TẠP TẠNG
SỐ 2066 - SỬ TRUYỆN VỀ CÁC VỊ CAO TĂNG ĐẾN THIÊN TRÚC CẦU PHÁP THỜI ĐẠI ĐƯỜNG
Sa-môn Nghĩa Tịnh từ Tây Vực trở về ở thất-lợi-Phật Thệ vùng Nam Hải soạn ký quy tự chí chùa Na-lan-đà.
SỐ 2066 - SỬ TRUYỆN VỀ CÁC VỊ CAO TĂNG ĐẾN THIÊN TRÚC CẦU PHÁP THỜI ĐẠI ĐƯỜNG
Pháp sư Bỉ Ngạn, Pháp sư Trí Ngạn:
Xét thấy vùng đất Thần Châu tự thuở xưa có những vị xem nhẹ mạng sống đi cầu pháp. Pháp Hiển sư khai sáng chỗ hoang sơ, Huyền Trang theo đó mở con đường chánh, băng đèo vượt biên thùy một mình cất bước, có những vị lội lặn sông này thác nọ, v.v... tất cả đều mang hoài bão đến Thánh địa chiêm bái. Cùng một tâm nguyện đền báo từ ân, thế nhưng đường xa lắm nạn, đảo châu báu càng xa. Những hạt mầm ươm thì nhiều vô số, nhưng kết thành quả thì lại rất ít. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ các cảnh tượng mịt mờ, sông núi nối liền chập chùng che khuất ánh mặt trời, sóng cả chập chùng ngất trời. Một thân một bóng vượt ra cửa ải, náu thân nơi đỉnh núi chót vót, vượt qua muôn sông, hoặc có khi mấy ngày không ăn, không uống. Điều này có thể nói rằng nỗi lo lắng làm tiêu tan tinh thần, sự mệt nhọc làm mất thần sắc. Đến nỗi người đi gần năm mươi vị mà người ở lại thỉ chỉ có vài người. Nhưng nếu đến được hết Tây Trúc thì Đại Đường sẽ không có chùa, bản thân họ phiêu diêu tự tại, làm người khách xa xăm, không trụ hẳn nơi nào, khiến cho những kẻ lưu lạc ở yên một chỗ, thân không an thì đạo làm sao hưng thạnh. Than ôi! Quả thật đáng khen là những bậc có tâm chí thành, mong rằng ghi chép lại danh thơm này truyền bá cho đời sau, tạm y cứ vào những điều thấy nghe này để chép về hành trạng mà thôi. Ở trong đó thứ lớp, từng bậc phần nhiều là theo niên đại xa gần và còn mất của thời trước để đối chiếu trước sau.
Pháp sư Huyền Chiếu ở Thái Châu
Pháp sư Đạo Hy ở Tề Châu
Pháp sư Sư Tiên ở Tề Châu
Pháp sư A-ly-da-bạt-ma người Tân-la
Pháp sư Tuệ Nghiệp người Tân-la
Pháp sư Cầu Bổn người Tân-la
Pháp sư Huyền Thái ở Tân-la
Pháp sư Huyền Khác ở Tân-la.
Tân-la còn có hai pháp sư là Đổ-Hóa la, Phật-đà Bạt-ma ở Đổ-hóa-la.
Pháp sư Đạo Phương ở Tinh Châu
Pháp sư Đạo Sanh ở Tinh Châu
Thiền sư Thường Mẫn ở Tinh Châu Một vị đệ tử của ngài cũng ở đấy.
Sư Mạt-để-tăng-ha ở Kinh đô
Pháp sư Huyền Hội ở Kinh đô
Sư Chất-đa Bạt-ma
Hai người con của Nhũ mẫu công chúa
Thổ phiên Pháp sư Long.
Pháp sư Minh Viễn ở Ích Châu Luật sư Nghĩa Lãng ở Ích Châu Một vị đệ tử của ngài.
Pháp sư Trí Ngạn ở Ích Châu
Luật sư Hội Ninh ở Ích Châu
Pháp sư Vận Kỳ ở Giao Châu
Sư Mộc-xoa đề-bà ở Giao Châu
Pháp sư Khuy Xung ở Giao Châu
Pháp sư Tuệ Diễm ở Giao Châu
Pháp sư Tín Trụ
Pháp sư Trí Hành ở Ái Châu
Thiền sư Đại Thừa Đăng ở Ái Châu
Sư Tăng-già Bạt-ma ở nước Khang
Hai vị tên Trí Ngạn, Bỉ Ngạn ở Cao Xương.
Pháp sư Đàm Nhuận ở Lạc Dương
Luận sư Nghĩa Huy ở Lạc Dương
Ba vị ở thời Đại Đường
Pháp sư Tuệ Luân ở Tân-la
Pháp sư Đạo Lâm ở Kinh Châu
Pháp sư Đàm Quang ở Kinh Châu
Một vị đời Đại Đường
Thiền sư Tuệ Mạng ở Kinh Châu
Luật sư Huyền Quỳ ở Nhuận Châu
Pháp Sư Thiện Hạnh ở Tấn Châu
Pháp sư Linh Vận ở Dự Chương
Thiền sư Tăng Triết ở Lễ Châu và hai vị đệ tử.
Luật sư Trí Hoằng ở Lạc Dương
Thiền sư Vô Hành ở Kinh Châu
Thiền sư Pháp Chấn ở Kinh Châu
Thiền sư Thừa Ngộ ở Kinh Châu
Luật sư Thừa Như ở Lương Châu
Pháp sư Đại Luật ở Lễ Châu
Như trên tổng cộng có năm mươi sáu vị, các vị trước phần nhiều bị thất lạc. Từ ngài Nghĩa Tịnh trở đi có Pháp sư Vô Hành, sư Đạo Lâm, sư Tuệ Luận, sư Tăng Triết, sư Trí Hoằng. Tổng cộng gồm năm vị đã khuất bóng vào những năm đầu và Thiền sư Vô Hành quảy trượng về Tây, đến nay không biết mất ở đâu.
Ngài là người ở Tiên Chưởng, Thái Châu. Tiếng Phạm là Bàn-ca-xá-mạt-để, đời Đường dịch là Chiếu Tuệ. Tổ tiên Ngài nối nhau làm quan. Vào những năm còn ở độ tuổi thiếu niên ngài đã từ quan thoát tục, đến tuổi trưởng thành muốn đến lễ bái các Thánh tích.
Ngài vân du khắp vùng kinh đô học hỏi kinh luận. Vào năm Trinh Quán ngài đến chùa Đại Hưng Thánh của Pháp sư Huyền Chứng ở. Lúc đầu học tiếng Phạm, rồi sau đó chống tích về Tây để trở về Kỳ viên, từ giã kinh thành vượt qua sa mạc, băng qua cửa ải, qua Tuyết lãnh, súc miệng ở ao thơm để lắng tâm, khế hợp với bốn thệ nguyện rộng lớn. Băng qua Gò Thông mà tâm chí thành thệ độ ba cõi, xuyên qua Tốc Lợi đến Để-hóa-la, vượt qua biên ải Hồ Cương xa xôi, đến nước Thổ Phiên, được Công chúa Văn Thành tiễn đến Bắc Thiên-trúc, rồi lần đến nước Xà-lan-đà, lúc chưa đến thì trên lộ trình muôn dặm hiểm trở kia có lần bị giặc bắt, những thương buôn bàn tính đủ cách, rồi cùng nhau nương nhờ oai thần các bậc Thánh minh, trong mộng hiển rõ điềm ấy, tỉnh dậy thấy bọn giặc đã ngủ hết, thế là họ cùng trốn ra khỏi vòng vây, cuối cùng được thoát nạn. Ngài ở nước XA-lan-đà bốn năm, được vua nước này kính trọng cúng dường. Ngài học kinh luật và tiếng Phạm, khi đã thông hiểu đôi chút về ngôn ngữ này rồi thì đi lần về miền Nam, đến Mạc-ha Bồ-đề, lại trải qua bốn mùa hạ, tiếc rằng mình sinh ra nhằm thời không gặp các bậc Thánh, nhưng còn may mắn được chiêm bái Thánh tích, kính ngưỡng chân dung Đức Từ thị, một lòng tinh thành chẳng gì thay thế được. Ngài miệt mài nghiên cứu Câu-xá và hiểu được đối pháp, hai giáo thanh tưởng, luật nghi đã được tỏ rõ từ đây. Sau đó, ngài đến chùa Na-lan-đà ở lại ba năm, học các luận như: Trung, Bách, v.v... với Pháp sư
Thắng Quang, rồi lại đến thọ giáo bộ Du-già Thập Thất Địa với Đại Đức Bảo Sư Tử. Thiền môn định tĩnh, thấu tận bến bờ, nằm hết yếu nghĩa, rồi đến phía Bắc của Cươnggià-hà được Quốc vương nước Thiêm Bộ cúng dường, ở lại các chùa của những vị thân tín trong ba năm. Sau đó vì sứ giả Vương Huyền đời Đường mời Ngài trở về cố hương, nên dâng biểu tâu rằng: ngài là người thật đức, bèn mong vua hạ chỉ, rồi ông đến Tây Thiên tìm Pháp sư Huyền Chiếu thỉnh ngài về kinh. Trên đường về đến nước Nê-ba-la, nhờ Quốc vương phái người đưa tiễn đến
Thổ-Phiên, ở đây ngài gặp lại Công chúa Văn Thành, Công chúa rất mực tôn kính, cúng dường thực phẩm để ngài trở về Trung quốc. Thế rồi, ngài băng qua Tây Phiên để trở về Đông Hạ. Tháng chín thì từ giã Thiêm Bộ, tháng giêng thì đến Lạc Dương, trong vòng năm tháng trải qua chặng đường muôn dặm. Bấy giờ, vào giữa niên hiệu Lân Đức, vua xa giá đến Đông Lạc, ngài đến yết kiến, nhận sắc chỉ của vua nước mông đến nước Yếtthấp-Di-la mời Trưởng lão Bà-la-môn Lô-cadật-đa hội kiến với các Đại đức ở Lạc Dương, luận bàn về cương yếu Phật pháp. Luật sư Đạo, Pháp sư Quán, v.v... ở chùa Kính Ái. Dịch bộ Tát-bà-đa và Nhiếp luật, không bao lâu sau thì được sắc lệnh vội vã ra đi, không được toại nguyện. Ngài đem các bản tiếng Phạm về kinh đô, thế rồi lại băng qua sa mạc, rồi trở về Thích Thạch, đường núi gập ghềnh hiểm trở, lê thân chiếc bóng vượt qua các hang hóc chập chùng, rồi lên thuyền phiêu diêu trôi giạt, có lần suýt mất mạng, gặp giặc Thổ-Phiên thoát khỏi được sống, gặp cướp Hung nô chỉ may mắn thoát chết. Khi đi đến biên giới Bắc Ấn thấy Sứ giả Đường dẫn Lôgià-ích-đa đến để gặp mặt. Lô-ca-dật-đa lại sai Huyền Chiếu và các Sứ giả đi về hướng Tây Ấn đến nước La-trà lấy thuốc trường thọ. Trên đường qua Phược-Kiệt-la, đến Nạp-bàtỳ-ha-la, nhìn thấy bồn tắm của Như Lai và Thánh tích, rồi đến nước Ca-tất-thức lễ bái xương đỉnh đầu của Như Lai, sắm đủ hương hoa khấn bằng ngôn ngữ Ấn, quán xét tâm thiện ác ở kiếp lai sinh, rồi đến nước Tín-độ mới đến La-trà. Vua Mông lễ kính, tôn trọng, nên ngài ở lại bốn năm, rồi tiếp tục đi về Nam Thiên. Ngài muốn đem tất cả loại thuốc về Đông Hạ, đến tòa Kim Cương, thì quay trở lại gặp mặt ngài nghĩa Tịnh ở chùa Na-lanđà, thế là mãn nguyện bình sinh khế hợp với Tổng hội ở Long Hoa. Nhưng vì đường sá xứ Nê-ba-la đến Thổ Phiên bị bít lấp không thông, giữa đường về Ca-tất-thức bị tộc Đathị bắt bớ nên khó lòng qua được. Ngài đành gởi lòng về non Thứu, trầm tình chốn Trúc viên. Tuy thường có hoài vọng truyền đăng mà chưa thỏa lòng qua cố hương. Than ôi! Vất vả cố công kiến thành mà việc lợi sinh không toại lòng muốn bay cùng mây nhưng cánh gãy ở Thiên Trúc, Ngài mắc phải bệnh nặng và mất tại nước Am-ma-la-bạt miền Trung Ấn, thọ trên sáu mươi tuổi (Đa-thị tức là nước Đại Thực).
Thương rằng: Vĩ đại thay tráng sĩ là một mầm non tài giỏi, trải bao gian nan, băng ngàn vượt suối, vườn trúc diệu vợi, dốc lòng kiến thành, khát tưởng thâm huyền, chỉ mong giảng pháp, chí gởi độ sinh, than ôi không toại. Xót thay không thành, trầm mình chôn thây ở Lưỡng Hà, dương danh ở Bát Thủy, lành thay chọn cái chết. Bậc triết nhân thông tuệ, chánh chân, Lưỡng Hà tức Tây Hà, Bát Thủy thuộc Kinh đô.
Ngài là người Lịch Thành ở Tề Châu. Tiếng phạn là Thất-lợi-đề-bà, đời Đường dịch là Cát Tường Thiên. Ngài sinh ra trong gia đình gia giáo, tổ tiên nhiều đời làm quan, từ thuở còn thơ đã ảnh hưởng huyền môn, tâm ý trong sạch, chí khí tiết tháo. Ngài đi qua sa mạc mênh mông để tham quan Trung thiên, vượt lên các đỉnh núi chót vót, trọng pháp khinh thân, trên đường đến Thổ-phiên thì gặp tai nạn. Sợ phạm giới nên ngài tạm xả, đi đến Tây phương thì thọ lại Ngài chu du khắp các nước rồi đến Mạc-ha Bồ-đề, vì muốn chiêm ngưỡng hết Thánh tích nên ở lại mấy năm, có lúc ở chùa Na-lan-đà, lúc thì trụ tại Câu-thi-na. Vua Mông là Yêm-ma-la-bạt hết sức cung kính, tiếp đãi rất hậu. Ngài học kinh điển Đại thừa khi ở chùa Na-lan-đà, chuyên nghiên cứu luật tạng ở chùa Du-bàbạn-na (tức là tên ngồi chùa chỗ Phật nhập Niết-bàn). Đã học Thanh Minh lại thấu cương mục, lời văn có tình mà chữ thảo chữ triện rất khéo. Lúc ngài ở chùa Đại Giác làm một bài Đường Bi. Ngài đem về Đường các bộ kinh luận hơn bốn trăm quyển, đều xuất xứ từ chùa Na-lan-đà. Chưa gặp được ngài Tịnh ở Tây quốc nhưng ngài bị bệnh và mất ở nước Am-ma-la-bạt, thọ hơn năm mươi tuổi. Sau này nhân dịp hành hương thấy phòng ở của Ngài, thương xót không nguôi, bèn đề một bài thơ thất ngôn: "Gian khổ một thân chẳng nản lòng, bốn ân ghi nhớ nguyện lưu thông, vì đâu chưa thỏa tâm hoằng pháp, bổng chốc không may gặp đường cùng".
Ngài là người ở Tề châu, giỏi chú thuật, thông tiếng Phạm, theo ngài Huyền Chiếu từ Bắc Thiên đến Tây Ấn-độ. Khi đến thành Am-ma-la-phẩu-bạt được sự cung kính của quốc vương, đồng thời gặp Pháp sư Đạo Hy ở chùa Cư Vương kể cho nghe mọi điều tốt đẹp ở nước nhà, và cùng ở lại đó một mùa hạ thì mắc bịnh rồi qua đời, thọ ba mươi lăm tuổi.
Là người Tân la. Vào giữa niên hiệu Trinh Quán ngài đến Quảng Hiếp thuộc Trường An (Quảng Hiếp là tên núi ở thành vương). truy tìm chánh giáo, chiêm bái Thánh tích, ở chùa Na-lan-đà tham học kinh luận, sao chép các kinh. Nhưng đau đớn thay tâm nguyện không thành, Ngài bèn ra xứ Đông ở Kê Quý, mất ở Tây Duệ thuộc Long Tuyền, thọ hơn bảy mươi tuổi.
Kê Quý, tiếng Phạm là Củ-củ-thác-ythuyết-la. Củ-củ-thác dịch là kê, Y-thuyết-la dịch tức là nước Cao-ly. Tương truyền rằng: Nước ấy kính thần gà mà tôn xưng như vậy, cho nên lấy lông gà làm đồ trang sức đội trên đầu. Chùa Na-lan-đà có cái ao tên là Long Tuyền, ở phương Tây gọi Cao-ly là Củ-củthác-y-thuyết-la.
Ngài là người Tân-la, vào giữa niên hiệu Trinh Quán ngài đến xứ Tây Vực, ở chùa Bồđề chiêm bái Thánh tích, ở chùa Na-lan-đà một thời gian lâu để thọ học. Ngài Nghĩa Tịnh do đó xem xét lại bổn đời Đường, chợt phát hiện có quyển luận đời Lương đoạn cuối ghi: "Tăng xứ Tân-la là Tuệ nghiệp kính ghi tại cội cây Phật xỉ. Tìm hỏi những vị Tăng trong chùa thì họ bảo Ngài mất ở đây, thọ hơn sáu mươi tuổi. Các bổn Phạm Ngài chép đều ở chùa Na-lan-đà.
Ngài là người Tân-la, tiếng Phạm là Tát-bà-thận-nhã-đề-bà, đời Đường dịch là Nhất Thiết Trí Thiên. Vào niên hiệu Vĩnh Huy ngài lên đường đến Thổ-Phiên, băng qua Nêbà-la, đến Trung Ấn, chiêm lễ cội Bồ-đề và xem xét tận tường các kinh điển, sau đó quay về Đông Độ, trên đường đi đến Thổ Sơn Hồn, gặp được ngài Đạo Hy, sau đó qua chùa Đại Giác, rồi trở về Trung quốc, không rõ mất khi nào ở đâu.
Ngài là người Tân-la nào vào khoảng niên hiệu Trinh Quán theo Pháp sư Huyền Chiếu đến chùa Đại Giác, được sự lễ kính rồi mắc bệnh qua đời, không rõ lúc mất được bao nhiêu tuổi.
Lại có hai vị ở Tân-la, chẳng rõ tên húy của hai vị, xuất phát từ Trường An đến Nam Hải, dong thuyền qua nước Thất-lợi-phật-thệ và Tây-bà-lỗ-sư, rồi bị bệnh và mất ở đó.
Ngài là người xứ Đỗ-hóa-tốc-lợi, thân tướng phương phi, sức khỏe dồi dào, ngài theo học Tiểu thừa. Có lần khất thực được ít, do đó đổi học Đại thừa, bèn đến Thần Châu, xuất gia ở Ích Phủ, tính thích giao du, đi khắp vùng Cửu Châu. Sau đó, về Tây Thiên tham bái Thánh tích, gặp ngài Nghĩa Tịnh ở chùa Na-lan-đà, bèn chuyển về phương Bắc. Lúc đó Ngài khoảng năm mươi tuổi.
Ngài là người Tinh Châu, vượt qua các vùng sa mạc đến Nê-ba-la và làm trụ trì chùa Đại Giác mấy năm. Sau đó trở về Nê-ba-la cho đến nay đã thiếu giới hạnh, lại không học kinh sách, tuổi tác cũng đã lớn.
Ngài là người Tinh Châu, tiếng Phạm là Chiên-đạt-la-đề-bà, đời Đường dịch là Nguyệt Thiên. Vào cuối niên hiệu Trinh Quán ngài bắt đầu từ Thổ Phiên lên đường đến Trung quốc. Đến chùa Bồ-đề ngài lạy ngài Chế-để-ngật làm thầy, học làm Đồng tử ở chùa Na-lan-đà. Vua rất kính trọng. Phía Đông chùa này cách mười hai dặm có một ngôi chùa của vua, học toàn là Tiểu thừa, Ngài bèn ở chùa ấy một thời gian khá lâu học Tiểu thừa Ba tạng tinh thông chánh lý, rồi sau đó mang rất nhiều kinh, tượng trở về bổn quốc. Trên đường đi đến nước Nê-ba-la bị bệnh và qua đời ở đó. Lúc này có lẽ Ngài cũng lớn tuổi rồi.
Ngài là người Tinh Châu, từ khi cạo tóc xuất gia tập hạnh Sa-môn thường siêng năng tụng niệm chẳng phút trễ lười, thường phát đại nguyện sinh về Cực Lạc, thực hành các tịnh nghiệp, xưng niệm danh hiệu Phật, nền phước ấy sâu rộng khó thể biết hết. Sau đó ngài đến Kinh Lạc cũng chuyên tâm hành trì pháp môn này, lòng thành thầm cảm ứng. Ngài bèn phát nguyện chép kinh Bát-nhã đủ vạn quyển. Mong được đến phương Tây, lễ bái Như Lai và chiêm ngưỡng Thánh tích, đem phước lành này hồi hướng nguyện sinh. Ngài bèn đến phủ thượng thư nhờ các châu giáo hóa sao chép kinh Bát-nhã. Hơn nữa, với lòng chí thành dù trời cũng cảm động, cho nên được vua Mông trao cho sắc chỉ biên chép. Giang Biểu, kính chép kinh Bát-nhã, để báo ân sâu, khi tâm nguyện đã mãn, ngài bèn lên đường đến bờ biển du thuyền đến miền
Nam nước Ha-lăng. Từ đây nương thuyền đến nước Mạc-la-du. Lại từ nước này ngài muốn đến Trung Thiên, nhưng thuyền của thương buôn chở đồ quá nặng nên thuyền nhổ neo chưa bao xa thì gặp phải sóng to nổi lên, chưa quá nửa ngày thì thuyền bị chìm. Lúc sắp chìm, người lái buôn tranh nhau leo xuống thuyền nhỏ, thuyền chủ là người có tín tâm liền lớn tiếng gọi ngài xuống thuyền, Ngài nói: Chiếc thuyền này chỉ chở được vài người, tôi không xuống đâu. Đó đủ thấy ngài là người xem thường mình, vì mọi người mà thuận với tâm Bồ-đề, quên mình cứu người, đó là hạnh của bậc đại sĩ. Thế rồi ngài xuống hướng về phương Tây niệm danh hiệu Phật. Trong phút giây niệm tương tục ấy, thuyền và người chìm dần, khi tiếng dứt thì ngài cũng quy Tây, thọ trên năm mươi tuổi. Ngài có một người đệ tử, không biết là người xứ nào, lúc thầy mất kêu khóc thảm thương, cũng niệm Phật và tịch theo thầy, những người được cứu về kể rõ chuyện này.
Thương rằng:
Thương thay vĩ nhân, quên mình vì người, sáng như kính nước, quý gương xem trọng, nhuộm mà không đen, mài mà không mòn tiến thân vì Tuệ nghiệp, dưỡng trí thành tiếng thơm. Lúc ở nước mình thì hành trì pháp môn tự độ, khi đến nước khác thì gieo nhân tha độ. Trong lúc cận kề bờ hiểm nạn, lại quên thân mình mà cứu người, để lại người đệ tử không nơi nương tựa, ông bèn lao thân mình vào sóng cả để tìm lấy cái chết. Tịnh nguyện đến An dưỡng mà lưu thần, đạo tâm không mê mờ, đức ý vững chắc, ban bố ánh sáng tình thương chói lọi, tận kiếp bụi này vẫn càng ngày càng mới.
Đời Đường dịch là Sư Tử Tuệ, ngài là người Kinh Triệu, họ là Hoàng Phổ, không biết tên húy, cùng vân du với Sự Tiên, đến ở chùa Tín Giả xứ Trung thiên, chưa giỏi tiếng Phạm, cũng không hiểu kinh luận. Ngài muốn trở về quê cũ, trên đường qua nước Nêba-la bị bệnh và mất ở đó, thọ bốn mươi tuổi.
Ngài là người Kinh đô, con của An Tướng Quân. Ngài từ Bắc Ấn đến nước Yếtthấp-di-la, được quốc vương cho thưởng thức cỡi voi của vua và tấu nhạc vua, hằng ngày đến chùa Long Trì Sơn thọ vật cúng dường. Chùa đó là nơi ở của năm trăm vị A-la-hán thọ cúng. Chính là nơi mà Tôn giả A-nan-đà sai Tôn giả Mạt-điền-địa hóa độ Long vương. (Thất sái dịch là sở giáo hóa, cựu dịch đệ tử là sai).
Ngài lại khuyên vua nước này mở lòng ân xá cho cả nước, có hơn ngàn tử tù ngài cũng khuyên vua phóng thích. Ngài ra vào cung vua cũng gần mấy năm. Sau đó, vì không vừa lòng nên ngài bèn đi về phía Nam, đến chùa Đại Giác lễ cây Bồ-đề, tham quan ao Mộc Chân, leo lên đỉnh Linh Thứu, băng qua ngọn Tôn Túc, thọ học với những bậc thông thái tài giỏi kỹ nghệ. Tuy thời gian chẳng là bao nhưng ngài thông suốt tiếng Phạm, lãnh thọ ít kinh giáo rồi muốn trở về quê cũ, trên đường đến nước Nê-ba-la chẳng may qua đời, tuổi thọ chỉ quá lúc trưởng thành.
(Nước Nê-ba-la vốn có thuốc độc cho nên người nào đến xứ đó phần nhiều là mất mạng).
* Lại có một người cùng Sứ giả ở Bắc đạo đến nước Phược-yết-la, xuất gia với sư Tiểu thừa ở Tân tự tên là Chất-đa-bạt-ma. Sau này đến lúc sắp thọ giới cụ túc thì không ăn ba thứ tịnh nhục, thầy của ngài nói: Đức Đạo sư khai cho năm thứ chánh, vốn đã không tội, sao ông không ăn. Ngài đáp: Các kinh điển Đại thừa có nêu đầy đủ, đó là thói quen cũ không thể sửa được. Ngài nói: Ta y theo tánh tạng luật có chế ra các khoa. Ông nêu ra những điều chẳng phải chỗ học của ta, nếu giữ những tư tưởng bất đồng thì ta chẳng phải thầy ông. Thế là ngài đành vâng lời gạt lệ mà ăn. Lúc mới thọ cụ túc ngài cũng hiểu biết sơ qua tiếng Phạm rồi âm thầm lên đường về phương Bắc, không rõ ngài đến đâu, nghe đồn ngài làm tăng ở Bắc Thiên-trúc.
* Lại có hai người nước Nê-ba-la, là con của Nhủ mẫu Công chúa Thổ-phiên, lúc đầu cả hai cùng xuất gia, sau này một người hoàn tục, người xưa ở chùa Thiên Vương rất giỏi tiếng Phạm và sách Phạm, thọ ba mươi lăm tuổi.
Không rõ ngài là người xứ nào, vào niên hiệu Trinh Quán đi từ Bắc đạo, định đến Bắc Ấn để tham hóa Trung Thiên, ngài tụng được kinh Pháp Hoa bằng tiếng Phạm, sau đó đến nước Kiện-đà-la bị bệnh và qua đời, tích này là do các vị Tăng phương Bắc đến truyền như vậy.
Như trên là hai mươi vị.
* Ngài là người ở Thanh Thành thuộc Ích Châu, tiếng Phạm là Chấn-đa-đề-bà, đời Đường dịch là Tư Thiên. Thuở nhỏ ngài vâng theo lời răn dạy nên lớn lên càng cố gắng tu trì, dung nghi nho nhã, bản chất thanh tú, rất giỏi Trung luận, Bách luận, nghị luận về Trang Chu. Ban đầu ngài đến Thất Trạch, sau đó đến Tam Ngô, học lại các kinh luận cùng với tu thiền, ở ẩn trên non Lô qua một mùa hạ, ở đó ngài hết sức đau buồn cho chánh giáo bị bại hoại, bèn chống tích về phương Nam, đến Giao Chỉ rồi lên thuyền vượt sóng cả đến nước Ha lăng, sau đó đến châu Sư Tử, được vua cung kính lễ ngộ. Ngài lẻn vào nội các, lấy trộm răng Phật rồi mong về nước để thiết lễ cúng dường, khi chiếc răng ấy đã vào tay thì bèn bị đoạt lại, chí nguyện không thành lại bị lăng nhục. Sư đi về phía Nam Ấn Độ, truyền tin với người ở châu Sư Tử biết rằng: mình đến chùa Đại Giác rồi bặt vô âm tín, có lẽ ngài trên đường đi thì mất, chẳng rõ bao nhiêu tuổi. Lính vệ ở châu Sư Tử canh phòng răng Phật rất nghiêm ngặt, đặt trên gác cao, đóng mấy lớp cửa, khóa chặt khư khư, năm quan cùng giữ ấn niêm phong. Nếu mở một cửa thì nó sẽ vang khắp cả thành quách. Ngày nào cũng cúng dường hương hoa quanh các, dốc lòng cầu thỉnh thì chiếc răng lộ trên cánh hoa, hoặc hiện nhiều màu lạ, mọi người ai cũng nhìn thấy. Tương truyền nếu Châu này mất răng Phật thì đều bị La-sát ăn nuốt. Vì thế họ canh giữ vật báu này rất nghiêm ngặt. Cũng có lời truyền rằng: "Nếu không giữ kỹ thì nó sẽ đến nước Chi-na". Đó là do năng lực cảm ứng của bậc Thánh mà được chứ không phải dùng sức người cưỡng đoạt mà có.
Ngài là người ở Thành Đô thuộc Ích Châu, thông thạo luật học, lại giỏi Du-già, xuất phát từ Trường An đi đến Giang Hán, Là người cùng Châu với ngài Trí Ngạn và một người con tên là Nghĩa Huyền, vào độ tuổi hai mươi đã thấu tột chánh lý, lại giỏi nội điển mà nhất là văn chương. Vì muốn chiêm bái Thánh tích nên cùng người em đi khắp nơi, giúp đỡ lẫn nhau, rất thân nhau như cá với nước. Khi đến Ô lôi thì cả hai cùng lên thuyền vượt trăm trượng, leo lên muôn nghìn sóng cả, đến Phù Nam rồi dừng chân nghỉ ở Lang-ca. Quốc vương Mông-lang ca tiếp đãi theo lễ của thượng khách. Ngài Trí Ngạn bị bệnh rồi mất ở đây. Ngài Nghĩa Lãng lại ôm mối sầu tử biệt, thế rồi cùng người em lên thuyền hướng về châu Sư Tử, phổ cầu kinh điển và đảnh lễ răng Phật, dần dần đến Tây quốc, đó là tin truyền như vậy, cho đến nay không biết rõ là ở nơi nào không thấy ở châu Sư Tử cũng không có tin tức gì ở Trung Ấn, có lẽ là ngài đã qua đời rồi, lúc đó ngài hơn bốn mươi tuổi rồi.
Ngài là người Thành Đô ở Ích Châu, bẩm chí tiết tháo, ý muốn làm lợi ích rộng lớn, còn nhỏ đã thông minh, trí tuệ, đến khi xuất gia thì kính trọng diệu lý, Phật pháp như quý hạnh châu trong búi tóc, bỏ vinh hoa như cởi dép, ngài thông thạo kinh luận và rất giỏi luật tạng, chí muốn mở mang giáo pháp kết niệm ở Tây phương. Vì thế vào niên hiệu Lân Đức, ngài chống tích trượng về Nam Hải, theo thuyền bến Ha-lăng Châu đứng lại đó ba năm cùng các vị tăng đa văn ở nước Ha-lăng như Na-bạt-đà-la. Từ kinh do ngài A-cấp-ma dịch ra chuyện Như Lai Niết-bàn thiêu thân, chuyện đó không liên quan nhiều đến kinh Niết-bàn của Đại thừa. Nhưng kinh Niết-bàn thuộc Đại thừa lúc ngài Nghĩa Tịnh ở Ấn-độ đích mắt thấy và nói: Kinh đó gồm cả hai mươi lăm ngàn bài tụng, dịch ra hơn sáu mươi quyển, xem xét lại toàn bộ cũng không thấy, chỉ được phẩm đầu là Đại Chúng Vấn, hơn bốn ngàn bài tụng. Ngài Hội Ninh đã dịch được bản của ngài A-cấp-ma, liền sai vị tăng trẻ là Vận kỳ chuyển kinh về Giao phủ đến trạm dịch kinh Triệu dâng biểu lên vua, mong vua cho phép điều chưa nghe được truyền bá cho tăng ở Đông Hạ. Vận Kỳ từ Kinh Triệu trở về đến Giao Chỉ, báo cho đạo tục biết vua Mông tặng cho mấy trăm xấp lụa, rồi ngài lại đến nước Ha-lăng báo việc Trí Hiền (Nhã-na-bạt-đạt-la) gặp gỡ Hội Ninh. Bấy giờ Hội Ninh mới về Tây Trúc. Mỗi khi ở đâu tôi đều hỏi thăm, nhưng tìm khắp cả năm xứ Ấn cũng bặt tăm không dấu vết. Y theo lẽ này cũng đủ biết ngài đã mất rồi. Thương rằng: Ô hô! Ngài Hội Ninh vì pháp mà đọc dịch, nói dịch được hai pho thì trông về thiên đình: Trọn đời nương theo đảo châu báu, tạm ở nơi hóa thành. Thân tuy hoại diệt mà đạo tâm sáng ngời, thì dẫu xa mà cũng để lại tiếng thơm, đem tiên chí Bồ-tát cùng mở mang, giúp hạnh cho hậu niệm. Ngài thọ chừng ba mươi bốn, ba mươi lăm tuổi.
Ngài là người Giao Châu, cùng đi khắp nơi với sư Đàm Nhuận, nương ngài Trí Hiền thọ giới cụ túc rồi trở về Nam Hải ở hơn mười năm, rất giỏi âm vận xứ Côn Luân lại biết tiếng Phạm. Sau đó, ngài hoàn tục ở nước Thất-lợi-phật-thệ cho đến bây giờ. Chẳng lâu sau ngài qua lại Hoằng-ba truyền kinh đế lý, ban bố những điều chưa từng dạy người xứ này, lúc đó khoảng bốn mươi tuổi.
Ngài là người Giao Châu, đời Đường dịch là Giải Thoát Thiên, không rõ tên húy. Ngài du thuyền về Nam Minh, đi khắp các nước, đến chùa Đại Giác lễ bái các Thánh tích rồi thị tịch tại chùa này, lúc đó khoảng hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi.
Ngài là người Giao Châu, tức đệ tử thọ giáo của ngài Minh Viễn, tên tiếng Phạm là Chất-đát-la-đề-bà. Ngài cùng Minh Viễn đi thuyền đến Nam Hải, khi đến châu Sư Tử hướng về Tây Ấn thì gặp sư Huyền Chiếu cùng đến Trung Thổ. Vị này bẩm tánh thông minh, tụng kinh bằng tiếng Phạm rất giỏi. Ngài đến đâu cũng thường giảng nói kinh pháp. Trước ngài lễ cội Bồ-đề, khi đến thành Vương-xá bị bệnh ở Trúc Viên, trong khoảng thời gian lâu sau thì mất, lúc đó khoảng ba mươi tuổi.
Ngài là người Giao Châu, là đệ tử ngài Trí Hạnh, theo thầy đến nước Tăng-Ha-la rồi ở lại nước đó, chẳng biết còn hay mất.
Không rõ người ở đâu, tiếng Phạm là Thiết-thích-đà-bạt-ma, đời Đường dịch là Tín Trụ. Ngài từ Bắc Đạo đến Tây Thiên sau khi tham bái hết các Thánh tích thì về trụ chùa Tín Giả, ở tầng trên của chùa xây một căn gác bằng gạch và cúng cho ngài ở, đồng thời cũng dùng ngọa cụ và các vật phẩm khác. Sau đó bị bệnh mấy ngày, một đêm nọ ngài bỗng nhiên nói rằng: Có vị Bồ-tát duỗi tay rước. Nói đoạn, ngài ngồi thẳng chắp tay thở ra rồi mất, thọ ba mươi lăm tuổi.
Ngài là người Ái Châu, tiếng Phạm là Bát-nhã đề-bà, đời Đường là Tuệ Thiên, ngài lên thuyền đến Nam Hải đến Tây Thiên lễ bái các tôn nghi, đến phía bắc Sông Hằng, ở chùa Tín Giả, rồi mất ở đó, thọ năm mươi tuổi.
Sư là người ở Ái Châu, tiếng Phạm là Mạc-ha-dạ-na-bát-địa-dĩ-ba, đời Đường dịch nghĩa Đại Thừa Đăng. Thuở nhỏ, Sư theo cha mẹ đi thuyền đến nước Đỗ-hòa-labát-để xuất gia, sau đó theo sứ Đường là Đàm Tự trở về Kinh đô, trụ chùa Từ Ân, chính là nơi Tam tạng Pháp sư Huyền Trang cư ngụ, rồi mới thụ giới Cụ túc, thời gian ở kinh đô chỉ mấy năm mà Sư thấu đạt mọi kinh sách. Sau đó muốn chiêm bái Thánh tích, tính hợp với cảnh Tây, thể chứa sự dung thứ, tánh hợp với sự khiêm cung, giới pháp nằm lòng, thiền cơ hợp ý. Sư cho rằng: Chìm vào hữu thì do giả duyên, duyên không thì đọa vào hữu. Lìa sinh thì nương vào trợ duyên, mà trợ duyên thì trái ngược với đời sống. Thế rồi Sư dốc chí vào Vương-xá thành, dồn tâm ở Trúc viên, cầu mong dứt trừ tám nạn, mãi cầu bốn luân. Sư bèn mang tượng Phật và kinh luận vượt biển Nam về nước Sư Tử. Tham bái răng Phật, chiêm lễ hết mọi điều khác lạ, sau đó đến Nam Ấn rồi trở về Đông Thiên, đến nước Đam-ma-lập-để. Lúc đến Hán Khẩu bị giặc vây bức, thuyền vỡ chỉ còn lại thân mạng, thế là Sư đành ở lại nước đó mười hai năm. Trong thời gian này, Sư dùi mài tiếng Phạm nên sở học rất giỏi tụng nhiều kinh như Duyên Sanh v.v... và tu phước nghiệp. Nhân lúc gặp được các người buôn nên Sư theo ngài Nghĩa Tịnh đến Trung Ấn, đầu tiên đến Na-lan-đà, kế là đến tòa Kim Cương, rồi trở về Tỳ-xá-ly, sau cùng đến Câu-thi-na, đến đó với ngài Vô Hành. Sư thường than rằng: "Bổn nguyện hoằng pháp về lại Đông Hạ cuối cùng không thành, thấm thoát tuổi đã già suy, kiếp này tuy không thực hiện được bổn hoài thì xin kiếp sau được toại ý này. Cho nên, Sư thường thực hành các nghiệp lành sanh lên cõi trời Đâu-suất để mong gặp ngài Di-lặc. Hằng ngày Sư vẽ một hai cảnh Long Hoa để tiêu khiển tâm ý. Sư là lớp kế ngài Đạo Hạnh, đến ở phòng cũ của sư pháp lữ cùng đi, Đạo Hy, lúc đó vị kia cũng thị tịch rồi. Bản Hán vẫn còn, Phạm giáp còn bày, thấy thế mà ngậm ngùi rơi lệ than thở. Ngày xưa ở Trường An nay ở xứ người chỉ thấy tòa không, thương rằng: Than ôi! Vua mất, năng lực kia càng mạnh, kẻ sĩ truyền đăng bỗng nhiên mất đi, Thần châu đứt ruột, Thánh cảnh hồn bay, môn đồ buồn đau than khóc, áo não chịu tang mà thương xót. Thiền sư ở chùa Bát Niết-bàn thành Câu-thi đã viên tịch, lúc bấy giờ tuổi đã hơn sáu mươi.
Ngài là người nước Khang Cư, thuở nhỏ vượt sa mạc, đi đến Kinh đô, bẩm chất kính tin, giới hạnh trong sạch thường hành Bố thí, từ bi trong tâm ý. Vào niên hiệu Hiển Khánh, ngài vâng chỉ cùng với sứ giả tham bái Tây Thiên, đến trụ chùa Đại Giác, mở hội Vô Già ở tòa Kim Cương, suốt bảy ngày bảy đêm đèn đuốc sáng rực cả pháp hội, rồi lại ở dưới gốc vô ưu trong nội viện Bình Đẳng điêu khắc tượng Phật và tượng Quán Thế Âm. Người thời bấy giờ đều khen ngợi công đức thật ít có. Sau đó, ngài trở về Đường triều, rồi vâng chỉ qua Giao Chỉ hái thuốc, lúc bấy giờ ở Giao Châu gặp năm mất mùa, nhân dân đói khát, cho nên ngày nào ngài cũng tìm cách cứu giúp kẻ nghèo khổ, nỗi đau trong lòng không chịu được, phải rơi nước mắt. Người thời bấy giờ gọi là Bồ-tát Thường Đề, vừa bị chút bệnh nhẹ chẳng bao lâu thì mất, thọ ngoài sáu mươi tuổi.
Hai vị này đều là người ở Cao Xương, lớn lên ở Kinh đô và có chí hoằng truyền chánh pháp quy tâm về thắng lý, sau đó đến giáo hóa ở Trung Thiên, cùng Sứ giả Vương Huyền Khuếch lên thuyền, ra đến giữa biển bị bệnh và cả hai đều mất. Các bản Hán Dugià và kinh luận khác mà hai Ngài mang theo đều để lại nước Thất-lợi-phật-thệ.
Ngài là người Lạc Dương, giỏi chú thuật và học các lý sâu mầu, thông hiểu luật tạng và rất giỏi về thuốc, là người có dung nghi minh mẫn, đường vệ. Sau đó, ngài đến giang biểu để hóa đạo lợi sinh, rồi đi dần về phương Nam đến Giao Chỉ, ở đó một thời gian, đạo tục vùng này đều rất mực kính trọng. Thế rồi, ngài theo thuyền về Nam, định đến Tây Ấnđộ. Lúc đến nước Bột-bồn ở phía Bắc Halăng thì bị bệnh rồi mất, thọ ba mươi tuổi.
Ngài là người Lạc Dương, bẩm tánh thông minh, tư tưởng sâu sắc, lấy việc học rộng làm bổn hoài, tìm tòi chân lý làm nghĩa vụ. Ngài y theo Nhiếp luận, Câu-xá, v.v... cố gắng nghiên cứu. Nhưng vì nghĩa có nhiều điểm dị đồng nên sinh tâm bất mãn, từ đó muốn xem xét bổn Phạm để tận mắt tìm ra những điều mầu nhiệm, bèn chỉ tay về Trung Thiên, lại nhìn về Đông Hạ, tiếc thay mang sẵn tâm nguyện mà không đủ tháng chí để thực hiện. Khi đến nước Lang-ca-thú bị bệnh rồi mất ở đó, thọ ba mươi tuổi.
* Lại có ba vị tăng đời Đường, từ Bắc Đạo đến nước Ô-trường-na. tương truyền các ngài về hướng chỗ thờ xương cốt đảnh Phật lễ bái, nay cũng chẳng biết còn mất. Tin này do các vị Tăng từ Ô-trường qua nói như vậy. Như vậy là bốn mươi vị
Ngài là người Tân-la, tiếng Phạm là Bátnhã Bạt-ma, đời Đường dịch là Tuệ Thân, xuất gia từ bổn quốc và có tâm lễ bái thánh tích, lên thuyền đến Mân Việt rồi đi bộ đến Trường An, vâng chỉ theo ngài Huyền Chiếu làm thị giả để đi về phía Tây. Khi đặt chân đến đất Ấn liền lễ bái các Thánh tích rồi về chùa Tín Giả nước Yêm-ma-la-bạt khoảng mười năm, gần chỗ ở có chùa tăng Đổ-hóA-la về phía Bắc của phương Đông. Chùa này vốn do người Đổ-hóa-la xây dựng cho các vị tăng của nước mình ở. Chùa này có một tài sản to lớn, các phẩm vật cúng dường không thể nói hết, chùa có tên là Kiện-đà-la-sơn-trà. Ngài Tuệ Luân ở đây nên rất giỏi tiếng Phạm và thông thạo cả Câu-xá, cho đến nay vẫn còn bốn mươi vị. Các vị Tăng từ phương Bắc đến đều ở chùa này làm trụ trì. Ở phía Tây chùa Đại Giác cũng có Quốc tự Ca-tất-thi.
Chùa này cũng rất giàu và có nhiều vị cao tăng thạc đức, các vị đều tu học theo Tiểu thừa, các vị Tăng phương Bắc đến cũng ở chùa này, chùa tên là Lũ-nô-chiết-lý-đa, đời Đường dịch là Đức Hạnh. Cách hai dặm về hướng Đông Bắc chùa này cũng có ngôi chùa tên là Quật-lục-ca, chính là ngôi chùa thuở xưa do vua nước này xây dựng. Chùa tuy nghèo nhưng các vị tăng đều là những người có giới hạnh thanh nghiêm, gần đây vua Nhật lại xây một ngôi chùa nữa ở bên cạnh chùa này, mới vừa hoàn thành. Các vị tăng từ phương Nam đến phần nhiều ở chùa này. Các nơi đều cho nên nước họ được biết đến. Thần Châu độc tôn một cõi, cho nên thường thường gặp không ít khó khăn. Về phía Đông chùa Na-lan-đà khoảng bốn mươi dặm, từ Kinh-già-hà xuống đến chùa Mật-lật-thabát-na, đời Đường dịch là chùa Lộc Viên. Cách chùa này không xa có một ngôi chùa cũ, chỉ còn ngói đá nền móng, tên là chùa Chi-na. Các bô lão truyền rằng: Đó là ngôi chùa do vua Thất-lợi-cấp-đa xây cho các vị tăng nước Chi-na ở. (Chi-na tức Quảng châu, Mạc-ha Chi-na tức kinh đô, cũng gọi là Đềbà-phật-đát-la, đời Đường dịch là Thiên tử).
Bấy giờ, có khoảng mười vị tăng đời Đường, khởi hành từ đường Dương Đặc ở Thục Xuyên. (Thục Xuyên cách chùa này hơn ba trăm dặm). Các ngài hướng về phía Ma-ha Bồ-đề lễ bái. Vua thấy vậy rất kính trọng bèn cúng dường khu đất ấy để làm chỗ nghỉ ngơi, cấp cho một thôn lớn khoảng hai mươi bốn sở. Sau này, các vị đều mất rồi thì thôn này lại chia cho người khác. Hiện giờ, có ba thôn nhập vào công quỷ chùa Lộc Viên. Theo số lượng chùa, Chi-na đến nay có lẽ có hơn năm trăm ngôi, hiện giờ đất ấy thuộc sở hữu của vua Đông Ấn, vua này tên là Đề-bàbạt-ma, ông thường nói rằng: Nếu có các vị tăng từ chỗ vua Đường đến đây ta sẽ sửa sang lại chùa này, lại còn phong cho các thôn, không để cho thiếu thốn lương thực, quả thật đáng khen. Nói rằng: Tuy có điềm kinh lạ của Tổ Hạc nhưng khó gặp phước vui, mà phải để tâm nơi việc lợi ích, cứu giúp. Cầu thỉnh hoằng pháp ở đây chẳng phải việc nhỏ. Chùa Đại Giác ở tòa Kim Cương chính là do vua nước Tăng-ha-la xây dựng. Các vị Tăng ở châu Sư Tử trụ nơi đó từ lâu, phía Đông bắc chùa Đại Giác khoảng bảy trạm dịch là chùa Na-lan-đà, chính là do cổ vương Thất-lợilạc-yết-la-thất-để xây dựng cúng cho các vị Sa-môn Bắc Ấn là Hạc-la-đỗ-bàn. Chùa này mời đổ móng thì lấp lại, qua thời kỳ sau con cháu của quốc vương nối nhau tạo lập hùng vĩ, trong châu Thiệm bộ đương nhiên không thêm bớt gì nữa, kiểu dáng, mẫu mã không thể nói hết, chỉ có thể nêu lược những điểm chung. Nhưng hình dáng chùa này vuông như vực, bốn bên thẳng tắp, hiên dài có hành lang bao quanh, đều bằng đá cao, ba tầng, mỗi tầng cao hơn một trượng. Xà ngang vách hiên vốn không có rui mè, mà nung gạch để xây. Phía sau chùa thẳng tắp, tùy ý qua lại, dãy tường sau phòng tức là mặt ngoài. Xây từng lớp cao ngất ba, bốn trượng. Ở trên hình dáng như đầu người, cao bằng thân người, có chín phòng tăng. Trong mỗi phòng rộng chừng trượng vuông. Mặt sau thông với cửa sổ hướng ra mái hiên. Cửa tuy cao nhưng chỉ lắp một tấm, đều cùng thấy nhau chứ không cho phép gắn rèm, ra ngoài xem thấy khắp bốn mặt, để cùng xem xét cuộc sống của từng người. Ở một đầu góc làm đường gác qua lại. Bốn góc trên chùa đều xây điện đường, chùa này toàn là những vị đại đức học rộng cư ngụ. Cổng chùa nhìn về hướng Tây là lầu cao chọc trời, điêu khắc chạm trổ các đường nét hoa văn thật công phu, vốn không xây riêng. Nhưng ra phía trước khoảng hai bước thì có đặt bốn cột trụ, cổng ấy tuy không quá to lớn, quý giá nhưng xây cất rất vững chắc. Mỗi khi đến giờ ăn thì đóng kín cửa lại, đó là đề phòng chuyện bất trắc của Thánh giáo ý. Đất trong chùa rộng một bề ba mươi bước, lát gạch nhỏ chừng bảy hoặc năm bước. Tất cả các nơi như nóc nhà, trước hiên trong phòng đều dùng đá cục lớn chừng bằng quả đào, quả táo hòa với bùn non để trét lên, dùng đá vôi trộn với chất nhớt cây mè và dầu, cặn dầu, da thú nát, tẩm chứa nhiều ngày trét bùn trên gạch đất, phủ cỏ xanh lên khoảng ba mươi mấy ngày, nhìn thấy khô thì lấy đá nhẵn mài lên, sau đó lau chùi bằng nhựa đất đỏ hoặc chu sa, đoạn dùng dầu đánh lên làm cho sáng bóng như gương, điện đường thềm bậc tam cấp đều làm như vậy. Hễ hoàn thành rồi thì cho dù người ta dẫm đạp lên từ một, hai, ba hay đến mười năm cũng không hề đổ nát, chứ không giống như đá vôi hễ thấm nước thì liền rã. Làm theo kiểu này có tất cả tám ngôi chùa, phía trên đều bằng thẳng như có khuôn. Dùng một hoặc vài căn phòng phía Đông để thờ tôn tượng, hoặc có thể ở ngay chính giữa, phía trước xây đài Quán Âm và điện Phật riêng. Ở ngoài đại viện phía Tây chùa mới xây một ngôi tháp lớn (Tốt-đổ-ba), xưa gọi là tháp và các Chế-để (xưa dịch là chi-đề) có cả trăm ngôi, không thể kể xiết các Thánh tích nối tiếp nhau. Vàng bạc lấp lánh thật không thể tưởng tượng. Tất cả các tăng đồ đều sống theo phép tắc, điều này có ghi đủ trong Phương Lục và Ký Quy. Trong chùa chỉ tôn bậc Thượng tọa lớn tuổi nhất làm tông chủ, bất luận đức độ. Các chốt cửa đều đóng kín và giao cho Thượng tọa. Chứ không giao cho Tự chủ duy-na khác. Vì người xây chùa gọi là chủ chùa, tiếng Phạm là Tỳ-ha-la-sa-nhị. Những người thay phiên trị nhật, lo liệu mọi việc trong chùa và thưa việc với Tăng gọi là Tỳ-ha-la-ba-la, Hán dịch là hộ tự. Còn người hô kiểng và giám thực gọi là yết-ma-đà-na, dịch là Thọ sự. Còn duy-na là lược bớt. Chúng tăng có việc thì nhóm chúng phân việc để bảo họ giữ chùa, tuần hành thưa bạch trước từng người, đều phải chắp tay trình bày rõ việc kia. Nếu một người không bằng lòng thì việc không được thành, hoàn toàn không có pháp đánh kiền-chùy bỉnh bạch trước chúng. Nếu thấy không bằng lòng thì dùng lời để hướng dẫn, chẳng có sự cưỡng ép làm cho chúng thêm chán ghét, dù việc giữ kho cũng phải trang nghiêm. Dù ba, hai người cũng sai người y theo Thủ khố chắp tay mà bạch. Nếu hòa hợp đồng ý mới được tiêu dùng mà không mắc lỗi tự tiện. Người không bạch mà dùng riêng thì dù chỉ nửa thăng gạo cũng đáng phạt tội tẫn xuất. Nếu một người tự cho mình là người cũ, có quyền lạm dụng vật của tăng chúng thì phải xử đoán việc này giống như người không bạch với đại chúng, gọi là Câu-la-bát-để, dịch là gia chủ. Đây chính là mụt nhọt trong Phật pháp, thần người đều chán ghét. Mặc dù ở chùa có lợi ích nhưng rốt cuộc mắc tội nặng hơn, người trí nhất định không làm những việc này. Hơn nữa, ngoại đạo trước kia có chín mươi sáu thứ, nay chỉ còn hơn mười loại. Nếu có trai hội nhóm họp, mỗi người tự ở chỗ mình, không tranh thứ bậc với tăng ni. Pháp của họ đã khác thì lý sẽ không đồng hành. Mỗi người thực hành theo pháp mình và ngồi không lẫn lộn. Chùa này đặt ra pháp lý hết sức nghiêm ngặt. Mỗi nửa tháng sai người đi xem xét các liêu để nhắc nhở điều chế. Tên tuổi chúng tăng không ghép vào sổ sách của vua, người nào phạm lỗi thì chúng tăng tự trị phạt, vì những vị tăng này tự kính nể nhau. Sự thọ dụng ở chùa tuy hẹp mà lợi ích rất rộng, tôi nhớ lúc ở kinh thành có người vẽ một ngôi chùa giống như Kỳ Hoàn, đều không có căn cứ. Vì nghe những điều kỳ lạ kia mà lược trình bày sơ qua thôi.
Lại nữa, ở Thiên-trúc có ngôi chùa lớn, vua quan đều bảo đặt một đồng hồ nước, làm như vậy nhằm phân biệt thời gian đêm ngày dễ dàng. Y theo luật dạy, ban đêm chia làm ba phần, đầu hôm và gần sáng phải thiền tụng, còn nửa đêm thì tùy ý nghỉ ngơi. Phương thức sử dụng đồng hồ nước đã có nói trong bộ Ký Quy. Tuy trình bày về kiểu dáng chùa nhưng sợ rằng ngay nơi việc ấy lại lầm chuyện này mà vẽ ra bức họa, mong rằng khiến cho chính mắt nhìn thấy không bị dính mắc. Nếu tấu thỉnh xây y như vậy thì Vươngxá và Chi-na hoàn toàn như nhau. Bèn khen rằng: Những điều tốt đẹp vẫn bày ra rất nhiều, các vị tài giỏi xưa nay đã biết nhẫn chịu sinh tử, đâu thể không đau lòng với cảnh chùa như vậy.
Đây là kiểu Chùa Thất-lợi Na-lan-đà Mạc-ha Tỳ-ha-la. Đời Đường dịch là Cát Tường Thần Long Đại trụ xứ. Ở Tây Thiên đều gọi vua chúa và quan lớn là đại tự xá. Trước đều gọi là Thất-lợi, ý muốn lấy nghĩa cát tường tôn quý, Na-lan-đà là tên loài rồng. Gần đây có con rồng gọi là Na-già-lan-đà, cho nên gọi theo đó. Tỳ-ha-la nghĩa là trụ xứ, dịch là chùa, không phải dịch thẳng. Như thấy một ngôi chùa thì bảy cái kia cũng giống như vậy. Mặt trên bằng phẳng lưu thông người qua lại, hễ thấy chùa như vậy phải nhìn về hướng Nam, muốn cho đi ra cửa Tây mới đúng, ở cửa Nam cách hai mươi bước có một ngôi tháp. cao chừng trăm trượng, là chỗ ngày xưa Đức Thế Tôn an cư trong ba tháng hạ. Tiếng Phạm là Mộ-la-kiện-đà-câu-để, đời Đường dịch là Căn Bổn Hương Điện. Bên cạnh cách tường cửa Bắc khoảng năm mươi bước lại có một ngôi tháp lớn, cao hơn như vậy, ngôi tháp này do vua Ấu-nhật xây dựng, đều làm bằng gạch, trang trí rất khéo léo, giường vàng đất báu, cúng dường thật ít có. Ở trong đó có tượng Như Lai xoay bánh xe pháp. Về phía Tây Nam có ngôi tháp nhỏ, cao hơn một trượng, là chỗ thưa hỏi về các chấp trước của Bà-la-môn. Đời Đường dịch là Tước-ly-phù-đồ, chính là ý này. Ở phía Tây Căn Bản Điện có một cây Phật xỉ chẳng phải dương chi, kế đến ở mé Tây có giới tràng, vuông vức khoảng hơn một trượng, xung quanh xây tường gạch, cao khoảng hai thước, nền tòa trong tường cao khoảng năm tấc, ở giữa có ngôi tháp nhỏ. Góc điện phía Đông của giới tràng có nền nhà Phật đi kinh hành, được làm bằng gạch, rộng chừng hai khuỷu tay, dài mười bốn, mười lăm khuỷu, cao hơn hai khuỷu. Ở trên làm bằng đá vôi trắng hình hoa sen nở, cao chừng hai tấc, rộng một thước. Có mười bốn, mười lăm biểu tượng dấu chân Phật. Tức chùa này nhìn về phía Nam là Vương-xá thành cách chừng ba mươi dặm, Linh thứu, Trúc Viên đều ở gần thành. Phía Tây nam là chùa Đại Giác. Hướng Nam là núi Tôn Túc, đều có bảy trạm, phía Bắc là Phệ-xá-ly khoảng hai mươi lăm trạm dịch. Phía Tây hướng về vườn Nai hơn hai mươi sáu trạm dịch. Phía Đông là nước Chẩm-malập-để, có khoảng sáu, bảy mươi trạm dịch, chính là cửa biển lên thuyền về Trung quốc. Chúng tăng trong chùa này có ba ngàn năm trăm vị, các thôn trang của chùa có hai trăm lẻ một thôn, đều do vua chúa nhiều thế hệ sắc chỉ những hộ trong thôn ấy cúng dường cho chùa. (Một trạm Dịch tương đương với một du-thiện-na). Long Trì, Quy Dục là cách xa Thiên Tân, đường xa thăm thẳm nếu không có ngựa thì không đi được. Đến nay những điều đó chỉ là truyền thuyết chứ ít có thật, mô hình tạo ra quy chế trình bày lờ mờ, thuở xưa cũng mơ hồ mờ mịt, dẫu có xem xét cũng là tưởng tượng, nếu Phật còn tại thế thì hết sức thần dị.
Quyển này có mười lăm người, hiệp chú và lại xếp vào Truyện Nam Hải.
Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh soạn.
Ngài là người Giang Lăng thuộc Kinh Châu, tiếng Phạm là La-bát-phả, đời Đường gọi là Giới Quang. Vào độ tuổi hai mươi thoát ly trần tục, khi đến tuổi trưởng thành thì tìm cầu bạn tốt, thầy hiền để tìm chân lý, nghiên cứu luật tạng nên giới châu được sáng tỏ, tu thiền để lắng nước tâm, bẩm tánh hiền lương khí chất liêm khiết, gội dòng suối trong để tiêu diêu tâm chí, rửa nước suối ngọc để nuôi dưỡng tánh linh, thường ngồi thiền không nằm, ngày ăn một bữa. Sau đó, buồn thương cho giáo pháp truyền sang Đông Hải trong thời gian khá lâu mà Thiền tông mới nhập, luật điển lại thiếu, ngài muốn tìm về nguồn cội sâu xa ở Tây quốc, nên bèn chống tích trượng vượt đường xa dong thuyền về biển Nam, vượt qua Đồng Trụ để đến Lang-ca, băng qua Ha-lăng rồi đến nước Kinh Lõa. Ngài đến đâu các quốc vương cũng cung kính tiếp đãi rất nồng hậu, ân cần. Trải qua mấy năm ngài đến nước Đam-ma-lập-để thuộc Đông Ấn, ở đó trong ba năm để học tiếng Phạm. Lúc đó xả giới rồi thọ lại, học Nhất thiết hữu bộ, chẳng những học luật mà còn gồm cả định tuệ, có lúc cũng đam mê chú tạng. Sau đó ngài tham quan xứ Trung Thiên đảnh lễ Thánh nghi Bồ-đề ở ngự tòa kim cương, rồi lại đến chùa Na-lan-đà nghiên cứu kinh luận Đại thừa, say mê Câu-xá. Suốt mấy năm ngài đi hết các nơi như Thứu Lãnh, Trượng Lâm, Sơn Viên, Hạc Thọ chiêm ngưỡng tỉ mỉ từng nơi một, rồi lại đến các nước thuộc miền Nam Thiên-trúc để tìm hiểu sưu tầm huyền lý rồi về miền Tây Ấn nước La-trà ở đó mấy năm, sau đó lập long đàn thọ lại minh chú. Có lần ngài thử luận rằng: Minh chú, tiếng Phạm là Tỳ-đệ-đà-la-tất-đặc-gia.
Tỳ-đệ dịch là minh chú, Đà-la là trì, Tất-đắc-gia là tạng, hợp lại là Trì minh chú tạng.
Tương truyền Minh chú tạng này trong bản Phạm có mười muôn bài tụng, đời Đường dịch thành ba trăm quyển, hiện giờ tìm lại phần nhiều thất lạc, còn lại số ít. Lúc bậc Đại thánh mất đi thì A-li-dã-na-già-hạtthọ-na tức Bồ-tát Long Thọ là người đặc biệt tinh ròng tư tưởng này. Sau đó đệ tử Ngài là Nan-đà thông minh học rộng thẩm xét pháp yếu đó. Ngài ở lại Tây Ấn khoảng mười hai năm, chuyên tâm trì chú liền có cảm ứng, mỗi khi đến giờ ăn thì thức ăn từ trên hư không rơi xuống. Ngài lại tụng chú cầu bình như ý, chốc lát thì đạt được, cho nên ngài được sự an vui trong chiếc bình, không vì chú hết thì chiếc bình ấy sẽ bỏ đi, cho nên Pháp sư Nanđà sợ minh chú tản thất, bèn sưu tập thành mười hai ngàn bài tụng, trở thành một pháp sư nổi tiếng. Trong mỗi bài tụng, văn chú ấn ly hợp, dù nói đồng chữ đồng thật mà nghĩa khác, dụng khác, vốn chẳng phải truyền nhau bằng miệng nên không do giải ngộ thì cũng vô phần. Sau đó Luận sư Trần-na thấy sự biên soạn vô cùng công phu và rất khéo léo của một bậc kỳ tài ấy bèn khen rằng: "Ta đâu sánh được với bậc vĩ nhân ấy, quả là bậc hiền chí ý sáng tỏ". Cho nên biết bậc Trí sĩ biết được sự độ lượng của mình, kẻ ngu mê mờ sự cạn sâu của người khác. Tạng chú này chưa truyền bá, ở Đông Hạ. Vì vậy mà ngài Đạo Lâm để tâm vào pháp nhiệm mầu này. Cho nên tạng chú nói: "Lên cõi trời nhưng rồng sai khiến trăm thần, Đạo lợi sinh chỉ có chú là thân thiết". Ngài Nghĩa Tịnh ở chùa Na-lan-đà cũng nhiều lần vào đàn tràng chú tâm vào pháp yếu này mà công phu ấy không trọn vẹn, thế là đành dứt bỏ ý tưởng ấy mà mở rộng sự thấy nghe, tạm nêu lên cương mục. Ngài Đạo Lâm liền từ Tây Trúc về Bắc Thiên tham quan Yết-thấp-di-la rồi đến nước
Ô-trường na. Tham quán thiền môn, suy tìm Bát-nhã, sau đến nước Ca-tất-thí, lễ Ô-suấtnị-sa (tức xương cốt của Phật). Từ đó về sau chẳng biết ngài ở đâu. Ngài Nghĩa Tịnh về nước Yết-trà ở Nam Hải có người rợ Hồ từ phương Bắc đến nói có: gặp được hai vị Tăng ở nước Hồ. Nghe nói trên đường bị giặc vây nên trở lại Bắc Thiên Trúc, ngài thọ khoảng hơn năm mươi tuổi.
Ngài là người Giang Lăng thuộc Kinh Châu, sau khi xuất gia thì vượt đường xa đến Kinh đô. Ngài là đệ tử của Luật sư Thành, rất giỏi biện luận, lời văn sâu sắc, học cả nội ngoại điển, giới hạnh thanh bạch trang nghiêm. Ngài đi về phương Nam, đến Bột Hải để vọng lễ. Sư về Tây Thiên rồi đến nước ha-lợi-lê-la ở miền Đông của Đông thiên. Vào độ tuổi thành niên ngài ở đâu, hoàn toàn không biết, có lẽ lưu lạc ở sông núi.
Lại có vị tăng nước Ha-lợi-kê-la, có thuyết cho rằng: Đó là một vị tăng đời Đường. Khoảng năm năm mươi tuổi, ngài được vua kính trọng và bổ nhiệm trụ trì một ngôi chùa. Sau đó, ngài mang nhiều kinh tượng gấp rút ra đi về đến nước này, bị bệnh nặng và chôn thân nơi xứ người.
Ngài là người Giang Lăng thuộc Kinh Châu, giới hạnh trong sạch, có hoài bão và tiết tháo, học cả nội lẫn ngoại điển, chí dạo chơi ở trời mây, khát ngưỡng nơi sông yên bình để nêu tưởng. Nhớ về vườn trúc để thỏa lòng, ngài bơi thuyền đến Chiêm-ba thì gặp phải sóng gió, nhiều lần chống chọi với gian khổ, sau đó đến Đồng Trụ ở Mã Vận, nghỉ ở Thượng Cảnh rồi về Trung quốc.
Ngài là người Giang Ninh thuộc Nhuận Châu, họ Hồ, thuộc dòng dõi tiếng tăm, là con người văn võ song toàn, chuộng nhân quý nghĩa, kính pháp trọng tăng, tiếp nối hoằng truyền, tiếng tốt chẳng mất. Luật sư xuất gia từ thuở ấu niên nên lớn lên rất được kính ngưỡng trọng vọng, cho đến tuổi thọ giới cụ tục thì lỗi lạc chẳng ai bằng, nghiên cứu khắp các bộ luật và chuyên tu thiền tịch, giới hạnh nghiêm mật, xem xét kinh điển Đại thừa và suy cứu huyền lý, văn chương lưu loát, thảo lệ rất khéo, chỉ có ba y che vai, không đắp phủ cánh tay, chỉ lấy chéo y đắp vai, vào chùa đi chân không, đi đường mới mang dép. Cho dù người bấy giờ thấy thế chê cười nhưng phẩm tiết thanh cao của ngài không hề thay đổi, không nằm mà thường ngồi, lưng chẳng dính chiếu mà ngủ yên, đi khất thực, không qua cửa quán rượu. Người lành đều yêu mến phong cách giản dị mà tri thức sâu xa của ngài. Kẻ mê tối không thấy được, cho rằng chân không dép thì đất mới có thể thấm chân trần. Than ôi bọn người này mê mờ chân lý, làm biển xanh dậy sóng chìm đắm theo thói đời. Người tỉnh trong đời đâu thể ở chung với kẻ say sưa vừa mới ở trong cảnh giới siêu thoát liền khế hợp. Điều đó làm cho con cháu ở Nam Thượng thương xót, bạn bè ở Tam Kinh hết nơi bám víu. Thương thay cho chí nguyện không thành việc truyền pháp vẫn còn trong hoài bão chưa nêu cao được tiết tháo cao quý. Khi ngài đến Quảng châu thì bị bệnh phong, ngài bởi mắc phải bệnh này nên không toại chí nguyện cao xa, thế là ôm mối sầu hận chống tích về Ngô Sở, lúc đó ngài khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi.
Sau này, sư Tăng Triết đến Tây Trúc nói: Người ấy đã mất nhưng mang chí nguyện trong lòng. Than ôi! Thật bất hạnh. Đường tốt nhiều nạn hiểm, chẳng phải luống suông, thật muốn trở về đem tư lương Phật pháp để mở mang nhưng hoài vọng không toại. Lại muốn quay về để khỏi gian nguy thì lại luống phí tấc lòng với Long Thọ, bèn than rằng: Người thanh khiết mất đi, ai sẽ kế thừa. Bất hạnh cho người mạng ngắn, ô hô thương thay. Gò cao chín nhận, một sọt là sạch. Tài giỏi mà không thật, ô hô thương thay! Hiểu thì dễ được, hành cũng khó tìm, buồn thay! Tuổi nhỏ mà nghiệp đức đều tu, ý niệm truyền đăng đã hết! Mặc bệnh thì tình thâu. Buồn thay tráng sĩ, thương thay thân mất nhưng chí nguyện truyền đăng của Sư vẫn rực sáng, tồn tại ngàn năm.
Khi ấy ngài từ giã Quảng châu, lại vọng về Quế Lâm, đi ở buồn thay, tự kể để tặng cho Sư. Nêu tâm ở Phạm vũ, vận tưởng vào Tiên châu, mắc bệnh hiểm nghèo trái với đồng hảo, trầm tình thì sự trở ngại như thoát ra, lá rụng chợt khó tụ. Tình lìa không thâu lại được, biết ngày nào đến lại để thấy dòng pháp tuôn
Trong niên hiệu Hàm Hanh năm đầu, tại Tây kinh, ngài nghĩa Tịnh nghe tin lúc bấy giờ Pháp Sư Xử Nhất ở tịnh bộ, Luận Sư Hoằng Huy ở Lai Châu ba mươi hai vị Đại đức cùng ngóng về Thứu Phong để nêu tâm nơi đạo thọ. Nhưng mẫu thân của ngài Xử Nhất đã lớn tuổi, đành ôm lòng luyến tiếc ở Tịnh Xuyên. Sư Huy gặp ngài Huyền Chiêm ở Giang Ninh, thế là chuyên tâm vào An Dưỡng. Ngài Huyền Quỳ đến Quảng Phủ rồi lại bị trái với nguyện ban đầu, đành phải đi với tiểu tăng Thiện Hạnh ở Tấn châu. Bạn cũ của Thần châu vốn đã tan rã nhiều nơi, Ấnđộ thì mới biết, mờ mịt không hiểu, bấy giờ ai nấy do dự khó định tôi bèn làm bốn câu thơ để giải sầu. Thơ rằng:
Tôi đi mấy muôn dặm
Chất chồng trăm mối sầu.
Ai bảo thân sáu thước
Một mình đến Ngũ thiên.
Lời trên có lẽ vượt hơn thầy, bậc chí sĩ tao nhã khó đổi thay, nhưng tiếc rằng mạng ngắn đâu được lâu dài.
Lúc ấy, vào niên hiệu Hàm Hanh thứ 3, Sư nhập hạ ở Dương phủ.
Đầu Thu bỗng gặp sứ quân Phùng Hiếu Thuyên ở Cung Châu đến Quảng Châu và cùng đi về Nam với thuyền chủ nước Ba-tư. Rồi được sứ quân bảo đến Đồng Châu, lại làm đàn chủ và em là sứ quân Hiếu Đản, sứ quân Hiếu Chẩn, quận quân họ Ninh, quận quân họ Bành, v.v... cùng bà con đều được sự ban tặng, tranh nhau tế dâng để xả xui, ngõ hầu của Cấp-cô-độc không có sự trở ngại ở đường biển thì cũng sợ có nguy hiểm trên đường bộ. Dốc lòng ban ân tuệ, như người thân, thuận theo tâm ban phát cho kẻ cô độc. Cùng nhau quy y để đồng duyên thắng cảnh, cho nên chí thành đảnh lễ, có lẽ là công sức của họ Phùng, vả lại pháp tục ở Lĩnh Nam đi hay ở cùng một tâm trung thật, các bậc anh tài ở phương Bắc đều ôm mối hận sống mà phải chia lìa. Đến tháng 11 tôi nương Hiếu Chẩn quay về Phiên ngung, chỉ tay về vườn Nai mà lòng dằng dặc, nhìn về núi Kê mà dạ bồi hồi. Lúc ấy, trời đất bao la hướng về phương Đông thì Bách Trượng đã theo hài. Lìa lễ nghĩa mà sáng lập tiết tháo, bỏ huyền tố đơn phi, ngũ lưỡng xẻ dọc biển lớn, dường như sóng núi vắt ngang biển. Khơi thông thác cả, như sóng mây ngất trời, chưa được hai tuần thì đã đến Phật Thệ. Ở lại đó một thời gian khoảng sáu tháng học dần với các bậc cao minh. Vua ban tặng cho những vật cần dùng rồi tôi tiến về nước Mạc-la-du. (Nay là Thất-lợi-phật-thệ). Lại ở đó hai tháng rồi quay về Yết-trà. Đến tháng 12 tôi căng buồm lên thuyền vua về Đông Thiên. Từ nước Yếttrà đi về phương Bắc hơn mười ngày đến nước lõa thể, từ đó hướng về phía Đông chừng một, hai dặm đường nữa. Chỉ thấy cây Da tử, rừng Tần lang sầm uất đáng yêu. Người ở xứ đó họ thấy thuyền đến bèn tranh nhau đem cả trăm chiếc thuyền nhỏ để đón, họ đều đem theo chuối Lang tử, bình trúc đựng nước để trao đổi. Vật mà họ thích nhất chỉ có sắt lớn bằng hai ngón tay, đổi được năm hoặc mười cây long tử. Đàn ông thì trần truồng, phụ nữ thì dùng miếng lá che thân. Các người đi buôn mỉm cười rồi đưa áo quần cho họ, nhưng họ khoát tay tỏ ý không cần. Tin đồn nước này giáp với phía Tây nam Thục Xuyên. Nước này vốn không sản xuất sắt, cũng khan hiếm vàng bạc. Chỉ ăn quả Lang tử và rễ chứ không có lúa gạo nhiều. Vì thế họ rất quý Lô-a (tức là sắt). Người dân da không đen, chiều cao trung bình. Họ đan giỏ mây tròn rất đẹp, xứ khác không thể sánh được, nếu không trao đổi thì họ sẽ bắn tên độc, người nào bị trúng thì không còn cách nào chữa trị. Đến đây khoảng nửa tháng tôi bắt đầu muốn đến Tây Bắc, đến nước Đamma-lập-để, là miền đông của Đông Ấn, cách Mạc-ha Bồ-đề và Na-lan-đà hơn sáu mươi trạm dịch. Ở đây lại được gặp các sư Đại thừa. Ở đó một năm, học tiếng Phạm và Thanh luận, rồi sau đó đi về phía Tây với sư Đại Thừa Đăng và mấy trăm người đi buôn đến Trung Thiên. Ở Mạc-ha Bồ-đề chừng mười ngày rồi qua núi lớn trên con đường hiểm nạn khó thông, phải nương nhiều người chứ không thể đi một mình. Lúc ấy, gặp nạn dịch, bị bệnh phong cùi, cầu những người đi buôn cứu không kịp. Tuy cố gắng hết sức mình đi chừng ba dặm nhưng tôi cũng hết sức. Khi ấy có khoảng hai mươi vị Tăng chùa Na-lan-đà cùng đi trước với tăng, Đại Thừa Đăng chỉ còn tôi một mình một bóng trên đường hiểm. Trời chạng vạng thì giặc núi kéo đến, chúng giương cung la lớn bảo đến chỗ chúng, trước hết chúng cởi áo trên rồi tụt y dưới. Đãy mang theo không có gì cũng tước đoạt hết. Ngay lúc ấy tôi thật sự chán nản nhân tình thế thái không còn tâm trí nào để lễ bái tham kiến nữa. Thân thể không còn nghiêm trang, cho nên không toại nguyện xưa. Lại, tương truyền ở nước kia, nếu bắt được người da trắng thì đem giết tế trời. Nghĩ đến thuyết này tự nhiên lòng nghĩ mông lung, bèn xuống vũng bùn nhuộm hết thân thể, dùng lá cây che người rồi chống gậy đi chầm chậm, ngày rồi đến đêm, đi mãi như thế mà nơi tạm dừng chân vẫn còn xa. Đến canh hai nửa đêm mới gặp bạn bè, nghe tiếng gọi lớn ở ngoài thôn của ngài Đại Thừa Đăng, tôi bèn vào đó, Thiền sư đưa cho chiếc áo, xuống ao tắm gội sạch sẽ rồi mới vào thôn. Từ đây đi về phía Bắc mấy ngày, trước hết đến Na-lan-đà lễ tháp Căn Bản, kế là lên núi Kỳ-xà-quật thăm chỗ cất y, sau đó đến chùa Đại Giác lễ chân dung Phật, đạo tục ở núi Đông biếu tặng lụa vải, tôi đem may theo lượng y ca-sa của
Như Lai, trình lên Phật rồi đắp mặc. Luật sư Huyền ở Bộc Châu đem mấy muôn áo lụa đem dâng lên Thiền sư Đạo An ở Tào Châu để gởi lễ cúng tượng Bồ-đề. Thế rồi tôi năm vóc lễ Phật một cách chí thành, trước hết vì bốn ân ở Đông Hạ, cùng khắp pháp giới hàm thức, nguyện gặp Đức Di-lặc trong hội Long Hoa, đồng thời khế hội chân tông, đắc Vô sinh nhẫn. Tiếp theo tôi lễ khắp các Thánh tích và phương trượng, rồi đến Câu-thi-na, hết sức kính phục ở đó, rồi vào vườn Nai qua Kê lãnh. Cầu kinh tại chùa Na-lan-đà hơn mười năm, vừa mới quay gót nói trở về nước Đan-ma-lập-để thì giữa đường gặp bọn giặc cướp, chỉ tránh được họa đao búa, giữ được mạng mong manh. Thế rồi lên thuyền đến nước Yết-trà, đem theo hơn năm mươi tôi vạn bài tụng trong Ba tạng bản Phạm, về Trung quốc dịch khoảng một ngàn quyển, nhưng bị kẹt lại ở Phật-thệ.
Sư là người Tấn Châu, thuở nhỏ từ giã quê hương tìm đạo ở Đông Sơn, lớn lên học luật nghi và để tâm nghiên cứu minh chú. Tính ngài khiêm cung, từ tốn thương người, là đệ tử ngài Nghĩa Tịnh. Sau đó, ngài theo thầy đến Thất-Lợi-Phật-thệ và có tâm muốn đến Trung Thổ, nhưng vì mắc phải bệnh nặng không chữa được, nên đành quay về, lúc đó ngài chừng ba mươi tuổi.
Sư là người Tương Dương, tiếng Phạm là Bát-nhã-đề-bà, chí khí ngay thẳng, có tâm xuất tục. Ngài cùng đi tìm Thánh tích với ngài Tăng Triết, vượt qua Nam Minh đến Tây Thiên, lão luyện tiếng Phạm, có hoài bão lợi sinh, đi đến đâu cũng được vua chúa cung kính. Ngài ở chùa Na-lan-đà họa tượng Bồđề và chân dung Bồ-tát Di-lặc, kích thước bằng nhau, công phu khéo léo hơn người, rồi đem về Trung quốc làm Phật sự, phiên dịch Thánh giáo thật tài giỏi.
Ngài là người Lễ Châu, thuở nhỏ khí tiết cao vời, sớm nương huyền môn, và có căn cơ giải ngộ, quả thật có sự mầu nhiệm của quán đảnh, bàn luận sắc bén, được đại chúng kính phục, nghiên tầm nơi vườn luật, khống chế cả ruộng thiền. Hai môn Trung, Bách từ lâu đã nắm giếng mối, hai sách Trang, Lưu đã nằm lòng then chốt, muốn chiêm ngưỡng Thánh tích nên lên thuyền đến Tây quốc. Lúc đến Tây Thiên rồi ngài tùy duyên du hóa. Đến lễ các nơi xong ngài quay về Đông Ấn, đến nước Tam-ma-đán-thát, vua nước đó tên là Hạt-la-đổ-bạt-thát, vị vua này rất kính Tam bảo, là vị Đại Ưu-bà-tắc, chí thành tin tưởng rực sáng xưa nay. Mỗi ngày nắn tượng Thátmô-nê cả mười muôn pho, đọc Đại Bát-nhã cả mười muôn bài tụng, đích thân dâng cúng mười vạn bông tươi. Sửa soạn trai nghi thiết lễ và người giúp đem tượng Quán Âm đặt trên xa giá, cờ xí trống nhạc rền cả hư không, tượng Phật tăng chúng dẫn đường phía trước, vua đi phía sau. Tăng ni trong thành khoảng bốn ngàn người, đều được sự cúng dường của vua. Sáng nào cũng sai sứ vào chùa chắp tay đứng trước phòng vấn an sức khỏe "Đại vương kính thăm Pháp sư, v.v… đêm qua có được an vui không".
Tăng đáp: "Mong cho Đại vương sống lâu không bệnh, xã tắc an ninh", Sứ trở về báo xong vua mới bàn việc nước, năm xứ Thiên trúc có những vị đại đức trí Thắng-man rộng biện tài, học hết mười tám bộ kinh, thông giải năm minh đại luận đều nhóm họp ở nước này, vì vua nước này nhân từ, tiếng tăm vang khắp thiên hạ. Ngài Tăng Triết ở trong chùa của vua này rất được sự đãi ngộ đặc biệt, chú tâm vào bổn Phạm ngày ngày tinh tấn, mai này không còn gặp nhau nữa. Tương truyền ngài ở đây vào những năm bốn mươi tuổi. Đệ tử Ngài là Huyền Du, là người Cao-ly theo thầy xuất gia ở nước Sư Tử rồi ở lại nước đó.
Như trên là năm mươi vị.
Ngài là người Lạc dương, tức là cháu của Đại sứ Vương Huyền Sách đi sứ Tây Vực. Ở độ tuổi thanh xuân thì đã nhàm chán cuộc sống, nhàn nhã, ý xem thường cuộc sống sung túc mà mang hoài bão xuất du. Ngài bèn tìm đến núi Thiếu Lâm, ăn mặc đơn giản, thích tụng đọc kinh điển, lại có tài văn chương. Sau đó, ngộ ra sự nhộn nhịp ồn ào nơi đô thị, mến cảnh thanh vắng của pháp môn, nên Sư bèn từ giã chốn Bát thủy mà đến Tam Ngô, bỏ quần là áo lụa, khoác áo nâu sồng. Thờ Thiền sư Tha làm thầy, lãnh thọ ân tuệ của thầy chẳng được bao lâu thì dường như huyền quan. Sư lại đến chỗ Thiền sư Nhẫn ở Trác Châu tụ lại thiền định. Gốc lành tuy đã trồng, nhưng cành nhánh chưa cao. Sư bèn đến Tương xuyên lên Hoành Lãnh, đến Quế Lâm để tịnh niệm, đến U Tuyền để dưỡng tâm, lại trải qua mấy năm nương Thiền sư Tịch để y chỉ, tham quan cảnh kỳ vĩ của núi sông, thưởng thức vẻ thanh thoát của rừng núi bạt ngàn. Ngài bèn huơ bút vẽ lại những cảnh u lệ của núi rừng, bày tỏ nỗi lòng viễn du. Khi đã thưởng thức hết pháp tượng vùng Tam Ngô, ngắm hết những tòa báu, tham bái hết các thiện hữu ở Cửu Giang, nghiên tầm lý mầu, nhưng đó là do gốc lành đã trồng nhiều đời chứ không phải do sức cố gắng của con người. Xuất thân từ trong phủ nên muốn chiêm lễ ở Tây Vực, ngài may mắn khế hợp với Thiền sư Vô Hành, đến hợp phố lên thuyền, tiêu diêu giữa biển khơi, chẳng may gặp gió nên trôi giạt đến Thượng Cảnh, lại đến Giao Châu, ở đó một mùa hạ. Đến cuối mùa đông năm đó ngài lại đến Thần Loan ở Hải Tân. Theo thuyền về Nam, đến nước Thất-lợi-phật-thệ. Tất cả lịch trình ngài đi qua có chép rõ trong Tự Truyện của Thiền sư Hành. Ngài đến chùa Đại Giác ở đó hai năm, chiêm ngưỡng dung nhan một cách chí thành cung kính, tụng đọc phạm bản bất kể tháp ngày, rất giỏi Thanh luận, có tài về Phạm thư, học luật nghi, tập đối pháp, đã thông thạo luận Câu-xá lại giỏi Nhân Minh, đọc tụng thông suốt kinh Đại thừa ở chùa NA-lan-đà. Ở đạo tràng Tín Giả ngài chuyên tâm nghiên cứu Tiểu thừa. Khi thành tựu danh đức, ngài lại tắm mình trong luật nghi, cố gắng siêng năng chẳng rời tấc bóng, học các kinh luật của Luật sư Đức Quang biên soạn. Theo sự thấy nghe và học hỏi đó nên có một công phu sâu dày, khéo gìn giữ giới luật không hề thiếu phạm mảy may, thường ngồi không nằm, biết đủ các thanh liêm, kính trên nhường dưới và càng kính trọng các Trưởng lão. Khi thì ngài đến non Thứu thành Vươngxá, lại đến vườn Nai, rừng Kỳ thọ, am vườn, núi hang ở Thiên Giai tỏ bày tâm khát tưởng, đồng thời khế hợp với nỗi lòng sâu kín. Mỗi khi nhận y bát dư ngài thường nghĩ đến việc giúp đỡ. Ở chùa Na-lan-đà ngài cúng dường khắp. Ở thành Vương-xá đem bát cúng dường thường trụ. Ngài ở lại Trung Ấn gần tám năm. Sau đó, đến Bắc Thiên trúc, ở nước Yết-thấp-di-la, muốn về quê cũ. Tương truyền ngài làm bạn với Đạo Lâm, không biết nay ngài ở đâu, nhưng công trình phiên dịch của ngài thì thành tựu mỹ mãn.
Sư là người Giang Lăng ở Kinh Châu, tiếng Phạm là Bát-nhã-đề-bà, đời Đường dịch là Tuệ Thiên, tánh tình phóng khoáng, bẩm chất ôn hòa, ý chuộng nhân đức, chí hướng nơi mây ngàn. Tuổi còn thơ bé mà đã dấn thân khắp sông núi. Khi đến tuổi trưởng thành thì mong hoài bão chốn thiền lâm, lại xót xa rơi lệ thương các ngư dân, thợ săn. Vứt bỏ những vẻ đẹp ở chân vọng, dẹp trừ cảnh hùng vĩ ở làng xóm đương thời đức hạnh xán lạn, soi dòng Tam giang để bày vẻ duyên dáng, gọt tướng ở suối thơm, tắm nước bảy lòng mà tiêu diêu ở sông nước. Nhờ duyên xưa mà cảm ứng qua hiện tiền, mong mỏi pháp môn để tâm trọng lý mầu. May mắn gặp năm người độ, nương ở các đạo tràng. Sau đó mở ra đế môn, thấm nhuần bạn pháp, thờ Pháp sư Tuệ Anh chùa Đại Phước Điền làm Ô-ba-đà-là (đời Đường dịch là Hòa-thượng thân giáo sư). Đó chính là bậc thượng túc của Pháp sư Cát tạng, có thể nói đó là bậc thạc đức truyền đăng. Vốn dĩ đời không thiếu bậc hiền tài, thế rồi Sư để tâm vào Bát-nhã, nương chí chốn Thiền lâm, rời bỏ thế gian để ngao du chốn sông núi. Mỗi khi bàn lý mầu thì nêu bày những nghĩa lý sâu kín. Tuy tuổi trẻ trung mà khát vọng phía trước cho đến lúc thọ giới cụ túc cùng đàn với hơn hai mươi người, tụng giới hợp ý lại rất lưu loát, đáng được gọi là bậc thượng thủ, không ai sánh bằng, sau đó ngài ẩn cư trong núi, đọc kinh Pháp Hoa, không đầy một tháng thì hết cả quyển (trọn bộ bảy quyển). Ngài khen rằng: Nói về người tìm nôm là muốn được cá, người cầu lời là muốn đạt nghĩa mầu, ta phải tìm những bậc thầy giỏi để xem xét tâm thần, khởi phát định môn để dứt phiền não. Thế là ngài chống trượng đến Cửu giang và băng qua Tam Việt, đến xứ Hoành khâu, rồi ở Kim lăng, thả lòng chốn Tung Hoa, hét lớn nơi Thiếu thất. Rửa chân nơi tám thủy, giữ áo chốn Tam xuyên, ý muốn cầu thiện tri thức, muốn phát huy định môn để về phương Bắc tìm tòi những lẽ sâu mầu của thiền định với ngài Trí Giả. Muốn mở mang giới học môn nên quay về đông, nghiên tầm điền thuần túy của giới với luật sư Đạo Tuyên, tham dự những buổi giảng kinh luận mới cũ, khảo sát những phép tắc từ xưa đến nay Mênh mông thay sóng cả, muôn khoảnh cao ngất. Bờ bến nghìn dặm làm bạn với ngài Trí Hoằng, lên thuyền về đông một tháng đến nước Thất-lợiphật-thệ. Vị vua nước này kính trọng, tiếp đãi nồng hậu hơn người thường, trải hoa vàng, rải lúa vàng, cúng dường bốn thứ cần dùng, năm canh thưa hỏi, gặp được bậc Đại tăng từ chỗ vua Đường đến càng tỏ ra kính phục. Sau đó ngài nương thuyền vua đến Châu Mạt-ladu khoảng mười lăm ngày. Lại đi tiếp mười lăm ngày nữa đến nước Yết-trà quốc. Đến cuối đông thì quay thuyền trở về Tây, suốt ba mươi ngày đến Na-già-bát-đàn-na, bơi thuyền về châu Sư tử hai ngày, tham lễ răng Phật. Từ đây đi thuyền về đông một tháng đến nước Ha-lợi-kê-la. Nước này thuộc ranh giới phía đông của Đông Thiên-trúc, tức là lãnh thổ của Châu Thiệm-bộ. Ngài dừng lại đây một năm rồi đi lần về Đông Ấn, thường theo ngài Trí Hoằng. Tại đây cách chùa NA-lan-đà khoảng một trăm dặm đường. Khi nghỉ ngơi xong lại đến chùa Đại Giác. Nhờ quy chế quốc gia quy định ai vào chùa đều là chủ nhân. Vì chủ nhân Tây quốc hơi khó được. Nếu được chủ thì các việc khác đều giống như vậy, làm khách chỉ ăn mà thôi. Sau đó ngài về Na-lan-đà, nghe Du già, học Trung quán, nghiên cứu Câu-xá, tham cầu sách luật, lại ở chùa Yết-la-trà. Cách đây hai dịch, xứ ấy có vị Pháp sư rất giỏi Nhân minh, nhiều lần học giáo nghĩa của ngài Trần-na, trên pháp tòa chẳng những thâm nhập cửa huyền mà còn phá vỡ then chốt. Ngài thường đi khất thực nuôi thân, ít muốn biết đủ, các căn vượt thoát ngoài vật, thường nhân lúc rảnh rỗi dịch kinh của ngài A-cấp-na, thuật lại việc Như Lai Niết-bàn, lược làm ba quyển, đã mang về Trung quốc, đó là xuất xứ từ Nhất Thiết Hữu Bộ.
Nói về những điều trong đó thì chẳng giống với điều mà ngài Hội Ninh đã dịch lời mà ngài Vô Hành đã nói ngài muốn ở lại Tây Thiên, còn đạo lại có ý ở Thần châu, muốn từ Bắc Thiên trở về quê cũ. Ngày đó, ngài Nghĩa Tịnh tiễn nhau ở Na-lan-đà. Đi đến phía Đông chừng sáu dặm thì mỗi người đều mang mối sầu chia biệt, cả hai đều mong gặp lại. Hai người bùi ngùi rơi lệ chia tay, lúc đó năm mươi sáu tuổi. Vả lại, bẩm tánh của ngài chuộng khâm lễ, nên thường ví mình được thấy cây giác mới nẩy lộc, tắm gội ở Long Trì, Trúc uyển vàng rực, bẻ hoa ở Linh Thứu. Trong hai thời này đều là tiết hội lớn, không gian gần nhau nên đạo tục đều thấy cây Bồđề. Lại ở núi Linh Thứu vào lúc này có hoa vàng lớn như bàn tay, thật giống mầu vàng người ta bẻ nó về dâng cúng, nên lúc này ở núi Di phú tạm gọi nó là hoa xuân nữ. Có một lúc cùng Thiền sư Vô hành dạo chơi ở Linh Thứu, chiêm bái xong rồi nhìn về quan ải không tả hết nỗi ngậm ngùi. Nghĩa Tịnh tôi xin nói sơ về nỗi hoài cảm của mình như vậy. Trong đoạn thơ có nhiều câu rằng:
"Thăm qua đỉnh Kỳ sơn
Rơi lệ thành vua xưa
Muôn năm ao vẫn sạch
Nghìn năm rừng vẫn xanh
Phảng phất bóng in đường
Đạp qua bao núi lớn
Tiên đài bảy báu phai dấu cũ
Bốn màu hoa trời bặt tiếng mưa
Hoa bay tiếc sinh ra thời muộn
Đã thương ở nhà lửa huyễn hóa
Vẫn than cõi tạm đắm đất bằng
Cất bước trông biên ải
Tâm dạo trên sóng trào
Nau náu bến tà dìm ba cõi
Mờ mịt muôn phẩm chôn thật hình
Chỉ có Năng Nhân mới viên ngộ.
Quét trần lắng sóng mở đường huyền.
Gặp thời đói khát bỏ thân nước
Lại vì tìm thấy nên khéo thí
Giữ phao nổi hợp với giới châu.
Phòng giữ yếu tâm mặc áo nhẫn.
Ba kỳ chẳng mỏi lập hai thừa.
Cất bước quên mệt vượt chín số.
Định lắng sông xanh gội não phiền
Trí bén chặt băng vỡ thành sương
Vô biên đại kiếp nguyện tu hết
Sáu thời chuyên tâm theo sáu độ
Độ có thực hành công đức sinh.
Sông Hằng quy tịnh về thường trụ
Kê lâm quyền xướng diễn công xong
Thánh chúng truyện xưa còn vang tiếng
Mật điển cung rồng giấu biển sâu
Lời vàng hang đá muôn nơi ngưỡng
Từ đây dòng pháp chảy
Truyền cho muôn đời sau
Cát sông đỉnh tuyết quên đường tắt
Biển cả thác ghềnh loạn bến mê
Vào trong muôn chết cầu phần sống.
Đứng vững đầu kim cũng chẳng bằng
Buộc ngựa treo xe không sánh kịp
Chẳng màng đời này vui
Chẳng cầu đời sau sướng
Thệ bỏ thân nguy tìm thắng nghĩa
Chỉ mong khế hợp nguyện truyền thừa
Khổ vẫn hát, chẳng than van
Dõi mắt trông về trời Đông
Thao thức luyến lưu nhị tính Phương
Tây Lộc Uyển cách tam luân
Phương Bắc xá thành ao còn đó
Rừng núi trời Nam ai đoái trông
Năm núi xanh, trăm ao mát
Rực rỡ sắc hoa soi bốn phía
Ngời ngời gốc đạo chiếu ba xuân
Chân tính nhắm sơn A
Rao bước hướng Kỳ-đà
Nhìn đá xếp thành y của Phật
Lại thấy trời trao khắp muôn non
Lắng lòng nơi linh trấn
Muôn sông rộ hoa vàng
Đưa tay ngắt lấy
Hương tỏa thơm lừng
Điện đài bay lùi lại
Thềm đá bao bọc quanh
Ngỡ hợp với sức thần
Đem phước mọn ấy tưới bến bờ
Mong cùng gặp ở Long Hoa hội.
Tại vương xá thành ở Tây vực, lòng nhớ về chốn cũ, thơ rằng:
Buồn xa xích nhuyện
Tấc lòng luyến lưu
Non Lĩnh gió lạnh thổi
Sông Long nước ngược trôi
Vui với ngày qua sáng lại sáng
Chợt buồn năm hết thu lại thu
Nguyện ước Kỳ viên đã mãn
Tấc lòng khó tỏ cùng ai
Vác kinh chống gậy
Ngài là người Kinh châu, đức hạnh cao thượng, chỉ tu hạnh phước, rảo bước trên sóng thiền, náu tâm ở biển giới, bạn pháp đáng kính, là chỗ để quay về, đọc tụng kinh luật, ẩn cư nơi thanh vắng. Sau đó muốn chiêm lễ thánh tích nên ngài có ý về Tây, cùng Thiền sư Thừa Ngộ ở Đồng châu, Luật sư Thừa Như ở Lương châu, học thấu cả nội ngoại điển, trí tuệ sắc bén, đức ấy chẳng những kết hợp một mình mà sau đó dắt vài người bạn ra Tam Giang, giương buồm lên Thượng Cảnh, lướt sóng đến miền Bắc Halăng, đi khắp các đảo rồi lần đến nước Yếttrà. Trong lúc chưa đến thì Pháp Chấn bị bệnh rồi chết ở đó. Khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi, rồi thì một người gởi mạng ở đây, hai người kia sinh tâm nghi ngờ. Bèn theo thuyền về Đông, có ý muốn đến Giao chỉ, rồi lại đến Chiêm-ba, Thừa Ngộ lại chết, người Chiêm ba đến truyền tin như vậy. Điều này chưa rõ thật hư, nhưng Thừa Như nói muốn quay về quê cũ. Dù không có kết quả đích thực nhưng vẫn khen ngợi các đức tốt đẹp của Ngài, vì sao đi ba mà chỉ còn lại một.
Ngài là người Lễ châu, thuở nhỏ đã nhiễm pháp môn, lớn lên lại tiết kiệm, có ý tiết chế lòng tham muốn nên lấy việc khất thực làm nhiệm vụ. Muốn lễ thánh tích nên mong đến Vương thành. Ngài thường than rằng Đức Phụ Thích-ca mình đã không gặp, ngài Từ Thị ở cung trời phải khắc vào tâm ta, vốn chẳng thấy được chân dung ở cây giác thì phải chiêm lễ thắng tích ở sông Tường.
Đâu thể thâu tính ở sáu cảnh, khát tưởng ở ba kỳ ư? Lúc bấy giờ, vào niên hiệu Vĩnh Thuần năm thứ hai ngài chấn tích về Nam Hải, kết bạn với các lữ khách rất đông. Nhưng đến nơi thì chỉ còn một mình tiến bước. Thế rồi Sư đem kinh tượng theo sứ trên đường về. Thuyền đi hơn một tháng thì đến châu Thi-la-phật-thệ, dừng lại đó cũng nhiều năm, thông hiểu ngôn ngữ ở Côn luân lại học Phạm Thư. Thúc liễm thân tâm rồi thọ giới cụ túc, ngài Nghĩa Tịnh gặp Sư ở đây, Sư bảo Đại luật về Trung quốc, vọng thỉnh ân trời. Ở phương Tây xa chùa, khi thấy lợi ích rộng lớn, xem thường mạng mà lại sâu xa. Lúc đó vào ngày 13 tháng 05 niên hiệu Thiên Thọ năm thứ ba Sư theo thuyền về Trường an. Nay phụ dịch Tạp Kinh Luận mười quyển, Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, bốn quyển, Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện hai quyển.
Khen rằng: tuyệt thay ấu niên, mến pháp tình vững, đã hết lòng ở Đông Hạ, lại thưa hỏi chốn Tây Thiên, rồi quay về Thần châu, hoằng pháp độ sinh, truyền bá mười pháp, tuy xả bỏ huyễn thân mà chẳng mất.
Như trên là năm mươi sáu vị
Lại nói về Quy Nam Hải Truyện có bốn thầy trò.
Luật sư Trinh Cố, tiếng Phạn là Bà-lacấp-đa, Hán dịch là Trinh Cố, là người ở Vĩnh Xuyên đất Trịnh, họ Mãnh. Mới ở độ tuổi khu ô mà đã ẩn cư trong từ môn, cho đến những năm xế bóng vẫn thệ tâm trong vườn Tuệ. Đến năm mười bốn đã trưởng thành, biết rằng quyến thuộc ở đời khó bảo toàn, mà pháp môn thì không biến diệt, bèn khởi ý niệm đi khắp thắng cảnh, thế là Ngài đến chỗ Pháp sư Viễn chùa Đẳng Từ ở Phiếm Thủy, đều hầu gần bên thầy, ý muốn được thầy chỉ dạy cương yếu kinh điển và đọc tụng Đại thừa, cho đến lúc Sư ba mươi hai tuổi thì lên đường du hóa. Sau đó, đến các chùa ở xứ Tương châu như Lâm Lự để tìm thầy học đạo. Muốn để tâm hết vào thiền học, tự nghĩ giáo kiểm chưa trọn, khó phân biệt được lẽ chân ngụy, cho nên Sư lên đường về Đông Ngụy nghiên tầm Duy thức, rồi lại đến An châu chỗ Thiền sư Đại Du tử học Phương Đẳng, chưa đầy mấy tuần thì tường mầu hiện tiền, rồi lại đến Tương châu, đi khắp núi sông, tìm thiện tri thức, mong học những điều chưa hay biết. Rồi lại đến Tương châu gặp Thiền sư Thiện Đạo thọ đà thắng hạnh Di-đà. Lúc bấy giờ muốn vứt bỏ thân này ở uế độ, ngộ theo chốn rừng thơm An Dưỡng.
Lại nghĩ chỉ mình ta an mà thương cho hạnh Đại sĩ, do thức biến ra đâu chẳng phải Tịnh độ. Bèn đến chỗ Thiền sư Trừng chùa Khôi giác ở Hiện sơn, mong Ngài dạy nửa chữ để hiểu được lời hoàn khí. Thiền sư liền tinh nghiên luật điển, đảm nhiệm lời căn dặn về năm đức của Thế Tôn dồi mài kinh luận, phải giữ gìn bốn y cho đời sau, thiền định sâu dày, tắm nước tám giải được thấm nhuần, huơ gươm tuệ tận núi cao, hành sáu độ được thông thạo, chẳng lẫn với năm trần, chín não chẳng nhiễu, ngoài thoát bốn dòng, trong lắng ba định, pháp tục kính phục, tôn làm bậc thượng thủ, rất mong được luận chỉ, gọi về Thần độ, ở chùa Đông nước Ngụy thuộc số người học rộng. Lúc ấy, Sư trên hai mươi tuổi, thọ giới cụ túc với Thiền sư. Mới trải qua một thời gian đã thông đạt yếu cương giới luật. lại về chỗ Luật sư Tú An châu ba năm tận tâm học văn sao của Luật sư Đạo Tuyên, có thể gọi là Vấn tuyệt Ô-ba-ly. Tóm thâu các cường yếu trong năm chương, thọ giai tỳ xá nữ, thấy suốt các then chốt của bảy tụ. Luật dạy năm hạ được đi các nơi, chưa đủ tuổi mà đã sớm khế hội, mười hạ lìa y chỉ, chưa trọn tuổi mà đã tài năng. Luật sư Tú ở quận Thục được tôn là bậc Thượng túc của Luật sư, khi ngài thọ giới túc vẫn ở Thục Xuyên. Ngài học luật với Hòa-thượng bốn năm, sau đó đến Trường an, chỗ luật sư Đạo Tuyên để y chỉ, để tâm trong bình sữa. Nếu ẩm nga thì khéo biết tinh, thô, tận bình nước trí, bằng với diệu trì của hoan hỷ, lần lượt trải qua mười sáu năm không lìa hàm trượng, nghiên cứu tận cùng các bộ, tìm hiểu các triết gia, xếp các sớ của Luật sư thành tông bổn, sau đó từ giã Tam dương đến Bát thủy, rồi lại về Hoàng châu báo ân đối với người đã sinh ra mình. Sau đến An châu mở mang luật giáo, Thứ sử của các vua đều tôn kính vâng mệnh Sư cho nên luật nói: nếu có Luật sư ở chung với mình thì chẳng khác ở chùa Thập lực, lúc đó trên bảy mươi tuổi Sư mới thị tịch, giới hạnh thanh bạch, tai mắt minh mẫn. Ô hô! Thời đại có người là cột trụ, là mặt trời Phật. Nối tiếp chẳng dứt, nối gót kế truyền. Quả thật đáng gọi là châu báu đất Hán, ngọc quý xứ thần linh, quy ở Xuyên khác mà cùng my, cành quế nhánh lan dẫu khác tiết mà vẫn cùng hương thơm. Luật sư Cố đã thông đạt luật điển, lại tinh tường kinh luận. Lại còn tụng Pháp Hoa, Duy ma một ngàn biến, tám tâm nối tiếp, niệm niệm hằng giữ. Ba nghiệp theo nhau, bốn nghi không thiếu, lại đến Tương châu ở chỗ Hòa-thượng, nghe lại Tôđát-la, tìm hiểu Đối Pháp tạng. Lại thông chỗ sâu kín tiết nhặt y châu, ngôi thành hóa hiện là nơi dừng nghỉ, cuối cùng phải đến đảo châu báu, cho nên sự rời Tương châu đến Lô sơn, kính mến sự thanh thoát của bậc thượng đức, ở lại Đông lâm để nêu chí. Sau đó Sư có ý muốn đến châu Sư tử, đảnh lễ răng Phật, chiêm bái các thánh tích. Vào những năm tuổi về chiều Sư bèn dời về Quế lâm đi khắp pháp đồ thỉnh Sư khai thị luật học. Lúc ấy thuộc đời Đại Đường, thánh chủ thiên hạ là phải đặt ở thầy, các nơi, rồi dần đến những chốn hang động thanh vắng, đồng chuyên phó cảm. Sau đó, đến Quảng phủ ở Phiên Vạn. Muốn khiến mặt trời trí tuệ sáng thêm, thuyền pháp dài hơn mà uy nghi chính là luật. Sư cũng được chúng tôn kính và thỉnh dạy.
Sư giảng Tỳ-nại-da ở đạo tràng Tam tạng suốt trong chín hạ, cuối cùng hoàn thành bảy thiên. Sư khéo giáo dưỡng pháp đồ, giỏi khuyến khích người đời. Bấy giờ, chùa chế Chỉ cung thỉnh xà-lê, mỗi lần ở pháp tòa đích thân khuyến khích. Có thể nói một cách chân thật là khéo dẫn dắt cứu giúp cùng khắp quên đi sự lao nhọc, xà-lê là đồng chân xuất gia, hạnh cao cả tinh tiết, hơn bảy mươi tuổi mà luôn kính Năm thiên, người có phước sẽ gặp bậc thượng trí, quả thật chính là ao thiền mênh mông dẫn ra biển pháp, lại cùng chung sóng mòi. Non tưởng vời vợi, núi tuệ chót vót, thấu hiểu góc huyễn, khéo ngộ nguồn tâm. Tuy thông suốt các pháp thê vốn không nhưng công dụng lợi sinh phải chứa nhóm phước hữu vi, làm bến đò vô thượng. Nên thường viết tạng kinh, hay rộng lòng bố thí. Quả thật cũng là người mà tất cả đều biết, ứng vật cảm sinh, khuyến khích mọi người để tâm vào tạng luật. Luật sư Cố ở cùng khắp mà lại muốn đến Giáp sơn, ngõ hầu nương dưới rừng thông, rốt cuộc gởi chí chốn sâu xa. Chủ chùa Mông khiêm rất trọng tân khách, chủ chùa chính là bậc đạo cao nên hiểu biết rộng, thể bao gồm sự nhân đức. Cùng kết bạn bốn biển, chẳng hề ba triều, khuất mình tôn người dùng tâm khiêm hạ là chính. Luật sư Cố muốn dứt tưởng ở sơn môn, có hoài bão muốn tạo một hành lang thắng tắp suốt đường vượt bậc chánh tà phương tiện tạo ra núi sông, hy vọng đong tám giải trong xanh, bên cạnh mở ra cảnh giới mong muốn mở mang phương quy vào bảy nhóm, lại muốn ở mặt sau giới tràng tạo một thiền khám, lập đạo tràng Phương Đẳng tu Tam-muội Pháp Hoa. Công tuy chưa hoàn mãn nhưng lòng đã quyết, nghi quỹ đã ban bố, cương mục đã hưng long, lại thường than rằng: trước không gặp cha lành, sau chưa thấy Từ tôn, ở đời sau biết làm sao khởi hạnh, đã chìm trong vực không hữu, lại trù trừ ở cửa đa sư, ngài Nghĩa Tịnh ở cửa sông Phậtthệ lên thuyền mang sách về Quảng châu. Ngài tìm giấy đen để viết kinh Phạm, đồng thời mướn người viết. Lúc ấy, người đi buôn gặp gió thuận liền căng buồm nhổ neo đến tìm chỗ ở nhưng hết lối. Điều đó đủ biết do tài năng tô điểm chẳng phải do người mưu tính như thế, rồi vào ngày 20 tháng 07 niên hiệu Vĩnh Xương niên hiệu Ngài đến Quảng Phủ, gặp lại đạo tục. Lúc ấy, chúng ở chùa Chế Chỉ khen rằng: bổn hạnh đi Tây đã được hoàn mãn về ở Nam hải bổn kinh vẫn thiếu. Tam tạng mà Sư đem về hơn năm mười muôn bài, đều ở Phật-thệ, cuối cùng phải trở qua mới đó đã hơn ba mươi năm. Năm tháng trôi mãi, thời gian không ngừng, thành thân xác khó giữ, giọt sương mai bỗng chốc không biết rơi về đâu. Kinh điển đã là yếu môn, ai có khả năng cùng đến đó đem về. Tùy theo các kinh sách được dịch, tùy theo điều lãnh thọ phải có người này, chúng đều bảo rằng: cách đây không xa có vị tăng hiệu là Trinh Cố, nghiên tầm luật giáo đã lâu, chứa nhóm sự tinh thành rất sớm, phải tìm được người như vậy kể hết bạn pháp. Tôi mới nghe lời này dường như nhã hợp cầu tâm. Thế là tôi trang bị đủ hành lý lên đường. Luật sư Cố mở ra xem thử liền có ý đi chung. Thí như người tài giỏi ở Liêu thành bắn một phát, hạ được ba tướng, một bài kệ nhỏ của Tuyết Sơn thôi thúc chí sâu của Đại Ẩn, Sư liền đến các nơi thanh vắng chốn tùng lâm, chặt cánh tay trước động đá, vén y trong chùa Chế Chỉ, vừa khỏi niệm thì liền hợp ý với lòng thương vật, khi vừa cúi lạy thì đã khế hợp với hoài vọng ngày xưa. Tuy lúc bình thường chưa gặp mặt nhưng quả thật thầm hợp với nguyện xưa, cùng bên nhau thâu đêm luận bàn hành sự, Luật sư Cố đáp rằng: Đạo muốn hợp chẳng thể trung gian mà phải tự thân, thời sắp đến mà cầu ngưỡng thì không thể, ngưỡng mong cùng nhau mơ mang ba tạng, giúp một ngọn đuốc thành nghìn đèn. Thế rồi Sư trở lại Giáp Sơn nói lời chia tay với chủ chùa Khiêm. Chủ chùa vẫn tùy cơ mà làm, không hề lưu luyến. Sư kể sự cảm hoài đều giúp cho sự tùy hỷ, không nghĩ đến việc thiếu thốn của mình, chỉ chuyên tâm giúp ích cho người. Đó là tư lương để khiến không thiếu hụt. Khi đến Quảng phủ thì tăng ni, Cư sĩ cúng dường phẩm vật cho Sư. Vào ngày 01 tháng 11 năm đó Sư theo thuyền đến phiền vạn lên thuyền về Chiêm-ba rồi tiến thẳng đến Phật-thệ, xây nấc thang để nuôi dưỡng, chứa đựng sinh linh, vì muốn làm mũi thuyền giữa biển. Tình yêu con người được thuận duyên, ngõ hầu không phế bỏ ở đường dài, lúc đó Sư bốn mươi tuổi.
Khen rằng: Bậc thí gieo nghiệp, vốn từ nhân trước, tuổi thơ tâm hồn nhiên, chỉ có phước báo làm thân, chí cầu người hơn mình, ý nương những bậc trí tuệ nhân từ, chẳng phải hương thơm trong việc lợi thì chắc thật yêu những thứ quý báu, thọ trì diệu điển, trinh minh cố ý, đại thiện đôn tâm, lỗi nhỏ đã hết lòng có tâm thoát đục, không cầu vinh hoa. Nếu ở trong thời chẳng thiếu một sợi lông. Cùng vượt Tận định thì chẳng phí chút hương sắc, giả từ bể vinh hoa, độc hành trên Hán âm tìm bậc hiền triết làm nghĩa vụ. Tìm hiểu luật giáo, hiểu hết cương lĩnh, càng đi vào chỗ sâu kín. Rất muốn đến chỗ cây giác, bèn nương lê ở Quế Lâm, thoải lòng nơi hang Giáp, đắc chí chốn Quảng xuyên. Sau đó tìm hết những văn xưa ở Đông Hạ, rồi lại muốn thỉnh tân giáo ở Nam thuyên, hy vọng mở mang những điều chưa khai mở, truyền bá những pháp chưa được truyền. Đáng mừng thay, người tráng sĩ này, có thể quên mình vì người, vì muốn tìm bạn tốt mà lặn lội đến Kim châu, khéo giữ gìn giới hạnh, tìm bạn tốt là để nâng đỡ nhau, dìu dắt lẫn nhau, chỉ mong đạt được nguyện vọng truyền đăng, cũng không thẹn sinh ra vào thời đại muộn màng, đã đến Phật-thệ thì khế hợp nguyện xưa, được nghe các pháp chưa nghe, được xem những cảnh chưa thấy. Hễ dịch được bao nhiêu thì thọ trì bấy nhiêu, thấu suốt sự thông bít, mới thấy mới biết, tỏ tường việc khai chế, học rộng hiểu sâu, thường khuyến khích người sơ tâm, lòng thường khiêm cung, chẳng sợ số chết, chỉ ngại chúng nhiều thì sự việc loạn, bèn tìm nơi vắng vẻ để giúp nhau. Dù một ngọn đuốc cũng thuận gió thì đến như nghìn ngọn đèn cũng chẳng bằng được.
Lại nữa, Sư có một người đệ tử họ Mạnh, tiếng Phạm là Tăng-già-Đề-bà, tổ tiên Sư vốn ở miền Bắc. Vì việc quan nên đến ở Lĩnh ngoại, vợ con Sư ở Quảng phủ, Sư có tâm mến pháp nên bỏ nhà tìm thầy học đạo. Mặc dù tuổi mới trưởng thành nhưng chí nguyện muốn đi khắp nơi mở mang Phật pháp, tham kiến sư chủ, có ý, hoằng pháp tâm liền theo hạnh, từ giã cha mẹ, lưu lạc trên biển đến nước Phật-thệ, hiểu tiếng Côn luân, lại học Phạm thư, đọc hệ luận câu xá. Tuy nhờ vào Nhất lạp mà mong mỏi ở nghìn dặm, thường siêng năng suy nghĩ chín chắn, hy vọng nương theo dấu mà sinh cỏ non, còn làm thị giả để cống hiến cho sự nghiệp phiên dịch, thọ bảy mươi tuổi.
Tiếng Phạm là Phật-đà-Đề-bà (đời Đường dịch là Giác Thiên) là người xứ Ung Khâu ở Biện châu, họ Cận, cha Sư vốn làm người đi buôn nên về phương Nam, đi mãi đến Tam giang rồi vượt qua Ngũ lãnh. Sau đó đến Thiều bộ rồi đến Giáp sơn, nhìn thấy vẻ thanh hư của hang động, ngắm nhìn cảnh vắng lặng của sông nước. Gặp thiện tri thức khoác áo nâu sông. Bấy giờ, Đạo Hoằng tuổi còn nhỏ, đảm nhiệm gia phong nên phiêu bạt đó đây, theo thầy đến Quế lâm để định tưởng, sang U quyền để lắng tâm. Cha là Thiền sư Đại Cảm nên Sư bèn đến chỗ Thiền sư tịch học, bí tâm quan, trải qua thời gian không lâu lại thông thạo nghĩa yếu, Sư trở về Giáp cốc. Đạo Hoằng theo cha cũng xuất gia luôn. Khi năm lên hai mươi tuổi được thọ giới cụ túc, qua lại Quảng phủ, ra vào Sơn môn. Tuy tuổi tác chưa cao mà chí khí cao khiết. Khi nghe ngài Nghĩa Tịnh đến phó hội ở đạo tràng Trạng nghiêm, hỏi thăm thì biết chỗ Sư ở là Chế Chỉ, vừa đến kính lễ thì biết đã khế hợp với tâm hạnh. Lại nghĩ đến bền bờ sinh tử quả thật không luận đến tánh mạng, nghe nói ngọn sóng ngút trời, xem như ao nhỏ, nhìn thấy cá hình nằm ngang giữa biển, cứ cho nó đồng như lươn trạch, muốn tìm đến nơi xa xăm nói lời từ biệt với sơn đình, cùng về Phủ hạ với sư Trinh Cố. Sau đó trọn chí ở Nam hải, rồi cùng nhau đến Kim châu sao chép Ba tạng, công đức bao trùm cả ngàn năm, căn trí sáng suốt, bẩm tánh ôn hòa, rất khéo thảo lệ, lại thông thạo Lão Trang. Thể hội được thiên hoang đường của Tề vật, biết được thuyết vu vơ của chỉ mã, không nhờ sông mà qua được, lâm vào cảnh đáng sợ mà khéo ứng biến, tuy công phu chưa hợp với di chiếu nhưng cuối cùng có đức của người xuất chúng, người xuất chúng đâu nói gì việc cầu pháp quên thân, không nói vui mà thực sự được vui, không hề gần gũi mà trở nên gần gũi. Hy vọng tất cả sinh linh cũng giống như mình, đâu như con chó Tài Sô mà hành nhân. Khi đến Phật-thệ thì dốc lòng nghiên cứu luật tạng. Hễ được dịch bao nhiêu thì ghi bấy nhiêu, truyền đăng làm kỳ vọng. Trau dồi làm cho hạt ngọc quý rực bóng, cầu sự viên thành của vắng lặng.
Bỏ bao chướng nạn ở bờ sinh, rốt cuộc sự nghiệp lớn của ta được thành tựu là nhờ vị Sư này. Lành thay người đã nhổ sạch gốc mê ở dòng sinh tử để đạt được cội phước vô lượng.
Năm đó Sư hai mươi ba tuổi.
Tiếng Phạm là Đạt-ma-Đề-bà, đời Đường dịch là Pháp Thiên. Sư là người Tương đương ở Tương châu, ở chùa Linh Tập, Sư tên là An Thật, sinh ra trong một gia đình gia giáo lễ nghi, dòng dõi nhiều đời làm quan.
Xuất gia từ thuở ấu niên siêng năng tu hành. Sau đó từ giả quê hương đến Lĩnh nam. Ngài Nghĩa Tịnh đến Phiên ngung báo cho biết hành lý. Tuy sở học chưa cao nhưng rất sâu sắc.
Ý muốn theo Ngài đến Thượng hải, đi hơn một tháng thì đến Phật-thệ, đi đến rồi cũng tu hạnh nghiệp này. Sớm tối chuyên tâm, học bí điển Nhân Minh. Sớm hôm tinh tấn nghe tông mầu của Câu-xá, chẳng bao lâu một đợt đã nghiêng, há chẳng sụp của ngọn Ba tạng đã thuần thành, phát thảo thành năm thiên, chẳng nề mệt nhọc, tánh thức thông minh. Lại nữa, chí nguyện muốn hoằng pháp, sao chép luôn không biết mệt mỏi, khất thực để nuôi thân, và chỉ có ba y bên mình. Vai trần chân đất, tôn tu thượng nghi. Tuy chưa thành giác lập nhưng rốt cuộc có công nang chùy. Nói về bạn bè đồ chúng ai cũng muốn mong mỏi niềm vui cho riêng mình nhưng với Sư thì chuyên tâm ở việc lợi sinh làm vui. Kính cẩn đâu mới chuyên tâm ở lý mầu. Nếu phát triển rộng rãi lòng thương người thì mong sáng tỏ ở Từ thị, lúc ấy Sư hai mươi tư tuổi.
Bốn người cùng đi với nhau như ngài Trinh Cố, v.v… sau đó, theo thuyền cùng đến Phật-thệ, học kinh ba năm, Phạm Hán dần thông, Pháp Lăng phải trở về nước Ha-lăng, ở đó một mùa hạ mắc bệnh rồi qua đời. Tiếc thay sự nghiệp tu hành, tiếc ở Phật-thệ không trở về thiền ngộ, chỉ có Trinh Cố, Đạo Hoằng đi với nhau trở về Quảng phủ, vị nào cũng ở đó một thời gian khá lâu. Ngài Trinh Cố giảng bảy luật giáo ở đạo tràng Tam Tạng, chưa đầy ba năm thì bị bệnh rồi mất. Đạo Hoằng một mình trở về Lĩnh Nam. Than ôi! Bốn người cũng phiêu bạc trên sóng nước, cố gắng tha thiết muốn thắp ngọn đuốc pháp nhưng ai ngờ nghiệp lực lại ngắn, thường bị trở ngại sự đi ở, mỗi lần nhớ đến thương xót khôn cùng. Điều đó đủ biết như kỳ lân khó thành mà hiểm mệnh dễ mất. Tất cả ruộng phước đều ban bố, pháp hội đầu tiên của Long hoa cùng thoát khỏi trần lao.