TẠP TẠNG
SỐ 2067 - TRUYỆN NÓI VỀ VIỆC MỞ RỘNG VÀ KHEN NGỢI KINH PHÁP HOA
Sa-môn Lam Cốc Tuệ Tường soạn.
SỐ 2067 - TRUYỆN NÓI VỀ VIỆC MỞ RỘNG VÀ KHEN NGỢI KINH PHÁP HOA
* Thái Tổ Hậu Ngụy vẽ họa đồ núi Kỳ-xà-quật.
* Khảo xét bản đồ Kỳ hoàn có ghi rằng:
Kinh Chánh Pháp Hoa, mười quyển.
Phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Kệ tụng lại trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Phẩm Dược Thảo Dụ Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thêm năm trang các bài chú.
Tử Bộc Xạ tống Quốc Công Tiêu Vũ.
PHỤ LỤC BÀI TỰA SỚ KINH PHÁP HOA CỦA NGÀI THIÊN THAI.
Trong bản châu bảo tháp ở Chùa Kỳ-hoàn thuộc tây vực nói kinh tượng này.
- Ở Tây vực trước kia từng nói pháp và tượng vàng
- Núi Linh Thứu ở Tây vực nói kinh và tượng này
- Thích Huệ Hào đời Tống vẽ núi Linh Thứu
- Phu nhân Tấn Ân xây đài Pháp Hoa.
- Tạ Tiệp Dư đời Tống xây chùa Pháp Hoa.
- Thái thường Khanh Trịnh Quỳnh đời Hậu Ngụy xây giảng đường Pháp Hoa.
- Thích Tuệ Lực đời Tấn xây tháp Đa Bảo.
- Lưu Phật Ai đời Tống xây chùa Đa Bảo, tháp Đa Bảo
- Xá nhân Từ Nghiêm đời Tề xây tháp đá Đa Bảo.
- Thích Pháp Thành chùa Chân ngộ đời Đường tạo tháp Đa bào, Pháp Hoa và đài Pháp Hoa.
- Quốc tử Tế tửu Tiêu Cảnh đời Đường xây tháp Đa Bảo.
- Thái hậu Lộ Chiêu đời Tống đúc tượng Phổ Hiền.
- Thích Đạo Uông đời Tống lập đàn Phổ Hiền.
- Thích Tăng Bao đời Tống lập trai đàn Phổ Hiền.
Tầng trên của lầu đông trước điện Phật, có pho tượng bằng bạc, giữa tượng có lầu quán bảy báu, trong lầu quán có ao báu, hoa báu. Trên hoa có tượng bạch ngọc. Trong đóa sen trong ao có tháp bạc, ở giữa tháp có tháp châu báu, trong tháp có hai tượng Thích-ca và Đa Bảo, thuyết hội thứ bảy của kinh Pháp Hoa.
Lại nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sự đồng với Hoa Nghiêm, được nói trong hội Bát-nhã-đa nhưng bổn đã dịch thời nay tương đương với hội thứ ba.
Lại nói: Năm tầng bốn đài của hai lớp điện.
Tầng trên có châu phệ-ma-ni, hạt châu này ở thời quá khứ chư Phật có nói Pháp Hoa trong đó, ba biến Tịnh độ hiện đủ trong kinh.
Ở nước Ma-kiệt-đà Trung Thiên-trúc phía đông sông Hằng có tòa thành cũ, chu vi hơn bảy mươi dặm, từ lâu đã hoang phế, vẫn còn nền móng. Vào thời con người thọ vô lượng tuổi tòa thành ấy tên là Câu-tô-ma-bổtu-la, đời Đường dịch là cung thành Hương hoa. Đến thời tuổi thọ con người mấy nghìn, lại gọi là thành Ba-thác-ly-tử, chính là Baliên-phất-ba. Cách thành này về phía Tây nam hơn bốn trăm dặm, vượt qua sông Bani-liên-thiền, đến thành Già-da. Hơn hai mươi dặm về phía Tây nam của thành này là đến cội Bồ-đề, tòa Kim Cương, v.v…, phía đông cội Bồ-đề qua con sông lớn vào đồng hoang Đại lâm, đi hơn một trăm dặm về phía Đông bắc của ngọn núi này thì đến núi kê Túc, từ núi kê Túc đi hơn trăm dặm về phía Đông bắc thì đến Đại sơn. Từ Đại Sơn đi về phía Đông hơn sáu mươi dặm đến cung thành Thượng mao, thành này nằm giữa nước Makiệt-đà, cho nên nó là kinh đô của các bậc Tiên vương. Phần nhiều phát ra mùi hương Mao cho nên lấy đó gọi tên. Xung quanh núi Sùng là vùng ngoại ô, phía Tây giáp với đường tắt, phía bắc là cửa núi. Chu vi hơn một trăm tám mươi dặm, là rừng cây sum suê, đều có màu vàng. Ban đầu vua Tần Bàsa-la đóng đô ở đây, dân chúng sống trong thành thường gặp hỏa tai, nên họ oán thán, không thể ở yên. Do đó vua ra lệnh trong nước nếu ai không cẩn thận thì đưa họ vào rừng lạnh, rừng lạnh chính là chỗ bỏ xác chết. Người đời thường gọi đó là nơi chẳng lành, chẳng bao lâu thì trong cung vua bị hỏa hoạn trước, vua bảo các quan: "Phải dời đô thôi", bèn sai Thái tử đi xem xét trong nước, đích thân vua ra Mao thành về phía Tây bắc chừng bốn năm dặm, đóng quân ở đó. Bấy giờ, vua Phệ-xá-ly nghe vua Tần-bà-sa-la đi ra ở ngoài rừng lạnh, ông bèn triệu tập binh lính muốn giao chiến nhưng rốt cuộc không thành. Cận thần tâu lên, vua bèn cho xây thành ấp, vì trước vua ở nơi này, nên gọi là thành Vương xá. Quan lại dân chúng đều dời về ở đây. Có thuyết nói là do vua Xà-thế lập, đến vua Vô-ưu dời đô về Ba-phệ-xá, cúng thành Vương xá cho Bà-la-môn. Nay trong thành này không còn dân chúng, chỉ còn gần một ngàn nhà Bà-la-môn mà thôi. Phía Đông bắc của Mao thành khoảng bốn mươi lăm dặm là đến núi Kỳ-xà-quật, đời Đường dịch là Thứu Đầu, cũng dịch là Thứu Phong. Tiếp về phía Bắc nổi lên một ngọn, chim thứu ở đó, giống như một cái đài cao, bầu trời xanh trong rực rỡ, đậm nhạt rõ rệt. Như Lai ngự ở đời, suốt năm mươi năm phần nhiều ở ngọn núi này, nói rộng pháp mầu, tức là chỗ nói kinh này. Cho nên Phật nói kinh thường ở núi Linh Thứu và các trụ xứ khác. Lúc Phật ở đời, vua Tần-bà-sa-la vì muốn nghe pháp nên phát động dân chúng từ chân núi đến đỉnh núi, vượt hang leo núi, xếp đá làm thềm ba cấp, rộng hơn mười bước, dài năm sáu dặm. Giữa đường có hai ngôi tháp nhỏ, một gọi là hạ thừa, tức là vua từ đây tiến lên, một gọi là thối phàm, tức gọi tắt là người phàm, không được đi chung. Trên đỉnh núi chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, giáp ranh với sườn núi phía Tây hiện có ngôi nhà xây dựng cao rộng, phía Đông có cửa Như Lai thuở xưa nói pháp trong đó, nay làm một pho tượng nói pháp, kích cỡ bằng thân Phật, Sa-môn Huyền Trang đời Đường, họ Trần người ở Lạc Dương xuất gia từ thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, là bậc thầy tài giỏi, thấu tột chân thuyên, cho rằng người leo lên cây thì biết rõ được chiều cao của nó, người lội qua sông thì biết sự cạn sâu của nó. Thế rồi, Sư xả thân ở Tây Vực xa thẳm, đặt chí trong diệu lý u huyền, vào niên hiệu Trinh Quán năm đầu ngài bắt đầu đi về phía Tây, cả đi lẫn về mười bảy năm, các kinh luận Sư thỉnh được ghi đủ trong biệt ký. Ở nước Trung Thiên-trúc kia Sư thỉnh được tượng vàng toàn thân Phật đang nói kinh Pháp Hoa ở núi Linh thứu, nước Ma-kiệt-đà. Từ đế tượng lên đến hào quang cao ba thước. Sắc tướng tuyệt đỉnh, công phu tuyệt diệu, chiêm ngưỡng đảnh lể quả thật gấp bội. Sau đến ở đó, mô tả không hết.
Niên hiệu Cảnh Bình năm đầu đời Tống, Sa-môn Bạch Tuệ cao ở chùa Ngõa Quan xây chùa Linh Ẩn, có Sa-môn Thích Huệ Hào trí tuệ thông thái, tư chất tuyệt luân, bức tranh núi Linh thứu ở trong đó, kỳ diệu vô cùng, mới trông tưởng thật, cảnh chim muông trong rừng núi đó, hình dáng tám bộ trời rồng chưa triều đại nào có. Bắt đầu từ đây sau khi xây xong, cả nước đều đến tham quan. Đời sau, xây điện thờ đều lấy mẫu của Sư làm kiểu, phía Đông tây của chùa này dài ba mươi tám trượng, phía Nam bắc dài bốn mươi bốn trượng bốn thước.
+ Thái tổ Đạo Chánh Hoàng đế Thác Bạc Khuê đời Hậu Ngụy, niên hiệu Thiên Hưng năm đầu, xây một bức họa núi Kỳ-xà-quật và trang sức rất nhiều, chỗ nào cũng trọn vẹn.
+ Niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ bảy đời Tấn, phu nhân Ân của Vương Kinh Châu xây chùa Đông Thanh Viên, trong chùa xây một đài Pháp Hoa.
+ Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười lăm đời Tống, Tạ Tiệp Dư ở huyện Mạt lăng xây chùa Pháp Hoa.
+ Cung hầu Trịnh Quỳnh, Thái Thường khanh đời hậu ngụy cất chùa Tịnh vực, xây giảng đường Pháp Hoa.
+ Niên hiệu Hưng Minh năm thứ hai đời Tấn, Sa-môn Tuệ Lực ở chùa Ngõa quan xây một ngôi tháp Đa bảo bằng đá.
+ Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ năm đời Tống có người ở Bành thành tên là Lưu Phật Ái xây chùa Đa bảo và một ngôi tháp Đa bảo ở Kiến Khang.
+ Niên hiệu Kiến Nguyên năm đầu đời nhà Tề, Thứ sử Hồ Hài Chi ở Dự châu xây chùa Pháp âm ở Chung sơn, xá nhân Từ Nghiễm Trợ xây một ngôi tháp Đa bảo.
+ Sa-môn Pháp Thành chùa Ngộ Chân núi ngọc ở lam điền đời Đường, xuất gia từ lúc nhỏ, lên núi ở cách tuyệt với đời, trì tụng kinh này cả vạn lần, y theo kinh xây một ngôi tháp Đa bảo, một giảng đường Pháp Hoa, một lâu đài Pháp Hoa. Trên đài để kinh, lễ sám xung quanh. Lại xây một thiền thất, nhập định trong đó, thật nhiều điều kỳ dị, có ghi đủ trong hậu truyện.
+ Quốc tử Tế tửu Tiêu Cảnh đời Đường, người ở Lan Lăng, là huyền tôn của vua Lương là con thứ năm của Lương Vương Vị, khi nhà Lương diệt vong, ông đến nhà Tùy, em gái làm Hoàng hậu của vua, Dương Đế. Ông sinh ra trong gia đình quý tộc và kính tin Phật pháp.
Vào niên hiệu Đại nghiệp, tự tụng kinh Pháp Hoa, y theo văn kinh khác một ngôi tháp Đa bảo bằng gỗ đàn hương, cao khoảng ba trượng và khắc một pho tượng Phật Đa bảo bằng gỗ, suốt mấy năm vẫn chưa xong, ảnh của Sư là Tử Thuyên ở nhà, sáng dậy chợt thấy trong cỏ ở trước viện có ngôi tháp bằng gỗ chiên đàn, phía dưới có một tượng Phật bằng đá nung, bức tượng được làm rất đặc biệt, dung nhan kiểu Phạm rất uy nghiêm, mắt Ngài trong suốt được làm bằng bạc, con ngươi lóng lánh như người sống, Tử Thuyên rất kinh ngạc liền về báo cho Cảnh hay, Cảnh thấy thế rất đỗi vui mừng, ông đem đó về thử đặt tháp Đa bảo lên, thì rất tương xứng. Vì làm như cũ tuy mầu gỗ ít sáng nhưng bóng tháp càng mầu nhiệm hơn. Ông thỉnh tượng Phật để vào tháp cũng vừa vặn như cũ. Tiêu Cảnh rất vui mừng và khen rằng đó là do lòng chí thành mà cảm ứng nên, Chiếc y đắp trên pho tượng này có hơn cả trăm viên xá-lợi. Con gái của Cảnh tên Ni tuổi còn nhỏ nghĩ rằng xá-lợi lấy chùy đập không bể nên thử lấy ba mươi hạt để trên đá lấy búa đập. Xá lợi văng tứ tung hoàn toàn không bể. Cô gái bèn nhặt lại chỉ được ba bốn viên, số còn lại không thấy đâu cả, chợt hoảng sợ về báo cho Tiêu Cảnh biết, ông đến chỗ ngôi tháp xem thì xá lợi vẫn như trước.
Tiêu Cảnh từ đấy ngày nào cũng tụng một biến kinh Pháp Hoa cho đến cuối đời.
Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười hai ông bị bệnh, Tiêu hậu và con cháu đến thăm, ai ông cũng bảo đốt hương và sau đó nói lời từ biệt với họ. Chỉ giữ lại người em là Tống Công Vũ và người con gái là Ny, ông bảo họ đốt nhang tụng kinh Pháp Hoa, lát sau ông bảo con gái rằng: Cha sắp đi, Bồ-tát Phổ Hiền đến đón cha ở Đông viện, con hãy qua đó rước. Cô y theo lời thì ông bảo viện này không sạch, ngài không chịu đến, ta sẽ qua đó, các ngươi ở lại mạnh khỏe, nhân đó từ biệt Vũ. Ông ngồi dậy rồi quỳ xuống chắp tay hướng thẳng về phương Tây, chốc lát ngưng thở, ông để lại di chúc là chỉ chở một chiếc xe, dùng y phục liệm, phu nhân không được tống táng, không được cúng mặn, đào huyệt để chôn quan tài. Quan quân trong triều đều khen Ngài là bậc thông ngộ, người trong cung thực hành theo lời dặn. Thuở xưa, đại sĩ Biến Cát, thần lực vô biên, hiện thân cõi voi đầu đàn chứng minh kinh Pháp Hoa. Đây có lẽ là điềm quyền ứng của Tiên Phật, hoặc là sự thùy hóa của bậc Bổ xứ, Thất địa chẳng lường, Nhị thừa không nghĩ đến được, nói về thân diệu sắc đã là bậc tỏ đạo. Tượng vẽ tinh xảo, người tin sẽ được cảm ứng. Xem hình là để thần ngộ, nhân Tích mà quán Bổn, vui mừng khi thấy tướng báu rồi dùng đó để khuyên dẫn kẻ mê.
+ Thái hậu Lộ Chiêu của Tống Sùng Hiến, gieo nhân lành từ nhiều kiếp, sánh duyên trong hoàng gia. Thuở nhỏ đã xem sự tôn quý là huyễn mộng, coi những thứ quý báu là bụi trần để tâm đến việc mở mang chánh pháp, mô tả pháp thân. Vào niên hiệu Đại Minh, năm thứ tư, bà bảo Tỳ-kheo Đàm
Tiêu chùa Bạch Mã đúc một pho tượng Phổ Hiền toàn thân cỡi voi trắng, sáu chiếc ngà trắng nhỏ, bảy chi tròn trịa, tạo vẻ hùng tráng, đúc kiểu trang nghiêm, đúc sánh với luyện đồng phết bằng gang chảy. Tướng vàng tím của Bồ-tát và hình bạc trắng sáng lóa của voi đầu đàn. Chói lọi rực rỡ, dáng như bay lên mây, quả là dấu vết quý giá của việc Phật, là chân quy của tháp miếu, nguyện rộng lớn không cùng tận, tu phước không mỏi mệt.
Đến niên hiệu Đại Minh năm thứ tám, lại xây một ngôi chùa Phổ Hiền, cực kỳ tráng lệ, dáng vẻ trang nghiêm.
* Thích Đạo Quýnh là người ở Hiếu Đào thuộc phù phong, Sư vốn họ Mã, học nghiệp thuần túy, nổi tiếng lúc còn nhỏ, ban đầu xuất gia làm đệ tử ngài Đạo Ý. Sư thích tụng Pháp Hoa, chỉ dốc lòng vào việc này. Vào tháng chín niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai, vì người lập trai đàn Phổ Hiền ở Lạc Dương, thế rồi sắp xếp dọn dẹp trong ngoài thanh tịnh, tượng trang nghiêm tốt lành, chí thành chí kính, đạo tục hơn bốn mươi người suốt trong bảy ngày, lúc đang thọ trai chợt có một người mặc áo kép quần cụt cỡi ngựa vào trước trai đường, xuống ngựa lễ Phật. Ngài nói: Thường nhân không được vào lễ, người này lên ngựa tuốt roi biến mất, rồi lại thấy ánh sáng đỏ lóe trên hư không phút chốc bỗng tắt mất. Tháng 12, năm Nguyên Gia thứ 3, trong đêm sắp hoàn mãn ở trong một ngôi nhà của Cư sĩ, ngài lại lập một trai đàn Phổ Hiền, đêm sắp xong có hai vị Sa-môn ăn mặc như người đời đi thẳng vào lễ Phật. Chúng tăng cho là dung tăng (tăng tầm thường) không chịu tiếp đón, hỏi qua loa về quê quán. Vị ấy đáp: ở trước thôn này, lúc ấy trong sớ những người tại gia như Trương Đạo biết rõ nên rất kính phục, dốc lòng lễ bái, vị Sa-môn ra khỏi cửa đi chừng mấy mươi bước thì chợt bay thẳng lên hư không, tìm hiểu vị tăng này chẳng biết lai lịch.
Sau đó, Sư cùng với bốn người bạn học đi về phương Nam, đến Lạc dương, xem xét phong tục trong đêm lên thuyền qua sông, giữa sông thuyền vỡ, ba người chìm xuống sông chết. Sư trở về chí thành niệm Quán Âm, chợt tỉnh thấy dưới chân có một vật tự trồi lên rồi thấy ánh sáng đỏ hiện phía trước, Sư theo ánh áng ấy bơi lên bờ. Sư đến Nghiệp đô, ở chùa Nam Nhàn, thường lấy bát-chu tam muội làm sự nghiệp, một lần Sư ngồi thiền nửa đệm, bỗng thấy bốn người đi xe đến phòng bảo Sư lên thuyền. Trong bất giác ngài thấy mình ở giữa Thẩm Kiều thuộc Quận Lăng. Thấy một người ngồi trên chiếc giường, ở giữa đường có mấy trăm thị giả, thấy Sư đến họ ngạc nhiên đứng dậy nói: "người ngồi thiền", nhân đó nói với người xung quanh rằng: Chỉ muốn biết chỗ ở mà thôi, đâu dám phiền đến Pháp sư, thế rồi họ lễ bái và từ biệt. Hai người tiễn Sư về chùa, gõ cửa giây lát mới mở khi vào chùa thấy cửa phòng vẫn đóng, mọi người không ai đoán được việc gì. Vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi đời Tống, Sư cùng Lâm Xuyên Khang, Vương Nghĩa Khánh đến Quảng
Lăng rồi qua đời ở đó.
* Thích Tăng Bào người ở Kinh Triệu, thuở nhỏ ở Quan Trung học với ngài La-thập. Vào giữa niên hiệu Vĩnh Sơ đời Tống, Sư đến phương Bắc, rồi lần đến tịnh xá Hoành sơn. Ở đó, Sư lập trai đàn Phổ Hiền ba mươi mốt ngày, sám hối đến ngày mười bảy thì thấy một con hạc trắng bay đến đậu trước tòa Phổ Hiền, vào đó hành hương xong mới đi, đến ngày hai mươi mốt lại thấy bốn người mặc áo vàng nhiễu tháp mấy vòng rồi biến mất.
Dịch kinh Chân Ngụy, gồm mười bốn vị, chân mười, ngụy bốn. Dịch luận hai vị.
+ Ngoại Quốc thích Chánh Vô Úy đời Ngụy (kinh Pháp Hoa Tam-muội sáu quyển, cũng là một bổn thêm chữ Chánh).
+ Thích Trúc Pháp Hộ ở Đôn Hoàng, đời Tấn (kinh Thánh Pháp Hoa, mười quyển, cũng giải thích riêng phẩm Phổ Môn trong kinh Quán Thế Âm).
+ Thích Ha Chi ở Tây Vực đời Đông Tấn (kinh phẩm Phổ Môn).
+ Thích Chi Đạo Căn đời Đông Tấn (Kinh Phương Đẳng Pháp Hoa, năm quyển). + Thích Đồng Thọ ở Thiên Trúc đời Ngụy Tần (kinh Diệu Pháp Liên Hoa một bộ bảy quyển).
+ Thích Trí Nghiêm ở Cảnh Châu đời Tống (kinh Pháp Hoa Tam-muội một quyển).
+ Em của Hà Tây vương kinh Thanh ở Bắc Lương đời Tống (kinh Quán Thế Âm).
+ Thích Pháp Hiến chùa Thượng Lâm đời Tề (Đề-Bà-Đạt-Đa phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa).
+ Thích Đức Chí ở Tây Vực đời Tùy, kệ trùng tụng trong Phổ Môn phẩm, Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
+ Thích Pháp Mật ở Tây Vực đời Đường (Dược Thảo Dụ Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa kinh, thêm năm tờ các Chú đều khác).
+ Cánh Lăng vương Tiêu Tử Lương đời Tề (Sao Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Sao Pháp Hoa Dược vương kinh).
+ Con gái của Đại học Bác sĩ Giang Bật đời Lương (một quyển kinh Pháp Hoa).
Hai kinh dưới đây chẳng phải chánh kinh.
+ Hai bản cũ mất tên người dịch (Pháp Hoa Quang Thụy Bồ-Tát Hiện Thọ Kinh).
+ Phí Trường Phòng đời Tùy Chú thích Ngụy Kinh (Diệu Pháp Liên Hoa Độ Lượng Thiên Địa kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Biến Dị Kinh).
Hai kinh trên đây nghi là ngụy.
+ Sa-Môn Đạo Hy người Tây Vực đời Hậu Ngụy (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh luận, hai quyển).
+ Sa-Môn Bảo Ý người Trung Thiên Trúc đời Hậu Ngụy (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh luận, một quyển).
-Pháp Hoa Tam-muội, sáu quyển (một quyển thêm chữ Chánh). Sa-môn ngoại quốc Chi Cương Lương Tiếp, đời Ngụy dịch là chính vô úy. Vào tháng 07 niên hiệu Cam Lộ năm đầu, Khanh Công Thế Ngụy Cao Quý, Sư ở Giao châu dịch, Sa-môn Đạo Hinh ghi chép, không có biệt quảng truyện, kinh mục như vậy.
* Sa-môn Trúc Đàm-ma-la-sát, Hán dịch là Pháp Hộ, tổ tiên của Sư là người Nguyệt Thị, Sư vốn họ Chi, nhà ở quận Đôn Hoàng. Năm lên tám xuất gia, thờ Sa-môn nước ngoài hiệu Trúc Cao Tọa làm thầy, một ngày tụng cả muôn lời kinh, đọc đến đâu nhớ đến đó, thiên tánh thuần hòa, bản chất chăm chỉ, siêng năng hiếu học, muôn dặm tìm thầy, thế rồi tham khảo sáu kinh, thông thạo bảy tịch. Mặc dù sự đời có lắm chuyện khen chê nhưng Sư không hề để ý. Lúc ấy là vào thời Tấn Vũ, chùa chiền tượng đài tuy hưng thạnh ở Kinh Ấp nhưng giáo nghĩa sau này của Phương đẳng thì lại mờ nhạt. Ngài Pháp Hộ buồn bã phát giận, chí vốn muốn mở mang đạo cả, bèn theo thầy đến Tây Vực, đi qua các nước, ngôn ngữ khác nhau, ba mươi sáu loại sách nào cũng vậy, Sư đều học hết, thông suốt ngữ nghĩa trong sách cổ, âm nghĩa chữ viết loại nào cũng biết. Sư mang rất nhiều kinh Phạm trở về Trung Hạ, từ Đôn hoàng đến Trường an, dọc đường truyền dịch, viết thành văn đời Tấn, Sư dịch các bản như hiền kiếp chánh Pháp Hoa, v.v… một trăm sáu mươi lăm bộ, dốc lòng làm việc, chỉ lấy việc hoằng pháp làm sự nghiệp, trọn đời phiên dịch, không hề tỏ vẻ mệt mỏi. Kinh pháp sở dĩ được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc là nhờ công lao của Sư. Vào ngày 10 tháng 08 niên hiệu Đại Khang năm thứ bảy, đời Tây Tấn, tay Sư cầm bổn Phạm, miệng đọc hai mươi bảy phẩm kinh trước, các Ưu-bà-tắc Nhiếp Thừa Viễn, Trương Sĩ Minh Trương Trọng Cải, cùng nhau ghi chép, đến ngày mồng 2 tháng 9 mới xong.
Sa-môn Trúc Lực người Thiên-trúc, Cư sĩ Bạch Nguyên Tín nước Quy-tư cùng nhau tham khảo hiệu đính. Vào ngay mồng 06 tháng 02 niên hiệu Nguyên Gia năm đầu thì sửa lại.
Lại, vào niên hiệu Nguyên Khang năm đầu, Tôn Bá Hổ, Ngu Thế Nhã ở Trường an viết đến ngày 13 tháng 04 mới xong. Sau đó, ngài Pháp Hộ lập chùa ở ngoài Thanh môn Trường an, chuyên tinh hành đạo, lúc bấy giờ đức hóa khắp nơi, tiếng tăm vang xa tận bốn phương.
Tăng đồ cả mấy nghìn người, đều tôn sùng Sư. Lúc đó, Sư khoảng bảy mươi tám tuổi, cùng với môn đồ tị nạn xuống miền đông, đến Thằng Trì, bị bệnh rồi mất.
Kinh Phổ Môn Phẩm, kinh Quan Thế Âm, hai kinh này cũng do Sa-môn Pháp Hộ trích riêng.
Kinh Phổ Môn Phẩm Sa-môn Kỳ-đà-mật người Tây Vực thời Đông Tấn, đời Tấn cho là Ha-chi-dịch, cùng với Pháp Hộ dịch, ý này phần lớn giống nhau.
Kinh Phương Đẳng Pháp Hoa, năm quyển Sa-môn Chi Đạo Căn dịch vào niên hiệu Hàm Khang năm đầu vua Thành Đế đời Đông Tấn.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một bộ bảy quyển của Sa-môn Cưu-ma-La-thập, Hán dịch là Đồng Thọ, Sư là người Thiên-trúc. Gia thế thuộc quốc tướng, ông nội ngài Lathập là Đạt-đa, là bậc đại thần của quốc gia, cha là Cưu-ma-la-viêm có khí tiết, tránh địa vị khanh tướng để xuất gia, đi về phía đông đến Thông Lãnh. Vua nước Quy-tư nghe ông bỏ vinh hoa để xuất gia nên rất mực cung kính và yêu mến, đích thân ra khỏi thành đón rước, thỉnh về làm Quốc sư. Em gái vua lúc đó vừa hai mươi tuổi, thông minh tài giỏi. Trong cơ thể cô có nốt ruồi son, theo phép là sinh ra quý tử thông minh. Các nước tranh nhau đính hôn nhưng cô không bằng lòng, cho đến khi gặp Cưu-ma-la-viêm thì cô muốn thành thân với ông. Vua bèn ép gả cho ông, chẳng bao lâu thì mang thai ngài La-thập. Khi Sư ở trong thai, người mẹ sáng suốt lanh lợi gấp bội, nghe chùa Tước-lê có rất nhiều bậc đại đức, lại có những vị tăng đắc đạo, bà liền cùng với các nữ trong vương tộc và những vị ni đức hạnh hằng ngày thiết trai cúng dường, thưa hỏi nghe pháp. Mẹ Sư bỗng nhiên thông thạo tiếng Thiên-trúc, những lời vặn hỏi bà đều hiểu một cách thấu suốt, mọi người ai cũng khen ngợi, có vị La hán Đạt-ma-cù-sa nói: Bào thai này nhất định là trí tử, nói rằng Xá-lợi-phất khi ở thai mẹ cũng vậy. Sau khi sinh ra La-thập, lại quên đi những lời nói trước, chẳng bao lâu mẹ Sư muốn xuất gia, chuyên tâm tu đạo chứng được Sơ quả. Khi Sư lên bảy tuổi cũng xuất gia theo mẹ, theo thầy học kinh, một ngày tụng cả ngàn bài kệ, bài kệ ấy có ba mươi hai chữ, tổng cộng ba muôn hai ngàn câu. Tụng qua A-tỳ-đàm thì thầy liền chỉ bày nghĩa ấy, Sư thông suốt ngay. Bấy giờ, theo thầy đi khắp các nước, tìm học tất cả kinh giáo, vừa nghe thì lãnh thọ ngay, thấu suốt mọi góc cạnh, đồng thời nghiên cứu các kinh sách ngoại đạo. Sau đó mẹ Sư bảo rằng: Nghĩa lý sâu mầu trong Phương đẳng phải mở rộng kinh chân, truyền về phương Đông chỉ nhờ công sức của con. Thế là Sư đành từ biệt mẹ. Lúc đó vào tháng giêng niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ ba mươi vua Phù Kiên, Thái sư tâu rằng: Có một ngôi sao ở ngoài biên thùy, chắc chắn nơi đó có vị Đại đức tài ba sắp đến Trung quốc, Phù Kiên nói: Trẫm nghe ở Tây Vực có ngài Cưu-ma-lathập, bèn sai sứ đến cầu nhưng khi Sứ chưa tới nơi thì vua đã băng, cho đến tháng 09 niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ ba vua Diêu Hưng Hậu đời Tần thỉnh ngài gặp Diêu Hưng, vua đãi ngài bằng lễ của Quốc sư rất kính trọng và kính mến, dùng những lời khiêm cung để tiếp chuyện với Sư, thế là Sư ở đấy đến trọn đời, khám phá những điều bí ẩn đến tột cùng, vì sự nghiệp hoằng pháp Sư không bao giờ cảm thấy mệt mỏi. Từ đó đại pháp bao trùm cả phương Đông. Ban đầu là Hán Minh Đế, lần lượt đến Ngụy Tấn, kinh luận nhiều dần, xuất phát từ Thiên trúc phần nhiều văn tự nghĩa cách. Vua Diêu Hưng thuở nhỏ ít tôn sùng Tam Bảo, quyết chí giảng tập, khi ngài Cưu-ma-la-thập đến ở đây, ông thỉnh Sư vào ở lầu Tây Minh và vườn Tiêu dao dịch các bộ kinh. Ngài La-thập vốn thông thạo nhiều âm tụng, có thể chuyển sang tiếng Hán, âm dịch lưu loát, xem hết những bản cũ, nghĩa rất lộn xộn, điều này là do các vị tiền bối làm mất ý chí, không dính dáng tới bổn Phạm, Diêu Hưng mời Sa-môn Tăng Khế, Tăng Diên, Pháp Khâm, Đạo Lưu, Đạo Hằng, Tăng Duệ, Tăng Triệu, v.v… hơn tám trăm vị, tham vấn ý kiến ngài La-thập. Vào mùa hạ niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ hai ở đại tự Trường an, lại nhóm họp hơn hai ngàn vị Samôn nghĩa học ở bốn phương, dịch ra kinh này. Lại nữa, du nghi luận của Pháp sư Huệ Duệ nói: Chánh bản Pháp Hoa ở nước Vuđiền, phát huy rộng lớn, vụt lóe lên hư không mà được truyền đến đây. Tư Lệ hiệu úy tả tướng quân an thành Hầu Diêu Sùng, nghi vận huyền môn, muốn làm gương cho đời. Chuyên chú kinh bày để sao chép lại lưu hành đến nay. Lại nữa, Tỳ-kheo Bôi Độ chẳng biết người xứ nào ở Bành Thành nghe ngài La-thập ở Trường Am, bèn than rằng: Ta và vị này xa cách đã ba trăm năm, biền biệt chẳng hẹn ngày gặp lại, chỉ mong gặp nhau ở kiếp sau thôi. Lúc ngài La-thập chưa tịch, cảm thấy bốn đại không khỏe, Sư tụng ba biến thần chú, và bảo các vị đệ tử nước ngoài tụng theo, để tự cứu, lúc đó lại cảm thấy mệt mỏi, Sư từ biệt chúng tăng và nói: Nhờ pháp mà chúng ta gặp nhau, quả là chưa hết lòng, đành hẹn gặp kiếp sau, những lời nói trong cơn xúc động, Sư cho rằng mình mông muội, lầm lẫn trong truyền dịch, nếu những tác phẩm mình dịch không sai lầm thì xin cho sau khi hỏa táng lưỡi sẽ không hoại. Lúc đó vào ngày 20 tháng 08 niên hiệu Hoằng Thỉ năm mười một đời Ngụy Tần. Sư tịch ở Trường An, năm ấy nhằm niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ năm đời Tấn. Ở vườn Tiêu dao y theo phép tắc nước ngoài mà hỏa táng, khi củi tắt hình tan nhưng lưỡi Ngài vẫn còn nguyên.
* Kinh Pháp Hoa Tam-muội, một quyển của Sa-môn Trí Nghiêm, Sư là người châu Tây Lương, xuất gia năm hai mươi tuổi, lại nổi tiếng là người tinh tấn siêng năng, tu hành giản dị, ăn mặc thô sơ. Thường muốn tìm hiểu các bậc danh sư, tham vấn các nghĩa sâu trong kinh điển, nên sư bèn sang Tây Vực, đến nước Kế-tân, vào tinh xá Ma-thiên-đà-la bẩm thọ thiền pháp với Tỳ-kheo Phật-đàtiên, tu tập ba năm công phu vượt cả mười năm, Phật-đà-tiên thấy pháp thiền của mình có người nối nên rất yêu kính người đệ tử này.
Tăng tục ở nước kia nghe vậy rất vui mừng và khen rằng: "Đất Tần có Sa-môn cầu đạo", từ đó mới không xem thường dân Tần nữa, mà kính tiếp người phương xa này. Lúc ấy, có Tỳ-kheo Phật-đà-bạt-đà cũng là một Thiền sư nổi tiếng ở nước kia. Ngài Trí Nghiêm liền thỉnh Thiền sư về Trung quốc, vì muốn truyền pháp ở Trung thổ, Bạt-đà vui mừng vì lòng chí thành ấy nên chấp nhận lời thỉnh cầu, cả hai bèn cùng đi về Đông, rồi băng qua những đường đèo hiểm trở, đến Quan trung. Sư thường theo Bạt-đà trụ chùa lớn Trường An, một thời gian không lâu sau, Bạt-đà ngang ngược bị tăng chúng nhà Tần tẫn xuất. Tri Nghiêm cũng phân tán, về nương ở tinh xá Sơn Đông, ngồi thiền tụng kinh, siêng năng tu học. Cào niên hiệu Nghĩa Hy năm ba mươi đời Tống Vũ Đế chinh Tây sát phạt Trường An, thắng trận quay về Sơn đông, lúc bấy giờ Thỉ Hưng Công Vương Khôi, hộ giá đi khắp vùng Sơn Xuyên đến tinh xá ngài Trí Nghiêm ở. Thấy ngài ở chung với ba vị tăng, người nào cũng đang ngồi trên tòa tọa thiền miên mật, vương khôi đến một lát lâu cũng không hay, ông bèn búng ngón tay, ba người mở mắt, lát sau thì nhắm lại, không nói năng gì tới ông, trong tâm ông cảm thấy lạ lùng, bèn hỏi thăm các vị Trưởng lão, họ đều nói ba vị tăng này ẩn cư thiền định là những vị Pháp sư thanh thoát. Ông quay về tâu với Tống Vũ đến thỉnh về kinh đô, nhưng các Ngài chẳng chịu đi. Ông cố thỉnh nhiều lần nên các ngài chấp thuận, hai vị kia đi theo ngài Trí Nghiêm. Vương Khôi là người đạo hạnh sâu sắc nên được phụng sự ba ngài rất nồng hậu, ân cần. Về đến Kinh đô ở chùa Thỉ Hưng, Trí Nghiêm là người thích thanh vắng, xa lánh mọi sự trần, Vương Khôi ra ngoài vùng ngoại ô phía Đông lập một ngôi tinh xá tức là chùa Chỉ Viên.
Trí nghiêm trước trở về Tây Vực, các kinh luận mà Sư đem theo chưa dịch kịp, đến niên hiệu Nguyên Gia năm thứ tư, bèn cùng Sa-môn Bảo Đàm dịch ra các kinh trước. Trí Nghiêm là người sống giản dị thanh bần, nhận được vật gì thì cúng dường bố thí vật ấy. Thuở nhỏ đã đi khắp nơi, không mang theo vật gì, tánh vốn khiêm tốn không thích khoa trương, cho nên mặc dù nhiều hạnh tốt mà ở đời không được lưu truyền hết. Thuở Sư chưa xuất gia đã thọ năm giới mà lại khuyết phạm, sau này xuất gia thọ giới cụ túc, thường nghi mình không đắc giới, mỗi khi nghĩ đến đều lo sợ, nhiều năm thiền quán mà không thể liễu ngộ. Bèn lên thuyền vượt biển đến Thiên-trúc, tham vấn các bậc lão túc thông đạt, gặp được Tỳ-kheo La hán, trình bày hết sự nghi ngờ trước, La hán không giải trừ được mà bảo Sư nhập định lên cõi trời Đâu-suất thưa hỏi ngài Di-lặc. Ngài Di-lặc bảo là đắc giới. Trí Nghiêm vô cùng vui mừng, thế rồi quay về bằng đường bộ, đến nước Kế-tân không bệnh mà mất. Lúc ấy, Sư bảy mươi tám tuổi, theo phép của nước kia, chỗ thiêu thân của phàm thánh khác nhau. Ngài Trí Nghiêm tuy giới hạnh cao minh mà công hạnh chưa rõ nên dời thi thể Sư về phần mộ của Phàm tăng, nhưng không nhấc lên nổi bèn đổi về phía phần mộ của thánh tăng thì nhẹ như gió. Đệ tử của ngài là Trí Vũ, Trí Viễn cũng từ phương Tây đến trình bày rõ về điềm lành này. Rồi cả hai trở về nước ngoài. Từ đó suy ra ngài Trí Nghiêm quả thật là người đắc đạo.
Vào thời Tấn Hiếu đế, Bắc Lương Hà Tây vương Thư Cừ Mông Tốn có người em họ là An Dương Hầu Kinh Thanh, khi vận nhà Lương hết, bị Nguyên Ngụy tiêu diệt, Kinh Thanh vội chạy về Nam lánh nạn ở Kiến Khang, quyết chí ở lại đây suốt đời, không giao thiệp với đời, thường đi khắp chốn chùa tháp, làm một Cư sĩ thong dong, không vợ con, nhàm chán danh lợi, ung dung với các bạn pháp, giảng nói chánh pháp, vì thế đạo tục đều cung kính ông dịch ra bộ kinh này.
Sa-môn Pháp Hiến họ Từ, là người ở Diên Thủy thuộc Tây hải. Trước theo người cậu đến Lương châu mới xuất ra. Đến niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười sáu mới xuống Kinh đô, ở chùa Định lâm thượng, chuyên tâm học kinh luật, chí nghiệp mạnh mẽ, giỏi giang mọi việc. Chúng tăng bàn tính với nhau về việc sửa sang chùa viện, trước kia Sư nghe Mãnh Công từ phương Tây về kể rõ mọi điều kinh lạ, Sư muốn quên thân để được tham bái các thánh tích đó, nên vào niên hiệu Nguyên Huy năm thứ ba đời Tống, Sư lên đường đến Kim lăng, tây du Ba Thục lên đường đến Hà Nam. Đường sá ngoằn ngoèo, khi đến Vu-điền thì muốn qua Thông Lãnh, đường núi gập ghềnh hiểm trở bèn trở lại Vu-điền để quay về. Nhận được phẩm kinh này quay về, trên đường đi có nhiều việc hiểm trở đều ghi đủ trong ấy. Vào giữa niên hiệu Vĩnh Minh đời Tề Vũ Đế Sư gặp Tam tạng Pháp sư Đạt-ma-ma-đề người nước ngoài (đời Tề dịch vị này là Pháp Ý), trụ chùa Ngõa quan ở Lương châu dịch ra phẩm này. Pháp Hiến lúc bấy giờ làm Tăng chủ, vào cuối niên hiệu Kiến Vũ thì Sư thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi.
Sa-môn Xà-na-quật-đa: Đời Tùy dịch là Đức chí, Sư là người nước Bắc Hiền Đậukiền-đà-la, đời Tùy dịch là nước Hương Hành. Quật-đa có năm anh em mà Sư là con út trong gia đình, nhờ đã trồng cội đức từ nhiều kiếp, nên sớm phát đạo tâm. Từ thuở thơ ấu đã phát nguyện xuất gia. Cha mẹ hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của con mình nên không trái ý. Trong nước có ngôi chùa tên là Đại lâm, Sư bèn đến đó nương ở để mang được độ thoát. Quật-đa sau khi xuất gia hiếu kính chuyên thành, thọ học nhiều năm, chỉ quy thông quán. Năm hai mươi bảy tuổi theo thầy hoằng pháp. Vào niên hiệu Vũ Thành năm đầu, Chu Minh Đế đến Trường an trụ chùa Thảo Đường, thầy trò du hóa khi tâm nguyện đã thỏa bèn lên đàn thọ giới cụ túc. Gặp lúc Triệu vương tự là Văn Hiểm trấn thủ đất Thục lại thỉnh Sư cùng đi. Sư ở đó ba năm, làm chức Tăng chủ ở Ích Châu. Ở chùa Long Uyên, dịch ra các bài hệ trước, Sa-môn Viên Minh ghi chép, vào thời suy hoại, tượng giáo không mở mang, năm chúng bỗng chốc giống như kẻ tục, Vũ Đế lễ Sư, hạ lệnh đưa về cung ban thưởng nhiều tước lộc, bắt Sư mặc y phục nhà Nho, Sư khăng khăng giữ vững lập trường, thà chết không sợ, vua cảm mến hạnh cao khiết của Sư, thương xót mà thả về, trên đường ra khỏi Lộ châu về hướng Bắc đến Đột-quyết. Sư đấy một thời gian đến niên hiệu Khai Hoàng năm thứ năm, có khoảng trên ba mươi vị ở chùa Đại hưng Thiện, như Sa-môn Đàm Diên cũng đang phiên dịch, nhưng âm nghĩa không thông, nghe tin ngài Quật-đa ở miền Bắc bèn dâng sớ xin vua hạ chỉ thỉnh ngài về, vua chuẩn tấu, sai người đến thỉnh Quật-đa. Đường về Tây đã bặt nên Sư đành lưu lại mười năm, hiểu thấu sự đời muốn gặp lại Tam bảo, bỗng nghe tin từ xa đến thỉnh, Sư vui mừng và nguyện tiếp đơn. Thế là theo sứ về nước, bấy giờ, vua Văn Đế đang tuần hành ở Lạc Dương. Sư đến đó yết kiến, Thiên tử rất vui mừng ban thưởng và thăm hỏi nhiều việc. Khi chưa về đến Kinh đô, theo lệnh phiên dịch, Sư cùng các Sa-môn Tăng Hưu, Pháp Sán dịch ra các bộ kinh, Tùy Đằng Vương theo thọ giới pháp, kính thờ làm thầy. Vì nhiễm sự trần nên trôi giạt về phía Đông. Lại ở Âu mân, đại thanh tải lộ, thân tâm đều cứu giúp, làm lợi ích rất nhiều, đến niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười theo luật vô thường mà ra đi, lúc đó Sư khoảng bảy mươi tám tuổi.
Sa-môn Đạt-ma-cấp-đa, đời Tùy dịch là Pháp Mật là người nước Nam Hiền Đậu-lA-la, thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi. Họ Tệ-tà-cA-la, Hán dịch là Hổ Thị, gia đình có năm anh em, Sư là trưởng tử, cha mẹ lưu luyến không cho phép xuất gia, nhưng Sư rất mến một pháp môn, rất muốn ly tục. Năm hai mươi ba tuổi Sư đến miền trung Hiền Đậu mới được xuất gia. Sau khi Cấp-đa thọ giới cụ túc được ba năm bèn tìm thầy học đạo, những gì Sư học được như nhòm khe cửa, thế rồi Sư đi khắp các nước Đại Tiểu thừa, đến các chùa tăng học hỏi nên kiến thức gấp bội. Sau đó nghe tin ở đại quốc Chi-na, Tam bảo hưng thịnh nên cũng quyết tâm đi với bạn đến đây, khi đã đến Y Ngô ở lại đó một năm thì gặp nạn bèn lánh về Tây Nam, đường đi toàn sỏi đá, sa mạc, nước cỏ khan hiếm. Hai người bạn nhìn nhau nghĩ không thể bỏ mạng ở đây, cho nên tạm để các kinh luận đang mang theo, qua bên đường leo lên núi tìm nước, mong được thoát chết. Tìm đã không gặp lại thêm mệt mỏi, Sư chuyên tâm tụng chú Quán Âm. Đêm đó, mưa rơi xuống, thân tâm sảng khoái ngài bèn tìm đường cũ trở về, nhưng nhìn khắp bốn bề vẫn mờ mịt, vì đã lạc đường, tiến lùi đều khó bèn đi đại về phía trước. Đi đến Trảo châu mới biết là con đường rẽ của Bắc lộ, Cấp-đa từ xa đã kính mến Trung Hoa, nên lặn lội nhiều năm mới gặp được bạn đồng hành. Có người ở lại, có người mất tích, ngoảnh lại chỉ còn một thân đi đến xứ này. Lắng lòng suy gẫm, buồn vui lẫn lộn, nhờ ơn thánh chỉ mới vào kinh thành, ở trong ngôi chùa tiếng tăm được cúng dường nồng hậu. Lúc đó, vào tháng 10 niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười, Sư đến đây ở chưa bao lâu mà tiếng Hoa đã hơi thông. Lại vâng sắc chỉ được mời phiên dịch. Sư ở chùa Hưng Thiện cầm bổn gốc dịch qua dịch lại, sáng tỏ và rất xác thật những chỗ rườm rà. Các bộ phận Đại Tiểu thừa mà Sư đã tụng đều tinh thông chỗ then chốt, và giải thích, mở mang rộng rãi những ý chỉ sâu mầu. Những vị cựu học ở xứ này nhờ đó mà dần dần thoát khỏi mối nghi, Dương Đế định dời độ về phương Nam, càng tỏ vẻ kính trọng và tiếp đãi nồng hậu, đối với Phật pháp càng được sự tôn kính. Vua hạ chiếu xây một quán dịch kinh trong vườn Thượng lâm ở Nam tân thuộc Lạc thủy, chiêu vời những vị tài giỏi để chuyên truyền bá Phật pháp. Vua liền hạ lệnh trưng thỉnh Cấp-đa và các học sĩ chuẩn bị phiên dịch, Sa-môn Bản tông dịch thêm phẩm trước, đến Vũ Đức năm thứ hai, Sư mất ở Lạc nội.
* Sao Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
* Sao Pháp Hoa Dược Vương kinh.
Nam Tề Tư Đồ Cảnh Lăng Vương văn tuyên công tiêu tử lương, tôn sùng đạo Phật thấu đạt giáo nghĩa, chú thích kinh luận, sao lược từ, lý, đóng đường tà, mở nẻo chánh, khai rộng Nhất thừa và phát huy bảy chúng, đời gọi là Bút Hải. Lúc ấy, hiệu là Trí Sơn hoặc thông mông độc tôn, được tôn xưng là Thiên Vương, hoặc truyền bá kinh chú, truyền phép mầu của Thần độ, đức của Sư khó tả hết, phải tìm hiểu mới biết.
Sao Lược Tiền Kinh để sắp đặt thứ lớp kinh Pháp Hoa (một quyển).
Con gái của Tiến sĩ Lương Thái Học tên Giang Mật, thuở nhỏ xuất gia, hiệu là Tăng Pháp. Năm lên tám, chín có lúc nhắm mắt tĩnh tọa, đọc tụng bộ kinh trên, tăng tục xứ Dương châu đều gọi là Thần thọ, Phí Trường Phòng nói: Nghiệm trong kinh luận thì lẽ này là hiển nhiên, người này do túc duyên cảm nên chẳng liên quan đến việc thần trao. Lại y cứ theo ngoại điển, phu tử có nói sinh ra đã biết là thứ. Điều này nói về đời này khi sinh ra đã mê muộn chuyện quá khứ. Nếu không như vậy thì làm sao nói rõ được thánh hiền trong ngoài, sâu cạn ở quá khứ, hiện tại. Cho nên Cao Tăng truyện nói: Thích Đàm Đế họ Khang, tổ tiên Sư là người Khang Cư. Vào thời Hán Linh Đế dời về ở Trung quốc, vào cuối thời Hiến Đế loạn lạc, lại dời về ở Ngô Hưng. Cha ngài là Điêu, từng làm biệt giá ở Ký châu, mẹ Sư họ Hoàng, ban ngày nằm ngủ mộng thấy một vị tăng đến gọi bà là mẹ, gởi cho một cây phất trần và một tấm thiếc chắn sách. Bà Hoàng tỉnh giấc thấy hai vật vẫn còn nguyên, điều bí mật kinh lạ. Do đó mang thai và sinh ra Sư, khi Sư lên năm tuổi, mẹ lấy hai vật báu đó đưa cho Sư, Sư nói: Vật này vua Tần ban cho con.
Mẹ hỏi: Con để đâu? Đáp: Không nhớ.
Đến năm mười tuổi thì xuất gia, sở học không do thầy dạy, bản tánh tự phát ngộ. Sau đó theo cha đến phiền Đặng, bỗng gặp đạo nhân Tăng Hoạch ở Quan Trung, ngài liền gọi: Lược ơi!.
Tăng Hoạch nói: Chú nhỏ sao dám gọi tên bậc lão túc này.
Ngài Đàm Đế nói: Lúc nãy bất giác kêu như vậy là vì xưa kia ông là Sa-di đệ tử của tôi, thuở xưa ngài hái rau cho chúng tăng bị heo rừng cắn làm tổn thương, nay nhớ lại bỗng nhiên tôi gọi lớn. Tăng Hoạch đã từng làm đệ tử Pháp sư Hoằng Giác và hái rau cho chúng tăng bị heo rừng cắn làm tổn thương, nhưng Tăng Hoạch chẳng nhớ mảy may nào. Thế là ông tìm đến hỏi cha Đàm Đế, cha Sư kể rõ đầu đuôi sự việc đồng thời đưa phất trần và hai thỏi sắt. Tăng Hoạch nhận ra ngay việc này rồi khóc than: Pháp sư Hoằng Giác là Tiên sư của Lược, thầy đã từng giảng kinh Pháp Hoa cho vua Diêu Trành, bần đạo là người phụ giảng, vua Diêu Trành tặng cho thầy hai vật này, nay lại gặp nó ở đây, tính lại lúc thầy xả báo thân cũng chính là ngày gởi vật này, rồi nhớ lại lúc hái rau, ông càng buồn bã. Sau đó Đàm Đế đi học trong ngoài xem qua liền nhớ rõ. Đến lúc về già, Sư về ở chùa trên núi Hổ khâu nước Ngô, giảng lễ, dịch, Xuân Thu mỗi sách bảy lần; Pháp Hoa, Đại phẩm, Duy-ma mỗi thứ mười lăm lần, lại có tài văn chương, nên gom lại sáu quyển, vẫn còn lưu hành ở đời. Sư tịch năm sáu mươi tuổi, vào niên hiệu Nguyên Gia năm cuối đời Tống, Phí Trường Phòng nói:
Tăng Hoạch là đệ tử của Pháp sư Hoằng Giác, thầy trò đều lỗi lạc, tiếng tăm vang cả hai đời, Tần vật của ngài chỉ có ba y, cũng đâu ngại hạn chỉ có vật chắn sách và phất trần, gửi lại kỷ vật xưa, cho đến khi thần thức thác sinh thì hai vật này lại được theo nhau đến, vật vượt ngoài sự chất ngại của thần thức, chất ngại của thân vẫn còn theo mãi, huống chi pháp năng biết ở trong tâm mà không nhớ nghĩ. Cho nên gương chiếu thì càng sáng, dao chặt thì càng bén, nước mắt chứa thành biển, bụi trần nhóm thành núi, đời đời huân tập thì càng thêm sâu, kiếp kiếp học hỏi thì càng rộng lớn.
Gần nhất là ánh trăng mới mọc, cuối cùng là trăng rằm, bỏ thân người rồi lại được thân người, tức là lần lượt sinh ra chuyện ấy. Nhớ chứ không hề quên quả là thần thông. Nhắm mắt tĩnh tọa, tự xét mình người nữ yếu đuối mà đọc tụng liên tục, há chẳng phải thân trước đã huân tập mà lại bảo là thần trao, sao lại ngu xuẩn, mê mờ đạo trí tuệ như vậy.
* Pháp Hoa Quang Thụy Bồ-Tát Hiện Thọ kinh. Xuất xứ từ Cổ lục và Cựu lục, mất tên người dịch.
* Diệu Pháp Liên Hoa Độ Lượng Thiên Địa kinh.
* Diệu Pháp Liên Hoa Thiên Địa Biến Dị kinh.
Hai kinh này theo Tam Bảo lục chú của Phí Trường Phòng là ngụy.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh luận, hai quyển.
Sa-môn Bồ-đề-lưu-chi người Tây Vực, đời Ngụy dịch là Đạo Hy, là người bắc Thiên Trúc, thông thạo Ba tạng, khéo nhập tổng trì, chí đặt vào việc hoằng pháp, mở rộng sự thấy nghe cho chúng sinh. Sư bèn băng đèo vượt thác đến Thông lãnh vào đầu niên hiệu Vĩnh Bình đời Ngụy, Sư đến Đông Hạ, Hoàng đế Tuyên Vũ hạ lệnh cho người thỉnh Sư vào cung, tiếp đãi ân cần, cho Sư ở chùa lớn Vĩnh Ninh, cung cấp bốn thứ cần dùng, hơn bảy trăm Phạn tăng. Vua sắc lệnh ngài Lưu-chi làm chủ trì trong hội phiên dịch, dịch bộ luận trước, Sa-môn Đàm Lâm biên soạn. Trong phòng của ngài Lưu-chi kinh luận bổn Phạm có thể cả vạn cuốn, những bản Sư mới dịch bản thảo biên soạn đầy cả một phòng mà tuệ giải của Sư cũng tương đương với Lặc-na, thần ngộ thông minh, thạo tiếng địa phương, giỏi cả chú thuật, chẳng ai thua ai. Có lần Sư ngồi bên miệng giếng, tắm gội thân thể, trong giếng hết nước, đệ tử chưa đến không có người múc nước, Sư liền bỏ nhành liễu, tạm rảy vào trong giếng, lẳng lặng trì chú, mới được mấy biến thì dòng nước vọt lên, đến nỗi tràn cả giếng. Sư liền dùng bát múc tắm, vị tăng bên cạnh thấy rõ việc đó, chẳng đoán được phép thần của Sư. Chi nói: Đấy chính là pháp thuật, người nước ngoài ai cũng làm, còn người xứ này không học, đây chính là ý Thánh.
* Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận, một quyển, của ngài Tăng Lặc-na-ma-đề người Trung Thiên-trúc, đời Ngụy dịch là Bảo ý. Văn chương dồi dào, lý sự đều thông, tụng cả ức bài kệ, mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ, rất thông thạo thiền pháp, ý muốn đi khắp nơi giáo hóa. Vào niên hiệu Chánh Thỉ năm thứ năm, ban đầu Sư đến Lạc-ba cùng Bồ-đề-lưu-chi ở nội điện Lạc Dương phiên dịch. Sau đó, mỗi vị đều theo thầy học, không cùng tham học, vua y theo sự hưng thạnh của việc hoằng pháp, lược trình bày chỗ khúc mắc, bèn hạ lệnh mỗi nơi mời dịch, dịch xong thì cùng tham khảo hiệu đính, trong đó chỗ nào ẩn khuất tối nghĩa hoặc có những điểm khác nhau thì cùng nhau sửa. Lặc-na dịch xong,
Thị trung Từ Quang biên chép, sau đó Sư được vua thỉnh giảng kinh Hoa Nghiêm. Lúc ở trên pháp tòa bỗng nhiên thác hóa, các vị tăng phụ giảng cũng mất theo một lúc, cả nước Ngụy hay tin không ai là không khen ngợi.
- Thích Cát Tạng chùa Nhật Nghiêm ở Kinh Đô đời Đường.
- Thích Quán Đảnh chùa U Thê ở núi Ngưu Đầu đời Đường.
- Thích Pháp Dung chùa U Thê ở núi Ngưu Đầu đời Đường.
- Thích Trí Diễm chùa núi Vũ Khâu đời Đường.
- Thích Trí Bạt chùa Già-xà ở Tương Dương đời Đường.
- Thích Tuệ Viễn chùa Ngộ Chân ở núi Lam Điền đời Đường.
- Thích Trí Thông ở núi Ngưu đầu đời Đường.
- Tả Bộc Xạ Tống quốc công Tiêu Vũ đời Đường.
- Thích Tuệ Mân núi Hải Ngu đời Đường (Đàm Huyền Phụ).
- Thích Duyên Quang, nước Tân-la đời Đường.
- Thích Đàm Bích chùa Lưu Thủy ở Tô Châu đời Đường.
- Thích Trí Nghiễm chùa Giới Nghiệp ở Đồng Châu đời Đường. Còn có ba mươi ba vị, chép ở phía sau, cũng có soạn sớ.
*****
Sư vốn họ An, người nước An-tức, dòng họ lánh nạn dời về Nam Hải, do đó dựng nhà giữa Giao-Quảng. Sau đó, dời về Kim lăng rồi sinh ra Sư. Lúc Sư còn nhỏ, được cha dẫn đến tham kiến ngài Chân Đế xin Sư đặt tên, do đó đặt tên là Cát Tạng. Sau đó, cha dắt đến chỗ Pháp sư Đạo Lãng ở chùa vua nghe giảng. Ngài nghe tới đâu hiểu rõ tới đó, thông ngộ như trời phú. Năm lên bảy tuổi, Sư đến chùa ngài Đạo Lãng xuất gia, nắm bắt hết những then chốt, ngày càng sâu sắc, hễ học hỏi được những gì đều thông đạt yếu chỉ, luận nạn nêu ra thì không ai sánh bằng, ngôn từ sắc sảo đầy sức thuyết phục. Năm lên mười chín tuổi, ở trong chúng giảng nói lại, biện từ trôi chảy, ý tứ sâu sắc, đối đáp thỏa đáng, quả thật tuyệt vời. Tiếng tăm Sư vang khắp vùng Dương ấp, sau khi thọ giới cụ túc tiếng tăm càng cao hơn. Cuối niên hiệu Khai Hoàng, Dương đế lập bốn đạo hoàng ở Tấn Phiên, do quốc ty cung cấp. Vì ngài Cát Tạng là bậc biện giải thông suốt, nên được mời vào Tuệ Nhật, thờ phụng đầy đủ, ưu ái khác thường. Vua lại xây chùa Nhật Nghiêm ở Kinh đô, đặc biệt thỉnh Sư về đó ở. Sư được dân chúng ở Kinh đô kính chuộng nên khéo giảng lại Pháp Hoa, chính vì sự thuận lợi đó nên Sư có dịp mở mang. Vào niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu Sư viết hai ngàn bộ Pháp Hoa. Vận nhà Tùy hết, Sư đúc hai mươi lăm pho trượng, bỏ căn phòng đã xây dựng, đến ở một am tranh nhỏ bé. Sớm tối Sư siêng năng, cố gắng sám hối, rồi lại đúc một tượng Phổ Hiền đặt riêng trong thất để hằng ngày ngồi thiền trước tượng, quán kỹ thật tướng, cứ thế nhiều năm không hề thay đổi, cho đến lúc mất. Tuổi tác Sư lúc này suy yếu dần, lại thêm bệnh hoạn, vua sắc ban thuốc hay, sai sứ đến thăm viếng luôn và tỏ vẻ rất ân cần. Nhưng vì Đại pháp, Sư cũng quá lao nhọc. Một hôm, sư tắm gội sạch sẽ mặc y phục mới, đốt hương, rồi bảo họ niệm danh hiệu Phật. Sư ngồi quán tưởng, như lộ nét vui, sắp đến giờ trai đường thì lặng lẽ ra đi, thọ bảy mươi lăm tuổi, nhằm tháng 05 niên hiệu Vũ Đức năm thứ sáu. Theo di chiếu thì để lộ hình thể mà sắc càng tươi tắn, vua hạ chiếu cho người phúng viếng, và đem về Nam sơn an trí khám thờ bằng. Tất cả những lần Sư giảng Pháp Hoa gồm ba trăm lần, cũng sáng tác huyền sớ đến bây giờ vẫn thịnh hành ở đời. Cho đến lúc sắp mất Sư có soạn một bài luận "Không sợ chết", rồi ném bút mà thị tịch.
Tự là Pháp Vân, họ Ngô, người ở xứ Nghĩa hưng thuộc Thường châu. Tổ tiên Sư lánh nạn về Đông Âu, từ đó không trở lại nữa, nay là Chương an ở Lâm hải. Cha mất sớm, mẹ một mình nuôi con, khi Sư mới sinh được ba tháng, bà mẹ muốn đặt tên con, suy nghĩ về về đủ loại nhưng không biết đặt tên gì. Ban đêm bà niệm danh hiệu Phật pháp tăng, Sư cũng niệm theo, tiếng tăm rõ ràng mọi người ai cũng kinh ngạc. Do đó bà đến thưa với Pháp sư Tuệ Cực chùa Nhiếp Tĩnh. Pháp Sư nghe vậy rất vui và khen rằng: Đứa trẻ này là người phi phàm, bèn đặt tên là phi phàm. Năm lên bảy tuổi lại đến làm đệ tử ngài Tuệ Cực, văn từ ngày càng tiến bộ, các nhà huyền Nho đều nể phục. Sư là người thanh tao, phong nhã, tài giỏi, khéo léo nên nổi tiếng ở đương thời. Năm lên hai mươi tuổi thọ giới cụ túc, phước đức viên mãn. Sư càng suy nghĩ về chỗ ở cho mình, nên từ lúc thầy qua đời, Sư lên Thiên Thai học pháp thiền định, vì có chỗ chưa thấu nên theo ngài Tri Giả về Đông, ở Thai Nhạc. Vào những năm cuối đời ra khỏi tinh xá, xứng tâm khai giảng Pháp Hoa, phá vỡ giỏ lưới, đuổi theo dấu mây, cùng nhau suốt vó, gom giỏ thành nhóm. Có Pháp sư Cát Tạng nhập thất ở Hưng Hoàng, Sư rất vui mừng, kết bạn với nhau rồi một mình về Triết Đông, nghe tin tinh xá xứng tâm, đạo rất hưng thịnh, nhưng ý chưa quyết. Sư tìm nghĩa ký đọc xem chỗ sâu cạn, mới thấu rõ thân tâm, say sưa nghiên cứu. Do đó phế bỏ hội giảng, giải tán thinh chúng, đến ở Thiên Thai, bẩm thọ Pháp Hoa, phát nguyện mở mang. Đến năm bảy mươi tuổi, ngài Trí Giả hiện bệnh, sớm hôm hầu hạ, hết lòng lo lắng, cho đến khi thầy diệt độ, Sư đích thân kế thừa di chỉ, và lãnh thọ các sách vỡ và tín vật của thầy để lại. Than khóc quỳ dâng lại cho Tấn Vương, Tấn Vương cúi đầu đảnh lễ nhận các di vật. Niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai vua ban lệnh rằng: Thiền sư là bậc cao túc của Đại sư giao phó pháp môn, nay lại sai sứ đến thỉnh cầu, mong nhờ ân huệ, và sớ kinh Pháp Hoa. Sư theo sứ về kinh, chờ đợi lai nghi, viết không hết lời. Sư ôm bát quảy tích cất bước vào cung. Hoằng Dương ba mùa hạ, càng khiến vua yêu kính, mỗi lần gặp điều sâu mầu đều đến trình bày thưa hỏi. Sư đối đáp thích hợp với các nghi vấn, xuyên suốt hết sách vở. Sau đó, sai người thân tín tiễn Sư về chùa.
Có lần, người trong thôn Pháp long cách núi hơn ba mươi dặm, bị bệnh không cứu khỏi, điều trị đủ cách vẫn không bớt, con ông vội chạy vào núi cầu cứu, Sư chuyển tụng Pháp Hoa, đốt hương chiên đàn, người bệnh tuy ở xa nhưng vẫn ngửi thấy mùi hương lúa, liền được bình phục. Lại, lãnh địa Lạc An Nam gọi là An châu, xứ ấy cây xanh suối biếc, mạch nước ẩn ngầm, đường đi khó thông, Sư thích du ngoạn cảnh ấy và ngoảnh lại phát thệ rằng: Nếu khiến cho vùng đất này bằng phẳng, thì sau này ta sẽ trở lại giảng kinh, chưa được mấy tuần thì cát trắng trơn khắp, bằng như gương ngọc. Sư nhờ sự lĩnh thông mà hiển hiện. không trái nguyện xưa nên vẫn giảng Pháp Hoa, để đền đáp linh ý. Từ khi Sư thọ nghiệp ở Thiên Thai, lại bẩm đạo ở Hoành Nhạc, chiêm nghiệm ba đời, tông quy chẳng hai, hoặc quán hoặc giảng cũng thường nương theo ý chỉ Pháp Hoa, cho đến nói về pháp môn đốn chỉ quán, bốn niệm, v.v… cũng rất nhiều lần. Vả lại, biện tài của Trí Giả tuôn trào như mây mưa, hoặc giống như lưới trời chợt tuôn anh lạc, nghe bất cứ pháp nào cũng lãnh hội được, và duy nhất một mình Quán Đảnh ghi riêng về ý chỉ của ngài Trí Giả, rồi tự soạn nghĩa ký và các đề mục của tạp văn, tất cả đều khắc vào bia đá. Vào ngày mồng 07 tháng 08 niên hiệu Trinh Quán năm thứ sáu, Sư mất trong tăng phòng chùa Quốc Thanh, thọ bảy mươi hai tuổi. Ban đầu thị hiện ít bệnh nhẹ, không kể dược liệu mà trong thất có mùi thơm lạ. Lúc sắp qua đời, Sư bảo đệ tử rằng: Kinh Di-lặc nói: Lúc Phật sắp diệt độ, khói hương như mây, ông hãy đốt nhiều hương, ta sắp độ đây. Do đó mà nêu rõ lời di giới, lời lẽ sâu sắc, ý tứ thân mật, lúc này môn nhân pháp hữu chiêm ngưỡng rơi lệ. Bỗng nhiên Sư ngồi lên chắp tay như có vẻ cung kính xưng ba lần danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, rồi nghiêng mình nằm xuống, sắc mặt tươi tỉnh, lẳng lặng thác hóa. Toàn thân mềm mại, đỉnh đầu còn ấm cả ngày. Có một người bạn đồng học là
Trí Hy là bậc chí sĩ thanh cao, ngài mất niên hiệu Trinh Quán năm đầu. Trước lúc qua đời, Sư nói: Ta sinh lên cõi trời Đâu-suất, thấy Tiên sư Trí Giả xếp vào hàng tòa báu, tòa nào cũng có người, chỉ còn một tòa trống bảo rằng sáu năm sau, Pháp sư Quán Đảnh lên đây nói pháp đốt hương, nghiệm lại nghĩa đó tức là ngài Di-lặc đến rước. Tính năm tháng, luận thời gian, xét thấy lời ngài Trí Hy không sai lầm. Vào ngày 09 tháng ấy nhập tháp Sư tại chùa Chí Tướng ở Nam sơn.
Ngài thuộc họ Vĩ, người Tân Đình ở Diên lăng thuộc Chu Dương. Thuở nhỏ đã thông minh không chịu khổ nhọc, tánh tình thẳng thắng. Tham khảo nhiều kinh sử. Năm hai mươi tuổi xuất gia lìa tục, ẩn cư trong núi rừng, quảy hành trang lên đường tìm thấy, ngàn dặm không ngại, sau đó nương Pháp sư Đại Minh ở chùa Phong lạc núi đệ sơn, nghe giảng Tam luận và các bộ kinh như Hoa Nghiêm Đại phẩm, Đại Tập, Duy-ma, Pháp Hoa, v.v… Nương theo vị thầy này học tập nhiều năm thấu đạt chỗ sâu xa của kinh điển, mặc dầu ở trong chúng đã lâu nhưng chưa ai biết nhiều khi ngài Đại Minh thị tịch, ngài tiếp tục tham học với Pháp sư Thúy ở Cổ quan. Bấy giờ, dưới pháp tòa của Pháp sư Tăng Nhận, pháp lữ đông như cây rừng, ai cũng tranh nhau biện vấn, lời lẽ sắc bén như tên đao, nhưng riêng Pháp Dung che giấu sở trường của mình, thầm tưởng ở trong lòng, đến lúc rảnh rỗi thư giãn, Sư mới trình lên những nghi vấn của mình. Lời lẽ sắc bén, nghĩa lý sâu xa, đều là những điều mà người chưa từng nghe, ngạc nhiên và thán phục, rất mực kính trọng. Rồi thầm nói với người khác rằng: Vị sư này, về sau chắc chắn sẽ thực hành tám không trong Phật pháp. Nhưng theo quy luật vô thường không được sự cho phép của thời gian. Sau này có Pháp sư Khoáng chùa Vĩnh An niên hiệu Vĩnh Gia, pháp sư Mẫn chùa Nhất âm ở cối kê. Pháp sư Mân chùa Định lâm ở chung sơn và Nghĩa Hải đương thời. Ngài Pháp Dung đi khắp các pháp tòa, vui vẻ tự được. Sau đó, trở về chùa U thê núi Ngưu đầu ở Chu Dương cất một ngôi thất riêng, để tinh tu nghiệp cũ. Bạn học xa gần cùng nhau quy về nương tựa. Sư ở trước hang động giảng một bộ kinh Pháp Hoa, bấy giờ vào tháng thạnh đông, tuyết đóng đầy cây cối nhưng chỗ Sư giảng bỗng nở ba đóa hoa sen vàng óng, chúng hội kinh ngạc khen là việc chưa từng có. khi văn kinh vừa giảng xong thì hoa cũng biến mất. Lại có một con nai, thường đến nghe pháp đúng giờ, khi pháp ngưng giảng thì cũng không thấy đến nữa. Những môn nhân phát tâm đều lấy Pháp Hoa làm việc chánh, sau đó không biết Sư mất ở đâu.
Sư họ Chu, người ở Ngô quận, ông nội Sư tên là Hiến, làm chức Lương viên ngoại tán kỵ thị lang. Cha Sư tên Mân, là phụng trần triều thỉnh. Mẹ Sư họ Trương, lúc mới mang thai Sư nằm mộng thấy lên ngôi tháp cao, ngôi trên bánh xe pháp. Khi sinh ra Sư có nhiều điềm khác thường hơn các trẻ khác, năm lên tám thì xuất gia, thờ Pháp sư Cừ ở chùa Thông Huyền làm thầy. Sau đó, tham cứu các kinh, vượt hơn các bậc tiền bối. Niên hiệu Chí Đức năm thứ ba đời Trần, Kiến Nhân Vương Tề, trăm sự trăm tòa tranh nhau biện vấn, lúc ấy Sư mới hai mươi hai tuổi, có tư chất của bậc anh tài trẻ tuổi, mà mang dáng dấp thần dị của người hoằng thông. Cơ biện ngang dọc mọi người ai cũng kính phục. Lúc đó, Tùy Dương Đế ở Phiên cũng rất kính trọng, khi nhà Đại Đường tóm thâu thiên hạ thì Sư bèn trở về chùa núi Vũ Khâu, ngoài việc giảng dạy tu niệm còn thực hành sám Pháp Hoa, Phổ Hiền, v.v… và tụng Pháp Hoa hơn ba ngàn biến, cảm ứng thầm phù hợp, điềm lành chẳng phải một, lư trầm chưa đốt mà tự bốc khói thơm, tịch quán vừa hết, lại châm nước đầy. Vào tháng 10 niên hiệu Trinh Quán năm thứ tám Sư mất tại chùa trên núi, thọ bảy mươi tuổi. Sư giảng Pháp Hoa hơn ba mươi lần.
Ngài họ Trương, người ở Tương Dương, thuở nhỏ đã có sẵn tư chất thanh ngộ, kính mến Phật pháp, sáu tuổi xuất gia, ban đầu làm đệ tử của sư Nhuận. Vị này vốn có tề khí nên bèn dắt Sư gởi cho Pháp sư Triết, Pháp sư Triết cũng là bậc cao tăng ở Tương châu, có ghi đủ trong biệt truyện. Lúc mới tụng Pháp Hoa mỗi ngày thuộc năm trang, các lý nhiệm mầu trong kinh, Sư cũng hiểu được quy độ, chỉ có đại ý của chư Phật xuất thế trải qua khoảng thời gian thì mỗi vị một cách không hoằng không thông, Sư đảm nhiệm chức y trì khai ngộ người mê. Nhân lúc Pháp sư Cát Tạng bậc thượng đức ở Đế kinh, là bậc khuôn phép tiêu biểu cho bốn biển, là người thầy sáng của Ba thừa, Sư bèn tìm đến vâng chỉ, thành tâm dốc lòng, hai bên đầu đuôi bảo phải thuật lại. Lời cổ vũ của những vị tài giỏi, nên nói một cách rành rọt, trôi chảy. Ngài Cát Tạng đích thân lên tòa, những lời Trí Bạt hỏi như Nhất thừa là mây, bèn phân làm ba, cũng gọi Nhứt thừa là mưa, chia làm ba giọt mưa, chúng không dám đáp. Cát Tạng nói: Câu hỏi này của Bạt, ý nghĩa rất sâu. Sư giao phó đại pháp cho ông, rồi bảo ông phải giữ gìn. Sau đó, Trí Bạt chống tích về Tương Dương ở chùa Già-xà, luôn ở Thường tế giảng kinh Pháp Hoa, nêu riêng Ngũ Thiên. Vào ngày 17 tháng 09 niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bốn, Sư ở nhà Trương Công Anh là Thanh Tín Sĩ túc tập thụ nghĩa, khai tựa Pháp Hoa xong, bèn nói nay ta từ biệt các Đại đức, Đàn-việt ở trong xóm này. Lúc đó, mọi người không đoán được lời Sư nói. Thế là Sư thúc thủ thân tâm, mọi người tưởng người nhập định, bèn đến xem thử thì Sư đã tịch rồi. Tăng tục chung cảnh thương tiếc bi ai. Nhưng diện mạo của Sư như còn sống, lại ngồi sừng sững. Tương Vương đích thân đến phúng viếng lễ bái, đốt hương cúng dường, tặng hơn một trăm món đồ, phần mộ cấp cho trên năm ngàn người tế lễ. Sư thọ sáu mươi tám tuổi.
Ngài họ Đỗ, người ở Kinh Triệu. Thuở nhỏ đã không thích chơi đùa, lại kính mến Phật pháp. Mới mười tuổi đã đến chỗ Pháp sư Cát Tạng xuất gia. Khi thọ giới cụ túc, học rộng hiểu nhiều, giảng kinh Pháp Hoa, tự tay viết chương sớ, đến lúc về già, từ giã cảnh đời vào ở Lam cốc, sống trong cảnh thanh nhàn, vui đạo hơn mười năm. Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười chín Sư đang nhập hạ ở chùa, lúc đó gặp mùa hạn hán Sư bèn giảng Pháp Hoa để cầu mưa, xa gần nghe vậy mây mù kéo đến, thường thấy hai ông lão đúng giờ đến ngồi, chẳng phải người quen cũ, ngài Tuệ Viễn im lặng ghi, trầm tư kết vấn, lúc chưa khỏi phát đã giảng đến phẩm Dược Thảo Dụ, trời đổ mưa lớn thấm ướt khắp nơi. Từ đó hai ông lão ba ngày rồi không đến nữa. Sau đó, cả hai chống gậy đến, ngài Tuệ Viễn ngạc nhiên hỏi, họ bèn rụt rè đáp: Đệ tử là rồng, nhờ ơn Pháp sư giảng phẩm Thí Dụ để mở cửa phương tiện cho nên đáp đền ân đức đó bằng cách làm mưa. Nhưng lúc chưa cảm ứng, con lại tư tiện sái nước, vì vậy bị Long vương đánh bằng roi. Ngài Tuệ Viễn đắp ba y để hộ niệm thêm thì lúc ấy gió thoảng nhẹ khắp thân Sư, nhưng Sư vốn có tánh khiêm tốn, cho nên tuy gặp sa-di cũng xuống ngựa để hỏi thăm, người kia đáp: Tợ như áo nhuộm, tiên thánh cùng tòa, thầy trò kính nhau nay thành chánh học, phận làm học trò đâu dám không tôn. Ngài Tuệ Viễn thường tụng Pháp Hoa, luôn hiện điều kính cảm. Có khi không châm dầu đốt đèn cả mấy ngày mà vẫn sáng trưng. Sau đó, Sư nhuốm bệnh mấy ngày rồi mất, thọ năm mươi mốt tuổi, lúc đó vào tháng 07 niên hiệu Trinh Quán thứ hai mươi mốt.
Ngài họ Trần, ở Tứ châu, xuất gia năm tám tuổi, làm đệ tử Pháp sư Chánh Đạo. Sau đó, tụng và giảng kinh Pháp Hoa ở núi Ngưu đầu, khéo giữ giới luật, hành trì giới luật rất tinh chuyên, hàng phục già trẻ, trai gái tấu chương đều phải nhờ Sư. Xa gần nể sợ, chùa viện khi hoàn thành chỉ có Sư ở đầu tiên, cả chúng nể sợ. Sư không chứa của riêng, thường có đôi ngỗng đúng giờ đến nghe giảng.
Sư giảng hơn trăm lượt, hai lần phát ra ánh sáng. Đến ngày 30 tháng 10 niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi ba, Sư bảo chúng: Ta xây chùa này (sơn tự) đã sử dụng một muôn quan tiền, tiếc rằng chưa chu tất, nay lại vĩnh biệt, nói xong thì mất, thọ bảy mươi bảy tuổi. Bấy giờ, toàn tăng phòng, điện đường đều rung chuyển, cây cối hoa cỏ chợt biến thành mầu trắng, trải qua một bữa ăn thì mới trở lại trạng thái cũ.
Tự là Thời Phụ, người ở Lam lăng, ông nội là Cao tổ Lương Vũ Đế, cha là Minh Đế. Ông rất kính tin kinh điển, dẹp bỏ ngoại điển. Lúc ở trong yến tiệc cũng thường bảo người khác đem thức ăn chay cho ông. Lại tặng cho Vương Bao một bộ kinh Đại phẩm viết tay, một bộ cà-sa sơn nạp. Tuy ông tuy đảm nhiệm chức vụ tham quốc nhưng không hề bỏ bê việc tụng niệm, viết mười quyển Pháp Hoa nghĩa ký. Lúc đó, ở trong phủ Đệ giảng cho con cháu nghe, ngày chú thích xong, mộng thấy tháp Phật Đa bảo chói lòa giữa hư không. Do đó gọi những người thợ khéo léo làm ngôi tháp mầu này. Vào tháng 06 niên hiệu Trinh Quán năm hai mươi hai ông mất ở cung Ngọc Hoa. Trước lúc qua đời, ông có di chúc rằng: y phục và đạo cụ của ta đều biếu hết cho chùa Tân Lương. Yết-ma như vật của chúng tăng, chiếc sơn nạp của vua ban và thọ bi nạp của Cao Tổ, cùng với thiết như ý, khúc kỷ, phất trần, lò hương, chậu rửa, bình khạc bằng ngọc, mã não châu, mũ quan, khí phục, đều nhập vào của thường trụ, cùng dường mãi mãi.
Ngài là người Hà Đông, bản tánh ngay thẳng, phẩm hạnh hơn người. Xuất gia năm chín tuổi, tinh tấn tu hành, tụng kinh Pháp Hoa, ngày tháng trôi qua chẳng bao lâu sau Sư đi tham học khắp các vị danh sư, truy cứu đủ lý mầu.
Năm lên mười bảy, nhận thỉnh về quê, ở chùa Quang Hưng, giảng kinh Pháp Hoa, thính chúng đông nghẹt, hiện rõ nhiều điềm lành, phút chốc hương thơm đặc biệt kết tụ trên hư không. Sau khi Sư thọ cụ túc, càng thêm tinh tấn, mười bảy năm không ra khỏi chùa, từ trước đến nay thường sống đạm bạc, mặc vải thô sơ, ăn rau cải để sống. Em của Sư là Khánh đã dứt bặt sự chế nhạo. Sư nói: "Được như vậy mới khiến cho bầy thú không loạn, đám chim không nhiễu". Vào đầu đời Đường, Sư lại vượt biển đến ẩn cư ở Ngu sơn hơn hai mươi năm. Môn nhân từ các nơi xa xôi đến thọ giáo thường có trên trăm người. Sư cho rằng đất này phải trồng cây, bèn khích lệ mọi người trồng mấy mươi muôn gốc để đem lại công đức chung cho Tam bảo mai sau. Vào thuở trung niên Sư ở miền Nam, trong một ngôi am tranh riêng, lúc đó có hai chú thỏ và một con hổ đến ở bên cạnh, chúng quanh quẩn trong ngoài nhưng không làm tổn hại nhau, đến nỗi cầm thú thần kỳ thỉnh Sư trao giới. Thuật lại những sự tích của Sư quả thật không thể nói hết. Vũ Dương Công Lý Thế Gia là Đô đốc ở Tô châu và Thứ sử Giang Vương lần lượt thỉnh nhiều lần, Sư cố từ chối không nhận. Vào ngày 11 tháng 08 niên hiệu Trinh Quán năm cuối, Sư mất tại chỗ ở ẩn, thọ bảy mươi bảy tuổi, ba ngày trước lúc qua đời, mùi thơm lạ bay khắp chùa. Cả chúng ngạc nhiên hỏi: Sư đáp, hôm sau ta sẽ đi, sống chết là lẽ thường của con người, gởi thân nơi trần thế hoàn toàn như đi trên mây. Đừng bao giờ khóc lóc, mỗi người hãy nhớ đến vô thường, mau cầu diệt độ, tang lễ xong thì chôn cất theo nghi lễ thông thường của luật. Bia ký trang trí thì đừng bao giờ làm, hãy y theo lời dặn này thì ta đây chẳng cần nói gì nữa. Điều này cho thấy đến lúc qua đời Sư vẫn định tĩnh vô cùng, có thể gọi là một con người kiên trinh.
Không biết Sư ở đâu, từ lúc cạo tóc hủy hình thì giới luật không thiếu khuyết, thường giảng kinh Quán Thế Âm, dắt dẫn đạo tục và âm thanh Sư rất thanh thoát, đặc biệt hơn người. Khi lên cao tụng kinh âm hưởng vang xa đến ba mươi dặm.
Sư là người nước Tân-la, tổ tiên Sư thuộc con cháu của Tam Hàn. Theo Lương viên chức đồ nói: "Nước Tân-la, Ngụy dịch là Tư Lô, Tống dịch là Tân-la, vốn là nước của Đông Di Thần Hàn". Ngài sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc, đời trước đã gieo trồng tín tâm trong sáng nên sớm gặp duyên lành. Xuất gia mặc pháp phục từ thuở còn thơ, siêng năng tu tập, hiểu biết hơn người, nhớ rõ từng mục kinh, ngộ được sự vận hành của tâm, nhưng vì sinh ra ở biên địa, Phật pháp chưa được lưu thông. Bấy giờ, vào giữa niên hiệu Nhân Thọ đời Tùy, Sư lên đường đến nước Ngô gặp Trí Giả hoằng dương kinh điển, Sư hầu cận sớm hôm, nên hạnh giải đều thấu đạt. Trong mấy năm chuyên tinh bỗng nhiên đại ngộ. Trí Giả bảo Sư đăng đàn giảng kinh Pháp Hoa, những vị tài giỏi đều thần phục. Sau đó, Sư ở riêng trong viện Thiên Thai, càng tiến tu thêm diệu quán, chợt thấy mấy vị bảo rằng Thiên-đế thỉnh giảng, Sư im lặng bằng lòng. Thế là bỗng nhiên dứt thở, trải qua mấy ngày nhan sắc vẫn như thường, vẫn quay về bổn thức, chẳng bao lâu công việc hoàn thành họ đưa Sư về nước cùng với mấy mươi người đi trên chiếc thuyền lớn, đến giữa biển bỗng nhiên thuyền không chạy, thấy một người cưỡi ngựa lướt sóng đến, đứng trước thuyền nói: Thần biển thỉnh sư tạm vào cung giảng pháp.
Sư nói: Thân bần đạo nguyện làm lợi ích cho muôn sinh, thuyền và bạn đồng hành chẳng biết làm thế nào.
Người ấy nói: Những người đồng hành và thuyền mong Sư chớ lo.
Thế là cả chúng xuống thuyền. Đi được mấy bước, chỉ thấy một con đường cái bằng phẳng, hoa thơm nở bên đường. Thần biển dắt theo trăm người hầu đến đón Sư vào cung, châu ngọc sáng loáng, chói lòa cả mắt. Sư nhân đó giảng cho họ nghe một biến kinh Pháp Hoa, họ cúng dường Sư châu báu, rồi tiễn Sư lên thuyền.
Khi Sư trở về chốn cũ thường giảng nói kinh này mở rộng cửa pháp, quả thật công phu. Lại vì từ nhỏ Sư đã tụng trì mỗi ngày hơn một biến cho đến khi mãn báo thân, vẫn không bỏ bên việc này. Vào năm sắp tám mươi tuổi Sư mất tại chùa Sư đang ở. Thân xác tuy đã hết nhưng cuống lưỡi Sư vẫn còn. Cả nước biết tin này đều khen là việc chưa từng có. Sư có hai người em gái cũng là Phật tử thuần thành, thâu xá-lợi và lưỡi đem về thờ. Cô thường nghe lưỡi kia tự tụng Pháp Hoa, một cô không biết nơi nào giảng pháp Hoa, nhân đó hỏi thì lưỡi Sư đều giảng cho nghe.
Có vị tăng Liên Nghĩa người Tân-la, năm đó vừa đúng tám mươi tuổi, mặc áo thô sơ, ngày ăn một bữa, khổ hạnh hơn người, cùng ở chung với tôi kể lại chuyện này, nên tôi chép ra đây.
Chẳng rõ Sư họ gì, là người huyện Ngô ở Tô châu. Thuở nhỏ, Sư xuất gia ở chùa Lưu thủy, ham học hỏi, không biết mệt mỏi, thường đến những hang động để tĩnh tâm quán sát, không bận tâm đến việc đời, thú dữ rắn độc, yêu tinh ác tặc, thường gặp vô số nhưng chúng chưa bao giờ ngỗ ngược mà lại sống rất có tình. Sư thường ngồi trên một chiếc giường đóng bốn tấc, không hề có mảy bụi nhưng Sư chẳng bao giờ nằm. Thường giảng Trung, Bách, nhập nhị môn, nhiếp Đại thừa và các kinh như Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Pháp Hoa, v.v… Người hơn hai mươi châu đều đến nghe pháp. Có lần Sư giảng kinh Pháp Hoa chợt thấy một con chim sẻ, bay từ bên ngoài vào xuống ao dưới chánh điện, ngụm nước rưới đất ba lần từ tòa của thánh tăng đến bên điện Phật, rồi đứng im ở đó mãi đến lúc giảng xong mới bay đi. Cứ như vậy suốt một năm, sau đó mới đến ở luôn. Mỗi khi Sư thượng đường thì nó vỗ cánh dẫn đường, khi Sư xuống tòa thì nó nghiêng mình đi theo. Có lúc Pháp sư bảo múa thì nó liền lượn cánh kéo chân xoay mình quay đầu, chợt bay chợt liệng lúc đến lúc lui, biến đổi tuyệt diệu, khó thể nói hết. Hai năm như vậy quanh quẩn không bay đi đâu, kẻ sĩ văn chương ở mấy châu đều là người tài giỏi mà cũng cùng nhau ca ngợi nó. Sau đó, Thứ sử Giang Vương muốn đến chùa. Trường sử Tư Mã bảo người đến báo cho Pháp sư. Pháp sư nói: Được. Rồi vẫn ngồi thiền như thường lệ, khi Vương đến cổng chùa, Trưởng Sử tự báo, Sư nói biết rồi vẫn ngồi yên như thường, Vương trách sao Sư không đến đón rước rồi quay ngựa ra về. Đến canh một đêm hôm đó, Vương gọi toàn thể tăng chúng vì nước hành đạo, chư tăng đều nhóm họp chỗ Vương, Vương nổi giận lộ ra nét mặt, sai Trường Sử đi ngàn dặm gọi Pháp sư, Pháp sư bảo: Vua vì nước mà truyền kinh, tâm phải hết sức tôn trọng, nếu tâm chưa thanh tịnh mà đến đón tăng. Đại phu khinh mạn không kính Tam bảo, truyền kinh như vậy cũng chỉ phí sức mà thôi, vua ra lệnh trong phủ đem tất cả rượu thịt, năm thứ rau cay đổ bỏ hết, rưới nước thơm lau chùi. Bần đạo lại phải tắm gội sạch sẽ rồi mới chuyển kinh được. Ông hãy đi đi, hôm sau hãy đến. Vương rất giận, bèn sai người đến gọi Pháp sư, Sư vẫn ngồi như cũ, không hề tỏ vẻ sợ hãi, đến ngày hôm sau mới đến chỗ Vương ở. Vương hỏi chư tăng: Huyền Bích là người nào? họ đều nói: Ngài là bậc cao tăng hành thiền. Vương hiểu chút ít rồi sai người mời vào, ông đặt một tòa cao sai ba bốn cô gái đẹp hầu cận ở bên, ngài Huyền Bích nói năng qua loa rồi lễ Phật lên tòa ngồi kiết già, thu thần nhập định suốt bảy ngày, áo trên thân dính đầy bụi nhưng Sư không hề dao động. Vua bèn phát tâm lành rất mạnh, ông hỏi chúng tăng: Phải làm sao để Sư xuất định. Tăng nói: Cúng dường âm nhạc. Vương bèn sai người hầu tấu suốt nửa ngày, Sư mới xả định, ông và phu nhân thỉnh Sư để sám hối, thọ giới. Đem tất cả chồn chó, chim chóc phỏng sanh, Sư khuyên Vương tụng Tâm kinh Bát-nhã. Vương y theo lời khuyên ngày nào cũng tụng, sau đó xả bỏ hết mọi thứ trang sức để đền đáp ân đức của thầy, Sư không nhận vật nào cả mà bảo Vương bố thí. Từ ngày đó trở đi ngày trai nào ông cũng đến chùa, thưa hỏi các yếu chỉ sâu mầu tiếng tăm của công việc hoằng hóa vang khắp xa gần, việc này xảy ra vào giữa niên hiệu Trinh Quán, sau đó chẳng biết Sư mất ở đâu.
Sư họ Nghiêm, người Đồng châu. Thuở nhỏ đã có sẵn tính hiếu học, thanh tao, chân chất hơn người khác, hành động cứng rắn, ngay thật đúng theo phép tắc. Khi lên mười hai, mười ba tuổi tình cờ gặp vị tăng người Ấn-độ, thế là Sư được xuất gia và được thầy dạy dỗ, nuôi dưỡng. Sư ở chùa Giới Nghiệp huyện Triều ấp. Thế rồi sau đó đi khắp nơi tìm thầy học Huyền giáo. Nhiếp luận, Duy thức, Bát-nhã, Duy ma và Pháp Hoa v.v… đều thông suốt đến ý chỉ sâu xa, tột cùng ý nghĩa của nó. Lại thêm vào đó là học văn chương thế tục rất giỏi Lão Trang, lão luyện huyền tình, xuất phát từ trí óc. Chưa đầy mấy năm đã lên làm Pháp tướng. Ngoài những lúc giảng nói Sư lại chuyên tâm vào diệu quán, thường ngồi không nằm, cứ làm như vậy, trong phòng chỉ có một chiếc giường, không có vật gì khác, quả thật đáng gọi là Pháp sư thanh thoát, ngôn hành tuyệt đỉnh. Niên hiệu Hiển Khánh năm thứ ba, tăng ni Phật tử huyện Tiên chưởng ở Thái Châu thỉnh Sư về trụ chùa Linh Tiên, giảng kinh Pháp Hoa. Sư ở chùa Tăng, Hoàn Hương ở trong phòng. Đầu hôm lấy kinh Pháp Hoa lật ra để trên bàn, vừa muốn tìm đọc. Bấy giờ, Hoàn Hương cùng ba người thị giả đều ở chỗ mình. Sư đốt nhang chưa xong chợt thấy trong chữ Phật trên bìa kinh hiện ra ba viên xá-lợi năm màu sáng rực, lan tỏa khắp quyển kinh, lăn tới lăn lui không ngừng. Hoàn Hương đi khắp chùa bảo cho chúng tăng biết để họ đến lễ bái, mọi người ai cũng muốn thâu lấy xá lợi, xá lợi hút vào trong chữ Phật, tăng chúng lễ bái buồn khóc, đốt nhang phát nguyện thì lại thấy chân dung, xá-lợi vẫn từ chữ Phật tuôn ra, biến hiện không ngừng. Trong khoảnh khắc thì theo nhau ẩn mất vào trong chứ Phật. Kinh Pháp Hoa mà Sư giảng hơn mấy mươi biến, cảm kinh hiện điềm lành khó có thể nói hết. Đó chính là diệu hạnh cao tột, siêu tuyệt hơn bình thường. Có lần Sư và chúng tăng đi đến bờ ao, chư tăng khoát nước rửa ráy. Sư dừng lại nói: Nếu vật của người khác, không cho thì không được lấy, nước ao của người khác đâu được lấy trộm. Lại có lần ngay bữa thọ thực trong mùa hạ, có con ruồi bay vào bình bát, Sư từ từ dùng ngón tay đưa nó vào vách tường. Có người hỏi lý do, Sư đáp: Học đạo phải thực hành vô úy thí. Từ đó, Sư thường tới lui giảng đạo, đi khắp mấy châu, Sư thường lặng lẽ ôm bát quảy y ra đi. Tuy có hương hoa cờ phướn lọng báu trống nhạc đờn ca, xe ngự dậy đất trời, người người đón rước khắp thành quách biên ải, nhưng Sư vẫn thản nhiên không đoái hoài. Sư vẫn thường xem nhẹ nơi mình ở, bao nhiêu ân huệ lợi dường Sư cũng chẳng màng. Vậy mà Sư ở nơi nào cũng thực hành pháp bố thí, nhận đủ ba y cho đến cuối đời vẫn không thay đổi. Vật gì không bẩn thì không bỏ, chỉ còn chút ít thôi. Ý này chính là vật quá tệ thì sẽ vứt bỏ, hạnh nghiệp vững chắc như xưa. Mấy ngày trước lúc qua đời, Sư đi tuần hành khắp nơi, các pháp hữu quan biết từ giã từng người, rồi một hôm, Sư rưới nước quét sân chùa, ngồi thẳng nhập định, tất cả môn đồ, Sư đều bảo họ niệm Phật. Rồi ngay trong định mà thị tịch, bấy giờ, Sư hơn sáu mươi tuổi, đạo tục thương tiếc than khóc bi ai. Ngày cử hành tang lễ họ mặc đồ trắng đi theo sau các vị đệ tử để lễ bái, có hơn muôn người. Lúc đó, bỗng nhiên có mùi thơm lạ xông lên khắp viện suốt hơn bảy ngày, cho đến khi nhập tháp, Sư mới biết Ngài mất đã mấy năm mà lưỡi vẫn không hoại, râu tóc dài thêm hai tấc, nhan sắc như cũ, các bậc trí thức cho là người đắc đạo.
+ Trúc Pháp Thâm ở núi Diệm đông ngưỡng đời Tấn.
+ Trúc Pháp Sùng ở núi Diệm cát hiện đời Tấn.
+ Trúc Pháp Khoáng ở núi Trầm thanh đời Tấn.
+ Thích Tuệ Viễn chùa Đông lâm ở khuông sơn đời Tấn.
+ Thích Tuệ Trí chùa Long khai ở đất Thục đời Tấn.
+ Thích Đạo Dung ở quận Bành thành đời Tấn.
+ Thích Đàm Ảnh ở Trường an đời Tấn (sớ có bốn quyển).
+ Thích Đàm Đế ở núi Hổ khâu đời Tống, Ngô.
+ Thích Tuệ Lượng chùa Hà viên ở kinh đô đời Tống.
+ Thích Tăng Cảnh chùa Định Lâm hạ đời Tống.
+ Thích Đàm Cơ chùa Gia tường ở cối kê đời Tống.
+ Thích Đạo Từ ở Dự châu đời Tống.
+ Thích Đạo Đăng ở Tế châu đời Tề Ngụy.
+ Thích Hoằng Sung chùa Tương cung ở Kinh đô đời Tề.
+ Thích Tăng Tuệ chùa Trúc lâm ở kinh châu đời Tề, Thích Pháp Long ở Lư sơn đời Tề.
+ Thích Bảo Lượng chùa Linh Muội ở Kinh đô đời Lương.
+ Thích Pháp Thông chùa Định Lâm thượng đời Lương.
+ Thích Trí Tạng chùa Khai Thiện ở Chung sơn đời Lương.
+ Thích Pháp Dũng chùa Đại Thiền Chúng ở dương đô đời Trần.
+ Thích Bảo Quỳnh chùa Bành thành ở Dương đô đời Trần.
+ Thích Bảo Hào chùa Quang Hưng ở Đồng châu đời Chu.
+ Thích Đạo Trang trụ đạo tràng Tuệ Nhật ở đông đô đời Tùy (Có sớ 3 quyển).
+ Thích Tuệ Bật chùa An Quốc ở Thường châu đời Tùy.
+ Thích Trí Tụ ở núi Hổ khâu, quận Ngô đời Tùy.
+ Thích Trí Châu ở đạo tràng Nhân Hiếu thuộc Đan Dương đời Tùy.
+ Thích Trí Thác chùa Đại Lâm ở Lư sơn thuộc Cửu Giang đời Tùy.
+ Thích Hoằng Tôn chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh đô đời Tùy.
+ Thích Linh Tạng chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh đô đời Tùy (còn giảng Quán Âm một ngày hai lần).
+ Thích Tuệ Hải chùa An Lạc ở Giang đô đời Tùy.
+ Thích Tuệ Tịnh chùa Kỷ Quốc ở Kinh đô đời Đường (có sớ 10 quyển).
+ Thích Tăng Phụng chùa Định Thủy ở Kinh đô đời Đường.
+ Thích Tuệ Quân chùa Thông huyền ở Kinh đô đời Đường.
Như trên đều là những vị không chuyên nghiệp nên chỉ nêu ra đề mục. Đồng thời ở trong các bộ khác cũng có nói, nên biết rằng các vị cao tăng này tiếng thơm không bao giờ mất.
- Thích Tuệ Tư ở núi Nam Nhạc đời Trần.
- Thích Trí Khải núi Thiên Thai đời Tùy.
- Thích Trí Tảo núi Thiên Thai đời Đường.
Sư họ Lý, người Vũ Tân, thuở nhỏ đã tràn đầy lòng thương yêu dung thứ, tiếng tăm vang khắp cung đình. Sư nhiều lần mộng thấy vị tăng Ấn-độ khuyên xuất gia, giật mình thức giấc ngộ được điềm lành này bèn từ giã cha mẹ nhập đạo. Những ngôi chùa Sư ở chẳng phải chốn tôi luyện tinh thần, nên mới cảm ứng thấy vị thần Tăng bảo nên trì trai giới, vâng giữ niêm mật, ngày chỉ ăn một bữa không thọ cúng riêng, tuyệt giao mọi sự mời thỉnh. Năm ba mươi tuổi có lần Sư vào một con rạch khô nước, lập chí tụng Pháp Hoa, tụng mới phân nửa, thấy một dòng nước ngầm tuôn ra, thấm nhuần khắp nơi, lút cả giường Sư ngồi đến nửa thân. Lát sau thì khắp thân phù thủng không thể cử động được, Sư bèn lập thệ rằng: Nếu tôi chắc chắn có duyên với kinh này, nước sẽ làm tiêu diệt, bệnh cũng sẽ thuyên giảm. Nếu không có duyên, thì nước có đầy thân ngay trong đêm này nước sẽ rút hết, thân bệnh cũng khỏi. Sư bèn ở đây mười năm, định tâm tụng kinh bèn thấy Đức Thích-ca, Di-lặc đến nói pháp. Lúc ấy Sư thấy núi đồi nơi gần xa không cao thấp, hoặc nhiếp niệm tụng kinh, các phẩm trong bảy quyển chữ nghĩa từng hàng từng câu rõ ràng trước mắt. Sau đó Sư dời về ở núi Đào Khâu, tụng kinh trước núi, cây rừng vô số, dân chúng chặt phá nên họ bị bệnh cùi, cầu Sư trị thì bớt hẳn. Sư ở đó một mùa hạ thực hành Pháp Hoa sám, chỉ kinh hành và ngồi chứ không hề nằm. Mãn hạ, Sư than rằng: Ta vất vả suốt mùa hạ mà chẳng được ích gì". Sư vừa muốn thả lỏng thân tựa người vào ghế dây, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Tâm ý bừng sáng, chứng nhập pháp môn nhưng chưa dám tự tin, Sư tụng thử Luận Đại Trí Độ quyển đầu, tâm bèn tỉnh ngộ, hoàn toàn không quên mất, đồng thời hiểu được ý chỉ ngay trong lời văn. Cứ như vậy Sư tụng suốt một trăm quyển, tụng đến đâu nhớ tới đó, thấu tỏ nghĩa lý. Từ đó về sau ngoài việc tụng niệm Sư thường giảng Thích luận và kinh Pháp Hoa. Sư biết vận mệnh nước Tề hết nên qua nước Trần, sau đó vào dưới ngọn Hoa Cái thuộc Hoành Nhạc, xây chùa để hành đạo, ban đầu thấy một người bắt chim, đao đất bỏ, Sư bèn đến đó hỏi rằng: Đào cạn cạn thôi đừng làm tổn thương xương sọ của ta, khi ông ta đào chưa sâu chợt gặp một khúc xương trắng, người này ngạc nhiên bèn hết lời hỏi thăm Sư, Sư đáp: Ta đã hai đời sống ở dưới ngọn núi này tụng kinh Pháp Hoa, xả thân ở nơi này, hài cốt thân trước cũng đã tiêu vong, đời nay ngươi thấy chính là thân thứ hai. Am tranh ta đã bị người rợ thiêu đốt nên khiến ông ta bị bệnh ung nhọt. Ông hết lòng khẩn cầu sám hối và xây am tranh khác, ta ở trong ấy trì kinh như cũ, cho nên người kia mau chóng bình phục". Sư lại mộng thấy một vị tăng Ấnđộ biến hiện mấy trăm hình dạng kỳ lạ, ngồi trên đó bảo rằng: Ngươi trước thọ giới, chẳng có gì cao quý hơn luật nghi, đã gặp chúng tăng thanh tịnh phải nên lập đàn cầu kinh. Sư tăng gần ba mươi hai người thêm pháp Yết ma, khi thọ giới cụ túc xong rồi Sư chợt thức giấc mới biết mình thọ trong mộng. Từ đó về sau Sư càng siêng năng hơn. Nhờ sự khổ hạnh này mà được thấy việc hành đạo trong ba đời. Lại mộng thấy Bồ-tát Di-lặc, Phật Diđà nói pháp khai ngộ. Cho nên Sư tạc hai pho tượng cúng dường. Sư lại mộng đi theo ngài Di-lặc và các quyến thuộc đến hội Long Hoa, lòng tự nghĩ rằng: Ta ở trong thời mạt pháp của Đức Thích-ca thọ trì Pháp Hoa, nay gặp đấng Từ Tôn, nên Sư cảm thương buồn khóc, bỗng nhiên tỉnh ngộ, càng thêm tinh tấn. Sư lại được đạo tục cúng dường nên tạo Pháp Hoa chữ vàng bảo bối lưu ly, trang nghiêm sáng chói, công đức rộng lớn, phát tâm cao xa, lại giảng kinh này tùy theo văn mà soạn sách. Sau đó, sai học sĩ Tri Khải thay ngài giảng kinh Kim Cương, đến chỗ nhất tâm đủ muôn hạnh Trí Khải có hơi nghi, Tuệ Tư giải thích rằng: Điều ông nghi chính là ý thứ lớp trong Đại phẩm thôi, chưa phải là diệu chỉ viên đốn của Pháp Hoa. Xưa, trong một mùa hạ ta khổ luyện ý này, sau một đêm nhất niệm các pháp chợt phát, ta đã thân chứng, nên ông đừng nhọc công nghi ngờ làm gì". Trí Khải bèn bẩm thọ hành pháp của Pháp Hoa hai mươi mốt cảnh giới khó nói rõ hết. Mỗi năm Trần chủ ba lần đến thăm hỏi, cúng dường vô số. Sư nói pháp gấp bội, thần dị khó lường, hoặc hiện lớn nhỏ, hoặc ẩn giấu thân, hoặc hương sắc kỳ lạ, điềm lành hiện rõ. Lúc ấy qua đời, Sư từ trên đỉnh xuống đạo tràng giữa núi, nhóm họp các học đồ nói pháp liên tiếp mấy ngày. Tha thiết quở trách, người nghe chạnh lòng, rồi bảo mọi người rằng: Nếu có mười người không tiếc thân mạng, thường tu Tam-muội Pháp Hoa, sám hối phương đẳng, thường ngồi thiền và kinh hành, muốn thứ gì ta đều cấp cho, nhất định phải có lợi ích. Nếu không có người như vậy ta sẽ đi xa, khổ hạnh khó lắm!" cuộc không có người đáp, do đó mà cả chúng đều nhiếp niệm, chẳng bao lâu sau thì Sư mất, ai nấy đều ngửi thấy mùi hương lạ tỏa khắp phòng, đỉnh nóng thân nhẹ nhan sắc như thường. Lúc đó vào ngày 22 tháng 06 niên hiệu Thái Kiến năm thứ chín đời Trần. Thọ sáu mươi tư tuổi. Nhưng thân tướng vẫn sừng sững, khéo tự giữ vững, không nghiêng không lệch, bước đi như trâu, mắt nhìn như voi. Trên đỉnh Sư có nhục kế, tướng rất trang nghiêm, người thấy đều hồi tâm, bất giác phủ phục. Vả lại, tánh của những bậc tri thức soi chiếu thầm phục, ý tứ trong lời, phương tiện dắt dẫn, thực hành đại từ bi, giữ giới Bồ-tát, chí như bông tơ, da là thứ làm tổn hại sinh linh, cho nên pháp phục của chúng tăng là phải sử dụng vải bố. Trời lạnh thì mặc áo dày để tránh gió sương. Từ khi Phật pháp truyền bá sang đây hơn sáu trăm năm chỉ có Nam Nhạc Từ Hành đáng quy về. Sư soạn Tứ Thập Nhị Tự Môn hai quyển, Vô Tránh Hạnh Môn hai quyển,
Thích Luận Huyền Tùy Tự Ý, An Lạc Hạnh, Thứ Đệ Thiền Yếu, Tam Trí Quán, cả thảy năm bộ, mỗi bộ một quyển, đều lưu hành ở đời.
Sư tự là Đức An, họ Trần, người ở Dĩnh Châu. Từ khi nhà Tấn dời đô, gia đình Sư ở Hoa Dung thuộc Kinh châu, tức là người con thứ hai của Lương tán kỵ Ích dương công Trần Khởi Tổ, mẹ Sư họ Từ mộng thấy khói hương năm màu, quanh quẩn bên người, bà muốn gạt ra nhưng nghe người ta nói rằng đó là nhân duyên đời trước, gởi gắm để hoằng đạo, phước đức tự đến, làm sao bỏ đi được. Bài lại mộng thấy nuốt một con chuột trắng cứ đôi ba lần như vậy, bà sợ hãi nên bói thử, Sư nói điềm này là rồng trắng, cho đến đêm sinh Sư trong phòng sáng ngời. Hai đêm liên tiếp ánh sáng mới tắt, trong ngoài ai nấy đều vui mừng bày lễ vật cúng tế, nhưng lửa tắt nước lạnh việc không thành, chợt có hai vị tăng gõ cửa nói: Lành thay! đứa bé đã huân tập công đức chắc chán sẽ xuất gia, nói xong liền biến mất, khách khứa ai cũng ngạc nhiên. Khi đứa bé nằm thì chắp tay, ngồi thì quay mặt về phía Nam cho đến lúc tuổi đã lớn rồi mà miệng vẫn không quên ăn, thấy tượng Phật thì liền lễ, gặp tăng thì kính. Bảy tuổi lại thích đến chùa, chư tăng ngạc nhiên về việc ấy, khẩu truyền Phổ Môn, vừa nghe qua đã thuộc. Năm mười tám tuổi Sư đến cầu Sa-môn Pháp Chử chùa Quá Nguyện ở
Tương châu để xuất gia. Từ đó Sư ở ẩn trong núi Đại Hiền tụng kinh Pháp Hoa và Vô lượng nghĩa Phổ Hiền Quán, chưa được hai tuần thì hoàn tất ba bộ, Sư lại đến chỗ Thiền sư Tuệ Tư núi Đại tô ở quang châu thọ học chỉ quán. Tuệ Tư học đạo với sư Tựu, sư Tựu lại thọ pháp với sư Tối, ba vị này đều không thể suy lường được. Tuệ Tư thường khen rằng: Thuở xưa, ta ở Linh sơn, cùng nghe Pháp Hoa, túc duyên theo nhau nay lại gặp nhau". Tuệ tư, liền lập đạo tràng Phổ Hiền để nói bốn hạnh an lạc. Trí Khải bắt đầu ở núi này, thực hành Tam-muội Pháp Hoa, mới qua một đêm tụng đến phẩm Dược Vương, tâm duyên khổ hạnh, đến câu "chân tinh tấn" giải ngộ liền phát thấy mình và ngài Tuệ Tư ở cõi bảy báu núi Linh Thứu nghe Phật nói pháp. Cho nên Tuệ Tư nói: Chẳng phải ông thì không thể cảm, không phải ta thì không ai biết, đây là phương tiện trước của Tam-muội Pháp Hoa, rồi Sư vào núi Bạch sa ở thần châu cũng nhập quán như trước, có vài điều nghi ngờ trong kinh, bèn thấy Tuệ Tư đến âm thầm giải thích, sau này Sư thường nhờ người giảng thế, người nghe rất khâm phục, rồi Sư đến Thiên Thai, ở trên ngọn Hoa đỉnh phía bắc chùa tu hạnh đầu-đà. Chợt một luồng gió lớn bật cả gốc cây, sấm chớp rền vang, quỷ mỵ cả ngàn đám, thân cao trăm trượng, miệng hét toáng lên, thật đáng kinh sợ nhưng Sư vẫn dằn lòng chịu đựng, tự nhiên lặng mất. Sư lại bị cơn bệnh làm bức não thân tâm như bị lửa đốt, Sư lại thấy cha mẹ qua đời, nằm trên đầu gối mình, than khổ cầu cứu, Sư lại nương vào Pháp Mẫn, không hề lay động tâm vững như núi, vì vậy mà khiến cho hai duyên này nhẹ cảm ứng liền diệt. Bỗng nhiên Sư thấy vị thần tăng Tây Vực đến bảo rằng: Sư ngăn địch thắng oán là người dũng. Đoạn này văn dài, chỉ nêu sơ lược. Từ đó về sau Sư mở rộng thiền tuệ, người học đông như cây rừng, những bậc tài giỏi đương thường, cùng kính phục ngài, hậu phi của đế chủ hai thời đại Trần, Tùy đều thọ giới quy y, cúng thí rất hậu. Sau đó đến chùa Thạch Thành, ở trước Phật lúc sắp chịu báo, Sư đặt sàng tòa ngay vách phía đông, mặt quay về phương Tây, xưng Phật A-di-đà, Bát-nhã, Quán Âm, lúc ấy có người muốn đem thuốc dâng cho Sư. Sư đáp: Thuốc có công năng trừ bệnh để sống lại những năm tàn ư? Bệnh không hợp với thân thì thuốc làm sao chữa được, thời gian không hợp với tâm thì thuốc đâu thể giữ được thân, trí sáng hơn mặt trời, còn muốn nghe gì nữa trong luận Quán tâm đâu không nói thế. Thuộc luận Quán tâm nói đâu biết được đạo, thuốc thang lăng xăng, làm phiền nhiễu người khác, ta sống bị khí độc làm mệt nhọc, chết thì vui vẻ như được nghỉ ngơi, tình đời như vậy, không gì đáng khen. Sư bèn bảo xướng đề kinh Pháp Hoa. Sư tán dẫn rằng: Cha mẹ pháp môn, tuệ giải từ đó sinh, bổn tích rộng lớn, mầu nhiệm khó lường, ngưng đàn dứt dây, kể từ nay. Rồi đòi nước nóng thơm súc miệng nói mười như, bốn bất sinh, mười pháp giới, ba quán, bốn giáo, bốn vô lượng, sáu độ, v.v… có người hỏi phẩm vị của ngài. Ngài đáp: Các ông làm biếng gieo trồng giống lành, lại hỏi công đức của người khác, như người chỉ hỏi lỗ thủng, tìm đường, v.v… ta không lãnh chúng thì sẽ thanh tịnh sáu căn, vì người tổn mình chỉ được Ngũ phẩm nội vị. Rồi lại bảo Duy-na mạng người sắp mất, nghe tiếng đánh chuông, càng chánh niệm sâu, việc mặc tang phục khóc lóc của thế gian đều không nên làm, hãy nên im lặng, ta sắp đi đây. Nói xong, Sư ngồi ngay ngắn như nhập định, Sư mất trước bức tượng đá lớn ở núi Thiên Thai thọ sáu mươi bảy tuổi. Hôm đó là ngày 23 tháng 11 niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy. Khi Sư thị tịch, môn đồ y theo di chúc làm lễ an táng. Vào những năm cuối niên hiệu Nhân Thọ về trước, chợt chống tích mặc áo như lúc còn sống, thấy bảy lần giáng xuống chùa trên núi, một lần vào tháp Phật, hỏi thăm đệ tử rằng: "Ta vẫn làm nghiệp xưa, các ông có an ổn không?" Cả chúng đều thấy, bi kính hỏi thăm, lát sau thì ẩn mất. Sư soạn Pháp Hoa sớ chỉ quán môn, tu thiền pháp, v.v… mỗi loại mấy mươi quyển. Trí Khải là bậc khuôn phép cho đông tây, giáo hóa muôn dặm, các ngôi chùa lớn mà Sư xây dựng có đến ba mươi lăm ngôi, độ tăng chúng có hơn bốn ngàn người, viết kinh một trăm mười lăm tạng, tượng họa bằng kim đàn khoảng mười vạn bức. Người đạo, kẻ tục hơn năm mươi châu đều thọ giới Bồ-tát, không thể chép hết, học sĩ truyền pháp ba mươi hai người, học sĩ tu thiền ở khắp Giang Hán, không thể kể xiết, Sa-môn Quán Đỉnh hầu hạ nhiều năm, nói về hàng trạng sư dài hơn hai mươi trang.
Sư họ Trương, người ở Thanh Hà. Từ khi nhà Tấn thay ngôi, gia đình Sư ngụ ở Lâm Hải, ông nội là Nguyên Tú làm Lương Thương bộ thị lang, giữ chức Nội sử ở Lâm hải, cha ngài là Văn Hoàn là binh tướng quân của nhà Trần. Trí Tảo từ khi học Kinh miệng không nói dối, thân không làm việc gì để thẹn với người, bà con hàng xóm rất mực yêu kính.
Năm mười bảy tuổi, cha mẹ qua đời, Sư bèn vào trụ chùa An ninh, cầu Pháp sư Tuệ Bằng làm thầy. Từ xa nghe tin Trí Giả là bậc siêu quần xuất chúng là bậc thầy dẫn đường tốt cho thế đạo, Sư liền lên thuyền đến thẳng Đài tụ, lạy trí giả thọ học. Trí Giả bảo ngài sám hối Pháp Hoa. Trong đêm đầu của bảy ngày thứ hai Sư trở về giường thiền vừa muốn an tọa thì thấy con rồng chín đầu, từ đất vọt lên bay thẳng lên hư không, sáng mai thức dậy Sư đến thưa hỏi ngài Trí Giả. Ngài nói: Đây là biểu tượng cho chúng sinh trong chín cõi, nghe kinh Pháp Hoa ở đời sau phá vô minh địa, chứng nhập pháp tánh không. Lại vào niên hiệu Chí Đức năm thứ tư đời Trần, Vương Bá Trí ở Vĩnh Dương soạn Mục Tiên Đô đến thỉnh ngài Trí Giả vào ở trong trấn. Trí Tảo theo thầy thọ thỉnh cùng đến Kê sơn, ở hết chín tuần rồi từ giả Vương về chùa Bảo lâm trên núi, thực hành Tam-muội Pháp Hoa. Trong đêm đầu dường như có người lay cánh cửa. Trí Tảo liền hỏi: Ngươi là ai mà đêm đến lay cửa? Nó liền đáp lớn: Tôi đến đây để xem đèn thôi. Cứ đôi ba lần hỏi đáp như vậy. Ở trong chùa xưa trước đây có Thiền sư Huệ Thành là bậc Đại Đức cao tăng. Trong đêm nghe đủ việc đó bèn bảo các đệ từ rằng: Trong thiền thất kia trước đây có một con ác quỷ lớn, nay nghe tiếng này chắc chắn có con quỷ đến bắt người. Khi trời sắp sáng, sư Tuệ Thành gõ cửa gọi Sư, Sư chưa kịp trả lời thì Sư liền dạo quanh thiền đường hô rằng: Khổ thay, khổ thay! Người này tiêu rồi. Sư Trí Tảo liền mở cửa có ý hỏi. Sư đáp: Ngài vẫn còn đấy ư? Tôi cứ tưởng đêm qua quỷ hại ngài rồi. Cho nên mới than như vậy. Sư Thành tâu việc này lên vua, vua sai mấy mươi người cầm gậy ủng hộ. Trí Tảo bảo họ là mạng do nghiệp, đâu cần đề phòng, mong các vị dẫn lính về thành tâu lại với nhà vua như vậy. Người canh phòng đi rồi, qua đêm thứ hai quỷ kia lại vào thiền đường, nện tường đập cột, đi vòng quanh đông tây. Trong thiền đường lúc ấy có sáu ngọn đèn, ngài Trí Tảo bèn tắt năm ngọn chỉ chừa lại một, Ngài hành đạo ngồi thiền tụng kinh, thản nhiên không sợ. Trong hai mươi mốt ngày sự việc cứ xảy ra như thế, khi ngài hành pháp gần xong thấy một đồng tử mặc áo xanh khen là lành thay, nói xong liền biến mất. Sư tuy gặp hai việc này nhưng trong lòng không chút buồn vui. Vào niên hiệu Đại nghiệp năm đầu đời Tùy, vua xa giá đến Giang đô, Trí Tảo được tăng sai đến tham bái, rồi dẫn vào nội điện. Từ xa vua nhìn thấy Trí Tảo, bèn nhường tòa bảo người mời ngồi, hỏi thăm đủ thứ chuyện rồi sai thông sự xá nhân Lư Chánh Phương tiễn Sư về núi, rồi vì ngài Trí Giả thiết trai cúng dường cả ngàn vị tăng, độ bốn mươi chín người xuất gia, cúng dường vật dụng cho chùa ba ngàn thạch hai mươi loại gạo và hương tô, v.v… Trước sau trải qua tám lần. Khi vào tham kiến Thiên tử cả hai đều rất vui thích, vua cúng dường rất hậu. Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười hai Sư mất tại chùa, thọ tám mươi ba tuổi.
- Thích Tuệ Thiệu chùa Chiêu đề đời Tống.
- Thích Tăng Du ở Lô Sơn đời Tống.
- Thích Tuệ Ích chùa Trúc lâm đời Tống.
- Thích Tăng Minh chùa Thạch môn đời Lương.
- Thích Đạo Độ ở núi Nhã-da đời Lương.
- Thích Tăng Ngạn chùa Đại thừa ở Ích châu đời Chu.
- Thích Pháp Sung chùa Hóa thành ở Lô sơn đời Tùy.
- Gia nhân của Thứ sử Tương Vương ở Ky Châu đời Đường.
- Tỷ muội Tỳ-kheo-ni ở Linh châu đời Đường.
- Thích Hội Thông, Báo Lâm cốc ở Ung châu đời Đường.
- Thích Đàm Du núi Nguyệt lãnh ở Tương châu đời Đường (Luận sư Hộ chùa Tây Minh).
*****
Không rõ họ Sư. Lúc còn nhỏ mẹ cho ăn cá thịt Sư nôn ói hết, chỉ ăn rau xanh. Năm lên tám tuổi Sư xuất gia làm đệ tử ngài Tăng Yếu, tinh tấn không mệt mỏi, khổ hạnh miên mặt. Sau đó, theo thầy đến chùa Chiêu-đề ở Lâm xuyên. Ở đó Sư có mật ý muốn thiêu thân, thường thuê người đốn củi, chất ở động đá Đông sơn cao mấy trượng, đặt một cái khám ở giữa vừa đủ để ngồi, rồi Sư trở về chùa từ giã thầy, thầy Sư hết lời khuyên can nhưng không được. Vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi tám, Sư lập đại hội Bát quan trai ở Đông sơn, đồng thời để cáo biệt người thân. Hôm ấy, dân chúng cả vùng tranh nhau nhóm họp về, xe cộ vô số, đồng thời đem vô số châu báu đến cúng dường. Đến đêm hành đạo đầu tiên, Tuệ Thiệu tự hành hương, khi hành hương xong, Sư cầm đuốc đốt củi vào giữa đống củi ngồi tụng phẩm Dược Vương Bổn Sự, mọi người không ai thấy, Sư đạt ngộ rồi thị tịch. Mọi người lễ bái chưa xong, cùng kéo đến thấy đống củi bốc cháy mà tiếng tụng kinh vẫn chưa dứt, lửa cháy lên tới trán, Sư xướng câu nhất tâm, nói xong thì im lặng, đại chúng thấy một ngôi sao lớn như mặt trăng hạ thẳng xuống đám khói, lát sau bay lên trời. Khi ấy, người thấy đều cho rằng các vị trời trên cõi trời đến rước Sư. Ba ngày sau, đống củi mới tàn, lúc sắp qua đời Sư bảo bạn đồng học rằng: Chỗ ta thiêu thân sẽ mọc cây ngô đồng, đừng nên đốn nó. Sau đó ba ngày sẽ ra quả, bấy giờ là năm hai mươi tám ngài Tăng Yếu là thầy của Tuệ Thiệu, cùng là bậc tăng thánh, có nhiều đức độ. Năm một trăm sáu mươi tuổi ngài mất ở chùa.
Sư họ Chu, người ở Dư hàng thuộc Ngô Hưng. Năm hai mươi tuổi xuất gia, bản tánh thuần hậu, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười lăm Sư cùng các bạn đồng học như Đàm Uẩn, Tuệ Quang, v.v… ở Nam lãnh Lô Sơn cùng nhau xây tinh xá tên là Chiêu Ẩn. Ngài Tăng Du thường cho rằng vì thâm tâm kết lụy ở ba đường, tình rồi cũng sẽ dứt, thân cũng sẽ hoại, mà dấu vết của Dược Vương đâu có gì gọi là xa.
Sau đó Sư thường phát thệ muốn thiêu thân. Vào ngày 03 tháng 06 niên hiệu Hiếu Kiến năm thứ hai đời Tống, Sư chất củi thành đống, đồng thời thỉnh chúng tăng thiết trai để cáo biệt. Ngày đó, mây mù phủ kín, dường như sắp mưa. Tăng Du phát thệ rằng: Nếu chí nguyện của tôi rõ ràng thì mong trời trong sáng, nếu không cảm thì sẽ mưa xuống, khiến cho bốn chúng ở đây biết rõ được là có sự thần ứng. Nói xong, trời mây quang đãng. Đến gần sáng đêm đầu Sư vào trong khóm củi chắp tay ngồi thẳng, tụng phẩm Dược Vương, lửa cháy bốc đến thân, Sư vẫn chắp tay trang nghiêm. Đạo tục biết vậy vội vã chạy lên núi, đồng thời cúi đầu làm lễ, nguyện kết nhân duyên. Lát sau thấy khí đỏ vụt lên hư không, hồi lâu mới hết. Bấy giờ, Sư bốn mươi bốn tuổi, mười bốn ngày sau trong phòng Sư mọc hai cây ngô đồng, thân nhánh sum suê, kích thước như nhau, cao thẳng chót vót, nó trở thành cái cây kỳ lạ. Kẻ thức giả cho rằng đó là cây báu bà-la, tiêu biểu cho tướng Niết-bàn của ngài Tăng Du, cho nên y cứ bằng chứng này mà gọi ngài là song đồng Sa-môn. Trương Biện ở quận Ngô là Trưởng sử Bình nam chính mắt trông thấy việc này, nên dùng lời ca tụng:
"Huyền cơ thăm thẳm
Chí đạo mênh mông
Ra sống vào chết
Ai là báu mầu
Từ xưa Dược Vương
Giáo hóa tuyệt luân
Xưa nghe thuyết ấy
Nay thấy người này
Sa-môn tài giỏi
Tuệ định tâm vững
Thần ngưng khí rạng
Hiện tích song thọ
Đức ngài đáng ưa
Nên soạn văn này
Để chan rải khắp"
Ngài là người Quảng lăng, xuất gia từ lúc nhỏ, theo thầy đến ở Thọ xuân. Vào giữa niên hiệu Hiếu Kiến đời Tống Sư đến Kinh đô, trụ chùa Trúc Lâm, siêng năng khổ hạnh, thệ muốn thiêu thân. Mọi người hay tin này, có kẻ chê bai, có người khen ngợi. Đến niên hiệu Đại Minh năm thứ tư Sư bắt đầu nhịn cơm, chỉ ăn một hạt và đến năm thứ sáu lại nghỉ ăn mè mà chỉ ăn dầu bơ, có khi lại bỏ dầu bơ chỉ uống hương hoàn. Tuy bốn đại yếu ớt nhưng tinh thần rất rắn rỏi. Hiếu Vũ càng tỏ lòng cung kính mến mộ, đến thăm hỏi hết lòng, sai đại tể Giang Hạ là Vương Nghĩa Cung đến chùa khuyên can Sư Tuệ Ích nhưng chí nguyện không dời. Đến ngày mồng 08 tháng 04 niên hiệu Đại Minh năm thứ bảy, lúc sắp thiêu thân Sư bèn đặt một vạc dầu ở phía Nam núi Chung. Sáng hôm đó Sư lên xe ngựa nhờ người dắt đến. Từ chùa đến núi. Vì Đế Vương là chỗ nương tựa của muôn dân, là chỗ cậy nhờ của Tam bảo, mà tự thân vào đài, đến cổng Vân long không thể bước xuống, bảo người vào thưa: Đạo nhân Tuệ Ích sắp sẽ thiêu thân nay đến cổng cáo từ, rất mong Phật pháp hưng long. Vua nghe vậy biến sắc, liền bước ra cổng Vân long. Sư thấy vua bèn giao phó Phật pháp rồi mới từ giã ra đi, vua cũng theo đến, Vương tôn, phi hậu đạo tục, thứ dân bao quanh hang núi, họ vứt áo bỏ của quý nhiều không kể hết. Ngài vào trong đỉnh ngồi trên chiếc giường nhỏ, dùng kiếp bối tự buộc, ở trên thêm một cái mũ dài rót dầu vào đó, rồi bắt đầu châm lửa. Vua bảo Đại Tể đến chỗ vạc thỉnh dụ rằng: Đạo hạnh nhiều cửa phương tiện, đâu cần phải dùng cách hủy thân mạng, mong Sư suy nghĩ kỹ về con đường khác. Nhưng ý Sư quá vững, không hề hối tiếc, bèn đáp rằng: Thân mạng bèo bọt này có gì đáng giữ lại, tâm trời ý thánh chẳng phải là mình, mong vua độ cho hai mươi người xuất gia, vua hạ chỉ bằng lòng. Sư tự tay cầm đuốc để đốt nón, nón cháy mới quăng đuốc, Sư chắp tay tụng phẩm Dược Vương, lửa cháy đến mí mắt tiếng tụng kinh vẫn còn rõ ràng, cháy đến mắt thì mới lặng dần. Sang hèn đều than khóc, tiếng vang khắp hang sâu, ai cũng nhất tâm niệm Phật, đau xót gạt lệ. Lửa cháy đến sáng hôm sau mới tắt. Lúc ấy vua nghe tiếng kèn sáo vang lên giữa hư không, mùi thơm bông sơ ngào ngạt. Đêm đó, mộng thấy ngài Tuệ Ích chống trượng đến thăm, rồi phó chúc Phật pháp cho vua. Hôm sau, vua lập hội để độ người, bảo trai chủ xướng bạch trình bày rõ sự việc, chỗ ngài đốt thân vua cho xây nhà Dược Vương để ghi nhớ việc xưa.
Không rõ họ tên Sư, giới phẩm trong sạch, tu hạnh đầu-đà, ở núi Sơn môn, huyện Chiêu Nghĩa thuộc Hào châu. Sau đó Sư lên đỉnh núi xếp đá xây cung trời Di-lặc và tượng Di-lặc, thường tụng kinh Pháp Hoa, ngầm cầu diệu chỉ. Mỗi lần tụng trì thường nghe giữa hư không có tiếng búng ngón tay và xưng tiếng lành thay, đến giữa niên hiệu Thiên Giám, Sư bèn tấu trình lên vua Lương Vũ để thiêu thân, vua do dự nhiều lần mới chuẩn tấu lời thỉnh cầu kia. Sư bèn ở trên tảng đá vuông trước cung Di-lặc, theo chí nguyện trước thiêu toàn thân. Khi thiêu xong thì tảng đá vuông bốn, năm thước bỗng nhiên lún thành ao, trong hai đêm liền, hoa nở trong ao, tươi đẹp rực rỡ. Ai uống nước ao này thì các bệnh đều hết. Người sau lấy tro đã đốt tạo thành pho tượng Sư. Lại khắc một tượng gỗ nhỏ thiêu lại tượng tro, lấy tro trét lên tượng gỗ, người nào dính chất dơ bẩn thì tượng liền dời đi. Chỗ Sư hành đạo đều nở hoa tươi, lớn như lê táo, hơn trăm ngàn đóa. Hiện rõ trên tháp để tiêu biểu cho việc đó.
Lại có một tín sĩ ở huyện Bình lục Giao châu, lạc mất tên họ, nhờ tụng Pháp Hoa và kính ngưỡng tích Dược Vương, sau khi thiêu thân thì đất ấy có nổi lên con rồng hình dạng giống như người. Người cha đến đó đào lên thì thấy một pho tượng toàn thân màu vàng, kích thước bằng thân người, dường như muốn phát ra ánh sáng rồi chợt biến mất.
Sư là người Bình Dương, họ Lưu, kinh hành nhập định trong núi Sùng Cao. Vào niên hiệu Thiên Giám năm đầu Sư mới đến đất Lương, ở chùa Định Lâm, Chung sơn tu thiền. Các pháp quán tưởng của Sư đều muốn đem lại lợi ích cứu khổ ban vui, luôn thực hành từ bi, thành Khang Vương ở nước Lương, Trung Liệt Vương ở Bà dương đều bái phục Thiền sư, thọ trì giới cấm. Niên hiệu Thiên Giám năm thứ mười bảy, Thiền sư tự soạn một trăm bộ Pháp Hoa, sớm tối tụng phẩm Dược Vương. Sau đó Sư ở Giác điện chùa Hoa lâm, khởi tấu lên vua Lương Vũ Đế rằng: Thân là cây độc, thật đáng đốt bỏ, tôi nhàm chán hình hài này đã từ lâu rồi, nguyện cùng Bồ-tát Hỉ Kiến cúng dường chư Phật, sắc chỉ đáp rằng: Nhất định muốn làm lợi ích chúng sinh thì phải tùy duyên tu đạo, nếu thân mạng gặp vô thường thì bỏ vào rừng thiđà thí cho chim chóc muông thú, nhờ đó đàn độ viên mãn, cũng là nghiệp thiện, thi thể tám muôn vi trùng còn không cho thiêu đốt, chẳng phải việc nên làm.
Lại vâng chỉ đáp rằng: Tâm này của Đạo Độ không thể tự định đoạt, đã mong sắc chỉ thì đành phải vâng hành. Vào ngày mùng 03 tháng 08 niên hiệu Phổ Thông năm thứ bảy Sư đến Đông châu, đến chùa Hà lệnh núi Nhã-da lập một thiền thất, thường nói một mình rằng: Việc nên làm nhất định sẽ rốt ráo, cũng đâu cần lo nghĩ gì nữa. Thế là Sư bèn chất củi dần dần, rồi bắt đầu bớt ăn. Vào ngày 03 tháng 11 năm đó, chuông tự reo giữa hư không, chúng tăng ngạc nhiên lo sợ, không lường được sự tướng thế nào, vào ngày 08 tháng ấy chuông lại tự kêu. Ngày 23 Sư bèn thỉnh một trăm vị tăng đến núi hành đạo, khắp nơi quy về đông, có hơn ba trăm người, ngày đó họ cũng xin thọ giới hơn một trăm bảy mươi người. Sư tự nói: Đạo Độ là kẻ phàm phu, vô minh sâu nặng, chỉ có tịnh giới của Bồ-tát kính cẩn ban cho đại chúng để kết duyên lành. Từ đó trở đi Sư bắt đầu nhịn ăn, chỉ dùng bình tắm để múc nước, trong ngày uống một thăng đến sáng ngày 23 cả chùa đều đến thăm Sư, bình phát ra ánh sáng năm màu rực rỡ, tạp khí mịt mờ, đến sáng ngày 29 có mấy vị tăng gồm chủ chùa, v.v… cùng lên thiền thất, từ xa nhìn thấy khám ánh sáng đỏ chiếu ra ngoài. Xế chiều hôm đó chợt có bầy chim năm, sáu trăm con cùng đậu trên một cây, chốc lát mới bay đi, đầu canh hai đêm ấy cả chùa tỏa ra ánh sáng nhiều màu, chói lọi phòng ốc, đến giữa canh năm nghe tiếng lửa kêu răng rắc trên đỉnh núi, họ ngạc nhiên đến xem, thấy Thiền sư chắp tay ngồi trong lửa, thọ sáu mươi sáu tuổi. Thứ sử Vũ Lăng Vương bèn sai người dọn quét sạch sẽ khu đất ấy để xây tháp. Sau đó, nghe trên đỉnh núi có tiếng khánh đá, tiếng thật trong suốt, đúng ngay chỗ trước đây Sư thiêu thân có cây thị lớn chết khô hơn mười năm, khi Thiền sư vào núi thường ngồi dưới gốc cây này, mùa xuân năm sau bỗng nhiên đâm chồi nẩy lộc, khi mới về phương Đông bảo đệ tử Đạo Ẩn rằng: Ta ngàn năm may mắn gặp được Pháp vương, nay làm thân viễn du, chẳng biết ngày nào mới gặp được. Có thọ trì bát sắt thì nên dâng riêng. Đệ tử Đạo Ẩn nghe vậy liền dâng bát sắt. Vua có sắc dụ rằng: Tâm lực của Thiền sư rất quyết đoán, sẽ làm được việc khó làm, còn hy vọng mở mang rộng khắp, lợi ích bốn loài, mà bỗng thác sinh qua đời khác, thật đáng tiếc. Ngài dõi theo dấu vết Hỉ Kiến, cần phải mắt thấy rõ ràng, từ đấy mà suy thì thật đáng vui mừng.
Sư là người Bổn Nhượng, tuy ở Di tục nhưng tâm mến mộ Hoa phong, oai dung đoan nghiêm, cử chỉ nhàn nhã lại thêm thành tựu tánh giới, không làm những việc tàn nhẫn. Dân tộc Nhượng phần nhiều sống ở miền núi, họ thích đi săn bắn, suốt ngày lưới cá bắt thú. Nhưng riêng Tăng Ngạn thì khoanh tay không làm, cha và anh trai thường tức giận và mắng là kẻ nhút nhát, Sư bèn gắng gượng vác dao gậy đi nhưng mỗi lần thấy bầy dê giương cung bắn thì mũi tên phớt qua gần lông, con thú bị chết mà không chút thương tích. Cha và anh tuy thấy nhưng cũng không chút cảm ngộ, Sư biết rằng mình không thể cảm hóa được họ, cho nên từ giã ra đi. Sư đến Ích châu nương Hòa thượng
Sung làm thầy, sau khi xuất gia dốc chí siêng năng, thân không mặc y dài, bát không để thức ăn dư. Thường tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương Bồ-tát, thấy ngài thiêu thân cúng dường Phật, đốt ngón tay để truyền bá kinh điển, suy nghĩ lời này rồi khởi phát thệ nguyện bèn đốt một ngón tay tạo kinh Pháp Hoa, khi Sư sắp đốt người xem thấy vậy ai cũng nghẹn ngào. Sau đó, xây cất điện tháp nối tiếp hành lang tăng phòng, hẹn ngày thiêu thân sẽ mở mang phước này. Lúc ấy, Chu Triệu Vương vén màn ở Ích quận, an ủi, dạy bảo môn chúng dứt bỏ việc loạn phiền, lại thêm kính mến Tam bảo, ủng hộ bốn y. Ngài Tăng Ngạn bẩm tấu việc này với-vua, vua bèn chuẩn tấu, hẹn ngày cáo tấu, xa gần đều biết, củi đốt chất thành đống, dầu thơm rưới khắp, ngày đó vua đích thân dẫn quan liêu đến tham lễ, Trí Ngạn tay cầm lò hương, chân bước vào đống củi, ngồi ngay thẳng trên đó, bảo bốn chúng rằng tâm mình thường nghĩ đến việc lợi ích chúng sinh, ý chẳng tham cầu, nay bỏ thân nhơ uế này để kiến lập Tịnh độ, nếu lời này không luống, thì sẽ thể hiện bằng "nhục tâm", thệ xong thì thấy lửa phát ra. Ngồi thẳng tụng kinh, tiếng tụng rõ ràng, lửa cháy đến mặt tiếng ấy mới dứt. Bấy giờ, trời tuôn mưa hoa rưới khắp thành ấy. Xa gần đều than khóc, già trẻ buồn thương, sẩn thí trấn ủy, vàng ngọc như núi đều đem vào chùa đủ sửa sang điện đường, khi thân đốt hết thì trái tim vẫn còn. Đây há chẳng phải Bồ-tát chứng vị bất thối, cho nên lời thệ không hề sai lầm hay sao? Vua thấy quả tim, phủ phục than khóc Bồ-tát bậc thánh vĩnh biệt từ đây, thảng thốt đau xót, mãi mất đi chỗ nương tựa. Bấy giờ, mọi người đều gọi là Bồ-tát Tăng Ngạn. Vua bưng trái tim về cho xây một ngôi tháp sớm chiều lễ bái, cúng dường luôn luôn.
Sư họ Tất, người Cửu giang, thường tụng Pháp Hoa thông suốt khắp những chỗ khó nhớ. Đồng thời rất thích xây dựng chùa viện, có hy vọng muốn làm trụ trì. Sau đó, đến chùa Hóa Thành trên nửa đỉnh núi Lô sơn tu thiền. Vốn chẳng phải việc tăng thì không hề làm, Sư thường khuyên chúng tăng không cho người nữ vào chùa. Trên là tổn thương sự mở rộng giáo hóa của Phật, dưới bị sự gièm pha của người đời. Nhưng ở đời cơ nghiệp sâu nặng, có kẻ không nghe lời Sư thường than rằng: sinh nhằm thời không gặp Phật là tội duyên, không thực hành chánh giáo, nghĩa đã mất sớm đâu lo gì học sĩ các nơi không giữ giới ư! Sư bèn đứng trên đỉnh núi Hương lư này mà nhảy xuống, thệ tan xương nát thịt để sinh Tịnh độ, Sư ở trong hư không, đầu bỗng ngược lên, dần dần rơi xuống hang sâu, không tổn thương mảy lông, chúng tăng trong chùa chẳng hề hay biết. Sau đó, có người lên đỉnh núi nhìn xuống vực sâu hơn ngàn nhẫn, nghe có tiếng người nói, bèn tìm đến thì gặp Sư. Thân mạng vẫn còn, cho nên miệng vẫn luôn tụng kinh, rước trở về chùa, từ đó chúng tăng cảm nhận được lời răn bi thiết của Sư nên không giao tiếp với người nữ nữa. Sáu năm sau Sư mới thị tịch, lúc bấy giờ thuộc mùa nắng nóng mà thân Sư không hôi thối. Lúc đó, vào cuối niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy.
Ngài họ Cố, người ở Sơn âm thuộc Cối kê, phát tâm xuất gia thờ ngài Trí Giả làm thầy. Sư có dáng chững chạc cao ráo nên được gọi là Đại Chí, lấy việc tu thiền làm bổn sự. Khổ hạnh tự chuyên, tiếng tăm vang khắp bốn phương, không tạo mà tự thành, giọng nói thanh thoát, tướng mạo oai nghiêm. Cho nên người thấy đều ưa thích, biết ngài là bậc phi phàm. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười Sư đến Lô nhạc ở chùa Phong đỉnh, không làm tôi tơ cho công danh, không dự vào hàng ngũ tăng đoàn mà chuyên tụng Pháp Hoa, ung dung nhàn nhã, vô cùng rõ ràng, khiến cho người nghe đều quên đi sự mệt mỏi. Sau đó, Sư ở phía nam ngọn Cam lộ núi Hoa sơn, lập đạo tràng Tĩnh quán, tu hạnh Đầu-đà. Chỉ một thân một mình mà không lánh hổ báo, nghe có thú dữ thường đến đó nhưng chúng không ăn thịt, gạo thóc trên núi đã hết Sư thường bỏ ăn cả ngày, chỉ dùng bánh hoặc hoa quả để duy trì mạng sống mà thôi, người ngoài thấy không kham nỗi sự khốn khổ này nhưng Sư vẫn an nhàn, nhan sắc không đổi. Suốt bảy năm mà sự nghiệp thiền pháp không bỏ dở. Vào lúc lớn tuổi, Sư về trụ chùa Phước lâm ở Bắc sơn, từng vứt bỏ đại nghiệp, lưu lạc ẩn dật, buồn đau cho pháp Phật suy đồi, đến thẳng ở đây, rồi thay sắc phục hủy hình, đầu đội hiếu kinh, thân mặc vải thô, ở trong Phật đường than khóc vang dậy, ba ngày ba đêm không chịu nín, tăng chúng an ủi. Sư nói ta đau buồn đời nghiệp ác này mới khóc như vậy, cho nên muốn hủy hình hài này để thắp sáng chánh giáo, bèn qua Đông đô dâng biểu: Mong bệ hạ mở mang Tam bảo, tôi sẽ đốt một cánh tay ở Sùng nhạc để báo đền ân nước. Vua bèn chuẩn tấu, ra lệnh lập một trai đàn, bảy chúng nhóm họp. Đại Chí ba ngày không ăn, rồi leo lên gác lớn đốt sắt đỏ rực để đốt cánh tay, khi nó sém đen lại dùng dao cắt đứt, thịt đứt lộ xương ra lại đốt xương khiến nó sém đen rồi gói lại đem đốt, ánh sáng sáng rực khắp hang động. Bấy giờ, mọi người thấy sự khổ hạnh của Sư đều đau đến thấu xương, không đứng yên được, còn Sư mặc dầu đốt tay đau đớn nhưng sắc từ không biến, vẫn vui tươi như trước. Lúc đó, có khi tụng pháp cú, khi khen ngợi công đức Phật, nói pháp cho đại chúng nghe, tiếng không dứt, khi đốt cháy hết cánh tay Sư lại xuống gác, nhập định bảy ngày rồi thị tịch trong tư thế kiết già, thọ bốn mươi ba tuổi. Từ lúc Sư bắt đầu xuất gia cho đến khi thị tịch, phong cách như thông trúc, đông hạ một kiểu áo, không mặc bông tơ lụa là, áo vải thô sơ, thường làm như vậy, thân hình trắng trẻo, môi đỏ như son, quần mặc phủ nửa ống quyển, chân mang dép cỏ bồ, lời nói sang sảng, điều hòa gió mây. Có người không biết cảm thấy lạ lùng đến chỗ vị này. Sư chau mày nói rằng: Ta là tiểu đạo nhân Đại Chí chùa Phước lâm ở Lô sơn thuộc Cửu giang đây. Lại có tài văn chương trau chuốt, lời lẽ sắc bén, nên soạn văn thệ nguyện hơn bảy mươi tờ. Ý muốn kết làm thiện tri thức với các chúng sinh. Tăng chúng có người ngang bướng khó kính tin mà khi thấy lời thệ này thì đều gạt lệ. Ngày nay ở phong đỉnh của Lô sơn này mỗi khi đến cuối năm thì thấy chư tăng các chùa nhóm họp lại ở chung một đêm, đọc lời sám nguyện này để làm gương cho đạo tục, điều đó khiến cho mọi người ai cũng chua xót.
Có một gia nhân giữ chiếc Bộ khúc, không rõ tên họ, khi ông lên tám chín tuổi đã thọ trì kinh Pháp Hoa, đêm ngày đọc tụng, quên ăn bỏ ngủ. Vương Gia bấy giờ trấn nhậm Kỵ châu, Bộ Khúc bèn tình nguyện thiêu thân, có cô con gái nên gả cho vương, vương rất yêu mến. Cô ta trình bày sự việc với vương thuận ý, Bộ Khúc bèn ở trong núi tắm gội sạch sẽ và dọn dẹp tươm tất đàn tràng rồi tự thiêu thân. Trải qua cả tháng cô gái ấy bảo người thâu nhặt tro cốt của cha, xương thịt đều rã mà chỉ còn sót lại một cái lưỡi trong tro, sắc thịt tươi hồng, giống như lúc còn sống. Con rể của vua là Vĩ Trưng thấy vậy rất ngậm ngùi và báo với vương đích thân đến xem cúng dường rất ân trọng, sau đó mấy năm mà chiếc lưỡi không hề thay đổi. Tỳ-kheo-ni ở Kinh châu có hai chị em, mất tên húy, họ cùng tụng kinh Pháp Hoa, rất nhàm chán hình hài này nên cả hai đều muốn xả thân, tiết chế ăn mặc, càng thêm khổ hạnh. Sử dụng các thứ dầu thơm dần dần bớt ăn cơm gạo, sau đó dứt hẳn ngũ cốc, chỉ ăn hương mật, tinh tấn vượt bực, thần trí trong sáng, đi khắp nơi từ giã đạo tục hẹn ngày thiêu thân. Thế là vào đêm mồng 08 tháng 02 niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba, cô đắp hai ụ đất, cao giữa đường lớn ở Kinh châu, bèn lấy dây thừng quấn từ thân đến đỉnh đầu, chỉ chừa hai mắt, mọi người kéo lại đông nghẹt, ca tán hết lời, hai cô đều tụng Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương, cô chị lấy lửa châm lên đỉnh đầu cô em trước, rồi cô em lấy lửa châm lên cô chị. Hai ngọn đuốc trong đêm nhất thời vụt sáng, lửa cháy xuống đến mắt, tiếng tụng kinh vẫn còn lanh lảnh, khi xuống dần đến mũi và miệng thì mới dứt bặt.
Đến sáng hôm sau hai thi thể còn ngồi sừng sững, phúc chốc lửa tắt xương cốt tan rã, nhưng hai cái lưỡi vẫn còn, cả chúng đều khen ngợi, họ bèn xây một ngôi tháp cao.
Gần phía tây của thành Châu có một thư sinh, năm đó khoảng hai mươi tư, hai mươi lăm tuổi tụng kinh Pháp Hoa nguyện đốt thân cúng dường, bèn gom mấy bó củi đem phơi cho khô, có người hỏi lý do thì giấu không nói, nửa đêm hôm sau bèn đốt lửa tự thiêu, cho đến khi đến khi có người đến cứu, lửa cháy mạnh quá nên đã chết, họ bèn dụm thêm củi cho thân cháy hết, nhạc trời hương lạ, thơm ngát, ai cũng phát đại tín tâm.
Người ở Túc xuyên thuộc Vạn niên ngự ở Ung Châu. Thuở nhỏ ưa thích đạo kiểm, vân du nơi sông núi, tinh ròng giới hạnh và lấy đó để tu tập. Sau vào động chước Lâm ở Chung Nam, ẩn cư nơi đó để chuyên tu, tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương liền muốn bỏ thân này, thế rồi Sư một mình chất củi khô thệ sẽ thực hành. Vào một đêm thanh vắng cuối niên hiệu Trinh Quán, Sư chất củi trong rừng thành cái khám, tụng đến phẩm Dược Vương thì châm lửa, gió dữ bộc phát, khói lửa ngùn ngụt, Sư vẫn ngồi bất động, tiếng tụng kinh như cũ, có người nhìn thấy hướng Tây nam có ánh sáng trắng rực rỡ, tuôn vào đống lửa, thân mới ngã xuống, đến sáng thì lửa trên thân đều tắt. Mọi người tìm nhặt di cốt rồi xây một ngôi tháp trắng để khắc ghi sử truyện này.
Sư họ Trương, người ở Hứa châu. Sau đó, du học ở Tương dương, rồi bỗng sinh ý tưởng chán nản nhàm lìa. Nhân gặp Thiền sư Vô Hành và Thiền sư Trị ở núi Nguyệt Lãnh mà xuất gia tu đạo, chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Lúc tụng kinh Sư lập một tịnh tràng vuông mấy thước, treo hai mươi mốt tấm phướn, đốt hương rải hoa, sau đó mới tụng, lấy đó làm chuẩn. Sau ở núi Hiện muốn tụng kinh Pháp Hoa, nhiều lần cảm trong mộng thấy có người bảo tụng các bài kệ cho đến khi chuyển sang kinh thì rõ ràng phù hợp với văn kinh. Sau đó nghe ở chùa Trường sa có một thụy tượng bay lên do vua A-dục ra, tạo thật nhiều kỳ tích, nếu không xem thường thân mạng để phục vụ cho đạo thì không làm sao khế hợp với điềm này. Sư nghĩ đến cảnh Dược Vương thiêu thân cúng dường này. Vào niên hiệu
Càn phong năm đầu Sư đến chỗ tượng kia, liền thành phát nguyện. Nguyện không có chướng duyên, liền nghe trước điện có tiếng búng ngón tay, lúc đó mây mù vần vũ suốt cả tuần. Người xung quanh xứ đó sợ rằng có điều gì xảy đến, Sư nói: ở đây hiện điềm lành, chắc chắn sẽ gặp kết quả tốt không nghi ngờ. Vừa đến đêm 15 tháng 02 ngày Đại thanh minh, trăng sáng ngời. Sư dùng sáp bố tự tay, đốt cả đỉnh đầu, nguyện được đốt lâu cúng dường lâu, không muốn chết sớm. Khi lửa cháy đến cổ tay sắc mặt vẫn không thay đổi, lửa cháy đến chân mày vẫn nói pháp như lúc đầu, tâm tràn đầy vui vẻ, mắt chăm chú nhìn thụy tượng, đem ánh sáng cúng dường nguyện được thấy Đức Phật Nhật Nguyệt tịnh minh Đức, mọi người hỏi có nóng không? Sư đáp: Tâm như kim cương, không hề lui sụt, thật quá sảng khoái chẳng chút đau khổ. Lát sau lửa bốc lên ngùn ngụt, cháy khắp trên dưới. Lại ở trong lửa báo hãy niệm Phật, lúc lửa mới phát tăng chúng đều sợ hãi, sợ không còn di thể, chẳng biết tướng thiêu, xin để lại một vật để nghiệm làm chứng răn dạy chúng sinh, cho đến lúc lửa khói tiêu tan chỉ còn lại xương sọ. Sáng sớm hôm sau, cả châu nhốn nháo chạy đến, quan liêu cũng đông đủ, đảnh lễ xung quanh, khen ngợi công đức ấy rồi thỉnh về, mới vào cổng chùa thì xương sọ tự vỡ vụn, hơn mười người có tín tâm cầu thỉnh xá lợi trước kinh cốt, lần lượt rơi xuống tám viên xá lợi, chìm nổi tùy ý, cảm tâm phát ứng. Bấy giờ, thu nhặt tro tàn còn lại chôn ở trong chùa, thường có điềm ứng là tiếng khảy ngón tay.
Gần đó, chùa Tây Minh có Sa-môn Hộ Luận, ban đầu tụng Pháp Hoa, hết một quyển bèn đốt một ngón tay, đến hết tám quyển thì đốt tám ngón tay, vị này mặc dù không xả thân mạng nhưng cũng được xếp vào hàng Di thân.
- Văn Hoàng đế thời Tây Ngụy.
- Sa-môn ở núi người nước ngoài.
- Thích Bảo Trang đạo tràng Mạt lăng đời Tấn.
- Thích Pháp Tướng ở Sơn cư đời Đông Tấn.
- Thích Tăng Sinh chùa Tam Hiền đời Tấn.
- Thích Pháp Tông ở Pháp Hoa đài đời Tống.
- Thích Phổ Minh ở Cao Dật đời Tống.
- Thích Tuệ Quả ở chùa Ngõa quan đời Tống.
- Thích Đạo Thọ ở chùa Kỳ Hoàn đời Tống.
- Thích Tăng Dực ở chùa Pháp Hoa đời Tống.
- Thích Tuệ Tấn ở chùa Cao Tọa đời Tề.
- Thích Hoằng Minh ở chùa Bá Lâm đời Tề.
- Thích Tuệ Dự ở chùa Linh Căn đời Tề.
- Thích Siêu Biện ở chùa Định Lâm thượng đời Tề.
- Thích Pháp Tuệ ở chùa núi Thiên trụ đời Tề.
- Bà họ Phí, vợ của La dữ đời Tề.
- Sa-di ở chùa Quận Đông đời Tề.
- Thích Tịnh Kiến ở núi Sùng đời Hậu Ngụy.
- Thích Bạt Trừng đời Hậu Ngụy.
- Ngự sử Trung Thừa Lục Tái đời Hậu Ngụy.
- Thích Tuệ Quán ở chùa Nam Giản đời Lương.
- Thái thú Vương Yêm ở Tân an đời Lương.
- Thích Tăng Thiên ở Cối kê đời Lương.
- Thích Thông Tử ở chùa Tề Ninh đời Lương.
- Thích Tuệ Độ ở Dư Hàng đời Lương.
- Thích Tăng Hoan ở chùa Trị Thành đời Lương.
- Thích Tăng Định ở chùa Thiền Chúng đời Lương.
- Thích Trí Đăng ở núi Khuông đời Lương.
- Sa-môn Chánh Tắc Du Phương đời Lương.
- Tiên sinh Dữu Tiên Thương Hành đời Lương.
- Thích Bảo Quyết ở núi Khuông đời Lương (lại có thêm vị tăng ở chùa Ngũ Hiệp, có thêm vị tăng ở Ưng châu).
- Thích Chí Trạm ở chùa Hàm Thảo đời Lương.
- Bằng Pháp, Tuệ đời Lương gặp vị tăng ở cõi âm.
*****
* Văn Hoàng đế đời Tây Ngụy húy là Bảo ngự bốn phương mà giúp chư Tử, ở ngôi cao để hộ Chánh đạo, mặc áo châu ở thứ phẩm, chỉ bày giếng trong ở cao nguyên, xây dựng Già-lam, chuyên trì tịnh giới, vào nhà Như Lai, một mình ở đến già, thường tụng kinh Pháp Hoa, để làm tịnh nghiệp lâu dài.
* Xưa có chùa núi Ngoại Quốc, có vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi, thường tụng kinh Pháp Hoa, thường đi kinh hành ngoài chùa. Gặp cô gái La-sát, dáng vẻ rất đẹp, đến khuấy nhiễu Tỳ-kheo này, vị Tỳ-kheo bị mê hoặc, bèn tư thông với con quỷ. Tư thông xong, tinh thần hoảng hốt, không hay biết, con quỷ cõng vị Tỳ-kheo muốn bay về chỗ ở của mình để ăn thịt Tỳ-kheo. Vào đầu hôm, nó bay qua một Tăng-già-lam, vị Tỳ-kheo ở trên con quỷ, nghe trong Già lam có tiếng tụng kinh Pháp Hoa, do đó hơi tỉnh ngộ, nhớ lại các tập khí của mình, bèn tụng thầm, quỷ cảm thấy nặng dần, sắp sa xuống đất, nó cố bay lên nhưng không thể thắng được, quỷ bỏ vị Tỳ-kheo ra đi. Vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi khi thức dậy, nghe có tiếng chuông, liền theo tiếng chuông đến chùa, gõ cửa xin vào trình bày đủ các việc trên. Tính ra, Sư đi xa làng đã hơn hai ngàn dặm. Chư tăng nói người này phạm tội trọng, không được ở chung. Có một vị Thượng tọa nói: Bị thần quỷ làm mê hoặc, chẳng phải tự tâm, đã được thoát khỏi, hiểu rõ được oai lực của kinh, có thể được ở lại chùa, liền cho vị Tỳ-kheo sám hối, về sau, Sư gặp lại người trong làng cũ nên xin về lại Chùa Ngoại Quốc
* Thích Bảo Trang: Còn gọi là Pháp Trang, họ Thân, người ở Hoài nam. Trong niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, năm ấy mới mười tuổi theo Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, làm đệ tử, từ nhỏ lấy việc siêng năng khổ nhọc làm mục tiêu. Đầu niên hiệu Nguyên Gia, Sư ở chùa Đạo tràng Châu Lăng, hạnh nghiệp tinh chuyên, thường tụng kinh Pháp Hoa. Mỗi khi tụng y phục thường sạch sẽ ngồi tòa riêng, đốt hương chắp tay, quán tưởng về Linh Sơn, sau đó từ từ phát ra âm thanh nhẹ nhàng, cho đến hết câu văn. Bữa nọ tụng nửa chừng ở trong phòng, Pháp Trang nghe trước cửa như có tiếng binh trượng, quả thật là Thiên thần đến nghe. Đầu niên hiệu Đại Minh đời Tống, Sư qua đời tại chùa, thọ bảy mươi sáu tuổi.
* Thích Pháp Tướng: Không biết họ Sư, tự nói là người Hà nam. Khoảng niên hiệu nghĩa Hy đời Đông Tấn, bỗng ngộ vô thường, vượt thế tục ở ẩn trong hang núi. Đi ở vô định, rỗng không cõi u nhàn, bất ngờ hiểu rõ được chấp trước, tụng kinh Pháp Hoa ngày đêm không mỏi mệt. Sư đi qua miếu Thái sơn, chiều tối ngủ ở miếu gần nhà dân. Ban đêm dậy tụng kinh, bỗng nghe tiếng gõ cửa, bấy giờ Sư ra xem, thấy có một người mặc áo đen đội mão Quang Võ, thấy ngài rất cung kính nói rằng: Đây là Phủ Quân Thái Sơn, nghe sư tụng kinh, nên đến nghe, đệ tư ở trong miếu, nằm trong một cái hòm bằng đá, có nhiều tài vật, đem cúng dường Sư, Sư nên mở lấy. Nắp đá ấy nặng hơn ngàn cân, không người nào nhích nổi, Sư thử mở, bỗng nhiên mở ra, thế là lấy được một trăm tấm lụa, hơn trăm quan tiền, đem bố thí cho người nghèo. Sau đến Giang nam, ở chùa Việt Thành bỗng nhiên thối chí, buông lung vô độ. Bấy giờ, tướng quân Tư Mã Điềm trấn nhậm phía Bắc, tánh ác vô đạo, mời Sư uống rượu có độc, vừa uống khoảng ba chung thần sắc bất biến, điềm tĩnh không rối loạn, ông Điềm rất lấy làm lạ, hổ thẹn hối hận, sau càng thêm cúng dường.
* Thích Tăng Sinh: Họ Viên, người ở Thục quận, xuất gia lúc nhỏ, do tu khổ hạnh nên được mọi người khen ngợi, Tống Phong Thành Đô mời Sư trụ trì chùa Tam Hiền, tụng kinh Pháp Hoa tu tập thiền định, thường ở trong núi tụng kinh, có khi hổ đến quỳ ở trước, nghe tụng xong đi ngay. Sau đó, mỗi khi Sư tụng, liền thấy có bốn người theo hầu hai bên. Tuổi tuy già yếu, nhưng Sư luôn tinh tấn. Sau Sư bị bệnh nhẹ, liền bảo người hầu "ta sắp đi, sau khi ta chết nên làm lễ thiêu thân, các đệ tử y theo lời di chúc của Sư".
* Thích Pháp Tông: Người Lâm hải, không biết họ. Lúc nhỏ Sư thích săn bắn, thường làm gươm giáo, bắn trúng nai mang thai, nai mẹ ngậm tên mà vẫn liếm con, Pháp Tông bèn tỉnh ngộ, biết các loài đều tham sống, thương con là có tình thức giống nhau, bèn bẻ cung chặt tên, xuất gia tu đạo, thường phân ra giúp đỡ, khất thực ngày ăn một bữa, siêng năng khổ nhọc tu tập ngày sáu thời, để sám hối tội đời trước, tụng kinh Pháp Hoa, Duy-ma thường lên đài tụng ngâm, âm vang xa bốn phương. Các bậc sĩ thứ đến bẩm thọ quy giới hơn ba ngàn người, bèn khai thác chỗ ở để làm tinh xá. Do đó đặt tên là đài Pháp Hoa, sau không biết được Sư mất ở đâu.
* Thích Phổ Minh: Họ Trương, người ở Lâm Vị, xuất gia lúc nhỏ, bẩm tánh điềm đạm, mắt nhìn không quá một bước. Ăn uống đạm bạc mặc áo vải, lấy sám tụng làm sự nghiệp, ba y và giường dây không hề rời thân, nếu muốn nghỉ ngơi, trong khi ngồi lợi dụng ngủ, tụng hai kinh Pháp Hoa và Duyma-cật. Đến lúc tụng có y khác, tòa khác, chưa từng lẫn lộn y phục dơ. Mỗi khi tụng đến phẩm Khuyến Phát, liền thấy Đức Phổ Hiền cỡi voi đứng trước mặt. Khi tụng kinh Duy-ma-cật cũng nghe âm nhạc giữa hư không, lại có thần chú hay, những người được cứu chữa đều lành. Có Vương Đạo Chân người trong làng, vợ bệnh mời ngài Phổ Minh vào cửa, người vợ liền chết giấc, bỗng thấy một vật giống như con chồn, dài hơn mấy thước từ hang chó đi ra, do đây mà lành bệnh, ngài Phổ Minh thường đi bên miếu nước, thấy cúng tự bảo rằng: Thần thấy họ đều bỏ chạy, sau bị bệnh, ngồi ngay đốt hương, bất giác qua đời, lúc đó vào khoảng niên hiệu Hiếu Kiến đời Tống, thọ tám mươi lăm tuổi.
* Thích Tuệ Quả: Người Dự châu, còn nhỏ ăn uống đạm bạc, cực khổ nuôi thân. Đầu đời Tống Sư đến Kinh đô, trụ chùa Ngõa cung. Tụng kinh Pháp Hoa, Thập địa, Sư ở trước nhà xí, thấy một con quỷ rất cung kính, ngài Tuệ Quả nói rằng: Xưa vì chúng tăng mà Duy-ma, còn nhỏ làm không đúng pháp, đọa làm quỷ ăn phân trong nhà xí, Pháp sư đức hạnh cao minh, lại thành ý, xin tìm phương tiện cứu giúp. Quỷ lại nói rằng: Xưa có ba ngàn đồng tiền, chôn dưới gốc cây bông, xin lấy làm phước. Ngài Tuệ Quả bảo chúng tăng đào lên quả thật có ba ngàn đồng tiền, lấy in cho ông một bộ Pháp Hoa và lập trung hội. Sau nằm mộng thấy quỷ này nói rằng, đã được đổi đời tốt hơn ngày trước. Ngài Tuệ Quả qua đời vào niên hiệu Đại Thủy năm thứ sáu đời Tống, thọ bảy mươi sáu tuổi.
* Thích Đạo Thọ: Không rõ người xứ nào, bẩm tánh Sư hào nhã điềm tĩnh, được khen là hiếu kính, thọ năm giới không hề phạm. Vào niên hiệu Nguyên Gia, Sư để tang cha, do đó bị bệnh, bản thân không có đau khổ nào bằng, chỉ còn bộ xương gầy yếu, trải qua năm tháng, chữa trị nhiều cách không lành, nguyện lành bệnh xuất gia. Sau khi lập nguyện, dần dần được bình phục, đúng như nguyện xuất gia ở chùa Kỳ hoàn, tinh tấn vượt bậc, tụng kinh Pháp Hoa cả ba ngàn biến, thường thấy điềm lành, ánh sáng. Đêm mùng bảy, tháng chín niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười sáu, Sư thấy lọng báu giữa hư không, rũ che trên Sư, sau không biết Sư mất ở đâu.
* Thích Tăng Dực: Người ở xứ Dư hàng thuộc Ngô hưng, còn nhỏ đã tín tâm ngộ đạo, sớm có tiết tháo vượt trần. Mới xuất gia, ở Lô Sơn, theo ngài Tuệ Viễn tu học, siêng năng tu khổ hạnh, thấy người đồng môn sư thường tụng một bộ Pháp Hoa. Vào niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ mười ba đời Tấn, Sư cùng các bạn đồng chí đến Cối Kê, thường đi thăm núi sông, đến nước Tần nhìn về Tây bắc, thấy năm ngọn núi liền nhau, có hình dạng núi Kỳ-xà-quật, bèn kết cỏ thành am, đặt tên là tinh xá Pháp Hoa. Ăn uống đạm bạc, hơn ba mươi năm. Qua đời vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mười bảy đời Tống, thọ bảy mươi tuổi.
* Thích Tuệ Tấn: Họ Diêu, người ở xứ Ngô Hưng, còn nhỏ đã hùng mạnh, bản tánh thích dao du hiệp sĩ. Năm mười ba tuổi bỗng nhiên tâm ngộ tự khai mở, Sư bèn xuất gia tại chùa Cao tòa ở Kinh đô, ăn uống đạm bạc, phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa, dụng tâm siêng năng khổ nhọc. Một hôm, cầm quyển kinh liền phát bệnh, Sư bèn phát nguyện, nguyện viết một trăm bộ Pháp Hoa, để sám hối nghiệp chướng đời trước, Sư chứa góp được một ngàn sáu trăm tiền, lúc bấy giờ có giặc cướp đến, hỏi ngài Tuệ Tấn: Có tài vật gì không? Sư đáp: Chỉ có tiền in kinh ở chỗ Phật, bọn giặc nghe Sư nói thẹn thùng mà đi, thế là Sư nhóm họp tín thí, đem tiền in chép thành kinh, đủ một trăm bộ. Sau khi thành kinh rồi, bệnh cũng bớt dần, nhân đó tụng một bộ kinh Pháp Hoa, ý nguyện đã mãn, Sư càng dốc sức bền chắc, thường khác với các phước nghiệp, nguyện sinh về cõi An Dưỡng (bỗng chốc giữa hư không có tiếng rằng "nguyện ông đã đầy đủ, quyết được sinh về Tây phương").
Đến niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba đời Tề, Sư không bệnh mà qua đời, thọ tám mươi lăm tuổi.
Chùa Long Hoa ở Kinh đô, lại có Thích Tăng Niệm, Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, ở ẩn trong thế tục ăn uống đạm bạc.
* Thích Hoằng Minh: Họ Doanh, người ở Sơn âm thuộc Cối kê. Xuất gia lúc nhỏ, cố gắng giữ tiết tháo, trụ chùa Vân môn ở Sơn lâm, tụng kinh Pháp Hoa, tu tập thiền định, tinh tấn lễ sám, sáu thời không nghỉ. Thường mỗi sáng thì bình nước tự đầy, chứng thật là các vị đồng tử cõi trời cung cấp cho Sư.
Ngài Hoằng Minh thường ngồi thiền ở Vân môn, hổ vào trong nhà, ngài Hoằng
Minh nép phục ở trước giường, thấy ngài Hoằng Minh đoan nhiên bất động, nó nằm giây lâu rồi mới đi. Lại có một lúc, thấy một đứa trẻ, đến nghe Hoằng Minh tụng kinh, Sư hỏi "ngươi ở đâu".
Đứa trẻ thưa: Lúc xưa làm Sa-di ở chùa này, ăn trộm thức ăn, nay đọa vào nhà xí, nghe đạo nghiệp của Thượng nhân, nên đến nghe tụng, xin lập phương tiện để trách khỏi lụy. Sư liền nói pháp khuyến hóa, hiểu biết lãnh ngộ. Sau Sư nhập định tại núi Thạch Lạo ở Vĩnh hưng. Lại có Sơn tinh đến khuấy nhiễu Sư, Sư bắt được, dùng dây trói, quỷ lạy tạ cầu tha tội, nói không dám đến nữa, Sư bèn thả, bèn đi mất tích.
Trong niên hiệu Nguyên Gia có Quận thú Bình Xương là Mạnh Khải, quý trọng khí tiết của Sư, muốn Sư ra Tân an, ở tinh xá Đạo Thọ. Sau đến Giang tề thuộc Tế dương, ở ấp Vĩnh Hưng lập chùa Chiêu huyền, lại mời Sư đến ở. Cuối đời Đại Minh, có Đào Lý Đỗng Thị lại lập chùa ở thôn Bá lâm để Sư ở, muốn Sư ở lại, dạy bảo thiền giới, môn đồ sắp thành hàng.
Và niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ tư đời Tề. Sư qua đời tại chùa Bà lâm, tuổi thọ tám mươi tư.
* Thích Tuệ Dư: Người ở Huỳnh Long, đến Dương châu, trụ chùa Linh Căn, lúc nhỏ rất ham học, tham học khắp các thầy, giỏi về bàn luận, mỗi khi nghe bình luận nhân vật, liền bịt tai không nghe. Hoặc có khi dùng lời lạ hỏi ngăn, tiêu chuẩn y bát, ngày dùng một bữa nuôi thân, siêng năng tiết độ, lấy cứu khổ làm trước. Tụng kinh Pháp Hoa, lại tu tập thiền định, Sư tinh chuyên ngũ môn (Tổng chương Phật thể môn, khai trì huệ môn, hiển bất tư nghì môn, chư pháp chánh tánh môn, liễu vô dị tự tánh vô ngại giải thoát môn). Thấy có ba người đến gõ cửa đều y mão sạch sẽ, tay cầm lọng hoa. Tuệ Dự hỏi: "tìm ai". Đáp rằng: Pháp sư sẽ chết, nên đến đón rước. Tuệ Dự nói: Còn chút việc chưa xong, có thể kéo dài thêm một năm được không? Ba người nói: "được?". Sang năm tròn một năm Sư qua đời, năm ấy là niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ bảy đời Tề, Sư thọ năm mươi bảy tuổi.
* Thích Siêu Biện: Họ Trương, người Đôn Hoàng, còn nhỏ mà thần thái tỉnh ngộ tự phát, tiết tháo thâm trầm. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, Kim Cương Bát-nhã. Sau trở lại Kinh đô, trụ chùa Định lâm thượng ở nơi vắng vẻ dày công tu dưỡng trọn đời. Ngài ở chùa tụng kinh Pháp Hoa, quy định ngày một biến, tâm nghe miệng họa theo. Ngoài ra, Sư còn lạy ngàn Đức Phật, tính hơn một trăm năm mươi muôn lạy. Chân không ra khỏi cửa, hơn ba mươi năm. Vào niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ mười đời Tề, Sư qua đời trụ chùa núi, thọ bảy mươi ba tuổi, mai táng ở phía Nam chùa. Sa-môn Tăng Hựu, làm bia mộ thờ Sư, Lưu Tiệp ở Đông quản soạn văn.
* Thích Pháp Tuệ: Sư họ Hạ Hầu mà có chí tinh tấn, hành luật rất nghiêm. Cuối Tống Đại Minh, Sư đến phía đông Vũ Huyệt. Ẩn cư trụ chùa núi Thiên Trụ, một ngày tụng một bộ Pháp Hoa, Sư ăn uống đạm bạc, mặc y phục vải thô. Chí Sư khinh xuất người ngoài, ở trên gác không xuống, hơn ba mươi năm, Vương Hầu dừng xe lễ bái ở phòng rồi trở về. Chỉ có ông Ngung ở Nam Chu, do tin hiểu rất sâu, đặc biệt khế hợp với sư. Bấy giờ, có người mến mộ đều trông mong lễ bái. Hoặc nhân ông Ngung để ý, lúc bấy giờ có một người thấy vào niên hiệu Khiến Võ năm thứ hai đời Tề, Sư qua đời tại chùa núi, thọ tám mươi lăm tuổi.
* Thanh tín nữ: Họ Phí, người ở Ninh thục, thanh tín nữ Phí Duyệt Thứ Sử Ninh Châu đời Tống, tín nữ là vợ La Dữ. Còn nhỏ mà lòng kính tin, tụng kinh Pháp Hoa mấy năm, rất siêng năng không mỏi mệt. Sau bỗng bị bệnh, gắng sức đau đớn, cả môn đồ hoảng sợ, dặn dò mọi người. Họ Phí tâm nghĩ. Ta siêng năng khổ nhọc dụng kinh, phải có sự phù hộ, để không như thế, đưa đến cái chết, rồi nằm ngủ, ăn xong, như ngủ như mộng, thấy Phật trong của sổ trao tay, dùng tay xoa tim người, bịnh liền thuyên giảm, nam nữ tôi tớ trong nhà, đều thấy ánh sáng vàng, cũng ngửi thấy mùi thơm lạ. La Dữ theo em, từ Vương Diễm ngoại tộc từng là phu nhân của Phi Âm Tổ Thượng thư Trung binh lang. Sau đó bớt bệnh trước giường, cũng đủ nghe thấy, phát khởi đại tâm tin ngộ, chí thành đến trọn đời, thường đem điềm lành này khuyến hóa con cháu.
* Sư Thích: Mất tên họ Sư, Sư trụ chùa Đông quận đời Tần. Có một Sa-di, tụng kinh Pháp Hoa rất lanh lợi. Chỉ đến phẩm Dược Thảo dụ, bỏ sót hai chữ ái Đãi, như vậy đến cả ngàn lần. Sư quở trách rằng: Ông tụng một bộ kinh, thuộc làu như thế, há không để ý nhớ hai chữ ấy sao? Những tối đó Sư nằm mộng thấy một vị tăng, bảo rằng: "Ông không nên trách vị Sa-di này, Sa-di đó đời trước ở chùa bên thôn phía đông, làm Ưu-bà-di, vốn tụng được một bộ kinh Pháp Hoa, nhưng khi tụng kinh Pháp Hoa ấy, đương lúc đến phẩm Dược Thảo Dụ, có con cá trắng ăn mất hai chữ "ái đãi", lúc đó kinh không có hai chữ này, vì việc ấy đến đời nay mới được thọ thân, mà tập khí chưa thành. Sư tên Mỗ ấy, kinh cũng thấy còn, có lẽ người không tin, nên đến xem xét. Sư sáng hôm sau đến thôn ấy, hỏi thăm nhà này, nói xong hỏi người chủ rằng: "có chỗ cúng dường chăng?" Người chủ đáp rằng: "có". Sư hỏi: "nơi đó có kinh sách không?". Người chủ đáp: "có một bộ kinh Pháp Hoa". Sư lấy xem, thì phẩm Dược Thảo dụ quả thật thiếu hai chữ. Sư lại hỏi: "người con lớn không có vợ, ở đời trì kinh Pháp Hoa, tính năm Sư chết đến nay đã được mười bảy năm. Quả thật năm giờ tháng thai giống với Sa-di đây. Từ đó về sau lần lần biến đổi theo năm tháng, mới được thuần thục, nhưng không biết nơi Sư qua đời.
* Sư Thích Tịnh Kiến: Không biết Sư người ở xứ nào, Sư xuất gia lúc nhỏ. Phần nhiều là ở Sùng cao và núi Long môn. Sư tụng kinh Pháp Hoa đến mười ba ngàn biến, trong tâm chuyên tu diệu quán, thâm nhập pháp thiền, đã tụng trì lâu ngày, sức khỏe mỏi mệt. Hơn hai mươi năm sau, bỗng nghe phía Bắc của chỗ ở, có các trẻ nhỏ, nói chuyện ồn ào làm Sư bực bội. Sư cảm thấy phiền muộn, cũng không biết các đứa trẻ từ đâu đến. Bấy giờ, có một ông già tóc bạc, mặc áo trắng, thường đến thăm hỏi rằng: "bốn đại của Thiền sư thế nào?". Sư đáp: "dần dần cảm thấy mỏi mệt, lại không biết ở chỗ nào, có rất nhiều đứa trẻ, hàng ngày làm bực bội, lại không thể chịu được". Ông già nói, Sư đến ngồi chỗ bọn nó cười giỡn, đợi chúng cởi áo xuống nước tắm gội, thì Sư ẵm một đứa trẻ lại chỗ áo. Nếu nó đến lấy, thì cẩn thận đừng cho. Nếu nó mắng Sư, Sư dè dặt chờ đáp lại. Đệ tử tự đến nói chuyện, Sư thấy chúng liền đi theo, Lão Tông nói chuyện, đến đợi chúng.
Các trẻ nhỏ, quả nhiên chúng cởi áo xuống ao tắm gội, Sư bèn ẵm được một đứa trẻ lại phòng để y phục, đứa trẻ tìm rồi xin y phục lại. Sư nhớ lời Lão Tông dặn, nhứt quyết không cho lấy lại y phục, đứa trẻ liền nói lời ác, hủy báng Thiền sư, nói đến Tổ tông, sư cũng không đáp lại. Lão Tông tóc bạc tìm đến bảo đứa trẻ rằng: Ngươi hãy vào trong bụng Sư, đứa trẻ mới đầu không chịu nghe theo, Lão Tông ép đuổi mấy lần, mới chịu vào trong bụng Sư, nó ẩn trong bụng. Lão Tông hỏi Sư: "Bốn đại của Sư như thế nào?" Sư nói: Khí lực tốt hơn trước. Lão Tông sắp đi, nói: "từ nay về sau, thể lực ông khỏe mạnh hơn, thiền tụng gấp mấy lần". Có người hiểu biết nói đương lúc đó là Bồ-tát Phổ Hiền, thần núi sai các loại có thuốc, biến thành trẻ nhỏ, sai nó ở trong bụng Sư, trừ hết tật bệnh, Sư thanh tịnh, tức Sư dạy trao pháp thiền cho Thiền sư Mạc. Sau không biết nơi Sư qua đời.
* Thích Bạt Trừng: Sư xuất gia lúc nhỏ, tinh thần ám độn, mà ăn chay trường đạm bạc. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư phát tâm thọ giới cụ túc, tụng kinh Pháp Hoa, nguyện sinh về Tây phương, ngày tụng một hàng hoặc nửa bài kệ, hoặc đều không tụng được. Năm tám mươi tuổi sư mới thông suốt. Sau nhân lúc ngủ nghỉ, nằm mộng thấy một người võ quan mặc áo châu, tay cầm sớ thỉnh, khai thị cho Bạt Trừng rằng: "Thiên Chủ Đế-thích, sai đến kính thỉnh". Sư Bạt Trừng đáp: "Bần đạo nguyện sinh về Tây phương, vả lại trời Đao-lợi, tuy là nơi cao quý, nhưng không xứng với sở nguyện của bần đạo. Người mặc áo châu liền đi ngay, khi thức dậy, Sư gọi các đệ tử, kể hết việc mộng ấy.
Ngày mai lại nằm mộng thấy ngôi tháp bảy tầng, sư Bạt Trừng ở trên tầng thứ năm, nhìn về Tây phương, thấy dây báu làm thềm đường, không có bờ mé, có hai thần Kim Cương cầm chày đứng ở hai bên. Có mấy đồng tử áo xanh, cầm phất màu trắng, quét dọn thềm đường này. Sư hỏi Đồng tử: "đây là chỗ nào?". Đồng Tử đáp: "đây là dây báu thềm đường của Tây phương, đến đón rước
Pháp sư Bạt Trừng. Pháp sư thức dậy, kể lại việc này, bảo các đệ tử rằng: Các ngươi đổi lấy ba y sáu vật của ta, cúng một bữa trai tăng. Các đệ tử y theo lời mua sắm, trước khi trai tăng hỏi đại chúng: "có thấy ngàn Đức Phật đến hay chăng?" Đại chúng bảo "không thấy", Sư lại hỏi "có nghe mùi thơm rất lạ chăng? Đại chúng nói: "nghe". Thọ trai xong, tắm gội cạo tóc, ngồi ngay chánh niệm rồi vãng sanh.
Vào thời Hậu Ngụy, Thái tử đảm nhiệm chức vụ Trung Thứ tử ngự sử Trung Thừa, người họ Ngô, là Trưởng sử Vương Nghĩa Chân Hạnh quán Đại đô đốc Hàm Dương
Tống Võ. Sau ẩn luôn cả hiển hách, do đó tức là Sĩ Ngụy, ông có tài điêu khắc và khéo nói đùa, mà tánh ưa thích vắng lặng yên tịnh, thường lấy Phật pháp làm ý chỉ, thường tụng các kinh, khen ngợi chân lý nhiệm mầu. Ông chuyên tinh đến cuối đời, chữ kinh phát ra ánh sáng, tụng kinh Pháp Hoa, đồng cảm được xá lợi.
* Thích Tuệ Quán: Không biết Sư người ở xứ nào, lưu lạc cư trú ở Huyền Tân, nghe Pháp sư Tiên ở chùa Nam Giản giảng, Sư rất tâm đắc. Sau bỗng bị bệnh nặng, đến khi bớt bệnh tự cố gắng tụng kinh Pháp Hoa, dốc lòng sám hối, tinh thành đã thấu suốt, khoát nhiên tiêu thực, do đó lấy kinh Pháp Hoa làm sự nghiệp. Vua Vương Võ mời Sư vào điện Thọ Quang, không được giảng bên ngoài, do đó biết làm ra nghĩa, ý nghĩa lời nói cung thương, lời lẽ bao gồm dồi dào. Thế tử Tiêu Khuyến Ngô Bình, đến Phiên Châu Linh
Nam mời sư đến đó, giảng rộng kinh Pháp Hoa, người đạo kẻ tục đến quy y, hằng ngày hiện nhiều điềm lành, sau không biết Sư qua đời ở đâu.
* Vương Yêm: Tự Công Viễn, người ở Lâm Tố thuộc Lang Da, Tổ Phổ là Thượng thư Tả Nghiệp Tạ, cha họ Lâm, làm chức Tư đồ Tư Trưởng Sử. Trưởng Công Chủ đã sinh ra ông, ông làm quan đến chức Huỳnh môn Lang Tân An Thái thú, ông chuyên tâm với Phật đạo, sớm chiều không biếng nhác, trì tụng kinh Pháp Hoa nhiều năm. Đệ Cố thứ tám của ông, cũng ăn chay, tụng kinh Pháp Hoa. Vương yêm chết, báo mộng cho ông Đệ Cố rằng: "Ta được sinh về Tây phương, cõi nước Vô Lượng Thọ, thai sinh ở trong hoa sen cánh bằng sắt, hết năm trăm năm mới được ra khỏi thai thấy Phật. Vì tụng kinh Pháp Hoa siêng năng nên được sinh về Tây phương. Nhưng do ngu si đa nghi, nên chịu thai sinh này, thế rồi từ biệt. Báo ứng trên ông nên biết, tụng kinh chớ biếng nhác.
* Thích Tăng Thiên: Người ở Cối kê, lúc nhỏ học rộng, phần nhiều được thông suốt, thường ngày giảng nói, trước tác các kinh sớ, nghĩa lý rất tinh sâu. Tụng kinh Pháp Hoa hơn năm mươi năm. Vào ngày 27 tháng 09 niên hiệu Thiên Bảo năm thứ tư vua Lương Minh, gần sáng Sư nằm mộng thấy Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng, từ phương Đông đến, tay cầm vật trắng chỉ trên đảnh Sư, lúc đó Sư biết là ngài Phổ Hiền, trong tâm rất vui, chỉ có miệng xưng Nam-mô Phổ Hiền Bồ-tát, Sư chưa kịp thi lễ, liền thức giấc. Sau không biết Sư qua đời ở đâu.
* Thích Thông Tử: Không biết Sư người ở đâu, xuất gia lúc nhỏ, trụ chùa Tề Ninh. Vốn thân thiết với Pháp sư Nhẫn ở chùa Kiến Sơ, nghe nghĩa linh diệu rất có ý tứ, Sư tụng một bộ kinh Pháp Hoa, không chấp hạnh nhỏ. Ở Kinh đô bị bệnh dịch, Sư bị bệnh và qua đời. Sư Nhẫn đến thăm, bảo rằng: "nơi thọ sinh xin ông báo cho biết". Sư Thông Tử nói: "Từ trước đến nay thường than thở việc này, nay nhân thiện ác, quyết phải báo cho ông". Được hai năm sau, không rõ được báo ứng. Đến niên hiệu Triều Chánh năm thứ ba, sư Nhẫn đến nhà nọ, thì người nhà đều vào núi hết. Sư Nhẫn ở nhà giữ phòng, trong lúc sư Nhẫn dựa bàn, trong đó lờ mờ thấy ông Thông đến, nói rằng: Lúc sắp qua đời có để lại bài văn, đã lâu rồi muốn báo cho ông, nhưng sự duyên không khai mở được, nên nay mới biết rõ, nay tối làm quan nhỏ ở Thái sơn, cũng không khổ lắm. Sư Nhẫn nói: Lúc bình thường ông tụng kinh nghe giảng, là người có đức hạnh, tại sao mắc quả báo này. Thông Tử đáp: do tôi làm biếng nên mắc quả báo này, nếu không như vậy, thì đâu có mắc quả báo như ngày nay, nói xong rồi đi. Sư Nhẫn do đó càng cố gắng tinh tấn, nhiều hơn ngày thường.
* Thích Tuệ Độ: Sư người ở Ngô Hưng, theo học với luật sư Biện ở chùa Phụng Thành, có Sư giỏi về luật, tinh thông nghĩa lớn ăn chay trường đạm bạc. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, Kim Cương Bát-nhã. Bỗng nhiên bệnh nặng qua đời, năm ngày sau sống lại, Sư tự nói là thấy vua Diêm-la mặc trang phục áo mũ quan, như vua ngày nay, cũng có thị vệ như vậy. Lúc đầu dáng mạo ôn hòa nhã nhặn, cũng phán việc người tội, lại rất tức giận, râu mặt chuyển động khác thường, hỏi xét, có những nghiệp gì? Tôi đáp: Tụng kinh Pháp Hoa. Vua nhún vai rồi búng ngón tay, hỏi tiếp: Tụng thêm kinh gì? Tôi đáp: Tụng Kim Cương Bát-nhã. Vua càng thêm sợ hãi cung kính, mời tôi ra giường vàng, và cho ngồi. Vua thỉnh tôi tụng xong một biến nói: Công đức này không thể nghĩ bàn, Pháp sư chưa hết tuổi thọ, cũng nhờ thần lực của kinh thọ trì, còn kéo dài thêm hai niên kỷ. Sau quả nhiên được hai mươi bốn năm. Sư mất vào niên hiệu Nguyên Gia vua Văn Đế đời Trần, thọ hơn bảy mươi tuổi.
* Thích Tăng Hoan: Không rõ Sư họ gì, Sư xuất gia tại chùa Trị Thành ở Kim lăng. Sư bị bệnh, kém sức khỏe, cho đến dốc lòng sám hối ở dưới tháp, thỉnh cầu tha thiết, tụng kinh Pháp Hoa không ngừng. Thời gian lúc nhỏ sức khỏe đầy đủ. Trước tháp của chùa có hai sư tử bằng đá, thân hình rất lớn nặng, sư Tăng Hoan bỗng nhiên dùng hai cánh tay, mỗi cánh tay xuyên dưới bụng sư tử, đỡ lên vai rồi đi, đi khoảng mười dặm, mà không biết mỏi mệt. Lương Cao Tổ nghe việc đó mà kinh hãi. Vua bèn ra lệnh cho Sư hoàn tục, sai đi chinh phạt phía Bắc mà qua đời.
* Thích Tăng Định: Không biết Sư người ở đâu, Sư tu tại chùa thiền Chúng ở Giang dương, mỗi ngày tụng một bộ kinh Pháp Hoa, tiếng và âm vận rất hay, Sư không cẩn thận đối với tiết tháo, lưu lạc buông lung theo trần tục, nhưng Sư thường cảm được các đồng tử cõi trời, cung cấp hầu hạ, có khi nằm say sưa, pháp y lìa thân, rồi tự nhiên xếp gấp lại, được đem để ngay ngắn, thay y phục dơ, chưa rảnh giặt giũ, thì mặc lại. Lâu ngày có mùi hương tinh khiết, hoặc bình nước tự đầy, hoặc đất thường được quét sạch. Sư say sưa miệng hay khạc nhổ, khi tỉnh rượu thấy đồng tử cõi trời đứng trước mặt, khắp thân Sư dính chất khạc nhổ, tự Sư hạ mình xét lại, noi theo giới luật tu hành, sau không biết Sư qua đời ở đâu.
* Thích Trí Đăng: Không biết người ở xứ nào, còn nhỏ đã có tâm đạo đức. Sư ở đạo tràng Đại lâm núi Khuông, tụng kinh Pháp Hoa, trong ba năm sớm tối không dừng, về sau quán tưởng, bỗng thấy giữa hư không có điện bạc, ở ngay trên đầu Sư. Như vậy trải qua ba năm, điện bạc càng gần, đến trên đảnh Sư, như vậy trải qua thời gian lâu, thì thấy điện bạc bèn biến thành điện vàng, lần lần gần sát, rồi vào trong phòng, mở mắt nhắm mắt thường ở trước giường. Qua hồi lâu sư thử niệm khinh thân vào trong điện, lại thấy mình ngồi ở điện, rất vui thích thoải mái, rồi khởi ý muốn đứng dậy đi ra, liền trở lại giường của mình. Trải qua thử nghiệm như vậy mấy mươi lần, càng dốc lòng tin. Sư đã tu hành nhiều năm, các nơi xa gần khen ngợi truyền nhau, mọi người đến cầu thọ quy giới, người khâm phục ngày càng đông. Nhưng Sư chỉ ưa thích nơi vắng vẻ, nhàm chán không khí ồn ào, Sư cầu thỉnh khắp nơi, nhưng không ai có thể hướng dẫn được. Sau nhân lúc vua Phổ An, từ Ung Châu trở về Dương Tô, nhiều ngày những người dốc lòng tin cầu thỉnh quan tước cùng nhau hướng về đạo. Vua nói: Nếu Pháp sư không nén lòng xét lại, đệ tử sẽ đứng mãi, suốt ngày cũng không ăn ngủ. Vua tha thiết cầu thình, người đạo kẻ tục ấp Quách đều hết lòng khẩn thiết muốn Sư ở lại. Thế là Sư thuận theo tâm chúng sinh. Từ đó về sau những người trong ấp Quách tin theo, cùng vua đến gặp Sư, vua lập tức trình đúng cách lễ của một người đệ tử. Kế đó những người đạo tục trong ấp Quách, cần bàn thọ giới. Sư nói: Ban ngày nói chuyện ồn ào, phần nhiều tâm bị tán loạn, hãy để ban đêm, do đó mọi người hết lòng mong đợi, đến tối nhóm ở trong chùa. Sư đi ra ngồi trước sân tối, không cho thắp đèn, đại chúng đã nhóm họp, chắp tay nhất tâm. Sư liền nói giỏi tướng cho đến thọ giới quy y chánh pháp, thì từ giọng nói phát ra ánh sáng, soi khắp đại chúng. Đại chúng thấy ánh sáng, vui buồn lẫn lộn, tranh nhau lễ bái, âm thanh ồn náo không thể thọ giới được. Sư im lặng không nói, ánh sáng không phát ra nữa. Bản thân muốn thọ giới Bồ-tát, không kỳ hạn lễ ánh sáng. Nay thấy ánh sáng này tranh nhau lễ, mà phế bỏ thọ giới hay sao? Trong giới bổn nói: ánh sáng của giới từ miệng phát ra, đây là chứng minh cho giới tướng, chẳng phải là thật thể của giới. Sư bắt đầu muốn trao giới lại, thì đại chúng lại đứng dậy lễ bái ồn ào lộn xộn, lại nói giới tiếp không được. Sư ngăn lại, dạy phải yên lặng lắng nghe. Nhưng càng ồn ào hơn, qua đêm suốt sáng, người trong thành thị truyền nhau rồi đến xem nên không thọ giới được. Ngày mai Sư liền trở về núi, lại thấy điện vàng, do đó bèn đến các bạn đồng hành, nói lại những việc Sư đã thấy. Sư lên điện rồi không trở ra nữa, mấy ngày sau thì qua đời.
* Thích Chánh Tắc: Không rõ Sư thuộc xứ nào, vì đời trước có gieo trồng nhân tốt, nên sớm có lòng tin ngộ. Sau khi đi tu, Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, Sư thường cùng với Pháp sư Tố chùa Trị Thành đồng ở một mùa hạ. Pháp sư Tố lúc đương giảng kinh Pháp Hoa, ban đêm phải xem kinh mà đèn bị tắt, muốn ra ngoài lấy lửa, nghe Sư Chánh Tắc tụng kinh Pháp Hoa, âm vận rất lớn, Sư
Tố hỏi có ý hiềm nghi, Sư muốn qua nói với Sư Chánh Tắc, Sư mở cửa vén rèm định đi ra, bèn thấy người và ngựa đứng đầy chùa, họ mặc giáp cầm giáo, hoặc ngồi hoặc đứng, đến phòng Chánh Tắc xem. Pháp sư Tố bèn không dám ra lại, phải trở về chỗ cũ. Trong chốc lát tiếng tụng kinh ngừng, Pháp sư Tố lại vén rèm nhìn vẫn thấy vẫn người và ngựa, đứng giữa hư không, nên suy ra mà biết đây là thiên thần đến nghe. Hôm sau Pháp sư Tố đến hỏi. Sư Chánh Tắc nói: Đêm qua tôi tụng kinh, bất giác âm thanh lớn, chỉ làm cho vui thích. Pháp sư Tố về sau thường khen ngợi người tán tụng, người nghe càng thêm dốc lòng tin.
* Dữu sằn: Tự là Ngạn Bảo, người ở Tản đà, Tổ tiên ông là đại phu nhà Chu. Sau đời sau Tổ Hãm, là Tán Kỵ Thường Thị Toại Xương Huyện Hầu đời Tấn. Tổ Toản Chi, tự Đạo Lập, là An Tây tham Quân. Thúc Phụ tự Đạo Mậu là Thừa tướng tham Quân. Dữu Sằn lúc nhỏ siêng học võ nghệ, lớn lên tinh thông thuần thục. Ông giỏi về kinh sử bói toán, cơ bản của sách tính toán tài tình, họa vẽ khéo léo, chẳng có điều gì không thông suốt, rất ưa thích suối đá, trí nhớ thứ lớp không quên, nhà ông có mười mẫu ruộng, núi ao cả phân nửa, đệ tử ở các thành, phần nhiều là Thái ấp, đã thường thi đậu, đều là do đây, không lo lắng sản nghiệp, y thực thô sơ đạm bạc. Ông thường gặp lửa, dừng lại đưa ra mấy sọt sách, lại ngồi trên ao, vì có người đem lửa đến hỏi: Ông đáp: "chỉ sợ đốn cây trúc". Ông từ ruộng lầy trở về nhà, chở năm trăm hộc gạo, có người gởi chở ba mươi hộc, đã đến Hàng châu. Người ấy nói: Ông có ba mươi hộc, tôi có một trăm năm mươi học. Ông Sằn im lặng hồi lâu, đều không noi một lời, theo chỗ để gạo đó mà lấy, ông cũng không nói. Có người nghi là người ở gần khéo về trộm. Ông Sằn bèn y cứ theo đó mà hạch tội, mọi việc đều được khâm phục. Ông thương xót, dùng sách viết gán nợ hai mươi muôn tiền, cho học trò giả làm kẻ trộm, những người thân thích đến xin đền bù thế, người bị tội kia được thả, rất cảm ơn ông. Ông nói: Ta thương người trong thiên hạ vô tội, vốn không mong ông báo đáp cảm ơn. Bình thường hằng ngày chẳng có nơi nào không đi dạo như Liễu Uẩn Hà đông, Vương tú Lang da, Tiêu dinh Tào Lang lăng, và Tương khâm thượng muốn kết giao với họ. Ông Sằn không để ý, thở dài với gió mây, ông nghiên cứu then chốt có không, từ đó cho mình tự đầy đủ, đi qua nước Lương, nước Phổ hết mười năm. Vua phía Đông sông Tương ở nước Phiên, thọ ký cho Tham Quân cái thất. Trong nhà lập đạo tràng, đi lễ sám chung quanh, ngày đêm sáu thời không nghỉ, tụng kinh Pháp Hoa, ngày đêm một quyển.
Hơn ba mươi năm sau, trong khoảng mấy đêm có vị đạo nhân, tự xưng là Nguyện Công dung mạo phi phàm, nghe tụng kinh khen ngợi, gọi ông Sằn là Thượng Hành tiên sinh, vị đạo nhân trao hương cho ông Sằn rồi đi. Vào ngày 11 tháng 03 niên hiệu Đại Thông năm thứ tư đời Trung Nguyên, trong lúc nằm bỗng nhiên ông nói: Nguyện Công lại đến, ngay lúc đó ông cũng không đau buồn, nhan sắc không thay đổi, nói xong ông qua đời, thọ bảy mươi tám tuổi. Sửa vườn nhà thành chùa, gọi là Thượng Hành. Họ thường cho rằng: Trong thế kỷ Đế Vương nhờ xem xét lại, soạn lại lịch sử đế vương hai mươi quyển, kế là Quách Phác Chu dịch Tân Lâm hai mươi quyển, Giang Lăng ký một quyển.
* Thích Bảo Quyết: Sư là đệ tử của Trương Hiếu Tú. Sư xuất gia tại chùa Khuông Sơn. Sư tụng kinh Pháp Hoa, rất thông suốt, mà không thể thâu nhiếp được thân miệng. Vua Thiêu Lăng nước Lương chê Sư, đến tối vua sai hai người âm thầm đến giết Sư. Đương lúc sư nằm ngủ trên giường, bỗng nằm mộng thấy có bốn người đến trước giường, lay tay Sư nói: "Vua Thiệu Lăng sai người đến giết Sư, ông làm sao ngủ yên được, do đó Sư kinh hoảng thức giấc, liền đứng dậy đến phía sau mở cửa, biết trước nhà có tiếng người, tâm Sư càng hoảng sợ, ra đến sau phòng, thì có ao nước, vì chưa từng lội xuống, nên không lường được sâu cạn. Trong lúc hoảng hốt, Sư bỗng thấy một chiếc thuyền có hai người chống sào đợi, Sư bèn xuống thuyền, đến bờ kia rồi, liền thấy vua Thiệu Lăng sai hai người đến đã ở bên ao, nhưng ngại vì dòng nước không qua được, Sư từ đó về sau hết lòng đọc tụng, Sư khéo phân tích khế hợp, mọi người noi theo, người đương thời gọi Sư là Lô Sơn Sát Khế.
* Thích Chí Trạm: Sư ở sơn trang thuộc Tề châu, là đệ tử của cháu Lãng Công. Sư lập hạnh thuần hậu, xét việc ít nói, dùng lòng nhân cứu giúp làm chánh. Sư thường dạo chơi với các cầm thú, các loài thú cũng không làm loạn. Sư trụ chùa Hàm Thảo trong hang sâu núi Nhân đầu. Chùa xây dựng vào thời Cầu-na-bạt-ma đời Tống. Sư đọc tụng Pháp Hoa làm sự nghiệp. Đến ngày sắp qua đời, Sa-môn Bảo Chí tâu vua Lương Võ rằng: Có người ở huyện Sơn Trang phía Bắc, nay ở chùa Hàm Thảo, là bậc thánh tăng chứng quả Tu-đà-hoàn, nay nhập Niết-bàn, người đạo kẻ tục ở Dương đô, nghe Bảo Chí nói việc ấy, mọi người đều từ xa lễ bái Sư nên về việc qua đời của Sư, yên lặng không có não loạn, Sư an nhiên tắt hơi, hai tây mỗi tay duỗi một ngón. Có vị tăng ở Tây Thiên-trúc, giải thích rằng: Nếu ngài chứng quả thứ hai thì duỗi hai ngón tay, thì suy ra ngài Chí Trạm chứng Sơ quả, an táng Sư ở núi Nhân Đầu, xây tháp thờ Sư bằng đá vôi bùn đất, chim thú không dám làm dơ uế lăng. Nay lăng tháp vẫn còn.
Lại có vị tăng ở chùa Ngũ hầu ở Phạm Dương, mất tên Sư. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, lúc Sư mới mất, tẩn liệm tạm thời, sau an táng nơi khác, hài cốt Sư khô ráo, cuống lưỡi không vữa nát.
Ở Ủng châu, có vị tăng cũng tụng kinh Pháp Hoa, Sư ở ẩn trong núi Bạch lộc, Sư cảm hóa một đồng tử thường đến hầu hạ, đến lúc chết an táng thi hài Sư dưới vách núi, hài cốt Sư đều khô mục, nhưng cuống lưỡi còn nguyên.
Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ tư đời Lương. Vua Trương Đông, hiệu là Thừa Thánh, sai tăng Biện Vương Đại Úy, chinh phạt Hầu Cảnh, kế là ở Nam Lăng, Tăng Biện sai Bằng Pháp Tuệ đến Giang Bắc đốc quân giúp đỡ, thì Pháp Tuệ chết. Năm ngày sau, Pháp Tuệ sống lại, nói rằng: Tôi đến chỗ vua Diêm-la, thấy dưới bệ có một vị tăng, vua trước hỏi vị tăng rằng: Lúc còn sống ông làm nghề gì? Vị tăng đáp: Tôi tụng kinh Pháp Hoa, vua sai người lấy tòa cao, tòa ấy rất đẹp, vị tăng đó lên tòa, tụng được bốn tờ kinh, vua đứng dậy đến trước tòa, đảnh lễ ba lạy, vua sai người đưa vị tăng lên.
Vị tăng ở Đông lâm chùa Linh nham thời Bắc Tề.
Dạo núi đào đất ở Tinh Châu Thời Bắc Tề được cuống lưỡi.
Thích Đạo Thọ ở đảnh núi Thọ môn đời Bắc Tề.
Thích Linh phẩm đời Bắc Tề (phụ Lão của Sư).
Thích Pháp Ái ở Tăng đô thuộc Giao châu đời Trần.
Thích Pháp Tuệ ở chùa Khúc Thủy thuộc
Thọ xuân đời Trần
(phụ thêm Hoa Thủ Ni, và Đông xà-lê).
Chương thị, vợ Quang Lộc Đại phu Trần Lăng đời Tùy.
Thích Tăng Sinh chùa Linh Nham ở Tề châu đời Tùy.
Cư sĩ Phạm Hạnh Vương ở Lang Da đời Tùy.
Thích Tuệ Hướng ở huyện Giang đô đời Tùy. (phụ Ni Pháp Nhuận).
Thích Bảo Thông ở Cao mang đời Tùy.
Thích Tăng Anh chùa Vĩnh tề ở Giang Dương đời Tùy.
Thanh tín sĩ Lục Thuần đời Tùy.
Thích Pháp Lăng ở chùa Tịnh đạo đời Tùy.
Thích Tuệ Bân ở đạo tràng Thiên tư đời Tùy.
Thích Tuệ Giai ở chùa Trường lạc đời Tùy.
Thích Trí Việt ở núi Thiên Thai đời Tùy.
Thần Dị tăng Thích Tăng Lãng Ngạc Châu đời Tùy.
Thích Huyền Tú chùa Tùy hóa ở Huỳnh châu đời Tùy.
Thích Tuệ Trĩ ở Thỉ Dự đời Tùy.
Thích Trí Nghiệp chùa Trường lạc ở Dương châu đời Tùy.
Cao Thủ Tiết ở Tinh châu đời Tùy.
* Vào thời vua Cao Tề có vị tăng, mất tên Sư. Sư ở Đông lâm chùa Linh nham, tụng kinh Pháp Hoa, thường ngày rất tinh tấn chí thành tha thiết, trong tâm lúc nào cũng biểu lộ sự trong sạch thanh tịnh. Đốt hương lễ Phật, để cầu chứng nghiệm. Lúc đầu có con rắn lớn và các loài chim trĩ, hươu nai, đều đến đứng nghe, chúng nghe tụng xong rồi đi, lúc ấy thần núi đem thức ăn đến cúng dường. Sau bỗng thấy ánh sáng, từ núi phía đông chiếu xuống, có Đại Bồ-tát cỡi voi trắng sáu ngà, đại chúng vây quanh, thẳng đến trước vị Đại Bồ-tát, chúng tăng hướng về ánh sáng lễ bái, thân tâm rất vui mừng. Nghĩa nghi thiếu văn, Sư bèn giải thích cho họ hiểu, còn các chúng chỉ nghe mùi hương lạ, hồi lâu mới tan.
* Vào thời vua Văn Thành Tế đời Tề, ở phía đông Tinh châu thấy bên núi có người đào đất, thấy được một chỗ đất, màu của đất vàng nhạt cùng với núi bên cạnh có điềm lạ, tìm thấy một vật giống như hai môi người, không ai hiểu được việc ấy. Có Sa-môn Đại Thống Pháp tâu lên vua rằng: Đây là người trì kinh Pháp Hoa, nên được quả báo sáu căn không hư hoại, tụng đã ngàn lần, nên suy niệm việc ấy. Bèn bảo Nhân Cao Trân của nhà Lặc Trung Thư rằng: "ông là người có lòng tin với Phật pháp, tự đến xem xét, chắc có linh nghiệm lạ, bèn dời đổi chỗ làm nơi thanh tịnh, thiết trai cúng dường. Ông Trân vâng bèn đến chỗ ấy, nhóm họp các Sa-môn trì Pháp Hoa, đốt nhang thiết trai cúng dường. Các vị Sa-môn đi nhiễu quanh mà chú nguyện rằng: Niên đại Bồ-tát Niết-bàn đã xa, tượng pháp lưu hành, người phụng trì không lầm, thỉnh Bồ-tát hiện tại cảm ứng. Các vị vừa mới nói ra tiếng, thì môi lưỡi của các vị này, đồng thời cổ động, tuy không có tiếng vang, mà giống như đọc tụng, mọi người đồng thấy, khắp mình nổi ốc. Ông Trân nghe thấy hiện tượng trên bèn ra lệnh dời đổi kho thạch hàm, làm tháp và phòng thất v.v…
* Thích Đạo Thọ: Sư người ở Thạch nhàn thuộc Thọ xuân, ăn chay trường đạm bạc, Sư tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày một bộ, thiền định thông suốt. Khắp nơi xa gần đều nể phục cung kính, Sư trụ chùa Sơn đảnh ở Thọ môn. Bấy giờ, ở xóm làng, có nhà cúng dường, Sư đến nhà đó xin y thực, mục đích là chuyển nguy ách của họ, là đem các vật ấy đi luôn, thì tại chướng dời chuyển, nếu để lại các vật ấy, thì tai họa không dứt được.
Có người họ Trịnh, thỉnh Sư Đạo Thọ thọ trai. Khi tụng kinh vừa xong, ngồi thẳng suy nghĩ, Sư bỗng nói: "suy ra biết tướng ông không tốt, tôi thấy một quan tài, phá chỗ ấy mà vào, rồi từ chỗ đó mà sinh. Thế là cả nhà lần lượt đến hỏi, đều nói là sai. Có người vợ mới rất nhỏ nói: "có phải là ông chăng?" Sư Đạo Thọ nói "Ngươi nên khéo dụng tâm, lúc nhỏ người này vì sinh mà chết. Lại đồng thời, các ni ở chùa Trịnh, cùng học kinh, Sư Đạo Thọ đến xem, đến Sa-di, Sư nhìn nghiêm nghị bảo rằng: Ông phải sám hối. Hơn hai năm đứa trẻ bị bệnh nặng muốn xin con đường sống, nhưng quả nhiên như lời nói của Sư, dự ký suy nghiệm nhiều việc, năm hơn chín mươi tuổi thì qua đời, tức là trong niên hiệu Thiên Bảo.
* Thích Linh Phẩm: Không rõ người xứ nào, Sư hiểu biết thông suốt, minh mẫn, thường tụng kinh Pháp Hoa. Lúc đầu, Sư tụng kinh xong, lại bị bệnh nặng, có Sư kể lại rằng: "Ông Phẩm nghe thọ trì Pháp Hoa, được sáu căn thanh tịnh, vì sao ông Phẩm tụng kinh mà mắt bệnh này". Sư ấy nói rằng: "khi ông tụng kinh, hoặc không rửa tay, hoặc lật che, thoạt để chân phía sau, thoạt đầu để trên đầu giường". Sư nói với Linh Phẩm. Đây là thiên thần hộ pháp quở phạt ông, ông không quan tâm đến kinh nên không có đức cảm hóa, ông nên sám hối. Sư Linh Phẩm làm cái hòm bằng gỗ trắng, Sư đựng kinh đội trên đầu, đi kinh hành trong chánh điện, trừ khi đại tiểu tiện và ăn uống, tự nhẫn đầu bị chảy máu, tự trách lỗi mình. Thực hành như vậy suốt ba năm, đến canh năm gần sáng, có người gõ cửa điện Phật, kêu sư Linh Phẩm mở cửa, sư Phẩm ban đầu không chịu và nói: Đây là người tội, làm sao có sự rảnh rỗi mà mở cửa cho ông, người kia gọi Linh Phẩm không thôi. Sư Linh Phẩm bèn mở cửa cho người kia, thì thấy một ông lão râu tóc trắng xóa, tay cầm một tích trượng, liền đánh sư Phẩm liên tục và nói: Từ nay trở đi ông còn dám khinh lờn kinh Pháp Hoa nữa không? Đang lúc sư Phẩm bị đánh thì vết thương trên thân lành đi, và bốn đại bình phục. Sáng hôm sau thấy trước điện Phật, có dấu chân voi, mới biết ông lão này là Bồ-tát Phổ Hiền, đến trừ tội cho Sư. Từ đó về sau Sư sám hối sửa đổi, siêng năng tụng tập. Sau không biết nơi Sư qua đời.
Lại tiếp theo đó có Lão Củ Sư, cũng lấy kinh Pháp Hoa làm sự nghiệp tu hành, khi trì tụng Củ Sư, cảm thấy trong miệng có vị ngọt la, ở đời chẳng có được, cho nên Sư tụng kinh Pháp Hoa không ngừng nghỉ.
* Thích Pháp Ái: Sư ở xứ Trường sa, xuất gia từ nhỏ, Sư không thể ăn chay đạm bạc khổ hạnh, tụng kinh Pháp Hoa rất thông suốt và nghe Tam luận.
Vào đời Tùy, ở Giao chỉ thuộc Tấn chinh gặp lúc người Giao chỉ phản loạn, Sư Pháp Ái trốn đi. Bỗng nhiên bị năm tên giặc bắt được, để Sư ngồi một chỗ, chúng nói rằng: Đợi ta ăn xong, giết tên đạo nhân này. Pháp Ái bèn thấy bên đường có một cây giáo, Sư ôm đem ra ngoài, đi thẳng về phía Bắc, gặp một cây đại thọ, đứng núp bên cây. Bọn giặc ăn xong đứng dậy, từ xa thấy giống như ngài Pháp Ái, rồi tiến đến chỗ Sư, khi đến gần thì không thấy, chúng tự bảo nhau rằng: Người đi đến từ xa thấy giống như đạo nhân, sao đến không thấy, đúng là ông ta đi rồi.
Pháp Ái một lòng cầm giáo không dám cử động, bọn giặc quay đầu lại nhìn từ xa, dường như có người nhìn chăm chú, bỗng nói rằng: Đạo nhân đã đi rồi, bọn giặc cùng nhau đuổi theo. Sư đi về hướng Bắc, đến một rừng gai, liền nhảy vào rừng gai trốn, bèn gặp hai con hổ ôm nhau ngủ, hổ thấy Sư đến, đều ngẩng đầu nhìn, Sư càng hoảng sợ, miệng nói: "hai vị Đàn-việt, bần đạo bị giặc đuổi, vội nhảy vào chỗ của Đàn-việt, xin kịp thời đến cứu giúp". Hai con hổ lập tức ra ngoài rống lên kinh động, bọn giặc liền chạy lùi. Sư lại đi về hướng Bắc, hổ đi theo, đến bên một con sông thấy người, đem vài miếng thức ăn uống trao cho Sư, Sư nhận rồi ăn, thức ăn ấy chính là gạo rang cao, mùi vị rất ngon, Sư liền qua sông Châu, thì hổ bỏ đi, Sư ở lại Thượng châu, lại gặp hai người, cũng đồng ở trọ, thiết đãi món ngon tuyệt vời, đến sáng mới từ biệt, người khách lại dặn rằng: "chỉ nên đi về hướng bắc, bản thân mới được thoát, Sư bèn đi về hướng bắc hơn ba mươi dặm, gặp lại bạn cũ, cũng đang chạy giặc, gặp nhau vui mừng, mới được thoát khỏi. Từ đó về sau, người đạo kẻ tục đều nói về sự tích Ngài, không biết Sư qua đời ở đâu.
* Thích Pháp Tuệ: Không biết họ Sư, Sư xuất gia trụ chùa Khúc Thủy ở Thọ xuân, chay trường đạm bạc, Sư không nhận của bố thí, không tham không sân, tâm hạnh giọng tốt, y phục bằng vải thô, không ở phòng nhà chỉ có giường dây, Sư ở dưới hành lang, mỗi ngày tụng một bộ kinh Pháp Hoa. Lúc tụng, miệng Sư có ánh sáng, người đến xem đều thấy chiếu ở mái hiên. Sư qua đời năm bảy mươi tuổi, tức vào thời Trần Tuyên.
* Tỳ-kheo-ni Hoa Thủ: Lại có Tỳ-kheo-ni Hoa Thủ ở huyện Cao du, cô tụng kinh Pháp Hoa, vừa xong quyển một, thì trên ngón tay phải, liền mọc một bông hoa, hình dáng giống như rau củ ấu, cô tụng năm quyển như vậy, thì trên năm móng tay, mọc ra năm bông hoa. Kế tụng quyển thứ sáu, thứ bảy thì trong bàn tay mọc hai hoa, hình dáng lớn như trước, người ở đó nhân việc ấy gọi là ni Hoa Thủ, ni Hoa Thủ cũng không thể khổ hạnh được. Võ Đế đời Trần, triệu kiến xem việc ấy, sau không biết cô qua đời ở đâu.
Lại ở chùa Trường can có vị Đông Xà-lê, tụng kinh Pháp Hoa, rất có tiết hạnh. Khi Sư tụng bình thường có điều lạ, như bình nước mùa hạ thì lạnh mùa đông thì ấm, là thường hầu Sư như vậy.
* Thanh tín nữ: Họ Chương, vợ của Trần Lang Phu Thạch Quang Lục đời Tùy. Tín nữ tụng kinh Pháp Hoa, thường sám hối cho bốn đại đã suy kém, không thể tụng lâu. Bỗng nhiên tín nữ nằm mộng thấy vị tăng, cầm một bát thuốc màu vàng, đến trước cô trao cho và bảo uống, trải qua thời gian ngắn, vì đau bụng nên cảm thấy lo sợ, bụng đau quá, liền sai Kiêu Lăng đến, Cô bảo rằng: Người đời nói, nếu nằm mộng thấy đạo nhân, phần nhiều là quỷ. Nay nằm mộng thấy uống thuốc của đạo nhân, tức là uống thuốc quỷ, chắc chắn sẽ chết, nói xong bảo Lăng tránh đi. Trong chốc lát tín nữ đi kiết lỵ, thuận là sắc huân, giống như nằm mộng đã thấy. Khi đi kiết xong, thì các bệnh đều lành, từ đó về sau thân thể khỏe mạnh, thường hay đọc tụng, ngày đêm một quyển, không còn cực khổ nữa.
* Thích Tăng Sinh: Không biết Sư họ gì, là người ở Vệ châu. Đến niên hiệu Khai Hoàng năm thứ sáu Sư đến Tề Châu, người xứ ấy nhà không có chỗ ở nhất định, chỉ có đất Già-lam, bất luận là tăng hay tục, vẫn ở trong đó, khất thực tụng kinh, thời hạn đủ một biến, sau đó mới dời đi nơi khác. Năm ấy, Sư đến đạo tràng núi Bảo linh nham, ở trong Lan-nhã, Sư chỉ trì tụng kinh. Đêm ấy, Thần núi dẫn mấy mươi người đến nghe. Sư hỏi: Thần Đàn-việt ở đâu? Thần đáp: "đệ tử là thần núi phía bắc, thần ở đây đã hơn ba trăm năm rồi, nay nghe Pháp sư tụng kinh nên đến nghe kinh", cúi phục nghe Sư tụng kinh, hồi lâu mới đi, từ đó về sau thường lệ như vậy. Về sau, Sư đến Tương châu, dựng lập tạng kinh, một tháng mười ngày mới xong.
Ý Sư muốn đốt đèn trong mắt để cúng dường mà Sư không thể tự móc mắt được, Sư bèn mua một con dao dài năm, sáu tấc và một quan tiền, Sư vào núi tìm thợ săn. Thợ săn nói: Không cần tiền của Sư, chỉ cho đệ tử con dao ấy, người thợ săn liền móc mắt Sư, thân thể Sư máu ứ xanh, rồi sau đó mới tỉnh lại, Sư tỉnh lại nói với thợ săn rằng: Hãy đem lửa đến đốt mắt này. Thợ săn đem lửa đến đốt mắt. Sau đó Sư trở về chùa Pháp tạng ở Tương châu, đốt đèn cúng dường, tụng kinh không nghỉ, nếu mọi người ai muốn thỉnh xálợi của Sư, tạm thời phải thúc liêm thân tâm, đợi xuống năm, ba hoặc thời gian bảy ngày nhiếp niệm, liền chứa đủ mấy trăm, đạo tục xa gần, rất kính mến Sư, Sư qua đời vào niên hiệu Khai Hoàng năm thứ bảy.
* Thanh Tín Sĩ họ Vương: Ông là người có phạm hạnh, người ở xứ Lâm nghi thuộc Lang gia. Ông bị mù hai mắt từ nhỏ, người mẹ rất từ bi, ông tụng kinh Pháp Hoa đến mười ba năm, tụng rất thông suốt, ngày đêm tụng tập, rất đỗi chuyên tâm, tụng được một muôn bảy ngàn lần, mắt tuy không thấy, mà đi lại, không cần người dẫn đường, ông tự biết hầm hố, có thể dệt chiếu đan giỏ, may áo, viết sớ, còn hơn người có mắt. Mọi người nghi ông có biệt tài, ông trì trai ăn uống đạm bạc, trọn đời không cưới vợ, ông qua đời vào niên hiệu Khai Hoàng năm thứ sáu, thọ bảy mươi tuổi. Tử thi ông bỏ ngoài đồng cỏ, loài chim thú không dám đến gần. Thịt đã tiêu hết, chỉ còn lại xương trắng, lưỡi vuông ra khỏi miệng, dài hơn một thước, màu sắc như hoa sen. Em ông là Tuệ Nghĩa lấy hòm gạch đựng xương cốt ông, lâu ngày mà vẫn không nát rã.
* Thích Tuệ Hướng: Sư họ Lưu, người ở xứ Bành Thành. Sư rất có đạo đức, hiểu biết mọi mặt, suy xét sự việc, chỉ tụng kinh Pháp Hoa. Sư đến huyện Giang đô ở nhờ đình làng cũ. Đến năm một trăm lẻ hai tuổi, Sư không có bệnh tật mà bỗng nhiên bảo rằng: Bần đạo sẽ đi, rồi Sư từ biệt cùng Đànviệt, sau đó ngồi thẳng mà qua đời. Người ở trong thôn đưa Sư vào rừng, chưa dám mai táng, bảy ngày sau tử thi tự nhiên nằm ngửa, ban đầu duỗi thẳng, sau co lại rồi chắp tay, vẫn không hư rã, càng lâu chỉ khô ráo mà thôi. Người trong thôn chôn cất Sư bên hang núi, người tiều phu bấy giờ nghe tiếng tụng kinh, chẳng biết Sư ở chỗ nào. Có Nguyên Khác Tư Mã Triệu phủ Tổng quản Dương Châu, nhân đi qua mộ, thấy một cộng hoa sen mọc từ đất lên, ông lấy làm lạ hỏi thăm, người trong thôn nói: Là mộ của Sư Tuệ Hướng, vị Tăng này lúc còn sống, chuyên tụng kinh Pháp Hoa nên có được điều ấy, Tư Mã bèn cho đào lên thì thấy đúng như vậy, chỉ còn xương trắng, trong miệng lưỡi Sư vẫn còn như cũ, đỏ hồng mềm mại, không bị biến hoại, từ cuống lưỡi này mọc lên hoa sen. Do đó ông tâu lên vua, nêu bày sự linh nghiệm của Sư. Sau đó, xây tháp bảy tầng thờ Sư, hiên nay tháp vẫn còn.
* Tỳ-kheo-ni Pháp Nhuận: Cô họ Trần, người ở Đơn Dương, trụ chùa Tam-muội, tụng kinh Pháp Hoa, rất có đạo hạnh. Sau khi cô chết, tử thi được bỏ trong rừng, bố thí cho trùng thú. Qua một trăm ngày chim thú mới ăn hết, chỉ còn lưỡi và tim, vẫn còn y nguyên, lưỡi cô cũng màu đỏ, còn tim hơi có màu đen, con em cả nhà lên chôn cất xây tháp thờ.
* Thích Bảo Thông: Không biết họ, người ở nước Vu. Sư không hiểu biết gì, chỉ tụng kinh Pháp Hoa đến quyển bảy, tụng mấy biến chú bỗng thấy quỷ vật. Có vợ nhà họ Triệu ở thôn Dương Kiều, vì thần của thôn này làm ma, Bảo Thông phải đến nhà thần, vị thần bèn đứng dậy đón rước mời ngồi. Sư Thông bảo thần rằng: Người ở gần thôn nên làm lợi ích, tại sao làm vợ người khác? Thần đáp rằng: Chẳng phải lỗi của đệ tử, đây là do các người dưới, vì trị bệnh liền sai sứ nhỏ, kêu ma thần đến trước đình, phạt một trăm giọt máu, vợ họ Triệu nhờ đó được khỏi bệnh. Sư Bảo Thông nói: Thần ở thôn Bạch lộ kia có quan hệ với đây không? Thần đáp: Cũng có quan hệ.
Bảo Thông nói: Thôn ấy có vợ nhà họ Hác, bị thần ở thôn kia bắt làm ma, có thể sai khiến được chăng? Thần nói: Được. Liền kêu thần ở thôn Bạch lộ, cũng phạt một trăm giọt máu, vợ nhà họ Hác sẽ lành. Sau đó vợ họ Triệu bệnh cũ tái phát, ngâm nga nói rằng: Người chủ bảo Thông, Thông đến đây liền thấy ở trước và thần bị phạt, ở bên người bệnh. Bảo Thông nói: Trước nói rồi đi luôn, nay vì sao đến đây, nay ta sẽ tụng chú. Thần bèn cúi đầu cầu xin được trở về, không nhọc Sư tụng chú, vị thần bèn đi xa, nhờ đó vợ họ Triệu lành bệnh hẳn.
Thích Tăng Anh: Không rõ họ, Sư ở xứ Quán, xuất gia từ nhỏ, trụ chùa Vĩnh tề ở Giang Dương. Sư tụng kinh Pháp Hoa cho đến tuổi già, tụ tập không ngừng. Sư ở gần phòng một Pháp sư, Pháp sư đó thường chê Sư tụng kinh lớn tiếng, Pháp sư ấy tạm ngừng công việc đến xem Tăng Anh tụng kinh, nhờ Khiên Sư đến can ngăn, nhưng mở của từ xa nhìn thấy trước phòng Tăng Anh có mấy ngàn người, thân mặc áo giáp đồng sắt, cầm cung mang gậy, cung tay quỳ gối, lắng nghe tụng kinh. Khiên Sư liền trở về phòng, sáng hôm sau đến chỗ Pháp sư, kể lại việc đêm qua đã thấy, cùng đến sám hối tội chê bai, Tăng Anh nói nếu hễ thường đến nghe thì thường nghe trước sau, giống như có tiếng giáp, trượng. Sư mất tại chùa, vào khoảng niên hiệu Khai Hoàng.
* Thanh Tín Sĩ Lục Thuần: Người nước Ngô, mỗi ngày tụng một bộ kinh Pháp Hoa. Lục Thuần ăn chay trường đơn sơ đạm bạc. Vào tháng năm niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ hai, ông bị bệnh rất nặng. Hơn mười ngày sau ông nằm ngửa nhìn khắp phòng không chợp mắt. Bấy giờ có vị tri thức tên Duệ Sư, vì đến thăm bệnh, ông Duệ hỏi: Sư thấy gì? Lục Thuần trả lời: Đức Phật thọ ký cho Lục Thuần sẽ sinh lên cõi trời Diêm-ma, nay tôi thấy điện đường ở cung trời ấy, cây rừng cổng thành, đồ chúng các vị trời đến xem trỗi nhạc không mỏi mệt, bốn ngày sau thì qua đời.
* Thích Pháp Lãng: Sư họ Trương, người ở Võ thành thuộc Hà bắc. Sư xuất gia từ nhỏ, chuyên tu trau dồi đức hạnh, trụ chùa Tịnh đạo ở Nam sơn quận Bành Thành. Lúc còn làm Sa-di Sư tụng kinh Pháp Hoa, từ nhỏ đến già tụng tập không biếng nhác. Đến năm năm mươi ba tuổi, Sư qua đời vào niên hiệu Khai Hoàng năm mười ba, được bảy ngày Sư thấy vua Diêm-la, trước vua có sáu vị đạo nhân. Đầu tiên vua hỏi một vị tăng: Tu được nghiệp gì?
Vị đầu tiên đáp: Tụng kinh Duy ma.
Vua nói: Đứng về phía nam.
Vua hỏi vị thứ hai: Ông tu đức hạnh gì?
Vị thứ hai đáp: Tụng kinh Niết-bàn mười quyển.
Vua nói: Cũng đứng về phía nam.
Vua hỏi vị tăng thứ ba: Ông tu đức nghiệp gì?
Vị thứ ba đáp: Tôi tụng kinh Kim Quang Minh.
Vua nói: Cũng đứng về phía nam.
Vua hỏi vị tăng thứ tư: Ông tu hạnh nghiệp gì?
Vị thứ tư trả lời: Giảng kinh Niết-bàn.
Vua nói: Đứng về phía Tây.
Vua lại hỏi vị thứ năm: Ông tu hạnh nghiệp gì?
Vị thứ năm trả lời: Giảng luận Thập địa. Vua cau mày nói: Đứng qua phía Bắc.
Vua lại hỏi vị tăng thứ sáu là Pháp Lãng: Ông tu hạnh nghiệp gì? Pháp Lãng đáp: Tụng kinh Pháp Hoa. Vua nói: Đứng qua phía Đông. Hỏi sáu vị tăng xong, vua sai người đứng ở phía Bắc đến đường địa ngục, người đứng ở phía Tây đến đường súc sinh, sai ba vị tăng đứng phía Nam đến đường người.
Vua bảo ba vị đến ba đường ấy: Đi không được trở về. Kế bảo Pháp Lãng đến đường trời, cho thấy chỗ sinh của mình, và có thể cho về nhà, ban cho tuổi thọ tám mươi lăm tuổi. Pháp Lãng từ cõi trời trở về bỗng nhiên sống lại, thấy trên vai trái mình lờ mờ có chữ đỏ, thành chữ "bát thập ngũ tuế". (Tám mươi lăm tuổi)
* Thích Huệ Bân:
Sư họ Hồ, xuất gia tại đạo tràng Thiền Cư ở Dự Chương. Sau Sư thờ Trí Khải tông Thiên thai làm thầy. Sư xin xuất gia, ăn chay trường đạm bạc, chuyên ròng khổ hạnh, Sư ở ẩn trên núi Vu, bặt dứt mọi người, tụng kinh Pháp Hoa, khi vừa tụng kinh xong Sư liền đốt ngón tay thứ tư bàn tay trái để cúng dường. Cứ như thế thời hạn mỗi ngày ba lần, từ đây đến nhiều năm thường có hương thơm lạ xông lên ngào ngạt trong phòng nhà. Lại nghe tiếng búng ngón tay cảm động đến những người ở gần. Vào tháng 08 niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ tám Sư qua đời, thọ bốn mươi bốn tuổi. Trước khi chưa mất, Sư thấy vị thần hiện thân cao mấy trượng, vị thần làm lễ Sư, khen ngợi công đức trì kinh, đó nói:
"Pháp sư sẽ đi,
Xin nguyện được theo hầu".
Kế đó, ở chùa có vị tăng tên Trí Hải, người có thật hạnh, nằm mộng thấy Pháp sư nói:
"Nay sinh lên cõi trời Đâu-suất
Tiếp nhận không theo.
Lại giờ đây từ biệt
Khuyên ông hết lòng trì tụng.
Giúp họ hành đạo".
Khi Sư qua đời, thân hình cao lớn, còn hơn lúc sống, các những y phục cũ chỉ bằng một phần ba thân, mọi người lấy làm lạ, không rõ lý do. Sư để lại lời di chúc, bố thí thân cho chúng sinh. Có vị tăng Khải đồng học tán thành ý chí của Sư, thâu lấy hài cốt xây phần mộ ở Tỉnh Nham Sở Hồng Thi Đà.
Thích Tuệ Giai:
Sư họ Lưu, người ở Hải Lăng. Sư xuất gia năm chín tuổi, làm đệ tử Pháp sư Doanh chùa Trường lạc ở quận Giang Đô. Đến năm mười bảy tuổi, mới tụng kinh Pháp Hoa, mười tám tuổi Sư lại thay đổi chỉ tụng quyển thứ tư đến phẩm Hiện Bửu Tháp, từ phẩm Hiện Bửu Tháp về sau chưa tụng. Đến năm hai mươi hai tuổi Sư bị bệnh, lúc đó rất nặng, chỉ còn nhất tâm niệm Quán Thế Âm và Đại Thế Chí cho đến những việc tụng kinh, xin cứu nguy ách. Sư nằm mộng bỗng thấy có một người, đến tìm Tuệ Giai và Trí Đạt ở cùng chùa, dẫn đi qua núi hiểm, giẫm đạp cỏ cây, giây lát đến một nơi, như ngày nay là Phủ Tự hàng tường nhà phòng ốc hành lang còn rõ ràng, vệ binh sắp hàng đông đúc, cầm nắm binh khí. Sư vào cửa, từ xa trông thấy một người đội mão ô sa, mặc áo trắng, râu mặt rất đẹp, ngồi trên sảnh nói: Ta là vua Diêm-la, bên cạnh Diêmla không có người hầu, đây là tìm bắt người, người đưa văn thư mở ra trước bàn vua, vua liền phán hai người như Tuệ Giai, v.v… làm thị vệ. Sư Tuệ Giai nói: Xin tụng kinh Pháp Hoa, còn nửa quyển chưa tụng xong, và công đức chưa đủ, cho nên không mãn nguyện. Vua lại phán thả Tuệ Giai, từ xa trông thấy chữ "thả" rõ ràng, vua liền kêu người tìm đến chỗ Tuệ Giai cởi áo, lại kêu được một người nữa đầu có sừng, tướng trạng giống như quỷ tốt, tay cầm roi dài, đánh người này, Tuệ Giai kinh sợ kêu Quán Thế Âm, Di-lặc. Trong chốc lát bèn thấy một vị tăng tay Ấn-độ cầm nhành dương, lại có thêm một người thế tục, như tượng Duy-ma-cật ngày nay, tay cầm nước đồng sa-la, vị tăng này cầm nhành dương phất vào Tuệ Giai, lấy nước đưa cho Tuệ Giai súc miệng, và hỏi: Ông bị bệnh mấy ngày rồi. Tuệ Giai đáp: Năm ngày rồi. Vị tăng nói: sáu ngày sẽ lành. Đến sáng hôm sau thì trong mũi Tuệ Giai chảy máu, liền tỉnh lại. Khi Tuệ Giai lành bệnh, biết tụng kinh dừng nghỉ bị thiếu sót nên nhiễm bệnh, đầu cuối là bảy ngày, nhưng mạng sống lại qua được, Tuệ Giai bình phục như cũ. Từ đó về sau Sư bỏ hết thân mạng của cải, đúc các tượng Di-đà, Quán Âm, Thế chí. Lại in các kinh như Pháp Hoa Tư Ích. hơn hai mươi bộ. Đến niên hiệu Đại Nghiệp năm mười hai Sư bốn mươi ba tuổi, sau không biết Sư qua đời ở đâu.
Thích Trí Việt:
Sư họ Trịnh, Sư xuất gia từ nhỏ, sớm lìa trần tục. Sau đến Kim lăng, lại gặp Trí giả. Ở đầu thành phía bắc, Trí giả trao cho Sư pháp Thiền, Sư hiểu sâu năm môn thông suốt sáu diệu, tụng kinh Pháp Hoa có hơn muôn lần. Bình nước của Sư thường tự đầy, là nhờ năng lực tụng kinh như vậy. Đồ chúng theo học tuy đông, mà rất yên ổn. Sư đến tinh xá núi Hải lộ, nổi tiếng là có sự linh nghiệm lạ, Trí giả thường làm cho ảnh hưởng dấu vết về sau. Một chúng ở núi Thiên Thai, đây đâu lệ thuộc. Vào ngày 23 tháng 11 niên hiệu đại nghiệp năm mười hai, Sư bị bệnh suốt mười ngày, nằm nghiêng bên phải mà qua đời, thọ bảy mươi bốn tuổi, ngày lâm chung núi lở động đất, mọi người trong nước đều thấy nghe.
Thích Tăng Lãng:
Sư còn tên khác là Pháp Lãng, họ Hứa, người ở Nam Dương, hơn hai mươi tuổi muốn xuất gia, chuẩn bị xuất gia thì vợ ngăn không cho, phần nhiều là ở Ngạch châu, hình dáng khác thế tục, Sư có tướng kỳ lạ, ăn uống đồng với thế tục, bị người đương thời coi thường, Sư nuôi một con khỉ, một con chó, thân hình vĩ đại, lông đều màu vàng đỏ, chúng không quen với người khác, chỉ gần gũi sư, ngày đêm theo Sư, không hề xa rời. Đến giờ ăn, Sư lấy bát gỗ cho nó ăn, Pháp Lãng ăn rồi, thức ăn còn dư cho chúng ăn, ăn cùng chén của Sư, ăn xong khỉ lấy chén đội đầu, cỡi lên lưng chó, đi trước Pháp Lãng. Nếu có người cướp đoạt thì chúng cắn, sư Pháp Lãng mặc tình cho chó dạo chơi, đại khái là nó chơi không có chừng hạn.
Cuối đời Trần, đầu đời Tùy, Sư đến ngoài Giang lĩnh. Y phục Sư thô xấu, oai nghi vượt hơn thứ lớp, Sư chống gậy đi bộ, để hộ dưỡng sinh mạng. Bấy giờ, Sư tụng đọc các kinh, nhưng chuyên về Pháp Hoa làm chí nghiệp, giọng tụng của Sư nhạt nhẽo. Sư bèn giữ lòng trong sạch phát nguyện tụng Pháp Hoa, mỗi khi ngồi tụng là bảy quyển. Như vậy không bao lâu, thì âm vận của Sư hài hòa thỏa thích, hoặc như đàn thổi sáo, hoặc giống như gió sấm, tha hồi trầm bổng, câu văn rõ ràng, mà môi mép chẳng động, chỉ chuyển động trong cổ họng, người ở gần bên đến xem, thấy nghe đều lấy làm lạ, tiếng tụng lấy số bảy làm kỳ hạn, cho đến bảy mươi, bảy trăm, bảy ngàn, bảy muôn. Nhưng cánh tay, bàn chân và móng tay, co rút ở bụng, giống như rùa ẩn giấu thân mình. Bấy giờ, có những người đồng với Sư chứa góp thịt, hoặc đến tiệc rượu, mọi người tiếp đãi ăn uống, mà Sư nhâm nhi thịt heo, thật không ngờ được, nên ở đời nói rằng:
"Pháp Hoa Lãng, đồng thời cố rút năm chỗ, thịt heo đầy miệng bụng. Có khi lại đi ngượng dòng sông, khoanh tay trên thuyền, khỉ chó ở bên, đều không vào bờ, chỉ cột mái chèo, tùy ý ở đi. Tuy coi thường trái phép sóng gió, mà trong nháy mắt dừng lại, lại đến nơi ở.
Cuối niên hiệu Đại Nghiệp, vẫn chưa ra khỏi trần tục, mà miệng Sư chỉ nói giặc, sáng chiều không ngừng. Các quan sợ Sư mê hoặc mọi người, nên bèn bắt nhốt rồi giết. Ở Pháp lâm thuộc Tương dương, Sư thong thả giao du, dạo di rất xa, nhân việc ấy mà kể lại.
Thích Huyền Trí:
Không rõ họ và quê quán, Sư xuất gia từ nhỏ, trụ chùa Tùy hóa ở Huỳnh châu, tánh tình chân thật, ôn hòa khiêm cung, lấy việc tụng kinh Pháp Hoa làm chí nghiệp, Sư thường cảm được những điều mầu nhiệm kỳ lạ, nhưng Sư không cho là kỳ lạ. Bấy giờ, vào giữa mùa hè oi bức, các bạn Sư muốn mát mẻ, bèn mời Sư đến, vì muốn chuyện trò vui vẻ nên mọi người đến trước cửa phòng, nhưng thấy vũ vệ nghiêm túc, người ngựa vĩ đại, sợ hãi rồi bảo mọi người cùng đến xem, vẫn như lúc đầu chẳng khác. Lại đến cửa sau, đồ chúng càng đông, nhìn lên hư không đông đúc không có chỗ hở, phần đông là cỡi voi ngựa, giống như các loài quỷ thần, mới biết Sư cảm hóa được người bạn trở lại chỗ cũ. Sáng hôm sau, họ hổ thẹn từ biệt, các bạn bè bèn hết nghi ngờ.
Sư Huyền Trí chuyên tu nghiệp, cuối đời Tùy qua đời tại chùa.
Thích Tuệ Trĩ:
Không rõ họ, Sư là người ở xứ Thỉ Hưng, xuất gia từ nhỏ, siêng năng tụng tập, tụng kinh Pháp Hoa hơn ba ngàn biến. Vào năm hai mươi ba tuổi, Sư đang nghe luật, bỗng bị bệnh. Suốt mấy tuần Sư nằm mộng thấy có người dẫn đến một Viện, màu đỏ nhạt giống như nhà quan, Sư vào cửa liền thấy quý nhân, thân hình cao tám chín thước, thân mặc áo bào màu xanh sẫm ánh đỏ, đội mão ô-sa và nói rằng: Đấy là vua Diêm-la. Vua hỏi: Sư làm hạnh nghiệp gì? Sư đáp: Từ nhỏ đến giờ tụng kinh Pháp Hoa. Vua Diêm-la nói: Hãy tụng đi. Sư liền lên một tòa cao xoay mặt về hướng Tây, tụng kinh Pháp Hoa đến quyển hai, đến giữa phẩm Thí Dụ nói: Thí như Trưởng giả có một ngôi nhà lớn ở trong đó. Vua liền đứng dậy nói: "Pháp sư về đi", vua Diêm-la sai hai người tiễn Sư, là một người họ Trần, một người không nhớ họ, tiễn ra đến bên đường, dẫn Sư vào một rừng gai, chặt thân Sư làm hai khúc, mỗi người nắm một khúc xuống sông rửa, rồi quăng qua bờ bên kia, do đó Sư liền thức giấc, bệnh cũng giảm nhẹ, mấy ngày sau thì bình phục, có thể đọc tụng. Lại vào năm Sư năm mươi lăm tuổi, thân lại bị bệnh, nằm mộng thấy đứng trên tháp của chùa Quả Tâm. Ở Thỉ Hưng có người xô Sư xuống và nói: Cho ông sống hơn tám mươi tuổi mới qua đời, do đó Sư lành bệnh. Đến niên hiệu đại nghiệp năm mười ba Sư tám mươi hai tuổi, sau đó không biết nơi Sư qua đời.
Thích Trí Nghiệp:
Sư họ Dương, xuất gia từ nhỏ, trụ chùa Trường lạc ở Dương châu, chuyên tinh giới nghiệp, tụng kinh Pháp Hoa, câu văn thông suốt, giống như rót nước vào bình. Cuối đời Tùy, Vũ Văn Hóa đến ở Dương châu làm phản, giết vua Dương Đế ở cung Vi. Bấy giờ, thiên hạ bị tan rã, trăm họ đói khát, người ở trong cảnh sóng gió tán loạn, một thăng gạo một muôn tiền. Bấy giờ ở Biệt viện, trong một thất nhỏ, chuyên tụng không ngừng, bị chết đói trong phòng, không người chôn cất. Ngôi nhà này bị sụp, hài cốt Sư bị chôn dưới đống đổ nát.
Đến đầu niên hiệu Nghĩa Ninh, sau khi bình định thiên hạ, chỗ đất ấy bỗng mọc lên một cọng hoa sen, hoa nở màu sáng tươi đẹp khác thường. Mọi người lấy làm lạ, chẳng biết lý do. Bấy giờ, ở chùa có vị tăng kỳ đức chứng ngộ nói rằng: Đất này đã có một vị tăng, chuyên tụng kinh Pháp Hoa, lúc ấy đất nước ở vào thời ly loạn nên chết trong ngôi nhà này, không có người chôn cất, hài cốt vùi lấp ở đây, ắt là điềm linh ứng của vị tăng, bèn cho tìm đào gốc hoa, quả nhiên đào được hài cốt, hoa sen xanh, ấy chính là từ trong xương sọ dưới cuống lưỡi vữa nát, cuốn lưỡi như còn sống, đều không hư rã, mọi người trong chùa bèn đem cuốn lưỡi và hoa lên giảng đường, đánh chuông nhóm chúng để tụng Pháp Hoa. Cuống lưỡi ấy nghe kinh, cũng có thể cử động. Người đạo kẻ tục nghe việc ấy đến xem rất đông đúc, chẳng ai không thán phục, và phát tâm cao siêu.
Người ở Tinh châu đời Tùy, tên là Cao Thủ Tiết, gia đình một đời tin thờ, mà Thủ Tiết rất tinh nghiêm. Đến lúc Thủ Tiết mười sáu, mười bảy tuổi đi đến Đại đô, đi đường gặp vị Sa-môn, Sư khoảng sáu mươi tuổi, tự xưng là Hải Vân, sư Hải Vân nói chuyện với Thủ Tiết, do đó Sư Hải Vân nói: Con tụng kinh được không? Thủ Tiết thưa: Tâm con rất chí thành. sư Hải Vân dẫn Thủ Tiết đến núi Ngũ đài, đến một chỗ, thấy ba ngôi nhà tranh, vừa chưa được một người, Thủ Tiết ở trong đó, sư Hải Vân dạy tụng kinh Pháp Hoa rồi đi khất thực, cho Thủ Tiết y thực. Tiết thường thấy vị tăng Ấn-độ đến, nói cười với Sư Hải Vân, rồi đi về phía sau. Sư Hải Vân liền hỏi Thủ Tiết rằng: Ông có biết hướng đi của vị tăng Ấn-độ hay không? Thủ Tiết thưa: Không biết. Sư Hải Vân giống như nói đùa rằng: Đó là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thủ Tiết tuy nhiều lần được nói cho nghe việc này, nhưng chưa ngộ được ý chỉ ấy. Sau, bỗng nhiên Sư sai Thủ Tiết xuống núi, vào thôn lấy đồ, nhưng Sư dạy rằng: Người nữ là cội gốc của các điều ác, phá hoại đạo Bồ-đề, phá thành Niết-bàn, ông vào trong nhân gian, phải rất cẩn thận, Thủ Tiết cung kính vâng dạ, nghe theo lời dạy xuống núi. Giữa đường gặp một cô gái nữ, khoảng mười bốn-mười lăm tuổi, mặc y phục đẹp, dung mạo thanh nhã diễm lệ, cỡi một con ngựa trắng, đi thẳng đến trước Thủ Tiết, cuối đầu nói với Thủ Tiết rằng: Thân bị bệnh gấp cần phải xuống ngựa, mà ngựa ưa nhảy nhót, tôi ngăn nó không được, xin ông dìu giúp đỡ, để cứu mạng hèn mọn này. Thủ Tiết bèn nhớ lời Sư dạy, rốt cuộc ông không quay đầu nhìn lại. Cô gái cũng đi theo mấy dặm, nói lời hết sức tha thiết. Thủ Tiết vẫn giữ chí như ban đầu, bỗng nhiên cô gái biến mất. Thủ Tiết trở về chỗ cũ, trình bày lại việc ấy. Sư nói rằng: Ông thật là trượng phu, mặc dù như vậy, nhưng đây là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thủ Tiết cũng chưa tỉnh ngộ được. Sư cũng nói đùa như vậy. Rồi ông ở đây tụng kinh, suốt trong ba năm, một bộ Pháp Hoa rất được tinh thuần.
Sau đó, ông nghe ở Trường An độ người, tâm mong được cạo tóc, phương tiện sám tối, thưa Sư muốn đi. Sư nói: Ông tụng được kinh Pháp Hoa, có hạt giống Đại thừa nay đã thành tựu, ông muốn đi thì phải theo thầy tốt, một phen từ biệt này, khó gặp lại nhau, ông đến kinh đô nên ở đạo tràng Thiền định, y chỉ Thiền sư Ngọa Luân. Thủ Tiết đến kinh đô xin xuất gia, mà không được toại nguyện, bèn đến chỗ Sư Ngọa Luân. Sư Luân hỏi: Ông từ đâu đến? Thủ Tiết thưa: Từ Ngũ Đài đến, Hòa-thượng bảo con làm đệ tử Sư. Sư Luận nói: Hòa-thượng tên gì? Thủ Tiết thưa: Tên Hải Vân. Sư Luận kinh ngạc nói: Núi Ngũ Đài là chỗ ở của ngài Văn-thù, Tỳ-kheo Hải Vân tức đồng tử Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm, là Đại thiện tri thức thứ ba, tại sao ông bỏ chánh nhân này, ngàn kiếp muôn kiếp, không thể nào được gặp lại lần nữa, sao sai lầm như vậy. Thủ Tiết mới biết xưa nay, tiếc là không nát thân, ngu tình quyến luyến, cũng mong gặp lại. Thủ Tiết bèn từ biệt Sư Ngọa Luân trở về, bôn ba ngày đêm, về đến chỗ cũ, thì không còn thấy như xưa nữa.
Thích Tuệ Siêu ở chùa Ngộ Chân núi
Lam Điền đời Đường (phụ Thiện Tư).
Trường Vi Trọng Khuê ở Mông-dương đời Đường.
Tả Giám Môn Hiệu úy Lý Sơn Long đời Đường.
Thích Tuệ Hiển ở nước Bá Tế đời Đường. Thích Pháp Trí ở ẩn đời Đường.
Thích Di Tục ở Cao dật Ung Châu đời Đường.
Thích Pháp Hỷ ở Cao dật núi Ly đời Đường.
Thích Đạo Quỳnh trụ chùa Lâm Huyền ở Kim lăng đời Đường.
Thích Trí Hữu trụ chùa Bảo Vân ở Ung
Châu đời Đường.
Thích Pháp Thành trụ chùa Ngộ chân ở núi Lam Điền đời Đường (phụ Dương Nan Cập).
Thích Trí Thông trụ chùa Thê hà ở núi Nhiếp đời Đường.
Triệt Thiền sư ở xứ Hàng châu đời Đường dạy người bị bệnh hủi.
Sử Ha Thệ ở làng Phước thủy Tây nam
Kinh thành đời Đường
(phụ thêm Thích Đạo Chánh).
Thích Huyền Chân trụ chùa Vĩnh phước ở Đề châu đời Đường.
Thích Chánh Tắc ở Cao dật đời Đường.
Âm Minh Quán người ở Đơn dương đời Đường.
Tạ Trí Tạng ở Lam điền thuộc Ung Châu đời Đường.
Thích Tuệ Tân ở núi Thần Cao dật đời Đường.
Thích Đạo Tiến ở chùa Biện Tài xứ Tây kinh đời Đường
(phụ thêm Hồng Xán).
Quan đạo sĩ Sử ở Ung Châu đời Đường (phụ thêm con gái họ Quyền ở Tần châu).
Thị nữ người Đột Quyết của nhà Tả Tiêu Cơ Thôi Nghĩa Khởi đời Đường.
Thích Vạn Trường trụ chùa Hưng Thiện ở xứ Tây Kinh đời Đường
(Đạo Nghệ ở Dương châu).
Thích Trí Tạng trụ chùa Tịnh Anh ở xứ Tây kinh đời Đường.
Thích Hoằng Chiếu ở xứ Ủng châu, Cao dật đời Đường
(phụ thêm Lý Tín).
Tỳ-kheo-ni ở xứ Tô châu, huyện Côn sơn đời Đường.
Lại có hai mươi tám người ghi chép tên ở sau.
*****
* Thích Tuệ Siêu: Sư họ Phạm, người ở xứ Kiến nguyên thuộc Đơn dương, lúc nhỏ đã có suy tính xa, bẩm tánh ôn hòa nhã nhặn sáng suốt, trầm tĩnh có ý tưởng xuất trần. Sư thầm nghiên cứu cùng tột để thành ý nguyện, tụng kinh Pháp Hoa làm việc tu trì. Bấy giờ, núi Đại tô ở Quang châu có Thiền sư Tuệ Tư, khéo ngộ nghĩa Nhất thừa, hiểu rõ được diệu chỉ tam quán. Sư Tuệ Siêu nghe những việc ấy liền cùng với các vị Trí Giả Thiên Thai, Tiên Thành Tuệ Mạng, khế hợp kết nhân lành, các Sư nhiều năm tìm đến. Thiền sư Tuệ Tư thường bảo mọi người rằng: Ông
Siêu đáng được là người nhẫn. Pháp sư Tịnh Nghiệp ở Cối Kê, xem quẻ ở Lam cốc, khâm phục đạo đức của ông Siêu, đích thân Pháp sư đến mời thỉnh, hai Sư cùng ở ẩn tám năm, thường siêng năng tu sáu độ, hơn nữa phép tắc thường rất nghiêm ngặt.
Có Sa-môn Cấm Lặc cùng Tuệ Siêu ở ẩn trong lò gạch, suốt trong ba năm. Thời gian sau Sư rũ áo ra đi, Sư Tuệ Siêu bảo chủ lò gạch rằng: Bần đạo ở trong lò gạch tụng kinh Pháp Hoa, đã hơn ngàn biến, hãy quét dọn rảy nước cúng dường, chớ dùng nữa. Người chủ không tin, vẫn sửa lại chỗ cũ để nung gạch, chỗ ấy bèn biến thành hình hoa sen, cây xung quanh bốn vách, mọi người xa gần đều thấy, thán phục điềm lạ. Sư thường ở chùa tụng kinh, có một con thú dữ, đến nghe Sư tụng kinh, đều được thọ giới quy y, chúng chắp tay thăm hỏi, giống như con chó trong nhà. Sư Tuệ Siêu nói: Đàn-việt muốn đi, chúng liền y theo lời nói mà trở về. Đức hạnh của Sư cảm ứng được chốn u minh, khó ghi chép hết. Sau Sư bị bệnh, đệ tử quỳ khóc hỏi thăm. Sư trả lời: Đây là lẽ thường của ta, sống lâu chẳng mừng, chiều chết không lo. Sư bèn ngồi xoay mặt về hướng Tây nói:
"Đệ nhất nghĩa không.
Bỗng nhiên lâu dài"
Sư thọ bảy mươi bảy tuổi, tức ngày 06 tháng 12 niên hiệu Võ Đức năm thứ năm.
Sư năm lên chín tuổi đã hiểu đạo, liền tụng kinh Pháp Hoa, tổng cộng hơn năm mươi năm, đến hai mươi ngàn biến.
Sư có người đệ tử tên là Tuệ Tư, cũng tụng Pháp Hoa, hơn vạn lần, ngày Sư qua đời, có tràng hoa âm nhạc, bay tới tấp ồn ào giữa hư không. Tăng chúng ở chùa, đều thấy nghe. Sư lại tự thấy đài hoa đến đón rước. Sư đứng chắp tay đoan an nhiên qua đời, mọi người xa gần đến xem như bức tường ngăn chặn. Sư không cho chôn cất để bố thí các loài cầm thú.
* Thanh tín sĩ Vi Trọng Khuê: Ông là người ở Lâm ngang, bẩm tánh ông rất hiếu kính, được xóm làng cung kính. Năm mười bảy tuổi ông biểu hiện các việc rất kỳ lạ, là người đứng đầu ở Mông dương.
Cha ông là Liêm, làm quan ở quận Tư Dương, đã nhiều lần xin về hưu dưỡng già.
Vào niên hiệu Võ Đức, cha bị bệnh, ông không ra làm quan mà chỉ hết lòng hiếu dưỡng, sau đó người cha qua đời, ông giã từ vợ con, dựng lều tranh bên mộ cha ở đến già. Ông rất tin Phật giáo, tụng kinh Pháp Hoa, ban ngày ông cuốc đất đắp mộ, ban đêm thì chuyên tụng Pháp Hoa, chí thành không mỏi mệt. Được năm tháng thì có thú dữ, ban đêm đến trước lều tranh, ngồi xổm lên mà nghe kinh, hồi lâu mà nó không đi. Trọng Khuê trong chánh niệm nói rằng "xin mãnh thú đừng làm bức xúc tôi". Mãnh thú liền đứng dậy đi, sáng hôm sau thấy xung quanh mộ mọc cỏ chi, có bảy mươi ba cọng ở ngay trước mộ, sắp hàng thứ lớp, giống như người trồng, mỗi cọng đều đỏ thắm cánh màu tím, đường kính cánh hai tấc, màu sáng khác thường. Xóm giềng báo việc ấy với quan ở Châu huyện.
Bấy giờ, có Tân Xuân Xương làm Thứ sử, Thẩm Dụ là Biệt giá, cùng đến chỗ mộ cúng tế, bỗng có một con chim giống như con vịt ngậm hai con cá, mỗi con dài hơn một thước, bay đến đậu ở trước Quân Xương, để cá ở dưới đất rồi đi. Quân Xương, v.v… rất thán phục, hái cỏ chi rồi phong tước, tâu chiếu tuyên dương. Sau không biết nơi ông qua đời.
* Thanh tín sĩ Lý Sơn Long: Sơn Long người ở Bằng Dực. Vào khoảng niên hiệu Võ Đức, ông làm chức Tả giám môn hiệu úy. Bỗng bị bệnh nặng chết, nhưng trên ngực không lạnh. Người nhà chưa nỡ tẩn liệm, đến ngày thứ bảy thì sống lại. Ông tự nói rằng:
Khi sắp chết bị quan ở địa phủ bắt, đến sảnh của một quan Tào, rất hoành tráng, sân ấy cũng rộng, trong sân có mấy ngàn người tù, hoặc gông cùm, hoặc xiềng xích, đều đứng giữa sân. Người sứ dẫn Sơn Long vào sảnh, thấy một vị quan lớn ngồi trên giường cao, có người hầu như vua. Sơn Long hỏi sứ giả: Đây là quan sứ gì? Sứ giả đáp: Là vua. Sơn Long đến dưới bệ, vua hỏi: Lúc còn sống ông làm phước nghiệp gì? Sơn Long đáp: Người trong làng thường lập trai giảng, thường hay bố thí các vật. Vua lại hỏi: Bản thân ông làm phước nghiệp gì? Sơn Long thưa: Tụng kinh Pháp Hoa hai quyển. Vua nói: Hãy lên bệ sảnh. Sơn Long bước lên bệ sảnh, giữa Đông bắc có một tòa cao như tòa giảng. Vua chỉ tòa bảo Sơn Long rằng: Hãy lên tòa này tụng kinh. Sơn Long vâng lời đến chỗ tòa, vua đứng dậy nói: Mời Pháp sư lên tòa. Sơn Long lên tòa rồi, vua bèn đến ngồi cạnh tòa. Sơn Long tụng: "Diệu pháp Liên Hoa kinh phẩm tựa thứ nhất". Vua nói rằng: Xin Pháp sư dừng lại. Sơn Long liền xuống tòa đến đứng dưới bệ, nhìn người tù trong sân đã chết, không còn một người. Vua bảo Sơn Long: Phước của ông tụng kinh, chẳng những lợi mình mà còn giúp cho những người tù trong sân đều nghe kinh được thoát, hà không tốt hay sao? Nay thả ông về lại. Sơn Long lễ bái từ biệt, đi được vài mươi bước thì thấy ba người đến bảo Sơn Long rằng: Vua thả ông đi, xin hãy cầu thả một số chúng tôi. Sơn Long chưa kịp nói, thì quan lại bảo Sơn Long rằng: Vua thả ông, không phải nhờ họ, nhưng ba người ấy là trước ghi chép vua sai người. Sơn Long nghe hoảng sợ, ta lỗi ba người rằng: Kẻ ngu không biết ông, xin đến nhà hãy chuẩn bị đủ đồ vật, nhưng tôi không biết đưa đi ở nơi nào. Ba người nói rằng: Đưa ở bên sông. Sơn Long nghe theo rồi từ biệt về nhà, thấy người nhà đang than khóc chuẩn bị tẩn liệm. Sơn Long về đến bên xác chết, xác chết liền sống lại. Sau đó, Sơn Long cắt làm tiền lụa, rượu và thức ăn, đưa đến bên sông, bỗng thấy ba người từ tạ, hổ thẹn cám ơn, nói xong thì biến mất.
* Thích Tuệ Hiển: Sư người ở nước Bá
Tế, xuất gia từ nhỏ, dốc lòng tinh chuyên, lấy việc tụng kinh Pháp Hoa làm tu nghiệp. Sư cầu phước thỉnh nguyện, được toại nguyện rất nhiều, nghe giảng Tam luận, lại theo nghe thọ pháp. Sư càng mệt mỏi, càng thêm suy nghĩ cố gắng. Ban đầu Sư trụ chùa Tu Đức ở Bắc bộ thuộc bổn quốc. Khi chúng đông thì giảng, không còn tụng suông, khắp nơi nghe tiếng tăm, đến núi ồn ào liên tục. Sư lại đến núi Đạt noa ở phương nam, núi cao chót vót, vách núi lại vững chắc, dầu có người đến thăm, phải trèo lên rất gian nan nguy hiển. Sư Tuệ Hiển tĩnh tọa trong núi, chuyên tu như cũ. Sư qua đời ở đó, các bạn đồng học khiêng tử thi Sư để trong hang đá, hổ ăn hết thân thể, chỉ còn lại xương sọ và lưỡi. Ba ngày sau, lưỡi Sư càng đỏ hồng, mềm mại hơn lúc bình thường. Sau đó mới biến sang màu tím, cứng như đá, mọi người lấy làm lạ mà tôn kính, thờ trong tháp đá. Bấy giờ, Sư năm mươi tám tuổi, vào niên hiệu Trinh Quán năm đầu.
* Thích Pháp Trí: Sư người ở Tuyên
Thành, xuất gia từ nhỏ, tinh tấn siêng năng khổ nhọc giới hạnh. Sư không tham gia việc thế tục, ở trong núi rừng, chí cầu thanh tịnh, tụng bộ kinh Pháp Hoa, không hề biếng nhác, âm vận trong suốt, câu chữ rõ ràng. Sư thường ngày xướng tụng, mọi người đều thích nghe. Người đương thời gọi là Trí Pháp Hoa. Đầu niên hiệu Trinh Quán, Sư trụ chùa Định lâm trên núi Tương.
Một đêm, tụng đến phẩm Bảo Tháp, lúc ấy mưa gió tối tăm mù mịt, sấm sét rất to. Sư tụng niệm không ngừng, chúng tăng ở các phòng, đều ra ngoài xem sấm chớp, mỗi khi ánh chớp lác lên thì thấy một tháp báu ở giữa hư không, có đại chúng đi nhiễu xung quanh. Chúng tăng trong chùa kinh lạ, đều cùng nhau ra xem, đến lúc mưa tạnh thì không hiện nữa, chúng tăng đều khen ngợi, biết là do người trì kinh cảm ứng được.
* Thích Di Tục: Không biết Sư người ở xứ nào, vào đầu nhà Đường, Sư đến nhà Đương Lục ở làng Nam mỹ tuyền, huyện Lễ tuyền ở Ung Châu người trong trấn thường được cúng dường, Sư thanh liêm, ít ham muốn, chỉ tụng kinh Pháp Hoa làm sự nghiệp, ngày đêm liên tục, cho đến mấy ngàn biến.
Vào đầu niên hiệu Trinh Quán, vì bệnh sắp chết, Sư di chúc người bạn là Tuệ Quách rằng: Tôi tụng kinh ý thường mong linh nghiệm, do lúc bình thường tôi tin hướng thiện, nếu khi chết đi, không cần để lộ hình hài, chôn được mười năm, thì hãy đào lên, nếu cuống lưỡi tan rã thì biết không duy trì được, nếu như còn sống thì hãy bảo người đạo kẻ tục, vì tôi xây tháp để chỉ bày điều linh cảm. Sư nói xong thì qua đời.
Tuệ Quách y theo lời chôn cất Sư. Đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười một, Tuệ Quách cùng các bạn cũ, đến đào mộ Sư, thân thịt đều tiêu hết, chỉ có cuống lưỡi không vữa nát. Các nam nữ cả huyện đều kính mến, lưu truyền trì tụng, lại càng hơn nhiều lần. Tuệ Quách bèn lấy hòm đựng cuống lưỡi ấy, rồi xây tháp gạch thờ ở Nam ngạn thuộc Tam cốc ở phía bắc thôn Dương Lục. Những người hiểu biết đều tôn kính, càng thêm dốc lòng tin ngưỡng.
* Thích Pháp Hỷ: Sư họ Lý, người ở xứ Tương Dương, xuất gia năm bảy tuổi, thờ Thiền sư Hạo làm thầy. Sư làm Sa-di chùa núi Thanh khê ở Kinh châu, có hơn bốn mươi vị tăng, đích thân Sư làm việc hầu hạ, ban ngày thì thổi nấu, ban đêm thì tụng tập kinh điển, ở núi không có đèn đuốc, đốt củi khô làm ánh sáng. Thời khóa mỗi đêm Sư tụng thuộc một tờ, như vậy nhiều thời gian, các nhân duyên đã thông suốt. Tuy Sư học các kinh bộ, mà chỉ lấy Pháp Hoa làm y cứ. Sư thường tranh thủ thời gian trong lúc ăn và nghỉ, tụng hết một quyển, còn bao nhiêu thời gian thì trước là thiền định, niệm Phật. Vừa có tâm lờ mờ thì liền ôn cái cũ. Hơn nữa, Sư Hạo qua đời mà ý Sư muốn linh hồn chốn u minh được thanh thản, nguyện tụng ngàn biến Pháp Hoa, do đó không ở phòng cũ, mà đi nhiễu quanh tháp, thực hành hai oai nghi đi và ngồi, Sư lập thệ hết bản nguyện, đủ số tám trăm, tinh tấn cố gắng, thức khuya dậy sớm, giữ tâm không tán loạn, biết chuyển đổi thân thể khỏe mạnh. Chúng tăng cùng chùa, thấy xa giá trâu trắng, đem xe báu vào trong phòng Sư, chúng tăng thì theo đến xem, rõ ràng không có tụng kinh, mới biết Sư cảm hóa được đến chốn u minh, những điều Sư làm đều khế hợp với giáo môn.
Niên hiệu Võ Đức năm thứ tư, Tiêu Vũ mời Sư trụ trì chùa Tâm Lương, sau Sư về ở ẩn ở đất Ly, dưỡng già. Sư tìm cách chữa các bệnh trong bụng. Sư bất luận khách hay bạn thân, đều chu cấp thăm hỏi, đích thân Sư chữa bệnh, đến nỗi Sư ói ra phẩn tiểu, máu mủ, Sư đều đến nơi ói mửa không màng dơ bẩn, hèn hạ, trong lòng càng thêm vui thích, cho đó là việc bình thường.
Mùa xuân niên hiệu Trinh Quán năm thứ sáu, vết thương của Sư bị nhiễm trùng nhẹ, tự biết sống không được bao lâu, thầy thuốc cố gắng chữa, nhưng Sư không chịu uống thuốc. Đến ngày 12 tháng 10 Sư bảo các đệ tử:
"Vô thường đến Chớ khuấy nhiễu ồn ào. Phải im lặng thiền định, ta biết giờ đi, chớ cho người khác biết".
Sư liền vào phòng, thường nói ba cõi hư không chỉ là nhất tâm. Đại chúng bỗng nghe rừng phía Bắc có tiếng động xe âm nhạc, do đó Sư bảo chúng:
"Quả bảo thế gian, đã bỏ lâu rồi, tại sao sinh ở chỗ vui, rốt ráo lại ràng buộc".
Nói xong, Sư nhập định, trong chốc lát tiếng Sư dứt, đầy các mùi hương thơm, suốt đầu canh năm, Sư ngồi thẳng mà qua đời, Sư thọ tám mươi mốt tuổi, hình sắc tươi sáng, như thường ở trong định.
* Thích Đạo Quỳnh: Sư họ Trương, không biết người xứ nào. Vào niên hiệu Trinh Quán khoảng năm thứ sáu, thứ bảy, Sư trụ chùa Thê Huyền ở Kim lăng, không chuyên các hạnh nghiệp khác mà chỉ chuyên tụng kinh Pháp Hoa, âm vận của Sư thanh nhã, mọi người đều thích nghe. Sư cùng Samôn tự là Pháp Mẫn ở chung phòng.
Cứ vào lúc gần sáng, thì Sư ngồi thẳng tụng kinh, Sư Pháp Mẫn ở giường bên, cởi trần mà ngủ, thân thể Pháp Mẫn rất khỏe mạnh. Lúc mới đến không bị bệnh, bỗng nhiên Pháp Mẫn từ trên giường ngủ lăn xuống đất, như có sức người lôi kéo, bị đánh bằng gậy, phải cầu xin tha cho, những việc như vậy chẳng phải một.
Đạo Quỳnh thấy hoảng sợ kêu la thất thanh, cả chùa kinh hoảng chạy ra, cho là thú dữ. Trong chốc lát thấy báo tướng của ông Quỳnh mới đầu cùng đợi xem, thấy đánh đập Pháp Mẫn không thôi, qua một ngày sau, dần dần tỉnh lại, nhưng đã mất bổn tâm. Đạo Quỳnh hỏi lý do. Pháp Mẫn đáp: Thấy có thần quỷ tức giận quở trách vì ở trần nằm ngửa, không cung kính kinh điển.
* Thích Trí Hữu: Người ở Tương châu, không rõ xuất thân từ dòng họ nào, còn nhỏ Sư đã trai giới nghiêm túc, Sư thường tĩnh tọa không xen vào các việc trần, lúc còn trẻ đã lìa tục, yêu thích kinh điển. Sư tụng trì ngày đêm, không hề bỏ một ngày. Khi đến nước Trần, Sư trụ chùa Bảo Vân ở huyện Hoa Nguyên. Tuy từ Nam sang Bắc, nhưng việc tụng niệm không thiếu. Lúc Sư tụng kinh, khói hương không dứt, tính đã được bốn mươi hai năm, tính theo thứ lớp gần năm muôn biến. Bình đựng nước tắm, thường tự đầy.
Niên hiệu Trinh Quán năm thứ tám, Sư không bệnh ngồi tĩnh tọa mà qua đời ở chùa, thọ bảy mươi hai tuổi. Ngày Sư sắp qua đời, có nhạc trời đến đón, nhà cửa ở giữa hư không, nghe tiếng nhạc hồi lâu, lại có mùi thơm như mây, lan khắp nhà cửa, mọi người trong ấy không thấy nhau, một hồi lâu mới dứt. Đệ tử Đức Tạng và nhân sĩ thứ trong làng có hơn ngàn người, sau đó dời quan tài về Am ở phía Đông nam, ngồi dưới gốc cây, qua đêm đến xem không biết Sư ở đâu.
* Thích Pháp Thành: Sư họ Phàn, người ở Vạn niên thuộc Ủng châu, xuất gia từ nhỏ, Sư làm đệ tử Thần tăng Tăng Hòa, ngài Tăng Hòa đặc biệt có cái giương soi, nên biết Sư có danh khí. Bèn bảo Sư đến Thiền sư Tương ở chùa Thiền Lâm tu theo thiền định, chưa đầy mấy năm, Sư thăng đường giảng nghĩa sâu kín. Sau Sư gặp ngài Siêu Công, ở ẩn Lam cốc. Sư Pháp Thành thỉnh dạy dỗ, siêng năng không biếng nhác, tuy tuệ giải thông suốt, nhưng Sư lấy việc đọc tụng kinh Pháp Hoa làm tu nghiệp, tâm sức thường mỏi mệt, thì sẽ bỏ thọ trì, nên sự hành đạo theo Quán Âm để thầm cầu cứu giúp. Đủ hai mươi mốt ngày, Sư ở trước Phật, bỗng thấy một người cao lớn mặc áo trắng, cầm một bình thuốc, đưa cho Sư uống, từ đó về sau tâm lực khỏe mạnh hơn lúc bình thường. Sư đọc tụng không ngừng, mỗi mùa hạ hơn năm trăm biến, sáu ngày trai thêm bảy biến, nếu muốn hơn số này cũng không bị mệt mỏi. Tính khoảng mười năm, sẽ hơn muôn lần, Sư thường nghe trên hư không trổi nhạc, sắt đá vang rền, đến khi tiếng tụng kinh vang khắp thì mới dứt. Lại có một Thanh Tín Sĩ ở trong thôn, thường cúng dường Sư Pháp Thánh. Trong gia đình bỗng bị bệnh nặng, kẻ lớn người nhỏ hơn mười người, đều rất nguy kịch. Thanh Tín lo sợ, xin Sư Pháp Thành cứu giúp, Sư bèn dẫn đến giảng đường Pháp Hoa trước hai bức tranh vẽ hai vị thần, Sư chỉ và nói rằng: Đàn-việt đây tín tâm chân thật, mà gia đình bị bệnh nặng, ông hãy theo tôi chữa bệnh cho họ. Người kia liền trở về, những người bệnh đều thấy hai vị thần, dùng tay vỗ về, liền đó thuyên giảm.
Lại có người hung ác muốn lén hại sư Pháp Thành, ban đêm người ấy đến chỗ Sư, thấy trong cửa lửa dữ cháy đỏ, người ấy hổ thẹn hối hận trở về.
Cuối mùa hạ an cư niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bốn, bỗng nhiên Sư bị bệnh, tự biết mình sắp đi, Sư nguyện sinh lên cõi trời Đâu-suất, sau đó Sư tắm gội, chí thành ước hẹn, đến cuối tháng, Sư bảo rằng: Muốn đi thì thẳng vào, cần gì đờn ca? Sư ngó lại thị giả, bảo: Có đồng tử đón rước ta, hiện ở ngoài cửa, ta sắp đi rồi.
"Chánh giới Đức Như Lai Khuyến khích mọi người tu. Sau này không hối hận".
Sư nói xong, trong miệng phát ra ánh sáng, chói rực cả phòng, lại nghe có mùi thơm lạ phảng phất. Mọi người thấy Sư ngồi thẳng an nhiên, bất giác qua đời. Sư thọ bảy mươi tám tuổi.
Vào tháng bảy niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bốn, có người Dương Nan tục sĩ đến, là người ở bổn huyện. Ông còn nhỏ mà tánh tình ngay thẳng, không giao du với các việc phàm tục, khi tuổi trưởng thành, mới cầu kinh điển pháp mầu. Ông nghe Sư Pháp Thành có đạo hạnh, bèn cầu Sư làm thầy. Sư trao cho ông kinh Pháp Hoa, trong khoảng mấy tháng, ông đều tụng thông suốt, cố gắng tinh chuyên luyện tập, sớm tối quên mỏi mệt. Tuy làm việc theo chúng mà tiếng tụng kinh không ngừng. Sau đó, ông không bệnh mà an nhiên qua đời. Khi hỏi thiêu, xương sọ và cuống lười vẫn còn, do đó Sư Pháp Thành đem cất, đựng trong hòm đá, thờ trong giảng đường Pháp Hoa. Bấy giờ, tín đồ càng thêm cúng dường, và thường nghe tiếng tụng kinh trong hòm, hòm đá lay động, lời và câu rõ ràng, người nghe kinh sợ, và biết đó là do năng lực thọ trì.
* Thích Trí Thông: Không rõ Sư người ở đâu, thường tụng kinh Pháp Hoa, nghe giảng Tam luận. Sau thời Trần Bình, Sư đến Giang Châu, trụ chùa An lạc ở Dương châu. Thời Đại nghiệp đá suy tàn, Sư nghĩ rốt cuộc không có phương kế, nên ở ẩn trong Giang địch, tụng kinh Pháp Hoa, cảm hóa được bốn con hổ vây quanh nghe Sư tụng kinh. Sư nhịn ăn mười ngày, mới đầu không đói khát, Sư bảo hổ rằng: Mạng ta trong chốc lát, ngươi hãy nên ăn thịt đi, con hổ bỗng làm theo lời Sư, tự nhiên trên hư không nói có tiếng "không có việc ấy". Bỗng thấy một ông lão khoảng tám mươi tuổi, dẫn theo một con thuyền, ông lão đến chỗ sư Trí Thông nói: Sư muốn qua sông, trụ ở Thê Hà, thì nên lên thuyền. Bốn con hổ đồng thời rơi nước mắt. Sư Trí Thông nói với ông lão: Cứu nguy cứu nạn, đang còn ngày nay, nên đón bốn con hổ, bèn đi nhanh đến Nam ngạn. Rồi thuyền và người không biết ở đâu. Sư Trí Thông dẫn bốn con hổ đồng đến phía Tây tháp xá-lợi Thê Hà, ngồi thiền kinh hành, thệ không nằm ngủ, đồ chúng của Sư hơn tám mươi người, đều không ra khỏi viện, nếu có việc dữ, thì một con hổ vào chùa lớn tiếng báo cho chúng biết, nhờ đó mà họ sợ và biết được. Đến ngày mùng 08 tháng 04 niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mười bảy, khi tiểu thực xong, đến Hưng hoàng Chỉ quán, lễ ảnh tượng Đại sư, rồi trở về phòng, ngồi an nhiên mà qua đời, có mùi thơm lạ đầy khắp. Có nước Quách ở Đơn Dương, người đạo kẻ tục, thọ giới hơn ba ngàn người, chạy lên núi, buồn khóc thảm thiết ở rừng hoang, lúc bấy giờ Sư thọ chín mươi chín tuổi.
* Thích Tăng Triệt: Không rõ Sư người ở đâu, trụ chùa Hãm tuyền ở núi Nam cô thuộc Hàng châu, Sư thường tiếp xúc với những người bệnh hủi, dẫn họ vào núi để đào hang lỗ cho họ ăn, cho tụng kinh Pháp Hoa. Người bệnh hủi vốn không biết chữ, lại thêm ngu dốt, mỗi câu phải dạy họ, Sư không hề mỏi mệt, tụng kinh đến phân nửa, họ nằm mộng thầy có người dạy, từ đó về sau có chút ít sáng suốt, họ tụng được quyển năm, sáu các mục ghi, cảm thấy lần lần lành bịnh. Tụng một bộ xong rồi, râu tóc bình phục, màu da như thường. Nên trong kinh nói: Thuốc hay chữa bệnh, đây quả thật là ứng nghiệm.
* Thanh tín sĩ sử Ha Thệ: Ha Thệ ở làng Phong cốc thuộc Tây nam kinh thành, lúc nhỏ ông đã có tâm lành, Ha Thệ thường tụng kinh Pháp Hoa, thực hành hạnh an vui, từ bi ở trong tâm, không chứa sản phẩm chăn nuôi, tất cả là hư huyễn, danh tiếng thấm nhuần lệnh sử, qua lại kinh thành, tụng kinh Pháp Hoa làm tu nghiệp, e rằng đi đường người gặp biết ông, mọi người thăm hỏi, lại bỏ việc đọc tụng, cho nên ông luôn đi đường tắt. Sư tụng nhỏ tiếng, diện mạo vui vẻ, duyên niệm nối nhau, đến khi qua đời, cảm thấy có mùi thơm lạ đầy khắp làng. Mười năm sau, người vợ đào ra, chỉ còn cuống lưỡi tươi đẹp, còn bao nhiêu điều vữa nát, vì điềm lạ ấy nên tôi đặc biệt nêu ở đây.
Lại có Thích Đạo Chánh, là vị tăng trụ chùa Bạch mã ở Kim lăng, là vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa, sau khi Sư chết, hỏa táng thi hài, ở trong đó, có một cuống lưỡi, y nguyên không nát rữa, người đạo kẻ tục đều khen ngợi thán phục.
* Thích Huyền Chân: Sư họ Bằng, người ở Thọ Xuân, xuất gia từ nhỏ. Sư đến Dương thổ, trụ chùa Vĩnh phước, tụng một bộ kinh Pháp Hoa, không lúc nào biếng nhác, dừng nghỉ.
Bấy giờ, vào đêm trăng mùa Thu, Sư đang trì tụng kinh Pháp Hoa mới đến nửa quyển bảy thì phòng bên cạnh có một vị Samôn bỗng nhiên đứng, giống như ở cạnh giường, Sư bèn thấy giữa sân có bóng người to lớn, Sư ngẩng đầu nhìn bốn phía, liền nhìn giữa hư không, có một vị thần, đứng sừng sững, vị Sa-môn này đứng yên một chỗ chiêm ngưỡng, không hề dời bước, đứng hồi lâu, văn kinh cũng tụng vang, vị thần bỗng biến mất. Chúng tăng từ đây về sau học tụng thọ trì không biếng nhác.
* Thích Chánh Tắc: Sư họ Trương, xuất gia từ nhỏ, không phạm việc ăn mặn, hơn năm mươi tuổi mà giới hạnh không thiếu. Sư tụng kinh Pháp Hoa, câu văn thông suốt, ngày đêm tụng niệm, miệng không hề ngừng nghỉ. Người đương thời gọi Sư là Tắc Pháp Hoa. Nhà Chử Uẩn rất kinh tin, ở trong nhà, làm riêng một viện, lập Phật đường phòng tăng. Sư Pháp Tắc do các việc nên ra khỏi thành, liền ở trong nhà ấy, bỗng Sư bị bệnh nặng, và qua đời tại nhà ông Chử Uẩn. Sư qua đời thì đưa về lại chùa, khi đưa sư Pháp Tắc đi rồi, thì chỗ phòng ngủ của Sư có mùi thơm lạ dày đặc, bảy ngày sau mới hết, mùi thơm đó rất ngào ngạt, qua hai ngày sau, thì hơi đó mới dứt, gia đình Chử Uẩn đến bên mộ thì thấy sư Pháp Tắc vừa tỉnh lại. Sư bảo các đệ tử rằng: Ta đến một nơi thấy cung điện cao đẹp tráng lệ, bảy báu trang nghiêm, cây báu ao vàng rất kỳ lạ, cũng không thể đem việc thế gian sánh được. Lại thấy có vô lượng các bậc thánh tăng, thật vui sướng không thể nói hết, sau trải qua sự tín túc rồi mới dứt, Sư thọ hơn bảy mươi tuổi.
* Thanh Tín Sĩ Âm minh Quán: Ông người ở thôn Tiểu trâu thuộc Đơn dương, xuất gia từ nhỏ, không làm những hạnh khác, mà chỉ tụng kinh Pháp Hoa, sau đó ông hoàn tục có vợ con, gia đình làm nghề nông, bị quan sai khiến, cuộc sống phải cố gắng làm mà gia nghiệp vẫn rất nghèo, áo cơm không đủ, nhưng miệng thường tụng kinh, không hề tạm dừng, chỉ trừ các việc ăn ngủ, tiểu tiện, theo lệnh quan tư nhân, ông đều không bỏ tụng.
Sau đó, giữa đêm bỗng nghe giữa hư không có người kêu Âm Minh Quán Âm Minh Quán rất rõ ràng, Âm Quán đứng dậy đáp dạ. Người trong hư không lại nói rằng: Ông đứng dậy theo ta, ta cho ông vàng bạc của báu, của báu ở đầu phía Đông Nam điền của thôn, dưới cây đại huynh liên ông hãy đến đó lấy. Minh Quán ôm lòng vui thích, liền đứng dậy kêu vợ con đi, cầm đuốc và cuốc xẻng cùng vào trong vườn, người con thấy cha đi đến còn nghi ngờ hối hận, người con nói: Làm sao bỗng nhiên nửa đêm lấy được vàng, hay cha bị điên cuồng. Người cha cố đi và đến dưới gốc cây đào, rõ ràng là không thấy vàng, người con lại ngăn cha, một lát sau nghe trên hư không có tiếng nói rằng: Nên đến gần phía trước hơn, người cha y theo lời nói đi đến đào lấy, quả nhiên có vàng, nhờ đó gia nghiệp được phát triển, lại có nạn đói rét nghèo khổ giữa đường, trong thôn xóm, lấy làm lạ cho ông được điều lạ thường, vì có người nghi, ông Quán bèn đến trình bày đủ mọi việc với cha già, rồi càng siêng năng tụng tập.
* Thanh Tín Sĩ Tạ Trí Tạng: Ông là người ở Lâm điền thuộc Ủng châu. Tuy ông ở điền gia, mà thường giữ năm giới, nhân duyên không lâu ông đến huyện hạ, thấy trong chùa có vị Sa-môn giảng kinh Pháp Hoa, đến phẩm Công đức Trì kinh thứ sáu nói về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý, ông bèn phát tâm quy y, tụng trì hết quyển sáu, trừ khi có nhân sự, thì không hề dừng nghỉ. Tâm ông nguyện càng tinh tấn tụng thêm quyển khác. Đã ở xa đồng ruộng, lại không có giáo thọ, mới định bỏ nhà tìm thầy, thì nghiệp nhà lại phải phế bỏ, ngày đêm ông Quán nghĩ mong gặp được minh sư. Mấy năm sau, bỗng gặp vị tăng người Bà-la-môn đến kêu cửa Trí Tạng, hỏi Trí Tạng: Ông có thức ăn không, xin cho tôi một bữa trai ngọ. Trí Tạng vui mừng thưa: Trong nhà có sẵn, liền sắm đủ cơm rau đúng như pháp cúng dường, vị tăng ăn xong, bảo Trí Tạng rằng: Nếu ông muốn thọ trì kinh Pháp Hoa hãy đem bổn đến. Trí Tạng vui mừng, quả thật được sở nguyện, Trí Tạng liền trao cho vị tăng quyển kinh, vừa từ nghe thọ, lại không quên sót, khi thọ kinh xong, bỗng nhiên không thấy vị tăng. Trí Tạng trong lòng suy nghĩ rất buồn rầu, hối hận vì không biết đó là vị thần, khi Sư đi rồi, chỉ nghe mùi thơm lạ, mấy ngày mà không tan.
* Thích Tuệ Tân: Ông họ Tiền, không biết người ở đâu, xuất gia từ nhỏ, chuyên tu thiền quán ở ngọn Lô khuông sơn. Ông thường đi thăm mà miệng luôn tụng kinh pháp không ngừng, sớm chiều trừ khi ăn ngủ, không hề tạm nghỉ. Khi Sư tụng xong, phải đi bộ vài bước, rẩy nước quét sạch sẽ.
Đến giờ lượm hoa, Sư trang hoàng rất trang nghiêm, ở chính giữa khoảng năm-sáu tấc, treo cờ đốt hương, lập riêng một cái tòa. Sư đắp y mới, lễ Phật mười phương, chắp tay ngồi thẳng rồi mới tụng, tụng đủ muôn biến, bỗng mang máng như mây mù. Bên trong thấy ba lẫn thay đổi, thành tám phương có cây báu tòa báu, có chư Phật Bồ-tát lờ mờ hiện ra trước mắt, đến một muôn năm ngàn lần, thì rõ ràng thấy đủ, sau đó không biết nơi Sư qua đời.
* Thích Đạo Tiến: Không rõ Sư họ gì, là người ở Kinh châu. Giới nghiệp rất siêng năng. Sư thường tụng kinh, thân mặc vải bố, ngày ăn một bữa, nhưng hầu như sức của Sư vẫn hơn người.
Sau đó, Sư đến Quan Phục, ở đó mời Sư ở lại với luật sư Đạo Tuyên, Sư thăm hỏi và muốn cầu được pháp yếu, cố gắng lựa chọn bậc tiền hiền, sau nhân đó hỏi rộng về diệu luật, Sư ở lại chùa Biện Tài. Bỗng nhiên thân bị ngất xỉu, suốt mấy ngày. Sư thấy bị Minh Quan tra hỏi ghi chép, đem đến trước vua. Vua nói: Sư tụng kinh Pháp Hoa hành luật thanh tịnh, được sinh lên cõi trời thứ tư, là nơi của các bậc từ tôn. Các vua quan minh đạo thưa: Đệ tử thân tội ác, e không gặp lại Sư, cho nên muốn gặp Sư, nguyện xin cứu giúp. Đạo Sán tạm thời sống lại, đến chư tăng trình bày đủ mọi việc, nói xong Sư qua đời.
Lại có Thích Hồng Xáng Sư cũng tụng kinh Pháp Hoa, lại có vị thần ở chùa Sơn thần, thường qua lại lễ bái, v.v…
Sử Sùng, người ở Giao nam thuộc Trường an, ông còn nhỏ đã có tâm với đạo, nhưng đã dự vào cuộc Hoàng Cân, ở Huyền đô quán. Sau ông bỗng phát tâm, tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày một quyển, ông lập tượng Phật riêng, lễ sám sáu thời, thường bị các đạo ganh ghét, do đây ông trở về tục, càng chuyên tinh phùng tụng, sau ông bị bệnh nặng và chết, bấy giờ là giữa mùa hạ, nhưng không có chút biến hoại, chỉ nghe mùi thơm, bà con ông kính cẩn lập bàn thờ ở gần bên, thường nghe mùi thơm. Sau qua hơn một năm, gân thịt đều rã hết, chỉ còn lại cuống lưỡi, màu sắc cũng như người thường chẳng khác. Có người nghi sợ, bèn lấy lửa thiêu thì nó không biến hoại, búa chặt không đứt, các nơi xa gần thấy nghe, càng kính tin hơn.
Ở Tân châu có con gái họ Quyền thường tụng kinh Pháp Hoa, sau khi chết hơn mười năm, nhà cô định thay đổi nơi an táng, nhưng cả nhà thấy xương thịt của cô, đều tiêu tan hết, chỉ còn cuống lưỡi vẫn như còn sống.
Tả Tiêu Cơ Thôi Nghĩa Khởi:
Nhà Nghĩa Khởi có một thị nữ người Độtquyết, vốn không biết chữ. Vào giữa niên hiệu Lân Đức bị bệnh chết, qua một đêm thấy một vị tăng Ấn-độ, Đột-quyết cầu xin, vị tăng dùng gõ tích trượng lên đảnh Đột-quyết, dạy tụng một bộ kinh Pháp Hoa, bằng tiếng Phạm, đến gần sáng Đột-quyết sống lại, tự kể lại các việc ấy, mọi người không tin, Độtquyết bảo Nghĩa Khởi, Nghĩa Khởi đọc thử, Đột-quyết lại tụng kinh như nước chảy, gia đình liền thỉnh vị tăng Tây Vực đến, nghe thị nữ đọc tụng kinh Pháp Hoa, từ đầu đến cuối, ngôn từ âm thanh thông suốt và chính xác, không sót một chữ.
Người thời bấy giờ đem tâu với vua Tần Châu. Vua nói: Minh Đạo như thế, há không tin hay sao? Triều thần đương thời chẳng ai không biết.
* Thích Vạn Tướng: Sư họ Đỗ, người ở Vạn niên thuộc Ủng châu, từ nhỏ Sư đã chọn lựa khắp các thầy danh đức. Về giới luật sư quý trọng như châu báu và thông suốt, biển học sâu rộng, Sư thường tụng kinh pháp và hiểu hết được nghĩa lý. Mỗi khi giảng hơn mười lần dùng phước tuệ để giúp nhau, lòng từ rộng rãi tánh tình nhu hòa, Sư dùng phương tiện khéo léo và dùng công phu để dạy dỗ, khuyên răn mọi người.
Do chánh điện chùa Hưng Thiện bỗng nhiên bị hỏa tai cháy sạch, thay nhau xây lại nhiều lần mới hoàn thành, Sư có năng lực như vậy. Sư cho khắc bộ kinh Pháp Hoa vào đá ở phía Bắc của chánh điện, rất trang nghiêm hùng vĩ, thật xứng với kỳ công tuyệt tác.
Sư thường tụng kinh trong am tranh, thình lình có con chim trĩ màu trắng bay đến nép mình bên Sư, Sư đưa tay bắt lấy, nó không hề sợ sệt và theo Sư ra vào, ở đó hơn mười ngày.
Lại có cây ở phía sau phòng và khám thờ tượng bằng đồng mạ vàng, nhưng Sư không làm sao đến chỗ đó được, đồng thời có đôi chim tước màu xanh đứng hầu hai bên tượng. Sau đó, Sư thâu lấy được tượng, thì bỗng nhiên đôi chim bay đi, hoặc có khi lửa tro trong lò tự nhiên bay ra. Có khi trong đám cỏ sau giường nằm thường thoảng ra mùi thơm lạ.
Một hôm, Sư tĩnh tọa đến nửa đêm thì bỗng nhiên dường như chiêm bao, thấy có khoảng ngàn ngôi sao sáng trên bầu trời về hướng Tây bắc. Nhìn một lúc lâu thì biến thành tháp báu cao rộng trang nghiêm, trông từ xa không thấy ranh giới, lại thấy bảy ngôi sao mọc hướng Đông bắc, lớn hơn tám thước, chưa kịp nhìn hết toàn bộ thì thấy bảy vị Phật từ trong ngôi sao bước ra, dung nghi đẹp đẽ vàng rực tự nhiên.
Sư thường cầu nguyện thấy được bảy vị Phật và tháp Phật Đa Bảo, trong lúc chiêm bao buồn vui lẫn lộn, Sư lễ bái khen ngợi, trong lúc Sư chọn còn thiếu, một điều nhỏ cũng không mất. Mỗi lần tụng hơn bốn ngàn biến. Khi sắp qua đời Sư bảo môn nhân như Nhã Thăng, v.v… xưng danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền, lát sau Sư tự nói: "Bồ-tát Phổ Hiền đến", rồi nằm nghiêng bên phải thị tịch tại chùa Hưng Thiện, thọ bảy mươi bốn tuổi.
Có vị tăng tên Đạo Nghệ trụ chùa Lầu Linh ở Dương châu, thường tụng kinh này (Pháp Hoa), mỗi khi tụng đến phẩm "Hiện Bảo Tháp" thì nghe trên hư không có mười mấy tiếng búng ngón tay. Từ đó, về sau Sư tinh tấn tụng gấp đôi lúc bình thường.
* Thích Trí Tạng: Ngài Thích Trí Tạng họ Phí, vốn là người ở Hạ châu. Xuất gia từ thuở nhỏ, trụ chùa Đại Hưng Thiện, mỗi khi tụng kinh Pháp Hoa tiếng hùng hồn thanh cao, khiến mọi người rất thích nghe. Sư tụng rất nhiều, lấy một ngàn biến làm mốc, nên thường mệt tim ói ra máu qua mấy ngày liền.
Có vị Tăng Lý Mộ cũng ở trong chùa bảo Sư: Tôi nghe có bài thuốc gia truyền. Khi mệt tìm lấy ít nước tiểu hòa với bột thành hồ, uống sẽ lành. Sư trả lời: Tôi thề trong một ngàn lần cũng không lấy vật dơ bẩn để xông ướp vào kinh, dù cho đó là vị thuốc hay, nhưng hoàn toàn trái với chú nguyện đời trước. Đoạn Sư bèn quét dọn lau chùi phòng xá sạch sẽ, đặt bộ kinh lên bàn, đốt hương đi nhiễu xung quanh, rồi lễ lạy rất thành khẩn. Tối hôm đó, bỗng nhiên dường như nằm mộng thấy có một vị tăng Ấn-độ lấy nước hòa với bột thành hồ, trao cho Sư bảo uống. Sư bèn bưng lấy uống, chưa được phân nửa thì liền tỉnh giấc, lúc ấy tâm lực cũng khỏe lên gấp bội lúc bình thường, sau Sư thông suốt kinh điển hơn xưa.
Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ chín, một hôm có vị tăng ở Hạ châu là Pháp sư Thạch, nghe danh sư Trí Tạng tụng kinh bèn dâng cúng cho Sư ba cân bơ, để cúng dường đầy đủ, Sư chứa nhóm một món đồ. Ngày đầu Sư lấy muỗng bằng đồng múc ở chính giữa khoảng bằng trái đào, sáng hôm sau Sư đến múc tiếp bèn lấy bơ hòa lẫn và đông lại như dấu cũ lúc chưa múc. Do đó, từ mùa hạ cho đến mùa đông ngày nào Sư cũng lấy dùng nhưng vẫn y nguyên lại như cũ. Trong tâm rất vui, ngộ được vị đề hồ, từ đó đề ra ý kiến đến tháng tám, phân chia bơ lúc trước cho chúng tăng cùng ở chùa.
Thiền sư Linh Khanh Âm được nghe nói âm thanh đó và mỗi khi Sư ngửi thấy mùi hương là nghe tiếng búng ngón tay, thường được người khuất mắt, gọi bảo ngồi dậy, rồi từ đầu đến cuối tụng một mạch hơn một muôn biến. Nhưng vì cụ túc còn thiếu kém nên chẳng được thâm ngộ, Sư biết điều đó nên rất tiếc.
Vào ngày 23 tháng 11 niên hiệu Nghi Phụng năm thứ ba, Sư thị tịch tại chùa Tịnh ảnh, thọ tám mươi tám tuổi.
* Thích Hoằng Chiếu: Thích Hoằng Chiếu họ Cao, người ở huyện Cao Lăng, làm quan ở Ủng châu. Ông nội là người có đức hạnh, danh tiếng ở đời, làm chức quan nhỏ ở Bạc. Mẹ họ Trương tên Trâm Anh, người dân tộc Mậu.
Sư từ thuở bé đặc biệt đã có lòng tin sâu sắc, thái độ khác thường, tự nhiên cao thượng, Sư không bao giờ ném mùi vị hôi dơ, cũng chẳng thích xem trò vui chơi, để ý việc trần tục tại gia, tâm muốn xuất tục. Năm hai mươi tuổi, Sư theo hai vị thầy luật sư Thành và thiền sư Cơ được cạo tóc, học theo hạnh của hai vị danh đức nổi tiếng ở ấp kinh, là bậc thượng thủ, nhân tài mẫu mực, vui vẻ thuận hứa. Do đó, Sư tụng kinh Pháp Hoa mấy tháng liền, mà tính tình ưa thích nơi vắng lặng, không vui với cảnh ồn náo. Sau đó Sư chọn đất ở Chung nam, xây dựng một cái cốc tránh những vướng bận ở thế gian, nương ngọn núi gần tảng đá và thệ tụng kinh một ngàn biến với tâm trong sáng như sương, âm vận tụng rất hay, du dương theo gió. Cảm ứng rất nhiều, người khuất mặt thầm đến giúp đỡ, bảo vệ. Hoặc việc công, tư, khó khăn lo lắng, kẻ đạo người tục vướng víu nhau, liền có con đại trùng kêu lên. Có người thường đến thăm hỏi.
Một hôm, bỗng nhiên tuyết rơi xuống dày đặc, bột chỉ còn khoảng một tháng nhưng ăn dùng hơn hai mươi ngày vẫn chưa hết. Chỉ do ở lâu nơi này. Người ta nghe thấy nên thường đến cúng thí rất nồng hậu. Sư cho rằng như thế là tổn da hại tủy, bèn cho bạn thân tín, rồi dời đến trụ Hàn sơn ở phía Tây nam huyện Ngạc. Lại tu theo nguyện xưa, đường đi rất hiểm trở dài xa hơn một trăm dặm, lại đều thuộc nơi thuận lợi nhưng không quên thuộc. Trước kia không có dấu vết nhưng thường có người mang thức ăn đến cúng, sau đó có người đến thăm viếng nhưng chẳng biết tung tích.
Một hôm, Nhị Đức và một cư sĩ đều kết am tranh, ở chỗ đó tự nhiên mọc lên ngôi sao sáng rỡ. Đồng thời Sư thấy một con rắn dài cả trăm thước, vặn vện năm màu, đầu cao hơn một trượng, bò thẳng đến chỗ am, cúi đầu thấp xuống lắng nghe Sư tụng kinh. Ban đầu, Sư hoảng sợ, run lập cập, không dám nhìn nó, Sư nhắm mắt tịnh tâm tụng kinh, âm thanh thường dừng, dần dần do lý cách tình, hơi được thấm nhuần. Do đó, khởi tâm từ bi, phát nguyện rộng lớn, chắp tay rơi lệ, thu âm thinh đến trọn bộ, con rắn từ từ bò ra. Từ đó về sau bò đến nhiều lần không thôi.
Sư mặc dù biết nó không hại, nhưng sợ mùi tanh hôi và hình dáng xấu xí của nó, ban đầu Sư lấy gậy đưa tay nó liền bò đi, sau đó Sư bảo Cư sĩ đuổi nói đi, ông ta bèn lấy dây cột vào cổ, dẫn đến nghiệp sâu nặng cột vào một cây cổ thụ.
Tối hôm đó, Sư và Cư sĩ mộng thấy một người nữ ôm mặt khóc lóc đến trước Sư thưa: Đệ tử là thần nữ ở núi này, tánh rất thích nghe pháp, thường dùng hình dạng dơ xấu can phạm đột nhập vào pháp chúng, nay bị đuổi đi, và cột vào gốc cây, từ biệt đi xa Sư, nên không được nghe tụng kinh Đại thừa, do lỗi này nên lấy làm tiếc.
Sư và Cư sĩ đều tự tỉnh giấc, lần lượt gạn hỏi nhau thì thấy các điềm mộng giống nhau, nên nghi đã gây ra cái chết của con rắn, bèn thắp đuốc đến xem, quả thật việc xảy ra đúng như vậy. Cư sĩ kêu gào, khóc lóc dập đầu xuống đất thành tâm sám hối, tạ lỗi rồi đi đến chỗ xác chết của con rắn cùng nhau tụng kinh. Lại muốn thiết trai thỉnh một ngàn vị tăng, bèn ở bên am được mấy cái bánh bằng bạc, nên xuống núi mở hội vừa đúng, được chu toàn đầy đủ.
Một hôm, Sư đến một thân nọ, có người phụ nữ nghèo họ Lưu, thỉnh Sư ở lại để cúng dường. Sư mở lòng thường ở lại bảy ngày, vật thực của cô ta hết sạch, Sư liền muốn đi.
Tín nữ hết lòng thỉnh Sư ở lại nhưng lại không còn của cải, đồ vật, bèn cắt tóc đổi lấy thức ăn cúng dường Sư trong bảy ngày, Sư lại muốn đi. Cô gái nghèo khóc lóc cố giữ Sư ở lại, do đó dừng lại không đi. Số tiền Tín nữ bán tóc đã dùng hết rồi, cô ta lo buồn thấu xương chẳng biết lấy đâu ra của để cúng dường Sư, thình lình cô ta lấy tay xoa đầu cảm thấy tóc mọc ra như cũ, ngạc nhiên vui mừng khôn xuể, cô ta bèn cắt tóc đem bán lại kéo dài thêm được bảy ngày nữa, tóc mọc dài ra như trước, qua ba lần cắt như thế. Sư cảm thấy ở lại đã lâu sinh ra sự phiền tổn càng nhiều, nên đắp y mang bình bát quyết định không chịu ở lại, Tín nữ bèn đảnh lễ và trình bày đầy đủ sự việc.
Sư nghe lời nói ấy nghẹn ngào không nói được, thương tiếc thầm trách bản thân được lòng tốt như thế, thệ mãi mãi trong sạch như trước kia. Lại đến núi Tố Ti ở Đồng châu lại tu tập như thường. Thời gian sau bỗng nhiên Sư không bệnh mà chết tại nhà ở trong núi. Cho nên bốn chúng ở chùa Cam Tuyền nhóm lửa thiêu Sư, sau khi cháy hết chỉ còn lại cái lưỡi đỏ tươi như lúc chưa thiêu.
Bấy giờ, vị trụ trì chùa Khánh Thiện ở huyện Hàn Thành do đó đồn khắp nhân gian, mọi người không tin có chuyện đó. Bèn cùng chúng tăng trong chùa các cư sĩ và người thế tục có hơn năm trăm người, chở mấy xe củi đốt lại mười lần nhưng màu sắc vẫn như cũ không thay đổi, mọi người đều sám hối và rất kính phục. Chiếc lưỡi đó được đựng trong một cái hợp thơm và được lưu truyền cúng dường.
* Lý tín: Không rõ người ở đâu có tiết tháo cao khiết thường giao du với Sư Hoằng Chiếu nắng mưa có nhau. Sau khi Hoằng Chiếu mất ông ngậm ngùi nhưng không đưa tiễn mà xếp hành lý về Nam, siêng tu thiền quán.
* Tỳ-kheo-ni: Không biết tên họ, là người ở huyện Côn sơn thuộc Tô châu. Từ thuở nhỏ cô đã vào đạo và thường tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày tụng hai biến, trải qua hơn hai mươi năm, vị Ni này dung mạo rất xinh đẹp, người nào thấy rồi cũng nhớ nhung lưu luyến.
Đến niên hiệu Vĩnh Xương năm đầu, quan huyện họ Chu, sanh khởi tâm ác ngang nhiên đổ tội, nhưng tâm ý cô không phục tùng theo. Họ Chu bèn não loạn đại chúng trong chùa, phá phách làm tổn hại của thường trụ. Vị Ni không biết tính sao cho thoát được cảnh khổ này, tay cầm cuốn kinh bảo: Kinh Pháp Hoa này, sao chẳng linh nghiệm gì hết. Nói xong, cô liền đắp tịnh y vào điện Phật đốt hương phát nguyện.
Sau đó, quan huyện giả mượn lý do khác đến ngủ nhờ, trong lòng có ý khác lạ, bèn đến phòng Cô Ni. Lúc đang chuẩn bị đi thì bỗng nhiên cảm thấy nửa thân đau nhức cực kỳ, nam căn liền rơi rụng, toàn thân toát mồ hôi, liền phát bệnh hủi, lông mi râu tóc đồng thời đều rụng sạch. Quan huyện đau buồn sám hối, hối hận vô cùng, nhưng cuối cùng chẳng thuyên giảm.
Thích Pháp Tự ở núi Thạch thất đời Tấn Thục.
Thích Tăng Ẩn Giang Lăng đời Tống.
Thích Đạo Vinh chùa Nhuận Tâm ở kinh đô đời Tống.
Thích Tăng Tuân ở Cao Xương đời Tống. Thích Tuệ Khánh ở non Lư sơn đời Tống.
Thích Pháp Trang chùa Đạo Tràng ở Kinh đô đời Tống.
Thích Tăng Phú chùa Bành thành ở Kinh đô đời Tống.
Thích Pháp Quỹ chùa Chỉ viên ở Kinh đô đời Tống.
Thích Tăng Phiên chùa Linh thứu ở kinh đô đời Tề.
Thích Pháp Ngộ ở núi Xương Phàn đời Tề.
Thích Tăng Hầu ở Hậu Cương thuộc kinh đô đời Tề.
Thích Tuệ Ôn, chùa Phổ Hoàng ở kinh đô đời Tề.
Thích Tuệ Thắng chùa Diên Hiền ở Chung Sơn đời Lương.
Thích Ngạn Tông ở Phiên kinh quán thuộc Đông đô đời Tùy
(thường tụng bổn tiếng Phạm).
Thích Tuệ Viễn chùa Tịnh ảnh ở Kinh đô đời Tùy.
Thích Tăng Chiếu chùa Đơn lĩnh ở Thái sơn đời Ngụy.
Thích Đại Chí ở Cửu giang thuộc Lư sơn đời Tùy.
Thích Phổ Tế ở núi Chung nam đời Tùy.
Thích Trí Quả trụ đạo tràng Tuệ Nhật ở Đông đô đời Tùy.
Thích Đàm Tuân chùa núi Bách Viêm ở Hoài châu đời Tùy.
Thích Huệ Di chùa Thanh Thiền ở kinh đô đời Đường.
Thích Tuệ Quận trụ chùa Sùng nghĩa ở Kinh đô đời Đường.
Thích Tăng Minh trụ chùa Quốc Thanh ở non Thiên Thai đời Đường.
Thích Tri Mạng ở Ngụy Trịnh đời Đường.
Thích Tuệ Viễn ở Đại Nguyên đời Đường.
Thích Thiện Tuệ chùa Tân Lương ở Ly sơn đời Đường.
Thích Thiện Nhân chùa Đại Trang Nghiêm ở Kinh đô đời Đường.
Thích Tào (không rõ tên) chùa Thanh thiền ở Kinh đô đời Đường.
Tỳ-kheo chốn Lan nhã ở nước ngoài. Cao Tông Minh Hoàng đế ở nước Tề.
Lương Trung Tông Nguyên Hoàng đế đời Lương.
Thích Trí Viễn chùa Tố ở Cái châu đời Tống.
Châu Thứ sử Hạc Ngạn Vũ đời Tùy, Ngụy.
Ba Châu Thứ sử Tô Trường Thiếp đời Đường.
Lưu Hoằng Nhân huyện lệnh Gia Hưng ở Tô châu đời Đường.
Sa-di nước Tân-la đời Đường.
Ông lão họ Tân ở Trịnh Châu, đời Đường Cáp Xu ở chùa Thạch bích thuộc Tinh châu đời Đường.
Thích Pháp Mẫn chùa Bạch mã ở Lạc dương đời Đường.
Lưu Thời ở huyện Vạn Niên thuộc Ung Châu đời Đường.
Theo luận Đại Trí Độ: Thuở xưa, ở một nước nọ có vị Tỳ-kheo ở chốn A-lan-nhã thường đọc tụng kinh Đại thừa. Quốc vương nước ấy thường cạo trải tóc thỉnh Ngài đạp lên mà đi qua. Lúc ấy, có một vị Tỳ-kheo bèn bảo nhà vua: Vị Ma-hoa-lư này tụng kinh không nhiều, tại sao bệ hạ lại cúng dường trọng hậu như thế.
Vua bảo: Một hôm, vào nửa đêm ta muốn gặp vị Tỳ-kheo này, bèn đi đến chỗ Ngài, thấy vị Tỳ-kheo đang ở trong hang tụng kinh Pháp Hoa, lại thấy có một người ánh sáng vàng rực cỡi voi trắng chắp tay đứng cúng dường ta đi tới, quay thân lại liền biến mất, không xuất hiện nữa. Ta bèn hỏi: Đại đức vì sao tôi đến thì người có ánh sáng biến mất?
Tỳ-kheo đáp: Vị này chính là Bồ-tát Biến Cát, tự phát nguyện nếu có người nào tụng kinh Pháp Hoa, ta sẽ cỡi voi trắng đến dạy bảo dẫn dắt. Vì ta tụng kinh Pháp Hoa nên ngài Biến Kiết tự đến. Biến Kiết tức là ngài Phổ Hiền.
- Tề Cao Tông Minh Hoàng đế: Húy Loan, tự Cảnh Tê, tập trung tư tưởng tỉnh giác, đã lâu suy nghĩa ở Kỳ sơn. Rưới một trận mưa thấm nhuần chúng sinh trong ba cõi muôn vật.
Kiến tạo ngàn tượng vàng, viết tất cả kinh, trì sáu tịnh trai, thường tụng kinh Bátnhã, xây chùa quy y, chiêu vời thiền tăng, thường tụng kinh Pháp Hoa, chịu đựng thời tiết lạnh nóng.
- Lương Trung Tông Nguyên Hoàng đế, húy Dịch, tự Thế Thành. Chứa nhóm việc lành làm niềm vui, gia đình có truyền thống về hạnh chí đức. Phụng thờ nhân tốt đời trước, có lòng tin sâu sắc, xây dựng hai ngôi chùa. Thiên Cư và Thiên Cung cúng dường cho một ngàn vị tăng, ở giảng nói Luận
Thành Thật, học A-tỳ-đàm. Học tập bói toán với Diễm Sư, ở vị Trí Thượng tự tay họa tượng thánh và chép một ngàn danh hiệu Phật, tụng chú Dược sư, lại siêng năng cầu đến đảo châu báu, đảnh lễ thọ trì kế châu, chuyển sang đọc kinh Pháp Hoa, lấy làm nhiệm vụ thường ngày.
- Thích Trí Đạt là vị tăng trụ chùa Ích ở châu Tố, đức hạnh Sư rất được truyền tụng, lưu danh ở thế tục. Sư rất giỏi về kinh điển, bấy giờ Sư tụng kinh Pháp Hoa suốt hai mươi ba năm. Vào tháng 06, niên hiệu Nguyên Hy năm thứ ba đời Tống Sư bệnh và thị tịch.
Thân ốm nóng không hết, bèn kéo dài hai ngày, hơi thở vào dần dần trở lại đến sáng ngày thứ ba mới nói được. Sư tự nói: Lúc ta bắt đầu mê mệt thấy có hai người đều mặc khố vải màu vàng, một người đứng ngoài cửa, còn một người đứng ngay trước giường, bảo rằng: Thượng nhân nên đi, hãy bước xuống đất.
Sư đáp: Bần đạo thân thể yếu ớt, không thể bước đi được. Người này lại nói có thể đi kiệu, hãy đưa kiệu đến. Sư liền lên kiệu, ý thức bỗng nhiên không còn thấy mọi người trong nhà, đến khi lên kiệu mắt nhìn bốn phương rất rõ ràng, chỉ thấy cánh đồng hoang vu, đường đi rất gian nan nguy hiểm, chỉ bày con đường lên nhẹ bước theo sau, hại người kia đuổi theo, không được nghỉ ngơi. Đến một lầu son tường cửa rất đẹp. Sư vào đến dưới nhà thì trên nhà có một quý nhân. Chu Trách chuyên ngồi trên giường, dung mạo rất trang nghiêm, nhìn rất oai vệ, có khoảng một trăm binh lính thị vệ đứng hầu hai bên, đều mặc áo đỏ, đứng xếp thẳng hàng rất oai nghiêm.
Quý nhân thấy Sư bèn sửa lại dụng nghi, ngồi ngay thẳng bảo rằng: Người xuất gia, tại sao để có nhiều tội lỗi như thế?
Đạt đáp: Từ khi biết được đến nay, chẳng nhớ đã gây ra tội gì? Hỏi: Tụng giới mấy lần rồi?
Đáp: Khi mới thọ giới cụ túc, thật ra thường tụng giới, sau này bèn phế bỏ, hay giảng việc hằng ngày, ngày càng khinh lờn. Cho nên đối với việc tụng giới lúc đó có thiếu sót.
Hỏi: Sa-môn mà không tụng giới, việc này rất phi pháp, nhưng hãy tụng kinh đi.
Đạt liền tụng kinh Pháp Hoa ba lần thì bảo dừng lại, quý nhân đã sai người ghi chép tội.
Đạt rằng: Đáng tống đến chỗ ác, đừng để khổ lắm.
Hai người dẫn Đạt đi mấy mươi dặm, hơi nghe tiếng ầm ầm sang sảng phá tan vọt lên trời, mà đường phía trước càng tối. Lần lượt đến một cửa cao mấy mươi trượng, màu rất đen chắc, che cửa sắt, bức tường cũng giống như thế. Trong tâm Đạt nghĩ trong kinh nói địa ngục đúng là ở đây rồi, bèn kinh hoàng sợ hãi, hối hận lúc ở đời không tu hạnh nghiệp, bây giờ phải vào cửa này. Tiếng yếu dần thì thay đổi hình trạng, lâu lắm nghe được sự im lặng mới biết là âm vang do người này đang kêu gào. Trong cửa càng tối chẳng thấy gì cả, lúc đó có ánh sáng của ngọn lửa chợt tắt chợt đỏ, thấy mấy người cầm đinh ba đâm vào người đó, máu chảy như suối tuôn. Người đó thuở xưa chính là bá mẫu của Đạt, kia đây gặp nhau ý muốn nói chuyện với nhau nhưng có người vội kéo ra chỗ khác, chẳng rảnh nói được. Vào cửa khoảng hai trăm bước thấy có một vật hình dáng như mễ thùy, có thể cao hơn trượng, hai người bắt Đạt quăng lên trên thùy, trong đó có lửa, đốt cháy nát thân thể Đạt, nửa thân đều cháy rã, đau đớn không chịu nổi. Từ trên thụy rớt xuống đất bất tỉnh, lát sau hai người lại dắt Đạt đi, thấy có hơn mười chảo dùng chĩa ba đâm vào thân, hoặc có người vịn chảo bước ra thì hai mắt đột nhiên nổ tung, lưỡi dài ra hơn một thước, thịt nát rã hết mà vẫn chưa chết. Các chảo đều đầy người tội, chỉ còn một cái còn trống, hai người bảo Đạt: Thượng nhân ngay lập tức sẽ bị rơi vào chảo này. Đạt nghe nói, can đảm quỳ xuống đất, bèn van xin: May mắn cho bần đạo một lát lễ Phật, liền dốc lòng cúi đầu nguyện thoát khỏi cảnh khổ này, thành khẩn hối hận dốc lòng, hình trạng địa ngục trong khoảng bữa ăn liền nhìn sang bốn bên, chẳng thấy gì nữa, chỉ thấy cây cối tươi tốt bằng nguyên, phong cảnh xanh mát sáng sủa. Mà hai người vẫn dẫn Đạt đi đến dưới một căn lầu, hình dáng lầu cao mà nhỏ, trên có người quyết đoán đang ung dung ngồi bảo Đạt: Sa-môn chịu quả báo nhẹ, đâu nên vui mừng, Đạt ở dưới lầu, bỗng nhiên chẳng biết gì nữa, tỉnh giấc trở lại thân bình thường.
- Bác Lăng Hạc Sản Võ, vào niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, làm chức Thứ sử ở Hàn châu đời Ngụy, nhân dịp đi bộ đến một ấp vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, bảo người tùy tùng: Thuở xưa, ta từng làm vợ một người ở trong ấp này, nay vẫn biết chỗ ở của gia đình đó, bèn cỡi ngựa chạy vào ngõ đi tắt trong làng, quẹo qua đường cong, đến một gia đình. Đầu tiên vào nhà, lên nhà trên, nhìn trên tường phía đông cách đất sáu, bảy thước có chỗ cao lớn, bèn bảo chủ nhân: Ngày xưa, ta đọc kinh Pháp Hoa và giấu cây trâm vàng ngũ hầu trong bức tường này, chỗ cao này là đúng rồi. Một tờ sau cùng cuối kinh Pháp Hoa quyển bảy bị lửa cháy mất văn tự, đến nay mỗi lần ta đọc kinh này, tới cuối quyển bảy đều quên mất không thể nhớ được.
Do đó bảo tùy tùng đục tường phía Đông quả nhiên lấy ra được hòm đựng kinh, khi mở nắp hòm ra ở cuối quyển bảy của kinh Pháp Hoa và cây trâm vàng đúng như lời ông ta đã nói.
Chủ nhân than khóc thưa rằng: Vợ tôi đã mất rồi nhưng lúc còn sống, thường ngày đọc kinh này, cây trâm vàng cũng là vật của vợ tôi. Nàng do sinh sản mà chết, bèn mất đi nguyên nhân, chẳng cho rằng khiến ông mới biết được chỗ ở.
Sản Võ bèn chỉ cội cây trước sân nói: Lúc ta sắp sinh tự cạo tóc trên đầu để vào trong hốc cây này. Thử bảo người tìm trong cây xem có không? Quả nhiên tìm được búi tóc. Lúc ấy, chủ nhân mừng mừng tủi tủi. Sản Võ lưu lại y vật và ban cho chủ nhân rất trọng hậu rồi ra đi.
- Tô Trường chưa ai biết được nơi cư trú quê quán của ông ta, vào niên hiệu Vũ Đức làm chức sứ giả ở Đô thủy, ra làm Thứ sử ở ấp châu, dẫn theo số người trong cả nhà đi nhậm chức. Qua sông Hỷ lăng, lúc ra giữa dòng sông, sóng gió nổi lên, thuyền bị chìm có hơn sáu mươi người nam nữ, cả thuyền đều bị chết chìm, chỉ có một mình nàng thường ngày tụng kinh Pháp Hoa, nước đã vào trong thuyền, đầu nàng vẫn đội thùng kinh, thệ đều cùng nhau chết chìm. Khi thuyền đã bị đắm mà nàng vẫn không chìm, theo sóng trong chốc lát trôi giạt vào bờ, nàng bèn đội hòm kinh bước lên bờ, khi mở ra xem kinh trong đó vẫn không bị ướt bẩn.
Sau đó nàng được một người ở Dương châu cưới làm vợ, từ đó nàng càng dốc lòng tin hơn nữa.
- Lưu Hoằng Nhân, năm mười tám tuổi nhận học sinh ở Quốc tử cùng mười người đồng học. Ở chỗ tướng sư, tìm cầu tướng lành dữ. Thầy bói tướng đều khắc định thời gian giàu sang nghèo hèn và số năm thọ mạng, báo cho Hoằng Nhân. Đến năm năm mươi mốt tuổi và ngày 11 tháng 04 năm đó chắc chắn phải chết.
Năm ấy, Hoằng Nhân ở huyện Lịnh ở gia hưng thuộc Tô châu. Trong số đó có chín người đều chịu họa phước không sai, đúng như lời thầy tướng đã nói. Và Hoằng Nhân mười tám năm đã đến sự lành dữ đều chiêm nghiệm, đến nay đúng năm mươi mốt tuổi. Tự nghĩ đã đến lúc phải chết, bèn đến Tô châu nói lời từ biệt với các quan liêu.
Lúc ấy, Hàn Vương Nguyên Gia làm Thứ sử ở Tô châu, hỏi ông lý do, Hoằng trình bày đầu đuôi câu chuyện. Vương dạy nên tu phước. Đến ngày 08 tháng 04 Nhân bị một cơn bệnh rất nặng, Vương thỉnh tăng ni các chùa chuyển giùm Hoằng Nhân một ngàn biến kinh Pháp Hoa và lại tụng cầu cho Hoằng Nhân một trăm biến, lúc đó toàn thân ông mồ hôi toát ra như mưa, bệnh cũng lành hẳn, bình phục lại như thường, tin tưởng biết rằng năng lực phước đức thật không thể nghĩ lường.
- Có một vị tăng già mất họ tên đã hơn tám mươi tuổi ở góc Tây Nam thị trấn Trịnh châu. Ông thường thọ trì kinh Pháp Hoa, chuyên tâm thanh tịnh từ ba mươi năm nay, tụng kinh mỗi đêm, ban đêm nhìn sáng như ban ngày chẳng cần đèn đuốc. Nếu ông buông quyển kinh ra thì sẽ thấy tối như thường, chẳng thấy vật gì cả.
- Nước Tân-la có người tên Kim Quả Nghị, sinh được một người con trai, từ nhỏ cậu đã được xuất gia và ưa đọc kinh Pháp Hoa, đến quyển hai làm lộn cháy mất một chữ. Năm lên mười tám tuổi thình lình bị chết yểu, đầu thai sinh chỗ khác trong nhà Kim Quả Nghị, cũng được xuất gia và cũng thích đọc kinh Pháp Hoa, đến quyển hai mỗi một chữ vừa hỏi đã quên.
Một hôm, nằm mộng thấy có người bảo "Tiểu sư đời trước, sinh trong gia đình Kim Quả Nghị tại một làng kia, cũng được xuất gia, lúc sống ở chỗ đó đọc tụng kinh Pháp Hoa lầm đốt một chữ. Do đó đời nay theo đó mà quên mất, kinh xưa hiện nay vẫn còn, Sư đi đến đó xem thử.
Bấy giờ, Tiểu Sư đi đến làng ấy tìm kiếm, quả nhiên có một gia đình đúng như trong giấc mộng. Nhờ hỏi giùm nhà ở của cha mẹ đời trước, y theo đó muốn biết, bèn tìm hỏi thăm bộ kinh thuở xưa, mới thấy quyển hai thật đúng có cháy một chữ.
Tiểu sư và cha mẹ đời trước mừng mừng tủi tủi, cả hai gia đình bèn kết tình thân, kia đây không hai. Đương lúc lời bàn đến tai Châu huyện. Châu huyện tâu lên triều đình, cả nước truyền nhau bài vịnh đến nay vẫn còn, năm ấy nhằm niên hiệu Trinh Quán.
- Có một lão tăng, không biết họ tên, Sư trụ chùa Thạch Tường ở Tinh châu, lấy việc tu thiền quán làm sự nghiệp.
Cuối niên hiệu Trinh Quán, trên cây cột trong phòng có đôi chim bồ câu. Lão Sư thường cho chúng thức ăn dư, sau đó mặc dù chúng từ từ lớn, lông cánh mọc chưa đủ mà chúng đã học bay, cả hai chú chim đều rơi xuống đất chết. Vị tăng thấy vậy bèn chôn xác chúng và tụng kinh cho nó trong một tuần lễ. Một đêm, vị Sư nằm chiêm bao thấy có hai đứa trẻ đến báo: Chúng con vì đời trước có tạo ít tội nên thọ lầm thân chim bồ câu, đến nghe Sư tụng kinh Pháp Hoa và Kim Cương Bát-nhã. Nay đã được làm thân người, hiện giờ chúng con đang sống trong một gia đình ở làng nọ, cách chùa hơn mười dặm, đầu thai làm con trai, đã được hơn mười tháng rồi, hiện đang sắp chào đời.
Vị tăng theo điềm báo bèn đi tìm và gặp được gia đình này, có một phụ nữ sinh đôi hai bé trai vừa đủ một tháng tuổi, vị tăng gọi hai đứa trẻ: "bồ câu con", cả hai đứa bé đồng thanh đáp: dạ, sau tiếng "dạ" ấy, đến lúc chúng hơn một tuổi mới biết nói.
- Thích Pháp Nhãn họ Cao, Cao Khỏa Tằng Tôn làm Tề quốc công nước Tùy, tên tự là Lập Kính, còn gọi là Nguyên Thích.
Khi chưa xuất gia, vào niên hiệu Trinh Quán cùng người anh là Lập Giám học kinh Pháp Hoa, Bất nhã ở chùa Hóa Độ với vị tăng tên Minh Tạng Xứ, dường như khá thông thạo hiểu rõ. Sau đó Kính bỏ phế việc học và thói quen đó.
Vào niên hiệu Long Sóc năm thứ nhất, khi ra trận từ xa trở về, tháng giêng năm thứ ba đến đài để xem kỳ công thắng trận, lúc từ cửa Thuận Nghĩa đi ra có hai người cỡi ngựa đuổi theo quát: "nay bắt ngựa rồi".
Kính hỏi: Ông là ai?
Đáp: Ta là sứ giả của vua Diêm-la, đuổi theo để bắt ông.
Kính kinh hoàng sợ hãi, bèn cỡi ngựa chạy ra, muốn vào chùa Phổ Quang, sứ giả bảo: Mau vào chặn cửa chùa đừng để cho nó vào được sẽ tẩu thoát. Cho đến khi tới cổng chùa mới thấy một người cỡi ngựa đứng chắn ngang cửa. Kính lại chạy về hướng Tây định vào chùa Khai Thiện, cả hai cùng cỡi ngựa vào cổng, lúc ấy Kính sợ gặp nhau bèn theo đó tẩu thoát, định trở về nhà mình, nhà ở phía Đông chùa Hóa độ. Vì sợ đường xa bèn muốn vào làng có suối nước ngọt, nhưng ngay lúc đó một người đã đứng ở phía trước, còn người kia dùng nắm tay đấm Kinh, quỷ liền té xuống ngựa, sau đó quỷ nói: Người này rất nguy hiểm, mau kéo xuống, lôi đầu tóc, liền bị kéo tóc, như dao cắt thân thể.
Lại có một người mặc áo đỏ cỡi ngựa trắng. Dùng tay đấm vào ngực Kính, ngay tức khắc Kính rơi xuống ngựa ngã lăn ra đất, hồi lâu mới tỉnh lại, như ngồi trong đá sương mù. Người nhà đưa kiệu trở lại, đến chỗ Hiểu Tô bảo: Thấy rõ vua Diêm-la. Vua hỏi: Vì sao ông lấy trộm trái cây của chúng tăng? Vì sao nói lỗi của Tam bảo? Bèn y tội trạng, không dám nói lầm lộn. Vua phán: Tội ăn trộm trái cây phải nuốt bốn trăm năm mươi viên, sắt nóng và chịu bốn năm như vậy mới hết. Còn tội nói lỗi Tam bảo phải kéo lưỡi ra cày, do đó bảo đưa lưỡi và kéo ra. Liền tỉnh lại và trong nháy mắt thấy một người đầu có hai sừng, cây gậy bằng một hoàn sắt trói tay chân Kính lại và ra lệnh phải nuốt tất cả viên sắt nóng. Người đứng bên chẳng thấy viên sắt, chỉ thấy Kính há miệng trợn mắt, toàn thân đỏ chói, hơi nóng xông lên cổ họng, nung nấu khó đến gần, trải qua một ngày, mới tỉnh dậy, nói: Đã được một năm rồi, nuốt hơn một trăm viên sắt, cái khổ đó không thể lường, qua bốn ngày như vậy, nuốt hết viên sắt, ngay tức khắc chính là hai chùa Hội xương và Hóa độ, đầu thành sám hối đến ngày mồng 03 tháng 03 lại sai sứ giả đến bắt đem đến trước vua, vua hỏi:
Ông phỉ báng Tam bảo, tội ấy phải kéo lưỡi ra cày.
Kính lại thấy hai người dùng kiềm kéo lưỡi ra dường như dài cả mấy trăm thước. Rồi thấy hai người, mỗi người cầm một lưỡi cày đột nhiên cày trên lưỡi, chánh án tra xét lại bảo rằng: Ông thường tụng kinh Pháp Hoa, Kim cương Bát-nhã, nhờ đó mà được sống lại. chính thân ông nhìn thấy trên lưỡi mình các chỗ như dao cắt, vì đọc hai bộ kinh cho lưỡi không đứt.
Sau đó, Kính nghĩ muốn nói sợ kinh hoàng than khóc, do đó bèn xuất gia pháp danh Pháp Tạng, tinh tấn cố gắng gấp bội hơn lúc thường, và trụ chùa Bạch Mã ở Đông đô, không biết mất lúc nào.
-Lưu Thời người ở phường Bình khang, huyện Vạn niên, đất Ủng châu. Vào tháng 06 niên hiệu Vĩnh Long năm thứ hai ông bị bệnh hai ngày và chết, kéo dài sáu ngày, hơi ấm chỉ còn trên ngực. Cả nhà đã chọn ngày tẩn liệm, nhưng chưa dám mặc áo liệm, đến sáng ngày thứ bảy bỗng nhiên sống lại nói rằng: Lúc đó ta bị một người dẫn vào ngôi thành lớn, có cung điện lầu quán tráng lệ lạ thường, thấy vua Diêm-la, vua bảo: Người hãy ghi lại đầy đủ các công đức lúc còn sống.
Ta bèn đáp: Lúc còn sống chỉ tụng được hai quyển kinh Pháp Hoa, ngoài ra không có công đức gì cả. Vua bèn ghép vào tội án nghiệp rồi cân nhắc: Hai quyển kinh Pháp Hoa nặng hơn tội án. Diêm-la tra xét tội án phán rằng: Người này lẽ ra được sống tới chín mươi tuổi và bảo quan xử án: "Tại sao ngươi bắt lầm người này tội lỗi quá lớn, nên thả ông ta trở về".
Nhờ đó mà ông sống lại, trải qua khoảng hai mươi ngày mỏi mệt mới lành hẳn. Sau đó bèn thọ giới, chẳng dám uống rượu ăn thịt nữa, tạo kinh Pháp Hoa chữ vàng hằng cúng dường đầy đủ.
* Thái Tổ Cao Hoàng Đế đời Tề.
Cánh Lăng Văn Tuyên Vương và Thế tử đời Tề.
Cố đệ tử Thích Đạo Siêu đời Bắc Tề.
Ni Luyện Hạnh ở Hà đông đời Tùy.
Cha con Tử Nghiêm Cung ở Dương Châu đời Tùy.
Khách Tăng Cứu bạn đồng học đời Tùy.
Em của không Đậu kháng đời Tùy.
Mã Hành người ở Bối châu đời Đường.
Thích Đàm Vận ở núi Tỷ Can đời Đường.
Kinh Cô Nguyên Quỹ ở Ba Tây đời Đường.
Diệu Trí ở Lạc châu đời Đường.
Trần Pháp Tạng người ở Ung Châu đời Đường.
Cha con Tả bộc xạ Tiêu Võ đời Đường.
Thích Trí Diệp ở chùa Hoằng Phước đời Đường.
Hà Huyền Linh người ở Lạc châu đời Đường.
Lưu Lão ở huyện lương Nhữ châu đời Đường.
Họ Từ ở Lam Điền đời Đường.
Họ Ngô ở lang Tương đời Đường.
Thích Huyền Tế chùa Ngộ Chân đời Đường.
*****
* Thái tổ Cao Hoàng đế: Họ Tiêu, húy là Đạo Thành, tự là Thiệu Bá. Tư tưởng rất vui với chân thừa, tâm ở nơi đất báu. Từ lâu ông đã mau chóng ra khỏi nhà lửa thế tục, vượt hóa thành mà thẳng đến, độ tăng xây chùa, mở rộng cửa phước thiện, đúc tượng trì kinh, thường tu phước nghiệp.
Mỗi khi đến ngày rằm tháng bảy, khắp các chùa đều mang bồn sành đến cúng dường ba trăm vị tăng. Ngày rằm và mồng một vua ra lệnh trong nước không cho sát sinh. Còn lúc rảnh rỗi muôn việc vua tự tay chép kinh Pháp Hoa, trang nghiêm tài giỏi lạ thường, thường siêng cúng dường.
* Tiêu Tử Lương: Người ở Nam Lan Lăng, được phong làm Cánh Lăng vương. Niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ bảy đời Tề, Chí Thượng đem bốn ngàn đồng tiền đến chỗ Cánh Lăng Vương tổ chức Bát quan trai. Tâu với nhà vua: Hãy thỉnh vị Vân Phó, đây là người chân chánh xuất gia. Vua liền thỉnh Phó làm vị Thiện trị thức, cùng ông ấn tống một ngàn bộ kinh Pháp Hoa.
- Vương nằm mộng thấy một người hỏi rằng:
Có muốn được phước hay không?
- Vương đáp: Muốn.
- Người ấy liền chỉ công đức trong nước.
- Vương lặn xuống nước mò được một quyển kinh Pháp Hoa, cảm thấy tâm vui mừng khôn xiết, là tượng trưng cho bên trong đã tắm gội sạch sẽ và tự tay chép một bộ kinh Pháp Hoa, một bộ kinh Quán Thế Âm.
Thế tử Ba Lăng Vương cũng tự tay chép một bộ kinh Pháp Hoa.
Phó lại nằm mộng thấy một người cỡi ngựa trắng ở trên hư không từ hướng Đông đi tới trao cho Phó phướn làm tin.
Đến cuối tháng tư niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ mười một, lại mộng thấy một người đem tới một quyển kinh và nói rằng: Có chỗ sai. Sáng mai gặp được bộ kinh Pháp Hoa, mở ra xem thử, bèn thấy ở phẩm Thọ Lượng quyển năm có một câu sai "Nhất trần Nhất kiếp". Lúc ấy thu gom mấy mươi bộ kinh đều không có câu này. Liền nói suy ra nghĩa chính là chỗ cùng tột của kinh Pháp Hoa. Về sau mỗi lần Sư soạn kinh văn đều có con chim sẻ trắng bay liệng để ứng với điềm lành đó, về sau chẳng biết Phó mất lúc nào.
* Thích Đạo Siêu: Chẳng biết người ở đâu. Sư xuất gia trụ ở chùa núi, quận Tề, sư lập hạnh thanh khiết, có người đệ tử tên xong, năm mười lăm tuổi tụng kinh Pháp Hoa được một quyển, thình lình bị bệnh mà mất.
Người đệ tử này vì có tánh siêng năng học tập và có thần thái, có tâm nhân hiếu thiên phú, được thầy rất yêu mến. Từ lúc đệ tử mất về sau sớm chiều thương nhớ. Cách quận Tề không xa có miếu Thái sơn, Đạo Siêu trong tâm nghĩ rằng: "Ta thường nghe nói người chết, thần minh chắc chắn phải đi ngang qua chỗ Phủ quân Thái Sơn, rồi mới được thọ sinh. U minh tuy cách trở nhưng có thành khẩn sẽ có cảm ứng, ta thử hỏi quân Thái Sơn, có khi biết được đệ tử sinh ở đâu. Do đó cầm tích trượng đi về sơn miếu, bày tỏ rõ ràng ý nghĩ của mình, ba lần cáo thần.
Chủ cây bỗng nhiên trả lời:
- Pháp sư giới hạnh đã tinh nghiêm thành kính, tâm càng kính trọng, sư hỏi việc gì, đâu dám không báo cho sư biết. Thần cây liền truyền lệnh cho thị thần một cây bảo gọi người chủ đến hỏi lý do. Thị thần đi vào phòng hai gian ở phía Đông, vào trong nhà gọi một người ra. Phủ Quân liền hỏi: Đệ tử quên tên nay ở đâu?
- Người này đáp: Còn bị ràng buộc trong đây, chưa được thọ sinh.
Đạo Siêu vẫn xin được gặp nhau, Phủ Quân liền bảo đi theo người này đến phòng hai gian ở phía Đông cách nhau khoảng hơn mười bước, liền gặp đệ tử, hình mạo, y phục vẫn rõ ràng như lúc còn sống. Thầy trò cảm động mà khóc, giây lâu thầy hỏi: Quả báo khổ vui như thế nào?
- Đệ tử đáp: Hiện nay vẫn còn bị trói buộc, cũng không có khổ vui, nhưng thọ sinh thì chưa quyết định, mau mau phải làm công đức để cứu giúp, nếu không có gốc lành, e sẽ đọa vào chỗ xấu ác.
- Sư hỏi: Làm phước lành gì để được trang nghiêm?
- Đệ tử đáp: Xin thầy tạo cho con một bộ kinh Pháp Hoa và cúng dường trai tăng một trăm vị.
- Sư nói: Việc này thầy làm được. Sau đó từ biệt đệ tử, lại gặp Phủ Quân, Phủ Quân hỏi gặp làm gì? Sư kể lại những việc cần làm như thiết trai, tạo kinh, v.v…
- Phủ Quân khuyên: Chốn u minh cái lớn lao là phải có công đức, sư nên mau về lo sắm cho xong, rồi đến gặp.
Sư nhân đó trở về bổn tự, liền chuẩn bị giấy bút thuê người chép kinh, đồng thời thiết trai cúng dường, khi công đức đã làm xong, sư trở lại chỗ miếu gặp Phủ Quân, kể lại những điều tu phước đã hoàn tất, đến tìm đệ tử. Phủ Quân lại ra lệnh cho Thị thần gọi người chủ trước kia, người chủ đến, Phủ Quân liền hỏi: Đệ tử của sư có còn ở đó chăng?
- Người ấy đáp: Đã sinh về chỗ tốt đẹp rồi.
- Sư hỏi: Thọ sinh như thế nào?
- Người ấy đáp: Người viết kinh, viết chữ đầu tiên là chữ Diệu, nhưng mới viết xong bộ nữ, chưa kịp viết chữ thiếu, ngay lúc đó người kia đã thọ sinh.
- Sư lại hỏi: Hiện nay sinh ở đâu?
- Vị thần đáp: Sinh vào gia đình Vương
Võ ở quận Tề. Đợi đến lúc người đó được hai, ba tuổi, sẽ đến đó hỏi thăm, tìm kiếm. Siêu ghi nhớ lời vị thần dặn dò, rồi từ biệt Phủ Quân ra về.
Ba năm sau, Siêu bèn đến nhà họ Vương, hỏi: Đàn-việt có trẻ nhỏ không? Bần đạo muốn gặp nó.
Gia đình này giàu có lại có tâm kính tin Tam bảo, nhưng xưa nay không có con xa gần ai cũng biết. Sau này mới có được một mụn con, bà con thân sơ cũng không báo tin cho biết, Vương quân từ chối kiêng kỵ chẳng nói có con.
- Siêu nói: Là đệ tử của bần đạo, đời nay sinh vào nhà đàn-việt, đã được ba năm rồi, vì sao không báo cho nhau biết. Do đó kể lại nguyên nhân đầu đuôi câu chuyện của Phủ Quân ở núi Thái báo tin cho biết.
Người mẹ của đứa bé đang ở trong phòng nghe được, bảo với cha bé: Pháp sư linh cảm như thế, làm gì phải giấu giếm, bèn ẵm đứa bé ra để ngoài ngạch cửa, cách Siêu mấy trượng, từ xa chạy thẳng đến ôm chầm lấy sư khóc kể hồi lâu và nói khi lớn tuổi sẽ xuất gia.
Sau đó, trở lại làm đệ tử của sư, tức là vào niên hiệu Khai Hoàn thứ mười lăm. Và từ đó cũng chẳng biết thầy trò sống được bao nhiêu năm và mất lúc nào?
* Tỳ-kheo-ni Luyện Hạnh: Người ở Hà Đông. Chẳng biết tên thật của Ni sư, chỉ thấy khổ hạnh khí tiết chuyên tâm, siêng năng sách tấn, không biếng nhác nên người đời gọi là Luyện, do đó mà có tên là Luyện Hạnh.
Ni sư thường tụng kinh Pháp Hoa, chí nguyện muốn sao chép, bèn hỏi thăm một người thợ viết về số tiền, trị giá để trả công gấp đôi. Ni sư bèn cất tịnh thất riêng, thờ bên trong rất trang nghiêm. Trải qua một thời gian sống trong đó. Mỗi khi thức dậy liền tắm gội, đốt hương xông y vẫn ở trong thất viết kinh. Đến đỗi đục một lỗ tường để thông ra ngoài rồi đặt thêm một ống trúc và bảo người viết kinh mỗi khi muốn thở ra, liền ngậm ống trúc khiến cho hơi thở theo ống trúc bay ra phía ngoài tường. Chép tám năm mới xong bảy quyển kinh, cúng dường rất trang nghiêm tôn trọng, hết lòng cung kính.
Lúc ấy, có vị tăng tên Pháp Đoan ở Long Môn thường nhóm họp đại chúng giảng kinh Pháp Hoa, bèn đem bộ kinh với tinh thần định lực của vị ni này bảo mọi người hãy thỉnh xem. Ni sư cố từ chối không cho. Pháp Đoan trách ni sư như vậy là không được, bèn tự tay trao cho mọi người và Đoan cùng họ mở ra xem chỉ thấy giấy vàng, rõ ràng không có chữ nào cả, mở các quyển còn lại tất cả đều như vậy, mọi người đều hổ thẹn và kinh hãi liền đưa trả lại cho ni sư.
Ni sư buồn khóc nhận lấy, trở về dùng nước thơm rửa hòm kinh và tắm gội sạch sẽ, đảnh lễ đội trên đầu, rồi nhiễu Phật hành đạo, suốt bảy ngày đêm chẳng lúc nào nghỉ ngơi, xong rồi mở kinh ra xem thấy văn tự vẫn như cũ, v.v…
* Nghiêm Cung: Tự là Cận Thể, vốn là người ở Tuyền Châu, gia đình rất giàu, của cải dồi dào mà lại chẳng có anh em. Cha mẹ rất thương yêu Cung, chẳng bao giờ nói lời trái ý cha mẹ.
Vào niên hiệu Đại Kiến năm đầu đời Trần, lúc ấy Cung đã hai mươi tuổi, xin cha mẹ cho năm muôn đồng, đến chợ Dương Châu mua đồ vật, cha mẹ đồng ý cho. Cung chèo thuyền mang tiền đi Dương Châu, đi được mấy mươi dặm thì gặp một chiếc thuyền chở con ba ba sắp đem ra chợ bán, Cung hỏi thăm mới biết và nghĩ con ba ba này sắp chết, do đó xin chuộc bằng tiền.
- Chủ ba ba nói: Con ba ba của tôi rất lớn, riêng một con đã đáng giá ngàn đồng tiền.
- Cung hỏi: Có mấy con?
- Đáp: Có năm mươi con.
- Cung: Tôi chỉ có đúng năm muôn tiền, xin chuộc nó được không?
- Chủ ba ba vui vẻ nhận tiền và trao ba ba cho Cung rồi đi. Cung đem hết ba ba thả xuống sông rồi chèo thuyền thẳng đến Dương Châu. Người chủ ba ba khi bán xong từ biệt Cung đi được hơn mười dặm biển thì bị chìm thuyền chết.
Ngày hôm đó, cha mẹ Cung ở nhà, lúc hoàng hôn có năm mươi vị khách áo đen đến cửa xin ở trọ một đêm và trao cho cha mẹ Cung năm muôn tiền, nói: Con của ông ở Dương Châu nhờ đem số tiền này về, xin ông bà y lời dặn mà nhận tiền.
Cha mẹ Cung lấy làm lạ và ngạc nhiên nghi rằng Cung đã chết, cố gạn hỏi, khách đáp: Con ông không hề gì, chỉ vì chẳng cần số tiền này cho nên gởi đem về giùm mà thôi, cha Cung nhận tiền và nhớ là số tiền cũ đều bị thấm ướt. Khách ở lại, sau khi dùng cơm xong họ nghỉ ngơi, đến sáng hôm sau, thì từ giã ra đi.
Hơn một tháng sau, Cung trở về nhà, cha mẹ rất vui mừng và hỏi lý do tại sao gởi tiền về.
- Cung nói: Không có việc đó.
- Cha mẹ tả lại hình dáng của khách và ngày tháng giao tiền, đúng y ngày mà Cung chuộc các con ba ba. Do đó, mới biết được năm mươi vị khách đều là các con ba ba được chuộc, cha con kinh hãi tự trách. Từ đó, cả nhà ở Dương Châu siêng năng chuyên làm việc phước và thường tụng kinh Pháp Hoa. Khi tụng đến phẩm "Hiện Bảo Tháp" thì ngưng lại khen ngợi: Trong một ngôi tháp mà có hai Đức Như Lai, phân thân chư Phật số đó chẳng ít, như vậy tại sao nay ta không gặp được một vị Phật nào! Cảm khái hồi lâu.
Đêm đó, bỗng nhiên nằm mộng thấy có một vị tăng Ấn-độ tự xưng là Pháp Thoát, bảo Cung rằng: Nếu viết kinh này và làm Phật sự giảng nói, thì muốn thấy chư Phật, việc này đều sẽ được. Do đó, Cung chép một trăm bộ kinh Pháp Hoa, trong thời gian chưa lâu thình lình bị bệnh nặng, Cung thệ tạo một ngàn bộ và giảng năm trăm biến. Do đó, mở rộng phòng ốc làm nhà để kinh cho trang nghiêm thanh tịnh, thường có mấy mươi người viết kinh được cung cấp rất trọng hậu. Cho nên người đạo kẻ tục ở Dương Châu cùng nhau tôn sùng và cung kính đặt cho hiệu là Nghiêm Pháp Hoa, căn bệnh đó cũng đã lành, chí nguyện càng xứng đáng.
Có một lần nọ, Cung ở phía Bắc của nhà chứa kinh gặp một vị tăng rất kỳ lạ, khoảng tám mươi tuổi đến bảo Cung: Nghe nói ông viết kinh, xin thỉnh một bộ, lại nói chưa có phẩm "Đề-bà-đạt-đa", phẩm này có thể để sau phẩm "Hiện Bảo Tháp" được chăng? Bần đạo từ nước Quy-tư đến, nay phải đi núi Laphù được một bộ kinh, xin đội theo, nhưng xin để lại một túi vàng nặng ba mươi cân để chép kinh Pháp Hoa. Trong mùa hạ đến sẽ gởi vật tới. Lại dặn: Thấy chú trong phẩm "Phổ Hiền" thiếu một câu nên tìm chép vào cho đủ, nói xong liền lui ra.
Cung tìm ở sau quyển xem mà chẳng biết ở chỗ nào. Sau đó có Thiền sư Bảo Cung ở chùa Thê Hà đưa tới khoảng năm mươi quyển kinh Pháp Hoa, đã rách nát lẫn lộn bảo Cung phải làm lại, sắp xếp hoàn chỉnh và định lưu thông. Có một quyển thứ bảy là do Tống Ý đã viết vào niên hiệu thứ hai mươi chín đời Tống, tra trong chú Phổ Hiền quả thật thiếu ba chữ "Bà-la-đế" là câu thứ mười sáu, từ đó về sau viết kinh vẫn y theo đó cho là đã đầy đủ. Cung có một người bà con quan biết vay một muôn tiền viết kinh, Cung chẳng được đã trao cho họ, người vay nhận tiền dùng thuyền chở về, đến giữa đường thuyền chòng chành mãi đến khi số tiền được vay đó rơi xuống nước mà thuyền và người không bị chìm.
Hôm đó, cung vào kho thấy có một muôn tiền bị ướt như mới lấy từ dưới nước lên, Cung rất lấy làm lạ. Sau này gặp người vay tiền mới biết tiền ướt là của người vay.
Đến mùa hạ năm sau có người tên Hầu Chí ở Lư Giang từ huyện Bà Dương đến hồ Cung Đình, thình lình gặp trận bão, phần lớn chủ và khách đều bị đắm thuyền, chỉ có một mình người chủ là ở trên thuyền, như được ai cầm tay dẫn dắt. Khi sóng gió đã hết, từ xa đi đến chỗ miếu, thấy có một vị thần thân cao hai trượng mặc áo giáp mang kiếm, một người hỏi Chí: Lúc bình thường đã gây ra tội gì, phải ghi chép tất cả cho thành thật. Chí đều trình bày thành thật không giấu giếm.
Lại hỏi: Có biết Nghiêm Cung in kinh Pháp Hoa ở Dương Châu hay không? Ta nay muốn gởi một muôn tiền vào công đức đó, người hãy trao lại giùm ta, nói rồi liền biến mất.
Chí chẳng biết số tiền đó ở chỗ nào ra, chỉ nhớ họ tên người gởi tiền là Nghiêm Cung. Vẫn thuận buồm xuôi gió, đi chỉ hai ngày thì đến huyện Đương Đồ, khi thuyền vừa cập bến bỗng nhiên có một người tự xưng họ Hứa đến tìm Hầu Chí bảo: Ngày tôi còn sống ở trần thế có ở Cối Kê, đến chợ mua của ông bốn xấp vải gấm, còn dư một ít nay muốn trả lại ông, bèn để lại một muôn tiền ép Chí phải nhận lấy. Chí nghĩ có sự liên quan giao thiệp nhưng không nhớ dư bao nhiêu, người ấy để lại tiền rồi bỏ đi, nên không biết chỗ đó, trong lòng Chí mới hiểu ra vị thần đó và người giao tiền này là một.
Khi đến huyện Giang Ninh, hỏi thăm Cung để giao số tiền và trình bày đầu đuôi việc trên, Cung vui mừng gấp bội, càng gia công tinh tấn, bèn phát nguyện tạo ba ngàn bộ và giảng một ngàn lần.
Sau có người tên Lý Trạm ở Giang Hạ thỉnh một bộ kinh đem về quê cúng dường, đến Tam Sơn gặp bão nên thuyền bị trôi dạt và chìm, bản thân Trạm cũng bị lênh đênh trên mặt nước suốt năm ngày, dân ở phường Tân Lâm bỗng nhiên nhìn thấy trên mặt nước, có mấy mươi con quạ cùng cắp một vật mà ánh sáng chiếu ra như mặt trời, theo dòng nước trôi xuống. Vì thế, dùng thuyền trống to hơn để ra vớt, vớt được một cái hòm sơn. Khi lên bờ mở ra xem thấy không có một quyển kinh nào bị ướt cả, mọi người trong phường đem lên cho thứ sử Trương Hy. Sau khi Hy đã xem xét xong mới biết chính là kinh của Nghiêm Cung viết và giao trả lại nhà Cung, khi xem xét lại chính là bộ kinh Lý Trạm đã thỉnh.
Lại có người ở phủ Tề Vương quên mất họ tên, thỉnh một bộ kinh đem về nhà, khi qua sông gặp gió thuyền bị chìm, tiền của tài vật đều mất hết, chỉ có ông ta và một hòm kinh Pháp Hoa là còn, theo cơn sóng trôi lênh đênh trên sông nửa ngày. Dường như có ai giữ gìn, sau người ta vớt lên được và xem xét chẳng có một quyển nào bị hư hoại, thấm ướt, bèn giao lại cho gia đình Cung. Sau khi xem xét biết được là bộ kinh do người ở phủ Tề Vương đã thỉnh.
Một hôm, Cung ra chợ mua giấy, gặp lúc thiếu tiền, chợt gặp một người cầm ba ngàn đồng tiền trao cho Cung và nói: Giúp ông mua giấy bút, nói xong thì người đó biến mất. Những chuyện như thể chẳng những xảy ra một lần mà rất nhiều lần.
Vào cuối niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, Cung mất, con cháu truyền nhau sự nghiệp của ông.
Thời Tùy, Lý có giặc trộm đến Giang Đô, đều bảo nhau chớ vào làng của Nghiêm Pháp Hoa, nhờ vậy mà người cả làng hoàn toàn được bình yên. Tính ra Cung chép tất cả hơn hai ngàn năm trăm bộ kinh Pháp Hoa.
* Có một người họ Thích: Không rõ tên gì, vào niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy, vị ấy đến một cái miếu ở Thái Sơn xin nghỉ trọ qua đêm. Người giữ miếu bảo: Ở đây không có nhà riêng, chỉ ở dưới gian chánh giữa thờ thần miếu là có thể nghỉ được, nhưng người đến ở trọ này đều bị chết. Vị tăng nói: Không sao! Khiến bất đắc dĩ phải cho. Sau đó trải giường ở sau gian chánh, ban đêm vị tăng đến ngồi ngay thẳng tụng kinh. Khoảng canh một thì nghe trong phòng có tiếng vòng ngọc bội, giây lát vị thần xuất hiện đảnh lễ vị tăng.-Vị tăng hỏi: Nghe nói người nào đến đây ngủ trọ đều bị chết, có phải đàn-việt làm hại chăng? Xin được che chở.
- Thần đáp: Gặp lúc giờ chết của họ sắp đến, nghe tiếng đệ tử, do đó bản thân họ sợ hãi mà chết, chẳng phải đệ tử giết. Xin thầy chớ lo ngại, vị tăng mời ngồi, nói chuyện như người, lát sau vị tăng hỏi: Theo truyền thuyết dân gian nói án quỷ Thái Sơn là có hay chăng?
- Thần đáp: Đệ tử phước mỏng nên có, đâu muốn thấy người mất trước ư!
- Tăng: Ta có hai người bạn đồng là học tăng đã mất trước đây, xin cho ta gặp họ. Thần hỏi họ tên gì và cho biết một người đã thọ sinh ở dương gian, còn một người hiện đang còn ở trong địa ngục, tội nặng không thể gọi đến đây được, cùng thầy đi tới đó mới gặp được.
- Tăng rất vừa lòng, do đó cùng đứng dậy mở cửa ra, đi đến một nơi không xa lắm, thấy nhiều gian ngục ánh sáng lửa rất mạnh. Thần dẫn vị tăng vào một ngôi nhà, từ xa đã nhìn thấy một người đang ở trong lửa kêu gào không thể tả xiết, hình dáng thay đổi chẳng thể nhận biết, mà máu thịt đỏ như ngọn đuốc và hôi thúi, khiến cho người rất thương tâm. Thần thưa: "Ở đây". Thầy có muốn nhìn lại chăng? Vị tăng buồn rầu đau xót xin trở ra. Trong chốc lát liền đến miếu, lại cùng ngồi với vị thần, nhân đó hỏi: Ta muốn cứu bạn đồng học có cách nào chăng? Thần thưa: Có thể được, nên vì người tội chép kinh Pháp Hoa sẽ khỏi nạn ngay.
Trời sắp sáng vị thần từ giã tăng vào nhà. Sáng ra người giữ miếu thấy vị tăng không chết lấy làm quái lạ. Vị tăng do đó kể lại câu chuyện vừa rồi và liền vì bạn chép một bộ kinh Pháp Hoa rất trang nghiêm vừa hoàn tất, lại đem bộ kinh đến chỗ miếu và ngủ qua đêm. Tối hôm đó, vị thần xuất hiện như lúc trước, vui vẻ lễ lạy và hỏi thăm mục đích của thầy đến đây.
- Vị tăng dùng câu chuyện đó trả lời, thần đáp: Đệ tử biết rồi. Thầy vi bạn chép kinh, lúc mới chép được đề mục, thì người kia liền thoát khỏi địa ngục, đã thọ sinh lâu rồi, hiện giờ không còn ở trong địa ngục nữa. Nhưng chỗ này không được sạch sẽ, chẳng nên để kinh, xin thầy hãy đem bộ kinh này về chùa.
Nói chuyện đã lâu trời sắp sáng, thần từ biệt thầy mà vào. Vị tăng đưa bộ kinh về để ở chùa.
- Tư Không Trần Dung Công Đậu Kháng, sớm đã ra làm quan, túc duyên biết được đảo châu báu. Tuy quý trọng vô cùng nhưng vẫn vui lòng giúp đỡ, mà lắng tâm nơi Diệu giác, bèn xả tịnh tài để xây dựng chùa Tĩnh Pháp, thay nhau trang nghiêm đem cái đẹp về cõi trời.
Người em tên Liêm của ông bị nạn hành quá độ về sắc dục, chí vô cùng nơi đường ác, kình vì cha đã chết là An Phong Công, mẹ đã chết là Công Chúa Thành An, còn ông thì tôn kính viết hai bộ kinh Pháp Hoa và Kim Cương Bát-nhã, là khéo suy tư tinh thần, chốn u tình độc ngộ. Mỗi khi hoa sen sắp nở, ông tắm gội thân thể y áo sạch sẽ trắng như tuyết, đích thân xuống ao hái hoa và lá sen trắng phơi khô rồi ép làm giấy. Trang trí đạo tràng, đích thân viết chép, chính tim lấy máu làm mực. Việc này cứu giúp mọi người xưa nay, thiên ý phần đông báo điềm lành.
Mà người em ganh ghét làm tổn hại ngăn cấm, cẩn mật không cho truyền ra bên ngoài, khiến cho đời sau không nghe biết đến, thật là đáng tiếc! Bộ kinh đó được giữ gìn như một kho báu, hiện nay vẫn còn.
* Mã Hành: Người ở sông Lạc thuộc Cụ Châu, cha mẹ đều đã mất, bèn dựng túp lều tranh ở bên mộ và xây mộ lớn thành ba ngôi, đều đích thân ông vác đất, đến ba năm mới hoàn thành, cảnh trí vừa cao vừa dốc, ai thấy cũng đều thán phục. Mỗi khi nghỉ lại đêm trong túp lều, thường có con rắn trắng lớn bò lên nằm trên nóc lều, thông đầu xuống sát cửa. Nếu muốn ra vào con rắn liền thụt đầu lại để tránh đường đi, nó hay làm như thế, nên chẳng ai dám đến xâm hại ông, dáng vẻ như giữ gìn bảo vệ ông.
Sau đó, có một con chó sói màu trắng cũng thường hay qua lại nằm bên túp lều. Đến khi xây dựng ngôi mộ hoàn tất, thì ông lại suy nghĩ: Mặc dù ta vì cha mẹ đã xây dựng xong ngôi mộ này, nhưng chưa vì vong linh cha mẹ mà tu tạo công đức. Do đó phát nguyện chép kinh Pháp Hoa để giúp cho linh hồn có lối thoát, bèn ở chỗ sạch bên ngôi mộ rưới nước thơm dưới đất và chọn lấy hạt giống tốt gieo vào đó. Khi nó nẩy mầm lớn lên, ông cũng thường dùng nước thơm để tưới tẩm, nuôi dưỡng. Cho đến khi mọc lớn lên thành cây cổ thụ, ông bóc lấy vỏ cây theo đúng phương pháp chế tạo thành giấy, cũng hòa nước thơm với bùn xây một căn phòng ở bên mộ và mời một thư sinh đến chép kinh, giữ gìn sạch sẽ ăn chay, mỗi khi ra vào đều thay đổi y phục. Vẫn cúng dường bốn thứ (thuốc men, cơm nước, áo quần, giường nệm), chẳng để thiếu thốn.
Lúc kinh chép xong, nhưng chưa có trang nghiêm bèn bọc trong ba lớp giấy đặt trên tường trong phòng nhỏ. Nửa đêm hôm đó thình lình trời mưa to gió lớn kéo dài đến sáng. Phòng trên bị mưa gió làm hư hoại, cỏ cây đều bay sạch, đất bùn sâu xuống mấy thước, chỗ để kinh cũng mất. Qua hai ngày sau nước đã cạn, nhặt được quyển kinh đã viết nằm dưới nước. Chỉ ướt một lớp giấy ở trên, đến lớp thứ hai sạch sẽ khô ráo chẳng có chỗ nào bị rách ướt dơ bẩn.
Lúc mới mất bộ kinh này, ông kêu gào buồn rầu áo não, ngày đêm khóc lóc thương tiếc, đến lúc tìm được quyển kinh vẫn còn nguyên như cũ, ông vui mừng khôn xiết, như được vật báu chưa từng có, thường cúng dường để được trang nghiêm thành tựu.
* Thích Đàm Vận: Người ở Định Châu, đã bảy mươi tuổi, vào cuối đời Tùy bị sơ tán loạn lạc, nên Sư ẩn tu trong núi Tỷ Can ở Ly Thạch và thường tụng kinh Pháp Hoa, lại muốn chép bộ kinh này nhưng chẳng có người cùng chí nguyện. Nuôi dưỡng chí nguyện một năm như thế, bỗng nhiên có một thư sinh chẳng biết từ đâu đến nói rằng: Lòng con thanh tịnh có thể cùng Thầy làm việc đó. Vì thế, sáng mai ăn cơm xong vào tắm rửa, mặc y phục sạch sẽ, thọ giới bát quan trai, ngậm dầu thơm đốt hương, lặng lẽ an nhiên mà ghi chép đến chiều mới được ra, đến hôm sau cũng làm như thế và không hề nói mỏi mệt. Cho đến khi kinh được chép xong, đúng như pháp mà đích thân thờ phụng, lúc đưa ra cửa như vậy cũng không được nhìn thấy, cho đến khi trang hoàng đúng pháp như hình vuông. Thì văn mới được thọ trì, đọc tụng, mỗi lần một biến, đầu tiên dùng nước thơm rửa tay, không được phế bỏ chút nào.
Sau này gặp giặc Hồ, bèn đựng kinh trong một cái rương để trên núi cao. Qua một năm nạn giặc được yên, sư bèn tìm mà chẳng thấy, kiếm khắp nơi mới tìm thấy ở dưới ngọn núi, cái rương bị cũ mục hư nát, nhưng kinh vẫn còn mới đẹp.
* Linh Hồ Nguyên Quỹ: Là người kính tin Phật pháp, muốn chép kinh Pháp Hoa và kinh Kim Cương Bát-nhã.
Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ năm, ông làm chức Huyện lệnh phía Tây ấp Long
Châu, không tự xem xét, phải nhờ Thiền sư Đương Thổ Nguyên xem xét giùm. Sư Nguyên bèn ở tại chùa đúng như pháp thanh tịnh chép kinh xong. Đến mùa Thu trở về chỗ Kỳ Châu Trang, viết được kinh ở lại nhà Trang và năm ngàn đồng Lão Tử, cùng ở một chỗ. Thình lình bị lửa bên ngoài thiêu đốt, cả nhà bị che phủ, ngay tức khắc tro mênh mông, mọi người thay nhau dọn sạch tro tìm lấy cuốn kinh bằng đồng mạ vàng. Đã dọn sạch sẽ bên ngoài, các bộ kinh trong đó vẫn nguyên vẹn như cũ, màu vàng chẳng thay đổi, chỉ có cái rương đã cháy thành tro. Sau lại tìm Lão Tử thì cũng đã hóa thành tro. Cả làng than thở lấy làm lạ, khen ngợi vịnh thành bài thơ:
"Kim Cương Bát-nhã một quyển
Tên đề đã bị cháy đen
Hỏi ra mới biết lý do,
Chính lúc đầu tiên đề kinh
Người đó vì viết mau gấp
Chẳng được thanh tịnh cho lắm
Biết ngay lúc ông lập đề
Do đó đã bị đốt cháy".
Quỹ lúc đó nhậm chức ở Bằng Vực, nghe nói rất kinh ngạc vui mừng, càng tăng thêm lòng tin.
* Trương Vạn Phước: Vào giữa niên hiệu Trinh Quán, làm Thứ sử từ Tấn Châu đổi lên thành Thứ sử Lạc Châu, vì ông ta rất dữ dằn hung ác, không thể nào có tâm kính tin. Lúc đầu đến chỗ nhậm chức, hỏi thăm xung quanh xem bên trong chúng tăng có đức hạnh gì?
Mọi người trả lời: Ở Quách Hạ có một vị ni tên Diệu Trí rất tinh tấn, lại viết một bộ kinh Pháp Hoa và thọ trì cúng dường đúng pháp. Nhờ nhân duyên như vậy mà cả làng được vinh sự thơm lây.
Lúc ấy, Phước hỏi loại kinh này cần dùng bao nhiêu vật dụng để tạo thành.
Đáp: Thấy ni sư này dùng một ngàn trăm năm đoạn vật.
Vạn Phước rất kinh ngạc, hỏi: Kinh Hạ rất giỏi tự tay viết, chép xong một bộ chỉ có thể tốn đúng bảy, tám đoạn, vì sao lại dùng nhiều vật đến như thế? Thử mượn quyển kinh ấy đến cho tôi xem. Ni sư nghe nói Thứ sử xin kinh bèn từ chối không cho, vì sợ ông ấy giữ gìn không được sạch sẽ, lại chưa có chay tịnh.
Vạn Phước nghe nói nổi giận lại sai người đến, ni sư không dám giữ lại, liền trao nước nóng thơm cho sứ tắm gội và mặc áo mới, khi mặc xong mới giao kinh cho.
Khi Vạn Phước đã được quyển kinh rồi, chẳng chịu rửa tay bèn giở kinh ra xem, bên trong quyển kinh giấy vàng hoàn toàn chẳng có một chữ nào. Vạn Phước nổi cơn thịnh nộ quát mắng: Con mẹ yêu quái già này, không thể nào chịu nổi, liền ra lệnh cho người hầu bắt ni tới. Sứ giả đến báo cho ni biết, trên kinh của sư chẳng có chữ nào, làm cho sử quân nổi giận bảo tôi đến bắt ni sư về.
Vị ni sư rất lo sợ, chẳng biết lý do gì, toát mồ hôi ướt đẫm cả thân, liền theo sứ về phủ. Khi đến chỗ bức tường chắn vào nha môn của Thứ sử, Ni sư thấy hai vị thần Kim cương tay cầm chày gỗ hình như đang trao cho ni sư, ni sư liền cảm thấy an tâm, đi thẳng đến trước mặt Thứ sử. Còn bộ kinh đó ở giữa hư không hóa thành chữ vàng, Thứ sử thấy ni sư đến đồng thời nhìn thấy hai vị thần Kim cương và bộ kinh chữ vàng ở trên hư không, cảm giác rất kinh hãi sợ sệt bèn đứng dậy chạy vào phía sau sảnh đường, kêu gào khóc lóc thảm thiết tạ tội, xin lễ bái sám hối và hồi tâm kính tin, rồi phát nguyện sẽ viết một ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Lưu hành khắp mười phương, cúng dường, nhưng bản thân vẫn thọ trì chẳng dám biếng nhác. Bèn hỏi ni thứ lớp tạo tác kinh như thế nào?
Ni đáp: Lúc muốn làm kinh, trước phải trồng cây ngũ cốc trong núi, thường dùng nước thơm tưới bón, để cho thấm nhuần sinh trưởng. Sau khi đã thành cây to, chuẩn bị dùng nước thơm hòa bùn xây phòng giấy, phòng giấy xây xong mới bóc vỏ cây, mời thợ giỏi đúng như pháp lấy nước sạch để tạo thành giấy, tức phải tìm tòi hỏi thăm mới có thể giữ cho kinh sạch đẹp, bất luận công vụng về và quý tốn tiền bạc, trải qua ba năm mới tìm được người như vậy.
Sau này có một nhân sĩ ở Giang Nam ứng mộng tìm đến làm người viết sách, thư sinh đó ở trong nhà kinh, lại dùng nước sạch hòa với bùn, thanh tịnh xây cất phòng. Khi phòng đã xây xong, thư sinh mặc y phục mới sạch, trước khi chưa viết kinh chuẩn bị giữ gìn trai giới thanh tịnh trong bốn mươi chín ngày. Mỗi lần ra vào xong đều thay đổi y phục, tắm gội sạch sẽ, xong mới đến viết.
Lúc viết, ni sư tay bưng lư hướng quỳ gối cúng dường trước kinh, thư sinh nghỉ viết thì ni mới nghỉ. Nếu ban đêm thư sinh nghỉ thì ni cũng thức một mình đốt hương đi nhiễu xung quanh, như thế chẳng thiếu sót. Khi kinh chép xong và được sửa chữa trang hoàng, ni sư bèn may áo bốn màu cho tăng ni, nam nữ mỗi thứ một bộ, để mỗi khi có người đến mượn kinh, hoặc đọc hoặc tụng tại chỗ, người viết kinh chuẩn bị sạch sẽ trong bảy ngày, phải mặc áo mới, rồi mới trao kinh cho. Cung kính như thế thường chẳng để thiếu sót, mọi người gần xa ai cũng tôn sùng kính ngưỡng. Lợi ích rất lớn, nhờ nhân duyên này mà Thứ sử quy hướng, người người đều lấy kinh Pháp Hoa làm sự nghiệp.
* Trần Pháp Tạng: Người ở Phách Khúc, huyện Vạn Niên đất Ủng Châu, bản thân làm nghề cung cấp các cổ tiệc. Vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười tám, ông ở Thượng Phiên, Lạc Châu, sau khi người vợ qua đời bèn rời Hạ Phiên đi hỏi đạo, cách thôn cũ khoảng hơn mười dặm. Giữa đường gặp người vợ đã mất, cô ta nói: Nay tôi chết rồi, đã được mấy ngày. Trong chốc lát Tạng chợt thấy tám, chín nhà như nhà người nghèo. Tạng ngồi trong một gian phòng lợp cỏ tranh. Lát sau vợ ông bị gọi dắt đi Tạng theo sau xem thử, thấy vợ ông bị ngưu đầu ngục tốt dùng xoa sắt xâu lại, bỏ vào vạc nước sôi, thịt xương tan nát, rút cây trâm ra thì sống lại, làm bảy lần như vậy rồi, thả lại cho gặp nhau, hình dung rất xấu xí. Bảo với Tạng: Tôi làm vợ sau cho ông, người phụ nữ trước tự chết chẳng phải thiếp hại, trong áo xiêm của chàng có năm trăm đồng và trong nhà có một con trâu, cộng lại có thể được một ngàn năm trăm đồng. Đến nhà Ý-a-bà, cố gắng vì thiếp, viết kinh Pháp Hoa cho thiếp được thoát cảnh khổ này. Đem những lời nói này của thiếp đến xin hỏi ý kiến A-ba.
Tạng trở về bàn bạc với mẹ bán trâu hợp lại đúng y một ngàn năm trăm đồng, liền gọi người viết kinh đến và mua giấy. Khi viết xong Tạng lại tìm đến chỗ ở của vợ, ông mới gõ cửa thì từ trong nhà vọng ra tiếng trả lời: Người vợ mới của ông, hôm qua lúc ông đang mua giấy cô ấy liền sinh lên cõi trời ngay tức khắc. Ông rất kinh ngạc và vui mừng, càng tăng thêm lòng tin, nên phụng thờ rất chí thành, mỗi khi được tài lợi thường đem mua giấy chép kinh Pháp Hoa.
Đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười chín ông xây chùa Hưng Thiện, giúp quan hành đạo, đầy đủ cho chư tăng.
* Tiêu Vũ Tông: Quốc Công Tả Bộc Xạ là người rất tôn sùng Phật pháp, bèn ở ranh giới huyện Lam Điền, ở Ủng Châu, xây dựng ngôi Già-lam. Mời Đại đức bốn thứ cúng dường, tâu lên xin đặt hiệu chùa. Ông đặt tên chùa là Tân Lương. Võ tuy rất quý trọng nhân thần. Địa vị đã lên chức quan Thái phụ, nhưng thường trì trai giữ giới và tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày một thời, được Sơn Nạp cho đắp ca-sa, ở trong tinh xá hành đạo, sám hối lễ bái. Ăn uống giống như chư tăng và ngồi ở cuối sau Sa-di. Xả bỏ châu báu tiền của lo các việc giấy mực để chép một ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Được cùng tột nghĩa lý mầu nhiệm, khi viết chép kinh sách thanh tịnh đốt hương thơm khiết.
Nếu có người muốn thọ trì phải hết lòng thỉnh ba lần, mới được trao kinh cho. Ở ngoài cửa chánh giữa đặt một hòn đá vuông màu xanh, mỗi khi người đến thỉnh kinh phải đứng trên hòn đá này. Võ đích thân bừng hòm kinh đội trên đầu và trao cho người đó. Tất cả những người đến thỉnh kinh Võ đều ghi rõ họ tên và mỗi ngày lạy một lần, Võ rất kính pháp trọng người như vậy.
Trong Phật đường nhà của Võ, một hôm xá-lợi hiện đầy khắp, mọi người chia nhau thỉnh về cúng dường, bỗng nhiên tự biết mất, xá-lợi trở về lại nhà của Võ, triều đình và dân gian ở kinh đô đều biết cả. Tử Duệ được phong Tương Thành Công chức phụ Mã Đô Úy (một chức quan đời Hán), nối tiếp chức tước của cha là Tống Công. Diệu nghiệp Trinh quán vốn làm quan nhưng tính điềm đạm quả quyết, có đại lượng.
Khéo viết chữ lệ bức hoành chùa Tân Lương là chứng tích kia. Xây dựng đại tượng, điện Phật, lại chép một ngàn bộ kinh Pháp Hoa, thường làm lợi ích cho phủ Trường Lại.
Trong Châu có ao cá nhiều đến mấy muôn con, các quan liêu trong phủ thường hay bắt lấy. Nhuệ vốn có lòng nhân từ bảo các quan: Thân Cá tuy hèn, nhưng hình mạng đều đồng nhau, nó cũng đau xót tâm can, vì ngon miệng no bụng ta thật không nỡ làm như vậy. Nhuệ nay thường hay mua chuộc để thả và xin các ông hãy nghe theo, ân huệ giáo hóa đã ban hành ai mà chẳng mến phục vui vẻ nghe theo.
Các chùa nếu có thuyết giảng ông liền đến nghe, theo chúng tăng cuốc đất, tăng muốn thiết sàng, nhưng không chịu nhận tiền. Kế đến là còn làm Thứ sử ở Lợi Châu. Kỷ phủ pháp Tào và tụng kinh Pháp Hoa, lúc ấy giảng về nghĩa sớ của cha Võ.
* Thích Trí Hoa: Người ở Giang Châu, ban đầu xuất gia trụ chùa Tây Lâm ở Lô Sơn. Tánh tình Sư cao thượng, nói năng nhã nhặn rộng lượng, khác phong cách bên ngoài hữu vật, dung mạo rất đẹp, công phu chuyên đọc kinh, tiếng tụng từng âm vận thanh nhã thông suốt, tụng mấy quyển cũng không thấy mệt.
Đời Tùy, Sư đến Nhật Nghiêm, nhà đường mời trụ chùa Hoằng Phước, pháp tịch ở kinh đô, tiếp vũ liên hoàn, không có người, ai cũng gởi cho Sư, tuy làm quan Hàn lâm coi việc viết chép, nhưng lại rất thích Phước Môn, mỗi ngày tự sách tấn mình phải viết năm trang giấy kinh Pháp Hoa. Đã lớn tuổi nhưng sự nghiệp tu hành không biếng nhác, được ngoại lợi liền chép kinh Pháp Hoa, tự tay sư viết được hơn hai ngàn bộ. Ngày qua đời ngồi xếp bằng trên giường thị tịch, có mùi thơm đầy khắp nhà, thọ tám mươi tuổi.
* Người Lạc Dương đất Lạc Châu, tên Hà Huyền Linh: Niên hiệu Long Sóc, qua đời ở kinh đô. Khi xuống âm ty được cho làm Chủ bạ, (coi về sổ sách). Niên hiệu Lân Đức, có người cùng làng với Linh sau khi chết xuống âm phủ, hai người gặp nhau. Linh hỏi người làng: Vì sao ông xuống đây?
- Đáp: Bị đuổi đến đây.
- Linh: Ta thấy án chủ giữ ông lại, oan uổng lắm, hãy thả ông trở về đi.
Lúc người trong làng từ biệt, Linh sắp đi ra mới nhìn thấy một lão già cùng thôn hỏi người cùng làng: Ông đến đây sao không xem chỗ tôi chịu tội? Liền thấy vạc nước sôi sùng sục đang nấu người tội. Bà lão bảo: Ông về nên báo cho chồng tôi hãy vì tôi mà viết một bộ kinh Pháp Hoa, nhờ vậy mới thoát được cảnh này, mười ngày sau ông hãy đến báo cho tôi biết tại thôn Nam Thủy Đầu.
Lát sau, người trong làng tỉnh lại, liền gọi chồng bà và kể lại câu chuyện rồi bảo chép kinh. Ông ấy mau đi mua giấy trao cho người mượn viết giùm. Người trong làng đến ngày đã hẹn trước đó đi tới bến nước thấy một bà lão khác nói với người trong làng: Ông có phải là người được dặn viết lúc trước không?-Người trong làng đáp: Đúng vậy.
- Bà lão nói: Người phụ nữ trước kia, ngày chồng ba mua giấy mực ngay hôm đó bà được sinh lên cõi trời rồi. Cho nên không chờ đến ngày nay hẹn để gặp ông được, nên dặn tôi báo cho ông biết, nói xong liền biến mất.
* Ranh giới của huyện Lam Điền: Ở Ủng Châu, có một thôn nọ tự nhiên đất sụp xuống sâu hơn trăm thước. Chỗ đất sụp đó đúng ngay phòng thờ Phật, trong nhà ông họ Từ có một bộ kinh Pháp Hoa. Chuyện này là do ông Từ thường hay thọ trì cúng dường nên ở chỗ đất sụp đó chính là một trụ đất, nhờ phòng thờ Phật này chống cao được cả làng cuối cùng không bị sụp lở. Mọi người thấy vậy đều lấy làm quái lạ, đồng thời đúng pháp sao chép để truyền bá.
* Vào niên hiệu Nghi Phụng: phía Bắc huyện Lương ở Nhữ Châu, có một người con trai họ Lưu ở thôn Lương, không biết tên. Đầu tiên vì đi chinh phạt phương Đông đánh nước Cao-ly. Bị bắt làm tôi tớ giữ ngựa bên bờ biển phía Đông xa xôi.
Nằm ngủ thường thấy một vị tăng gọi xuống biển và từ biển trở về nhà, chiêm bao như vậy chẳng phải một lần. Con của bà họ Lưu tự suy nghĩ: Trôi giạt cùng với chết chẳng khác gì, luôn luôn cảm được giấc mộng này. Lao thân xuống nước ở ven biển và ôm được một bó cỏ cúc, theo cơn sóng trôi theo dòng nước. Nổi lên bờ phía Tây, khi lên được bờ đi hơn một dặm lại nghĩ: Bó cỏ này đã cứu được thân mạng ta, bèn quay trở lại mở bó cỏ ra phơi, thì thấy trong đó có kinh Pháp Hoa quyển sáu. Liền đem về nhà, cha là ông Lưu, trước do ông mất tích ở vùng biên giới, vì cầu nguyện cho ông nên người con chép một bộ kinh Pháp Hoa, viết chép rất thanh tịnh, mỗi việc nghiêm túc sạch sẽ.
Khi thấy đứa con trở về lòng buồn lo liền hết, nhưng lấy làm lạ hỏi lý do. Lưu Tử kể lại tất cả câu chuyện xảy ra trước đó, cha con cùng nhau vào tinh xá mở hòm kinh ra xem mới thấy thiếu quyển sáu. Nghiệm lại đứa con ông lúc ở ngoài biển được quyển kinh mà người cha vì con mình đã chép. Các phần của quyển kinh đầy đủ, giấy mực giống nhau, kia đây chẳng khác, rõ ràng phù hợp. Từ đó, cha con dốc lòng tin Tam bảo, giữ giới hạnh tinh nghiêm.
* Tướng Lang họ Ngô: không nhớ tên, lúc đi chinh phạt phía Đông nước Cao-ly, thì phá được thành Mã ấy, đốt cháy cửa nhà cho đến chùa viện tinh xá. Ở ngoài thành nhìn thấy khói mây bay thẳng lên, trong đó có một vật như khí hư, bay lên cao rồi biến mất vào đám mây. Giây lát nhẹ nhàng rớt xuống đám cỏ phía Đông thành. Lang tướng Ngô phi ngựa đến coi thử thì thấy một cuốn sách màu vàng rớt trên mặt đất, bèn lượm lên xem thử, đấy chính là kinh Pháp Hoa quyển bảy.
Vì thế, ông đem về doanh trại, ban đêm để trên nóc doanh trại, bỗng nhiên trời mưa to. Đến sáng hôm sau lấy xuống chẳng có một chỗ nào bị thấm ướt cả. Sau đó, ông đem về kinh đô để trụ nhà bạn cũ tướng quân Lý Ích Thường ở phường Tĩnh An. Vui mừng thiết trai thỉnh Sa-môn Vạn Tướng Huyền Tế ở chùa Hưng Thiện. Sư đích thân xem cuốn kinh và tụng một biến.
Ông Ngô hứa đưa vào nội cung, đồng thời vì đó viết chép kinh tịnh nghiệp đúng pháp mới hoàn thành, cho nên đặc biệt nói lên điềm lành cao quý, sẽ ngộ được các Phẩm.
* Thích Huyền Tế: Còn gọi là Tĩnh Vụ, họ Lưu, người ở Lý Nam. Ông cố nội làm Thứ sử ở Kỳ Châu đời Đường, ông nội là Đĩnh làm Quả Nghi ở phủ Tuyên Phạm đời Tùy, đồng thời bản thân là hình tượng của quốc gia, văn võ gồm cứu giúp, sớm ngộ được huyền châu, rất tinh thông đạo Phật. Người cha thông thạo thuật tu Nho từ lâu, hối tích hoành môn, không cạnh tranh với trần thế ồn náo, chẳng buồn việc triều chính thành thị. Thông theo để giao tế làm gương cho người, tinh thần rất minh mẫn, thích danh khí kia do đó xả bỏ xuất gia. Cho nên vừa lên thập nhị phẩm liền trông mong lạc thái, vì thế tắm gội ở dòng pháp, tắm gội chân hóa, chỗ thâm nhập rất sâu. Và sau khi thọ giới cụ túc, hạnh kiểm chuyên tinh, kính trọng pháp nghi. Năm ba mươi hai tuổi được cử làm Duy ra chùa Hưng Thiện, nhưng chẳng thích việc đó. Tánh ưa ở nơi sơn thủy, tư duy sâu xa chỗ u nhàn vắng lặng, do tuổi đều hưởng phúc trời, nhờ tích ngộ chân, nên tụng tập kinh Pháp Hoa, Bát-nhã để làm nhiệm vụ hằng ngày.
Ban đầu tụng kinh Pháp Hoa đủ hai ngàn biến, nằm mộng thấy lên một đại diện, bốn mặt chánh điện đều có tượng Phật, ánh sáng chiếu soi. Trong núi có khám thờ tượng đều là tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, đi vòng quanh đảnh lễ, cảm động hồi lâu bèn thấy bình lưu ly đựng một viên xá-lợi, dùng tay nhặt lấy, cảnh giác rõ ràng, tụng đủ năm ngàn biến. Lúc ấy, ban ngày đang ngồi bỗng nhiên mộng thấy trong hư không có mấy trăm khám thờ Bồ-tát Quán Thế Âm, dùng tay với lên vịn từ từ cảm thấy đi đến. Lại thấy trong hư không có vô số hạt châu vàng từ trên lăn xuống thành dòng ánh sáng rất đẹp. Tế dùng miệng hứng lấy khắp thân tâm rất vui mừng, qua hai ngày không ăn dường như cảm thấy no, từ đó thân tâm được an vui, trì kinh không bỏ một việc làm phước nào.
Trong một ngày đêm năm lần tụng, đến chín ngàn biến.
Lúc ấy, ở trong viện Bắc Lĩnh, góc vuông cảnh Tướng thình lình có con chim lạ, hình dáng như chim phỉ thúy, ngực màu trắng, toàn thân màu vàng, mép màu đen, chân màu đỏ. Từ ngoài sa vào thẳng trong lòng, do đó
Tướng mang đến trước tượng Phật, nó liền bay lên cây hoa, ngậm hộp hương kinh cách bay rải khắp nơi, hoặc dùng thức ăn hoa quả cho nó cũng không ăn, chỉ gặp hương sáp thường dùng miệng hút. Ban ngay liền nhẹ nhàng sang gia đình Tế, đêm ngủ trong nhà nghỉ, qua bảy ngày bảy đêm tự nhiên bay đi.
Bỗng nhiên lại mộng thấy một người cao bảy, tám thước dung mạo xinh đẹp giống hình tượng bện tơ, từ lưng xuống trang nghiêm, màu sắc đẹp đẽ. Lúc ấy, Tế hoan hỷ đảnh lễ hiệu là Bồ-tát Quán Thế Âm, tức y cứ vào Bồ-tát, nâng chân Ngài, miệng xưng danh hiệu Đại bi, bèn trông mong được vỗ về an ủi sờ đầu. Thường trở lại mấy lần, Tế dùng tay vịn theo, cổ họng nghẹn ngào giây lát liền tỉnh ngộ. Hoặc ngày đêm ngủ nghỉ lúc tụng sắp hết liền nghe tiếng chuông, khánh để răn nhắc nhau. Những điều linh ứng đó là do tụng kinh Pháp Hoa một muôn hai ngàn biến, Kim Cương Bát-nhã một muôn biến, trong đó niệm danh hiệu chư Phật, Bồ-tát, tụng chú diệt tội tùy tâm.
Theo Công cách y cứ nhau hơn trước, có thanh tín sĩ, bí thư tỉnh so sánh Thư Lang Lưu Huyền rằng An đứng đầu dân tộc Phiệt có tài hoa xuất sắc, thần phù hợp cửa Phật, rong ruổi theo pháp bảo, cùng Tế sớm quen biết quên lời, càng hẹn tạo phước thanh tịnh.
Niên hiệu Nghi Phụng năm thứ hai, nương nhờ viện của Thiền sư Tự Cơ, ở trong thất đọc kinh, tượng trưng sự trong sạch như tuyết. Bột thơm sơn quét, treo phướn rải hoa, mấy lớp bảo vệ sạch, khéo léo khiến thư sinh thực hành đúng, mỗi lần vào phải tắm mặc áo mới sạch, đốt hương ngậm chất thơm, chí thành viết rõ ràng. Tế đích thân giúp đỡ, vâng giữ tất cả, sớm tối không nghỉ.
Lúc đầu chép kinh Pháp Hoa chưa đầy một trang giấy, ngay đêm đó chiêm bao thấy vị tăng trao cho diệu hương. Lại nghe bên trong hoa đàn trước nhà kinh có tiếng lễ sám mấy lạy, lấy làm lạ đến xem thì thấy im lặng chẳng có người hoặc vật gì. Chính vì không ngủ ngồi một mình trang nghiêm bỗng nhiên nghe tiếng chuông vang trong hư không. Khi viết đến quyển hai, ngay buổi sáng hôm đó, thấy một vị tăng Bà-la-môn vào nhà kinh, nghi dung rất khác thường, đứng chắp tay hồi lâu. Viết đến đầu quyển Kim Cương Bát-nhã, đúng lúc ấy mộng ánh sáng trên ngực ông mênh mông như cái bát. Viết đến quyển hai tới ngũ nhãn tiền thì bút nghiên phát ra ánh sáng đều màu vàng, chính lúc đó đặc biệt sợ hãi bèn định tâm viết, ánh sáng đó đầu tiên phát ra ở chữ "đề" đỏ rực sáng như ánh đuốc. Bồ-tát nhiều đời cũng như thế, nếu làm được như vậy thì nói ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sinh. Gồm mười tám lời nói là diệt. Đến quyển ba, trên trục của bổn kinh đó lại phát ra ánh sáng chiếu xa hơn hai thước, chiếu thẳng vào mé cửa sổ. Lúc ấy, Tế và Pháp sư Hiền Thủ Hoa Nghiêm và có hơn mười người tận mắt nhìn thấy bèn bảo nhau: Chúng ta tu học vào thời mạt pháp cách Phật rất xa, nay chép tôn kinh bỗng nhiên được báo tướng linh hiển, sao không đối với bậc Hồng liệt xây tháp thờ để bày tỏ tâm chí thành? ngay lúc đó bắt đầu cho đến cuối cùng tâm thanh tịnh, việc sạch sẽ, rất cẩn thận chỗ đó mà cất một ngôi nhà để cúng dường toàn thân và kinh mãn tự. Vào ngày 26 tháng 07 đều xả y bát, để trước phòng kinh đốt hương rải hoa cùng lập thệ nguyện rộng lớn, cho đến tháng ba năm sau, đạo-tục mấy mươi vị một đêm hành đạo, trừ nền mới xây ở phòng cũ, bảo bốn vị tín sĩ ăn chay tắm gội mặc y mới sạch, chư tăng dùng hoa hương, âm nhạc chí thành cúng dường. Hướng dẫn bốn vị này lập ra quy cũ cách thức, vác đãi đều rải hoa thơm. Lúc ấy, những người mê tối đều phát đạo tâm.
Sau đó, có Sa-môn Chí Khoáng ở chùa Văn Lễ đích thân làm việc xây dựng, vừa đánh dùi vừa xưng danh hiệu Phật, còn thanh tín sĩ chỉ trai giới và vận chuyển đất mà thôi. Khi đã xong nền, thường nghe tiếng lễ Phật, tụng kinh.
Tháng mười năm ấy, ở ngọn núi phía Bắc xây tịnh thất riêng để kinh trong ngoài trang nghiêm, mời thợ tin thành khéo léo dùng gỗ ngâm nước thơm, để làm cán búa, nghe tiếng hồng chung dưới nhà trống của Tế.
Dạ-xoa mộng thấy tràng hoa và hai vị thần cao hơn một thước đang đứng chỗ làm, còn người lên Mao Phổ Đạt ở huyện Di, chọn lựa cưa cây trụ nhà ở trong tán cốc. Thấy độc nhất một cây thông vọt lên trên ngọn núi cao cách nước rất xa, cho nên người thợ chặt bỏ đi. Người đã chặt cây này chẳng ngày nào mà không bị ngã, nhánh cây cắm xuống chỗ nào thì đất chỗ ấy vọt lên một vòi nước, thành suối, người thợ dùng để chữa bệnh đói, bằng thành mười cây trụ. Nhà đó, còn thêm chạm khắc và trang trí, ngay ngày chưa hoàn tất, mà từ xa cúi đầu, lễ chân kinh và đặt tên là Thiện Pháp.
Ngoài ra còn đợi công trình hoàn tất, để gởi lại cho người có năng lực. Tế cách biệt ở nơi xa tại Lâm Tuyền tu hơn ba mươi năm, sau bệnh sốt rét thường tái phát, đến lúc không thể cứu chữa được nữa, Sư thị tịch tại hõm đá, thọ sáu mươi bảy tuổi, nhằm ngày mùng một tháng ba niên hiệu Thần Long, kẻ đạo người tục nghe tin rất kính tiếc, đau buồn. Tính tình Sư nhu hòa, có tâm từ bi chất phác, rộng lòng cứu giúp, chẳng vào nơi chợ búa ồn náo ràng buộc, không đến chùa ni. Lại siêng năng tu hành phước thiện, lao nhọc chẳng than mệt mỏi. Ngoài việc lễ tụng, gần như chẳng có lúc nào rảnh rỗi, còn như việc tiếp khách, đối đáp với quan liêu thì xét căn cơ mỗi người mà ứng đáp cho phù hợp hoàn cảnh, lời nói và hành động chẳng phân biệt, chúng đều suy tôn, cho nên, Lại bộ thị lang Lưu Huyền Đình, Binh bộ thị lang Lưu Huyền Cơ, Ngô bộ thị lang Trung Từ Chiêu, Cao sĩ Hứa Nhân Tắc… rất khâm phục thái độ khiêm nhã của Sư, tôn trọng sự nghiệp lớn lao của Sư, cùng kết giao làm khách ngoại trần để qua lại giao tiếp. Huyện lệnh Lam Điền có Trịnh Nam Kim một lời nói chứa đựng hết, dốc hết nỗi lòng, sáng tác phù hợp, và kính trọng đạo phong nên có lời khen: "Tế Công điềm đạm, vô vi vô dục, tiếp vật dùng lòng từ, đối với thân tri túc, mùa xuân cây được sum suê, mùa thu đầm nước càng xanh, tốt đẹp thay bậc Thượng sĩ! Như vàng như ngọc, Sư là bậc Thánh hiền được cúng kính như vậy.
Truyện về mở rộng và khen ngợi kinh Pháp Hoa, bắt đầu từ đời Đông Tấn đến cuối cùng là đời Đường, lý luận về người học kinh Pháp Hoa được linh ứng như thế có chép đầy đủ trong đó. Như vậy mới đáng gọi là "một việc nhân duyên lớn" làm lợi ích cho chúng sinh, giúp cho chúng sinh không bị rơi xuống, nhưng nay ra biển Đông chỉ được một bó cỏ, niên kỷ càng xa, bút tích sai lầm rất nhiều, luống xét cùng nghĩa lý về bệnh sai lầm kia, tuy chẳng thông minh sáng suốt, nhưng so sánh chuyện phải quấy là chỉ muốn lưu thông rộng rãi, vì vậy mới khắc bản, ngõ hầu cho các vị giở ra xem coi để "khai thị ngộ nhập tri kiến Phật".
Viết xong nhằm ngày 27 mùa Xuân năm Ất mùi, niên hiệu Thiên Khánh năm thứ năm tại điện Minh Khánh, tại Thích Viện ở Nội Tịnh.
Trụ trì chùa Hoằng Hóa núi Nghĩa Long nước Cao-ly, Đông Hải, xét lý trí, soi tịnh quang ở Trung Khổng Nhạc, Tăng thống pháp ấn, ban hiệu Sa-môn Đức Duyên Khâm Hiệu Văn Lâm Lang Tư Tể.
Thừa Đồng, Chánh lý, Đường dực thơ.
Ngày mồng tám tháng bảy niên hiệu Bảo An năm thứ nhất nước Đại Nhật Bản, ở phủ Đại Tể, Pháp sư Khuyến Tuấn Nguyên ghi chép xong. Tô Cảnh người nước Tống từ nước Cao-ly vượt biển mang theo Thánh giáo đến Trung quốc mới có truyện Pháp Hoa này, nhưng để lại hai cuốn để viết chép. Bán Tăng Giác Thọ ghi.
--------------------------------------
Sa-môn Thần Huýnh ở Cảnh Trung soạn.
Tựa rằng: Chí lý vô danh (chỗ lý cùng tột thì chẳng có tên gọi) tên gọi được truyền bá khắp trong thiên hạ. Chân thừa bất động, nhưng rung chuyển trong ba cõi. Chứng lý tức sự mà chẳng động, Tất-đàn tùy duyên giáo hóa chúng sinh, chẳng mưu cầu dắt dẫn, công há chẳng lớn lao hay sao?
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, từ Thế tôn xuất thế vì một việc nhân duyên lớn đã nói ra. Nhưng cỏ thuốc chẳng đồng nên sự thọ lãnh thấm nhuần thành ra khác nhau, căn cơ chẳng phải một vì thế bẩm thọ giáo pháp không giống nhau. Cho nên, Đức Phật lập nhiều phương tiện xoay bánh xe pháp, nói pháp Bốn Đế tại vườn Nai. Còn hiển thật thì tại non Linh Thứu, ba lần chuyển biến nói về Tịnh độ ý chỉ sâu xa, lời nói rõ ràng. Bậc Nhân tôn đạo cao, hiển bày nguồn gốc sâu xa thọ lượng để hiểu dấu vết gần nơi Già-da.
Truyện Nói Về Việc Mở Rộng Và Khen Ngợi Kinh Pháp Hoa, Phụ Lục
Thổi gió mưa đánh trống pháp giảng nói, bỏ xưa nói phương tiện, khai thị ngộ nhập nay, được cá quên nôm, được của báu trong nhà. Bồ-tát như cát bụi, thêm đạo bớt chúng sinh, Thanh văn nơi am tranh bỏ Tiểu hướng Đại.
Bồ-tát Dược Vương đốt cánh tay để cúng dường Phật Đa Bảo hiện toàn thân chứng minh rất sâu xa mầu nhiệm, cùng tột viên mãn, không thể luận bàn.
Có Đại sư Thiên Thai hiệu Trí Khải, thuở xưa ở trước Đức Như Lai đích thân nghe kinh này, ở địa vị Ngũ phẩm, âm thanh rung chuyển cả hai triều đại. Chẳng qua nơi đạo tràng mà thấu hiểu Phật thừa, nhờ sức Đà-lani nhạo thuyết vô cùng, thường ở nơi điện Thái Cực của Trần chủ giảng kinh Nhân Vương, Bát-nhã cho vua nghe, đế vương quỳ gối, trăm quan vỗ tay. Vả lại, như đã giải thích về quán tâm mầu nhiệm lìa có không, lấy chân tánh làm phép tắc mượn sự giúp đỡ chiếu soi để thành thấu suốt, trình bày tên gọi thuyên tông, khác hơn người xưa, năm nghĩa là then chốt chân lý đều giữ gìn Thánh giáo.
Từ khi ngài Trí Giả hoằng pháp hơn ba mươi năm, chỉ có lời sớ Duy-ma, đời Tùy vâng chiếu theo sắc lệnh của Dương Đế mà chọn huyền văn này. Gần đây, có Pháp sư Quán Đảnh ghi riêng hợp thành hai mươi quyển, không phải người trí thì không trao, lời nói này đã đầy đủ.
Và sau khi Phật diệt độ hơn một trăm năm, đến giữa niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, nhằm năm Mậu Tý, có Hòa-thượng Lãng trụ chùa Thanh Thái ở quận Đông Dương, là tai mắt của pháp môn, là giềng mối của chánh pháp, pháp và giới đều thông, bao gồm cả trong ngoài. Được món đồ quý báu của Mãn Từ, ngồi trong động đá của Không Sinh. Mỗi khi giảng trao cho người học thầm khen rằng: Quán về nghĩa thú đó khế hợp sâu xa với Phật thừa, tìm xem văn thế thì có khi chẳng đúng thứ lớp. Hoặc văn liên tục mà nghĩa đứt quãng, hoặc văn sau nghĩa trước, hoặc trước văn xuôi đã mở bày chương đó, hoặc từ sau mà nói lại trực tiếp nghĩa ấy, hoặc trong bài kệ nêu số đó trước, hoặc sau không theo thứ lớp của tên kia, nhưng ý thánh khó lường, chỉ mong có niềm tin là được rồi.
Nay vì thính chúng nhiều lần khuyến thỉnh: Bậc thượng căn dễ tỏ ngộ, chọn lấy điều hay không mê muội, bậc trung hạ căn theo văn mất ý chỉ. Nếu theo thứ lớp so sánh, điều này thì lợi ích rất rộng lớn. Hòa thượng hai ba phen do dự, sự bất đắc dĩ, bèn chuyên niệm Đại sư cầu ngài che chở có được chăng! Vì thế mà cảm ứng được giấc mộng, mới bắt đầu có điều lệ thường hằng. Vì cũng tùy tình lập phương tiện, lượng xét chẳng phải cẩu thả tìm cầu chỗ đồng khác, nên có sự thêm bớt trong đó.
Trông mong các người học sau này hiểu được nguyên ý đó, suy tìm lãnh hội ý chí lượm vàng bỏ sỏi, nói pháp chân thật chẳng phải luống dối, trợ giúp mở ra cánh cửa rộng lớn cho cơ phong mầu nhiệm, làm hoàn bị cho kinh tạng thì trăm giới ngàn như, rõ ràng phù hợp nhau. Hóa thành bảo sở đều đích thân làm cầu bến, nhờ sự hết lòng của Đức Di-lặc, theo trí vốn sẵn của ngài Văn-thù, giúp cho phát đủ sáu trí. Khen xuân thu một lời nói, Thần Huýnh, v.v… đồng thời lựa chọn tổng hợp văn xưa. Đế lý khinh an, không đâu chẳng phải là chỗ Phật Không Vương, cùng nhau phát tâm, mười sáu vị Sa-di đều thay nhau giảng nói, dụi mắt hoa đốm, thấy mặt trời trừ bệnh dưỡng châu. Thật tình thẹn với ngòi bút của Nhạn môn, sao chẳng đoái đến sự sâu xa của Long Khoảnh, ngõ hầu chọn lấy bậc cao đức, tắm trong dòng nước đạo mà thấy được cội nguồn.