TẠP TẠNG
SỐ 2076 - CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC
Sa môn Đạo Nguyên đời Tống-biên soạn
SỐ 2076 - CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC
I. BẢY ĐỨC PHẬT VÀ TỔ SƯ Ở THIÊN TRÚC:
A. Bảy Đức Phật:
1 Phật Tỳ-bà-thi
2 Phật Thi-khí
3 Phật Tỳ-xá-phù
4 Phật Câu-lưu-tôn
5 Phật Câu-na-hàm Mâu-ni
6 Phật Ca-diếp.
7 Phật Thích-ca Mâu-ni
B. Mười lăm vị Tổ ở Thiên Trúc:
(Trong có một Tổ nảy sinh từ lề không ghi chép).
1. Tổ Ma-ha Ca-diếp
2. Tổ A-nan (bàng xuất mạt-điền-để-ca).
3. Tổ Thương Na-Hòa-Tu
4. Tổ Ưu-Ba-cúc-đa
5. Tổ Đề-đa-ca
6. Tổ Di-già-ca
7. Tổ Bà Tu Mật
8. Tổ Phật đà-nan-đề
9. Tổ Phục-đà-mật-đa
10. Tổ Hiếp Tôn giả
11. Tổ Phú-na-dạ-xa
12. Tổ Đại sĩ Mã Minh
13. Tổ Ca-tỳ-ma-la 14. Tổ Đại sĩ Long Thọ.
Phật xưa ra đời lâu xa vô cùng, chẳng thể biết hết số, cho nên chỉ nói trong kiếp Hiền có một ngàn Đức Như lai. Cho đến Đức Thích Ca thì chỉ ghi có bảy Đức Phật. Xét trong kinh Trường A-hàm nói: Bảy Đức Phật năng lực tinh tiến, phát ra ánh sáng diệt tối tăm-Đều ngồi dưới gốc cây, ở đó thành Chánh giác. Lại Mạn-thù-thất-lợi là Tổ sư của bảy Đức Phật. Đại sĩ Kim Hoa Thiện Tuệ lên đỉnh núi Thông hành đạo, cảm được bảy Đức Phật dẫn trước, ngài Duy-ma tiếp sau. Nay chỉ soạn thuật đoạn từ bảy Đức Phật trở đi.
1. Phật Tỳ-bà-thi: (Là Đức Phật thứ 998 trong kiếp Trang nghiêm đời quá khứ).
Kệ rằng:
Thân từ vô tướng mà thọ sinh
Cũng như trong huyễn sinh hình tượng
Người huyễn tâm thức xưa nay không
Tội phước đều không chẳng chỗ trụ.
Kinh Trường A-hàm nói: Khi con người sống lâu tám vạn tuổi thì Đức Phật này ra đời, thuộc dòng Sát-lợi, họ là Câu-lợi-nhã. Cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu-bà-đề, ở thành Bàn-đầu-bà-đề, ngồi dưới gốc cây Ba-ba-la. Nói pháp ba hội, độ người 348.000 (34 vạn 8 ngàn) người. Có hai vị đệ tử thần túc: 1/ Khiên-trà, 2/ Đề-xá. Thị giả là Vô Ưu, con là Phương Ưng.
2. Phật Thi-khí (là Phật thứ 999 ở kiếp Trang Nghiêm) Kệ rằng:
Khởi các pháp lành vốn là huyễn
Tạo các nghiệp ác cũng là huyễn
Thân như đống bọt tâm như gió
Rõ ràng không căn, không thật tánh.
Kinh Trường A-hàm nói: Khi con người thọ bảy vạn tuổi thì Đức Phật này ra đời, thuộc dòng Sát-lợi, họ là Câu-lợi-nhã, cha là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu, ở thành Quang Tướng ngồi dưới gốc cây Phân-đà-lợi, nói pháp ba hội, độ được hai mươi lăm vạn người, có hai vị đệ tử thần túc: 1/ Atỳ-phù. 2/ Bà-Bà. Thị giả là Nhẫn Hạnh, con là Vô Lượng.
3. Phật Tỳ-xá-phù (là Phật thứ một ngàn ở kiếp Trang Nghiêm) Kệ rằng:
Nhờ vào bốn Đại đế làm thân
Tâm vốn không sinh do cảnh có
Nếu trước cảnh không tâm cũng không
Tội phước như huyễn khởi cũng diệt.
Kinh Trường A-hàm nói: Khi con người thọ sáu vạn tuổi thì Đức Phật này ra đời, thuộc dòng Sát-lợi, họ Câu-lợi-nhã, cha là Thiện Đăng, mẹ là Xứng Giới, ở thành Vô Dụ ngồi dưới gốc cây Ba-la, nói pháp hai hội, độ được mười ba vạn người, có hai vị đệ tử thần túc: 1/ Phò Du, 2/ Uất-Đa-ma.
Thị giả là Tịch diệt, con là Diệu Giác.
4. Phật Câu-lưu-tôn (là Đức Phật thứ nhất của kiếp Hiền)
Kệ rằng:
Thấy thân không thật là thân Phật
Hiểu tâm như huyễn là Phật huyễn
Hiểu được thân tâm vốn tánh không
Người này cùng Phật nào có khác.
Kinh Trường A-hàm nói: Khi con người thọ bốn vạn tuổi thì Đức Phật này ra đời, thuộc dòng Bà-la-môn, họ Ca-diếp, cha là Lễ Đắc, mẹ là Thiện Chi, ở thành An Hòa, ngồi dưới gốc cây Thi-lợisa, nói pháp 1 Hội, độ được 4 vạn người, có hai vị đệ tử thần túc: 1/ Tát Ni, 2/ Tỳ-lâu, thị giả là Thiện Giác, con là Thượng Thắng.
5. Phật Câu-na-hàm mâu-ni (là Phật thứ hai ở kiếp Hiền)
Kệ rằng:
Phật chẳng thấy thân biết là Phật
Nếu thật có biết riêng không Phật
Người trí biết được tội tánh không
Thản nhiên chẳng hề sợ sinh tử.
Kinh Trường A-hàm nói: Khi con người thọ ba vạn tuổi thì Đức Phật này ra đời, thuộc dòng Bàla-môn, họ Ca-diếp, cha là Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng, ở thành Thanh Tịnh, ngồi dưới gốc cây Ôtạm Bà-la-môn, nói pháp 1 hội, độ được ba vạn người, có hai vị đệ tử thần túc: 1/ Thư Bàn Na, 2/ Uất-đa-lâu. Thị giả là An Hòa, con là Đạo Sư.
6. Phật Ca-diếp (là Đức Phật thứ 3 ở Kiếp Hiền).
Kệ rằng:
Tất cả chúng sinh tánh thanh tịnh
Từ xưa không sinh không thể diệt
Tức thân tâm này là huyễn sinh
Ở trong huyễn hóa không tội phước.
Kinh Trường A-hàm nói: Khi con người thọ hai vạn tuổi thì Đức Phật này ra đời, thuộc dòng Bàla-môn, họ Ca-diếp, cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ, ở thành Ba-la-nại, ngồi dưới gốc cây Ni-câuluật, nói pháp một Hội, độ được hai vạn người. Có hai vị đệ tử thần túc: 1/ Đề-Xá, 2/ Bà-la-bà, thị giả là Thiện Hữu, con là Tập Quân.
7. Phật Thích-ca Mâu-ni (là Phật thứ tư ở Kiếp hiền)
Thuộc dòng Sát-lợi, cha là Tịnh Phạn Thiên, mẹ là Đại Thanh Tịnh Diệu, ở vị Bổ xứ sinh lên trời Đâu Suất tên là Thắng thiện Thiên Nhân, cũng gọi là Đại sĩ Hộ Minh, độ các chúng trời nói hạnh Bổ xứ, cũng ở trong các cõi ở mười phương mà hiện thân nói pháp.-Kinh Phổ Diệu nói: Phật khi mới sinh ra ở dòng vua Sát-lợi, phát ra ánh sáng Đại trí, chiếu khắp các thế giới ở mười phương. Đất tự nhiên mọc lên hoa sen nâng chân Ngài, Đông Tây Nam Bắc đều đi bảy bước. Đưa tay chỉ trời và đất mà phát ra lời sư tử hống rằng: Trên dưới và 4 hướng không ai lớn bằng Ta. Lúc đó là đời Chu Chiêu Vương năm thứ hai mươi bốn, mồng 8 tháng 4 năm Giáp Dần (nay sửa là rằm tháng 4 hàng năm). Đến ngày 8 tháng 2 năm năm thứ bốn mươi hai, Nam Thái tử mười chín tuổi muốn đi xuất gia mà tự nghĩ rằng: Sẽ gặp gì đây? Bèn ở dạo chơi bốn cửa thành mà thấy 4 việc, tâm có buồn vui mà nghĩ rằng: Già bịnh chết này trọn phải chán lìa. Do đó nửa đêm giờ Tí có một vị trời tên là Tịnh Cư, ở giữa cửa sổ chắp tay thưa với Thái tử rằng: Giờ xuất gia đã đến, nên ra đi. Thái tử nghe xong tâm rất vui mừng, liền vượt thành mà đi, vào trong núi Đàn-đặc mà tu đạo. Đầu Tiên đến chỗ ông A-lam-ca-lam, ba năm học định không chỗ dùng biết là sai liền bỏ. Lại đến chỗ ông Uất-đầu-lam-phất, 3 năm học định Phi Phi Tưởng, biết là không đúng cũng bỏ. Lại đến núi Tượng Đầu (đầu voi) cùng sống với các ngoại đạo ngày ăn vài hạt mè, như thế trải qua sáu năm. Nên kinh nói: Dùng hạnh vô tâm ý vô thọ mà tồi phục các ngoại đạo, trước Tiên trải qua thử nghiệm các tà pháp mà bày các phương tiện phát ra các kiến khiến đến Bồ đề. Cho nên kinh Phổ Tập nói: "Bồ-tát ở ngày mồng 8 tháng 2 vào lúc sao mai mới mọc thành Phật làm thầy trời người". Lúc đó Ngài ba mươi tuổi nhằm đời Chu Mục Vương năm thứ ba đời năm Quý Mùi. Rồi ở vườn Nai vì nhóm năm anh em Kiều-Trần-Như xoay bánh xa pháp bốn Đế mà nói về Đạo quả ở đời nói pháp bốn mươi chín năm. Sau bảo đệ tử là Ma-ha Ca-diếp: Ta dùng Pháp Nhãn Thanh Tịnh Niết-bàn Diệu Tâm Thật Tướng Vô Tướng vi Diệu Chánh Pháp mà trao cho ông. Ông nên giữ gìn và sai A-nan cùng truyền bá giáo hóa không để dứt mất. Mà nói kệ rằng:
Pháp vốn pháp không pháp,
Không pháp pháp cũng pháp
Nay khi trao vô pháp,
Pháp pháp đâu từng pháp.
Khi Thế-tôn nói kệ xong bảo Ca-diếp rằng: Ta đem y Tăng-già-lê sợi vàng mà trao lại cho ông chuyển theo Bổ xứ đến khi Phật Từ Thị ra đời chớ để mất đi Ca-diếp nghe kệ xong bèn đảnh lễ Đức Thế-tôn bạch rằng: Lành thay lành thay, con xin vâng lời Phật dạy. Bấy giờ Thế-tôn đến thành Câuthi-na, bảo các Đại chúng rằng: Nay ta đau lưng muốn nhập Niết-bàn liền đến rừng cây Sa la song thọ bên bờ sông Hy liên nằm nghiêng bên hông phải duỗi chân mà tịch. Lại từ kim quan đứng dậy nói pháp để độ mẹ, và hiện ra đội chân để hóa độ Bà-kỳ cùng nói kệ Vô thường rằng:
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Vắng lặng là vui.
Lúc đó các đệ tử dùng củi thơm mà trà tì Phật đốt lửa xong thì kim quan như cũ. Bấy giờ đại chúng ở trước Phật nói kệ khen rằng:
Lửa phàm tục mạnh mẽ
Nhưng sẽ không đủ nóng
Phải thỉnh lửa Tam-muội
Trà trì thân màu vàng.
Khi ấy kim quan đang nằm bỗng đứng dậy cao bảy cây Đa-la, qua lại trên hư không hóa lửa Tammuội, phút chốc thành tro được tám hộc bốn đấu xá-lợi, nhằm ngày rằm tháng 2 năm Nhâm Thân, tức là đời vua Chu Mục Vương năm thứ năm mươi hai. Từ khi Thế-tôn diệt độ rồi trải qua một ngàn lẻ mười bảy năm thì giáo pháp đến Trung quốc, tức năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 đời Hậu Hán.
1. Tổ Ma-ha Ca-diếp: Người nước Ma-kiệt-đà, dòng Bà-la-môn, cha là Ẩm Trạch, mẹ là Hương Chí, xưa làm nghề thợ bạc (làm vàng) biết rõ tánh vàng nên làm rất đẹp. Phó Pháp Truyện nói: Trong nhiều kiếp lâu xa sau khi Phật Tỳ-bà-thi nhập Niếtbàn bốn chúng xây tháp thờ. Trong tháp có tượng Phật vàng ở mặt có chút hư hỏng, có một cô gái nghèo đem vàng đến người thợ bạc trên nhờ trang sức mặt Phật, rồi nhân đó cùng phát nguyện: Nguyện hai người chúng con làm vợ chồng với nhau không có hôn nhân, do đó mà suốt chín mươi mốt kiếp thân luôn có màu vàng. Sau sinh lên làm Trời phạm. Khi hết phước thì sinh xuống làm người dòng Bà-la-môn ở nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Thiên trúc tên là Ca-diếp-Ba, Hán dịch là Ẩm Quang Thắng Tôn bởi vì lấy màu vàng làm hiệu. Do đó chí cầu xuất gia mong độ chúng hữu tình. Phật nói: Thiện Lai Tỳ-kheo! Tức thì tóc râu tự rụng, ca sa đắp vào mình, ở trong chúng được khen là bậc nhất (người lớn nhất trong chúng sau Phật). Phật nói: Ta đem pháp Nhãn thanh tịnh mà giao lại cho ông, ông nên truyền khắp đừng để mất.-Kinh Niết-bàn nói: Khi Thế-tôn sắp nhập Niếtbàn, lúc đó Ca-diếp không có mặt trong chúng hội. Phật bảo các đệ tử lớn rằng khi Ca-diếp trở về thì bảo ông ấy tuyên dương Chánh Pháp nhãn Tạng. Lúc đó Ca-diếp ở trong hang Tân Bát La tại núi Kỳ-xà-quật thấy có ánh sáng rực rỡ liền vào Tammuội (liền nhập định) dùng Thiên nhãn thanh Tịnh nhìn thấy Đức Thế-tôn ở bên sông Hy-liên đang nhập Niết-bàn. Bèn bảo đồ đệ rằng Như lai đã nhập Niết-bàn, sao sớm thế? Bèn đến rừng Song thọ khóc lóc thảm thiết. Phật ở trong Kim Quang hiện ra hai chân. Khi ấy Ca-diếp bảo các Tỳ-kheo rằng Phật đã trà tỳ, xá-lợi kim cang không phải là việc của chúng ta. Chúng ta nên kết tập pháp nhãn chớ để dứt mất, bèn nói kệ rằng:
Đệ tử Như lai
Chớ nên Niết-bàn
Ai được thần thông
Phải đến kiết tập.
Do đó người có thần thông đều nhóm họp lại hang Tân Bát La trong núi Kỳ-xà-quật ở thành Vương xá. Lúc đó A-nan vì chưa hết lậu nên không được vào hội. Sau đó chứng được quả A-La-hán, vì vậy mới vào được. Ca-diếp bèn bạch chúng rằng: Tỳ-kheo A-nan này học rộng tổng trì, có trí tuệ rộng lớn, luôn theo bên cạnh Như lai phạm hạnh thanh tịnh. Phật pháp đã nghe như nước đổ vào bình chứa đầy không sót. Phật đã khen ngợi là thông minh bậc nhất. Vậy nên thỉnh vị ấy kiết tập tạng Tu-đa-la (kinh). Đại chúng im lặng nhận lời. Ca-diếp bảo A-nan rằng ông nên tuyên nói pháp nhãn. A-nan bèn nhận lời, quán sát tâm chúng mà nói kệ rằng:
Tỳ-kheo các quyến thuộc
Lìa Phật chẳng trang nghiêm
Cũng như trong hư không
Các sao không có trăng.
Nói kệ xong bèn đảnh lễ chúng tăng, rồi lên pháp tòa mà nói như vậy: "Tôi nghe như vậy, thuở nọ Phật ở tại... nơi ấy, nói kinh giáo... ấy... cho đến trời người đảnh lễ vâng làm". Lúc đó Ca-diếp hỏi các Tỳ-kheo rằng: Lời A-nan nói có sai lầm chăng? Chúng đều nói: Không khác lời Thế-tôn nói. Cadiếp bèn bảo A-nan rằng: Nay ta tuổi thọ không còn bao lâu nữa, nay đem Chánh pháp giao lại cho ông, ông nên khéo giữ gìn. Hãy nghe ta nói kệ:
Pháp pháp pháp xưa nay
Không pháp chẳng không pháp
Sao ở trong một pháp
Có pháp có chẳng pháp.
Ca-diếp nói kệ xong bèn đem y Tăng-già-lê vào núi Kê Túc đợi Đức Từ Thị hạ sinh, lúc đó nhằm năm Bính Thìn đời Chu Hiếu Vương năm thứ năm.
2. Tổ A-nan: Người ở thành Vương xá, dòng Sát-đế-lợi, cha là vua Hộc Phạn, là em học của Phật. Tiếng Phạm là A-nan-đà, Hán dịch là Khánh Hỷ, cũng gọi là Hoan Hỷ. Vì sinh vào đêm Như lai thành Đạo, do đó mà đặt tên. Học nhiều hiểu rộng trí tuệ vô ngại. Đức Thế-tôn cho là người Tổng Trì bậc nhất, thường khen ngợi vì ở đời trước có công đức lớn thọ trì Pháp tạng như nước rót từ bình vào bình. Phật khiến làm thị giả. Sau vua A-xà-thế bạch rằng: Thưa nhân giả, Như lai và Ca-diếp hai vị thầy cao quý thù thắng đều đã Niết-bàn mà tôi làm nhiều cách cũng không thể thấy được. Vậy Nhân giả khi nhập Niết-bàn nên nói lời cáo biệt. A-nan nhận lời. Sau đó nghĩ rằng thân mình sớm tan, cũng như đám bọt huống chi lại già yếu đâu thể sống lâu. Lại nghĩ vua A-xà-thế có giao ước với ta, bèn đến cung vua mà cáo từ rằng: Tôi muốn nhập Niết-bàn nên đến đây từ biệt. Kẻ hầu thưa: Vua ngủ không thể thưa A-nan nói: Đợi vua thức dậy sẽ nhắn lại. Lúc đó vua A-xà-thế mộng thấy một cái lọng báu được trang hoàng bằng bảy báu có ngàn vạn ức chúng vây quanh ngắm nhìn. Bỗng gió mưa dữ dội thổi đến làm gãy cán, châu báu chuỗi ngọc đều rơi xuống đất, lòng rất kinh sợ chợt thức dậy. Kẻ hầu liền nhắc lại lời A-nan. Vua kinh hãi khóc than rung động trời đất, tức tốc đến ngay thành Tỳ-xály thì thấy A-nan đang ngồi kiết già giữa dòng sông Hằng. Vua bèn đảnh lễ mà nói kệ rằng:
Kính lạy Thầy Ba cõi
Bỏ tôi mà đến đây
Tạm nương sức bi nguyện
Chớ nên nhập Niết-bàn.
Lúc đó vua Tỳ-xá-ly cũng có mặt bên bờ sông lại nói kệ rằng:
Tôn giả sao sớm thế
Mà về với vắng lặng
Xin nán lại giây phút
Mà nhận lễ cúng dường.
Bấy giờ, A-nan thấy hai vị vua cùng đến khuyên thỉnh, bèn nói kệ rằng:
Hai vua khéo đứng nghiêm
Chớ nên buồn khổ quá
Niết-bàn ta sẽ tịnh
Mà không có các hữu.
A-Nan lại nghĩ: Nếu ta ở một nước mà Niếtbàn thì các nước sẽ tranh giành nhau, sẽ không có việc ấy, vì phải bình đẳng mà độ các hữu tình. Bèn ở giữa sông Hằng mà nhập tịch diệt. Lúc đó núi sông mặt đất phát ra sáu loại chấn động. Trong núi Tuyết có năm trăm vị Tiên thấy việc ấy bèn bay trên hư không mà đến, đảnh lễ A-nan rồi quì xuống bạch rằng: Con ở nơi Trưởng lão sẽ chứng Phật pháp, xin từ bi độ thoát chúng con! A-nan im lặng nhận lời. Bèn biến hóa sông hằng đều thành đất vàng ròng, vì các vị Tiên nói Đại pháp. A-nan lại nghĩ: Các đệ tử được độ thoát từ trước nên đến nhóm họp phút chốc có năm trăm vị A-la-hán từ trên hư không bay xuống vì các Tiên mà làm lễ xuất gia và thọ giới cụ túc. Trong các Tiên ấy có hai vị A-La-hán: 1/ Thương-na-Hòa-tu, 2/ Mạtđiền-để ca. A-nan biết đó là pháp khí, bèn bảo rằng: Xưa Như lai đem Đại pháp nhãn mà trao cho Đại Ca-diếp, Ca-diếp vào định mà trao lại cho ta. Nay ta sắp mất, nên truyền lại cho ông, ông hãy nghe lời ta dạy. Hãy lắng nghe nói kệ.
Xưa nay giao có pháp
Giao rồi nói không pháp
Ai nấy đều tự ngộ
Ngộ rồi không không pháp.
A-nan trao phó Pháp nhãn tạng rồi bay lên hư không thị hiện mười tám thần biến nhập vào Tammuội Phong Phấn Tấn, phân thân làm bốn phần: Một phần đưa lên Trời-đao-lợi, một phần đưa về Long cung Ta-kiệt-la, một phần cho vua Tỳ-xá-ly, một phần giao vua A-xà-thế, tất cả đều xây tháp mà cúng dường, lúc ấy là năm Quý Tỵ đời Chu Lệ Vương năm thứ mười hai.
3. Tổ Thương Na-hòa-tu: Người nước Ma-đột-la cũng gọi là Xá-na-bà-tư họ là Tỳ-xá-đa, cha là Lâm Thắng, mẹ là Kiều-xa-da, ở trong thai sáu năm mới sinh. Tiếng Phạm là Thương-Nặc-Ca, Hán dịch là Tự Nhiên Phục tức là tên gọi loại cỏ chín cành quý đẹp ở Tây Vực. Nếu như bậc Thánh La-hán giáng sinh thì cỏ mọc ra ở đất sạch khi HòA-tu sinh thì cỏ này mọc. Xưa, khi Như lai hành hóa (đi hóa độ) đến nước Ma-đột-la thấy có một khu rừng cành lá sum sê bảo A-nan rằng: Ở khu rừng Ưu Lưu Trà khi ta đã diệt độ 100 năm thì có Tỳ-kheo Thương-na-hòa-tu ở đất này mà xoay bánh xe pháp luân. Sau một trăm năm quả nhiên Hòa-tu sinh ra và xuất gia chứng đạo. Nhận Pháp nhãn của Tôn giả Khánh Hỷ (A-nan) hóa độ hữu tình và nghĩ ở rừng này hàng phục hai Rồng lửa qui thuận Phật giáo. Rồng nhân đó cúng dường đất để lập Phạm cung. Tôn giả hóa duyên đã lâu, nên nghĩ đến việc truyền trao chánh pháp. Bèn tìm đến nước Tra-lợi gặp Ưu-ba-cưu-đa thâu làm đệ tử. Nhân hỏi Cúcđa rằng: Ông bao nhiêu tuổi. Cúc-đa đáp rằng: Con mười bảy tuổi-Sư hỏi: Thân ông mười bảy hay tánh ông mười bảy?-Cúc-đa đáp. Tóc Sư đã bạc. Vậy tóc bạc hay tâm bạc?-Sư đáp: Ta chỉ tóc bạc chứ không phải tâm bạc-Cúc-đa thưa: Thân con mười bảy chứ không phải tánh mười bảy. Hoa Tu biết là pháp khí. Sau ba năm bèn cạo tóc cho ông và truyền giới Cụ túc. Bảo rằng: Xưa Như lai trao Vô thượng pháp nhãn tạng cho Ca-diếp, lần lượt trao cho đến ta. Nay ta giao lại cho ông chớ để dứt mất. Ông nhận lời ta dạy, hãy nghe ta nói kệ:
Chẳng pháp cũng chẳng tâm
Không tâm cũng không pháp.
Khi nói tâm pháp ấy
Pháp ấy chẳng tâm pháp.
Nói kệ xong liền ẩn vào núi tượng bạch ở phía Nam nước Kế Tân. Sau ở trong định (Tam-muội) mà thấy đệ tử Cúc-đa, có năm trăm học trò rất lười biếng, Tôn giả bèn đến đó hiện ra Tam-muội Long phấn tấn để điều phục mà nói kệ rằng:
Thấu suốt không kia đây
Chí Thánh không dài ngắn
Ông dẹp ý khinh mạn
Mau được A-La-hán.
Năm trăm Tỳ-kheo nghe kệ này xong vâng theo giáo thực hành thì đều được vô lậu. Tôn giả liền thị hiện mười tám thần biến, dùng Tam-muội Hỏa quang mà đốt thân. Cúc-đa thu nhặt xá-lợi chôn ở núi Phạm-ca-la, năm trăm vị Tỳ-kheo kia cầm một lá phướn đón đường và xây tháp cúng dường. Đó là năm Ất Mùi đời Chu Tuyên Vương năm thứ hai mươi ba.
4. Tổ Ưu-ba-cúc-đa: Người nước Tra-lợi, cũng gọi là Ưu-ba-quật-đa còn gọi là Ổ-ba-cúc-đa, họ là Thủ Đà, cha là Hiện Ý, mười bảy tuổi xuất gia, hai mươi tuổi chứng quả tùy nơi hành hóa đến nước Ma-đột-la, người được độ rất đông, do đó mà cung ma rúng động. Ma Ba-tuần rất sầu lo bèn dùng hết sức mà phá hại chánh pháp. Tôn giả liền nhập định để xét lý do. Ma Ba-tuần rình rập lén đeo chuỗi anh lạc vào cổ Sư. Khi Tôn giả xuất định liền hóa ba thây người-chó, và rắn thành vòng hoa đẹp dịu dàng khuyến dụ ma Ba-tuần rằng người đã cho ta chuỗi anh lạc rất quý đẹp. Nay ta có tràng hoa xin đáp lại. Ma Ba-tuần vui mừng đeo vào cổ thì liền biến thành ba thây chết giòi bọ sình rã hôi thúi vô cùng. Ma Ba-tuần ghê tởm sợ sệt sầu lo dùng hết sức thần nhưng không phá được, bèn bay lên sáu tầng trời cõi Dục bảo các vị trời, lại cầu Phạm Vương nhờ giải cứu, thì ai nấy đều bảo, đệ tử của Đấng Thập lực đã làm thần biến chúng tôi đều là kẻ phàm lậu (phàm phu hữu lậu) không thể gỡ ra được. Ma Ba-tuần nói vậy biết làm sao. Phạm Vương nói: Ông nên qui tâm với Tôn giả thì sẽ cởi ra được, bèn vì nói kệ khiến hồi hướng rằng:
Nhân đất mà té,
Từ đất mà dậy
Lìa đất cầu dậy,
Không bao giờ được.
Ma Ba-tuần nghe khuyên xong liền trở về lạy Tôn giả khóc lóc xin sám hối. Cúc-đa bảo: Ngươi từ nay trở đi đối với chánh pháp của Như lai còn phá hại chăng? Ma Ba-tuần nói: Con thề trở về với Phật đạo, quyết đoạn dứt bất thiện. Cúc-đa nói: Nếu thế thì người tự nói qui y Tam bảo. Ma Vương chấp tay nói ba lần thì tràng hoa tự tháo ra. Ma rất vui mừng đảnh lễ Tôn giả mà nói kệ rằng:
Lạy Đấng Tam-muội Tôn
Đệ tử Thánh mười lực
Con nay nguyện trở về
Chớ để có yếu kém.
Tôn giả ở đời hóa độ người chứng quả rất nhiều. Mỗi khi độ một người thì lấy một thẻ đặt vào hang núi, hang ấy dài mười tám khuỷu tay, rộng mười hai khuỷu tay thẻ đầy ăm ắp. Cuối cùng có một vị Trưởng giả tên là Hương Chúng, đến lễ Tôn giả chí cầu xuất gia. Tôn giả hỏi rằng: Ông thân xuất gia hay tâm xuất gia-Đáp: Con đến xuất gia không phải là thân tâm. Tôn giả nói: Không phải thân tâm thì ai xuất gia. Đáp: Hễ xuất gia thì lấy Vô ngã làm ngã vì Vô ngã làm ngã nên tâm không sinh diệt, tâm chẳng sinh diệt tức là Thương Đạo, chư Phật cũng thường, tâm không hình tướng, thể nó cũng thế. Tôn giả nói: Ông đã đại ngộ, tâm rất thông suốt phải nương Phật pháp Tăng mà nối thạnh dòng Thánh. Rồi cạo tóc và truyền giới Cụ túc cho, bảo rằng: Cha ông mộng thấy mặt trời vàng mà sinh ra ông nên đặt tên là Đề-đa-ca. Lại bảo Như lai đã đem Đại Pháp nhãn tạng thứ lớp truyền trao cho đến ta. Nay ta trao cho ông, hãy nghe kệ của ta.
Tâm tự tâm xưa nay
Bổn tâm chẳng có pháp
Có pháp có bổn tâm
Chẳng tâm chẳng bổn pháp.
Trao pháp xong bèn bay lên hư không thị hiện mười tám thần biến rồi trở về ngồi kiết già mà tịch. Đa-la lấy thẻ trong nhà để đốt thân mình. Xong thu nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường. Bây giờ là năm Canh Tý đời Chu Bình Vương năm thứ ba mươi mốt.
5. Tổ Đề-đa-ca: Người nước Ma-già-đà. Khi mới sinh thì cha mộng thấy mặt trời vàng từ trong nhà chiếu sáng khắp trời đất, trước có núi lớn các thứ báu trang nghiêm. Trên đỉnh núi có suối phun thành bốn dòng nước. Sau gặp Tôn giả Cúc-đa, bảo rằng: Núi báu là thân ta, suối phun là pháp vô tận, mặt trời từ nhà chiếu ra là tướng ông vào đạo, chiếu sáng trời đất là trí tuệ của ông siêu việt. Tôn giả vốn tên là Hương Chúng Sư nhân đổi tên gọi hiện nay, tiếng Phạm là Đề-đa-ca, Hán dịch là Thông Chân Lượng. Đa-ca nghe Sư nói xong bèn vui mừng hớn hở đọc kệ rằng:
Vòi vọi núi bảy báu
Thường sinh suối trí tuệ
Lại là vị Chân Pháp
Hóa độ các hữu duyên.
Tôn giả Cúc-đa cũng nói kệ rằng:
Pháp ta truyền cho ông,
Sẽ phát trí tuệ lớn.
Trời vàng từ nhà chiếu ra
Chiếu sáng khắp trời đất.
Đề-đa-ca nghe diệu kệ của Sư bèn làm lễ vâng thực hành. Sau đến Trung Ấn-độ, nước ấy có tám ngàn vị Đại Tiên, Di-Già-Ca đứng đầu. Nghe Tôn giả đến thì dẫn chúng ra đảnh lễ, bảo Tôn giả rằng: Xưa đã cùng thầy sinh ở Phạm Thiên. Tôi gặp Tiên A-Tư-đà trao cho pháp Tiên, còn thầy gặp đệ tử Thập lực mà tu tập thiền-na. Do báo này mà phân khác nẻo đã trải qua sáu kiếp. Tôn giả nói chi li nhiều kiếp thật chẳng dối, nay nên bỏ tà mà qui chánh để vào Phật thừa. Di-già-ca nói: Xưa Tiên A-Tư-đà trao pháp cho tôi có ghi rằng: Ông sáu kiếp sau sẽ gặp bạn đồng học được quả vô lậu. Nay cũng gặp không phải là duyên xưa ư? Mong Sư từ bi khiến tôi được quả vô lậu. Tôn giả liền độ cho xuất gia sai Thánh trao giới các vị Tiên khác liền sinh ngã mạn. Tôn giả hiện bày Đại thần thông, do đó đều phát tâm Bồ-đề một lúc xuất gia. Bèn bảo Di-già-ca rằng: Xưa Như lai đem Đại Pháp nhãn tạng trao phó cho Ca-diếp, lần lượt trao đến ta. Nay trao lại cho ông phải giữ gìn, bèn nói kệ rằng:
Thông suốt pháp bổn tâm
Không pháp không chẳng pháp
Ngộ rồi đồng chưa ngộ
Không tâm cũng không pháp.
Nói kệ xong liền bay lên hư không thị hiện mười tám thần biến, Tam-muội Hỏa quang tự đốt thân. Di-già-ca và tám ngàn vị Tỳ-kheo cùng thu nhặt xá-lợi, ở núi Bàn-trà mà xây tháp cúng dường. Đây là năm Kỷ Sửu đời Chu Trang Vương năm thứ bảy.
6. Tổ Di-già-ca: Người ở Trung Ấn-độ. Đã truyền pháp rồi, du hóa đến Bắc Thiên Trúc, thấy trên bức tường thấp có mây lành màu vàng ròng bèn khen rằng: Ở đây có khí Đạo nhân sẽ có Đại sĩ làm người nối dõi dòng pháp. Rồi vào thành, ở giữa chợ thấy có một người tay cầm bình rượu đi ngược lại hỏi: Thầy từ đâu đến muốn đi đâu? Sư nói: Từ tự tâm đến, muốn đến chỗ không. Lại hỏi biết vật gì trong tay tôi chăng? Sư nói: Đây là vật xúc chạm mà mang đồ sạch sẽ. Lại hỏi: Sư còn biết tôi không? Sư nói ta thì chẳng biết, biết thì chẳng phải ta.
Lại bảo: Ông thử nói tên họ, ta sẽ bày bổn nhân sau. Người ấy nói kệ mà đáp: Tôi từ vô lượng kiếp-đến sinh ở nước này-Vốn họ Phả-la-đọa-Tên là Ba-tu-mật. Sư nói: Thầy ta là Đề-đa-ca nói: Thếtôn khi xưa du hóa ở Ấn-độ bảo A-nan rằng: Ở nước này, sau khi ta diệt độ ba trăm năm thì có một vị Thánh họ Phả-la-đọa, tên là Ba-tu-mật sẽ làm Tổ Thiền thứ bảy. Thế-tôn đã thọ ký cho ông, ông nên xuất gia. Người ấy bèn đặt bình rượu xuống lạy Sư rồi đứng một bên mà thưa rằng: Con nghĩ (nhớ) ở kiếp xưa từng làm Đàn-na (thí chủ) cúng cho Như lai nọ một tòa báu, Phật ấy thọ ký cho con rằng: Ông ở kiếp hiền trong pháp Phật Thích Ca mà tuyên dương chí giáo. Nay rất phù hợp với lời thầy ta nói nguyện nên độ thoát. Sư liền cạo tóc và trao giới cụ túc, rồi bảo rằng chánh pháp Nhãn tạng nay đã trao cho ông chớ để mất đi, rồi nói kệ rằng:
Không tâm chẳng thể được
Nói được chẳng gọi pháp
Nếu hiểu tâm chẳng tâm
Mới hiểu tâm tâm Pháp.
Sư nói kệ xong liền vào Tam-muội Sư tử phấn tấn, bay lên hư không cao hơn bảy cây đa-la, rồi trở về chỗ cũ hóa lửa tự đốt mình. Ba-tu-mật bèn thu nhặt linh cốt chứa trong bảy bình báu, lập bảy ngôi tháp mà thờ. Đấy là năm Giáp Thân đời vua Tương Vương năm thứ mười bảy.
7. Tổ Bà Tu Mật: Người nước Bắc Thiên Trúc, họ Phả-la-đọa, thường mặc tịnh y cầm bình rượu đi vào xóm làng ngâm nga hoặc hò hét như người điên. Khi gặp Tôn giả Di-già-ca nói chuyện xưa của Như lai thì liền ném bình rượu đi mà xuất gia. Khi được trao pháp cho bèn đi hành hóa đến nước Ca-ma-la mà làm nhiều Phật sự. Ở trước Pháp tòa bỗng có một người Trí tự xưng ta tên là Phật-Đànan-đề nay luận nghĩa với sư. Sư nói: Nay nhân giả, luận tức chẳng nghĩa, nghĩa thì chẳng luận, nếu định luận nghĩa thì hoàn toàn chẳng phải nghĩa luận. Nan đề biết Sư nghĩa rất cao quý, tâm rất kính phục thưa rằng: Con xin cầu đạo thấm vị cam lộ Tôn giả bèn cạo tọc và truyền giới Cụ túc cho, lại bảo rằng: Chánh pháp Nhãn tạng của Như lai nay ta trao cho ông, ông nên giữ gìn, rồi nói kệ rằng:
Tâm đồng cõi hư không
Bày ra pháp hư không
Khi chứng được hư không
Pháp không phải không trái.
Tôn giả liền nhập Tam-muội từ tâm. Lúc đó Phạm Vương Đế-thích và các chúng trời cùng đến đảnh lễ mà nói kệ rằng:
Các Thánh tổ kiếp hiền
Sẽ có vị thứ bảy
Tôn giả thương xót con
Hãy nói Phật Địa.
Tôn giả xuất Định dạy chúng rằng: Ta được pháp mà vốn không có, nên biết Phật Địa lìa Hữu vô. Nói kệ xong bèn vào Tam-muội mà hiện tướng Niết-bàn. Nan-đề bèn ở chỗ pháp tòa mà xây tháp bảy báu để an táng toàn thân Sư. Bấy giờ là năm Tân Mùi đời vua Chu Định Vương năm thứ mười chín.
8. Tổ Phật đà-Nan-đề: Người nước Ca ma la, họ Cù-đàm, trên đảnh có nhục kế, có tài biện luận lưu loát lanh lợi. Khi gặp Tôn giả Bà-tu-mật thì xuất gia thọ giới cụ túc. Rồi đích thân nhận đệ tử, hành hóa đến nhà Tỳ-xá-la ở thành của nước Đềgià, thấy trên nhà có ánh sáng trắng phát ra, bèn bảo học trò rằng: Nhà này đang có bậc Thánh. Miệng không nói là chân khí Đại thừa, chẳng đi các đường mà biết trược uế. Nói xong, Trưởng giả ra đảnh lễ và hỏi Ngài cần gì. Tôn giả bảo ta cần thị giả. Trưởng giả thưa: Con có một đứa con trai tên là Phục-đà-mật-đa đã năm mươi tuổi, miệng chưa hề nói và chân chưa hề đi đâu. Tôn giả nói: Người con như ông nói đúng là đệ tử ta. Tôn giả trông thấy thì liền đảnh đứng dậy lễ mà nói kệ rằng:
Cha mẹ không phải người thân
Vậy người thân nhất là ai?
Chư Phật không phải Đạo con
Gì là Đạo cao quý nhất?
Tôn giả nói kệ đáp rằng:
Con nói thân và tâm
Cha mẹ không thể sánh
Con làm hợp với Đạo
Tâm chư Phật là đó
Ngoài cầu có tướng Phật
Chẳng hề giống với con
Muốn biết Bổn tâm con
Không họp cũng không lìa.
Phục đà mật đa nghe diệu kệ của Sư liền đi bảy bước. Sư nói: Người này xưa đã từng gặp Phật bi nguyện rộng lớn, nghĩ cha mẹ tình yêu thương khó bỏ cho nên chẳng nói chẳng đi. Lúc đó Trưởng giả cho đi xuất gia Tôn giả liền trao cho Giới cụ túc lại bảo rằng: Nay ta trao chánh pháp Nhãn tạng của Như lai cho ông, ông đừng để mất. Bèn nói kệ rằng:
Hư không chẳng trong ngoài
Tâm pháp cũng như thế
Nếu hiểu rõ hư không
Là thấu lý chân như.
Phục-đà-mật-đa nhận lời phó chúc của Sư bèn nói kệ khen rằng:
Thầy ta là Tổ Thiền
Ở vào vị thứ tám
Pháp hóa vô lượng chúng
Đều đắc A-La-hán.
Khi ấy Tôn giả Phật Đà Nan-đề liền hiện thần biến rồi trở về chỗ cũ ngồi yên thị tịch, chúng xây tháp báu mà chôn toàn thân, đó là năm Bính Dần đời Chu Cảnh Vương năm thứ mười hai.
9. Tổ Phục đà-mật-đa: Người nước Đề-già, họ Tỳ-Xá-La đã được Phật Đà-Nan-Đề phó chúc. Sau đến Trung Ấn-độ hành hóa. Lúc đó có Trưởng giả Hương Cái dắt một đứa bé đến đảnh lễ Tôn giả thưa rằng: Đứa trẻ này ở trong thai sáu năm, do đó đặt tên là Nan Sinh (khó sinh), lại có gặp một vị Tiên bảo đứa trẻ này không phải tầm thường mà sẽ là pháp khí. Nay gặp Tôn giả hãy cho đi xuất gia. Tôn giả liền xuống tóc và trao cho giới cụ túc. Khi Yết ma thì có ánh sáng lành chiếu sáng mà cảm được ba mươi hạt xá-lợi hiện ra trước mắt. Từ đó siêng năng không mỏi mệt. Rồi Sư bảo rằng: Đại Pháp nhãn tạng của Như lai nay trao cho ông, ông nên giữ gìn. Bèn nói kệ rằng:
Chân lý vốn không tên
Do tên bày chân lý
Nhận được pháp chân thật
Chẳng chân cũng chẳng dối.
Tôn giả giao pháp rồi liền vào Tam-muội Diệt tận mà nhập Niết-bàn. Chúng dùng dầu thơm chiên đàn mà trà tỳ thân xác, rồi nhặt xá-lợi xây tháp tại chùa Na-lan-đà. Đó là năm Giáp Dần đời Chu Kính Vương thứ ba mươi lăm.
10. Tổ Hiếp Tôn giả: Người Trung Ấn-độ, xưa tên Nan Sinh, khi Tôn giả sắp sinh, cha mộng thấy có con voi trắng trên lưng có một tòa báu để một hạt ngọc, từ cửa bước vào ánh sáng chiếu khắp mọi người. Khi thức dậy thì sinh ra. Sau gặp Tôn giả Phục Đà thì thường đứng hầu không hề ngủ nghỉ, lưng chẳng dính chiếu, bèn gọi là Hiếp Tôn giả.
Xưa đến nước Hoa Thị nghỉ dưới một gốc cây, tay phải chỉ đất bảo chúng rằng: Đất này hóa thành màu vàng sẽ có Bậc Thánh đến gặp. Nói xong thì biến thành màu vàng. Lúc đó có con một Trưởng giả tên là Phú-na-dạ-xa-chắp tay đứng trước mặt. Tôn giả hỏi ông từ đâu đến? Dạ xa thưa: Tâm con không đến. Tôn giả hỏi ông đang đứng đâu. Thưa rằng tâm con không dừng. Tôn giả hỏi: Ông bất định chăng? Đáp rằng: Chư Phật cũng thế. Tôn giả nói ông không phải là chư Phật thưa rằng: Chư Phật cũng không phải là Tôn giả, do đó kệ rằng:
Đất này biến màu vàng
Dự biết có Thánh đến
Sẽ ngồi cội Bồ đề
Giác Hoa mà được thành.
Dạ Xa lại nói kệ rằng:
Thầy ngồi đất màu vàng
Thường nói nghĩa chân thật
Ánh sáng xoay chiếu con
Khiến vào tam-ma-đế.
Tôn giả biết ý liền độ cho xuất gia và truyền cho giới Cụ túc. Bèn bảo rằng nay trao Đại Pháp nhãn tạng của Như lai cho ông, ông nên giữ gìn, rồi nói kệ:
Chân thể tự nhiên chân
Nhân Chân nói lý có
Hiểu được pháp chân chân
Không đi cũng không dừng.
Tôn giả trao pháp rồi liền hiện thần biến mà nhập vào Niết-bàn, hóa lửa tự đốt. Bốn chúng đều dùng vạt áo mà đựng đầy xá-lợi, tùy nơi mà dựng tháp cúng dường. Bất giờ là năm Kỷ Hợi đời vua Chu Trinh Vương năm thứ hai mươi hai.
11. Tổ Phú-na-dạ-xa: Người nước Hoa Thị, họ Cù đàm cha là Bảo Thân đã được pháp với ngài Hiếp Tôn giả. Liền đến nước Ba-la-nại, có Đại sĩ Mã Minh đón rước mà đảnh lễ. Do đó hỏi rằng: Tôi muốn biết Phật là ai? Sư nói ông muốn biết Phật, không biết chính là Phật. Liền thưa Phật đã là chẳng biết sao biết, làm là phải? Sư nói: Đã chẳng biết Phật làm sao biết chẳng phải? Thưa rằng: Đó là nghĩa cưa cắt. Sư nói đó là nghĩa gỗ. Lại hỏi nghĩa cưa là sao? Thưa: Cùng Sư bình ra. Lại hỏi nghĩa gỗ là sao? Sư nói: Ông bị ta cắt xẻ. Mã Minh bỗng nhiên tỏ ngộ, cúi đầu quy y xin cho cạo tóc xuất gia. Sư gọi chúng bảo rằng Đại sĩ này xưa là vua nước Tỳ-xá-ly, nước ấy có một loại người như ngựa trần truồng. Vua bèn vận dụng năng lực thần biến phân thân làm tằm nên họ có quần áo. Sau vua lại sinh ở Trung Ấn-độ. Người ngựa cảm thương không kêu do đó mà gọi Mã Minh (tiếng ngựa kêu). Như lai ký rằng: Sau khi Ta diệt độ sáu trăm năm sẽ có Hiền giả Mã Minh ở nước Ba-la-nại hàng phục ngoại đạo, độ người vô lượng nối truyền giáo ta nay đã đúng lúc. Liền bảo rằng Đại Pháp nhãn tạng của Như lai nay lại trao cho ông, rồi nói kệ rằng:
Mê ngộ như ẩn hiển
Sáng tối chẳng lìa nhau
Nay giao pháp ẩn hiển
Chẳng một cũng chẳng hai.
Tôn giả giao pháp xong bèn hiện thần biến rồi yên lặng viên tịch. Chúng xây dựng tháp báu để an táng toàn thân, bấy giờ là năm Mậu Tuất đời vua Chu An Vương năm thứ mười bốn.
12. Tổ Mã Minh: Người nước Ba-la-nại cũng gọi là Công Thắng. Vì có các công đức hữu tác vô tác rất cao quý cho nên lấy đó đặt tên. Đã thọ pháp với Tôn giả Dạ-xa, sau ở nước Hoa Thị mà xoay bánh xe Pháp mầu nhiệm. Bỗng có một cụ già nằm lăn ra đất ở trước mặt. Sư bảo chúng rằng: Đây không phải hạng tầm thường mà có tướng lạ. Nói xong thì biến mất. Bỗng từ đất vọt lên một người màu vàng ròng, lại hóa thành cô gái tay phải chỉ Sư mà nói kệ rằng:
Kính lạy bậc Trưởng lão
Nhận được Như lai ký
Nay ở trên đất này
Nói thông đệ nhất nghĩa.
Nói kệ xong thì biến mất. Sư nói: Có ma đến cùng thử sức. Bỗng chốc có mưa gió dữ dội kéo đến trời đất tối đen. Sư nói là tin ma đến ta sẽ dẹp trừ. Rồi chỉ lên hư không hiện ra một rồng vàng lớn bay lượn hiện thần oai rung chuyển núi đồi. Sư ngồi yên để diệt ma sự, trải qua bảy ngày sau đó có một con sâu lớn như con sâu keo ẩn hình dưới chỗ ngồi. Sư cầm lên bảo chúng rằng: Đây là ma biến ra trộm nghe pháp ta. Rồi thả ra khiến đi, ma chẳng thể động đậy. Sư bảo ngươi chỉ cần qui y Tam bảo thì liền được thần thông. Bèn trở lại thân cũ mà đảnh lễ sám hối. Sư hỏi ngươi tên gì quyến thuộc nhiều ít. Thưa rằng: Con tên Ca-Tỳ-Ma-La có ba ngàn quyến thuộc. Sư bảo: Ngươi dùng hết năng lực thần thông biến hóa ra thì ra sao? Ma nói tôi hóa biển lớn là việc nhỏ. Sư hỏi: Ngươi hóa tánh biển được chăng?-Thưa: Thế nào là tánh biển, tôi chưa từng biết. Sư liền vì nói tánh biển rằng: Núi sông đất đại đều y theo đó mà lập ra, Tam-muội Lục Thông do mà phát hiện. Ca-Tỳ-Ma-La nghe lời ấy rồi bèn cùng ba ngàn đệ tử đồng xin xuất gia. Sư gọi năm trăm A-La-hán cùng trao cho Giới cụ túc. Lại bảo rằng: Như lai Đại Pháp nhãn tạng nay lại trao cho ông. Ông hãy lắng nghe kệ:
Ẩn hiển tức bổn pháp
Sáng tối vốn chẳng hai
Nay trao pháp Ngộ liễu
Chẳng lấy cũng chẳng lìa.
Giao pháp xong, Sư liền nhập Tam-muội Long phấn tấn, bay lên hư không như vầng mặt trời, sau đó liền tịch. Bốn chúng chứa toàn thân Sư trong khám báu. Đó là năm Giáp Ngọ đời vua Chu Hiển Vương năm thứ ba mươi bảy.
13. Tổ Ca-tỳ-ma-la: Người nước Hoa Thị, trước là ngoại đạo có ba ngàn đệ tử thông các di luận. Sau đắc pháp với Tôn giả Mã Minh, dắt đồ chúng đến Tây Ấn-độ. Ở đó có Thái tử tên là Vân Tự Tại, kính mến Tôn giả mời về cung cúng dường. Tôn giả nói Như lai có dạy Sa môn không được gần gũi các vua chúa đại thần quyền thế. Thái tử nói: Ở phía Bắc thành nước ta có núi lớn, trong đó có một cái hang đá, sư hãy Thiền tịch trong đó được chăng?-Sư nói được. Rồi vào núi ấy. Di được mấy dặm thì gặp con rắn lớn. Tôn giả đi thẳng không nhìn, bèn bò quanh thân Sư. Sư nhân đó trao cho ba qui y. Rắn lớn nghe xong liền bỏ đi. Tôn giả sắp đến hang đá, thì có một cụ già mặc đồ lụa trắng ra chấp tay chào hỏi. Tôn giả hỏi ông ở đâu, thì đáp: Tôi xưa từng là Tỳ-kheo rất ưa thích vắng lặng. Có một Tỳ-kheo mới học thường đến học hỏi, mà tôi phiền vì hỏi đáp nhiều nên nổi sân, khi chết rồi bị đọa làm rắn, ở trong hang này nay đã ngàn năm, nay gặp Tôn giả lại được nghe giới pháp nên đến tạ ơn. Tôn giả hỏi núi này có ai ở đây. Đáp rằng ở phía Bắc cách đây mười dặm có rừng cây lớn che kín năm trăm rồng lớn, vua cây ấy gọi là Long Thọ, thường nói pháp cho các rồng nghe. Tôi cũng nghe nhận ở đấy. Tôn giả bèn cùng đồ chúng đến đó, Long Thọ ra đón Tôn giả, thưa rằng: Núi sâu vắng vẻ là nơi rồng rắn ẩn mình, Đại Đức Chí Tôn sao nhọc công đến đây? "Sư đáp: Ta không phải Chí tôn, đến đây để hỏi người Hiền. Long Thọ im lặng tự nghĩ rằng: Sư này có được quyết định tánh minh đạo nhãn chăng, là Đại Thánh nối chân thừa chăng? Sư nói: Tâm ý ngươi ta đã biết, chỉ nên xuất gia lo gì ta không phải Thánh. Long Thọ nghe xong liền hối hận tạ lỗi. Tôn giả liền độ cho xuất gia và năm trăm rồng cùng thọ giới cụ túc. Lại bảo Long Thọ rằng: Nay ta đem Đại Pháp nhãn tạng của Như lai mà trao lại cho ông, ông hãy nghe nói kệ:
Pháp không Ẩn không hiển
Nói đó là chân thật
Ngộ pháp Ẩn hiển này
Không ngu cũng không trí.
Trao pháp xong liền hiện thần biến rồi hóa lửa đốt thân. Long Thọ thu nhặt xá-lợi năm màu lập pháp kính thờ. Bấy giờ là năm Nhâm Thìn vào đời Chu Noãn Vương năm thứ bốn mươi mốt.
14. Tổ Long Thọ Tôn giả: Người Tây Thiên Trúc, cũng gọi là Long Thắng. Trước đắc pháp với Tôn giả Tỳ La. Sau đến Nam Ấn-độ, người nước ấy phần nhiều tin phước nghiệp, nghe Tôn giả nói Diệu pháp bèn bảo nhau rằng: Người có phước nghiệp là bậc nhất ở thế gian, chỉ nói tin Phật thì có ai thấy được Tôn giả nói: Các ông muốn thấy Phật tánh thì trước phải dẹp trừ ngã mạn. Người ấy nói Phật tánh lớn hay nhỏ? Tôn giả nói Phật tánh không lớn không nhỏ không rộng không hẹp, không phước không báo không tử không sinh. Người ấy nghe lý cao siêu thì bèn hồi tâm ban đầu. Tôn giả lại ở trên tòa mà hiển bày thân tự tại như vầng trăng tròn đầy, tất cả chúng chỉ nghe pháp âm (tiếng pháp) mà không thấy tướng Sư. Trong chúng ấy có con của một Trưởng giả tên là Ca-nađề bà bảo chúng rằng: Biết tướng này chăng? Chúng nói mắt chưa từng thấy làm sao biết được! Đề bà nói: Đây là Tôn giả hiện thể tướng Phật tánh để chỉ cho chúng ta, làm sao biết được? Vì Tammuội vô tướng, hình dạng như mặt trăng tròn, nghĩa của Phật tánh là rỗng sáng vắng lặng. Nói xong thì tướng vầng trăng sáng liền ẩn mất, trở về bổn tòa như cũ bèn nói kệ rằng:
Thân hiện tướng trăng tròn
Biểu thị Thể chư Phật
Nói pháp không có hình
Để luận không thinh sắc.
Chúng ấy nghe kệ xong thì đốn ngộ Vô sinh, cùng nhau nguyện được xuất gia để cầu giải thoát. Tôn giả liền cạo tóc và khiến các Thánh trao cho giới cụ túc. Nước ấy trước có hơn năm ngàn ngoại đạo, khi làm Đại huyễn thuật thì mọi người đều kính ngưỡng, Tôn giả bèn hóa độ khiến cho qui y Tam bảo. Sư lại soạn bộ luận Đại Trí Độ, luận Trung Quán, luận Thập Nhị Môn lưu truyền ở đời. Sau bảo đệ tử thượng thủ là Ca na đề bà rằng: Đại Pháp nhãn tạng của Như lai nay trao cho ông, hãy nghe ta nói kệ:
Vì nói pháp ẩn hiển
Mới nói lý giải thoát
Đối pháp tâm không chứng
Không giận cũng không mừng.
Trao pháp xong thì vào Tam-muội Nguyệt luân mà hiện nhiều thần biến. Rồi trở về chỗ ngồi mà an nhiên thiền tịch. Ca-na-đề-bà cùng bốn chúng lập tháp báu để chôn toàn thân. Đó là năm Kỷ Sửu, vào đời Tần Thủy Hoàng năm thứ ba mươi lăm.
A. Ba mươi lăm vị Tổ ở Thiên Trúc: (Trong đó 13 vị Tổ thấy có ghi chép, 22 vị Tổ bàng xuất không có ghi chép)
15. Tổ Ca-na-đề-bà
16. Tổ La-hầu-la-đa
17. Tổ Tăng-già-nan-đề
18. Tổ Già-tà-xá-đa
19. Tổ Cưu-ma-la-đa
20. Tổ Xà-dạ-đa
21. Tổ Bà-tu-bàn-đầu
22. Tổ Ma-noa-la
23. Tổ Hạt lặc na
24. Tổ Sư Tử Tôn giả.
- Đạt-ma-đạt (Sư Tử Tôn giả bàng xuất)
- Nhân-đà-la (Đạt-ma-đạt bàng xuất 2 Tổ)
- Cù-la-kỵ-lợi-bà
- Đạt-ma-thi-lợi-đế (Nhân-đà-la-bàng xuất 4 Tổ)
- Na-già-nan-đề
- Phá-lâu-cầu-đa-la.
- Ba-la-bà-đề
- Ba-la-bạt-ma (cù-la-kỵ-lợi-bà bàng xuất 2 Tổ)-Tăng-già-la-xoa.
- Ma-đế-lệ-phệ-la (Đạt-ma-thi-lợi-đế bày bàng xuất 2 Tổ)
- Ha-lợi-bạt-nậu
- Hòa-tu-bàn-đầu (Phá-lầu-cầu-đa-la bàng xuất 3 Tổ)
- Đạt-ma-ha đế
- Chiên-đà-la-đa
- Lặc-na-đa-la (Bà-la-bạt-ma bàng xuất 3 Tổ)
- Bàn-đầu-đa-la
- Tỳ-xá-dã-đa-la (tăng-già-la-xoa bàng xuất 5 Tổ)
- Tỳ-lâu-la-đa-ma
- Tỳ-lật-sô-đa-la
- Ưu-ba-thiện-đà
- Bà-nan-đề-đa
Hai mươi vị Tổ trên đây không có ngữ cú, cho nên không ghi chép.
25. Tổ Bà-xá-Tư-đa
26. Tổ Bất-như-mật-đa
27. Tổ Bát-nhã-đa-la
28. Tổ Bồ-đề-đạt-ma.
***
1. Tổ thứ 15: Ca-na-đề-bà
2. Tổ thứ 16: La-hầu-la-đa
3. Tổ thứ 17: Tăng-già-nan-đề
4. Tổ thứ 18: Già-da-xá-đa
5. Tổ thứ 19: Cưu-ma-la-đa
6. Tổ thứ 20: Xà-dạ-đa
7. Tổ thứ 21: Bà-tu-bàn-đầu
8. Tổ thứ 22: Ma-noa-la
9. Tổ thứ 23: Hạt lặc na
10. Tổ thứ 24: Sư Tử Tôn giả.
11. Tổ thứ 25: Bà-xá-Tư-đa
12. Tổ thứ 26: bất-như-mật-đa
13. Tổ thứ 27: Bát-nhã-đa-la
-Tôn giả Sư tử bàng xuất Đạt-ma-đạt, Đạt-mađạt lưu xuất 2 Tổ:
1. Nhân-đà-la
2. Cù-la-kỵ-lợi-bà
-Nhân-đà-la lưu xuất 4 Tổ:
1. Đạt-ma-thi-lợi-đế
2. Na-già-nan-đề
3. phá-lâu-cầu-đa-la
4. Ba-la-bà-đề.
-Cù-la-kỵ-lợi-bà lưu xuất 2 Tổ:
1. Ba-la-bạt-ma
2. Tăng-già-la-xoa
1. -Đạt-ma-thi-lợi-đế lưu xuất
2. Tổ: ma-đế-lệ-bạt-la
3. Ha-lợi-bạt-mậu.
-Phá-lâu-cầu-đa-la lưu xuất 3 Tổ:
1. Hòa-tu-bàn-đầu
2. Đạt-ma-ha-đế
3. Chiên-đà-la-đa.
-Ba-la-bạt-ma lưu xuất 3 Tổ:
1. Lặc-na-đa-la
2. Bàn-đầu-đa-la
3. Bà-la-bà-đa.
-Tăng-già-la-xoa lưu xuất 5 Tổ:
1. Tỳ-xá-dã-đa-la
2. Tỳ-lâu-la-đa-ma
3. Tỳ-lật-sô-đa-la
4. Ưu-ba-thiện-đà.
5. Bà-nan-đề-đa.
Hai mươi vị Tổ bàng xuất trên đây không có cơ duyên ngữ cú, cho nên không ghi chép.
Tổ 15. Ca-na-đề-bà: Người ở Nam Thiên Trúc, họ Tỳ-xá-la, xưa đã cầu phước nghiệp và thích biện luận. Sau gặp Đại sĩ Long Thọ và các môn đệ. Long Thọ biết là người trí. Trước sai Thị giả đem bát nước đầy đặt trước chỗ ngồi. Tôn giả liền ném một cây kim mà tiến lên vui vẻ khế hội? Long Thọ liền nói pháp cho nghe không đứng dạy khỏi chỗ ngồi mà thấy tướng mặt trăng sáng lòa. Chỉ nghe tiếng mà không thấy thân Tôn giả bảo chúng rằng: Nay điềm lành này là Sư biểu thị Phật tánh nói pháp không phải là thanh sắc. Tôn giả đã đắc pháp, sau đến nước Tỳ-la, ở đó có vị Trưởng giả tên là Phạm Ma Tịnh Đức. Một hôm cây trong vườn sinh ra một lỗ tai lớn như cái nấm, mùi vị rất ngon, chỉ có Trưởng giả và đứa con thứ hai là La-hầu-la-đa lấy ăn. Lấy rồi thì nấm lại lớn lên nữa, các thân thuộc khác đều không trông thấy. Lúc đó Tôn giả biết rõ nhân xưa bèn đến nhà ấy. Trưởng giả hỏi lý do, Tôn giả nói: Nhà ông xưa có cúng dường một Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo này Đạo nhãn chưa sáng, vì thâm lạm của tín thí nên bị quả báo làm tai nấm, nhưng ông và con ông tinh thành cúng dường nên được hưởng nấm ấy, còn những người khác thì không. Lại hỏi Trưởng giả tuổi đã bao nhiêu? Đáp:
Đã bảy mươi chín. Tôn giả bèn nói kệ rằng:
Vào Đạo chẳng thông lý
Làm thân trả nợ người
Ông đến tuổi tám mốt
Cây không sinh nấm nữa.
Trưởng giả nghe kệ càng thêm khen phục. Lại thưa: Đệ tử già yếu chẳng thể thờ phụng Sư, xin cho đứa con thứ hai theo Sư xuất gia. Tôn giả nói: Xưa Như lai có thọ ký cho đứa con này vào năm trăm năm thứ hai sẽ làm Đại giáo chủ, nay gặp đây rất phù hợp với nhân xưa. Bèn cho cạo tóc và thâu làm thị giả. Khi đến thành ba Liên Phất nghe các ngoại đạo tính kế ngăn cản Phật pháp đã lâu. Tôn giả bèn cầm một phướn dài đi thẳng vào giữa chúng của họ. Họ hỏi Tôn giả: Sao ông không tiến tới trước. Tôn giả hỏi lại sao ông chẳng lùi lại sau. Lại nói: Ông giống như kẻ hèn hạ. Tôn giả đáp ông như một người lành. Lại hỏi: Ông hiểu pháp gì. Tôn giả nói: Ông trăm thứ chẳng hiểu. Lại nói tôi muốn được thành Phật. Tôn giả nói: Ta cân nhắc sẽ thành Phật. Lại nói ông không thể được. Tôn giả nói Nguyên đạo thì ta được, còn ông thật không được. Lại nói: Ông đã chẳng được vì sao nói được. Tôn giả nói: Vì ông có ngã do đó mà không được, còn ta Vô ngã cho nên tự sẽ được. Họ luận bàn đã thua, bèn hỏi Sư ông tên gì? Tôn giả nói tôi tên Cana-đề-bà. Xưa họ đã nghe tiếng Sư bèn ăn năn tạ lỗi. Lúc đó trong chúng cũng có nhiều người muốn vặn hỏi Tôn giả dùng biện tài vô ngại mà dẹp hết bèn qui phục. Bèn gọi đệ tử thượng túc là La-HầuLa-Đa mà giao cho Pháp nhãn tạng, nói kệ rằng:
Vốn đối người truyền pháp
Vì nói lý giải thoát
Đối pháp thật không chứng
Không cuối cũng không đầu.
Tôn giả nói kệ xong liền vào Định Phấn Tấn, thân phát ra tám luồng ánh sáng mà qui tịch. Học chúng xây tháp cúng dường. Bấy giờ là năm Canh Thìn đời Tiền Hán Văn Đế năm thứ mười chín.
Tổ 16. La-hầu-la-đa: Người nước Ca-tỳ-la, đi hành hóa đến thành Thất-la-phiệt, có con sông tên là Kim Thủy mùi, vị rất ngon, giữa dòng sông lại hiện ra hình ảnh năm Đức Phật. Tôn giả bảo chúng rằng: Nguồn sông này có năm trăm dặm, có bậc Thánh Tăng Già-nan-đề ở đấy. Phật đã thọ ký một ngàn năm sau sẽ nối Thánh vị. Nói xong thì dẫn các đệ tử ngược dòng sông mà lên. Đến nơi thì thấy Tăng-già-nan-đề đang ngồi yên nhập định Tôn giả cùng chúng theo dõi, qua hai mươi mốt ngày mới xuất định. Tôn giả hỏi: Ông thân định hay tâm định, đáp thân tâm đều định. Tôn giả hỏi thân tâm đều định sao có xuất nhập. Đáp rằng: Tuy có xuất nhập nhưng không mất tướng định. Như vàng ở trong giếng thì thể vàng luôn yên vắng. Tôn giả nói nếu vàng ở trong giếng ra khỏi giếng thì vàng chẳng động tịnh vậy cái gì ra vào. Đáp: Nói vàng động tịnh thì vật gì ra vào, cho vàng ra vào thì vàng không động tịnh. Tôn giả nói: Nếu vàng ở trong giếng mà ra thì là vàng nào, nếu vàng ra khỏi giếng thì là vật gì? Đáp: Nếu vàng ra khỏi giếng thì chẳng phải vàng. Nếu vàng ở giếng ra thì chẳng phải vật. Tôn giả nói nghĩa này không đúng. Đáp rằng: Lý ấy không đúng. Tôn giả nói nghĩa này phải sụp đổ. Đáp rằng: Nghĩa kia chẳng thành. Tôn giả nói: Nghĩa kia không thành mà nghĩa ta thành. Bảo rằng nghĩa tuy thành mà pháp chẳng phải ta. Tôn giả nói nghĩa ta đã thành vì ta Vô ngã. Đáp: Vì ta Vô ngã thì lại thành nghĩa nào?-Tôn giả nói: Vì ta Vô ngã cho nên thành nghĩa ông. Bảo rằng: Này Nhân giả, sư ở Thánh nào mà được Vô ngã? Tôn giả nói: Thầy ta là Ca-Na-Đề-Bà chứng Vô ngã ấy. Đáp rằng: Cúi lạy thầy Đề-Bà mà sinh ra nhân quả. Nhân quả và Vô ngã, ta muốn làm Thầy nhân quả Tôn giả nói: Tôi đã Vô ngã, ông phải thấy ngã mình. Nếu ông là thầy ta thì biết Ngã chẳng phải ngã của mình. Nan-Đề tâm ý rỗng suốt, liền cầu độ thoát. Tôn giả nói tâm ông tự tại không bị ngã sở buộc ràng. Nói xong liền dùng tay phải đẩy bát vàng lên đến Phạm Cung, lấy cơm thơm mà cúng trai đại chúng Đại chúng bỗng sinh tâm chán ghét. Tôn giả nói đây không phải lỗi của tôi mà do tự nghiệp của quý vị, rồi khiến Tăng-già-nan-đề cùng ngồi ăn. Chúng đều ngờ vực, Tôn giả nói các ông không được ăn đều do đây. Phải biết ngồi với ta là Như lai Ta-La Thọ Vương ở quá khứ vì thương xót chúng sinh mà hiện ra. Các ông cũng ở trong kiếp Trang Nghiêm (quá khứ) đã chứng đến quả thứ ba mà chưa chứng vô lậu (quả A-La-hán). Chúng thưa thần lực thầy tôi rất đáng tin. Họ nói còn Phật ở quá khứ thì rất đáng nghi. Tăng-già-nan-đề biết chúng sinh khinh nhờn bèn nói: Khi Thế-tôn còn ở đời, thế giới bằng phẳng không có gò đồi sông hồ hầm hố khe rãnh, nước đều ngon ngọt, cây cỏ xinh tươi. Cõi nước giàu có chẳng có tám khổ, đều làm 10 thiện. Ở rừng song thọ mà thị hiện vắng lặng đã 800 năm rồi, thì thế giới có gò hầm cây cối khô héo người không có lòng tin tốt chánh niệm kém yếu. Không tin chân như chỉ thích thần lực (thần thông). Nói xong, liền dùng tay phải vạch đất chui xuống đến tầng kim cang mà lấy nước cam lộ rồi dùng bình lưu ly đựng mà đem lên nơi chúng hội. Đại chúng thấy đều rất kính mến đảnh lễ sám hối. Do đó, Tôn giả gọi Tăng-già-nan-đề mà trao phó Pháp Nhãn. Kệ rằng:
Đối pháp thật không chứng
Chẳng lấy cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng có không
Trong ngoài làm sao khởi.
Tôn giả trao phó pháp rồi ngồi yên mà viên tịch. Bốn chúng xây tháp thờ, bấy giờ là năm Mậu Thìn thời Tiền Hán Võ Đế năm thứ hai mươi tám.
Tổ 17. Tăng-già-nan-đề: Người ở thành ThấtLa-Phiệt là con của vua Bảo Trang Nghiêm. Khi mới sinh ra đã biết nói, thường khen Phật sự. Lên bảy tuổi thì chán vui thế gian, dùng kệ thưa cha mẹ rằng:
Kính lạy cha Đại từ
Kính lạy mẹ máu xương
Nay con muốn xuất gia
Rất mong được thương xót.
Cha mẹ cố can ngăn, bèn cả ngày không ăn nên phải cho xuất gia nhưng phải ở tại nhà hiệu là Tăng-già-nan-đề lại mời Sa môn Thiên Lợi Đa làm thầy, suốt mười chín năm không hề mỏi mệt. Tôn giả tự nghĩ thân ở cung vua sao gọi là xuất gia. Một chiều tắt nắng thấy có một con đường bằng phẳng bất giác chầm chậm bước đi khoảng hơn mười dặm thì đến một núi có hang đá, bèn trốn vào đó. Vua cha mất con liền đuổi Thiền-lợi-đa ra khỏi nước, tìm con không biết ở đâu. Qua mười năm, Tôn giả đắc pháp được thọ ký rồi bèn hành hóa đến nước Ma-Đề. Bỗng có làn gió mát thổi vào chúng khiến thân tâm vui vẻ vô cùng, mà chẳng biết ở đâu. Tôn giả nói đây là gió đạo đức, sẽ có bậc Thánh ra đời Đệ tử nối pháp truyền đăng. Nói rong dùng thần lực đem đại chúng đến hang núi. Phút chốc đến một ngọn núi hạ xuống bảo chúng rằng: Trên đảnh núi này có mây tím như cái lọng, bậc Thánh ở đây vậy. Liền cùng đại chúng bồi hồi giây lâu thì thấy nhà trong núi có đứa bé cầm một chiếu gương tròn đến trước Tôn giả. Tôn giả hỏi ngươi mấy tuổi? Thưa một trăm tuổi. Tôn giả hỏi ngươi còn nhỏ sao nói trăm tuổi. Đáp: Con chẳng hiểu lý chánh một trăm năm. Tôn giả nói ngươi là Thiện cơ phải chăng? Đáp Phật nói nếu người sống trăm năm chẳng hiểu cơ chư Phật thì chẳng bằng sống một ngày mà được hiểu rõ Sư nói: Trong tay ngươi, chỉ cái gì đó. Đáp: Gương tròn sáng của chư Phật trong ngoài không dấu vết, Cả hai người cùng thấy tâm nhãn đều giống nhau. Cha mẹ nghe lời con nói đều cho xuất gia. Tôn giả bèn dắt Sư đến hang đá cũ thọ Giới cụ túc xong đặt tên là Già-Da-Xá-Đa. Lúc đó theo gió thổi có tiếng chuông đồng trong điện kêu lãnh lót. Tôn giả hỏi Sư chuông kêu hay gió kêu. Sư nói không phải gió không phải chuông mà tâm con kêu. Tôn giả hỏi tâm là gì? Sư nói đều vắng lặng. Tôn giả nói: Lành thay! lành thay! nối Đạo ta không ông thì còn ai nữa, bèn trao phó pháp, kệ rằng:
Tâm địa vốn vô sinh
Nhân địa từ duyên khởi
Duyên chủng chẳng ngại nhau
Hoa quả cũng như thế.
Tôn giả trao phó pháp rồi tay hữu vịn cây mà hóa. Đại chúng bàn rằng: Tôn giả ở dưới gốc cây mà qui tịch thì là bóng mát của con cháu, bèn đem toàn thân của Tôn giả lên cao nguyên mà lập Tháp. Chúng cố sức khiêng lên không nổi bèn ở dưới gốc cây mà xây tháp. Đó là năm Đinh Mùi, đời Tiền Hán Chiêu Đế năm thứ mười ba thời Tiền Hán vua.
Tổ 18. Già-da-xá-đa: Người nước Ma-đề, họ Uất-đầu-lam, cha là Thiên Cái, mẹ là Phương Thánh. Nằm mộng thấy có vị thần lớn trao cho cái gương mà có thai, bảy ngày sau thì sinh. Cơ thể trong sáng như lưu ly, chưa từng tắm gội tự nhiên thơm sạch. Thuở nhỏ thích nơi yên vắng, nói lời của trẻ phi thường. Một hôm, cầm gương ra gặp Tôn giả Nan-đề mà được độ. Ngài lãnh đồ chúng đến nước Đại Nguyệt Thị, thấy nhà của một Bà-lamôn có khí lạ. Tôn giả sắp vào nhà ấy thì chủ nhà là Cưu Ma-la-Đa hỏi rằng: Là đồ chúng (học trò) của ai?-Đáp: Là đệ tử Phật. Khi nghe hiệu Phật thì tâm thần sửng sốt liền đóng sập cửa lại. Tôn giả gõ cửa rất lâu, La-đa nói" nhà này không có người. Tôn giả hỏi: Đáp không người là ai đó? La-Đa nghe lời ấy thì biết là dị nhân, bèn mở cửa đón vào. Tôn giả nói xưa Thế-tôn ghi nhận là một ngàn năm sau khi ta diệt độ sẽ có một vị Đại sĩ xuất hiện ở nước Nguyệt Thị, nối tiếp làm hưng thạnh dòng Thánh mà giáo hóa. Nay ông gặp ta ắt là dịp đáng mừng này. Do đó Cưu-ma-la-đa phát sinh Túc mạng trí xin xuất gia và thọ giới cụ túc. Trao phó pháp xong, nói kệ rằng:
Có giống có tâm địa
Nhân duyên sinh ra mầm
Đối duyên không ngại nhau
Sẽ sinh sinh không sinh.
Tôn giả trao phó pháp xong liền bay lên hư không hiện 18 thứ thần biến rồi hóa Hỏa quang Tam-muội mà tự đốt thân. Chúng đem xá-lợi xây tháp thờ kính. Đó là năm Mậu Thân đời Tiền Hán
Thánh Đế thứ 20. Tổ 19. Cưu-ma-la-đa: Là con của Bà-la-môn nước Đại Nguyệt Thị. Xưa là người trời Tự Tại thấy Bồ tát Anh Lạc bỗng khởi ái tâm nên đọa sinh lên cõi trời Đao-Lợi. Nghe Kiều-thi-ca nói: Bát nhã ba la mật đa vì pháp thắng nên bay lên trời Phạm Thiên, vì lợi căn nên khéo nói pháp yếu. Các Thiên Tôn vì Đạo Sư mà nối Tổ. Lúc đó đến nước Giáng Nguyệt Thị. Sau đến Trung Thiên Trúc, có Đại sĩ tên là Xà-dạ-ma. Hỏi rằng nhà tôi cha mẹ đều dốc tin Tam bảo nhưng lại bị bệnh lao, hễ có xây cất gì đều không như ý, trong khi người làm Chiên-đà-la ở gần nhà tôi thì thân lại khỏe mạnh, làm việc gì lại họp ý. Vì sao người ấy may, còn tôi xấu thế. Tôn giả nói: Chớ nghi ngờ, vì báo thiện ác có ba thời kỳ. Ở đời thấy có người làm nhân mà bị chết yểu bị tai nạn, làm tốt mà gặp xấu, nên nói không có nhân quả tội phước dối trá. Thật không biết bóng và tiếng vang theo nhau mảy may không sai, dẫu trải qua trăm ngàn muôn kiếp cũng không mất. Khi Xà-Dạ-Đa nghe lời ấy rồi thì cởi mở nghi ngờ. Tôn giả nói ông tuy đã tin ba nghiệp nhưng chưa rõ nghiệp từ hoặc sinh, hoặc nhân thức có, thức y vào bất giác (chẳng biết?), bất giác nương tâm. Tâm vốn thanh tịnh không sinh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn thua, vắng lặng mà sáng suốt. Nếu ông vào pháp môn này sẽ đồng với chư Phật. Tất cả thiện ác hữu vi vô vi đều như mộng huyễn. Xà-Dạ-Đa nghe xong thì hiểu rõ ý chỉ liền phát tuệ xưa mà cầu xuất gia rồi thọ giới cụ túc. Tôn giả bảo, nay lúc thị tịch của ta đã đến, ông nên Đệ tử nối pháp mà truyền giáo.
Bèn trao phó cho Pháp Nhãn, kệ rằng:
Trên tánh vốn không sinh
Đối người cầu mà nói
Đối pháp đã vô đắc?
Sao lo quyết chẳng quyết.
Sư nói đây là diệu âm của Như lai câu thấy tánh thanh tịnh. Ông nên truyền khắp cho người học sau. Nói xong liền ở trên tòa lấy móng tay cào mặt, như hoa sen đỏ nở tròn, phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp bốn chúng mà vào vắng lặng. Xà-DạĐa bèn xây tháp thờ, bấy giờ là năm Nhâm Ngọ đời Tân Thất năm thứ mười bốn.
Tổ 20. Xà-Dạ-Đa: Người nước Bắc Thiên Trúc, trí tuệ sâu rộng, hóa đạo vô lượng. Sau đến thành La Duyệt tuyên dương Đốn giáo. Ở đó có học chúng chỉ ưa chuộng biện luận, người đứng đầu tên là Bà-tu-bàn-đầu, hán dịch là Biến hành. Thường ăn một bữa, không nằm sáu thời lễ Phật, thanh tịnh vô dục mọi người đều theo. Tôn giả sắp muốn độ, trước hỏi chúng ấy rằng: Biến Hành thực hành hạnh đầu-đà tu hành phạm hạnh có được Phật Đạo chăng? Chúng nói thầy tôi rất tinh tiến có gì mà không được. Tôn giả nói thầy ông cách xa với Đạo. Nếu khổ hạnh mà trải trần kiếp thì cũng đều là gốc giả dối. Chúng nói Tôn giả có đức hạnh gì mà chê thầy tôi. Tôn giả nói ta chẳng cầu đạo cũng chẳng điên đảo, ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn, ta chẳng ngồi mãi cũng chẳng biếng lười, ta chẳng ăn một bữa cũng chẳng ăn tạp, ta chẳng biết đủ cũng chẳng tham dục. Tâm không lo sợ, gọi là Đạo Biến Hạnh (Xà-Dạ-Đa) nghe rồi thì phát trí vô lậu mà vui mừng khen ngợi. Tôn giả lại hỏi chúng ấy: Có hiểu lời ta chăng? Tôi sở dĩ tâm cầu Đạo quá tha thiết, vì dây đàn quá căng sẽ đứt nên tôi chẳng khen. Nay khiến trụ vào chỗ An Lạc mà vào trí Phật. Lại bảo Biến Hạnh rằng tôi vừa ở trước chúng mà bài bác nhân quả có được không lo buồn chăng? Đáp: Tôi nhớ 7 kiếp trước đã sinh về nước Thường An Lạc. Sư ở Trí Giả Nguyệt Tịnh mà ký cho ta không bao lâu sẽ chứng quả Tư-đàHàm. Lúc đó có Bồ tát Đại Quang Minh ra đời, ta vì già yếu nên chống gậy đến lễ ra mắt, Sư hét lớn bảo ta trọng con khinh cha sao ngu như thế? Lúc đó tôi tự mình không lỗi gì xin Sư chỉ bảo. Sư nói khi ông lễ Bồ tát Đại Quang Minh thì lấy gậy dựng vào vách và dùng gậy vẽ mặt Phật, do lỗi khinh mạn đó mà mất hai quả. Tôi tự trách ăn năn sám hối, cho đến nay nên nghe các lời ác như gió thoảng như tiếng vang. Huống chi nay được uống cam lồ vô thượng mà lại giận buồn ư? Cúi mong Ngài đại từ bi chỉ dạy cho đạo vi diệu. Tôn giả nói: Ông từ lâu đã trồng các đức, sẽ nối tiếp tông ta.
Hãy nghe kệ ta:
Lời nói hợp Vô sinh
Đồng với tánh pháp giới
Nếu hiểu được như thế
Thông suốt hết sự lý.
Tôn giả trao phó pháp rồi, bèn ngay chỗ ngồi mà an nhiên qui tịch. Trà tỳ xong thu xá-lợi xây tháp kính thờ, bấy giờ là năm Giáp tuất đời Hậu Hán Minh Đế năm thứ mười bảy.
Tổ 21. Bà-Tu-Bàn-Đầu: Người ở thành Laduyệt họ Tỳ-xá khư, cha là Quang Cái,mẹ là Nghiêm Nhất, nhà giàu mà không có con. Cha mẹ đến tháp Phật mà cầu con. Một buổi tối mẹ mộng thấy nuốt hai viên ngọc châu một sáng một tối thức dậy liền có thai. Bảy ngày sau có một vị La Hán tên là Hiền Chúng đến nhà thì Quang Cái thiết lễ, Hiền Chúng ngồi thẳng mà nhận. Nghiêm nhất ra lạy, Hiền Chúng đứng sang một bên thưa rằng: Trả lễ cho pháp thân Đại sĩ. Quang Cái không hiểu lý do bèn lấy một hạt ngọc quỳ xuống dâng lên Hiền Chúng thử thật giả. Hiền Chúng bèn nhận ngọc mà không cảm ơn. Quang Cái không nhịn được bèn hỏi: Ta là trượng phu kính lễ thì không đoái hoài, còn vợ ta tôn đức lại tránh. Hiền Chúng đáp: Tôi nhận ngọc quý thì phước cho ông, còn vợ thì mang
Thánh thai, sinh ra sẽ làm mặt trời trí tuệ cho đời cho nên phải tránh, không phải là trọng người nữ. Hiền Chúng lại nói vợ ông sẽ sinh hai con trai một trẻ tên Bà-tu-bàn-đầu thì tôi kính trọng, còn trẻ kia tên Cô Ni (hán dịch Dã Thước). Xưa Như lai ở núi Tuyết tu đạo, con chim Sô-ni làm tổ trên đỉnh đầu. Khi Phật thành đạo thì sô-ni được quả báo là vua nước Na-đề. Phật thọ ký rằng: Ngươi vào năm trăm thứ hai sẽ sinh vào thành La-Duyệt ở nhà Tỳ-xákhư đồng thai với bậc Thánh. Nay quả chẳng sai. Một tháng sau thì sinh con. Tôn giả Bà-Tu-BànĐầu đến năm mười lăm tuổi thì lễ La-hán Quang độ mà xuất gia, cảm Bồ tát Tỳ-bà-ha cùng trao giới cụ túc. Đi hành hóa đến nước Na đề, vua nước ấy tên là Thường Tự Tại có hai con trai: Một tên là Ma-ha La, đứa kế tên là Ma-noa-la. Vua hỏi Tôn giả rằng: Phong thổ thành La-Duyệt đồng hay khác với ở đây? Tôn giả nói: Cõi ấy từng có ba Đức Phật ra đời, nay vua có hai Sư hóa đạo. Hỏi: Hai Sư ấy là ai? Tôn giả nói: Phật đã thọ ký năm trăm năm thứ hai có một Thần lực Đại sĩ xuất gia nối Thánh, tức là người con thứ của vua Ma-noa-la một, tôi tuy đức mỏng nhưng cũng là người thứ hai. Vua nói nếu thật như lời Tôn giả nói thì nên khiến người con này làm Sa môn. Tôn giả nói: Lành thay Đại vương. Nay vâng theo ý Phật, rồi cùng thọ giới cụ túc, trao pháp kệ rằng:
Bọt huyễn động vô ngại
Vì sao không liễu ngộ
Đạt pháp ở trong đó
Không nay cũng không xưa.
Tôn giả trao pháp xong, liền bay lên cao nửa do tuần đứng sửng, bốn chúng chí thành chiêm ngưỡng kính thỉnh, thì trở lại ngồi kiết già mà tịch. Bèn Trà tỳ, thu xá-lợi, xây tháp phụng thờ. Bấy giờ là năm Đinh Tỵ đời Hậu Hán Thượng Đế năm thứ mười hai.
Tổ 22. Ma-noa-la: Là con vua Thường Tự Tại nước Na-đề, năm ba mươi tuổi gặp Tổ sư Bà-tu cho xuất gia truyền pháp cho. Khi đến Tây Ấn-độ. Vua nước ấy tên là Đắc Độ tức dòng họ Cù-Đàm, qui y Phật thừa siêng năng tinh tiến. Một hôm ở chỗ hành đạo hiên ra 1 tháp nhỏ, muốn đem cúng dường đại chúng nhưng bưng lên không nổi. Vua liền mở Đại hội Phạm hạnh thiền quán, chú thuật ba chúng muốn hỏi chỗ ghi. Lúc đó Tôn giả cũng đến hội ấy, cả ba chúng đều không luận được. Tôn giả bèn vì vua mà nói rộng lý do xây ngôi tháp (vua A-Dục xây tháp này). Nay hiện ra là do phước lực của vua mà có. Vua nghe nói bèn hỏi: Chí Thánh khó gặp, đời vui chẳng lâu, bèn truyền ngôi cho Thái tử mà lạy Tổ đi xuất gia, bảy ngày mà chứng bốn quả. Tôn giả càng an ủi khuyến bảo rằng: Ông ở nước này khéo tự độ người, nay cõi khác có Đại pháp khí, ta sẽ giáo hóa, khiến người ấy được độ. Hỏi rằng: Sư ứng hiện ở mười phương thì động niệm liền đến, thà là mệt nhọc mà đến đây. Tôn giả nói: Đúng. Do đó đốt hương ở xa nói với Tỳ-kheo Hạc-Lặc-Na ở nước Nguyệt Thị rằng: Ông ở nước ấy dạy dỗ Hạc chúng, Đạo quả sắp chứng sẽ tự biết. Lúc đó Hạc-Lặc-Na vì vua nước ấy là Bảo ấn nói kệ Tu-đa-la, bỗng thấy mùi thơm lạ sực nức. Vua hỏi đó là điềm lành gì? Đáp rằng: Đây là Tổ sư MaNoa-La ở Tây Ấn-độ truyền Phật Tâm Ấn sẽ đến, nên trước giáng hiện mùi thơm. Hỏi: Vị Sư này thần lực ra sao? Đáp rằng: Vị Sư này từ xa xưa theo lời Phật ký sẽ ở cõi này mà mở mang rộng khắp. Lúc đó vua cùng Hạc-lặc-na đều ở xa mà đảnh lễ. Tôn giả biết rồi bèn từ giã Tỳ-kheo được độ mà đến nước Nguyệt Thị, nhận cúng dường của vua cùng Hạc-lặc-na-Sau Hạc-lặc-na hỏi Tôn giả rằng: Tôi ở trong rừng đã chín năm có một đệ tử là Long Tử còn nhỏ mà thông minh. Tôi ở ba đời suy tìm mà không biết nguồn gốc. Tôn giả nói người này ở kiếp thứ năm sinh vào nhà Bà-la-môn ở nước Diệu Hỷ từng dùng gỗ chiên đàn mà làm chày đánh chuông ở chùa Phật nên được quả báo thông minh khiến mọi người kính phục. Lại hỏi: Tôi có duyên gì mà cảm được các chim Hạc. Tôn giả đáp: Ông ở kiếp thứ tư làm Tỳ-kheo đến dự hội ở Long cung. Các đệ tử đều muốn đi theo. Ông xét thấy năm trăm người trong chúng không có ai đáng nhận được sự cúng dường cao quý. Lúc đó các con (đệ tử) nói Sư thường nói pháp, đối với ăn bình đẳng thì đối với pháp cũng bình đẳng. Nay đã không thế sao bậc Thánh lại có. Ông liền cho đến dự hội. Từ khi ông chết rồi chuyên sinh các nước khác, còn năm trăm đệ tử kia vì phước đức yếu kém nên phải sinh làm chim hạc. Nay cảm ân tuệ ông nên các chim hạc đều theo. Hạc-lặc-na nghe xong liền hỏi: Dùng phương tiện gì để khiến chúng được giải thoát? Tôn giả nói: Ta có Vô thượng pháp bảo, ông sẽ thọ hóa ở vị lai mà nói kệ rằng:
Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật sâu kín
Tùy lưu nhân được tánh
Không mừng lại không lo.
Lúc đó các chim hạc nghe kệ xong liền bay lên kêu vang mà đi. Tôn giả ngồi kiết già, an nhiên thị tịch. Hạc-lặc-na và vua Bảo Ấn xây tháp thờ. Bấy giờ là năm Ất tỵ đời Hậu Hán Hoàn Đế, năm thứ mười chín.
Tổ 23. Hạc-lặc-na: (Lặc Na là tiếng Phạm, còn Hạc là tiếng Hoa. Vì Tôn giả khi ra đời thường cảm đàn chim hạc mến thương nên lấy đó đặt tên), là người nước Nguyệt Thị thuộc dòng Bà-la-môn, cha là Thiên Thắng, mẹ là Kim Quang, vì không có con nên cầu con với bảy Đức Phật. Kim Quang mộng thấy trên đỉnh núi Tu di có một thần đồng cầm một vòng vàng bảo ta sẽ đến. Thức dậy liền có thai. Năm bảy tuổi thì du hành đến xóm làng, thấy dân gian cúng tế dân thần bèn vào miếu mắng rằng: Các ông tùy tiện bày ra họa phục để mê hoặc người giết hại sinh vật để cúng tế quá nhiều. Nói xong thì miếu mạo bỗng nhiên sụp đổ. Do đó dân làng gọi là con Thánh Tử. Năm hai mươi hai tuổi thì xuất gia. Năm ba mươi tuổi gặp Tôn giả Manoa-la mà được trao phó Pháp Nhãn, đi hành hóa đến Trung Ấn-độ. Vua nước ấy tên là Vô Úy Hải kính tin Phật Đạo, Tôn giả nói cho nghe chánh pháp. Sau đó vua bỗng thấy có hai người mặc áo đỏ-trắng lễ lạy Tôn giả. Vua hỏi đó là ai? Đáp: Ấy là Nhật Nguyệt Thiên Tử. Tôi xưa từng nói pháp cho họ nghe nên nay đến lễ bái, lát sau liền biến mất chỉ còn nghe mùi thơm lạ. Vua hỏi nước Nhật Nguyệt có nhiều ít. Tôn giả nói: Một ngàn thế giới mà Phật Thích Ca giáo hóa thì đều có trăm ức núi Mê lô Nhật Nguyệt. Nếu rộng nói thì chẳng thể hết. Vua nghe nói thì vui mừng. Bấy giờ Tôn giả diễn nói: Đạo vô thượng độ chúng có duyên vì Thượng Túc Long Tử mất sớm có anh là Sư Tử làu thông kinh sách ký sự của Bà-la-môn. Thầy ấy mất rồi, em cũng mất, bèn qui y Tôn giả mà hỏi rằng: Tôi muốn cầu Đạo phải dụng tâm như thế nào? Tôn giả nói: Ông muốn cầu đạo thì không có chỗ dụng tâm nào cả. Bèn hỏi: Đã không dụng tâm thì ai làm Phật sự. Tôn giả nói: Nếu ông có dùng thì không có công đức, nếu ông không làm thì tức là Phật sự.
Tức kinh nói: Công đức ta làm mà không có của ta (làm công đức mà không có cái ta làm) Sư Tử nghe lời ấy rồi liền nhập tuệ Phật Tôn giả bỗng chỉ hướng Đông Bắc hỏi rằng: Cái gì là khí tượng? Sư Tử nói: Con thấy khí tượng như cái cầu vồng trắng xuyên qua trời đất. Lại có năm lằn khí đen vắt ngang qua đó. Tôn giả nói ấy là điềm gì? Đáp: Thật chẳng thể biết. Tôn giả nói: Ta diệt độ rồi thì năm mươi năm ở nước Bắc Thiên Trúc sẽ có nạn dấy lên mà hại đến thân con. Ta sắp mất, nay đem Pháp Nhãn trao phó cho con nên khéo giữ gìn. Bèn nói kệ rằng:
Khi nhẫn được tâm tánh
Ấy là không nghĩ bàn,
Rõ ràng không thật có
Lúc được chẳng nói biết.
Tỳ-kheo Sư Tử nghe kệ xong thì rất vui mừng nhưng chưa hiểu sắp tới là nạn gì mà Tôn giả bèn ngầm chỉ. Nói xong liền hiện mười tám thân biến mà viên tịch. Làm lễ Trà-tỳ xong phân chia xá-lợi ai nấy đều muốn xây tháp kính thờ, thì Tôn giả lại hiện trên hư không mà nói kệ rằng:
Một pháp tất cả pháp
Tất cả, một pháp nhiếp
Thân ta chẳng có không
Sao chia tất cả pháp.
Đại chúng nghe bài kệ thì không phân chia nữa, ngay nơi trà-tỳ mà dựng tháp phụng thờ. Bấy giờ là năm Kỷ Sửu Hiến Đế, đời Hậu Hán vua đời năm thứ hai mươi.
Tổ 24. Tỳ-kheo Sư Tử: Người ở Trung Ấn-độ thuộc dòng Bà-la-môn. Đắc pháp rồi thì du phương đến nước Kế-Tân. Có Ba-lợi-ca vốn quen Thiền quán cho nên có Thiền định mà biết trong năm chúng người nào chấp tướng, xã tướng mà không nói. Tôn giả hỏi để hóa giải thì bốn chúng đều làm thinh tâm phục. Chỉ có Sư Thiền định ĐạtMa-Đạt, nghe bốn chúng bị trách mà nổi giận liền đến. Tôn giả hỏi nhân quả tu định vì sao lại đến đây, đã đến đây sao nói tập định? Đáp rằng: Tuy tôi đến đây nhưng tâm cũng không loạn, định tùy người tu, há ở nơi chốn. Tôn giả nói: Nhân quả đã đến thì tập kia cũng đến. Đã không nơi chốn há ở người tập. Đáp rằng: Định tu người chứ không phải người tập định. Tôi tuy đến đây nhưng cùng định vẫn luôn tập. Tôn giả nói: Không phải người tu định mà định tạo người, khi đang đến đây thì định kia ai tu? Đáp rằng: Như hạt ngọc sáng trong ngoài không che lấp. Nếu định thông suốt thì phải như thế. Sư nói nếu định thông suốt thì giống y như ngọc sáng, nay thấy nhân quả không phải là châu. Đáp rằng: Châu ấy trong suốt trong ngoài đều định, tâm tôi không loạn cũng như tịnh này. Sư nói: Châu ấy không trong ngoài nhân quả làm sao có thể định vật dơ mà không lay động định này không phải tịnh ấy. Đạt-ma-đạt được Tôn giả khai thị (chỉ dạy) tâm địa rỗng rang. Tôn giả đã nhiếp năm chúng tiếng đồn gần xa. Bèn tìm người Đệ tử nối pháp. Bỗng gặp một Trưởng giả dắt con đến hỏi Tôn giả rằng: Đứa con này tên là Tư Đa, khi sinh ra tay trái tả nắm lại, nay đã lớn mà vẫn không buông ra. Xin Tôn giả nói nhân xưa. Tôn giả nhìn liền đưa tay nói: Trả lại viên ngọc cho ta. Đứa bé nghe xong liền mở tay dâng ngọc, mọi người đều kinh lạ. Tôn giả nói kiếp trước ta làm Tăng có nuôi đứa bé tên là Bà xá, Ta từng đi Tây Hải chứng trai giao ngọc cho giữ, nay trả lại ta, lý phải như thế. Trưởng giả bèn cho con xuất gia, Tôn giả bèn truyền cho giới cụ túc. Do có duyên đời trước nên gọi Bà-xá-Tư-đa Tôn giả liền bảo: Thầy ta có đoán trước tai nạn sẽ xảy đến không lâu. Chánh Pháp nhãn tạng của Như lai nay đã giao cho ông, ông nên giữ gìn độ khắp người sau. Kệ rằng:
Khi chánh nói tri kiến
Tri kiến đều là tâm
Tâm này tức tri kiến
Tri kiến tức ở đây.
Tôn giả nói kệ xong, lấy y Tăng-già-lê lén trao cho Tư-đa bảo đi nước khác tùy cơ hóa độ. Tư-đa nghe lời dạy liền đến thẳng Nam Thiên. Tôn giả vì nạn không thể tránh nên một mình ở lại nước Kếtân. Lúc đó trong nước có hai ngoại đạo: Một tên là Ma-mục-đa, người kia tên là Đô-lạc-già, học các huyễn pháp muốn mưu loạn, bèn giả hình Sa môn lén vào cung vua. Lại nói việc không thành thì tội qui về con Phật, bèn yêu mị gây họa. Việc bại lộ, vua giận dữ nói: Ta đã qui y Tam bảo, sao lại cấu kết mưu hại ta thế này. Bèn sai phá nát chùa viện đuổi tăng chúng. Lại tự cầm gươm đến chỗ Tôn giả hỏi: Sư có được uẩn không chăng? Tôn giả nói đã được uẩn không vua hỏi có lìa sinh tử chăng. Đáp: Đã lìa sinh tử. Vua nói: Đã lìa sinh tử thì hãy cho ta cái đầu. Tôn giả nói: Thân không phải ta, có tiếc chi cái đầu. Vua liền quơ kiếm chặt đầu Tôn giả, bèn vọt ra một dòng sữa trắng vượt lên cao mấy thước. Cánh tay phải của vua lập tức cũng rơi xuống đất bảy ngày sau thì chết. Thái tử là Quang Thủ than rằng: Vì sao cha ta tự gây họa. Lúc đó có vị tiên ở núi Tượng Bạch hiểu sâu nhân quả, bèn vì Quang Thủ nói rõ nhân xưa mà mở lưới nghi (có nói rõ trong Bảo Lâm Truyện). Rồi đem thi thể của Tôn giả Sư Tử an táng vào tháp báu. Đó là năm Kỷ mão đời Ngụy Tề Vương năm thứ hai mươi.-Tôn giả Sư Tử giao cho Bà-xá-tư-đa Tâm Pháp Tín Y để làm chứng là dòng chánh. Ngoài Đạt-ma-đạt ra bàng xuất gồm bốn đời có hai mươi hai vị Sư khác.
Tổ 25. Bà-xá-tư-đa: Người nước Kế Tân thuộc dòng Bà-la-môn, cha là Tịch Hạnh, mẹ là Thường An Lạc. Khi xưa mẹ mộng được kiếm thần, nhân đó mà có thai. Khi sinh ra thì tay trái nắm lại. Gặp Tôn giả Sư Tử mà hiển rõ nhân xưa ngầm trao Tâm Ấn. Sau đến Nam Thiên vào Trung Ấn-độ. Vua nước ấy tên là Ca Thắng thiết lễ cúng dường. Lúc đó có ngoại đạo hiệu là Vô ngã Tôn. Trước được vua tôn trọng nay Tổ (Tổ Bà-Xá-Tư-đa) đến nên ghen ghét mà đến đòi nghị luận, may mà thắng thì sẽ được vua quý như xưa. Bèn ở trước vua gọi Tổ bảo rằng: Tôi hiểu luận ngầm mà không nhờ nói năng. Tổ nói vậy làm sao biết ai hơn ai thua. Đáp: Không tranh hơn thua chỉ cần lấy nghĩa. Tổ hỏi: Ông lấy gì làm nghĩa? Đáp: Vô tâm làm nghĩa. Tổ nói ông đã vô tâm sao lại được nghĩa. Đáp: Tôi nói vô tâm phải gọi phi nghĩa (chẳng phải nghĩa?). Tổ nói: Ông nói vô tâm phải gọi phi nghĩa. Ta nói phi tâm thì nghĩa ấy phi danh (không tên?). Đáp: Nghĩa ấy không tên thì ai có thể nói nghĩa. Tổ nói: Ông gọi phi nghĩa thì tên này là gì? Vì biện phi nghĩa là tên (gọi) không tên. Tổ nói: Tên đã không phải tên, nghĩa cũng chẳng phải nghĩa thì người biện là ai, đương biện vật gì. Như thế mà đối đáp qua lại năm mươi chín lần. Ngoại đạo bèn nín im mà tin phục. Lúc đó Tổ bỗng xoay mặt về phía Bắc mà chấp tay than rằng: Ôi thầy ta Tôn giả Sư Tử nay gặp nạn đáng thương. Bèn từ giả vua trở về Nam Thiên ẩn vào hang núi. Lúc đó vua nước ấy tên là Thiên Đức đón thỉnh Sư cúng dường. Vua có hai người con trai: Một người hung bạo mà có sức mạnh, người kia hiền lành mà thường đau ốm. Tổ bèn nói rõ nhân quả vua hiểu hết nghi. Lại có thầy chú thuật ganh ghét Tổ, lén bỏ thuốc độc vào cơm. Tổ biết mà vẫn ăn thì người ấy bị họa, bèn xin Tổ đi xuất gia, Tổ liền trao cho Giới cụ túc. Sau sáu mươi năm Thái tử Đắc Thắng lên ngôi. Lại tin ngoại đạo gây nạn cho Tổ. Thái tử Bất-Như-Mật-Đa khuyên can vua mà nên bị vua bắt giam. Vua hỏi Tổ: Nước tôi quét sạch yêu mị dối trá. Chỗ truyền của Sư là Tông gì? Tổ nói nước Ngài thật ra xưa nay không có tà pháp, chỗ tôi được là Phật tông. Vua nói: Phật đã diệt độ một ngàn hai trăm năm rồi, Sư từ ai mà được. Tổ nói Ẩm Quang (Ca-diếp) Đại sĩ được Phật ấn chứng truyền mãi đến đời thứ hai mươi bốn là Tôn giả Sư Tử, tôi từ người ấy mà được. Vua nói tôi nghe nói Tỳ-kheo Sư Tử không tránh khỏi bị giết làm sao có thể truyền pháp cho người sau? Tổ nói: Thầy tôi khi nạn chưa có đã thầm trao cho tôi Tín Y và pháp kệ mà hiển rõ thầy trò. Vua hỏi: Y ấy ở đâu. Tổ bèn lấy y trong đãy ra trình cho vua xem. Vua sai đem đốt thì y ấy năm màu ngời sáng củi cháy hết rồi mà vẫn còn nguyên như cũ. Vua liền làm lễ sám hối Sư Tử. Người Đệ tử nối pháp thật đã rõ. Bèn tha tội cho Thái tử. Thái tử xin xuất gia. Tổ hỏi Thái tử rằng ông muốn xuất gia thì làm việc gì? Đáp: Nếu tôi xuất gia thì không làm việc ấy. Tổ hỏi: Không làm việc gì? Đáp: Không làm việc tục. Tổ nói: Vậy làm việc gì. Đáp: Đều làm Phật sự. Tổ nói Thái tử trí tuệ tự nhiên đến ắt là các Thánh giáng tích. Rồi cho xuất gia, sáu năm hầu hạ. Sau ở cung vua mà yết-ma thọ Giới cụ túc. Đất đai rúng chuyển có rất nhiều điềm lạ. Tổ gọi bảo: Ta đã già yếu làm sao có thể ở lâu. Ông nên khéo giữ gìn Chánh Pháp Nhãn tạng mà độ khắp hữu tình. Kệ rằng:
Bậc Thánh nói tri kiến
Ngay cảnh chẳng phải trái
Nay ta ngô chân tánh
Không đạo cũng không lý.
Bất-như-mật-đa nghe kệ xong lại trình Tổ rằng: Pháp y có thể được truyền trao. Tổ nói: Y này vì nạn nên mượn để chứng minh, thân ông không nạn mượn y ấy làm gì. Hóa đủ thì khắp người mười phương tin nhau cùng đến. Bất-như-mật-đa nghe lời đảnh lễ mà lui. Tổ hiện thần biến và hóa lửa Tam-muội tự thiêu thân. Đất bằng mà xá-lợi cao đến một thước. Vua Đắc Thắng xây tháp thờ. Lúc ấy là năm Ất Dậu đời Đông Tấn Minh Đế niên hiệu Thái Ninh năm thứ ba.
Tổ 26. Bất-như-mật-đa: Là Thái tử con của vua Đắc Thắng ở nước Nam Ấn-độ. Đã đắc pháp xong liền đến Đông Ấn-độ vua nước ấy tên là Kiên Cố, thờ ngoại đạo Trường Trảo Phạm Chí làm thầy. Khi Tôn giả đến thì vua cùng Phạm Chí đồng thấy khí trắng thông trên dưới. Vua hỏi điềm gì thế. Phạm Chí biết trước Tôn giả đã vào nước sợ vua trọng vọng nên đáp đây là điềm ma đến. Bèn nhóm hợp học trò bàn rằng: Bất-Như-Mật-Đa sắp vào thành, ai có thể khuất phục được? Đệ tử nói chúng con đều có chú thuật có thể làm động trời đất vào nước lửa có lo gì. Tôn giả đến cung điện có khí đen bèn bảo: Có nạn nhỏ đây. Rồi thẳng đến chỗ vua. Vua hỏi: Sư đến có việc gì. Đáp: Sắp độ chúng sinh. Hỏi: Dùng pháp nào độ? Tôn giả nói: Đều tùy loại mà độ. Lúc đó Phạm Chí nghe nói thì liền nổi giận bèn dùng huyễn pháp mà hóa ra núi lớn ở trên đảnh Tôn giả. Tôn giả chỉ tay thì núi bỗng ở trên đầu chúng. Phạm Chí sợ hãi đầu hàng. Tôn giả thương chúng ngu mê bèn chỉ tay thì núi biến mất. Bèn vì vua mà giảng nói pháp yếu khiến về với chân thừa. Lại bảo vua rằng: Nước này sẽ có Bậc Thánh nối tiếp. Lúc đó có con của Bà-la-môn đã hai mươi tuổi, sớm mất cha mẹ không biết tên họ hoặc tự nói là Anh Lạc nên gọi là Đồng Tử Anh Lạc đi ăn xin qua ngày giống như Bồ tát Thường Bất Khinh. Người đời hỏi: Ông sao đi gấp thì liền bảo sao ông đi chậm. Có người hỏi họ gì thì đáp một họ với ông. Chẳng biết nguyên cớ thế nào? Sau vua và Tôn giả cùng ngồi xe dạo chơi thì thấy Đồng Tử Anh Lạc đứng phía trước cúi chào. Tôn giả hỏi ngươi nhớ việc xưa chăng thì đáp con nhớ kiếp xa xưa đã ở chung với thầy, Thầy diễn nói Ma-ha Bát Nhã con đổi Tu-đa-la sâu xa. Việc nay hợp với nhân xưa. Tôn giả lại bảo vua rằng: Đứa bé này không ai khác, chính là Bồ tát Đại Thế Chí. Sau Thánh này lại có hai người: Một người giáo hóa ở Nam Ấn-độ, một người hóa duyên ở Chấn Đán (Trung quốc). Trong bốn năm năm lại trở về chốn này. Vì nhân xưa mà gọi là Bát-nhã-đa-la.
Rồi trao phó cho pháp Nhãn Tạng có kệ rằng:
Chân tánh trong tâm địa
Không đầu cũng không đuôi
Ứng duyên mà độ vật
Phương tiện gọi là trí.
Tôn giả phó pháp rồi bèn từ giả vua rằng: Tôi hóa duyên đã trọn, phải trở về vắng lặng, nguyện vua đối với tối thượng thừa không quên ngoại hộ, rồi trở về chỗ cũ ngồi kiết già mà tịch, lại hóa lửa đốt thân. Vua thu xá-lợi xây tháp thờ. Bấy giờ là năm Mậu Tý đời Đông Tấn Hiếu Võ Đế, niên hiệu Thái Nguyên năm thứ ba mươi.
Tổ 27. Bát-nhã-đa-la: Là người Đông Ấn-độ, đã đắc pháp rồi bèn đi hành hóa đến Nam Ấn-độ. Vua nước ấy tên là Hương Chí, kính thờ Phật thừa tôn trọng cúng dường chư tăng, lại thí bảo châu vô giá. Lúc đó vua có ba người con trai người con út là một bậc khai sĩ Tôn giả. muốn thử tài bèn đem việc thí châu mà hỏi ba Vương tử rằng: Ngọc này tròn sáng có cái gì bằng nó chăng? Người con thứ nhất là Mục Tịnh Đa La, người thứ hai Công Đức Đa-la đều nói ngọc này là bậc nhất trong bảy thứ báu chắc chắn không gì hơn, không phải đây là vật báu thế gian chưa đủ để làm bậc nhất ở trong các vật báu thì pháp bảo là bậc nhất. Đây là ánh sáng thế gian sáng thế gian chưa bậc nhất, ở trong các ánh sáng thí trí quang là bậc nhất. Đây là sáng thế gian chưa đủ để làm bậc nhất, ở Tôn giả có Đạo lực thì có ai nhận được. Người con thứ ba là Bồđề-đa-la nói: Trong các sáng thì tâm minh là bậc nhất, ánh sáng của ngọc này không thể tự chiếu mà cần phải nhờ ánh sáng của trí quang, đã nói đây rồi liền biết là ngọc, đã biết là ngọc thì liền làm sáng báu ấy. Nếu làm sáng báu ấy thì báu chẳng tự báu, nếu nói ngọc ấy thì ngọc chẳng tự ngọc. Vì ngọc chẳng tự ngọc thì cần phải nhờ trí châu mà nói châu. Báu chẳng tự báu nên cần phải nhờ trí báu để làm sáng pháp báu. Nhưng Sư có Đạo ấy thì báu kia liền hiện. Chúng sinh có đạo tâm báu cũng như thế. Tôn giả khen biện tuệ, bèn hỏi rằng: Trong các vật thì vật gì không tướng? Đáp: Trong các vật chẳng khởi không tướng. Lại hỏi: Trong các vật thì vật gì cao nhất. Đáp: Trong các vật thì nhân ngã là cao nhất. Lại hỏi: Trong các vật thì vật gì lớn nhất. Đáp: Trong các vật pháp tánh là lớn nhất. Tôn giả biết là người Đệ tử nối pháp vì thời chưa đến nên im lặng mà lẫn lộn. Khi vua Hương Chí lìa đời thì mọi người đều kêu gào nức nở chỉ có người con thứ ba là Bồ Đề Đa La ở trước linh cửu nhập định trải bảy ngày mới xuất định. Bèn xin xuất gia rồi thọ giới cụ túc. Tôn giả bảo rằng: Như lai đem Chánh Pháp Nhãn mà giao cho Ca-diếp như thế lần lượt đến ta. Nay ta giao lại cho ông, ông nghe kệ ta.
Tâm địa sinh các giống
Nhờ sự lại sinh lý
Quả mãn, Bồ-đề viên
Hoa nở, thế giới khởi.
Tôn giả trao phó pháp rồi liền ở trên chỗ ngồi đứng dậy duỗi hai tay đều phát ra hai mươi bảy luồng ánh sáng năm màu rực rỡ sáng lòa. Lại bay lên hư không cao bảy cây Đa-la hóa lửa tự đốt thân trên hư không, xa-lợi như mưa bèn thâu nhặt mà xây tháp thờ, bấy giờ là năm Đinh Dậu đời Tống Hiếu Võ Đế niên hiệu Đại minh năm thứ nhất.
Năm vị Tổ Trung Hoa và bàng xuất các vị Tôn Túc, gồm có 25 vị:
1. Tổ thứ 28: Bồ-đề-đạt-ma
Thiền sư Đạo Dục (Bồ-đề-đạt-đa bàng xuất 3 vị): Thiền sư Đạo Phó Ni Tổng Trì
Ba vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép.
2. Tổ thứ 29: Đại sư Tuệ khả.
- Thiền sư Tăng na (Đại sư Tuệ Khả bàng xuất 7 đời gồm có 17 vị):
- Cư sĩ Hướng
- Thiền sư Tuệ Mãn ở Tương Châu (ba vị trên đây thấy có ghi chép).
- Thiền sư Thiền Định ở Hiện Sơn.
- Thiền sư Bảo Nguyệt
- Cư sĩ Hoa Nhàn
- Đại sĩ Hóa Công
- Hòa công
- Cư sĩ Liêu
- Đàm Thúy (Cư sĩ Hoa nhàn lưu xuất).
- Tuệ Giản ở Diên Lăng (Đàm Thúy lưu xuất 2 vị).
- Tuệ Sai ở Bành Thành
- Tuệ Cương ở Chùa Định lâm
- Đại Giác ở Lục Hợp (Tuệ cương lưu xuất).
- Đàm Anh ở Cao bưu (Đại Giác lưu xuất).
- Minh Luyện ở Thái sơn (Đàm Anh lưu xuất).-Tĩnh Thái ở Dương Châu (Minh Luyện lưu xuất, 14 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ lục, cho nên không ghi chép).
3. Tổ thứ 30: Đại sư Tăng Xán
4. Tổ thứ 31: Đại sư Đạo Tín (bàng xuất 76 vị xem quyển thứ 4).
5. Tổ thứ 32: Đại sư Hoằng Nhẫn (bàng xuất 107 vị xem ở thứ 4).
Tổ 28 (1): BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA: Là con thứ 3 của vua Hương Chí nước Nam Thiên Trúc, dòng Sát-đế-lợi, vốn tên là Bồ-Đề-Đa-La. Sau gặp tổ hai mươi bảy là Bát-Nhã-đa-la đến nước này được vua cúng dường. Biết Sư ẩn kín dấu vết nên nhân đó thử, khiến hai anh bàn về bố thí châu báu mà phát sáng tâm yếu. Được Tôn giả bảo: Ông đối với các pháp đã được thông suốt. Đạt-ma nghĩa là thông đại nên gọi là Đạt-ma, nhân đó đổi hiệu là Bồ-ĐềĐạt-Ma. Sư mới bày tỏ với Tôn giả rằng: Con đã đắc pháp nên đến nước nào mà làm Phật sự xin thầy chỉ bảo. Tôn giả nói: Ông tuy đắc pháp nhưng chưa thể đi xa phải ở Nam Thiên Trúc đợi ta diệt độ sáu mươi bảy năm thì mới sang Chấn Đán (Trung Hoa) mà lập Đại pháp dược tiếp dẫn thẳng bậc thượng căn, chớ nên đi sớm e mau suy tàn. Sư lại hỏi ở đây có Đại sĩ có khả năng làm pháp khí chăng? Sau ngàn năm có chướng ngại không? Tôn giả nói: Chỗ ông hóa độ người được Bồ đề rất đông không thể kể xiết, Ta diệt độ rồi hơn sáu mươi năm thì nước ấy có nạn, văn bày trong nước tự khéo hàng phục. Ông đến thì không nên ở phương Nam. Ở đó chỉ thích công nghiệp hữu vi mà không thấy Phật lý. Ông dẫu có đến đó cũng không thể ở lâu được, hãy nghe kệ ta:
Đường đi nhảy nước lại gặp dê
Riêng tự man mác lén vượt sông
Ngày xuống nên thương đôi voi ngựa,
Hai cây quế đẹp tươi tốt lâu.
Lại nói tám bài kệ đều dự biết Phật giáo thịnh hành và suy tàn (có nói trong Bảo lâm truyện) Sư cung kính nương theo giáo nghĩa lại siêng trợ giúp mọi người suốt bốn mươi năm không hề bỏ sót. Khi Tôn giả viên tịch bèn diễn hóa trong nước ấy. Lúc đó có hai Sư một tên là Phật Đại Tiên, một tên là Phật Đại Thắng Đa vốn cùng Sư đồng học PhậtĐà-bạt-đà về Thiền quán Tiểu thừa. Phật Đại trước đã gặp Tôn giả Bát-nhã Đa-la, bèn bỏ Tiểu thừa theo Đại Tiên cùng Sư mở rộng giáo hóa, lúc đó gọi là hai Cam Lộ Môn. Nhưng Phật Đại Thắng Đa lại rẽ đường mà chia ra sáu Tông: 1/ Hữu tướng tông, 2/ Vô tướng tông, 3/ Định tuệ tông, 4/ Giới hạnh tông, 5/ Vô đắc tông, 6/ Tịch tịnh tông. Đều phong cho mình là hiểu biết riêng nguồn truyền hóa xóm làng hưng thịnh đồ chúng rất đông. Đại sư bùi ngùi than rằng: Sư ấy đã đạp lỗ chân trâu, huống chi lại chi li phồn thạnh mà chia ra sáu tông, nếu ta không dẹp trừ thì mãi bị tà kiến buộc ràng. Nói xong bèn hiện thần lực đến chỗ tông Hữu tướng. Hỏi rằng thế nào là Thật tướng của: Tất cả các pháp. Trong chúng có một người lớn nhất tên là Tát-bà-la đáp rằng. Trong các tướng chẳng có các tướng lẫn nhau đó gọi là thật tướng. Sư nói tất cả các tướng mà không có lẫn nhau nếu gọi thật tướng thì lấy gì mà định? Người ấy đáp: Trong các tướng thật không nhất định, nếu nhất định các tướng thì sao gọi là Thật. Sư nói: Các tướng chẳng nhất định nên gọi là thật tướng, nay ông chẳng nhất định thì làm sao được. Người ấy đáp: Tôi nói bất định mà chẳng nói các tướng. Phải nói các tướng nghĩa nó cũng thế. Sư nói: Ông nói chẳng nhất định phải là thật tướng, mà định đã chẳng nhất định tức không phải là thật tướng. Người ấy nói định đã chẳng định tức chẳng phải thật tướng biết (ngã) chẳng đúng cho nên chẳng nhất định chẳng thay đổi. Sư nói nay ông chẳng đổi sao gọi thật tướng.
Đã đổi đã qua thì nghĩa ấy cũng thế. Người ấy nói: Bất biến thì thường tại vì tại hay chẳng tại cho nên biến thật tướng để định nghĩa nó. Sư nói thật tướng chẳng đổi đổi thì không phải thật, trong có không sao gọi thật tướng được. Trong tâm Tát-Bà-La biết là Thánh sư hiểu sâu xa thông suốt kín đáo. Liền đưa tay chỉ hư không nói rằng: Đây là thế gian có tướng cũng có thể là không thì thân ta đây có giống như thế chăng?-Sư đáp: Nếu hiểu thật tướng liền thấy chẳng phải tướng. Nếu hiểu chẳng phải tướng thì sắc ấy cũng thế, phải ở trong sắc mà không mất sắc thể, ở trong phi tướng mà chẳng ngại có, nếu như thế là hiểu được tên thật tướng này. Chúng ấy nghe xong thì tâm ý rỗng rang bèn kính lễ tin nhận. Trong nháy mắt Sư lại biến mất.
Rồi đến chỗ Vô tướng tông thứ hai, hỏi rằng: Ông nói vô tướng thì lấy gì làm chứng. Trong chúng ấy có người trí tên là Ba-la-đề nói rằng: Tôi nói vô tướng là tâm không hiện ra. Sư nói tâm ông không hiện thì nói cái gì? Người ấy bảo: Tôi nói vô tướng là tâm chẳng lấy bỏ ngay lúc nói cũng là vô thường. Sư nói đối với các tâm có không chẳng lấy bỏ lại là vô thường thì nói đều không. Người ấy nói nhập vào Tam-muội Phật còn không thật có huống chi là vô tướng mà muốn biết. Sư nói tướng đã chẳng biết thì ai nói có không, còn không thật có thì sao gọi là Tam-muội. Người ấy nói: Tôi nói chẳng chứng là chứng không chỗ chứng, chẳng phải Tam-muội nên tôi nói Tam-muội. Sư nói: Không phải Tam-muội sao lại có tên. Ông đã chẳng chứng, chẳng phải chứng làm sao chứng. Ba-la-đề nghe Sư luận rõ liền ngộ bổn tâm, lễ tạ Sư mà sám hối lỗi xưa. Sư ký rằng: Ông sẽ được quả, chẳng bao lâu thì chứng nước này có ma chẳng bao lâu sẽ giáng xuống. Nói xong liền biến mất.
Lại đến chỗ thứ ba là tông Định tuệ, hỏi rằng: Ông học Định Tuệ là một hay hai? Trong chúng ấy có Bà Lan Đà đáp rằng: Định Tuệ của tôi không phải một mà chẳng phải hai. Sư nói đã chẳng phải một, hai sao gọi Định Tuệ? Người ấy đáp: Đối với Định không phải Định, đối với Tuệ không phải Tuệ, một chẳng phải một mà hai cũng chẳng phải hai. Sư nói: Một mà chẳng một, hai mà chẳng hai, đã chẳng phải Định Tuệ thì y cứ Định Tuệ nào? Người ấy đáp: Chẳng một chẳng hai Định Tuệ có thể biết chẳng phải Định chẳng phải Tuệ cũng giống như thế. Sư nói Định chẳng phải Tuệ làm sao biết, chẳng một chẳng phải hai thì thế nào là Định thế nào là Tuệ? Bà-Lan-Đà nghe xong thì tâm nghi dứt mất.
Đến chỗ thứ tư là tông Giới hạnh, hỏi rằng: Thế nào là giới, thế nào là hạnh? giới hạnh này là một hay hai. Trong chúng ấy có 1 người hiền đáp rằng: Một, hai, hai, một đều là kia sinh ra, y giáo không nhiễm thì đó gọi là giới hạnh. Sư nói: Ông nói y giáo tức là có nhiễm, một, hai đều phá, sao nói y giáo? Thứ này trái nhau chẳng kịp với hạnh, trong ngoài chẳng sáng sao gọi là Giới. Người ấy nói tôi có trong ngoài mình người biết hết. Đã được thông suốt thì là giới hạnh. Nếu nói trái nhau thì đều phải đều trái, nói đến thanh tịnh thì tức giới tức hạnh. Sư nói: Đều phải đều trái sao gọi thanh tịnh. Đã được thông suốt sao nói trong ngoài. Người ấy nghe xong rất hổ thẹn qui phục.
Đến chỗ thứ năm là tông Vô đắc hỏi rằng: Ông nói vô đắc, vô đắc làm sao đắc. Đã không sở đắc thì cũng không được cái vô đắc. Trong chúng ấy có Bảo Tịnh đáp rằng: Tôi nói vô đắc là chẳng phải vô đắc mà được phải nói đắc là đắc hay vô đắc là đắc. Sư nói đắc đã chẳng phải đắc cũng chẳng phải không đắc. Đã nói được cái được, được cái được sao được. Người ấy nói thấy được thì không phải được, không phải được là được. Nếu thấy không được thì gọi là được cái được. Sư nói được đã không phải được thì được cái được là không được. Đã không chỗ được thì sao lại được cái được. Bảo Tịnh nghe xong thì liền dứt lưới nghi.
Lại đến chỗ thứ sáu là tông Tịch tịnh, hỏi rằng: Sao gọi là Tịch tịnh, ở trong pháp này ai tịnh ai tịch. Trong chúng ấy có Tôn giả đáp rằng: Tâm này bất động gọi là Tịch, đối với pháp không nhiễm thì gọi là Tịnh. Sư nói: Bổn tâm chẳng tịch cần nhờ tịch tịnh, xưa nay tịch cho nên đâu cần phải Tịch tịnh. Người ấy nói các pháp vốn không vì không mà không cho nên không ấy là không mà gọi là Tịch tịnh. Sư nói không không đã không các pháp cũng thế. Tịch tịnh không tướng thì sao là tịnh sao là tịch. Tôn giả ấy nghe Sư chỉ dạy mà rỗng sáng khai ngộ-Rồi cả sáu chúng điều thề quy y. Do đó mà hóa độ Nam Thiên tiếng tăm lừng lẫy khắp cả năm vùng An độ. Xa gần học giả đều kính mến. Qua sáu mươi năm độ vô lượng chúng. Sau gặp vua Dị Kiến khinh chê Tam bảo thường nói rằng: Tổ Tông ta đều tin Đạo Phật bị rơi vào tà kiến, không sống mãi được mà ngôi vua trị vì cũng ngắn. Lại thân ta là Phật, đâu lại cầu bên ngoài. Thiện ác báo ứng đều do người nhiều trí vọng cấu kết (lập ra) thuyết ấy. Cho đến ở trong nước, các bậc kỳ cựu vua trước kính thờ đều là hạng vụng về bỏ đi-Sư biết rồi thì than thở vua ấy đức mỏng làm sao cứu. Lại nghĩ trong tông vô tướng có hai thủ lãnh, Ba-la-đề có duyên với vua lại sắp chứng quả. Còn người thứ hai là Tông Thắng đều là biện luận rộng mà không có nhân xưa. Lúc đó đồ chúng sáu tông cũng đều nghĩ rằng Phật pháp gặp nạn sao Ngài tự an. Sư xa biết ý chúng liền búng ngón tay, sáu chúng nghe tiếng liền bảo mật lệnh của Đạt-ma thầy ta chúng ta nên mau đến lãnh lệnh. Nói xong liền đến chỗ thầy lễ bái thăm hỏi. Thầy hỏi nay một cái màn che lấp hư không ai có thể vẹt tan. Tông Thắng nói: Con tuy cạn mỏng nhưng xin liều mạng thực hành điều ấy. Sư nói: Ông tuy biện tuệ nhưng đạo lực chưa toàn. Tông Thắng tự nghĩ: Thầy ta sợ ta gặp vua sẽ làm Phật sự lớn, tiếng tăm hiển hách sẽ làm mất uy danh Thầy. Nếu kia là vua Phước Tuệ còn ta là Sa môn lãnh ý chỉ Phật há khó địch lại. Nghĩ xong lén đến chỗ vua nói rộng pháp yếu và các việc thiện ác khổ vui của thế giới trời người. Vua cùng hỏi đáp tranh luận cặn kẻ. Vua hỏi chỗ ông giải thích là pháp nào? Tông Thắng nó: Như vua cai trị phải họp với Đạo, vua có Đạo nào? Vua nói: Ta có Đạo sắp trừ pháp tà, ông có pháp sẽ hàng phục người nào? Sư đang ngồi yên mà biết Tông Thắng đuối lý. Bèn bảo Ba-la-đề rằng: Tông Thắng chẳng nghe lời ta lén hóa độ vua phút chốc sẽ thua, ông mau đến cứu. Ba-la-đề vâng lời thầy nói xin nhờ thần lực của thầy. Nói xong dưới chân nổi mây, liền đến trước vua đứng im không nói. Lúc vua đang hỏi Tông Thắng bỗng thấy Ba-la-đề cỡi mây đến thì ngạc nhiên quên hỏi đáp, bảo rằng: Người cỡi mây kia là chánh hay tà? Đáp rằng: Ta không phải tà chánh mà đến chánh tà. Nếu Tâm vua chánh thì ta không tà chánh. Vua tuy kinh lạ nhưng kiêu mạn hẫy hừng liền đuổi Tông Thắng ra. Ba-la-đề nói: Vua đã có Đạo sao đuổi Sa-môn. Tôi tuy không hiểu nhưng xin vua cứ hỏi. Vua giận mà hỏi rằng: Phật là gì? Đáp: Thấy tánh là Phật. Vua hỏi: Sư có thấy tánh chăng? Đáp: Tôi thấy Phật tánh. Vua hỏi tánh ở đâu? Đáp: Tánh ở tác dụng. Vua hỏi tác dụng nào ta chẳng thấy? Đáp:
Nay thấy tác dụng vua tự chẳng thấy. Vua hỏi ở ta có chăng? Đáp rằng: Nếu vua tác dụng không có chẳng phải, nếu vua không tác dụng thì thể cũng khó thấy. Vua hỏi như khi đang dùng thì mấy chỗ hiện ra? Đáp: Nếu khi xuất hiện thì có tám chỗ. Vua nói tám chỗ xuất hiện phải là ta nói. Ba-la-đề bèn nói kệ rằng:
Ở thai là thân
Ở đời là người
Ở mắt là thấy
Ở tay là nghe
Ở mũi ngửi hương
Ở miệng bàn luận
Ở tay cầm nắm
Ở chân đi chạy.
Biến hiện thì khắp sa giới
Thu lại ở một hạt bụi
Người biết gọi là Phật tánh
Không biết gọi là tinh hồn.
Vua nghe kệ xong thì tâm liền khai ngộ bèn sám hối lỗi xưa mà học hỏi pháp yếu, sớm chiều quên mệt mỏi suốt cả chín tuần. Lúc đó Tông Thắng đã bị đuổi liền ẩn vào rừng sâu, nghĩ rằng nay ta trăm tuổi tám mươi làm quấy, hai mươi năm sau mới về Phật Đạo. Tánh tuy ngu muội nhưng hạnh dứt lỗi lầm. Không chống được nạn thì sống sao bằng chết. Nói xong liền tự nhảy xuống núi. Bỗng có một vị Thần đưa tay nâng lên đặt trên tảng đá lớn bình yên vô sự Tông Thắng nói: Ta thẹn làm Sa-môn đang làm chủ chánh pháp, không có năng lực để trừ diệt điều sai trái của vua, vì vậy bỏ thân tự trách mình, vị Thần nào giúp tôi đến đây xin lên tiếng để cho tôi tiếp tục sống. Do đó vị thần nói kệ rằng:
Thầy sống lâu trăm tuổi
Tám mươi mà tạo lỗi
Để gần với Chí Tôn
Huân tu mà vào Đạo
Tuy có ít trí tuệ
Mà lại nhiều kia đây
Khi thấy các bậc hiền
Không hề sinh cung kính
Hai mươi năm công đức
Tâm ấy chưa yên tĩnh
Thông minh nên khinh mạn
Mà phải đến nỗi này
Bị vua không kính trọng
Mà cảm quả như thế
Từ nay không biếng lười
Chẳng lâu thành người trí
Các Thánh đều giữ tâm
Như lai cũng như thế.
Tông Thắng nghe kệ vui mừng bèn ngồi yên ở đầu ghềnh. Lúc đó vua Dị Kiến lại hỏi Ba-la-đề rằng: Nhân giả trí tuệ biện tài Thầy ông là ai? Đáp: Tôi xuất gia ở chùa Ta-la, Tam tạng Ô-Sa-Bà là Thầy học của tôi, còn thầy xuất thế là Bồ-Đề-ĐạtMa là chú của Đại vương. Vua nghe tên sư kinh hãi giây lâu bảo: Ta nối ngôi vua hèn mọn này mà trái chánh theo tà, quên mất chú ta. Bèn sai quan cận thần đón mời, Sư liền theo sứ mà đến vì vua sám hối lỗi xưa. Vua chí thành than khóc tạ tội với sư. Lại mời Tông Thắng về nước. Đại thần tâu rằng Tông Thắng bị vua khiển trách đã nhảy xuống núi chết rồi. Vua bảo Sư Tông Thắng chết là do trẫm, làm sao Đại từ khiến cho thoát khỏi tội này. Sư nói Tông Thắng đang ẩn tích trong núi, chỉ cần sai sứ mời thì đến. Vua liền sai sứ vào núi quả nhiên thấy Tông Thắng đang ngồi Thiền. Tông Thắng được mời bèn nói rằng: Rất thẹn ý vua, bần đạo thề ở chốn suối rừng mà các bậc hiền đức trong nước vua nhiều như rừng. Đạt-ma là chú vua là thầy của sáu chúng. Ba-la-đề là long tượng trong pháp, mong vua kính thờ hai vị Thánh làm phước cho nước nhà. Sứ về phục mạng. Chưa về đến thì Sư bảo vua rằng: Có mời được Tông Thắng chăng? Vua nói chưa biết. Sư nói mời một lần không đến, mời nữa sẽ đến. Lâu sau sứ giả trở về quả đúng như lời sư nói: Sư bèn từ tạ vua rằng: Nên khéo tu đức, không lâu sẽ bị bịnh, ta đi đây. Bảy ngày sau thì vua bị bịnh. Thầy thuốc trị bịnh chỉ nặng thêm mà không lành. Cận thần Quý Thích nhớ lời Sư nói trước đây bèn gấp sai sứ báo Sư rằng: Bịnh vua càng nặng, nguyện chú từ bi ở xa mau về cứu trị. Sư liền đến chỗ vua an ủi thăm hỏi bịnh tình. Lúc đó Tông Thắng cũng theo lời vua mời mà từ biệt núi rừng, còn Ba-la-đề thọ ân vua từ lâu nên cũng về thăm. Ba-la-đề hỏi làm sao cho vua khỏi khổ. Sư liền bảo Thái tử vì vua chuộc tội thi ân tôn kính Tăng bảo, lại vì vua sám hối rằng nguyện tội tiêu hết. Ba người Như thế đều đến thăm hỏi bịnh vua. Sư thầm nghĩ duyên Chấn Đán đã chín, giờ hành hóa đã đến. Bèn trước giả từ Tổ Tháp kế từ biệt đồng học, và đến chỗ vua mà an ủi khuyên gắng rằng: Phải siêng tu bạch nghiệp hộ trì Tam bảo. Ta đi chẳng muộn mười chín thì về. Vua nghe Sư nói thì khóc rằng:
Nước này có tội gì cõi kia sao may mắn. Chú đã có duyên cháu không ngăn được. Chỉ mong chẳng quên đất nước của mẹ cha, việc xong thì về sớm. Vua liền sắm thuyền to đủ các báu cùng các quan đưa tiễn sư. Sư bèn dong thuyền đến Nam Hải vào ngày 21 tháng 9 năm Đinh Mùi Đại Thông đời Lương năm thứ nhất (đời Lương niên hiệu Đại Thông năm thứ nhất). Thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ngang đủ lễ ra đón, dâng biểu tâu vua, vua nghe tâu sai sứ mang chiếu đón mời. Ngày mồng 1 tháng 10 thì đến Kim Lăng. Vua hỏi: Từ khi ta lên ngôi đến nay xây chùa chép kinh độ Tăng vô số có công đức gì chăng? Sư nói không có công đức. Vua hỏi vì sao không có công đức? Sư nói: Đây chỉ là nhân tiểu quả hữu lậu trời người như bóng theo hình tuy có mà không thật. Vua hỏi thế nào mới là công đức chân thật? Sư đáp: Tịnh trí diệu viên thể tự vắng lặng công đức như thế không vì đời mà cầu. Vua lại hỏi: Thế nào là Thánh đế Đệ nhất nghĩa? Sư nói vắng lặng không Thánh. Vua hỏi: Người đang dối trẫm là ai? Sư đáp: Không biết. Vua chẳng hiểu. Sư biết cơ không khế. Ngày 19 tháng ấy liền thầm về Giang Bắc, ngày 23 tháng 11 thì đến Lạc Dương. Đó là đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Minh năm Thái Hòa năm thứ mười Sư ngụ tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn. Ngồi xoay mặt vào vách suốt ngày không nói. Người không lường được gọi là Bích Quán Bà-la-môn. Lúc đó, có vị tăng Thần Quang là người khoáng đạt, ở lâu tại Lạc Dương đọc nhiều sách giỏi luận bàn huyền lý, thường than rằng: Lễ thuật phong quy là giáo của Khổng-Lão, sách của Trang-Dịch chưa cùng tận diệu lý. Gần đây nghe: Đại sĩ Đạt-đa ở chùa Thiếu Lâm, người đến không lay động, đó là người đạt đến Huyền cảnh. Thế là đi đến đó sớm chiều tham cứu. Sư vẫn ngồi yên xoay mặt vào vách không hề khuyên bảo điều gì. Thần Quang tự nghĩ người xưa câu đạo chẻ xương lấy tủy chích máu cứu đói, trải tóc trên bùn, liều mình nuôi cọp. Xưa còn như thế, ta thì sao. Vào đêm mồng 9 tháng 12 năm ấy trời mưa tuyết lớn, Quang đứng giữa sân bất động đến sáng thì tuyết đến gối. Sư thương mà hỏi ông đứng lâu ngoài tuyết để cầu việc gì? Quang buồn khóc rằng: Cúi mong Hòa-thượng từ bi mở cửa cam lồ rộng độ quân phẩm. Sư nói: Đạo mầu vô thượng của chư Phật nhiều kiếp siêng năng việc khó làm mà làm được, việc không thể nhẫn mà nhẫn được há là hạng tiểu đức tiểu trí khinh tâm mạn tâm muốn được chân thừa mà luống công siêng năng. Quang nghe sư khuyên dạy, lén cầm dao bén tự chặt cánh tay trái đặt trước mặt sư. Sư biết là pháp khí, bèn nói: Chư Phật xưa kia cầu Đạo vì pháp quên thân, nay ông chặt tay trước ta mà cầu. Sư bèn đổi tên gọi là Tuệ Khả. Quang thưa: Pháp Ấn chư Phật con xin được nghe. Sư bảo pháp Ấn chư Phật không phải từ người mà được. Quang nói Tâm con chưa an, xin Sư an cho. Sư nói đem tâm đây ta an cho. Quang nói con tìm tâm không thấy. Sư nói ta đã an tâm cho ông rồi. Sau vua Hiếu Minh nghe Sư có điều lạ liền sai sứ đến thỉnh, nhưng trước sau ba lần Sư không rời Thiếu Lâm. Vua càng kính phục. Bèn ban cho hai chiếc y ca sa, bát vàng gấm lụa, Sư đều ba lần trả lại. Ý vua kiên quyết nên sư đành phải nhận. Từ đó chúng Đạo tục càng tin tưởng theo về. Chín năm sau muốn về Tây Trúc. Bèn bảo học trò rằng: Giờ đã đến, các ông nên trình chỗ đã được. Khi ấy Đạo phó thưa rằng: Như chỗ con thấy chẳng chấp danh tự cũng chẳng lìa văn tự mà vì Đạo dụng. Sư nói: Ông chỉ được phần của da ta. Ni Tổng Trì thưa: Nay con hiểu như Khánh Hỷ thấy nước Phật A-Súc hễ thấy thì không thấy lại nữa. Sư nói: Ngươi chỉ được phần thịt của ta. Đạo Dục thưa rằng: Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng thật có, mà con thấy không có một pháp nào để được. Sư nói: Ông đã được phần xương của ta. Cuối cùng Tuệ Khả lễ bái rồi đứng y đó. Sư bảo: Ông đã được phần tủy của ta. Bèn nhìn Tuệ Khả bảo rằng: Xưa Như lai đã giao phó Chánh Pháp Nhãn cho Đại sĩ Ca-diếp, lần lượt giao đến ta, nay ta giao cho ông, ông nên giữ gìn và trao cho ca sa để làm pháp tín đều nên biết có biểu thị. Tuệ Khả nói: Xin thầy chỉ bày. Sư nói: Trong truyền pháp Ấn để chứng khế tâm, ngoài giao ca sa để định tông chỉ, đời sau nhiễu loạn nghi lo càng sinh bảo rằng: Ta là người Tây Thiên, con là kẻ xứ này dựa vào đâu mà được pháp, lấy gì làm chứng. Nay Ông nhận pháp y này. Sau này có nạn chỉ đưa y này và pháp kệ của ta để biểu minh cho hóa ấy vô ngại. Sau khi ta mất rồi hai trăm năm thì y chỉ không truyền nữa pháp cùng khắp sa giới người hiểu đạo thì nhiều, người hành đạo thì ít, kẻ nói lý thì nhiều mà người thông lý thì ít phù hợp kín đáo chứng ngộ âm thầm ngàn vạn có thừa. Ông nên mở mang chớ khinh người chưa ngộ, một niệm hồi cơ thì giống như bản đắc. Hãy nghe ta nói kệ.
Ta vốn đến xứ này
Truyền pháp cứu mê tình
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
Sư lại nói: Ta có kinh Lăng-già bốn quyển cũng giao cho ông (nên biết kinh Lăng-già do Phật nói không phải do Đạt-ma đặt ra), tức là Như lai tâm địa yếu môn giúp các chúng sinh khai thị ngộ nhập. Ta từ khi đến đây có tất cả năm lần bị trúng độc ta thường tự lấy ra mà thử để trên đá thì đá nứt. Duyên của ta vốn lìa Nam Ấn mà đến Đông Độ này, thấy Xích Huyền Thần Châu có khí tượng Đại thừa, bèn vượt biển vượt sa mạc vì pháp mà tìm người. Cơ hội chưa đến thì giả như kẻ ngu khờ, nay được ông rồi thì ý truyền trao của ta đã trọn.
Biệt Ký nói rằng: Sư trước ở Thiếu Lâm chín năm, vì Nhị Tổ nói pháp chỉ dạy rằng. Ngoài dứt các duyên, trong tâm không thở gấp, tâm như tường vách thì sẽ vào Đạo. Tuệ Khả nói các loại nghĩa lý về tâm tánh, đạo chưa khế hợp. Sư ngăn lỗi ấy không để cho nói tâm thể vô niệm. Tuệ Khả nói: Con đã dứt các duyên. Sư hỏi: Không thành đoạn diệt chứ? Khả đáp: Không thành đoạn diệt (dứt mất). Sư nói: Lấy gì nghiệm biết là không đoạn diệt. Khả nói: Thường biết rõ không thể nói ra được. Sư nói: Đây là tâm thể của chư Phật đã truyền không còn nghi gì...
Nói xong, bèn cùng đồ chúng đến chùa Thiên Thánh ở Võ Môn dừng lại ba ngày, có Thái thú thành ấy là Dương Huyễn Chi sớm kính mến Phật thừa, hỏi Sư rằng: Tổ nối nhau ở năm xứ Tây Thiên, Đạo ấy thế nào? Sư nói sáng tâm tông Phật, hành và giải tương ưng gọi đó là Tổ. Lại hỏi ngoài thì sao? Sư nói: Phải sáng tâm người khác biết rõ xưa nay, chẳng nhàm chán có không, đối với pháp không chấp, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ nếu được như thế gọi đó là Tổ-Lại hỏi: Đệ tử qui tâm Tam bảo đã mấy năm mà trí tuệ tối tâm còn mê chân lý. Vừa nghe sư nói không rõ chỗ đặt để, mong sư từ bi chỉ rõ tông chỉ. Sư biết là thành khẩn liền nói kệ rằng:
Cũng chẳng thấy ác mà chê bai
Cũng chẳng thấy thiện mà siêng làm
Cũng chẳng bỏ trí mà gần ngu
Cũng chẳng bỏ mê mà đến ngộ
Thấu Đại đạo cùng quá lương Thông
Phật tâm thì xuất độ
Chẳng cùng phàm Thánh đồng chen
Vượt lên trên mà gọi Tổ.
Huyễn Chi nghe kệ thì buồn vui lẫn lộn thưa rằng: Xin Sư ở lâu trên thế gian mà hóa độ chúng sinh. Sư nói: Ta sắp qua đời, chẳng thể ở lâu, căn tánh vạn loại khác nhau gặp nhiều hoạn nạn. Huyễn Chi nói: Không kể là ai đệ tử vì Sư trừ dẹp được. Sư nói: ra đem truyền bí mật Phật lợi ích chúng mê, hại sẽ tự yên, ắt không lý này. Huyễn Chi nói: Sư nếu chẳng nói sao biểu thị được năng lực quán chiếu về Thông Biến. Sư bất đắc dĩ nói lời sấm rằng:
Giang Sai phân sóng ngọc
Quản Cự mở khóa vàng
Năm miệng cùng nhau đi
Chín mươi không mình người.
Huyễn Chi nghe xong chẳng hiểu gì thầm ghi nhớ bèn lạy tạ mà lui. Lời sấm của Sư tuy lúc đó khó hiểu nhưng sau thì đều nghiệm đúng. Lúc đó nhà Ngụy kính thờ Phật, kẻ giỏi thiền đông như rừng. Luật sư Quang Thống Tam tạng Lưu Chi là loan phượng trong Tăng, thấy sư diễn đạo bày tướng chỉ tâm, đã từng cùng với Sư luận bàn phải quấy. Sư thì huyền môn nổi tiếng xa gần thí mưa pháp khắp nơi nhưng lượng riêng cục bộ tự không kham nỗi nên khởi tâm tranh giành mà nhiều lần bỏ thuốc độc để hại Sư đến lần thứ sáu. Sư thấy hóa duyên đã xong truyền pháp được người bèn không tự cứu mà cam tâm chịu chết. Đó là ngày mồng 5 tháng 10 năm Bình Thìn, đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Minh Đế niên hiệu Thái Hòa năm thứ mười-Ngày 28 tháng 12 năm ấy thì an táng ở núi Hùng Nhĩ, xây tháp ở chùa Đông Lâm. Sau ba năm Ngụy Tống Vân vâng chỉ vua đi sứ ở Tây Vực về gặp Sư ở Thông Lãnh, thấy Sư tay xách một chiếc dép bay đi vùn vụt. Vân hỏi: Sư đi đâu? Sư đáp: Về Tây Thiên. Lại bảo Vân rằng: Chúa ông đã qua đời. Vân nghe thì hoang mang, từ biệt Sư mà đi về Đông. Khi phục mạng thì Minh Đế đã băng, Hiếu Trang lên ngôi. Vân kể lại mọi việc. Vua sai mở nắp quan tài thì trống rỗng, chỉ còn lại một chiếc dép. Cả triều đều kinh hãi ngợi khen, vâng chiếu vua lấy một chiếc dép thờ ở chùa Thiếu Lâm. Đến năm Đinh Mão niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười lăm đời Đường, thì bị Tín Đạo trộm thấy ở chùa Hoa Nghiêm núi Ngũ Đài, nay không biết ở đâu. Khi xưa lúc Lương Võ Đế gặp Sư nhân duyên chưa khế hợp, đến khi hành hóa ở nước Ngụy bèn muốn soạn bia cho Sư mà chưa rãnh. Sau nghe việc Tống Vân thì bia mới thành. Đường Đại Tông ban Thụy là Viên Giác Đại sư, tháp hiệu Không Quán. Sư từ khi thị tịch vào (năm Bính Thìn) đời Ngụy đến hết đời Hoàng Tông niên hiệu Cảnh Đức năm thứ nhất (giáp thìn) tính ra 467 năm (phải nói từ đời Ngụy năm Canh tý đến hết đời Hoàng Tông, niên hiệu Cảnh Đức năm thứ nhất (Giáp thìn) là 475 năm mới đúng).
Tổ 29 (2). TUỆ KHẢ: Thứ hai mươi chín là tính ở Ấn-độ, thứ hai là tính ở Trung quốc)
Người ở Võ Lao, họ Cơ, cha là Tịch. Lúc chưa có con thường thầm nghĩ rằng nhà ta ưa chuộng điều lành chẳng lẽ không con. Cầu con đã lâu một buổi tối cảm được ánh sáng lạ sáng rực nhà cửa, mẹ do đó có thai. Do lấy việc ánh sáng sáng cả nhà nên đặt tên là Quang. Từ nhỏ chí khí khác thường, thích thơ sách, rành huyền lý, không ưa việc nhà chỉ thích ngao du khắp núi sông. Sau xem sách Phật mà siêu nhiên tự đắc. Liền đến Hương Sơn ở Long Môn Lạc Dương, nương Thiền sư Bảo Tịnh mà xuất gia thọ giới cụ túc, ở chùa Vĩnh Mục đi khắp các trường giảng, học nghĩa Đại Tiểu thừa. Năm ba mươi hai tuổi liền trở về Thương Sơn, suốt ngày ngồi yên. Lại qua tám năm trong lúc yên tịnh thì thấy 1 thần nhân gọi bảo rằng: Sắp đắc quả sao còn vướng đây. Đại đạo chẳng xa ông nên về Nam. Quang biết thần giúp mình nên đổi tên là Thần Quang. Hôm sau thấy đầu đau như bị đâm, thầy muốn trị bịnh thì trên hư không có tiếng nói. Đây là đổi xương nên rất đau. Quang bèn đem việc thấy Thần mà thưa với Thầy, thầy thấy xương đỉnh đầu Quang như mọc lên năm ngọn núi, bèn bảo tướng ông tốt lắm, sẽ có chỗ chứng. Thần khiến ông về Nam, đây thì Đại sĩ Đạt-ma ở chùa Thiếu Lâm sẽ là Thầy ông. Quang bèn đến chùa Thiếu Lâm và việc gặp ngài Đạt-ma được truyền pháp y đã nói ở trước. Từ khi ngài Đạt-ma về Tây Thiên thì Sư mở mang Huyền Phong rộng tìm người Đệ tử nối pháp-Đến niên hiệu Thiên Bình năm thứ 2 đời Bắc tề, có một Cư sĩ tuổi hơn bốn mươi không nói tên họ, đến đảnh lễ hỏi Sư rằng: Đệ tử bị bịnh kinh phong xin Hòa-thượng cho con sám tội. Sư nói: Đem tội ra đây ta cho ông sám. Cư sĩ rất lâu mới nói rằng: Con tìm tội không được. Sư nói ta đã cho ông sám tội rồi đấy. Rồi nương Phật pháp Tăng mà ở. Thưa rằng: Nay thấy Hòa-thượng đã biết là Tăng, chẳng hay thế nào là Phật pháp. Sư nói: Tâm ấy là Phật tâm ấy là pháp, Phật pháp không hai, Tăng Bảo cũng như thế. Thưa rằng: Ngày nay mới biết tội tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài chẳng ở giữa, như tâm ấy Phật pháp cũng không 2. Đại sư biết là thâm khí bèn cạo tóc cho bảo rằng đây là vật báu của ta, đặt tên là Tăng Xán. Ngày 18 tháng 03 năm ấy thọ giới cụ túc ở chùa Quang Phước. Từ đó bịnh kia dần hết làm thị giả hầu thầy hai năm. Đại sư bảo rằng: Bồ-Đề-Đạt-Ma ở Tây trúc xa xôi đã lén trao Chánh Pháp nhãn tạng cho ta, nay ta trao cho ông cùng với tín y của Đạt-ma. Ông nên giữ gìn đừng để dứt mất. Hãy nghe kệ ta:
Xưa nay duyên có đất
Nhân đất trồng hoa nở
Xưa nay không có trồng
Hoa cũng chẳng hề nở.
Đại sư trao phó pháp y rồi, lại nói ông thọ giáo ta phải vào núi sâu, chưa thể hành hóa được sẽ có quốc nạn. Xáng nói: Thầy đã dự biết trước xin hãy chỉ bày. Sư nói không phải ta biết, đây là Đạt-ma truyền cho Bát nhã Đa-la có dự ký trước rằng: Trong tâm tuy tốt mà bên ngoài xấu. Ta tính năm tháng chính là bây giờ. Vậy phải nghe lời nói trước chớ để gặp nạn. Song ta cũng có lụy xưa, nay phải trả, khéo đi đứng, đợi thời truyền trao Đại sư dặn dò rồi liền ở Nghiệp Đô mà tùy nghi nói pháp, 1 lời diễn nói bốn chúng đều về. Như thế trải qua ba mươi bốn năm. Bèn dấu mình đổi dạng hoặc vào các quán rượu thịt, đến chỗ giết mổ, hoặc ở giữa đường, hoặc cùng làm việc, người hỏi Sư là Đạo nhân vì sao như thế. Sư nói ta tự điều tâm đâu có quan hệ gì đến việc của các ông? Lại ở dưới ba cửa của chùa Khuông Cứu tại huyện Quản Thành mà nói Đạo vô thượng, người nghe đông như hội. Lúc đó có Pháp sư Biện Hòa ở trong chùa giảng kinh Niết-bàn, học đồ nghe sư đến mở pháp bèn dần dần bỏ đi. Biên Hòa nổi giận, gièm pha với trưởng Ấp là Địch Trọng khản. Trọng Khản bi mê hoặc bởi tà thuyết cho Sư là phi pháp. Sư vui vẻ thị tịch, người chân chánh cho là trả nợ xưa. Lúc đó Sư đã một trăm lẻ bảy tuổi. Tức ngày 16 tháng 03 năm Quý Sửu, đời Tùy Văn Đế niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba. An táng Sư ở huyện Phủ Dương Từ Châu, cách 70 dặm về phía Đông Bắc. Vua Đường Đức Tông ban thụy cho Sư là Đại Tổ Thiền sư. Từ ngày sư hóa đến năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Đức năm thứ nhất đời vua Hoàng Tông được 413 năm.
-Tổ Tuệ Khả truyền pháp chính thức cho Tổ Tăng Xán, nhưng ngoài Tăng Xán ra còn có mười bảy vị nổi tiếng. Trong đó, ba vị có Ngữ lục, là: 1/ Thiền sư Tăng Na. 2/ Cư sĩ Hướng. 3/ Tuệ Mãn ở Tương Châu.
1. Thiền sư Tăng na: Ngài họ Mã, tuổi trẻ thần sáng thông suốt các sách. Năm hai mươi mốt tuổi thì giảng lễ dịch ở Đông Hải người nghe đông như chợ. Đến khi về Nam thì học chúng liền đến. Gặp Nhị Tổ (Tuệ Khả) nói pháp bèn cùng mười vị đồng chí đến xin xuất gia. Khi đó tay chẳng cầm bút quyết quên hết sách vở, chỉ một y một bát một ngồi một ăn theo hạnh Đầu đà. Hầu hạ Tổ đã lâu, sau bảo Tuệ Mãn rằng: Tâm Ấn Tổ sư không phải chuyên khổ hạnh, nó chỉ giúp đạo mà thôi. Nếu khế bổn tâm mà tùy ý phát dụng chân quang thì khổ hạnh chỉ như nắm đất thành vàng. Nếu chỉ cốt khổ hạnh mà không sáng bổn tâm, sẽ bị yêu ghét buộc ràng, thì khổ hạnh như đêm ở đường hiểm. Ông muốn sáng bổn tâm thì phải suy xét kỹ. Gặp sắc gặp thanh khi chưa khởi giác quán thì tâm ở đâu, là không có hay là có? Đã không rơi vào chỗ có không thì tâm châu riêng sáng thường chiếu sáng thế gian mà không ngăn cách một hạt bụi, không hề có một một sát-na xen hở. Cho nên Sơ Tổ (Tổ Đạt-ma là Sơ Tổ ở Trung quốc) trao kinh Lăng-già 4 quyển, bảo thầy ta là Nhị tổ nói rằng: Ta thấy Chấn Đán (Trung quốc) chỉ có kinh này đáng dùng để ấn tâm. Này Nhân giả y theo thực hành tự được vượt khỏi thế gian.-Lại Nhị tổ hễ khi vào nói pháp xong thì bèn nói kinh này sau bốn đời biến thành danh tướng thật đáng buồn thay. Nay ta trao cho ông phải nên giữ gìn, không phải người thì cẩn thận chớ truyền. Dặn dò xong sư bèn đi du phương, không ai biết sau này sư ra sao.
2. Cư sĩ Hướng: Sống trong rừng sâu ăn rau trái uống nước khe. Đầu niên hiệu Thiên Bảo đời Bắc Tề nghe Nhị Tổ hóa Đạo thạnh hành bèn viết thư giao hảo thưa rằng: Bóng do thân khởi, vang do tiếng có, chơi bóng thì nhọc thân mà không biết thân là gốc của bóng, ngăn tiếng dứt vang mà không biết tiếng là gốc của vang. Trừ phiền não mà đến Niết-bàn là bỏ thân mà tìm bóng, lìa chúng sinh mà cầu quả Phật là im tiếng mà tìm vang. Cho nên biết mê ngộ một đường ngu trí chẳng khác, không tên mà làm tên, do tên ấy mà sinh ra phải trái. Không lý mà làm lý nhân lý ấy mà tranh cãi khởi huyễn hóa không chân thì ai phải ai quấy, luống dối không thật thì cái gì không cái gì có. Nên biết được cái không thể được mất cái không thể mất. Chưa kịp đến để nêu rõ ý này. Rất mong trả lời. Nhị tổ sai người trả lời rằng: Xem rõ ý gởi đến đều đúng thật lý chân thuyết rốt ráo chẳng khác, ngọc ma ni mà vốn mê nên gọi là ngói đá. Rỗng sáng tự giác là chân châu, vô minh trí tuệ bằng nhau không khác, phải biết muôn pháp đều như. Thương xót đồ chúng có hai kiến này mà nêu lời đạp tạ thư này. Xem thân và Phật chẳng khác, đâu cần tìm kiếm ở vô dư. Cư sĩ kính cầm thư Tổ mà kính lạy, ngầm được ấn ký.
3. Thiền sư Tuệ Mãn: ở chùa Long Hóa ở Tương Châu, người Vinh Dương, họ Trương. Mới đầu ở chùa ấy gặp Thiền sư Tăng Na khai thị. Chí rất kiệm ước chỉ có 2 chiếc áo mùa đông mặc thêm mùa hè bỏ bớt. Tự nói một đời tâm không khiếp sợ, thân không chấy rận, ngủ không mộng mị, thường đi khất thực không ở một chỗ hai đêm, hễ đến chùa thì chẻ củi, làm giày. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười sáu ở Lạc Dương bên chùa Hội Thiện, ngủ trong mộ cổ gặp tuyết rơi nhiều. Sáng hôm sau vào chùa gặp Pháp sư Đàm Khoáng. Khoáng kinh ngạc hỏi từ đâu tới? Sư nói: Pháp có tới lui chăng? Khoáng sai tìm chỗ đến, thì thấy bốn bề tuyết phủ đều dày năm thước. Khoáng nói không thể lường biết được. Vừa nghe có Quát Lục Sự, chư Tăng đều trốn lánh, chỉ mình Sư ôm bát đi không xóm làng vô ngại, hễ được thì cho hết không để hoang phí. Có người mời Sư về ở đêm và cúng trai thì Sư nói: Khi nào trời đất không có Tăng mới nhận lời thỉnh này. Lại có dạy chúng rằng: Chư Phật nói tâm khiến biết tâm. Tướng là luống dối. Nay bèn lại chú trọng nhiều về tâm tướng là trái xa ý Phật, lại càng thêm luận bàn mà khác với đại lý. Cho nên Sư thường ôm kinh Lăng-già 4 quyển xem là tâm yếu, đúng theo lời dạy mà làm. Bởi rằng theo lời di phó nhiều đời. Sau ở trong lò gốm không bịnh mà hóa, thọ bảy mươi tuổi.
Tổ 30 (3) TĂNG XÁN: Chẳng biết người ở đâu, trước nương Nhị tổ mà học hỏi. Khi được truyền pháp thì ẩn cư tại núi Hoàn Công ở Thủ Chu. Sau đời Hậu Châu, vua Võ Đế phá diệt Phật pháp. Sư qua lại núi Tư Không ở huyện Thái Hồ hơn mười năm, lúc đó không ai biết. Đến đời Tùy niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 12, có Sa di Đạo Tín, tuổi mới mười bốn đến lạy Thầy thưa rằng: Xin Hòa-thượng từ bi ban cho pháp môn giải thoát. Sư nói: Ai ràng buộc ông. Đáp: Không có ai ràng buộc. Sư hỏi: Sao lại cầu giải thoát. Đạo Tín sau lời nói ấy thì Đại ngộ làm việc khổ nhọc trong chín năm. Sau ở Kiết Châu thọ giới hầu thầy rất cẩn thận, thầy nhiều lần thử thách huyền vi. Biết duyên đã chín liền giao cho pháp y có kệ rằng:
Hoa trồng tuy nhờ đất
Từ đất trồng hoa mọc
Nếu không người gieo giống
Hoa đất sẽ không mọc
Sư lại nói: Xưa được Đại sư giao pháp cho ta sau đến Nghiệp Đô mà hành hóa ba mươi năm mới trọn nay ta được ông thì còn ngại gì. Rồi đến núi La Phù ở đó hai năm, rồi trở về chốn cũ hơn tháng, sĩ dân vây quanh Sư thiết lễ cúng dường, Sư vì bốn chúng nói rộng tâm yếu xong thì ở Pháp Hội dưới cộ cây chấp tay mà mất, lúc ấy là đời Tùy Dương Đế niên hiệu năm Bính Dần Đại Nghiệp năm thứ hai, ngày rằm tháng mười. Vua Đường Huyền Tông ban thụy là Giám Trí Thiền sư, tháp hiệu là Giác Tịch. Đến đời Hoàng Tông niên hiệu Cảnh
Đức năm thứ nhất thì đã trải 400 năm.-Đời Sơ Đường ở Hà Nam có Duẫn Lý Thường kính ngưỡng Tổ Phong mà được huyễn chỉ. Năm Ất Dậu niên hiệu Thiên Bảo gặp Hà Trạch Thần Hội hỏi rằng: Tam tổ Đại sư an táng ở đâu. Có người nói vào La Phù mà không thấy trở về, có người nói mất trong Sơn cốc chưa biết ai đúng. Hội nói Đại sư Xáng ở La Phù trở về Sơn cốc được hơn tháng mới tịch. Nay ở Thư Châu thấy có mộ Tam Tổ Thường chưa thể tin được. Hội bèn vì Thư Châu Biệt Giá nhân đến hỏi chư tăng chùa Sơn cốc rằng nghe nói sau chùa có mộ của Tam Tổ phải chăng lúc đó có Thượng tọa Tuệ Quán đáp rằng: "có", thường vui mừng cùng liêu thuộc đến chiêm lễ. Lại mở quan tài lấy xương cốt đem trà tỳ thì được xálợi năm màu ba trăm hạt thì lấy một trăm hạt đem xây tháp thờ, một trăm hạt gởi lại cho Hà Trạch Thần Hội, để trưng bằng cớ thì đem theo mình một trăm hạt. Sau ở Lạc Trung Tư Đệ thiết trai ăn mừng. Lúc đó có Tây Vực Tam tạng là Kiện na ở trong Hội, Thường hỏi Tam tạng. Tổ sư Thiên Môn ở Thiên Trúc nhiều hay ít. Kiện Na đáp: Từ Cadiếp đến Bát-nhã Đa-la có hai mươi bảy vị tổ. Nếu kể từ Tổ Sư Tử, từ Đạt-ma Đạt bốn đời có hai mươi hai vị, thì gồm chung có bốn mươi chín vị tổ. Nếu từ bảy Đức Phật đến Đại sư Tăng xán, nếu chẳng gồm chia tắt ngang thì có ba mươi bảy đời. Thường lại hỏi các kỳ đức trong hội rằng: Từng thấy Tổ Đồ (bản đồ về Tổ sư) hoặc dẫn hơn năm mươi vị Tổ cho đến chi phái khác nhau, tông tộc chẳng nhất định hoặc chỉ có tên không lấy gì chứng nghiệm. Lúc đó có Thiền sư Trí Bổn là học trò Lục tổ đáp rằng: Đây là bởi đời Hậu Ngụy Phật pháp mới suy yếu, có Sa môn Đàm Diệu trong lúc ngổn ngang nhiều việc đã lấy lụa trắng một mình chép ra tên tuổi các tổ hoặc quên mất thứ lớp để lẫn trong quần áo mà giấu trong hang núi trải qua ba mươi lăm năm cho đến khi Văn Thành Đế lên ngôi pháp môn được trung hưng, thì Đàm Diệu được kính trọng bèn làm Tăng Thống, mới nhóm hợp các Sa môn mà luận bàn kết tập mục lục soạn bộ Phó Pháp Tạng Truyện, lúc đó có chút ít sai sót, tức khi Đàm Diệu sao lục vì quá sợ sệt, lại trải qua mươi ba năm vua khiến Quốc tử tiến sĩ Huỳnh Nguyên Chân cùng Tam tạng Bắc Thiên Trúc là Phật Đà Phiến-đa Cát-Phất-yên, v.v... nghiên cứu lại Phạm văn phân biệt tông chỉ theo thứ lớp Thầy trò mà không còn sai lầm nữa.
Tổ 31 (4) Tổ ĐẠO TÍN: Họ Tư Mã, nhiều đời ở Hà Nội, sau dời về huyện quảng Tế ở Kỳ Châu, sư sinh ra đã khác thường. Thuở nhỏ kính mến Không tông các môn giải thoát. Rõ ràng túc duyên xưa đế nối Tổ phong nhiếp tâm không ngủ nghỉ chẳng tới giường nằm suốt 60 năm. niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ mười ba Đời Tùy, lãnh đồ chúng đến ở Cát Châu, gặp bọn trộm cắp vây thành bảy tuần không giải tỏa, dân chúng sợ sệt. Sư thương xót dạy niệm Ma-ha Bát Nhã. Lúc đó bọn giặc cướp thấy trên bức thành thấp có binh thần gọi nhau cho rằng trong thành có dị nhân không nên tấn công. Rồi dần dần kéo đi. Đời Đường Võ Đế năm Giáp Thân Sư trở về kỳ Xuân ở núi phá Đầu, bạn học đến rất đông. Một hôm Sư đến huyện Huỳnh mai, giữa đường gặp một đứa bé cốt cách kỳ lạ khác thường. Sư hỏi con họ gì? Đáp: Họ tức là có chứ không phải là họ thường. Sư hỏi: Là họ gì? Đáp: Họ Phật Sư bảo con không có họ, thì đáp: Họ Không. Sư im lặng biết là pháp khí. Liền bảo thị giả đến nhà xin cha mẹ cho đi xuất gia, cha mẹ vì có túc duyên nên mau mắn cho làm đệ tử, đặt tên là Hoằng Nhẫn. Đến khi giao pháp truyền y thì có bài kệ rằng:
Giống hoa có tánh mọc
Do đất hoa sinh sinh
Đại duyên hợp với tín
Sẽ đời đời không sinh.
Bèn đối đãi nhau bằng tình thầy trò. Một hôm bảo chúng rằng: Trong niên hiệu Võ Đức ta đến Lô Sơn lên chót đảnh mà nhìn sang núi Phá Đầu thì thấy mây tím như hình cái lọng bên dưới có khí trắng chia ra sáu luồng, các ngươi có hiểu không? Chúng đều im lặng. Nhẫn hỏi: Phải chăng có một Hòa-thượng khác sinh ra một chi Phật pháp. Sư nói đúng. Sau, vào năm Quý Dậu niên hiệu Trinh Quán, vua Đường Thái Tông nghe Đạo vị của Sư muốn chiêm ngưỡng bèn mời về kinh đô. Sư dâng biểu lên vua ba phen tạ từ, sau lấy cớ bịnh mà từ chối. Đến lần thứ tư vua ra lịnh cho sứ rằng: Nếu không đến thì mang đầu về đây. Sứ đến núi truyền chỉ dụ, Sư bèn đưa cổ dưới kiếm mà thần sắc vẫn an nhiên. Sứ kinh lạ quay về trình vua. Vua càng kính mến bèn bàn y báu cho được toại chí. Đến niên hiệu Vĩnh Huy đời vua Cao Tông năm Tân Hợi ngày mồng 04 tháng 09 nhuận, Sư bảo môn nhân rằng: Tất cả các pháp đều giải thoát, các ông đều nên giữ gìn mà truyền hóa ở vị lai. Nói xong thì ngồi yên mà mất, thọ bảy mươi hai tuổi. Xây Tháp thờ ở núi ấy. ngày mồng 08 tháng 04 năm sau vô cớ cửa tháp tự mở, thì hình dung như lúc còn sống. Sau đó môn nhân không dám đóng lại. Vua Đường Đại Tông ban thụy là Đại Y Thiền sư, tên tháp là Từ Vân. Từ khi viên tịch đến năm Giáp thìn niên hiệu Cảnh Đức năm thứ nhất đời vua Hoàng Tống tất cả là 356 năm (có chỗ nói 354 năm?)
Tổ 32 (5) Tổ HOẰNG NHẪN: Người huyện Huỳnh Mai ở Kỳ Châu, họ chu, sinh ra ở Kỳ Nghi. Thuở nhỏ dạo chơi gặp một người hiểu biết khen rằng: Đứa bé này thiếu bảy tướng nữa mới bằng Như lai. Sau gặp Đại sư Đạo Tín mà được làm Đệ tử nối pháp. Ở Hàm Đình tại núi Phá Đầu có 1 cư sĩ họ Lô tên Tuệ Năng từ Tân Châu đến ra mắt Sư. Sư hỏi: Ông từ đâu tới? Đáp: Ở Lãnh Nam tới. Sư hỏi: Cần việc gì? Đáp: Chỉ cầu thành Phật. Sư nói:
Người Lãnh Nam không có Phật tánh, làm sao được thành Phật? Đáp: Người thì có Nam Bắc, Phật tánh há như thế. Sư biết là dị nhân. Liền hét bảo: Xuống nhà giã gạo đi! Tuệ Năng bèn lạy sư mà lui. Rồi lo việc giả gạo làm việc nặng nhọc, ngày đêm không nghỉ suốt tám tháng. Sư biết giờ trao pháp đã đến bèn bảo chúng rằng: Chánh pháp khó hiểu, không thể luống ghi nhớ lời ta mà làm phần của mình. Các ông nên mỗi người tự nêu ý mình bằng một bài kệ. Nếu lời ý họp nhau thì sẽ trao cho y pháp. Lúc đó, trong hội có hơn bảy trăm vị Tăng. Thượng tọa là Thần Tú học thông nội ngoại, chúng đều tôn kính đều khen ngợi rằng: Nếu không phải ngài Thần Tú thì còn ai. Thần Tú nghe chúng khen thì không cần suy nghĩ mà chép một bài kệ trên vách rằng:
Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.
Sư nhân đi kinh hành thấy bài kệ ấy biết là của Thần Tú bèn khen ngợi rằng: Đời sau y theo đây tu hành cũng được quả vị cao siêu. Vách này định để Xử Sĩ Lô Trân vẽ Lăng-già Biến Tướng khi thấy chép kệ này liền ngăn lại không vẽ mà bảo tụng đọc kệ ấy. Chỗ giã gạo có người đọc kệ ấy, Sư hỏi là chương cú nào thì đáp: Ông chẳng biết Hòathượng tìm người Đệ tử nối pháp khiến mỗi người soạn kệ nêu tâm. Bài kệ này là của Thượng Tọa Tú, Hòa-thượng rất khen ngợi thì chắc chắn là sẽ truyền y pháp cho Ngài. Tuệ Năng hỏi kệ ấy ra sao, người ấy liền đọc lại. Tuệ Năng giây lâu nói: Hay thì thật là hay mà hiểu thì chưa (liễu). Người ấy nói Tuệ năng là kẻ tầm thường biết gì mà nói điên. Tuệ Năng nói ông không tin ư, sẽ xin họa một kệ, người ấy không đáp cười mà bỏ đi. Đến nửa đêm Tuệ Năng nhờ một cậu bé cùng đến vách, Tuệ Năng cầm đuốc nhờ cậu bé viết giùm bên cạnh bài kệ của Thần Tú một kệ rằng:
Bồ đề vốn không cây
Tâm gương cũng không đài
Xưa nay không một vật,
Đâu cần lau bụi bặm.
Sau khi thấy kệ ấy thì Đại sư bảo: Bài này ai làm cũng chưa thấy tánh. Chúng nghe Sư nói thì không để ý gì. Nửa đêm mới ngầm sai người đến nhà giã gạo gọi Tuệ Năng vào thất. Sư bảo chư Phật ra đời vì 1 việc lớn, tùy cơ Đại Tiểu thừa mà hóa độ nên có mười địa Ba thừa, đốn tiệm các ý chỉ để làm giáo môn. Nhưng Phật đã đem Chánh Pháp nhãn tạng Vô Thượng Vi Diệu Bí Mật Viên Minh Chân Thật mà trao cho Thượng Thủ Đại Ca-diếp Tôn giả, lần lượt truyền đến hai mươi tám đời. Đến Tổ Đạt-ma sang cõi này tìm được Đại sư Khả rồi lần lượt truyền đến cho ta. Nay truyền Pháp Bảo và y Ca-sa này lại cho ông, ông nên khéo giữ gìn đừng để dứt mất, hãy nghe kệ ta:
Hữu tình đến gieo giống
Nhờ đất quả lại sinh
Vô tình đã không giống
Vô tánh cũng vô sinh.
Cư sĩ Tuệ Năng bèn quì xuống nhận y pháp mà thưa rằng: Pháp thì đã trao, y giao cho ai. Sư nói: Xưa Tổ Đạt-ma mới đến người chưa tin biết nên truyền y để nói là đắc pháp. Nay tín tâm đã chín, còn y là đầu mối tranh giành, nên đến ông thì không nên truyền nữa. Lại phải trốn tránh mà đợi lúc hành hóa, vì người nhận y mạng sống như sợi tơ treo. Năng hỏi: Nên trốn lánh nơi nào. Sư nói: Gặp ai Thương thì ở, gặp hội thì giấu. Tuệ Năng lạy thầy lãnh y mà đi. Đêm ấy đi xa về Nam thì chúng mới biết. Đại sư Nhẫn từ đấy không lên tòa nói pháp ba ngày. Đại chúng quái lạ bèn hỏi. Tổ nói Đạo ta đã đi sao còn hỏi. Lại hỏi y pháp ai được. Tổ nói: Tuệ Năng được. Do đó chúng bàn Lô hành giả tức là Tuệ Năng, bèn đi tìm nhưng đã đi mất. Huyện biết đã được bèn đuổi theo tìm. Đại sư Nhẫn đã trao y pháp, trải bốn năm đến niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai bỗng bảo chúng rằng: Nay việc ta đã xong hãy ra đi. Liền vào thất ngồi yên mà tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, lập pháp ở phía Đông núi Huỳnh Mai. Vua Đường Đại Tông ban thụy là Đại Mãn Thiền sư, Tháp đề là Pháp Vũ. Từ khi Đại sư mất đến năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh
Đức năm thứ nhất đời Hoàng Tông 1 là 330 năm.
Tổ thứ 31: Đại sư Đạo Tín: (Tứ Tổ) bảng xuất đệ tử nối pháp 9 đời tổng công 76 vị.
Núi Ngưu Đầu Kim Lăng truyền 6 đời tổ tông:
Đời 1: Thiền sư Pháp Dung
Đời 2: Thiền sư Trí Nham
Đời 3: Thiền sư Tuệ Phương
Đời 4: Thiền sư Pháp Trì
Đời 5: Thiền sư Trí Oai
Đời 6: Thiền sư Tuệ Trung.
Sáu vị trên đây có ngữ lục
Sáu đời Tổ tông đệ tử nối pháp tổng công có 70 vị.
* Thiền sư Pháp Dung sau 3 đời bàng xuất mười hai vị là:
1. Thiền sư Đàm Thôi ở Chung Sơn Kim Lăng có một vị
2. Thiền sư ở Đại Tố Kinh Châu
3. Thiền sư Nguyệt Không ở U Thê
4. Thiền sư Đạo Diễn ở Bạch Mã
5. Thiền sư Đinh Trang ở Tân An
6. Thiền sư Trí Sai ở Bành Thành
7. Thiền sư Đạo Thọ ở Quảng Châu
8. Thiền sư Trí Sảng ở Hồ Châu
9. Thiền sư Đỗ Mặc ở Tân Châu
10. Thiền sư Trí Thành ở thượng Nguyên
11. Thiền sư Định Chân (Thiền Sư Trí Thành lưu xuất)
12. Thiền sư Như Độ (Thiền Sư Định Chân lưu xuất, 11 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
* Thiền sư Trí Nham sau bàng xuất tám vị:
1. Thiền sư Kính Đàm ở Đông Đô
2. Thiền sư Chí Trường ở Tương Châu
3. Thiền sư Nghĩa Chân ở Hồ Châu
4. Thiền sư Doan Phục ở Ích Châu
5. Thiền sư Long Quang ở Qui Nhân
6. Thiền sư Biện Tài ở Tương Dương
7. Thiền sư Pháp Tuấn ở Hán Nam
8. Thiền sư Mẫn Cổ ở Tây Châu
(Tám vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú, cho nên không ghi chép)
* Thiền sư Pháp Trì sau 4 đời bàng xuất hai vị là:
1. Thiền sư Huyền Tố ở Ngưu Đầu.
2. Thiền sư Hoằng Nhân ở Thiên Trụ.
* Thiền sư Trí Oai sau 4 đời bàng xuất mười hai vị:
1. Huyền Đĩnh ở chùa An Quốc ở Tuyên Châu Thiền sư trí Oai lưu xuất 3 vị.
2. Thiền sư Huyền Tố ở chùa Hạc Lâm ở Nhuận Châu.
3. Thiền sư Sùng Tuệ ở chùa Thiên Trụ ở Thư châu.
4. Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn Hàng Châu (Thiền sư Huyền Tố lưu xuất).
5. Thiền sư Đạo Lâm Ô Sào ở Hàng Châu (Thiền sư đạo Khâm lưu xuất).
6. Thiền sư Hội Thông Chùa Chiêu Hiền ở Hàng Châu (Ô Sào bàng xuất 6 vị trên đây thấy có ghi chép).
1. Thiền Sư Bảo Quán ở Linh Nham (Thiền sư Trí oai lưu xuất)
2. Thiền sư Đàm Ích ở núi Kim Hoa (Thiền sư
Huyền Tố bàng xuất 2 vị)
3. Thiền sư Viên Cảnh ơ Ngộ Môn
1. Thiền sư Ngộ ở núi Mộc Chữ (Thiền sư Đạo
Khâm ở Kính Sơn bàng xuất 3 vị)
2. Thiền sư Quảng Phu ở Thanh Dương
3. Thiền sư Sùng Tuệ ở núi Cân Tử thuộc Hàng Châu. (6 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
Trên đây là bản cũ, thứ tự các đời không rõ ràng, nay đều dựa vào chương vốn có chú thích thêm đệ tử nối pháp cọng thành 4 đời.
* Thiền sư Tuệ Trung sau 2 đời bàng xuất 36 vị (trừ ra Thiền sư Vân cư Trí ở Thiên thai và Thiền sư Thanh Nguyên Chùa Thê hà ở Nhuận Châu còn lại đều do Thiền sư Tuệ Trung lưu xuất:
1. Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên Thai.
2. Thiền sư Vân Cư Trí ở núi Thiên Thai (Thiền sư Duy Tắc lưu xuất, 2 vị trên đây thấy có ghi chép).
1. Thiền sư Đạo Tánh ở núi Ngưu Đầu.
2. Thiền sư Trí Đăng ở Giang Ninh.
3. Thiền sư Hoài Tín ở Giải Huyện.
4. Thiền sư Toàn ở Học Lâm.
5. Thiền sư Hoài Cổ ở Bắc Sơn.
6. Thiền sư Quán Tông ở Minh Châu
7. Thiền sư Đại Trí ở núi Ngưu Đầu
8. Thiền sư Thiện Đạo ở Bạch Mã
9. Thiền sư Trí Chân ở núi Ngưu Đầu
10. Thiền sư Đàm Ngung ở núi Ngưu Đầu
11. Thiền sư Vân Thao ở núi Ngưu Đầu
12. Thiền sư Ngưng nở núi Ngưu Đầu
13. Thiền sư Pháp Lương ở núi Ngưu Đầu
14. Thiền sư Hành Ứng ở Giang Ninh
15. Thiền sư Tuệ Lương ở núi Ngưu Đầu
16. Thiền sư Đạo Dung ở Hưng Thiện
17. Thiền sư Chiếu Minh ở Tưởng Sơn
18. Thiền sư Pháp Đăng ở núi Ngưu Đầu
19. Thiền sư Định không ở núi Ngưu Đầu
20. Thiền sư Tuệ Thiệp ở núi Ngưu Đầu
21. Thiền sư Đạo Ngộ ở U Thê
22. Thiền sư Ngưng Không ở núi Ngưu Đầu
23. Thiền sư Đạo Sơ ở Tưởng Sơn
24. Thiền sư U Thê Tạng
25. Thiền sư Linh Huy ở núi Ngưu Đầu
26. Thiền sư Đạo Dĩnh ở U Thê
27. Thiền sư Cư Anh ở núi Ngưu Đầu
28. Thiền sư Pháp Thường ở Thích Sơn
29. Thiền sư Ngưng Tịch ở Long Môn
30. Thiền sư Trang Nghiêm Viễn
31. Thiền sư Đạo Kiên ở Tương Châu
32. Ni Minh Ngộ.
33. Cư sĩ Ân Tịnh Kỷ.
34 Thiền sư Thanh Nguyên chùa Thê Hà ở Nhuận Châu (Tuệ Thiệp lưu xuất, 34 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
Tổ thứ 32: Đại sư Hoằng Nhẫn truyền năm đời bàng xuất một trăm lẻ bảy vị:
* Đời thứ nhất có mười ba vị:
1 Thiền sư Thần Tú Bắc Tông
2. Quốc Sư Tuệ An Tung Nhạc
3. Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn Viên Châu (3 người trên đây có ghi chép)
4. Thiền sư Đàm Quang chùa Phụng Pháp ở Dương Châu
5. Thiền sư Thiền Tháo ở Tùy Châu
6. Thiền sư Pháp Trì ở Kim Châu
7. Thiền sư Trí Sằn ở Tư Châu
8. Thiền sư Pháp Chiếu ở Thư Châu
9. Thiền sư Nghĩa Phương ở Việt Châu
10. Thiền sư Đạo Tuấn ở Chi Giang
11. Thiền sư Huyền Trách ở Thường Châu
12. Thiền sư Tăng Đạt ở Việt Châu
13. Lưu Chủ Bộ ở núi Bạch Tông (mười vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép).
* Đời thứ hai có ba mươi bảy:
-Thiền sư Thần Tú Bắc Tông có mười chín vị:
1. Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ Đài
2. Thiền sư Trí Phong ở Trung Điền thuộc Phủ Hà Trung
3. Thiền sư Hàng Ma Tạng ở Duyên Châu
4. Thiền sư Đạo thọ ở Thọ Châu
5. Thiền sư Toàn Thực ở núi Đô Lương thuộc Hoài Nam (5 vị trên đây thấy có ghi chép)
6 Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu
7. Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn
8. Thiền sư Sơn Hương Dục ở Đại Phật
9. Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây Kinh
10. Thiền sư Hốt Lôi Trừng
11. Thiền sư Đông Kinh Nhật
12. Thiền sư Biến Tịnh ở Thái Nguyên
13. Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc
14. Thiền sư Đỗ ở Nhữ Nam
15. Thiền sư Kính ở Tung Sơn
16. Thiền sư Tiểu Phước ở Kinh Triệu
17. Thiền sư Quán ở Quắc Sơn Phổ Châu
18. Thiền sư Sùng Khuê ở Mâu Sơn Nhuận Châu
19. Thiền sư Hoài Không ở An Lục (mười bốn vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép).
-Quốc sư Tuệ An ở Tụng Nhạc có mười tám vị:
1. Thiền sư Nhân Kiệm Chùa Phước Tiên ở Lạc Kinh (Quốc sư Tuệ An lưu xuất 6 vị).
2. Hòa-thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc
3. Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc
4. Thiền sư Thản Nhiên ở Thường Sơn
5. Thiền sư Viên Tịch ở Nghiệp Đô
6. Thiền sư Đạo Lượng ở Tây Kinh
7 Đại Tổng Quản Lý Hiếu Dật ở Dương Châu
(Thiền sư Đạo Lượng bàng xuất 5 vị)
8. Công Bộ Thượng Thư Trương Tích
9. Quốc Tử Tế Tửu Thôi Dung
10. Bí Thư Giám Hạ Tri Chương
11. Thứ Sử Khang Sằn ở Mục Châu
12. Thiền sư Chánh Thọ (Thiền sư Thần Tháo ở Tùy Châu lưu xuất)
13. Thiền sư Sùng Tịch ở Hồng Châu (Thiền sư
Đạo Minh ở Mông Sơn lưu xuất 3 vị)
14. Thiền sư Hoài ở Giang Tây
15. Thiền sư Thần Trinh ở Phủ Châu
16. Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu (Thiền sư Trí sằn ở Tư Châu lưu xuất)
17. Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa Hưng (Thiền sư Huyền Trách lưu xuất 2 vị)
18. Thiền sư Sướng ở Hồ Châu (15 người này không có Ngữ lục).
* Đời thứ ba: Có bốn mươi chín vị.
-Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu có ba vị Đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Huyền Tông ở Tử Kim
2. Thiền sư Xa ở núi Đại Mai thuộc Minh Châu 3. Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới (ba vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
-Thiền sư Phổ Tịch ở Tung sơn có 46 vị đệ tử nối pháp:
1. Duy Chánh ở núi Chung Nam (Thiền sư Phổ Tịch lưu xuất 24 vị, một vị thấy có ghi chép).
2. Thiền sư Tuệ Không ở Quảng Phước
3. Thiền sư Thường Việt
4. Thiền sư Giáp ở núi Thạch Tương Châu
5. Thiền sư Minh Tán
6. Thiền sư Chân ở chùa Kính Ái
7. Thiền sư Thủ Hiền ở Duyễn Châu
8. Thiền sư Thạch Tạng ở Định Châu
9. Thiền sư Trừng Tâm ở Nam Nhạc
10. Thiền sư Nhựt Chiếu ở Nam Nhạc
11. Thiền sư Cán chùa Đồng Đức ở Lạc Kinh
12. Thiền sư Tô Châu Chân Lượng
13. Thiền sư Duệ ở chùa Ngõa Quang
14. Thiền sư Pháp Dung ở Dặc Dương
15. Thiền sư Diễn ở Quảng Lăng
16. Thiền sư Tuệ Không ở Thiểm Châu
17. Thiền sư Chân Lượng ở Lạc Kinh
18. Thiền sư Hằng Nguyệt ở Trạch Châu
19. Thiền sư Đàm Chân ở bặc Châu
20. Thiền sư Sùng Diễn ở núi Đô Lương
21. Thiền sư Tự Trừng chùa Chương Kính ở
Kinh Triệu
22. Thiền sư Tung Dương Tự Nhất Hạnh.
23. Thiền sư chùa Bắc Dung ở Kinh Triệu 24. Cư sĩ Định Đào Đinh ở Tào Châu.
-Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây kinh có tám vị:
1. Thiền sư Đại Hùng Mãnh
2. Thiền sư Đại chấn-động ở Tây Kinh
3. Thiền sư Thần Phỉ
4. Thiền sư Đại Bi Quang ở Tây Kinh
5. Thiền sư Đại Ẩn ở Tây Kinh
6. Thiền sư Định Cảnh
7. Thiền sư Đạo Bá
8. Thiền sư Huyền Chứng
-Thiền sư Hàng Ma Tạng lưu xuất ba vị:
1. Thiền sư Tịch Mãn ở Tây Kinh
2. Thiền sư Định Trang ở Tây Kinh
3. Thiền sư Nam Nhạc Tuệ Ẩn.
- Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc lưu xuất một vị: Thiền sư Thần Chiếu
Thiền sư Tiểu Phước lưu xuất ba vị:
1. Thiền sư Thâm Tịch ở Lam Điền-Kinh Triệu
2. Thiền sư Nhật Một Vân ở núi Thái Bạch Sơn 3. Thiền sư Pháp Siêu ở núi Đông Bạch
- Thiền sư Quán ở Hoắc sơn lưu suất một vị Thiền sư U ở Hiện
Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu lưu xuất bốn vị:
1. Thiền Sư Vô Tướng ở Ích Châu
2. Thiền sư Mã ở núi Trường Tùng-Ích Châu
3. Thiền sư Siêu
4. Thiền sư Hiểu Liễu ở Tử Châu
Thiền sư Phỉ ở nghĩa Hưng lưu xuất hai vị
1. Thiền sư Trí Dư ở Tây Kinh
2. Thiền sư Trí Thâm ở Đông Đô
(Cả bốn mươi lăm vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép).
* Đời thứ tư: Có bảy vị.
-Thiền sư Duy Chánh ở Hưng Thiện có hai vị đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Định Tâm ở Hàng Châu
2. Thiền sư Chí Chân ở Kính Ai (2 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
-Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu có năm vị Đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Vô ở chùa Bảo Đường ở Ích Châu (Thiền sư Vô Tướng lưu xuất 4 vị, một vị thấy có ghi chép)
2. Thiền sư Dung ở núi Kinh Châu Minh
Nguyệt
3. Vương Đầu Đà ở núi Vân Đảnh Hán Châu
4. Thiền sư Thần Hội chùa Tịnh Chúng ở Ích Châu.
5. Thiền sư Võ Giới (Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới lưu xuất, 4 vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú, cho nên không ghi chép.
* Đời thứ năm: Có một vị
Thiền sư Chí Chân ở chùa Kính Ái có một vị đệ tử nối pháp
MỤC LỤC 2
Tổ thứ 31: Đại sư Đạo Tín có đệ tử nối pháp tổng cọng 183 vị, trong đó có 76 vị bàng xuất.
Núi Ngưu Đầu-Kim lăng có 6 đời tổ tông thấy ghi lục:
Đời thứ nhất: Thiền sư Pháp Dung
Đời thứ hai: Thiền sư Trí Nham
Đời thứ ba: Thiền sư Tuệ Phương
Đời thứ tư: Thiền sư Pháp trì Đời thứ năm: Thiền sư Trí Oai Đời thứ sáu: Thiền sư Tuệ Trung.
Tổ tông 6 đời trước có đệ tử nối pháp tổng cọng 80 vị.
Thiền sư Pháp Dung sau 3 đời bàng xuất 12 vị
(một vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Đàm Thôi ở Chung Sơn-Kim lăng
Thiền sư Đại Tố ở Kinh Châu
Thiền sư Nguyệt không ở U Thê
Thiền sư Đạo Diễn ở Bạch Mã
Thiền sư Định Trang ở Tân An
Thiền sư Trí sai ở Bành Thành
Thiền sư Đạo Thọ ở Quảng Châu
Thiền sư Trí Sảng ở Hồ Châu
Thiền sư đỗ Mặc ở Tân Châu
Thiền sư Trí Thành ở Thượng Nguyên-Trí
Thành lại lưu xuất một vị: Thiền sư Định Chân. Định Chân lại lưu xuất một vị: Thiền sư Như Độ
(11 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Thiền sư Trí Nham sau bàng xuất:
Thiền sư Kính Đàm ở Đông Đô
Thiền sư Chí Trường ở Tương Châu
Thiền sư Nghĩa Chân ở Hồ Châu
Thiền sư Đoan Phục ở ích Châu
Thiền sư Quy Nhân ở Long Quang
Thiền sư Biện Tài ở Tương Dương
Thiền sư Pháp Tuấn ở Hán Nam
Thiền sư Mẫn Cổ ở Tây Xuyên
(8 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
-Thiền sư Pháp Trì sau bàng xuất:
Thiền sư Huyền Tố ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Hoằng Nhân ở núi Thiên Trụ
(2 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Thiền sư Trí oai sau 3 đời bàng xuất 12 vị
(6 vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Huyền Đĩnh chùa An Quốc ở Tuyên Châu
Thiền sư Huyền Tố Chùa Hạc lâm ở Nhuận
Châu
Thiền sư sùng Tuệ núi Thiên Trụ ở Thư Châu
Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn-Hàng Châu
Thiền sư Đạo Lâm-Ô Sào ở Hàng Châu
Thiền sư Hội Thông Chùa Chiêu Hiền ở Hàng Châu.
Huyền Tố lại lưu xuất 2 vị:
1. Thiền sư đàm ích ở Kim Hoa 2. Thiền sư Viên Cảnh ở Ngô Môn Đạo Khâm lại lưu xuất 3 vị:
1. Thiền sư Ngộ ở núi Mộc Chữ
2. Thiền sư Quảng Phu ở Thanh Dương
3. Thiền sư Sùng Tuệ núi Trung Tử ở Hàng Châu
Đạo Lâm lại lưu xuất một vị: Thiền sư Bảo Quán ở Linh Nham
(6 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
-Thiền sư Tuệ Trung sau 2 đời bàng xuất 36 vị (2 vị thấy có ghi lục):
Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên (bàng xuất vân cư ở Thiên Thai).
Thiền sư Vân Cư Trí ở núi Thiên Thai
Thiền sư Đạo Tánh ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Trí Đăng ở Giang Ninh
Thiền sư Hoài Tín ở Giải Huyện
Thiền sư Toàn ở hạc Lâm
Thiền sư Hoài Cổ ở Bắc sơn
Thiền sư Quán Tông ở Minh Châu
Thiền sư Đại Trí ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Thiện Đạo ở Bạch Mã
Thiền sư Trí Chân ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đàm ngung ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Vân Thao ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Ngưng ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Pháp Lương ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Hành Ứng ở Giang Ninh
Thiền sư Huệ Lương ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Dung ở Hưng Thiện
Thiền sư Chiếu Minh ở Tưởng Sơn
Thiền sư Pháp Đăng ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Định Không ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Tuệ Thiệp ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Ngộ ở U Thê
Thiền sư Ngưng Không ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Sơ ở Tưởng Sơn
Thiền sư Tạng ở U Thê
Thiền sư Linh Huy ở núi Ngưu Đầu Thiền sư Đạo Dĩnh ở U Thê
Thiền sư Cự Anh ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Pháp Thường ở Thích Sơn
Thiền sư Ngưng Tịch ở Long Môn Thiền sư Trang Nghiêm Viễn Thiền sư Đạo Kiên ở Tương Châu. Ni Minh Ngộ
Cư sĩ Ân Tịnh kỷ.
Tuệ Thiệp trước đây lại lưu xuất một vị: Thiền sư Thanh Nguyên Chùa Thê Hà ở Nhuận Châu.
(34 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
Tổ thứ 32: Đại sư Hoằng Nhẫn truyền 5 đời bàng xuất 107 vị:
Đời thứ nhất có 13 vị (3 vị thấy có ghi lục):
Thiền sư Thần Tú ở Bắc Tông Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc.
Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn-Viên Châu
Thiền sư Đàm Quang Chùa Phụng Pháp ở
Dương Châu
Thiền sư Thiền Tháo ở Tùy Châu.
Thiền sư Pháp Trì ở Kim Châu Thiền sư Trí
Sằn ở Tư Châu
Thiền sư Pháp Chiếu ở Thư Châu
Thiền sư Nghĩa Phương ở Việt Châu
Thiền sư Đạo Tuấn ở Chi Giang
Thiền sư Huyền Trách ở Thường Châu Thiền sư Tăng Đạt ở Việt Châu.
Lưu Chủ Bộ ở núi Bạch Tùng.
(10 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
* Đời thứ hai có 37 vị:
-Thiền sư Thần Tú ở Bắc Tông có đệ tử nối pháp 19 vị (5 vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ Đài
Thiền sư Trí Phong ở núi Trung Điều thuộc phủ Hà Trung.
Thiền sư Hàng Ma Tạng ở Duyễn Châu
Thiền sư Đạo Thọ ở Thọ Châu
Thiền sư Toàn Thực ở núi Đô Lương thuộc Hoài Nam.
Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu
Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn
Thiền sư Hương Dục ở núi Đại Phật
Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây Kinh Thiền sư
Hốt lôi Trừng
Thiền sư Đông Kinh Nhật
Thiền sư Biến Tịnh ở Thái Nguyên
Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc
Thiền sư Đỗ ở Nhữ Nam
Thiền sư Kính ở Tung Sơn
Thiền sư Tiểu Phước ở Kinh Triệu
Thiền sư Quán ở Hoắc Sơn-Phổ Châu
Thiền sư Sùng Khuê ở Mao Sơn-Nhuận Châu
Thiền sư Hoài Không ở An Lạc
(14 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc trước đây có đệ tử nối pháp 18 vị (3 vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Nhân Kiệm chùa Phước Tiên ở Lạc Kinh.
Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc
Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc
Thiền sư Thản Nhiên ở Thường Sơn
Thiền sư Viên Tịch ở Nghiệp Đô
Thiền sư Đạo Lượng ở Tây Kinh Đạo Lượng lại lưu xuất 5 vị:
1. Đại Tổng Quản Lý Hiếu Dật ở Dương Châu
2. Công Bộ Thượng Thư Trương Tích
3. Quốc Tử Tế Tửu Thôi Dung
4. Bí Thư Giám Hạ Tri Chương 5. Thứ sử Khang Sằn ở Mục Châu.
- Thiền sư Thiền Tháo ở Tùy Châu trước đây lại lưu xuất một vị: Thiền sư Chánh Thọ
- Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn trước đây lại lưu xuất 3 vị:
1. Thiền sư Sùng Tịch ở Hồng Châu
2. Thiền sư Hoài ở Giang Tây
3. Thiền sư Thần Trinh ở Phủ Châu
- Thiền sư Trí Sằn ở Tư Châu trước đây lại lưu xuất một vị: Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu.
- Thiền sư Huyền Trách trước đây lại lưu xuất 2 vị:
1. Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa Hưng
2. Thiền sư Sướng ở Hồ Châu
(15 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
* Đời thứ ba có 49 vị:
-Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu trước đây có đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Huyền Tông ở Tử Kim
2. Thiền sư Thường ở núi Đại Mai thuộc Minh
Châu
3. Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới
(3 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
-Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn trước đây có đệ tử nối pháp 46 vị (một vị thấy có ghi lục).
Thiền sư Duy Chánh ở núi Chung Nam
Thiền sư Tuệ không ở Quảng Phước
Thiền sư Thường Việt
Thiền sư Tư ở núi Giáp Thạch-Tương Châu
Thiền sư Minh Toán
Thiền sư Chân ở Chùa Kính Ai
Thiền sư Thủ Hiền ở Duyễn Châu
Thiền sư Thạch Tạng ở Định Châu
Thiền sư Trừng Tâm ở Nam Nhạc
Thiền sư Nhật Chiếu ở Nam Nhạc
Thiền sư Cán Chùa Đồng Đức ở Lạc
Kinh Thiền sư Chân Lượng ở Tô Châu
Thiền sư Duệ ở Chùa Ngõa Quan
Thiền sư Pháp Dung ở Dặc Dương
Thiền sư Diễn ở Quảng Lăng
Thiền sư Tuệ Không ở Thiểm Châu
Thiền sư Chân Lượng ở Lạc Kinh
Thiền sư Hằng Nguyệt ở Trạch Châu
Thiền sư Đàm Chân ở Bặc Châu
Thiền sư Hằng Nguyệt ở Trạch Châu
Thiền sư Đàm Chân ở Bặc Chân
Thiền sư Sùng Diễn ở núi Đô Lương
Thiền sư Trừng chùa Chương Kính ở Kinh
Triệu
Thiền sư Nhất Hành ở Chùa Tung Dương
Thiền sư Dung Chùa Sơn Bắc ở Kinh Triệu Cư sĩ Định Đào Đinh ở Tấn Châu.
- Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây Kinh trước đây lại lưu xuất 8 vị:
Thiền sư Đại Hùng Mãnh
Thiền sư Đại Chấn Động ở Tây Kinh
Thiền sư Thần Phỉ
Thiền sư Đại Bi Quang ở Tây Kinh
Thiền sư Đại Ẩn ở Tây Kinh
Thiền sư Định Cảnh Thiền sư Đạo Bá
Thiền sư Huyền Chứng.
- Thiền sư Hàng Ma Tạng trước đây lại lưu xuất 3 vị:
Thiền sư Tịch Mãn ở Tây Kinh
Thiền sư Định Trang ở Tây Kinh
Thiền sư Tuệ An ở Nam Nhạc
- Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc trước đây lại lưu xuất một vị:
Thiền sư Thần Chiếu.
- Thiền sư Tiểu Phước trước đây lại lưu xuất 3 vị:
Thiền sư Thâm Tịch ở Lâm Điền Kinh Triệu Thiền sư Nhật Một Vân ở núi Thái Bạch Thiền sư Pháp Siêu ở núi Đông Bạch.
- Thiền sư Quán ở Hoắc sơn trước đây lại lưu xuất một vị:
Thiền sư u ở Hiện Sơn
- Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu trước đây lại lưu xuất 4 vị:
Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu
Thiền sư Mã ở núi Trường Tùng-Ích Châu Thiền sư Siêu.
- Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa Hưng trước đây lại lưu xuất 2 vị:
Thiền sư Trí Du ở Tây Kinh
Thiền sư Trí Thâm ở Đông Đô
(45 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đời thứ tư có 7 vị:
- Thiền sư Duy Chánh ở Hưng Thiện trước đây có đệ tử nối pháp 2 vị:
Thiền sư Định Tâm ở Hoành Châu
Thiền sư Chí Chân ở Chùa Kính Ái
(2 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
- Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu trước đây có đệ tử nối pháp 5 vị:
(Một vị không thấy có ghi lục)
Thiền sư Vô Trú Chùa Bảo Đường ở Ích Châu
Thiền sư Dung ở núi Minh Nguyệt-Kinh Châu
Vương Đầu Đà ở núi Vân đảnh-Hán Châu
Thiền sư Thần Hội Chùa tịnh Chúng ở Ích Châu.
- Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới trước đây lại lưu xuất một vị:
Thiền sư Võ Giới
(4 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
* Đời thứ năm có một vị:
- Thiền sư Chí Chân ở Chùa Kính Ai trước đây có đệ tử nối pháp.
Thiền sư Chiếu ở Tung sơn
(không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
Tổ thứ 31: ĐẠI SƯ ĐẠO TÍN (4): Về sau bàng xuất đệ tử nối pháp Núi Ngưu đầu-Kim lăng truyền 6 đời tổ tông.
Đời thứ 1: Thiền sư Pháp Dung:
Người ở Diên Lăng, thuộc Nhuận Châu, họ Vi. Năm mười chín tuổi học thông kinh sử. Ngài tìm xem Đại Bộ Bát-Nhã hiểu rõ Chân không, Bỗng một hôm than rằng: Sách Nho ở đời là pháp không rốt ráo, Bát Nhã Chánh Quán là thuyền bè xuất thế. Bèn ẩn vào núi tìm thấy xuống tóc. Sau vào núi
Ngưu Đầu Sơn, trụ trong hang đá ở phía Bắc chùa U Thê, có điều kỳ lạ là trăm chim ngậm hoa đến cúng dường. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Tứ Tổ xa trông khí tượng thì biết núi ấy có dị nhân. Bèn địch thân đến tìm hỏi các vị tăng trong chùa rằng trong này có Đạo nhân nào chăng? Đáp có một người xuất gia nhưng không phải Đạo nhân. Tổ nói đó là Đạo nhân. Vị tăng không nói, vị khác bảo: Đi vào núi mười dặm có một người dáng khù khờ thấy người không đứng dậy cũng không chấp tay chẳng phải là Đạo nhân. Tổ vào núi gặp Sư, Sư ngồi yên chẳng đoái hoài. Tổ hỏi ở đây làm gì? Sư nói quán tâm. Tổ hỏi quán là ai? tâm là vật gì. Sư không nói mà đứng dậy đảnh lễ. Sư hỏi đại đức ở đâu? Tổ nói bần đạo chẳng quyết dừng nghỉ, hoặc Đông hoặc Tây Sư hỏi: Có biết Thiền sư Đạo Tín chăng? Đáp: Hỏi ông ấy làm gì? Sư nói tiếng vang đạo đức đã lâu xa chỉ mong một lần lễ gặp. Tổ nói Thiền sư Đạo Tín là bần đạo đây. Sư hỏi: Sao lại đến đây. Tổ nói: Đến đây để thăm hỏi, ở đây không có chỗ nghỉ ngơi à? Sư chỉ sau lưng nói có một am nhỏ. Bèn dẫn Tổ về, quanh quẩn chỉ thấy loài con sói. Tổ tỏ vẻ sợ. Sư hỏi cũng có cái ấy ư? Tổ hỏi vừa thấy cái gì? Sư không đáp. Chốc sau Tổ viết một chữ Phật trên tảng đá mà Sư thường ngồi thiền. Sư nhìn kính sợ. Tổ hỏi cũng có cái ấy ư? Sư không hiểu bèn đảnh lễ xin nói chân yếu. Tổ nói trăm ngàn pháp môn đồng qui về gang tấc, hà sa diệu đức ở chung trong nguồn tâm. Tất cả Giới môn Đinh môn Tuệ môn thần thông biến hóa đều tự đầy đủ không lìa tâm ông, tất cả phiền não nghiệp chướng xưa nay vốn vắng lặng. Tất cả nhân quả đều như mộng huyễn, không có ba cõi để ra khỏi, không có Bồ đề để tìm cầu, người và chẳng phải người đều tánh tướng bình đẳng. Đại Đạo trống rộng dứt hết nghĩ ngợi. Pháp như thế nay ông đã được đều không thiếu sót, nào có khác gì với Phật, lại không có một pháp nào khác. Ông đã nhiệm vận tự tại, chẳng cần thực hành quán hạnh, cũng chẳng chứng tâm, không khởi tham sân, chẳng ôm sầu lo, thênh thang vô ngại mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, chẳng làm các điều ác, đi đứng nằm ngồi mắt thấy gặp duyên đều là diệu dụng của Phật thường vui vẻ không sầu lo, nên gọi là Phật. Sư nói tâm đã đầy đủ thì cái gì là Phật cái gì là Tâm?-Tổ nói: Chẳng phải tâm chẳng phải Phật. Hỏi Phật thì chẳng phải chẳng tâm. Sư nói đã chẳng cần thực hành quán hạnh thì khi cảnh khởi làm sao đối trị? Tổ nói: Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu là do tâm, nếu tâm không ranh giới tên gọi thì vọng tình từ đâu khởi lên. Vọng tình đã chẳng khởi thì chân tâm nhậm vận khắp biết. Ông chỉ theo tâm tự tại mà không cần đối trị, liền gọi là thường trụ pháp thân không có đổi khác. Ta nhận được pháp môn Đốn giáo của Đại sư Tăng Xán, nay giao lại cho ông, ông nay nhận kỹ lời ta nói, chỉ ở núi này, sau sẽ có năm vị thông đạt nối huyền hóa của ông-Tổ trao phó pháp rồi bèn trở về núi Song Phong mà ở đó đến già. Còn Sư từ đó giảng nói thịnh hành, trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường đồ chúng thiếu lương thực, Sư đến Đơn Dương hóa duyên, cách núi tám mươi dặm phải đội gánh một thạch tám đấu gạo, từ sáng đến tối nuôi ba trăm vị Tăng, mà hai thời khóa tụng không thiếu sót, suốt trong ba năm. Ấp Tể là Tiêu Nguyên Thiên, thỉnh sư về chùa Kiến Sơ giảng kinh Đại Bát Nhã, người nghe rất đông. Đến phẩm Diệt Tịnh thì mặt đất rúng chuyển bèn trở về núi. Bác Lăng Vương hỏi Sư rằng khi cảnh duyên sắc phát ra mà chẳng nói duyên sắc khởi thì làm sao biết được duyên mà muốn dứt khởi ấy? Sư đáp: Cảnh sắc khi mới phát, hai tánh sắc cảnh là không, vốn không biết duyên đó, tâm lượng cùng biết đồng, chiếu bổn phát chẳng phát, khi ấy khởi tự dứt, ôm ám sinh giác duyên, tâm sẽ không theo duyên, còn như lúc chưa sinh, sắc tâm không nuôi dưỡng, từ không vốn vô niệm, tưởng thọ nói niệm sinh, khởi pháp không hề khởi, đâu dùng lệnh Phật dạy?
- Hỏi rằng: Nhắm mắt chẳng thấy sắc, cảnh nghĩ lại càng nhiều, sắc đã không quan hệ đến tâm, cảnh từ đâu mà phát? Sư đáp: Nhắm mắt chẳng thấy sắc, trong tâm động nghĩ nhiều, huyễn thức giả thành dụng, khởi danh không hề lỗi, biết sắc chẳng quan tâm, tâm chẳng dính líu người, tùy hành có tướng chuyển, chim bay trong chân không.
- Hỏi rằng: Cảnh phát không nơi chốn, Duyên giác rõ biết sinh, cảnh mất giác còn chuyển, giác bèn biến thành cảnh, nếu dùng tâm kéo tâm, lại vì giác mà giác, theo nó từ từ đi, chẳng lìa cõi sinh diệt? Sư nói: Sắc tâm trước giữa sau thật không duyên khởi cảnh, một niệm tự ngưng mất, ai hay kể động tịnh. Tri (biết) này tự (không biết), biết hết duyên chẳng gặp, thường tự giữ bổn hình, đâu cần cầu cảnh ngoài. Cảnh trước chẳng đi mất, niệm sau nay không đến, tìm trăng cầm huyễn ảnh, bỏ dấu theo chim bay, muốn biết tâm bổn tánh, lại như thấy trong mộng, ví như băng tháng sáu chỗ chỗ đều giống nhau, lánh không trọn chẳng thoát, tìm không lại chẳng thành, mượn hỏi cảnh trong gương, tâm từ đâu sinh ra?
- Hỏi rằng: Khi vừa phải dụng tâm, mới (có) là tốt an ổn? Sư nói: Khi vừa phải dụng tâm, vừa phải không dụng tâm, nhọc luận bàn danh tướng, nói thẳng không phiền trọng, không dụng tâm vừa khớp, thường dùng không vừa khớp, lại nói không chỗ tâm, cũng không có tâm khác.
- Hỏi: Người trí dẫn lời mầu, thì cùng tâm gặp nhau nói khác nẻo với tâm, họp thì muôn lần trái nhau? Sư đáp: Phương tiện nói lời mầu, phá bịnh Đạo Đại thừa, không liên quan bản tánh, lại từ không hóa tạo vô niệm là chân thường, trọn phải dứt nẻo tâm, lìa niệm tánh không động, sinh diệt chẳng trái nhau, tiếng vang hay do tiếng, có ảnh bởi xem gương.
- Hỏi: Người tu thế cảnh có, nhờ giác biết cảnh mất trước giác và sau giác. Cảnh đều có ba tâm? Sư nói: Cảnh dùng chẳng phải thể giác, giác nghỉ chẳng nên lo, nhờ giác biết cảnh mất, khi giác cảnh chẳng khởi, trước giác và sau giác, cảnh đều có ba châm.
- Hỏi: Trú định đều chẳng chuyển, sắp là chánh Tam-muội, các nghiệp chẳng thể kéo, chẳng biết tế vô minh, từ từ đuổi theo sau? Sư đáp: Lại nghe có người khác, vọng chấp khởi tâm lương, việc trong ba không thành, chẳng chuyển lại luống dối, tâm là chánh thọ buộc hay là tịnh nghiệp chướng, tâm trần muôn phần một, chẳng hiểu nói vô minh, nhỏ nhặt tập nhân khởi, từ từ danh tướng sinh, gió thổi sóng liền động, muốn nước lại lặng yên, lại muốn nói đường trước, sợ hậu tâm kinh sợ. Vô niệm thú lớn gầm, tánh không dưới sương mai, sao tan dẹp cỏ dơ, ngang dọc chim bay lạc, năm đường định phân luận 4 ma không tiến bước, đã như lửa dữ đốt, lại như kiếm bén chém.
- Hỏi: Nhờ giác biết muôn pháp, muôn pháp xưa nay thế, nếu giả chiếu dụng tâm, chỉ được chiếu sáng tâm, chẳng nên việc trong tâm?
- Sư nói: Nhở giác biết muôn pháp, muôn pháp không hề nhờ, nếu giả chiếu dụng tâm, thì chẳng ở ngoài tâm.
- Hỏi: Tùy theo không chọn lựa, tâm minh chẳng hiện tiền, lại lo tâm đen tối, ở tâm dùng công hạnh, trí chướng lại khó dứt? Sư đáp: Có này chẳng thể có, tìm đây chẳng thể tìm, không chọn tức thật chọn, được tối sinh tâm minh, người lo tâm mê tối, giữ tâm nhờ công hạnh sao luận nạn trí chướng, đến Phật mới là bịnh.
- Hỏi: Chiết trung thì dứt hỏi thật cũng khó an vui, nếu chẳng phải người tu, nạn này rất khó thấy? Sư nói Chiết trung muốn tiêu dứt, tiêu dứt chẳng khó dễ, trước quán tâm ở tâm, kế suy trí trong trí, thứ ba chiếu suy ra, thứ tư chung vô ký, thứ năm gọi giải thoát, thứ sáu không chân ngụy, thứ bảy biết pháp bổn, thứ tám từ vô vi, thứ chín biết không ấm, thứ mười mây mưa khắp, rốt lại kia không giác, vô minh sinh Bổn trí, cảnh tượng hiện ba nghiệp, người huyễn hóa bốn nẻo, chẳng trụ ở không biên phải chiếu không trong có, trong có chẳng ngoài không, chưa ắt không có đủ, gọi đó là Chiết trung, Chiết trung không nói năng, yên vui không chỗ yên, dụng hạnh đâu có quyết?
- Hỏi: Riêng có một loại người, khéo hiểu không vô tướng, miệng nói Định Loạn một, lại nói không trong có, đồng chứng dụng thường tịch, hiểu biết dụng thường tịch, dụng tâm gặp chân lý, sau nói dụng vô dụng, trí tuệ phương tiện nhiều, lời nói hợp với lý, như như lý tự như, không do thức tâm hiểu. Đã biết tâm hiểu quấy, tâm tâm lại cùng mất, như thế khó biết pháp, không bao giờ biết được, đồng người dụng tâm này, pháp đều không thể hóa?-Sư nói: Có người riêng chứng không, lại như kệ trước nói, hành không giữ vắng lặng, thúc thấy chỉ tạm thời, hiểu chân là tâm lượng, chưa hề biết nguồn cội, lại nói dứt dụng tâm, nhiều trí nghi tương tự, bởi do tánh chẳng sáng, cầu không lại nhọc mình, nhiều kiếp ở thức tối, ôm nhau đều chẳng biết. Phát sáng liền động đất, ở đó muốn làm gì.
- Hỏi: Việc trước là khán tâm, lại có nạn lưới giăng?-Sư nói: Xem tâm có lưới giăng, huyễn tâm đâu đợi xem huống không có huyễn tâm ung dung mở miệng khó.
- Hỏi: Lâu có cơ nghiệp lớn, nẻo tâm khác lẫn nhau, hiểu được chướng vi tế, liền thấu suốt bờ chân. Nếu không phải thầy giỏi, không thể quyết lý này. Rất mong Đại sư con, vui lòng mở yếu môn, dẫn dắt người dụng tâm chẳng để mất chánh đạo-Sư đáp: Pháp tánh vốn cơ nghiệp, mong cảnh thành khác nhau, thân thật tướng nhỏ nhiệm, sắc tam thường chẳng ngộ. Bỗng gặp kẻ hỗn độn, buồn thương xót chúng sinh, giả nghi rộng hỏi han, trong ôm lý thường sáng, cắt ngang đường sinh tử, khen chê tâm chẳng động, lão già quê phân đáp, pháp tướng vẻ thẹn thùng, mong phát thuốc chúng sinh, lại làm như sắc tánh.
- Niên hiệu Hiển Khánh năm thứ nhất Ấp Tể là Tiêu Nguyên Thiện mời Sư xuống núi đến ở chùa Kiến Sơ, Sư tạ từ mãi không khỏi bèn khiến vào thất của Thượng Thủ Trí Nham trao phó cho pháp Ấn để thứ lớp truyền trao. Khi sắp xuống núi thì bảo chúng rằng: Ta chẳng còn trở về đây nữa đâu. Lúc đó chim thú buồn kêu thảm thiết cả tháng không ngưng. Trước am có bốn cây ngô Đồng lớn, giữa tháng mùa Hạ mà bỗng héo rụng. Năm sau Đinh Tỵ ngày 23 tháng giêng nhuận thì Sư tịch tại chùa Kiến Sơ, thọ sáu mươi bốn tuổi, hạ lạp 45. Ngày 27 thì chôn ở núi Kê Lũng, người đưa hơn cả vạn. Trong chỗ ở cũ tại núi Ngưu Đầu, nguồn vàng, suối Hổ gầm, suối Tích trượng, ao rùa vàng, nhà đá nơi sư ngồi tĩnh tọa hiện nay vẫn còn.
Đời thứ 2: Thiền sư Trí Nham:
Người ở Khúc A, họ Hoa, khi tuổi trưởng thành thì trí dõng hơn người, thân cao bảy thước sáu tấc. Trong niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy làm Lang tướng. Sư thường dùng cung mang một túi lọc nước đi đâu cũng dùng được. Sư nhiều lần theo Đại tướng đi chinh phạt có lập nhiều chiến công. Trong niên hiệu Võ Đức đời Đường, tuổi đã bốn mươi bèn xin xuất gia. Sư vào núi Hoãn Công ở Thư Châu làm đệ tử Thiền sư Bảo Nguyệt. Sau, một hôm ngồi yên thấy có vị Tăng thân cao hơn trượng thần sáng khí thanh bảo Sư rằng: Ông tám mươi đời xuất gia càng phải nên tinh tiến, nói xong liền biến mất. Ông từng ở trong hang nhập định, nước khe núi tràn ngập. Sư vẫn an nhiên bất động thì nước ấy tự rút. Có một thợ săn gặp Sư vì vậy đổi nghề tu thiện. Lại có hai người đồng quân trận xưa nghe ẩn vào núi bèn tìm đến gặp bảo Sư rằng: Lang tướng điên à sao lại ở đây. Đáp: rằng: Ta điên muốn (sắp) tỉnh còn các ông thì đang phát điên. Ưa thích thanh sắc dâm tham vinh nhục thì thường trôi lăn trong sinh tử biết khi nào thoát ra, 2 người cảm ngộ than thở tự rút lui. Niên hiệu Trình Quán năm thứ mười bảy ông trở về Kiến Nghiệp vào ở núi Ngưu Đầu, gặp Thiền sư Dung mà phát minh việc lớn. Thiền sư bảo Sư rằng: Ta nhận được chân quyết của Đại sư Tín, chỗ được đều mất, nếu có một pháp hơn Niết-bàn ta nói cũng như mộng huyễn. Một hạt bụi bay mà che mù cả trời, một hạt cải rơi mà phủ khắp đất, nay ông đã bỏ qua thấy này thì ta biết làm sao. Tất cả sơn môn hóa đạo sẽ giao lại cho ông. Sư bèn lãnh lịnh làm Tổ đời thứ hai. Sau đem chánh pháp được giao lại cho Thiền sư Phương, ở tại hai Chùa Bạch Mã và Thê Huyền. Lại dời về ở thành Thạch Đầu, vào ngày 10 tháng giêng năm nghi Phụng thứ 2 thời nhà Đường thì thị tịch, nhan sắc không đổi co duỗi như còn sống. Trong thất có mùi thơm lạ suốt cả tuần không tan. Sư căn dặn là thủy táng, thọ bảy mươi tám tuổi, tuổi lạp ba mươi chín.
Đời thứ 3: Thiền sư Tuệ Phương:
Người ở Diên Lăng thuộc Nhuận Châu, họ Bộc, vào chùa Khai Thiện xuất gia và thọ giới cụ túc, thông suốt kinh luận. Sau đến núi Ngưu Đầu gặp Thiền sư Nham học hỏi bí yếu. Nham quán xét căn khí của Sư có thể đảm nhận chánh pháp bèn chỉ bày Tâm Ấn, Sư rỗng sáng lãnh ngộ. Do đó không ra khỏi rừng núi suốt mười năm, người học từ bốn phương đến đông như mây ùn. Một hôm Sư bảo chúng rằng: Ta muốn đi nơi khác tùy cơ lợi vật, còn các ông hãy nên tự lo. Bèn giao phó chánh pháp cho Thiền sư pháp trì. Bèn đến ở Mao Sơn suốt mấy năm khi sắp mất thấy có năm trăm người râu tóc đều có dáng vẽ như Bồ tát, đều cầm phướn đẹp bảo rằng: Mời Pháp sư giảng kinh. Lại cảm được thần núi hiện thành thân rắn to đến trước sân như sắp khóc mà từ biệt. Sư bảo Thị giả là Hồng Đạo rằng: Ta sắp đi đây. Ông vì ta báo cho các môn nhân, khi môn nhân đến thì sư đã tịch. Lúc đó là ngày mồng 1 tháng 8 niên hiệu Thiên Sách năm thứ nhất thời nhà Đường. Núi rừng bạc trắng, khe suối ngưng chảy suốt bảy ngày, đạo tục khóc than tiếng động núi rừng. Sư thọ sáu mươi bảy, tuổi lạp bốn mươi.
Đời thứ 4: Thiền sư Pháp Trì:
Người ở Giang Ninh thuộc Nhuận Châu, họ Trương. Tuổi nhỏ xuất gia. Năm ba mươi tuổi đền trong pháp hội của Đại sư Hoằng Nhẫn ở Huỳnh Mai nghe pháp mà tâm khai. Sau lại được Thiền sư Ngộ Phương ấn khả. Bèn nối dấu sơn môn làm tông tổ ở Ngưu Đầu. Khi ngài Huỳnh Mai tạ thế thì bảo đệ tử là Huyền Trách rằng: Sau có mười vị sẽ truyền pháp ta mà Pháp Trì ở Kim Lăng là một. Sau giao phó pháp Nhãn cho Thiền sư Trí Oai. Vào ngày mồng 5 tháng 9 niên hiệu Trường An năm thứ hai đời Đường Sư thị tịch tại Viên Vô Thường chùa Diên Tô ở Kim Lăng. Di chúc khiến để bày hài cốt dưới cội thông để nuôi chim thú. Ngày đưa thi hài ra giữa hư không có Thần cầm phướn từ phía Tây đi đến nhiễu quanh núi mấy vòng. Chỗ ở tre trúc đều bạc trắng suốt bảy ngày mới ngưng sư thọ sáu mươi tám tuổi, tuổi lạp bốn mươi mốt.
Đời thứ 5: Thiền sư Trí Oai:
Người ở Giang Ninh, họ Trần, trụ ở núi Nghinh Thanh. Mới đến tuổi tóc để trái đào, bỗng một hôm không thấy trong nhà, chẳng ai biết đi đâu. Đến khi. Cha mẹ hỏi tìm mới biết đã nương Pháp sư Thống ở chùa Thiên Bảo mà xuất gia, năm ba mươi tuổi thọ Giới cụ túc. Sau nghe Thiền sư Pháp Trì ra đời bèn đến lạy gặp và được trao truyền chánh pháp. Từ đó học chúng ở Giang Tả đều đến, trong đó có Tuệ Trung được xem là pháp khí, Sư có nêu kệ rằng:
Chớ phiền niệm niệm
Thành sông sinh tử
Biển luân hồi sáu đường
Chẳng thấy nổi sóng cao
Tuệ Trung đáp kệ rằng:
Niệm tưởng từ huyễn đến
Tánh vốn không đầu cuối
Nếu được ý ở đây
Sóng dài phải tự dừng.
Sư tiếp kệ rằng:
Bổn tánh ta hư vô
Duyên vọng sinh nhân ngã
Làm sao dứt vọng tình
Lại về ngồi chỗ không.
Tuệ Trung đáp kệ:
Hư vô là thật thể
Nhân ngã đâu lại còn
Vọng tình không cần dứt
Tức ngồi thuyền Bát-Nhã.
Sư biết người này đã liễu ngộ bèn trao cho Sơn môn rồi tùy duyên hóa độ. Ngày 18 tháng 2 niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười bảy đời đường thì tịch tại chùa Diên Tộ. Khi sắp tịch bảo đệ tử hãy đem thây vào rừng thí cho chim thú, hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi.
-Đời thứ 6: Thiền sư Tuệ Trung:
Người ở thượng Nguyên thuộc Nhuận Châu, họ Vương. Năm hai mươi ba tuổi thọ nghiệp ở chùa Trang nghiêm. Sau nghe Thiền sư Trí Oai ra đời bèn đến yết kiến. Oai vừa thấy liền bảo: Chủ núi đến. Sư cảm ngộ ý chỉ sâu kín bèn cho làm thị giả. Sau từ biệt đến lễ các nơi khác. Oai trụ ở viện cụ Giới thấy dây lăng tiêu mùa hạ mà héo, người muốn chặt bỏ. Do đó bảo rằng: Chớ chặt. Tuệ Trung trở về thì cây này sống lại. Lúc ấy Sư về thì quả nhiên đúng như lời nói. Bèn giao cho sơn môn, rồi ra ở chùa Diên Tộ. Sư (Tuệ Trung) bình sinh chỉ dùng 1 áo nạp và 1 bình bát từng cúng hai kho lúa nuôi Tăng. Kẻ trộm rình thì có hổ giữ kho.
Huyện lệnh là Trương Tốn đến núi đảnh lễ hỏi Sư có đồ đệ nào không? Sư nói có ba mươi lăm người. Tốn hỏi làm sao được gặp? Sư gõ vào giường thiền thì có ba con hổ gầm rống chạy ra. Tốn kinh hãi lui về. Sau chúng thỉnh sư trở về chùa cũ Trang Nghiêm. Sư muốn xây pháp đường ở phía Đông điện. Trước có cây cổ thụ bầy chim khách làm tổ trên đó, thợ sắp đốn. Sư bảo chim rằng: Đất này nay xây pháp đường, sao các ngươi không sớm bay đi. Nói xong thì bầy chim khách dời tổ sang cây khác. Lúc mới xây cất có hai thần định bốn góc lại ngầm giúp việc ban đêm nên chẳng mấy ngày thì xong. Do đó học đồ bốn phương nhóm về, người được pháp có đến ba mươi bốn vị, đều ở một phương khác mà độ nhiều chúng. Sư từng có kệ an tâm dạy chúng rằng:
Nhân pháp đều dứt
Thiện ác cùng quên
Chân tâm chân thật
Đạo tràng Bồ đề.
Niên hiệu Đại Lịch ba năm thứ ba đời Đường, trước thạch thất treo nồi, trên cây treo áo mùa hạ cây bị chết khô. Ngày rằm tháng 6 năm Đại Lịch thứ tư, Sư nhóm chúng Bồ tát xong thì sai thị giả cạo tóc rửa mình. Giữa đêm có mây lành che trên tinh xá, trên hư không có tiếng nhạc trời Ngài hỏi sáng chưa? rồi ngồi mà hóa. Lúc đó, mưa to gió lớn thổi gãy cây trong rừng, lại có cái mống trắng vắt ngang qua núi, mùa Xuân niên hiệu Đại Lịch năm thứ năm làm lễ trà-tỳ, Xá-lợi thu được vô số, thọ tám mươi bảy tuổi.
Thiền Sư Pháp Dung trước đây có ba đời bàng xuất đệ tử nối pháp.
Thiền sư Đàm Thôi trụ ở Chung Sơn thuộc Kim Lăng.
Người ở Ngô Quận, họ Cố. Lúc đầu đến yết kiến đại sư Pháp Dung ở Ngưu Đầu. Đại sư nhìn thấy cho là kỳ lạ, bảo rằng: Sắc thanh là rượu độc của vô sinh thọ tưởng là hầm bẫy của bậc chí nhân, ông có biết chăng. Sư làm thinh mà xét thì Đại Ngộ Huyền Chỉ. Liền ẩn dấu ở Chung Sơn suốt trong nhiều năm. Cất am tranh ở Ngõa Phủ để ở đến hết đời. Ngày mồng 06 tháng 02 niên hiệu Thiên Thọ năm thứ 3 đời Đường, Sư điềm nhiên nhập định bảy ngày mà tịch, thọ sáu mươi hai tuổi.
Thiền sư Trí Oai trước đây có ba đời bàng xuất đệ tử nối pháp Thiền sư Huyền Đĩnh ở chùa An quốc ở Tuyên Châu:
Không biết người ở đâu, đã từng vào một ngày ở Trường An đến giảng kinh Hoa Nghiêm, có một vị Tăng đến hỏi Ngũ Tổ rằng: Chân tánh duyên khởi nghĩa ấy thế nào? Tổ im lặng. Lúc đó Sư đứng hầu một bên mới nói rằng: Này Đại đức, chính lúc khởi một niệm hỏi ấy là trong chân tánh duyên khởi. Vị tăng sau lời nói liền đại ngộ. Lại có người hỏi Nam tông từ đâu mà lập? Sư đáp Tâm tông chẳng có Nam Bắc.
Thiền sư Huyền Tố ở Hạc Lâm Nhuận Châu:
Người ở Diên Lăng thuộc Nhuận Châu, họ Mã. Trong niên hiệu Như Ý đời Đường Sư thọ nghiệp tại chùa Trường Thọ ở Giang Ninh. Về già tham kiến ngài Trí Oai Thiền sư bèn ngộ Chân tông. Sau chùa Hạc Lâm tại Kinh Khẩu. Một hôm có người đồ tể đến gặp Sư mời về nhà cúng dường. Sư vui vẻ đến nơi. Chúng đều nghi ngờ, Sư bảo: Phật tánh bình đẳng hiền ngu như nhau nhưng người đáng được độ thì ta liền đến độ, đâu có gì khác nhau. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến. Sư nói hiểu tức chẳng hiểu, nghi tức chẳng nghi. Sư lại nói: Chẳng hiểu thì chẳng nghi, chẳng nghi thì chẳng hiểu. Lại có vị Tăng gõ cửa, Sư hỏi: Ai đấy? Đáp: Là Tăng. Sư nói: Chẳng phải chỉ là Tăng, Phật đến cũng không dính. Thưa: Phật đến sao không dính mắc Sư nói không có chỗ ông ghé nghỉ ngơi-Ngày 11 tháng 11 niên hiệu Thiên Bảo năm thứ mười một lúc nửa đêm, Sư không bịnh mà tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, xây tháp thờ ở núi Hoàng Hạc. Vua sắc chỉ ban húy hiệu là Đại Tân Thiền sư, tháp hiệu Đại Hòa Bảo Hàng.
Thiền sư Sùng Tuệ, ở núi Thiên Trụ Thư Châu:
Người ở Bành Châu, họ Trần. Niên hiệu Càn Nguyên đời Đường lúc đầu Sư đến núi Thiên Trụ ở Thư Châu xây chùa. Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất vua sắc ban hiệu là chùa Thiên Trụ. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Thiên trụ? Sư nói: Núi Chủ Bộ cao khó thấy mặt trời. Trước ngọn Ngọc cảnh dễ hiểu người.
- Hỏi: Khi Đạt-ma chưa đến xứ này thì có Phật pháp hay không? Sư đáp: Thời vị lai đã bỏ việc nay lấy gì sinh. Thưa rằng: Chẳng hiểu gì xin Sư giảng rõ. Sư nói: Vạn cổ bầu trời cao rộng, lúc nào cũng có gió trăng. Hồi lâu lại nói Xà-Lê hiểu chăng. Tự mình phần trên làm sao sinh. Can hệ gì Đạt-ma kia đến hay chưa đến làm gì. Người khác đến rất giống ông thầy bói. Thấy ông chẳng hiểu cho ông một chùy mà phá tan lời văn kỳ quái). Vừa sinh lành dữ ở phần trên ông tất cả tự xem. Vị Tăng hỏi: Thế nào là người hiểu bói toán? Sư nói khi ông vừa ra khỏi cửa liền chẳng trúng.-Lại hỏi: Thế nào gia phong của Thiên trụ? Sư nói: Khi có mây trắng đến thì đóng cửa. Lại không có gió trăng bốn núi sông. Hỏi: Tăng chết rồi thì ở đâu? Sư nói: Núi Tiềm cao vót ngọn xanh rì, sông thư trăng sáng màu rực rỡ-Hỏi: Thế nào là Phật Đại Thông Trí Thắng? Sư nói: Nhiều kiếp đến nay không hề bít lấp chẳng phải Phật Đại Thông Trí Thắng thì là cái gì?-Hỏi: Vì sao Phật pháp chẳng hiện tiền? Sư nói: Chỉ vì ông không hiểu cho nên thành chẳng hiện tiền. Nếu ông hiểu rồi thì không có Phật Đạo để thành.-Hỏi: Thế nào là Đạo? Sư nói: Mây trắng tự che núi xanh, chim ong bay sân hoa-Hỏi: Từ trên các Thánh có nói năng gì? Sư nói: Nay Ông thấy ta có nói năng gì.-Hỏi: Trong tông môn thỉnh Sư lên tiếng? Sư nói: Trâu đá rống dài ngoài chân không, ngựa gồ hý vang ẩn núi.-Hỏi: Chỗ lợi người của Hòathượng như thế nào? Sư nói: Một cơn mưa thấm khắp sắc đẹp của ngàn núi.-Hỏi: Thế nào là người trong núi Thiên trụ? Sư nói: Riêng mình đến ngàn đảnh núi, dạo chơi khắp suối chín khúc.-Hỏi: Thế nào là ý từ phương Tây đến? Sư nói: Vượn trắng ôm con đến núi xanh, ong bướm ngâm hoa mà hút nhụy. Sư ở núi giảng Đạo suốt hai mươi hai năm. Ngày 22 tháng 7 niên hiệu Đại Lịch năm thứ mười bốn thì Sư thị tịch. Xây tháp thờ ở phía Bắc chùa để an táng toàn thân.
Thiền sư Huyền Tố chùa Hạc Lâm Nhuận Châu trước đây có đệ nối pháp:
Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn, thuộc Hàng Châu.
Người ở Côn Sơn Tô Châu, họ Chu. Xưa theo Nho học, năm hai mươi tám tuổi thì gặp Thiền sư Huyền Tố, bảo rằng: Xem thấy ông thần khí ôn hòa thật là pháp bảo. Sư cảm ngộ nhận xin làm đệ tử. Huyền Tố đích thân cạo tóc và dặn rằng: Ông đi theo con sông gặp núi Kính thì dừng. Sư bèn đi về
Nam đến Lâm An thấy một ngọn núi ở phía Đông Bắc nhân hỏi tiều phu thì đáp đó là Kính Sơn, bèn đến ở đó. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Đạo? Sư nói: Trên núi có cả chép, đáy nước có bụi cỏ bồng. Mã Tổ sai người đưa thư đến, trong thư vẽ một hình tròn. Sư bèn vạch một nét trong vòng tròn rồi gấp thư gởi lại. Có vị Tăng hỏi Thế nào là ý Tổ sư từ tây-trúc đến? Sư nói: Ông hỏi không đúng. Lại hỏi: Thế nào là đúng, thì đáp đợi ta diệt độ rồi sẽ nói cho ông biết-Mã Tổ sai đệ tử là Trí Tạng đến hỏi: Trong mười hai giờ (24 giờ) lấy gì làm cảnh? Sư nói: Đợi ông trở về sẽ có tin. Trí Tạng nói: Tôi đang trở về. Sư nói: Truyền lời thì phải hỏi lấy Tổ Tào Khê (Lục tổ)-Niên hiệu Đại Lịch năm thứ ba đời Đường, Đường Đại Tông mời Sư vào Triều kính lễ. Một hôm Sư ở trong sân thấy vua liền đứng dậy. Vua hỏi: Sư vì sao mà đứng? Sư nói: Thí chủ, đâu được trong bốn oai nghi mà thấy bần đạo. Vua rất vui bảo Trung Quốc Sư rằng: Muốn ban cho Khâm Sư một danh hiệu. Trung vui mừng dâng chiếu bèn ban hiệu là Quốc Nhất. Sau từ biệt vua trở về núi. Vào tháng 12 niên hiệu Trinh Quán năm thứ tám Sư đang nói pháp thì mất thọ bảy mươi chín tuổi. Vua sắc ban thụy hiệu là Đại Giác Thiền sư.
Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn thuộc hàng Châu trước đây có Đệ tử Đệ tử nối pháp:
Thiền sư Đạo Lâm ô Sào ở Hàng Châu.
Người ở Phú Dương thuộc Bổn quận, họ Phan.
Mẹ là bà họ Chu thấy ánh sáng chạy vào miệng bèn có thai. Khi sinh ra thì mùi thơm lạ đầy nhà bèn đặt tên là Hương Quang. Chín tuổi xuất gia, năm hai mươi mốt tuổi thọ giới cụ túc tại chùa Quả Nguyện ở Kinh Châu. Sau đến nơi Pháp sư Phục Lễ ở Chùa Tây Minh tại trường An mà học kinh Hoa Nghiêm và Luận Khởi Tín. Phục lễ lấy tụng Chân Vọng dạy tu thiền-na. Sư hỏi rằng: Trước hết quán cái gì, dụng tâm như thế nào? giây lâu Phục lễ không nói. Sư lạy ba lạy mà lui ra. Vua Đường Đại tông ban chiếu mời Thiền sư Quốc Nhất ở Kính Sơn vào triều. Sư đến yết kiến bèn được chánh pháp. Khi trở về Nam trước là chùa Vĩnh Phước Cô Sơn, có tháp Bích Chi Phật, lúc đó đạo tục cùng làm pháp hội. Sư chống tích trượng mà vào, có Pháp sư Thao Quang ở chùa Linh Ẩn hỏi rằng: Pháp hội này lấy gì làm tiếng? Sư nói: Không có tiếng ai biết là hội. Sau thấy núi Tần Vọng có cây thông lớn cành lá sum xuê tròn như cái lọng bèn leo lên đó mà ở, nên người ta gọi là Thiền sư Ô Sào. Lại có ổ chim Thước (khách) ở đó rất quen thuộc với người, nên gọi là Hòa-thượng Thước Sào. Có thị giả là Hội Thông bỗng một hôm đến từ giã Sư mà đi. Sư hỏi: Nay ông đi đâu? Đáp: Hội thông vì pháp xuất gia, vì Hòa-thượng không dạy dỗ gì nên đến các nơi khác mà học Phật pháp. Sư nói: Nếu là Phật pháp thì ta ở đây cũng có chút ít.-Hỏi: Phật pháp của Hòa-thượng ra sao? Sư bèn lấy lông tơ vải áo đang mặc mà thổi.-Hội thông hiểu được ý sâu kín. Trong niên hiệu Nguyên Hòa, Bạch Cư Dị ra trấn thủ ở Quận Tư, nhân vào núi lễ Sư bèn nói Sư rằng: Thiền sư ở chỗ rất nguy hiểm. Sư đáp: Thái Thú nguy hiểm càng hơn. Bạch hỏi: Đệ tử vị trấn giữ sông núi sao có nguy hiểm. Sư nói: Củi lửa giao nhau tánh biết không dừng, sao chẳng nguy hiểm. Lại hỏi: Thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư đáp: Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng làm. Bạch Cư Dị nói: trẻ ba tuổi cũng nói được. Sư đáp: Trẻ ba tuổi nói được mà người già tám mươi không làm được. Bạch bèn đảnh lễ. Sư vào ngày mồng 10 tháng 2 niên hiệu Trường Khánh năm thứ tư, bảo thị giả rằng: Nay ta báo đã hết, nói xong thì ngồi mà hóa. Thọ tám mươi bốn tuổi, tuổi lạp sáu mươi ba.
Thiền sư Đạo Lâm Ô Sào ở Hàng Châu đây có đệ tử Đệ tử nối pháp
-Thiền sư Hội Thông, chùa Chiêu Hiền ở Hàng Châu.
Người ở Bổn quận, họ Ngô vốn tên Nguyên Khanh hình tướng khôi ngô tuổi nhỏ mà rất thông minh. Đời Đường Đức Tông làm Lục cung Sứ. Vương tộc đều thích. Mùa xuân thấy cung Chiêu Dương hoa nở rộ bèn đến ngắm xem rất lâu. Bỗng nghe trên hư không có tiếng nói: Tướng hư huyễn nở tàn không dừng có thể làm hại gốc lành. Sao Nhân giả lại ưa thích. Sư sực tỉnh nghĩ là tuổi trẻ sùng thiện quá lắm ắt sinh chán sợ. Vua một hôm dạo cung hỏi: Sao khanh chẳng vui? Tâu rằng: Thần từ nhỏ không ăn mặn chí muốn theo Phật. Vua nói trẫm xem khanh như Côn Trọng nhưng giàu sang muốn hơn người là không trái với khanh chỉ xuất gia thì không được. Sau đó, vua thấy dung mạo tiều tụy liền ban chiếu sai làm Vương Tân Tướng. Tâu rằng: Người này nối tiếp làm hưng thạnh Tam bảo. Vua bảo Sư rằng: Như khanh xin chọn ngày xa gần mà tâu lại. Sư rất tạ ân. Vừa được tin nhà nói mẹ bịnh bèn xin về thăm viếng. Vua ban thưởng rất hậu. Sai Hữu Ty đưa tiễn Sư. Đến nhà chưa bao lâu gặp Pháp sư Thao Quang khuyên gắng bèn gặp Ô Sào nguyện làm thí chủ cùng lập am xây chùa. Chùa thành bèn thưa rằng: Đệ tử bảy tuổi đã ăn chay, mười một tuổi thọ năm giới, nay hai mươi hai tuổi vì xuất gia mà từ quan, xin Hòathượng trao cho tăng tướng. Đáp rằng: Thời nay làm Tăng có người khổ nhọc làm nhiều việc lạm dụng. Sư nói: Vốn trong sáng chẳng cần mài giũa, căn bản sáng tỏ không tùy theo soi chiếu. Bảo rằng: Nếu ông thể tịnh trí diệu viên vốn tự trống vắng (không tịch thì đó là chân xuất gia rồi, cần gì phải nhờ tướng bên ngoài). Ông chính là Bồ tát Tại Gia, giới thí đều tu như bạn bè của Tạ Linh Vân kia. Sư nói đúng thế, lý tuy như thế nhưng với sự nào có ích gì. Nếu được nhiếp thọ thì thể vâng theo lời Sư dạy. Ba lần thỉnh Như thế đều không chịu ừ. Lúc đó Thao Quang bèn kiên quyết thưa Ô Sào rằng: Cung sứ chưa hề cưới cũng không nuôi thị nữ. Thiền sư nếu vẫn không thừa tiếp thì ai được độ. Ô Sào liền xuống tóc và truyền Giới cụ túc cho. Sư thường ăn chay giờ mẹo ngày đêm tinh tiến tụng kinh Đại thừa mà tu Tam-muội An Ban. Vừa cố từ tạ để đi du phương, Ô Sào lấy lông vải (thổi) mà ngộ chỉ. Lúc đó gọi là Bố mao thị giả (Thị giả lông vải). Đến khi Ô Sào qui tịch hai mươi năm thì Đường Võ Tông phá chùa, Sư cùng Tăng chúng lạy từ Linh tháp mà đi xa, không biết cuối cùng ra sao.
Thiền sư Tuệ Trung trước đây có hai đời đệ tử Đệ tử nối pháp: Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên Thai.
Người ở Kinh Triệu, họ Trương Tôn. Lúc nhỏ gặp Thiền sư Trung ở Ngưu Đầu mà đại ngộ huyền chỉ, sau ẩn vào ngọn phía Tây của Bạo Bố ở Thiên Thai. Trong niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, giảng kinh dần thạnh. Lúc đầu chỉ hang núi đang ở là Phật Quật. Một hôm dạy chúng rằng: Trời đất không có vật, ta cũng không có vật, nhưng chưa từng không có vật, vậy thì bậc Thánh như bóng trăm năm như mộng, thì cái gì là sinh tử. Bậc chí nhân do đó mà riêng xét chiếu mà làm chủ muôn vật. Ta biết như thế. Các ông có biết chăng? Có vị tăng hỏi: Thế nào là mũi tên Na-la-diên? Sư nói: Là trúng đích. Bỗng một hôm bảo đệ tử rằng: Các ông nên cố gắng, ta đâu có nói gì! Hai hôm sau, giữa đêm Sư ngồi yên mà thị tịch, thọ tám mươi tuổi, tuổi lạp năm mươi tám.
Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên Thai đệ tử Đệ tử nối pháp Thiên Thai Sơn.
Thiền sư Vân Cư Trí núi Thiên Thai.
Đã từng có vị Tăng ở viện Hoa Nghiêm là Kế Tông hỏi rằng: Thấy tánh thành Phật nghĩa ấy thế nào? Sư nói: Tánh thanh tịnh xưa nay rỗng sáng không hề lay động, chẳng thuộc có không, tịnh uế, dài ngắn, lấy bỏ, tự thể thường như thế. Thấy rõ như thế thì gọi là thấy tánh. Tánh tức Phật, Phật tức tánh, cho nên nói thấy tánh thành Phật.-Hỏi: Tánh đã thanh tịnh thì chẳng thuộc có không, vì sao lại có thấy?-Sư nói: Thấy không chỗ thấy-Hỏi: Không chỗ thấy vì sao lại có thấy? Sư nói: Chỗ thấy cũng không.-Hỏi: Như thế khi thấy là ai thấy? Sư nói: Không có người tự nhiên thấy-Hỏi: rốt ráo lý ấy ra sao? Sư nói: Ông biết chăng vọng suy nghĩ là có tức có, năng sở được gọi là mê, theo thấy mà sinh hiểu thì rơi vào sinh tử. Người thấy rõ (minh kiến) thì chẳng như thế. Suốt ngày thấy mà không hề thấy, cầu chỗ thấy thể tướng chẳng thật có năng sở đều mất thì gọi là thấy tánh. Hỏi: Tánh này ở khắp tất cả chỗ chăng? Sư nói: Không chỗ nào chẳng khắp. Hỏi: Phàm phu có chăng? Sư nói: Trước nói không chỗ nào chẳng khắp há phàm phu mà không đủ ư?-Hỏi: Vì sao chư Phật Bồ tát không bị sinh tử trói buộc, mà riêng phàm phu lại bị khổ này, thì đâu là khắp được? Sư đáp: Phàm phu ở trong tánh thanh tịnh chấp có năng sở liền rơi vào sinh tử. Còn chư Phật Đại sĩ khéo biết trong tánh thanh tịnh chẳng thuộc có không, tức năng sở chẳng lập-Hỏi: Nếu nói như thế thì có người liễu và chẳng liễu? Sư nói: Liễu còn chẳng thật có, há có người tự nhiên liễu ư?-Hỏi: Lý rốt ráo ra sao? Sư đáp: Ta nói tóm tắt, ông ở ngay niệm này trong tánh thanh tịnh không có Thánh phàm, cũng không có người liễu và người không liễu. Hai loại Phàm và Thánh đều là tên gọi, nếu theo tên mà sinh hiểu thì liền rơi vào sinh tử. Nếu biết là giả danh không thật, thì tức là không có tên gọi này. Lại bảo đây là chỗ rất rốt ráo, nếu nói ta có thể thấy liễu mà người kia không có thể thấy liễu thì là bịnh lớn, thấy có tịnh uế, phàm Thánh cũng là bịnh lớn. Nếu hiểu không có phàm Thánh thì thuộc về bác không có nhân quả. Thấy có tánh thanh tịnh để nương tựa cũng là bịnh lớn, hiểu không có chỗ nương tựa cũng là bịnh lớn. Nhưng trong tánh thanh tịnh tuy không có lay động mà lại đầy đủ các phương tiện ứng dụng bất hoại và hưng vận lòng từ bi chỗ hưng vận như thế tức hoàn toàn là tánh thanh tịnh, có thể gọi là thấy tánh thành Phật. Kế Tông vui mừng lạy tạ mà lui.
Tổ thứ 32: ĐẠI SƯ HOẰNG NHẪN: Đời thứ nhất bàng xuất đệ tử Đệ tử nối pháp.
1. Thiền sư Thần Tú Bắc Tông.
Người ở phủ Khai Phong, họ Lý. Thuở nhỏ học Nho làu thông các sách, bỗng bỏ ái đi xuất gia tìm thầy học đạo. Đến chùa Đông Sơn ở Song Phong thuộc Kỳ Châu, gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lấy ngồi thiền làm cốt yếu (sự nghiệp) bèn khen phục rằng: Đây mới thật là thầy ta. Bèn tâm thề khổ nhọc gánh nước bửa củi tự phục dịch mà cầu đạo. Hoằng Nhẫn thầm biết nên càng chú trọng dạy dỗ, bảo rằng: Ta độ nhiều người nhưng ngộ giải thì không ai bằng ông. Khi Tổ Hoằng Nhẫn đã tịch, Thần Tú bèn đến trụ núi Đương Dương ở Giang Lăng. Đường Võ Hậu nghe tiếng Sư bèn mời vào kinh, ở trong Nội đạo tràng mà cúng dường, càng đặc biệt kính lễ, cho lập chùa Độ Môn ở núi cũ mà biểu thị cho đức độ của Thần Tú. Lúc đó Vương công sĩ thứ đều bái phục. Đến lúc Đường Trung Tông lên ngôi thì càng trọng vọng Sư, Đại thần Trương Thuyết đã từng hỏi pháp yếu và xin làm đệ tử. Sư có bài kệ dạy chúng rằng:
Tất cả Phật pháp
Tự tâm vốn có
Cầu vật ngoài tâm
Bỏ cha đi hoang.
Niên hiệu Thần Long năm thứ hai, Ngài ở chùa Thiên Cung ở Đông Đô mà viên tịch. Vua ban thụy là Đại Thông Thiền sư, đầy đủ nghi lễ an táng ở Long Môn. Vua tiễn đến cầu, các Vương công sĩ thứ cùng đưa đến huyệt. Trương Thuyết và Trưng Sĩ Lô Hồng làm bia. Môn nhân là Phổ Tịch, Nghĩa Phước v.v... đều được triều đình và thôn quê kính trọng.
Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc.
Người ở Chi Giang thuộc Kinh Châu, họ Vệ. Vua Tùy Văn Đế niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy nắm giữ thiên hạ, riêng độ tăng ni, khen sư là cây vô danh. Sư bèn tuần du các hang núi. Trong niên hiệu Đại Nghiệp mộ người khai thông sông ngòi, người đói khát rất nhiều, Sư đi khất thực mà cứu rất đông. Vua Tùy Dạng Đế mời, Sư không đến, trốn vào núi Thái Hòa. Khi vua đến Giang Đô trong nước nhiễu nhương, bèn chống tích trượng lên chùa Hoành Nhạc tu hạnh đầu đà. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường Sư đến Huỳnh Mai yết kiến Tổ Hoằng Nhẫn nhận được tâm yếu. Niên hiệu Lân Đức năm thứ nhất bèn đến Thạch Bích ở núi Chung Nam mà ở đấy. Vua Đường Cao Tông mời Sư cũng không đến. Sư trải khắp các danh tích, đến Tùng Thiếu thì bảo rằng: Ta mất ở đây. Từ đó người tu thiền càng hội họp, có hai vị Thản Nhiên và Hoài Nhượng đến tham vấn rằng: Thế nào là ý của Tổ sư ở Tây Trúc đến? Sư đáp: Sao không hỏi ý mình? Thưa rằng: Ý mình như thế nào? Sư nói nên quán tác dụng ngầm. Hỏi: Thế nào là tác dụng ngầm? Sư nháy mắt mấy cái mà biểu thị. Nhưng sau lời nói thì biết về mà không đến nơi khác. Hoài Nhượng duyên chưa chín bèn từ giả mà đến Tào Khê. Võ Hậu mời Sư về triều đãi lễ thầy trò, cùng tôn trọng như Thiền sư Thần Tú. Võ Hậu có hỏi Sư về Giáp Tử. Sư nói không nhớ. Võ Hậu hỏi sao không nhớ. Sư đáp: Thân sinh tử như cuộc tuần hoàn, hoàn hết và không khởi thì nhớ làm gì. Huống chi tâm này rong chạy mãi không dừng, thấy bọt nước sanh diệt hẳn là luống dối. Từ sơ thức (thức đầu Tiên) cho đến tướng động, khi diệt cũng chỉ như thế, có năm tháng nào mà nhớ, Võ Hậu nghe xong gật đầu tin nhận. Đến niên hiệu Thần Long năm thứ hai, vua Đường Trung Tông ban cho y ca sa tím, Sư độ được 14 vị đệ tử, vẫn vào cung cấm được cúng dường ba năm, vua lại ban cho một ma-nạp. Sư từ giả Tung Nhạc. Năm đó ngày mồng 3 tháng 3 Sư dặn dò các đệ tử rằng: Ta chết rồi hãy mang thây ta vào rừng đợi lửa rừng thiêu đốt. Bỗng lúc đó có Vạn Hồi Công đến thăm thì tha thiết nắm tay bàn nói, người đứng hầu bên cạnh lăng nghe mà chẳng hiểu gì. Đến ngày mồng 8 thì đóng cửa ngồi yên mà thị tịch thọ một trăm hai mươi tám tuổi (sinh năm Nhâm Dần, niên hiệu Khai Hoàng thứ hai đời Tùy, mất vào niên hiệu Cảnh Long thứ ba Đường, Kỷ Dậu, đời gọi là Lão An Quốc sư). Đệ tử vâng lời đặt thây trong rừng, quả nhiên lửa rừng tự thiêu, xá-lợi thu được tám mươi hạt, có năm hạt màu đỏ tía giữ ở trong cung. Đến niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, đệ tử xây tháp thờ.
Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn thuộc Viên Châu:
Người ở Phàn Dương, là con cháu của Trần Tuyên Đế, nước mất nên lưu lạc chốn dân gian vì là cháu vua nên được (xem trọng) do đó có hiệu là Tướng quân. Thuở nhỏ Sư xuất gia ở chùa Vĩnh Xương mộ đạo rất chí thiết. Bèn đến nương Pháp Hội của Ngũ Tổ mà hết lòng nghiên tầm. Lúc đầu chưa hiểu, khi nghe Tổ ngầm giáo y pháp cho Lô Hành Giả (Lục tổ Tuệ Năng) thì liền dẫn mấy mươi người đồng tâm ý đuổi theo tìm đến núi Đại Tẩu. Sư đi trước nhất, những người kia chưa đến. Lô Hành Giả thấy Sư bèn chạy đến để y bát trên tảng đá bằng, bảo rằng: Y này biểu thị cho lòng tin, lại dùng sức mà tranh giành ư? Ông cứ lấy đi. Sư bèn cầm lên, nhưng nặng như núi không thể nâng lên được, bèn do dự khiếp sợ thưa: Con đến đây cầu pháp chứ không phải cầu y, xin hành giả chỉ dạy cho con. Lục Tổ nói chính lúc không nghĩ thiện không nghĩ ác là mặt mũi xưa nay của Thượng Tọa Minh. Ngay lời nói ấy thì Sư Đại ngộ, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, khóc lạy thưa rằng: Ngoài mật ngữ mật ý trên, còn có ý chỉ nào khác chăng? Lục Tổ nói: Nay ta nói với ông thì không phải mật nữa, nếu ông chiếu soi lại lấy mình mà nhìn, thì mật liền ở bên ông. Sư nói: Con trước nay ở bên ngài Huỳnh Mai theo chúng, nhưng chưa tự xét mình mà nhìn, nay xin chỉ trao chỗ vào, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Nay hành giả tức là thầy con. Lục Tổ nói: Như thế thì ta cúng ông đồng thầy là ngài Huỳnh Mai, hãy tự khéo giữ gìn. Sư lại hỏi: Sau này con nên về đâu? Tổ nói gặp Viên thì dừng gặp Mông thì ở. Sư bèn lễ tạ, rồi đến một chân núi bảo mọi người rằng: Leo lên chót vót mà xa trông thì chồng chất không dấu vết hãy tìm đường khác cũng thế. Sư trở về, bèn một mình đến Đài Bố Thủy ở Lô Sơn, ở đó ba năm. Sau mới đến Mông Sơn ở Viên Châu mà rộng hoằng hóa. Lúc đầu tên là Tuệ Minh, vì tránh chữ Tuệ của Tổ Tuệ Năng nên gọi là Đạo Minh. Sư dặn dò các đệ tử đều đến Lãnh Nam mà tham vấn Lục Tổ.
* Đệ tử nối pháp Thiền sư Thần Tú Bắc
Tông (Đời thứ hai của Tổ Hoằng Nhẫn) 1. Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ Đài.
Người ở An Lục, họ Tào. Thuở nhỏ thọ nghiệp với Thiền sư Lãng ở Viện Minh Phước. Trước giảng kinh luận, sau tham thiền. Khi tới Bắc tông, Thiền sư Tú hỏi: Chỗ mây trắng tan ra sao? Sư nói: Không hiểu. Tú lại hỏi: Đến chỗ này sau thế nào? Sư đáp: Chánh thấy một cành có năm lá. Tú làm thinh chấp nhận.-Vào thất đứng hầu đối đáp hầu như không sai lầm. Bèn tìm đến Thượng Đảng Hàn Lãnh mà ở. Được mấy năm chúng đông cả ngàn. Sau, Sư hoằng hóa ở Ngũ Đài hơn hai mươi năm sau thì nhập diệt, thọ tám mươi mốt tuổi vào ngày mồng 03 tháng 09 niên hiệu Khai Nguyên thứ 15 đời Đường. An tán toàn thân trong tháp.
Thiền sư Trí Phong ở núi Trung Điều thuộc Phủ Hà Trung:
Họ Ngô, trước học luận Duy Thức bị dính mắc bởi Danh Tướng, bị người hiểu gạn hỏi: Nổi giận mà bỏ giảng, đi đến núi Võ Đang, gặp Thiền sư Tú thì tâm nghi sớm loại trừ. Nghĩ nuôi mầm Thánh bèn từ giả mà đi, đến ở núi An Phong tại Bồ Tân mười năm chẳng xuống núi chỉ ăn rau cỏ uống nước suối. Thục Châu Mục Vệ Văn Thăng mời sư về thành nội, xây dựng viện Tân An Quốc mà ở. Đạo tục kéo đến không ngớt. Sứ quân hỏi rằng: Nay ta ngày sau thế nào? Sư nói: Mặt trời từ mưa ra, chiêu cây toàn không bóng. Sứ quân mới đầu không thể nào hiểu được, chắp tay vái chào mà lui, sau đó lựa chọn hiểu ra mà cảm thấy thoải mái thư thái. Sư qua lại núi Trung Điều ở hơn hai mươi năm, người được Đạo đông vô số. Sau khi Sư mất thì đệ tử xây tháp thờ ở phía Bắc thành của Châu.
Thiền sư Hàng Ma tạng ở Duyên Châu:
Người ở Triệu quận, họ Vương, cha là làm hào Duyện (quan chức nhỏ). Sư 7 tuổi đã xuất gia. Lúc đó ở Thục Dã có nhiều yêu quỉ ưa mê hoặc người, Sư một mình chế phục không chút sợ sệt, nên được gọi là Hàng Ma. Liền nương Thiền sư Minh Tán ở viện Quảng Phước mà xuất gia siêng tu. Sau khi thọ pháp gặp Bắc Tông Thần Tú thạnh hành bèn thề qui y. Tú sư hỏi: Ông tên Hàng Ma ở đây không có ma núi quỉ cây thì ông lại làm ma ư? Sư nói: Có Phật thì có ma. Tú nói: Nếu ông là ma thì ở cảnh giới không nghĩ bàn. Sư nói: Là Phật cũng không sao có cảnh giới. Tú huyền ký rằng: Ông với gò Thiếu Hạo có duyên Sư bèn tìm vào núi Thái, có rất nhiều người học theo về. Một hôm sư bảo các đệ tử rằng: Ta đã già yếu, vật cuối cùng có chỗ về.
Nói xong thì mất, thọ chín mươi mốt tuổi.
Thiền sư Đạo thọ ở Thọ Châu:
Người ở Đường Châu, họ Văn, thuở nhỏ tìm tòi kinh sách, đến năm mươi tuổi nhân gặp được vị cao tăng khuyên dạy nên thệ xuất gia, lễ Tuệ văn ở núi Minh Nguyệt thuộc bổn bộ làm thầy. Sư thẹn lớn tuổi mới cầu pháp bèn gắng chí đi khắp không đâu chẳng đến. Sau trở về Đông Lạc gặp Thiền sư Tú. Sau lời nói biết có hiểu chút ít sẽ thành pháp khí. Bèn đến núi Tam Phong ở Thọ Châu, cất am tranh mà ở. Thường có người quê mặc áo lụa trắng lời lẽ chất phác, nói chuyện kỳ lạ đùa cười và hóa hiện các hình Phật Bồ tát, La-hán Thiên Tiên v.v... hoặc phát ra ánh sáng lạ hoặc tạo tiếng vang, Sư và học trò thấy việc đều chẳng lường. Như thế mười năm thì dứt bặt không hình bóng. Sư bảo chúng rằng: Các người quê có nhiều hình sắc khéo léo mê hoặc người để làm mất cái chẳng thấy chẳng nghe của Lão Tăng chỉ có Lão Tăng chẳng thấy chẳng nghe, tài khéo ấy chẳng còn mà chẳng thấy chẳng nghe của ta thì không hết. Niên hiệu Bảo Lịch năm thứ nhất đời Đường bị bịnh mà mất, thọ chín mươi hai tuổi, tháng giêng năm sau thì xây tháp.
Thiền sư Toàn Thực ở núi Đô Lương Hoài Nam:
Người ở Quang Châu, họ Nhuế. Lúc đầu cất am mà ở. Thái Thú Vệ Văn Khanh mời Sư đến chùa Trường Thọ ở bổn châu mở pháp Hội nhóm họp đồ chúng. Văn Khanh hỏi: Tương lai Phật pháp hưng suy ra sao? Sư đáp: Vật chân thật không xưa không nay cũng không khuôn phép. Pháp hữu vi bốn tướng đổi dời. Pháp sẽ bị vùi lấp, ông đợi sẽ thấy. Sư chín mươi ba tuổi thì mất. Ngày mồng 07 tháng 09 năm Giáp Tý Niên hiệu Hội Xương thứ tư đời đường thì nhập tháp.
* Đệ tử nối pháp Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc
Thiền sư Nhân Kiệm chùa Phước Tiên ở Lạc Kinh:
Từ Tung Sơn bỏ thưa hỏi đến Khoáng Giao. Lúc đó thường gọi Hòa-thượng là Đăng Đằng, trong niên hiệu Thiên Sách Vạn Tuế thời nhà Đường, Thiên Hậu ra chiếu mời vào trước điện. Sư nhìn Thiên Hậu hồi lâu rồi nói: Hiểu chăng? Hậu nói chẳng hiểu. Sư nói: Lão tăng giữ giới không nói. Nói xong thì bước ra. Hôm sau dâng khúc ca ngắn có mười chín đoạn, Thiên Hậu xem mà vui ban thưởng rất hậu, Sư đều không nhận. Lại khiến viết bài ca mà truyền khắp trong nước. Lời ca đều diễn bày chân lý để khuyên răn thời tục, chỉ có bài Liễu Nguyên Ca là thạnh hành ở đời.
Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc.
Không xưng tên tuổi, ngôn hạnh (lời nói và việc làm) khó lường, ẩn cư ở Tung Nhạc. Sơn Đảo có miếu rất linh, trong điện thờ chỉ có một cái bếp lò, xa gần đến cúng tế không ngớt nấu nướng giết hại sinh mạng rất nhiều. Một hôm Sư dẫn Thị Tăng đi vào miếu, lấy tích trượng đập vào bếp ba cái bảo: Ôi, Táo này, chỉ là đất sét nắn thành Thánh từ đâu đến, linh từ đâu khởi, tại sao lại hưởng vật mạng cúng của người ta. Lại đập ba cái thì bếp nghiêng rớt xuống đất. Phút chốc thì có một người mặc áo xanh đầu đội mũ bỗng lạy trước Sư. Sư hỏi: Ngươi là ai. Đáp: Con là Thần Táo trong miếu này từ lâu chịu nghiệp báo, hôm nay được Sư nói pháp vô sinh mà được thoát chỗ này sinh lên cõi trời, nên đến đây lễ tạ. Sư nói: Đó là ông vốn có tánh không phải ta nói ép. Thần Táo lạy lễ và biến mất, Thiếu tuyển thị Tăng v.v... đều hỏi Sư rằng: Chúng con là những người ở lâu bên Hòa-thượng mà chưa hề nghe Thầy khổ công dạy bảo, còn Thần Táo được ý chỉ thẳng tắt nào mà được sinh lên cõi trời. Sư nói: Ta chỉ nói ông ta là do đất sét tạo thành, ngoài ra cũng không có đạo lý nào vì ông ta. Thị Tăng đứng yên không nói, Sư hỏi hiểu chăng? Chủ sự thưa không hiểu. Sư nói: Tánh vốn có vì sao chẳng hiểu. Thị Tăng bèn đảnh lễ. Sư nói rơi xuống rơi xuống, nát ra nát ra (bể tan bể tan). Sau có Thiền sư Nghĩa Phong đem thưa với Quốc sư An, Quốc sư than rằng: Người này hiểu hết các vật đồng nhất như ta, có thể nói rằng: Trăng sáng trên không đều thấy. Khó gặp ngữ mạch ấy. Thiền sư Nghĩa Phong liền khoanh tay cúi đầu hỏi rằng: Chẳng hay ai gặp ngữ mạch khác? Quốc sư nói không biết-Lại có Tăng hỏi: Khi mọi vật vô hình thì ra sao? Sư nói: Lễ tức chỉ là ông mà không phải ta, bất lễ (chẳng lạy) chỉ có ta mà chẳng phải ông. Vị Tăng ấy bèn lễ tạ. Sư nói: Vật vốn có là vật chẳng phải vật. Do đó mà Đạo tâm chuyển được vật tức đồng Như lai. Lại có vị tăng hỏi: Thế nào là người tu hạnh lành? Sư nói: Cầm thương mặc giáp. Thế nào là người làm hạnh ác? Sư nói: Tu thiền nhập định. Tăng thưa: Con căn cơ còn cạn, thỉnh sư chỉ thẳng. Sư nói: Ông hỏi ta ác, ác chẳng từ thiện, ông hỏi ta thiện, thiện chẳng từ ác. Hồi lâu lại hỏi: Hiểu chăng? Tăng thưa: Không hiểu. Sư nói: Người ác không có niệm lành, người lành không có tâm ác.
Do đó nói thiện ác như mây nổi, đều không có chỗ khởi diệt. Vị tăng ấy sau đó liền đại ngộ
-Có vị tăng từ núi Ngưu Đầu đến. Sư hỏi: Ông đến từ pháp Hội nào? Tăng đền gần chấp tay đi nhiễu quanh Sư một vòng rồi lui ra. Sư nói: Ở Hội Ngưu Đầu chẳng thể có người này. Tăng bèn trở lại chấp tay hướng bên Sư. Sư nói quả nhiên quả nhiên! Tăng liền hỏi: Sư ứng vật chẳng do thời khác là sao? Sư nói: Tranh được chẳng do khác. Tăng hỏi: Cái gì là thuận chánh về nguồn? Sư nói: Về nguồn sao thuận? Tăng nói: Không phải Hòathượng lầm lẫn chiêu lỗi. Sư nói: Cũng là Đạo lý chưa thấy bốn tổ, thấy rồi thì thông tương lai. Tăng liền đi nhiễu một vòng rồi lui ra. Sư nói: Đạo thuận chánh xưa nay vẫn thế. Tăng đảnh lễ-Lại Tăng thị đứng hầu lâu. Sư bảo: Tổ tổ Phật Phật chỉ nói như người. Bổn tánh bổn tâm chẳng có đạo lý khác. Hiểu lấy hiểu lấy. Tăng lễ tạ, Sư bèn lấy phất trần đánh bảo rằng: Một chỗ như thế, ngàn chỗ cũng thế. Tăng liền chấp tay đến trước Sư dạ một tiếng. Sư nói: Lại chẳng tin, lại chẳng tin. Tăng hỏi: Thế nào là kẻ Đại xiển đề? Sư nói: Tôn trọng lễ bái. Lại hỏi: Thế nào là người Đại tinh tiến? Sư nói: Hủy nhục sân giận.-Sau chẳng biết Sư mất ở đâu?
3. Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc:
Người ở Y Khuyết, họ Lý, xuất gia từ nhỏ. Niên hiệu Vịnh Thuần năm thứ hai đời Đường, Sư thọ giới cụ túc ở chùa Lệ Nhàn cư. Học tập Tỳ ni không mệt mỏi. Sau yết kiến An Quốc sư dùng chân tông ấn khả mà đốn ngộ huyền chỉ, liền chọn am tranh ở núi Bàng Ổ. Một hôm có Dị nhân đội mão mặc áo kép quần cụt đi đến. Người theo sau rất đông, dáng nhẹ nhàng thong dong đến ra mắt Đại sư. Sư thấy hình dáng kỳ vĩ phi thường bèn bảo rằng: Mau đến đây nhân giả. Bèn hàm hồ mà đến nói sư đâu biết ta? Sư nói: Ta xem chư Phật và chúng sinh bình đẳng ta nhìn qua há phân biệt ư? Ông ấy bảo ta là thần núi này, có thể khiến người sống chết, Sư sao có thể nhìn qua ta. Sư nói: Ta vốn chẳng sinh, ông đâu thể chết. Ta thấy thân cùng không như nhau, thấy ông cùng ta như nhau. Ông có thể phá hoại không và ông ư? Nếu có thể phá hoại không và ông thì ta không sinh không diệt. Ông còn chẳng thể như thế thì sao có thể làm ta sống chết. Thần cúi đầu thưa: Tôi cũng thông minh chánh trực như các thần khác, đâu biết Sư có trí tuệ biện luận rộng lớn? Nguyện xin trao cho chánh giới để khiến tôi vượt (thoát) đời. Sư nói: Ông đã xin giới tức là đã thọ giới rồi. Vì sao? vì ngoài giới không có giới thì là giới nào? Thần nói lý này tôi nghe mịt mù. Chỉ cầu giới của Sư, tôi xin làm đệ tử. Sư liền bày chỗ ngồi cầm lò hương ngay nơi bàn mà bảo rằng: Ta trao cho ông năm giới, nếu giữ được thì nói được nếu không giữ được thì nói không. Thần nói xin vâng lời. Sư nói: Ông chẳng dâm được không? Thưa: Cũng có cưới vợ.
Sư bảo: Không phải nói cái đó, mà là không có giăng lưới dục. Thần nói: Giữ được. Sư nói: Ông chẳng trộm cắp được chăng? Thần đáp: Tôi có thiếu gì mà phải trộm cắp. Sư nói: Không phải vậy, mà là thiết đã thì phước nhiều còn không cùng thì Họa thiện
Thần nói: Được. Sư hỏi: Ông không sát sinh được chăng? Thần nói: Thật nằm quyền hành làm sao chẳng giết? Sư nói: Không phải vậy, mà có lạm quyền sai lầm nghi lộn, Thần nói được. Sư hỏi ông không nói dối được chăng? Thần nói: Tôi ngay thẳng đâu có dối? Sư nói không phải thế, mà trước sau chẳng họp lòng trời Thần nói được. Sư hỏi ông không bị hư bại vì rượu được chăng? Thần đáp được. Sư nói: Như thế đó là giới Phật-Lại nói vì có tâm vâng trì giữ gìn mà không có tâm câu chấp (chấp chặt), vì có tâm vì vật mà không có tâm tưởng thân mình. Nếu làm được như thế thì trước trời đất sinh ra mà không là Tinh, sau trời đất chết đi mà không là già, suốt ngày biến hóa mà chẳng là động rốt ráo vắng lặng mà chẳng thôi dứt. Ngộ đây thì tuy có cưới cũng không lỗi về vợ tuy có hưởng cũng không phải là lấy, tuy bính mà không phải là quyền. Tuy làm mà không phải cố, tuy say mà không tối tăm. Nếu vô tâm với muôn vật thì la dục chẳng phải là dâm phước dâm họa thiện chẳng phải là trộm. Lạm lầm nghi lộn chẳng phải là sát, trước sau trái trời mà không phải là dối, hôn hoang điên đảo không phải là say, đó gọi là vô tâm, vô tâm thì không giới, không giới thì không tâm, không Phật không chúng sinh, không ông và không tôi, không ông thì cái gì là giới. Thần đáp: Tôi thần thông thua Phật. Ông thần thông năm câu được, năm câu không được. Phật thì bảy câu được ba câu không được, Thần sửng sốt tránh chiếu quì xuống thưa rằng: Con xin được nghe. Sư nói: Ông có thể lệ Thượng Đế đi hướng Đông mà chiếu bảy sao hướng Tây chăng? Đáp: Không được. Sư nói: Ông có thể cướp Địa kỳ dung năm nhạc mà kết bốn biển chăng? Đáp: Không được. Sư nói đó là năm câu không được. Còn Phật được không tất cả tướng thành trí muôn pháp mà chẳng thể dứt diệt định nghiệp Phật có thể biết tánh quần hữu thấy rõ việc ức kiếp mà không thể hóa đạo người không duyên, Phật có thể độ vô lượng hữu tình mà không thể độ hết thế giới chúng sinh, đó là ba thứ không được. Định nghiệp cũng chẳng ràng buộc lâu, kẻ vô duyên cũng chỉ một hạn kỳ, thế giới chúng sinh vốn không thêm bớt. Lại không một người có thể chủ có pháp. Có pháp không chủ, gọi là không pháp, không pháp không chủ gọi là không tâm. Như ta hiểu phát cũng không có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông hiểu tất cả pháp nhĩ. Thần nói: Thật là cạn cợt tối tăm chưa nghe Nghĩa không. Sư đã trao giới cho con con xin vâng giữ. Nay xin báo, Từ Đức công hiệu tài năng của tôi.
Sư nói: Ta quán thân không vật, quán pháp vô thường thẹn là lại có muốn gì. Thần nói: Sư sẽ khiến tôi làm việc thế gian, mở mang tiểu thần công cho con khiến đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm, chẳng tin tâm sẽ tin tâm, năm hạng người ấy thấy dấu thần của con. Biết có Phật có thần có làm được và không làm được, có tự nhiên, có không phải tự nhiên. Sư nói: Không phải thế, không phải thế. Thần nói: Phật cũng khiến thần hộ pháp. Sao Sư lại phản Phật? Xin tùy ý dạy bảo. Sư bất đắc dĩ nói rằng: Vùng núi ở Đông Nham trơ trọi không có cây cối, còn vùng núi phía Bắc thì dẫy đầy. Ông có thể dời cây ở núi Bắc về núi Đông được chăng? Thần nói: Con xin vâng lời. Nhưng giữa đêm khuya sẽ có tiếng động ồn ào xin Sư chớ sợ. Rồi đảnh lễ mà lui. Sư đưa ra cửa và nhìn theo thì thấy rõ ràng oai vệ của 1 vị vua bỗng ẩn vào mây khói trên trời mà biến mất. Đêm ấy quả nhiên có sấm chớp gió bão dữ dội, nhà cửa cây cối lay động chim chóc kêu thảng thốt, Sư bảo chúng chớ sợ, Thần giao ước với ta. Đến sáng thì cây phía Bắc đã đầy khắp phía Đông sum suê thẳng hàng. Sư bảo môn đồ sau khi ta mất rồi chớ nói cho ai biết, nếu nói thật thì người cho ta yêu mị. Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ tư là năm Bính Thìn Sư dặn dò môn nhân rằng: Trước ta ở núi phía Đông chùa. Ta mất rồi thì đặt hài cốt ta ở đấy. Nói xong thì an nhiên mà hóa. Thọ bảy mươi ba tuổi, đệ tử xây tháp thờ.
* Đệ tử nối pháp Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn (Đời thứ ba của Tổ Hoằng Nhẫn).
1. Thiền sư Duy Chánh ở núi Chung Nam.
Người ở Bình Nguyên, họ Chu, thọ nghiệp với Pháp sư Thuyên Trừng ở chùa Diên Hòa thuộc bổn châu. Đắc pháp với Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn. Đã được quyết liễu chân thuyên bèn vào núi Thái Nhất. Người đến học đầy nhà. Trong niên hiệu Đại Hòa đời Đường, vua Văn Tông thích ăn con hàu, các quan lại ở dọc bờ sông biển đều đem dâng. Một hôm trong bữa ăn thì có con hàu không hả miệng. Vua cho là điềm lạ bèn đốt hương khấn vái, bỗng biến thành hình Bồ tát phạm tướng đầy đủ, liền lấy hộp vàng và đàn hương đựng lại bọc gấm bên ngoài mà tặng chùa Hưng Thiện khiến Tăng chúng chiêm lễ. Nhân hỏi các quan thần đấy là điềm gì? Có người tâu trong núi Thái nhất có Thiền sư Duy Chánh, hiểu sâu Phật pháp đọc rộng các sách. Vua bèn mời vào hỏi việc ấy. Sư tâu: Thần nghe vật chẳng ứng suông, đây xin bệ hạ hãy tín tâm. Bởi kinh có nói đáng dùng thân này mà độ thì hiện thân này nói pháp. Vua hỏi thân Bồ tát đã hiện mà chưa nghe nói Pháp sư hỏi: Bệ hạ thấy đây là thường hay phi thường, tin hay không tin. Vua nói việc rất hiếm lạ, trẫm rất tin. Sư tâu: Bệ hạ đã nghe nói pháp rồi. Lúc đó vua rất vui mừng được điều chưa từng có, ra chiếu khiến các chùa viện trong nước đều lập tượng Quán Âm. Để đáp tạ điều lành khác lạ, bèn giữ Sư ở lại trong nội Đạo Tràng. Nhiều lần Sư giả từ về núi, vua lại ra chiếu mời vua ở chùa Thánh Thọ. Đến khi Đường Võ Tông lên ngôi thì Sư bỗng vào núi Chung Nam mà ẩn. Có người hỏi lý do. Sư nói: Ta tránh oán cừu. Sau mất tại nhà trong núi thọ tám mươi bảy tuổi. Khi trà-tỳ thu được bốn mươi chín hạt xá-lợi, vào ngày mồng 04 tháng 09 niên hiệu Hội Xương năm thứ ba đưa vào tháp kính thờ.
* Đệ tử nối pháp Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu (Đời thứ tư của Tổ Hoằng Nhẫn).
1. Thiền sư Vô Trụ ở chùa Bảo Đường thuộc Ích Châu.
Lúc đầu đắc pháp với Thiền sư Vô Tướng, bèn đến ở Bạch Nhai tại Nam Dương chuyên việc yên tịnh trải qua nhiều năm, người Học đến thỉnh Sư không ngớt. Từ đó bèn dạy răn, tuy rộng diễn giảng ngôn giáo nhưng chỉ lấy Vô Niệm làm tông. Đường Tướng quốc là Đổ Hồng ra cai trị nghe tiếng Sư bèn đến chiêm lễ. Tháng 9 Niên hiệu Đại Lịch năm thứ nhất, sai sứ đến núi mời Sư về. Lúc đó Tiết Độ Sứ Thôi Ninh cũng khiến các Tăng đồ ở các chùa từ xa đến đón rước. Ngày mồng 1 tháng 10 thì đến chùa Không Tuệ. Bấy giờ Tướng quốc Đỗ Công cùng các tướng soái và các vị Tam học Thạc Đức (các bậc cao đức có đủ ba học câu hội về chùa đảnh lễ xong, công hỏi có nghe Sư trước ở đây rồi sau đi về đâu. Đáp rằng: Vô trụ tỏi tánh thích nơi thôn dã có nhiều sông núi, từ Hạ Lan Ngũ Đài đi khắp các thắng cảnh, từng theo thầy ở Đại từ ở quý Phong giảng tối thượng thừa, liền từ xa tìm đến quy y, không xứng đáng dự vào pháp tịch. Sau đến ở núi Trì Bạch được nhiều năm. Nay được Tướng Công mời chẳng dám không theo. Tướng Công nói: Đệ tử có nghe Hòa-thượng Kim có nói không nhớ, không niệm, chớ vọng ba câu pháp môn phải chăng? Sư đáp: Đúng. Công nói: Ba câu ấy là một hay là ba. Sư nói không nhớ là giới không niệm là định, chớ vọng là tuệ. một tâm không sinh đủ giới định tuệ, không phải một không phải ba Công nói: Câu sau chữ chớ vọng có phải là từ tâm mà quên chăng? Sư đáp; từ con gái thì đúng hơn Công nói: Có chứng cứ gì. Đáp: Kinh Pháp Cú nói: Nếu khởi tâm tinh tiến là vọng, không phải tinh tiến, nếu tâm thường chẳng vọng là tinh tiến không bờ bến. Công nghe mà nghi tình rửa sạch. Lại hỏi: Sư lại dùng ba câu ấy mà dạy người chăng? Đáp: Với người sơ tâm mới học thì phải khiến dứt niệm lắng dừng sáng thức, nước trong thì ảnh hiện, ngộ niệm vô thể thì vắng lặng hiện tiền, ngay cả vô niệm cũng chẳng lập. Lúc đó cây trước sân có quạ kêu. Công hỏi: Sư có nghe chăng? Sư nói: Có nghe. Quạ bay đi, lại hỏi Sư có nghe chăng? Sư nói: Có nghe. Công nói: Quạ bay đi rồi không còn tiếng sao nói là nghe. Sư bèn bảo khắp đại chúng: Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó nghe, tất cả hãy lắng nghe kỹ. Nghe và không nghe chẳng liên quan gì đến tánh nghe. Xưa nay không sinh đâu từng có diệt. Khi có tiếng là thanh trần tự sinh, khi không tiếng là thanh trần tự diệt mà tánh nghe này không theo tiếng mà sinh ra cũng không theo tiếng mà diệt mất. Ngộ tánh nghe này thì không bị thanh trần chuyển. Phải biết nghe không sinh diệt, nghe không tới lui. Tướng Công cùng các liêu thuộc và đại chúng đảnh lễ.-Lại hỏi: Thế nào là Đệ nhất nghĩa, đệ nhất là từ thứ lớp nào mà vào? Sư nói: Đệ nhất nghĩa không có thứ lớp, cũng không có ra vào. Thế đế thì tất cả là có, còn Đệ nhất nghĩa thì (tất cả là) không, các pháp đều là tánh vô tánh nên nói là Đệ nhất nghĩa Phật nói: Pháp có gọi là Tục đế, tánh không là Đệ nhất nghĩa. Công nói: Như lời Sư chỉ dạy thật chẳng thể nghĩ bàn. Công lại nói: Đệ tử tánh thức cạn cợt yếu kém. Nhân xưa rảnh rỗi con có soạn chương sớ khởi tín luận 2 quyển có thể được gọi là Phật pháp chăng? Sư đáp: Soạn chương sớ đều dùng để biết tâm suy lường phân biệt hữu vi có làm có tạo mà khởi tâm động niệm có thể tạo thành. Y theo luận văn có nói phải biết tất cả pháp từ xưa nay lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có đổi khác. Chỉ có một tâm cho nên gọi là chân như. Nay Tướng Công chấp dính vào tướng nói năng, tướng danh từ, tướng tâm duyên, đã chấp chặt các thứ tướng ấy thì làm sao gọi là Phật pháp. Tướng Công đảnh lễ thưa rằng: Đệ tử có hỏi các Đại đức cung phụng đều khen đệ tử là chẳng thể nghĩ bàn. Phải biết đó đều chỉ theo tình người. Nay Sư từ lý mà giải thích họp pháp tâm địa thật là chân lý chẳng thể nghĩ bàn.-Công lại hỏi: Thế nào là chẳng sinh, thế nào là chẳng diệt, thế nào là được giải thoát. Sư nói: Thấy cảnh mà tâm không khởi là chẳng sinh, chẳng sinh thì chẳng diệt. Đã không có sinh diệt thì không bị tiền trần trói buộc, ngay đó giải thoát. Không sinh gọi là không niệm, không niệm thì không diệt, không niệm thì không buộc ràng, không niệm thì không thoát. Tóm lại thì biết tâm tức lìa niệm, thấy tánh tức giải thoát. Lìa ngoài biết tâm thấy tánh mà có pháp môn chứng vô thượng Bồ đề, thì không có việc đó. Công hỏi: Sao gọi là biết tâm thấy tánh? Sư nói: Tất cả người học đạo theo niệm mà trôi nổi bởi vì không biết chân tâm, chân tâm là niệm sinh cũng chẳng thuận theo sinh, niệm diệt thì cũng chẳng nương vào vắng lặng, chẳng đến chẳng đi, chẳng định chẳng loạn, không lấy không bỏ, không chìm không nổi, vô vi vô tướng sống động lao nhao bình thường tự tại, tâm thể này rốt ráo chẳng thật có, không thể thấy biết thì, gặp đâu cũng đều như, đều là thấy tánh.
Công và Đại chúng đảnh lễ vui mừng khen ngợi mà lui ra. Sau Sư ở chùa Bảo Đường mà thị tịch.
Tổ thứ 33 (6): Đại Sư Tuệ Năng
-Tổ thứ 33: Đại Sư Tuệ năng có 43 vị đệ tử nối pháp (19 vị thấy có ghi lục, 10 vị bàng xuất).
1. Tam tạng Quật Đa ở Tây Ấn-độ
2. Thiền sư Pháp Hải ở Thiều Châu
3. Thiền sư Chí Thành ở Cát Châu
4. Thiền sư Hiểu Liễu ở Biển Thiệm
5. Thiền sư Trí Hoàng ở Hà Bắc
6. Thiền sư Pháp Đạt ở Hồng Châu
7. Thiền sư Trí Thông ở Thọ Châu
8. Thiền sư Chí Triệt ở Giang Tây
9. Thiền sư Trí Thường ở Tín Châu
10. Thiền sư Chí Đạo ở Quảng Châu
11. Hòa-thượng chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu Ấn Tông
12. Thiền sư Hành Tư ở núi Thanh Nguyên thuộc Cát Châu
13. Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam Nhạc
14. Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác ở Ôn Châu
15. Thiền sư Bổn Tịnh ở núi Từ Không
16. Thiền sư Huyền Sách ở Vụ Châu
17. Thiền sư Linh Thao ở Tào Khê
18. Thiền sư Tuệ Trung ở chùa Quang Trạch thuộc Tây Kinh
19. Thiền sư Thần Hội ở chùa Hà Trạch thuộc Tây Kinh Mười chín vị trên đây có ghi lục.
20. Thiền sư Kỳ Đà ở Thiều Châu
21. Thiền sư Tịnh An ở Võ Châu
22. Thiền sư Tung Sơn ở Tầm
23. Thiền sư Đinh Chân ở núi La Phù
24. Thiền sư Kiên Cố ở Nam Nhạc
25. Thiền sư Đạo Tiến ở núi Chế Không
26. Thiền sư Thiện Khoái
27. Thiền sư Duyên Tố ở Thiều Sơn
28. Thiền sư Tông Nhất
29. Thiền sư Thiện Hiện Tần Vọng ở núi Cối Kê
30. Thiền sư Phạm Hạnh ở Nam Nhạc
31. Thiền sư Tự Tại ở Tinh Châu
32. Thiền sư Hàm Không ở Tây Kinh
33. Thiền sư Thái Tường ở Hiệp Sơn
34. Thiền sư Pháp Tịnh ở Quang Châu
35. Thiền sư Biện Tài ở núi Thanh Lương
36. Ngô Đầu Đà ở Quảng Châu
37. Thiền sư Đạo Anh
38. Thiền sư Trí Bổn
39. Thiền sư Pháp Chân ở Thanh Uyển Quảng Châu
40. Thiền sư Huyền Giai
41. Thiền sư Đàm Thối
42. Thứ Sử Vi Cứ ở Thiều Châu
43. Bồ tát Nghĩa Hưng Tôn. (24 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
*****
Tổ thứ 33 (6)-ĐẠI SƯ TUỆ NĂNG: Sư họ Lô, trước là người ở Phạm Dương. Cha là Hành Thao trong niên hiệu Võ Đức làm Tả Hoạn ở Nam Hải, mà hộ khẩu ở Tân Châu. Ba tuổi cha mất bà mẹ thủ tiết nuôi con. Khi lớn thì nhà rất nghèo, phải đốn củi độ nhật. Một hôm gánh củi đến trong chợ nghe khách đọc kinh Kim cang. Sửng sốt hỏi khách rằng đây là pháp gì, có được từ ai? Khách đáp: Đây là kinh Kim cang có được từ Đại sư Hoằng Nhẫn ở Huỳnh Mai. Sư liền thưa mẹ ý vì pháp tìm thầy, thằng đến Thiều Châu, gặp bậc cao hạnh là Lưu Chí Lược kết làm bạn. Ni Vô Tận Tạng chính là cô của Chí Lược, thường đọc kinh Niết-bàn. Sư nghe qua liền giải thích rõ ràng về nghĩa ấy. Ni bèn cầm quyển hỏi chữ. Sư nói chữ thì tôi không biết, còn nghĩa thì xin cứ hỏi. Ni nói chữ chẳng biết làm sao biết nghĩa được. Sư nói lý mầu của chư Phật không liên quan đến chữ nghĩa. Ni kinh dị bảo các người lớn tuổi trong làng rằng: Đây là người hiểu đạo nên thỉnh cúng dường. Do đó mọi người tranh nhau đến chiêm lễ. Ở gần đó có nơi trước đây là chùa cổ Bảo Lâm, mọi người bàn nên mời Sư về ở, bốn chúng sửa sang trở thành chỗ ở tốt. Một hôm Sư thầm nghĩ ta cầu Đại pháp há giữa đường mà ngưng. Sáng hôm sau bèn đến một hang đá ở phía Tây huyện Xương Lạc gặp Thiền sư Trí Viễn. Sư bèn thưa hỏi. Viễn nói: Ông xem cốt cách phi thường. Tôi nghe ở Tây Vực có Bồ-Đề-Đạt-Ma truyền tâm ấn cho ngài Huỳnh Mai, ông nên đến đó mà tham cứu. Sư bèn từ giả thẳng đến Đông Thiền Huỳnh Mai, đó là niên hiệu Hàm Hạnh đời Đường năm thứ 2. Đại sư Hoằng Nhẫn vừa thấy Sư liền ngầm biết. Sau truyền cho y pháp khiến lánh mình trong bốn hội Hoài Tập. Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Bính tý niên hiệu Nghi Phụng năm thứ nhất thì đến Nam Hải gặp Pháp sư Ấn Tông ở chùa Pháp Tánh giảng kinh Niết-bàn. Sư ở ngoài hành lang, đêm nghe gió thổi phướn khua, có hai vị tăng tranh luận một người bảo phướn động, người kia bảo gió động, cả hai vị không ai khế lý. Sư nói có thể cho kẻ hèn hạ này góp lời bàn luận được chăng, cả gió và phướn đều không động mà do tâm động vậy. Ấn Tông trộm nghe lời ấy thì sửng sốt lấy làm lạ. Sáng hôm sau đón Sư vào thất, đem nghĩa gió phướn ra bàn. Sư nói lý đầy đủ. Ấn Tông lập tức đứng dậy bảo Hành giả nhất định là người phi thường, thầy Ngài là ai? Sư không trốn lánh nữa bèn kể thật nguyên do đắc pháp. Do đó Ấn Tông xin làm đệ tử mà học thiền yếu. Bèn bảo bốn chúng rằng: Ấn Tông hoàn toàn là phàm phu nay gặp Nhục Thân Bồ tát là Lô cư sĩ đây. Do đó xin trình bày tín y để mọi người chiêm lễ. Đến ngày rằm tháng giêng thì Hội các danh đức đến cạo tóc cho Sư, đến mồng 8 tháng 2 thì ở chùa Pháp Tánh, Luật sư Trí Quang trao cho Mãn phần giới. Giới đàn này do Tam tạng Cầu-Na-Bạt-Đà đời Tông lập ra. Tam tạng có ghi rằng: Sau sẽ có Nhục Thân Bồ tát thọ giới ở giới đàn này. Lại cuối đời Lương có Tam tạng Chân đế ở bên giới đàn này mà trồng 2 cây Bồ đề, gọi chúng bảo rằng: Sau một trăm hai mươi năm sẽ có bậc Đại khai sĩ ở dưới gốc cây này mà giảng nói Vô Thượng Thừa vô lượng chúng Sư thọ giới cụ túc rồi bèn ở dưới gốc cây mà diễn nói pháp môn Đông sơn đúng như lời đoán xưa. Ngày mồng 8 tháng 2 năm sau bỗng bảo chúng rằng: Ta không muốn ở đây nữa hãy trở về chỗ ẩn cũ. Lúc đó Ấn Tông cùng Đạo tục cả ngàn người đưa sư về chùa Bảo Lâm. Thứ Sử Thiều Châu là Vi Cứ thỉnh Sư ở chùa Đại Phạm chuyển diệu pháp luân, cùng thọ giới Vô Tướng Tâm Địa. Môn nhân ghi chép thành Đàn kinh lưu hành rất thạnh hành trên đời. Rồi Sư trở về Tào Khê rưới cơn mưa Đại pháp. Người theo học không dưới số ngàn. Vua Đường Trung Tông niên hiệu Thần Long năm thứ nhất ban chiếu nói rằng: Trẫm thỉnh hai Sư An, Tú vào trong cung cúng dường. Vua rảnh rang nghiên cứu Nhất thừa hai sư đều nhún nhường rằng: Ở Phương Nam có Thiền sư Tuệ Năng ngầm thọ được y pháp của Đại sư Nhẫn có thể đến đó. Nay sai nội thị là Tiết Giản mang chiếu đến đón xin Sư từ niệm mau đến kinh thành. Sư bèn dâng biểu từ chối vì bịnh nguyện trọn đời ở chốn núi rừng. Tiết Giản thưa: Các vị Thiền đức ở kinh thành đều nói: Muốn hiểu được đạo cần phải ngồi thiền tu định, nếu chẳng nhờ thiền định mà được giải thoát thì không có việc ấy. Chẳng hay sư nói Pháp ra sao? Sư nói: Đạo do tâm ngộ đâu phải ở ngồi. Kinh nói: Nếu thấy Như lai hoặc ngồi hoặc nằm là thực hành Đạo tà, vì sao? vì không từ đâu đến, chẳng từ đâu đi. Nếu không sinh diệt là thiền thanh tịnh của Như lai, các pháp vắng lặng là ngồi thanh tịnh của Như lai. Rốt ráo không chứng há là ngồi ư? Giản nói: Đệ tử trở về chắc chắn Chúa Thượng sẽ hỏi xin Hòa-thượng từ bi chỉ rõ tâm yếu. Sư nói: Đạo không có sáng tối, sáng tối là nghĩa thay nhau sáng suốt vô tận cũng là có tân. Giản nói sáng là dụ cho trì tuệ, ám (tối) là dụ cho phiền não, nếu người tu Đạo không dùng trí tuệ mà chiếu phá phiền não thì sinh tử vô thỉ dựa vào đâu mà thoát ra. Sư nói: Nếu dùng trí tuệ mà chiếu phá phiền não thì đây là cơ Dê nai trẻ con của Nhị thừa. Bậc Thượng trí đại căn đều chẳng như thế. Giản hỏi: Thế nào là kiến giải của Đại thừa? Sư nói: Minh và vô minh tánh chẳng hai, tánh không hai tức là tánh thật. Tánh Thật ở phàm phu chẳng giảm bớt, ở Hiền Thánh chẳng thêm, ở phiền não chẳng loạn. Ở Thiền định chẳng vắng lặng, chẳng đoạn chẳng thường chẳng tới chẳng lui (đến đi), chẳng ở giữa và chẳng trong ngoài, chẳng sinh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ bất biến gọi là Đạo. Giản nói: Sư nói chẳng sinh chẳng diệt có khác gì ngoại Đạo. Sư nói: Chẳng sinh chẳng diệt của ngoại Đạo nói là đem diệt mà ngăn sinh, đem sinh mà chỉ bày diệt, diệt cũng chẳng diệt, sinh lại nói không sinh. Còn chẳng sinh chẳng diệt của ta nói, là xưa vốn không sinh nay cũng chẳng diệt, do đó mà khác ngoại đạo. Nếu ông muốn biết tâm yếu, chỉ cần tất cả thiện ác đều chẳng nghĩ bàn, tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh lặng lẽ thường tịch diệu dụng hà sa. Giản được chỉ giáo bỗng nhiên đại ngộ, lạy tạ trở về kinh dâng biểu tâu lại lời Sư nói. Vua ban chiếu tạ ân Sư và ban cho Ca Sa Ma-nạp, năm trăm xấp lụa, một bình bát báu. Ngày 19 tháng 12, vua ban sắc đổi chùa Cổ Bảo Lâm thành chùa Trung Hưng ba năm sau ngày 18 tháng 11 vua lại ra sắc lịnh cho Thứ sử Thiều Châu ban tặng biển Ngạch là chùa Pháp Tuyền, chỗ cũ Sư ở tại Tân Châu là chùa Quốc An. Một hôm Sư bảo chúng rằng: Này các Thiện tri thức, các ông nên tịnh tâm mà lắng nghe ta nói pháp: Mọi người tự tâm mình là Phật, chớ có hồ nghi, ngoài ra không có một vật nào khác, đều là tâm mình sinh ra muôn thứ pháp. Vì vậy kinh nói Tâm sinh thì các pháp sinh tâm diệt thì các pháp diệt. Nếu muốn thành tựu chủng trí thì phải đạt được Tam-muội Nhất tướng, Tam-muội Nhất hạnh, nếu đối tất cả chỗ mà chẳng trụ tướng, đối với tướng ấy chẳng sinh yêu ghét cũng không lấy bỏ, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại v.v... mà an nhàn điềm tịnh hư dung lặng bặt, gọi là Tammuội Nhất tướng. Nếu ở tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm, thuần nhất chân tâm bất động đạo tràng chân thành Tịnh độ, gọi là Tam-muội Nhất hạnh. Nếu người có đủ hai Tam-muội này, như đất có hạt giống có thể chứa chất nuôi lớn thành tựu trái hạt. Nhất tướng, Nhất hạnh cũng giống như thế. Nay ta nói pháp cũng như lúc mưa lớn thấm nhuần mặt đất. Phật tánh các ông ví như những hạt giống, gặp sương này thấm thì sẽ nảy mầm, nhờ ý chỉ ta quyết sẽ được Bồ đề, hành giả nương theo chắc chắn chứng được diệu quả. Niên hiệu Tiên Thiên năm thứ nhất bảo các đồ chúng rằng: Ta thẹn nhận được y pháp của Đại sư Hoằng Nhẫn. Nay nói pháp cho các ông mà chẳng trao lại y ấy. Bởi các ông tín căn thuần thục chắc chắn không nghi, có khả năng nhận được việc lớn, hãy nghe kệ ta:
Đất tâm ngậm hạt giống
Mưa khắp đều sinh sôi
Đốn ngộ hoa tình rồi
Quả Bồ đề tự thành.
Sư nói kệ xong lại bảo: Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng thế. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng. Các ông cần thận chớ quán tịnh và không tâm ấy. Tâm này vốn thanh tịnh không thể lấy bỏ, ai nấy đều tự cố gắng tùy duyên cho tốt-Sư nói pháp lợi sinh suốt bốn mươi năm. Năm ấy ngày mồng 6 tháng 7 Sư bảo đệ tử đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, xây tháp Báo Ân rất nhiều công sức đẹp đẽ. Lại có vị Tăng đất Thục tên là Phương Biện đến yết kiến Sư thưa rằng giỏi đắp tượng. Sư nghiêm sắc mặt nói thử đắp xem. Phương Biện không hiểu ý bèn đắp tượng Sư cao bảy tấc rất đẹp. Sư xem bảo: Ông giỏi tánh đắp tượng mà không giỏi tánh Phật, lấy y mà đáp lễ Tăng lạy tạ lui ra. Ngày mồng 1 tháng 7 niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, Sư bảo học trò rằng: Ta muốn về Tân Châu, các ông mau sửa soạn thuyền. Lúc đó đại chúng rất yêu mến Sư xin Sư chớ đi. Sư nói chư Phật ra đời cũng thị hiện Niết-bàn, có đến đã có đi, lý thường như thế. Ta với hình hài này trở về ắt có chỗ. Chúng thưa Sư từ đây đi sớm muộn cũng phải trở về. Sư nói: Lá rụng về cội, không có ngày trở về. Lại hỏi: Sư đi rồi Pháp Nhãn truyền cho ai? Sư nói: Có đạo giả được vô tâm là thông.-Lại hỏi: Về sau có nạn chăng? Đáp: Ta mất được năm, sáu năm sẽ có một người đến lấy đầu ta. Nghe ta dặn đây: Trên đầu thờ cha mẹ, miệng để ăn, gặp nạn là mãn, Dương liễu là quan. Lại nói: Ta mất rồi bảy mươi năm sẽ có hai vị Bồ tát từ phương Đông đến, một tại gia, một xuất gia đồng thời mở mang xây dựng tông ta, nhóm họp chùa chiền nối tiếp làm hưng thạnh dòng pháp. Nói xong bèn về chùa Quốc Hưng ở Tân Châu, tắm gội rồi ngồi kiết già mà hóa. Mùi thơm lạ ngào ngạt ráng trắng đầy trời, bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 8 năm ấy. Lúc đó hai quận Thiều và Tân đều tu bổ linh tháp đạo tục lưỡng lự không định được chỗ. Thứ sử hai quận bèn đốt hương khấn rằng: Khói hương sẽ dẫn chỗ mà Sư muốn về. Lúc đó lò hương rung động thẳng về Tào Khê. Ngày 13 tháng 11 thì nhập tháp, thọ bảy mươi sáu tuổi. Lúc đó Thứ sử Thiều Châu là Vi Cứ soạn bia. Môn nhân nhớ việc lấy đầu, liền lấy lá sắt bao quanh cổ Sư. Trong tháp có để tín y của Tổ Đạtma truyền lại và Ma-nạp, bát báu của vua Đường Trung Tông ban tặng cùng tượng của Phương Biện đắp... đều đủ. Chủ tháp là Thị giả Thi Chi. Ngày mồng 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười, nửa đêm bỗng nghe trong tháp có tiếng kéo sắt. Tăng chúng kinh sợ thấy 1 hiếu tử từ trong tháp chạy ra. Tìm xem thì thấy cổ Sư bị thương. Đem trình việc trộm lên huyện, huyện lịnh là Dương Khản, Thứ Sử là Liễu Vô
Thiêm được tin bèn đem gông đến giam năm ngày ở thôn Thạch Giác, bắt được tên trộm, đưa lên Thiều Châu hỏi tội thì khai là tên Trương Tịnh Mãn, người Huyện Lương ở Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên ở Hồng Châu, nhận vàng của tăng Tân la và hai mươi ngàn đồng để lấy đầu Lục Tổ đem về Hải Đông cúng dường. Liễu Thứ sử nghe cáo trạng chưa xử tội liền đích thân đến Tào Khê hỏi Linh Thao là đệ tử thượng túc của Sư rằng: Xử đoán ra sao? Thao nói: Nếu nói theo pháp nước thì phải tru dự (giết cả ba họ) nhưng vì Phật dạy từ bi, oan thân đều bình đẳng, huống chi là họ muốn cúng dường thì tội nên tha thứ. Liễu Thú vui mừng nói: Mới biết cửa Phật rộng lớn bèn tha tội. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ nhất vua Đường Túc tông sai sứ đến thỉnh y Bát của Sư về cung nội cúng dường. Đến ngày mồng 5 tháng 5 niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất, vua Đường Đại tông nằm mộng thấy Lục tổ Đại sư thỉnh y bát. Ngày mồng 07 sai Thứ sử Dương Hàm rằng: Trẫm mộng thấy Thiền sư Tuệ Năng xin thỉnh ca sa truyền pháp trở về Tào Khê. Nay sai Trấn quốc Đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh đảnh lễ mà đưa, trẫm gọi đó là quốc bảo, khanh hãy nên ở chùa cũ đúng pháp để lại, mà khiến tăng chúng nối truyền tông chỉ và nghiêm khắc giữ gìn chớ để hư mất. Sau có người trộm cắp thì đều bắt được ngay, có đến bốn tên như thế. Vua Đường Hiến Tông ban thụy là Đại giám Thiền sư,
Tháp hiệu Nguyên Hòa Linh Chiếu-Đầu niên hiệu Khai Bảo đời Hoàng Tông, Vương sư đi đánh dẹp Nam Hải, tàn binh của họ Lưu làm loạn, tháp miếu của Sư đều bị ly tan mà chân thân thì tăng coi tháp giữ gìn không chút tổn hại. Các tháp miếu được sửa sang đẹp đẽ nhưng chưa xong gặp lúc Đường Thái Tông lên ngôi lưu tâm nhiều đến Thiền môn lại càng đẹp đẽ tráng lệ. Đại sư thị tịch từ năm Quý sửu niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai đời Đường đến năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Đức năm thứ nhất thì được 292 năm, người đắc pháp trừ Ấn Tông ra có ba mươi ba vị, mỗi vị hoằng hóa một phương đều nêu làm dòng chánh, ngoài ra thì ẩn giấu tung tích nhiều không kể xiết. Nay các nhà truyền ký chỉ lược ghi có mười vị gọi là bàng xuất.
Tam tạng Quật Đa ở Tây Vực:
Người Thiên Trúc, đi về phía Đông đến Thiều Dương gặp Lục Tổ, sau lời nói liền khế ngộ. Sau đi qua Ngũ Đài đến thôn Lịch huyện Định Tương thấy có một vị tăng cất am mà ngồi. Tam tạng hỏi: Ông ngồi một mình làm gì? Đáp: Quán tịnh. Tam tạng hỏi: Người quán là ai, tịnh là vật gì? Vị tăng ấy đảnh lễ hỏi lại: Lý này là sao? Tam tạng nói: Ông sao chẳng tự quán tự tịnh lấy mình. Vị Tăng ấy hoang mang chẳng biết đáp sao. Tam tạng nói: Ông từ môn nào ra? Đáp: Từ Đại sư Thần Tú. Tam tạng nói: Ta ở Tây Vực Dị Đạo căn cơ thấp kém nhất cũng không rơi vào cái thấy này. Ngồi trơ trọi với Đạo nào có ích gì? Vị Tăng ấy liền hỏi Tam tạng rằng: Thầy ông là ai? Tam tạng nói: Thầy tôi là Lục tổ, sao ông không mau đến Tào Khê mà thưa hỏi chân yếu. Vị Tăng bèn bỏ am đến tham kiến Lục tổ trình bày đủ mọi việc trước. Lục Tổ dạy bảo cùng phù họp với Tam tạng. Vị Tăng ấy tin vào, Tam tạng sau không biết mất ở đâu.
Thiền sư Pháp Hải Thiều Châu:
Người ở Khúc Giang. Trước gặp Lục Tổ hỏi rằng: Tức tâm tức Phật, xin chỉ bào cho. Tổ nói: Niệm trước chẳng sinh là tức tâm, niệm sau chẳng diệt là tức Phật thành tất cả tướng là tức tâm, lìa tất cả tướng là tức Phật. Nếu ta nói đầy đủ thì cùng kiếp cũng chẳng hết, hãy nghe ta nói kệ:
Tức tâm là tuệ
Tức Phật là Định
Định tuệ đều trì
Trong ý thanh tịnh
Ngộ pháp môn này
Do ông tập tánh
Dung vốn không sinh
Song tu là chánh.
Pháp Hải tin nhận bèn dùng kệ khen rằng:
Tức tâm vốn là Phật
Chẳng ngộ tự khuất phục
Ta biết nhân Định tuệ
Cùng tu lìa các vật.
3. Thiền sư Chí Thành ở Cát Châu:
Người ở Thái Hòa thuộc Cát Châu. Thuở nhỏ, ở chùa Ngọc Tuyền núi Đương Dương ở kinh Nam mà thờ Thiền sư Thần Tú. Sau nhân hai tông thạnh hành, đồ chúng của Thần Tú thường chê Nam Tông (Tông của Lục Tổ) rằng: Đại sư Tuệ Năng không biết 1 chữ thì có tài năng gì? Tú nói: Vị ấy được trí vô sư ngộ sâu Thượng thừa ta đây chẳng bằng. Và thầy ta là Ngũ Tổ riêng trao y pháp cho ông ấy há là uổng công ư? Ta tiếc không thể đi xa mà gần gũi vì luống chịu ân nước. Các ông không trở ngại vì việc này hãy nên đến Tào Khê mà chất vấn, ngày kia về nói lại cho ta nghe. Sư nghe lời nói ấy liền lễ tạ mà đến Thiều Dương, theo chúng tham vấn không nói mình từ đâu đến. Lúc đó Lục tổ bảo chúng rằng: Nay có kẻ trộm pháp lén đến Hội này. Sư ra lễ bái nói rõ mọi điều. Tổ hỏi: Thầy ông lấy gì dạy chúng? Đáp rằng: Thầy tôi thường dạy đại chúng khiến trụ tâm quán tịnh ngồi mãi chẳng nằm. Tổ nói: Trú (dừng) tâm quán tịnh là bịnh chứ không phải thiền, ngồi hoài thì ép thân với lý có ích gì. Hãy nghe kệ ta:
Sống mà ngồi chẳng nằm
Chết rồi nằm chẳng ngồi
Vốn là đầu lâu thúi
Làm Sao lập công tội.
Sư hỏi: Chẳng hay Đại sư dùng pháp gì dạy người.
Tổ nói: Nếu Ta có một pháp nào cho người thì tức là dối gạt ông.
Chỉ là tùy cách mà mở trói mượn gọi là Tammuội, hãy nghe ta nói kệ:
Tất cả Giới tự tánh vô tâm
Tất cả tuệ tự tánh vô ngại
Tự Kim cang chẳng tâm chẳng bớt
Vốn Tam-muội thân đến thân đi.
Sư nghe kệ rồi ăn năn tạ lỗi, liền thề qui y và trình một bài kệ:
Thân năm uẩn huyễn
Huyễn sao rốt ráo
Trở về chân như
Pháp lại bất tịnh.
Tổ nói đúng. Rồi trở về Ngọc Tuyền.
Thiền sư Hiểu Liễu ở núi Biển Thiềm.
Truyện ký không ghi chép, chỉ biết là môn nhân của Bắc Tông (Thần Tú). Hốt Lôi Trừng soạn bia tháp rất thịnh hành ở đời. Lược nói rằng: Sư ở núi Biển Thiềm, pháp hiệu là Hiểu Liễu, là đích tự (người Đệ tử nối pháp chính thức) của Lục Tổ. Sư được tâm vô tâm, liễu tướng vô tướng. Vô tướng là sum la hoa mắt, vô tâm là phân biệt lừng lẫy dứt hết một tiếng một vang, vang không thể truyền đi khắp tiếng nói chẳng thể cùng khắp. Sư tự được không của không không mà bất không đối với không. Nay ta vì có của có có mà không có đối với có; Có của chẳng có thì tới lui chẳng thêm, không của chẳng không thì Niết-bàn chẳng bớt. Than ôi! Sư ở đời, Tào Khê sáng, Sư vắng lặng, thuyền pháp nghiêng. Sư nói vô thuyết, chữ Hoàn đầy. Sư chỉ mê đồ, thừa cơ Liễu nghĩa núi Biển Thiềm sắc phủ sắc này, hang trống cũng còn lưu tên Hiểu Liễu.
Thiền sư Trí Hoàng ở Hà Bắc.
Lúc đầu tham vấn ở pháp tòa của Ngũ tổ tuy có học hỏi nhưng vẫn theo tiệm hạnh. Sau về Hà Bắc cất am ngồi yên hơn hai mươi năm không biếng lười. Sau gặp môn nhân của Lục tổ khuyên Sư nên đến đó mà siêng cầu pháp yếu. Sư bèn bỏ am đến tham vấn Lục tổ. Tổ thương xót ở xa tới liền mở mang chỉ quyết. Sư sau lời Tổ nói liền rỗng rang khế ngộ, tâm đã được từ hai mươi năm trước đều không ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc các đàn việt (tín chủ) sĩ thứ (quan dân) bỗng nghe trên hư không có tiếng nói rằng: Thiền sư Hoàng hôm nay đắc đạo. Sau trở về Hà Bắc mà khai hóa bốn chúng.
Thiền sư Pháp Đạt ở Hồng Châu.
Người ở Phong Thành thuộc Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia tụng kinh Pháp Hoa. Sau khi thọ Giới cụ túc đến lễ Tổ sư mà đầu không đụng đất. Tổ trách rằng: Lạy chẳng đụng đất chi bằng đừng lạy, trong tâm ông hẳn có chứa một vật là gì? Sư nói: Đã tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Tổ nói: Nếu ông tụng đến muôn bộ được ý kinh ấy chẳng xem là cao quý thì cùng đi với ta. Nay ông mang sự nghiệp này mà chẳng biết lỗi, hãy nghe kệ ta nói:
Lạy vốn bỏ ngã mạn
Nếu đầu chẳng đụng đất
Có ngã tội liền sinh
Mất công phước không sánh.
Tổ lại hỏi: Ông tên gì?-Thưa con tên Pháp Đạt Tổ nói: Tên ông là Pháp Đạt, không hề có pháp nào để đạt. Lại nói kệ rằng:
Ông nay tên Pháp Đạt
Siêng tụng chưa dừng nghỉ
Không tụng chỉ theo tiếng
Minh tâm gọi Bồ tát
Ông nay vì có duyên
Nay ta nói ông nghe
Chỉ tin Phật không nói
Hoa sen từ miệng ra.
Sư nghe kệ xong thì hối lỗi nói rằng: Từ nay về sau phải khiêm cung tất cả, cúi mong Hòa-thượng Đại từ nói lược nghĩa lý trong kinh. Tổ hỏi: Ông nghĩ kinh này lấy gì làm Tông? Sư nói: Đệ tử ngu độn từ xưa nay chỉ y văn tụng niệm đâu biết Tông thú. Tổ nói: Ông thử đọc cho ta nghe 1 biến, ta sẽ giải thích cho ông nghe. Sư liền lớn tiếng đọc kinh đến phẩm Phương Tiện. Tổ nói ngưng. Kinh này lấy nhân duyên xuất thế làm tông dẫu nói nhiều thứ thí dụ cũng không vượt ngoài đây. Nhân duyên gì, ấy chỉ là một việc lớn, tức là Phật tri kiến. Các ông cẩn thận chớ lầm hiểu ý kinh mà thấy Đạo khác. Khai thị ngộ nhập tức là Phật tri kiến, bọn chúng ta không có phần. Nếu hiểu theo đây tức là hủy kinh chê Phật, đã là Phật rồi thì sẵn có tri kiến, cần gì phải khai mở. Nay Ông phải tin tri kiến Phật chính là tự tâm ông chứ không phải thể nào khác, vì tất cả chúng sinh tự che sáng suốt. Tham ái trần cảnh duyên ngoài trong nhiễu, cam chịu trôi lăn, lại nhọc nhằn từ Tam-muội khởi các thứ nhiều lời đắng miệng dạy khuyên nghỉ ngơi chấm dứt, chớ nên hướng bên ngoài mà cầu, vì cùng Phật chẳng hai. Cho nên nói khai tri kiến Phật. Ông chỉ nhọc nhằn đọc tụng cho là khóa lễ công đức, khác nào trâu mao mến đuôi. Sư nói: Nếu thế chỉ được hiểu nghĩa mà không tụng kinh. Tổ nói: Kinh có lỗi gì đâu chướng niệm ông, chỉ vì mê ngộ ở người, tổn ích do ông. Hãy nghe kệ ta:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng lâu chẳng sáng mình
Làm oán thù với nghĩa
Vô niệm niệm liền chánh
Có niệm niệm thành tà
Có không đều chẳng chấp
Thường ngồi xe Trâu trắng.
Sư nghe kệ xong lại thưa rằng:
Kinh nói các Đại Thanh văn cho đến các Bồ tát đều phải hết sức suy nghĩ so lường còn chẳng thể biết được trí Phật. Nay khiến phàm phu chỉ cần ngộ tự tâm thì gọi là tri kiến Phật, tự chẳng phải là kẻ thượng căn chưa khỏi nghi chê. Lại kinh nói ba xe, xe trâu lớn khác xe trâu trắng thế nào xin Hòathượng nói rõ. Tổ nói: Ý kinh rõ ràng ông tự mê tối. Các vị ba thừa không thể lường biết được trí Phật là do suy lường, vì càng cố sức suy nghĩ thì càng viễn vong mơ hồ. Phật vốn là phàm phu nói không phải là Phật nói: Lý này nếu chẳng chịu tin, thì từ người khác mà thối tịch. Thật chẳng biết ngồi xe Trâu trắng ở ngoài cửa mà tìm ba xe, huống văn kinh rất sáng Đạo của ông, không hai cũng không ba, ông sao chẳng tỉnh. Ba xe là giả mượn ở thời xưa còn Nhất thừa thật ở lúc này. Chỉ khuyên ông bỏ giả về thật. Sau khi về thật thì thật cũng không tên gọi. Nên biết chỗ có của báu đều thuộc về ông do ông thọ dụng tận hưởng. Lại không nghĩ cha, nghĩ con, cũng không có nghĩ ngợi, gọi là trì kinh Pháp Hoa. Từ kiếp này đến kiếp khác tay không hề mở quyển kinh mà từ ngày đến đêm không lúc nào chẳng tụng niệm. Sư đã được chỉ dạy mở mang nên rất vui mừng dùng kệ khen rằng:
Kinh tụng ba ngàn hộ
Một câu Tào Khê mất
Chưa rõ ý ra đời
Thật uổng sống nhiều đời
Giả lập Dê nai trâu
Khéo bày trước, giữa, sau
Ai biết trong nhà lửa
Vốn là vua của pháp.
Tổ nói: Ông sau này mới đáng gọi là Tăng tụng kinh. Sư từ đó hiểu được Huyền chỉ, cũng chẳng ngớt tụng trì.
7. Thiền sư Trí Thông ở Thọ Châu:
Người ở An Phong Thọ Châu. Trước xem kinh Lăng-già cả ngàn lượt mà không hiểu rõ ba thân bốn trí, bèn lạy Tổ xin giải nghĩa. Tổ nói: Ba thân gồm Thanh tịnh pháp thân là tánh của ông, Viên mãn báo thân là trí của ông, Thiên bá ức hóa thân là hạnh của ông. Nếu lìa bổn tánh mà nói ba thân riêng thì tức gọi có thân mà không trí. Nếu ngộ ba thân chẳng có tự tánh, thì gọi là bốn trí Bồ đề, hãy nghe nói kệ:
Tự tánh đủ ba thân
Phát minh thành bốn trí
Chẳng lìa duyên thấy nghe
Siêu nhiên lên Phật Địa
Nay ta vì ông nói
Tin chắc mãi không mê
Chớ học chạy cầu tìm
Suốt ngày nói Bồ đề.
Sư nói: Nghĩa bốn trí con xin được nghe. Tổ nói: Đã hiểu ba thân liền rõ bốn trí, sao lại hỏi. Nếu lìa ba thân mà nói bốn trí riêng thì đây gọi là có trí mà không thân, tức ở đây có trí lại thành vô trí. Lại nói kệ rằng:
Trí Đại viên cảnh tánh thanh tịnh
Trí Bình đẳng tánh tâm không bịnh
Trí Diệu quan sát thấy chẳng công
Trí Thành sở tác đồng viên cảnh (gương sáng),
Năm, tám, sáu, bảy quả nhân chuyển
Chỉ dùng có tên không thật tánh
Nếu ở chỗ chuyển chẳng lưu tình
Ồn ào mãi mãi định Na-già.
Sư lễ tạ dùng kệ khen rằng:
Ba thân vốn thể ta
Bốn trí vốn tâm minh
Thân trí đều vô ngại
Ứng vật mà tùy hình
Khởi tu đều vọng động
Giữ chắc chẳng chân tinh
Lời diệu, nhờ thầy hiểu
Mất hẳn tên ô nhiễm.
8. Thiền sư Chí Triệt ở Giang Tây.
Người ở Giang Tây, tên là Trương Hạnh Xương. Thuở nhỏ tánh hào hiệp giúp người, từ khi Nam Bắc phân hóa, hai tông chủ tuy mất mình người, nhưng đồ chúng thì tranh nhau thương ghét. Lúc đó môn nhân Bắc Tông tự lập Thiền sư Tú làm Lục Tổ (Tổ thứ 6), mà kỵ vì việc Đại sư Tuệ Năng được truyền y thì thiên hạ đều biết. Nhưng Tổ là Bồ tát biết trước việc ấy nên để mười lượng vàng ở Phương trượng. Lúc đó Hạnh Xương nhận lời dặn dò môn nhân của Bắc Tông, dắt dao nhọn vào phòng Tổ định ám hại. Tổ đưa cổ ra Hạnh Xương quớ chém ba lần mà không xây sát. Tổ nói: Kiếm Chánh thì chẳng tà, tà kiếm chẳng chánh, chỉ phụ vàng ông mà không phụ mạng ông. Hạnh Xương sợ quá ngất đi hồi lâu tỉnh lại cầu xin sám hối mong được xuất gia. Tổ bèn cho vàng và nói ông đi đi, sợ đồ chúng lại hại ông. Vài hôm khác ông nên đổi hình dạng mà đến, ta sẽ nhiếp thọ. Hạnh Xương tuân lời, sau vào Tăng xuất gia giữ giới tinh tiến. Một hôm nhớ lời Tổ dạy liền từ xa đến lễ gặp. Tổ nói: Ta từ lâu nhớ đến ông, sao ông đến muộn thế. Thưa rằng: Hôm trước được Hòa-thượng tha tội, nay con xin xuất gia khổ hạnh cũng khó báo ân sâu chỉ mong truyền pháp độ sinh. Đệ tử từng đọc kinh Niết-bàn nhưng chưa hiểu nghĩa thường và vô thường xin Hòa-thượng từ bi nói lược. Tổ nói: Vô thường tức là Phật tánh, thường tức là tâm phân biệt tất cả các pháp thiện ác. Thưa: Lời Hòa-thượng nói trái với văn kinh. Tổ nói: Ta truyền tâm ấn Phật đâu dám trái với kinh Phật. Thưa: Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa-thượng lại nói vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ đề đều là vô thường, Hòa-thượng lại nói là thường, đây là trái nhau, khiến người học càng thêm nghi vực. Tổ nói: Kinh Niết-bàn xưa kia ta có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc qua một lượt liền giảng nói cho ni ấy nghe: Không có một chữ một nghĩa nào chẳng họp với văn kinh. Cho đến vì ông không nói khác. Thưa: Đệ tử sức hiểu biết cạn cợt mê tối, nguyện Hòa-thượng cặn kẽ chỉ rõ. Tổ nói: Ông biết chăng, nếu Phật tánh là thường thì nói các pháp thiện ác nào cùng kiếp cũng không có một người phát tâm Bồ đề, cho nên ta nói là vô thường chính là Đạo chân thường mà Phật nói. Lại, nếu tất cả các pháp vô thường thì tất cả mọi vật đều có tự tánh chịu đựng sinh tử. Mà tánh chân thường không có sự thay đổi, cho nên ta nói là thường. Chính là Phật nói nghĩa chân vô thường. Phật vì phàm phu ngoại đạo chấp tà thường, các người Nhị thừa thì đối với thường mà chấp vô thường, chung thành, tám điên Đảo. Trong giáo liễu nghĩa của Niết-bàn thì phá Thiên kiến ấy mà nói rõ ràng chân thường, chân ngã, chân tịnh. Nay ông y theo lời trái nghĩa vì đoạn diệt vô thường và xác định tử thường mà hiểu lầm lời nói mầu nhiệm sau cùng của Phật, dẫn xem ngàn lần nào có ích gì. Hạnh Xương bỗng như say vừa tỉnh lại, bèn nói kệ rằng:
Nhân giữ tâm vô thường
Phật nói có tánh thường
Nếu chẳng biết phương tiện
Như ao xuân chấp sỏi
Nay con chẳng thi công
Phật tánh mà thấy trước
Chẳng phải thầy trao cho
Ta cũng không được gì.
Tổ nói ông nay đã thấu suốt, nên đặt tên là Chí Triệt. Sư lễ tạ mà đi.
9. Thiền sư Trí Thường ở Tín Châu:
Người ở Quý Khê thuộc bổn châu. Tuổi nhỏ xuất gia chí cầu thấy tánh. Một hôm tham vấn Lục tổ, Tổ hỏi: Ông từ đâu đến, muốn cầu việc gì? Sư nói: Con là người ở núi Bạch Phong huyện Kiến Xương, Hồng châu, lễ Hòa-thượng Đại Thông mong chỉ bày về nghĩa thấy tánh thành Phật, nhưng chưa quyết vẫn còn hồ nghi. Đến Cát Châu thì có người chỉ mê khiến con đến tham yết Hòa-thượng, cúi mong từ bi nhiếp thọ. Tổ nói kia có ngôn cú gì thử nói ta nghe ta sẽ chứng minh cho ông. Sư nói: Trước đến đó ba tháng chưa được khai thị, vì pháp rất tha thiết nên nửa đêm một mình vào phương trượng lễ bái sư khẩn cầu. Sư Đại Thông bèn bảo: Ông thấy hư không chăng? Thưa: Thấy. Đại thông hỏi: Ông thấy hư không có tướng mạo gì chăng? Con đáp: Hư không vô hình, đâu có tướng mạo gì. Đại thông nói: Bổn tánh của ông cũng như hư không phản quán tự tánh rốt ráo không có một vật gì để thấy, đó gọi là chánh kiến, không một vật để biết, đó gọi là Chân Tri. Không có xanh vàng dài ngắn, chỉ thấy Bản nguyên thanh tịnh, giác thể tròn sáng, gọi là thấy tánh thành Phật, cũng gọi là thế giới Cực Lạc, cũng gọi là tri kiến Như lai. Đệ tử này tuy nghe lời ấy cũng chưa quyết liễu. Xin Hòathượng chỉ dạy khiến cho không còn nghi ngờ dính mắc. Tổ nói: Thầy ấy nói cũng còn thấy biết khiến ông chưa liễu. Nay ta chỉ ông một kệ:
Chẳng thấy một pháp còn không thấy,
Giống như mây nổi che mặt trời
Chẳng biết một pháp giữ không biết
Lại như hư không có ánh chớp
Tri kiến này nháy mắt liền khởi,
Nhận lầm đâu hiểu được phương tiện
Ông phải một niệm tự biết lỗi
Tự mình linh quang thường thấy rõ.
Sư nghe kệ rồi tâm ý rỗng sáng, bèn nói một kệ rằng:
Không đầu khởi trí giải
Chấp tướng cầu Bồ đề
Tỉnh ngộ còn một niệm
Đâu vượt lúc mê xưa
Tự tánh nguồn giác thể
Tùy chiếu uổng trôi lăn
Chẳng vào thất Tổ sư
Mịt mù ở hai đầu.
10. Thiền sư Chí Đạo ở Quảng Châu.
Người ở Nam Hải. Lúc đầu tham vấn Lục Tổ rằng: Đệ tử từ khi xuất gia xem kinh Niết-bàn hơn mười năm nhưng chưa biết đại ý, xin Hòa-thượng dạy bảo. Tổ hỏi: Ông chưa hiểu chỗ nào? Đáp: "Các hạnh vô thường là pháp sinh diệt, sinh diệt diệt rồi, vắng lặng là vui", đệ tử thắc mắc ý nghĩa này. Tổ nói: Ông nghi gì? Vì sao nghi? Thưa rằng: Tất cả chúng sinh đều có hai thân là sắc thân và pháp thân. Sắc thân thì vô thường có sinh có diệt. Pháp thân thì thường vô tri vô giác. Kinh nói: Sinh diệt diệt rồi vắng lặng là vui, không biết là thân nào vắng lặng, thân nào được vui. Nếu sắc thân, thì khi sắc thân diệt, bốn đại phân tán, toàn là khổ. Khổ thì không thể nói vui. Nếu pháp thân vắng lặng thì tức đồng với cỏ cây ngói đá, ai được vui. Lại pháp tánh là thể sinh diệt, năm uẩn là dụng của sinh diệt. Một thể năm dụng sinh diệt là thường. Sinh thì từ thể khởi dụng diệt thì nhiếp dung về thể. Nếu lại sinh thì tức là loại hữu tình không đoạn không diệt. Nếu chẳng còn sinh thì tức là về mãi với vắng lặng, đồng với vật vô tình. Như thế thì tất cả các pháp bị Niết-bàn cấm chế, hàng phục, còn chẳng được sinh sao có vui? Tổ nói: Ông là Thích Tử (con Phật) sao quen thói đoạn thường tà kiến của ngoại đạo mà bàn luận pháp tối thượng thừa theo chỗ ông hiểu, thì ngoài sắc thân riêng có pháp thân lìa sinh diệt cầu về vắng lặng. Lại suy Niết-bàn Thường lạc nói là có thân nhận lấy. Đó chính là chấp sinh tử tham đắm vui đời. Nay Ông phải biết, Phật vì tất cả người mê nhận năm uẩn hòa họp làm tướng tự thể, phân biệt tất cả các pháp là tướng ngoại trần, ham sinh ghét chết, niệm niệm đổi đời, chẳng biết mộng huyễn hư giả luống chịu luân hồi. Lấy thường lạc của Niết-bàn trở lại làm tướng khổ, suốt ngày tìm cầu. Phật thương người này nên chỉ bày chân lạc Niết-bàn, sát na không có tướng sinh, sát-na không có tướng diệt, lại không sinh diệt để diệt. Cho nên vắng lặng thấy trước, ngay lúc thấy trước cũng không nghĩ là thấy trước mới gọi là thường lạc, cái vui này không có người nhận cũng không có người chẳng nhận, há lại có tên gọi một thể năm dụng, huống lại nói Niết-bàn cấm phục các pháp khiến chẳng bao giờ sinh ra? Đây chính là chê Phật hủy pháp. Hãy nghe kệ của ta:
Đại Niết-bàn Vô thượng
Tròn sáng thường tịch chiếu
Phàm phu gọi là chết
Ngoại đạo chấp là đoạn
Những người cầu Nhị thừa
Cho là vô vi tác
Đều thuộc tâm chấp trước
Sáu mươi hai kiến gốc
Dối lập tên luống dối
Sau làm nghĩa chân thật
Chỉ có người quá lượng
Thông đạt chẳng lấy bỏ
Vì biết pháp năm uẩn
Cho đến Ngã trong uẩn
Ngoài hiện các hình sắc
Mỗi mỗi tướng âm thinh
Bình đẳng như huyễn mộng
Chẳng khởi thấy phàm Thánh
Chẳng nên chấp Niết-bàn
Hai bên ba mé dứt
Thường nên dùng các căn
Mà chẳng khởi tưởng dùng
Phân biệt tất cả pháp
Chẳng khởi tướng phân biệt
Kiếp lửa đốt đáy biển
Gió trống núi đập nhau
Chân thường vắng lặng vui
Tướng Niết-bàn như thế
Nay ta gượng nói năng
Khiến ông bỏ tà kiến
Ông chớ theo lời hiểu
Cho ông biết chút ít.
Sư nghe kệ xong vui mừng đảnh lễ mà lui.
Hòa-thượng Ấn Tông chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu.
Người ở quận Ngô, họ Ấn. Theo thầy xuất gia tinh chuyên Niết-bàn Đại Bộ (kinh Đại Niết-bàn). Niên hiệu Hàm Hạnh năm thứ nhất đời Đường, Sư đến kinh đô, vua ban sắc mời ở chùa Đại kính Ái, Sư cố từ chối mà đến Kỳ Xuân gặp Đại sư Hoằng Nhẫn. Sau ở chùa Pháp tánh tại Quảng Châu mà giảng kinh Niết-bàn. Khi gặp Lục Tổ là Đại sư Tuệ Năng mới ngộ Huyền chỉ bèn được truyền làm Pháp sư. Sư lại thu nhặt các lời thiết yếu của các bậc thấu suốt từ đời Lương đến đời Đường biên soạn thành tâm yếu Tập truyền bá rất thạnh hành trên đời. Ngày 11 tháng 2 niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai. Sư mất ở chùa Diệu Hỷ ở núi Cối Kê, thọ tám mươi bảy tuổi. Vương Sư Càn ở Cối Kê soạn bài minh trên tháp
Thiền sư, Hành Tư ở Thanh Nguyện Cát Châu.
Sư người An Thành, ở bổn châu họ Lưu. Tuổi nhỏ xuất gia. Mỗi khi mọi người luận Đạo thì Sư chỉ làm thinh. Sau nghe có pháp tịch ở Tào Khê bèn đến tham lễ hỏi rằng: Phải làm thế nào để không bị rơi vào giai cấp. Tổ hỏi: Ông đã từng làm gì? Sư nói: Thánh Đế cũng chẳng làm. Tổ nói: Rơi vào giai cấp nào. Sư nói: Thánh Đế còn chẳng có làm sao có cấp bậc. Tổ biết là Thâm Khí. Trong hội người học rất đông mà Sư đứng đầu. Cũng như Nhị tổ không nói Thiếu Lâm là được tủy. Một hôm Tổ (Lục tổ) gọi Sư bảo rằng: Từ trước y pháp được thầy trao cho. Y là để nói lên lòng tin còn pháp là ấn tâm. Nay ta có được người đâu lo chẳng tin. Khi ta được y đến nay thì gặp rất nhiều tai nạn, huống chi đời sau tranh giành càng dữ. Y để trấn giữ sơn môn, ông nên phân hóa một phương đừng khiến cho chấm dứt. Sư được pháp rồi bèn đến ở chùa Tịnh cư núi Thanh Nguyên thuộc Cát Châu. Khi sắp thị tịch Lục Tổ có Sa di Hy Thiên hỏi rằng: Hòa-thượng trăm tuổi rồi không biết Hy Thiên sẽ nương tựa ai? Tổ nói: Suy nghĩ đi. Đến khi Tổ mất thì Hy Thiên thường ở chỗ vắng mà ngồi lặng lẽ như quên sống. Đệ nhất tọa hỏi rằng: Thầy ông đã mất ngồi không đây làm gì? Thiên nói: Con theo lời di chúc mà suy nghĩ tìm kiếm... Đệ nhất tọa nói: Ông có sư huynh là Hòa-thượng Hành Tư, nay đang ở Cát Châu, nhân duyên ông là ở đó. Tổ nói rất rõ mà ông tự mê thôi. Sư nghe xong bèn lạy từ Tháp Tổ thẳng đến chùa Tịnh cư. Sư hỏi: Ông ở đâu mà đến đây. Hy Thiên thưa: Ở Tào Khê. Sư hỏi: Đã được cái gì rồi? Thiên nói: Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất. Sư hỏi: Thì đến Tào Khê làm gì? Thiên nói: Không đến Tào Khê sao biết chẳng mất. Thiên lại hỏi: Đại sư Tào Khê có biết Hòathượng chăng? Sư hỏi: Nay Ông biết ta chăng? Thưa: Biết làm sao biết được? Sư nói: Các sừng tuy nhiều nhưng một sừng lân là đủ. Thiên lại hỏi: Hòa-thượng xuống núi đến nay bao lâu? Sư nói: Ta chẳng biết. Sư hỏi ông rời Tào Khê lâu chưa. Đáp: Hy Thiên chẳng từ Tào Khê đến. Sư nói: Ta cũng biết chỗ ông đi. Thưa rằng: Hòa-thượng may là Đại nhân chẳng vội vàng-Một hôm Sư hỏi Thiên rằng: Ông từ đâu đến đây. Đáp: Ở Tào Khê. Sư đưa cây phát trần lên hỏi Tào Khê lại có cái này chăng? Đáp: Không phải chỉ Tào Khê, Tây Thiên cũng không. Sư hỏi: Ông chưa từng đến Tây Thiên chăng? Đáp: Nếu đến liền có. Sư nói: Chưa hiểu
Đạo. Thưa: Hòa-thượng cũng lấy một nửa Đạo chớ toàn nhờ người Học này. Sư nói: Không từ chối Đạo ông sợ sau này không có người gánh vác-Sư sai Hy Thiên đem thư đến Hòa-thượng Hoài Nhượng ở Nam Nhạc, dặn rằng: Ông đưa thư rồi mau trở về. Ta có cái búa chẻ cho ông ở núi. Thiên đến chưa kịp trình thư liền hỏi: Chẳng mến các Thánh chẳng trọng tánh linh của mình lúc đó ra sao? Hoài Nhượng nói: Ông hỏi cao quá sao không hỏi thấp xuống? Thiên nói: Thà chịu suốt kiếp đắm chìm chớ không mộ các Thánh giải thoát. Nhượng liền thôi. Thiên về đến chùa. Sư hỏi: Ông đi chưa lâu đã đưa thư chưa? Thiên nói: Tin cũng chẳng thông mà thư cũng chẳng đưa. Sư hỏi: Làm sao sinh, sinh ra cái gì? Hy thiên kể lài lời nói trước, lại thưa khi ra đi Hòa-thượng hứa cho cái búa chẻ, liền xin lấy. Sư đưa một chân. Thiên liền đảnh lễ, rồi từ giã mà đến Nam Nhạc-Thần Hội ở Hà Trạch đến tham vấn. Sư hỏi: Từ đâu đến? Hội thưa: Từ Tào Khê. Sư hỏi ý chỉ Tào Khê ra sao. Hội đứng nghiêm lại. Sư nói: Còn vướng ngói gạch liền hỏi Hòa-thượng nay không có vàng ròng cho người ư. Sư nói: Nếu có cho, ông để ở đâu? Có vị tăng hỏi: Thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư nói: Gạo Lô lăng giá bao nhiêu? Sư đã trao pháp ở Thạch Đầu. Năm Canh Thìn niên hiệu Khai Nguyên năm thứ hai mươi tám đời Đường, ngày 13 tháng 12, Sư lên tòa cáo từ chúng rồi ngồi kiết già mà hóa. Vua Đường Hy Tông ban thụy là Hoằng Tế Thiền sư, tháp hiệu là Qui Chân.
Thiền sư, Hoài Nhượng ở Nam Nhạc.
Sư họ Đỗ, người Kim Châu. Năm mười lăm tuổi đến chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu, nương Luật sư Hoằng Cảnh mà xuất gia. Sau khi thọ giới Cụ túc học tập Tạng Tỳ-ni. Một hôm tự than rằng: Người xuất gia phải pháp vô vi. Lúc đó, bạn đồng học là Thản Nhiên biết chí Sư cao xa, khuyên Sư đến gặp Hòa-thượng An ở Tung Sơn. An mở mang cho, bèn đến thẳng Tào Khê tham vấn Lục Tổ. Tổ hỏi: Từ đâu đến. Thưa từ Tung Sơn đến. Tổ hỏi Đến để làm gì)? Thưa rằng: Giống như một vật thì không đúng. Tổ hỏi: Lại có thể tu chứng chăng? Thưa: Tu chứng thì chẳng không, nhiễm ô thì chẳng được Tổ nói: Chỉ chẳng nhiễm ô này là chỗ chư Phật hộ niệm. Ông đã như thế ta cũng như thế Bát-nhã Đa-la ở Tây Thiên có lời sấm. Dưới chân ông có một con ngựa khỏe đạp chết người thiên hạ và ở tâm ông chẳng cần, nói mau! Sư rỗng rang khế hội, bèn ở làm thị giả suốt mười hai năm. Niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai đời Đường mới đến Hoành Nhạc ở Chùa Bát Nhã. Trong niên hiệu Khai Nguyên có Sa môn Đạo Nhất (là Đại sư Mã Tổ), ở viện truyền pháp thường ngày ngồi thiền. Sư biết là pháp khí, đến hỏi rằng: Đại đức ngồi thiền để làm gì? Đạo Nhất đáp: Muốn thành Phật. Sư bèn lấy một cục gạch đến hòn đá trước am mà mài. Đạo Nhất hỏi: Sư mãi làm gì?
Sư nói mài để làm gương. Đạo Nhất nói mài gạch làm gương sao được? Sư nói ngồi thiền thành Phật sao được. Đạo Nhất hỏi làm sao mới đúng? Sư nói: Như người ngồi xe, xe không đi, vậy đánh xe là đúng, hay đánh trâu là đúng? Đạo Nhất không đáp được. Sư nói: Ông học ngồi thiền hay học ngồi thành Phật. Nếu học ngồi thiền thì thiền không phải ngồi nằm, nếu học ngồi thành Phật thì Phật chẳng phải tướng định. Đối với pháp vô trụ không nên lấy bỏ nếu ông ngồi thành Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi thì không hiểu lý ấy. Đạo Nhất nghe chỉ bày như được uống đề hồ, lễ bái sư hỏi rằng: Dụng tâm thế nào thì hợp với Tam-muội Vô tướng? Sư nói: Ông học pháp môn tâm địa như gieo hạt giống. Ta nói pháp yếu ví như ao trời kia, ông duyên họp nên sẽ thấy được đạo ấy. Lại hỏi: Đạo chẳng phải sắc tướng làm sao nói thấy được. Sư nói tâm địa pháp nhãn có thể thấy được Đạo. Tam-muội Vô tướng cũng giống như thế Đạo Nhật nói: Có thành hoại chăng? Sư nói: Nếu dùng thành hoại tụ tán mà thấy Đạo thì không phải thấy Đạo, hãy nghe kệ ta:
Đất tâm ngậm hạt giống
Gặp mưa đều nẩy mầm
Hoa Tam-muội vô tướng
Nào hoại, đâu có thành.
Đạo Nhất tâm ý được khai ngộ rỗng sáng, bèn hầu thầy mười năm, ngày càng thêm sâu xa. Đệ tử nhập thất gồm có sáu vị Sư đều ấn khả cho rằng: Các ông là sáu người cùng chứng đạo ta mỗi vị khế một đường. Một người được mày ta, giỏi oai nghi Thường Hạo, một người được mắt ta, giỏi trông nhìn (Trí Đạt). Một người được tai ta, giỏi nghe lý (Thản Nhiên), một người được được mũi ta, khéo biết mùi (Thần Chiếu), một người được lưỡi ta, nói năng khéo léo (Nghiêm Tuấn), một người được tâm ta, giỏi điều xưa nay (Đạo Nhất).
Lại nói tất cả pháp đều từ tâm sinh, tâm không có sở sinh, pháp không có năng trụ, nếu hiểu tâm địa mà được vô ngại. Không gặp hạng Thượng căn thì cẩn thận chớ nói-Có một Đại đức hỏi như lấy gương đúc tượng (gương xưa bằng đồng) tượng thành thì gương sáng ở đâu? Sư hỏi: Như Đại đức tướng mạo lúc còn bé ở đâu? Hỏi rằng: Như tượng thành rồi vì sao không soi chiếu? Sư nói: Dẫu là không soi sáng chứ chớ nói dối là một điểm không có. Sau Đại sư Mã Tổ hoằng hóa ở Giang Tây. Sư hỏi chúng rằng: Đạo nhất có nói pháp cho chúng hay chăng? Chúng thưa: Đã nói pháp cho chúng. Sư hỏi: Sao chưa thấy người đem tin đến). Chúng không đáp, nhân sai một tăng đi hỏi thì đáp đợi khi ông ấy lên tòa. Chỉ hỏi cái gì sinh làm sao sinh?. Đạo ấy dùng ngôn ngữ gì để ghi nhận tương lai? Tăng đi hoàn toàn theo ý sư trở về bạch rằng: Mã Tổ nói: Từ khi Hồ loạn sau ba mươi năm không hề thiếu ăn tương muối Sư cho là đúng. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba ngày 11 tháng 8 Sư viên tịch ở Hoành Nhạc. Vua ban thụy là Đại Tuệ Thiền sư, tháp hiệu là Tối Thắng Luân.
14. Thiền sư Vĩnh Gia, Huyền Giác ở Ôn Châu.
Người ở Vĩnh Gia, họ Đới. Tuổi nhỏ xuất gia xem khắp ba tạng, hiểu rành Thiên Thai chỉ quán là pháp môn viên diệu. Trong bốn oai nghi luôn ngầm thiên quán. Sau nhờ Thiền sư Lãng ở Tả Khê khích lệ, đã cùng Thiền sư Sách ở Đông Dương đồng đến Tào Khê. Lúc đầu đến chông tích trượng mang bình đi nhiễu quanh tổ ba vòng. Tổ nói phàm Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh đại đức từ nơi nào đến mà quá ngã mạn như thế? Sư nói sinh tử là việc lớn vô thường nhanh chóng. Tổ hỏi sao không thể nhận lấy vô sinh liễu rõ không chóng. Thưa rằng: Thể tức vô sinh, liễu vốn không chóng. Tổ nói đúng thế đúng thế. Lúc đó, đại chúng đều ngạc nhiên. Sư mới đủ oai nghi mà tham lễ phút chốc cáo từ. Tổ nói: Trở về chóng thế. Sư nói: Vốn tự không động há có chóng? Tổ nói ai biết chẳng động? Sư nói: Nhân quả tự sinh phân biệt. Tổ nói ông rất được ý Vô sinh. Thưa rằng: Vô sinh há có ý ư? Tổ nói: Vô ý thì ai phân biệt. Đáp: Phân biệt cũng chẳng phải ý. Tổ khen: Lành thay! Lành thay. Bèn ở lại một đêm, do đó đời gọi là Nhất túc giác. Sách công bèn giữ Sư lại sáng hôm sau xuống núi trở về Ôn Giang. Người Học đến rất đông gọi là Chân Giác Đại sư. Sư có soạn một bài chứng Đạo ca và Thiền Tông Ngộ Tu Viên Chỉ từ cạn đến sâu. Thứ sư Khánh Châu là Ngụy Tinh, góp nhặt biên soạn lời tựa làm thành mười bài, đặt tên là Vĩnh Gia Tập truyền bá trên đời rất thịnh hành, đại ý như sau:
- Thứ một: Mộ đạo chí nghi: Muốn tu Đạo trước phải lập chí và phép tắc thờ thầy, sáng tỏ quy củ phép tắc. Nên thứ nhất là nói về nghi thức Mộ đạo.
- Thứ hai: Giới ý kiêu xa. Trước tuy lập chí tu Đạo phải giỏi biết nghi quĩ, nếu ba nghiệp kiêu xa vọng tâm quấy động thì sao định được cho nên thứ hai là nói về giới cấm ý kiêu xa.
- Thứ ba: Tịnh tu ba nghiệp. Trước cấm ý kiêu xa lược nêu cương yếu. Nay xét trách kỹ lưỡng khiến lỗi không sinh, nên thứ ba nói về Tịnh tu ba nghiệp là ngăn ngừa thân miệng ý.
- Thứ bốn: Xa-ma-tha tụng. Đã kiểm trách thân miệng khiến lỗi thô chẳng sinh, kế phải vào môn tu Đạo lần lượt chẳng ngoài Định tuệ.
Năm thứ khởi tâm, sáu thứ phân biệt nên thứ tư nói Xa-ma-tha tụng.
- Thứ năm: Tỳ-bà-xá-na tụng. Không giới thì không thiền, không thiền thì không tuệ, trên đã tu định, định lâu thì tuệ sáng nên thứ năm nói Tỳ-BàXá Na tụng.
- Thứ sáu: Ưu-tất-xoa tụng. Riêng tu định, định lâu thì hôn trầm. Riêng học tuệ, tuệ nhiều thì tâm động nên thứ sáu là Ưu-tất-xoa tụng, bằng nhau cả định tuệ không để trầm động. Khiến định tuệ bình đẳng bỏ cả hai bên.
- Thứ bảy: Ba thừa tiệm thứ. Định tuệ đã bằng nhau thì tịch mà thường chiếu, ba quán một tâm sao nghi chẳng sót, sao chiếu chẳng tròn. Tự hiểu tuy sáng mà thương người khác chưa ngộ. Ngộ có cạn sâu, nên thứ bảy là nói ba thừa tiệm thứ
- Thứ tám: Sự lý chẳng hai. Ba thừa ngộ lý, không lý nào chẳng cùng tận cùng tận lý do Sự, liễu sự tức Lý. Nên thứ tám là nói Sự lý chẳng hai. Tức Sự mà chân, dùng để trừ bỏ kiến chấp trái ngược.
- Thứ chín: Thư khuyên bạn: Sự Lý đã dung nhau, nội tâm tự sáng. Lại xa thương người học luống uổng ngày giờ, nên thứ chín là viết thư khuyên bạn.
- Thứ mười: Văn Phát nguyện: Khuyên bạn tuy là chuyên tâm thương người khác, nhưng ở một tình cũng chưa khắp nên thứ mười là văn Phát nguyện, thề độ tất cả.
Lại còn mười môn Quán tâm, trước thì nói đến pháp nhĩ, kế nêu quán thể, ba là nói tương ưng, bốn là cảnh cáo kẻ khinh thường người trên, năm là khuyên nhắc người lười biếng, sáu lại nêu quán thể, bảy là nói phải quấy, tám phân chọn thuyên chỉ, chín là gặp việc thành quán, mười là khéo Khế họp với nguồn Huyền).
1. Nói về pháp nhĩ, tâm tánh có nguồn, hư thông động tịnh đều chẳng hai, chân như dứt hết nghĩ suy tính toán, chẳng hề khác nhau. Các hoặc thấy có lăng xăng biết đến cùng) thì chỉ một vắng lặng, nguồn linh chẳng hình dáng, soi xét thì ngàn thứ khác nhau không. Tên Pháp Nhãn tự lập, một vắng lặng chẳng khác. Đây còn gọi là Tuệ nhãn, lý lượng đều tiêu, công đức của Phật Nhãn viên mãn ấy là ba Đế một cảnh, Lý pháp thân thường thanh tịnh, ba trí một tâm Bát Nhã sáng luôn chiếu. Cảnh và trí ngầm họp ứng giải thoát tùy cơ, chẳng dọc chẳng ngang, viên với Đạo huyền hội. Cho nên biết ba đức diệu tánh rõ ràng như thế không trái một tâm. Rộng sâu khó nghĩ bàn sao xuất yếu mà chẳng lộ. Đó là dùng tức tâm làm đạo, có thể gọi là tìm sông mà được nguồn.
2. Nêu quán thể-Chỉ biết một niệm tức không mà chẳng không, chẳng phải không mà chẳng phải chẳng không.
3. Nói về tương ưng-Tâm cũng không tương ưng thì chê khen đâu có buồn đâu có vui. Thân tương ưng với không thì cạo cắt xức hương thơm có gì khổ có gì vui. Y báo tương ưng với không thì ban cho hay cướp lấy đâu có được đâu có mất. Tâm tương ưng với không chẳng không thì di kiến đều mất từ bi cứu khắp. Thân tương ưng với không chẳng không, thì trong giống như cây khổ mà ngoài hiện rõ oai nghi. Y báo tương ưng với không và chẳng không thì vắng bặt tham cầu của cải chu cấp. Tâm tương ưng với không và chẳng không chẳng phải không chẳng phải chẳng không thì thật tướng mới sáng mở bày tri kiến Phật. Thân tương ưng và không chẳng không, chẳng phải không chẳng phải chẳng không thì một trần vào chánh thọ, các trần Tam-muội khởi-Y Báo cùng không chẳng không tương ưng chẳng phải chẳng phải chẳng không thì hóa sinh lên hương gác báu cõi trang nghiêm.
4. Cảnh cáo kẻ thượng mạn: Nếu chẳng như thế thì chưa tương ưng.
5. Răn kẻ biếng lười-Nhưng vượt biển thì phải lên thuyền, chẳng có thuyền làm sao vượt được. Tu tâm thì phải vào quán chẳng có quán làm sao sáng tâm. Tâm còn chưa sáng thì lúc nào mới tương ưng, hãy suy nghĩ chớ cậy mình.
6. Lại nêu quán thể-Chỉ biết một niệm tức không chẳng không, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng biết tức niệm tức không chẳng không, chẳng phải chẳng có chẳng phải chẳng không.
7. Nói về đúng sai-Tâm chẳng phải có, tâm chẳng phải không, tâm đều là có, tâm đều không, là có là không thì rời vào đúng, chẳng phải có chẳng phải không thì rơi vào sai. Như thế chỉ là phi của thị phi, mà chưa của phi là phi mà là thị của phi nay lấy hai phi, chứ phá hai thị. Thi phá phi thì thị cũng là phi. Lại lấy hai phi mà phá lưỡng phi. Phi mà phá phi thì phi tức là thị. Như thế chỉ là phi là phi mà thị của phi, không phải là chẳng phi chẳng chẳng phi, chẳng thị chẳng chẳng thị. Hoặc của thị phi nhỏ nhặt khó thấy, tinh thần phải nghĩ suy kỹ lưỡng mà nghiên cứu.
8. Phân biệt thuyên chỉ: Nhưng chí lý không lời giả mượn lời nói để nói rõ ý chỉ. Chỉ tông không phải quán, nhờ tu quán mà hiểu rõ Tông. Nếu ý chỉ chưa sáng thì lời chưa trúng đích. Nếu tông chưa rõ thì quán chưa sâu. Quán sâu sẽ hiểu rõ tông ấy. Lời nói đích xác sẽ sáng tỏ ý chỉ, chỉ của Tông đã sáng tỏ, thì chỉ của quán sao chẳng còn hoài.
9. Gặp việc thành quán. Giảng nói ngôn từ lại nêu quán thể. Muốn sáng tỏ tông chỉ không gì khác là nói quán. Có đuổi mới dời, có dời thì nói lý chẳng sai, chẳng sai thì quán chỉ chẳng khác. Chẳng khác thì chỉ tức là lý. Lý chẳng sai tức là Tông. Chỉ một mà hai tên. Nói quán thì sáng tỏ chỗ dắt dẫn.
10. Khéo khế họp nguồn huyền) người ngộ tâm thà chấp quán mà mê chỉ cho người thấu giáo đâu lại y cứ theo lời mà lầm lý. Lý sáng thì dứt đường nói năng sao nói là có thể bàn luận. Chỉ rõ thì mất chỗ tâm hành. Sao quán lại hay suy tư. Tâm và lời chẳng thể nghĩ và bàn thì có thể gọi là khéo Khế hợp Hoàn trung?
Vào niên hiệu Tiên Thiên 2 ngày mười bảy tháng 10 sư ngồi yên mà thị tịch. Ngày 13 tháng 11 thì nhập tháp ở phía Nam của Tây Sơn. Vua ban thụy là Vô Tướng Đại sư, tháp hiệu Tịnh Quang. Niên hiệu Thuần Hóa vua Tống Thái Tông ban chiếu cho Sư trụ ở Bổn Châu sửa sang lại khám tháp.
15. Thiền sư Bổn Tịnh ở núi Từ Không.
Người ở Giáng Châu, họ Trương. Tuổi nhỏ đã mặc áo Đạo (xuất gia) được thọ ký ở thất Tào Khê, thuộc chùa Vô Tướng, núi Từ Không. Niên hiệu Thiên Bảo thứ ba, Vua Đường Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Đình vào núi hái dây Thường xuân, nhân đến Trượng thất đảnh lễ hỏi rằng: Đệ tử kính mến Ngài đã lâu, nguyện Hòathượng từ bi lược bày chỉ dạy. Sư nói phẩm Thiền tông trong thiên hạ, người học cao đều hội ở Kinh đô. Thiên Sứ nên về triều mà học hỏi bần đạo e núi gần nước không chỗ dụng tâm. Quang Đình than khóc lạy cầu. Sư nói: Đừng lễ bần đạo Thiên Sư vì cầu Phật hay hỏi Đạo? Thưa rằng: Đệ tử trí thức tối tăm, chẳng hay Phật và Đạo bàn luận ra sao? Sư nói: Nếu muốn cầu Phật thì tức tâm là Phật, nếu muốn hiểu Đạo thì vô tâm là Đạo. Thưa: Thế nào là tức tâm là Phật? Sư nói: Phật nhờ vào tâm mà ngộ tâm do Phật mà sáng tỏ, nếu ngộ vô tâm thì Phật cũng chẳng có. Thưa rằng: Thế nào là vô tâm là Đạo? Sư nói: Đạo vốn vô tâm, nên vô tâm gọi là Đạo. Nếu rõ vô tâm thì vô tâm tức là Đạo. Quang Đình đảnh lễ tin nhận. Khi trở về triều thì Đình kể lại mọi việc cho vua nghe. Vua liền sai Quang Đình mời Sư ngày 13 tháng 12 về kinh ở (chùa) Bạch Liên. Năm sau ngày rằm tháng giêng vua mời hai hàng danh Tăng thạc học vào Nội đạo tràng luận bàn Phật lý với Sư. Lúc đó, Thiền sư Viên lớn tiếng bảo Sư rằng: Nay đối trước Thánh thượng mà so lường tông chỉ, thì nên hỏi thẳng đáp thẳng chớ nên nhiều lời. Như chỗ Thiền sư thấy thì cái gì là Đạo? Sư đáp vô tâm là Đạo. Viễn nói: Đạo do tâm mà có, đâu được nói vô tâm là Đạo? Sư nói: Đạo vốn không có tên gọi nhân tâm gọi là Đạo.
Tên Tâm nếu có thì Đạo chẳng dối-đã không hiểu tâm thì Đạo dựa vào đâu mà lập, cả hai đều luống dối thì cùng là giả danh. Viễn hỏi: Thiền sư thấy có thân tâm là Đạo chăng? Sư đáp: Thân tâm của Sơn tăng xưa nay vốn là Đạo. Hỏi: Vừa nói vô tâm là Đạo, nay lại nói thân tâm xưa nay là Đạo, há chẳng trái nhau? Sư nói: Vô tâm là Đạo, tâm mất Đạo không. Tâm Đạo như một nên nói vô tâm là Đạo. Thân tâm xưa nay là Đạo, Đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không thì Đạo và nguồn cũng không có. Hỏi: Xem Thiền sư hình chất rất nhỏ bé sao lại hội lý này. Sư nói: Đại đức chỉ thấy tướng của Sơn tăng mà chẳng thấy vô tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Đại đức. Kinh nói: Tất cả các tướng đều là luống dối. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng thì tức là ngộ Đạo ấy. Nếu cho tướng là thật thì cùng kiếp cũng chẳng thể ngộ Đạo-Hỏi: Nay thỉnh Thiền sư đối với tướng mà nói vô tướng. Sư nói: Kinh Tịnh danh nói: Bốn đại vô chủ, thân cũng Vô ngã. Vô ngã mà thấy thì tương ưng với Đạo. Nếu Đại đức cho bốn đại có chủ là ngã, nếu có ngã mà thấy thì cùng kiếp cũng chẳng thể (hiểu) Đạo. Viễn sư nghe lời ấy thì thất sắc mà rời tòa Sư bèn có kệ rằng:
Bốn Đại vô chủ lại như nước,
Gặp cong thẳng mà không kia đây
Hai chỗ Tịnh uế chẳng sinh tâm
Ủng quyết đâu hiểu có hai ý
Gặp cảnh chỉ giống nước vô tâm
Ở đời ngang dọc có việc gì.
Lại nói: Một đại như thế, bốn đại cũng thế. Nếu nói bốn đại vô chủ liền ngộ vô tâm, nếu hiểu vô tâm thì tự nhiên khế họp với Đạo.
-Lại có Thiền sư Chí Minh hỏi rằng: Nếu hiểu rõ vô tâm là Đạo, vậy gạch đá vô tâm cũng là Đạo. Lại nói thân tâm xưa nay là Đạo, thì bốn loài mười loại đều có thân tâm, cũng phải là Đạo ư? Sư nói:
Nếu Đại đức lấy thấy nghe hay biết mà hiểu thì cách xa Đạo, tức là người cầu thấy nghe hay biết, không phải là người cầu Đạo. Kinh nói: Không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, 6 căn còn không thì thấy nghe hay biết dựa vào đâu mà lập. Cùng tận gốc rễ chẳng có chỗ nào có tâm sao có thể chẳng giống với cỏ cây gạch đá. Chí Minh đuối lý mà lui. Sư lại có kệ rằng:
Thấy nghe hay biết không chướng ngại
Thanh hương vị xúc thường Tam-muội
Như chim chỉ bày trong hư không,
Chẳng lấy chẳng bỏ chẳng yêu ghét
Nếu hiểu chỗ ứng vốn vô tâm,
Mới được gọi là Quán Tự Tại.
-Lại có Thiền sư Chân hỏi rằng: Đạo đã vô tâm, Phật có tâm chăng, Phật và Đạo là một hay hai? Sư nói: Chẳng phải một cũng chẳng phải khác. Hỏi: Phật độ chúng sinh là có tâm, Đạo không độ người là vô tâm, một độ một không độ sao được là chẳng hai? Sư nói: Nếu nói Phật độ chúng sinh còn
Đạo không độ đây là Đại đức vọng sinh hai kiến (thấy có hai cái khác nhau). Như sơn Tăng thì không phải thế. Phật là hư danh, Đạo cũng vọng lập, cả hai đều chẳng thật, mà đều là giả danh. Trong một giả sao lại chia hai.-Hỏi: Phật và Đạo đều từ giả danh, đương khi đặt tên thì ai lập. Nếu có người lập đâu được nói không. Sư nói Phật và Đạo do tâm mà lập, suy cho cùng lập tâm thì tâm cũng không. Tâm đã là không thì liền ngộ cả hai đều chẳng thật. Biết là như huyễn tức ngộ vốn không mà cưỡng lập ra Phật và Đạo có hai tên. Đây là kiến giải chỗ thấy của người Nhị thừa. Sư bèn nói vô tu vô tu, kệ rằng:
Thấy Đạo mới tu Đạo
Chẳng thấy thì tu gì
Tánh Đạo như hư không
Hư không làm sao tu
Người quán khắp tu Đạo
Tắt lửa mà tìm bọt
Chỉ là chơi tượng gỗ
Đứt dây hết cử động.
- Lại có Thiền sư pháp không hỏi rằng: Phật cùng Đạo đều là giả danh, thì mười hai phần giáo cũng phải không thật, vì sao từ trước các bậc tôn túc đều nói tu đạo?-Sư nói: Đại đức hiểu lầm ý kinh. Đạo vốn không tu, Đại đức ép là tu, Đạo vốn không làm, Đại đức ép làm, Đạo vốn không việc, ép sinh nhiều việc, Đạo vốn không biết thì ép là biết. Sự thấy biết này trái với đạo. Các tôn túc từ trước chẳng phải như thế, là tự Đại đức chẳng hiểu, xin hãy nghĩ lại. Sư lại có kệ rằng:
Đạo thể vốn không tu,
Chẳng tu tự họp Đạo
Nếu khởi tâm tu Đạo,
Người này chẳng hiểu Đạo
Bỏ đi một chân tánh,
Mà vào chợ ồn ào
Bỗng gặp người tu đạo
Chẳng hướng Đạo bậc nhất.
- Lại có Thiền sư An hỏi rằng: Đạo đã nói giả danh, Phật bảo là dối lập, mười hai phần giáo cũng là tiếp vật độ sinh, tất cả là dối thì cái gì là chân? Sư nói: Vì có vọng nện dùng chân mà đối vọng, suy cho cùng thì tánh vọng vốn không, chân có. Cho nên biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị không thật thể, xét cùng cội gốc thì tất cả đều không.-Hỏi: Đã nói tất cả là dối thì dối cũng đồng với chân, chân vọng chẳng khác thì là vật gì? Sư nói: Nếu nói vật gì thì vật gì cũng vọng. Kinh nói: Không tương tự, không so sánh dứt đường nói năng như chim bay trong hư không-Thiền sư An thẹn phục chỗ không biết của mình. Sư lại có kệ:
Tìm chân chân vô tướng
Tìm vọng vọng vô hình
Quán lại xét cùng tâm
Biết tâm cũng giả danh
Hiểu Đạo cũng như thế
Rốt cuộc cũng chỉ thế.
- Lại có Thiền sư Đạt Tánh hỏi rằng: Thiền là rất vi rất diệu chân vọng đều mất, Phật Đạo đều quên, tu hành tánh không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều là giả danh. Khi hiểu như thế thì chẳng thể đoạn dứt hai căn thiện ác của chúng sinh. Sư nói: Hai căn thiện ác đều do tâm mà có, xét nếu tâm có thì các căn cũng chẳng dối, xét tâm đã không thì căn do đâu mà lập. Kinh nói: Pháp thiện và bất thiện từ tâm hóa sinh, nghiệp duyên thiện ác vốn không có thật. Sư lại có kệ rằng:
Thiện đã từ tâm sinh
Ác há lìa tâm có
Thiện ác là duyên ngoài
Ở tâm thật chẳng có
Bổ ác đi về đâu
Lấy thiện khiến ai giữ
Thương thay kẻ thấy hai
Dính duyên hai đầu chạy
Nếu ngộ vốn vô tâm
Mới hối lỗi từ trước.
- Lại có quan Cận thần hỏi: Thân này từ đâu đến, trăm tuổi rồi thì về đâu?-Sư nói: Như người nằm mộng thì từ đâu mà đến, thức rồi thì đi về đâu? Đáp rằng: Khi mộng thì chẳng thể nói là không, khi thức thì chẳng thể nói có, tuy có có không mà tới lui không có chỗ. Sư nói: Thân của Bần Đạo đây cũng như mộng.-Lại nói kệ:
Thấy đời như giấc mộng
Trong mộng thật là ồn
Bỗng thức, mọi thứ hết
Đồng lúc ngủ thức dậy
Người trí hiểu tỉnh mộng
Kẻ mê tin mộng ồn
Hiểu mộng như hai phần
Một ngộ không ngộ khác
Giàu sang cùng nghèo hèn
Lại cũng không đường khác.
Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai, ngày 5 tháng 5 thì Sư viên tịch. Vua ban thụy là Đại Hiểu Thiền sư.
Thiền sư Huyền Sách ở Vụ Châu.
Sư người Kim Hoa ở Vụ Châu-xuất gia du phương đến Hà Sóc. Có Thiền sư Trí Hoàng từng đến yết kiến Ngũ tổ Huỳnh Mai, ở đó hai mươi năm tự bảo là chánh thọ. Sư biết sở đắc của Hoàng chưa chân thật, bèn đến hỏi rằng: Ông ngồi đây làm gì? Hoàng nói: Nhập định. Sư hỏi: Ông nói nhập định vậy có tâm hay không có tâm. Nếu có tâm thì tất cả các loài biết cử động đều phải được định, nếu không tâm thì tất cả cỏ cây ngói gạch cũng phải được định. Đáp: Khi chính lúc tôi vào định thì chẳng thấy có tâm hữu vô. Sư nói: Đã chẳng thấy có tâm hữu vô thì tức là thường định, sao lại có xuất nhập, nếu có xuất nhập thì không phải đại định. Hoàng im lặng hồi lâu không đáp lại hỏi Sư là Đệ tử nối pháp của ai. Sư nói: Thầy ta là Lục tổ Tào Khê. Hỏi: Lục tổ lấy gì làm Thiền định. Sư nói: Thầy ta bảo lặng lẽ viên tịch thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần chẳng có, chẳng xuất chẳng nhập chẳng định chẳng loạn, thiền tánh vô trụ, lìa trụ Thiền tịch. Thiền tánh vô sinh, lìa sinh Thiền tưởng. Tâm như hư không cũng không có lượng của hư không. Hoàng nghe lời ấy bèn vội vàng đến Tào Khê xin quét sạch nghi mê. Mà ý Tổ thì rất ngầm hợp với Sư, Hoàng mới khai ngộ. Sau Sư về Kim Hoa mở rộng pháp tịch (tòa giảng kinh).
Thiền sư Linh Thao ở Tào Khê.
Người Cát Châu, họ Trương nương Lục tổ xuất gia, không hề rời thầy nửa bước. Khi Tổ viên tịch bèn lãnh việc trông coi tháp y. Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ tư, vua Đường Huyền Tông mến đức Sư ban chiếu mời về cung. Sư từ bịnh không đến. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ nhất vua Đường Túc Tông sai sứ đem pháp y của Lục Tổ vào cung cúng dường. Lại sai Sư theo y vào triều Sư cũng lại từ bịnh. Sau Sư mất ở Bổn Sơn thọ chín mươi lăm tuổi. Vua ban thụy là Đại Hiểu Thiền sư.
Quốc sư Tuệ Trung ở chùa Quang Trạch thuộc Tây Kinh.
Người ở Chư Ký thuộc Việt Châu, họ Nhiễm, từ khi thọ Tâm ấn thì ở hang Đảng Tử núi Bạch Nhai ở Nam Dương, hơn bốn mươi năm không hề xuống núi. Đạo hạnh Sư vang đến kinh đô thôn dã. Niên hiệu Thượng nguyên năm thứ hai, vua Đường Túc Tông sai Trung sứ Tôn Triều Tấn mang chiếu mời Sư về kinh kính lễ Sư như thầy trò. Trước Sư trụ Tây Thiền viện ở chùa Thiên Phước. Khi vua Đường Đại Tông lên ngôi lại mời Sư về ở chùa Quang Trạch, có mười sáu năm tùy cơ nói pháp. Lúc đó có Đại Nhĩ Tam tạng ở Tây Thiên mới đến kinh đô nói rằng: Đạt được Tuệ nhãn tha tâm. Vua ban sắc khiến cùng với Quốc sư thử nghiệm, Tam tạng vừa mới thấy Sư liền đảnh lễ đứng hầu bên phải. Sư hỏi: Ông có được tha tâm thông hay chăng? Đáp rằng chẳng dám. Sư hỏi: Ông nói Đại lão tăng nay đang ở đâu? Đáp: Hòa-thượng là thầy một nước đâu được ở Tây Xuyên mà tranh độ. Sư lại hỏi: Ông nói Đại Lão Tăng nay ở đâu? Thì nói Hòa-thượng là thầy một nước đâu được ở trên cầu Thiên Tân mà coi khỉ làm xiếc. Hỏi: Lần thứ ba thì nói giống trước. Tam tạng hồi lâu chẳng biết chỗ đi. Sư hét lớn chớ giả hồ tinh, tha tâm thông ở đâu? Tam tạng không đáp được.-Một hôm Sư gọi Thị giả, Thị giả lên tiếng dạ, như thế ba lần đều dạ. Sư bảo: Chớ nói ta phụ ông, mà ông đã phụ ta.
Ngài Nam Tuyền đến tham vấn, Sư hỏi từ đâu đến?
Đáp: Từ Giang Tây đến. Sư hỏi: Có đem được Mã Sư thật sự đến chăng?
Đáp: Chỉ như thế. Sư nói: Ở sau lưng ông đó Nam Tuyền bèn thôi.
Ngài Ma Cốc đến tham vấn, đi nhiễu quanh giường Thiền của Sư ba vòng rồi đứng rung tích trượng trước Sư.
Sư hỏi: Đã như thế thì cần gì phải gặp Bần đạo.
Ma Cốc lại rung tích trượng. Sư hét lớn: Này Dã Hồ tinh, đi ra!.
Sư thường dạy chúng rằng: Người học Thiền tông phải vâng lời Phật dạy Nhất thừa liễu nghĩa tự khế họp với nguồn tâm, với người chẳng liễu nghĩa thì chẳng nên nói với họ. Như giòi trong thân sư tử làm thầy người mà rơi vào chốn danh lợi riêng bày dị đoan thì mình và người nào có ích gì. Như người thợ giỏi trong đời thì không bị dao búa làm đứt tay, sức chở mang của loài voi thì sức lừa không chịu nổi.
- Có vị tăng hỏi: Có được thành Phật chăng? Sư nói Phật và chúng sinh một lúc buông bỏ hết sẽ là chỗ giải thoát. Hỏi: Làm sao sinh được tương ưng? Sư nói: Thiện ác chẳng nghĩ thì tự thấy Phật tánh. Hỏi: Có được chứng pháp thân chăng? Sư nói vượt cảnh giới Tỳ-lô.-Hỏi: Thanh tịnh pháp thân làm sao được sinh? Sư nói: Chẳng đắm trước Phật mà cầu. Hỏi: Thế nào là Phật? Sư nói tức tâm là Phật. Hỏi: Tâm có phiền não không? Sư nói: Tánh phiền não tự lìa. Hỏi: Há chẳng dứt ư? Sư nói: Dứt phiền não thì gọi là Nhị thừa, phiền não chẳng sinh gọi là Đại Niết-bàn. Hỏi: Ngồi thiền khán tịnh để làm gì?. Sư nói: Chẳng cấu chẳng tịnh đâu cần khởi tâm mà xem tướng Tịnh.-Lại hỏi: Thiền sư thấy hư không mười phương là pháp thân chăng? Sư nói: Dùng tưởng tâm mà lấy là kiến điên đảo. Hỏi: Tức tâm là Phật thì có thể tu muôn hạnh chăng? Sư nói:
Các Thánh đều có hai nghiêm chẳng lẽ bác không có nhân quả ư? Lại nói: Nay ta đáp ông cùng kiếp cũng không hết được nói nhiều cách Đạo càng xa. Vì vậy mà nói, thuyết pháp có chỗ được thì đó là tiếng kêu của Dã can thì nói pháp không chỗ được, đó là tiếng sư tử gầm thét.
- Hành giả Trương Phần ở Nam Dương hỏi: Có lúc Hòa-thượng nói vô tình nói pháp, con chưa hiểu rõ, xin Hòa-thượng chỉ dạy. Sư nói: Nếu ông hỏi vô tình nói pháp thì phải hiểu rõ vô tình đó mới được nghe ta nói pháp, ông chỉ nghe lấy vô tình nói pháp mà thôi Bí thưa: Chỉ y cứ như nay trong phương tiện hữu tình thế nào là nhân duyên vô tình? Sư nói: Như nay trong tất cả mọi động dụng chỉ hai dòng phàm Thánh đều không có chút khởi diệt, liền là xuất thức chẳng thuộc có không mà lừng lẫy thấy biết, chỉ nghe vô tình thức mà chấp chặt. Do đó Lục tổ nói: Sáu căn đối cảnh phân biệt chẳng phải thức.-Có vị Tăng đến tham lễ. Sư hỏi; Có sư nghiệp gì? Đáp: Là giảng kinh Kim cang. Sư hỏi: Hai chữ đầu Tiên là gì? Đáp: Như thị. Sư hỏi: Là thế nào? Tăng không trả lời.
- Có người hỏi: Thế nào là giải thoát?-Sư nói: Các pháp không đến nhau là giải thoát. Hỏi: Làm sao cắt đứt? Sư nói: Vừa nói với ông các pháp không đến với nhau thì còn cắt đứt cái gì?-Sư thấy có vị tăng đến bèn đưa tay vẽ một vòng tròn, trong vòng tròn viết chữ nhật (mặt trời), Tăng không đáp được.-Sư hỏi Thiền sư Bổn Tịnh rằng: Ông từ đây trở đi thấy lời lẽ kỳ lạ thì sao? Tịnh đáp: Không một niệm ưa thích. Sư nói: Ấy là việc trong nhà ông.-Vua Đường Túc Tông hỏi: Sư được pháp gì? Sư đáp: Bệ hạ có thấy trên hư không một áng mây trôi chăng? Vua nói: Thấy. Sư nói: Dính vào đinh đóng, dính vào treo máng. Lại hỏi: Thế nào là mười thân Điều ngự? Sư bèn đứng dậy, hỏi hiểu chăng? Vua đáp: Không hiểu. Sư nói Đưa Tịnh Bình cho Lão tăng).-Vua lại hỏi: Thế nào là Tam-muội Vô tránh? Sứ nói: Đạp trên đảnh Tỳ Lô mà đi. Vua hỏi: Ý này ra sao? Sư nói: Chớ cho pháp thân của mình thanh tịnh. Vua lại hỏi Sư, Sư đều không nhìn. Vua nói: Trẫm là vua nước Đại Đường, vì sao Sư không đoái nhìn. Sư nói: Lại thấy hư không chăng? Vua đáp: Thấy. Sư hỏi: Nó có xoay nhìn Bệ hạ chăng?-Ngư Quân Dung hỏi: Sư ở núi Bạch Nhai trong mười hai giờ tu Đạo như thế nào? Sư gọi đồng tử đến, xoa đầu bảo: Tỉnh tỉnh mau lên tỉnh tỉnh, rõ ràng mau lên rõ ràng, sau chớ để người gạt.-Sư và Tử Lân Cung Phụng luận nghĩa. Đã ngồi rồi Cung Phụng nói: Thỉnh Sư lập nghĩa tôi sẽ phá. Sư nói: Đã lập nghĩa xong. Cung Phụng hỏi: Nghĩa gì? Sư nói: Quả nhiên chẳng thấy, chẳng phải là cảnh giới của ông, liền rời chỗ ngồi.-Một hôm Sư hỏi: Tử Lân Cung Phụng rằng: Phật là gì? Đáp: Là giác. Sư hỏi: Phật có từng mê chăng? Đáp: Không hề mê. Sư nói: Dùng giác làm gì chẳng đáp-Lại hỏi: Thế nào là thật tướng? Sư nói: Đem hư không đến đây. Đáp: Hư không chẳng có. Sư nói: Đáy hư không còn chẳng thật có, hỏi thật tướng làm gì?-Có vị tăng hỏi: Thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư nói: "Trong nhà Văn-Thù có muôn vị Bồ tát. Thưa: Người học chẳng hiểu. Sư nói: Đại bi có ngàn tay mắt-Đam Nguyên hỏi: Trăm năm sau có người hỏi việc rốt lại thì làm sao sinh? Sư nói: Mong tự đáng thương sinh, cần phải tự giữ mình bùa chú làm gì?-Sư thấy việc hóa duyên đã xong thời Niếtbàn đã đến. Bèn từ giả vua Đường Đại Tông. Vua hỏi Sư diệt độ rồi đệ tử phải nhớ điều gì? Sư bảo: Hãy tạo một ngôi tháp không vá víu. Vua nói: Xin vẽ hình tháp. Sư hồi lâu mới nói hiểu chăng? Vua đáp không hiểu. Sư nói: Bần Đạo mất rồi có Thị giả là ứng chân, liền biết việc này. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ mười ngày mồng 09 tháng 12 Sư nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch. Đệ tử đem linh thể Sư về hang Đảng Tử mà xây tháp thờ. Vua ban thụy là Đại Chứng Thiền sư. Sau vua Đại Tông mới Ứng Chân vào triều kể lại việc trước. Hồi lâu chân nói: Thánh thượng hiểu chăng? Vua đáp không hiểu. Chân bèn nói kệ:
Tương ở Nam, Đầm ở Bắc.
Trong có vàng ròng đầy cả nước
Dưới cây không bóng họp cùng thuyền,
Trên điện lưu ly không tri thức.
Sau Ứng Chân trụ ở núi Đam Nguyên.
19. Thiền sư Thần Hội ở Hà Trạch thuộc Tây Kinh.
Người ở Tương Dương, họ Cao, mười bốn tuổi làm Sa di đến ra mắt Lục Tổ. Tổ hỏi: Tri thức từ xa đến rất khó khăn có mang Bổn đến chăng, nếu có Bổn thì họp với Thức chủ, thử nói xem?-Sư nói lấy vô trụ làm Bổn, thấy tức là chủ. Tổ nói: Này Sa di điều đó chớ nên nói nữa. Rồi lấy gậy đánh. Khi bị đánh Sư thầm nghĩ rằng: Đại Thiện tri thức nhiều kiếp khó gặp nay đã gặp được đâu tiếc thân mạng. Từ đó bèn làm thị giả. Một hôm khác Tổ bảo chúng rằng: Ta có một vật không đầu không đuôi không tên họ, không phải trái các ông có biết chăng? Sư bèn lên tiếng: Đó là gốc của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội. Tổ nói: Ta vừa nói với ông là không có tên họ, sao ông bảo là nguồn gốc Phật tánh? Sư lễ bái mà lui ra-Sư tìm đến Tây kinh thọ giới. Trong niên hiệu Cảnh Long đời Đường trở về Tào Khê. Tổ mất rồi trong hai mươi năm, Đốn chỉ của Tào Khê bị phế bỏ ở Kinh Ngô, Tiệm Môn của Tung Nhạc, thạnh hành ở Tần Lạc. Sư bèn vào kinh. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ tư mới định lại hai tông (Đốn tông của Tuệ Năng thuộc Nam Tông và Tiệm Tông của Thần Tú thuộc Bắc Tông) mà hiển bày tông ký thịnh hành ở đời. Một hôm có tin quê báo cha mẹ mất, Sư bèn vào điện gõ chày bạch rằng: Cha mẹ đều mất, thỉnh Đại chúng niệm Ma-ha Bát-Nhã. Chúng vừa nhóm hợp thì Sư gõ chày bạch rằng: Làm phiền đại chúng. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ nhất ngày 13 tháng 05, Sư giữa đêm an nhiên thị tịch thọ bảy mươi lăm tuổi. Năm sau xây tháp thờ ở Long Môn Lạc kinh vua ban sắc để ở Tháp là chùa Bảo Ứng. Niên hiệu Đại Lịch năm thứ năm, vua lại ban hiệu là Chân Tông Bát-Nhã Truyền Pháp Đường, năm thứ bảy lại bản đề tháp là Bát Nhã Đại sư.
-Có vị Tăng nêu kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân có tài khéo
Dứt được trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm không khởi
Bồ đề ngày càng lớn.
Lục Tổ nghe rồi bảo: Bài kệ này chưa sáng tâm địa, nếu thực hành theo đó thì càng gây nhân ràng buộc. Bèn nêu một bài kệ rằng:
Tuệ Năng không tài khéo
Chẳng dứt trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm thường khởi
Bồ đề làm sao lớn.
Hai bài kệ này thường thấy chép ở nhiều nơi nói, nên phụ vào ở cuối quyển, Ngọa Luân không phải là tên gọi mà là chỗ ở).
Đệ tử nối pháp của Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam Nhạc.
Đời thứ nhất có 9 vị (một người có thấy ghi lục) Thiền sư Đạo nhất ở Giang Tây
(một người thấy có ghi lục, họ Mã tổ đương thời gọi là Mã Tổ)
Thiền sư Thường Hạo ở Nam Nhạc
Thiền sư ở Trí Đạt
Thiền sư Thản Nhiên
Thiền sư Thần Chiếu ở Hồ Châu Quốc Bổn
Như
Thiền sư vị Tân La
Dương Châu, Nghiêm Tuấn Thiền sư ở Đại
Minh ở chùa
Thiền sư Huyền Thạnh
Thiền sư Pháp Không ở Đông Vụ
(8 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Đời thứ hai, có ba mươi bảy vị
(đệ tử nối pháp của Mã Tổ, 14 vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Đại Châu tuệ Hải ở Việt Châu
Thiền sư Pháp Hội ở núi Lặc Đàm Trợ thuộc
Hồng Châu
Thiền sư Trí Kiên ở Thái Sơn thuộc Trì Châu
Thiền sư Duy Kiến Lặc Đàm thuộc Hồng Châu
Thiền sư Đạo Hạnh ở Minh Khê thuộc Lễ Châu
Thiền sư Tuệ Tạng ở Thạch Củng thuộc Phủ Châu
Thiền sư Đạo Thông ở núi Tử Ngọc thuộc
Đường Châu
Thiền sư Lan Nhượng ở Bắc Giang Tây
Thiền sư Như Mãn ở Phật Quang thuộc Lạc Kinh
Thiền sư Đạo Minh ở Nam Nguyên thuộc Viên
Châu
Thiền sư Tự Mãn ở Lệ Thôn thuộc Hân Châu
Thiền sư Hồng An ở Trung Áp thuộc Lãng Châu.
Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách trượng thuộc Hồng Châu.
(Phụ: Thiền môn quy thức; 13 vị trên đây thấy có ghi lục).
Thiền sư hạo Anh Thiền sư Sùng Thái
Thiền sư Tiêu Nhiên ở núi Vương Lão
Thiền sư Sách Chùa Phục Thê ở Hoa Châu
Thiền sư Trí Thông ở tháp Tùng Tư thuộc Lễ Châu.
Thiền sư Thần Giám ở núi Vân Tú thuộc Đường Châu.
Thiền sư Trí Thông ở chùa Thê Linh thuộc
Dương Châu
Thiền sư Trí Tạng ở Khanh Châu
Thiền sư Hoài Thao ở Kinh Triệu Thiền sư
Pháp tạng ở xử châu
Thiền sư Hoài Tắc ở phủ Hà Trung
Thiền sư Minh Cán ở Thường Châu
Thiền sư Hồng Đàm ở Ngạc Châu
Thiền sư Hoài Thản ở Tượng Nguyên
Thiền sư Nguyên Lễ-Thanh Liên ở Lộ Phủ
Thiền sư Bảo Khánh ở Phủ Hà Trung Thiền sư Chí Hiền ở Cam Tuyền Thiền sư Đạo Ngộ ở núi Đại Hội.
Thiền sư Pháp Nhu ở Lộ Phủ
Thiền sư Giác Bình Chùa Hàm Thông ở Kinh
Triệu
Thiền sư Thắng Biện ở Nghĩa Hưng
Thiền sư Khánh Vân ở Hải Lăng
Thiền sư Huyền Hư chùa Khai Nguyên ở Hồng Châu.
(23 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
Thiền sư ở Hoài Nhượng đời thứ nhất
Người ở Thập phương thuộc Hán Châu, họ Mã, dung mạo kỳ dị, dáng trâu đi hổ nhìn, lưỡi dài quá mũi, dưới chân có hai đường văn xoay tròn. Tuổi nhỏ nương Hòa thượng Đường ở Tư Châu mà xuống tóc. Thọ giới cụ túc từ Luật sư viên ở Du Châu.-Trong năm Khai Nguyên đời đường tu tập Thiền Định tại viện Truyền Pháp ở Hoành Nhạc, gặp Hòa thượng Hoài Nhượng cùng tham học có 9 vị nhưng chỉ có Sư ngầm được Tâm Ấn.
Mới đầu từ núi Phật Tích ở Kiến Dương dời đến Lâm Xuyên, kế đến núi Tập Công ở Nam Khang. Trong năm Đại Lịch tên tuổi phụ thuộc ở Tịnh Xá Khai Nguyên. Lúc đó vị, Liên Soái Lộ Từ Cung, nghe phong thái mà ngưỡng mộ đích thân đến thọ tông chỉ. Từ đó người học 4 phương đến rất đông. Một hôm bảo chúng rằng: Các ông đều nên tin tự tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Đại sư Đạt Ma từ Nam Thiên Trúc đích thân đến Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm giúp các ông khai ngộ. Lại dẫn văn kinh lăng Già để ấn tâm địa cho chúng sinh, sợ các ông điên đảo không tự tin. Phát tâm này tất cả đều có. Cho nên kinh lăng Già nói: Phật nói Tâm là Tông, vô môn là pháp môn. Lại nói hề cầu pháp, thì không có chỗ cầu ngoài tâm không có Phật khác, ngoài Phật không có tâm khác chẳng lấy thiện chẳng bỏ ác, Tịnh uế 2 bên đều chẳng nương cậy hiểu tội tánh không niệm niệm chẳng thật có. Vì không có tự tánh nên 3 cõi duy tâm, sum la vạn tượng được ấn 1 pháp. Phàm chỗ thấy sắc đều là thấy tâm, tâm chẳng tự tâm do sắc mà có. Các ông chỉ tùy lúc nói năng, tức sự tức lý đều vô ngại. Bồ đề Đạo quả cũng lại như vậy. Ở tâm chỗ sinh thì gọi là sắc, vì biết sắc không cho nên sinh thì chẳng sinh. Nếu hiểu tâm này thì mới có thể tùy thời mà mặc áo ăn cơm, nuôi lớn mầm Thánh mặc tình qua thời thì có việc gì. Các ông nghe lời ta dạy, hãy nghe kệ ta.
Tâm địa tùy lúc nói
Bồ đề cũng tự an
Sự lý đều vô ngại
Đời sau tức chẳng sinh
Có vị Tăng hỏi: Vì sao Hòa thượng nói tức tâm tức Phật. Sư nói là ngăn đứa bé khóc vị. Vị Tăng hỏi: Khi nín khóc thì sao? Sư nói không tâm không Phật. Vị Tăng nói: Trừ 2 loại người này đến thì chỉ bày thế nào? Sư nói: Đạo ấy không phải vật. Vị Tăng nói: Bỗng gặp người trong hai loại ấy đến thì lúc đó thế nào? Sư nói: Lại dạy người ấy hiểu được Đại đạo. Vị Tăng hỏi: Thế nào là ý ở Tây Trúc đến? Sư nói: Tức nay là ý gì?-Bàng cư sĩ hỏi: Như nước không gân xương mà hơn hẳn thuyền muôn hộc, lý này thế nào? Sư nói: Ngăn trong đó không nước cũng không thuyền, nói gì gân xương-Một hôm Sư lên điện, hồi lâu Bách Trượng cúi mặt đứng trước toà, sư liền xuống điện Bách Trượng hỏi: Thế nào là chỉ thú của Phật pháp? Sư nói: Chính là chỗ ông bỏ thân mạng. Sư hỏi Bách Trượng: Ông dùng lấy pháp nào chỉ vị? Bách Trượng dựng đứng phất trần. Sư nói: Chỉ lúc đó là thường có. Bách Trượng ném phất trần. Có vị Tăng hỏi: Làm sao được hợp Đạo? Sư nói: Ta sớm chẳng hợp đạo. Vị Tăng hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến. Sư liền đánh rồi bảo: Ta nếu chẳng đánh ông thì mọi người cười ta.-Có vị Tăng nhỏ đi hành cước trở về vẽ 1 vòng tròn ở trước Sư, lên đó lạy Sư rồi đứng yên. Sư hỏi: Ông chẳng muốn làm Phật ư? Đáp: Con chẳng hiểu ấn phải. Sư nói: Ta chẳng bằng ông vị Tăng nhỏ (tiểu sư) không đáp được.-Đặng Ẩn Phong từ giả Sư, Sư hỏi đi đâu? Thưa: Đi Thạch Đầu. Sư nói đường Thạch Đầu trơn trợt. Thưa rằng: Có gậy trúc theo mình gặp chỗ đông thì múa giỡn, rồi đi. Vừa đến Thạch Đầu đi nhiễu quanh Thiền sàng 1 vòng rồi rung tích trượng 1 cái, hỏi đây là tông chỉ gì? Thạch Đầu nói: Trời xanh trời xanh. Ẩn Phong không nói gì, trở về thuật lại cho Sư nghe. Sư nói: Ông lại đến đó, thấy ông ấy nói trời xanh thì ông rên hừ hừ. Ẩn Phong lại đến Thạch Đầu liền hỏi y như trước là tông chỉ gì? Thạch Đầu bèn rên hừ hữ. Ẩn Phong không nói trở về. Sư bảo: Ông đến đó nói Thạch Đầu đường trơn-Có vị Tăng ở trước Sư vẽ 4 nét, 1 nét dài ở trên, 3 nét ngắn ở dưới, hỏi rằng: Không được nói 1 dài 3 ngắn lìa 4 chữ này xin Hòa thượng đáp. Sư liền vạch đất vẽ 1 nét bảo: Chẳng được nói dài ngắn, đáp ông xong.-Có 1 vị Tăng giảng đến hỏi rằng: Chẳng biết Thiền tông truyền trì pháp gì? Sư hỏi lại: Tọa chủ truyền trì pháp gì? Ông ấy đáp: Thẹn là giảng được kinh luận hơn 20 năm. Sư hỏi: Không phải là con của Sư Tử chăng? Thưa: Chẳng dám. Sư rên hừ hừ. Ông ấy nói: Đây là pháp. Sư nói: Là pháp gì? Thưa: Pháp sư tử ra khỏi hang-Sư bèn làm thinh. Ông ấy nói đây cũng là pháp. Sư nói: Là pháp gì? Thưa là pháp Sư Tử ở trong hang. Sư hỏi chẳng ra chẳng vào là pháp gì? Vị Tăng không đáp bèn từ giã ra khỏi cửa. Sư lại gọi: Tọa chủ. Vị Tăng quay đầu lại. Sư hỏi: Là gì? Vị Tăng cũng chẳng đáp. Sư nói: Đó là Sư độn y. Hồng Châu Liêm Sứ hỏi đệ tử ăn uống rượu thịt là phải hay không ăn uống rượu thịt là phải? Sư nói nếu ăn uống là hưởng lộc, nếu không ăn uống là hưởng phước. Sư có một trăm ba mươi chín vị đệ tử nhập thất, đều là tông chủ 1 phương chuyển hóa vô cùng. Vào năm Trinh Nguyên giữa thứ tư, tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn ở Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng mà, thấy có một hang trống bằng phẳng bảo thị giả rằng: 1 tháng nữa thân xác ta sẽ về đây. Nói xong liền trở về. Đến ngày 4 tháng 2 quả nhiên sư bị bịnh nhẹ tắm gội xong ngồi kiết già mà tịch. Trong năm Nguyên Hòa vua truy ban hiệu là Đại Tịch Thiền sư ở Tháp hiệu là Đại Trang Nghiêm. Ngày nay Ảnh Đường còn ở huyện Hải Hôn.
* Đệ tử nối pháp ngài Mã Tổ đời thứ 2 của Hoài Nhượng.
1. Việt Châu, tuệ Hải Thiền sư ở Đại Châu:
Người ở Kiến Châu, họ Chu, thọ nghiệp với Hòa thượng Đạo Trí tại chùa Đại Vân ở Việt châu. Lúc đầu đến Giang Tây tham vấn Mã Tổ. Tổ hỏi: Từ đâu đến. Thưa: Ở chùa Đại vân tại Việt Châu đến. Tổ hỏi: Đến đây cầu việc gì? Thưa: Con đến cầu Phật pháp. Tổ nói: Kho báu trong nhà không đoái hoài, bỏ nhà đi lung tung làm gì. Ta trong đó 1 vật cũng không có, cầu Phật pháp làm gì-Sư bèn lễ bái hỏi rằng: Cái gì là kho báu của nhà tuệ Hải? Tổ nói: Tức nay ông hỏi ta là kho báu của ông, tất cả đều đầy đủ không chút thiếu sót sử dụng tự tại, đâu cần tìm cầu bên ngoài?-Sư sau lời nói liền tự biết bổn tâm không do tri giác rất vui mừng lạy tạ. Sư thờ Tổ suốt 6 năm. Sau thầy thọ nghiệp (Thầy cũ) của Sư vì tuổi già nên Sư phải về nuôi dưỡng, bèn dấu tung tích giả dạng dại khờ. Sư tự soạn luận Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn 1 quyển đầy đủ pháp môn. Cháu của Sư là Huyền Yếu lén lấy qua sông đem trình Mã Tổ. Tổ xem xong bảo chúng rằng: Việt Châu có Đại châu sáng suốt được đầy đủ, tự tại không ngăn ngại. Ở trong chúng cũng có người biết Sư họ Chu, thay tìm hiểu mà biết được, cùng nhau đến Việt Châu tìm hỏi để nương tựa. Sư nói rằng: Khánh thiền đến nhưng tôi không biết thiền, cũng không có một pháp nào có thể chỉ bày cho người, vì vậy không phiền đến mọi người đứng lâu, mà tự mình nghỉ ngơi đi! Lúc ấy người học đến càng nhiều, ngày đêm thưa thỉnh. Sự việc không thể khác được, cho nên hễ hỏi thì đáp, biện giải không ngăn ngại. Lúc ấy có mấy người Pháp sư đến lễ bái, nói rằng: Muốn nêu ra một câu hỏi, Sư có trả lời hay không? Sư nói: Đầm sâu bóng trăng tùy ý hiện bày. Hỏi: Thế nào là Phật? Sư nói: Đầm trong veo đối diện không phải Phật mà là ai? Chúng đều không biết. Hồi lâu vị Tăng ấy lại hỏi: Sư nói pháp gì để độ người? Sư nói: Bần đạo chưa từng có một pháp nào để độ người. Hỏi: Những Thiền Sư toàn như vậy sao? Sư lại hỏi rằng: Đại Đức nói pháp gì để độ người? Đáp: Giảng kinh Kim Cang Bát Nhã. Sư hỏi: Giảng bao nhiêu lần rồi? Đáp: Hơn 20 lần. Sư hỏi: Kinh này là do ai nói ra? Vị tăng lên tiếng chống: Thiền sư đùa cợt nhau, lẽ nào không biết là Phật nói ra hay sao? Sư nói: Nếu nói Như lai có pháp nói ra, thì đó là phỉ báng Phật là người không hiểu nghĩa mà Phật đã nói. Nếu nói kinh này không phải là Phật nói ra, thì đó là phỉ báng kinh, xin đại đức nói thử xem! Vị tăng không trả lời. Lát sau Sư lại hỏi: Trong kinh nói: "Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người này hành tà đạo, không thể thấy Như lai". Đại đức lại nói thế nào là Như lai? Vị Tăng nói: Đến đây thì tôi hết mê lầm. Sư nói: Xưa nay chưa ngộ nói gì là hết mê? Vị tăng nói: Xin Thiền sư giải thích cho! Sư nói: Đại đức giảng kinh hơn 20 lần, lại chưa biết Như lai ư? Vị tăng lại lễ lạy, xin Sư thương tình chỉ bày rõ ràng. Sư nói: Như lai đó là các pháp như nghĩa, sao có thể quên mất? Thưa rằng: Đúng vậy, là các pháp như nghĩa. Sư nói: Đại đức đúng mà cũng chưa đúng. Vị tăng nói: Văn kinh rõ ràng lẽ nào chưa đúng? Sư nói: Đại đức có như hay không? Thưa rằng: Như. Sư nói: Gỗ đá có Như hay không? Thưa rằng: Như. Sư nói: Như của Đại đức giống với Như của gỗ đá hay không? Thưa rằng: Không hai. Sư nói: Đại đức đâu khác với gỗ đá? Vị tăng không trả lời.
Hồi lâu liền hỏi: Thế nào là được đại Niết-bàn?
Sư nói: Không tạo nghiệp sinh tử.
Hỏi: Thế nào là nghiệp sinh tử?
Sư nói: Cầu đại Niết-bàn là nghiệp sinh tử, bỏ nhơ lấy sạch là nghiệp sinh tử, có được có chứng là nghiệp sinh tử, chẳng thoát môn đối trị là nghiệp sinh tử.
Hỏi: Thế nào thì được giải thoát?
Sư nói: Vốn tự không bị buột ràng không cần mở trói dùng ngay làm ngay là không gì sánh bằng? Vị Tăng nói: Như Hòa thượng Thiền sư thật là ít có, bèn lễ tạ mà lui.
Có hành giả hỏi: Tức tâm tức Phật, cái gì là Phật. Sư hỏi ông nghi cái gì, chẳng phải là Phật chỉ ra xem? Vị Tăng chẳng đáp được. Sư nói: Thấu suốt thì khắp cảnh đầu phải, chẳng ngộ thì mãi mãi trái sót. Có Luật sư Pháp Minh nói với Sư rằng: Phần lớn Thiền sư ở đều rơi vào không. Sư nói tức tọa chủ chẳng lạc vào không. Pháp Minh kinh sợ nói sao rơi vào không được. Sư nói: Kinh luận là giấy mực chữ nghĩa, giấy mực chữ nghĩa đều không. Nếu ở trên tiếng mà lập ca danh cú các pháp thì đều là không. Tọa chủ chấp chặt vào giáo thể há chẳng rơi vào không. Pháp Minh nói: Thiền sư rơi vào không chăng? Sư nói: Chẳng rơi vào không. Hỏi: Sao chẳng rơi vào không? Sư nói: Chữ nghĩa đều từ trí tuệ mà sinh, đại dụng hiện tiền sao có thể rơi vào không. Pháp Minh nói: Cho nên biết một pháp chẳng đạt chẳng gọi đều đạt Sư nói: Luật sư chẳng chỉ rơi vào không mà còn dùng lầm danh ngôn. Pháp Minh nghiêm sắc hỏi chỗ nào là lầm? Sư nói: Luật sư chưa phân biệt rõ tiếng Thiên Trúc và Trung Hoa, làm sao giảng nói. Thưa: Xin Thiền sư ở chỉ rõ chỗ Pháp Minh lầm. Sư nói há chẳng biết Tất Đạt là tiếng Phạm. Luật sư tuy biết lỗi nhưng tâm còn giận (Tiếng phạm nói đủ là Tát bà hạt thích tha tất đà, Hán dịch là tất cả nghĩa đã thành, xưa gọi là Tất đạt đa, là sai tiếng Phạm).
Lại hỏi: Kinh luật luận là lời Phật nói. Nay đọc tụng y giáo vâng làm sao chẳng thấy tánh? Sư nói: Như chó điên rượt cục đất, sư tử cắn người, kinh luật luận tự tánh dụng, đọc tụng là tánh pháp. Pháp Minh nói: Phật A Di Đà có cha mẹ và họ chăng? Sư nói: A Di Đà họ là Kiều Thi Ca, cha tên là Nguyệt Thiện, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhan.
Hỏi: Nói từ văn giáo nào? Sư nói: Trích từ Đà La Ni tập. Pháp Minh lễ tạ khen ngợi mà lui. Có Tam tạng Pháp sư hỏi: Chân như có thay đổi chăng? Sư đáp: Có thay đổi. Tam tạng hỏi: Thiền sư ở lầm chăng? Sư hỏi Tam tạng: Có chân như chăng? Đáp: Có. Sư nói: Nếu không thay đổi quyết định là phàm vị Tăng. Há chẳng nghe Thiện tri thức là thây 3 độc thành 3 tụ tịnh giới, thây 6 thức thành 6 thần thông, thây phiền não thành Bồ đề thây vô minh thành Đại trí chân như. Nếu không có thay đổi Tam tạng tự nhiên thật là ngoại đạo vậy. Tam tạng nói: Nếu thế thì chân như có thay đổi. Sư nói: Nếu chấp chân như có thay đổi thì cũng là ngoại đạo. Nói rằng: Thiền sư ở vừa nói chân như có thay đổi, nay lại nói không thay đổi, thì thế nào là đúng? Sư nói: Nếu người thấy tánh rõ ràng thì như châu ma ni hiện sắc, nói thay đổi cũng được mà nói không thay đổi cũng được. Nếu người không thấy tánh nghe nói chân như thay đổi thì liền hiểu là thay đổi, nghe nói không thay đổi thì liền hiểu chẳng thay đổi. Tam tạng nói: Cho nên Nam Tông thật chẳng thể lường được. Có Đạo Lưu hỏi: Thế gian có pháp nào được tự nhiên chăng? Sư nói: Có. Hỏi: Pháp nào quá được. Sư nói: Là vị hay biết tự nhiên. Hỏi: Nguyên khí là Đạo chăng? Sư nói: Nguyên khí là nguyên khí, Đạo là Đạo. Hỏi: Nếu Thế thì phải có 2. Sư nói: Vị biết không hai người. Lại hỏi: Thế nào là tà thế nào là chánh? Sư nói: Tâm theo vật là tà, tâm theo tâm là chánh. Có Luật sư Nguyên đến hỏi: Hòa thượng tu Đạo có dụng công chăng? Sư nói: Dụng công. Hỏi: Dụng công thế nào? Sư nói: Đói thì ăn cơm, mệt thì ngủ. Hỏi: Tất cả mọi người đều thế thì giống với Sư dụng công chăng? Sư nói: Khác nhau. Hỏi: Sao khắc nhau Sư nói: Khi ăn cơm thì nó chẳng chịu ăn cơm mà trăm việc tính toán, khi ngủ thì chẳng chịu ngủ mà mưu đồ ngàn thứ, do đó mà khắc nhau. Luật sư đuối lý. Có Đại đức Uẩn Quang hỏi: Thiền sư ở tự biết chỗ sinh chăng? Sư nói: Không hề chết điều cần nói sinh. Biết sinh tức là pháp vô sinh không lìa pháp sinh mà nói có vô sinh. Tổ sư nói: Sẽ sinh tức chẳng sinh. Hỏi: Người chẳng thấy tánh cũng có thể như vậy chăng? Sư nói: Tự không thấy tánh chẳng phải vô tánh vì sao thế thấy tức là tánh, không tánh thì không thể thấy. Thức (biết) tức là tánh nên gọi thức tánh Liễu (hiểu) tức là tánh nên gọi liễu tánh. sinh ra muôn pháp nên gọi là pháp tánh, cũng gọi là pháp thân. Tổ sư Mã Minh nói: Nói pháp là nói tâm chúng sinh, vì tâm sinh nên tất cả pháp sinh. Nếu tâm không sinh thì pháp không từ đâu sinh, cũng không có (tên gọi). Người mê không biết pháp thân chẳng có hình tượng ứng với vật mà hiện hình. Bèn nói trúc xanh đều là pháp thân, hoa vàng đều là Bát Nhã. nếu Hoa vàng là Bát Nhã thì Bát Nhã đồng với vô tình. nếu Trúc xanh là pháp thân thì pháp thân liền đồng với cây cỏ. Như người ăn măng tre thì nói chung là ăn pháp thân. Lời như vậy, đâu kể hết, đối diện mê Phật thì nhiều kiếp mong cầu, trong pháp toàn thể mà mê thì tìm kiếm bên ngoài. Do đó người hiểu đạo thì đi đứng nằm ngồi đều là đạo, vị ngộ pháp thì dọc ngang tự tại không gì chẳng là pháp. Đại đức lại hỏi: Thái hư có thể sinh ra Linh Trí chăng? Chân tâm có duyên với thiện ác chăng? Người tham dục là Đạo chăng? Người chấp phải chấp quấy hậu tâm có thông chăng? Vị gặp cảnh sinh tâm có Định chăng? Người tịch mịch (lặng bặt) có tuệ chăng? Người kiêu ngạo có Ngã chăng? Vị chấp không chấp có có Trí chăng? Người tìm văn làm chứng, người khổ hạnh cầu Phật, người lìa tâm cầu Phật, vị chấp tâm là Phật, trí này có xứng Đạo chăng? Sinh Thiền sư ở chỉ tất cả rõ. Sư nói: Thái Hư không sinh Linh Trí, chân tâm không duyên thiện ác, vị (ham muốn sâu) thì cơ cạn, phải quấy tranh nhau thì chưa thông, vị gặp cảnh sinh tâm thì ít định. Kẻ vắng lặng quên cơ thì tuệ chìm. Kẻ kiêu ngạo cống cao thì Ngã mạnh. Kẻ chấp không chấp có là ngu, kẻ tìm văn làm chứng thì càng vướng. Kẻ khổ hạnh cầu Phật là đều mê, kẻ lìa tâm cầu Phật là ngoại Đạo. Kẻ chấp tâm là Phật là ma. Sư nói: Rốt ráo là Đại đức, không phải là rốt ráo đều không có. Đại đức nói: Nếu thế thì rốt ráo đều không có. Đại đức vui mừng lễ tạ mà lui ra.
Thiền sư Pháp Hội ở lặc Đàm thuộc Hồng Châu Trì Châu.
Thiền sư Pháp Hội ở lặc Đàm thuộc Hồng Châu hỏi Mã Tổ: Thế nào là ý của Tổ sư Tây Trúc đến? Tổ nói: Tới gần đây nói nhỏ. Khi Sư đến gần thì Mã Tổ đánh mạnh 1 cái và bảo 6 cái lỗ tai chẳng cùng tính chuyện đến, thôi ngày mai hãy đến. hôm sau Sư lại vào Pháp Đường thưa: Xin Hòa thượng nói. Tổ bảo: Đi đi, đợi Lão Tăng khi lên pháp đường thì lại đến, sẽ chứng minh cho ông. Sư bèn ngộ bảo rằng: Tạ ân Đại chúng chứng minh. Bèn đi nhiễu quanh pháp Đường 1 vòng rồi đi.
Thiền sư Trí Kiên ở Sam Sơn, Trì Châu.
Lúc đầu cùng qui tông, Nam Tuyền hành cước, giữa đường gặp 1 con hổ thì mọi người đều đi qua bên hổ Nam Tuyền hỏi Qui Tông rằng: Vừa rồi thấy hổ giống cái gì. Tông nói giống con mèo. Tông lại hỏi Sư, Sư nói giống con chó. Quy Tông lại hỏi Nam Tuyền, Tuyền nói: Tôi thấy là một con sâu lớn. Sư ăn cơm Nam Tuyền nhặt cơm sống nói là sống. Sư nói không sống Nam Tuyền nói: Không sống cũng là mạt Nam Tuyền đi mấy bước. Sư gọi Trưởng lão, Trưởng lão. Nam Tuyền quay đầu lại hỏi cái gì. Sư bảo chớ nói là vụn vặt. Một hôm mời tất cả nhặt rau đuôi chồn, Nam Tuyền cầm 1 nhánh nói: Cái này cúng dường rất tốt. Sư nói: Không chỉ cái ấy trăm mùi ngon ngọt cũng không đoái hoài. Nam Tuyền nói: Tuy là như vậy nhưng mà các thứ này cần phải thưởng thức nó mới được. Có vị Tăng hỏi: Thân này xưa nay thế nào? Sư nói: Cả cõi đời này không có thứ giống nó.
Thiền sư Duy Kiến ở lặc Đàm, Hồng Châu.
Một hôm sư ngồi thiền ở sau Pháp Đường của Mã Tổ. Tổ thấy bèn thổi vào tai Sư. Thổi lần thứ 2 thì Sư xuất định, thấy Hòa thượng thì lại nhập định. Tổ trở về phương trượng, sai thị giả đem cho Sư 1 chén trà. Sư chẳng đoái hoài, liền tự về thất.
Thiền sư Đạo Hành ở Minh Khê, lễ Châu.
Sư có lúc bảo rằng: Ta bị bịnh nặng thế gian này không trị được. Sau có vị Tăng hỏi Tiêu Tào Sơn, theo người xưa có nói, tôi có bệnh nặng không phải là do thuốc men thế gian mà chữa trị được, không biết gọi là bệnh gì vậy? Tao nói chứa nhóm mà sao được chẳng bịnh. Hỏi: Tất cả chúng sinh lại có bị bịnh này chăng? Tao nói: Mọi người đều có. Hỏi: Vị vị đều có. Vậy Hòa thượng có bị bịnh này chăng? Tao nói: Tìm chỗ sanh khởi chẳng được. Hỏi: Tất cả chúng sinh làm thế nào chẳng bịnh. Tao nói: Nếu Chúng sinh bịnh thì chẳng phải chúng sinh. Hỏi: Chẳng biết chư Phật có bịnh này hay không Tao nói: Có. Hỏi: Đã có làm sao chẳng bịnh? Tao nói phải luôn tỉnh tỉnh. Vị Tăng hỏi: Tu hành thế nào? Sư nói: Ôi, cái ông Sư này chẳng phải khách vị Tăng hỏi: rốt ráo ra sao? Sư nói nhốt lại chẳng được. Vị Tăng lại hỏi: Thế nào là nẻo chánh tu hành? Sư nói: Niết-bàn hậu phải. Vị Tăng hỏi: Thế nào là Niết-bàn hậu phải. Sư nói chẳng rửa mặt. Vị Tăng nói: Để tử chẳng hiểu. Sư nói không có mặt để rửa.
Thiền sư Tuệ Tạng ở Thạch Củng Phủ Châu.
Xưa Sư làm nghề thợ săn ghét thấy Sa Đệ tử đuổi bầy nai con qua trước am Mã Tổ. Tổ đi ngược lại Tạng hỏi: Hòa thượng có thấy nai chạy qua đây chăng? Tổ hỏi: Ông là ai? Đáp là thợ săn. Tổ hỏi: Ông biết bắn tên chăng? Đáp: Bắn bắn. Tổ hỏi: một mũi tên ông bắn trúng mấy đích? Đáp: một mũi trúng 1 cái. Tổ hỏi ông không biết bắn. Hỏi: Hòa thượng biết bắn tên chăng? Tổ nói biết bắn. Hỏi: Hòa thượng một mũi tên bắn trúng mấy đích Tổ nói một mũi tên bắn trúng 1 bầy. Đáp: Kia đây là mạng đâu cần bắn 1 bầy. Tổ nói ông đã biết Thế sao không tự bắn. Thưa: Nếu dạy con tự bắn thì không chỗ hạ thủ. Tổ nói lão này vô minh phiền não nhiều kiếp ngày nay sớm dứt. lúc Tạng đó quăng hết cung tên tự lấy dao bén cắt tóc lạy Tổ xuất gia. Một hôm đang ở trong nhà bếp nấu nướng, Tổ hỏi làm gì đó? Đáp: Chăn trâu. Tổ hỏi chăn thế nào? Đáp: Một khi vào cỏ thì nắm mũi kéo lại. Tổ nói: Ông thật chăn trâu. Sư bèn thôi. Sau Sư thường đem việc cung tên ra tiếp cơ (làm sao mặc tịnh bắt hư không). Sư hỏi Tây Đường rằng: Ông biết bắt được hư không chăng? Tây Đường nói: Bắt được. Sư hỏi làm sao bắt? Tây Đường đưa tay nắm hư không. Sư hỏi nắm hư không làm gì. Tây Đường hỏi Sư huynh làm sao bắt Sư kéo mũi Tây Đường kéo mạnh. Tây Đường đau quá la lớn tên giết vị mũi ta muốn sứt. Sư nói: Mặc tình mà bắt hư không đi. Chúng vị Tăng đến tham vấn. Sư hỏi vừa đến sao lại đi đâu? Có vị Tăng nói còn ở đây. Sư hỏi ở đâu? Vị Tăng ấy búng ngón tay 1 tiếng. Vị Tăng đến lễ bái. Sư hỏi có đem cái gì đến chăng? Vị Tăng nói còn ở đây. Sư hỏi ở đâu. Vị Tăng búng ngón tay 3 tiếng. Hỏi làm sao khỏi được sinh tử? Sư hỏi muốn khỏi làm gì. Vị Tăng nói làm sao thoát được. Sư nói Thế sao chẳng sinh tử.
Thiền sư Đạo Thông, ở núi Tử Ngọc Đường Châu.
Sư là người ở Lô Giang, họ Hà. Thuở nhỏ theo cha trấn thủ ở huyện Nam An ở Tuyền Châu, do đó xuất gia. Đầu năm Thiên Bảo đời đường, Mã Tổ hoằng hóa tại Kiến Dương ở tại núi Phật Tích, Sư đến yết kiến, liền dời về núi Tập Công ở Nam khang, Sư cũng đi theo. Đến tháng 2 Năm Trinh Nguyên 4, Mã Tổ sắp qui tịch gọi Sư bảo rằng: Phàm đá ngọc núi đẹp càng có ích cho Đạo nghiệp của ông gặp thì nên ở. Sư không hiểu lời nói ấy. Mùa Thu đó cùng với Thiền Sư Tự tại ở núi Phục Ngưu đồng đến Lạc Dương. Khi trở về đến phía Tây Đường Châu thì thấy có 1 núi, 4 mặt núi non cao vút đẹp lạ. Nhân hỏi vị làng thì bảo là núi Tử Ngọc Sư bèn leo lên đỉnh thì thấy có tảng đá vuông phẳng óng ánh sắc tím, bèn khen rằng. Đây là ngọc tía. Mới nhớ lại lời Tiên sư đã dự đoán trước. Bèn cất am tranh mà ở. Sau học trò đến đông. Có vị Tăng hỏi: Làm sao ra khỏi 3 cõi? Sư hỏi: Trong đó ông ở bao lâu rồi. Vị Tăng hỏi: Làm sao ra được? Sư nói núi xanh chẳng ngại mây trắng bay. Vu Địch Tướng Công hỏi: Thế nào là gió đen thổi ghe thuyền chìm vào trong nước quỉ La sát? Sư nói: Vu Địch làm khách hỏi để làm gì Vu công thất sắc. Sư bèn chỉ rằng: Cái đó là trôi nổi vào nước quỉ la sát. Vu lại hỏi: Thế nào là Phật? Sư gọi Vu Địch, Vu Địch liền dạ Sư nói lại chẳng tìm riêng cầu.
Năm Nguyên Hòa thứ 8, đệ tử là Kim Tạng đến tham vấn Bách trượng trở về lạy Sư, Sư nói: Ông về đấy à, núi này có chủ rồi. Do đó phó chúc cho
Kim Tạng xong, liền cầm tích trượng đi thẳng đến Tương Châu, Đạo tục ra đón. Đến ngày rằm tháng 07 không bịnh mà thị tịch thọ tám mươi ba tuổi.
Thiền sư ở Nhượng ở Bắc Lan Giang Tây.
Trưởng lão Hồ Đường Lượng hỏi: Nhờ có Sư huynh được chân dung của Tiên sư nên tạm xin được chiêm lễ. Sư đưa 2 tay vạch bụng cho xem Lương liền đảnh lễ. Sư nói chớ lạy chớ lạy. Lượng nói: Sư huynh lầm rồi, tôi chẳng lạy Sư huynh. Sư nói: Ông lạy Chân dung Tiên Sư. Lượng hỏi: Vì sao dạy tôi đừng lạy? Sư nói sao hiểu lầm?
Thiền sư Như Mãn ở Phật Quang, Lạc Kinh.
Vua Đường Thuận Tông hỏi: Phật từ nơi nào đến, chết rồi đi về đâu? Đã nói thường ở đời, vậy nay Phật ở đâu? Sư đáp: Phật từ vô vi đến, diệt rồi về vô vi, pháp thân đồng hư không thường ở chỗ vô tâm, có niệm về vô niệm, có trụ về vô trụ, đến vì chúng sinh mà đến, đi vì chúng mà đi, biển chân như thanh tịnh, trống vắng thể thường trụ. Người trí khéo suy nghĩ, chớ nên sinh nghi lo. Vua lại hỏi: Phật ở cung vua sinh, diệt ở Song Lâm diệt, ở đời 49 năm, lại bảo không nói pháp, núi sông và biển lớn, trời đất và nhật nguyệt, thời đến đều mất hết, ai nói chẳng sinh diệt. Nghi tình còn như Thế. Vị trí khéo phân biệt. Sư đáp: Phật thể vốn vô vi, mê tình vọng phân biệt, pháp thân đồng hư không, không hề có sinh diệt, có duyên Phật ra đời, không duyên Phật nhập diệt, nơi nơi độ chúng sinh, giống như trăng trong nước, không thường cũng không đoạn, không sinh cũng không diệt, sinh cũng không hề sinh, diệt cũng không hề diệt, thấy rõ chỗ không tâm, tự nhiên không pháp nói. Vua nghe thì rất vui mừng càng kính trọng Thiên Tông.
Thiền sư Đạo Minh ở Nam Nguyên, Viên Châu.
Sư lên Pháp Đường nói rằng: "Quất ngựa 1 roi, nói với người 1 lời. Có việc sao chẳng ló đầu ra, không việc đều nên cẩn thận". Rồi xuống tòa. Có vị Tăng hỏi 1 lời làm sao sinh. Sư mới thè ra nuốt vào rồi nói đợi ta có tướng lưỡi rộng dài thì sẽ nói cho ông nghe.
Động Sơn đến tham vấn sư bèn lên pháp tòa, Sư nói: Đã thấy nhau rồi. Động Sơn liền bỏ đi. Đến sáng hôm sau đến hỏi: Hôm qua đã được Hòa thượng Từ Bi, làm sao biết được chỗ ấy đã thấy con? Sư nói tâm tâm không sen hở, chạy vào biển tánh. Động Sơn nói đã bỏ qua rất lâu Động Sơn bèn từ tạ mà đi. Sư nói: Học nhiều Phật pháp nhiều làm lợi ích. Động Sơn nói: Học nhiều Phật pháp thỉ khỏi hỏi, còn rộng làm lợi ích là sao? Sư nói: Một vật chớ trái là đó. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Sư đáp: Chẳng thể nói Thế là đó.
Thiền sư Tự Mãn ở Lệ Thôn Hân Châu.
Sư lên pháp tòa nói rằng: Xưa nay chẳng đổi khác, pháp ấy Thế, có sao đâu. Tuy Thế, việc lớn đó có vị không làm. Lúc đó Có vị Tăng hỏi: Chẳng lạc vào xưa nay xin sư nói. Sư nói biết rõ ông không làm. Vị Tăng sắp nói, thì Sư bảo Biết là ông sẽ nói Lão Tăng rơi vào xưa nay. Vị Tăng hỏi: Thế nào là đúng? Sư nói: Cá nhảy Bích Hán thềm bậc khó bay. Vị Tăng hỏi làm sao khỏi lỗi này? Sư nói: Nếu là hình rồng thì ai nói cao thấp. Vị Tăng ấy lễ bái, Sư nói khổ thay cong thay, vị nào giống ta? Một hôm Sư bảo chúng rằng: Trừ đi ngày sáng đêm tối lại nói cái gì mà được cẩn thận. Lúc đó Có vị Tăng hỏi: Thế nào là câu không tranh cãi? Sư nói: ồn ào náo động trời đất.
Thiền sư Hồng Ân ở Trung Ấp, Lãng Châu.
Ngưỡng Sơn lúc mới thọ giới đến tạ giới. Sư thấy đến ở trước giường thiền bèn vỗ tay nói hòa hòa. Ngưỡng Sơn liền đến đứng ở phía Đông Lại qua phía Tây, rồi đến ở giữa. Tạ giới rồi lui ra mà đứng. Sư nói: Chỗ nào được Tam-muội này. Ngưỡng Sơn nói: Ở Tào Khê dạy cái ấn này cho vị đến học). Sư hỏi: Ông nói Tào Khê dùng Tammuội này tiếp ai? Ngưỡng Sơn nói: Dùng Tammuội này dẫn dắt Nhất túc giác. Ngưỡng Sơn lại hỏi Hòa thượng chỗ nào được Tam-muội này. Sư nói: Ta ở chỗ Mà Đại sư học được Tam-muội này. Hỏi: Làm sao được thấy tánh? Sư nói: Ví như ngôi nhà, nhà có sáu cửa sổ, trong có 1 con khỉ, chạy bên Đông gọi núi núi núi núi, thuận theo như thế ở sáu cửa đều gọi đều ứng. Ngưỡng Sơn lễ tạ đứng dậy nói: Được Hòa thượng thí dụ đều hiểu. Chỉ có 1 việc nếu con khỉ trong nhà ngủ thì con khỉ bên ngoài muốn thấy phải làm sao? Sư xuống giường Thiền cầm tay Ngưỡng Sơn mà múa và bảo núi núi cùng ngươi thấy nhau rồi. Thí như con sâu làm ổ trên mi mắt của con ruồi ở 10 đầu ngã tư mà kêu rằng. Đất rộng người thưa thì gặp nhau là ít.
Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách Trượng, Hồng Châu.
Sư vị Trường Lạc, Phước Châu. Tuổi nhỏ xuất gia ba Học đều luyện. Thuộc Đại Tịch xiển hóa ở Nam Khang, bèn chuyên tâm nương nhờ. Cùng Thiền sư Trí Tạng ở Tây Đường chung hiệu là Nhập Thất. Lúc đó 2 Đại sĩ nổi tiếng ngang nhau Một đêm 2 Đại sĩ theo hầu mã Tổ ngắm trăng. Tổ hỏi: Chính lúc này làm gì? Tây Đường nói: Chính nên cúng dường. Sư nói chính nên tu hành: Tổ nói kinh vào Tạng Thiền về biển. Mã Tổ thương Đường đại chúng nhóm hợp tổ mới lên ngồi hồi lâu. Sư bèn đem quyển đến trước tòa Tổ mà lễ bái. Tổ bèn xuống tòa. Một hôm Sư đến chỗ Mã Tổ. Pháp Tháp Tổ ở góc giường Thiền mà cầm phất trần chỉ bày. Sư nói: Chỉ cái đó là có riêng. Tổ bèn bỏ chỗ cũ nói rằng: Sau này Ông sẽ làm gì cho vị.
Sư bèn phất trần cây đưa ra Tổ nói: Chỉ cái ấy là riêng có. Sư bèn để phất trần vào chỗ cũ, rồi đứng hầu. Tổ hét. Từ đây tiếng sấm sét gầm thét. Quả nhiên có thí chủ đến xin Sư về ở Tân Ngô giới ở Hồng châu, tại núi Đại hùng, núi non cao vút nên lấy hiệu là Bách Trương. Ở chưa được tháng thì vị đến tham vấn rất đông. Trong đó có qui sơn Hoàng bá đứng đầu. Một hôm Sư bảo chúng rằng: Phật pháp chẳng phải là việc nhỏ. Lão Tăng xưa được 1 tiếng hét của Mã Đại sư mà cả 3 ngày tai điếc phải mờ. Hoàng bá nghe xong thì thè lưỡi nói con chẳng biết Mã Tổ, lại chẳng thấy mã Tổ. Sư nói: Ông từ nay đệ tử nối pháp nghiệp Mã Tổ. Hoàng bá nói con không đệ tử nối pháp Mã Tổ. Hỏi vì sao Thưa: Từ nay về sau con chôn con cháu. Sư nói: Thế Thế. Một hôm Có vị Tăng khóc vào Pháp Đường. Sư hỏi sao thế? Đáp: Cha mẹ đều mất xin sư chọn ngày. Sư nói: Ngày mai đến 1 lúc chôn luôn. Sư lên Pháp Đường nói: Đều nhân cổ họng môi mép, mau nói tương lai. Qui Sơn nói: Con chẳng nói xin Hòa thượng nói chẳng từ cùng ông nói, rất lâu sau này chôn con cháu ta. Ngũ Phong nói: Hòa thượng cũng đều thế ư? Sư nói: Không có vị chẻ trán trông ông. Vân Nhàm nói: Con có chỗ nói xin Hòa thượng nêu. Sư nói: Đều nhân cổ họng môi mép, mau nói tương lai. Vân Nham nói: Sư nay có vậy. Sư nói chôn con cháu ta. Sư bảo chúng rằng: Ta cần 1 vị truyền lời cho Tây Đường, ai đi được? Ngũ Phong nói: Con đi. Sư hỏi: Ông làm sao truyền lời? Ngũ Phong nói: Đợi thấy Tây đường liền nói. Sư hỏi nói cái gì? Ngũ Phong nói: Đến nói giống Hòa thượng. Sư cùng Qui Sơn làm việc, Sư hỏi có lừa chăng? Quy Sơn nói: Có. Sư hỏi: Ở đâu. Quy Sơn cầm 1 cây gỗ thổi 3 lượng khí qua Sư. Sư nói: Như sâu kêu gỗ. Hỏi: Thế nào là Phật? Sư hỏi ông là ai. Vị Tăng nói là A, B... Sư hỏi ông biết A, B chăng? Vị Tăng nói: Rất rõ ràng. Sư bèn đưa phất trần lên hỏi: Ông thấy chăng vị Tăng nói thấy. Sư chẳng nói gì. Nhân đó khắp được xin đem chảo xuống đất. Bỗng có 1 vị Tăng nghe tiếng kiểng ăn cơm bèn bưng chảo lên cười lớn mà về. Sư nói: Giỏi thay, đây là Quán Âm vào làng. Sư trở về viện bèn gọi vị Tăng ấy hỏi rằng: Vừa đến thấy gì, lý lẽ gì? Đáp: rằng: Vừa đến chỉ nghe tiếng trống báo giờ trở về ăn cơm mà đến. Sư cười, lại hỏi: Y kinh giải nghĩa oan cho Phật ba đời, lìa kinh 1 chữ đồng như ma nói là sao? Sư nói: Cố giữ động dụng là cho oan Phật, ba đời ra riêng cầu tức đồng ma nói. Nhân Sư hỏi Tây Đường rằng: Có hỏi có đáp chẳng hỏi chẳng đáp lúc đó là sao? Tây Đường nói: Sợ phỏng thì làm gì? Sư nghe bèn bảo từ đâu đến nghi lão huynh ấy? Vị Tăng nói xin Hòa thượng nói: Sư nói: 1 hợp tướng chẳng thể được. Sư bảo chúng rằng: Có 1 vị mãi mãi chẳng ăn cơm chẳng nói đói, có 1 vị trọn ngày ăn cơm nói chẳng no. Chúng đều không đáp. Vân Nham hỏi: Hòa thượng mỗi ngày khu khu là ai. Sư nói: Có 1 vị cầu. Nham hỏi: Vì sao mà không dạy hắn tự làm? Sư nói: Nó không gia hoạt. Vị Tăng hỏi: Thế nào là Đại thừa Đốn ngộ Pháp Môn? Sư nói: Ông hãy dứt hết các duyên, nghĩ hết muôn sự, thiện và bất thiện, thế và xuất thế gian, tất cả các pháp đều chớ ghi nhớ, chớ chuyên niệm, bỏ hết thân tâm khiến nó tự tại, tâm như gỗ đá không chỗ phân biệt. Tâm không hoạt động (sở hành), tâm địa trống vắng thì huệ nhật tự hiện như mây tan thì mặt trời xuất hiện. Tương tợ đều hết tất cả phan duyên, tham sân ái thủ, tình cấu tịnh đều sạch hết. Đối với 5 dục 8 phong chẳng bị thấy nghe hiểu biết buộc ràng chẳng bị các cảnh mê hoặc, tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, là vị giải thoát. Đối với tất cả cảnh, tâm không bịnh hoan, chẳng nhiếp chẳng tan, thấu suốt tất cả thanh sắc không có trệ ngại, gọi đó là Đạo nhân. Chỉ không bị tất cả thiện ác cấu tịnh, các phước trí phải vì thế gian cột trói, liền gọi là Phật huệ. Thi phi tốt xấu, lý hay phi lý các tri kiến đều hết, chẳng bị buộc ràng, xử tâm tự tại, gọi là mới phát tâm Bồ đề liền lên Phật Địa. Tất cả các pháp vốn chẳng tự không, chẳng tự nói là sắc, cũng chẳng tự nói thị phi cấu tịnh, cũng không có vị tâm ràng buộc, chỉ do vị tự hư vọng chấp vướng hiểu đủ mọi thứ, khởi bao nhiêu tri kiến. Nếu tâm cấu tịnh hết, chẳng trụ vào buộc ràng, chẳng trụ vào giải thoát, không tất cả phải vi vô vi, hiểu rõ tâm lượng bình đẳng. Ở trong sinh tử mà tâm luôn tự tại, rốt ráo chẳng cùng trần lao hư huyễn uẩn giới sinh tử, các nhập hòa hợp. Xa vắng không nương, tất cả không vướng víu đi ở vô ngại, tới lui sinh tử như cửa mở toang. Nếu gặp các thứ khổ vui không xứng ý mà tâm vẫn không lui sụt, chẳng nghĩ tiếng tăm ăn uống, chẳng tham tất cả công đức lợi ích, chẳng vướng dính pháp đời, tâm tuy chịu bao khổ vui mà không ôm chặt. Kêu qua loa để sống mặc sơ sài để chống rét. Ngơ ngác như ngu như điếc giống như có chút ít thân phận. Ở trong sinh tử mà rộng học hiểu cầu phước cầu trí ở lý vô ích liền bị gió giải cảnh thổi bay mà về với biển sinh tử. Phật là vị không cầu, cầu thì trái lý, là lý không cầu, nếu cầu liền mất. Nếu lấy (giữ) ở không cầu lại đồng với có cầu, pháp này không thật không hư, nếu hay 1 đời mà tâm như gỗ đá, không bị nhận chìm ấm giới 5 dục 8 phong, thì nhân sinh tử dứt đi đứng tự do, chẳng bị tất cả nhân phải vì trói buộc. Lúc khác cùng với thân không trói buộc mà đồng lợi vật, đem tâm không trói buộc ứng với tất cả tâm, lấy tuệ không trói buộc mà cởi mở các trói buộc. Cũng đúng bịnh mà cho thuốc.
Có vị Tăng hỏi: Như nay thọ giới, thân khẩu đã thanh tịnh rồi, đủ các thiện có được giải thoát chăng? Đáp: Chỉ giải thoát 1 phần nhỏ, chưa được tâm giải thoát, chưa được giải thoát tất cả. Hỏi thế nào là tâm giải thoát? Đáp: Chẳng cầu Phật chẳng cầu hiểu biết, tình cấu tình dứt hết, cũng chẳng giữ vô cầu này là phải, cũng chẳng trụ vào chỗ dứt hết, cũng chẳng sợ địa ngục trói buộc, chẳng ham vui của thiên đường. Tất cả các pháp chẳng câu chấp, mới gọi là giải thoát vô ngại, tức thân tâm và tất cả đều gọi giải thoát. Ông chớ nói có ít phần giới thiện mà cho là đủ. Có rất nhiều môn vô lậu giới định huệ, đều chưa mảy may bước đến, phải nỗ lực mạnh mẽ sớm làm, chớ đợi tai điếc mắt mờ đầu bạc mặt nhăn, già yếu đến thân mà trong phải ứa lệ, trong tâm sợ sệt chưa có chỗ đi, đến lúc nào sửa sang tay chân chẳng được, dẫu có phước trí học nhiều nhưng chẳng thể cứu nhau vì tâm nhãn chưa mở mang, chỉ duyên niệm các cảnh mà không biết phản chiếu. Lại chẳng thấy Phật đạo, các ác nghiệp đã tạo ra cả 1 đời đều hiện ra trước phải, hoặc mừng hoặc sợ, 5 uẩn 6 đạo hiện tiền đều thấy rõ, nhà cửa cao đẹp thuyền ghe xe cộ đều chiếu sáng rực rỡ. Nếu tự tâm tham ái thì chỗ thấy đều đẹp, tùy chỗ thấy mà thọ sinh chẳng được tự do, rồng súc hèn hạ cũng đều chưa định. Hỏi thế nào là được tự do? Đáp: Như nay đối với 5 dục 8 gió tình không lấy bỏ, cấu tịnh đều quên, như mặt trăng, mặt trời trên không chẳng duyên mà chiếu, tâm như gỗ đá. Cũng như loài hương tượng dứt dòng mà lội qua sông không trở ngại, đây thì trời người thiên đường, địa ngục đều không nhiếp. Lại chẳng đọc kinh xem giáo nói năng đều phải uyển chuyển quay về với chính mình. Chỉ là tất cả ngôn giáo, chỉ nói như nay giác tánh của mình đều chẳng bị chuyển bởi tất cả các cảnh phải vô. Đó là Đạo sư có thể chiếu phá tất cả cảnh pháp hữu vô. Đó là kim cang tức có phần tự do độc lập. Nếu chẳng thế sao được. Dẫu khiến đọc tụng 12 kinh Di Đà thì chỉ thành người Tăng thượng mạn, trở lại phỉ báng Phật không phải là tu hành. Đọc kinh xem giáo nếu theo thế gian thì là việc tốt lành. Nếu ở bên người rõ ràng lý lẽ thì đây là vị ủng tắc (còn bị chướng, bị trói cột). Vị Thập Địa thoát mà không đi lại trở vào sông sinh tử, chỉ không cần tìm hiểu câu chữ lời nói, vì tìm biết thuộc tham, tham thì trở thành bệnh. Như nay chỉ lìa các pháp hữu vô, thấu suốt ngoài 3 cú thì tự nhiên cùng Phật không khác. Đã tự là Phật sao lò Phật chẳng hiểu lời, chỉ sợ không phải là Phật, bị các pháp hữu vô chuyển, không được tự do. Đó là vì lý chưa lập trước có phước trí mang đi như hèn khiến sang, chẳng bằng ở lý trước lập sau mới có phước trí. Gặp lúc thì làm được như nắm đất thành vàng, thây nước biển thành tô lạc, phá núi Tu Di thành bụi, ở 1 nghĩa làm vô lượng nghĩa, ở vô lượng nghĩa làm 1 nghĩa. Sư lúc đó nói pháp xong, Đại chúng xuống Pháp đường, bèn gọi lại, đại chúng quay đầu, Sư hỏi: Đó là cái gì. Ngày 17 tháng giêng Năm Đường Nguyên Hòa thứ 9 thì Sư thị tịch, thọ 95 tuổi. Năm Trường Khánh 1, vua ban
Thụy là Đại Trí Thiền sư ở, tháp hiệu Đại Bảo Thắng Luân.
Thiền Môn qui thức. Bách Trượng Đại Trí Thiền sư ở. Vì Thiền tông bắt đầu từ Thiếu Thất (Tổ Đạt Ma ở Thiếu Lâm Tự) truyền đến Tào Kê đến nay, phần nhiều luật ở chùa tuy là viện riêng song nói pháp trụ trì không hợp qui tắc nên thường mong có qui tắc ấy. Bèn bảo của Tổ muốn khắp giáo hóa để đời sau không mất, há cùng giáo Tiểu thừa tùy làm. Có người nói luận Du Già, kinh Anh Lạc là giới luật Đại thừa sao chẳng làm theo. Tổ nói: Tông ta không hạn cục theo Đại Tiểu thừa, cũng không không khác Đại Tiểu thừa mà phải lộng chiết trung các qui tắc theo. Do đó có sáng ý lập Thiền tông ở riêng, phàm vị đủ Đạo Nhãn có Tôn Đức thì gọi là Trưởng lão. Như ở Tây Vực Đạo cao lạp lớn thì (như) gọi tu Bồ đề. Đã là hóa chủ thì phải ở phương trượng đồng gọi Thất Tịnh Danh không phải là thất riêng không lập điện Phật chỉ có Thọ (cây) Pháp Đường là biểu thì Phật Tổ trao lại cho vị đương đại làm tôn quý, chỗ khen học chúng không nhiều ít không cao thấp. Tất cả đều Thiền đường an bài theo hạ lạp, lập 1 cái giường lớn để mắc áo và quái tháp đạo cụ, nằm phải phải gối đầu ở mép giường nằm nghiêng hông phải mà ngủ thế Cát Tường, vì ngồi thiền đã lâu nên nằm yên dưỡng hơi mà thôi (chứ không thật ngủ cho sướng thân), đủ 4 oai nghi. Trừ khi vào Thiền Thất xin ích (hỏi học) mặc tình học tập siêng lười hoặc cao thấp không theo chuẩn mực. Trong viện ấy đại chúng sáng học chiều hợp. Trưởng lão lên Pháp Đường thì cùng lên ngồi chủ việc đồ chúng đứng có hàng ngũ nghe rõ. Khách chủ hỏi đáp trình bày tông yếu, thì theo pháp mà đứng. Ăn uống phải theo 2 thời mỗi ngày cần phải tiết kiệm biểu thị cho pháp thực đều hưởng. Hạnh khắp xin pháp trên dưới đều gắng sức. Đặt 10 việc gọi là Liêu Xá (phòng nhà), mỗi liêu xá có 1 vị đứng đầu quản chế nhiều vị, quản chế công việc cho êm thắm. Nếu có vị giả danh lén vào phá chúng gây ồn náo thì vị Duy Na kiểm tra xử lý đuổi ra khỏi viện, cốt để an chúng. Nếu có kẻ sai phạm thì lấy gậy mà đánh, tập hợp chúng đốt đốt y bát đạo cụ đuổi đi từ ngõ riêng mà ra để biết nhục. Biết rõ điều luật này có 4 lợi ích: 1 là không làm ô nhiễm chúng, sinh tâm kính tín; 2 là chẳng phá hủy hình tướng vị Tăng, tuân theo luật Phật; 3 là chẳng quấy rối công môn, tranh chấp kiện cáo cãi vả, 4 là không rò rỉ ra ngoài với thí chủ việc xấu của Tông cang.
Hạnh riêng của Thiền môn do ngài Bách trượng lập ra đầu Tiên, nay lược nêu đại yếu để người sau hiểu qua khiến không quên gốc. Ngoài ra pháp tắc qui cũ các sơn môn đều đầy đủ.
Thiền sư Hoài Nhượng trong đời thứ 2 có 45 vị. Đệ tử nối pháp Mã Tổ (18 vị có Ngữ lục)
1. Thiền sư Tổng Ấn ở núi Tam Giác Đàm
Châu
2. Thiền sư Bảo Vân ở núi Lỗ Tổ Trì Châu
3. Thiền sư Thường Hưng ở Lặc Đàm Hồng
Châu
4. Thiền sư Trí Tạng ở Tây Đường Kiền Châu
5. Thiền sư Hoài Uẩn ở chùa Chương Kính Kinh Triệu
6. Thiền sư Minh Triết ở Bách Nham Định Châu.
7. Thiền sư Đại Nghĩa ở Nga Hồ Tín Châu
8. Thiền sư Tự Tại ở núi Phục Ngưu
9. Thiền sư Bảo Tích ở Bàn Sơn U Châu
10. Thiền sư Thái Dục ở núi Phù Dung Tỳ lăng
11. Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc Bồ Châu
12. Thiền sư Tề An ở Diêm Quan Hàng Châu
13. Thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ Tiết Vụ châu
14. Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai Minh Châu
15. Thiền sư Duy Khoan ở Điển Thiện Kinh Triệu
16. Thiền sư ở Như Hội Hồ Nam
17. Thiền sư Vô Đẳng ở Ngạc Châu
18. Thiền sư Trí Thường ở Chùa Quy Tông Lô Sơn
19. Thiền sư Thanh Hạ ở núi Chữ Kính Thiều Châu
20. Thiền sư Duy Kiến ở núi Tử Âm
21. Thiền sư Hồng Duệ ở Phong Sơn
22. Thiền sư Thần Ngoạn ở Luyện Sơn,
23. Thiền sư Đạo Viên ở Quật Sơn
24. Thiền sư Ngọc Đài ở Duy Nhiên
25. Thiền sư Đàm Ký ở Khôi Sơn-Trì Châu
26. Thiền sư bảo Tích ở Kinh Châu chùa Tâm
27. Thiền sư Pháp Tạng ở Phủ Hà Trung
28. Thiền sư Lương Tân ở chùa Từ Bi Hán Nam
29. Thiền sư sùng ở Phủ Kinh triệu
30. Thiền sư Nam Nhạc ở Trí Châu
31. Thiền sư Pháp Tuyền ở Bạch Hổ
32. Thiền sư Duy Trực ở Kim Quật
33. Thiền sư Thường Triệt ở Bách Nham Thai Châu
34. Thiền sư ở Huy Càn Nguyên
35. Thiền sư ở Đạo Nham Tề Châu
36. Thiền sư Thường Kiên ở Tương Châu
37. Thiền sư Tịnh Tông ở Vân Thủy
38. Thiền sư Bảo Trinh ở Kinh Nam
39. Thiền sư Linh Thoan ở Chùa Vĩnh Thái- Kinh Châu
40. Thiền sư Viên Sướng ở núi Long Nha Đàm Châu
41. Thiền sư Đạo Phương ở Song Lãnh Hồng Châu
42. Thiền sư Tu Quảng ở núi La Phù
43. Thiền sư Định Khánh ở Hiện Sơn
44. Thiền sư Duy kiến ở Động Tuyền Việt Châu
45. Thiền sư Phổ Mãn ở Quang Minh
(27 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
* Đệ tử nối pháp đời thứ 2 của Thiền sư Hoài Nhượng
Thiền sư Tổng Ấn ở núi Tam Giác, Đàm Châu.
Có vị Tăng hỏi thế nào là Tam bảo. Sư nói: Lúa nếp đậu, thưa rằng: Học trò chẳng hiểu. Sư nói: Đại chúng vui vẻ vâng làm. Sư lên Pháp Đường nói nếu luận việc này, chê bỏ trên lông mày sớm đã sai lầm. Ma Cốc liền hỏi chê bỏ trên lông mày không cần nói thế nào là việc này? Sư nói sai lầm. Ma Cốc bèn kéo thiền sàng lên. Sư liền đánh Ma Cốc không nói gì.
Thiền sư Bảo Vân ở núi Lỗ Tổ, Trì Châu.
Hỏi: Thế nào là Thầy chư Phật? Sư nói: Trên đầu có mũ báu thì không phải vị Tăng hỏi thế nào là phải. Sư nói: Trên đầu không có mũ báu. Động Sơn đến tham lễ, lạy xong đứng hầu 1 bên, chút sau liền lui ra. Rồi lại vào. Sư hỏi: Vì sao, vì sao Thế? Động Sơn nói rất có vị không chịu. Sư nói làm sao tin lời luận của ông. Động Sơn bèn ở hầu sư mấy tháng. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là nói chẳng nói? Sư hỏi miệng ông ở đâu. Vị Tăng nói không có miệng. Sư hỏi lấy gì ăn cơm? Vị Tăng không đáp được. (Động Sơn đáp thay: Nó không đói, ăn cơm làm gì). Bình thường lúc thấy vị Tăng đến Sư xoay mặt vào vách, Nam Tuyền nghe việc bèn nói: Tôi thì bình thường hướng về vị Tăng mà nói, hướng về Phật chưa ra đời mà hiểu lấy, còn chẳng được 1 cái hay nửa cái ông ấy vì sao mà bỏ xa năm tháng theo con lừa?
Thiền sư Thường Hưng ở lặc Đàm, thuộc Hồng Châu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là khách môn hạ của
Tào Khê. Sư nói về phía Nam đến Yên. Vị Tăng nói để tử không hiểu. Sư nói nuôi Vũ hầu gió thu. Vị Tăng hỏi: Thế nào là việc cuối cùng của Tông thừa. Sư nói: Mưa thu cỏ rời ra. Lại Nam Tuyền đích thân đến gặp Sư xoay mặt vào vách liền vỗ lưng Sư. Sư hỏi: Ông là ai? Đáp: Phổ Nguyện. Sư hỏi là sao? Đáp: Tầm thường. Sư nói: Sao Ông nhiều chuyện.
Thiền sư Trí Tạng ở trụ tây Đường, Kiền Châu.
Sư người ở Kiền Hóa, họ Liêu. 8 tuổi theo thầy, 25 tuổi thọ cụ túc giới. Có thầy tướng xem thấy biểu hiệu khác thường bảo rằng: Thầy cốt khí phi phàm thường phụ giúp Pháp Vương. Sư bèn đến núi Phật tích tham lễ Sư đại tịch, cùng là bạn học với Thiền sư Hoài Hải ở Bách Trượng, đều được ấn ký. Một hôm Đại tịch sai Sư đến Trường An đưa thư cho Quốc Sư Trung. Quốc Sư hỏi: Thầy ông nói pháp gì? Sư từ Đông đi qua Tây mà đứng. Quốc Sư nói: Chỉ riêng có cái đó thôi à? Sư lại qua Đông mà đứng. Quốc Sư hỏi: Cái đó là của Mã Sư, Nhân giả làm gì? Sư nói: Sớm giống Hòa thượng thôi. Lại sai đưa thư đến Kính Sơn và Quốc Nhất Thiền sư ở thuộc dòng đệ tử nối pháp pháp của Liên Sư, xin Đại Tịch về phủ mà hoằng hóa. Sư trở về quận thì được Đại tịch trao cho y ca sa khiến người học gần gũi Có vị Tăng hỏi Mã Tổ xin Hòa thượng lìa 4 cú dứt trăm lỗi, chỉ thẳng cho con ý Tây Trúc đến? Tổ nói: Ta hôm nay không tâm tình, ông đi hỏi Trí Tạng. Vị Tăng ấy bèn đến hỏi Sư. Sư nói sao ông không hỏi Hòa thượng. Vị Tăng nói Hòa thượng bảo tôi đến hỏi Thượng tọa. Sư lấy tay sờ đầu bảo: Hôm nay đầu đau (nhứt đầu), ông đến hỏi Hải Sư huynh. Vị Tăng đến hỏi Hải (Bách Trượng), hải nói tôi tới đây chẳng hiểu. Vị Tăng bèn đem câu hỏi (câu chuyện) hỏi Mã Tổ, tổ nói: Tạng đầu trắng, Hải đầu đen. Mã Tổ 1 hôm hỏi Sư rằng: Sao ông chẳng xem kinh. Sư hỏi kinh há khác chăng? Tổ nói tuy nhiên Thế, ông về sau vì vị cũng phải được. Đáp: Trí Tạng con bịnh nghĩ tự nuôi, dám nói vì vị. Tổ nói: Ông cuối Năm phải hưng thịnh ở đời. Mã Tổ tịch rồi, Năm Đường Trinh Quán 7 Sư được chúng xin mở Pháp đường. Lý Thượng Thư Cao từng hỏi vị Tăng: Mã Đại sư có nói giáo gì? Vị Tăng đáp: Đại sư hoặc nói tức tâm tức Phật hoặc nói phi (chẳng) tâm phi (chẳng) Phật. Lý nói đều lỗi ở 1 bên. Lý đến hỏi Mã Đại sư có nói giáo gì. Sư gọi Cao! Cao dạ. Sư nói trống sừng động! Chế Không Thiền sư ở bảo Sư mặt trời mọc sáng sớm. Sư nói: Đúng lúc. Sư ở Tây Đường. Sau có 1 Tục sĩ đến hỏi: Có thiên đường đệ nhất chăng? Sư nói: Có. Hỏi có Phật pháp vị Tăng Bảo chăng? Sư đáp: Có. Lại có nhiều vị đến hỏi đều đáp có. Hỏi Hòa thượng nói chẳng lầm chứ? Sư hỏi: Ông có từng hỏi các tôn túc chăng. Đáp: Con từng đến hỏi Kính Sơn Hòa thượng. Sư hỏi Kính Sơn nói với ông thế nào? Đáp: Ngài nói tất cả đều không. Sư hỏi: Ông có vợ chăng? Đáp: Có. Sư hỏi Kính Sơn Hòa thượng có vợ chăng? Đáp: Không. Sư nói: Hòa thượng Kính Sơn ở nói không là đúng. Tục sĩ lạy tạ mà lui. Ngày mồng 8 tháng 4 Năm Nguyên Hòa 9 thì Sư tịch thọ 80 tuổi, lạp 55. Vua Hiến Tông ban Thụy là Đại tuyên giáo Thiền sư ở, tháp hiệu Nguyên Hòa chứng chân. Đến đời vua Mục Tông lại ban Thụy là Đại Giác Thiền sư ở.
Thiền sư Hoài Vẩn ở chùa Chương Kính phủ Kinh Triệu.
Sư vị Đồng An ở Tuyền Châu, họ Tạ, được Đại tịch trao tâm ấn. Lúc đầu ở Bách Nham, Định Châu, kế đến ở núi trung điều. Năm đầu Đường Nguyên Hòa thứ nhất vua Hiến Tông ban chiếu mời Sư ở chùa Thượng Huyền, người học tìm đến rất đông. Sư lên Pháp Đường dạy chúng rằng: Chí lý phải quên lời, người đương thời không biết, chỉ quen theo việc khác cho là công năng, mà không biết tự tánh vốn chẳng phải trần cảnh, đó là môn Đại giải thoát vi diệu. Nếu có soi biết thì chẳng nhiễm chẳng ngại, sáng suốt Thế không hề nghĩ bỏ. Từ kiếp xưa đến nay chắc chắn không thay đổi, cũng như mặt trời xa gần đều chiếu, tuy đến các sắc mà không cùng tất cả hòa hợp, đuốc linh rất sáng không nhờ rèn đúc. Vì chẳng hiểu nên chấp chặt ở hình tướng vật tượng. Chỉ như nháy (bịnh) phải vọng khởi hoa đốm, uổng công cực nhọc nhiều kiếp. Nếu hay phản chiếu (tự xét) thì không có vị thứ 2, mọi hành động việc làm đều không thiếu (trái) thật tướng. Có vị Tăng hỏi tâm pháp đều mất sẽ đi về đâu? Sư nói: (?). Thưa: Xin sư không phản lời nói. Sư nói: Tức không câu phản. Hòa thượng Bách trượng sai 1 vị Tăng đến rình đợi khi Sư lên Pháp đường xong liền trải tọa cụ lạy Sư xong đứng dậy cầm chiếc hài lấy vạt áo lau bụi xong rồi đạp lên. Sư nói: Lão Tăng tội lỗi. Có người hỏi: Tổ sư Truyền Tâm Địa Pháp Môn là tâm chân như hay tâm vọng tưởng, là tâm không phải chân không phải vọng hay là tâm ngoài giáo 3 thừa riêng lập? Sư hỏi: Ông có thấy không trước phải chăng? Đáp: Tin biết luôn ở trước phải mà vị tự không thấy. Sư nói: Ông chớ nhận ảnh tượng. Đáp: Hòa thượng làm sao? Sư lấy tay khoát khoát khoảng không 3 lượt bảo: Làm sao là thế. Sư nói: Ông sau hội này mà ở lại đây. Có 1 vị Tăng đi nhiễu quanh Sư 3 vòng chống tích trượng mà đứng. Sư nói đúng đúng. Vị Tăng ấy bèn đến ngài Nam Tuyền cũng đi nhiễu 3 vòng chống tích trượng mà đứng. Nam Tuyền nói không đúng, không đúng. Đây là sức gió chuyển thỉ chung thành hoại. Vị Tăng nói ngài Chương Kính nói đúng, sao Hòa thượng nói không đúng? Nam tuyền nói: Chương Kính đúng đúng mà ông không đúng. Có 1 tiểu Sư đi hành cước về, Sư hỏi ông rời đây mấy năm rồi?
Đáp: Rời Hòa thượng trước sau 8 năm. Sư hỏi: Làm được cái gì? Tiểu Sư vạch trên đất 1 vòng tròn. Sư nói chỉ có cái đó thôi ư? Tiểu Sư liền xóa vòng tròn. Sau lễ Sư Tăng hỏi: Trong thân 4 đại 5 uẩn thì cái gì là Phật tánh xưa nay? Sư bèn gọi tên vị Tăng, vị Tăng dạ. Hồi lâu sư bảo: Ông không có Phật tánh. Năm Đường Nguyên Hòa 13, ngày 22 tháng 12 sư thị tịch. Dựng tháp Sư ở Bá Thủy vua ban Thụy là Đại Giác Thiền sư ở, tháp hiệu là Đại bảo Tướng.
Thiền sư Minh Triết ở Bách Nham, Định Châu:
Từng thấy Hòa thượng Dược Sơn ở xem kinh, nhân đó nói rằng: Hòa thượng chớ gạt người tốt. Dược Sơn để kinh xuống hỏi: Còn sớm hay đã muộn? Sư nói đúng ngọ. Dược Sơn nói cũng có văn thái. Sư nói con cũng không. Dược Sơn nói Lão huynh rất thông minh. Sư nói: Con làm sao, Hòa thượng làm sao? Dược Sơn nói què què, thiếu thiếu trăm xấu ngàn vụng, sao cho qua thời.
Thiền sư Đại Nghĩa ở Nga Hồ Tín châu.
Sư vị tụ Giang, Cù Châu, họ Từ. Lý Cao từng hỏi sư rằng: Đại Bi dùng ngàn tay ngàn mắt để làm gì? Sư nói: Nay vua dùng ông để làm gì? Có 1 vị Tăng xin làm (bỏ) tháp. Lý Thượng Thư hỏi: Trong giáo chẳng cho đem thây để dưới tháp thì làm sao? Vị Tăng không đáp được bèn đến hỏi sư. Sư nói đó là Đại Xiển Đề. Vua Đường Hiến Tông mời Sư vào cung ở điện Lân Đức mà nghị luận. Có 1 Pháp sư hỏi: Thế nào là tứ đế? Sư nói Thánh thượng 1 Đế, 3 Đế sao có. Lại hỏi: Dục giới không có thiền, thiền ở sắc giới, cõi này dựa vào đâu mà lập thiền. Sư nói Pháp sư chỉ biết dục giới không có thiền, mà không biết thiền giới không có dục. Pháp sư hỏi: Thế nào là thiền? Sư lấy tay điểm trên không. Pháp sư không đáp được. Vua hỏi: Pháp sư giảng vô cùng kinh luận chỉ có 1 điểm ấy còn chẳng làm sao. Sư liền hỏi các Thạc Đức (Cao Đức) rằng: Đi đứng nằm ngồi rốt ráo lấy gì làm Đạo? Có người đáp: Biết là Đạo. Sư nói không thể lấy trí mà biết, không thể dùng thức mà biết, sao được biết là Đạo. Có người nói: Không phân biệt là Đạo. Sư nói hay khéo phân biệt các pháp tướng, ở Đệ nhất nghĩa mà không động, sao được không phân biệt là Đạo. Có người nói: 4 Thiền 8 Định là Đạo. Sư nói thân Phật vô vi chẳng rơi vào các số, sao lại ở 4 thiền 8 định ư? Chúng đều cứng họng. Sư lại nêu vua Thuận Tông hỏi Thi Lợi Thiền sư ở rằng: Đại địa chúng sinh làm sao được thấy tánh thành Phật? Thi Lợi nói: Phật tánh như trăng trong nước có thấy được mà lấy không được, nhân đó bảo vua rằng: Phật tánh không phải thấy mà tâm thấy, trăng trong nước làm sao nắm được. Vua bèn hỏi: Thế nào là Phật tánh? Sư đáp: Chẳng lìa chỗ hỏi của bệ hạ. Vua làm thinh khế hợp chân tông, càng thêm cung kính. Năm Nguyên Hòa 13, ngày mồng 7 tháng giêng thì Sư thị tịch, thọ 74 tuổi. Vua ban thụy là Tuệ Giác Thiền sư ở, tháp hiệu là kiến tánh.
Thiền sư Tự Tại ở núi Phục Ngưu, Y Khuyết.
Sư vị Ngô Hưng họ Lý. Lúc đầu nương Thiền sư Quốc Nhất ở Kính Sơn mà thọ cụ giới. Sau ở Nam Khang gặp ngài Đại Tịch mà phát minh tâm địa. Nhân vì Đại ịch mà đưa thư cho Quốc Sư Trung. Quốc Sư hỏi rằng: Mã Đại sư lấy gì chỉ chúng? Đáp rằng tức tâm tức Phật. Quốc Sư hỏi: Nói lời gì đó? Hồi lâu lại hỏi: Ngoài đây lại có nói giáo gì? Sư nói phi tâm phi Phật. Có người hỏi chẳng phải tâm chẳng phải Phật hay chẳng là vật? Quốc Sư nói cũng giống một chút Sư nói. Mã Đại sư ra sao, không biết Hòa thượng với câu hỏi này thì thế nào? Quốc Sư nói: 3 điểm như nước chảy, cong tợ lưỡi liềm cắt cỏ. Sư sau về ở núi Phục Ngưu. Một hôm bảo chúng rằng: Tức tâm tức Phật là câu không bịnh mà cầu bịnh, phi tâm phi Phật là câu thuốc để trị bệnh. Vị Tăng hỏi: Thế nào là câu thoát sái để (Thế nào là tự tại?) Sư nói: Truyện xưa nay ở núi Phục Ngưu. Sau Sư tịch ở chùa Khai Nguyên tại Tùy Châu thọ 81 tuổi.
Thiền sư Bảo Tích ở Bàn Sơn, U Châu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Đạo? Sư nói Ra! Vị
Tăng nói Đệ tử chưa hiểu ý chỉ. Sư nói đi! Sư lên Pháp đường dạy chúng rằng: Tâm nếu vô sự, thì muôn tượng chẳng sinh, ý dứt huyền cơ, tiêm trần (mảy may) nào lập. Đạo vốn không thể, nhân Đạo mà lập tên, Đạo vốn không tên, nhân tên mà được gọi. Nếu nói tức tâm tức Phật, thời này (lúc này) chưa vào huyền vi. Nếu nói phi tâm phi Phật, thì cũng chỉ là dấu chân mà thôi. Một nẻo Hướng Thượng (tu thiền?) ngàn Thánh chẳng truyền, kẻ học nhọc nhắn như vượn bắt bóng. Phàm Đại Đạo không có giữa thì ai là trước sau. Lặng bặt dứt sạch thì cần gì phải suy lường. Đã không như đây thì Đạo sao lại nói, phàm mặt trăng tâm riêng chiếu ánh sáng lấn át (nuốt) cả muôn tượng, ánh sáng chẳng chiếu cảnh mà cảnh cũng chẳng còn, ánh sáng và cảnh đều mất thì còn là vật gì. Này các thiền đức, ví như quăng kiếm lên không, dẫu tới hay không tới thì khoảng không chẳng vết tích kiếm nhọn kia cũng không thiếu? Nếu hay Thế mà tâm tâm vô tri, toàn tâm tức Phật, toàn Phật tức vị, vị và Phật không khác thì mới là Đạo vậy. Này các Thiền Đức, ở trong đó mà học Đạo giống như đất mọc núi chẳng cần biết núi cao vót, như đá ngậm ngọc chẳng cần biết ngọc không vết. Phải Thế mà xuất gia. Nên Đạo sư nói pháp vốn chẳng ngại nhau, 3 đời cũng lại Thế. Vị vô vi vô sự cũng là nạn (khó) khóa vàng. Do đó mà nguồn linh riêng chiếu, Đạo dứt không sinh. Đại trí chẳng sáng, chân không chẳng dấu vết. Thật như phàm Thánh đều là mộng nói (lời mộng), Phật và Niết-bàn đều là lời thêm. Này các Thiền Đức lại phải tự xem không vị thay thế 3 cõi không pháp thế chỗ nào mà cầu tâm, 4 đại vốn không Phật y đâu mà trụ. Tuyền ky (đồ xem thiên văn) chẳng động lặng lẽ không lời. Xem mặt nhìn nhau toàn không việc khác. Hãy cẩn thận.
Khi Sư sắp tịch bảo chúng rằng: Có ai vẽ (mô trái) được cái chân (hình thể của ta) của ta chăng? Chúng đều vẽ (trái) chân trình Sư, sư đều đánh. Đệ tử là Phổ Hóa nói rằng: Con vẽ (mô trái) được. Sư hỏi sao không trình là giống Lão Tăng Phổ Hóa liền đánh câu đấu mà đưa ra. Sư nói: Gả này về sau như gió bão mà tiếp vị đây. Khi Sư tịch rồi thì vua ban thụy là Ngưng Tịch Đại sư, tháp hiệu Chân Tế.
Thiền sư Thái Dục ở núi Phù dung, Tỳ lăng.
Sư người ở Kim lăng, họ Phạm. Năm 12 tuổi lạy Thiền sư Trung ở đời thứ 6 ở núi Ngưu Đầu mà cạo tóc (xuất gia), Năm 23 tuổi ở chùa An Quốc Kinh Triệu mà thọ cụ giới. Sau gặp Đại Tịch ngầm truyền ý Tổ. Năm Đường Nguyên Hòa 13, Sư về ở tại núi Phù Dung, Nghĩa Hưng, Tỳ lăng. Một hôm nhân ngồi ăn với bàng Cư sĩ. Cư sĩ sau Sư nói: Sinh tâm nhận của thí của Tịnh Danh sớm quở trách bỏ 1 cơ hội này Cư sĩ cam tâm chăng? Cư sĩ nói: Lúc bấy giờ Thiện Hiện lẽ nào không làm nhà? Sư nói:
Không liên quan đến việc khác. Cư sĩ nói: Cơm đến bên miệng thì bị nó (đó) cướp đi. Sư bèn bỏ ăn. Cư sĩ nói không tiêu 1 câu. Cư sĩ lại hỏi Sư: Mã Đại sư chấp thật vào chỗ vì vị, lại giao phó cho thầy ta chăng? Sư nói: Tôi còn chưa thấy ông ta làm sao biết ông ta chấp thật. Cư sĩ nói: Chỉ sự thấy biết này cũng không phải là chỗ dẹp bỏ. Sư nói: Cư sĩ cũng chẳng được 1 mực nói thế Cư sĩ nói: 1 mực nói thế Sư lại mất Tông. Nếu làm 2 hướng, 3 hướng, Sư lại mở được miệng chăng? Sư nói: Giống như mở miệng mà chẳng được thì có thể gọi là thật. Cư sĩ vỗ tay mà ra. Trong Niên hiệu Bảo Lịch, Sư về Tề Vân mà thị tịch, thọ 80 tuổi, lạp 58. Năm Đại Hòa 2 thì vua ban Thụy là Đại Bảo Thiền sư ở, tháp hiệu lăng Già.
Thiền sư ở Bảo Triệt, ở núi Ma Cốc, Bồ Châu.
Một hôm, theo Mã Tổ, kế hỏi rằng: Thế nào là Đại Niết-bàn? Tổ nói gấp. Sư hỏi gấp cái gì. Tổ nói xem nước. Sau đó Sư cùng Đơn Hà dao núi, thấy cá trong nước thì lấy tay chỉ. Đơn Hà nói thiên nhiên thiên nhiên. Hôm sau Sư lại hỏi Đơn Hà: Hôm qua ý thế nào? Đơn Hà bèn buông mình nằm xuống. Sư nói: Trời xanh. Lại cùng Đơn Hà đến núi Ma cốc. Sư nói: Tôi vào ở trong đó. Đơn Hà nói: Ở thì tạm thời vẫn theo, có cái đó cũng không. Sư nói cẩn thận. Có vị Tăng hỏi: 12 phần giáo tôi chẳng nghi, thế nào là ý Tổ sư ở Tây Trúc đến? Sư bèn đứng dậy lấy gậy múa (xoay) quanh thân 1 vòng rồi đưa lên 1 chân, hỏi: Hiểu chăng? Vị Tăng không đáp được. Sư bèn đánh. Vị Tăng hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? Sư làm thinh. Đam Nguyên hỏi 12 mặt của Quán Âm là phàm hay Thánh? Sư nói là Thánh. Đam Nguyên đánh sư 1 tát. Sư nói biết ông chẳng đến được cảnh giới ấy.
Thiền sư Tề An ở Viên Hải Xương, Trấn Quốc-Diêm Quan thuộc Hàng Châu.
Sư người ở quận Hải Môn, họ Lý. Khi sinh ra Sư có ánh sáng thần chiếu rọi trong nhà, lại có Tăng lạ đến bảo rằng lập tràng vô thắng khiến Phật Nhật hồi chiếu, há chẳng phải là ngươi sao? Bèn nương Thiền sư Vân Tông ở Bổn quận mà xuất gia thọ cụ túc giới. Sau nghe ngài Đại Tịch hành hóa ở núi Tập công bèn chống tích trượng mà đến. Sư có tướng kỳ lạ, Đại Tịch vừa thấy thì biết là Thâm khí, bèn bảo vào thất ngầm truyền chánh pháp. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là bản thân của Phật Lô Xá Na? Sư nói đem cho tôi cái bình đồng kia. Vị Tăng bèn đem Tịnh Bình đến. Sư bảo đem đặt vào chỗ cũ. Vị Tăng đặt bình vào chỗ cũ xong, liền đến lại hỏi Sư câu ấy. Sư nói Cổ Phật đã qua lâu rồi. Có giảng vị Tăng chuyên giảng thuyết đến tham vấn. Sư hỏi Tọa chủ đã làm nghiệp gì? Đáp: Giảng kinh Hoa Nghiêm. Sư hỏi: Có mấy thứ pháp giới. Đáp: Nói rộng thì lớp lớp vô tận, lược nói thì có 4 thứ pháp giới. Sư dựng cây phất trần hỏi: Cái này là pháp giới thứ mấy? Tọa chủ trầm ngâm suy nghĩ câu trả lời. Sư nói: Suy tư nghĩ ngợi mà biết mà hiểu là kế sống của loài quỉ là ngọn đèn con dưới ánh mặt trời, quả nhiên mất ánh sáng. Có vị Tăng hỏi ngài Đại Mai thế nào là ý Tây Trúc đến? Ngài Đại Mai nói Tây Trúc đến không có y. Sư nghe bèn nói: 1 cái quan tài 2 thây chết! Sư gọi thị giả bảo rằng: Đem cái quạt tể giác ra đây. Thị giả nói: Hư rồi. Sư nói: Quạt hư thì đưa tê giác cho ta. Thị giả không đáp được. Một hôm Sư bảo chúng rằng: Hư không làm trống, núi Tu Di làm chày, vị nào đánh được.
Chúng không đáp được. Có Thiền sư Pháp Không đến xin hỏi các nghĩa trong kinh, Sư mỗi mỗi đều đáp xong, liền bảo: Từ khi Thiền sư ở đến đây bần đạo chưa được làm chủ nhân. Pháp không nói xin Hòa thượng làm chủ nhân. Sư nói: Hôm nay tối rồi, về chỗ cũ đi, ngày mai đến. Pháp không liền đi. Sáng hôm sau Sư sai Sa di ra khuất phục? Thiền sư Pháp Không. Pháp không đến, Sư ngoái nhìn Sa di bảo: Này, Sa di không biết việc kia ra khuất phục Thiền sư Pháp Không. Liền khuất phụ được. Vị giữ Pháp Đường đến, pháp không chẳng nói gì. Pháp Hân Viện chủ đến tham vấn. Sư hỏi: Ông là ai? Đáp: Pháp thân. Sư nói: Tôi chẳng biết ông. Hân chẳng nói gì. Sau Sư không bịnh mà ngồi yên thị tịch. Vua ban Thụy là Ngộ Không Thiền sư.
Thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ Tiết, Vụ Châu.
Sư vị Tỳ lăng họ Tuyên. Lúc đầu đến yết kiến Mã Đại sư Dự Chương. Mã tiếp nhân đó cạo tóc và thọ cụ giới. Sau đến yết kiến Hòa thượng thiện ở Thạch Đầu, trước tự ước rằng: Nếu 1 lời nói khế hợp nhau ta sẽ ở đây, không phải thế thì đi. Thạch Đầu biết là pháp khí bèn cẩn thận khai thị. Sư không hiểu ý bèn cáo từ mà đi. Khi ra đến cửa. Thạch Đầu gọi lớn Xà Lê! Sư ngoái đầu nói từ sinh ra đến già chỉ là cái ấy, ông chớ. Sau lời nói Sư đại ngộ, bèn đập gãy cây gậy mà ở lại đấy. Năm Đường Trinh Nguyên 1, Sư vào núi Thiên Thai ở tại Đạo Tràng Bạch Sa, rồi đến ở Ngũ Tiết. Có vị Tăng hỏi: Vật nào lớn nhất trời đất? Sư nói: Không ai biết được nó. Vị Tăng hỏi: Lại chạm trổ mài giũa cũng không? Sư nói: Ông thử ra tay xem? Vị Tăng hỏi: Trong môn này việc trước sau thế nào? Sư nói: Ông nói việc trước mắt đến lúc thành tựu thì có thể trải qua lâu mau? Vị Tăng nói Đệ tử không hiểu. Sư nói trong đây không có câu hỏi của ông. Vị Tăng nói há Hòa thượng không chỗ tiếp vị ư? Sư nói đợi ông cầu ta liền tiếp. Vị Tăng nói xin Hòa thượng tiếp đi. Sư hỏi: Ông thiếu cái gì? Vị Tăng hỏi: Làm sao được vô tâm? Sư nói: Xô núi lật biển vẫn yên tịnh, đất động ngủ yên há tính suy. Ngày 23 tháng 3 Năm Nguyên Hòa 13 Sư tắm gội đốt hương ngồi nghiêm bảo chúng rằng: Pháp thân thị tịch bày ra có tới lui, ngàn Thánh đồng nguồn muôn linh về 1. Ta nay bọt tan mà giả có hưng suy chớ nên nhọc thần hãy giữ chánh niệm. Nếu tuân giữ lời này là thật báo ân ta. Nếu ai trái lời ta thì không phải con ta. Lúc đó Có vị Tăng hỏi Hòa thượng sẽ đi về đâu? Sư nói không có chỗ đi. Hỏi: Sao con không thấy? Sư nói không phải phải thấy. Nói xong thì an nhiên mà tịch. Sư thọ 72 tuổi, lạp được 41.
Thiền sư Pháp Thường, ở núi Đại Mai, Minh Châu.
Sư người ở Tương Dương, họ Trịnh. Tuổi Nhỏ theo Thầy ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Châu. Lúc đầu tham vấn ngài Đại Tịch hỏi rằng: Thế nào là Phật. Ngài Đại Tịch nói: Tức tâm là Phật thì Sư liền đại ngộ. Trong Năm Đường Trinh Nguyên Sư ở núi Thiên Thai, phía Nam Dư Diêu 70 dặm có rất nhiều mai Lúc đó dưới Hội Diêm quan có 1 vị Tăng vào núi vác gậy mò đường đến am Sư hỏi rằng: Hòa thượng ở núi này bao lâu rồi? Sư nói: Chỉ thấy 4 núi xanh rồi vàng. Lại hỏi: Xuống núi thì đi đường nào? Sư nói đi theo con suối. Vị Tăng trở về kể lại với Diêm quan. Diêm quan nói: Khi ta ở Giang Tây có thấy một người Tăng, sau đó không biết tin tức, có phải là vị Tăng này chăng? Bèn khiến vị Tăng đi thỉnh Sư ra. Sư có kệ rằng:
Cỏ úa cây khô dựa rừng lạnh
mấy độ gặp xuân chẳng đổi tâm.
Tiều phu có gặp không thèm ngó
người Sính đâu được khổ theo tìm.
Ngài Đại Tịch nghe Sư ở núi bèn sai một người Tăng đến hỏi rằng: Hòa thượng gặp mã Sư được cái gì mà ở núi này? Sư nói Mã Sư nói với ta tức tâm tức Phật tôi liền ở đấy. Vị Tăng nói Phật pháp của Mã Sư gần đây lại khác. Sư hỏi khác thế nào? Vị Tăng nói gần đây lại nói phi tâm phi Phật. Sư nói: Lão già ấy mê hoặc vị không có ngày nghỉ. mặc ông ấy phi tâm phi Phật ta chỉ luôn tức tâm tức Phật. Vị Tăng ấy trở về nói lại cho. Nghe Tổ nói này đại chúng Mai đã chín. Từ đó người học dần đến với Sư, Đạo sư càng nổi tiếng. Sư lên Pháp Đường dạy chúng rằng: Các ông mỗi người phải tự hồi tâm đạt gốc chớ theo ngọn, chỉ cần được gốc thì ngọn tự đến. Nếu muốn biết gốc thì phải hiểu rõ tự tâm. Tâm này vốn là cội gốc của tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Tâm sinh thì các pháp sinh, tâm diệt thì các pháp diệt. Tâm lại chẳng nương vào tất cả thiện ác mà sinh muôn pháp, vốn tự như như. Có vị Tăng hỏi thế nào là đại ý Phật pháp? Sư nói: Hoa Bồ Nhụy Liễu kim tre sợi mè! Giáp Sơn và Định Sơn vừa đi vừa nói chuyện. Định Sơn bảo: Trong sinh tử không có Phật thì chẳng phải sinh tử. Giáp Sơn nói: Trong sinh tử có Phật thì chẳng mê sinh tử. Hai người lên núi tham lễ Sư. Giáp Sơn liền nêu ra việc rồi hỏi Sư rằng không biết chỗ thấy của hai người ai thân hơn. Sư nói 1 thân 1 sơ. Giáp Sơn hỏi ai thân. Sư nói về đi, mai đến. Hôm sau Giáp Sơn lại lên núi hỏi Sư. Sư đáp: Kẻ thân thì không hỏi, kẻ hỏi thì không thân. Bỗng một hôm Sư gọi chúng bảo: Đến chẳng có thể kìm nén đi chẳng nên đuổi theo. Trong thong dong hỏi lại nghe tiếng chuột kêu. Sư nói: Tức vật này chẳng phải vật khác. Các ông nên khéo giữ gìn. Ta đi đây. Nói xong thì thị tịch, thọ 88 tuổi, lạp được 69.
Thiền sư Trí Giác ở Diên Thọ khen rằng:
Sư trước được đạo
Tức tâm là Phật
Sau cùng chỉ chúng
Vật chẳng vật khác
Xét cùng muôn pháp
Thấu xương ngàn Thánh
Chân hóa chẳng dời
Đâu ngại dứt mất.
Thiền sư Duy Khoan, trụ chùa Hưng Thiện thuộc Kinh Triệu.
Sư người ở Tín An thuộc Cù Châu, họ Chúc. Năm 13 tuổi thấy vị sát sinh thì bỏ ăn thịt cá, bèn xin xuất gia ban đầu học Tỳ Ni tu chỉ quán, sau tham vấn ngài Đại Tịch mà được tâm yếu. Năm
Trinh Nguyên 6 mới đi hành hóa ở Ngô Việt. Năm thứ 8 thì đến núi Phan Dương, có thần xin thọ 8 giới. Năm thứ 13 thì ngụ ở chùa Thiếu Lâm Tung Sơn. Có vị Tăng hỏi thế nào là Đạo? Sư đáp núi lớn tốt. Vị Tăng nói đệ tử hỏi đạo, sao sư nói núi đẹp. Sư nói ông chỉ biết núi đẹp không hề biết Đạo. Hỏi: Con chó có Phật tánh chăng? Sư nói có. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng lại có chăng? Sư nói ta không Có vị Tăng nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh vì sao chỉ có Hòa thượng không? Sư nói ta không phải tất cả chúng sinh. Vị Tăng nói đã không phải chúng sinh thì là Phật phải chăng? Sư nói không phải Phật. Vị Tăng nói rốt ráo là vật gì. Sư nói: Cũng chẳng là vật. Vị Tăng nói có thể thấy được nghĩ được chăng? Sư nói nghĩ chẳng tới bàn chẳng được, cho nên nói chẳng thể nghĩ bàn. Năm Nguyên Hòa thứ 4 thì vua Đường Hiến Tông mời sư vào triều. Bạch Cư Dị có đến Sư hỏi rằng: Đã nói Thiền sư ở lấy gì nói pháp? Sư nói Bồ đề Vô thượng đầy đủ ở thân là luật, nói ở miệng là pháp, làm ở tâm là thiền, ứng dụng cả ba thứ làm một. Ví như sông ngòi lớn nhỏ do nơi chốn ở mà đặt tên, tên tuy chẳng một mà tánh nước không hai. Luật tức là pháp, pháp chẳng lìa thiền. Vì sao trong đó mà vọng khởi phân biệt? Lại hỏi: Đã không phân biệt thì lấy gì mà tu tâm? Sư nói tâm vốn không tổn thương, vì sao phải (tu sửa), bất luận cấu hay tịnh tất cả chớ nên khởi niệm. Lại hỏi: Cấu thì chẳng nên niệm (nghĩ, nhớ) còn tịnh mà không niệm ư?
Sư nói như trên con ngươi của vị một vật chẳng thể ở đó, mạt vàng vốn rất quý nhưng rơi vào mắt thì liền bịnh. Lại hỏi không tu không niệm thì có khác gì phàm phu? Sư nói: Phàm phu thì vô minh, Nhị thừa thì chấp trước, lìa 2 bịnh này gọi là chân tu. Chân tu là không được siêng không được quên, siêng thì gần với chấp trước, quên thì rơi vào vô minh. Đây là tâm yếu. Có vị Tăng hỏi Đạo ở đâu/ sư nói chỉ ở trước mắt. Hỏi vì sao tôi chẳng thấy? Sư nói vì ông có ngã do đó chẳng thấy. Hỏi: Con có ngã nên chẳng thấy, Hòa thượng có thấy chăng? Sư nói có ông có ngã nên dần dần chẳng thấy. Hỏi không ta không ông có thấy chăng? Sư nói không ông không ta thì ai cầu thấy. Ngày tối trời tháng 2 Năm Nguyên Hòa năm thứ 12, Sư lên Pháp Đường nói pháp xong thì hóa, thọ 63 tuổi, lạp được 39. Đem về chôn ở Bá lăng Tây Nguyên. Vua ban Thụy là Đại Triệt Thiền sư ở, tháp hiệu là Nguyên Hòa Chánh chân.
Thiền sư Như Hội ở chùa Đông thuộc Hồ Nam.
Sư người ở Khúc Giang thuộc Thủy Hưng. Trước yết kiến ngài Kính Sơn, sau tham vấn ngài Đại Tịch. Khi học chúng đã đông, chiếc giường trong Tăng đường bị sụp gãy, lúc ấy gọi Sư là chiết Sàng Hội (Hội bị gãy giường). Từ khi ngài Đại
Tịch mất rồi thì Sư thường lo môn đồ lấy câu tức tâm tức Phật mà ghi nhớ đọc tụng mãi không thôi. Lại bảo Phật nào có trụ mà bảo là tức tâm. Tâm chỉ như thợ vẽ mà bảo là tức Phật. Bèn dạy chúng rằng: Tâm chẳng phải là Phật, trí chẳng phải là Đạo. Kiếm đã ở xa chỗ khắc thuyền. Lúc đó gọi Đông Tự là Hang Thiền. Tướng quốc Thôi Công Quần ra làm quan sát Sứ ở Hồ Nam gặp sư hỏi rằng: Sư đã được gì? Sư nói: Được thấy tánh nên Sư đang bị bệnh mắt tướng công châm chọc rằng. Ông chê: Đã nói thấy tánh thì sao bị bịnh mắt? Sư nói thấy tánh không phải là phải thì phải bịnh có hại gì? Ông cúi đầu (lạy) tạ. Sư hỏi Nam Tuyền rằng: Vừa từ đâu đến đây? Đáp: Ở Giang Tây. Sư hỏi: Đem được chân của mã Sư đến đây chăng? Tuyền đáp; chỉ có cái ấy. Sư nói Đã rơi sau lưng. Bèn không đáp được. Thôi Tướng Công vào chùa lấy chim sẻ phóng ra uế, trên đầu Phật bèn hỏi Sư rằng: Chim sẻ có Phật tánh không? Sư đáp có. Thôi hỏi: Sao lại phóng ra uế trên đầu Phật? Sư hỏi: Sao nó không phóng ra uế trên đầu hạc? Ngưỡng Sơn đến tham vấn. Sư hỏi: Đã (gặp) nhau rồi lại chẳng cần đến. Ngưỡng Sơn nói sao gặp nhau chẳng thường? Sư trở về phương trượng đóng cửa. Ngưỡng Sơn về thuật lại với Qui Sơn, Qui Sơn nói ông im lặng là tâm hạnh gì? Ngưỡng Sơn nói: Nếu chẳng phải thì sao biết được ông ấy. Lại có người hỏi Sư rằng: Con định xin Hòa thượng đến mở Pháp Đường có được chăng? Sư nói: Đợi đem chất nóng trong đá liền được. Người ấy không đáp được. Năm Đường Trường Khánh tức là năm Quý mão ngày 19 tháng 08 Sư thì tịch thọ 80 tuổi. Vua ban thụy là Truyền Minh Đại sư, tháp hiệu Vĩnh Tế.
Thiền sư Vô Đẳng ở Ngạc Châu.
Sư người ở uất Thị họ Lý. Lúc đầu xuất gia ở núi Tập Công, tham với Mã Đại sư được mật truyền tâm yếu. Sau đến ở Độ Môn Tùy Châu. Đã từng gặp Châu Mục Vương Thường Thị. Sư từ giả Tướng Công bước ra cửa. Sau đó Vương gọi: Hòa thượng. Sư quay đầu lại, Vương gõ cột 3 cái. Sư lấy tay vẽ hình tròn. Lại 3 lần Thế (khoát tay 3 cái) rồi đi. Sau Sư ở chùa Đại Tịch ở Võ Xương. Một hôm đại chúng tham vấn buổi chiều, Sư thấy mọi người đến, không hỏi vị đến trước mà bảo chúng rằng: Đại chúng vừa đến tiếng động đi đâu? Có một vị Tăng đứng dậy chỉ đầu. Sư nói: Cẩn trọng. Vị Tăng ấy sáng hôm sau lại đến tham vấn, Sư bèn nằm xoay mặt vào vách, rên hừ hừ bảo rằng 3 ngày nay ta không an vui lắm, Đại Đức có đem thuốc theo chăng, cho Lão Tăng chút ít. Vị Tăng lấy tay vỗ Tinh Bình nói: Cái Tinh Bình này ở đâu mà đến? Sư nói: Cái đó từ Lão Tăng đến, Đại Đức đến chỗ nào? Vị Tăng đáp cũng là chỗ Hòa thượng đến, cũng là con đến. Niên hiệu đời Đại Hòa năm thứ 4, tháng 10 Sư thị tịch, thọ 82 tuổi.
Thiền sư Trí Thường trụ chùa Qui Tông ở Lô Sơn.
Sư lên Pháp đường nói rằng: Từ xưa các Cổ đức chẳng phải không hiểu biết bậc cao thượng kia chẳng đồng kẻ tầm thường. Nay thì chẳng thể tự thành tự lập, uổng, phí thời gian. Các ông chớ dung tâm lầm. Không ai thay thế các ông, cũng không có chỗ các ông dụng tâm, chớ tìm cầu ở khác. Từ trước chỉ là nương người khác mà hiểu.Nói ra đều ngăn trệ, ánh sáng không thấu qua, chỉ vì trước phải có vật. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là huyền chỉ? Sư nói không có người hiểu được. Vị Tăng nói: Hướng thế nào? Sư nói có hướng liền trái. Vị Tăng nói chẳng hướng thì sao? Sư nói ai cầu huyền chỉ? Lại nói: Bỏ chỗ không dụng tâm của ông đi. Vị Tăng nói há không có môn phương tiện khiến người học được vào. Sư nói lực diệu trí của Quán Âm có thể cứu khổ thế gian. Vị Tăng hỏi thế nào là lực diệu trí của Quán Âm? Sư gõ vào nắp vạc 3 lần rồi hỏi: Ông có nghe chăng? Vị Tăng nói: Nghe. Sư nói: Sao ta chẳng nghe. Vị Tăng không đáp. Sư dùng gậy đuổi đi. Sư và Nam Tuyền cùng đi. Sau một hôm từ biệt uống trà xong Tuyền hỏi: Từ trước đã cùng Sư huynh bàn bạc ngữ cú kia đây đã biết, sau nếu có người hỏi việc rốt ráo thì thế sao. Sư nói: Đó là 1 cái giường trong một am cao vót Tuyền nói am tranh cao vót đã đặt việc rốt ráo ra sao? Sư bèn đập ấm trà mà đứng dậy. Tuyền hỏi: Sư huynh uống trà đi, Phổ Nguyện không hề uống trà. Sư nói: Nói lời ấy giọt nước tiêu không được. Vị Tăng hỏi việc đã lâu xa dụng tâm thế nào. Sư nói da trâu ý cột sương, cột sương kêu chiêm chiếp, phàm tai nghe chẳng nghe, nói Thánh cười ha ha! Sư nhân Tục Quan đến bàn lấy mũ đội 2 lần, rồi hỏi: Hiểu chăng? Tục quan nói chẳng hiểu. Sư nói chớ lo đầu Lão Tăng không đội mão được. Sư vào vườn hái rau. Vẽ một vòng tròn quanh một cây bảo chúng rằng: Không được chạm vào cái ấy. Chúng chẳng dám động vào. Lát sau sư lại đến thấy rau vẫn còn, bèn lấy gậy đuổi chúng vị Tăng bảo rằng cả đám người này không một ai có trí tuệ sao? Sư hỏi 1 vị Tăng mới đến từ đâu tới. đáp: Con phượng bay đến. Sư hỏi có đem cái đó đến chăng? Vị Tăng nói có đem đến. Sư hỏi ở đâu? Vị Tăng dùng tay làm ra vẽ bưng đầu lên trình. Sư bèn đưa tay nhận lấy rồi ném sau lưng. Vị Tăng không nói gì. Sư bảo con chồn hoang này! Sư đang cắt cỏ, có một người giảng vị Tăng đến tham vấn, bỗng có 1 con rắn bò ngang Sư liền dùng bừa chặt đứt. Vị Tăng nói: Nghe danh Tiếng đã lâu vốn là Sa môn thô hạnh này. đáp: Tọa chủ về phòng uống trà đi. Vân Nham đến tham vấn. Sư làm ra vẽ kéo dây cung. Nham hồi lâu ra làm vẽ dùng kiếm chém đứt. Sư nói đến chậm quá. Có vị Tăng đến từ giả Sư. Sư gọi đến gần bảo. Ta nói Phật pháp cho ông nghe. Vị Tăng đến trước. Sư nói: Ông và mọi người đều có việc, lúc khác ông hãy đến lúc đó không ai biết ông bấy giờ trong đường lạnh khéo làm. Sư lên Pháp Đường bảo rằng: Nay muốn nói Thiền, các ông hãy đến gần đây. Đại chúng đến gần. Sư nói: Các ông có nghe hạnh Quán Âm khéo ứng ở mọi nơi. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Hạnh Quán Âm? Sư bèn búng ngón tay bảo: Các vị có nghe chăng? Vị Tăng nói nghe. Sư bảo: Một đám vị ở trong đó mà tìm kiếm cái gì. Rồi lấy gậy đuổi đi và cười lớn mà trở về phương trượng. Có vị Tăng hỏi kẻ sơ tâm làm sao được chỗ vào? Sư đưa gõ vào nắp vạc ba cái lên 3 lần rồi hỏi: Có nghe chăng? Vị Tăng nói nghe. Sư nói sao ta chẳng nghe. Sư lại gõ 3 cái rồi hỏi có nghe chăng? Vị Tăng nói không nghe. Sư bảo sao ta lại nghe. Vị Tăng không đáp được Sư nói sức Lực diệu trí của Quán Âm có thể cứu khổ thế gian. Thứ Sử Giang Châu là Lý lặc hỏi Sư rằng: Trong giáo nói về núi Tu dị chứa hột cải thì con chẳng chẳng nghi, còn hột cải chứa núi Tu Di chẳng phải là nói dối ư? Sư nói: Có người đồn Sứ quân đọc hàng vạn quyển sách phải không? Lý đáp: Đúng. Sư nói: Sờ từ đầu đến chân chỉ lớn bằng trái dừa thì vạn quyển sách chứa ở thì đâu? Lý cúi đầu mà lui. Hôm khác Lý Bột lại hỏi: Đại Tạng giáo nói được việc gì sư đưa nắm tay lên hỏi hiểu chăng? Lý nói không hiểu. Sư nói: Cái đó chỉ nắm tay to mà không hiểu. Lý nói: Xin Sư chỉ dạy. Sư nói: Gặp người thì giữa đường trao cho, nếu không gặp thì Thế đế truyền khắp. Sư vì mắt có bịnh mà lấy thuốc chà xác đến đổi vành mặt đều đỏ. Nên thế gian: Gọi là Xích nhãn qui tông. Sau Sư thị tịch vua ban Thụy hiệu là chí chân Thiền sư.
* Thiền sư Hoài Nhượng sau đời thứ 2, có 56 vị. Đệ tử nối Pháp Mã Tổ (43 vị thấy có ghi lục)
1. Thiền sư Vô Nghiệp ở phần châu
2. Thiền sư Quảng Trừng ở Đại Đồng lễ châu
3. Thiền sư Phổ Nguyện ở Nam Tuyền Trì
Châu
4. Thiền sư Đặng Ẩn Phong ở Ngũ Đài
5. Hòa thượng Phật Áo ở Ôn Châu
6. Hòa thượng Ô Cữu
7. Hòa thượng Đại Thiện ở núi Thạch Sương Đàm Châu
8. Hòa thượng Thạch Cữu
9. Hòa thượng Bổn Khê
10. Hòa thượng Thạch Lâm
11. Tọa Chủ Lượng ở Tây Sơn Hồng Châu
12. Hòa thượng Hắc Nhãn
13. Hòa thượng Mễ Lãnh
14. Tề Phong Hòa thượng
15. Đại Dương Hòa thượng
16. Hòa thượng Hồng Loa núi
17. Thiền sư Quy Dương Vô Liễu ở Tuyền Châu
18. Hòa thượng Lợi Sơn
19. Hòa thượng Nhũ Nguyên ở Thiều Châu
20. Hòa thượng Tùng Sơn
21. Hòa thượng Tắc Xuyên
22. Thiền sư Tây Viên Tây Viên-Nam Nhạc
23. Hòa thượng Bách Linh
24. Hòa thượng Kim Ngưu ở trấn châu
25. Hòa thượng Động An
26. Hòa thượng đả Địa ở Hân Châu
27. Hòa thượng Tú Khê ở Đàm Châu
28. Thiền sư Phong Thần Tạng ở núi Mã Đầu Từ Châu
29. Thiền sư Thiện Giác ở Hoa Lâm Đàm Châu
30. Hòa thượng Thủy Đường ở Đình Châu
31. Hòa thượng Cổ Tự
32. Hòa thượng Tì Thọ ở Giang Tây
33. Hòa thượng Thảo Đường ở Kinh Triệu
34. Thiền sư Chân Thúc ở núi Dương Kỳ-Viên Châu
35. Hòa thượng Mông Khê
36. Hòa thượng Hắc Giản ở Lạc Kinh
37. Hòa thượng Hưng Bình ở Kinh Triệu
38. Hòa thượng Tiêu Dao
39. Hòa thượng Phước Khê
40. Hòa thượng Thủy Lão ở Hồng Châu
41. Hòa thượng Phù Bôi
42. Hòa thượng Long Sơn ở Đàm Châu
43. Cư sĩ Bàng Uẩn ở Tương Châu (43 vị trên đây thấy có ghi lục)
44. Thiền sư Minh Giác ở núi Thiên Mục
45. Thiền sư Hành Minh ở núi Vương Ốc
46. Thiền sư Trí Tạng ở Kinh Triệu
47. Thiền sư Hy Đảnh ở núi Đại Vương
48. Thiền sư Định giác ở Côn Sơn Tô Châu
49. Đại sư Hồng Sơn ở Tùy Châu
50. Thiền sư Nguyên Đề ở Liên Châu
51. Thiền sư Vô Liễu ở Tuyền Châu
52. Thiền sư tuệ Trung ở Tuyền Châu
53. Thiền sư Hoài Không ở núi An Phong
54. Thiền sư Đạo Hạnh ở núi La Phù
55. Thiền sư Pháp tạng ở Lô Sơn
56. Thiền sư Ninh Bôn ở núi Lữ Hậu
(13 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp đời thứ 2 của Thiền sư Hoài Nhượng.
1. Thiền sư Vô Nghiệp ở Phần Châu:
Sư người ở Thượng Lạc thuộc Thương Châu, họ Đỗ. Lúc xưa mẹ là bà Lý nghe trên hư không có tiếng nói cho ở nhờ được chăng? Bèn thức giấc mà có thai. Đêm sinh sư có ánh sáng lạ đầy nhà. Tuổi nhỏ, đi thì nhìn thẳng, ngồi thì kiết già. 9 tuổi đến nương Thiền sư Chí Bổn chùa Khai Nguyên mà thọ kinh Đại thừa. 5 hạnh đều tụng thuộc không sót. 12 tuổi cạo tóc, 20 tuổi thọ giới cụ túc với Luật sư U ở Tương Châu. Học tập Luật Tứ Phần sớ vừa xong thì có thể giảng nói, thường vì chúng vị Tăng giảng kinh Niết-bàn, mùa Đông mùa Hạ đều không bỏ. Sau nghe Thiền môn của Mã Đại sư hưng thạnh bèn đến chiêm lễ. Mã Tổ thấy Sư có hình dạng kỳ lạ, tiếng nói như chuông, bèn bảo Phật Đường nguy nga trong ấy không có Phật. Sư quì lạy mà hỏi: Học văn 3 thừa con đã hiểu qua ý chỉ, thường nghe Thiền môn tức tâm là Phật thật chưa được rõ. Mã Tổ nói: Chỉ chưa hiểu rõ tâm, lại không có một vật khác. Sư lại hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc sang mật truyền tâm ấn? Tổ nói Đại Đức đang ở trong ồn ào, lúc khác hãy đến. Sư bèn lui ra. Tổ gọi: Đại Đức! Sư quay đầu lại, Tổ hỏi: Cái gì đó? Sư bèn ngộ mà đảnh lễ. Tổ nói: Gã ngu độn lễ bái làm gì?
Từ khi được ý chỉ bèn tìm đến Tào Khê lạy tháp Tổ và đến Lô Nhạc, Thiên Thai tìm khắp các Thánh Tích. Từ vùng Lạc đến vùng Ung nghỉ tại chùa Tây Minh, vị Tăng chúng đều thỉnh cầu đảm nhận địa vị Đại đức của hai vùng. Sư nói đây không phải chí ta. Sau Sư đến Thượng Đảng. Tiết Độ Sứ là Lý bảo Chân kính trọng danh hạnh của Sư mà sớm chiều cung phụng. Sư thường có vẻ mỏi mệt, bảo vị rằng: Ta vốn lánh nơi đông đúc, nay lại bận rộn tiếp quý vị, há là tâm ta ư? Rồi lên núi Bảo Phục. Không bao lâu thì Sư đến ở chùa Kim Các tại Thanh Lương, đọc lại Đại Tạng qua 8 năm thì xong. Lại xuống Nam đến Tây Hà. Thứ Sử Cần Thục Triền mời Sư ở Tịnh xá Khai Nguyên. Sư bảo: Duyên ta ở đây. Do đó mà giảng Đại pháp gần 20 năm, Đạo tục ở hai vùng Tính châu và phần Châu đều được cảm hóa. Những người học đến hỏi, Sư nhiều lần đáp rằng: Đừng vọng tưởng. Vua Đường Hiến Tông nhiều lần sai sứ mời vào triều, sư đều từ bịnh mà chẳng đến. Khi vua Đường Mục Tông lên ngôi, thường nghĩ việc chiêm lễ bèn sai Tăng hai vùng như Lục Linh Phụ v.v... mang chiếu đón rước đến đảnh lễ thưa rằng: Hoàng thượng lúc này ân chỉ khác nhau xin Hòa thượng tạm thuận theo ý trời không nên nói bịnh. Sư mỉm cười bảo Bần đạo có đức độ gì mà dám làm phiền chúa thượng. xin Hãy về trước, tôi đi đường khác. Rồi tắm gội cạo tóc, nửa đêm bảo đệ tử là Huệ Âm v.v... rằng: các ông đã thấy nghe tánh giác tri đồng tuổi với Thái hư chẳng sinh chẳng diệt, tất cả cảnh giới vốn tự vắng lặng, không một pháp nào thật có người mê không hiểu biết thì bị cảnh mê hoặc, một khi bị cảnh mê hoặc rồi thì trôi lăn mãi không cùng.
Các ông nên biết. Tâm tánh vốn tự có không do tạo tác, giống như kim cang không thể phá hoại. Tất cả các pháp như bóng như tiếng vang không có thật, cho nên kinh nói.
Chỉ có một sự thật
Hai khác chẳng phải chân
Luôn biết tất cả không
Chẳng một vật tình này.
Đó là chỗ dụng tâm của chư Phật, các ông nên siêng thực hành! Nói xong thì ngồi kiết già mà hóa. Ngày lễ trà tỳ mây lành 5 sắc mùi thơm lạ xông khắp, nhặt được xá lợi óng ánh như ngọc châu, đệ tử đem giữ trong kim quan. Năm Trường Khánh thứ 3, ngày 21 tháng 12 thì đem chôn ở tháp đá, thọ 62 tuổi, lạp được 42. Vua ban thụy là Đại Đạt Quốc sư, Tháp hiệu là Trừng Nguyên.
Thiền sư Quảng Trừng ở Đại Đồng, thuộc Lễ Châu:
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là 6 căn diệt mất. Sư nói: Vung kiếm lên hư không chẳng tổn thương vật. Hỏi: Thế nào người xưa nay? Sư nói cũng ngồi mà chẳng biết nhau. Vị Tăng nói: Vì sao đệ tử lễ tạ mà đi? Sư nói: Ngầm viết sầu thương gởi cho ai?
Thiền sư Phổ Nguyện ở Nam Tuyền, Trì Châu.
Sư vị Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương Năm Đường Chí Đức năm thứ hai Sự thọ nghiệp với Thiền sư Đại Tuệ ở núi Đại Quỳ. Năm 30 tuổi đến Tung Nhạc thọ giới. Lúc đầu học Tướng Bộ Cựu Chương nghiên cứu Tỳ ni. Sau đến các pháp tòa nghe kinh Hoa Nghiêm, lăng Già. Vào Trung Quán Bách Môn mà tinh luyện huyền nghĩa. Sau đến thất ngài Đại Tịch mà đốn nhiên quên nôm, được Tammuội Du hý. Một hôm nấu cháo cho chúng Tăng, Mã Đại sư hỏi trong chậu là cái gì? Sư hỏi: Cái đó cụ nói là cái gì? Từ đó kẻ đồng học chẳng dám hỏi chơi. Năm Trinh Nguyên năm thứ 11 dừng nghỉ tại Trì Dương, tự mình làm thiền trai hơn 30 Năm chẳng xuống núi Nam Tuyền. Đầu năm Đại Hòa, Tuyên Thành Liêm Sứ là Lục Công Hoàn nghe Đạo phong của Sư bèn cùng giám quân đồng xin Sư xuống núi, tiếp đãi bằng lễ thầy trò. Sư bèn mở rộng huyền cương. Từ đó học chúng hàng trăm vị, các nơi đều xem là bậc tài giỏi. Một hôm Sư dạy chúng rằng Đạo ấy như như sớm là thay đổi. Thời nay Sư Tăng phải ở trong dị loại mà làm. Qui Tông nói: Làm hạnh súc sinh mà không quả báo súc sinh. Sư hỏi 8 chàng mạnh lại đi đâu. Lúc khác Sư bảo: Hôm qua Văn Thù Phổ hiền canh 3, mỗi người lãnh 20 gậy đuổi ra khỏi viện. Triệu Châu hỏi: Hòa thượng liền chuẩn đánh gậy dạy ai? Sư nói: Lại nói Vương lão Sư đi đâu. Triệu Châu bèn lễ bái mà lui ra. Sư định sáng hôm sau đi dạo trang xá. Đêm ấy thần thổ địa báo trước Trang chủ. Trang chủ chuẩn bị đầy đủ. Sư đến hỏi: Sao biết Lão Tăng đến mà bày nói Thế. Trang chủ nói đêm qua Thần Thổ Địa báo trước Hòa thượng hôm nay đến. Sư nói Vương lão sư tu hành không có năng lực bị quỉ thần nhìn thấy. Có vị Tăng hỏi Hòa thượng đã là Thiện tri thức vì sao bị quỉ thần nhìn thấy. Sư nói Thổ Địa lại bỏ một phần cơm. Lúc khác Sư nói: Giang Tây Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, còn Vương lão sư sao chẳng nói không thể là tâm, không phải là Phật, không phải là vật, sao nói lại có lỗi gì? Triệu Châu lễ bái mà lui. Lúc đó một người Tăng theo hỏi Triệu Châu rằng Thượng tọa lễ bái rồi có ý gì? Triệu Châu đáp: Ông đi hỏi Hòa thượng. Vị Tăng lên hỏi: Vừa rồi xét Thượng tọa ý thế nào? Sư nói: Ông ấy hiểu được ý chỉ của Lão Tăng. Một sư bưng bát lên Pháp đường. Hòa thượng Hoàng bá ở ngồi hàng ghế đầu thấy Sư không đứng dậy. Sư hỏi: Trưởng lão hành Đạo trong Năm nào? Hoàng bá đáp: Thời Phật không Vương. Sư nói cũng là cháu của Vương lão sư ở đấy. Một hôm Sư hỏi Hoàng bá rằng vàng ròng làm thế giới, bạc trắng làm xóm làng đây là chỗ ở của người nào? Hoàng bá đáp là nói ở của Thánh Nhân. Sư nói: lại có 1 vị ở cõi nước nào? Hoàng bá liền đứng khoanh tay. Sư nói: Nói không được sao chẳng hỏi Vương lão sư? Hoàng bá liền hỏi: Lại có một người ở cõi nước nào? Sư nói đáng tiếc. Lúc khác Sư lại hỏi Hoàng bá: Định huệ các học lý này ra sao? Hoàng bá nói: Trong suốt mười hai thời giờ chẳng nương tựa một vật. Sư nói chẳng phải là chỗ thấy của Trưởng lão sao? Hoàng bá nói: Chẳng sám. Sư nói: Giá nước ép trái cây hãy để đó, tiền giày cỏ dạy ai trả. Sư thấy vị Tăng chặt cây, bèn gõ ngô cây ba lần. Vị Tăng bỏ búa trở về vị Tăng Đường. Sư thì về Pháp Đường. Hồi lâu lại vào Tăng Đường thấy vị Tăng ấy ngồi với y bát. Sư nói: Tên lường gạt giết vị. Vị Tăng hỏi Sư về trượng thất lấy chỉ nam đâu? Sư nói đêm qua canh 3 mất trâu. Trời sáng thì mất lửa. Sư nhân 2 nhà Đông Tây đều giành nhau con mèo. Sư gặp bạch chúng rằng: Nói được thì cứu sống mèo, nói không được thì chém chết mèo. Chúng không đáp được, Sư bèn chém chết mèo. Lúc ấy Triệu Châu từ ngoài đi vào. Sư nêu câu chuyện trước. Triệu Châu bèn cởi giày đặt trên đầu mà bước ra. Sư nói: Hồi nãy nếu có ông vừa ở đây sẽ cứu được con mèo. Sư ở phương trượng ngồi hơ lửa Sam Sơn. Sư nói không cần chí Đông chí Tây ngay việc này nói đi. Sam Sơn dựng cây củi đang cháy lên đứng khoanh tay. Sư nói tuy là như vậy, nhưng hãy còn cánh một sợi chỉ so với vương lão sư. Có vị Tăng tham hỏi đứng khoanh tay đứng. Sư nói còn thế tục lắm. Vị Tăng ấy bèn chấp tay Sư nói: Lại quá vị Tăng. Vị Tăng không đáp được. Có 1 vị Tăng rửa bát, Sư bèn giật bát. Vị Tăng ấy đứng tay không Sư nói bát ở trong tay ông đó, ông nói thì thầm (lầm bầm) cái gì? Vị Tăng không đáp được. Sư bước vào vườn rau thấy 1 vị Tăng, Sư lấy miếng ngói mà ném vị Tăng quay đầu lại, Sư bèn giơ lên 1 chân. Vị Tăng không đáp được. Sư liền trở về phương trượng. Vị Tăng ấy theo vào hỏi rằng: Hòa thượng vừa ném miếng ngói vào con há chẳng phải là cảnh giác con? Sư nói: Đưa chân lên làm gì? Vị Tăng không đáp được. Sư dạy chúng rằng: Vương lão sư này bán mình, ai mua? Một người Tăng nói con mua Sư nói nó không mắc không rẻ ông mua làm gì. Vị Tăng không đáp được. Sư cùng Qui Tông, Ma Cốc đồng đi tham lễ Quốc Sư Nam Dương. Sư trước ở trên đường vẽ một vòng tròn bảo nói được thì đi. Qui Tông bèn vào ngồi giữa vòng tròn. Ma Cốc làm cô gái lạy xuống. Sư hỏi: Sao chẳng đi. Qui Tông nói tâm nào đi. Sư bèn gọi về trở về không đi tham lễ Quốc Sư nữa. Sư hỏi Thần núi làm gì, đáp là đánh lưới. Sư hỏi tay đánh hay chân đánh? Thần núi thưa: Xin Hòa thượng nói. Sư nói rõ ràng nhớ lấy giống y như tác giả? Có một tọa chủ từ giả Sư, Sư hỏi đi đâu? Đáp: Xuống núi. Sư nói thứ nhất chẳng được chê bái Vương Lão Sư. Đáp: Sao dám chê bai Hòa thượng. Sư bèn phun nước hỏi: Nhiều ít Tọa chủ liền ra đi. Một hôm sư đóng cửa phương trượng, lấy tro bỏ quanh ngoài cửa bảo: Nếu có người nói được thì mở cửa. Có người đáp nhưng chưa đúng ý sư. Triệu Châu đáp: Trời xanh. Sư bèn mở cửa. Sư ngắm trăng Có vị Tăng hỏi: Lúc nào giống được, cái ấy. Sư nói Vương lão sư 20 Năm trước cũng đâu đến. Vị Tăng hỏi: Nay thì làm gì? Sư bèn trở về Phương trượng. Lục Hoàn Đại Phu hỏi rằng: Đệ tử từ 6 hợp lại, trong đó lại có thân chăng? Sư nói ghi nhớ rõ ràng hoàn toàn giống như người làm. Lúc lại bảo sư rằng: Hòa thượng rất chẳng thể nghĩ bàn đến thế giới nào cũng đều thành tựu. Sư nói: Vừa rồi đều là phần việc của đại phu. Ngày khác Lục bảo Sư rằng: Đệ tử cũng hiểu sơ Phật pháp. Sư liền hỏi Đại phu trong cả 12 giờ thì làm gì. Lục nói: Tấc tơ không đeo mang. Sư nói: Hãy còn là dạng dưới thềm. Sư lại nói: Chẳng thấy Đạo, có Đạo Quân vương chẳng thu nạp quan có trí. Sư lên Pháp Đường rồi Lục đại phu nói: Xin Hòa thượng vì chúng nói pháp. Sư nói: Bảo Lão Tăng nói gì). Lục nói: Há Hòa thượng không có phương tiện? Sư hỏi: Nói nó thiếu cái gì. Lục nói vì sao có 6 Đường 4 sinh Sư nói: Lão Tăng không dạy nói Lục Đại phu cùng Sư gặp người, Lục giơ hột súc sắc lên bảo rằng: Làm gì chẳng làm gì, làm sao tin là trúng được. Sư cầm hột súc sắc lên bảo: 18 cái đầu thúi! Lại có người hỏi: Trong nhà đệ tử có 1 tảng đá khi thì ngồi hoặc nằm trên ấy, nay đem tạc tượng Phật được chăng? Sư nói được. Đại phu nói: Chở chẳng được chăng? Sư nói có được chẳng được! Triệu Châu hỏi: Đạo chẳng phải vật ngoài, vật ngoài chẳng phải Đạo, thế nào là vật ngoài Đạo? Sư liền đánh. Triệu Châu cầm gậy giơ lên nói: Từ nay về sau chớ đánh lầm người. Sư nói:
Rồng rắn khó phân biệt, đệ tử khó gạt thầy rồi gọi Viện chủ! Viện chủ: Dạ! Sư nói Phật 90 ngày ở cõi Trời Đao Lợi vì mẹ nói pháp. Lúc đó vua Ưu Điền nhớ Phật, xin Mục Liên vận thần thông 3 lần đưa thợ lên đó tạc tượng Phật, chỉ tạc được 31 tướng, vì sao tướng Phạm Âm tạc chẳng được? Viện chủ hỏi Thế nào là tướng Phạm Âm? Sư nói kẻ lường gạt giết người. Sư hỏi Duy Na rằng: Hôm nay xin khắp làm gì? Đáp rằng kéo cối xay Sư nói: Cối xay từ ông mà kéo không được đụng vào cái cây ở chính giữa cối. Duy Na không đáp được. Một hôm có vị Đại Đức hỏi Sư rằng: Tức tâm là Phật chẳng được phi tâm phi Phật cũng chẳng được, vậy ý Sư thế nào? Sư đáp: Nay Đại Đức lại tin tức tâm là Phật xong, còn nói gì được và chẳng được. Chỉ như Đại Đức ăn cơm xong từ trên nhà Đông xuống nhà Tây chẳng thể hỏi vị được hay chẳng được vậy. Khi Sư ở am có 1 vị Tăng đến, Sư nói tôi sắp lên núi đợi đến giờ trai thì tự làm cơm mà kêu trước xong, đem 1 phần lên trên núi. Ít lâu sau vị Tăng ấy tự kêu, cùng lúc bỏ hết việc nhà đến giường nằm. Sư đợi không thấy đến, liền về am thì thấy vị Tăng ấy nằm, Sư cũng đến nằm 1 bên. Sư bèn đứng dậy đi, Sư đứng sau bảo: Khi trước tôi đến ở am này, đủ 1 Đạo giả lanh lợi, đến nay chẳng thấy. Sư cầm quả cầu lên hỏi: Cái này sao giống cái ấy. Vị Tăng đáp chẳng giống. Sư nói: Thấy cái này ở đâu mà nói chẳng giống? Vị Tăng nói: Nếu hỏi tôi chỗ thấy thì Hòa thượng hãy buông vật trong tay. Sư nói: Cho ông vốn có một con mắt. Lục Hoàn Đại phu nói với Sư rằng: Pháp Triệu sư rất kỳ lạ Nói muôn vật đồng gốc là chẳng phải 1 thể. Sư chỉ hoa mẫu đơn trước sân nói này đại phu, khi người thấy cây hoa này giống như trong mộng. Lục không hiểu gì. Lục lại hỏi Thiên Vương ở địa vị nào? Sư nói nếu là Thiên vương tức không phải địa vị. Lục nói: Đệ tử nghe nói Thiên vương là ở Sơ địa? Sư nói: Đáng dùng thân Thiên vương để độ thì liền hiện thân Thiên vương mà nói pháp. Lục từ giả trở về Tuyên Thành. Sư hỏi Đại phu đến đó lấy gì trị dân? Lục nói dùng trí tuệ trị dân. Sư nói: Vì sao chỗ ấy tất cả sinh linh đều bị gặp phải tình cảnh lầm than khốn khổ? Sư đến Tuyên Châu. Lục Đại phu ra đón rước, chỉ cửa thành nói rằng: Mọi người đều bảo làm cửa hình tròn chẳng hay Hòa thượng bảo làm cửa hình gì. Sư nói: Nếu Lão Tăng nói sợ nhục phong hóa của Đại phu. Lục nói: Khi Bỗng nhiên giặc đến thì biết làm sao? Sư nói Vương lão sư tội lỗi. Lục lại hỏi: Đại Bi Bồ tát dùng ngàn tay ngàn mắt để làm gì? Sư nói: Như Quốc gia dùng Đại phu để làm gì?
Sư thiết trai cúng dường mã Đại sư, hỏi chúng rằng: Mã Đại sư có đến chăng? Chúng không đáp. Động Sơn nói đợi có bạn liền đến. Sư nói: Ông tuy là vị hậu sinh, mà rất ưa trổ tài. Động Sơn nói: Hòa thượng chớ giấu tài làm gì. Sư giặt áo kế có vị Tăng hỏi Hòa thượng cũng có cái ấy. Sư đưa áo lên nói: Mặc cái ấy ra sao. Sư hỏi vị Tăng Lương Khâm rằng: Ở kiếp không có Phật chăng? Đáp: Có, Sư hỏi: Ai vậy? Đáp: Lương Khâm. Sư hỏi ở cõi nước nào thì không đáp. Có vị Tăng hỏi Tổ, Tổ truyền nhau thì truyền cái gì? Sư nói 1 2 3 4 5. Hỏi thế nào là đáy gốc của người xưa. Sư bảo đợi có liền nói. Vị Tăng hỏi: Vì sao Hòa thượng nói dối. Sư bảo ta chẳng nói dối. Lô hành giả mới nói dối. Hỏi trong mười hai canh giờ lấy gì làm cảnh, hai sư nói: Sao chẳng hỏi Vương lão sư? Vị Tăng nói hỏi rồi. Sư nói lại từng cùng ông làm cảnh sao? Có vị Tăng hỏi: Hoa sen xanh chẳng theo lúc gió lửa mà tan là sao? Sư nói không có gió lửa chẳng theo là sao? Vị Tăng không đáp. Sư liền hỏi: Khi chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác nghĩ chung chẳng sinh là mặt mũi xưa nay của ta chăng? Vị Tăng nói: Không cho nó lộ ra. Sư hỏi tọa chủ rằng: Ông giảng kinh cho ta nghe được chăng? Đáp: Tôi giảng kinh cho Hòa thượng nghe, Hòa thượng phải nói thiền cho tôi nghe mới được. Sư nói không thể đem đạn vàng mà đổi lấy đạn bạc được. Tọa chủ nói: Tôi chẳng hiểu. Sư nói: Ông nói trên hư không có 1 đám mây là đóng đinh treo nó hay dây cột nó? Hỏi trong hư không có 1 viên ngọc làm sao lấy nó? Sư nói: Chẻ tre làm thang bắc lên hư không mà lấy? Vị Tăng hỏi: Trong hư không làm sao bắc thang? Sư hỏi: Ông định làm sao lấy? Vị Tăng từ giã hỏi rằng:
Con đến các nơi, nếu có người hỏi Hòa thượng những ngày gần đây làm gì, con trả lời thế nào? Sư nói: Nói với họ ngày gần đây ta thôi đánh nhau. Vị Tăng hỏi làm gì. Sư đáp: 1 vỗ 2 mất. Hỏi khi cha mẹ chưa sinh thì mũi ở đâu? Sư hỏi: Vậy cha mẹ đã sinh thì mũi ở đâu. Khi Sư sắp tịch, Đệ nhất tọa hỏi Hòa thượng khi mất sẽ đi đâu? Sư nói: Làm con bò đực ở dưới núi. Vị Tăng hỏi con theo Hòa thượng được chăng? Sư nói: Nếu ông theo ta thì ngậm 1 cây cỏ đến đây. Sư thị hiện bị bịnh. Năm Đại Hòa năm thứ 8 (giáp dần) ngày 25 tháng 12, buổi sáng Sư bảo học trò rằng: Sao mù đèn huyễn cũng lâu rồi, chớ bảo ta có tới lui. Nói xong thì tịch, thọ 87 tuổi, lạp được 58. Mùa xuân năm sau thì nhập tháp.
Thiền sư Ẩn Phong ở núi Ngũ Đài.
Sư người ở Võ, Phúc Kiến, họ Đặng. Thuở nhỏ không thông minh lắm cha mẹ cho xuất gia. Lúc đầu đến chỗ Mã Tổ nhưng chưa có thể tỏ ngộ. Sau lại đến Thạch đầu, hai phen vẫn chưa thấy gì. Cuối cùng lại về với Mã Đại sư mà được khế hội. Khi Sư ở Thạch Đầu, hỏi rằng: Thế nào là được hợp đạo? Thạch Đầu nói: Ta cũng chẳng hợp Đạo. Sư hỏi rốt ráo thế nào? Thạch Đầu nói: Ông bị cái đó bao lâu rồi. Một hôm Hòa thượng Thạch Đầu cắt cỏ, Sư ở bên trái khoanh tay mà đứng. Thạch Đầu ném cái liềm trước mặt Sư mà cắt 1 cây cỏ. Sư hỏi Hòa thượng có cắt được cái đó không? Thạch Đầu giơ cái liềm lên. Sư tiếp lấy cái liền và làm ra vẽ cắt cỏ. Thạch Đầu nói: Ông chỉ cắt được cái đó mà chẳng biết cắt được cái này ư. Sư không đáp được. Một hôm Sư đẩy xe đất, Mã Đại sư ngồi xoạc chân trên đường. Sư nói xin Thầy rút chân lại. Đại sư nói: Ta xoạc ra thì chẳng rút lại, Sư nói đã tiến thì không lùi rồi đẩy xe cán qua. Chân Đại sư bị thương, Đại sư về Pháp Đường cầm búa nói: Vừa rồi cán chân Lão Tăng bị thương sao còn đến đây? Sư bèn đưa cổ ra trước Đại sư. Đại sư bèn ném búa. Sư đến Nam Tuyền thấy chúng vị Tăng tham vấn. Nam Tuyền chỉ Tịnh Bình nói: Cái bình đồng này là cảnh, trong bình có nước, chẳng được đụng đến cảnh mà đem nước lại cho Lão Tăng. Sư bèn cầm tịnh bình đến trước mặt Nam Tuyền mà đổ nước xuống. Nam Tuyền bèn thôi. Sau Sư đến Qui Sơn, để y bát trên đầu thượng tọa. Qui Sơn nghe Sư thúc đến bèn đủ oai nghi mà đón nước, Sư thấy đến bèn giả nằm ngủ. Qui Sơn liền trở về phương trượng. Sư bèn bỏ đi. Lát sau Qui Sơn hỏi thị giả: Sư thúc ở đâu? Đáp: Đi rồi. Qui Sơn hỏi khi đi có nói gì không? Đáp: Chẳng nói gì cả. Qui Sơn nói: Chớ bảo là không nói, tiếng ấy như sấm vang! Mùa đông Sư ở núi Tung Nhạc, mùa hạ nghỉ ở Thanh Lương. Trong Năm Đường Nguyên Hòa còn lên núi Ngũ Đài. Đường đi ra đất Hoài Tây Thuộc Ngô
Nguyên Tế đem binh chống lệnh vua. Quan quân và giặc đánh nhau chưa phân thắng bại. Sư nói ta đến để giải cứu nạn này. Bèn quăng tích trượng lên hư không phi thân bay đến, quân 2 bên thấy vậy thì tâm đánh nhau liền dứt. Sư đã hiện bày thần dị lo sợ thành việc mê hoặc mọi người bèn ẩn vào Ngũ Đài ở hang kim cang. Trước lúc sắp mất Sư hỏi chúng rằng: Vị các nơi khi thiên hóa hoặc ngồi hoặc nằm ta đều thấy, còn đứng mà hóa thì không. Chúng đáp: Có. Sư hỏi lại có đứng ngược chăng (lộn đầu xuống đất). Chúng đáp không hề có. Sư bèn đứng ngược mà hóa. Nhưng áo quần vẫn ôm sát vào người. Lúc đó chúng bàn việc Trà tỳ thì vẫn sừng sửng bất động. Xa gần đến chiêm lễ đều khen ngợi, không ngớt. Sư có cô em gái làm Ni, lúc đó đến bên Sư than rằng: Lão huynh khi sống chẳng theo pháp luật, chết rồi còn mê hoặc người sao? Bèn đưa tay xô thì ngã xuống. Sau đó trà tỳ, nhặt xá lợi mà xây tháp thờ.
Hòa thượng Phật Áo ở Ôn Châu.
Bình thường, khi thấy người đến thì sư chống gậy xuống đất nói rằng: Trước Phật cũng như thế, sau Phật cũng như thế. Có vị Tăng hỏi:
Ngay lúc ấy thì làm sao? Sư vẽ 1 vòng tròn. Vị Tăng giả làm cô gái lạy xuống, Sư bèn đánh. Vị Tăng hỏi thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư nói giặc, giặc. Vị Tăng hỏi thế nào là dị hoại? Sư giơ chén lên gọi: Hoa nô, Hoa nô ăn cơm đi?
Hòa thượng Ô Cữu.
Có 2 thượng tọa là Huyền và Thiệu từ Giang Tây đến tham vấn Sư. Sư hỏi: 2 Thiền Bá từ đâu đến vị Tăng nói từ Giang Tây đến. Sư liền cầm gậy đánh. Huyền nói từ lâu đã biết Hòa thượng có cơ yếu này. Sư nói ông đã chẳng hiểu. Vị Tăng đứng sau chỉ đứng nhìn. Khi vị Tăng đứng sau định đến gần thì Sư liền đánh và bảo rằng tin biết cùng 1 lỗ không khác đất (Tham Đường đi).
Hòa thượng Đại thiện ở núi Thạch Sương Đàm Châu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư nói ngày xuân gà gáy. Vị Tăng nói đệ tử chẳng hiểu. Sư nói Trung Thu chó sủa. Sư lên Pháp Đường nói: Đại chúng ra đây ra đây, Lão Tăng có pháp yếu trăm Năm sau chẳng lụy ông. Chúng thưa: Xin Hòa thượng nói. Sư nói: Chẳng tiêu 1 đống lửa. Đông Sơn hỏi: Trước ghế 1 đứa bé thật là biết việc, như nay chẳng thấy đi đâu? Sư nói: Lửa cháy trên hồ chẳng được, trở về thế giới Thanh Lương đi.
Hòa thượng Thạch Cữu:
Từ trước tham vấn Mã Tổ, Tổ hỏi từ đâu tới? Sư nói: Từ Ô Cữu đến. Tổ hỏi: Ô Cữu những ngày gần đây có câu nói gì? Sư nói: Mấy người ở đây mịt mù. Tổ nói: Mịt mù hãy gác lại, lặng yên 1 câu là thế nào? Sư bước đến trước Sư 3 bước. Tổ nói ta có 7 gậy gởi đánh Ô Cữu, ông có chịu chăng? Sư nói Hòa thượng ăn đòn trước, con chịu sau. Rồi trở về Ô Cữu.
Hòa thượng Bổn Khê:
Bàng Cư sĩ hỏi rằng: Đơn Hà đánh thị giả có ý gì? Sư nói Đại Lão ông thấy chỗ hay dở của vị. Cư sĩ nói: Vì tôi và ông đồng tham nên mới dám hỏi. Sư nói sao không từ đầu cùng bàn bạc. Cư sĩ nói: Đại Lão ông chẳng thể nói chuyện với Sư về việc phải quấy của vị. Sư nói nghĩ ông tuổi đã già. Cư sĩ nói tội quá, tội quá!
Hòa thượng Thạch Lâm:
Một hôm Bàng Cư sĩ đến. Sư bèn chống phất trần nói: Chẳng rơi vào Cơ của Đơn Hà thử nói 1 câu Cư sĩ giật lấy cây phất trần rồi đưa lên 1 nắm tay. Sư nói chính là Cơ của Đơn Hà. Cư sĩ nói cùng ta chẳng rơi xem. Sứ nói Đơn Hà sợ câm còn Bàng ông sợ điếc. Cư sĩ nói khớp rồi, khớp rồi! Sư không nói. Cư sĩ hỏi vừa nói cái gì đó Sư cũng làm thinh. Một hôm Sư hỏi: Cư sĩ rằng: Tôi có mượn câu hỏi, Cư sĩ không tiếc câu nói. Cư sĩ bảo: Xin nói đi. Sư nói: Xưa nay là tiếc câu nói. Cư sĩ nói: Cái đó hỏi thì bất giác là lạc vào tiện nghi khác. Sư bèn bịt tai mà thôi. Cư sĩ nói: Tác gia, tác gia.
Tọa chủ Lượng ở Tây sơn thuộc Hồng Châu:
Vốn người ở đất Thục, chuyên về giảng kinh luận. Nhân tham vấn Mã Tổ, Tổ hỏi nghe nói tọa chủ giảng được kinh luận phải không? Lượng nói: Chẳng dám. Tổ hỏi lấy gì mà giảng? Lượng nói đem tâm mà giảng. Tổ nói tâm như thợ tài, ý như hòa với tài làm sao hiểu mà giảng được kinh. Lượng cãi lại: Tâm đã giảng chẳng được thì hư không giảng được chăng? Tổ nói tức là hư không giảng được. Lượng không chịu liền định xuống thềm. Tổ gọi Tọa chủ. Lượng quay đầu lại bỗng nhiên đại ngộ liền lễ bái. Tổ nói, Sư độn y kia lễ bái làm gì? Lượng trở về chùa bảo thính chúng rằng: Tôi giảng kinh luận nói là không ai bằng. Nay bị 1 câu hỏi của Mã Đại sư thì công phu bình sinh đều tiêu tan hết rồi. Bèn ẩn vào Tây Sơn không còn tin tức gì.
Hòa thượng Hắc Nhãn.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là chẳng phải thầy xuất thế? Sư đáp: Cây gậy của thiện tai.
Hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp? Sư nói: 10 Năm lão bán than chẳng biết chấm khắc bên đòn cân?
Hòa thượng Mễ Lãnh.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là việc của nạp y? Sư nói: Xấu xa mặc ông ganh, chẳng đeo sắc ráng mây. Khi Sư sắp mất có để lại 1 bài kệ rằng:
Tổ Tổ chẳng nghĩ bàn
Chẳng hứa mãi ở đời
Đại chúng khéo suy tư
Rốt ráo chỉ cái ấy.
Hòa thượng Tề Phong.
Một hôm Bàng cư sĩ vào viện.
Sư nói: Người tục thường vào vị Tăng viện dò xét cái gì?
Cư sĩ quay đầu nhìn 2 bên hỏi ai nói gì, ai nói gì?
Sư bèn hét lớn. Cư sĩ nói: Ở trong đó.
Sư nói: Không phải là Đương Dương nói chăng?
Cư sĩ nói: Sau lưng kìa.
Sư quay đầu nói xem xem.
Cư sĩ nói: Giặc cỏ thua, giặc cỏ thua.
Sư không đáp.
Cư sĩ lại hỏi: Đây cách phong Đảnh mấy dậm?
Sư hỏi: Ở đâu đến đây.
Cư sĩ nói: Cao và cứng rất đáng sợ chẳng được hỏi.
Sư hỏi nhiều ít.
Cư sĩ nói: 1, 2, 3.
Sư nói 4, 5, 6.
Cư sĩ hỏi sao chẳng nói 7?
Sư nói vừa nói 7 lại có 8.
Cư sĩ nói được đấy được đấy.
Sư nói mặc tình thêm 1.
Cư sĩ bèn hét mà đi.
Sư đi theo sau cũng hét.
Hòa thượng Đại Dương.
Trong lần Thiền sư y tham vấn. Sư nói Thiền y gần đây có một số Thiền sư ở lấy việc trước mà dạy người, lấy việc trước mắt làm người ấy, lại hội văn thể khi chưa bói cũng không. Y nói: Con trong ấy có 1 câu hỏi, hỏi Hòa thượng chẳng biết được không? Sư nói: Đáp ông đã rõ chớ nói được không. Y nói lại biết được trước mắt cũng chưa. Sư hỏi trước mắt biết làm gì.Y nói: Lại cần gặp người xem xét. Sư hỏi ai? Y nói: Con. Sư bèn hét lớn. Y lui bước mà đứng. Sư nói: Ông chỉ biết ngó trước mà chẳng biết nhìn sau. Y nói: Tuyết lại thêm sương. Sư nói: Kia đây không tiện nghi.
Hòa thượng núi Hồng Loa, thuộc U Châu.
Có bài tụng dạy Đệ tử rằng:
Núi Hồng Loa ở gần mọi Di Người được độ phần nửa là sao Cùng nói hỏi hoàn toàn hiểu Đáng thương chỉ hiểu có cái này.
Thiền sư Vô Liễu, trụ núi Qui Dương Tuyền Châu.
Sư người Hồng Đường Hồ Công, thuộc huyện
Phủ Điền họ thẩm. Năm 7 tuổi cha dắt vào Viện Bạch Trọng xem như ở nhà, bèn xuất gia. Đến 18 tuổi thì xuống tóc thọ giới cụ túc ở chùa Linh Nham. Sau tham vấn với Thiền sư ở Đại Tịch mà thông đạt kế thừa nghiệp Tổ, liền trở về Bổn viện. Ở phía Bắc viện đường hái củi mất dấu. Một hôm Sư chống gậy vạch có rậm mà đi, gặp con rùa lớn có 6 mắt, lát sau mà mất. Bèn cất am ở núi này, do đó đời gọi là Hòa thượng Qui Dương. Một hôm có con hổ đuổi con nai chạy vào am. Sư lấy gậy đuổi con hổ mà bảo vệ nai. Khi sắp tịch có nói kệ rằng:
Tám mươi Năm lo việc Đông Tây
Đến nay chẳng cần ông đầu bạc
Chẳng dở chẳng hay chẳng lớn bé
Lại cùng mọi người tánh giống nhau
Không đến không đi cũng không trú
Hiểu rõ xưa nay tự tánh không.
Nói kệ xong thì an nhiên thị tịch. Chôn ở chánh đường gần hai mươi Năm, bị suối núi làm chìm mất, học trò mở tháp ra thì thấy toàn thân nổi trong nước. Mân Vương nghe biết, sai sứ rước vào sân phủ cúng dường. Bỗng nghe mùi hôi thúi từ xa. Vương đốt hương khấn vái rằng: Có thể dời Qui Dương về chỗ cũ mà xây tháp thờ chăng. khấn xong thì mùi thơm lạ xông khắp, cả thành đều đến chiêm lễ. Bổn Đạo dâng thụy là Chân Tịch Đại sư, tháp hiệu Linh Giác. Sau đệ tử là tuệ Trung gặp Trừng Thái mất ở Bạch y, bèn chôn ở phía Đông tháp Sư cách hai trăm bước, gọi là Tháp Đông. Nay ở Qui Dương có hai chân thân, dân chúng nương cậy như sự cảm hóa để lại của Tăng già. Còn tuệ Trung thì đắc pháp với Hòa thượng Thảo Am như trong chương này có nói rõ.
18 Hòa thượng Lợi Sơn.
Có vị Tăng hỏi: Các Sắc về không, còn không thì về đâu? Sư nói: Cái lưỡi chẳng lọt ra khỏi miệng. Vị Tăng hỏi: Vì sao chẳng ra khỏi miệng? vị Sư nói: Trong ngoài như một. Vị Tăng hỏi: Chẳng trái qua Tăng kỳ mà được pháp thân, xin sư chỉ thẳng. Sư nói: Con đệ tử nối pháp nghiệp cha. Vị Tăng hỏi phải hiểu thế nào? Sư nói: Đày ải giết chóc chẳng lập bày. Vị Tăng hỏi vì sao Đại chúng có chỗ nương cậy. Sư nói: Đại chúng đã bỏ, pháp thân làm gì? Vị Tăng không đáp được. Sư nói: Ông hỏi đi ta đáp. Vị Tăng liền hỏi: Thế nào là pháp thân? Sư nói là hoa đốm trong hư không, ánh nắng như nước vị Tăng hỏi: Thế nào là ý tổ sư từ Tây Trúc đến. Sư nói chẳng thấy Thế nào. Vị Tăng hỏi vì sao như vậy. Sư bảo chỉ vì như vậy.
Hòa thượng Nhũ Nguyên ở Thiều Châu.
Sư lên Pháp đường nói rằng: Ý Tây Trúc đến rõ ràng chẳng ngại gì khó nói. Đại chúng không có ai nói được đi ra thử nói xem. Có một người Tăng ra vừa lạy thì Sư liền đánh bảo: Lúc nào ló đầu ra? Khi Sư thấy Ngưỡng Sơn còn làm Sa di ngồi tụng kinh, Sư hét rằng: Sa di này tụng kinh giống như tiếng khóc. Ngưỡng Sơn nói tuệ Tịch tụng kinh giống như khóc, chẳng biết Hòa thượng ra sao. Sư bèn quay đầu nhìn lại mà thôi.
Hòa thượng Tùng Sơn:
Một hôm Sư mời Bàng cư sĩ uống trà. Cư sĩ đưa cái khay trà lên nói: Mọi người đều có phần, vì sao nói không được. Sư nói: Chỉ vì mọi người đều có, do đó nói chẳng được. Cư sĩ nói: Vì sao huynh nói được? Sư nói: Chẳng thể không nói. Cư sĩ nói rõ ràng rõ ràng! Sư liền uống trà. Cư sĩ hỏi: Sư huynh uống trà sao chẳng mời khách? Sư hỏi ai? Cư sĩ nói: Ông Bàng. Sư nói đâu cần mời. Sau Đơn Hà nghe việc bảo rằng: Nếu không phải Tùng Sơn thì mấy ai bị ông họ Bàng kia làm loạn mất. Cư sĩ nghe nói bèn nhờ người nhắn với Đơn Hà rằng: Sao chẳng hiểu khi chưa giơ cái khay trà lên?
Hòa thượng Tắc Xuyên:
Bàng cư sĩ gặp Sư, Sư nói có nhớ lúc xưa khi gặp Thạch Đầu nói lý chăng? Cư sĩ nói: Cũng được Sư nhắc lại. Sư nói: Tình biết tham lâu việc đã lờn. Cư sĩ nói: Ôi Lão sư đã già chẳng phải chỉ Bàng ông. Sư nói: 2 cái đó đồng thời đâu có khác nhau. Cư sĩ nói: Bàng ông nhanh nhạy thắng Sư. Sư nói: Chẳng phải hơn ta chỉ là sau ông 1 cái khăn bịt đầu Cư sĩ nói: rất giống với Sư. Sư liền cười lớn. Một hôm Sư vào vườn hái trà. Bàng Cư sĩ nói pháp giới chẳng dung thân, Sư có thấy ta chăng? Sư nói chẳng phải lão sư sợ đáp lời ông. Cư sĩ nói: Có hỏi có đáp vì là (bình) thường. Sư bèn hái trà chẳng thềm nghe. Cư sĩ nói: Chớ lạ vì rồi nêu ra tất cả mọi điều trước người sáng mắt hỏi dễ dàng. Sư cũng chẳng thèm ngó. Cư sĩ hét cái lão già chẳng có lễ nghi đợi ta Sư liền ném giỗ trà trở về phương trượng.
Thiền sư Đàm Tạng ở Lan Nhã Tây Viên Nam Nhạc.
Sư vốn được tâm ấn từ Thiền sư Đại Tịch. Sau yết kiến Hòa thượng Thạch Đầu mà được rỗng sáng thấu suốt. Năm Đường Trinh Nguyên năm thứ hai, Sư lên ở trên đỉnh Hoành Nhạc cao vót nên ít vị tham vấn. Vì chân đen bèn dời về ở Tây Viên, mà bạn Thiền rất đông. Một hôm Sư đào ao. Vị Tăng hỏi sao không sai Sa di. Sư bèn vỗ tay 3 cái. Sư có nuôi một con chó khôn. Hằng đêm đi kinh hành, con chó ngậm áo Sư. Sư liền về phòng, lại nằm giữ bên cửa mà sủa. Bỗng chó nhiều lần sủa dữ. Sáng hỏi ra thì phía Đông nhà bếp có con rắn lớn dài mấy trượng, há miệng phun khí độc phù phù. Thị giả mời sư tránh đi. Sư nói chết đâu trốn được. Nó đem độc đến thì ta lấy từ bi mà nhận, độc không có tánh thật, kích phát thì gượng ép, từ dẫu vô duyên oan thân một đường. Nói xong thì rắn dữ cúi đầu từ từ bò đi bỗng nhiên chẳng thấy. Lại
1 hôm có bọn trộm vào. Con chó cũng ngậm áo Sư.
Sư bảo trộm rằng: Trong am tranh có vật gì vừa ý thì cứ lấy không hề tiếc. Trộm cảm lời nói mà cúi đầu bỏ đi.
Hòa thượng. Bách Linh:
Một hôm giữa đường gặp Bàng cư sĩ. Sư hỏi: Ngày xưa Cư sĩ từ ngài Nam Nhạc được câu có ý nghĩa đã từng nêu với người chưa? Cư sĩ nói nêu rồi. Sư hỏi với ai. Cư sĩ lấy tay chỉ trỏ đáp ông Bàng. Sư nói: Thật là Diệu Đức không sinh buồn cho Cư sĩ chẳng tới. Cư sĩ liền hỏi: Sư được Lực cú ai biết. Sư liền đội nón mà đi. Cư sĩ nói khéo mà đi đường. Sư đi một mạch không ngó lại.
Hòa thượng Kim Ngưu ở Trấn Châu.
Sư tự làm cơm cúng dường chúng Tăng. Mỗi khi đến giờ trai thì đem 1 thùng cơm đến trước trai đường múa mà gọi rằng Bồ tát ra ăn cơm. Vừa múa tay và cười lớn ngày nào cũng thế.
Hòa thượng Động An:
Có vị Tăng từ giả Sư, Sư nói: Đi đâu? Vị Tăng nói: Vốn chẳng có chỗ đi. Sư nói lành thay Xà Lê. Vị Tăng nói chẳng dám chẳng dám. Sư nói đến các nơi nêu rõ. Có vị Tăng đứng hầu. Sư hỏi hôm nay là mấy. Vị Tăng nói chẳng biết. Sư nói: Ta nhớ \ vị Tăng hỏi hôm nay là mấy. Hôm nay là đêm tối trời.
Hòa thượng Đả Địa ở Hân Châu.
Sư từ Giang Tây lãnh ý chỉ, tự giấu tên gọi của mình, những người học đến hỏi chỉ lấy gậy đập xuống đất mà chỉ bày. Lúc đó người ta gọi là Hòa thượng Đã Địa. Một hôm bị vị Tăng Tạng vác gậy đến và hỏi, Sư chỉ hả miệng. Vị Tăng hỏi các Đệ tử mỗi khi Hòa thượng có vị đến hỏi thì liền đập xuống đất ý chỉ ra sao? Đệ tử bèn lấy khúc củi ở dưới bếp ném vào cái chỏ.
Hòa thượng Tú Khê ở Đàm Châu.
Một hôm Cốc Sơn hỏi: Thanh sắc thuần chân thế nào là Đạo. Sư nói: Loạn đạo làm gì. Cốc sơn từ Đông chạy sang đứng ở bên tây. Sư nói: Nếu không như thế tức là việc họa. Cốc Sơn liền chạy qua bên Đông. Sư bèn xuống giường Thiền mới đi 2 bước thì bị Cốc Sơn túm ngực áo hỏi Thanh sắc thuần chân thì thế nào? Sư liền đánh Cốc Sơn. Cốc Sơn nói: 10 Năm sau cần người đến uống trà cũng không có. Sư nói: Vậy ông già Cốc Sơn làm gì?
Cốc Sơn cười lớn ha ha 3 tiếng.
Thiền sư Thần Tạng ở núi Mã Đầu thuộc Từ Châu.
Sư lên Pháp Đường gọi chúng bảo rằng: Biết mà không biết chẳng phải không biết mà nói không biết.
Thiền sư Thiện Giác, ở Hoa Lâm thuộc Đàm Châu.
Sư thường cầm tích trượng ban đêm đi ra nơi chân rừng, cứ 7 bước 1 lần rung tích trượng và lần xưng niệm danh hiệu Quán Âm Thiện Hội ở Giáp Sơn cất am hỏi rằng: Xa nghe Hòa thượng niệm Quán Âm phải chăng? Sư nói đúng. Giáp Sơn nói: Cỡi ngựa thì đầu thế nào? Sư đáp: Ló đầu thì từ ông cỡi, chẳng ló đầu thì cỡi cái gì? Vị Tăng tham vấn bèn trải tọa cụ. Sư nói chậm chậm. Vị Tăng hỏi Hòa thượng thấy gì? Sư nói đáng tiếc cho phá lầu chuông. Vị Tăng ấy do đó mà ngộ. Một hôm Quán sát sứ Bùi Hưu hỏi rằng: Sư có thị giả chăng? Sư nói có 1, 2 đứa. Chú Bùi Hưu hỏi ở đâu? Sư bèn gọi lớn Đại không, Tiểu không! Lúc đó có 2 con hổ từ sau am chạy ra. Bùi thấy sợ quá Sư bảo 2 con hổ: Có khách, đi đi. 2 con hổ gầm gừ rồi bỏ đi. Bùi Hưu hỏi Sư làm hạnh nghiệp gì mà cảm được Thế như vậy? Hồi lâu Sư bèn, hỏi: Hiểu chăng? Đáp không hiểu. Sư nói Sơn Tăng thường niệm Quán Âm.
Hòa thượng Thủy Đường ở Thịnh Châu.
Sư tra hỏi Qui Tông: Ông là người ở đâu? Qui Tông nói: Người ở Trần Châu. Sư hỏi bao nhiêu tuổi. Qui Tông nói 22. Sư nói: Khi Xà Lê chưa sinh thì Lão Tăng đã qua lại. Qui Tông hỏi Hòa thượng khi nào sinh thì Sư dựng đứng cây phất trần. Qui Tông hỏi cái đó há có sinh. Sư nói hiểu được tức vô sinh. Qui tông nói chưa hiểu ở Sư không nói.
Hòa thượng Cổ Tự
Đơn Hà tham vấn Sư trải qua một đêm đến sáng. Sáng ra nấu cháo chín. Hành giả chỉ múc đầy 1 bát cho Sư lại múc đầy 1 bát tự ăn không hề ngó đến Đơn Hà. Đơn Hà cũng múc đầy 1 bát mà ăn. Hành giả nói: 5 canh ngủ dậy sớm, lại có người đi đêm. Đơn Hà hỏi Sư sao không dạy hành giả chớ nên vô lễ? Sư nói trên: Đất sạch chẳng nên làm dơ bẩn người trong nhà về việc nam nữ. Đơn Hà nói sao không hỏi tội lão già ấy.
Hòa thượng Tỳ thọ ở Giang Tây.
Trong lúc nằm, Đạo Ngô liền đến trước Sư kéo mền đắp. Sư hỏi làm gì? Đạo Ngô nói đắp mền. Sư hỏi nằm là đúng hay ngồi là đúng. Đạo Ngô nói không ở 2 chỗ ấy. Sư nói vậy nề hà gì đắp mền. Đạo Ngô nói: Chớ nói loạn. Sư đến hơ lửa. Đạo Ngô hỏi làm gì đó? Sư nói hòa hợp Đạo Ngô hỏi: Vì sao phải trốn thoát? Sư nói cách cổng làng bao xa? Đạo Ngô liền phất tay áo mà đi. Một hôm Đạo Ngô từ ngoài về. Sư hỏi từ đâu đến. Đạo Ngô nói ở gần đến. Sư nói dùng cái sàng gạo 2 mảnh da kia làm gì. Đạo Ngô nói mượn. Nó từ ông mà mượn không làm sao sinh? Đạo Ngô nói: Chỉ vì có cho nên mượn.
Hòa thượng Thảo Đường ở Kinh Triệu.
Từ khi nghỉ tham vấn với ngài Đại Tịch bèn đến Hải Xương. Hòa thượng Hải Xương hỏi: Từ đâu đến. Sư nói: Từ Đạo Tràng đến. Xương hỏi nơi đó ở đâu: Khi chưa có 1 pháp thì thân này ở đâu. Sư bèn vẽ 1 vòng tròn bên trong có chữ thân.
Thiền sư Chân Thục trụ núi dương Kỵ, ở Viên Châu.
Sư lên Pháp Đường dạy chúng rằng: Chúng linh 1 nguồn mượn gọi là Phật, thể mất hình tiêu mà chẳng mất, dòng vàng chảy khắp mà thường còn. Biển tánh không gió sóng vàng tự lan. Tâm linh dứt dấu muôn trượng cùng chiếu hiểu được lý này thì không nói mà trải khắp sa giới. Không dụng mà công ích huyền hóa. Như thế nào là rời bỏ giác trở lại hợp với trần lao, ở trong cõi âm mà tùy tiện tự mình giam nhốt. Sư mới lên núi này ở yên cho đến thành viện, nhóm hợp đồ chúng giảng nói pháp đã hơn 40 Năm. Vào Năm Đường Nguyên Hòa năm thứ 15, ngày 13 tháng giêng thì Sư qui tịch. Làm lễ Trà Tỳ thu nhặt xá lợi được 700 hạt xây tháp dưới ngọn Đông Phong để thờ.
Hòa thượng Mông Khê.
Có vị Tăng hỏi khi một niệm không sinh thì thế nào? Sư nín lặng hồi lâu. Vị Tăng bèn lễ bái. Sư nói: Ông hiểu cái gì sinh? Vị Tăng nói: Con hoàn toàn không thể không hổ thẹn. Sư nói: Ông tin là đến được. Vị Tăng hỏi: Bổn phận sự phải thế nào thì xong? Sư nói: Sao ông không hỏi? Vị Tăng nói xin Sư đáp lời. Sư nói: Ông lại hỏi là tốt. Vị tăng cười lớn mà đi ra. Sư nói: Chỉ có Sư Tăng ấy lanh lợi. Có vị Tăng từ ngoài đến. Sư liền hét vị Tăng nói: Lý do vì sao? Sư nói: Cũng phải gậy đánh. Vị Tăng nói cẩn thận, rồi đi ra. Sư nói: rốt được tự tại.
Hòa thượng Hắc Giản ở Lạc kinh:
Có vị Tăng hỏi thế nào là mật thất? Sư nói: Cắt tại nằm đường. Vị Tăng hỏi: Thế nào là người trong mật thất? Sư bèn lấy tay đấm ngực.
Hòa thượng Hưng Bình ở Kinh Triệu.
Nhuận Sơn đến lễ bái. Sư nói: Chớ lạy Lão hũ Động Sơn nói lạy không phải Lão hũ. Sư nói không phải Lão hũ chẳng nhận lạy. Động Sơn nói nó cũng chẳng ngưng. Động Sơn hỏi: Thế nào là tâm cổ Phật. Sư nói: Tức là tâm ông. Động Sơn nói tuy thế cũng là chỗ tôi nghi. Sư nói: Sao không hỏi lấy người gỗ. Động Sơn nói: Con có 1 câu không nhờ miệng các Thánh. Sư nói: Ông thử nói xem. Động Sơn nói chẳng phải là con. Động Sơn từ giả, Sư hỏi: Đi đâu? Động Sơn nói: Theo dòng không định nghỉ. Sư nói: Pháp thân theo dòng hay báo thân theo dòng. Động Sơn nói: đều không nên hiểu Thế.
Sư bèn vỗ tay.
Hòa thượng Tiêu Dao.
Một hôm Sư ngồi trên giường Thiền, có vị Tăng ở Lộc Tây đến hỏi: Niệm niệm phan duyên tâm tâm vắng bặt. Sư nói: Hôm qua hỏi muộn có người nói gì? Tây nói Đạo ấy thế nào? Sư nói không biết. Tây nói xin Sư nói. Sư lấy phất trần tánh vào miệng. Tây liền lui ra. Sư bảo Đại chúng rằng: Trên đầu có một con mắt.
Hòa thượng Phước Khê.
Có vị Tăng hỏi khi gương xưa không dấu vết thì sao? Sư im lặng hồi lâu. Vị Tăng hỏi ý Sư thế nào? Sư nói: Sơn Tăng tai ở sau lưng vị Tăng lại hỏi như trước. Sư nói: Cũng bắt chước ông kia. Vị Tăng hỏi: Thế nào là mình? Sư nói: Ông hỏi cái gì? Vị Tăng hỏi: Há không có phương tiện. Sư nói: Ông vừa đến hỏi cái gì? Vị Tăng nói: Đâu được điên đảo. Sư bảo: Hôm nay rất đáng ăn gậy của Sơn Tăng. Vị Tăng hỏi: Duyên tan thì về không còn không thì về đâu? Sư nói: Này vị Tăng (A, B...) vị Tăng: Dạ. Sư hỏi: Không ở đâu? Vị Tăng nói:
Xin sư nói: Ba Tư ăn hồ tiêu.
Hòa thượng Thủy Lão ở Hồng Châu:
Lúc đầu tham vấn Mã Tổ thế nào là ý từ Tây Trúc đến? Tổ bèn đạp vào bụng té nhào, Sư liền đại ngộ bèn đứng dậy vỗ tay cười ha hả bảo rằng: lạ thay trăm ngàn Tam-muội, vô lượng nghĩa, mầu chỉ một 1 sợi lông trên đầu liền biết được cội nguồn. Rồi lễ bái mà lui. Sau Sư bảo chúng rằng từ khi ăn 1 đạp của Mã Tổ cho đến nay cười chẳng thôi. Có vị Tăng vẽ 1 vòng tròn dùng tay nắm thân sư, sư bèn khoát tay 3 cái, cũng vẽ 1 vòng tròn chỉ cho vị Tăng ấy. Vị Tăng liền lễ bái, Sư đánh bảo rằng: Cái lão đầu (trống không) này. Có người hỏi: Thế nào là hạnh Sa môn. Sư nói: Động thì hiện bóng, giác thì bằng sinh. Hỏi: Thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư bèn vỗ tay cười ha ha. tiếp cơ đại để là như vậy.
Hòa thượng Phù Bôi.
Có lăng Hành Bà đến lễ bái Sư, Sư cùng ngồi uống trà. Hành Bà hỏi: nói Hết sức mà chẳng được câu, lại giao cho ai. Sư nói Phù Bôi chẳng nói thừa. Bà nói tôi chẳng nói gì Sư bèn nêu 2 câu trước hỏi lại Bà, Bà khoanh tay khóc rằng: Trong trời xanh lại có oan khổ. Sư không nói gì. Bà nói: Lời chẳng biết riêng chánh, Lý chẳng biết riêng tà, vì vị họa liền sinh. Sau Có vị Tăng nêu câu ấy hỏi Nam Tuyền, Nam Tuyền nói: Khổ thay Phù Bôi bị Lão bà bẻ gãy. Sau Bà nghe lời nam Tuyền nói cười bảo rằng: Vương Lão Sư cũng thiếu cơ mưu Có Thiền khách Trừng Nhất ở U Châu gặp Hành Bà bèn hỏi sao nói Nam Tuyền nói thế cũng thiếu cơ quan Bà bèn khóc bảo đáng thương đáng buồn thay. Thiền khách không nói gì. Bà bèn hỏi hiểu chăng? Thiền khách chấp tay mà lui. Bà nói Thiền hòa chết đứng như sợi tay tựa hạt thóc. Sau Thiền khách Trừng Nhất nêu câu chuyện Thế với Triệu Châu, Châu nói: Tôi như thấy Lão Bà Thúi ấy hỏi thì bảo miệng câm. Trừng Nhất hỏi Triệu Châu rằng: chẳng hay Hòa thượng hỏi thế nào? Triệu Châu lấy gậy đánh bảo giống lão chết tiệc ấy chẳng đánh đợi lúc nào, và đánh liền mấy gậy. Bà lại nghe Triệu Châu nói thế bảo: Triệu Châu đáng ăn gậy của Bà. Sau vị Tăng nêu lời đó với Triệu Châu, Châu khóc nói: Đáng thương Đáng buồn thay! Bà nghe lời ấy của Triệu Châu bèn chấp tay khen rằng: Triệu Châu mắt phát ra ánh sáng chiếu phá 4 thiên hạ. Sau Triệu Châu dạy vị Tăng đi hỏi Bà rang: Thế nào là phải Triệu Châu? Bà bèn đưa nắm tay lên. Triệu Châu nghe liền làm bài tụng đưa lăng Hành Bà rằng:
Đương cơ trước mặt nêu
Trước mặt Đương Cơ bịnh
Đáp ông lăng Hành bà
Tiếng khóc sao được mất.
Bà bèn làm Tụng đáp Triệu Châu rằng:
Tiếng khóc Sư đã hiểu
Đã hiểu còn ai biết.
Lúc này nước Ma Kiệt
Chôn mấy cơ trước mắt.
42. Hòa thượng Long Sơn ở Đàm Châu
(cũng gọi là Hòa thượng Ẩn Sơn)
Sư hỏi vị Tăng ở đâu tới? Vị Tăng nói từ Lão Túc đến. Sư hỏi: Lão Túc có câu nói gì không? Vị Tăng nói: Nói thì ngàn câu muôn câu, chẳng nói thì 1 chữ cũng không. Sư hỏi: Thế nào là con ruồi thả trứng. Vị Tăng lễ bái. Sư liền đánh khi Hòa thượng Động Sơn giới đi hành cước mò đường đến núi nhân đó tham lễ xong. Sư hỏi: Núi này không có đường Xà Lê vừa ở đâu đến. Động Sơn nói không đường thì đặt Hòa thượng từ đâu vào. Sư nói ta không hề đi vân thỉ. Động Sơn nói: Hòa thượng ở núi này lâu chưa Sư nói: Xuân thu chẳng dính líu. Động Sơn hỏi: Núi này ở trước hay Hòa thượng ở trước 2 Sư nói chẳng biết. Động Sơn hỏi: Vì sao chẳng biết? Sư nói: Ta chẳng vì trời người mà đến. Động Sơn hỏi: Thế nào là chủ trong khách? Sư nói nhiều Năm chẳng ra khỏi cửa. Động Sơn hỏi: Thế nào là chủ trong khách? Sư nói: Năm dài không ra khỏi cửa. Động Sơn hỏi: Thế nào là khách trong chủ? Sư nói: Trời xanh che mây trắng. Động Sơn hỏi: Chủ khách cách nhau bao nhiêu? Sư nói: Sóng trên nước Trường Giang. Động Sơn hỏi: Khách chủ gặp nhau có nói lời nào? Sư nói gió mát quét trăng sáng. Động Sơn lại hỏi Hòa thượng thấy Đạo lý gì mà ở núi này? Sư nói: Ta thấy 2 con trâu bùn đấu nhau xuống biển cho đến nay không có tin tức. Sư có bài tụng rằng:
Nhà cỏ 3 gian từ đấy ở
Một tia sáng thần muôn cảnh nhàn
Chớ đem phải quấy đến ta nói
Phù sinh xuyên tạc chẳng liên quan.
43. Cư sĩ Bàng Uẩn ở tương châu.
Ông người ở huyện Hoành Dương thuộc xung Châu, tự là Đạo Huyền, ở đời theo nghiệp Nho. Nhưng Cư sĩ sớm ngộ trần lao chí cầu chân đế. Niên hiệu đời Đường Trinh Nguyên, đâu Tiên ông yết kiến Hòa thượng Thạch Đầu quên lời hiểu ý chỉ. Lại làm bạn với Thiền sư ở Đơn Hà. Một hôm Thạch Đầu hỏi: Ông từ ngày gặp Lão Tăng đến nay làm việc dụng sự thế nào Đáp rằng: Nếu hỏi làm việc dụng sự thì không có chỗ mở miệng Ông lại trình 1 bài kệ rằng:
Ngày dùng việc chẳng khác
Chỉ ta tự ngẫu hài
Mỗi việc không lấy bỏ
Chỗ chỗ chớ bày trái
Đỏ tím ai gọi tên
Gò núi sạch cả bụi
Thần thông và diệu dụng
Gánh nước và chẻ củi.
Thạch Đầu ngạc nhiên hỏi ông là Đạo hay tục? Cư sĩ đáp: Xin theo chỗ mến mộ mà không xuống tóc. Sau ông đi Giang Tây tham vấn Mã Tổ rằng: Chẳng làm bạn với muôn pháp là người gì? Tổ nói: Đợi ông một mình uống hết nước sông Giang Tây sẽ nói cho ông. Nghe sau lời nói Cư sĩ liền sớm ngộ huyền yếu. Bèn ở lại tham học 2 Năm. Có bài kệ rằng:
Có trai chẳng cưới
Có gái chẳng gả
Cả nhà luôn đoàn tụ
Cùng nói chuyện vô sinh.
Từ đó cơ biện nhanh chóng các nơi nghe tiếng. Thường đến các giảng Đường tùy hỷ kinh kim cang đến chỗ Vô ngã vô nhân, bèn hỏi rằng tọa chủ đã Vô ngã vô nhân thì ai giảng ai nghe. Tọa chủ không đáp được. Cư sĩ nói: Con tuy chỉ là người tục biết thô mà tin tưởng. Tọa chủ nói: Chỉ như ý Cư sĩ thì làm sao. Cư sĩ bèn nêu 1 bài kệ:
Vô ngã lại vô nhân
Làm gì có thân sơ
Khuyên ông thôi ngồi mãi
Chẳng giống thẳng cầu chân
Tánh Bát Nhã kim cang
Ngoài dứt mọi trần ai
Con nghe và tin nhận
Đều là bày giả danh.
Tọa chủ nghe kệ thì vui mừng khen ngợi rằng: Chỗ đến của Cư sĩ, Lão Túc đã qua nhiều lần. Lại hỏi đều tùy cơ mà ứng tiếng không phải là khuôn phép suy lường mà chấp chặt. Trong Năm Nguyên Hòa Cư sĩ lên phía Bắc Tương Hán tùy chỗ mà ở, hoặc ở Lộc Môn-Phụng Lĩnh hoặc ở xóm làng chợ búa. Lúc đầu ở Đông Nham, sau ở nhà nhỏ tại thành Quách Tây. Ông có một người con gái tên Linh Chiếu thường đi theo cha chẻ trúc đan mành để bán mà cúng dường sớm chiều. Có kệ rằng:
Tâm như cảnh cũng như
Không thật cũng không hư
Có cũng chẳng màng
Không cũng chẳng lo
Không phải Thánh hiền
Hết việc phàm phu-Dễ càng Dễ.
Ngay năm uẩn này có chân trí
Thế giới Mười phương cùng Nhất thừa
Vô tướng pháp thân đâu có 2
Nếu bỏ phiền não vào Bồ đề
Chẳng biết phương nào có Phật địa.
Khi Cư sĩ sắp mất, sai con gái Linh Chiếu ra xem mặt trời sớm muộn, đến giờ Ngọ thì vào báo. Cô con gái vội vàng báo rằng: Ngày đã giữa trưa nhưng có Nhật thực. Cư sĩ bèn ra ngỏ xem. Cô con gái bèn lên chỗ cha ngồi chắp tay mà hóa. Cư sĩ cười bảo: Con gái ta nhanh hơn ta. Thế là lại 7 ngày sau. Châu Mục Vu Công đến thăm bịnh. Cư sĩ bảo rằng: Chỉ nguyên không các cái có. Cẩn thận chớ cho là thật các cái không. Cái đẹp ở thế gian chỉ là bóng dáng tiếng vang. Nói xong thì nằm gối trên đùi Vu Công mà hóa. Ông dặn đốt thân. Đạo tục Các nơi đều thương tiếc, gọi là Thiền Môn Bàng cư sĩ tức là Tỳ da Tịnh Danh Ông có thơ kệ hơn 300 bài lưu truyền ở đời.
Thiền sư Hoài Nhượng trong đời thứ 3 có 56 vị.
Đệ tử nối pháp Thiền sư Hoài Hải Bách Trượng ở Hồng Châu có 30 vị (13 vị thấy có ghi lục):
1. Thiền sư Linh Hựu ở Quy Sơn-Đàm Châu
2. Thiền sư Hoàn Trung ở Đại Từ-Hàng Châu
3. Thiền sư Hoàn Trung ở Đại Từ-Hàng Châu
4. Thiền sư Phổ Ngạn ở núi Thiên Thai
5. Thiền sư Thường Quán ở Quân Châu
6. Thiền sư Tánh Không ở Thạch Sương Đàm Châu
7. Thiền sư Đại Am ở Phước Châu
8. Thiền sư Thần tán ở Cổ Linh
9. Thiền sư Thông ở Hòa An, Quảng Châu
10. Thiền sư Đài ở Long Vân Giang Châu
11. Thiền sư Đạo ở Vệ Quốc Lạc Kinh
12. Hòa thượng Vạn Tuế ở Trấn Châu
13. Hòa thượng Niết-bàn ở núi Bách Trượng
(14 vị trên đây thấy có ghi lục)
14. Hòa thượng Đông Sơn ở Hồng Châu
15. Thiền sư Vô Úy ở Cao An
16. Thiền sư Đạo Khoáng ở Nham Đông
17. Thiền sư Tố ở Hình Châu
18. Thiền sư Cát Bổn ở Đường Châu
19. Thiền sư tuệ Thâm ở núi Tiểu Thừa
20. Thiền sư Chiêu Nhất ở chùa tuệ chiếu Dương Châu
21. Thiền sư Giám Thâm ở La Phù Trinh Châu
22. Thiền sư Phạm Vân ở núi cửu liên Hồng Châu
23. Thiền sư Thao ở Lô Sơn Giang Châu
24. Thiền sư Khế Chân ở chùa Vũ Tích Việt Châu
25. Thiền sư Thiên Tánh ở Bao Sơn Quân Châu
26. Thiền sư Bỉ Ngạn ở núi đại mai Minh Châu
27. Thiền sư Tạng Thuật ở Liêu Sơn Hồng Châu
28. Thiền sư Đạo Phương ở núi kỳ xà Thăng Châu
29. Hòa thượng Thanh Điền
30. Hòa thượng Đại Vu (16 vị trên đây không có duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Đệ tử nối pháp của Thiền Sư ở Tây ĐườngKiền Châu trước đây có 4 vị:
1 Thiền sư Xứ Vi ở. Kiền Châu (1 vị thấy ghi lục).
2. Thiền sư Đạo nghĩa ở Kê Lâm
3. Thiền sư Tuệ ở Tân La
4. Thiền sư Hồng Trực ở Tân La (3 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc-Bồ Châu trước đây có 2 vị:
1. Thiền sư Lương Toại ở Thọ Châu (1 vị thấy có ghi lục)
2. Thiền sư Vô Nhiễm ở nước Tân La (1 vị không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
-Đệ tử nối pháp Thiền sư Như Hội ở Chùa Đông-Hồ Nam trước đây có 4 vị:
1. Thiền sư tuệ Siêu ở Thự Sơn Hồ Châu (1 vị thấy có ghi lục)
2. Thiền sư Cảnh Chư ở Thư Châu
3. Thiền sư Quang Triệu ở chùa Trang Nghiêm 4. Thiền sư Chiêu ở núi Mạch Phổ Đàm Châu (3 vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú không ghi lục).
-Đệ tử nối pháp của Thiền Sư Hoài uẩn ở chùa Chương kính-Kinh Triệu trước đây có 16 vị:
1. Thiền sư Hoằng Biện ở chùa Tiến Phước Kinh Triệu
2. Thiền sư Trí Chân ở núi Qui Sơn Phước Châu
3. Thiền sư Hoài Chính ở Lãng Châu,
4. Thiền sư Thao ở Kim Châu
5. Hòa thượng Cổ Đề ở Lãng Châu
6. Hòa thượng Công Kỳ ở Hà Trung (6 vị trên đây thấy có ghi lục).
7. Thiền sư Nhàn Vân ở Bách Lâm
8. Thiền sư Huyền Triết ở Tuyên Châu
9. Thiền sư Bảo Kiên ở Hà Trung
10. Thiền sư Đạo Chí ở Tây Kinh
11. Thiền sư Thần Hộ ở Giáng Châu
12. Thiền sư Trí Tạng ở Tây Kinh
13. Thiền sư Vô Tích ở Hứa Châu
14. Thiền sư Duy Túc ở Thọ Châu
15. Thiền sư Huyền Dục ở vị Tân La
16. Thiền sư Giác Thể ở nước Tân La. (10 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Hoài Hải-Bách Trượng trước đây, đời thứ 3.
1. Thiền sư Linh Hựu ở Qui Sơn, Đàm Châu.
Sư người ở Trương khê ở Phước Châu, họ Triệu. Năm 15 tuổi từ giã cha mẹ đi xuất gia, nương Luật sư Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện tại bổn quận mà cạo tóc, thọ giới ở chùa Long Hưng tại Hàng Châu mà. Thông suốt kinh Luật Đại Tiểu thừa. Năm 23 tuổi Sư đến Giang Tây tham vấn Thiền sư Đại Trí ở Bách Trượng Ngài Bách Trượng vừa thấy Sư liền cho vào thất. Bèn ở đó đứng đầu số người tham học. Một hôm đứng hầu, ngài Bách Trượng hỏi: Ai sư đáp Linh Hựu. Ngài Bách Trượng hỏi: Ông bươi trong lò xem có lửa chăng? Sư bươi ra thưa: Không có. Ngài Bách Trượng đứng dậy bươi sâu thì có chút lửa, cầm lên dạy rằng: Đây không phải là lửa? Sư phát ngộ, lễ tạ, trình bày chỗ hiểu của mình. Ngài Bách Trượng nói: Đây chỉ là lối rẽ tạm thời mà thôi. Kinh nói muốn thấy Phật tánh phải xem thời tiết nhân duyên. Thời tiết đã đến như mê bỗng ngộ, như quên chợt nhớ mới biết là vật của mình không từ người khác mà được. Cho nên Tổ Sư nói rằng: Ngộ xong đồng chưa ngộ, vô tâm được vô pháp, chỉ là không có tâm luống dối phàm Thánh v.v... Xưa nay, tâm pháp vốn tự đầy đủ. Nay Ông đã khéo Thế hãy tự giữ gìn. Lúc đó Tư Mã Đầu Đà từ Hồ Nam đến. Ngài Bách Trượng gọi bảo rằng: Lão Tăng muốn đến Qui Sơn được chăng? Đáp rằng: Qui Sơn rất lạ có thể qui tụ cả một ngàn năm trăm chúng, nhưng không phải chỗ Hòa thượng ở. Ngài Bách Trượng hỏi sao vậy? Đáp rằng: Hòa thượng là vị xương, còn kia là núi thịt nếu ở thì đồ chúng không đầy một ngàn. Ngài Bách Trượng hỏi trong chúng của ta có ai ở được chăng. Đáp rằng: Đợi xem qua. Ngài Bách Trượng liền bảo: Thọ Giả gọi Đệ nhất Tọa đến (tức Hòa thượng Hoa Lâm) hỏi người này thế nào? Đầu Đà bảo tằng hắng một tiếng, đi vài bước. Đáp rằng người này không được. Lại bảo mời Điển Tọa đến (tức Sự linh Hựu). Đầu Đà nói người này chính là chủ Qui Sơn. Đêm ấy ngài Bách Trượng gọi Sư vào thất dặn rằng: Ta hóa duyên ở đây, còn thắng cảnh qui sơn ông sẽ ở đó mà đệ tử nối pháp Tông ta rộng độ người học sau. Lúc đó Hoa Lâm nghe nói liền bảo tôi ở ngôi thượng thủ, ông Hựu kia đâu được trụ trì. Ngài Bách Trượng nói: Nếu ở giữa chúng mà nói ra 1 câu xuất sắc thì cùng đến trụ trì. Bèn chỉ Tịnh Bình hỏi: Chẳng được gọi là Tịnh Bình ông gọi là cái gì? Hoa Lâm nói: Không thể gọi thì là Mộc. Ngài Bách Trượng không chịu, bèn hỏi Sư, Sư đáp rớt tịnh bình. Ngài Bách Trượng cười bảo: Đệ Nhất Tòa thua ở núi ấy, bèn sai Sư đến ở Qui Sơn. Núi ấy cao vót vắng xa hơi vị. Sư làm bạn với khỉ vượn cùng kêu rau quả. Cư Dân dưới núi dần dần hay biết cùng đến xây cất nhà cửa. Lý cảnh Nhượng tâu vua ban hiệu là chùa Đồng Khánh. Tướng Quốc Bùi Hưu từng đến hỏi học Huyền Áo. Do đó khách học thiền trong thiên hạ đến càng đông. Sư lên Pháp Đường dạy chúng rằng: Tâm vị tu Đạo phải ngay thẳng không dối trá, không mặt không lưng không làm việc gian dối trong mọi lúc đều nhìn nghe bình thường mà không cong vậy cũng chẳng phải lấp tai ngơ chỉ cần tình không theo vật. Liền được từ trên các Thánh nói là bến đục tội lỗi, nếu không Thế thì nhiều tình biết ác sẽ là việc tập tướng. Ví như nước mùa Thu lắng dừng trong suốt mà không lặng bặt, lắng mà không ngại, gọi là Đạo nhân cũng gọi là người vô sự. Lúc đó Có vị Tăng hỏi: Người đốn ngộ có tu chăng? Sư nói nếu thật ngộ thì lúc được bản tha tự biết, tu và chẳng tu là lời nói 2 đầu. Như nay tâm đầu Tiên tuy từ duyên mà được, một niệm sớm ngộ tự lý, thì cũng còn tập khí nhiều kiếp từ vô thỉ chưa sớm thanh tịnh thì phải dạy họ dứt sạch hiện nghiệp lưu thức, thì tức là tu chẳng nói riêng có pháp dạy họ tu hành thú hướng từ nghe mà nhập vào lý, nghe lý sâu mầu tâm tự sáng suốt không ở nơi mê lầm. Dẫu có trăm ngàn diệu nghĩa phô bày, lúc đó áo khoát sẽ được tự cởi mà làm cách sống. Tóm tắt trong lý thật tế chẳng nhận một trần, trong vạn hạnh môn chẳng bỏ một pháp. Nếu cũng 1 đường bước vào thì tình phàm Thánh dứt hết, thể bày chân thường, lý sự chẳng 2 tức Như như Phật). Ngưỡng Sơn hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến? Sư nói thật là cái lồng đèn Ngưỡng Sơn nói đừng chỉ cái ấy là cái gì? Sư nói: Cái ấy là cái gì? Ngưỡng Sơn nói là cái lồng đèn. Sư nói quả nhiên chẳng hiểu. Một hôm Sư gọi chúng bảo rằng: Như có nhiều vị chỉ được Đại Cơ mà chẳng được Đại dụng. Ngưỡng Sơn đem lời nói này hỏi am chủ dưới núi rằng: Câu nói của Hòa thượng ý chỉ Thế nào? Am chủ nói hãy nêu ra xem. Ngưỡng Sơn bèn nhắc lại thì bị am chủ đạp cho một cái té nhào. Đem về nhắc lại với Sư, Sư cười lớn. Sư ngồi trong Pháp Đường, thủ kho gõ bản mõ, hỏa đầu mồi lửa vỗ tay cười lớn. Sư bảo trong chúng cũng có người như thế kêu lại hỏi: Làm gì đó. Hỏa Đầu nói: Con chẳng kêu cháo do đó đói bụng nên vui mừng. Sư bèn gật đầu. xin Khắp hái trà. Sư bảo Ngưỡng Sơn: Suốt ngày hái trà chỉ nghe tiếng ông chẳng thấy hình dáng ông. Xin hiện nguyên hình cho thấy. Ngưỡng Sơn lay cây trà. Sư nói ông chỉ được cái dụng mà không được cái thể. Ngưỡng Sơn nói: chẳng hay Hòa thượng ra sao. Sư im lặng hối lâu. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng chỉ được cái thể mà không được cái dụng. Sư nói: Cho (tha cho) ông 20 gậy. Sư lên Pháp Đường Có vị Tăng ra hỏi: Xin Hòa thượng vì chúng nói pháp. Sư nói: Ta vì ông được thấu suốt nhân. Vị Tăng lễ bái-Sư bảo Ngưỡng Sơn rằng: Ông Tịch chứng Đạo nhanh không vào ấm giới. Ngưỡng Sơn nói tuệ Tịch, Tín cũng chẳng lập. Sư hỏi còn ông tin mà chẳng lập hay không tin mà chẳng lập. Ngưỡng Sơn nói chỉ là tuệ Tịch còn tin ai. Sư nói: Nếu thế tức là Định tánh Thanh văn. Ngưỡng Sơn nói: Tuệ Tịch thì Phật cũng chẳng thấy. Sư hỏi Ngưỡng Sơn kinh Niết-bàn 49 quyển, bao nhiêu Phật nói bao nhiêu ma nói. Ngưỡng Sơn nói: Toàn bộ là Ma nói. Sư hỏi về sau không có người thì ông làm sao Ngưỡng Sơn nói tức là việc tuệ Tịch ước hẹn biết đi chỗ nào. Sư nói: Chỉ quý mắt ông Chánh không nói bước ông đi Ngưỡng Sơn quăng áo đứng dậy hỏi sư: Chính lúc ấy Hòa thượng làm gì? Sư nói: Chính lúc ấy ta ở trong ấy không làm gì cả. Ngưỡng Sơn nói: Hòa thượng có thân mà không có dụng. Sư im hồi lâu lôi dậy hỏi: Chính lúc đó ông làm gì? Ngưỡng Sơn chánh lúc ấy Hòa thượng thấy nó không? Sư nói: Ông có dụng mà không thân. Sư bỗng hỏi Ngưỡng Sơn: Mùa xuân Ông có lời chưa tròn, nay thử nói xem. Ngưỡng Sơn nói chính lúc đó rất kỵ sự tráo ngược Sư nói: Ngừng lao tù sinh ra trí. Một hôm Sư gọi Viện chủ. Viện chủ đến. Sư hỏi ta gọi Viện chủ ông đến làm gì? Viện chủ không đáp được (Tào Sơn đáp thay: Cũng biết Hòa thượng không gọi con). Lại bảo thị giả gọi Đệ Nhất Tòa. Đệ Nhất Tòa đến. Sư hỏi ta gọi Đệ Nhất Tòa ông đến làm gì. Cũng không đáp được. Sư hỏi vị Tăng mới đến tên gì. Vị Tăng thưa tên Nguyệt Luân. Sư vẽ một vòng tròn hỏi cái gì giống cái ấy? Vị Tăng nói: Sao Hòa thượng nói thế) các nơi đều có vị chẳng chịu ở. Sư nói: Bần đạo thì Thế Xà Lê thì sao vị Tăng hỏi lại có thấy Nguyệt Luân sao. Sư hỏi Xà Lê nói gì, trong đây có vị không chịu các phương. Sư hỏi Vân Nham rằng: Nghe ông từ lâu ở Dược Sơn phải chăng? Nham nói phải. Sư hỏi: Tướng của Đại Nhân Dược Sơn thế nào? Vân
Nham nói Niết-bàn hậu hữu. Sư hỏi Niết-bàn hậu phải ra sao? Vân Nham nói: Nước vẩy chẳng dính. Vân Nham liền hỏi Sư: Tướng Đại nhân Bách Trượng thế nào? Sư nói nguy nga đường bệ sáng láng đỏ rực, trước tiếng chẳng phải tiếng, sắc sau chẳng phải sắc, trâu sắt trên con muỗi, không có chỗ dưới miệng ông. Sư đưa Tịnh bình cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn định tiếp. Sư bèn co tay lại, hỏi vì sao? Ngưỡng Sơn hỏi Hòa thượng lại thấy cái gì? Sư nói nếu thế cần gì phải tìm ông Ngưỡng Sơn nói: Tuy Thế nhưng trong Đạo nhân nghĩa cùng Hòa thượng đưa bình lấy nước cũng là bổn phận. Sư bèn đưa Tịnh bình cho Ngưỡng Sơn. Sư cùng đi với Ngưỡng Sơn, chỉ cây Bách hỏi trước mặt là cái gì? Ngưỡng Sơn nói cái ấy là cây Bách Sư bèn chỉ sau lưng Điền ông nói sau ông này cũng có 500 chúng. Sư hỏi Ngưỡng Sơn: Từ đâu về? Ngưỡng Sơn nói: Ở Điền Trung về. Sư hỏi lúa tốt cắt chưa. Ngưỡng Sơn nói cắt tốt. Sư nói: Thấy xanh thấy vàng hay thấy chẳng xanh chẳng vàng. Ngưỡng Sơn nói: Sau lưng Hòa thượng là gì? Sư nói ông lại thấy ư? Ngưỡng Sơn cầm bông lúa nói: Hòa thượng đâu có hỏi cái ấy? Sư nói: Đây là ngỗng chưa chọn sửa. Tháng đông Sư hỏi Ngưỡng Sơn: Trời lạnh hay vị lạnh? Ngưỡng Sơn nói Đại gia ở trong ấy. Sư hỏi sao chẳng nói thẳng. Ngưỡng Sơn nói vừa đến cũng chẳng cong, Hòa thượng thế nào? Sư nói thẳng cần theo dòng. Có vị Tăng đến lễ bái, Sư làm thế đứng dậy. Vị Tăng nói sao Hòa thượng không đứng dậy? Sư nói Lão Tăng không hề ngồi. Vị Tăng nói con cũng không hề lạy. Sư nói vì sao chẳng lạy. Vị Tăng không đáp được (Đồng An đáp thay: Hòa thượng chẳng làm lạ). Dưới Hội Thạch Sương có 2 thiền khách đến, nói: Trong đây không có một người hiểu) thiền. Sau xin khắp chẻ củi. Ngưỡng Sơn thấy 2 thiền khách hết củi, bèn đem 1 khúc củi lớn đến hỏi: Lại nói được chăng? Cả 2 đều không đáp được. Ngưỡng Sơn bảo chớ nói không người hiểu thiền tốt. Trở về hể lại với Qui Sơn nói: Hôm nay 2 thiền khách bị tuệ Tịch khám phá Sư nói chỗ nào bị ông (ông ấy) khám phá. Ngưỡng Sơn liền thuật chuyện trước. Sư nói: Ông Tịch lại bị ta khám phá. Sư ngủ, Ngưỡng Sơn hỏi thăm, sư quay mặt vào vách. Ngưỡng Sơn nói Hòa thượng đâu được Thế? Sư ngồi dậy nói: Ta vừa có 1 mộng, ông thử vì ta đoán lý do xem. Ngưỡng Sơn liền đem đến Sư một chậu nước rửa mặt. Chút sau Hương Nghiêm cũng đến hỏi thăm. Sư nói ta vừa được một mộng Tịch Tử nguyên liễu ông lại đoán lý do cho ta. Hương Nghiêm bèn rót chó sư 1 chén trà. Sư nói 2 ông (hiểu biết) hơn Xá Lợi Phất. Có vị Tăng nói chẳng làm 1 nón trên đầu Qui Sơn thì không do đâu mà đến được thôn Dao, thế nào là cái nón trên đầu Qui Sơn? Sư liền đạp một cái. Sư lên Pháp Đường dạy chúng: Lão Tăng chết rồi sẽ làm 1 con trâu nước đực ở dưới núi. Sư nằm nghiêng bên trí viết 5 chữ:
Ta là Tăng Qui Sơn. Lúc đó người đời gọi Tăng Qui Sơn là con trâu nước đức, lại gọi con trâu nước đục là Tăng Qui Sơn. Lại bảo Tăng Qui Sơn gọi cái gì là được.
Sư diễn bày Tông giáo hơn 40 Năm, kẻ thấu suốt rất đông. Vào thất có 41 đệ tử. Năm Đường Đại Trung thứ 7, ngày mồng 9 tháng giêng, Sư súc miệng trải tọa cụ ngồi vui vẻ mà tịch, thọ 83 tuổi, lạp được 64, tháp ở tại núi ấy Vua ban Thụy là Đại Viên Thiền sư Tháp hiệu thanh tịnh.
2. Thiền sư Hy Vận ở núi Hoàng bá Hồng Châu.
Sư người ở Mân (Phúc Kiến). Thuở nhỏ xuất gia tại hoàng bá ở Bổn Châu giữa trán nổi cao lên cục thịt. Lời nói êm rõ, ý chí thanh cao. Sau đến núi Thiên Thai gặp 1 vị Tăng cùng nói cười như đã quen từ lâu, ai nhìn thì ánh sáng từ mắt phát ra. Bèn cùng vị Tăng đi qua khe thì nước lụt dữ dội, Sư mang nón chống gậy dừng lại vị Tăng ấy dẫn Sư lội qua. Sư nói Huynh muốn qua tự qua. Vị Tăng vén áo đi trên sóng như đi trên đất bằng, quay đầu lại bảo qua đi qua đi. Sư nói: Ôi cái ông tự liễu này, tôi mà biết sớm sẽ chặt chân ông. Vị Tăng ấy khen rằng: Chân Đại thừa pháp khí, ta thật chẳng bằng. Nói xong thì biến mất. Sau Sư dạo đến kinh Đô. Bởi vì người động viên bèn đến tham vấn ngài Bách Trượng rằng: Từ khi Ngài nói Tông đã chỉ bày gì?. Bách Trượng lặng hồi lâu. Sư nói: Không thể dạy người sau dứt mất. Bách Trượng nói sắp bảo ông là người ấy, bèn đứng dậy vào phương trượng. Sư đi theo sau bảo rằng: Con riêng đến. Bách Trượng nói: Nếu thế thì sau này chớ cô phụ ta. Một hôm Bách Trượng hỏi Sư: Từ đâu đến? Đáp hái nấm dưới núi Đại Hùng đến? Bách Trượng hỏi có thấy con sâu lớn chăng? Sư liền gầm tiếng hổ. Bách Trượng cầm búa ra dáng chém. Sư liền tát Bách Trượng một cái. Bách Trượng ngâm nga cười lớn rồi trở về. Sư lên Pháp đường bảo chúng rằng: Dưới núi Đại Hùng có con sâu lớn các ông nên nhìn kỹ. Lão già Bách Trượng hôm nay tự gặp phải một con. Khi Sư ở Nam Tuyền xin khắp lặt rau. Nam Tuyền hỏi đi đâu. Đáp: Đi lặt rau. Nam Tuyền nói: Chọn cái gì? Sư đưa con dao lên. Tuyền nói: Đại gia tất cả rau đi. Một hôm Nam Tuyền bảo Sư rằng: Lão Tăng ngẫu hứng thuật bài ca chăn trâu, xin Trưởng lão họa vận. Sư nói: Ta tự có thầy rồi. Sư từ tạ Nam Tuyền, tiễn ra cửa đưa Sư nói: bảy cái nói: Trưởng lão tài vật của thân khá lớn mà cái nón quá nhỏ. Sư nói tuy Thế mà cả Đại Thiên thế giới đều ở trong đó. Nam Tuyền nói với Vương Lão Sư cao tột, Sư liền đội nón mà đi. Sau Sư ở chùa Đại An ở Hồng Châu, hải chúng đến rất đông. Tướng Quốc Bùi Hưu trấn giữ Uyển lăng, lập thiền uyển lớn xin Sư nói pháp. Vì Sư rất thích núi cũ nên gọi Sư là Hoàng bá. Lại xin sư đến quận để giải thích một bài nói về Sư. Sư nhận lấy để ở chỗ ngồi không mở ra đọc. Sư yên lặng hồi lâu hỏi hiểu chăng? Bùi Hưu nói chưa hiểu Sư nói: Nếu theo hình thức giấy mực mà hiểu như ông ấy thì làm sao có tông ta. Bùi bèn tặng một bài thơ rằng:
Từ khi Đại sĩ truyền tâm ấn
Ngạch có châu tròn thân bảy thước
Mang gậy mười Năm ở Thục Thủy
Phù Bội ngày nay vượt bến chương
Một ngàn Long tượng theo cao bước
Muôn dậm hương hoa kết thắng nhân
Nghĩ muốn thờ thầy làm đệ tử
Chẳng biết đem pháp trao người nào.
Sư cũng không có sắc vui. Từ đó cửa Hoàng bá tiếng tăm vang xa. Một hôm Sư lên Pháp đường, đại chúng nhóm hộp bèn bảo rằng: Các ông muốn cầu gì, nhân đó lấy gậy đuổi đi hết, bảo rằng: Toàn là bọn uống rượu cặn như thế mà đi hành cước gây cười cho người chỉ thấy chỗ 800-1000 người liền đi chẳng thể tính chuyện ồn ào đông đúc. Khi Lão Tăng đi hành cước hoặc gặp dưới rễ cỏ có 1 lão ấy, liền đập trên đầu 1 chùy mà nhìn kỹ, nếu biết đau đớn đúng sợ thì túi đựng đầy túi gạo mà cúng dường. Trong đó có thể giống ông dễ dàng Thế, chỗ nào có việc ngày nay. Các đã gọi là hành cước, cũng cần mang tinh thần ấy biết rõ trong nước Đại Đường không có Thiền sư ở chăng? Lúc đó có 1 vị
Tăng ra hỏi rằng: Các Tôn Túc nơi đều nhóm hợp chúng mà khai hóa, vì sao nói không có Thiền sư ở. Sư nói: Không nói chẳng có Thiền sư ở chỉ nói không có sư, xà lê chẳng thấy. Sau Mã Đại sư có 88 vị ngồi Đạo Tràng, được Chánh nhãn của Đại sư chỉ có 2, 3 vị, Hòa thượng Lô sơn là 1. người xuất gia phải biết có phận sự từ trước đến. Lại như sau Tứ tổ có Ngưu Đại sư Đầu pháo Dung nói ngang nói dọc. Cũng chẳng hay dưới cửa? Có phải não này mới phân biệt được Tông Đảng tà chánh. Lại người trong việc không thể lãnh hội được, chỉ biết học lời nói, mang đãy da đến đâu đều nói mình hiểu Thiền, còn giúp ông được gì về sinh tử, khinh chê các Lão túc thì đọa địa ngục nhanh như tên bắn. Ta mới thấy vào cửa liền biết được ông rồi. Lại biết chăng, phải gấp cố gắng việc không dễ dàng, kêu mặc qua ngày sống uổng 1 đời, người sáng mắt cười chê. Ông lâu sau này đều bị kẻ tục tính bán đem đi, phải tự xem xa gần là mặt mũi ai, nếu hiểu thì liền hiểu, nếu không hiểu thì tan đi. Hỏi thế nào là ý Tây Trúc đến? Sư bèn đánh. Từ các chỗ thi thiết đều độ Thượng cơ, bậc Trung hạ chớ nhìn vào. Trong Năm Đại Trung Sư mất ở tại núi này. Vua ban Thụy hiệu là Đoạn Tế Thiền sư Tháp hiệu đề Quảng Nghiệp.
Thiền sư Hoàn trung ở núi Đại Từ, Hàng Châu.
Sư người ở Bồ Bản, họ Lô. Xương đảnh đầu tròn cao, tiếng vang như chuông. mẹ mất Thuở nhỏ. Từ Sư ở mộ 3 Năm để tang, khi hết tang lo việc báo ân Sư bèn đến Đồng xuất gia ở chùa Tử Tính Châu Sư lại Tung Nhạc thọ giới học luật. Sau tham vấn ngài Bách Trượng mà nhận được tâm ấn. Rồi đến chùa Thường Lạc ở Nam Nhạc lạc ở cất am tranh ở trên đỉnh núi. Một hôm Nam Tuyền đến hỏi thế nào là chủ trong am? Sư đáp trời xanh trời xanh. Nam Tuyền nói trời xanh tạm thời gác lại, thế nào là chủ trong am? Sư nói: Hiểu liền hiểu chẳng lo đau đáu. Nam Tuyền bèn phủi tay áo đi ra. Sau Sư ở phía Bắc núi Đại từ tịnh Triết Giang, lên Pháp Đường bảo rằng: Sơn Tăng chẳng hiểu lời đáp chỉ cần biết bịnh. Có 1 vị Tăng ra đứng trước Sư. Sư liền xuống tòa trở về phương trượng. Triệu Châu hỏi: Bát Nhã lấy gì làm thể. Sư nói Bát Nhã lấy gì làm thể. Triệu Châu cười lớn mà ra. Hôm sau Sư thấy Triệu Châu quét đất, hỏi Bát Nhã lấy gì làm thể. Triệu Châu ném chổi vỗ tay cười lớn, Sư liền trở về phương trượng. Có vị Tăng đến từ giã Sư hỏi đi đâu? Vị Tăng nói tạm đi Giang Tây. Sư nói: Ta làm phiền ông việc được chăng? Vị Tăng hỏi Hòa thượng có việc gì? Sư nói: Mang Lão Tăng đi. Vị Tăng nói: Lại có lỗi với Hòa thượng là không mang Hòa thượng đi được. Sư liền thôi. Vị Tăng ấy sau kể lại việc ấy với Động Sơn, Sơn nói: Xà lê đâu hợp Đạo. Vị Tăng nói: Hòa thượng thì sao
Động Sơn nói được. Động Sơn lại hỏi vị Tăng ấy rằng: Có đại từ riêng câu nói gì? Vị Tăng nói có lúc dạy chúng rằng: Nói được 1 trượng chẳng bằng làm được 1 thước, nói được 1 thước chẳng bằng làm được 1 tấc. Động Sơn nói: Ta chẳng nói gì vị Tăng hỏi làm sao. Động Sơn nói: Nói và làm chẳng được, làm và nói chẳng được. sau khi Đường Võ Tông phá bỏ Đạo Phật, Sư mặc áo ngắn mà lánh. Đến Đại Trung Năm Nhâm Thân lại cạo tóc mà rộng bày tông chỉ. Năm Hàm thông thứ 3, ngày rằm tháng 2 Sư không bịnh mà mất thọ 83 tuổi, lạp được 54. Vua Đường Hy Tông ban Thụy là Tánh không Đại sư, tháp hiệu là Định tuệ.
Thiền sư Phổ Ngạn ở Bình Điền thuộc núi Thiên Thai.
Sư người ở Hồng Châu, ở dưới cửa của Bách Trượng mà được ý chỉ. Sau nghe ở Thiên Thai có nhiều Thánh hiền, nghĩ muốn đến phương xa mà tìm dấu vết. Bèn cất am tranh ở dưới rừng yên vắng ngày tháng qua 4 chúng nhiều người biết nên lập thành tinh xá đặt tên là Thiền viện Bình Điền. Có lúc gọi chúng bảo: Thần quang không mê muội vạn cổ xán lạn. Vào cửa này chớ chấp hiểu biết. Có vị Tăng đến tham vấn.
Sư bèn đánh 1 gậy. Vị Tăng ấy đến gần nắm lấy gậy.
Sư nói: Lão Tăng vừa rồi rất vội vã. Vị Tăng liền đánh Sư 1 gậy.
Sư nói: Tác gia, tác gia. Vị Tăng lễ bái.
Sư cầm gậy nói: Xà lê này vội gấp. Vị Tăng cười to.
Sư nói: Sư Tăng ấy hôm nay hỏng lớn.
Bèn có kệ dạy chúng rằng:
Đại Đạo rộng lớn
Thường một chân tâm
Thiện ác chớ nghĩ
Thần thanh vật biểu
Tùy duyên ăn uống
Lại còn làm gì.
Sư mất ở viện ấy. Nay Sơn môn ấy cũng còn di tháp đời Tống tu bổ lại đẹp hơn, ban biển Ngạch là Thọ Xương. Thiền sư Ngạn tức là Hòa thượng khai sơn Thọ Xương.
Thiền sư Thường Quán ở Ngũ Phong Quân Châu:
Có vị Tăng hỏi: Cảnh ở Ngũ Phong thế nào? Sư nói rất hiểm trở. Vị Tăng hỏi: Người trong cảnh thế nào? Sư nói: Rất lạnh. Có vị Tăng từ giã, Sư hỏi: Xà lê đi đâu? Vị Tăng nói đi Đài Sơn. Sư dựng 1 ngón tay nói: Nếu thấy Văn Thù rồi thì tới lui trong ấy nhìn thấy lẫn nhau. Vị Tăng không đáp được. Sư hỏi 1 vị Tăng: Ông có thấy trâu chăng? Vị Tăng nói thấy. Sư hỏi: Thấy sừng bên trái hay bên phải. Vị Tăng không đáp được. Sư tự đáp thay rằng: Thấy không trái phải. Lại Có vị Tăng từ giã, Sư nói Ông đi các nơi chớ chê Lão Tăng ở trong ấy. Vị Tăng đáp: Con chẳng nói Hòa thượng ở trong ấy. Sư hỏi: Ông nói Lão Tăng ở đâu? Vị Tăng dựng 1 ngón tay. Sư nói: Đó là sớm chê Lão Tăng.
Thiền sư Tánh không ở núi Thạch Sương, ở Đàm Châu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến? Sư nói: Nếu người ở trong giếng sâu ngàn thước nhờ tấc dây mà ra được thì người này đáp được ý từ Tây Trúc đến của ông. Vị Tăng nói: Gần đây ở Hồ Nam có Hòa thượng Sướng ra đời cũng là người Đông nói lời Tây. Sư gọi Sa di bảo hãy kéo bỏ cái áo thây chết đi. Sa di sau nêu câu chuyện ấy hỏi Đam Nguyên: Thế nào là người lên khỏi giếng. Đam Nguyên tôi kẻ ngu, có ai ở dưới giếng. Sau hỏi Qui Sơn thế nào là người ra khỏi giếng? Qui Sơn liền gọi tuệ Tịch tịch liền dạ Qui Sơn nói: ra! Khi ở Ngưỡng Sơn có nêu câu nói ấy bảo chúng rằng: Ta ở Đam Nguyên mà được tên, ở Qui Sơn mà được đất.
Thiền sư Đại An ở Phước Châu.
Sư là người Phước châu, họ Trần, thuở nhỏ ở núi Hoàng bá mà thọ nghiệp học tập Luật thừa. Từng nghĩ rằng: Ta tuy siêng năng khổ nhọc mà chưa nghe được Lý Huyền Cực. Bèn 1 mình chống gậy đi các nơi. Khi đến Hồng Châu trên đường ra
Thượng Nguyên gặp 1 cụ già gọi Sư bảo rằng: Sư đến Nam Xương sẽ có chỗ được. Sư vội đến ngài Bách Trượng lễ mà hỏi rằng: Đệ tử muốn cầu biết Phật thế nào là đúng. Sư nói: Giống như cởi trâu mà tìm trâu. Sư hỏi biết rồi Thế nào? Bách Trượng nói như vị cởi trâu đến nhà. Sư nói không biết trước sau bao nhậm ra sao? Bách Trượng nói như vị chăn trâu cầm gậy nhìn không cho phạm lúa thóc của vị. Sư từ đó hiểu ý chỉ nên không tìm cầu nữa. Vị đồng tham với Sư là Thiền sư Hựu ở sáng lập ra Qui Sơn. Sư đến trợ Đạo. Khi Thiền sư Hựu ở qui tịch thì chúng xin Sư tiếp làm trụ trì. Sư lên Pháp Đường bảo rằng: Các ông đều đến tìm cầu cái gì, nếu muốn thành Phật thì các ông tự là Phật mà bỏ đi tìm, gấp gáp như nai khát nước bị trời nắng rượt đuổi lúc nào mới được tương ưng. Ông muốn thành Phật thì tâm ông đừng nhiều điên đảo phan duyên vọng tưởng ác giác cấu dục bất tịnh như tâm các chúng sinh, thì ông la tâm đầu Tiên biết Phật, lại hướng về chỗ nào mà riêng dẹp bỏ lý do. Sư bèn ở yên tại Qui Sơn hơn 30 Năm, ăn cơm Qui Sơn ỉa đái ở Qui Sơn, chẳng học thiền Qui Sơn, chỉ khán 1 con trâu đực nếu lạc đường vào cỏ liền dụng ra nếu phạm vào lúa mạ của người thì phải đánh roi điều phục. Đã lâu đáng thương sống chịu vị nói năng. Như nay đổi thành con trâu trắng thường ở trước mặt, suốt ngày ra đường nằm dưới đất đuổi cũng chẳng đi. Các ông phải tự có ngọc báu vô giá, từ mắt phát ra ánh sáng chiếu khắp sông núi đất liền, từ tai phát ra ánh sáng thu nhận tất cả âm thanh thiện ác, sáu cửa ngày đêm thường phát ra ánh sáng, cũng gọi là Tam-muội phóng quang. Các ông tự chẳng biết lấy hình ảnh trong thân 4 đại, trong ngoài (giữ gìn) chẳng cho nghiêng đổ, như người gánh nặng đi qua cầu khỉ chênh vênh cũng chẳng té ngã. Lại là vật gì giữ gìn cho được. Thế ông tìm mảy may chẳng thấy. Cho nên Hòa thượng Chí Công nói: Trong ngoài tìm kiếm đều không có thi thiết trên cảnh thì trở thành tự nhiên to lớn có người hỏi, tất cả việc ra làm chính là dụng của. Pháp thân thế nào là pháp thân. Sư nói: Tất cả việc ra làm là của dụng pháp thân. Vị Tăng nói: Lìa 5 uẩn thế nào là thân xưa nay? Sư nói: Địa, thỉ, hỏa, phong, thọ, tưởng, hành, thức. Vị Tăng nói: Cái đó là 5 uẩn. Sư nói: Cái đó khác 5 uẩn. Hỏi lúc ấm này chết, ấm kia chưa sinh thì sao? Sư nói nếu hiểu ấm này thì biết ấm kia. Lại hỏi khi Đại dụng hiện tiền chẳng còn qui tắc là sao? Sư đáp: Ông dụng được thì dùng. Vị Tăng phanh ngực đi nhiễu Sư 3 vòng. Sư nói: Việc hướng thượng sao chẳng nói ấy. Vị Tăng định mở miệng. Sư liền đánh bảo rằng: Gã chồn hoang kia đi ra mau. Có vị Tăng lên Pháp Đường quay nhìn Đông Tây chẳng thấy Sư, bèn bảo: Ôi Pháp Đường này chỉ là không người. Sư từ trong cửa đi ra nói: thế nào? Vị Tăng không đáp được. Hòa thượng Vân Phong nhân vào núi hại được 1 cành cây hình giống con rắn, ở lưng có đề rằng: Vốn tự thiên nhiên chẳng nhờ chạm trổ xin gởi cho Sư. Sư nói: Vật này ở núi lại không có vết búa của người. Có người hỏi: Phật ở đâu? Sư nói: Chẳng lìa tâm. Lại hỏi: Song Phong Thượng Nhân có chỗ được gì? Sư nói: Pháp không có chỗ được, nếu có chỗ được thì được vốn không được. Có vị Tăng hỏi: Quân Hoàng Sào đến Hòa thượng đi trốn ở đâu? Sư nói 5 uẩn trong núi. Vị Tăng hỏi bỗng bị bắt trói lúc đó ra sao? Sư nói: Não loạn tướng quân? Sư hoằng hóa ở Mân Thành hơn 20 Năm. Năm Đường Trung Hòa thứ 3, ngày 22 tháng 10, về chùa Hoàng bá bị bịnh mà mất. Tháp xây ở núi lăng già. Vua ban Thụy là Viên Trí Thiền sư ở, tháp hiệu Chứng Chân.
Thiền sư Thần Tán ở Cổ Linh, Phước Châu.
Sư trú chùa Đại Trung ở châu này sau khi thọ nghiệp thì đi hành cước gặp ngài Bách Trượng mà được khai ngộ, rồi trở về chùa xưa. Thầy thọ nghiệp hỏi rằng: Ông rời ta ra ngoài được sư nghiệp gì? Đáp: Đều không có sự nghiệp. Bèn sai làm việc. Một hôm ngài tắm rửa, sai Sư kỳ cọ. Sư bèn vỗ lưng nói: Ôi điện Phật mà Phật chẳng Thánh. Thầy quay đầu nhìn Sư bảo Phật, tuy chẳng Thánh nhưng lại phát ra ánh sáng. Một hôm thầy của Sư xem kinh bên cửa sổ, có con ong đâm đầu vào kính cửa sổ tìm cách bay ra. Sư thấy vậy nói:
Thế giới rộng rãi chẳng chịu ra, lại chui giấy cũ nhiều Năm mới ra được. Ông thầy bỏ kinh xuống hỏi: Ông đi hành cước gặp ai mà ta thấy trước sau ông nói năng lạ thường. Sư đáp: Con được Hòa thượng Bách Trượng chỉ chỗ, nay muốn đáp lại từ đức của thầy mà thôi. Vị thầy do đó mời chúng dùng trai, rồi xin Sư nói pháp. Sư lên pháp tòa nói về môn phong của ngài Bách Trượng bèn nói: Linh quang soi chiếu vượt thoát căn trần, thể bày chân thường chẳng câu chấp văn tự (chữ nghĩa), tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên thì tức là Phật như như. Vị thầy qua lời nói liền cảm ngộ bảo rằng biết bao giờ Lão Tăng được nghe điều rốt ráo. Sau Sư ở Cổ Linh nhóm hợp đồ chúng được mấy Năm. Khi sắp qui tịch thì Sư cạo tóc tắm gội đánh chuông bảo chúng rằng: Các ông có biết Tam-muội Vô Thinh chăng? Chúng nói không biết. Sư nói các ông lắng nghe chớ suy nghĩ gì khác. Chúng đều lắng nghe, thì Sư an nhiên thị tịch, tháp thờ sư vẫn còn ở núi ấy.
Thiền sư thông ở chùa Hòa An Quảng Châu.
Sư thọ nghiệp tại chùa Song Lâm ở Vu Châu. Còn nhỏ đã ít nói, người lúc ấy gọi là "Nói chẳng thông". Nhân lễ Phật có thiền giả hỏi rằng: Tọa chủ lễ? Sư nói: Lễ Phật. Thiền giả bèn chỉ Tượng hỏi rằng: Cái này là vật gì? Sư không đáp. Đến đêm đắp y đầy đủ oai nghi lễ Thiền giả hỏi rằng: Hồi sáng câu hỏi có ý chỉ gì con chẳng hay? Thiền giả nói: Tọa chủ mấy hạ rồi? Sư nói 10 hạ. Thiền giả nói: Có hiểu xuất gia chưa? Sư càng mờ mịt. Thiền giả nói nếu cũng chưa hiểu thì trăm hạ có kêu thua gì. Thiền giả bèn bảo Sư đến tham vấn Mã Tổ. Khi đi đến Giang Tây thì Mã Tổ đã thị tịch, bèn yết kiến ngài Bách Trượng thì sớm mở nghi tình. Có người hỏi: Sư có phải là Thiền sư hay chăng? Sư nói: Bần đạo chẳng hề học thiền. Sư im lặng hồi lâu rồi gọi người ấy. Người ấy dạ. Sư bèn chỉ cây cọ. Một hôm Sư khiến Ngưỡng Sơn đem cái giường đến. Sư nói đưa nó về chỗ cũ. Ngưỡng Sơn làm theo. Sư nói: Cái giường kia là vật gì? Ngưỡng sơn nói: Không vật. Sư nói đó là vật gì. Ngưỡng Sơn nói không vật. Sư bèn kêu Tuệ Tịch. Ngưỡng Sơn dạ. Sư nói: Đi!
Thiền sư Đài ở Long Vân Giang Châu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc đến: Sư đáp: Đêm qua Lão Tăng đã mất trâu.
Thiền sư Đạo ở Viện Vệ Quốc Kinh Triệu:
Có vị Tăng đến tham vấn, Sư hỏi: Từ đâu đến? Vị Tăng nói ở phía sông Tương Nam đến. Sư hỏi: Nước Sông Hoàng Hà trong chưa. Vị Tăng không đáp được. Sư bị bịnh có người đến tham. Sư chẳng ra. Người ấy nói: Từ lâu nghe Hòa thượng đạo đức.
Bỗng thừa pháp thể khiến hòa, xin Hòa thượng cho gặp. Sư lấy cái bát gỗ đựng cái bát đá sai thị giả bưng ra trình, người ấy không đáp được.
Hòa thượng Vạn Tuế Trấn Châu.
Có vị Tăng hỏi: Đại chúng nhóm hợp bàn luận việc gì? Sư nói: Phẩm Tựa thứ nhất.
Thiền sư Duy Chánh ở núi Bách Trượng ở Hồng Châu.
Một hôm Sư gọi vị Tăng bảo rằng: Ông cày ruộng dùng ta, ta nói đại nghĩa cho ông nghe dang. Vị Tăng cày ruộng xong về xin Sư nói đại nghĩa Sư bèn rộng 2 tay. Có lão Túc thấy ánh nắng chiếu qua cửa sổ, hỏi Sư rằng: Là cửa sổ đến mặt trời hay mặt trời đến của sổ? Sư nói trong phòng Trương lão có khách về rồi. Sư hỏi Nam Tuyền rằng: Thiện tri thức các nơi có người không nói tương tự với pháp này hay không? Nam Tuyền nói có. Sư nói: Là thế nào? Đáp: Chẳng phải tâm chẳng phải Phật. Sư nói: Như thế thì nói tương tự với người rồi. Đáp tôi là sao?
Sư hỏi: Sư bá làm gì? Đáp: Ta lại chẳng phải là Thiện tri thức sao biết có nói không nói pháp nào. Sư nói: Con chẳng hiểu xin Sư bá nói. Đáp: Ta đại sát vì ông nói xong. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật Phật đạo bằng nhau? Sư đáp định. Sư trên đường vào kinh gặp quan mời ăn uống, bỗng thấy con lừa hí vang. Quan gọi Đầu Đà thì Sư ngẩng đầu, quan chỉ lừa, Sư liền chỉ quan nhân.
Hòa thượng Tuệ ở Đông Sơn Hồng Châu.
Sư dạo núi ấy thấy 1 hang núi. Vị Tăng hỏi: Hang này có chủ hay không? Sư nói có. Vị Tăng hỏi là ai? Sư nói 3 nhà trong thôn tìm cái gì. Vị Tăng ấy vào hỏi thế nào là chủ trong hang núi. Sư hỏi lại gấp lắm chăng? Có vị Sư nhỏ hành cước về. Sư hỏi: Ông rời ta ra ngoài bao lâu rồi. Sư nhỏ nói: 10 Năm. Sư nói không cần chỉ Đông chỉ Tây thẳng đường tương lai Tiểu Sư nói đối với Hòa thượng chẳng dám nói sai. Sư hét gã đánh đánh đòn. Một hôm Hòa thượng Thanh Điền cùng Thượng Tọa Thao nấu trà. Sư gõ vào giường ba tiếng. Thao cũng gõ ba tiếng đưa 3 lần. Sư nói Lão Tăng đưa có sư khéo léo, Thượng Tọa gõ có đạo lý gì? Thao nói: Con gõ có cái phương tiện, Hòa thượng đưa cái gì? Sư đưa cái chén. lên Thao nói: Này Thiện tri thức mắt cần gì. Nấu trà xong Thao hỏi Hòa thượng vừa đưa cái chén là ý gì. Sư nói chẳng thể có riêng. Hòa thượng Đại Vu cùng Nam Dụng đến nhà uống trà thấy 1 vị Tăng ở trước không xét, Dung nói: Ta đã không nhận ông, ông cũng chẳng thấy ta, chẳng biết là ai? Vị Tăng không đáp. Sư nói: Không có thể không duyên cớ mà hỏi người ta như thế. Dụng nói Đại Vu cũng không đáp. Sư bèn nắm lấy vị Tăng ấy bảo ông sao làm lụy ta, cũng phải đánh một tát. Dụng mỉm cười bảo Trăng sáng và trời xanh. Thị giả đến tham Sư hỏi Kim cang Chánh Định tất cả đều thế, Thu đi Đông đến làm gì sinh Thị giả nói chẳng ngại Hòa thượng mượn hỏi. Sư nói tức nay tức được trở đi làm gì. Thị giả nói ai dám hỏi đến con. Sư hỏi Đại Vu được cái gì Thị giả đáp cũng muốn người khác xem xét. Sư nói giúp đỡ Tông sư chẳng bỏ vinh dự. Thị giá liền đảnh lễ.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Tạng ở Tây Đường Kiền Châu trước đây.
1. Thiền sư Xử Vi ở Kiền Châu.
Vị Tăng hỏi: 12 phần giáo của 3 thừa, thể lý được diệu là đồng hay khác cùng ý Tổ Sư? Sư nói: Đó cần phải hướng 6 câu, bên ngoài không được chuyển theo thanh sắc khác mà. Vị Tăng nói: Thế nào là 6 câu. Sư nói: Nói im lặng, chẳng nói chẳng im lặng, đều là chung chẳng là, ông hợp làm sao? Vị Tăng không đáp được. Sư hỏi Ngưỡng Sơn: Ông tên gì? Đáp: Tuệ Tịch. Sư hỏi cái gì là tuệ cái gì là Tịch? Đáp: Chỉ ở trước mắt. Sư nói: Cũng còn có trước sau. Tịch đáp trước sau tạm thời gác lại, Hòa thượng thấy cái gì. Sư đáp: Uống trà đi.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc, Bồ Châu.
Thiền sư Lượng Toại ở Thọ Châu.
Lúc đầu Sư đến tham vấn Ma Cốc. Ma Cốc gọi Lượng Toại, Sư: đáp dạ! 3 lần gọi Thế 3 lần dạ. Ma Cốc nói Sư độn y. Sư mới tỉnh ngộ thưa rằng: Hòa thượng chớ lừa Lương Toại. Nếu không đến lễ Hòa thượng thì sống uổng 1 đời. Ma Cốc liền ấn khả.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Như Hội ở chùa Đông thuộc
Hồ Nam trước đây.
Thiền sư tuệ Siêu ở Thự Sơn thuộc, Cát Châu.
Động Sơn đến lễ bái, Sư nói: Ông đã ở 1 nơi lại đến trong ấy làm gì? Đáp: Lương giá không có nghi gì chỉ đến thăm Hòa thượng. Sư gọi Lương Giá, Giá dạ! Sư hỏi là cái gì? Giá không đáp được.
Sư nói: Ông Phật đẹp nhưng không lửa sáng.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Hoài Uẩn chùa Chương Kính ở, Kinh Triệu.
Thiền sư Hoằng Biện ở chùa Đại Tiến Phước Tự, Kinh Triệu.
Vua Đường Tuyên Tông hỏi: Thiện Tông sao có tên Nam Bắc. Sư đáp: Thiền môn vốn không Nam Bắc, xưa Như Lai đem chánh pháp nhãn giao cho Đại Ca-diếp, lần hồi truyền đến Tổ 28 là Bồ đề Đạt Ma tổ dạo đến xứ này là Tổ thứ nhất, đến Tổ thứ 5 là Hoằng Nhẫn mở pháp Đông Sơn thuộc Kỳ châu. Lúc đó có 2 đệ tử: 1 là tuệ Năng lãnh y pháp ở Lãnh Nam làm Tổ thứ 6; 1 là Thần Tú ở phía Bắc mà hoằng hóa, sau đó đệ tử của Thần Tú là Phổ Tịch lập thầy của mình làm Tổ thứ 6, mà tự xưng là Tổ thứ 7. Pháp được tuy 1 mà mở mang phát ngộ có Đốn Tiệm khác nhau, cho nên nói Nam Đốn, Bắc Tiệm. Không phải là Thiền tông vốn có tên Nam Bắc. Vua hỏi thế nào gọi là Giới Sư? Đáp rằng: Phòng lỗi ngăn ác gọi là giới. Vua hỏi sao gọi là Định? Đáp: 6 y đụng cảnh tâm không duyên theo gọi là Định. Vua hỏi: Thế nào là tuệ? Đáp rằng: Tâm cảnh đều không chiếu soi không mê hoặc gọi là tuệ. Vua hỏi: Thế nào là phương tiện? Đáp: Phương tiện là môn dấu thật che tướng quyền xảo khéo léo, tìm cách tỉ mỉ dẫn dắt kẻ trung hạ, gọi là phương tiện. Nếu vì bậc thượng y nói bỏ phương tiện chỉ nói Đạo vô thường, thì đây cũng là phương tiện. Cho đến Tổ Sư nói năng huyền hoặc quên công dứt lời thì cũng đều là phương tiện. Vua hỏi: Thế nào là tâm Phật? Đáp: Phật là tiếng Thiên Trúc, Đường gọi là Giác, tức là vị có trí tuệ giác chiếu là tâm Phật. Tâm là tên khác của Phật. Có trăm ngàn hiệu khác, thể chỉ là 1, vốn không hình dạng, không có tướng xanh vàng đỏ trắng nam nữ.
Ở trời mà không phải trời, ở người mà không phải người mà hiện trời hiện người, hoặc nam hoặc nữ, chẳng đầu chẳng cuối không sinh không diệt, nên gọi là tánh linh giác. Như Bệ hạ hàng ngày ứng muôn cơ tức tâm Phật của Bệ hạ. Dù cho ngàn Phật cùng truyền mà không có niệm riêng nào có chỗ được (sở đắc). Vua hỏi: Như nay có người niệm Phật là sao? Đáp: Như Lai ra đời làm Thiện tri thức của trời người, tùy y khí mà nói pháp. Vì người thượng căn thì khai mở Tối thượng thừa, đốn ngộ chí lý, còn kẻ trung hạ y thì chưa sớm hiểu. Do đó Phật vì Vi Đề Hy mà quyền mở 16 quán môn, khiến niệm Phật sinh về Cực Lạc cho nên kinh nói: Tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Vua hỏi có vị trì kinh niệm Phật trì chú cầu Phật là Thế nào? Đáp: Như Lai các thứ mở mang khen ngợi đều là Nhất thừa tối thượng. Như trăm sông suối đều chảy về biển, các số khác nhau Thế đều về biển Tát Bà Nhã. Vua hỏi: Tổ sư đã khế hội tâm ấn. Như kinh Kim cang nói thì pháp vô sở đắc là thế nào? Đáp: Phật hóa độ thật ra không có 1 pháp ban cho người mà chỉ bày cho mọi người đều tự tánh đồng 1 pháp Bảo Tàng. Lúc đó đức Như Lai Nhiên Đăng chỉ ấn chứng pháp vốn có của Đức Thích ca mà không có gì đạt được mới khế hợp với bổn ý của Nhiên đăng. Cho nên kinh nói: Không ngã không nhân không chúng sinh không thọ giả là pháp bình đẳng, tu tất cả pháp lành mà không chấp tướng. Vua hỏi Thiền sư ở đã hiểu ý Tổ lại còn lễ Phật tụng kinh chăng. Đáp: Sa môn là con Phật lễ Phật tụng kinh. Bởi là trụ trì thường pháp (giữ gìn pháp thường) có 4 cách báo ân, Song y theo giới Phật mà tu thân, tham tìm tri thức, tiêm tu phạm hạnh, đạp vào dấu vết chỗ làm của Như Lai. Vua hỏi: Thế nào là đốn kiến, thế nào là tiệm tu? Đáp: Đốn biết tự tánh đồng hàng (bậc với Phật). Nhưng vì có tập nhiễm từ vô thỉ nên nhờ tiệm tu mà đối trị khiến thuận tánh khởi dụng, như vị ăn cơm chẳng phải 1 miếng mà no. Ngày ấy Sư Hoằng Biện đối đáp qua 7 khắc. Vua ban cho y tía đặt hiệu là Thiền sư Viên Trí. Lại ra lệnh khắp thiên hạ đều sửa sang các tháp Tổ và đều khiến giữ gìn.
Thiền sư Trí chân ở Qui Sơn, Phước Châu.
Sư người ở Dương Châu, họ Liễu, thọ nghiệp tại chùa Hoa Lâm ở phước Châu (Năm Đường Nguyên Hòa 1, Sư dời về Nhuận Châu ở thọ giới chùa Thiện Hương chẳng học kinh luận chỉ mến Thiền Na. Trước yết kiến Thiền sư Hoài Uẩn. Hoài Uẩn hỏi: Từ đâu đến, Chân đáp: Đến không chỗ đến, đi không chỗ đi. Hoài Uẩn tuy làm thinh nhưng, Chân cũng tự ngộ. Liền tìm đến Vụ Châu ở núi Ngũ Tiết gặp Thiền Bá Chánh Nguyên. Năm
Trùng Khánh thứ 2 cùng dạo đến Kiến Dương.
Người ở thọ quận là Diệp Phần xin Sư ở Đông Thiền. Đến Năm Khai Thành 1 thì Sư sang ở Phước Châu. Người ở ấp Trường Khê là Trần Lượng Huỳnh Du xin Sư ở Qui Sơn mà khai sáng. Một hôm Sư dạy chúng rằng: Mọi cử động nhìn nghe không ra ngoài con người hiện tại 1 niệm tịnh tâm xưa nay là Phật. Bèn nói kệ rằng:
Tâm vốn dứt trần đâu cần rửa
Trong thân không bịnh cần gì thuốc
Muốn biết Phật ấy, chẳng phải thân
Gương sáng treo cao khi chưa chiếu.
Sau gặp lúc vua Đường Võ Tông dẹp chùa đuổi vị Tăng ni, Sư có hai bài kệ dạy chúng rằng:
1) Trăng sáng phân hình ở mọi nơi
Bạch y bèn thành người hiểu không
Ai nói người tục ngại tu Đạo
Kim túc từng là thân trưởng giả.
2) Dưới rừng nhãn Tiên ngồi tu thiền
Từng bị Ca Vương chặt tay chân
Huống ta triều này không việc ấy
Ngày nay Đạo suy có gì lo.
Khi gặp vua Đường Tuyên Tông Trung Hưng Sư không mặc áo Đạo nữa. Năm Hàm Thông thứ 6 thì Sư mất ở (núi này), thọ 84 tuổi, lạp được 60. Vua ban Thụy là Qui Tịch Thiền sư ở, tháp hiệu Bí Chân.
Thiền sư Hoài Chánh ở Đông Ấp, Lãng
Châu.
Ngưỡng Sơn đến tham vấn. Sư hỏi: Ông là người ở đâu? Ngưỡng Sơn nói: người ở Quảng Nam. Sư hỏi Ta nghe Quảng Nam có trấn hải minh châu phải chăng? Ngưỡng Sơn nói đúng. Sư hỏi: Châu ấy hình dạng Thế nào? Ngưỡng sơn nói trăng sáng liền hiện. Sư hỏi: Ông có đem được đến đây chăng? Ngưỡng Sơn nói đem đến được. Sư hỏi sao không trình cho Lão Tăng xem. Ngưỡng Sơn nói hôm qua đến Qui Sơn cũng đến tuệ Tịch đòi lấy châu này mà đã không có lời để đáp, không có lý để có thể bày. Sư nói rõ thật là sư tử con gầm tiếng sư tử lớn.
Thiền sư Thao ở Kim Châu.
Một hôm xin Hòa thượng Mễ thọ trai mà không sắp đặt chỗ ngồi. Hòa thượng Mễ đến trải tọa cụ mà lễ bái. Sư xuống giường thiền. Mễ bèn lên chỗ Sư mà ngồi, còn Sư trải chiếu ngồi dưới đất. Thọ trai xong thì Mễ liền đi. Thị giả thưa với Sư: Hòa thượng được mọi người kính trọng, hôm nay chỗ ngồi bị người khác chiếm. Sư nói 3 ngày trở lại được cứu. Quả nhiên 3 ngày sau Mễ đến bảo rằng:
Hôm trước gặp giặc.
Hòa thượng Cổ Đê ở Lãng Châu.
Bình thường thấy vị Tăng đến đều nói: Đi đi, ông không có Phật tánh vị Tăng không đáp được, hoặc có người đáp thì không hiểu ý chỉ. Một hôm Ngưỡng Sơn tuệ Tịch đến tham vấn. Sư nói đi đi, ông không có Phật tánh. Tịch vòng tay đến trước dạ. Sư cười đáp: Ông ở đâu được Tam-muội này? Tịch nói con từ Qui Sơn mà được. Tịch hỏi: Hòa thượng từ ai mà được. Sư nói ta từ Chương Kính mà được.
Hòa thượng Công Kỳ ở Hà Trung.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Đạo, thế nào là Thiền Sư nói. Có tên gọi không phải Đại Đạo, phải quấy đều chẳng phải Thiền. Muốn biết ý trong đó, lá vàng ngăn tiếng tiền.
* Truyền tâm pháp yếu của Thiền sư Hy Vận ở Hoàng bá. (Do Bùi Hưu ở Hà Đông biên tập)
Có Đại Thiền sư hiệu Hy Vận ở dưới Thứu Phong núi Hoàng Bá-huyện Cao An thuộc Hồng Châu, chính là cháu đích tôn của Lục Tổ Tào Khê, con của Bách Trượng cháu của Tây đường, chuyên tu Tối thượng thừa, được ấn lìa văn tự. Chỉ truyền 1 tâm không còn pháp nào khác, tâm thể cũng không muôn duyên dứt bặt. Như vầng mặt trời sáng rực rỡ trên không sạch trong không chút bụi nhơ. Chứng thì không mới cũ cạn sâu, nói thì không lập nghĩa giải, chẳng lập Tông chủ, chẳng mở cửa nẻo, ngay đây là đó động niệm thì trái, sau mới là Bổn Phật. Cho nên lời ấy đơn giản, lúc ấy thẳng thắn, đạo ấy cao vời, hạnh ấy lẻ loi. Người học bốn phương tìm núi mà đến, thấy tướng mà ngộ. Hải chúng Tới lui hơn ngàn vị. Tôi vào Năm Hội Xương thứ 2, ở Chung lăng. Từ núi rước đến châu nghỉ ở chùa Hưng Long, sớm tối hỏi Đạo. Năm Đại Trung 2 ở tại Uyển lăng, lại lễ rước về Sở Bộ mời ngụ chùa Khai Nguyên, sớm chiều thọ pháp. Bèn lui về mà ghi lại thì 10 điều chỉ được 23. Chuyên vì tâm ấn chẳng dám phát dương. Nay sợ tinh nghĩa nhập thần đời sau chưa nghe mà đem ra trao cho môn hạ. Vị Tăng Thái Châu Pháp Kiến về chùa Quảng Đường ở núi cũ, mời các Trưởng lão và pháp chúng hỏi rõ các điều nghe thấy về Sư ngày xưa giống hay khác ra sao? Bây giờ là ngày 08 tháng 10 Niên hiệu Đường Đại Trung thứ 11 kính ghi.
Chư Phật cùng tất cả chúng sinh chỉ là 1 tâm không còn có pháp nào khác. Tâm này từ vô thỉ đến nay không hề sinh cũng không hề diệt, chẳng xanh chẳng vàng không hình không tướng, chẳng thuộc có không, chẳng kể mới cũ không phải dài ngắn, không phải lớn nhỏ, vượt ngoài tất cả hạn lượng, danh ngôn, dấu vết, đối đãi. Đương thể thì đúng, động niệm liền sai. Cũng như hư không chẳng có bờ cõi, chẳng thể suy lường. Chỉ 1 tâm này tức là Phật, Phật cùng chúng sinh không có khác nhau. Chỉ là chúng sinh chấp tướng cầu bên ngoài mà trở thành sai, khiến lấy Phật tìm Phật đem tâm bắt tâm, cùng kiếp trọn đời cũng không thể được. Chẳng biết dứt niệm quên nghĩ thì Phật tự hiện tiền.
- Tâm này tức là Phật, Phật tức là chúng sinh, chúng sinh tức là Phật, Phật tức là tâm. Khi làm chúng sinh thì tâm này chẳng bớt khi thành Phật thì tâm này chẳng thêm. Cho đến Lục Độ vạn hạnh, hà sa công đức, vốn tự đầy đủ không nhờ tu thêm. Gặp duyên thì bỏ, duyên dứt thì vắng lặng Nếu chẳng quyết định tin đây mà muốn trước tướng tu hành để cầu công dụng thì đều là vọng tưởng cùng Đạo trái nhau. Tâm này tức là Phật mà không có Phật khác cũng không có tâm khác. Tâm này sạch sáng cũng như hư không. Chẳng 1 điểm hình tướng, dấy tâm động niệm liền trái pháp thể, tức là trước tướng. Mà từ vô thỉ đến nay không có trước tướng (chấp vào tướng). Phật tu Lục Độ Vạn hạnh là muốn cầu thành Phật tức là thứ lớp, mà từ vô thỉ đến nay không có Phật thứ lớp. Chỉ ngộ 1 tâm, lại không có 1 tí pháp nào có thể được. Đây thì là chân Phật, Phật cùng chúng sinh 1 tâm không khác. Cũng như hư không chẳng tạp chẳng hoại. Như vầng thái dương khắp chiếu 4 thiên hạ. Khi mặt trời chiếu thì sáng khắp thiên hạ mà hư không chẳng thêm sáng. Khi mặt trời lặn thì tối khắp thiên hạ mà hư không cũng chẳng tối thêm. Cảnh sáng tối tự tướng nó cướp nhau. Tánh của hư không rỗng rang không thay đổi. Phật cùng chúng sinh và tâm cũng thế. Nếu xem Phật là tướng thanh tịnh sáng suốt giải thoát, xem chúng sinh là tướng nhơ bẩn tối đen sinh tử, người này có cái hiểu Thế thì trải hà sa kiếp cũng trọn không được Bồ đề, ấy là vì trước tướng. Chỉ 1 tâm này lại không có mảy may chút pháp nào có thể được, tức là Phật. Nay người học Đạo chẳng hiểu (ngộ) tâm thể này, liền ở trên tâm mà sinh tâm hướng ngoại mà cầu Phật, trước tướng mà tu hành đều là ác pháp, chẳng phải Đạo Bồ đề.
- Cúng dường mười phương chư Phật chẳng bằng cúng dường cho 1 vị vô tâm chẳng thể được. Vô tâm là không tất cả tâm, là thể như như, trong ngoài như gỗ đá chẳng động chẳng chuyển. Trong ngoài như hư không chẳng ngăn chẳng ngại không năng không sở, không nơi chốn, không hình tướng, không được mất. Tới thì chẳng dám vào. Pháp này sợ lạc vào không, chẳng nơi nương tựa cho nên trông bờ bến mà lui. Đáng lý Văn Thù, đáng hạnh Phổ Hiền, lý là lý chân không vô ngại, Hạnh là hạnh lìa tướng vô tận. Đáng Đại từ của Quán Âm, đáng Đại trí của Thế Chí, là Duy Ma Tịnh Danh. Tịnh là tánh, danh là tướng. Tánh tướng chẳng khác gọi là Tịnh Danh, là biểu thị của các Đại Bồ tát, vị đều có chẳng lìa một tâm, ngộ thì tức là đúng. Nay người học Đạo chẳng hướng trong tâm mình mà ngộ, bèn ở ngoài mà cầu, mà trước tướng lấy cảnh thì đều cùng Đạo trái nhau. Hằng hà sa Phật nói là cát. Cát này chư Phật Bồ tát, các trời Thích Phạm bước lên mà đi, cát cũng chẳng vui.
Trâu dê trùng kiến giậm đạp mà đi, cát cũng chẳng giận. Trân bảo thơm nồng, cát cũng chẳng tham. Cứt đái hôi tanh cát cũng chẳng ghét.
- Tâm này tức là tâm của vô tâm, lìa tất cả tướng. Chúng sinh và chư Phật lại không khác nhau. Chỉ có thể vô tâm thì đều là rốt ráo. Nếu Người học Đạo chẳng ngay đây mà vô tâm thì dù nhiều kiếp tu hành cùng không thành Đạo. Vì bị công hạnh 3 thừa trói buộc chẳng được giải thoát. nhưng chứng tâm này có chậm mau. Có người nghe pháp 1 niệm liền được vô tâm, có người đến Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng mới được vô tâm. Có người cho đến Thập địa nói được vô tâm. Dài ngắn được vô tâm liền trụ, lại không thể tu, lại không thể chứng. Thật không có chỗ được, chân thật chẳng dối một niệm mà được cùng với thập địa mà được thì công dụng ngang nhau không có cạn sâu, chỉ là trải nhiều kiếp chịu khổ nhọc 1 cách vô ích mà thôi. Vì làm thiện làm ác đều là trước tướng. Trước tướng gây ác thì uổng chịu luân hồi. chấp tướng tạo thiện thì uổng chịu khổ nhọc. Tóm lại không bằng sau lời nói mà tự mình nhận lấy Bổn pháp. Pháp này tức tâm, ngoài tâm không pháp. Tâm này tức pháp, trong pháp không tâm. Tâm tự không tâm cũng không cả không có tâm. Lấy cái tâm không tâm này thì tâm liền thành có, chỉ ngầm khế hợp mà dứt hết các suy lường nghĩ ngợi. Cho nên kinh nói ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt (dứt đường nói năng bặt chỗ nghĩ ngơi). Tâm này là nguồn gốc thanh tịnh của Phật, mọi người đều có. Các loài súc vật máy động (biết cử động) cùng chư Phật Bồ tát đồng 1 thể không khác. Chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp, quả thật ở Phật chẳng có 1 vật nào, trống rỗng thông suốt lặng bặt sáng diệu an lạc mà thôi. Tự mình tỏ ngộ sâu sắc. Ngay đây là trọn vẹn đầy đủ không hề thiếu sót. Dẫu 3 A Tăng kỳ tinh tiến tu hành trải qua các ngôi vị, và 1 niệm khi chứng chỉ là chứng Phật xưa nay của mình hướng lên không thêm được 1 vật nào. Trải xem dụng công nhiều kiếp đều là trong mộng vọng làm. Cho nên Như Lai nói: Ta đối với A nậu Bồ đề thật không chỗ được. Nếu vọng có sở đắc thì Phật Nhiên Đăng đã không thọ ký cho ta. Lại nói: Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp, đó gọi là Bồ đề, tức là tâm vốn xưa nay thanh tịnh này. Cùng với chúng sinh chư Phật thế giới núi sông, có tướng không tướng khắp cùng mười phương cõi, tất cả đều bình đẳng không có tướng kia đây. Tâm vốn xưa nay thanh tịnh này thường tự tròn sáng khắp. Người đời không ngộ mà chỉ nhận lấy thấy nghe hiểu biết là tâm nên bị thấy nghe hiểu biết ngăn che. Do đó khi thấy tính mình bản thể thì ngay ở vô tâm mà bản thể tự hiện. Như vầng mặt trời sáng rực trên hư không chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Cho nên người học Đạo chỉ nhận thấy nghe hiểu biết làm động tác không tức thấy nghe hiểu biết, tức đương tâm dứt mất chỗ vào, chỉ đối với thấy nghe hiểu biết mà nhận ra bản tâm, nhưng bản tâm lại không thuộc thấy nghe hiểu biết, cũng chẳng lìa thấy nghe hiểu biết, chỉ đừng ở trên thấy nghe hiểu biết mà khởi lên kiến giải, không thấy nghe hiểu biết mà động niệm cũng chẳng lìa thấy nghe hiểu biết mà tìm tâm, cũng chẳng lìa thấy nghe hiểu biết mà lấy pháp. Chẳng tức chẳng lìa chẳng trụ chẳng trước. Dọc ngang tự tại không đâu là chẳng phải Đạo tràng.
- Người đời nghe nói chư Phật đều truyền tâm pháp, bèn bảo trong đó có 1 pháp tâm riêng để chứng, bèn đem tâm mà tìm pháp mà chẳng biết tâm tức là pháp, pháp tức là tâm. Chẳng thể đem tâm để tìm cầu tâm trải qua ngàn muôn kiếp không bao giờ có ngày được. Chẳng bằng ngay đây mà vô tâm liền là pháp ấy. Như lực sĩ khi được châu chỉ là được hạt châu trên trán hướng ra ngoài mà tìm không bao giờ được. Người trí chỉ rõ ngay lúc này mà tự thấy châu ấy như cũ. Người học Đạo mê bản tâm mình mà không nhận mình là Phật, bèn hướng ra ngoài mà khởi công dụng hạnh tìm cầu. nương vào ngôi vị chứng quả thứ lớp, trải qua nhiều kiếp siêng cầu nhưng chẳng thành Đạo. Chẳng hằng ngay đây vô tâm thì quyết định biết tất cả pháp vốn không thật có cũng không có chỗ đạt được không trú không nương, không năng không sở. Chẳng động vọng niệm liền chứng Bồ đề. đến khi chứng Đạo thì chỉ chứng bản tâm Phật. Trải qua nhiều kiếp dụng công đều là luống tu Như khi lực sĩ được châu thì chỉ được châu trên trán, không liên quan gì với sức tìm cầu ở bên ngoài. Phật nói ta A nậu Bồ đề thật không có chỗ được. Vì sợ người không tin nên dẫn 5 nhãn thấy 5 lời, là nói chân thật chẳng dối là Đệ nhất nghĩa đế.
- Người học Đạo chớ nghi. 4 đại là thân, 4 đại Vô ngã, ngã cũng vô chủ. Cho nên biết thân này Vô ngã cũng vô chủ. 5 ấm Vô ngã cũng vô chủ, cho nên biết tâm này Vô ngã cũng vô chủ. Sáu căn
6 trần 6 thức hòa hợp sinh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đã không thì tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang thanh tịnh. Có thức thực và có trí thực. Thân 4 đại đói ghẻ là bịnh, tùy việc mà nuôi dưỡng không nên tham đắm thì gọi là Trí thực. Còn mặc tình mùi vị ngon dở vọng sinh phân biệt chỉ cầu vừa miệng mà không chán lìa thì gọi là thức thực. Về Thanh văn do tiếng mà được ngộ nên gọi là Thanh văn. Chỉ không hiểu tâm mình chỉ đối với thinh giáo mà khởi hiểu. Hoặc nhân thần thông hoặc do tướng lạ, nói năng vận động, nghe có Bồ đề Niết-bàn, 2 A vị Tăng kỳ kiếp tu thành Phật Đạo, đều được thuộc Đạo Thanh văn gọi đó là Thanh văn. Phật chỉ ngay đây hiểu nhanh tâm mình xưa nay là Phật. Không có một pháp nào có thể, không có 1 hạnh nào để. Đây là Đạo vô thường, đây là Phật chân như. Người học Đạo chỉ sợ một niệm có thì liền ngăn cách Đạo. Niệm niệm không tướng, niệm niệm không làm thì tức là Phật. nếu Người học Đạo muốn được thành Phật thì tất cả Phật pháp đều không cần học, mà chỉ học không cầu không chấp trước. Không cầu thì tâm không sinh, không chấp trước thì tâm không nhiễm, (vô sinh vô nhiễm?) tức là Phật. 8 muôn 4 ngàn pháp môn đối trị 8 muôn 4 ngàn phiền não là môn giáo hóa tiếp dẫn, vốn không có một pháp, lìa tức là pháp, biết lìa tức là Phật. Chỉ vì tất cả phiền não là không có pháp nào có thể được.
- Người học Đạo muốn biết được yếu quyết, thì chỉ đừng ở trên tâm mà đắm trước một vật nào. Nói pháp thân Phật cũng như hư không. Đây là dụ pháp thân tức là hư không, hư không tức là pháp thân vị thường bảo pháp thân thây khắp hư không trong hư không có chứa pháp thân, mà không biết hư không tức là pháp thân, pháp thân tức là hư không. Nếu định nói có hư không, tức hư không chẳng phải là pháp thân. Nhất định nói có pháp thân, tức pháp thân chẳng phải là hư không. Chỉ chẳng hiểu biết về hư không thì hư không liền (tức) là pháp thân, chẳng hiểu biết về pháp thân thì pháp thân tức là hư không. Hư không cùng pháp thân không có tướng khác. Sinh tử Niết-bàn không có tướng khác, phiền não Bồ đề không có tướng khác, lìa tất cả tướng thì tức là Phật. Phàm phu chấp cảnh, người tu Đạo chấp tâm, tâm cảnh đều mất thì chính là chân pháp. Quên cảnh thì dễ mà quên tâm thì rất khó. Người chẳng dám quên tâm là sợ lạc vào không chẳng có gì hết. Chẳng biết không vốn là chẳng không chỉ là 1 chân giới (cõi chân). Tánh Linh giác này từ vô thỉ đến nay cùng hư không đồng tuổi thọ, không hề sinh cũng không hề diệt, không hề có cũng không hề không, không hề nhơ cũng không hề sạch, không hề ồn cũng không hề lặng, không hề trẻ cũng không hề già, không phương hướng cũng không trong ngoài, không số lượng không hình tướng không sắc tượng không tiếng nói, không thể tìm không thể cầu, không thể lấy trí mà hiểu biết, không thể lấy nói năng mà phân biệt. Không thể lấy cảnh vật mà hiểu, không thể lấy công dụng mà đến. chư Phật Bồ tát cùng tất cả chúng sinh loài bò bay máy động đồng tánh Đại Niết-bàn. Tánh tức là tâm, tâm tức la Phật, Phật tức là pháp. Một niệm lìa chân thì đều là vọng tưởng. Chẳng thể lấy tâm mà lại cầu tâm, chẳng thể lấy Phật mà lại cầu Phật, chẳng thể lấy pháp mà lại cầu pháp. Cho nên vị tu Đạo ngay đây vô tâm mà ngầm khế hợp, định tâm liền sai. Dùng tâm truyền tâm đây là Chánh kiến (thấy đúng?). Cẩn thận chớ hướng bên ngoài đuổi theo cảnh làm tâm, là nhận giặc làm con. Vì có tham, sân, si liền lập giới Định tuệ. Vốn không có phiền não sao có Bồ đề. Cho nên Tổ Sư nói: Phật nói một pháp là để trừ tất cả tâm, nay ta không có tất cả tâm thì cần gì tất cả pháp. Trên Phật xưa nay vốn thanh tịnh không đắm trước một vật nào. Ví như hư không dầu lấy vô lượng thứ trân bảo để trang nghiêm thì nó trọn cũng không dính mắc. Phật tánh đồng với hư không, dầu lấy vô lượng công đức trí tuệ để trang nghiêm mà trọn cũng không thể dính mắc. Chỉ vì mê Bổn tánh nên trở thành chẳng thấy mà thôi.
- Nói về pháp môn Tâm địa thì muôn pháp đều nương vào tâm này mà lập vô gặp cảnh liền có, không cảnh liền không. Chẳng thể ở trên tịnh tánh mà trở thành hiểu biết về cảnh. Nói Định huệ là dùng để soi chiếu tỉnh táo mà vắng lặng. Thấy nghe hiểu biết đều là đối với cảnh mà hiểu. Tạm làm người hành Trung Hạ nói thì liền được. Nếu muốn thân chứng thì đều không thể hiểu Thế, vì đều là bị cảnh trói buộc. Pháp có chỗ mất, mất là ở chỗ có. Chỉ cần đối tất cả pháp mà không thấy có thì thấy pháp.
- Từ khi Đại sư Đạt ma đến Trung Quốc, chỉ nói một tánh, chỉ truyền một pháp. Đem Phật truyền Phật chẳng nói Phật khác, đem pháp truyền pháp chẳng nói pháp khác. Pháp là pháp chẳng thể nói, Phật tức Phật chẳng thể lấy, chính là tâm thanh tịnh xưa nay. Chỉ một việc này, nếu có việc thứ 2 khác thì chẳng phải thật. Bát Nhã là huệ, huệ này tức là gốc vô tướng.
Phàm phu chẳng hướng về Đạo, chỉ tùy theo sáu tình mà đi vào sáu đường. Tức học Đạo rồi, một niệm tính kể sinh tử liền rơi vào đường của các ma, một niệm khởi các kiến chấp liền rơi vào ngoại đạo. Thấy có sinh mà hướng về diệt liền rơi vào Thanh văn Đạo. Chẳng thấy có sinh chỉ thấy có diệt tức là Duyên giác Đạo. Pháp vốn chẳng sinh nay cũng chẳng diệt. Chẳng khởi 2 chấp chẳng chán chẳng ham, tất cả các pháp chỉ là 1 tâm, sau đó mới chính là Phật thừa. Tất cả mọi người phàm đều đuổi theo cảnh mà sinh tâm, tâm liền ham chán. Nếu muốn không cảnh thì phải quên tâm ấy. Tâm quên thì cảnh không, cảnh không thì tâm mất Chẳng quên tâm mà chỉ trừ cảnh thì cảnh chẳng thể trừ, chỉ càng lăng xăng rối rắm mà thôi. Cho nên muôn pháp chỉ là tâm, tâm cũng chẳng thật có thì lại cầu cái gì? Người học pháp Bát Nhã chẳng thấy 1 pháp có thể được. Ý dứt 3 thừa chỉ 1 chân thật, chẳng thể chứng được. Bảo rằng: Ta chứng ta được đều là người Tăng thượng mạn. trong hội Pháp Hoa phủi áo mà đi đều là hạng người này. Cho nên Phật nói: Ta đối với Bồ đề thật không chỗ được ngầm khế hợp mà thôi.
- Người bình thường muốn tu chứng, chỉ quán 5 uẩn đều không, 4 đại Vô ngã chân tâm không tướng chẳng đến chẳng đi. Lúc sinh thì tánh cũng không đến, khi chết tánh cũng không đi. Trong sáng tròn đầy vắng lặng tâm cảnh như một Chỉ được như vậy thì ngay đó mà hiểu nhanh. Chẳng bị 3 đời ràng buộc, liền trở thành người xuất thế. Tất cả chẳng được có phần mảy may tiến đến. Nếu thấy tướng lành như chư Phật đến rước và các thứ hiện tiền cũng vô tâm theo nó đi qua. Nếu thấy các tướng ác thì tâm cũng không sợ. Chỉ tự quên tâm đồng ở pháp giới thì liền được tự tại.
Nói đến Hóa Thành, là Nhị thừa, Thập địa cho đến Đẳng giác, Diệu giác... đều là quyền lập giáo để tiếp dẫn, đều là Hóa thành. Nói đến Bảo Sở, chính là vật báu của tự tánh chân tâm Bổn Phật vật báu này không thuộc vào suy lường thường tình, chẳng thể kiến lập. Không Phật không chúng sinh, không năng không sở thì chỗ nào có Thành. Nếu hỏi đây đã Hóa Thành thì chỗ nào là bảo sở bảo sở chẳng thể chỉ, nếu chỉ tức là có bảo sở, không phải là chỗ chân thật. Cho nên nói ở gần mà thôi. Ở gần là chẳng thể nói định lượng, chỉ phải thể hội khế hợp. Kẻ xiển Đề là không có lòng tin. Tức tất cả chúng sinh sáu đường cho đến Nhị thừa chẳng tin có Phật đều gọi là Đạo thiện căn xiển Đề. Bồ tát tin sâu Phật pháp không thấy có Đại thừa Tiểu thừa, Phật dùng chúng sinh đồng một pháp tánh, nên gọi là xiển Đề thiện căn. Đại để nhờ nghe giáo mà ngộ thì gọi là Thanh văn. Quán nhân duyên mà ngộ thì gọi là Duyên giác. Nếu chẳng hướng vào tự tâm mà ngộ thì dù đến thành Phật cũng gọi là Phật Thanh văn. Người học đạo Phật đối với pháp mà ngộ, chẳng ở tâm mà ngộ, thì dù trải nhiều kiếp tu hành cũng không bao giờ là Bộn Phật Nếu chẳng ở tâm ngộ mà ở pháp ngộ thì tức là khinh tâm mà trọng pháp, bèn thành dạy theo cục đất vì quên mất Bổn tâm. Nếu chỉ khế hợp bổn tâm thì chẳng cần cầu pháp vì tâm tức là pháp.
- Người bình thường phần nhiều đều nói cảnh ngại tâm, sự ngại lý, thường muốn trốn cảnh để tâm yên, dẹp sự để lý còn. Chẳng biết đó chính là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ cần khiến tâm không thì cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng thì sự tự lặng, chớ dụng tâm trái người bình thường phần nhiều chẳng chịu không tâm mà sợ rơi vào không. Chẳng biết tự tâm vốn không, vị ngu trừ sự mà chẳng trừ tâm, vị trí trừ tâm mà không trừ sự. Tâm Bồ tát như hư không tất cả đều bỏ, làm được phước đức gì đều chẳng nên tham đắm nhưng bỏ có 3 bậc, trong ngoài thân tâm tất cả đều bỏ. Cũng như chẳng không có chỗ dính mắc. Sau mới tùy phương ứng với vật mà năng sở đều quên. Đó gọi là Đại xả Nếu 1 bên hành đạo bố đức, 1 bên dứt bỏ hết không mong cầu gì, tâm này gọi là trung xả. Nếu rộng tu các điều thiện mà có sự mong cầu nghe pháp biết không bèn chẳng mê đắm trước, đó gọi là Tiểu xả. Bỏ lớn như ngọn đuốc ở trước mặt liền không mê ngộ. Nếu bỏ vừa thì như ngọn đuốc ở bên mình hoặc hoặc sáng hoặc tối. Nếu bỏ nhỏ thì như ngọn đuốc ở sau lưng không thấy hầm hố. tâm như Bồ tát hư không tất cả đều bỏ. Tâm quá khứ không thấy có là bỏ quá khứ. Tâm hiện tại không thể được là bỏ hiện tại. Tâm vị lai không thể được là bỏ vô lượng. Đó gọi là 3 đời đều bỏ. Từ khi Như Lai giáo pháp cho Ca-diếp đến nay. Lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác, ấn dính vào không thì ấn chẳng thành văn. Ấn dính vào vật thì ấn chẳng thành pháp. Cho nên dùng tâm ấn tâm tâm không đổi, năng ấn sở ấn đều khó khế hội nên vị được thì ít. Nhưng mà tâm tức không tâm được tức không được.
Phật có 3 thân pháp thân là nói tự tánh linh thông. Báo thân là nói tất cả thanh tịnh. Hóa thân là nói sáu độ vạn hạnh. Phép thân nói pháp thì chẳng dùng lời lẽ tiếng nói hình tướng văn tự, chẳng có chỗ nói chẳng có chỗ chứng, tự tánh linh thông mà thôi. Cho nên nói không có pháp nào để nói đó gọi là nói pháp. Còn báo thân, hóa thân thì đều tùy cơ cảm mà hiện ra nói pháp, cũng tùy sự ứng với căn để mà nhiếp hóa thì đều không phải là chân pháp, cho nên nói báo hóa không phải là chân Phật, cũng không phải là vị nói pháp.
Nói về Đồng là 1 Tinh minh mà chia làm sáu hòa hợp. 1 Tinh minh là 1 tâm, sáu hòa hợp là 6 căn đều hợp trần. Mắt hợp với sắc, tai hợp cùng, mũi hợp, lưỡi hợp với Thanh mũi hợp với hương, lưỡi hợp với vị, thân hợp với xúc, ý hợp với pháp giữa căn và trần ra 6 thức, thành 18 giới. Nếu hiểu biết 18 giới là không thật có, thì cột sáu hòa hợp thành một Tinh minh. Một Tinh minh tức là tâm. Người học Đạo đều biết điều này. Nhưng chỉ vì không tránh khỏi việc hiểu 1 Tinh minh sáu hòa hợp, bèn bị pháp trói buộc mà không khế hội bổn tâm. Như Lai hiện ra đời muốn nói pháp Nhất thừa, mà chúng sinh không tin chê bai nên bị chết chìm ở biển khổ. Nếu chẳng nói thì Phật rơi vào xan tham. Chẳng vì chúng sinh mà bố thí tất cả diệu Đạo, bèn phương tiện nói 3 thừa. Thừa có lớn nhỏ, được có sâu cạn, đều không phải bổn pháp. Cho nên nói chỉ có Đạo Nhất thừa này, hai thừa còn lại thì chẳng phải chân. Nhưng hoàn toàn chưa thể nào hiện bày pháp về 1 tâm. Cho nên mời Ca-diếp cùng ngồi trên pháp tòa, riêng trao cho pháp 1 tâm lìa nói năng: Một nhánh pháp này nay riêng thực hành nếu khế ngộ được thì liền đến Phật Địa.
Kệ Truyền Tâm của Tướng Quốc Bùi Hưu.
Ở Uyển lăng và Chung lăng tôi đều đích thân được Thiền sư Hy Vận-hoàng bá truyền hết tâm yếu, bèn làm kệ Truyền Tâm như vậy:
Tâm chẳng thể truyền
Lấy khế làm truyền
Tâm chẳng thể thấy
Lấy vô làm thấy
Khế cũng không khế
Không cũng chẳng không
Hóa thành chẳng ở
Trán mê có châu
Châu là cưỡng gọi
Thành đâu có hình
Tức tâm tức Phật
Phật tức vô sinh
Ngay đây chính là
Chớ cầu chớ xây
Khiến Phật tìm Phật
Càng phí công trình
Tùy pháp sinh hiểu
Liền vào cõi ma
Phàm Thánh chẳng phân
Bèn lìa nghe thấy
Vô tâm như gương
Với vật không tranh
Vô niệm giống không
Chẳng vật chẳng chứa
Pháp ngoài 3 thừa
Nhiều kiếp mong gặp
Nếu được như vậy
Là bậc xuất thế.
Có nghe: Đại sĩ Hà Đông chính mắt thấy Đạo sư Cao An truyền tâm yếu. Ở đời này làm kệ mà chỉ bày sau, sớm mở mang điếc cho vị mù, rực sáng như Đan Thanh. Tôi tiếc vì sẽ bị phân tán nên chép vào 1 bài này. Năm Mậu Tý, năm khánh lịch Nam Tông, tự là Thiên Chân kính ghi (Trong bài này có sửa đổi 11 chỗ, lạc mất 3 chữ, thêm vào 9 chữ. Có tra cứu ghi chép của 4 nhà. Nay chép riêng đây bài này.)
Thiền sư Hoài Nhượng sau đời thứ 3 có 61 vị.
* Đệ tử nối pháp Thiền sư Phổ Nguyên Nam Tuyền ở Trì Châu có 17 vị (12 người thấy có ghi lục).
1. Thiền sư Cảnh Sầm ở Hồ Nam Trường Sa
2. Thiền sư Đàm Chiếu ở Kinh Nam Bạch Mã
3. Thiền sư Sư Tổ ở Vân Tế núi Chung Nam
4. Thiền sư Nghĩa Đoan ở hạ đường hương nghiêm thuộc Đặng Châu,
5. Thiền sư Tùng Thâm ở Đông Viện Triệu
Châu
6. Thiền sư Nhàn ở Linh Thứu Trì Châu
7. Hòa thượng ở núi Thù Du Ngạc Châu
8. Thiền sư Lợi Tung ở Tử Hồ Cù Châu
9. Hòa thượng, Tung Sơn ở Lạc Kinh
10. Hòa thượng Nhật Tử
11. Hòa thượng Tô Châu Tây Thiền
12. Thú Sử Lục Hoàn ở Tuyên Châu,
13. Hành Giả Cam Chí Trì Châu (13 vị trên đây thấy có ghi lục)
14. Thiền sư Tồn Chế ở Tư Sơn
15. Thiền sư Đạo Hoàng ở Giang lăng
16. Huyền Cực Thiền sư ở Tuyên Châu
17. Thiền sư Đạo Quân ở nước Tân La
(4 vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú không ghi lục)
***
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Tề An ở Diêm
Quan-Hàng Châu có 8 vị (3 người thấy có ghi lục)
1. Thiền sư Đạo thường ở Quan Nam Tương Châu,
2. Thiền sư Huyền Chân ở Song Lãnh Hồng Châu,
3. Thiền sư Giám Tông ở Kính Sơn Hàng Châu
(ba người thấy có ghi lục)
4. Hoàng đế Tuyên Tông đời Đường
5. Thiền sư Đàm Tinh ở Bạch Vân
6. Thiền sư Văn Cử ở Lạc Thủy Lộ Phủ
7. Thiền sư Phẩm Nhật ở Tân La
6. ở Thiền sư Kiến Tông Thọ Châu, (5 vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú không ghi lục).
***
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Linh Mặc ở núi
Ngũ Tiết-vụ Châu có 4 vị (1 người thấy có ghi lục)
1. Thiền sư Chánh Nguyên ở núi Qui SơnPhước Châu (1 người thấy có ghi lục)
2. Thiền sư Hiểu Phương ở Chùa Cam Tuyền
3. Thiền sư Tạng Hoán ở chùa Thê Tâm Minh Châu
4. Thiền sư Nguyên Toại ở Chùa Cam Tuyền (3 vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú không ghi lục)
***
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Như mãn ở chùa Phật Quang-Lạc Kinh có 1 vị: 1. Thứ sử Bạch Cư Dị ở Hàng Châu (1 người thấy có ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai-Minh Châu có 3 vị:
1. Thiền sư Ca Trí ở nước Tân La
2. Hòa thượng Thiên Long ở Hàng Châu (2 vị trên đây thấy có ghi lục)
3. Thiền sư Trung Ngạn ở Tân La (1 người này không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp Thiền sư Linh Thoan ở chùa
Vĩnh Thái-Kinh Châu có 5 vị
1. Thiền sư Giới Hư ở Thượng Lâm Hồ Nam
2. Hòa Thượng Bí Ma Nham ở núi Ngũ Đài
3. Hòa thượng Kỳ Lâm Hồ Nam (3 vị trên đây thấy có ghi lục)
4. Thiền sư Văn Chất ở núi Lữ Hậu
5. Thiền sư Pháp Hà ở Tô Châu (2 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Tích ở Bàn sơn-U Châu có 2 vị
1. Hòa thượng Trần Thủ Phổ Hóa
2. Hòa thượng Trấn Châu Thượng Phương ở Trấn Châu (1 vị không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Duy Khoan ở Chùa Hưng Thiện-Kinh triệu có 6 vị:
1. Thiền sư Pháp Trí ở Kinh Triệu
2. Thiền sư Kinh Triệu ở Vô Biểu
3. Thiền sư Kinh Triệu ở tuệ Kiến
4. Thiền sư Kinh Triệu ở Nguyên Tịnh
5. Thiền sư Kinh Triệu ở tuệ Quang 6. Thiền sư Kinh Triệu ở Nghĩa Tông.
(6 vị không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Tịnh Tông ở Vân
Thủy (có 2 vị)
1. Thiền sư Thần Chiếu ở Tiểu Mã Hoa Châu
2. Thiền sư Đạo Viên ở Hoa Châu.
(2 vị không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Thiền Sư Viên Sướng ở núi Long Nha-Đàm Châu có 2 vị:
1. Thiền sư Tạng Dị ở Gia Hòa (1 người thấy có ghi lục)
2. Thiền sư Dương Trường ở Tạng Khu
(1 vị không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Quốc sư Vô Nghiệp ở
Phần Châu (có 2 vị)
1. Thường Trinh Thiền sư ở Trấn Châu 2. Thiền sư ở Trấn Châu Phụng Tiên nghĩa.
* Đệ tử nối pháp ngài Lô Sơn Qui Tông Thiền sư ở (Trí Thường có 6 vị)
1. Thiền sư Linh Huấn ở núi Phù Dụng Phước Châu,
2. Hòa thượng Cao Đình ở huyện Cốc Thành
Hán Nam
3. Hòa thượng Đại Mao người nước Tân La
4. Thiền sư Trí Thông ở Ngũ Đài (4 vị này có ghi lục)
5. Thiền sư Đại Ngu ở Cao An Hồng Châu
6. Giang Châu Thứ sử Lý Bột (2 người này không có Ngữ lục).
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Vân ở Lỗ
Tổ (có 1 vị)
1. Hòa thượng Vân Thủy.
* Đệ tử nối pháp ngài Đạo Thông Thiền sư ở núi Tử Ngọc (có 1 vị)
1. Tiết Độ Sứ Vu Địch Tương Châu thờ nhà Đường. (1 vị này không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Trí Tạng ở chùa Hoa Nghiêm (có 1 vị)
1. Hòa thượng Tề An ở Huỳnh Châu (1 vị này thấy có ghi lục)
***
* Thiền sư Hoài Nhượng ở-Đời thứ 3.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Phổ Nguyện Nam Tuyền ở Trì Châu.
1. Cảnh Sầm hiệu Đại sư Chiêu Hiền ở Trường Sa Hồ Nam.
Bắt đầu ở Lộc Uyển là đời thứ nhất. Sau đó ở chỗ không nhất định. Sư chỉ theo duyên tiếp vật, tùy xin mà nói pháp. Nên mọi người lúc ấy gọi là Hòa thượng Trường Sa. Sư lên Pháp Đường nói: Nếu Tôi 1 bề mở mang Tông giáo thì Trong Pháp Đường cỏ cao một trượng, việc ta chẳng được, do đó mà tôi nói với các ông rằng: Tất cả thế giới mười phương đều là mắt Sa môn, tất cả thế giới mười phương đều là toàn thân Sa môn, hết cả thế giới mười phương đều là ánh sáng của mình, tất cả thế giới mười phương đều ở trong ánh sáng của mình, tất cả thế giới mười phương không 1 ai chẳng phải là mình. Tôi nói với các ông rằng: 3 đời chư Phật cùng hết cả pháp giới chúng sinh là ánh sáng Ma-ha Bát Nhã. Khi ánh sáng chưa phát ra thì các ông hướng vào đâu mà phó thác. khi ánh sáng chưa phát thì còn không có tin tức của Phật của chúng sinh, chỗ nào mà được núi sông cõi nước đến. Lúc đó Có vị Tăng hỏi rằng: Thế nào là mắt Sa môn? Sư nói dài dài ra mãi chẳng được. Lại nói thành Phật thành Tổ ra chẳng được, 6 đường luân hồi ra chẳng được. Vị Tăng nói: Chẳng hay ra cái gì chẳng được. Sư nói: Ngày thấy mặt trời đêm thấy sao. Vị Tăng nói: Đệ tử chẳng hiểu. Sư nói: Núi diệu cao màu xanh càng xanh. Vị Tăng hỏi: Trong giáo nói: mà thường ở tòa Bồ đề này, thế nào là tòa. Sư nói Lão Tăng đang ngồi ở vị Đại Đức. Có vị Tăng hỏi thế nào là Đại Đạo? Sư nói suốt đời mất ông. Vị Tăng hỏi chư Phật là ai. Sư nói từ vô thỉ kiếp đến nay nhờ ai che mát. Vị Tăng hỏi khi chưa có chư Phật về trước thì Sư làm gì? Sư nói: Lỗ tổ mở Pháp Đường cùng Sư Tăng nói Đông nói Tây. Vị Tăng nói: Đệ tử chẳng dựa vào đất đai thời giờ thì thế nào? Sư nói: Ông hướng vào đâu ma an thân lập mạng. Vị Tăng hỏi tức dựa vào đất đai và thời gian thì ra sao? Sư nói: Hãy ra khỏi cái thấy chết. Vị Tăng hỏi: Thế nào là dị loại Sư nói: Thước ngắn mà tấc dài. Vị Tăng hỏi: Thế nào là thầy chư Phật Sư nói chẳng thể trải qua bẻ thẳng mà làm cong chăng? Vị Tăng nói xin Hòa thượng hướng thượng mà nói Sư nói: Xà Lê mắt mù tai điếc là sao? Sư sai một vị Tăng đi hỏi người đồng tham là Hòa thượng hỏi rằng:
Hòa thượng thấy Nam Tuyền sau này Thế nào? Hội im lặng hồi lâu. Vị Tăng hỏi: Khi chưa thấy Nam Tuyền về trước thì Hòa thượng thế nào? Hội nói: Chẳng thể có ghi khác nữa. Vị Tăng trở về nói lại cho Sư. nghe Sư bèn nói 1 kệ rằng:
Người đầu rào trăm trượng chẳng động
Tuy vào được cũng chưa là chân
Đầu sào trăm trượng phải tiến bước
Thế giới mười phương là toàn thân.
Vị Tăng hỏi: Như dầu sào trăm Trượng làm sao tiến bước. Sư nói: Núi Lãng Châu, nước lễ Châu. Vị Tăng nói: Xin sư nói. Sư nói: Rộng hoằng hóa trong 4 biển 5 hồ.
Có khách đến gặp Sư gọi lớn "Thượng thư"! Người ấy dạ! Sư nói chẳng phải là bổn mạng Thượng thư. Người ấy đáp: Chẳng thể lìa mà lại ngay bây giờ chỉ đối riêng có chủ nhân thứ 2. Sư nói: Gọi Thượng thư làm chí tôn được chăng? Người ấy đáp đó chẳng chỉ đối thời chẳng phải là đệ tử và chủ nhân chăng? Sư nói không phải chỉ đối hay chẳng đối, từ vô thỉ kiếp đến nay là cội gốc sinh tử. Có kệ rằng:
Người học Đạo mà chẳng biết chân
Chỉ vì từ xưa nhận thức thần
Vô thỉ kiếp nay gốc sinh tử
Người si gọi là thân xưa nay.
Có Tú tài xem kinh Phật Danh hỏi rằng: Trăm ngàn chư Phật chỉ thấy danh hiệu của các ngài chẳng hay ở cõi nước nào có còn hóa vật hay không? Sư nói: Lầu Hoàng Hạc Thôi Hiệu đề, sau Tú tài có từng đề chưa? Đáp: Không hề. Sư nói: Được nhàn tản đề 1 bài có ngại gì? Vị Tăng hỏi: Nam Tuyền thiên hóa đi đến nơi nào? Sư đáp nhà Đông làm lừa, nhà Tây làm ngựa. Vị Tăng hỏi: Ý này Thế nào? Sư đáp muốn cỡi thì cỡi muốn xuống thì xuống. Vị Tăng Hạo Nguyệt hỏi: Thiện tri thức trong thiên hạ chứng được 3 đức Niết-bàn chưa? Sư hỏi Đại Đức hỏi Niết-bàn trong quả hay Niếtbàn trong nhân? Đáp hỏi Niết-bàn trong quả. Sư nói: Thiên hạ Thiện tri thức chưa chứng. Hỏi: Vì sao chưa chứng? Sư đáp vì công chưa bằng với các Thánh. Hỏi: Công chưa bằng các Thánh sao gọi là Thiện tri thức. Sư nói thấy sáng Phật tánh cũng được gọi là Thiện tri thức. Hỏi chẳng hay công bằng với Đạo nào thì gọi là chứng Đại Niết-bàn.
Sư có bài kệ rằng:
Ma-ha Bát Nhã chiếu
Pháp giải thoát sâu xa
Pháp thân thể vắng lặng
Ba một Lý viên thường
Muốn biết chỗ công bằng
Đây gọi Thường tịch quang.
Lại hỏi: Quả của 3 đức Niết-bàn đã được chỉ bày, vậy thế nào là Niết-bàn trong nhân? Sư nói: Chính là. Đại Đức Lại hỏi: Trong giáo huyễn ý là có chăng? Sư hỏi: Đại Đức nói gì? Hỏi: Huyễn ý đó có hay không có? Sư đáp: Đại Đức nói gì? Hỏi:
Như thế thì huyễn ý là không có cũng không không chăng? Sư nói: Đại đức là nói gì? Hỏi: Như con trình bày ba lần đều không khế hội huyễn ý, chân hay Hòa thượng nói thế nào về huyễn ý trong giáo. Sư hỏi Đại Đức có tin là tất cả pháp, chẳng thể nghĩ bàn chăng? Đáp: Thật lời Phật nói đâu dám chẳng tin. Sư hỏi: Đại Đức nói tin, vậy trong 2 tin thì là tin nào? Đáp: Con nói trong 2 tin gọi lấy duyên tin. Sư nói: Y vào giáo môn nào được sinh duyên tin. Đại Đức nói: Y cứ vào Hoa Nghiêm nói Bồ tát Ma-ha Tát lấy trí tuệ vô chướng vô ngại mà tin tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Lại Hoa Nghiêm nói: Chư Phật Thế Tôn đều biết pháp thế gian và pháp tánh chư Phật không khác nhau, quyết định chẳng 2. Lai Hoa Nghiêm nói: Phật pháp và pháp thế gian thấy chân thật tất cả không khác nhau. Sư nói: Đại Đức nêu duyên tin giáo môn rất có chỗ đến, nghe Lão Tăng cùng Đại Đức nói ý huyễn trong giáo. Nếu người thấy huyễn xưa nay vốn là chân, đó gọi là người thấy Phật. Viên thông pháp pháp không sinh diệt, không diệt không sinh là thân Phật. Lại hỏi: Con giun đứt làm 2 đoạn, 2 đoạn đều bò đi là Phật tánh ở (đoạn) nào. Sư nói động và chẳng động là cảnh giới nào vị Tăng bảo: Nói chẳng có sách vở, chẳng phải lời người trí nói. Chỉ như Hòa thượng nói động thì xuất phát từ kinh nào? Sư nói rõ ràng lời nói không liên quan đến sách vở, chẳng phải người trí nói, pháp há chẳng thấy kinh Thủ lăng Nghiêm nói: Phải biết mười phương vô biên bất động hư không cùng với chỗ động của đất nước lửa gió gọi là 6 đại, tánh thật viên dung đều là Như Lai tạng vốn không sinh diệt.
Sư có kệ rằng:
Rất sâu xa lại rất sâu xa,
Thân người pháp giới chính là tâm.
Mê thì mê tâm vì các sắc,
Khi ngộ cánh giới là chân tâm
Thân giới hai trần không thật tướng,
Rõ ràng hiểu đây gọi tri âm.
Lại hỏi: Thế nào là Đà la ni? Sư chỉ bên phải giường thiền bảo: Cái này Sư Tăng tụng được: Lại hỏi có riêng người tụng được chăng?
Lại chỉ bên trai giường thiền bảo: Cái này Sư Tăng cũng tụng được. Hỏi: Vì sao tôi chẳng nghe. Sư nói: Đại Đức há chẳng nghe nói. Chân tụng thì không có tiếng vang, chân nghe thì không nghe thấy gì. Vị Tăng nói: Đó thì tiếng chẳng vào tánh pháp giới. Sư nói lìa sắc mà cầu xem không phải chánh kiến, lìa tiếng mà cầu nghe ấy là nghe tà. Hỏi: Vì sao không lìa sắc là chánh kiến, không lìa tiếng là chân nghe? Sư bèn nói kệ:
Đầy mắt không phải sắc
Đầy tai không phải tiếng
Văn Thù thường thấy hết
Quán Âm bít lỗ tai
Đủ ba nguồn một thể
Thấu bốn gốc đồng chân
Đầy nhà pháp giới tánh
Không Phật cũng không người.
Vị Tăng hỏi: Nam Tuyền nói: Con cáo con bò đực lại biết có, chư Phật 3 đời không biết có. Vì sao chư Phật 3 đời chẳng biết có? Sư nói: Cũng như ông khi chưa vào lộc uyển. Vị Tăng nói: Con cáo con bò đực vì sao biết có. Sư nói: Ông sao lạ gì chúng. Vị Tăng hỏi: Hòa thượng kế thừa người nào? Sư nói: Ta không có người có thể kế thừa. Vị Tăng hỏi: Lại có tham học hay không? Sư nói ta tự tham học lấy. Vị Tăng hỏi ý sư thế nào? Sư có kệ rằng:
Hư không hỏi muôn tượng
Muôn tượng đáp hư không
Người nào thân được nghe
Mộc Xoa tóc trái đào
Vị Tăng hỏi: Thế nào là tâm bình thường? Sư nói: Muốn ngủ thì ngủ muốn ngồi thì ngồi. Vị Tăng nói: Đệ tử không hiểu. Sư nói: Nóng thì chọn mát lạnh thì hơ lửa. Vị Tăng hỏi một đường hướng thượng xin Sư nói. Sư nói: 1 lỗ kim sợi chỉ 3 thước. Vị Tăng hỏi phải hiểu thế nào? Sư nói: Ích Châu có vải, Dương Châu có lụa. Vị Tăng hỏi: Động là giống Pháp vương Tịch là cội rễ Pháp vương, thế nào là Pháp vương? Sư chỉ cây cột bảo: Sao không hỏi Đại sĩ. Nhân trước sân ngó mặt trời, Ngường Sơn nói: Mọi người đều có việc ấy, chỉ là dùng không được. Sư nói: Xin ông dụng. Ngường Sơn hỏi làm sao dụng? Sư bèn đạp té Ngường Sơn. Ngường Sơn nói: Ngay đây giống con sâu lớn ấy. Từ đó các nơi đều gọi Sư là Sầm Đại Trùng vị Tăng hỏi: Người xưa nay có thanh Phật không? Sư nói: Ông có thấy vua nước Đại Đường tự làm ruộng cắt lúa chăng? Vị Tăng nói: Chẳng hay vị nào thành Phật. Sư nói là ông thành Phật. Vị Tăng không đáp. Sư hỏi: Hiểu chăng? Vị Tăng nói không hiểu. Sư nói: Như người do đất mà té thì từ đất mà ngồi dậy, đất nói gì Tam Thánh khiến Thượng Tọa Tú hỏi rằng: Nam Tuyền thiên hóa đi về đâu? Sư đáp:
Thạch Đầu còn làm Sa di tham kiến Lục tổ Tú nói:
Không hỏi Thạch Đầu gặp Lục Tổ mà hỏi Nam Tuyền khi thiên hóa đi về đâu? Sư nói: Giáo ấy tìm hiểu đi. Tú nói: Hòa thượng tuy có thông lạnh ngàn thước, lại không mọc lên tre đá Sư làm thinh. Tú nói: Tạ ơn Hòa Thượng đáp lời! Sư cũng làm thinh Thượng tọa Tú kể lại với Tam Thánh. Tam Thánh nói: Nếu thật thế thì cũng hơn Lâm Tế 7 bước, song phải đợi ta thử nghiệm xem. Đến sáng hôm sau thì Tam Thánh lên hỏi: Vừa nghe Hòa thượng đêm qua đáp 1 lời về Nam Tuyền thiên hóa có thể nói là sáng rực cả từ trước đến nay xưa nay hiếm thấy. Sư cũng làm thinh. Vị Tăng hỏi thế nào là Văn Thù. Sư nói là vách tường ngói gạch là đó. Lại hỏi thế nào là Quán Âm. Sư nói tiếng tăm nói năng là đó. Lại hỏi thế nào là Phổ Hiền. Sư nói tâm chúng sinh là đó. Lại hỏi Thế nào là Phật? Sư nói sắc thân chúng sinh là đó. Vị Tăng nói hà sa chư Phật, thể đều đồng đâu có các thứ danh tự (tên gọi). Sư nói: Từ phải ngược về nguồn gọi là Văn Thù, từ tai ngược về nguồn gọi là Quán Âm, từ tâm ngược về nguồn gọi là Phổ Hiền. Văn Thù là t trí của Phật. Diệu quán sát Quán Âm là Vô Duyên Đại từ của Phật, Phổ Hiền là Diệu hạnh vô vi của Phật. Tam Thánh là Diệu dụng của Phật, Phật là chân thể của Tam Thánh. Dụng thì có hà sa giả danh. Thể thì tên chung là 1 Bạc Già Phạm. Vị Tăng hỏi: Sắc tức là không, không tức là sắc, lý này thế nào? Sư nói kệ rằng:
Chỗ ngại chẳng vách tường
Chỗ thông chẳng hư không
Nếu người hiểu như Thế
Tâm sắc xưa nay đồng.
Lại nói kệ rằng:
Phật tánh rõ ràng bày hiện
Trụ tánh hữu tình khó thấy
Nếu ngộ chúng sinh Vô ngã
Mặt mình nào khác mặt Phật.
Vị Tăng hỏi: Thức thứ 6, thứ 7 và thức thứ 8 rốt ráo không thể vì sao có thể gọi là chuyển thức thứ 8 là trí Đại viên cảnh? Sư có kệ rằng:
Bảy sinh nương một diệt
Một Diệt giữ bảy sinh
Một Diệt diệt cũng diệt
Sáu bảy mãi không dời.
Lại có vị Tăng hỏi: Con giun đứt làm 2 đoạn, 2 đoạn đều bò đi, chẳng hay Phật tánh ở đoạn nào? Sư nói vọng tưởng làm gì. Vị Tăng hỏi: Sao nó cử động được. Sư nói: Ông há chẳng biết gió lửa chưa tan. Vị Tăng hỏi Thế nào mà chuyển được núi sông cõi nước về mình? Sư hỏi làm sao chuyển được mình thành núi sông cõi nước? Vị Tăng nói: Không hiểu. Sư nói: Dưới thành Hồ Nam nuôi tốt dân, lúa rẻ củi nhiều no đủ bốn xóm. Vị Tăng ấy không đáp được. Sư có kệ rằng:
Ai hỏi núi sông chuyển
Núi sông chuyển vì ai
Viên thông chẳng hai bờ
Pháp tánh vốn không về.
Có Đại Đức giảng Hoa Nghiêm hỏi: Hư không nhất định có hay nhất định không? Sư nói: Nói có cũng được mà nói không cũng được. Khi hư không có thì chỉ giả có, còn khi hư không là không thì chỉ giả không. Hỏi như chỗ đều Hòa thượng nói thì có giáo văn nào làm chứng. Sư nói: Đại Đức há chẳng nghe kinh Thủ lăng Nghiêm có nói: Hư không Mười phương sinh trong tâm ông cũng như mảng mây bay trong hư không, há chẳng phải khi hư không sinh thì chỉ sinh giả danh Lại nói: Ông 1 người phát chân về nguồn thì hư không mười phương đều tiêu mất, há chẳng phải là hư không khi diệt thì chỉ diệt giả danh Do đó Lão Tăng nói có là giả có, không là giả không. Lại hỏi kinh nói như trong Tịnh lưu ly hiện ra tượng vàng ròng ý này ra sao? Sư nói: Vì Tịnh lưu ly là thể pháp giới, vì tượng vàng vòng là thể trí vô lậu. Thể hay sinh ra trí, trí hay đạt hay. Cho nên nói như trong tịnh lưu ly hiện ra tượng vàng ròng. Hỏi: Như thế nào là hành xứ của người Thượng thượng? Sư nói: Như mắt người chết. Hỏi: Khi người Thượng thượng gặp nhau thì như thế nào? Sứ nói như tay vị chết. Hỏi vì sao Thiện Tài trải vô lượng kiếp đến các thế giới trong thân Phổ Hiền mà không khắp? Sư hỏi: Ông từ vô lượng kiếp đến nay có đi được khắp chăng? Hỏi: Thế nào là thân Phổ Hiền? Sư đáp: Trong điện Hàm Nguyên lại tìm Trường An. Hỏi Thế nào là tâm của Đệ tử? Sư nói: Khắp hết thế giới mười phương là tâm ông. Hỏi: Thế thì đệ tử không có chỗ để thân? Sư nói: Là chỗ ông để thân đấy. Hỏi chỗ nào để thân? Sư nói: Biển lớn nước sâu lại càng sâu. Vị Tăng nói: Đệ tử chẳng hiểu. Sư nói: Rồng cá ra vào mặc sức lên xuống. Hỏi: Có người hỏi Hòa thượng liền tùy nhân duyên mà đáp, đều không có ai hỏi Hòa thượng Thế nào? Sư đáp: Mệt thì ngủ, khỏe thì dậy. Hỏi: Dạy đệ tử hướng vào chỗ nào mà hiểu, Sư nói: Hạ nóng thì cởi trần, Đông lạnh thì đắp mền. Hỏi: vị Tăng mất rồi đi về đâu? Sư có kệ rằng:
Chẳng biết thể kim cang
Thì gọi là duyên sinh
Mười phương chân vắng lặng
Ai ở lại ai đi
Ngài Nam Tuyền có bài kệ chân tán rằng:
Rạng rỡ Nam Tuyền
Nguồn cội ba đời
Kim cang thường trú
Mười phương vô biên
Sinh Phật vô tận
Hiện xong lại về.
Nam Tuyền có bài kệ ở lâu hợp cơ rằng:
Ngày nay về quê vào đại môn
Nam Tuyền thân nói khắp trời đất
Pháp pháp rõ ràng đều ông cha
Quay đầu tủi thẹn với cháu con.
Sư đáp rằng:
Ngày nay đầu cơ việc chớ nói
Nam Tuyền chẳng nói khắp trời đất
Về quê toàn là việc con cháu
Ông cha từ xưa chẳng vào cửa.
Sư lại có kệ khuyên học rằng:
Đầu vào vạn trượng chưa nghỉ ngơi
Rõ ràng có nẻo ý
Thiền sư ở muốn hiểu Nam Tuyền đi
Đầy phải núi xanh muôn thứ thu.
Nhân Hòa thượng Lâm Tế nói: Trên cục thịt đỏ có vị chân nhân hay không, Sư có bài kệ rằng:
Muôn pháp nhất như một chẳng phân biệt
Như một ai chọn ai chẳng chọn
Tức nay sinh tử vốn Bồ đề
Như Lai ba đời đồng phải ấy.
Sư răng vị chặt phá thông trúc, kệ rằng:
Trúc ngàn Năm, tòng muôn Năm
Cành cành lá lá đều đồng nhau
Báo Khắp bốn phương kẻ huyền học
Động tay đâu cũng đều cha ông.
Ngài Kinh Nam Thiền sư Bạch Mã Đàm Chiếu ở thường nói rằng:
Sống vui, sống vui, khi chết thì kêu khổ khổ lại bảo: Vua Diêm La đến bắt ta. Viện Chủ hỏi: Hòa thượng lúc đó bị Tiết Độ sứ ném xuống nước mà thần sắc không động, bây giờ sao lại sợ sệt Thế? Sư đưa cái gối lên hỏi: Ông nói lúc đó là đúng hay ngày nay đúng? Viện Chủ không đáp được.
Sư Tổ Thiền sư ở Vân Tế, núi Chung Nam.
Lúc đầu khi ở Nam Tuyền có hỏi: Châu ma ni vị chẳng biết, ở trong Như Lai vị Tăng mà thu được, thế nào là vị Tăng? Nam Tuyền nói: Cùng ông lui tới là vị Tăng. Sư hỏi: Không lui tới thì sao? Nam Tuyền nói cũng là Tàng. Lại hỏi: Thế nào là châu? Nam Tuyền gọi lớp "Sư Tổ". Sư "dạ"!. Nam Tuyền nói: Đi đi, ông không hiểu lời ta. Sư từ đó kính tin mà vào.
Thiền sư Nghĩa Đoan trụ Hạ Đường Hương Nghiêm, ở Đặng Châu.
Sư dạy chúng rằng: Huynh đệ kia đây chưa dứt, có sự tướng gì cần bàn bạc. Ta 5, 3 ngày nữa sẽ đi. Như nay người học cần phải dứt hết lúc này, chớ ưa cái gì khác hơn là vị vô sự. Huynh đệ dẫu học được các nghĩa lý khác nhau, nhưng không bao giờ thay được kiến giải của mình, phải cố gắng hết sức mình mới được. Chớ ghi nhớ các chương cú hay họ chỉ càng rắc rối. nếu Các ông muốn tương ưng chỉ cần cung kính hết sức chớ dừng nghỉ mảy may, thẳng tựa hư không mới có chút phần, vì hư không cột khóa, không vách ngăn, rơi vào chỗ không hình tướng không có phải tâm.
- Có vị Tăng hỏi: Người xưa khi gặp nhau thì thế nào? Sư nói Lão Tăng chẳng hề thấy người xưa nào khác. Vị Tăng hỏi ngày nay nhân lúc còn sống mà ham muốn Thế Sứ nói có chỗ ham muốn nào đâu. Vị Tăng hỏi con chẳng hỏi việc nhàn xin Hòa thượng đáp. Sư nói: Lại từ tạ mà tìm cái gì? Vị Tăng nói không phải việc nhàn. Sư bảo: Ông dạy ta nói. Sư lại nói: Huynh đệ, Phật là trần pháp cũng là trần, suốt ngày tìm cầu có lúc nào ngưng nghỉ. Chỉ trong lúc không có điều đeo tình, tình không đeo vật không thiện để lấy, không ác để bỏ, chớ bảo bị cái khác cột trói, mới là chỗ học.
- Có vị Tăng hỏi: Khi con từ giả 1 vị Túc người ấy có dạy con rằng khi đi thì gần bạn bè nương Đạo phải, chẳng hay ý của Lão Túc ra sao? Vừa lễ bái thì Sư nói: Lễ bái mặc tình chớ nhận tớ làm ông. Vị Tăng hỏi Thế nào là cắt ngang nguồn cội? Sư bèn ném gậy vào phương trượng.
- Một hôm Sư bảo chúng rằng: Nói thì chê, im thì điên, im và nói hướng thượng có nẻo ở đó. Lão Tăng miệng hẹp không nói cho ông nghe được. Rồi xuống Pháp đường. Vị Tăng hỏi 1 câu Thế nào? Sư nói trong đây 1 câu cũng không. Vị Tăng hỏi: Chánh nhân vì sao vô sự? Sư nói Ta không hề dừng nghỉ. Lại nói nếu như có nhiều lớp thì lột cho sạch hết chẳng dừng. Lúc quyền thì bày ra cũng là phương tiện tiếp người nếu như là việc bên kia thì điều này không có.
5. Thiền sư Tùng Thâm ở viện Quán Âm, thuộc Triệu Châu.
Sư là người ở Hách Hương thuộc Tào Châu, họ Hách thuở nhỏ ở viện Hộ Thông tại triệu châu theo thầy cạo tóc mặc áo Đạo nhưng chưa thọ giới, bèn đến Trì Dương tham vấn Nam Tuyền. Gặp lúc Nam Tuyền đang an nghỉ mà hỏi rằng: Vừa rồi chỗ nào? Sư nói: Vừa rời viện Thụy Tượng. Hỏi: Còn thấy Thụy Tượng chăng? Sư nói không thấy Thụy Tượng chỉ thấy Như Lai nằm.
Hỏi: Ông là Sa di có chủ hay không chủ? Đáp: Sa di có chủ? Hỏi: Chủ ở đâu? Đáp: Tháng giữa Đông rét dữ chúc Hòa thượng tôn thể muôn phúc. Nam Tuyền biết là pháp khí nên cho nhập thất. Một hôm Sư hỏi Nam Tuyền: Thế nào là Đạo? Nam Tuyền nói: Tâm bình thường là Đạo. Sư hỏi: Lại có thể đến được chăng? Nam Tuyền nói: Muốn hướng đến liền trái. Sư hỏi: Khi không muốn hướng đến thì làm sao biết là Đạo. Nam Tuyền nói Đạo không thuộc biết hay không biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu là thật thấu suốt Đạo chẳng nghi thì cũng như Thái hư rỗng rang trống không, đâu thể cưỡng là phải hay không phải Sau lời nói thì Sư ngộ lý. Bèn đến Đàn lưu ly ở Tung Nhạc mà thọ giới. Rồi trở về Nam Tuyền. Một hôm khác hỏi Nam Tuyền rằng biết có người nào đến chỗ nào thì nghỉ dứt Nam Tuyền nói: Xuống núi làm trâu đi! Sư nói: Tạ Đêm qua canh 3 trăng đến cửa sổ Sư châm 1 mồi lửa. Một hôm đóng cửa đốt sáng đầy nhà rồi kêu to: Cứu lửa, cứu lửa. Lúc đó Đại chúng đều chạy đến. Sư nói nói được thì mở cửa. Chúng đều không đáp được. Nam Tuyền đem chìa khóa đến cửa sổ trao cho Sư, sư bèn mở cửa. Lại khi Sư đến Hoàng bá. Hoàng bá thấy đến thì liền đóng cửa phương trượng lại. Sư bèn cầm lửa vào trong Pháp đường kêu lớn cứu lửa, cứu lửa. Hoàng bá mở cửa nắm Sư lại bảo nói, nói! Sư nói: Giặc qua rồi mới giương cung bắn! Sư lại đến Bảo Thọ. Bảo Thọ thầy sư đến bèn ở trên giường thiền ngồi xoay mặt vào vách. Sư trải tọa cụ lễ bái. Bảo Thọ xuống giường Thiền sư ở bèn lui ra. Sư lại đến Diêm Quan bảo: Xem tên. Diêm Quan nói: Qua rồi. Sư nói trúng! Sư lại đến Giáp Sơn chống gậy vào Pháp Đường. Giáp Sơn hỏi làm gì? Đáp: Dò nước. Giáp Sơn nói 1 giọt cũng không, tham cái gì? Sư bèn chống gậy lui ra. Sư đến núi Ngũ Đài, có 1 Đại Đức làm kệ giữ Sư lại:
Núi xanh chỗ nào chẳng Đạo Tràng
Đâu cần xách gậy lễ Thanh Lương
Trong mây dẫu có lông vàng hiện
Chánh nhãn lúc xem chẳng tốt lành.
Sư hỏi: Thế nào là Chánh nhãn. Đại Đức không đáp được. Sư từ đó hoằng hóa ở đất Bắc. Chúng xin Sư đến ở Quán Âm Triệu châu. Sư lên Pháp đường dạy chúng rằng: Như hạt ngọc ở trong tay, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Lão Tăng cầm 1 cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, lấy thân vàng trượng sáu làm (cọng) cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật vị Tăng hỏi: Chẳng hay Phật là phiền não của ai Sư nói phiền não của tất cả mọi người. Vị Tăng hỏi làm sao khỏi được? Sư hỏi muốn phải làm sao? Sư quét đất. Có người hỏi rằng: Hòa thượng là Thiện tri thức vì sao có trần? Sư đáp bên ngoài đến vị Tăng lại hỏi thanh tịnh già làm vì sao có trần? Sư đáp lại một chút.
Lại có vị cùng Sư dạo trong vườn thấy con thỏ sợ hãi bỏ chạy bèn hỏi: Hòa thượng là Đại Thiện tri thức vì sao thỏ thấy sợ? Sư nói vì Lão Tăng ưa giết vị Tăng hỏi khi hoa giác chưa nở thì làm sao phân biệt trinh thật. Sư nói: Mở ra. Vị Tăng hỏi là trinh hay thật? Sư nói: Trinh là thật, thật là trinh. Vị Tăng hỏi vị nào có phần thượng sự. Sư đáp: Lão Tăng có phần Xà lê có phần. Vị Tăng hỏi: Con chẳng nhận thì làm sao? Sư giả bộ không nghe. Vị Tăng không đáp được. Sư bảo đi đi. Viện của Sư có cây cột đá bị gió thổi gãy. Vị Tăng hỏi cột Đà la ni đi làm phàm hay đi làm Thánh Sư đáp cũng chẳng làm phàm cũng chẳng làm Thánh. Vị Tăng hỏi cuối cùng làm gì? Sư nói rơi xuống đất. Sư hỏi 1 tọa chủ: Giảng kinh gì? Đáp: Giảng kinh Niếtbàn. Sư nói: Hỏi 1 đoạn nghĩa được chăng? Đáp: Được. Sư lấy chân đạp vào hư không, thổi 1 hơi hỏi: Là nghĩa gì Tọa chủ nói trong kinh không có nghĩa này. Sư nói là nghĩa 500 lực sĩ bày đá mà nói không có. Đại chúng buổi tối tham vấn, Sư nói rằng: Đêm nay đáp hỏi đi. Có ai hiểu câu hỏi thì ra. Lúc đó có 1 vị Tăng ra lễ bái. Sư nói: Đây như so với ném gạch mà dẫn đến ngọc rồi dẫn đến được cái đục. Có vị Tăng đến núi Ngũ Đài hỏi 1 bà lão rằng đường nào ra Ngũ đài Bà lão đáp: Cứ đi thẳng. Vị Tăng liền đi. Bà lão nói lại cứ thế mà đi Vị Tăng bèn kể lại sự việc với Sư. Sư nói đợi ta khám phá bà lão. Sáng hôm sau Sư liền đến hỏi: Đường lên núi Ngũ Đài đi ngã nào? Bà lão nói cứ đi thẳng liền đi. Lão bà nói lại cứ thế mà đi. Sư trở về viện bảo vị Tăng rằng: Ta vì ông khám phá bà lão ấy rồi. Vị Tăng hỏi vị nào lại đây Sư còn tiếp chăng? Sư nói tiếp. Vị Tăng hỏi: Không đến đây thì sư vẫn tiếp chăng? Sư nói: Tiếp Vị tăng nói: Người ấy đến đây thì sư tiếp không đến đây thì làm sao tiếp? Sư nói: Ngừng lại đi không cần nói nữa, pháp ta mầu nhiệm khó lường. Sư ra viện giữa đường gặp bà lão hỏi Hòa thượng ở đâu? Sư nói ở phía Tây viện đông tại Triệu Châu. Bà lão không nói. Sư trở về viện hỏi chúng vị Tăng, thì chúng vị Tăng cùng bảo cái đó là chữ Tây, hoặc nói chữ Đông tây, hoặc nói chữ ở trọ Sư nói: Các ông đều làm phán quan Diêm Thiết được. Vị Tăng hỏi Hòa vì sao thượng nói thế. Sư nói vì các ông đều biết chữ. Vị Tăng hỏi: Thế nào là báu trong đãy Sư nói ngậm miệng lại. Có vị Tăng mới đến bảo Sư rằng: Con từ Trường An đến vác ngang 1 cây gậy không vướng vào 1 ai. Sư nói: Là do Đại Đức vác gậy ngắn. Vị Tăng không đáp được. Có vị Tăng vẽ được hình Sư đem trình Sư, Sư nói: ông nói giống ta hay chẳng giống ta, nếu giống ta thì là đánh giết Lão Tăng, còn không giống ta thì đốt hình đi. Vị Tăng không đáp được. Sư đưa cao ngọn lửa hỏi vị Tăng rằng: Lão Tăng gọi là lửa, ông gọi là gì? Vị Tăng không đáp được. Sư nói: Chẳng biết huyền chỉ nhọc công niệm tịnh. Có vị Tăng mới đến tham vấn. Sư hỏi: Từ đâu đến? Vị Tăng nói từ phương Nam đến. Sư hỏi Phật pháp đều ở phương Nam ông đến trong ấy làm gì? Vị Tăng hỏi: Phật pháp há có phương Bắc chăng? Sư nói: Ông từ Vân Cư Tuyết Phong ở đến chỉ là gã gánh ván ấy. Vị Tăng hỏi: Thế nào là Phật? Sư nói: Trong điện đó. Vị Tăng hỏi: Trong điện kia há không phải là cái tượng nắn khám đất? Sư nói đúng. Vị Tăng hỏi thế nào là Phật? Sư nói trong điện đó. Vị Tăng nói: đệ tử mê muội xin Sư chỉ bày. Sư đáp ăn cháo chưa. Vị Tăng nói ăn cháo rồi. Sư nói rửa bát đi. Vị Tăng ấy bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Sư lên Pháp Đường nói vừa có phải quấy thì lăng xăng mất tâm. Lại có lời đáp không! Sau Có vị Tăng trình rằng bến lạc bến lạc gõ răng. Lại nêu bày với Vân Cư. Vân Cư nói: Cần gì vị Tăng trở về nói lại với Sư. Sư nói phương Nam có người tan thân mất mạng. Vị Tăng nói: xin Hòa thượng nêu. Sư vừa nêu lời nói trước. Vị Tăng chỉ vị Tăng bên nói: Sư Tăng đó ăn cơm xong nói lời ấy. Sư bèn thôi. Vị Tăng hỏi: Từ lâu nghe tiếng cầu đá Triệu Châu, đến nơi chỉ thấy cướp bóc. Sư nói: Ông chỉ thấy cướp bóc mà không thấy cầu Triệu Châu. Vị Tăng hỏi: Thế nào là cầu Triệu Châu? Sư nói: Đến đây! Lại có vị Tăng hỏi giống như trước sư cũng trả lời như trước. Vị Tăng hỏi: Thế nào là cầu Triệu Châu? Sư nói độ lừa độ ngựa. Vị Tăng hỏi: Thế nào là cướp bóc? Sư đáp ai cũng độ người. Sư nghe Sa di hét mà tham vấn, bèn bảo thị giả rằng:
Bảo nó đi. Thị giả bảo đi.
Sa di liền cẩn thận mà đi.
Sư nói Sa di được vào cửa
Thị giả ở ngoài cửa.
-Sư hỏi vị Tăng mới đến: Ở đâu đến? Vị Tăng nói từ Nam đến. Sư hỏi lại biết có cửa ải Triệu Châu chăng? Vị Tăng nói: Biết có chẳng quan hệ gì Sư nói: Cái lão bán muối ấy. Vị Tăng hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến? Sư xuống giường thiền đứng. Vị Tăng hỏi: Phải chẳng là cái ấy? Sư nói Lão Tăng chưa có lời ấy. Sư hỏi đầu bếp: Hôm nay kêu rau sống hay rau chín. Đầu bếp đem rau ra trình. Sư nói vị biết ân thì ít kẻ phụ ân thì nhiều. Vị Tăng hỏi: Trong kiếp không còn có người tu hành chăng Sư hỏi: Ông gọi cái gì là kiếp không? Vị Tăng không đáp. Vị Tăng hỏi: Thế nào là huyền trong huyền? Sư nói: Ông từ huyền đến bao lâu? Vị Tăng nói: Huyền đã lâu rồi. Sư nói: Nếu Xà lê không gặp Lão Tăng bao lâu sẽ bị huyền giết. Vị Tăng hỏi: Muôn pháp về 1, 1 về đâu? Sư nói: Lão Tăng ở tại Thanh Châu làm được 1 sắp vải màu nặng 7 cân. Vị Tăng hỏi: Đêm rời Đâu suất ngày xuống Diêm phù. Ở trong đó vì sao ma ni chẳng hiện. Sư hỏi: Nói cái gì. Vị Tăng ấy lại hỏi. Sư nói: Phật Tỳ-bà-thi sớm lưu tâm, thẳng đến như nay chẳng được diệu. Sư hỏi viện chủ: Từ đâu đến? Đáp rằng: Đến đây sông. Sư nói: Con quạ về sao bay đi? Viện chủ nói: Vì sợ con. Sư nói: Ông 10 Năm biết việc chỉ (nói) lời ấy. Viện chủ liền hỏi: Vì sao Quạ bay đi? Sư nói: Viện chủ không có tâm giết. Sư đưa bát lên nói: 30 Năm sau nếu thấy Lão Tăng thì giữ lấy mà cúng dường, nếu chẳng thấy thì đập vỡ đi. Một vị Tăng ra hỏi 30 Năm sau dám nói thấy được Hòa thượng. Sư bèn đập vỡ bát. Có vị Tăng từ giả, Sư hỏi: Đi đâu? Vị Tăng nói: Đi Tuyết Phong. Sư nói: Nếu Tuyết Phong bỗng hỏi ông. rằng: Hòa thượng có lời nói gì. thì: Ông làm sao đáp? Vị Tăng đáp: Con nói không được, xin Hòa thượng nói. Sư nói: Đông thì nói lạnh, Hạ thì nói nóng. Lại nói: Tuyết Phong lại hỏi ông việc rốt ráo thế nào? Vị Tăng ấy lại nói: Con nói không được. Sư bảo: Chỉ nói đích thân từ Triệu Châu đến không nói lời người khác truyền. Vị Tăng ấy đến kể lại đầy đủ cho Tuyết Phong nghe. Tuyết Phong nói: Phải là Triệu Châu mới được Thế. Huyền Sa nghe bảo rằng: Triệu Châu lớn nhỏ đều bại thiếu sót-chẳng biết-vị Tăng hỏi thế nào là 1 câu nói của Triệu Châu. Sư nói Lão Tăng nửa câu cũng không. Vị Tăng hỏi: Há Hòa thượng không có. Sư nói: Lão Tăng chẳng phải là 1 câu. Vị Tăng hỏi thế nào là xuất gia? Sư nói: Chẳng ham công danh không làm cẩu thả. Vị Tăng hỏi: Khi lắng trong dứt sạch là thế nào? Sư nói: Trong đó không vướng 1 khách làm chủ. Vị Tăng hỏi: Thế nào là ý Tổ Sư? Không vì vị Sư bèn giơ gõ vào giường thiền. Vị Tăng hỏi:
Chỉ cái đó không phải chăng? Sư nói: Lão Tăng từ nhỏ xuất gia không hề hoa mắt. Vị Tăng hỏi hà không phải là vị. Sư nói: Mong ông thường viên tướng Tỳ Lô. Có người hỏi Hòa thượng có vào địa ngục không? Sư nói: Lão Tăng cuối cùng cũng vào. Hỏi: Đại Thiện tri thức vì sao lại vào địa ngục? Sư nói: Nếu không vào địa ngục thì ai giáo hóa ông. Một hôm Chân Định Soái Vương Công dắt các con vào viện. Sư ngồi mà hỏi rằng: Đại vương hiểu chăng? Vương nói: Không hiểu. Sư nói từ nhỏ trì trai thân đã già, thấy người không sức xuống giường thiền. Vương công càng kính trọng. Sáng hôm sau sai khách tướng truyền lời, Sư xuống giường Thiền mà nhận. lát sau Thị giả hỏi: Hòa thượng thấy Đại vương đến sao không xuống giường thiền. Nay quân tướng đến lại xuống? Sư nói: Không thể biết được. Người bậc thượng ở trên giường mà tiếp; người bậc trung xuống giường thiền mà tiếp; người bậc hạ ra ngoài cổng tam môn mà tiếp. Sư gởi cây phất trần cho Vương công nói rằng: Như hỏi chỗ nào được đến, chỉ nói Lão Tăng bình sinh dùng không hết. Sư nói huyền ngôn khắp thiên hạ. Lúc đó gọi Triệu Châu môn phong đều sợ sệt tin phục. Năm Đường Càn Nguyên y thứ 4, ngày mồng 2 tháng 11, Sư nằm nghiêng hông bên phải mà tịch, thọ 120 tuổi. Sau vua ban Thụy hiệu là Chân Tế Đại sư.
Thiền sư Nhàn ở Linh Thứu Trì Châu.
Sư gọi chúng bảo rằng: Đây là phận sự của các ông, nếu bảo Lão Tăng nói thì tức là vẽ rắn có chân. Đây là Đốn giáo của các Thượng tọa. Có vị Tăng hỏi: Việc vẽ rắn thêm chân thì chẳng luận, thế nào là bổn phận sự? Sư nói: Xà Lê thử nói xem. Vị Tăng lại định hỏi thì Sư nói: Vẽ rắn làm gì? Hòa thượng Minh Vĩnh hỏi: Thế nào là lập tức đạt được pháp thân? Sư nói: 1 lần xem thấu mây ngoài Long môn, chớ làm Hoàng Hà chỉ trán cá. Ngưỡng Sơn hỏi: Vắng bặt không lời làm sao nghe thấy? Sư nói: Nhiều nước mưa nối dài trước tháp. Vị Tăng hỏi: Khi 2 cái đó không lời thì thế nào? Sư nói là thường. Vị Tăng hỏi lại có cái gì hơn thường chăng? Sư đáp: Có. Vị Tăng nói: Xin sư khởi xướng. Sư nói: Huyền châu tự sáng rỡ, đâu cần ánh sáng ngoài vách. Vị Tăng hỏi: Ngày nay cúng dường Đại sư Vô Nhiễm ở Tây Xuyên chẳng biết Đại sư có đến chăng? Sư đáp vốn tự không chỗ đến, nay há theo gió mà chuyển vị Tăng nói: Như thế thì đâu cần cúng dường. Sư nói công sức hữu vi hợp với nghĩa không đổi.
Hòa thượng ở núi Thù Du Ngạc Châu.
Lúc đầu ở viện Hộ Quốc tại Tùy Châu, là đời thứ nhất. Hòa thượng hỏi: Thế nào là Đạo. Sư nói Đừng đóng đinh vào trong hư không Quán nói hư không là cọc. Sư bèn đánh. Quán nắm gậy bảo:
Chớ đánh con, sau này đánh lầm người. Sư bèn thôi. Hòa thượng Thâm ở Triệu Châu trước đến Vân Cư. Vân Cư hỏi: Lão Lão Đại Đại Hán sao không tìm chỗ ở? Thâm nói làm sao ở được Vân Cư nói trước núi có nền chùa xưa. Thâm nói Hòa thượng tự ở đấy. Sau đến chỗ Sư. Sư nói: Lão Lão Đại Đại Hán sao không ở đi. Niệm hỏi: Ở chỗ nào. Sư nói Lão Lão Đại Đại Hán chỗ ở cũng không biết. Niệm nói: 30 Năm chơi cỡi ngựa, ngày nay bị lừa đánh. Chúng vị Tăng đứng hầu, Sư nói: Chỉ đứng yên đó không nói, 1 chỗ buồn. Có vị Tăng định hỏi, Sư bèn đánh, bảo rằng đã vì chúng hết sức, rồi vào phương trượng. Có hành giả đến tham, Sư hỏi: Có đi gặp Triệu Châu chăng? Hỏi: Hòa thượng dám nói chăng? Sư bảo: Không phải chỉ Thù Du mà tất cả mọi người đều nói không được. Hỏi: Hòa thượng tha lỗi cho con. Sư nói trong đó từ trước chẳng chung cho nhân tình. Lại nói: Xin phát tâm từ bi. Sư lại đánh bảo. Tỉnh rồi sau sẽ vì ông.
Thiền sư Lợi Tung ở núi Tử Hồ, Cù Châu.
Sư người ở Thiền Châu họ Chu. Xuất gia tại chùa Khai Nguyên ở u châu, theo năm mà thọ giới cụ túc Sau vào thất của Nam Tuyền. Rồi lại cất am tranh tại núi Mã đề ở Cù châu. Năm Đường Khai Thành thứ 2 năm thời Đường, người trong ấp lập viện Tử Hồ dưới núi mời Sư đến ở. Niên hiệu Hàm Thông thứ 2 vua ban ngạch là Thiền Viện An Quốc. Một hôm Sư lên Pháp đường dạy chúng rằng: Ở Tử Hồ có 1 con chó trên lấy đầu người, giữ lấy tâm người, dưới lấy chân người, định nghĩ bàn liền tan thân mất mạng. Có vị Tăng hỏi thế nào 1 con chó ở Tử Hồ. Sư nói: Gâu gâu! Có 2 vị Tăng ở dưới Lâm Tế đến tham vấn đang vén rèm lên Sư nói: Xem chó. 2 vị Tăng xoay đầu lại Sư liền trở về phương trượng. Sư cùng Hòa thượng Thắng Quan vườn, Sư bỗng chống cuốc nhìn Thắng Quang và bảo: Sự thì chẳng phải không có, mà tâm nghĩ đến liền sai. Quang bèn lễ bái định hỏi. Sư bèn đạp cho 1 đạp rồi trở về Viện. Có 1 Ni đến tham. Sư hỏi: Có không phải là Lưu Thiết Ma? Ni đáp không dám. Sư bảo quay sang trái, quay sang phải xem. Ni đáp: Hòa thượng chớ điên đảo. Sư liền đánh nửa đêm Sư ở vị Tăng đường hô lớn có giặc! Chúng đều kinh sợ chạy ra. Sư đến sau Tăng đường ôm chặt cứng 1 vị Tăng gọi to: Duy na bắt được rồi, bắt được rồi! Vị Tăng nói không phải con. Sư nói phải mà, chỉ là ông không chịu nhận thôi! Sư có kệ dạy chúng rằng:
Ba mươi Năm đến ở Tử Hồ
Hai thời cơm cháo khí lực thô
Mỗi ngày lên núi năm, ba chuyến
Xin hỏi nào ai có hiểu không.
Sư ở Tử Hồ nói pháp 45 Năm. Trong niên hiệu Quảng Minh, Sư không bịnh mà tịch thọ 81 tuổi, lạp được 61. Nay núi ấy vẫn còn tháp thờ Sư.
Hòa thượng Tung Sơn ở Lạc Kinh.
Có vị Tăng hỏi: Khi đường xưa bằng phẳng là sao? Sư đáp: Không đi tới. Vị Tăng hỏi: Vì sao không đi tới? Sư đáp: Không có chỗ ngăn che. Vị Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Tung Sơn? Sư đáp: Mặt trời mọc ở hướng Đông, mặt trăng lặn về Tây. Nói: Đệ tử không hiểu. Sư nói: Đông Tây cũng chẳng hiểu. Vị Tăng hỏi: Khi 6 thức đều sinh là sao? Sư đáp khác. Vị Tăng hỏi: Vì sao Thế? Sư nói giống nhau.
Hòa thượng Nhật Tử.
Á Khê đến tham. Sư ra bộ đứng dậy. Á Khê hỏi: Lão quỉ núi ấy cũng thấy ta. Sư nói: Tội quá tội quá, vừa đến mất đối đáp. Á Khê muốn nói thì Sư bèn hét. Á Khê nói: Trước trận lớn không đề phòng khó chống cự. Sư nói: Phải phải. Á Khê nói chẳng phải chẳng phải.
Hòa thượng Tây Thiền ở Tô Châu.
Có vị Tăng hỏi: 3 thừa 12 phần giáo thì chẳng nói, thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc đến? Sư đưa cây phất trần lên. Vị Tăng ấy không lễ bái, lại đi tham vấn Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi từ đâu đến. Vị Tăng nói: Từ chiết Trung đến. Tuyết Phong hỏi: Mùa hạ này ở đâu? Đáp: Ở Tây thiền tại Tô châu. Tuyết Phong hỏi: Hòa thượng có an chăng? Đáp khi đi thì muôn phước. Tuyết Phong hỏi sao không thong dong? Đáp: Phật pháp chẳng rõ. Tuyết Phong nói: Có việc gì? Vị Tăng nêu lời nói trước. Tuyết Phong hỏi ông sao chẳng chịu. Vị Tăng nói là cảnh. Tuyết Phong hỏi ông thấy mọi người nam nữ trong thành Tô Châu chăng? Đáp: Thấy. Tuyết Phong hỏi ông thấy rừng cây trên đường chăng? Đáp: Thấy. Tuyết Phong nói hễ thấy mọi người nam nữ cây cối đất đai... thì đều là cảnh, Ông lại chịu chăng? Đáp: Chịu. Tuyết Phong nói thì như đưa cây phất trần lên, sao ông không chịu. Vị Tăng bèn lễ bái thưa: Đệ tử chỉ lấy lời nói ra, xin Sư từ bi chỉ dạy. Tuyết Phong nói hết cả (trời đất) đều là mắt ấy, ông ngồi ở đâu? Vị Tăng không đáp được.
Thứ sử Lục Hoàn ở Tuyên Châu.
Trước hỏi Nam Tuyền rằng: Người xưa nuôi trong bình 1 con ngỗng, con ngỗng dần lớn lên chui ra khỏi bình không được. Như nay không được dập bể bình, không được giết ngỗng, Sư làm sao lấy ra được? Nam Tuyền gọi lớn "Đại phu"!, Lục: Dạ! Nam Tuyền nói ra rồi!
Lục từ đó khai ngộ. Khi Nam tuyền thị tịch, viện chủ hỏi rằng: Đại phu sao chẳng khóc Tiên sư. Lục bảo: Viện chủ nói được thì tôi khóc ngay. Viện chủ không nói được.
Hành giả Cam Chí ở Trì Châu.
Mang xâu tiền đi vào Tăng đường, ở trước mặt đệ nhất tòa nói rằng: Xin thượng tọa cho tiền. Thượng tọa đáp tài thí vô tận, pháp thí vô cùng. Cam nói: Nói thế thì sao có được tiền của tôi? Lại mang đi ra. Thượng tọa không đáp được. Lại ở ngài Nam Tuyền cúng cháo nói rằng: Xin Hòa thượng niệm tụng. Nam Tuyền nói: Hành giả Cam Chí cúng cháo, xin đại chúng vì con cáo hoang con trâu đực trắng mà niệm Ma-ha Bát nhã ba la mật. Cam bèn lễ bái rồi lui ra. Ngài Nam Tuyền vào nhà bếp đập bể cái chảo. Hòa thượng Tuyết Phong đến, Cam đóng cửa hô lớn xin Hòa thượng vào. Tuyết Phong ở cách bờ rào ném áo vào. Cam bèn mở cửa, lễ bái. Có vị Tăng Trú Am đến hóa duyên xin vật. Cam bảo: Nếu nói được liền cho. Bèn viết chữ tâm rồi hỏi chữ gì? Vị Tăng nói chữ tâm. Lại hỏi vợ là chữ gì. Vợ đáp chữ tâm. Cam nói vợ ta cũng hợp với Trú Am. Vị Tăng không đáp được. Cam cũng không cho. Lại hỏi một Tăng, hỏi: Từ đâu đến? Vị Tăng nói từ Qui Sơn đến. Cam nói: Từng có Tăng hỏi Qui Sơn thế nào là ý từ Tây Trúc đến. Qui Sơn đưa cây phất trần lên, Thượng tọa có hiểu ý Qui Sơn là thế nào chăng? Vị Tăng đáp mượn việc mà làm sáng tâm, nương vật mà bày rõ lý. Cam nói hãy trở về Qui Sơn đi nhé.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Tề An ở Diêm Quan, Hàng Châu trước đây.
Thiền sư Đạo Thường ở Quang Nam, Tương Châu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến Sư đưa gậy lên hỏi: Hiểu không? Vị Tăng nói không hiểu Sư bèn hét đi ra! vị Tăng hỏi Thế nào là nguồn Đại Đạo? Sư thoi cho một tấm. Mỗi khi thấy vị Tăng đến tham lễ thì phần nhiều Sư cầm gậy đuổi chạy. Hoặc nói chậm 1 khắc, hoặc nói đánh động trống Quan Nam. Mà lúc đó Bối Tiên có xướng họa.
Thiền sư Huyền Chân ở Song Lãnh, Hồng Châu.
Trước hỏi ngài Đạo Ngô rằng Bồ tát không có thần thông vì sao dấu chân khó tìm. Đạo Ngô nói kẻ đồng đạo mới biết. Sư hỏi Hòa thượng có biết chăng. Đáp: Không biết. Sư hỏi vì sao không biết? Đáp: Đi đi, chẳng biết lời ta nói. Sau Sư ở Diêm quan mà khế hội.
Thiền sư Giám Tông ở Kính Sơn, Hàng Châu.
Sư là người ở Trường Thành Hồ Châu, họ Tiền nương Đại Đức Cao Nhàn tại chùa Khai Nguyên ở hàng châu mà xuất gia, học thông kinh Tịnh Danh Tư Ích. Sau đến yết kiến ngài Đại sư Ngộ Không mà cởi bỏ hết nghi ngờ. Năm Đường Hàm Thông 3 thì ở tại Kính Sơn mà mở bày Thiền giáo. Có 1 tiểu Sư (vị Tăng trẻ) là Hồng Cẩn vì giảng luận mà tự khoe khoang. Sư gọi bảo rằng chánh pháp của Phật tổ thẳng dứt khoát mất lời, ông coi như cát biển đối với lý nào ích gì, chỉ có thể không giữ lấy tri kiến, dứt mất duyên ngoại, lìa tất cả tâm thì tức là chân tánh của ông. Yên nghe mà mù tịt, lễ lạy giã từ, du phương, đến chỗ ngài Qui Sơn thì mới ngộ được Huyền chỉ. Bèn thờ Qui Sơn làm thầy. Hàm Thông thứ 7 nhằm năm Bính Tuất ngày 5 tháng 3 nhuần thì Sư tịch. Vua ban Thụy hiệu là Vô Thượng Đại sư, tức là Kính Sơn đời thứ 2 vậy.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ Tiết trước đây.
Thiền sư Chánh Nguyên ở Qui Sơn Trường Khê.
Thuộc Phước Châu. Sư người ở Nam Lăng thược Tuyên Châu, họ Thái. Thuở nhỏ chán tục xuất gia, ở Tịch Sơn phước châu mà cạo tóc. Niên hiệu Đường Nguyên Hòa năm thứ 12 nhằm năm Đinh Dậu, đến thọ giới cụ túc tại chùa càn nguyên ở kiến châu. Sau đó tìm đến thất của Mặc sư ở núi Ngũ Tiết mà quyết trạch Huyền Vi. Sau ở Qui Sơn là đời thứ 2. Sư từng thuật 2 bài kệ, bài 1 và 2.
Biển xanh mấy độ thành ruộng dâu Chỉ có hư không lặng trong veo Người đã đến bờ thôi luyến bè Chưa hề qua sông phải đợi thuyền.
1) Tìm thầy nhận được nguồn bổn tâm Hai bờ đều Huyền, một chẳng toàn Là Phật chẳng cần thứ tìm Phật nữa Chỉ nhờ như thế liền quên duyên.
Năm Cảm thông 10 Sư mất ở núi này, thọ 78 tuổi lạp được 54. Vua ban Thụy là Tánh Không Đại sư, tháp hiểu tuệ Quán.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Như Mãn ở chùa Phật Quang,
Lạc Kinh trước đây.
Thứ sử Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên, ở Hàng Châu đời Đường.
Từ lâu tham vấn ngài Phật Quang mà được tâm pháp, gồm học Bảo Giới Kim cang của đại thừa. Vào năm Nguyên Hòa ông đến trụ Pháp Đường Hưng Thiện ở Kinh Triệu mà làm Tứ Vấn. 15 Năm ông cai trị ở Hàng Châu chê Hòa thượng Ô Sào có kệ tụng hỏi đáp. Có viết thư cho Pháp sư Tế, dùng Đại tuệ Vô Thượng của Phật mà giảng nói giáo lý, có theo cớ cao thấp ứng bịnh khác nhau, cùng 1 vị bình đẳng mà nói trái nhau. Ông lại dẫn 6 kinh Duy Kim cang Tam-muội v.v... mở mang hai nghĩa mà vấn nạn. Lại lấy 5 uẩn 12 duyên nói danh sắc trước sau không cùng loại, lập lý mà nêu ra các chỗ gút mắc sâu kín thì làm cho thông suốt sáng tỏ. Nhưng chưa thấy Pháp sư trả lời. Sau cũng ít có người đáp.
Lại nhận ở thiền sư Ngưng Đông Đô về ở 8 Tiệm, bèn rộng ở 1 lời mà làm 1 kệ để giải thích chỉ thú từ cạn đến sâu lần lượt như xâu chuỗi. chỗ ông trấn nhậm phần nhiều đều hỏi Tổ Đạo học Sư Vô Thường. Sau vì tân khách phân ly Đông Đô, đem hết bổng lộc của mình mà sửa sang chùa Hương Sơn Tự ở Long môn. Chùa sửa xong bèn tự soạn bài ký. Hễ làm văn liên quan đến giáo hóa thì đều khen Phật thừa sẽ thấy nêu trong tập sách này ghi rõ việc làm quan của ông theo thứ tự về tất cả năm tháng thì sử truyện còn lưu giữ...
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai trước đây.
Thiền sư Ca Trí ở nước Tân La:
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc đến? Sư nói: Đợi trong đầu ông đến ta sẽ nói cho ông nghe. Vị Tăng hỏi thế nào là ý chỉ của Đại Mai? Sư nói: Sữa đặc ban cho lúc ném đi.
Hòa thượng Thiên Long ở Hàng Châu.
Sư lên Pháp Đường nói: Đại chúng chớ đợi Lão Tăng đi lên thì đi lên đi xuống thì đi xuống, mọi người đều có biển tánh Hoa Tạng đầy đủ công đức sáng suốt vô ngại, tất cả đều cẩn thận tìm hiểu lấy. Vị Tăng hỏi: Thế nào là ý của Tổ sư? Sư dựng thẳng cây phất trần. Vị Tăng hỏi: Thế nào là được ra khỏi 3 cõi. Sư hỏi nay ông đang ở đâu?
Đệ tử nối pháp của Thiền sư Linh Thụy ở chùa Vĩnh Thái trước đây.
Thiền sư Giới Linh ở Thượng Lâm, Hồ Nam.
Trước Sư tham vấn ngài Qui Sơn, Ngài hỏi: Đại Đức đến đây làm gì? Sư nói: Giáp trụ toàn đủ. Ngài Qui Sơn nói: Tất cả từ bỏ rồi đến cho Đại đức cùng gặp. Sư nói: Từ bỏ rồi. Qui Sơn hét bảo: Giặc còn chưa đánh hết làm sao? Sư không đáp được Ngưỡng sơn đáp thay rằng:
Xin Hòa thượng che 2 bên Qui Sơn vòng tay vái chào nói: Vâng, vâng! Sau Sư tham vấn ngài Vĩnh Thái mới nói cho biết ý chỉ.
Hòa thượng Bí Quảng Nham ở núi Ngũ đài.
Sư thường cầm 1 cái dĩa gỗ. Mỗi khi thấy vị Tăng đến lễ bái thì liền lấy cái dĩa đeo vào cổ bảo rằng: Đó là ma quỷ dạy ông xuất gia, đó là ma quỷ dạy ông hành cước. Nói được thì xoa cũng chết, nói không được thì xoa cũng chết. nói Mau. Học vị Tăng ít có người đáp được.
Hòa thượng Kỳ Lâm ở Hồ Nam.
Sư thường hét bảo Văn Thù, Phổ Hiền đều là tinh mị, tay cầm kiếm gỗ bảo hàng ma. Vừa Có vị Tăng tham lễ, bèn nói: Ma đến! Ma đến! Rồi múa kiếm loạn xa mà vào phương trượng. suốt trong mười hai Năm. Sau bỏ kiếm không nói. Vị Tăng hỏi 12 Năm trước vì sao hàng ma. Sư nói: Giặc cướp không đánh nhà nghèo. Vị Tăng hỏi sau 12 Năm vì sao không hàng ma? Sư nói giặc cướp không đánh nhà nghèo.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Tích ở Bàn Sơn, U Châu trước đây.
Hòa thượng Phổ Hóa ở Trấn Châu.
Không biết Sư người ở đâu. Sư thờ ngài Bàn Sơn mà ngầm được chân quyết rồi giả điên mà nói năng vô độ. Đến khi Bàn Sơn thị tịch bèn hành hóa ở đất Bắc. Hoặc ở thành thị hoặc ở nghĩa địa gõ một cái chuông mà nói rằng: Sáng đến cũng đánh, tối đến cũng đánh. Một hôm ngài Lâm Tế sai vị Tăng nắm lại nói: Không sáng không tối lúc đó thế nào? Đáp rằng: Những ngày sắp tới trong viện Đại Bi có trai hội. Hễ thấy người không cao không thấp đều gõ 1 tiếng mõ. Lúc đó người đời gọi Sư là Hòa thượng Phổ Hóa. Hoặc đem mõ đến tai người gõ, hoặc đeo ở lưng có người ngoái đầu lại liền chìa tay ra nói cho tôi 1 đồng. Phi thời gặp thức ăn thì cũng căn. Đã từng chiều tối đi vào viện ngài Lâm Tế mà ăn cơm rau sống. Ngài Lâm Tế nói: Lão ấy giống 1 cái đầu lừa! Sư liền hý vang tiếng lừa. Lâm Tế bèn thôi. Sư nói: Tên đày tớ Lâm Tế chỉ có một con mắt. Sư thấy Mã bộ sứ đi ra quát tháo, Sư cũng quát tháo và làm thế như đang đánh nhau. Mã Bộ sứ sai người đánh 5 gậy. Sư nói: Hình như thì hình như, đúng thì không đúng. Sư thường ở chốn chợ búa gõ mõ mà hô rằng: Tìm cái bỏ chỗ không thể được. Lúc đó Đạo Ngô gặp Sư giữ lại hỏi rằng: Ông định bỏ chỗ nào Sư hỏi ông từ đâu đến? Đạo Ngô không đáp. Sư kéo tay rồi đi. Một hôm sư vào viện ngài Lâm Tế. Lâm Tế nói giặc giặc! Sư cũng nói giặc giặc! Rồi cùng vào vị Tăng Đường. Lâm Tế chỉ Thánh vị Tăng hỏi là phàm hay Thánh.
Sư nói là Thánh. Lâm Tế bảo: Nói lời ấy. Sư bèn gõ mõ nói: Hà Dương mẹ con mới, tháp gỗ, Lão bà thiền, đứa đầy tớ Lâm Tế chỉ có một con mắt. Năm Đường Hàm Thông 1 Sư sắp thị tịch bèn vào chợ gọi người bảo rằng: "Cho ta 1 áo dài". Người cho áo khoát hoặc áo vải đều không nhận, gõ mõ mà đi. Lúc đó Lâm Tế sai vị đưa cho 1 quan tài. Sư cười bảo: "Thằng đầy tớ Lâm Tế nhiều lời", rồi nhận. Và nói lời từ tạ rằng Phổ Hóa tôi ngày mai đi về cửa Đông mà chết. Người trong quận cùng kéo nhau đưa Sư ra khỏi thành. Sư hét lớn hôm nay chôn không được tốt. Bèn bảo ngày thứ 2 ta ở cửa Nam mà thiên hóa. Người cũng chiều theo. Sư lại bảo ngày mai ra cửa Tây mới tốt. Mọi người kéo ra dần dần thưa đi. Sư ra đó rồi lại trở về. Mọi người có ý chán dần. Đến ngày thứ 4 thì tự vác quan tài ra ngoài cửa Bắc, gõ chuông vào quan tài mà chết. Người trong quận chạy ra ngoài thành mở quan tài ra nhìn thì không thấy gì. Chỉ nghe tiếng chuông xa dần. Không lường được lý do.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Viên Sướng ở núi Long Nha trước đây.
Thiền sư Tạng Dực ở Gia Hòa.
Sư là vị ở Tín An Cù Châu, họ Trình. Trong niên hiệu Đường Nguyên Hòa Sư từ biệt cha mẹ đến chùa Nhạc Lộc ở trường Sa chùa lễ Luật Sư Linh Trí mà xuất gia. Năm Trường Khánh 3, Sư ở chùa Khai Nguyên ở Vô lăng mà thọ giới cụ túc Nhân nghe Luật bộ, bèn bảo bạn đồng học rằng: Giáo môn quá rườm rộng, phải tìm cửa chung. Bèn đến gặp Thiền sư Sướng ở núi Long Nha. Ngài Long Nha bảo rằng: Uẩn giới không thật, Phật và (chúng sinh) không phải ta. Ông chánh gốc tên gì, từ ai mà được. Sư sau lời nói ấy thì lãnh ngộ. Bèn trở về Kha Sơn mà lánh nạn vua Đường Võ đuổi vị Tăng Ni. Sau sư ở Long Hưng mà giáo hóa rộng. Năm Càn Phù thứ 6 trong tháng 3 thì Sư tịch thọ 82 tuổi lạp được 56.
Đệ tử nối pháp của Thiền sư Trí Thường ở chùa Qui Tông trước đây.
Thiền sư Linh Huấn ở núi Phù Dung, Phước Châu.
Lúc đầu Sư tham vấn ngài Qui Tông, hỏi rằng: Thế nào là Phật. Qui Tông nói: Ta nói với ông, ông tin chăng? Sư nói: Hòa thượng nói lời thành thật đâu dám chẳng tin. Tông nói chính ông là phật Sư hỏi: Làm sao giữ gìn? Tông nói: Một khi lóa mắt thì hoa đốm rơi đầy. Sư từ giả ngài Qui Tông. Tông hỏi ông đi đâu? Sư nói về Lãnh Trung. Tông nói:
Ông ở đây nhiều Năm buộc áo xong liền đến vì ông mà nói Phật pháp Nhất thừa. Sư bèn buộc áo lên Pháp Đường. Tông nói đến gần đây. Sư bèn đến gần Tông nói: Lúc lạnh giữa đường khéo làm. Sư nghe câu nói ấy liền quên ngay hiểu trước. Sau Sư tịch được vua ban Thụy là Hoằng Chiếu Đại sư, tháp hiệu là Viên Tướng.
Hòa thượng Cao Đình ở huyện Cốc Thành, Hán Nam.
Có vị Tăng từ Giáp Sơn đến lễ bái. Sư liền đánh. Vị Tăng nói: Riêng đến lễ bái, sao Sư đánh? Vị Tăng ấy lại lễ bái. Sư lại đánh đuổi đi. Vị Tăng trở về kể lại cho Giáp Sơn. Nghe Giáp Sơn hỏi: Ông hiểu không? Vị Tăng nói không hiểu. Giáp Sơn nói: Trách ông không hiểu, nếu hiểu thì miệng của Giáp Sơn này sẽ câm.
Hòa thượng Đại Mao người nước Tân la.
Sư lên Pháp Đường nói: Muốn biết thầy chư Phật thì xưa nay trong tâm vô minh mà biết lấy. Muốn biết tánh thường trú không tàn rụi thì hướng về sự đổi dời của muôn cây biết lấy, vị Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Đại Mao? Sư nói: Chẳng lộ mũi nhọn. Vị Tăng hỏi: Vì sao chẳng lộ kim? Sư nói không tương xứng.
Thiền sư Trí Thông ở núi Ngũ Đài.
Trước đến gặp ngài Qui Tông. Bỗng 1 đêm đi tuần Đường (nhà thiền) kêu lớn: Ta đã đại ngộ. Chúng đều kinh hãi. Sáng hôm sau Qui Tông lên Pháp Đường nhóm hợp chúng hỏi rằng: Đêm qua vị Tăng nào đại ngộ bước ra đi. Sư bước ra thưa Trí Thông. Qui Tông hỏi: Ông thấy đạo lý gì nói là đại ngộ thử nói ta xem. Sư đáp Sư cô tự nhiên là cô gái làm ra. Qui Tông im lặng lấy làm lạ. Sư bèn từ giả. Qui Tông đưa ra cửa đưa cho cái nón. Sư lấy nón đội lên đầu mà đi không hề quay đầu lại. Sau Sư ở chùa Pháp Hoa ở Đài Sơn. Khi qua đời Sư có bài kệ rằng:
Đưa tay sờ (Nam Đẩu)
Quay mình dựa Bắc Thần
Thò đầu thấy ngoài trời
Ai là người như ta.
* Đệ tử nối pháp của Thiền sư Trí Tạng ở chùa Hoa Nghiêm trước đây.
Hòa thượng Tế An ở Huỳnh Châu.
Sư dạy chúng rằng: "Nói chẳng lạc câu Phật tổ chẳng bày. Huyền vận chẳng rơi, ai người biết được". Vị Tăng hỏi: Thế nào là biết được Phật mình? Sư nói: "1 lá lúc sáng tiêu không hết. Gió tùng vận hết oán không người". Vị Tăng nói: Thế nào là Phật mình? Sư nói: Trước cỏ tuấn mã thật khó cùng. Diệu hết lại cần súc sinh đi. Có người hỏi Đại sư bao nhiêu tuổi? Sư nói 5, 6, 4, 3 chẳng được loại. Há đồng 1, 2 thật khó cùng. Sư có bài tụng:
Trong lửa dữ dằn người có nẻo Gió thoảng trên đầu, bốc lên cao Trấn thường nhiều kiếp sai khác nhau Mặt trời không nói chiếu khắp nơi Sau Sư ở tại Phụng Tường.
❑