quốc vương trân trọng cho ruộng vườn tôi tớ.
Sư từ chối rằng: Pháp ta bình đẳng, cao thấp bằng nhau, giàu sang một thứ. Kinh Niết-bàn nói tám thứ tài vật bất tịnh, đâu cần có ruộng vườn và tôi tớ để làm gì, bần đạo lấy pháp giới làm nhà, lấy trời đất mà qua năm, pháp thân tuệ mạng đều dựa vào đây mà sống.
Sư giảng về cây cối nở hoa, rồi lại nói về kết quả, người đến xem sự kỳ bí thì có vài người thông hiểu về lời dạy là phạn thể đạo thân, đều là chịu Ca-lưu-la mổ vỏ cứng mà bay ra. Sư quý trọng đúng như lời nói mà thực hành, ngoài việc giảng kinh thì siêng năng tu luyện, giữ trang nghiêm trong đất Phật, không ngại mọi khó khăn, thường hay thực hành cách tẩy uế của Nghĩa Tịnh, không cần khăn lau tự khô thì dừng, trì ba pháp y, bình bát, ngoài ra không có vật gì khác, hễ đệ tử thưa hỏi đều không dám vội vàng, chờ khi lẳng lặng mới gợi ý sau, Sư bàn tùy theo thắc mắc mà giải thích đều vướng mắc không còn dư sót. Tương tự mình vân du không nhất định, xứng với lòng mình thì ở, người học nhóm họp rất đông, hoặc là cầm bút ghi chép, những lời nói của thầy, như vậy cửa nghĩa tùy đệ tử mà dựng, như nói đạo Thân Chương. Hoặc lấy nơi ở mà đặt tên, như Thùy Huyệt vấn đáp, v.v... Mấy chương sớ đều nói về Hoa nghiêm tánh hải Tỳ-lô-giá-na Vô Biên Khế Kinh. Sư mất tại nước mình, Tháp thờ nay vẫn còn, hiệu Hải đông Hoa Nghiêm Sơ tổ.
Thích Nghĩa Trung họ Doãn, người Tương viên, phủ Lộ, mới lên chín tuổi thì nãy sinh chí nguyện xuất gia, được Chiểu-xà Lê ở Tri châu nhận làm đệ tử, giống như con non mới sanh trong tổ phượng. Thời niên thiếu có biệt tài diễn giảng không vấp. Ban đầu Chiểu dạy cho kinh Niết-bàn, lúc ấy mới mười ba tuổi, tụng suốt liên tiếp bốn mươi quyển, mọi người đều kinh ngạc, gọi là không môn kỳ đồng, hai mươi tuổi đăng giới học, nghĩa lý của Tứ phân luật đều thông suốt, bên cạnh học Luận Thập nhị môn, hai bản đều có khả năng diễn giảng. Chiểu biết sư là con ngựa giỏi ngàn dậm nếu học tại đây e sẽ thất thời. Nghe Khuy Cơ ở Trường An mới soạn sớ chương, môn sinh mọi nơi đến học, nỗi tiếng khắp trong nước. Thầy trò cùng lên đường đến thọ giáo với Khuy Cơ, chưa đầy năm năm lại thông hai kinh năm luận, tức Pháp Hoa, Vô cấu Xưng và Bách Pháp, Nhân Minh, Câu-Xá, Thành Duy Thức, Duy Thức Đạo. Do vậy mà triển khai cho đệ tử rất nhiều. Vì cây sung được sức thì nhánh cũng sum suê, cạnh nghĩa môn lại mở ra cửa khác, bèn soạn Thành Duy Thức Luận Toản yếu, Thành Duy Thức Luận sao ba mươi quyển, Pháp Hoa Kinh Sao hai chục quyển, Vô Cấu Xưng Kinh Sao hai chục quyển, Bách pháp luận sớ, rất là quan trọng. Sau dùng để che, lấp sự thịnh vượng của Từ Ân, nay thịnh hành không hơn bản của Sư. Cái gọi là xếp các ngọc, hoa, huống hồ tiếng tăm của Khuy Cơ đang chiếu rọi như ánh mặt trời, khắp mọi nơi đều hướng về, dẫu ta có lòng trung thành chẳng qua cũng như cây đèn cầy mà thôi. Giờ đây tiếng tăm Nghĩa Trung cũng truyền đi khắp mọi nơi, hàng ngàn dặm quy về đây, truyền giữ không dám biếng nhác, chỉ hơn năm mươi mấy năm mà đã giảng các kinh trên bảy mươi lần. Đến bảy mươi hai tuổi, bỗng nhớ quê nhà xứ cũ, bèn trở về Chiêu Nghĩa, hằng ngày đều tụng giới luật hành đạo, mỗi khi ngồi, đều quay mặt hướng về Tây bắc, ngưỡng nhìn Cung Đâu-suất, trong thâm tâm mong rằng, lúc mãn thọ được gặp Thiên chủ. Lìa hẳn nơi phàm trược nầy, cuối cùng được chuyển y. Một hôm, sáng sớm tắm gội sạch sẽ, sửa sang dung nghi nghiêm chỉnh, nhìn trời mà lạy, như có cầu mong điều gì. Chốc lát ngồi xếp bằng, dặn dò lưu thông giáo pháp, xong bỗng nghe thấy mùi thơm đầy khắp phòng, mây trăng bay phất phới trên không. Trung chắp tay ngước lên rằng: Tỷ khâu bẩn thiểu đâu phiền đến Đại Thánh đích thân đón rước, nói xong thì hóa. Người đạo tục trong thôn xóm cùng xây tháp để cúng dường. Toàn thân không hư hoại, đến nay vẫn còn nằm trên gò cao của làng Hà Đông.
(Đại An).
Thích Nguyên Hiểu, họ Tiết, người Tương Châu thuộc Đông Hải, tuổi nhỏ tự nguyện gia nhập pháp môn, theo thầy vừa học vừa ngao du không nhất định nơi ở, dũng khí phá vòng vây của nghĩa, hiên ngang trước văn đàn, thật mạnh mẽ oai hùng, tiến không lùi bước, cho nên Tam học đều thông suốt, xứ ấy gọi là đối địch với muôn người, tinh nghĩa nhập thần là như thế.
Vì mến mộ môn phái của Tam Tạng Huyền Trang chùa Từ Ân bên Đại Đường, Sư bèn cùng pháp sư Nghĩa Tương lên đường tầm đạo, không ngờ duyên kém dứt tâm trên dọc đường mà quay trở về, phát ngôn cuồng ngược, lại cùng với cư sĩ vào quán rượu, chơi gái, hoặc soạn sớ giảng hoa hòe, hoặc đàn ca múa hát lấy vui trong chùa miễu, hay là đóng cửa ở trong nhà, hay ngồi thiền trên núi, đều tùy ý mà làm. Lúc ấy, Quốc Vương muốn tổ chức cuộc Đại Hội Bách Tọa Nhân Vương Kinh, tìm kiếm những vị đức trọng tài cào, bản châu vì danh vọng mà tiến cử, các bậc đạo đức đều ghét hành vi của con người ấy, kiến nghị với nhà vua nên bác bỏ. Hiểu giờ đây chính thức không nơi nương tựa.
Giữa lúc nầy phu nhân của vua nổi bứu sau ót, thầy thuốc chữa trị không hiệu quả. Vua và vương tử, thân thuộc cầu nguyện ở các linh miếu trên núi, cạnh sông chẳng nơi nào không đến, có người lên bóng cho rằng: Hãy cho người đến nước khác tìm thuốc thì bệnh nầy mới lành. Quốc vương sai sứ vượt biển đến nước Đại Đường tìm y thuật, trên mặt biển mênh mông, bỗng có một ông lão từ trong sóng biển vượt lên thuyền rủ người sứ xuống biển xem cung điện uy nghiêm tráng lệ, gặp vua rồng tên là Kiềm Hải, cho sứ giả biết rằng: Phu nhân nước ngươi là con gái thứ ba của Thanh đế, trong cung ta có kinh Kim Cương Tam-muội, đó là Nhị Giác viên thông dạy cho Bồ-tát thực hành, nay bệnh của phu nhân vì tăng thượng duyên nên muốn gửi kinh nầy về nước ngươi truyền bá. Lúc ấy, bàn đem ba mươi tờ giấy sắp chồng lên nhau, trao cho người sứ rằng: Kinh nầy mang qua biển sợ có việc ma. Vua bảo dùng dao mỗ bụng sứ giả, để kinh vào trong đó, dùng thuốc đắp, vết mỗ lành lại như thường. Long vương lại nói: Về đến nơi hãy gọi Đại An thánh giả theo lằn mỗ mà lấy ra may lại, pháp sư thỉnh Nguyên Hiểu soạn sớ giải thích, phu nhân sẽ lành bệnh, dù cho thuốc A-già-đà trên núi tuyết cũng không hơn được. Long vương đưa lên mặt biển, lên thuyền về nước.
Quốc vương rất mừng, liền cho gọi Đại An Thánh giả đến, Đại An là người không thể phỏng đoán được, ăn mặc kỳ quặc, thường hay ở xóm chợ, gõ đồng bát mà múa hát, miệng xướng Đại an, Đại an nối nhau, vì vậy mà có biệt hiệu như vậy.
Quốc vương có lệnh gọi An. An nói: Chốn cung đình từ nào đến giờ ta không thích vào, hãy nhanh chóng giáo cho Nguyên Hiểu giảng đi, người khác không được đâu!
Hiểu nhận được kinh nầy, đang ở Tương Châu, bảo người sứ rằng: "Kinh nầy lấy Bản giác, Thỉ giác làm Tông, hãy chuẩn bị cặp sừng để trên bàn, chính giữa để bút nghiên, trước sau đều ở trên xe bò mà soạn sớ, chia thành năm quyển. Vương chọn ngày giảng diễn tại chùa Huỳnh Long, giữa lúc ấy bị kẻ cướp trộm lấy sớ, bèn báo với vua, vua cho hoãn lại ba ngày, lục lại thành ba quyển gọi là lược sớ, đến khi vua quan đạo tục nhóm họp trong pháp đường, Hiểu trình bày có qui cách, giải thích theo tuần tự, bỗng búng tay có tiếng vang trong không gian, Hiểu lại mạnh dạn nói rằng: Trước đây khi chọn cả trăm cây đòn tay tuy ta chẳng được dự, nay chọn lấy một cây cột chỉ có một mình ta thôi, các vị Bồ-tát đều gục đầu hổ thẹn mà sám hối. Hiểu hiện tích hay biến hóa không nhất định, hoặc ném dĩa cứu chúng, hoặc phun nước chữa cháy, hoặc hiện hình ở nhiều nơi, hay sáu phương đều biến mất, những lời giải đều rõ ràng, sớ có hai bản quảng, lược, đều lưu hành trong nước, sau nầy lưu nhập vào Trung Hoa, về sau có vị Tam Tạng, dịch kinh đổi thành luận.
Hệ rằng: Long cung làm sao có bản kinh ư? Thông rằng: Kinh chép trong cung điện của rồng có tháp bảy báu, lời các Đức Phật nói các nghĩa sâu riêng có rương bảy báu, bên trong đựng kinh, đó là mười hai nhân duyên, tổng trì, tam-muội, v.v... vì kinh nầy rất thích hợp lưu hành ở thế gian, lại hiển bày thần dị của Đại An và Nguyên Hiểu, dựa vào trị bệnh cho phu nhân mà khơi lên đầu mối lớn lao của giáo pháp.
Thích Thần Khải, họ Quách, người ở Thái Nguyên, là con cháu của Lâm Tổng cuối đời Hán, gia đình nhiều đời làm quan, sau theo cha làm quan cho nhà Tần, thành người kinh Triệu, anh em có sáu người, Khải thuộc về con út, còn bé trí tuệ đã sáng suốt, lập chí khác hơn người, không ưa thích phù hoa, thề xin xuống tóc, bái pháp sư Minh Tuần làm thầy, đến khi đủ tuổi thọ giới, đối với nghĩa lý kinh luận Đại tiểu thừa đều thông, tai nghe miệng tụng dễ như nhuộm vải bông, bên giảng nhiếp Đại thừa Câu-Xá Luận, sự lãnh ngộ ít có ai sánh bằng. Sau vì giảng kinh Tịnh Danh, gặp cổ sư phán rằng: Hay thì có hay mà chưa được rốt ráo bèn ở núi Bạch Triệu thuộc An Lục Soạn Sớ. Có thuyết cho là ở chùa Diệm Thạch Thành thuộc Việt Châu, tác phẩm của Sư vốn có tính khéo léo, dưới Nam Nham ở Diêm Khê rọi nước rửa mặt, hiện nay còn áo ấy mà nước đã khô cạn, trong khe đá u tối có cổ quan tài, người ta cho rằng: Khải qua đời an táng tại đây, lại có chỗ cho rằng Khải vì các chùa Từ Ân, Tây Minh độ Vương Công xuất gia và phiên kinh luận, các vị học tăng đạo cao hạnh tài đều được vời về kinh, phân phối ở tại chùa Sùng Nghiệp. Đến thời Thiên Hậu mới được ban hành sớ ấy. Sau Sư mất tại chùa nầy, đệ tử dời tháp ở phía nam vườn Tiêu diêu. Khải thật ra là môn đệ của Đại thừa Cơ.
Hệ rằng: Di tích của ngài Thần Khải sao lại có kinh triệu và Diệm Khê hai nơi như vậy. Đây là người có tiếng tăm khắp bốn phương, vì môn đệ di dời đi khắp nơi thường muốn lập di tích của Tổ tiên cũng đồng. Cũng như Diêm Khê, Khải đã từng đến đây.
Thích Hội Ẩn, không rõ người gốc ở đâu, tính khí tinh minh, rộng rãi tràn đầy. Ở nơi quê người giống như con hạc đứng trong bầy gà. Thiên triều lựa chọn người tài đức. Ẩn được chọn, niên hiệu Lân Đức năm thứ hai, tại Tây Long Môn tu thư sở, cùng với mười vị như Huyền Tắc, v.v... chùa Tây Minh, được lịnh lược ra tinh nghĩa huyền văn của Nhất Thiết cả kinh ba mươi quyển, gọi là Thiền Lâm Yếu sao, xong tấu trình lên, lệnh được giấu trong lầu kín. Sư cũng thường hay tham dự phiên dịch.
Thích Tăng Viện, tự Biện Không, họ Uất, người ở xương ấp, thuộc Cao Bình. Mẹ họ Triệu, thụ thai nhằm ngày Thánh hiền thăng thiên ngao du, đến lúc sáu tuổi, theo mẹ đến tháp Xá-lợi, gặp tượng Thánh tăng. Sư vui mừng hớn hở, dường như gặp bạn cũ, vì vậy mà cầu xin mẹ xuất gia. Mẹ nhận thấy tuổi còn nhỏ nên chưa chấp nhận, đến năm mười ba tuổi mới được toại chí, làm đệ tử Pháp sư Tuệ Nghiêm chùa Hổ Khâu. Cách đối xử tự mình đã biết, tài học cũng hơn hẳn mọi người. Niên hiệu Long Sóc năm thứ hai vâng sắc xuống tóc, bèn theo Thiền sư Tuệ Tường thọ giới cụ túc, nghe pháp sư Thông giảng Tam luận tại chùa Thường Lạc, hiểu sâu vô tướng, hoát nhiên dứt hết vướng mắc, phương tiện giải thoát, an nhiên độc ngộ, vì trí từ tâm chứng, bèn đến Thiền sư Dung ở Giang Ninh xin học tâm pháp. Nhiếp niệm ngồi thiền, các ma đều phục. Siêng cầu tinh tiến, thú dữ thường vây quanh, do đó được gọi là Phổ Văn Thanh Quang Bát Tuyệt, thường mặc một chiếc y nạp, đông hạ không đổi thay, dùng một giọt nước để giải khát vào buổi chiều, hoặc dùng vài hạt đỡ đói cho buổi sáng, hoặc trong gió tuyết lạnh vẫn lễ tụng không ngớt suốt sáu thời, hay trời nắng chang chang kinh hành vẫn không bỏ, hễ gặp lời khen tiếng tặng thì lặng câm, bị mắng trách hay chửi bới thì vui vẻ chấp nhận, mỗi khi hóng mát dưới gốc cây tùng thì mở lối suy tư sâu xa, khi ngồi bên cạnh suối trong, thì duyên theo ánh nước để làm văn, soạn Vũ Khâu Danh Tăng Uyển, một quyển, Chú Úc Tử, hai quyển, Văn tập ba quyển, đều là nghi biểu của đạo tục, làm khuôn phép cho mọi người. Vào niên hiệu Vĩnh Xương năm đầu, ngày 20 mươi tháng 12, Sư cảm nhận trong mình bị bệnh, nên gọi đệ tử nói rằng: Ta biết xác chết đến đâu cũng phải hối thối, đó gọi là ly tội. Đệ tử đón rước mà dừng ở vườn Tĩnh Chí, phải Bắc đình Thông Ba, bỗng ngửi được mùi thơm kỳ diệu từ trên hư không bay xuống, Sư dặn dò ân cần, sau khi ta nhập diệt, hãy theo phong tục trong nước hỏa thiêu, nói xong chắp tay mà tịch, thọ năm mươi mốt tuổi, người tai gia xuất gia đều buồn bã, tiếc thương mắt thế gian đã nhắm. Đệ tử Tăng Nghĩa thay thế và Đàn Tín là Trĩ Sơn huyện úy, cùng vâng theo lời chỉ dạy của thầy, đúng như Pháp trà-tỳ, thâu lấy Xá-lợi xây tháp và khắc minh trên tháp.
Thích Ấn Tông, họ Ấn, mẹ họ Lưu, khi bắt đầu mang thai, nhà kế bên cạnh nhìn thấy một vị Samôn khoan thai từ từ bước vào nhà họ Ấn, nói với Bà Lưu rằng: Ta sẽ làm con bà. Bà Lưu cũng nằm mộng thấy như vậy, từ chối không được. Cha thì nằm mộng thấy một đứa bé, quỳ trao chiên-đàn hương cho Lưu thị. Bà Lưu nhàm chán đồ tanh, hễ ngửi đến mùi tanh thì ụa mửa dữ dội. Sau đó sanh ra Sư và lớn lên.
Khi lớn lên theo thầy tụng thông làu kinh điển, cuối cùng là tinh giảng Kinh Niết-bàn. Niên hiệu Hàm Hanh năm đầu, đạo hóa thịnh vương tại đô thành, Sư vâng sắc đến trụ chùa Đại Ái Kính, nhưng từ chối không nhận, mà đến kỳ núi xuân đông thọ giáo về Thiền pháp với Đại sư Hoằng Nhẫn, lại đến Phan Ngưu gặp Thiền sư Tuệ Năng, giữa vấn đáp với nhau, về những huyền lý sâu sắc. Khi trở về quê nhà, Thứ sử Vương Trụ Lễ trọng về tín ngưỡng thỉnh Sư lập giới đàn để độ người, có hàng mấy ngàn người đến dự, Sư vâng sắc vào nội cung, tạo tượng lớn Từ thị, biên soạn Tâm yếu tập, ghi chép Tổng lục từ đời Lương đến đời Đường, những lời nói của bậc Hiền, lại vâng sắc thiết lập giới đàn ở các chùa trong vùng Giang Đông để độ người, lại biên soạn Bách Gia Chư Nho Sĩ Tam Giáo, văn ý nói về Phật pháp, kết lại thành tập, bút pháp càng cao, soạn thuật lưu truyền càng rộng. Đến niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, ngày 21 tháng 2, Sư qua đời, thọ tám mươi bảy tuổi, di chúc vâng theo pháp táng Luân Vương, lập bài minh trên tháp.
Thích Tông Triết, người ở Bình Dao thuộc Hà Tây, tuổi nhỏ đã có Kỳ tướng, thông minh sáng suốt, đã tìm thầy học lễ nghi ứng xử, xong học tiếp các kinh luận của Huyền Trang mới dịch. Triết y cứ vào pháp môn ấy thưa hỏi không thôi, vài tuần sau, tất cả kinh điển đều thấy được ý chỉ như thấy chỉ trong lòng bàn tay, trong môn đồ của Huyền Trang Sư được gọi là Đắc ý. Sau vì giảng xướng nghĩa ngày càng đổi mới, đương thời gọi là pháp giang. Sư nói: Ta mang ân phẩm nầy thật không biết biển pháp pháp rộng mênh mông hơn cả đồng bằng. Chỉ nêu được cái hòn nổi trên biển cả mà thôi, Sư thương xót cho người học không đạt được ý nên làm trái ngược với thầy, bèn biên soạn nghĩa lệ, đó là điều cầu mong của mọi người trong nước, như trong thí dụ nói ba điều của Phật vị. Pháp sư Chiểu nói: Ba điểm, ba mắt gượng phân trên dưới, thắng thua đều thuộc về hay dở. Sư nói: Ba việc đều được, nhưng không có thầy giỏi để định liệu, nên lui về mà suy nghĩ. Rốt cuộc là Triết đạt được điều ấy. Hiệu là Đắc ý, đâu phải là luống dối. Do đó, Chiểu trở thành thuyết của vị khác!
Thích Đức Cảm, họ Hầu, người ở Thái Nguyên, nghi dung đẹp đẽ, học nghiệp tinh chuyên, mọi người cảm phục, siêng tu Luận Dugià, đặc biệt nổi bật, Thiên Hoàng Đại Đế dụng làm phiên kinh đại đức, Sư lại cùng Thắng Trang, Đại Nghi tham gia dịch trường ngài Nghĩa Tịnh, đối với lời ban thưởng thì đáp lại lòng thanh cao. Vua cảm nhận vui mừng mà phong cho chức Khai quốc công huyện Xương Bình, được hưởng chế độ điền trang đến ba ngàn hộ. Nhà vua khen tặng rằng: "của báu như sông biển, tài năng như núi non, sớm khử đi tục lụy. Túc giải bụi trần, cửa Phật kính đức. Trời đất vang dội, thức á long thụ, tiếng vang như ngựa hý". Được nhà Vua lúc bấy giờ kính trọng như thế, bài văn khen tụng nhà vua được lưu truyền khắp các nhà chùa. Sau nầy được bổ sung chức Đô Duy Na chùa Phật Thọ Ký ở Hà Nam. Về già, Sư làm chức cố vấn trong ngoài của chùa, năm mất tuổi đã sáu mươi. Biên soạn Nghĩa Môn Hành truyền bá ở đời, như bảy phương tiện cho người hồi tâm dần dần đốn ngộ, đối địch Pháp sư Trạm, cho nên giao tiếp rồi rút lui.
Thích Phù Khâu, họ Trương người Thái
Nguyên, mặt mày sáng suốt lại bảnh trai, học Luận Du-già trở thành tinh bác, còn đọc thêm nhiều sách để phân biệt hay dở. Người học khắp nơi tranh nhau lập ra pháp môn, nhưng thông hiểu mà tuyên nói lọng cọng. Sư trầm lặng mà khiêm tốn, thể hiện những điều bình thường chưa ai biết. Lúc ấy, Triết công đã lộ mặt mũi, những người nỗi tiếng đã có sự chạm trán với nhau. Triết chỉ phục về nghĩa học của Khâu, cho nên gọi là pháp Hải. Sư thọ hơn bảy mươi tuổi, qua đời tại chỗ ở, nhưng chưa nghe có tác phẩm gì.
(Chính Truyện Mười Bốn vị-thêm năm vị.)
Thích Pháp Tạng, tự Hiền Thủ, họ Khương, người ở Khang Cư, phong độ chân chính lanh trí tuyệt vời, đi khắp Trường An, càng biểu lộ tài năng, được chọn vào hạng danh tăng, thuộc hệ phái của Trang sư dịch kinh. Trước làm các vào công việc, sau làm việc ghi chép, chứng nghĩa, nhuận văn do kiến thức bất đồng với nhau mà rời khỏi dịch trường. Đến đời Thiên hậu, sự truyền dịch của Sư mới làm nên số phận, lúc bấy giờ, Thật-xoaNan-Đà mang bản Phạn kinh Hoa Nghiêm đến, cùng với Nghĩa Tịnh, Phục Lễ dịch ra kinh mới, lại ở dịch trường Nghĩa Tịnh cùng Thắng Trang, Đại Nghi làm chứng nghĩa. Ngày xưa, Đỗ Thuận ở đôn Hoàng truyền Hoa Nghiêm pháp giới quán, Sư cùng đệ tử Trí Nghiễm giảng trao những bản dịch nầy, Trí Nghiễm giao phó cho Sư, Sư giảng kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch Võ Tắc Thiên nghe. Đến Thiên Đế võng nghĩa thập trùng Huyền môn, hải ấn tam-muội môn, Lục tướng hòa hợp nghĩa môn, phổ nhãn cảnh giới môn, các nghĩa chương này đều là Hoa Nghiêm tổng biệt nghĩa võng, giữa lúc nhà vua chưa biết quyết định ra sao, thì Sư bèn chỉ ngay con sư tử bằng vàng trên trấn điện làm thí dụ, vì vậy mà soạn ra pháp nghĩa môn, đường tắt dễ hiểu lấy tên là Kim Sư Tử chương, trình bày tướng chung riêng của mười môn, vua bèn khai ngộ được ý chỉ, lại vì người học không nắm rõ mà lập phương tiện, an bày mười mặt, tám góc của gương, trên dưới, mỗi nơi đều có, cách nhau hơn một trượng, trong mỗi mặt đối nhau đặt một tượng Phật, đốt một cây nến để chiếu sáng, vì vậy mà người học hiểu được cái nghĩa của Phật là vô tận vô biên, Sư khéo léo dẫn dụ đều là như vậy, đến lúc các phạn tăng nghỉ dịch, vua Triệu Sư giảng kinh tại chùa Phật Thọ ký, giảng tới phẩm Hoa tạng thế giới, bỗng nhiên trong giảng đường và chung quanh nhà chùa đều rung chuyển, Đô Duy na tăng Hằng Cảnh đều viết biểu tấu lên, ban sắc rằng: "Nghe diễn giảng vi ngôn nêu rõ về bí pháp, ngày mới dịch kinh trẫm đã mộng thấy cam lộ tốt lành, buổi khai giảng thì rung chuyển động trời đất, đây là Như Lai giáng tích, được như vậy lòng trẫm rất vui mừng, Hoa Nghiêm tông chủ là Trừng Quán, nay đề cử Pháp Tạng là đệ tam tổ, biên soạn Bátnhã Tâm kinh, được người đương thời quý trọng, khắp trong nước lưu hành, lại gọi bằng hiệu Khương Tạng Quốc sư.
Thích Hằng Cảnh, họ Văn, người Đương Dương, vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ 22, Sư được vua ban sắc được nghe học Tam tạng, hễ nghe qua thì tụng được, như lời dạy mà thực hành, ban đầu theo luật sư văn cương học tập tỳ-ni, sau vào chùa Ngọc Tuyền tại núi Phúc Chu, theo thiền sư Trí giả tu pháp môn chỉ quan, cách phía Nam mười dặm lập tịnh xá riêng, hiệu Long Hưng. Từ đời Thiên Hậu vua Trung Tông, Sư được vời vào cung, cúng dường làm Thọ giới sư. Niên hiệu Cảnh Long năm thứ ba, Sư tấu trình xin thỉnh về núi, được nhà vua chấp thuận, lệnh cho Trung Thư môn hạ và học sĩ, thiết chay trong đạo tràng tại cung Lâm Quang, mời thêm các cao tăng cùng người có nghĩa hạnh hai mươi mấy vị, thường hay tu phước trong nội điện đến dự, đưa tiễn Hằng Cảnh cùng Đạo Tuấn và Huyền Trang mỗi người về que. Nhà vua đích thân ngâm thơ, các học sĩ ứng họa, đó là Trung thơ lệnh Lý Kiều, Xá nhân Lý Hựu, v.v... Bấy giờ, Sư nhận lấy những bài thơ chống gậy mà đi. Sư soạn Thuận Liễu nghĩa luận, hai quyển, Nhiếp chánh pháp luận, bảy quyển, Phật Tích Luận, hai quyển, người học như đang khát mà được nguồn nước. Đến niên hiệu Tiên Thiên năm đầu, ngày 25 năm tháng 9, Sư qua đời tại chùa Ngọc Tuyền, thọ bảy mươi chín tuổi, đệ tử an táng tại phía Tây chùa.
Thích Nhất Hạnh, họ Trương người Cự Lộc, vốn tên là Toại Tắc, tuổi nhỏ đã thông minh lanh lợi, có phong độ lão thành, đọc sách không cần xem lại đã tụng thuộc lòng, vì gặp Thiền sư Phổ Tịch đại hạnh thiền yếu, người quy tâm rất đông, Sư bèn ngộ đời là huyễn, bái Phổ Tịch làm thầy, xuất gia cạo tóc. Tịnh sư thường hay tổ chức đại hội, Sa-môn xa gần đúng ngày giờ đều đến, mỗi lần có cả ngàn vị tham dự, lúc ấy có Trưng sĩ Lư Hồng ẩn cư ở núi khác, đạo cao học giỏi, triều đình thỉnh cầu mấy lần nhưng đều từ chối, chủ sự đại hội thỉnh lư Hồng làm văn tự để táng dương xã ấp. Ngày ấy Hồng rút từ trong tay áo ra một bài văn để trên bàn, giờ tập hợp đã đến. Lư Hồng nói với Phổ Tịch rằng: "Bài văn nầy có cả ngàn lời, lại thuộc về văn xưa, hãy để ta chỉ cho đọc qua một lần, Phổ Tịch gọi Nhất Hạnh đến, Hạnh lật ra xem xong mỉm cười vẫn để lại trên bàn, rồi lại bỏ đi làm việc khác, trong lòng Lư Hồng thầm trách người thanh niên nầy khinh tiện như vậy, đến khi chúng tăng tập hợp đông đủ, Hạnh bước lên diễn đàn mở giọng đọc từ đầu đến cuối, không một lời nào vấp cả, Lư Hồng nhìn ngơ ngác một hồi lâu, thật là cảm phục vô cùng, lại nói với Phổ Tịch rằng: "Chẳng phải ngài thì không dạy bậc nhân tài như vậy được, nên hãy cho đi du học".
Nhất Hạnh được Lư Hồng và Phổ Tịch bàn bạc khuyến khích đi du học, tự nhiên tìm đến các bậc danh sư của kinh luận luật mà theo học, nhân đến trực tăng Đương Dương soạn thành bài tự luật tạng, tìm hiểu sâu về tỳ-ni, còn có những sách của âm Dương sấm vĩ, đều được nghiên cứu tỉ mỉ, tìm thầy hỏi bạn các nơi không dưới mấy ngàn dặm đường, sau cùng đến chùa Quốc Thanh thuộc núi Thiên Đài, thấy một ngôi viện, tùng già bao quanh, một khe suối êm lặng, Hạnh đang đứng ngoài cửa ngắm cảnh, bỗng nghe trong viện có tiếng bàn tán, xong gọi người hầu rằng: "Hôm nay sẽ có đệ tử từ xa đến cầu học toán pháp của ta, ta đã nghĩ khi đến trước cửa không ai dắt dẫn, bèn tức khắc bỏ một con toán, lại gọi người hầu rằng: "Trước cửa, nước đã chảy ngược về phía Tây, đệ tử sẽ đến, Hạnh nghe vậy liền bước vào, thỉnh cầu thầy truyền cho bí quyết, giữa lúc nầy nước lại chảy về hướng Đông như bình thường. Kể từ đấy tiếng tăm lẫy lừng khắp xa gần, các công khanh đều yêu chuộng, vua Huyền Tông hay được vời Sư vào kinh hỏi rằng: "Sư có những tài năng gì?"
Nhất Hạnh tân: "Chỉ có xem qua là nhớ, ngoài ra không có gì hay".
Nhà vua cho mang sổ sách trong cung ra, Hạnh lật xem sơ qua, rồi lại đọc như thuộc lòng tự bao giờ.
Nhà vua bước xuống ngai vàng, cúi đầu chào rằng: "Ngài thật là một bậc thánh, rồi lại gọi dự đoán về họa phúc, Hạnh thao thao bất tuyệt như lật trong lòng bàn tay mà ra, lời nói có rất nhiều sự bổ ích.
Lạc Hạ Hoằng đời Hán soạn lịch có nói rằng: "Tám trăm năm sẽ có sai lệch một ngày, đến lúc ấy sẽ có bậc thánh quyết định, năm nay đã đúng với kỳ hạn, xuất xứ từ đại diễn lịch, đính chỉnh lại sự sai lệch, quả thật đúng với lời nói của Lạc Hạ Hoằng, nếu chẳng phải bậc thánh sao đoán biết được như vậy? Lại trong Kim Cương Tam tạng học, Đà-La-Ni bí ấn, lên trước Phật đàn thọ Pháp vương bảo, Sư lại cùng Tam Tạng Vô uý dịch Kinh Tỳ-lô-giá-na, mở ra hậu Phật quốc, Mật tạng ấy sẽ truyền đến uyên phủ. Vua Duệ Tông và Huyền Tông cùng thỉnh vào trong Tập Hiền Viện, ban cho trụ chùa Hưng Đường, các kinh đã dịch được soạn sớ bảy quyển. Nhiếp điều phục tạng sáu mươi quyển, Thích thị hệ lục, một quyển, Khai Nguyên Đại Diễn Lịch năm mươi hai quyển. Lịch ấy biên vào Đường thơ lịch luật chí. Còn tạo ra Hoàng đạo và xích đạo để làm thanh quy.
Tại quê nhà, có một bà lão nhà họ vương, năm xưa Hạnh gặp cảnh cùng khó, bà thường hay giúp đỡ, đến khi Hạnh được hiển danh cũng thường nghĩ đến việc báo đáp, một hôm, bà lão bỗng đích thân tìm đến gặp Hạnh, vì con bà giết người, sắp bị hành tội, biết Hạnh nay đã được nhà vua sùng trọng, cho nên đến nhờ Hạnh xin vua được tha miễn tội chết, để phụng dưỡng mẹ già, khóc lóc lạy van nài mấy lần.
Hạnh nói: "Luật pháp của nhà nước, đâu thể niệm tình xin miễn cho được, nói xong Sư tặng cho một số tiền bạc, bảo về nhà tìm cách để sống, bị bà ấy mắng cho một trận tả tơi rằng: "Lúc nhỏ giữ bồng và nuôi vú cho ngươi, giúp đỡ cho mọi điều, nay trưởng thành có danh vọng rồi quên mất cả.
Hạnh suốt ngày không vui, bấy giờ tính xong bèn gọi Tịnh nhân đến dặn dò rằng: "Ngày mai ngươi lấy túi vải chờ sẵn ở chỗ trống, nơi ấy đến giờ ngọ, có bầy sinh vật xuất hiện, hãy bắt lấy đem về cho ta. Qua hôm sau định quả thật có bầy thú bảy con, đuổi con mẹ cho bỏ chạy thì bắt con. Hạnh chuẩn bị sẵn cái cũi, khi đem về nhốt toàn bộ vào trong cũi ấy, bịt miệng bằng bùn Lục ất, niệm chú vài lần rồi dừng. Ngày hôm sau Ty Thiên Giám vào tâu với nhà Vua rằng: Đêm hôm qua, bảy ngôi sao Bắc Đẩu đều biến đâu mất. Vua quan thì lo sợ bị mất ngôi, dân chúng thì khủng hoảng mùa màng bị thất bát, tật bệnh, chết chóc v.v... Khắp cả kinh thành đều hoảng hốt lo lắng, chỉ cầu cửa Phật dùng tâm từ bi hàng tất cả mà để cứu lấy mọi người, đại xá thiên hạ. Vua Huyền Tông đều nhất mực tuân theo, ngay ngày ban lệnh. Mỗi đêm Hạnh thả một con vật ra, thì có một sao xuất hiện, qua bảy đêm thì trở lại như lúc đầu. Thuật nầy thật không thể tưởng tượng.
Vào niên hiệu Khai Nguyên gặp hạn hán, vua ban lệnh cho cầu mưa. Dụng cụ phải có một món đồ có hình dạng con rồng, mới có thể tạo ra mưa. Vua ban sắc khiến các quan trong cung đồng ở trong kho nhìn khắp rồi nói không giống. Mấy hôm sau nhìn thấy trên tấm gương xưa có con rồng nằm, nói rằng: Đây là con rồng thật đấy! Bèn đem vào pháp đàn làm phép, quả thật trong ngày đó có mưa, dị thuật ấy cảm thông đến như thế.
Vua Huyền Tông mời Hạnh vào trò chuyện tại cung Đại Minh, ung dung hỏi lén rằng: Sự lành dữ của đất nước và vận nước như thế nào, Hạnh lẩn tránh không trả lời thẳng. Cho đó là thiên cơ bất khả lộ, nhưng nhà Vua vẫn cứ nài nỉ mãi.
Sư bèn nói: Bệ hạ sẽ có cuộc hành trình muôn dặm, đất nước rốt cuộc cũng yên lành thôi, lại trao cho nhà Vua một cái hộp nhỏ, trong đó có đựng đồ, hễ lúc lắc thì có tiếng sụt sịt, nhưng không được tùy tiện mở ra, khi gặp việc khẩn cấp mới mở. Sau nầy, nhà Vua lánh nạn đến thành đô, mới nghĩ ra cái hộp ấy, đã đến lúc cần phải mở ra xem, thì ra trong đó chỉ có một vị thuốc Đương quy. Vua nghĩ rằng: Thuốc nầy sản xuất tại đây, Đại sư đã biết trước trẫm phải chạy nạn đến đây, rồi phải trở về (Đương quy, một vị thuốc mà mang hai ý nghĩa). Trên đường về lại gặp nạn Lý Kiều, nhà vua thán phục rằng: Lới nói của Nhất Hạnh thật là thần kỳ, bèn gọi trong quan sắp bày hương án cúng tế đáp tạ. Thời Chiêu Tông phong cho Sư làm Cát vương, đến Thái tử Đức vương, nhà Đường rốt cuộc bị nhà Lương tiêu diệt, cũng ứng với lời dự đoán của Nhất Hạnh.
Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 15, nhằm tháng 9, Nhất Hạnh bị bệnh nằm tại chùa Hoa Nghiêm, nằm trên xe vào cung từ giã với nhà vua Huyền Tông, đêm ấy nằm mộng nhìn thấy giường dây chỉ cách mở cửa, sáng dậy hỏi lại quả thật như vậy, bèn mời các Đại đức trong kinh thành lập đại đạo tràng cầu nguyện cho Sư. Sư được khỏi bệnh. Ngày mồng 8 tháng 10, Sư theo ngự giá đến Tân Phong, không nói năng gì, bỗng dùng nước thơm tắm gội sạch sẽ, thay áo quần ngồi xếp bằng mà nhập diệt. Có thuyết nói là từ khi đến từ giã nhà vua sau đó trực tiếp đến Tung Sơn yết lễ với thầy, tức thiền sư Phổ Tịnh, lúc ấy nhằm Doãn Bùi
Khoan ở phủ Hà Nam cũng đến yết kiến ngài Phổ Tịnh, Phổ Tịnh bảo rằng: "Còn bận chút ít việc, chưa rảnh hầu Đại Doãn, ngài hãy nằm nghĩ cho đỡ mệt, Khoan cho người hầu nhìn theo, thấy chánh điện dọn dẹp sạch sẽ, Phổ Tịch đốt nhang ngồi tịnh tọa như đang chờ đợi có tiếng gõ cửa, tức thiền sư Nhất Hạnh đến, Hạnh vội vã đi vào, kề tai nói nhỏ với Phổ Tịch, thể hiện rất cung kính, Phổ Tịch chỉ gật gật đầu, nói rằng: "Chẳng có gì mà không được cả". Nhất Hạnh nói xong lại lễ, vừa nói vừa lễ ba lần, Phổ tịch chỉ nói: "chẳng có gì mà không được". Hạnh nói xong bước ra chánh điện, đi vào gian phòng phía nam tự mình đóng cửa lại, Phổ Tịch gọi người phục dịch rằng: Mau đánh chuông, Nhất Hạnh đã diệt độ rồi, mọi người đến nơi nhìn thấy Sư đang ngồi nhắm mắt mà tịch, thi thể được quàn tại chùa Võng cực, cho đến ngày chôn kéo dài hai mươi bảy ngày, móng tay chân đều không thay đổi, râu tóc còn lại dài thêm, vẻ mặt vẫn còn tươi tỉnh. Nhà vua đau lòng nói rằng: Thiền sư bỏ trẫm rồi, việc an táng do triều đình lo liệu, vua ban chiếu an táng tại cao nguyên Đồng Nhân. Ban thụy là Đại Tuệ Thiền sư, vua soạn bài minh trên tháp. Người xuất gia trong nước đều lấy làm vinh hạnh.
Thích Trí Thăng, học thông nghĩa lý của Đại Tiểu Thừa, lại giỏi về tỳ-ni, ngoài ra văn chương cũng rất thông suốt xưa nay. Thường hay bất mãn về Nhiếp Đạo Chân. Đạo An, cho đến Minh Thuyên và Tuyên luật sư... mỗi vị đều soạn Đại tạng Mục Lục Ký, ghi chép các nhân vật với niên đại phiên dịch truyền bá, gọi là Tấn Lục, Ngụy Hán lục, v.v... Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười tám, Sư soạn Khai nguyên Thích giáo lục hai mươi quyển, rất tinh yếu nhất. Vì sao? Vì các vị sư trong cùng một bản, từ bản cũ biến ra tên mới, dùng văn thật giả lẫn lộn với nhau, hoặc một kinh làm thành hai bản, hoặc làm tách ra riêng lẻ, hay cắt xén bớt, có thể gọi là ngăn chận nguồn gốc lộn xộn từ đây về sau. Trinh Nguyên Lục của ngài Viên Chiếu sau nầy. Văn thể so với ý gốc khác nhau chẳng biết là mấy ngàn dặm. Trong niên hiệu Lân Đức, ngài Đạo Tuyên soạn Nội điển lục, mười quyển, Tĩnh Mại soạn Đồ kỷ bốn quyển, Thăng mỗi thứ soạn tiếp tục một quyển.
(Hoài Viễn-Sùng Dực).
Thích Viên Huy, trong giới quan phụ tiếng tăm rất nổi, chuyên nghiên cứu về tính tương, khéo đạt các tông, lúc nhỏ pháp môn Câu-xá là thích ý nhất. Lúc ấy, Lễ bộ Thị lang từng quy y tâm Phật môn, ưa thích văn nầy, thường mời Sư đến bàn về tướng tông nầy, nhưng điều gì khó thì chớ tưởng thấy, những gì phức tạp thì không có đầu đuôi, vì vậy mà nhờ Sư nêu ra khái quát, rốt cuộc sớ nghĩa của Quang sư phức tạp khó tìm, lại có luật sư Hoài Viễn ở chùa Thánh Thiện, tâm nguyện hợp với nhau, vì tiết lược cổ sớ, nên hễ tụng thì dịch lại luận điệp còn thích luận thì trích dẫn mà ghi chú là con đường tắt, người học dễ hiểu. Sau đó Sùng Dực, biên soạn Kim Hoa sao mười quyển. Sau hai Sư Quang và Bảo. Huy Công xen kẽ mà ra, hai kinh giữa lưỡng hà, trên đường bộ hay dưới mặt sông, biểu hiện cùng với Yến, Tề, Sở, Thục đều thành hành sớ của Huy.
Thích Huyền Dật, họ Đậu, là bậc chú, bác bên vợ của Vua Huyền Tông, anh em hay cháu đều làm quan trong triều đình, nhưng họ nào tự khoe tài giỏi, nào ỷ vào tước bậc cao thấp mà chống đối với nhau. Huyền Dật thì dáng vẻ sáng suốt khác hơn người, ngộ dấu vết của sắc không đều đến nơi chân tịch, xem Trấu cám hay Cao lương đều quý, hình ảnh tăng thô mà sánh bằng với bậc cao sang, ở ẩn nơi Phật thất mà xem xét thông lý. Một hôm, Sư than vãn rằng: Bậc Thánh trước đây biên soạn sai lệch, lại thêm sao chép nhảy hàng, đối chiếu mất câu, như kiền-độ mất Giáp Điệp, ngày càng sai lầm. Sư bèn y cứ theo chương mục xưa nay đã biên soạn, đính chính các kinh. Chữ sai mà nghĩa rõ thì sửa lại, phẩm sai mà lý sâu thì dựng lại, ngày đêm miệt mài cực nhọc vì tu nghiệp. Chẳng phải tấm lòng sắt đá, ý chí bền vững, thì làm sao đạt được như vậy, đã tổng kết được những danh mục, theo thứ lớp mà không rối, đều làm thành ba mươi quyển. Gọi là Thích Giáo Quảng Phẩm Lịch Chương. Xét về kinh luận của Đại Tiểu thừa cùng Đông Tây Sĩ Hiền Thánh Tập gồm một ngàn tám mươi bộ, lấy giấy sách của hai ấp Bồ Châu và Cộng thành hiệu đính được bao nhiêu đều đóng thành tập để đời sau đọc mà không chán, những trang sách ấy rất quan trọng, thêm vào những mặt chưa có, giữ lại những mặt tốt của ngày xưa. Có Lạc Lăng Phủ Doãn Linh Thâm soạn lời tựa. Về sau, Sư mất ở đâu không rõ.
Thích Đạo Nhân, họ Trường Tôn, người ở Cao Lăng thuộc Trường an. Cha là Dung Điên Trung Thị ngự sử. Mẹ họ mẹ Mã, mộng thấy mây năm mầu che phủ trên nóc nhà mà thụ thai, ngày đêm mẹ hay nghe giảng đọc kinh đại thừa, ngày đêm không thối. Ý thực hành thai giáo của Thái Nhậm, đến khi sanh, Sư có mùi hương lạ nồng nàn, mà sanh ra, vẻ mặt tuấn tú, học vấn rành rẽ, thi đậu bậc Tiến sĩ, tiếng tăm nổi trong thôn xóm. Có một Phạn tăng gõ cửa xin cơm, ăn xong xin tá túc lại một đêm. Nhân tiếp chuyện thấy lời nói Sư đều có lý lẽ, vị tăng rất tán thưởng, sáng hôm sau, từ giã ra đi. Vừa mới ra khỏi cửa, bỗng không thấy bóng dáng vị tăng đâu cả. Sư do đó quyết lòng cầu xin được xuất gia, tu thân niệm Phật. Tuy có nước trăm trượng mà không che được mây, vua chúa, người thân nào mà cản được lòng mạnh mẽ vào đạo, bèn đến chùa Chiêu Phước bái Luật sư Thận Ngôn làm thầy, học hỏi liên tục, đến khi thọ giới cụ túc, Sư chuyên học môn luật, lại hiểu sâu kinh luận, như vậy nội, ngoại đều thông. Lúc ấy, Pháp sư phục lễ giỏi về văn. Gọi Sư bảo rằng: Ngươi còn trẻ, có thể vì ta làm một bản Tây phương tán, Sư miệt mài không ngừng bút, lối hành văn thanh lịch, thể hiện nước Phật trong sạch, cảnh vật trang nghiêm như hiện ra trước mắt. Pháp sư Phục lễ đọc xong, nói với các Đại đức rằng: Thật là bậc kỳ tài không thể tưởng tượng nổi. Kể từ đó việc luyện tập viết lách ngày đêm Sư chuyên cần, phục Lễ quý về phong cách ấy, thường hay khen ngợi giữa chúng rằng: Lý luận của Đạo Nhân thể như suối chảy, làm văn bản tâu lên Triều đình. Huyền tông du hành đến Lạc Nam, ban cho tùy giá, ngự sử Lý Tịnh cùng thỉnh về chùa Thiên Cung Giảng kinh Tịnh nghiệp chướng, sơ ấy cũng do chính tay Đạo Nhân biên soạn, lúc ấy thiền sư Nhất Hạnh là bậc tông tượng của cả nước, đang lo lắng về Phật pháp tương lai ai có thể bảo vệ, ai có thể tuyên dương, tấu xin triệu tập các vị tăng tài ba trong thiên hạ, tập trung về chùa Phước Tiên ở kinh thành Lạc Dương, dựng lên Luận trường. Đạo Nhân được đề cử, bước lên diễn đàn đầu tiên, với Du-già, Duy Thức và Luận Nhân Minh Bách Pháp, dựng lập đại nghĩa sáu khoa, tranh luận với các sư, mọi người đều khuất phục.
Nhất Hạnh kinh ngạc nói rằng: Trụ cột của Đại pháp đã ứng hiện ra, lòng ta đã có chỗ nương tựa, dẫu chết cũng không hối tiếc, khi trở về gọi Sư cùng theo. Hạnh bị bệnh, nhà Vua ban thuốc chữa trị, khi khỏi bệnh. Vua ban lệnh từ Đông cung trở xuống đến cửu phẩm đều thiết trai tiễn đưa. Nhất Hạnh đưa Đạo Nhân ra thay mặt. Pháp sự xong, Tể tướng trương Thuyết nắm tay Nhân nói rằng: "Cửa Phật người tài giỏi ít có, xin phép nói ra một bản để lại", do vậy mà văn ấy lưu hành khắp trong nước. Niên hiệu Khai nguyên năm thứ 18, nhằm để xem xét sự cao thấp của hai giáo phái, Đạo Nhân biện luận mạnh mẽ, Đạo sĩ Doãn Khiêm đối đáp sơ sót, nhà vua khen tặng không ngớt lời, ban cho năm trăm xấp vải lụa. Đạo Nhân soạn riêng một bản Đối Nghi Luận, thịnh hành đến đời sau, tiếp theo soạn Đại thừa Pháp Bảo, Ngũ Môn Danh Giáo cùng Tín Pháp Nghi đều một quyển, Duy Thức sớ sáu quyển, Ngự Chú Kim Cương kinh sớ, sáu quyển.
Ban đầu, vua Huyền Tông chú thích kinh, đến chỗ nếu có người tội nghiệp đời trước đáng đọa vào đường ác cho đến có tội nghiệp thì được tiêu diệt, cảm thấy hoài nghi, nghĩ là có thể do giải sai hay là nghĩa riêng của một vị sư nào, bèn gọi Đạo Nhân chọn lọc công lực của kinh, mổ xẻ phải trái.
Đạo Nhân tâu rằng: Phật lực, kinh lực, mười thánh ba hiền đều không thể lường. Bệ hạ nhiều kiếp đến nay đối với hội Bát-nhã lắng nghe và huân tập bất nhất, càng chú tưởng thì tự phát hiện hành. Lúc ấy, nhà vua hoát nhiên nhớ lại những việc đời trước, hạ bút không còn dính mắc nữa. Tiếp tục gọi Đạo Nhân soạn sớ, khắp nơi nghe tiếng, môn đồ nối tiếp nhau đến, giảng tân sớ tại chùa Thanh Long, thính giả cả ngàn, đến với hai chùa Tây Minh và Sùng Phước, giảng đường đều đắp bằng đất thơm, từ dưới nước đắp lên mặt đất, sự sang trọng và trang nghiêm đứng vào bậc nhất trong kinh thành.
Vào niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 28, Nhân bị bệnh sắp qua đời, bảo đệ tử mang biểu dâng lên rằng: Mạt phẩm được sống nhờ mưa sương, được cùng hàng ngũ với tăng ni, tự tu tinh luyện, tuy thường được khoác áo Cà-sa, cầm gậy mà đi thư thả thanh nhàn, công đức huyền diệu, phu dương chân hóa, chẳng gọi là cù lao, mến học vội vàng dưỡng sanh.
Ngày 16 tháng nầy ruột gan co thắt, thuốc thang không cứu chữa được, cửa suối tự lấp, tắm gội gió mát. Lúc chiều tối ra đi, có định trước an táng tại Thương lũng, không còn yết kiến bệ son, nhà vua rất đau thương, khiến Trung sứ Nội cấp sự. Giả Văn Uy đem năm mươi xấp vải lụa đến chùa điếu tặng, được Hoàng ân truy điệu, sống vinh quang, chết bi ai, sáng sủa trong hàng tăng, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi ba tăng lạp, ngày 12 tháng 8 năm ấy, an táng cạnh vườn Tiêu Dao núi Chung Nam, có xây tháp trắng để tôn thờ lại.
Thích Lương Bôn, họ Quách, người ở Ngu Hương thuộc Hà Trung. Gia đình nhiều đời làm quan, nên không có người tu hành. Bôn biết nhìn xa hiểu rộng, phong cách siêu việt, ngoài thông về phần điển, trong hiểu về kinh luận, cách giãi nghĩa không ai thêm bớt được. Trong thời niên hiệu Vĩnh Thái, Bất không thịnh hành việc truyền kinh dịch sách, thật khó mà tìm người cộng tác, nhân lúc nầy
Sư tham dự vào công việc phiên dịch. Vua Đại Tông thỉnh làm giới sư Bồ-tát. Vì mới dịch kinh Nhân Vương Hộ Quốc, được lịnh soạn sớ giải phân tích rõ ý kinh, lấy chùa ở làm sớ mục, gọi là Thanh Long. Kinh nầy đã có ba bản dịch. Lần thứ nhất, vào niên hiệu Thái Thủy năm thứ ba đời Tấn, Pháp Hộ dịch một quyển, gọi là Nhân Vương Bát-nhã, lần thứ nhì do La-thập đời Tần dịch, gọi là Nhân vương hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật, tiếp theo do Chân Đế dịch vào niên hiệu Thừa Thánh năm thứ ba đời Lương tại chùa Bảo nhân ở Hồng châu, gọi là Nhân vương Bát-nhã và sớ sáu quyển, cho nên bản đời Tấn mới dịch tiếng địa phương còn cách biệt, bản dịch đời Lương thì cất giấu không lưu hành, kinh dịch thời Ngụy, Tần lưu truyền khắp nước, chẳng những chỉ nói Ba-la-mật mà còn có thiếu. Chữ đa, thiếu sót về nghĩa, vì vậy mà vua Túc Tông trai tâm gội đức, thỉnh Bất Không dịch lại, đến khi Túc Tông tuổi già, Đại Tông hoàn thành lời nói của Tiên thánh. Mời các bậc tài giỏi làm lại công việc phiên dịch, lệnh cho quân dung sử Ngư Triều Ân giám hộ tại vườn Nam đào. Vào ngày mồng 1 hay ngày 15 mỗi tháng, nhà Vua đến Quán đảnh đạo tràng của Điện Thừa Minh, đích thân cầm bản kinh cũ đối chiếu với bản dịch mới, rồi lại làm bài tựa để ở đầu bản, lại lệnh cho Sư soạn sớ thông kinh.
Bôn dâng biểu rằng: Bần tăng học từ tiên triết, làm nhơ thanh lưu, được nhận phiên dịch truyện sao chép, hân hạnh được đích thân đến cung đình thờ phụng đức âm, được lệnh tu sớ tán diễn tại vườn Nam Đào của cung Đại minh. Ánh sáng mặt trời đã rọi đến không thể lẫn tránh được, nên ra sức trên giấy trắng nhưng lại càng hổ thẹn và hoảng sợ nâng ngọc bích dưới thềm son, kính đền Hoàng ân, cúi đầu làm việc trung cần, hết lòng hết dạ, siêng năng dụng bút, nay đã hoàn thành ba quyển, tấu xin cho được lưu hành.
Lại biên thư rằng: Ngày 21 tháng 2 năm nay, được vua ban sắc tu soạn kinh sớ, Vi tăng học lực kém cỏi e làm không xứng chỉ, nên tẩy gội tấm lòng, lẳng lặng mà suy tư, lấy từ thiên ngôn, dựa vào Phật lực, kinh luận đều được diễn bày chân tông, cũng như tập hợp các thứ ngọc tại Côn sơn, dựa vào sông lớn mà chảy ra biển cả. Hỏa sanh từ mộc, cùng với lưỡng diệu (mặt trời và mặt trăng) đều sáng rực, thức chuyển về như thể như một dáng hình mà được ánh sáng mạnh chiếu soi. Vật để thành đạo là pháp, vật để ghi pháp là kinh, giải thích kinh là sớ, quảng độ tất cả cùng ở đại thông, tâm Bồ-Đề nầy là của bệ hạ, biên soạn kinh sớ nay đã ghi chép hoàn tất, văn có hơn muôn lời, chia ra làm ba quyển, thi hành trộm hổ thẹn theo ngu kiến, thành hình thức vấn đáp đối với Thánh ân. Ngoài ra có niệm tụng nghi quỹ một quyển, điện Thừa Minh giảng kinh Mật Nghiêm, Đối Ngự Ký, một quyển tất cả đồng dâng lên, kính mong xem xét chỉ ngại chưa làm tròn nhiệm vụ.
Đáp chiếu rằng: "Pháp sư Trí Cự Cao minh, dùng từ nhã đẹp dựa theo bản phạn tuyên bày vi ngôn, đưa những ý nghĩa sâu xa của Chân tông diễn thành chương sớ, mở kho bí mật của Như Lai, nêu ra chỗ mê lầm của mọi người, xỏ liền châu ngọc để nối từ sâu đến xa. Đọc qua nhiều lần mới biết sự tinh tường, truyền chiêu đề để làm pháp bảo mãi mãi. Nhà vua cho lệnh biểu dương vật báu trong cửa Phật, lại có thuộc chùa chương tín mới thành báo sớ, người dự thính thường có đến mấy trăm, tuy là giấy đắt như ngọc nhưng không thêm, tại nhà, giảng chùa Quốc An, triều đình cung cấp đầy đủ, trong vài năm học trò các nơi trở về tham học rất đông.
Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 7, tháng giêng, Bất Không tấu thỉnh xếp vào danh mục, nhà vua chuẩn y, Bôn đã dời về Tập châu vào năm thứ sáu, truyền dạy kinh truyện không lúc nào rảnh. Đến năm thứ mười hai nhằm ngày mồng 10 tháng 3, không bệnh mà mất tại chùa Phù Dương, thọ sáu mươi một tuổi, hai mươi chín tăng lạp, mọi người buồn thương rường pháp bị gãy đổ, sau khi trà-tỳ lấy được hơn trăm hạt xá-lợi từ trong tro, trong di biểu dâng Niệm Tụng Nghi Đối Ngự Ký, hai quyển. Trong đợt tiến kinh lần trước còn giữ lại, cho đệ tử mang đi sau nầy ở phía Đông thành Thượng Đô có xây phần tháp. Vào niên hiệu Đại Lịch thứ 13, Bôn được triều đình mời làm chức Cung Phụng, từ biện cao siêu, học vấn sâu xa, cuối đời luân lạc, bị lưu đày như Lợi Thiệp, Thần Hội, than ôi!
Thích lễ Tông, họ Tống, người ở Cối Kê, đạo khí mạnh mẽ, có chí cầu huyền vi, nguyện xuất trần, quyết lòng trừ bỏ sự ràng buộc, nghe có Hòathượng chùa Trường Thọ Thông Đạt thiền quán, đến xin cầu học, tâm học tập siêng năng không ngừng nghỉ.
Thầy dạy rằng: "Sự xuất gia của ông có lợi ích rất lớn, có thể nói là ngọc tốt, thước đo, tuy có mảnh đất mười sào nhưng không thể che đậy ánh sáng ấy, Sư cố gắng chú thích kinh Niết-bàn, lòng ôm ấp với giấy mực suốt cả hai năm, phá ngăn gỡ rối, mới được suôn sẽ, hoàn thành giáp chú tám mươi quyển. Đến Trịnh Khanh thượng thư Điển Quận, nghe tiếng tăm bèn gởi sớ đến thỉnh, Sư thẳng thừng từ chối không đi.
Vào niên hiệu Cảnh Long năm thứ hai, có ngự sĩ đại phu tên là Phùng Tư, bỗng nhiên bị chết đột ngột tại một nơi, có hai đồng tử cầm sổ dẫn Phùng đến phòng phán quan để kết tội, gọi Phùng nhìn cây cổ thụ kia, nhánh lá che phủ khắp vùng đất rộng lớn, ngồi bên cạnh phán quan là người quen cũ, tên là Trương Tư Nghĩa, ngoắc tay gọi Phùng rằng: "Ta là cậu của ngươi, từng làm Thương lại Lạc Dương, bị Trưởng quan việt cách vu khống sát hại, có mượn đỡ tiền dầu và mì ăn trong chùa Thái Bình, đến nay còn chưa trả được, chỗ ngồi của ngươi không hợp với Việt Cách trong cung Thiên Hậu nên có sự chết đột ngột nầy, hãy phát nguyện tạo kinh Niết-bàn và đúc chuông, sẽ lập tức được tấu phán trả về nhân thế", lại nói rằng: "Tại xứ Diêm-phù một ngày tạo công đức được phước vô lậu, sao ngươi một đời không tu công đức?"
Kinh Niết-bàn nầy, truyền thụ từ núi Thiên Thai, do Đại sư Lễ Tông chú giải, mỗi lúc đều có thiện thần giữ hộ. Lúc ấy, Trương sai quỷ sứ áp giải Phùng đến các ty xem xét tội nặng nhẹ và chỗ sanh về, trước khi đi còn dặn rằng: "Ngươi đi Lạc Thành, trong phường Đạo quang, Đường Thập tự, ngôi nhà thứ ba là nhà ta, chung quanh nhà là ao, đình, trúc và cây, hỏi thăm dùm vợ con ta". Phùng tỉnh dậy kinh chưa tìm được mà lại chết đi. Ba ngày sau đúng hạn trở về viết kinh và đúc chuông, công việc hoàn tất, Phùng được ở đời bốn mươi tám năm mới chết, tuổi thọ của đại sư Lễ Tông lên đến chín mươi bảy tuổi.
Thích Pháp Sằn, họ Tôn, mẹ nằm mộng thấy nuốt hạt ngọc, từ đó không còn ưa mùi cá thịt, lúc sanh Sư có dị tướng khác thường, bắt đầu mười lăm tuổi từ giã cha mẹ theo thầy, vào chùa và được thọ giới cùng trong năm ấy, hạnh học một khi đã huân tập thì phát triển thành giáo tông, quyển Y lữ lập công, chí thích di hình lý tánh cùng với núi rừng, cho nên đại sư Địa Ân Trinh trao cho Sư Hoa Nghiêm kinh Bồ-tát giới, Luận Khởi Tín, tâm tri yên tĩnh, Trí thầm hợp với kinh. Một hôm, Sư mộng thấy cỡi một con voi lớn bay vụt qua vùng trời biển, trước mặt có dãy núi cản ngang và trời đã tận cùng. Không ngờ chiếc buồm của con thuyền lại vụt lên cao, mây giăng giăng ở phía dưới, giật mình thức dậy mồ hôi ướt áo, từ đấy không cần suy nghĩ gì về nghĩa cú mà toàn văn của một bộ sách thường hiện nơi tâm cảnh, mọi việc đều thấu suốt không gì trở ngại.
Niên hiệu Đại lịch năm thứ hai, Sư giảng tại chùa Long Hưng, mới lên pháp tọa bỗng có lằn ánh sáng lạ mầu đỏ. Vừa sáng vừa rộng quây quần bao phủ vùng không gian, người có tu hành lâu trong cuộc nhìn thấy trước, Sư giảng Đại kinh trước sau mười lần, biên soạn nghi ký mười hai quyển. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ mười ba, nhằm ngày mùng 7 tháng 11. Sa-môn Tuệ Giác mộng thấy ngôi tháp lớn lúng xuống đất hai tầng, Sư không bị bệnh gì mà qua đời, thọ sáu mươi mốt tuổi, bốn mươi hai tăng lạp. Ban đầu, Sư giảng tại chùa Thiên Trúc, mở rộng Hoa Nghiêm, đến khi mất Hạo Nhiên ở Ngô Hưng soạn văn bia. Túc công ở Khang thành làm bài hợp tụng cùng biểu dương.
Thích Tiềm Chân tự Nghĩa Chương, họ Vương, thuộc Hoa tộc ở Thái Nguyên, sau nầy dời đến làng Sùng đạo thuộc Sóc Phương, Hạ Châu, Chân là người con giữa trong nhà, khi vào học các môn học đều nổi bật, từ thuở nhỏ đã thích học sách Phật, đó là do có thiên tính, đến tuổi đôi mươi bước vào cửa Phật, nhằm niên hiệu Khai nguyên năm thứ 26, đăng tên tại chùa Linh Giác, ở Bản Thành năm sau thọ giới cụ túc. Kể từ đấy nghe tu luật thừa, bước vào biển luận.
Thời vua Đại Tông, vua ban sắc cho Sư soạn sớ bộ kinh mới dịch là kinh Văn-thù-Sư-Lợi Bồ-tát Phật Sát Trang nghiêm.
Tâu rằng: Kinh nầy có ba bản dịch, một là vào niên hiệu Thái Hy đời Tây Tấn, do Pháp Hộ dịch tên là kinh Phật Độ Nghiệm Tịnh, lối văn phần nhiều là cổ ngữ, câu thị giản mà nghĩa lý sâu xa. Hai là vào thời Thiên hậu, Thật-Xoa-Nạn-Đà dịch tại chùa Thanh Thiền, tên là kinh Văn-thù Thọ Ký, ba là bản dịch vào niên hiệu Đại Lịch năm thứ sáu nầy. Cầu mong bệ hạ hãy ban sắc lệnh, con người sẽ quay về với Bửu Đồ, đức độ của Thánh Thượng sanh cùng với trời đất, ánh sáng tỏa ra như nhật nguyệt, lòng nhân thắm nhuần muôn vật, Di địch ngưỡng đức, mà góp lòng thành với từ tuệ, lợi sanh chính giáo, nương phong độ mà giảng nói hóa độ.
Chẳng bao lâu, Lộc Phường Tiết Độ Sứ kiêm Ngự sử Trung Thừa Đỗ Miện tấu vì nước xin các kinh Đại thừa, vua hạ chiếu xuống đến chỉ viên, phạn chỉ khai mở Bối Diệp, vì vậy thỉnh Tam Tạng Bất Không dịch kinh nầy ra mấy chục bộ, lại tiếp tục có sắc ban xuống tất cả các chùa trong nước, đều phải thờ tượng Bồ-tát Văn-thù, dựng cờ Thánh công. Lại có chiếu lệnh qui định lấy Văn-thù Bồtát làm Thượng tọa, đó là đều là do lời thỉnh của Tam tạng, Tam Tạng học nghiên cứu Du-già giải thích tận cùng Pháp ấn. Thân, khẩu, ý, nghiệp bí mật tu trì, giới định tuệ tuyên bày rõ ràng, biết rõ thanh vận giữa chữ Hán và chữ Phạn, truyền dịch kinh nầy hay khéo phù hợp với Thánh chỉ, văn chất gồm nhau, sáng ngời dễ xem. Khi Chân thức ngu muội, tài học thô thiển, may được xen lạm vào trong số những vị phiên dịch truyền bá, Hư Không Tạng kinh khóa hư nhuận sắc, thân hèn được sai khiến thuật sớ tán dương, tuy văn nghĩa còn thô sơ mà đã được truyền khắp kinh ấp, việc làm nầy đều có lý do của nó.
Có Đại đức chùa Kim Các, là Thiền sư Đạo Siêu, học suốt nguồn pháp, hạnh khớp hợp với gốc tâm, tận mắt nhìn thấy cảnh linh thiêng của Mật thừa Thánh từ, lâu ngày tại nơi mát mẻ nầy tu hành tịnh nghiệp, tại nơi ở lại xây dựng một ngôi tháp, tìm quán pháp duyên đến tận kinh quốc, lấy kinh nầy làm việc lớn, lấy Đại thánh làm bổn sư, biểu dương Thánh đức, không gì hơn nữa. Thiền Chân bèn cúi đầu lạy tam Tạng, thệ truyền pháp môn Đại thánh, không vì Tiềm chân tầm thường, Hòathượng xin được biên soạn, Vua không kể sự thô kệch trước đây, vẫn lệnh cho Tiềm Chân tán dịch kinh nầy, e rằng khó đạt được chân ý, nên dốc hết lòng ngu trệ mà cố sức. Vào niên hiệu Đại lịch năm thứ tám, tháng 11 bản sớ đã hoàn thành, bèn tấu trình lên.
Tiềm Chân học thông suốt nội ngoại, tánh tướng dung thông, xét chỗ sâu xa, tinh nghiên giáo lý. So sánh lại sự sâu xa của xưa nay, phân biệt dị đồng quy về một nghĩa, biện luận như suối chảy, quy về hư không. Thẳng bút mà ghi chép về tuyệt xướng, kết thành ba quyển để làm dây mực, hiện tại vị lai dứt hẳn lưới nghi. Lại soạn Bồ-Đề tâm nghĩa, phát Bồ-Đề tâm giới, đều một quyển. Tam Tụ tịnh Giới và thập Thiện Giới cộng chung một quyển. Kiêm Bẩm thừa Bí giáo của Bất không nhập Mạn-noa-la, lên đàn Quán Đảnh, thọ thành Phật ấn. Hiển giáo và Mật giáo đều truyền đi rộng khắp. Quan nội, Hà đông, Đại lịch, bốn triều mở rộng diệu chỉ, đệ tử đông đúc, cộng thêm cương kỷ của Hưng Thiện và Bảo Thọ hai nơi già-lam. Khuyến răn tăng ni dù có sức thật cũng phải lấy lòng chính đáng làm chuẩn mực, dặn dò xong, ngày 14 tháng 5 Sư bị bệnh, đến ngày 21, từ hông sườn bên phải tê đến chân (bất thân bất toại), miệng tụng danh hiệu Phật A-di-đà, Sư qua đời tại bản viện Hưng Thiện, thọ bảy mươi mốt tuổi, bốn mươi chín tăng lạp.
Thích Trừng Quán, họ hạ Hầu, người Sơn Âm thuộc Việt Châu, năm mười một tuổi đã xuất gia với Thiền sư Bái chùa Bảo Lâm (nay là núi Ứng Thiên), tụng kinh Pháp Hoa, mười bốn tuổi ngộ ân được độ, thuộc về chùa nầy. Sư dáng người tuấn tú cao sang, không bận rộn về những việc lặt vặt, bèn đi thăm viếng các danh sơn cầu bí tạng, theo lễ luật sư tại chùa Thê Hà ở Nhuận Châu, học tập tướng bộ luật, dựa theo Nam sơn luật, đến chỗ pháp sư Huyền Bích ở Kim Lăng, được ngài truyền Quan hà tam luận, Tam luận được thịnh hành tại Giang nam, biểu hiện sự góp sức của Trừng Quán. Trong niên hiệu Đại Lịch tại chùa Ngõa Quan được truyền Luận Khởi Tín, kinh Niết-bàn, lại được ngài pháp Tạng ở Hoài Nam dạy cho Hải Đông Khởi
Tín sớ nghĩa, trở lại chỗ Pháp sư Sằn chùa Thiên Trúc ôn tập Hoa Nghiêm đại kinh, bảy năm sau đến Diệm khê. Từ Thành đô nơi pháp sư Tuệ Lương tìm học lại tam luận, mười năm tại Tô châu, theo pháp sư Trạm Nhiên học Thiên Thai Chỉ Quán, Pháp Hoa, Duy-Ma kinh sớ, hiểu từ Thượng trí tính tự thiên nhiên, các văn đã học như xã bỏ luôn qua, rồi lại đến núi Ngưu Đầu yết kiến Trung sư, Khâm sư ở kính sơn, ở Vô Danh Sư Lạc Dương v.v... thưa hỏi về yếu quyết của thiền pháp Nam Tông. Lại đi gặp Pháp sư Tuệ Vân tìm hiểu về huyền lý của Bắc Tông. Quán tự nhủ rằng: Bản thân đã viếng các bậc Thánh khắp mọi nơi thật là gỏi tâm vào cảnh Phật vậy.
Quán được trí tuệ từ đời trước, học kỹ nghệ trong nhân gian, nên phiên dịch kinh truyện, tử sử, tiểu học, Thương nhã, Thiên-trúc, Tất-đàm v.v... Các bộ dị chấp, bốn bộ Vi-đà, năm minh, thể lệ bí chú đến thiện tụng lời bút vết sách, Sư đều thông suốt. Tính đa năng ấy từ thiên chân mà có.
Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 11, Quán thề quyết tâm đến núi Ngũ Đài, viếng lễ theo thứ lớp, được rất nhiều bổ ích. Còn đến Ngã Mi cầu kiến Phổ Hiền, đeo núi vượt hiểm để xem Thánh tượng, khi trở về núi Ngũ Đài ở chùa Đại Hoa Nghiêm, chuyên thực hành Phương đẳng sám pháp, lúc ấy chủ chùa Hiền Lâm mời giảng Đại kinh và giảng các luận. Vì chê Hoa Nghiêm cựu sớ văn nhiều mà nghĩa kém, lại suy nghĩ về lâu dài, huống gì có Văn-thù đứng đầu về trí, Phổ Hiền đừng đầu về lý, hai vị Thánh hợp thành Tỳ-lô-giá-na, muôn hạnh đều thông, tức là nghĩa của Hoa Nghiêm. Ta đã viếng thăm cảnh của Phổ Hiền, dừng chân nơi tốt lành, không làm sớ Tỳ-lô e là cô sẽ phụ hai vị Thánh ấy. Cho nên Quán bắt đầu soạn sớ. Bỗng nằm mộng gặp một người vàng, xòe tay ôm lấy, nhai và nuốt hết, đó là tượng trưng nuốt lấy sáng suốt và chiếu tỏa ra khắp nơi, ba năm sau công việc hoàn thành, gồm hai mươi quyển. Bèn trai tăng một ngàn vị tăng để chúc mừng.
Sư thường hay nghĩ đến việc giảng dạy, bỗng mộng thấy thân mình hóa thành rồng ngóc đầu về phía Nam đài, đuôi thì quay về núi bắc, chụp lấy Bích châu, vảy râu chói lọi rực rỡ. Khoảnh khắc quanh quẩn hóa thành hàng ngàn con rồng nhỏ, bay bỗng lên tận mây xanh mà đi tứ tán, tượng trưng cho giáo pháp sẽ phân ố ra khắp nơi. Năm thứ tư chủ chùa là Hiền Lâm mời Sư giảng tân sớ, năm thứ bảy Hà Đông Tiết Độ Sứ Lý Tự Lương thỉnh về giảng tại chùa Sùng Phước. Vua Đức Tông nhờ Trung sứ Lý Phụ Quang truyền chiếu vào đô cùng với Tam tạng Bát-nhã người nước Kế-tân dịch, phần sau của Hoa Nghiêm bốn mươi quyển, Ô Đồ quốc vương vừa tiến dâng. Sư từ khước để lại năm sau mới vào việc, vua chuẩn y, lúc khởi hành vào kinh, trên đường đến Bồ tân, Trung lệnh Lương công lưu Sư lại trụ tại chùa Thê Nham ở núi Trung Điều, trong chùa có vị thiền khách, mày xoăn tóc cắt, tự là Si nhân, ca múa nói lảm nhảm, nhưng hễ nói ra điều gì thì thường có linh nghiệm trước khi Sư chưa đến thì cuồng tăng đã hối thúc chúng tăng trong chùa hãy quét dọn sạch sẽ, để chào đón Bồtát không lâu nữa sẽ đến đây. Cuồng tăng lại giỏi về vẽ Chỉ bích họa Tán Chỉ đại tướng và sơn lộc trên tường, kể từ khi Sư đến đây, cuồng tăng im lặng không quậy phá nữa, đến tháng 5, Trung sứ Hoắc Tiên Minh truyền chiếu Vua hối thúc vào kinh. Sư đến cung thành, nhà Vua rất trọng hậu, mời vào dịch trường làm công việc đính chính, lại ban lệnh cho soạn sớ, bèn biên soạn mười quyển trình lên, lại ban lệnh ở Lưỡng Nhai mỗi nơi đều giảng một lần làm sớ, ngoài ra còn dịch Kinh Thủ Hộ Quốc giới chủ.
Sư sửa văn nhuận sắc. Thuận Tông ở Xuân cung, có lần ban lệnh soạn liễu nghĩa một quyển, Tâm yếu một quyển và nhân duyên ăn thịt mắc tội. Khi Sư đến Trường an lễ tiếp đón càng thêm trọng hậu, triều thần quy hướng, như Tề tướng quốc Hàng vi, thái thường Cừ Mâu đều kết thành tâm giao. Ngoài ra, tướng Vũ Nguyên Hằng, Trịnh Nhân, Lý Cát Phủ, Quyền Đức Dư, Lý Phùng Tát, Trung thư Xá Nhân Tiền Huy, binh bộ thị lang Quy Đăng, Tiết độ sứ Tương Dương là Nghiêm Thụ, quán sát sứ Việt Châu là Mạnh Giãn, Hồng Châu
Vi Đan đều mến mộ phong độ thanh cao của Sư, theo mà thọ giáo huấn.
Sư thường ở dưới lầu Bát-nhã ở chùa Vân Hoa mới xây cất, vẽ Hoa Tạng đồ tướng, lại soạn Tùy sớ, diễn nghĩa bốn mươi quyển, do Tể tướng Doãn thỉnh soạn Hoa Nghiêm kinh cương yếu một quyển, pháp giới huyền giám một quyển. Tam thánh Viên Dung Quán một quyển, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng-già, luận Trung Quán v.v...tiểu sao sớ, gồm ba mươi quyển. Lập đại hội Vô Già, Thập Nhị trung, còn tạo các hình tượng, kinh sách biên soạn nhiều không thể kể hết.
Môn nhân là Thanh Miện ghi lại rằng: Sư bình thường phát mười nguyện như sau:
1.Thời gian ở Phương trượng dài, nhưng ý bát không chứa dư.
2.Danh lợi đương thời bỏ như đàm dãi.
3.Mắt không nhìn nữ sắc.
4.Thân không đến nhà thế tục.
5.Không bỏ việc trì tụng kinh Pháp Hoa.
6.Thường đọc kinh điển Đại thừa mãi, bố thí khắp hàm linh.
7.Giảng Đại kinh Hoa Nghiêm.
8.Suốt đời ngày đêm không nằm.
9.Không cầu danh, mê hoặc đại chúng.
10. Bất thối Đại từ bi, cứu giúp khắp pháp giới.
Sư suốt đời thường y theo nguyện mà tu hành.
Sư thọ được bảy mươi tuổi, đệ tử truyền pháp được hơn trăm vị, có thể giảng được cũng cả ngàn vị.
Thích Lương Tú, họ Quách, người Bồ Tân, tuổi còn trẻ đã rời tục, đến chùa Bá Thê ở núi Trung Điều xuống tóc, tụng thông kinh nghiệp, thọ giới cụ túc, thề lấy truyền đạo giảng kinh làm nghề nghiệp của mình, siêng năng cực nhọc, Tam tạng đều nằm ngoài chín dòng, lúc ấy sách vỡ không được tôn sùng.
Niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư Sư vâng chiếu cùng Tam Tạng Bát-nhã người nước Kế-tân dịch kinh Đại thừa lý thú Ba-la-mật kinh mười quyển, đến ngày mùng 4 tháng 2 năm thứ năm hoàn thành, viết xong bản trình lên, vua Đức tông lại lệnh cho soạn sớ.
Tú dâng biểu tâu rằng: Ngày 28 tháng 11 năm rồi Hữu Nhai công Đức sứ Vương Hy Thiên vâng lệnh tuyên cho Sư tu soạn lại Đại Thừa lý thú lục ba La Mật kinh sớ. Kính nghe chí đạo cùng nguồn, bậc Thánh đều nhất quán, bậc Đại Hùng thị hiện giảng nói diệu âm tại vườn Cấp Cô Độc, ngôi báu phân thân thấm nhuần song khuyết. Mặt trời Phật hơn mặt trời thánh, hàng phục ty luân nơi pháp thân. Cho nên dương buồm thuyền từ giúp cho người được sống trong cảnh thọ. Bằng không sao nắm được chân lý cho phù hợp, nên phải ngừng lại mà cảm thông, huống chi kinh nầy là pháp môn độ chúng sanh, là mật ấn của Như Lai, được Bửu hàm của Bạch mã mà mở bí tạng của Thanh long, là nghĩa lý bậc nhất để bỏ nơm lồng, thừa thuyết sau cùng không có phân biệt, lại lấy thiên văn phát sáng nhằm chiếu rọi lại chân như khế tâm đã vạch rõ nơi cửa Phật.
Soạn lời tựa Bát-nhã là văn xuôi của vua Thái Tông, đã được thấm nhuận tận gốc rễ, sương mốc thấm nhuần đến với cành lá, bọn Lương tú v.v... học kém hiểu ít, học tánh dị sanh, lầm gởi thảo luận, mong được hiểu cho. Thượng thừa nghiêm chỉ, luống nhọc dùng ống, nhìn trời kính vâng bổn sư, sợ thăng đường mà trồng đàn, nay đã soạn sớ một quyển trao cho Vương Hy Thiên tùy biểu dâng tiến. Cúi mong thánh từ hứa cho Sa-môn cùng soạn sớ là Đàm Diên tại chùa Tán Diễn cùng lưu bố trong ngoài, hy vọng chân ngôn nầy sẽ được chỉ bày rõ ràng cho người mới học, rõ ràng tượng giáo truyền bá đến tương lai.
Nhà vua xem xong, lệnh cho cấp nội sự Mao Anh Kỳ, Tuyên uý Lương Tú, Đàm Diên, Đạo Hằng, cùng bàn cho chín mươi xấp vải lụa, về việc soạn sớ nghĩa có công lao rất lớn, hè thu đều ban thư vấn an, không biết Sư mất vào năm nào.
Thích Tuệ Lâm họ Bùi, người nước Sơ-lặc. Ban đầu thờ Bất Không Tam Tạng, làm việc quét dọn trong thất. Nội trì mật tạng, bên ngoài thì nghiên cứu Nho học. Thánh minh của Ấn-độ, cổ huấn của Trung Hoa đều tinh ròng, cho rằng dịch Phạn thành Hán, Hán đều là điển tích, hễ điển tích thì dùng tế ngữ trời Tây, tham hợp ý Phật, xét kỹ đúng sai, soạn thành Đại Tạng Âm Nghĩa một trăm quyển, từ niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư đến Nguyên Hòa năm thứ 5 mới hoàn thành, cất chứa bản ấy trong Tây Minh Tạng, trong kinh thành đều kính ngưỡng.
Nước Cao-ly tuy có Tam Hàn Di Tộc, nhưng riêng chuộng Đạo Phật. Thời Chu Hiển Đức sai sứ mang vàng đến, cầu Tuệ Lâm giảng dạy về âm và nghĩa, vì lúc ấy không có bản nầy lưu hành.
Sư qua đời vào niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ 15 tại nơi ở, thọ tám mươi bốn tuổi, sau khi Sư qua đời năm năm, có tấu thỉnh nhập vào tạng mà lưu hành.
Thích Duy Xác họ Liên, vốn là người ở Bằng Dực, chín tuổi đã xuất gia, hai mươi tuổi thọ giới, vì mẹ và anh đều quy y pháp môn, cho nên Xác theo thọ giáo, do bên trong tĩnh lặng thì bên ngoài phát, nên Sư siêng học chẳng mệt mỏi, lại từ giã Vị Vương, tìm thầy mà học. Có lúc được nhà vua mời giảng, lúc thì tham gia luận đàn, hoặc tham vấn Thiền tông hay theo học luật, với ý chí rộng mênh mông đều muốn dung nạp.
Đến tuổi bốn mươi thường ở tại kinh đô, nhận lời mời của gia đình cựu tướng Phòng Dung, trước khi dùng cơm chủ nhà đưa ra hòm kinh rằng: Khi còn làm Tri huyện Nam Thiên quận Nam hải ta dự tính dịch kinh nầy tự mình ghi chép một bộ kinh Thủ-lăng-nghiêm để lại nhà cúng dường, nay trong bàn tiệc có mười vị tăng, mỗi vị có thể mở đề một quyển. Xác ngồi ở chỗ thứ tư, mở kinh ra thấy PhúLâu-Na hỏi về nghĩa sanh khởi, cảm thấy lời văn uyển chuyển, nghĩa lý sâu xa, bèn phát nguyện soạn sớ và vẽ tượng Bồ-tát Văn-thù, riêng tụng danh hiệu, công chung là mười năm. Quyết chí vững chắc nên có cảm ứng, mộng thấy nàng tiên cỡi sư tử đi vào miệng. Vì vậy mà hạ bút được sáng suốt, dường như giảng Ba-nhã vậy. Kể từ khi phác thảo cho đến hoàn tất, trong lúc nằm ngủ thường thất từ trong miệng mà ra, là trí Văn-thù trong Tổng Hoa Nghiêm, lập thành ba quyển, tự cho là từ trong trí cạn thấp mà ra. Nay đã thịnh hành. Có thuyết nói kinh Lăng-nghiêm ban đầu là do Thiền Sư Thần Tú được bản tại chùa Độ Môn ở Kinh Châu, sau đó vì Sa-môn Tuệ Chấn ở Quán Đào từ chùa Độ Môn truyền ra, được Duy Xác soạn sớ giải thích.
Thích Hoài Cảm, tính mạnh bạo, chịu khổ nhọc theo thầy, hễ chưa nắm được nghĩa lý thì chưa chịu thôi, nhưng không tin niệm Phật, trong thời gian ngắn là đường tắt sanh An Dưỡng. Thuở nhỏ thích sống theo lối hưởng thụ sung sướng, nghi ngờ chưa giải trừ được, bèn yết kiến ngài Thiện Đạo để giải quyết sự do dự?
Thiện Đạo nói: Người truyền đạo độ người, vì người tin mà giảng, còn người mù mịt thì không đến.
Sư nói: Các Đức Phật nói lời thành thật, không tin thì không giảng.
Thiện Đạo nói: Nếu như sở kiến khiếm niệm Phật, vãng sanh thì há là ma nói sao? Nếu ông tin thì dốc lòng niệm, Phật sẽ có chứng nghiệm, nếu mà vào đạo tràng hai mươi mốt ngày thì không thấy linh ứng gì đâu.
Sư tự hối hận lỗi mình, muốn tuyệt thực cho đến chết, Thiện Đạo không chấp nhận, bảo hãy thành tâm niệm Phật ba năm, sau bỗng cảm nhận được linh ứng, ánh sáng vàng bạch hào, chứng được niệm Phật tam-muội. Buồn giận cho nghiệp cấu đời trước nặng, vọng tạo các tội nên sám hối phát lộ, Sư soạn luận Quyết Nghi bảy quyển. Khi Sư qua đời quả có Phật đến rước, chắp tay hướng về phía Tây mà đi.
Thích Pháp Hải, tự Văn Doãn, họ Trương, người ở Đan Dương, thuở nhỏ xuất gia tại chùa Hạc Lâm. Bạch câu ăn phá đám mạ non, cánh vàng bay lượn trên mặt biển, được thầy chỉ dạy, xem hết các kinh luận, sông cái theo nạp các sông nhỏ, Đặng lâm chim tụ lại là lấy viên nhập nhất tánh học theo bậc Không vương, giỏi về độc ngộ đương thời, phân tích nghĩa lý tiên hiền chưa giải được. Sư cùng một lúc học sáu bộ sách đều thông hiểu, thường bảo mọi người rằng: pháp môn Phật pháp chỉ có tâm địa, ngoài ra đều là khía cạnh, trong niên hiệu Thiên Bảo, Sư tham dự trường giảng của luật sư Pháp Thận ở Dương Châu, Đàm Nhất, Linh Nhất, suy tôn là Nhan Nhiễm, lại cùng Trữ Sơn Trú công kết làm bạn thâm giao, vui chơi cùng với rừng núi, một trẻ một già cùng học hỏi với nhau.
Thích Tuệ Uyển, người ở Kinh Triệu, thuở nhỏ ngộ nghỉnh có nhiều biệt tài, chán ghét vòng trần gian, nên đối với tịnh vực, lễ ngài Hoa Nghiêm Pháp Tạng làm thầy, dưỡng thần luyện tính, siêng năng không lười, chẳng bao lậu đạt được pháp nghĩa sâu xa, nội ngoại đều thông, được gọi là Thượng Thủ môn nhân, rất thông hiểu tông Hoa Nghiêm.
Sư dựa theo Luận Bảo Tính lập ra bốn cách dạy, vì có bốn hạng người không hiểu Như Lai tạng, như người mù, bẩm sanh, cho nên phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát sơ tâm:
Một khi mê chân, dị chấp giáo thì là phàm phu.
Hai là chân một phần, bán giáo là nhị thừa.
Ba chân một phần, mãn giáo là Bồ-tát sơ tâm. Bốn chân đầy đủ mãn giáo là biết Như lai tạng.
Các Sư xử phán, có vị thì nương, có vị lại cho là trái, nhưng cương lĩnh của giáo thừa là thuyết của một nhà, hơn nữa, kinh mới dịch chưa có chú thích, người đọc khó nắm bắt, Sư bèn xem lại xem rộng các kinh sách, soạn thành hai quyển, để cho người mới học không cần phải cầu thầy ở đâu xa, biết được chữ gốc, xem không dính mắc. Tuy dựa theo bậc Hiền, cũng không phụ với cách dạy dỗ trong gia đình.
Thích Trí Uy họ Tưởng, người ở Tấn Vân, tài năng siêu vượt cõi trần, tuổi nhỏ theo thầy Hiên Viên ở núi Huyện Đan, nghe Thiên Đại giáo tông hưng thịnh, bèn đến chùa Thạch Thành ở Ốc Châu, gần gũi thiền sư Quán Đỉnh cầu thỉnh tâm yếu, đã được nhất dung đạo thể nhị cư tông, định tuệ mới được vừa tịch vừa chiếu, tuy rằng tự lợi rồi mục đích là lợi tha, trời phú cho đa năng với dồi dào ngôn từ, soạn bia chùa Đào Nham từ và bia chùa Đầu-Đà. Tướng khí độ biểu lộ, sau trao phó pháp nhãn cho Tuệ Uy, bấy giờ tương truyền Trí Uy là hậu thân của Từ Lăng, thì sự lanh trí hùng tài ấy có thể biết được là như thế nào.
Thích Tuệ Uy, họ Lưu, người ở Đông Dương, lúc còn nhỏ noi theo tập tục cũ, nên quyết xé rách lưới ái, thẳng vào không môn, không dính mắc ở một nơi mà được ba lợi ích. Nghe thiền sư Tấn Vân đại uy thịnh hành thiền pháp, liền tìm đến nơi một mực dựa theo thầy, chịu khó siêng năng, dầu một ngày đi ngàn dặm cũng không hề than vãn, đến khi có thành tựu, được gọi là Tiểu Uy, nhưng thích ở nơi núi non yên tĩnh, chỉ dạy đồ đệ cũng khá nhiều, những vị tài giỏi như Tả Khê, Huyền Lãng, v.v... Sư thường tu Chỉ Quán không bỏ phí thì giờ, nói và hành đi đôi với nhau, thanh thản giải thoát, ai mà gọi tên được.
Thích Trạm Nhiên, họ Thích, người ở Thường Châu, ngày xưa sau khi Phật diệt độ, giáo pháp tiếp nối đến đời thứ mười ba là ngài Long Thọ, mới bắt đầu dùng văn tự, người hiểu rộng Đệ nhất nghĩa Đế, nối tiếp giáo học ấy gọi là Pháp tính tông. Nguyên Ngụy Cao tề có Thích Tuệ Văn, im lặng mà hiểu biết, trao đại sư Nam Nhạc Tư. Vì vậy mà có môn học Tam quán, từ đại sư Trí Giả làm hưng thạnh ở Thiên Thai, ngày càng phát triển rộng lớn, tất nhiên vẫn lấy theo lời dạy của Long Thọ. Trí
Giả là cháu đời thứ năm, dựa theo pháp của Tả Khê Lang Công, gia đình gốc là Nho giáo. Sư có chí vượt tục, lúc còn bé đã khác hẳn với các đứa trẻ khác, hai mươi tuổi thọ kinh với tả Khê, thầy hỏi: Ông có mộng thấy gì chăng?
Sư đáp: Từ lâu đã mông thấy khoác áo Cà-sa, mang hai bánh xe đi lội dưới sông lớn.
Tả khê nói: Ngươi sẽ dùng hai pháp Chỉ Quán để độ chúng sanh ra khỏi vực sanh tử, bèn truyền cho Chỉ Quan của Bổn sư. Sư lắng đọng tinh thần, đức hạnh cao sáng, tiềm thức ấy nằm sâu trong trí tuệ để phát huy tác dụng. Giữa tấc lòng hợp với vùng trời bao la, vì vậy dùng người có học để truyền đạo, người học đều vui, như tất cả mọi dòng nước đều đổ ra sông cái.
Vào những năm đầu niên hiệu Thiên Bảo được thay áo nho sĩ làm tăng ni đến chỗ luật sư Đàm Nhất ở Việt Châu học pháp, tìm nắm những phạm vi của chế độ luật. Lại đến chùa Khai Nguyên ở Ngô Quận học thêm Chỉ quán, nhưng không có thầy giảng cho, tự mình mang Mật tạng về Đông nam, nói với đệ tử rằng: Đạo khó hành, ta đã biết rồi, bậc Thánh đời xưa dùng tịnh để xem xét về cội nguồn, động để ứng với mọi vật. Cả hai đều không dừng lại ở một nơi, mới bước vào được đại phương. Người đời nay hoặc bay bổng trên trời hoặc dậm chân tại chỗ, tự làm cho mình bịnh, lại làm cho người khác bịnh, không được vươn lên. Sắp muốn lấy chính là bỏ, cho nên mở rộng thượng pháp, bao gồm muôn hạnh, nhiếp hết các tướng vào không xen hở, tức dùng chữ nghĩa để đạt quán, dẫn lời trầm lặng mà trả về nguồn, đó là noi theo chương cú đã truyền gồm mười mấy muôn lời. Tâm độ các thiền thân không vượt ngoài khuôn khổ, ba pháp học đều được nung nóng, nghi vấn của mọi người ngày càng tan biến dần, giống như tìm châu mà hỏi bóng, hơi thấy công hạnh của võng tượng. Chỉ quán được thịnh hành bắt đầu do sự góp sức của Trạm Nhiên.
Cuối niên hiệu Thiên Bảo, đầu niên hiệu Đại Lịch (766-779), chiếu thư xuống vời liên tục, Sư đều lấy cớ vì bệnh mà từ chối, đang lúc quân cướp nổi dậy nạn đói tràn lan, nêu cao dòng pháp. Người học càng đông, nhìn về nhà cửa làm nơi nương tựa, Sư dùng tâm nhân từ mà tiếp nhận, cẩn thận mà gìn giữ, trang trải cho một giường mà ở, lấy thân dạy người đến già không ngừng. Niên hiệu Kiến Trung năm thứ ba nhằm ngày mồng 2, Sư thị hiện bị bịnh tại đạo tràng Phật lũng, nói với môn đồ rằng: "Đạo vô phương, tánh vô thể, sống ư? Chết ư? Ý chỉ nhất quán, xương cốt ta sẽ quy tại núi nầy, trong đêm nay ta sẽ hóa, muốn nói lên lời từ giã với các ông, nhất niệm vô tướng, là không, pháp nào cũng đầy đủ gọi là giả, chẳng phải một, chẳng phải khác là trung. Ở phàm là ba nhân, ở thánh là ba đức, hun đúc trước sau giống nhau, đi ra biển thì cạn sâu khác dòng, tự lợi lợi tha là ở đó mà thôi, các ngươi hãy vững chí mà giữ lấy", nói xong thì mất, thọ bảy mươi hai tuổi, ba mươi bốn tăng lạp, môn đồ nghẹn ngào, xây tháp thờ toàn thân, an táng nơi cạnh đại sư Trí giả. Đệ tử nhập thất có Ngô môn nguyên Hạo, có thể gọi là thân cận nhất.
Sư thường ngày tập soạn giáo pháp, giải thích rõ nghi vấn ở trước, mở lối cho các nghi trệ về sau, cho nên có pháp Hoa Thính Tiêu và Pháp Hoa sớ ký, đều mười quyển. Chỉ quán phụ hành Truyền hoằng quyết, mười quyển, Pháp Hoa Tam-muội Bổ Trợ Nghi, một quyển, Phương Đẳng Sấm Bổ Quyết Nghi hai quyển, Lược Duy-Na sớ ký mười quyển. Trùng trị Niết-bàn sớ mười lăm quyển. Luận Kim Tỳ, một quyển, và Chỉ Quán Nghĩa Lệ, Chỉ quán đại ý và Chỉ quán văn Cú thập Diệu bất nhị môn v.v... thịnh hành ở đời. Nói rõ về việc sư bắt đầu từ niên hiệu Thiên Bảo và kết thúc vào niên hiệu Kiến Trung, dùng tâm tự chứng nói pháp chưa nghe, kinh chưa nêu, mà làm nên việc lớn của nhà Phật, chỉ có sư thôi, người đạt được đạo ấy chỉ có Lương Trúc học sĩ, nên cầm bút lớn mà thành văn từ tuyệt diệu, đề mục ấy chép: Hãy thử luận bàn, bậc Thánh không ra đời, thì trong ấy sẽ có Mạng thế giả ra đời, từ khi Trí giả dùng pháp truyền Quán đỉnh, cho đến đời tả Khê, khoảng thời gian nầy thì đạo sáng bị mờ tối, chờ ngài mà phát ra vật báu nầy, nhờ Sư mà dựng lại môn đồ, người được thọ nghiệp thần thông có ba mươi chín vị tăng, các ngài quí tộc nổi danh chịu ép mình mà học cũng chỉ có vài mười vị. Sư nghiêm đạo tôn, từ xa quy về, nếu chẳng phải là người vì đời mà sanh ra thì đâu được như vậy. Xem bài luận của Lương học sĩ so sánh với nhau, thì chẳng phải bậc cao đức trọng làm sao động lòng được nhà đại nho, không phải danh bút làm sao khắc bia được, mới bước vào cửa nhà đã đoán được sự nguy nga của tông miếu, vì vậy mà lấy đây nghiên cứu lập luận, chúng ta thường có sự không hiểu về đạo của Sư.
Thích Nguyên Hạo, họ Tần, tự là Quảng Thành, người ở Ngô Môn, tuổi nhỏ theo thiền sư Tuệ Nhất xuất gia tại chùa Linh Sơn ở huyện Tấn Lăng. Sau khi học đầy đủ giới luật được phân phối về chùa Long Hưng làm đệ tử gần gũi Thiền sư Kinh Khê Trạm Nhiên, ban đầu học Pháp Hoa Chỉ quán, đã được đề hồ, nhờ xé đại võng, cảm đại quả, thành đại hạnh, quy đại xứ, lấy làm đại nguyện, ở yên trong tam-muội, thường theo sau Phật, mong được tự đắc mà chẳng ai biết, bí mất ấy sâu xa như Hải ấn tam-muội, không nói ra mà thường làm việc Phật, với khổ hạnh khó làm thì càng noi theo, mặc truyền tâm yếu làm luận làm lý, cỏ lành linh chi làm công đức, truyền về hậu thế không thể nào nói cho hết, Sư chú giải kinh Đại Niết-bàn, làm lời tựa, ở đầu Văn Đức đẹp viên thật chí nguyện hiển hiện, ghi chép ý đã chứng mà thấy văn rằng: ta nghe vật báu của bậc tiên giác là thường, ở thạnh điểm Cửu Hựu bố hòa gọi là Giáo, quy Tông của Suất độ tri hoá gọi là hạnh. Chí cực của sự giao cảm nhân tâm gọi là chứng, nhưng lấy đạo để kèm đời, lấy pháp tánh hợp với vận dụng đang, phải ứng với mé vật trong bóng tối mà hiện lên càng sáng, mở rộng cho đến biến hoá, tự tha được soi rọi, thật ra là truyền bá tiếng tăm, cung kính lắng nghe, suy nghĩ hợp hòa đến cùng cực. Bốn đức sáng tỏ thì thật còn diệu thể, cách biến các nhà thì lần lượt quán các hạnh chí điển khắc tu ngõ hầu có thành tích, thật ra là dựa vào nguồn gốc lấy tín để dạy người, Đại Minh Tông cực, phô diễn yếu chỉ mong sẽ có bổ ít ở tương lai, tồn tại những tác dụng hay, tổng hợp lại tất cả ngôn luận, lập thành sách dạy, được lưu hành khắp nơi. Người quy thuận mà vâng theo, thật còn diệu. Pháp yếu rộng lớn ấy như Pháp phụ từ của vua, tự thuật của Tư Mã Thuyên. Quản Trọng có thể nói nặng nhẹ về truyện Xuân thu của Mạnh tử, tuy nhà nho với nhà Phật không cùng một nghĩa.
Ngày 11 tháng 11, niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ 12, Sư cáo bịnh, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau nhập Niết-bàn. Chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa, mà là định chân thật của Như Lai. Ngày 13 tháng 11 năm sau Nhật xàlê. Xây tháp ở cao nguyên phía nam Đông Sơn Hổ Khâu, thuộc Tây bắc Tô Châu.
Lúc học, Sư không màng đến chuyện khác, thường hay theo bên cạnh ngài Trạm Nhiên, giữ lấy từng lời nói, phân tách nghĩa lý một cách không nhàm chán, như các giòng nước nhỏ chảy vào sông cái, đều ghi nhớ tụng thầm, không sót một lời, mấy năm sau mới có người biết.
Trạm Nhiên nói rằng: Hồi cũng như người ngu, ít nói cho người nghe, biết nhiều chữ nghĩa mà không có tài năng, dưới Lương Điền hai vị cố mà khuyên mời, mới soạn Niết-bàn Kinh Giản Thuật. Hạo cùng với Pháp sư Hoa Nghiêm Trừng Quán trụ chùa Vân Hoa ở Thường đô như du hạ của Khổng tử, về Nho lưu thọ nghiệp, ở hàm Lâm học sĩ Lương Túc, Tô Châu thứ sử Điền Công Đôn, người học Hòa-thượng Trí Hằng, Tử Du, Đạo Nho, Trọng Nghi, Trọng Lương năm vị trì kinh giảng luận không ngừng. Đại Bỉ, Khâu Ni, Thức Vi Đạo, Tốn Chí chân ngộ cùng cực. Bốn vị nầy thanh cao, thâm luyện thiền quán. Hạo ban đầu được hai vị quan thỉnh cầu chú thích kinh, nằm mộng thấy rất kỳ quặc, trên bậc thềm nở hoa là điều ít thấy ở nhân gian, chim lành bay quanh, năm mầu rực rỡ. Thứ sử Thôi Cung soạn bia xây tháp tại Hổ Khâu, bên trái đàn đưa La-hán, đàng sau có Hành mãn đạo tiêm Minh Khoáng đều là các tác phẩm của thiên Thai.
Thích Trí Tạng, họ Bì, thuộc chủng tộc ở Tây Ấn-độ, ông nội là Tùng Hoa, nhiều đời làm hoạn quan. Sau nầy kiều cư tại Lô Lăng. Sư lúc nhỏ vào tinh xá, thấy tượng, bèn bỏ tục cầu chân, đều lưu tâm đối với tam học, đặc biệt là luật tạng rất là tinh mẫn.
Niên hiệu Đại Lịch năm thứ ba Sư đến nơi Dự Châu và Chương Châu vì lệ thuộc chùa Thiên Cung, mọi người khẩn cầu Sư lên đàn giảng độ, lúc ấy Sư rất được kính mến mệnh danh là luật hổ, mỗi khi bước lên pháp tọa đều đề xướng tỳ-ni, giảng đường đều chứa đông nghẹt người, nghe không nhàm tai. Biện danh lý, phân tách vi ngôn, liên hoàn đều có thể hiểu được.
Niên hiệu Trinh Nguyên gặp Thiền sư Đại Tịch, được rõ tâm yếu và dựng tiểu thất trên núi Hàng Ô ở Cối Kê, để tu thiền, soạn Hoa Nghiêm kinh diệu nghĩa, có rất nhiều người đến học, đến tháng 2 niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ 14, không bệnh mà qua đời, thọ bảy mươi chín tuổi, hỏa táng thu Xá-lợi, xây tháp thờ trên ngọn núi ở phía bắc viện.
Thích Thần Thanh, tự Linh Dữu, họ Chương, người ở Xương Minh thuộc Miên Châu, anh em ba người nối tiếp nhau xuất gia, đều có tiếng tăm. Sư đứng ở hàng giữa, lúc thụ thai, mẹ kiêng ăn đồ tanh, thời trẻ con lúc vui chơi hễ gặp tượng thì tỏ vẻ tôn kính, gặp tăng thì cúi đầu, tuổi mười ba theo pháp sư Biện Trí học tại chùa Khai Nguyên, lúc ấy điều lệ rất gắt, người xuất gia phải tụng kinh ngàn trang mới được xuống tóc. Thanh tụng kinh Pháp Hoa, Duy-Ma, Lăng-già Phật Đảnh, v.v…, có giống nhau thì tụng thêm. Lúc ấy, cố tướng Kiều Lâm làm Thái Thú quận Miên, rất thương Sư tuổi nhỏ mà tuấn tú, đích thân làm lễ xin cho xuống tóc, đến năm mười bảy tuổi thính tập đã hiểu sơ, liền giảng Kinh Pháp Hoa, đúng hai mươi tuổi được luật sư Y Như chùa Tuệ Nghĩa cho thọ giới cụ túc. Mùa hè học Thi-la, nương học Tân sớ, tìm đạt Đại tông, bèn đến thượng đô, vì giỏi văn và ham học được vào trong Ứng phụng, đến tuổi già Sư muốn trở về chùa Tuệ Nghĩa, vừa giảng đạo vừa soạn thuật không có ngày rảnh. Vào niên hiệu Nguyên Hòa Sư qua đời tại Bổn tự, án táng tại Bạch môn Lan-nhã, tức ở phía Bắc ngoài Thê thành.
Sư bình thường thích soạn thuật, ưa làm liễn đối, vừa có tài lại chịu khó đào sâu, tam giáo đều hiểu, thông suốt huyền học, nhận thức về nhân luân, hơn hẳn hàng muôn người. Đệ tử già trẻ bốn phương có trên ngàn người. Trước sau soạn được Pháp Hoa Huyền Tiên mười quyển. Thích Thị Niên Chí, ba mươi quyển. Tân luật sớ yếu quyết mười quyển. Nhị chúng Sơ Học Nghi một quyển, Hữu Tông Thất Thập Ngũ Pháp Sớ (cũng gọi là pháp nguyên ký) một quyển, đây đều giải thích ngũ vị sắc tâm, tâm sở bất tương ưng, vô vị mà Tiểu thừa chấp không thể là pháp thể tính nghiệp dụng đều nêu rõ, cho nên gọi là pháp nguyên. Thức tâm luận, Trừng quán luận, Nghĩa Sao mấy quyển, Bắc sơn tham thiền ngữ lục mười quyển, Tính chung hơn trăm trục, đều lưu hành ở đời, tựu trong ngữ lục bao gồm tam giáo, rất được các danh nho cao tăng khắp nam bắc yêu chuộng. Cho nên gọi Bắc sơn thống Tam giáo huyền chỉ, thật ra là lục thôi, cho nên Tham huyền. Xét các tác phẩm của Sư, ít nói rõ về ý chỉ hai quyền một thật của kinh, lại nói rõ về sự sâu sắc của luật luận tiểu thừa.
Sư có tướng mạo lạ lùng, trắng trẻo, tướng quốc Thôi Qui theo dõi từng lúc từng việc, nên soạn bài tán rằng: Đạo mạo giống như Tam Tạng Huyền Trang. Môn nhân rất nhiều, người nỗi bật nhất là Nghĩa Tướng, cũng là người thừa kế sự nghiệp của Sư.
Thích Đoan Phủ, họ Triệu, người ở Thiên Thủy, mẹ là Trương phu nhân, nằm mộng thấy vị Phạn tăng nói rằng: Bà sẽ sanh quý tử, vừa nói vừa từ trong túi lấy Xá-lợi ra bảo bà nuốt vào. Đến khi sanh, vị tăng đã gặp trong mộng, giữa ban ngày đi thẳng vào phòng, vò đầu đứa bé nói rằng: Ngươi sẽ làm hưng thịnh giáo pháp, nói xong liền biến mất.
Đứa bé dần dần khôn lớn thành với dáng vẻ trán cao, mắt sâu, cằm rộng, miệng vuông, thân cao sáu thước năm tấc, âm thanh như tiếng chuông, sẽ gánh vác Bồ-đề của Như Lai, làm tai mắt của sanh linh. Cho nên có biểu tướng đặc biệt như vậy. Bắt đầu mười tuổi theo Thiền sư Đạo Ngộ làm Sa-di tại chùa Sùng Phước, mười bảy tuổi được độ làm Tỳ-kheo, thuộc chùa An Quốc, do Chiếu luật sư truyền giới cụ túc ở chùa Tây Minh, học tỳ-ni với luật sư Thăng tại Sùng Phước, được pháp sư Tố truyền Duy thức tại chùa An Quốc, học thông kinh Niếtbàn với luật sư Ngân tại Phước Lâm. Sư lại nằm mộng thấy vị Phạn tăng mang Xá-lợi đầy bình lưu ly đến bảo nuốt hết, lại nói rằng: Tam Tạng Đại giáo đều chứa trong bụng ông rồi đấy. Từ đó, kinh luật luận Sư là người vô địch ở đương thời, bao gồm cả sông ngòi lẫn đầu nguồn hội tụ lại, nước tuy là thao thao, nhưng chẳng thấm được đến bờ bến, phải chặt cây còi để ruộng tình mưa cam lộ thấm cho người trồng pháp, tất nhiên phải có kẻ dũng trí hùng biện, mới gặp được Văn-thù ở Thanh Lương. Các vị Thánh đều hiện giảng Đại kinh ở Thánh Nguyên, khắp kinh thành đều nhóm họp lại nghe.
Đức tông Hoàng đế nghe danh, mời Sư vào triều phủ, được tự do ra vào nơi cung cấm, luận bàn với nhà nho và đạo sĩ, được ban tặng y tía, cuối năm được ban thưởng trọng hậu hơn hẳn mọi người, lại được chiếu gọi phụng sự cho Hoàng Thái tử nơi đông triều. Thuận Tông hoàng đế rất kính mến phong độ của Sư, thân như anh em, ân lễ rất trọng hậu. Hiến Tông Hoàng đế đã mấy lần đến thăm viếng chùa, đối đãi với nhau như bạn, thường hay chiếu cố, chú ý luôn luôn với vẽ mặt tao nhã, tiếng nói vang vội, hợp với ý chỉ vua, khế hợp với chân thừa, tuy có biện luận với người nhưng không ngoài mở mang làm mục đích. Thiên tử càng biết Phật lý là bậc đại thánh, có việc không thể suy nghĩ, bàn luận, triều đình mới dẹp xong giặc tại Tây hạ, bắt giữ Ngô Oát Thục Trư, Thái Đãng, vậy mà thiên tử khoanh tay như vô sự. Chiếu phủ hướng dẫn tăng đón rước chân cốt tại Linh Sơn. Mở pháp trường ở Bí điện, vì mọi người cầu phước, đích thân dâng nhang đèn, dù có hành hình thì không làm cho tàn phế hay ô trọc, trẻ con không khóc than, biển cả không có sóng to, Vua Chân Tông noi theo đức sáng của Tỳ Đại Chánh. Nhà vua muốn biểu hiện hùng tài vĩ lược của mình, đương nhiên cần phải có đường lối bí mật sâu xa, trông coi nội điện pháp nghi lục, tả nhai tăng sự, để làm tiêu biểu cho tăng chúng, suốt mười một năm giảng kinh luận Niết-bàn, Duy Thức. Dương Nhân truyền trao Tông chủ, để mở ra khuyến dụ người xuất gia, tại gia gồm một trăm sáu mươi ngôi. Vận ba mật Du-già, họp vô sanh ở tất-đàn, hằng ngày trì các bộ hơn mười muôn biến. Chỉ Tịnh độ là nơi nghỉ ngơi, Nghiêm Hoa Nghiêm, Kim Cương vì vì ân báo pháp, trước sau cung thí mấy trăm muôn lượng, đều để tô điểm cung điện, tô vẽ cùng cực mà phương trượng giường đơn tịnh lự tự được, quý tộc đều dựa theo, giới hào hiệp công thương đều kính mến tiến cống để tỏ lòng thành, trang nghiêm đủ lễ, hàng ngày đều không dưới cả ngàn phong thư, mà Sư tức là Phật của chúng sanh, lìa bốn tướng để tu thiện, trong lòng như đất bằng, bậc vương công hay hạng phu xe đều được đón tiếp chân thành, người cho rằng lấy làm thành tựu thì không khinh hạnh, chi có phủ một mình mà thôi. Muốn cứu lấy người trầm mê trong biển cả, vượt đến bờ bến thì phải có kỳ công diệu đạo.
Niên hiệu Khai Thành năm đầu, nhằm ngày mồng 1 tháng 6, Sư nằm nghiêng bên hông phải, mặt hướng về Tây mà hóa, lúc ấy đang là mùa hè, mà sắc mặt Sư vẫn tươi tỉnh, suốt đêm có mùi thơm lạ không tanh, ngày mồng 6 tháng 7 dời quan đến cao nguyên phía nam Trường Lạc, theo lời căn dặn của Sư thực hành hỏa táng, được hơn ba trăm hạt xá-lợi, óng ánh như ánh sáng thần, linh cốt đã thiêu được ban tặng danh hiệu Đại Đạt, tháp hiệu Huyền Bí, thọ sáu mươi bảy tuổi, đệ tử tăng ni khoảng hơn ngày vị, hoặc giảng luận Huyền ngôn, hoặc kỷ cương đại tự, tu thiền kiêm luật, chia ra hơn năm mươi vị thầy, kẻ làm quan có hội xương tướng quốc Bùi Công Hưu, có làm bia ca tụng đức hạnh của Sư.
(Viên thiền sư, Chiếu thiền sư).
Thích Tông Mật, họ Hà, người ở Tây Sung thuộc Quả Châu, nhà vốn là hào thịnh nhưng kém hiểu sách nho, muốn quan hệ với đời cứu lấy sanh linh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ hai, tình cờ yết kiến Thiền sư Viên ở Toại Châu, Viên chưa nói chuyện với Sư, đã tỏ vẻ ưa thích, bèn cho xuống tóc thọ giáo, năm ấy được thọ giới cụ túc với Luật sư Chửng, yết kiến kinh Nam Trương, Trương nói: "Ngươi truyền giáo dạy người, phải tuyên đạo ngay tại kinh đô", lại tìm đến thiền sư Chiếu ở Lạc Dương, Chiếu nói: "Người là Bồ-tát, có ai biết được "cuối cùng gặp được Hoa Nghiêm quán" ở Thường Đô.
Quan nói: "Tỳ-lô Hoa Tạng có thể theo ta du hành, chỉ có mình ngươi hay sao? Ban đầu ở đất Thục nhân theo thứ lớp thọ kinh được viên giác mười hai chương, đào sâu được nghĩa lý, thệ truyền kinh nầy. Tại Hán thượng, nhân vị tăng bị bịnh, trao cho Hoa Nghiêm cú nghĩa, chưa từng học tập tức thì giảng ngay, vì vậy soạn sớ sao cá bộ Viên giác, Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Kim Cương, Khởi tín, Duy Thức, Vu-Lan-Bồn, Pháp Giới Quán, Hạnh Nguyện kinh, v.v... và Pháp Nghĩa Loại Lệ Lễ Sám Tu Chứng đồ truyện Toản Lược. Lại tập hợp thiền ngôn của các Tông thành thiền Tạng, làm bài tựa chung, cùng trả lời thư kệ nghị luận v.v…, lại soạn Tứ Phần Luật sớ năm quyển, Sao huyền đàm hai quyển. Tất cả khoảng hai trăm mấy quyển, sáu bức đồ hình, đều vốn nhất tâm mà quán các pháp, hiển bày chân thể mà dung hòa sự lý, vượt ngoài sự đối đã của mọi người, thầm hợp với vật ngã mà riêng vận hành. Sư vào trong nội điện hỏi pháp yếu ấy.
Niên hiệu Đại Hòa năm thứ hai, làm lễ khánh thành, ban cho y tín làm đại đức, tìm về nơi núi rừng. Niên hiệu Hội Xương năm đầu, nhằm ngày mồng 6, tháng 1, Sư ngồi diệt độ ở Hưng Phước tháp viện, vẻ mặt vui vẽ như ngày thường, ngày hôm sau tự dời phục thân vào hòm, đủ biết năng lực tự chứng ấy là như thế nào, ngày 22 tháng ấy, người tại gia, xuất gia cùng đưa đến Khuê Phong, ngày 13 tháng 2, cử hành hỏa táng, được mấy mươi hạt xá-lợi, trong trắng láng bóng, môn nhân khóc lóc xin tro đem về, phần còn lại đều gồm thâu để trong hang đá, đủ biết lòng từ vô duyên như thế nào. Sư thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bốn tăng lạp, di chúc để lại là hãy để thây cho chim thú rỉa ăn đốt cốt thành tro mà rải ra, chớ đừng xây tháp, đừng để cho thương xót mà loạn thiền quán. Mỗi khi thanh minh lên núi phải nghe giảng đạo liên tục bảy ngày mới về. Ngoài ra những nghi thức chủ trì phải hợp với khoa luật, ngược lại là không phải đệ tử ta.
Ban đầu, Mật Đạo tiếng tăm thơm tho, dân chúng trong nước mến mộ như thế, triều quý đáp ứng cũng như vậy. Vào niên hiệu Trường Khánh, Nguyên Hòa về sau, trung quan lập công, người chấp chánh là Khổng Xí, trong ngoài đố kỵ, mọi người nằm trong cảnh nguy kịch. Lúc ấy, tể thần Lý Huấn rất trọng về Mật đạo và trong khai thành ngụy cam lộ phát. Trung quan lãnh năm trăm cấm binh ra thành, gặp đâu giết đó. Lúc ấy, Vương Nhai Giả là Sơ Thư Nguyên Dư đang ăn uống tại nhà Trung Thư, hay tin chạy trốn vào núi Chung Nam, theo Sư, Lý Huần cầu xuống tóc để trốn, người tùy tùng ngăn cản, Huấn đổi hướng đi Phụng Tường,
Cừu sĩ Lương biết được, sai người bắt Sư nhập tả quân, quy cho mấy tội chết để hại.
Sư thản nhiên nói: "Bần đạo biết Lý Huấn lâu năm cũng biết ông ta sắp phản, nhưng giáo pháp của Bổn sư, gặp khổ thì cứu, không muốn nhìn người chết mà cam tâm. Trung uý Ngư Hoằng Chí vui mừng. Tấu xin xóa tội. Triều thần đều cảm động mà chảy nước mắt. Có người hỏi rằng: Sư vì thiền hay vì luật, hoặc là kinh luận?
Sư đáp: một nước chiến tranh bốn mặt, con người không cần phải có danh tiếng, đều có thể gọi là Đại trí, đó là Viên Minh, Tự Chứng, Lợi Tha Đại Bồ-tát.
Cho nên Bùi Hữu Luận soạn chép: Có người cho là Sư không giữ thiền hạnh mà giảng kinh luận một cách rộng rãi, hay là du hành nơi danh ấp đại thành để xây dựng chùa chiền, vì danh tiếng mà cực nhọc. Chẳng phải vì danh vì lợi hay sao? Than ôi! Bọn người luận bàn có biết được cái thú vui của đại đạo chăng. Nhất tâm tức là tổng thể của muôn pháp, phân ra mà thành giới định tuệ, mở ra là sáu độ, tan ra là muôn hạnh, muôn hạnh chẳng phải nhất tâm sao? Nhất tâm chưa hề sai trái với muôn hạnh, tức là một trong sáu độ của thiền đấy, đâu thể chung với các pháp được, trái lại Như Lai giao phó pháp nhãn cho Ca-Diếp không lấy pháp hành, cho nên tự tâm mà chứng ra pháp, tùy nguyện mà khởi là hành, chưa hẳn phải thường giống nhau, nhưng nhất tâm là do muôn pháp mà sanh mà không lệ thuộc muôn vạn pháp. Kẻ đạt được thì pháp tự tại, kẻ thấy được thì đối với giáo không trở ngại đấy. Vốn chẳng phải là pháp thì không nên nói pháp, không phải giáo thì không nên dạy đời, đâu thể dựa theo dấu vết mà tìm cầu được? Từ Cadiếp đến Phú-Na-xa, gồm mười vị tổ, đều được Lahán hóa độ, cũng do các vì La-hán Mã Minh, Long Thọ, Đề-Bà bắt đầu mở ra Đại thừa, soạn luận giải kinh, phá diệt ngoại đạo, các Bồ-tát đề xướng đầu tiên, Tôn giả Xà-Dạ lấy giới lực làm uy thần, tôn giả Ma La thì lấy khổ hạnh làm đạo tích, tất cả các Tổ hoặc rộng hành pháp giáo, hoặc chuyên tâm thiền tịnh, hoặc thiền thối mà đi, hoặc hỏa hóa mà diệt, hoặc leo cây để thị hiện cái chết, hoặc chịu hại mà đền nợ, đó là pháp thì giống nhau nhưng hành thì không giống nhau. Dựa theo vết cũ chẳng phải là hạnh tốt, giữ theo quy tắc cũ cũng chẳng phải là đồ khéo, không nhanh lẹ không gọi là trâu mạnh, không hơn hẳn mọi người thì không phải là đại sĩ. Vì vậy đạo của Sư, lấy tri kiến làm diệu môn, im lặng làm chánh vị. Lòng từ nhẫn làm giáp thuẫn, Tuệ Đoạn làm Kiếm mâu, phá bức tường của nội Ma, vây hãm trận mạc của cướp ngoài, trấn phủ tà tạp, giải mở lưới lòng, gặp kẻ lang thang thì quát nạt cho về nhà, gặp gái nghèo thì mắng cho về chăm lo cửa nhà; cùng tử không về, gái nghèo không giàu. Thầy ta xấu hổ lắm. Ba thừa không hưng thịnh, Tứ phần luật, không mở mang, thầy ta rất thẹn. Trung hiếu không cùng gánh vác được trách nhiệm, lòng thầy thẹn thùng, tránh danh kẹt tướng, tăng thêm ngã mạn, thầy ta cũng thẹn lòng, nên vội vàng muốn cứu giúp, gấp rút dạy bảo, chẳng do một hạnh mà tự cao, chẳng ỷ một đức mà tự túng, con người phải có nơi nương tựa, không đợi thỉnh cũng đến. Có kẻ cầu lợi ích không đợi phấn phát cũng mở; tuy trẻ con không phân biệt tiếp ứng, chạy nhảy bừa bãi, không lười, lấy đó độ sanh lại giúp cho sự cai trị nước nhà. Vì vậy những người nắm được pháp của Sư, gặp nghèo thì ban cho, gặp hung bạo thì kềm chế, gặp ngang bướng thì tùy, theo gặp chống trái thì thuận, gặp hỗn độn thì mở lối, gặp kẻ trụy lạc thì tạo điều kiện cho phấn chấn lên. Kẻ tự hãnh diện phải bền lòng. Kẻ tự kiên phải hóa mềm dẻo. Kẻ vì tư tình phải vì công, kẻ chìm đắm trọng vọng tình phải dùng việc nghĩa, phàm sĩ tục có kẻ bỏ nhà và vợ, cùng nhập vào pháp, phận chùa mà ở, có kẻ đổi nghề, không ăn thịt mà giữ giới pháp, dựng nhà làm cận trụ, có kẻ ra chăm lo chánh sự để cứu vớt bịnh khổ lấy làm Đạo, có kẻ thối quan mà về phụng dưỡng cha mẹ lấy làm hạnh. Ngoài ra có kẻ lơ là mà đến, hời hợt mà đi, phất tay mà đến, đầy bụng thì về. Còn rất nhiều việc không thể nói hết, thật là Bồ-tát của Như Lai gởi gắm, là bạn thân của chúng sanh, là người của bốn y hay là người của Mười Địa, ta không hiểu cảnh giới lĩnh vực ấy rộng hẹp sâu cạn. Người nghị luận làm sao biết được sở thú của đại đạo, sự hiểu biết được lòng bậc đại nhân chỉ là thế thôi. Sư hiểu tâm rất nhiều là nhiều không ai sâu sắc hơn là Thăng Bình tướng quốc, bởi đồng khí tương cầu. Vua Tuyên Tông lại mở mang Chân thừa, muôn điều lành đều có thứ lớp, truy tặng thụy hiệu Định Tuệ Thiền sư, tháp hiệu Thanh Liên, đệ tử và quần chúng đưa tang có đến mấy ngàn người.
Hệ rằng: Bài luận của tướng quốc Hà Đông, có thể gọi là tuyệt bút, có Tông Mật thì có Bùi tướng quốc, ngược lại không có Bùi tướng quốc thì đâu biết được Mật công, hai vị có liên quan với nhau. Đức hạnh của Tông Mật rất tròn, ứng trên thân của Tể quan, thì lời nói của Bùi tướng có thể đo lường được.
Thích Thừa Ân, không biết người ở đâu, tuổi trẻ đã ham học, tìm thầy khắp nơi, nhà học ở nơi nào cũng tìm đến, thường hay dạy dỗ môn đệ rằng: Ham học gần người trí, gắng sức mà hành gần người nhân, nhân trí thành tựu, tuy là khác tên nhưng đồng là thật, đến địa vị Bồ-tát như viên bi lăn xuống dốc. Sư thích người vì học mà không quên giảng dạy. Đến cuối niên hiệu Thiên Bảo quan Trung có làm phản nên Sư tránh nạn đến Cô Tang. Sư đi đến nơi gọi là Bí Mật, gần đất Khương lỗ, nơi nầy rất chuộng kinh luận, Sư dạy người tại nơi ấy khiến cho thành công, nhiễm sâu về phong tục tập quán bên Hoa Hạ, đều bước vào nơi tình nghĩa, tự mình soạn lại Bách Pháp luận sớ, tại nơi Tây thổ, gốc sớ ấy là Từ Ân dựa theo Lỗ Phủ, đại để phần nhiều giống nhau, sau nầy đệ tử truyền bá ra. Đến niên hiệu Hàm thông năm thứ 4 tháng 3, tăng pháp Tây Lương kính tin nghiên cứu đạo nầy. Bẩm với Tiết Độ sứ của đạo nầy, Trương Nghĩa Triều, dâng biểu tiến dâng các tác phẩm của Thừa Ân, vua sắc lệnh Lưỡng nhai Tam học đại đức v.v... xét định rõ ràng, thật đáng hành dụng, sắc y theo số tăng mà ban tặng y tía, bổ sung bậc Đại đức của đạo nầy.
Thích Tri Huyền, tự là Hậu Giác, họ Trần, người ở Hồng Nhã Mi Châu, Tằng tổ là Đồ Nam làm huyện Lệnh Xạ Hồng ở Tử Châu, ông nội là Hiến, cha là mạo đều không thành đạt trên danh trường, mẹ họ Ngụy mộng thấy mặt trăng chui vào lòng, vì vậy mà mang thai cho đến khi sanh, lúc Sư còn bú chưa biết nói, gặp tượng Phật hay hình tăng đều vui vẻ, lên năm tuổi, ông nội bảo làm thơ, Sư bước mấy bước đã thành bài thơ rằng: "Hoa nở đỏ cả cây, hoa ho rụng trơ muôn cành, chỉ còn một đóa, còn mất tùy gió thổi", ông nội khen rằng: Ta nuôi đứa cháu nầy, sẽ đậu thủ khoa, tẩy rửa sỉ nhục cho hai đời. Nay thấy chí của đứa trẻ nầy, chẳng phải để truyền đời, sẽ bắt đầu từ nơi cửa Phật tiến triển.
Quả thật, mới bảy tuổi gặp pháp sư Pháp Thái giảng kinh Niết-bàn tại chùa Ninh Di, vì chùa ở gần nhà, nên Sư hằng ngày đến nghe giảng, mỗi khi Huyền nghe nói pháp, hình như nhìn thấy kiếp trước của mình. Trong đêm mộng thấy tay Phật trong điện nhà chùa hay vò đầu, thức dậy nói với ông nội, xin vào làm Sa-di trong chùa. Thân tộc thấy điếu nầy không kềm chế được nên bằng lòng, đến năm mười một tuổi mới được xuồng tóc, bèn theo thầy đến chùa Tứ An ở ấp Đường Hưng, truyền cho Đại Kinh bốn mươi hai quyển. Viễn Công nghĩa sớ, Biện Không sư Viên chỉ, cộng chung một trăm hai mươi lăm muôn lời, đều bao gồm nghĩa sâu xa, năm mười ba tuổi chỉ trích người xuất gia lộ bày khí thế của bậc lão thành. Lúc ấy, Thừa tướng Đỗ Công Nguyên xuống làm Trấn Tây Thục, nghe tiếng tăm của Huyền, gọi đến Thăng đường, giảng đàm tại chùa Đại Từ, dưới lầu Phổ hiền, dân chúng đến cả muôn người, mọi người đều kinh ngạc vô cùng. Kể từ đây người Thục không còn gọi tên, Sư mà gọi bằng danh hiệu là Trần Bồ-tát. Truyền lại cho rằng: tiền thân của Huyền tên là Tri Huyền, giảng kinh Thập địa tại núi Tam học thuộc Hán Châu, chiêu cảm làm cho đất biến thành Lưu ly. Sư thọ giới cụ túc với luật sư Biện Trinh tại chùa Tịnh Chúng, mới nghe Tỳ-ni tiếp tục thông luận Câu-Xá, được sự giao phó của Luật sư Cố ở núi Trường Thập, lại theo Bổn sư xuống Tam hiệp, qua Kinh Châu và Tương Dương, đến chùa Tư Thánh ở Thần kinh. Chùa nầy là nơi tập trung các vị Tứ hải tam học, Huyền giảng nói kinh luận, tại gia xuất gia đều kính ngưỡng, người bên ngoài đến ngày càng nhiều. Văn tông Hoàng đế hay được mời Sư vào cung để thưa hỏi, rất hạp ý vua. Sau nầy Sư học luận Duy thức với pháp sư An quốc Tín, lại nghiên cứu ngoại điển, lời của kinh sách trăm nhà đều có tổng hợp, Sư chỉ ngại về tiếng địa phương không được thông suốt, bèn tụng chú Đại bi tại núi Tượng nhĩ. Mộng thấy vị thần tăng đến cắt lưỡi thay cho lưỡi mới, ngày hôm sau bỗng biến thành Tần ngữ. Có ông Đại nho Dương Mậu Hiếu, theo Sư nghiên cứu nội điển, muốn y theo Tạ Khang Lạc chú thích kinh Niết-bàn, phần nhiều cầm quyển kinh hỏi về những điều nghi, Sư phải theo mà giải thích từng phần.
Mậu Hiếu viết thư nêu rằng: Bậc Long tượng trong nước hiện nay, ngoài thầy thì còn ai, tiếp theo là biểu dương hình bộ Nhữ sĩ Cao, Tả thừa Nguyên Dũ, Trường an Dương Lỗ Sĩ, đều muốn tạo lập môn phái kết thành Liên xã. Một hôm, Sư đang ngồi, nhìn thấy Mậu Hiếu mặc ca-sa tía, đội mão xanh đến lạy ba lạy xong nương hư không mà bay đi. Huyền bảo người dò xét, cho biết rằng, đêm hôm ấy Mậu Hiếu nói với con rằng: Ta thường muốn xuống tóc khoác Ca-sa, mang bình xách guốc theo hầu ngài Trí Huyền, nhưng còn kẹt là vì tóc mão. Đến lúc ta vào quan tài phải dùng Ca-sa tím, mão hoa sen xanh, đến đây mới nghiệm được điều đã thấy ở trước.
Vua Vũ Tông lên ngôi, ban đầu còn sùng kính nhà Phật, sau nghe lời theo kẻ đầu độc, hương về cúng tế. Trên núi Phùng lai xây cao đài để cầu vũ hóa, tuy gián quan can ngăn, Tể tướng thường khuyên, nhưng đều không hồi tâm chuyển ý. Nhân lễ Đức Dương tổ chức hội Truy Hoàng tại điện Lân Đức, riêng ban chiếu, cho Sư đối địch với đạo môn rằng: Thần tiên là đáng học hay không đáng học? Vua khoanh tay phó cho đạo Lão lấy việc nước như lấy tô canh vậy.
Sư trình bày lý lẽ với nhà Vua rằng: Sự giáo hóa căn bản của Đạo giáo, nói thuật thần tiên là ở trong núi rừng, hàng thất phu riêng về sự nghiệp cao thượng nhưng lại giúp cho túc nhân. Chẳng phải thích nghi với bậc vương giả đâu, sông từ ngữ đỗ vào biển ngôn Biện, hoành chú có cả mấy ngàn lời. Người nghe cũng phải nổi ốc khắp mình, đại nghịch với thượng chỉ, tả hữu đều thất sắc, Tả hộ quân Thù Sĩ Lương, Nội khu mật Dương Khâm Nghĩa, rất thương mến biện tài e sẽ bị trục xuất, bèn thầm ngâm thơ cống chúc vua nghiêu, Sư lập tức làm thành năm bài, bài cuối rằng: "Sanh thiên vốn tự nghiệp sanh thiên, chưa hẳn cầu tiên mà thành tiên, lưng hạc nghiêng nguy, lưng rồng trơn, quân vương hãy trụ một ngàn năm". Vua xem bài thơ hơi hiểu đôi chút, tuy không nghe lời can ngăn, nhưng lại khen tặng kiến thức ấy. Sư trở về Ba Mân cựu sơn, theo lệ bố thí khăn lược, mà còn xem xét giới rõ ràng hơn, dùng thuyền nhỏ đi vào cảnh Hồ Tương, khi ấy, Dương Cấp Sự Hán công liêm thì hỏi về Quế lãnh, dừng chân tại Khai nguyên Phật tự, thuộc niên hiệu Long Phi đời vua Tuyên Tông. Dương công từ nội khu mang tả cấm quân. Sách Định công Cao thỉnh phục hưng Thiên Trúc giáo, tấu xin tìm tông tích của Trí Huyền, Huyền trở về chùa Bửu Ứng, Thuộc Thọ xương tiết giảng tán, được ban thưởng ca-sa tía và làm thủ tọa của Tam giáo. Vua y theo phiên để cũ làm chùa Pháp Càn, chiếu Huyền ở tại đình Ngọc Hư của chùa. Niên hiệu Đại Trung năm thứ ba, vua ban chiếu gián nghị Lý di Tôn. Cấp sư Dương Hán Công truy hoàng đỉnh liệt luận Nghĩa, lòng vua rất vui, lệnh cho trong nước phá chùa củ xây lại chùa mới, đại hưng phạn xá, Huyền góp sức rất lớn, còn cho họa sĩ vẽ hình trong cung cấm, được trọng đãi như vậy, cùng tướng quốc Bùi công Hưu kết thành bạn thân, cùng Khích Dương trung hưng giáo pháp. Năm thứ tám dâng biểu xin trở về nơi cũ, đại hành lợi tế, được lợi rất nhiều. Mùa xuân niên hiệu Quảng Minh năm thứ 2, Vua Hỷ Tông lánh nạn ở Tây thục, vua sai Quách trung Thái mang thư đến thỉnh Sư cùng đi, trên đường cùng đàm luận, làm cho lòng vua rất cởi mở.
Tả quân Dung Điền lệnh tư và các quan hỏi đạo rất ân cần, Vua muốn biểu dương cái đẹp cái hay, bèn bảo các học sĩ soạn hiệu cho Sư, đều chưa đạt được vừa ý, bèn tự cầm ngự bút viết rằng: Trẫm muốn mở lối ngộ nhập vào tôn chỉ của Pháp Hoa, kẻ ngộ giác sẽ sáng, ngộ đến đại Đạo thì ngộ Phật, lại nói: ngộ thì trong một sát-na, chẳng ngộ thì trong Hằng sa kiếp, cho nên kẻ ngộ chân thừa hiểu rõ về nghĩa thành Phật. Nay ban cho danh hiệu Ngộ Đạt quốc sư.
Nhà vua gượng dùng danh hiệu để biểu lộ ý trẫm, Sư khước từ không được, bèn khẩn cầu được trở về nhà xưa ở Cửu Lũng, nhằm ngày 21 tháng 1, nằm mộng thấy từng đi du lịch, những thắng cảnh danh tích đều hiện ngay trước mặt, ngày mồng 7 tháng 2, nghe tiếng nói từ trên hư không vọng xuống: chắc chắn sanh tịnh độ.
Sư liền hỏi lại rằng: Tiếng nói từ đâu vọng đến thế? Trả lời rằng: là lời của Phật!
Trong tháng 7, Sư nghe bên ngoài có tiếng giao đấu, đang băn khoăn có một Bồ-tát giáng xuống trước nhà, dần dần đến gần chỗ Sư, căn dặn rằng: chớ nên thấy cái khổ nầy mà hệ lụy, nói xong biến mất. Lại một hôm, có một hạt ngọc, từ bên chân trái của Sư chạy chùi xuống, khổ sở vô cùng, nhìn lại trong hạt ngọc ấy rõ ràng có hai chữ Triệu Thố, bèn biết Tri Huyền là Viên Anh, từng vì bảy nước làm phản, Anh tâu vua chém đầu Thố để đáp tạ các vua Ngô Sở. Sư gọi đệ tử Từ Đăng đến kề tai nói nhỏ dặn rằng khi chết phải bỏ xác một nửa dưới sông cho cá rỉa, một nửa để trên bờ cho chim thú ăn, tuyệt đối không được chôn cất, ta đã có hẹn với Tây phương Tịnh độ như vậy từ lâu rồi. Huyền phó thác xong, trở mình về hướng Tây mà hóa, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi bốn tăng lạp.
Vào niên hiệu Hàm Thông, Sư từng du hành đến Trạch Châu, hỏi pháp sư Tiểu Viễn sanh cùng năm, mất cũng cùng ngày tháng. Sư kiêng giữ giới cấm, ít muốn, không ăn quá ngọ. Không ăn rau quả, chỉ mặc vải thô nằm trên cỏ khô, mỗi ngày hành đức mấy tiếng đồng hồ, đêm ngủ một canh (hai giờ), thời gian còn lại thì ngồi thiền. Đối với chúng sanh không phân biệt sang hèn hay lớn nhỏ, đãi ngộ như một, kết bạn thân riêng, nhất là Bùi tướng Quốc, ban đầu, Bùi trấn thủ ở kinh môn. Huyền đến núi Ngũ Đài, đường đi lộ ra Thử cung, tặng quà Sư không nhận, Bùi biết là vì tiết kiệm, nên lén sai người từ từ cung cấp trên dọc đường, lúc đi qua Lạc Cốc huyện Chân Phù, Nhà họ Ung có đầm, trong đầm có cá lớn như rồng, có bốn chân và răng bén, nhà ấy hằng ngày nuôi bằng thức ăn, đến nay đã bốn đời rồi, mỗi khi định bắt lên làm thịt thì trời kéo mây mù mịt. Huyền gõ vào thuyền vò đầu, cá trố mắt và nhảy lên, liền được quy y. Chẳng bao lâu, nhà họ Ung được báo mộng rằng: Ta cảm tạ người bảo vệ nuôi dưỡng mấy đời, nay được quy y sống trên cỏi trời, xin từ giã đấy.
Còn một chuyện nữa, đó là đạo giang ngọc lũy sơn thần miếu Lý Vĩnh và các vị thần ở Quách Long môn, phía Bắc Ích Xương, đều thọ giới pháp, không ăn máu thịt, lại có Lý Thương Ẩn một bậc văn hào không ai sánh bằng, thường hay đến chơi với Liễu công tử Đồng Mạc, đã lâu hâm mộ đạo học của Tri Huyền, xin vào làm đệ tử. Ở làng Vĩnh Sùng Sư trụ chùa Hưng Thiện. Nghĩa Sơn bị bịnh đau mắt, đôi ngươi tối tăm chỉ nhìn về thiền cung, âm thầm mà cầu nguyện, hôm sau, Sư gởi thiên nhãn kệ ba chương, đọc xong mắt rực sáng trở lại.
Sau nầy, Nghĩa Sơn bị bệnh, có nói với Tăng Lục và Tăng Triệt rằng: "Đời ta có chí nguyện xuống tóc làm đệ tử ngài Tri Huyền, nay sắp chết xin gởi thư kệ từ biệt.
Tri Huyền lúc còn sống có soạn Như Lai Tạng Kinh Hội Thích Sớ hai quyển, nhờ Ngài Tăng Triệt soạn pháp giám, Đại vô Lượng thọ kinh sớ hai quyển, Tăng Triệt soạn Pháp Đăng Loại Chương Chỉ. Thắng Man Kinh Sớ, bốn quyển, Tăng Triệt soạn Pháp Uyển, để sửa chữa chỗ sai sót, giống như Vĩ thư, Bát-nhã Tâm kinh và kinh Kim Cương đều có sớ nghĩa, ngoài ra giữa nước Tần Thục, có soạn Thích Thị tạp Văn Ngoại Thiên Châm, nói về bia chí và thi ca, chép thành hơn hai mươi quyển, Lễ sám văn sáu quyển, hợp chung là ba mươi muôn lời, sau nầy dời tháp đến chùa Phụ Thanh, núi Trà Lũng, niên hiệu, Trung Hòa năm thứ hai, đệ tử Tả nhai Tăng lục Tịnh quang Đại sư, Tăng Triệt thuật truyện pháp Tôn hữu Nhai tăng lục Giác Huy, đệ tử của Huy là Ngụy Thục Hựu Thánh Quốc Sư, Trùng Tôn Quang Nghiệp Tăng lục, Phùng Tường phụ ghi chép, Huyền Chân Lý Nghĩa Sơn Chấp phất thị lập.
Thích Tăng Triệt, không biết người ở đâu, thiên tư lanh lợi, thanh cao vượt bậc, tuổi nhỏ thông minh mà ham kính mến Ngộ Đạt Quốc sư, thường hay đến gần giảng đàn, hầu bên cạnh giảng sư, không hề cảm thấy nhàm chán, ngộ được Tân nghĩa biệt chương. Được thầy dặn dò, giao phó cho Triệt truyền bá, là sớ kinh Như Lai Tạng, soạn Pháp Giám, bốn quyển, Đại Vô Lượng thọ kinh sớ, soạn Pháp đăng hai quyển. Thắng-man Sư Tử
Hống Kinh Sớ, soạn pháp uyển mười quyển, xem xong Ngộ Đạt soạn sớ, như truyện Tả Khâu Minh, Sư soạn tam pháp sao, cũng như tạp giải của Đỗ Phục, ban đầu Sư trụ chùa Pháp Càn, nội ngoại các môn đều học cho nên lời bút rất cao, tầm Sung hữu nhai ứng chế, mỗi khi gặp ngày đản sinh Sư lên điện Lân Đức giảng pháp tòa đàm. Vua sắc ban cho Cà-sa tía, ý Tông Hoàng đế lưu tâm nhà Phật, hễ gặp tám ngày chay đều tổ chức bữa cơm chay trong cung điện khoản đãi chúng tăng, nhà vua vì tham gia pháp tập nên đích thân tụng kinh, Triệt thì lên đàm ngâm tụng, ban tặng quà rất nhiều, cho làm Đan Đàn mộc giảng tọa, lại ban sắc cho Lưỡng Nhai bốn chùa thực hành Phương Đẳng sám pháp, giới đàn độ tăng đều hai mươi mốt ngày, đặc biệt tuyển chọn tăng ni đại đức hai mươi vị, vào điện Hàm Thái lập độ.
Ni Thiện trong chùa Phước T sao chép Đại tạng kinh, mỗi tạng gồm năm ngàn bốn trăm sáu mươi mốt quyển, tạc tượng một ngàn pho, đều giao cho Sư triệt xem xét.
Chọn ngày 14 tháng 11, nhân dịp lễ Diên Khánh điện, Lân Đức triệu tập tăng đạo trong kinh thành vào đó giảng luận, những ngày gần đây Sư soạn Hoàng Du, từ biện trong sáng, rất được nhà vua khen ngợi, lại nêu cao Phật lý, bàng nhiếp hoàng quan, có thể gọi là Tiết hành dị luận, đương thời gọi là Pháp Tướng. Vua rất vui mừng, ban tặng cho danh hiệu Tịnh Quang Đại sư. Niên hiệu Hàm Thông năm thứ 11, tiếp tục sao lục Lưỡng Nhai tăng sự.
Ban đầu Sư qua sông vượt biển, mạnh mẽ cố gắng, giảng quán tại chùa Thanh Long, dựa theo nghĩa ý của Ngộ Đạt Quốc sư, gởi trình sở kiến, Mông Quýnh tám mươi bốn chữ rằng:
Quan quân pháp uyển tư sung hư, giải ngã chân thừa nhẫn hữu dư.
Nhược sử long quang thời khả đãi, Ứng Lân Tăng Triệu luận thành sớ.
Ngũ xa ngoại điển tri nan địch, cửu thú đa tài khủng bất như.
Tiêu tự giảng hiên hoành đàm đãng, Đế hương vân thọ chánh phù sớ.
Kỷ sanh tằng đắc xà du ý, Kim nhật kham tương bối diệp thư.
Nhất chấn vi ngôn quán thiên cổ, Hà nhân chấp quyển vấn ngô lư.
Nhà vua xem xong, trong lòng vui buồn lẫn lộn, bài thơ mang đầy cảm xúc, vì trong lúc Quảng Minh bọn cướp phạm vào cung khuyết, Hỷ Tông lánh nạn về tây Thục, đêm ấy Sự nghỉ trong chùa, ngày hôm sau thượng hoàng cùng với Đỗ Quang Đình tiên sinh, hỗ tùng vào Mân Nga, gặp lại Ngộ Đạt kể lể về gian nan. Sư có rất nhiều tác phẩm, bia tụng, thi ca v.v... không biết Sư mất ở đâu.
Thích Chí Viễn họ Tống, nhà ở Nhữ Nam, cha mất sớm, chỉ nương cậy vào mẹ, loa âu ngày đêm, mẹ thường tụng kinh Pháp Hoa, chỉ thông được năm quyển. Viễn hiểu biết hơn người, năm hai mươi tám tuổi xuất gia theo thầy, quy y Hà Trạch tông phong, ngộ giải được ý chỉ sâu kín, kinh doanh tăng sự liên miên suốt sáu năm. Việc trao ra nhận vào không hề lẫn lộn, từ đấy đi tìm thầy học lễ, lại trải qua tám năm, tuy biết rộng về hai tông nhưng tình vẫn còn gắn với nhau. Nghe tông Thiên Thai gồm hiểu thông diệu lý. Định Tuệ song dung giải tiến đối với hành. Cảnh quán thập thừa khởi từ một nhà, tu tánh ba đức mát mẻ thịnh diễn, vì mời bè bạn lên núi ngũ phong. Ở nơi núi rừng, lần theo dấu trước, hiểu được lý của sáu phàm bốn Thánh, mở cửa cho khai thị ngộ nhập, trăm giới ngàn như bao la tánh tướng, vừa che vừa chiếu, phá lập cùng lúc, y Chánh Viên dung, phàm thánh bình đẳng, mở ra tầm nhìn rộng rãi, cả vật và ta đều mất, chỉ bốn mươi năm mở mang từng bước, nghiệp xa đạo tinh, chí mạo thần khổ, nằm không cởi áo, ăn chẳng thỉnh riêng, nhắm mắt mất mùa, củi đuốc đều thiếu, mỗi khi múc nước súc miệng sẽ mong ngày dài, trên mình có ghẻ tay chớ nên quào, giới xét vâng tu phải giữ tâm miệng, thường dùng bốn thứ Tam-muội luyện mài tấm thân. Về việc thọ trì, rất hạn chế về vẻ đẹp của từ ngữ hay nghệ thuật nét bút, mỗi khi có biện luận phải trái, trắng đen, dị thuyết có phụ với người học, thường hay ở bên cạnh thu thập bí yếu để phản bác, tìm ra khuyết điểm để giành thắng bại, tiếng tuy là ngang nhiên ngồi trên ban chủ tọa, thối là phập phồng thẹn thùng, càng cao núi ngã thì bỏ bốn tất-đàn.
Đến Hội Xương năm thứ tư, Sư qua đời, thọ bảy mươi bảy tuổi, bốn mươi tám tăng lạp. Sư chợt không ăn mấy ngày mà nói pháp không hề sợ khó, nhằm ngày 17 tháng 2, dặn dò đệ tử rằng: Ta suốt đời tu tiến không lừa gạt tâm miệng, nay được hái được quả lành, tức là nằm yên, ngủ yên mà chẳng có đau buồn gì cả, lại rằng: Thiên Thai tông sớ, mục đích là tuyên truyền. Pháp Hoa sớ mười quyển, Bản môn, tích môn, ba chu ký biệt, mở ra gần mà hiểu được xa, Huyền văn mười quyển, năm nghĩa phán thích. Chỉ Quan mười quyển, Cảnh quán song tu, bất định Đốn Tiệm tám giáo thô diệu, già chiếu bình đẳng hành giải tròn sáng, một nhiều tức nhau, lời văn của một tạng, ngọc ngà sáng vàng sẽ bước lên bậc thánh, giáng xuống cũng chẳng bằng, lễ sám phương Đẳng phải nhờ tâm chí thành, lòng ôm ấp mãi là do tâm của ta. Bấy giờ, long tượng nhóm họp bên tòa Tiết Tỷ, đều khen là ít có cùng tụng danh hiệu Phật, giữa lời dạy che đến thiên linh, gió thảm mây sầu, núi tối nước ngập, rừng đồi biến sắc càng thêm thê thương, các con của xà-duy Nhật rong ruỗi không biết đến đâu.
Tuy người học rất nhiều, nhưng đạt được pháp chỉ có Nguyên Kham, tức con cháu của Phù Phong Mã, khí độ sâu sắc, đạo phong thanh cao, bình giải thoát ở nơi xa, rót vào đề hồ có thể gọi là sau một ngọn đèn, lại đốt lên một ngọn đèn sáng rực đến thời vua Võ Tông Trừng Thái, bẫm sư ý chỉ trước đau buồn khóc lóc suốt đêm, đem những chương sơ văn bản của thầy cất giấu trong vách nhà.
Đến thời vua Tuyên Tông Phật giáo được tôn sùng trở lại, sửa sang nhà cũ, đem những bộ giáo ấy để trên ảnh đường. Sáu thời kinh hành, nghiễm như tiền chế, hằng năm truyền tụng Pháp Hoa diệu kinh, Ma-ha chỉ quan phu dương lâu dài. Hết lòng vì kế thừa, chẳng qua cũng vì tôn kính thầy vậy.
Thích Hy Viên họ Trương, người ở Cô Tô, giòng họ giàu sang, chỉ có một mình Viên xuất gia theo giới pháp, đến các trường giảng, không dính mắc một nơi nào, siêng cần tu dưỡng ba học, hàng năm càng thêm sâu sắc và hiểu rộng hơn. Được chọn làm bậc tài giỏi để đảm nhiệm giảng dạy.
Trong niên hiệu Quang Khải, quân Thuộc Từ Ước làm loạn, tôn nho chọn nơi đất Ngô, chỉnh lý nội bộ, bắt đầu phản kháng lại sự quấy nhiễu, Viên từ chùa Thông Huyền theo thuyền buôn sang đất phía đông, hành khách đều là người nước Việt (Triết Giang), bọn họ đều kính tin Hy Viên. Được gọi vào trụ chùa Bửu Lâm ở Cối Kê. Hình dáng tuy là người tu mà tính lại mạnh bạo, thường hay gây sự, chẳng hợp với ai, có người hỏi rằng tại sao như vậy. Sư nói: "Tả tiêu diêu nơi vô hình, những người muốn thỉnh pháp đến, Sư bèn soạn Huyền Trung sao mấy quyển, đều đúng nghĩa dụng từ, hằng khuyên người gấp tu nghiệp thượng sanh, lại nói: Chẳng phải biết là khó, mà hành mới là khó thật sự. Sư suốt ngày lễ sám không hề thiếu sót, ở một căn phòng nhỏ ở trên đỉnh núi Lang Da.
Theo truyền thuyết: đài Từ Lang Da bay đến đây, trước là đổ phường (nơi giết mổ), cho nên đều trấn giữ dưới ấy núi đều có giếng trong, giếng có lươn lịch, nước ứng theo thủy triều lên xuống của sông cái, có rất nhiều linh quái. Có thuyết nói rằng: Nơi nầy là Hạ Vũ bắt nhốt con thuồng luồng, gọi là con giòi, giòi có đôi tay vừa vàng vừa xanh, khi biến sang mầu xanh của tre trúc thì mưa gió sẽ đến, nay hay xuất hiện ở kẻ đá, đi vào mương rãnh nơi nhà tăng ở, không sợ người, nắm bắt thì nhảy nhót dường như nổi giận, cố tình đi vào phòng Sư, Sư dùng tay vuốt ve hơi chịu, Sư cho quy y thọ giới, bảo không nên làm yêu quái gây mưa gió, đến khi Sư mất gió mưa lại rất nhiều.
Sự tụ tập của Viên là mong được gặp Di-lặc, một hôm, giảng xong, Sư ngồi sửng tên pháp tọa, mọi người ngửi thấy mùi thơm dìu dịu như mùa xuân, lúc thoảng lúc không, liên tiếp như vậy bảy ngày, đây thật là chứng quả thượng sanh. Ngày về núi chúng tăng bày cúng tại cửa chùa, mọi người quỳ lạy rất đau thương, thình lình lại biến mất, chẳng ai biết được. Thi thể Sư cử hành hỏa táng, thu được hơn bảy trăm hạt xá-lơi, người Tứ Minh mang về nước Tân-la.
Thích Huyền Ước, họ Trương, người ở Chánh Bình, chí Vận cứng cỏi, tuổi nhỏ đã nẩy sinh tâm xuất trần, vì có túc chí nên đến chùa Long Hưng, mỗi ngày tụng ngàn lời, sau khi xuống tóc luật nghi đầy đủ, xem xét tâm mình, dựa theo phạm vi giới luật, giữ kỹ việc làm, chưa từng đào huyệt, từ đấy danh tiết cao dần, bầu bạn kính mến trong vài năm luật luận đều rành, đi tìm trí thức khắp nơi, nghiên cứu sâu về Huyền Văn, dừng chân tại chùa Sùng thánh ở Trường An, chọn lấy giới đức, lên đàn giảng luật, cùng với Câu-xá hơn bốn mươi biến. Tánh tình Sư điềm tĩnh, tánh nghiên cứu đối chiếu không hề thiếu sót.
Sư soạn Câu-xá luận Kim Hoa Sao hai mươi quyển, được người đương thời quý trọng, hai lần lên bậc giảng đều có ba trăm mấy người dự, đều là học trò phương Bắc, truyền bẩm cho môn sinh cho cả trăm vị, trong thời gian Sư ở Phân Bí, người theo học đến già. Sư qua đời trong một căn phòng nhỏ của chùa, thọ bảy mươi sáu tuổi, năm mươi sáu tăng lạp, đệ tử học pháp cùng người xuất gia, tại gia thu gôm được mấy trăm hạt xá-lợi. Xây tháp thờ ở phía Tây quận thành.
Thích Ngạn Huy, họ tôn, người huyện Dương Vũ ở Đông kinh. Lúc còn nhỏ nghe cha đọc kinh Kim Cương Bát-nhã, trừng mắt lắng nghe một cách thích thú, trong nhà hay có làm lễ chay, mỗi khi nghe tiếng khánh phạn tự nhiên mà chắp tay lễ Phật, năm mười lăm tuổi theo thầy học đạo, đến Thái Nguyên, Kinh Triệu, Lạc Dương nghe, giảng quên cả mệt nhọc. Khi đủ tuổi, Sư thọ đại giới tại chùa thiếu thất ở Tung Sơn, tu tập Tỳ-ni rất thông hiểu ý thú sâu sắc, kế là tìm hiểu kinh luận, đều đến cội nguồn mầu nhiệm. Lại nói rằng: "làm lành khác nhau, nhưng đồng quy về trị, trị thì giới định tuệ, nhập thánh cơ giới, đây là chỗ cực trí của tính tam trị". Sư đến kinh đô Lạc Dương, các bậc tiên giới đều nể phục, đối với bốn bộ đều kính trọng sự sáng suốt, gần gương thì buồn ít vui nhiều, cầm bình thì nâng nhẹ giữ nặng, ngoài ba lớp áo mọi thứ của cải đều lấy đủ dùng mà không dư thừa, hành từ mà nhẫn nhịn việc không chính đáng theo quy tắc, không chứa môn đồ, chỉ nhọc bản thân, siêng năng hoá đạo, âm thầm tiến tu, cho nên người Nam Yên gọi là Phật tử. Ban đầu ở nhờ chùa Minh phước, giảng luận Bách Pháp, bậc anh hào bốn biển do sóng gió đưa đẩy tới, thường hay tựu tập đến cả trăm người, thường là bậc tài giỏi, nghiên cứu tỷ mỹ về kinh tông, chia làm thượng hạ thập ác, thượng thập ác thì động nhàn tính tướng, dựng cao cờ pháp, ba lập Tông, Nhân, Dụ lập phá không dính mắc, hạ thập ác thì học gồm nội ngoại ngâm vịnh phong tao. Sư thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai pháp lạc.
Thích Quy Ngữ, họ Mi, người ở Thọ Xuân, cha là Nguyên Húc, biết con mình lanh lợi dạy cho thi thơ, hễ đọc qua thì ghi nhớ trong lòng hơn hẳn mọi đứa trẻ khác. Học xong chư tử, trong lòng, nảy sinh xuất gia, cha mẹ chấp nhận theo nguyện vọng, bèn gởi gấm vào chùa Khai Nguyên làm Sa-di cho luật sư Đạo Tông. Chưa đầy một tuần sau đã đọc thông hai kinh Pháp Hoa và Nhân Vương. Đúng tuổi được thọ giới cụ túc, giữ gìn ba hạnh, và bốn oai Nghi, nghe học tân Chương liền giảng được, sau nghe ở kinh đô Lạc Dương thịnh hành tam phụ kinh luận, Sư bèn kết bạn cùng đi, tìm thầy. Chỉ trong mười năm, đã sớ thông tánh tương, tinh ròng đại tiểu thừa, danh số nhất chi, Nhân minh nhất học. Câu-xá, Duy thức, Duy-ma, Thượng sanh đều thể nhận sâu xa như Hư không, lại trở về Nam yên, theo Huy Công học lại các môn cho nhuần nhuyễn, cảm thấy nghĩa chương còn chưa hoàn thiện, đến chùa Tương Quốc ở Đông kinh, nhồi lại tân sao mà giảng huấn, cố gắng làm cho môn sinh lĩnh ngộ. Lúc ấy, Châu Lương hậu chủ và Sư vốn là bạn học cùng trường, tình bạn năm xưa sâu đậm, xa cách nhau cũng khá lâu, lên ngôi nửa năm sau hạ chiếu tìm kiếm, Sư biết người cố cụ, im lặng suốt cả năm nhưng lẩn tránh mãi cũng không khỏi, bèn phải ứng chiếu vào cung, nhà vua buồn vui lẫn lộn, ban tiệc khoản đãi nồng hậu, lúc ấy nhằm lễ gia khánh, vua ban sắc lệnh đình chỉ việc nâng tiến tăng đạo Ân. Năm ấy vua chỉ ban y tía cho riêng Sư, phong hiệu Diễn pháp đại sư, Lưỡng Nhai uy nghi đón rước đến chùa, đồng thời ban sắc lấy viện Ngự Dang ở đông tháp làm viện Trường giảng. Nhân dịp lễ thánh, Mân soái dâng một tạng kinh Kim Cương, ba trăm xấp vải lụa, vua đều ban cho Sư, pháp lữ cảm nhận vinh hạnh, nhưng xét thấy cựu sao có gì không ổn, chưa được cùng tận nghĩa lý, bèn sưu tập tinh nghĩa suốt ba năm, soạn thành hai mươi quyển, vua xem xong rất tán thưởng, lệnh cho nhập tạng, Sư cố từ khước mới thôi, như vậy trong mười lăm năm, xướng đạo không ngừng, học trò nối nhau truyền trì. Đến ngày mùng 10 tháng 10 niên hiệu Thanh Thái năm thứ 3 đời Hậu Đường, Sư gọi môn nhân là Hồng Diễn bảo rằng: "Sức lực ta đã đến lúc mỏi mòn rồi, người hãy trụ trì tu tiến". Đầu hôm, Sư chắp tay rồi qua đời, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi lăm tăng lạp, ngày 18 tháng ấy dời tháp về gò phía Đông, chùa Đông Giao ở Kinh đô.
Thích Lệnh Yên, họ Dương, người ở Văn Hương thuộc Thiểm Phủ. Lúc nhỏ đã có ý chí muốn xuất gia, được vị Sư ở ấp ấy dạy cho kinh
Tịnh Danh, đúng hai mươi tuổi thì cho thọ giới luật, cùng học đại tiểu thừa, trên danh số pháp môn nhiễm thành thuần tuý, Di-đà Trung Quán có Oát và Cao Du, tiếng tăm lừng lẫy không ai bằng, vì vậy mà Sư đến Trường Thủy ở Lạc Nam, gặp đàn tín quy tâm xây chùa giao ước với nhau, cứ một luận một kinh, liên tục trong suốt ba mươi năm, giảng hóa được hơn năm mươi biến, hằng ngày còn tụng riêng Duy-na, Thượng sanh, giữ hạnh giữ tâm, dứt bỏ thói xấu Tông thừa các nơi gần xa đều cầu mong khát khao. Niên hiệu Thanh Thái năm thứ 2, Sư qua đời tại chùa, thọ bảy mươi một tuổi, năm mươi mốt tăng lạp. Theo tục Tây vực hỏa táng, được xá-lợi, người học và đàn việt cùng xây tháp thờ.
Thích Trinh Biện người ở Trung Sơn, lúc còn nhỏ đã biết việc xuất trần, nên thề tu học mãi, tánh khắc khổ, mọi người đều sợ Sư không kham nổi, nhất chí nghe tìm, rảnh thì chích máu viết kịch, lại chích máu vẽ hình Quán tự tại đứng và hình từ thị, có lần vì hành đạo mệt nhọc, có hai cô thiên nữ đến chọc quẹo. Biện thề rằng: Lòng ta chẳng phải sắt đá, ta sẽ dùng thần chú trị các ngươi, chúng thấy không được bèn bỏ đi. Từ đấy đạo thắng, ma cũng không còn dấu vết.
Sư đến thành Thái Nguyên nghe giảng tu tập, lúc ấy Trung Sơn họ vương và Hậu Đường họ Lý phong cảnh giáp nhau, lo lắng sự dòm ngó, trong châu thành không chứa chấp ngoại tăng, vì vậy Sư bị đuổi ra ngoài, ở nhờ nơi cổ mộ ngoài chỗ trống, Hội Vũ Hoàng đế đi săn trong ruộng đồng, trong phạm vi gò mả, Sư còn chưa biết ất giáp chuẩn bị vào thành phó giảng, nhìn thấy cờ xí và kỵ binh, liền rút thân vào huyệt, Vũ hoàng đế bắt gặp, hỏi về nguyên do lại khám xét trong hang thấy lót cỏ làm chỗ ngồi lại có bút nghiên sớ sao tứ tung. Vua bèn gọi vào phủ cúng dường. Lúc ấy, Tào Thái hậu rất nể trọng. Sư than vãn với Thái hậu rằng: "Mục đích của thần là học đạo, ở trong cung lâu ngày, như bị khóa tay khóa chân vậy. Vũ hoàng cho Sư tự do thong thả, trở về Tung Sơn. Giản dạy tu bổ các ngôi chùa cổ đều được toại nguyện. Có người đàn bà họ trần quỳ lạy cầu xin Sư soạn cho Thương sanh kinh sao, được người học lúc bấy giờ rất quý trọng nên đặt tên là Biện sao. Về sau, Sư qua đời tại chùa nầy.
Thích Hư Thọ, người ở Ngự Nhi thuộc Gia
Hòa. Sau khi thọ giới thì học tập ở thượng đô, nội ngoại các môn đều thông hiểu, truyền giảng mấy bản đại kinh luận, không ngại tuyên đạo. Vào niên hiệu Hàm Thông được ứng phụng thánh tiết bổ sung làm giám nghĩa Tả Nhai, bè bạn ai chẳng ai không nể phục. Đến niên hiệu Quảnh Ninh kinh đô bị giặc cướp chiếm lĩnh, Sư tạm lánh nạn sang chùa Đại Thiện ở đất Việt. Người cùng sở thích thỉnh Sư giảng hai kinh Niết-bàn và Duy-ma, tức là nhằm niên hiệu Thiên Hựu, vì giận các vị Sư khiếm nhã, nên Thích Sùng Phước sớ phần lược mà không trúng, cũng như lấy nước giúp nước, rốt cuộc không giúp được gì cả. Bèn soạn Nghĩa Bình Sao, mười bốn quyển. Đến niên hiệu Đông Quang mới soạn xong. Lại vì giảng Câu-Xá luận Sớ, có bài tựa của Giả Tăng Thị lang, kế là tựa của Tăng Viên Hung, đều soạn Sao giải, lời văn chứa đầy những hiểu biết xưa nay, đối với kinh Niết-bàn Sư phân tích chẳng phải sơ lược, vẫn có người bác bỏ sớ của Tiểu Viễn, khỏi bị làm bẩn bởi con ruồi xanh, ngoài ra thì pháp Hoa, Bách pháp, Duy thức đều có nghĩa chương riêng biệt. Tính Sư lại nóng nảy khác với mọi người, thu nhận đệ tử đều không được, tự mình phải nấu nướng, củi tươi lửa tắt thổi lại khói, nổi quạu lấy nước chế vào suốt ngày, không ăn uống mà cứ giảng giải, đến tuổi già mắt mờ, lên tòa sư tử đội nón tre mà giảng, không nháy mắt, có người chế nhạo cho là xem thường thính chúng, Sư cũng đành chịu thôi
Võ Túc Vương họ Tiền đến đất Việt, Sư bèn ra yết kiến, vương tôn kinh phong độ, ban cho ưu lễ, nói mệt nhọc hai ba lần. Vào niên hiệu Càn Hoá tổ chức độ giới tại chùa Khai Nguyên ở Cối Kê, được gọi là giám đàn luyện tuyển, nơi đây có chức nầy bắt đầu từ Sư mới có. Túc vương dâng biểu lên triều đình, tiến cử xin ban cho y tía, Trang Tông chế ban cho người mang đến Doanh Khâu giữa lúc Sư đang giảng bài tựa Thượng sanh kinh sớ, cho đến như chuông lớn mà hư Thọ, Sư bèn bỏ phất xuống nói rằng: Ta có danh mà không có thật, sau nầy lại càng là hư thụ, các ngươi hãy hiểu cho. Túc vương hay được nói rằng: "vị Tăng nầy chắc chắn là vô ân mệnh phần, sao mà tên là Hư Thọ nhỉ". Năm Ất dậu niên hiệu Đồng Quang, Sư qua đời, chờ khi tàu biển mang khốc diệp đến, suốt cả ngày mới đến Thanh Xã, quả nhiên khớp với lời nói của Túc vương, Thụ để lại tập văn mấy quyển, thuật nghĩa chương ba mươi mấy quyển, lưu hành ở đời.
Thích Khả Chu, họ Phó, người ở Tấn Lăng, xuất gia tại chùa Kiến Nguyên, cá tính thuần lương, siêng năng học hỏi, bạn khuyên rằng: Chẳng phải đất thì cây không mọc, nay kinh Dự Chương gọi là sông, luận gọi là biển, sao không đến mà thỉnh nghiệp? Chu cảm thông sự khai đạo khế hợp mà đến đó, gặp pháp sư Vân Biểu thịnh tập cùng Pháp Hoa và Từ Ân đại sớ ngày càng trở nên sâu sắc.
Chiêu Tông, trong khoảng từ Giang Tây đến Đài Việt, ban lệnh khai phát. Niên hiệu Càn Hóa năm thứ hai đời Tương, Sư triệu tập khai diễn tại chùa Long Hưng ở Hàng Châu, thính chúng già trẻ thường có năm trăm người. Lưỡng Triết Võ Túc Vương lệnh cho giảng kinh ban đêm tại Thiên Bửu Đường, quỉ thần hiện hình hộ vệ. Thường hay có người nhìn thấy, hay có Tế đồng quan họ Vu coi đền thờ thần, thỉnh rất lâu mà không thấy giáng xuống, sau nhập vào Vu nói rằng: Ta theo đại thần đi đến phía Tây Thiên Bửu Đường nghe pháp mới về, Võ Túc vương nghe vậy càng trịnh trọng, cho như ý bằng vàng, bát và y tía, và danh hiệu là Tinh chí Thông Minh.
Niên hiệu Thiên Thành năm đầu, Sư qua đời tại phòng riêng thuộc viện Quán Âm. Niên hiệu Càn Ninh năm thứ tư, Sư đến chùa Tùng Sơn ở Đài Châu giảng Sớ quyết Sao, dựa theo sớ tiết thành năm quyển, gọi là bình kinh sao; Âm huấn ngũ thiệp giải, Tuyên luật sư pháp Hoa Tự sao, một quyển, lưu hành ở vùng Triết Giang, đệ tử nối nhau không dứt.
Thích Trinh Hối, họ Bao, người ở Thường Thục thuộc quận Ngô, mười ba tuổi bắt đầu xuất gia tại chùa Long Hưng, tính tình trầm lặng, biết tranh thủ thời gian, mới hơn một năm tụng suốt kinh Pháp Hoa hai bộ Hằng Nghiệp và Nhật Chu như thế. Năm thứ 19, tại Dương Châu chọn danh sư thọ giới cụ túc. Từ phía Bắc Y Lạc đến Tấn Giao, hễ chỗ nào có trường giảng, Sư đều đến thưa hỏi. Về kinh luận, thì nghiên cứu tận cùng tánh tướng, giữa bạn ngang hàng ít ai sánh bằng, đối với bạn yếu thì cách rất xa. Vào niên hiệu Thiên Hựu năm đầu đời Đường, Sư đến chùa Tướng Quốc ở Đông kinh hiện nay, giảng kinh Pháp Hoa khoảng mười lần, cũng như người chưa về đã biết hàng bán hết hay chưa, đến nhà Lương, người vật dời đổi. Niên hiệu Trinh Minh Năm thứ hai, Hội Tống Châu soái Khổng Công, kính mến phong cách của Sư, biết được đạo hạnh, bèn bày lễ như đối với thầy bạn, bỏ ra tiền của xây dựng nhà giảng kinh Pháp Hoa tại Tây tháp viện, từ đấy hội hợp đông đúc, một mặt còn dạy văn đại tạng, hai thời hành đạo tinh tiến chẳng mệt mỏi. Lời của trăm nhà, kỹ thuật thế gian đều loại ra ngoài vòng nghị luận. Dạy môn đồ rằng: cách nói dị đoan gây rối chân tâm, vô ký bất huân, đâu cần học tập. Ta thà làm sư tử quát chó chớ không làm con dã can hót, Sư chỉ chăm lo nhang đèn quét dọn trong chùa để có chỗ nằm nghỉ. Đến niên hiệu Thanh Thái năm thứ hai, đời Hậu Đường, ngày mười tháng hai gọi đệ tử năm mươi mấy vị, tự mình nấu nước tắm rửa xong, xướng kinh Thượng sinh. Lễ Phật xong, bỏ ra áo đồ không cần dùng, phân phát cho tăng ni. Ngày hôm sau Sư ngửa nhìn trời chắp tay nói rằng: "Làm phiền các bậc thánh đón rước nơi cỏi trên, cả trăm đồ đệ đều nghe tiếng nhạc trên trời, chốc lát Sư đã hóa, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi bốn tăng lạp, giảng suốt trong chùa ba mươi mấy năm. Kinh giảng ba mươi mấy lần, xem tạng kinh hai lượt, tu Di-lặc nội viện nghiệp, ngày 18 tháng 2, an táng Sư tại gò phía Đông cạnh chùa, cờ xí uy nghi, tăng tục đưa tang khoảng hơn một ngàn người.
Thích Khả Chỉ, họ mã, người ở Cao Khâu, núi Đại Phòng thuộc Phạm Dương. Năm mười hai tuổi, đã có tâm xuất gia, theo luật sư Pháp Trinh chùa Mẫn Trung, năm mười lăm tuổi làm Sa-di, từ giã thầy học tập kinh luận. Lúc ấy, chùa Đại Hoa Nghiêm, có Pháp sư Nhân Sơ giảng luận Nhân Minh, Chỉ cầm quyển luận để vào lòng ba lần tinh nghĩa nhập thần, mọi người đều cho là tài ba, có lão túc Duy Ma Hòa-thượng, là kỹ sĩ của Phật môn, hỏi Sở sư rằng: Môn nhân tài giỏi có ai đứng đầu.
Sở sư nói: "Có Sa-di U Châu ở Ôn cố tri tân siêng năng không lười. Duy-ma xin được gặp mặt, bèn chất vấn Thắng quân tỷ lượng, hỏi gì đáp nấy, không thể khuất phục được.
Duy-ma nói: Thật là hậu sinh khả úy, khế kinh đã nói, tuy nhỏ không nên kính mến, bèn cố sức mời Sư đến khai giảng ở Hằng Dương, Tăng tục đều kính mến, năm mười chín tuổi, Sư đến núi Ngũ Đài cầu giới, trước khi thọ giới, cảm thấy văn chương trí tuệ vẫn còn thuộc về bản thân mình, vì vậy mà về thăm cha mẹ và thầy cũ. Phụ diễn tại chùa, năm hai mươi ba tuổi đến Tịnh bộ học kinh Pháp Hoa, luận Bách Pháp. Vào niên hiệu Cảnh Phước, Sư đến Hà Trì, có thỉnh giảng Nhân Minh, sau có dạy học trò vài năm tại chùa Đại Trang Nghiêm ở Trường An. Niên hiệu Càn Ninh năm thứ ba dâng thơ lên vua Chiêu Tông, được ban Càsa tím, ứng chế nội điện, bổn đạo Lưu Nhân Cung, trấn giữ cửa bắc, khống chế Phiên Hán, nghe tên tuổi Sư, bèn gởi thư đến triệu về quê cũ, cha và thầy đã mất, còn lại mẹ già, Chỉ cầm bát khất thực, cơm cặn canh thừa xem như thức ăn ngon, hành tụng Thanh Long sớ ba năm, văn triệt bỗng thấy một con trăn lớn nằm trong phòng, ngất đầu nhìn thẳng như có điều gì muốn nói, các tăng trong chùa đều cho đó là con của Phật, lại nói: Mắt rắn không chớp, nay nó nháy mắt, có phải là rồng chăng? Sư thắp nhang chúc rằng: Bần Đạo niệm Thanh Long sớ ăn chay dưỡng mẹ, nếu thật Long thần có lòng nghĩ đến mong được cho Đàn Na ở vài ngày, con nhà Yên sư nói: Chế Thắng Tư đồ gọi dẫn về nuôi dưỡng. Lúc ấy, vua Trang Tông dẫn binh ra phi hồ để bao vây, kéo dài suốt cả năm, mễ cốc hiếm quý, giá cả đắt đỏ. Chỉ lo sợ chẳng bao lâu nước Yên bị hãm mất, cha con nhà họ Lưu bị bắt về Tán Dương, Sư lánh nạn Trung Sơn được Tiết độ sứ Vương Xử
Trực tôn sùng, thỉnh về an trí tại chùa Khai
Nguyên, hằng tháng có lương bổng. Sư soạn Đốn Tiệm nghĩa sao, một quyển, lưu hành ở đời, niên hiệu Thiên Thành năm thứ ba, quân triều đình hỏi tội Định Châu, người cầm binh là Vương Yên Hưu được Doanh Vương Phùng Đạo thư ra lệnh tìm Sư, Sư được xe ngựa đưa vào Lạc kinh. Hà Nam Doãn, Tần Vương Ưu lễ rất hậu, tấu xin ban cho Đại sư hiệu "Văn trí" trụ trì viện Tịnh Độ tại chùa Trường Thọ.
Niên hiệu Ứng Thuận năm đầu, nhằm ngày 22 tháng 1 năm Giáp Ngọ, Sư bỗng nhiên bị bệnh, gọi đệ tử đến trợ giúp vãng sinh, niệm Phật A-di-đà, an nhiên mà hóa, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi sáu tăng lạp. Mười ngày sau hỏa táng thu di cốt, đến niên hiệu Thanh Thái năm thứ 2, ngày mồng 8 tháng 4 xây tháp tại núi Long Môn, góc đông nam của chùa Quảng Hóa. Sư có phong độ siêu bạt, giới tiết thanh cao, Bách gia sử tử và các kinh mục đều đọc không sót, ngoài sự hiểu rộng, còn sở trường thể thanh luật thi, có bài Tặng phàm Xuyên trưởng lão thi, được người truyền miệng, những ngày lành nạn tại Định Châu, Trung Sơn và Thánh Nguyên, nghi ngại về các chư hầu lấn chiếm lẫn nhau, vua muốn nước lành dân yên, nên tổ chức trai tăng tại chùa Khánh Vân, trong cuộc có người dâng hiến Bạch Thước (chim Khách), vui nói: Nhà thơ người nước Yên thử ngâm xem nào, Sư tức khắc đứng dậy ngâm thành bài thơ, vua rất vui. Lúc Sư ở Trường An, mỗi khi giảng xong thường hay dạo chơi vườn Tiêu Dao ở núi Chung Nam, là nơi dịch kinh của Pháp sư La-thập nước Diêu Tần, bỏ hoang đã lâu, nên than rằng: Ta là Phật tử, sao nhẫn tâm để như vậy được. Cho nên tấu xin Chiêu Tông hoàng đế sửa sang, nhà vua chuẩn y, vẫn ban cho tên chùa là "Thảo Đường". Sau nầy thỉnh Phàn xuyên Tinh Hưu thiền bá hội tựu môn đồ đàm luận về Huyền học. Tại Lạc Dương ngoài giờ giảng, Sư thường tụng kinh Kim Cương. Ngày xưa người tu phần nhiều ở núi Chung Nam. Nên có tam sơn tập thi ba trăm thiên, thịnh hành trong thời ấy, đệ tử tu văn, tu trí, tu hạnh. Sẽ hiểu được đạo của thầy.
Thích Cự Mân, họ Nhậm, người ở xứ Tây Hà. Cha của Sư theo nghề trồng tỉa mà mở mang đồi vườn. Mẹ Sư họ Vương, quy hướng Tam bảo, chuyên tâm thọ trì Bát quan trai giới. Từ khi mang thai Sư lại khéo kết duyên lành, cầu tu phước lợi mà sanh con tốt lành.
Sau khi sanh Sư, nuôi dưỡng đến bảy tuổi, Sư có chí khí đôn đốc, mỗi khi nhìn thấy tôn tượng Phật thì ngắm nhìn vui mừng. Cha mẹ biết Sư có nhân lành từ trước, những lúc dẫn vào chùa thì ý Sư như muốn quên trở về nhà. Sư đến viện Tịnh Tâm trong quận nhà, thấy luận sư Tuyên Viễn, bèn phát chí luyến mộ phòng độ tăng, khóc cầu nhiếp thọ. Cha mẹ Sư biết không thể cản trở chí nguyện của Sư nên đều chấp thuận. Năm 10 tuổi, Sư tụng trọn hai bộ kinh Pháp Hoa và Duy-ma, thường ngày trì đến mười quyển, không hề bỏ đứt quãng. Như nắm giữ bình báu lưu ly, Sư thư thái từ hòa như bậc lão thành. Đến lúc Sư thọ giới cụ túc, bèn tập học Luật tạng, thông suốt khoa phạm khai chế, thường soi xét buồn vui. Từ đó, đối với lý thú kinh luận Đại thừa, Sư siêng năng nghiên cứu, thành đạt được yếu pháp của Tôn sư. Và đều thành tựu ba học. Ngày cũng như đêm, trước song cửa án sách, không lúc nào rảnh rỗi nghĩ làm điều gì khác, trừ nghiêm tầm nghĩa chướng tu sáu việc, hai nhân.
Đối với kinh Đại Bát Niết-bàn, và luận Nhân Minh, lúc tuổi về già, Sư càng tha thiết. Lại truyền giáng luận Du-già, Kim Cương, lắng hết các duyên, chuyên giảng mỗi thứ hơn mười biến. Ngài vẫn cầu phụ lượng, xem rộng các sách, thành đạt nghĩa lý rất tinh vi, lại phát huy các thứ tốt lành. Bỗng nhiên, Sư bẩm nhận luân ngôn, trú tại viện Thiên Vương ở thành nội, cùng các đệ tử đều được cung cấp không thiếu, truyền trì không dứt.
Niên hiệu Càn Hựu thứ nhất (948), thời Hậu Hán thuộc Ngũ Đại, Hán Cao Tổ, nhân ngày Rồng ẩn đất Tấn, kính ngưỡng thanh danh Sư, đặc biệt ban đình thần, tặng y mầu tía và danh hiệu là Viên Trí Đại sư. Kế đến, lại có chiếu chỉ tuyên mời đến trụ viện Giảng Đường ở chùa Sùng Phước, bèn xung nhậm chức Quản nội Tăng Chánh, trải qua một năm mà giáo pháp lan truyền đến cả đất Tấn. Sư bèn xem xét, sách tấn tăng đồ, như gió bạt cỏ. Đến ngày mồng 3 tháng 11 niên hiệu Càn Hựu thứ hai (949), Sư không bệnh mà qua đời, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi bốn pháp lạp. Bấy giờ bổn chúng thảy đều buồn thương, khắp thành không ai chẳng luyến mộ đức hạnh Sư, bèn vâng theo lễ nghi trà-tỳ của Tây vực, phần nhiều dâng cúng nước thơm, hoặc cầm phướn đẹp, kẻ tăng người tục đông nghịt ngoài thành. Ngày đó, mây che ảm đạm, chưa đợi lửa tắt, đều đã bưng bình báu đựng đầy lúa thóc, đồng thấy thể huân tu. Bấy giờ, những người có được Xá-lợi tùy tự nhân duyên, hoặc ít hoặc nhiều, riêng thâu nhặt được di cốt Sư, bèn viết văn biểu tấu trình bày lên triều đình, và Hán Chúa ban sắc an táng tại chùa Thiên Long ở Tây Sơn. Tất cả mọi việc đều do các quan cung cấp cúng dường, xây dựng tháp đá. Ban tặng thụy hiệu cho Sư là "Đạt Thức".
Thích Hằng Siêu, họ Phùng, người ở Phạm Dương. Ông nội Sư chẳng ra làm quan, ở đời lo tu sửa Nho đạo, mà gia đình giàu có đủ muôn thứ.
Khi Sư vừa mới chào đời, đã thông minh mẫn tuệ, sống chung với lũ trẻ mà chẳng thích vui đùa. Năm mười lăm tuổi, Sư sớm thông hiểu sáu tịch, khéo léo phong tao, nói năng lời lẽ mới lạ, lấp bít miệng người. Một ngày nọ, nhân đọc kinh Phật, bỗng nhiên tỏ ngộ mới than rằng: "Người đời giàu sang, như bọt bóng huyễn hóa, chỉ có chân thừa mới có thể chuyên chở!" Bèn đến chùa Trú Tất cầu xin xuất gia. Chưa đầy ba năm mà phương nghị tiến tu ngày đêm chẳng mệt mỏi. Gặp lúc Tôn sư thị tịch, Sư cũng vâng theo, lễ nghi an táng của nhà Phật, giữ lễ không biếng lười. Danh tiếng hiếu để của Sư, người dân rất hay ca ngợi.
Niên hiệu Càn Hóa thứ ba (913), đời Hậu Lương, Sư đến núi Ngũ Đài thọ giới cụ túc. Do đó, vượt xa tự gần. Tha thiết hỏi nghĩa gần gũi, bỗng chốc bày chương chặt cây. Thả quen người, hoặc bạn kết giao, đi xa tìm bậc thầy khéo giỏi. Lại gặp phải sự cản trở ngăn cách giữa hai dòng sông, binh giặc chưa thôi, đường sá chẳng thông. Ở phía Nam thì Lương Tổ, phía Bắc thì Trang Tông, gánh vác cân nhắc trước nặng nhẹ, đuổi nai trong lúc còn mất, chính là lúc ấy. Sư bèn dừng ở giữa khoảng Ngụy bác và Đông Phần, học các kinh luật luận Đại Tiểu thừa, tính ra có đến bảy bổn giảng thông. Sư nghĩ đến Ung Lạc, Các bậc danh sư đời Lương Tống đều mịt mờ cách tuyệt. Tuy nhiên, lần lượt trải qua chẳng Xa, mở mang rất tinh, bình đầy tri kiến giúp bay danh tự, cho nên Tinh bộ dứt bụi, hai vị Trung Sơn và Trinh Biện Phu ngôn hạnh đều đạt quả vị tu chứng, vừa thấy Sư liền khen ngợi rằng: "Đầu sừng của Nghĩa Long thảy đều hoàn bị, chỉ đợi dang cánh bay mà làm mưa dầm". Sư là bậc thạc đức, đề mục có nhiều, cùng loại như thế.
Niên hiệu Long Đức thứ 2 (922), đời Hậu Lương, Sư chống tích trượng đến Vô Lệ, Sư bảo rằng: "Cho nên toàn Tề cựu hoại, Trâu lỗ khéo gần". Bèn dừng trụ tại phía đông bắc chùa Khai Nguyên, thiết lập toà viện, giảng giải các kinh luận, hơn hai mươi năm mở mang dẫn dắt. Mỗi thứ kinh luận, Sư giảng hơn ba mươi biến. Tiết tháo cao vời, cử chỉ thư thái điều hòa. Kẻ tăng người tục trông thấy Sư, ai cũng kính nể. Lời tiếng chẳng quát tháo, ngôn từ chẳng kiêu sa, tự nhiên mà thế. Vả lại, chẳng phải chỗ được của oai thế lăng lậu, trước sau châu mục, qua lại sứ thần, ảnh hưởng danh dự, khâm phục phong cách tu hành, đều cùng lễ trọng, Sư sai đồng tử, từ chối giảng suốt, ít tiếp xúc. Ban đầu thì như có sự ân hận, sau cùng thì kính phục cao hạnh của Sư, Tháo Tú ở khoảng Tề Lỗ, chẳng xa vài trăm dặm, tìm đến pháp tòa của Sư để vặn hỏi. Các vị ấy một lúc thấy được Tôn dung của Sư, bèn đứng bên cạnh nghe bàn luận, thưa hỏi tử sử, dùng giáo tông để minh chứng. Hoặc hỏi về nhân minh thì Sư dùng một bài thơ để đáp từ chối lời mời lý mầu, thảy đều thán phục.
Bấy giờ, quận thú Lý Quân vốn nể trọng phong thái cao hạnh của Sư, muốn tỏ lòng bèn dâng tặng y tía. Sư nghe mà kinh ngạc, bèn bảo lấy bút viết thơ rằng:
"Luống mặc áo vải già
Chén nổi Đạo chẳng thành
Thề chết truyền kinh luận
Chẳng sống nhiễm lợi danh,
Chán cây ngăn sắc núi
Mến cửa hướng trăng soi,
Lúc khác theo Phạm
Chí Một khuấy năm hồ trong".
Lý Quân nhờ người khuyên, nguyện kết nhân duyên. Sư quyết định chẳng dời. Lại bảo: "Nếu ông ấy còn vậy thì ta ở tại ngoài ven Lư Long". Quận tướng nghe nói đành thôi. Thêm nữa, tướng Quốc Danh Vương Bằng Đạo nghe danh Sư biết là người gốc ở Hương Quan. Trước tiên sai người mang thư đến, với đề tựa dùng ý muốn quy hướng, Sư bảo: "Bần đạo là kẻ nhàn, sớm bỏ cha mẹ, quyết chí tu hành, vốn mong cầu đức Từ thị Di-lặc biết tên, không cho là truyền rộng đến tai của Tể Hành. Đối với tôi có ích gì". Môn nhân ngày càng đôn đốc dẫn dụ, bất đắc dĩ mà Sư viết thư đáp lại, nêu bày tỏ rõ người xuất gia đâu được vì hư danh lợi mỏng mà lưu tâm! Danh Vương càng thêm kính trọng, dâng biểu tấu trình, Hán Cao Tổ bèn đến trao tặng y tía. Từ đó, Sư thường chẳng vui.
Đến ngài mồng 3 tháng 2 niên hiệu Càn Hựu thứ 2 (949) thời Hậu Hán, Sư bị bịnh nhẹ, chỉ vài giờ sau thì thị tịch tại bổn viện, thọ bảy mươi ba tuổi, ba mươi lăm tăng lạp, tăng chúng trong viện đều nghe tiếng nhạc giữa hư không là minh chứng Sư sinh lên tầng trời Đâu-suất. Môn Nhân Đổng Trưng cùng học chúng hơn trăm vị giữ tâm tang. Các hàng sĩ thứ và trong ni trong thành cùng nhau nhóm họp, đưa nhục thể Sư ra ngoài thành, cử hành lễ trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi được hơn hai trăm viên, phân bổ ra ngoài thành, lưu giữ tại bổn viện năm mươi viên, xây tháp thờ. Doanh Vương biết được sau cùng, riêng tấu trình ban tặng ngài thụy hiệu là Chánh Đức và khắc sắc văn ở tháp đá.
Thích Tăng Chiếu, họ Trương, người ở xứ Phạm Dương. Năm mười bốn tuổi, Sư xuất gia tại chùa Mẫn Trung.
Sư thông minh vượt trội đồng bạn, thần nghi tú vĩ. Ban đầu, thọ nhận kinh kệ, mỗi ngày tụng đọc mấy trăm ngàn lời, đọc qua mắt dường như đã thấy tập học từ trước, luận bàn tri kiến, có phong thái như bậc lão thành, nên được độ làm Sa-di. Từ khi thọ giới cụ túc về sau, Sư tụng thầm kinh điển hơn sáu bộ lớn, đó là các kinh Tối Thắng Vương, Đại Bi, Duy-ma, Pháp Hoa v.v... bên cạnh đó, Sư tìm nghe thêm các kinh luận suốt mười mấy năm. Văn sâu phục nghĩa, mầu lam sanh ra từ mầu xanh.
Trong khoảng niên hiệu Thiên Hựu (904) đời Tiền Đường, Sư đi xuống phía Nam, bèn đến Trung Sơn. Nguyên Nhung Vương Cử Đạt thỉnh Sư trú tại chùa Pháp Hoa, kế đến Dịch Soái thỉnh Sư. Thái Phó Lũng Tây Công liên tiếp dâng biểu tặng y tía, tôn xưng là Chí Chân Đại Sư. Kế là Phù Phong Mã Công thỉnh Sư làm Tăng chính, chẳng phải tốt lành vậy. Đến khi tại Lạc Vương có sắc chỉ khai giảng kinh Pháp Hoa, Sư bèn trú tại viện Pháp Lâm, huống gì lúc Đô Quyết có nhiều bậc Long tượng hội về, Sư xướng đạo hợp như ở Hạ Phong phục ưng.
Đến ngày 26 tháng 3 niên hiệu Càn Hựu thứ nhất (948) thời Hậu Hán, Sư thị tịch tại giảng viện, thọ bảy mươi tuổi, năm mươi tăng lạp. Bốn chúng buồn khóc kính mến. Quan thị trung Lý Công khuynh dịch định, từng làm ngoại hộ, lại giữ lạc trạch, trong tang lễ thảy đều đem của cải cung phụng. Đến ngày mồng 3 tháng 4, dời nhục thể Sư về phía nam thành cử hành pháp trà-tỳ. Thâu nhặt xá-lợi mầu hồng nhuận có đến vài trăm viên. Tế Dương Đinh Công làm chức Bảo Ly giúp xây tháp tại sườn núi phía nam chùa Quảng Hóa để tôn thờ. Ngày trước, lúc còn sống, Sư từng giảng kinh ở hơn bảy mươi pháp tòa, ân cần vì pháp. Đồ chúng rất nhiều, Quan Tể Thần Mã Công Tôn rất khâm phục kính trọng, trước sau dâng tặng thơ kệ đến vài mươi bài. Sư được lời khen tốt ở Lạc Kinh.
Thích Tùng Ẩn, họ Lưu, người xứ Tam Khanh, thuộc Lạc Dương. Vừa mới độ tuổi tết tóc mà Sư thông minh mẫn tuệ, có chí nguyện muốn xuất trần, cha mẹ Sư đã chấp thuận, Sư bèn đến viện Trúc Các trong thôn ấp theo thầy tụng tập, đào luyện binh phù. Sư tìm đến Trung Dương cầu thọ giới xong, lại đến huyện Trường Thủy nghe Pháp, mới trải qua vài năm mà thông được ba bộ kinh luận: Bách Pháp, Trung Quán và Di-đà. Đại sư Yên lúc tuổi già rất hài lòng với sự thông đạt tánh tướng của Sư. Sau, Sư đến Viện Bố Kim ở Lạc Dương, ứng phó diễn giảng, đến khoảng niên hiệu Thanh Thái (936-934) thời Hậu Đường. Đại sư giao phó giảng tòa cho Sư. Thường ngày, ba lần thăng tòa giảng pháp cho chúng nghe, giữa mùa hạ, Sư kéo dài thước đo bóng nắng, xem đọc một pho kinh tạng. Sư tinh tấn khổ hạnh, không ai sánh bằng. Đến tháng giêng niên hiệu Càn Hựu thứ 2 (949) thời Hậu Hán, Sư hiện bị bệnh và qua đời, thọ năm mươi ba tuổi, ba mươi hai hạ lạp, bèn y theo pháp hỏa táng của Tây-trúc, thâu nhặt chân thể viên tịnh rất đáng quý, các hàng môn nhân xây tháp cúng dường, đến nay vẫn còn.
Kế đến, có Tỳ-kheo Thích Mộng Giang ở viện Huyền Tuyền thuộc huyện Trường Thủy, Sư họ Dương, người của ấp nầy, thần thái phóng khoáng, vượt hẳn phàm tình, bèn nguyện xuất gia, thường tụng kinh Nhân Vương Bát-nhã. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư giảng luận Bách Pháp. Khoảng niên hiệu Thanh Thái (934-936) đời Hậu Đường, Sư được thỉnh đến chùa Quảng Hóa ở Long Môn, giảng pháp cho chúng nghe. Gặp lúc vua Phế Đế đến chùa đó, tuyên hỏi nghĩa lý, Sư biện luận tinh xảo vừa ý nhà vua. Khi đó, ngay tại ngự tiền, ban tặng
Sư y pháp Ca-sa tía, Sư nhất định không nhận. Sư giảng dạy dẫn dắt suốt hơn hai mươi năm. Những lúc rảnh giảng thì ngài hành đạo lễ Phật. Thường ngày chỉ ăn một bữa, thương tưởng nhẫn nhịn đối với mọi vật, ít khi gặp Sư có vẻ tức giận. Đến niên hiệu Hiển Đức thứ 3 (956) thời Hậu Chu, Sư bị bệnh mà qua đời. Kẻ tăng người tục buồn thương kính mến, xây dựng tháp mà thờ Sư.
Thích Tông Quý, họ Du, người ở xứ Lâm An. Thuở bé, Sư mạnh mẽ, tâm trí cứng rắn ngay thẳng. Một hôm nọ, sét đánh vào cây cổ thụ ở cạnh nhà, Sư bị té ngã, có người chị là Cô Ni ôm chầm lấy chân Sư, xem xét rồi bảo: "Đây chẳng phải là do sét đánh chết, sẽ có lúc sống lại". Đến chập tối, Sư sống lại, bèn khuyên Sư xuất gia.
Ban đầu, Sư phụng thờ chư tăng ở chùa Hàn Bình, sau Sư đến Cù Châu, tham học luận danh số với luận sư Cự Tín, rành rẽ văn nghĩa, khó lòng khuất phục, sắc bén như mũi nhọn. Mãi đến lúc, Sư trở lại Hàng Châu trụ chùa Long Hưng, Sư được mời giảng đạo. Bấy giờ, Tăng Chính Uẩn Nhượng Cấp Tuệ tung hoành đối địch hai mặt, cùng với Lư Khâu Phương Viễn tiên sinh, La Ẩn ở Giang Đông làm bạn giao kết chẳng phản nghịch, trông thấy Sư mà tỏ bày han hỏi. Sư bèn làm hai trăm lời mà chỉ dạy, Tăng Chánh Uẩn Nhượng vô cùng khen ngợi, bèn thỉnh Sư giảng đạo hơn bốn mươi năm. Do từ Sư xuất sanh ra có đến bảy, tám trăm vị đệ tử.
Đến năm Mậu Thân, thuộc niên hiệu Càn Hựu thứ nhất (948) đời Hậu Hán, Sư bị bệnh qua đời tại phòng.
Lúc còn sống, ban đầu Sư lần lượt giảng đạo, gặp một người khác thường, Sư bèn nói tiếng Hồ hỏi về các kinh luận từ Tây vực chưa truyền đến Trung Hoa. Cả chúng đều kinh ngạc. Sư bị lòa hai mắt, ban đêm cảm kích ánh sáng thần soi rọi, ngài đọc xem các tác phẩm của thầy xưa, bảo rằng: "Thật rất đáng xem". Ngài bèn soạn thuật các bộ: Vĩnh Tân sao Thích Bát Nhã Tâm Kinh, Huy lý sao giải Thượng Sanh Kinh, Di-lặc thành Phật kinh, sớ sao Bổ Du, sao khuyết các biệt hành nghĩa chương v.v... tất cả có đến vài mươi quyển, và đều lưu hành ở đời.
Cuộc đời Sư, đạo hạnh cô tịch, tánh tình ngay thẳng, ít nói năng, khí mạo cao vợi. Thệ chẳng đến nhà thế gian. Cho đến người tuổi già khẩn thiết thỉnh mời, Sư cũng ít đến nhà thế tục, Sư sống chỉ thường không, an nhiên tự tại, chăm chăm tay chẳng rời quyển kinh, vui sống với đạo đến cùng. Hiện nay tông này rất đông nhiều, đệ tử giảng đạo không dứt.
Thích Trí Thuyên, họ Trương, người xứ Vĩnh Tế, thuộc Đồng Đài. Năm chín tuổi, Sư xuất gia thờ thầy tại chùa Vương Xá Thành ở Lâm Thanh thuộc Nghiệp Đô, đến lúc thọ giới cụ túc, thân khí Sư cao vời, tám thước khác thường, sắc mặt như ngọc đẹp, đi đứng thư thái tợ ngỗng trời, tiếng nói như chuông vang. Mọi người trông thấy đều kính sợ và ngợi khen: "Thật là đấng trượng phu tốt lành!"
Ngài thường trì tụng các kinh, ngày ba thời, đêm ba thời, lễ Phật không thiếu. Bốn sư biết Sư là bậc pháp khí nên bảo Sư qua Hoạt đài tìm đến pháp tòa của pháp sư Huy ở chùa Minh Phước. Tròn một tháng thì Sư thấy rõ thể dụng của các pháp, mừng vui mà chẳng tự nhậm. Bấy giờ, môn sanh tài giỏi của pháp sư Huy có đến vài mươi vị đều xuất sanh dưới Sư, người ở Tuần Tuy Dương thỉnh Sư giảng. Sau đó không lâu, Sư lại đến Đông Kinh, gặp một vị tín sĩ bỏ cả nhà cửa tài sản tạo lập viện Vạn tuế bách pháp. Do đó mà ở kinh đô Lạc Dương các vị Trần Hứa, Từ Tú, Duy Thanh, Cầm Đài đều ưa thích thỉnh Sư giảng pháp. Tự khi nhóm họp thiết lễ cúng dường, trước sau có đến ba mươi vạn vị tăng thọ chúng. Ba gia đình Thiên Hùng, Quân Đới, Trương Quách cùng nhau kiến tạo viện Quán Âm, rồi thỉnh Sư ở đó.
Sư tánh tình thông minh lanh lợi, trước sau giảng luận bách pháp có đến trăm lần. Mỗi lúc lên pháp tòa Sư chẳng xem đến bản văn, huyền thuật biện luận mà cấp ứng. Sau ba lần xem qua Đại tạng kinh để bổ giúp thêm phần tri kiến, Sư phúng tụng kinh chú, thường nghe ngoài của nhà vắng teo có tiếng búng ngón tay. Đó là cảm kích đến quỷ thần khen ngợi vậy! Ngụy Soái Trần Quân Tư Nhượng, dốc chí qui y, kính dâng y tía, tôn xưng Sư danh hiệu là "Quy Chánh". Đến năm tám mươi mốt tuổi mà khắc chí học Âu Vương thư thể, chỉ vào được năng diệu. Có người hỏi đến thì Sư bảo là "Tôi tập học chữ lai sanh".
Đến niên hiệu Hiển Đức thứ 5 (959) thời Hậu Chu, với tuổi tám mươi ba, Sư gọi đệ tử Phụng Yến v.v... phó chúc mọi việc, bảo làm một chiếc kiệu gỗ, liệm rồi đưa đi trà-tỳ. Đến ngày 11 tháng 11 năm đó, Sư thị tịch, nghinh phụng nhục thể vào tháp gỗ, nâng cao hơn ba trượng. Đang lúc phóng lửa trà-tỳ, có hạc trắng kêu buồn, mây tím giăng phủ phía trên, thâu nhặt xá-lợi, xây tháp cúng dường.
Thích Hạo Đoan, họ Trương, người ở xứ Gia Hòa. Năm chín tuổi, Sư bỏ nhà vào tịnh xá Linh Quang, thầy Sư trao cho kinh pháp, như ôn lại đã học trước kia. Đến năm hai mươi tuổi, Sư đăng đàn thọ giới cụ túc.
Sư tìm đến chùa A-Dục Vương ở Tứ Minh, gặp luật sư Hy Giác đang thạnh hành mở mang luật Nam Sơn. Sư xem qua một lượt thì thấu suốt nghĩa môn, không còn bị khuất lấp. Sư lại tìm đến pháp sư Kim Hoa Vân, học danh số nhất chi và kinh Pháp Hoa. Sau, Sư nhận lời mời giảng luận cho chư tăng ở năm nơi của Ngô Hưng. Võ Túc Vương dòng họ Tiền ở Lưỡng Triết mời Sư đến chùa Lahán ở Vương phủ đế giảng dạy. Sau lại mời Sư đến Chân thân tháp tự hoằng truyện Đại Đạo. Bấy giờ có bậc thầy ở Thai Giáo là ngài Huyền Chúc, tông ấy gọi Ngài là vị tổ thứ 10. Sư đến đó nương tựa cầu học và quả nhiên thấu rõ "Nhất Tâm Tam Quán". Sư bèn soạn bộ Kim Quang Minh Kinh Tùy Văn Thích, mười quyển. Do đó mà pháp yếu của hai tông một đường cùng thông. Trung Hiến Vương họ Tiền dâng tặng y tía, riêng ghi Đại Đức, xưng hiệu là Sùng Pháp.
Sau Ngài thệ ước chẳng ra khỏi cổng chùa, kính mến Sư không vượt qua khe giống như ngài Tuệ Viễn trước kia, thật cao thượng thay sự việc đó! Cẩn trọng hơn hai mươi năm, Sư thân không mặc áo dài, miệng không ăn thức ngon và no đủ, ở không cấp giúp quan tọa, chỉ một chiếc giường.
Đến niên hiệu Kiến Long thứ 2 (961) đời Bắc Tống, ngày 18 tháng 3, Sư thị tịch tại phòng, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Sau ba ngày mà nhan sắc dung mạo Sư vẫn tươi tỉnh như lúc sanh tiền, bèn trà-tỳ ở phía Tây tháp, sau khi lửa tàn thâu nhặt được nhiều xá-lợi.
Sư soạn thuật các thứ truyện, Lục Ký Tán bảy mươi quyển, chỉ có tám mươi người thọ học được pháp môn của Sư. Sư có tánh tiết tháo, không nói năng cẩu thả. Ngài lại không bàn nói chuyện thế gian, chỉ đem Phật pháp làm việc chính của mình. Thật có thể gọi là chắp cánh thêm cho voi chúa vậy. Bí thư Lam Tiền Dục đã từng trông coi Tú Quận, đích thân trông thấy tiêu cách của Ngài, bèn vì soạn thuật Hành Lục.
Thích Phó Chương, họ Bành, người ở xứ Khai Phong thuộc Đông Minh, Cha là Nhân tức Thượng Nông ở ấp điện. Ngoài sự trần lao, chánh kiến chẳng hồi, Sư thường đọc kinh Phật, thấu hiểu Huyền Chỉ, mẹ Sư họ Hình, mộng thấy vào trong pháp vũ đưa tay mân mê các thứ đạo khí mà mang thai Sư. Bà bảo với cha Sư cho biết là mang thai con là bậc phi thường, đồng thời chỉ vào bụng và phát thệ sẽ cho đi xuất gia.
Sau khi hạ sanh, cha mẹ nuôi dưỡng Sư đến mười một tuổi, mới đến lễ bái ngài Bí Công là bậc thầy thông hiểu tông Duy Thức ở trong ấp, tôn xưng làm thầy, ngài Bí Công chỉ một lần trông thấy đã lấy làm lạ, ban đầu trao cho Sư ba bộ kinh Tịnh Danh, Nhân Vương và Pháp Hoa. Đến lúc xuống tóc, bỏ xứ Chu La, Sư theo ngài Bí Công đi đến Ngũ Đài lễ bái thánh địa, nơi Bồ-tát Văn-thù ứng tích. Năm đó, Sư thọ giới cụ túc. Ngay ngày Tức Từ, Sư bèn đến dưới tòa pháp sư Thanh Lãng ở Lăng Giao nghe giảng kinh Pháp Hoa. Sau, Sư đến pháp sư Đạo Nhã ở Tuy Dương Ôn lại nghiệp cũ, tìm học Duy Thức ở Bổn sư. Sư rất cố gắng tỏ rõ ý nghĩa tân pháp thủy, lại gần gũi Phó Tăng lục Thông tuệ. Nhân Minh cho đến Cực chương. Thường ngày tụng ba kinh, và gồm hai giới bổn. Sư giảng suốt, dạy dỗ đồ chúng đến hai mươi năm không lúc nào ngừng nghỉ.
Khoảng niên hiệu Quảng Thuận (951-954), thời Hậu Chu, Đại sư Quảng Trí với chức Tả Nhai
Tăng lục đề cử Sư lên Chu Cao Tổ (Thái Tổ;
Quách uy) ban tặng Sư y tía. Đến niên hiệu Càn Đức thứ 2 (964) thời Bắc Tống, ngài Đạo Thâm với chức Tả Nhai Tăng Lục lại đề cử Sư lên vua Thái Tổ, Thần Đức Hoàng Đế ban tặng Sư hiệu là "Nghĩa Minh". Bỗng nhiên, Sư hiện bệnh mà qua đời tại Bổn Viện, thọ năm mươi lăm tuổi, ba mươi sáu hạ lạp.
Trước lúc thị tịch, Sư bảo lấy bút viết kệ khuyên răn ở đời và tặng cùng những người bằng hữu thân quen. Sư độ được mười lăm vị đệ tử. Ngày 16 tháng 11 năm đó (961), Nam Nguyên ở Bốc Kinh dùng pháp trà-tỳ, sau khi lửa tắt, còn lại chiếc lưỡi không cháy, chứng đều ngợi khen giới đức của Sư. Môn nhân và các vị thiện tín cùng nhau xây tháp thờ. Vào niên hiệu Khai Bảo thứ 5 (972) thời Bắc Tống, trước kia cha Sư thường chuyên trì tụng Kinh Pháp Hoa, sau khi qua đời, hỏa táng cũng còn lại chiếc lưỡi không cháy. Hai cha con Sư đều có ứng nghiệm, thật là ít có! Đại sư Thanh Tuệ ở chùa Tướng Quốc soạn bài Minh ở tháp nầy.
Thích Kế Luân, họ Tào, người ở xứ Tấn Dương, thuở bé chí khí Sư đã mạnh mẽ, tâm nguyên bền chắc, quyết cầu xuất gia. Bổn sư trao cho bộ kinh Pháp Hoa, mỗi ngày tụng niệm ba tờ, bấy giờ trí tuệ đời trước của Sư hơn người.
Sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc, đến năm hai mươi một tuổi, Sư học thông nghĩa lý sâu mầu của kinh Pháp Hoa. Đối với hai bộ luận Duy Thức và Nhân Minh, chỉ một lần xem qua thì Sư có thể giảng được. Do đó mà Sư soạn sớ sao của hai bộ đô. Đến nay tại Hà Đông lưu hành rất thạnh. Tại ba giảng tòa, thường có hơn một trăm năm mươi đồ chúng theo Sư học đạo. Sư lại soạn bộ "Pháp Hoa Sao" ba quyển, là người luân tu đức từ nhẫn thành tánh, khuôn phép giới đức vững chắc, mọi người trông thấy đều sanh tâm kính phục. Vì họ Lưu cứ có Tịnh phân rất trọng đạo hạnh của Sư, đặt hiệu là Pháp Bảo Lục Hữu Nhai Tăng Sự, khoan mảnh tướng tham kiến nhau mà không dám chống trái.
Tháng 11 năm Kỷ Tỵ, Sư bị bệnh, tâm cầu miệng phát nguyện sanh lên tầng trời Tri Túc. Sau khi Sư thị tịch, đảnh đầu ấm nóng đến nửa ngày mới lạnh. Năm đó là niên hiệu Khai Bảo thứ 2 (969) thời Bắc Tống, Sư thọ năm mươi mốt tuổi. Sau khi trà-tỳ thâu nhặt có được Xá-lợi, mọi người xa gần xin thỉnh về cúng dường.
Thích Nghĩa Sơ, họ Bùi, tổ tiên Sư người xứ An Dương thuộc Tương Châu. Năm lên bảy tuổi, Sư đến tỉnh xét lâm Đàn Đại Đức Tu Tấn. Nhân đó làm thầy xuất gia, ngài Tu Tấn là bác của Sư. Còn chú của Sư là ngài Tỉnh Luân ở viện Hương Nghiêm.
Ngài Tu Tấn tụng kinh Pháp Hoa Phẩm Quán Thể Âm Bồ-tát Phổ môn đến mười muôn, lập nguyện lạy kinh Pháp Hoa mỗi chữ mỗi lạy đến trọn bộ. Ngài Tỉnh Luân là chúa tể Thanh Khâu, trong lúc ngồi thiền tụng chú Đại Bi Phật Đảnh trọn một ức biến.
Sư thì cầm búa chặt cây, chứa nhóm tư lương, đến đây Sư gần viên mãn, Sư chăm chỉ học không biếng lười, mẫn tuệ sớm thành. Yếu nghĩa tông Câu-xá. Sư thông suốt đến cùng. Bèn truyền giảng các bản sớ giải của ngài Viên Huy khoảng mười biến. Sau, Sư xem qua Đại Tạng kinh ba lượt, mới bùi ngùi than rằng các vị Nho sĩ dùng văn của Phật giáo mà phần nhiều giải sai. Giải đã sai như vậy, dụng sự lại lắm lầm lạc. Sư mới phỏng theo lục thiếp của Bạch Lạc Thiên Toản ghi chép nghĩa lý văn chương Phật giáo. Nhiều sự lắm phẩm, sắp theo từng loại, lập thành môn mục, tổng quát đại cương. Tính ra có đến năm mươi bộ, tùy sự nêu riêng bốn trăm bốn mươi môn. Từ đầu là Pháp Vương lợi kiến bộ cho đến cuối cùng là Sư tử thú loại bộ. Trong đó các thú vật loại xem xét bao gồm đầy đủ. Khiến đến lúc xếp bút hẳn không thiếu sót gì. Ròng rã suốt mười năm, Sư chăm chăm không biểu lộ mỏi mệt. Bắt đầu từ niên hiệu Khai Vận thứ 2 (945) đời Hậu Tấn, đến niên hiệu Hiển Đức thứ 1 (954) thời Hậu Chu thì hoàn tất công trình. Vua Thế Tông sắc phong cho Sư chức Phó sứ quán, ban tặng y tía, tôn xưng hiệu là "Minh Giáo Đại Sư".
Khoảng niên hiệu Khai Bảo (968-976) thời Bắc Tống, Sư thị tịch tại chùa Lung Hưng, thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi bốn hạ lạp. Ban đầu, Sư có ý định hễ được thì được bèn viết, bớt bên nhiều thêm cho bên ít, chứa nhóm nhiều năm tháng, trở thành biên lục. Bỗng nhiên tại cửa bổn viện, trên tảng đá xưa có hai chữ "Lục Thiếp" tự nhiên rõ ràng. Trông thấy bùa binh nầy mới biết là túc định, Sư tìm tòi cái đời nay quay vần cái đời xưa, viết chẳng dừng nghỉ. Bấy giờ, khu mật tướng quốc Vương Công Phúc vì Sư mà soạn lời tựa đặt ở đầu quyển, nay lưu hành khắp thế giới. Đầu tiên, Sư soạn thuật, tâm trí cũng nhọc mệt dừng nghỉ và hai mắt bị mù, các thầy thuốc không chữa trị được. Sư bèn gia tâm sám hối lỗi lầm, lo nghĩ sàng lược Giáo văn phiền toái, lượng xét mọi sai sót. Bền chặt như vậy, lại không lúc nghỉ. Đến năm sau thì đôi mắt sáng trở lại. Mọi người cho đó là sự chứng cảm.
Thích Ngộ Ân tự là Tu Kỷ, họ Lộ, người xứ Thường Thục, thuộc Cô Tô. Mẹ Sư họ Trương, mộng thấy có vị Phạm tăng vào trong nhà mà mang thai Sư. Đến lúc, Sư mới độ tuổi nhi đồng, hễ thấy bóng dáng các vị Sa-môn thì Sư đứng dậy đón rước. Năm mười ba tuổi, Sư nghe tụng kinh Di-đà, bèn cầu xin xuất gia. Bà con thân thuộc, nhiều người mến thương đã đôi ba phen cản trở. Sư bèn tìm đến chùa Hưng Phước ở Phá Sơn cầu học. Khoảng niên hiệu Trường Hưng (930-934) thời Hậu Đường, Sư thọ giới cụ túc, rồi Sư đến chùa Tuệ Tụ ở Côn Sơn học luật Nam Sơn.
Đầu niên hiệu Thiên Phước (936) thời Hậu Tấn, Sư học kinh luận với ngài Huề Lý, Hạo Đoan. Tánh Sư khéo cao hiểu thiên nhiên. Bấy giờ đồng bạn đua nhau bắt bẻ chống báng. Sau Sư vừa nghe thuyết ba Quán, sáu Tức của Thiên Thai, thầm hợp hiểu ý. Khoảng niên hiệu Khai Vận (944-947) thời Hậu Tấn, Sư đến viện Từ Quang ở Tiền Đường của ngài Chí Nhân, nghe giảng suốt hết năm, thông đạt Kinh Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Luận Chỉ Quán đều suốt thấu huyền vi. Sư bèn thuật lại, các đệ tử theo thứ lớp đứng ở góc cạnh.
Ngày mồng 1 tháng 8 năm Ung Hy thứ 3 (987) đời Bắc Tống, đang trong đêm, Sư thấy ánh sáng mầu trắng từ dưới giếng phát lên, sáng tắt chẳng thường. Ngài báo cùng môn nhân rằng: "Sanh báo của ta đến đây là cùng cực!" bèn tuyệt thực, không nói điều gì, chỉ nhất tâm niệm Phật. Tiếp đến Sư mộng thấy có vị Sa-môn ôm áo nạp bưng lò vàng đốt hương đi nhiễu quanh thất Sư ba vòng và tự nói "Tổ sư Quán Đảnh đến đây cùng đón rước, người nên đi vậy". Sau khi thức giấc, Sư gọi đệ tử đến thì vẫn còn nghe mùi hương lạ. Đến ngày 25 tháng 8 năm 987, Sư nói cho các đệ tử nghe về Chỉ Quy của Chỉ Quán và Nghĩa quán tâm. Đến giờ Thìn, Sư ngồi thẳng, xoay mặt về hướng Tây mà hóa, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi lăm hạ lạp.
Đêm đó, Chư Tăng trong viện, có các vị như Hưng Văn Yển v.v... đều nghe giữa hư không có tiếng ti trúc lảnh lót, mà không có tiếng trống, lại có nhiều linh chuông, càng lâu càng xa dần, thưa thớt đi về hướng Tây. Đến ngày mồng 9 tháng 9, y theo pháp trà-tỳ của Tây Vực, thâu nhặt được xálợi các mầu xanh trắng vô số viên tròn.
Lúc còn sống, thường ngày Sư chỉ ăn một bữa, chẳng lìa y bát, chẳng cất chứa của cải. Nằm thì nghiêng về hông bên phải, ngồi thì luôn kiết già. Các đệ tử cất nhà ở cũng giống như thiền thất ngày nay. Sư lập chế nghiêm mật, ngày riêng trông xem, đến lúc minh tướng xuất hiện mới cho tịnh nhân cúng thí cháo. Đã từng có người vào lúc chiều tối uống nước củ mài, tức thì Sư đuổi ra khỏi Hoàng Đường. Mỗi lúc Bồ-tát thì Sư rơi nước mắt lau không thôi. Bởi vì nghĩ đó là lời của Đại tập Mãn Châu vậy. Riêng đối với người, Ngài đem Di-đà tịnh nghiệp cứu giúp việc sanh tử mà chỉ dạy. Những người thọ giáo được vãng sanh thường có cảm ứng điềm lành. Hễ nói chuyện với người, bất luận là hiền hay ngu, Sư đều đem nhất thừa viên ý mà chỉ bày cho. Nếu có người sanh nghi quái chẳng hợp cơ duyên, thì Sư bảo là "cùng làm duyên trống độc". Sư chẳng ưa thích xen tạp giao du, chẳng thích nói chuyện thế tục. Tuy có những người giàu sang phú quý, Sư cũng chưa từng hỏi đến chỗ ở, huống gì là bước tới cửa nhà.
Nguyên trước kia Giáo Nghĩa của Tông Thiên Thai bị phá hủy vào thời Pháp nạn thuộc niên hiệu Hội Xương, nên văn nghĩa thiếu sót. Ngôn từ Đàm Diệu chìm mất chẳng hiện, Sư bèn tầm lục, giải thích đầu đuôi của thập diệu, nghiêm xét chỉ thú của Ngũ Trùng, giảng Đại Huyền Nghĩa văn cú Chỉ Quán hơn hai mươi lượt, giải hạnh gồm sáng tỏ, mục túc song vận, khiến Đại Chỉ Kinh Pháp Hoa được toàn mỹ lưu hành ở đời. Đó là do năng lực của Sư vậy! Lại buồn nỗi khoa tiết của người trước cùng với chỗ ghi của ngài Kinh Khê không được phù hợp nhau. Nhân đó ngài thuật Huyền Nghĩa văn Cú Chỉ Quán, Kim Quang Minh, Kim Tỳ luận khoa, tổng cộng có ba mươi lăm thiếp hiện lưu hành ở đời. Ôi! Trong sông Hán có cá vượt dòng mà nhảy lên ư? Ở Tiềm Vịnh có chỗ lấy! Ngài Ngộ Ân chẳng khoan dung thừa giới mà lưu xuất đệ tử có đến mười bảy vị, cầu hiểu mà hành theo hạnh của Sư vậy.
Thích Nghĩa Tịch, tự là Thường Chiếu, họ Hồ, người xứ Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu. Mẹ Sư lúc mang thai, bảo rằng: "không thích ăn các thứ máu thịt tanh nồng". Lúc sanh Sư, trên đầu quấn khăn mầu tía. Từ thuở bé, Sư xin cha mẹ quyết chí xuất gia. Lúc vào chùa Khai Nguyên, thầy Sư trao cho bộ kinh Pháp Hoa, vừa mới tròn một tháng mà Sư thấy suốt. Các bậc Lão túc trong chùa đều ngợi khen là ít có.
Sau khi thọ giới cụ túc, Sư tìm đến Cối Kê, học Nam Sơn luật sao. Khi đã thông nghĩa Luật tạng, Sư đến núi Thiên Thai, nghiên tầm Chỉ Quán, đều dễ hiểu như của Ngài Nhất Biến Chiếu ở Hà Nam. Nguyên trước đây, giáo tích của ngài Trí Giả, xa thì giặc An Sử tàn phá, gần thì bị pháp nạn Hội Xương thiêu hủy, làm cho rách nát lẫn lộn pho quyển. Người trao quyền không do đâu mà y cứ đầu mối học thuyết chánh đáng ấy. Sư bèn suy nghĩ tập hợp lại. Sư đến trong cổ tạng Kim Hoa, thì chỉ có được bản Kinh Tịnh Danh Sớ mà thôi. Sau Sư khẩn khoản báo cùng thiền sư Thiều giao phó người bằng phương tiện đi truyền đến nước Nhật Bổn, cầu thỉnh mới được đủ, những người nghe nhiều biết rộng. Người học tông này nắm giữ nửa hạt châu làm gia bảo. Ngài bèn đến chùa Quốc Thanh, Đạo Tràng Phật Lũng liên tiếp giảng dạy, khiến Hứa Vương dòng họ Tiền ở Lưỡng Chiết nhiều ngày thỉnh Sư khai giảng, riêng đặt tôn xưng là Tịnh Quang Đại sư và dâng cúng y. Ngài khước từ chẳng nhận vì chẳng xứng đáng.
Đến lúc ngài phát khởi tại đạo tràng Loa Khê, thì người học khắp nơi đua nhau tìm đến như mây nhóm. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980) thời Bắc Tống, triều đình điều suốt truy ngũ kinh nghiệp, Sư từ núi vào chùa Châu Trị, được an trí tại Đông Lâu của chùa, Lầu ở gần núi lớn. Ban đêm Sư mộng thấy cột chùa đổ ngã giữa đất, trong ý Sư cho đó là điềm xấu, bèn tự đi đến tăng phòng ở phía Tây. Đêm đó, mưa xuân rất lớn làm cho núi đổ lở, lầu sập, mọi người đều cho rằng: "Điều thấy trước của Sư là do đồng tu mách bảo. Nhân đó, Sư nhận lời mời của người ở ấp Hoàng Nham mà đi thuyền dọc theo sông, phóng sanh và giảng phẩm Lưu Thủy Trưởng giả. Đến cửa biển nơi tảng đá linh, đó là đạo tràng xưa kia ngài Trí Giả cư trú vào mùa đông, Ngài khuyên người sửa chùa, đắp họa tôn tượng, có nhiều người hợp duyên, lệnh trên khiến Cao Phẩm Vệ Thiện Khâm vào núi xây dựng lại chùa Thọ Xương. Các quan đều vâng lệnh thọ giới Bồ-tát.
Đầu niên hiệu Ung Hy (984) thời Bắc Tống, ở huyện Vĩnh An thỉnh Sư đến chùa Quang Minh để truyền giới. Tôn trượng trên chánh điện xưa cũ bị hủy nát, từ trong lòng tượng có được bài Phát Nguyện: "tức vào niên hiệu Hàm Thông thứ 6 (865) đời Tiền Đường, do Sa-môn Hy Kiểu thí giới, Ngài khuyên người thắp hương đắp họa tôn tượng, nguyện xả bỏ báo thân nầy làm thân người nam, đồng chân xuất gia, thường mặc áo vải thô sơ, truyền pháp làm lợi lạc chúng sanh v.v..." Mọi người trông thấy, trong ý đều cho là tiền thân của Sư. Đến niên hiệu Ung Hy thứ 4 (984), các ấp Lâm Hải, Tấn Vân, Vĩnh Khương, Đông Dương thỉnh Sư thí giới. Tháng 9 năm đó, Sư đến từ Thái Mạc, qua tháng 10, Sư bị bệnh tại phương trượng, trong viện nầy. Đến ngày mồng 4 tháng 11, Sư răn bảo môn nhân không cho khóc than. Nếu ai cúng tế, duyên theo lễ thế tục thì chẳng phải là đệ tử ta. Các đệ tử an táng trong phương trượng, xây một ngôi tháp nhỏ. Sư thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi hạ lạp. Đệ tử truyền pháp ở bốn phương thấy sao mà xả bỏ đến mấy trăm vị.
Lúc còn sống, Sư vốn giảng kinh Pháp Hoa và Huyền Nghĩa cả thảy có đến hai mươi pháp tòa. Còn các kinh Kim Quang Minh, Tịnh Danh, Phạm Võng v.v... các luận Chỉ Quán, Kim Tỳ, v.v... các pháp quán: Pháp Giới Hoàn nguyên, v.v... Thiền Nguyên, Thuyên Giải Vĩnh gia tập, mỗi thứ vài biến. Ngài soạn thuật Chỉ Quán Nghĩa Liệt, Pháp Hoa thập diệu, Bất Nhị Môn, Khoa Tiết vài quyển. Từ khi ngài Trí Giả thị tịch, trải qua sáu đời truyền pháp, đến sau ngài Trạm Nhiên, tất cả có đến hơn hai trăm năm. Sư thọ nhận ký thác thật là một gánh nặng. Nó như lửa nóng ngùn ngụt, giảng suốt mà không thấm ướt mồ hôi. Từng chẳng nghe lâu mà thấu hiểu Phật thừa, mỗi lúc đàm giảng thì như gõ vàng ngọc ứng chiêu hòa cùng Vũ Thương. Ở đó suốt chín tuần giảng nói diệu tướng lâu biết ngần nào! Sư còn trụ tại chùa A-Dục Vương ở Tứ Ninh, mộng thấy đi đến chùa Quốc Thanh, ở phương trên có tòa báu, cờ phướn trang nghiêm, đề chữ "Đài Văn-thù" có lan can song chắn ngăn cách, muốn vào nhưng không được. Bỗng chốc Sư thấy Bồ-tát Quán Thế Âm trong pháp đường từ từ đi ra, duỗi tay thấp xuống xa cùng đón rước. Trong chốc lát, cảm thấy đã cùng Bồ-tát Quán Thế Âm cùng hợp nhất chẳng phân, nhân đó thức giấc. Từ đó trở đi, Sư thường vui thích, giảng nói không cùng. Hoặc bảo: "Nhập Trí Phổ Môn, Nương Tâm Bi Lợi vật, trên hợp với Trí Giác chư Phật, chứng đạo vô thượng, dưới hợp với chúng sanh đều cùng một, khai mở thì muôn vàn sanh linh chung thành một pháp. Người thành tựu tâm như vậy, nếu chẳng là Quán Thế Âm, thì là ai ư? Vì thế nên giảng đàm, thí giới. Từ quê hương Âu Việt cho đến Tam Thiên Tử Chương, dân chúng phần nhiều trái lệ tục tình ưa chuộng săn bắn mà được, sự chỉ dạy của Sư, đều ăn quả dâu cách âm, Công đức nói pháp, đó gọi là Thiện Kiến. Do đó ở nơi phòng nhà đều thấy đề là "Trừng" (lắng trong), hoặc là "Bảo Tường", hoặc là "Nghĩa thông". Cho đến dân chúng ở Hồ Châu đã từng thọ giới pháp, đón rước chân tướng đến chùa Khai Nguyên ở Châu Trị để cúng tế, đều mộc mạc đơn sơ buồn khóc, trời vì thế mà biến đổi thảm sầu. Đó là do sự cảm kích, bởi tâm từ nhiếp hóa của Sư. Quan Tri Châu Trịnh Công Nguyên Quy làm thơ buồn thương đến điếu viếng.
Luận rằng:
Huyền mặc rũ văn, bậc Thánh cúi xét. Dòng Hà Lạc có cáo, pháp của Đồ thư làm trình. Nhà Vũ nhận bùa linh để làm kinh vĩ, vốn hơn sáu mươi chữ. Dạy văn bày rõ gọi là Hồng Phạm, mở bày được Đạo thường mà thư thả từ pháp của Đế vương, rõ ràng có thể thấy, các nhà mô phỏng chuộng lấy tông này. Trong Phật Đạo của ta có thể không như vậy ư?
Giáo pháp từ Tây vực truyền đến như văn của Quy mã vừa biện luận. Thanh giáo nhờ đó phát triển, như cái đẹp của Hạ Thương mà cất nhắc. Đến lúc nó được giảng dạy cùng sanh ra lẫn nhau, nhân đó mà chia ra khác dấu, mỗi tranh chuyên môn, bố thí xảo trí ấy chẳng lớn, đến chỗ huyền hợp của tuệ tâm. Có thích nghi chăng? Người có được chánh tín sẽ mở khai mắt chánh, người thấy được chánh đạo sẽ phụng sự chánh tu. Ngược lại nhân vốn có trước thì dùng sự lựa chọn làm chính, phàm là giáo điển năng thuyên tức dụ như Đồ thư, lý nghĩa sở thuyên dụ như dạy dỗ theo thứ lớp. Kinh dung hợp vĩ vào thì vĩ biến mà kinh còn, khiến danh ngôn phô bày từ nghĩa thể đưa đến xen tạp. Duy thức đều trút cho ngài Hộ pháp mà thành thì ở Tư Nam, am Bà-sa có ở các vị Sư khác nói đồng chữ Diễn. Bởi vì đều mê nơi sự thấy biết của mình nên chưa cực thành. Nói chánh và bất chánh khôi phục phơi bày, huyền lại bàn về huyền mà quật khởi. Đại để, Pháp vốn không danh tướng, lấy làm nói danh tướng, chẳng như sắc pháp ảnh chất dễ tầm, danh sắc xen nhau mừng sanh mê cạnh. Bởi vì lời còn, một ý, nghĩa chỉ một đường. Tùy tình mà lúc lấy bỏ chưa là thực đáng, tùy chỗ chuyển lý môn, bởi vượt qua vô văn, lại thêm giáo có buông giữ, cửa ý rõ lược. Người thảo tầm nếu chẳng là anh minh thì không thể ngộ. Người thừa lãnh chẳng là hạnh vị thì làm sao biết? Ở người mất sách thì dùng giáo mà chiết trung, nên trong luận dùng bốn thứ để nêu bày Lý. Lý thì khó ẩn. Bốn thứ đó là: quán Đãi, tác dụng, pháp nhĩ và chứng thành. Dùng đạo lý ấy, nghĩa há mê hoặc ư?
Thí như anh A xoay lưng về phía mọi người mà đi tới, có hai, ba người cùng hỏi nhau rằng: "Người đi đó là ai vậy?" Một người bảo là B, một người bảo là C, đó đều chưa đúng, trong khi đó có người biết, nói là "anh A". Người ấy xoay mặt lại thì đúng thật là anh A, chẳng phải là B hay C. Vì các người kia không biết, chỉ gọi một tiếng, nên có nhiều tên gọi, còn với người biết, chỉ gọi một tiếng, thì liền ứng thanh mà đến. Thân gần được tự thể chẳng trải qua các duyên khác, nên gọi là "tinh nghĩa không hai". Nhân nơi nghĩa mà sanh ra hiểu, hiểu thì hư thông. Trừ sự chấp tình, khiến sanh chánh giải, dứt sự mê chấp. Chấp tình đã dứt thì sở chấp liền hết. Đã sanh ra giải thì dứt chướng, hai lớp dứt nhiễm, y tha viên thành nên được hai thắng quả. Nếu không như vậy thì chấp nhận pháp tương tự, rơi vào đường ác, nhận lấy cái Không, kéo gỗ cong nơi rừng đông đúc, bồng bềnh dáng thuyền trong biển khổ.
Trong luận Du-già nói khế kinh có hai thể: một là văn, hai là nghĩa. Văn tức là sở y, nghĩa tức là năng y. Gọi chung cả hai thứ đó tức là "nhứt thiết sở tri cảnh giới" (tất cả cảnh giới bị biết). Phàm vì giáo điển năng hóa đã giải thích mà Lý Nghĩa sở thuyên khó ngộ. Nếu chẳng là bậc có tuệ căn từ trước, thì đâu thể hiểu được Kinh Tâm. Tuệ căn từ trước phải huân tu nhiều đời mới có thể sanh khởi. Kinh Tâm là ý của Đại Hùng, há dễ tìm cầu ư? Cách ngôn đó gọi là "già thấy việc lớn". Đức Phật đã trải qua ba A-tăng-kỳ, hoặc trong nhiều lời, pháp từ các thánh đồng tuyên dương. Đâu thể đem côn trùng mùa hạ cùng luận bàn qua hết, cá ở trong giếng cùng bàn về vùng biển của nó. Đó thật là không thể được. Hẳn phải gần gũi các Đức Phật, Bồ-tát, pháp sư Thiện Tuệ dạo chơi trong bốn thứ vô ngại biện, tám biện âm giảng nói lợi ích tự tha, chỉ như Bồ-tát Thiên Thân đem một lời của Đức Thế Tôn, Trung Đạo viên tông lập thành năm vị của các pháp. Như rồng mang các giọt nước mà nổi thành mưa, nhìn vào mầm mộng mà ban cấp. Lại cùng sai Bao làm Vĩ ở Xuân Thu, Tạc Độ làm Tư nơi Đại Địch. Đó đều là khéo sự thông biến, có công năng vò mài. Dùng lợi căn mà dạy độn căn, đem chánh kiến mà dẫn dắt tà kiến, đều gọi là "Ma-ha Bát-Đặc-già". Ở Tây Vực người lấp cỏ sửa nhà thì dùng lấy lông cừu, kẻ tài tuấn cháo sữa ở phương này lại thêm nước. Thành lông cừu thì dễ, hằng ngày trông thấy mà lưu tâm, khỏi được nước thì khó để truyền lại mà cách tay. Xưa kia, dùng người giảng để luận pháp soạn sớ mà tìm tông. Dùng danh của thành thật pháp số, phụ nghĩa đủ thiếu của Đại thừa. Trong đó có danh mục giải pháp là tùy sự thấy biết của người, chưa dung thông đầu mối của sáu thích, thì phải báo hóa người có tâm không tâm, hòa hợp những người sợ số, nghe huân diệt bất diệt v.v... có hơn trăm khoa, đều là rễ bàng của ba tạng bốn hàm, linh kiện của hai tông đại tiểu, chỗ chẳng quyết của các bậc tiên hiền là điều cùng nghi của triết nhân trong hiện tại, nghĩa là thiếu như chỗ biết mà thành chướng. Đến lúc ngài Huyền Trang từ Tây Vực mang bản Phạn truyền về Đông Độ (Trung Hoa) có đủ Tạng báu Du-Già, mở kho sâu xa Duy Thức. Đại Thừa đủ giết Tam-Ma Minh. Danh số đều là các nhà trước tác, lập phá định là phi lượng. Như nói đầm sâu rừng lớn thì sanh ra rồng rắn. Có nền tảng Đại thừa, là những bậc tài giỏi, chẳng duyên theo thói quen đời trước, thấy nhiều thì sanh hiểu biết. Đó gọi là Nghĩa Thiên, cho nên ngôi sao sáng bị mờ đó là Lý quật, cho nên Thiện Tài không cửa, đường đường hợp nghi Chu Bễ, chèn ép ứng trục Côn Lôn. Có kinh đều giảng, không sớ chẳng thành, quyền gởi tên trăm bổn, đề úp bốn bậc thánh. Lại nữa, ánh sáng, vật báu, lường ư, đo ư? Học chương cú rất dài, Lý Thích tiêm sao đúng? Thế Mậu Châu lâm xa biên Đồ Kỷ, Hoàn Phụ lượng độ cá Kình ở biển, còn tiếp nối Văn Vinh ở Ngọc Hoa, tìm tòi ba Luận đến cùng ở Viện Khương, nghiên cùng Phương Đẳng kết quy về Khải Cảnh. Ngài Tuệ Quán soạn tập Hoa Nghiêm mạng chương, giải tướng đưa vào liên hoàn. Vả lại không tỏ vẻ khó khăn, thấu suốt đến lầu đoạn dứt hạnh, nên lập công dễ. Ngài Pháp Tạng theo tánh hải mà đi, còn Trí Thăng từ Danh Lưu mà ra. Lớn lao thay! Thần thông do Nhất hạnh làm ra, thật là Pháp Vương Tăng Tướng, mới là Bồ-tát hình người. Trung Nhân, Lâm Phủ, Bí Tú, Sằn Chân đều tham dự phiên dịch in khắc kinh, cùng khai hoang mở đất, làm xán lạn nơi Tông Mật, tốt lành đổi Trạm Nhiên, Ngộ Đạt toàn tài, Thiết Công linh phạm, có thể cầu hoàn bị giúp người ư! Ngoài ra còn có các bậc thượng sĩ khéo léo ở phương khác, tự tại tốt lành cùng có sở trường, sở đoản, dẫn kinh do Phật nói, giải thích kinh là luận, kinh do luận mà hiển bày, luận nhờ sớ mà thông rành, sớ bao gồm tất cả nghĩa chương, nghĩa do từ các ngài thuật nói, huống gì dùng nghị lực cách xa, thấy còn chưa hết. Người đã đạt được thì sức thấy biết rộng khắp, biết mới được chu toàn. Mũi tên lúc bắn dễ thông, tìm xét mạch khó trúng. Nếu chẳng phải thân chứng thân nói được tự thể, thì chớ thân rong ruổi vọng cầu ở người, như nhiếp dị môn, phân tướng sai biệt khó biết. Cho nên trong Luận Đại Trí Độ nói: "sau khi ta nhập Niết-bàn, tất cả các tác phẩm đều thuộc về vào luận tạng, đều là các bậc đại sư chỉ đường về cho kẻ mờ mịt, thảy đều là tích công cầm nắm đuốc sáng, soi rọi nhà tối. Động giới đủ để thực hành, nhập vào định môn mà an. Bởi vì, buộc ràng đã cắt đứt thì trí tuệ thành công, đều từ biển sanh tử mà vượt đến bờ Niếtbàn". Đây mới có thể cùng nói là: "Từ nghe mà suy tư, từ suy tư mà tu hành chứng đại viên tịch". Từ đây trở đi, chưa biết chấp danh kẹt nghĩa, thử hỏi phải làm sao? Nên nói rằng: "Tinh nghĩa nhập thần để đạt đến dung!" Đã có chỗ dùng thì bỏ nơm lưới mà đi thẳng đến Phật địa. Đó là chỗ sâu sắc của Phật.
(chánh truyện có mười lăm vị, phụ có ba vị)
Thích Hoằng Nhẫn, họ Chu, gia đình ngụ ở Tầm Dương thuộc Hoài Tả, có thuyết nói là người xứ Hoàng Mai. Đến lúc Vương phụ Sư già nua, đều can danh bất lợi, mạnh đến Khâu Viên, mẹ Sư mới mang thai Sư qua tháng mà ánh sáng chiếu soi trong sân nhà suốt đêm như ngày.
Đến lúc Sư chào đời thì rực rỡ như ban đầu, có mùi hương lạ lót mình, cả nhà đều mừng rỡ. Khi Sư biết nói, lời lẽ khác hẳn bao trẻ thơ bình thường. Đến lúc đã thành đứa bé thì ngài dứt chuyện vui đùa, cha Sư mến thương, nhân đó chỉ bảo đọc sách, Vô Ký ứng trở ấy đã sớm un đúc, chân tâm sớm nẩy mầm, đến đó thành hiện thực. Một sáng sớm, ngài ra Minh Đồ, lần lựa chốc lát như có sự đợi chờ. Bấy giờ, thiền sư Đạo Tín đi đến gặp, bèn hỏi Sư là: "họ gì tên gì?" Ngài trả lời rõ ràng rành rẽ có chỗ kết quy, lý theo lời phân, tiếng tùy âm đáp, ngài Đạo Tín xem xét kỹ lưỡng rồi khen rằng: "Đây chẳng phải là đứa trẻ bình thường!" Xét cùng hình thể chỉ thiếu bảy tướng của bậc Đại Nhân, không bằng các Đức Phật. Nếu như được dự vào dòng pháp thì hai mươi năm sau, hẳn phải làm được việc Phật lớn lao, gánh vác trọng trách lớn". Rồi bảo Sư theo Ngài về nhà, nói rõ cho cha mẹ Sư biết nên khuyên Sư xuất gia. Cha mẹ Sư vui mừng nói: "Thiền sư là bật Long tượng trong nhà Phật pháp, sáng soi khắp cả gần xa, các bậc xuất gia tuấn tú đều nương tựa như mây nhóm, đứa bé này đâu có khả năng kham được dạy răn? Nếu rũ lòng thương tiếp nhận, chúng tôi cũng không tiếc nuối lưu giữ ở nhà". Lúc đó Sư mới bảy tuổi.
Khi đến Song Phong, Sư tập tu làm việc của người xuất gia, chẳng ngại khổ nhọc. Ban đêm thì Sư nghiêm chỉnh hình nghi mà ngồi, tự sống đạm bạc, đến khi thọ giới cụ túc, Sư càng gắng kiểm thúc tinh cần. Ngài Đạo Tín thường dùng yếu chỉ đốn tiệm, ngày tháng dạy răn, ngài nghe lời mà xét lý, xúc sự quên tình. Chứng Chánh nhận trần, khát mới uống nước như vậy. Ngài Đạo Tín biết Sư có thể chỉ dạy, nên truyền trao tất cả đạo mầu cho Sư. Lại bảo Sưu xây dựng một ngôi tháp đến lúc hoàn tất, bèn kín trao cho Sư pháp y để làm chất yếu, Sư biết sắp ăn được chất béo phì của núi tuyết, tạo tác đề hồ, ăn thọ kim cương của đáy biển, đậu nghiêng cây lớn, bạn lữ ôm áo nạp đến tiếp nối không dừng, người đi buôn chẳng vào trong hóa thành, cô gái nghèo mở lớn kho báu. Người vào được đường lối đó, gọi là pháp môn của Đông Sơn.
Ngày 23 tháng 10 đến niên hiệu Thượng Nguyên thứ 2 (675) đời vua Cao Tông, thuộc Tiền Đường. Ngài bảo chúng mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi. Ngày đó, mây sương che mờ, đá núi đổ vỡ. Các vị đệ tử như Thần Tú v.v... đón rước toàn thân Sư an táng ở sườn núi của Đông Sơn.
Khoảng đầu niên hiệu Hàm Hanh (670) thời Tiền Đường. Ngài bảo hai, ba vị thiền sinh đệ tử, mỗi vị hãy tự nói lên chí nguyện của mình. Ngài Thần Tú làm một bài kệ trước, ngài Tuệ Năng mới tiếp hòa theo. Ngài bèn trao truyền pháp phục cho ngài Tuệ Năng. Ngài Tuệ Năng thọ nhận y pháp rồi đến Hoằng Hóa ở Thiều Dương, còn ngài Thần Tú đến truyền pháp ở Lạc Hạ thuộc Kinh Môn. Hai Tông Nam Bắc bắt đầu từ đó. Thêm nữa, thiền sư Đạo Tín từng ở Cửu Giang, xa trông đến Song Phong, thấy mây tím như lọng rũ xuống, phía dưới có khí trắng mờ ngang sáu đường. Ngài Đạo Tín hỏi Sư rằng: "Ông biết đó là gì chăng?" Sư đáp: "Bên cạnh pháp của thầy sẽ lưu xuất ra một phái, cùng trải qua sáu đời". Ngài Đạo Tín im lặng không nói gì. Mãi đến lúc ngài Pháp Dung hoằng hóa ở núi Ngưu Đầu thuộc Kim Lăng, thì Di Khuyết Tôn mưu tính đến Tuệ Trung, gồm sáu vị hiệu là Ngưu Đầu Lục Tổ. Đây thì bốn tổ, pháp lại phân phái. Nhưng ngài Pháp Dung đối với ngài Hoằng Nhẫn thì thuộc phái lẻ, đâu thể xếp vào dòng chính ư? Khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời vua Huyền Tông, Thái tử Văn Học Diêm Khâu Quân làm bia tháp. Đến thời vua Đại Tông (763-780) ban thụy hiệu là "Đại Mãn Thiền Sư", tháp đề biển ngạch là "Pháp Vũ", Kỳ Xuân từ cuối đời Đường cắt thuộc Thiên Bá. Mãi đến năm Ất Hợi (975) thuộc niên hiệu Khai Bảo, thời Bắc Tống. Trước lúc Vương Sư chinh phục Giang Nam, nhục thân Sư Hoằng Nhẫn đổ lệ như những giọt máu, Tăng đồ chẳng suy lường là điềm ứng họ Lý (nhà Đường) mất nước. Từ đó đến nay, vào khoảng tháng 10 mỗi năm, dân chúng các ấp lân cận cùng nhau thiết trai húy kỵ, vẫn còn hưng thạnh. Gần đến ngày huý kỵ thì trời mưa, sương mù buồn thảm, chẳng vậy mà còn tuyết rơi lã chả. Đến ngày húy kỵ thì trời trở lại sáng trong quang đãng.
Thích Tuệ Năng họ Dư, người xứ Tân Hưng, thuộc Nam Hải. Sư vốn ở Phạm Dương. Cha của Sư Húy là Hành Thao. Vào niên hiệu Vũ Đức (618627) thời Tiền Đường, Sư dời đến ở cùng dân chúng tại Tân Châu, cuối cùng dẹp sở. Lược thuật về gia hệ của Sư, không rõ lánh nạn đất Lư đến dừng ở tại Đảo Di như thế nào. Đến niên hiệu Trinh Quán thứ 12; tức năm Mậu Tuất (638), Cha mẹ sanh ra Sư. Thuần Thục xa hoài, tánh trí tuệ biểu lộ. Tuy là phong tục Man Lão mà thấm nhiễm chẳng sâu. Ngụy hành Công hình bát lỗ khó lường. Khi Sư còn bé, cha đã qua đời, mẹ Sư ở vậy, trong nhà không có nghề nghiệp và chẳng còn vật gì. Ngài phải gánh củi bán nuôi sống qua ngày. Tình cờ nghe gần cạnh quán có tiếng tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, Sư lắng thần chăm chú nghe, dừng đợi cạnh bờ tường chẳng bỏ đi. Sư hỏi người ấy được thọ học kinh ấy từ đâu? Đáp: "Từ thiền sư Hoằng Nhẫn ở núi Phùng Mậu thuộc Hoàng Mai tại Kỳ Châu, khuyên hành trì pháp đó, và Ngài bảo sẽ được thấy tánh thành Phật". Sư nghe nói như thế, dường như kẻ khát được uống nước mát lạnh, bèn vội trở về, chuẩn bị chu toàn mọi vật cần thiết để cung phụng mẹ già.
Khoảng niên hiệu Hàm Hanh (670-674) thời
Tiền Đường, Sư đến Thiều Dương, gặp Lưu Chí Lược. Lưu Chí Lược có người cô xuất gia làm Ni tên là Vô Tận Tạng, thường đọc Kinh Niết-bàn, Sư nghe qua, liền vì Vô Tận Tạng mà biện biệt chiết trung nghĩa lý. Ni cô Vô Tận Tạng lấy làm lạ bởi Sư không biết chữ, Sư bảo rằng: "lý luận của các Đức Phật, nếu chấp lấy văn tự thì không phải ý của các Đức Phật". Ni cô vô cùng thán phục, tôn xưng Sư là Hành Giả. Và khuyến khích Sư ở đến trụ chùa Bảo Lâm để tu đạo. Ngài tự bảo chính mình là "vốn lập thệ nguyện tìm cầu thầy, mà lại tham ở chùa, ấy là đạo gì vậy? Khác gì bỏ đi rồi trở về nhà ư?" Ngày hôm sau, Sư liền đi về phía Tây huyện Lạc Xương, vào một động đá, nương tựa Thiền sư Trí Viễn, Sư cùng hầu tòa bàn thuận đạo mầu. Thiền sư Trí Viễn bảo Sư: "Hành giả thấu biết đến chỗ chẳng như phàm tình. Tôi không biết, tôi thật không biết vậy! Xin khuyên Hành giả đến Kỳ Xuân chỗ đức Ngũ Tổ để ấn chứng đi, tôi trọn ở dưới cơ phong cầu xin thỉnh giáo".
Sau đó không bao lâu, Sư đến chỗ Hoàng Mai, ngài Hoằng Nhẫn thấy Sư tướng mạo chẳng sáng sủa, mới thử hỏi Sư rằng: "Ông từ đâu đến?" Sư đáp: "Vốn từ Lãnh Nam đến xin tham lễ, chỉ cầu làm Phật"
-Ngài Hoằng Nhẫn bảo: "Người xứ Lãnh Nam không có Phật tánh". Sư thưa: "Người thì có nam bắc, chứ Phật tánh không có Nam bắc". Ngài Hoằng Nhẫn hỏi: "Ngươi làm việc gì để có công đức?"-Sư thưa: "Xin ra sức ôm đá giã gạo để cúng dường tăng chúng thôi". Từ đó ngài khổ nhọc với giếng nước cối xay, đốc thúc tịnh nhân mà đứng đầu. Sư thấu rõ "sanh tử kia và Niết-bàn thảy đều bình đẳng". Ngài Hoằng Nhẫn tuy quân dưỡng, nhưng tâm làm sao biết rõ, bèn bảo ngài Thần Tú đề xướng kệ trình bày sở đắc của mình. Sư liền hòa theo đó. Kệ viết lên tường vách, kiến giải rạch ròi, yết lệ chẳng đồng, cạn sạch cách biệt. Ngài Hoằng Nhẫn bèn phó thác pháp y cho Sư, bảo rằng: "Trước kia thầy ta lần lượt truyền trao, đâu cần luống nhọc như vậy! Than ôi người đời sau này, ai thọ nhận y pháp của ta thì mạng sống mong manh như chỉ tơ! Con nên biết đó".
Sư định trở về nguyên quán, ẩn cư tại các xứ Tứ Hội, Hoài Tập, dần dần bày lộ cơ phong dĩnh ngộ. Sư đến đất Nam Hải, chỗ pháp sư Ấn Tông giảng Kinh Niết-bàn, thính chúng nhóm tụ đông nhiều, Sư cùng luận bàn gió động hay phương động. Ngài Ấn Tông cạn lời mà thần phục. Mới vì Sư mà làm lễ xuống tóc tại chùa Pháp Tánh. Luật sư Trí Quang truyền giới cụ túc. Tại chỗ Sư Đăng đàn thọ giới trước kia vào thời Nam Tống, Tam Tạng pháp sư Cầu-Na-Bạt-Ma tự tay thiết lập. Ngài Cầu-Na-Bạt-Ma là bậc đã chứng đắc quả vị và đã huyền ký rằng: "Sau này tại đây sẽ có vị Bồtát Nhục Thân thọ giới". Lại, vào cuối đời Lương, Tam Tạng pháp sư Chân Đế tự tay trồng cây Bồđề ở bên cạnh đàn, và bảo với chúng tăng rằng: "một trăm hai mươi năm sau, sẽ có bậc đại sĩ ngồi tại đây nói pháp Đại Thừa, độ vô lượng chúng".
Đến nay thì Sư bèn tới chỗ ấy, quả thật ở dưới tàng cây, khai giảng pháp môn Đông Sơn, thảy đều phù hợp với các lời sấm ký trước kia. Vào khoảng niên hiệu Thượng Nguyên (674-676), thời Tiền Đường, trong lúc Sư đang giảng nói tông phong, bỗng nhiên ngài bùi ngùi chẳng vui, Đại chúng thưa hỏi: "Do đâu Sư có vẻ như thế?" Sư bảo: "Đổi dời không dứt, sanh diệt chẳng thường, thầy của ta nay đã quy tịch". Tin dữ đưa đến mà tin, Sư bèn dời đến trụ chùa Bảo Lâm. Bấy giờ, Quán Thứ Sử Vỉ Cứ thỉnh Sư ra ở chùa Đại Nam, Sư từ chối và đến khe Tào Hầu ở núi Song Phong. Như rồng lớn chợt bay lên, mưa móc đều ban rải, mọi vật từ đó đâm cành rễ mà được lợi ích. Khách Ngũ nạp đến chật cửa, bốn bộ chúng vây quanh dưới tòa. Bấy giờ Ngài tuyên dương bí kệ, hoặc nêu bày Khế kinh. Tất cả đều hun đúc hoặc nghe Tượng tạng, cùng lúc bước lên đều lấy được ngọc rắn, đều do Đường đi tắt thảy đều về Viên cực. Do đó, trong thiên hạ nói rằng: "Đạo thiền lấy Tào Khê làm thật". Đến lúc Hoàng đế nghe được, muôn dặm theo tâm. Sư nghĩ suy phơi bày mà đón rước. Muốn quy y cho vừa ý nguyện. Võ Thái Hậu Hiếu Hòa Hoàng đế đều ban thư ấn chiếu sắc mời Sư vào cung khuyết, do Thiền sư Thần Tú tấu trình đề cử. Tiếp theo lại sai bảo Trung Quan Tiết Giản đến mời, Sư đáp lại bằng cách viện cớ bệnh mà không đến. Như tâm ngài Tử Mâu dám quên phụng khuyết, chân ngài Tuệ Viễn chẳng bước qua Hổ Khê. Ngài hẳn lấy đó mà khước từ, chẳng phải khinh mạn Quân Vương. Nhà vua bèn ban tặng một chiếc áo nạp Cà-sa, một bình bát, một tràng hạt, dệt thành khăn kinh Chất Lục ráng hồng, khăn gấm hoa, bốn năm trăm xấp lụa sung vào dâng cúng dường v.v... Lại dâng hiến nhà cũ ở Tân Hưng sửa chùa Báo Ân.
Đến niên hiệu Thần Long thứ 3 (707), vua Trung Tông ban chiếu đến xứ Thiều Châu tu sửa lại điện Phật và Phương Trượng chỗ Sư ở, sắp xếp trang nghiêm và đổi lại biển ngạch là "Chùa Pháp Tuyền". Đến tháng 7 niên hiệu Diên Hòa thứ nhất (712), Sư bảo các đệ tử đến chùa Quốc Thanh xây dựng một ngôi tháp, đốc thúc làm cho mau hoàn tất. Qua ngày mồng 3 tháng 8 niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 (713), Sư thị hiện tướng bệnh, có mùi hương thơm khác lạ đầy phòng, vừng cầu vồng quay cùng sát đất. Thọ trai xong, Sư tắm gội, thay y phục, búng ngón tay không thôi. Hơi thở từ từ dịu lắng, toàn thân vắng lặng, mắt nhắm lại. Khi đó núi đá nghiêng đổ, nguồn sông cạn khô, chim muông hót lời buồn thương, khỉ vượn nát lòng gào réo. Hoặc có tiếng buồn than rằng: "Mắt sáng của thế gian đã nhắm, chúng nương tựa vào đâu?" Sư thọ bảy mươi sáu tuổi.
Tháng 11 năm đó, dời tòa Sư về nguồn ở Tào Khê. Đệ tử là ngài Thần Hội tợ như Nhan Hồi đối với Khổng Khâu, bao nhiêu lời khẩn thiết ủy thác của Sư đều từ ngài Thần Hội truyền nói lại. Ngài Thần Hội đến chùa Hà Trạch ở Lạc Dương, tôn kính dựng lập Chân Đường thờ Sư. Binh bộ thị lang Tống Đảnh soạn văn bia. Ngài Thần Hội tuần tự trình bày mạch phái Tông Phong, từ đức Như lai trở xuống các vị tổ sư ở Tây Vực. Ngoài ra, tại đất Trung Hoa (Chấn Đán) có sáu vị đệ tử, thảy đều đắp họa tôn tượng để phụng thờ. Thái Úy Phòng Quản Tạo "Lục Diệp Đồ Tự". Lại đem hình thể an tọa không rã của Sư như nhập thiền định, về sau có sơn phết thêm. Lại nữa, Sa-môn Phương Biện người đất Thục đắp họa một hình tượng nhỏ, hình dạng như ngày xưa. Sư từng nói rằng: "Sau khi ta thị tịch, có người thiện nam sẽ đến lấy chiếc đầu của ta, các ông chớ lấy làm lạ".
Có người nhớ lại lời đó của Sư nên dùng sợi xích quàng xiềng ngang cổ Sư. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 11 (723) quả thật có người quê ở Nhữ Châu bị sự mua chuộc của người xứ Tân-la ngầm đem dao đến cắt lấy đầu Sư với ý muốn mang về Hải Đông để cúng dường. Có người nghe tiếng sắt va chạm nên bắt giữ lại ở dưới tháp đó cất giấu chiếc Y Uất-Đa-La-tăng, có màu xanh đen tợ ngọc bích và áo lục kép, ở nhân gian chẳng có vật này, đã từng bị cướp trộm đi, song kẻ cướp mê lạc lối, trở lại cởi bỏ hoàn trả.
Khoảng niên hiệu Chí Đức (756-758), ngài Thần Hội sai đệ tử Tiến Bình đưa ra một chiếc răng sâu, Triều đạt danh trọng vọng, nếu Tống Chi hỏi thì nêu yết trường thiên do ngài soạn có như Trương Yên Công nói, gởi mười cân hương và thơ, Phụ Vũ Bình nhất chí, bài thơ chép:
"Đại sư bỏ thế gian
Pháp thân còn lưu lại
Nguyện gởi hương vô ngại
Tùy tâm đến Nam Hải".
Vũ Công nhờ môn nhân Hoài Nhượng đúc một quả chuông lớn, vì soạn bài minh khen ngợi. Tống Chi hỏi thư. Kế là, Quảng Châu Tiết Độ Tống Cảnh đến lễ bái tháp đó, hỏi đệ tử là Linh Thao về nghĩa vô sanh Pháp Nhẫn, Tống Công nghe pháp mà vui mừng, hướng về tháp cầu xin ứng hiện điềm lành. Bỗng chốc có gió nhẹ dần thổi, mùi hương lạ xoay vần quanh người, mưa rơi lả tả, chỉ khắp cùng khuôn viên chùa mà thôi, có rất nhiều điềm lạ, ở đây tránh sự rườm rà nên không ghi thêm.
Sau, vua Túc Tông (756-763) ban chiếu chỉ thỉnh mời ngài Linh Thao là đệ tử của Sư, nhưng ngài Linh Thao cáo bệnh không đến mà bảo ngài Minh Trượng mang bình bát và pháp y được trao truyền của Sư đến triều đình xong thỉnh trở về lại. Hoàng đế Hiến Tông (806-821) truy tặng Sư thụy hiệu là "Đại Giám", tháp đề biển ngạch là "Nguyên Hòa Chánh Chân". Mãi đến cuối đời Đường, dòng họ Lưu xưng chế phân khu, mỗi năm đến tiết
Thượng Nguyên đất hương chong đèn, đón rước Chân thân Sư vào thành cho muôn dân cầu phước. Sau khi nhà Tống (Bắc Tống) bình trị Nam Hải xong, kẻ cướp Chu Tư Quỳnh ở Thiều Châu làm phản, xấc xược, thiêu đốt chùa tháp, đến lúc lửa sắp cháy, lúc bình thường Nhục Thân ngài với hai người mạnh khỏe không sao cất nhắc nổi, song khi lửa tấp đến, chỉ hai vị tăng khiêng lấy mà tượng nhẹ như áo giáp lông tơ. Đến niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978) thời Bắc Tống, vua Thái Tổ ban sắc chiếu chỉ xây dựng lại tháp, đổi tên chùa là Nam Hoa.
Liên hệ thử bàn:
Do đâu mà Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rõ biết về sự ngộ đạo của một vị cư sĩ tại gia mà trao truyền y bát? Thông đáp: "Chỉ một lời nói biết về tâm là không còn ngờ vực gì nữa. Huống gì ghi nhận tâm xoay chuyển, như các ngón tay trên bàn tay".
Thiền sư Hoằng Nhẫn ban thí giáo pháp nhất vị, sao để cho người tại gia thọ y pháp, bình bát. Mà ngài Thần Tú không được nhận ư?-Thông đáp: "Pháp đó đâu có phân biệt kẻ tăng người tục, hễ ai đắc thì truyền, chư hầu mới phân ra phần khí, đồng tánh hay dị tánh khác nhau. Vì Tổ sư là thợ đúc nắn, khéo biện biệt tinh thô nên dùng y pháp trao làm niềm tin. Thí như có ba đại lực sĩ bắn Kiên Lạc-Xoa; một người tên là Ma-Kiện-Na bắn trúng mà không thủng, người thứ hai là Bát-La-TắcKiến-Đề bắn thủng mà không đạt, còn người thứ ba là Na-La-Diên bắn đạt mà lại xuyên các vật, chẳng phải Kiên-lạc-xoa có cứng có mềm mà chỉ bởi thế lực bắn khác nhau mà thôi. Ngài Tuệ Năng có thể ví là Na-La-Diên bắn mà được tưởng thưởng".
Y là vật làm tin, đến thời ngài Tuệ Năng không trao truyền nữa, không giống như sự trao truyền thiên hạ (ngôi vua) của thời Hạ Vũ ư? Thông đáp: "Ngài Hoằng Nhẫn bảo: người được trao truyền y pháp thì mạng sống tợ hồ sợi tơ treo lơ lửng. Ý của ngài Hoằng Nhẫn là như thế. Thêm nữa chúng hội bẩm thọ giáo pháp của Tổ thì có thừa, mà hạnh hành hóa thì chẳng có ai". Nên về sau đến dòng quân bộ mới nghiệm biết sự đoán trước của ngài Tuệ Năng. Sư không trao truyền y bát không mắc lỗi keo lận. Nên nói: "biết được người là bậc hiền trí. Ôi...!"
Thích Thần Tú, họ Lý, là người họ Úy, ở Đông Kinh hiện nay. Từ thuở thiếu thời, Sư xem cùng kinh sử, thông thạo học rộng. Thế rồi, Sư phát chí xuất trần xuống tóc thọ pháp. Sau Sư gặp được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chùa Đông Sơn, ở Song Phong, thuộc Kỳ Châu, lấy pháp ngồi thiền làm việc chính.
Sư mới ngợi khen rằng: "Đây thật là thầy của ta!" Sư bèn quyết tâm chịu khó bửa củi gánh nước, tự phục dịch mà cầu đạo.
Xưa kia, cuối đời Ngụy, có Sa-môn Đạt-ma từ Tây Trúc chứng đắc pháp mầu Thiền tông. Từ Đức Phật Thích-ca Thế tôn truyền thọ nối nhau, dùng y bát làm vật báu chứng tín. Ngài Đạt-ma theo thuyền bằng đường biển đến Trung Hoa. Vua Vũ Đế (502-550) thời Nam Lương đem việc Hữu vi mà hỏi, ngài Đạt-ma lại quý truyền thẳng cửa tâm yếu, nên cơ giáo trái nhau, như dùng nước chọi đá, ngài bèn lui về ở ẩn tại chùa Thiếu Lâm ở Trung Khâu thuộc đất Ngụy. Sau đó Sư thị tịch. Năm đó, sứ nhà Ngụy là Tống Vân gặp ngài Đạt-ma tại Thông Lãnh, trở về trình bày lại. Môn đồ đào mộ lên thì chỉ có chiếc y và giày mà thôi. Ngài Đạt-ma truyền trao pháp ấn cho ngài Tuệ Khả, ngài Tuệ Khả lại truyền cho ngài Tăng Xán, ngài Tăng Xán truyền cho ngài Đạo Tín, ngài Đạo Tín truyền cho ngài Hoằng Nhẫn. Ngài Hoằng nhẫn và ngài Đạo Tín đều trú tại chùa Đông Sơn, nên gọi là pháp đó là "Pháp Môn Đông Sơn".
Sư một lòng phụng thờ ngài Hoằng Nhẫn, ngài Hoằng Nhẫn thầm biết, vô cùng quý mến mà nói với mọi người rằng: "Ta độ người rất nhiều. Đến như Huyền Giải, Viên Chiếu, song không ai trước ngươi (Thần Tú)". Trong khoảng niên hiệu Thượng Nguyên (674-676) thời Tiền Đường, ngài Hoằng Nhẫn thị tịch. Sư mới dời đến ở núi Đương Dương, thuộc Giang Lăng, chư tăng bốn phương nghe đạo phong của Sư mà tìm đến. Từ đó danh tiếng đạo hạnh của Sư vang vọng thấm đượm khắp nơi. Thái Hậu Vũ Tắc Thiên (690-705) nghe tiếng mà thỉnh Sư đến chốn thành đô. Khiêng kiệu lên điện, đích thân Thái Hậu quỳ lễ. Tại nội đạo tràng thường luôn có đủ mọi thứ để cúng dường, thường hỏi đạo mầu. Thái Hậu ban sắc núi; chỗ trước kia ngài ở, đặt tên là chùa Độ Môn, để tán dương Đức Hạnh của Sư.
Bấy giờ các hàng vương công cho đến sĩ dân, từ triều đình đến thôn dã đua nhau đến thăm yết lễ bái. Vọng trần bái phục, hằng ngày có đến hàng muôn người. Quan Trung Thư Lệnh Trương
Thuyết thường thưa hỏi pháp, giữ lễ làm đệ tử. Sau khi trở về bảo với mọi người rằng: "Thiền sư (Thần Tú) thân cao tám thước, mày dày mắt đẹp, oai đức cao vợi, có khí phách của Vương Sương".
Ban đầu, Sư cùng bạn đồng học là Thiền sư Tuệ Năng, là bậc có đức hạnh ngang bằng, đồng được phát huy nâng đỡ, không riêng tự đối với đạo. Sư từng tấu trình với Thái Hậu Vũ Tắc Thiên thỉnh ngài Tuệ Năng đến chốn thành đô. Ngài Tuệ Năng khẩn khoản cố khước từ. Sư lại tự viết thư trình bày rõ ý của Hoàng Thái Hậu, nhưng không hề lay động được ý ngài Tuệ Năng. Ngài Tuệ Năng nói với sứ giả rằng: "Thân hình tôi không cao đẹp, người đất Bắc mà thấy sự thấp xấu của tôi sẽ chẳng kính trọng pháp. Hơn nữa, thầy tôi đã dự ghi tôi có duyên với xứ Lãnh Nam, nên tôi không thể làm trái, nên Sư chẳng hề đến Đại Dữu Lãnh cho đến lúc qua đời". Trong thiên hạ rải rác loan truyền đạo tình đó, bảo rằng: Tông Phong của Sư ở tại đất Bắc, còn Tông Phong của ngài Tuệ Năng là ở đất Nam". Danh từ "Nam Năng Bắc Tú" phát xuất từ đó.
Đến niên hiệu Thần Long thứ 2 (706) thời Tiền Đường, Sư thị tịch. Các hàng sĩ thứ cùng đến dự lễ tang. Triều đình ban tặng thụy hiệu là "Đại Thông Thiền Sư". Thêm nữa, tại Tương Vương Cựu để xây dựng chùa Báo Ân, Kỳ Vương Phạm Yên Quốc Công Trương Thuyết, Trưng Sĩ Lư Hồng Các đều soạn bia kính viếng. Đến thọ phục lễ tang Sư, các hàng danh sĩ đạt quan nhiều không xiết kể. Sư có các vị đệ tử như Phổ Tịch, Nghĩa Phước đều là những bậc mà từ triều đình cho đến thôn dã mọi người đều kính trọng, bởi chính do đạo hạnh của Tiên sư.
Liên hệ thử bàn:
Hễ ngọt đắng trái nhau thì khí vị khác nhau, ngọt chẳng hơn đắng thì thuần đắng thừa thời. Đắng chẳng hơn ngọt thì thuần ngọt dụng sự. Như vậy là thuốc trị bệnh. Thiên trọng phải bỏ vậy.
Ngày xưa, Tổ Sư Đạt-ma quy tịch mà lời vàng tuyệt diệu. Thiền sư Hoằng Nhẫn thị tịch mà đại nghĩa trái ngang. Ngài Thần Tú lau quét để rõ tâm, còn Tuệ Năng dùng "đều chẳng" mà xướng đạo. Mãi đến lúc lưu hóa ở phương Bắc vẫn còn siêng năng tập luyện. Từ đó phân ra một nhánh phương Nam, phục hưng thuyết Đốn Môn. Do đó, từ chùa Hà Trạch hành hóa đến Trung Hoa, dùng Đốn môn để bỏ sự phiền toái của tu luyện, chưa đổi dời Bàn Thạch thì e rút ngắn tượng vi, không phí xáo động tâm, đến cùng khiếu mỗi tự kết thân với chỗ thân, kết bạn cùng đồng đảng. Nên có đàn tấu của Lư Địch; Đồ Thiên của Thần Hội. Ấy bởi lỗi thực hành chữa trị chuyên ở nhất vị, nhờ đó thấy được ứng nghiệm của đắng ngọt trái nhau. Lý bệnh chưa hiệu quả, trái nhau mà trước thành, chỉ nên vì pháp mà quý trọng người, sao lại do nơi người mà hại pháp. Hai đệ tử tẩy rửa chân thầy, trừ dơ chưa kíp, tri kiến bẻ chân người, đó là thí dụ.
Thích Tuệ Minh, họ Trần, người ở xứ Bá Dương. Vốn là cháu của Trần Tuyên Đế, vì nước mất nên lui về vui với ruộng vườn.
Thuở thiếu thời, Sư xuất gia ở chùa Vĩnh Hương, mến đạo thiết tha, nên đến cầu pháp ở Song Phong. Dưới thời vua Cao Tông (650-684),
Sư nương tựa Pháp Tịch của Thiền sư Hoằng Nhẫn, dốc ý nghiên tầm. Song, ban đầu không được chúng ngộ, chỉ như chó của nhà có tang. Bỗng nhiên nghe ngài Hoằng Nhẫn thầm trao truyền y bát cho cư sĩ dòng họ Lư (Tuệ Năng), Sư liền dẫn vài mươi người cùng chung chí hướng dẫn theo dấu vết tìm đến tận Đại Dữu Lãnh, thì Sư thấy trước tiên, còn những người kia chưa thấy kịp. Tổ sư Tuệ Năng thấy đoàn người đến liền ném y Ca Sa trên tảng đá. Sư nói: "tôi vì pháp mà đến đây chứ không phải mong cầu y bát!" Lúc đó, ngài Tuệ Năng đứng trên đỉnh núi cao, một bề chỉ bảo, Sư thông suốt tất cả. Trong lúc đang buồn vui lẫn lộn, Sư hỏi ngài Tuệ Năng rằng: "Con nên đi đến phương nào?" Ngài Tuệ Năng dự ghi cho Sư rằng: "gặp Mông nên ở, gặp Viên có thể dừng!" Ngài bèn bái lạy mà đi và đổi lại tên mình, lấy lại tên nước là "Đạo Minh". Bước xuống chân núi, Sư gặp chư tăng bèn bảo: "Tôi leo lên tận đỉnh núi cao tìm kiếm nhưng không có dấu vết gì". Chư tăng bèn trở lui, chuyển sang hướng khác.
Có thuyết khác nói rằng: "Lúc ngài Tuệ Năng ném bỏ y bát trên tảng đá, bảo rằng "y bát này là bảo vật chứng tín, đâu thể dùng sức lực mà tranh giành được? Tùy ý ông lấy đi". Sư bèn đưa tay cầm lên nhưng chỉ như mang hàng chục cân đá không cất lên nổi, nên đành khoanh tay thả cờ. Lúc đó là niên hiệu Hàm Hanh thứ 4 (674). Vì trước kia, lúc
Sư chưa bỏ nhà xuất gia, đã từng làm gia vệ nên có hiệu là Tướng Quân. Nghi Xuân Thái Thú Tần Trác tâu vua thụy hiệu như vậy.
Thích Thần Hội, họ Cao, người ở xứ Tương Dương. Từ thuở bé, Sư học hành tánh thông minh, theo thầy được trao cho năm kinh, Sư thông suốt chỗ sâu kín. Kế đến, Sư tìm học Lão Trang Linh Phù, thảy đều tỏ rõ. Nhân đọc Hậu Hán Thư mà Ngài biết được thuyết của Phù-đồ (Đạo Phật). Do đó, đối với đạo Phật, Sư bèn hướng tâm đặt để. Sư mới bỏ y ý định thăng quan tiến chức, giã từ cha mẹ, đến cầu xuất gia với Pháp sư Hạo. Nguyên ở chùa Quốc Xương ở phủ nầy. Sư đọc tụng các kinh, chỗ dị đồng như lật bàn tay, vẹn toàn đại luật nghi, Sư chẳng tham giảng suốt. Nghe Thiền sư Tuệ Năng trú tại khe Tào Hầu ở Lãnh Biểu, thạnh hành mở mang đạo pháp, các hàng học giả đua nhau tìm đến, Sư bèn học theo Đồng tử Thiện Tài lên đường tham vấn phương Nam, xé xiêm y lót chân, đường dài ngàn dặm mà như chỉ trong vài bước. Đến lúc gặp gỡ, ngài Tuệ Năng hỏi: "Ông từ đâu đến?" Sư đáp: "không từ đâu đến". Ngài Tuệ Năng hỏi: "Ông chẳng về ư?" Ngài đáp: "không có chỗ nào về". Ngài Tuệ Năng bảo: "Ông quá mênh mông". Sư thưa: "thân duyên ở đường". Ngài Tuệ Năng bảo: "Do tự chưa đến". Sư đáp: "Nay đã được đến, hãy không dính mắc". Ngài ở tại Tào Khê được vài năm, sau đó tham tầm các danh tích.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 8 (720), Sư được vua ban chiếu về trụ chùa Long Hưng ở Nam Dương. Rồi tiếp tục đi đến Lạc Dương, hành hóa thiền pháp, danh tiếng đạo hạnh ngày một sáng ngời. Trước kia, khoảng giữa của hai kinh đều do Tông Phong của ngài Thần Tú hoằng hóa. Như trứng cá không chìm giúp nuôi rồng ở ao vậy. Từ đó Sư khơi sáng được nguồn tâm từ Tông Phong của Lục Tổ Tuệ Năng, dẹp bỏ Đạo tiệm tu. Do đó, hai Tông nam bắc mới bắt đầu phân rẽ. Đến như pháp môn của ngài Phổ Tịch về sau cũng trống rỗng.
Vào niên hiệu Thiên Bảo (742-756), có ngự sử Lư Dịch đỡ đầu hỗ trợ cho ngài Phổ Tịch, vu khống gièm tấu cho rằng "Sư (Thần Hội) nhóm họp đồ chúng, nghi là có mầm mống bất lợi". Vua Huyền Tông mời Sư về kinh. Lúc giá đến Chiếu Ứng, thang đối đáp, lời lẽ lý luận thảy đều thích ý, nhà vua bèn ban sắc cho Sư dời đến quận Quân, hai năm sau ban sắc dời đến trụ viện Bát-nhã chùa Khai Nguyên ở Kinh Châu. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 14 (756), An Lộc Sơn ở Phạm Dương, cất binh nội hướng, hai kinh ly loạn, giá đến Ba Thục. Phó Nguyên Soái Quách Tử Nghi dẫn binh bình trị hết, nhưng ở Phi Vãn mà Cầu xin, dùng Quyền kế của Hữu bộc Xạ Bùi Miện, các Đại phủ mỗi đều thiết lập giới đàn độ tăng, thâu thuế chư tăng gọi là Tiền Hương Hỏa. Nhóm họp là để giúp việc cần của Quân Binh. Đầu tiên, Lạc Đô bị vây hãm, Sư vượt tại thảo giới (= cỏ rác). Bấy giờ, Lư Dịch bị giặc giết chết, mọi người cùng bàn tính mời Sư làm chư đàn độ. Khi đó, khắp các chùa viện cung quán đều bị đốt phá, mới quyền biến dựng lập một phòng viện bằng cỏ lá, mà bên trong thiết trí Đàn vuông với các thứ của cải gấm lụa có được, thảy đều chi phí cho quân lính. Hoàng tử Đại Tông Quách Tử Nghi thâu lấy lại được hai kinh, cũng nhờ Sư viện trợ giúp đỡ hết sức. Hoàng Đế Túc Tông (756-763), mời Sư vào nội cung cúng dường. Ban sắc cho làm Đại Tượng, đều công ngang sức, vì Sư mà xây dựng thiền viện trong chùa Hà Trạch. Sư trụ tại đó mở mang phát huy Tông Phong của Lục Tổ Tuệ Năng, khiến cho pháp tịch nơi tông môn ngài Thần Tú ngày một hiu hắt.
Đến niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất (760), Sư phó chúc và từ biệt môn nhân đệ tử, đứng dậy khỏi tòa hướng lên hư không vọng bái, rồi trở về phương trượng. Đêm đó ngài thị tịch, thọ chín mươi ba tuổi. Hôm đó nhằm ngày mồng 3 tháng 5, dời tháp về chùa Bảo Ứng ở Lạc Dương. Vua Túc Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Chân Tông Đại Sư", tháp hiệu là "Bát-nhã".
Liên hệ thử bàn:
Tu theo giáo điển mà chẳng đổi phong tục, sửa đổi chính sách đó mà chẳng thay đôi thói quen đó. Quý ở chỗ dần dần. Ngài Thần Hội từ phương Nam đến đất Bắc, hành hóa pháp yếu của Tào Khê. Tại Lạc Trung càng thạnh như thời ngài Tuệ Năng tự chẳng khác. Ngoại hộ đã thành đó là tốt. Huống gì bên cạnh không người đủ sức xoay chuyển, chỉ lắm hẹp hòi, muốn chẳng đuổi đi đó có được chăng?
Có người bảo rằng: "lỗi đó chẳng nhiều sao vội vàng thế?" Thông đáp: "kỵ là lúc Phạm, tội chẳng tại lớn. Mất chỗ thích đáng, lỗi chẳng ở sâu. Sau đó, xét xem sự vội vàng đó mới biết được thời sự. Cho nên, Đức Phật là bậc trải qua muôn kiếp học hóa hành, biết hóa hành là khó, không để cho vì mình mà tổn hại đến giáo pháp. Phải thận trọng điều đó!
Thích Đàm Thôi họ Cố, người ở Quận Ngô. Dòng họ nổi tiếng ở nước Triệu, Sư lại càng ngời sáng. Thừa tướng có công giúp mạng, thượng thư được khen mạnh cứu. Áo mão đảnh trụ cao như Thái Nhạc Đại Phong, Lệnh Vấn huy du, Giang Hán làm giềng mối của nước Nam. Tinh Tượng Giáng tinh linh, chỉ so với Phước đức. Đức Trùm Thai giáo, Hương hợp điềm mộng, Huyền Khai ứng điềm của Thánh Thượng, Thần Bảo chứa khí của Hà Phần. Ngài đặc biệt bẩm thọ chuẩn mực khác thường nên vừa mới chào đời mà chẳng như kẻ phàm. Ngay ngày lót tả mà trẻ nít đến cầu, đang lúc đeo kẹp mà quên thân vì đạo. Sư hiền hòa mẫn tuệ thuận tố, ôn dung cung kính mà được sáng. Thần khí sớm soi, phong thái thanh tao dần phát, bèn khởi chí thoát trần, bày tâm ngoài vật. Kinh vàng bí tạng ngày tụng đến muôn lời, chẳng quá một năm mà kinh tạng thông làu. Cho nên, lúc ve già, Sư luôn nghĩ đến tông tượng. Đầu tiên, Sư đến phụng thờ Đại sư Pháp Dung ở Ngưu Đầu. Ngài Pháp Dung cẩn ý hoài hùng, như Đạt-ma đến Đông Độ. Cột báu Phạm đồng chống bờ biển lớn, lương mục cho là thượng căn, mới chỉ dạy, bảo rằng: "thanh sắc là chẩm độc của vô sanh. Thọ tưởng chính là cạm bẫy của chí nhân. Càng xa thì lắm bùn, con chẳng mong muốn ư?" Sư im lặng suy xét. Trực Bí riêng ăn thức ăn cam lồ thượng vị, uống nước nho, như chim cánh vàng chẳng ăn vật khác. Trời Đế-thích chẳng chung sống cùng loài quỷ, nương được ẩn vết tại Chung Sơn, dứt thì thói quen rò rỉ, dưỡng định Kim Cương, hướng đến ngôi vị Đại Năng, Sa-môn không rừng nhiều năm trải qua lắm nơi chốn.
Bấy giờ, tại Hoài Nam, người đứng đầu dẫn dắt là Thiền sư giác ở Quảng Lăng. Bậc danh đức tại Giang Tả là Pháp sư Như ở Kiến Nghiệp. Sư đều chống tích tìm đến, hàng tâm nghĩa thể, nắm giữ ngọc báu, ôm hoài vật báu, hư đi thật về. Hoàng Thái Hậu Vũ Tắc Thiên mỗi lúc lâm triều kính hành Phật sự, nêu cao đạo nghiệp, khắp khuyên ân cần bằng chiếu thư. Bấy giờ, Pháp sư Ước ở Thê Hà là bậc tài giỏi trong cửa Phật, đích thân đem sự thuần hậu khuyên can triều đình. Thái Hậu Vũ Tắc Thiên xem chiếu, Hoàng Minh sợ chưa phải thế. Sư bảo: "Kỳ Bá khước từ làm thầy của Đế Thuấn, Can Mộc tạ ân ban của Văn Hầu, Huyền Xướng dùng thiện luận mà chống báng Tống Chúa, Tuệ Viễn chẳng xuống núi mà ngạo với Tề Hậu, những bậc đó là người nào ư?" Do đó, Sư trốn đến Bắc Phụ, vượt qua Đông Cương, Khảo Bàn, Vân Minh.
Sau, Sư đến dừng trụ tại hõm đất của chùa Trúc Lâm, sửa sang mái nhà, gìn giữ bình bát mà viện cớ là già. Thế nhưng, Sư vẫn tiếp nối nêu cao cờ hồng của các Thánh, kế thừa việc đáng làm của Tiền hiền, giúp sáng Hoàng Phạm, bảo an trời người. Bỗng nhiên, ngài an tường nhập định suốt bảy ngày đêm rồi thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Lúc đó là ngày mồng 6 tháng 2 năm Thiên Thọ thứ 3 (692) dưới thời Vũ Tắc Thiên. Ngày hôm sau, y theo phép hỏa táng của Tây Vực, thâu nhặt di cốt và tro để xây tháp thờ.
Các hàng sĩ thứ dân chúng thảy đều xót thương khóc than. Sư có các đệ tử như ngài Tăng Cảm, Tăng Huân v.v... khắc bia đá phụng thờ, đủ lễ đối với thầy. Quan Chánh Nghĩa đại phu sứ trì tiết, Nhuận Châu thứ sử Nhữ Nam quạn Thăng, hưởng gió xa tưởng vui mà lâu đến, khen đức chuộng hiền, tán thành khuyết mỹ.
Thích Pháp Trì, họ Trương, người ở xứ Giang Ninh, thuộc Nhuận Châu. Nghi mạo ung túc, dáng thể nhã nhuần. Từ thuở bé đã bỏ tục, lớn lên phụng thờ minh sư, thiên cơ phát triển từ trong, hiểu biết lắng khắp phía ngoài.
Năm mười ba tuổi, Sư nghe danh Đại sư Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai, nên đặc biệt đến tham yết, mong được chỉ bày pháp yếu, ngài lãnh ngộ được đạo mầu. Sau trở về núi, lại phụng thờ Thiền sư Phương, và tỏ ngộ được Tông cực. Thiền sư Phương bảo vào thất ngài, truyền đèn nối sáng, nối tiếp sơn môn, hoằng tuyên đạo hóa. Thiền sư Phương vừa ra khỏi núi. Các hàng học chúng đua ùn kéo đến nương tựa thưa hỏi tâm yếu. Danh tiếng Sư vang xa, khắp trong nước nhà thảy đều nghe biết. Chỉ trong vài năm, bốn bộ cúng kính mến tựa nương.
Lúc ngài Hoằng Nhẫn sắp thị tịch, bảo đệ tử là Huyền Trách rằng: "sau này có mười vị có khả năng mở mang đạo pháp của ta, mà trong đó, Pháp Trì ở Kim Lăng là một". Sư rõ biết thiền tông ở hai xứ nhiều đời suy trì. Sau, Sư trao truyền pháp nhãn cho đệ tử là ngài Trí Oai. Đến niên hiệu Trường An thứ 2 (702) ngày mồng 5 tháng 9, Sư thị tịch tại chùa Diên Tộ. Sư di chúc lại "nên để nhục thể Sư dưới gốc thông cung cấp cho các loài cầm thú. Khiến con vật ăn máu thịt đều phát tâm Bồ-đề.
Ngày đó, giữa hư không có mấy cái phướn thần từ phía Tây bay lại, nhiễu quanh núi mấy vòng, mọi người đều thấy trước tiên ở viện cũ tối sầm, rừng trúc đều biến thành mầu trắng, Sư thọ sáu mươi tám tuổi.
Thích Đạo Lượng, họ Chu, người ở Việt Châu. Cha mất, trước kia ông làm Thứ sử quận Cối Kê.
Năm tám tuổi Sư xuất gia, học thông minh. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư học Tam Luận ở Hà Trung, lại giảng kinh Niết-bàn. Ngài tìm vào hang sâu, nạp y che thân, chỉ ăn rau trái nuôi giữ mạng sống, chẳng giao du với thế tục, chỉ chuyên giữ Đồng Chân.
Niên hiệu Thần Long thứ 1 (705) Hiếu Hòa Hoàng đế (= vua Trung Tông) ban chiếu mời Sư với mười vị đồng pháp tịch tông sư vào đại nội Trường Lạc, kiết hạ an cư. Năm đó, Hoàng đế thọ giới Bồ-tát.
Duệ Tông cùng các phi hậu dâng cúng gấm quý lạ, chăn giạ lót giường. Năm sau, (706) vua Trung Tông lại ban chiếu mời Sư đến Tây Viên để hỏi đạo. Cả triều đình đều khâm phục quý kính, Đại đô đốc Lý Hiếu Dật, Công bộ thượng thư Trương Tích, Quốc tử giám Chu Nghiệp Thôi Dung, Bí thư giám hạ Tri Chương, Thứ sử Mục châu là Khương Tiên đồng tâm kính mộ thưa hỏi thiền tâm, phần nhiều kết đạo nghĩa thầy trò, hoặc truyền hương hỏa.
Sư thị tịch lúc tám mươi hai tuổi. Các vị đệ tử như ngài Tuệ Viễn v.v... xây tháp cúng dường, Vạn Tề Dung soạn bài minh ghi trên tháp.
Thích Đạo Tuấn, người xứ Giang Lăng, trụ tại tịnh xá Bích Giản, ở Chi Giang. Tu pháp môn Vô sanh của Đông Sơn, tức pháp môn của hai Tổ sư Đạo Tín, và Hoằng Nhẫn hoằng hóa. Ngài siêng năng tinh khiết khổ hạnh, chân chẳng bước ra khỏi chùa suốt hơn bốn mươi năm. Thất gần người xa, chẳng dám thưa hỏi. Sư chỉ có việc im lặng, như vậy mà danh tiếng vang dội khắp trong nước. Suốt hai triều vua, Vũ Tắc Thiên (685-705) và Trung Tông (705-710) sùng kính Sư là vị tăng cao hạnh. Sau, Sư cùng các ngài Hằng Cảnh, Ứng Chiếu vào nội cung thọ cúng dường. Khoảng niên hiệu Cảnh Long (707-710), Sư xin trở về quê cũ, vua Trung Tông ban tặng thơ ngự chế và tráng cảnh đồng trở về Chi Giang. Sư qua đời bổn tự.
Thích Huyền Giác tự là Minh Đạo, họ Đái, là cháu chín đời của Yên Công và là năm đời của Tổ Khản cuối thời Hán. Húy là Liệt, qua sông mới là người Vĩnh Gia.
Sư xuất gia từ thuở nhỏ, nguồn tâm vốn sạch, trí ấn toàn năng, lường chẳng thể nghĩ, hiểu nghĩa sâu xa. Ngã và vô ngã, thường hằng vốn biết. Không và bất không, đầy đủ đều thấy. Đã lìa bốn bệnh mà cũng mặc ba y. Dùng nước đức hạnh tắm gội thân mình, do đó mà thanh tịnh, đem thuốc tốt để trị mắt, nhờ vậy mà ngời sáng. Anh ruột Sư tức là pháp sư Tuyên cũng là bậc danh tăng, và còn hai người con đồng dự vào hàng ngũ xuất gia.
Sư vốn trụ tại chùa Long Hưng. Cả nhà quy tín, siêng năng tinh tấn, định căn chắc bền, chẳng hể dời đổi. Cây nghi bỗng nhiên tự gãy đổ, ngã tướng chẳng dơ nhiễm khách trần. Thấy bên cạnh chùa đó có riêng một cảnh đẹp, Sư bèn xuống dưới núi, tự dựng am thiền, biển xanh rung động trước ngực, núi biếc khoanh vòng sau lưng. Bồng lai tiên khách năm tháng tới lui. Hoa che mây khói sớm tối xen lẫn. Bèn như công đức Phật bảo xông lên, chuông thần vọng lại, nhà báu hóa ra, Sư ở trong đó. Mặc chẳng dùng tơ vải, ăn chẳng bởi cấy cày. Há đó là Trang Tử dùng vải bố làm xiêm y, tự có A-nan biến thành cam lồ cơm ăn. Sư lấy riêng học cô lậu, ba người ở trong đó có thầy, cùng với Thiền sư Sách ở Đông Dương gánh vác tùy duyên du phương hỏi đạo, đến bái yết Thiền sư Tuệ Năng ở Thiều Dương mà chứng được yếu chỉ.
Có thuyết cho rằng: "Sư chống tích nhiễu quanh am đối đáp". Nói ở Biệt Lục. Còn như cửa nhà của ngài Thần Tú, ngài từ xa đến hỏi pháp, nhưng cuối cùng đắc tâm yếu tại Tào Khê, khi đã quyết trạch điều nghi, ngài Tuệ Năng còn lưu giữ lại một đêm, nên gọi ngài là "Nhất Túc Giác", vẫn một nửa Biến Thanh. Đến niên hiệu Tiên Thiên thứ 2 (713), ngày 17 tháng 10 Sư đang ngồi nhập định tại phòng riêng ở chùa Long Hưng an nhiên bất động, tăng chúng thảy đều buồn khóc. Đến ngày 13 tháng 11 năm đó (703) an táng Sư tại phía Nam của Tây Sơn, Sư thọ bốn mươi chín tuổi.
Trước khi thị tịch, Sư cấm túc tại đảnh núi Tây, nhìn về phía chùa. Chỗ ở của Sư, bùi ngùi mà than rằng: "người vật đông nhiều, kiệu hoa um tùm. Sao dùng nó làm gì?" Đệ tử Sư là Hưng người xứ Ngô Hưng, sư Tuyên người nước Tân-la, và vài người đồng nghe mà đều chẳng lường biết. Bỗng dưng Sư kể lại rằng: "xưa kia, có một vị Thiền sư dẫn các đệ tử lần lượt du phương thưởng ngoạn. Từ xa đứng nhìn một ngọn núi mà than rằng: "người vật đâu nhiều thế?" Các vị đệ tử cũng không ai biết gì. Sau đó không bao lâu thì vị Thiền sư đó thị tịch. An táng nơi vùng đất hướng về.
Từ Tây Sơn đến chùa cách hơn dặm đường, đưa tiễn an táng đông nhiều, người vật dao động, sự cảm động đến nỗi như thế. Thêm nữa, trước khi Sư thị tịch, có loài nhạn đông hơn cả ngàn con bay đến ở phía Tây chùa. Người hầu nói rằng: "ấy từ đâu lại?" Giữa không trung có tiếng nói rằng: "là chỗ phần mộ ngài, nên từ biển bay ra".
Sư có các đệ tử như ngài Tuệ Tháo, Tuệ Đặc, Từ Đẳng, Huyền Tịch, đều là những vị truyền pháp của Sư ở thời bấy giờ rất được suy tôn. Sau, Lý Bắc Hải ung làm Quan thú ở Hoạt Châu, bèn bày hành lục của Sư làm văn bia, gọi là Thần Đạo. Sư xướng đạo đặc biệt nói rõ tu chứng ngộ nhập. Quan thứ sử Khánh Châu là Ngụy Tĩnh Đô Biên tập lại, gọi là "Vĩnh Gia Tập".
Trước kia, Sư và Lãng Công ở Tả Khê là bạn đạo, Lãng Công đưa thư mời Sư đến ở núi đó. Do vậy, Sư nghĩ rằng Lãng Công bị vướng mắc bởi núi, buộc tình nơi giảng, Sư bèn viết thư đáp lại kích động khuyên tấn, ngôn từ mềm mại nghĩa lý rõ ràng, khiến núi ấy suốt đời như một, động tĩnh dùng lẫn nhau, ý thức thú nhập thầm hiểu ở đây, người thấu đạt đến đó. Khi Sư qua đời, vua ban sắc tặng Sư thụy hiệu là "Vô tướng", tháp tên là "Tịnh Quang".
Thích Trí Oai, họ Trần, người ở Giang Ninh. Ở gần Thanh Sơn, địa bàn khí tốt, khéo hợp điềm lành có trước, Duy nhạc giáng thần. Lúc còn bé thơ mà khí phách đã khác với sự nhận biết của mọi người. Sư đến các chỗ vui đùa mà không hề nhiễm tục, tánh ghét trang sức, khác với mọi người.
Tự nhiên một ngày nọ, Sư bỏ nhà đi, cha mẹ chẳng biết đi đâu, mới đến khắp các chùa tìm hỏi, thì ra Sư đã đến nương tựa Pháp sư Thống ở chùa Thiên Bảo, tụng đọc kinh điển Đại thừa, mới vài trăm trang mà sự thấu suốt vượt hẳn người bình thường, cả chúng đều thán phục. Năm hai mươi tuổi, Sư đến Ngộ Ân xuống tóc, sau đó đến chùa U Nham, nhân đây Sư theo pháp sư Pháp Trì, cầu học thiền pháp, thấu đạt diệu lý sâu mầu tiếp nối đạo nghiệp. Đã đạt được minh châu trong búi tóc, Sư điềm nhiên nhàn phóng, hình dung ôn nhuận, mặt như trăng đầy, lời nói thanh nhã, tuệ đức thơm lừng, vang động một thời mà tiếng tăm vang khắp xa gần. Những vị tham cầu định học ở Giang Tả thường tìm đến, mà trong đó ngộ được nguồn tâm chính là Thiền sư Tuệ Tư. Ngài bèn bảo kế nghiệp sơn môn, truyền trì đạo hóa, còn ngài tự ra trú chùa Diên Tộ, nói thuyết lợi người, ban bố nhiêu ích.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 10 (722) ngày mồng 8 tháng 10, Sư thị tịch tại đó, có di chúc lại "nên đem nhục thể vào để trong rừng bố thí cho các loài cầm thú". Các đệ tử như ngài Huyền Đỉnh v.v... theo lời chỉ dạy mà làm. Sư thọ bảy mươi bảy tuổi.
Có một thời gian, ban đêm Sư hành hạnh đầuđà cho đến gần sáng, có ba con hổ gặp Sư, Sư liền cắt ngang giữa đường đi qua, không tỏ vẻ khiếp sợ. Hổ bèn theo Sư đi đến cửa núi, nhìn quanh bốn phía rồi đi, và cũng từng có hai con thỏ và một con chó cùng nhau đùa giỡn trong sân nhà, không sợ gì nhau. Bởi tâm đại bi bình đẳng, người vật như nhau, nên có được như thế.
Thứ nữa, tại núi Tư Không có ngài Thích Bổn Tịnh, họ Trương, người xứ Đông Bình. Từ thuở thiếu thời, Sư đã vào cửa Phật. Với tiết tháo lớn mạnh, lúc du phương gặp được Lục Tổ Tuệ Năng ở Tào Khê nên dứt bỏ nghi ngờ vướng mắc.
Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713), Sư đến núi Tư Không, ở Nam Nhạc, thư thái sống ở đó, người chẳng biết, ta biết, là lý do tệ ngụy. Khoảng niên hiệu Thiên Bảo (742-756), nhân có Dương Đình Quang vào núi hái thuốc, tình cờ gặp gỡ, nên luận đạo suốt ngày. Đến lúc trở về, tấu trình cùng triều đình, nên có chiếu ban thỉnh, Sư về kinh đô trụ tại đình Bạch Liên Hoa. Nhà vua biết Phật pháp sâu mầu, ai dám liều lượng. Bèn ban chiếu mời pháp sư Viễn ở chùa Thái Bình cùng ba vị Thạc Đức thật học ở Lưỡng Nhai, phát hỏi phong khởi, như trăm mũi tên cùng nhắm rượt đuổi con thỏ. Ngài bèn cất nhắc ung dung cùng chống chỏi bốn mặt, thí như mở chín công cơ giới của Mặc Địch. Thế rồi, Sư biện luận như ngói sắp nung, ngoài lúc chỉ dạy mới dẫn giáo điển liễu nghĩa viện chứng. Sư lại nói kệ già-đà, không một vướng mắc. Nhà vua trong ý mừng vui, mọi người trông thấy đều ngợi khen.
Đến niên hiệu Thượng Nguyên thứ 2 (762) ngày mồng 5 tháng 5, Sư thị tịch, thọ chín mươi lăm tuổi. Vua Túc Tông ban tặng thụy hiệu là "Đại Hiểu Thiền Sư". Và cũng lấy chỗ Sư ở mà đặt tên là "Tư Không Sơn Thiền Sư".
Thích Tuệ Lãng, người xứ Toại An, thuộc Tân Định. Năm hai mươi hai tuổi, đến Bắc Sơn, thuộc Cù Châu, gặp được thủ tướng của Nam Tông Đốn Giáo, Sư bèn thỉnh cầu làm thầy. Vị ấy bảo Sư rằng: "Ngài từ lâu tích tập tịnh nghiệp, tôi chẳng phải thầy của Ngài, Ngài nên đến Thiên Thai sẽ gặp được bậc thầy đầy đủ trí tuệ hiền đức". Sư đến chùa Thạch Thành ở Diệm Khê, thấy một thiền ông, chẳng biết từ đâu lại, tóc bạc da trắng, mắt như điện chớp, tiếng tợ chuông ngân, thần khí ôm chầm cả thái hư. Vị đó hỏi Sư rằng: "Ông sắp đi đâu vậy?" Sư đáp: "Muốn đến Thiên Thai, cầu Đại Pháp của Phật". Nhân đó, hai người cùng đi, chừng khoảng mươi dặm, dừng nghỉ dưới rừng cây và vị đó bảo Sư rằng: "Pháp thường tịch nhiên, kia cũng như vậy, sao phải đến nơi xa? Phải giáo hóa kẻ hữu duyên, nên trở về chỗ cũ để độ vô lượng chúng?" Nói xong thì không thấy vị đó đâu nữa. Sư tỏ rõ bổn tâm, ngộ tri kiến Phật. Bèn ẩn cư nơi núi rừng suốt mấy năm, mới trở về ở chùa Tuệ An tại quê cũ. Tợ như cư sĩ Tịnh Danh mặc phi pháp phục, Thuần-đà khéo léo, tâm như tâm Phật, Ly Châu còn ẩn, sư tử chưa sống, cuối cùng nhược tang, vượt bờ sông mê.
Một hôm, núi rừng Tần vọng chấn động, bỗng chốc có con rùa lớn hiện hình. Mọi người hỏi nhau rằng: "đây là điềm gì vậy?" Lại có vị thiền tăng, tên là Biện, từ chùa Vân Môn, ở Cối Kê đi đến. Thân Ngài (Biện) cao tám thước bốn tấc, mũi cao mắt lớn, tròng mắt sáng soi chiếu người, thông rành các kinh Đại Phẩm, Tư Ích, Duy-ma v.v... kiêm rành rẽ các luận. Đại chúng đều bảo "Ngài (Biện) là vị Thần tăng, rùa lớn ứng điềm như thế". Còn Sư (Tuệ Lãng) kín hành hạnh Bồ-tát nên thỉnh ngài Biện Công làm thầy. Biện Công nêu bày nghĩa kinh Duy-ma, Sư bèn đáp rằng: "Như mặt nhật soi chiếu vào lửa đom đóm, nước biển rót vào vết chân trâu". Biện Công vô cùng mến quý, bảo rằng: "thật là Tịnh Danh".
Vào niên hiệu Cảnh Long (707-710), các vị như Úy Dư ở huyện Ngô Xuyên, Thiếu Hưng Tông Đảng, Lệnh Dư Nhân ở huyện Tân Xương, v.v... cả mười mấy nhà đều cùng nhau tôn kính phụng thờ, thay đổi thỉnh Sư quang lâm. Một đêm, Sư bỗng thấy ánh sáng từ cổ phát ra, bên ánh đèn có đủ núi sông đầy cả mười mấy dặm. Các loài hàm tình, không loài nào chẳng quy y. Biện Công lại thêm nghĩa lễ thầy trò. Do đó, trở lại bái thỉnh Sư thăng tòa. Trước tiên, Sư mới chỉ bày: pháp thân thấy khắp các loại chúng sanh, kế đến giảng rõ biến hóa tất cả đều như. Kẻ tăng người tục mừng vui, mỗi người đều ngợi khen rằng: "Xưa kia, núi rừng rung chuyển, rùa lớn chỉ điềm lành, chẳng phải do Biện Công ứng rõ vậy". Từ đó, những người tham học thiền quán khắp bốn phương đua nhau tìm đến tấp nập.
Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 4 (716), Bổn Châu Mục Lý Tư Huyền đến phía nam Long Sơn, xây dựng một ngôi chùa, thỉnh Sư về an trụ tại đó. Sư mới kiến lập Đại giới đàn, mời khắp các bậc Luật sư đức hạnh. Trong đó, có Ngạn Công ở Quang Châu, Siêu Công ở Cối Kê làm thượng thủ.
Thế rồi, Sư phát tâm ít có thọ giới cụ túc, tợ ngọc tròn trăng tỏ, trong ngoài đều sáng. Sư đến khắp các giới đàn làm giới sư, tôn chứng. Trở lại thỉnh cầu học hỏi, làm học sĩ. Tình cảm mọi người thêm nặng, đạo hạnh càng tôn. Đến năm Khai Nguyên thứ 7 (719), Thứ sử Vi Lợi Khí thâm tâm quy hướng. Qua năm sau (720), Hấp Châu trưởng sử Hứa Tư, cung thỉnh Sư đến chỗ ông đang trị vì. Lúc Sư lên pháp tòa, bỗng nhiên có một con gấu đến phủ phục ở phía trước, nó do nghe tiếng chuông mà đến, cả chúng đều tán loạn, sợ nó làm hại, nhưng vì nó có tâm muốn nghe pháp. Ngài dạy dỗ loài thú dữ thuần phục đến như thế.
Đến ngày 21 tháng 9 niên hiệu Khai Nguyên thứ 13 (725), Sư bảo các môn nhân rằng: "Ta sắp đi đây! Ta đã ba đời sống tại Châu này, nay là một đời vậy!" Nói xong, Sư an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi. Các vị đệ tử vòng theo di huấn cử hành lễ trà-tỳ, xây tháp thờ.
Các vị học giả theo Sư đã nhiều, mà những người Dĩnh ngộ thanh thoát, trong đó có ngài Đạo Ẩm, Tuệ Hựu, Đạo Thiền ở chùa Khai Nguyên. Biện Hải ở chùa Long Hưng, Tấn Ngọc ở chùa Ninh Quốc, Hữu Bái, Viễn Chỉnh ở chùa Bảo Lâm, thuộc Việt Châu, Nhất Hạnh ở chùa Trúc Lâm, thuộc Hàng Châu, v.v... đều là những vị mở mang đạo pháp của Sư, nối nhau như dưa dày đặc. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 12 (778), quan Thái Thú Tân Định là Tiêu Định soạn văn bia, Quan Tư Mã Lưu Khương Khanh viết chữ, Quan Thứ Sử Lý Quý viết ngạch bằng chữ triện. Đó đều là chỗ của các bậc Danh Công Thạnh khoa toàn mỹ.
Thích Cự Phương, họ Tào, người ở xứ An Lục. Từ thuở bé, Sư giữ tiết tháo, lập thân theo thầy, cầu xin xuất gia với Thiền sư Lãng ở viện Minh Phước, thuộc Châu Trị. Thọ học hai bộ kinh Pháp Hoa và Duy-ma-cật. Công khóa hoàn tất, Sư thọ giới cụ túc. Sư lại nghe giảng luận Nam Tông ở vài trường giảng, rồi phẩy áo tầm cầu tham yết các thiền hội.
Sau, Sư đến chỗ xét khảo tinh nhuệ của Thiền sư Thần Tú, thuộc Bắc Tông. Vừa mới thầy Sư, Thần Tú điềm nhiên chấp nhận, hỏi Sư rằng: "chỗ mây trắng tan thì thế nào?" Sư đáp: "không mờ tối". Lại hỏi: "Từ lúc này về sau thế nào?" Sư đáp: "thật thầy rõ một cành mọc năm lá". Ngài Thần Tú gật đầu chấp thuận, Sư trú tại đó vài năm, vào thất hầu hạ hỏi đáp, ngõ hầu chân đạo ít có ai sánh bằng. Sư từ biệt Quán Phương, đi đến núi lạnh Thượng Đãng và trú tại đó nhiều năm, học chúng đông đến vài trăm vị. Cầu thỉnh không ngăn ngại. Chỗ đề xướng của Sư là "chân vọng đồng một nguồn, nhanh chậm không khác loại. Đắc tâm giúp đạo ở tại tu trị". Đại loại đều như vậy.
Vận soái Ngô văn Tháo Thị Trung khâm phục, kính mến đạo phong của Sư, sai sứ thỉnh Sư về tại phủ, tạo lập viện An Quốc, thỉnh Sư ở đó chỉ dạy học chúng. Những người mến chuộng đạo phong tổ đức, chẳng lìa xa pháp tịch, và có nhiều vị đốn ngộ. Vận Soái hỏi Sư rằng: "từ nay về sau, thời vận thế nào?" Sư đáp: "đất rải cát vàng, người ở cõi báu". Ngô Soái kính tin mến phục, do đó mà quân dân cả phủ đều càng kính ngưỡng. Mọi người trong dòng họ Ngô bất kể lớn nhỏ thảy đều kính trọng Sư như vị thần minh, cúng dường bố thí rất trọng hậu. Sau đó, Sư lại đến Ngũ Đài hóa đạo, suốt hơn hai mươi năm, mới thị tịch. Khi đó, Sư bảo với chúng rằng: "tuổi thọ của tôi đến đây là mãn". Nói xong Sư bèn tịch, thọ tám mươi mốt tuổi. Bấy giờ là Ngài mồng 3 tháng 9 niên hiệu Khai Nguyên thứ 15 (727) đón rước toàn thân nhục thể của Sư nhập tháp.
Thứ nữa, tại viện An Quốc ở Phủ Hà Trung có ngài Thích Trí Phong, vốn dòng họ Ngô, người xứ Hoài An, đến tuổi trung niên, Sư mới học đạo, hết mình cố gắng cẩn mật, thực hành hạnh đầu-đà. Sau bữa ăn giờ mão thì nước tương chẳng dính vào răng. Sư đến pháp sư Hằng chùa Thanh Tịnh ở trong Châu Quận cầu xin xuống tóc, thọ giới cụ túc, tập học Luận Duy Thức, có người đến bắt bẻ, chê trách Sư bị mắc kẹt danh tướng. Sư giận bỏ trường giảng, tìm đến núi Võ Đang, tham kiến pháp hội của Thiền sư Thần Tú, thì tảng băng nghi ngờ tiêu tan. Sư tư duy nuôi dưỡng mầm thánh. Bỗng nhiên, Sư khước từ, ra trụ tại núi An Phong, thuộc Bồ Tân cấm túc suốt mười năm. Thường ngày SƯ chỉ ăn cây cỏ uống nước suối. Vệ Văn Thăng thuộc Châu Mục thỉnh Sư về trong thành, lập viện An Quốc để Sư trú tại đó. Từ đó, các loài thú đua nhau sanh sản, phát triển đông nhiều. Sứ quân hỏi Sư rằng: "Tại đây, từ nay về sau như thế nào?" Ngài đáp: "mặt nhật từ mưa rơi giàn giụa soi chiếu, cây cối hoàn toàn không có bóng". Sứ quân ban đầu không hiểu được ý chỉ, bèn cuốn diệp mà thối lui, trong thời gian ngắn chọn mở hiểu đủ nên bỏ đến Hoài An. Sư qua lại núi Trung Điều hơn hai mươi năm, ít ỏi chẳng đủ, những người thành đạt đạo của Sư không thể kể xiết. Sau khi Sư thị tịch, các hàng nhân xây tháp thờ cách Châu Bắc khoảng ba mươi bộ.
Thích Hương Dục, họ Lý, người ở xứ Tế Âm. Cha Sư làm nhân viên của Châu Duyện. Sư có đạo tánh, thường nghiên cứu tập học Lão Trang. Căn khí phấn phát, bỗng nhiên lưu tâm để ý đến kinh điển Phật pháp. Sư quyết chí từ bỏ thế tục, tìm đến luật sư Trí Nguyên chùa An Định ở Thương Châu cầu xin xuất gia.
Sau khi thọ giới cụ túc, Sư tinh cần học luật, sắp hoàn tất. Một hôm, Sư từ giã thầy đi tham lễ các Thánh tích. Sư vượt qua Thiên Thai, đến Nam Nhạc, có lúc đến nham A, hoặc ẩn dưới bóng cây. Cuối cùng, Sư đến Ngũ Đài. Sau Sư tham dự vào pháp hội do Tổ sư Thần Tú đang hoằng hóa thạnh hành, tâm xưa hợp nhau, kính tiết mong tiếng. Ngài Thần Tú hỏi điều gì, Sư đối đáp kín đáo như ẩn thư, tất cả điều mở giải. Ngài Thần Tú im lặng lấy làm lạ. Sư ở trong chúng trải qua nhiều năm, đến khi thấu suốt nguồn tâm, Sư liền từ biệt ngài Thần Tú mà vào núi Đại Phật ở Phú Thủy. Sư giữ tiết tháo mạnh mẽ, an trụ thiền định, mỗi ngày chỉ ăn một bữa trước giờ mão. Châu Tướng Hàn Nhuận dốc lòng kính tín đạo phong của Sư, kiên trì cầu thỉnh Sư xuống núi, nhưng Sư chỉ cáo bệnh mà thôi. Từ đó, người xuất gia, tại gia thảy đều khát ngưỡng quy y. Hàn Sứ quân kéo xe tiếp nối cúng dường nối nhau, tạo lập pháp đường rực rỡ tráng lệ và thường đến hỏi đạo. Hàn Hầu hỏi ngài "Phật pháp về sau như thế nào?" Sư đáp: "đồng như thái hư, ủy phó cho người có năng lực". Hàn Hầu khâm phục kính chuộng, đồ chúng thường có đến ngàn vị. Trong đó, các bậc hiền nhân và kẻ chẳng ra gì cùng ở lẫn lộn, thường nghe có việc bất trắc trong tăng, Sư dự nghe nhận. Một hôm, Sư nói pháp, kế đến nói với chúng rằng: "Lành thay pháp hội này thật khó gặp, phải quyết dứt mọi điều nghi, chớ để luống qua!". Rồi Ngài bảo lấy nước tắm gội xong, ngồi thẳng mà hóa, thọ chín mươi ba tuổi.
Thích Tạng Sư, họ Vương, người ở Triệu Quận, Cha Sư làm nhân viên của Châu Duyện. Từ thuở bé, Sư đã tìm thấy học đạo, tự nhiên kính mến Phật pháp, mà tánh lại thích sống riêng một mình. Tại chùa Sư ở có nhiều Lệ Quỷ mê mỵ người. Đến lúc bảy tuổi, Sư một mình một bóng, ở chốn hoang vắng mà không hề có chút sợ hãi. Đến lúc trưởng thành, Sư càng vượt trội khác thường nên mọi người gọi Sư là "Hàng Ma Tạng".
Sư thưa hỏi Thiền sư Minh Tán ở viện Quảng Phước, ý ngài Minh Tán cho rằng "Sư là bậc pháp khí" nên mới phát khởi câu hỏi, Sư ứng đối biện luận nhã hợp, hỏi đáp rạch ròi, nhân đó mà Sư được lưu lại chấp sự phục dịch ân cần thọ pháp. Ngài Minh Tán bảo Sư tụng Kinh Pháp Hoa, qua một tháng thì Sư thấu suốt cả bộ, nên được xuống tóc, thọ giới cụ túc, tập học luật tạng, tiếp đến giảng luận Nam Tông. Đại cơ sắp phát, bỗng nhiên Sư ném phất trần. Các linh tích ở khắp chín châu không chỗ nào Sư chẳng đến tham lễ. Sau Sư đến gặp Bắc Châu Đảnh Thạnh, bèn phát nguyện nương tựa. Ngài Thần Tú hỏi Sư: "Ông tên là Hàng Ma, tại chỗ ta đây không có sơn tinh mộc quái, ông lại làm ma ư?" Sư đáp: "có Phật thì có ma". Ngài Thần tú bảo: "Ông nói ma như thế tức là ở cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận". Sư đáp: "Phật đã là không, sao lại không thể suy nghĩ bàn luận". Bấy giờ đại chúng đều lấy làm lạ mà kính phục Sư. Trước tiên là ngài Thần Tú huyền ký cho Sư là: "ông có duyên với gò Thiếu Hạo". Sư bèn tìm đến Thái Sơn, vài năm sau người học đến rất đông, cúng dường cung cấp đầy đủ. Sư chỉ là sau kiệu vàng của Cốc Lãng Công hành hóa.
Một hôm, Sư bảo môn nhân rằng: "nay tôi già suy, tất cả mọi vật cuối cùng phải có chỗ về, chính là lúc này đây". Nói xong, Sư thị tịch, thọ chín mươi mốt tuổi.
(chánh truyện gồm có mười bốn vị, phụ có ba vị).
Thích Nghĩa Phước, họ Trương, người ở xứ Đồng Đề, thuộc Lộ Châu. Từ thuở bé, Sư đã kính mến Không môn, bỏ dứt việc thế tục. Ban đầu, Sư đến trụ chùa Hóa cảm ở Lam Điền, Sư ở trong thất phương trượng, hơn hai mươi năm, không hề ra khỏi cửa phòng. Sau Sư đến chùa Từ Ân ở kinh Đô, đạo phong của Sư cao vợi, làm khuynh động tâm chúng sanh.
Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 11 (723), Sư theo xa giá đến Đông Đô, trải qua hai châu Bồ, Quắc. Các quan Thứ sử, quan lại, sĩ nữ đều mang tràng hoa đến chỗ Sư mà đón rước, dân chúng tấp nập đầy đường, mọi người lễ bái, lăng xăng chiêm ngưỡng không thỏa mãn. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 21 (733) thì Sư thị tịch, có chế biểu ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Trí Thiền Sư". Và an táng ở phía Bắc của Y Quyết. Trong lễ tang, có đến mấy muôn người tham dự. Trung Thư Thị Lang Nghiêm Đỉnh thân mặc tang phục như hàng đệ tử của Sư, lại soạn văn bia. Các bậc tài giỏi trong cửa thiền của Ngài Thần Tú tuy có Thiền hạnh được các bậc đế vương kính trọng, nhưng không ai hơn Sư, và Sư là người không hề nhóm chúng khai pháp. Đến lúc Ngài Phổ Tịch mới đến đô thành, truyền giáo hai mươi năm, mọi người đều kính ngưỡng.
Ban đầu, Ngài đến Đông Lạc, gọi các đệ tử răn bảo mọi việc về lúc Sư qua đời. Các vị như Binh Bộ Thị Lang Trương Quân, Thái Úy Phòng Quan, Lễ Bộ Thị Lang Vi Trắc luôn kính trọng. Ngày đó đều có đến dự. Sư mới thăng đường giảng nói cho môn nhân nghe, xong rồi Sư bảo: "chiều nay tôi sẽ thị tịch và giờ đây quyết từ biệt". Giây lâu Trương Quân nói với Phòng Quan rằng: "năm trước tôi uống kim đơn nên không hề đến nơi có tang", nói xong, Trương Quân bèn lẫn tránh đi. Bỗng nhiên Sư nói với Phòng Quan rằng: "Ông cùng với Trương Quân đi được mấy năm vậy. Trương Quân sắp có lỗi phi thường, danh tiết đều thiếu, xưa nay nếu qua đời thì pháp hội này đủ để tránh khỏi tai họa. Thật tiếc thay!" Sư bèn nắm tay Phòng Quan, bảo: "ông sẽ làm danh thần Trung Hưng, nên cố gắng". Nói xong, Sư thị tịch. Sau, Trương Quân lánh giặc đình, làm ngụy quan, còn Phòng Quan phụ giúp hai triều, cuối cùng lập nên Đại tiết, đều là những lời cuối cùng Sư nói.
Lại có Ngài Thích Hành Tư, họ Lưu, người xứ Lư Lăng. Thân quyết thấm đượm, tánh nết trinh lượng, sau khi xuất gia, thọ giới bèn trở về, phá bầu tìm tròn, chặt điêu làm phác, quyết chí thiên nhiên vậy. Ngài sang Thiều Dương tham kiến Thiền sư Đại Giám, một lời che dứt như phá tan tối tăm. Khi đã rõ bổn tâm, địa thần lần lượt khẩn cáo trở lại Cát Châu, mở mang hoằng hóa, thiền khách đông nhiều khắp phòng thất của Sư. Đến ngày 13 tháng 12 niên hiệu Khai Nguyên thứ 28 (730) Sư thị tịch tại nơi thường ở. Vua ban sắc tặng Ngài thụy hiệu là "Hồng Tế Đại Sư", tháp hiệu là "Quy Chân". Tháp đó, trong pháp nạn niên hiệu Hội Xương cũng chung cùng số phận bị hủy sau, để tử nối pháp của Sư xây cất lại.
Thích Phổ Tịch, họ Bằng, người ở xứ Hà Đông, thuộc Bồ Châu. Thuở còn thơ đã tỏ tánh hiên ngang. Khi lìa tục lên đàn, thuận theo kinh luật, xem văn lường nghĩa sâu xa, khác với người thường.
Ban đầu, Sư nghe Ngài Thần Tú trú tại chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu, bèn đến đó hầu hạ suốt sáu năm. Ngài Thần Tú lấy làm kỳ bèn trao cho tất cả đạo mầu. Lâu sau, vào niên hiệu Cửu Thị, Võ Tắc Thiên vời ngài Thần Tú đến Đông Đô luận tạo, nhân đó tiến cử Phổ Tịch xin được độ làm tăng. Đến lúc Ngài Thần Tú thi tịch, mọi người kính mến họ Thích, trong cả nước đều bắt chước Sư mà phụng thờ. Vua Trung Tông (705-710) nghe Ngài Thần Tú tuổi cao, mới đặc biệt ban sắc chế văn đề cử Ngài (Phổ Tịch) thay thế Bổn sư mà nhiếp hóa pháp chúng.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ 23 (725), vua Huyền Tông ban chiếu mời Sư đến trụ tại Đô thành. Bấy giờ, các hàng vương công đại nhân đua nhau đến tham lễ bái yết. Sư rất nghiêm trang ít nói. Những người tìm đến khó thấy được tôn dung hòa mục nơi Sư, nên tất cả mọi người xa gần rất lấy đó làm kính trọng. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 27 (729) Sư thị tịch tại chùa Hưng Đường ở thành đô, thọ tám mươi chín tuổi. Bấy giờ các hàng sĩ thứ ở đô thành đến tham yết đều vâng phụng chế văn thọ nhận tang phục như đệ tử. Vua Huyền Tông có chế văn ban tặng Sư thụy hiệu "Đại Tuệ Thiền Sư". Và đến lúc an táng, Hà Nam Duẫn Bùi Khoan cùng cả vợ con đều mặc tang phục sắp theo sau môn đồ, khắp cả thành đều khóc đưa tiễn, nơi thôn quê vì thế để hoang. Bùi Duẫn kính trọng chức Sư do từ đó, sự mở mang hóa đạo của Sư có nhiều thần dị, chính mắt Bùi Duẫn trông thấy, lại được tâm ấn quy hướng càng sâu. Bấy giờ có nhiều người cười chê. Bùi Duẫn ngày đêm đến lễ bái luôn giữ lấy lễ phép của người đệ tử, chưa từng thất lễ. Một hôm, ông đến chỗ Sư, Sư dự biết sự qua đời của đệ tử Nhất Hạnh. Đến lúc Sư thị tịch, Bùi Duẫn đến buồn thương động lòng như tang của người thân, vận mặc tang chế đồng đi bộ ra thành, vợ con cũng như vậy, sự chê cười của con cháu là như thế đó.
Liên quan thử bàn:
Tình người có ghét có thương. Với người mình thương thì không thấy có điều đáng ghét. Với kẻ mình ghét thì không thấy có điều đáng thương. Phàm muôn vật phân luân đều do ghét và thương, chiết trung mà nói thì nên thương chớ không nên ghét. Người đó có tình thương tức là quân tử, kẻ có tâm ghét ấy là tiểu nhân. Thương mà không thể nói ấy là cái bệnh của người quân tử. Bùi Duẫn áo mão tại triều đình, chức sự có đầy mình, chẳng lánh mật hạnh, đưa đến sự phỉ báng ở đương thời. Thích nghi thay! Thí như tăng sĩ mê đắm việc thế tục thì làm sao không bỏ áo cà-sa mặc áo Nho sĩ được? Nếu thật sau khi đã đắc đạo, giây phút cuối cùng thoát hài đâu có gì chẳng thể ư? Bùi Khoan chẳng bỏ quan thì đâu trái lễ đối với Khổng Tử ư? Bùi Khoan nếu thực hành đạo lý Phương Ngoại, thì đâu có gì phải trách phạt! Với những bậc Đại Nhân Đại Kiến, không vật gì không thể.
Thích Hoài Nhượng họ Đỗ, người ở xứ An Khương, thuộc Kim Châu. Năm lên mười tuổi, Sư đã ham thích sách Phật, dáng dấp ngời sáng, tỏ vẻ linh kỳ. Những người thức giả đoán biết đó là tướng xuất gia, chẳng nhiễm giàu sang ở thế tục. Người thật có điềm lành đến, nước nhà mừng vui không ngằn mé, rồng lân rùa phượng vô số muôn. Trời đất chẳng toàn công, khí hậu có đầy vơi, giềng mối khuyết hoại vá đắp chẳng đủ, đều là thần âm thầm giúp đỡ. Chỉ có bậc ứng độ mới thắp sáng quyết lý, người tầm thường chẳng thể biết được.
Vừa tuổi hai mươi, Ngài đến chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Nam, phụng thờ luật sư Hằng Cảnh, được xuống tóc thọ giới cụ túc. Ngài Hằng Cảnh khen ngợi rằng: "Hễ là người xuất gia vì pháp vô vi, khắp trong nhân gian, trên cõi trời không có ai hơn. Trải qua đó chính là chỗ gọi ra khỏi nhà lửa, ngồi ở ngã tư đường!" Bấy giờ, thiền sư Sư mới khuyên Ngài sang Trung Sơn yết kiến An Công, An Công mở mang tri giác cho Sư. Nhân đó, Sư vào khe Tào Hầu, tham yết Thiền sư Tuệ Năng. Ngài Tuệ Năng an nhiên không khen không chê, như sóng lớp vỗ đến thì hang to càng rộng, Thiều Hộ hợp tấu, Đại nhạc cùng hòa. Ngài thâm nhập tịch định, an trú ở Đạo tràng Vô Động là như thế đó, khi Ngài Tuệ Năng hoá duyên đã mãn, thì Sư mới cất bước đến dừng trú tại đài Quán Âm ở Hành Châu.
Bấy giờ, có vị tăng bị treo xích hình trong ngục, xưng niệm cầu Ngài cứu hộ, Ngài biết nên gắng giúp, vị tăng đó thoát nạn, bảo rằng: "Đó là Ngài Quán Âm cứu khổ?", và được xưng hiệu "Đài Quán Âm" cũng do từ đó.
Ngài hóa duyên hoàn mãn, truyền pháp cho các đệ tử Đạo Tuấn, Đạo Nhất. Các vị ấy đều thăng đường thấy rõ nghĩa mầu. Về sau, Ngài Đạo Nhất gióng lớn trống Pháp ở Hồng Châu, Sư có các đệ tử như Duy Khoan, Hoài Huy. Hóa duyên sắp mãn, Ngài Đạo Nhất nói với các vị Duy Khoan v.v...: "Đạo của thầy ta còn ở chỗ nhiệm mầu, không đợi mà thường, không trú mà đến, phải khéo phụng thờ, tu tập. Từ miệng vàng mà sanh, từ pháp hóa sanh, ở đời ta (Đạo Nhất) là đệ tử, đến đời các ông là pháp tôn, một ngọn đèn truyền mãi, đâu thể để tắt mất".
Sư ra đời nhằm niên hiệu Nghi Phụng thứ 2 (678) thị tịch ngày mồng 10 tháng 8 niên hiệu Thiên Bảo thứ 3 (744), thọ sáu mươi tám tuổi, bốn mươi tám hạ lạp. Ngài Đạo Nhất xây tháp thờ ở Biệt Phong. Vào Niên hiệu Nguyên Hòa (806821), các Ngài Duy Khoan, Hoài Huy đến Kinh đô mở mang pháp môn Bổn tôn, mở rộng truyền lan đến trăm ngàn ngọn đèn pháp. Pháp Bảo Hồng Tự ở Kinh Hạ từ đó hưng thạnh. Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (813), Thái Thú Hành Dương là lệnh Cô Quyền hỏi về Đạo Tích của Sư, Quyền bèn xả bỏ y phục, của cải để sung vào ngày húy kỵ. Từ đó vào tháng 8 hằng năm là húy kỵ Quán Âm. Trong niên hiệu Bảo Lịch (825-827), vua Mục Tông ban sắc tặng Sư thụy hiệu là "Đại Tuệ Thiền Sư", tháp hiệu là "Trí Thắng Luận". Trong niên hiệu Nguyên Hòa, Thường Thị Quy Đăng Soạn văn bia.
Thích Linh Trước họ Lưu, người xứ Ba Tây, thuộc Miên Châu. Vừa đến tuổi phát chí học Tập bèn thì xuất gia, Sư tìm thầy sư đăng đàn thọ giới chẳng dưới ngàn dặm. Năm bốn mươi tuổi, Sư tinh thông luật tạng Tỳ-ni, kiêm giảng Kinh Niết-bàn. Một bộ kinh, một bộ luật, ân cần truyền trao, đến tuổi về già, Sư đến thỉnh vấn Thiền sư Đại Chiếu, lãnh ngộ được Tông Phong, Sư giữ chí càng vững chắc. Sau Sư đến xứ Trường An, mở mang pháp thiền. Người kính mến đạo cầu Sư chẳng dưới số ngàn, như đầm sâu tụ hội của cá rồng. Vào giờ thân ngày mồng 10 tháng 4 niên hiệu Thiên Bảo thứ 5 (746), Sư thị tịch tại viện Thạch Lăng-già Kinh ở chùa An Quốc, thọ năm mươi sáu tuổi, ba mươi sáu hạ lạp.
Lúc Sư sắp thị tịch, trong chùa có nhiều biến động lạ thường, bởi rường cột của pháp môn đã gãy đổ. Sư ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Ba tuần sau, cử hành lễ trà-tỳ, xây tháp thờ tại sườn núi Long Thủ, gần bên lạnh nơi tôn trí xá-lợi của Ngài Phật-Đà-Ba-lợi và bên phải phần mộ đá của Nữ Oa. Đến ngày mồng 10 tháng 9 năm đó (746), dời nhập vào tháp. Sư có các đệ tử như Ngài Lãng Trí, Đạo Tuần, Như Nhất. Do kính mến đức hạnh của Sư nên phụng thờ mãi mãi. Nội thị Thượng Trụ
Quốc Thiên Thủy Triệu Tư Khản nhờ Sa-môn Thiện Vận soạn văn bia dựng tại tháp thờ Sư.
Lại có Ngài Thích Pháp Ngoạn, họ Phùng, trụ chùa Trí ở Linh Tiền Đường. Sư vốn là người xứ Trường An, đi theo ông nội làm quan ở Giang Đông nên thành người xứ Tiền Đường. Cha con thông tự nguyên đạt, đời đời tiếp nối áo mão truyền trì tố nghiệp. Nhưng tinh thần xem xét vượt ngoài trăm họ, giữ chí kính mến ứng chất của Tịnh Danh, đàm luận phần nhiều là mời các bậc Đại sĩ ở chốn thiền lâm đến nhà. Tạo lập phòng riêng cúng dường lễ bái, nguyện cầu sanh con nối dõi. Lâu sau, Sư thác chất vào nhà, tánh tình cao vợi, thiên tánh khởi phát đoan trang nghiêm cẩn. Vừa mới biết mặc áo đẹp, Sư đã xin cha cho xuất gia, cố nhiên là cha Sư chẳng ngăn cản. Đến lúc đắp y xuống tóc thọ giới cụ túc, Ngài nghiên cứu Tam Thừa như xem vật trong lòng bàn tay, mà tánh trọn có tiết tháo không a dua. Tại chỗ sâu ở chùa ấy (Linh Trí), thuộc phía nam Chiết Giang, Sư dựng lập riêng ngôi lan-nhã cách xa già-lam, suốt ngày an trụ thiền định.
Bấy giờ có những vị đồng đạo đến gõ cửa thưa hỏi, Sư tùy việc chỉ bày, phần nhiều có sự chứng ngộ. Đến ngày 13 tháng 12 niên hiệu Thiên Bảo thứ 2 (744) lúc trời sắp sáng, Sư gọi thị giả rồi an nhiên ngồi thẳng thị tịch, thọ sáu mươi lăm tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp. Bấy giờ, chim muông trên núi kêu buồn, mây sương mưa sầu thảm não, đàn việt xa gần buồn khóc. Đến ngày 19 tháng 12, đón rước nhục thể an táng ở gò núi bên cạnh chùa. Sư có đệ tử Du Pháp Giới và Tử Hoài Phước, Du Tử Hy Tú v.v... đối với Sư là chỗ quy tâm ngày trước, xây tháp, làm các việc đều do các vị ấy giúp đỡ. Tháp thờ Sư vào Pháp nạn Hội Xương bị phá hủy, chỉ còn nền móng, bia đá tảng mác mai một. Than ôi!
Thích Huyền Tố tự là Đạo Thanh, họ Duyên Mã, người ở xứ Diên Lăng, thuộc Nhuận Châu.
Vừa mới sanh mà Sư có dáng dấp khác thường, tuy tuổi nhỏ nhưng lòng nhân từ sâu đậm, được nuôi dưỡng nơi an tĩnh. Mới độ tuổi búi tóc Sư đã mong cầu quy hướng cửa Phật. Cha mẹ theo đó mà cho Sư nương tựa tịnh vức.
Vào niên hiệu Như Ý (692), mới vâng theo chế độ, thuộc chùa Trường thọ ở Giang Ninh. Sau khi đến đàn thọ giới cụ túc. Giới đức ngời sáng hơn đèn đuốc, nước định lắng trong, tư duy thâm nhập huyền vi, tu hành vượt hơn người. Đã tỏ rõ được sắc không, Ngài thường kính mến các bậc tông trượng. Vì tuổi già, Sư mới vào Nam, đến chùa U Thê, chốn núi xanh. Nhân phụng thờ thiền sư Oai, tự thân qua nhiều năm thường đóng Hồng Chung. Thiền sư Oai chỉ dạy thắng pháp, Sư thấu đạt được yếu chỉ không chia chẻ. Từ đó, Sư nép mình khổ tiết, giao dưỡng an hòa, áo nạp quấn thân nóng lạnh chẳng đổi. Đối với mọi người sang hèn oán thân, Sư không hề mừng giận. Người thời bấy giờ coi Sư là Anh Nhi hạnh, Bồ-tát hạnh. Đạo nghiệp của Sư đã cao, mọi người trông mong chiêm lễ.
Trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) có vị tăng tên Uông Mật thỉnh Sư đến Kinh Khẩu, quận Mục Vi Tiễn Khuất ở Hạc Lâm, bốn bộ quy hướng, chí thành đông nghẹt chùa viện. Sư vẫn mặc áo nạp, trú ở giường không, không hề ra khỏi cửa phòng. Các bậc vương hầu cúi đầu kính lạy, Sư chẳng vì thế mà lay động. Bỏ mặc danh lợi ở đời, xem như chuyển hóa. Bỗng một ngày nọ, có người làm nghề giết mổ đến lễ bái tham yết, tự sanh cảm ngộ sám hối lỗi trước, cầu xin Sư chứng minh nhận cúng, Sư bèn vui vẻ nhận lời đến nhà người đó. Các hàng sĩ thứ đều kinh ngạc, tự bảo nhau rằng: "lạ thay!". Sư dạy: "Phật tánh vốn đồng đâu sanh phân biệt, chỉ bởi người có thể độ thì ta độ họ, đâu có gì khác!"
Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), Ngô Việt chiêm ngưỡng, tưởng như hạ sinh. Có Sa-môn Hy Huyền ở Dương Châu thỉnh Sư đến Giang Bắc. Gặp đêm trời tối, không có trăng khó giúp, sóng sông nổi dậy, giữ thuyền theo hướng gió. Bỗng chốc có một luồng ánh sáng trắng, dẫn suốt mái chèo vượt qua sóng đến chỗ an toàn. Dân chúng đất sở cùng mừng Phật nhật soi sáng lại, khắp cả châu đua nhau tìm đến bến bờ, người vật cản đường không chỗ dừng chân. Cởi áo ném thí chất thành đồi núi, lược chẳng liên can đến hoài bão. Sư bảo tất cả đều sung vào kinh phí của ruộng Bi. Lễ Bộ Thượng Thư Lý Trừng là Dương Châu Mục với tâm chay chí thành hai thời chiêm lễ. Sau đó không lâu thì kẻ tăng người tục ở Kinh Khẩu nghĩ tưởng theo khát pháp âm, bèn dời điệp vượt sông, lại thỉnh Sư trở về quận. Hai bên phân tranh chưa quyết theo lối nào thì lúc đó, Lý Trừng nói với mọi người rằng: "Vốn mong cầu phụng sự đạo pháp, trái lại trở thành thương ghét". Nhân đó, tùy theo sự cầu thỉnh nên đưa Sư trở về Nam Quận. Sự cảm vật mến đức ít có ai bằng.
Đến ngày 11 tháng 11 niên hiệu Thiên Bảo thứ 11 (752) vào nửa đêm, tự nhiên không bệnh mà Sư thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi. Mọi người buồn cảm đau xót khắp thị thành. Đến ngày 21 tháng 11, đón rước toàn thân Sư an táng, xây tháp thờ ở chỗ Sư ở, tức phía Tây núi Hoàng Hạc. Phương Bá Ấp Tể hết lòng giữ lễ thọ tang thầy, dẫn chúng bày tỏ buồn thương, khắp cả sông hồ đều rung động.
Ngày trước, lúc Sư đến trong chùa, tại chỗ Sư ngồi thiền, có cây thông cao nghiêng che như lọng. Đến lúc đổi cây khác, nó cũng cùng trở lại hình thể như trước, và ngay trong đêm Sư thị tịch, hai cây ngô đồng ở trước phòng Sư vô cớ tự khô. Các hàng thức giả cho đó là điềm biến đổi của Song lâm. Chỉ chân Thừa Diệu Lý tuyệt đối khó nghĩ lường. Điềm lành linh cảm ứng hiện ắt có. Trong kinh nói: "Tùy duyên phó cảm", chính là việc ấy. Trong hàng đệ tử của Sư, có Pháp Giám và Ngô Trung Pháp Khâm, là hai vị Đại sĩ làm sáng ngời nguồn đạo, lại được biệt truyền. Và hàng đệ tử thọ giới Bồ-tát của Sư thì có Lại bộ thị lang Tề Quản, Quảng Châu đô đốc Lương Khang, Thứ sử Nhuận Châu Từ Kiểu, Kinh Triệu Vi Chiêu Lý Cấp Sự Trung Hàn Thưởng, ngự sử Trung Thừa Lý Đan, Lễ bộ Thôi Lệnh Khâm, đều là các bậc đạo lưu mọi người đều kính phục, họ giữ đạo thầy trò, cũng thường hỏi đạo ở Kinh Sơn. Như Lạc Chánh Tử Xuân đối với Phu Tử. Rửa lòng chiêm ngưỡng trời Hán càng cao, gương nước rọi lòng tỏ ngộ thâm sâu cả chúng. Mãi đến niên hiệu Thái Hòa (827-836), do kính mến Di Phong xa vời, đức hạnh cao ngời của Sư, nên vua Kính Tông truy tặng Sư thụy hiệu là "Đại Luật Thiền Sư" tháp hiệu là "Thái Hòa Đại Bảo Hàng". Người đời sau phần nhiều y theo dòng họ thế tục mà gọi Sư là "Mã Tổ", hoặc có người gọi chung cả họ lẫn tên là "Mã Tổ" là do đó.
Liên quan thử bàn:
Ngài Đạo An đề xướng quan điểm người xuất gia đều lấy họ Thích làm họ, Sư hợp với ở sau đến Kinh A-hàm, có thể chẳng chuyên vậy. Ngài Huyền Tố lấy dòng họ thế tục mà gọi hẳn là có nguyên do, hay pháp tự đông nhiều còn chẳng thể ngăn cấm việc dối gọi nầy. Vậy thì biết tên Ngài Huyền Tố vút cánh cất bay thì cả bốn biển kính ngưỡng dừng chỉ, cho nên lên cõi thế tục, nay răn nhắc tương lai, thích hợp với chánh danh.
Thích Tuệ Trung, họ Nhiễm, người ở xứ Gia Kỳ, thuộc Việt Châu.
Có người cho rằng Sư sanh năm Giáp tý, hoặc có thuyết cho rằng năm Kỳ Di. Da Sư trắng trẻo như tuyết, thần khí thanh cao. Còn nhỏ mà Sư đã thích học pháp thọ Song Phong, mặc mặc toàn chân, tâm nương nhất ấn, thực hành tướng vô trụ, lần lượt thử các danh sơn, Ngũ Lãnh La Phù, Tứ Minh Thiên Mục, núi trắng dựa trời, gác tía sác cao, hoặc trú dưới gốc tùng an cư suốt chín tuần, hoặc tại chân núi cao rỗng bặt dứt tư lự, trụ định tam-muội. Sư đã đeo giới trăn sáng, cũng tịnh tâm lưu ly. Đã qua cửa thiền định, chẳng khởi kiến vô sanh, sừng sững như Tô-lô, tám gió chẳng thể lay động. Sáng như gương sạch, muôn vật không thể ẩn hình. Có thể dừng thì ta Võ Đang ngàn núi quen lờn như hươu nai, có thể đi thì Hổ Khê đã một lần qua, khất thực khắp nhân gian, vân du cùng Ngô Sở, cho đến tới dòng Thuận Dương. Có người đoán xem tướng Sư ở suối rừng của Đãng tử. Tuổi ngoài bốn mươi, Sư thâm nhập Thánh định của Pháp vương, tám muôn cửa lớn, thanh danh đạo hạnh dâng tràn, lực lượng sung mãn.
Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-742), Thứ Sử Tiền Trung Thư Thị Lang Quốc Công Vương Cư, Tư Mã Thái Thường Thiếu Khanh Triệu Di Trinh, Tín Đàm vì nghe được phong thái mà vui mừng, cởi giá gõ tịch mờ tối như hư không, lễ dưới chân rải hoa vàng bạc, chẳng khác trưởng giả Di-già, nắm tay thấy Phật như cát bụi, đồng với Tiên Nhân Tỳ-Mục, nên tấu trình với vua Huyền Tông (712756) cử Sư đến ở Hương Sác, tức chùa Long Hưng.
Do đó Bãi Tướng Tiết Sứ Vương Công đại nhân không ai chẳng lễ bái Thuận phong, từ đó hỏi đạo, hiểu rộng kinh luật, dẹp ma trừ ngoại đạo. Bất kể ai cùng với người quyền quý chẳng thể dùng uy mà làm Sư khiếp sợ, chẳng thể đem lợi mà lay động lòng Sư. Sư tới lúc mặt trời mới mọc thì mới thọ trai, hướng trông trăng tỏ mà lắng lòng, dường như sương bay gió trong mát. Có người giữ tiết tháo cứng cỏi qua trúc, từ kiểm lý đến, vẹt màn trướng kia. Sư biện luận đốn gãy chẳng để lại dấu vết. Nói tạm mà lại thường hợp với đạo, được nó ở tại tâm, Y-Lan làm cây chiên-đàn, mất nó ở tại tay. Cam lộ ở vườn tật lê, diệu chẳng thể truyền, hoa nhiều quả ít. Ở đời có kẻ chấp nhặt đá sỏi trong nước cho là có được vật báu lưu ly, vốc nắm bọt bóng trong bình cho là được ngọc ma-ni! Sở dĩ Sư chê trách họ, chỉ vì họ không có khả năng mà thôi. Nên có thuyết siêu vượt Tỳ-lô, khiến họ chẳng chấp trước Phật mà bàn luận, cầu siêu vượt pháp thân, giúp cho tất cả chẳng nhiễm chánh tánh. Đâu có Tỳ-lô có thể vượt và pháp thân có thể vượt ư? Vì vậy, Tâm như hư không, hợp với lý như hư không. Màng vọng tợ mây che, tông thông như nhật nguyệt. Triều Lang kết xe bốn ngựa mà đến an. Thiền chẳng động mà thọ đảnh, yết kiến nghiễm như. Bởi cái gọi là người xưa chẳng đón rước bảy bước để phước quân vương đến muôn thừa, đâu chỉ trăm liệu mà thôi ư!
Năm Hoàng đế Túc Tông an định Khu Hạ, nghe Sư đức hạnh cao vời, nên ngày 16 tháng 1 niên hiệu Thượng Nguyên thứ 2 (762), sai Nội Cấp Sự Tôn Triều đưa ngựa trạm đón rước Ngài và bản chiếu thư viết trong đó là:
Thư thăm hỏi của Hoàng đế.
Trẫm nghe: Đức Điều Ngự Thượng thừa để An Trung Đô. Các đại sĩ với hạnh lợi tha cùng độ chúng sanh. Sư (Tuệ Trung) là chiếc gương pháp treo cao, một tâm giảng nói, mở kho bí mật, vào cảnh Viên Minh. Đức Đại bi chẳng mỏi mệt nơi bến bờ, chí thiện thì ắt sáng nơi tế độ. Tôn Hùng phó chúc, thật tại trẫm đây, nghĩ cùng với Đạo An tuyên dương diệu dụng, đượm nhuần phước lợi khắp cùng Đại Thiên. Truyền Huyền Châu không ảnh tượng, nhổ tên độc trầm mê, duyên lành tại đó chớ cho là nhọc, chống tích trượng đến kinh đô chẳng lấy làm xa, lòng chay tịnh đã lâu, xứng với lòng trẫm. Xuân lạnh, mà sư được bình an là tốt!"
Gởi thư chỉ chẳng đề cập nhiều, Sư thường vì đạo không đâu chẳng ở, thành thị thôn quê chẳng khác. Sư bèn bước cao đến chốn vương cung, lên ngay chánh điện, gậy sương để xuống, mặt nhật chiếu soi áo rồng, hương trời xông đốt, gió thoảng quạt lộng. Bấy giờ, Sư ngẩng cao đầu tiếp võ thần nghi túc như Thiên Tử khâm phục đợi Sư làm lễ. Sư chỉ bày các yếu chỉ để sửa dân trị nước, đề cao phong thái của Đường Nghiêu Ngu Thuấn. Vua Túc Tông nghe mà kính sợ, tự nhiên quỳ gối trước chiếu. Cửu Long được rưới nước hoa sen, muôn thừa uống được hương vị Đề Hồ. Từ đó, Sư đảm nhiệm lên điện ngồi mà luận đạo, chẳng câu nệ pháp thường.
Sau đó, vua Túc Tông sai Phiếu Kỵ Chu Quang Huy tuyên đọc thánh chỉ mời Sư trụ tại chùa Thiên Phước, Tướng quốc Thôi Hoán theo thưa hỏi, lý hợp với tâm, bàn việc từ triều đình đến thôn dã, các kẻ sĩ thức chân thường luôn tìm tới. Đến niên hiệu Bảo Ứng (762-763), Sư dạy dùng đạo hiếu để trị nước, chẳng đổi Lệ trước, mở toang khung trời muôn dặm, như thấy trăng của Tam Giang. Vua Túc Tông lại ban lệnh cho Nội Thị Viên Trụ Hoằng thỉnh Sư về trú tại chùa Quang Trạch gần dưới cung Quyết. Mây tụ mùi cơm thơm, trời rải ban y tía, tuy sứ thần đến đông nghẹt cửa thiền, mà Sư chẳng đến, cung đình bày lụa ngọc đầy sân. Do đã rõ đó như bọt bóng, xem đó như huyễn mộng, nên Sư vẫn điềm nhiên nhàn nhã tự vui như cõi trời, cũng có thể la phù chẳng về, phương danh yên tọa Song Phong, qua lâu mới khế hợp với vô sanh ư? Mầm mống thành Thánh là ở tại đó ư? Nên muôn hạnh đều phát, ngàn môn chẳng hệ lụy nơi tâm, thì trống Đâu-suất vô hình mà có tiếng, đàn của Tu-la chẳng gãy mà vọng âm vang. Hương truyền ở thiên Chủ, mưa hoa trên Không Vương, thấy điều đó ở Sư! Sư thường dùng lời của Tư Đại sư rằng: "nếu muốn đắc đạo thì đến Võ Đang ở Hành Nhạc". Nhân đó mà tấu trình tại núi Võ Đang xin đặt tên là chùa Thái Nhất Diên Xương, nơi hang Đãng Tử ở núi Bạch Nhai xây chùa Hương Nghiêm Trường Thọ. Mỗi nơi xin thỉnh một bản Đại Tạng kinh, độ tăng hộ trì hai Thánh, ngự ảnh trấn ở Võ Đang, lời vua cho phép Hữu Ty vâng theo thể thức. Tháp Hầu Nhạn tuy chưa trang sức ở trung phong, mái tranh cửa gỗ bèn lấy tên Phạm Vũ, bảng ngời sáng đề biển ngạch, Loan về thước bay, núi sông xán lạn, tăng tục vỗ tay hớn hở vui mừng, tưởng chừng điện vàng có thể mong thành, trông thấy đài ngọc chẳng xa.
Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Sư lại tấu trình xinh độ chư tăng ở các chùa nổi tiếng trong nước. Chọn lấy những vị thông hiểu kinh, luật, thiền pháp đủ số hai mươi mốt vị. Đạo môn nhân áo đẹp áo xấu xiêm không ai chẳng vui lòng, số đầy hàng muôn dùng phước cửu trùng. Sư qua lại Nam Dương, bị vùi lấp trong cảnh giặc dã, cố thỉnh Sư trở lui lánh nạn, nhưng Sư chẳng chịu, gần kề đáp bén mà lời nói, sắc mặt Sư chẳng đổi thay, Sư y cứ mây xanh mà an tọa chẳng khuất. Tên lính khôi soái thấy Sư thiền quán đức hạnh điềm nhã, phong vận cao xa, bèn ném bỏ kiếm bái thỉnh Sư làm thầy. Khi đó, Sư lánh giặc lại gặp giặc thêm đông. Tự nhiên bọn trộm cướp lại đến, Sư bèn bảo: "không thể theo gót người trước". Sư liền chống tích trượng dò đường ven theo sông mà đi. Có người chỉ dấu vết trước đó nhưng chúng kiên quyết bám trụ chẳng lánh, nên đều bị giết chết. Cho nên vân vật khí tượng như có biết trước, còn mà chẳng luận đạo thì đâu có gì sâu xa. Trong Kim tịch chép: "Bát-nhã vô tri nhưng không gì chẳng tri". Chính là nói về điểm đó. Nội đức đã sung mãn, ngoại ứng càng rộng xa. Tự cất giấu châu báu mà người chẳng thể nhìn thấy, đối với hý luận rồng vẫy vùng mà Cúc-Đa chẳng biết, trời Đạo-lợi mưa hoa mà minh triệt chẳng hay. Các bậc tiền hiền lìa đời, chánh nhãn diệt theo. Chẳng đáng buồn sao? Bỗng nhiên Sư phát bệnh rất nặng, các danh y trong nước đều bó tay. Sư tự biết sắp ra đi. Đại chúng thưa hỏi Ngài về hậu sự. Ngài bảo: "Phật có dạy rõ trong kinh giáo, cứ y đó mà thực hành, tôi có gì mà nói ư?".
Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (775), vào lúc giờ Tý ngày mồng 9 tháng 12, Sư nằm nghiêng hông bên phải, xếp chân an nhiên thị tịch. Quan chức sở tại nghe thế liền tấu trình, hoàng triều bày tỏ tâm tình kính thương. Trung Sứ đến viếng điếu cúng cấp nồng hậu. Vua Đại Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Chứng Thiền Sư" có chiếu sắc đón rước nhục thể Sư về an táng tại chùa Hương Nghiêm ở Đãng Tử, là y theo gốc của Sư. Oai nghi thủ lực sở tại chi cấp đủ lễ của việc tang, buồn thương phạm trường, ban sắc thường tu công đức Sứ Kiểm hiệu Điện Trung Giám Sa-môn Đại Tế ở chùa Hưng Đường, sớm tiếp nhận đạo luận, hoát nhiên như vẹt mây, tuy chẳng phải môn nhân mà buồn thương hơn cả pháp tự. Phàm có phô diễn tấu trình gì lên thánh thượng thảy đều ưng thuận.
Sư có các đệ tử tại gia như Khư Phủ Môn Tri Cổ và em là Nội Thường Thị Triều Tấn, cư sĩ Cảnh Siêu, Côn Quý v.v..., còn đệ tử tăng là ngài Chí Thành ở chùa Thiên Phước, ngài Trí Đức ở chùa Quang Trạch, ngài Chủ Đạo, Mật Đẳng ở chùa Hương Nghiêm. Tất cả có đến vài muôn người, đau xót cho Mạt Trù ở Thạch Thất, buồn thương cho tháp cao ở Vân Phong, chuông sớm luống đánh nơi Điện Cao, chùa tối vắng tấu ở Tiền Sơn, các triết nhân bảo rằng mất bạn cùng phỏng theo kính ngưỡng Sa-môn dịch kinh Phi Tích soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư.
Thích Chí Hiền, họ Giang, người ở xứ Kiến Dương, Sư vốn có tâm cứng cõi, còn bé mà đã thành khuôn phép. Sau khi xuất gia lại càng thêm giới phẩm, đượm nhuần tiệm giáo, giữ gìn các căn, tiết chế tu tâm, chẳng trái phạm giới pháp.
Niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (742), Sư đến đỉnh núi Phật Tích, nương tựa phụng thờ Thiền sư Đạo Nhất. Suốt một thời gian gánh nước hái củi không hề ngừng nghỉ, Sư chỉ chuyên siêng năng khổ nhọc. Đến lúc du phương, Sư thấy núi Kim Hoa có hang Xích Tùng là chỗ đất mà Hoàng Sơ Bình gọi là Thạch Dương, rừng rậm đỉnh cao, suối hồ khoảng trăm trước. Sư vui thích ở chỗ ấy tối kỳ đặc, khi đã dừng ở trên đỉnh, thường ngày có ông lão thôn quê mang lúa thơm, rau cà đến cúng dường. Bấy giờ, gặp lúc trời hạn hán, Sư nhìn vào giữa khoảng không, đánh vào mỏm đá, mắng trách các rồng rằng: "Nếu nghiệp rồng mà không thể làm mưa thì Bồ-tát Long Vương sao không vâng lời Phật dạy cứu giúp trăm họ ư?" Ngài gõ đá vừa mới dứt tự nhiên có mưa xuống, cả đàn bà góa cũng mừng vui.
Sau, Sư đến Trường An, các bậc danh công thạc đức xin xây dựng đại tự công đức cúng dường Sư, Sư vẫn điềm nhiên chẳng đoái hoài. Ngày hôm sau, Sư bèn đến Ngũ đài rồi tìm đến dừng trụ chùa Cam Tuyền ở Thái Nguyên. Kẻ tăng người tục cầu học thiền lý tiếp tục tìm đến. Sư không bịnh mà qua đời, vua ban thụy hiệu là "Đại Viễn Thiền Sư" để biểu dương Quyết Đức của Sư.
Thích Duy Trung, họ Đồng, người ở phủ Thành Đô. Thuở nhỏ, Sư theo học ở thiền sư Đạo Nguyên ở núi Đại Quang. Ngựa thần ở trong chuồng tuy dừng nghỉ mà dấu chân bỗng vượt quá ngàn dặm. Sư đến Tung Nhạc gặp được Thiền sư Thần Hội xóa tan mối nghi trầm mặc. Sư ở Đại phương, đi xem thêm các thánh tích. Thấy núi Hoàng Long rậm rạp kỳ lạ, Sư bèn dựng lập am tranh. Đó là nơi cùng khe cuối hang mà có nhiều rồng độc thường phun khí như mưa dầm. Người dân ở núi phần nhiều như bị mắc phải chướng khí độc, các thầy thuốc đều không chữa trị được. Ban đầu Sư không biết, ở một mình ngồi thiền ở nơi vắng lặng, chỉ uống nước suối ăn rau cỏ. Loài quái vật đó đều bỏ đi, dân chúng ở núi không còn bị hại, có người nghe giữa hư không có tiếng nói rằng: "Được Ngài đến ở thì dân tại đây thật lắm may mắn và khiến ta được giải thoát!". nhân đó, mọi người làng quê gọi núi ấy là núi Phục Long, ý nói Sư hàng phục quái vật nên có tên ấy. Vào niên hiệu Kiến Trung năm thứ ba, Sư nhập diệt, thọ bảy mươi tám tuổi, tháng 9 năm ấy dời tháp thờ Sư.
Thích Hy Thiên, họ Trần, người ở xứ Cao An, thuộc Đoan Châu. Lúc mới mang thai Sư, mẹ Sư không ưa thích ăn các vật tanh nồng máu huyết, đến lúc sanh Sư lộ vẻ khác thường, tuy lúc tấm bé, nhưng Sư chẳng phiền sự bảo bọc của mẹ. Đến khi đã khôn lớn nhưng Sư rất lễ phép tự giữ, không hề tỏ vẻ, ngang ngược với người. Tại Hương Đông đó, những người dân lớn tuổi sợ quỷ thần nên lập nhiều dâm từ, dùng đem bò, rượu đến dâng lễ cầu phước làm Thánh vọng. Sư bèn đến đó phá hủy các dâm từ, đoạt lấy bò đem về. Đến năm Sư đủ hai mươi tuổi, các người già trong làng quê không thể ngăn cấm lý lẽ của Sư.
Nghe Thiền sư Đại Giám, các vị tham học từ phương Nam đua nhau tìm về, Sư bèn thẳng đến chỗ. Ngài Đại Giám vui vẻ tự nhiên nắm lấy tay Sư mà cười bảo: "Nếu là đệ tử của ta thì phải giống Hy Thiên". Sư cười nói: "Dạ vâng!" Thế rồi linh cơ bộc phát sáng rực như trời mưa vừa tạnh. Từ đó, trên dưới La Phù qua lại với Tam Hiệp.
Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 16 (730), Sư thọ giới cụ túc tại La Phù. Năm đó Sư trở về núi, mộng thấy cùng với ngài Đại Giám cưỡi một con rùa đi chơi giữa hồ sâu, lúc tỉnh giấc, Sư nghiệm đoán rằng: "Rùa là Linh Trí, Hồ tức là biển tánh, ta và thầy cỡi linh trí, vượt qua biển tánh đã lâu, cái gì là mộng ư?" Sư lại nghe Thiền sư Tư ở núi Thanh Lương là do Ngài Tào Khê bổ xứ, bèn liền vén y mà theo. Bấy giờ tại chỗ Thiền sư Tư, người học tìm đến rất đông, tới lúc Sư đến, Thiền sư Tư mới bảo "Sừng tuy nhiều nhưng chỉ một con lân là đủ!"
Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), Sư mới đến chùa Sơn Nam ở Hành Châu, phía đông chùa đó có một tảng đá, hình dáng như cái đài, Ngài bèn kết am trên đó, thoi đưa dứt gõ, mọi người kính ngưỡng gọi là "Thạch Đầu Hòa-thượng". Ban đầu, ở trong núi có ba vị thiền sư Cố, Tán, Nhượng đều là môn hạ của ngài Tào Khê (Tuệ Năng). Ba vị đó đều nói với học trò của mình rằng: "Sư Thạch Đầu kia thật là bậc Sư Tử hống, chắc chắn có khả năng khiến cho các ông hai mắt được mát mẻ!" Do vậy mà các môn nhân cùng nhau kính mến tìm đến. Hoặc có người hỏi về giải thoát thì Sư đáp: "Ai trói buộc ông?" Người hỏi về tịnh độ, Sư bảo: "Ai làm ngươi dơ bẩn?" Ngài đối đáp rất đơn giản mau chóng, phần nhiều là như thế.
Đến niên hiệu Quảng Đức thứ 2 (765), môn nhân thỉnh Sư xuống Lương Đoan. Từ đó, đứng đầu xứ Giang Tây là ngài Đại Tịch, đứng đầu xứ Hà Nam là ngài Thạch Đầu, qua lại mông lung, mà chẳng thấy hai vị Đại sĩ là vô tri.
Đến ngày 25 tháng 12 năm Canh Ngọ, tức niên hiệu Trinh Nguyên thứ 6 (790) Sư thị tịch, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi ba hạ lạp. Đệ tử Sư là các vị như ngài Tuệ Lãng, Chấn Lãng, Ba Lợi, Đạo Ngộ, Đạo Tiên, Trí Chu v.v... cùng nhau xây tháp thờ Sư tại Đông Lãnh. Tháp hoàn thành ba mươi năm sau, Quốc Tử Bác Sĩ Lưu Kha vốn thông hiểu huyền lý, khâm phục kính chuộng đạo phong của Sư, nên gặp gỡ Ngài Đạo Tiên cùng nhau kể lại đạo hạnh của Sư. Lưu Kha truy tưởng kính ngưỡng tiền liệt, soạn văn bia ghi lại công đức. Khoảng niên hiệu Trường Khánh (821-825), vua Kiến Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Vô Tể Đại Sư", tháp hiệu là "Kiến Tướng".
Thích Thần Hội, họ Thạch, vốn người Tây Vức. Ông nội Sư di cư dời gia đình đến ở tại núi Kỳ, bèn trở thành người Phụng Tường. Sư có chí tánh huyền giải, minh trí từ trong phát ra. Khi Ngọc lớn chưa phát sáng thì chưa biết.
Năm ba mươi tuổi, Sư mới đến đất Thục, đến tham yết Đại sư Vô tướng. Lợi căn đón ngộ, thầm khế hợp tâm ấn. Ngài Vô tướng khen rằng: "Đạo của ta ngày nay là do ông!" Từ đó về sau, đức hạnh sung mãn, trí tuệ sâu rộng, phát triển thành Thiền tông. Đối với cảnh Đại tịch chiếu diệt, Sư vượt chứng lìa niệm, ngay nơi tâm là Phật, chẳng thấy có thân, đương lúc ngưng bế vô tượng đó thì đất cây thành hình chất, đến khi sử dụng diệu dụng thì âm thầm ban giáng mây mưa. Loài quần manh ngây ngô đào luyện tự nhiên biết cảm hóa. Ai thấy được hình mạo thì đổi thành thiện, nghe tiếng thì sửa đổi điều sai trái. Đến chỗ rộng rãi thênh thang chiếu soi sửa trừ chấp buộc. Tùy tánh thượng trung hạ chia ra mà khiến ngộ nhập.
Ngày 12 tháng 11 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 10 (794), Sư thị hiện bệnh rồi an nhiên ngồi kiết già mà thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, ba mươi sáu hạ lạp.
Sa-môn Na-Đề đắc đạo của Sư truyền trao cho tương lai. Đến ngày 22 tháng 2 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12 (796), môn Nhân đệ tử tăng tục dời tòa của Sư đến góc phía bắc bổn viện, trẻ con mến đức của Sư, nức tiếng khóc gào, núi rừng vì thế mà đổi sắc.
Ban đầu, Sư truyền pháp tại Khôn Duy, học chúng thiền khách bốn phương tìm đến rất đông. Bấy giờ, Nam Khương Vương Vi Công Cao tha thiết hướng tâm. Đến lúc Sư thị tịch, ông buồn thương nghẹn ngào, truy ngưỡng. Bởi thô nhập cửa hội, được Thiền yếu của Sư, nên lập bia, tự soạn văn và viết lấy, là sự vinh dự của Thiền tông.
Thích Pháp Khâm, họ Chu, người ở xứ Côn Sơn, thuộc Ngô Quận, vốn là gia đình nho nhã, cha ông của Sư đều là những bậc thấu đạt huyền nho mà ngạo nghễ chốn núi chầm, chẳng chịu ra làm quan. Mẹ của Sư họ Doanh, lúc mang thai Sư thì mộng thấy hoa sen mộc giữa sân, nhân đó bẻ lấy một đóa buộc vào áo. Lúc tỉnh giấc không còn thích ăn dùng các vật tanh nồng máu thịt. Đến lúc sanh ra Sư vừa tròn năm trên đầu mới kết búi tóc thì Sư đã khéo làm các Phật Sư, lập tánh ôn hòa nhẹ nhàng, nhã hảo cao thượng, chuyên cầu tập học kinh sử, theo thi hương cử.
Năm 28 tuổi, Sư chuẩn bị hành trang đến kinh đô theo đường Đan Đồ. Nhân đó, gặp được Thiền sư Tố ở Hạc Lâm. Thiền sư Tố lẳng lặng xét soi, biết Sư có tiết tháo khác người, bèn nói với Sư rằng: "Ta xem ông thần tánh phù hợp ôn hòa chín chắn, vừa sanh đã biết, nếu phát tâm xuất gia sẽ hội ngộ tri kiến của Như Lai". Sư nghe nói mà tỏ ngộ, biết rõ bổn tâm. Thiền sư Tố bèn tự tay xuống tóc cho Sư và nói với đệ tử là Pháp Giám rằng: "Người nầy ngày sau sẽ làm hưng thịnh đạo pháp của ta và làm thầy mọi người. Đến lúc đăng đàn thọ giới, Sư luyện hạnh an thiền, lãnh một lời thẳng tới, vượt chu toàn cả ba học. Từ đó, Sư giã từ Thiền sư Tố để đi về phương nam. Thiền sư bảo: "Ông theo dòng mà đi, gặp kinh thì dừng".
Sau, Sư đến Lâm An, thấy núi cao chót vót ở phía Đông Bắc là nơi phân kinh của Thiên Mục. Tình cờ Sư hỏi người tiều phu hái củi và được biết đó là núi Kinh. Sư bèn dò xét dựng tích trượng tại đó. Thấy mái tranh có giăng lưới gần chỗ Sư ngồi an cư. Bấy giờ trời mưa tuyết mới tạnh, bên cạnh không có khói lửa. Người thợ săn đến lấy các vật đó, rất lấy làm lạ mà tham thở, và đều đốt lưới bẻ cung tên mà dứt bỏ nghiệp sát sanh. Những người kính mến ở dưới núi làm một cái thất nhỏ mà thỉnh Sư ở đó. Phía trước gần núi, có Lâm Hải Lệnh Ngô Trinh xả bỏ biệt thư của ông để cúng dường Sư. Từ đó, Ngài thạnh hành hoằng hóa, đồ chúng tham học rất đông.
Tháng 2 năm Mậu Thân, tức niên hiệu Đại Lịch thứ 3 (768) Đại Tông Duệ Vũ Hoàng đế ban sắc rằng: "Trẫm nghe tại Giang Tả có thiền nhân chứa đạo. Đức tánh như băng sương, tịnh hạnh tợ lâm dã. Trẫm trông ngóng khát ngưỡng vời vợi! Có cảm sẽ thông, đó là niềm vui mừng lớn của đất nước. Xin Hòa-thượng xa đến trung thiên, chấp nhận sự quy hướng của trẫm, chẳng trái với nguyện lực, ứng vật mà hiện hình, nay trẫm sai nội thị Hoàng Phụng tuyên chỉ, đặc trách mang chiếu đến đón rước, mong Ngài chóng giúp lòng trẫm, nắng ấm ngày xuân, Ngài được an chăng?" Nhà vua sai sử đi chẳng nhiều, đến lúc ban lệnh các bản thân cung kính đón rước. Hễ Ngài đến châu huyện nào đều mở tịnh viện để Ngài an nghỉ, quan lại chẳng hứa yết kiến bởi ngại Ngài nhọc tâm lực. Đệ tử chẳng tính được ít nhiều đều vâng tùy theo hầu Ngài". Vua Đại Tông trịnh trọng như thế, đến thưa hỏi pháp yếu, cúng thí rất mực. Quan tư đồ Dương Quản dốc tình vì đạo, xu hạnh vượt hơn người, một lần thấy Ngài ở giữa chúng, khi trở về khen ngợi rằng: "Ngài thật là bậc cao sĩ phương ngoại, khó có thể dùng ngôn từ để diễn đạt". Vua Đại Tông nhiều lần đem lụa nhung lụa mầu dâng tặng, thiết đãi ngự soạn, mà Sư đều khước từ chẳng nhận, chỉ mặc áo vải, ăn rau, và dạy bảo đệ tử khất thực, chỉ dụng hạnh luyện chí, ít muốn biết đủ không hạng nào có thể sánh ví. Vua Đại Tông nghe thế càng thêm kính ngưỡng tôn trọng, nói với Thiền sư Nam Dương Tuệ Trung rằng: "muốn ban tặng Ngài một tên gọi". Bèn viết chiếu tay tặng hiệu là "Quốc Nhất".
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 5 (789), vua Đức Tông sai sứ mang ấn thư tuyên dương công lao của Sư và mừng tặng rất nồng hậu. Ngài trụ tại kinh đô, đến khi trở về Chiết Giang, nhà vua ban lệnh quan lộc Vương Công tiết Chế Châu Ấp, các bậc hiền danh giữ lễ làm đệ tử. Tướng Quốc Thôi Hoán Bùi Tấn Công Độ Đệ Ngũ Kỳ, Trần Thiểu Du v.v... Từ đất Hoài đi về phía Nam, phụ nữ đến xin lễ, đều gọi là Công Đức Sơn. Qua năm sau (790), Mục Dương Nhan thỉnh Sư ra trụ tại tịnh viện chùa Long Hưng ở Châu Trị, để lánh nạn hủy phá sơn phòng của Hàn Hoảng.
Đến tháng 12 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 8 (792) Sư hiện tướng bệnh. Dạy răn giáo pháp rồi thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi hạ lạp.
Vua Đức Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Giác".
Các đệ tử do Sư độ như Thiền sư Sùng Tuệ, Thiền sư Nhan ở núi Đại Lục, Thiền sư Ngộ ở núi Hạnh, Phạm Dương đến tham học, Thiền sư Quảng Phu ở núi Thanh Dương v.v... bấy giờ thỉnh lễ an táng, có các đệ tử như Ngài Thật Tướng, Thường Giác v.v... thỉnh toàn thân nhục thể Sư an trí, xây tháp thờ tại tịnh viện Long Hưng.
Ban đầu, lúc Sư mới đến ở, các loài chim thú hung dữ tại núi dần dần thuần quen. Có con thỏ trắng, hai chân quỳ giữa gậy và giày của Sư. Sư có nuôi một con chim le, mà nó không ăn hại các loài vật, nó theo Sư như bóng theo hình chẳng lúc nào rời. Đến lúc Sư vào Trường An, nó kêu suốt ba ngày rồi chết. Nay phần mộ của nó hiện còn tại đỉnh núi. Thân tướng của Sư khôi ngô cao ráo, thân cao đến bảy thước, cốt cách khác lạ. Hiện tại trong tháp có đắp họa tôn dung Sư ngồi dựa ghế như lúc còn tại thế. Dân chúng dòng họ Tiền ở Hàng Châu vì nước nên vào năm Nhâm Tuất (902) giữa niên hiệu Thiên Phục (901-904) phản đồ Hứa Tư làm loạn, binh sĩ lẫn lộn tuyên truyền hủy thành phá ngôi tháp đó, cho rằng ở trong đó có vật báu. Lúc đào phá, thấy hai cái vò úp đậy trên dưới, nhục thân Sư vẫn còn mà tóc dài phủ mặt. Binh lính đậy lại mà bỏ đi. Thứ sử Vương Nhan viết văn bia thuật lại đức hạnh của Sư. Tỷ Bộ Lang Trung Thôi Nguyên Hàn, thứ sử Hồ Châu Thôi Huyền Lượng cố cùng Lý Cát Phụ Khâu Đan, mỗi vị đều có làm bia kệ.
Thích Đạo Thọ, họ Văn, người ở xứ Đường Châu. Thuở thiếu thời, Sư có biện trí trầm tĩnh thanh thoát, đam mê kinh sách, không hề lười biếng, sống ẩn dật lánh đời. Tình cờ Sư gặp một vị tăng đốc thúc dẫn dụ, Sư bèn phát nguyện xuất trần, tự than những năm gần đây chẳng mê lầm, cầu pháp chậm lâu! Sư lễ ngài Tuệ Văn tại viện Đại Quang ở núi Minh Nguyệt thuộc trong Bổn Bộ, ngài Huệ Văn vì Sư mà trao truyền đạo nghiệp, Sư được cạo tóc xuất gia. Hai năm sau, Sư thọ giới cụ túc, rồi mới du phương hướng đạo. Ở Thiên Thai hay Nam Nhạc không nơi nào Sư chẳng đến. Sau Sư trở về Đông Lạc, gặp được con cháu ngài Thần Tú, như hoa sen nở, thông đạt an tĩnh.
Ngài đến Tam Phong thuộc Thọ Châu, dựng am tranh mà ở, thường có người nhà quê ăn mặc chất phác, nói năng khác lạ. Ngoài sự nói cười ra, có hóa làm hình Phật, hình tiên hoặc Bồ-tát, Lahán hoặc phát ra ánh sáng thần, hoặc lộ bày âm hưởng, như vậy suốt mười năm. Học chúng thấy vậy mà chẳng lường biết được manh mối. Sau đều lặng mất. Sư bảo đại chúng rằng: "Kẻ nhà quê ấy tạo nhiều hình sắc kỹ lưỡng để huyễn hoặc lòng người, chỉ làm tiêu hao, đối với lão tăng chẳng thấy chẳng nghe. Kẻ ấy kỹ lưỡng hết lòng, còn ta chẳng thấy chẳng nghe thì vô tận, đó là làm điều tà ngụy nhọc tâm mà vụng về. Kẻ đó tự biết vậy nên thu xếp hổ thẹn mà đi, nếu có truy tìm cũng không thấy dấu vết".
Những năm đầu niên hiệu Bảo Lịch Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi. Tháng giêng năm sau, dời vào tháp.
Liên quan thử bàn:
Trời gieo mọi vật, vật loại đắp đổi, cùng số đạt biến, nhân hình mà dời đổi. Đó gọi là hóa, là huyễn. Biết được huyễn hóa chẳng phải là dị sanh, mới là cùng tận huyễn hóa. Ta cùng các ông đều là huyễn, suy ở nơi thật thì huyễn hóa, đặt hư vào thì huyễn hóa thật. Lý hư thật chẳng ngang bằng nhau, chẳng có trước sau của tự ngã. Thể đạo vô tâm, ta và vật bình đẳng, nên Phật dạy: "Tất cả tướng thấy, chỉ là thấy tâm". Thêm nữa: "Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng thì thấy được Như Lai". Ngài Đạo Thọ có điều đó.
Thích Tuệ Không, họ Thôi, người ở xứ Giang Lăng, thuộc gia đình nho nhã, dịch diệp anh nhuy. Cha của Sư trấn nhậm huyện Linh Bảo thuộc Thiểm Phục, Sư khó nhọc gian nan thiên thuộc, kiên trì xin vào cửa Phật, để báo đáp ân nặng bú mớm. Sư bàn mới đến dưới pháp tịch của ngài Hằng Siêu ở chùa Hồi Loan và được trao cho kinh nghiệp, ba năm tụng thông. Tuổi còn nhỏ mà đã thông minh bén nhạy. Nhân đó, Sư đến thiếu thất ở Tung Sơn, được gặp thiền Hội của Thiền sư Tịch, tự nhiên như khai ngộ. Sư bèn trở về Tam Phong, ở đất Tiên Chưởng thường có các đạo lưu luận đạo đến sắp tối mới tan, không chỉ qua một lần, mà các châu soái nguyên công rất biết quy hướng, thường thỉnh Sư. Nhưng Sư thường hay lấy cớ bị bệnh mà từ khước, hoặc có lúc họ đến thì Sư lên giường nằm.
Vua Đại Tông (763-780) nghe đạo hạnh của Sư, bèn ban sắc chiếu dời Sư về trụ tại chùa Quảng Phước ở kinh đô. Cả triều đình công khanh đều dốc lòng kính tín. Sau Sư thị tịch tại chùa, thọ bảy mươi tám tuổi. Vào ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Sửu, tức niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), toàn thân vẫn bền chắc mà dời vào tháp.
Kế, có Ngài Thích Nguyên Quán ở Đông Đài, thuộc Nam Nhạc, Sư họ Viên, người ở xứ Trường An. Cha của Sư là nhân viên Phủ Hà Trung. Sư có người cậu xuất gia làm Sa-môn rất dốc chí hoằng đạo. Thấy Sư tuy tuổi nhỏ mà vẫn có tuệ phong, thái độ vẻ như ông Tú ông Cử, có khí độ thành nhân. Nhân đó khuyên Sư xuất gia, Sư bèn đến chùa Hưng Thiện, tụng kinh thông suốt. Năm năm sau được độ, mới học đến hai bản Luật Bộ, Câuxá.
Sau, Sư đến các Thiền hội, như tỉnh cơn say cũ. Sư hướng về Hành Sơn đi đến Đông Đài và dừng ở đó. Đạo Sư đề xướng, thầm có chỗ cảm, thường được các vị thần thầm dâng cúng thì tùy chỗ tăng chúng cần, không nghe thiếu thốn gì. Bỗng một hôm, thần hiện hình đến lễ bái mà thưa rằng: "Con vốn là Đàn Việt ở núi này, người thường đưa lễ bạc cúng dường chính là con". Sư bèn hỏi: "Ngươi do nghiệp gì mà phải làm thần như thế?" Thần đáp: "Con, đời trước thường tự xưng là tri thức mà thể ngộ chẳng toàn, vọng nhận của tín thí, nên bị làm thần như thế này, tình cờ gặp Ngài đến ở đây, con dừng dâng biếu các thứ lương thực thô giúp nguyện riêng. Đến nay đã trọn hai mươi năm, đã được siêu độ, nên con đến đây để từ biệt Ngài!"
Đến lúc hóa duyên đã mãn, Sư bèn phó chúc Thiền đồ mà thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, ngày mồng 2 tháng 10 niên hiệu Thái Hòa thứ 4 dời vào tháp.
Thích Sùng Khuê, họ Khương, người ở xứ Giáp Thành. Gia đình nối dõi Nho nhã, đời đời áo trâm. Từ niên hiệu Thiên Bảo (742-756) về sau, bởi do nạn loạn của An Sử xâm bại vương lược, gia đình Sư dời đổi tản mác. Cha của Sư chuyển nghề buôn bán quen đường xu lợi đến xứ Củng Lạc thì chết bởi bọn phản nghịch. Sư bùi ngùi tự trách rằng: "Thuở nhỏ thì chẳng gây tạo, nay còn sống sót thật buồn thương. Sư bèn nghĩ muốn xuất gia.
Đến năm 18 tuổi, Sư kinh nghiệp làu thông được độ, bỗng nhiên có chí mây nước bèn đi đến Nam Nhạc. Sư dừng ở đó vài năm rồi trở về Lạc Nam ở núi Từ Mâu, nương tựa chùa Thê Hà. Sư đã lên Kinh Môn, tiếng tăm đạo hạnh vàng khắp, gặp Tán Hoàng Lý Công Đức Dụ Liêm hỏi là nước nào, rồi mới thỉnh đến chùa Từ Hòa, chỉ một lần giao tiếp nhã đàm, như dạo chơi ngoài hình khí. Sư nói: "Tôi có nỗi buồn thầm kín, chẳng phải là người ở chốn Hầu Bá tụ lạc!" Năm sau Sư bèn đến Trùng Để, trụ chùa Nhạc ở Tung Thiếu.
Năm Mậu Thân (828) thuộc niên hiệu Thái Hòa (827-836) tại Lạc Kinh nắng hạn, chỉ ở Nhạc Trung mưa tin nôi nhau, có người cho rằng "do đức hạnh của Sư động đến thần rồng nên mưa như vậy". Đến đầu niên hiệu Khai Thành (836) Tán Hoàng Công Nhiếp lãnh đứng đầu trăm quan thỉnh Sư đến trụ chùa Long Hưng ở Lạc Kinh để giáo hóa đồ chúng. Kẻ tăng người tục ở hai kinh đô qua lại hỏi đạo. Đàn Việt cúng thí tấp nập. Điểm chính của Sư nói pháp là đề xướng đạo nghĩa của ngài Thần Tú và có nhiều người được lợi ích, tỏ rõ bản tâm. Bỗng nhiên, Sư nói với đại chúng là từ biệt, Sư vào phương trượng mà thị tịch, thọ tám mươi sáu tuổi. Bạch Thị Lang soạn văn bia cho tháp. Đến ngày 10 tháng 8 năm Tân Dậu, niên hiệu Hồi Xương năm đầu, Sư tự nói "đi học làm Phật cứu độ chúng sanh". Bỗng nhiên, Sư đến dưới pháp tịch của ngài Đại Trí ở thiền viện Vinh Quang, cầu xin được độ. Sư rất nghiêm cẩn, khoảng sau khi Sư tụng học kinh pháp, thọ giới cụ túc, bèn đến Lạc Dương tham vấn thiền pháp, Sư thấu triệt không nghi ngờ. Ngài từ giã thầy tham quán các phương. Đến núi Đô Lương ở Hoài Nam, cất am tranh để ở.
Thái Thú Vệ Văn Khanh mời Sư đến trụ chùa Trường Thọ ở Châu Trị, Vệ Hầu hỏi Sư rằng: "Phật pháp ở tương lai thạnh suy thế nào?" Sư đáp: "Hễ là vật chân thật thì không có chấn chỉnh, từ xưa đến nay, qua lại theo vết cũ, các pháp hữu vi, bốn tướng đổi thay, pháp sẽ bị vùi lấp, vua quan kiểng chân có thể thấy". Sư dự ghi việc võ tông phá hủy giáo pháp.
Sư thị tịch năm chín mươi ba tuổi, môn nhân đệ tử xây tháp lập bia. Đến ngày mồng 7 tháng 9 năm Giáp Tý, tức niên hiệu Hội Xương thứ 4 (844) nhập vào tháp.
(chánh truyện có mười sáu vị, phụ có tám vị).
Thích Đạo Nhất, họ Mã, người ở xứ Hán Châu. Hoa dụ cho tánh chẳng trồng ở cao nguyên, dùng sóng để biện rõ thức, phát sáng từ biển lặng. Khi Sư sanh ra đã chững chạc, khi đi nhìn thẳng như Hổ, lưỡi dài quá mũi, vân chân chữ lớn. Căn trần tuy đồng ở pháp thể, mà tướng phô bày khác với huyễn hình. Đã nói: Ở tại cảnh phàm cũng ứng giáo tùy cơ. Sư tuy tuổi còn thơ mà chán nhìn vết trần, thoát lạc ái thủ, bước đi điềm nhiên thư thả. Sư xuống tóc xuất gia với Hòa-thượng Đường ở Tư Châu, thọ giới cụ túc với Luật Sư Viên ở Du Châu. Bày yếu chỉ oai nghi, hiểu manh mối khai chế, giặt y luyện vàng quán môn đều đắp đổi. Đại Long Vương tượng ràng buộc thì khó, quyền biến vô phương, có duyên có đợi.
Sư nghe ở Hành nhạc có Thiền Sư Hoài Nhượng, tức trước sau của Lục Tổ Tuệ Năng. Từ đó, Sư ra sâu hiểm của Mâu Nga ngọc lũy, đến chốn u tịch của Linh Quế Trinh... Một lúc thấy được ngài Hoài Nhượng, tự nhiên không ngằn mé, đến cửa chẳng đợi ba lần cầu thỉnh, làm thì ngang bằng so với bảy người. Bởi vì, pháp lìa văn tự còn truyền Đố lộ, Thánh không phương sở cũng gá Thanh Nguyên. Sư bèn đến Lâm Châu, dừng ở hai núi Nam Khương và cung công. Chỗ Sư đến không ngăn trệ, tùy nhiếp mà hóa. Vốn trước đây, ở ngọn núi này quỷ mỵ trú ở rất nhiều, mọi người chẳng dám đến gần. Nếu ai phạm phải thì thân bị cháy chết đứng. Đang lúc Sư trụ ở đó, có vị thần mặc áo tía mũ đen đến lễ bái thưa rằng: "Xin xả thí đất này để làm đạo tràng thanh tịnh".
Nói xong, không thấy nữa. Từ đó, các loài cầm thú độc dữ hung tợn đổi tâm thuần nhuyễn, những kẻ tham trái oán hờn trở lại thờ phụng khiêm nhường. Gia đình Quận thú ở Hà Đông kính phụng chánh tín, tự thân siêng năng cầu học, ban trọng anh minh giảm quý, cùng khả năng trí thuật tuệ giải. Thường đến Hải Hà thâu gộp thì núi sáng trăng soi chiếu. Tâm cùng cảnh vắng lặng, Đạo tùy ngộ sâu. Người tự rõ tại khắp mọi vật, người rộng bày cúng thí mong cứu giúp nhiều. Đang trú ở không sao tự nhiên Bùi Công dời đến trấn nhậm ở hai mục Lư Giang và Thọ Xuân, ở đó tiến tu, chỉ chuyên tu tinh tấn dẫn hóa chẳng sa đọa.
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), vua Đại Tông ban ân mưa móc, sắc chỉ Sư đến trụ tinh xá Khai Nguyên. Khi đó, sư là người luôn dẫn đường, nghe phong cảnh mà kính mến. Vì đất ở Chung Lăng, trấn giữ vùng sâu, chính sách có đổi dây của trụ, người cùng một nguồn. Thiền Tông định chỉ ban điềm lành thì lắm thuận mà chẳng trái. Sư trụ ở đó suốt mười năm. Như mặt nhật soi sáng đến Phù Tang, trước chiếu trên đảnh núi cao, mây nổi khắp nơi chốn, mưa lớn đều thấm nhuần.
Vào niên hiệu Kiến Trung (780-784), vua Đức Tông có ban chiếu chư tăng trở về chốn cũ, Nguyên Nhung Bao Công giữ kín chẳng đưa đến. Đến năm Mậu thìn (788), Sư sinh hoạt vẫn như thường, bỗng nhiên đòi tắm gội xong, an nhiên ngồi kiết già mà thị tịch, thọ tám mươi tuổi, năm mươi hạ lạp.
Ban đầu tại Kiến Xương, ở ven núi tên là Thạch môn, chung quanh toàn là hang hố hiểm hóc, ở bên trong bình thản u tịch riêng từ lâu. Ở đó, tìm củi lửa đến kiếp số như bụi nhỏ mới gặp, chẳng phải điềm tốt lành luận bàn gò đất linh Á Tướng quán sát Sứ Lũng Tây Lý Công, phân gởi nghiêm lệ, vốn là chỗ vâng theo. Sư đến đó dạy dỗ đồ chúng. Nương tựa suy nghĩ giúp lý, bèn dùng tạo phước, đạo ở Quán hóa, tình còn lúc sắp qua đời. Thôi bỏ cờ xí của chư hầu, vốn giúp phướn lọng của Thích Tử. Khi đó, mặt nhật biến đổi sáng soi, người truy hối tấp nập xa gần, mái chèo lấp nước mà làm thành đất liền, đuốc sáng thâu đêm trở lại thành ngày. Thích tử trở lại sơn môn, tài thí như chứa nhóm, Tăng chúng nơi thôn dã cúng cơm thơm đều xông ngát. Từ xưa kia, ngài Hoa Nghiêm quy chân tại Tung Dương, ngài Thiện Đạo nhập tháp tại Tần Lãnh, xem lễ tiễn đưa, người đông nghẹt Quốc Thành. Buồn thương tiễn đưa đông đầy, nay là lần thứ ba.
Lúc đầu, ở trong rừng, sư kinh hành, ngồi trên tòa khai thị, bình đẳng giảng pháp chẳng phô bày ở bốn khoa. Sư an nhiên bảo đến tháng 2 sẽ thị tịch. Đó là nói điềm trước lúc thị tịch. Lúc Sư hiện bệnh, răn dạy sau khi tịch nên an táng cách xa núi, phàm trăm việc phan duyên xin giữ lại gần thành, nhưng cuối cùng đều vâng theo thể thức đã chỉ bày. Đó lại nói về Hối tích vốn thật. Lúc sắp đem, linh khám trở về thì nước chảy xiết, sức người không đủ để giữ thuyền đi chậm, mưa mỡ chợt tuông xuống từ giữa khoảng không xa vời, khắp cùng khe biến thành sâu thẳm. Đó lại là nói về Thần thông ứng cảm. Duy nhất biết chân tại không, vô ngã đối với hữu, cả hai điều đó đều lìa, nương gá vào nhất thừa, chỉ bày sanh tử, người có khả năng thành Phật, biện rõ tà chánh, ma cũng tợ thánh. Hiện thân chẳng lưu lại ở bậc Đại sĩ, phụ thủ bỗng ẩn nơi triết nhân. Sư có các đệ tử như ngài Trí Tạng, Hạo Anh, Sùng Thái v.v... kính vâng giữ lễ an táng như Sư dạy bảo. Vua Hiến Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Tịch Thiền Sư". Đan Dương Công Bảo Cát làm bia ghi lại, Quyền Đức Dư làm bài minh ở tháp. Nay, ảnh đường tại huyện Hải Hôn vẫn còn.
Thứ nữa, ngài Thích Trí Tạng ở Tây Đường, thuộc Kiền Châu đời Đường. Sư họ liệu, người ở xứ Kiền Hóa. Vừa mới sanh mà Sư có tướng kỳ lạ, khí phách kỳ vĩ.
Năm tám tuổi, Sư xuất gia theo thầy, Đạo hướng xa, theo ngài Đại Tịch dời đến ở núi Cung Công. Sau, Sư đến tham yết Thiền Sư Quốc Nhất tại Kính Sơn, Sư cùng đàm luận chu toàn, mọi người đều đổi cách nhìn về Sư. Chúc Nguyên Nhung Lộ Tự cung thỉnh Sư Đại Tịch trụ tại phủ, Sư mới trở về lại quận, được ngài Đại Tịch trao truyền áo nạp Cà-sa. Bấy giờ, Á Tướng Lý Công Kiêm, Quốc Tướng Tề Công Anh, Trung Lang Bùi Công Thông đều dốc lòng thuận giáo.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9 (814), ngày mồng 8 tháng 4, Sư thị tịch, thọ tám mươi tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Đến lúc dời nhập tháp, quan gián nghị Đại Phu Vi Thọ truy hỏi ngôn hạnh của Sư ghi chép vào Đồ Kinh. Thái Thú Lý Bột xin Tán dương đức hạnh Sư. Đến niên hiệu Trường Khánh năm thứ nhất (821), vua Hiến Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Giác Thiền Sư".
Thích Chí Mãn, họ Khương, người ở xứ Lạc Dương. Thuở nhỏ, gặp lúc trong nhà thỉnh Sa-môn thiết bày Phật hội, Ngài thích ý chẳng thôi, bèn đến chùa Long Hưng ở Dĩnh Châu xin xuất gia.
Nghe pháp tịch của Thiền Sư Thần Hội dưới Lạc Đô, có đông nhiều học chúng, Sư tìm đến đó và được rõ tâm yếu. Sư đi về phương Nam đến suối Linh Thang ở Hoàng Sơn, cất am tranh mà ở. Sau, mọi người khắp làng quê Hoàng Liên thấy Sư mà mừng vui hớn hở. Sư hỏi: "Đây là nơi nào?" Mọi người đáp: "Đây là núi Hoàng Liên thuộc Tuyên Thành. Xin Sư trụ ở đây, ngại gì hổ báo làm hại". Sư bảo: "Hổ cũng có tánh Phật". Sư bèn đốt hương cầu nguyện chú yểm nó, do đó nạn hổ báo chấm dứt và trở thành một thiền viện lớn. Sau, Sư thị tịch, thọ chín mươi mốt tuổi. Niên hiệu Vĩnh Trinh thứ nhất (805) nhập vào tháp.
Thích Quang Dao, họ Chu, người ở xứ Bắc Kinh. Thuở nhỏ, Chung Đồ lục đều chẳng hơn tình,
Sư bèn phát chí xuất gia, bỏ các trường giảng vào chốn thiền lâm, hễ nơi nào có âm hưởng Tông Sư thì Sư đều đến tham yết. Cuối cùng, gặp được Thiền sư Thần Hội như vén bỏ màng mắt, Sư thấy suốt mười phương. Sau, Sư đến núi Mông ở Nghi Thủy, kết cỏ thành am, an nhiên cư trú. Dân chúng Hội Phí đều theo Ngài hóa độ. Bấy giờ, Thận Ấp Đại Phu biết Trọng Thủ dựng lập Thiền cung. Thứ nữa, Duyện Châu Tiết Sứ Vương Liêu Thượng Thư đích thân đến thỉnh Sư vào châu hành hóa. Đặc tấu biển ngạch đề là "Bảo chân", học chúng mong mỏi đượm nhiều lợi ích. Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 2 (807), Sư thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi.
Thứ nữa, có ngài Thích Đạo Kiên trụ chùa Từ Ân ở Tương Châu, thời Tiền Đường. Sư họ Vương, người ở xứ Đan Dương. Ban đầu, Sư phát tâm xuất gia với Thiền Tổ Tuệ trung ở núi Ngưu Đầu. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766), Sư đến ẩn cư tại núi Nam Tuyền, thuộc Trì Châu. Sau, Sư đến Tương Hán, ghé chùa Từ Ân. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ nhất (806), Tướng Quốc Yên Công trấn giữ tại Hán Nam rất kính trọng Sư, thường ân cần hỏi đạo, cúng thí tấp nập, xây chùa ở ngoài ải Phụng Lâm, thỉnh Sư trụ ở đó. Qua năm sau (807), Sư thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi.
Thích Linh Thản, họ Võ, người ở xứ Văn Thủy, thuộc Thái Nguyên, là cháu của Thái Hậu Võ Tắc Thiên. Cha của Sư húy là Tuyên, làm huyện lãnh Lạc Dương. Mẹ của Sư thuộc dòng họ Hạ Hầu. Khi mới mang thai Sư, bà mộng thấy vị Thần tăng trao cho chiếc gương báu; trong ngoài sáng sạch, bảo rằng: "Tôi gởi bà vật này, hãy khéo giữ gìn!" Đến lúc sanh Sư, toàn không thấy khổ.
Năm bảy tuổi, Sư tụng đọc, học tập thông rành, hợp với việc Đồng Tử. Năm mười ba tuổi, Sư theo Quan Lữ lên Thái tử Thông Sự xá nhân, cứ như vậy, Sư vui học không ngừng nghỉ. Sách kinh tam giáo, Sư càng thêm hiểu đạt, nhưng Sư thường than trách là nhà hư nát! Bèn phát chỉ muốn vào không môn, tự lương Đại thừa Sư đã hoàn bị, cuối cùng đến cảnh giới Niết-bàn.
Bấy giờ, Thiền Sư Thần Hội hoằng hóa trụ chùa Hà Trạch ở Lạc Đô rất hưng thạnh, mới ngăn ánh sáng của Phổ Tịch, dần chìm đạo của Thiền Sư Thần Tú. Sư bèn đến đó tham yết. Ngài Thần Hội thi thiết khéo dẫn dụ, chóng thấy rõ bổn tâm, im lặng chấp nhận, ung dung gìn giữ, cha mẹ chẳng thể thay đổi ý Sư, gió tốc bay chẳng buộc được. Đầu cuối nghiên mài, Sư phá được nghi trệ.
Niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (742), ngài Thần Hội gọi Sư bảo rằng: "Ta có một câu. Đây là tổ tương truyền, đến đời ngài Tào Khê, ngài Tào Khê (Tuệ Năng) lại phó chúc cho ta. Ngươi khéo lắng lòng ghi nhận. Ta đây sắp có lưu nạn!" Sư bèn từ giã mà du phương. Sau đó không lâu, quả thật có chiếu sắc dời đổi ngài Thần Hội đến Dặc Dương. Sư bèn đến chùa Phù Tra ở Lư Châu, đọc xem Đại Tạng kinh. Sau, Sư nghe Quốc Sư Trung từ Nam Dương có chiếu mời vào. Niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (770). Ngài theo lễ bái tham hầu. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Sư muốn trở ra ải. Quốc sư Trung Tấn tâu với vua Đại Tông rằng: "Người này (ngài Linh Thản) là đồng môn của bần đạo, đều là đệ tử của Thiền Sư Thần Hội". Vua Đại Tông sắc tặng Sư danh hiệu là "Đại Bi", kiêm mang "mặc sắc" đến hành hóa ở Lương Viên. Bấy giờ, Tướng Quốc Điền Công Thần Công cúng dường quanh co. Vừa gặp Duy Dương lục hợp, Sư bèn than rằng: "Đại Pháp Lăng Di" bỗng nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: "Mở tâm địa lìa thấy Bồ-tát, như tượng Văn-thù, bảo rằng "ấn nghiệm cho ngươi", khiến người cổ để tìm chưởng án". Xem ở bốn ngón tay có vết sẹo đỏ. Vết ấn đó thường hiện.
Thêm nữa, lúc Sư trụ núi Kim thuộc Giang Trung ở Nhuận Châu, nay là chùa Trạch Tâm. Phía Bắc núi, có một hang rồng, thường nhả ra khí độc như mây. Nếu có ai đến gần, thì thường mắc bệnh hoặc đến nỗi chết. Sư đến ở thì mây đem tự nhiên mất dấu. Kế nữa, lúc Sư cất am tại núi Định ở Giang Âm, bỗng nhiên nghe có tiếng khen ngợi, xem ra là hai con rùa trắng, Sư bèn trao truyền quy giới cho nó. Lại thấy hai con rắn trắng lớn, thân dài mấy trượng, Sư cũng sám hối và trao truyền giới pháp cho nó. Thế rồi, Sư bỏ sang núi Ngô Hưng, xây dựng một lan-nhã. Có ba người đàn ông mặc áo màu tía dệt vàng, từ từ đi bộ đến khen ngợi rằng: "Đạo tràng chỉ có điều lành!" Dân chúng trong thôn xóm, nhiều người phá bỏ võng lưới.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 5 (810), Tướng Quốc Lý Công Lịch đến nhậm chức tại Quảng Lăng, dùng pháp nghiêm ngặt, hành động thẳng thắng, quyết xét thiểu Ân, vừa trông thấy Sư, ông càng thêm trịnh trọng, mời Sư đến trụ chùa Huê Lâm. Trong chùa có phần mộ Tướng Quân Trương Liêu, Tăng chúng hay bị Quỷ vật làm mê loạn. Khi Sư đến ở thì tự nhiên không còn hiện tượng gì cả. Thêm nữa, dân chúng ở Dương Châu phần nhiều hay bị hoạn nạn mê hoặc bởi sơn yêu mộc quái, Sư đều ngăn trừ hết. Mọi người tranh nhau quy hướng kính ngưỡng.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10 (815), bỗng nhiên thấy có hai người Hồ, nói từ nước Quy-tư đến, vì ở đó không có chí giáo nên từ xa lại cầu thỉnh Hòa-thượng đến mở mang rộng khắp. Qua ngày 13 tháng 5 năm sau (816), Sư dự lễ húy kỵ ở chùa Hà Trạch, xong Ngài bảo với tăng chúng: "Tôi sắp đáp lại lời thỉnh mời ở phương xa". Tới tháng 7, Sư hiện tướng bệnh, sang tháng 9, lúc sắp thị tịch, Sư lại dự bảo như vậy. Đến ngày mồng 8 tháng 9, Sư an nhiên thị tịch. Dời tháp đến phía nam sườn núi phường Tuần Địch, thuộc phía tây Dương Châu. Duyện Trịnh Đảm ở Việt Châu xây tháp. Sư thọ một trăm lẻ tám tuổi, tám mươi bốn hạ lạp.
Sư là pháp tôn của Tổ Sư Tào Khê (Tuệ Năng), là đệ tử Ngài Hà Trạch (Thần Hội).
Thích Đạo Thông, họ Hà, người ở xứ Lư Giang. Thuở Sư còn bé, lầm lì ít nói. Thấy hình tượng Phật, thì chiêm ngưỡng đảnh lễ, ngâm ca khen ngợi không thôi. Do Cha của Sư làm chức quan ở Nam An, thuộc Tuyền Châu, nên Sư bèn xin xuống tóc, mặc pháp phục tụng kinh, được hợp cách ban sắc độ Sư. Khi đó nhằm niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (742).
Bấy giờ, Thiền Sư Đạo Nhất bắt đầu nhóm chúng giáo hóa tại núi Phật tích ở Kiến Dương. Sư trụ ở đó. Ngài Đạo Nhất trụ ở núi Cung Công, thuộc Nam Khương, Sư cũng theo đến như hình với bóng. Nhưng Sư phát tâm du phương, tìm đến các xứ Ngô Việt, các núi hang ở Thiên Thai, Tứ
Minh không chỗ nào sư chẳng lặn lội qua, đến lúc chống gậy trở về cửa núi Phòng Đàm, ở Giang Tây, Sư gắng tâm lo việc chúng tăng, chẳng sợ khổ nhọc.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), Sư đến Nam Nhạc, thấy Thiền sư Thạch Đầu đang chọn tơ thêm mầu đỏ lam. Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 4 (788), Thiền Sư Đại Tịch sắp quy hóa, gọi Sư, bảo rằng: "Đá ngọc nhuộm núi đẹp đẽ, rất có ích cho Đạo nghiệp của ông, nếu gập thì nên dừng ở tại đó!" Sư nghe lời ấy, đồng như lời sấm, rất không hiểu rõ. Mùa thu năm đó, Sư và Thiền Sư Tự Tại ở Phục Ngưu đồng đến Kinh Lạc. Lúc trở về đến phía Tây Đường Châu, có núi đỉnh cao chót vót rừng rậm, bốn bên chẳng có khói lửa, thật là có cảnh thú ngoài trần, Sư bèn hỏi người trong làng và được biết núi đó là núi Tử Ngọc. Sư mới nhớ lại lời huyền ký của ngài Đại Tịch, và tự nhủ "Ta hợp ở núi này!" Sư bèn leo lên chỗ cao ngất, thấy giữa núi có tảng đá vuông, màu sắc đỏ tía ngời sáng, Sư khen ngợi rằng: "gọi đây là Tử Ngọc, hợp với lời huyền ký, lời của Tiên sư chẳng dối dự ghi!" Sư bèn dựng tích trượng, mở túi, đồ chúng tham học đua nhau tìm đến. Ban đầu thì dựng tranh làm nhà. Thứ Sử Lý Đạo Cổ có ý dựng lập thiền cung.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (813), đệ tử Kim Tạng ra tham lễ Thiền Sư Hoài Hải ở núi Bách Trượng. Lúc trở về gặp Sư, Sư bùi ngùi đổi sắc, bảo: "Ông đến đó ư? Núi này đã có người làm chủ rồi!" Nói đoạn, Sư kéo tích trượng đi đến Tướng Châu. Tăng tục đều đón rước. Đến ngày 15 tháng 7, tự nhiên Sư không bệnh mà thị tịch, hưởng thọ tám mươi ba tuổi.
Có thuyết nói rằng: "Cố Tướng Quốc Vu Địch rất quy hướng tâm về Sư, Thượng Thư Lý Cao vô cùng lễ trọng.
Thích Hoài Huy, họ Tạ, người ở Tuyền Châu, Sư sớm gieo trồng gốc lành sâu dày, chỉ xuất trần cao xa. Mãi đến lúc tấn đàn thọ giới cụ túc, Sư mới mến chuộng vân du.
Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (785), Sư đến lễ yết Thiền Sư Đại Tịch ở Hồng Châu, chóng tỏ tâm yếu. Bấy giờ, tại Bành Thành Lưu Tế đức rộng, Sư cùng suy chứng. Sau, Sư ẩn cư tại núi Thư Lai, kế đến ngụ chùa Linh Nham ở Tề Châu. Lại dời sang núi Bách Gia, đá suối u kỳ, khổ cho thiền giả thưa hỏi rắc rối, Sư bèn lên núi Trung Điều, thực hành Thiền pháp. Những người vì pháp, men theo dấu vết mà đến. Người xứ Bồ-tân, Sư đều cảm hóa họ.
Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 3 (808), vua Hiến Tông ban sắc chiếu mời Sư đến trụ tại viện Tỳ-lôgiá-na chùa Chương Kính. Trước đây, vào niên hiệu Đại Lịch (766-780), vua Đại Tông ban sắc mời các bậc Danh tăng Đại Đức tinh thông ba học đều ở đông đúc trong đó. Thường đến ngày Khánh Đản, thì đến đó thiết trai cúng dường Độ tăng. Sư đã trụ ở Thượng Viện vì mọi người giảng dạy thiền yếu. Cả triều đình quan liêu danh sĩ hằng ngày đến thưa hỏi. Vua Hiến Tông lại ban sắc chiếu mời Sư vào điện Lân Đức, thiết trai cúng dường, suy tôn Ngài là Thượng tòa.
Đến mùa đông năm Ất mùi, tức niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10 (815), Sư hiện bị bệnh, tới ngày 11 tháng 12, Sư thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Qua tháng 2 năm sau (816), các đệ tử của Sư như Trí Lãng, Chí Tháo v.v... đón rước toàn thân nhục thể của Sư an táng tại Bắc Nguyên; Bá Kiều. Vua Hiến Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Tuyên Giáo Thiền Sư", dựng lập bia tại cửa chùa. Nhạc Dương Tư Thương Giả Đảo soạn văn nói về đức hạnh của Sư.
Thích Duy Khoan, họ Chúc, người ở xứ Tín An, thuộc Cù Châu. Ông nội Sư húy là An, Cha của Sư húy là Kiểu. Năm mười ba tuổi, Sư thấy sự sát hại sanh mạng, tự nhiên không nỡ ăn, trở về cầu xin xuống tóc xuất gia với ngài Tăng Đàm, thọ giới ở ngài Tăng Sùng, học luật với ngài Tăng Như, chứng pháp Đại thừa ngay bộ Chỉ Quán, thành đạt tối thượng thừa với Ngài Đại Tịch, Đạo Nhất.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 6 (790), Sư mới bắt đầu hành hóa ở xứ Mân Việt. Chỉ trong năm đó mà Sư hồi tâm cải phục đến cả hàng trăm người. Năm sau (791), Sư nhiếp phục con hổ dữ tại đất Cối Kê, tạo dựng đạo tràng Đằng Gia. Năm sau nữa (792) Sư trao truyền quy giới cho Sơn Thần tại Bà Dương, dựng lập đạo tràng Hồi Hướng. Đến năm thứ 13 (797) Sư cảm ứng Phi nhân tại chùa Thiếu Lâm. Tới năm 21 (806) Sư tạo tác công đức hữu vi ở chùa Vệ Quốc. Năm sau (806) Sư thực hiện công đức hữu vi tại chùa Thiên Cung.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 4 (809), Hoàng Đế Hiến Tông ban chiếu mời Sư đến trụ chùa An Quốc, năm sau (810) vua đích thân hỏi đạo ở Ngài tại điện Lân Đức. Năm đó, phục hồi suối Linh ở hồ Bất Không Tam Tạng. Đến cuối tháng 2 niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (817), Sư giảng pháp tại Truyền Pháp Đường, xong, Sư an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, ba mươi chín hạ lạp. Nhục thân Sư được đón rước về an táng tại gò phía Tây Bá Lăng. Vua Hiến Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Triệt Thiền Sư", Pháp hiệu là "Nguyên Hòa Chánh chân".
Ban đầu, Sư giảng nói Pháp Tâm yếu suốt ba mươi năm, độ người xuất gia, tại gia đến trăm ngàn muôn người. Ngài tùy bệnh trao thuốc, an ủi mọi người. Lúc Bạch Lạc Thiên làm Cung Tán, gặp Sư bốn lần đến pháp đường, mỗi lần đến là một lần hỏi, Sư đối đáp như nước chảy. Bạch Lạc Thiên tôn làm thầy mà phụng thờ. Môn nhân đệ tử Sư có hơn ngàn vị. Đắc pháp có ba mươi chín vị, người nhập thất thọ nhận Di huấn của Ngài là Nghĩa Sùng viên chiếu.
Kế nữa, có ngài Thích Bảo Tu ở núi La Phù, thời Tiền Đường, Sư họ Chu, người xứ Tư Châu. Sư theo thầy học đạo ở chùa Thuần Đức, chí cầu huyền Lý ở Pháp duệ của Đại Sư Hoằng Nhẫn tại Kỳ châu, quyết dứt trọng nghi. Sau, Sư ưa thích núi La Phù nên dừng ở trong hang đá. Đàn việt xây dựng phạm vũ, dần thành chùa lớn. Một hôm, Sư bảo môn nhân rằng: "Tôi nhân duyên sắp bị bức bách!" Rồi bùi ngùi không vui, cả chúng đều chẳng ai lường biết. Vua Thuận Tông rất kính trọng Phật tông, biết tiếng tăm Sư tu hành, bèn ban chiếu mời Sư vào kinh đô tra hỏi với Tam Tạng, Sư đều đáp ý phiên dịch, rõ ràng suôn sẽ như dòng nước chảy, vua lưu giữ Sư ở lại kinh đô ba năm. Sau, Sư thị tịch tại chùa kinh v.v...
Thích Di Tắc, họ Trường Tôn, người ở Trường An, thuộc Kinh Triệu. Tổ liệt Ngạc Châu Tư Mã là Khảo Lợi Trắc, ẩn cư ở Kim Lăng. Sư yếu đuối, chẳng xen tạp việc đời, điềm tỉnh trọn ngày chẳng làm gì, mới theo Trương Hoài Quán học chữ thảo, Sư có viết nét bút tuyệt diệu. Sư là người thanh nhã, đam mê kinh sử, rất thích sách Phật, cho là vừa ý mình.
Một hôm, bỏ cả gia nghiệp, Sư theo Thiền Sư Tuệ Trung ở núi Ngưu Đầu. Ngài Tuệ Trung còn gọi là Lục Tổ Ngưu Đầu. Vì lúc đầu, Tổ Sư Đạtma từ Tây Trúc đem tâm yếu họ Thích đến, truyền đạo đó có ngài Tuệ Năng ở Tào Khê, ngài Thần Tú ở Tung Sơn. Người học theo ngài Tuệ Năng thì gọi là Nam tông học, học theo ngài Thần Tú thì gọi là Bắc tông học, mà Tổ Sư Đạo Tín lại đem đạo đó truyền cho ngài Tuệ Dung. Ngài Tuệ Dung đắc đạo ấy rồi ở tại núi Ngưu Đầu. Đệ tử lấy truyền thọ do là Tâm Pháp Tổ Sư Đạt-ma có Ngưu Đầu học. Sư (Di Tắc) đã truyền đạo của ngài Tuệ Trung, tinh chuyên quán chiếu lâu dài, cho rằng trời đất không có vật, ta cũng không có vật, tuy không vật gì mà chẳng hề không có vật. Thế thì, bậc Thánh như ảnh, trăm họ như mộng, ai là sanh tử ư? Bậc chí nhân lấy đó mà riêng soi chiếu, làm chủ muôn vật. Ta biết điều đó. Sư bèn đi về phương Nam, tới Thiên Thai, đến đỉnh núi Phật Tích, dùng có Bệ lệ để che, lót chiếu lá rơi mà ở, uống nước suối, ăn rau cỏ, thật mà sung hư. Lấy hổ báo làm khách, lấy hươu nai làm đồ chúng, Sư ngồi sừng sững như cây khô. Sau đó, có người đến chặt cây thấy vậy cùng mách bảo với mọi người. Có người kính mến đạo của Sư, bảo rằng: "Bậc Đạo giả đó (ngài Di Tắc) chưa có đệ tử". Bèn cùng dẫn nhau đến dựng nhà, đắp họa Tôn tượng Phật, xếp đặt chư tăng, dần dần làm thành tinh xá. Nên từ niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) về sau, người truyền đạo Sư lại tự cho là Phật Quật học. Và danh hiệu "Phật Quật" phát xuất ban đầu từ Sư.
Ngài trụ tại một chỗ suốt bốn mươi năm. Các bậc Đại quan danh hầu mang thư thưa hỏi, cúng dường, song Sư không hề đáp tạ. Người đến lễ bái, Sư không hề đứng dậy.
Bấy giờ, vào ngày 13 tháng 6 năm Canh Tuất (830), Sư gọi đệ tử, bảo: "Các ông hãy cố gắng!" Đến tối ngày 15, Sư bèn an tọa thị tịch. Đêm đó, người ở dưới núi nghe có tiếng như núi sụp đổ, sáng sớm ra nhìn thì thấy mây năm mầu bay liệng quanh và ghé vào trên đỉnh núi, trẻ già đều khỏe "Thầy mất vậy!" Thế rồi lên xem xét, quả thật đúng thế. Sư thọ năm mươi tám tuổi, hai mươi hạ lạp.
Sư rất giỏi văn. Ban đầu truyền đạo ở Chung Sơn. Sư đề tựa "Tập Dung Tổ Sư văn" ba quyển, soạn "Bảo Chí Thích Đề" hai mươi bốn chương, "Nam Du truyện", "Đại sĩ Di Phong tự", "Vô sanh đẳng nghĩa". Tất cả các tác phẩm của Sư, ngôn từ ý lý ngời sáng. Ngoài ra, còn có thi ca khoảng mấy mươi thiên đều lưu hành ở đời. Sư vốn ở bổn viện Phật Quật; phía tây suối Bộc Bố, dựng lập khám thấp tại đó. Trong pháp nạn Hội Xương, đều bị phá hủy. Viện đó là sở hữu của Đạo môn. Sau, vào năm Ất Dậu (865) thuộc niên hiệu Hàm Thông (860874), Sa-môn Tăng Chánh Pháp Quang ở chùa Khai Nguyên bèn dời bia đến chỗ hiện nay, Hà Nam Y Hàn lại soạn bia văn.
Thích Linh Mặc, họ Tuyên, người xứ Tỳ Lăng. Vốn vào năm thành lập, Sư ưa ham học quên cả mỏi mệt, mong thi đậu để làm nở mày nở mặt bà con. Nhân lúc Đại sư Mã Tổ nhóm chúng giảng dạy tại Dự Chương, Sư tìm đến cửa thiền, ngài Mã Tổ nhướng mày xem tướng, Sư thầm hợp huyền cơ, bèn xin xuống tóc xuất gia, như ung nhọt chín muồi đợi lúc mổ xẻ. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư khổ luyện hạnh môn, bền chặt chẳng rời.
Vào những năm đầu niên hiệu Trinh Nguyên (785), Sư vào núi Thiên Thai; nơi Lan-nhã của Đại Sư Trí Khải ở đời Tùy có tất cả hai mươi mốt cơ sở. Xưa kia, ngài Trí Khải huyền ký rằng: "Đây là chỗ đất nhiệm mầu, chẳng phải nơi nương gá của các căn cơ lẫn lộn. Nếu ai có thể ở đây thì không khác gì với ta". Nhân đo, Sư trụ tại đạo tràng Bạch Sa, trải qua hai năm, hổ dữ đến gần quen dần, thú rừng sanh sản tùy ý nương ở. Sư lại đến trụ tại Đông đạo tràng. Ở đó, đất hẹp, người thưa, một đêm nọ, Thần núi làm sấm sét chấn động mưa bão, núi cao lăn ngã. Ánh sáng xẹt vào cây Đại thọ ngã dài, am Sư ở bên cạnh cây; cành lá đan xen mà cỏ tranh không chút hư hại, mọi người xa gần nghe thế đều đến xem xét khen ngợi.
Sau, Sư đến núi Đông Bạch, bỗng nhiên trúng độc, mà chẳng tìm cầu thầy thuốc. Sư đóng cửa ngồi yên, sau đó không lâu, chất độc hóa thành mồ hôi nhỏ giọt, Sư trở lại bình thường. Thứ nữa, Sư đến Bồ Dương, hoằng hóa hưng thạnh, có Dương Linh Nhung Tướng Lý Vọng thỉnh Sư đến trụ ở Ngũ Tiết.
Khoảng đầu niên hiệu Nguyên Hòa (806), trời nắng hạn, Quan Điền Tuấn đang bàng hoàng lo sợ, Sư men theo khe suối, thấy con rắn xanh đang trừng mắt như nhìn người qua lại, nằm bất động. Sư quát la nó, bảo rằng: "Trăm họ đang lo sợ khe suối khô cạn, lúa mạ khô héo. Sao ngươi chẳng ban thí mưa để cứu dân ư?" Đến tối, quả thật có mưa lớn khắp nơi đều "đầy đủ". Dân chúng đội ơn Sư như thế. Chúc Bình Xương Mạnh Giản Trung Thừa Liêm vấn chiết Đông phế quản nội Lan-nhã, học chúng tan rã. Bấy giờ, Kỵ Dương Lệnh Lý Trụ Trọng cử Linh Sơn hứa dựng lập sửa sang lại viện.
Đến ngày 23 tháng 3 niên hiệu Nguyên Hòa thứ
13 (818), Sư tắm gội, đốt hương, ngồi thẳng trên giường dây, dặn dò Đồ chúng rồi, bỗng nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi mốt hạ lạp.
Cao Tăng Chí Nhàn, đạo hạnh tiểu bạt, văn từ bóng bẩy, cũng là những bậc tài giỏi tuấn đạt của Giang Tả soạn thuật hành lục của Sư.
Thích Đạo Ngộ, họ Trương, người ở xứ Đông Dương, thuộc Vụ Châu, bẩm thọ khí thuần túy của trời, làm Pháp Vương Tử, vừa mới sanh mà thần khí tuấn tú, lúc lớn lên thì ý nguyện kính cẩn.
Năm mười bốn tuổi, Sư như chim đại bàng vừa đủ lông, kỳ lân đủ sừng, thỉnh bạch với tôn lão cầu xin xuất gia. Cha mẹ vì thương con nên chẳng hứa cho. Sư liền bỏ bớt uống ăn, mỗi ngày chỉ một bữa. Tuy hình suy bụng đói mà tâm Sư ngày càng cương quyết, cha mẹ không làm sao được, liền hứa thuận cho Sư. Sư bèn đến ngài Đại Đức ở Minh Châu, xin cạo tóc. Đến năm hai mươi lăm tuổi, Sư nương tựa ngài Đại Đức ở chùa Trúc Lâm thuộc Hàng Châu, cầu thọ giới cụ túc. Sư dùng sức mạnh giúp cho tâm cứng chắc. Với pháp môn sáu độ, tu các phạm hạnh, Sư thường lấy đó làm thuốc thượng diệu trị bệnh hiểm ngặt. Sư tự nghĩ muốn khai mở sự mờ tối, tìm thiện tri thức, há chẳng nhờ thuyền bè cứu giúp sao? Bèn vội sắp xếp kế hoạch tìm tới Thiền Sư Quốc nhất ở Kính Sơn, Sư đảnh lễ dưới chân Ngài vừa xong thì liền thầm nhận tông yếu. Ngay lời nói, Sư biết được trong chiếc áo có ngọc báu. Thân tâm mở toang, chân vọng đều trừ, dứt sạch các nghi trệ, tự tại vô ngại. Thật sự thấy trong Phật tánh không mây đen, Sư siêng năng phục vụ năm năm, tùy cũng ấn khả, khiến mưa pháp đó nhuần thấm khắp các tòng lâm. Sư chứa nhóm sức lực hướng vào ẩn dật, dò tìm nơi chốn sâu xa hiểm trở, thật mong mỏi một lần bay lên giữa khoảng hư không rồi mới ẩn dật nơi núi Đại Mai ở Dư Diêu. Lúc đó là niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776).
Trên tầng núi cao chẳng có hang hốc, tiếng trời tiêu cầm xa xa, không có xóm làng. Suốt bảy ngày, Sư không ăn, chí thành hẳn thông, vật cảm mới linh, các loài Nhu Đình giúp thêm nghị lực, chó đồng dâng trái hạt giẻ. Một hôm, có gã tiều phu từ miền quê vác rìu bảo chặt lùm cây đó, tình cờ trông thấy Sư mới kinh hãi dừng lại, vội báo cho đồng bạn biết, bảo là: "Thần kỳ", chưa tới mười ngày mà mọi người tìm đến đông như chợ. Cậy chỗ hõm, nương chỗ cao, dựng lợp nóc nhà cao, của cải lương thực vây quanh phương trượng. Hổ dữ chăm nhìn mọi người ra vào, một khi ai đến gần tòa thì xem xét xếp chi thể, loại đó lớn nhiều đáng biết. Hễ Sư nói pháp thì không có các tầng bậc, song công người vượt qua cũng có sâu cạn. Cây gỗ do cọ sát mà thấy lửa. Gương bởi siêng năng lau chùi mà chiếu sáng. Lý hẳn là vậy. Do đó, quét trần lụy trốn núi chầm, che hình thể để xét đêm ngày, Ngài tinh nghiêm không ngừng nghỉ, thú hướng đạo vô thượng. Ấy hẳn là có ý chỉ. Cứ như thế trải qua ba, bốn năm, sắp bay liệng ngoài mây to gió dữ, cắt đứt lông cánh, muốn trở về Bảo Sở ngại trái lầm đường đi, nên Sư lại cố dò hỏi để hiểu rõ Chân tông.
Niên hiệu Kiến Trung năm thứ nhất (780), Sư đến tham yết Đại Sư Mã Tố ở Chung Lăng, mùa Thu năm sau (781) Sư lại ra mắt Thạch Đầu thượng sĩ. Than ôi! Từ Kinh Sơn đến Hành Nhạc, đã ba lần gặp được các bậc triết nhân Long tượng. Đến đây tức là tạo phụ tập, người ngự dĩnh cầm búa. Hai tâm tướng đó hợp với sự già nua. Bạch nguyệt soi sáng, Thái Dương chiếu hoài. Hồng Hà chảy vào Biển lớn đồng một vị. Trọng Ni cho rằng Nhan Tử là Á Thánh, Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Đức Thích-ca. Căn quả thành thục, danh xưng đồng nghe, như núi Tu-di đứng trong biển lớn, do là gần Phật, rộng bày thắng nhân. Tất cả các cõi nước duyên hội thì đáp. Ban đầu, Sư thử đến Lễ Dương, tiếp theo dừng ở Cảnh Khẩu, cuối cùng sư trụ tại núi Sài tử thuộc Đang Dương, tức chỗ năm trăm vị La-hán liệng. Thông xanh um tùm để ngậm gió, sườn núi chơm chởm cao tới trời, cưỡi ráng mây tím sóng sánh, gối suối ngọc mát lạnh. Loan phụng không nhóm họp nơi Bồng điệu, Chí Nhân hẳn trú ở nơi thắng thế. Thật là như thế, Hồng Chung chờ đợi đánh, trẻ dại mong cầu ta, nước chảy sao nhóm, dối đi thật về. Hoặc tiếp võ nơi Lâm việt, hoặc chung sức tại Lư Xá, dép cỏ ngoài cửa, sáng rỡ đầy thất, Kinh Châu hùng phiên. Dân chúng sĩ nữ thành đô động đến cả ức muôn, không ai chẳng kính quỳ, cúi đầu hưởng ứng phong thái mà làm theo. Sùng Nghiệp Thượng Thư dùng trạng văn trình tấu liên soái mà yêu cầu. Sư chẳng trái nguyện lực bèn đáp lại sự thỉnh mời, dép cỏ in dấu nơi hư lạc, tích trượng chống tới thành đô. Người xuất gia, tại gia vì đó mà thứ tự bước theo, cờ xí vì đó mà lộn xộn chập chồng. Sống khó gặp, tưởng được chưa từng có, Ưu-ba-cúc-đa kia, đâu đáng nói!
Có chùa Thiên Hoàng ở phía trái quận, đó là điểm kỳ dị so với những chùa khác, nên gọi là danh lam, khốn nỗi bởi người phóng lửa lan tràn thiêu cháy rụi. Chủ tăng phường là ngài Linh Giám vội lo liệu, cho rằng đầy chật người mà Sư định ở, hẳn là phước của ta. Hễ là người gánh vác việc lớn, thì thường bỏ vết nhơ, mới vào nửa đêm lặng lẽ, sáng vác kiệu mà đến. Hai chùa tối có chỗ mất, sáng có chỗ được, tranh luận dấy khởi, đề đạt tới tôn quan. Khi Sư đến thì trở lại an vui như cũ. Giang Lăng y hữu Bộc Xạ Bùi Công có nhiều thanh trọng, dựng cờ lãnh chúng, phong vọng nhìn ngó, đương thời chuẩn trình, đuổi xe đầy lễ, hỏi pháp siêng năng,
Sư vẫn thần khí sáng trong, an tường tự ở, từ từ dùng lời mềm mỏng vì đó bày đáp, hẳn trong tinh vi thấu suốt qua yếu ách.
Lại thường giữ trinh tháo, chẳng chuẩn bị đón rước, không một chút nhún nhường quý tòa mà vái chào đối đáp. Bùi Công ngờ Sư cao bạt nên nêu bày nghĩa thú, bảo rằng: "Chí khí kháng tục vượt trội như thế ư?" Sư cho đó là pháp bình đẳng, chẳng thấy chủ khách, há phải đem thế đế để cư xử với người mà hạn cục sao? Bùi Công đối với lý thầm ý hiểu, bèn nép mình quy mạng, đã thấy được nhân giả thì ngã tâm thấp xuống. Như nóng bức được tắm gội, vội nóng thì băng tan. Từ đó, Thiền Tông hưng thạnh, không có ở đâu như vậy.
Vào năm Đinh Hợi (807) thuộc niên hiệu Nguyên Hòa, Sư bị chứng bệnh đau lưng, dự báo trước cho đệ tử biết ngày thị tịch, đến cuối tháng 4, Sư an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi tuổi, ba mươi lăm hạ lạp. Đến ngày mồng 5 tháng 8 năm đó an táng ở góc phía đông quận, Linh Khám xây tháp theo tăng lễ.
Sư thân cao bảy thước, thần vận cô kiệt, vân tay như cá nhảy, xương đỉnh đầu nổi cao. Hạnh ở nơi Anh Lạc, chí ở tại Hoa Nghiêm, Sư độ người, giảng pháp mạnh mẽ bén nhạy. Sư có một ý chỉ là sạch dơ chung ở, nước sóng đồng thể, xúc cảnh mê đắm, khí khái quên về. Ba đời bình đẳng, xưa nay thanh tịnh, một niệm chẳng khởi thì thấy được Phật tâm. Sư ngộ giải chóng vượt như thế đó.
Trước là thời gian của thời khói lửa điện vũ chẳng lập, nhìn lại Tăng tục thiếu chỗ nghiêm mật để chiêm lễ, Sư nghĩ suy kết cấu mà không biết quyền dư. Phàm bờ cõi của ta, giàu có thông bách, thảy nguyện khuynh đảo, cúng thí tăng-già-lam. Sai thợ dò xét, huyễn nhã phù hợp. Khi ấy, chặt cây lớn để sửa cột, chống đỡ sườn núi hang hốc. Sương móc khó đào giếng. Bấy giờ, đang tiết trời cuối thu, nước dùng đều khô cạn, Đồ chúng bó tay vô phương tìm kiếm, gặp một đêm mưa mà cả muôn gốc cây đều vượt lên, sáng sớm phát hiện thấy nước ở ven sông, tới tối thì đến chùa, chỉ chừng con dao mổ, động dụng không thiếu sót. Ngoài ra, hiên nhà giường án không gì chẳng thầm giúp. Việc gần nói sự quái lạ, mà chẳng ghi những điều cảm ứng linh kỳ, đều giống như thế.
Các Tỳ-kheo Tuệ Chân, Văn Phần v.v... là những Thiên tử, Ở chốn vắng lặng, đều là những vị nhập thất mà được ngộ, hoặc nối tiếp pháp tòa đạo tràng, hoặc phân phái hóa đạo. Bấy giờ, Thái thường hiệp luật Phù Tải soạn văn khen ngợi đức hạnh của Sư. Người đời gọi đó là "Môn Phong của Thiên hoàng".
Kế nữa, có ngài Thích Sùng Tín trụ thiền viện Long Đàm, ở Lễ Châu, thời Tiền Đường, chưa rõ Sư là người thuộc dòng họ nào. Lúc còn tại gia, Sư là con của Sư Hồ Bỉnh ở Chữ cung. Tuy yếu đuối, nhỏ tuổi mà thần sắc Sư rộng lớn.
Xưa kia, Thiền Sư Đạo Ngộ ở chùa Thiên Hoàng, ẩn che tiếng tăm, người chẳng lường biết ta. Tín chủ ở trong hẻm chùa, thường ngày mang thùng bánh đến cúng dường Sư, Sư dùng xong chừa lại một cái bánh và bảo: "Ta ban cho ông để làm phúc che chở cháu con!" Một hôm, tín chủ tự nghĩ: "Bánh là do ta mang đến, sao để lại cho ta ư? Chẳng biết đây là ý chí gì!" Tín chủ bèn chắp tay thưa hỏi, Ngài Đạo Ngộ bảo: "Ông mang đến, ta đáp lại ông, có lỗi gì ư?" Tín chủ nghe mà dường như có gì kinh quái, nhân đó ngài Đạo Ngộ khuyên xuất gia, tín chủ liền cầu nhiếp thọ. Ngài Đạo Ngộ bảo: "Xưa kia, người sùng kính phước thiện, nay lại tin theo lời ta, nay ta đặt tên ngươi là Tín". Từ đó, Tín tự thân lo việc cơm nước, cung kính nhớ tưởng phục dịch chuyên cần. Tín mới hỏi ngài Đạo Ngộ rằng: "Con chưa được thầy chỉ bày tâm yếu". Ngài Đạo Ngộ bảo: "Lúc nào ta cũng chỉ bày cho ông đó!" Tín nghe lời nói đó mà như kẻ lang thang trở về nhà, như người nghèo khổ được của báu. Thẳng theo đến kinh... mới dừng trụ tại chùa Long Đàm ở Lễ Dương. Nhờ sự kích dương của Lý Cao Thượng Thư, bấy giờ Tín mới ra hoằng hóa. Sau, các vị như Đức Sơn, Giám sư đều xuất xứ từ pháp tịch của Tín.
Tông phong rất hưng thạnh.
Thích Viên Tịch, không rõ Sư là người xứ nào, Sư thường lấy thiền quán làm việc chính, siêng năng tu trì chẳng biếng trễ.
Sư đến chỗ Thiền Sư Lão An ở Trung Sơn, cầu xin giải quyết tâm nghi ngờ. Mỗi điều đều sáng tỏ. Ngài mở mang hành tướng bộ, tăng chúng nương tựa rất đông. Sư ở lâu tại núi Thiên Bình đẳng. Những dấu vết xưa cũ của Thiền Sư Trù, Sư đều tìm khắp. Bấy giờ, Đại Tư Không Nghiêm Thụ rất có tâm kính tin tôn trọng, Sư thọ một trăm năm mươi lăm tuổi, Sư sanh năm Kỷ tỵ, thuộc niên hiệu Hàm Hanh thứ 2, nhưng xét năm Hàm Hanh thứ 2 tức năm Tân mùi (671), nên năm Sư sanh hợp với niên hiệu Tổng Chương thứ 2 là năm Kỷ Tỵ (669).
Người đời tôn xưng Sư là Hòa-thượng vô sanh. Sư ở chốn núi cao, thường chẳng muốn người đến lễ bái thỉnh mời, hẳn là có dung sắc bất khả phạm, có lúc chẳng phải. Nhưng người có chí ý tu thì xem thường giàu sang, trọng Đạo nghĩa, xem nhẹ Vương Công. Đó chẳng phải là ngạo mạn khi dối mà thế khiến như vậy.
Kế nữa, có ngài Thích Quật Đa, người Ấn-Độ. Sư vượt qua đường cát đá, hướng về Thần Châu, bất kể dòng tộc mọi rợ. Sư tinh thông tiếng Trung Hoa và mến chuộng thiền định. Sư sang tham yết Tổ Sư Tuệ Năng ở Tào Khê, cơ giáo tương tiếp, dường như trẻ thơ yếu đuối chịu tang được trở về nhà. Sư men theo đường định sẽ đi đến Ngũ Đài, ngang qua một xóm nhỏ, thấy một thiền giả kết am ngồi một mình. Sư hỏi vị đó rằng: "Ông ở đây làm gì vậy?" vị ấy đáp: "Tôi Quán tĩnh". Sư hỏi: "Người Quán là ai? Vật gì là tĩnh? Chẳng nhọc hình hài ông, khiến ông lo nghĩ ư?" Vị tăng đó mịt mờ, chỉ khoanh tay im lặng, rồi làm lạy cầu thỉnh Sư rũ lòng chỉ dạy. Sư bảo: "Hàng Dị Đạo ở xứ Tây Vực tôi thật có nhiều loại, nhưng hàng rất thấp kém cũng chẳng rơi vào kiến chấp như thế này! Tự nhiên ngồi không, có mọc um tùm thối nát cả thân hình, thật không có ích lợi gì sâu xa. Ông chớ khởi kiến chấp như thế, lý luận như thế, hãy sớm đến Thiều Dương cầu thỉnh quyết trạch điều nghi". Ngài Tuệ Năng bảo: "Ông sao chẳng tự Quán tự tĩnh ư? Chẳng quán tướng, chẳng quán như ông du lịch hằng ngày tự nhiên an vui?" Mỗi mỗi đều như lời của Sư đã nói, sơ lược chẳng chút nào khác. Vị tăng ấy xé rách được lưới nghi. Sau, không biết Sư đi đâu!
Thích Chân Thúc, không rõ Sư là người xứ nào. Thuở còn bé, Sư đã thanh thản chẳng buộc ràng, tròng mắt tròn sáng có tướng bậc Đại nhân. Sư quán trên vòng quay sanh tử thấy chúng sanh mê muội trong chín nơi, dường như loài sâu độc hại ở nơi my mắt con muỗi, hưởng thọ diệu dục ví như nếm sáp ong không mùi vị! Sư bèn ném trâm cạo tóc, đầy đủ tướng Phật, đến tham yết Thiền sư Đại Tịch. Một lúc thấu đạt huyền cơ, muôn điều lo toan đều vắng lặng. Sư bèn tự nghĩ: "Quần linh nguồn gốc giả gọi là Phật, thể kiệt hình tiêu mà bất diệt, vàng chảy tan mà thường còn. Biển Tánh không gió quấy động mà sóng tự nổi, tâm rỗng bặt điềm muôn hình tượng đều soi chiếu. Thể nhận được lý nầy thì chẳng nói mà trùm khắp sa giới, không dụng công mà ích lợi huyền hóa. Cớ sao xoay lưng với tánh giác, lại hợp với trần lao, đối với ấm giới luống tự ràng buộc, bấy giờ hình đồng trăng đáy nước, trôi dạt trời người!
Sư nhìn núi Dương Kỳ ở Nghi Xuân các ngọn bốn phía chung hợp, mới ngợi khen rằng: "Mặt đất vốn làm trấn, tạo ngôi thành pháp của ta". Mới phát một lời mà ngàn hang núi vọng tiếng, Thông mở điệm trăng, sao rải mây tan. Trong vực núi xanh gió chướng hóa thành cảnh vàng. Sư mới yên tọa hơn bốn mươi năm, khắp phòng có ánh sáng vàng ngày đêm soi chiếu. Đến lúc hóa duyên đã mãn, cơ cảm khó lưu giữ. Vào ngày 13 tháng 1 năm Canh tý (820) thuộc niên hiệu Nguyên Hòa, tự nhiên Sư xả bỏ thân trần trở về Đại Định.
Các vị đệ tử: Như Thản, Lương Bảo v.v... tâm chìm vào biển buồn thương, tiếng than khóc động núi. Như trăng ẩn bóng, muôn sao giữa trời mất soi sáng. Mọi người cùng nhau nhón nhặt các thứ cây gỗ làm thành lầu hương, dùng pháp trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi được bảy trăm viên, xây tháp thờ dưới Đông Phong. Đệ tử thượng túc của Sư là ngài Nhậm Vận mời ngài Chí Nhàn soạn văn bia ghi chép về cuộc đời Sư.
Thích Hoài Hải, người xứ Mân. Thuở nhỏ lìa nhà, khi lớn lên dạo chơi trong Đốn môn. Bẩm tánh Sư tự thiên nhiên chẳng do khơi bày khuyên nhủ, nghe Thiền sư Đại Tịch mới hoằng hóa tại Nam Khương, Sư bèn dốc lòng đến nương tựa, đi dối về thật, quả nhiên trở thành bậc Long tượng.
Sau, các vị Đàn Tín thỉnh Sư trụ tại xứ Tân Ngô, có ngọn núi cao chót vót đến cả ngàn thước tên là Bách Trượng. Sư đã đến đó, thiền khách xa gần không ai chẳng đến. Phòng nhà lại chật hẹp. Sư lại nói: "Ta hành hóa pháp Đại thừa, đâu nên dùng giáo điển các bộ A-Cấp-Ma để làm tùy hành ư?" Hoặc có người bảo: "Luận Du-già, kinh Anh lạc là giới luật Đại thừa, sao chẳng nương theo đó ư?" Sư bảo: "Đối với giáo pháp Đại thừa, Tiểu thừa, ta xem rộng và ước lược chiết trung, lập bày khuôn phép chuyên môn, kết quy hướng thiện". Sư mới nảy ý chẳng theo luật chế, lập riêng Thiền cư. Ban đầu, từ ngài Đạt-ma truyền pháp đến ngài Lục Tổ Tuệ Năng trở đi, những vị chứng đắc đạo nhãn, gọi là Trưởng Lão, đồng như các bậc Đạo cao lạp trưởng ở Tây Vực xưng gọi là Tu-bồ-đề. Nhưng thường ở trong các chùa luật, mà lập viện riêng khác. Sư lại chẳng luận Cao Hạ đều vào Tăng Đường. Trong Tăng Đường thiết bày giường liền dài, giá móc áo chống đỡ đạo cụ, nằm thì có gối giường, gọi đó là "đới đao thùy", bởi vì vị ấy ngồi thiền đã lâu, lược nghỉ chút xíu mà thôi. Sáng tham tối nhóm, ăn uống tùy nghi, chỉ bày tiết kiệm. Thực hành pháp phổ thỉnh, bày Thượng Hạ đều năng lực. Các bậc Trưởng Lão ở tại phương trượng đồng một phòng nhà như Duy-Ma-Cật. Chẳng lập điện Phật, chỉ dựng pháp đường, phô bày pháp, vượt ngôn tượng. Các chế độ đó so với giới luật mỗi Ngài đều thêm gấp bội. Thiền tông trong như gió đè cỏ. Thiền môn riêng hoằng hóa, phát xuất đầu tiên từ.
Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9 (814), vào ngày 17 tháng 1 năm Giáp Ngọ, Sư thị tịch, thọ chín mươi lăm tuổi. Đến niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821), vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là "Đại Trí Thiền Sư", tháp hiệu là "Đại Bảo Thắng luân".
Liên hệ thử bàn:
Từ thời Hậu Hán, nơi chốn hoằng truyền giáo pháp, chẳng phân chia Thiền Luật. Vì vậy, những bậc thông thiền đạt pháp đều ở trong một chùa, viện thì có riêng. Đến thời ngài Bách Trượng lập ra quy chế, nêu lên ý dùng phương tiện, cũng là dòng đầu-đà. Uốn cong theo thẳng mới là nghiệp giản dị, cái gọi là tự ta làm cổ, vì cổ nên là việc xưa. Như lập sự khắc thành nói từ đây bắt đầu. Chẳng thành thì nói không tự lập thử. Nay, ngài Hoài Hải làm cổ, thiên hạ theo đó càng nhiều mà ít tổn hại, nên thụy hiệu của Sư là "Đại Trí" chẳng có gì quá. Trong luận ngữ nói: "Lợi chẳng trăm, chẳng biến cách, sẽ biết biến cách ấy, quyết lợi thật nhiều". Luật Di-Sa-tắc có như thế, tuy chẳng phải Phật chế, nhưng các phương vì sự thanh tịnh mà đặt ra, chẳng được không hành trì.
Thích Hằng Nguyệt, họ Hàn, người ở xứ Thượng Đảng. Cha của Sư làm thương buôn ở Thổ Lam, qua lại Giang Tây, bỗng nhiên gặp phải nước lụt nên bị chết đắm. Sư tuy nhỏ tuổi yếu đuối mà nhớ thương cha bị vùi chôn trong bụng cá. Mẹ Sư lại đi thêm bước nữa, Sư mới quyết chí xuất gia cầu báo ân nuôi dạy. Sư đến thọ giáo với ngài Tuệ Sơ ở chùa Thánh Thiện. Khi đã được độ, Sư bèn đến thiền hội ở Tung Sơn, khai mở tâm yếu. Sau, Sư đi hỏi đạo tìm thầy, chẳng sợ hiểm nguy. Đến dừng ở tại một Cổ viện dưới Điện Thúy vi ở núi Vọng Hồ. Người học bốn phương như ong gặp chúa, thích hợp hoằng hóa hưng thạnh.
Đến niên hiệu Kiến Trung thứ nhất (780), Sư hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi. Nhập tháp ngày 12 tháng 3 năm đó.
Kế nữa, có ngài Thích Chân Lượng trụ chùa Quảng Ái ở kinh đô Lạc Kinh. Sư vốn họ Hầu, người ở xứ Cảnh Thành. Gia đình Sư giáo dục nho nhã, từ thể xán lạn. Sư giữ tiết tháo trong sạch, khác với đồng bạn ở tuổi thiếu niên. Bỗng nhiên Sư nhàm chán sự giam hãm, tự nhủ: "Bỏ tình trừ đói đó là sở nguyện!" Bèn đến cầu xin ngài Trí Hưu chùa Khai Nguyên ở Bổn Châu xuống tóc xuất gia và Sư hái củi gánh nước đều dẫn trước mọi người, Sư tập thực hành hạnh đầu-đà. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư đến thiếu thất Tung Sơn, được Đại Sư Phổ Tịch chỉ dạy, chóng mở mang chỗ mờ tối. Sư lại vào núi Long Môn mà thực hành thiền mặc. Những người tìm hỏi bến bờ đua nhau tìm đến, tiếng tăm ngày một hưng thạnh. Chúc Lưu Thú Thượng Thư Vương Công Đạc Bảo Hy nghe danh sư mà khâm phục kính trọng, mời Sư vào trụ riêng trong chùa Quảng Ái, Sư chỉ dạy cho người Thiền Quán, chẳng hề mỏi mệt đối với việc bảo ban dạy dỗ, và người được đạo cũng rất đông.
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 4 (788), ngày mồng 3 tháng 11, bỗng nhiên Sư bảo môn nhân rằng: "Bóng xế trời Tây, thật khó lưu giữ thêm lâu!" Dặn dò xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi.
Thích Tư Công, họ Lý, người ở xứ Hằng Dương. Sư sớm xuất gia tại chùa Long Hưng thuộc trong Bổn Phủ. Sau khi được độ, Sư vân du đến Duẫn Lạc, thấy Thiền sư Phổ Tịch khai xướng Thiền Pháp. Ngài Phổ Tịch vừa mới gặp Sư liền khuyên dụ chỉ bày, và Sư dò xét đến được chỗ sâu mầu. Sư đến Nam ung, ẩn cư tại núi Giáp Thạch, tự được an vui. Chúc Ngưu Công Quán chấp chính tại Hán Nam, nghe tiếng tăm của Sư nên mời vào thành. Sư từ tạ viện cớ bị bệnh mà không đáp lại. Ngưu soái cũng chẳng cưỡng ép chí nguyện của Sư, Đàn thí cùng nhau hướng vọng, học chúng đông đúc như vây quanh vườn Chiên Đàn.
Đến niên hiệu Hưng Nguyên thứ nhất (781), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi.
Kế nữa, có ngài Thích Đàm Chân ở viện An Quốc, thuộc Hào Châu. Sư vốn họ Trần, người ở xứ Duy Thanh. Thuở nhỏ, Sư ít theo cha sang Bành Thành, bán táo ở Nghịch Lữ nên mất chỗ cậy nhờ,
Ngài than thở không nương tựa, bèn đến chùa Đại Vân xuất gia làm tăng. Chỗ đất đó là rừng đầm kinh luật của Pháp sư Tung. Ngài học tập thông rành. Sau, vân du các thắng cảnh, đến Tung Sơn học thiền quán rồi đến Nhậm Thành. Tình cờ gặp gỡ Lý Trung thừa làm Chức Tiều Quận. Tiếp đến Sư đàm đạo đến nỗi ngửa bàn tay trừng mắt chau mày, như phủ mây sương. Lý Trung Thừa hận biết nhau quá muộn! Xin được đồng hành, khi ấy ở đình Tụ phong nguyệt quán đàm đạo đến sáng. Sau, Lý Trung Thừa vào làm kinh y. Nhân đó mà thung dung ca ngợi tấu trình đạo thành đức chí của Sư. Vua Đức Tông ban chiếu thỉnh mời, nhưng Sư không vâng chiếu.
Đến niên hiệu Trinh Nguyên thứ 7 (791), Sư thị tịch vào tháng 4.
Môn nhân xây tháp thờ.
Thích Thạch Tạng, họ Lã, người ở xứ Hán Đông. Năm gần vào tiểu học, đã hiển bày thái độ của bậc Thánh. Sư quỳ xin cha mẹ nguyện được làm Phật tử. Bèn phát chí vào chùa Khai Nguyên xin cắt tóc xuất gia thọ giới. Sư khắc chí đến tham yết Thiền sư Đại Tịch ở Tung Sơn, bỗng nhiên tỏ ngộ thiền pháp. Sư đến một hang đá ở trên ngọn núi Đại Tượng, một mình an nhiên tĩnh tọa suốt vài năm. Những người cùng ý hướng vọng trông đạo phong của Sư mà đến, dần thành chúng đông, giáo hóa rộng khắp, mọi người đều vui mừng nhờ ơn. Hội châu soái Lý Công Trác tha thiết kính ngưỡng, thỉnh Sư vào thành trụ, huyền luận với các quý thân Sư tạ từ rằng: "Tánh quen khó bỏ, chẳng rảnh lễ pháp, sợ vấy bẩn uy lăng!" Lý Công Trác đích thân vào núi thưa hỏi, Sư thật khéo giao đàm mở chỗ sâu mờ tối. Lý Công Trác tấu trình tại viện đề biển ngạch là "Đinh Chân", Sư dự cáo, từ biệt đại chúng, qua sáng hôm sau, Sư an tọa thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi. Nhập tháp vào tháng giêng niên hiệu Trinh Nguyên thứ 16 (800), lập bia soạn văn khen ngợi đức hạnh Sư