TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2072 - VÃNG SINH TẬP

Sa-môn Châu Hoằng Chùa Vân Thê, Cổ Hàng, biên soạn.

MỤC LỤC

SỐ 2072 - VÃNG SINH TẬP

LỜI TỰA

MỤC LỤC

* Các Sa-môn vãng sinh:

* Các vua Quan Vãng sinh.

* Các Xử Sĩ Vãng sinh.

* Các Ni Vãng sinh.

* Các Phụ nữ vãng sinh.

* Các người Ác vãng sinh.

* Các Súc sinh Vãng sinh.

* Các Thánh Đồng quy.

* Cảm Ứng khi còn sống:

VÃNG SINH TẬP

QUYỂN 1

I-CÁC SA MÔN VÃNG SINH:

QUYỂN 2

II-HẠNG VUA QUAN VÃNG SINH

III-CÁC XỬ SĨ VÃNG SINH:

IV-CÁC NI VÃNG SINH:

V. CÁC PHỤ NỮ VÃNG SINH:

VI-NGƯỜI ÁC VÃNG SINH:

VII-SÚC SINH VÃNG SINH:

PHẦN CHÉP THÊM:

QUYỂN 3

I-CÁC THÁNH ĐỒNG QUY:

II-CÁC VIỆC CẢM ỨNG LÚC CÒN SỐNG:

 


LỜI TỰA

Khi Đức Thế Tôn mới thành Chánh Giác, Ngài vì các hữu tình khắp nơi giảng nói Phật thừa mà các Cơ khó gồm hết, cho nên trong Nhất Thừa mà nêu Pháp Ba Thừa, và trong Ba Thừa lại nêu một pháp môn Tịnh độ. Nay cách Phật ngày càng xa, tình trần càng thắm đượm, không thể phát Thần giải mà vượt lên bậc Thánh rơi vào lông bông mà bị hiểm nguy chìm đắm. Nếu không nhờ pháp môn này thì do đâu mà thoát nhanh được khổ lớn sinh tử?

Có thể nói đây là thuốc hay rất hiệu nghiệm trị bệnh nặng lâu ngày khó chữa ở đời Mạt. Xưa đã linh nghiệm nhiều thì nay càng công hiệu lắm. Lỗi là do miệng Tịnh độ mà tâm Ta-bà nên chắc chắn minh ngộ không bằng người xưa. Nghe nói xưa có chuyện Vãng sinh nhưng lâu năm lạc mất không thấy, bèn tìm mọi sách vở ghi chép truyện trong ngoài của trăm nhà, rồi tuỳ chỗ thấy mà xét rõ nhân quả, chứa nhóm ngày càng nhiều nhưng thật ra chỉ bằng vài mươi của trăm ngàn chuyện. Nay gom góp so sánh mà xếp loại trên dưới trước sau.

Lại thêm các Thánh Đồng Quy làm chứng và nêu các Cảm Ứng lúc còn sống, tất cả được một trăm sáu mươi sáu việc và khen để làm sáng tỏ các điều còn ẩn kín, đặt tên là Vãng sinh Tập, giúp kẻ Đạo Tục xem sách mà biết ai giải thoát mà sinh, ai thuần nhất mà sinh, ai tinh thành cảm cách mà sinh, ai Đại Bi Đại Nguyện mà sinh, ai sửa đổi không tiếc chuyển nghiệp sắp đọa mà sinh, ai Thượng sinh, ai Trung sinh, ai Hạ sinh v.v… ngỏ hầu xét xưa nghiệm nay mà ước thệ Tịnh nghiệp.

Có vị khách đến tôi chưa xem qua mấy truyện chợt bảo: Tịnh độ chỉ là tâm, ngoài tâm không có độ, vãng sinh Tịnh độ chỉ là ngụ ngôn, ông cho là thật sinh ư? Đâu chẳng trái với ý chỉ Vô sinh. Tôi đợi anh ta định tâm bèn từ tốn bảo rằng: Nói sao cho dễ dàng như Vô sinh mà thôi, tất cả đều đoạn diệt chẳng nên còn có duy tâm, nếu như ngộ Vô sinh thì sinh nào có ngại gì. Sinh đã vốn không cho nên suốt ngày sinh mà không hề sinh. vã lại đã hết lậu tâm chưa? Anh ta đáp: Chưa thể. Ôi, lậu tâm chưa hết thì sinh duyên chưa dứt. Sinh duyên chưa dứt thì thác chất mịt mờ ba cõi. Trong biển khổ lớn không sinh Tịnh độ thì sinh độ nào bò lổn ngổn trong sáu nẻo và tiêu dao tự tại ở chín phẩm, lợi hại cách nhau như trời vực, hay chưa nghĩ kỹ mà bày luận đối để tranh cao thấp? Tôi vì thế chẳng làm vì sẽ sinh phiền não mà thôi. Nếu anh thật không cho lời tôi là sai quấy, thì tức Tịnh độ là Phật thừa chưa từng cách biệt mày may, thì sao trái được? Khách ngồi xuống tự nhận mình có lỗi, bất giác khóc lóc nghẹn ngào, rồi sửa áo đọc hết quyển và vội lạy xin in ngay. Khắc bản in xong xin nói đầu đuôi như thế.

Ngày mùa Hạ niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 12

Sa-môn Châu Hoằng Kính ghi.

--------------------------

MỤC LỤC

I. QUYỂN 1:

* Các Sa-môn vãng sinh:

1-Viễn Tổ Sư; 2-Tuệ Vĩnh; 3-Đàm Thuận-4-Tăng Duệ; 5-Đàm Hằng; 6-Đạo Bính; 7-Đàm Sằn; 8-Đạo Kính; 9-Phật-đà-bạt-đà-ra; 10-Tăng Tế; 11-Tuệ Cung; 12-Tuệ Kiền; 13-Tăng Hiển; 14-Tuệ Thông; 15-Pháp Lâm; 16-Đàm Giám; 17-Tăng Nhu; 18-Tuệ Quang; 19-Tuệ Tấn; 20, Đạo Trân; 21-Thần Loan; 22-Đại Sư Trí Giả; 23-Pháp Hỷ; 24-Chương An.; 25-Tuệ Thành; 26-Đạo Dụ; 27-Trí Thuấn; 28-Tuệ Hải.; 29-Pháp Trí; 30, Hòa-thượng Thiện Đạo; 31-Trí Khâm; 32-Ngũ Hội Pháp sư; 33-Đài Nham Khang Pháp sư; 34-Tự Giác; 35-Thiện Trụ; 36-Thần Tố; 37-Tuệ Duệ; 38-Hoài Ngọc.; 39-Đạo Ngang; 40, Đạo Xước; 41-Bảo Tướng; 42-Duy Ngạn; 43-Tăng Huyền; 44-Hoài Cảm; 45-Đức Mỹ; 46-Biện Tài; 47-Thọ Hồng; 48-Pháp Tường 49-Đại Hành; 50, Minh Chiêm; 51-Thiền sư Vĩnh Minh Thọ; 52-Chí Thông; 53-Ngộ Ân; 54-Pháp sư Viên Tịnh Thường; 55-Tịnh Quán; 56-Từ Vân Sám Chủ; 57- Tông Thản Sớ Chủ; 58-Từ Chiếu Tông Chủ; 59-Pháp Trì; 60, Bổn Như; 61-Pháp sư Cơ; 62-Nhược Ngu; 63-Thủ Chân; 64-Tri Lễ; 65-Hữu Nghiêm; 66-Tuệ Minh; 67-Sư Tán; 68-hai Sa-di; 69-Liễu Nhiên; 70, Tư Chiếu; 71-Trí Liêm; 72-Trí Thâm; 73-Pháp Nhân; 74-Trí Tiên; 75-Tông Lợi; 76-Tề Ngọc; 77-Thiền sư Viên Chiếu Bổn; 78-Thiền sư Đại Thông Bổn; 79-Luật Sư Linh Chi Chiếu; 80-Luật Sư Thanh Chiếu; 81-Tư Mẫn; 82-Hy Trạm; 83-Pháp sư Đăng; 84-Tăng Nhai; 85-Pháp sư Tạng; 86-Pháp sư Cô Sơn Viên; 87-Nguyên Tịnh; 88-Dụ Di-đà; 89-Mông Nhuận; 90, Vân Ốc; 91-Chỉ Quán Chủ; 92-Đàm Ý; 93-Thái Vi; 94-Dụng Khâm; 95-Cửu Pháp Hoa; 96-Tổ Huy; 97-Sở Kỳ; 98-Bảo Châu.

II. QUYỂN 2:

* Các vua Quan Vãng sinh.

1-Quốc Vương Ô Trường; 2-Tống Thế Tử; 3-Lưu Di Dân Tham Quân; 4-Trương Dã Mậu Tài; 5-Học Sĩ Trương Kháng; 6-Vương Trọng Hồi Ty Sĩ; 7-Mã Tử Vân Huyện Úy; 8-Cổ Thuần Nhân Quận Thối; 9-Trương Địch Trợ Giáo; 10-Vương Long Thư Quốc Học; 11-Giang Công Vọng Tư Gián; 12-Cát Phồn Đại Phu; 13-Lý Bỉnh Trung Quan; 14-Hồ Nhân Tuyên Nghĩa; 15-Dương Vô Vi Đề Hình; 16-Vi Văn Tấn Quan Sát; 17-Văn Ngạn Bác Lộ Công; 18-Mã Cạn Thị Lang; 19-Chung Ly Thiếu Sư; 20-Diêm Bang Vinh Thừa vụ; 21-Vương Trung Triều Tán; 22-Chung Ly Cảnh Dung Đại Phu; 23-Tiền Tượng Tổ Quận Thú; 24-Mai Nhữ Năng Huyện linh; 25-Tảm Định Quốc Học Dụ; 26-Phùng Tế Xuyên Gián Nghị; 27-Vương Mẫn Trọng Thị Lang; 28-Tiến Sĩ Ngô Tín Tẩn; 29-Bạch Cư Dị Thiếu Truyện; 30, Trương Luân Đô Tổng; 31-Học Sĩ Tô Thức; 32-Trương Vô Tận Thừa tướng.

* Các Xử Sĩ Vãng sinh.

1-Chu Tục Chi; 2-Trịnh Mục Khanh; 3-Trương Nguyên Tường; 4-Tôn Lương; 5-Nguyên Tử Bình; 6-Dữu Tiển; 7-Tống Mãn; 8-Cụ Già ở Phần Dương; 9-Nguyên Tử Tài; 10-Ngô Tử Chương; 11-Hà Đàm Tích; 12-Vương Điền; 13-Phạm Nghiễm; 14-Lục Nguyên Đạo; 15-Tôn Trung; 16-Trầm Thuyên; 17-Đường Thế Lương; 18-Kế Công; 19-Trần Quân Chương; 20, Trương Thuyên; 21-Khuyết Công Tắc; 22-Lý Trí Diêu; 23-Cao Hạo Tượng; 24-Từ Lục Công; 25-Lục Tuấn; 26-Huỳnh Đả Thiết; 27-Liên Hoa Thái Công; 28-Cư sĩ Hoa.

* Các Ni Vãng sinh.

1-Ni Đại Minh; 2-Ni Tịnh Chân; 3-Ni Ngộ Tánh; 4-Ni Năng Phụng; 5-Ni Pháp Tạng.

* Các Phụ nữ vãng sinh.

1-Hoàng Hậu đời Tùy; 2-Diêu Bà; 3-Vợ của Ôn Tĩnh Văn; 4-Hồ Trường Bà; 5-Bà họ Trịnh; 6-bà họ Trần; 7-bà họ Huỳnh; 8-Phu Nhân họ Vương; 9-Phu Nhân họ Phùng; 10-Cô gái họ Vương; 11-bà họ Chu; 12-Chu Hạnh Bà; 13-Lục Thị Nghi Nhân; 14-Bà họ cung; 15-Bà họ Chu; 16-Bà họ Hạng; 17-Bùi Thị Nữ; 18-Bà họ Thẩm; 19-Bà họ Tôn; 20-Bà họ Lâu; 21-Bà họ Tần; 22-bà họ Chung; 23-Bà họ Tôn; 24-Bà họ Lương; 25-Bà họ Huỳnh; 26-Bà họ Trần; 27-Bà họ Thôi; 28-Ngô Thị Nữ; 29-Bà họ Trịnh; 30. Bà họ Chu; 31-Bà họ Tiết; 32-Hứa Thị Phụ (người vợ họ Hứa)

* Các người Ác vãng sinh.

1-Trương Thiện Hòa; 2-Trương Chung Húc; 3-Hùng Tuấn; 4-Duy Cung; 5-Oánh Kha; 6-Trọng Minh; 7-Ngô Quỳnh; 8-Kim Thích.

* Các Súc sinh Vãng sinh.

1-Long Tử; 2-Anh Vũ; 3-Chim Sáo (1 và 2)

* Tục Biên: Các người vãng sinh đời nay nghe thấy đều ghi vào riêng ở hai quyển cuối không phân biệt môn loại và trước sau.

1-Tăng Minh Bổn; 2-Chu Cương Thiếu Phủ; 3-Bà họ Vu; 4-Cố Cư sĩ; 5-Họ Phương; 6-Trương Mẫu; 7-Quách Đại Lâm; 8-Lưu Thông Chí; 9-Tổ Hương; 10-Tôn thị Mẫu; 11-Đường Thể Như Văn Học; 12-Dương Gia y Văn Học; 13-Hách Hy Tải văn học; 14-bà họ Chu; 15-Người họ Từ; 16-Cư sĩ Qua Quảng Thái; 17-Cư sĩ Đổ; 18-Cư sĩ Tôn Đại Vu; 19-Cư sĩ Ngô; 20. Cư sĩ Ngô.

III. QUYỂN 3:

* Các Thánh Đồng quy.

1- Chọn sinh Cực Lạc

2- Vãng sinh vô số

3- Thấy Phật Di-đà

4- Mười Nguyện cầu sinh

5- Kệ Luân Tịnh độ

6- Thỉnh Phật hình nghi

7- Soạn Luận khởi tin

8- Long Thọ ký sinh

9- Tập Thiện Vãng sinh

10- Được Nhẫn Vãng sinh

11- Đại Nguyện thứ hai

12- Niệm Phật diệt tội

13- Thắng Hội ghi tên

14- Lược nêu tôn túc.

* Cảm Ứng khi còn sống:

1- Quỉ không dám ăn

2- Mộng được thông biện

3- Dẹp bỏ oán thù

4- Vợ chồng thấy Phật

5- Quỷ trốn chẳng hiện

6- Tiến Bạt vong linh

7- Ngủ nghỉ được yên

8- Bệnh mắt thấy lại (1-2)

9- Không bị bệnh Ngược

10- Xá-lợi đều hiện (1-2)

11- Trị bệnh đều lành

12- Bị tù thoát nạn

Phụ: Khuyên Khắp làm người phải tu Tịnh độ

--------------------------------

VÃNG SINH TẬP

Sa-môn Châu Hoằng chùa Vân Thê Cổ Hàng, biên soạn.

QUYỂN 1

I-CÁC SA MÔN VÃNG SINH:

1-Viễn Tổ Sư:

Ngài Tuệ Viễn đời Tấn, người ở Lâu Phiền thuộc Nhạn Môn, làu thông sáu kinh, giỏi Lão Trang, nghe Pháp sư Đạo An giảng Kinh Bát-nhã bỗng nhiên đại ngộ, nhân đó cạo tóc nhuộm áo thờ làm thầy. Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ sáu, ngài qua Tầm Dương thấy Lô Sơn rộng vắng có thể dứt Tâm, bèn cảm được Thần Núi báo mộng. Một hôm mưa to sấm chớp cây cối tự nhiên kéo đến, Thứ sử Hoàn Y bèn lập điện, đặt tên là Thần Vận.

Vì ngài Tuệ Vĩnh trước ở Tây Lâm nên chỗ ngài Tuệ Viễn giờ đặt hiệu Đông Lâm. Ngài Viễn ở Đông Lâm ba mươi năm không xuống núi đến nhà Tục, khắc chí Tây Phương. Các Cao Tăng Cự Nho gồm một trăm bốn mươi người cùng làm Tịnh Liên Xã, sáu thời thiền tụng không ngớt. Lắng tâm hệ tưởng, ba lần thấy Phật hiện mà yên lặng không nói với ai. Mười chín năm sau, một tối tháng bảy, ở bên đài Bát-nhã mới xuất Định dậy thấy thân Phật A-di-đà đầy khắp hư không, trong Viên quang có vô lượng Hóa Phật, Quán Âm Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước sáng chia làm mười bốn nhánh chảy trên dưới, giảng nói Pháp mầu. Phật nói: Ta nương năng lực bổn nguyện nên đến an ủi ngươi, sau bảy ngày ngươi sẽ sinh về nước ta. Lại thấy Phật-đà-da-xá, Tuệ Trì, Tuệ Vĩnh, Lưu Di Dân ở bên Phật đến vái chào thưa rằng: Chí Sư có trước sao đến chậm. Rồi biết thời đã đến, bảo Môn Nhân rằng: Trước đây ta ba lần thấy Phật, nay lại thấy, chắc chắn sẽ vãng sinh Tịnh độ. Đến hẹn bèn ngồi thẳng mà tịch, nhằm ngày 6 tháng 8 niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 12.

Khen rằng: Từ đời Tấn về trước ý chỉ Tịnh độ tuy nghe ở Chấn Đán nhưng năng lực rộng mở còn kém, chỉ dạy riêng trong nhà. Từ ngài Tuệ Viễn mới bắt đầu cho muôn đời sau. Đệ tử Tịnh nghiệp xem ngài Thỉ Tổ. Có thể nói ngài là Đức Thích ca tái hiện thân ở Đông Độ nói Tây Phương Di-đà. Công lao của ngài chẳng lớn ư? Tôi xưa đến Lô Sơn đến suối Hổ Khê vào nhà Tam Tiếu mà bồi hồi nhớ lại di tích của mười tám Hiền, thấy quy mô rộng lớn đủ chứa cả vạn vị Tăng, mà Điện Đài thì bụi phủ, chuông trống im vắng, mà nhà cửa thì đã đổi khác. Triết nhân nói: Chết rồi vết thơm không tiếp nối, than ôi!.

2- Tuệ Vĩnh-đời Tấn: Ngài Tuệ Vĩnh, người Hà Nội. Mười hai tuổi xuất gia cùng Tuệ Viễn nương Pháp sư An. Đầu niên hiệu Thái Nguyên đến ở Lô Sơn. Thứ Sử Đào Phạm sửa vườn nhà thành chùa Tây Lâm để ở. Chí dứt trần nêu tâm An Dưỡng. Sau niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 10 bị bệnh bỗng đòi thay áo xin giầy muốn ngồi dậy. Chúng kinh hãi hỏi, Sư đáp: Phật đến đón rước ta. Nói xong thì hoá. Mùi thơm lạ bảy ngày mới tan. vua Đường Huyền Tông truy phong là Giác Tịch Đại Sư.

Khen rằng: Vĩnh mới vào Đạo cùng anh là Viễn Sư sáng lập Tịnh Xã là Pháp muôn đời cũng cùng Tông với Viễn tổ. Đến lúc qua đời thấy Phật đến đón rước. Trước sau như một. Người chứng vãng sinh lấy điềm lành của hai Sư làm chuẩn tắc.

3- Đàm Thuận-đời Tấn: Ngài Đàm Thuận người Huỳnh Long. Thuở nhỏ theo Pháp sư Lathập giảng các kinh. Ngài La-thập khen: Người này là vật báu lạ. Sau vào Lô Sơn tu Tịnh nghiệp. Lúc đó Ninh Man Hiệu Úy Lưu Tuân Hiếu lập chùa ở Giang Lăng mời Đàm Thuận về ở hoằng truyền Tam-muội Niệm Phật-Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 2 đời Tống, Sư biệt chúng ngồi mà hóa. Mùi thơm lạ đầy nhà.

4- Tăng Duệ-đời Tấn: Ngài Tăng Duệ người ở Ký Châu. Đi du học các nơi từ Thiên-trúc tới Quan Trung, theo ngài La-thập học các Kinh nghĩa sau tham dự Liên Xã ở Lô Sơn. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 16 đời Tống bỗng bảo Chúng rằng: Ta sắp đi đây. Rồi quay mặt về Tây chắp tay mà hóa. Chúng thấy trước giường Sư có một cành hoa sen bằng vàng, rồi biến mất. Khói mây năm màu từ phòng Sư bay ra.

5- Đàm Hằng-đời Tấn: Ngài Đàm Hằng người ở Hà Đông. Thuở nhỏ học Nho, nương Viễn Công xuất gia, sách vở trong ngoài đều thông suốt. Từ khi vào Lô Sơn chuyên chí niệm Phật. Niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 14 Sư ngồi thẳng chắp tay niệm Phật lớn tiếng mà hóa.

6- Đạo Bính-đời Tấn: Ngài Đạo Bính người ở dinh Châu. Thuở nhỏ thờ Viễn Công làm thầy, thông suốt kinh luật, nói và làm họp nhất, chuyên tâm niệm Phật Tam-muội không xen hở. Niên hiệu Năm Nghĩa Hy năm thứ 14, Thái Thú Dự Chương là Vương Kiền vào núi yết kiến kính thỉnh Sư nối nghiệp ngài Tuệ Viễn, chúng đều quy kính. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 12 Sư nhóm chúng niệm Phật đến Tòa mà hóa.

Khen rằng: Nói làm họp nhất gọi là tâm và miệng đều niệm Phật.

7- Đàm Sằn-đời Tấn: Ngài Đàm Sằn người ở Quảng Lăng, thờ Viễn Công làm thầy, siêng tu Tịnh nghiệp giỏi giảng nói. Chú thích Kinh Duy Ma lưu hành ở đời. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 17 ngồi kiết già niệm Phật mà hóa.

8- Đạo Kỉnh-đời Tấn: Ngài là người ở Lang du. Tổ Tiên là Ngưng làm Thứ sử Giang Châu, do đó theo Viễn Công mà xuất gia. Năm mười bảy tuổi làu thông kinh luận, mỗi ngày nhớ muôn lời, dốc chí niệm Phật sớm tối không dứt. Niên hiệu Vĩnh Sơ đời Tống năm đầu Ngài bảo chúng rằng: Tiên sư ra lịnh thầy nên đi, rồi ngồi thẳng niệm Phật mà hóa. Chúng thấy có ánh sáng đầy nhà rất lâu mới mất.

Khen rằng: Tuổi trẻ tài cao không tự ỷ mà dốc chí niệm Phật, nếu không gieo Tịnh nhân đời trước mà nay mới Sa-di lại đã rành kinh luận, ngã mạn buông lung khi già đầu thì cũng không về, bất đắc dĩ mà nói Tây Phương là đã muộn.

9- Phật đà bạt đà ra-đời Tấn: Phật-đà-bạt-đàra Hán dịch là Giác Hiền, người nước Ca-Duy-Vệ, là con cháu của vua Cam-lộ-phạm. Năm mười sáu tuổi học rộng các kinh, hiểu sâu Thiền luật. Sa-môn Trí Nghiêm nước Diêu Tần đến Tây Vực gặp ngài Bạt-đà-ra mời đến Trường An giảng nói Pháp ở Đông Cung, cùng với Pháp sư La-thập trên dưới luận bàn. Sau, Ngài ngồi thuyền buồm vào Lô Sơn tham dự Liên Xã của Viễn Công, dịch các kinh như Quán Phật Tam-muội. Vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 6 đời Tống, ngài niệm Phật mà hóa.

10- Tăng Tế đời Tấn: Ngài Tăng Tế vào Lô Sơn theo học với ngài Viễn Công. Viễn nói: Nối Thạnh Đại Pháp là người này. Sau Sư bị bệnh, dốc chí mong sanh về Tịnh độ. Viễn Công đưa cho một cây đuốc bảo "ngươi nên vận tâm An Dưỡng". Tế cầm đuốc tựa ghế dừng tưởng không loạn động. Lại nhóm chúng tụng Kinh Tịnh độ. Canh năm, sư lấy đuốc trao cho đệ tử là Nguyên Bật khiến theo chúng hành đạo. Khoảnh khắc bốn đại không còn bệnh khổ. Đêm sau bỗng đứng dậy ngước lên hư không như thấy vật gì. Phút chốc nằm xuống mặt mày vui vẻ, gọi người bảo rằng Ta đi đây. Rồi nằm nghiêng bên hông phải mà tịch. Lúc đó trời nóng bức để ba ngày mà thân thể không thay đổi, mùi thơm lạ ngào ngạt.

Khen rằng: Tế do Thánh Sư chỉ bảo mà sinh Tịnh độ, khi qua đời trợ niệm, ai bảo là không có công phu? Tháng mùa hạ nóng bức nhục thân lại phát ra mùi thơm lạ ắt là Phạm hạnh tinh kiên mà linh nghiệm.

11- Tuệ Cung, đời Tấn: Ngài Tuệ Cung người ở Phong Thành thuộc Dự Chương cùng Tuệ Lan, Tăng Quang đồng học. Xiển và Quang hệ niệm Tịnh độ khi qua đời đều có điềm lạ. Năm năm sau, Cung bị bệnh dốc chí than khóc dập đầu, tâm thề niệm An Dưỡng. Không báo lâu thấy Phật A-di-đà đem đài vàng đến đón rước. Cung lên đài, lại thấy các vị như Lan v.v… ở trên Đài trong ánh sáng bảo rằng: Trưởng lão đã thọ sinh Thượng Phẩm. Chúng con khôn xiếc vui mừng tiếc vì năm trược dong dài nên chậm mà thôi. Cung vui vẻ mà hóa.

12- Tuệ Kiền đời tấn: Tuệ Kiền thuở nhỏ xuất gia, giới hạnh tinh chuyên, trong niên hiệu Nghĩa Hy vào chùa Gia Tường ở Sơn Âm khổ thân dẫn chúng. Sau bị bệnh chú tưởng An Dưỡng, chí thành cầu Quán Âm. Ở phía Bắc chùa có Ni Tịnh Nghiêm túc đức dốc hạnh đêm nằm mộng thấy Bồ-tát Quán Âm từ cửa Tây Thành đi vào hình dáng sáng ngời rực rỡ như nhật nguyệt, cờ phướn lọng đẹp bảy báu trang nghiêm, Sư kinh dị đảnh lễ thưa: Đại sĩ đi đâu?. Đáp rằng: Đến Gia Tường đón Kiền Công. Kiền bệnh tuy nguy cấp nhưng thần sắc vẫn như thường. Thị Giả đều nghe có mùi thơm lạ. Bỗng an nhiên mà hoá.

Khen rằng: khi qua đời thấy Phật hoặc nghi toàn là do tâm tưởng của mình. Nay người khác cũng thấy là sao? Phải biết đường Cảm Ứng giao nhau không thể nghĩ bàn, nên cẩn thận lời nói.

13- Tăng Hiển đời Tấn: Trúc Tân Hiển đi về phía Nam đến Giang Tả bị bệnh, bèn duyên Tây Phương, kiền khổ không đổi. Thấy Đức Phật A-diđà ánh sáng chiếu thân, do đó bệnh hoạn đều hết liền dậy tắm gội rối kể việc thấy nghe cho mọi người nghe và nêu rõ nhân quả, lời ý khẩn thiết, sau đó ngồi thẳng mà hoá.

Khen rằng: Tỳ-kheo lười biếng bị bệnh liền bảo ta sức yếu đợi bình phục rồi sẽ niệm Phật. Không biết niệm Phật là vượt qua già bệnh. Bị bệnh niệm Phật, chính là lúc Hiển cố gắng niệm mà hết bệnh lại được vãng sinh. Lành thay!

14- Tuệ Thông đời Tấn: Ngài Tuệ Thông theo Thiền sư Tuệ Triệu ở Lương Châu học Thiền Pháp, Tâm cầu An Dưỡng. Bị bệnh nhẹ, trong Định thấy có một người hình dáng trang nghiêm bảo Thông rằng: Giờ tốt đã đến, bỗng thấy Phật A-di-đà ánh sáng rực rỡ. Sư xuất Định cáo biệt bạn đồng học rồi an nhiên mà hoá. Mùi thơm lạ ba ngày mới tan. 15-Pháp Lâm, đời Tấn: Ngài Pháp Lâm người ở Lâm Ngang, chuyên tinh giới phẩm, trú tại chùa Linh Kiến ở Thành Đô tu Tịnh nghiệp. Thường trì tụng hai Kinh Di-đà và Quán Âm. Khi tụng thì thấy có một Sa-môn hình dáng cao lớn hiện ra trước mặc. Niên hiệu kiến Võ năm thứ 2, Sư bị bệnh, chú tâm niệm Tây Phương Lễ Sám không dừng thì thấy các hiền Thánh đồng nhóm họp trên hư không, chắp tay mà hoá.

Khen rằng: Pháp Lâm tụng Kinh có Sa-môn hiện ra, do lòng thành mà cảm được không có gì lạ Sinh Tây Phương chính là người này người tu Tịnh nghiệp không chấp tướng mới mong được.

16- Đàm Giám, đời Tống: Ngài Đàm Giám bình thường làm lành đều hồi hướng Tây Phương, thệ nguyện thấy Phật. Một hôm trong Định thấy Đức Phật A-di-đà rải nước vào mặt bảo rằng: Ta rửa sạch bụi nhơ, tắm gội tâm niệm của ông, cùng thân miệng của ông thảy đều nghiêm tịnh. Lại ở trong bình mọc ra một cành sen mà trao cho. Sư xuất Định, bèn cáo biệt chư Tăng trong chùa. Đêm khuya dần, một mình đi ngoài hành lang niệm Phật đến canh năm, tiếng niệm Phật càng cố gắng. Đến sáng, đệ tử theo lệ thường đến hỏi thăm thì thấy Sư ngồi kiết già bất động, xem lại thì đã tịch rồi.

17- Tăng Nhu, đời Tề: Ngài Tăng Nhu học các Kinh Phương Đẳng, chỉ lấy Tịnh nghiệp làm hoài bão. Một hôm thấy hoá Phật đến số ngàn ở trong ngoài Thất đều nghe có mùi thơm lạ. Rồi hướng về Tây kính lễ mà hoá.

18- Tuệ Quang, đời Tề: Ngài Tuệ Quang ở Lạc Dương, soạn Sớ Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Thập Địa v.v… Hiểu rõ ý nghĩa quyền Thật-Một hôm bị bệnh thấy nhạc trời đến đón rước. Quang nói tôi chỉ mong về An Dưỡng mà thôi. Hoá Phật Tịnh độ đầy khắp hư không. Quang nói cúi mong Phật nhiếp thọ con mới thoả mãn bổn nguyện. Chỉ trong chốc lát tiếng nói và hơi thở đều dứt.

Khen rằng: Cõi trời có nhiều dục lạc, gồm có người nữ, không phải là chỗ giải thoát. Lời xưa nói tu nhiều chứng đến Phi Phi Tưởng không bằng sinh Tây Phương. Ấy là khen Tịnh độ đó là Thượng Phẩm mà nói, chứ hạ sinh còn hơn cõi trời. Nay Tuệ Quang lúc qua đời mà xét rõ sở nguyện rất bền chắc, đáng gọi là bậc Sáng và Mạnh vậy.

19- Tuệ Tấn đời Tề: Ngài Tuệ Tấn trú tại chùa Cao Toà thề tụng Pháp Hoa soạn trăm bộ Kinh nguyện hồi hướng để được sinh An Dưỡng. Sau nghe trên hư không có tiếng nói: Nguyện ngươi đã đủ, sẽ được vãng sinh, rồi không bệnh mà mất.

20-Đạo Trân đời Lương: Ngài Đạo Trân ở

Lô Sơn tu Tịnh nghiệp. Mộng thấy có người ngồi thuyền trong biển. Hỏi thì bảo đến nước Phật Diđà. Trân xin theo. Người trên thuyền bảo: Ông chưa làm nhà tắm và chưa tụng Kinh A-di-đà. Thức dậy tắm gội và tụng kinh khoảng một năm không ngớt. Bỗng ao trong phòng hiện xuống đài bạc trắng, nhân thầm chép việc này để riêng trong rương kinh. Đêm viên tịch thì thấy khắp nửa núi có cả ngàn ngọn đuốc. Người trong ấp xa trông thấy bảo là các vua kính lễ. Sáng hôm sau nghe Trân mất. Sau giở rương Kinh ra xem mới biết Trân sinh Tịnh độ từ lâu.

Khen rằng: Viễn Công ba Lần thấy Phật mà không nói, Đạo Trân ao hiện ra Đài bạc mà thầm ghi. Người xưa sâu dày như thế, còn kẻ trượng phu cạn cợt, vừa có chút lạ đã ồn ào, nhỏ thì mất việc, lớn thì thêm việc ma, hãy nên cẩn thận!

21- Thần Loan, đời Hậu Ngụy: Ngài Đàm Loan thuở nhỏ đến núi Ngũ Đài, cảm được điềm lạ mà xuất gia. Tánh thích sống lâu, nhận của Đào Ẩn Quân sách Tiên mười quyển. Sau gặp ngài Bồ-đềlưu-chi bèn hỏi: Phật có thuật sống lâu không chết chăng? Chi cười đáp: Sống lâu không chết là đạo của Phật tôi. Bèn trao cho Kinh Thập Lục Quán bảo rằng Học thứ này thì ba cõi không còn sinh, sáu đường không còn đến, sống lâu hằng hà sa số, kiếp đó cũng không sánh được. Đây là thuật sống lâu của thầy ta. Loan mừng rỡ đốt hết Kinh Tiên mà tu Tịnh nghiệp.

Lạnh nóng bệnh tật cũng không bỏ giở. Chúa Ngụy gọi là Thần Loan. Một hôm trong thất thấy có vị Tăng An-độ bảo rằng: Ta là Long Thọ ở lâu chốn Tịnh độ thấy ngươi là đồng chí nên đến gặp nhau. Loan tự biết thời đã đến bèn nhóm chúng khuyên rằng: Cả đời nhọc nhằn không ngăn được ngày nọ các khổ địa ngục chẳng nên chẳng sợ, chín phẩm Tịnh nghiệp chẳng thẻ chẳng tu. Rồi bảo đệ tử lớn tiếng niệm Phật, xoay về phía Tây đảnh lễ mà đi. Chúng nghe có nhạc trời từ hướng Tây đến, hồi lâu mới hết.

Khen rằng: Huỳnh Quan thường nói: Họ Thích có chết, Thần Tiên thì sống lâu. Nay Chi Công lại bảo Phật có sống lâu Tiên không sống lâu. Luận này rõ ràng dứt khoát nêu cao muôn thuở. Pháp sư Loan bỏ Tà về Chánh như thay giày cũ rách, chẳng phải là xưa có Chánh nhân ư?

22- Trí Giả Đại Sư, đời Tùy: Ngài Trí Khải hiệu là Đại Sư Trí giả, người ở Dĩnh Xuyên. Thuở bé thấy tượng gặp Tăng liền lạy. Năm mười tám tuổi xuất gia tại chùa Quả Nguyện. Sau lễ Thiền sư Nam Nhạc Tư Đại hoằng hóa Pháp duyên xong bèn trú tại chùa Thạch Thành tại Diễm Động. Khi sắp nhập diệt gọi đệ tử bảo rằng: Ta biết mệnh ta tại đây không đi đến trước nửa. Rồi bảo đọc lớn Đề Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Xong lại bảo bốn mươi tám Nguyện trong nghiêm Tịnh độ, ao hoa cây báu dễ đến mà không có người, tướng xe lửa hiện bày một niệm hối cải còn được vãng sinh, huống Giới Định huân tu, Thánh hạnh đạo lực công chẳng uổng phí. Trí Lãng thưa: chẳng hay Đại Sư chứng vào Vị nào, chết rồi sinh về đâu? Sư nói: Nếu ta không lãnh chúng thì chứng được năm phẩm. Ngươi hỏi ta sinh về đâu, các vị thầy bạn theo hầu Bồ-tát Quán Âm đều đến đón rước ta. Nói xong thì đọc tên Tam Bảo như vào Tam-muội.

Khen rằng: Đại Sư Đạo Đức cao lớn, một nhà Giáo quán muôn đời đều quy ngưỡng, mà khi qua đời chỉ mong về Tây Phương. Về Sớ Quán Kinh đô có soạn Thập Nghi Luận ý chỉ ở đấy ràng rành dễ hiểu. Có người nói Sớ gọi Tâm là gốc, Tịnh độ chẳng phải thật có. Đại Sư nói ước tâm quán Phật, chẳng bảo là không có Phật. Như ai kia nếu không có Phật thì tâm quán gì. Chánh báo đã thế thì Y báo cũng vậy. Kẻ học Thai Giáo nên xét biết.

23- Pháp Hỷ, đời Tùy: Ngài Pháp Hỷ thường thực hành Phương Đẳng Sám Pháp, bỗng có một con chim trĩ đến đòi mạng có vị Thần tránh rằng: Pháp sư sẽ vãng sinh Tịnh độ, đâu đền mạng ngươi được. Sau ở trong lúc bệnh, Sư phát nguyện một đời tu Tịnh nghiệp hồi hướng Tây Phương dốc lòng niệm Phật, liền thấy Phật và Bồ-tát đến đón rước, rồi ngồi thẳng mà hóa.

Khen rằng: Kinh nói dù cho trải trăm ngàn kiếp tạo nghiệp, nhân duyên cũng chẳng mất, khi đến lúc thì quả báo phải tự chịu lấy. Hỷ làm ác mà được sinh Tịnh độ chẳng phải đền mạng chim Trĩ là do một đời Tịnh độ mà dứt hẳn luân hồi, nhân duyên nào theo mà còn gặp. Nếu Ngộ Vô sinh Nhẫn, vào trần lợi vật, dẫu có đền mạng thì gọi là một dao chặt đứt đầu bạc như chém gió Xuân, há giống như phàm phu sáu đường ư?

24- Chương An, đời Tùy: Ngài Quán Đảnh người ở Chương An là đệ tử của Đại Sư Trí Giả. Hằng ngày lo việc niệm Phật, khi qua đời trong thất có mùi thơm lạ. Dặn dò đệ tử xong bỗng đứng dậy chắp tay niệm A-di-đà Phật và tên hai vị Đại Sĩ rồi an nhiên mà hóa.

25- Tuệ Thành đời Tùy: Ngài Tuệ Thành ở Chi Giang, tụng Kinh Di-đà tu Tây Phương Quán, ba mươi năm thường ngồi chẳng nằm. Mỗi khi vào Định thì thấy đài hoa cây báu ở Tịnh độ. Đêm qua đời có người mộng thấy Thành ngôi hoa sen mà hóa rồi từ từ đi về phương Tây.

26- Đạo Dụ, đời Tùy: Ngài Đạo Dụ trú tại chùa Khai Giác niệm Phật A-di-đà ngày đêm không bỏ, tạo tượng Phật cao ba tấc. Sau ở trong Định thấy Phật gọi bảo: Ngươi tạo tượng ta sao nhỏ thế? Dụ thưa: Tâm lớn liền lớn, tâm nhỏ liền nhỏ. Nói xong thì thấy thân tượng đầy khắp hư không bảo rằng: Ngươi nên tắm gội thanh tịnh, khi sao Mai mọc ta đến đón rước ngươi. Đến hẹn quả nhiên thấy Phật đến, ánh sáng đầy nhà, bèn ngồi mà hóa.

Khen rằng: Tâm lớn thì lớn, tâm nhỏ thì nhỏ, vậy thì tâm uế liền uế, tâm tịnh liền tịnh, mà Dụ thấy một Phật đầy khắp hư không. Trước đây Tăng Nhu, Tuệ Quang thấy có nhiều Phật đầy khắp hư không, bởi một tức nhiều, nhiều tức là một, chẳng phải có hơn kém.

27- Trí Thuấn, đời Tùy: Ngài Trí Thuấn vào Lô Sơn nối gót Viễn Sư tu Tịnh nghiệp. Đầu niên hiệu Đại Nghiệp giảng Quán Kinh xong liền bị bệnh, thấy anh vũ, chim công niệm Phật Pháp Tăng tiếng rất hay, bảo đệ tử rằng: "Ta hôm nay vãng sinh". rồi an nhiên mà hóa.

28- Tuệ Hải, đời Tùy: Ngài Tuệ Hải trú tại chùa An Lạc ở Giang Đô, giỏi kinh luận, tinh thành niệm Phật. Có Tăng Đạo Thuyên đến từ Tề Châu có mang theo tượng Phật A-di-đà rất đẹp trên đời chưa có. Hỏi thì đáp đây là Bồ-tát Ngũ Thông trú tại chùa Kê-đầu-ma ở Thiên-trúc, Bồ-tát bay trên hư không đến thế giới An Lạc, vẽ khắc đem đến. Hải rất vui mừng mong được gặp bèn dốc lòng kính lễ thì thấy Thần quang sáng chói. Do đó khẩn thiết cầu sinh về nước ấy sau bị bệnh nhẹ. Đang đêm bỗng ngồi dậy đắp y hướng về phía Tây kính lễ, xong, ngồi kiết già đến sáng thì mất, y như còn sống.

Khen rằng: Thế giới Cực Lạc cách đây hơn mười vạn ức cõi Phật cũng không thể bay trên hư không mà đến được. Tuệ Hải tinh thành mà cảm được Phật ấy. Sao biết được Đạo Thuyên chẳng phải là Hiền Thánh Tịnh độ ư?

29- Pháp Trí, đời Tùy: Ngài Pháp Trí xuất gia từ thuở nhỏ, về già nghe pháp môn thẳng tắt không gì bằng niệm Phật, bèn bảo người rằng ta nghe kinh nói phạm một tội Cát-la vào địa ngục trải một Trung kiếp thất đáng tin. Lại nói niệm một câu Adi-đà Phật thì diệt được tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp thì chưa tin được. Có người hỏi bèn bảo: Ngươi rất tà kiến, đều là lời Phật cả đâu được chẳng tin? Bèn trú tại chùa Quốc Thanh ở đài đâusuất ngày đêm siêng năng niệm Phật. Bỗng cáo biệt đạo tục bảo "Ta sinh Tây Phương đây". Trong đêm ấy không bệnh mà hóa. Lúc đó có ánh sáng vàng chiếu sáng trên sông cả mấy trăm dặm. Dân chài bảo là trời sáng. Rất lâu trời mới sáng, mới biết là do Pháp Trí vãng sinh mà như thế.

Khen rằng: Phật nói: Ta bảo trong mật đều ngọt thì phải tin, thế mà tin có chút ác vào địa ngục mà chẳng tin một niệm Phật thì được vãng sinh Tây Phương, đây thật là tà kiến. đời gần đây người thích trì chú thấy Đà-la-ni nói công đức có thể dời núi biển sai khiến quỉ Thần, thỏa mãn các nguyện cầu thì mừng rỡ mà tin. Còn thấy Tịnh độ có thể vào thẳng thềm Thánh, lập tức vượt ba cõi thì điềm nhiên chẳng để ý. Đó là Tà Kiến, thật đáng buồn thay!

30-Hòa-Thượng Thiện Đạo, đời Đường: Ngài Thiện Đạo vào niên hiệu Trinh Quán gặp Thiền sư Xước ở Tây Hà, được bộ Cửu Phẩm Đạo Tràng mừng rỡ bảo rằng đây thật là bến yếu vào Phật, còn tu các hạnh khác lòng vòng khó thành, chỉ pháp môn này mau thoát sinh tử. Do đó mà chuyên siêng năng khổ nhọc ngày đêm lễ tụng phát khởi bốn chúng mỗi khi vào thất cùng quy niệm Phật nếu chưa kiệt sức thì chưa nghỉ. Ra thất thì giảng nói Tịnh độ cho người nghe hơn ba mươi năm không tạm ngủ nghỉ, ăn uống thì thô sơ tự lo. Được của bố thí đều dùng viết Kinh Di-đà, được mười vạn quyển, vẽ Biến tướng Tịnh độ ba trăm bức, quên việc được mất, đốt đèn suốt đêm, ba y bình bát không khiến người câm, không đi chung với chúng, sợ nói chuyện đời. Người được Ngài hóa độ rất đông. Có người tụng Kinh Di-đà mười vạn đến năm mươi vạn lượt. Có người niệm Phật hàng ngày vạn câu đến mười vạn câu, có người được Tam-muội Niệm Phật vãng sinh Tịnh độ đông không kể xiết. Có người hỏi: Niệm Phật được sinh Tịnh độ hay không? Sư đáp: Ngươi cứ niệm sẽ thỏa nguyện. Tự mình niệm một câu Phật thì trong miệng có một tia sáng phát ra, niệm mười câu, trăm câu ánh sáng cũng như thế. Sư khuyên đời có kệ rằng: Dần dần da gà tóc hạc, bước đi chập choạng, dù cho vàng ngọc đầy nhà, đâu tránh khỏi suy già bệnh khổ. Dù có ngàn thứ vui sướng, vô thường cuối cùng cũng đến, chỉ có đường tắt tu hành, chỉ niệm A-di-đà Phật. Bỗng nói với người rằng: Thân này đáng chán, ta sắp về Tây. Bèn leo lên cây Liễu hướng về phía Tây khấn rằng: "Nguyện Phật tiếp dẫn con, Bồ-tát giúp con khiến con không mất Chánh Niệm, được vãng sinh Tịnh độ", nói xong liền gieo mình mà chết. Cao Tông Hoàng Đế biết việc bèn ban cho Chùa tấm hoành phi là Quang Minh.

Khen rằng: Hòa-Thượng Thiện Đạo đời truyền là Di-đà hóa thân. xét tự hạnh sư tinh nghiêm, lợi sinh rộng lớn, muôn đời sau còn cảm phát được tín tâm của mọi người, nếu không phải Di-đà thì cũng là Quán Âm, Phổ Hiền cả, lành thay!

31- Trí Khâm, đời Đường: Ngài Trí Khâm chuyên tu tập nghiệp Thiền, lại lễ niệm một vạn năm ngàn danh hiệu Phật đến trăm lượt. Sau, tại tháp A Dục Vương ở Liễu Châu đốt một cánh tay cầu sinh Tịnh độ. Một Đệ tử là Tăng Hộ nửa đêm thấy trước sân có ánh sáng lạ. Nhân đó hỏi ai cầm đuốc, hỏi ba lần thì trên hư không có tiếng bảo: Đến đón rước Thiền sư. Hộ liền mở cửa sổ thì thấy thân Phật sáng chói, cờ phướn lọng đẹp đầy cả không gian. Khâm theo Phật từ từ mà đi.

Khen rằng: Đốt thân đốt tay, trong các Kinh Đại thừa thường cho đây là được ân của Đại Sĩ khiến làm, người Sơ tâm không thể làm được. Người cầu Tây phương phải học cách tập Thiền Lễ Phật của Trí Khâm, không cần phải bắt chước đốt tay. Phải tinh thành mạnh mẽ để trị ác tập thì đốt cũng nhiều. Người xưa nói khéo học Liễu Hạ Tuệ chẳng đúng hay sao?

32- Ngũ Hội Pháp sư ngài Pháp Chiếu đời Đường: Niên hiệu Đại Lịch năm thứ 2 Sư trú tại chùa Vân Phong ở Hành Châu, Từ Nhẫn Giới Định luôn làm gốc. Từng trong bát thất mây năm màu có chùa Phật hiệu là chùa Đại Thánh Trúc Lâm. Sau đến núi Ngũ Đài thấy ánh sáng lạ quả nhiên gặp chùa Trúc Lâm. Vào Giảng đường thì thấy Bồtát Văn-thù ở phía Tây, Đức Phổ Hiền ở phía Đông, vạn chúng vây quanh nghe nói Pháp. Pháp Chiếu đảnh lễ hỏi rằng: Phàm phu đời mạt ở vị lai nên tu pháp môn nào? Văn-thù đáp: Các môn tu hành không gì bằng niệm Phật, ta do niệm Phật mà được Trí Nhất Thiết Chủng. Lại hỏi phải niệm Đức Phật nào? Đáp: Phía Tây thế giới này có Phật Adi-đà, Nguyện lực Phật ấy không thể nghĩ bàn, các ông phải buộc niệm chớ để dứt mất, chắc chắn sẽ vãng sinh. Sau đó ngày tối trời tháng chạp ở Đạo Tràng Tịnh nghiệp tại Viện Hoa Nghiêm mới nhớ hai Đại Sĩ đã thọ ký ta vãng sinh, bèn nhất tâm niệm Phật. Bỗng thấy vị Tăng Ấn-độ là Phật-ĐàBa-lợi bảo rằng: Ông đài hoa đã đến, ba năm sau hoa nở. Đến hẹn bảo chúng rằng "Ta đi đây", rồi ngồi thẳng mà hóa. Sư từng trú tại chùa Hồ Đông mở năm Hội Niệm Phật, cảm được Đại Tống

Hoàng Đế, trong cung nghe tiếng niệm Phật, sai Sứ tìm, bèn thấy Sư khuyến hóa thạnh hành. bèn triệu Sư vào Kinh dạy Cung nhân niệm Phật cũng đủ năm Hội ban hiệu là Ngũ Hội Pháp sư.

Khen rằng: Cảm mộng trước thấy cảnh sau, có thể tin rõ. Nhưng các môn tu hành không bằng niệm Phật, chính miệng Văn-thù nói mà không đáng tin ư? Trước ba năm đài hoa hiện đến gọi là Tín tâm vừa khởi thì nhụy hoa ghi tên, tuỳ theo sự siêng năng hay lười biếng mà tươi hoặc héo, lại chẳng đáng tin ư? Ôi, ngầm hiện dấu linh dự Phù Thánh Ký, hành hóa năm Hội tiếng thấu Cửu Trùng (tai vua), há chẳng phải nhân Bi nguyện mà sinh ư?

33- Pháp sư Đài Nham Khang: Ngài Thiếu Khang đời Đường, người ở Tiên đô thuộc Tấn Vân. Năm mười lăm tuổi đã thông suốt Kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm. Vào niên hiệu Trinh Nguyên đến chùa Bạch Mã tại Lạc Dương thấy trong Điện, kinh sách phát ra ánh sáng, lấy xem chính là bài Văn Tây Phương Hoá Đạo của Hòa Thượng Thiện Đạo. Sư khấn rằng: Nếu đối với Tịnh độ con có duyên thì xin khiến lại phát ra ánh sáng. Nói xong thì ánh sáng chói lòa. Sư nói kiếp đá có thể mòn chứ nguyện con không thay đổi. Rồi đến chiêm lễ Anh Đường Hoà-Thượng Thiện Đạo tại chùa Quang Minh ở Trường An, bỗng thấy di tượng của ngài bay lên hư không bảo rằng: Ngươi y theo giáo ta rộng giáo hóa các hữu tình, ngày nào công thành sẽ sinh An Dưỡng. Sư bèn đến Tân Định xin tiền dụ trẻ con niệm Phật, hễ niệm một câu Phật thì cho một đồng. Hơn một năm bất luận lớn bé sang hèn hễ thấy Sư đều niệm A-di-đà Phật. Tiếng niệm Phật đầy đường. Lại ở núi Ô Long, Sư lập ra Đạo tràng Tịnh độ, mỗi khi lên toà cao lớn tiếng niệm Phật, đại chúng thấy có một Phật từ miệng Sư bay ra, niệm mười câu có mười Đức Phật. Sư nói các vị ai thấy Phật sẽ được vãng sinh. Lúc đó chúng đông cả ngàn. Cũng có người không thấy buồn thương tự trách, do đó càng thêm tinh tấn. Sau hai mươi mốt năm, ngày 3 tháng 10 Sư dặn dò Đạo Tục rằng: Nên đối với Tịnh độ mà khởi tâm ưa thích, và khởi tâm chán lìa cõi Diêm-phù. Các ông lúc ấy thấy ánh sáng này mới thật là đệ tử ta. Rồi phát ra mấy luồng ánh sáng lạ mà hóa. Tháp Sư ở núi Đài Tử, hiệu là Đài Nham Pháp sư.

Khen rằng: Có người nghĩ rằng Phật từ miệng ra giống như điều quái dị. Ôi Thế Tôn khi gặp voi say, đầu năm ngón tay phát ra Sư Tử màu vàng sáng, bảo rằng: Ta nào có ý ràng buộc voi đâu. Bởi ta từ vô lượng kiếp đến nay tu Từ Nhẫn lực, tự nhiên có Sư Tử hiện ra, ta cũng chẳng biết. Nay Khang công hiện Phật cũng là từ vô lượng kiếp đến nay đã rất quy kính, có gì là lạ. Ở đời có Thầy tà dạy người đêm tối ngồi trước cây hương thắp sáng mà quán tưởng Phật hiện cho là cảm ứng. Xét đây Tà Chánh thật trái nhau, người tu nghiệp Tịnh độ không thể không phân biệt rõ.

34- Ngài Tự Giác đời Đường: Ở Chân Châu thường phát nguyện. Nguyện nhờ vào Đức Quán Âm được thấy Phật A-di-đà. Do đó tạc tượng Bồtát Quán Âm cao bốn mươi chín thước. Khi tượng xong khấn nguyện đến canh ba. bỗng có hai luồng ánh sáng vàng, trong ánh sáng Đức Phật A-di-đà hiện xuống, hai vị Đại Sĩ theo hầu hai bên. Phật đưa tay xoa đầu Giác bảo rằng: Hãy giữ nguyện chớ đổi, lợi vật làm trước, sẽ sinh vào ao báu sẽ không sai nguyện. Mười một năm sau, đêm trăng tròn tháng bảy, Sư thấy một người hình dáng giống như Thiên Vương hiện thân trên mây bảo Giác rằng: Hẹn An Dưỡng đã đến. Sư bèn ở trước Tượng Quán Âm ngồi kiết già mà hóa.

35- Ngài Thiện Trụ đời Đường: Người ở Doanh Châu. Niên hiệu Võ Đức năm thứ 3 ngài bị bệnh bảo người rằng: Ta một đời Chánh Tín chẳng lo Tịnh độ không sinh. rồi sai lau rửa phòng ốc đốt hương nghiêm chờ. Bệnh lâu phải nằm, bỗng ngồi dậy chắp tay bảo người hầu bày Tượng Đức Thế Tôn, bảo đỡ ngồi rồi tự phát lồ sám hối. Hồi lâu bảo Thế Tôn đi rồi, có dáng như tiễn đưa. Đang nằm bỗng hỏi Phật A-di-đà đến các ông có thấy không. Phút chốc bảo: Ta đi đây. Rồi khoảng khắc thì hoá.

36- Thần Tố: Ngài Thần Tố đời Đường: Người vùng Minh Được đều thuộc An Ấp, giỏi diễn giảng ngang với Đạo kiệt, một đời tu nghiệp quán tưởng Tây Phương. Niên hiệu Trinh Quán hai chúng thỉnh Sư làm chủ Thê Nham. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ 17, ngày 23 tháng 2 Sư nhóm họp đại chúng mà từ biệt, rồi ngồi kiết già nghiêm nét mặt khiến tụng Phẩm Phổ Môn Quán Âm hai lượt, rồi tự niệm Phật A-di-đà. Lại khiến một người xướng, các người khác cùng họa theo. Giữa đêm thì ngồi thẳng mà tịch. Da thịt rã ra nhưng bộ xương vẫn ngồi như xưa.

37- Tuệ Duệ-ngài Tuệ Duệ đời Đường: Xuất gia ở Tương Xuyên. Từng hoằng hóa Tam Luân Đại Kinh. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ 22 đêm 8 tháng 4 thấy Thần núi bảo rằng: Pháp sư sửa soạn phòng ốc không bao lâu sẽ sinh Tây Phương. Đến ngày 14 tháng 7 Sư giảng Kinh Vu-lan-bồn xong, chắp tay bảo: Sống nhận của Tín thí nay cần phải phân tán hết. một mảy may cũng buông bỏ giúp cho những người ăn xin cô độc nghèo khó khắp nơi và các đường ác khác, nói xong thì hóa ở Pháp toà. Khen rằng: Xưa Sinh Công nói Pháp sắp xong, chúng thấy cây Phất trần rơi xuống đất, dựa ghế mà hóa như vào thiền định. Việc của Sư cũng thuộc loại này. Than ôi chẳng phải Đạo Lực lúc bình sinh thì không thể gắng gượng lúc qua đời.

38- Hoài Ngọc: Ngài Hoài Ngọc đời Đường: người ở Thai Châu, ngày ăn một buổi, mặc áo vải, thường ngồi không nằm, tụng Kinh Di-đà ba mươi vạn biến, hằng ngày niệm danh hiệu Phật năm vạn câu. Đầu niên hiệu Thiên Bảo thấy Phật và Bồ-tát giữa hư không. Có một người bưng Đài bạc đến đón rước. Ngọc nói: Tôi một đời niệm Phật thề lấy đài vàng, sao nay chẳng được. Thánh chúng liền biến mất. Ngọc càng thêm tinh tấn. Sau hai mươi mốt ngày người bưng đài trước kia đến bảo: Vì Sư tinh tấn nên được lên Thượng phẩm, nên ngồi kiết già mà đợi. Ba ngày sau ánh sáng lạ đầy nhà. Sư gọi đệ tử bảo rằng: Ta sinh Tịnh độ đây. Rồi mỉm cười mà hóa. Quận Thái Thú là Đoàn Công làm kệ khen rằng: Thầy ta một niệm lên Sơ Địa, sánh ca nước Phật hai lượt đến-Chỉ có trước chùa cây Hòe cổ, riêng một nhánh thấp treo đài vàng.

Khen rằng: Có người bảo đài bạc đến mà lại ẩn, đài vàng thì quyết mà lại gặp. Sao được quả báo không bằng cứ, mà do người chọn lựa. Nói chung đây là vạn Pháp do tâm, tùy cảm mà ứng. Lại xe lửa đã hiện, mười niệm được vãng sinh. Các vị trời đến đón rước, tâm thề mà trở về. Tịnh độ tướng Thiện ác Thánh phàm cách nhau còn có thể chuyển nghiệp nhanh chóng. Huống gì vàng bạc nào có bao lâu?

39- Đạo Ngang; Ngài Đạo Ngang đời Đường: Người ở Quận Ngụy, Thầy là Pháp sư Linh Dụ, thường ở chùa núi Hàn Lăng giảng Hoa Nghiêm Địa Luận. Kê hiệp Bác đến thăm, chí kết Tây phương nguyện sinh An Dưỡng. Sau tự biết mạng số sẽ hết vào tháng 8-nhưng mọi người chưa lường biết được. Đến ngày mồng 1 tháng 8-không bệnh hỏi giờ trai đến chưa, liền lên tòa cao, thân có tướng lạ cầm lò hương mùi lạ dẫn bốn chúng thọ giới Bồ-tát, lời và lý rất thiết, người nghe lạnh lòng. Sư nhìn lên cao thấy các vị Trời lăng xăng, đờn sáo inh ỏi, bảo chúng rằng: Trời Đâu suất đà đến đón rước ta, nhưng cõi trời là gốc sinh tử, nên ta xưa nay không nguyện, chỉ chú tâm Tịnh độ, vì sao lòng thành này chẳng toại. Nói xong nhạc trời im lặng, lại thấy Tây Phương hương hoa kỹ nhạc đầy dẫy như mây bay nhanh mà đến, quây quần trên đầu mọi người đều thấy. Ngang nói: Nay tướng linh Tây Phương đến đón rước, ta phải đi. Liền thấy lò hương vuột khỏi tay, ở trên tòa cao mà hóa. Dưới chân có Phổ Quang Đường các nhà, xa gần đều khen ngợi.

Khen rằng: Bỏ Cung Trời mà cầu Tịnh độ trước đây có Quang công, sau đó có Hồng công và Đạo Ngang. Bởi ba vị trong khoảng chốc bức bách mà còn có thể dắt dẫn bốn chúng về Tỳ-ni, ngồi trên ghế cao quy tịch mà dáng vẻ ung dung, làm kinh động tâm mắt mọi người. Than ôi lạ thay!

40-Đạo Xước-Ngài Đạo Xước đời Đường: Người ở Mấn Thủy thuộc Tính Châu, mười bốn tuổi xuất gia rèn tập kinh luận. Về già thờ Thiền sư Toán mà học thiền lại dốc chí nghiệp Tịnh độ với ngài Thần Loan. Có vị Tăng nhập định thấy ngài Đạo Xước lần chuỗi hạt như bảy báu. Ngài ở trên núi cao vì chúng giảng Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh gần hai trăm lượt. Mọi người đều lần chuỗi niệm Phật. Hoặc lúc rời khỏi chỗ ngồi, âm vang vọng khắp núi rừng sáu thời lễ lạy cung kính, không lúc nào bỏ sót, mỗi ngày lấy bảy vạn câu làm mức. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ, 2 ngày mồng 8 tháng 4 thì quy tịch. Người nghe việc đến xem đầy chùa, đều thấy có hóa Phật ở trên hư không và hoa trời rải xuống.

41- Bảo Tướng: Ngài Bảo Tướng, đời Đường: là người ở Trường An thuộc Ung Châu. Năm mười chín tuổi xuất gia theo hạnh Đầu-đà tự tịnh, sáu thời lễ sám gần bốn mươi năm. Mỗi đêm tụng Kinh Di-đà bảy biến, niệm Phật sáu vạn câu. Bệnh nặng tụng niệm vẫn không bỏ. Ngài dặn dò đạo tục rằng: Niệm Phật làm đầu chớ dối độ đời thì tướng Tây Phương sẽ đợi. Lại bảo hay thiêu và phân tán thân ta chớ nhọc công làm Minh xây Tháp. Nói xong thì hóa.

Khen rằng: Hoài Ngọc niệm Phật mỗi ngày ghi năm vạn câu, Đạo Xước bảy vạn câu, nay Ngài sáu vạn câu, cả ba Lão Sư đều là Cao Tăng mà khóa lễ hàng ngày có số nhất định. Người đời nay bỗng bảo là việc làm của những người tầm thường, vậy mà được sao?

42- Duy Ngạn: Ngài Duy Ngạn đời Đường: người ở Tính Châu, hẹn về Tịnh độ, thực hành Sám Phương Đẳng siêng năng không bỏ sót. Sư bị bệnh nhẹ, thấy hai Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí hiện trên hư không, Ngạn mời thợ nhưng không vẽ được. Bỗng có hai người tự bảo vẽ được, vẽ xong thì biến mất. Ngạn bèn bảo các đệ tử rằng: Nay ta vãng sinh, ai muốn theo ta? Có cậu bé xin theo. Ngạn bảo phải về từ giã cha mẹ. Cha mẹ cho là chuyên đùa không tin. Khoảnh khắc cậu bé tắm gội thay áo vào Đạo tràng niệm Phật mà hóa. Sư Ngạn vỗ lưng bảo: Cậu bé sao được đi trước ta? Rồi đòi bút viết lời khen rằng: hai Bồ-tát có nguyện rất Từ Bi, đưa tay dắt dẫn cùng về Tây. Viết xong thì hóa.

Khen rằng: Việc của Ngạn không dối, cậu bé ấy nếu chẳng từ lâu chứa nhóm Tịnh nghiệp thì làm sao thoát hóa nhanh chóng thần dị như thế. Ôi, ông chẳng thấy mười niệm thành công ư? Nếu không thế thì gốc lành đời trước làm gì? Người tu Tịnh nghiệp đời này không nhất định vãng sinh thì xem đây mà tự ngẫm.

43- Tăng Huyền-ngài Tăng Huyền đời Đường: Người ở Tính Châu. Trước niệm Từ Thị (Di-lặc) cầu sinh Nội Viện. Năm chín mươi tuổi gặp Thiền sư Đạo Xước được nghe về Tịnh độ mới hồi tâm niệm Phật. Ngày lễ ngàn lạy, một lòng không lười mỏi. Sau bị bệnh bảo đệ tử rằng: Phật A-di-đà trao ta Hương Y, Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí đưa tay báu dắt ta, ta sẽ đi". Nói xong thì hóa. Bảy ngày mùi thơm lạ không tan. Lúc đó có hai vị Pháp sư là Khải Phương và Viên Quả mắt thấy việc ấy, bèn trú tại chùa Ngộ Chân cùng bẻ nhánh dương liễu cắm vào tay Tượng Quán Âm nguyện rằng: Nếu Tịnh độ có duyên thì bảy ngày cành dương không héo. Đến hẹn thì dương càng tươi. Phương Quả mừng rỡ, ngày đêm quán niệm không bỏ. Bỗng tự biết mình đến ao bảy báu vào màn đại báu thấy Phật và hai vị Đại Sĩ ngồi trên đài hoa báu ánh sáng rực rỡ. Phương và Quả đảnh lễ, Phật bảo rằng: Ai niệm danh hiệu ta đều sinh về nước ta. lại nghe Đức Thế Tôn Thích-ca cùng Bồ-tát Văn-thù dùng Phạm Am khen ngợi Tịnh độ. Lại thấy ba đường thềm báu, một đường thì toàn là người tại gia Cư sĩ, đường thứ hai đạo tục xen nhau, đường thứ ba chỉ toàn là Tăng. Bảo rằng: Ai dốc lòng niệm Phật đều được vãng sinh cõi này. Sau năm ngày bỗng nghe tiếng chuông, bảo rằng tiếng chuông là việc của chúng ta. Lúc ấy cả hai Sư liền hóa.

Khen rằng: Tuổi quá già mới tu Tịnh nghiệp mà còn được vãng sinh, trai trẻ thì có thể biết. Còn Phương Quả kia nghe phong thanh khởi trọn được linh ứng, thấy bậc Hiền nghĩ mình làm sao cho bằng cũng chính là đây vậy.

44- Hoài Cảm: Ngài Hoài Cảm đời Đường: trú tại chùa Thiên Phước tại Trường An, vào Đạo tràng niệm Phật hai mươi mốt ngày không thấy điềm linh, tự hận mình chướng sâu muốn tuyệt thực đến chết. Đại Sư Thiện Đạo không cho, khuyên tinh tấn chí thành ba năm chiêu cảm như lời dạy. Sau thấy Phật ngọc hào màu vàng, được Tam-muội niệm Phật. Sư có soạn Luận Quyết Nghi bảy quyển. Khi qua đời chắp tay nói "Phật đến đón rước ta". Rồi hóa.

Khen rằng: Ngạn ngữ có nói: Có công mài sắt có ngày thành kim.

Chúng ta đối cảm có chứng cớ. Vạch đất tự hận mà suy nghĩ.

45- Đức Mỹ: Pháp sư Đức Mỹ đời Đường: ở Tây Viện chùa Hội Xương xây dựng Sám Đường, thực hành Tam-muội Bát-Chu, suốt mùa hạ không nằm ngồi, hoặc cấm khẩu suốt ba năm không nói, hoặc thực hành bất khinh, bảy chúng đều lễ. Tiết giảm ăn mặc dứt bặt việc đời, chuyên niệm Tây Phương, tụng Kinh Di-đà trọn đời không thôi. Sau vào thất niệm Phật một lúc rồi an nhiên mà hóa.

Khen rằng: Dứt bỏ việc đời thì duyên nhiễm dứt hẳn, chuyên niệm Tây Phương thì Tịnh Duyên thành tựu. Có câu rằng Ái không nặng thì không sinh Ta-bà, Niệm không nhất tâm thì chẳng sinh Tịnh độ, thành thật thay lời ấy.

46- Biện Tài: Ngài Biện Tài đời Đường: người ở Tượng Dương, ngầm tu Tịnh độ hai mươi năm không hề tự khoe. Chỉ làm bạn thân thiết với Hộ Nhung Nhậm Công Thiện, nói cho biết rằng: Tôi sẽ sinh Tịnh độ, hẹn mười năm sau. Một hôm khiến đệ tử báo với Nhậm Công rằng hẹn đã đến. Nhậm Công đến thì Tài bảo: "Ta đi đây". Rồi ngồi mà hóa, đại chúng nghe tiếng nhạc Tiên từ phía Tây đến, mùi thơm lạ xông tỏa.

47- Thọ Hồng: Ngài Thọ Hồng đời Đường: người ở Phần Dương. Thường niệm Phật chí thành cầu Tịnh độ. khi sắp mất thấy các Đồng tử ở cõi Trời Đâu-Suất đến đón rước. Hồng nói: Tôi chỉ mong sinh Tây Phương, không sinh lên cõi trời, liền khiến chúng niệm Phật. Rồi bảo Phật từ phương Tây đến. Nói xong thì hóa.

48- Pháp Tường: Ngài Pháp Tường đời Đường: trú tại chùa Đại Hưng Quốc ở Dương Đô, ba mươi năm tu nghiệp An Dưỡng, hễ có công đức gì đều dùng hồi hướng. Vì bị bệnh, đệ tử nghe Tường xưng danh hiệu Phật rất lớn tiếng, lại thấy ở vách Tây phòng có ánh sáng như gương hiện tướng Tịnh độ chim Tần già vỗ cánh, rồi an nhiên mà hóa.

Khen rằng: Pháp Tường thấy Tần Già, trước kia Trí Thuấn thấy

Anh vũ chim công, chẳng thấy Phật mà thấy các loài chim là sao? Kinh nói: Các loài chim ấy đều do Phật A-di-đà biến hóa ra. cho nên biết Chánh báo Y báo đều là tướng Tịnh độ, chớ nên nghi ngờ.

49- Đại Hạnh-Ngài Đại Hành đời Đường: Ở Thái Sơn, tu Sám pháp Phổ Hiền ba năm, cảm được Đại Sĩ hiện thân. Tuổi già vào kho kinh phát nguyện rồi tiện tay lấy một quyển thì được quyển kinh Di-đà. Bèn ngày đêm tụng đọc đến hai mươi mốt ngày thì thấy trên đất lưu ly có Phật và hai Đại Sĩ hiện thân. vua Hy Tông nghe việc bèn mời vào Cung ban hiệu là Bồ-tát Thường Tinh Tấn. Một năm sau đất lưu ly lại hiện, ngay ngày ấy liền mất, mùi thơm lạ suốt tuần, nhục thân không hư hoại.

Khen rằng: Đất lưu ly trên dưới thấu suốt là Tịnh đức mà cảm được. Vậy mà Tuệ Vĩnh, Tăng Huyền có mùi thơm lạ bảy ngày, Tuệ Thông ba ngày, nay Đại hạnh suốt một tuần đâu chẳng phải là do Phạm hạnh toả hương thơm ư?

50-Minh Chiêm-Ngài Minh Chiêm đời Đường: Tuổi già khắc chí An Dưỡng. Có người chê là muộn, Chiêm nói: Mười Niệm công thành còn được thấy Phật, ta nào lo gì? Sau nhân bị bệnh

Sư trú tại chùa Hưng Giáo thiết trai để từ biệt Đạo Tục. Lúc đó các quan như Bộc Xạ Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối đều có mặt. Sư nói quá ngọ, rồi sửa sang y phục oai nghi nghiêm chỉnh niệm Phật liên tục. Lại bảo Phật đến và hai Đại Sĩ cũng đến.

Rồi nghiêm mình chắp tay mà hóa.

51- Thiền sư Vĩnh Minh Thọ: Tên là Diên Thọ, họ Tiền ở Ngô Việt, người vùng Dư Hàng thuộc Hàng Châu. Theo ngài Thiền sư Tứ Minh Túy Nham xuất gia. Sau tham học với Quốc Sư Thiên Thai Thiều phát minh tâm yếu. Từng tu Pháp Hoa Sám. Nửa đêm thấy hoa sen của Bồ-tát Phổ Hiền bỗng nhiên ở trên tay. Nhân đó nghĩ nguyện xưa nên chưa quyết, bèn lên núi Trí Giả làm hai cái thăm, một cái đề Nhất Tâm Thiền Định, một cái đề Vạn Hạnh tu Tịnh độ rồi ngầm tâm cầu nguyện, bảy lần bắt đều được thăm Tịnh độ, do đó một ý chuyên tu. Sau đến trú tại chùa Vĩnh Minh, khóa lễ hằng ngày là niệm Phật, đêm đến thường một mình lên ngọn núi cao hành đạo niệm Phật. Mọi người lúc ấy nghe có tiếng nhạc trời vang dội. Trung Ý Vương khen rằng: Xưa nay người cầu Tây Phương chưa có ai chuyên thiết như thế, bèn lập Điện Tây Phương Hương Nghiêm để trọn thành chí Ngài. Sư trú tại chùa Vĩnh Minh mười lăm năm, đệ tử có một ngàn bảy trăm, thường cùng chúng truyền giới Bồ-tát, thì thực cho các quỉ thần, phóng sinh chim cá đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh độ. lúc đó người gọi là Từ Thị Hạ Sinh. Ngày 26 tháng 2 Niên hiệu Khai Bảo năm thứ 8, buổi sáng dậy thắp hương cáo biệt chúng ngồi kiết già mà hóa. Sau có vị Tăng đến từ Lâm Xuyên suốt năm đi nhiễu ở Tháp Ngài. Hỏi thì bảo rằng: Tôi bị bệnh xuống Âm phủ, thấy trên Điện phía trái có thờ hình một vị Tăng, vua ân cần kính lễ, bèn hỏi thăm thì mọi người bảo đó là Thiền sư Vĩnh Minh Thọ, hễ ai chết đều phải qua Âm Phủ, vị này đi tắt sinh về Tây Phương ở Thượng Thượng Phẩm, vua rất trọng đức Ngài nên kính lễ.

Khen rằng: ngài Vĩnh Minh nhớ mãi Tây Phương, chỉ thẳng tâm ấn mà khắc ý Tịnh độ, tự lợi lợi tha, hạnh nguyện rộng lớn chiếu sáng muôn đời là Từ Thị hạ sinh, là ngài Thiện Đạo tái sinh vậy?

52- Chí Thông: ngài Chí Thông đời Thạch Tấn: Người ở Phụng Tường. Nhân thấy quyển Tịnh độ Nghi Thức của Trí Giả Đại Sư thì khôn xiết vui mừng. Từ đó không khạc nhổ về hướng Tây, không ngồi xoay lưng về Tây, mà chuyên tâm niệm Phật. Sau thấy Chim Hạc chim công sắp thành hàng từ phương Tây đến. Lại thấy hoa sen mở khép ở trước. Thông nói chim Hạc trắng, chim công là cảnh Tịnh độ, hoa sen chiếu sáng là chỗ thọ sinh Tịnh độ hiện ra. Bèn đảnh lễ Phật mà hóa. Khi trà tỳ có mây năm màu vần vũ trên đống lửa, Xálợi đầy thân.

Khen rằng: Khạc nhổ phải tránh hướng Tây, ngồi phải xoay về Tây mà hệ niệm, như thế thì việc nào chẳng xong. Nay dùng tâm khinh thường mà muốn vãng sinh thì thật là khó. Có người nói không nên đắm trước. Ôi quán kỷ mặt trời lặn Kinh có nói rõ ràng. Đại Sư Trí Giả mới sinh mà đã ngồi quay mặt về Tây cho đến các Hiền thánh tu Tịnh nghiệp đều ngồi hướng về Tây chẳng đắm trước mà được ư? Đắm tâm nơi cảnh trược trọn đời an nhiên, vừa mới niệm Tịnh Bang đã vội lo đắm trước. Điên đảo như thế chẳng lạ lắm ư?

53- Ngộ Ân: Ngài Ngộ Ân đời Tống: người ở Thường Thục thuộc Cô Tô. Năm mười ba tuổi nghe tụng Kinh Di-đà bèn xin xuất gia. Suốt ngày ăn một bữa, chẳng rời y bát, chẳng chứa của cải. Nằm thì nghiêng hông bên phải, ngồi thì kiết già. Mỗi khi Bố-tát khóc lóc không thôi nguyện khắp mọi người lấy Tây Phương Tịnh nghiệp làm viên chỉ Nhất Thừa. Có người nghi không hợp cơ, thì đáp là cùng tạo duyên Trống độc mà thôi. Niên hiệu Ung Hy năm thứ 2 ngày 30 tháng 8 sư thấy ánh sáng trắng từ giếng phát lên, nói với môn nhân rằng: Ta sắp mất. Rồi tuyệt thực không nói, nhất tâm niệm Phật, thì mộng thấy một Sa-môn bưng lò vàng đốt hương đi nhiễu quanh thất ba vòng, tự bảo là Quán Đảnh đến đây đón rước. Khi thức đậy gọi đệ tử đến, còn nghe mùi thơm lạ phảng phất. Hai mươi lăm ngày sau Sư giảng nói Chỉ Quán Chỉ Quy và Quán Tâm Nghĩa xong thì ngồi thẳng mà hóa. Mọi người nghe tiếng đờn sáo chuông mõ inh ỏi trên hư không, lâu dần đi xa về hướng Tây.

Khen rằng: Tiền của cơm áo chẳng tham là tâm liêm khiết. Ngồi nằm không cẩu thả là tâm cẩn thận, y bát không rời là tâm trì trọng. Bố-tát mà khóc là tâm thành tín, bốn tâm đều là Tịnh nhân để vãng sinh, còn như khuyên người thì Tây Phương Tịnh nghiệp cùng Nhất Thừa Viên Giáo cùng thực hiện, đó là Ngộ Ân đi sâu vào pháp môn niệm Phật.

54- Pháp sư Viên Tịnh Thường: Ngài Tỉnh Thường đời Tống, người ở Tiền Đường, bảy tuổi xuất gia. Trong niên hiệu Thuần Hóa đi về Nam đến Chiêu Khánh, kính mến đức phong của Lô Sơn bèn chích máu viết Phẩm Tịnh Hạnh trong Kinh Hoa Nghiêm, đổi Liên Xã thành Tịnh Hạnh. Các

Sĩ Đại phu dự hội xưng là đệ tử Tịnh Hạnh mà Vương Văn Chánh Công đứng đầu. Một thời các Công Khanh chăn dắt một trăm hai mươi người, Tỳ-kheo có cả ngàn vị. Quan Hàn Lâm Tô Dị Giản soạn lời tựa Phẩm Tịnh Hạnh, bảo rằng tôi phải trải tóc dưới chân khoét thân để thỉnh Pháp hãy còn chẳng từ, huống chi là văn kém học cạn mà có tiếc gì. Niên hiệu Thiên Hy năm thứ tư ngày 12 tháng giêng, Sư ngồi thẳng niệm Phật có lúc rất quyết liệt, lại nói là Phật đến rồi an nhiên mà hóa.

Khen rằng: Mới đầu Viễn Công, kế đến Thiện Đạo, rồi Nam Nhạc, Ngũ Hội, Vĩnh Minh, Đài Nham và cuối cùng là Pháp sư gọi là bảy Tổ Liên Xã, khuyến hóa thạnh hành suốt cả xưa nay, tuy nhiên xét về tự tu thì tất cả đều siêng năng cố gắng như thế mà dạy người. Nay Sa-môn biết khuyên người mà không biết tự gắng mình chỉ muốn trộm nương vào các bậc Tiền Bối thì thật là rồ dại.

55- Tịnh Quán, Ngài Tịnh Quán đời Tống: Trụ tại am Tịch Quang ở Gia Hòa, tu Tịnh độ Sám Pháp hơn mười năm, bảo đệ tử rằng: Sau hai mươi bảy ngày ta sẽ đi. Trước hai ngày đến hẹn thì Sư thấy hoa sen đỏ, ngày kế thấy hoa sen vàng đầy nhà đều có trẻ con hóa sinh, ngồi trên hoa có đeo dây lưng tiên. Ngày thứ ba vào khám ngồi thẳng sai chúng niệm Phật khoảnh khắc thì hoá.

Khen rằng: Người niệm Phật biết trước lúc chết bởi duyên Ta-bà đã hết, duyên Tịnh độ thành tựu, tự nhiên Thánh cảnh ngầm hiện. Như Viễn Công bảy ngày, nay Quán hai mươi bảy ngày cũng là loại ấy. Người đời sống không có thật đức, lúc chết lại muốn níu kéo trang điểm, chỉ làm trò cười cho thức giả. Nặng thì thân đang sống rần rộ giao động xa gần, chẳng biết nương quỉ đắm Tà mà bị vào đường ác, thật là đáng thương. Lại khiến đám đui mù (không mắt) mừng rỡ mong ước mà gây hại lớn. Ta tu vãng sinh sao không một người quay mình tham dự. Xin người Trí xem đây mà dạy bảo khắp đời sau để cứu những kẻ ngu.

56- Từ Vân Sám Chủ: Ngài Tuân Thức đời Tống, người huyện Lâm Hải ở Thai Châu. Học hành cao xa, danh trùm Lưỡng Triết. Sư chuyên chí An Dưỡng tu Tam-muội Bát Chu chín mươi ngày khổ học ói ra máu. Vào Đạo tràng hai chân toét thịt thề chịu chết. Bỗng như trong mộng thấy Bồ-tát Quán Âm đưa tay chỉ vào miệng bắt ra mấy con sâu. Lại đầu ngón tay phát ra nước Cam lồ chảy vào miệng. Khi tỉnh dậy thì biết thân tâm trong mát, bệnh lành. Sư có soạn Tịnh độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện và Tịnh độ Sám Pháp, lưu hành ở đời. Trong niên hiệu Thiên Thánh khi sắp chết, Sư đốt hương lễ Phật nguyện Chư Phật chứng minh cầu vãng sinh An Dưỡng. Đến chiều thì ngồi mà hóa. Mọi người thấy sao lớn sa xuống ở ngọn Linh Thứu. Lúc đó hiệu là Từ Vân Sám Chủ.

Khen rằng: Chuyên cần Sám Pháp tự làm mà nêu gương muôn đời thì xưa nay chỉ có một người mà thôi. Đến như đưa tay báu bắt sâu, rót nước Cam lồ vào miệng, nếu không có tinh thành rất mực thì sao mà được như thế ư?

57- Tông Thản Sớ Chủ: Ngài Tông Thản đời Tống, người ở Lê Thành thuộc Lộ Châu. Suốt năm mươi năm danh trùm Giảng Lâm, tuổi về già ở Thanh Đài Trấn thuộc Đường Châu mà cầu Tịnh độ, ba nghiệp bốn oai nghi, không hề tạm quên. Niên hiệu chính Hòa năm thứ 4 ngày 27 tháng 4 Sư mộng thấy Phật Di-đà bảo rằng Ngươi nói Pháp chỉ sáu ngày sẽ sinh về Tịnh độ. Thức dậy thì bạch chúng. Đến ngày mùng 4 tháng 5 nhóm chúng bảo rằng: Nhân duyên hợp tan chắc phải có lúc, Thắng duyên Tịnh độ chỉ y cứ lúc này. Xin chúng niệm Phật giúp tôi vãng sinh. Nói xong thì ngồi mà hóa, trên hư không sấm sét rền vang mây trắng phủ đất ba ngày mới tan. Chuỗi lưu ly còn dính mãi trên tay, chúng lấy ra chẳng được. Việc cảm ứng rất nhiều khó kể hết.

Khen rằng: Sấm là tiếng rền vang của Pháp Âm, mây là bóng mát của lòng từ. Chuỗi tay không cởi được là Niệm Lực rất bền bỉ khó thấy.

58- Từ Chiếu Tông Chủ: Ngài Tử Nguyên đời Tống, hiệu là Vạn Sự Hưu, người ở Côn Sơn thuộc Bình Giang. Thuở nhỏ tu tập Chỉ Quán, trong Định nghe tiếng quạ kêu mà ngộ đạo. Có tụng rằng: Hơn hai mươi năm trên giấy tìm tới tìm lui càng trầm ngâm Bỗng đâu nghe được tiếng Quạ kêu, mới tin từ trước dụng tâm sai. Do đó tâm lợi tha rất thiết, khuyên khắp mọi người niệm Phật, thay cho Pháp giới chúng sinh lễ Phật Sám hối cầu sinh An Dưỡng. Lập ra Bạch Liên Sám Đường, thuật bốn Độ ba Quán, soạn Phật Đồ Khai Thị Liên Tông, trong cảnh thuận nghịch mà mắt nhìn thấy không hề động niệm. vua Cao Tông mời vào triều kiến, ban cho hiệu Từ Chiếu. Sau ở Trạch Thành, ngày 23 tháng 3 bảo chúng rằng: Hóa duyên đã xong, ta sẽ đi đây. Nói xong chắp tay mà thị tịch. Khi trà tỳ có vô số xá-lợi. vua ban tên Tháp là Tối Thắng.

59- Pháp Trì: Ngài Pháp Trì đời Tống: trú tại chùa Hoá Độ tu Sám Di-đà, nguyện kết thúc nhanh tuổi thọ ở Diêm-phù, sớm sinh An Dưỡng. Sau bị bệnh nhẹ khóc lóc buồn than mong được tiếp dẫn, cố gắng niệm Phật không dứt tiếng. Bỗng thấy thân

Phật cao trượng sáu đứng trên ao, liền tự nói rằng: Con đã được sinh ở Trung Phẩm. Rồi hướng về phía Tây mà hóa.

Khen rằng: Tình người đều muốn tuổi thọ gấp mà cầu sinh An Dưỡng không rất mừng chán. Tuy nhiên phát nguyện đều được, nhưng lặn biển trèo non chất củi tự vẫn thì tức là ma.

60-Bổn Như: Ngài Bổn Như đời Tống: hiệu là Thần Chiếu trú tại chùa Thừa Thiên tại Đông Sơn cùng với Quận Thú là Trương Tuần kết xã. Một hôm Sư lên toà nói Pháp, cùng chúng từ biệt bèn ngồi mà hóa. Lúc đó chài trên sông dân thấy trong mây có vị Tăng đi về Tây. Năm sau mở tháp thì dung mạo như còn sống, trước Tháp mọc lên cành hoa sen.

61- Pháp sư Cơ: Ky Pháp sư Cơ đời Tống: học với ngài Bảo Vân trú tại chùa Thái Bình Hưng Quốc, tinh chuyên niệm Phật. Một hôm bị bệnh, vì đệ tử nói rộng Huyền Chỉ. Bỗng nhiên chúng thấy Tây Phương hiện ánh sáng, trên hư không trỗi nhạc. Sư nói Đức Phật A-di-đà cùng hai Đại Sĩ đến. Liền nằm nghiêng hông bên phải quay mặt về hướng Tây mà hóa. Đệ tử mộng thấy Phật Di-đà thọ ký là Siêu Thế Như lai. Có người mộng thấy Sư ngồi trên Đài Sen xanh, Thiền sư Pháp Trí khen rằng: Bị bệnh mà nói huyền chỉ, khi qua đời thấy Phật là rất đáng kính.

Khen rằng: Có người nghi Ky được thọ ký. Ôi đích thân thấy Như lai Vô Lượng Quang, thấy thọ ký Bồ đề cho ta trước, ông có biết chăng?

62- Nhược Ngu: Ngài Nhược Ngu đời Tống: ở Tiên Đàm thuộc Vân Xuyên, xây lầu Vô Lượng Thọ, khuyên Đạo Tục niệm Phật siêng năng suốt ba mươi năm cùng với hai Sư Đạo Tiềm và Tắc Chương làm bạn, Tiềm có tài làm thơ mà nổi tiếng. Ngu và chương chỉ theo đuổi thật hành. Khi sắp chết thì mộng thấy vị Thần bảo rằng: Kẻ đồng học với ngươi là Tắc Chương đã được Tam-muội Phổ Hiền Hạnh Nguyện đã sinh Tịnh độ, ông ấy đang đợi ngươi. Ngu bèn tắm gội thay áo, sai chúng tụng Quán kinh, ngồi thẳng im lặng. Bỗng nhiên bảo Tịnh độ hiện tiền, ta đi đây. Rồi viết kệ mà hóa. Kệ rằng:

Vốn tự không nhà để được về
Bên mây có nẻo mà ai hay
Khe kia dao động ánh trăng xế,
Ấy là đầm Tiên mộng dứt đi

Lại nói: Trong không ngàn hoa giăng lưới-Trong mộng bảy báu ao sen

Dẫm được Tây Phương đường vắng, liền không một chút hồ nghi.

Khen rằng: Ngu và Tiềm Chương làm bạn. Tiềm vì mê thơ và tiếng khen mà mất lợi Tịnh độ. Vậy phải bỏ Thế trí, dẹp thế duyên người cầu sinh Tây Phương nên từ quan làm ẩn sĩ.

63- Thủ Chân: Ngài Thủ Chân đời Tống: người ở Vĩnh Hưng. Sư giảng Luận Khởi Tín và Pháp Giới Quán, thường vào lúc nửa đêm mà kết Vô Lượng Thọ Vãng sinh Bí Mật Ấn, hệ niệm Tây Phương. Một đêm trời sáng tự biết mình về Tịnh độ mở mắt thấy Phật, do đó nằm mọp trước tượng. Bỗng nhiên bảo bốn mươi tám nguyện có thể độ ta. bèn cầm hương hoa vào Điện cúng dường, rồi đến chỗ ngồi mà hóa.

64- Tri Lễ đời Tống: Ngài Tri Lễ hiệu Pháp Trí ở Nam Hồ, thuật bộ Diệu Tông Sao, bày rõ ý chỉ về quán Tâm quán Phật. Mỗi năm vào ngày 15 tháng 2 kiến lập Hội Niệm Phật Thí Giới, khuyên hơn vạn người. Lại soạn Dung Tâm Giải trình bày Nhất Tâm Tam Quán, hiển bày về ý nghĩa bốn loại Tịnh độ. Sau vào ngày đầu năm lập Quang Minh Sám. Đến ngày mồng năm mời đại chúng nói Pháp. Ông niệm Phật mấy trăm câu, rồi ngồi an nhiên mà hóa.

Khen rằng: Tri Lễ thuật Diệu Tông, nói Tịnh Quán để hoằng hóa Giáo Thiên Thai mà khi qua đời niệm Phật ngồi tịch, há lớn tiếng nói Pháp lại giống lời nói hằng ngày hay sao.

65- Hữu Nghiêm-đời Tống: Ngài Hữu

Nghiêm trú tại chùa Sùng Thiện, Xích Thành thuộc Thai Châu nương ngài Thần Chiếu học Giáo Thiên Thai. Tuổi về già cất nhà tranh dưới tàng cây hiệu là Tra Am. Bình sinh dốc chí tu Tịnh nghiệp. Có soạn Hoài An Dưỡng Cố Hương Thi, lưu truyền thời ấy. Niên hiệu Kiến Trung Tỉnh Quốc năm thứ nhất, mùa hạ tháng 4-khi sắp qua đời thì thấy hoa sen lớn trong ao báu và nhạc trời bốn bề. Bèn làm bài thơ Tiền Quy Tịnh độ để chỉ dạy chúng, bảy ngày sau ngồi kiết già mà hóa. Trên tháp có ánh sáng như vầng trăng ba đêm mới hết.

Khen rằng: Trước đây Pháp Tường có gương sáng hiện ở bên vách, nay Nghiêm Công có ánh sáng hiện ở trên tháp, đều là linh nghiệm của thân tâm đã thấy suốt. Cho đến ánh sáng đầy nhà, ánh sáng vàng chiếu trên sông mấy trăm dặm, than ôi đó là có thể giả dối hay sao?

66- Tuệ Minh: Ngài Tuệ Minh đời Tống: hiệu là Hối Am học với ngài Tuệ Quang. Tuổi già nương chùa Thường Chiếu ở Súc Sơn mà tu Tịnh nghiệp, hằng ngày tụng Pháp Hoa, Lăng-nghiêm, Viên Giác, và niệm Phật Di-đà vạn câu. Mùa xuân niên hiệu Khánh Nguyên năm Kỷ Mùi, Sư bị bệnh, bảo đệ tử rằng: Ta học Đại Thừa cầu sinh Tịnh độ, nay quả đã toại nguyện, bèn ngồi xếp chân mà hóa. Đại chúng nghe có tiếng nhạc trời ở phương Tây đến vần vũ trên đầu. Khi trà tỳ có vô số Xá-lợi năm màu.

67- Sư Tán: Sư Tán đời Tống: người ở Ung Châu, làm Tăng khi mới mười bốn tuổi, niệm Phật không ngớt. Bỗng nhiên bị bệnh mà chết sớm. Chợt sống lại gọi Thầy và cha mẹ bảo rằng: Phật A-di-đà đến, con đi theo ngài. Người hàng xóm thấy trên hư không có Đài báu, ánh sáng năm màu kỳ lạ hướng về Tây rồi mất.

68- Hai vị Sa-di: Hai vị Sa-di ở vấn Châu, đời Tùy đồng chí niệm Phật. Vị Sa-di lớn bỗng nhiên chết đến Tịnh độ gặp Phật, bạch rằng: Có Sa-di nhỏ đồng tu vơi con có được vãng sinh hay chăng? Phật nói: Do chú ấy khuyên con, con mới phát tâm, nay con hãy trở về siêng tu Tịnh nghiệp, ba năm nữa sẽ cùng đến đây. Đến hẹn thì cả hai người cùng thấy Phật đến đón rước. Đất đai rúng chuyển, trời mưa hoa khắp nơi. Cùng lúc đồng hóa.

69- Liễu Nhiên-Liễu Nhiên Pháp sư đời Tống: Hiệu là Trí Dũng trú tại chùa Bạch Liên. Năm hai mươi bốn tuổi mộng thấy hai con Rồng đùa giỡn trên hư không, một con hóa thành Thần nhân đó lấy trong tay áo một thẻ tre bảo: Bảy ngày nữa Sư sẽ đi. Khi tỉnh dậy nhóm chúng nói Pháp, viết chữ lớn rằng: Nhờ năng lực niệm Phật mà được sinh Lạc Quốc, các ngươi hãy tự cố gắng. Rồi tắm gội thay áo, khiến chúng tụng Kinh Di-đà đến chỗ thế giới Tây Phương thì an nhiên mà hóa. Hành nhân trú tại chùa Năng Nhân đều nghe tiếng nhạc trời, ánh sáng lạ như đuốc bay lên trời.

70- Tư Chiếu: Ngài Thích Tư Chiếu đời Tống: nghiên cứu Giáo Tông, chuyên tâm Tịnh nghiệp. Mỗi ngày vào canh tư liền dậy niệm Phật. Tỳ-kheo biếng lười chẳng sợ vẫn ngủ yên, bắt chước Pháp Tạng có bốn mươi tám nguyện, kết hội Tăng tục hệ niệm suốt ba mươi năm. Một hôm cảm thấy có bệnh mộng thấy thân vàng trượng sáu, bèn nhóm chúng niệm Phật, bỗng lớn tiếng đồng chúng xưng niệm, co tay bắt ấn ngồi mà hóa. Khi trà tỳ răng và hạt chuỗi không hư.

71- Trí Liêm đời Tống: Ngài Trí Liêm trú tại chùa Hóa Độ ở Thượng Ngu. Trước tham vấn khắp các Tông Môn. Tuổi già chỉ chuyên một ý Tây Phương. Niên hiệu Khánh Nguyên đổi niên hiệu mùa thu tháng 8 từ biệt chúng rằng: Trong mộng ta thấy Phật A-di-đà nói Pháp, đại chúng vây quanh. Phật nói các Thiện Nhân phải nên chuyên tâm Tịnh nghiệp mà sinh về nước ta. Ta thấy tướng lành, sẽ được vãng sinh. Rồi viết kệ rằng:

Nhạn bay qua hư không,
Bóng chìm nước lạnh, không sinh không diệt
Trong cõi nước hoa sen.

Viết xong, Sư quay mình hướng về Tây bắt ấn mà hóa.

72- Trí Thâm: Ngài Trí Thâm đời Tống: hiệu là Từ Xuyên, học với ngài Hải Nguyệt trở về Gia Hòa, mở Nhà dài, cúng dường chúng hai mươi năm chuyên chí niệm Phật. Thường đem Tịnh nghiệp dạy người, người được vãng sinh rất đông. Bỗng Sư bị bệnh, khách đến thăm hỏi vẫn bàn luận như thường. Khi khách vừa ra khỏi cửa liền hóa, mọi người thấy mây tìm hướng về Tây rồi mất hút.

73- Pháp Nhân-Ngài Pháp Nhân đời Tống: Trú tại chùa Quảng Thọ Tứ minh, suốt ba mươi năm ngầm tu Tịnh độ. Sau bị bệnh nhóm chúng tụng Quán Kinh, niệm danh hiệu Phật. Đêm thứ ba bảo môn nhân rằng: Ta sắp đi đây. Có người thỉnh Sư để lại kệ, bèn viết: Ta và Di-đà vốn không hai, hai cùng chẳng hai đều lìa Ngã, nay như thế mà thấy Di-đà, Cảm Ứng đạo giao khó nghĩ bàn, rồi ngồi thẳng mà hóa.

Khen rằng: Lấy tâm ta mà niệm Phật kia thì chúng sinh và Phật rõ ràng. Ngay tâm phàm mà thấy tâm Phật thì chúng sinh và Phật nào khác, nào khác cho nên lìa hai rõ ràng cho nên lìa chẳng hai, lìa hai nên chẳng theo cái khác mà tìm, lìa chẳng hai nên chẳng ngại cầu sinh. Lại lìa hai cho nên phàm tình đây dứt hết. Lìa chẳng hai cho nên Thánh Giải đều mất. Như thế mà thấy Phật thì suốt ngày Ta-bà là suốt ngày Tịnh độ, niệm niệm là Đức Thích-ca ra đời, lúc lúc là Di-lặc hạ sinh, mới gọi là thật thấy Di-đà. Nếu không như thế thì gặp ngay trước mặt như mây trắng ngàn dặm xa!

74- Trí Tiên-Ngài Trí Tiên đời Tống: Hiệu là Chân Giáo, trú tại chùa Bạch Liên giảng Đạo mười ba năm, hướng về Tây lễ niệm không hề bỏ giở. Một đêm bị bệnh nhẹ thỉnh hành nhân Quán Đường Hành nhân tụng kinh Di-đà, chưa hết quyển thì đã ngồi mà hóa. Những người ở cạnh chùa Năng Nhân đều nghe tiếng nhạc Trời hòa tấu. Sáng hôm sau mới biết Sư đã mất.

75- Tông Lợi-Ngài Tông Lợi đời Tống: Ở Bích Chiêu thuộc Tân Thành, tu niệm Phật Tammuội đã mười năm. Sau vào núi Đạo Vi cất am tranh tên là Nhất Tướng trải qua mười lăm năm. Bỗng nhiên bảo đệ tử rằng: Ta thấy hoa sen biếc đầy khắp hư không. ba ngày sau lại bảo Phật đến. Rồi viết kệ rằng: Ta năm chín mươi đầu đã bạc-Cuộc đời không có khách trăm năm khách-Nhất Tướng Đạo Nhân lại quay về-đài vàng ngồi biết trời đất hẹp. Rồi an nhiên mà hóa.

76- Tề Ngọc: Ngài Tề Ngọc đời Tống: hiệu là Tuệ Giác. Trước ở trú tại chùa Bảo Tạng thuộc tráp Châu lập ra Hội Tịnh độ. Sau ở Thương Trúc nửa đêm ở trước tượng Di-đà hành Đạo niệm Phật. Một hôm gọi Thủ Tọa bảo rằng: Trước giường ta hiện ra tháp Đa bảo, không phải nguyện của ta, ta chỉ muốn Tịnh độ mà thôi, ông hãy vì ta nhóm chúng niệm Phật. Thủ Tọa đánh chuông, Tăng có gần trăm vị. Ngọc nói nay đã thấy Phật, rồi nhắm mắt ngồi thẳng mà hóa.

Khen rằng: Tháp Đa bảo báu cũng là nước Phật, vì sao Ngọc không nguyện. Xưa Vi-đề-hy xem khắp Tịnh độ mà chỉ cầu An Dưỡng. Bởi không chuyên tu công chẳng nghiêm khắc. Biết vậy thì có thể nói chuyện Tây Phương với nhau rồi?

77- Viên Chiếu Bổn Thiền sư: Đời Tống, ngài Tông Bổn, người ở Vô Tích thuộc Thường Châu. Trước tham học với Thiền sư Thiên Y Hoài, niệm Phật có tỉnh ngộ. Sau dời về Tịnh Từ, vâng chiếu vua trú tại chùa Tuệ Lâm ở Đông Kinh, vua mời đến hỏi Đạo ở Điện Diên Hoà, vâng chỉ ở yên ngầm tu Tịnh độ. Có Pháp sư Lôi Phong Tài thần thức dạo đến Tịnh độ, thấy một hoa đẹp kỳ lạ bèn hỏi thì đáp là đợi Thiền sư Bổn Tịnh Từ. Lại Tư Phước Hi Công đến Tuệ Lâm lễ dưới chân Sư, bố thí vàng rồi đi. Có người hỏi lý do thì đáp: Trong Định tôi thấy có hoa sen vàng, người nói để đợi Bổn Công. Lại thấy có vô số hoa sen nói là để đợi hóa độ. Có hoa héo thì nói người ấy lui sụt. Có người hỏi Sư truyền trực chỉ (Thiền) làm sao được nêu tên ở Liên Cảnh? Sư đáp: Tuy ở Tông Môn nhưng cũng tu cả Tịnh độ. Khi qua đời thì ngồi yên mà hóa. vua ban hiệu là Viên Chiếu Thiền sư.

Khen rằng: Xưa, ngài Trung Phong Thiên Như nói Thiền và Tịnh độ Lý tuy một mà công phu chẳng thể cùng thực hành. Nay nói gồm tu thì nghĩa gồm có hai, hai chân giữ hai thuyền là gồm thì thật chẳng thể viên thông, chẳng ngại là gồm thì sao chẳng có được? Huống là ngoài Thiền không có Tịnh độ, tức độ tức tâm, vốn không hai vật, đâu được gọi là gồm?

78- Đại Thông Bổn Thiền sư: Ngài Thiện Bổn đời Tống thi Kinh Hoa Nghiêm được độ, vâng chiếu vua trú tại chùa Pháp Vân, ban hiệu là Đại Thông. Sau về chùa Tượng Ổ ở Hàng Châu tu Tịnh nghiệp. Trong Định thấy Phật A-di-đà hiện thân màu vàng. Một sớm cáo biệt môn nhân rằng: Chỉ còn ba ngày nữa. Khi đến hẹn bèn ngồi kiết già niệm Phật quay mặt về Tây mà hoá.

79- Luật sư Linh Chi Chiếu: Ngài Nguyên Chiếu đời Tống, ở Linh Chi hoằng hóa luật học, dốc chí Tịnh nghiệp, niệm Phật không ngớt. Một hôm bảo đệ tử tụng Quán Kinh và Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, rồi Sư kiết già mà hóa. Ngư dân ở Tây Hồ đều nghe trên hư không có tiếng nhạc.

80- Luật Sư Thanh Chiếu-ngài Tuệ hạnh đời Tống: Trú tại chùa Diên Thọ ở Võ Lâm. Thuở nhỏ nương ngài Linh Chi học Luật và chuyên tu Tịnh nghiệp trong sáu mươi năm. Mỗi lần gặp người đều khuyên niệm Phật. Xây gác báu lập Tượng ba Thánh rất là đặc biệt. Có Giang Tự Nhậm bỗng nhiên mộng thấy tòa báu từ trên không mà hạ xuống bảo rằng: Luật sư Hanh sẽ lên ngồi ở đây. Vừa lúc có bạn Liên Xã là Cư sĩ Tôn định giã biệt Hanh, ông ở nhà bắt ấn mà hóa. Sư đến đốt hương rồi về, gọi học trò bảo rằng: Tôn Quân đã đi, ta cũng đi. Rồi nhóm chúng niệm Phật và nói kệ rằng: Di-đà miệng miệng xứng-Bạch Hào niệm niệm tưởng, giữ tâm này không thối, chắc chắn sinh An Dưỡng, rồi ngồi yên mà hóa, hiệu là Luật Sư Thanh Chiếu.

Khen rằng: Sáu mươi năm chuyên tu Tịnh nghiệp, khi qua đời có ứng điềm lành nào nghi. Ở đời có người vì lực trì tụng trong thời gian ngắn mà chê Tịnh độ là không có điềm lành thật sai lầm!

81- Tư Mẫn: Ngài Tư Mẫn đời Tống: Nương Luật Sư Linh Chi thọ thêm giới Pháp, chuyên tâm niệm Phật suốt hai mươi năm. Sau bị bệnh thỉnh chúng tụng Quán Kinh được nửa tháng ba ngày (18 ngày) thì thấy Hoá Phật đầy không gian. Khi qua đời niệm Phật lớn tiếng át tiếng của chúng. Mùa Hạ rất nóng khám bảy ngày không thay đổi, mùi thơm lạ đầy trong thất.

82- Hy Trạm: Ngài Hy Trạm đời Tống: người Sơn Âm là Nho Sinh. Bỗng chán đời xuất gia, cùng Hành nhân Oánh lập điện Phật Vô Lượng Thọ ở Nguyễn Đỗ, chuyên tu Tịnh nghiệp, ngồi không xoay lưng về Tây. Lâu sau thường thấy Phật và hai vị Bồ-tát. Một đêm xoay mặt về phía Tây niệm Phật ngồi thẳng an nhiên bắt ấn mà hoá.

83- Pháp sư Đăng: Pháp sư Đăng đời Tuỳ: giảng Kinh Niết-bàn ở chùa Hưng Quốc thuộc Tính Châu. Người đến nghe kinh khắp khuyên niệm Phật vãng sinh. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 12 thì qua đời mùi thơm lạ đầy không gian. Khi chôn thì ánh sáng và mây tỏa thơm khắp cả xóm làng.

84- Tăng Nhai: Ngài Thích Tăng Nhai trú tại chùa Đa Bảo ở Ích Châu dốc lòng vì Tịnh nghiệp, đốt năm ngón tay cúng dường ba vị Thánh Tây Phương. Có người hỏi đau chăng? Đáp: Tâm đã không đau thì ngón tay làm sao đau? Khi qua đời hoa trời tuôn như mưa. Mọi người thấy Nhai mặc áo nạp cầm tích trượng cùng năm-sáu trăm vị Tăng bay lên hư không rồi ẩn mất.

85- Pháp sư Tạng-đời Tống: Tăng Tạng người Phần Châu, một đời không nhận Đạo Tục lạy mình, chuyên tu Tịnh độ. Khi sắp mất có Thiên nhạc thứ lớp đến đón rước đều không đi. Khi Phật Tây Phương đến liền cáo biệt chúng mà hóa.

86- Pháp sư Cô Sơn Viên: Ngài Trí Viên đời Tống, ở Cô Sơn thuộc Tây Hồ, rộng giảng nói các Kinh, khắc tâm Tịnh độ, soạn bộ Di-đà Sớ và Tây Tư Sao khuyên phát tâm vãng sinh. Khi qua đời dùng hòm sành mà chôn. Mười lăm năm sau mưa gió núi lở, mở quan ra thì thấy nhục thân y nguyên móng tóc đều ra dài.

Khen rằng: Truyện nói chết rồi vẫn như cũ không nói qua đời vãng sinh là sao? Y cứ vào mất mà hiện chứng cớ còn là nói chỗ tu nghiệp Thiện bền chắc mà cảm được, nên chắc chắn vãng sinh không nghi ngờ gì.

87- Nguyên Tịnh: Ngài Nguyên Tịnh đời Tống: người ở đất Hàng. Năm mười hai tuổi xuất gia. Sau trú tại chùa Long Tỉnh. Lúc đó Hiền Triệu Thanh Hiến Công, Tô Văn Trung Công … đều kính trọng. Khi sắp qua đời đi vào Am Phương viên gọi người bảo rằng: Ta bảy ngày không trở ngại thì sở nguyện hoàn thành. Đến ngày thứ bảy viết kệ dạy chúng rồi Cát tường mà hóa.

88- Dụ Di-đà: Ngài Tư Tịnh đời Tống: họ Dụ, người ở Tiền Đường, tự hiệu là Tịnh độ Tử, sớm hầu Pháp sư Anh giảng Kinh Pháp Hoa, sau chuyên niệm Phật. Khi rảnh rang thì vẽ tượng Phật, khi vẽ thì ở trong tịnh thất dứt tưởng đến khi thấy Phật Di-đà chiếu sáng mới xuống bút. Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiệu Hưng, Sư ngồi thẳng bảy ngày nhất tâm niệm Phật, rồi an nhiên mà hóa.

Khen rằng: Vẽ Phật quán Phật, người khéo dùng thì như thế. Bởi có thể vẽ người ngựa mà chẳng vẽ được người ở nước Phật ư? Nhưng thợ vẽ đã vẽ Phật vì sao không vãng sinh. Ôi hỏi bến về nhà thì phải Tịnh tưởng mới có vắng lặng chăng? Huống chi vẽ nhiều màu nhiều hình? Lão Dụ chỉ chuyên một Phật. Chuyên thì quán không phải vẽ. Về màu vẽ Phật cũng tức là niệm Phật? Kẻ đỏ xanh không mượn miệng ở đây.

89- Mông Nhuận: Ngài Thích Mông Nhuận tự là Ngọc Cương, đắc pháp với Thiền sư Cổ Nguyên. Tuổi già tại Bạch Liên Âm ở Phong Hoàng Lãnh, đóng cửa niệm Phật. Khi qua đời Hóa Phật đến đón rước, mùi thơm lạ đầy nhà.

90- Vân Ốc: Ngài Thiện Trụ đời Nguyên: tự là Vân Ốc, người ở đất Tô. Đóng cửa sáu thời niệm Phật, bệnh lâu vẫn không đổi. Khi qua đời mùi thơm lạ đầy nhà. Sư có soạn An Dưỡng Truyện Cốc Hưởng Tập lưu hành ở đời.

91- Chỉ Quán Chủ: Chỉ Quán Chủ đời

Nguyên, tự là Biệt Tông, người ở đất Hàng, giới đức rất nghiêm. Sáng lập Quán Thất ở sườn phía Nam Long Sơn tu hành Tam-muội niệm Phật. Dầu trốn tránh binh đao giặc cướp mà vẫn không hề bỏ. Khi qua đời không bệnh, tắm gội ngồi thẳng mà hóa. Pháp sư Chi Vân Nhân trong Hạnh Nghiệp Tập có ghi rất rõ.

92- Đàm Ý: Ngài Đàm Ý đời Tống: Ở Tiền Đường làm nghề thuốc. Tuổi già tu Tam-muội niệm Phật. Đem những của cải để dành được cúng Phật, Tăng, tạp Tượng, làm nhà tắm, như thế suốt hai mươi năm. Sau bị bệnh nhẹ, bỏ cả thuốc men, mời bảy vị Tăng niệm Phật. Hôm sau thấy hoa sen lớn như cái nhà. Lại một hôm thấy có vị Tăng Ấnđộ đến giường thăm hỏi. Nửa đêm đại chúng nghe tiếng niệm Phật, thì thấy Sư an nhiên mà hóa.

93- Thái Vi: Ngài Thái Vi đời Tống: lúc nhỏ nương Pháp sư Pháp An ở Tiền Đường xuất gia. Trước giao cho Kinh Di-đà liền đọc thuộc lòng. Khi thọ giới cụ túc thì niệm Phật tinh tấn không biếng lười, thường dạo bước sau núi. Bỗng nghe có tiếng sáo thì khoát nhiên khai ngộ, bèn dấu riêng một ống sáo tự vui. Có Lăng Giám Bộ là người đồng chí tu Tịnh nghiệp, gọi Sư là Tịnh Độ Hương Trưởng. Một hôm gõ cửa nói Tịnh độ Hương Đệ gặp nhau. Sư bèn bảo: Sáng mai sẽ gặp nhau ở Tịnh độ. Nay niệm Phật để giữ Chánh niệm. Sáng hôm sau mọi người lấy làm lạ vì Sư không đến dùng cháo. Đến xem thì thấy ống sáo, bát, ghế ngồi thiền đã đốt hết, Sư ngồi kiết già trên đất mà hóa.

Khen rằng: Cất chứa ống sáo để tự vui, người xưa là Liêu Ký Ngộ Do nhân dùng để làm Phật sự. Câu-chi được thiền một ngón của Thiên Long mà trọn đời dựng ngón tay. Đoan công thấy Sư tử đùa giỡn, vì phát minh tâm địa, mà thường khác nhiều màu. Cho đến đọc sai Lăng-nghiêm, mà không đổi câu độc, đều tương tự như vậy. Đám người làm càng tự vui hãy cẩn thận không lấy gì để mượn cớ lót miệng.

94- Dụng Khâm: Ngài Dụng khâm đời Tống: ở viện Thất Bảo thuộc Tiền Đường, nương ngài Đại Trí học Luật. Nghe ngài Đại Trí dạy chúng rằng: Sống hoằng Tỳ ni, chết về An Dưỡng. Xuất gia học Đạo làm việc này xong liền nêu tâm Tịnh độ, một chí không lui sụt. Hằng ngày niệm Phật ba vạn câu. Có lần Thần thức đến Tịnh độ thấy Phật và Đại Sĩ các hình ảnh đẹp lạ, bèn bảo thị giả rằng:

"Ngày mai ta đi".

Rồi nhóm chúng niệm Phật. Sáng hôm sau chắp tay hướng về phía Tây ngồi kiết già mà hoá.

95- Cửu Pháp Hoa-Ngài Khả Cửu đời Tống: Ở Minh Châu, thường tụng Pháp Hoa nguyện sinh Tịnh độ. Lúc đó gọi là Cửu Pháp Hoa. Niên hiệu Nguyên Hựu năm thứ 8, năm tám mươi mốt tuổi ngồi mà hóa. Được ba ngày thì sống lại bảo mọi người rằng: Ta thấy cảnh Tịnh độ rất phù hợp với kinh, trên đài sen đều nêu tên người vãng sinh, có một đài vàng nêu tên ông Huân ở Viện Quản Giáo tại phổ Thành Đô, một cái nêu Minh Châu Tôn Thập Nhị Lang, một cái nêu Khả Cửu, một Đài Bạc nêu Từ Đạo Cô Minh Châu. Nói xong thì hóa đi năm sau Từ Đạo Cô mất, mùi thơm lạ đầy nhà, mười hai năm sau thì Tôn Thập Nhị Lang mất, nhạc trời đón trên hư không, đều đúng như lời Cửu nói.

Khen rằng: hoa sen ghi tên đến đây thường thấy. Huyễn hay Thật? Huyễn tâm mà niệm Huyễn Phật, huyễn hoa mà nêu huyễn danh cho đến được ghi thành Phật thì điều gì chẳng huyễn. Ta lại huyễn sinh, sao còn nói là thật hay không?

96- Tổ Huy-Ngài Tổ Huy đời Nguyên: Ở gác thờ Phật tại Quận thành thuộc Tứ Minh, gặp người chỉ nói A-di-đà Phật, còn nói gì cũng không nói được. Do đó người gọi là "Hoà-Thượng Nói chẳng được". Vợ chồng Vương Dụng hưởng là huyện úy Huyện Ngân rất kính thờ Sư. Một hôm, Sư đến nhà từ biệt rằng: "Ngày mai ta đi". Sáng hôm sau chúng tập hợp đến, bèn vào khám ngồi, xin dưa hấu ăn xong một quả, rồi niệm Phật mà hóa.

97- Sở Kỳ-Ngài Sở Kỳ đời Đại Minh: Người nước Thục dốc lòng tin Tây Phương. Nhân đến Yên Kinh nghe trên lầu có tiếng trống bèn đại triệt (đại ngộ). Niên hiệu Hồng Võ năm đầu, vua ba lần mời vào Kinh Đoàn nói Pháp, vua rất vui, sau xây thất gọi là Tây Trai, chuyên ý Tịnh nghiệp. Có lần thấy hoa sen lớn đầy khắp thế giới, Đức Phật A-diđà ở giữa, Thánh chúng đi nhiễu quanh. Khi sắp tịch viết kệ dạy chúng rồi bảo Ta đi đây. Có người hỏi sinh ở đâu, thì đáp Tây Phương. Hỏi Phương Tây có Phật còn Phương Đông không có Phật sao?

Bèn hét lớn một câu và an nhiên mà hóa.

98- Bảo Châu: Ngài Bảo Châu đời Đại Minh: thường dạo chơi ở quận Hàng. Trong niên hiệu Gia Hòa, mùa Đông mùa Hạ vẫn mặc một nạp y đi khất thực nuôi sống, nghỉ đêm không chỗ nhất định, bình thường chỉ niệm Phật không ngớt. Người gọi thì vừa đáp xong lại niệm liên tục mà không có nói lời tạp. Sau trú tại chùa Hải Môn bỗng như điên cuồng gần nửa tháng, chư Tăng trách rằng: Ông bình thường thực hành, phải làm gương cho người đời, sao được như thế? Châu nói đã thế thì tôi đi đây. Tắm gội xong an nhiên đứng mà hóa.

* Luận chung:

Kinh Vô Lượng Thọ nói về ba bậc vãng sinh. hạng cao nhất là bỏ nhà lìa tục làm Sa-môn, một bề chuyên niệm Phật A-di-đà. Bỏ nhà lìa tục là Thân xuất gia, một bề chuyên niệm là Tâm xuất gia. Thân Tâm đều thanh tịnh, chẳng sinh Tịnh độ ư? Ở đời có hạng Tăng điên cuồng nói: Tịnh độ vãng sinh chỉ tiếp dẫn hai chúng tại gia, tôi là Sa-môn đâu có thèm vào! Có người bảo Tịnh độ vãng sinh chỉ tiếp dẫn Tăng độn căn còn, tôi sáng Tông sáng Giáo, đâu có thèm vào! Ôi, đó là biết sai. Từ Viễn Tổ trở đi các Đại lão hoằng hóa kinh pháp mà tiếng tăm rung chuyển trời người, hoặc nắm Tổ Ấn mà mở Đạo lớn, xưa nay các ngài ấy đều mê muội đối với Tông giáo, đều chẳng phải Sa-môn ư? Lại biết sai Ngoài Tịnh độ không có Tông giáo, không có Sa-môn ư? Ta nhân đó mà cảnh cáo các kẻ cuồng si!

QUYỂN 2

II-HẠNG VUA QUAN VÃNG SINH

1- Quốc Vương Ô Trường: Quốc Vương Ô Trường là người đứng đầu vạn Cơ, rất thích Phật Pháp. Có lần nói với quan hầu cận rằng: Ta là vua một nước, tuy hưởng phước lạc nhưng không tránh khỏi Vô thường. Ta nghe Tây Phương Tịnh độ có thể nương thần, Trẫm nên phát nguyện cầu sinh về nước ấy. Do đó mà sáu thời hành đạo niệm Phật. Mỗi khi cúng Phật đãi cơm cho Tăng, vua và phu nhân đích thân ra làm, suốt ba mươi năm không bỏ. Khi qua đời thì sắc mặt vui tươi, hóa Phật đến đón rước, có nhiều điềm lành.

Khen rằng: đời Mạt pháp nghe pháp mà tin nhận, kẻ không có chức vị thì nhiều, kẻ có chức vị thì ít. Có chức vị mà tột phẩm cao quý thì càng rất ít, vì sao? Vì địa vị càng cao, ham muốn càng rộng thì nhiễm càng nặng, điều này luôn thế khó mà tránh khỏi. Nay hưởng phước vua mà không quên

Tây Phương, nếu không phải gieo nhân đời trước làm sao được như thế. Tuy nhiên xưa nay các vua chúa để tâm vào nội điển vì sao không chép, bởi vì cho rằng truyện Tịnh độ này có ý riêng nên không ghi rộng.

2- Tống Thế Tử: Cha con đời Tống Ngụy, ba cha con đều tu Tây Phương, chỉ có vợ là không tu. Con gái năm mười bốn tuổi chết bảy ngày sống lại thưa mẹ rằng: Con thấy ở Tây Phương trên ao bảy báu cha và anh ba người đều có hoa sen, chết rồi sẽ sinh về đó, chỉ mẹ là không có, nên tạm về để báo cho biết, mong mẹ lưu ý. Bà mẹ cảm lời con gái nói liền phát tín tâm niệm Phật không mệt mỏi. Sau chết cũng sinh An Dưỡng.

Khen rằng: Lúc đầu thiếu Tịnh duyên, sau lại sinh về Lạc quốc là do tin hay không tin. Kinh nói chỉ trừ không tin mà xét.

3- Tham Quân Lưu Di Dân: Lưu Di Dân người Bành Thành, là con cháu của Hán Sở Nguyên Vương. Thuở nhỏ mồ côi thờ mẹ rất chí hiếu, tự dựa vào tài năng của mình, không làm bạn với người dung tục. Trước làm Phủ Tham Quân, sau liền ở ẩn. Tạ An, Lưu Dụ cùng tiến cử nhưng không đến, khen ngợi mà gọi là Di Dân. Ông đến Lô Sơn dự Liên Xã của Viễn Công. Có làm thơ niệm Phật Tam-muội để tỏ bày chuyên chí. Có lần ở trong định thấy ánh sáng Phật chiếu, đất đều có màu vàng ròng. Ở suốt mười lăm năm lại thấy Phật A-di-đà ngọc hào chiếu sáng đưa tay dẫn dắt. Di Dân ước rằng sao được Như lai xoa đầu con và đắp y cho con. Bỗng được Phật xoa đầu phủ y ca-sa. Một hôm lại thấy xuống ao bảy báu, hoa sen màu xanh nhạt, nước trong vắt. Một người đảnh có vầng ánh sáng tròn, ngực có chữ vạn, chỉ nước ao bảo: Nước tám công đức ngươi hãy uống. Di Dân uống vào thấy ngon ngọt. Khi tỉnh dậy biết có mùi thơm lạ phát ra từ lỗ chân lông. Bèn bảo chúng rằng: Tu duyên Tịnh độ đã đến. Bèn ở trước tượng đốt hương lạy và khấn rằng: Con nhờ di giáo của Thích-ca mà biết có Phật A-di-đà, hương này con cúng dường Thích-ca Như lai, kế cúng dường Phật A-di-đà và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nguyện tất cả hữu tình đều sinh về Tịnh độ. Nói xong quay mặt về Tây chắp tay mà hóa. Lúc đó là niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 6.

Khen rằng: Quán Kinh nói Chánh nhân Tịnh nghiệp thì hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ là bậc nhất. Nên biết người bất hiếu suốt ngày niệm Phật, Phật cũng không vui. Nay Di Dân thuở nhỏ rất hiếu thảo mà lại thâm nhập Tam-muội, nhiều lần cảm được điềm lành mà vãng sinh ở phẩm vị cao, nên biết, đây là Pháp sư muôn đời cho người tại gia tu Tịnh nghiệp.

4- Trương Dã Mậu Tài: Đời Tấn, Trương Dã ở Tầm Dương thông cả tiếng Hoa Phạm, rất giỏi tiếng Thuộc, được cử làm Mậu Tài. Nhiều lần vua sai làm Tán Kỵ Thường Thị nhưng ông đều không đến. Ông vào Liên Xã ở Lô Sơn tu Tịnh nghiệp. Niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 14, cáo biệt người nhà rồi vào thất ngồi thẳng mà hóa.

5- Học Sĩ Trương Kháng-đời Tống: Trương Kháng làm lành hướng về Phật thề tụng Đại Bi ĐàLa-Ni mười vạn biến cầu sinh Tịnh độ. Năm hơn sáu mươi tuổi bị bệnh, nhất tâm niệm Phật gọi người nhà bảo rằng Tây Phương Tịnh độ chỉ ở trước nhà Phật A-di-đà ngồi trên hoa sen, còn ông Nhi ở trên đất vàng lạy Phật. Nói xong niệm Phật mà hóa. Ông Nhi là cháu mới ba tuổi đã chết.

Khen rằng: Tâm tịnh thì Tây Phương thấy tận mắt, Tâm uế thì địa ngục theo thân. Kháng vì tịnh tâm thành tựu nên ở trước nhà thấy Phật đâu có nghi gì?

6- Ty Sĩ Vương Trọng Hồi: Vương Trọng Hồi đời Tống, làm quan Ty Sĩ Tham Quân ở Quảng Châu hỏi Vô Vi Tử Dương Công rằng: Trong Kinh dạy người cầu sinh Tịnh độ mà Tổ Sư lại nói: Tâm là Tịnh độ không cần phải cầu, là thế nào? Dương Công đáp: Thử tự suy nghĩ nếu ở cảnh Phật thì không Tịnh không Uế đâu cần phải cầu sinh. Còn nếu chưa ra khỏi cảnh chúng sinh thì làm sao có thể chẳng dốc lòng niệm Phật, bỏ Uế độ mà cầu sinh Tịnh độ. Ty Sĩ cảm ngộ bèn vui vẻ mà đi. Sau đó hai năm Dương Công trấn thủ Đơn Dương, bỗng mộng thấy Ty Sĩ nói: Được ông chỉ dẫn nay đã vãng sinh, nên đến đây tạ từ. Được mấy ngày thì được tin cáo phó nói Ty Sĩ đã biết trước ngày chết bảy ngày từ biệt người nhà mà hóa, chính là lúc mộng thấy ông từ tạ.

7- Huyện Úy Mã Tử Vân: Mã Tử Vân đời Đường, đầy đủ hiếu thảo liêm khiết làm Uy vùng kinh Ấp đưa thuế về Kinh, gặp gió bão ghe chìm bị bắt giam bèn hệ tâm niệm Phật, năm năm sau được tha tội. Vào chùa trong núi Nam Lăng ở ẩn. Một hôm bảo với người rằng: Ta một đời chuyên siêng năng niệm Phật, nay nghiệp Tây Phương đã thành, ta sẽ vãng sinh An Dưỡng. Hôm sau tắm gội thay áo mới, ngồi thẳng chắp tay, mùi thơm lạ đầy ngõ. Vui mừng bảo Phật đến đón rước ta, nói xong thì hóa.

Khen rằng: Thân bị giam nhốt tâm niệm Phật sau được tha tội, tức là gông cùm xiềng xích niệm Quán Âm mà được giải thoát. Nay năm dục cột chặt há chẳng bị giam nhốt? Hệ tâm niệm Phật, một câu diệt trọng tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp, hạnh chẳng phải được tha. Nay bó tay trước năm dục chẳng biết niệm Phật, ôm tội muôn kiếp trọn không có lúc được tha, buồn thay!

8- Cổ Thuần Nhân ở Quận Thối: Cổ Thuần Nhân đời Tống, người ở Tráp Xuyên, làm phó quan ở Sính Châu, ngầm tu Tịnh nghiệp, ăn chay trường niệm Phật. Nhân bị bệnh nhẹ xoay mặt về hướng Tây ngồi yên mà hóa, trên đầu có vầng ánh sáng tròn màu trắng, mùi thơm lạ đầy nhà.

9- Trương Định Trợ Giáo: Trương Địch đời Tống, người Tiền Đường, làm quan Trợ Giáo, theo Luật Sư Viện Tịnh thọ giới Bồ-tát, chỉ học pháp môn niệm Phật dốc chí tu trì, thề sinh An Dưỡng. Mỗi khi niệm Phật thì cất tiếng mạnh mẽ đến mất tiếng cũng chẳng thôi. Một hôm thưa với Viên Tịnh rằng: Trong Định con thấy chim Tần-già màu trắng bay múa trước mặt. Lại ba năm sau ngồi xoay về hướng Tây niệm Phật mà hóa.

Khen rằng: Thấy chim Tần-già mà không thấy Phật là sao? Bởi trước tạm thấy chim sau sẽ thấy Phật, nói là dần vào cảnh đẹp, chẳng phải ư?

10- Quốc Học Vương Long Thư: Vương Nhật Hưu đời Tống,, người ở Long Thư, tỉnh lặng giản khiết, làu thông kinh sử. Một hôm bỏ hết bảo rằng: Đó đều là nghề quen không phải là Pháp rốt ráo, việc của ta là về Tây Phương. Từ đó tinh tấn niệm Phật, tuổi sáu mươi mặc áo vải ăn rau dưa. Ngày lạy ngàn lạy, nửa đêm mới ngủ. Ông có làm văn Tịnh độ khuyên đời. Khi sắp mất trước ba ngày từ biệt khắp bạn thân hữu, có người không gặp. Đến hẹn thì thấy ông vẫn đọc sách và lễ niệm như thường. Bỗng lớn tiếng niệm A-di-đà Phật, rồi bảo Phật đến đón rước ta, nói xong thì đứng mà hóa như cây trồng vậy. Có người mộng thấy hai người áo xanh dẫn ông đi về phía Tây. Từ đó mọi nhà đều thờ cúng.

Khen rằng: Long Thơ khuyên phát Tây Phương rất là tha thiết đến bọn người quấy cũng phải nghe theo. Khi qua đời thì rất cao quý đặc biệt, soi sáng cả ngàn xưa. Than ôi, há chẳng phải là Thánh Hiển Tịnh độ vào trần để ra tay hoằng hóa ư?

11- Giang Công Vọng Tự Gián: Giang Công Vọng đời Tống, người ở Câu Đài, làm quan đến chức Gián Nghị, ăn rau dưa thanh tu, làm các Văn Bồ-đề, Văn Niệm Phật Phương Tiện để khuyên đạo tục. Có con chết sớm báo mộng rằng: Đại Nhân tu đạo, công và nghiệp đã thành. Minh Phủ có Ngạch chữ vàng đề là Nghiêm Châu Phủ, Giang Công Vọng ăn ở nói năng hiền lành, chí mến khổ không, làm việc huân tu, tâm không ái nhiễm, động tịnh không trái với, Phật pháp, nói im đều khế hợp Tông Phong, Danh đã thoát khỏi Diêm-Phù, thân sẽ về Tịnh độ. Cuối niên hiệu Tuyên Hòa biết Quảng Đức Quân, một hôm không bệnh, xoay mặt về Tây ngồi thẳng mà hóa.

Khen rằng: Có người nói việc đề Ngạch sợ chưa đúng. Ôi, Ngài Vĩnh Minh thường vẽ tượng ở Minh Ty (cõi Âm), dẫu có Tăng nhiễu tháp cũng chẳng dối, sao riêng Công Vọng mà nghi.

12- Đại Phu Cát Phồn: Cát Phồn đời Tống, người ở Trừng Giang. Thuở nhỏ thi đậu làm quan đến chức Triêu Tán. Ở công sở hay ở nhà riêng đều xây dựng tịnh thất, bài trí tượng Phật. Từng vào Thất lễ tụng, xá-lợi từ trên hư không rơi xuống. Bình thời lấy Tịnh nghiệp khuyên khắp Đạo Tục, phần nhiều đều kính phục sự hóa độ của ông. Có vị Tăng ở trong Định, Thần thức dạo đến Tịnh độ thấy Phồn ở đó. Sau Phồn không bệnh xoay mặt về hướng Tây mà hóa.

Khen rằng: Đại Sĩ Phu tin Phật đều như thế, cũng tránh sự chê bai ở đời, giữ dấu bên ngoài, nên ở công sở vẫn không quên bày Tượng. Cát Quân dốc tin chẳng thôi, ngồi mà vãng sinh không phải là ngẫu nhiên.

13- Trung Quan Lý Bỉnh: Lý Bỉnh đời Tống, vào niên hiệu Thiệu Hưng làm Trung quan lãnh đạo viện Ngự Dược Viện. Trước học Thiền với ngài Tịnh Từ Huy Công, có chỗ tỉnh ngộ. Về già xem Văn Long Thư Tịnh độ. Thế là ngày ngày niệm Phật, cùng với mấy chục người như các trưởng Nguyên Mỹ, Điện trưởng Lâm Sư Văn…, kết hội Tịnh độ ở chùa Truyền Pháp Bỗng ông bị bệnh, mộng thấy Phật A-di-đà đeo vầng ánh sáng tròn vào đầu. Khoảng bảy ngày sau lại thấy hoa sen Vàng đầy phòng. Bèn cáo biệt thân thích ngồi thẳng kiết ấn mà hóa.

14- Tuyên Nghĩa Hồ Nhân: Hồ, Nhân đời Tống, làm quan đến chức Tuyên Nghĩa. Ngày thường tuy tin Phật Thừa nhưng chưa hiểu rõ Tịnh độ. Năm tám mươi bốn tuổi bị bệnh, con thỉnh Luật Sư Chiếu xin chỉ giáo. Sư Chiếu bảo Nhân rằng: Ông biết chỗ an thân lập mạng chăng? Nhân nói: Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Chiếu nói: Ông tự độ mình, trong lúc bình thường xưa kia có tạp niệm nhiễm ô không? Nhân nói đã ở trong thế gian đâu không tạp niệm. Chiếu nói: Như thế thì làm sao được tâm Tịnh độ tịnh? Nhuận nói: một lần xưng niệm Phật hiệu làm sao có thể diệt hết sinh tử trọng tội 80 ức kiếp? Chiếu nói: Phật A-di-đà do thệ Nguyện lớn nhiều kiếp tu hành, oai đức rộng lớn, thần lực sáng suốt không thể luận bàn, cho nên một lần xưng danh hiệu liền diệt vô lượng tội. Cũng như mặt trời sáng diệt sương mù, còn nghi ngờ gì?

Nhân bèn tỉnh ngộ trong ngày ấy mời Tăng niệm Phật. Hôm sau Chiếu lại đến, Nhân nói Thầy đến sao muộn, hai Đại Sĩ giáng lâm đã lâu. Chiếu do đó dẫn chúng lớn tiếng niệm Phật. Nhân bèn chắp tay mà hóa.

Khen rằng: Nhân được vãng sinh là nhờ Thanh Chiếu mà Thanh Chiếu đến là do con, hãy xem đây là Đại hiếu, đời có người chấp Ái nhỏ mà phá trai giới của cha mẹ, rất sai lầm.

15- Đề Hình Dương Vô Vi-Dương Kiệt đời Tống: Người ở Châu Vô Vi, lấy hiệu là Vô Vi Tử. Thuở nhỏ thi đậu làm quan đến chức Thượng thư chủ khánh lang đề coi về hình ngục vùng Lưỡng Triết, rất tôn kính Phật pháp, ngộ sáng Thiền tông, bảo rằng chúng sinh có căn lợi độn, mà dễ biết dễ làm chỉ có Tịnh độ Tây Phương. chỉ một tâm quán niệm, có thể chung nhiếp tán tâm, nhờ nguyện lực của Phật quyết sinh An Dưỡng. Có soạn lời tựa cho Luận Thiên Thai Thập Nghi và Di-đà Bảo Các Ký, soạn lời tựa cho An Dưỡng Tam Thập Tán, Tịnh độ Quyết Nghi Tập, mở rộng Giáo Quán Tây

Phương tiếp dẫn người vị lai. Về già vẽ tượng Diđà trượng sáu đem theo Quán niệm. Ngày qua đời cảm được Phật đến đón rước, ngồi thẳng mà hóa. Viết lời cáo biệt cuộc đời rằng: Sống cũng chẳng đáng mến, chết cũng không đáng bỏ, trong khoảng không rộng lớn mà dồi mài mãi Tây Phương Cực Lạc.

Khen rằng: Đọc tụng của Vô Vi Tử gọi là Tham Thiến thấy tánh mà lấy Tịnh độ làm nơi về, còn như dồi mài mãi là lới rất hàm súc. Than ôi, làm sao được các Tài Sĩ nhân gian cùng đến đây một chỗ dồi mài?

16- Quán Sát Vi Văn Tấn: Vi Văn Tấn đời Tống, lập hạnh cô khiết, tạo Tịnh độ Đạo Tràng khắp độ hàm thức. Một hôm vào tháng sáu, bỗng ngồi kiết già xoay mặt về hướng Tây, chắp tay niệm Phật mà hóa. Mùi thơm lạ trong ngoài đều nghe.

17- Lộ công Văn Ngạn Bác: Văn Ngạn Bác đời Tống, ở Kinh đô cùng Pháp sư Tịnh Nghiêm nhóm hợp mười vạn người làm Hội Tịnh độ, khi qua đời an nhiên niệm Phật mà hóa.

18- Thị Lang Mã Vu: Mã Vu đời Tống, tổ tiên là Trung Túc Công trấn thủ đất Hàng. Ngài Từ Vân Sám Chủ dạy niệm Phật cả nhà đều vâng thờ. Vu dốc lòng niệm Phật suốt hai mươi lăm năm. Niên hiệu Sùng Ninh bị bệnh nhẹ thay áo ngồi mà hoá. Có khí đọng thành cái Lọng Xanh ở ngoài ngõ bay lên hư không mà đi. Người nhà đều mộng thấy Vu vãng sinh Thượng phẩm.

19- Thiếu Sư Chung Ly: Chung Ly Cẩn đời Tống, làm Đề Hình ở Triết Tây. Một hôm gặp ngài Từ Vân Sám Chủ bèn dốc tin Tịnh độ.

Sau coi Phủ Khai Phong, làm quan thì tận tụy việc nước, ở ẩn thì không quên niệm Phật. Bỗng một đêm thúc hối gia nhân, dậy đòi tắm gội thay áo rồi ngồi mà hóa. Cả nhà thấy Cận ngồi hoa sen xanh, các vị Thánh Tây Phương tiếp dẫn về Tây.

20- Thừa Vụ Diêm Bang Vinh: Diêm Bang Vinh đời Tống, người ở Trì Châu, hai mươi năm trì chú Vãng sinh niệm Phật. Khi qua đời người nhà mộng thấy Phật phát ra ánh sáng đón rước Vinh. Đến sáng thì Vinh ngồi kiết già xoay về hướng Tây, bỗng đứng dậy bước mấy bước rồi đứng mà hóa.

21- Triêu Tán Vương Trung: Vương Trung đời Tống, người ở Gia Hoà. Kết Xã ở Tây Hồ, bất luận hiền ngu sang hèn Tăng Tục chỉ nguyện vãng sinh thì đều mời vào Xã. Ông có làm Văn Khuyến Tu lưu hành ở đời. Sau không bệnh ngồi xoay mặt về hướng Tây mà hóa.

22- Đại Phu Chung Ly Cảnh Dung: Chung Ly Cảnh Dung đời Tống, làm quan đến chức Triều

Thỉnh Đại Phu, thường tụng Quán Kinh niệm Phật không ngớt. Từ quan, cất nhà tranh làm Tăng ở bên Vườn Đông. Từng nói: không biết thì Di-đà ở Tây Phương, biết rồi thì Di-đà chỉ ở trong ta. Một hôm sai Tăng Diệu Ứng tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đốt hương nghe kinh, hai tay bắt ấn mà hóa.

23- Quận Thú Tiền Tượng Tổ: Tiền Tượng Tổ đời Tống, hiệu là Chỉ Am, trấn giữ đất Kim Lăng. Thường ngày chuyên tu Tịnh độ, thường ở Hương Châu lập mười chỗ Tiếp Đãi, đều lấy tên Tịnh độ Cực Lạc mà lập ra các phòng liêu đón các Cao Tăng đến ở để đàm Đạo. Từ chức Tả Thừa Tướng về ở ẩn siêng tu Tịnh nghiệp. Niên hiệu Gia Định năm thứ tư tháng 2-ông bị bệnh nhẹ bèn viết kệ rằng: Đem cả hương sen nước Phật đến-Trên đất lưu ly dứt trần ai-Tâm ta thanh tịnh siêu cõi ấy-Ngày nay xa thấy một hoa bày. Ba hôm sau có vị Tăng đến thăm bệnh ông nói: Tôi không ham sống sợ chết, không thích làm trời làm người, chỉ cầu sinh Tịnh độ. Nói xong ngồi kiết già mà hoá. Sau có người mộng thấy giữa hư không có tiếng nói rằng Tiền Thừa Tướng đã sinh Tây Phương, ở Liên Cung làm Bồ-tát Từ Tế.

24- Huyện Lệnh Mai Nhữ Năng: Mai Nhữ

Năng đời Tống, người ở Thường Thục, làm quan đến chức Huyện Lệnh, có chí Tịnh nghiệp.

Bỗng mộng thấy có vị Tăng đến trao cho một trăm tờ giấy đục lủng thành hai chữ bát. Bèn đem hỏi Sư Đông Linh Chiếu, Sư nói hai lần tám là mười sáu, đâu chẳng phải gọi Kinh Thập Lục Quán, thì vừa có một vị Tăng đem Kinh ấy đến cho, bỗng biến mất. Do đó mà tụng Kinh niệm Phật tự lấy Vãng sinh làm chí. Vì Sinh Công trong ấp tạo tượng Phật Di-đà trượng sáu, ông bèn đóng góp tiền của trăm muôn để làm và trang sức. Trong ao ở trước điện mọc lên một cành sen trắng hai đầu có trăm cánh. Mùa Đong năm ấy ông không bệnh mà mất.

25- Học Dụ Tảm Định Quốc: Tảm Định Quốc đời Tống, có hiệu là Tỉnh Trai làm Châu Học Dụ, thường niệm Phật tụng các kinh Tịnh độ. Mỗi tháng ba lần nhóm họp Tăng tục tụng kinh niệm Phật. Niên hiệu Gia Định năm thứ 4 mộng thấy đứa trẻ thanh y đến báo rằng: Phật sai mời ông ba ngày nữa sinh về nước ấy. Đến hẹn ông tắm gội thay áo niệm Phật ngồi mà hóa.

26- Phùng Tế Xuyên Gián Nghị: Phùng Trấp đời Tống, hiệu là Tế Xuyên, người ở Toại Ninh. Từ khi thi đậu Thái Học, bắt đầu hỏi đạo ở Thiền Lâm. Về già chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông có làm Văn Tây Phương, Di-đà Sám Nghi. Sau ở trong Cấp Sự ra làm Soái ở Lô Nam, dẫn Đạo tục mở hội Hệ Niệm và trông coi đất Ngang Châu. Ở sau Sảnh đường lập tòa Cao hướng về vua lạy tạ, mặc áo Tăng lên tòa lạy từ quan, rồi đặt cây gậy ngang gối mà hoá.

Khen rằng: Trong Truyền Đăng Lục chép ông lúc đầu tham học với Long Môn Viễn, sau tham học với Diệu Hỷ đều có chứng ngộ. Khi qua đời đúng hẹn lên tòa gác gậy ngang gối mà hóa, ấy là tự tại hiển hách có thao lược như các Đại Lão ở Tông môn, nhưng đều lược bỏ không nói. Niệm Phật vãng sinh là gì. Bởi do có nhà trước thuật lập nghĩa kia đây làm môn khác nhau đều là tùy chỗ xem nặng mà thôi. Nếu trọng chỉ thẳng tâm người thì tự mình phải chuyên lấy việc rõ biết tâm địa mà lược bỏ Tịnh độ, như Hoài Ngọc đài vàng lại đến, Viên Chiếu nhụy sen ghi tên đều chẳng chép. Vì đây trọng Chỉ quy Tịnh độ cho nên chép rõ lúc bình thường niệm Phật, báo hết thì vãng sinh mà rõ biết tâm tánh, trong tự tại như chỗ nói đã được thấy Phật Di-đà thì còn lo gì chẳng khai ngộ. Dụ như trọng đức thì Nhan Hồi được nêu về đức hạnh mà không nói về chánh sự. Còn trọng tài thì Nhan tử là người có tài giúp vua mà không nói đức hạnh, cũng là môn khác nhau. Người tu Tịnh nghiệp xin dốc tín chớ nghi.

27- Thị Lang Vương Mẫn Trọng: Vương Cổ đời Tống, tự là Mẫn Trọng, người Đông Đô, làm quan đến Lễ Bộ Thị Lang, nhân từ thương vật khế sâu Thiền tông, lại ngộ cao về pháp môn Tịnh độ ông có làm Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập ba quyển. Bình thường ông tinh cần niệm Phật lần chuỗi không hề rời tay, đi đứng nằm ngồi đều lấy Tây Phương Tịnh Quán làm Phật sự. Có vị Tăng thần thức đến Tịnh độ thấy cổ và Cát Phồn đồng ở.

Vãng sinh có chứng nghiệm rõ ràng.

28- Tiến Sĩ Ngô Tín Tẩu: Ngô Tử Tài đời Tống, tự là Tín Tẩu sau khi làm quan làm trước một quan tài đêm nằm trong đó khiến trẻ con gõ quan tài mà ca rằng: Tín Tẩu ta hãy về đi, ba cõi không yên chẳng nên ở, Tây Phương Tịnh độ có thai sen, nay hãy về đi!. Rồi hoạ theo. Sau không bệnh mà hóa.

29- Thiếu Truyện Bạch Cư Dị: Bạch Cư Dị đời Đường, làm quan chức Trung Đại Phu Thái Tử Thiếu Truyện, bỏ vườn nhà làm chùa Hương sơn, hiệu là Cư sĩ Hương Sơn. Về già bị bệnh phong đơn, bỏ ra ba vạn đồng tiền vẽ một bộ Thế Giới Cực Lạc Tây Phương Y Chánh trang nghiêm đều xét theo Kinh Vô Lượng Thọ không sót. Rồi đảnh lễ phát nguyện viết kệ khen rằng: thế giới Cực Lạc cõi thanh tịnh, không có đường ác và các khổ, nguyện như thân con lúc già bệnh, đồng sinh cõi Phật Vô Lượng Thọ.

Khen rằng: Người ta truyền rằng cõi Bồng Lai có Lạc Thiên gọi là Lạc Thiên Từ, có kệ rằng: Núi biển không phải chỗ ta về, ta về tức cõi trời đâu suất. Nay lại bỏ Đâu-Suất mà cầu Tịnh độ, há chẳng gọi là đãi cát tìm vàng, càng chọn càng tinh ư?.

30- Đô Tổng Trương Luân: Trương Luân đời Tống, làm quan đến chức Lưỡng Triết Đô Tổng Quản, cầu sinh Tịnh độ siêng năng niệm Phật, cả nhà lớn nhỏ đều theo sự hoá độ của ông. Đào hồ trồng đầy sen hàng ngày dẫn vợ con niệm Phật vạn câu. vua Hiếu Tông đích thân viết hai chữ Liên Xã mà ban tặng.

31-Học Sĩ Tô Thức đời Tống: Tô Thức hiệu là Đông Pha làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ. Ngày chuyển về Nam có vẽ tượng Phật Di-đà cuộn làm một ống đem theo mình. Người hỏi thì đáp đây là công cứ của Thức sinh Tây Phương. Mẹ vợ là bà Trình chết để lại cây trâm ngọc đem bán lấy tiền mướn thợ là Hồ thích vẽ tượng Phật Di-đà cầu vãng sinh.

Khen rằng: Lão Tuyền vì tiến cúng người chết nêu từng ở Viện Cực Lạc đúc sáu tượng Bồ-tát mà con cháu đến với pháp môn cũng rất kín xa. Bởi họ Tô quy tâm Tam Bảo rất sâu. đời có khắc in Tây Phương Công Cứ thêm nhiều lời quê nói là xuất phát từ Pha Công. Đây là lừa dối. Người sáng suốt chớ theo dối mà bỏ thật.

32-Thừa Tướng Trương Vô Tận: Trương Thượng Anh đời Tống, trước vì phu nhân họ Hướng kích phát mà rất lưu ý đến kinh luận nội điển, hiệu là Cư sĩ Vô Tận. Từng soạn Văn Phát Nguyện nói rằng: Nghĩ thế giới này năm trược loạn tâm, không có năng lực chánh quán, không có năng lực Liễu nhân, tự tánh duy tâm không thể thấu suốt. Chỉ nên vâng theo lời vàng của Thế Tôn Thích-ca mà chuyên niệm Phật A-di-đà cầu nguyện lực Phật ấy nhiếp thọ. Đợi mãn báo thân mà vãng sinh Cực Lạc. Như ngồi thuyền xuôi nước không tốn sức mình mà đến nhanh.

Khen rằng: Vô Tận ngộ được Thiền tông với Đâu-Suất Duyệt Công mà lại chăm chăm An Dưỡng, thì niệm ấy phải nên xét kể. Từ Hương Sơn đến đây là bốn ông, tuy Tây Phương có điềm lành nhưng Sử không ghi rõ. Nếu dựa vào nhân mà tìm hiểu, quả chẳng sinh Tây Phương thì sẽ sinh nơi nào?

* Luận chung:

Người ngu nghe người xưa nói: Kẻ Sĩ phu thông minh hơn người, nhiều người ở trong Tăng lại nghi ngờ. Mê mà không tỉnh lại, thì hết chín phần mười, không quên nhân vốn có thì chỉ một phần mười, vì sao vậy? Vì cõi đời có năm thứ ác trược các người lui sụt khó tránh khỏi. Nên hậu thân Thiền sư Giới là của Đông Pha, còn thân sau của Thiền sư Thanh là Tăng Lỗ Công. Thân sau của Thiền sư triết lại đắm mê giàu sang có nhiều buồn khổ. Đông Pha rất gần gũi pháp môn mà không bằng Tăng Công, thân sau của triết lão kia thì lại rất mê. Xưa nay kẻ hiểu biết khuyên người bỏ năm trược mà cầu Tịnh độ, vậy thì từ Lưu Di dân trở đi các quân tử được đạo chẳng phải đã nhiều hay sao.

III-CÁC XỬ SĨ VÃNG SINH:

1- Chu Tục Chi: Chu Tục Chi đời Tống, người Nhạn Môn. Năm mười hai tuổi làu thông năm Kinh năm Vĩ, hiệu là Thập Kinh Đồng Tử, nuôi chí ở ẩn. Công khanh tiến cử lên vua đều chẳng đến, thờ Pháp sư Viễn Lô Sơn dự vào Liên Xã. vua Văn Đế nối ngôi mời vào ứng đối vua rất vui. Có người hỏi thân làm Xử Sĩ (kẻ ở ẩn) lúc đó đến sân vua được ư? Đáp rằng: Lòng người đến Ngụy Khuyết lấy giang hồ làm bó buộc hứng chí cùng quên mất. Dầu chợ búa hay triều đình cũng đều là hang đá. Lúc đó gọi là Thông Ẩn Tiên Sinh. Sau ở Chung sơn chuyên tâm niệm Phật, càng già càng dốc chí. Một hôm ngó lên hư không nói Phật đến đón rước ta. Rồi chắp tay mà hóa.

Khen rằng: Tục Chi có thể ở hang núi, chợ búa hay triều đình đều được, cũng đều là Tây Phương Đông Độ mà phải niệm Phật cầu sinh. Đó mới là kẻ thật biết lợi hại. Xưa có tụng rằng: Núi cao đất bằng đều là Tây Phương, chưa đến nhà thì xin chớ bàn chơi.

2- Trịnh Mục Khanh: Trịnh Mục Khanh đời Đường, người ở Vinh Dương. Cả nhà đều niệm Phật. Trong niên hiệu Khai Nguyên bị bệnh nặng, có người khuyên ăn thịt cá thì khoát tay không chịu, tay cầm lò hương nguyện cầu vãng sinh.

Bỗng có mùi thơm lạ đầy thất, rồi an nhiên mà mất. Cậu là Thượng Thư Tô Đĩnh mộng thấy sen nở trong ao báu mục Khanh ngồi trên ấy.

3- Trương Nguyên Tường: Trương Nguyên Tường đời Đường, thường niệm Phật không ngớt. Một hôm thúc người nhà rằng: Bậc Thánh Tây Phương đợi ta, ăn cơm xong thì đi. Ăn xong bèn đốt hương ngồi kiết già xoay về phía Tây mà hóa.

4- Tôn Lương: Tôn Lương đời Tống, người ở Tiền Đường, ở ẩn xem Đại Tạng rất được ý chỉ Hoa Nghiêm, bèn nương Luật Sư Đại Trí thọ giới Bồtát, ngày niệm Phật vạn câu suốt hai mươi năm không ngừng. Bỗng sai người nhà thỉnh Tăng niệm Phật để giúp vãng sinh. Tăng đến niệm Phật mới được nửa chừng thì ông ngó lên hư không chắp tay nói Phật và Bồ-tát đã đến. Bèn lui về ngồi mà hóa.

Khen rằng: Hoa Nghiêm họp luận gọi cầu sinh Tịnh độ là Bồ-tát chưa đạt Nhất Thừa Đại Đạo mà lão này được ý chỉ Hoa nghiêm sao còn cầu sinh Tịnh độ. Bởi hợp luận làm một phần vì phàm phu chấp Tướng phá kiến chấp ấy là được sự Tịnh độ, chưa được Lý Tịnh độ. Lão này Sự Lý đều viên thông. Hoa Tạng Liên Trì là một mà không phải hai. Chính ông cầu sinh chẳng đủ nghi. Luận Tịnh độ phải y cứ vào Phẩm Hạnh Nguyện trong kinh Hoa nghiêm làm chủ mà họp luận để tham cứu.

5- Nguyên Tử Bình: Nguyên Tử Bình đời Đường trú tại chùa Quán Âm ở Kinh Khẩu mà niệm Phật. Bỗng nghe trên hư không có tiếng âm nhạc, bèn ngồi xoay về phía Tây mà hoá. Mùi thơm lạ mấy ngày không hết.

6- Dữu Tiển: Dữu Tiển đời Lương, người ở Tân Dã. vua Võ Đế mời làm Huỳnh Môn Thị Lang, ông chẳng đến. Chỉ sáu thời niệm Phật một tối thấy có vị Đạo nhân tự xưng là Nguyện Công gọi Tiên là Thượng Hạnh Tiển Sinh rồi trao cho hương mà đi. Bốn năm sau Nguyện Công lại đến bèn bay lên hư không bảo rằng Thượng Hạnh Tiên Sinh đã sanh An Dưỡng.

7- Tống Mãn: Tống Mãn, đời Tùy: người ở Thường Châu, đếm đậu niệm Phật, chứa được ba mươi thạch (thạch =100 lít). Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 8 tháng 9 đãi cơm Tăng xong, ngồi mà hóa. Người ta thấy có hoa trời và mùi thơm lạ nương hư không mà đi về Tây.

8- Phần Dương Lão Nhân: Phần Dương Lão Nhân đời Đường, ở núi Pháp Nhẫn, mượn một phòng trống nghỉ trọ, ngày đêm niệm Phật. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ 5 thì mất. Lúc đó ánh sáng chiếu khắp rực rỡ, nhìn về phía Tây mà hoá.

Người thấy ngồi đài sen mà đi.

9- Nguyên Tử Tài: Nguyên Tử Tài đời Đường, trú tại chùa Quán Âm ở Nhuận Châu, tụng Kinh Di-đà niệm Phật. Bỗng bị bệnh nhẹ, nửa đêm nghe trên hư không có hương thơm và âm nhạc giống như có tiếng người nói Thô nhạc qua rồi Tế nhạc tiếp đến Ông sẽ đi. Rồi niệm Phật mà hóa. Mùi thơm lạ mấy ngày không tan.

10- Ngô Tử Chương: Ngô Tử Chương đời Nguyên, người ở Tô Châu, ở đời làm nghề thuốc.

Cùng anh là Tử Tài đồng tham học với HòaThượng Vân Ốc, siêng năng niệm Phật cả nhà thờ Pháp. Đến hẹn, không bệnh, chắp tay niệm Phật mà hóa.

11- Hà Đàm Tích: Hà Đàm Tích đời Nguyên, năm mười tám tuổi trì giới Bồ-tát niệm Phật, một đêm nghe trống canh tư liền thức dậy tụng niệm. Người bảo trời còn quá sớm thì đáp: Thấy Phật tướng vàng ròng đem hoa đến đón rước, rồi bèn hóa.

12- Vương Điền: Vương Điền đời Tống, người ở Tứ Minh, hiệu Vô Công Tẩu. Phàm Thiền Lâm tông chỉ, Thiên Thai giáo môn đều thông suốt. Ông có soạn Tịnh độ Tự Tín Lục. Về già chuyên tâm niệm Phật, nhìn về phía Tây ngồi mà hóa. Mùi thơm lạ ngào ngạt. Khi đốt khám (trà tỳ) thì nhặt được Xá-lợi như hạt đậu khoảng một trăm lẻ tám hạt.

13- Phạm Nghiễm: Phạm Nghiễm đời Tống, người ở Nhân Hòa, dứt tâm với việc đời, người con không thể trị gia, ông cũng chẳng đoái hoài đến, chỉ nói ta từ nay chỉ như khách ở tạm. Hằng ngày tụng Pháp Hoa niệm Phật A-di-đà, chuyên tâm không lười biếng, bỗng thấy Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà phát ra ánh sáng vàng bảo Nghiễm rằng: Ngày mài giờ mẹo sẽ đi. Trải qua một đêm Phật và Bồ-tát đến đón rước, bèn ngồi chắp tay mà hóa.

14- Lục Nguyên Đạo: Lục Nguyên Đạo đời Tống, hiệu là Cư sĩ Tỉnh Am, trụ ở Hoành Khế thuộc Minh Chi. Sáng dậy đốt hương ngồi kiết già mắt không nháy, đọc kệ rằng:

Sáng rửa tay xong mở Bối diệp,
Chẳng cầu các Phước chẳng họa tai
Duyên đời đã dứt nơi khác dứt,
Kiếp lửa trong quang múa một hồi.

Sau mới niệm tụng không chậm không mau như xỏ chuỗi. Mỗi ngày tụng một biến Pháp Hoa, niệm Phật Di-đà vạn câu chuyên ý về phương Tây. Năm 85 tuổi ngày 6 tháng tư tắm gội thay áo mà hóa. Khi liệm bỗng nghe mùi hương sen thơm phức, không biết từ đâu đến. Lúc sắp đậy nắp quan thì thấy có cái lọng phát ra từ miệng.

15- Tôn Trung: Tôn Trung đời Tống, người ở Tứ Minh. Sớm kính mến Tây Phương. Ở phía

Đông quận Thành cất am niệm Phật. Sau đó bệnh thỉnh Tăng trăm người hệ niệm, bỗng ngước nhìn lên hư không chắp tay bắt hai ấn vui vẻ mà hóa. Cả thành nghe có tiếng nhạc và mùi thơm lạ đi dần về phía Tây rồi mất hút. ba người con kế nhau niệm Phật rồi cũng ngồi hóa.

16- Trầm Thuyên: Trầm Thuyên đời Tống, nhà ở Tiền Đường, cùng vợ là bà Thi chuyên tâm Tịnh độ. Bình thời làm các việc thiện đều dùng để hồi hướng. Sau cùng vợ trước sau qua đời, đều cảm được Hóa Phật cầm tích trượng tiếp dẫn đi.

17- Đường Thế Lương: Đường Thế Lương đời Tống, người ở Cối Kê, trì giới niệm Phật. Tuổi già tật bệnh cũng không nằm, tụng Kinh Di-đà mười vạn biến gọi người nhà bảo rằng: Phật đến đón rước ta. Nói xong đảnh lễ rồi ngồi mà hóa. Lợi Hành Nhân lúc đó ở núi Đạo Vị đêm mộng thấy Phương Tây có ánh sáng lạ mưa hoa và nhạc trời ở trên hư không có tiếng bảo rằng: Đường Thế Lương đã về Tịnh độ.

18- Kế Công: Kế Công đời Tống, là thợ sắt Phách Khoa Đồ, ở Đào Nguyên. Năm bảy mươi tuổi, hai mắt không thấy. Trong làng có Tảm Học Dụ đem Bích Khóa Đồ ra ấn thí khuyên người niệm Phật. Kế Công lúc đầu lấy một bản niệm đủ ba mươi sáu vạn câu. Niệm hết bốn bản thì hai mắt sáng lại. Như thế ba năm niệm đủ mười bảy bản. Một hôm niệm Phật, bỗng đứt hơi được nửa ngày thì tỉnh lại nói Phật bảo chia lại sáu bản cho Tảm Học Dụ vì có công đầu khuyên niệm, chia một bản cho Lý Nhị Công là người vẽ bản. Dặn con đến tạ. Nói xong tắm gội xoay mặt về phía Tây mà hoá.

19- Trần Quân Chương: Trần Quân Chương đời Nguyên, người ở Huỳnh Nham, thận trọng ngay thẳng ít nói. Năm bốn mươi tuổi cùng với Thất Diệp tụng Pháp Hoa niệm Phật siêng năng. Năm sáu mươi tuổi bị bệnh nặng. Một tối, sai con là Cảnh Hoàng đỡ ngồi dậy bảo rằng: "Ta về đây". "Hỏi về đâu? Đáp: Không có chỗ đi. Lại nói: Ta chết rồi nên y theo pháp tang môn mà trà tỳ. Nói xong chắp tay niệm Nam-mô A-di-đà Phật rồi hóa.

20-Trương Thuyên: Trương Thuyên đời Tấn, thuộc dòng họ Dã. Cao dật hiếu học. Khi cày bừa cũng mang Kinh theo. vua trưng dụng nhiều lần không đến, tư vui với cảnh nghèo được cử làm Tầm Dương Lệnh thì cười bảo rằng Lấy tựa gốc làm yên, nhụt chí đến với lộc có gì vinh. Rồi vào Lô Sơn nương Liên Xã của Viễn Công nghiên cứu nội điển có nhiều ngộ nhập. Niên hiệu Cảnh Bình năm thứ nhất đời Tống ông không bệnh xoay mặt về phía Tây niệm Phật ngồi yên mà hóa.

21- Khuyết Công Tắc: Khuyết Công Tắc đời Tấn, vào Liên Xã ở Lô Sơn rồi chết. Bạn bè trú chùa Bạch Mã ở Lạc Dương đang đêm cúng tế ông. Bỗng một lúc cả cây cỏ nhà cửa điện đài đều có màu vàng ròng. Trên hư không có tiếng nói: Ta là Khuyết Công Tắc mong sinh Cực Lạc nay đã được vãng sinh, nói xong thì biến mất.

Khen rằng: Người qua đời cảm được điềm lành rất nhiều nhưng sau khi chết mà hiện màu vàng ở nơi khác báo đã vãng sinh ở trên không như Khuyết Công thì thật ít có.

22- Lý Tri Diêu: Lý Tri Diêu đời Đường, rất giỏi giáo pháp Tịnh độ dẫn chúng năm hội niệm Phật. Sau bị bệnh bỗng nhiên nói: Phật đến đón rước ta. Rồi tắm gội súc miệng thay áo đòi lò hương ra điện thờ đảnh lễ, nghe trên hư không có tiếng nói kệ: Sắp dẫn anh sinh Tịnh độ, nay hãy lên cầu vàng. Nói xong đến giường ngồi thẳng mà hoá. Chúng nghe có mùi thơm lạ.

23- Cao Hạo Tượng: Cao Hạo Tượng đời Lương, người ở Đông Bình. Đóng cửa Tịnh toạ, chuyên tụng Kinh Vô Lượng Thọ, từng ở trong quán biết thân mình đến bên ao sen đỏ. Lúc đầu chưa thấy Phật, bèn ở trên hoa mà dốc lòng lễ Phật, xa tưởng kim dung ánh sáng chiếu rất xa. Một tối thấy chúng Bồ-tát đến đón rước, lúc đó liền hóa.

Khen rằng: Xưa, có hai vị Tăng quán tưởng hoa sen khép mở, sau cùng sinh về Tịnh độ. Tượng thấy thân dạo chơi ao sen hồng cũng là quán tưởng tinh thành mà được như thế.

24- Từ Lục Công: Từ Lục Công đời Tống, người ở Gia Hưng. Chuyên làm nghề nông, vợ chồng ăn rau dưa siêng năng niệm Phật suốt bốn mươi năm. Làm trước một cái khám (quan tài), khi qua đời thay áo vải mang giày cỏ vào khám ngồi thẳng, khoảnh khắc bảo Phật đến đón rước ta, rồi hóa.

25- Lục Tuấn: Lục Tuấn đời Tống, người ở Tiền Đường, thuở nhỏ làm ở Công Môn lâu rồi bỏ, chỉ chuyên nghiệp Tịnh độ, hằng ngày đối trước Phật sám hối rơi lệ, gặp đạo hữu chỉ nói nhân duyên Tịnh độ vừa hơn mười câu liền rất buồn thương than thở. Khi qua đời thỉnh Luật Sư Viên Tịnh khai thị về Tây Phương. Tụng Quán Kinh đến Thượng Phẩm thì Viên Tịnh bảo: Đi được rồi đấy! Tuấn nói: Thánh chúng chưa đến, đợi một chút. Bỗng ngồi dậy đến giường tre ngồi xoay mặt về phía Tây mà hoá.

Khen rằng: Kinh Vô Lượng Thọ nói: nghe nói Phật A-di-đà thì lệ trào ra đều là do gốc lành đời trước mà như thế. Nay Tuấn buồn thương trong tâm mà hiện rõ ngoài mặt thì chắc chắn vãng sinh.

Nay đùa vui mà bàn nói Tịnh độ có sao đâu!

26- Huỳnh Đả Thiết: Huỳnh Công, đời Tống, người Đàm Châu. Vốn người trong quân ngũ làm nghề đập sắt. Mỗi khi kềm đập đều niệm Phật không ngớt. Một hôm không bệnh, nhờ người hàng xóm viết bài tụng rằng: Đinh đinh đang đang, luyện lâu thành gang (cứng) Thái Bình gần đến, ta về Tây Phương. Rồi hoá. Kệ này truyền ra rất rộng, ở Hồ Nam có nhiều người niệm Phật.

Khen rằng: Nay dựa vào Huỳnh Công không gì khác hơn chỉ là niệm Phật không ngớt. Người đời không chịu hành trì theo đó mà lại đi tìm hay khéo đến nỗi thành luống uổng, chẳng phải là bỏ giản dị mà tìm khó khăn ư?.

27- Liên Hoa Thái Công: Liên Hoa Thái Công đời Đại Minh,, người ở đất Việt. Một đời vụng về chất phác chỉ ngày đêm niệm Phật không ngớt. Sau khi mất thì trên quan tài bỗng mọc một cành hoa sen. Làng xóm kinh ngạc ngợi khen, bèn gọi là Liên Hoa Thái Công (ông già hoa sen).

28- Hoa Cư sĩ: Hoa Cư sĩ đời Đại Minh, người ở Giang Cam. Người thật thà không dối trá. Tuổi trung niên các con đã nên người, bèn ở một mình trong một nhà nhỏ chẳng can dự việc đời, sớm tối chỉ chăm chăm niệm Phật. Sau khi qua đời tự biết trước giờ chết nửa đêm bèn thay áo, sửa mủ, cáo biệt mọi người, rồi ngồi thẳng mà hoá. Người con trước đã làm sẵn quan tài, bèn đổi khám như Sa môn. Ngày cử khám người xem đông nghẹt, xa gần đều kính mến

* Luận chung: Có người hỏi Tịnh Danh và Bàng Lão vì sao không nghe cầu sinh? Đáp rằng: Ông thử tự mình nhận xét, nếu chưa kịp hai ông cầu sinh chẳng cần phải nói, dù cho có trở lại thời Kim Túc thì nào ngại thấy Di-đà. Nếu không thế thì Tịnh Danh không ngại thấy Thích Ca, Bàng Lão (Long Ẩn) cũng tham Mã Tổ. Hễ tâm tinh thì Độ tịnh chẳng phải là Tịnh Danh nói ư? Làm bạn với muôn pháp chẳng phải là lời của Bàng Lão ư? Một sáng ông bước lên Tịnh Địa sao còn mong gì, Tự Niệm vốn vẫn thanh tịnh đâu còn mong, Tự Niệm không làm bạn với muôn pháp sao còn mong, hai ông thường ở tại Tịnh độ, còn nghi ngờ gì?

IV-CÁC NI VÃNG SINH:

1- Ni Đại Minh: Ni Đại Minh đời Tuỳ, mỗi khi vào thất lễ niệm thì trước mặt áo sạch, miệng ngậm nước trầm hương. Hoàng Hậu của vua Văn Đế rất quý trọng. Ngày sắp mất chúng nghe mùi trầm hương đầy nhà. Bỗng có mây sáng từ từ đi về Tây rồi mất.

Khen rằng: Đây là tương tự với vị Ni tạo Kinh Pháp Hoa rất thành kính, sau cảm được điều linh dị (điềm lạ) mà hai Ni ở Minh phủ tụng kinh kính lễ. Gặp đây có khác mà không lạ. Thời nay niệm Phật có mấy người được sáng như thế. Nếu mọi người niệm Phật như thế thì tôi chẳng tin ngàn người niệm ngàn người không sinh, vạn người niệm vạn người không sinh.

2- Ni Tịnh Chân: Ni Tịnh Chân đời Đường, trú tại chùa Tích Thiện ở Trường An, mặc nạp y đi khất thực, tụng kinh Kim Cương mười vạn biến, dốc chí niệm Phật, bảo đệ tử rằng: nội trong tháng năm ta mười lần thấy Phật, hai lượt thấy trên đài hoa có đồng tử đùa giỡn. Ta đã được sinh Thượng Phẩm. Nói xong ngồi biết già mà hoá. Anh sáng lành đầy am.

3- Ni Ngộ Tánh:

Ni Ngộ Tánh đời Đường, ở Lô Sơn, niệm Phật chí thành nguyện vãng sinh, bỗng nghe trong hư không có tiếng nhạc bèn gọi người chung quanh bảo rằng: Ta đã được vãng sinh Trung phẩm. Thấy các đồng chí niệm Phật tinh tấn đều có hoa sen đợi chờ, các con hãy tự mình cố gắng. Nói xong thì hoá.

Khen rằng: Xét hai Ni có phẩm vị Thượng

Trung khác nhau. một là bên trong xem tự hạnh cạn sâu, hai là điềm lạ bên ngoài có hơn kém, mà không lầm.

4- Ni Năng Phụng: Ni Năng Phụng đời Tống, người ở Tiền Đường, chuyên tu Tịnh nghiệp, từng mộng thấy ánh sáng Phật chiếu vào thân, và nghe trên hư không có lời lành an ủi, bèn bảo đệ tử rằng: Ta được vãng sinh, lát sau nghe Phụng niệm Phật rất lớn tiếng, bèn chạy đến xem thì thấy chắp tay quay mặt về phía Tây mà hoá. Mùi thơm lạ đầy nhà, tiếng nhạc đi về phía Tây.

5- Ni Pháp Tạng: Ni Pháp Tạng đời Tống, ở Kim Lăng, chuyên chỉ niệm Phật. Ban đêm thấy Phật và Bồ-tát đến chiếu sáng chùa, rồi an nhiên mà hoá.

* Luận chung-Phật vì Di mẫu xuất gia than Chánh Pháp do đây mà mất. Nếu người Nữ xuất gia mà đều như năm vị trên thì Chánh Pháp càng hưng thạnh mà thế không có thể Phật huyền ký thì chẳng có lỗi. Than ôi, kẻ nam tử chân chánh xuất gia xưa nay còn chẳng có nhiều, huống chi là Nữ chúng? Do đó mà có chiêu cảm.

V. CÁC PHỤ NỮ VÃNG SINH:

1- Tuỳ Hoàng Hậu: Hoàng hậu của vua Văn

Đế đời Tuỳ, họ Độc Cô. Tuy ở cung vua nhưng rất chán thân nữ, thường niệm Phật A-di-đà. Ngày Giáp Tý tháng 8 thì mất, lúc đó ở phía Bắc Cung Vĩnh An tiếng âm nhạc vang rền, mùi thơm lạ đầy nhà, từ trên hư không đến. vua hỏi Xà-đề-tư-na đó là điềm lành gì, thưa rằng: Tịnh độ có Phật hiệu Adi-đà, Hoàng hậu nghiệp cao siêu lên cõi ấy, nên hiện ra điềm lành nầy.

Khen rằng: Bỏ việc sang quý trong cung mà ham chuyên Tịnh độ lại được vãng sinh, xưa có Viđề-hy, nay thì thấy có Hoàng hậu này.

2- Bà Diêu: Diêu Bà đời Đường, do có Bà Phạm Hạnh khuyên khiến niệm Phật. Khi sắp qua đời bà thấy Phật và Bồ-tát đến đón rước, thưa Phật chưa được, xin Phật tạm dừng trên hư không để chờ từ biệt bà Phạm Hạnh. Sau đó Diêu Bà đứng mà hoá.

Khen rằng: Đi từ biệt Phạm Bà là không trái gốc. Phật dừng trên hư không là thuận theo chúng sinh. Đứng mà hoá cũng thật lạ kỳ.

3- Vợ của Ôn Tĩnh Văn: Vợ của Ôn Tĩnh Văn, đời Đường, người ở Tính Châu, bệnh nằm lâu trên giường. Tĩnh Văn khuyên niệm Phật suốt một năm. Bỗng thấy Tịnh độ, bèn bảo chồng rằng: Tôi đã thấy Phật tháng sau sẽ đi. Rồi dặn dò cha mẹ rằng nay con được vãng sinh theo Phật, xin cha mẹ chuyên tâm niệm Phật, ngày nọ sẽ thấy tướng Tây Phương. Nói xong thì hoá.

4- Bà Hồ Trường: Bà Hồ Trường đời Tống, họ Lý, người ở Thượng Ngu. Sau khi chồng mất, ngày đêm lớn tiếng niệm Phật và tụng kinh Di-đà suốt hơn mười năm. Một hôm thấy có vị Tăng che lọng lụa bảo rằng: ngươi mười lăm ngày nữa giờ Tý sẽ vãng sinh. Hỏi Sư là ai? Thì đáp là người mà ngươi niệm. Bà bèn từ biệt người thân. Đến hẹn có mùi thơm lạ và ánh sáng, bèn ngồi thẳng mà hoá. Bảy ngày sau đem thiêu thì thấy răng như ngọc trắng, lưỡi như sen hồng, mắt như hạt bồ đào (nho) đều bền chắc không hư, xá-lợi rất nhiều. Hôm sau, chỗ đốt mọc lên đóa hoa trắng như tuyết.

Khen rằng: Các căn không hư, Xá-lợi nhiều vô số. đời chê người nữ thân năm trược, nhưng không gì chẳng được.

5- Bà họ Trịnh: Bà họ Trịnh đời Tống, người ở Tiền Đường, thường ngày tụng kinh Quán Âm niệm Phật không ngớt. Sau bị bệnh nặng đòi tắm gội xong, ngồi xoay về phía Tây hỏi người nhà có nghe tiếng khánh chăng? Các Thánh Tịnh độ đã đến. Rồi chắp tay vui mừng nói: Phật và Bồ-tát đến, tay Bồ-tát Quán Âm có bưng đài vàng. Như lai tiếp con lên tòa. Rồi an nhiên mà hoá.

6- Bà họ Trần: Bà họ Trần đời Tống, người ở Tiền Đường, thọ giới Bồ-tát với Luật sư Linh Chi, chuyên tâm niệm Phật. Hằng ngày lạy ngàn lạy, từng có Xá-lợi hiện trên bàn kinh. Khi qua đời thấy Phật đến đón rước. Ngoái nhìn những người chung quanh chưa xong thì không còn cử động.

7- Bà họ Huỳnh: Bà họ Huỳnh đời Tống, người ở Tứ Minh, sớm mất chồng, nhân đó trở về nhà cha chuyên tu Tịnh độ, Khi qua đời thấy Phật đến đón rước, lúc ấy bắt ấn mà đi, rồi nghiễm nhiên đứng mà hoá. Người nhà rắc tro ở đất để biết sinh về đâu thì thấy có một hoa sen trong tro mọc lên.

Khen rằng: Thuyết đốt tro chưa khảo xét kỹ, chỉ việc thấy Phật đến đón rước, bắt ấn đứng mà hoá thì chắc chắn sinh lên Liên Phẩm cao.

8- Phu Nhân họ Vương: Phu nhân Kinh Vương là đời Tống Bà chuyên tu tinh nghiệp. Sớm chiều đối kẻ hầu hạ cũng không chấp phép tắc. Chỉ có một người Thiếp lười nhác, Phu nhân quở trách dạy dỗ, liền ân hận thức tỉnh mà tinh tiến. Bỗng nhiên không bệnh mà mất, mộng cho người thiếp khác bảo rằng: Nhờ Phu nhân khuyên dạy nay đã sinh An Dưỡng. Phu Nhân chưa tin. Bỗng báo mộng cho, phu nhân cùng người Thiếp ấy đến nơi ao báu, thì thấy có một đóa hoa có áo cõi trời tung bay đề là của Dương Kiệt, một hoa khác có người mặc Triều phục ngồi trên đó đề là Mã Vu. Lại thấy có đài vàng sáng chói rực rỡ. Người Thiếp chỉ tay bảo: Đây là nơi sinh của Phu nhân, rồi thức dậy càng thêm tinh tấn. Năm tám mươi mốt tuổi vào buổi sáng mừng thọ cầm đuốc đốt hương mà đứng nhìn về đài Quán Âm. Người chung quanh mới dâng lễ chúc Thọ xong thì đứng mà hóa.

Khen rằng: Sưu Tập đến đây, người Nữ đứng hoá, gồm có ba người. đài vàng Chiếu sáng cũng là bậc Thượng phẩm. Ai nói khuê Các không có người?

9- Phu Nhân họ Phùng: Phu nhân của Quảng Bình quân đời Tống, là người họ Phùng. Thuở nhỏ thường bị bệnh. Ngài Thiền Sư Tử Thọ Trí Thâm dạy cho trai giới niệm Phật, bèn tin chắc gắng làm suốt mười năm không mỏi mệt. Bỗng sanh tâm chán đời. Mọi người lấy làm lạ thì bảo: Trong cõi thanh tịnh vì mất Chánh niệm mà đến cõi Chi-na này, duyên hết thì đi, có gì là lạ. Khi qua đời đứt hơi rồi bỗng sống lại, bảo người nhà rằng: Ta đã về Tịnh độ thấy cảnh giới Phật cùng với Kinh Hoa Nghiêm, kinh Thập lục Quán đã nói không khác. Nói rồi mà qua đời, ba ngày sau toàn thân vẫn như lúc còn sống, mùi thơm lạ ngào ngạt.

10- Cô gái họ Vương: Con của Cát An Vương đời Tống, hằng ngày tụng các kinh Di-đà, Quán Âm, Kim Cương v.v…, niệm Phật cầu độ. Bà mẹ chết đã liệm mà máu chảy ra dầm dề, cô con gái phát thệ rằng: Nếu con có tâm hiếu xin không có mùi hôi. Nói xong thì máu chảy liền dừng lại. Cha cưới vợ kế và cùng tu Tịnh nghiệp. Sau cô bị bệnh, thỉnh Tăng đến nói Tịnh độ và Quán Kinh. Bỗng đòi áo cát tường mà nằm, nắm tay Bồ-tát Quán Âm cầm lấy phướn rồi an nhiên bất động. Mẹ rả tro dưới đất để biết chỗ sinh thì từ tro mọc lên mấy cành hoa sen.

11- Bà họ Chu: Bà họ Chu đời Tống, là con gái của Diệu Thông Chu Nguyên Khanh. Nhân cảm được bà mẹ có đài hoa vãng sinh mà dốc chí niệm Phật hẹn sinh An Dưỡng. Bệnh nặng thỉnh Tăng hành Sám, tự thấy thân mình mặc áo sạch mới, ở trong lầu các đảnh lễ niệm Phật, rồi bảo người nhà rằng: Siêng tu Tịnh nghiệp tướng Tây Phương đợi. Rồi nằm nghiêng bên hông hữu quay mặt về Tây mà hóa.

12- Bà Chu Hạnh: Chu Hạnh đời Tống, người ở Châu Thái Bình. Lúc còn nhỏ đã niệm Phật siêng năng không bỏ. Một hôm quỳ niệm Phật an nhiên mà hóa. Người hàng xóm thấy có mấy vị Tăng dẫn Bà bay lên hư không đi về phía Tây.

13- Nghi Nhân họ Lục: Nghi Nhân họ Lục đời Tống, người ở Tiền Đường, là vợ của Triệu Thỉnh Vương Dủ. Từng tụng Kinh Pháp Hoa dốc chí Tịnh độ. Một lần lễ Sám niệm Phật vạn câu suốt ba mươi năm. Nhân bị bệnh nhẹ, bỗng nghe có tiếng trống trời tự kêu, mọi người đều kinh ngạc, liền xoay mặt về phía Tây hai tay bắt ấn mà hóa.

Khen rằng: Kết ấn mà mất không chỉ riêng Tăng mới có, ở người nữ cũng thấy có nhiều, đều là điềm lành do Tâm không tán loạn, Thân không buông lung mà có. Than ôi, người nữ nào nếu bắt chước theo đây, mỗi ngày chí thành lễ sám, một hội niệm Phật vạn câu, ba mươi năm chẳng thay đổi. Ta bảo đảm chắc rằng người ấy sinh về Tịnh độ.

14- Bà họ Cung: Bà họ Cung đời Tống, người ở Tiền Đường. Ngày đêm niệm Phật tụng kinh Diđà. Sau bị bệnh, thỉnh Luật sư Hạnh chỉ bày giảng nói chưa xong thì ngồi thẳng mà hóa. Người Thiếp già là bà họ Vu cũng niệm Phật không ngớt. Một hôm mộng thấy Cung Thị bảo rằng: Ta đã sinh về Tịnh độ, bảy ngày nữa ngươi sẽ sinh. Đúng hẹn thì mất.

15- Bà họ Chu: Bà họ Chu đời Tống, ở Tráp Xuyên, suốt ba mươi năm niệm Phật. Bỗng tuyệt thực bốn mươi ngày chỉ uống nước mà niệm Phật, thì mộng thấy có ba vị Tăng đều cầm hoa sen đến bảo: Trước ta đã vì ngươi mà trồng hoa này, nay sẽ vãng sinh, khi thức dậy thì thỉnh Tăng trợ niệm, rồi ngồi thẳng mà hóa.

16- Bà họ Hạng: Đời Tống, bà họ Hạng tên là Diệu Trí, người ở huyện Ngân. Goá chồng ở với hai người con gái, đều cho làm Ni, siêng năng niệm Phật. Một hôm chợt nói: Ta muốn ngồi mà hóa, đã lỡ làm quan tài rồi. Người con nói Phật dùng Kim Quan còn chẳng hiềm làm gì, bà mẹ rất mừng. Bỗng có mùi thơm lạ đầy nhà, xoay mặt về phía Tây kiết ấn mỉm cười mà hóa.

17- Cô gái họ Bùi: Cô gái họ Bùi đời Tống, ở Phần Dương, chuyên chí niệm Phật. Ngày qua đời đòi lửa đốt hương, nói Phật đem Đài sen đến đón rước ta, ta sẽ vãng sinh. Rồi trời rãi hoa như mưa ngồi yên mà hóa.

18- Bà họ Thẩm: Bà họ Thẩm đời Tống, người ở Từ Khê, từ nhỏ ăn rau dưa niệm Phật. Về nhà chồng họ Chương vẫn nhất tâm không thay đổi, bố thí của cải cơm áo cho kẻ đói lạnh. Sau bị bệnh nhẹ, niệm Phật rất cố gắng. Bỗng thấy Phật và Bồtát chư thiên Thánh chúng hiện khắp trước mắt. Đèn sáng cả mấy ngàn ngọn nến nối nhau như cầu vồng. Ngày ấy nằm thế cát tường mà mất.

19- Bà họ Tôn: Bà họ Tôn đời Tống, người ở Tứ Minh, ở goá niệm Phật suốt ba mươi năm không lười mỏi. Một hôm bị bệnh nhẹ mộng thấy có tám vị Tăng đi quanh, cùng thực hành sám xong, thân mình mặc áo lụa trơn đi theo Tăng. Thức dậy bèn tắm gội thay áo sạch, thỉnh Tăng thực hành Sám. Rồi ở trước đại chúng ngồi thẳng tụng Kinh đến chỗ Nhất Tâm bất loạn thì tay trái kiết ấn mà hóa. Xa gần đều nghe trên hư không có tiếng nhạc.

20- Bà họ Lâu: Bà họ Lâu đời Tống, pháp danh Tuệ Tịnh đền chùa xem sổ sách của Chu Nguyên Khánh có mở xem truyện Truyền Đăng mà phát sáng chỗ thấy, bèn lấy Tịnh nghiệp làm Chân Tu niệm Phật không ngừng. Tuổi già bị bệnh, bỗng thấy đài sen sắc tía, Hoá Phật vô số, mùi thơm lạ đầy nhà. Bảo người nhà niệm Phật càng quyết liệt hơn, khoảnh khắc mà hóa.

21- Bà họ Tần: Bà họ Tần đời Tống, pháp danh Tịnh Kiên, nhà ở Tòng Giang chán thân nữ xấu xa, cùng chồng đều tinh trì trai giới. Xem kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Quang Minh, Bát-nhã không để ngày luống qua. Sớm tối Tu-di-đà Sám, lễ Phật ngàn lạy. Lâu sau có ánh sáng chiếu vào nhà, quay mặt về phía tây ngồi yên mà hóa.

22- Bà họ Chung: Ở Gia Hoà đời Tống, bà Chung tụng Kinh Di-đà niệm Phật, hai mươi năm làm khoá hằng ngày. một hôm bảo con rằng thấy có hoa sen trắng lớn và vô số Thánh Chúng đã đến. Rồi ngồi thẳng mà hóa.

23- Bà họ Tôn: Bà họ Tôn đời Tống, ở Tiền Đường thường niệm Phật trì chú. Nhân bị bệnh mà thỉnh nên Luật Sư Thanh Chiếu đến, thưa rằng: Bệnh lâu chán đời cầu nguyện vãng sinh. Sư vì nói nhân duyên Tịnh độ, rất vui mừng. Đến đêm thì mộng thấy có vị Sư đem đến một chén thuốc, uống xong thì đổ mồ hôi, thân tâm nhẹ nhàng. Ba ngày sau bèn bảo người hầu rằng Tôn giả Ca-diếp đã đến, có tòa hoa sen vàng đẹp, rồi nhắm mắt bắt ấn mà hóa.

24- Bà họ Lương: Bà họ Lương đời Tống, ở Phần Dương, hai mắt đều mù, gặp một Sa-môn khuyên khiến niệm Phật, hơn ba năm thì mắt sáng lại. Bỗng thấy Phật và Bồ-tát đem cờ phướn lọng báu đến đón rước. Ngày đó bà qua đời.

25- Bà họ Huỳnh: Bà họ Huỳnh đời Tống, ở Triều Sơn, trì Kinh Kim Cương, Pháp Hoa, chuyên tâm niệm Phật. Bỗng bị bệnh kiết lỵ, chỉ uống không ăn. Có vị Tăng ở Am gần bên khéo tu, mộng thấy Bà đến nói rằng: Sắp vãng sinh Tây Phương. hai ngày sau Bà xoay mặt về phía Tây niệm Phật ngồi thẳng mà hóa. Xa gần đều thấy ráng đỏ che trên thất của Bà.

26- Bà họ Trần: Bà họ Trần đời Tống, ở Quảng Bình. Cạo tóc xuất gia, sớm tối niệm Phật. bốn chúng gọi là Đạo Giả. Sau bị bệnh nhóm họp Đạo Tục niệm Phật. Hai ngày sau bỗng chắp tay an nhiên mà hóa.

27- Bà họ Thôi: Bà họ Thôi đời Tống, là mẹ nuôi của bà họ Lương ở Đông Bình, người Tri Châu. Bình thường ăn rau dưa (chay), ngu độn, không thể tranh phải trái với ai. Chủ Mẫu là Triều Phu Nhân để ý nhiều về Thiền học, bà họ Thôi sớm chiều ở kề bên chỉ tụng niệm Phật A-di-đà rất chí thành không thôi, cũng chẳng lần chuỗi, chẳng biết là niệm được mấy ngàn vạn biến. Năm bảy mươi hai tuổi bị bệnh rỗng, chảy nhưng chẳng nằm, mà trì niệm lại càng dốc chí. Bỗng nhiên như lúc không có bệnh gì đọc kệ rằng: Tây Phương một nẻo khéo tu hành-Trên không non núi dưới không hầm, khi đi chẳng cần mang giày vớ-Chân đạp hoa sen bước bước sinh. Ngâm vịnh không ngớt. Có người hỏi là của ai, thì đáp là chính ta làm. Hỏi Bà chừng nào đi, thì bảo giờ Thân. quả nhiên đến giờ thì mất. Bèn đem trà tỳ theo pháp của chư Tăng thì cái lưỡi chẳng tiêu, giống như hoa sen.

28- Cô gái họ Ngô: Cô gái họ Ngô đời Tống, ở Huyện Quân, trai giới thanh tu, có người thị nữ cũng tinh tấn niệm Phật. Bỗng thấy có ba đài vàng nâng chân, mấy ngày sau thì thấy có đầu gối, mấy ngày sau nữa thấy thân, rồi thấy mặt mày. Đó chính là Phật A-di-đà và Quán Âm Thế Chí hầu hai bên. Lại thấy đến đài và cõi nước như chỉ trong lòng bàn tay. Như thế suốt ba năm rõ ràng ở trước mắt. Bỗng bị bệnh tự nói vãng sinh, rồi mất.

Khen rằng: Cô gái họ Ngô thường thấy Phật chăng? Do năng lực quán tinh tấn theo lý thì chắc chắn là có. Nhưng Ma Phật cần phân biệt rõ Tà Chánh. Người nữ gặp việc này phải mau hỏi các bậc cao minh.

29- Bà họ Trịnh: Bà họ Trịnh đời Nguyên, pháp danh Tịnh An người Tiền Đường. Hằng ngày niệm Phật không để luống qua. Khi bị bệnh nghe trên hư không có tiếng nói: Việc người làm phải có hẹn, không nên tự biếng lười. Lại thấy thân Phật màu vàng nên rất phấn khởi, liền ngồi xoay mặt về phía Tây, mời các người con nuôi đã xuất gia đến tụng Kinh Di-đà, rồi an nhiên mà hóa. Cô gái mộng thấy mẹ về bảo rằng: Ta đã được sinh Tịnh độ, hãy nên nghe lời các vị tu hành.

30- Bà họ Châu: Ở Huyện Ngân đời Nguyên, tại chợ Bảo Tràng có bà họ Châu chuyên tu Tịnh nghiệp. Gặp ngày đầu năm thì cấm khẩu trì tụng không nói. Ngày đêm thường ngồi hết tháng mới thôi. Gặp tháng nóng nực thì thí trà nước trong thời gian dài không bỏ. Một hôm mộng thấy có lá sen to che cả một chợ. Tự biết thân mình lần chuỗi hành Đạo trên lá. Rồi bị bệnh. Người hàng xóm về đêm thấy có cờ phướn lọng báu đến nhà bà. Sáng hôm sau bà chắp tay niệm Phật mà hóa.

31- Bà họ Tiết: Bà họ Tiết đời Đại Minh, là con gái họ Võ Đường nổi tiếng. Lúc sinh bà, người mẹ thấy có sao Trường Canh chui vào bụng. Sau về nhà họ Châu sinh 5 người con. Rồi thủ tiết ở goá, thề thờ Đại Sĩ Quán Âm, thì khói hương kết thành hình hoa sen. Người rất kinh lạ. Cô càng chuyên tâm tu Tịnh nghiệp mãi không mỏi mệt. Niệm Phật suốt mười lăm năm cũng như một ngày. Năm Đinh Hợi Niên hiệu Vạn Lịch vào tháng năm bị bệnh, thuốc men sữa cháo đưa đến đều từ chối. Sau thì dứt cả thuốc men cơm cháo. Ngày 6 tháng 9 mời Tăng đến lễ Sám thưa rằng bốn ngày thì đủ, việc tôi sẽ xong. Bèn dặn dò các con và người giúp việc cấm các phụ nữ vào. Lúc đó nhắm ngày Trùng Cửu, bèn mặc áo sạch, đốt hương và nước rải trên ghế ngồi Thiền. Sáng hôm sau đòi nước rửa tay tụng Chân Ngôn Cam Lộ, mặc áo sạch, đội mũ Chí Công nhắm mắt quỳ mọp trước Phật mà niệm, đốt hương đọc kệ khen Phật, ba Quy Y, lễ ba lạy lần chuỗi niệm Phật một trăm lẻ tám hạt, đợi giờ Ngọ ngồi kiết già bắt ấn, mà hoá. Thần khí tươi tỉnh như lúc còn sống, bội phần sáng suốt hơn. Cùng lúc người cạnh bên đều ngửi thấy hương thơm hoa sen đầy nhà. Các con vâng lời liệm vào khám người xem đông cả mấy ngàn mừng rỡ đảnh lễ. Việc này có ghi chép đầy đủ trong các truyện.

Khen rằng: Mẹ khiến làm khám không có quan quách, không đón rước sát thần, không đốt giấy tiền vàng bạc, không giết hại sinh mạng để cúng tế. Các con đều thuận theo không khác. ta nghe xưa có người ngồi mà hoá, con sợ trái với danh giáo bèn kéo chân cha duỗi ra. Bỗng giơ tay tát con, con sợ mà nói chỉ giúp cha ngồi mà thôi. Nay nói các con của bà họ Chu vì sao làm như trước là vì mẹ lấy hơi tàn đợi con đến trao lời khuyên. Ta vừa ngăn sự chậm trễ của bà mẹ ấy rằng: Thời đến không thể đợi, liền hoá. Người vì thế hận ta, đâu biết chưa xuống thuyền thì mạn thuyền đã bể nát rồi. Than ôi các bậc Thượng Thiện đồng hội một nơi, mẹ con bà họ Chu chẳng thế ư?

32- Bà họ Hứa: Bà họ Hứa đời Đại Minh, người ở quận Hàng Bình sinh cung kính thuận thảo thật thà, chỉ lo việc niệm Phật. Khi sắp mất thì từ biệt người nhà, mặc áo sạch ngồi thẳng tay cầm hoa trắng Thiên Mục đem cắm nhanh rồi an nhiên mà hoá.

* Luận chung: Cõi nước Cực Lạc thật ra không có người nữ. Ai đã được sinh đều có đủ tướng người nam, nay người vẽ bức hình chín Phẩm mà vẽ hình người nữ là sai. Y cứ vào bổn nhân để bày rõ các loại cùng sinh. Trong cõi thanh tịnh tìm tướng nam còn chẳng được huống là tướng nữ. Tuy nhiên nữ lại có ba căn bệnh. Hiếu với cha mẹ chồng không bằng cha mẹ là một; đối với tỳ nữ phục vụ không bằng con cháu, biết bố thí mà không biết dứt tâm tham, biết mến thân nam mà không biết đổi thói quen của nữ, biết đến đền chùa thờ kính sa môn mà không biết phải cầu các việc cho mình là ba. Biết rõ ba thứ này tuy chưa ra khỏi Tabà mà ở vị Tỳ-kheo, như thế còn lo gì chẳng vãng sinh Tịnh độ.

VI-NGƯỜI ÁC VÃNG SINH:

1- Trương Thiện Hoà: Trương Thiện Hòa đời Đường, làm nghề giết mổ trâu bò. Khi qua đời thấy bầy trâu nói tiếng người đòi mạng, do đó rất sợ hãi, gọi vợ bảo thỉnh chư Tăng sám hối cho ta. Tăng đến dạy rằng Quán kinh nói khi qua đời tướng ác hiện ra nếu dốc lòng niệm Phật liền được vãng sinh. Hoà nói địa ngục đến gấp chẳng kịp cầm lò hương. Rồi tay phải quẹt lửa, tay trái cầm lò hương thành kính niệm Phật, chưa đầy mười câu tự nói: Phật đến đón rước ta rồi hóa.

Khen rằng: Thấy địa ngục đến gấp tay cầm lò hương trong thế bức bách khẩn khổ mà tinh thành không có hai niệm. Tuy nói mười niệm mà đâu thể vượt hơn người chăm chăm trăm ngàn muôn ức niệm cho nên chắc chắn vãng sinh, lý thật như thế. Có người nghi là Bồ-tát thị hiện ra, nếu như thế thì bất tận.

2- Trương Chung Húc: Trương Chung Húc đời Đường, làm nghề giết gà. Khi bệnh thấy có người mặc áo lụa đen đuổi bầy gà đến mổ vào mặt máu chảy dầm dề đau đớn khó chịu nổi. Có vị Tăng lập tượng Phật bảo niệm, chỉ khoảng khắc thì thơm lạ đầy nhà an nhiên mà mất.

3- Hùng Tuấn: Hùng Tuấn đời Đường, ngụ ở Thành Đô, ngang bướng mạnh mẽ hơn người, không chịu giữ giới luật, bỏ đạo làm lính rồi lại vào làm Tăng. Nhân nghe kinh nói một câu niệm Phật thì diệt được trọng tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Bèn mừng rỡ bảo rằng ta có chỗ nhờ cậy. Từ đó tuy làm ác nhưng vẫn niệm Phật không ngớt. Tháng hai năm Đinh Mùi chết vì bạo bệnh, qua một đêm sống lại bảo rằng: Đến gặp vua Diêm La bảo là bắt lầm, nhưng ngươi niệm Phật không tin đâu. nay trở về nhân thế phải rất tinh tấn. Chúng gọi là Người lọt sổ địa ngục. Rồi Tuấn vào núi trai giới niệm Phật. Hơn bốn năm, tháng ba năm tân Hợi nhóm họp các Tăng Ni bảo rằng: Đã đến giờ tôi ra đi. Các vị trở về thành thấy ai quen thân với tôi thì nói giúp tôi rằng: Tuấn vì được niệm Phật mà được vãng sinh Tịnh độ, đừng coi tôi là Người lọt sổ địa ngục nữa. Trong lúc nói cười ngồi thẳng mà hóa.

Khen rằng: Quân tử và Tiểu nhân không đồng chỗ, làm sao vừa tạo ác vừa niệm Phật mà được vãng sinh. Ôi, chỉ dựa vào một lời nói Niệm Phật được diệt tội mà tin vào xương tủy, tức một niệm này nặng cả muôn cân, nên khi qua đời chuyển nghiệp được vãng sinh, nào có nghi gì?

4- Duy Cung: Duy Cung đời Đường, trú tại chùa Pháp Tánh, khinh trên hiếp dưới, làm bạn với đám côn đồ rượu chè bài bạc giao tiếp đầy cửa.

Rảnh rang thì niệm Phật. Tăng trong chùa là Linh Khuy cũng đồng bọn ác giúp nhau. Người trong làng nói Linh Khuy làm ác, Duy Cung noi dấu, Địa ngục ngàn lớp, chẳng chán cùng vào. Cung nghe được, bảo rằng: Ta tuy làm nghiệp ác không thể trốn tránh, nhưng nhờ có Giáo Chủ Tịnh độ thương ta tội nặng mà cứu ta khỏi hầm lửa há lại đọa đường ác ư? Niên hiệu Càn Ninh năm thứ hai, Cung bị chết. Linh Khuy từ ngoài trở về thấy có mấy người thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ, hỏi từ đâu đến, đáp từ phía Tây đến đón rước Cung Thượng Nhân. Một người lấy từ bụng ra một bình vàng có cắm hoa sen búp bằng nắm tay bỗng nhiên nở to bằng cái mâm sáng rực rỡ, hướng về chùa mà đi, bỗng biến mất. Khi Linh Khuy về đến chùa thì nghe tiếng chuông, Duy Cung đã mất rồi.

5- Oánh Kha: Oánh Kha đời Tống, theo học với Thường Xuyên Diệu Sơn, rượu thịt không chừa. Bỗng tự nghĩ phạm hạnh thiếu sót, sợ phải bị trôi giạt, bèn khiến người ở chung lấy quyển chép về Vãng sinh của Thiền sư Giới Châu mà đọc. Hễ đọc một truyện là một bài. Rồi ở trong thất lập ghế ngồi Thiền xoay mặt về phía Tây, tuyệt thực mà niệm Phật. Hơn ba ngày thì mộng thấy Phật bảo Rằng: Ngươi còn sống mười năm nữa, phải nên cố gắng. Kha bạch Phật rằng: Dẫu con sống cả trăm năm nữa nhưng ở Diêm-Phù đầy trược ác dễ mất Chánh niệm, con chỉ muốn sớm sinh An Dưỡng thờ phụng các Thánh chúng. Phật bảo: Chí ngươi như thế thì ba ngày nữa ta sẽ đón ngươi, đến hẹn Kha sai chúng tụng Kinh A-di-đà, bèn nói: Phật và đại chúng đều đã đến. Rồi yên lặng mà hóa.

6- Trọng Minh: Trọng Minh đời Tống, trú tại chùa Báo Ân ở Sơn Âm không có giới hạnh. Vì bị bệnh bảo bạn đồng học là Đạo Ninh rằng: Nay tôi tâm thức tán loạn, thuốc nào trị được? Ninh dạy cho cách Tùy Tức Niệm Phật. Minh làm đúng theo lời dạy. Đến ngày thứ bảy thì sức đã nguy khốn. Ninh lại khiến tưởng tượng Phật ở trước mắt. Lâu sau bỗng thấy hai vị Bồ-tát kế thấy Phật, rồi nhắm mắt mà hóa.

7- Ngô Quỳnh: Ngô Quỳnh đời Tống, người ở Lâm An, trước làm Tăng sau bỏ Đạo về tục. Trước sau sinh hai con, giết mổ bán rượu đều làm, khi làm bếp nấu ăn giết hại gà vịt thì trì niệm A-di-đà Phật, ta giúp cho thoát thân này liền niệm danh hiệu Phật rồi mới ra dao. Mỗi khi cắt thịt thì niệm Phật không ngớt. Sau trên mắt có bứu bằng cái trứng gà, rất lo sợ. Lập am tranh phân tán vợ con, niệm Phật lễ Sám ngày đêm như không kịp. Niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ hai mươi ba, ông bảo mọi người rằng: Đến giờ Tuất thì tôi đi, mọi người đều cười. Đến chiều lấy vải màu đổi rượu uống xong viết bài tụng rằng: Giống rượu đều không, Hỏi gì Thiền tông, Ngày nay trân trọng, Gió mát trăng trong. Rồi ngồi thẳng chắp tay niệm Phật, nói rằng Phật đến, bèn hóa.

8- Kim Thích: Kim Thích đời Tống, người ở Cối Kê, làm nghề đánh cá, bỗng tỉnh ngộ bèn trì giới tinh tấn, hằng ngày niệm Phật vạn câu, rất lâu mà không thay đổi. Sau không bệnh mà bảo người nhà rằng: Phật A-di-đà cùng hai vị Bồ-tát đều đến đón rước ta. ta về Tịnh độ đây. Rồi đốt hương ngồi thẳng mà hóa. Người trong ấp nghe có mùi thơm lạ và nhạc trời cả ngày không tan.

Khen rằng: Việc của Thích và Thiện HoàChung Húc khác nhau. hai người trước thì tạo nghiệp đến khi chết mới thành kính, còn Thích thì thay đổi lỗi trước chẳng lâu, mà tu nghiệp Thiện vãng sinh ắt phẩm vị phải hơn hai người kia.

* Luận chung: Biển khổ vô biên, bến bờ là ở chỗ quay đầu, nhiều kiếp tối tăm sáng chỉ cần có một ngọn đuốc. Tịnh độ không trái với kẻ ác thì chẳng lầm lẫn. Tuy nhiên Ngộ thì có cách dời thiện, mà đau là do oán hết. Ỷ vào mang nghiệp vãng sinh mà an tâm làm ác đây là may mắn muôn vàn chẳng có một. Xưa người ác lấy đây làm thuốc, nay người ác chấp đây thành bệnh. Cho nên xưa người ác sẽ trở thành người thiện, nay người ác vẫn là người ác, buồn thay!

VII-SÚC SINH VÃNG SINH:

1- Trong Kinh Bồ-tát Xử Thai nói: Có một con rồng bảo chim cánh vàng rằng: Ta từ khi làm thân rồng thì không hề sát sinh, khuấy động loài ở dưới nước, sau khi chết rồi sẽ sinh về cõi nước Phật A-di-đà.

Khen rằng: Từ tâm không giết hại là Chánh nhân Tịnh nghiệp.

Rồng được Phật nói vãng sinh, chắc chắn là đúng.

2- Anh Võ (con Két): Niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường, họ Bùi ở Hà Đông có nuôi một con Két thường niệm Phật, quá ngọ không ăn. Khi chết mười niệm, dứt hơi liền đem thiêu, được hơn mười hạt xá-lợi sáng chói mắt. Vị Tăng tên Tuệ Quán dùng quách Sành đựng và xây Tháp để cúng thờ nêu việc lạ. Ở Thành Đô có Doãn Vi Cao viết thành ký, có câu rằng: hiểu rõ không tướng ở vô niệm, để lại chân cốt (xá-lợi) khi chết.

3- Cù Dục (con Sáo): Chùa Chánh Đẳng ở Hoàng Nham đời Tống, có Quan Công nuôi một con Sáo biết nói, luôn niệm Phật chẳng thôi. Một hôm đứng chết, đào lỗ chôn. Bỗng từ lưỡi mọc ra một hoa sen màu tím. Luật sư Linh Chi làm lồi tán có câu rằng: Trong lồng đứng mất dẹp việc hỗn nhàn, hoá sen tím thật kỳ lạ thay!

4- Lại chuyện Cù Dục: Người ở Đàm Châu có nuôi một con Cù Dục thường niệm Phật, khi chết dùng quan tài để chôn, bỗng mọc ra một hoa sen từ miệng Sáo. Có bài tụng rằng: Có một con chim thiêng gọi tên anh Bát ca, bắt chước theo Tăng miệng niệm Di-đà-Chết chôn đất bằng mọc một đóa sen, người chẳng hồi tâm biết làm sao?

Khen rằng: Két và Sáo người dạy cho niệm Phật là việc bình thường, nay sao chẳng thấy vãng sinh. Ôi nếu tất cả người đời nghe dạy niệm Phật có người Tín tâm niệm theo, có người Khinh tâm mà niệm, do đó người niệm Phật thì nhiều mà người vãng sinh thì ít Két Sáo đâu chẳng như thế?

* Luận chung: Có người nói người khôn mà vật ngu, sao chim nuôi mà được vãng sinh? Ấy là không biết hữu tình đều có Linh giác, do mê có dày mỏng mà chia ra người hay thú vật chớ không phải khôn ngu chẳng ngang hàng. Chim trĩ nghe Kinh Pháp Hoa mà tái thế làm Tăng, trâu thấy Kim Dung mà chết sinh lên trời, đã ghi rành trong các truyện. Huống chi là Địa-ngục, Quỷ, Súc đều sinh ở cõi ta, vốn là Bổn Nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng. Hận người thấy cầm thú vãng sinh mà vẫn điềm nhiên không cảnh tỉnh, cam tâm năm trược, bó tay luân hồi. Một hơi chẳng trở lại đổi hình ở sừng cánh mà chẳng tự biết. Riêng biết làm gì ư?

PHẦN CHÉP THÊM:

Từ nay việc vãng sinh hễ nghe thấy thì cứ chép tiếp vào phụ ở cuối quyển 2-không phân biệt môn loại trước sau.

1- Tăng Minh Bổn: Minh Bổn đời Đại Minh, là Tăng trú tại chùa Tĩnh Gia ở Thông Châu, ông vốn có chí cao, Phạm hạnh thanh bạch, siêng năng diễn giảng. Sau bỏ giảng chuyên tâm Tịnh độ, sáu thời Lễ niệm, thời gian lâu không bỏ. Bỗng bị bệnh nhẹ, tự biết thời đến, cáo biệt chúng rồi an nhiên mà hoá, có mùi thơm lạ suốt bảy ngày.

2- Chu Cương Thiếu Phủ: Chu Cương đời Dại Minh, người ở Kinh Đô theo nghiệp Nho thi Hương ba lần lên quan Thượng Xuân không đậu. Làm đến chức quan hai Phủ thì ở ẩn, chuyên tu Tịnh độ, hằng ngày niệm Phật ba vạn câu suốt mười lăm năm không chút mỏi mệt. Khi qua đời ngồi trên giường, tay lần chuỗi niệm Phật không ngớt, mùi thơm lạ đầy nhà, bèn nói Phật đến, rồi niệm Phật liên tục mà hoá.

2-Bà Vu: Bà Vu đời Đại Minh, mẹ của Vu Quý là dân ở thôn Thiệu châu xương Bình-bắc kinh. Bà niệm Phật đã lâu, một hôm giặt áo thật sạch bảo con rằng: Ta sắp sinh Tịnh độ. Con vẫn chưa tin. Đến hẹn bà lấy ghế đặt ở giữa sân rồi ngồi trên ghế mà hóa. Người trong làng đều nghe mùi thơm lạ và nhạc trời.

Cư sĩ họ Cố: Cố Nguyên, đời Đại Minh, người ở Kim Lăng, tự hiệu là Cư sĩ Bảo Tràng. Thuở nhỏ hay làm thơ, giỏi chữ Thảo. Lúc trung niên nhất chí chuyên tu Tịnh nghiệp. Sau bị bệnh nhẹ nhóm họp Tăng Tục Đạo Hữu mười niệm Adi-đà Phật, xướng họa nối nhau, lại bảo người rằng: Tôi chắc chắn vãng sinh. Người hỏi làm sao biết? Đáp: Tôi thấy Phật A-di-đà thân màu vàng đầy khắp hư không, phật lấy áo cà-sa phủ thân tôi, tôi đã ngồi trong hoa sen. Lúc đó chúng nghe có mùi hương hoa sen, các con bịn rịn không thôi. Cư sĩ bảo: Các con nói ta đến nơi nào tức là nơi này, nơi này nếu rõ ràng thì nơi nào không rõ ràng. Rồi ngăn người rằng: Chớ nói nhiều làm loạn tâm ta, ở trong hư không chư Phật đã đến đón rước ta, canh ba ta đi. Đến hẹn thì vui vẻ mỉm cười mà hóa. Các ông Thiếu Tông Bá Ân, Thu Minh viết truyện về Cư sĩ. Khen rằng: Thân đã ngồi trong hoa sen, sinh thì quyết định sinh nơi nào tức nơi này, đi thì thất chẳng đi. Cư sĩ ắt không sinh ở Trung và Hạ Phẩm đâu.

4- Họ Phương: Bà họ Phương đời Đại Minh, là vợ của Chư Sinh Ngô Ưng Đạo, ba mươi tuổi đã góa chồng, bèn thủ tiết quy y Phật chuyên tu Tịnh độ. Có một bà vú già cũng trai giới theo nhau suốt hai mươi năm. Niên hiệu Vạn Lịch năm Ất Dậu tuổi đã năm mươi, bị bệnh nhẹ gọi Lão Bà cùng nhau niệm Phật không thôi, không nói một lời về các việc khác. Một ngày trước khi chết tắm gội thay áo mới. Buổi sáng dâng hương lễ Phật rồi trở về ngồi trên giường mà mất. Có Tử Dụng Tiên đậu Tiến sĩ là người không hề dối gạt, kể tôi nghe đầu đuôi như thế.

5- Bà mẹ Trương: Bà Trương đời Đại Minh, họ Đào là vợ kế của Cư sĩ Trưởng Thủy Thủ Ước. Cư sĩ thờ Phật, ngày mẹ mất, ông tụng niệm không xen hở. Cư sĩ ra lạy Phổ Đà Mẹ gọi hai con bảo rằng: Ta hằng ngày tham hai câu "Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật", nay mới ngộ. Ngày mồng bốn ta sẽ đi. Đến hẹn thì ngồi thẳng mà hóa. Ngày hôm sau liệm xong, bỗng trên quan tài của bà mọc ra năm đóa hoa sen xanh. Cư sĩ rất kinh dị tự hổ thẹn vô cùng, vì ở chung nhau mà không biết được đạo hạnh như vậy. Xa gần thấy nghe đều khen ngợi kính mến.

6- Tổ Hương: Tổ Hương đời Đại Minh, người ở Tân Dụ thuộc, Giang Tây, trú tại chùa Long Đàm ở Sơn Đông, tinh tu Tịnh nghiệp có Cư sĩ Vương Kiệt cất am mời đến ở. Không bao lâu bảo Kiệt rằng: Ngày đó tôi sẽ về nhà, mọi người cố gắng giữ lại Hương nói: Về nhà An Dưỡng mà thôi. Đến hẹn thì ngồi xếp bằng ngó về phía Tây mà hóa. Đưa khám vào núi lửa nổi lửa lên tự đốt.

7- Quách Đại Lâm: Quách Đại Lâm đời Đại Minh, người ở Thang Âm. Bình thường rất đoạn khiết nho nhã trong sạch có mộng xuất thế (thoát tục), gặp Tăng dạy cho niệm Phật, bèn nhất tâm Tịnh độ. Năm bảy mươi sáu tuổi, một hôm không bệnh mà giã biệt con rằng: Ngày mai giờ Ngọ cha sẽ đi. Đến hẹn ngồi mà hóa.

8- Lưu Thông Chí: Lưu Thông Chí đời Đại Minh, người ở Kinh Đô tinh khẩn niệm Phật. Năm năm mươi hai tuổi bị bệnh niệm càng thiết. Người hàng xóm là Lý Bạch Trai chết trước đó, Thông dứt hơi từ sáng sớm, đến Ngọ thì sống lại gọi người nhà bảo rằng: Ta thấy một chiếc thuyền trên đó có ba mươi sáu người bảo là về Tịnh độ, ta cùng Bạch Trai cũng ở trong số đó, ngặt vì ta áo chưa sạch, lại quên mang chuỗi, khiến ta thay áo lấy chuối thuyền hãy còn đợi. Người nhà lật đật thay áo đeo chuỗi vào cổ, khoảnh khắc thì qua đời.

9- Mẹ của họ Tôn: Mẹ của Trung Quan Tôn Danh đời Đại Minh, một đời trai giới niệm Phật. Về già bị bệnh nhẹ từ biết thời đến bảo con là muốn ngồi mà hóa. Con thương cảm khóc lóc ngăn không được. Bèn tự làm khám, đến hẹn thì vào khám ngồi yên mà hóa.

10- Đường Thể Như Văn Học: Đời Đại Minh, Đường Diên Nhậm là người vùng Lan khê thuộc Triết Giang, hiệu là Cư sĩ Thể Như, hiếu hữu thuần ân vốn ở Thiên tánh. Thuở nhỏ đi học nổi tiếng sau đó biết đời là vô thường dốc lòng đến với Đạo, tham vấn ngài Vân Thê học Tam-muội niệm Phật, bèn ra sức thực hành, suốt mười ba năm như một ngày, chỉ dốc chí về Tây Phương. Niên hiệu Vạn Lịch năm Quý Mẹo gặp ngày Nhĩ Thuận giữa Đông. Bỗng bảo các con rằng: Ngày 11 năm mới ta sẽ đi. Mấy ngày trước đó lễ tụng như thường. Đến hẹn thì súc miệng sửa áo, ngồi thẳng, tay bắt ấn, miệng niệm Phật mỉm cười mà hóa như nhập vào Thiền định.

Khen rằng: Cư sĩ sắp nhập diệt các con thưa rằng: Khi cha qua đời có kể việc này cho ngài Vân

Thê chép vào truyện Vãng sinh chăng? Cư sĩ bảo:

Phải báo với thầy ta. Nhưng chớ có trau chuốt, cứ theo việc mà trình bày thẳng. Còn việc chép vào truyện hay không thì Thầy tự biết, chớ vì không chép vào Truyện mà có sắc buồn ý buồn. Than ôi, đây có thể thấy rõ chỗ an dưỡng, bình thường đối với Tịnh độ tin chắc không đổi, thì mỉm cười mà hóa, vãng sinh nào có nghi gì?

11- Văn Học Dương Gia Y: Dương Gia Y, đời Đại Minh, tự là Bang Hoa, người ở Thái Hoà, con nhà Thế gia. Năm mười ba tuổi giữ giới không sát sinh ruồi muỗi không giết. Năm hai mươi ba tuổi học ở Nam Ung. Bỗng bị bệnh, niên hiệu Vạn Lịch năm Ất Tỵ ngày 19 tháng giữa Đông thì mất. Trước khi mất mông thấy xuống Địa ngục thấy Đại Sĩ Địa Tạng ở Điện Minh Dương. Khi thức dậy thì phóng sinh và mời Tăng tụng kinh niệm Phật, bảo người nhà rằng: Ta sắp đi, có hoa sen xanh hiện ra trước ta không phải là cảnh Tịnh độ ư? Bèn ngày đêm niệm Phật không thôi. Sai tắt đuốc, bảo rằng: các người nhờ đuốc để sáng, tu không cần, vì thường ở trong ánh sáng. Hỏi thấy gì, thì đáp sen nở bốn màu. Hỏi có thấy Phật Di-đà chăng? Thì đáp thấy Phật Di-đà thân ngàn trượng. Hỏi còn Quán Âm thì đáp thân bằng với Phật Di-đà. Hỏi thấy Thế Chí thế nào, đáp: Không thấy. Nói xong bỗng nhiên đứng dậy dâng hương, liền đó bảo rằng: Công đức của Kinh Di-đà không thể nói không thể nói ta đã được sinh Thượng phẩm, rồi im lặng mà hoá.

Khen rằng: Bang Hoa hiếu học, sách Thiên Trị đều đọc, riêng ngầm tâm ở nội điển, lại để ý riêng về pháp môn Tịnh độ. khi sắp mất thì bảo công đức của kinh Di-đà không thể nói đến ba lần là ý rất thiết. Trọng Huynh là Gia Tộ viết truyện mà thề rằng: Nếu ta nói dối sẽ đọa vào địa ngục cắt lưỡi, vì cũng thật thấy mà nói thiết người chẳng tin Tịnh độ nên suy nghĩ.

12- Văn Học Hác Hy Tải: Hách Hy Tải, đời Đại Minh, người ở Tiền Đường, pháp danh Quảng Định, Bình thường trung tín không lừa dối có Đức Hạnh nổi tiếng ở trường học. Về già theo Phật Thiền tụng ngày đêm không lười mỏi. Mùa Xuân tháng 2 niên hiệu Vạn Lịch năm Tân Hợi bị bệnh. Mỗi khi ngủ thức dậy bảo rằng mọng thấy ở trong núi cầu thấy Phật. Phật chưa thấy mà chỉ thấy trăm con chim tụ tập. Như thế mấy ngày. Đến ngày hai mươi bảy, giờ ăn, bỗng ngước đầu nhìn qua cửa sổ, bảo con là Thế Hàn rằng: ngày nay riêng ta một trời đất rồi nhìn người nhà đưa tiền bạc. Bỗng bảo ta vừa sợ thấy quan dùng nay lại không dùng. Đến canh ba thì bảo: Có hai Đồng tử đến đón rước, Phật ngồi đài hoa sen đã hiện trước ta. Ta đi đây. Rồi nằm thế cát tường mà hoá.

13- Bà họ Chu: Mẹ của họ Trần đời Đại Minh, là người họ Chu, người ở Gia Định thuộc Quận Ngô, là vợ của Cư sĩ Duệ Xuyên. Hiếu Từ tính trời luôn hướng về Tam Bảo. Năm tám mươi mốt tuổi người con tham học với ngài Vân Thê niệm Phật vãng sinh, bèn dốc chí Tịnh nghiệp. Hơn hai năm thì bị bệnh, ba ngày trước khi mất trở về chỉ cho pháp ở trước Phật Đường gọi to tên mẹ ba tiếng. Mẹ nói có hai thanh y ở đây. Lúc đó bệnh lâu rất nguy kịch. Bỗng đứng lên rồi ngồi thẳng. Các con khuyên nằm nghỉ, bèn nằm thế cát tường mà hoá. Đón thi thể lên nhà giữa thì thấy thi thể nằm mặt ngó về hướng Tây. Lúc đó rất kinh dị cho rằng vì tinh thành mà cảm được như thế.

Khen rằng: Cha Hách mẹ Trần đều có điềm thanh y đồng tử thì sẽ sinh làm trời người. thế mà một người thì Phật hiện đài sen, một người thì không quên ngó về Tây. Lại sẽ sinh Tịnh độ, hai tướng đều có, lúc đó nơi sinh chưa nhất định, tức chẳng sinh mà sinh lại không xa.

14- Bà họ Từ: Mẹ của họ Lục đời Đại Minh, là họ Từ, người Gia Định, ở goá quyết chí Tịnh nghiệp. Chồng xưa có cho vay nợ ngàn vàng, bà đốt bỏ giấy nợ không lấy. Đem hết của ra thí cho người, thường ở trước Phật lễ tụng không ngừng, như thế suốt mười năm. Một đêm bỗng gọi người hầu bảo: Xem Phương Đông có ánh sáng phát ra chăng, ta vãng sinh đây, đã đến lúc rồi. Các con nên giúp ta. rồi lớn tiếng niệm Phật chắp tay mà hóa.

15- Qua Quảng Thái Cư sĩ: Qua Dĩ An, đời Đại Minh, pháp danh là Quảng Thái, người Tiền Đường. Tánh rất chí hiếu, ưa làm các việc lành mà tự giấu kín không cho ai biết. Về già, tinh thành thờ Phật, cùng Linh Chi Tăng Huyền Tố kết hai Xã

Xuân Thu niệm Phật tụng năm Kinh như Hoa Nghiêm, v.v…. Bỗng gọi người bảo rằng: Ta đại hạn sắp đến, phải lo phương tiện để về Tây Phương, rồi ở trong thất tụng Kinh sớm chiều không thôi, dự biết trước ngày đi. Đến ngày 21 tháng chạp, trước đó hai đêm, mẹ con còn bịn rịn buồn thương. Cư sĩ cười nói rằng: Hễ có sinh thì có diệt, sao lại buồn thương, nên giúp con ngưng Thần Tịnh độ tận mặt thấy Phật Di-đà, cẩn thận chớ dùng tình thương làm loạn Chánh niệm của con. Rồi chỉ chăm chăm căn dặn Huyền Tố nên trợ niệm không nói gì khác. Đến hẹn thì im lặng mà hóa.

Khen rằng: Tăng xuống âm phủ thấy Cư sĩ ngồi yên ở tịnh thất, sách vở đầy bàn, sân có nhiều trúc tím, gộp đá xanh mịt như động trời. Cư sĩ phải sinh Cực Lạc sao còn ở Âm Cảnh, là ý nói rằng hằng ngày chí thiết tụng kinh, kinh nguyện chưa xong mãn nguyện rồi sau đó liền vãng sinh.

16- Đỗ Cư sĩ: Cư sĩ họ Đỗ đời Đại Minh, người ở huyện Uyển, Bình thuộc phủ Thuận Thiên, ẩn cư bên cạnh chùa Thụy Quang ở Tây Sơn, trong Cổ Trai Đường, bỏ hết chuyện nhà. Ba mươi năm chuyên chí niệm Phật. Tôi và người làng là Đồng Quảng Sách đến hỏi Cư sĩ từ đâu đến, thì đáp ở Hàng Châu. Rồi hỏi các anh là người Hàng Châu, có biết Vân Thê Hoằng Công không? Sách đáp: Là Thầy tôi đó. Cư sĩ bèn chắp tay niệm Phật không nói gì khác nữa. Khi sắp mất thì lễ Sám chín ngày, Sám văn đến chỗ rất khẩn thiết, liền rơi lệ nghẹn ngào, rồi tuyệt thực chỉ uống nước, Sám Hối xong ngồi mà hóa. Suốt một tuần mà dung mạo vẫn như còn sống. Mọi người nhìn thấy mây năm màu vẫn vũ trên nóc nhà.

17- Cư sĩ Tôn Đại Vu:

Tôn Thúc Tử, đời Đại Minh, pháp danh Đại Vu. Từ nhỏ tánh thông minh đoan xác. Năm mười hai tuổi theo cha là Cư sĩ Cảnh Ngô, thờ tượng Diđà bốn mươi tám nguyện, đến Vân Thê nhân đó thọ năm giới, bỏ ăn thịt cá, dứt giao du, dẹp bỏ đồ mặc bằng lông da thú, chuyên chí niệm Phật thề lấy đài vàng mà siêng năng khổ nhọc không tiếc mạng sống. Bỗng nhiên thấy hai vị Tỳ-kheo cầm hoa sen lấy Nhất Tâm Tịnh độ mà ấn khả. Lại thấy hóa nhân, bèn tụng Kinh Kim Cương một ngày đêm, thấy mà sợ hãi bèn ngồi dậy nói: Phật Di-đà và Quán Âm đều đến đón rước ta. Bèn kết ấn Kim Cương, hô lớn A-di-đà Phật mấy câu rồi an nhiên mà hóa, lúc đó là niên hiệu Vạn Lịch năm Tân Hợi ngày 11 tháng 11-Ông có soạn Tịnh độ Thập Nhị Thời Ca, lưu truyền ở đời. Nói rất rõ trong Ngô Thái Sử Tây Sinh truyện.

Khen rằng: Ngô Thái Sử nhìn mình là Cư sĩ, xưng là Vu, năm sinh ra thì trong nhà có cỏ chi báo hiệu điềm lành, năm mất đi thì cỏ ấy có thứ to bằng cái đấu, như vàng như ngọc, như vòng tròn trăng đỏ là điềm lành vãng sinh, có thể làm chứng cớ. Bèn viết thành Tôn Thúc Tử Tây Sinh truyện, Thái Sử Trưởng là người không nói dối nên chép vào.

18- Ngô Cư sĩ: Ngô Cư sĩ đời Đại Minh, người ở Nhân Hòa, húy là Đại An, biệt hiệu là Ngưỡng Trúc. Bình thường rất hiếu hữu thành đốc, thích làm việc âm đức, phóng sinh cứu khổ giúp đỡ chòm xóm. Liền cảm được các loại thiện báo như âm u gặp ánh sáng, thuyền gặp nguy ách thì gió đổi chiều mà dốc lòng về Nội Giáo. Sớm tối tụng kinh niệm Phật A-di-đà, tinh tấn không mệt mỏi. Niên hiệu Vạn Lịch năm thứ bốn mươi, ngày ba tháng 9-cáo biệt chúng ngồi kiết già mà hóa. Trong Thất có mùi thơm lạ, thần sắc sáng rỡ. Có nói đủ do Ấn Trì Nghiêm Quân viết thành truyện.

19- Ngô Cư sĩ: Ngô Cư sĩ đời Đại Minh, thuộc thế gia, ở Tân An húy là Kế Úc, tự là Dụng Khanh, biệt hiệu là Cư sĩ Thập Như. Tánh khí trầm lặng, chất như cây thẳng. Thích làm các việc lành không hề chán xem như Cam lộ. Về già để tâm vào Nội điển, trì chú Vãng sinh, niệm hồng danh Phật Adi-đà., có thời khóa nhất định, lạnh nóng gió mưa không đổi. Có lần té xuống sông như có vật nâng chân nổi lên trôi xa mười dặm mà trèo lên thuyền. Mọi người cho là nhờ năng lực Phật mà cảm được. Bỗng bị nhọt ở lưng rất nguy hiểm, nhiều người không chịu nổi lo lắng, riêng Cư sĩ cười nói tự nhiên như không có gì. Bỗng nhiên chánh niệm thị tịch. Con ông và Chương Tử, Dư Thị là người thiện tín không hề nói dối đã thuật lại hành trạng của ông như thế.

QUYỂN 3

I-CÁC THÁNH ĐỒNG QUY:

1- Chọn Sinh Cực Lạc: Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: Lúc đó Vi-đề-hy than khóc bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn, hãy vì con mà nói chỗ không có sầu khổ con sẽ cầu sinh về, con không còn ưa thích cõi Diêm-phù-đề trược ác này nữa". Do đó Đức Thế tôn phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày chiếu khắp các thế giới mười phương, các cõi nước Phật đều hiện trong đó. Khi ấy Vi-đềhy thấy rồi liền hướng về Phật bạch rằng: Các cõi nước Phật tuy đều thanh tịnh và sáng rỡ, nhưng con chỉ nguyện sinh về thế giới Cực Lạc của Phật Adi-đà.

2- Vãng sinh vô số: Kinh Đại Vô Lượng Thọ nói: Đức Di-lặc bạch Phật rằng: Ở thế giới này có bao nhiêu vị Bồ-tát vãng sinh về Cực Lạc. Đức Phật bảo: Này Di-lặc, ở thế giới này có sáu mươi hai Bồ-tát ức Bất Thối vãng sinh về cõi nước ấy, còn các Bồ-tát Tiểu hạnh thì không thể tính đếm được. Không chỉ riêng ở cõi nước này mà các cõi Phật ở Phương khác như cõi Phật Liên Chiếu có một trăm tám mươi ức Bồ-tát cũng sẽ vãng sinh cho đến cõi Phật ở mười phương, người vãng sinh nhiều vô số. Nếu ta nói đủ thì dù một kiếp cũng không hết được.

Khen rằng: Thế giới này và các cõi ở phương khác số người vãng sinh nhiều vô lương thì Tịnh độ làm sao chứa hết. Ôi, biển xanh còn chứa trăm sông, hư không còn bao trùm cả vạn tượng. Mà vô biên sát hải không ở ngoài một lỗ chân lông của Phổ Hiền, nêu Tịnh độ như đất trên đầu mũi kim mà chứa vô tận người vãng sinh nhưng cũng chẳng to lớn rộng rãi thừa chỗ.

3- Thấy Phật Di-đà: Kinh Quán Phật Tammuội nói: "Phật thọ ký cho Văn-thù sẽ sinh về Cực Lạc. Ngài Văn-thù phát nguyện kệ rằng: Nguyện khi tôi qua đời, dứt trừ các chướng ngại, tận mặt thấy Phật Di-đà, vãng sinh cõi An Lạc, sinh cõi Phật ấy rồi, đầy đủ đại nguyện con, Phật Di-đà Như lai, hiện tiền thọ ký con".

4- Mười Nguyện cầu Sinh: Trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền nêu mười Nguyện lớn vì khắp chúng sinh cầu sinh Tịnh độ, kệ rằng:

"Nguyện khi đến lúc con qua đời,
dứt trừ tất cả các chướng ngại
Tận mắt thấy được Phật Di-đà,
liền được vãng sinh nước An Lạc".

Lại nói: Phật ấy chúng hội đều thanh tịnh-Lúc ấy tôi sinh trong hoa sen quý

Được thấy Như lai Vô Lượng Quang, Hiện ra thọ ký con quả Bồ-đề

Khen rằng: Văn-thù là Tổ của bảy Đức Phật, Phổ Hiền là gốc của vạn Hạnh, mà vãng sinh Tịnh độ thì căn dặn mãi nơi miệng. Ở cõi Ta-bà là phụ tá, ở cõi An Dưỡng là cận thần rất rõ. Nếu xem thường Tịnh độ mà không nguyện vãng sinh là lầm.

5- Kệ Luận Tịnh độ: Bồ-tát Thiên Thân, người Thiên-trúc soạn ra các luận, lên Nội Viện Đâu-suất lễ ngài Di-lặc. Lại soạn Luận về Kinh Vô Lượng Thọ và kệ Tịnh độ năm môn Tu Pháp, khuyên khắp mọi người cầu vãng sinh.

6- Hình Nghi Thỉnh Phật: Chùa Kê-đầu-ma ở Thiên-trúc, Bồ-tát Ngũ Thông dùng thần lực đi đến nước An Lạc gặp Phật A-di-đà thưa rằng: Chúng sinh cõi Ta-bà nguyện sinh Tịnh độ nhưng không có hình ảnh Phật, xin Phật thùy hiện ra cho. Phật bảo ông hãy về trước ta sẽ hiện ra. Bồ-tát Ngũ Thông vừa về thì Thánh Nghi (Hình Phật) đã đến gồm một Phật và năm mươi vị Bồ-tát đều ngồi tòa sen trên lá cây. Bèn vẽ hình lưu hành, thấy trong Cảm Thông truyện.

Khen rằng: Người nghi An Dưỡng không phải Thần lực đến được.

Ôi, một niệm vãng sinh chẳng nhọc phút chốc đâu có lo gì?

7- Soạn Luận Khởi Tín: Bồ-tát Mã Minh, là tổ thứ hai mươi ở Tây Thiên, có soạn Luận Khởi Tín ở phần sau có nói cầu sinh Tịnh độ rất thiết yếu.

8- Long Thọ được thọ ký sinh Cực Lạc-Kinh Lăng-già nói: Này Đại Tuệ! ông nên biết: Sau khi Phật nhập Niết-bàn, ở đời vị lai sẽ có người giữ Pháp ta là Tỳ-kheo Đại Danh Đức, hiệu là Long Thọ có khả năng phá các Tông Hữu Vô, ở thế gian hiển bày Pháp Đại Thừa Vô Thượng của ta, chứng sơ Hoan Hỷ Địa vãng sinh nước An Lạc.

9- Làm các điều lành vãng sinh: Kinh Đại Bi nói: "Phật nói khi ta diệt độ rồi ở các nước Bắc Thiện Trúc có Tỳ-kheo tên là Kỳ-bà-già tu tập vô lượng các loại căn thiện Bồ-đề tối thắng, chết rồi sinh về Tây Phương cách đây trăm nghìn ức thế giới là nước của Phật Vô Lượng Thọ, ở đầy sẽ gieo trồng các căn thiện, sau sẽ thành Phật hiệu là Vô Cấu Quang".

10- Được Nhẫn vãng sinh-Kinh Bồ-tát Sinh Địa chép: "Phật nói: Lúc đó Ma-sai-kiệt được Bất Khởi Pháp Nhẫn, có năm trăm vị Thanh Tín Sĩ, hai mươi lăm Thanh Tín Nữ đều được Địa Bất Thối Chuyển, sau cùng Tất cả đều sinh về nước thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọ".

Khen rằng: Cầu sinh Tây Phương là muốn ngộ Vô sinh Nhẫn lên địa Bất Thối, đã được Nhẫn rồi lại được Bất thối mà còn cầu sinh chỗ vui Bồ-tát gần gũi Như lai. Như thế mà nay phàm phu có đủ triền phược, Nhẫn lực chưa có, duyên lui sụt nhiều vô số, nhưng không khắc tâm Tịnh Độ thì gọi là gì? Đó gọi là hạng thật đáng thương xót.

11- Đại Nguyện thứ hai-Kinh Bồ-tát Nội Giới chép: "Bồ-tát có ba nguyện, nguyện thứ hai là nguyện cho tôi khi chết được sinh về nước Phật A-di-đà.

12- Niệm Phật diệt tội: Luận Đại Trí Độ nói: Có các Bồ-tát tự nghĩ rằng chê bai Đại Bát-nhã thì phải đọa vào đường ác trải qua vô lượng kiếp, tuy tu các hạnh khác nhưng không thể diệt trừ các tội. Sau gặp tri thức dạy cho niệm Phật A-di-đà bèn diệt hết các chướng mà siêu sinh Tịnh độ".

Khen rằng: Dốc lòng niệm Phật một, diệt cấu được tội năng sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Đây là bằng chứng rõ ràng. Vì sao, là vì dốc lòng. Nếu không dốc lòng thì tội không diệt hết, đừng nói là lời Thánh dạy không thật.

13- Thắng Hội nêu Tên: Thiền sư Trường Lô Trách, theo phép tắc để lại của Viễn Tổ (Tuệ Viễn) mà lập Liên Hoa Thắng Hội khuyên khắp niệm Phật. Tối đến mộng thấy một người đội khăn mặc áo trắng, phong mạo đẹp đẽ thanh tú đến và bảo rằng: Muốn vào Thắng Hội Liên Hoa của ông, xin viết một tên. Trách hỏi tên gì, đáp là Phổ Tuệ. Viết xong, người ấy lại hỏi: Anh tôi là Phổ Hiền cũng muốn ghi tên. Trách thức dậy tìm xem trong Kinh Hoa Nghiêm phẩm Ly Thế Gian có tên hai vị Bồtát ấy bèn để tên đứng đầu Hội.

Khen rằng: Phàm Tăng kết Xã mà Thánh xưa ghi tên thì thật Tịnh độ không phải là tiểu duyên. Bởi vì việc làm có chân thành thì ngầm thông đều linh ứng, một khi có dối trá, để người đời ham thích thì chính là kẻ chẳng ra gì, huống là Cổ Thánh ư? Nay gọi là Phật hội mà Trách đã thấy được thì thật là tin tức lớn.

14- Lược nêu các bậc tôn túc:-Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, là đích tử truyền đạo của Mã Tổ, là tòng lâm muôn đời. Ngài có lập Pháp cầu an cho Tăng bệnh và cầu siêu đưa các vị Tăng qua đời về Tịnh độ.

- Thiền sư Hoàng Long Tân, tham học với Giác Lão được ý chỉ bèn nối ghế giảng kinh. Tông Phong của ngài Hoàng Long rất hưng thạnh mà thiết ý Tịnh độ. Ngài có Văn Khuyên Niệm Phật lưu hành ở đời, khiến người phát tín tâm mạnh

- Thiền sư Chân thành yết, nối pháp ngài Đơn Hà Đôn Công xuyên suốt một tông, đến đời Sư thì rất hiển hách. Sau dựng am ở Bổ Đà am tên là Cô Tuyệt, chuyên ý Tây Phương. Sư có soạn Tịnh độ Thuyết, khuyên khắp bốn chúng.

- Thiền sư Từ Thọ Thâm, đắc pháp với ngài Trường Lô Tín, chuyên tâm niệm Phật, bảo là tu hành đường tắt không gì hơn Tịnh độ. Ngài lập Đạo tràng Tây Phương hết lời khuyên chúng, sau ngài đứng mà hoá.

- Pháp sư Thạch Chi Hiểu, nối pháp ngài Nguyệt Đường Tuân Công, thông suốt giáo bộ, lấy Tịnh nghiệp dạy người, có nhóm họp các sách Đại Tạng. Ngài có Lạc Bang Văn loại lưu hành ở đời.

- Thiền sư Tịch Đường Nguyên, học Thiền với ngài Mật Am Kiệt, dốc chí Tam-muội niệm Phật, cảm được Thần Kim Giác từ trời xuống. Mộng thấy hoa sen đỏ từ đất mọc lên, do đó Liên tông rất thịnh hành ở mười châu.

- Thiền sư Trung Phong Bổn, được Pháp với ngài Cao Phong Diệu. Người kính mến như núi cao, như sao Bắc đẩu. Sư có soạn Hoài Tịnh độ Thi một trăm bài, truyền rộng ở đời.

- Ông Vương Dĩ Ninh Đãi Chế, tự xưng là đệ tử Di-đà.

- Ông Triều Duyệt Chi Hàn Lâm trả lời thư của Triệu Tử Ngang khen là Lời chân thật về Tây Phương Tịnh độ.

- Ông Trần Quán Đãi Chế làm Bài Ký về viện Tịnh độ ở chùa Diên Khánh rất khen về niệm Phật.-Ưu Đàm Tông Chủ ở Thiện Pháp đường chùa Đông Lâm ở Lô Sơn có soạn Liên Tông Bảo Giám, vâng chỉ vua khắc bản lưu hành vì muốn trung hưng Tịnh độ.

* Luận chung:

Thiền sư Thiên Như bảo: Người nay chê bai Tịnh độ không phải là khinh thường những người tầm thường mà là khinh thường các ngài Văn-thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, …. Cho nên tôi nhóm họp các kinh để làm thật thuyết ấy. Có người còn nghi Đạo Bồ-tát lớn tựa như đã, không cần phải cầu sinh. Than ôi, nếu không phải ở vị Diệu Giác, dầu vị cao ngang hàng Đại Thánh cũng không thể một ngày lìa Phật, huống chi là kẻ thấp kém ư? Bởi ví như tước càng cao thì càng sâu kín. Nếu anh ta gánh vác cày bừa thì đám ngư tiều sẽ tuyệt vọng. Đối với đấng Cửu Trùng đang hiu hiu tự đắc mà bảo rằng Minh Chủ không đáng gần giữ gìn, thật nực cười thay!

II-CÁC VIỆC CẢM ỨNG LÚC CÒN SỐNG:

1- Quỉ không dám ăn thịt: Khi Phật còn tại thế, có một nước ở gần nước La-sát, quỉ La-sát ăn thịt người rất nhiều. Vua ra quy định rằng từ nay trở đi người trong nước ấn định một ngày nhất định theo thứ lớp nộp thịt, không được giết oan uổng. Có một nhà thờ Phật chỉ sinh một con trai đến phiên nạp thịt. Cha mẹ buồn khóc dặn con dốc lòng niệm Phật, nhờ oai thần Phật mà quỉ không dám gần. Sáng hôm sau đến thấy con vẫn còn sống, bèn mừng rỡ dắt con trở về. Từ đó nạn La-sát mới dứt, người trong nước rất vui mừng.

2- Mộng được thông minh luận giỏi: Nam Nhạc Tuệ Tư Thiền sư, Đời Tùy: tinh tâm thờ Phật, do đó mộng thấy Phật A-di-đà nói Pháp cho nghe. Từ đó bèn thông minh hơn người, biện tài vô ngại.

3- Oán thù xa lánh: Thiều Bưu đời Đường, người ở Trấn Giang lúc còn là học trò, mộng thấy đến một Công Phủ, mọi người gọi là An Phủ Sứ Ty. Bỗng có vị quan hỏi: Ngươi biết vì sao thi chẳng đậu chăng? Bưu đáp không biết. Do đó dẫn Bưu đi về phía trước thấy có một cái chão lớn đang nấu nghêu sò, chúng nói tiếng người kêu tên Bưu. Bưu sợ quá niệm Phật A-di-đà. Mới mở miệng thì con hàu hóa thành chim sẻ vàng bay mất. Sau đó Bưu thi đậu làm quan đến chức An Phủ.

Khen rằng: Vì sát sinh mà chậm được lộc (làm quan), niệm Phật giải bỏ nghiệp oan. Nay học trò cúng tế vật sống để cầu phù hộ ở quỉ thần mà không biết trì niệm hồng danh vạn đức làm cách ấy cũng được giúp đỡ. Nguyện kẻ ba lần hiến Liên thành biết đây là ở bên chảo sắt.

4- Vợ chồng cùng thấy Phật: Cát Tế Chi đời Tống, người ở Câu Dung là con cháu của Trĩ Xuyên. Bỏ việc đời đi học Tiên. Vợ là bà Kỷ một mình tinh thành niệm Phật. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 10 ba, đang còn dệt vải bỗng thấy trên hư không trong sáng, bèn ném con thoi ngước nhìn bốn phía thì thấy ở phương Tây có Phật hiện thân, có cờ phướn lọng báu chiếu sáng che kín như mây, vui mừng bảo rằng kinh nói Phật Vô Lượng Thọ tức là đây chăng? Bèn nhìn Phật đảnh lễ. Tế Chi rất kinh lạ liền đến nơi, họ Kỷ chỉ chỗ Phật, Tế cũng thấy nửa thân Phật, bỗng Phật biến mất. Mây lành năm màu, người trong làng đều thấy. Từ đó nhiều người quy y Phật Pháp.

5- Đuổi quỉ chẳng hiện: Trần Xí, đời Tống, người ở Long Thư, từng giết người. Sau thấy quỉ hiện, Xí sợ quá vội niệm A-di-đà Phật, quỉ không dám đến gần, bèn niệm Phật không ngừng, quỉ bèn không hiện nữa.

Khen rằng: Quỉ đòi mạng, vì sao niệm Phật mà quỉ biến mất? vì công đức oai thần của Phật A-diđà không thể nghĩ bàn. một khi xưng niệm thì quỉ được cứu thoát, nên không hiện nữa lẽ nào chú thuật tầm thường mà đuổi được ư?

6- Tiến bạt cầu siêu vong linh: Trương Kế Tổ, đời Tống, người ở Trấn Giang, rất tin Tây Phương Tịnh độ. Bà mẹ nuôi chết, ông niệm Phật thật nhiều để dâng tặng. Một tối mộng thấy mẹ về tạ rằng: Nhờ anh niệm Phật mà tôi đã được sinh về cõi lành.

7- Thức ngủ được yên: Lưu Trọng Tuệ đời Tống, người ở Trường Hưng thuộc Hồ Châu bị bệnh, đêm nằm mộng sợ hãi. Có người dạy cho niệm Phật, bèn chí thành lớn tiếng niệm một trăm lẻ tám biến. Sau đó đêm ngủ thì thần phách đều yên, từ đó niệm Phật không ngớt.

Khen rằng: Người xưa dụ giấc ngủ là chết ngắn, lời này thật khéo, bởi mộng mị điên đảo giống như sinh tử hôn mê. Khi nào hết ngủ thì thần yên, khi mạng hết thì từ từ sẽ có phần tự do. Đại Sư Thiện Đạo dạy người khi ngủ nên vào quán thật là có lý.

8- Bệnh mắt lại sáng:

Nguyễn Niệm Tam Tẩu đời Tống, là nông dân ở Hoài Ninh, hai mắt sắp mù, thường niệm Phật không ngớt, mắt bèn sáng lại.

9- Lại mắt sáng: Cô gái họ Sài, hai mắt mù, niệm Phật ba năm siêng năng không bỏ, thì hai mắt sáng lại như xưa.

Khen rằng: Ánh sáng của Phật Di-đà vô lượng chiếu sáng khắp các cõi nước mười phương, nếu dốc lòng nhớ nghĩ tưởng niệm, nếu con ngươi không sáng thì mắt tâm sẽ rỗng sáng. Mà thời nay người mù thường thường cầu thầy lên đồng, tạo nghiệp sát. Đó gọi là từ mù đi vào mù, không bao giờ có lúc thấy được mặt trời. Than ôi, làm sao tôi có thể lấy việc này để bảo khắp với tất cả người mù được!

10- Không bị bệnh sốt rét: Lý Tử Thanh đời Tống, bị bệnh sốt rét đã lâu. Cư sĩ Long Thư dạy cách khi sắp phát cơn thì chuyên chí niệm Phật, sau mới uống thuốc. Tử Thanh tin lời làm theo, thì ngày giảm phân nửa. Ngày sau lại niệm thì bệnh lành, từ đó dốc chí tin tưởng niệm Phật.

11- Xá-lợi cùng hiện: Liêm trung Đại Phu ở Cán Châu-đời Tống, cung kính nhờ người thêu hình Phật A-di-đà trượng sáu, mới thêu được nửa thì bỗng có Xá-lợi hiện trong sợi tơ. Cả nhà đều ngạc nhiên khen ngợi.

12- Xá-lợi hiện: Ở Chân Châu, chung Ly Thiếu Sư Phu Nhân là người họ Nhậm, khắc tượng Phật A-di-đà cao bốn tấc tám phân, thờ trong khám thất rất nghiêm ông thường đảnh lễ hành đạo. Bỗng ở giữa hai đầu chân mày của tượng hiện ra Xá-lợi to như hạt gạo, lấp lánh chiếu sáng người.

13- Trị bệnh đều lành: Ở Tú Châu, đời Tống, có một vị Tăng thường niệm Phật A-di-đà trị bệnh cho người. người bệnh xin trị thì bệnh lành rất nhanh. Người trong Châu kính tin như Phật.

14- Bị giam cầm được thoát nạn: Niên hiệu Chí Chánh năm thứ 10 lăm đời Nguyên, vào mùa đông Trương Sĩ Thành tiến đánh Hồ Châu Thừa Tướng Giang Triết ứng chiến, bắt được bốn mươi người giam lại đưa lên quan, đêm ngủ tại chùa Điểu Khoa ở Tây Hồ. Vừa lúc đó, có Thiền sư Đại Du Mưu đi dạo thong thả dưới hành lang. Có người tù nhìn thấy Sư thần quang nhàn nhã trì tụng không ngớt. Do đó thưa rằng: Trưởng Lão cứu con. Sư nói: Ta không thể cứu, chỉ nên chí thành niệm Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn A-di-đà Phật thì sẽ cứu được các ông. Trong đó có ba người tin lời bèn niệm không dứt. Trời sáng phát tù đổi gông cùm thì đến ba người các gông cùm không đủ, chỉ cột bằng dây. Khi xem xét thì biết là lương dân bị giặc bắt theo, bèn thả.

Khen rằng: Trong phẩm Phổ Môn có nói: "Người bị giam cầm gông cùm tay chân bị trói buộc, niệm danh hiệu Quán Âm tự nhiên được giải thoát". Xưa nay người tin tưởng niệm Phật thì được giải thoát người chưa tin việc này thì gông cùm thường thấy. Oai thần của Phật vượt hơn Bồ-tát không biết bao nhiêu lần. Có khi thấy chặt lìa tay chân mà niệm Thích-ca Như lai thì tứ chi mọc lại, cắt chi còn sinh lại huống chi là gông cùm mà không tin ư? Cho nên cố ý nêu ra.

* Luận chung: Pháp môn niệm Phật người ta biết là sau khi chết thì sinh về mà không biết lợi ích lúc đang sống. Cho nên nghe trì chú được linh nghiệm thì liền đổi mà trì chú. Nghe giảng nói được thông minh thì liền đổi sang giảng. Nghe xây cất được Phước báo, nghe lập trai hội thì được duyên người. Cho đến nghe nuôi người thì được sống lâu, các thứ biến đổi thường không dẹp bỏ thì sao được nhất tâm bất loạn mà mong Tịnh nghiệp được thành. Cho nên tôi nhóm họp nêu ra đây để cắt đứt việc kính mến bên ngoài của người đới mà nói rằng việc cầu sinh Tịnh độ vốn vì thành Phật độ sinh, chứ không phải là mưu đồ sự vui sướng cho thân sau, sao lại còn kể lợi và không lợi cho thân hiện đời ư?

* Khuyên khắp làm người ắt tu Tịnh độ: Trong Tịnh độ Hoặc Vấn của ngài Thiên Như chép: "Người tu Thiền thấy người tu Tịnh độ thì chê là những người tầm thường. Đây không phải là chê những người tầm thường mà là chê Văn-thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ". Lời ấy thật thống thiết. Như thế nếu có người chưa tin thì do đây khảo cứ để làm chứng là không luống dối. Kinh Quán Phật Tam-muội, Bồ-tát Văn-thù nói kệ rằng:

Nguyện khi tôi qua đời,
Dứt trừ các chướng ngại,
Thấy mặt Phật Di-đà,
Vãng sinh nước An Lạc.

Trong Phẩm Hạnh Nguyện Kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền có nói kệ rằng:

Nguyện đến tôi lúc sắp qua đời
Dứt trừ tất cả các chướng ngại
Tận mặt thấy Phật A-di-đà
Liền được vãng sinh nước An Lạc.

Trong luận Khởi Tín, Bồ-tát Mã Minh chỉ rõ có Phương Tiện Tối Thắng là Chuyên ý niệm Phật, liền được vãng sinh, không bao giờ lui sụt.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]