TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2068 - TRUYỆN KÝ VỀ KINH PHÁP HOA

Tăng Tường soạn tập

MỤC LỤC

SỐ 2068 - TRUYỆN KÝ VỀ KINH PHÁP HOA

QUYỂN 1

I. BỘ LOẠI THÊM BỚT.

II. ẨN HIỂN KHÁC THỜI.

III. NĂM THÁNG TRUYỀN DỊCH:

IV. CHI PHÁI BIỆT HÀNH:

V. LUẬN GIẢI THÍCH KHÁC NHAU

QUYỂN 2

VI. LỜI TỰA BIÊN TẬP CỦA CÁC PHÁP SƯ:

1. Lời tựa Pháp Hoa Tông Yếu do Thích Tuệ Quán soạn.

VII. GIẢNG GIẢI VỀ CẢM ỨNG (phần 1)

QUYỂN 3

VII. KHÓA GIẢNG GIẢI CẢM ỨNG (Phần 2)

VIII. PHÚNG TỤNG THẮNG ÍCH (Phần 1).

QUYỂN 4

VIII. PHÚNG TUNG THẮNG ÍCH (Phần 2)

QUYỂN 5

VIII. PHÚNG TỤNG THẮNG ÍCH (Phần 3)

QUYỂN 6

VIII. PHÚNG TỤNG THẮNG ÍCH

QUYỂN 7

IX. ĐỌC TỤNG DIỆT TỘI:

X. BIÊN CHÉP CỨU KHỔ: (Phần 1)

QUYỂN 8

X. BIÊN CHÉP CỨU KHỔ (Phần 2)

QUYỂN 9

XI. LỢI ÍCH CỦA VIỆC NGHE PHÁP VÀ PHỤ NÊU HIỆN BÁO CỦA VIỆC KHINH CHÊ.

QUYỂN 10

 


QUYỂN 1

Kính lạy Đạo Sư thầy trời người
Ba thân một thể Đức Thích-ca
Ba đời năm Phật trong chương môn
Ra đời, để giảng nói Nhất thừa.
Phật Đa Bảo chứng minh Pháp Hoa
Các Như Lai phân thân mười phương
Cho đến hư không, biển pháp giới
Thường Thế tôn hùng và phân thân.
Kính lạy Pháp Bảo Diệu Liên Hoa
Tám vạn mười hai các Thánh giáo
Chư Phật hộ niệm Tạng báu lớn
Lợi lạc không ngần, khó lường xiết
Quy mạng Văn-thù và Di-lặc...
Tám vạn Bồ-tát, Pháp Vương tử
Các Bồ-tát Đại Thiên vọt lên
Tám mươi vạn ức Na-do-tha
Diệu Âm, Quán Âm và Phổ Hiền...
Chúng Bồ-tát phát nguyện hoằng kinh
Mãn phần năm mắt đều soi đời
Hiện khắp sắc thân đồng với trần
Thu Tử, Ca-diếp, Mục-kiền-liên v.v...
Muôn ức Thanh văn thật Phật tử
Cõi này xứ nọ chẳng thể lường
Quyền thật tất cả nhận độ sinh.
Con soạn kinh điển thành Hộ pháp
Xót thương che chở giúp oai linh
Đèn pháp không dứt chiếu đêm dài
Người mê nhờ đây được tuệ Phật.
Thích Tôn dạy răn thời mạt pháp
Người nghe Pháp Hoa sinh tùy hỷ
Tội chướng ba đời đều tiêu sạch
Ba đời quyết định vào chánh vị
Mong cho pháp mầu ở đời lâu
Truyền khắp mười phương các cõi nước
Những ai đồng gặp sinh mừng may
Đời đời thường nghe, tu hành theo.
Cho đến thấy nghe khen hoặc chê
Thuận nghịch đều chứng Vô Sinh nhẫn
Lời thô tiếng diệu về một nghĩa
Không cùng chống trái đến mé chân.

Nhân lành vốn đã gieo trồng, nhân mầu đến nay phát khởi, lưu thông pháp Nhất thừa, tán vịnh chân văn, mắt thấy sự chẳng thấy, tai nghe điều chưa nghe. Xưa kia, khởi đầu từ đời Diêu Tần thưa hỏi Đạo, đến thời Tiền Đường chúng ta đây có được thiên hạ, lợi ích lưu thông, đời trước không có, cảm ứng không mưu, chẳng thể tính toán mà lường biết được. Diệu lợi bất động cũng là mực thước chuẩn xác biết được, nay hãy soạn tập những điều mắt thấy tai nghe, cổ động khích lệ tín tâm của hàng hậu bối. Nay chia ra mười hai phần, phân làm mười quyển, như bộ loại ẩn hiển, chi phái truyền dịch, luận thích tựa kinh, giảng giải phúng tụng, chuyển đọc biên chép, thấy nghe cúng dường, v.v... mỗi loại lược dẫn năm ba bài, sắp xếp phân loại. Văn từ chân chất mà quê kệch, muốn giúp cho ai thấy nghe dễ tỏ ngộ sự rỗng mà thật, khiến người sau truyền bá tin tâm. Lại tham tầm được những bản, chế soạn các tông ký truyện, v.v... vừa mới vừa cũ, ghi chép mà lưu xuất ra. Về sau, cứ tìm có được thì sắp xếp, nếu lại thấy thì sắp xếp tiếp, giữ lấy pháp mầu chân văn, lưu thông không cùng, trước nêu bày về chương mục, phần sau tùy gom chép mà thôi.

1. Bộ loại thêm bớt

2. Ẩn hiển khác thời

3. Niên đại truyền dịch

4. Chi phái biệt hành

5. Luận thích khác nhau

6. Lời tựa biên tập của các Pháp sư.

7. Giảng giải cảm ứng

8. Phúng tụng thắng ích

9. Tụng đọc diệt tội

10. Biên chép cứu khổ

11. Lợi ích theo nghe 12. Y chánh cúng dường.

I. BỘ LOẠI THÊM BỚT.

Phàm bộ loại có thêm bớt bởi có rộng lược, tuy có thêm bớt mà chẳng mất cái lợi ngầm hiển. Lược chia thành bảy cách:

1/ Kinh pháp của một hội dùng làm một bộ, như kinh Thập Địa, v.v...

2/ Kinh pháp nhiều hội cùng làm một bộ, như kinh Hoa Nghiêm, v.v...

3/ Phần đầu của kinh dùng làm một bộ, như kinh Nê-hoàn sáu quyển, v.v...

4/ Đầy đủ hai phần làm thành một bộ, như kinh Đại Niết-bàn, v.v...

5/ Lược Bổn làm thành một bộ, như kinh Tiểu Phẩm, v.v...

6/ Quảng Bổn làm thành một bộ, như kinh Đại Phẩm, v.v...

7/ Một phẩm làm một bộ, như kinh Quán Âm.

Nay ở đây, kinh Pháp Hoa so với trên là thuộc bổn đầy đủ, nếu theo Bổn Phạm thì Văn lẽ ra là lược nói. Vì sao? Vì kinh này là ba thân một thể, năng sở lặng nói. Trong Phổ Hiền Quán nói rằng: "Phật Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ-lô-giá-na Biến Nhất thiết xứ, chỗ ở của Phật tên là Thường tịch Quang, là chỗ kiến lập bốn pháp Ba-la-mật. Đấng Pháp Vương mở vận ở kinh Vô Lượng Nghĩa, sau đó vào Định Nghĩa Xứ, hiện điềm tướng đặc biệt, sinh khởi sự ân trọng của Đại chúng, cùng tám vạn vị Đại sĩ như ngài Văn-thù v.v...,vạn ức các Đại Thanh văn Xá-lợi-phất v.v..., tám vị Long vương, bốn vị Khẩn-nA-la, Càn-thát-bà, A-tu-la, v.v... sáu tầng trời cõi Dục, Tứ thiền, vạn ức vua Chuyển luân, Quốc vương, Vương tử, Quốc nữ, các hàng thứ dân, số đông không thể nói, không thể lường về hội chúng. Phật vì đó mà giảng nói... bắt đầu từ "Như thị" (như vậy) đến cuối cùng là "nhi khứ" (mà đi), đều là pháp mầu, mỗi chữ đều diệu. Mỗi từ, mỗi câu không gì chẳng phải pháp giới.

Mỗi chữ, mỗi chấm không gì chẳng phải là Phật. Trên thấu cùng công đức của Xá-na, dưới chấm tận y báo chánh báo ở A-tỳ. Thể đầy đủ mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Đó mới là viên mãn Tu-đa-la cam lồ pháp bảo.

Ở phương Tây truyền rằng: Văn của tám năm kiết tập ở Linh sơn, nên phô bày ở thành dài rộng một do tuần. Nếu kiết tập hết cả thì không nơi nào dung chứa hết. Vô lượng vô biên chúng Hải hội, giúp họ khai mở, chánh thuyết lãnh hội, thuật thành thọ ký, vui mừng nói kệ tụng ở cõi này và phương khác, khen ngợi chư Phật và phát nguyện. Trong mỗi phẩm có vô lượng vô biên chữ nghĩa thành tựu. Như Phật nói kinh Pháp Hoa, số bài kệ nhiều như cát sông Hằng. Đức Phật Tú Vương Trí nói kệ như Chân-ca-la, Tần-bà-la, A-sơ-bà, v.v... Đức Phật Oai Âm Vương nói hai mươi ngàn vạn ức bài kệ. Phật nay cũng vậy, Phân-đà-lợi cũng nói là nói số bài kệ. Bấy giờ, có ngôi tháp bằng bảy báu vọt hiện ra trước. Từ tháp báu về trước, có số bài kệ vô lượng. Lại vọt hiện ra các chúng, dùng các pháp khen ngợi của Bồ-tát mà khen ngợi Phật, ngàn thế giới bụi trần số các bài kệ tán, ai biết được số lượng kệ ấy!

Tam tạng Pháp sư Giác Ái nói rằng: Ở Tây phương truyền rằng Đức Phật giảng nói kinh Pháp Hoa thật không thể nói. Trong mỗi phẩm có nhiều câu kệ. Lấy núi Tu-di mà làm bút, lấy nước biển lớn làm mực cũng không thể cùng tận. Đức Phật thường ở tại núi Linh thứu cùng với chúng Đại Bồ-tát và các Thanh văn vây quanh mà nói pháp, trời người đông đầy, khắp cả trước sau, không có dừng nghỉ. Chỉ có năng lực vô tận tổng trì mới gìn giữ được, chẳng bút mực nào ghi hết nỗi. Chỉ y cứ vào một thời kỳ cơ cảm, tám năm kết làm một bộ, tuy lược kết tập nhưng số lượng cả một do tuần, tụng bổn rất lược mà đầy vuông cả trượng thất, trong hai mươi tám phẩm đầy đủ đại cương.

Lại, như Tam tạng Pháp sư Chân Đế nói rằng: Trong Tây Vực truyện ký ghi: Bồ-tát Long Thọ đi trên biển, xuống cung rồng thấy kinh Pháp Hoa Bình Đẳng Ma-ha-diễn này có Đại thiên thế giới vi trần số kệ, bốn thiên hạ vi trần số phẩm, ghi chép đầy đủ điềm tướng đặc biệt, hỏi đáp lớp lớp qua lại. Cõi nước ở phương Đông cũng như các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới đều hiện trong tướng ánh sáng. Lại có hai vạn ức Đức Phật Nhiên Đăng, mỗi vị đều giảng nói nghi thức kinh Pháp Hoa, khen ngợi trí tuệ, việc nhân duyên lớn của chư Phật ba đời mười phương, giáo hóa hạng người Ba thừa khai ngộ Nhất thừa. Các Bồ-tát Thanh văn, các bổn duyên được thọ ký, Phật nói tự lãnh hội, từng tiết vô tận, lắm lớp chẳng thể nói, từ cõi nước này cho đến phương khác phát nguyện mở rộng thọ trì, nhảy vọt ra khen ngợi ngôn từ phương tiện sau khi thành quả ở mười phương đến dự hội, v.v... mọi sự đầy đủ như trong khoa mục ẩn hiển. Hiện nay, truyền bá tại Trường An có bốn bổn khác nhau: 1/ Có năm ngàn kệ tụng, do Chánh Vô Úy truyền dịch. 2/ Sáu ngàn năm trăm kệ tụng, do TrúcPháp-hộ truyền dịch. 3/ Sáu ngàn kệ tụng, do Cưu-ma-la-thập truyền dịch. 4/ Sáu ngàn hai trăm kệ tụng, do Xà-na-quật-đa truyền dịch. Trong đó ba bổn ghi chép bằng lá Đa-la, chỉ một bổn của ngài La-thập thì chép bằng lụa trắng.

Ở xứ này (Trung Hoa) hiện truyền còn có số kệ tụng thêm bớt, còn kinh ở phương Tây làm sao lường biết. Nhưng truyền thuyết là theo Bổn Phạm văn chỉ có hai mươi tám phẩm, trước phần văn đều không có đề mục, chỉ ghi là "Tất-đàm", Hán dịch nghĩa là "Cát Pháp", cũng dịch là "Thành tựu", không thành lập tên, đều ở cuối phẩm cuối kinh mà sau trở lại đầu. Đó là do người phiên dịch kinh y theo phương thức của Trung quốc, muốn khiến cho nhờ danh tự chẳng đồng, bàn nghị về bộ loại, chỉ gìn giữ phần nhiều bổn chỉ hai mươi bảy phẩm. Tên đặt ở cuối, thiếu tên phẩm "Đề Bà". Đó là sự bất đồng như trong phần khoa mục truyền dịch ở sau. Hoặc chia phẩm ấy thành bộ, như trong phần "chi phái biệt hành" ở sau, nói về rộng lược ở khí, bộ loại có thêm bớt nhưng đại nghĩa của Bổn pháp không thiếu.

II. ẨN HIỂN KHÁC THỜI.

Nếu theo kinh "Văn-thù-sư-lợi Bát-niếtbàn" thì sau khi Phật (Thích-ca Mâu-ni) thị tịch bốn trăm năm mươi năm, Bồ-tát Vănthù-sư-lợi vẫn còn ở thế gian này. Nếu theo luận Đại Trí Độ thì: "Các kinh điển Đại Thừa đều do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi kiết tập". Nếu theo "Tập Pháp Truyện" thì có ba vị A-nan: "A-nan", Hán dịch là "Hoan Hỷ" thì trì tạng Thanh văn. "A-nan Bạt-đà", Hán dịch là "Hoan Hỷ Hiền" trì tạng Độc giác, và "A-nan Ca-la", Hán dịch là "Hoan Hỷ Hải". A-nan lên tòa, chúng sinh có ba điều nghi ngờ: Một là nghi Phật từ đại bi Niết-bàn khởi giảng nói Diệu pháp; hai là nghi còn có chư Phật ở các phương khác đến thế giới này mà giảng nói pháp; ba là nghi A-nan chuyển thân thành Phật, vì chúng sinh mà giảng pháp. Nay hiển bày pháp sở thuyết như thế. Tôi (A-nan) xưa hầu Phật, suốt hai mươi lăm năm gần gũi từng được nghe, chẳng phải Phật đã thị tịch mà còn nói pháp, chẳng phải chư Phật ở phương khác đến, và cũng chẳng phải chuyển thân thành Phật, nên ở đầu trong các kinh đều đặt hai chữ "Ngã Văn" (Tôi nghe).

Theo Tam tạng Pháp sư Chân Đế nói rằng: "Vi Tế luật nói "lúc A-nan lên tòa kết tập pháp tạng, thân như chư Phật, đầy đủ các tướng tốt, đến lúc xuống tòa thì trở lại nguyên hình như cũ". Vì quyền hành có đủ ba đức, cùng truyền lớn nhỏ, kinh này là do A-nan Hải kết tập, như Đức Phật giảng nói kinh Bồ-tát Văn-thù ở trước tòa xướng đề mục, A-nan lên tòa thuật lại mà kết tập, nên các luận Đại Trí Độ v.v... y theo đó mà nói Bồ-tát Văn-thù kết tập các kinh điển Đại thừa, kết tập đầy đủ rồi ghi vào lá Văn Tâm, cất giữ trong hang Bảo Diệp, trời người, rồng thần, vua quan, đại chúng đua nhau đến cúng dường. Khi Đức Phật diệt độ, các bậc Hiền thành cũng ẩn theo, như voi đầu đàn đi trước, voi con cũng theo sau. Chín mươi lăm Dị đạo rối ben dấy khởi, mười tám tiểu Đạo chuyên tôn sùng tiểu điển, còn kinh giáo Đại thừa phần nhiều ẩn mất chẳng lưu hành ở đời. Kinh này sau khi đã kết tập, ẩn tàng không lưu hành.

Ở phương Tây có tương truyền trong núi Đại tuyết có ngôi tháp báu cất giữ kinh Pháp Hoa bản Phạm. Cụ thể như Tam tạng Pháp sư Chân Đế nói rằng: "Trong Tây Vực Truyện Ký nói: Sau Phật nhập Niết-bàn gần năm trăm, có một vị Tỳ-kheo rất thấu hiểu kinh điển Đại thừa, chứng đạt Vô sinh, đi khắp nơi tìm cầu kinh sâu mầu, đến núi tuyết, mở cửa tháp báu, bày xem các Phạm giáp (kinh điển bổn Phạm), và giữ gìn thọ trì. Đến đầu 600 năm, sau Phật nhập Niết-bàn, trong nước Nam Thiên Trúc (Nam Ấn-độ) có một người thuộc chủng tộc Phạm chí thông hiểu bốn bộ Vệ-đà, Đại nghĩa Ngũ Minh, mười tám dị kinh, nổi tiếng khắp năm xứ Ấn-độ, riêng một mình rảo bước khắp các nước, tên là Long Thọ. Sau đó, Ngài bỏ tà về chánh, xuất gia thọ giới Cụ túc. Trong chín mươi ngày tụng đọc thầm Ba tạng, đã tìm cầu kinh pháp sâu mầu mà không đâu có được, bèn vào trong tháp ở núi Tuyết. Vị Tỷ-kheo ấy trao bản Phạm kinh này cho Long Thọ. Ngài Long Thọ nhận đọc vui mừng, biết được thật nghĩa, đi khắp các nước rộng tìm cầu các kinh điển khác, tìm khắp Diêm-phù-đề mà không nơi nào có được, nên ngồi một mình ở tịnh thất, trong phòng thủy tinh tư duy về việc ấy. Vua rồng ở dưới biển lớn thấy vậy thương xót nên dẫn xuống biển lớn. Ở trong cung điện phát ra bảy hộp báu, đem các kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v... Các kinh Phương Đẳng nghĩa lý sâu mầu như Thái Vân, Hoa Thủ, Ban Chu, v.v... và các pháp mầu mà trao cho. Ngài Long Thọ nhận lấy xem đọc trong chín mươi ngày, tâm thức thấm đượm sâu, rất được thật lợi. Long vương biết được tâm ấy nên hỏi rằng: "Đọc kinh hết chưa?"

Ngài Long Thọ nói: "Kinh trong các hộp của ông có nhiều vô lượng, dù suốt kiếp cũng không thể hết. Các kinh tôi đã đọc qua ở đây nhiều gấp mười lần so với kinh ở Diêm-phùđề".

Long vương nói: "Như trong cung ta đây nói có kinh điển, các xứ so sánh đây chẳng thể tính biết, mỗi thứ nhiều như số bụi không ngằn không ngại, không thể nghĩ bàn".

Long Thọ nói rằng: "Xin được kinh sâu mầu này đem về cõi Diêm-phù-đề, mở mang Phật pháp, nhiếp phục ngoại đạo". Long vương nói: "Trong cung ta đây có kinh "Hoa Nghiêm Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát" gồm ba bản: Bản thượng có số bài tụng nhiều như số bụi của mười ba thế giới, số phẩm nhiều như bụi của bốn thiên hạ; Bản Trung có bốn trăm chín mươi tám ngàn tám trăm (498.800) kệ tụng, một ngàn hai trăm (1.200) phẩm. Bản Hạ có mười muôn kệ tụng, ba mươi phẩm. Kinh "Pháp Hoa Bình Đẳng Đại Hội" có số kệ tụng nhiều như bụi của mười thế giới, không thể nói hết số phẩm. Ngoài ra, còn có các kinh điển khác rất nhiều rộng".

Ngài Long Thọ nói: "Tôi thấy Diệu Điển không thể nghĩ bàn, phải làm sao để mở mang truyền bá?"

Long vương nói: "hai bản Thượng và Trung của kinh Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát, người ở Diêm-phù-đề chẳng thể thọ trì được, nên không thể truyền cho, kinh Pháp Hoa sâu mầu thì bản lược ở Diêm-phù-đề, bản Quảng đều cất ở trong cung ta đây".

Long vương bèn trao cho kinh Hoa Nghiêm bản Hạ và một rương các kinh khác. Ngài Long Thọ đã có được một rương, bèn nhập sâu vào pháp Vô sinh. Sau khi trở về lại, ngài ở tại Nam Thiên Trúc, mở mang Phật giáo, nhiếp phục ngoại Đạo, giảng rộng các pháp Đại thừa, soạn ba bộ Đại luận, ngàn bộ Biệt Luận. Trong Đại luận phần nhiều dẫn nêu ở các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa để giải thích yếu chỉ sâu mầu, v.v... Nếu theo truyện ký ấy thì đã có Đại bổn, đều được cất giữ ở Long cung, ẩn kín chẳng truyền bá.

Theo Tây Vực Chí chép: "Trong cung vua nước Vu-điền có kinh Pháp Hoa bản Phạm, tất cả có sáu ngàn năm trăm kệ tụng. Đi về phía Đông nam hơn hai ngàn dặm có nước tên là Già-câu-bàn, vua nước đó nhiều đời kính trọng giáo pháp Đại thừa. Các bậc danh tăng ở nước khác vào nước đó, đều thử xem sự nhận biết của họ, nếu vị nào học theo giáo nghĩa Tiểu thừa thì đưa đi không lưu giữ lại. Còn vị nào học pháp Đại thừa thì giữ lại để cúng dường. Trong cung vua có năm bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm Đại Tập, Ma-ha Bát-nhã, Pháp Hoa và Đại Niết-bàn, cùng mười vạn bài kệ tụng, đích thân vua tự thọ trì. Đến gần, nắm lấy chốt then cửa, chuyển đọc thì mở, cúng dường hương hoa. Lại theo hướng Đông nam đi hơn hai mươi dặm có một ngọn núi cao vợi rất hiểm trở, trên đỉnh núi có hang đá, miệng núi nhỏ hẹp nhưng bên trong rộng thoáng. Trong đó có các kinh Hoa Nghiêm, Đại Tập, Phương Đẳng, Bảo Tích, Lăng-già, Phương Quảng, Xá-lợi-phất Đà-lani. Hoa-tụ-đà-la-ni, Đô-tát-la, Ma-ha Bátnhã, Đại Vân, Pháp Hoa, v.v... tất cả mười hai bộ, đều có mười bài kệ tụng. Theo pháp luật nước đó truyền rằng phải thường canh phòng gìn giữ". Lại nói: "Trong cung vua nước Kế-tân có kinh Pháp Hoa gồm sáu ngàn bài kệ tụng, v.v...".

Nay ở đây suy ra, khi Đức Phật còn trụ ở đời, tương đương với năm thứ 45 tức năm Ất sửu đến năm thứ 52 năm Nhâm thân đời vua Mục Vương (Cơ Mãn) thời Tây Chu ở Trung Hoa, Ngài nói kinh Pháp Hoa, rồi nhập Niếtbàn. Sau khi Đức Phật viên tịch suốt hơn ngàn năm đều không lưu hành. Mãi đến 1230 năm, tức niên hiệu Chánh Nguyên năm đầu là năm Giáp tuất (254) dưới thời Phế Đế (Cao Quý Lang Công-Tào Mao) nhà Tiền Ngụy, mới truyền năm trăm bài kệ tụng đến đặt tại quán ở Giao Châu. Đến thời Tây Tấn, Diêu Tần mới mang đến xứ này, truyền bá mà phiên dịch. Nên phải biết y cứ cơ duyên có thuần thục, chưa thuần thục, ẩn hiển khác thời. Nếu theo "Trụ Pháp ký" thì lúc sắp nhập Niết-bàn. Đức Phật phó chúc giáo pháp Vô thượng cho mười sáu vị Đại A-la-hán và quyến thuộc, đồng thời che chở giữ gìn chẳng để dứt mất, mười sáu vị A-la-hán giữ gìn chánh pháp làm lợi ích cho loài hữu tình. Đến lúc ở châu này (Diêm-phù-đề), tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi thì Phật pháp dần dứt mất. Về sau, lúc tuổi thọ con người tăng dần lên đến bốn vạn năm, thì các vị A-la-hán ấy đều lại trong loài người để hiển bày giảng nói chánh pháp. Cho đến lúc con người sống thọ đến sáu vạn năm, chánh pháp Vô thượng lưu hành ở thế gian, hưng thạnh không dừng nghỉ. Đến lúc con người sống thọ bảy vạn năm thì chánh pháp Vô thượng hoàn toàn dứt mất. Nhưng kinh này vẫn lưu thông, phần nhiều ở khắp thời mạt pháp. Nên trong văn kinh các chỗ có nói: Trong thời mạt pháp ở năm trăm năm sau, như lúc gặp người nào được kinh này thì quên cả ngủ nghỉ và ăn uống, chớ để thời gian luống qua.

III. NĂM THÁNG TRUYỀN DỊCH:

Xét theo "mục lục các kinh", v.v... thì năm tháng phiên dịch kinh Pháp Hoa lược có sáu thời như sau:

1/ Sau Đức Phật nhập Niết-bàn 1.230 năm, vào thời Tiền Ngụy, niên hiệu Cam Lộ thứ nhất (256) tức năm Ất Hợi(1) tương đương niên hiệu Ngũ Phụng năm thứ hai thời Đông Ngô, ngày mồng 07 tháng 07, do Samôn Chi-Cương-lương tiếp người nước ngoài, Hán dịch âm đúng là "vô úy", phiên dịch tại thành Giao Châu, và do Sa-môn Đạo Hinh ghi chép, dịch thành sáu quyển và đề tên là "kinh Pháp Hoa Tam-muội".

2/ Sau Phật nhập Niết-bàn 1240 năm, vào thời Tây Tấn, niên hiệu Thái Thỉ năm thứ nhất (265) tức năm Ất Dậu, do Sa-môn Đàmma-la-sát, người nước Nguyệt Chi, Hán dịch là Pháp Hộ. Ngài vốn họ Chi, đến Tây Vực, hiểu thông ngôn ngữ và sách của cả ba mươi sáu nước, từ Thiên-trúc mang kinh này bằng bản Phạm đến và dịch thành sáu quyển, đề tên là "kinh Tát Vân Phân-đà-lợi Pháp Hoa". 3/ Đến niên hiệu Thái Khương thứ 7, tức năm Bính Ngọ (286) thời Tây Tấn, ngài Pháp Hộ lại dịch rộng thành mười quyển, đề tên là "kinh Chánh Pháp Hoa". Đến ngày 28 tháng 08 niên hiệu Vĩnh Hy thứ nhất (290) thời Tây Tấn, Tỳ-kheo Khương-na-luật ghi chép xong tại Lạc Dương. Khi đó cùng với Tỳ kheo Giới tiết, Ưu-bà-tắc Trương Quý Bác, Đồng Cảnh Huyền, Lưu Trường, Võ Trường Văn, v.v... tay cầm bản kinh đến Bạch Mã Dung, trình ngài Pháp Hộ, ngài so sánh xưa nay, giảng ra nghĩa sâu. Đến ngày 14 tháng 9 thiết trai cúng dường. Ở chùa Đông Ngưu lập Đại hội bố thí, giảng tụng kinh ấy suốt ngày suốt đêm, không ai chẳng vui mừng khen ngợi, xong rồi hiệu đính lại.

4/ Sau Phật nhập Niết-bàn 1.284 năm, vào thời Đông Tấn, cuối niên hiệu Hàm Khương thứ nhất, tức năm Ất mùi (335), do Sa-môn Chi Đạo Lâm phiên dịch thành sáu quyển, đề tên là "kinh Phương Đẳng Pháp Hoa".

5/ Sau Phật nhập Niết-bàn 1.353 năm, vào niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ bảy, tức năm Giáp Thìn (404) thời Diêu Tần, Sa-môn Cưu-ma-la-thập, Hán dịch là Đồng thọ, người xứ Thiên-trúc đến vườn Tiêu Dao ở Trường An, dịch thành bảy quyển hoặc tám quyển, đề là "kinh Diệu Pháp Liên Hoa", ngài La-thập và ngài Pháp Hộ cách nhau gần trăm năm.

6/ Sau Phật nhập Niết-bàn 1.550 năm, vào niên hiệu Nhân Thọ năm thứ nhất, tức năm Tân Dậu (601) đời Tùy, do Sa-môn Cấpđa Quật-đa ở chùa Đại Hưng Thiện, dịch thành bảy quyển, đề là "kinh Thiêm Phẩm Pháp Hoa". Trong lời tựa kinh chép: "Xét về hai bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và ngài Pháp Hộ, chưa hẳn từ một bản mà dịch ra. Bản dịch của ngài Pháp Hộ dường như từ văn kinh của lá đa-la. Bản dịch của ngài Cưu-mA-la-thập dường như từ văn ngữ của nước Quytư. Trong đó, ngài Pháp Hộ dịch thiếu phần kệ trong phẩm Phổ Môn, còn bản ngài Cưuma-la-thập dịch thì thiếu một nửa phẩm Dược Thảo Dụ, phần đầu của hai phẩm Phúlâu-na và Pháp sư, v.v... Phẩm Đề-bà-đạt-đa, kệ tụng của phẩm Phổ Môn. Ngài Cưu-mA-la-thập lại dời phẩm chúc lụy đặt ở trước phẩm Dược Vương, hai bản Đà-la-ni đều đặt sau phẩm Phổ Môn, trong đó sự đồng khác nói không thể hết".

Theo sự thỉnh cầu của Sa-môn Thượng Hạnh ở chùa Phổ Diệu, bèn cùng hai Tam tạng Pháp sư Cấp-Đa và Quật-Đa ở chùa Đại Hưng Thiện xem xét văn, lại từ bản La-đa-la về phần đầu của hai phẩm Phú-lâu-na và Pháp sư, v.v... xét ở bản vẫn còn thiếu, trong phẩm Dược Thảo Dụ lại còn hơn một nửa, phẩm Đề-bà-đạt-đa lại đặt chung vào phẩm Hiện Bảo Tháp, còn phẩm Chúc Lụy ở sau phẩm Đà-la-ni Thần Lực đem trở lại kết thành đặt ở cuối kinh, ngàn vạn ức kệ tụng, nghĩa mầu khó cùng tận. Lúc xem xét lại, lược theo ba thể lệ:

1/ Dời đổi vị trí phẩm, như phẩm Đà-lani, Thần Lực, Chúc Lụy, v.v...;

2/ Thêm văn, như một nửa phẩm Dược

Thảo Dụ, và kệ tụng của phẩm Phổ Môn, v.v...;

3/ Sửa đổi lời, như hai phẩm chú, v.v... Ngoài ra, các văn từ đều y theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, không sửa đổi gì.

Trong bản dịch thứ sáu có ba điểm còn và ba điểm mất, trong ba điểm còn thì diệu bản rất dài, Phổ Hiền mộng trao cho dấu chấm phẩy, không có văn nghĩa sai lầm. Nam Sơn hỏi vị trời rằng: "Kinh điển của một đời Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập phiên dịch, mãi đến nay vẫn còn như mới, thọ trì càng hưng thạnh. Vì sao?"

Đáp rằng: "Vì người đó (= tức La-thập) thông minh, khéo thấu hiểu giáo pháp Đại thừa, trở xuống đến các ông đều là vật báu của một đời người sau. Sáng rực ở trước, về sau không còn nữa, nên ngài La-thập dịch kinh lấy sự Ngộ Đạt làm đầu, được Phật dự ghi chứng đạt ngôi vị cao quý ở Tam Hiền, tự tay lưu xuất kinh điển, đến nay vẫn hưng thạnh đọc tụng không suy giảm. Nên minh cảm giáng hiện qua nhiều đời lại càng mới, lấy đó mà chứng lượng, rất hợp với yếu chỉ kinh pháp. Lại được Văn-thù cầm tay trao cho người thời nay không dám tin chắc, bởi đó là việc vượt ngoài thói thường, lẽ đâu đem cái biết hạn hẹp của mình mà xét được ư?, chóng quên Huyền giáo, thật không đủ để dự xen lời". Trên đây hoàn toàn y theo Tăng truyện và Biệt truyện kinh lục, v.v...

Nay nói lược về Phả Chí ngài Cưu-ma-lathập, Ngài vốn là người Thiên-trúc, gia đình nhiều đời làm tướng quốc. Cha ngài tên là Cưu-ma-la-viêm, thông minh rất có chí tiết tốt đẹp, sắp nối tiếp ngôi vị làm tướng bèn từ giã mà đi xuất gia, theo hướng Đông đến thông lãnh. Vua nước Quy-tư nghe La-Viêm từ bỏ vinh hạnh, rất đỗi kính mến, thỉnh làm Quốc sư. Vua có một người em gái mới hai mươi tuổi, rất tài giỏi thông minh, mọi việc qua mắt thì đều làm được, chỉ nghe qua một lần thì nói lại được. Lại trên thân cô có nốt ruồi son, theo tướng pháp thì sẽ sinh con trí tuệ, các nước đến cầu hôn nhưng cô chẳng hề chấp thuận. Đến lúc thấy La-Viêm, dục tâm liền dấy khởi, vội lấy làm vợ, trải qua thời gian lâu mà không mang thai. Vua đến hỏi em gái rằng: "Chồng em có thuật gì vậy?" Đáp rằng: "Lúc hành dục, ông ấy đọc tụng một bài kệ "Ở thế giới như hư không, dường hoa sen không dính nước". Do năng lực của bài kệ ấy". Vua nói: "Em nên tỏ vẻ yêu kiều". Sau đó khi đã mang thai, ngài (Cưu-ma-lathập) ở trong bào thai thì cha mẹ có năng lực tuệ giải gấp bội lúc thường. Có vị La-hán tên là Đạt-ma-Cù-sa nói rằng: "Đây là mang thai người con có trí tuệ" La hán lại nói cho Cô nghe về việc ngài Xá-lợi-phất lúc ở trong thai mẹ. Đến khi sinh Ngài, mẹ Ngài lại quên hết mọi điều nói trước. Mẹ ngài xuất gia thọ học, chứng được Sơ quả.

Năm bảy tuổi, ngài xuất gia, theo thầy thọ học kinh, thường ngày tụng ngàn bài kệ, mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ, như vậy có tất cả ba mươi hai ngàn lời, liền tự thông đạt, không có điều sâu mầu nào chẳng thỏa lòng. Năm chín tuổi, Ngài theo mẹ vượt qua sông Tânđầu, đến nước Kế-tân, gặp Sa-môn Bàn-đầuđạt-đa, tức em họ của vua, là người tài minh bác thức, thông đạt Ba tạng chín bộ, nổi tiếng khắp các nước, xa gần đều tôn thờ làm thầy. Ngài đến, liền phụng thờ như bậc thầy, theo thọ học Ba tạng và Trung A-hàm, Trường Ahàm, có đến bốn trăm muôn lời. Vua mời Ngài vào cung, nhóm họp các Luận sư ngoại đạo, cùng nhau luận nghị, Ngài thừa những yếu điểm mà bắt bẻ. Núi đen đã nghiêng đổ, ánh mặt trời tròn sáng, vua đem vật thượng cúng của nước ngoài mà dâng cúng lên Ngài. Ngài ở tại chùa Tăng thì vua sai năm vị Đại tăng và mười vị Sa-di trông coi quét tước. Ngài được tôn sùng rất mực như thế. Năm mười hai tuổi, mẹ Ngài lại dẫn Ngài về lại nước Quy-tư, các nước đều đem tước lộc tốt đẹp đến viếng thăm, Ngài chẳng hề đoái hoài nhận lấy.

Sau đó, mẹ ngài lại dẫn ngài qua nước Nguyệt-Chi, đến núi phía Bắc nước đó, có vị A-la-hán thấy ngài bèn lấy làm lạ, nói với mẹ Ngài rằng: "Phải thường gìn giữ lấy, đến năm ba mươi lăm tuổi mà không bị hủy phá giới phẩm thì sẽ làm sáng ngời lớn mạnh Phật pháp, độ vô số người, quyết sẽ hưng hóa đồng như Tôn giả Ưu-bà-quật-đa không khác!" Ngài đến nước Sa-lặc, đội lấy bình bát của Đức Phật lên đầu, tùy tâm khởi niệm, liền có sự nhẹ nặng. Ngài ở nước Sa-lặc một năm, tụng đọc thông luận A-tỳ-đàm và Thập Nhị Môn, v.v... Có vị Sa-môn mới ba tuổi Hạ tên là Hỷ Kiến nói với vua nước đó rằng: "Vị Sa-di này, thật không thể xem thường, vua nên mời khai giảng pháp môn, có hai điều lợi: một là các Sa-môn ở trong nước ta hổ thẹn bởi không sánh bằng vị Sa-di ấy, sẽ thấy có sự cố gắng lớn mạnh và hai là vua nước Quytư sẽ cho là "Cưu-ma-la-thập là người xuất phát từ nước ta, do em gái ta sinh ra, mà vua nước kia (Sa-lặc) tôn kính đó, tức là tôn kính ta" nên chắc chắn sẽ trở lại giao hảo". Vua bèn chấp thuận, liền mở đại hội, thỉnh Ngài lên tòa cao giảng pháp. Vua nước Quy-tư quả nhiên sai sứ trở lại, đối đáp rất thân hảo. Nhân những lúc rảnh rỗi giảng pháp, ngài mới tìm phỏng kinh sách ngoại Đạo, thông hiểu bốn bộ Vệ-đà cùng mười tám Đại kinh và luận Ngũ Minh, v.v...

Bấy giờ, có Vương tử Thảo Xa và Vương tử Tham Quân hai anh em giao phó nước nhà cho người, theo làm Sa-môn. Người anh tự là Tu-lợi-da-bạt-đà, người em hiệu là Tu-lợida-tô-ma, chuyên dùng giáo pháp Đại thừa để giáo hóa, đặc biệt là mở rộng kinh Pháp Hoa, người anh cùng các người học chung Thầy, Ngài (La-thập) cũng tôn sùng kính phụng. Bạt-đà vì Ngài mà giảng cho kinh Anậu-đạt, ngài nghe yếu chỉ pháp "không" bèn lấy làm lạ mà tỏ ngộ, mới biết Lý có chỗ quy về, bèn chuyên về kinh giáo Phương Đẳng, mới than rằng: "Xưa, ta học pháp Tiểu thừa, như người không biết vàng lấy đồng thau làm vật báu!" Nhân đó tìm cầu rộng yếu nghĩa, ngài đi khắp các nước của xứ Ấn Độ, tụng đọc các kinh điển Đại thừa như Pháp Hoa, Đại Phẩm, Thủ-lăng-nghiêm, v.v... thọ học các bộ Trung luận, Bách luận, luận Thập nhị môn, luận Đại Trí Độ, v.v... các vị nghĩa học ở các nước đều phục ứng mà giúp đỡ. Ngài lại theo mẹ trở về nước Ôn-túc, tức thuộc biên giới ở phía Bắc nước Quy-tư. Bấy giờ có một vị Đạo sĩ tiếng tăm vang khắp các nước, Ngài dùng hai nghĩa cùng kiểm lường về Tông của Đạo sĩ, từ đó tiếng tăm Ngài vang khắp các nước, vẻ vang lan tỏa khắp hải ngoại. Vua nước Quy-tư đích thân đến mời

Ngài về nước, giảng rộng các kinh, các vị theo học khắp bốn phương xa, không ai chống lại được, mẹ ngài đã chứng đắc Nhị Quả, có khuynh hướng muốn giã từ để sang Thiên-trúc, nên nói với vua rằng: "Nước của anh sắp suy, nay tôi xin từ giã từ đây!". Đến Thiên-trúc, mẹ ngài bèn chứng đắc Tam quả. Lúc sắp sửa đi, nói với Ngài rằng: "Các kinh Pháp Hoa, Phương Đẳng, Ma-ha Bát-nhã là giáo điển sâu mầu, nên mở rộng ở Trung quốc, truyền bá đến Đông độ, việc ấy chỉ có năng lực của con làm được, nhưng đối với tự thân thì có điều bất lời. Con thấy thế nào?" Ngài thưa mẹ rằng: "Đạo của bậc Đại sĩ là quên mình để lợi người. nếu làm cho Đại pháp truyền bá, thì sẽ khai ngộ được những người mê muội, dù thân phải chịu khổ nơi vạc sôi lửa đỏ, cũng không lấy làm tiếc!"

Từ đó, Ngài ở lại tại chùa Tân, sau đó ở trong cung cũ bên cạnh chùa mới được, tỏa phát ánh sáng, trú hàng phục ma trời. Ngài dừng ở ba năm đọc tụng rộng các kinh điển Đại thừa, thấu suốt Bí tạng yếu chỉ sâu mầu. Vua tạo tòa Sư tử bằng vàng, dùng nệm gấm của Đại Tần để trải lên, mời Ngài lên ngồi giảng pháp, Ngài bảo: "Thầy ta Bàn-đầu-đạtđa còn chưa tỏ ngộ pháp Đại thừa, nên muốn cùng sang để chuyển hóa, không thể dừng ở đây". Bỗng chốc ngài Bàn-đầu-đạt-đa chẳng quản từ xa mà đến hai bậc Thánh lại cùng thấu tỏ nghĩa không của đại thừa. Được hơn một tháng, mới tin phục, nên ngài Bàn-đầuđạt-đa than rằng: "Hòa-thượng (tức chỉ Lathập) là bậc Thầy về giáo pháp Đại thừa của tôi. Tôi là thầy về giáo điển Tiểu thừa của Hòa-thượng!" Các nước Tây Vực đều phục sức thần tuấn của ngài. Mỗi lúc Ngài giảng nói, các vua đều quỳ thẳng bên cạnh tòa, thỉnh ngài bước lên. Ngài được trọng quý đến như thế, Đạo ngài đã lưu tỏa ở Tây Vực, tiếng tăm vang vọng Đông xuyên.

Bấy giờ, Phù Kiên lấn ngôi, hiệu là Quan Trung, có Tiền Bộ Vương và em của Quy Tư Vương đệ đều đến ra mắt. Phù Kiên nói rằng: "Ở Tây Vực phần nhiều hay sinh ra các thứ lạ quý, nên xin binh lính sang bình định để lấy". Đến tháng giêng năm Đinh Sửu (377) tức niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười ba đời Phù Kiên, quan Thái sử tâu rằng: "Có ngôi sao sáng xuất hiện ở đồng hoang của nước ngoài, sẽ có bậc đại đức trí nhân đến giúp Trung quốc".

Phù Kiên nói rằng: "Trẫm nghe ở Tây Vực có Sa-môn Cưu-ma-la-thập, ở Tương Châu có Sa-môn Đạo An, há chẳng phải đó ư?"

Kiên liền sai Sứ tìm cầu. Đến tháng 9 niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười tám (382), Phù Kiên sai Lã Quang, v.v... dẫn bảy muôn binh lính theo hướng Tây đi đánh các nước Quy-tư, Ô-Kỳ, Lã Quang bắt được Ngài, chưa lường biết được trí lượng của Ngài, thấy ngài tuổi trẻ bèn cho là người phàm thường, mà đùa bỡn, cưỡng bức ngài lấy Vương nữ nước Quy-tư làm vợ. Ngài không chịu, khước từ, đành chịu rất mực kham khổ. Lã Quang trở về giữa đường, đóng quân dưới chân núi, tướng sĩ đều ngơi nghỉ. Ngài bảo: "Không thể dừng nghỉ ở đây, sẽ gặp phải khốn đốn, nên dời quân lên trên gò núi". Lã Quang không nghe lời can ngăn của Ngài, quả nhiên đến đêm hôm đó, mưa lớn tuôn đổ nước ngập sâu đến vài trượng, chết cả hàng ngàn người, Lã Quang mới thầm lấy làm lạ. Không bao lâu, Lã Quang qua đời, con của Lã Quang là Lã Thiệu nối ngôi được vài ngày thì con thứ của Lã Quang là Lã Toản giết Lã Thiệu tự lên ngôi, xưng là nguyên Hàm Ninh, đánh cờ với Ngài, đùa vui, Lã Toản nói: "Chặt đầu Hồ Nô". Ngài bảo: "Không thể chặt đầu Hồ Nô mà trái lại Hồ Nô sắp chém lấy đầu người". Lời nói ấy của Ngài rất có ý chỉ, vì em của Lã Quang là Lã Bảo, có người con là Lã Siêu. Lã Siêu thuở nhỏ tự là Hồ Nô, về sau quả nhiên Lã Siêu (Hồ Nô) giết Lã Toản, khi ấy mọi người mới nghiệm ứng về lời của Ngài. Ngài dừng ở nhiều năm mà cha con Lã Quang không hoằng bá truyền Đạo pháp nên Ngài cũng chẳng nhờ đâu tuyên hóa được. Và Phù Kiên cũng đã qua đời, không được gặp được Ngài! Đến thời đại Diêu Trành, mọi người trong dòng họ Lã cho ngài là người có trí tuệ mưu kế, lắm sự thông hiểu, sợ sẽ làm tham mưu cho Diêu Trành, nên không chấp thuận để ngài đi về phương Đông. Đến lúc Diêu Trành qua đời, con là Diêu Hưng lên nối ngôi, lại sai sứ đôn đốc thỉnh Ngài.

Đến tháng 03 niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 3 (400), có cây Liên lý sinh tỏa rộng ở trước sân. Trong vườn Tiêu Dao, cây hành bỗng biến thành cây kiệu, Diêu Trành cho đó là điềm lành, nghĩa là có người trí sẽ đến. Sang tháng 05 đánh Lã Long, mới được rước Ngài vào quan nội. Ngày 20 tháng 12 năm đó, Ngài vào đến Trường An, Diêu Hưng dùng lễ của Quốc sư để tiếp đãi Ngài, bèn thỉnh ngài vào lầu Tây Minh và vườn Tiêu Dao, dịch các kinh. Các Sa-môn Tăng Hoạch, Tăng Duệ, Tăng Triệu, v.v... có hơn tám trăm vị đều thưa hỏi, thọ học yếu pháp từ Ngài. Khi đã dịch ra kinh Đại Phẩm. Ngài cầm bản kinh tiếng nước Hồ, Diêu Hưng cầm bản kinh văn xưa cùng so với bản kinh văn mới dịch ấy. Diêu Hưng đã ôm ấp ứng nghiệm rất tôn kính Phật pháp, từng đến trong chùa Thảo Đường thiết hội cúng dường ba ngàn vị tăng, cùng ngài tham định các kinh mới cũ.

Đến mùa Đông niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ bảy (404), ngài dịch kinh Pháp Hoa, Diêu Hưng cầm bản kinh do ngài Pháp Hộ dịch để so sánh nhau. Ngài đọc bản tiếng Phạm, các Sa-môn Tăng Duệ v.v... ghi chép. Đến phẩm "Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký", Ngài nói: "Xưa kia, Pháp sư Pháp Hộ dịch là "Trời thấy người, người thấy trời". Văn từ đó rất hợp nghĩa với Tây Vức, chỉ tại lời hơi quá chất". Ngài Tăng Duệ liền nói rằng: "Há chẳng phải người và trời cùng giao tiếp, hai bên được thấy nhau ư?" Ngài rất vui mừng! Kinh luận do ngài dịch có tất cả chín mươi tám bộ, bốn trăm hai mươi lăm quyển, soạn thuật An Lạc Độ Nghĩa kinh, Sinh Nhân truyện, Bồ-đề Tâm Nghĩa v.v... Từ khi Phật pháp truyền bá đến phương Đông mãi đến nay, được mở mang giáo hóa nhuần khắp, phần nhiều là do công sức của Ngài! Truyền rằng: ngài là hóa thân của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, xưa kia ở tại núi Linh thứu vì chứng mà phát khởi, nên ngày nay dịch kinh, như lúc cầm bút thì từ bút phát ra ánh sáng. Trong ánh sáng đó hoặc có lúc hiện thân Bồ-tát Văn-thù, hoặc hiện thân Phật, bốn vị Thiên vương che chở.

Trong đó, thường nghe theo thân, v.v...

Tôi (Tăng Tường) thấy Bản hạnh của Ngài thật là bậc Đại thánh, cũng ở địa vị Tam hiền. Các kinh luật do ngài dịch ra, cảm thông thật có lý do.

IV. CHI PHÁI BIỆT HÀNH:

Theo kinh lục nói rằng: "Chi phái lưu hành riêng về kinh Pháp Hoa, số lượng ở phương Tây có bao nhiêu, riêng ở Đông độ truyền bá còn ít. Tương truyền ở phương Tây, kinh Pháp Hoa bản Phạm nêu bày khắp cả một do-tuần, tương ứng với Biệt hành cũng đều như thế, v.v... Nay từ khi truyền bá ở xứ này, có kinh Vô Lượng Nghĩa một quyển, ở đây gọi là "phần tựa". Niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ 2 (480) thời Nam Tề, do Sa-môn Đàm-ma-da-xá, Hán dịch là Pháp Sinh Xứng, người ở xứ Thiên Trúc tự tay dịch ra. Đến niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba (485) thời Nam Tề, người được truyền nhận là Sa-môn Tuệ Biểu mang đến Dương Đô, biên chép truyền bá, có ẩn sĩ Lưu Cầu, người ở xứ kinh châu đang trụ tại núi Võ Đang soạn lời tựa kinh này.

Có kinh Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp kết sau cùng. Niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất (424) đời Tiền Tống, do ngài Đàm-ma-mậtđa, còn gọi là Đàm-ma-mật-đa; Hán dịch là Pháp Tú, người nước Kế-tân dịch tại Dương Đô. Về sau, Tam tạng Pháp sư Chân Đế soạn biệt ký, lưu hành ở đời.

Như nói về biệt hành thì kinh "Phật dĩ Tam xa hoán Tử" một quyển, do ngài Chi Khiêm dịch đời Ngụy, là đồng bản với phẩm "Thí dụ" trong đại bộ.

Kinh Quán Thế Âm một quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào niên hiệu Vĩnh Gia năm thứ hai (308) đời Tây Tấn. Kinh Phổ Môn Phẩm một quyển, do Sa-môn Kỳ-đamật dịch vào đời Đông Tấn. Kinh Quán Thế Âm một quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch tại vườn Tiêu Dao vào thời Diêu Tần. Kinh Quán Thế Âm một quyển, do An Dương Hầu Kinh Thanh dịch tại Cao Xương vào đời Tiền Tống. "Phổ Môn Trùng tụng kệ" một quyển, do Sa-môn Xà-na-quật-đa người nước Kiềnđà ở Bắc Thiên-trúc đến trụ chùa Long Tuyền ở Ích Châu, cùng với Lương Tiêu Vương Vũ Văn dịch dưới thời vua Võ Đế (Tiêu Diễn, 502-550) đời Nam Lương. Năm bản kinh này là đồng bản Phạm với phẩm "Phổ Môn" trong Đại bộ. Lại có kinh "Phổ Môn Phẩm" một quyển gồm mười lăm trang giấy là đồng bản Phạm với hội Văn-thù trong kinh Đại Bảo Tích, chẳng phải trích riêng từ kinh Pháp Hoa.

"Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Đề-bàđạt-đa" một quyển, do ngài La-thập dịch, người ở cung Trường An, trừ biệt hành trong Đại bộ. "Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Đềbà-đạt-đa" một quyển, do Sa-môn Chân Đế đời Trần, tu bổ bản dịch của ngài La-thập và nhuận sắc thêm. Lại có đồng phẩm một quyển, trong khoảng niên hiệu Vĩnh Minh (483-494) đời Nam Tề, do Sa-môn Pháp Hiến từ nước Vu-điền có được bản Phạm, cùng ngài Bảo Ý dịch ra tại chùa Ngõa Quan ở Dương Đô, ba bản trên đây đồng với một phẩm trong Đại bộ.

Kinh "Pháp Hoa Quang Thụy, Bồ-tát Hiện Thụy" ba quyển, do Sa-môn ChiCương-lương dịch tại Giao Châu, đồng với phẩm Tựa và phẩm Thọ Lượng trong Đại Bộ. Sáu bài thần chú của Dược Vương Bồ-tát v.v... trong kinh Pháp Hoa, vào khoảng niên hiệu Vĩnh Huy (650-656) thời Tiền Đường, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch. Các phẩm này phần nhiều mất bản. Chỉ có "phẩm Phổ Môn" do ngài Cưu-ma-la-thập dịch được riêng lưu hành khắp bốn biển. Vì sao? Vì có ngài Đàm-ma-la-sám; Hán dịch là Pháp Phong, thuộc chủng tộc Bà-la-môn, người xứ Trung Ấn Độ, cũng còn gọi ngài là Bồ-tát Ba-lặc, Ngài lấy việc hoằng hóa làm chí nguyện, đến Thông lãnh, vừa đến Hà Tây, Hà Tây Vương là Thư Cừ Mông vốn là người biết quy mạng chánh pháp, do bị tật bệnh nên nói với Bồ-tát. Ngài Pháp Phong liền nói: "Bồ-tát Quán Thế Âm rất có duyên với cõi nước này". Bèn bảo tụng niệm, và bệnh khổ được tiêu trừ, do đó truyền riêng cho một phẩm lưu thông ngoài Đại bộ.

Lại có kinh Pháp Hoa Tam-muội không phải là biệt sinh của chi phái. Lại có kinh Tát Vân Phân-đà-lợi có hai phẩm Bảo Tháp và Đề-bà gồm một quyển, ít phân hiện hành ở thế gian và người đời không thọ trì, theo kinh lục xưa ghi chú là do ngài Pháp Hộ dịch, còn theo kinh lục bản Tiền Đường thì thấy mất tên người dịch. Lại còn có kinh Cao Vương Quán Thế Âm tuy rất có minh cảm, nhưng không nhân truyền dịch, không đủ để xác quyết là chi phái, cũng chẳng phải là biệt sinh.

V. LUẬN GIẢI THÍCH KHÁC NHAU

Theo Tam tạng Pháp sư Chân Đế nói rằng: "Ở phương Tây truyền rằng, giảng nói Đại giáo Pháp Hoa, lưu bố khắp năm xứ Ấn Độ, tạo "Ưu-ba-đề-xá", chú thích văn nghĩa ấy có hơn năm mươi nhà. Đến cuối năm trăm năm sau Phật diệt độ, Bồ-tát Long Thọ soạn "luận Pháp Hoa". Đến đầu 600 năm sau Phật diệt độ, Bồ-tát Kiên Ý soạn Thích Luận, đều chưa truyền đến Trung quốc, nên chẳng lường biết về chỉ quy như thế nào? Đến 900 năm sau Phật diệt độ, tại nước Đại Phu thuộc Bắc Thiên-trúc, có vị Quốc sư tên là Bà-tẩubàn-đậu; Hán dịch là Thiên Thân, con của Kiều-thi-ca thuộc chủng tộc Bà-la-môn cũng soạn luận Pháp Hoa, chia làm sáu mươi bốn tiết pháp môn, giải thích đại nghĩa ấy. Có Samôn Lặc-na-ma-đề; Hán dịch là Bảo Ý, ngài là người xứ Trung Ấn-độ, là người học thức tài giỏi, thông hết lý sự, lại hiểu rành Ba tạng, tụng thông một ức bài kệ; mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ, ngài vân du hoằng hóa. Vào niên hiệu Chánh Thỉ năm thứ năm (508) dưới thời vua Tuyên Võ Đế đời Bắc Ngụy, Sư đến Lạc ấp, dịch luận Pháp Hoa, một quyển, do Thị Trung Thôi Quang và Sa-môn Tăng

Lãng, v.v... ghi chép, đang ngày dịch kinh, ở trong điện Lạc Dương có Sa-môn Bồ-đề-lưuchi truyền bản, Sa-môn Lặc-na-phiến-đa tham chiếu sau đó. Tam đức bèn vâng theo lời ngài Bồ-đề-lưu-chi, đều truyền theo thầy mà tu học, chẳng cần thưa hỏi. Vua lấy sự hưng thạnh của việc Hoằng Pháp, lược trình bày khúc tụng, ban sắc ở ba nơi, đều dịch xong mới dự tham cùng xem xét mọi sự ẩn mất trong đó, có sự khác nhau, câu văn thì có khi khác, người sau mới hợp lại, cùng thành bộ chung. Lại nữa, Sa-môn Bồ-đề-lưu-chi; Hán dịch là Đạo Hy, Tân dịch là Giác Ái, ngài là người xứ Bắc Ấn-độ, rất tinh thông Ba tạng, khéo vào Tổng Trì, chí ý chuyên việc hoằng pháp, truyền bá rộng mọi sự thấy nghe, bèn men đường đi đêm, xa đến Thông Tả. Lúc đó là khoảng niên hiệu Vĩnh Bình (508-512) đời Bắc Ngụy. Sau, ngài trụ chùa Vĩnh Ninh, Tuyên Võ đế thường cúng dường tiếp đãi rất lễ hậu, có bảy trăm vị Phạm tăng, vua cung cấp đủ khắp, ban sắc chọn ngài Bồđề-lưu-chi làm Chủ tọa trong việc phiên dịch kinh điển. Ngài dịch lại thành hai quyển, ngài Đàm Hưu ghi chép và soạn lời tựa, với tựa đề là "Diệu Pháp Liên Hoa kinh Ưu-ba-đề-xá, mở đầu có văn tụng" Quy kính đại đồng tiểu dị với bản dịch của ngài Bảo Chí, tựa đề của bản văn ấy cũng là Pháp Hoa kinh Ưu-ba-đề-xá mà không có văn tụng "Quy mạng". Ở Trung hoa cũng có soạn luận, như Huyền Luận của ngài Cát Tạng đời Hồ, v.v... chẳng thể nêu thuật đầy đủ hết.

QUYỂN 2

Trong quyển 2, có hai phần:

VI. LỜI TỰA BIÊN TẬP CỦA CÁC PHÁP SƯ:

Lời tựa của Pháp sư Tuệ Quán

Hậu tựa của Pháp sư Tăng Duệ

Lời tựa của Pháp sư Tuệ Viễn

Hậu Ký dịch kinh

Lời tựa thêm phẩm

Lời tựa kinh Vô Lượng

Nghĩa Lời ghi về Chánh Pháp Hoa.

1. Lời tựa Pháp Hoa Tông Yếu do Thích Tuệ Quán soạn.

Bản tế vắng lặng thì thần căn ngưng nhất, vừa động lìa thuần, thì tinh thô bày khác. Do đó, tâm ý dong ruổi, tưởng trần đua rong, che mờ có cạn sâu thì tối sáng khác gương. Vì thế, từ lúc đầu, Đức Thích Tôn thành Phật đến lúc giảng nói kinh này, nên ban đầu ứng theo vật mà mở luật, ba thừa lưu hóa riêng chẳng phải chân, thì đến thời kỳ cuối cùng có hội tụ. Hội tụ phải là đồng nguồn, nên thừa ấy chỉ có một, chỉ một thừa tối thượng, nghĩa đó là pháp mầu, có bài tụng rằng:

"Thừa ấy mầu nhiệm
Thanh tịnh bậc nhất
Ở nơi thế gian
Chẳng gì hơn được".

Diệu thì không thể nói ra rõ được, phải phỏng theo đó là có hình tượng. Vẻ đẹp của hình tượng thì hoa sen là bậc nhất. Hoa sen đẹp nhất thì hoa sen trắng là hơn hết, khéo dùng phương pháp mà vì nói, nên dùng hoa sen trắng ví dụ. Nhờ đó mà sáng tỏ ý kinh, mở toang sự mờ tối, không thể dùng ngôn ngữ cùng cực, ấy là nguyên do để giải thích lý do Quyền ứng, Thống ngự đến cùng cực không thể dùng đến sâu kín, mở thật để hiển bày Tông Trí, Quyền ứng đã sáng tỏ thì tâm hạn cục tự diệt, Tông Trí đã hiển bày thì chân ngộ tự sinh. Nên khiến trăm dòng đều rót, ba thừa đồng sang, ba đồng sang đó hội thành một, đó là đầu tiên của Thừa. Giác tuệ thành mãn, đó là hưng thạnh của Thừa, và dứt cảnh lắng tâm, đó là chung cùng của Thừa. Tuy lấy muôn pháp làm thừa, nhưng gần đó có chủ, nêu Tông yếu đó thì Tuệ gồm thâu tên ấy, nên kinh lấy Chân tuệ làm thể, Diệu Nhất làm tên, vì thế, huyền ân của Đức Thích-ca lúc mới phát khen ngợi trí Phật sâu mầu, Phật Đa Bảo ngợi khen tốt lành, khen ngợi Đại Tuệ bình đẳng, nên có bài tụng rằng:

"Vì nói trí tuệ Phật
Chư Phật hiện ở đời
Chỉ một sự thật này
Nếu hai, chẳng phải chân".

Vậy thì, Phật tuệ chỉ một chân thật, thể của thừa thành, thì diệu đạt viên mãn, hoa nở tốt đẹp. Tuy nương tựa hoa để phô bày mầu nhiệm, nói huyền biểu lộ hình tượng thì gọi đó là Diệu, mà thể bặt dứt tinh thô, nên lại có bài tụng rằng:

"Pháp ấy chẳng thể bày
Lời lẽ đều vắng bặt".

Hàng Nhị thừa do đó mà dứt tư lự, chỗ diễn bày vì thế mà sạch bụi nhơ, chỉ có Phật và Phật mới rốt cùng, nên vô lượng Đức Như Lai cảm lời ít có mà nhóm hội, các bậc Thánh đã qua đời, bày dư linh mà hiện chứng, tin sự sâu mầu của Phật pháp, cảnh mầu của cùng thần. Đó là nghĩa vị của kinh này. Quán thiếu hành tập ngôn từ của Quy nhất, trưởng thành vị cốt yếu mà hội thông. Nhưng nghĩ tưởng càng chuyên cần thì u chỉ càng trầm lắng, không đâu chẳng hiện diện nơi Linh Thứu, vì xa tưởng văn từ, câu cú mà càng thêm nhớ nghĩ, lường lý do nói năng, sai bản là lầm văn trái chánh.

Có Pháp sư Cưu-ma-la-thập người nước ngoài, là người tài giỏi trí sáng vượt xa, kỳ ngộ vượt trội ngoài trời. Lượng như biển sâu, biện tuôn như ngọc tan, kế tiếp dấu vết dòng họ Thích để nối liền khuôn phép, cầm nắm lửa thần để mồi đuốc sương, buộc giềng mối suy đồi sắp dứt, không cùng nổi trôi đến đã đắm chìm, ngồi sáng đèn tuệ nơi đây, lại tỏ rạng ở cảnh ấy. Vào mùa hạ niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 08 (405), tại chùa lớn ở Trường An, nhóm họp các vị Sa-môn nghĩa học ở khắp bốn phương có hơn ba ngàn vị, dịch lại kinh này cùng chúng nghiên cứu tường tận. Pháp sư La-thập tự tay cầm bản kinh tiếng nước Hồ, miệng đọc dịch thành tiếng Hán đời Tần với phép tắc theo phương ngôn mà hướng về chẳng trái bản, tức lợi ích của văn từ đã quá hơn một nửa. Tuy mây đen đã vén sạch màn che chở, dương cảnh đều tỏ rạng, cũng chưa đủ thí dụ. Pháp sư La-thập còn nói: "Ngôn ngữ hiện mà nghĩa lý trầm lắng, sự tuy gần mà ý chỉ cao xa". Lại nữa giải thích sự ẩn mật nằm ngoài văn từ, nên tham cầu sâu sắc. Tuy cánh cửa tăm tối chưa mở nhưng đã nắm bắt được cửa ngõ.

Thượng thiện đượm nhuần bình đẳng, linh dịch chuộng quân bằng, do đó, kính cảm sự chúc lụy, cúi đầu cảm khái với điều chưa nghe nên tham cứu bày thuật yếu chỉ, truyền bá cho những người chưa nghe, ngõ hầu bánh xe chánh pháp xoay chuyển xa, đến chỗ chưa từng đến, mười phương đều tỏ ngộ, rốt cùng thấu đạt, thỏa thích với Nhất thừa, nên kính cẩn đề lời tựa này. (Xuất Tam tạng Ký Tập quyển 8).

2. Hậu tựa kinh Pháp Hoa do Pháp sư Tăng Duệ soạn:

Kinh Pháp Hoa là bí tạng của chư Phật, là thật thể của các kinh. Dùng hoa mà đặt tên là soi chiếu cội gốc. Gọi phân-đà-lợi (sen trắng) là khen ngợi sự hưng thạnh. Điều nêu bày đã cao mà ý chỉ ấy lại rất uyển nhã. Nếu chẳng từ những vị Đạt thức truyền trao thì ít người đạt được môn nhân đó. Sự tốt đẹp của trăm thứ cây cối cỏ thuốc là cội gốc của muôn vật báu. Tám vạn bốn ngàn pháp tạng là nguồn của Đạo quả. Trong tất cả các loài hoa thì hoa sen là loại hoa đẹp nhất. Chưa nở thì gọi là Quật-ma-la, nở mà sắp tàn gọi là Ca-ma-la, khoảng giữa thời gian đó, đang lúc tươi tốt đẹp xinh thì gọi là phân-đà-lợi. Chưa nở bày dụ cho hai đạo, sắp tàn dụ cho Nê-hoàn, đang lúc tốt tươi ngời sáng thì dụ cho khế kinh này. Còn các kinh Bát-nhã, v.v... sâu xa vô cùng nên Đạo lấy đó mà kết quy. Đại nghĩa là không gì chẳng bao gồm, thừa tức lấy đó mà cứu giúp. Nhưng đại lược đó đều vì thích hóa. Vì gốc của cửa ngõ ứng hóa không thể không dùng sự khéo léo làm dụng. Sự khéo léo ấy vì chuyển hóa, ngộ vật tuy rộng, mà đối với thật thể chẳng đủ, đều thuộc về Pháp Hoa, hẳn là rất đúng. Tìm xét về yếu chỉ sâu mầu thì to lớn, rộng sâu, lại gồm cả rất xa, chẳng nhọc nói thật kết quy về cội gốc, rốt cùng chắc chắn là khác đường mà thôi! Ấy mới thật là lý của bậc chánh giác bao gồm xưa nay v.v...

Phật có thọ mạng vô lượng, mãi trọn kiếp vẫn chưa đủ để nói về sự lâu dài đó, phân thân vô số muôn hình chưa đủ để khác cái thể ấy, nhưng thọ lượng chắc chắn chẳng phải số, phân thân sáng tỏ sự là không thật. Phổ Hiền hiện bày sự không thành ấy. Phật Đa Bảo chiếu soi sự chẳng diệt đó. Xa tít cao huyền, xưa vì mong nay, thì muôn đời đồng với một ngày, tức trăm hoa nhờ ngộ huyền thì muôn đường không khác vết. Như vậy, thì đời đời chưa đủ để mong ở hiện tại, trọn tĩnh lắng cũng chưa thể nói sự lắng diệt kia. Tìm xét về tông nhiệm mầu vì đã dứt bặt thì mất công đối với vốn không, bắt dẫn dây tâm ở Tammuội thì quên mong đến Nhị địa.

Kinh này truyền bá đến Trung hoa, tuy đã trải qua trăm năm, người dịch lầm mờ bến bờ hư rỗng, cửa linh chẳng vì đó mà mở. Người đàm phán trái với chuẩn cách, dấu vết sâu ít được giẫm bước, nhọc lại tìm cầu, nghiên cứu đến bạc đầu, đều chưa có người nhìn được cửa ấy. Dưới đời Tần, Tư Đồ Hiệu Úy Tả Quân An Thành Hầu Diêu Tung phỏng vận cửa huyền, gá tâm ngoài đời, chú thật pháp điển ấy, tin đạt đến sâu xa. Mỗi lúc tư duy suy tìm về văn ấy, nhận biết sâu sự lầm mất của người dịch. Đã gặp được Pháp sư Cưu-ma-la-thập, vì đó mà truyền trao ghi chép, góp đại quy thân ấy, như vạch nhiều lớp mây đen, giẫm đạp lên đỉnh Côn Luân cao mà cúi xuống nhìn. Bấy giờ, những vị nghe thọ lãnh hội, chư tăng có hơn tám trăm vị đều là những vị tài giỏi khắp nơi, là những vị tài giỏi một thời!

Niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 8 (405) tức năm Ất Tỵ (Đồng như trước)

Lời tựa kinh Pháp Hoa, do Thích Tuệ Viễn soạn:

Tôi (Tuệ Viễn) thường thấy Tạng kinh, dưới đời Tùy, Sa-môn Pháp Kinh soạn Chúng Kinh Mục Lục quyển sáu chép: "Lời tựa kinh Diệu Pháp Liên Hoa" một quyển, do Sa-môn Tuệ Viễn soạn, hoặc như trong Xuất Tam tạng ký quyển 12 chép: "Lời tựa kinh

Diệu Pháp Liên Hoa" do Thích Tuệ Viễn v.v... này chẳng thấy ghi chép văn tự!

Hậu Ký Phiên Dịch kinh Pháp Hoa, do Thích Tăng Triệu ghi:

Mùa Hạ niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 8 (405), Sa-môn Tam tạng Pháp sư Kỳ-bà Cưu-mA-la-thập; Hán dịch là Đồng Thọ, người nước Thiên-trúc trụ chùa Thảo Đường ở Trường An cùng các Sa-môn Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung, Tăng Duệ, v.v... hơn tám trăm vị, cùng các vị nghĩa học tài giỏi ở khắp bốn phương có hơn hai ngàn vị cùng dịch lại kinh này. Đại chúng cùng tham cứu tường tận. Pháp sư La-thập tự tay cầm bản kinh tiếng Phạm, miệng đọc dịch thành ngôn ngữ Trung hoa đời Tần. Diêu Hưng tự cầm bản kinh dịch xưa để so sánh, hiệu đính với bản Tân dịch. Văn nghĩa đều thông, diệu lý viên thông. Diêu Hưng hỏi Pháp sư La-thập rằng: "Tôi xem bản dịch hai mươi tám phẩm này. Văn nghĩa sáng đẹp, tông thể tự rõ bày, chợt xem bản kinh do Pháp sư Pháp Hộ dịch, gọi phẩm tựa là phẩm Quang Thụy, phần cuối của phẩm Dược Thảo dụ càng hơn nửa phẩm, tựa đề phẩm Hóa Thành Dụ lại qua phẩm xưa. Phần đầu của phẩm Phú-lâu-na và Pháp sư, văn từ lại thêm số trang, thiếu phần kệ tụng trong phẩm Phổ Môn, phẩm Chúc Lụy lại xếp ở cuối cùng, không biết yếu chỉ kết quy việc ấy như thế nào".

Pháp sư La-thập bảo rằng: "lành thay minh chúa, tiếp nối đèn pháp đốt cháy lâu dài, thấu hiểu đêm tối cảnh mờ, tự chẳng sinh ra nghi ngờ, ai tỏ rõ yếu chỉ sâu xa, khám xét bản Phạm xưa rõ ràng như thế! Xưa, khi tôi ở Thiên-trúc, đi khắp năm xứ Ấn-độ tìm cầu giáo điển Đại thừa, gặp được Đại sư Tu-lợida-tô-ma, bẩm thọ nghĩa lý, ân cần giao phó bản Phạm và bảo rằng: "Mặt trời Phật ở phương Tây lắng dần để lại ánh sáng, sắp soi chiếu về hướng Đông bắc. Pháp điển ấy rất có duyên với xứ Đông bắc, ông phải cẩn trọng mà mở mang truyền bá!". Xưa kia, Luận sư Bà-tẩu-bàn-đậu soạn Ưu-ba-đề-xá, đó là chánh bản, chẳng bỏ câu kệ trong đó, chẳng bỏ văn thật trong đó. Tôi vội vàng lãnh thọ mang pháp đến đây. Nay mọi sự truyền bá rất có lý do, giải thích tông chỉ, chẳng đường đồng khác, họ Lã sợ thánh chỉ, đợi thầm có được chăng. Mộng cảm tốt lành xứng đáng cùng khắp, rất hợp với ý chỉ Phật. Đầy đủ vì thích nghĩa". Diêu Hưng mở tan sự mờ tối, các vị Nghĩa học phục ứng, bỏ bản cựu dịch, thọ trì theo Tân văn. Lại tra xét trao truyền, nay nhân nơi giảng hội, lược ghi lại lý do, mong các vị Hậu Hiền ở các nơi, chẳng lầm sự sai sót ấy. Các nơi được lưu hành, đều được cảm ứng!

Lời tựa Thêm phẩm Pháp Hoa:

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tức là chỉ quy của pháp Nhị thừa khai tỏ Nhất thừa. Đức Thích Tôn giáng thần ở cõi đời năm trược, dùng pháp ba thừa để mở đạo. Quyền trí chẳng thể nghĩ bàn, từ bi khó cùng cực. Trước bày ra dấu vết của hóa thành, sau nên chỉ chỗ vốn buộc hạt châu. Xe tuy có khác mà hai thật không sai, đem chánh pháp mà ghi danh, dùng con thật mà trao ngôi vị, đồng vào pháp tánh, kết quy ở đây.

Xưa, ở Đôn Hoàng có Sa-môn Trúc Pháp Hộ vào đời Tây Tấn dịch kinh chánh Pháp Hoa. Đến đời Hậu Tần, Diêu Hưng lại thỉnh Pháp sư Cưu-ma-la-thập dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Xét hai bản dịch trên chắc chắn chẳng phải từ một bản gốc. Bản dịch của Pháp sư Pháp Hộ dường như từ bản lá đa-la, bản dịch của Pháp sư La-thập dường như từ văn nước Quy-tư. Tôi kiểm xét về kinh tạng, xem đọc cả hai bản. Bản lá đa-la thì phù hợp với bản dịch kinh Chánh Pháp Hoa. Bản văn nước Quy-tư thì xứng đồng bản dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bản ngài Pháp Hộ còn có chỗ sót. Bản ngài La-thập sao không sai sót. Và sự thiếu sót trong bản dịch của ngài Pháp Hộ là phần kệ tụng của phẩm Phổ Môn. Còn bản dịch của ngài Lathập thì thiếu nửa phẩm Dược Thảo Dụ. Phần đầu hai phẩm Phú-lâu-na và Pháp Sư, Phẩm Đề-đà, phần kệ của phẩm Phổ Môn. Ngài Lathập lại đặt phẩm Chúc Lụy trước phẩm Dược Vương, hai bản Đà-la-ni đều đặt sau phẩm Phổ môn. Trong hai bản dịch đó, các điểm đồng khác nói không thể hết được. Phẩm Đề-bà-đạt-đà và phần kệ phẩm Phổ Môn, các vị tiên hiền tiếp tục dịch ra để bổ khuyết mà lưu hành.

Tôi kính ngưỡng di phong, hiến chương thành khuôn phép, vào niên hiệu Nhân Thọ thứ nhất (601) đời Tùy, tức năm Tân Dậu, nhân sự thỉnh mời của Sa-môn Thượng Hạnh chùa Phổ Diệu, bèn cùng hai vị Tam tạng Pháp sư Quật-đa và Cấp-Đa trụ chùa Đại Hưng Thiện, xem xét lại bản kinh trên lá Đa-la của Thiên-trúc, thì phần đầu của hai phẩm Phú-lâu-na và Pháp sư, xét lại bản còn thiếu ở phẩm Dược Thảo Dụ lại hơn phân nửa. Phẩm Đề-bà-bạt-đa cùng đặt chung vào phẩm Hiện Bảo Tháp, phẩm Đà-la-ni đặt sau phẩm Thần Lực, và phẩm Chúc Lụy kết quy ở cuối cùng, câu chữ khác nhau, rất đáng phải cải chánh, nếu có người bày tìm, mong chớ nghi hoặc. Tuy ngàn vạn ức kệ mà nghĩa mầu khó cùng tận, và hai mươi bảy phẩm trong bản văn, lại đủ điều nguyện bốn biện phạm từ, khắp địa vực của thần châu. Bí giáo Nhất thừa khai ngộ căn cơ trong thời tượng pháp nhờ việc ghi chép phiên dịch, kính ghi lời tựa.

Lời tựa kinh Vô Lượng nghĩa do ẩn sĩ Lưu Cầu người ở xứ Kinh Châu soạn:

Kinh Vô lượng Nghĩa này chỉ lấy một pháp vô tướng dạy khắp chúng sanh, với hàm nghĩa vô cùng vô tận, không có hạn lượng, nên có tên là Vô lượng. Chúng sanh trong ba cõi tùy nghiệp lưu chuyển, bậc Chánh giác chỉ đạo ứng cơ liền thông. Người lưu chuyển sinh diệt ắt trầm luân trong thống khổ mà ít được an vui, nên gõ cánh cửa cảm ứng. Thánh nhân tùy thuận thị hiện, đó là ban tâm bi mà vận dụng tâm từ, là cơ cảm cứu thế. Do căn tính khác nhau, giáo pháp sai biệt nên phân thành bảy giai vị. Một là vì Tôn giả Ưuba-ly thuyết năm giới, đây là căn lành của trời người. Hai là chuyển pháp luân Tứ thánh đế cho năm tỳ-kheo như Kiều-trần-như v.v… đây là trao cho họ giáo pháp Nhị thừa. Ba là giảng nói mười hai nhân duyên cho hàng trung căn, đây là trao cho họ giáo pháp Duyên giác thừa. Bốn là giảng sáu ba-la-mật cho hàng thượng căn, nghĩa là trao cho họ pháp Đại thừa, dung thông giáo pháp, dẫn dắt quần nghi. Năm là thuyết kinh Vô lượng nghĩa, nêu bày phẩm vị chứng đạo sai khác, nhưng lại nói chưa từng diễn bày pháp chân thật, khiến họ phát thiện tâm cầu thật đạo, lấy đây để khai mở mối đạo Nhất thừa. Sáu là giảng nói Pháp Hoa, dùng Nhất thừa phủ nhận Tam thừa, tùy thuận nhưng chúng sanh phát tâm cầu thật đạo, đây gọi là bỏ đường lối thi thiết quyền hiện. Bảy là dù khai Quyền nhưng hiển thật, vẫn che đậy chánh nghĩa của thường trụ, nhập Niết-bàn ở Song lâm nhằm xiển dương diệu âm nhiệm mầu của Ngã tịnh. Từ xưa, pháp môn dù nhiều, nhưng tổng quy lại không ngoài ở đây bởi muôn tiếng không ngoài năm âm, trăm họ đều trong sáu nhà. Kinh vô lượng Nghĩa dù thuộc Pháp

Hoa bộ, nhưng ở trung Hoa chưa thấy nói đến thuyết này. Mỗi khi lên tòa giảng, ai cũng canh cánh trong lòng mong được thấy bản văn này. Có Tỳ-kheo Tuệ Biểu ở núi Võ Đang vốn dòng dõi họ Khương, cháu của Ngụy đế Diêu Lược. Ngày mất nước, ngài bị quân Tấn là Hà Đạm bắt. Chỉ mới mấy tuổi, ngài đã tỏ ra rất thông minh, Đạm đặt tên tự cho ngài là Minh Linh, nhận làm con nuôi. Không bao lâu, ngài bỏ tục xuất gia, cần khổ cầu đạo, đi khắp Nam bắc, chẳng ngại gian lao. Vào năm Kiến nguyên thứ 3 đời Tề (481), ngài lại đi du phương tham học, tìm cầu bí nghĩa, đến tận vùng Lĩnh Nam. Tại chùa triều Đình ở Quảng Châu, ngài gặp Thiên Trúc Sa-môn Đàm-ma-đà-da-xá tay viết chữ Phạn, miệng đọc chữ Hán, đang muốn truyền lại bộ kinh này nhưng chưa biết trao cho ai. Tuệ Biểu liền ân cần cầu thỉnh, tâm ý rất chí thành, trải qua cả tháng mới được một bản, liền đem về phương Bắc, lên núi Võ Đang. Đến ngày 18 tháng 9 năm Vĩnh Minh thứ 3 (486) ngài thỉnh kinh xuống núi, nhờ hiệu đính và khắc bản lưu hành. Tôi gặp bản kinh văn, lòng mừng khôn xiết, thốt không ra lời, tay chân lóng ngóng. Tôi chân thành thỉnh ngài ở lại. Ngài có nhã ý cho khắc bản, tôi kính ghi lời tựa rằng:

Từ khi chánh giáo ứng thế đã khác thế tục, đạo mầu cứu vật ứng cảm nên thành khác. Từ Huyền Phố về Đông gọi lại Thái nhất, từ Kế Tân về Tây gọi là Chánh học. Các nước phía Đông làm sáng tỏ sự thịnh suy trong vòng trăm năm, các nước phía Tây biện rõ thiện ác trong vòng ba đời. Tư tưởng Vô vi và hạnh tu pháp không chỉ là một. Người muốn tu Vô vi đã không có mảy may đắc pháp Vô, thì người tu pháp không lẽ nào lại thấy có nhập không! Nhưng với người tìm cầu Phật pháp, hoặc cho là ngộ lý thì tiệm tu, hoặc bảo rằng nhập không thì đốn ngộ. Xin hãy bàn xem, bởi lý u huyền nằm cả trong đó. Người lập Tiệm pháp thì cho rằng muôn vật thành tựu đều có từng giai đoạn, lớp băng cứng bắt nguồn từ nhiều lớp sương, vách cao được hình thành từ nhiều lớp đất. Người học thể nhập pháp không, vẫn chưa khế hợp hoàn toàn, giống như đốn cây, cách một tấc thì mất một tấc, cách một thước thì mất một thước, dần dần lên được Tam không, lẽ nào chẳng phải là Tiệm? Người lập Đốn pháp, các thiện công đức mà họ có được đâu không phải do quán sát pháp tánh. Pháp tánh tùy thuận theo duyên, chẳng phải có mà cũng chẳng phải không. Dứt bặt niệm lự với chẳng có chẳng không thì lý chiếu mới đồng nhất, đây gọi là Giải không. Nếu còn đặt tâm trong chẳng có chẳng không thì cảnh và trí là hai, chưa thoát khỏi lý có. Những mối phiền não ẩn tàng trong lý có, không phải là không có cơ duyên gội sạch. Đứng về lý không mà luận tâm thì rõ ràng vẫn chưa có công năng thể nhập lý tánh. Thế nên, một khi nói chứng La-hán chỉ ngay trong một niệm, biện vô sinh thì suốt cả ngày, đó chỉ là lời khuyến dụ, không phải là lời thật. Thể chứng lý mầu chẳng phải Tiệm, lý vốn là như thế, nhưng đã phân hai đường, hai ý khác nhau, phải bỏ một chọn một chứ đừng cho lý này đúng, lý kia sai.

Người tìm được diệu chỉ này khởi nguyên từ ngài Chi An. Khi bàn về lý vô sinh, ngài cho hàng Thất trụ đã đầy đủ đạo tuệ, hàng Thập trụ thì phương tiện muôn hướng, dấu tích tuy khác nhưng nói và chiếu là một. Khi luận về các pháp quán khác, thì ngài cho rằng tam thừa là tên gọi tạm để chỉ cho người mới được chút phần, định tuệ mới là lời thật để chỉ cho người thành tựu viên mãn. Đó gọi là mới tìm cầu thì tùy căn tánh mà có ba, thể nhập và thông đạt thì định tuệ không hai. Phẩm Thí Dụ ghi: "Nạn lớn chảy tràn, liền không có ba, đường hiểm đã dứt, giáo hóa liền hết", nghĩa là nói một nhưng mà có ba, chứ không phải rõ ràng có ba sự đạt ngộ.

Sinh công cho rằng, đạo phẩm phải nói đến Niết-bàn, chứ không phải tên gọi la hán; Lục độ phải nói đến Phật chứ không gọi là Thọ Vương. Trở lại ví dụ đốn cây, cây còn cho nên mới còn tấc thước để tiến dần; chứng đắc Vô sinh thì do sinh đã tận nên trí chiếu ắt đốn. Tên gọi và giáo nghĩa Tam thừa đều lấy "sinh hết trí dứt, bỏ Có vào không" làm đạo, quyết không được nhận Thật tướng của nó từ tướng trạng bên ngoài.

Kinh Vô Lượng Nghĩa này cũng lấy Vô tướng làm gốc, nếu sớ chứng quả thật khác nhau thì đâu thể gọi là Vô tướng; nếu nhập và chiếu ắt đồng thì đâu thể nói là có Tiệm. Chẳng phải Tiệm mà gọi là Tiệm, đó là giáo nghĩa bí mật nhiệm mầu.

Phật cũng dạy: "Nắm bàn tay không để dụ trẻ con, hãy lấy đó mà độ chúng sanh". Lời thôi lời tế, nói ít nói đủ, hãy đạt ý quên lời. Đốn nghĩa mở bày tạm nêu đại ý, người luận bàn hãy khéo chọn lựa!

7. Ghi về kinh Chánh Pháp Hoa xuất xứ từ Kinh Hậu Ký:

Ngày mồng 10 tháng 08 niên hiệu Thái Khang thứ 8 (287) đời Tây Tấn, ở Đôn Hoàng, Sa-môn Bồ-đề-lưu-chi người xứ Nguyệt-Chi, chẳng hết sự thông minh mà trụ ở tâm, nhưng dụng của lãnh thọ dễ còn, công của nghĩ nhớ bàn khó nắm bắt. Nếu tự chẳng phải Bát-nhã soi sáng, văn tuệ tổng trì, khắc in nơi tư phủ làm sao có thể khiến có ngộ mà chẳng sót nơi thần, hội mà không mờ tối hay sao? Nên giấy mực dùng để ghi ngôn từ ngoài văn, mượn chúng nghe để nhóm họp thành sự. Kẻ phiền mà chẳng đơn giản thì sót sự ấy vậy, kẻ chất phác mà chẳng khoa trương, là trọng ý ấy. Chỉ bày mầu nhiệm ấy mà tao nhã, bàn nói rộng mà tối tăm, tự chẳng ghi chép, làm sao có thể hơn ư? Vì thế liền ở nơi trường giảng, sớ giải lấy làm ký, mong các bậc hiền giả thôi soi xét, chẳng lỗi phiền đó mà không cốt yếu!

VII. GIẢNG GIẢI VỀ CẢM ỨNG (phần 1)

Thích Tăng Duệ đời Đông Tấn

Thích Đạo Sinh ở kinh đô, đời Đông Tấn

Thích Đàm Đế đời Tiền Tống

Thích Tăng Đạo đời Tiền Tống

Thích Tăng Ấn đời Nam Tề

Thích Pháp Vân đời Nam Lương

Thích Tăng Mãn đời Nam Lương

Thích Trí Khải đời nhà Tùy Thích Cát Tạng đời Tiền Đường.

Thích Tăng Duệ ở Trường An đời Đông Tấn:

Thích Tăng Duệ là người xứ Trường An, quận Ngụy. Năm mười tám tuổi, Sư mới nương theo Pháp sư Tăng Hiền làm đệ tử. Năm hai mươi hai tuổi, Sư thông hiểu nhiều kinh luận. Năm hai mươi bốn tuổi, Sư đi khắp các bang, ở các nơi thuyết giảng, Sư từng than: "Kinh Pháp tuy thiếu, chỉ đủ để giải thích nhân quả. Thiền pháp chưa truyền đến không có chốn đặt để tâm!" về sau, khi ngài La-thập đến, do đó Sư thỉnh cầu truyền ra "Thiền Pháp Yếu" ba quyển. Đêm ngày tu tập, Sư tinh luyện năm môn. Từ đó, tiếng tăm Sư vang tỏa khắp, xa gần mọi người đều quy hướng về đức hạnh của Sư!

Các kinh điển do ngài La-thập dịch, Sư đều tham chánh. Xưa, ngài Pháp Hộ dịch kinh Chánh Pháp Hoa, trong phẩm "Thọ Quyết" nói rằng: "Người thấy trời, trời thấy người". Ngài La-thập bảo: "Đến đây mới nói, lời này khác với Tây Vức mà nghĩa thì đồng, chỉ bởi lời hơi quá chất". Sư liền nói rằng: "Há chẳng là người và trời giao tiếp nhau, hai bên cùng thấy nhau ư?". Ngài La-thập vui mừng bảo: "Thật đúng vậy!". Sư có những vị lãnh hội nêu xuất đại loại đều như vậy. Ngài La-thập ngợi khen rằng: "Ta truyền dịch các kinh luận mà gặp được ông, thật không hề tiếc nuối!" La-thập bảo Sư giảng kinh Pháp Hoa mười tám phẩm, khai mở làm nên chín vế là: Một là vết mờ tối cùng gõ với bậc Thánh, tức là phẩm Tựa. Hai là vật giẫm trải qua giáo kết quy về chân, là người Thượng căn. Ba là vết dấy khởi loại trầm lắng và sáng tỏ là người Trung căn. Bốn là thuật bày thấu cùng thông đạt đến xưa là bốn vị Đại đệ tử lãnh giải. Năm là vết làm sáng tỏ nhân để tiến đến ngộ là vì người Hạ căn mà làm hóa thành và thọ ký. Sáu là vết dương hạnh cuối cùng, tức là phẩm Pháp sư. Bảy là Vết gốc tích không sinh, tức là phẩm Đa Bảo, nghĩa là Phật Đa Bảo là Bản, Phật Thích-ca là Tích. Phật xưa hiện toàn thân, Phật nay bày nhân xưa, đã chẳng diệt, Tích đâu có sinh, Bổn tích tuy khác, chẳng thể nghĩ bàn là một. Tám là Vết nêu bày nhân để chứng nghiệm quả, tức các phẩm Dõng Xuất, Thọ Lượng, v.v... Chín là Vết khen ngợi sự cứu giúp dài xa, tức từ phẩm Tùy Hỷ đến hết kinh. Đã mở ra chín vết, do đó ngài lên tòa cao giải thích, hoa rơi như mưa, trời đất đều cảm động. Ngài Lathập khen ngợi rằng: "Mặt trời Phật trở lại soi sáng trong thế gian, mây tà tự cuốn mất". Đại chúng đều gọi Sư là "Cửu Triệt Pháp sư".

(Xuất xứ từ Quan Trung Biệt Lục và Truyện)

Thích Đạo Sinh chùa Long Quang ở kinh đô đời Đông Tấn:

Thích Đạo Sinh, vốn họ Ngụy, người xứ Cự Lộc, đến ngụ ở tại Bành Thành. Gia đình Sư vốn dòng tộc làm quan, cha sư làm chức Quảng thích lệnh, khắp trong xóm làng đều gọi là người tốt. Sư tuy còn bé mà đã thông minh dĩnh ngộ, cao siêu như thần. Thân phụ Sư biết Sư chẳng phải phàm khí, nên quý mến mà lấy làm lạ. Sau, gặp được Pháp sư Thải, Sư xin thọ nghiệp. Đến tuổi chí học, Sư liền lên tòa giảng, nhả nạp vấn ngôn từ trong sáng như châu ngọc. Sư lại theo thọ học với Pháp sư Cưu-ma-la-thập, Tăng chúng ở Quan Trung đều gọi Sư là Thần Ngộ. Sư chuyên giảng kinh Pháp Hoa, Sư có soạn Nghĩa sớ hai quyển. Mỗi lần lên tòa giảng thì mùi thơm lạ tỏa ngát, điềm tướng tốt lành che phủ rất nhiều. (Xuất xứ từ Cao Tăng truyện và văn ở sau lời tựa Nghĩa Sớ).

Thích Đàm Đế ở Hổ Khâu thuộc Ngô quận đời Tiền Tống:

Thích Đàm Đế, họ Khương. Tổ tiên Sư vốn là người nước Khương Cư, vào thời vua Hán Linh đế (Lưu Hoành 168-189) thì dời đến ở Trung quốc. Đến cuối thời vua Hiến đế (Lưu Hiệp 190-220), gặp phải tao loạn nên lại dời đến ở Ngô Hưng. Thân mẫu Sư là người họ Hoàng, ban ngày nằm ngủ mộng thấy có một vị tăng đến gọi Hoàng là mẹ, gởi lại một phất trần và hai vật: Cái chỏ sắt và cục đè sách. Đến lúc thức giấc thấy hai vật đó ở bên mình và do đó mang thai, sinh ra Sư. Năm mười tuổi, Sư xuất gia, tập học chẳng phải theo thầy, tự tỏ ngộ thiên phát. Sau, vì Diêu Trành mà Sư giảng kinh Pháp Hoa. Bần đạo làm Đô giảng. Về sau nữa, Sư đến chùa Hổ Khâu ở Ngô Hưng giảng kinh Pháp Hoa năm mươi biến. Đến cuối niên hiệu Nguyên Gia (454) đời Tiền Tống, Sư thị tịch, hưởng thọ hơn sáu mươi tuổi. (Xuất xứ từ Lương Cao Tăng Truyện).

Thích Tăng Đạo trụ chùa Danh Giản ở Thọ Xuân, đời Tiền Tống:

Thích Tăng Đạo, là người xứ Kinh Triệu, năm mười tuổi xuất gia, theo thầy thọ học. Thầy trao cho kinh Quán Thế Âm, Sư đọc xong, trở lại hỏi thầy rằng: "Trước kinh này có bao nhiêu quyển?".

Thầy muốn thử Sư, nên bảo: "Chỉ có một kinh ấy thôi!"

Sư nói: "Mới đầu kinh nói" Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý, v.v... "nên biết là phần trước phải có các việc gì".

Thầy rất vui lòng, bèn trao cho Sư trọn một bộ kinh Pháp Hoa. Từ đó, suốt đêm ngày Sư xem tìm hiểu sơ về văn nghĩa. Vì nghèo khó không dầu đốt đèn, Sư bèn tự hái lượm củi nhóm đốt để tự soi sáng. Đến năm mười tám tuổi, Sư đọc tụng rộng, phần nhiều làm Đô giảng. Sư chỉ lấy việc giảng kinh Pháp Hoa làm chánh nghiệp mà thôi. (Xuất xứ Giảng ký, nay truyện không thấy nói giảng kinh Pháp Hoa làm chánh nghiệp).

Thích Tăng Ấn chùa Trung Hưng ở kinh đô, đời Nam Tề:

Thích Tăng Ấn, họ Chu, người ở xứ Thọ Xuân. Sư tìm đến Lô Sơn, theo Sa-môn Tuệ Long thọ học kinh Pháp Hoa. Ngài Tuệ Long cũng là người nổi tiếng ở đương thời, chuyên truyền bá tông chỉ kinh Pháp Hoa. Sư riêng nghiên cứu, tham học thấu suốt, vượt ngoài mới lạ. Từ đó, theo hướng Đông, Sư đến kinh đô, dừng trụ tại chùa Trung Hưng. Trong khoảng niên hiệu Đại Minh (457-465) đời Tiền Tống, Trưng Quân Hà điểm mời chư Tăng nhóm họp, thỉnh Sư làm pháp tượng, thính chúng có hơn bảy trăm người. Tuy học qua nhiều kinh, nhưng Sư chỉ nhờ kinh Pháp Hoa mà nổi tiếng. Sư giảng kinh Pháp Hoa hai trăm năm mươi hai biến. Đến niên hiệu Vĩnh Nguyên năm thứ nhất (499) đời Nam Tề, Sư thị tịch, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi. (Xuất xứ từ Tục Cao Tăng truyện và Biệt truyện, v.v...).

Thích Pháp Vân trụ chùa Quang Trạch ở Dương Đô, đời Nam Lương:

Thích Pháp Vân, họ Chu, người ở Dương Tiện, thuộc Nghĩa Hưng. Lúc đầu, mới sinh Sư, thấy có hơi mây khắp phòng nhà, do đó mà đặt tên Sư là "Vân", cũng chợt có một con rùa màng ba quyển sách đến, có khắc lời minh rằng: "Vân đây, giảng kinh Pháp Hoa Nghĩa Sớ do Phật Tỳ-bà-thi nói ra, nay gởi cho Vân, v.v..."

Năm bảy tuổi, Sư xuất gia, lại được pháp danh là "Pháp Vân", Sư theo Thầy trụ tại chùa Trang Nghiêm. Năm mười ba tuổi, Sư mới đến thọ học, mãi đến năm Sư ba mươi tuổi, vào đầu mùa hạ niên hiệu Kiến Võ thứ 4 (497) đời Nam Tề, tại chùa Diệu Âm, Sư khai giảng lời tựa của hai bộ kinh Pháp Hoa và Tịnh Danh. Sư giảng kinh rất mầu nhiệm, kiệt xuất ở đương thời, Sư mới sang U Nham, một mình giảng kinh ấy, dựng đá làm người, lấy lá thông làm phất trần, tự xướng tự dẫn gồm thông cả nạn giải, do đó nổi tiếng khắp triều đại Nam Lương tiếp tục vẫn còn nghe. Văn sớ của Sư rất nhiều, trước sau ngời ánh, Sư y cứ giảng tụng có cản trở thường công, Sư từng ở tại một ngôi chùa, giảng xong kinh này, bỗng chiêu cảm hoa trời tướng trạng như tuyết bay, như mây đầy giữa hư không mà rơi xuống, kéo vào trong phòng nhà, rồi bay bổng lên giữa hư không chẳng rơi, khi Sư giảng xong mới tan.

Có Thần tăng Bảo Chí là bậc Đạo vượt phương ngoại, ít ai có được tình thức như thế, cùng Sư rất kính mến nhau, gọi Sư là "Pháp sư Đại Lâm". Mỗi lúc đến phòng Sư, thường ở lại vài hôm và thường nói: "Muốn hiểu được tiếng rống của sư tử, xin Pháp sư hãy giảng nói cho nghe!" Sư liền giảng giải, ngài Bảo Chí bèn búng ngón tay khen ngợi rằng: "Mầu nhiệm thay! Mầu nhiệm thay!". Viên Ngang ở quận Nghi Trần nói rằng: "Có vị tăng thường cúng dường, học kinh Pháp Hoa với Sa-môn Pháp Vân, ngày đêm phát nguyện, mong thành tựu tuệ giải". Bỗng cảm mộng có vị tăng lạ đến bảo rằng: "Vào thời Đức Phật Nhiên Đăng, Pháp sư Pháp Vân đã từng giảng kinh này, đâu ai có khả năng chống lại!"

Vua Võ đế (Tiêu Diễn 502-550) đời Nam Lương, muốn cầu mưa, ngài Chí Công bảo rằng: "Sa-môn Pháp Vân có khả năng làm mưa, nếu cần thì nên cầu thỉnh nhờ Sư". Sư mở trường giảng, vừa đến phẩm Dược thảo Dụ, mưa ấy cùng khắp, bốn phương đều có cảm. Lại có lần nơi giảng hội, có người đưa tiền dâng cúng, mộng thấy Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng kinh trên tòa cao, sau khi tỉnh giấc, tìm hỏi, mới hay là ở trường giảng của Sư, việc này có nói đủ trong ký văn. (xuất xứ từ biệt ký).

Thích Tăng Mãn thời Nam Lương:

Thích Tăng Mãn, là người thời Nam lương, từ thuở bé Sư đã thông minh, chỉ ăn rau quả, khổ hạnh tiết thực. Sư thông hiểu nhiều kinh luận, riêng đặt tâm chí vào kinh Pháp Hoa, Sư giảng kinh đến cả trăm biến, người nghe tuôn nước mắt. Mỗi lúc giảng đếm phẩm Dược Vương, Sư than: "Sinh tử trôi lăn không cùng, ai có thể vì pháp mà (không) tiếc thân mình!". Sư lại đến quận Trường Sa, phát nguyện thiêu thân để cúng dường kinh, từ trên trời tuôn rải mưa vi diệu, trong than lửa mọc ra hoa sen, suốt ba ngày, không héo rơi. Mọi người nghe thấy đều vừa buồn vừa vui.

Thích Trí Khải chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai, đời Tùy:

Thích Trí Khải, họ Trần, người ở xứ Dĩnh Xuyên. Mẹ sư họ Từ, mộng thấy có mây năm màu vây quấn quanh bụng, muốn phủi bỏ đi, bỗng nghe có tiếng người bảo rằng: "Bởi nhân duyên đời trước nên đến nương gá!". Đến đêm sinh Sư, có rất nhiều điềm lành. Năm bảy tuổi, Sư đọc tụng phẩm Phổ Môn. Ngoài ra, không cần thầy chỉ dạy mà Sư tự thông rành. Năm mười tám tuổi, Sư xuất gia, năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới Cụ túc. Ở ẩn tại núi Đại Hiền, Sư tụng đọc kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng Nghĩa và kinh Phổ Hiền Quán, chưa đầy hai tuần mà ba bộ kinh đều hoàn tất.

Sư lại đến chỗ Thiền sư Tuệ Tư núi Đại Tô ở Quang Châu để thọ học. Ngài Tuệ Tư khen: "Xưa kia ở núi Linh Thứu Đồng cùng nghe kinh Pháp Hoa, duyên xưa đưa đẩy nay gặp lại nhau." và liền chỉ bày cho ngài pháp hạnh Phổ Hiền, và nói cho nghe bốn pháp An lạc hạnh. Sư ở tại núi đó, hành trì Tam-muội

Pháp Hoa, vừa mới qua ba đêm, tụng đến phẩm Dược Vương, tâm duyên khổ hạnh, đến câu "tinh tấn chân thật", giải ngộ bèn phát, thấy cùng ngài Tuệ Tư ở tại núi Linh thứu, cõi Tịnh độ toàn bảy báu, có tám vạn vị Bồ-tát, mười hai ngàn vị Đại Thanh Văn, cùng nghe Đức Phật giảng pháp, nên ngài Tuệ Tư nói rằng: "Nếu chẳng phải ông thì không có cảm. Nếu chẳng phải tôi thì không thể bàn. Đó là tiền phương tiện của Tammuội Pháp Hoa!" (Luật sư Đạo Tuyên hỏi vị trời rằng: "Ở nước Trần có Sa-môn Tuệ Tư, ở nước Tùy có Sa-môn Trí Khải là các bậc Thần Đức vượt hơn người thường, xưa kia ở tại núi Linh Thứu đồng nghe kinh Pháp Hoa, chẳng hay xưa ấy là ai? Có hợp ý Phật giảng kinh hay không?".

Đáp rằng: "Đều là những bậc Đại sĩ du phương, vốn là các vị cổ Phật. Sa-môn Tuệ Tư là Quán Thế Âm trong phẩm Phổ Môn nói về lợi ấy. Sa-môn Trí Khải là Dược Vương khi vua Nhật Nguyệt Tịnh Minh hiện hữu ở đời, ngài xả thí thân mình để cúng dường chánh pháp, Đức Phật Thích-ca ở tại núi Linh

Thứu, phó thác pháp mầu. Chỉ một phẩm Dược vương nói về sự tu hành của Ngài chẳng phải chỉ mới ngày nay mở mang truyền bá kinh, mà ở lâu xa sau khi các vị Phật diệt độ, giảng nói kinh Pháp Hoa, ngoài Đức Phật ở kiếp quá khứ xuất hiện nơi đời, ba Đức Phật trong kiếp Hiền xuất hiện ở đời, đồng với ngày nay rất hợp ý chỉ của Phật". Sư nhập quán thấy kinh mà có điều nghi ngờ, liền thấy ngài Tuệ Tư đi lại, vạch bày giải thích cho. Lại nữa, ngài Tuệ Tư bảo Sư rằng: "Đối với nước Trần, ông rất có duyên, đến đó sẽ làm được việc ích lợi!".

Khi ngài Tuệ Tư đã đến Nam Nhạc thì Sư bèn đến Kim Lăng trụ chùa Ngõa Quan tám năm, giảng kinh Pháp Hoa. Các vị Đại đức ở đời Trần đời Lương đều đến thưa hỏi điều lợi ích. Các bậc Vương hầu vào những lúc rảnh việc triều chính đều đến dự pháp hội. Mới đầu, Sư khai giảng phẩm tựa đến cuối phần hỏi đáp của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cả một chúng hội tại núi Linh Thứu hiện hữu giữa hư không, bỗng nhiên có năm ba người thấy trời rải hoa thơm như mưa, màu sắc trắng sạch, có hơn ba mươi cánh, từng sánh lá nối tiếp nhau liên tục giữa hư không chẳng rơi lạc, dài hơn một thước, giống như lá sen. Sư giảng đến phẩm Bảo Tháp, trong thính chúng có người mộng thấy chùa Ngõa Quan, ba lần biến thành Tịnh độ, phân thân khắp cả tám phương, hoặc thấy tướng Bồ-tát Phổ Hiền từ xa đến. Các hàng phàm mê nói nín càng đông đúc và không thể ghi hết.

Lại nữa, ngài tự chích máu nơi thân mình viết kinh mà giảng, hiện thâu cất tại giảng đường chân thân ở chùa Quốc Thanh, cây cỏ khắp bốn phía gần đó đều hướng về giảng đường mà cúi đầu. Sau, Sư đến chỗ tôn tượng Đức Di-lặc ở chùa Thạch Thành phát nguyện mà thị tịch. Sau khi Sư thị tịch, môn nhân của Sư là Sa-môn Quán Đảnh mộng thấy Sư ở tại nội viện cung trời Đâu-suất. (Xuất xứ từ Biệt ký).

9. Thích Cát Tạng chùa Diên Hưng ở kinh đô, đời Tiền Đường:

Thích Cát Tạng, họ An, vốn là người nước An-tức. Ông nội Sư lánh nạn oán cừu nên dời đến ở Nam Hải, do đó gia đình Sư bèn ở khoảng giữa Giao Châu và Quảng Châu. Sau đó, gia đình lại dời đến ở Kim Lăng thì sinh Sư.

Khi đang tuổi ấu thơ, cha Sư dẫn đến chỗ Sa-môn Chân Đế và xin đặt tên cho Sư. Ngài Chân Đế hỏi về sự nghĩ nhớ thật đáng là Cát Tạng, do đó bèn gọi tên Sư là Cát Tạng.

Gia đình Sư trải qua nhiều đời kính thờ Phật, không thờ gì khác. Về sau, cha Sư cũng xuất gia, pháp danh là Đạo Lượng, rất siêng năng tự nổi bật, khổ tiết khác thường, chỉ chuyên đi khất thực và nghe giảng pháp, lấy đó làm hạnh nghiệp thường. Đạo Lượng dẫn Sư đến nghe Pháp sư Đạo Lãng ở chùa Hưng Hoàng giảng pháp, hễ nghe thì liền lãnh giải, tỏ ngộ Thiên Chân. Năm bảy tuổi, Sư đến chỗ Pháp sư Đạo Lãng xin xuất gia, tham học đạo Huyền, ngày một đổi mới, thấu đạt sâu mầu. Mọi điều Sư thưa hỏi đều khéo đạt chỉ quy, rộng đủ lắm điều đặc biệt. Đến năm mười chín tuổi, ở giữa đại chúng Sư đáp thuật, biện luận bén nhọn vượt xa, đương thời Ngạn Xước có lời khen ngợi Sư. Tiếng tăm sư vang khắp ấp Dương, khi đã thọ giới Cụ túc, tiếng tăm Sư lại càng cao, Trần Quế Dương vương kính trọng phong thái của Sư nhả tuôn nghĩa chỉ. Sư bèn theo hướng Đông đi đến Tần vọng dừng tại chùa Gia Tường, vẫn như thường giảng nói dẫn dắt, đến tìm cầu học hỏi Đạo có hơn ngàn người. Chí Sư chuyên ở việc truyền đăng, xoay bánh xe chánh pháp liên tục.

Về sau, khoảng đầu niên hiệu Đại Nghiệp (605) đời Tùy, Sư viết hai ngàn bộ kinh Pháp Hoa, lại mở giảng hội, giảng hơn ba trăm lần, có soạn Huyền sớ hưng thạnh truyền bá ở đời. Khi sắp thị tịch, Sư soạn luận Tử Bất Bố (chết không sợ) bút vừa rời khỏi tay thì Sư thị tịch. (Xuất xứ Tục Cao Tăng Truyện).

QUYỂN 3

Trong quyển 3, có hai phần:

VII. KHÓA GIẢNG GIẢI CẢM ỨNG (Phần 2)

1. Thích Quán Đảnh ở chùa Quốc Thanh thời Tiền Đường.

2. Thích Tuệ Như chùa Chân Tịnh ở Kinh đô, thời Tiền Đường.

3. Pháp sư Thích Tăng Long.

4. Thích Khuy Cơ chùa Đại Từ Ân, thời Tiền Đường.

5. Thích Huyền Lãng ở Tả Khê, thời Tiền Đường.

6. Thích Tuệ Minh, thời Tiền Đường.

7. Thích Trí Nhân, thời Tiền Đường.

8. Thích Chí Thật, thời Tiền Đường.

9. Thích Đạo Ngang ở Tượng Châu.

10. Thích Chí Viễn ở Giang Nam.

Thích Quán Đảnh ở chùa Quốc Thanh thời Tiền Đường:

Thích Quán Đảnh tự là Pháp Vân, họ Ngô, người xứ Nghĩa Hưng ở Thường Châu, ông nội Sư lánh đến đất Đông Âu, từ đó chẳng trở về, nay thuộc xứ Chương An, Lâm Hải. Cha Sư sớm qua đời, nên mẹ Sư lo chăm sóc nuôi con. Vừa được ba tháng tuổi, ban đêm bà niệm danh hiệu Phật pháp Tăng, Sư học nói theo, lời câu đều rõ ràng. Mọi người đều lấy làm kinh lạ, do đó trình báo với Pháp sư Tuệ Chửng chùa Nhiếp Tỉnh. Ngài Tuệ Chửng nghe, khen rằng: "Người con ấy thật là phi phàm!" liền lấy chữ "Phi phàm" mà đặt tên tự cho Sư. Đến năm bảy tuổi, Sư trở lại xin làm đệ tử Sa-môn Tuệ Chửng, lần lượt rồi tấn đàn thọ giới Cụ túc, Sư vâng giữ luật nghi.

Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười một (591) đời Tùy, Tấn Vương đang trấn tại Dương Châu, thường theo Sa-môn Trí Giả. Sư đến dừng tại Bang Câu, trụ chùa Thiền Chúng, làm Thủ tòa, thường ngày tìm xét thuyết cầu, bỗng chốc Sư theo Sa-môn Trí Giả đi theo hướng Đông trở về Thai nhạc. Về sau, Sư lại ra ở tinh xá Xứng Tâm, khai giảng kinh Pháp Hoa. Trời rải hoa như mưa, hình dáng như hoa sen, như tuyết rơi xuống, có mùi thơm rất lạ, vượt hơn Lãng Long Cơ (Huyền Lãng, Tăng Long, Khuy Cơ) lại hơn cả Vân Ấn Lưu (Pháp Vân, Tăng Ấn, Lưu?). Các đệ tử cao túc của Sa-môn Trí Giả ghi chép đầy đủ các Huyền văn, Chỉ quán, v.v... do Sư giảng nói. Phàm giáo tích của Thiên Thai được lưu hóa ở nhân gian, mà ở Tây Vực thỉnh cầu phiên dịch, ở Đông Hạ được lợi ích đều là do năng lực của Sư. (Xuất xứ từ Tục Cao Tăng truyện, Biệt truyện và Giảng pháp ký).

Thích Tuệ Như chùa Chân Tịnh ở Kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Như, trụ chùa Chân Tịnh, siêng năng khổ hạnh ngồi thiền nhập định lấy làm việc thường.

Trong niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) đời Tùy, ngoài những lúc ngồi thiền rảnh rỗi, Sư tu hạnh Pháp Hoa. Sau khi giảng hội đã tan, Sư bèn nhập định suốt bảy ngày đêm không lay động. Đại chúng đều kinh lạ. Qua bảy ngày, Sư mở mắt gào khóc, lệ đổ như mưa, đại chúng vô cùng quái lạ, hỏi lý do, Sư bảo: "Lửa thiêu đốt chân, đau khổ không chịu nỗi".

Liền bảo người xem chân thấy vết thương lửa đốt sâu thành huyệt.

Đại chúng lại hỏi Sư: "Vì sao bị vết thương như thế?".

Sư đáp: "Có một vị minh quan đem đến một phong thư, tự xưng là Sứ giả của vua Diêm-la, liền mở thư đọc, lời trạng viết rằng: "Sư (tức chỉ Tuệ Như) có được giới châu thanh tịnh cao vời. Xà bỏ ba cấp tà thuyết của Thiền sư Tín, nương theo kinh Pháp Hoa, khai mở giảng nói làm thuyền bè vượt qua biển khổ, xin rủ lòng thương xót!". Và bị vua Diêm-la thỉnh suốt bảy ngày giảng kinh Pháp Hoa, có vô số người tội gieo trồng nhân duyên với Phật pháp. Vua Diêm-la vô cùng vui mừng, đem ba mươi xấp lụa vàng dâng cúng cho tôi. Đến lúc giảng tan, vua Diêm-la hỏi: "Có muốn được thấy tiên vong tri thức chăng?" Tôi đáp: "Muốn được thấy cha mẹ?". Vua Diêm-la liền sai gọi một người. Tôi chỉ thấy một con rùa đi đến đưa lưỡi liếm dưới chân tôi, trong ánh mắt rơi lệ mà bỏ đi. Có một người nói: "Bởi tội quá nặng không thể kêu gọi, nên bò đến gặp". Sứ giả lại dẫn tôi đến cửa ngục, cửa ngục đóng kín rất chặt. Sứ giả gọi người giữ cửa, có một người đáp, bỗng nhiên lánh sang một bên, chẳng đứng ngay cửa, tôi vừa mới nhích mình thì cửa liền mở. Có ngọn lửa lớn từ cửa hực ra như sắt nung, lửa liền bám vào chân tôi. Tôi phủi bỏ, đưa mắt nhìn vào cửa thì cửa đã đóng chặt, không thấy được nên đi. Tôi trở lại chỗ vua Diêm-la, nói rõ đầu đuôi sự việc. Vua Diêmla bảo: "Địa ngục là như thế, nếu chẳng phải năng lực của kinh Pháp Hoa thì không thể cứu giúp. Nếu muốn cứu giúp, thì phải giảng tụng Diệu pháp". Sự việc như thế, nay tôi thấy nghe, giác ngộ mà thôi!" Đại chúng đồng nghe mà buồn vui lẫn lộn. (Xuất xứ "Minh Chí ký", trong "Minh Báo ký" tuy có nói về việc này, nhưng không nói là giảng kinh Pháp Hoa, phải biết đó là sự nghe khác nhau của người ghi lại).

3. Pháp sư Thích Tăng Long:

Pháp sư Thích Tăng Long, không rõ người xứ nào. Trong niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời Tiền Đường, Sư đi theo hướng Bắc mà đến Bắc Ấn-độ, muốn khuyến hóa, nên Sư bèn ở lại Trung Ấn-độ, tụng đọc được kinh Pháp Hoa bằng tiếng Phạm, Sư đến nước Kiền-đà-la, tự mở giảng, hội khắp bốn phía mây tự nhiên nhóm đến, cả muôn quận, sao cùng hướng về. Sau Sư bị bệnh cảm mà chết, ba ngày sau sống lại bảo rằng: "Tôi bị vua Diêm-la hỏi: "Đạo nhân có công đức gì?".

Tôi đáp: "Tôi tụng được kinh Pháp Hoa, tự khai mở giảng hội, khuyên hóa chúng sinh".

Vua bảo: "Đọc tụng là chân thật, còn giảng nói là phù hư, tùy tình mà phân biệt, đâu có công đức cao quý". Tôi đáp: "Đọc tụng chuyên tự giảng nói thí tuệ lợi vật là bổn hoài của các vị Bồ-tát, đâu phải phù hư không có công đức?".

Vua Diêm-la hoan hỷ từ tòa mà xuống, quỳ thẳng nói: "Lành thay! Lành thay! Xin mời lên tòa giảng nói nghĩa ấy". Tôi liền lên tòa, xướng lớn đề kinh và giảng nghĩa, các người tội trong sảnh nghe lọt tiếng tôi giảng vào tai, thì lìa khổ được vui, gông cùm tự cởi mở, hoặc sinh lên cõi trời người. Vua Diêmla nói: "Thôi thôi! Mạng ông chưa hết, nên trở lại bổn thân".

Tôi liền theo đường trở về, được sống lại. Nên biết pháp mầu là hạnh quan trọng của trời người, là đường thẳng đến Bồ-đề, chuyên tâm chuyên hành chớ nên lười biếng". Mọi người nghe nói đều rơi lệ, càng sinh tâm ân trọng. Những người nghe thấy đều bỏ Tiểu theo Đại. Chư tăng ở phương Bắc đến truyền nói như thế. (Xuất xứ từ Cứu Pháp Tạp Lục, và trong Đường Tăng truyện tuy có ghi sự duyên của Sư, mà việc ấy chẳng thấy nêu, nên nay y cứ theo Quảng Văn mà thôi).

4. Thích Khuy Cơ ở chùa Đại Từ Ân, thời Tiền Đường:

Thích Đại Thừa Cơ, Sư học khắp giáo nghĩa Đại thừa, là đệ tử Thượng túc của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. Trong ba ngàn môn đồ, bảy mươi vị Đạt nhân, bốn người thượng thủ (môn nhân đệ tử ngài Huyền Trang) thì Sư là người tài giỏi hơn cả. Mẹ Sư mộng thấy một người vòng tay cầm chuỗi ngọc như ý đến xin nương gá vào thai, nói xong bèn vào miệng, liền có thai. Lúc mới sinh ra Sư có vầng mây mầu tím như lọng che phủ ở trên. Năm chín tuổi Sư xuất gia, năm mười bảy tuổi Sư giao thiệp với Truy Lâm, riêng kính thờ minh chiếu của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang, làm môn nhân phiên dịch kinh điển. Phần nhiều đều do Sư ghi chép. Sư tự sớ giải kinh luận một trăm bản. Văn mới như hoa ngọc thạch truyền ở Đông Hạ, pháp tướng Đại thừa lại soi chiếu khắp pháp giới, thật là do công sức của Sư. Như trong đêm tối tăm, răng ngà tỏa phát ánh sáng. Sư sớ giải ra kinh luận. Giữa lúc giao du, bàn nói lần lượt mở rộng, các Đạo tục nhân những lúc rảnh khóa thỉnh mời Sư giảng kinh Pháp Hoa. Sư mới tự gom nhặt tân văn, ban đêm soạn thuật, sáng sớm bàn giảng. Các điềm tướng đặc biệt thường ứng hiện. Có người mộng thấy trang nghiêm cõi Phật, khắp trong chư Phật đều đến nói ngài là Pháp sư, đó là lúc Sư soạn sớ giải phẩm Bảo Tháp. Giảng xong và soạn sớ hoàn tất, Sư làm một bài kệ rằng:

"Đã xét lý yếu hạnh các kinh
Lược tán nghĩa chân pháp Nhất thừa
Nói làm hợp thật, ban chúng sinh
Mong cùng chóng thành quả Vô Thượng".

Hoặc Hiền sĩ trong mộng thấy Sư dùng bài kệ này khen ngợi Nhất thừa đã đến ngàn Đức Phật diệt độ, vì nguyện sinh lên cõi trời Đâu-suất thờ phụng Đức Từ Thị (Trích từ Tân Lục).

Thích Huyền Lãng ở Tả Khê, thời Tiền Đường:

Thích Huyền Lãng, tự là Tuệ Minh, Sư vốn họ Phó, người ở đất Bắc, nghe luận pháp Chỉ quán của Sa-môn Trí Giả ở núi Thiên Thai, một Phật pháp ấy phát nguồn từ Tôn giả Long Thọ, khoảng giữa kế thừa ngài Hành Tư, tìm xét nguồn pháp, Sư trụ chùa Thanh Thái, là bậc cao tuổi của pháp môn, là mắt chân của chánh pháp, chuyên việc giảng nói Phật thừa. Mỗi lúc đến nơi giảng hội, mở bày văn cú im lặng mà than rằng: "Xét về nghĩa thú cao vợi, khế hợp Phật thừa, tìm về văn thế có chẳng thứ lớp, Thánh ý thật khó lường, chỉ kính ngưỡng mà tin!". Vì các thính chúng thường khuyên thỉnh Sư rằng: "Bậc Thượng căn dễ ngộ, hàng Trung hạ mất ý chỉ, mong rủ lòng che chở, mở ích lợi nhiều", Sư lại đôi ba phen tính lường, chuyên tâm nghĩ đến thầy mình, mong cầu được gia bị, bỗng mộng thấy thần tăng lấy tay chỉ, Sư liền kinh hoảng, khải biện vô ngại, giảng nói như nước chảy, hiển thông ký thuyết chẳng đều khởi hết. Thần tăng bảo: "Ông ở chỗ Đức Phật Không Vương đồng nghe pháp điển ấy, ngày nay tại núi Linh Thứu đồng làm thính chúng. Vốn gieo trồng nhân xưa, giúp quạt thổi gió huyền, lại càng thêm bén nhọn, thuận tình đồ chúng ba căn đều lợi ích, thấm đượm rất nhiều". Nhân điều cảm trong mộng, Sư mới bắt đầu tùy thuận căn cơ. Sư giảng kinh Pháp Hoa được cảm ứng như thế! (Tân Lục).

Thích Tuệ Minh, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Minh, không rõ Sư là người xứ nào, họ là gì. Phong thái khuôn phép của Sư nhàn thoáng, thông minh học rộng, tỏ ngộ Phật thừa, lấy làm quy thú. Sư chuyên giảng kinh Pháp Hoa, thiên có riêng đoán, cùng tụng giải nói. Có một thời gian Sư vào trong núi sâu, ngồi trong động đá giảng kinh, có mấy đàn khỉ vượn đến nghe pháp, chim lạ, voi hổ đến nằm trước động, nghe pháp ăn trái cây, suốt ba tháng. Sau đó, giữa đêm ở phía trên động có ánh sáng chiếu soi dần gần đến hang, đó là người cõi trời đến tự nói rằng: "Tôi là kẻ già xấu lại mắt mù ở trong đàn khỉ vượn, nhờ nghe Sư giảng nên khi qua đời được sinh lên cõi trời Đao-lợi, thân cũ tôi chết nằm ở phía Đông nam, cách thất ngoài bảy mươi bước, được sinh lên cõi trời hưởng thọ an vui không dứt, nghĩ nhớ ân thầy nên đến nghe giảng, giáng hiện đến hang đá này, nguyện ưa muốn nghe giảng nói pháp mầu".

Sư hỏi: "Sắp phải giảng như thế nào?", vị trời ấy nói: "Tôi vội vàng muốn trở lên cõi trời. Thầy nên chia một bộ kinh thành tám phần mà giảng".

Sư bảo: "Kinh đang hành trì chỉ có bảy quyển sắp thành bảy tòa, làm sao giảng thành tám được?".

Vị trời ấy nói: "Kinh Pháp Hoa là Đức Phật giảng nói tám năm. Nếu nay y theo tám năm để giảng thì quả thật là dài, nên thích khai lập tám tòa, y theo tám năm giảng nói, xứng hợp với ý chỉ của Phật".

Sư chấp thuận, chia bảy quyển thành tám pho, vì trời mà khai giảng tám lần. Khi giảng xong, trời rất vui mừng, dùng tám hạt ngọc quý cúng dường Sư và nói bài kệ rằng:

"Thích Tôn diệt độ đã lâu xa
Giáo pháp truyền bá, bị khó khăn
Tuy gặp hiểu nghĩa cũng là khó
Tuy hiểu, mà giảng lại khó hơn,
Nếu nghe một câu kệ pháp ấy
Chỉ trong chốc lát không nghi báng
Nghiệp chướng ba đời đều tiêu sạch
Tự nhiên thành Phật, đạo không nghi".

Và lại nói: "Nay tôi theo nghe giảng, xả bỏ thân súc sanh được sinh lên cõi trời thứ hai trong cõi Dục, oai quang vượt hơn các vị sinh lên cõi trời trước kia, lợi ích tốt đẹp thật khó nghĩ bàn, không thể nói hết!". Vị trời ấy nói bài kệ và lời ấy xong, bèn trở về cõi trời. Sư ghi lại việc ấy vào động đá, rồi không biết Sư đến ở xứ nào. Động đá và lời ghi ký ấy đến nay hiện vẫn còn. (Tôn Lục).

Thích Trí Nhân ở thời Tiền Đường:

Thích Trí Nhân, họ Giả, người ở xứ Lâu Phiền, thuộc Nhạn môn, là con cháu đời thứ năm trong dòng họ của Viễn Công, gia đình bị họa yểu từ bởi tâm bệnh, Sư được ngoại nuôi dưỡng. Đến năm mười tuổi, Sư xuất gia, thần tánh thông minh, thiên cơ dĩnh ngộ, Sư theo thầy hỏi Đạo, thọ kinh Pháp Hoa, tinh thông nghĩa sâu. Sư giảng kinh đến một trăm năm mươi biến, chim bồ câu vào phòng mà nghe giảng, heo nai đến gần bên cạnh mà chẳng đi. Mới đầu Sư đều giảng một bộ, Sư mộng thấy một vị tăng Ấn-độ bảo rằng: "Ông giảng hay khéo!". Vị tăng ấy cho Sư giảng quyển riêng, do đó Sư bèn giảng quyển riêng, lại mộng thấy vị tăng ấy bảo: "Giảng quyển riêng rất xứng đáng, trước phải soạn nghĩa sớ". Do đó, Sư bèn soạn nghĩa sớ, liền phát nguyện rằng: "Tôi giảng nghĩa sớ nếu không trái với ý Phật, xin đốt sớ để làm ứng nghiệm", bèn gom củi đốt, bỏ sớ vào lửa, bỗng có mưa nhỏ, lửa tắt mất mà sớ không bị cháy. Mọi người thấy nghe đều khen là kỳ lạ. Người đến nghe Sư giảng đông không kể xiết.

Thích Chí Thật thời Tiền Đường:

Thích Chí Thật, họ Vệ, người ở xứ Phù Liễu thuộc Thường Sơn, là cháu của Sa-môn Đạo An. Năm bảy tuổi, Sư đọc sách, xem lại đã thuộc làu, không cần đến lần thứ ba. Sư đi khắp các danh sơn hỏi Đạo. Năm mười bảy tuổi, Sư xuất gia, học nghiệp thanh cao, nhàm chán việc đời vô thường, bèn lánh chúng vào ở trong núi đầm, lấy cỏ dựng am, giảng kinh Pháp Hoa, trời rải hoa đẹp như mưa, Sư kinh hãi cho là ma biến hiện, bèn nghỉ giảng, trở về nhập chúng, mộng cảm vị thần Dạ-xoa kính pháp đến nói rằng: "Ông chớ nên biếng lười phế bỏ, đó là trời rải hoa. Công đức trên hết trong các thứ công đức, không gì hơn khuyên người nghe pháp. Đức Phật khen năm mươi pháp tùy hỷ, đâu ở nơi Đạo biếng lười". Sư cố gắng giảng kinh đến trăm biến. Ở nơi huyện gần đó có một vị Ẩn sĩ tên Lâm đang lúc nằm ngủ bỗng mộng thấy quan lính đội khăn màu đỏ rượt đuổi. Lâm bèn chạy vào trong giảng đường của Sư để trốn. Quân lính vội đuổi ra ngoài cửa giảng đường, gọi Lâm bảo rằng: "Ngươi đã vào nơi giảng hội, ta thả ngươi đó!". Lâm thức giấc, buồn vui lẫn lộn, nên đến chỗ Sư, kể lại đầy đủ việc đó, mọi người đều khâm phục Sư. (Tân Lục).

Thích Đạo Ngang ở chùa núi Hàn Lăng ở Tượng Châu:

Thích Đạo Ngang, giảng kinh Pháp Hoa ở Tương Châu, thấy các thứ âm nhạc từ giữa hư không bảo rằng: "Đây là trời Đâu-suất cùng đến đón rước!". Sư bảo rằng: "Cõi trời là gốc sinh tử, từ trước đến nay chẳng mong sinh về đó, chỉ nhớ nghĩ Tây phương thôi!". Nói xong, Sư liền thấy ở phương Tây có các thứ kỹ nhạc xoay chuyển đến đón rước Sư nói: "Tin đến không được ở lâu". Nói xong lò hương lạ rơi vào tay, Sư bèn ở trên tòa cao, ngồi thẳng mà ngài thị tịch.

Thích Chí Viễn ở Giang Nam:

Thích Chí Viễn họ Tống, người ở xứ Giang Nam, sớm phải chịu tang cha, một mình Sư nuôi dưỡng mẹ, luôn làm vừa lòng mẹ, sớm tối không trái. Sư có được thiên tánh thông minh, dĩnh ngộ kinh Pháp Hoa. Năm mười tám tuổi, Sư thưa mẹ xin xuất gia, theo thầy thọ học, kính lễ thờ thầy, khổ nhọc không trái. Sư chuyên hạnh nghiệp giảng kinh Pháp Hoa, giải thích giáo nghĩa viên đốn của Thiên Thai. Sư phát nguyện rằng: "Nếu sự giải thích của tôi không trái ý Phật thì xin cho trời đất có cảm động". Sư nói dứt lời trời liền rải hoa như mưa, đất rung chuyển như sấm sét. Sư siêng năng tinh tấn suốt hai mươi năm, chăm chăm chẳng phế bỏ giảng hội. Đến lúc qua đời, Sư bảo đệ tử rằng: "Có hai mươi lăm vị Thánh đến đón rước vãng sinh về Tịnh độ!"

VIII. PHÚNG TỤNG THẮNG ÍCH (Phần 1).

1. Thích Tuệ Tư ở Hành Sơn, Nam nhạc, đời Tùy.

2. Quốc sư Thích Đại Thiện ở Nam Nhạc, đời Trần.

3. Thích Trí Việt chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, đời Tùy

4. Thích Trí Thông chùa Thê Nham ở Hà Đông, đời Tùy.

5. Thích Trí Hy chùa Quốc Thanh ở tại Đài Châu, thời Tiền Đường.

6. Thích Trí Tảo chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, thời Tiền Đường.

7. Thích Pháp Hỷ chùa Tân Lương ở Ung Châu, thời Tiền Đường.

8. Thích Tuệ Thành ở Giang Lăng, Kinh đô, đời Trần.

9. Thích Tuệ Dũng ở Vân Phong thuộc Nam Nhạc, thời Tiền Đường.

10. Quốc Sư Thích Tuệ trù ở Nam Nhạc, đời Tùy.

11. Thích Duyên Quang ở nước Tân-la, đời Tùy.

12. Thích Thiện Nghĩa chùa Chân Ngộ ở núi Chung Nam, đời Đường

13. Thích Hoằng Cảnh chùa Ngọc Tuyền ở Phú Dương, đời Tiền Đường.

Thích Tuệ Tư ở Hành Sơn, Nam nhạc, đời Trần:

Thích Tuệ Tư, họ Lý, người ở xứ Võ Tân thuộc Hạnh Thành. Thuở nhỏ, nhân mộng thấy có một vị tăng Ấn-độ khuyên Sư vào Phật Đạo, lại mộng thấy có vài vị tăng dạy răn trai giới, nên mỗi ngày Sư chỉ ăn một bữa, chẳng nhận cúng dường riêng. Bấy giờ, thấy trong bè bạn tụng kinh Pháp Hoa, trong tâm tình Sư rất thích, vì từ trước chưa hề tụng đọc. Một hôm, Sư theo người bạn ấy mượn kinh và ra ngoài gò mả trống, tự đọc, không có người dạy trao, Sư buồn khóc ngày đêm. Lại nữa, gò mả chẳng phải là chỗ của người ở, nên Sư lo sợ chẳng chỉ một vài việc, bèn dời đến nương náu ở cổ thành, đục hang mà ở, ban ngày đi khất thực, tối đến chẳng nằm ngủ, nhìn kinh mà rơi lệ, đảnh lễ không ngưng nghỉ. Mùa Hạ năm đó mưa nhiều, đất hang thấm hơi nước, khắp thân thể Sư sưng bầm, đi đứng không được, mà tâm đối trước kinh sức lực càng mạnh mẽ, bỗng cảm thấy tiêu diệt tất cả, thân trở lại bình phục như cũ. Sư mộng thấy Đại Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà đến xoa đảnh đầu rồi đi. Với một bộ kinh Pháp Hoa, Sư chưa từng nhận biết văn từ, tự nhiên hiểu suốt. Ngay chỗ được xoa tự nhiên nổi lên như nhục kế. Suốt trong mười năm, Sư tụng kinh Pháp Hoa, lời tiếng không ngưng nghỉ, lại tỏ ngộ pháp môn Đại Thừa Tam-muội Pháp Hoa. Thấu tỏ mọi cảnh giới, địa vị thành đạt đến sáu căn thanh tịnh. (Xuất xứ trong truyện).

Quốc sư Thích Đại Thiện ở Nam Nhạc, đời Trần:

Thích Đại Thiện là môn nhân của Thiền sư Tuệ Tư, Sư trụ chùa Bát-nhã ở Nam Nhạc, chuyên tụng kinh Pháp Hoa, cứ ba ngày xong một bộ, kiêm tu sám pháp Phổ Hiền, bảy ngày hoa rơi, Sư lại nhập Tam-muội Từ Bi, khiến bầy nai trong cả nước đều đến thân gần.

Thích Trí Việt chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, đời Tùy:

Thích Trí Việt, họ Trịnh, người ở xứ Nam Dương. Thuở thiếu thời, Sư có chí khí muốn xa lìa trần tục, người cha cầu hôn cho Sư, bèn tìm phương tiện dứt bỏ. Đến lúc trưởng thành thì Sư khôi ngô, khỏe mạnh, thẳng thắng. Bấy giờ, Lạc Dương Điện hạ đang thống ngự tại Kinh châu, muốn cất nhắc Sư lên chức vị cao nhất, nhưng đó chẳng phải điều ước muốn của Sư, tâm tình Sư chỉ muốn được xuất gia. Vua cảm mến sự thành khẩn ấy, do đó Sư được toại tâm nguyện xưa.

Khi đã xuống tóc, Sư đi khắp nơi hỏi đạo, bèn đến Kim Lăng, liền gặp Sa-môn Trí Giả, nên liền đảnh lễ xin thọ học. Ngài Trí Giả trao cho thiền pháp, Sư bèn thấu đạt vào năm môn, thông cùng sáu Diệu, giới hạnh trong sạch, luật nghi thuần túy Sư lại thỉnh tụng kinh Pháp Hoa có hơn ngàn biến, bình nước tự đầy, đó là do năng lực của kinh. Học chúng của ngài Trí Giả tuy đông đảo, mà Sư rất xứng đáng được đứng đầu. Ở Lâm Hải có tinh xá Phú Sơn, do một vị Tăng Ấn-độ xây dựng có rất nhiều việc linh dị, ngài Trí Giả có đến đó, nên bảo Sư hãy làm ảnh hưởng đến xứ đó. Sau khi ngài Trí Giả thị tịch, cả một chúng ở núi Thiên thai đều giao phó cho Sư. Suốt thời gian hai mươi năm Sư ngài chăm chăm khéo dẫn dắt, không trái với lời phó chúc, làm nơi nương tựa của hai chúng, làm chỗ quy hướng của bốn bộ. Thân tướng Sư cao lớn, đức hạnh cảm đến vật tình, rất có nơi cấp dẫn. Thường năm đến ngày húy nhật Sa-môn Trí Giả, vua Vạn đế (Dương Khiêm 581-605) đời Tùy, ban sắc thiết trai cúng dường ngàn vị Tăng quan. Ngài đem các thứ y bát còn lại sung cúng vào Đại thí. Ngày Hiến hậu qua đời, vua Văn đế thiết trai cúng dường cầu nguyện, mỗi lần như thế có được trăm vật, Sư chẳng hề lưu giữ một vật gì. Thứ Sử Hoạt Châu là Trịnh Từ Bách, Trấn tướng là Dương Hải Dương Thần Quý vốn là thầy bạn nghĩa nặng, đãi ngộ chẳng xem thường đối với Sư.

Đến ngày 23 tháng 11 niên hiệu Đại Nghiệp thứ 12 (616) đời Tùy, Sư bị bệnh, suốt ngày mười ngày, Sư nằm nghiêng phía bên phải, thị tịch tại phòng cũ chùa Quốc Thanh, hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi. Lúc Sư sắp tịch, núi đổ đất động, các hàng tăng tục khắp trong khu vực đều nghe thấy. Về môn nhân của ngài Trí Giả rất đông, ở đây chỉ nêu vài ba vị như vậy. (Xuất xứ từ tục Cao Tăng Truyện quyển 17).

Tôi riêng nghĩ Sư là người được thầy trao truyền sau cùng, do đó các bản xưa có lắm nhiều lầm, ghi chép truyện người khác, nên nay tôi cắt bỏ phần đó, phụ vào cạnh bản truyện để chỉ bày cho người đời sau. Trong Thống Kỷ quyển 9 chép: "Sa-môn Pháp

Ngạn vốn họ Trương, người ở xứ Thanh Hà.

Niên hiệu Thái Kiến năm thứ bảy (575) đời Trần, theo hầu Đại sư Trí giả ở núi Thiên Thai và được trao truyền yếu chỉ Thiền-na, Sư chuyên tỉnh lắng an tọa giữa núi rừng, không ở trong phòng nhà, thường nhập định suốt bảy ngày mới xả. Đại sư Trí Giả dự chứng cho rằng: "Như điều ông nói thật là tướng Quán thứ hai trong quán Bối xả". Thần núi có mấy lần đến khuấy nhiễu để thử, mà Sư vẫn điềm nhiên không lay động, chuyên tu thiền pháp hơn ba mươi năm thường ngồi chẳng nằm. Đến cuối tháng 2 niên hiệu Đại Nghiệp thứ 7 (611) đời Tùy, Sư ngồi kiết già mà thị tịch tại chùa Quốc Thanh".

Thích Trí Thông chùa Thê Nham ở Hà Đông, đời Tùy:

Thích Trí Thông, họ Trình, người ở xứ Y Thị thuộc Hà Đông. Vừa mới sinh mà Sư đã biết kính tin, vui sùng Phật đạo, tuổi vừa đi học, Sư bèn muốn xuất gia. Cha mẹ lấy làm lạ bèn chấp thuận. Năm mười tuổi, Sư theo thầy xuống tóc tu trì giới hạnh, ca vịnh lời pháp, tụng thông kinh Pháp Hoa, ngày đêm không ngưng nghỉ, ngài tụng yếu kệ tán Phật trong các kinh có hơn ba ngàn chương. Suốt năm mươi năm, Sư không hề nói lời mệt nhọc. Đến ngày 24 tháng 10 niên hiệu Đại Nghiệp thứ bảy (611) đời Tùy, Sư bị bệnh và thị tịch tại chùa núi, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi.

Mới đầu, trước lúc chưa thị tịch vài ngày, Sư không được khỏe. Vị Duy-na hô chuông mà dùi cầm tự gãy, mọi người cùng bàn tán cho sư không qua khỏi bệnh. Sư nghe thế, bèn bảo thị giả xưng niệm danh hiệu Phật Adi-đà và kinh Pháp Hoa, Sư xoay tâm nhiếp niệm, nguyện sinh về Tịnh độ Tây phương. Đến chiều Sư mới mở mắt, nhìn thẳng giây lâu chẳng động, tướng trạng như có thấy điều gì, vị Thị giả đứng bên cạnh đốt thêm hương, vẫn đứng lặng lẽ, một lát mới thôi. Sư bèn búng ngón tay bảo rằng: "Không thể nghĩ bàn!". Có người hỏi lý do, Sư bảo: "Thấy cờ báu lọng hoa, tháp miếu trang nghiêm". Đầu hôm, Sư lại xoay đầu nhìn bảo rằng: "Mới thấy ngọc sáng, bây giờ ở đâu?". Lại hỏi: "Có việc gì đốt đèn sáng rực thế?". Đại chúng bèn che đèn cho tối. Chỉ phút chốc Sư lại bảo: "Lửa sáng vì sao càng lớn mạnh vậy?". Vì trong phòng Sư lúc ấy mờ tối, mọi người bèn chắp tay, đến lúc sáng sớm, Sư bảo: "Tôi sinh về Tịnh độ!" thế rồi Sư dứt hơi thị tịch. Núi đất lay động, cửa song vạch xé, đàn chim trĩ kinh sợ kêu vang, chẳng phải tiếng thường nghe. Trong chùa có Sa-môn Đạo Tuệ, chưa sáng đang ngủ, đến lúc tỉnh giấc ra tựa vào lan can nhìn xuống, bảo rằng: "Nếu Thiền sư (tức Trí Thông) thị tịch chắc chắn là sinh về Tịnh độ. Vì sao biết? Vì trong lúc đang ngủ thấy trên đỉnh núi phía Tây đều là lầu các điện đường nương giữa hư không mà đi". Nói xong, mới biết là Sư đã thị tịch.

Lại nữa, Cái Mẫu họ Vương, từ lâu dốc tín thuần kính Tam Bảo, đọc tụng các kinh, lễ sám phát tâm, lấy việc vãng sinh làm chánh. Đến tháng 02 niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười một (637) thời Tiền Đường, đến lúc sắp xả bỏ báo mạng lại càng siêng năng chí kính, thấy hoa sen màu xanh đầy khắp vườn nhà. Đức Phật A-di-đà và Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng một lúc đồng đến. Cái cùng với người cháu là Tiết Đại Hưng cùng gần gũi nghe kể lại, mà Tiết Đại Hưng thấy có Đức Phật thân hình rất cao lớn và Bồ-tát lâu sau mới biến mất. Đó đều là những việc gần đây, nên truyền thật lục. (Xuất xứ từ Tục Cao Tăng truyện quyển 18).

Thích Trí Hy chùa Quốc Thanh ở Thai Châu, thời Tiền Đường:

Thích Trí Hy, họ Trần, người ở xứ Dĩnh Xuyên, gia đình Sư đời trước do làm quan nên đến ngụ tại Mân Việt. Từ thuở nhỏ Sư đã khác hẳn đồng bạn, tuổi trẻ mà nghĩ vượt ngoài mọi vật. Thấy mọi sự già bệnh chết, mà Sư thấu hiểu được cuộc đời nổi trôi nguy ách, tự xét sự hôn trầm, xót thương bao kẻ chìm đắm, lại càng nhàm lìa như bị kẻ thù rượt đuổi.

Sư phát thệ nguyện muốn vượt thoát trần lao, tìm khắp các thắng cảnh, cúi nghe Đại sư Trí Giả trình bày chí khí nơi núi Thiên Thai, an tọa thiền pháp tại chùa Phật Lũng, sách tấn dạy răn kẻ lầm đường mê, vì đời mà làm bến bờ dẫn dắt, tâm thành Sư vội kính ngưỡng, bôn ba vượt xa ngàn dặm. Đến năm hai mươi tuổi, Sư mới được toại nguyện. Vừa một lần được gặp liền định vị Thầy trò. Khi luật nghi đã đầy đủ, Sư lại bẩm thọ thiền quyết tu thêm tịch định. Sư đọc tụng kinh Pháp Hoa như cứu lửa đang cháy trên đầu. Tâm ngựa hơi điều thuần, tan động bớt lo toan. Sư vâng mạng di chỉ thường ở nơi Đạo tràng tu thiền chùa Phật Lũng. Những người ưa thích pháp tam-muội đều cùng quy ngưỡng. Nhưng lúc rảnh rỗi việc thiền tọa, Sư lại chỉ huy xây dựng Già-lam, điện đường, phòng nhà đều trang nghiêm. Chỉ còn lại kinh đài chưa xây dựng, Sư muốn nhóm công thợ để làm, có ngọn núi Hương Lô, núi hang hiểm trở, rừng cây đẹp lạ, nhưng vị Thần ở đó rất linh nghiệm, từ xưa đến nay, không ai dám nhìn ngọn và sườn núi ấy, huống chi giẫm đạp lên mà tìm chặt. Bấy giờ, Đại chúng bàn với nhau rằng: "Ngày nay đã vì tạo dựng kinh Đài cúng dường Pháp Bảo, chỉ chuộng lấy tinh hoa, đâu thể làm cho xong mà thôi, trên đỉnh núi Hương Lô có loại gỗ sinh bách, là thứ gỗ tốt trong các loại gỗ, hãy lấy đó để sung vào cúng dường". Luận bàn xong, thưa hỏi y kiến Sư, trình bày cụ thể sự việc như trên. Ngưng giây lát, Sư đáp rằng: "Thần nuối tiếc giữ gìn, chúng ta không nên vội vàng". Trong chúng không ai dám nói lại lời nào, mới tự trở về lại chỗ riêng mình. Đêm đó, Sư mộng thấy có người đưa sớ đến nói rằng: "Với cây sinh bách trên đỉnh núi Hương Lô, đều xin xả thí cung cấp vào việc xây dựng kinh đài". Đã cảm thầm chỉ bày, Sư liền dẫn lượt chuẩn bị mọi thứ vật thực công cụ, phân bổ người thợ vào núi để chọn tìm chặt. Vị thị giả hỏi rằng: "Hôm qua không chấp thuận, vì sao nay đi chặt lấy như vậy?". Sư đáp: "Hôm qua là do người khác, hôm nay la do ta, chỉ lấy không nhọc khổ, ắt chẳng sai lầm". Mọi người theo lời Sư đến tìm chặt cây gỗ không gặp phải trở ngại.

Xưa, Tiên sư Trí giả có dạy rằng: "Khuyên hóa muôn dân từ bến bãi núi Thiên Thai cho đến tận bờ biển, những nơi nào có sông rạch, khe suối đều xả thí làm ao hồ phóng sinh, chấm dứt hẳn việc vớt bắt". Đến đời Tùy cũng như thế, mọi sự đều qua sắc ban. Khi nhà Tùy đã mất, các hàng hậu sinh trong trăm họ có lắm kẻ làm ác, đem nhau đặt đăng đó, vớt bắt khắp cùng các sông suối, nên loài thủy tộc bị yểu tử thương vong không nơi mách cáo, mới cùng đảnh lễ Sư, đến chỗ khám thờ Tiên sư Trí Giả đốt hương chú nguyện. Đang có một người đánh cá thấy một vị tăng đứng trên Đăng, trong ý cho là ắt sẽ bị rơi xuống nước, nên đem thuyền đến muốn cứu, vừa đến nơi thì không thấy nữa. Do đó mà ở các Đăng đó đều không bắt được cá, mọi người lần lượt mách bảo nên cùng nhau bỏ ác làm lành, dứt được việc vớt bắt chài lưới.

Bấy giờ, Sư có vị đệ tử là Sa-môn Đạo Tuyên đang ở tại phòng tụng kinh Pháp Hoa, tự nhiên Sư đến gọi, bảo rằng: "Chiều nay sẽ có khách tăng đến". Nói xong, bèn nhìn xuống dưới cửa, bỗng thấy một vị tăng thuần mặc áp nạp, ôm bình bát, cầm tích trượng, hình tường thần thái rất sáng sủa, dáng vẻ khác người thường, từ ngoài đi đến, cùng đi qua hơn hai mươi bước mới vào nhà phía Đông, bèn biến mất. Bỗng chốc liền nghe ở núi phía Đông có tiếng chuông Đồng ngân vang rung chuyển cả hang núi. Sư bèn nói: Ôi! Tôi...!". Chưa đầy vài ngày sau, Sư bảo các đệ tử rằng: "Mạng sống của tôi không còn bao lâu nữa, hãy cho nước ấm mùi thơm để tắm gội". Sư nói xong, từ trong núi các loài chim thú hình sắc khác lạ chưa hề trông thấy đua nhau cùng nhóm tụ bên cạnh phòng Sư, trải dài dưới đất, bay nhảy trên hư không, buồn kêu ai oán, qua ngày hôm sau mới bay đi hết. Đến tối 17 tháng 12, Sư kiết già ngồi thẳng, cầm xâu chuỗi như ý mà giảng pháp, từ lý sâu xa. Lúc giảng xong, Sư bảo đệ tử rằng: "Tôi cùng các ông may mắn được gặp, nay đây phải vĩnh biệt, không hẹn gặp lại!". Nói xong, Sư im lặng không có tiếng động gì, giây lâu. Các đệ tử gào khóc, Sư lại mở mắt bảo rằng: "Con người có sinh phải có tử, muôn vật có đều phải có cuối, tướng thế gian là như thế, đâu có gì đáng buồn khóc! Nay ra đi, các ông chớ làm náo loạn đến tôi". Sư lại bảo rằng: "Từ lúc tôi tu thiền tụng kinh cho đến nay là đã bốn mươi chín năm, lưng chẳng dính chiếu. Tôi chẳng trái phụ tín thí, không mắc nợ hương hỏa. Các ông muốn được gặp lại tôi, mỗi người nên siêng năng sách tấn hành Đạo, để có đủ năng lực, không trái phụ người!", các đệ tử do đó hỏi Sư rằng: "Chẳng hay Hòa-thượng sẽ sinh về đâu?". Sư đáp: Như chỗ tôi mộng thấy thì quả báo sẽ sinh về cõi trời Đâu-suất, nơi cung điện mầu xanh, ở phía Tây bắc của cõi trời, thấy Đại sư Trí Giả, chung quanh có các hàng người, trời đều ngồi trên tòa báu, chỉ riêng có một tòa để trống chưa có người, tôi hỏi lý do thì được trả lời là Sa-môn Quán Đảnh sẽ lên tòa đó để giảng pháp.

Đến sáng sớm ngày mười tám, Sư bảo các đệ tử rằng: "Các ông phải sớm lo thiết trai, mạng sống của tôi chỉ trong chốc lát". Ngày đó, có người trong thôn lên núi thăm bệnh Sư, dùng bữa xong xin từ giã trở về, Sư bảo; Đã khổ nhọc từ xa đến, nên dừng lại trong thời gian ngắn, đợi bần đạo đi trước đã!". Người ấy không hiểu ý, cố từ chối chẳng dừng ở. Đang lúc đó, bầu trời trong sáng không chút mây che mờ, Sư bảo với người đến thăm bệnh ấy rằng: "Đã không dừng ở lại thì nên mau đi đi, vì mưa sẽ ngập đường". Người ấy vừa đi chỉ chốc lát, bỗng nhiên mưa đổ như trút. Sư hưởng thọ bảy mươi hai tuổi. Lúc đó vào giờ ngọ ngày 18 tháng 12 niên hiệu Trinh Quán năm thứ nhất (627) thời Tiền Đường, Sư ngồi kiết già, thẳng thắng nghiễm nhiên, hơi khí ngưng dứt, mọi người dùng bông tơ để thử thì như Sư đang nhập định, do đó mà chẳng trở lại. Bấy giờ giữa hư không có tiếng đàn sáo, cả đại chúng đều được nghe giây lâu mới dứt. Để qua mấy ngày mới đưa nhục thân Sư vào trong khám đá, nhan sắc vẫn tươi tắn, tay chân mềm mại, chẳng khác lúc còn sống. Nơi tôn trí phần khám của Sư ở trước khám của Tiên sư Trí Giả cách hơn hai trăm bước.

6. Thích Trí Tảo chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, thời Tiền Đường:

Thích Trí Tảo, họ Trương, người ở xứ Thanh Hà. Vào đời Tấn, gia đình Sư dời đến ngụ ở Lâm Hải. Ông nội Sư tên là Nguyên Tú, làm thương bộ thị lang đời Lương, rồi tiếp nhận Lâm Hải nội sứ, cha Sư tên là Văn Hoài làm Trung binh tướng quân đời Trần.

Năm Sư thọ học kinh Pháp Hoa, miệng không nói lời luống dối, mọi việc làm không hổ thẹn với người. Bà con thân thuộc xóm làng gần gũi đều kính mến. Năm Sư mười bảy tuổi, cha mẹ đều qua đời, chịu tang buồn vừa mãn, Sư bị bệnh, kéo dài nhiều năm tháng, thầy thuốc hết phương cứu chữa. Nhân trong đêm vắng, Sư nương gậy nhọc nhằn kéo thân bệnh ra đến giữa sân, ngước mặt nhìn ánh trăng mà nằm, dốc lòng chuyên niệm Bồ-tát Nguyệt Quang, cúi mong đại bi cứu giúp nỗi khổ bịnh trầm kha của con. Sư buộc niệm như thế trải qua tuần đầu. Vào nửa đêm, mộng thấy một người hình sắc khác thường từ hướng Đông đi đến bảo Sư rằng: "Ta đến đây chữa bệnh cho Sư", liền đưa miệng kề vào thân Sư, lần lượt hút nhổ. Suốt ba đêm liền như thế, nhờ vậy mà bệnh được lành, Sư biết Tam bảo thật là nơi đáng để mình nương tựa hầu cứu khổ, bèn muốn lìa tục, đến chùa An Tĩnh xin làm đệ tử Pháp sư Tuệ Bằng.

Nghe Đại sư Trí Giả là bậc Đạo hạnh, pháp tắc vượt hẳn mọi người, vì đời mà dẫn dắt tốt đẹp, Sư bèn nương thuyền bồng bềnh thẳng đến núi Thiên Thai, phủ phục cầu xin thọ học. Ngài Trí Giả bảo Sư sám hối theo Pháp Hoa sám pháp và tụng kinh. Đến tuần thứ hai, vừa mới đêm đầu tiên lễ sám xong,

Sư trở về lại ghế ngồi thiền, như muốn an tọa, bỗng thấy có chín con rồng từ đất vọt ra vượt thẳng lên hư không. Sáng sớm, Sư đem việc ấy thưa hỏi. Ngài Trí Giả bảo rằng: "Đó là biểu tượng của chúng sinh trong chín đường nghe kinh Pháp Hoa ở đời tương lai sẽ phá trừ vô minh trú địa, vào pháp tánh không".

Lại nữa, niên hiệu Chí Đức thứ 4 (586) đời Trần, Vĩnh Dương Vương Bá Trí trông coi ở Tiên đô, thỉnh ngài Trí Giả đến chỗ đang trấn nhậm, Sư theo thầy đến núi Cối Kê thọ thỉnh. Sau chín tuần xong Pháp sự, Sư bèn từ biệt Vương Bá Trí đến ở chùa núi Bảo Lâm, hành trì Tam-muội Pháp Hoa. Đầu tiên là ngày thứ nhất, như có người đến lay động cánh cửa. Sư hỏi: "Ngươi là ai mà nửa đêm đến đây lay cửa như thế?". Liền có tiếng đáp lớn rằng: "Ta đến trông đèn". Ba phen hỏi đáp như thế. Trong chùa đó vốn trước có Đại đức Thiền sư Tuệ Thành, ban đêm nghe rõ việc đó, bảo Sư đệ tử rằng: "Ở trong ngôi chùa đó từ trước đến giờ có con Đại ác quỷ, nay nghe tiếng ấy, chắc là Quỷ đến lấy mạng người!". Đến lúc trời gần sáng, Thiền sư Tuệ

Thành gõ cửa gọi. Sư chưa kịp trả lời, thì Thiền sư Tuệ Thành đi nhiễu quanh ngôi nhà đó xướng rằng: "Khổ thay! Khổ thay! Người ấy chết rồi...!". Sư liền mở cửa hỏi: đáp rằng: Sư vẫn còn sống, tôi nghĩ rằng đêm qua quỷ đã hại mạng ông, cho nên than như thế. Thiền sư Tuệ Thành đem việc ấy nói với Vương Bá Trí, Vương Bá Trí bèn sai vài mươi người cầm gậy đến phòng hộ. Sư bảo các người đến phòng hộ rằng: "Mạng là do nghiệp, đâu phải do sự phòng hộ mà thêm được ư? Xin các nhân giả hãy cùng nhau trở lại thành báo với Vương Bá Trí như thế!". Khi các người đến phòng hộ đã đi, vào đêm thứ hai, quỷ vào thẳng trong phòng, vác chày vồ đập tường vách, đánh cột nhà khắp cùng Đông Tây. Trong phòng có sáu ngọn đèn, Sư tắt hết năm ngọn chỉ để lại một ngọn mà hành Đạo, ngồi thiền, tụng kinh, thản nhiên không khiếp sợ. Đến tuần thất thứ ba, mọi việc thường như thế. Sư hành pháp sắp mãn, thấy một đồng tử mặc áo xanh đến khen rằng "Lành thay!". Nói xong liền biến mất. Tuy gặp hai việc như thế mà tâm Sư không lo sợ hay mừng vui.

Lại nhân có duyên sự, Sư phải đến Cối

Kê, trên đường từ Huyện Diệm, Sư vào thôn Hiếu Hạnh khất thực, người chủ lầm nấu nấm độc cúng dường, Sư dùng bữa xong, theo đường đi thẳng tới. Sau đó, người chủ dùng thức ăn còn lại, tất cả đều bị khốn khổ kiết lỵ sắp chết. Có người ở gần đó thấy như thế, liền mang thuốc tìm đuổi theo Sư, đi hơn mười dặm mới kịp, thấy Sư vẫn khoan thai bước đi không việc gì. Sư hỏi: "Có việc gì mà tìm tôi?". Người ấy trình bày đầy đủ việc trên, Sư cười, bảo: "Bần đạo không sao, hãy vất bỏ thuốc đi mà trở về, khỏi cần phải đuổi tìm". Lấy đó mà nghiệm biết do Đạo lực huân tu nên độc không thể làm thương tổn.

Sư trở về núi, vì Đại sư Trí Giả, thiết trai cúng dường ngàn vị Tăng, độ bốn mươi chín người xuất gia, cúng thí vào chùa hai ngàn đoạn vật, ba ngàn thạch gạo và hương, đầu bơ, v.v... Lại xây dựng tường đất chung quanh bốn phía vườn chùa. Lại vì Đại sư Trí Giả thiết trai cúng dường ngàn vị Tăng, độ một trăm người xuất gia, cúng thí vào chùa một ngàn đoạn vật, cúng dường trai tăng mỗi vị một xấp lụa quyên. Đến năm thứ bảy, Sư lại sang quận Trác, tham nhọc tạ từ xa lại, cúng thí chùa năm trăm đoạn vật, sai năm mươi người cầm gậy phòng hộ đưa về lại chùa. Sư đã qua lại tám lần tham kiến Thiên tử vua đều được vui mừng, cung cấp rất nồng hậu.

Đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười hai (638) thời Tiền Đường, Sư thị tịch tại chùa, hưởng thọ tuổi tám mươi ba tuổi.

Thích Pháp Hỷ chùa Tân Lương ở Ung Châu, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Hỷ, họ Lý, người ở xứ Tương Dương. Năm lên bảy tuổi, Sư xuất gia, thơ Thiền sư Hạo làm thầy. Thiền sư Hạo là bậc Đạo tố ôn hòa thuần thiện rất nổi tiếng. Cùng đồng bạn sau đến ở chùa Thiền Định, ngay đêm trước lúc thị tịch, vách tường của căn phòng tự nhiên bị sụp đổ ra ngoài, Thiền sư Hảo bảo: "Y Báo đã trái, tôi sắp chấm dứt cuộc đời!". Liền đó ngồi thẳng nhắm mắt, như có sở duyên, bèn im lặng mà thị tịch, mới đầu ai hay biết.

Vì Sư (Pháp Hỷ) rất có cung cách, theo hầu trải qua nhiều năm, còn Thiền sư Hạo chuyên tu định nghiệp, không hề dạy răn, chỉ xem lượng mà biết người, xét có đạt của Sư sự việc có vượt tu tập ở trước, chẳng sửa đổi mà tự thành, cung kính cảnh hạnh, chỉ đức là giúp. Tại chùa núi Thanh Khê ở Kinh Châu, chư tăng có bốn mươi vị, chỉ riêng mình ngài là Sa-di nên phải lo mọi việc hầu hạ, ban ngày thì nấu thổi củi đuốc, ban đêm thì tụng tập kinh điển, ở núi không có đuốc, phải đốt củi để lấy ánh sáng. Mỗi đêm tự theo thời khóa phải tụng thuộc một trang kinh. Cứ như thế trải qua thời gian lâu dài nên sở duyên thông lợi, tuy học các kinh bộ loại, mà Sư riêng lấy kinh Pháp Hoa làm chánh, thường nhân giữa khoảng thời gian ăn ngủ, Sư tụng gồm một quyển, ngoài ra thì chuyên lấy Thiền nghiệp buộc niệm ở trước, vừa mới có tâm hôn trầm, thì liền trở lại ôn cũ.

Khoảng niên hiệu Nhân Thọ (601-605) đời Tùy, vua Văn đế (Dương Khiêm) ban sắc thỉnh mời Sư vào kinh đô trụ chùa Thiền định. Lễ cúng rất lớn, mà Sư hành tiết kiệm làm đầu, tiếp dẫn vỗ về đồng thường, khiêm hư thành đức, bèn cảm có xá-lợi răng Phật. Vua rất mực tôn kính, tôn trí trên đài báu, đặt để trên phòng nhà, khôi báu tràn mắt. Nếu không phải người có đức hạnh thì chẳng thể biết, Đại chúng vì sự hành giải ngầm thông u vi từng giáng hiện của Sư, nên đem Đạo tràng giao phó ủy thác cho Sư trông coi. Sư bèn làm giềng mối cúng dường ngày đêm tiếp thừa kinh ngưỡng. Lại vì Thiền sư Hạo đã thị tịch, trong ý Sư muốn linh hồn ở chốn u minh được thanh thản, phát nguyện trì tụng ngàn biến kinh Pháp Hoa, do đó liền chẳng ở yên trong phòng cũ, chỉ thường nhiễu quanh chùa tháp, với hai oai nghi đi và ngồi, thề tròn đầy bản nguyện. Đến lúc đủ số tám trăm quyển, tình thức Sư càng chuyên cần hôm sớm, buộc tâm chẳng tan, bèn cảm thấy thân mình chuyển thành mạnh khỏe, chư tăng đồng ở trong chùa thấy giá xe báu trâu trắng đi vào phòng Sư, nhưng truy tìm xét xem thì không hề thấy dấu vết manh mối, mới biết đó là do cảm bởi u thông, thông suốt giáo môn mà sớm tự giữ tạo dựng và bảo vệ từ lúc mới đầu. Các nơi có người bệnh khổ, bất luận là khách mới cũ, đều chu cấp đầy đủ hỏi han, đích thân Sư lo liệu cho, còn việc tiểu dãi huyết nồng đổ tháo, Sư đều đến quét dọn. Nhưng sự khổ của bệnh hoạn, là chỗ đều khinh thường của người đời, mà Sư đều không nhờm gớm, tâm tình gấp bội vui mừng, lấy làm việc thường. (Ba duyên trên đây đều xuất xứ tục Cao Tăng Truyện quyển 19).

Thích Tuệ Thành ở Giang Lăng, đời Trần:

Thích Tuệ Thành, là môn nhân của Thiền sư Tuệ Tư, Sư tu thiền định, tụng kinh Pháp Hoa, chứng đắc "Tam-muội Nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn", trì đứng trên sông, đi trên nước như đi trên đất liền.

Thích Tuệ Dũng ở Vân Phong, thuộc Nam Nhạc, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Dũng, kính thờ Thiền sư Đại Thiện, trọn một đời nương náu nơi chốn núi rừng, hơn sáu mươi năm tụng trì kinh Pháp Hoa, vào được Tam-muội Hỏa quang.

Quốc sư Thích Tuệ Điều ở Nam Nhạc, đời Tùy:

Thích Tuệ Điều là môn nhân của Thiền sư Trí Khải, tụng kinh Hoa Nghiêm sáu mươi quyển, tụng kinh Pháp Hoa vạn biến, chiêu cảm thần núi đến thêm hương, rải hoa.

Thích Duyên Quang ở nước Tânla, đời Tùy:

Thích Duyên Quang, là môn nhân của Đại sư Trí Giả, chuyên tụng kinh Pháp Hoa lấy làm chánh, chiêu cảm vua trời xuống đón rước, cung rồng mời thỉnh giảng. Sau khi thị tịch, chiếc lưỡi màu đỏ đẹp như hoa sen hồng.

Thích Thiện Nghĩa ở chùa Chân Ngộ, đời Đường:

Thiền sư Thích Thiện Nghĩa là môn nhân của Sa-môn Tuệ Siêu. Sư trì tụng kinh Pháp Hoa một vạn biến, ngoài việc bình nước thường đầy, còn được nhìn thấy Đài vàng, nghe nhạc trời. Sư chắp tay đứng yên mà thị tịch.

Thích Hoằng Cảnh trụ chùa Ngọc Tuyền, ở phú Dương, đời Tiền Đường:

Thích Hoằng Cảnh là môn nhân của Sa môn Đạo Tố, Sư chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, được Bồ-tát Phổ Hiền đến trao truyền cho dấu chấm phảy, đồng tử cõi trời ngầm đến kính hầu, đầy đủ như truyền thuyết.

QUYỂN 4

VIII. PHÚNG TUNG THẮNG ÍCH (Phần 2)

1. Thích Đàm Thúy

2. Trúc Pháp Thuần

3. Thích Tăng Sinh

4. Thích Pháp Tông

5. Thích Đạo Huýnh

6. Thích Tuệ Khánh

7. Thích Phổ Minh

8. Thích Pháp Trang

9. Thích Tuệ Quả

10. Thích Tuệ Tấn

11. Thích Hoằng Minh

12. Thích Tuệ Dự

13. Thích Siêu Biện

14. Thích Pháp Tuệ

15. Thích Tăng Hầu

16. Thích Chí Trạm

17. Vị Tăng ở chùa Ngũ Hầu

18. Thích Pháp Thường

19. Chiếc lưỡi tụng kinh

20. Thích Tuệ Siêu

21. Thích Tuệ Hiển

22. Thích Thiện Tuệ

23. Thích Tuệ Đạt

24. Thích Pháp Thành

25. Thích Tuệ Thuyên

26. Đàm Vô Kiệt

27. Thích Pháp Tự

28. Thích Tăng Dực

29. Thích Trí Thông

30. Thích Trí Nghi.

Thích Đàm Thúy: Chùa Bạch Mã ở Hà Âm, đời Tấn.

Thích Đàm Thúy, không rõ người xứ nào, xuất gia từ thuở thiếu thời, tại chùa Bạch Mã ở Hà Âm, ăn dùng rau trái, mặc áo vải bố, trì tụng kinh Pháp Hoa thường một ngày một đêm là một biến. Sư lại tinh thông thấu đạt ý chỉ của kinh, giảng nói cho người nghe, từng ở trong đêm, bỗng nghe có tiếng gõ cửa và nói rằng: "Muốn thỉnh Pháp sư nói pháp chín tuần (ba tháng)". Sư không chấp thuận. Vì cố nài thỉnh nên Sư mới đến đó, Sư như đang ngủ nhưng đều nhận biết, thân bèn đến trong đền thờ thần ở làng Bạch Mã, cùng theo có một vị đệ tử. Từ đó thường ngày thầm sang, không ai hay biết. Về sau, có vị Tăng ở chùa đi ngang qua miếu, thấy có hai tòa cao, Sư ngồi ở tòa phía Bắc, đệ tử ngồi ở tòa phía Nam, và như có tiếng đọc tụng giảng nói, lại ngửi có mùi thơm lạ. Từ đó, các người tục rao truyền cho nhau, đều bảo là thần dị. Đến mãn mùa Hạ, thần cúng thí một con ngựa trắng, năm con dê trắng, chín mươi xấp lụa. Chú nguyện xong, từ đó mới dứt. Về sau, không biết Sư như thế nào! (Cao Tăng truyện quyển 12 nói tụng kinh Pháp Hoa là đồng bản, linh dị đều đồng, đã xét văn ấy).

Trúc Pháp Thuần chùa Hiển Nghĩa ở Sơn Âm, đời Tấn:

Trúc Pháp Thuần, không rõ Sư người xứ nào, xuất gia từ thuở thiếu thời, trụ chùa Hiển Nghĩa, ở Sơn Âm, hành khổ hạnh, rất có đức, khéo trì tụng kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn và kinh Cổ Duy-ma. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hưng (402-405) đời Đông Tấn, vì chùa mà lên Lan Chử mua nhà cũ, chiều tối trở về đang đi trong hồ, gặp phải gió bão mà thuyền lại nhỏ, Sư chỉ nhất tâm nương vào Bồ-tát Quán Thế Âm, miệng tụng phẩm Phổ Môn không ngưng, bỗng chốc thấy một chiếc thuyền lớn đi lại, do đó mà được thoát khỏi, khi đã đến bờ, hỏi ra thuyền không có chủ, rồi chỉ trong khoảnh khắc chiếc thuyền cũng biến mất, các Đạo tục đều khen ngợi là thần cảm. Về sau, không biết Sư như thế nào.

Thích Tăng Sinh trụ chùa Tam Hiền ở Tấn Thục:

Thích Tăng Sinh, họ Viên, người ở đất Ty, thuộc quận Thục, xuất gia từ thuở thiếu thời, Sư chuyên hành khổ hạnh rất được khen ngợi. Tống Phong v.v... ở thành Đô thỉnh Sư làm chủ chùa Tam Hiền. Ngày đêm Sư trì tụng kinh Pháp Hoa kiêm thực hành Thiền định. Ở trong núi, Sư tụng kinh Pháp Hoa có hổ đến ngồi xổm trước mặt, tụng kinh xong mới đi. Sau, mỗi khi đến lúc Sư phúng tụng, ngâm vịnh liền thấy chung quanh có bốn người làm hậu vệ. Đến lúc tuổi tuy già suy, mà tâm thành tha thiết Sư càng mạnh mẽ. Sau, bị bệnh nhẹ, Sư bảo thị giả rằng: "Đồng tử cõi trời đã đến rước, ông nên nương theo năng lực tụng kinh, sẽ được sinh lên cõi trời Đâu-suất, kỳ hạn đã đến, ta sắp đi. Sau khi ta qua đời, nên đem thiêu, nếu ở chỗ thiêu mọc lên hoa sen mầu xanh thì lấy đó làm ứng nghiệm". Đệ tử vâng theo di mạng, thiêu nhục thân Sư, thật đúng như lời Sư nói, mọi người đều rơi lệ lấy làm lạ.

Thích Pháp Tông trụ Pháp Hoa đài ở đất Diệm, đời Tiền Tống:

Thích Pháp Tông là người xứ Lâm Hải. Thuở thiếu thời, Sư khéo săn bắn, ở đất Diệm có bắn một con nai chửa, nai bị sẩy thai, nai mẹ ngậm chịu tên bắn, còn đến chỗ đất dùng lưỡi liếm thân con mình, Sư mới hối ngộ, nhận biết tham sống và thương con là chỗ đồng nhau của loài có tình thức. Từ đó, Sư tước cung bẻ tên, xuất gia học Đạo. Thường hành khất thực để tự nuôi sống, thọ trì pháp mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Mỗi ngày sáu thời sám hối tội lỗi xưa. Sư trì tụng kinh Pháp Hoa và kinh Duy-ma, có lên trên đài phúng tụng ngâm vịnh, tiếng vang nghe xe khắp bốn phương. Các hàng sĩ thứ bẩm thọ quy giới từ Sư có hơn ba ngàn người. sư bèn mở rộng nâng thoáng chỗ ở dùng làm tinh xá, nhân đó lấy làm chỗ để tụng kinh, nên xưng gọi "Pháp Hoa đài". Thường vào lúc giữa trưa có ánh sáng lạ, và giữa đêm tối mà giống như ban ngày, mọi người đều lấy làm lạ. Về sau, không ai biết được Sư thế nào. Đài chùa hiện vẫn còn, nếu người bị bệnh đến dừng nghỉ qua đêm trong đó, cầu niệm liền lành bệnh.

Thích Đạo Huýnh chùa Nam Giản ở kinh đô, thời Tiền Tống:

Thích Đạo Huýnh, họ Mã, người ở xứ

Phù Phong. Khi mới xuất gia, Sư làm đệ tử Sa-môn Đạo Ý. Ngài Đạo Ý bị bệnh, bảo Sư cùng tất cả bốn người đến Hoắc Sơn ở Hà Nam để tìm nắm vú chuông. Vào hang núi được vài dặm, phải giẫm đạp trèo cây qua khe nước, ba người bị chìm chết, và bó đuốc cũng tắt nhưng Sư không có cách cứu. Sư vốn trì tụng kinh Pháp Hoa, chỉ nương tựa chí thành với hạnh nghiệp ấy, lại còn xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, chỉ trong chốc lát thấy có ánh sáng như lửa đom đóm, Sư cố đuổi theo mà không kịp, do đó bèn được ra khỏi hang. Từ đó, Sư càng tấn tu thiền, tiết hạnh ngày càng đổi mới, có bày qua vài lần trai hội Phổ Hiền và đều có điềm lành, hoặc thấy có vị Phạm tăng vào ngồi, hoặc thấy có người cưỡi ngựa đến, đều chưa kịp nói năng đã vội biến mất. Sau cùng đồng bạn tất cả bốn người theo hướng Nam đi đến thượng kinh, trông xem phong hóa. Ban đêm nương tựa tảng băng mà qua sông, giữa đường tảng băng vỡ, ba người chết đắm. Sư lại chí thành quy hướng Bồ-tát Quán Thế Âm, tụng kinh Pháp Hoa. Mới cảm thấy dưới chân như có vật tự nghiêng lệch. Lại thấy ánh sáng màu đỏ ở trước, bèn nương ánh sáng lên bờ mà về lại Kinh đô Sư trụ tại chùa Nam Giản, thường lấy pháp Ban Chu làm hạnh nghiệp. Trong đêm, Sư tụng kinh rồi nhập thiền, bỗng thấy có bốn người cưỡi xe đến phòng, gọi Sư lên xe chở đi. Bỗng nhiên Sư tự không hay biết thì thấy thân mình đã ở Thành đô phía sau Trầm Kiều, thấy có một người ngồi trên giường người Hồ ngay giữa đường và có đến vài trăm người hầu, thấy Sự họ bèn kinh hãi đứng dậy nói rằng: "Đây là chỗ ngồi của Thiền nhân". Người ấy lại nhân đó bảo với mọi người chung quanh rằng: "Lúc nãy đã biết chỗ rồi đâu dám làm lao nhọc Pháp sư?". Khi đó, bèn lễ bái từ biệt, bảo người đưa Sư trở về lại, vào chùa gõ cửa, giây lâu mới mở, vào chùa thấy các phòng đều đóng bít, đại chúng đều chẳng lường biết điều ấy.

Đến niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi (443) đời Tiền Tống, Lâm Xuyên Khương vương Nghĩa Khánh mời Sư đến

Quảng Lăng, và Sư thị tịch tại đó.

Thích Tuệ Khánh ở Lô Sơn, đời tiền Tống:

Thích Tuệ Khánh là người xứ Quảng

Lăng, xuất gia từ thuở thiếu thời, trụ tại chùa Lô Sơn, học thông kinh luật, thanh tịnh nghiêm khiết rất có giới hạnh. Ngài trì tụng các kinh Pháp Hoa, Thập Địa, v.v... mỗi đêm ngâm tụng, thường nghe trong bóng tối có tiếng búng ngón tay khen ngợi rằng: "Ông phúng tụng kinh Pháp Hoa, chúng tôi v.v... rất lấy làm vui mừng, quyết định sẽ thành Phật đạo, xin nguyện cứ tụng đừng ngưng nghỉ!". Có lần trong cơn sấm sét nhỏ lại gặp sóng gió nên thuyền bè sắp bị đắm, Sư chỉ trì tụng kinh Pháp Hoa không nghỉ, có cảm giác thuyền đang ở trong sóng mà như có người dẫn kéo, thoáng chốc đến được bờ. Từ đó Sư càng dốc lòng siêng năng. Đến cuối niên hiệu Nguyên Gia (454) thời Tiền Tống, Sư thị tịch, hưởng thọ sáu mươi hai tuổi, có mùi thơm lạ tỏa khắp phòng. Có tiếng nhạc nghe văng vẳng giữa hư không. Mọi người đều cho là do năng lực tụng kinh sẽ được Thánh chúng ở cảnh Tịnh độ đến rước.

Thích Phổ Minh ở Lâm Truy, thời Tiền Tống:

Thích Phổ Minh, họ Trương, người ở xứ Lâm Truy, xuất gia từ thuở thiếu thời, bẩm tánh thanh thuần, Sư chỉ ăn dùng rau quả mặc áo vải bố, lấy sự sám tụng làm chánh nghiệp. Sư trì tụng hai bộ kinh Pháp Hoa và Duy-ma. Thường đến lúc phúng tụng thì Sư có y phục, giường ghế riêng biệt, không hề lẫn lộn uế tạp. Mỗi lúc tụng đến phẩm Khuyến Phát, thì liền thấy Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi đứng trước mặt, Sư tụng kinh Duy-ma cũng nghe giữa hư không có tiếng xướng nhạc. Sư lại giỏi về thần chú, cứu hộ đều lành. Có Vương Đạo Chân, người ở trong làng có người vợ bị bệnh nên đến thỉnh Sư tới nhà chú nguyện, Sư vừa vào đến cửa thì người vợ liền chết ngất, trong chốc lát thấy có một vật giống như con chồn thân dài mấy thước từ hang chó đi ra, do đó mà lành bệnh. Sư thường đi ngang qua đền thờ bên cạnh bờ sông, Thầy đồng cốt tự bảo: "Thần thấy ngài đều tuôn chạy". Sư thị tịch lúc tám mươi lăm tuổi.

Thích Pháp Trang trụ chùa Đạo tràng ở kinh đô, thời Tiền Tống:

Thích Pháp Trang, họ Thân, người ở xứ Hoài Nam. Năm mười tuổi, Sư xuất gia làm đệ tử Sa-môn Tuệ Viễn ở Lô Sơn. Thuở thiếu thời, Sư khổ tiết nổi tiếng. Về sau, Sư vào Quan Trung, theo Sa-môn Tăng Tuệ để thọ học, khoảng đầu niên hiệu Nguyên Gia (424) thời Tiền Tống, Sư ra kinh Đô, trụ tại chùa Đạo tràng, tánh Sư nhất định thuần tố, mỗi ngày chỉ ăn một bữa trưa mà thôi. Sư trì tụng các kinh Đại Niết-bàn, Pháp Hoa, Tịnh Danh. Mỗi lúc cuối đêm Sư tụng kinh Pháp Hoa, các phòng ở gần thường nghe trước phòng Sư như có tiếng các thứ binh trượng vũ vệ, thật là trời thần đến nghe tụng kinh, cảm hóa như thế chẳng phải chỉ một lần. Đến niên hiệu Đại Minh năm thứ nhất (457) đời Tiền Tống, Sư thị tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi.

Thích Tuệ Quả trụ chùa Ngõa Quan ở Đông Đô, đời Tiền Tống:

Thích Tuệ Quả là người ở xứ Dự Châu. Thuở thiếu thời, Sư thường lấy rau trái khổ tiết tự làm hạnh nghiệp. Khoảng đầu thời Tiền Tống (420) Sư đến kinh đô trụ chùa Ngõa Quan, Sư chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa và Thập Địa, chỗ nhà xí, thấy một con quỷ đến kính lễ Sư và thưa rằng: "Xưa tôi làm Duy-na trong tăng chúng, có chút việc không đúng như pháp, nên bị đọa vào loài quỷ ăn phẩn. Pháp sư là bậc đức hạnh trinh thuần cao minh, lại lấy từ bi làm ý chí, xin hãy dùng phương tiện để cứu giúp!". Quỷ lại nói: "Xưa có ba ngàn quan tiền chôn ở dưới rễ cây thị, xin hãy lấy đó làm việc phước". Sư liền bảo chúng Tăng đào lên, quả nhiên có được ba ngàn quan tiền, Sư tu tạo cho một bộ kinh Pháp Hoa và lập trai hội cúng dường. Sau, Sư mộng thấy con quỷ ấy đến báo là đã được cải sinh rất tốt đẹp hơn xưa. Do năng lực trì tụng mà Sư có được chút năng lực thần thông. Đến niên hiệu Thái Thỉ thứ 6 (471) thời Tiền Tống, Sư thị tịch, hưởng thọ bảy mươi sáu tuổi.

Thích Tuệ Tấn chùa Cao Tòa ở kinh đô, thời Nam Tề:

Thích Tuệ Tấn họ Diêu, người ở xứ Ngô Hưng. Thuở thiếu thời, Sư mạnh mẽ, mặc tánh du hiệp. Năm bốn mươi tuổi, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ, tâm tự khai mở, bèn lìa thế tục, đến ở chùa Cao Tọa ở kinh đô, ăn dùng rau quả, vận mặc thuần tố, phát thệ trì tụng kinh Pháp Hoa, dụng tâm rất khổ nhọc, hễ cầm quyển kinh thì liền bị bệnh. Sư bèn phát nguyện tu tạo một trăm bộ kinh Pháp Hoa để sám hối nghiệp chướng xưa. Lúc đầu, Sư để dành được một ngàn sáu trăm đồng tiền, khi ấy có bọn giặc cướp đến chỗ Sư, hỏi rằng: "Có vật gì không?". Sư đáp: "Chỉ có tiền tạo kinh để ở chỗ Phật". Bọn giặc cướp nghe thế, tự nhiên bỏ đi. Từ đó, Sư nhóm họp các tín thí quyên tiền tu tạo thành kinh đủ số trăm bộ. Sau khi kinh hoàn thành, bệnh Sư cũng được bớt. Sư trì tụng một bộ kinh Pháp Hoa, được vượt quá tình nguyện. Tình nguyện đã mãn, Sư càng mài giũa tiết tháo thêm vững chắc. Sư thường hồi hướng các phước nghiệp, nguyện sinh về cõi An Dưỡng. Trước lúc qua đời một thời gian ngắn bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: "Tâm nguyện ông đã đầy đủ, sẽ được vãng sinh về Tây phương!". Đến niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba (485) thời Nam Tề, Sư thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi.

Thích Hoằng Minh trụ chùa Bách

Lâm ở Vĩnh Hưng thời Nam Tề:

Thích Hoằng Minh, họ Doanh, người ở xứ Sơn Âm, thuộc Cối Kê.

Xuất gia từ thuở thiếu thời, trinh khổ rất có giới hạnh tiết tháo. Sư trụ chùa Nhạn Môn ở Sơn Âm, trì tụng kinh Pháp Hoa, tu tập thiền định, siêng năng lễ sám, ngày đêm sáu thời không ngưng nghỉ. Mỗi sáng sớm thì bình nước tự đầy, thật do các đồng tử cõi trời cung cấp. Sư có trụ chùa Vân Môn, ngồi thiền tụng kinh, thấy một đứa trẻ đến nghe tụng kinh, Sư hỏi: "Ông là người ở đâu?" Đứa bé đáp: "Tôi là một Sa-di trước kia ở chùa này, vì lén trộm các vật ăn uống của chư Tăng nên nay đọa trong nhà xí. Nghe thượng nhân là người rất có Đạo nghiệp, nên đến nghe tụng kinh, xin giúp cho phương tiện để được thoát khỏi khổ lụy!". Sư liền nói pháp khuyên hóa, lãnh ngộ thấu hiểu rồi biến mất. Lại có con hổ đến, vào trong phòng Sư nằm trước giường, nhìn Sư và nghe kinh, Sư vẫn an nhiên không lay động, lâu sau hổ bèn bỏ đi. Về sau, tại hàng núi Thạch Mỗ ở Vĩnh Hưng, Sư nhập định, lại có sơn tinh đến não loạn. Sư túm được, bèn dùng dây lưng trói lại, Quỷ cầu xin được mở trói, nói rằng: "Về sau không dám trở lại". Sư bèn mở cho, từ đó dứt bặt dấu vết. Sư thị tịch vào khoảng niên hiệu Vĩnh Minh (483-494) thời Nam Tề.

Thích Tuệ Dự trụ chùa Linh Căn ở kinh đô, thời Nam Tề:

Thích Tuệ Dự, là người xứ Hoàng Long, đi đến kinh đô, thưa hỏng hỏi khắp các bậc thầy, khéo bàn luận, giỏi phong nghi. Mỗi lúc nghe chuyện tốt xấu của người vật, Sư liền bịt tai không nghe, hoặc có lúc dùng lời khác nghe thôi. Bình bát, pháp y thuần tố, Sư bảo mỗi ngày ăn một bữa, sau giữa trưa thì tự dứt, siêng năng nêu tiết, lấy việc cứu khổ làm đầu. Sư trì tụng các kinh Pháp Hoa, Niết-bàn, v.v... lại tu tập thiền nghiệp, hiểu rành về năm môn. Có lần Sư đang ngủ thấy có ba người đến gõ cửa đều mặc áo đội mão mới sạch, cầm lọng hoa. Sư hỏi: "Đến tìm ai?".

Ba người đáp rằng: "Pháp sư sắp qua đời nên đến rước!".

Sư bảo: "Có việc nhỏ chưa hoàn tất, có thể thư thả thêm cho một năm nữa được chăng?".

Ba người đáp: "được!".

Đến năm sau, lúc mãn kỳ hạn, Sư thi tịch, hưởng thọ năm mươi bảy tuổi. Lúc đó là niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ bảy thời Nam Tề (494).

13. Thích Siêu Biện trụ chùa Định Lâm ở kinh đô, thời Nam Tề:

Thích Siêu Biện, họ Trương, người ở xứ Đôn Hoàng. Từ thuở nhỏ, Sư đã có thần ngộ riêng phát, tiết tháo lắng sâu, trì tụng kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cương Bát-nhã. Nghe ở kinh đô đang hưng thạnh mở mang Phật pháp, Sư bèn vượt đến bắt đầu từ đường Tây Hà rồi qua Ba Sở, đến Kiến Nghiệp, vòng quanh theo hướng Đông đến Ngô Việt, ngắm nhìn núi sông. Sư trụ lại chùa Thành Bàng, ở Sơn Âm, sau đó một thời gian ngắn về lại kinh đô, Sư trụ tại chùa Định Lâm, nhàn cư dưỡng tố đến trọn đời. Tại Sơn môn, Sư trì tụng kinh Pháp Hoa, hạn định một ngày một biến, tâm nhanh nhẹn miệng lướt theo, thường có thừa sức. Sư đảnh lễ ngàn Đức Phật, có hơn một trăm năm mươi vạn bái, chân không bước ra khỏi cửa hơn ba mươi năm. Đến niên hiệu Vĩnh Minh năn thứ mười

(492) thời Nam Tề, Sư thị tịch tại chùa núi, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi, môn nhân an táng ở phía Nam chùa. Có Sa-môn Tăng Hựu tạo lập bia mộ thờ Sư, dựng ở phía Đông, do Hiện Lưu Hiệp soạn văn.

Thích Pháp Tuệ chùa Thiên Trú ở Sơn Âm, thời Nam Tề:

Thích Pháp Tuệ, họ Hạ Hầu. Thuở thiếu thời Sư đã nắm vững chí khí, tinh khổ hành luật, trang nghiêm như băng tuyết, khoảng cuối niên hiệu Đại Minh (465) thời Tiền Tống, Sư đi về hướng Đông, đến Võ huyệt, ẩn cư tại chùa núi Thiên Trú, trì tụng một bộ kinh Pháp Hoa, chỉ ăn dùng rau quả, mặc áo vải bố, chí khí đam mê vượt hơn mọi người, ở trên gác hơn ba mươi năm chẳng bước chân xuống. Các bậc Vương hầu đến dừng xa giá chỉ kính vái ngoài phòng rồi trở về. Chỉ có Chu Ngung người ở Nhữ Nam rất có sự tin hiểu sâu xa nên đặc biệt được tiếp xúc. Bấy giờ, hoặc có người kính mến Đức hạnh mong cầu lễ bái hoặc nhờ ngung giới thiệu mới được gặp. Đến niên hiệu Kiến Võ năm thứ hai (495) thời Nam Tề Sư thị tịch, hưởng thọ tám mươi lăm tuổi.

Thích Tăng Hầu ở Hậu Cương thuộc kinh đô, thời Nam Tề:

Thích Tăng Hầu, họ Cung, người ở phía Tây Lương Châu. Năm mười tám tuổi, Sư chỉ ăn dùng rau trái lễ sám, đến khi thọ giới Cụ túc, Sư đi khắp khuyến hóa. Khoảng đầu niên hiệu Hiếu Kiến (454) thời Tiền Tống, Sư đến kinh đô, trì tụng kinh Pháp Hoa, Duy-ma v.v... thường cứ hai ngày một biến, cứ như thế hơn sáu mươi năm. Tiêu Tuệ Khai đến đất Thục, thỉnh Sư cùng đi. Về sau, Tuệ Khai và Nghĩa Gia mắc tội trở về lại cửa cung, Sư mới về lại kinh đô, đến Hậu Cương xây dựng động đá làm chỗ an thiền. Từ khi thọ giới Sa-di về sau đến lúc xả bỏ thân mạng, với các thứ cá thịt tanh nồng, Sư không hề để vào miệng. Bóng chân hơi nghiêng lệch, liền sửa lại ngay ngắn mà qua. Đến niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ nhất (483) thời Nam Tề, Sư cảm thấy trong người không được khỏe, đến giữa trưa, không thể ăn, Sư bèn xin nước súc miệng, rồi chắp tay thị tịch, hưởng thọ tám mươi chín tuổi (mười bốn duyên trên đều xuất xứ từ Lương Cao Tăng Truyện quyển 12 và ở Nội Điển Lục quyển 10, v.v...)

Thích Chí Trạm trụ chùa Hàm Thảo, ở núi Nhân Đầu, thuộc Thái Nhạc, thời Bắc Ngụy:

Thích Chí Trạm, người ở xứ Sơn Nhẫm, thuộc Tề Châu, là đệ tử Tằng Tôn của Lãng Công. Sư lập hạnh thuần hậu, xét việt ít nói, lấy sự nhân từ cứu giúp làm chuyên. Mỗi lúc đến chỗ các loài cầm thú mà chúng nó chẳng lìa đàn tán loạn. Sư ở chùa Hàm Thảo trong hang sâu ở núi Nhân Đầu. Chùa đó do Samôn Cầu-na-bạt-ma xây dựng. Sư đọc tụng kinh Pháp Hoa lấy làm hạnh nghiệp thường. Đến ngày sắp thị tịch, ở Nam Lương có Samôn Bảo Chí tâu với vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) rằng: "Có vị Thánh Tăng Tu-đàhoàn ở chùa Hàm Thảo vốn người ở huyện

Sơn Nhẫm đất Bắc hôm nay nhập Niết-bàn!".

Các Đạo tục ở Dương Đô nghe lời báo của ngài Bảo Chí đều từ xa xoay về hướng Bắc mà lễ bái, tức lúc Sư thị tịch vậy. Sư thị tịch mà không có các ưu não, đoan nhiên an tọa và lắng dần hơi thở, hai bàn tay mỗi bên duỗi một ngón. Có vị Sa-môn người Thiên trúc giải thích rằng: "Nếu người chứng đắc Nhị quả thì duỗi hai ngón tay. Lấy đó mà nghiệm biết là Sư chứng đắc sơ quả". Bèn đón rước an táng tại núi Nhân Đầu, xây tháp mà tôn trí, dùng đá than bùn để bôi đắp, các loài chim thú không dám đến giẫm đạp ô uế, đến nay hiện vẫn còn. (Xuất xứ từ tục Cao Tăng Truyện quyển 28).

Sa-môn trụ chùa Ngũ Hầu ở Phạm Dương:

Sa-môn ở chùa Ngũ Hầu, bị mất tên, cũng không biết Sư là người xứ nào! Sư tinh tấn khổ tiết, thường trì tụng kinh Pháp Hoa làm chánh nghiệp, ngoài ra không có chí nguyện nào khác. Đến lúc già suy, Sư thị tịch tại chùa. Lúc Sư mới thị tịch, các đệ tử đưa nhục thân an táng dưới cội Bồ-đề, về sau mới cải táng, hài cốt đều vữa nát, chỉ chiếc lưỡi vẫn còn không rã mục, mọi người đều cho là "Nhờ trì tụng kinh Pháp Hoa nên chiếc lưỡi không hư hoại".

Thích Pháp Thường ở Ung Châu:

Thích Pháp Thường, chuyên chú nhất tâm trì tụng kinh Pháp Hoa, chẳng vui thích chốn nhân gian, Sư thường đi khắp nơi rừng núi, bèn đến ẩn cư ở núi Bạch Lộc, ngày đêm thường trì tụng kinh điển, chiêu cảm có một đồng tử thường đến cung cấp các thứ bánh, cơm, v.v... tự nhiên mà có. Đến lúc Sư thị tịch, có mây màu tím bủa khắp núi, có mùi thơm lạ tỏa ngát cùng khắp. Môn nhân rước nhục thân Sư tôn trí dưới hang núi, trải qua nhiều năm, hài cốt đều vữa nát, chỉ còn chiếc lưỡi vẫn tươi hồng như cũ, mọi người trông thấy đều tùy hỷ.

Chiếc lưỡi tụng kinh ở Tinh châu, thời Bắc Tề:

Dưới thời Võ Thành đế (Cao Chạm 561565) đời Bắc Tề, bên cạnh núi Đông Khán ở Tinh châu, có người đào đất thấy một chỗ đất màu vàng nhạt, cùng những người chung quanh đều lấy làm lạ, sau đó lại thấy một vật hình dáng như hai môi người, trong đó có một chiếc lưỡi màu hồng đỏ tươi đẹp, bèn đem việc ấy tấu trình. Vua Võ Thành Đế hỏi các vị Đạo nhân nhưng chẳng người nào biết. Có Sa-môn Đại Thống Pháp Thượng tấu rằng: "Đó là người vì kinh Pháp Hoa, có được quả báo sáu căn không hư hoại như thế, tụng đủ số ngàn biến sẽ có ứng nghiệm như vậy!". Vua bèn ban sắc bảo Trung thư xá nhân Cao Trân rằng: "Ông là người có tín hướng, nên đến xem, nếu có linh dị thì nên rước về tôn trí ở chỗ thanh tịnh trang nghiêm để thiết trai cúng dường!". Cao Trân vâng sắc ban, liền đến đó, nhóm họp các vị Sa-môn thường trì tụng kinh Pháp Hoa tay bưng lò hương, thiết trai đi nhiễu quanh mà chú nguyện rằng: "Bồ-tát nhập Niết-bàn năm tháng đã lâu xa, lưu hành trong thời tượng pháp, vâng phụng không sai lầm, xin nên hiện điềm cảm ứng". Vừa phát lời như thế, môi lưỡi ấy cùng lúc máy động, tuy không phát ra tiếng mà tương tợ như đang tụng đọc.

Các người đồng thấy không ai chẳng nổi ốc khắp mình. Cao Trân dâng trạng văn tấu trình, vua ban chiếu sai làm hộp đá đặt vào đó và dời đến sơn thất.

Thích Tuệ Siêu trụ chùa Chân Ngộ, ở Lam Cốc, núi Chung Nam, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Siêu, họ Phiếm, người ở xứ Kiến Nguyên, thuộc Đan Dương, bẩm chất Sư ôn hòa rộng thoáng, lập tánh hoài nhân. Đến tuổi đôi mươi, sư nhàm chán thế tục, tự xuất gia. Sau đó, Sư trì tụng kinh Pháp Hoa. Nghe Thiền sư Tuệ Tư núi Đại Tô ở Quang châu, là bậc tỏ ngộ Nhất thừa, khéo suốt thông Ba quán, Sư bèn cùng Sa-môn Trí Giả ở núi Thiên Thai, Mạng công ở Tiên Thành dốc chí tìm sâu, trải nhiều năm cầu học, hạnh ưu việt, trí tuệ tỏa xa, đức trùm các bậc Hiền giả ở đương thời. Thiền sư Tuệ Tư có lần đối trước chúng bảo rằng: "Thần thái của Tuệ Siêu đã thấu đạt nhân nhẫn". Đến lúc ngài Tuệ Tư đến Hành lãnh, Sư lại đi cùng đường, lưu ở tụng kinh, năm tháng chóng đổi dời. Từ đầu đời Tùy mở mang ngự trị, từ phương Bắc, Sư đến Tung Cao, chỉ ăn bánh bột thuốc, mong đến trọn đời già lão. Dưới đời Tùy, có Thái tử Dũng thỉnh mời nhóm họp các bậc danh đức đều tụ hội ở Đế Thành. Vì Sư là bậc có hạnh nghiệp cao vượt khác thường nên đặc biệt rất được lưu tâm cúng dường, mà Sư cẩn trọng, ngưng nhiếp, chẳng đoái hoài thế sự phù hoa. Đến lúc Thái tử Dũng bị phế miễn, Sư không liên lụy một điều gì.

Về sau, Sư dời đến trụ chùa Định Thủy, nêu cao âm đức, nên các Đạo tục đều quy hướng, tôn kính giới hạnh của Sư. Gặp được Pháp sư Tịnh nghiệp dự định trụ chùa Ngộ Chân ở Lam cốc, kính trọng Sư có Đạo hạnh nên đích thân đến đón rước, cùng ẩn cư suốt tám năm. Ngài càng siêng năng gấp bội về ba Tuệ và Đại thừa. Nhân lúc chùa Thiền định bắt đầu xây dựng nền móng. Vua Dương đế (Dương Quảng 605-617) phát chiếu thư thỉnh Sư vào hành Đạo, Sư từng lấy cớ bị bệnh mà chối từ. Sau đó vua chấp thuận để Sư về lại núi. Đức hạnh Sư cảm đến vật tình rất còn cung cấp, các hàng quý vọng ở Tứ Xuyên, quan dân cả huyện không ai chẳng ủy chất đầu thành, cầu thỉnh Sư lưu truyền hương đức, và bắt đầu xây dựng Già-lam, kế lại hợp dâng gạo thóc cúng dường. Đến đầu thời Tiền Đường, tiếng tăm Sư càng hơn trước. Các bậc danh tăng ở kinh ấp như Samôn Tuệ Nhân, Bảo Cung, v.v... với tâm tình mến mộ trầm ẩn đều đến nương náu dưới bóng thông che, nằm nghiêng trên đá luận bàn về Đạo nghĩa, các vị ấy đều nói: "Đây mới thật là pháp lạc xuất yếu!". Về sau, Sư bị bệnh chỉ trong thời gian ngắn, các đệ tử quỳ hỏi. Sư đáp: "Tôi vẫn như thường! Sống hoài không mừng, tối chết chẳng lo!". Sư bèn xoay mặt về hướng Tây, ngồi thẳng và bảo: "Đệ nhất nghĩa không, thanh tịnh trí quán". Nói như nhập định, giây lâu thì Sư thị tịch, hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi. Lúc đó là ngày mồng 06 tháng 12 niên hiệu Võ Đức năm thứ 5(622) thời Tiền Đường.

Di cốt Sư để lộ bày giữa khoảng thông đá hơn một tháng mà nhan sắc không thay đổi. Thiên sách thượng tướng nghe thế, khen rằng: "Ít có thay!" và sai người đến xem, thấy Sư vẫn ngồi thẳng, tay để chồng lên nhau như lúc còn sống. Từ năm chín tuổi, Sư vào đạo, liền trì tụng kinh Pháp Hoa suốt hơn năm mươi năm, tất cả có hơn vạn biến, cảm ứng linh dị, có được các điềm lành không thể nói hết. Các đệ tử như Sư Sa-môn Pháp Thành, v.v... xây dựng ngôi tháp trắng ở ngọn núi phía Bắc của chùa để thờ Sư.

Thích Tuệ Hiển trụ chùa Đạt Noa ở nước Bá Tể:

Thích Tuệ Hiển, là người nước Bá Tể, xuất gia từ thuở thiếu thời, khổ tâm tinh chuyên. Sư lấy việc trì tụng kinh Pháp Hoa làm chánh nghiệp, cầu phước thỉnh nguyện, được nhiều sự thành đạt. Nghe có giảng Tam luận, Sư bèn đến thọ học, giáo pháp mới nhập thần, càng thêm tiếp nối.

Mới đầu, Sư trụ chùa Tu Đức ở Bắc bộ của bổn quốc, lúc có chúng đông thì giảng, không có chúng thì trì tụng. Mọi người ở bốn phương xa nghe Đạo phong của Sư đua nhau kéo đến núi ồn náo tiếp mời, Sư bèn đi về hướng Nam, ở núi Đạt Noa. Núi đó rất sâu hiểm, nhiều lớp xoắn quanh lên đảnh vững chắc, dù có ai leo lên cũng lắm gian nguy. Sư tĩnh tọa trong đó, chuyên nghiệp như xưa, và thị tịch ở đó. Các bạn đồng học đưa nhục thân Sư đến đặt trong hang đá, hổ đến gặm ăn hết cả xương cốt, chỉ lưu lại đầu lâu và chiếc lưỡi, qua ba năm, chiếc lưỡi ấy càng thêm hồng đỏ mềm mại hơn bình thường, sau mới biến thành màu tím cứng như đá. Các Đạo tục lấy làm lạ mà kính trọng, bèn tôn trí và bít lại trong tháp đá. Lúc Sư thị tịch hưởng thọ năm mươi tám tuổi, tức niên hiệu Trinh Quán năm thứ nhất (627) thời Tiền Đường.

Thích Thiện Tuệ trụ chùa Tân Lương ở Ly Sơn, thời Tiền Đường:

Thích Thiện Tuệ họ Trần, người ở xứ đất Ôn, Hà Nội, thông hiểu các sách vở, bao gồm tất cả văn nghĩa, cho đến chín chương luật lịch, thất diệu, Sư đều ngậm trong lòng, vỗ tay phù hội. Sư mới tư duy sâu xa "Mọi việc ở đời chung cùng đều rơi vào cát bụi", bèn cởi bỏ áo mão, ném vất trâm cài, bắt đầu quy hướng về chư tăng.

Mới đầu, Sư trụ chùa Bành Thành ở Trừ Châu, trì tụng kinh Pháp Hoa, nghe học luận nhiếp Đại thừa. Bấy giờ, gặp lúc giặc cướp lan tràn đói kém giao xâm, mà Sư ôm giữ sự đói khổ tự cố gắng kính phụng giáo pháp không thôi nghỉ, tẩy rửa dơ bẩn, giữ gìn thanh tịnh càng sáng sạch hơn ngày thường. Chỉ vì thôn ấp ở biên địa, ít học, nhận biết sai lầm, đến như âm cổ mà mọi người luận bàn lẫn lộn. Tuy trở lại tục ngữ thời thông, mà ý Sư hiện còn nhã chánh, thưa hỏi khắp các bậc thông minh tỏ ngộ, thì trở lại đồng như nghi xưa, nên khoảng cuối niên hiệu Đại Nghiệp (617) đời Tùy, Sư mang tích trượng từ hướng Tây đi vào, gặp phải bọn giặc cướp lấy xiêm y sắp hết, Sư chỉ còn chiếc áo vải bố thô xấu để che thân, còn ôm bình bát bị bể thường sung vào vật tịnh để thọ dụng. Đã đến cửa quan ải, vốn thiếu dấu hiệu văn, Sư bèn giữ chánh niệm đi thẳng tới theo cửa mà qua. Bấy giờ, trong ngoài đều nêu bày mũi nhận, mà Sư không hề ngăn dừng.

Vào đầu tháng 10, Sư mới đến kinh đô, gặp lúc Sa-môn Cát Tạng đang giảng kinh Pháp Hoa, rất xứng hợp với Bổn đồ, Sư bèn nương tựa mà nghe học. Hình phục của Sư rách rưới xấu xí, mọi người đều không tiếp nhận, Sư bèn quét tuyết, tựa nơi đất, chỉ mặc quần đơn. Đô giảng vừa xướng, Sư lắng nghe từng câu, phỏng định về văn kinh. Ngài Cát Tạng đã mở mang, Sư khởi tâm mạnh mẽ tiếp thừa yếu chỉ, mong thông nghĩa lý, do tình được cả hai, chẳng rảnh nhẫn lạnh, Sư vui cười hớn hở như mua được vật báu. Đến hết mùa Đông, Sư vẫn thường như thế. Đại chúng mới khen ngợi, đem văn từ yếu chỉ để hỏi, Sư không quên sót mảy may. Mới vì mọi người đến nghe giảng pháp, chùa Thiền Định có Sa-môn Pháp Hỷ cởi áo đón rước Sư, dẫn đến trong phòng. Trí Quán không lạm, Sư lại cùng ngài Pháp Hỷ cả hai vị cùng nêu bày khuôn phép tốt đẹp.

Đến niên hiệu Võ Đức năm thứ nhất (618) thời Tiền Đường, Sư nhận chùa Tân Lương ở Lam Điền. Phong tục ở đó vốn là Ly Nhung, mọi người cùng nhau ngang bướng, chấp đối, Sư bèn dẫn giúp đào luyện chuyển hóa, trong mười nhà có hết chín nhà.

Nhưng, tánh Sư vốn mến thích anh hiền, vui cùng khắp cả, từ hướng Tây đến hướng Đông có hơn trăm dặm. Các chốn núi rừng có tiếng tăm, vùng đất có thắng cảnh, Sư đều xây dựng thiền phường, do đó mà những người trốn lánh đều nương tựa được an vui.

Đến tháng giêng niên hiệu Trinh Quán năm thứ chín (635) thời Tiền Đường, ngài thị tịch tại tinh xá Lương Tuyền thuộc phía Nam Ly Sơn, hưởng thọ bốn mươi chín tuổi. Lúc đầu, Sư vất bỏ sách vở thế tục tới huyền môn này, nói năng Sư chẳng nhắc lại, chuyên tâm với Đạo nghiệp, xét lời giảm ăn, mang trì luật nghi, nghĩ nhớ nhân từ, nghinh dừng dung lữ, xem trọng kinh giáo. Trong đó, việc tụng kinh Pháp Hoa, Sư chẳng đổi thay ý chí. Nếu có người chưa từng thấy thì phải đích thân thấy, mà cần tâm gần xét, như gặp được hạnh yếu, nhiều ngày trì tụng, lấy làm nền tảng của sự huân tập.

Thích Tuệ Đạt ở Thái Nguyện đời Tấn:

Thích Tuệ Đạt, người xứ Đại Nguyên, tụng kinh Pháp Hoa hơn năm ngàn biến, oai nghi đi ngồi, có tiếng không ngưng nghỉ, giữ gìn mạng sống chúng sanh, nhìn thẳng ngó xuống, nếu dưới đất có các loài trùng kiến, Sư hẳn xoay thân mà lánh né, không dám giẫm đạp qua. Như có người hỏi, Sư đáp rằng: "Các vật ấy cùng với tôi sinh tử bất định, sắp chẳng trước thành Chánh giác, làm sao có thể vọng khinh thường ư?".

Đến tháng 4 niên hiệu Trinh Quán năm thứ 8 (634) thời Tiền Đường, Sư ngồi kiết già mà thị tịch. Mọi người cho là Sư đang nhập định, bèn để yên trải qua năm đêm, dường như Sư thật thị tịch, lại chẳng thối rửa, mới khiêng vào tôn trí trong hang.

Thích Pháp Thành chùa Ngộ Chân, ở núi Chung Nam thời Tiền Đường:

Thích Pháp Thành họ Phiền, người ở xứ Vạn Niên, thuộc Ung Châu. Từ thuở nhỏ, Sư xuất gia nương trụ chùa Vương Hiệu ở Lam Điền, kính thờ Sa-môn Tăng Hòa làm thầy. Ngài Tăng Hòa là người rất được mọi người trong hương tộc kính trọng, kính thờ như Thánh. Có người muốn hại, ban đêm vào phòng, thấy trong cửa có lửa dữ sáng lên trên màn, bèn liền lui ra, hối hận. Tánh ngài Tăng Hòa thích uống nước suối trong sạch thanh khiết nguyên vẹn, có người đùa bỡn thầm đem xương dê ngâm vào nước, ngài Tăng hòa vốn không biết nên uống vào, bèn bị ói mửa. Đó là thầm cảm ngầm nhận biết là như vậy.

Ngài (Pháp Thành) kính mong được sự dạy răn, siêng năng cố gắng tụng kinh Pháp Hoa, lấy đó làm việc thường. Sư lại đến bái yết Thiền sư Tướng ở chùa Thiền Lâm, học hỏi về Định hạnh, đức Sư lớn tốt, mọi người ở đương thời đều tôn kính, tập học lại giỏi, nên đại chúng đều kính trọng. Về sau, Sư ở chùa Vân Hoa, làm giềng mối chỉnh lý tăng chúng. Vua Văn Đế (Dương Khiêm 581-605) đời Tùy kính trọng đức hạnh Sư, xin vâng theo giới pháp, Sư bèn dâng biểu cố từ chối, buông lời chống đối lễ nghi, bèn mang tráp sách dài, đi khắp các danh sơn, tìm vết bạn Ưu Thắng, đều tiếp thừa Chi Đạo. Nhân gặp được Siêu Công đang ẩn cư nơi sâu lắng, Sư bèn kết tâm mong nương gá ở Lam cốc. Chỗ đất đã nhỏ hẹp chỉ để được một chiếc giường, xoay chuyển kinh hành, sợ nghiêng đổ xuống vực sâu, Sư bèn chẻ vết mở rừng, vạch mây gá cảnh, dùng cỏ tranh tu bổ, rui cửa che sơ, tình sự cùng nương tựa, vui vẻ được phù hợp, nay gọi đó là chùa Ngộ Nhân. Với Tam-muội Pháp Hoa, Sư hết lòng thực hành, gột rửa trong ngoài, ôn lại sớm tối, mộng cảm Bồ-tát Phổ Hiền khuyên ngài viết chép Đại giáo. Sư nói: "Đại giáo Đại thừa là trí tuệ của chư Phật, cái gọi là Bát-nhã". Sư lại tự tay mình biên chép kinh Pháp Hoa đang để bày trên đất, vì có công việc phải đi nơi khác, chưa kịp thâu gom, gặp khi mưa lớn đầy ngập khe ngòi, Sư bèn đến xem thì cả án kinh đều khô, ngoài ra tất cả đều bị ngập nước. Sư từng nằm nghiêng trên cành thông, bèn bị rơi xuống từ trên cao, chưa đến dưới khe nước, bất chợt đã lên trên bờ cao, không tổn hại mảy lông.

Đến cuối mùa hạ niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bốn (640) thời Tiền Đường,

Sư bị bệnh, ngài tự biết sẽ qua đời, nên nguyện sinh về cung trời Đâu-suất, đòi lấy nước tắm gội xong, lại đòi kết xe kiệu, và đến bên cạnh tự xem xét, không cho bày biện vinh hậu. Vừa đến ngày cuối tháng, khi minh tường xuất hiện, tự nhiên vô cớ Sư bảo rằng: "Muốn đến, chỉ nén vào, tôi chưa rảnh để đàn ca". Và nhìn lại vị thị giả mà Sư bảo rằng: "Tôi nghe các hành pháp đều vô thường, sinh diệt không ngưng nghỉ. Vãng sinh về chín phẩm sen vàng, lời nói ấy thật hiệu nghiệm. Nay có Đồng tử đến đón rước đứng ngoài cửa đã lâu, nên Tôi đi đây! Các ông, v.v... nên nhớ rằng Đức Phật có chánh giới, không được có khuyết phạm, sau sẽ ăn năn hối hận!". Nói xong, từ miệng Sư phát ra ánh sáng, chiếu soi khắp trong các gian nhà, lại có mùi thơm lạ thoảng đến, chỉ thấy Sư ngồi thẳng nghiễm nhiên tư duy, bất chợt Sư thị tịch, hưởng thọ bảy mươi tám tuổi.

Sự tụng tập của Sư chỉ trong một mùa Hạ, với kinh Pháp Hoa, tính ra có đến năm trăm biến, thời gian còn lại, Sư đọc tụng gồm cả thực hành còn được hai biến. Nếu có khách đến, thì phải nói chuyện, trừ trong kinh bộ ra, Sư không nói điều gì khác. Lược tính năng lực chuyên cần của Sư trong vòng mười năm có hơn muôn biến.

Thích Tuệ Thuyên chùa Đại Trang Nghiêm ở kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Thuyên, họ Tiêu, là con của anh trai Đặc Tấn Tống Công Võ ngày nay. Cha sư làm quan giữ chức Lương Công ở đời Tùy. Ông nội Sư tức là vua Minh Đế (Tiêu Quy 562-586) thời Hậu Lương, là người tánh độ khôi ngô đơn giản, chí dụng cao sâu. Người cô của Sư là Hoàng hậu của vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) đời Tùy. Từ thuở nhỏ đến lúc trưởng thành, Sư thường ở cung quyết, mến mộ ưa thích thoát tục mà không do đâu để thành đạt được. Đến năm Sư hai mươi tuổi, vua chọn con gái Tần Hiếu Vương làm vợ cho Sư. Đó chẳng phải là sự ước nguyện của Sư, vì việc chẳng thể đừng, nên bấy giờ Sư phải thực hành kết hôn đôi lứa. Đến khi người vợ qua đời, Sư mới được toại nguyện xưa. Lấy nhà họ Trịnh ở Đông Đô, tham dự tại đó mà xuống tóc. Đến đầu niên hiệu Võ Đức (618) thời Tiền Đường, Sư mới về lại kinh đô, trụ chùa Đại Trang Nghiêm, nghe nhiều bộ mà chỉ lấy kinh Pháp Hoa và luận Nhiếp Đại Thừa làm tâm đắc. Sư có hoài bão vì thiên thập, giỏi về Thảo lệ, tùy theo nét bút đặt để dùng làm mẫu mực.

Nên những lúc đề tựa kinh, làm biển ngạch chùa, mọi việc đều đưa đẩy nhờ đến Sư.

Lại có người em là Sa-môn Trí Chứng xuất gia cùng ở chung chùa, tụng thuộc lòng kinh Pháp Hoa, tức là con của Thái Phủ Khanh, anh của Tống Công. Sa-môn Trí Chứng cùng người anh (= Tuệ Thuyên) lần lượt thị tịch, vì gia đình đời đời kính tin tôn thờ Phật pháp, chỉ mở rộng kinh Pháp Hoa, đồng tộc lớn nhỏ đều thành tụng, nên sự mở mang kinh Pháp Hoa của dòng họ Tiêu, các Đạo tục đều khen ngợi rất dồi dào. Đặc Tấn soạn sớ, gồm có hơn mười nhà, gặt hái thanh hoa, dùng cõi lòng để uốn nắn, khắc thành quyển số, thường tự giảng nói, mở rộng. Có lúc thỉnh các bậc danh tăng ở kinh đô chỉ bày cho các vết lụy. Hoặc nhóm họp thân thuộc tăng ni cả mấy mươi vị, tùy thời cấp ban bốn thứ cần dùng không thiếu. Nên chỗ đến của phong lục chỉ còn thông cứu giúp. Thái phủ tâm tình còn tốt lành, lấy việc đọc tụng làm đầu. Nên từ lúc còn sống đến lúc qua đời, đọc tụng cả muôn biến, thúc giục mọi người biên chép tất cả có ngàn bộ. Mỗi lần sự đến triều tham thì đều có sai người mang kinh đến trước. Đến chỗ công sự có được chút rảnh rỗi liền đọc tụng, triều ngũ kính ngưỡng cho là tuyệt luân. Từ khi Phật giáo truyền đến phương Đông thì tỏa vị càng xa, nhưng người tiếp thừa thọ trì, đọc tụng ở đời, ít có ai được như thế. Nên chỉ có họ Tiêu xứng đáng làm mẫu mực cho thiên hạ.

Sa-di Đàm-Vô Kiệt ở Hoàng Long, thời Tiền Tống:

Khoảng niên hiệu Vĩnh Sơ (420-423) thời Tiền Tống, có Sa-di Đàm-Vô-kiệt ở Hoàng Long, đọc tụng kinh Quán Thế Âm, và tu khổ hạnh, cùng các quyến thuộc đồ chúng tất cả có hai mươi lăm người đến tìm nước Phật, trải qua các xứ hoang vu nguy hiểm, chí khí trinh thuần càng vững chắc, khi đã đến nước Xá-Vệ ở Thiên-trúc, giữa đường gặp một đàn voi núi, Sư mang kinh tụng niệm xưng danh quy mạng, có một con sư tử từ trong rừng đi ra, đàn voi kinh hãi tuôn chạy. Sau đó, lại có một đàn trâu hoang gầm rống đi đến, sắp muốn làm hại, Sư lại như trước quy mạng, bỗng có một con chim thứu lớn bay đến, đàn trâu bèn kinh hãi chạy tan, Sư nhờ đó được thoát khỏi. Sư có được những sự cảm ứng bởi thành tâm lúc gặp hiểm nạn mà thoát khỏi, đại loại đều như thế. (Với duyên này, các Pháp sư Gia Tường, v.v... dẫn làm ứng nghiệm của phẩm "Quán Thế Âm", nay kinh "Quán Thế Âm", chẳng phải phẩm "Quán Thế Âm", mà chính là kinh "Quán Thế Âm thọ ký", vì muốn cho biết được đồng khác, nên trong đây xin biên lục).

Thích Pháp Tự trụ núi Thạch thất ở Tấn Thục:

Thích Pháp Tự, họ Hổn, người ở Cao Dương, đức hạnh thanh tú cẩn thuần, ăn dùng rau trái tu thiền. Về sau, Sư đến đất Thục, ở gò mả Lưu Sư, thực hành hạnh đầu đà ở trong hang núi, hổ khóc chẳng làm thương tổn, Sư trì tụng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Kim Quang Minh, v.v... thường ở trong động đá vừa thiền vừa tụng. Đang lúc giữa tháng hạ, Sư xả mạng trong động đá, ba ngày sau không có mùi hôi thối, cạnh nhục thân Sư có mùi thơm lạ, qua mười ngày mới hết, mỗi đêm lại phát ra ánh sáng soi chiếu đến mấy dặm. Người trong thôn đến xây tháp thờ Sư.

Thích Tăng Dực trụ núi Pháp Hoa ở Sơn Âm, thời Tiền Tống:

Thích Tăng Dực là người ở Dư Hàng, thuộc Ngô Hưng. Từ thuở thiếu thời, Sư đã tin hiểu, sớm có chí tiết muốn thoát trần. Lúc mới xuất gia, Sư trụ chùa Lô Sơn, nương Samôn Tuệ Viễn tu học, ăn dùng rau trái chay tịnh thuần khiết khổ tiết, rất được mến trọng trong môn nhân.

Về sau, Sư đến Quan Trung, lại theo Pháp sư La-thập, với các kinh luật luận, Sư đều tự tham học qua, lại tụng đọc một bộ kinh Pháp Hoa.

Niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ mười ba (417) đời Đông Tấn, Sư cùng đồng bạn là Samôn Đàm Học đến Cối Kê, hỏi thăm đường đến đất Tần, nhìn về phía Tây bắc có năm ngọn núi nối liền nhau, hình dạng như núi Kỳ-xà-quật, bèn bện cỏ tranh thành am, gọi là tinh xá Pháp Hoa. Thái Thú Mạnh Khải, Trần Tải là người giàu có đều nghiêng lòng kính vái đức hạnh Sư nên cùng nhau giúp đỡ để xây thành. Sư ăn rau trái, uống nước khe suối suốt hơn ba mươi năm, trì tụng kinh Pháp Hoa, công phu chẳng ai bằng, giữa đêm khuya bỗng thấy có ánh sáng, thì ra là Đại Bồ-tát Phổ Hiền hiện trước Sư.

Đến niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi bảy (450) thời Tiền Tống, Sư thị tịch, hưởng thọ bảy mươi tuổi, dựng lập văn bia tại chùa núi để tán dương đức hạnh Sư.

Thích Trí Thông chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn, thuộc Nhuận Châu, thời Tiền Đường:

Thích Trí Thông, không rõ người xứ nào. Xưa, Sư trụ chùa Bạch Mã ở Dương Đô. Sau,

Sư đến ở chùa Chí Quán. Khi nhà Trần bình định, Sư sang sông đến trụ chùa An Lạc ở Dương Châu. Nhà Trần sụp đổ Sư muốn trở về nhưng suy nghĩ không có phương kế, bèn ẩn núp trong cây thu bên cạnh dòng sông, tụng kinh Pháp Hoa, qua bảy ngày không cảm thấy đói, thường có bốn con hổ đi nhiễu chung quanh mà thôi, không chịu ăn, đã đến ngày thứ mười, Sư bảo: "Thân mạng ta chỉ còn trong chốc lát, các ngươi cần thì cứ ăn". Các con hổ nói: "Từ khi tạo lập trời đất đến nay, chưa hề có việc ấy". Bỗng có một ông lão tuổi chừng tám mươi, dưới nách cắp chiếc thuyền mà bảo rằng: "Sư muốn qua sông đến chùa Thê Hà thì nên nhanh chân lên thuyền!". Bốn con hổ đồng một lúc trong ánh mắt lệ đổ ràn rụa. Sư nói: "Cứu giúp ách nạn chính là ngày nay, có thể cùng đưa bốn con hổ theo luôn". Bỗng chốc thuyền qua đến bờ phía Nam, nhìn lại, thuyền và ông lão không biết đã biến mất nơi nào. Sư dẫn bốn con hổ đồng đến chùa Thê Hà, đến phía Tây tháp xálợi kinh hành ngồi thiền, thệ chẳng nằm ngủ, Tăng chúng trong chùa có tám mươi vị đều không dám bước ra khỏi viện. Những lúc có việc xấu thì một con hổ vào chùa lớn tiếng mách bảo với chúng tăng, do đó mà mọi người đều cảnh giác. Theo lệ thường, Sư cho rằng núi rừng cách xa, lương thực gạo thóc khó khăn hiểm trở, bèn nhóm họp ba trăm thiện nam tín nữ ở Dương Châu cùng gạo làm phước, riêng mỗi người một thạch, mỗi năm đưa đến một lần. Do đó mà lương thực cung cấp ở núi được tiếp tục, các đạo tục, đến cả cầm thú, Sư đều cấp giúp đầy đủ. Đến ngày mồng 08 tháng 04 niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi ba (649) thời Tiền Đường, sau lúc tiểu thực, Sư sang chùa Chỉ Quán, đảnh lễ linh ảnh của Đại sư, bưng lò hương đi đảnh lễ cùng khắp, lại đến chỗ tháp mộ ở chùa Hưng Hoàng lễ bái, rồi về lại phòng cũ, Sư an tọa mà thị tịch, có mùi thơm lạ lan tỏa khắp nơi. Khắp thành Đan Dương, các Đạo tục lãnh thọ giới pháp từ Sư có hơn ba ngàn người đều đến núi thọ tang buồn thương. Sư hưởng thọ chín mươi chín tuổi.

Thích Trí Nghi chùa Tĩnh Pháp ở kinh đô, đời Tùy:

Thích Trí Nghi, họ Khương, là con cháu của vua nước Khương Cư, gặp lúc quốc nạn nên theo hướng Đông tìm đến đất Ngụy và được phong ở Tương Dương, do đó trải qua thời gian lâu có hơn mười đời ở đó. Năm bảy tuổi, mới vào học, Sư tìm văn Nhất thừa, hoàn toàn không có thầy chỉ dẫn, Sư tự tỏ ngộ, kính trọng Phật tông. Tuy ban ngày tạm theo tục duyên, nương các bạn học, nhưng ban đêm, Sư đọc tụng kinh Pháp Hoa, cuối cùng văn từ thuần thục, mới đầu cha mẹ Sư không nhận biết. Đến năm mười ba tuổi, Sư kính bái từ tạ, liền được xuống núi xuất gia. Sư lại học đại bộ, tình dụng càng lớn. Năm hai mươi bốn tuổi, Sư mới thọ giới Cụ tục, ở tại chùa trải qua nhiều năm, chuyên tâm đọc tụng kinh Pháp Hoa, thường tư duy về định tuệ. Nếu chẳng phải công việc cần thiết quan trọng thì Sư không bước ra khỏi cửa sân, nên những người đến tham cầu hầu ít được thấy mặt Sư. Sư phúng tụng tỏ hiểu rõ, thì Hóa nhân hiện ra trước mặt, an ủi người ấy, tụng đến ngàn bộ thì được ngàn Đức Phật cùng giữ gìn, nếu tụng đến muôn bộ thì sinh về cảnh giới Tịnh độ. Mọi người nghe lời ấy rồi, vui mừng càng cố gắng tâm chí. Sư thị tịch lúc hơn bảy mươi tuổi.

QUYỂN 5

VIII. PHÚNG TỤNG THẮNG ÍCH (Phần 3)

1. Thích Di Tục

2. Sử Ha Thệ

2. Tăng Huyền Tú

4. Tăng Đạo Tuệ

5. Thích Đạo Thái

6. Thích Phổ An

7. Thích Tăng Định

8. Sa-di đời Tùy

9. Thích Tăng Triệt

10. Thích Tăng Diễn

11. Sầm Văn Bổn

12. Lăng Tiêu Cảnh.

13. Vi Trọng Khuê

14. Thích Tuệ Hiến

15. Thích Tuệ Hòa

16. Thôi Nghĩa Khởi

17. Cái Hộ

18. Mộ Dung Văn Sách

19. Sa-di đời Tống

20. Chí Thông

21. Bà quả phụ ở Lương châu

22. Cao Thủ Tiết

23. Thích Minh Diệu

24. Thích Tăng Hồng

25. Vương Châu đời Tống

Thích Di Tục ở Lễ Tuyền thuộc Ung Châu, thời Tiền Đường:

Thích Di Tục, không rõ Sư người xứ nào, khoảng đầu thời Tiền Đường Sư ở nhà Dương Lục tại làng Nam Mỹ, huyện Lễ Tuyền, Ung Châu. Trấn thường cúng dường, thanh kiệm ít muốn. Sư chỉ trì tụng kinh Pháp Hoa lấy làm hạnh nghiệp chánh, ngày đêm nối nhau đến số mấy ngàn biến. Đến đầu niên hiệu Trinh Quán (627) thời Tiền Đường, vì bị bệnh sắp thị tịch, Sư căn dặn với người bạn là Sa-môn Tuệ Quách rằng: "Từ trước đến nay tuy tụng kinh, trong ý chỉ mong có linh nghiệm, vì sống trong mông tục, tin hướng về thiện. Khi tôi chết, không cần tẩn liệm trong quan tài, cứ để mình trần mà an táng, mười năm sau hãy phá ra xem, nếu chiếc lưỡi bị vữa nát thì biết không có công năng thọ trì, nếu vẫn còn, thì nên báo cho các Đạo tục xây dựng một ngôi tháp thờ, để nói lên sự linh cảm!". Nói xong, Sư thị tịch, mọi người bèn y theo lời Sư mà an táng. Đến niên hiệu Trinh

Quán năm thứ mười một (637) thời Tiền Đường, Sư Tuệ Quách cùng các người quen biết xưa cũ đến chỗ phần mộ mà đào phá, thân thịt đều tiêu tan, chỉ có chiếc lưỡi không nát vữa, Nam nữ cả một huyện đều tôn kính truyền nhau, lại trì tụng gấp bội lúc thường, mới làm hộp để tôn trí chiếc lưỡi đó đưa đến bờ phía Nam Cam Cốc, thuộc phía Bắc thôn Dương Lục và xây dựng tháp gạch. Những người hiểu biết, lại càng lớn mạnh sự kính tin, và đọc tụng càng nhiều.

Sử Ha Thệ ở Sử thôn, phía Bắc Phước Thủy, thuộc Ung Châu:

Tại Sử thôn ở phía Bắc Phước Thủy thuộc phía Nam giao giới huyện Trường An, ở Ung Châu có Sử Ha Thệ, từ thuở thiếu thời đã có thiện niệm, thường trì tụng kinh Pháp Hoa, thực hành hạnh An Lạc, từ bi chuyên chú nơi ý thức chẳng hề nuôi các loài súc vật, vì nghe trong kinh dạy "thương xót tất cả chúng sinh" cho nên như vậy, rỗng ước lấy làm tâm, lưu danh trong sử sách, qua lại chốn kinh thành, vì cùng tập tụng, vì sợ giữa đường gặp phải những người cùng biết hỏi han, bỏ dỡ việc tụng đọc, nên ông luôn đi đường tắt. Ông dung khí điềm nhiên, duyên niệm nối nhau, như mới đầu, chẳng hề nói điều mệt nhọc. Đến lúc qua đời cảm có mùi thơm lạ tỏa khắp quanh làng, mọi người thân sơ đều lấy làm lạ mà chẳng ai biết được việc gì, bèn an táng. Sau đó mười năm, người vợ ông cũng qua đời, bèn đào phá phần mộ ông ra, thì chiếc lưỡi vẫn còn tươi hồng, hài cốt đều tiêu rã, vì điềm lạ ấy nên tôi đặc biệt chép ra đây.

Tăng Huyền Tú chùa Tùy Hoa ở

Hoàng Châu:

Tăng Huyền Tú, chùa Tùy Hoa ở Hoàng Châu, tánh Sư thanh bạch cẩn thuần, ôn hòa cung kính lấy làm chí hạnh. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa và hay có cảm ứng các điều lạ, nhưng chưa lấy làm kỳ quái. Bấy giờ, gặp lúc nắng nóng, các đồng bạn muốn tìm đến chỗ mát mẻ, bèn sai người tới mời Sư vì muốn nói chuyện cho vui. Khi đã đến phòng Sư, chỉ thấy vẻ nghiêm túc, người ngựa cao lớn, người ấy khiếp sợ trở về báo lại, đồng bạn cùng đến xem, đều như lúc đầu không khác, ra xem cửa sau thì các thứ càng đông nhiều, ngửa mắt nhìn giữa hư không thì bít lấp hết cả không ngằn mé, phần nhiều là nương cưỡi voi ngựa, quỷ thần lẫn lộn, mới biết là Sư có sự cảm thông, bèn để yên vậy mà trở về. Đến sáng sớm, hổ thẹn cùng nhau đến sám tạ, đồng bạn từ đó bèn dứt bặt, Sư vẫn chuyên cần với hạnh nghiệp ấy, đến cuối đời Tùy, Sư thị tịch.

Tăng Đạo Tuệ chùa Phước Thành ở Ích Châu, thời Tiền Đường.

Tăng Đạo Tuệ, là người ở đất Thục, từ thuở thiếu thời, Sư đã chịu tang cả cha mẹ, được người anh nuôi dưỡng lớn khôn. Sư đêm ngày buồn khóc thương nhớ cha mẹ. Đến năm chín tuổi, Sư theo Thầy trì tụng kinh Pháp Hoa để cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ. Tụng đủ số trăm bộ, Sư mộng thấy giữa hư không phía trên chùa Phước Thành có ánh sáng kỳ lạ dần gần đến chỗ sân, bỗng thấy có một vị trời có trăm ngàn các vị trời khác vây quanh, vị trời ấy bảo Sư rằng: "Ta là cha mẹ của ông, nhờ năng lực tụng kinh của ông mà được sinh lên tầng trời thứ hai, thoát khỏi chốn đường ác khiếp sợ, nếu tụng đủ số ngàn bộ, thì sẽ sinh về cảnh giới Tịnh độ. Nên biết vì tình mẹ con sâu sắc, nên cùng lại ra mắt và bày tỏ tâm tình!". Nói xong, bỗng nhiên biến mất, không còn thấy nữa. Đến lúc thức giấc, Sư càng sinh tâm kính trọng gấp bội, càng chuyên tâm phúng tụng, những người nghe thấy vì muốn cha mẹ thoát khổ mà tụng kinh, cảm mộng báo cho họ biết nhiều, lược bỏ chẳng nói mà thôi.

Thích Đạo Thái trụ tinh xá Hành

Đường ở Thường Sơn:

Thích Đạo Thái, ngài là người cuối thời Nguyên Ngụy, trụ tinh xá Hành Đường ở Thường Sơn. Sư nằm mộng có người bảo rằng: "Đến năm ấy... ông sẽ qua đời lúc bốn mươi hai tuổi". Đến đúng kỳ hạn năm đó, Sư bị bệnh rất nặng, bèn dốc hết của cải riêng của mình để làm việc phước lành, có người bản bảo Sư rằng: "Tôi nghe kinh nói cúng dường sáu mươi hai ức vị Bồ-tát, phước đức đồng như xưng danh hiệu một Bồ-tát Quán Thế Âm, sao ông chẳng dốc lòng quy y? Để cho Tăng thêm phước thọ". Sư bèn cảm ngộ, bèn suốt bốn ngày bốn đêm chuyên tinh không ngưng nghỉ, ở dưới màn chỗ Sư ngồi, bỗng thấy có ánh sáng từ ngoài cửa chiếu vào. Thấy Đại Bồ-tát Quán Thế Âm giẫm bước trên không, có ánh sáng vàng soi chiếu cùng khắp, và bảo Sư rằng: "Ông xưng niệm Quán Thế Âm ư? Cũng trì tụng kinh Pháp Hoa ư?". Sư vén màn, nghiêng nhìn, thì không còn thấy gì, buồn vui lần lộn đến đổ mồ hôi. Lại cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, chỗ bị bệnh được lành. sư bèn tụng đọc thuộc rành văn kinh Pháp Hoa và xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Đến năm bốn mươi bốn tuổi, Sư mới đồng ý kể lại giấc mộng xưa. Về sau, Sư thị tịch lúc năm mươi tuổi".

Thích Phổ An ở Dương Đô, đời Trần:

Thích Phổ An, họ Trần, xuất gia từ thuở thiếu thời, tụng thuộc lòng kinh Pháp Hoa tự cung kính lấy đó làm chánh nghiệp. Sư bị bệnh nóng nhiệt khổ não, răng trong miệng đều rơi rớt, lại dừng nghỉ tự khổ nhọc, tuệ tâm tụng suốt một mùa Hạ, mộng thấy có Đồng tử cõi trời đến cầm nhành dương chỉ vào răng Sư bảo rằng: "Ông chuyên tâm tụng kinh, răng rơi rớt sẽ được mọc lại như cũ, ở tương lai, lúc đắc Đạo thì răng trắng sạch bằng khít!". Nghe nói xong, Sư thức giấc, trong miệng răng đều đầy đủ. Sau đó, Sư dời đến ở tịnh thất, xoay mặt ra cửa tụng kinh, tự nhiên các thứ ăn uống có sẵn trên bàn. Ăn xong, bảy ngày sau vẫn còn no, thân thể béo phì như thế, cảm ứng thắng ích rất nhiều. Đến năm tám mươi chín tuổi Sư thị tịch, trong phòng thoảng ngát mùi thơm, giữa hư không có tiếng nhạc vang lên. Đêm đó, vị đệ tử Sư mộng thấy một vị tăng Ấn-độ nói kệ rằng:

"Nếu nghe kinh Pháp Hoa
Má chuyên tâm mà tụng
Thánh chúng đến trao tay
Sẽ sinh cõi Tịnh độ".

Xét việc ấy thì tụng kinh, sẽ vãng sinh Tịnh độ!

Thích Tăng Định chùa Pháp Trụ ở Lộ Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tăng Định, là bạn đồng môn với Sa-môn Đàm Vinh, Sư trụ chùa Pháp Trụ, hành trì sám hối theo pháp Sám Phương Đẳng, đọc tụng kinh Pháp Hoa, suốt ngày đêm không hề nằm ngủ, giới hạnh tinh ròng cao sâu, mộng cảm thấy các Thánh chúng, Sư càng sám hối càng đọc. Ngày 14 tháng 07 niên hiệu Trinh Quán năm thứ bảy (633) thời Tiền Đường, ở trong Đạo tràng chùa Pháp Trụ, Sư thấy có ánh sáng rực rỡ năm mầu tỏa từ trên cao xuống, trong đó có bảy Đức Phật tướng tốt khác thường, nói với Sư rằng: "Ta là Tỳ-bà-thi Như Lai Vô sở trước Chí chân Đẳng Chánh giác, vì ngươi tiêu tội chướng nên đến làm chứng, như ta không phải là Bổn sư, nên chẳng dự ghi thành Phật cho ngươi". Qua sáu Đức Phật như thế đều đồng nói lời ấy. Lại có một ánh sáng rực rỡ gấp bội hơn trước, từ trên chiếu xuống, trong đó có chín trăm chín mươi bốn Đức Phật bảo với Sư đồng lời như trước. Có một Đức Phật sau cùng bảo rằng: "Ta là Thích-ca Mâu-ni, là Bổn sư của ngươi, vì ngươi đã tiêu trừ tội chướng nên đến thọ ký cho, thân khí của ngươi thanh tịnh, vào kiếp hiền sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh. Ngươi hành trì Phương Đẳng Đại thừa, Đạo tràng Phổ Hiền trì tụng kinh Pháp Hoa không thể nghĩ bàn". Ứng hiện điềm cảm như thế thật khó ghi chép hết. (Nếu theo Tục Cao Tăng truyện thì ngài Đàm Vinh và Sư đồng hành trì pháp sám hối Phương Đẳng, được bảy Đức Phật chứng minh và Đức Thích-ca thọ ký cho cả hai vị, lại chẳng nói là tụng kinh Pháp Hoa, nhưng trong Biệt ký nói tụng kinh Pháp Hoa, hành trì pháp sám hối Phương Đẳng, Đại thừa, Phổ Hiền, là vì chỗ nghe của người ghi lại khác nhau mà thôi.

Sa-di ở Thôn Hạ Sơn Đông, Kỳ Châu, đời Tùy:

Khoảng đầu niên hiệu Khai Hoàng (581) đời Tùy, ở Dương Châu có một vị Sa-môn mất tên Sư, tự tụng thông một bộ kinh Niếtbàn, Sư cho rằng "tụng nhiều tự thương xót lấy làm hành nghiệp". Bấy giờ trong Thôn Hạ ở Đông Sơn, thuộc Kỳ châu, có một vị Samôn tụng kinh Quán Thế Âm, hai người bị chết đột ngột, tim vẫn nóng ấm, đồng đến chỗ Diêm Vương, Diêm Vương bèn bảo Sa-di ấy ngồi trên tòa cao bằng vàng, rất mực cung kính, còn mời vị Sa-môn tụng kinh Niết-bàn ấy ngồi trên tòa cao bằng bạc, tỏ ra chẳng cung kính trọng vọng lắm, khi sự việc xong rồi. Xét hỏi, hai vị thọ mạng đều còn nên đều thả trở về. Vị Sa-môn tụng kinh Niết-bàn đó tâm rất tức giận, cậy chỗ mình tụng đọc nhiều, mà chỗ ngồi khác với môn hạ là Sa-di. Từ đó hai vị giã biệt Diêm vương, mỗi vị đều sống lại, vì Sa-môn ấy theo hướng Nam tìm đến kỳ châu, hỏi tìm được chỗ, bèn hỏi lý do.

Vị Sa-di ấy đáp: "Mới đầu vào tụng kinh Quán Thế Âm thay đổi áo khác, chỗ ngồi riêng khác, đốt hương chú nguyện, sau đó mới tụng. Đối với pháp ấy không hề biếng trễ, ngoài ra không có thuật gì khác". Vị Samôn ấy sám tạ rằng; "Tội tôi rất nặng, gọi là Niết-bàn, mà oai nghi không trang nghiêm, thân miệng không sạch cứu quên mà thôi. Người xưa có để lại lời nói: "Gây ác nhiều chẳng bằng có chút ít điều lành, đến nay lấy làm ứng nghiệm, sửa đổi lỗi xưa mà trở lại."

Thích Tăng Triệt chùa Hãm Tuyền ở Phùng Châu:

Thích Tăng Triệt, trụ chùa Hãm Tuyền, ở núi Nam Cô thuộc Phùng Châu. Sư đi đường gặp một người mắc bệnh hủi nằm ở trong hang, Sư bèn dẫn đến trong núi, đục tạc hang núi cho ở, cấp dưỡng thức ăn, bảo đọc tụng kinh Pháp Hoa, khổ nỗi người ấy vốn không biết chữ,, lại quá ngu si, phải đọc từng câu cho nghe, chẳng nề mỏi nhọc, tụng kinh đến phân nửa, mộng thấy có người chỉ dạy, từ đó về sau hơi có chút thông minh, tụng được năm sáu quyển, thì vết thương bệnh hủi cảm thấy có phần lành, tụng trọn một bộ, thì râu và lông mày mọc lại, sắc da được như thường. Nên trong kinh nói rằng: "Thuốc tốt của bệnh", đó thật ứng nghiệm.

Thích Tăng Diễn ở Tinh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tăng Diễn, ngài người Tinh Châu, người ở Tinh Châu thuộc Phàm Khuyết, từ bảy tuổi trở lên đều biết niệm Phật, sinh Tịnh độ rất nhiều. Sư ở lâu tại tịnh Châu, tụng kinh Pháp Hoa, ưa cầu sinh về An Dưỡng. Vì trong kinh nói là: "Liền được vãng sinh về thế giới An Lạc" cho nên như vậy. Mỗi ngày Sư tụng một biến, suốt ba năm được ngàn bộ, mộng thấy chung quanh thân mình mọc ra lông cánh, lấy văn tự kinh Pháp Hoa làm màu vẽ đẹp đẽ, muốn bay liệng, thân tự nhẹ nhàng, liền bay sang phương Tây, đến nơi chỗ đất bảy báu, cung điện nối liền nhau, người trời đầy khắp trong đó. Sư nhìn lại tự thân mình, lông cánh ngưng thành đài hoa sen, mỗi văn tự biến thành thân Phật cao trượng sáu. Mỗi thân Phật nói kệ tụng rằng:

"Ông ở cõi trược tụng Pháp Hoa
Chúng sinh nghiệp chướng chỉ thấy chữ.
Thật là ba thân Phật tròn đầy
Nay thành lông cánh hiện thân xưa".

Sư nghe kệ tụng ấy và thấy đài báu, có hơn sáu mươi chín ngàn ba trăm vị hóa Phật ngồi trên cánh sen, Phật trên đài là Đức A-diđà. Sư đến đảnh lễ, Phật trên đài liền bảo Sư rằng: "Ông về lại cõi Diêm-phù-đem lời ta mà chỉ bày cho chúng sinh! Lại do công đức mở mang kinh Pháp Hoa, liền đó chư Phật biến trở lại lông cánh ở bổn thân, Sư về lại cõi Ta-bà. Vừa thức giấc, lệ tuôn trào, Sư tụng kinh Pháp Hoa lại vào Quán tâm, ở đầu lưỡi có tám lá hoa sen, trên mỗi hoa sen có Đức Phật ngồi kiết-già, mỗi văn tự kinh Pháp Hoa từ trong miệng Phật tuôn ra đều làm thành màu vàng ròng có đầy đủ ánh sáng, biến thành thân Phật đầy khắp hư không, vây quanh nằm trì kinh. Hễ nhắm mắt thì liền hiện tướng đó, còn mở mắt thì liền không thấy, Sư chuyên quán, chuyên tụng. Đến lúc qua đời có mây mầu tím xếp lớp cao vút, Sư ngồi thẳng tụng kinh mà thị tịch, hưởng thọ bảy mươi chín tuổi, chú thích đầy đủ về việc này, cất kín chỗ sâu xa của kinh để sau này mọi người thấy nghe buồn khóc kết duyên mà thôi.

Trung Thư Lệnh Sầm Văn Bổn:

Trung Thư Lệnh Sầm Văn Bổn là người ở Giang Lăng, thuở thiếu thời đã biết kính tin Phật, thường tụng phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa. Có lần đi thuyền trên Ngô Giang, bị nước vào thuyền nên mọi người đều chết, Văn Bổn bị chìm dưới nước, nghe có tiếng người bảo rằng: "Nên xưng niệm danh hiệu Phật, sẽ không bị chết". Ba lần như thế. Trong sóng vỗ tung văng lên bờ nên được thoát chết. Về sau, ở Giang Lăng, Văn Bổn thiết cúng trai hội. Chư tăng đều nhóm họp ở nhà ông. Có một vị khách tăng đến sau, nói với Văn Bổn rằng: "Trong thiên hạ mới loạn, ông may mắn không can dự tai ương ấy, gặp được thái bình, cuối cùng giàu sang!". Nói xong bèn đi ra. Văn Bổn tự ăn, trong chén có được hai viên xá-lợi, về sau quả đúng như thế. (Văn Bổn tự kể với Đường Lâm).

Quốc tử tế tửu Tiêu Cảnh:

Quốc tử tế tửu Tiêu Cảnh, là người Kim Lăng, khi thời vận nhà Lương bị mất vào đời Tùy, Tiêu Cảnh có người chị gái là Hoàng hậu của vua Dương Đế (Dương Quảng 605617) đời Tùy, vốn sinh trưởng nơi giàu sang mà gia đình sẵn tôn kính Phật pháp; Khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) đời Tùy, Tiêu Cảnh tự chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, bèn y theo văn kinh mà xây dựng tháp báu Đa Bảo, dùng gỗ đàn hương mà chạm khắc, tháp cao ba thước phía trên vuông vắn, che phủ xuống, và tạo tôn tượng Phật Đa Bảo bằng gỗ, qua mấy năm sau, có Sa-môn Tuệ Thuyên là con của anh ruột Tiêu Cảnh cùng ở chơi nhà, lúc sáng sớm vừa dậy bỗng thấy trong cỏ ở trước viện có một ngôi tháp bằng gỗ đàn hương, ở dưới lọng có một pho tượng Phật bằng đồng thau lẫn đá, chế tác rất lạ so với ở Trung quốc, hình dáng tôn tượng dường như người Hồ, tròng mắt được làm bằng bạc, bên trong có nhiều tinh, sáng sạch tự nhiên. Ngài Tuệ Thuyên lấy làm quái lạ, liền đến báo với Tiêu Cảnh. Tiêu Cảnh nhìn thấy vừa kinh hãi vừa mừng vui, lấy lọng đem về thử đặt trên tháp Đa Bảo, rõ ràng xứng nhau như tạo tác sẵn. Tiêu Cảnh vui mừng hoan hỷ, tự lấy làm tinh thành hưng thạnh pho tượng Phật ấy. Trong hộp có hơn trăm viên xá lợi, Tiêu Cảnh có người con gái xuất gia làm Ni, khi đang tuổi nhỏ thầm nghi ngờ, có vị tăng Ấn-độ bảo rằng: "Xá-lợi, dùng chày nên không vỡ", bèn thử lấy ba mươi viên đặt trên đá và dùng búa ở dưới, xá lợi không hề hấn gì, cô gái ấy bèn tìm kiếm ở dưới đất chỉ được ba bôn viên, ngoài ra đều mất, không trông thấy đâu cả. Cô gái ấy khiếp sợ mách báo với Tiêu Cảnh. Tiêu Cảnh đến chỗ tháp xem, thì xá-lợi đều ở tại đó như cũ. Từ ngày đó, Tiêu Cảnh tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày một biến, mãi đến lúc qua đời. Đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười một (637) thời Tiền Đường, trong lúc cơn bệnh hoành hành khổ sở, Tiêu Hậu cùng với em, cháu cùng đến thăm, Tiêu Cảnh cùng trông thấy, Tiêu Hậu bảo đốt hương, nhân đó liền quyết biệt cho, Tiêu Cảnh chỉ lưu lại người em Tiêu Võ và người con gái là Cô Ni ấy. Tiêu Cảnh bảo đốt hương, tụng kinh, và nghiêng mình bảo Cô Ni ấy rằng: "Ta sắp đi, Đại Bồ-tát Phổ Hiền đến đón rước ta, hiện ở phía Đông viện, Sư hãy đến nghinh tiếp". Cô Ni ấy y theo lời sang nghinh tiếp chưa trở lại, Tiêu Cảnh bảo rằng: "Ở viện này là nơi không sạch sẽ nên Bồ-tát không chịu đến, tôi phải đến đó. Các người hãy khéo vui sống!" nhân đó cùng Tiêu Võ v.v... từ biệt, Tiêu Cảnh bèn quỳ thằng chắp tay xoay mặt về hướng Tây, trong chốc lát ngã xuống mà qua đời. Di lệnh bảo chở riêng một xe dùng làm phục vụ ở tại thân, người vợ không được tiễn đưa an táng, không được dùng rượu thịt để cúng tế, khắp đục hõm sâu mới bảo vùi lấp quan tài. Từ triều đình cho đến thôn dã, mọi người đều ngợi khen sự thông minh của Sư.

Người nhà kính vâng thực hành theo.

Vi Trọng Khuê ở Lâm cung:

Vi Trọng Khuê, bản tánh vốn hiếu để, rất được mọi người trong thôn xóm mến quý. Năm mười bảy tuổi, Sư vượt hơn đồng bạn rất khác lạ, làm Mông Dương trưởng, cha tên Liêm tự nương tựa ở Dương đô, vì tuổi già mà trở về. Vào niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, bị bệnh nặng, Trọng Khuê chẳng cởi mở dai mão mà nuôi dưỡng. Lâu sau, cha Sư qua đời, Trọng Khuê bèn từ tạ thê thiếp, đến ở bên phải phần mộ, do rất kính tin Phật giáo nên trì tụng kinh Pháp Hoa, ban ngày thì khiêng đất đắp làm phần mộ, ban đêm thì chuyên tụng kinh, tinh thành không mỏi mệt, ba năm sau chẳng trở về. Có một con hổ ban đêm đến trước lô ngồi chồm hổm nghe kinh, giây lâu chẳng đi, Trọng Khuê lập chánh niệm rằng: "Mong thú dữ chẳng đến bức hại". Hổ liền đứng dậy bỏ đi, đến sáng sớm thấy nhiễu quanh, ở phần mộ mọc bảy mươi hai cành cỏ chi, ngay trước phần mộ xếp hàng thứ lớp như do người trồng nên, cành mầu đỏ, tán mầu tím, tán dài năm tấc, màu sắc sáng đẹp khác thường. Có người ở gần thôn đem báo trình việc ấy với châu huyện. Bấy giờ, Cử Quân Xương làm Thứ sử nói dụ làm riêng giá cùng đến chỗ phần mộ để cúng tế, bỗng có một con chim dáng như vịt, ngậm hai con cá chép, mỗi con dài một thước bay đến trước mặt Quân Xương, đặt cá xuống đất rồi đi. Quân Xương, v.v... vô cùng khen ngợi, hái cỏ chi phong tấu, ban sắc chiếu biểu ở cổng làng. (Em của Vi Trọng Khuê đời Tùy làm Đại lý các bộ đến nói, và người ở trong Lư châu cũng đồng nói).

Thích Tuệ Hiến chùa Ngõa Quan ở Kim Thành, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Hiến, là người xứ Kim Thành, sớm mất cha mẹ. Sau khi xuất gia, Sư nghiêm trì giới hạnh, theo thầy học Đạo, tụng thông kinh Pháp Hoa, chuyên chí lấy làm chánh nghiệp, phát nguyện ở chỗ phần mộ của cha mẹ mà tụng kinh, muốn cứu khổ luân hồi. Qua ba năm, siêng năng phúng tụng không hề tạm phế bỏ. Đến canh ba trong đêm, tự nhiên giữa hư không có ánh sáng rực rỡ, lại có mưa hoa như tuyết rơi xuống, trong đó có tiếng nói bảo với Sư rằng: "Tôi là cha của ông, nhờ năng lực lúc mới bắt đầu tụng kinh đã được sinh ở cõi trời thứ hai, khi ông tụng đủ ngàn bộ, có Thánh chúng đến đón rước, từ cõi trời mà sinh về Tịnh độ. Thân mẫu của ông nhờ năng lực kinh Niết-bàn mà được sinh về cõi nước Bất động. Lúc thân mẫu ông sinh về nước đó, ban ngày viết kinh Niết-bàn một quyển. Ông tụng kinh giúp cho mẹ ông sống ở nước đó tốt đẹp!". Nói xong liền biến mất. Mọi người ở gần trong xóm cho là mất lửa, đến sáng sớm sang hỏi. Sư kể lại đầy đủ đầu đuôi việc ấy, mọi người nghe đều buồn khóc, đồng ở phần mộ trì tụng kinh để giúp cho người thân, đại loại như thế có rất nhiều.

Thích Tuệ Hòa chùa Chúng Tạo, ở Đô Hạ:

Thích Tuệ Hòa, Sư là người sống trong khoảng niên hiệu Thái Thỉ (465-472) và Nghĩa Gia (?) đời tiền Tống. Trước lúc chưa xuất gia Sư làm giặc ở phương Nam, Lưu Hồ Hạ Đô Tham âm mưu đến đóng trước Tân lâm, bị bắt, liền muốn chém đầu, trước đó ở đầu chim thước gặp ở đài Quân, đã trải qua khiếp sợ, từ đó về sau, thường tụng niệm kinh Quán Thế Âm. Đến lúc bị giết, tâm càng chí thành, bèn bảo rằng: "Chém đi". Ba lần chém ba lần gãy. Khi đó, Quân chủ cho là việc khác thường, bèn thả đi. Được thoát chết, Sư bèn xuất gia.

Thôi Nghĩa Khởi:

Thôi Nghĩa Khởi là người chẳng hề kính tin Phật, cha của vợ Tiêu Khanh là người thiện niệm, trì tụng các kinh Pháp Hoa, Bátnhã đến mấy ngàn biến, rượu thịt chẳng hề mang vào cửa. Vào tháng 5, vợ của Thôi Nghĩa Khởi qua đời, Khởi nhân ngày tuần thứ ba (21 ngày) thiết trai dâng cúng, trong lúc đang dùng bữa, có người tớ trong nhà tên là Tố Ngọc làm tiếng nói của phu nhân (vợ của Khởi) mà bảo rằng: "Lúc còn sống, ta tuy có nghe nói về địa ngục mà chẳng hề tin, đến nay chịu khổ, thật không thể nói! Các người nam nữ, v.v... chẳng thể không tin, do các người vì Ta mà chuyển đọc tôn kinh, đốt đèn công đức, nên ta được tạm cho trở về, bèn đến cùng đại chúng để tỏ bày sám hối. Đến ngày 20, ta sẽ trở lại và dẫn dắt Tố Ngọc cùng đi xem ta chịu tội". Đến kỳ hẹn, quả nhiên dẫn Tố Ngọc đi, Tố Ngọc thấy quan phủ thành lớn, phu nhân vào trong một viện riêng, chốc lát sau có vạc lửa giường sắt, tất cả đều đến, phu nhân nhận chịu độc khổ. Tố Ngọc bỗng thấy cha của phu nhân là Tiêu Khanh ngồi trên đài hoa sen bảo phu nhân rằng: "Hãy sớm thả Tố Ngọc!". Và trở lại bảo với Tố Ngọc rằng: "Con gái của ta lúc còn sống chẳng nghe lời ta, thường sân hận ghét ganh, chẳng tin thiện ác. Nay chịu khổ như thế, ta không có năng lực để cứu thoát! Ngươi trở về hãy báo với chồng con của nó, khuyên nên tu tạo công đức, không bao lâu sẽ được giải thoát!". Tố Ngọc lại thấy một vị Bà-la-môn tăng từ giữa hư không sà xuống, Tố Ngọc tụng kinh Kim Cương Bát-nhã, lại tụng kinh Dược Sư, Pháp Hoa hai quyển một biến, hai quyển đều đổi tên là Thanh văn. Lại bảo: "Ngươi ở cõi Diêm-phù-đề không tin Phật, ngươi tụng kinh với tiếng Bà-la-môn này đều hiểu lời kinh, người tớ (Tố Ngọc) chết giấc ba ngày sống lại, người nhà lương tiện, mới đầu như thường gặp hoạn.

Đến tháng giêng niên hiệu Lân Đức thứ nhất (664) thời Tiền Đường, ở nhà Tiết Tướng Quân thiết trai, đón người tớ (Tố Ngọc) thỉnh ba luồng Phật đảnh cốt, Bà-lamôn Tăng bảo thử dạy răn, Tố Ngọc bèn lên tòa tụng liên tục, không sót một chữ. Mọi người đều chắp tay khen rằng: "Như bản ở các nước Tây Vực không khác!" cả chúng đều kinh hãi ngờ vực sự việc ly kỳ hiếm lạ. Tiết Tướng Quân bèn trình tấu, vua Cao Tông (Lý Trị) than rằng: "Trong trăm quan cũng có người không tin! Minh Đạo như thế, sao được không tin ư?". Khi ấy, trong các hàng triều quý mọi người thấy nghe đều phát sinh niềm tin lớn. Tư Thành Quan Bác Sĩ Mang Thúc Nguyên lại thỉnh hai mươi vị tăng đến vườn nhà ở phường Dực Thiện, mời Tố Ngọc bảo tụng lại bản kinh bằng âm Phạm sâu mầu, khiến mọi người ưa thích nghe. Tự bảo là chẳng quên xưa cũ. (Xuất xứ từ Cảm Thông lục quyển hạ).

Cái Hộ ở Sơn Dương:

Cái Hộ là người xứ Sơn Dương, từng bị bắt giam vào ngục đáng tội chết. Nhưng Cái Hộ vốn người có trì tụng kinh Quán Thế Âm, suốt ba ngày ba đêm tâm không đứt quãng, bỗng nhiên đang lúc nửa đêm, tự mắt nhìn thấy Bồ-tát Quán Thế Âm, lại phát ra ánh sáng soi chiếu đến đó, tức thời gông cùm xiềng xích tự tháo rã, các cánh cửa tự mở toang, bèn dẫn Cái Hộ đi ra. Cái Hộ theo ánh sáng mà chạy đi, vừa được ít dặm đường, ánh sáng bèn tắt mất. Cái Hộ dừng nghỉ lại trong cỏ, đến sáng từ từ đi ra, và được thoát khỏi. (Ứng Nghiệm Truyện).

Mộ Dung Văn Sách ở Tần Châu:

Ở huyện Thượng Bang, Tần Châu có người tên là Mộ Dung Văn Sách, năm mười bảy tuổi, tụng trì các kinh Kim Cương Bátnhã, Pháp Hoa, v.v... trai giới không khuyết phạm.

Vào đêm 15 tháng 4 niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ 7 (611) đời Tùy, bỗng có hai con quỷ đến trước giường, tay nắm Văn điệp bảo rằng: "Vua sai đến bắt ông lại!" Văn Sách vô cùng kinh sợ mới đi theo kẻ sứ, dẫn đến một ngôi thành lớn, lầu gác trang nghiêm cao vợi, thành quách có đến sáu lớp. Dẫn vào lớp cửa thứ nhất, thứ hai thì có ánh sáng rực rỡ. Đến lớp cửa thứ ba, cửa ấy cách nhau xa hơn bốn dặm, đều tối mịt, không thấy đường đi. Kẻ sứ dẫn Văn Sách đi qua, đến trong lớp cửa thứ năm thứ sáu, lại có ánh sáng rực rỡ, cách cửa khoảng ba dặm, liền có phòng nhà điện đường, ở bốn phía đều có người cầm roi trượng hộ vệ, trở lại như thấy ở chốn cung quyết không khác. Vua ngồi ngay cung điện, những người được dẫn đến như nam nữ,

Tăng Ni, Đạo sĩ, v.v... và cả sáu loại man di không thể kể hết số ấy. Văn Sách đứng ở hàng sau cùng, mỗi người tùy theo xướng tên mà đi qua. Vua hỏi mỗi người lúc sinh tiền đã tu tạo được phước nghiệp gì, xem xét nếu người có phước thì sang đứng ở phía Tây, người không phước thì sang đứng phía Đông. Cuối cùng mới gọi đến tên Văn Sách, vua hỏi: "Một đời ông làm được phước nghiệp gì?". Văn Sách liền phân giải: "Một đời nay, tôi chỉ tụng trì kinh Kim Cương Bát-nhã, Pháp Hoa được tám bộ, còn kinh Bát-nhã thì suốt ngày đêm tụng đọc, lại trì trai giới một ngày không khuyết phạm". Vua nghe nói liền, chắp tay cung kính khen ngợi rằng: "Công đức rất lớn!" Giao phó chủ ty xét kỹ về văn bộ, chẳng sai lầm ở tương lai, pháp điển ấy nắm lấy án nói với vua là Văn Sách chưa đến số chết. Vua liền thả, và bảo sang phía Tây, trong lúc đang đứng chưa đi, có vị Sa-môn tuổi khoảng mười lăm, mười sáu, cầm một bó đuốc rực sáng đi qua trước Văn Sách, tiếp theo sau lại có một vị Sa-di cũng cầm một bó đuốc rực sáng đi qua, Văn Sách liền túm vạt áo ca-sa kéo lại, và nói: "Xin Sư cứu đệ tử, Sứ giả lầm đuổi tương lai, được vua ban ân trạch xem xét Văn bộ thả trở về, nhưng không biết đường đi, xin Sư từ bi cứu hộ đệ tử chỉ bày cho đường trở lại!". Hai vị tăng ấy bảo với Văn Sách rằng: "Đàn-việt trì kinh Bát-nhã, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khéo hành trì trai giới cho bền chặt, nên lại cứu cho". Vì Sa-môn lại bảo rằng: "Ta cầm đuốc đi trước, Đàn-việt chỉ theo sau ta". Trở lại, qua sáu lớp cửa thành mà ra, đến chỗ hai lớp cửa tối, hai vị tăng trên tay cầm đuốc tợ như mặt trời soi sáng đều hiện ra ngoài sáu lớp cửa, hai vị Tăng liền bảo Văn Sách rằng: "Đàn-việt có biết chỗ địa ngục hay chăng?". Văn Sách đáp: "Không biết". Hai vị Sa-di liền đưa tay chỉ về góc phía Tây bắc thành, ở đó có một ngôi thành lớn, cách chừng bốn dặm, là thành của địa ngục, hai vị Sa-di bảo: "Chúng tôi dẫn Đàn-việt đến đó xem". Văn Sách bèn theo thầy đến đó. Ngôi thành ấy cao ngất có cửa thành lớn, đều có lưới sắt rủ xuống, có bốn quỷ La-sát tay cầm xoa sắt đứng hầu hai bên, hai vị tăng bảo rằng: "Đây là cửa địa ngục, tất cả người tội phối vào trong đây đều qua cửa này". Và liền dẫn Văn Sách vào cửa, đi khoảng hai trăm bước, thấy có một sông than, trong đó tất cả những người chịu tội thân ẩn dưới dòng sông, đầu ló lên trên, có đến trăm ngàn vạn ức, lửa dữ thiêu đốt những người tội ấy, đau khổ kêu gào không thể nói hết, lại ở bốn phía đều có giường sắt cây nhận, có bốn ngục tốt tay cầm xoa sắt đi chạy trên bờ, tiếng kêu réo rất đáng kinh hãi, hai vị tăng bảo rằng: mười tám địa ngục đều ở trong đây". Văn Sách thấy thế, trong tâm khiếp sợ chỉ biết niệm Phật, và thường tụng kinh không ngưng nghỉ, hai vị tăng liền dẫn Văn Sách trở ra cửa thành, đến nơi đường trước đã vào. Có năm con đường gần nhau, trong ý Văn Sách mê man, không biết con đường nào để trở về nhà, hai vị tăng liền muốn tách biệt mà đi, Văn Sách lễ bái cầu xin rằng: "Trong năm con đường, đệ tử không biết phải đi đường nào. Xin Sư từ bi chỉ dạy cho đường đi ấy!". Hai vị Tăng liền ngay con đường giữa mà dẫn đi trước. Đi được chứng mười dặm, có một cửa lớn, bít lấp cửa đường đó không đi qua được, hai vị tăng liền dùng tích trượng để mở cửa, và bảo Văn Sách rằng: "Phải cố gắng siêng năng tu tạo công đức, tụng kinh bái sám, chớ nên biếng lười, thì sẽ được sống lâu". Văn Sách từ biệt hai vị tăng, về đến nhà, thân thể trở lại tỉnh ngộ, cha mẹ thân thuộc biết đều kinh sợ, dùng lễ để úy dụ. Văn Sách kể lại về nhân duyên đó, được thả trở về nhà đều là năng lực công đức, người nghe đều vui mừng, tâm ý thư thái. Văn Sách dùng công đức tụng kinh, thọ trì trai giới ấy để khuyến hóa tất cả. Mọi người đều phát tâm, đọc tụng từng ngày một, không hề khuyết thiếu, càng thêm tinh tấn, lại được nhiều năm.

Sa-di ở Pháp Hoa Đài, thời Tiền Tống:

Pháp Hoa Đài thời Tiền Tống, tức sau khi Thích Pháp Tông đã quy tâm, khai mở thần giúp tại chỗ ở xưa, lấy làm tinh xá, vì tụng kinh Pháp Hoa nên gọi là Pháp Hoa Đài. Những người dốc lòng phúng tụng ở các châu đều nhóm họp về đài đó, chúng đông gần cả ba ngàn vị, thường đọc tụng trở thành ồn náo lẫn lộn, nên Đại chúng cùng nhau bàn luận chia thành mười hai thời. Để định thời hạn của chúng, nên đánh kiền-chùy làm thời khắc, phúng tụng không ngưng nghỉ, hạnh nghiệp ấy là thường.

Bấy giờ, có một vị Sa-di từ phương xa đến, ngu đần không biết câu văn, ngày đêm dốc lòng phúng tụng, mong được đưa vào trong hạn định của chúng, nhưng vì bẩm tánh biếng lười, lại không biết rõ về thời khắc. Đại chúng buồn thương cho sự ngu đần đó, bảo: "Ngươi nên hiểu canh là lấy tiếng kiền-chùy làm thời hạn. Trước tập phúng tụng công phu mới thành, và được xếp vào trong hạn định của chúng". Qua một mùa Hạ tụng tập, chỉ mới được vài ba hàng, mọi người đều xem thường, bởi sự tụng tập của Sa-di ấy quá ít, nên chưa xếp vào chúng. Vị Sa-di ấy buồn bã, nên hiểu canh là lấy tiếng chuông làm kỳ hạn, ngày ngày chuyên chí, rơi lệ hổ thẹn với hạnh nghiệp trước, muốn gieo thân xuống sườn núi, xuống vào vực sông sâu, liền lên sườn núi cao buông mình xuống và chết giấc, tâm thức nương theo nghiệp trước vào địa ngục chảo nước sôi, ngục tốt dùng roi gậy đánh đập người tội, gậy sắt chạm vào mép chảo nước, phát ra tiếng như tiếng kiền-chùy trước. Tâm thức vị Sa-di nhớ lại bổn chí, bất chợt tự nhiên tụng niệm đề mục kinh Pháp Hoa. Các người tội trong ngục đều được ngồi trên hoa sen, địa ngục biến thành ao nước trong mát, ngục tốt khen ngợi điều chưa từng có, dẫn vị Sa-di ấy đến tấu trình lên vua Diêm-la. Vua bảo: "Sa-di mạng sống hẳn còn, nên trở lại Diêm-phù-đề, dốc hết tâm chí ấy". Nghe nói thế rồi, như nằm ngủ mà thức giấc, thân thể không mảy may tổn hại, Sa-di ấy về đến chỗ đài kể lại nhân duyên ấy. Trong đại chúng có người tin có người không tin. Sa-di ấy dốc lòng phát nguyện rằng: "Như chỗ ngầm thấy của tôi chẳng phải không có, thì nghiệp chướng tiêu trừ, văn nghĩa một bộ kinh tự nhiên suốt thấu". Phát nguyện rồi, Sa-di ấy hành Đạo tụng kinh, văn nghĩa của một bộ tự nhiên tụng thông. Đại chúng lắng nghe lời tụng, thảy đều phục theo. Lên tòa, Sa-di ấy làm tăng, ở trong chúng phúng tụng rất xứng đáng là thượng thủ.

Chí Thông ở Lũng Thành, thuộc Thiên Thủy:

Tại huyện Lũng Thành, quận Thiên Thủy có Chí Thông, năm chưa đến tuổi hai mươi, sống đã chuyên trì trai giới, đọc tụng các kinh Pháp Hoa, Kim Cương Bát-nhã, v.v... Mỗi ngày sáu thời lễ sám chẳng hề khuyết thiếu. Đến năm hai mươi tuổi thì tiết tháo sáng suốt, vào xin Đức Phủ Vệ Sĩ, danh đặt ở Quân Đoàn, vâng theo sắc lệnh sai đi đánh dẹp Nam Man. Từ nhà đến đó đường dài hơn muôn dặm. Đang trên đường đi, ngày đêm Chí Thông luôn lễ tụng không ngưng nghỉ. Khi đến biên giới của Nam man, quan quân bị chiến bại, binh lính chạy tán loạn. Ngay lúc ấy đồng bạn có hơn trăm người, không biết chạy về hướng nào, nên phần nhiều đều bị giết hại. Chí Thông khiếp sợ, không có đường nào chạy trốn, bỗng nhiên có năm người đều cưỡi ngựa cái cùng theo trước sau Chí Thông. Có một người chạy ngựa sát vào bảo Chí Thông rằng: "Chớ lo, chớ sợ! Ông có đủ công đức tu hành, nên trước sau bao bọc, không ai làm hại được. Đi được bảy dặm, đến chỗ một ngôi miếu, bèn vào ẩn nấp trong đó. Quân lính Nam Man bèn về lại doanh điềm, bỗng có hai vị tăng đến chỗ Chí Thông và bảo rằng: "Đàn-việt tụng kinh Kim Cương Bát-nhã, Pháp Hoa, lễ bái xưng niệm hồng danh chư Phật, không thể nghĩ bàn, nên sai đến cứu giúp Đàn-việt, vừa rồi có năm người cưỡi ngựa bao bọc trước sau Đàn-việt, đó đều là do năng lực của kinh Pháp Hoa, Bát-nhã, cũng đồng cứu giúp Đàn-việt, sợ giặc làm hại đến thân Đàn-việt, nên phải khéo tu hành phước nghiệp, trì tụng kinh điển, chớ sinh biếng lười. Tất cả các vị Thiện Thần Vương thường cùng hộ vệ". Nói xong, bỗng bay lên giữa hư không mà đi. Đã mấy ngày không được ăn, chẳng thường đói thiếu, bỗng chốc có một Đồng tử đem đến một bát cơm và tương rau, bánh, trao cho Chí Thông ăn. Ăn xong, lại bảo Chí rằng: "Hãy siêng năng tu tạo công đức, tụng kinh Bát-nhã, chớ để thiếu sót". Nói xong cũng bay bổng giữa hư không mà đi. Chí Thông rơi lệ buồn khóc, dốc lòng sám hối, liền trở lại chỗ Đại quân, trải qua ba trận, mà chẳng bị một tấc sắt làm thương hại. Y cứ vào nhân duyên ấy, tất cả đều là nhờ năng lực của kinh Pháp Hoa, Bátnhã. Đến nơi phá giặc Nam Man, quan quân được thả trở về, đều chuyên tâm trì tụng kinh Pháp Hoa, Bát-nhã, không ai dám biếng lười khinh mạn.

Lại nữa, vào ngày 28 tháng giêng niên hiệu Trinh Quán năm thứ tám (634) thời Tiền Đường, Chí Thông bị bệnh, đến tối mồng 8 tháng 2, thì qua đời, bèn bị dẫn đến trước vua, nhìn qua các hạng người rất đông, Chí Thông bèn đứng sau cùng. Ở đó, Điển Xướng gọi tên. Và liền hỏi các nghiệp thiện ác của người đó, cũng y theo thứ lớp mà phối hợp. Sau cùng xướng đến tên mình, Chí Thông đi đến, vua hỏi trong một đời vừa qua đã làm được những phước nghiệp gì?". Chí Thông liền trình bày với vua rằng: "Một đời này, tôi trì tụng các kinh Kim Cương Bát-nhã, Pháp Hoa v.v... thường trì trai giới, mỗi ngày sáu thời lễ Phật". Vua nghe nói thế, liền chắp tay cung kính nói rằng: "Lành thay! Lành thay! Công đức của người này thật không thể nghĩ bàn!". Và vua nói với kẻ Sứ dẫn Chí Thông đến rằng: "Thường ngày y cứ vào Bộ trướng nào mà đuổi bắt người này giao phó cho chủ ty? Phải nên xem xét tinh tường vầng văn tịch, chớ uổng về tương lai". Chủ ty ấy liên quan đến Thiên Tào trở lại báo rằng: "Thọ mạng của người này (Chí Thông) còn sáu năm nữa, chưa phải chết lúc này". Vua mới đòi y cứ, tự tìm xét quả nhiên chẳng sai lầm. Vua bảo các người hầu chung quanh lấy giường ghế mang đến. Người hầu liền đến chái nhà phía Nam mang giường vàng ghế ngọc đến trước mặt vua. Vua bảo đưa lên an trí ở phía Tây của điện, trải bày các thứ chăn nệm, và bảo mời Chí Thông lên tòa tụng kinh. Chí Thông bèn tụng kinh Bát-nhã, Pháp Hoa mỗi thứ một quyển đều thông thuộc. Vua lại sai người vào trong điển tạng lấy văn bộ tụng kinh và tu công đức của Chí Thông. Vị điển xướng và

Chí Thông theo hướng Tây cùng đi lấy, đi khoảng hai dặm có một Đại tạng kinh. Nơi có Bộ công đức trước đều cất giữ ở trong đó, và đều được trang nghiêm bằng bảy báu, kẻ sứ trong chỗ thấp nhất lấy ra được một quyển có chừng mười trang giấy, bên ngoài đề hiệu là "Chí Thông tạo Công Đức bộ" (= Sổ ghi chép tu tạo công đức của Chí Thông). Liền mang đến cạnh vua, mở rút trong đó thấy ghi chú "Chí Thông tụng kinh Bát-nhã muôn biến, tụng kinh Pháp Hoa ngàn biến". Công đức lễ Phật thọ trì trai giới đều đầy đủ trong đó. Vua bảo với kẻ Sứ rằng: "Công đức của Chí Thông tu tạo thật nhiều lắm. Nên dẫn đến cho xem các địa ngục, để biết tội phước". Kẻ Sứ vâng sắc lệnh dẫn Chí Thông ra thành, theo hướng Tây bắc đi hơn năm dặm, có một ngôi thành lớn, lầu lỗ kiếp địch, lưới sắt rủ xuống, ở phía trong của có bốn ngục, ngục tốt đầu như La-sát, miệng phát ra lửa dữ, thân hình cao lớn, tay cầm xoa sắt, đứng ở hai bên có hai con chó đồng ở cửa hai chái nhà, miệng nhà ra đồng sôi rưới vào chỗ ngục, rót bắn vào người tội. Tất cả mọi người chịu khổ đều vào từ cửa này, mười tám địa ngục đều ở tại thành này. Chí Thông thấy như thế, thân tâm kinh sợ, không thể tự an. Lúc dẫn trở lại chỗ vua, bèn nói rằng: "Đã thấy địa ngục rồi". Vua nói với Chí Thông rằng: "Nay ông thấy đủ các thứ nghiệp quả tội phước phải nhận chịu, thì nên khéo siêng năng tinh tấn đọc tụng kinh điển chớ phế bỏ. Mạng sống của ông hiện nay còn được sáu năm. Nay thả ông về nhà, chớ nên sinh tâm lui sụt, vì lui sụt sẽ rơi vào đường ác, không có người cứu ông. Phải đọc tụng chớ lui sụt tâm Bồ-đề, ở nơi ông kéo dài năm tháng, đến lúc già qua đời sẽ sinh về Tịnh độ". Chí Thông sống lại, kể lại việc ấy, càng tu càng tụng, sau sáu năm mới qua đời, có mùi thơm lạ tỏa khắp phòng, được cảnh Tịnh độ đón rước.

Bà quả phụ ở Lương châu:

Ở Lương châu có bà quả phụ họ Lý, gia đình kính thờ Phật pháp, thường theo dự các trai hội, sau khi nghe bài giảng liền có thể tụng đọc lại. Về sau, bỗng nhiên có một người phụ nữ vốn là kẻ tôi tớ của Công chúa đến xin trú ở qua đêm, đến sáng ngày vẫn nhắm mắt mà không nỡ đuổi đi. Chỉ chốc lát, có kẻ lại đến lục bắt và bảo là: "Lý (bà quả phụ) che giấu kẻ tôi tớ phản nghịch". Đã bị lục bắt giao vào nhà ngục. Bà quả phụ liền dốc lòng tụng kinh Quán Thế Âm, được hơn mười ngày, bỗng nhiên mắt thấy Bồ-tát Quán Thế Âm đến hỏi Lý rằng: "Vì sao chẳng đi?". Lý đáp: "Không thể đi được!". Bồ-tát Quán Thế Âm lại bảo rằng: "Chỉ cần đứng dậy thì gông cùm tự mở". Khi đó, bà quả phụ đi thẳng về nhà. Ngục quan và người canh giữ đều chẳng tự hay biết. Về sau kẻ tôi tớ ấy biết sai đến hỏi: Vì sao được trở về, bà trả lời đầy đủ như thế, và cũng chẳng bị bắt lại. Đó thật là do năng lực tụng kinh nên chiêu cảm thánh ứng.

Cao Thủ Tiết ở Tinh Châu đời Tùy:

Vào đời Tùy, ở Tinh châu có người tên là Cao Thủ Tiết, gia đình vốn nhiều đời kính tin, phụng thờ Phật pháp. Mà Thủ Tiết lại rất tinh thành. Lúc khoảng mười sáu, mười bảy, có du hóa tại quận, giữa đường, Thủ Tiết gặp một vị Sa-di chứng năm, sáu mươi tuổi, tự xưng tên mình là Hải Vân, cùng nhau bàn nói, nhân đó hỏi rằng: "Đứa trẻ có thể tụng kinh chăng?". Thủ Tiết đáp rằng: "Nhận biết được gốc tâm". Hải Vân liền dẫn Thủ Tiết đến núi Ngũ Đài, tới nơi thấy có ba phòng nhà bằng cỏ tranh, vừa được dung thân, bèn ở trong đó, dạy cho tụng kinh Pháp Hoa. Khi Thủ Tiết tụng kinh thì Hải Vân ra ngoài khất cầu mọi thứ để cung cấp y thực. Thủ Tiết có thấy một vị tăng Ấn-độ đến cùng Hải Vân trò chuyện nói cười suốt ngày mà qua lại. Sau đó, Hải Vân hỏi rằng: "Có biết vị tăng Ấn-độ vừa rồi chăng?". Thủ Tiết đáp: "Không biết". Hải Vân khẩn khoản dường như cười đùa, bảo rằng: "Đó là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!". Thủ Tiết tuy từng tiếp thừa lời nói ấy nhưng chưa tỏ ngộ ý chỉ. Sau, Hải Vân sai Thủ Tiết xuống núi vào xóm để nhận vật, bèn răn bảo rằng: "Người nữ là gốc của mọi thứ xấu ác, làm hư hoại Đạo Bồ-đề, phá nát thành Niếtbàn, ông đến trong nhân gian, phải rất thận trọng". Thủ Tiết vâng lời dặn bảo ấy mà xuống núi, giữa đường thấy một người nữ chừng mười bốn tuổi, y phục mới đẹp hoa hòe, dáng dấp xinh xắn, cưỡi một con ngựa trắng đi thẳng đến trước, cúi đầu hướng về Thủ Tiết nói rằng: "Thân có hoạn gấp, muốn được xuống ngựa, nhưng vì cưỡi ngựa nó hay nhảy vọt, không do đâu để tự chế ngự, mong anh vui lòng cứu giúp thân mạng bé bỏng này!". Thủ Tiết bèn nhớ lại lời Thầy (Hải Vân) chẳng hề đoái hoài nhìn lại. Người nữ ấy cũng đuổi theo đến mấy dặm, thiết tha nói lời ấy. Thủ Tiết vẫn giữ chi khí như lúc đầu. Bỗng chốc bị mất dấu. Sau khi về lại nơi cũ, Thủ Tiết trình bày lại việc ấy, Hải Vân bảo: "Ông thật là người trượng phu, tuy nhiên, đó chính là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi!". Thủ Tiết còn chưa tỏ ngộ, vẫn cho đó là lời nói đùa. Nhưng ở đó tụng kinh trải ba năm, với một bộ kinh Pháp Hoa, Thủ Tiết rất được tinh thuấn. Sau đó, nghe ở Trường An độ người xuất gia, trong tâm mong được xuống tóc. Hải Vân bảo: "Xem ngươi hẳn muốn ra đi, sẽ từ giã thầy, một lần từ biệt này, khó gặp gỡ lại! Ngươi đến kinh đô, hãy ở Đạo tràng Thiền Định, nương theo Thiền sư Ngọa Luân!". Thủ Tiết vào kinh đô cầu độ, không được toại tâm nguyện, mới đến chỗ Thiền sư Ngọa Luân. Ngài Ngọa Luân hỏi: "Ông từ đâu đến?". Thủ Tiết đáp: "Từ núi Ngũ Đài đến, Hòa-thượng bảo con đến làm đệ tử thầy". Ngài Ngọa Luân hỏi: "Hòa-thượng của ông hiệu gì?". Thủ Tiết đáp: "Hiệu là Hải Vân". Ngài Ngọa Luân kinh hãi than rằng: "Núi Ngũ Đài là nơi ở của Bồ-tát Văn-thùsư-lợi, Tỳ-kheo Hải Vân tức là vị Đại Thiện tri thức thứ ba của Đồng Tử Thiện Tài. Vì sao ông bỏ những bậc thánh ấy, ngàn kiếp muôn kiếp không nhờ đâu được gặp một lần! Vì sao sai lầm như thế?". Thủ Tiết mới tỏ ngộ mọi sự từ trước đến nay, tiếc rằng chẳng tan nát thân hình, ngay đầu mà ngu tình cuồn cuộn, còn mong gì được thấy lại, bèn từ giã ngài Ngọa Luân trở về với dấu vết xưa, suốt ngày đêm rong ruổi mới về đến chỗ cũ, nhưng không hề còn trông thấy gì.

Thích Minh Diệu ở chùa Chiêu Quả:

Thích Minh Diệu, không rõ họ gì. Mới đến tuổi đi học, Sư đã sớm sợ mành lưới thế tục, thưa hỏi bến đạo, không hề học ở một thầy cố định. Sư ở chùa Chiêu Quả, thường tụng kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. Mỗi lúc tác quán ở chùa Phật Quang, Sư từng cùng Sa-môn Giải Thoát đồng đến chùa Đại Học, cầu thỉnh Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Đến ở phía Bắc vườn hoa, thấy có một vị Sa-môn, dung nghi hình phục khác thường, từ từ đi đến. Bèn đến bên góc phía Đông Phật đường, định đi theo hướng Đông, khi đó trong lòng Sư mừng sợ lẫn lộn, tính từng khuỷu tay mà bước tới, chưa đến vài thước thì không thấy gì nữa, bèn buồn than giây lâu, rồi cùng ngài Giải Thoát trở về!

Sư có thân hình cao đến bảy thước, oai dung điềm đạm, bàn nói trình bày thường khơi động tâm người. Có thời gian Sư cùng Sa-môn Hội Tích trước kia đến núi Ngũ Đài, đích thân lễ bái, Sư nói với ngài Hội Tích rằng: "Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ mười hai (616) đời Tùy, tôi thấy Thiền sư An đi khắp các danh sơn, chùa viện, lễ bái tham hầu thánh tích. Ngày nay lại thấy pháp Thiền là chẳng thể nghĩ bàn. Nguyện cho Pháp sư được sống lâu không bệnh, để mở mang, khen ngợi Phật thừa". Bấy giờ Sư đã một trăm lẻ sáu tuổi mà chưa phải chống gậy, và thần thái không rơi lạc. Không biết về sau, Sư bao nhiêu tuổi mới thị tịch.

Thích Tăng Hồng ở chùa Ngõa Quan:

Thích Tăng Hồng trụ chùa Ngõa Quan ờ Đô Hạ, tu tạo tôn tượng bằng vàng cao trượng sáu, khuôn mẫu vừa làm hoàn tất, lúc đó là niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ mười hai (416) đời Đông Tấn, có sắc lệnh cấm đúc đồ đồng, Sư chưa nghe biết nên làm khuôn để đúc tượng, bèn bị quan thâu bắt đưa đến tướng phủ, bởi tội gian đáng phải bị chết, Sư bèn trì tụng kinh Pháp Hoa Quán Thế Âm, được một tháng, bỗng nằm mộng thấy pho tượng mình đã đúc đi đến chỗ ngục, đưa tay xoa đảnh đầu Sư và hỏi: "Ông có sợ chăng?". Sư trình bày đầy đủ sự việc. Tượng lại bảo: "Không nên lo sợ!". Trong mộng ngài thấy tôn tượng vuông vắn một thước, sắt đồng đỏ chảy. Sau được trông thấy giết. Ngày đó, Phủ Tham quân đóng đến trông coi hình quyết, mới đầu kêu gọi xa giá, mà trâu chẳng hề chịu vào. Khi đã vào lại tuông xe chạy bị phiền toái, đến nỗi phải nhắm mắt không nhìn thấy. Lại định ngày hôm sau. Do đó mà có sắc ban Từ Bành Thành trở về Đạo, nếu chưa giết Tăng Hồng, thì ân hận miễn đến. Ngài ra phá khuôn để xem tượng, quả nhiên tự trước ngực đúng như trong mộng. Tôn tượng ấy hiện nay vẫn còn tại chùa Ngõa Quan, nên biết do năng lực tụng kinh mà cảm thánh.

Vương Châu ở Thái Nguyên:

Vương Châu, tự là Thúc Diễn, người xứ Thái Nguyên. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ chín (432) thời Tiền Tống, làm Bồi Lăng quận lệnh, gặp phải giặc nên tan mất cơ đồ, bị bắt giam tại phủ ngục ở Giang Lăng, mang một cái khóa lớn, đinh rất cứng chắc. Vương Châu ở trong ngục trì trai tụng kinh Quán Thế Âm. Một đêm, bỗng mộng thấy tự mình lên ngồi trên tòa cao, có vị Đạo nhân trao cho quyển kinh, tựa đề là "Quang Minh An Lạc Hạnh Phẩm" và danh hiệu các vị Bồ-tát. Vương Châu có được bèn mở ra đọc xem, quên mất tên vị Bồ-tát thứ nhất, nhớ vị thứ hai là Quán Thế Âm, vị thứ ba là Đại Thế Chí đều có cõi nước và danh hiệu. Do đó, thức giấc bèn thấy khóa ở phía sau đã mở, Vương Châu biết là có cảm ứng, chẳng còn phải lo sợ. Nhân tự định sửa lại khóa đó, y như thường mà đóng. Trải qua ba ngày mọi sự chẳng như ý, bèn thả Vương Châu ra.

Đến niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười chín (442) thời Tiền Tống, Vương Châu lại làm Vệ Phủ Hành tham quân theo trấn ở Quảng Lăng, tinh tấn càng chí thiết.

QUYỂN 6

VIII. PHÚNG TỤNG THẮNG ÍCH

(Phần 4)

1. Đạo nhân ở Việt Châu

2. Huân Hùng ở Hà Đông

3. Thích Thông Tuệ

3. Sa-di chùa Khai Thiện

5. Thích Phước Duyên

6. Bành Tử Kiêu

7. Thích Tuệ Thắng

8. Ni Sư Pháp Không

9. Thích Diệu Liên

10. Thích Tuệ Sinh

11. Thích Đàm Nghĩa

12. Thích Thanh Tuệ

13. Vương Cốc

14. Tỳ-kheo-ni Diệu Pháp

15. Ngô Lâm Thông

16. Lý Sơn Long

17. Đạt-ma-bạt-đà

18. Thích Tăng Trí

19. Thích Tuệ Đạt

20. Bà goá phụ họ Dương

21. Thích Pháp Đạo

22. Hai vị Tăng ở Bắc Đạo.

23. Hai vị Tăng chùa Thắng Nghiệp

24. Trúc Trường Thư.

Đạo nhân ở đạo tràng Quán Âm thuộc Việt Châu:

Trong khoảng niên hiệu Thiên Giám (502-520) thời Nam Lương, Sa-môn Thích Pháp Chánh người xứ Bá Tể quảy hành lý theo hướng Tây đi tìm thầy học Đạo, Sư cũng là người rất thông hiểu nghĩa thú, tu hành tinh tấn. Ở tại đất Lương hơn ba mươi năm, mà chẳng thể quên dứt quê cũ, nên về lại Bá Tể, Sư tự giảng nói những gì thấy nghe được ở Nam Lương.

Ở quả núi nơi biên giới Việt Châu, có một Đạo tràng tên là Quán Âm, có tường nhà Quán Âm nên Sư đến xem, cây gỗ rui lách đều hư hết mà vách tường hiện tại vẫn còn, ở đó có hai Đạo nhân cùng nhau kết giao vào núi, một vị thích trì tụng kinh Hoa Nghiêm, một vị thích trì tụng kinh Pháp Hoa, mỗi người ở một hang động, răn nhau làm đổ thất, vị tụng kinh Hoa Nghiêm với kỳ hạn một tháng thì hoàn tất, trong tâm nghi ngờ bạn mình không biết tụng đã được bao nhiêu nên đến dò xét, thì thấy chưa tụng được một quyển nào, bèn nói rằng: "Kỳ hạn đã sắp hết, lương thực gần muốn cạn, nên đến kỳ hạn mà hoàn tất. Nếu không thể niệm tụng trọn cả một bộ kinh Pháp Hoa thì hãy tụng kinh Quán Thế Âm thôi". Nói xong, ông trở về thất của mình. Từ đó, vị thích tụng kinh Pháp Hoa trong tâm tự đau buồn, do xưa có nhân căn trí ám độn, bèn dốc lòng đọc tụng, suốt ngày đêm chẳng biếng trễ, tụng thầm được hơn một nửa. Vài ngày sau đó, vị thích tụng kinh Hoa Nghiêm lại đến và tình thật mà nói rằng: "Tôi đã tụng xong hết kinh Hoa Nghiêm, vì sao chỉ mới bắt đầu của kinh Quán Thế Âm như thế, huống chi đã qua hai, ba ngày mà chẳng am tường ư? Nếu tôi bỏ ông mà đi thì trái với giao ước, còn đợi chờ ông hoàn tất thì lương thực sắp hết, đã qua ba ngày chẳng trọn, đúng lý là không được cùng đợi, nhưng thôi hẹn ông ngày mai cùng trở lại. Ông nên cố gắng!". Vị tụng kinh Pháp Hoa lại khổ đau gấp bội lúc trước, bèn dốc lòng tụng niệm mới được hoàn tất. Sáng sớm hôm sau, vị tụng kinh Hoa Nghiêm lại đến và bảo rằng: "Mới đầu của kinh Quán Thế Âm như thế còn chẳng trì tụng được, thì không biết làm sao nữa! Nay tôi xin từ giã ông mà đi". Vị tụng kinh Pháp Hoa liền quỳ mà thưa rằng: "Hồi hôm vừa tụng được hoàn tất!". Khi đó vị tụng kinh Hoa Nghiêm rất vui mừng muốn cùng thử xem, bèn ngồi trên giường đọc tụng suốt ba mươi quyển kinh không một sai sót. Kế đến vị tụng kinh Pháp Hoa lên giường đọc tụng, vừa mới mở lời, liền ở giữa hư không các thứ hoa hương rải như mưa xuống, hoa rải khắp đổ thất, hương thơm tỏa ngát cùng hang động, hơi khí hòa quyện đầy trời, chẳng thể kể hết. Khi đó, vị tụng kinh Hoa Nghiêm mới xuống đất cúi đầu, đầu mặt đều đổ máu, sám hối tội lỗi. Sự việc hoàn tất, vị tụng kinh Hoa Nghiêm bèn muốn giã biệt. Vị tụng kinh Pháp Hoa cản ngăn và bảo rằng: "Thường có một ông lão biếu tặng lương thực cho tôi, ông hãy đợi một thời gian ngắn". Giây lâu chẳng thấy đến, nên vị tụng kinh Hoa Nghiêm bèn từ biệt mà đi. Vị tụng kinh Pháp Hoa muốn múc nước nên đến chỗ giếng, thấy ông lão ấy đang ngồi nghỉ dưới cỏ, bèn lấy làm lạ, hỏi rằng: "Người bạn của tôi vừa mới đến, muốn được cùng cấp thức ăn, vì sao ông trốn không cung cấp thức ăn?". Ông lão đáp: "Người ấy khinh thường tôi như thế, tôi đâu muốn nhìn thấy?". Từ đó mới biết ông lão chính là Bồ-tát Quán Thế Âm nên vị tụng kinh Pháp Hoa liền gieo năm vóc sát đất đảnh lễ rất mực chí thành, chốc lát ngửa lên nhìn thì không còn thấy nữa. Chỗ tường vách của vị tụng kinh Pháp Hoa ở đến nay vẫn còn đó! Sa-môn Phát Chánh gần gũi trông thấy như thế.

Huân Hùng ở Hà Đông:

Huân Hùng ở Hà Đông, từ thuở thiếu thời rất mực kính tin Phật đạo, chỉ ăn rau quả suốt vài mươi năm. Đến khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-650) thời Tiền Đường, Huân

Hùng làm Đại lý thừa. Mùa xuân niên hiệu

Trinh Quán năm thứ mười bốn (645) thời Tiền Đường, bị liên lụy với Thứ sử Lý Tiên

Đồng Sự, buộc giam ở sử đài. Bấy giờ, vua Thái Tông (Lý Thế Dân) cho là bè đảng nên trong lòng vô cùng tức giận sai Trị thư thị Ngự sử Vi Tông, v.v... tra xét, phòng cấm nghiêm mật. Bị giam cấm có đến mười người, Đại Lý Thừa, Lý Kính Huyền, Tư Trực, Vương Hân đều bị liên lụy, cùng với Huân Hùng đồng giam trong nhà tù, và đều bị xiềng xích chắc chắn. Huân Hùng chuyên tâm niệm tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, qua vài ngày được ba ngàn biến. Đang trong đêm ngồi tụng kinh, khóa xích bỗng nhiên tự mở rơi xuống đất. Huân Hùng kinh hãi báo với Vương Hân và Lý Kính Huyền. Hân và Huyền cùng nhìn thấy xích khóa vẫn sát đất, móc khóa vẫn nghiễm nhiên không hư hoại mà móc và khóa cùng lìa nhau đến mấy thước. Lý Kính Huyền, v.v... lấy làm lạ. Huân Hùng sợ tội trách nên báo với người canh giữ xin xiềng xích mở khóa. Đêm đó Giám sát ngự sử Trương Thủ trực suốt đêm, lại mở xích khóa, Ngự sử lấy đuốc lửa soi thì thấy xích khóa không mở mà tự nhiên lìa nhau, rất lấy làm lạ, nhân đó mở khóa để khóa lại, dùng giấy dán buộc khóa ấy, viết lên giấy đó rồi đi. Sau đó, Huân Hùng lại ngồi tụng kinh, đến canh năm, xích khóa lại mở rơi mà phát ra tiếng như có người mở. Huân Hùng lo sợ lại báo với Hân và Huyền. Hân và Huyền v.v... bảo rằng: "Muốn hiểu thì không nên gọi Ngự sử". Khi trời sáng, mọi người cùng đến xem, móc khóa mỗi tự rơi lìa xuống đất mà xích khóa vẫn còn hợp, chỗ dán bít đặt toàn như cũ không đổi thay, móc lại rất nguyên vẹn kín đáo không thể mở. Lý Kính Huyền từ thuở nhỏ đến lúc trưởng thành chẳng hề tin Phật pháp, những lúc thấy vợ tụng kinh, thường bảo rằng: "Vì sao lại nịnh nọt thần người Hồ mà đọc sách ấy ư? Đến lúc thấy việc này của Huân Hùng, mới rất khen ngợi, tỉnh ngộ, bảo rằng: "Nay tôi mới biết Phật là bậc Đại thánh không người nào sánh bằng. Thật không thể nghĩ bàn!". Bấy giờ, Vương Hân cũng tụng niệm danh hiệu tám vị Bồ-tát đủ số ba mươi ngàn biến, giữa ban ngày, xích khóa tự mở rơi, trông thấy xích khóa văn nằm dưới đất, Huân Hùng chẳng lấy làm lạ. Lý Kính Huyền từ đó mới tin phục, hổ thẹn sám hối. Thế rồi, ba người đều được linh ứng. Lý Kính Huyền bèn viết kinh Pháp Hoa, họa tôn tượng tám vị Bồ-tát, quy y cúng dường. Đến lúc bệnh tình quá nặng ở tại nhà, Lý Kính Huyền chưa hỏi về tật bệnh, mà chỉ nói lại đầy đủ việc ấy. Lúc lâm bệnh càng nhiếp tâm. Hỏi Đài nội quan lại thì cùng như điều Lý Kính Huyền nói không khác, Huân Hùng tự kể lại việc đó, mà càng tinh thành dốc chí. Đến nay Huân Hùng hiện làm Chu chất lệnh (Cảm Thông Lục, quyển hạ).

Thích Thông Tuệ ở Lưu Châu, thời Tiền Đường:

Thích Thông Tuệ, họ Ngu, thuở thiếu thời rất siêng năng, tiết tháo tinh thuần, xuất gia làm Sa-di, chỉ ăn rau quả khổ tiết, chuyên học luật nghi, lại thông luật tạng. Năm hai mươi tuổi thọ giới Cụ tục.

Bấy giờ có vị thầy đoán tướng nói với Sư rằng: "Sư là người rất thông minh trí tuệ, không có tướng tà vạy. Chỉ có thọ mạng hơi ngắn không thể tiếp nối khuôn phép!". Sư nghe lời ấy bèn hỏi các vị Đại đức rằng phải tu công đức gì để kéo dài tuổi thọ. Khi ấy, các vị Đại đức đạt thức bàn luận với nhau rằng: "Giáo pháp Đức Phật giảng nói trong một đời thì kinh Pháp Hoa là tối đại. Nếu thọ trì thì không già không chết. Nếu y pháp mà thọ trì đọc tụng thì sẽ được sống lâu". Lúc đó, Sư cũng được dự nghe bàn, bèn tạm xả bỏ sách vở giới luật, theo thầy thọ học kinh, liền vào trong núi sâu thọ trì kinh Pháp Hoa, siêng năng phúng tụng. Sau ba năm, Sư xuống núi tìm đến nơi vị thầy đoán tướng trước kia. Vị ấy hỏi: "Sư tu công đức gì mà được tuổi thọ đến năm mươi, mau chóng như thế? Sư đáp: "Trước kia bị tướng mạng sống ngắn ngủi, nên vào núi sâu tụng đọc kinh Pháp Hoa sáu ngàn biến nên được lợi ích cao quý như thế, ngoài ra không hề có công đức gì khác!".

Thầy đoán tướng ấy khen ngợi: "Công đức của kinh giáo Đại thừa có khả năng kéo dài mạng sống bị ngắn ngủi, nhờ công đức này giúp cho Đại đức tuổi thọ hơn chín mươi!". Về sau quả thật Sư sống thọ như lời dự ghi của thầy tướng.

Vị Sa-di ở chùa Khai Thiện, đời Tùy:

Dưới đời Tùy, Tạng Công ở chùa Khai Thiện có nuôi vị đệ tử Sa-di, tuổi mới mười lăm mà nhận biết được oai nghi, chẳng trái tình ý mọi người, nên mọi người thấy đều vừa ý. Bấy giờ có Hà Dận đến nói với Tạng Công rằng: "Vị Sa-di này không có tuổi thọ lâu dài!". Tạng Công nghe thế buồn thương, vị Sa-di ấy bèn trở về nhà sống với cha mẹ. Năm năm sau, vị Sa-di ấy đến chỗ Tạng Công, Tạng Công khởi ý niệm lạ, nên hỏi Hà Dận rằng: "Sa-di ấy sao đổi tướng như vậy?". Hà Dận đáp: "Tướng đã đổi, được sống đến tuổi tám mươi!" Tạng Công vô cùng khen ngợi kinh lạ, hỏi Sa-di ấy rằng: "Ông có được công đức cao quý gì thế?". Vị Sa-di ấy đáp: "Trọn không tu công đức gì, chỉ nhờ xưa ở trước Tăng phường nghe được một bài kệ là:

"Chư Phật, Đấng phước tuệ
Biết pháp thường vô tánh
Giống Phật theo duyên khởi
Nên nói pháp Nhất thừa".

Nên miệng thường vừa đi vừa tụng không biết được mấy ngàn vạn biến. Đến lúc mộng thấy một vị quan mặc y phục màu đỏ, đem đến một quyển sách và tự xưng là Quan Điệp, liền mở ra đọc, thấy trong đó viết rằng: "Thọ mạng của ông chỉ được mười tám tuổi, nay tụng theo một bài kệ, biến thành tám mươi tuổi, đó là lý do kéo dài tuổi thọ của ông". Khi đó, Tạng Công khen rằng: "Kệ tụng ấy là văn trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, Ông y cứ tụng đọc diệu kệ ấy thì được kéo dài tuổi thọ. Xưa kia, tôi vào trong núi suốt năm năm thọ trì kinh Kim Cương, Bát-nhã nên được sống lâu, nay ông vừa đi miệng vừa tụng, thì còn hơn sự tinh khổ của tôi. Đó thật là năng lực của kinh điển Đại thừa không thể nghĩ bàn. Ông chớ sinh lười biếng mệt nhọc". Mọi người nghe vậy, không ai chẳng vững chắc niềm tin.

Thích Phước Duyên chùa Tây Nhĩ ở nước Sa-ha-la:

Ở nước ngoài có ngôi chùa tên là Bồ-đề, từ phía Nam cách hơn mười dặm, ở giữa hư không hiện ra một cung điện bạc, trong đó có các trời nam nữ đùa vui với nhau. Lại hiện lên một cung điện vàng, trong đó có một vị Thánh tăng. Việc đó thật ít có kỳ lạ. Vua quan ở các nước đều nhóm họp lễ bái cúng dường. Khi đó, vị Thánh tăng ấy nói rằng: "Thiên hạ không an ổn, lúa thóc không tốt tươi, tật bệnh đua nhau lan tràn, vì chẳng tin Tam bảo. Cảnh giới Tam bảo không thể nghĩ bàn, trải qua kiếp số như cát sông Hằng chẳng thể khen ngợi hết. Năng lực của kinh Phật cũng không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì ta vốn trụ chùa Tây-Nhĩ ở nước Sa-ha-la, tên ta là Phước Duyên trú trì trong một thất nhỏ, thường trì tụng kinh Pháp Hoa, chứng đắc Vô sinh nhẫn. Chỗ ta tụng kinh đưa vào trong hộp trắng đặt trong chùa. Di cốt của ta chôn nơi phần mộ xưa trong ngọn núi nhỏ cách chùa hơn mười dặm về phía Tây. Sau khi xả bỏ tuổi thọ mới ba mươi năm, nương theo nguyện lực, nên chiếc lưỡi biến thành sáp như ngày nay thường luôn phát ra ánh sáng. Do đó mà biết lời nói của ta hư thật thế nào, nên lại chỉ bày duyên xưa. Các người trời ở trong cung điện bạc là những người cung cấp giúp đỡ tụng kinh!". Nói xong liền ẩn mất. Các vua quan buồn vui lẫn lộn, tìm lại bốn duyên đó đều như chỗ bậc Thánh nói, không chút sai lầm. (Duyên này xuất xứ từ Tây Vực truyện, chẳng phải đích thân được nghe, này chỉ y theo lời ghi xưa mà rút ra đó thôi).

Bành Tử Kiêu ở Ích Dương, thời tiền Tống:

Bành Tử Kiêu, người ở huyện Ích dương, đảm nhận Bổn quận chủ bộ, đụng chạm với Thái Thú Thẩm Văn Long, nên bị bắt giam vào ngục, Thẩm Văn Long muốn giết ông. Bành Tử Kiêu thuở thiếu thời có xuất gia, về sau tuy hoàn tục mà vẫn thường tụng tập kinh Quán Thế Âm. Bấy giờ, Thẩm Văn Long muốn giết Bành Tử Kiêu, tìm xét không đáp lại mong ước. Bành Tử Kiêu chỉ dốc lòng tụng kinh được trăm biến thì đã rất mệt nhọc, ngủ gật giữa ban ngày. Đồng bị trói buộc một nơi có đến mười người cũng đều nằm ngủ.

Có Tương Tây huyện lại cũng bị trói giam trong ngục, khi đó như vừa ngủ vừa chẳng phải ngủ, không chịu nổi sự nóng bức, nhân trong cơn hoảng hốt thấy có hai con chim hạc trắng tụ đến chỗ Bành Tử Kiêu và lặng gió phía trên, chóc lát có một con bay xuống đến bên cạnh Tử Kiêu. Khi đó lại cảm thấy như người xinh đẹp, hình dung tuyệt hảo, Đạo Vinh trong tâm lấy làm lạ, bèn đến xem, thấy Tử Kiêu thức giấc. Đạo Vinh hỏi: "Vừa rồi có mộng mị gì chăng?". Tử Kiêu đáp: "Không mộng". Đạo Vinh kể lại những điều đã trông thấy, bèn vui mừng không thể nói. Đạo Vinh tụ trở lại chỗ gông cùm cũ, chẳng cho mọi người biết. Sau đó khoảng bốn năm ngày, bèn thấy chẳng phải nên thả. Có Đại nghĩa ở Nghĩa An và Vương Diễm ở Thái Nguyên cùng quả có xưa, trước soạn "Minh Tường ký" nói về Liên là người anh trong dòng họ vốn thần thức với Tử Kiêu và Đạo Vinh. Nghe hai người nói đều đồng như đây. (Pháp Uyển quyển 27).

Thích Tuệ Thắng chùa Bạch Cẩu ở Thanh Châu:

Thích Tuệ Thắng chùa Bạch Cẩu ở Thanh Châu, vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi bốn (437) thời Tiền Tống, bỗng bị bệnh điếc mù, chóng mất cả tai mắt, Sư tự suy nghĩ: "ở đây chẳng hết bệnh, lại không dùng thuốc thang, chỉ nên quy hướng Bồ-tát Quán Thế Âm, trì tụng kinh ấy một nghìn biến". Khi tụng đã đủ số thì mắt tai bất chợt tự nhiên trở lại bình phục.

Ni Sư Pháp Không ở Tuyên Châu:

Ni Sư Pháp Không họ Hàn, người ở xứ Tuyên Châu, từ thuở nhỏ đã giã từ thân thích, đến xin xuất gia trụ chùa Kiến An, cách núi Ngũ đài về phía Tây nam hơn trăm dặm. Sau đó, đến chùa Kỳ Hoàn thọ giới, thường trì tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp chính. Nghe nói: "Có Sa-môn Đạo Siêu không có hạnh nghiệp gì riêng, chỉ ở lâu tại chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài hơn hai mươi năm chẳng ra khỏi cửa núi. Sau đó qua đời sinh lên nội viện cõi trời Đâu-suất. Khi ấy, người trời bảo Đạo Siêu rằng: "Ông ở dưới nhân gian không có hạnh nghiệp gì riêng, chỉ tụng kinh Pháp Hoa, nương năng lực cảnh giới của Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên được sinh lên cõi trời này, ông hãy trở lại nhân gian tiếp hóa bốn bộ giúp họ nghe biết". Ngài Đạo Siêu y theo lời ấy, chẳng xả bỏ báo mạng cõi trời, xuống báo với mọi người ở nhân gian". Sư Pháp không nghe như thế, bèn tư duy sinh khởi tâm niệm ít có khó gặp nên phát nguyện, sau đó đến trụ viện Tam Tuyền ở phía Tây bắc chùa Hoa Nghiêm, trước vừa đến trong rừng gặp được một ông lão nói với Pháp Không rằng: "Ngươi nương náu ở đây tu hành Diệu pháp, chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị cao siêu. Nói xong, thì không thấy nữa, Pháp Không biết đó là Đại thánh mách bảo, buồn khóc rơi lệ, bèn nương viện ấy riêng lập riêng am tranh, ở đó giũa mài ba nghiệp, sớm tối chẳng biếng lười, chỉ giữ lấy y phục đắp mặc trên thân, còn tất cả mọi thứ bảo đệ tử vào cúng thí đại chúng. Pháp Không bảo rằng: "Ta đến nương ở đây, được Đại Thánh dạy bảo chỉ cho bốn chữ "Diệu Pháp Liên Hoa", khai mở tri kiến Phật, thanh tịnh không nhiễm, đại chúng mỗi người hãy tự cố gắng, không được để luống qua!". Nói xong bèn thị tịch, vẫn ngồi thẳng như lúc còn sống. Chúng trà-tỳ thâu nhặt xá-lợi có hơn ngàn viên, bốn chúng chia nhau cúng dường.

Thích Diệu Liên chùa Tổng Nhân ở Đại Châu:

Thích Diệu Liên, thường có tâm từ bi cứu giúp mọi vật, trì tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp chánh. Sư nói với các bạn rằng: "Tôi dùng sức lực tụng kinh, sinh vào nội viện Đâu-suất muốn gặp đức Từ Thị, nguyện ước ấy có thành đạt chăng?". Các bạn đều đáp: "Rất có thể được! Trong kinh nói "Nếu người thọ trì đọc tụng, đến lúc qua đời sẽ được sinh lên cõi trời Đâu-suất ở chỗ Bồ-tát Di-lặc". Phật đâu có nói dối?". Sư càng siêng năng cần hành trì tinh tấn, phúng tụng kinh Pháp Hoa chưa hề ngơi nghỉ. Đến lúc ngoài bảy mươi tuổi, cảm bệnh nhẹ chóng khởi, Sư mời các bạn đến, cùng nói rằng: "Tôi bị bệnh nhẹ chẳng lấy làm đau khổ. Hiện có Đổng tử ở cõi trời đến đón rước, có Hóa Phật trao tay". Nói xong bèn thị tịch, thân hình vẫn ngồi thẳng như lúc sống, ba ngày sau tỉnh lại, nói rằng: "Tôi nương năng lực trì tụng kinh Pháp Hoa, được đến nội viện của Bồ-tát Dilặc ở cõi trời Đâu-suất, các vị trời khen ngợi rằng: "Ông ở cõi Diêm-phù tụng kinh Pháp Hoa, do công đức ấy tự đến cõi trời này phụng kính thấy Đức Từ Thị diệu tướng tôn, nghe pháp sớm khế hợp, không thối nhẫn, nghe kệ sinh tâm vui mừng!". Bồ-tát Từ Thị bảo rằng: "Ông ở nhân gian, nhờ năng lực trì tụng kinh Pháp Hoa nên được sinh lên cõi này, các vị trời ở cõi này phần nhiều là những người sống trong Di pháp của Đức Thích-ca mà thọ trì, đọc tụng, giảng nói biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa nên được như vậy. Ông hãy sớm trở lại nhân gian dắt dẫn bốn chúng đệ tử, giúp họ được nghe biết, dần trì tụng kinh Pháp Hoa, tiêu trừ các tội lớn, lấy đó bù đắp vào các khuyết hạnh để sinh lên cõi trời!". Khi đó, tôi bạch với Bồ-tát rằng: "Lấy gì làm chứng cho đồ chúng đáng tin nhận?". Bồ-tát liền xoa huân hương vào tay tôi. Vì nhân duyên ấy nên nay tôi sống lại". Khi đó, từ bàn tay Sư mùi hương ấy tỏa khắp cả một châu, các môn nhân đều lấy làm tin. Sư nói lời ấy rồi, không bao lâu bèn thị tịch. Môn nhân xây tháp ở phía Đông bắc của chùa, tôn trí di thân Sư, nơi giảng pháp còn thoảng mùi huân hương như xoa xác vào tường vách, ba ngày về trước mùi hương chẳng tan hết. Đó là chỗ hiện thấy nghe.

Thích Tuệ Sinh ở chùa Chân Tịch, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Sinh, theo học Đạo với Samôn Tuệ Như, bởi từ trí tuệ sinh ra nên gọi là Tuệ Sinh. Sư theo Tuệ Công giảng nói về tướng của các địa ngục, và thấy vết chân lầm lỗi của mình nên rất kinh sợ về đời sau, Sư chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, bèn trọn một ngày một đêm không động, như vào thiền định. Đại chúng đều lấy làm lạ mà bảo rằng: "Sư Tuệ Như nhập Tam-muội suốt bảy ngày không dao động, bị vua Diêm-la thỉnh mời, ở đây chắc cũng như thế". Đến sáng hôm sau, Sư mở mắt, buồn vui lẫn lộn, nước mắt đầm đìa. Chư tăng hỏi: "Vì sao vừa buồn vừa vui như thế?"

Sư đáp: "Tôi bỗng thấy hai người mặc y phục mầu đỏ, dung nghi đẹp đẽ, áo the quần lụa phục sức mới đẹp, nói là: "Chúng tôi do vua Diêm-la ở Phủ Quân Thái Sơn sai đến thỉnh sư". Và liền bảo tôi lên cưỡi con ngựa trắng, chỉ chốc lát đã đến chỗ vua, từ tòa mà xuống tỏ vẻ cung kính đến bên chỗ ngồi, vua nói với tôi rằng: "xưa Sư có chỗ chắc chắn thọ nghiệp địa ngục. Nghiệp địa ngục đó tức là cha mẹ ông vì ông mà giết hại các vật heo, dê, ngỗng, vịt, v.v... tuy chẳng phải chính ông tự giết hại, nhưng bởi nghiệp ác nên phải chịu quả báo. Lại nữa, vào thời ông còn là Sa-di mạo phạm sử dụng tăng phần, oai nghi không điều độ. Tội ấy thật là vô lượng, nên đáng đọa vào địa ngục. Nay nhờ năng lực trì tụng kinh Pháp Hoa nên tội ấy tiêu hết, sinh trước chư Phật mười phương. Nhưng vì muốn giúp cho biết được chỗ nghiệp ấy, và muốn tất cả đều được nghe biết về quả báo nghiệp ác và cốt yếu diệt tội nên thỉnh Sư đến chốn địa ngục để được nhìn thấy chỗ chịu tội". Vua bèn sai Sứ giả dẫn đường, tôi bèn theo kẻ Sứ mà đi thẳng đến phía Đông, có một tòa thành lớn, cách bốn, năm dặm, lần lượt có tất cả ba mươi hai thành lớn, đó là thành của địa ngục, đang lúc xem xét tướng chịu khổ của chúng sinh trong mỗi thành, liền đi thẳng đến trước, vào trong một thành lớn, thấy có xe sắt, ngựa sắt, trâu sắt, lừa sắt, lửa dữ phừng phực, sừng lông của trâu đều như mũi nhọn, lông trên mình ngựa tợ như móc nhọn giẫm đạp lên người tội. Trong đó có vô lượng vị Sa-môn chịu khổ, Sứ giả bảo rằng: "Các Sa-môn này không mến tiếc tương lai chỉ ham lấy danh lợi ở hiện tại, trái phạm tịnh giới Phật chế, chứa để các vật bất tịnh, cưỡi xe vọt ngựa, v.v... thọ nhận sự cúng dường của người có tín tâm nên phải bị quả báo như thế". Lại lần lượt đến trong một thành, có các thứ cày sắt, thuổng sắt, như mũi nhọn bày trải khắp trên đất, lại có sắt quấn vào mình người tội, lửa nóng cháy rực, trong đó có năm trăm vị Sa-môn chịu khổ. Sứ giả bảo rằng: "Các Sa-môn này xưa kia mặc y phục thế tục, chẳng mặc pháp y nên chịu tội khổ nặng nề như thế". Kế lại đến một ngôi thành khác, ngục tốt rưới nước đồng vào miệng, khắp mình người tội đều cháy tiêu tan, có năm ngàn vị Sa-môn chịu tội khổ ấy.

Sứ giả bảo rằng: Các Sa-môn ấy xưa kia không biết thọ hưởng giáo pháp Bốn đế của Tam bảo, chỉ cầu thọ vật của tín thí, nên chịu tội nặng như thế. Ở trong ba mươi hai thành lớn, nếu chỉ thọ sự cúng dường của tín thí, chẳng dùng cành dương tưới tẩy, chẳng dùng nước thơ, ấm nóng để tắm gội, rảo bước đi trong nhân gian, tự tay xúc chạm kinh Phật, nếu phạm bốn tội trọng, không biết đầy đủ, ngủ chung với người thế tục qua đêm, giẫm đạp lên tòa của thầy, nằm dưới bóng râm mát của tôn tượng Phật, hoặc dùng tiền hay ruộng đất gieo trồng vật lợi, tự tay làm ra thức ăn, chỉ tự mình thọ hưởng, không cho người khác. Hoặc tay bất tịnh có lắm thứ dơ bẩn, xúc chạm nam căn, nữ căn, móng tay dơ uế, tự tiện cầm quyển kinh. Hoặc chân không sạch đi lại trên đất Phật đất Tăng, cưỡi xe phi ngựa, rảo bước khắp cùng cửa chùa. Hoặc mang giày dép bước lên nhà xí mà không cởi bỏ rồi lại đạp lên đất Phật đất Tăng, vào cảnh linh tháp. Hoặc uống rượu ăn thịt mà tự nòi là không có tội báo. Hoặc tay cầm nắm cung tên, hoặc thầy trò đều sân hận, tranh giành sống trong oan tưởng. Hoặc trích lấy quả trái của chúng Tăng để tự mình ăn, không cho người khác. Hoặc dẫn đồ chúng rảo bước trong nhân gian tự xưng là tịnh nhân, hoặc chẳng đắp mặc pháp y ca-sa mà vào xóm làng. Hoặc tâm sinh khởi oán tắng mà đi khất thực uống ăn, hoặc nói pháp bất tịnh, hoặc thân thể hành dục mà vào chùa đảnh lễ tôn tượng chư Phật. Những người tội như thế đầy khắp trong đó. Xem các chỗ chịu tội xong, tôi về lại chỗ vua, vua nói: "Nếu ông không thể thọ trì kinh điển Đại thừa để diệt tội, thì sẽ chịu các thứ khổ ấy. Lại còn có vô lượng địa ngục, đó chỉ là phần nhỏ của một nơi thôi. Nghe nói vậy nên buồn vui lẫn lộn, giác ngộ mà thôi!".

Khi đó, chúng tăng nghe Sư nói lời ấy rồi, tâm ý khiếp sợ như giẫm đạp dao sắt, các thứ buồn vui đều tin theo đại điển, cho đến những người thấy nghe, siêng năng tu hành chẳng phế bỏ. Từ đó về sau, người trì tụng đông như rừng, để làm phép tắc.

Thích Đàm Nghĩa ở Tinh Châu:

Thích Đàm Nghĩa, là người xứ Tinh Châu, xuất gia từ thuở thiếu thời, trụ chùa Thập Lực, giữ vững giới luật, vất bỏ tất cả mọi việc ở thế tục, khổ tiết tu hạnh đầu-đà, thường ở tại núi Ngũ đài, nguyện nương tựa Đại sư Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, sách tấn tu hành thắng nghiệp. Mỗi ngày trì tụng kinh Pháp Hoa hai biến, đọc kinh Hoa Nghiêm một pho, lấy đó làm việc thường. Tu nhân như thế chứa nhóm nhiều năm. Về sau, Sư cùng đệ tử là Sa-môn Đàm huấn đi khắp các Đài, nhân đến Nam Đài, thấy một vị Tỳ-kheo-ni đọc tụng kinh điển, trong miệng phát ra ánh sáng, Sư đã phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, tinh thành cảm thông, từ miệng tỏa phóng ánh sáng, trong ánh sáng ấy tùy theo âm vận mà hóa Phật xuất hiện. Đến lúc qua đời, Sư nói lại đầy đủ việc ấy, chỉ riêng tự mình biết rõ, người khác chẳng thể thấy được, lời nói ấy thật có chứng nghiệm.

Thích Thanh Tuệ núi Tam Tổng ở Tề Châu:

Thích Thanh Tuệ, Sư là đệ tử của Sa-môn Thích Thanh Linh chùa Tuệ Nghĩa ở Tử Châu. Sư theo thầy đến núi Tam Tổng ở phía Bắc chùa Linh Nham, ở đó trong nhiều năm. Sau khi ngài Thanh Linh thị tịch, Sư cũng phát nguyện vì các chúng sinh mà chịu đựng mọi thứ khổ trong ba đường ác mà trì tụng kinh Pháp Hoa, với ngôn từ Sư nói rằng: "Tất cả chúng sinh xoay vần làm cha mẹ lẫn nhau, từ tối vào tối, cùng nhau chẳng nhận biết ân sâu, nguyện nhờ năng lực tụng kinh mà sớm được lìa khổ, chứng giải thoát hoàn toàn". Từ ngày rằm háng 07 niên hiệu Trường An năm thứ nhất (701) đến tháng giêng niên hiệu Thần Long năm thứ nhất (705) thời Tiền Đường, suốt năm năm, Sư tinh chuyên trì tụng, không hề đổi thay ý chí, chưa được cảm ứng, Sư buồn khóc than rằng: "Đại sư Thanh Linh thâm tâm phát nguyện vì chúng sinh chịu khổ trong ba đường ác mà thọ trì kinh Kim Cương, Bát-nhã, trong vòng hai mươi mốt ngày chóng được cảm ứng. Nay tôi suốt năm năm tinh thành mà không chứng nghiệm, tiếc rằng chẳng gặp một như người ấy để bàn việc nhân duyên lớn, mất chứng nghiệm của Nhất thừa". Mặt mắt Sư đổ máu, buồn khóc sám tạ. Vào ngày 15 tháng giêng niên hiệu Thần Long năm thứ nhất (705), bỗng nhiên dường như cảm mộng, thấy một ngôi thành lớn, rộng mỗi bề khoảng năm sáu dặm trang nghiêm kỳ lạ, cờ phướn quý báu, treo bày khắp cùng, trong đó có người ngồi giường vàng đội mũ ngọc, tay phải cầm phất trần màu trắng mà ngồi, nghĩa là vua. Lại có hai tòa bằng bạc để trống. Lúc Sư sắp vào thành thì đồng đi với đồng tử, người cõi trời. Vua thấy Sư và Đồng tử nên từ tòa bước xuống tỏ vẻ rất cung kính, thỉnh Sư ngồi xuống tòa vàng, Sư bèn lên tòa báu, Đồng tử ngồi trên tòa bạc. Vua ở dưới đất theo phương thức người Hồ mà quỳ và thưa rằng: "Đại sư vì chúng sinh chịu khổ trong ba đường mà trì tụng kinh Pháp Hoa rất hợp với ý Phật. Chỉ là trước khi xưa Tiên sư (Thanh Linh) vì chúng sinh chịu khổ trong ba đường trì tụng kinh Kim Cương, nên được phong thả nhiều người tội nhẹ, nay không còn một người nào, cho nên trải qua năm năm các chúng sinh nhận chịu quả khổ đã theo nhóm tập bất luận là tội nặng nhẹ, đều vì Đại sư mà phóng thả". Và nói với Đồng tử cùng đến xem các chỗ chịu khổ. Đồng tử liền đứng dậy nắm tay Sư dẫn đến xem thành quách, không hề thấy một người nào. Sư tự hỏi: "Vì sao không có người?".

Đồng tử đáp: "Bởi nương theo nguyện lực trì tụng kinh của Đại sư nên tất cả chúng sinh đều được sinh lên cõi trời. Trong đây có một người, Đại sư thấy chăng, người ấy phỉ báng tâm nguyện Đại sư chính là Ưu-bà-tắc Diêu Thông".

Sư bảo: "Người có phỉ báng còn được không lui sụt, đâu thể giữ lại không cho sinh lên cõi trời ư?".

Theo tiếng Sư nói liền không còn trông thấy. Sư về lại chỗ vua trình bày việc ấy. Sau khi giác ngộ, Sư tự nói nhân duyên ấy. Công đức tụng kinh thì mình và người đề được cứu giúp như thế.

Vương Cốc ở quận Kiến Đức:

Vương Cốc, người ở quận Kiến Đức, làm chức Hoàng Long Quốc Thủ, mà mọi khí vật trong kho lại đều bị hao hụt mất hết, đáng chịu tội chết, oán nghĩ hao sút chẳng phải do mình cất giấu mà tội không thể trốn lánh, bèn dốc lòng trì tụng kinh Quán Thế Âm một ngàn biến, các thứ gông cùm trên thân đều bị đứt hết, mọi người cho là ít có.

Tỳ-kheo-ni Diệu Pháp trụ chùa Đại, ở Trường An:

Tỳ-kheo-ni Diệu Pháp, họ Ly, người ở xứ Trường An, thuộc Kinh Triệu. Thân mẫu Sư họ Mẫn. Ban đầu mộng thấy một vị tăng Ấnđộ cầm ba cành hoa sen trao cho và nói rằng: "Cho ngươi hạt giống tốt, nên khéo léo giữ gìn". Do đó mà có thai, đến lúc sinh ra đặt tên là liên Hoa. Khi tuổi dần lớn, cô không vui thích ở nhà, tình ý muốn được xuất tục. Năm mười hai tuổi, được người chị dạy cho học kinh Pháp Hoa, mở bày kinh nhìn thấy văn tự dường như đã có tập học từ xưa, mỗi ngày tụng tám trang giấy, chưa đầy một tháng thì tụng thuộc lòng trọn bộ. Mọi người khen ngợi đức hạnh ấy, bèn gọi tên là Diệu Pháp. Diệu Pháp đối trước Phật, đốt hương lập thệ nguyện trì tụng tám ngàn biến, và tụng thuộc lòng cả kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Phổ Hiền Quán, mộng thấy ba cành hoa há chẳng phải việc ấy ư? Đang trong đêm tỉnh lắng trì tụng, tiếng tụng của Diệu pháp vang xa hơn trăm dặm, mọi người ở khắp xa gần đều nghe mà tiếng không lớn không nhỏ. Khi đã nhập Đạo, chí tiết càng vững chắc. Đến lúc qua đời, Diệu Pháp bảo đồ chúng rằng: "Đức Phổ Hiền hiện ở trước ta, an ủy tâm ta, các vị thầy bạn đến đón rước, ta sẽ được vãng sinh Tịnh độ". Nói xong, bèn thị tịch, nơi tòa mọc ra ba cành sen trắng như lúc mọc trong hồ, qua bảy ngày mà hoa chẳng héo rụng, mọi người nhìn thấy đều cho là điềm ít có.

Ngu Lâm Thông ở Lạc Châu, thời Tiền Đường:

Niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba (629) thời Tiền Đường, Ngô Lâm Thông phát tâm muốn trì tụng kinh Pháp Hoa, vì duyên tục bao vây lao nhọc, phần nhiều đều chẳng xưng bổn ý, do bị bệnh nên qua đời, bỗng có sáu vị minh quan vây quanh trước sau dẫn đến chỗ một cửa thành lớn. Bên cạnh thấy có một vị tăng tự bảo rằng: "Ta là Dược Vương, ngươi phát nguyện tụng kinh mà chẳng xứng ý đến nỗi phải chết, hãy nên tụng một bài kệ". Và dạy cho đoạn văn rằng: "Thường tự suy niệm, làm sao khiến cho tất cả chúng sinh được vào Đạo Vô thượng, chóng thành tựu thân Phật". Bồ-tát trao kệ rồi, lại bảo rằng: "Nếu tụng kệ ấy, thì sẽ có khả năng biến địa ngục thành ao hoa sen, hay chuyển đổi các thứ khổ khí làm thành cảnh giới thân Phật. Phải nên cố gắng chớ lãng quên đó!". Lâm Thông bèn tụng đọc thuộc rành, liền đi vào trong thành thấy vua. Vua hỏi: "Người này có công đức gì chăng?".

Đáp: "Không tu điều lành nào khác, chỉ tụng một bài kệ".

Vua hỏi: "Kệ ấy như thế nào?". Lâm Thông liền cất tiếng tụng, đến chỗ "những người chịu tội đều được giải thoát, mười tám địa ngục, biến thành ao sen".

Vua bảo: "Thôi! Thôi! Không cần phải tụng nữa. Hãy sớm trở về nhân gian".

Trải qua hai ngày sau thì Lâm Thông sống lại, kể rõ nhân duyên ấy. Tăng Tường tôi đích thân được thấy nghe việc đó.

16. Tả Giám Môn Hiệu Úy ở Bằng dực Lý Sơn Long:

Lý Sơn Long trì tụng kinh Pháp Hoa hai quyển, để làm nghiệp lành. Trong niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường bị chết đột ngột, trên trái tim không lạnh khoảng như bàn tay, người nhà không nỡ tẫn liệm sớm, qua bảy ngày sau sống lại, Lý Sơn Long tự nói rằng:

"Lúc chết bị qua địa phủ bắt, dẫn đến sảnh của một quan tào, mọi việc ở đó rất hoành tráng, sân ở đó cũng rộng lớn. Trong sân, người tội có đến hàng ngàn, hoặc bị gông cùm, hoặc bị xiềng xích đều xoay mặt về hướng Bắc mà đứng đầy trong sân. Quan lại dẫn tôi đến dưới sảnh, thấy Thiên tào ngồi trên tòa cao, có người đứng đầu như vua. Tôi hỏi quan lại: "Ấy là quan gì?".

Đáp: "Đó là vua".

Tôi đến dưới thềm cấp, vua hỏi: "Lúc còn sống ngươi tu tạo phước nghiệp gì?".

Tôi đáp: "Người xứ tôi mỗi lúc lập trai hội giảng pháp, tôi thường cúng thí vật đồng chung trong đó".

Vua hỏi: "Còn chính tự thân ông tu tạo nghiệp Thiện gì?".

Tôi đáp: "Tụng kinh Pháp Hoa hai quyển". Vua bảo: "lành thay!

Hãy bước lên trên thềm".

Khi tôi đã bước lên sảnh, ở phía Đông Bắc có một tòa cao như tòa giảng". Vua chỉ vào tòa và nói với tôi rằng: "Hãy lên trên tòa ấy tụng kinh".

Tôi lên tòa xong, vua mới ngồi xoay hướng về đó. Tôi bắt đầu tụng: "Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm tựa thứ nhất". Vua bảo: "Thôi, thỉnh Pháp sư xuống". Tôi liền ngưng và xuống tòa, lại đứng dưới thềm cấp, nhìn sâu thì thấy các người tù đều hết, không còn một người nào ở đó nữa. Vua nói với tôi rằng: "Phước đức của ông tụng kinh, chẳng những tự lợi, mà còn khiến cho tất cả người tù trong sân đều nhờ nghe kinh mà được thoát, há chẳng tốt lành sao? Nay thả ông trở về lại".

Tôi bái tạ từ giã và đi được vài mươi bước, vua gọi trở lại và nói với quan cai ngục rằng: "Nên dẫn người này đi xem các cửa ngục".

Quan cai ngục liền dẫn tôi theo hướng Đông đi hơn trăm bước, thấy một ngôi thành sắt rất rộng lớn phía trên có phủ kín thành ấy, bên cạnh có nhiều của sổ nhỏ, hoặc lớn như bồn nhỏ, hoặc như chén bát, thấy có người nam nữ từ đất bay vào trong cửa sổ, mà chẳng thấy trở ra. Tôi lấy làm lạ hỏi, cai ngục trả lời rằng: "Trong địa ngục lớn này có nhiều phân cách, phạt mỗi mỗi đều khác nhau, các người ở đây đều tùy theo bổn nghiệp mà vào địa ngục chịu tội". Nghe thế, tôi buồn sợ và liền xưng niệm: "Nam-mô Phật!" Quan cai ngục mời tôi ra đến ngoài cứu viện, thấy một chiếc vạc lớn lửa dữ tuôn trào, bên cạnh có hai người đang ngồi ngủ, tôi hỏi hai người ấy đáp rằng: "Tôi bị tội báo vào trong vạc ấy, may nhờ Hiền giả xưng Nam-mô Phật mà tất cả các người tội trong ngục đều được một ngày ngưng nghỉ, vì quá khổ nhọc nên nằm ngủ". Tôi lại xưng niệm "Nam-mô Phật". Quan cai ngục nói với tôi rằng: "Các quan phủ phần nhiều có một số sửa đổi, nay vua thả ông đi, nên thưa với vua xin sao. Nếu không như thế, sợ các quan khác không biết, lại truy lục ông đó". Tôi liền trở lại chỗ vua xin sao, vua liền bảo lấy giấy bút viết một hàng chữ giao cho quan lại và bảo rằng: "Vì lấy năm Đạo các thự, quan cai ngục vâng mạng, dẫn tôi trở lại qua hai quan tòa, mỗi mỗi đều có sảnh sự và cùng có người hầu vệ như trước, đến sai quan cai ngục đều lấy tên của quan thự ấy, viết một hàng và giao cho tôi. Tôi cầm đi ra đến cửa, có ba người bảo rằng: "Vua thả ông có thể chẳng xin tặng chúng tôi v.v...". Tôi chưa mở miệng nói thì quan lại nói với tôi rằng: "Vua thả ông chẳng do ba người ấy là kẻ sứ trước kia ghi lục về ông, một người là bổng chủ sẽ dùng gậy đánh vào đầu ông, một người là thằng chủ sẽ dùng dây mầu đỏ trói ông và một người là Đại chủ sẽ dùng đãy hút khí ông, thấy ông được về lại nên xin mọi vật". Tôi lo sợ cảm tạ ba người ấy rằng: "Thật kẻ ngu tôi không biết các ông, xin đến nhà sẽ đầy đủ mọi vật, nhưng không biết nên đến xứ nào để đưa tặng đó". Ba người ấy bảo rằng: "Hoặc đến bên cạnh dòng sông, hoặc dưới cây đại thọ mà đốt". Tôi hứa vâng, và kẻ quan lại đưa tôi về đến nhà, trông thấy mọi người thân quyến đang khóc lóc lo sắm sửa mọi thứ để tẩn liệm. Tôi vào nhà, đến bên cạnh thi thể mình thì liền sống lại". Ngày hôm sau, Sơn Long cắt giấy làm tiền bạch và sắm các thứ rượu, vật thực tự dưa đến bên bờ sông đốt tặng, bỗng thấy ba người đến cảm tạ rằng: "Nhờ ông chẳng mất niềm tin nên lại ban tặng cho mọi vật". Hổ thẹn nói lời chúc tụng xong thì không thấy nữa. Sơn Long càng thêm tin tưởng, trì tụng trọn một bộ, lấy đó làm hạnh nghiệp thường. Và tự đến nói với Sa-môn Tăng Biện, chủ chùa Đại Tổng Trì và mọi người, v.v... về việc ấy. (Xuất xứ từ Cảm Thông Lục quyển hạ Pháp Uyển quyển 21, và bên cạnh có một ứng nghiệm xuất xứ từ Minh Báo ký).

Sa-môn Đạt-ma-bạt-đà người nước Quy-tư:

Sa-môn Đạt-ma-bạt-đà, Hán dịch là Pháp Hiền, Sư là người nước Quy-tư, bẩm tánh thông minh, rành suốt Tam tạng. Có biết sơ qua một số ngôn từ của nước ngoài, tự sinh tâm cống cao, lấn lướt hủy nhục chúng tăng theo pháp Đại thừa. Bấy giờ, có Sa-môn Tuần Lễ tên là Tu-lợi-da tụng thông sáu ngàn bài kệ kinh Pháp Hoa, không thoát pháp, nên đối với Sư luận bàn về sự trì tụng thấu đạt chỗ sâu mầu, Sư liền cho rằng Ba tạng là sự cạn cợt, bèn quy tâm hướng về Đại thừa, theo ngài Tu-lợi-da trì tụng thấu đạt kinh Pháp Hoa, cứ một ngày năm biến lấy làm hạnh nghiệp thường. Vì thần Dạ-Xoa kính pháp gìn giữ người này, lại mỗi đêm nơi thảo phường phát ra ánh sáng khác lạ. Có người cho là mất lửa, nên đến đó hỏi Sư, Sư đáp: "Bốn vị Đại thiên vương lần lượt đến gìn giữ nên phát ra ánh sáng". Đến lúc sắp tịch, Sư bảo đồ chúng rằng: "Xưa kia tôi chấp giáo pháp Tiểu thừa là cùng cực như chấp lấy ngói đá làm vàng, vật báu, nay vui sống trong kinh Pháp Hoa được vàng thật. Do suốt ba năm chuyên trì tụng nên được thấy Bồ-tát Phổ Hiền, vào được chánh vị, được dự ghi không lui sụt. Các ông phải chuyên trì tụng kinh ấy, mong đạt được chánh vị không vượt quá ba đời". Và liền ghi chú Di thư mà thị tịch, như nhập vào Thiền định, bèn xây tháp báu trên di thân của Sư, giữa lúc mùa hạ mưa rất lớn mà nước mưa không thấm ướt vào tháp, các loài chim bay liệng đều không đến gần bên cạnh tháp. Mọi người thấy nghe đến lễ bái cúng dường, đông đúc như chợ. (Xuất xứ từ Ngoại Quốc ký).

Thích Tăng Trí ở Kim Thành:

Thích Tăng Trí, giới hạnh Sư rất thanh khiết, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa lấy làm hạnh nghiệp thường. Sư vốn không có răng, phát nguyện phúng tụng, mộng thấy một vị tăng Ấn-độ cầm cành dương chỉ vào nơi nướu răng. Khi thức giấc trong miệng răng mọc đầy đủ. Sư lại lên trên tháp cổ tụng kinh, thân thể mệt nhọc bèn nằm ngủ, nên từ trên tháp rơi xuống, chưa đến đất, lưng chừng giữa khoảng không có người hứng lấy, không tổn hại mảy may. Sư hỏi người đó là ai? Người đó đáp: "Tôi là Tỳ-Sa-môn, nếu người nào thọ trì kinh Pháp Hoa, tôi đều gìn giữ cho". Sau đó, Sư sang Tây Vực, không biết cuối cùng Sư mất ở đâu.

Thích Tuệ Đạt thời Đông Tấn:

Thích Tuệ Đạt, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp chánh. Niên hiệu Long An năm thứ ba (398) đời Đông Tấn, Sư đi theo hướng Bắc, đến Lũng thượng đào cam thảo, bấy giờ rợ Khương rất đói khát, bắt người ăn thịt, ngài bị rợ Khương bắt được giam vào trong ngôi nhà lớn. Trong đó có lắm người bị giam, rợ Khương lần lượt chọn các người béo tốt mà ăn trước. Sư nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm và trì tụng phẩm Phổ Môn. Rợ Khương ăn thịt mọi người đã hết, chỉ còn lại mình Sư và một đứa bé, định lần lượt ăn. Vào lúc sáng sớm, Sư lề tụng vừa xong, rợ Khương muốn lại bắt để ăn, bỗng nhiên thấy một con hổ từ trong cỏ tuôn ra gầm gừ rượt đuổi, khi đó rợ Khương đua nhau bỏ chạy, may mắn được bình an, Sư dẫn đứa bé ấy về lại chỗ cũ. Nhờ năng lực trì tụng kinh mà cảm được Bồ-tát Quán Thế Âm ứng thời cứu vớt.

Người phụ nữ goá họ Dương ở thành Trường An:

Người phụ nữ goá họ Dương, từ thuở thiếu thời mất cả cha mẹ, đến tuổi trung niên lại chịu tang chồng, chỉ một mình sống goá bụa, đã nhàm chán vô thường, lại chán ghét thân nữ, nên theo thầy hỏi Đạo, được thầy trao truyền cho phẩm "Đề-bà" trong kinh Pháp Hoa, bèn siêng năng trì tụng, trong một năm liền tụng thầm được, suốt ngày đêm không mỏi mệt, mộng thấy tự thân mình ngồi trong hoa sen đọc tụng kinh. Đến lúc thức dậy thưa với thầy. Thầy bảo: "Trong kinh nói rằng: "Từ hoa sen hóa sinh là việc ấy". Người nữ ấy lại càng chuyên cần chí khí, lại mộng thấy tự thân chóng trở thành trượng phu (tướng nam) có trăm ngàn quyến thuộc vây quanh, bèn đem việc ấy thưa với thầy. Thầy bảo: "Đầy đủ tướng trượng phu là mộng biểu thị cho tướng ở tương lai. Điều nguyện của ngươi chắc chắn không chướng ngại". Người nữ ấy tín tâm trinh thuần thanh khiết phát nguyện: "Cầu nguyện cho cha mẹ và cùng các bạn thân nương theo công phu trì tụng kinh mà đều được thoát khổ". Lại mộng thấy cha mẹ, người chồng và các bạn thân đã qua đời đến mách bảo rằng: "Chúng tôi nhờ nương ân đức của người mà được ngồi tòa hoa sen". Người nữ ấy lại đem điều mộng thưa với thầy. Thầy bảo: "Những người ấy nương theo năng lực trì tụng kinh của người mà được cảnh Tịnh độ đón rước". Người nữ ấy vui vẻ nói: "Con cũng không ưa thích dục lạc, nguyện hồi hướng những việc lành của thân này về cảnh giới Cực Lạc, sinh trước chư Phật mười phương". Văn không chọn lựa Tây phương, phát nguyện đêm ngày trì tụng kinh. Đến lúc qua đời thưa với thầy rằng: "Các bạn thân của con và Bồ-tát Quán Thế Âm đã đến đón rước". Đợi thầy nói xong, liền thị tịch. Có tiếng âm nhạc nhỏ nhiệm nghe vang xa ngoài huyện, xông hương ít có. Mọi người nương theo người phụ nữ goá ấy mà trì tụng một phẩm "Đề-bà" có rất nhiều. Cho nên ở Trường An với bản xưa không có phẩm ấy, chẳng xét viết chép, công phu cùng như Đại bộ phẩm cho nên như vậy.

Sa-môn Thích Pháp Đạo:

Thích Pháp Đạo, trì tụng kinh Quán Thế Âm lấy làm hạnh nghiệp thường. Lại nhàm chán sự ổn náo huyên tạp, nên Sư vào núi du hành tụng kinh, bỗng gặp bọn giặc. Và nghĩ rằng, bọn giặc gặp phải Thích Tử là điều không lành. Bọn giặc kéo cung tên bắn Sư, muốn buông mà mũi tên cứ dính chặt vào cung, chẳng thể buông lung. Bọn giặc bèn quy mạng, ném bỏ cung tên dưới đất, cũng chẳng thể được, như là Thần nhân, v.v... Bèn vất bỏ mà chạy trốn. Thiền nhân được thoát nạn.

Hai vị tăng ở Bắc Đạo, thuộc Tương Châu, đời Tùy:

Tại Bắc Đạo, ở Tương Châu, có hai vị tăng, mất tên gọi, Đạo bạn bè, có lợi cắt vàng làm thất mà ở, một người chuyên trì tụng luận Thập Địa, một người chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa. Giữa đêm thanh vắng, hai người ngưng tụng, bảo nhau rằng: "Trong hai người chúng ta, nếu ai chết trước thì nên báo mọi sự có không trong nhân quả để cùng nhau được biết". Sau đó vài năm, vị tăng chuyên trì tụng luận Thập Địa bị bệnh mà tịch trước, trải qua thời gian lâu mà không trở về mách báo.

Vì tình bè bạn nên vị Tăng chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa ngày đêm buồn khóc, hận sao chậm đến báo, bèn mộng cảm vị ấy đến báo rằng: "Tôi vì tâm công cao phân biệt hơn kém, tuy tụng luận Thập Địa mà không nghĩ đến mọi sự khổ vui của đời sau. Vì tâm thô lậu ấy nên bị Diêm-la Pháp Vương cho ở trong nhà tối, như gánh chịu tội ấy, dứt trừ tội cống cao hơn người khác mới sinh về Tịnh độ. Ông nghĩ nhớ đến tôi mà trì tụng kinh phát ra ánh sáng rực rỡ soi chiếu vào nhà tối làm cho tôi được mát mẻ và dứt khổ, không bao lâu nữa sẽ được lìa khổ. Còn Đạo bạn hữu xa đượm đến đời sau, tôi vui mừng mong được ông làm thiện tri thức, sao ông hận tôi ư? ba năm sau, Ông sẽ sinh về Tịnh độ. Xin vì tôi mà trì tụng trăm bộ kinh để chóng được sinh về Tịnh độ, sẽ lại đón rước thần thức ông". Sau khi tỉnh giấc, vị Tăng chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa liền tắm gội sạch sẽ, đắp pháp y mới sạch, chuyên trì tụng một trăm bộ kinh. Lại mộng thấy vị Tăng trì tụng luận Thập Địa đến báo rằng: "Nhờ nương theo ân đức của ông mà tôi đã được vãng sinh về Tịnh độ, ba năm sau, tôi sẽ đón rước ông, mong chớ phế bỏ hạnh nghiệp trì tụng kinh". Sau khi thức giấc vị tăng trì tụng kinh Pháp Hoa nói lại việc ấy với chư tăng.

Hai vị Tăng chùa Thắng nghiệp ở Tây kinh, thời tiền Đường:

Thích Tuệ Ước và Thích Thọ Quả, hai Sư đều xuất gia từ thuở thiếu thời, cùng trụ chùa Thắng Nghiệp ở Tây kinh. Suốt ba năm duỗi khoanh chăm lo việc trị tuế trong kho. Bỗng nhiên vào một đêm tháng năm bị minh quan dẫn đến diện kiến vua Diêm-la. Vua hỏi: "Lúc còn sống các ông làm những hạnh nghiệp gì?". Ngài Tuệ Ước đáp rằng: "Tụng kinh Pháp Hoa được ba-bốn quyển". Vua chắp tay cung kính nói rằng: "Nên thả trở về!". Và sai người dẫn đi xem các nơi chịu khổ. Vừa theo hướng Tây nam đi đến một cửa thành lớn. Ở mặt phía Bắc thấy có một dãy phòng dài, dùng bảng làm tường, hai phía Đông-Tây đang làm lỗ như lỗ gông cùm chẳng khác, trong lỗ đều có đầu chư tăng thường xuất hiện. Có Sa-môn Đại Lượng, người ở cùng chùa tuy thân còn sống mà đầu đã xuất hiện trong lỗ. Vừa thấy hai ngài (Tuệ

Ước, Thọ Quả) liền kêu gào kinh hãi chẳng thể diễn tả hết. Sa-môn Đại Lượng đang lo việc xem xét, sửa sang ba tôn tượng lớn trong điện, dùng riêng vật sửa tượng nên bị truy nhiếp. Bên cạnh mỗi lỗ đều có ngục tốt, hình tướng rất đáng khiếp sợ, cầm dao nhọn đâm thọc, máu me chảy vãi, ngục tốt đặt đầu bảo sống, thì đầu trở lại chứng ngộ trong lỗ. Cứ như thế với thời gian không bao lâu mà trải qua ba mươi lần. Tiếp đi đến theo hướng Tây lại thấy chỗ chịu tội giết hại ăn thịt, có vô số chúng tăng bị cắt xẻo chém chặt, vang tiếng kêu gào khó chịu nổi, các chúng sinh bị giết hại trước kia đều đến đòi mạng, chia nhau uống máu ăn thịt. Lại thấy Sa-môn Trí Cảm là vị chủ chùa và Đô Duy Na A Lục bị trói buộc rất dữ dội, xét đang ăn thịt bởi tội dùng vật của chúng tăng. Hai ngài (Tuệ Ước, Thọ Quả) bỗng nhiên bị đẩy vào trong hầm tối, chỉ phút chốc sống lại, khắp thân mồ hôi nhuễ nhại, tâm không tự chủ. Chưa đầy một tháng sau thì Sa-môn Đại Lượng bị chết thình lình cảm chịu khổ mới. Còn Sa-môn A Lục phát tâm sám hối, chẳng ra khỏi cửa phòng, đọc tụng hết thảy kinh tạng, suốt đêm ngày chuyên cần. Có vài lần thấy kẻ sứ minh ty hai người mặc y phục mầu vàng cưỡi con ngựa trắng đến vào phòng A Lục, một người bảo rằng: "Nhờ phát Đại tâm, ngày đêm không xả bỏ, đọc tụng hết thảy kinh, nên sẽ được thả". Phàm có đến ba, bốn lượt như thế, từ đó Samôn A Lục và những người thân thấy vậy đều siêng năng sám hối không thôi, bèn được không sao cả (xuất xứ từ Bạch Cảnh Lục).

Trúc Trường Thư thời Tây Tấn:

Trúc Trường Thư, tổ tiên vốn là người xứ Tây Vực, do nhiều đời chuyên việc buôn bán nên thành người giàu có, định cư ở Tây Trúc. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Khương (291-300) thời Tây Tấn, gia đình dời đến ở Lạc Dương, Trúc Trường Thư kính phụng Phật pháp, tâm ý chí thành, chuyên đọc tụng kinh Quán Thế Âm. Về sau, ở gần đó bị lửa cháy mà nhà của Trường Thư đã bằng cỏ tranh lại nằm ở dưới gió, nghĩ lửa đã bức bách đến gần, nên chuyển đồ vật ra ngoài nhưng không được bao nhiêu, bèn bảo tất cả người nhà không nên chuyển vận đồ vật và cũng không tưới nước để cứu, chỉ nên nhất tâm tụng kinh, trong nháy mắt, lửa đã cháy đến nhà bên cạnh chỉ cách hàng rào nhà Trúc Trường Thư, nhưng gió bỗng nhiên xoay trở lại và lửa cũng dứt hẳn ngay mé nhà ấy. Bấy giờ, mọi người đều lấy làm linh dị. Trong làng có bốn, năm người niên thiếu khinh thường hiểm nguy cùng gièm pha cười nhạo rằng: "Gặp lúc gió tự đổi hướng, chuyện đó có gì thần bí. Nếu trời hanh khô, tôi châm lửa đốt mà nhà nó không cháy mới là chuyện lạ". Sau đó, đang lúc đất đai đang nóng bức, gió nổi dậy vùn vụt, bọn niên thiếu ấy thầm cùng nhau cầm bó đuốc ném vào trên nhà Trúc Trường Thư, ba lần ném ba lần tắt mất, chúng kinh sợ đều tự chạy về nhà, sáng hôm sau cùng dẫn nhau đến nhà Trúc Trường Thư tự trình bày việc làm hôm qua và cúi đầu tạ tội. Trúc Trường Thư bảo rằng: "Ta không có thần nào cả, chỉ do sự tụng niệm kinh Quán Thế Âm nên được oai linh cảm giúp như thế. Các ông chỉ nên rửa gột thân tâm kính tin". Từ đó mọi người xa gần trong làng xóm đều kính sợ và lấy làm lạ (trích từ Pháp Uyển quyển 23).

QUYỂN 7

IX. ĐỌC TỤNG DIỆT TỘI:

Trong quyển này có hai phần:

1/ Nhân Tôn Tử

2/ Nàng hầu của Tô Trường

3/ Ngạn Võ đời Tùy 4/ Hàn Mục Chi

5/ Thích Tịnh Tạng

6/ Vua Mông Tốn

7/ Thích Tuệ Duyên

8/ Thích Tăng Dung

9/ Tỳ-kheo người xứ Thiên-trúc

10/ Sa-di ở chùa Cù-ma-đế

11/ Đại Thừa Thiên

12/ Nghiêm Kính đời Tùy

13/ Thiếu nữ ở huyện An Cư

14/ Tiểu nữ ở Thái Nguyên

15/ Ni sư Diệu Không

16/ Người nữ ở nhà Cao Thủ Tiết

Nhân Tôn Tử trụ tại Cao Biểu ở Kinh đô:

Nhân Tôn Tử trụ tại Cao Biểu ở kinh đô, thường đọc tụng kinh Pháp Hoa. Ngày 27 tháng giêng niên hiệu Long Sóc thứ ba (663) thời Tiền Đường, ông cưỡi ngựa đi ra từ cửa Thuận Nghĩa, có hai người cưỡi ngựa đuổi theo và bảo rằng: "Lệnh phải bắt". Nhân Tôn Tử hỏi: "Ông là ai?" Đáp: "Ta là Sứ giả của Diêm Vương, nên đến bắt người". Ông khiếp sợ đuổi ngựa chạy ra hướng Tây, muốn vào trong chùa Phổ Quang, kẻ Sứ bảo nhau rằng: "Phải đến chận đón tại cửa chùa, chớ để vào trong, nếu vào thì sẽ thoát khỏi". Vừa đến cửa chùa Nhân Tôn Tử thấy có một người cưỡi ngựa đứng chận ở cửa, nên ông lại theo hướng Tây mà chạy, muốn vào chùa Khai Thiện, kẻ Sứ lại bảo đuổi nhanh đến chận cửa, do đó, Nhân Tôn Tử bèn từ phía Tây tuôn chạy muốn trở về nhà, sợ đường dài xa mới vào phường Lễ Tuyền, có một người cưỡi ngựa đuổi trước, Nhân Tôn Tử nắm tay đánh, quỷ ấy bèn rơi xuống ngựa. Quỷ đuổi theo sau bảo rằng: Người này rất thô bạo, phải mau kéo nắm đầu tóc kéo xuống đất". Nhân Tôn Tử liền bị kéo tóc ném ra rất xa, toàn thân đau như bị dao cắt Tử kể rằng: "Bị bắt đến Diêm Vương tra hỏi rằng: "Vì sao ông trộm trái cây của chư Tăng? Vì sao nói lỗi của Tam bảo?" Tôi nghe thế cúi đầu nhận tội không dám thốt lời nào. Diêm Vương bảo: "Tội trộm trái cây là phải nuốt bốn trăm năm mươi viên sắt nóng, trải qua bốn năm nhẫn chịu mới hết. Còn tội nói lỗi thì kéo lưỡi ra để cày". Do đó thả cho đi ra, bèn được sống lại thời gian ngắn. Khi trở lại, nơi miệng như nuốt vật, khắp thân thể nóng bừng, có sự khổ sở trói buộc". Qua ngày hôm sau ông mới tỉnh và kể rằng: "Mỗi năm phải nuốt hơn trăm viên sắt nóng, khổ ấy thật khó nói: "Ngày hôm sau nữa cũng giống như vậy, vừa trải qua bốn ngày, nuốt viên sắt nóng cũng hết, bèn muốn kéo lưỡi để cày, nhưng kéo mà không ra, bèn xét lý do mới nói là: "Từng đọc tụng kinh Pháp Hoa nên lưỡi không thể kéo ra, bèn được thả trở về cho sống lại". Nay hiện tại chỗ Sa-môn viên mãn ở chùa Hóa Độ, Nhân Tôn Tử chuyên tâm nghe pháp sám hối.

Nàng hầu của Tô Trường:

Vào niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, được Đô Thủy Sứ giả cất nhắc, Tô Tường làm thứ sử Kỷ châu, nên dẫn người nhà đến cùng ở chỗ trấn nhậm, vượt qua sông Gia Lục, đang giữa dòng sóng gió nổi dậy, ghe thuyền bị chìm, các nam nữ có hơn sáu mươi người đồng một lúc bị đắm chết. Chỉ có một nàng hầu thường đọc tụng kinh Pháp Hoa, đang lúc nước tràn vào thuyền, nàng hầu ấy đội hòm kinh trên đầu, phát nguyện chìm với kinh. Thế rồi, thuyền đắm mà nàng hầu ấy chẳng chìm, theo gió đưa đẩy nổi trôi, chỉ chốc lát được lên bờ, nàng liền mở xem kinh ấy không hề thấm ướt, dơ bẩn. Số kinh ấy hiện vẫn còn. Dương Châu lấy nàng hầu ấy làm người vợ, càng dốc lòng kính tin (Sầm Lệnh Thuyết nói đó là do nàng hầu ấy tự nói, nhưng ngay lúc gian nguy tự nhiên được lên bờ, người đi thuyền cũng nói như thế).

Ngạn Võ ở Ngụy Châu, đời Tùy:

Khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581-601) đời Tùy, Ngụy Châu Sứ Bác Lăng Thôi Ngạn Võ nhân đi tuần trong quận và đến một làng nọ, ông ngạc nhiên vừa kinh hãi vừa vui mừng, bảo mọi người cùng đi theo rằng: "Xưa tôi từng ở trong ấp này làm một người vợ, nay còn biết chỗ nhà ấy". Nhân cưỡi ngựa vào theo lối tắt đi quanh đến một ngôi nhà, bảo gõ cửa. Người chủ là một cụ già ra chào hỏi. Ngạn Võ vào nhà đi thẳng lên nhà trên, nhìn trên vách tường ở phía Đông cách đất khoảng sáu, bảy thước có một chỗ cao, Ngạn Võ nói với người chủ nhà rằng: "Xưa tôi trì tụng kinh Pháp Hoa và có năm chiếc thoa vàng đều cất giấu trong vách ấy, kinh trong hộp nơi trang giấy cuối quyển bảy bị lửa đốt cháy văn tự, nên nay mỗi lúc tụng kinh ấy đến cuối quyển bảy tôi thường quên mất không thể nào nhớ được". Do đó, ông bảo mọi người đục vách tường, quả nhiên có được hộp kinh, mở xem ở cuối quyển bảy và thoa vàng đều đúng như lời Ngạn Võ nói. Người chủ nhà òa khóc nói rằng: "Ngày còn sống, vợ tôi thường đọc tụng kinh ấy và thoa vàng cũng vậy, vợ tôi vì sản nạn mà qua đời, nên không biết để ở nơi nào, nay mới được Sứ quân chỉ bày cho chỗ ấy". Ngạn Võ chỉ nói cây hòe ở trước sân và bảo rằng: "Lúc tôi gần sinh sản, tự cởi mở đầu tóc, để giữa khoảng trống trong cây ấy. Hãy thử bảo người ra tìm xem". Quả nhiên có tóc ở trong cây hòe. Do đó, người chủ nhà vừa buồn vừa vui. Ngạn Võ bèn để lại các thứ y vật cấp tặng nồng hậu cho người chủ nhà rồi ra đi (Trích từ Pháp Uyển quyển 26 ghi: Sự ứng nghiệm này trích từ Minh Báo ký).

Hàn Mục Chi người ở vùng Bành thành:

Hàn Mục Chi, người ở vùng Bành thành, khoảng đầu niên hiệu Thái Thỉ (465) thời Tiền Tống, xứ Bành thành bị chiếm mất. Hàn Mục Chi làm tù binh lưu lạc nên mất người con giữa lúc tao loạn, bị người bắt mất, không biết đang ở xứ nào. Hàn Mục Chi là người vốn kính thờ Phật pháp, do năng lực tinh tấn bèn dốc lòng đọc tụng kinh Quán Thế Âm, muốn đọc một muôn biến mong được gặp lại con. Lại thường lúc được ngàn biến thì liền thiết trai thỉnh tăng cúng dường. Đã được sáu ngàn biến mà không thấy cảm động gì. Hàn Mục Chi bèn than rằng: "Bậc Thánh đâu lẽ không ứng với chúng sinh ư? Đây chỉ bởi tâm ta chưa chí thành cho nên như vậy". Do đó suốt đêm ngày chẳng cần lường tính số biến, chỉ tự thệ nguyện lấy sự cảm kích làm kỳ hạn. Người con ấy bị định đem bán làm kẻ tớ của người ở Ích châu, hiện bị sai sử làm việc mỗi ngày riêng gom bó cây cỏ, bỗng nhiên thấy một đạo nhân đến hỏi rằng: "Người có phải là con của Hàn Mục Chi chăng?". Người con ấy liền kinh hãi đáp rằng: "Đúng vậy!". Đạo nhân lại hỏi: "Có muốn gặp lại cha chăng?". Người con ấy đáp: "Muốn thế cũng không được!". Đạo nhân lại nói: "Cha ngươi rất mực tha thiết, nay ta dẫn ngươi trở về nhà". Người con ấy không biết đó là vị thần nên từ chối không dám bằng lòng. Đạo nhân lại bảo: "Không cần gì, chỉ cần nắm lấy góc áo ca-sa của ta thôi". Người con ấy thử nắm lấy, bèn cảm thấy như có người kéo đi, chỉ trong chốc lát mà đến tựa ngoài cửa của một ngôi nhà, đó là chỗ ở mới của Hàn Mục Chi dời đổi lại, người con ấy không biết đó là nhà của cha mình. Đạo nhân không đi vào mà sai người con ấy đi vào. Vào trong thì thấy người chủ nhà đang ngồi tụng kinh, đó chính là cha của người con ấy (= Hàn Mục Chi), nhìn thấy nhau mà chưa rảnh tỏ bày buồn vui, chỉ được kêu là "ngoài cửa có bậc Thánh". Hàn Mục Chi liền chạy chân không mà ra vừa đến cửa thì không còn thấy vị Đạo nhân ấy đâu nữa. Các Đạo tục ở gần xóm chung quanh không ai chẳng kinh lạ trầm trồ.

Sa-môn Tịnh Tạng chùa Bảo Thất ở Ly Châu, đời Tùy:

Sa-môn Thích Tịnh Tạng, người ở xứ Ly Châu, mất song thân từ nhỏ, bèn xuất gia tại chùa Bảo Thất, nhưng căn tánh ngu đần, chẳng thể đọc tụng kinh điển, ngày đêm than thở, tự hận trách nghiệp đời trước. Lại muốn đọc tụng kinh Pháp Hoa, chỉ ăn dùng rau quả, khổ hạnh tiết chế, theo thầy bắt đầu thọ học kinh, qua nhiều tháng chỉ mới đọc tụng được một phẩm, ngày đêm siêng năng, chẳng ăn ngũ cốc, thân thế sức lực suy yếu, chóng bị chết ngất, thần thức đến chỗ sảnh vua Diêmla, vua nhìn thấy Sư thì rất vui mừng, mời Sư lên ngôi tòa vàng, vua chắp tay ngợi khen rằng:

"Lành thay Đại Thích Tử!
Tinh tấn tụng Pháp Hoa,
Chẳng lâu sẽ thành Phật
Lợi ích các chúng sinh."

Khen ngợi rồi, vua nói với Sư rằng: "Đại sư tuổi thọ chỉ ở ba năm, nghiệp trước đã hết, do nhờ năng lực tụng kinh Pháp Hoa đã tăng đến ngày nay, nghiệp thọ kéo dài, nên thả Đại sư trở về, nên đọc tụng một bộ". Nghe lời ấy, như ngủ mà thức giấc, Sư rơi lệ hối hận. Đã đọc văn ấy, sự tích này, tôi như đích thân được thấy ngài Tịnh Tạng, nghe lại đầu đuôi mà thôi.

Vua Mông Tốn đời Lương:

Ở đời Lương, Quốc vương Thư cừ Mông Tốn, do nghiệp xưa mà bị bệnh nặng, khốn khổ chẳng dứt, dùng các thứ thuốc để thoa bóp không thuyên giảm, cầu nguyện Thiên thần địa kỳ vẫn chẳng trị lành. Bấy giờ, có Pháp sư Đàm-ma-la-sám hiệu là Bồ-tát Y-balặc đi khắp nơi giáo hóa ở vùng Thông lãnh, bèn đi đến Hà Tây. Vua Mông Tốn nghe có Sa-môn đến bèn thưa hỏi cách trị bệnh, ngài La Sám đáp rằng: "Bệnh của Đại vương thì các thứ thuốc ở Thiên Trúc chẳng thể trị lành, chỉ có thứ thuốc hay tên là Diệu Pháp Phổ Môn, mới có thể bảo đọc tụng". Vua vâng theo lời ấy, liền sai người đọc tụng, bệnh chuyển được lành, do đó vua càng tăng thêm tâm tôn trọng, tự chuyển rút lấy một phẩm kinh Quán Thế Âm thành một quyển biệt tập, từ đó mãi đến ngày nay, thường tương truyền.

Thích Tuệ Duyên ở Dự châu, đời Tùy:

Thích Tuệ Duyên, là người ở xứ Dự châu, xuất gia từ thuở thiếu thời, chỉ ăn dùng rau trái khổ hạnh, muốn sinh lên cõi trời Đâusuất, phát nguyện hồi hướng tất cả mọi hạnh nghiệp tu hành về nghiệp ấy, chí ý mong cầu được tận mật thờ phụng Đức Di-lặc từ tôn. Trong suốt mười hai năm không hề ngưng nghỉ, mộng thấy một đồng tử đến bảo với Sư rằng: "Hạnh nghiệp của ông ưa chuộng muốn sinh lên cõi trời Đâu-suất, tuy sinh lên cõi trời ấy mà chẳng thể thờ phụng Đức Di-lặc Đại sĩ. Vì sao? Vì chưa tụng kinh Pháp Hoa. Nếu người thọ trì mười điều lành tuy được sinh lên cõi trời ấy, mà người chẳng thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên chỉ ở phía trời bên ngoài, không được hầu hạ bổ xứ, rồi do nhân duyên mê đắm dục lạc nên rơi lại trong ba đường ác". Nói lời ấy rồi, đồng tử bèn bay lên hư không. Sau khi thức giấc, Sư liền sám tạ tâm nguyện trước, lại theo các vị thầy bạn thọ học kinh, ngày đêm đọc tụng trải qua ba năm, lại mộng thấy vị Đồng tử trước kia đến bảo rằng: "Hạnh nghiệp của ông đã thuần thục, nhưng thọ mạng chưa hết, trước muốn được thấy Bồ-tát Di-lặc, nên theo vào dưới hông tôi, tôi sẽ đưa lên cõi trời vào nội viện, chỗ Bồ-tát Di-lặc cùng các Đại Bồ-tát hiện đang vây quanh giảng pháp". Vừa thấy Sư vào, Bồ-tát Di-lặc liền nói kệ ngợi khen rằng:

"Lành thay! Đại Thích Tử
Đọc tụng pháp Nhất thừa
Hiện đời thấy thân ta
Qua đời sẽ sinh đây!"

Nghe lời kệ ấy xong, Sư vui mừng đến nỗi lệ rơi, nhìn khắp trước sau và chung quanh chúng hội có trăm ngàn người đều ngồi trên tòa. Lại thấy có các tòa trông không người rất nhiều, Sư liền hỏi các vị trời: "Vì sao có những tòa trống không người như thế?". Khi ấy có hai vị Bồ-tát là Thị giả; một vị tên là Pháp Uyển Lâm và một vị tên là Đại Diệu Tướng, liền đứng dậy nói với Sư rằng: "Nên biết các tòa trống ấy là nơi dành cho những người ở trong thời Mạt pháp của Đức Thích-ca Như Lai thọ trì đọc tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sau khi vãng sinh sẽ lên ngồi trên đó, cho nên có những tòa trống không người như thế. Và, Sư cũng sẽ ngồi trong đó. Hạnh nghiệp của Sư quá tinh diệu nên ta đến đón rước. Đồng tử ông thấy trước kia đâu phải là người nào lạ mà đó chính là Đại Diệu Tướng tôi đây. Ông mau trở lại nhân gian, nói cho mọi người nghe biết việc này, chuyển đọc kinh giáo Đại thừa, mười hai năm sau, xả bỏ thọ mạng, ông sẽ lên nơi này thọ giáo". Lại bảo theo Đồng tử trước mà trở xuống. Thức giấc, Sư rất vui mừng, nói việc ấy cho các bạn bè, mười hai năm sau, tự nhiên không bệnh mà Sư thị tịch, có mây mầu tím phủ khắp hư không, mọi người đều cho là điềm lành.

Thích Tăng Dung chùa Đông Lâm ở Cửu Giang đời Lương:

Thích Tăng Dung, sống vài đầu đời Lương, trụ chùa Đông Lâm ở Cửu Giang. Sư dốc chí trầm lắng rộng khắp, chuyên du hóa là việc chính, Sư đọc tụng kinh Pháp Hoa, trụ tại Lô Sơn, riêng lúc nghỉ qua đêm, trời có mưa tuyết, lúc vừa mới ngủ, thấy có binh lính quỷ, loại ấy rất nhiều, trong đó có quỷ tướng mang áo giáp cầm mũi nhận, thân hình kỳ lạ tướng trạng cao lớn, có mang đến một chiếc giường người Hồ, bèn ngồi xổm trước mặt Sư, gằn sắc mặt lớn tiếng bảo rằng: "Vì sao Ông cho là quỷ thần không có linh ứng? Hãy mau kéo xuống đất". Các quỷ định ra tay thì

Sư trầm lặng xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm không dứt tiếng, liền thấy phía sau giường có một vị tướng trời thân cao một trượng thân mặc áo kép, quần cụt bằng da mầu vàng, tay cầm chày Kim Cương định đánh. Bọn quỷ bèn kinh hãi chạy tan, các thứ áo giáp mũ trụ đều nát như bụi phấn. Lại nữa, Sư từng ở tại Giang Lăng, chuyên tâm đọc tụng, cảm Bồ-tát Phổ Hiền đến dạy rằng: "Ông đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội tánh dần tiêu diệt, chỉ trong ba đời chắc chắn thấy được chân tâm, không biết về sau Sư đến ở xứ nào (xuất xứ từ Lương Cao Tăng truyện).

Tỳ-kheo tu hạnh A-lan-nhã ở xứ Thiên Trúc:

Xưa, ở tại xứ Thiên trúc có vị Tỳ-kheo tu hạnh A-lan-nhã đọc tụng kinh điển Đại thừa. Vua nước đó thường trải tóc dưới đất để Sư giẫm lên đi qua. Có vị Tỳ-kheo khác nói với vua rằng: "Người này là Ma-ha-la chẳng đọc tụng nhiều kinh, vì sao cúng dường lớn như thế?". Vua bảo: "Vào nửa đêm một hôm nọ, ta muốn thấy vị Tỳ-kheo ấy, bèn đến chỗ vị ấy ở, thấy vị Tỳ-kheo ấy đang ở trong hang đá đọc tụng kinh Pháp Hoa, thấy có một người thân hình phát ra ánh sáng vàng ròng cưỡi trên voi trắng, chắp tay cúng dường. Ta dần đi lại gần, liền biến mất. Ta liền hỏi vị tỳ-kheo ấy: "Vì sao ta đến thì hình tướng người phát ra ánh sáng vàng ròng ấy liền biến mất?". Vị Tỳ-kheo ấy đáp: "Đó tức là Bồ-tát Biến Cát. Bồ-tát Biến Cát tự nói: "Nếu có người đọc tụng kinh Pháp Hoa thì ta sẽ cưỡi voi trắng đến, chỉ dạy dẫn dắt cho". Vì tôi đọc tụng kinh Pháp Hoa nên Bồ-tát Biến Cát tự đến. Bồ-tát Biến Cát chính là Phổ Hiền (xuất xứ từ luận Đại Trí Độ).

Vị Sa-di chùa Cù-ma-đế ở nước Vu-Điền, xứ Thiên-trúc:

Ở nước Vu Điền có một ngôi Già-lam tên là Cù-ma-đế tức là chùa Đại thừa. Ở đó có ba ngàn vị tăng cùng tu tập chung, thường đánh kiền-chùy mà thọ trai. Bấy giờ, có vị Sa-di chuyên lo làm lụng mọi việc tuổi vừa mười sáu, cũng có một Ni-Kiền-Tử giỏi về chiêm đoán các tướng, thấy vị Sa-di ấy bèn bảo rằng: "Năm nay ông mười sáu tuổi, mạng sống chỉ còn được một năm, tuy có xả thí tất cả các thứ y bát để cúng dường cũng không thể kéo dài tuổi thọ!". Sa-di nghe nói buồn rầu, Thượng tọa cũng thương xót nên bảo tu tạo nghiệp lành cho đời sau, dạy trì tụng kinh Pháp Hoa, mà vị Sa-di ấy căn tánh ám độn, không biết văn tự, nên Thượng tọa rút chỗ quan trọng trong kinh lấy hai phẩm: "Phương Tiện" và "Thọ Lượng" trao cho bảo đọc tụng. Vị Sa-di ấy chuyên tâm đọc tụng. Về sau, vị Ni Kiền Tử gặp lại vị Sa-di ấy sinh tâm ít có, hỏi rằng: "Ông tu công đức gì?". Vị Sa-di ấy đáp: "Tôi mới đọc tụng hia phẩm trong một bộ kinh". Vị Ni-kiền-tử khen rằng: "Năng lực của kinh điển Đại thừa, thật chẳng thể nghĩ bàn. Chuyển đổi từ tuổi thọ chỉ mười bảy trở thành bảy mươi!". Bèn xuất gia vào ở chùa, tập học đọc tụng kinh điển Đại thừa. (Xuất xứ từ Tây Quốc truyện)

Sa-môn Ma-ha-diễn-đề-bà nước Câu-tát-la ở Thiên-trúc:

Bên cạnh tinh xá Ái Đạo xưa ở nước Câutát-la có vị Sa-môn tên là Ma-ha-diễn-đề-bà; đời Tần dịch là Đại Thừa Thiên. Bấy giờ, có vị A-la-hán chứng đắc Ba Minh sáu thông thấu suốt rốt cùng là bạn thân cũ của Sư, nói với Sư rằng: "Tôi thấy phía trên ở ngoài thành Xá-vệ giữa hư không có một con quỷ đói thân hình to lớn tướng trạng xấu xí, tự nhiên có mười hai viện sắt nóng vào trong miệng, thẳng qua xuống dưới, đã qua rồi trở lại vào miệng, khắp thân thể nóng đốt, đau đớn xoay chuyển, té ngã rồi đứng dậy, đứng dậy rồi lại té ngã". Tôi liền hỏi: "Ông do tội gì mà đau khổ như thế?". Quỷ đói đáp: "Đời trước tôi làm Sa-di cho Đại Thừa Thiên, bấy giờ gặp lúc quá đói kém, phải làm bánh bột để ăn, tôi làm thức ăn cho chúng Tăng, riêng coi trọng Đại Thừa Thiên nên lén cất mười hai phần, định ăn sau. Vì tội ấy nên chịu làm thân quỷ đói, khổ độc như thế này, ông có biết chăng?". Sư đáp: "Thật có việc ấy", "Chịu khổ đâu có nghi gì?". Sư hỏi: "Vậy phải dùng cách nào để cứu khổ ấy?". Vị A-la-hán bảo: "Nên y theo ông mà khởi tu hạnh nghiệp. Ông đọc tụng kinh điển Đại thừa". Ngài liền theo lời dạy bảo của vụ A-la-hán mà đọc tụng các kinh Bát-nhã, Pháp Hoa, Ban Châu, v.v... mỗi thứ mười biến, hồi hướng công đức cứu khổ cho quỷ đói ấy. Sau đó, Sư lại hỏi vị A-la-hán ấy: "Sa-di trước kia khổ như thế nào rồi". Vị A-la-hán ấy đáp: "Tôi nhập định quán sát thấy biết quỷ đói ấy nương năng lực tụng kinh của ông nên sau khi chết được sanh lên tầng trời thứ hai (như trước).

Nghiêm Kính ở Dương Châu đời Tùy:

Nghiêm Kính, người ở xứ Dương Châu, gia đình rất giàu có, nhưng không con để nối dõi. Nghiêm Kính quy kính chánh pháp, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp thường. Về sau, sinh được một đứa con trai, vừa ba tuổi bị sốt nên mắt mù. Nghiêm Kính dạy cho học phẩm "Thọ

Lượng" nhưng đứa con ấy chẳng thể thọ trì, chỉ mới đọc được đề mục của phẩm kinh, ngoài ra không có việc gì khác. Lại gặp lúc tao loạn, Nghiêm Kính bèn đào một cái hang ở trong nhà, cấp cho các thứ ăn mặc và giấu đứa con ở đó mà bỏ đi. Đến lúc bình an, giặc tan. Ba năm sau, Nghiêm Kính mới trở về nhà thì phòng nhà đều đổ nát, rường cột đổ ngã, bỗng nghe phía dưới có tiếng nói nhỏ nhiệm, bèn nhớ lại đứa con bị mù mắt, vội mở hang ra, thấy đứa con sắc da beo tốt tròn đầy, hai mắt lại tỏ sáng, buồn vui lẫn lộn mà hỏi về nhân duyên. Đứa con ấy bảo: "Tôi thọ trì phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa, có một người cưỡi voi trắng đến phát ra ánh sáng và dạy trao truyền cú đậu, mới đầu đọc tụng một phẩm được sáng mắt, nên giúp cho trọn bộ". Sau đó Nghiêm Kính bèn không thấy đứa con đâu nữa, bèn sinh khởi ý niệm ít có, chí thành đọc tụng kinh rất thông thuộc, như nhiều năm thọ trì, tôi (Tăng Tường) gần gũi nghe biết điều đó.

Dạng nữ ở huyện An Cư:

Các cô gái họ Dạng phát tâm đọc tụng kinh Pháp Hoa phẩm Đề-bà-đạt-đa, tay xoa các thứ hương thơm mới chạm vào kinh, miệng ngậm các thứ hương thơm mới đọc tụng kinh. Người mẹ của cô Dạng bị bệnh, Dạng đọc tụng liền hết bịnh. Giữa lúc đang đêm lắng lặng, hướng về ánh đèn để đọc tụng kinh, bỗng có mùi thơm lạ tỏa đến, có Dạng tinh thành suốt mười hai năm, nữ căn bèn biến mất, nam căn sinh khởi, Dạng nữ kín đáo chẳng nói với người. Đến lúc qua đời có một cành hoa sen mọc bên cạnh trên đầu, mọi người đều cho đó là biểu thị của cảnh giới Tịnh độ.

Cố gái nhỏ ở Đại Nguyên:

Ở Đại Nguyên có một cô gái nhỏ, cha mẹ chịu khổ nên qua đời, tình người dần khởi phát nên nghĩ nhớ đến cha mẹ, bèn theo Ni Sư Chân Diệu thọ học phẩm Dược Vương, suốt ngày đêm đọc tụng, cầu nguyện hướng niệm về cha mẹ, bèn cảm mộng có vị Sa-môn đến bảo rằng: "Ngươi đọc tụng một phẩm trong kinh Pháp Hoa, nhờ nhân duyên tốt đẹp ấy mà cha mẹ ngươi được sinh về Tịnh độ". Cô gái mới xuất gia siêng năng hành trì tinh tấn, thọ trì trọn cả một bộ kinh Pháp Hoa, đến nay hiện vẫn còn.

Ni sư Diệu Không ở Tầm Dương:

Ni sư Diệu Không ăn dùng rau quả mặc áo giấy, chuyên đọc tụng kinh Pháp Hoa, ngoài ra không thọ một câu kệ kinh gì khác, thường nguyện sinh về cảnh giới Cực Lạc, lại thấu hiểu Tam-muội niệm Phật. Đến lúc qua đời, có mây mầu tím bủa khắp phòng, mùi thơm lạ lan tỏa cả huyện. Về sau có vị đệ tử Ni mộng thấy bảo rằng: "Tôi suốt một đời thọ trì kinh Pháp Hoa, được sinh về thế giới Cực Lạc ở Trung phẩm thượng sinh, nếu như gồm cả giải nghĩa thì hẳn sinh ở Thượng phẩm thượng sinh.

Người nữ ở nhà Cao Thủ Tiết ở Tinh châu, đời Tùy:

Gia đình Cao Thủ Tiết nhiều đời tin thờ Phật pháp, trong nhà có một cô gái mắc bệnh, bèn dạy đọc tụng kinh Pháp Hoa, bệnh tật liền được tiêu trừ, về sau người nữ ấy xuất gia làm Ni Cô, thấy người bị bệnh hủy, liền dạy đọc tụng kinh Pháp Hoa, không lâu bệnh được tiêu trừ.

Lại thấy người bị bệnh câm, đọc tụng kinh cho nghe, bèn vui mừng mà đi. Sau được chỗ đáng nghe, lại thấy người mắc phải bệnh sốt rét, nghe tiếng đọc tụng kinh, liền được khỏi bệnh. Người nữ ấy do sự tinh thành mà được sự cảm thông như thế. Không biết việc về sau thế nào?

X. BIÊN CHÉP CỨU KHỔ: (Phần 1)

1/ Diêu Hưng đời Hậu Tần

2/ Sa-môn nước Ba-la-nại

3/ Thiện tín nữ ở nước ngoài

4/ Bạn đồng học với Trúc Pháp Toại

5/ Thích Đạo Tuấn

6/ Sa-di ở chùa Linh Quang

7/ Kết duyên viết kinh ở Việt Châu.

8/ Thích Pháp Phong

9/ Thích Tăng An

10/ Thích Trí Diễm

11/ Thích Nghĩa Triệt

12/ Nàng hầu goá bụa thời Tiền Đường

13/ Tư Mã Lý Thông

14/ Tư Mã Sở Tuyên Tông 15/ Người phụ nữ họ Trần

16/ Lý Kiện An đời Đường.

1. Diêu Hưng đời Tần.

Diêu Hưng húy là Chiêu Văn Đô Thường An, dưới thời vua An Đến (Tu Mã Đức Tông

397-405) thời Đông Tấn, có Pháp sư Cưuma-la-thập người xứ Thiên Trúc, đến Thường An vào mùa Đông niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ ba (400) thời hậu Tần, Diêu Hưng kính lễ rất hậu, thỉnh vào vườn Tiêu Dao riêng quán an đặt, ban sắc Sa-môn Tăng khế, nhóm họp các vị Sa-môn có hơn tám trăm mười vị để cùng học hỏi yếu chỉ ở ngài La-thập. Đến niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ tám (405), ở trong chùa Đại Thảo Đường dịch hoàn tất kinh Pháp Hoa, bảo các Sa-môn Tăng Huệ, Đạo Dung giảng kinh Pháp Hoa bản mới dịch. Rất tôn kính Phật pháp, nên Tần Chủ (Diêu Hưng) phát nguyện rằng: "Thập Công đặt bút viết kinh, nơi đầu bút phát ra ánh sáng, trong ánh sáng thấy có hóa Phật và Bồ-tát Văn-thù, mới biết có cảm ứng ở xứ này". Vua bèn tự cầm bút viết kinh, kiêm cứu độ vong thân, nêu ở bên cạnh viện phiên kinh tạo lập riêng một tịnh thất, dùng bảy thứ báu để trang nghiêm trong thất, rưới nước thơm khắp cùng, và cũng dùng nước ấm nóng thơm để tắm gội. Ngày mồng 08 tháng 03 niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ tám

(405), vua bắt đầu viết, mới viết tựa đề kinh, liền phát ra ánh sáng năm mầu, viết được hai quyển, vua mộng thấy ở tịnh thất thoáng rộng trang nghiêm như Tịnh độ, phát ra ánh sáng vàng ròng trong đó. Trong ánh sáng ấy thấy vong thân vui mừng nói kệ rằng:

"Lành thay Thánh vương
Tự tay soạn kinh
Nương công đức ấy
Sinh lên Đao lợi
Đến ngày cúng dường
Sinh cõi thứ tư
Phụng sự Di-lặc
Nghe pháp ngộ giải".

Khi thức giấc ở tịnh thất ấy vua tạo xong một bộ kinh Pháp Hoa. Qua đến ngày 15 tháng giêng niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ chín (406) ở chùa lớn, vua thiết trai cúng dường ba ngàn vị tăng, ngài La-thập ngồi trên tòa cao bảo rằng: "Đãy da dơ uế chẳng xả bỏ, bên trong chứa đựng vàng ròng, mở rộng đại nghĩa, mưa hoa động đất khắp bốn phương, nhóm họp, hơn chín muôn người đồng một lúc gieo trồng nhân Phật thừa, tâm của muôn thừa, Tôn tam Mật giáo, Diêu Hưng đã ôm ấp linh ứng, tôn kính Phật pháp soi trước thấm sau".

Vị Tăng ở nước Ba-la-nại:

Xưa, ở phía Nam nước Ba-la-nại có Liên Sơn, rộng thoáng không một bóng người, vào trong hang sâu tối thẳm, rắn độc rồng dữ, đầy khắp trong đó. Những người lạc đường vào hang sâu ấy cả mười người chẳng còn được một, hai người. Bấy giờ, ở nước Câu-diệmdi có một vị tăng du học, chí khí kính mến Đại thừa, muốn tìm cầu bản Phạm, nghe ở thế tục nói là "trong cung vua ở thành Ba-la-nại có bản kinh Pháp Hoa". Vị Tăng ấy liền sắm sửa các thứ y phục, lương thực, qua đường hiểm trở, một mình tìm đi. Đến ngày, thẳng hướng Tây mà đi, ban đêm dừng nghỉ trong Liên Sơn. Nửa đêm bỗng thấy có ánh sáng mầu xanh, dần dần hiện ra một con rồng lớn nhiễu động trên núi, soi chiếu mặt đất đi lại há mồm, hướng về vị tăng ấy. Vị tăng sinh tâm sợ hãi nghĩ rằng: "một đời luống qua, chẳng toại được bổn hoài, nên dùng công đức Đại thừa để cứu khổ cho rồng độc". Liền hỏi rồng rằng: "Ngươi muốn ăn thịt ta phải chăng?". Rồng đáp: "Ta do quả báo tuôn nhả khí độc, mọi người trông thấy, kinh sợ mà chết, chứ ta không hề có tâm hại. Thân trước của ta từng làm Sa-môn, vì thường nghĩ nhớ phẫn độc, chẳng thực hành chánh đạo, bởi tội ấy nên phải chịu thân hình xấu xí, có tám mươi bốn ngàn con trùng nhỏ rúc rỉa ăn thịt thân ta, đau khổ thật không thể chịu nổi, ông nên bố thí lòng từ bi để cứu khổ này giúp ta!". Vị tăng hỏi: "Phải cứu bằng cách nào?". Rồng đáp: "Tạo kinh Pháp Hoa", và liền dâng cúng hạt châu thần minh nguyệt. Vị tăng nhận hạt ngọc, liền ra đến thành Ba-la-nại dâng lên vua. Vua nhóm họp những người viết chép tài giỏi, tu tạo hai bộ kinh Pháp Hoa, đều dùng lụa trắng để chép, xong rồi trao cho vị tăng. Vị Tăng trở về đến Liên Sơn, khắp cả núi hôi thối chẳng thể đến gần. Bấy giờ, có vô số người trời đến núi ấy, nên hương thơm cõi trời tỏa ngát trong đó, mùi hôi thối bèn tan biến. Vị tăng ấy hỏi vị trời, vị trời đáp rằng: "Tôi là rồng độc ở núi này. Tôi cúng thí ngọc quý, Đại sư mới tạo kinh, nhờ đó, tôi thoát khổ, sinh lên cõi trời, nay trở lại cúng dường bổn thân và muốn báo đáp ân đức của Đại sư!", liền trao cho vị Tăng ấy ba viên châu ngọc rồi biến mất. Vị Tăng ấy về lại nước mình, xây dựng tháp báu để thờ bộ kinh. Các vị trời thường đến cúng dường tháp kinh. (Xuất xứ từ Tây Quốc truyện).

Vị Thiện tín nữ ở nước ngoài:

Xưa, ở nước ngoài có một Thiện tín nữ phát nguyện dùng lụa trắng để chép kinh Pháp Hoa, qua một mùa hạ mới xong, mang đội thọ trì trên đầu, đi đến nước khác nghỉ lại qua đêm trong một ngôi chùa, trì tụng một phẩm "Dược Vương" và buồn khóc mà nằm ngủ. Đến tàn đêm thấy thân mình thay đổi thành tướng trượng phu. Chúng tăng trong chùa lấy làm lạ mà bảo rằng: "Hôm qua là thân người nữ đến đây, vì sao sáng nay lại là thân tướng trượng phu?". Thiện tín nữ đáp: "Trước kia thân nữ, nay là thân nam, chỉ có một thân nhờ phát nguyện thọ trì kinh cho nên như vậy". Cả chúng không tin nên hỏi lại: "Ngươi là con gái của ai, ở xứ nào?". Thiện tín nữ đáp rằng: "Tôi là trưởng nữ của Bà-la-môn Thiện Sinh ở nước ngoài, khi đang ở tại quê nhà tu tạo kinh này, cất bút mực trong cây cột ở góc phía Đông, lại ở trong rêu bỏ vào một thẻ vàng và một gói ngọc. Nếu không tin thì hãy đến ngôi nhà ấy, sẽ biết rõ mọi sự hư thật". Chư Tăng liền sai kẻ sứ đến xét hỏi, quả nhiên đúng thật như lời nói, cha mẹ của Thiện tín nữ cùng nhìn thấy bèn sinh ý niệm ít có nên xả thí nhà để làm chùa, đặt tên là chùa Trượng phu.

Vị Tăng đồng học với Sa-môn Trúc Đàm Toại:

Sa-môn Trúc Đàm Toại, không rõ là người xứ nào, thuở thiếu thời Sư vân du buông lung, chẳng tu giới hạnh mà cao ngạo tự ỷ lại, đến lúc trưởng thành lại gian giảo hèn kém, hoặc chỉ một lời đến nỗi khiến trái phạm, nhiều năm chứa nhóm tâm sân nhuế, mọi người lớn nhỏ ở chung chùa không ai chẳng gặp phải sự tức giận ấy. Trong một đêm nọ, mộng thấy có một người đến bảo rằng: "Ông sẽ làm thần miếu Thanh Khê". Về sau, bị bệnh, đến lúc sắp qua đời, Đàm Toại nói với người bạn đồng học rằng: "Lúc bình thường tôi có lắm sự trái nghịch, ít điều chất thật, lại vì phước đức mỏng cạn, sẽ làm quỷ thần chủ miếu Thanh Khê. Các thầy có duyên hãy xót thương mà hỏi!" Sau khi Đàm Toại qua đời, quả nhiên nơi miếu nghe có thần mới. Các Đạo nhân đến miếu cùng nhau trò chuyện, tiếng vang nói cười như lúc bình thường, bèn thỉnh chư tăng đọc tụng kinh Pháp Hoa, có Sa-môn Tuệ Cận xưa thường đọc tụng, do đó làm số khế cho, thường xin ngâm trầm, cũng liền xướng Bồ-tát mà buồn chẳng dằn nổi, đều vì đó mà rơi lệ. Nhân đó nói: "Ngày nay phải chịu thân hình xấu ác, vô cùng hôi thối, khốn khổ quá lắm, khó có thể nói, dưới ngạch cửa phòng xưa của đệ tử có năm ngàn đồng tiền, hãy lấy đó tạo phước, ngõ hầu dứt được khổ ấy!" nói rồi bèn giã biệt. Tăng chúng trong bạn đồng học tạo cho ba bộ kinh Pháp Hoa, thiết trai sám hối. Nơi miếu bèn vắng bặt không có dấu vết thần. Nên biết nướng vào năng lực viết kinh mà được lìa khổ, vãng sinh về cõi tịnh.

Thích Đạo Tuấn ở Tề Châu:

Thích Đạo Tuấn, họ Vương, chẳng chuyên tu giới hạnh, chỉ chuyên tạo điền nghiệp, chứa nhóm vải bố lụa quyên, thêu thùa đầy đến cả muôn kế mà tham tiếc keo lận, chẳng thể xả bỏ chừng đầu sợ lông. Về sau, bỗng nhiên bị bệnh nặng, nơi chỗ bí ẩn tiện lợi chẳng thông, thân mạng sắp dứt. Ở trong chùa ấy có một vị Pháp sư đến giảng pháp cho nghe, tâm Đạo Tuấn có phần khai ngộ, bèn xả thí một phần ba tài vật cúng thí khắp các chùa. Cúng thí vừa xong, cơn bệnh ấy liền thuyên giảm, khi bệnh đã đỡ, qua vài ngày xem xét lại trên gác thấy mọi vật không có, mới nghĩ nhớ đến của cải, Đạo Tuấn bèn phát cuồng chuyên gọi giặc rằng: "Chư tăng ở các chùa đến cướp tài vật của ta". Các vị đồng bạn can ngăn nhưng Đạo Tuấn vẫn không tỉnh ngộ. Pháp sư ấy mới bảo khắp các chùa chư tăng trả lại tài vật. Đạo Tuấn thấy vậy kêu tiếng mới thôi. Sau đó, chỉ trong vài ngày, căn bệnh xưa tái phát, khốn khổ càng lắm, lại thỉnh Pháp sư cầu cứu hối cải, Pháp sư quở trách dẫn dắt khiến bỏ tâm niệm san tham, lại cúng thí các vật trước. Bệnh lại được lành. Khi đã lành, Đạo Tuấn nhớ tiếc tiền của vải vóc lụa là, thường nghĩ nhớ sân hận. Vài ngày sau bèn qua đời. Lúc chết mắt sưng lớn như cái chén, khắp thân hình biến thành mầu đỏ như quỷ, Pháp sư thương xót mà bảo rằng: "Ngu thay, cố tham tiếc của cải, sa đọa vào loài quỷ đói, dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng chẳng thể thoát khỏi. Của cải lại hại ba đời, lời nói ấy thật đúng!". Liền dùng tất cả mọi vật có được của Đạo Tuấn sung vào việc biên chép mấy mươi bộ kinh Pháp Hoa, cũng cúng thí ở các chú để chú nguyện. Xong rồi, Pháp sư ấy mộng thấy Đạo Tuấn mặc áo nạp mà không có mùi hôi thối mà nói rằng: "Tôi ngu tiếc của cải, bị đọa lạc chịu khổ trong đường quỷ. Từ nay được chuyển thành tốt đẹp, nhờ Đại sư xả thí tài vật của tôi để chép kinh Pháp Hoa nên tôi lìa khổ được vui."

Vì Sa-di chùa Linh Quang ở Tề Châu, thời Tiền Đường:

Chùa Linh Quang ở Tề Châu có một vị Sa-môn già, không rõ tên hiệu, tịnh tu giới hạnh, thường trì bình bát bằng đất, suốt hơn mấy mươi năm không hề sai bảo người khác bưng hầu. Về sau, vì có công việc vội gấp mới nhờ vị Sa-di tẩy rửa bình bát ấy, Sa-di sa làm rơi bể bình bát. Vị Sa-môn già ấy kinh hãi kêu thất thanh, rất mực nuối tiếc, bèn nằm mà chết. Các đệ tử bèn an táng ở chỗ hoang vắng. Qua vài ngày sau, vị Sa-di ấy cùng chư tăng đến chỗ phần mộ, thấy một con rắn lớn từ phía sau phần mộ bò ra quấn quanh vị Sa-di từ dưới chân lên đến đỉnh đầu và cúi đầu nhìn xuống như sắp muốn ăn nuốt, chư tăng kinh hãi than thở mới chú nguyện rằng: "Có chuyên chỉ bở một cái bình bát, keo lận mến tiếc độc hại sân nhuế đến nỗi khi chết phải làm thân rắn, chẳng hối cải lỗi lầm xưa trước, lại muốn nuốt ăn giết hại đệ tử, tội lớn ấy do nghiệp gì mà như vậy?", mới nói rộng mọi sự thiện ác, vì đó mà sám hối, phát nguyện giây lâu, rắn mới nhả khỏi thân mà đi. Vị Sa-di ấy chết ngất, kinh hãi cả tuần mới tỉnh, về tạo một bộ kinh Pháp Hoa, đến chỗ phần mộ vị Tăng ấy mà cúng dường. Về sau, thấy con rắn ấy đã chết, nên biết đã sửa đổi quả báo mà thôi. (ba truyện trên đây xuất xứ từ Cảnh Lục).

Kết duyên viết kinh ở Việt Châu:

Niên hiệu Thiên Giám năm thứ mười bảy (518) thời Nam Lương, theo luân ngôn của vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550), thì mỗi châu huyện đều tu tạo kinh Pháp Hoa. Bấy giờ, ở việt châu đồng tu tạo kinh và đem đến chỗ Đạo tràng Quán Âm, muốn cúng dường. Trong châu ấy có một lão mẫu tên là Thần mẫu, tà kiến lớn mạnh, không tin Phật pháp, nghe loan báo khắp cùng kết duyên luân chỉ, trong lòng buồn khổ, muốn ẩn núp dưới miếu. Sứ giả đến báo ngoài cửa, thần mẫu bèn đóng cửa ẩn núp, nằm trong lòng gỗ. Khắp châu huyện mỗi nhà đều chép kinh cúng dường. Hơn một tháng sau, thần mẫu tự cho rằng: "Việc cúng dường đã qua, nên ra khỏi miếu mà trở về nhà". Giữa đường gặp phải Sứ giả ở Đạo tràng đi đến, bèn kinh sợ bỏ chạy nên vấp ngã dưới đất chết ngất, qua nửa ngày sống lại trở về nhà, rơi lệ mà nói với mọi người ở gần rằng: "giữa đường tôi bị chết ngất, thấy có bốn vị quan mặc y phục mầu đó cưỡi ngựa trắng rượt đuổi tôi mà quở trách rằng: "Ngươi là người tà kiến, không tin nhân quả, phỉ báng kinh Phật không ứng nghiệm, không thấy không nghe, Đại Vương sai chúng ta đến vời gọi ngươi". Liền dẫn bộ theo hướng Đông Bắc đi hơn năm mươi dặm, đến chỗ một tòa thành lớn. Trong thành có sảnh vua, vua cầm phất trần trắng, ngồi nhìn tôi rồi tỏ vẻ tức giận nói rằng: "Kẻ nữ ngu si rất ác". Khi đó, tôi nghiệm biết lúc còn sống, bèn hối hận việc không ghi chép kinh Pháp Hoa. Vua bỗng nhiên mỉm cười bảo: "Ngươi đã bỏ tà khởi sinh chánh tín, mạng sống vẫn chưa hết, phải về lại nhân gian tu thiện dứt ác". Răn bảo vậy rồi, tôi ra khỏi thành về lại đường cũ và liền được sống lại". Mọi người nghe thế vui buồn lẫn lộn, thần mẫu bèn xả thí các thứ của cải, ghi chép hai bộ kinh rồi đến nơi Quán Âm đổ thất mà giảng nói, bèn phát tâm xuất gia làm Ni, tên là Diệu Công.

Thích Pháp Phong ở thời Tiền Tống:

Thích Pháp Phong, họ Trúc, người ở xứ Đôn Hoàng, đến nước Quy tư xây dựng một ngôi chùa, mọi việc đều hoàn tất, bấy giờ do đó mà đặt tên là chùa Pháp Phong, trải qua thời gian lâu chuyên làm chủ chùa, hơi khởi sinh ý tưởng ỷ lại công sức của mình, nên rút lấy từ trong ra rất trái với châm chước, liền giảm bớt thức ăn của Chúng tăng, khiến không được đầy đủ châu toan. Lâu sau, bèn qua đời, Pháp Phong đọa trong loài quỷ đói, thường ở nơi chùa viện, từ đầu hôm đến gần sáng rảo quanh các phòng, kêu than đói khổ. Có đệ tử là Sa-môn Bảo Tuệ nghe than nói rằng: "Thật là tiếng của thầy ta!", do đó mà hỏi Pháp Phong đáp: "vì xén bớt thức ăn của chúng tăng nên ta phải làm thân quỷ đói, đau khổ rất lắm, cầu mong được cứu giúp". Các đệ tử vì ta biên chép kinh Pháp Hoa, rộng vì thiết trai sám hối, nên Pháp Phong được sinh về cảnh giới tốt đẹp v.v... (Cảnh Lục cho là xuất xứ từ Chưng Nghiệm truyện).

Thích Tăng An trụ chùa Pháp Hải, thời Tiền Đường:

Thích Tăng An, không rõ người xứ nào. Sư trụ chùa Pháp Hải, tự tay biên chép các bộ kinh Đại thừa như Pháp Hoa, Bát-nhã, v.v... mộng thấy Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi đầu đàn mầu trắng hiện đến trước mặt bảo rằng: "Nơi kinh ông biên chép nói về trí tuệ Phật bị sót hai câu". Đến lúc thức dậy xem lại kinh mới biên chép đúng như trong mộng báo.

Thích Trí Diễm ở chùa Định Thủy, thời Tiền Đường:

Thích Trí Diễm, thờ Sa-môn Trí Khải, rất có tiết tháo thanh khiết, khéo biên chép không ai sánh bằng, tự muốn chép bộ kinh Pháp Hoa, nhưng vì nghèo không có giấy để ghi, mộng thấy chim Phượng Hoàng ngậm giấy đem đến, lúc thức dậy thấy trên bàn có giấy, liền chép một bộ kinh, thờ trong tháp, phát nguyện rằng: "Kinh này chẳng mục nát sẽ sinh về ở cõi Phật". Do nguyện lực có cảm ứng, nên mưa sương chẳng thấm ướt trên tháp.

Thích Nghĩa Triệt trụ chùa Hãm Tuyền ở Bồ Châu, thời Tiền Đường:

Thích Nghĩa Triệt, trụ chùa Hãm Tuyền ở núi Cô giới, thuộc Bồ Châu. Phát nguyện dùng máu trong thân mình để viết kinh đem chôn giấu ở phía Nam núi Cô Giới, mong sau này khi Đức Phật ra đời, các loài chim thú chẳng giẫm đạp nơi đất ấy. Lại nghĩ đến việc quyển kinh bị thấm ướt rã mục, nên hướng lên hư không mà phát nguyện viết kinh sẽ ở nơi khoảng không ấy sương mưa chẳng tuôn đổ, chim thú chẳng bảy. Như người tịnh tín có tâm niệm cầu nguyện nơi khoảng hư không ấy trong khoảng hơn mười trượng, thấy văn kinh Pháp Hoa rõ ràng như câu tỏa, chỗ đất ấy gần nơi thấy nghe.

Nàng hầu goá bụa ở Miên Châu, thời Tiền Đường:

Ở Miên Châu có một nàng hầu goá bụa, vì người chồng đã qua đời mà muốn chép kinh Pháp Hoa, bèn dùng trăm muôn đồng để thuê thư sinh ở tịnh thất chép kinh. Có một con trâu đến trước tịnh thất chép kinh mà ngã chết, nàng hầu ấy kinh sợ lấy làm lạ. Mộng thấy có một vị Sa-môn đến bảo rằng: "Con trâu ấy là chồng của ngươi, vì lấy ruộng lúa của người nên phải chịu làm thân trâu, cày bừa cực nhọc cho chủ ruộng, may nhờ ngươi chép kinh Diệu Pháp nên được xả bỏ thân trâu, sinh về cõi trời."

Tư Mã Lý Thông ở Ky Châu thời Tiền Đường:

Tư Mã Lý Thông ở Ky Châu phát nguyện vì người vợ đã qua đời mà chép bảy bộ kinh Pháp Hoa và mang đến chùa Kỳ Sơn cúng dường, mộng thấy một thiên nữ ở giữa hư không bảo rằng: "Nhờ công đức của ông nên đổi quả báo trong loài quỷ, nay sinh lên cõi trời Đao-lợi". Lý Thông bảo: "Tôi muốn được gần với người". Thiên nữ đáp rằng: "Thân người rất dơ bẩn không thể đến gần, với nghiệp lành ấy, ông sẽ sinh đồng một cõi trời với tôi, trong tương lai sẽ gặp gỡ nhau". Nói xong liền biết mất. Sau khi thức giấc, suy nghĩ luyện mến buồn vui chẳng dứt. Về sau đến lúc tám mươi sáu tuổi, Lý Thông qua đời, có mùi thơm lạ thoảng khắp phòng, được các trời đến đón rước.

Tư Mã Sở Tuyên Tông ở Tinh Châu, thời Tiền Đường:

Gia đình Sở Tuyên Tông rất giàu sang, có được ba người con trai và hai người con gái. Người con trai út bị bệnh nên sớm qua đời, Tuyên Tông phát ra si cuồng, để lõa lồ thân mình kêu réo hoảng chạy qua thời gian hơn một tháng. Bấy giờ, tại chùa Đại Hưng Quốc có Sa-môn Tuệ Siêu đến an ủi Tuyên Tông rằng: "Bến bờ sự sống vô thường, cha con chẳng thật tồn tại, có ai thường sống mà không biến đổi? Đứa con đã gặp gỡ, nếu muốn gặp lại, thì nên tu tạo kinh Pháp Hoa". Tuyên Tông liền hoan hỷ, vì biên chép kinh Pháp Hoa, ngày đêm thương nhớ người con ấy. Mộng thấy có một vị Tỳ-kheo đến bảo vua Tuyên Tông rằng: "Nếu muốn gặp lại con thì hãy đi theo ta". Tuyên Tông liền đi theo Sa-môn ấy đến một vườn hoa, trong vườn hoa đó có trăm ngàn Đồng tử đang chơi đùa vui sướng. Sa-môn ấy chỉ một Đồng tử độ năm, sáu tuổi và bảo: "Đức con trai nhỏ của ông kìa". Tuyên Tông mừng vui muốn ôm chầm lấy, nhưng, Đồng tử liền bỏ chạy chẳng theo. Tuyên Tông bảo rằng: "Ta thương nhớ con, suốt lúc thức ngủ chẳng hề quên, vì sao ngươi chẳng chịu đến gần?". Đồng tử ấy đáp: "Tôi sinh trong nhà ông, tình nghĩa cha con chẳng thường, đâu có ân ái, nhờ vì tôi mà chép kinh, nên tạm được gặp gỡ. Nếu muốn trong tương lai được gặp thì nên phát tâm sâu sắc mà tu tạo kinh, lấy đó làm hạnh nghiệp, đồng sinh về cõi Phật, mãi mãi gặp nhau!". Nói xong, Đồng tử bèn bỏ đi. Tuyên Tông thưa với vị Sa-môn ấy rằng: "Con đã giác ngộ, chẳng còn theo nhau". Samôn ấy cũng trở lại, Tuyên Tông bèn đi theo. Sau khi thức giấc, Tuyên Tông đến trình bày việc ấy với Sa-môn Tuệ Siêu, và phát tín tâm sâu sắc ghi chép kinh, lấy làm hạnh nghiệp thường, về sau qua đời, được Tịnh độ đón rước.

Nàng hầu họ Trần ở thời Tiền Đường:

Niên hiệu Long Sóc năm thứ ba thời Tiền Đường (663), tại phường Thông Quỷ Quỹ thành Trường An. Thân mẫu của nàng hầu vốn họ Trần trước đã qua đời, ông Trần do đó bị bịnh mà qua đời, thấy có người dẫn vào địa ngục, thấy đủ các thứ đau khổ chẳng thể ghi lại cụ thể, sau cùng thấy một địa ngục cửa đá bền chặt, có hai con quỷ lớn dáng vẻ dữ dằn ở hai bên cửa, trừng mắt giận dữ nhìn nàng hầu ấy mà hỏi: "Ngươi là ai mà đến đây?". Bỗng nhiên thấy cửa đá mở ra, thân mẫu của nàng Hầu đang ở trong đó chịu khổ chẳng thể nói hết, chịu khổ tạm hết. Nàng Hầu dần đến gần cửa, mẹ con cùng gặp gỡ nhau, xa được cùng nói năng. Người mẹ bảo con gái rằng: "Ngươi trở về lại, hãy cố gắng vì ta mà chép kinh!". Nàng Hầu hỏi mẹ muốn chép kinh gì, mẹ bảo: "Nên vì ta mà chép kinh Pháp Hoa". Nói xong, cửa đá bèn đóng kín lại.

Sau khi sống lại nàng Hầu, kể lại việc ấy với chồng, Lưu Công Tín liền nhờ em gái mình là Triệu Sư Tử chép kinh Pháp Hoa. Triệu Sư tử trước đó chép kinh có một người đem một bộ kinh Pháp Hoa mới chép chưa trang hoàng. Sư Tử trước đã nhận người khác chép, chủ của kinh vốn họ Phạm, kinh của người chép này và kinh Pháp Hoa ấy đều chuyển đến chỗ Triệu Sư Tử, đổi lấy hai trăm đồng, thí chủ không biết đổi tiền, Triệu Sư Tử lại nói với vợ của anh mình (= nàng Hầu) rằng: "Nay đã tiếp đãi kinh, ở nhà có một bộ kinh Pháp Hoa, anh nên chuộc lấy kinh ấy, đặt ngay một ngàn đồng". Nàng Hầu đem bốn trăm đồng tiền chuộc được kinh trang hoàng, hoàn tất đem đến để trong nhà vì mẹ mà cúng dường. Sau đó, nàng Hầu nằm mộng, thấy người mẹ theo con gái để đòi kinh, bảo rằng: "Trước kia ta bảo ngươi hãy vì ta mà chép một bộ kinh Pháp Hoa, vì sao mãi đến nay mà không có được?". Nàng Hầu nói với mẹ rằng: "Đã vì mẹ mà chuộc được bộ kinh Pháp Hoa, hiện tại đã trang hoàng xong, tôn trí cúng dường ở nhà". Người mẹ nói với nàng Hầu rằng: "Chỉ vì bộ kinh ấy mà ta phải chịu khổ thêm, ở trong đường u tối, ngục tốt đánh ta thân thể nát nhừ, người xem thân ta đây sưng bầm. Ngục quan bảo rằng: "Vì sao ngươi lấy kinh của nhà họ Phạm mà làm kinh của mình? Ngươi đâu có phước gì? Tội ngươi thật quá lắm!". Nàng Hầu nghe mẹ nói như thế, lại vì mẹ mà chép kinh Pháp Hoa, kinh ấy chép chưa xong, nàng hầu lại nằm mộng thấy mẹ đến thúc giục chép kinh, và liền thấy một vị tăng tay cầm một quyển kinh Pháp Hoa nói với người mẹ rằng: "Con gái của ngươi đã vì ngươi chép kinh Pháp Hoa quyển thứ nhất đã xong, công đức đã thành. Vì sao lại đến ép ngặt thúc giục? Đợi chép xong đâu có gì gấp gáp". Sau khi chép kinh đã hoàn thành, người mẹ lại báo mộng với nàng hầu rằng: "Nhờ ngươi vì ta mà chép kinh, nay ta đã được ra khỏi đường u tối, thọ sinh ở cõi tốt lành, là nhờ ân đức của ngươi, nên ta đến báo với ngươi. Ngươi phải khéo sống, khéo giữ lễ làm vợ, lấy tín tâm làm gốc!". Nói xong, buồn cảm rơi lệ giã biệt nhau.

Sau đó, nàng hầu xét hỏi chủ kinh Pháp Hoa chuộc trước kia vốn thật là người họ Phạm. Nhà họ Phạm tuy không được kinh, kinh ấy đã hoàn thành, thí phước đã mãn, người sau chuyển đổi tự gánh chịu tội lỗi. Nàng Hầu của Lưu Công Tín chuộc kinh ấy có được chút phước. Nhưng, người mẹ đã qua đời không nhờ được năng lực.

Lý Kiện An ở Lưu Châu, thời Tiền Đường:

Vào thời Tiền Đường, ở Lưu Châu có Lý Kiện An, năm mười tám tuổi bị bệnh phong, nên cha mẹ buồn khổ, ăn uống chẳng được. Lý Kiện An thấy vậy càng thêm buồn thương, nghĩ rằng: "Ta hãy vì cha mẹ mà thoát khỏi bệnh hoạn của mình mà tự chép kinh Pháp Hoa". Liền tìm giấy trang hoàng, muốn chép kinh, tay đưa lên mà không thể chép, mới tạo được quyển thứ nhất, hiển nhiên chữ viết ấy hình dạng như dấu chân chim, mọi người nhìn vào chẳng hiểu văn tự đó. Lại thuê người khác chép kinh. Ở trong phòng riêng để chép, qua thời gian chưa xong quyển thứ nhất, Lý Kiện An bỗng nhiên chết đi, chỉ còn ấm ở ngực, người được thuê chép kinh bèn vất bỏ mà trốn đi.

Qua một ngày một đêm sau, Lý Kiện An sống lại, bệnh phong bỗng nhiên được lành, thân thể nhẹ nhàng, tự nói lại mọi việc ở đây u tối rằng: "Lúc đầu tôi mới chết, bị quan điệp sứ trói buộc dẫn đến đứng bên cạnh tòa thành lớn. Khi đó có một Đồng tử tay cầm phất trần trắng đến xoa bóp thân tôi, tự thân tôi cảm thấy mát dịu vui sướng. Và liền đó, từ trong thành có một vị quan đi ra và có cả trăm ngàn quan thuộc cùng đi theo, đối trước tôi kính lễ nói rằng: "Tên tuổi ông ở trong quan điệp, chỉ vì ông cố giết một con chuột buộc vào cổ không cho thở, vì nhân duyên đó, nên vua vời gọi ông. Nhưng, ông vì cha mẹ mà tu tạo kinh Pháp Hoa, nhờ gốc lành ấy mà Bồ-tát Văn-thù đến cứu, bệnh tật xưa mới dứt. Kinh ông tu tạo còn chưa hoàn tất quyển thứ nhất mà người được thuê chép kinh khiếp sợ cũng bỏ trốn. Ông đã có được gốc lành lớn, tuổi thọ lên đến tám mươi hai, và cha mẹ ông cũng được kéo dài tuổi thọ, mỗi người đều sống đến chín mươi tuổi". Nói xong, bèn trở vào trong thành. Vị Đồng tử lại chỉ bày đường trở về, nên được sống lại". Mọi người nghe thế đều khen là việc ít có.

Lý Kiện An cùng cha mẹ xả thí gia nghiệp, tạo mười bộ kinh Pháp Hoa, thỉnh chư tăng cúng dường. Các bản kinh ấy hiện nay cất giữ trong chùa lớn.

QUYỂN 8

X. BIÊN CHÉP CỨU KHỔ (Phần 2)

1. Sa-môn Huyền Tự

2. Thích Huệ Đạo

3. Thích Đàm Vận

4. Lệnh Cô Nguyên Quỹ

5. Nghiêm cung ở Tương Châu

6. Lý Di Long

7. Diêu Đãi ở Tử Châu

8. Lý Khâu Lệnh

9. Ni Sư Luyện Hạnh

10. Nghiêm Cung ở Dương châu

11. Kẻ Nam bất tín

12. Vị khách tăng đời Tùy

13. Vị Tăng trụ tại Đạo tràng Hà Tây ở Cô Sơn

14. Nhân Sĩ đời Bắc Tề

15. Thích Tu Đức ở Định Châu

16. Vua Thái tổ Cao Đế thời Nam Tề

17. Thiện tín nữ ở Tinh Châu

18. Thích Tuệ Diệu

Sa-môn Huyền Tự ở Tương Châu đời Tùy.

Sa-môn Huyền Tự chú trọng kinh Pháp Hoa, có thầy bạn cùng chung phòng là Samôn Thích Đạo Minh vốn họ Nguyên, là người Đồng duyên. Sư tuy còn trẻ nhưng chí khí cao thượng, có nhiều tài hay khéo, khổ tiết thiền tụng, nổi tiếng xa gần. Vào tháng 3 niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu (605) đời Tùy, ngài Đạo Minh thị tịch tại chùa đó.

Đến tháng 7 năm đó (605), Sư có duyên sự nên đi ngang một cách đồng hoang, trời đã xế chiều, bỗng gặp một ngôi chùa, liền đến đó muốn nghỉ lại qua đêm. Vừa đến cửa, Sư liền thấy ngài Đạo Minh từ phía sau chùa đi ra, hình nghi nói năng chẳng khác lúc bình thường, bèn dẫn Sư đến phòng. Trong lòng Sư lấy làm lạ mà không dám hỏi. Đến gần sáng, ngài Đạo Minh bèn dậy, nói với Sư rằng: "Đây chẳng phải chỗ thường, Thượng nhân nên cẩn thận chớ thượng đường". Đến lúc đánh chuông khuya đừng thượng đường. Đạo minh nói xong, hình dung chợt, ngài Đạo Minh lại bảo với Sư không hứa thuận để trên phòng, mà thân hình đã chóng tiều tụy, nhan sắc đổi khác. Sau khi ngài Đạo Minh đi rồi, Sư bèn thầm đến nơi trai đường, bên cạnh sau cửa sổ lén nhìn mọi sự ở đó, lễ Phật hành hương đều đúng như tăng pháp. Xưa trước cống cao thệ bày lắm tòa mà tại Duy-na xướng thí cháo, liền thấy một người khiêng cháo đến, cháo được khiêng đến màu sắc đều như máu, người lo thức ăn khắp cùng đều thấy, khắp thân thể chư tăng lửa đốt hừng hực mà chết ngất ngã xuống đất, chỉ trong khoảng bữa ăn, vị Duy-na lại thỉnh chúng tăng, đồng một lúc không còn tướng khổ. Sư kinh sợ về lại nơi phòng ở, chỉ chốc lát, ngài Đạo Minh về đến, hình dáng lại càng thêm tiều tụy, Sư hỏi lý do, ngài Đạo Minh đáp: "Đây là địa ngục, khổ chẳng thể nói!". Sư lại hỏi: "Vì sao bị tội khổ đến thế?". Ngài Đạo Minh đáp: "Vì ngày trước lấy một bó củi của chúng Tăng dùng để xong nhuộm y mà quên không trả. Do đó, phải ở đây trải qua một năm chịu khổ đốt chân". Ngài Đạo Minh bèn đưa tay vén y phục lên, từ đầu gối trở xuống đều bị cháy đen, do đó òa khóc mà nói rằng: "Thượng nhân từ bi, xin cứu độ cho!". Ngài thở than nói với ngài Đạo Minh rằng: "Ông là người tinh luyện còn phải chịu như thế, huống chi bọn chúng tôi thì như thế nào, chẳng thể xét biết? Phải dùng cách gì để được thoát khỏi?". Ngài Đạo Minh bảo: "Mua một trăm bó củi đền trả gấp bội, đầy nơi nhà tăng và chép một bộ kinh Pháp Hoa". Sư nói: "Tôi sẽ vì ông mà dốc hết của cải tôi có nội trong một ngày vì ông mà lo liệu, cầu mong ông sớm lìa được khổ ấy!" Do đó, bèn giã biệt. Sư liền trở về chùa, y như lời nói mà đáp trả, và chép kinh, xong rồi trở sang tìm, tự nhiên vắng bặt không nhìn thấy gì. Đêm đó, Sư mộng thấy ngài Đạo Minh oai nghi khoan thai tự đến nói với Sư rằng: "Nhờ ân đức lớn của ông mà tôi được lìa khổ, sinh về Tịnh độ."

Thích Huệ Đạo ở chùa Ngõa Quan, thời Tiền Tống:

Thích Huệ Đạo, là người xứ Dự châu, là em đồng mẹ với Sa-môn Tuệ Quả, Sư chẳng tu hạnh nghiệp, lại khéo dấy phản, thường ở trong kho của chúng tăng tự ăn dùng riêng, trông coi gấm lụa của chúng Tăng thì lén trộm cắp. Về sau, bị bệnh chết, trên ngực còn ấm, ba ngày sau sống lại nói rằng: "Tôi bị Minh quan rượt đuổi đến chỗ đường tối sâu xa, giữa đường gặp một vị Sa-môn bảo với tôi rằng: "Ông không tin theo lời người anh, trộm dùng vật của chúng tăng. Nếu vua suy hỏi tội phước thì trả lời thế nào?". Tôi hoàn toàn chẳng biết phải nói làm sao. Vị Sa-môn ấy lại bảo: Ông nên nói như vầy: "Trước tôi có nguyện tu tạo tám bộ kinh Pháp Hoa", dạy lời ấy rồi liền biến mất. Tôi đã đến chỗ vua Diêm-la. Vua hỏi: "Ông tu công đức gì?". Tôi đáp: "Tôi có phát nguyện tu tạo tám bộ kinh Pháp Hoa, nhưng vì lo việc của chúng tăng nên chưa hoàn thành điều nguyện". Vua mỉm cười bảo: "Ông xưa tuy chẳng phát nguyện ấy, nay đã nói là nguyện, thì phải như điều phát nguyện mà thực hành. Trộm dùng vật của chúng tăng tội ấy rất nặng, tu tạo tám bộ kinh Pháp Hoa sẽ thoát khỏi tám địa ngục. Y cứ vào một lời nói ấy, nên thả ngươi trở lại nhân gian. Phải trở lại nhân gian đúng như thật mà tu". Và liền sai một vị quan chỉ bày đường trở về, nên tôi được sống lại". Sư bèn xả thí y bát, mọi vật có được, tu tạo tám bộ kinh Pháp Hoa, các bộ kinh ấy đến nay hiện vẫn còn. (Tân Lục).

Thích Đàm Vận ở Định Châu:

Thích Đàm Vận, là người xứ Định Châu. Về sau, Sư dời đến ở Thấp Châu. Khi tuổi đã bảy mươi, gặp lúc cuối đời Tùy tan loạn, Sư bèn đến ẩn cư tại núi Tỷ-can ở Ly Thạch. Sư thường trì tụng kinh Pháp Hoa, muốn chép kinh ấy nhưng không có người đồng chí hướng. Trải qua nhiều năm như thế, bỗng nhiên có một thư sinh không biết từ đâu đến nói với Sư rằng: "Điều muốn nghiêm khiết thanh tịnh chép kinh đều có thể thực hành". Vào một buổi sáng, sau khi tiểu thực xong, vào tắm gội, thay đổi y phục mới sạch, thọ tám pháp trai giới, vào nơi tịnh thất, miệng ngậm đàn hương, xông đốt hương thơm, treo cờ phướn, vắng lặng chép đến chiều mới ra. Ngày hôm sau cũng giống như thế, không hề than mỏi mệt. Đến lúc kinh chép đã hoàn tất, bèn đúng như pháp dâng cúng, Sư đến đưa ra cửa, chỉ trong chốc lát thì không thấy thư sinh ấy nữa. Cho đến phần trang hoàng, mỗi việc đều đúng như chánh pháp. Sư thọ trì, đọc tụng bộ kinh đó, dùng chiếc đãy bảy lớp, kết mỗi lớp mỗi qua nước thơm rửa tay, như mới đầu không tạm phế bỏ, mộng thấy Bồ-tát Phổ Hiền hiện thân trước Sư mà dạy rằng: "Lành thay! Đúng như pháp chép kinh Pháp Hoa, ngay thân đời này lìa được hai mươi lăm thứ khổ". Về sau, gặp phải giặc Hồ, Sư bèn dùng chiếc rương đựng đầy kinh đó, đặt trên đảnh núi cao, trải qua năm sau, giặc tan, Sư mới trở lại tìm kinh mà không thấy, buồn bã tìm kiếm cùng khắp, mới đến dưới hang núi tìm được kinh, rương khăn đều mục nát, bới moi ra thấy kinh vẫn mới sạch như xưa. Mọi người nhìn thấy đều lấy làm lạ (Theo pháp Uyển nói niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười một (637) thời Tiền Đường, Luật sư Đạo Tuyên chùa Tây Minh ở kinh đô có đến châu ấy, chính mắt trông thấy mà kể lại việc ấy).

Lệnh Cô Nguyên Quỹ ở Long Châu:

Niên hiệu Trinh Quán năm thứ năm (631) thời Tiền Đường, có Lệnh Cô Nguyên Quỹ ở huyện Ba Tây ở Long Châu rất kính tin Phật pháp, muốn chép các kinh Pháp Hoa, Kim Cương, Bát-nhã, Niết-bàn, v.v... nhưng không do đâu mà xem xét, mới nhờ Thiền sư Thượng Kháng xem xét. Ngài Thượng Kháng mới làm tại chùa, đúng như pháp khiết tịnh chép xong, xuống theo thứ lớp về lại nơi trang sở ở Kỳ Châu. Lưu để tại trang sở cùng một cụ già và năm trăm đồng ở một nơi, bỗng nhiên lửa từ ngoài nổi dậy đốt cháy kéo đến phòng nhà ở trang sở lại bằng cỏ che phủ, động một lúc cháy lan tràn. Bấy giờ Nguyên Quỷ đang trấn nhậm bằng dực huyện lệnh, người nhà dốc mạng dập tắt lửa, lấy được kinh Kim Cang, pho bìa đã đánh văng ra ngoài lửa than, các kinh trong đó vẫn còn nguyên như cũ, màu sắc trang hoàng không biến đổi, chỉ có rương tráp cháy thành tro than. Lại tìm kiếm cụ già thì đã cháy theo lửa, bèn gom nhặt kinh. Mọi người trong xóm bèn khen và lấy làm lạ. Đề tựa kinh Kim Cang, Bát-nhã ấy bị cháy đen, hỏi về lý do thì mới đầu ghi đề kinh có Châu Quan là người có khả năng ghi chép. Người ấy ăn dùng tạp vật lại vội vàng chẳng giữ gìn khiết tịnh, ngay đó lập đề bèn bỏ đi, do đó nên bị đốt cháy. Người ấy, nay vẫn hiện còn và Thụy kinh ấy cũng còn ở kinh đô. Chủ chùa Tây Minh là Sa-môn Thần sát tự xem xét mà kể lại việc này (Việc này rút từ Tam Bảo Cảm Thông ký).

Nghiêm Cung ở Tương Châu:

Nghiêm Cung, người xứ Tương Châu. Trong niên hiệu Khai Hoàng (581-601) đời Tùy, đến dưới thành quách dựng tinh xá để chép kinh Pháp Hoa, thanh tịnh cúng dường. Hoặc giấy hoặc bút đều dùng bằng tịnh tâm, chẳng thực hành luống dối, tín tâm mà cấp cho chẳng dùng, tìm kiếm liền được, bèn doanh tạo đúng như kinh pháp, cung cấp cho thư sinh hoan hỷ, thường có mười người Đạo tục đưa thẳng đến, Nghiêm Cung tự thân xem xét, chẳng hề nói là nhọc mệt. Từng có người đến vay mượn một muôn đồng để chép kinh, Nghiêm Cung với việc chẳng đặng đừng nên phải cho vay mượn. Người vay mượn có được tiền, để tiền dưới thuyền, thuyền bị chìm, tiền mất, người ấy còn được sống. Ngày đó, Nghiêm Cung vào kho tiền, thấy một vạn tiền bị nước thấm ướt, lấy làm lạ, sau khi nhìn kỷ là tiền người đã vay mượn, mới biết người đó bị đắm thuyền. Lại có thương nhân đến hồ quan đình, dâng vật cúng tế thần, đêm đó mộng thấy Thần bảo rằng: "Xin ông nên đem vật ấy đến dâng cho Nghiêm Cung, để dùng vào việc chép kinh Pháp Hoa". Đến khi tỉnh giấc thấy các vật dâng cúng hiện để trước mặt mình. Lại nữa, Nghiêm Cung từng ra chợ mua giấy mà thiếu tiền, bỗng có một người mang đến hai ngàn đồng trao cho Nghiêm Cung mà nói rằng: "Xin giúp ông để mua giấy". Nói xong, liền biến mất. Lại có Ngư nhân ban đêm thấy trên sông lửa rực, ánh lửa trôi nổi nên dùng thuyền đến đón rước, thì ra đó là Hộp đựng kinh. Đến lúc sáng sớm tìm xem mới thấy rõ là hộp dựng kinh của nhà Nghiêm Cung. Sau đó, Nghiêm Cung phát nguyện, lược như là: "Không một chữ nào mà chẳng qua mắt, không một chữ nào mà chẳng dụng tâm". Đến cuối niên hiệu Đại Nghiệp (617) đời Tùy, con cháu vẫn truyền trì hạnh nghiệp chép kinh. Ở quận, giặc cướp lan tràn, mà chẳng vào thôn xóm ấy, nên người trong xóm ấy nhờ đó, mãi đến nay hành nghiệp xưa vẫn còn như vậy (Rút từ Nội Điển lục quyển 10).

Lý Di Long ở Tinh Châu:

Lý Di Long, người xứ Tinh Châu, gia đình vốn theo nghiệp viết chép, nối nhau nghiên cứu tinh vi. Cha của Di Long tên là Ô Long xem trọng về đạo kinh ở Trung Hoa, chẳng tin kinh Phật, tánh tình đam mê ưa thích rượu thịt, phỉ báng kinh Phật, nói rằng: "Hồ Thánh cấm ngăn rượu thịt, đâu có từ bi". Suốt trong một đời chẳng chép kinh Phật, nếu có người đem tặng các món tài lợi như vàng ngọc, đều chẳng thấy kinh, huống chi là tự chép, bèn phát cuồng loạn, bảo với Di Long rằng: "Nếu người là con ta thì không được tin theo Phật, tin mà trái phạm thì tai họa chẳng phải nhỏ", liền ói máu mà chết.

Sau đó, Tinh Châu Tư mã phát tâm tinh thuần vững chắc, riêng coi trọng kinh Pháp Hoa, đúng như pháp muốn chép kinh ấy mà không thể chép, có người đồng chí nguyện nói rằng: "Con của Ô Long là Di Long nối tiếp sự nghiệp có tài ghi chép, nhưng gia đình ấy tà kiến chẳng chép kinh Phật. Oai lực của ông có thể hàng phục tà tâm ấy, có thể kham nhận chép kinh Phật". Tư Mã bèn dùng phương tiện để điều phục, nhưng Di Long chẳng sửa đổi, tự xưng là gia truyền cố lánh xa. Tư Mã lại thuê các thư sinh khác tạo một bộ kinh hoàn tất, hoặc giấy hoặc bút đều dùng tâm thanh tịnh tự xuất ra vật báu đúng như phá mà doanh tạo, muốn được cúng dường thanh tịnh. Lại nghĩ rằng: "Ta đã làm chủ châu này, chẳng lẽ Di Long không chịu nghe lời hay sao?". Nên dùng lời hình phạt mà ép ngặt, đem vàng ngọc để mua chuộc. Di Long bèn lập đề mục, hối trách di chúc của cha. Vào đêm tối bất giác, qua một ngày một đêm, trong đêm kế tiếp mộng thấy có trăm ngàn người trời vây quanh trời Đại oai đức đến đứng trước sân nhà Di Long. Di Long hỏi: "Vị trời nào đó?". Vị trời đáp: "Ta là Ô Long cha ngươi, đời trước ngu si không tin kinh Phật, nên bị đọa vào địa ngục lớn, sắt nóng đốt quấn thân. Trong một ngày một đêm muôn lần chết đi muôn lần sống lại, cầu chết không được, cầu sống không xong. Có năm trăm lưỡi cày cấu xé lưỡi thịt ta, chẳng thể nói hết. Hôm qua, ở phía trên địa ngục bỗng nhiên có ánh sáng, trong ánh sáng ấy hiện ra một hóa Phật nói lời kệ tụng rằng:

Dù cho khắp pháp giới Các chúng sinh dứt lành Nếu nghe kinh Pháp Hoa Chắc chắn thành Bồ-đề.

Cứ như thế, có đến sáu mươi bốn Đức Phật lần lượt hóa hiện và nói kệ cũng như vậy. Khi đó, nơi địa ngục lửa dữ tắt ngấm, biến thành ao trong mát, ta và các chúng sinh xả bỏ báo thân sinh lên cõi trời thứ tư. Pháp như thế ở trên trời từ cõi thứ nhất đến cõi thứ ba mọi việc hẳn biết. Nhờ ngươi tu tạo đề mục gồm sáu mươi bốn chữ, trong mỗi chữ hóa hiện thân Phật nói kệ cứu khổ, ta và thân ngươi đồng một phần máu thịt nương theo ta, một người có được duyên lành, người tội ở địa ngục nghe kệ tụng mà được lìa khổ, đồng sinh sống một nơi nên nay đến vây quanh. Ngươi nên xả bỏ tà ác xưa, chép kinh Phật để làm gia nghiệp". Đáp lại nhân duyên ấy mà chẳng thấy. Sau khi thức giấc, Di Long rơi lệ hối hận tội lỗi, đem việc ấy nói đầy đủ với Tư Mã. Người nghe vui mừng đều cho là không có tâm mà tạo đề mà còn được như vậy, huống chi hoặc tự chép hoặc bảo người chép, công đức ấy có được thật không có hạn lượng. Gia đình Di Long theo nghiệp ghi chép nối tiếp mãi đến ngày nay. Khắp trong châu mỗi chữ đều lễ cúng, mà mỗi ngày ghi chép hoặc truyền tụng, hoặc thực hành tán vịnh riêng, mỗi ngày, người ghi chép càng đông. (Tân Lục).

7. Diêu Đãi ở Tử Châu, thời Tiền Đường:

Diêu Đãi, người huyện Thê ở Tử Châu. Vào niên hiệu Trường An năm thứ tư (704) thời Tiền Đường, giữa mùa hạ, phát nguyện vì người thân đã qua đời mà chép bốn bộ kinh lớn, kinh Pháp Hoa, kinh Duy-ma mỗi thứ một bộ, kinh Dược Sư mười quyển, kinh Kim Cang Bát-nhã một trăm quyển. Ghi chép các kinh xong, bèn chép kinh Bát-nhã một trăm quyển, một hôm vào giờ ngọ, có một con nai tông cửa công vào đứng trước giường kinh, ngẩng đầu đưa lưỡi liếm bàn kinh xong. Bèn nằm xuống dưới giường kinh. Trong nhà có năm, sáu con chó thấy nai ve vẫy đuôi chẳng dám sủa ngay. Diêu Đãi xuống giường kinh ôm chầm được, cũng chẳng kinh sợ, nên trao cho pháp Tam quy, nai liền nhảy quanh đến chân, thả mà chẳng đi. Đến niên hiệu Tiên Thiên (712-713) thời Tiền Đường, các kinh chép đều hoàn tất, đều dùng pho đãy sắp đựng vào hộp, có đứa bé con nhà hàng thịt Lý Hồi Hảo không biết cớ sao bỗng nhiên mà đến, đứng ở trước bàn, chỉ kinh mà cười, chắp tay mà đứng như muốn lấy kinh. Đứa bé ấy miệng câm tai điếc, hai mắt đỏ rực ham thích uống rượu, hung ác, có chút đức ấy nên các kinh ghi chép đều dùng chuỗi anh lạc để trang sức pho trục, chỉ có kinh Bát-nhã dùng đàn tố để trang sức. Chỉ lấy một pho trục trắng, biết rõ người ấy rất có duyên đối với kinh Bát-nhã. Diêu Đãi bèn gói bọc cho giấy trắng, dùng hộp sơn mà đựng. Đứa bé tay cầm dao rạch cùng trên hộp kinh, cười mà bỏ chạy. Khi chạy đi thì không còn thấy trở lại, chẳng biết đến nơi nào. Có người ở gần nhà mộng thấy nai chính là mẹ của Diêu Đãi. Đứa bé ấy là cha Diêu Đãi, khi chết đi, mỗi người đều theo nghiệp mà thọ sinh. Nhờ người con phát nguyện vì cha mẹ mà ghi chép kinh điển Đại thừa, nên quả báo đã định chẳng thể hại. Vả lại, đến nhận sự giáo hóa mà đi.

Đến niên hiệu Khai Nguyên năm thứ tư (716) thời Tiền Đường, có Đạo sĩ Chu Pháp Ấn ở Huyền Tông Quán là người rất thông rành về Trang Lão, đến Mỵ châu giảng thuyết qua thời gian lâu mới trở về. Bấy giờ trong làng có hơn hai mươi học sĩ cùng đến lễ hỏi, người bạn Vương Siêu Tào Phủ bảo Thụ Tử giết một con dê rỗng ruột, dùng đãy đựng đầy thịt, sau khi đem nấu chín, tâm biết giết hại đó chỉ nhẫn, tham ăn chẳng dứt, tùy bày biện mà ăn, tính ra ăn chẳng quá bốn, năm miếng, trải qua một ngày đến lúc mặt trời xế bóng, bỗng nhiên đầu nóng bừng đau nhức, các chi tiết có như xé cắt, đến lúc sẩm tối, càng rất khốn đốn, tai nghe phía ngoài cửa như có tiếng kêu Diêu Đãi, trong tâm tuy chẳng muốn ra, nhìn chẳng cảm thấy thân phần, vì ra ngoài hỏi có việc gì, kẻ sứ mặc y phục màu vàng, dáng vẻ như cầm dao. Thứ sử gọi tiện lợi đi.

Phía ngoài cửa Diêu Đãi có khe nước, đang lúc đi cũng chẳng thấy khe nước thấm ướt chỉ thấy đường rộng lớn bằng phẳng, hai bên có hàng cây, mỗi hàng dài ba, bốn dặm, thấy có một thành lớn tên là thành Tử Châu. Thành ấy có nhiều lớp đường đi và lầu các, vách tường sắc trắng trụ sắc đỏ cũng rất xin đẹp. Lại hỏi kẻ sứ: "Đó chẳng phải thành Tử Châu ư?" kẻ sứ chẳng trả lời, thành đó có năm lớp cửa, hai bên cửa ấy đều có nhà cửa, cửa rất đối xứng, phía trên cửa mỗi cửa đều có đề ngạch, hình dáng tợ như chư Triện, chẳng biết văn tự ấy, số cửa có rất nhiều, đều không có người giữ, các đường thông đường tắt đều cũng không có người. Kẻ sứ vào trong năm lớp cửa, có một sảnh lớn, hiên vũ cao vợi, sảnh sự và cửa đều không có người giữ.

Đến sau cửa sổ vắng lặng, lén nhìn trên sảnh thấy có một người mặc y phục màu tím, thân hình hơi béo lớn, dung nghi nhan sắc đoan chánh xinh đẹp. Như thế trở xuống, kẻ sứ đi vào, và đưa Diêu Đãi đến, Diêu Đãi chạy vào xa kính bái, thấy trừng mắt gằn tiếng bảo: "Vì sao bị bắt? Sao vào giết người nơi chỗ tĩnh lắng, ăn uống nghĩ lường chẳng biết việc ấy?". Diêu Đãi đều thấy sự tức giận đó, trong mắt và miệng đều có ánh lửa, nên khiếp sợ kinh hoàng, không biết thửa chỉ vào đâu, bèn phân bày rằng: "Từ trước đến giờ chỉ chuyên trì kinh, chẳng hề giết người cũng chẳng ăn thịt người". Kẻ sứ hỏi: "Trì kinh gì?". Diêu Đãi đáp: "Trì các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Dược Sư, Kim Cang Bát-nhã". Người mặc y phục màu tím nghe Diêu Đãi nói như thế liền hớn hở mỉm cười. Diêu Đãi nghe như có tiếng khen "Lành thay!". Bỗng nhiên bên cạnh có người mặc y phục màu vàng, chẳng thấy được chân người ấy, trong tay cầm một vật dài khoảng hai thước, có tám góc đầy đủ giống như dùi trống, lớn tiếng bảo rằng: "Vì sao ở trong phòng của Đạo sĩ Chu Pháp Ấn mà ăn thịt?". Diêu Đãi chẳng dám nói, bèn thừa nhận sự thật là có ăn. Người ấy hỏi: "Ăn bao nhiêu?". Diêu Đãi đáp: "Ăn khoảng năm, sáu miếng". Người mặc y phục màu tím xoay qua người mặc y phục sắc vàng nói người ấy báo là "Ăn bốn đôi tám thù". Và liền lấy bút ghi vào đùi. Trong tai Diêu Đãi xa nghe như có tiếng "sự việc chẳng phải bổn tâm", thả đi đợi Tào Phủ đến nói: "Suy hỏi người mặc áo tím". Lại bảo: "Điện Phật chùa Đại Vân sớm tu sửa cho xong". Diêu Đãi liền đáp: "Vâng!" vừa chạy ra khoảng chừng năm, sáu bước, ở đầu phía Tây sảnh có một người mang gông cùm, bốn phía đường đều đinh thỏi, xin hỏi Diêu Đãi. Trên sảnh có người vừa gọi: "Diêu", Công Tào xoay lại, chẳng gọi được tên "Đãi". Diêu Đãi nhìn kẻ mang gông cùm ấy chính là đứa bé con nhà giết mổ Lý Hồi Hảo. Người mặc áo tím hỏi rằng: "Người này đọc trì kinh chép kinh, việc ấy có thật hay không?". Đứa bé đáp rằng: "Là sự thật". Tiếng trả lời vừa xong, Diêu Đãi nhìn lại chỉ thấy gông cùm không dưới đất, chẳng thấy đứa bé. Lúc Diêu Đãi mới vào, trước sảnh và cửa không thấy có người coi giữ. Đến lúc được ra, hai bên sảnh mỗi bên đều có mấy ngàn người mặc các thứ sắc phục đỏ tím vàng lục, theo thứ lớp đứng theo mỗi bậc, cũng có lắm người nữ mang gông đội cùm, hoặc có người bị trói ngược, cũng có người trùm lồng trên đầu. Ở trong chúng đó thấy có người gần nhà của Diêu Đãi, ông Trương Khải cũng có trong đó, tuy mang chiếc gông nhỏ mà không có đinh thoi, cúi đầu tỏ vẻ như muốn cho người trong nhà tạo kinh không được nói nhiều. Diêu Đãi lại muốn đi tới trước, bị người ức chế cản ngăn không chấp thuận. Trong đó có một người hông ruột nát bét, phô bày ra ngoài, nói với Diêu Đãi hãy đi gấp, đó chẳng phải chỗ được nói. Diêu Đãi xoay nhìn lại thì ra đó là Trương Hiền, người ở thôn bên cạnh trang sở của Diêu Đãi, đã mắc bệnh nhiều năm, nước sửa chẳng thể đổ vào miệng. Mọi người trong xóm thấy thế đều cho là hẳn sẽ chết, nên bàn bạc với vợ con của Trương Hiền lo chuẩn bị các thứ để đám tang. Sau khi tỉnh lại, Diêu Đãi bảo con của Trương Hiền, chép các kinh Pháp Hoa v.v... chưa tới năm ngày bệnh của Trương Hiền có phần thuyên giảm và được thả ra ở ngoài tường vắng lặng, mỗi cửa đều có người cầm dao trượng cung giáo, nghiễm nhiên bày đầy, ném người vào cửa chẳng thả. Diêu Đãi ra được chỗ sinh tử, từ phía Đông sảnh chạy đến kêu rằng: "Con tôi vô sự được thả, vì sao nai chuồng chẳng được thả?". Và khiến Diêu Đãi bày vai trong đó, tức là cổ áo của Tuyên. Bày cánh tay ra trông xem đó, liền được ra. Đến lúc tỉnh lại thật sự thì đã qua một ngày.

Lý Khâu Lệnh ở huyện Cao Bưu, Dương Châu:

Lý Khâu Lệnh là em cùng cha khác mẹ với Cao Bưu Huyện Thừa Lý Khâu Nhất ở Dương Châu, gia đình thường phóng thả chim săn chó săn giết hại sinh mạng, nhóm họp dòng họ lấy làm vui thích, chẳng hề biết hổ thẹn. Nhà anh Lý Khâu Nhất lại sửa lời nói, đối với việc ở chốn u minh tâm chẳng tin nhận.

Ngày mười chín tháng giêng niên hiệu Trường An năm thứ hai (702) thời Tiền Đường, ông bị bệnh nặng, Lý Khâu Lệnh bị chết, ở ngực còn ấm, Lý Khâu Lệnh trước kia có y theo người vợ bị bệnh nên phát nguyện tạo một bộ kinh Pháp Hoa, chí nguyện đó chưa được thành tựu, người vợ ấy cũng vì chồng bệnh nặng mà lập tạo kinh, bảy ngày sau, Lý Khâu Lệnh sống lại, nói đầy đủ việc ở chốn u minh rằng: "Lúc đầu, khi tôi mới chết, có sáu người La-sát-bà đến nói rằng: "Chúng ta là sứ của vua Diêm-la, vì ngươi chứa nhóm tội ác nên phải đuổi bắt, không cho tạm ở", liền gông cùm tôi và kéo đi hơn mười dặm. Có một người cưỡi ngựa, mặc y phục màu đỏ, tay cầm cung tên, trừng mắt tức giận nhìn tôi và lớn tiếng bảo rằng: "Lý Khâu Lệnh là kẻ rất ác, vì sao chẳng chở đi bằng xe lửa?". Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên thân tôi đã trên xe lửa. Khi ấy, có một vị Sa-môn rưới nước vào xe, thân tôi được thấm mát và dứt khổ, chẳng biết do ai cứu. Lại đi khoảng hơn năm trăm dặm, thấy một tòa thành cao ngất, trong đó có sảnh điện, vua ngồi trên tòa báu, trước sau chung quanh mỗi phía có đến mấy ngàn người mặc đủ thứ sắc phục đỏ tím vàng lục theo thứ lớp mỗi người ngồi ở phía ngoài, trong sân có vô số tội nhân bị gông cùm xiềng xích trói buộc trái ngược v.v... các thứ tạp cư đều ngồi hướng về vua. Vua thấy tôi vào, trừng mắt sân hận hỏi rằng: "Ngươi là kẻ vô Đạo, giết hại sinh mạng, ăn uống trái pháp, không có công đức, há chẳng phải là kẻ vào núi báu mà ra tay không ư?". Khi đó, tôi xấu hổ im lặng, không đối đáp gì. Vua sai kẻ sứ đem đến một quyển sách dày chừng hơn năm mươi trang liền giở ra mà bảo rằng: "Ngươi có nghe không? Lúc sống ngươi tạo tội ác mỗi việc đều ghi chép trong đây". Và liền bày ra chỗ tạo tội, mỗi việc đều quở trách, vua mỉm cười bảo: "Ngươi có công đức lớn, vì vợ mà muốn tạo kinh Pháp Hoa, chưa thành tựu tâm nguyện ấy. Sau đó, vợ ngươi cũng vì ngươi mà khởi tâm nguyện tạo kinh. Nay tha cho các tội trước của ngươi, dẫn về lại nhân gian". Các vị quan mặc các sắc phục đỏ vàng lục tâu với vua rằng: "Người ác khó tha, vì sao lại được thả trở lại?". Vua bảo: "Người này có nguyện chép kinh, nếu để ở tại trong ngục mà nhớ nghĩ việc xưa, xướng lập lời nguyện thì địa ngục sẽ trống không, các tội nhân đều được sinh lên cõi trời". Cho nên lúc thả trở về vô số tội nhân ở trong sân nghe luận bàn như thế, bèn xả báo thân sinh lên cõi trời. Tôi mang ân vua được thả là do nguyện chép kinh mà được sống lại", Lý Khâu Lệnh xả thí tất cả của cải vốn có tạo trăm bộ kinh, tự tay ghi chép văn nguyện và lưu xuất ra nhân duyên ấy.

Ni Sư Luyện Hạnh ở Hà Đông, thời Tiền Đường:

Ở Hà Đông, có Ni Sư Luyện Hạnh thường trì tụng kinh Pháp Hoa, tìm người tài giỏi ghi chép trả thù lao gấp bội, đặt làm một tịnh thất, bảo chép kinh ấy, mỗi lúc bắt đầu công việc thì trước hết phải tắm gội, đốt hương xông ướp y phục. Và trong tịnh thất chép kinh có khoét vách tường thông ra ngoài, gắn vào ống trúc, để người chép kinh mỗi lúc muốn thở hơi ra thì ngậm vào ông trúc mà nhả hơi ra ngoài vách tường, chép bảy quyển kinh Pháp Hoa, phải trải qua tám năm mới hoàn tất, cúng dường rất ân trọng, dốc hết tâm chí kính. Ở Long môn có Sa-môn Pháp Đoan thường nhóm họp đại chúng giảng kinh Pháp Hoa, vì ưa thích bản kinh của Ni Sư ấy nên tinh thành quyết định sai người cầu thỉnh. Ni Sư cố từ chối không chấp thuận. Pháp Đoan quở trách, vì chẳng đặng đừng nên Ni Sư bèn tự mình đưa đến dâng cho Pháp Đoan v.v... mọi người mở ra đọc, chỉ thấy giấy vàng hoàn toàn không có văn tự, lại mở các quyển khác, cũng lại như thế Pháp Đoan v.v... hổ thẹn kinh sợ, bèn đưa trở lại cho Ni Sư. Ni Sư buồn khóc mà nhận lấy, dùng nước thơm mà rửa hộp, và tắm gội thân mình, đội kinh trên đầu đi nhiễu quanh tượng Phật hành Đạo, suốt bảy ngày chẳng tạm ngưng nghỉ. Thế rồi mở kinh ra xem, văn tự như cũ. Về sau, tìm hỏi tên tự của Ni Sư ấy, có người nói Ni Sư tự là "Luyện Diệu", sau lại đổi tên là "Cảm Diệu" (Trong "Pháp Uyển" quyển 27 nói: Rút từ Minh Báo Ký Ni Pháp Tín).

Nghiêm Cung ở Dương châu:

Nghiêm Cung ở Dương châu, vốn là người Tuyền châu, gia đình rất giàu của cải mà không có anh em, cha mẹ rất quý mến muốn gì được nấy.

Khoảng đầu niên hiệu Thái Kiến (569) đời Trần, Nghiêm Cung khoảng hai mươi tuổi xin cha mẹ năm mươi ngàn đồng, để sang chợ Dương châu, cha mẹ bèn cho. Nghiêm Cung mang tiền lên thuyền xuôi dòng, cách Dương châu khoảng mấy mươi dặm, đang trên sông, gặp một thuyền chở rùa đến chợ để bán. Nghiêm Cung hỏi, biết được nguyên do và nghĩ là rùa sẽ bị chết, do đó Nghiêm Cung xin được mua chuộc số rùa đó. Người chủ rùa nói: "Rùa của tôi riêng mỗi con phải một ngàn đồng tiền mới bán". Nghiêm Cung hỏi: "Có tất cả bao nhiêu con?" Người chủ rùa đáp: "Có năm mươi con". Nghiêm Cung nói: "Tôi đang có năm mươi ngàn tiền, xin mua". Người chủ vui vẻ nhận tiền và trao rùa rồi đi. Nghiêm Cung đem hết số rùa đó thả xuống sông, và chỉ để thuyền không mà đến Dương châu. Người chủ rùa ấy giã biệt Nghiêm Cung đi được hơn mười dặm thuyền bị chìm mà chết. Khi đó, cha mẹ của Nghiêm Cung đang ở tại nhà, lúc trời sẩm tối có năm mươi người khách mặc áo quạ đến nhà xin nghỉ qua đêm và đưa năm mươi ngàn đồng cho cha Nghiêm Cung mà nói rằng: "Con của ông đang ở Dương châu gởi số tiền này mang về, xin ông nhận số tiền". Cha của Nghiêm Cung lấy làm lạ, nghi là Nghiêm Cung bị chết nên xét hỏi. Các người khách đáp: "Con ông bình an không sao cả, chỉ vì không cần dùng tiền nên gởi cho chúng tôi mang về". Cha của Nghiêm Cung nhận tiền và ghi nhận đó là số tiền cũ, đều bị nước thấm ướt. Ông bày thức ăn giữ khách ở lại. Sáng sớm hôm sau, các người khách từ giã ra đi. Hơn một tháng sau, Nghiêm Cung trở về, cha mẹ rất vui mừng, thế rồi hỏi lý do gởi tiền về. Nghiêm Cung nói: "Không có việc ấy". Cha mẹ của Nghiêm Cung tả lại hình dáng những người khách và ngày tháng mang tiền gởi về. Đúng là ngày Nghiêm Cung đã mua rùa, mới biết năm mươi người khách ấy là rùa mà Nghiêm Cung đã mua chuộc, cha con Nghiêm Cung mới kinh sợ khen ngợi, do đó sang Dương châu lập tinh xá, chuyên chép kinh Pháp Hoa, sau đó dời nhà đến ở Dương châu và trở nên giàu có, mở mang các phòng làm nhà chép kinh, trang nghiêm thanh tịnh, cung cấp rất sung túc phong hậu, thư sinh thường có đến mấy mươi người, các Đạo tục ở Dương châu đều cùng nhau tôn kính, gọi đó là "Làng Nghiêm Pháp Hoa".

Có người quen đến mượn mười ngàn tiền để chép kinh, Nghiêm Cung bất đắc dĩ phải cho, người mượn nhận lấy tiền dùng thuyền để chở đi, giữa đường thuyền bị chìm, cả mười ngàn tiền đều thấm ướt, như mới lên khỏi nước, Nghiêm Cung rất lấy làm lạ. Sau thấy tiền vay mượn trước kia mới biết tiền thấm ướt là vì người vay. Lại có thương nhân đến hồ Cung đình chỗ tế Thần, dùng các thứ rượu thịt và thượng vật mà dâng cúng. Đêm đó, thương nhân mộng thấy vị Thần đưa các vật trả lại và nói rằng: "Tôi nhờ ông vì tôi mang các vật này dâng cúng kinh Pháp Hoa dùng vào việc chép kinh". Và các vật đã dâng cúng thần đều ở trước mặt mình. Khi đó, thương nhấn ấy khen lạ, mang đến chỗ Nghiêm Cung và cúng thí nồng hậu gấp bội. Sau đó, Nghiêm Cung vào chợ mua giấy để viết kinh, gặp lúc thiếu tiền, bỗng thấy có một người mang ba ngàn tiền đến trao cho Nghiêm Cung, nói: "Xin giúp ông tiền mua giấy!". Nói rồi liền biến mất mà tiền nằm ở trước mặt Nghiêm Cung. Các điều lạ như thế xảy ra chẳng phải chỉ một lần.

Đến khoảng cuối niên hiệu Khai Hoàng (601) đời Tùy, Nghiêm Cung qua đời. Có người ở gần mộng thấy Nghiêm Cung sau khi chết sinh lên cõi trời thanh tịnh, trong mộng hỏi: "Cõi trời thanh tịnh nào?". Nghiêm Cung đáp: "Ở tại nội viện của cõi trời Đâu-suất, không có các thứ tạp uế". Sau khi Nghiêm Cung qua đời, con cháu vẫn giữ gìn hạnh nghiệp biên chép kinh ấy. Đến cuối đời Tùy (....618), giặc cướp lộng hành đến Giang Đô, đều răn dè với nhau là "Chớ vào làng Nghiêm Pháp Hoa". Người trong làng nhờ đó được sinh sống an vui. Mãi đến nay, công việc chép kinh vẫn không ngưng nghĩ, khắp châu ấp đều thấy, người ở kinh đô nói là cũng có nhiều người biết, nhờ Mã Tông Công Tiêu chỗ rất xét kỹ tốt lành. (Người ghi (= Tăng Tường) có lời rằng: Truyện của Nghiêm Cung ở Tương châu và truyện của Nghiêm Cung ở Dương châu đây có nhiều chi tiết giống nhau. Truyện kia rút từ Cảm Thông Lục v.v... truyện này từ Minh Báo ký v.v... y cứ có sự rộng lược khác nhau, trước sau đều nêu bày ra đó, xin tìm xem đầy đủ đầu đuôi đều như vậy).

Kẻ nam bất tín:

Ở huyện Ngu thuộc Bồ châu có một gã nam tử, mất họ tên, phụng thờ thần Đạo, chẳng tin Phật pháp. Nếu thấy tượng Phật và chư Tăng thì rửa mắt, nghe tiếng giảng pháp và tụng kinh thì rửa tai, được các vị Thiện tri thức khuyên hóa dẫn dụ thì chẳng tin theo. Có lúc vì việc quan trọng riêng tư, đến chỗ Sa-môn Đạo Như chùa Nhân Thọ, đứng ở ngoài cửa mà nói lớn rằng: "Nếu có cần dùng việc riêng, xin cho mượn ba ngàn tiền". Ngài Đạo Như bảo: "Tiền ở trong kho của chùa, không gì đáng tiếc, chỉ vì tôi theo sự thỉnh mời của Đàn-việt thí chủ tạo kinh Pháp Hoa, đến cuối hàng đầu phẩm phương tiện còn một chữ chưa viết mà nghiên mực nước đã khô cạn, ông hãy lấy giúp nước để viết hoàn tất".

Sắp muốn đứng dậy, gã nam tử ấy suy nghĩ: "Ta vốn chẳng thấy Tam bảo nay y theo không sao, lại đến chỗ này, nếu lấy nghiên nước há chẳng phải không tốt, còn nếu chẳng lấy thì trái với yếu khế". Nghĩ đoạn rồi lấy nước cho đó mà đi. Ngài Đạo Như chép xong hàng đó. Sau đó, gã nam tử trở lại tìm không thấy, bèn vội chạy đến nơi dòng sông, bất chợt vấp té chết ngất, giây lâu, tỉnh lại rơi lệ than khóc ăn năn lỗi lầm, đi đến chùa nói với ngài Đạo Như rằng: "Khi tôi muốn tuyệt vào cửa chết, có hai người kéo đến chỗ cung vua Diêm-la, vừa mới thấy tôi, vua tỏ vẻ giận dữ quát bảo: "Ông dùng tà kiến mà trang nghiêm thân mình, quả báo đáng vào địa ngục A-tỳ". Khi ấy giữa hư không bỗng nhiên có ánh sáng lạ soi chiếu trên đảnh đầu tôi, vua nghiệm xét đầu đuôi mới biết đó là chữ cuối cùng của hàng đầu trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa. Vì tôi dùng nước để chép nên văn tự ấy hóa hiện ra thân Phật đến cứu giúp hỏi: "Ánh sáng ấy là ai?". Đáp: "Ta là văn tự trong phẩm Phương Tiện. Văn tự của kinh Pháp Hoa mỗi chữ đều là Phật. Gã nam tử này quy hướng ta nên ta đến cứu". Khi đó, vua Diêm-la vui vẽ bảo: "Đều tốt lành thay, văn tự kinh Pháp Hoa biến hóa thân phát ra ánh sáng còn cứu kẻ chẳng kính tin, huống chi là đối với người có tâm kính tin". Và liền chỉ bày cho đường trở về, nên được sống lại". Gã nam tử ấy bèn bỏ nhà xuất gia, phát tâm chép mười sáu bộ kinh, vân du tham lễ khắp các danh sơn, không biết về sau như thế nào.

Vị khách Tăng ở đời Tùy:

Vào niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) đời Tùy, có vị khách Tăng đến miếu Thái Sơn, xin nghỉ lại qua đêm. Người giữ miếu nói rằng: "Ở đây không có phòng riêng, chỉ có dưới chái miếu thần là nơi có thể nghỉ được, nhưng từ trước đến nay những người dừng nghỉ qua đêm tại đây đều chết cả". Vị khách Tăng ấy bảo: "Không sao". Người giữ miếu bất đắc dĩ phải chấp thuận, nên sắp đặt chỗ nghỉ ở dưới chái miếu. Vị khách Tăng ấy trong đêm đang ngồi thẳng tụng kinh, đến canh một, nghe trong phòng có tiếng khoen vòng, chỉ chốc lát, vị Thần xuất hiện lễ bái vị khách Tăng ấy. Vị khách Tăng ấy bảo: "Nghe nói những người nghỉ lại qua đêm ở đây phần nhiều đều chết, há Đàn-việt hai họ ư? Xin hãy che chở." Thần nói: "Những người ấy phần nhiều là số chết đã sắp đến, do nghe tiếng của đệ tử, nên tự khiếp sợ mà chết, chẳng phải đệ tử giết hại họ. Xin Đại sư chớ lo ngại". Vị khách, Tăng do đó ngồi xích lại gần, nói bàn chừng khoảng bữa ăn. Lát sau, vị khách Tăng ấy hỏi rằng: "Người ở thế gian có truyền thuyết nói là ở núi Thái có quỷ sống, việc ấy có thật hay không?". Thần nói: "Đệ tử phước mỏng, thật có việc đó, Đại sư muốn được thấy tiên vong chăng?". Vị khách Tăng bảo: "Tôi có một người bạn đồng học đã qua đời trước, nay muốn được thấy họ". Thần hỏi: Tên họ hai người ấy là gì?". Vị khách Tăng ấy trả lời đầy đủ tên họ. Thần nói: "Một người đã sinh trong nhân gian, còn một người mắc tội nặng đang đọa trong địa ngục không thể gọi đến. Xin Đại sư đến để gặp người ấy". Vị khách Tăng ấy rất vui mừng do đó cùng đứng dậy đi ra cửa, không xa bao nhiêu mà đến một có nhiều miếu ngục, lửa dữ thiêu đốt bừng cháy rất mạnh.

Thần dẫn vị khách Tăng ấy vào trong một viện, xa thấy một người đang ở trong lửa kêu gào không thể nói, hình dáng thay đổi chẳng còn nhận biết mà máu thịt bị cháy hôi thối, khiến người phải thương tâm, Thần nói: "Chính là người đó, Đại sư không muốn đi xem khắp ư?" Vị khách Tăng ấy buồn thương muốn trở ra. Chỉ khoảnh khắc muốn trở lại miếu. Lại cùng ngồi với thần, vị khách Tăng do đó hỏi: "Tôi muốn cứu bạn đồng học có cách gì chăng?". Thần nói: "Có", nên chép kinh Pháp Hoa thì sẽ được thoát khỏi". Thế rồi, trời sắp sáng, Thần từ giã vị khách Tăng ấy mà vào trong nhà. Đến lúc sáng sớm, người giữ miếu đến xem, thấy vị khách Tăng ấy không chết lấy làm lạ. Vị khách Tăng ấy do đó nói cho biết, liền chép một bộ kinh Pháp Hoa. Khi kinh đã chép xong, trang hoàng đã xong, vị khách Tăng ấy lại mang kinh đến miếu đó mà nghỉ qua đêm, đêm đó thần lại ra như trước, vui mừng lễ bái, hỏi thăm vị khách Tăng ấy đến để làm gì? Vị khách Tăng ấy nói việc đó cho Thần nghe. Thần nói: "Đệ tử biết rồi, khi Đại sư chép kinh vừa mới viết đề mục, người ấy đã được thoát khỏi, nay lại sinh lên chẳng còn ở nhân gian. Và ở xứ này là nơi không được trong sạch, không nên tôn trí kinh ở đây. Xin Đại sư đưa kinh trở về lại chùa". Nói xong giây lâu, trời sắp sáng, Thần lại giả từ mà đi vào, vị khách Tăng ấy đưa kinh trở về chùa (xuất xứ từ Pháp Uyển quyển 18).

Vị Tăng trụ tại Đạo tràng Hà Tây ở Cô Sơn:

Ở Ráng châu, Cô Sơn Tây Hà có xây dựng điện đường có nhiều cây rừng, chỗ hình thế rất tốt đẹp.

Vào niên hiệu Vĩnh Huy (650-656) thời Tiền Đường, có hai vị Sa-môn đồng ở chung phòng, một vị tên là Tăng Hạnh hành trì Tam giai Phật pháp, một vị tên là Tăng Pháp hành trì Pháp Hoa Tam-muội, hai vị cùng kết ước nếu ai qua đời trước thì phải về mách bảo cho biết chỗ thác sinh như hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân xưa kia. Sau đó, ngài Tăng Hạnh tịch trước, tuy nghĩ nhớ suốt ba năm mà không thể trở về mách bảo chỗ thác sinh, ở phòng ấy có pho tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, nếu ai bỏ ăn phát thệ cầu nguyện thì sẽ có cảm ứng, nên ngài Tăng Pháp bỏ ăn suốt năm ngày ở trong phòng ấy chẳng bước ra khỏi cửa. Đến đêm ngày thứ năm, mộng thấy một vị Sa-môn đến nói với ngài Tăng Pháp rằng: "Sư hãy nắm góc áo ta thì sẽ thấy được chỗ thác sinh của Sa-môn Tăng Hạnh". Ngài Tăng Pháp liền nắm lấy góc áo, chỉ chốc lát thì đến địa ngục, lửa dữ thiêu đốt bừng bừng chẳng thể đến gần, có bảy lớp lưới sắt vây phủ phía trên, các cánh cửa sắt đóng kín cả bốn mặt rất bền chắc, có trăm ngàn vị Sa-môn, những người hủy phạm tịnh giới chẳng điều phục thân tâm hiện ở trong đó chịu khổ. Vị Sa-môn ấy hỏi quỷ La-sát canh giữ rằng: "Trong đây có Sa-môn Tăng Hạnh hay chăng?". Quỷ La-sát đáp: "Có". Vị Samôn ấy lại nói: "Tôi muốn được gặp". Quỷ La-sát bảo: "Không thể gặp được". Vị Samôn ấy nói với quỷ La-sát rằng: "Xưa kia đồng tu hành, nghĩ nhớ nên đến tìm thăm, chúng tôi là Phật tử vì sao ngươi cố tiếc như thế?". Quỷ La-sát nói: "Nếu muốn thấy thì tùy ý liền được thấy". Khi ấy, Quỷ La-sát dùng mũi nhọn khều trong than đen đang cháy chỉ mà bảo: "Đó là ông Tăng Hạnh". Ngài Tăng Pháp thấy than cháy đen mà rơi lệ khóc bảo: "Sa-môn Thích tử vì sao phải chịu khổ nặng thế này, tôi muốn thấy hình dáng khi xưa". Khi đó, Quỷ La-sát gọi sống lại rõ ràng như thuở bình sinh chỉ có hình thể bị đốt cháy. Sa-môn Tăng Hạnh nói với Sư rằng: "Xưa, tôi cống cao buông lung tự phạm, ông hãy cứu khổ giúp tôi". Sư hỏi: "Phải làm thế nào để cứu khổ?". Sa-môn Tăng Hạnh đáp: "Nên tạo kinh Pháp Hoa". Sư hỏi: "Nên tạo như thế nào?" Sa-môn Tăng Hạnh bảo: "Nội trong một ngày hãy hoàn tất việc ấy". Sư nói: "Bần Đạo làm sao có thể nội trong một ngày hoàn tất việc ấy được". Sa-môn Tăng Hạnh nói: "Tôi khổ không thể chịu nỗi, chỉ chừng sát-na cũng khó thoát qua. Nếu chẳng nhanh chóng trong một ngày, làm sao được dứt khổ". Khi ấy Quỷ La-sát lại tức giận quát mắng, dùng mũi nhọn mà đâm người đó đưa vào trong ngục. Sư lại theo vị Sa-môn ấy trở ra. Đến lúc tỉnh mộng, ngay ngày hôm đó, Sư xả thí tất cả y bát mọi vật, thuê bốn mươi thư sinh trong một ngày chép kinh Pháp Hoa, cúng dường lề bái. Đêm đó, Sư lại mộng thấy vị Sa-môn ấy đến mách báo là Sa-môn Tăng Hạnh đã sớm lìa cảnh khổ địa ngục, gần sinh lên cõi trời thứ hai, Thạnh tự tay ghi chép việc trông thấy.

Người làm quan thời Bắc Tề:

Vào thời Bắc Tề có một người làm quan, gia đình vốn giàu có. Đến lúc sắp chết căn dặn vợ con rằng: "Ta bình thường rất quý mến kẻ tôi tớ và ngựa, đều là kẻ dùng để sai hầu và nương cưỡi lâu năm rất là vừa ý. Sau khi ta chết, hãy giết họ, nếu không làm như thế thì ta không có người để sai sử và vật để nương cưỡi!". Đến lúc qua đời, người nhà dùng đãy đựng đầy đất nén ép kẻ tôi tớ mà giết họ, còn ngựa thì chưa giết. Kẻ tôi tớ chết bốn ngày sau sống lại nói rằng: "Đang lúc bất giác, bỗng nhiên đi đến cửa quan phủ, người giữ cửa nhân đó giữ tại cửa qua một đêm. Đến sáng sớm thấy ông chủ đã qua đời bị gông cùm, lính nghiêm trang canh giữ dẫn vào chỗ quan. Vừa thấy tôi liền bảo rằng: "Ta cho rằng để sau khi chết có được kẻ tôi tớ để sai sử nên để lại lời kêu gọi ngươi, nhưng nay thì mỗi người tự nhận chịu, chẳng hề liên quan gì. Nay ta sẽ tấu với quan để thả ngươi". Nói xong bèn đi vào. Tôi đứng ở chỗ vắng lặng ngoài cửa nhìn thấy quan hỏi người canh giữ rằng: "Ngày hôm qua ép lấy mỡ được nhiều ít?". Đáp rằng: "Được tám thăng". Quan bảo: "Trở đi lại ép lấy một hộc sáu thăng". Ông chủ liền bị dẫn ra, chẳng hề nói được. Đến sáng sớm hôm sau lại trở vào lại, ông tỏ vẻ vui mừng nói với tôi rằng: "Nay ta sẽ vì ngươi mà tấu trình". Khi vào, quan hỏi: "Có mở chăng?". Đáp rằng: "Không có". Quan hỏi: "Vì sao?". Chủ ty nói: "Người này vừa chết ba ngày, mà người nhà thỉnh chư Tăng, thiết trai cúng dường, nên mỗi lúc nghe tiếng tán tụng kinh thì xà sắt liền gãy, nên không ép được". Quan bảo: "Thả cho đi". Chủ ty do đó tấu trình quan xin thả tôi. Quan liều kêu: "Thả đều ra ngoài cửa". Ông chủ sai tôi mang lời về nói với vợ con rằng: "Nhờ các người tu tạo phước, nên được miễn tội lớn nhưng vẫn chưa thoát khỏi. Có thể lại vì chép kinh Pháp Hoa, tu tạo tôn tượng để cùng cứu giúp, mong nhờ nhân ấy mà được thoát khỏi, từ nay không nên lập bày cúng tế, vì như thế chỉ thêm tội tôi thôi". Nói xong bèn từ biệt. Kẻ tớ được sống lại và nói lời đó, mọi người trong nhà ngay trong ngày đó lập trai hội, từ đó tu tạo phước, cả nhà đều luyện hạnh.

Thích Tu Đức ở Định Châu:

Vào thời Tiền Đường, trong núi ở Định Châu, có Thiền sư Thích Tu Đức, không biết họ gì, chuyên khổ tiết thành tánh, kính giữ Đạo ở chốn núi rừng, y theo kinh Hoa Nghiêm và luận Khởi tín mà an tâm kết nghiệp, suy niệm tu Thiền. Đến niên hiệu Vĩnh Huy năm thứ tư (653) thời Tiền Đường, quy hướng chí thành với Giáo nghĩa phương quảng. Do đó, phát đại Đạo tâm, rất mực siêng năng ghi chép, nên ở tịnh viện trồng các thứ cây, trải qua ba năm, lấy các thứ hoa thuốc, dùng nước thơm mà gội rưới, làm giấy sạch. Sau đó xây dựng tịnh đài riêng, ở trên đó lại tạo phòng thất, mời Vương Cung là người tài giỏi về viết chữ trong viện riêng ở Ngụy Châu thọ trì trai giới, tắm gội mặc y phục mới sạch, đốt hương rải hoa, treo các thứ phướn lọng, lễ bái sám hối rồi mới lên tòa. Hễ chấm bút thì hợp hương, dắt bút thì nhả hơi, mỗi ngày thường như thế, siêng năng không biếng trễ. Thiền sư đích thân tự vào tịnh thất liên tưởng, đốt hương giữa khoảng bút mực đều chuyên tâm tự nhân tu như vậy mãi suốt đầu cuối. Khi chép xong một quyển, cúng thí mười xấp lụa nhũn, đến lúc chép xong trọn bộ, thì cúng thí tất cả hơn sáu trăm xấp. Vương Cung do đó phát tâm đều chẳng nhận lấy thù lao chí thành dốc cả tâm lực giúp sức. Chép kinh mới xong, không bao lâu thì qua đời, vì kinh chép đã thành, Sư thiết trai cúng dường chúc mừng, nhóm họp đại chúng đồng tâm thanh tịnh ít có, lễ bái Thiền sư. Bèn ở trước chúng, Sư đốt hương rải hoa, phát thệ nguyện rộng lớn. Vừa mở tạng kinh, thì phát ra ánh sáng rực rỡ, khắp hơn bảy mươi dặm soi chiếu thành Định châu. Trong thành có các nam nữ đều thấy. Đại chúng trong trai hội trên núi đã thấy điều ít có đặc biệt được sự chưa từng có, bèn buồn khóc sám hối. Thiền sư lại khắc đá chép các kinh Niết-bàn, Pháp Hoa mỗi thứ một bộ. Mới đầu dời vào khám đá, chép kinh Niếtbàn, Pháp Hoa đều phát ra ánh sáng soi chiếu khắp hơn mười dặm, cả chúng đều trông thấy, cảm ngộ không ngằn mé. Đã có cảm ứng, lợi ích đâu có gì đáng nghi.

Vua Thái tổ Cao Đế đời Nam Tề:

Vua Thái tổ Cao Đế (Tiêu Thành Đạo 479-483) thời Nam Tề rất kính trọng Phật pháp nên lập hai ngôi chùa Trắc Dĩ và Chỉ Quán. Ngày mồng 08 tháng 04, vua cho đúc pho tượng bằng vàng. Ngày 15 tháng 07 ở khắp các chùa đều thiết lễ Vu-lan, cúng dường ba trăm vị Tăng. Vua tự dùng hương thấm hòa với mực, tự tay chép tám bộ kinh Pháp Hoa, và hai bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ vàng, đều dùng năm thứ hương làm hộp đựng bốn vật báu. Vào giữa đêm vắng lặng giây phút tốt lành thanh trai hành Đạo thường phát ra ánh sáng màu vàng ròng soi chiếu khắp trong điện. Chư hầu đều trông thấy, càng phát tâm gấp bội, cùng bàn với nhau rằng: "Chúng ta nhóm kết hai mươi tám người, mỗi người chép một phẩm, trang nghiêm rực rỡ".

Ngày 15 tháng 07 đến chùa chỉ Quán cúng dường lễ bái. "Tức y như cùng bàn lận, đang ngày cúng dường, trời mưa hoa nhỏ nhiệm như vân mẫu rơi xuống, có chất lưu ly làm trục phát ra ánh sáng, soi chiếu khắp hơn một dặm, đại chúng đều hoan hỷ. Trong đó có Tiến Sĩ Đặc bảy mươi tám tuổi chóng bị chết ngất, giây lâu tỉnh lại ngồi vui mừng mà rơi lệ: "Tôi như nằm mộng thấy tự thân mình chung quanh có mọc lông cánh, bay đến cõi trời tức trước cung Đâu-suất, vào trong nội viện, Bồ-tát Di-lặc bảo rằng: "Cao Đế (Tiêu Đạo Thành) và chư hầu đều đến chỗ ta, đó là do năng lực của kinh Pháp Hoa. Ông trở lại nhân gian nên nói việc này". Tức Đặc bay xuống thấy lông cánh đó là năng lực của một phẩm kinh Pháp Hoa. Các ông chớ nên biếng lười". Vua quan càng phát tín tâm.

Thiện tín nữ ở Tịnh Châu:

Ở Tinh Châu có một Thiện tín nữ họ Sở, tu niệm hạnh nghiệp Tây phương. Tại châu này, các nam nữ mới bảy tuổi đều hiểu Niệm Phật Tam-muội. Vị Thiện tín nữ ấy rất sinh tâm nhàm chán muốn xa lìa, phát nguyện chép một bộ kinh Pháp Hoa, hồi hướng nguyện sinh về Tây phương, mộng thấy Thánh chúng ở Tây phương đến báo rằng: "Ngươi hành trì niệm Phật Tam-muội, tạo kinh Pháp Hoa nên đến nói cho biết từ nay về sau, hai mươi lăm năm nữa mới đến đón rước". Nói xong bèn đi, người Thiện tín nữ ấy càng phát tín tâm, tự chép kinh Pháp Hoa, xưng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà. Đến năm bảy mươi sáu tuổi mới qua đời, nghe có tiếng âm nhạc réo rắt giữa hư không, mùi thơm lạ tỏa khắp phòng và có lắm điềm kỳ lạ khác nữa.

Thích Tuệ Thiếu trụ chùa Thần Định ở Tương Châu:

Thích Tuệ Thiếu, họ Trang, xuất gia từ thuở thiếu thời, chuyên dùng pháp Tiểu thừa làm hạnh nghiệp chánh, nổi tiếng khắp vùng Giang Hán. Nhân Tượng Vương Triết Công khai giảng Tam luận, tâm sinh bất nhẫn, Tuệ Thiếu nói rằng: "Tam luận nói về không, mà người giảng lại chấp trước không? Nói xong, lưỡi dài ra ba thước, mũi mắt hai tai đều rỉ máu, suốt bảy ngày không nói năng gì được.

Có Luật sư Thải thấy thế bảo rằng: "Ngươi là kẻ rất ngu si, một lời phỉ báng kinh giáo, hơn năm tội nghịch, phải tin theo Đại thừa, mới được thoát khỏi". Thải mới bảo sám hối, lưỡi Tuệ Diệu rút vào trở lại, bèn khiêng đến chỗ Triết Công, Tuệ Diệu phát nguyện chỉ nghe giáo pháp Đại thừa. Về sau sư thường giảng nói kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm để tỏ bày sự sám hối. Sư từng ở nơi rừng thông ngồi thiền, thấy có ba người, thân mặc y phục nho nhã đến xin thọ giới Bồ-tát. Thọ giới xong bèn thưa rằng: "Thiền sư là người lợi căn, nếu chẳng sửa đổi tâm tin theo Đại thừa thì qua thời gian ngàn Đức Phật ra đời, vẫn còn đọa trong chốn địa ngục". Nghe nói như thế, Tuệ Diệu cảm động rơi nước mắt và trở về chùa, đến trước phòng của Triết Công nghẹn ngào thốt chẳng nên lời. Lại cùng khuyên hóa các tục sĩ tạo các kinh Hoa Nghiêm, Đại Phẩm, Pháp Hoa, Duy-ma, Tư Ích v.v... mỗi thứ trăm bộ. Đến lúc thị tịch cảm ứng cây rừng biến thành màu trắng. Có thể nói Sư là người có lỗi nhưng khéo biết sửa đổi.

QUYỂN 9

XI. LỢI ÍCH CỦA VIỆC NGHE PHÁP VÀ PHỤ NÊU HIỆN BÁO CỦA VIỆC KHINH CHÊ.

1. Quang Minh Nữ.

2. Thiên tử Diệu Ý.

3. Người đi buôn.

4. Chiên-đà-la-tử.

5. Con của chim bồ câu.

6. Phạm Lương Tử.

7. Vị Sa-di ở ngoại quốc.

8. Pháp Dự ở Quảng Châu.

9. Rắn độc sinh lên cõi trời.

10. Ba-tư-nặc-già-la vua nước Xá-vệ.

11. Người nữ ở Tầm Dương.

12. Vị Sa-di ở Ung Châu.

13. Con chó và con khỉ của ngài Tăng Lãng.

14. Con dơi ở tinh xá Hành Đường.

15. Con khỉ ở núi Hổ Khâu đời Tùy.

16. Quỷ đói ở nước Nguyệt Chi.

17. Xử nữ ở Tầm Dương.

18. Vô Cấu Hữu người nước Tây Vức.

19. Ni Sư Trí Thông.

20. Sa-di Vân Tạng.

21. Sa-môn Hiếu Từ.

22. Nàng hầu của Ưu-bà-tắc ở Tương Châu.

Quang Minh Nữ trong thời Phật tại thế:

Xưa, khi Phật còn tại thế, có một cô gái tên là Quang Minh vốn nghe kinh Pháp Hoa, đến lúc qua đời được sinh lên cõi trời Đaolợi. Cha mẹ gom nhặt di cốt con xây tháp cúng dường. Khi đó, vị trời trẻ con (Quang Minh) ấy dùng Thiên nhãn nhìn xuống và đến thưa cha mẹ rằng: "Tôi là con của các người, thuở bình sinh được một lần nghe kinh Pháp Hoa, và đó cũng chẳng phải tự nghe, chỉ do người bạn đến dẫn đi nghe kinh, nên tôi ngồi một nơi thấp tạm thời nghe pháp, nương theo nhân lành ấy mà được sinh lên cõi trời!". Cha mẹ không tin, hỏi lại rằng: "Làm sao biết được người là con của chúng tôi?". Khi đó, vị trời trẻ con ấy nói: "Trong hòm của tôi, cha mẹ có tặng mười viên ngọc trắng, hiện còn ở trong đó, nên dựa vào các vật ấy mà biết". Khi ấy, cha mẹ mở hòm ra xem, quả thật đúng như lời vị trời nói, có mười viên ngọc trắng đang cất ở trong đó. Vị trời trẻ con ấy lại bảo: "Khuyến hóa người khác nghe kinh còn được sinh lên cõi trời, huống chi tự mình đi nghe, đích thân đọc tụng? Nên mong cha mẹ cùng làm như con". Nói xong, bỗng nhiên biến mất, cha mẹ mến thương nghĩ nhớ đức hạnh của con mình nên cùng siêng năng tinh tấn tu trì, nhờ vậy cùng sinh lên cõi trời ấy. (Trích từ Yếu Tập).

Thiên tử Diệu Ý thời Đức Phật tại thế:

Xưa kia, khi Đức Phật còn tại thế, có một vị trời đến chỗ Phật, tán thán Phật xong thì về lại cõi trời. A-nan bạch Phật rằng: "Vị trời ấy có phước hạnh gì thuở xưa, mà oai đức đặc biệt được thấy Phật nghe pháp như thế?". Phật dạy: "Vị Thiên tử đó là bạn của vua Axà-thế, mang kiệu đến chỗ Phật nghe kinh Pháp Hoa. Nhờ nghe pháp ấy mà được sinh lên cõi trời thứ tư. Lúc vừa sinh ra, liền nhớ biết túc mạng nên đến chỗ Phật. Ở đời tương lai ông ấy sẽ được thành Phật, hiệu là Diệu Ý, mười đức hiệu đầy đủ, đó đều là do năng lực nghe kinh Pháp Hoa". (Yếu Tập).

Người đi buôn ở thời mạt pháp của Đức Phật Ca-diếp:

Xưa, trong thời mạt pháp của Đức Phật Ca-diếp, có mấy người không rõ tên họ kết bạn đi tìm của báu, đi đến ven biển, nghe tiếng kiền chùy. Trong đoàn có một người thương chủ hỏi rằng: Vì sao có tiếng ấy. Có người đáp: "Giảng kinh Pháp Hoa". Một người khuyên bạn hãy đi theo mình đến dự tòa, nghe giảng pháp xong, từ tòa rút lui, cuối cùng đến biển, chẳng tìm được tài vật, bỗng nhiên gặp phải gió dữ, thuyền bị chìm, mọi người đều chết, chỉ có một người còn sống sót. Đêm ấy người đó nằm mộng nghe có tiếng bảo rằng: "Ông nghe giảng phẩm Như Lai Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa, nhờ công đức ấy mà thoát chết". Một người lúc bấy giờ tức là Đề-bà-đạt-đa ngày nay. Còn các người bị chết đắm là Câu-già, Ly-ương, Câu-la v.v... Khi ấy, vị Thượng chủ hồi tâm quy hướng về kinh Pháp Hoa, dựng tạo tinh xá, tiếng thơm truyền xa. Ở trong giáo pháp của Đức Phật Thích-ca cũng là người nổi tiếng. (Yếu tập).

Chiên-đà-la-tử ở thành Vương Xá.

Xưa kia, trong thành Vương Xá nước Ma-kiệt-đà ở Thiên Trúc, có một Chiên-đàla tên là Ác Ý, có một người con trai, lúc mới sinh các thứ độc đều tuôn vào nhà, nên đặt tên là Độc Ý. Gã giết hại sinh mạng, tâm không thương xót. Như có người trái phạm pháp luật, vua đều đưa đến giao cho Độc Ý, tức là vào hầm lửa chẳng thể nào sống được. Độc Ý ham thích rượu thịt, sắc mặt thường đỏ như máu, khiến người thấy đều kinh sợ mất vía. Vì đang là kiếp giặc trộm cướp, ban đêm đến Tăng phường, có vị Tỳ-kheo tụng kinh, tùy chỗ giải thích nghĩa ấy tức là kệ tụng sâu mầu trong phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa. Độc Ý nghe thế, bèn khởi tâm sám hối và trở về, không bao lâu bị bệnh quỷ thổ huyết mà chết. Cha mẹ bèn đem thi hài đến đặt ở gò mả. Các loài chồn, hổ, lang sói chẳng dám đến ăn, nằm như khúc cây khô, sau bảy ngày, Độc Ý sống lại, ở gò mả buồn khóc vật vả thân mình dưới đất. Các thân thích bè bạn đến hỏi. Độc Ý không một lời đối đáp. Khi đó, cha mẹ cho là yêu mỵ đều mặc tình bỏ đó mà đi. Bấy giờ, có một vị Samôn đến chỗ gò mả quán sát xấu ác lộ bày bất tịnh, kế đến thấy Độc Ý, liền hỏi: Ngươi là quỷ mỵ phải không?. Độc Ý đáp: Không phải. Vị Sa-môn ấy lại hỏi: Vì sao buồn khóc?. Độc Ý đáp: Tôi là Độc Ý con của Chiên-đà-la Ác Ý ở thành Vương Xá. Vì ngu si không biết nhân quả, ham thích rượu thịt, chuyên làm việc giết hại sinh mạng. Nay nghiệp sống đã hết, lúc vừa chết, thấy có tám người A Phòng Dạ-xoa, ba người cầm gậy sắt, hai người khiêng xác xe lửa, một người cầm dây sắt, một người cầm đãy thần, một người bưng lồng sắt, xua tôi vào lửa, nắm gậy chặn giữ, ba phương cùng cách biệt, lòng lửa trùm lên đầu, theo lửa xoay vần đến như lửa sắt, dây buộc kéo đi trước, mỗi mỗi trong miệng đều phun ra lửa dữ mà mỗi mỗi quở trách rằng: "Ngươi là kẻ ác ở cõi Diêm-phù sẽ phải chịu quả ác có chịu nổi chăng?". Khi đó khắp thân thể bị đốt cháy, đau khổ vô lượng. Vừa đến ngoài cửa thành lớn. Diêmla Đại Vương và Đại thần năm đường ngồi dưới đất ngoài cửa, gông cùm xiềng xích, che bịt mặt mũi trói buộc người tội có cả ngàn muôn ở trong chỗ sâu, suy hỏi mọi việc nặng nhẹ, lại thêm đánh bằng gậy. Vừa thấy tôi thì liền quở trách rằng: "Ngươi y theo nghiệp quả xưa mà sinh trong gia đình Chiên-đà-la, lại gấp bội trái phạm trọng tội, quả báo sẽ ở địa ngục A-tỳ, trong vô lượng kiếp chẳng nghe tên Tam bảo, không được làm người". Và liền gọi mang gậy đến muốn đánh thêm. Khi ấy có một Đạo nhân đến chỗ vua, các hàng vua tôi, minh quan đều như cỏ bị gió thổi rạp, vua quỳ theo thế người Hồ. Đạo nhân bảo với vua rằng: "Nay trong ba cõi này đều là của ta. Chỉ một mình ta có thể cứu hộ. Độc Ý đây đã nghe được một câu kệ của kinh Pháp Hoa, tội đáng giảm nhẹ, nên thả trở về nhân gian". Vua bạch rằng: "Xin vâng theo lời nhân tôn, tôi sẽ ban ân phóng thả", liền tha cho Độc Ý. Liền đó, Đạo nhân cầm tích trượng chỉ đường trở về. Sau bảy ngày đi đường trở về, tôi được sống lại, mọi người thân thuộc đến hỏi han, tôi không trả lời, vì đều là bạn ác không thể gần gũi. Nay cúi xin ngài (Vị Sa-môn ấy) từ bi che chở, cho tôi được xuất gia". Khi đó, vị Sa-môn ấy dẫn về chùa, độ cho xuất gia làm Sa-di, siêng năng hành trì tinh cần. Các hàng thân thuộc v.v... nghe thế, đồng phát tâm xuất gia, ngay đời này thấy Phật. (Trích từ Yếu truyện).

Chim bồ câu con ở niên hiệu Trinh Quán.

Chùa Thạch Bích tại Tinh Châu, có một vị Lão Tăng, chuyên tâm thiền tụng làm chánh, siêng năng luyện hạnh. Khoảng cuối niên hiệu Trinh Quán (650) thời Tiền Đường, có một ổ chim bồ câu ở trên nóc nhà nuôi hai chim con. Vị lão Tăng ấy mỗi lúc thọ trai xong, thức ăn còn thừa thường đem về ổ chim để mớm cho ăn. Sau đó, chim cáp con ấy tuy dần lớn khôn, lông cánh chưa mọc đầy đủ mà đòi học bay, nên rơi xuống đất mà chết. Vị Lão tăng ấy nhặt lấy chôn cất. Hơn mười ngày sau, vị Lão Tăng ấy bỗng nhiên nửa đêm mộng thấy có hai trẻ đến thưa rằng: "Chúng con vì trước kia có chút tội nhỏ nên phải làm chim bồ câu, lại đây được nghe đọc tụng kinh Pháp Hoa và kinh Kim Cang, Bátnhã, đã nghe pháp mầu, được làm thân người, chúng con hiện nay ở cạnh chùa cách hơn mười dặm, ở gia đình họ... ấy, tại thôn... ấy, thác sinh làm thân nam. Qua ngày mười tháng sau sẽ chào đời!". Lão Tăng ấy mới y cứ theo kỳ hạn, đến thôn ấy, thấy gia đình nọ có một người phụ nữ đồng sinh nuôi hai đứa con, vì tu tạo phước nguyệt trai. Vị Lão Tăng ấy gọi: "Chim bồ câu con", hai trẻ liền đáp: "Dạ!". Sau hơn một tuổi mới biết nói. Như thế, chim nghe kinh còn được làm thân người, huống chi là người?

Người con của Phạm Lương, huyện úy Trường An:

Gia đình Phạm Lương hiện làm chức huyện úy Trường An, rất giàu có nhưng không có con nối dõi, bèn cầu nguyện với pho tượng linh thiêng ở trường Sa nên sinh được một người con trai. Vừa mới sinh, đã liền mở miệng nói. Đến lúc ba tuổi mới nói rành ngôn từ thế tục, hay biết văn từ thư điển, mọi người đều gọi là Thần Nhi, không thầy chỉ dạy mà tự nhiên tụng thông quyển ba, quyển bốn kinh Pháp Hoa, ngoài ra các quyển khác không tụng được. Khi cha mẹ qua đời, bèn nhàm chán thế tục đi xuất gia, Đạo hiệu là Pháp Biện, rất thấu hiểu nghĩa thú của hai quyển kinh ấy. Ngoài ra thì chưa được rõ ràng. Chuyên ăn dùng rau quả, khổ hạnh tiết chế, hoặc tụng đọc hoặc giải nghĩa chỉ hai quyển kinh ấy, chẳng gá vào công dụng gì khác, trong lòng Pháp Biện ôm hoài mối nghi, muốn biết được hạnh nghiệp ở đời trước, phát tâm cầu nguyện trải qua nhiều ngày, bèn cảm mộng báo rằng: "Do tội nghiệp đời trước nên phải làm thân chuột, ở trong vườn Tiêu Dao vào phiên kinh quán, nghe được hai quyển ba, bốn kinh Pháp Hoa, ngoài ra các quyển khác chưa nghe, khi ấy bị chư Tăng đuổi ra ngoài. Nhờ ở đó được nghe kinh pháp nên được thay đổi quả báo, sinh trong nhân gian làm con trai. Do trước đã nghe nên tự nhiên hiểu rõ, còn những gì chưa nghe là bởi không có nhân xưa nên chẳng thể tụng được và cũng không hiểu nghĩa. Ngay thân đời nay tu hành thì đời tương lai sẽ được tỏ ngộ, siêng năng thọ trì, không có lúc nào tạm phế bỏ, hẳn trong vạn ức kiếp được nghe kinh ấy, hãy cố gắng chớ để một đời luống qua". Pháp Biện lệ trào hoen my sám hối tội lỗi mà tự trách mình.

Vị Sa-di ở ngoại quốc chứng đắc thần thông:

Xưa ở ngoại quốc có một vị vua trong lòng bất tín, chỉ kính thờ trời Tự tại. Bấy giờ, có một vị Sa-di tuổi hơn hai mươi rất vào sâu Pháp nhẫn vô sinh, rất thành tựu thần thông trí lực, khéo biết mọi sự suốt cả ba đời. Vì vua ấy nghe điều thần dị như thế, nên sai sứ đến thỉnh vị Sa-di ấy đến bàn nói nghĩa lý Phật pháp, vị vua ấy phát sinh tín tâm, xả bỏ tà kiến quy hướng chánh pháp. Vị Sa-di ấy bảo với vua rằng: "Đại vương có muốn được nghe chánh pháp chăng?". Vị vua ấy hỏi: "Nghe pháp được công đức như thế nào?". Vị Sa-di ấy bảo: "Công đức nghe pháp không thể nghĩ bàn, phước ấy cũng vô lượng. Đức Đại sư Thích-ca Mâu-ni lúc mới phát tâm được nghe một bài kệ tụng xả bỏ báo thân bèn được thành Phật. Và, cũng như trong kinh Pháp Hoa nói: "Nghe pháp mà hoan hỷ tán thán cho đến phát ra một lời tức là đã cúng dường tất cả chư Phật trong ba đời. Công đức ấy nhỏ ít ư? Xưa kia trong núi tuyết có một ngôi tháp báu, trong đó có thờ một bộ kinh Pháp Hoa bản tiếng Phạm, có một vị Lão Tăng đến ở trong đó thọ trì, đọc tụng. Ở bên cạnh tháp có một động đá, trong đó có một con dã can sống đã lâu năm. Lúc Lão Tỳ-kheo ấy mới đến, một con dã can khiếp sợ bỏ đi ở nơi chỗ khác, còn một con ở lại hang, thường nghe lão Tỳ-kheo ấy tụng kinh. Bấy giờ, gặp lúc gió lạnh, tuyết đóng bít lối đi vì mến mộ pháp âm nên ở lại trong hang đành chịu chết đói và thác sinh trong nhân gian, ngộ giải Diệu pháp, vào sâu pháp vô sinh, trước mắt thấy cả chư Phật mười phương. Còn con dã can khiếp sợ bỏ đi kia, vì lâu ở bên cạnh tháp, do phước đó mà được làm vua. Chỉ vì không nghe chánh pháp, nên diệu pháp chưa thấm đượm vào tâm. Con dã can ấy đâu phải người nào khác, mà chính là nhà vua. Còn con dã can được nghe pháp là thân tôi ngày nay. Vì chỗ bạn thân xưa cũ, duyên xưa còn lại, nên chỉ bày khai ngộ cho Đại vương!". Nói xong, vị Sa-di ấy liền hiện bày việc thần thông, và nhân đó bỗng nhiên biến mất. Vị vua ấy cảm ngộ rơi lệ, bèn giao phó ngôi vị Quốc vương cho Thái tử, rồi xuất gia học đạo, chứng đắc được Thuận nhẫn. (Rút từ Tây Quốc truyện).

Pháp Dự ở Quảng Châu:

Pháp Dự người ở Quảng Châu, tánh tình rất thô ác, không việc xấu ác gì mà chẳng làm. Đến lúc qua đời, thần thức đến trước sảnh của vua Diêm-la. Vua sai vị quan ghi chép xem xét người ấy (Pháp Dự) đã tu tạo các thứ tội phước gì. Vị quan ấy bảo đầu trâu mặt ngựa các La-sát Bà đại lực lục tìm thẻ ghi chép về người ấy lại. Khi đó, có sáu người đứng dậy, theo hướng Đông bắc đi vào trong kho tàng cửa sắt lớn, lấy ra các thẻ sắt chất đầy ba xe, cả sáu người dốc hết sức lực mà lôi xe đến trước sảnh. Vua sai các sử quan ghi chép xem xét, chỉ thấy ghi chép những việc tội ác, không một thẻ nào ghi chép việc lành. Các sử quan ghi chép tâu với vua rằng: "Không hề có một thể nào ghi chép việc lành". Vua tỏ vẻ giận dữ bảo: "Ông là người rất ác, vào trong núi báu mà trở về tay không". Và vua lại hỏi sử quan ghi chép rằng: "Thẻ nói ba xe đã hết chưa?". Sử Quan tấu: "Hai xe đã hết, còn một xe gần hết". Vua bảo: "Lại nên tìm xét cho kỹ lưỡng xem". Liền y theo vua sắc bảo mà xem xét thật kỹ, thấy trong đó có một thẻ nhỏ cũ chép một việc lành. Đó là "Pháp Dự đến một ngôi chùa, tại đó đang giảng nói kinh Pháp Hoa, Pháp Dự tạm thời nghe giảng". Bèn y như thế mà tấu trình với vua. Vua bảo: "Lành thay! Pháp Dự có công đức lớn, năm mươi món công đức tùy hỷ còn tốt đẹp hơn cực quả thánh vị của Nhị thừa. Huống chi vừa mới gặp mà theo nghe, há chẳng diệt trừ tội chướng ư? Đã y cứ nghe kinh Pháp Hoa thì tội liền trừ diệt, người này đáng sinh lên cõi trời". Bèn thả về lại nhân gian. Vua lại bảo các quan lại: "Nghiệp ác tuy nhiều vô lượng, chẳng bằng một nghiệp lành. Sao chẳng tán thưởng một nghiệp lành ấy? Các ngươi hãy đem đốt hết các thẻ ghi chép về nghiệp ác ấy". Các quan liền y theo lời vua bảo, đốt hết các thẻ ghi chép việc ác. Pháp Dự ngồi chăm mắt, sinh khởi ý niệm hy hữu, kỳ đặc. Được ban ân phóng thả sống lại, đối trước những người thân nói bày nhân duyên đó mà hối tạ.

Rắn độc sinh lên cõi trời:

Xưa, ở ngoại quốc có một vị Tỳ-kheo chuyên ngồi thiền, tụng kinh Pháp Hoa. Ở nơi thành ấp ồn náo. Mọi sự tỉnh táo trái nhau, nên bèn xa bỏ xóm làng náo động dời đến ở trong núi rừng sâu. Đường chim bay giao thông, dấu chân người dứt tuyệt, suốt đêm ngày tọa thiền. Ngoài thời gian rảnh rỗi tọa thiền thì tụng kinh. Nơi phía Bắc núi ấy có một con rắn lớn, vì Ấn Độ nghiệp ác nên có vô lượng trùng độc nhóm tụ rút rỉa ăn thịt rắn. Xa nghe có mùi của người nên rắn ấy lăn lóc bằng bụng mà hướng đến chỗ vị Tỳ-kheo ấy đang ở. Con rắn ấy xưa cũng là đệ tử Phật, nên nghe tiếng kinh pháp, bèn rơi lệ, các trùng độc ngưng rúc rỉa, đau khổ được dứt trừ, nên hoan hỷ không làm hại vị Tỳ-kheo ấy, thường nương náu bên cạnh vị Tỳ-kheo ấy để nghe tụng kinh. Vị Tỳ-kheo ấy không biết có con rắn lớn đó, nên sau khi khất thực xong bèn trở về chỗ cũ, thấy con rắn lớn nắm quấn tròn, liền sinh tâm kinh sợ, bảo: "Rắn độc hại, ngươi hãy sớm đi nơi khác, nếu không có tâm ác độc thì hãy ở gần". Rắn nghe lời nói ấy liền xích lại gần mà thường ở luôn để nghe tiếng tụng kinh. Đến giờ thọ thực thì bò đi ngậm hái trái cây đến cúng dường, cứ như thế, ngày lại qua ngày. Về sau, có một thời gian lâu, rắn không đến, vị Tỳ-kheo ấy lấy làm lạ, bèn lên trên đỉnh núi nhìn xuống hang sâu tối của rắn, nghe có mùi hôi thối, liền xuống xem thấy rắn treo mình nơi cành cây cao thường hái trái mà chết. Vị Tỳ-kheo thấy thế buồn thương, bèn chú nguyện báo ân rồi trở về chỗ nương ở. Khi ấy trời rải các thứ hoa như mưa khắp đầy cả núi hang, lại rơi đến chỗ thất của vị Tỳ-kheo ấy đang ở, các thứ cúng dường bay nhảy trong hư không. Vị Tỳ-kheo ấy hỏi: "Ông là vị trời nào?". Đáp rằng: "Con là rắn lớn ở phía Bắc của núi là đệ tử của Sư, nhờ nương năng lực nghe pháp nên xả bỏ báo thân sinh lên cõi trời Đao-lợi, nay vì muốn báo đáp ân sâu nên lại xuống đây mà thôi". Vị trời ấy lại nói: "Con sinh lên trên cõi trời, thấy có một Thiên tử từ nơi tay tỏa phóng ánh sáng che lấp cả các vị trời khác. Hỏi về nhân duyên thì trả lời là do khi ở nhân gian có chép kinh Pháp Hoa, nên khi sinh lên cõi trời này vì nhân duyên ấy mà trong tay tự phát ra ánh sáng. Hoặc lại có vị trời từ miệng phát ra ánh sáng, hỏi về nhân duyên thì trả lời là do đời trước đọc tụng kinh Pháp Hoa. Nơi có các vị trời, phần nhiều là người không hiểu mà hành trì kinh Pháp Hoa". Nói những việc ấy rồi, vị trời ấy bèn trở về cõi trời. Vị Tỳ-kheo ấy tự tay ghi lại cất giữ trong cột nhà. (Rút từ ngoại quốc ký).

Vua Ba-tư-nặc-già-la ở thành Xávệ:

Xưa kia, sau khi Đức Như Lai diệt độ khoảng năm mươi năm, tại thành Xá Vệ có vị vua tên là Ba-tư-nặc-già-la, là Huyền tôn của vua Ba-tư-nặc, có hai vị Đại thần; một vị tên là Lưu Thủy và một tên là Hành Vũ phụ giúp vua che chở, cai trị muôn dân.

Bấy giờ, Đại thần Lưu Thủy đang xa giá muốn vào cung vua. Ở ngoại quốc có một vị Thánh A-la-hán tên là Tỳ-bà-thi-lợi-mật-đa dung nghi rất đỉnh đạt oai nghiêm, bước đi khoan thai. Lưu Thủy thấy thế, sinh tâm kính trọng, xoay xa giá lại thăm hỏi: "Thánh giả là người ở xứ nào đến đây? Và có cần nhu cầu gì không?". Vị A-la-hán ấy đáp: "Tôi là đệ tử của Tỳ-kheo bậc Thánh Đà-câu-la ở núi Ngô Hưng ở ngoại quốc. Thầy tôi đi xem xét ở các nước, vì thế nên tôi vào đến đây". Lưu Thủy mời Thánh giả: "Cúi xin Tôn giả từ bi lên xa giá, con muốn cúng dường". Vị La Hán ấy bèn theo lời thỉnh mời, Lưu Thủy bèn trở về lại nhà, dùng nước hương thơm nóng ấm mà tắm gội, sắp bày đầy đủ các thứ Thánh lễ. Sau khi hành thực xong thỉnh sư giảng nói tiểu pháp. Vị Tôn giả ấy bèn giảng pháp mười hai nhân duyên và tán thán yếu nghĩa sâu xa của Đại thừa, như thế thời gian trải qua suốt ba ngày. Trong khi đó, vua lại có sắc chiếu vời Lưu Thủy, Lưu Thủy đang lo sợ trái lệnh vua ban. Vua hỏi đầy đủ lý do. Lưu Thủy tấu trình lên vua việc vừa qua. Vua rất tức giận, cùng các quan thần khác bình luận về tội lỗi ấy. Khi ấy Đại thần hành vũ tấu trình với vua rằng: "Đại vương đang cần kêu gọi lấy gỗ chiên-đàn và ba cành hoa sen ư?". Vua đáp: "Đúng vậy". Vì thời gian trái mùa, Lưu Thủy tâu với vua là: "Xin đợi cho bảy ngày". Vua chấp thuận. Lưu Thủy bèn trở về mặc y phục xấu cũ, vô cùng ưu khổ. Vì khi ấy đang mùa gió đông lạnh, hoa sen xanh tìm kiếm đâu ra! Còn gỗ chiên-đàn thì tại núi Ma-lê có đủ thứ rắn độc quấn quanh cây chẳng thể đến gần. Nếu như rắn có bỏ đi thì các thứ cây tương tự nhau có rất nhiều, thì phải biết lấy cây nào! Khi ấy Thánh giả Tỳ-bà-thi-lê-mật-đa đang ở tại núi Ngô Hưng dùng Thiên nhãn thấy rõ sự tình ấy, liền đến nhà Lưu Thủy, hỏi han an ủi. Biết cố tình hỏi nên Lưu Thủy bèn trả lời tình trạng trên Thánh giả bảo: "Trên đỉnh núi

Ngô Hưng có một cái hồ lớn, suốt bốn mùa đều nở hoa sen, trên bờ hồ có cây chiên-đàn, ở đó đang có rồng lớn giữ gìn. Ông đến chỗ hồ ấy nên xưng niệm "Nam mô Phật", khiến rồng biết ông là đệ tử Phật sẽ không dám làm hại". Lưu Thủy liền cầu xin năng lực của Thánh giả đến bên cạnh hồ, xưng niệm "Nam mô Phật!" Rồng liền khởi từ tâm ẩn hình. Lưu Thủy hái được hoa và lấy được gỗ, rồi theo đường cũ mà trở về, rồng liền hóa hình Ưu-bà-tắc mà nói với Lưu Thủy rằng: "Ta là vua của ngươi, là cha của Đại vương Ba-tưnặc-già-la. Tên là La-duyệt-xà. Vì dùng phi pháp mà trị nước. Vì tâm ý tà ác, không tin phước điền, không hành trì mười pháp lành. Dân chúng cũng làm ác theo vua. Vì nhân duyên đó nên ta phải chịu làm thân rồng độc có trăm ngàn trùng độc rúc rỉa gặm ăn thân ta. Ba thứ nóng đốt đau khổ, không thể chịu nổi. Xin hãy vì tôi mà tu hành nghiệp xuất ly để cứu khổ não giúp tôi!". Lưu Thủy nói:

"Vua cũ của tôi thọ trì "Phân-đà-lợi-tu-đa-la" (kinh Diệu Pháp Liên Hoa) do Phật giảng nói. Nếu nghe mà tin nhận thì sẽ được sinh lên trên cõi trời". Bèn tụng cho một phẩm kinh. Trong ánh mắt Ưu-bà-tắc rơi lệ nhớ về mình thuở xưa, nói rằng: "Đạo nhân, ngươi sớm trở về, Tôi nhờ năng lực nghe pháp, giúp cho hạnh nghiệp ngày xưa, sẽ được sinh lên cõi trời Tam thập tam!". Mỗi người tự từ biệt nhau mà đi.

Lưu Thủy trở về cung vua, đem hai thứ vật vua cần mà dâng lên, đồng thời tấu trình đầy đủ mọi điều với vua. Vua bèn sinh ý niệm hy hữu nên hỏi về nguyên do. Lưu Thủy liền trả lời đầy đủ. Vua không tin, bảo rằng: Tiên vương trị nước, thọ trì giới cấm Phật chế, há sinh vào cõi xấu ác thành loài rồng độc ư?". Lại phát nguyện rằng: "Nếu hoa sen này thật sự mọc nơi hồ của cha thì qua thời gian ba tháng chẳng héo tàn rơi rụng". Và liền cất giữ vào trong. Sau ba tháng, hoa ấy vẫn sống tươi tốt như thường. Vua cùng các quan đều tin nhận việc ấy, mở các kho tàng tu tạo việc phước. Vua tôi cùng đến núi Ngô Hưng. Rồng chết bốc mùi hôi thối khắp cùng cả núi. Vua bèn thâu nhặt hài cốt đem về tạo pháp thờ. Trên đảnh pháp bỗng nhiên có phát ra ánh sáng và mây lọng. Trong đó có một vị trời bảo Đại chúng rằng: "Tôi nghe kinh Pháp Hoa, giúp cho duyên ngày xưa, nên lìa khổ được vui". Hỏi: "lại sinh ở xứ nào?". Đáp: "Sinh ở thế giới màu vàng ròng". Và liền nói bài kệ rằng:

"Chúng sinh sau khi Phật diệt độ
Được nghe bốn câu kệ Pháp Hoa
Văn-thù thuận theo chẳng bỏ rơi
Theo nguyện liền sinh cõi màu vàng".

Nói bài kệ xong, liền biến mất không còn thấy nữa (Đồng tập).

Người nữ ở bên cạnh hồ Tầm Dương:

Bên cạnh sông hồ Tầm Dương có một khách nữ đã già, không biết là người xứ nào, chẳng biết họ tên, rất thích cá thịt, chẳng biết nhân quả, buôn bán cá mú, tham thâu lấy lợi ấy để làm sự sống. Ngoài ra không có nghề nghiệp gì khác, suốt một đời luống qua, mất lợi ở nhân gian, khi chết thần thức đến chỗ vua Diêm-la. Vua hỏi: "Lúc sống ở cõi người, ngươi tu nghiệp thiện gì?". Người nữ ấy im lặng không trả lời. Vua lại hỏi: "Ngươi hoàn toàn không có được một việc lành gì hay sao?". Người nữ ấy nhớ xưa đang lúc tìm cá thịt ra chợ, gặp lúc mây ùn giăng bủa, mưa bão trút xuống, sông hồ đầy nước, không thể trở về nhà được. Suốt nửa ngày dừng ở một ngôi nhà ở bờ hồ, nghe giảng kinh Pháp Hoa. Đó chẳng phải việc lành lớn ư? Nên liền đem việc ấy trả lời vua. Vua bảo: "Là việc thiện rất vi diệu! Nay thả ngươi về lại chốn nhân gian. Nhưng chỗ ngươi chịu khổ bởi gây ra tội nghiệp có thể thấy được chăng?". Người nữ ấy đáp: "Không thấy". Vua kêu một vị minh quan dẫn người nữ ấy đi đến bờ biển, thấy ở bờ biển có hàng ngàn người bắt cá đều bị dây sắt trói cổ, gông cùm xiềng xích trói buộc đeo mang khắp thân, từ giữa hư không có bánh xe lửa tuôn xuống thẳng đến trên đầu tội nhân, bánh xe lửa vào thân chỉ chốc lát đốt cháy hết, chết sống tạm thời hơn ba mươi lần, mỗi lần đều kêu gào rằng: "Khổ thay! Chúng tôi xưa tha hồ giết hại sinh mạng mà sống, nay mạng chúng tôi phải chịu khổ lớn". Kêu than như thế rồi ngã quỵ xuống đất. Các ngục tốt tay cầm mũi dao bén nhọn cắt xẻ thân thịt, bẻ gãy xương cốt phá tủy, ăn gặm xong rồi, nhả xương ấy ra thì sống lại như cũ. Người tội chịu khổ như thế có vô lượng vô biên. Minh quan bảo người nữ ấy rằng: "Ngươi nên đến chỗ ấy hỏi họ do tạo nghiệp gì mà chịu khổ não như thế?". Người nữ ấy kinh sợ không dám hỏi. Minh quan liền hỏi họ: "Các ngươi do tạo tội nghiệp gì mà chịu khổ như thế?". Các tội nhân đáp rằng: "Chúng tôi vì ngu si nên giết hại cá rùa mà ăn, buôn bán cá thịt để cầu lợi mà sống, vì thế nên phải chịu khổ này". Theo thứ lớp như thế xem xét khắp cùng, thấy có một ngục tốt không hành trị người tội, Minh quan liền hỏi: "Vì sao ngươi đến tay không, chẳng hành trị người tội?". Ngục tốt ấy đáp rằng:

"Ở bên cạnh hồ Tầm Dương có một lão nữ đáng lẽ sẽ bị trị tội nghiệp ở xứ này, nhưng vì lão nữ ấy y cứ có nghe giảng kinh Pháp Hoa nên thoát khỏi chốn địa ngục, vì vậy tôi đang ngồi tay không". Người nữ ấy liền cất tiếng xưng niệm: "Nam-mô Diệu Pháp Liên Hoa kinh", nghe lời ấy rồi, vô số người tội bỗng nhiên không còn thấy nữa. Minh quan cùng người nữ ấy trở lại tấu trình với vua, vua bảo: "Ta rất vui! Ta rất vui! Sai ngươi dẫn đi xem người thọ tội chịu khổ, các người tội ấy nghe được lời diệu pháp, liền diệt tội mà sinh lên cõi trời. Ngươi trở về lại nhân gian, nên bảo cho mọi người ở đầu sông biết rõ về mọi quả báo nghiệp lành…". Người nữ già ấy sống lại đối trước mọi người ở đầu sông kể lại việc ấy, đích thân truyền nói sự thật ấy.

Vị Sa-di ở huyện Lễ Tuyền thuộc Ung Châu:

Từ Cao Tư ở huyện Lễ Tuyền có một con, trai mới bảy tuổi, xin thọ trì năm giới làm Sa-di. Sa-di ấy kinh thờ các vị Đại đức, có một thầy tướng thấy Sa-di ấy bèn bảo rằng: "Sa-di này rất tự đủ, chỉ có thọ mạng quá ngắn ngủi". Cha mẹ nghe thế, vô cùng lo buồn. Vị Sa-di ấy theo duyên đến một huyện gần đó, gặp lúc trời mưa nên vào trong tịnh xá, có một vị Sa-môn đang tụng kinh Pháp Hoa, Sa-di ấy nghe kinh sinh tâm vui mừng thưa với vị Sa-môn ấy rằng: "Con giả từ cha mẹ, sắp theo thầy làm học trò". Đến lúc mưa dứt vị Sa-di ấy ra khỏi chùa trở về nhà, thời gian đã trải qua ba ngày, vị thầy tướng hôm trước vẫn hiện còn ở tại nhà, thấy Sa-di ấy trở về liền hỏi rằng: "Ngươi đã được chánh thọ mạng ngoài chín mươi tuổi, có thuật lạ gì thế?". Vị Sa-di ấy bảo: "Tôi nghe tụng kinh tâm sinh ưa thích, ngoài ra không có việc gì khác". Vị thầy tướng ấy bảo: "Lành thay! Kinh giáo Đại thừa có năng lực không thể nghĩ bàn, nhờ nghe mà kéo dài tuổi thọ!"

Con chó và con khỉ của Sa-môn Pháp Lãng ở Nam Dương:

Sa-môn Thích Pháp Lãng, sư còn một tên khác là Tăng Lãng, họ Hứa, người ở xứ Nam Dương. Năm hai mươi tuổi, Sư muốn được xuất gia, sau đó dự phần xuống tóc, nương náu không nơi cố định, Sư thường ở tại Ngạc Châu. Hình dáng tuy đồng như thế tục, mà đặc biệt có kỳ tướng, uống ăn đồng như thế tục nên mọi người ở thời bấy giờ đều xem thường.

Sư thường nuôi một con khỉ và một con chó tướng trạng to lớn đều màu vàng đỏ, chẳng quen lờn với những người khác, chỉ nương náu nơi Sư, Sư đêm đi theo không hề tạm lìa xa. Như đến lúc ăn thì dùng bát gỗ mà ăn. Sư ăn no rồi thức ăn còn thừa đều cho ăn chung trong một bát. Ăn xong khỉ liền đội lấy bát cưỡi lên trên lưng chó cứ hướng trước Sư mà đi, như có người muốn cướp đoạt liền gầm gừ cắn. Sư mặc tình để chó dẫn đi quanh lược không độ thường.

Khoảng cuối đời Trần, đầu đời Tùy, Sư đến ngoài Giang Lãnh, chương phục thô tệ, oai nghi thoát ngoài tường tự, chỉ roi gậy mà đi không, gìn giữ nuôi dưỡng thân mạng. Bấy giờ, Sư lại đọc tụng các kinh điển, chỉ lấy kinh Pháp Hoa làm chí nguyện, vốn thiếu hụt hơi tiếng, nhả lời chẳng dồi dào, mới khiết tịnh phát thệ nguyện trì tụng, mỗi lần ngồi Sư tụng đến bảy biến, như thế chẳng bao lâu, lời tiếng như sấm động, biết là do phước lực mà có tiến triển. Sư trì tụng thì lấy số bảy làm hạn định, cho đến bảy mươi biến, bảy trăm biến, bảy ngàn biến và đến cả bảy mươi ngàn biến, thanh vận hài hòa thỏa sướng, mặc tình mà trông khởi các loại, các âm thanh đàn sáo tùy theo tỏa phát rõ ràng. Nên lúc Sư tụng kinh, người xem nghe bên cạnh đều lặng lẽ, môi mép Sư chẳng may động mà âm thanh trầm bỗng phát khởi từ cổ họng, xa gần đều rõ ràng thấu suốt, do đó mà Sư nổi tiếng. Nhưng cánh tay bả vế và tay co duỗi đều mặc tình mà có, như lúc rùa thụt ẩn thì đồng một cục thịt nhóm họp. Hoặc có lúc Sư đến quán rượu ăn nhậu với mọi người, mà thịt heo Sư ăn chẳng thể lường biết từ đâu. Nên ở trong đời có lời tương truyền rằng: "Pháp Hoa Lãng (Sa-môn Pháp Hoa Lãng tụng kinh Pháp Hoa)", đồng một lúc cả năm nơi rút thịt heo đầy cả miệng. Hoặc có lúc Sư tuần du nơi sông nước đi ngược dòng, Sư chỉ khoanh tay đứng trong thuyền, khỉ và chó đều ở bên cạnh, hoàn toàn không có mái chèo, tùy ý chỗ ngài muốn đến, tuy vượt băng cả sóng gió, nhưng trong khoảnh thời gian chỉ nháy mắt liền đến nơi.

Về sau, con khỉ và con chó ấy chết, có người mộng thấy nói là con khỉ và con chó ấy là bạn thân kiếp trước của Sư, nhờ nghe kinh Pháp Hoa nên khi xả bỏ thọ mạng được sinh lên cõi trời. Súc sinh còn quen với người trì kinh nghe tiếng tụng kinh mà sinh lên cõi trời. Huống chi là con người ư?

Đời sống trong tịnh xá Hành Đường ở Thường Sơn đời Tùy:

Trong tịnh xá Hành Đường ở Thường Sơn có mấy mươi con dơi sinh sống. Có vị Sa-môn đến dừng nghỉ qua đêm trong chùa, trì tụng kinh Pháp Hoa, dơi ưa thích nghe pháp âm nên nương náu vào vách tường, vách tường bỗng nhiên sụp đổ, đồng một lúc đàn dơi đều chết, vị Sa-môn ấy thấy dơi chết như thế bèn chú nguyện rằng: "Các ngươi đã được nghe kinh Pháp Hoa sẽ được sinh lên cõi trời". Sau đó ba ngày vị Sa-môn ấy mộng thấy có mấy mươi vị trời thân phát ra ánh sáng đến bái kiến mà nói rằng: "Chúng tôi ở trong ngôi chùa này được nghe kinh pháp, sau khi xả bỏ thân mạng được sinh lên cõi trời thứ tư? Vì có nhân duyên xưa, nên đến từ giã!". Vị Sa-môn ấy lấy đất trong chỗ chôn dơi phía trên đó xây tháp, xưng gọi đó là tháp dơi vậy.

Con khỉ già núi Hổ Khâu ở Ngô Quận đời Tùy.

Cuối đời Tùy có một vị Sa-môn du hóa, không biết danh hiệu Sư là gì, vào trong núi Hổ Khâu trì tụng Pháp Hoa suốt một mùa hạ, chín tuần (ba tháng). Trong núi đó có đàn khí hơn trăm con, trong đàn khỉ có một con khỉ già thân mình và đuôi toàn màu trắng. Qua mấy ngày không mở miệng kêu một tiếng nào, đứng yên bên cạnh trên cây lắng nghe tiếng tụng kinh, đến đêm tối vẫn còn ở trên cây chẳng đi chỗ khác. Tới sáng sớm thấy con khỉ già ấy bị rơi mà chết. Vị Sa-môn ấy khởi tâm buồn thương nên chú nguyện cho, lấy đá chất lên mà chôn. Qua thời gian sau lúc ban đêm đang tụng kinh, gần đến canh ba, giữa hư không có tiếng nói rằng: "Tôi là con khỉ già đây, do nhờ năng lực nghe pháp nên được sinh lên tầng trời thứ hai, vì muốn đáp ân đức ấy nên xuống lại đây, xin dâng cúng đại sư mười hạt ngọc". Nói lời ấy rồi, sau đó im bặt. Đến sáng sớm ngày hôm sau thấy các hạt ngọc ấy hiện có trước hang, vị Sa-môn ấy nhặt lấy làm trục kinh, trong đêm tối phát ra áng sáng, đem kinh đặt vào hang đá, từ xa trông thấy trên hang đá có ánh sáng, mà đến gần thì biến mất.

Quỷ đói ở nước Nguyệt Chi do Bồtát Tô-ma-da nhìn thấy:

Xưa, tại nước Nguyệt-chi có Bồ-tát truyền pháp Đại thừa, hiệu là Tô-ma-da. Sư truyền trì kho báu lớn Đại thừa, thầy trò cùng răn dạy giáo hóa, trong thế tục ở nước Nguyệt-chi xưa kia có Bồ-tát Đại Đề Bà dẫn các đệ tử đi khắp các nước, đến biên giới nước Sư Tử, dọc theo bờ biển đi thẳng đến trước, giữa đường thấy năm trăm quỷ đói, bỗng nhiên mỉm cười. Bồ-tát bàng hoàng chẳng tiến tới, các đệ tử đồng lấy làm lạ hỏi lý do, Bồ-tát đáp rằng: "Ta thấy năm trăm quỷ đói khốn cùng thiếu thốn chẳng nghe thức ăn uống, thấy ta đi tới mà rơi nước mắt cầu xin cứu giúp", Bồ-tát liền hỏi: "Các ngươi ở bờ biển này đã bao lâu?" Quỷ đói đáp: "Không còn nhớ biết về thời gian là bao nhiêu, chỉ thấy nước ở biển đây bảy lần vơi bảy lần đầy". Bồ-tát nói: "Sinh tử không ngằn mé, các người biết thời gian là bao nhiêu?".

Và Bồ-tát lại hỏi: "Từ trước trở lại uống ăn như thế nào?". Quỷ đói đáp: "Chúng tôi được chút ít nước dãi xúc chạm vào môi miệng đến nay đã trải qua bảy trăm năm. Trong thời gian lâu dài tìm kiếm thức ăn không được, nếu có được chút ít nước tiểu, vừa thấm vào miệng thì biến thành than lửa". Bồ-tát lại hỏi: "Chịu khổ như thế nào?". Quỷ đói đáp: "Mọi thức đau khổ phải chịu không thể nói hết, như nội trong một ngày chịu khổ có ba thời khác nhau, lúc sáng sớm có nhiều binh lính Diêmla dùng viên sắt cháy nóng đưa ngậm vào miệng, dùng gậy sắt để đánh đập, thân thể biến thành than lửa từng phần từng đoạn tan nát hết, bỗng nhiên có cơn gió mát thổi đến thì sống lại như cũ". Và binh lính Diêm-la liền tức hận nhả lửa mắng trách rằng: "Các ngươi xưa kia tham ăn, ăn uống riêng một mình, nay ăn nuốt các viên sắt nóng mùi vị có ngon chăng? Quát mắng quở trách xong bèn bỏ đi, chúng tôi thân tâm khổ não, muôn vạn lần chết muôn vạn lần sống. Đến giữa ngày có trăm ngàn quân lính kỵ cưỡi đi đến, quân lính bộ tạp dịch, dùng vạc sắt đựng đầy nước đồng sôi mang đến và trước lấy gậy sắc nhọn đến đánh vào đầu chúng tôi, buộc ngồi nơi bờ biển, tiếp theo kẻ sứ kéo vạc đến rưới nước đồng sôi vào miệng và nói: các ngươi phỉ báng đại nhân, riêng mình ăn uống không bố thí, nay nuốt nước đồng sôi có mùi vị gì chăng? Khi đó quân lính kỵ cưỡi rất nhiều rượt đuổi ngựa giỏi dùng tên lửa mà bắn như bắn quân địch ở nhân gian, trúng độc tên lửa lần lượt té xuống đất, bỗng nhiên gió mát thổi đến thì sống lại như cũ. Đến tối thì có trăm ngàn chó sắt chim sắt chồn sói v.v… chạy đến, răng nanh như mũi nhọn, gầm gừ rượt đuổi đấu tranh xé kéo gặm ăn nhai nuốt đến sáng mới tan, các thứ khổ như thế đó chỉ một trong trăm phần, chẳng thể nói hết, xin nguyện từ tôn che chở cứu giúp". Bồ-tát lại bảo rằng: "Các ngươi tự tạo nghiệp thì tự chịu quả báo, làm sao năng lực của người khác có thể cứu nỗi?". Lại hỏi: "Các ngươi có nhớ hạnh nghiệp của mình ở kiếp trước chăng?" Quỉ đói đáp: "Do nhờ năng lực của Ngài nên nhớ biết hạnh nghiệp đời xưa đã gây, người tôi trong vô lượng kiếp trước từng làm chúng xuất gia, chẳng trì tịnh giới, chỉ lo gìn giữ sự nghiệp ruộng vườn, keo lận tham lam không bố thí, nếu có được thức ăn mùi vị, bèn ở chỗ vắng ăn riêng, đánh đuổi chim chó, nên sau khi chết phải chịu quả báo này". Bồ-tát sinh tâm thương xót vì phân biệt giảng nói các pháp sâu mầu như kinh Diệu Pháp Liên Hoa… năm trăm quỉ đói trong mắt ứa lệ vui mừng, hoan hỷ tự an vui. Bồ-tát bèn cùng các đệ tử đồng đi theo đường trước mà đi đến nước Sư Tử, ban đêm dừng nghỉ ở đình trống, vào canh ba có năm trăm vị trời vào nơi đình trống, mỗi vị cầm theo một hạt ngọc quý cúng dường Bồ-tát rồi thưa rằng: "kính bạch Đại sĩ, chúng tôi là các quỉ đói ở bờ biển, nhờ nghe pháp lành mà được sinh lên cõi trời, nghĩ nhớ ân đức được nghe pháp đó nên đem phước từ trên trời đến dâng cúng đầu tiên ở đây". Và liền trở lại cõi trời, Bồ-tát liền tự tay ghi chép nhân duyên, đề hiệu là "Cứu ngạ quỷ (quỷ đói) ký".

Xử nữ ở Tầm Dương:

Vào khoảng niên hiệu Tổng Chương (668-670) thời Tiền Đường, có vị Sa-môn người nước ngoại tên là Đạt-ma-bạt-đà, Hán dịch là "Pháp Hiền". Sư không nại bất cứ việc gì, đi đến Tầm Dương dung nghi đỉnh đặc, sắc mạo khôi ngô, trì tụng các kinh Đại thừa như Pháp Hoa v.v…, có đến ba mươi ngàn bài kệ, âm thanh ái nhã, mọi người đều ưa thích. Bấy giờ, có một xử nữ hình mạo rất xinh đẹp, giải đủ sáu mươi bốn hình thái, mới đầu vừa trông thấy Sư liền sinh tâm ái nhiễm, giữa đêm thanh vắng đến gần chỗ Sư, Sư đang trì tụng kinh Pháp Hoa phẩm Đề-bàđạt-đa nơi phần văn nói về cung nữ, xử nữ ấy tuy chẳng hiểu về tiếng Phạm, nhưng nghe tiếng tụng kinh liền phát tín tâm, dừng dứt tâm ô nhiễm mà trở về. Khi ấy gặp lúc nước biển có sóng gió, thuyền bị đắm, có một người nam vớt đưa xử nữ đặt trên bờ, không bị ướt trang phục. Đến đêm tối, mộng thấy người nam ấy bảo rằng: "Người nghe kinh Pháp Hoa phẩm Đề-bà-đạt-đa, phát tâm thanh tịnh kính tin nên thoát khỏi nạn chìm đắm. Nếu tu hành thì chẳng còn thọ nhận thân nữ". Xử nữ ấy sau khi thức giấc, buồn vui lẫn lộn tìm đến chỗ vị Sa-môn ấy (ĐạtMa-Bạt-Đề) để sám hối lỗi lầm, nhưng chẳng biết Sư đã đi đến xứ nào, đã nhàm chán thân nữ bèn xuất gia làm ni đến núi Ngũ Đài để tu tập. Đó tức là Tỳ-kheo-ni Không Tuệ.

Luận sư Tỳ-mạt-la-mật-đa ở Tây Vức:

Xưa, ở Tây vực có vị Đại luận sư tên là Tỳ-mạt-la-mật-đa, Hán dịch là "Vô Cấu Hữu". Sư là người nước Kế-tân, đến xuất gia trong Tát-Bà-Đa-Bộ, học rộng nghe nhiều gồm thông nghĩa sâu kín của ba tạng. Nên đi khắp năm xứ Ấn-độ, nghe học các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát-nhã v.v… nghĩa lý rất sâu mầu, bèn sinh tâm bất nhẫn than rằng: "Luận chủ Thiên Thân tha hồ phá bỏ tiểu nghĩa, mở mang pháp Đại thừa, mạn ra các luận Thập Địa, Pháp Hoa… làm khuất mờ bản Tông Tát-bà-đa-bộ. Tôi đến khắp năm xứ Ấn-độ, tham cứu cội nguồn của bản tông đều đã biết, sẽ soạn ra các bộ luận để xóa bỏ kinh điển Đại thừa, diệt bỏ danh dự của Thiên thân, chỉ có một tông Tát-bà-đa hưng thịnh truyền bác ở Diêm-phù-đề, khắp ca bốn biển đều quy hướng cung kính". Nói lời ấy rồi, bỗng phát sinh cuồng loạn, năm chiếc lưỡi nặng nề đồng một lúc xuất hiện ra, máu nóng tuôn trào đầy mặt, biết là thọ mạng của mình đã hết nên luận sư mới dốc sức sám hối lỗi lầm, nói rằng: "Đại thừa là giáo điển rốt ráo, lý vị sâu xa khó thể tin hiểu. Ta vì ngu si nên khởi tâm trí tà vọng, ức chế muốn phá bỏ Đại thừa, diệt hủy luận sư Thế Thân cho nên nói như vậy. Kính cáo với tất cả mọi người tập học xét xem ngay hiện tại, mỗi người tự cẩn trọng chỉ ý của mình, chớ có tâm nghi ngờ phỉ báng". Ngay lúc đó đất rung chuyển rời xé ra, thân hoại mạng chung. Ở chỗ qua đời lấp vùi làm thành hố sâu, lại bậc hiền thánh thấy vậy than rằng: "thật đáng thương thay! Luận sư chỉ vì ba tấc lưỡi hủy báng Đại thừa, mà hiện đời này mọc ra năm chiếc lưỡi, tính chấp lớn mạnh sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, chẳng khác gì Điều-đạt". Các đệ tử vì luận sư mà sám hối, thiết trai cúng dường, khen ngợi giáo nghĩa Đại thừa. Luận sư ứng hiện mộng báo rằng: tôi muốn phá bỏ Đại thừa, nên đọa vào địa ngục A-tỳ, nhưng nghe được các đại nghĩa của kinh Pháp Hoa… nên lửa thiêu đốt nóng như khô suối nước ở nhân gian, ở địa ngục giảng nói nghĩa pháp màu như Bồ-tát Đà-la-ni… người nghe được thoát khổ, Diêm ma Thiên tử mời ra khỏi ngục nên ở lại giảng pháp. Như nghe pháp Đại thừa gieo vào tạng thức vừa vào vừa ra lại chẳng bao giờ trở vào cho nên như vậy. Các ngươi hãy siêng năng tu tập theo pháp Đại thừa, chớ tự nghi ngờ hối hận". Các đệ tử xây tháp, để thờ xá lợi.

Ni sư Trí Thông:

Ni sư Trí Thông xuất gia từ thuở thiếu thời chùa Giản Tỉnh ở Kinh Đô, tin đạo chưa thuần. Vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ chín (432) thời Tiền Tống. Người thầy thị tịch, thì bèn bỏ đạo đi lấy chồng làm vợ của Ngụy Quận Lương Tê phụ sinh được một đứa con trai, lớn lên khoảng năm, sáu tuổi, vì gia đình rất mực nghèo cùng không có gì làm áo mặc. Khi xuất gia làm ni, Trí Thông có mấy quyển kinh Vô Lượng Thọ, Pháp Hoa… bằng lụa bèn đem luận đầm, dùng làm áo cho đứa con mặc, được một năm thì bị bệnh hoảng hốt kinh sợ, khắp cả thân thể lở loét thối rữa, tướng trạng như vết bỏng lửa, có giòi màu trắng nhỏ nhiệm thường ngày trồi ra tràn lên, thảm thiết phiền độc, ngày đêm gào khóc, thường nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: "phá hoại kinh làm áo mặc nên phải chịu quả báo quả dữ như thế". Hơn tuần sau thì đứa con ấy chết (Pháp Uyển q.18 nói xuất xứ từ Minh Tường ký).

Sa-di Vân Tạng:

Sa-di Vân Tạng xuất gia từ thuở thiếu thời, truyền trì các kinh A-hàm, giữa đạo nghèo thiếu thốn y phục, lại gặp mùa đông khí lạnh, thân cóng lạnh khổ, vào tịnh xá cũ, thấy có được năm, sáu quyển kinh Pháp Hoa liền lấy giấy làm y phục, mọi người thấy mà lạnh lòng, chưa qua khỏi cuối đông bỗng nhiên phát bệnh cùi, lông mày đều rơi rụng, có những vết thương nhỏ khắp mình, mới đầu chỉ như hạt thóc, dần lớn như hạt đậu, trong vòng bảy ngày khắp thân đều vừa nát mà qua đời. Có người thấy vậy than rằng: "Thật đáng tiếc thay Vân Tạng, khinh hủy kinh điển Đại thừa, làm tổn mất lợi ích cả hai đời".

Thích Hiếu Từ ở chùa Từ Môn:

Thích Hiếu Từ tuổi khoảng năm mươi, từ thuở niên thiếu đã nương theo thiền sư Tín Hạnh, giảng nói Tam giai Phật pháp, chuyên tu khổ hạnh, thường khất thực làm nghiệp chánh, ngày đêm sáu thời lễ sám đắp mặc y phấn tảo, tùy các chỗ đến đều thường giảng nói Tam giai Phật pháp, khuyên dụ các người thế tục. Mỗi lúc giảng giải Tam giai Phật pháp, thường nói không hợp với tán tụng kinh điển Đại thừa, nếu người đọc tụng sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ ở mười phương, cần gấp sám hối.

Sau đó, có một thời gian Hiếu Từ đi đến Kỳ Châu, giảng nói Tam giai Phật pháp, bấy giờ có một vị Ưu-bà-di thọ trì kinh Pháp Hoa lại khuyên những người có duyên tụng trì kinh Pháp Hoa, Hiếu Từ khuyên các Ưu-bàdi thọ trì kinh Pháp Hoa ấy rằng: "Các ông thọ trì kinh Pháp Hoa mà không hợp với căn cơ, sẽ đọa vào địa ngục, xin khuyên nên bỏ trì tụng". Do đó có mấy vị Ưu-bà-di bỏ việc tụng kinh. Khi đó, Hiếu Từ ở trong chúng sám hối trì tụng kinh Pháp Hoa tội ấy đứng đầu, vị Ưu-bà-di khuyên người trì tụng kinh Pháp Hoa trong tâm sinh khởi bất nhẫn, bèn ngay ngày đó thiết trai hội, lớn trong lúc Hiếu Từ vì chúng giảng nói về Tam giai Phật pháp, khi ấy dưới tòa có cả muôn người cùng, vị Ưu-bà-di ấy ở trong đại chúng đốt hương phát nguyện: "nếu chúng con (…) thọ trì kinh Pháp Hoa chẳng hợp với ý Phật, thì nguyện cho chúng con… ngay thân này bị bệnh xấu ác, để khiến đại chúng cùng biết thọ trì kinh Pháp Hoa bị chịu tội báo như thế, lại nguyện thân này bị vùi lấp vào địa ngục A-tỳ, nguyện cho đại chúng đều nhìn thấy. Còn nếu chúng con (…) thọ trì kinh Pháp Hoa hợp với ý Phật thì thiền sư cũng mắc phải như thế". Đang lúc vị Ưu-bà-di ấy phát thệ nguyện đó, thiền sư Hiếu Từ bị thần đánh, tắt tiếng không thể nói năng, trên tòa cao ở phía Tây vị xướng tập lục cũng mất tiếng, không thể nói năng, phía dưới cũng có năm vị thiền sư già cũng mất tiếng không thể nói được. Những người trước đó đã bỏ việc trì tụng kinh Pháp Hoa, và có vài người do đó đã phát tâm trì tụng kinh Pháp Hoa lại càng sinh tâm kính trọng.

Nàng hầu của vị Ưu-bà-tắc ở Tương Châu thời Tiền Đường:

Ở Tương Châu có một vị Ưu-bà-tắc gia đình rất giàu có, nuôi dưỡng hai người nữ lấy làm vợ chánh vợ hầu. Người vợ chánh tâm tánh từ bi nhân nhượng, đặc biệt thọ trì phẩm Đề-bà-đạt-đa kinh Pháp Hoa, suốt đêm ngày không phế bỏ. Người vợ hầu ghét ganh càng ngày lớn mạnh, thường lén để ý những khuyết điểm của người vợ chánh. Trong lúc đi vắng, người vợ hầu vào phòng người vợ chánh, sân hận dùng chân phải giẫm đạp lên kinh, sau khi trở về phòng ngủ của mình, người vợ hầu trên đầu đau nhức, ba ngày mới chết, ở ngực còn chút hơi ấm. Người nhà chán ghét tật xấu ấy, chẳng tẩn liệm an táng. Qua một ngày một đêm sau mới sống lại, người vợ hầu đối trước người vợ chánh mà nói rằng: "Tôi vì ngu si ganh ghét người, xem thường giẫm đạp lên kinh mà người thường trì tụng, bị Diêm Vương quở trách, có hai sứ quan rượt đuổi tôi đến chỗ vua răn trừng tội ác, dưới chân tôi có đường vân màu vàng ròng, vua thấy thế, vui mừng bảo: "đó là văn kinh Pháp Hoa phẩm Đề-bà-đạt-đa, ngươi dùng chân phải đạp lên văn kinh, văn dời sang thân mà cứu ngươi, ngược lại được lợi ích, cho nên nói để biết ứng nghiệm. Vì nhân duyên đó nên được thả trở về sống lại". Lộn ngược vào đất trở lại y cứ nơi đất mà dậy. Nay đối cùng người xin sám hối, chẳng nhớ những lỗi xưa". Bà bèn xuất gia làm ni, không biết về sau như thế nào.

QUYỂN 10

XII-Y chánh cúng dường, có phụ thêm cúng dường pháp.

1- Thích Tuệ Thiệu.

2- Thích Tuệ Ích.

3- Thích Pháp Quang.

4- Thích Đại Chí.

5- Thích Thông Hội.

6- Tỳ-kheo-ni.

7- Thư sinh ở phía Tây thành Tinh Châu.

8- Thích Tăng Du.

9- Mười thứ cúng dường.

10- Lợi ích cúng dường.

11- Trời Diệu Hoa.

12- Trời Bảo Anh. 13-Bà lão.

14- Ưu-bà-tắc.

15- Thích Tăng Đạt.

16- Cúng dường Pháp.

17- Tỳ-kheo Vô Hành.

Thích Tuệ Thiệu chùa Chiêu Đề ở Lâm Xuyên thời Tiền Tống:

Thích Tuệ Thiệu không biết họ gì. Thuở bé, mẹ mớm cho ăn các thứ cá thịt, thì sư liền nhả ra, còn rau lá thì không sao, từ đó bèn ăn rau quả. Đến năm tám tuổi sư bèn xuất gia làm tăng. Về sau theo sự yêu cầu sư bèn đến trụ chùa Chiêu Đề ở Lâm Xuyên trì tụng kinh Pháp Hoa. Mỗi lúc tụng đến phẩm Dược Vương, sư thầm có ý muốn thiêu thân, thường thuê người đốn củi chất cao mấy trượng ở động đá ở Đông Sơn, ở giữa mở thành cái khám đủ để chứa thân mình, mới trở về lại chùa xếp đặt hết mọi việc cần thiết. Đến ngày thiêu thân, tại Đông Sơn sư lập đại hội cáo biệt, mọi người khắp trong cảnh vức bôn ba xe ngựa tìm đến rất đông và mang lại thứ vàng báu nhiều không thể tính kể. Đến canh một đầu hôm, hành đạo tụng kinh, tự hành hương xong, nắm đuốc châm đốt vào củi và vào trong khám ấy mà ngồi tụng kinh Pháp Hoa phẩm Dược Vương Bản Sự. Mọi người đều không thấy sư, biết là sư đã đi, lễ bái chưa xong đều đến rất đông, trong lửa dữ tiếng tụng kinh vẫn chưa dứt, lửa cháy đến cổ vẫn còn nghe sư xướng nhất tâm, đại chúng đều thấy có một ngôi sao lớn như cái đầu thẳng xuống trong khói, bỗng chốc lại bay lên trời. Bấy giờ mọi người nhìn thấy đều cho là cõi trời đến đón rước ba ngày sau, củi nhóm mới cháy hết. Trước lúc thị tịch sư có nói với bạn đồng hành rằng: "Chỗ tôi thiêu thân sẽ mọc lên cây ngô đồng, xin thận trọng chớ nên chặt phá". Sau khi sư thiêu thân ba ngày quả nhiên có cây ngô đồng mọc ở đó.

Thích Tuệ Ích chùa Trúc Lâm ở Kinh Đô thời Tiền Tống:

Thích Tuệ Ích, là người ở xứ Quảng Lăng, xuất gia từ thuở thiếu thời, theo thầy đến ở chùa Thọ Xuân. Trong khoảng niên hiệu Hiếu Kiến (454-457) thời Tiền Tống, ra thành đô sư trụ tại chùa Trúc Lâm, riêng năng khổ hạnh, tụng thuộc lòng kinh Pháp Hoa.

Mỗi lúc tụng đến phẩm Dược Vương sư rơi lệ than rằng: "Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, được tốt lành muốn thiêu thân". Mọi người nghe thế hoặc khen ngợi, hoặc hủy báng, nhiều lời lẫn lộn. Đến niên hiệu Đại Minh năm thứ tư (460) thời Tiền Tống sư mới bỏ ăn gạo dầu, chỉ ăn bánh bột gạo mè. Đến niên hiệu Đại Minh năm thứ sáu (462) thời Tiền Tống sư lại bỏ ăn cả gạo tẻ… chỉ dùng dầu tô, lại bỏ ăn dầu tô chỉ uống viên hương. Tuy bốn đại suy yếu nhưng tinh thần kính chánh, nên vua Hiếu Võ Đế Lưu Tuấn (454-465) rất mực kinh lạ đến thăm hỏi, ân cần sai Thái Tể Giang Hạ Vương Nghĩa Cung đến chùa can ngăn, sư vẫn giữ chí nguyện không sửa đổi.

Đến ngày mồng 08 tháng 04 niên hiệu Đại Minh năm thứ bảy (463) thời Tiền Tống, sắp đến ngày thiêu thân, sư bèn đến phía nam của Chúng Sơn đặt vạc chuẩn bị dầu. Sáng sớm ngày đó, sư cưỡi xe trâu và nhờ người dẫn từ chùa đến núi. Vì vua là chỗ nương tựa của muôn dân, lại là nơi gởi gắm Tam Bảo, sư mới tự lực đi vào đài, vừa đến cửa Vân Long không thể bước xuống, sư sai người khải tấu rằng: "Tuệ Ích đạo nhân hôm nay xả bỏ thân mạng nên đến cửa cung kính giả từ, rất vì Phật pháp, kính ngưỡng nên kính lụy". Vua nghe thế mặt liền biến sắc, đích thân ra cửa Vân Long. Sư đã gặp vua, lại đem Phật pháp cậy nhờ phó chúc xong bèn từ biệt mà đi, vua cũng tiếp tục theo đến, các hàng hậu, phi đạo, tục sĩ thứ đến đầy cả núi hang, kính dâng y phục, xả thí vật báu nhiều không thể tính kể. Sư vào trong vạc ngồi ở một chiếc ghế nhỏ, dùng các thứ y cụ tự quấn buộc, phía trên lại thêm một cái khăn lớn, tưới dầu vào, sư sắp đến châm lửa, vua bèn sai Thái Tể đến chỗ vạc dầu thỉnh khuyên dụ sư rằng: "Thực hành Đạo có lắm phương cách, vì sao lại tự giết hại thân mạng mình, mong ba lần sư nghĩ lại đi đến đường khác". Chí khí cao nhã sư đã xác định không có ý niệm hối hận, bèn trả lời rằng: "Tấm thân bé bỏng mạng sống tàn tạ này, sao đâu để dòng lưu lại thiện tâm. Thánh từ đã không như vậy, xin độ cho hai mươi người xuất gia", vua liền ban sắc cho phép. Sư bèn tự tay cầm đuốc đốt khăn, khăn đã cháy sư mới vất bỏ đuốc, chắp tay tụng kinh Pháp Hoa phẩm Dược Vương, lửa cháy đến lông mày, tiếng tụng kinh vẫn còn rõ ràng, đến lúc mắt mới mờ tối. Những người sang hèn đều buồn than, âm vang rung chuyển cả hang sâu, không ai chẳng búng ngón tay niệm Phật, sụt sùi đổ lệ, lửa cháy đến sáng hôm sau mới tắt. Khi đó, vua nghe giữa hư không có tiếng kèn sáo và có mùi thơm lạ phảng phất, vua ở lại đó suốt ngày mới trở về cung. Đêm đến vua mộng thấy Sư cầm tích trượng đi đến, lại đem Phật pháp để dặn dò giao phó. Đến sáng ngày, vua lập trai hội, độ người xuất gia, bảo trai chủ bạch rằng: "Đã đầy đủ điềm lành ứng hiện". Tại chỗ Sư thiêu thân, gọi tên là chùa Dược vương để phỏng theo bản sự.

Thích Pháp Quang ở Lũng Tây đời Nam Tề:

Thích Pháp Quang, người ở xứ Lũng Tây, thuộc Tần Châu. Từ thuở thiếu thời, Sư rất có tín tâm, đến năm hai mươi chín tuổi, Sư mới xuất gia chuyên tu khổ hạnh Đầu-đà, chẳng mặc lụa là gấm vóc hay ăn ngũ cốc, chỉ dùng bột lá thông. Về sau, Sư phát nguyện muốn thiêu thân, để cúng dường pháp, mới ăn cao thông và uống các chất dầu suốt nửa năm, đến ngày hai mươi tháng mười năm Vĩnh Minh thứ năm (487) thời Nam Tề, tại chùa Ký Thành ở Lũng Tây, Sư nhóm củi để thiêu thân cho mãn chí nguyện trước. Khi lửa cháy đến mắt, Sư trì tụng kinh Pháp Hoa lời tiếng vẫn còn rõ ràng, mãi đến lúc mờ mịt mới dần im bặt. Sư hưởng thọ bốn mươi mốt tuổi (ba truyện trên đều rút từ Lương Cao Tăng truyện quyển 12).

Thích Đại Chí ở Lô Sơn, thuộc Cửu Giang, đời Tùy:

Thích Đại Chí họ Cổ, người xứ Sơn Âm, Cối Kê. Đến lúc phát tâm xuất gia Sư thờ Đại sư Trí Giả ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Khải (=Giả) thấy Sư hình dáng thần thái sáng sạch cao vượt ngoài vật, do đó bèn đặt tên Sư là Đại Chí, Sư chuyên tu thiền tụng để làm hạnh nghiệp, chánh tu khổ hạnh tiết chế tự chuyên. Tiếng Sư vang khắp bốn phương, không nơi nào chẳng đến, hơi tiếng Sư lắng trong hòa mục, nghi tướng đoan nghiêm đẹp đẽ, nên những người nhìn thấy đều biết Sư chẳng phải phàm khí.

Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười (590) đời Tùy, Sư đến Lô Sơn, trụ chùa Phong Đảnh, chẳng lệ thuộc vào công danh, không tham dự trong tăng chúng, Sư trì tụng kinh Pháp Hoa rõ ràng nhàn nhã, tài năng vượt hẳn lời tiếng trầm bổng trong sáng, khiến người nghe quên cả nhọc mệt. Về sau, Sư đến phía Nam đảnh núi Cam Lộ ở Hoa Sơn tạo dựng đạo tràng Tĩnh quán, chuyên tu Đầu-đà lấy làm chánh nghiệp, chỉ một thân mình mà chẳng trốn lánh đối địch với hổ. Nơi nào có thú dữ độc ác, Sư liền tìm đến đó, nhưng các thú đều trốn lánh chẳng dám làm hại. Ở núi gạo thóc đã hết sạch, suốt ngày Sư quên ăn, hoặc chỉ ăn dùng bánh trái duy trì mạng sống mà thôi. Người ngoài trông thấy đều chẳng chịu nổi sự khổ não ấy, mà Sư vẫn an nhiên, dung mạo nhan sắc vẫn như cũ. Suốt bảy năm, chuyên hành thiền nghiệp không gián đoạn. Về sau, Sư trụ chùa Hội Phước Lâm cũng ở tại núi đó.

Đến gần cuối niên hiệu Đại Nghiệp (617) đời Tùy, khắp nơi đều lắng trừ, Sư lưu lạc ẩn dật, bùi ngùi cho Phật pháp bị lấn lướt đến nỗi như thế, Sư mới đổi sắc phục, hủy hoại hình thể, trên đầu quấn bịt sắc phục hiếu từ, dùng vải bố thô xấu làm áo mặc, vào Phật đường lớn tiếng gào khóc suốt ba ngày ba đêm không dứt. Chư tăng trong chùa an ủi dẫn dụ: "Tôi than bởi nghiệp ác mới đến nỗi này, muốn dùng hình hài này để làm sáng tỏ chánh pháp". Bèn đến Dương Đô, dâng biểu tấu trình rằng: "Nguyện xin bệ hạ hưng hiển Tam bảo, tôi sẽ đốt một cánh tay ở tại Trung Sơn để báo đáp ân đức của nước nhà". Vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) chấp nhận, ban sắc mở trai hội lớn, cả bảy chúng đồng nhóm họp, Sư bỏ ăn ba ngày, lên trên gác lớn, đốt tấm sắt nóng đỏ để áp vào cánh tay khiến cho cháy nám, lại dùng dao cắt đứt, xé thịt cho xương cốt lộ ra, lại áp tiếp xương cốt ấy cho cháy đen, rồi dùng vải bố lót sáp giọt xuống lửa để đốt, ánh sáng chiếu rực khắp cả núi non. Khi ấy cả đại chúng thấy Sư hành khổ như thế đều đau xót cõi lòng thấu cả xương tủy, chân đứng không yên, mà Sư tuy thiêu đốt áp vào lửa nóng nhưng ngôn từ và nhan sắc không thay đổi, nói cười vẫn như lúc đầu. Khi đó, hoặc Sư trì tụng kinh Pháp Hoa, hoặc tán thán công đức của Phật, hoặc vì đại chúng mà giảng pháp, lời tiếng không ngưng. Khi cánh tay đã đốt cháy hết, như trước, Sư xuống gác, suốt bảy ngày nhập định, ngồi kiết già mà thị tịch, khi ấy Sư vừa mới bốn mươi ba tuổi.

Thích Hội Thông ở cốc Báo Lâm núi Chung Nam đời Đường:

Thích Hội Thông người ở xứ Ngự Túc Xuyên, Vạn Niên, Ung Châu. Từ thuở thiếu thời Sư mến chuộng Đạo Kiểm, đi khắp núi rừng khổ tiết giới hạnh, đó là thói quen đoái hoài của Sư. Sư vào cốc Báo Lâm ở núi Chung Nam, trầm ẩn hành nghiệp, đọc tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương, nên mến chuộng đức hạnh, nhàm chán muốn xả thân, chất củi thệ nguyện phải thực hành theo đó. Đến khoảng cuối niên hiệu Trinh Quán (650) đời Tiền Đường, giữa đêm vắng lặng trong rừng, Sư chất củi làm thành hang trì tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương, rồi châm lửa, gió bốc phát cháy, lửa khói đều lớn mạnh, Sư vẫn ngồi kiết già tự nhiên, tiếng tụng kinh vẫn vang, bỗng chốc sau đó từ phía Tây nam có một vầng ánh sáng trắng lớn soi chiếu vào trong nhóm lửa, thân Sư mới ngã. Đến sáng sớm, lửa tắt hết, mới thâu nhặt di cốt Sư, dựng lập tháp bia minh, đến nay vẫn còn.

Hai chị em Tỳ-kheo-ni ở Tinh Châu:

Khoảng đầu niên hiệu Trinh Quán (627) thời Tiền Đường, ở Tinh Châu, có hai chị em Tỳ-kheo-ni đồng trì tụng kinh Pháp Hoa, rất nhàm chán thân, đều muốn xả bỏ thân mạng, tiết giản ăn mặc, kính sùng khổ hạnh, uống ngậm các thứ dầu thơm, dần bỏ ăn gạo thóc, sau dứt hẳn ngũ cốc, chỉ ăn dùng mật thơm, tinh lực vẫn sung mãn, thần chí vẫn sáng sủa. Đồng báo với các đạo tục ấn định ngày sẽ thiêu thân. Đến ngày mồng 08 tháng 02 niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba (629) thời Tiền Đường, ngay giữa đường ngã tư ở Tinh Châu, lập hai tòa cao, dùng vải bố lót sáp quấn buộc thân mình lên đến đảnh đầu chỉ để lộ ra mặt mắt. Mọi người nhóm họp đông như núi, tán thán như mây giăng, hai vị trì tụng kinh Pháp Hoa đến chỗ thiêu thân, người chị trước lấy lửa châm vào đảnh đầu người em và người em lại lấy lửa châm vào đảnh đầu người chị, giữa đêm tăm tối, hai ngọn đuốc đồng một lúc tỏa sáng, lửa cháy đến mặt, tiếng tụng kinh vẫn còn rõ ràng, dần xuống mũi miệng mới tắt. Đến sáng sớm hôm sau cả tòa đều rỗng không, đồng một lúc lửa thiêu đốt hài cốt đều cháy sạch, chỉ có hai chiếc lưỡi vẫn còn, cả đại chúng đồng cung kính tán thán, và dựng tháp cao để thờ.

Thư sinh ở phía Tây thành Tinh Châu.

Ở phía Tây thành Tịnh Châu có một thư sinh khoảng hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, phát nguyện đốt thân cúng dường, bèn gom góp vài bó rơm khô làm thành cái khám, có người hỏi về lý do, thì cố giấu kín không nói. Về sau vào lúc nửa đêm, châm lửa tự thiêu, đến lúc mọi người đến cứu thì lửa đang cháy mạnh và đã chết, nên mọi người bèn chất thêm củi để thiêu hết hình hài ấy.

Thích Tăng Du trụ chùa Chiêu Đề ở Lô Sơn thời Tiền Đường:

Thích Tăng Du họ Chu, người ở xứ Dư Hàng, Ngô Hưng năm hai mươi tuổi ngài xuất gia, hạnh nghiệp tinh thuần.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười lăm (438) thời Tiền Tống, Sư cùng các bạn đồng học như Sa-môn Đàm Ôn, Tuệ Quang v.v… đến ngọn phía Nam núi Lô Sơn đồng dựng tịnh xá đề hiệu là "Chiêu Ẩn". Sư thường lấy làm kết lụy ba đường tình hành sắp tận, do đó thân hình cũng nên vất bỏ, dấu vết của Bồtát Dược Vương riêng sao xa thế? Từ đó Sư thường phát lời thệ nguyện rằng: "Thệ mới khế hợp thiêu thân". Đến ngày mồng ba tháng sáu niên hiệu Hiếu Kiến năm thứ hai (455) thời Tiền Tống, Sư chất củi làm khám, thỉnh chư tăng lập trai hội, báo với đại chúng mà giã biệt. Ngày đó, mây sương tối sẩm, mưa kín buốt lạnh, Sư bèn phát lời thệ nguyện rằng: "Nếu chí nguyện của tôi nhất định rõ ràng thì trời sẽ trong sáng lại, còn nếu không có cảm ứng thì sẽ mưa giàn giụa khiến cho bốn chúng đây biết thần ứng không mờ tối". Vừa nói xong, mây tan sáng tạnh, đến canh đầu hôm Sư vào khám củi, chắp tay ngồi thẳng, trì tụng kinh Pháp Hoa phẩm Dược Vương, khi lửa mạnh đốt đến, Sư vẫn chắp tay không tan. Các đạo tục nghe biết đua nhau chạy đến núi ấy, đều cúi đầu đảnh lễ, nguyện kết nhân duyên, khắp thân Sư phát ra ánh sáng màu tím bay vọt giữa hư không, lâu sau mới biến mất. Lúc đó Sư bốn mươi bốn tuổi.

Mười bốn ngày sau đó trong phòng Sư mọc hai cây ngô đồng cành rễ đều tươi tốt, lớn bé như nhau, cành tốt lớn thẳng, bèn thành cây đặc biệt. Lý Thức cho đó là "cây báu ở Ta-bà", biết rõ Niết-bàn. Sư bèn cản ngăn nên hiện điềm chứng. Do đó, gọi là "Song Đồng Sa-môn".

Có Trương Biện ở Quận Ngô đang nhậm chức Bình Nam Trưởng Lại đích thân đến xem xét sự kiện ấy, và tạo lời truyền tán rằng:

Bài một:

"Dằng dặc huyền cơ
Mịt mờ chỉ đạo
Ra sinh vào tử
Gì là diệu thật".

Bài hai:

"Từ xưa Dược Vương
Khác hóa tuyệt luân
Trước nghe nói thế
Nay thấy người này".

Bài ba:

"Sa-môn hùng tài
Tâm bền định tuệ
Ngừng thần khí tím
Bày vết song thọ".

Bài bốn:

"Đức ấy đáng ưa
Tiết tháo đáng quý
Văn từ mở nói
Thử vụt phảng phất".

9-Ghi về mười thứ cúng dường:

Trong "Tiêu Dao Niên Ký" có nói rằng: "Pháp sư Cưu-ma-la-thập người ngoại quốc bắt đầu từ mùa đông niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ bảy (404) đời Diêu Tần dịch kinh Pháp Hoa mới hoàn tất trọn một bộ gồm bảy quyển hai mươi tám phẩm. Qua tháng giêng năm sau (405) đem bản kinh để xem xét và tạo kinh bản chữ vàng, dùng bảy món báu để trang nghiêm, màu vàng rực cả vườn (tiêu dao), các đạo tục đông như chợ, chiêm ngưỡng lễ bái. Ngài La Thập cảm mộng rằng thiếu mất bốn chữ "một trần một kiếp" (mỗi mảy bụi làm một kiếp), Sư lại xem xét bản Phạm quả nhiên đúng như điềm mộng. Tần Vương rất vui mừng nói rằng: "Pháp sư Cưuma-la-thập rất được ý chỉ của kinh, tốt đẹp hợp với thánh tâm, chỗ chép trước thiếu bốn chữ ấy, tìm xét nơi văn kinh mà tiếp nối", và vua hỏi ngài La Thập rằng: "Trẫm muốn đúng như pháp để cúng dường quyển kinh như thế có bao nhiêu pháp thức?". Ngài La-thập nói: "Nếu muốn đúng như pháp để cúng dường quyển kinh cần phải y theo trong kinh nói, lược có mười thứ cúng dường, một là hoa, hai là hương, ba là chuỗi anh lạc, bốn là hương mạt, năm là hương xoa, sáu là hương đốt, bảy là phan lọng, tám là y phục, chín là kỹ nhạc và mười là chắp tay cung kính".

Vua nói: "Chẳng hay các thứ hương hoa như thế nào?". Ngài La-thập trả lời: "Hương là hương hải ngạn, hương xạ, hương uất viêm, hương tô hợp v.v… dùng hương tinh khiết thanh tịnh, vất bỏ hương bất tịnh, chẳng phải bôi thoa làm cát bụi. Hoa là hoa thủy lục thời như các loại hoa sen v.v…, nếu lúc không có hoa thì dùng bảy món báu làm thành, phỏng định như bốn thứ hoa Mạn-đàla v.v… và thời diệu hoa. Ở ngoại quốc thì dùng hoa sen trắng, hoa duyệt ý v.v… anh lạc là dùng các châu báu làm thành, phỏng định như châu ngọc như ý, châu ngọc ma ni anh lạc, châu ngọc anh lạc v.v… ở ngoại quốc thì dùng trăm thứ tạp báu anh lạc. Hương mạt là bôi xoa rễ cành cây v.v… nếu hoa với nước thì làm hương xoa như trầm thủy v.v…, nếu hợp với lửa thì làm hương đốt như huân hương v.v…, phan lọng là dùng tơ mới sạch thanh tịnh. Ở ngoại quốc dùng tơ ngó sen v.v…, các thứ tuyệt phục như y phục thiện diệu kỷ nhạc tức là dùng đàn, sáo, ống tiêu, ống địch, không hầu v.v… Chắp tay tức là đem tâm cung kính mà cúng, dùng chắp tay như hoa sen, đều dùng nghiêm khiết thanh tịnh nương nhờ ở sự mà tỏ ngộ lý".

Vua lại hỏi: "quả báo ấy như thế nào?". Ngài La-thập đáp: Quả báo thì có xa có gần, gần thì y theo cuộc tình chẳng liên quan đến thiện thể, xa thì được thành tựu quả Phật".

Vua lại hỏi: "Quả cuộc tình gần và diệu quả xa ấy như thế nào?". Ngài La-thập trả lời: "cúng dường như thế quả báo rất vi diệu, chư Phật đều ngợi khen. Vả lại như xưa kia, lúc Đức Phật tại thế, có Tỳ-kheo Chiên Đàn Hương Khẩu, qua chín mươi mốt kiếp ở trong nhân gian và trên cõi trời, các lỗ chân lông trên thân đều thoảng ra mùi thơm Chiên-đàn, trong miệng thường thoảng mùi hương hoa Ưu-bát-la. Đến sau cùng gặp được Phật và chứng tắc quả A-la-hán, thành đạt ba minh, sáu thứ thần thông, đủ tám pháp giải thoát. Đó là do sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi diệt độ, dùng hương cúng dường tháp mà được quả báo như thế. Ở trong thành Ca-tỳla, xưa kia đồng ở trong một ấp làm kỹ nhạc, cầm hương hoa đến cúng dường tháp Phật, nên suốt chín mươi mốt kiếp chẳng đọa vào đường ác, đồng hưởng thọ vui sướng, gặp

Phật thì hết khổ. Có thiên hoa xưa kia lấy hoa cỏ đầm hoang đồng trống tung rải trên chúng tăng, nên sinh ra nơi nào thường có mưa hoa trời. Có Tỳ-kheo Diệu Đức rải hoa héo úa trên tháp, cũng lại như vậy. Tại ngoại quốc có một vị Bà-la-môn phạm ba thứ tội nghịch giết cha, giết mẹ và giết A-la-hán, về sau sinh tâm sám hối, dùng các thứ hương hoa cúng dường kinh sách nên tội cấu dần giảm nhẹ, vì có các nghiệp khác nên tuy đọa vào chốn địa ngục, nhưng với lửa dữ nước sôi đều tự cho như là nước suối ấm, vào trong đó rất vui sướng, nơi thân có mùi thơm lạ. Các tội nhân nghe liền được sinh lên các cõi trời. Có vua Thiện Hoa dùng phan lọng che phủ trên miếu Bích chi Phật, cảm quả hạnh nghiệp làm vua, Tỳ-kheo Hoa Cái dùng lọng cỏ che tháp nên suốt trong chín mươi mốt kiếp, lọng hoa thường che thân mình. Diệu Âm dùng kỹ nhạc cúng dường Phật, cho đến chư Phật ở quá khứ, đều thành tựu quả Phật lúc đầu mới phát tâm dùng một cành hoa một cây hương để cúng dường Phật, như ngàn Đức Phật trong hiền kiếp thì như Đức Như Lai Chấp

Hoa từ Đức Phật Duyệt Ý, lúc mới phát tâm, đem y phục tốt đẹp và các thứ danh hương dâng cúng Đức Phật đó, nhờ đó mà được thành Chánh giác. Đức Thiện Tư Như Lai từ Đức Phật Phổ Quán, lúc đầu mới phát tâm, hái một cành hoa sen dâng cúng lên Phật ấy, nhờ đó được thành Chánh giác. Đức Hiền Trọng Như Lai từ Đức Phật Đại Thanh Hỷ dâng cúng các thứ tạp hương, nhờ đó mà đạt thành Chánh giác. Đức Nhàn Tỉnh Như Lai từ nơi Đức Phật Vô Thượng, lúc mới phát tâm dâng cúng chuỗi châu anh lạc, từ đó mà thành Chánh giác. Các thứ quả báo đạt được xa gần như thế không thể nêu hay ghi chép đầy đủ, huống chi đối với kinh Pháp Hoa mà về cúng dường, dùng trí tuệ Phật còn không thể biết được ngằn mé công đức ấy!".

Vua nghe nói như thế, tâm ý khai mở, điều đặt các thứ cúng cụ, nghiêm tịnh đường sá, rải hoa rưới nước, vua tôi đại chúng cao bày ở đường lớn, dùng hòm vàng để đựng kinh, tôn trí trên bàn, vua tự mang đội trên đảnh đầu, có ba ngàn vị Tỳ-kheo khen ngợi dẫn trước, an tường tu hành vào chùa lớn, dùng mười thứ cúng dường mà cúng dường, có các vì sao hiện lại cưỡi mây ở giữa hư không, người thấy rất nhiều, có mây lọng năm màu mù mịt rũ bủa trên Tiêu Dao, hiện tiền chưa từng có. Bấy giờ đang là ngày 15 tháng có trăng (rằm), lúc vào đêm Tần Vương và hậu phi, vương mẫu, thể nữ đều ở trong tịnh thất bên cạnh Phiêu Kinh Quán. Vua tự mộng thấy đất ở vườn Tiêu Dao như rộng thoáng trang nghiêm cõi tịnh. Bồ-tát Văn-thù ở đó mở cao đề mục, đại chúng Bồtát từ chín phương đều đến, bày các thứ cúng dường khắp cả chín phương. Vua thưa việc ấy với ngài La-thập. Ngài La-thập bảo: "đó là do đức tin của bệ hạ mà cảm nên. Đại giáo Pháp Hoa rất có duyên với nước này. Từ sau khi Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn diệt độ, cảm ứng như thế thật là hiếm có. Đến sáng ngày hôm sau mỗi việc tự tan. Ngài La-thập khen rằng: "Đây là Phật sự thứ ba ở Diêmphù-đề" (văn ghi rất rộng, đấy chỉ nắm lấy ý mà nêu).

Sau khi Đức Thích Tôn diệt độ, người thọ trì cúng dường kinh điển đến lúc Đức Di-lặc ra đời sẽ được lợi ích:

Trong "Pháp Trụ Ký" nói rằng: "Đức Dilặc Như Lai thành Đẳng chánh giác rồi, vì các chúng Thanh văn lập nên ba hội giảng pháp, giúp thoát khỏi sinh tử mà chứng được Niết-bàn, cho đến như các vị vua quan thí tất cả ở trong chánh pháp của Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai nơi đời này có khả năng làm các Phật sự, gieo trồng gốc lành, hoặc chỉ dạy người gieo trồng, nghĩa lại đối với kinh tạng Đại thừa, tất cả kinh điển Đại thừa tương ứng với tánh không sâu xa, như các kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, kinh Kim Quang Minh, v.v…, các kinh điển Đại thừa như thế có trăm câu chi bộ, sai biệt Tỳ-nại-da, Thanh văn Tam tạng, ở trong chánh pháp tạng như thế… hoặc do Đức Phật giảng nói, hoặc do các vị Bồ-tát giảng nói, hoặc do các vị Thanh văn giảng nói, hoặc do chư Thiên giảng nói, hoặc do các bậc trí giả giảng nói, dẫn đến các pháp nghĩa lợi, cho đến có thể đối với bốn câu kệ tụng, mà tự đọc tụng hoặc khuyên bảo người đọc tụng, hoặc thọ trì, hoặc khuyên bảo người thọ trì, hoặc tự giải thích hoặc khuyên bảo người giải thích, hoặc đối với vị Pháp sư mà cung kính cúng dường, hoặc đối với kinh sách mà cung kính cúng dường, nghĩa là dùng các thứ hương, hoa, phướn lọng, kỹ nhạc, đèn đuốc mà cúng dường, hoặc đối với kinh sách mà dùng các thứ tạp lụa bông tơ mà trang sức. Do năng lực các gốc lành như thế v.v… nên đến lúc Đức Di-lặc Như Lai thành Đẳng chánh giác, khéo được thân người ở trong hội pháp thứ hai của Đức Phật ấy. Dùng tín tâm thanh tịnh, xả bỏ thế tục vào nhà Như Lai, cạo bỏ trừ râu tóc, đắp mặc pháp phục. Đã dự vào hàng thánh chủng, thì tùy nguyện lực thuở xưa mà chứng được Niết-bàn, đó gọi là làm Pháp sự trong pháp hội thứ hai người gieo trồng thiện căn có được quả báo như vậy (trong kinh Pháp Vân ghi chép phần nhiều đồng như văn này).

Thiên nữ Diệu Hoa ở ngoại quốc:

Xưa, ở ngoại quốc có một tháp sắt cao hơn một trượng, trong đó tôn trí các kinh Phân-đà-lợi Ca-la-sai-ma, Ma Ha Tỳ-lô-xána v.v… bản Phạm, mỗi kinh có đến trăm ngàn bài kệ tụng. Bấy giờ có một Thiên nữ thường lúc về đêm đem các thứ hoa trời Mạnđà-la đến cúng dường tháp sắt. Có một vị Tỳ-kheo du khách đến dừng nghỉ qua đêm trong tháp, đến nửa đêm thấy Thiên nữ đến, bèn hỏi rằng: "Ngươi là ai?", Thiên nữ đáp rằng: "Tôi là Thiên nữ Diệu Hoa ở cõi trời Đao-lợi, là thị nữ của Thích Đề-hoàn Nhân". Vị Tỳ-kheo ấy lại hỏi: "Có nhân duyên gì mà ngươi đến cúng dường?" Thiên nữ đáp: "Xưa tôi là một kẻ bần nữ xin ăn để tự nuôi sống, ở bên cạnh có cái hồ tên là Diệu Trì, giữa lúc tháng nắng mùa hạ, hoa sen bốn sắc nở khắp, mọc lên trong đó, các vị Bà-la-môn v.v… ở các nước đua nhau đến hái hoa, lập pháp hội Liên Hoa, khi đó tôi phát tâm tin nhỏ nhiệm hái hai cành hoa sen trắng cúng dường các kinh Phân-đàlợi Ca v.v… ở trong tháp. Nhờ một chút thiện căn ấy mà được sinh lên cõi trời Đao-lợi làm thị nữ của Đế Thích, vì y theo bản duyên nên được gọi tên là Diệu Hoa. Muốn báo đáp hồng ân của pháp báo nên tôi thường đến cúng dường". Nói xong, Thiên nữ biến mất không còn hiện nữa. Vị Tỳ-kheo ấy xả thí tất cả y bát mua hoa cúng dường tháp và kinh sách (rút từ yếu tập).

Thiên tử Bảo Anh ở cõi trời Đaolợi:

Xưa, vua Võ Đế (Tiêu Diển 502-550) thời Nam Dương, cho may năm trăm pháp y Ca-sa để cúng dường năm trăm vị A-la-hán ở trên đảnh núi Tu-di. Vua nói với ngài Bảo Chí rằng: "Nên lên cõi trời Đao-lợi dâng cúng pháp y của vua Võ Đế". Khi đó có một vị Thiên tử tên là Bảo Anh thân mặc y phục chuỗi châu anh lạc, vượt hơn vua trời gấp trăm vạn lần, ánh sáng chiếu soi khỏa mờ các vị trời khác. Ngài Bảo Chí hỏi: "Nhờ nhân gì mà y phục anh lạc của người đặc biệt như thế?". Thiên tử Bảo Anh đáp: "Xưa tôi sinh ở nước Hoa Thị trong cõi Diêm-phù-đề, là con của một vị trưởng giả, tôi đem y phục anh lạc đang mặc để cúng dường diệu pháp, do nhân duyên ấy nên sinh trong cõi trời này có được y phục, anh lạc vượt hơn vua trời gấp trăm ngàn vạn lần". Lại có vị Thiên tử khác tên là Diệu Vân hình sắc đoan chính có trăm ngàn Thiên nữ thường luôn vây quanh. Ngài

Bảo Chí hỏi về nhân duyên, liền đáp rằng: "Xưa trước tôi ở tại ấp Tất-ba-la nước Makiệt-đà dùng hoa cúng dường diệu pháp, nên được quả báo ở cõi trời như thế này! Có trăm ngàn vị trời có oai đức đều do cúng dường diệu pháp mà được quả báo như thế". Ngài Bảo Chí trở lại nhân gian tỏ bày đầy đủ như vậy.

Lão nữ ở huyện Trường An:

Ở huyện Trường An có một lão nữ không biết tên họ là gì, lão nữ ấy mù điếc câm ngọng bị người rất xem thường. Bấy giờ, ở chùa lớn đang giảng kinh Pháp Hoa bản mới dịch của ngài La-thập, người cháu kéo tay dẫn đến chùa. Lão nữ ấy tuy đến chỗ chùa lớn, vì mù điếc nên không thấy không nghe, người cháu bèn nắm hai tay lão nữ mà chấp lại hướng về phía giảng tử. Trong tâm lão nữ vẫn còn ý niệm chắp tay kính lễ. Sau đó ba tháng lão nữ bỗng nhiên qua đời, người cháu muốn tổ chức an táng, nhưng vì lão nữ còn chút hơi ấm, nửa đêm đến canh ba bỗng nhiên mở tiếng gọi người cháu, người cháu cho là yêu quỷ, trong lòng rất khiếp sợ không dám đáp lại. Đến sáng sớm thấy lão nữ ấy ngồi dậy, hai mắt đều tỏ sáng, nói năng như người thường, người cháu hỏi: "Quỷ đầu sỏ nào đó?" Lão nữ đáp: "Tôi chẳng phải là yêu quỷ, lúc mới chết, bị Minh Quan dẫn đến chỗ vua, vua từ tòa xuống chắp tay hướng về tôi mà nói: "Người là người có công đức lớn, vì chắp tay cúng dường kinh Pháp Hoa, các nghiệp chướng đều tiêu hết, các chi căn được trở lại như cũ, thọ mạng hiện còn thừa, nên sớm trở lại nhân gian, nói bày về công đức năng lực của kinh Pháp Hoa. Tôi liền đi ra được ít bước thì thần thức nhập vào bổn thân, mắt tai bình phục, nói năng được như thế này". Trải qua nửa ngày ăn uống như thường lệ, lão nữ cùng người cháu đến chùa lớn, nói bày nhân duyên ấy. Mọi người thấy nghe đều cảm mừng vui. Lão nữ ấy xả thí chỗ ở để cúng dường kinh. Không biết đến lúc cuối cùng như thế nào (rút từ Viên ký).

Vị Ưu-bà-tắc ở huyện Giang Ninh:

Ở huyện Giang Ninh có vị Ưu-bà-tắc hay tin theo các thuyết Tiểu thừa, Câu-xá v.v… chẳng chịu tin theo giáo pháp Đại thừa. Bấy giờ huyện chủ cùng các đạo tục tạo kinh Pháp Hoa bản chữ vàng đặt bày cúng dường, các sĩ nữ xem thường của cải kính trọng chánh pháp. Khi đó, vị Ưu-bà-tắc kính pháp Tiểu thừa ấy không vui tâm ý lắm nhưng cũng cúng dường cái chén để xông hương. Qua bảy năm sau, không bệnh mà tự nhiên chết, người này lấy làm lạ chưa vội an táng, đến chiều ngày hôm sau được sống lại, buồn khóc ngã xuống đất, chết ngất rồi sống lại, nói với vợ rằng: "Lúc tôi mới chết, trước thấy một tòa thành lớn như là thành bằng vàng, trong thành có nhiều điện đường trang nghiêm kỳ diệu vàng bạc trướng lớn, lưu ly lụa trắng, rất đáng ưa thích, ở phía ngoài thành có nhiều dãy nhà trắng nối tiếp nhau, từ trong thành có một đồng tử đi ra nói với tôi rằng: "Ông là người Tiểu thừa, không thể vào trong thành lớn, chỉ được ở nhà trắng ngoài thành. Trong thành chỉ để giành cho người Đại thừa ở mà thôi". Khi đó nhìn vào trong thành thấy có các cung điện phần nhiều không có người ở, tôi bèn hỏi đồng tử rằng: "Vì sao cung điện không có người ở". Đồng tử đáp rằng: "Những người cúng dường Đại thừa ở huyện Giang Ninh sẽ sinh sống trong cung điện ấy, vì những người ấy còn ở nhân gian nên trong cung điện này không có người ở". Khi đó tôi nhớ biết xưa có cúng thí cái chén để xông hương, nên nói với đồng tử rằng: "Tôi cũng có cúng dường kinh Pháp Hoa, sao lại ở chỗ nhà trắng này?". Đồng tử bảo: "Ta cũng biết việc ấy, người giúp cúng dường xông hương nên được ở gần nơi thành vàng, chẳng phải cúng dường trực tiếp không nên thể vào thành. Nếu muốn vào thành thì sớm trở lại nhân gian cúng dường diệu pháp. Nếu người cúng dường kinh sách, thì sẽ sinh đến xứ này". Tôi liền bái từ, sắp trở về lại hỏi đồng tử rằng: "Ông là ai và xứ này tên là gì?" Đồng tử đáp: "Ta là Văn-thù-sư-lợi và xứ này là thế giới kim sắc, vì ngươi có tiểu tâm nên thấy thành này nhỏ hẹp, còn như các bậc đại nhân thì thấy cõi này vi diệu rộng thoáng". Nói xong, thành và đồng tử bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa. Vị Ưu-bà-tắc giác ngộ như mộng, bèn phát tâm dốc hết gia nghiệp tạo kinh bản chữ vàng, tu hành đúng như pháp mà cúng dường. Mọi người thời bấy giờ đều cho rằng: "Tạo kinh bản chữ vàng sẽ sinh về thế giới kim sắc".

Thích Tăng Đạt trụ chùa Bạo Bố, núi Thiên Thai, đời Tùy:

Thích Tăng Đạt họ Khương người xứ Đài Châu, xuất gia từ thuở nhỏ, giảm bỏ ăn tiết chế khổ hạnh, chuyên trì kinh Pháp Hoa. Vào niên hiệu Nghĩa Minh (617-618) đời Tùy, Sư phát nguyện ghi chép kinh Pháp Hoa, nhưng chưa được cúng dường, mắc bị cơn bệnh xưa phát lại nên bị chết. Do các hạnh nghiệp tạo ác xưa nên thần thức dẫn đến sảnh vua Diêmla. Vua thấy Sư đến bèn đứng dậy đến nghinh đón mời vào chánh điện ở trong sảnh, khi đã an tọa rồi, vua mới nói rằng: "Đại sư vì hạnh nghiệp tạo tác xưa nên đến chỗ tôi, nhưng vì đại sư chép kinh Pháp Hoa còn chưa kịp cúng dường, hãy sớm trở lại nhân gian. Lại ban xá tất cả các tội nghiệp tạo tác khi xưa, đại sư sẽ sinh về cảnh giới tịnh độ", nghe vua nói lời ấy rồi Sư im lặng đi ra, thần thức nhập vào bổn thân mà sống lại bèn trang nghiêm kinh trục, cúng dường kinh điển. Sau đó không biết Sư đi đến xứ nào (rút từ Tự Ký).

Pháp cúng dường là cao quý:

Về thuở xa xưa, khó nhận biết thời hạn, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Dược Vương Như Lai, thế giới ấy tên là Đại Thanh, kiếp đó tên là Tịnh Trừ. Đức Dược Vương Như Lai thọ hai mươi trung kiếp, các chúng Thanh văn có ba mươi sáu ức vị, các chúng Bồ-tát đại sĩ có mười hai ức vị. Vua Chuyển luân thánh vương lúc bấy giờ tên là Bảo Cái làm chủ khắp cả bốn khu vực, vua có ngàn người con. Vua cúng dường Đức Dược Vương Như Lai suốt năm trung kiếp, cùng các quyến thuộc và tất cả bố thí, phụng kỉnh Đức Dược Vương Như Lai, qua năm trung kiếp, vua bảo ngàn người con rằng: "Ta cúng dường kính hầu Đức Như Lai, các con cũng phải thuận theo việc làm của ta". Khi đó ngàn người con đều nghe theo lời vua cha dạy bảo, lại suốt năm kiếp cúng dường Đức Dược Vương Như Lai dùng các thứ thượng diệu mà dâng cúng, chẳng trái sự an đặt. Lại thái tử thứ nhất của vua tên là Thiện Cái nhàn cư riêng một nơi vắng lắng suy nghĩ rằng: "Nay chúng ta cúng dường Đức Như Lai đâu có khác hơn kia ư?". Nương theo oai thần của Đức Phật nên từ giữa hư không có vị trời đến nói với Thiện Cái rằng: "Dòng họ ngươi há muốn biết ư? Có pháp cúng dường tối tôn không cùng cực". Thiện Cái lại hỏi rằng: "Thế nào gọi là Pháp cúng dường?" Vị trời bảo: "Ngươi nên đến hỏi Đức Dược Vương Như Lai, ngài sẽ khắp vì các ngươi mà giảng nói phân biệt rõ ràng". Thiện Cái liền đứng dậy đến chỗ Đức Dược Vương Như Lai, cúi đầu thỉnh lễ sát đất, bạch cùng Đức Dược Vương Như Lai rằng: "Pháp cúng dường kính thuận phép tắc là như thế nào?". Đức Dược Vương Như Lai dạy rằng: "Pháp cúng dường là thuận theo kinh điển do Đức Như Lai giảng nói mà khai hóa tất cả, đó nghĩa là cúng dường pháp". Vương tử Thiện Cái từ Đức Dược Vương Như Lai nghe được pháp cúng dường, liền chứng được nhu thuận pháp nhẫn, bèn xuất gia tu đạo chứng đắc các thần thông.

Phật dạy: "Vua Bảo Cái thời bấy giờ đâu phải người nào lạ, mà chính là Đức Phật Bảo Đăng Như Lai hiện nay. Ngàn người con của vua lúc bấy giờ tức ngàn Đức Phật trong Hiền kiếp này. Thái tử Thiện Cái tức nay con ta, là Thích-ca Mâu-ni đây vậy, cho nên phải biết trong các thứ cúng dường không gì hơn cúng dường pháp. Chư Phật ở quá khứ ở vị lai và hiện tại đều từ đó mà lưu xuất. Muốn được cúng dường chư Phật ở mười phương, thì phải thọ học kinh Pháp Hoa, hành trì đọc tụng, giảng nói tất cả, phân biệt giáo nghĩa nhất thừa, không có ba thừa". Nên có lời tụng rằng: "Nếu có người muốn cúng dường thì phải thọ trì kinh chánh Pháp Hoa này" (rút từ kinh Pháp Hoa). Lại như Hoa Thủ có bài kệ tụng rằng: "Nếu người dùng các thứ hoa, hương xoa, y phục và thuốc thang để cúng dường Phật thì đó chẳng phải chân thật cúng dường, mà đối với pháp vi diệu của Đức Như Lai ngồi nơi đạo tràng đã chứng đắc, người nào có thể tu hành mới là chân thật cúng dường. Nên biết cúng dường kinh Pháp Hoa là cúng dường hơn hết mà thôi.

Tỳ-kheo Vô Hành:

Xưa kia tại ngoại quốc có một vị Tỳ-kheo tên là Vô Hành thường tu pháp cúng dường, nghĩa là đối với các kinh do Phật giảng nói như Diệu pháp Liên Hoa v.v… tất cả trong đời khó tin khó hiểu khó nhận thọ khó thấy nghe mà có thể tin, có thể hiểu, thọ trì đọc tụng, dùng năng lực phương tiện vì các chúng sinh phân biệt giải thích nêu bày rõ ràng, giữ gìn pháp tạng, đó gọi là cúng dường pháp, người tu hành được cúng dường pháp thì chư Phật ở mười phương như muôn vì sao mà hiện, khác miệng đồng lời nói kệ tụng rằng:

"Dù cho dùng vô lượng vật báu
Cúng dường chư Phật khắp mười phương
Chẳng bằng với một kệ Pháp Hoa
Thọ trì đọc tụng được thành Phật.
Giả sử cùng khắp cõi đại thiên
Đoạn hết căn lành, còn chút đạo
Nếu nghe một câu kệ Pháp Hoa
Công đức vun tâm chóng thành Phật".

Tỳ-kheo Vô Hành nghe chư Phật nói kệ tụng ấy rồi, bèn vào sâu Pháp nhẫn vô sinh. Đó là lợi ích của cúng dường pháp (rút từ sự ghi chép của Thiền sư Giác).

Tất cả trên đây y cứ theo các truyện ký của Tây Vức và mọi sự thấy nghe rồi ghi chép lại của các bật hiền thánh ở xứ này (Trung Hoa), tôi (Tăng Tường) rút lấy nội dung chính mà ghi. Trong đây hoặc có tương truyền mà không vốn có văn bản, hoặc thấy nghe gần gũi mà tôi tự ghi chép mới. Tuy sợ bản ghi chép này có sự vừa hư vừa thật, nhưng ý tôi muốn khuyên người sau kính tin.

"Đã nương bản cũ và miệng truyền
Đích thân nghe thấy lược soạn ghi
Lời hay lời dở quy trung đạo
Thấy nghe đều chứng Vô sinh nhẫn".

------------------------

Ngài Tăng Tường ở thời Tiền Đường, không biết Sư họ gì. Sư là người đạt thức nghe rộng mà ghi chép lại những sự ứng nghiệm về kinh Pháp Hoa để khuyên dụ các người ngu mê mờ tối, đặc biệt ghi chép các khoa mục biên xuất truyền dịch v.v… bao gồm suốt cả đầu đuôi của một dòng Pháp Hoa, thật là vô cùng kỳ diệu nên truyền bá lớn mạnh ở đời, làm vốn liếng cho người bàn nói. Nhưng chuyện chép có sai lầm là điều k tránh khỏi Tôi thường bày đọc sử truyện của chư tăng và các kinh lục v.v… bỗng thấy có bản ký truyện ký này, càng xét càng chất thật, nên liền bảo các người thợ khắc bản gỗ, mong người học chớ nghi ngờ.

Ngày rằm tháng ba, năm Canh Tý thuộc niên hiệu Khánh Trường. Sa-môn Thích Viên Trí kính tin tại Lạc dương.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]