TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2063 - TRUYỆN CÁC VỊ TỲ-KHEO-NI

MỤC LỤC

SỐ 2063 - TRUYỆN CÁC VỊ TỲ-KHEO-NI

LỜI TỰA

QUYỂN 1

Ở ĐỜI ĐÔNG TẤN CÓ 13 VỊ:

1. Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm ở chùa Trúc lâm, Lạc dương.

2. Tỳ-kheo-ni An Linh Thủ ở chùa Kiến hiền, Ngụy triệu.

Tỳ-kheo-ni Trí Hiền ở chùa Tư châu.

Tỳ-kheo-ni Diệu Tướng ở chùa Bắc nhạc, Hoằng nông.

5. Tỳ-kheo-ni Khương Minh Cảm ở chùa Kiến phúc.

6. Tỳ-kheo-ni Đàm Bị ở chùa Vĩnh an.

7. Tỳ-kheo-ni Tuệ Trạm ở chùa Kiến phước.

8. Tỳ-kheo-ni Tăng Cơ ở chùa Diên hưng.

9. Tỳ-kheo-ni Đạo Hinh ở chùa Đông, thành Lạc dương.

10. Tỳ-kheo-ni Đạo Dung ở chùa Tân lâm.

11. Tỳ-kheo-ni Linh Tông ở chùa Tư châu.

12. Tỳ-kheo-ni Chi Diệu Âm ở chùa Giản tỉnh.

13. Tỳ-kheo-ni Đạo Nghi ở Chùa Hà hậu.

QUYỂN 2

ĐỜI TIỀN TỐNG CÓ 23 VỊ

1. Tỳ-kheo-ni Tuệ Quả ở chùa Cảnh phúc.

2. Tỳ-kheo-ni Pháp Thạnh ở chùa Kiến phước.

3. Tỳ-kheo-ni Tuệ Ngọc ở chùa Ngưu mục, Giang lăng.

4. Tỳ-kheo-ni Đạo Quỳnh ở chùa Kiến phước.

5. Tỳ-kheo-ni Đạo Thọ ở chùa Kỳ-hoàn, Giang lăng.

6. Tỳ-kheo-ni Huyền Tảo ở chùa Huyền đài, Ngô thái.

7. Tỳ-kheo-ni Tuệ Quỳnh ở chùa Nam an.

8. Tỳ-kheo-ni Phổ Chiếu ở chùa Trương quốc, Nam bì.

9. Tỳ-kheo-ni Tuệ Mộc ở chùa thôn Trúc dặc, Lương quận.

10. Tỳ-kheo-ni Pháp Thắng của chùa Nam, Ngô huyện.

11. Tỳ-kheo-ni Tăng Đoan ở chùa Vĩnh an.

12. Tỳ-kheo-ni Quang Tỉnh ở chùa Trung, Quảng lăng.

13. Tỳ-kheo-ni Thiện Diệu ở Quận thục.

14. Tỳ-kheo-ni Tăng Quả ở Quảng lăng.

15. Tỳ-kheo-ni Tỉnh Xưng ở chùa Trúc lâm, Đông hương, Sơn dương.

16. Tỳ-kheo-ni Pháp Tướng ở chùa Thái Huyền Đài, xứ Ngô.

17. Tỳ-kheo-ni Nghiệp Thủ ở chùa Thanh Viên, xứ Đông.

18. Tỳ-kheo-ni Pháp Biện ở chùa Cảnh phúc.

19. Tỳ-kheo-ni Đạo Tống ở chùa Tam tầng, Giang lăng.

20. Tỳ-kheo-ni Tuệ Tuấn ở chùa Trúc viên.

21. Tỳ-kheo-ni Bảo Hiền ở chùa Phổ hiền.

22. Tỳ-kheo-ni Pháp Tịnh ở chùa Phổ hiền.

23. Tỳ-kheo-ni Tuệ Diệu ở chùa Vĩnh khương, Thục quận.

QUYỂN 3

ĐỜI NAM TỀ CÓ 15 VỊ

1. Tỳ-kheo-ni Pháp Duyên ở Đông hoàn, Tăng thành.

2. Tỳ-kheo-ni Đàm Triệt ở chùa Nam vĩnh an.

3. Tỳ-kheo-ni Tăng Kính ở chùa Sùng thánh.

4. Tỳ-kheo-ni Tăng Mãnh ở chùa Tề minh, Cổ quan.

5. Tỳ-kheo-ni Diệu Trí ở chùa Hoa nghiêm.

6. Tỳ-kheo-ni Trí Thắng ở chùa Kiến phúc.

7. Tỳ-kheo-ni Tăng Cái ở chùa Thiền cơ.

8. Tỳ-kheo-ni Pháp Toàn ở chùa Đông thanh viên.

9. Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu ở chùa Phổ hiền.

10. Tỳ-kheo-ni Đàm Giản ở chùa Pháp âm.

11. Tỳ-kheo-ni Tịnh Khuê ở chùa Pháp âm.

12. Tỳ-kheo-ni Tuệ Tự ở chùa Tập thiện.

13. Tỳ-kheo-ni Siêu Minh ở chùa Tề minh, Tiền đường.

14. Tỳ-kheo-ni Đàm Dõng ở chùa Pháp âm.

15. Tỳ-kheo-ni Đức Lạc ở chùa Tề hưng, xứ Diệm.

QUYỂN 4

Ở THỜI NAM LƯƠNG CÓ 14 VỊ

1. Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú ở chùa Thiền lâm.

2. Tỳ-kheo-ni Tăng Niệm ở chùa Thiền lâm.

3. Tỳ-kheo-ni Đàm Huy ở chùa Trường lạc, thành Đô.

4. Tỳ-kheo-ni Phùng ở chùa Lang trung, Cao xương.

5. Tỳ-kheo-ni Tuệ Thắng ở chùa Nhàn cư.

6. Tỳ-kheo-ni Tịnh Hiền ở chùa Đông thanh viên.

7. Tỳ-kheo-ni Tịnh Uyên ở chùa Trúc viên.

8. Tỳ-kheo-ni Tịnh Hạnh ở chùa Trúc viên.

9. Tỳ-kheo-ni Linh Ngọc ở chùa Nam tấn lăng.

10. Tỳ-kheo-ni Tăng Thuật ở chùa Nhàn cư.

11. Tỳ-kheo-ni Diệu Y ở chùa Tây thanh viên.

12. Tỳ-kheo-ni Tuệ Huy ở chùa Lạc an.

13. Tỳ-kheo-ni Đạo Quý ở chùa Để sơn.

14. Tỳ-kheo-ni Pháp Tuyên ở chùa Chiêu minh, Sơn âm.

 


LỜI TỰA

Phàm tâm chí thanh cao, tiết tháo lạ thường, đâu hẳn do ở Thiên chân, hay chẳng qua là do tấm lòng mến mộ thôi. Nên nói bậc sĩ Hy nhan cũng là hạng người đáng để coi trọng. Hâm mộ người tài cũng là nương vào đức tài giỏi. Đó cũng chỉ vì quen bày cái tốt đẹp phảng phất hương thơm bất tuyệt, vì thế, cầm bút viết lại, nói người mới hay so sự ghi lời, ngỏ hầu lấy đó khuyên răn hậu thế. Nên, tuy muốn quên lời, ắt hẳn không thể được.

Ngày xưa, Đức Thích Tôn Đại Giác ứng hiện ở Ca-tỳ-la-vệ, ánh hào quang của Phật sáng tỏ, khắp Diêm-phù, ba cõi nương về, bốn loài kính ngưỡng. Sự hưng phát của chúng Tỳ-kheo-ni vốn từ Tôn giả Đại Ái Đạo, các vị Đăng địa chứng quả đời đời chẳng dứt, được nêu trong Pháp tạng như mặt trời lơ lững giữa bầu trời. Từ Câu-thi-na dứt bóng, Sa-la Song thọ ẩn vết, trải qua năm tháng tiếp nối ngày càng suy vong. Từ đó, người tin hay hủy báng hoặc mất hoặc còn, âm thanh vi diệu hưng khởi lại phế bỏ, suy vi hỗn loạn. Trong thời tượng pháp, Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm là người đầu tiên lưu truyền đến phương Đông, ít năm sau, vài trăm Thạc đức liên tiếp phát huy, Diệu Thiện, Tịnh Khuê, tu hạnh khổ hạnh. Pháp Biện, Tăng Quả rất am hiểu Thiền quán. Đến như Tăng Đoan, Tăng Cơ lập chí kiên định tu hành thanh tịnh. Diệu Tướng, Pháp Toàn hoằng dương xa rộng. Các bậc như vậy thường luôn xuất hiện ở đời, đều là những bậc uyên thâm, có đủ tiếng vàng tiếng ngọc sáng ngời khắp nơi. Thật đáng để noi theo.

Phàm, niên đại đổi thay, thanh quy có khác, nếp đẹp làm khuôn phép cả ngàn năm. Chí nghiệp chưa vạch ra một phương sách, nỗi nhớ bùi ngùi, bởi năm tháng lâu dài, mới bèn lượm nhặt các bài tụng ở văn bia, rộng tìm khắp các mọi nơi để ghi tập lại. Hoặc hỏi ở những bậc nghe rộng hiểu nhiều, hoặc tham cầu ở những vị cổ lão, thuyên giải lời tựa, đầu đuôi, hầu nương vào đó mà lập truyện. Bắt đầu từ đời nhà Tấn, khoảng trong niên hiệu Thăng Bình (357-362) cho đến đời nhà Lương ở khoảng niên hiệu Thiên giám (502-520), có đến 65 vị, chẳng chuộng phồn hoa, chuyên sống đời bình dị. Ngỏ hầu những ai mong cầu giải thoát, gắng nghĩ suy đức hạnh ngang bằng mà ít thấy dong sơ, hoặc có để sót, ngưỡng mong các bậc quân tử hiểu rộng thanh nhã nhận cho khuyết thiếu vậy!

-------------------------------------------

Thích Bảo Xướng ở chùa Đại Trang Nghiêm soạn thuật.

QUYỂN 1

Ở ĐỜI ĐÔNG TẤN CÓ 13 VỊ:

1. Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm ở chùa Trúc lâm, Lạc dương.

2. Tỳ-kheo-ni An Linh Thủ ở chùa Kiến hiền, Ngụy triệu.

3. Tỳ-kheo-ni Trí Hiền ở chùa Tư châu.

4. Tỳ-kheo-ni Diệu Tướng ở chùa Bắc nhạc, Hoằng nông.

5. Tỳ-kheo-ni Khương Minh Cảm ở chùa Kiến phước.

6. Tỳ-kheo-ni Đàm Bị ở chùa Vĩnh an, Bắc.

7. Tỳ-kheo-ni Tuệ Trạm ở chùa Kiến phước.

8. Tỳ-kheo-ni Tăng Cơ ở chùa Diên hưng.

9. Tỳ-kheo-ni Đạo Hinh ở chùa Đông, thành Lạc dương.

10. Tỳ-kheo-ni Đạo Dung ở chùa Tân lâm

11. Tỳ-kheo-ni Linh Tông ở chùa Tư châu.

12. Tỳ-kheo-ni Chi Diệu Âm ở chùa Giản tỉnh.

13. Tỳ-kheo-ni Đạo Nghi ở chùa Hà hậu.

****

1. Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm ở chùa Trúc lâm, Lạc dương.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm vốn dòng họ Trọng, tên là Linh Nghi, người ở Bành thành. Thân phụ làm Thái thú ở Võ oai. Tịnh Kiểm từ nhỏ đã ham học, vốn nhà nghèo, nhưng vì quý con gái, nên trao dạy cho cầm kỳ thi họa. Nghe pháp rất tin vui chẳng do dự hỏi thăm bẩm thọ. Về sau, nhân gặp Sa-môn Pháp Thỉ là người thông đạt kinh đạo, vào niên hiệu Kiến Hưng (313-317), đời Tây Tấn, Sa-môn dựng chùa ở cửa phía Tây cung thành, Tịnh Kiểm bèn tìm đến đó. Sa-môn Pháp Thỉ chỉ dạy giáo pháp, Tịnh Kiểm nhân đó đại ngộ, nghĩ tưởng đến lúc trưởng thành sẽ cầu pháp lợi, nên theo Pháp Thỉ mượn đọc kinh sách, liền thấu đạt chỉ thú. Một ngày nọ, Tịnh Kiểm nói cùng Pháp Thỉ rằng:

- Trong kinh có nói Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên nay xin được tế độ!. Pháp Thỉ bảo:

- Ở Tây Vực, có hai chúng nam nữ, tại xứ này pháp đó vẫn chưa đủ.

Tịnh Kiểm nói:

Đã gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, sao có pháp khác nhau? Pháp thỉ dạy:

- Người ngoại quốc nói Ni có năm trăm giới, nên có khác, phải hỏi Hòa thượng.

Hòa thượng dạy:

- Giới pháp của Ni chúng phần lớn tương đồng, song có phần nhỏ khác biệt. Nếu chẳng đắc pháp ấy, ắt chẳng được truyền trao. Tỳ-kheo-ni có mười giới được theo đại Tăng mà thọ nhận. Chỉ vì không có Hòa thượng Ni nên không nơi nương tựa!

Tịnh Kiểm liền cạo đầu xin theo Hòa thượng thế phát xuất gia lãnh thọ mười giới. Cùng đồng chí nguyện ấy, có đến hai mươi bốn người cũng xin thọ lãnh giới pháp. Tại cửa Tây nơi cung thành, có xây dựng chùa Trúc lâm, nhưng vẫn chưa có Ni sư, đã hỏi thăm Tịnh Kiểm thông qua Hòa thượng Thành Đức. Sa-môn Trí Sơn ở Tây Vực, dừng trú ở nước Kế Tân, người rất khoan dung hòa nhã chuyên tập Thiền tụng, vào đời Tấn, khoảng cuối niên hiệu Vĩnh Gia (313), đi đến Trung Hạ (Trung Quốc), phần vệ Tự tư giúp lời hoằng đạo. Bấy giờ người tin sâu Phật pháp còn nông cạn, chẳng biết cầu xin. Đến năm Kiến Vũ thứ nhất (317), thì trở lại nơi nước Kế Tân. Sau đó, Phật Đồ Trừng từ Thiên Trúc trở lại, chỉ bày cho rõ công đức nghiệp báo, tất cả đều bỏ lòng sân hận mà tin theo Phật pháp. Tịnh Kiểm nuôi dưỡng đồ chúng thanh nhã tiết tháo, nói pháp giáo hóa như gió thổi lướt cỏ.

Vào niên hiệu Hàm Khương (335-343) đời Đông Tấn, Sa-môn Tăng Kiến tìm kiếm được bộ Tăng-kỳ-ni Yết-ma và Giới Bổn ở nước Nguyệt Chi mang về. Đến năm Thăng Bình thứ nhất (357) ngày mồng tám tháng hai ở tại thành Lạc dương, thỉnh Sa-môn Đàm-ma Yết-đa; người ngoại quốc, thiết lập giới đàn. Sa-môn Thích Đạo Tràng; người đời Đông Tấn đem kinh Giới Nhân Duyên để đối chất, cho rằng: Pháp đó bất thành. Nhân đó, Tịnh Kiểm... cả thảy bốn người đi thuyền đến sông Tứ, đồng ở giới đàn trên theo Đại tăng để lãnh thọ giới Cụ túc. Nên, trên đất Tấn, Tịnh Kiểm cũng là người đầu tiên trong số Tỳ-kheo-ni. Ngay trong ngày tác pháp Yết-ma, hương lạ thơm lừng, mọi người đều nghe, ai ai chẳng mừng khen, điều đó làm tăng thêm sự kính ngưỡng, khéo tu giới hạnh, sự tu học càng ngày càng tiến triển tín thí mỗi ngày một đông, tùy theo căn cơ mà giáo hóa, hành tự lợi tự tha. Đến cuối niên hiệu Thăng Bình (362), bỗng nghe hương lạ trước kia và thấy vầng khí đỏ, có một người nữ tay nắm hoa năm sắc từ không trung mà xuống. Tịnh Kiểm thấy thế, vui mừng, nhân bảo đại chúng rằng:

- Khéo giữ gìn hậu sự, tôi nay đi đây!

Rồi chấp tay từ biệt, bay bổng lên không trung, con đường Tịnh Kiểm đi dường như tợ có cầu vồng đi thẳng lên giữa trời. Lúc ấy Tịnh Kiểm vừa tròn bảy mươi tuổi.

2. Tỳ-kheo-ni An Linh Thủ ở chùa Kiến hiền, Ngụy triệu.

Tỳ-kheo-ni An Linh Thủ vốn dòng họ Từ, người xứ Đông hoàn, thân phụ là Xung Sĩ Ngụy Triệu làm ngoại binh bộ. An Linh Thủ từ nhỏ vốn thông minh hiếu học, nói năng tao nhã tươi sáng, tánh tình điềm đạm đoan trang, chẳng thích việc ở đời, thong dong nhàn tịnh. Lấy Phật pháp để tự vui, chẳng mong cầu vẻ đẹp. Thân phụ nói rằng:

- Con nên theo người ngoài, hà cớ phải như vậy? An Linh Thủ nói:

- Đoan tâm nghiệp đạo, dứt tưởng người ngoài. Chê trách hay khen ngợi chẳng động lòng, liêm chánh tự biết. Sao hẳn phải tam tòng, mới gọi là lễ?

Thân phụ bảo:

- Con muốn độc thiện một mình, sao có thể giúp cha mẹ? An Linh Thủ nói:

Lập thân hành đạo, mới độ thoát hết thảy, huống gì là song thân?

Xung Sĩ đem việc này đến hỏi Phật Đồ Trừng, Phật Đồ Trừng bảo:

- Ông hãy về nhà chay tịnh ba ngày rồi có thể trở lại đây.

Xung Sĩ y theo đó mà tịnh chay ba ngày. Phật

Đồ Trừng dùng xác cỏ Nhân chi cùng với dầu mè xoa vào tay phải của Xung Sĩ, bảo Xung Sĩ hãy quán sát vào đó thì thấy một vị Sa-môn ở trong đại chúng nói pháp, hình trạng tợ như người nữ. Xung Sĩ đem đủ việc ấy thưa cùng Phật Đồ Trừng, Phật Đồ Trừng bảo:

- Đó là thân trước của con gái ông, xuất gia làm lợi ích cho nhân loại, việc thường như thế. Nếu theo chí nguyện đó mới đáng là vinh hạnh cứu giúp lục thân quyến thuộc, khiến ông giàu sang, may ra dứt trừ được khổ sinh tử trong biển lớn!

Xung Sĩ trở về đồng ý cho An Linh Thủ thế phát xuất gia, theo Phật Đồ Trừng và được đưa đến Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm thọ lãnh giới pháp. Dựng lập chùa Kiến hiền, Phật Đồ Trừng đem kéo cắt áo nạp thêu hoa, y bảy điều và tượng tỷ tháo quán của Thạch Lặc để lại trao cho An Linh Thủ. Rộng xem các sách, kinh điển qua mắt bèn thành bài tụng, nghĩ đến uyên thâm, thần soi xa rõ. Một thời, đạo học không ai là không lấy đó làm tông chính. Nhân đó mà người xuất gia có hơn hai trăm vị. Lại tạo dựng năm ngôi chùa, sáu tịnh xá, chẳng sợ cần khổ, đều được tu tập. Thạch Hồ kính trọng An Linh Thủ nên đã cất nhắc tước vị của thân phụ Xung Sĩ lên làm Hoàng môn thị lang, thái thú xứ Thanh Hà.

Tỳ-kheo-ni Trí Hiền ở chùa Tư châu.

Tỳ-kheo-ni Trí Hiền vốn dòng họ Triệu, người ở Thường sơn. Thân phụ là Trân Phù Liễu huyện lệnh. Trí Hiền từ nhỏ đã có tiết tháo thanh nhã, chí phách trinh lập. Tuy là người thế tục mà giới hạnh đầy đủ, thần tính ngưng đọng, học xa hiểu rộng, thuần nhiên chẳng tạp. Thái thú Đỗ Bá đốc tín Hoàng Lão, oán ghét Phật giáo, ban lệnh xuống các chùa hẹn ngày đào thải, cách chế xa vời, chẳng phải điều mà người phàm tục làm. Tuổi trẻ lo sợ điều trong gió mà khiếp sợ, chỉ có Trí Hiền là hiên ngang không khiếp sợ, thong dong sống trong tự tại. Nhóm tụ tại nhà, bắn ở ngoài thành đều là các bậc Lão đức, đến ngày giảng thí, ni chúng đoan trang chỉ có Trí Hiền mà thôi. Đỗ Bá trước tiên dùng mọi cách để thử Trí Hiền nhưng không thành. Oai nghi Trí Hiền nhìn thật điềm đạm thanh nhã, ngôn từ ôn hòa, nhã nhặn. Đỗ Bá kín cậy tà tâm, ép buộc Trí Hiền ở riêng, Trí Hiền rõ biết ý định của Đỗ Bá, thề chẳng hủy phạm giới pháp, chẳng tiếc thân mạng, nói lời chống cự. Đỗ Bá tức giận, dùng dao chém vào thân thể Trí Hiền hơn hai mươi nhát. Trí Hiền chết ngất ngã quỵ xuống đất, khi Đỗ Bá bỏ đi Trí Hiền mới tỉnh lại, lúc này Trí Hiền càng thêm tinh tấn, tiết chế ăn uống rau lá kham khổ, Đồ chúng có hơn trăm người, như nước hòa với sữa. Mãi đến lúc Phù Kiên ngụy lập phong văn kính trọng, chế dệt áo ca sa bằng tơ lụa năm màu, suốt ba năm mới hoàn thành, trị giá đến ngàn muôn. Về sau Trí Hiền đến ở chùa Tư châu, hoằng dương chánh pháp mở rộng tín hạnh. Đến niên hiệu Thái Hòa (366-371), Trí Hiền tuổi đã ngoài bảy mươi, tụng kinh Pháp Hoa suốt một ngày đêm một biến. Chỗ Trí Hiền ở, các loài chim tụ tập nương ở, trong những giờ phút kinh hành, chúng thường rượt đuổi nhau...

Tỳ-kheo-ni Diệu Tướng ở chùa Bắc nhạc, Hoằng nông.

Tỳ-kheo-ni Diệu Tướng vốn dòng họ Trương, tên là Bội Hoa, người ở Hoằng nông. Phụ thân vốn nhà tốt đẹp giàu có, Diệu Tướng sớm được học tập kinh huấn. Năm mười lăm tuổi, vừa gặp Thái tử Xá Nhân ở Hoàng phụ đất Bắc, tỏ rõ sự cư tang thất lễ, Diệu Tướng chán ghét đó bèn cầu xin ly tuyệt. Nhân đó xin được xuất gia, thân phụ tùy theo chí nguyện. Diệu Tướng siêng năng tinh cần tu hành chỉ dùng rau lá, đặt tâm nơi tuệ tạng thấu suốt pháp tướng, cư trú tại dưới rừng Bắc Nhạc, phía Tây đồng trống xứ Hoằng Nông, mọi người theo đến rất đông, vui chí với khoáng dã nhàn tịnh, lánh trong cảnh đó trong hơn hai mươi năm, tinh cần khổ hạnh, càng về lâu tiếng tăm càng vang xa. Mỗi lúc nói pháp độ người, thường lo sợ người nghe không tận tường chuyên chí, nên rơi nước mắt mà chỉ dạy rất tận tường. Cho nên những điều Diệu Tướng dạy răn đều hay lợi ích lớn.

Vào niên hiệu Vĩnh Hòa (345-357) đời Đông Tấn, quan Thái thú ở Hoằng nông thỉnh cúng dường trai hội bảy ngày. Đang ngồi trên pháp tòa, có cư sĩ thưa hỏi Phật pháp, nói lời cậy thế chẳng khiêm cung, Diệu Tướng nghiêm nét mặt bảo:

- Ông chẳng phải là người nhìn thấy ngay thẳng. Kiêu mạn cũng chính là khinh lờn ban tể, sao dùng lời vô lễ cẩu xuất nhân gian?

Từ đó, cáo bệnh mà lui. Kẻ tăng người tục thời bấy giờ đều cảm thán khâm phục. Về sau, nằm trên giường bệnh nhiều ngày, song lúc lâm chung dễ dàng vui vẻ, nhìn chúng đệ tử bảo rằng:

- Chớ hỏi thấu cùng sinh hẳn có tử, ngày nay tôi từ biệt vậy! Nói xong liền thị tịch.

5. Tỳ-kheo-ni Khương Minh Cảm ở chùa Kiến phúc.

Tỳ-kheo-ni Khương Minh Cảm vốn dòng họ Chu, người xứ Cao bình. Ở đời phụng kính kinh Đại pháp, bị giặc tù bắt được, muốn lấy làm vợ, nhận chịu đủ thứ khổ sở, thề chẳng chịu nhục, bị sai xử chăn dê trải suốt mười năm, ôm hoài trở về chuyển thành ốm nặng. Nhưng đường trở lại chẳng do đâu! Thường nghĩ nhớ Tam bảo và mong muốn xuất gia, trên đường bỗng gặp một vị Tỳ-kheo, liền đến cầu xin thọ ngũ giới, nhưng lại được vị ấy đem kinh Quán Thế Âm trao cho, nhân đó mà được tụng tập ngày đêm chẳng ngừng. Nguyện được trở về nhà, xây dựng một bảo tháp năm tầng, không dằn nỗi sự lo nghĩ nên trốn chạy về phương Đông. Ban đầu chẳng biết đường đi nên lội suốt ngày đêm, vào đến một cánh rừng thấy có một con hổ lang cách đó vài bước, lúc đầu rất lo sợ, thối lùi ý định; tâm muốn vượt đến, bèn theo hổ mà đi, qua hơn mười ngày thì tới được Thanh châu, sắp vào trong thôn thì không thấy hổ nữa. Đến Thanh châu lại bị Minh Bá Liên bắt làm tù nhân. Hỏi lời đến nhà, chồng con đến đón chuộc, người nhà ức chế, chế khí chưa hài lòng khổ thân. Tinh cần suốt ba năm, bèn chuyên dốc tâm thiền hành, giới phẩm không trái phạm. Như có sai phạm chút nhơ liền xin sám hối suốt đêm ngày, cần phải thấy được tướng tốt sau đó mới thôi, hoặc thấy mưa hoa, hoặc nghe âm vang giữa không trung, hoặc đêm mộng thấy điềm lành. Đến tuổi về già, tháo hạnh càng cao vị, con gái ở Giang Bắc muốn kính phụng Sư trở về nhà.

Mùa Xuân năm Vĩnh Hòa thứ tư (349), Minh Cảm cùng với Tuệ Trạm,... cả thảy mười người vượt sông tìm đến quan Tư không Hà Sung. Hà Sung mới một lần gặp liền rất kính trọng. Bấy giờ tại kinh sư chưa có chùa Ni, Hà Sung lấy nhà riêng của mình vì Minh Cảm mà lập chùa, hỏi Minh Cảm nên đặt hiệu là gì? Minh Cảm bảo rằng:

-Đại Tấn bốn bộ ngày nay mới đủ, Đàn việt xây dựng đều là tạo phước lập nghiệp, nên có thể đặt tên chùa là Kiến Phúc.

Hà Sung vâng theo đó. Về sau, lúc gặp phải chút bệnh, liền thị tịch.

6. Tỳ-kheo-ni Đàm Bị ở chùa Vĩnh an.

Tỳ-kheo-ni Đàm Bị vốn dòng họ Đào, người xứ Kiến khương, Đơn dương. Từ thuở thiếu thời đã có tâm tín thành thanh tịnh, nguyện tu chánh pháp, không có anh em, một mình sống với mẹ, cung kính hiếu hạnh phụng thờ mẹ là chính. Đến tuổi gả chồng, liền không chấp thuận, mẫu thân không thể trái ý, bèn đồng ý cho ly tục, Đàm Bị tinh cần giới hạnh, suốt ngày đêm không biếng lười. Tấn Mục Hoàng đế lễ tiếp kính hậu, thường khen ngợi rằng:

-Ở kinh ấp chúng Tỳ-kheo-ni rất đẹp là có chúng của Đàm Bị.

Đến năm Vĩnh Hòa thứ 10 (355) hoàng hậu vì Đàm Bị mà dựng chùa ở Lý Định Âm, đặt hiệu là Vĩnh An (nay là chùa Hà hậu).

Đàm Bị rất khiêm tốn, chưa từng khởi tâm cống cao ngạo mạn, danh dự ngày một vang rộng. Mọi người xa gần tụ hội, đồ chúng đông đến ba trăm vị.

Đến năm bảy mươi ba tuổi, nhằm năm Thái Nguyên thứ 21 (397), Đàm Bị viên tịch. Đệ tử là Đàm La hiểu rộng kinh luật, có tài đảm mật, bảo ban tiếp nhậm việc của thầy, lại xây dựng bảo tháp bốn tầng và giảng đường phòng nhà, tạo hình tượng nằm và khám đường bảy Đức Phật...

7. Tỳ-kheo-ni Tuệ Trạm ở chùa Kiến phước.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Trạm vốn dòng họ Nhậm, người xứ Bành thành. Thần mạo vượt xa tinh tháo đặc thù, tình sâu khoáng đạt, thường hay cứu các loài vật, mặc áo xấu ăn rau lá, vui sống đạm bạc. Thường mang y sơn hành, gặp phải bọn cướp, chúng muốn đâm mũi nhọn vào mình Tuệ Trạm nhưng tay không thể lấn tới. Nhân đó mà bọn chúng cầu xin chiếc y mà Tuệ Trạm đang mang, Tuệ Trạm vui vẻ cười và nói cùng bọn chúng:

-Ý các ông mong cầu rất lớn mà cái được rất ít.

Lại cởi bỏ chiếc y ấy và quần mới bên trong cho bọn chúng. Bọn cướp liền tạ từ và hoàn trả lại Tuệ Trạm. Tuệ Trạm bỏ đó mà đi. Đến năm Kiến Nguyên thứ 2 (344), Tuệ Trạm vượt qua sông, quan Tư không Hà Sung vô cùng sùng kính, có nhã ý mời Tuệ Trạm ở tại chùa Kiến phước.

8. Tỳ-kheo-ni Tăng Cơ ở chùa Diên hưng.

Tỳ-kheo-ni Tăng Cơ vốn dòng họ Minh, người xứ Tế nam. Buộc tóc giữ đạo, chí nguyện xuất gia, mẫu thân không chấp thuận, kín hứa gả chồng, ẩn mật sính lễ, đến ngày nghinh tiếp, cận nữ mới phát hiện, Tăng Cơ liền cự tuyệt ăn uống chẳng màng xuống, bà con đến thỉnh cầu nhưng ý không hề đổi thay. Đến ngày thứ bảy, mẫu thân gọi người con rể, con rể kính tin, thấy vợ sắp chết, bèn nói cùng mẹ vợ rằng:

-Phàm con mỗi người đều có ý chí, không thể cưỡng ép!

Mẫu thân liền theo đó. Tăng Cơ nhân đó xuất gia. Lúc ấy là hai mươi mốt tuổi, bà con nội ngoại đều đến mừng chào an ủi động viên, đua tặng chiếu quý, tranh bày danh cúng. Châu mục cấp kỷ quận thú thân lâm, kẻ tăng người tục thảy đều ngợi khen chưa từng có. Tăng Cơ tịnh trì giới phạm, tinh tấn học tập tu trì kinh điển. Cùng với Tỳ-kheo-ni Đàm Bị danh tiếng lẫy lừng, then chốt tối mật, việc lành bàn giữ, Hoàng đế cũng sùng lễ.

Năm Kiến Nguyên thứ 2 (344) hoàng hậu họ Trữ vì Tăng Cơ mà lập chùa Lý Đô Đình, thông cung trong cảng, đặt hiệu là chùa Diên hưng, Tăng Cơ trú tại đó, đồ chúng có hơn trăm người. Ngay sự việc rõ ràng, kẻ tăng người tục càng thêm kính trọng. Tăng Cơ viên tịch năm 68 tuổi, tức nhằm năm Long An thứ nhất (397).

9. Tỳ-kheo-ni Đạo Hinh ở chùa Đông, thành Lạc dương.

Tỳ-kheo-ni Đạo Hinh vốn dòng họ Dương, người xứ Thái sơn. Tánh tình chuyên cần không ngang ngược. Lúc còn là Sa-di thường vì chúng luôn tụng kinh, năm hai mươi tuổi, trì tụng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma,... Sau khi thọ giới cụ túc, nghiên cứu tìm cầu lý vệ, chỉ ăn rau lá, tiết chế khổ hạnh, càng già càng cố gắng, trú tại chùa Đông, thành Lạc Dương, tao nhã hay bàn luận, ý trong sáng rất giỏi Tiểu khẩm. Quý ở Lý thông mà chẳng chuyên từ biện. Đạo học một châu đều lấy tôn chỉ thầy làm chính, Tỳ-kheo-ni giảng kinh; Đạo Hinh chính là vị đầu tiên.

Trong niên hiệu Thái Hòa(366-371), có người nữ tên Dương Linh Biện kính tin Hoàng Lão, chuyên hành phục khí, thời trước, người và vật cũng hay kính thờ. Đến thời Đạo Hinh nói là cùng nhà vua nên thuật ấy đã biến mất. Linh Biện giả kết thân là người cùng họ, cùng qua lại nhưng trong lòng hoài ôm ganh ghét đố kỵ, dò xét để hãm hại. Về sau đem thuốc độc bỏ vào thức ăn của Đạo Hinh, các thầy thuốc dốc lòng chữa trị đều không thuyên giảm. Các đệ tử hỏi do từ đâu mà mắc bệnh. Đạo Hinh đáp rằng:

-Tôi rất tỏ biết kẻ chủ mưu, đây đều do nghiệp duyên, các ông không cần hỏi. Giả sử nói mà có lợi, tôi còn chẳng nói, huống hồ chẳng có ích lợi gì!.

Nói xong liền thị tịch.

10. Tỳ-kheo-ni Đạo Dung ở chùa Tân lâm.

Tỳ-kheo-ni Đạo Dung vốn người Lịch dương, trú tại chùa Ô Giang, giới hạnh tinh chuyên cao vọi, khéo chiêm tướng tốt xấu nghịch biết họa phước, người đời rao truyền cho đó là bậc Thánh.

Vào đời Đông Tấn, vua Minh Đế rất tôn trọng kính thờ, vua cho rải hoa dưới tòa để kiểm nghiệm là Thánh hay phàm, quả thật chẳng có hoa nào héo cả. Đến thời vua Giản Văn Đế, đời Đông Tấn, trước vốn phụng thờ Đạo sư Thanh Thủy. Đạo sư ở kinh đô, chỗ của vua Bộc Dương. Thứ đến, trong cung lập Đạo xá, Đạo Dung liền khai dẫn, nhưng chưa thỏa nguyện. Về sau người trong cung mỗi lần vào đạo thất, liền thấy Thần nhân là hình tướng Sa-môn đầy khắp trong thất. Giản Văn Đế nghi đó là do Đạo Dung gây nên, mà chưa thể quyết định. Sau khi lên ngôi, ở điện Thái cực chim quạ đến làm ổ, Giản Văn Đế sai Khúc An Diễn bói thử, Khúc An Diễn nói:

- Ở Tây nam có một vị thầy người nữ có thể trừ diệt yêu quái. Vua sai sứ đến Ô Giang nghênh đón Đạo Dung, đem sự việc ấy để hỏi. Đạo Dung bảo:

- Chỉ có chay tịnh bảy ngày thọ trì tám giới, tự sẽ tiêu mất.

Vua liền y theo đó, nhưng nhất tâm chưa đầy bảy ngày, bầy quạ cùng nhau nhóm tụ đến chuyển ổ bay đi. Giản Văn Đế càng thêm kính trọng, liền vì Đạo Dung mà dựng chùa, cung cấp đủ mọi thứ cần dùng. Nhân lấy rừng để đặt hiệu nên gọi là chùa Tân lâm, tức lấy đó để phụng thờ và rất kính phụng chánh pháp. Về sau, trong đời nhà Tấn để tỏ bày lòng kính chuông Phật pháp đều là do sức lực của Đạo Dung. Mãi đến đời Hiếu Vũ Đế lại càng thêm sự sùng kính.

Trong niên hiệu Thái Nguyên (376-397), bỗng nhiên dứt tuyệt dấu vết, chẳng biết ở đâu. Hiếu Vũ Đế ban sắc an táng y bát của Đạo Dung, nên bên cạnh chùa có phần tháp...

11. Tỳ-kheo-ni Linh Tông ở chùa Tư châu.

Tỳ-kheo-ni Linh Tông vốn giòng họ Mãn, người xứ Cao hồ, Kim hương. Từ nhỏ đã có tín tâm thanh tịnh, trong Hương đãng đều ca ngợi. Gia đình gặp phải tán loạn, bị giặc cướp đuổi bắt, nên quy thành khẩn thiết xưng niệm Tam bảo, tụng phẩm Phổ môn để bạt trừ ngay việc ấy, nhờ nói ác làm mau, cầu kêu oan được thả. Theo đường đi về hướng Nam, đi đến Ký châu, lại bị giặc rượt đuổi theo, liền leo lên cây rừng, chuyên thành khẩn niệm, kẻ đuổi bắt ham nhìn đường khác chẳng ngước mắt nhìn lên nên tìm bắt chẳng được. Linh Tông lại xuống và đi tiếp, chẳng dám xin ăn. Ban đầu không thấy đói, chiều tối, đến một bờ biển lớn, thuyền không qua được. Linh Tông bàng hoàng lo sợ, lại xưng niệm Tam bảo, bỗng thấy một con nai trắng chẳng biết từ đâu lội xuống dòng sông làm cho tất cả đất nổi lên, không có gợn sóng, Linh Tông theo nai mà vượt qua sông, chẳng từng thấm ướt như đi trên đất liền. Nhân đó về tới được nhà liền vào đạo, thành tâm chí thiết, học hạnh tinh cần, rộng xem kinh pháp, nghĩa sâu nhập thần. Vua Hiếu Vũ đế, đời Đông Tấn nghe thế sai đưa thư đi dò hỏi. Về sau trăm họ gặp phải tật bệnh nghèo khổ rất nhiều, Linh Tông dốc hết của cải ban cứu cho nhân gian, chẳng lánh hiểm trở xa xôi, tùy nghi cứu giúp, mọi người mong nhờ rất nhiều. Do chịu đói nhận khổ nên hình hài dung mạo gầy khô.

Năm Linh Tông 75 tuổi, bỗng sáng sớm, gọi các đệ tử đến kể lại giấc mộng trong đêm của mình là thấy một núi lớn gọi là Tu-di, đỉnh cao tuyệt đẹp, lên tiếp cùng trời, vật báu trang nghiêm sáng rỡ mặt nhật, trống pháp gióng trổi, hương khói phảng phất, khiến ta trước kinh ngạc cảnh giác! Liền đó ngay trong thân thể có sự khác thường, tuy không tướng trạng thống não như hôn mê. Chúng đồng học đạo bảo:

-Đó chính là cảnh cực lạc.

Lời bàn qua tiếng lại chưa dứt, chợt bỗng viên tịch.

12. Tỳ-kheo-ni Chi Diệu Âm ở chùa Giản tỉnh.

Tỳ-kheo-ni Chi Diệu Âm, chưa rõ là người xứ nào, từ nhỏ đã có chí đạo, cư xử kinh hoa, học rộng kinh sách trong ngoài, giỏi làm văn chương.

Hoàng đế Hiếu Vũ đời Đông Tấn, thái phó Cối Kê, Vương Đạo Mãnh khởi... cũng đều kính tin. Mỗi lúc Diệu Âm cùng Hoàng đế và Thái phó cũng như các Học sĩ trong triều đàm luận chúc văn, lời văn tao nhả, là người có tài trí, rất có tiếng tăm. Vào năm Thái Nguyên thứ 10 (386), Thái phó dựng lập chùa Giản Tĩnh, mời Diệu Âm làm chủ, đồ chúng có hơn trăm người. Các thứ tài nghĩa trong ngoài đều được mãn nguyện, cung cấp cúng dường vật thực nhiều vô số kể, giàu có nghiên cả đô ấp. Mọi người cao quý đều tôn thờ, hằng ngày ngoài cửa xe ngựa tới lui có hơn trăm lược.

Vương Thầm là thứ sử Kinh Châu qua đời, Liệt Tông ý muốn dùng Vương Cung để thay vào đó. Bấy giờ, Hoàn Huyền ở tại Giang Lăng là nơi mà Vương Thần tỏa chiết, nghe đến Vương Cung đáng chỗ quen biết xưa cũ nên lại sợ Vương Cung. Ân Trọng Kham bấy giờ là học trò của Vương Cung, Hoàn Huyền biết Ân Trọng Kham tài hèn sức mọn nên cũng dễ chế ngự. Ý muốn được vậy bèn sai sứ nhờ Diệu Âm vì Trọng Kham mà mưu tính. Đã vậy mà Liệt Tông hỏi Diệu Âm kinh Châu khuyết ngoại hỏi rằng:

- Ai là người đáng được thay vào đó? Diệu Âm đáp:

- Bần đạo là người xuất gia làm sao có thể cùng bàn luận việc thế tục. Nghe trong ngoài bàn luận, mọi người đều bảo không ai qua Ân Trọng Kham, lấy ý ấy mà nghĩ ngợi sâu xa, đó là chỗ kinh sở đáng cần.

Hoàng đế bèn dùng Ân Trọng Kham thay thế Vương Thầm. Quyền thế một triều, uy hành khắp trong ngoài nước...

13. Tỳ-kheo-ni Đạo Nghi ở Chùa Hà hậu.

Tỳ-kheo-ni Đạo Nghi vốn dòng họ Giả, người xứ Lâu phiền; nhạn môn, là người cô của Tuệ Viễn. Chồng là Giải Trực, người đồng quận. Giải Trực tầm dương nên qua đời. Năm hai mươi hai tuổi, Đạo Nghi xả bỏ tục lụy, đắp mặc pháp y, thông minh mẫn triết, nghe rộng nhớ nhiều, tụng kinh Pháp Hoa, giảng kinh Duy-ma, Tiểu khẩm. Tình nghĩa đạt lý, nhân tâm liễu ngộ, giới hạnh cao vời, thần khí thanh khiết. Nghe ở chốn kinh kỳ, kinh luận thông suốt, giảng tập tương tục, khoảng cuối niên hiệu Thái Nguyên (397) đời Đông Tấn, Đạo Nghi đến kinh đô, trú tại chùa Hà hậu, chuyên tâm vào Luật tạng, nghiên cứu tinh vi, thân giữ thấp hèn, cung kính ở chỗ u tối vẫn không biếng lười, y áo thô xấu, tự gìn giữ tính lượng bình bát, trong sạch chẳng lỗi lầm, kẻ tăng người tục đều đề cao tín ngưỡng. Năm bảy mươi tám tuổi, Đạo Nghi lâm bệnh; song, tự đều trị, giữ tâm càng cố gắng niệm tụng không dứt. Các đệ tử cầu thưa:

- Xin nên ngừng nghĩ hầu mong hao tổn khí! Đạo Nghi đáp rằng:

- Chẳng phải đều các người đáng nói. Nói xong bèn tịch.

QUYỂN 2

ĐỜI TIỀN TỐNG CÓ 23 VỊ

1. Tỳ-kheo-ni Tuệ Quả ở chùa Cảnh phúc.

2. Tỳ-kheo-ni Pháp Thạnh ở chùa Kiến phước.

3. Tỳ-kheo-ni Tuệ Ngọc ở chùa Ngưu mục, Giang lăng.

4. Tỳ-kheo-ni Đạo Quỳnh ở chùa Kiến phước.

5. Tỳ-kheo-ni Đạo Thọ ở chùa Kỳ-hoàn, Giang lăng.

6. Tỳ-kheo-ni Huyền Tảo ở chùa Huyền đài, Ngô thái.

7. Tỳ-kheo-ni Tuệ Quỳnh ở chùa Nam an.

8. Tỳ-kheo-ni Phổ Chiếu ở chùa Trương quốc, Nam bì.

9. Tỳ-kheo-ni Tuệ Mộc ở chùa thôn Trúc dặc, Lương quận.

10. Tỳ-kheo-ni Pháp Thắng ở chùa Nam, Ngô huyện.

11. Tỳ-kheo-ni Tăng Đoan ở chùa Vĩnh an.

12. Tỳ-kheo-ni Quang Tỉnh ở chùa Quảng lăng trung.

13. Tỳ-kheo-ni Thiệu Diệu ở Thục quận.

14. Tỳ-kheo-ni Tăng Quả ở Quảng lăng.

15. Tỳ-kheo-ni Tỉnh Xưng ở chùa Trúc lâm, Đông hương, Sơn dương.

16. Tỳ-kheo-ni Pháp Tướng ở chùa Huyền đài, Ngô thái.

17. Tỳ-kheo-ni Nghiệp Thủ ở chùa Đông thanh viên.

18. Tỳ-kheo-ni Pháp Biện ở chùa Cảnh phúc.

19. Tỳ-kheo-ni Đạo Tống ở chùa Tam tầng, Giang lăng.

20. Tỳ-kheo-ni Tuệ Tuấn ở chùa Trúc viên.

21. Tỳ-kheo-ni Bảo Hiền ở chùa Phổ hiền.

22. Tỳ-kheo-ni Pháp Tinh ở chùa Phổ hiền.

23. Tỳ-kheo-ni Tuệ Diệu ở chùa Vĩnh khương, Thục quận.

****

1. Tỳ-kheo-ni Tuệ Quả ở chùa Cảnh phúc.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Quả vốn giòng họ Phan, người xứ Hoài nam. Thường hành khổ hạnh, không ham mặc gấm lụa, dốc lòng học Tỳ-ni; giới hạnh thanh bạch. Kẻ Tăng người tục khâm phục ham thích, danh tiếng vang xa. Trong đời nhà Tống, thứ sử Thanh châu bắc địa là Truyền Hoằng Nhân nhã lời khen ngợi tánh tình đôn hậu, giàu lòng tôn kính đáng quý trọng.

Năm Vĩnh Sơ thứ 3 (423) (Đàm Tông nói rằng:-Năm Nguyên Gia thứ 7 (431), chủ chùa là Tỳ-kheo-ni Hoằng An, bắt đầu xây dựng chùa nên mượn khoán thư, vì vậy lúc khởi lập là năm Vĩnh Sơ thứ 3).

Cất nhà ở mặt phía Đông vì dựng lập Tịnh xá, đặt hiệu là chùa Cảnh phúc, Truyền Hoằng Nhân lấy Tuệ Quả làm người mẫu mực, các thứ vật dụng thảy đều đem cúng chư Tăng, mọi công việc dường như đều trôi chảy, mọi người lớn nhỏ thảy vui mừng kính phục. Đến năm Nguyên Gia thứ 6 (430), có vị Sa-môn Cầu-na-bạt-ma từ Tây Vực đến. Tuệ Quả hỏi rằng:

- Ở xứ này (Trung Quốc), chư Ni trước khi thọ giới chưa có bổn sự, nhân đó mà mến đạo. Thành thật có cao lệ, chưa lường về sau, được không khác?

Cầu-na-bạt-ma-đáp:

- Không khác. Tuệ Quả lại hỏi:

- Đến như luật văn giới sư đắc tội sao không khác? Đáp:

- Phàm ở chỗ có Ni chúng mà không hai năm học giới, nên gọi là đắc tội vậy.

Lại hỏi:

- Đến ở xứ này, trước khi chưa có Ni giới chẳng phải là cõi Diêm-phù không?

Đáp:

- Trong luật, Phật chế mười vị Tăng được trao truyền giới Cụ túc, ở chỗ biên địa chỉ năm vị Tăng cũng được trao truyền. Chính vì vậy nên có nơi không thể không như pháp!

Lại hỏi:

- Cách bao nhiêu dặm là biên địa? Đáp:

- Cách ngoài núi biển ngàn dặm và các nơi hiểm nạn cách trở.

Năm Nguyên Gia thứ 9 (433), Tuệ Quả dẫn các đệ tử Tuệ Ý, Tuệ Khải..., cả thảy năm người theo Sa-môn Tăng-già-bạt-ma trùng thọ giới Cụ túc, kính giữ thận trọng phụng trì giới luật như mến giữ. Năm Nguyên Gia thứ 10 (434), Tuệ Quả viên tịch, hưởng thọ ngoài bảy mươi tuổi, đệ tử Tuệ Khải... đem tiết hạnh truyền đạt đến ngày nay.

2. Tỳ-kheo-ni Pháp Thạnh ở chùa Kiến phước.

Tỳ-kheo-ni Pháp Thạnh vốn dòng họ Niếp, người xứ Thanh hà. Gặp loạn lạc, lánh đến đất Kim lăng họ Triệu. Năm Nguyên Gia thứ 14 (438), Pháp Thạnh xuất gia tại chùa Kiến phúc, tài đức tuệ giải, thông đạt ngộ mẫn, tự cho mình tuổi đã già nên về ở Hoàng ấp. Tuy là Đế đạo long minh mà còn hoài nhớ quê cũ, chỉ tham nuôi huyền tông mới có thể quên đi sự già muộn, bèn đến chùa Đạo tràng, gặp được pháp sư nên thọ giới Bồ-tát. Ngày thì phơi bày trắng đen, đem lại gạn lời lý vị, tạm ẩn một thời gian, thần thức tỏ sáng. Tuy bảo là tuổi già song còn hơn cả tuổi thanh xuân, thường nguyện sinh về An dưỡng. Nói cùng các bạn đồng tu như Đàm Kính, Đàm Ái rằng:

-Tôi lập thân hành đạo chí nguyện đặt tại Tây phương.

Ngày 27 tháng 09 năm Nguyên Gia thứ 16 (440), ở dưới Tháp lạy Phật, nhân mới phát bệnh, liền dốc lòng chuyên tinh, đến ngày 30 đầu đêm gá ngủ, Đức Như Lai từ không trung giáng xuống cùng hai vị Đại sĩ luận đạo Nhị thừa, phút chốc cùng đại chúng cỡi cỏ đạp cây đến thăm bệnh của Pháp Thạnh. Ánh sáng chiếu soi cả chùa đều thấy. Mọi người cùng lại hỏi Pháp Thạnh đó là thứ ánh sáng gì. Pháp Thạnh giải nói đầy đủ. Nói xong bèn viên tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi.

Dự chương thái thú Ngô Quận Trương Biện, vốn là chỗ tôn kính, vì vậy mà truyền thuật lại...

3. Tỳ-kheo-ni Tuệ Ngọc ở chùa Ngưu mục, Giang lăng.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Ngọc người xứ Trường an, hạnh nghiệp siêng tu, kinh giới thông suốt, thường du hành giáo hóa đi khắp các ban ấp. Mỗi mỗi đều tùy thuộc có duyên, chẳng trốn lánh nóng lạnh nắng mưa, đến phương Nam trú tại tịnh xá Ngưu Mục, Giang Lăng, trì tụng các kinh Pháp Hoa, Thủ-lăng-nghiêm... trong khoảng một tuần thì thấu đạt liễu nghĩa. Kẻ tăng người tục ở Thiểm Tây thảy đều quy kính Tuệ Ngọc, đọc xem kinh luận chưa từng để phí thời gian.

Tháng 10 năm Nguyên Gia thứ 14 (438), bày trai pháp khổ hạnh bảy ngày, lập lời thề rằng: "Nếu quả thật trai pháp này có sự cảm ứng thì sau khi xả bỏ báo thân hẳn được thấy Phật". Nguyện nội trong bảy ngày thấy được Quang Minh của Phật, giữa đêm của ngày thứ năm, tại rừng cây ở phía Đông của chùa ánh sáng linh thiêng chiếu rọi rõ rệt, liền chỉ cùng đại chúng biết, mọi người đều mừng vui kính trọng lại càng thêm khâm phục. Pháp Hoằng là chủ chùa về sau ở chỗ có ánh sáng ấy dựng lập Thiền thất. Đầu tiên Tuệ Ngọc ở tại Trường an, tại chùa Thượng thư xứ Tiết thấy ánh sáng màu trắng màu hồng chiếu soi cả hai bên, suốt mười ngày mới tan mất một ít. Về sau có vì Sa-môn ở chùa Lục Trọng, vào ngày mồng tám tháng tư, ở chỗ có ánh sáng ấy được tôn tượng Đức Phật Di-lặc cao một thước...

4. Tỳ-kheo-ni Đạo Quỳnh ở chùa Kiến phước.

Tỳ-kheo-ni Đạo Quỳnh vốn dòng họ Giang, người xứ Đơn dương vậy. Năm hơn mười tuổi, chuyên sâu vào các kinh sử, từ sau khi thành tựu giới pháp lại thông đạt Tam tạng, tinh cầu khổ hạnh.

Trong niên hiệu Thái Nguyên (376-397) đời Đông Tấn, Hoàng hậu quý mến đức hạnh của Đạo Quỳnh, phàm mọi sự tu tạo phước thiện phần nhiều là cúng dường ở chùa ấy (Kiến Phước). Các phụ nữ giàu sang đua nhau tìm đến. Năm Nguyên Gia thứ 8 (432) thời Tiền Tống, tạo các hình tượng lớn an trí ở các nơi như ở chùa Bành Thành 2 pho tượng vàng, trưởng tòa đầy đủ, ở chùa Ngõa Quan một pho tượng Đức Di-lặc, bảo cái anh lạc ở chùa Nam Kiến Hưng hai pho tượng vàng và các thứ tạp vật phan lọng, ở chùa Kiến phước tạo một tượng nằm và phòng nhà. Lại tạo lập tượng Đức Phổ Hiền, các vật cúng dường thảy đều tôn nghiêm đẹp đẽ. Đến năm Nguyên Gia thứ 15 (439), tạo pho tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng vàng ròng. Ngày 11 tháng 04 năm ấy, từ giữa chặn mày tôn tượng đó phóng ra ánh sáng chiếu soi khắp chùa, sắc vàng ròng, kẻ tăng người tục rao truyền cho nhau cùng đến cung kính, chiêm ngưỡng nhìn thấy uy thần, ai ai cũng đều ca ngợi vui mừng. Lại đem các di vật của Hoàng hậu để lại khai thác ở phía Nam chùa, và cho tạo dựng các thiền phòng...

5. Tỳ-kheo-ni Đạo Thọ ở chùa Kỳ-hoàn, Giang lăng.

Tỳ-kheo-ni Đạo Thọ, chưa rõ là người xứ nào, trong sạch hòa nhã, điềm đạm vắng lặng, giàu lòng khiêm cung hiếu hạnh. Từ nhỏ, thọ trì Ngũ giới chưa từng có sai phạm.

Trong niên hiệu Nguyên Gia (424-454), gặp lúc để tang thân phụ.

Nhân hủy mắc bệnh, tự không đau ngứa, chỉ vàng da gầy ốm còn bộ xương tàn, trải qua mấy năm, các thầy thuốc chữa trị mà không bớt ốm. Nhân đó phát nguyện bệnh được lành hẳn sẽ xuất gia. Sau khi phát lời thệ nguyện, tạm được bình phục, bèn như ý nguyện xả tục, tìm đến chùa Kỳhoàn xin xuất gia, luôn cần khổ siêu tuyệt, tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn biến, thường thấy ánh sáng tốt lành.

Ngày mồng bảy tháng chín năm Nguyên Gia thứ 16 (440) vào nửa đêm, thấy giữa không trung có lọng báu che rủ ở phía trên...

6. Tỳ-kheo-ni Huyền Tảo ở chùa Huyền đài, Ngô thái.

Tỳ-kheo-ni Huyền Tảo vốn dòng họ Lộ, người xứ Ngô quận, con gái của An Tuân (Tuyên Nghiệm ghi rằng: tức là An Tuân).

Huyền Tảo năm hơn mười tuổi, thân mang trọng bệnh, các thứ thuốc tốt đưa đến, bệnh càng ngày càng tăng thêm không giảm. Bấy giờ Thích Pháp Tế ở chùa Huyền đài nói với An Tuân rằng:

-Thật đáng sợ, bệnh này là do nghiệp lực, chẳng phải dùng thuốc mà có thể dứt trừ. Bần đạo căn cứ trong kinh Phật dạy: "Nếu ai gặp phải nguy khổ mà có thể quy y Tam bảo, sám hối cầu nguyện, đều được cứu giúp. Vì vậy ông nên vì con gái ông bỏ hết tà tục, tẩy rửa trần uế, chuyên tâm trì niệm hướng về Tam bảo, hẳn sẽ được lành mạnh. "

An Tuân bèn vâng theo như thế, liền ngay trên nhà, thiết lập trai pháp Quán thế âm, tẩy trừ tâm ý, cùng kính nguyện cầu cứu bệnh, cúi đầu nhất niệm chuyên tâm tương tục, trải qua bảy ngày đêm, đến đầu đêm, bỗng thấy tượng vàng cao hơn thước ba lần xoa vào thân Huyền Tảo từ đầu đến chân, liền cảm thấy bệnh nặng bỗng nhiên lành hẳn.

Từ sự linh nghiệm ấy, Huyền Tảo bèn cầu xin xuất gia ở chùa Huyền đài, siêng năng tinh tấn tụng kinh Pháp Hoa, thọ dùng rau lá, trường trai suốt ba mươi bảy năm. Thường đặt tâm tưởng nguyện cầu sinh về cõi trời Đâu-suất. Năm Nguyện Gia thứ 16 (440) đời Tiền Tống, ra thành đô tạo kinh, không lường được cuối cùng.

7. Tỳ-kheo-ni Tuệ Quỳnh ở chùa Nam an.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Quỳnh vốn dòng họ Chung, người xứ Quảng châu, giữ đạo cao khiết chẳng ăn cá thịt. Năm tám mươi tuổi, chí nghiệp càng tinh cần. Thường mặc áo vải thô xấu, không ham dùng lụa là, là một vị rất chuẩn mực làm kỷ cương nơi chùa viện, kiêm hành giảng thuyết. Vốn từng ở tại chùa Nam an xứ Quảng lăng.

Năm Nguyên Gia thứ 18 (442), Thế tử và Hoàng thái hậu của Giang Hạ Vương, đời nhà Tống, đem đất cúng dường Tuệ Quỳnh, Tuệ Quỳnh dựng lập chùa, đặt hiệu chùa là Nam Vĩnh An. Đến năm Nguyên Gia thứ 22 (446), Lan Lang Túc Thừa Chi vì dựng lập tháp ngoại quốc. Năm Nguyên Gia thứ 15 (439), Tuệ Quỳnh lại tạo dựng chùa Bồ-đề, điện đường phòng nhà thảy đều trang nghiêm xinh đẹp. Nhân lúc dời đến ở đó nên đem chùa Nam an cúng dường Sa-môn Tuệ Trí. Năm Nguyên Gia thứ

24 (448), Tuệ Quỳnh theo Mãnh Khải đi đến Cối Kê, đất ở đó rất cứng, Tuệ Quỳnh bảo các đệ tử rằng:

- Sau khi ta qua đời không cần phải chôn cất, có thể nhờ người phanh xẻ thân thể để cho chúng sinh ăn dùng.

Đến lúc Tuệ Quỳnh viên tịch, mọi người đều không nỡ mổ xẻ, mới bàn cùng Huyện Cú Dung đem để vào rừng cho chim thú tự đến rỉa ăn. Nhưng trải qua hơn mười ngày vẫn nghiễm nhiên như cũ, nhan sắc chẳng đổi khác, sai người trong thôn đem gạo rải bên cạnh thi thể, chim mổ ăn hết gạo ở chỗ xa, gạo gần sát thi thể vẫn đều còn lại.

Đệ tử là Tuệ Lãng ở thành đô nghe thế, liền nghênh đón về an táng tại chùa Cao Tòa; ở trước sườn núi, trên phần mộ tạo dựng Bảo tháp...

8. Tỳ-kheo-ni Phổ Chiếu ở chùa Trương quốc, Nam bì.

Tỳ-kheo-ni Phổ Chiếu vốn dòng họ Huân, tên là Từ Bi, người xứ An lăng, Bột hải. Từ nhỏ đã có tiết tháo, năm mười bảy tuổi xuất gia, trú tại chùa Trương quốc, Nam Bì, sau theo thầy đến học tại tịnh xá Kiến hy ở Quảng lăng, dốc hết tâm phụng sự đạo pháp, mọi người đều mừng khen, kịp đến lúc Sư Tuệ Kính viên tịch, lo để Khánh điếu mà khổ hạnh tuyệt thực.

Tháng 12 năm Nguyên gia thứ 18 (442) đời Tiền Tống, nhân cảm bệnh lao nhọc tuy rất nặng mà vẫn dốc lòng thâm tín, ban đầu tự chẳng cải đổi, chuyên niệm chí thành khẩn cầu ngày đêm chẳng bỏ, không xuống đất được, ngày ngày thường tinh cần khấu đầu sám hối thời khóa tại trên giường. Tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày ba quyển. Đến giữa tháng hai năm Nguyên Gia thứ 19 (443), bỗng nhiên chết giấc trong chừng bữa ăn, sau sống lại nói:

- Hướng đến phương Tây giữa đường có một ngôi tháp, trong tháp có một vị Tăng ngồi nhắm mắt tư duy, kinh hãi hỏi từ đâu lại, lấy việc ấy đáp. Liền hỏi vị Tăng ấy rằng: Ở đây, cách chùa... ấy bao nhiêu dặm?

Vị Tăng ấy đáp:

- Năm ngàn vạn dặm.

Trên đường có cỏ cây và người đi qua lại, đều không quen biết ai cả, có gió mây cao, không khu gò nghiêm tịnh. Trong ý muốn đi đến phía trước mà vị Tăng ấy không chấp thuận, nhân đó trở về, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sau đó bảy ngày thì viên tịch, tuổi vừa hai mươi lăm!

9. Tỳ-kheo-ni Tuệ Mộc ở chùa thôn Trúc dặc, Lương quận.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Mộc vốn dòng họ Phó, người xứ Bắc địa. Năm mười một tuổi xuất gia, theo thờ Tuệ Siêu, thọ trì Thập giới, trú tại chùa thôn Trúc dặc, Lương quận. Lúc đầu học Đại phẩm, mỗi ngày tụng hai quyển, kiêm tụng tạp kinh. Mẫu thân của Tuệ Mộc bị bệnh trong miệng không răng nên Tuệ Mộc phải nhai thức ăn để mớm nuôi mẹ, vì miệng bất tịnh nên không được thọ giới Cụ túc. Ngày đêm tinh cần sám hối nghiệp chướng của mình, bỗng thấy giới đàn giữa trời, màu sắc vàng ròng, ngưỡng đầu trông nhìn, ở phía Nam thấy có một người mặc y tuyển, y màu vàng ròng, cách Tuệ Mộc vừa gần vừa xa, nói với Tuệ Mộc rằng:

- Ta đem giới trao cho ngươi đây!

Quay lại nhìn thì không thấy, Tuệ Mộc chẳng đem việc ấy nói cho người khác nghe, nhưng có điều nhiều cảm ứng đều giống như vậy. Anh của Tuệ Mộc nghe muốn được biết mới nói dối với Tuệ Mộc rằng:

- Ngươi làm đạo bấy lâu nay trọn chẳng ích gì, nên có thể để tóc dài ra lại, ta sẽ vì ngươi mà tìm gã chồng.

Tuệ Mộc nghe thế lòng buồn rười rượi, nhân đó thuật lại điều vừa thấy và liền thọ giới Cụ túc. Đêm sắp thọ giới, mộng thấy người khẩu truyền giới bổn. Đến lúc thọ giới xong, lại xem bèn tụng giới bổn.

Trong năm Nguyên Gia (424-454) thời Tiền Tống, tạo tượng mười phương chư Phật và bốn bộ giới bổn cũng như pháp tắc Yết-ma cúng dường khắp bốn phương...

10. Tỳ-kheo-ni Pháp Thắng của chùa Nam, Ngô huyện.

Tỳ-kheo-ni Pháp Thắng, không rõ là người xứ nào, xuất gia từ nhỏ tại chùa Nam, Ngô huyện, khiêm cung kính tin chuyên cần mẫn, mọi người đều biết.

Trong niên hiệu Nguyên Gia (424-454) thời Tiền Tống, Tư Mã Long ở Hà nội làm thừa tướng Tỳ Lăng, gặp lúc đánh giặc nên chết trận, vợ là người họ Sơn, song thân đều mất sớm, không có con cái, đến tuổi già nua, vào đất Ngô, tìm đến Pháp Thắng. Pháp Thắng tiếp đãi như người thân, sau hơn trăm ngày, bà ta mắc bệnh, bệnh trầm trọng suốt ba năm. Pháp Thắng vốn không cất chứa tài vật, nhưng vẫn dốc lòng cứu chữa. Chẳng sợ mưa nắng, sau đó bà ta lành bệnh, mọi người càng thêm quý trọng Pháp Thắng. Về sau, Pháp Thắng đi đến kinh thành, tiến tu thiền luật, thông định tuệ, thích sống tĩnh lặng, dạy dỗ quyến thuộc chẳng răn bảo mà thành. Đối với việc làm chẳng mưu cầu lợi riêng, sống nhàn tĩnh chẳng mong cầu danh lợi, ân cần giúp đỡ mọi người, cũng như mọi sinh vật khác.

Lúc tuổi sáu mươi, mắc bệnh một thời gian, tự nói sẽ không lành.

Thân thuộc lấy làm lạ, hỏi vì sao? Pháp Thắng đáp:

- Hôm qua thấy hai vị Sa-môn nói biết như vậy. Chốc lát lại nói:

- Thấy có hai vị Tỳ-kheo chẳng phải là người thấy ở trước, mặc y để bày vai phải, tay mỗi vị nắm một bông hoa, đứng nơi giường bệnh. Sau đó, từ xa thấy một Đức Phật ngồi trên hoa sen, ánh sáng chiếu soi khắp thân tôi.

Từ đó về sau, đêm chẳng buồn ngủ, bảo người trì tụng kinh Pháp Hoa, cho đến đêm sau, hơi thở yếu dần, lại bảo thôi tụng kinh mà vì tôi xưng niệm danh hiệu Đức Phật, cũng tự xưng niệm. Đến lúc bình minh ló dạng, dung mạo chẳng đổi thay, bỗng chốc mà mạng chung.

11. Tỳ-kheo-ni Tăng Đoan ở chùa Vĩnh an.

Tỳ-kheo-ni, người xứ Quảng lăng, gia đình vốn phụng kính Phật. Chị em đều kính tin, thệ nguyện được xuất gia, chẳng chịu lấy chồng, mà nhan sắc xinh đẹp vang khắp xóm làng, trai trẻ nhà giàu đến gạ hỏi, mẹ và anh đã hứa hôn, trước ba ngày đến đón dâu, nữa đêm Tăng Đoan bỏ trốn vào chùa, chủ chùa cho ở một phòng riêng, cung cấp mọi thứ cần dùng và thỉnh cho kinh Quán Thế Âm, chỉ trong hai ngày chuyên trì tụng niệm, mưa lệ cúi đầu, ngày đêm chẳng nghĩ. Qua sau ba ngày, trong lúc đang lễ bái, thấy tôn tượng Phật nói rằng:

-Chồng ngươi mạng sắp chết, ngươi nên tinh cần chớ hoài ưu niệm.

Quả thật, sáng hôm sau, người chồng bị bò hốc chết mất. Nhân đó, mà Tăng Đoan được xuất gia, kiên trì giới cấm, nhiếp tâm nhàn tỉnh tợ như không tợ như không biết nói, kịp đến lúc biện chiết thật là lời gắng gỏi. Tụng kinh Đại Bát-niết-bàn 05 ngày một biến.

Năm Nguyên Gia thứ 05 (429), tìm đến phía Nam Thượng quốc, trú tại chùa Vĩnh an, Lương Ký chúng vụ đều mến thương tiếp đón, mọi người lớn nhỏ vui vẻ mến phục, lâu sau càng kính trọng. Năm Nguyên Gia thứ 25 (449), Tăng Đoan viên tịch, hưởng thọ hơn bảy mươi tuổi. Các vị đệ tử Phổ Kính, Phổ Yếu đều tu khổ hạnh và tụng kinh Pháp Hoa.

12. Tỳ-kheo-ni Quang Tỉnh ở chùa Trung, Quảng lăng.

Tỳ-kheo-ni Quang Tỉnh, vốn dòng họ Hồ, tên là Đạo Tỳ, người xứ Đông Thiên, Ngô Hưng. Xuất gia từ thuở nhỏ, theo thầy đến chùa Trung, Quảng lăng. Quang Tỉnh tuy nhỏ nhưng rất cố gắng thực hành như người lớn, tập tu Thiền quán, chẳng ăn các vật ngọt béo, lúc sắp thọ Đại giới, dứt tuyệt cơm gạo, chỉ ăn bột tùng cho đến sau khi thọ giới Cụ túc suốt mười lăm năm. Tuy tâm thức sáng tỏ nhưng thể lực suy kém, thường bị cảm suốt cả tháng liền. Sa-môn Thích Pháp Thành vì Quang Tỉnh mà chỉ dạy: "Ăn uống không phải việc lớn của Phật". Nghe vậy, Quang Tỉnh trở lại ăn uống các thức ăn, lại thêm dõng mãnh, siêng học không mệt mỏi. Những người theo học Quán hạnh thường hơn trăm vị. Năm Nguyên gia thứ 18(442), tháng 05, trong lúc bệnh ốm bảo:

"Ta nhàm chán cái khổ của thân này từ lâu xa lại!". Từ đó, dẫn bệnh sám hối chẳng lìa tâm miệng, tình lý rõ ràng, thần khí an nhiên. Đến năm sau (443), uống ăn đều bỏ, chuyên tâm tụng niệm được về cảnh giới Đâu-suất, tâm tâm tương tục không gián đoạn, đến đêm 18 tháng 04, hương lạ tướng khác khắp đầy trong không gian, Quang Tỉnh viên tịch ngay trong đêm ấy.

13. Tỳ-kheo-ni Thiện Diệu ở Quận thục.

Tỳ-kheo-ni Thiện Diệu vốn dòng họ Ân Dương, người xứ Phồn huyện. Xuất gia từ thuở nhỏ, tánh tình nhu hòa, ít sầu hận hay mừng vui, không thích sắm sinh áo tốt đẹp, cũng chẳng ăn thức ăn ngon. Có người em gái chết chồng, không nơi nương tựa, nên dẫn con nhỏ đến ở nhờ trong thất của Thiện Diệu, thường nghe Diệu pháp, tự than thân không gặp Phật. Mỗi một lời nói như vậy, rơi lệ bùi ngùi buồn cảm không thôi, cùng ở chung bốn, năm năm mà chưa từng thấy Thiện Diệu ăn. Người em ấy nấu thức ăn xong, mời Thiện Diệu cùng ăn chung, Thiện Diệu bảo:

- Vừa mới ăn ở chỗ... ấy xong. Hoặc nói:

- Tứ đại bất hảo, chưa thể ăn!

Như vậy, suốt cả mấy năm, người em rất hổ thẹn, thưa rằng:

- Vô phước, chồng chết lại không có thân thuộc, dẫn con đến nương tựa chị, có nhiều thứ nhơ loạn, chị thấy vậy mà nhàm chán nên chẳng cùng ăn chung!

Rơi lệ mà nói, nói xong muốn đi chỗ khác. Thiện Diệu nắm tay em mà bảo:

- Em chẳng hiểu ý chị! Chị mang đi ra ngoài để người khác cúng dường, sao phải tự tốn thức ăn trong nhà. Em chỉ nên ở yên tại đây, chị sắp đi xa vậy! Em phải giữ gìn cẩn thận, chớ đi nơi khác!

Người em nghe nói như vậy bèn thôi.

Thiện Diệu tự đánh sợi dệt vải, mua vài hộc dầu, đắp gò đất lớn giữa sân, nói với người em rằng:

- Hãy phỏng tạo công đức thận trọng chớ lấy!

Đến ngày mồng 08 tháng 04, nữa đêm lấy vải tự quấn vào thân và tẩm dầu tự thiêu đốt, lửa đã cháy gần tới đảnh, Thiện Diệu bảo em:

- Gọi vị Duy-na đánh khánh, chị nay xả bỏ thọ mạng đây. Nên đến bảo cùng chư Ni mau lại đây cùng từ biệt!

Chư Ni kinh hãi chạy đến, mạng Thiện Diệu còn chưa dứt tuyệt, nói cùng chư Ni rằng:

- Các vị hãy siêng năng tinh tiến, sinh tử thật sự đáng sợ, phải mong cầu ra khỏi, cẩn thận chớ để lưu chuyển. Tôi bỏ thân như vậy để cúng dường đã hai mươi bảy lần. Nay chỉ một thân này thôi sẽ đắc sơ quả vậy! (Hỏi người ở xứ ấy, hoặc có người bảo là năm Nguyên Gia thứ 17 (441) hoặc thứ 18 (442). Hoặc có người nói ở đời Hiếu Kiến (454-457), hoặc lại có người nói là ở trong đời Đại Minh (457465), nên ở đây ghi đủ lại như thế này...).

14. Tỳ-kheo-ni Tăng Quả ở Quảng lăng.

Tỳ-kheo-ni Tăng Quả vốn dòng họ Triệu, tên là Pháp Hữu, người xứ Tu võ, cấp quận. Trước đã gieo trồng tín giải, chuyên thuần tự nhiên, ở trong giai đoạn bú mớm chẳng qua ăn giữa bữa, cha mẹ vui mừng sự khác lạ. Đến lúc thành nhân, tâm tuy chuyển đến duyên ngại tham sai. Năm 27 tuổi mới được xuất gia, Tăng Quả phụng thờ Tỳ-kheo-ni Tuệ Thông ở Quảng lăng. Tăng Quả giới hạnh nghiêm minh thiền quán thanh bạch, mỗi lúc nhập định, suốt liền tối sớm, nhiếp thần cảnh tịnh, hình hài như cây khô, những người không hiểu biết thường sinh tâm biết sinh nghi ngờ.

Đến năm Nguyên Gia thứ 06 (430), có thuyền chủ người ngoại quốc tên là Nan-đề, chở Tỳ-kheo-ni từ nước Sư tử lại (Trung Quốc), đến tại đô thành của Tiền Tống trú ở chùa Cảnh phúc, sau đó một thời gian, hỏi Tăng Quả rằng:

- Ở nước này từ trước đến nay đã từng có Tỳ-kheo-ni ngoại quốc chưa?

Tăng Quả đáp:

- Chưa có. Lại hỏi:

- Trước đây, Tỳ-kheo-ni thọ giới, từ đâu mà có được hai bộ Đại tăng?

Tăng Quả đáp:

- Chỉ theo Đại Tăng thọ, những người đắc bổn sự, mới là phát khởi thọ giáo. Người khiến sinh tâm ân trọng là phương tiện vậy. Nên như Tôn giả Đại Ái Đạo hành trì Pháp bát kỉnh mà đắc giới, sau đó năm trăm Thích nữ cung thỉnh Đại Ái Đạo làm Hòa thượng. Ở đây cao lệ thế.

Tăng Quả tuy đáp như vậy nhưng tâm vẫn còn có chỗ nghi ngờ. Liền hỏi Tam tạng. Tam tạng cũng giải thích như vậy. Nên lại hỏi rằng:

- Có thể thọ lại được chăng? Đáp:

- Giới, định, tuệ phẩm từ vi tế đến hiển trước, thọ lại càng tốt.

Đến năm Nguyên Gia thứ 10 (434), Thuyền chủ Nan-đề lại từ nước Sư tử, chở Tỳ-kheo-ni Tiền-tát-la... cả thảy mười một vị đến, cùng chư Ni đến trước đã thông đạt tiếng Tống (Trung Hoa), thỉnh Sa-môn Tăng-già Bạt-ma ở chùa Nam Lân thiết lập Đàn giới. Lần lượt thọ lại hơn ba trăm ba mươi vị Tỳ-kheo-ni.

Năm Nguyên Gia thứ 18 (442), bấy giờ Tăng Đoan 34 tuổi, yên tọa trải qua mấy ngày, vị Duy na cố đến lay động, bảo rằng đã chết, kinh hãi báo cùng Quan chùa, Quan chùa cùng đến xem, thấy Tăng Quả thân lạnh thịt cứng, chỉ còn chuyển nhẹ hơi thở. Khi bắt đầu khiêng đi, Tăng Quả tự mở mắt cười nói tầm thường. Từ đó, người gặp thảy đều kính sợ khâm phục, không biết cuối cùng như thế nào.

15. Tỳ-kheo-ni Tỉnh Xưng ở chùa Trúc lâm, Đông hương, Sơn dương.

Tỳ-kheo-ni Tỉnh Xưng vốn dòng họ Lưu, tên Thắng, người xứ Tiếu, Quận lương. Giới nghiệp tinh chuyên cần khổ, tụng kinh bốn mươi lăm vạn lời. Bên cạnh chùa núi rừng không các huyên tạp, thả tâm thuyền mặc, dứt tuyệt trần lao, có người từng mất bò truy tìm chẳng thôi. Đêm đến, trông nhìn chùa là một rừng lửa cháy sáng lớn, khi đến nơi thì chẳng thấy gì. Thường có một con hổ theo Tỉnh Xưng tới lui, nếu Tỉnh Xưng tọa thiền thì hổ ngồi đứng chung quanh. Trong chùa, chư Ni nếu có vị nào phạm lỗi mà không sám hối, hổ liền tức giận, sám tội rồi, hổ lại vui vẻ.

Về sau, Tỉnh Xưng xuống núi hành đạo, gặp một người nữ Bắc địa, vội vàng thăm hỏi mừng vui như xưa. Người nữ ấy dòng họ Cừu, tên là Khương, gốc ở Bắc bình. Tánh tình ham thích Phật pháp, nghe Đạo Phú ở Nam quốc khai thác trốn lánh đến xứ này. Nhân đó xin xuất gia, đã đồng khổ tiết, hai người không có vốn liếng lương thực, ăn bột củ truật vừng mè mà thôi, tiếng tăm vang vọng đến đô thành dân Lỗ, người Lỗ cho là Thánh nhân nên từ xa đến tiếp đón hai người, chẳng vui cảnh riêng nên tiếng xấu vết nguy lành ngôn trốn lánh, chúa Lỗ vì thiết bày thức ăn thịnh soạn, tất cả đều đến ăn. Nhân đó mà xem thường không lưu giữ lại, Tỉnh Xưng cùng với Cừu Khương trở về chùa cũ.

Năm chín mươi ba tuổi, Tỉnh Xưng không bệnh mà viên tịch.

16. Tỳ-kheo-ni Pháp Tướng ở chùa Thái Huyền Đài, xứ Ngô.

Tỳ-kheo-ni Pháp Tướng vốn dòng họ Hầu, người xứ Đôn hoàng, tiết tháo thanh tịnh, tài đức anh minh, dốc chí cầu học, chẳng để luống không phế nghiệp, an tình lam lũ, chẳng vì vinh hoa mà thay đổi lòng, lấy chồng họ Phó, gia đình nhiều đạo. Đến lúc phù kiên bại tích, quyến thuộc tan mất, nên xuất gia trì giới, tin hiểu cao sâu. Thường xin bớt áo cơm cúng dường Tỳ-kheo-ni Tuệ Tú, chúng Tăng trong chùa can ngăn:

- Tuệ Tú vốn người quê mùa, nói không ra lời, Phật pháp kinh luật chưa từng để tâm, muốn học Thiền định lại không thầy dạy, bản tánh ngu vụng về chậm chạp. Đó là hạng người ngu hạ. Sao chẳng gieo nhân ở nơi thượng điền mà tu ở hạ phước.

Pháp Tướng đáp:

- Sự hơn kém của ruộng phước chỉ có Thánh nhân mới biết, ta đang là người phàm sao lại bày chuyện lấy bỏ? Gặp có vật tài cứ bố thí cúng dường sao lại quan tâm tác ý ư?

Về sau, Tuệ Tú thiết lập trai pháp thiền tập bảy ngày. Đến ngày thứ ba, đêm đó cùng chúng đồng tọa, chúng dậy hết cả, chỉ mình Tuệ Tú không dậy. Cả chúng đều quán xét Tuệ Tú vững vàng như gỗ đá, lay lắt chẳng động. Hoặc có người cho là đã chết, sau đó ba ngày mới dậy, sau khi dậy bình thường như cũ. Đại chúng lấy làm lạ, mới tỏ ngộ thấy biết rất sâu xa. Những việc tương tợ như thế của Pháp Tướng, trước sau không chỉ là một. Đến tuổi về già, Pháp Tướng càng thuần hậu. Ngoài chín mươi tuổi, Pháp Tướng mới viên tịch, khoảng cuối niên hiệu Nguyên Gia (454).

17. Tỳ-kheo-ni Nghiệp Thủ ở chùa Thanh Viên, xứ Đông.

Tỳ-kheo-ni Nghiệp Thủ vốn dòng họ Trương, người xứ Bành Thành. Phong nghi cao chỉnh, giới hạnh thanh bạch. Hiểu sâu Đại thừa, khéo giảng diệu lý, thích thiền tụng miên mật chẳng hề lười biếng.

Đời tiền Tống, vua Vũ Đế (420-423) rất kính trọng chẳng khác, vua Văn Đế (424-454), từ thuở nhỏ đã theo thọ tam quy. Nghiệp Thủ trú chùa Vĩnh an, thường xuyên lui tới cúng dường. Năm Nguyên Gia thứ 2 (425), mẹ của Vương Cảnh Thâm, người họ Phạm lấy đất từ đường cũ của Vương Thân cúng dường Nghiệp Thủ để dựng lập chùa viện, đặt tên là chùa Thanh Viên. Đồ chúng tướng đối đông, rất có quy cũ. Phan Quý Phi ngợi khen rằng: "Tỳ-kheo-ni Nghiệp Thủ hoằng dương Phật pháp rất đáng kính trọng. Đến năm Nguyên Gia thứ 15 (439) vì Nghiệp Thủ mà mở rộng chùa ra ở phía Tây, dựng lập điện Phật, lại mở mang ở phía Bắc chùa tạo lập Tăng phòng, cung cấp mọi thứ cần dùng, chùa chiền hưng thịnh. Đại chúng khoảng hai trăm người, pháp sự không dứt. Tuổi tác Nghiệp Thủ càng già mọi người kính ngưỡng càng lớn mạnh. Nhiều lần tự muốn được yên thân tuổi già, đại chúng đều không chấp thuận. Năm chín mươi tuổi, Nghiệp Thủ viên tịch, nhằm năm Đại Minh thứ 06 (463).

Bấy giờ, lại có các Tỳ-kheo-ni Tịnh Ai, Bảo Anh, Pháp Lâm đều có thân thanh khiết tiếng khắp kinh đô phủ huyện. Tịnh Ai từ lâu thường hành thiền tụng, thừa sự rất thỏa đáng, viên tịch năm Thái Thỉ thứ 5 (470). Bảo Anh dựng tháp năm tầng, chuyên cần diệt lý, tinh tấn; chỉ ăn dùng rau lá, viên tịch năm Thái Thỉ thứ 6 (471). Bảo Lâm xem rộng kinh luật, già mà chẳng trễ nải, viên tịch năm Nguyên Huy thứ nhất (473). Lại có đệ tử là Đàm Dần, kiêm tụng thiền luật, rời bỏ vinh hoa, không quan hệ triều đình phố chợ, viên tịch vào năm Nguyên Huy thứ 6*.

18. Tỳ-kheo-ni Pháp Biện ở chùa Cảnh phúc.

Tỳ-kheo-ni Pháp Biện người xứ Đơn dương, xuất gia từ nhỏ tại chùa Cảnh phúc, là đệ tử của Tỳ-kheo-ni Tuệ Quả. Trung thuần, cẩn trọng, thanh bạch, tao nhã vốn sẵn cần kiệm, mặc áo thô xấu, ăn cơm với rau, chẳng dùng các thứ cay nồng, tiếng tốt cao nhã sớm vang khắp thành đô đến thôn ấp, thứ sử Dương châu là Lang Da Vương Úc rất sùng bái kính lễ.

Về sau, Pháp Biện đến chùa Đạo Lâm, theo Samôn Cương Lương Da-xá, người ngoại quốc thọ học thiền quán, như pháp tu hành, rất tinh thông hiểu sự lý. Mỗi lúc dự chúng, ở nơi pháp tịch thường ngủ mê. Tại trai đường khi mọi người dậy hết nhưng Pháp Biện vẫn còn ngồi, vị Duy Na kinh hãi đến lay động thì tợ như gỗ đá, vội mách bảo nhau cùng đến xem sao, khoảng khắc xuất định, nói năng bình thường, đại chúng rất khâm phục và càng thêm kính trọng. Năm Đại Minh thứ 07 (464), Pháp Biện viên tịch, thọ sáu mươi tuổi.

Trước đó hai ngày, trên chùa Ni Định Lâm, Pháp sư Siêu Biện mộng thấy mộng cung thành trang nghiêm tráng lệ, trang trí rực rỡ, trong đời chẳng có, nam nữ trang sức đầy đủ ở đó, chỉ không thấy có người chủ, bèn hỏi nguyên cớ. Các người đó đáp rằng:

- Tỳ-kheo-ni Pháp Biện ở chùa Cảnh phúc tương lai sẽ sinh đến đây, ngày mai hẳn đến!

Ngày đó, Pháp Biện cảm thấy thớ thịt hơi lạnh run, liền mách bảo cùng đại chúng, tất cả lớn nhỏ đều nhóm họp. Pháp Biện tự nói:

- Có người khác lạ đến chung quanh ta chợt hiện chợt ẩn, như bóng như mây.

Nói xong bèn ngồi mà tịch. Sau đó, lại có các Tỳ-kheo-ni Đạo Chiếu, Tăng Biện cũng vì tinh tấn mà biết đến. Đạo Chiếu vốn dòng họ Dương, người xứ Bắc Địa từ, ăn dùng rau lá; tinh cầu tụng niệm kinh, là chỗ Lâm Hạ Vương thường đến cúng dường.

19. Tỳ-kheo-ni Đạo Tống ở chùa Tam tầng, Giang lăng.

Tỳ-kheo-ni Đạo Tống, không rõ là người xứ nào, trú tại chùa Tam tầng ở Giang lăng. Thuở nhỏ chẳng vì xuất chúng mà giữ lòng, trưởng thành chẳng vì động vật làm nhiễm ô. Với mực Hiền Ngu theo đạo tiếng tăm ít vang lừng nhưng chỗ đạt ngộ rất thâm sâu.

Đêm rằm tháng ba năm Đại Minh thứ 7 (464) đời tiền Tống, tự luyện dầu lửa quấn trán rồi đốt, mắt tai đều hủy hoại, tụng vịnh không thôi, kẻ Tăng người tục đều tán thán ngợi khen, yêu ma đều hãi sợ, khắp nơi nghe thế đều phát tâm Bồ-đề. Chúng sĩ Lưu Kỳ, đời tiền Tống cũng rất sùng bái tôn kính, vì Đạo Tống mà làm kệ ngợi khen...

20. Tỳ-kheo-ni Tuệ Tuấn ở chùa Trúc viên.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Tuấn vốn dòng họ Trần, người xứ Sơn âm, thuở nhỏ thông minh đỉnh ngộ, tinh tấn vượt xa tầm thường. Sáng sớm đốt hương, vận tâm quán tưởng kính lễ đúng thời khóa, trưa thì cơm rau một bữa, chẳng ăn dùng thức ngon béo bùi. Tuy ở tại gia mà như người xuất tục, song thân không thể cắt tóc chí nguyện. Đến tuổi mười bảy mới hứa cho theo đạo, kinh sách trong ngoài chỉ nhìn qua thì tụng được thành bài. Thiền sâu Quán mật không gì chẳng nhập, vắng lặng mà không tranh giành, hòa mục mà có tiết lượng, chơi bạn quen thân chưa từng đùa bỡn.

Thái tể Giang hạ Vương Nghĩa Cung, đời tiền Tống rất tôn trọng suy kính, thường cung cấp y dược bốn mùa không thiếu thứ gì. Chẳng cất chứa của cải, tất cả đều xây dựng chùa viện, chùa Trúc viên được thành lập là nhờ công lao của Tuệ Tuấn. Tuệ Tuấn vui với Thiền vị, già mà chẳng suy. Năm Đại Minh thứ 8 (465), Tuệ Tuấn viên tịch, thọ bảy mươi ba tuổi, an táng tại Phụ sơn. Ngay chùa ấy, có vị Tăng hóa Ni thông mẫn trác tú, tụng niệm kinh luật, ăn dùng rau lá tiết chế khổ hạnh, tiếng tốt ngang đồng như Tuệ Tuấn vậy.

21. Tỳ-kheo-ni Bảo Hiền ở chùa Phổ hiền.

Tỳ-kheo-ni Bảo Hiền vốn dòng họ Trần, người xứ Trần quận. Năm mười sáu tuổi chịu tang thân mẫu, suốt ba năm chẳng ăn ngũ cốc chỉ dùng củ sắn củ ấu để tự nuôi sống, chẳng mặc áo quần bằng tơ lụa, chẳng ngồi trên giường chiếu. Năm mười chín tuổi, xuất gia tại chùa Kiến An. Tháo hạnh tinh tu, rộng thông Thiền luật.

Đời tiền Tống, vua Văn Đế (424-454), rất mến mộ cúng dường y thực. Vua Hiếu Vũ Đế (454465), cũng rất kính đãi, hàng tháng cung cấp một vạn tiền. Vua Minh Đế (465-473) sau khi lên ngôi, thường tiếp xúc càng thêm sùng kính. Năm Thái Thỉ thứ nhất (465), ban sắc Bảo Hiền làm tự chủ chùa Phổ hiền, hai năm sau (467), lại ban sắc làm Tăng Chính Đô ấp, rất có uy phong, đoán rõ như thần, khéo luận vật lý, quanh co thảy đều rõ hiểu. Giữ tánh cương trực không thể khuynh nhiễu.

Niên hiệu Hưng Bình (314-317) cuối đời Tây Tấn, có Tịnh Kiểm là vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên (ở Trung Hoa), ban đầu thọ giới Cụ túc chỉ theo Đại Tăng. Sau này, Tỳ-kheo-ni Tuệ Quả, Tịnh Âm... ở chùa Cảnh phúc đến hỏi Sa-môn Cầu-na-bạt-ma, Cầu-na-bạt-ma bảo:

-Cõi nước không có hai bộ Đại Tăng, chỉ theo Đại Tăng thọ đắc giới Cụ túc.

Tuệ Quả... về sau lại gặp Tỳ-kheo-ni Tiền Tát La-người ngoại quốc đến. Vào năm Nguyên Gia thứ 11 (435), theo Sa-môn Tăng-già Bạt-ma trùng thọ giới Cụ túc tại giới Đàn chùa Nam Lâm. Như vậy, có thể cho rằng trước đó thọ không đắc giới mà gọi là tăng trưởng giới thiệu vậy. Sau đó những người ưa thích khác lạ, rộng cùng truyền tập điển chế sai lạc. Năm Nguyên Huy thứ 02 (474), pháp sư Luật Dĩnh ở chùa Tấn Hưng khai giảng luật Thập Tụng. Ngày đó có hơn mười vị Ni nhân nghe giảng dạy nên muốn thọ giới lại, Bảo Hiền bèn đến chỗ Đại Tăng mang mệnh lệnh đến giảng tòa, đánh mộc bảng, tuyên bảo cùng chư Ni:

-Không được thọ giới lại. Nếu vị nào tuổi tác chưa đủ thì thầy của vị đó trước phải nhóm chúng sám hối xong, sau đó đến chỗ Đại Tăng. Đại Tăng hứa khả, thỉnh người kiểm xét mới được thọ giới.

Nếu có ai chống cự trái lại tức liền tẩn xuất.

Nhân đó, về sau mọi sự kiêu cạnh tạm dứt mất. Bảo Hiền ở chỗ thanh tịnh giản đơn, tài kiêm sự nghĩa an ủy mọi người nâng đỡ kẻ dưới, trang nghiêm ít muốn, lợi ích cho đời cao như thế. Năm Thăng Minh thứ nhất (477), Bảo Hiền viên tịch, thọ 77 tuổi.

22. Tỳ-kheo-ni Pháp Tịnh ở chùa Phổ hiền.

Tỳ-kheo-ni Pháp Tịnh, người xứ Giang bắc. Năm 20 tuổi gặp loạn nên theo thân phụ trốn tránh đến xứ Mạt lăng. Gia đình vốn theo Phật giáo, pháp tịnh xuất gia từ tuổi nhỏ tại chùa Vĩnh Phúc, giới hạnh thanh khiết, thấu rõ sự lý, trầm tư tinh nghiêm xả thân cứu nghĩa, cùng với Tỳ-kheo-ni Bảo Hiền là đồng bạn cũng thời nổi danh.

Đời nhà Tống, vua Minh Đế (465-473) lấy đó làm lạ. Năm Thái Thỉ thứ nhất (465), ban sắc Pháp Tịnh trú tại chùa Phổ hiền, thường hay tiếp đãi trong cung, giữ lễ như thầy bạn. Năm sau (466), lại ban sắc giữ chức Đô Duy Na ở kinh ấp, ở việc công chính, Pháp Tịnh ứng xử tinh thông, tùy phương cấp dẫn, cảm hóa như xuôi dòng. Chư Ni ở Kinh Sơ cũng như những phụ nữ thông gia, không ai chẳng từ xa viết thư gởi tặng cầu bạn tri thức. Đức hạnh quen đào luyện sửa trị của Pháp Tịnh ai ai cũng biết. Chúng theo cầu học giới hạnh khuôn phép mẫu mực khoảng bảy trăm người.

Năm 65 tuổi, Pháp Tịnh viên tịch, nhằm năm Nguyên Huy thứ nhất (473).

23. Tỳ-kheo-ni Tuệ Diệu ở chùa Vĩnh khương, Thục quận.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Diệu vốn dòng họ Chu, người xứ Tây bình, xuất gia từ thuở nhỏ, thường thệ nguyện thiêu thân để cúng dường Tam bảo. Cuối năm Thái Thỉ (472) nói cùng thứ sử Lưu Lượng, lúc đầu thì Lưu Lượng chấp thuận. Có Triệu Xứ Tư xây phần mộ, họ Vương chấp thuận. Đến rằm tháng giêng, Tuệ Diệu dẫn các đệ tử mang dầu vải đến chỗ phần mộ, sửa soạn chưa xong, Lưu Lượng đưa thư đến nói cùng Chư Ni rằng:

- Nếu Tỳ-kheo-ni Tuệ Diệu thật sự muốn thiêu thân thì cả chùa Vĩnh khương đều mắc trọng tội.

Tuệ Diệu vì bất đắc dĩ nên trở về. Họ Vương vô cùng tức giận bảo:

- Bà Ni cần cầu danh lợi dối bày kỳ đặc.

Kín đút lót người bên trong làm việc vào nữa đêm, trong thành ai cũng biết, Tuệ Duệ bảo:

- Nàng con gái mới lấy chồng chớ lấy sinh lấy phiền não, xả bỏ thân liên quan bên cạnh tôi người đâu biết!

Từ đó trở về lại chùa, bỏ ăn ngũ cốc, uống các dầu thơm. Đến năm Thăng Minh thứ nhất (477), Tuệ Diệu thiêu thân tại chùa, lửa cháy đến mặt, vẫn tụng kinh không ngừng, bảo Chư Ni rằng:

- Lượm nhặt hài cốt của tôi chỉ được hai thăng. Đến lúc lửa tắt, quả thật y như lời Tuệ Diệu nói.

Trước lúc thiêu thân khoảng một tháng, ngày nọ có vị tăng người nước Hồ, tuổi khoảng hai mươi, hình dung đoan chánh, ở đùi vế có mọc cọng lông dài sáu, bảy tấc rất nhỏ mềm mại, có người hỏi duyên cớ, thì dịch ngữ nói rằng:

- Bởi do từ trước chưa từng che đậy ở đó nên mọc lông như vậy. Vị tăng ấy nói với Tuệ Diệu rằng:

- Tôi ở nước Ba-la-nại cách đây vài ngày nghe chị muốn xả bỏ báo thân này nên đem bình bạc đến tặng chị.

Tuệ Diệu bèn đảnh lễ nhận lấy, chưa kịp giao nhận bèn vội khước từ. Tuệ Diệu sai người tìm để giữ lại. Song, ra đến cửa thì đã đâu mất. Chư Ni đem bình bạc ấy đừng đầy xá lợi của Tuệ Diệu, chẳng tràn hai hộp...

QUYỂN 3

ĐỜI NAM TỀ CÓ 15 VỊ

1. Tỳ-kheo-ni Pháp Duyên ở Đông hoàn, Tăng thành.

2. Tỳ-kheo-ni Đàm Triệt ở chùa Nam vĩnh an.

3. Tỳ-kheo-ni Tăng Kính ở chùa Sùng thánh.

4. Tỳ-kheo-ni Tăng Mãnh ở chùa Tề minh, Cổ quan.

5. Tỳ-kheo-ni Diệu Trí ở chùa Hoa nghiêm.

6. Tỳ-kheo-ni Trí Thắng ở chùa Kiến phúc.

7. Tỳ-kheo-ni Tăng Cái ở chùa Thiền cơ.

8. Tỳ-kheo-ni Pháp Toàn ở chùa Đông thanh viên.

9. Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu ở chùa Phổ hiền.

10. Tỳ-kheo-ni Đàm Giản ở chùa Pháp âm.

11. Tỳ-kheo-ni Tịnh Khuê ở chùa Pháp âm.

12. Tỳ-kheo-ni Tuệ Tự ở chùa Tập thiện.

13. Tỳ-kheo-ni Siêu Minh ở chùa Tề minh, tiền Đường.

14. Tỳ-kheo-ni Đàm Dõng ở chùa Pháp âm.

15. Tỳ-kheo-ni Đức Lạc ở chùa Tề hưng, xứ Diệm.

****

1. Tỳ-kheo-ni Pháp Duyên ở Đông hoàn, Tăng thành.

Tỳ-kheo-ni Pháp Duyên vốn dòng họ Du, người xứ Đông Hoàn Tăng Thành. Năm Nguyên Gia thứ 9 (433), đời tiền Tống. Pháp Duyên vừa mười tuổi cùng em là Pháp Thải chín tuổi, chưa biết kinh pháp. Ngày mồng 8 tháng 2 năm đó (433), cả hai chị em không biết đi đâu, ba ngày sau trở về nói đến tịnh độ thiên cung thấy Phật, Phật nhân đó mà chỉ dạy. Đến ngày rằm tháng 9, lại đi mất một tuần mới về, có thể viết được chữ nước ngoài và tụng kinh, nghe người Tây Vực nói đùa, nghe cũng hiểu rõ.

Ngày rằm tháng giêng năm Nguyên Gia thứ 10 (434), lại bỏ đi mất, những người làm ruộng thấy hai chị em nương gió bay bổng giữa trời, song thân lo sợ tế thần cầu phước, trải qua cả tháng mới trở lại, lúc trở về là đã xuất gia, thân mặc pháp phục, nắm tóc đem về, tự nói thấy Phật và các Tỳ-kheo-ni, bảo rằng:

Người có nhân duyên đời trước nên làm đệ tử ta.

Rồi đưa tay xoa đầu, tóc tự rơi rụng và đặt pháp danh: chị là Pháp Duyên, em là Pháp Thải. Lúc sắp trở về bảo rằng:

- Có thể làm tịnh xá sẽ cho các ngươi trú vậy.

Pháp Duyên... trở về nhà hủy phá thần tòa sửa làm tịnh xá, ngày đêm giảng tụng, đêm đến mỗi người tự có hào quang năm sắc chiếu sáng, nổi trôi trên các dòng hay ở đỉnh núi non có như ngọn đuốc. Từ đó về sau, lời nói tao nhã, âm thanh trong sáng, lên kinh đô phúng tụng không ai sánh bằng. Thứ sử Vĩ Lãng Khổng Mặc đều khuất phục, cung kính cúng dường. Nghe Pháp Duyên giảng nói vô cùng kính phục. Nhân đó mà mọi người đều phụng thờ chánh pháp.

Khoảng trong niên hiệu Kiến Nguyên (479483), đời Nam Tề, Pháp Duyên viên tịch, thọ năm mươi sáu tuổi.

2. Tỳ-kheo-ni Đàm Triệt ở chùa Nam vĩnh an.

Tỳ-kheo-ni Đàm Triệt, chưa rõ người xứ nào. Từ nhỏ là đệ tử của Tỳ-kheo-ni Phổ Yếu, theo Phổ Yếu trú tại chùa Vĩnh an. Phổ Yếu bảo:

-Chăm lo học giỏi hẳn sẽ có tiếng ở đời.

Đàm Triệt giữ lấy chí khí không kiêu hãnh, học tập siêng năng không ngừng. Yếu nghĩa Phật pháp, đều suốt thấu. Chưa kịp thành giới đã nghiên cứu kinh luận. Sau khi thọ giới Cụ túc, cùng học Luật tạng. Tài năng gánh vác cơ vụ rất khéo giảng nói, phân tích minh bạch rõ ràng, nghiên cứu sâu xa. Chư Ni lớn nhỏ đều trông nhờ, tùy phương ứng hội, tiết tấu lô-gíc. Các phụ nữ từ hàng Ngũ hầu đến Thất quý trở xuống không ai mà chẳng tu kính mến phục.

Năm Vĩnh Minh thứ 2 (483), đời Nam Tề, Đàm Triệt viên tịch, thọ sáu mươi ba tuổi.

3. Tỳ-kheo-ni Tăng Kính ở chùa Sùng thánh.

Tỳ-kheo-ni Tăng Kính vốn dòng họ Lý, người xứ Cối kê, ở ngụ tại đất Mạt lăng. Tăng Kính lúc còn trong bào thai, người nhà thiết lễ hội, thỉnh Samôn Tăng siêu ở chùa Ngõa Quan và Tỳ-kheo-ni Đàm Chi ở chùa Tây, hai vị chỉ vào bụng gọi đứa bé trong bào thai làm đệ tử và người mẹ thay đứa bé gọi hai vị là thầy. Bất luận là nam hay nữ hẳn đều cho xuất gia. Đến ngày sắp sinh, người mẹ mộng thấy Thần nhân bảo rằng:

- Nên kiến lập bát Quan trai pháp tức mạng kinh bắt đầu.

Chư Tăng và tôn tượng chưa thỉnh đến, liền sinh Tăng Kính. Nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng:

- Nên đem đến chùa Kiến An, thưa cùng chư Ni cho làm đệ tử.

Năm lên năm, sáu tuổi, Tăng Kính nghe tụng kinh, liền có thể nhớ tụng, đọc kinh vài trăm quyển, diệu giải ngày một sâu xa, chỉ dùng rau lá khắc kỷ thanh phong tạm trước. Mãi đến niên hiệu Nguyên Gia (424-454), đời tiền Tống, Lỗ Quận Khổng Mặc ra trấn Quảng châu, dẫn Tăng Kính đi cùng. Gặp được Tỳ-kheo-ni Tiền Tát La..., người ngoại quốc đang đến kinh đô Triều Tống, đều là phong tiết cao dị, liền xin theo thọ giới, rõ sâu nghĩa lý vô thường, muốn nương thuyền vượt biển tìm cầu thánh tích. Đạo tục cấm cản, phải dừng ở tại Lĩnh nam hơn ba mươi năm. Phong lưu dần đổi, tục dữ cải tâm, có mười ba người xả bỏ vườn nhà cúng dường Tăng Kính, cùng nhau lập chùa ở tại triều đình, đặt hiệu chùa Chúng Tạo. Vua Minh Đế (465-473), đời Tiền Tống nghe thế, từ xa sai người nghênh đón. Đạo tục cùng nhau chia sẻ buồn nhớ. Trở lại kinh đô, Tăng Kính được ban sắc trú tại chùa Sùng thánh, kẻ tăng người tục khâm phục sự tiến dừng của Tăng Kính. Lạc Tuân ở Đơn Dương vì Tăng Kính mà xả bỏ vườn nhà để dựng lập chùa, sau dời đến đó ở. Thời nhà Tề, Văn Tuệ Đế, Văn Tuyên Vương ở Kính lăng đều khâm phục phong thái và đức hạnh của Tăng Kính cúng thí đầy đủ không khuyết thiếu thứ gì.

Ngày mồng ba tháng 2 năm Vĩnh Minh thứ 4 (487), đời Nam Tề, Tăng Kính viên tịch, thọ tám mươi tư tuổi, an táng tại phía Bắc núi Chung sơn. Các Đệ tử tạo lập văn bia, Trung thư thị lang Ngô Hưng Trầm ước chế văn bia tại đó.

4. Tỳ-kheo-ni Tăng Mãnh ở chùa Tề minh, Cổ quan.

Tỳ-kheo-ni Tăng Mãnh vốn dòng họ Sầm, người xứ Nam dương, dời đến trú tại huyện Cổ quan, cho đến thời Tăng Mãnh đã là năm đời. Tằng tổ của Tăng Mãnh theo nhà Tấn giữ chức chánh viên lang dư kháng lệnh. Gia đình vốn thờ kính Hoàng Lão và kính tin tà thần. Tăng Mãnh từ thuở nhỏ đã bùi ngùi, có chí cầu đạo, xa lánh trần tục. Năm mười hai tuổi, thân phụ qua đời, Tăng Mãnh gào khóc đến nỗi thổ huyết, chết đi sống lại, trọn đủ ba năm, tánh tình bất diệt, từ biệt mẹ xuất gia học đạo. Đạo hạnh đã thanh khiết, sống một cuộc sống nhàn tịnh luôn cung kính nghiêm tinh. Chỉ dùng cơm gạo rau lá thô sơ nên thân còn da bọc lấy xương. Hành Đạo sám hối chưa từng biếng lười. Phô bày lỗi trước, tinh cần khẩn thiết rơi lệ. Hay làm những việc mà người đời khó làm. Thứ sử Ích Châu Ngô Quận là Trương Đại nghe tiếng vang mà kính trọng, mời về làm thầy ở nhà.

Trong niên hiệu Nguyên Huy (473-477), đời tiền Tống, Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiền vào đất Ngô, dẫn Tăng Mãnh ra kinh đô, trú tại chùa Kiến phúc, xét qua đại chúng trải suốt đêm ngày, theo đuổi giảng thuyết tâm không mệt nhọc, lắng lòng yên tọa, bình thản khó lường. Đến năm Kiến Nguyên thứ 4 (482), đời Nam Tề, mẫu thân mắc bệnh, Tăng Mãnh bèn xả bỏ nhà Đông để xây dựng chùa, đặt hiệu là chùa Tề minh. Quanh khắp điện vũ trồng đầy cây trúc, trong ngoài trong sạch tợ như như Tiên ở. Đối với người đói thì nhường thức ăn để bố thí, với người rét lạnh thì cởi áo mà bố thí cho. Ở phía Nam chùa thường có người săn bắn, nên chim thú đua nhau bay chạy tìm đến nơi Tăng Mãnh mà chim ưng săn rượt đuổi chỉ cách chừng thước tất. Tăng Mãnh vận dụng thân mình tay chân để ngăn cản chở che, tuy thân thể bị mổ cắn mà các loài thú tìm đến đều được thoát chết. Cùng sống tại đó khoảng vài mươi người, hơn 30 năm chưa từng thấy Tăng Mãnh lộ vẻ tức giận. Đến năm Vĩnh Minh thứ 5 (492), Tăng Mãnh viên tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi.

Bấy giờ, lại có Tỳ-kheo-ni Tăng Viện là đệ tử của Tăng Mãnh cũng là người lừng tiếng hiếu kính với thấy hạnh nghiệp cao xa, Tuệ ngộ thâm sâu.

5. Tỳ-kheo-ni Diệu Trí ở chùa Hoa nghiêm.

Tỳ-kheo-ni Diệu Trí vốn dòng họ Tào, người xứ Hà nội. Bản tánh nhu hòa thông mẫn, tấm lòng độ lượng, giữ gìn khuôn phép cấm ngăn như giữ gìn minh châu. Tâm thường siêng năng nhẫn nhục, cùng với mọi vật không trái ngược. Tuy có sự buồn não nhưng hình dáng lúc nào cũng hài hòa. Rũ màn quanh năm, trọn ngày chẳng phiền muộn đến ai. Tinh thông thấu đạt pháp tướng, mọi vật thảy đều làm chủ.

Khi triều Đường mới dựng lập, vua Vũ Đế (483-494), đời nhà Tề ban sắc mời Diệu Trí khai giảng các kinh Thắng-man, Tịnh Danh,... Đến lúc Diệu Trí giảng pháp, nhà vua đã vài lần thân lâm, ban chiếu hỏi vô phương, Diệu Trí liên tiếp phanh chiết mới không để lại ứ đọng, nhà vua thường ca ngợi tốt lành.

Thời nhà Tề, Văn Tuyến Đế ở Cảnh lăng, tại cương giới Chung sơn là nơi nhóm tụ an táng các bậc Danh đức. Đến năm Kiến Vũ thứ 2 (495), Diệu Trí viên tịch, hưởng thọ 64 tuổi, an táng tại chùa

Định Lâm. Thị Trung lang da vương luân, đời Nam Tề, có vợ thuộc họ Giang vì Diệu Trí mà dựng lập trụ đá viết khắc ngôn từ ca ngợi, dựng ở bên trái một phần của Diệu Trí.

6. Tỳ-kheo-ni Trí Thắng ở chùa Kiến phúc.

Tỳ-kheo-ni Trí Thắng vốn dòng họ Từ, người xứ Trường An, đến trú tại Cối Kê đã ba đời. Năm lên 6 tuổi, Trí Thắng theo vương mẫu ra thành đô đến chùa Ngõa Quan, thấy Chiêu Đề sửa lớn bảo sức nghiêm Hoa, tự nhiên rơi nước mắc khóc lóc, nhân đó xin xuống tóc, vương mẫu về hỏi, Trí Thắng thuật đủ ý ấy. Vương mẫu cho rằng đang còn nhỏ dại nên chưa chấp thuận. Cuối đời Tiền Tống (....-479), có lắm hoạn nạn, nhân dân bốn phương thất nghiệp, thời sự phân vân, lâu nhiễm nhiều năm.

Năm đến hai mươi tuổi, Trí Thắng mới được xuất gia, trú tại chùa Kiến phước, cần mẫn chuẩn mực đi vào khuôn phép. Thỉnh thọ kinh Đại Niếtbàn, chỉ một lần nghe liền có thể hành trí, về sau nghiên cứu luật tụng, không nhọc công thọ lại, hăng say công việc, tìm tòi tra cứu, tự chế vài mươi quyển Nghĩa sớ, từ đơn giản đến cao siêu, nghĩa ẩn mà lý huyền diệu. Gặp khó khăn chẳng nản lòng, gặp vui sướng không hề giải đãi. Khoảng trong niên hiệu Đại Minh (457-465)*, có một gả nam tử dối trá ôm hoài nhiễm dục, mưu toan tính kế lợi riêng. Trí Thắng khắc ý thâm uyên, khí tháo lập bền, nghiêm nét mặt bảo cùng đại chúng, chúng liền soát lục giao cho quan xét xử. Trí Thắng giữ giới thanh tịnh như gìn giữ minh châu.

Bấy giờ, có Tăng Tông Huyền Thư đệ tử của Pháp sư Đàm Bân ở chùa Trang Nghiêm, cùng hầu giữ điện Phật, khinh thường mạn tạng đến trộm, mới mất Bồ-tát Anh Lạc và bồn tắm bảy báu, bình lọ, y bát của Đàm Bân, các vật ở bên ngoài thất như khánh treo… nên buồn phiền nghỉ giảng, đóng cửa ba ngày. Tri Thắng tuyên cáo cùng bốn bộ chúng nội trong một tuần hẳn sẽ hoàn trả đầy đủ. Đức lớn cảm hóa mọi hành vi cử chỉ như vậy. Thời nhà Tề, Văn Tuệ Đế nghe được tiếng vang nhã ý cung nghênh đón tiếp mời vào cung. Mỗi lần rước vào cung giảng nói các kinh, thì Quan Tư Đồ Kính Lăng; Văn Tuyên Đế càng thêm sùng kính. Trí Thắng chí kiên trinh như vàng phương Nam, tâm ngời sáng tợ tuyết xứ Bắc, khuyên răn Ni chúng thật đủ vật trông. Lệnh chỉ mới bảo làm chủ chùa, cả thảy đều cung kính như sùng tụng vị Tôn nghiêm. Trí Thắng theo pháp sư Tăng Viễn ở chùa Định Lâm cầu thọ Bồ-tát giới. Bên cạnh pháp tòa thường đặt lò hương, Trí Thắng xông hương, Tăng Viễn đứng đó bảo rằng:

- Chẳng lấy lửa, đã tin tú vậy.

Chỗ để hương chan hòa tỏa khói, mọi người đều ngợi khen sự cung kính trang nghiêm của Trí Thắng hiển bày ứng hiện như vậy.

Khoảng trong niên hiệu Vĩnh Minh (483-494), Trí Thắng thiết lễ trai Tăng nhiếp tâm cầu tưởng, bỗng nghe giữa không trung có tiếng gảy móng tay, liền chấp tay lắng nghe. Trí Thắng thường trú tại chùa, ba mươi năm chưa từng ứng phó trai hội, đặt chân đến nơi giàu sang phú quý. Trí Thắng quý trọng chỗ nhàn tĩnh, nhiếp niệm tư duy, nên tiếng thơm vang xa, Văn Tuệ Đế càng gia tâm cung phụng, ngày tháng đủ đầy, dựng xây phòng nhà, mở mang chùa viện, Đại chúng đông nhiều. Trí Thắng xả bỏ y bát vì bảy vị Hoàng đế trong thời tiền Tống và Nam Tề mà tạo dựng tượng đá ở chùa Nhiếp Sơn.

Đến năm Vĩnh Minh thứ 10 (494), Trí Thắng nằm trên giường bệnh, bỗng thấy xe vàng Vũ ngọc đều đến nghênh đón. Đến ngày mồng 5 tháng 4, bảo các đệ tử rằng:

- Ngày nay, ta qua đời!

Các đệ tử đều khóc lóc, Trí Thắng bèn vạch y bày ngực, giữa ngực có viết thảo chữ "Phật". Thể chữ mới đẹp sắc trắng cùng soi nhuận, đến giữa trưa ngày mồng 08 thì viên tịch, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi, an táng tại Chung sơn. Vua Văn Đế cung cấp thuốc than cho Trí Thắng, còn trong lúc tang lễ mọi sự cần dùng đều do các quan lo liệu đầy đủ.

7. Tỳ-kheo-ni Tăng Cái ở chùa Thiền cơ.

Tỳ-kheo-ni Tăng Cái vốn dòng họ Điền, người xứ Quân nhân, nước Triệu. Thân phụ là thái thú Hoằng Lương Thiên Thủy.

Tăng Cái xuất gia từ thuở nhỏ làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Tăng Chí ở chùa Hoa Lâm; Bành thành. Không màng lợi dưỡng dứt bỏ danh dự. Năm Nguyên Huy thứ nhất, sách Lỗ Xâm Châu, nên Tăng Cái cùng bạn đồng học là Pháp Tấn cùng đến phương Nam kinh thất, trú tại chùa Điệu Tướng của chư Ni, rộng nghe kinh luật, sâu cứu chỉ quy, chuyên tu thiền định, ngày không đủ tu đến đêm thâu, nóng lạnh chẳng đổi xiêm y, bốn mùa không thức ăn mới lạ, chỉ dùng một bữa cơm rau giữa trưa mà thôi. Thọ nghiệp ở hai Thiền sư Ẩn Bá. Cả hai vị đều khen ngợi sự tỏ ngộ khác thường của Tăng Cái.

Trong niên hiệu Vĩnh Minh (483-494) thời Nam Tề, Tăng Cái dời đến trú tại chùa Thiền cơ, muốn xiển dương rộng Quán Đạo, kẻ tăng người tục đến thăm hỏi, ảnh hưởng sự tu, mới riêng lập thiền phòng ở bên trái cạnh chùa, yên lặng trong đó, mỗi lúc ra thì tinh thần sảng khoái không mỏi mệt. Thời nhà Tề, Cảnh Lăng Văn Tuyên Vương Tú Tử Lương, suốt bốn mùa cung cấp. Tuy tuổi đã già nua mà chí hướng thượng chẳng suy mòn. Trọn ngày thanh hư, suốt đêm chẳng ngủ. Đến năm Vĩnh Minh thứ 11 (494), Tăng Cái viên tịch, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi.

Bấy giờ, lại có Pháp Diên, vốn dòng họ Hứa, người xứ Cao dương, tinh cần có hạnh nghiệp, cũng do từ thiền định mà nổi danh.

8. Tỳ-kheo-ni Pháp Toàn ở chùa Đông thanh viên.

Tỳ-kheo-ni Pháp Toàn vốn dòng họ Đái, người xứ Đơn dương. Đoan trang ưa thích vắng lặng, tinh cần định tuệ. Ban đầu theo Tông Viện xem khắp các kinh, về sau bắt chước hai Thiền sư Bá Ẩn tham cùng thiền quán. Ngày thì nghiên cứu kinh văn, đêm lại xem khắp Diệu Cảnh. Đối với giáo điển Đại thừa đều có thể tuyên giảng, pháp môn bí diệu Tam-muội đều làm thầy khuôn phép. Ăn chỉ rau quả, mặc cốt che hình. Dạy dỗ những điều chưa nghe khuyên răn hậu học. Hàng thính giả tu hành công phu rất đông. Chùa rộng lớn quán xuyến trong ngoài cũng rất khó khăn, nên năm Thái Thỉ thứ 3 (465) thời tiền Tống, Ni chúng họp bàn, muốn phân thành hai chùa, bấy giờ Tỳ-kheo-ni Bảo Anh xin ở phía Đông dựng lập Thiền phòng, lại tạo dựng linh tháp. Từ đó mới phân thành chùa Thanh viên ở phía Đông. Đến năm Thăng Minh thứ 2 (478) thời Tiền Tống, Bảo Anh viên tịch, chúng đã mới phân, người coi sóc chưa tiếp nối, mới mời Pháp Toàn làm chủ chùa. Từ đó, kẻ lớn người nhỏ tất cả đều mến vui, tình cảm sâu đậm như sữa hòa với nước.

Đến năm Long Xương thứ nhất (494) thời Nam Tề, Pháp Toàn viên tịch, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. Bấy giờ, ở tại chùa lại có các vị như Tịnh

Luyện, Tăng Luật, Tuệ Hình đều là những người ham học lại nổi danh.

9. Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu ở chùa Phổ hiền.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu vốn dòng họ Dương, người xứ Kiến khang. Chí đạo chuyên thành, vui pháp kiều khẩn. Lúc mới thọ giới Cụ túc, Tịnh Diệu theo Tế Viện để thọ học, tinh cần suy tư nghiên tầm áo nghĩa Đại thừa. Sau khi đã được 10 hạ bèn làm vị thầy mẫu mực. Thời nhà Tề, vua Văn Tuệ Đế, Văn Tuyên Đế ở Cảnh lăng đều kính phục.

Năm Vĩnh Minh thứ 8 (491), vua Cánh Lăng Văn Tuyên Đế thỉnh độ giảng kinh Duy-ma, sau làm chủ chùa hơn hai mươi năm, kẻ lớn người nhỏ sùng phụng như kính thờ cha mẹ, theo làm đệ tử hơn bốn trăm người. Đến năm Vĩnh Minh thứ 10 (493), Tịnh Diệu viên tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi.

Bấy giờ, ở tại chùa lại có các vị như Tăng Yếu, Quang Tịnh đều là những bậc học hành nổi tiếng.

10. Tỳ-kheo-ni Đàm Giản ở chùa Pháp âm.

Tỳ-kheo-ni Đàm Giản, vốn dòng họ Trương, người xứ Thanh hà, là đệ tử của Tỳ-kheo-ni Pháp Tịnh, đến tham học ở Hoài hải, hoằng tuyên chánh pháp, trước người sau mình, ý chí cứu tế rộng lớn.

Năm Kiến Nguyên thứ 4 (483) thời Tam Tề, dựng lập tịnh xá Pháp Âm, chuyên tập thiền tư tịch mặc, thông đạt Tam-muội. Tiếng thơm đức hạnh vang xa, công hoằng hóa ngày một tỏa rộng. Kẻ tăng người tục kính ngưỡng, thạnh tu cúng thí. Bấy giờ có Pháp sư Tuệ Minh mến sâu tịch tĩnh, vốn trú tại chùa Đạo Lâm. Trong niên hiệu Vĩnh Minh (483-494), Văn Tuệ Đế và Văn Tuyên Vương ở Cảnh lăng thường vì tu sửa nghiêm sức, chư Tăng phần nhiều đam mê nghĩa học, giảng nhiều kinh luận, tới lui náo động, nên Tuệ Minh muốn bỏ đó mà đi, Đàm Giản bèn đem chùa đang ở để cúng dường, nhân đó đời đến Bạch Sơn, dựng lập thảo am để che mưa gió, đến giờ đi khất thực để tự nuôi sống, thường hội các tiều phu tạo dựng công đức.

Đến năm Kiến Vũ thứ nhất (494), giữa đêm 18 tháng 2, leo lên đống củi chất sẵn dẫn lửa tự thiêu, xả bỏ thân sinh tử để cúng dường Tam bảo. Mọi người ở gần thôn xóm thấy lửa cháy, đua nhau chạy lại cứu, đến nơi thì Đàm Giản đã viên tịch. Kẻ tăng người tục thương khóc vang tiếng cùng hang núi. Bèn lượm nhặt di cốt còn lại, vì Đàm Giản mà lập phần mộ.

11. Tỳ-kheo-ni Tịnh Khuê ở chùa Pháp âm.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Khuê vốn dòng họ Chu, người xứ Tấn lăng, đến cư ngụ tại huyện Kiến khang đã ba đời. Tịnh Khuê từ nhỏ đã thông minh dĩnh ngộ, nghe một hiểu nhiều. Tánh chẳng ham thích thế tục, sớm nguyện xuất gia, song thân xót thương chẳng trái ý nguyện. Tịnh Khuê làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Pháp Tịnh ở chùa Pháp âm, đức hạnh thuần hậu, kinh luật thông rành, Tam thừa thiền một không gì chẳng thấu đạt. Thần lượng sâu xa, vật chẳng thể dòm tới. Để thân quên mùi vị thường tự khô gầy.

Pháp Tịnh tinh tấn cần mẫn đáng làm khuôn phép cho đời, truyền trao dạy bảo, phần nhiều đã đem lợi ích đến mọi người, đáng để cho đời nương tâm. Pháp Tịnh cùng Tỳ-kheo-ni Đàm Giản đồng ở tại chùa Pháp âm sau dời đến Bạch Sơn nương gá dưới bóng cây, ra công hoằng hóa dần dần rộng lớn. Đến ngày 18 tháng 2 năm Kiến Vũ thứ nhất (494), cùng với Đàm Giản cùng một đêm tự thiêu thân. Kẻ tăng người tục buồn thương đến viếng thăm thảy đều nghẹn ngào. Lượm nhặt xá-lợi, đắp phần mồ dưới gốc cây!

12. Tỳ-kheo-ni Tuệ Tự ở chùa Tập thiện.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Tự vốn dòng họ Chu, người xứ Cao bình; Lư khâu là người nhìn xa trông rộng, nhìn Tuệ Tự như bậc trượng phu chẳng giống gì phụ nữ, mở lời bàn luận rất ngay thẳng, không tránh né. Vừa mới bảy tuổi bàn ăn rau quả; trì trai, chí tiết dũng mãnh.

Năm mười tám tuổi, Tuệ Tự xuất gia tại chùa Tam tầng; Kinh châu, giới nghiệp Cụ túc, Tăng tục đều ngợi khen. Bấy giờ, tại Giang lăng có Tỳ-kheo-ni ẩn ở Tây thổ đức vọng, thấy Tuệ Tự khác thường, bèn mới hợp ý cùng nhau hành đạo, thường cùng trú một Hạ, cùng tập Ban chu, tâm hình cần khổ ngày đêm chẳng ngừng. Trầm Du Chi là thứ sử Tấn sa gạn lọc Tăng Ni, Tuệ Tự bèn lánh nạn tại Hạ Đô, đến sau khi Trầm phá bại lộ mới trở về Tây thổ. Thời nhà Tề, thái úy Đại ty Mã Dự Chương Vương Tiêu Nghi, khoảng cuối năm Thăng Minh (479) thời tiền Tống ra trấn tại kinh Thiểm, thấy Tuệ Tự có đạo hạnh nên đón mời vào nội, cúng dường tứ sự đầy đủ.

Bấy giờ, có thiền sư Huyền Sướng đi dọc theo đất Thục xuống Kinh châu, Tuệ Tự bèn đến thọ học thiền pháp, nghiên cứu tinh diệu. Huyền Sướng mỗi ngày thường ngợi khen Tuệ Tự xưa đã tích tập chẳng cạn. Tuệ Tự đã khéo hiểu Thiền hành, kiêm dùng rau quả gắng sức tiết chế. Vương Phi của Dự Chương bèn nhận làm quyến thuộc, kính tin rất sâu và theo thọ học thiền pháp. Mỗi lần có cúng thí, thọ nhận rồi thường tùy ban trải, chẳng có tích chứa. Ý chí thanh cao, chẳng vì nghiệp sinh mà ôm lòng hoài nghi, Dự Chương Vương muốn trở lại thành đô vì Tuệ Tự mà tạo dựng tinh xá tại phía Đông của Đệ đông điền, đặt hiệu là chùa Phước Điền và cũng thường vào Đệ đông hành đạo.

Năm Vĩnh Minh thứ 9 (492), vua cho mời vào cung, nhưng mỗi lần vào cung thì lại phát bệnh, Tuệ Tự chẳng chịu ăn, nhan sắc tiều tụy, khổ cầu trở lại chùa. Trở lại chùa rồi liền tự bình phục. Khoảng một tuần thì lại mời vào, sau khi vào rồi biến chuyển như trước, mọi người đều chẳng biết nguyên nhân. Bỗng chốc mà nhà vua băng hà, họa đến liên tiếp. Vua Vũ Đế (483-494) đem giao Đông Điền, gấp dựng chùa Tập thiện, chuyển dời tất cả chư Ni về chùa Tập thiện và đem chùa Phúc Điền riêng an trí Đạo nhân A-lê người ngoại quốc. Từ sau khi dời về chùa Tập thiện, Tuệ Tự chân vài năm chưa trở lại vào Đệ đông. Bấy giờ, trong ngoài đã kính trọng chư Ni ấy, mỗi khuyên tạm đến sau mới vào Đệ nội. Trúc phu nhân muốn thiết lập Thiền trai, đưa thư thưa hỏi trước, Tuệ Tự bảo:

- Rất tốt, bần đạo xấu, nay thưa thật nguyện xin một lần vào Đệ đông cùng chư phu nương từ biệt. Đã vào trai hội, sau khi trai pháp hoàn tất, tự lấy giấy bút làm thơ rằng:

Người đời hoặc chẳng biết
Gọi ta là Lão Chu
Bỗng mời làm bảy ngày
Thiền trai chẳng được nghỉ.

(Ở sau lại còn có mười chữ nói riêng, nay quên mất!). Làm thơ xong bèn cười nói tiếp người.

Chẳng khác ngày thường hay cao ngạo. Nhân hội đủ liền bảo:

- Đây thuở ra chùa mới là vĩnh biệt!

Tuổi già, Tuệ Tự không lại hay vào Đệ lý, bấy giờ trong thân thể rất kiện khương. Ra chùa hơn một tháng, bèn bảo bệnh, mới không có khác so với thường ngày đêm mà qua đời.

Năm Vĩnh Nguyên thứ nhất (499), ngày 20 tháng 11, Tuệ Tự viên tịch, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi. Chu Xá vì Tuệ Tự lập bài tựa tán thán. Bấy giờ lại có Tỳ-kheo-ni Đức Thạnh, Đức hợp chí đồng làm quyến thuộc, hành đạo tập hầu thân nương âm chỉ vậy.

13. Tỳ-kheo-ni Siêu Minh ở chùa Tề minh, Tiền đường.

Tỳ-kheo-ni Siêu Minh vốn dòng họ Phạm, người xứ Tiền đường. Thân phụ thuở thiếu thời làm Quốc tử sinh, gia đình sùng phụng Đại pháp. Siêu Minh thuở nhỏ thông mẫn dĩnh ngộ, có chí hướng thượng, đọc ngũ kinh, khéo hay văn nghĩa. Hình thể đoan trang, trong ngoài đều kính trọng.

Năm hai mươi mốt tuổi, chồng mất nên ở góa, có người ở gần thôn đến cầu sính lễ mà không ưng thuận, nhân đó, xuất gia trú tại chùa Sùng Ẩn. Thần lý rõ suốt, đạo lý tỏ trong. Nghe ở chùa Bắc Trương tại Ngô huyện có Pháp sư Đàm Chỉnh, đạo hạnh cần khổ, Siêu Minh liền theo đến cầu thọ giới Cụ túc. Về sau, đến trú tại chùa Đồ Sơn nghe Pháp sư Tuệ Cơ giảng dạy các kinh, bèn nghiên cứu nghĩa lý Diệu chỉ. Một lần đã qua tai ghi nhớ như in. Tam Ngô sĩ thứ, trong ngoài đều sùng kính. Tìm trở lại Tiền đường, dời ở chùa Tề minh. Đến năm Kiến Vũ thứ 5 (498), Siêu Minh viên tịch, hưởng thọ hơn sáu mươi tuổi.

Bấy giờ, lại có Tỳ-kheo-ni Pháp Tạng cũng do học hạnh mà vẻ vang rạng ngời.

14. Tỳ-kheo-ni Đàm Dõng ở chùa Pháp âm.

Tỳ-kheo-ni Đàm Dõng là chị ruột của Tỳ-kheo-ni Đàm Giản, là người có tánh cương trực, phán quyết rõ ràng, không nhúng nhường, thường lấy Thiền luật làm chuyên, chẳng vì ăn mặc mà ôm hoài bảo, trú tại tịnh xá Pháp âm, ngộ sâu lý vô thường, thấu rõ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Năm Kiến Vũ thứ nhất (494), cùng Đàm Giản dời đến ở Bạch Sơn. Đến năm Vĩnh Nguyên thứ 3 (501), đêm rằm tháng hai, chất củi tự thiêu đem thân cúng dường. Bấy giờ, những người thấy nghe đều phát đạo tâm, cùng lượm nhặt di cốt để dựng lập phần mộ.

15. Tỳ-kheo-ni Đức Lạc ở chùa Tề hưng, xứ Diệm.

Tỳ-kheo-ni Đức Lạc vốn dòng họ Tôn, người xứ Tỳ lăng. Cao tổ Dục Tấn Dự Châu thứ sử. Đức Lạc vừa mới sinh mà trong miệng đã có hai chiếc răng, đến tuổi trưởng thành, thường ở trong nhà tối, chẳng cần đến đèn đuốc mà có thể thấy rõ tất cả. Nguyện thích lìa tục, song thân mến quý mà chẳng dám cản ngăn.

Đến năm Đức Lạc tám tuổi thì bằng lòng cho xuất gia, chị và em của Đức Lạc đồng thời vào đạo, làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Quang ở Tấn lăng. Sau khi thọ giới Cụ túc, đều đến tham học ở chốn kinh sư, trú tại chùa Nam vĩnh an, dốc chí tinh cầu trọn ngày đêm, nghiêm cùng kinh luật, ngôn đàm Điển nhã. Vua Văn Đế (424-454) thời tiền Tống ngợi khen cho là điều tốt lành. Năm Nguyên Gia thứ 7 (431), có Sa-môn Cầu-na-bạt-ma; người ngoại quốc đến, đại tướng quân, đời tiền Tống dựng lập chùa Vương Quốc, mời đến trú tại đó. Đến năm Nguyên Gia thứ 11 (434), có các vị Tỳ-kheo-ni hơn mười người từ nước Sư Tử đến, lại theo Sa-môn Tăng-già Bạt-ma cầu thọ giới Cụ túc. Đến năm Nguyên Gia thứ 21 (444), ở cùng chùa Ni, có Pháp Tịnh, Đàm Lãm, bị lây nhiễm Khổng Hy, trước mưu cầu hại người, thân bần cùng phá pháp hủy chùa điện, phòng nhà, chư Ni ly tán, Đức Lạc dời đến ở chùa Đông thanh viên, hỏi thăm tham thiền, cùng nghiên cứu với Diệu Cảnh. Đến lúc Vua Văn Đế băng hà (454), Đức Lạc mới đi về phía Đông đến Cối kê, dừng ở tại tịnh xá Chiếu minh; Bạch sơn xứ Diệm, học chúng nhóm họp, thư thả chỉ dạy, đạo thạnh hành cả vùng Đông Nam.

Năm Vĩnh Minh thứ 5 (488), thời Nam Tề, có Trần Lưu, Nguyễn Kiệm là những kẻ sĩ đốc tín, xả thí nhà ở để xây dựng tịnh xá Tề minh. Đức Lạc rất khuôn phép nên kẻ lớn người nhỏ đều vui mừng kính phục, xa gần đều kính trọng phong thái, mọi người thảy đều nguyện xin nương tựa, đồ chúng hơn hai trăm vị. Đức Lạc chẳng tích chứa của vật cúng thí, hàng năm mở một hội giảng lớn, Tăng Ni chẳng phân hạng đều bình đẳng cúng dường. Đến năm Vĩnh Nguyên thứ 3 (501), Đức Lạc viên tịch, hưởng thọ tám mươi mốt tuổi.

Bấy giờ, tại đất Diệm có Tỳ-kheo-ni Tăng Mậu, vốn dòng họ Vương, người xứ Bành thành, tiết thực đơn sơ, cần khổ làm chuyên, đem các di vật của Đức Lạc do người thân giữ lại, ghi vào nơi tịnh xá Trúc viên này.

QUYỂN 4

Ở THỜI NAM LƯƠNG CÓ 14 VỊ

1. Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú ở chùa Thiền lâm.

2. Tỳ-kheo-ni Tăng Niệm ở chùa Thiền lâm.

3. Tỳ-kheo-ni Đàm Huy ở chùa Trường lạc, Thành đô.

4. Tỳ-kheo-ni Phùng ở chùa Lang trung, Cao xương.

5. Tỳ-kheo-ni Tuệ Thắng ở chùa Nhàn cư.

6. Tỳ-kheo-ni Tịnh Hiền ở chùa Đông thanh viên.

7. Tỳ-kheo-ni Tịnh Uyên ở chùa Trúc viên.

8. Tỳ-kheo-ni Tịnh Hạnh ở chùa Trúc viên.

9. Tỳ-kheo-ni Linh Ngọc ở chùa Nam tấn lăng.

10. Tỳ-kheo-ni Tăng Thuật ở chùa Nhàn cư.

11. Tỳ-kheo-ni Diệu Y ở chùa Tây thanh viên.

12. Tỳ-kheo-ni Tuệ Huy ở chùa Lạc an.

13. Tỳ-kheo-ni Đạo Quý ở chùa Để sơn.

14. Tỳ-kheo-ni Pháp Tuyên ở chùa Chiêu minh, Sơn âm.

****

1. Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú ở chùa Thiền lâm.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú vốn dòng họ Lương, người xứ An định, Ô thị. Tổ tông truyền đời chinh Lỗ Tư Mã, thân phụ ăn lộc ở huyện Long Xuyên Đô Hương Hầu. Tịnh Tú từ thuở nhỏ đã thông duệ, ưa thích làm việc nhân từ. Năm lên bảy tuổi, tự nhiên trì trai, trong nhà thỉnh chư Tăng tụng kinh Đại Bát Niết bàn, nghe xong, Tịnh Tú bèn dứt bỏ thịt cá chỉ ăn rau quả, không dám để cho cha mẹ biết. Trong cơm ăn nếu có cá thịt thì khéo che dấu rồi tự bỏ đi. Tịnh Tú theo Sa-môn khổ luyện; người ngoại quốc học hỏi lãnh thọ ngũ giới, tinh cần phụng trì chẳng từng tái phạm. Lễ bái đọc tụng ngày đêm chẳng nghĩ.

Năm mười hai tuổi, Tịnh Tú bèn xin xuất gia, song thân đều ngăn cấm. Đến lúc tay có thể viết được, thường tự viết kinh. Của cải có ra chỉ sung làm việc công đức, chẳng tạo lập tốt đẹp theo thế tục, chẳng mặc áo tơ lụa, không đắm trước trang sức. Cứ như thế mà suy rộng ra. Đến năm hai mươi chín tuổi, mới được đồng ý làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Nghiệp Thủ ở chùa Thanh Viên. Tịnh Tú hầu thầy hết mực thành kính còn sợ chẳng kịp. Ba nghiệp siêng tu sớm tối không hề giải đãi. Tăng sai chúng lao dịch đều làm trước tiên. Tánh vốn cần cù, gặp việc rất mật thiệp. Thiện thần hộ kính thường giúp đỡ ủng hộ ở chung quanh.

Bấy giờ, có Mã tiên sinh, người đời gọi là Thần nhân. Thấy Tịnh Tú bèn ghi rằng: "Vị Ni này sẽ sinh lên cõi trời Đâu-suất". Tịnh Tú thường cùng ba người đồng ngồi trong điện Phật, bỗng nghe giữa không trung có âm vang như bò rống, hai người kia kinh sợ, chỉ mình Tịnh Tú điềm nhiên. Trở lại phòng lấy đèn, mới bước lên thềm lại nghe giữa không trung có tiếng bảo rằng:

- Chư Ni tránh đường, Thiền sư Tịnh Tú trở về! Ngày khác, Tịnh Tú lại cùng vài người ngồi trong thiền phòng, có một vị Ni đang lúc ngái ngủ, thấy có một người ở đầu trụ phòng bảo rằng:

- Chớ khinh thường Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú.

Sau đó lại cùng chư Ni đồng ngồi, một vị Ni mới đứng dậy trở về phòng, thấy có một người vỗ tay chỉ bảo:

- Chớ nhiễu phiền Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú.

Tịnh Tú tiến dừng, nghênh tiếp nhưng cũng phải tuân theo khuôn phép.

Tịnh Tú muốn thỉnh Pháp sư Huy giảng luật Thập Tụng chỉ có một ngàn tiền bạc, sợ việc không thành. Đêm đến mộng thấy các giống chim Á; Thước; cù; tước, mỗi loại cỡi xe hiên, lớn nhỏ xứng hình, đồng tiếng kêu vang:

- Chúng ta phải trợ giúp Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú giảng.

Vừa đến kinh dinh có hơn bảy mươi Đàn-việt thiết trai cúng dường các thứ vật lạ. Về sau, lại thỉnh Luật sư Pháp Dĩnh giảng lại luật Thập Tụng, ngày khai đề, nước trong lọ tắm tự nhiên thơm phức. Ngày đó người đến nghe giảng rất đông không còn dư chỗ trống, Tịnh Tú đứng sợ Phạm nên hỏi Luật sư. Luật sư đáp:

- Không Phạm.

Tịnh Tú thấy chư Ni chưa được như pháp mới than rằng:

- Phật pháp chưa vang xa nay lại bị suy đồi. Tự ta sao có thể thâu nhiếp tất cả!

Liền hành pháp Ma-na-đỏa để tự sám hối lấy. Chúng hội thấy thế, đều cùng nhau trở về suy tư bổ khuyết lỗi lầm, tự hổ thẹn mà cầu xin sám hối.

Năm Nguyên Gia thứ 7 (431), thời tiền Tống, Sa-môn Cầu-na-bạt-ma; người ngoại quốc đến thành đô, là người có khuôn phép thanh cao, Tịnh Tú bèn theo cầu thọ đại giới, mà đồ chúng ở chùa Thanh Viên tâm ý hiểu chẳng đồng, Tịnh Tú liền nghĩ ra ý kiến riêng cho mình, ngoài nghiêm pháp cấm, trong an thiền mặc, ngỏ hầu có thể mảy may xứng hợp tâm ý mình. Ở thời tiền Tống, công chúa

Nam Xương và Hoàng Tu Nghi, đến tháng 8 năm Đại Minh thứ 7 (464), cũng cúng tế nên biết chọn đất dựng lập tinh xá, Tịnh Tú vẫn đắp y bố ma, ăn dùng rau lá, thân ôm bình bát đất bùn, sớm tối đều công phu chuyên cần, tạo lập khám tượng, không việc gì chẳng thành tựu. Cùng ở có hơn mười vị đều lấy thiền định làm việc chính. Đến năm Thái Thể thứ 3 (467), vua Minh Đế ban sắc lấy chùa theo chỗ nhóm tập nên đặt tên là chùa Thiền lâm.

Tịnh Tú luôn tay viết chép các kinh, riêng lập Đài kinh an trí trong điện chùa. Hai anh em Bà-giàla Long Vương ngày càng tỏ ra ủng hộ. Các hàng trí thức lui tới ai ai cũng biết. Mỗi lần phụng thỉnh Thánh tăng, thực ra có nhiều điềm lạ. Lại thường bảy ngày cúng dường lễ sám xong rồi nhiếp tâm chú tưởng, liền thấy hai vị Phạn Tăng đưa tay cùng nói; một vị xưng là Di-khư-la và một vì xưng là Tỳ-khư-la. Họ đắp mặc áo màu sắc như quả dâu chín, Tịnh Tú liền lấy y màu nhuộm bùn dường như tất cả đều thấy biết.

Ngày khác lại thỉnh năm trăm vị La-hán ở hồ A-nâu-đạt, năm trăm vị La-hán ở nước Kế Tân. Thỉnh các vị Đại đức ở kinh ấp mở Đại hội hai ngày. Đến ngày thứ hai, lại thấy một vị Phạn Tăng, chúng sinh tâm nghi ngờ đó, nhân liền hỏi, vị ấy đáp:

- Từ nước Kế Tân đến đây đã được một năm, khiến người giữ cửa lại thêm thắc mắc.

Nhiều người đều thấy từ Tống Lâm môn đi ra, mới đi hơn mười bước, bỗng chốc không còn thấy. Tịnh Tú lại từng tắm gội Thánh tăng trong ngoài tịch tĩnh chỉ có âm ba của Hy Tiêu. Các điềm lành khác lạ của Tịnh Tú phần nhiều cũng đều như thế. Thời nhà Tề, Văn Tuệ Đế và Văn Tuyên Vương ở Cảnh lăng, cùng nhau lễ đãi cúng thí không hề thiếu sót. Tuổi già sức yếu, Tịnh Tú không thể đi lại. Đến đời Nam Lương, năm Thiên Giám thứ 3 (504), ban sắc thấy nghe đến Nội điện. Đến ngày 17 tháng 6 năm Thiên Giám thứ 5 (506) Tịnh Tú tâm bất an, không thể uống ăn. Qua ngày 19 tháng 6, Pháp sư Tuệ Linh ở chùa Bành Thành mộng thấy cột trụ trong điện Phật nghiêm lệ khác thường, bảo đó là cung trời Đâu-suất và thấy Tịnh Tú ở trong đó. Tuệ Linh bèn dặn dò Tịnh Tú rằng:

- Đã được sinh ở chỗ tốt lành xin hãy ghi nhớ! Tịnh Tú đáp rằng:

- Pháp sư huynh! Bậc Đại trượng phu, hoằng thông kinh giáo tự ứng biết ở chỗ tốt lành!

Tuệ Linh nghe Tịnh Tú bị bệnh bèn đến thăm, thuật lại sự việc trong mộng. Đến ngày 13 tháng 07, trong thời gian ngắn, Tịnh Tú mộng thấy phan lọng nhạc khí ở phía Tây điện Phật, qua ngày 22, mời chư Tăng cùng biết đến để từ biệt, ngày 27, Tịnh Tú bảo cùng các đệ tử:

- Tôi lên cung trời Đâu-suất!

Nói xong, liên thị tịch, hưởng thọ tám mươi chín tuổi.

2. Tỳ-kheo-ni Tăng Niệm ở chùa Thiền lâm.

Tỳ-kheo-ni Tăng Niệm vốn dòng họ Dương, người xứ Nam thành, Thái sơn. Thân phụ ở Di châu. Tăng Niệm tức là cô ruột của Pháp sư Đàm Duệ ở chùa Chiêu Đề. Khuê chương sớm đơm nở, tài giám soi suốt thấu, từ thuở nhỏ, năm lên mười tuổi, Tăng Niệm được xuất gia làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Pháp Hộ. Theo thầy trú tại chùa Thái Hậu. Tăng Niệm giữ gìn trinh tiết khổ tâm, thiền tư tinh mật. Vượt rộng thông nhiều, văn nghĩa đều thông suốt, chỉ ăn dùng rau quả, lễ sám, tuổi già nua lại càng dốc lòng, tụng kinh Pháp Hoa trong một ngày đêm đến bảy biến. Trong đời tiền Tống, vua Văn Đế (424-454) và vua Hiếu Vũ Đế (454-465), thường gia tâm ủng hộ.

Đến năm Vĩnh Minh thứ 10 (494) đời Tam Tề, Tăng Niệm dời đến trú tại chùa Thiền lâm, khuôn phép nhà thiền phát triển lớn mạnh, các học giả tụ hội thành chúng. Quan Tư Đồ Cánh Lăng Vương cúng dường cung cấp tứ sự. Đến năm Thiên Giám thứ 3 (504) đời Nam Lương, Tăng Niệm viên tịch, hưởng thọ chín mươi tuổi, an táng tại nội Lý trung hưng, huyện Mạt lăng.

3. Tỳ-kheo-ni Đàm Huy ở chùa Trường lạc, thành Đô.

Tỳ-kheo-ni Đàm Huy vốn dòng họ Thanh Dương, tên là Bạch Ngọc, người xứ Thành đô. Từ nhỏ, Đàm Huy ưa thích tu đạo mà cha mẹ không chấp thuận.

Năm Nguyên Gia thứ 9 (433) thời tiền Tống, có Thiền sư Cương-lương-da-xá vào đất Thục xiển dương thiền quán. Năm đó, Đàm Huy mười một tuổi, thưa cùng thân mẫu cầu xin được theo Thiền sư thọ học Thiền pháp, thân mẫu bằng lòng. Thiền sư Da-xá mới thấy, khen rằng:

- Người này có chí, khiến nó tu tập!

Bèn giao phó Tỳ-kheo-ni Pháp Dục cùng dạy dỗ. Thân mẫu đã hứa gả Đàm Huy cho Cô Tử. Lúc ra cửa có nói:

- Chẳng dám mong cầu.

Tỳ-kheo-ni Pháp Dục kín sai đón dẫn lại chùa. Đàm Huy tự lập thệ nguyện sâu xa: "Nếu đạo tâm ta không được toại ý, thân ta không màng đến. Ta sẽ dùng lửa tự thiêu đốt vậy!

Thứ sử Chân Pháp Sùng nghe thế, sai sứ đến nghênh đón Đàm Huy. Mọi người đều giúp đỡ và lo lắng. Thỉnh mời chư tăng Ni cùng giải cứu. Pháp Sùng hỏi:

- Ngươi có thể xuất gia được chăng? Đàm Huy đáp:

- Ước nguyện vi diệu ấy đã phát từ lâu, rất mong cứu giúp! Pháp Sùng bảo:

- Rất tốt!

Liền sai sứ đến nói cùng cô, cô liền vâng theo sự chỉ bảo.

Đàm Huy theo Tỳ-kheo-ni Pháp Dục xuất gia, năm đó vừa mới mười ba tuổi, theo Pháp Dục học tu quán hạnh. Xét được bẩm thọ, liền ở cuối tòa, bèn nhập định, thấy ở phương Đông có hai luồng ánh sáng; một luồng như mặt nhật màu sắc trắng, một luồng như mặt nguyệt màu sắc xanh. Đàm Huy đang trong định khởi ý niệm rằng: "Sắc trắng tức là đạo Bồ-tát, sắc xanh tức là pháp Thanh văn. Nếu xét như vậy, ta phải làm thế nào cho sắc xanh tiêu mất mà sắc trắng sáng rực hơn". Liền ứng với ý niệm ấy, sắc xanh bèn tiêu diệt, sắc trắng sáng rỡ tràn đầy, kịp đến lúc xả định, đã kể lại cho Tỳ-kheo-ni Pháp Dục nghe. Pháp Dục khéo quán đạo nghe thế rất hoan hỷ ngợi khen: "Lành thay!". Bấy giờ, đồng tòa có hơn bốn mươi vị, không ai chẳng thấy, đều khen ngợi đó là việc rất hy hữu.

Sau đó, người chồng trước kia của Đàm Huy sinh tâm nghi ngờ cho là dối trá, lập tức đến bắt lấy dắt đem về nhà. Khi ấy Đàm Huy mười sáu tuổi, bị tỳ sứ vây quanh giữ chặt, không chịu khuất phục nên bị xâm tổn bức hại. Người chồng không những thế, lại vì Hứa Châu thứ sử thưởng vị, hỏi. Cươnglương-da-xá bảo rằng:

- Người ấy lợi căn, cẩn thận chớ tái phạm đến đó, phải cùng nhà chồng phân giải.

Từ đó Đàm Huy được thả về. Về sau, trú trong thiền định, Đàm Huy tự hiểu Phật tánh thường trụ, các nghĩa của Đại thừa... đều chẳng do bẩm thọ từ thầy. Bấy giờ, các bậc Danh sư cực lực vấn nạn, song, không ai có đủ khả năng khiến cho Đàm Huy khuất phục. Từ đó, tiếng tăm vang khắp, xa gần mọi người đều quy phục.

Năm Nguyên Gia thứ 19 (443) đời tiền Tống, Lâm Xuyên vương Lâm Nam sung Diên Chi đến trấn, năm đó, Đàm Huy hai mươi mốt tuổi. Năm tháng hơi lâu, nghĩ nhớ thân mẫu chuyển đến, nên xin trở về quê, Đàm Huy đức hạnh đã cao, môn đồ ngày một đông nhiều. Ở tại chợ cầu phía Tây bắc tự dựng tháp miếu, Điện đường hiên chái bỗng chốc mà thành. Lại xây dựng ba ngôi chùa đều là thần tốc, ai cũng thán phục, ngợi khen có thần lực.

Năm Thiên Giám thứ 3 (505) đời Nam Lương, Đàm Huy viên tịch, hưởng thọ tám mươi ba tuổi. Đầu tiên, theo song thân ở Ích châu, thử bỗng nhiên thẳng đến đây, khách đồng hành có khoảng ba mươi người ngồi bắt đầu nhập định, bèn hạ trái cây, bánh nếp đều biến thành trân châu. Thứ sử Lưu Thuân sau thử dẫn qua cũng lại như vậy. Thời nhà Lương, Tuyên Võ Vương thử đưa tặng vật phẩm để Đàm Huy thiết trai hội cúng dường một trăm vị. Vốn nói chẳng ra lâm trung mà tự qua. Đến lúc mới có ba trăm vị Tăng cùng với vương hầu tá sứ gần bốn trăm người. Lúc sắp hành đạo, Đàm Huy sai kẻ tớ mượn người xuống làm thực phẩm. Vậy mà chỉ thấy có hai đệ tử và hai kẻ tớ đặt dâng phẩm vật. Nhà vua lại càng thán phục ngợi khen:

- Không thể nghĩ lường vậy!

Hoặc có người hỏi Đàm Huy rằng:

- Thấy thầy sống và đồ chúng từ trong nhà, mà sao như thần hóa, cớ sao lại như vậy?

Đàm Huy đáp rằng:

- Bần đạo thường tự không cư trử, phải phí dùng để sai khiến năm ba vàng mà thôi. Tùy theo đó, chẳng biết nguyên do là vậy.

Nên những người bàn luận cho rằng Đàm Huy có kho tàng vô tận.

Bấy giờ, lại có Tỳ-kheo-ni Hoa Quang vốn dòng họ Tiên, thiền sâu quán diệu thấu suốt đạo lý, thông cả Tam tạng, nương gần trăm dân, rất hay chúc văn, thuật lời ca tụng Đàm Huy, chỉ có khuôn phép, chẳng trái với phong nhã.

4. Tỳ-kheo-ni Phùng ở chùa Lang trung, Cao xương.

Tỳ-kheo-ni Phùng vốn dòng họ Phùng, người xứ Cao xương, người thời bấy giờ rất kính trọng. Nhân lấy chữ Họ mà đặt hiệu. Năm ba mươi tuổi, Phùng xuất gia tại chùa Lang trung ở Đô cao Xương, hằng ngày chỉ dùng rau quả một bữa, giới hạnh tinh chuyên cần khổ, thiêu 6 ngón tay để cúng dường, ngón nào cũng sát lòng bàn tay. Tụng kinh Đại Bát-niết-bàn liên tiếp ba ngày liền.

Thời bấy giờ có Pháp sư Pháp Tuệ tinh tấn vượt xa mọi người, là một vị Tỳ-kheo-ni làm bậc thầy nương tựa cho cả một nước Cao xương. Về sau, bỗng dưng Phùng vì Pháp Tuệ, nói rằng:

- A-xà-lê chưa tốt, Phùng là Xà-lê Thiện tri thức, Xà-lê có thể qua chùa Kim Hoa ở nước Quy Tư, dưới trướng Trực Nguyệt, sẽ nghe được thắng pháp.

Pháp Tuệ nghe vậy, bèn vâng theo, qua đến chùa ấy thấy được Trực Nguyệt. Trực Nguyệt hoan hỷ đem một thăng rượu bồ đào đưa cho Pháp Tuệ và bảo uống, Pháp Tuệ kinh ngạc bảo:

-Tôi lại tìm cầu thắng pháp, sao lại bảo tôi uống rượu.

Cho rằng rượu là vật phi pháp nên chẳng chịu uống. Trực Nguyệt đẩy lưng bảo đi ra. Pháp Tuệ lui về suy nghĩ: "Ta từ xa lại, chưa thấu đạt ý này, sợ không nên trái!" Liền mau uống, say oái mê muội, không biết lại. Trực Nguyệt bèn đi nơi khác. Pháp Tuệ tỉnh rượu tự biết phạm giới, truy xét rất hổ thẹn, tự đánh thân mình hối trách việc đã làm, muốn tự hại mạng. Nhân đó, tư duy bèn đắc đệ tam quả. Trực Nguyệt trở lại hỏi:

- Đã đắc chăng? Pháp Tuệ đáp:

- Đắc vậy.

Rồi trở lại Cao xương, chưa đến hai trăm dặm, lúc đầu không có tin tức. Phùng bảo Ni chúng ra nghênh đón từ xa. Những điều biết trước của Phùng đại khái là như vậy. Chư Ni ở Cao xương không ai là không kính phụng tôn xưng làm thầy.

Đến năm Thiên Giám thứ 3 (504) đời Nam Lương, Phùng viên tịch, hưởng thọ chín mươi sáu tuổi.

5. Tỳ-kheo-ni Tuệ Thắng ở chùa Nhàn cư.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Thắng vốn dòng họ Đường, người xứ Bành thành. Thân phụ là Tăng Trí đến ở ngụ tại Kiến khang. Tuệ Thắng từ nhỏ nguyện được xuất gia. Dùng phương cách chánh đáng tự lập hiếm lạ ở nơi ngôn ngữ, nói hẳn là làm, thân không khinh tháo. Suốt 10 ngày không ra khỏi cửa phòng, những người thấy vậy ai cũng lấy làm lạ.

Năm Nguyên Gia thứ 21 (445), Tuệ Thắng xuất gia, lúc ấy vừa 18 tuổi, làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú, trú tại chùa Thiền lâm. Sau khi thọ giới Cụ túc, giảng kinh Pháp Hoa. Lại theo Tỳ-kheo-ni Tuệ Tự ở chùa Tập thiện học năm pháp thiền quán. Sau đó, lại theo Tư Ẩn ở chùa Thảo Đường, Pháp Dĩnh ở chùa Linh Căn tu đủ các pháp quán hạnh. Tướng lạ chứng được hoài bão riêng, những người thấy liền hỏi đến, Tuệ Thắng đều bảo:

-Tội không khinh trọng, một lúc phát lồ, sám hối khẩn thiết trọn ngày liền đêm.

Các hàng quý tiện đều sùng kính cúng thí đầy đủ.

Đến năm Thiên Giám thứ 4 (505), Tuệ Thắng viên tịch, hưởng thọ tám mươi mốt tuổi, an táng tại núi Bạch bảng.

6. Tỳ-kheo-ni Tịnh Hiền ở chùa Đông thanh viên.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Hiền vốn dòng họ Hoằng, người xứ Vĩnh thế, ở tại chùa Đông thanh viên. Tịnh Hiền có dáng vóc, tài năng thích tu Thiền Định, thấu rõ kinh luật, lời nói đúng với Điển chương, tuy chẳng giảng nói chỉ chuyên ròng nghiên cứu yếu nghĩa.

Đời tiền Tống, vua Văn Đế (424-454) rất kính trọng. Tương Đông Vương thuở còn bé nhỏ, ngủ hay kinh hãi giật mình, bảo nên theo Tỳ-kheo-ni Tịnh Hiền để thọ ba pháp tam quy, nhờ vậy, mới được yên ngủ không còn giật mình nữa, nhà vua càng quý mến, sùng kính thâm hậu khách thân trong ngoài cúng dường đều đến. Đến lúc vua Minh Đế lên ngôi (465-473) lễ đãi càng lớn cung cấp càng trọng hậu, thiết bày trai hội, lập đàn giảng pháp từ ngày này qua ngày khác. Các bậc danh sĩ thời bấy giờ thảy đều tôn kính. Sau đó luận họp các chùa, lãnh đạo hơn mười năm. Đến năm Thiên Giám thứ 4 (405) đời Nam Lương, Tịnh Hiền viên tịch, hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi.

Lúc bấy giờ lại có các vị Tuệ Cao, Bảo Ngung đều là những vị rất có tiếng tăm. Tuệ Cao có đức hạnh tọa thiền tụng kinh, cần khổ chăm lo việc chúng. Bảo Ngung giảng kinh Pháp Hoa, thông suốt các quán hạnh.

7. Tỳ-kheo-ni Tịnh Uyên ở chùa Trúc viên.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Uyên vốn dòng họ Thời, người xứ Cự lộc. Thuở nhỏ đã có trí của bậc Thánh nhân. Lúc năm, sáu tuổi thường chơi đắp cát làm tháp, khắc gỗ làm tượng, đốt hương lễ kính suốt cả ngày. Mỗi khi nghe người nói những gì khó nắm bắt hết lý ấy liền suy ngẫm nghiên cứu. Năm hai mươi tuổi, Tịnh Uyên xuất gia, luyến mộ dưới gối, không ăn chẳng ngủ, chỉ uống nước trì trai, cho đến bảy ngày mọi người ngăn cản chẳng theo. Từ đó về sau chỉ ăn rau lá trường trai, trì giới nhẫn nhục tinh tấn cần khổ, làm việc rất cố gắng. Thầy bạn đều ngợi khen kính trọng, tiếng đồn vang xa. Thời nhà Tề, vua Văn Đế rất cùng khâm phục kính lễ, cúng dường tứ sự, đưa thư chồng chất.

Đến năm Thiên Giám thứ 5 (506), Tịnh Uyên viên tịch, hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi.

8. Tỳ-kheo-ni Tịnh Hạnh ở chùa Trúc viên.

Tỳ-kheo-ni Tịnh Hạnh là em gái thứ 5 của Tỳ-kheo-ni Tịnh Uyên. Tuổi nhỏ mà thần lý thanh tú, biết nhìn xa trông rộng, có lòng cứu giúp người nghèo khó, trong sáng, có ý chí cầu tiến, cử chỉ điều hòa, biết hòa đồng. Đến tuổi thiếu thời từng cùng Thái Mạt Linh, Quách Hợp có vợ là Tang thị là nơi quen biết, Quách Hợp muốn hại vợ mình nên gọi ra đường. Tịnh Hạnh xin anh trai cản ngăn Quách Hợp, Quách Hợp không nghe, Tịnh Hạnh mách riêng cùng Tang thị, Tang thị chẳng tin. Tịnh Hạnh chấp tay, động lòng rơi lệ, từ đó trở lui. Sau một vài ngày, quả thật là Quách Hợp hại Tang thị. Đến năm mười bảy tuổi, Tịnh Hạnh theo Tỳ-kheo-ni Pháp Thí xuất gia trú tại chùa Trúc viên. Học các kinh luận như Thành Thật, Tỳ-đàm, Niếtbàn, Hoa Nghiêm. Mỗi lúc thấy sự việc có sự thấu đạt đến chỉ thú liền nghiên cứu kỹ lưỡng, rộng biện vô cùng. Thời nhà Tề, Kính Lăng Văn Tuyên Vương Tú Tử Lương, cúng dường cung kính nồng hậu. Hai Pháp sư Tăng Tông, Bảo Lượng Nhã cũng đến để giảng nói, thính chúng có đến vài trăm người. Tại chùa Ni Quan Đệ, pháp sự liên tục. Các bậc tiên đạt thời bấy giờ không ai đủ khả năng làm cho Tịnh Hạnh khuất phục. Về sau, Kính Lăng Vương phân loại học chúng, muốn soạn Tăng Lục, không ai có thể cùng làm bạn với Tịnh Hạnh, sau đó có một vị Ni thông minh đặc đạt, biện bác như thần, Tịnh Hạnh rất thân quen, mọi người cũng cho là Tịnh Tú tái sinh, có thể kết bạn cùng Tịnh Hạnh. Tịnh Hạnh tuổi về già càng tiết chế, ham thích Thiền định, chỉ ăn dùng rau lá cần khổ. Hoàng đế nghe thế vô cùng khen thưởng.

Đến năm Thiên Quán thứ 8 (509) đời Nam Lương, Tịnh Hạnh viên tịch, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi, an táng tại Chung sơn.

9. Tỳ-kheo-ni Linh Ngọc ở chùa Nam tấn lăng.

Tỳ-kheo-ni Linh Ngọc vốn dòng họ Thái, người xứ Kiến khang, xuất gia từ lúc thiếu thời ở tại thiền phòng chùa Hà hậu, làm đệ tử của Tỳ-kheo-ni Tịnh Diệu. Tịnh Diệu luật hạnh thuần bạch, sự tu thiền định hơn người. Linh Ngọc lúc thiếu thời hầu thầy lâu dài cung kính chuyên cần chẳng lười nhác. Vừa mới thọ giới Sa-di, oai nghi rất chuẩn mực, đến lúc thọ giới Cụ túc, giới hạnh thanh bạch tợ như sương tuyết. Rộng tìm học ngũ bộ, khéo nghiên cứu tông chỉ sâu mầu, có khả năng truyền thuật.

Đời tiền Tống, Thiệu Lăng Vương Luân Đại Tướng khâm kính, mời làm chủ chùa Nam tấn lăng, Linh Ngọc cố nhường chẳng nhận, Vương Luân không thể làm lay động, đem việc ấy nói cùng Nguyên Huy, Nguyên Huy lại ban sắc phụng thờ không được miễn cưỡng, Linh Ngọc đảm nhận mấy năm, không khoe khoang mà trang trọng, không gắng gỏi mà tôn nghiêm. Đến năm Thiên Giám thứ 8 (509) Linh Ngọc viên tịch, hưởng thọ 76 tuổi.

Bấy giờ, lại có các vị Linh Tuệ, Giới Nhẫn, Tuệ Lực đều là những bậc nổi danh. Linh Tuệ thường giảng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Thắng-man... chuyên cầu an thân, chỉ dùng rau quả, trác tuyệt vượt chúng. Giới nhẫn thông minh ham học, qua mắt chẳng quên. Tuệ Lực hiểu biết tao nhã linh thông, không kiêu ngạo.

10. Tỳ-kheo-ni Tăng Thuật ở chùa Nhàn cư.

Tỳ-kheo-ni Tăng Thuật vốn dòng họ Hoài, người xứ Bành thành. Thân phụ là Tăng Trân đến ở nhờ tại Kiến khang. Tăng Thuật tuy nhỏ mà có chí cầu đạo. Năm lên tám tuổi, chỉ dùng rau quả, đến mười chín tuổi, Tăng Thuật theo Tỳ-kheo-ni Tịnh Tú xuất gia, ở chùa Thiền lâm, bấy giờ là năm Nguyên Gia thứ 24 (448) đời tiền Tống. Tiết hạnh tinh khổ, pháp nghiệm chẳng thiếu. Tăng Thuật chuyên tâm nơi kinh luật, không gì chẳng xem qua. Về sau, chuyên công ở thập tụng, văn nghĩa ưu hiệp. Tăng Thuật lại theo hai Pháp sư Ẩn, Bá, cầu học mật quán nghiên cứu các môn Tam-muội. Do đổi chỗ ở là chùa Thiền lâm làm cơ sở chính học Thiền pháp, nên mọi người tới lui nhóm tụ náo động, Tăng Thuật nhân đó mà có ý ẩn cư. Thời nhà Tống, Vương mẫu Lâm Xuyên Trương Quý Tần nghe thế liền lập dựng ngôi chùa, theo quy chế thời bấy giờ nên không được làm. Đến năm Nguyên Huy thứ 2 (474) đời tiền Tống, ngày mồng một tháng 9, Vương mẫu Nhữ Nam Ngô Sung Hoa trình tấu, ban sắc liền tạo dựng, Điện đường phòng nhà hơn năm mươi gian. Tăng Thuật dẫn những người cùng chí hướng gồm hai mươi vị chuyên lấy thiền tịch làm vui, đặt hiệu chùa là Nhàn Cư. Tăng Thuật động tĩnh đều chân thật, chẳng dấy phù sức. Cuối đời tiền Tống, Nam Tề (479), đạo đời song tu, vừa thiền vừa tịch, phong trần chẳng nhiễu. Vào đời Nam Tề, Văn Tuệ Đế và Kính Lăng Văn Tuyên Vương rất sùng kính lễ ngộ, có trùng tu một ngôi chùa, quang cảnh đều quang đảng kỳ đặc, cúng dường suốt cả bốn mùa. Đến đời Đại Lương (Nam Lương), mở khai thái bình, thiên hạ có đạo, kẻ Tăng người tục thảy đều kính ngưỡng bốn phương xa gần nhóm tụ mà Tăng Thuật chẳng chứa riêng của cải, có bao nhiêu đều đem cấp giúp tứ chúng, hoặc phóng sinh, cầu xin tạo lập năm tôn trượng bằng vàng thảy đều trang lệ, viết kinh và luật hơn một ngàn quyển. Dùng bằng vải lụa làm thành pho quyển, gáy trục trang sức bằng vật báu, thảy đều trang nghiêm.

Đến năm Thiên Giám thứ 14 đời Nam Lương, Tăng Thuật viên tịch, hưởng thọ tám mươi bốn tuổi, an táng tại phía Tây bắc Chung sơn.

11. Tỳ-kheo-ni Diệu Y ở chùa Tây thanh viên.

Tỳ-kheo-ni Diệu Y vốn dòng họ Lưu, người xứ Kiến khang. Ở độ tuổi mọc răng sữa mà thần cơ tú phát. Diệu Y xuất gia từ thuở bé trú tại chùa Tây thanh viên. Giới hạnh nghiêm tịnh, thần tình siêu ngộ, có lòng tin bố thí ban cho người nghèo, không gì chẳng thương mến, Nhã Thích đàm thuyết rất khéo nói cười, giảng kinh Đại Niết-bàn, Pháp Hoa, Thập Địa mỗi bộ hơn ba mươi biến. Diễn nói luật Thập Tụng, kinh Tỳ-ni Mẫu, tùy theo căn cơ lợi ích càng nhiều.

Năm Thiên Giám thứ 12 (513), Diệu Y viên tịch, hưởng thọ bảy mươi tuổi.

12. Tỳ-kheo-ni Tuệ Huy ở chùa Lạc an.

Tỳ-kheo-ni Tuệ Huy vốn dòng họ Lộ, người xứ Thanh châu. Năm lên sáu tuổi đã vui thích đạo, cha mẹ không bằng lòng, đến năm mười một tuổi bỏ ăn dùng các thứ mùi vị cay nồng, thanh hư đạm bạc, dáng mạo rõ ràng tao nhã, đọc kinh Đại Niết-bàn, tụng kinh Pháp Hoa. Đến năm mười bảy tuổi, Tuệ Huy theo thân phụ ra thành đô, tinh tấn dõng mãnh, tất cả hành nhân đều không thể kịp. Cha mẹ rất mến thương bèn chấp thuận theo chí nguyện của con.

Năm mười tám tuổi, Tuệ Huy xuất gia ở chùa Lạc an, theo bốn vị Pháp sư Đàm Ban, Đàm Tế, Nhu, Thứ, nghe luận Thành Thật và kinh Niết bàn... Trong hơn mười năm, tích chứa làm thành rừng nghĩa. Chư Ni khắp kinh đô thôn ấp không ai chẳng đến học hỏi và xin được thọ giáo. Từ đó, Pháp Diên luôn thiết lập, mọi nơi xa gần đều tụ hội, Tuệ Huy giảng pháp không ngừng, thiền tụng không nghỉ. Tâm chánh niệm ngày đêm chẳng ngủ. Các hàng Vương Công quý tiện thảy đều kính trọng, mười phương cúng thí bốn mùa mỗi lúc một đông. Tài vật có được, Diệu Huy đều đem tạo lập kinh tượng, tùy nghi cấp thí gần xa. Bấy giờ, có những người không tiết lộ, trùng tu tiếp nối chùa Lạc an, ngày càng hưng thịnh.

Năm Thiên Giám thứ 13 (514), Tuệ Huy viên tịch, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi, an táng tại sườn núi Thạch đầu. Bấy giờ, lại có Tuệ Âm là người lấy lễ tụng làm việc chính.

13. Tỳ-kheo-ni Đạo Quý ở chùa Để sơn.

Tỳ-kheo-ni Đạo Quý vốn dòng họ Thọ, người xứ Trường an. Thuở nhỏ sạch sẽ, vui vẻ, hòa nhã, thanh bạch, khéo nghiên cứu nghĩa lý, chí chuyên cần nghiêm tịnh, tinh khổ hơn người, thệ nguyện hoằng dương đại hóa, chẳng ăn các thứ cay nồng béo ngon, cứu giúp mọi vật không luyến tiếc, mặc áo vải thô sơ tự đủ. Trì tụng các bộ Thắng-man, Vô Lượng Thọ, ngày đêm chẳng bỏ. Song thân lo nghĩ bảo Đạo Quý hành đạo.

Năm mười bảy tuổi, Đạo Quý xuất gia, đọc xem kinh luật, nghiên cứu văn lý. Chẳng ham thích danh văn, chỉ lấy tấn đạo làm chính nghiệp, quán cảnh nhập định, thiền hành tĩnh tọa không ngừng. Phát nguyện sám hối lỗi quá, lời lẽ ai khẩn thiết tha, khiến người nghe động lòng. Thời nhà Tề, Kính Lăng Văn Tuyên Vương Tiêu Tử Lương khéo cùng suy kính, vì Đạo Quý mà dựng lập chùa Đảnh Sơn để tụ hội thiền chúng. Thỉnh Đạo Quý làm tri sự, Đạo Quý cố giữ không nhận, thỉnh làm khuôn phép nhà thiền, sau đó mới chấp nhận. Từ đó kết mang dưới rừng, dừng chân suốt đời. Phỏng khiến dồn mây vùi cảnh, nhóm tuyết lấp núi, Đạo Quý vẫn an nhiên tĩnh tọa không từng phiền muộn, được người tin cúng làm phước nghiệp, song, chẳng lấy mảy may để tự lợi nhuận thân mình.

Năm Thiên Giám thứ 15 (516), Đạo Quý viên tịch, hưởng thọ 86 tuổi, an táng tại phía Bắc Chung sơn vậy.

14. Tỳ-kheo-ni Pháp Tuyên ở chùa Chiêu minh, Sơn âm.

Tỳ-kheo-ni Pháp Tuyên vốn dòng họ Vương, người xứ đất Diệm. Thân phụ vốn đạo gá đời sùng phụng chánh pháp. Pháp Tuyên từ bé đã có chí lìa tục. Năm mới bảy tuổi mà đã ăn dùng rau quả tiết chế cần khổ. Năm lên mười tám tuổi, tụng kinh Pháp Hoa thông suốt hiểu rõ chỉ quy, nằm ngồi liền thấy màng lọng trùm che. Chợt nhiên có người đến mưu hỏi sính lễ mà không ưng thuận.

Năm hai mươi bốn tuổi, Pháp Tuyên được cha mẹ dẫn đến Tỳ-kheo-ni Đức Lạc ở chùa Tề minh, tại đất Diệm, cải đổi y phục theo đạo. Liền ngay ngày đó màn lọng tự tiêu, Pháp Tuyên nghiên cứu kinh sách hiểu sâu lý vị. Sau khi thành tựu giới pháp, khắp hương ấp những người trông mong nghĩa đạo, không ai chẳng khâm phục tính chí của Pháp Tuyên, đến cuối đời tiền Tống (479), có Pháp sư Tăng Nhu chu du khắp xứ Đông hạ tuyên giảng kinh luận. Tự Vu Thăng mà đến Vũ huyệt, hoặc lên Linh Ẩn, hoặc qua Cô Tô. Tăng Nhu hứng thú số luận, Tuệ Cơ tinh yếu kinh thư, đều sướng thích cái tinh vi, nghiên cứu cái sâu mầu. Đến khoảng trong niên hiệu Vĩnh Minh (483-494) đời Nam Tề, Pháp Tuyên lại theo Pháp sư Tuệ Hy học hỏi thọ giáo luật Thập Tụng. Từ chỗ ngày ăn ngon lo chỗ thấy trăng mờ, từ đó, Pháp Tuyên dời đến ở chùa Chiêu minh; Sơn âm, giảng kinh luật, tiếng tăm vang xa. Pháp Tuyên chẳng lập của riêng, đem mọi vật của người cúng thí để trùng tu chùa viện, tạo dựng tinh hoa, tướng trạng tợ như thần công. Pháp Tuyên viết kinh chú tượng thảy đều hoàn bị, ở Ngô Quận có Trương Viên, Dĩnh Xuyên có Sưu Vịnh, Nhữ Nam có Chu Ngung đều là những bậc anh tài lúc bấy giờ, vậy mà, không ai chẳng đích thân tìm đến lễ kính. Ở thời nhà Tề, Ba Lăng Vương tiêu chiếu trụ ra trấn thủ Cối kê, dốc tâm cung kính tiếp đãi nồng hậu. Thời nhà Lương, Hàng Dương Vương Nguyên Giản đến quận thỉnh Pháp Tuyên làm Vương mẫu.

Pháp Tuyên hiện hữu tám mươi ba mùa xuân thu, viên tịch năm Thiên Giám thứ 15 (516) đời Nam Lương.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]