TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2077 - TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

MỤC LỤC

SỐ 2077 - TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

QUYỂN 1

MỤC LỤC

1. Thiền sư Thiện Chiêu ở viện Thái tử tại Phần dương.

2. Thiền sư Quy Tỉnh ở viện Quảng giáo, Diệp huyện.

3. Thiền sư Hồng Nhân ở Thần đảnh.

4. Thiền sư Uẩn Thông ở Cốc ẩn.

5. Thiền sư Nguyên Liên ở Quảng tuệ.

6. Thiền sư Trí Tung-Tam giao

7. Thiền sư Trí tung ở viện Thiết Phật.

8. Thiền sư Hoài Chí ở Thủ sơn.

9. Thiền sư Xứ Bình ở viện Nhuận vương.

10. Thiền sư Hồi Hãn ở Trí môn.

11. Sơn chủ Tuệ Chiêu ở Lộc môn.

12. Cư sĩ Thừa tướng Vương Tùy.

QUYỂN 2

MỤC LỤC

ĐỆ TỬ NỐI DÕI DÒNG PHÁP THIỀN SƯ TỘ Ở TRÍ MÔN

1. Thiền sư Trọng Hiển ở Tuyết đậu.

2. Thiền sư Tử Vinh ở Diên khánh.

3. Thiền sư Trí Ánh ở Bách trượng.

4. Thiền sư Bảo Duyên ở Nam hoa.

5. Thiền sư Thọ ở Hộ quốc.

6. Thiền sư Cần ở Cửu phong.

7. Thiền sư Kế Bằng ở Vân cái.

8. Thiền sư Hải ở Hoàng long.

9. Thiền sư Trừng Tứ ở Chương pháp.

10. Thiền sư Tỉnh Nhân ở Vân đài.

11. Thiền sư Hảo ở sơn.

12. Thiền sư Thiệu Tiên ở Từ vân.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHÂU Ở VĂN THÙ

1. Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CẦN Ở NAM ĐÀI

1. Thiền sư Pháp Quảng ở Cao dương.

2. Thiền sư Tiết Thành ở Thạch sương.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CẢNH Ở HẮC THỦY

1. Thiền sư Nghĩa Khâm ở Hắc thủy.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ GIỚI Ở NGŨ TỂ

1. Thiền sư Tự Bảo ở Động sơn.

2. Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm.

3. Thiền sư Tư Quảng ở Bắc tháp.

4. Thiền sư Trí Ngung ở Vân cái.

5. Thiền sư Tuệ Ngung ở Thúy phong.

6. Thiền sư Đoan ở Tứ tổ.

7. Thiền sư Tú ở Ngũ tổ.

8. Thiền sư Hoài ở Thiên đồng.

9. Thiền sư Biện ở Bạch mã.

10. Thiền sư Trí Dục ở Thủy nam.

11. Thiền sư Thông ở Hải hội.

12. Thiền sư Tử Tường ở Nghĩa đài.

13. Thiền sư Hoài Sở ở Thập vương.

14. Thiền sư Đạo Hải ở Định tuệ.

15. Thiền sư Văn Cát ở Nhạn đảng.

16. Thiền sư Diệu Viên ở Động sơn.

17. Thiền sư Thúc Chi ở Bảo nham.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THIỆN Ở PHƯỚC XƯƠNG

1. Thiền sư Tề Nhạc ở Thượng phương.

2. Thiền sư Thường Thản ở Dục vương.

3. Thiền sư Thụy Tân ở Kim sơn.

4. Thiền sư Tuân ở Phước xương.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÍN Ở CÀN MINH

1. Thiền sư Di Túc ở Dược sơn.

2. Thiền sư Thùy Bạch ở Tây thiền.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHÃ Ở PHƯỚC NHAM

1. Thiền sư Trí Hiền ở Bắc thiền.

2. Thiền sư Chấn ở Hành nhạc.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HIỀN Ở KHAI PHƯỚC.

1. Thượng tọa Nhật Phương.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TUNG Ở BÁO TỪ.

1. Thiền sư Tốn ở Hưng dương.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VIỄN Ở ĐỨC SƠN.

1. Thiền sư Thiện Xiêm ở Khai tiên.

2. Thiền sư Sở Tài ở Hòa sơn.

3. Thiền sư Thạnh Cần ở Tư Thánh.

4. Thiền sư Khuê ở Lộc uyển.

5. Thiền sư Nhân Biện ở Đại trung.

6. Thiền sư Quế Phương ở Bồ-đề.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ KHOÁT Ở TÂY PHONG.

1. Thiền sư Tự Nghiêm ở Nam an nham.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHÍ Ở QUẢNG GIÁO.

1. Thiền sư Hoài ở núi Tứ diện.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THIỆN VIỄN Ở THẠCH MÔN.

1. Thiền sư Hạo Thăng ở cư.

2. Thiền sư Phương ở Quảng tế.

3. Thiền sư Giám ở Vân đảnh.

4. Thiền sư Khế Thuyên ở Đạo ngô.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ QUÁN Ở LƯƠNG SƠN.

1. Sơn chủ La Văn Đức Trân.

2. Thiền sư Lợi Dục ở Dược sơn.

3. Thiền sư Nham ở Lương sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ YẾN Ở ĐỨC SƠN.

1. Thiền sư Trí Tiên ở Đức sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CẢM Ở BẮC THIỀN.

1. Thiền sư Thông ở Nam thiền.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGHIỄM Ở CỐC ẨN

1. Thiền sư Khế Sùng ở Cốc ẩn.

QUYỂN 3

MỤC LỤC

ĐỆ TỬ NỐI DÕI DÒNG PHÁP CỦA THIỀN SƯ CHIÊU Ở PHẦN DƯƠNG.

1. Thiền sư Sở Viên-Từ Minh ở Thạch sương.

2. Thiền sư Tuệ Giác ở Lang da.

3. Thiền sư Thủ Chi ở Đại ngu.

4. Thiền sư Pháp Vĩnh ở Thạch sương.

5. Thiền sư Toàn Cử ở Pháp hoa.

6. Thiền sư Cốc Tuyền ở Ba tiêu.

7. Thiền sư Hiểu Ngu ở Long hoa.

8. Thiền sư Hạo Thái ở Thiên Thánh.

9. Thiền sư Trí Viên ở Long đàm.

10. Thiền sư Viên Tu ở Đầu tử.

11. Thiền sư Đạo Nhất ở Thái tử.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỈNH Ở HUYỆN DIỆP

1. Thiền sư Pháp Viễn ở Phù sơn.

2. Thiền sư Pháp Chiêu-Diễn giáo ở Bảo ứng.

3. Thiền sư Tuệ Quả ở Đại thừa.

QUYỂN 4

MỤC LỤC

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THÔNG Ở CỐC ẨN.

1. Thiền sư Đàm Vĩnh ở Kim sơn.

2. Thiền sư Tuệ Nguyệt ở Thúy phong, Động đình.

3. Thiền sư Tu Kỷ ở Trượng tích.

4. Thiền sư Đức Tuân ở Đại thừa.

5. Thiền sư Pháp Hiển ở Trúc viên.

6. Thiền sư Diên Chiếu ở Vĩnh phước.

7. Thiền sư Cư Tố ở Cảnh.

8. Thiền sư Từ Trân ở Nhân thọ.

9. Thiền sư Hiển Khâm ở Vân môn.

10. Thiền sư Quang Phổ ở Vĩnh khánh.

11. Cư sĩ Phù mã đô úy Lý Tuân Úc.

12. Cư sĩ Anh Công Hạ Tủng.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ ÂN Ở THẦN ĐẢNH.

1. Sơn chủ Bảo Tình ở Khai Thánh.

2. Thiền sư Quang Vân ở Diệu trí.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LIÊN Ở QUẢNG TUỆ.

1. Thiền sư Đạo long ở Hoa nghiêm.

2. Thiền sư Tuệ Nam ở Tuệ lực.

3. Thiền sư Đức Tuyên ở Quảng tuệ.

4. Cư sĩ Văn Công Dương Ức.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHAM Ở LƯƠNG SƠN

1. Thiền sư Thiện Ký ở Lương sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THUYÊN Ở

1. Thiền sư Khế Ngu ở Thiên bình.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHU Ở QUY TÔNG

1. Thiền sư Hành Lâm ở La-hán.

2. Thiền sư Tân ở Thiên đồng.

3. Thiền sư Giác Kha ở Công thần.

4. Thiền sư Giản ở Thiên đồng.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HẰNG Ở BÁCH TRƯỢNG.

1. Thiền sư Trừng Thục ở Thê hiền.

2. Thiền sư Đức Hưng ở Vạn thọ.

3. Thiền sư Hy Vĩnh ở Vân môn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ ĐIỀU Ở SÙNG THỌ.

1. Thiền sư Linh Sầm ở Vân đài.

2. Thiền sư Viên Tấn ở Tư quốc.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÍCH Ở VÂN CƯ.

1. Thiền sư Tùng Tấn ở Bát-nhã.

2. Thiền sư Chí Siêu ở hóa.

QUYỂN 5

MỤC LỤC

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HIỂU THÔNG Ở ĐỘNG SƠN

1. Thiền sư Hiểu Thuấn ở Vân cư

2. Thiền sư Hoài Hựu ở Đại quy.

3. Thiền sư Khế Tụng ở Phật nhật.

4. Thái thú Hứa Thức Lang Trung.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HOÀI TRỪNG Ở LẶC ĐÀM.

1. Thiền sư Hoài Liên ở Dục vương.

2. Thiền sư Vân Tri ở Linh ẩn.

3. Thiền sư Duy Giản ở Thừa thiên.

4. Thiền sư Giám Thiền ở Cửu phong.

5. Thiền sư Hiểu Thù ở Tây tháp.

6. Thiền sư Dụng Lương ở Sùng thiện.

7. Thiền sư Hữu Văn ở Tuệ lực.

8. Thiền sư Tượng Đôn ở Tuyết phong.

9. Thiền sư Thủ Ức ở Vân cư.

10. Thiền sư Vĩnh Phù ở Động sơn.

11. Thượng tọa Linh Thao.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỰ BẢO Ở ĐỘNG SƠN.

1. Thiền sư Biện ở Động sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TƯ QUẢNG Ở BẮC THÁP.

1. Thiền sư Thừa Hạo ở Ngọc tuyền.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHÍ NGUNG Ở VÂN CÁI.

1. Thiền sư Văn Khánh ở Vân cư.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ ĐOAN Ở TỨ TỔ.

1. Thiền sư Thường Ủy ở Quảng minh.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VĂN CÁT Ở NHẠN ĐẢNG.

1. Thiền sư Vi Giác ở Tịnh quang.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THỤY TÂN Ở KIM SƠN.

1. Thiền sư Thủ Đạo ở Thiên Thánh.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỀ NHẠC Ở THƯỢNG PHƯƠNG.

1. Thiền sư Thuận Tông ở Đông sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TRÍ HIỀN Ở BẮC THIỀN.

1. Thiền sư Thiệu Tiên ở Hưng hóa.

2. Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp xướng.

3. Thiền sư Trạch Yếu ở Quảng nhân.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THIỆN XIÊM Ở KHAI TIÊN.

1. Thiền sư Liễu Nguyên ở Vân cư.

2. Thiền sư Bản Dật ở Trí hải.

3. Thiền sư Nguyên Sơ ở Thiên đồng.

4. Thiền sư Thiện Sảng ở Vạn sam.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ SƠ TÀI Ở HÒA SƠN TẠI LÔ LĂNG.

1. Thiền sư Hùng ở Tào sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGỘ CẦN Ở KHÂM SƠN.

1. Thiền sư Viên Ứng ở Lương sơn.

QUYỂN 6

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HUYỀN Ở ĐẠI DƯƠNG

1. Thiền sư Nghĩa ở Đầu tử.

2. Thiền sư Phẩu ở Hưng dương.

3. Thiền sư Thẩm Thừa ở Phước nghiêm.

4. Thiền sư Hiển Như ở La phù.

5. Thiền sư Quy Hỷ ở Bạch mã.

6. Thiền sư Tuệ ở Đại dương.

7. Thiền sư Linh Vận ở Vân môn.

8. Thiền sư Hải Bằng ở Vân đảnh.

9. Thiền sư Cơ Thông ở Càn minh.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HIỂN Ở TUYẾT ĐẬU

1. Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên y.

2. Thiền sư Tỉnh Tông ở Xứng tâm.

3. Thiền sư Truyền Tông ở Thừa thiên.

4. Thiền sư Nhật Thận ở Nam minh.

5. Thiền sư Pháp Tông ở Đầu tử.

6. Thiền sư Uẩn Quán ở Bảo tướng.

7. Thiền sư Hiển Thăng ở Quân sơn.

8. Điển tòa Huệ Kim ở chùa Thủy nguyệt.

9. Cư sĩ Tằng Hội ở Tu tuyển.

10. Thiền sư Hữu Lan ở Báo bản.

11. Thiền sư Trí Phước ở Trường lô.

12. Thiền sư Tuệ Viên ở Động sơn.

13. Thiền sư Tư ở Hương tích.

14. Thiền sư Tử Hoàn ở Bảo khánh.

15. Thiền sư Tại Hòa ở Thiên y.

16. Thiền sư Thủ Minh ở Xứng tâm.

17. Thiền sư Trọng Khanh ở Phụng thê.

18. Thiền sư Đức Sơ ở Linh nham.

19. Thiền sư Trí Tuyền ở Long hưng.

20. Thiền sư Tắc ở Càn minh.

21. Thiền sư Tri Ứng ở Càn minh.

22. Thủ tòa Nguyên Ích ở Vân phong.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ BẢO NGUYỆT-TRÍ ANH Ở BÁCH TRƯỢNG.

1. Thiền sư Tường ở Huệ nhân.

2. Thiền sư Nghĩa Ninh ở Huệ nhân.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DUYÊN Ở NAM HOA.

1. Thiền sư Diên Khánh ở Hưng hóa.

2. Thiền sư Hạnh Đức ở Bảo thọ.

3. Thiền sư Thủ Thăng ở Bạch hổ.

4. Thiền sư Sùng Khâm ở Phật-đà.

5. Thiền sư Pháp Nghinh ở Diên tường.

6. Thiền sư Tuệ Bảo ở Thuấn phong.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ KẾ BẰNG Ở VÂN CÁI

1. Thiền sư Nhân ở Báo ân.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỬ VINH Ở ĐỘNG SƠN.

1. Thiền sư Cư Nột ở Viên thông

QUYỂN 7

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VIÊN Ở THẠCH SƯƠNG.

1. Thiền sư Tuệ Nam ở Hoàng long.

2. Thiền sư Phương Hội ở Dương kỳ.

3. Thiền sư Khả Chân ở Thúy nham.

4. Thiền sư Giác Hải ở Tán nguyên.

5. Thiền sư Sơn Chính ở Võ tuyền.

6. Thiền sư Tỉnh Hồi ở Song phong.

7. Thiền sư Đạo Khoan ở Đại ninh.

8. Thiền sư Ngộ Chân ở Đạo ngô.

9. Thiền sư Bảo Tâm ở Tương sơn.

10. Thiền sư Duy Chính ở Bách trượng.

11. Thiền sư Uẩn Lương ở Hương sơn.

12. Thiền sư Duy Quảng ở Nam phong.

13. Thiền sư Đức Càn ở Đại quy.

14. Thiền sư Bản Ngôn ở Linh sơn.

15. Thiền sư Nguyên ở Quảng pháp.

16. Thiền sư Đức Chương ở Linh ẩn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ GIÁC Ở LANG DA.

1. Thiền sư Siêu Tín ở Định tuệ.

2. Thiền sư Hiểu Nguyệt ở Lặc đàm.

3. Thiền sư Phương ở Khương sơn.

4. Thiền sư Hiển Đoan ở Bạch lộc.

5. Thiền sư Trí Thiên ở Lang da.

6. Thiền sư Động Uyên ở Lương phong.

7. Thiền sư Phương ở Chân như.

8. Thiền sư Thản ở Hưng giáo.

9. Thiền sư Khả Tuyên ở Quy tông.

10. Thiền sư Tử Tuyền ở Trường thủy.

QUYỂN 8

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HOÀI Ở THIÊN Y.

1. Thiền sư Viên Chiếu ở Tuệ lâm.

2. Thiền sư Pháp Tú ở Pháp vân.

3. Thiền sư Giác Hải ở Tuệ lâm.

4. Thiền sư Ứng Phu ở Trường lô.

5. Thiền sư Trí Tài ở Phật Nhật.

6. Thiền sư Trọng Nguyên ở Thiên bát.

7. Thiền sư Tử Hồng ở Thụy nham.

8. Thiền sư Trí Thiên ở Thê hiền.

9. Thiền sư Phạm ngôn ở Tịnh chúng.

10. Thiền sư Xung Hội ở Tam tổ.

11. Thiền sư Tiệp ở Tư thọ.

12. Thiền sư Khải ở Quán Âm.

13. Thiền sư Nguyên Thiện ở Thiên chương.

14. Thiền sư Thể Minh ở Trường lô.

15. Thiền sư Trí Tư ở Khai nguyên.

16. Thiền sư Tuệ Từ ở Trừng chiếu.

17. Thiền sư Tuệ Nguyên ở Pháp vũ.

18. Thiền sư Trí Trừng ở Sùng đức.

19. Thiền sư Hữu Bình ở Thê ẩn.

20. Thiền sư Vân ở Định tuệ.

21. Thiền sư Vượng ở Đại đồng.

22. Thiền sư Nhân ở Thiết Phật.

23. Thiền sư Pháp Tồn ở Báo bản.

24. Thiền sư Thê ở Khai Thánh.

25. Thiền sư Duy Lễ ở Hành sơn.

26. Thiền sư Thiện Tư ở Hiển minh.

27. Thiền sư Huệ An ở Khải hà.

28. Thiền sư Linh Khản ở Vân môn.

29. Thiền sư Nguyên Thản ở Thái bình.

30. Thiền sư Văn Tổ ở Phật Nhật.

31. Thiền sư Tông ở Vọng tiên.

32. Thiền sư Dụng Cơ ở Ngũ phong.

33. Thiền sư Xử Tường ở Phật túc.

34. Thiền sư Tuệ Vân ở Minh nhân.

35. Thiền sư Kỳ Biện ở Tây đài.

36. Thiền sư Trí Đàm ở Khai nguyên.

37. Thiền sư Trí Giác ở Vĩnh thái.

38. Thiền sư Văn Hỷ ở Long hoa.

39. Thiền sư Tự Nhân ở Vĩnh thái.

40. Thiền sư Pháp An ở Diên ân.

41. Cư sĩ Lễ bộ Dương Kiệt.

QUYỂN 9

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHI Ở ĐẠI NGU

1. Thiền sư Văn Duyệt ở Vân phong.

2. Thiền sư Nguyệt ở Thụy quang.

3. Thiền sư Tử Viên ở Động sơn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VĨNH Ở THẠCH SƯƠNG.

1. Thiền sư Bảo Tông ở Phước nghiêm.

2. Thiền sư Như Hán ở Đại dương.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VIỄN Ở PHÙ SƠN.

1. Thiền sư Đạo Trăng ở Tịnh nhân.

2. Thiền sư Nhân Nhạc ở Hưng hóa.

3. Thiền sư Vị Phương ở Ngọc tuyền.

4. Thiền sư Tuệ Sâm ở Định lâm.

5. Thiền sư Nhã châu ở Bản giác.

6. Thiền sư Phổ Tư ở Hoa nghiêm.

7. Thiền sư Duy Thục ở ẩn.

8. Thiền sư Phụng Năng ở Hành nhạc.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHIÊU Ở BẢO ỨNG.

1. Thiền sư Phương Duyệt ở Lang da.

2. Thiền sư Hy Ẩn ở Hưng dương.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TẤN Ở THẠCH MÔN.

1. Thiền sư Trí Tài ở Thụy nham.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DĨNH Ở KIM SƠN.

1. Thiền sư Kế Chân ở Quảng giáo.

2. Thiền sư Sùng Trân ở Phổ từ.

3. Thiền sư Trọng Hòa ở Đoan trúc.

4. Thiền sư Viên Thông ở Kim sơn.

5. Thiền sư Hiển Trọng ở Thạch Phật.

6. Thiền sư Chân Tịnh ở Tịnh trụ.

7. Thiền sư Củng Thần ở Tây sư.

8. Thiền sư Thiện Đoan ở Bát-nhã.

9. Cư sĩ Tiết sứ Lý Đoan Nguyện.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGUYỆT Ở ĐỘNG ĐÌNH.

1. Thiền sư Lượng ở Phước tiến.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DĨ Ở TÍCH TRƯỢNG.

1. Thiền sư Bảo Hiên ở Hoàng nham.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHẠC Ở LONG HOA.

1. Thiền sư Tịnh Đoan ở Tây dư.

QUYỂN 10

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ Ở ĐẦU TỬ.

1. Thiền sư Đạo Giai ở Phù dung.

2. Thiền sư Báo Ân ở Đại hồng.

3. Thiền sư Vân ở Động sơn.

4. Thiền sư Văn ở Phước ứng.

5. Thiền sư Đàm Quảng ở Long bàng.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HẠO Ở NGỌC TUYỀN.

1. Thiền sư Văn Khánh ở Lâm khê.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TUÂN Ở GIÁP SƠN.

1. Thiền sư Tín ở Phước xướng.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGUYÊN Ở PHẬT ẤN.

1. Thiền sư Tịnh Ngộ ở Khánh thiện.

2. Thiền sư Tuệ Thái ở Thiện quyền.

3. Thiền sư Đức Cơ ở Sùng phước.

4. Thiền sư Hoài Cát ở Bảo lâm.

5. Thiền sư Tông Tú ở Tư phước.

6. Thiền sư Huệ Không ở Thúy nham.

7. Thiền sư Đức Phổ ở Mật nham.

8. Thiền sư Trọng Hòa ở Vân cư.

9. Thiền sư Ấu Tông ở Đồng an.

10. Thiền sư Cư Nhạc ở Long hưng.

11. Thiền sư Tử Chương ở Vạn sam.

12. Thiền sư Đức Diên ở Nga hồ.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ YẾU Ở QUẢNG NHÂN.

1. Thiền sư Như Xán ở Diệu phong.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DẬT Ở TRÍ HẢI.

1. Thiền sư Chí Nhân ở Hoàng nghiệt.

2. Thiền sư Đức Long ở Đại trung.

3. Thiền sư Trọng Dự ở Bạch lộc.

4. Cư sĩ Thiêm phán Lưu Kinh Thần.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LONG Ở CHI ĐỀ.

1. Thiền sư Huyền Bản ở Linh ẩn.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỐ Ở TỊNH ĐỘ.

1. Thiền sư Duy Chính ở Tịnh độ.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THÙ Ở BẢO LÂM.

1. Thiền sư Dụng Minh ở Bảo lâm.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÔNG Ở ĐỘNG SƠN.

1. Thiền sư Hiểu Tuyên ở Định phong.

 


QUYỂN 1

MỤC LỤC

Đời thứ mười dưới Thiền sư Đại Giám.

Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Thủ Sơn niệm ở Nhữ châu có mười sáu vị:

1. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần dương.

2. Thiền sư Quy Tỉnh ở Diệp huyện.

3. Thiền sư Hồng Nhân ở Thần đảnh.

4. Thiền sư Uẩn Thông ở Cốc ẩn.

5. Thiền sư Nguyên Liên ở Quảng tuệ.

6. Thiền sư Trí Tung-Tam giao

7. Thiền sư Trí tung ở Thiết Phật.

8. Thiền sư Hoài Chí ở Thủ sơn.

9. Thiền sư Xứ Bình ở Nhuận vương.

10. Thiền sư Hồi Hãn ở Trí môn.

11. Sơn chủ Tuệ Chiêu ở Lộc môn

12. Cư sĩ Thừa tướng Vương Tùy (Mười hai vị trên có ghi lục)

13. Thiền sư Trọng Mật ở Huỳnh nghiệt.

14. Thiền sư Thiện Thao ở Phước Thánh.

15. Thiền sư Khế Khoáng ở Nam đài.

16. Thượng tọa Khế Thông (Bốn vị này không ghi lục).

*****

1. Thiền sư Thiện Chiêu ở viện Thái tử tại Phần dương.

Thiền sư Thiện Chiêu ở viện Thái tử tại Phần dương vốn con dòng họ Du ở Thái nguyên, khí độ nhận biết trầm lắng sâu xa, ít duyên phù sức, có trí tuệ lớn, đối với tất cả các thứ văn tự chẳng do thầy chỉ dạy mà tự thông hiểu. Năm mười bốn tuổi, song thân lần lượt qua đời, Thiện Chiêu đơn chiếc khổ não, nhàm chán thế tục trần lao, nhân đó mà xuống tóc xuất gia thọ giới cụ túc, đeo mang trượng sách du phương, đến đâu cũng ít dừng ở lại, không thích tham quan, tùy cơ gõ mở, giẫm trải tham tầm Tri thức ở các phương có cả thảy bảy mươi mốt vị. Cuối cùng đến Thủ Sơn.

Một ngày nọ, Thủ Sơn lên pháp tòa, Thiền sư Thiện Chiêu bước ra thưa hỏi rằng: "Bách Trượng cuốn chiếu, ý chỉ ấy như thế nào?" Ngài Thủ Sơn đáp rằng: "Áo rồng phẩy mở, toàn thể hiện". Thiện Chiêu lại hỏi rằng: "Ý Sư đó là thế nào?" Ngài Thủ Sơn đáp: "Hành xứ của Tượng vương, tuyệt không vết tích". Thiện Chiêu nhân lời nói ấy mà đại ngộ, bèn kính bái mà nói rằng: "Muôn xưa đầm xanh trăng giữa trời, ba phen mò lặn mới nên hay". Có người hỏi rằng: "Ông thấy đạo lý gì mà bèn tự bằng lòng như vậy?" Thiện Chiêu đáp: "Chính là nơi ta buông xả thân mạng vậy".

Về sau, đến Hành Tương và Tương Cái, từng vì Quận thú dùng danh lợi và sức lực thỉnh mời trước sau tám lầu, song Thiện Chiêu cố nằm yên không ứng đáp. Mãi đến lúc Thủ Sơn thị tịch, các hàng Đạo tục ở Tây hà đề cử Sa-môn Khế Thông đến nghinh thỉnh Thiện Chiêu về trú trì. Thiện Chiêu đóng cửa nằm yên, Sa-môn Khế Thông vén cửa bước vào mà trách rằng: "Phật pháp là đại sự, tỉnh nghỉ là tiểu tiết, Phong huyệt sợ ứng sấm lo tông chỉ diệt mất, may có được Tiên sư, nay Tiên sư đã xả bỏ cuộc đời, ông là người có khả năng gánh vác Đại pháp của Đức Như Lai, vậy mà nay là lúc nào mà muốn ngủ yên ư?" Thiện Chiêu vụt nhiên ngồi dậy nắm tay Khế Thông nói rằng: "Chẳng phải ông thì không được nghe lời nói ấy. Thú biện nghiêm là hạnh của tôi vậy". Thế rồi nằm yên nơi một chiếc giường, suốt ba mươi năm, chân chẳng vượt qua đố cửa. Các hàng Đạo tục đều xưng gọi là Phần Dương mà không dám gọi tên Thiện Chiêu.

Lúc lên giảng đường, Thiện Chiêu bảo đại chúng rằng: "Dưới cửa Phần dương có sư tử Tây hà đang ngồi xổm giữa cửa, chỉ cần có người lại tức liền cắn giết hại. Vậy có phương tiện gì để được vào cửa Phần dương, thấy được người Phần dương? Nếu thấy được người Phần dương tức có thể cùng Phật Tổ làm thầy, không thấy được người Phần dương thì đều là đứng chết đất Hán. Vậy nay có người vào được đó ư? Chẳng phải vào lấy để khỏi bị cô phụ bình sinh. Còn không như vậy thì khách Long môn đều kỵ gặp điểm ngạch?" Chỉ chốc lát, khách Long môn một loạt đồng điểm xuống. Thiện Chiêu đứng dậy chống tích trượng bảo rằng: "Nhanh lui, nhanh lui, vô cùng trân trọng!" Sau đó lại lên giảng đường Thiện Chiêu bảo rằng: "Phàm một câu nói phải đầy đủ ba Huyền môn, mỗi một Huyền môn đủ ba yếu điểm. Thế nào là câu có đủ ba Huyền môn và ba yếu điểm? Khéo nhanh hiểu lấy tốt lành, mỗi tự tư duy, lại được ổn đáng đó chưa? Các bậc Cổ đức xưa trước hành cước, nghe một nhân duyên ngay giữa khoảng thời gian chưa thấu rõ thì ăn uống không cảm biết mùi vị, ngủ nghỉ không yên, lửa gấp thúc giục chẳng cho là việc nhỏ. Do đó, đấng Đại Giác Lão nhân vì đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời. Nghĩ tưởng Lão nhân từ trên lại chẳng vì rảo núi chơi sông, trông xem mọi xa hoa châu phủ, mảnh áo miếng ăn đều vì chưa thông Thánh tâm, do đó rong ruổi hành cước, tìm chọn nơi sâu mầu, truyền xướng phu dương, rộng hỏi các bậc tri thức, thân gần cao đức, bởi vì nối tiếp đèn tâm chư Phật, sáng ngời các đời Tổ, sùng hưng Thánh chủng, tiếp dẫn hàng hậu có, tự lợi lợi tha. Như nay có người thương lượng ư? Có tức ra lại Đại gia thương lượng". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu tiếp nối dẫn dắt hàng sơ cơ?" Thiện Chiêu đáp: "Ông là vị Tăng hành ước". Lại hỏi: "Thế nào là câu Biện nạp Tăng?" Thiện Chiêu đáp: "Mặt trời xuất hiện ở phương Tây lúc giờ Mão". Lại hỏi: "Thế nào là câu Chánh lệnh hạnh?" Thiện Chiêu đáp: "Ngàn dặm mang lại trình mặt xưa". Lại hỏi: "Thế nào là câu lập càn khôn". Thiện Chiêu đáp: "Bắc câu lô châu phát triển giống gạo canh, người ăn không sân cũng không mừng". Thiện Chiêu mới nói rằng: "Đem bốn chuyển ngữ này chiêm nghiệm nạp Tăng trong thiên hạ, mới thấy người từ khi xuất hiện trở lại nghiệm được trọn vậy". Lại hỏi rằng: "Thế nào là nơi người học dốc hết sức lực?" Thiện Chiêu đáp: "Gia châu đánh voi lớn". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học chuyển thân?" Thiện Chiêu đáp: "Thiểm phủ tưới trâu sắt". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học thân thiết?" Thiện Chiêu đáp: "Hà tây bông đùa sư tử". Thiện Chiêu mới bảo rằng: "nếu người hiểu được ba câu này tức là biện rõ ba Huyền môn, lại có ngôn ngữ ba cốt yếu tại đó. Thiết tưởng phải dâng lấy, chẳng là ngang bằng".

Và vì đại chúng tụng kệ rằng:

"Ba Huyền ba yếu sự khó phân
Được ý quên lời, Đạo dễ gần
Một câu rành rành gồm muôn tượng
Ngày chín tháng chín cúc rộ bày".

Thiện Chiêu vì ở tinh phân rét lạnh mới bỏ sự tham xét ban đêm. Có vị Tỳ-kheo khác lạ chống tích trượng đến bảo rằng: "Trong chúng hội có sáu vị Đại sĩ, cớ sao lại không vì giảng nói pháp?" Nói xong bèn bỏ đi. Thiện Chiêu mới kín ghi với kệ tụng rằng:

"Phạm Tăng gậy vàng sáng
Vì pháp đến Phần dương
Sáu người thành Đại khí
Khuyên thỉnh vì tuyên dương".

Lúc lên giảng đường, phàm một câu nói phải đầy đủ ba Huyền môn, mỗi một Huyền môn phải đầy đủ ba cốt yếu, có chiếu có dụng, có trước chiếu sau dụng, có trước dụng sau chiếu, hoặc chiếu dụng đồng thời, hoặc chiếu dụng không đồng thời, trước chiếu sau dụng, thả cốt yếu cùng ấy mà thương lượng. Trước dụng sau chiếu, ấy cũng phải là một cá nhân mới được, chiếu dụng đồng thời, ấy làm sao sinh đáng đến, chiếu dụng chẳng đồng thời, ấy lại làm sao sinh ghé họp. Có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là nguồn Đại đạo?" Thiện Chiêu đáp: "Đào bới đất tìm Trời". Lại hỏi: "Làm sao được như vậy?" Thiện Chiêu đáp: "Không nhận biết sâu cao". Lại hỏi: "Thế nào là khách trong khách?" Thiện Chiêu đáp: "Chấp tay trước am hỏi Thế Tôn". Lại hỏi: "Thế nào là chủ trọng khách?" Thiện Chiêu đáp: "Mê trận giăng ngang trên biển, rút kiếm quẩy cửa rồng". Lại hỏi: "Thế nào là chủ trong chủ?" Thiện Chiêu đáp: "Ba đầu sáu tay chống đất trời, giận thương Na-tra gõ chuông vua". Hàm những lúc lên pháp đường, tại Phần dương có ba yếu quyết, các nạp Tăng khó rành phân biệt, lại càng phỏng hỏi thế nào. Thiện Chiêu chống tích trượng bỗng nhiên đầu chống đỡ. Khi ấy có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là ba yếu quyết?" Thiện Chiêu bèn đánh vị Tăng ấy lễ bái. Thiện Chiêu bảo rằng: "nay vì ông mà đồng một lúc nói bày. Yếu quyết thứ nhất là tiếp dẫn không thời tiết, khéo nói chẳng thể giải. Mây đầy trăng trời xanh. Yếu quyết thứ hai là Thư Quang biện Hiền triết, hỏi đáp Tâm lợi sinh, nhổ bỏ nêu trong mắt. Yếu quyết thứ ba là người Hồ ở nước phương Tây nói vượt nước đến Tân La, đất Bắc dùng khóa sắt". Lại bảo rằng: "Vậy có người hiểu chăng? Nếu hiểu thì từ trước xuất hiện trở lại thông hiểu tiêu tức, cần phải biết gần xa, chớ chỉ mặc tình ghi lời ghi ngữ, vì ngay đời này có lợi ích gì chẳng dùng. Đứng lâu trân trọng". Có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là ý chỉ của Tổ sư (Bồ-đề Đạt-ma) từ Tây vức lại?" Thiện Chiêu đáp: "Quạt lụa quyên xanh đủ gió mát". Lại hỏi: "Bố cổ đáng treo hiên, ai là người biết âm?"

Thiện Chiêu đáp: "Dừng bữa cơm mạch, nằm cỏ chẳng nâng đầu". Lại hỏi: "Thế nào là Đạo tràng". Thiện Chiêu đáp: "Hạ gót chân chẳng được". Lại hỏi: "Thế nào là ý chỉ của Tổ sư từ Tây vức lại?" Thiện Chiêu đáp: "Triệt cùng cốt tủy". Lại hỏi: "Ý ấy như thế nào?" Thiện Chiêu đáp: "Khắp trời cùng đất". Lại hỏi: "Người chân chánh tu đạo chẳng thấy lỗi quá ở thế gian, chưa xét chưa thấy cái gì lỗi quá?" Thiện Chiêu đáp: "Tuyết chôn trăng đêm sâu ba thước, đất liền đi thuyền dài muôn dặm". Lại hỏi: "Hòa thượng là tâm hành gì?" Thiện Chiêu đáp: "Tức là tâm hành của ngươi vậy". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Thiện Chiêu đáp: "Ba Huyền môn mở chánh đạo, một câu phá tà tông". Lại hỏi: "Thế nào là kế sống của Hòa thượng?" Thiện Chiêu đáp: "Bình thường chẳng nắm tay, cúng dường năm Phạm Tăng". Lại hỏi: "Chưa xét biết là ăn vật gì?" Thiện Chiêu đáp: "Cơm trời Tô-la chẳng phải thức ăn ngon lành, một chút mùi vị ngon lành no liền nghỉ".

Lúc lên giảng đường, Thiện Chiêu bảo đại chúng rằng: "Phàm người nói pháp phải đầy đủ mười Trí đồng chân. Nếu chẳng đủ mười Trí đồng chân thì tà chánh chẳng biện rành, trắng đen không phân rõ, chẳng thể cùng người trời mà làm mắt mũi, quyết đoán phải quấy, như chim bay giữa khoảng không mà bẻ gãy cánh, như tên bắn đến đích mà đứt dây, dây đứt nên bắn không trúng đích, cánh bẻ gãy nên chẳng bay được giữa khoảng không. Dây mạnh cánh bền, khoảng không và mục đích đều thấu triệt, làm sao sinh là mười trí đồng chân, cùng các Thượng tọa mà nêu bày: Một là đồng một chất. Hai là đồng đại sự. Ba là tất cả đồng tham. Bốn là đồng chân trí. Năm là đồng khắp cùng. Sáu là đồng đầy đủ. Bảy là đồng được mất. Tám là đồng sinh sát. Chín là đồng tiếng rống. Mười là đồng được vào". Thiện Chiêu lại bảo: "Cùng hạng người nào đồng được vào? Cùng với ai đồng tiếng rống? Làm sao sống là đồng sinh sát? Với vật gì là đồng được mất? Cái gì đồng đầy đủ? Cái gì khắp cùng? Người nào đồng chân trí? Ai có thể gần đồng tham? Cái gì đồng việc lớn? Vật gì đồng một chất? Có nêu ra được hết cả chăng? Nếu người nêu được hết cả thì chẳng keo lậu từ bi. Nếu nêu cúng dường ra thì từ trước trở lại chưa có mắt tham học, thiết tưởng phải biện biệt rành rẽ lấy, cần phải nhận thức mặt mắt phải quấy sao không thấy được? Đứng lâu trân trọng!"

Long đức phủ doãn Lý Hầu cùng Thiện Chiêu có quen biết xưa cũ, nhân rảnh rỗi từ chùa Thừa thiên đến, kẻ sứ ba lần trở về mà Thiện Chiêu chẳng đến. Kẻ sứ bị trách phạt lại sang thưa cùng Thiện Chiêu rằng: "Hẳn muốn được Sư cùng đến, nếu không như vậy thì chỉ có chết mà thôi". Thiện Chiêu cười đáp: "Nghiệp lão bệnh đã chẳng ra khỏi núi. Nhờ đến, đáng nên đi trước hay sau, sao hẳn đều tà?" Kẻ Sứ thưa: "Chỉ cần Sư vâng thuận thì trước hay sau chỉ tùy sự quyết chọn". Thiện Chiêu mới bảo thiết trai tiếp đãi, vả lại chuẩn bị hành trang tề chỉnh xong, bảo cùng đại chúng rằng: "Lão Tăng đi đây, ai là người có thể cùng theo được?" Có một vị Tăng ra thưa: "Con đây có thể theo được!" Thiện Chiêu đáp: "Ông theo ta không thể được". Lại có một vị Tăng khác ra thưa rằng: "Con đây có thể theo được". Thiện Chiêu hỏi: "Một ngày ông đi được mấy dặm?" Vị Tăng ấy đáp: "Bảy mươi dặm". Thiện Chiêu bảo: "Ông theo ta chưa thể được". Khi ấy vị Thị giả bèn bước ra thưa rằng: "Con đây có thể theo được! Chỉ cần Hòa thượng đến đâu thì con đến đó". Thiện Chiêu bảo: "Ông có thể theo kịp Lão Tăng". Nói xong, Thiện Chiêu bèn bảo kẻ sứ rằng: "Tôi đi trước vậy!" Bèn dựng đưa mà thị tịch. Vị Thị giả cũng đứng bên cạnh cùng đồng thị tịch. Đại chúng trà tỳ thâu nhặt xá-lợi dựng tháp tôn thờ!

2. Thiền sư Quy Tỉnh ở viện Quảng giáo, Diệp huyện.

Thiền sư Quy Tỉnh ở viện Quảng giáo tại Diệp huyện, Nhữ châu, vốn dòng họ Giả ở Ký châu. Năm hai mươi tuổi đến nương tựa viện Bảo thọ ở Dịch châu xuất gia và thọ giới Cụ túc. Về sau, du phương tham phỏng, đến Thủ Sơn. Một ngày nọ Thủ Sơn đưa chiếc lược bí bằng tre mà hỏi rằng: "Gọi làm lược bí bằng tre tức xúc chạm, không gọi làm lược bí bằng tre tức trái lại, vậy gọi là cái gì?" Quy Tỉnh chế được, ném trên đất mà nói là: "Ông là vật gì?" Thủ Sơn bảo: "Kẻ mù mắt". Nhân lời nói đó mà Quy Tỉnh hoát nhiên đại ngộ.

Lúc lên giảng đường khai pháp, có vị Tăng hỏi rằng: "Tổ Tổ tương truyền là truyền tổ ấn. Nay Sư đắc pháp nối dõi từ người nào?" Quy Tỉnh bảo: "Thiên tử ở trong đất liền, Tướng quân ở nơi bờ cõi". Lại hỏi: "Như giọt nước trên biển, nay được Sư chỉ, hướng thượng Tông thừa, việc ấy như thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Cao Tổ trước điện rồi nuốt giận, phải biết muôn dặm dứt khói bụi". Lại hỏi: "Trượng thất của Duy-ma không cần nhờ mặt nhật mặt nguyệt soi sáng, vậy trượng thất của Hòa thượng lấy gì để soi sáng?" Quy Tỉnh đáp: "Lông mày phân tám chữ". Lại hỏi: "Chưa xét rõ ý chỉ ấy như thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Hai trái tai duỗi xuống trên vai". Lại hỏi: "Thế nào là việc làm của Thiền sư Siêu?" Quy Tỉnh bảo: "Lông mày Lão Tăng dài nhiều ít". Lại hỏi: "Thế nào là Thân độc lộ trong bụi trần?" Quy Tỉnh bảo: "Bờ cõi phía Bắc che ngàn người, sông nước phía Nam thuyền muôn hộc". Lại hỏi: "Thế nào tức chẳng phải bụi trần?" Quy Tỉnh đáp: "Các hàng học nói, một phác muôn hàng". Lại hỏi: "Thế nào là nơi sâu xa của Hòa thượng?" Quy Tỉnh bảo: "Mèo có công uống máu, Hổ có đức khơi thây". Lại hỏi: "Chớ khiến ấy là không?" Quy Tỉnh đáp: "Cối giả Đông nam, mài chà Tây bắc". Lại hỏi: "Thế nào là Thân Kim cang bất hoại?" Quy Tỉnh bảo: "Trăm thứ táp toái". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Chung cùng chỉ là một đống tro". Lại hỏi: "Chẳng rơi lạc các duyên ư? Xin Sư tiện nói". Quy Tỉnh bảo: "Rơi lạc". Lại hỏi: "Thế nào là Pháp thân tịnh?" Quy Tỉnh bảo: "Thẻ tính đầu hầm xí". Lại hỏi: "Thế nào là Giới định tuệ?" Quy Tỉnh bảo: "Ấy là dụng cụ phá nhà".

Một ngày nọ, Quy Tỉnh lên pháp tòa, có vị Tăng hỏi rằng: "Mới lên pháp đường, lúc đến như thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Vỗ nhịp xuống thiền sàn". Lại hỏi: "Chưa xét rõ ý chỉ ấy như thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Không người qua, đáng giá phải đánh ba trăm trượng". Lại hỏi: "Chợt gặp người Đại xiển đề đến, lại cùng vì họ không?" Quy Tỉnh bảo: "Pháp lâu thành tệ". Lại hỏi: "Từ bi tại đâu?" Quy Tỉnh bảo: "Tuổi già thành ma".

Lúc lên giảng đường, đối với huyết mạch của Tông sư, hoặc phàm hoặc Thánh, Mã Minh, Long Thọ, Thiên đường, địa ngục, vạt sôi, lò đỏ, đầu trâu lính ngục v.v... Quy Tỉnh đưa tay họa vẽ qua một lượt và bảo rằng: "Đều tại Tông đây. Trong Tông môn này cũng hay giết người, cũng hay cứu sống người. Giết người phải được dao giết người cứu sống người, làm sao là dao giết người, và cầu cứu sống người? Người nói được tận cùng tức từ khi xuất hiện trở lại đối trước chúng nói xem, còn nếu nói không được tức tự cô phụ cuộc đời này của chính mình. Vô cùng trân trọng!" Có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là tứ vô lượng tâm của Hòa thượng?" Quy Tỉnh bảo: "Phóng lửa giết người". Lại hỏi: "Từ bị tại đâu?" Quy Tỉnh bảo: "Gặp người mắt sáng cùng tương tợ". Lại hỏi: "Chẳng tại trong chẳng tại ngoài, chẳng tại khoảng giữa, chưa xét rõ là tại nơi nào?" Quy Tỉnh bảo: "Nam đẩu có sáu, Bắc đẩu có bảy". Lại hỏi: "Thế nào là Tỳ-lô-sư Pháp thân chủ". Quy Tỉnh bảo: "Tăng bày Hạ lạp, tục nêu tuổi già". Lại hỏi: "Hướng thượng lại còn có vị gì chăng?" Quy Tỉnh bảo: "Có". Lại hỏi: "Thế nào là việc hướng thượng?" Quy Tỉnh bảo: "Muôn dặm Nhai châu ông tự đi, cất bước buồn bã hận ai chứ".

Lại, có lúc lên giảng đường, giây lâu bảo rằng: Phàm các Thiền giả hành cước, ngay phải nghĩ trước, tham học phải đủ mắt tham học, thấy đất phải được thấy câu đất, mới có cùng gần, phân mới được, chẳng bị các cảnh làm mê hoặc, chẳng bị rơi lạc vào ác đạo, rốt cùng thế nào là giao phó tất cả? Có lúc câu đến mà ý không đến, quên duyên tiền trần phân biệt ảnh sự. Có lúc ý đến mà câu không đến, như các người mù sờ voi, mỗi tự diễn nói khác nhau, có lúc ý và câu đều đến, đánh phá cảnh giới hư không, Quang minh soi chiếu khắp mười phương, có lúc ý và câu đều chẳng đến, như người không mắt đi dọc ngang, bỗng nhiên bất chớt rơi xuống hầm hố sâu". Có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là đường xưa nay không khác?" Quy Tỉnh đáp: "Xà-lê không chiếu màn". Lại hỏi: "Việc mình chưa rõ, lấy gì làm ứng nghiệm". Quy Tỉnh bảo: "Trong chợ ồn náo, đánh kiền chùy tĩnh lắng". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Quy Tỉnh bảo: Giữa trưa châm đuốc vàng". Lại hỏi: "Bố cổ, Đáng hiên, đánh ai là biết tiếng?" Quy Tỉnh bảo: "Trong mắt có đinh dính". Lại hỏi: "Chưa xét rõ ý chỉ ấy như thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Kiều ông đáp tạ Nam Thần". Có vị Tăng thỉnh hỏi điều lợi ích qua câu hỏi của Bách thọ tử, Quy Tỉnh bảo: "Ta chẳng từ, cùng người nói lại có gì tin?" Lại hỏi: "Hòa thượng nói lại, tranh dám không tin?" Quy Tỉnh bảo: "Ông có nghe tiếng giọt nước đầu rèm chăng?" Vị Tăng ấy bỗng nhiên mất tiếng, ấm ớ nói: "Vậy ư?" Quy Tỉnh hỏi: "Ông thấy Đạo lý gì?" Vị Tăng ấy bèn dùng kệ tụng đáp rằng:

"Giọt nước đầu rèm
Rõ ràng rành rẽ
Đánh phá đất trời
Ngay đó Tâm dứt".

Quy Tỉnh vui vẻ, lại hỏi vị Tăng ấy rằng: "Chiều tối vào rừng đến sáng sớm lìa khỏi nơi nào?" Vị Tăng ấy đáp: "Mới thọ giới chưa từng học thiền". Quy Tỉnh bảo: "Ngay thân đời này sẽ đi vào dưới địa ngục".

Về sau, có vị Tăng đề cử đến nơi Hòa thượng

Trí Môn không, Trí Môn bảo rằng: "Sao không nói chìa khóa tại trong tay Hòa thượng?" Quy Tỉnh nhân đó đi giúp nghĩ tự liệu chăm sóc bệnh vị Tăng. Vị Tăng ấy hỏi: "Đối với Hòa thượng thì Tứ Đại vốn không, vậy bệnh từ đâu lại?" Quy Tỉnh bảo: "Từ chỗ hỏi của Xà-lê lại". Vị Tăng ấy thở gằn, lại hỏi rằng: "Vậy lúc chẳng hỏi thì thế nào?" Quy Tỉnh bảo: "Bỏ tay nằm dài giữa không". Vị Tăng ấy nói: "Vậy ư?" Bèn thoát đi.

3. Thiền sư Hồng Nhân ở Thần đảnh.

Thiền sư Hồng Nhân ở Thần đảnh, Đàm châu, vốn dòng họ Hổ ở Ương thủy. Từ lúc du phương tham phỏng, chỉ mặc một áo nạp để che nóng lạnh, từng cùng vài bậc Lão túc đi đến tương cái. Có vị Tăng nêu bày Luận tông thừa rất mẫn tiệp, gặp cùng biện luận trong quán núi Dã phạn, và vị Tăng ấy luận nói chẳng thôi, Hồng Nhân nói: "tam giới duy tâm, vạn pháp Duy thức, Duy tâm Duy thức, mắt tiếng tài sắc, là người nào nói?" Vị Tăng ấy đáp: "Là Phán nhãn nói". Hồng Nhân hỏi: "Nghĩa ấy như thế nào?" Vị Tăng ấy đáp: "Duy tâm nên căn cảnh chẳng cùng đến, Duy thức nên tiếng () sắc tung hoành". Hồng Nhân hỏi: "Đầu lưỡi và thức ăn có phải là căn cảnh chăng?" Vị Tăng ấy đáp: "Đúng vậy". Hồng Nhân bèn dùng thìa gắp cặp tất cả rau ăn đưa vào trong miệng, hàm hồ mà hỏi rằng: "Thế nào nghĩa là cùng vào ư?" Mọi người chung quanh đều kinh sợ, vị Tăng ấy trọn không trả lời được. Hồng Nhân bảo: "Vui thú trên đường, trọn chưa đến nhà, kiến giải vào nhỏ nhiệm, chưa thể gọi là kiến đạo. Tham phải thật tham, ngộ phải thật ngộ, Diêm la đại vương chẳng sợ nhiều lời". Vị Tăng ấy khoanh tay mà rút lui.

Về sau, Hồng Nhân lại đến Trường sa, ẩn cư tại Hành nhạc tam sinh tàng, có nhà giàu sang ở tương âm rảo bước đến Phước nghiêm, tức là nơi am thất của Hồng Nhân, trông thấy Hồng Nhân khí mạo nhàn tĩnh, chỉ một bình bát treo trên vách tường ngoài ra chẳng tích chứa vật gì khác, nên dốc lòng mến mộ đó, bèn bái quỳ mà thưa thỉnh rằng: "Thần Đảnh mới là nhà tôi, là nơi chốn gieo trồng phước mà từ lâu thiếu bậc tông tượng, xin mời Sư cùng sang ở đó, thế nào?" Hồng Nhân cười mà vâng thuận đó. Người ấy bèn dùng ngựa của mình để chở Hồng Nhân cùng sang. Trải suốt mười năm mới hoàn thành Tùng tịch, chỉ một chiếc giường khô làm tòa giảng pháp. Hồng Nhân cam khổ đạm bạc chẳng ai sánh cùng. Lại vì đức hạnh hạ lạp cùng cao nên mọi người ở các phương đều tôn trọng như Triệu Châu xưa kia vậy.

Có vị Tăng hỏi rằng: "Các pháp lúc chưa nghe thì thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Gió thổi vù vù, mưa tuôn vùn vụt". Lại hỏi: "Sau khi nghe rồi thì thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Nhận lãnh lời tốt lành".

Lại hỏi: "Trống cá lúc chưa gióng thì thế nào?"

Hồng Nhân đáp: "Trông trời nhìn đất". Lại hỏi:

"Sau khi đã gióng thì thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Bưng bình bát lên trai dường". Lại hỏi: "Khe xưa lúc suối lạnh thì thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Chẳng là nơi Nạp Tăng giẫm bước giày". Lại hỏi: "Thế nào là nơi Nạp Tăng giẫm bước giày?" Hồng Nhân đáp: "Chẳng thấy có suối lạnh khe xưa". Lại hỏi: "Hai tay lúc kính dâng Tên đường thì như thế nào?" Hồng Nhân bảo: "là cái gì?" Lại hỏi: "Người học đến núi bàu, lúc trở về tay không thì thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Ngày ba mươi tháng chạp". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Hồng Nhân đáp: "Đói chẳng chọn lựa thức ăn". Lại hỏi: "Thế nào là câu Hòa thượng vì người?" Hồng Nhân đáp: "Nhóm củi chọn rau". Lại hỏi: "Chẳng chỉ ngăn ngại bèn là không?" Hồng Nhân đáp: "Lại càng phải tử tế". Lại hỏi: "Lúc phủi bụi thấy Phật thì như thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Phật cũng là bụi trần". Lại hỏi: "Thế nào là kế sống của Đạo nhân?" Hồng Nhân: "Sơn Tăng từ thuở nhỏ chẳng từng vào chốn Học đường".

Có vị Quan chỉ mộc ngư (Bảng) mà hỏi: "Ấy là cái gì?" Hồng Nhân đáp: "Đánh tỉnh ít nhiều người ngủ say". Vị Quan ấy nói: "Kịp chẳng đến đó". Hồng Nhân bảo: "Vô tâm đánh vô tâm". Lại hỏi: "Thế nào là Pháp thân tịnh?" Hồng Nhân đáp: "Đầu tro mặt đất". Lại hỏi: "Làm gì như vậy?" Hồng Nhân đáp: "Tranh quái lạ được Sơn Tăng". Lại hỏi: "Chưa xét rõ pháp thân, lại còn có việc ấy không?" Hồng Nhân đáp: "Có". Lại hỏi: "Thế nào là việc hướng thượng?" Hồng Nhân đáp: "Mũ vàng trên đảnh Tỳ-lô". Lại hỏi: "Bồ-đề vốn không gốc, từ đâu có được hạt?" Hồng Nhân đáp: "Kêu làm không được gì?" Lại hỏi: "Bồ-tát Trì Địa sửa sang đường sá ngang bằng như Phật. Hòa thượng làm cầu ngang bằng người nào?" Hồng Nhân đáp: "Gần sau". Lại hỏi: "Hòa thượng lúc chưa thấy tiên đức thì như thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Đi Đông, đi Tây". Lại hỏi: "Sau khi đã thấy thì thế nào?" Hồng Nhân đáp: "Vác ngang cắm gậy".

Có lúc lên giảng đường, Hồng Nhân nêu câu Động Sơn nói là:

"Tham sân si rất không nhận biết
Sáng nay nhờ ta mới được hay
Đi tiện đánh, ngồi cũng tiện đánh
Phân tấc tâm vương nhỏ nhiệm suy
Vô lượng kiếp lại không giải thoát".

Có người hỏi: "Đối với ba người, ngươi có biết chăng?" Hồng Nhân bảo: "Người xưa cho là Đạo gì? Chư Thần Đảnh đây thì chẳng vậy. Tham sân si thật không biết, trong mười hai thời khắc mặc tình chung, đi tức sang, ngồi tức tùy, phân tấc tâm vương phỏng làm chi, vô lượng kiếp lại nguyện giải thoát, cần gì phải hỏi biết hay không".

4. Thiền sư Uẩn Thông ở Cốc ẩn.

Thiền sư Uẩn Thông-Từ chiếu ở núi Cốc ẩn tại Tương châu, vốn người họ Trương ở Quảng châu. Mới đầu đến tham học ở Hòa thượng Bách Trượng Hằng, nhân mùa an cư kiết hạ, Bách Trượng lên giảng đường, nêu bày luận Trung Quán nói rằng: "Chánh giác không danh tướng, tùy duyên tức Đạo tràng". Uẩn Thông bèn ra thưa hỏi rằng: "Thế nào là Chánh giác không danh tướng?" Bách Trượng đáp: "Ông có thấy sương mốc ở đầu trụ chăng?" Lại hỏi: "Ngày nay kiết hạ".

Về sau, đến tham học ở Thủ Sơn, Uẩn Thông hỏi rằng: "Người học thân gần đến núi báu, lúc trở về tay không là thế nào?" Thủ Sơn đáp: "nhà nhà trước cửa bó lửa con". Nhân câu nói ấy, Uẩn Thông bèn đại ngộ, mới trình kệ rằng:

"Con nay hai bảy (27) tuổi
Phỏng Đạo từng kiếm tìm
Sáng nay mừng được gặp
Cốt là chẳng cùng hay".

Sau đó, Uẩn Thông lại đến Đại Dương, Hòa thượng Huyền hỏi rằng: "Gần xa lìa xứ nào?" Uẩn Thông đáp: "Tương châu". Đại Dương hỏi: "Làm sao là sâu sống mà chẳng lìa cách?" Uẩn Thông đáp: "Hòa thượng trú trì không thay đổi". Đại Dương bảo: "Vậy tạm ngồi uống trà". Uẩn Thông tiện thăm chúng rồi đi. Vị thị giả hỏi Đại Dương rằng: "Người ấy vừa lại mới đến đối đáp là Hòa thượng trú trì không thay đổi, cớ sao Hòa thượng lại bảo cùng ngồi uống trà?" Đại Dương bảo: "Ta tặng cho người ấy Tân la phụ tử, người ấy đáp lại ta bằng Hồi hương tên thuyền. Ngươi đi hỏi người ấy có nói vậy chăng?" Thị giả bèn mời Uẩn Thông trà mà hỏi rằng: "Vừa mới lại, chỉ đối đáp Đạo Hòa thượng trú trì không thay đồi, vậy ý chỉ ấy như thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Thật thau chẳng lấy vàng".

Ở đó lâu sau, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là Phật?" Uẩn Thông đáp: "Ngang châu là nơi sản sinh nhiều gậy chín mắc". Vị Tăng ấy thưa: "Kính tạ sự chỉ bày của sư". Uẩn Thông bảo: "Thả chẳng vì đáp câu hỏi về Phật liền hiểu". Lại hỏi: "Lúc đến không vật, khi đi không hai đường, tất cả đều mê, vậy làm sao đề được không mê đi?" Uẩn Thông đáp: "Đầu cán cân được nửa cân, đuôi cán cân được tám lượng". Lại hỏi: "Thế nào là Tâm Phật xưa trước?" Uẩn Thông đáp: "Đạp dính cán cân cứng tợ sắt". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Ngày mai sẽ nói cho cùng ông". Lại hỏi: "Núi xanh nước biếc tức không hỏi; gấp cần một câu làm sao sống đạo?" Uẩn Thông đáp: "Tuy duỗi quá đầu gối, tai rũ tới vai". Lại hỏi: "Thế nào là Đạo?" Uẩn Thông đáp: "Xe nghiến ngựa đạp". Lại hỏi: "Thế nào là người trong Đạo?" Uẩn Thông đáp: "Ngũ phong ngồi dọc". Lại hỏi: "Ngày qua tháng lại đổi thay chẳng biết tuổi già suy yếu, vậy có người chẳng già yếu ư?" Uẩn Thông đáp: "Thế nào là người không già yếu?" Uẩn Thông đáp: "Cầu Long gân sức cao tiếng rống, muộn sau tinh linh chuyển càng nhiều". Lại hỏi: "Thế nào là nơi sâu xa của người học?" Uẩn Thông đáp: "Rùa đen đáy nước sâu sáu tàng". Lại hỏi: "Chưa xét rõ việc trong ấy như thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Người đi trên đường chẳng cho biết". Lại hỏi: "Người xưa cần đòi lửa, ý chỉ ấy thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Mặc tình người ấy tắt". Lại hỏi: "Sau khi tắt rồi thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Mới đầu ba mươi mốt nhân làm đê đập sông trong mát". Có vị Tăng hỏi: "Chợt gặp nước lớn tràn ngập trời, lại đắp đê đập được không?" Uẩn Thông đáp: "Trên chống trời, dưới chống đất". Lại hỏi: "kiếp lửa rỗng cùng làm sao sống?" Uẩn Thông đáp: "Ra ngang vào dọc". Lại hỏi: "Hang núi sâu xa trong sườn có Phật pháp không?" Uẩn Thông đáp: "Có". Lại hỏi: "Thế nào là Phật pháp trong sườn hang núi suy xét?" Uẩn Thông đáp: "Kỳ quái đầu đá, hình tợ hổ, lửa đất gốc tùng, thế như rồng". Lại hỏi: "Người xưa nói thấy sắc tức thấy tâm, vậy trụ bày là sắc, cái gì là Tâm?" Uẩn Thông đáp: "Liễu trồng tiết cấp ngang trên thềm". Lại hỏi: "Thế nào là Đạo?" Uẩn Thông đáp: "Chó giỏi đeo mang bia". Lại hỏi: "Làm gì như vậy?" Uẩn Thông đáp: "Khiến người sợ thấy". Có lúc lên giảng đường, Uẩn Thông bảo rằng: "Ngày mười lăm trở về trước là chư Phật sinh, ngày mười lăm trở về sau là chư Phật diệt. Trước ngày mười lăm, chư Phật sinh, ngươi chẳng được lìa nơi Ta đây (nếu lìa nơi ta đây, ta có móc câu móc lấy ngươi). Sau ngày mười lăm chư Phật diệt, ngươi chẳng được ở nơi Ta đây, nếu ở nơi Ta đây. Ta có dùi, dùi đánh ngươi. Thả, Đạo ngay ngày mười lăm, dùng nước câu tức là phải, dùng dùi đánh tức là phải". Bèn có lời kệ rằng:

"Ngay trong ngày mười lăm
Móc dùi đồng lúc dứt
Lại phỏng hỏi thế nào
Ngày xoay đầu lại qua".

Có người hỏi: "Thế nào là không vá bổ tháp?"

Uẩn Thông đáp: "Trông nhìn ngay đó". Lại hỏi:

"Thế nào là người trong tháp?" Uẩn Thông bảo: "Lui sau, lui sau". Lại hỏi: "Nhân người xưa có nói: Chỉ ngăn như nay, ai động miệng. Ý chỉ ấy như thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Chớ nhận cầu lô yên làm A-da dưới cằm".

Trương Mậu Tông Thái Bảo hỏi rằng: "Tôn giả Ca-diếp Ma-đằng mới vào đất Hán, đã giẫm trải qua phần từ, Tổ sư Đạt-ma chỉ hoằng truyền đơn giản. Vậy cầu xin Sư chỉ thẳng". Uẩn Thông đáp rằng: "Mùa Đông chẳng tháng lạnh, xem sau". Có người hỏi là: "Nếu hay chuyển vật tức đồng Như Lai, muôn tượng là vật, làm sao chuyển được?" Uẩn Thông đáp: "Ăn cơm xong, không chút ý trí nhỏ". Lại hỏi: "Tấc tơ chẳng treo, lưới pháp vô biên, làm sao liền có mê ngộ?" Uẩn Thông đáp: "Hai thùng một gánh". Lại hỏi: "Hữu tình hữu dụng, vô tình vô dụng, thế nào là vô tình ứng dụng?" Uẩn Thông đáp: "Riêng cánh cửa con trọn đêm mở".

Lúc lên giảng đường, cảnh xuân ôn hòa, mưa xuân khắp nhuần, muôn vật sinh mầm, nơi nào chẳng đượm ân. Vả lại, Đạo nhân sức ân một câu làm sao sinh Đạo. Giây lâu, Uẩn Thông bảo rằng: "Mưa xuân một giọt trơn như dầu". Có người hỏi: "Thế nào là Pháp thân của chính tự người học". Uẩn Thông đáp: "Mỗi ngày dọn củi không đổi thay". Lại hỏi: "Như vậy là đại chúng đến, còn thế nào là người học đến?" Uẩn Thông đáp: "ba đời sáu mươi kiếp". Lại hỏi: "Theo từng ngày mở đón bày Bát, lấy gì để báo đáp ân của thí chủ?" Uẩn Thông đáp: "Bị một câu hỏi ấy, cùng Ta buồn giết". Lại hỏi: "Làm sao thì tạ được cúng dường?" Uẩn Thông đáp: "Được khí lực của người nào?" Vị Tăng ấy lễ bái, Uẩn Thông bảo: "Ngày mai lại ăn một cách nhanh chóng". Vị Tăng ấy hỏi: "Người xưa gấp cầu lông đầu thác nước, ý chỉ ấy như thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Mây tan trăng sáng". Lại hỏi: "Gấp nước đầu thác liền đá đáy, ý chỉ ấy như thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Phòng nhà rách phá, thấy trời xanh". Lại hỏi: "Phòng nhà rách phá, thấy trời xanh, ý chỉ ấy thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Thông trên suốt dưới". Lại hỏi: "Một nơi lửa bốc cháy, mặc tình theo ông cứu. Cả tám phương đồng bốc cháy một lúc thì thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Khoái". Lại hỏi: "Vậy có cầu được ra không?" Uẩn Thông đáp: "Nếu cầu ra, tức thiêu đốt chết ông". Vị Tăng ấy lễ bái, Uẩn Thông lại bảo: "Ngay sự khoan dung ông chẳng cầu ra ấy thiêu đốt giết ông".

Uẩn Thông dạy bảo đại chúng rằng: "-Câu thứ nhất là Đạo được trong đá tuông ra.-Câu thứ hai là Đạo bị bức bách sắp lại.-Câu thứ ba là Đạo được tự cứu chẳng xong. Lên giảng đường năm con mèo con sắc trắng trương móng chống cự mạnh dữ, nuôi lại trên giảng đường dứt tuyệt trùng loại đi lại, rõ ràng trên cây an pháp thân, thiết kỵ đề lời hứa cháu ngoại. Làm sao sống là câu hứa cháu ngoại chẳng nêu bày". Có vị Tăng vào thất hỏi rằng: "Chánh ngay cùng lúc nào lại có Sư không?" Uẩn Thông đáp: "Đèn sáng soi chiếu thâu đêm, nơi nào chẳng rõ ràng". Lại hỏi: "Rốt cùng sự việc thế nào?" Uẩn Thông đáp: "Lại". Lại nói: "Là ăn lạnh".

5. Thiền sư Nguyên Liên ở Quảng tuệ.

Thiền sư Nguyên Liên ở viện Quảng tuệ tại Nhữ châu, vốn dòng họ Trần ở Tuyền châu. Đến tham học nơi Thủ Sơn. Thủ Sơn hỏi: "Gần xa lìa xứ nào?" Nguyên Liên đáp: "Hán thượng". Thủ Sơn dựng đứng tay đấm bảo: "Hán thượng lại có cái ấy ư?" Nguyên Liên nói: "Cái ấy là cái bát gì mà phát tiếng?" Thủ Sơn bảo: "Kẻ mù". Nguyên Liên nói: "Vừa tốt vậy". Thủ Sơn bèn đánh một tát tai, Nguyên Liên liền ra. Ngày khác, Nguyên Liên lại hỏi: "Người học thân gần đến núi báu, lúc trở về tay không là thế nào?" Thủ Sơn đáp: "Nhà nhà bó lửa nhỏ". Ngay đó, Nguyên Liên liền đại ngộ, nói rằng: "Con đây không nghi thiên hạ nói đầu chót lưỡi Lão Hòa thượng". Thủ Sơn bảo: "Nơi ngươi gặp làm sao sống, cùng Ta nói lại xem?" Nguyên Liên nói: "Chỉ là nước Cương sa trên đất vậy". Thủ Sơn bảo: "Ông đã hiểu vậy". Nguyên Liên bèn lễ bái.

Ở đó, lâu sau có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là ý chỉ của Tổ sư từ Tây vức lại?" Nguyên Liên đáp: "Đầu cành trúc treo cờ hồng". Dương Ức Thị Lang hỏi rằng: "Trên trời không Di-lặc, dưới đất không Di-lặc, chưa xét rõ là ở tại xứ nào?" Nguyên Liên đáp: "Đánh gạch đập ngoái". Lại hỏi: "Đường phong huyệt cát vàng, đầu thác vợ mã lang, ý chỉ ấy thế nào? " Nguyên Liên đáp: "Càng nói là chẳng kịp". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Vô vị chân nhân?" Nguyên Liên đáp: "Trên gỗ dưới sắt". Lại hỏi: "Thế nào là tội kết quy có nơi?" Nguyên Liên đáp: "Phán quan ném dưới bút". Vị Tăng ấy bèn lễ bái. Nguyên Liên bảo: "Kéo ra". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Nguyên Liên đáp: "Hai cái chẳng là nhiều".

Lúc lên giảng đường, thủ tòa hai giảng đường của Lâm Tế cùng thấy đồng thời xuống quát mắng: "Các ngươi thả tạm nói lại có khách chủ không?" Nếu nói là có, chỉ là cái tài mù, nếu nói là không cũng là cái tài mù. Chẳng có chẳng không muôn dặm Nhai châu. Nếu hướng đến cái ấy nói được, khéo thọ ba mươi gậy, nếu nói không được cũng thọ ba mươi gậy". Nhà nạp Tăng đến như vậy làm sao sống ra được, sơn Tăng cuộn tròn... đi. Giây lâu, Nguyên Liên lại bảo: "Khổ thay ễnh ương và trùng giun nhảy nhót trên tầng trời thứ ba mươi ba, khua trước núi Tu-di trăm thứ tạp toái". Rồi nhóm lấy chống gậy bảo rằng: "Một đội không chày sắt rỗng, mau lui, mau lui!".

6. Thiền sư Trí Tung-Tam giao

Thiền sư Trí Tung-Tam giao ở viện Thừa thiên tại Tinh châu, vốn người xứ Phạm dương, đến tham học nơi Thủ Sơn mà hỏi rằng:

"Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Thủ Sơn đáp: "Nửa thành Sở vương, Nhữ thủy xuôi dòng phương Đông". Nhân đó mà Trí Tung có sự tỉnh ngộ, chóng hợp ý Phật, mới làm kệ tụng Tam Huyền rằng:

"Phải dùng ngay phải dùng
Tâm ý chớ định động
Ba năm sư tử rống
Mười phương mất giống chồn".
"Ta có tánh chân như
Như đồng ẩn trong màn
Đánh phá sáu cửa ải
Bày biện Ấn Tỳ-lô".
"Thật cốt Kim cang thể đáng khoe
Sáu trần một phẩy trọn không ngăn
Mở toan Thế giới, không làm thể
Trên thể vô vi thật đến nhà".

Thủ Sơn nghe xong, bèn mời cùng uống trà mà hỏi rằng: "Ba bài tụng ấy là do ngươi làm ư?" Trí Tung đáp: "Thật đúng vậy". Thủ Sơn hỏi: "Hoặc lúc có người chỉ dạy ngươi hiện ba mươi hai tướng, thì như thế nào?" Trí Tung đáp: "Con đây chẳng là cầm tinh Dã Hồ". Thủ Sơn bảo: "Tiếc lấy lông mày". Trí Tung nói: "Hòa thượng rơi trọn ít nhiều". Thủ Sơn bèn lấy lược bí bằng trên đầu vừa đánh vừa bảo rằng: "Tài ấy về sau loạn làm đi ở".

Ở đó, lâu sau lên giảng đường, Trí Tung bảo rằng: "Văn Thù cậy kiếm đi ngang Ngũ đài, Đường Minh một lối giữ dứt yêu ngọa. Chư Phật ba đời chưa nêu xuất giáo thừa, đáy lưới cá lội khó qua cửa rồng, quả cân bón biển chỉ cân rồng dữ. Ngoài cách huyền Đàm vì cầu tri thức. Nếu vậy thì nêu bày Tông chỉ, Tu-di ngay hải bể nát. Nếu vậy thì nói Phật nói Tổ, nước biển bèn phải khô cạn, kiếm báu lúc khua lóe sáng muôn dặm, cả cho ngươi một đường cùng các phương nói bàn, chặt dứt cổ họng, các ngươi từ nơi nào ra hơi". Có vị Tăng hỏi rằng: "Kẻ Độn căn vui thích pháp nhỏ chẳng tự tin làm Phật, sau khi làm Phật như thế nào?" Trí Tung đáp: "Bắt kỳ lân trong nước". Lại hỏi: "Cùng với gì thì tiện lên tòa cao?" Trí Tung đáp: "Cưỡi trâu lên tầng trời thứ ba mươi ba". Lại hỏi: "Người xưa nhón lấy dùi, dựng phất trần, ý chỉ ấy thế nào?" Trí Tung đáp: "Cưỡi lừa chẳng mang giày". Lại hỏi: "Thế nào là Đoạt người không đoạt cảnh?" Trí Tung đáp: "Nhà quê có đường, người đến". Lại hỏi: "Thế nào là đoạt cảnh không đoạt người?" Trí Tung đáp: "Ngầm truyền lệnh Thiên tử, vội đi trăm lộ trình". Lại hỏi: "Thế nào người và cảnh cả hai đều đoạt?" Trí Tung đáp: "Ễnh ương không đầu, cẳng chân chỉ trời". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh đều chẳng đoạt?" Trí Tung đáp: "Đền thờ nhà Tấn tại bờ phía Nam hẻm Trường Liễu". Lại hỏi: "Người xưa, ở núi Đông non Tây xanh, ý làm sao sống?" Trí Tung đáp: "Người xứ Ba Tư lỗ mũi to". Lại hỏi: "Cùng gì Ca-diếp ở Tây thiên, thầy ta ở Đông độ?" Trí Tung đáp: "Kim cang thủ bảng..." Lại hỏi: "Đại bi ngàn tay mắt, cái gì là mắt chánh?" Trí Tung đáp: "Khai hóa Phật đá vỗ tay cười. Đền thờ nhà Tấn nương tử âu ca". Lại hỏi: "lâm tế xô ngã Huỳnh nghiệt, nhân gì Duy-na ăn gậy?" Trí Tung đáp: "Chánh báo chẳng trộm Dầu, gà ngậm chén đèn chạy". Lại hỏi: "Thế nào là cắt dứt có người?" Trí Tung đáp: "Cần dùng bèn dùng". Lại nói: "Xin Hòa thượng dùng". Trí Tung bảo: "Kéo thây chết tài giỏi ấy ra". Trịnh Công Bộ hỏi rằng: "Trăm thước đầu sao riêng đánh cầu, muôn trượng sườn cao tơ buộc eo, lúc ấy thế nào?" Trí Tung đáp: "U châu dính cẳng, Quảng nam đánh bẻ". Trịnh Công Bộ không nói gì nữa. Trí Tung bảo: "Khám phá Hồ Hán ấy". Trịnh Công Bộ nói: "Hai mươi năm trong biên giới Giang nam xoay lại liền thấy Thiền sư". Trí Tung bảo: "Lão bà mù phun lửa".

Có vị Tăng hỏi rằng: "Nhị biên thuần chẳng lập, Trung Đạo chẳng nên an, chưa rõ ý chỉ ấy như thế nào?" Trí Tung bảo: "Quảng nam sinh sản ngà voi". Lại hỏi: "Chẳng hiểu, xin Sư chỉ thẳng?" Trí Tung bảo: "Phiên quốc da cầu, giá sao".

Lúc lên giảng đường, Trí Tung bảo: "Bờ cõi ôn hòa, lạnh nóng mặc áo ăn cơm, tự chẳng thiếu thốn, sóng dậy trên đất tìm cái gì, chỉ bởi các người chẳng chịu nhận lấy, như nay lại có nhận lấy đến đâu. Có thì không được cô phụ núi sông Đại địa. Trân trọng!" Có người hỏi: "Tổ sư từ Tây vức lại, Tam Tạng từ Đông độ đi đáng làm sáng tỏ việc gì?" Trí Tung đáp: "Bộ thư sửa điện Phật, Lão Tăng che Tăng đường". Có vị Tăng hỏi: "Cùng với gì thì toàn sáng tỏ việc ngày nay?" Trí Tung bảo: "Việc ngày nay làm sao sinh?" Vị Tăng ấy bèn quát mắng, Trí Tung bèn đánh. Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học dụng tâm?" Trí Tung đáp: "Sáng tỏ cạo đầu sạch, tẩy rửa bình bát". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học giẫm bước?" Trí Tung đáp: "Tăng đường ở trước, điện Phật ở sau".

Lúc lên giảng đường, Trí Tung nêu kệ của Pháp nhãn rằng: "Thấy núi chẳng là núi, thấy sông đâu khác gì. Núi sông cùng đại địa, đều là một vầng trăng. Đại tiểu pháp nhãn chưa thấy ra nhà Niếtbàn. Tam giao đây thì chẳng vậy. Thấy núi sông đại địa, dùi dao mỗi tự dùng.

Trân trọng".

7. Thiền sư Trí tung ở viện Thiết Phật.

Thiền sư Trí tung ở viện Thiết Phật tại Hân châu. Có bạn đồng tham đến, Trí Tung thấy bèn hỏi rằng: "Lại nhớ được cùng biết chăng?" Đồng bạn tham đầu phỏng bàn nghị, vị Tăng thứ hai đánh đồng bạn tham đầu một tọa cụ, bảo rằng: "Sao chẳng khoái thích, chỉ đối đáp Hòa thượng?" Trí Tung bảo: "Một mũi tên, bắn trúng hai ụ đất". Trí Tung hỏi vị Tăng rằng: "từ đâu lại?" Vị Tăng ấy đáp: "Từ Đài sơn lại". Trí Tung hỏi: "lại thấy Long vương chăng?" Vị Tăng ấy nói: "Hóa thân thử nói xem". Trí Tung bảo: "Nếu ta nói tức ngói vỡ băng tan". Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị. Trí Tung bảo: "Không tin Đạo". Vị Tăng ấy hỏi: "Tăng thị tịch đi đến xứ nào?" Trí Tung bảo: "Dưới sườn núi chẳng chạy, khoái thích bèn khó gặp".

8. Thiền sư Hoài Chí ở Thủ sơn.

Thiền sư Hoài Chí ở Thủ sơn tại Nhữ châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là ý chỉ của tổ sư từ Tây vức lại?" Hoài Chí đáp: "Gậy con ba thước đập bể bát sứ". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Hoài Chí đáp: "Lọt đáy thùng". Lại hỏi: "Từ trên các Thánh có lời nói gì?" Hoài Chí đáp: "Ta nghe như vầy". Lại hỏi: "Không hiểu?" Hoài Chí đáp: "Tin nhận vâng làm".

9. Thiền sư Xứ Bình ở viện Nhuận vương.

Thiền sư Xứ Bình ở viện Nhuận vương tại Trì châu, hỏi Thủ Sơn rằng: "Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Thủ Sơn bèn quát mắng. Xứ Bình lễ bái. Thủ Sơn nhón lấy gậy. Xứ Bình nói: "Lão Hòa thượng lấy hết thế giới ư?" Thủ Sơn vất xuống, chống gậy bảo rằng: "Người mắt sáng, khó lừa dối". Xứ Bình nói: "Giặc cỏ đại bại".

10. Thiền sư Hồi Hãn ở Trí môn.

Thiền sư Hồi Hãn ở Trí môn tại Tùy châu, làm Bắc tháp, có vị Tăng sai điểm trà lần lượt, Hồi Hãn đứng dậy tiếp lấy và nói: "Tăng sai gần lên tòa". Kẻ Sứ nói: "Trên đầu chim Diêu tranh nhau dám yên ổ". Hồi Hãn nói: "Bưng lên chẳng thành rồng". Và theo sau đánh một tọa cụ. Kẻ sứ dâng trà xong, đứng dậy nói: "Vừa lại liền thành xúc chạm trái nghịch Hòa thượng". Hồi Hãn bảo: "Giang nam hết

Thiền khách, tìm cái gì làm chén thứ hai?"

11. Sơn chủ Tuệ Chiêu ở Lộc môn.

Sơn chủ Tuệ Chiêu ở Lộc môn tại Tương châu. Dương ức thị lang đến hỏi rằng: "Vào núi chẳng sợ hổ, ngay đường phòng ngại người, khi ấy thì thế nào?" Tuệ Chiêu đáp: "Quân tử chỉ bình thản". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là núi Lộc môn?" Tuệ Chiêu đáp: "Thạch đầu lớn lên lớn, nhỏ đến nhỏ" Lại hỏi: "Thế nào là người trong núi?" Tuệ Chiêu đáp:

"Ngủ ngang nằm dọc".

12. Cư sĩ Thừa tướng Vương Tùy.

Cư sĩ Thừa tướng Vương Tùy đến bái yết Thủ Sơn, chứng đắc yếu chỉ ngôn ngoại. Từ đó giẫm trải vào sâu Đại pháp, đến lúc lâm chung, viết lại kệ tụng rằng:

"Vẽ nhà đèn đã tắt
Khảy tay đến ai nói
Đi ở vốn tầm thường
Gió xuân quét tuyết tàn".

Quyển 1 (Hết)

QUYỂN 2

MỤC LỤC

Đời thứ mười dưới Thiền sư Đại Giám.

Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Tộ ở Trí Môn có ba mươi vị:

1. Thiền sư Trọng Hiển ở Tuyết đậu.

2. Thiền sư Tử Vinh ở Diên khánh.

3. Thiền sư Trí Ánh ở Bách trượng.

4. Thiền sư Bảo Duyên ở Nam Hoa.

5. Thiền sư Thọ ở Hộ quốc.

6. Thiền sư Cần ở Cửu phong

7. Thiền sư Kế Bằng ở Vân cái.

8. Thiền sư Hải ở Hoàng long.

9. Thiền sư Trừng Tứ ở Chương pháp.

10. Thiền sư Tỉnh Nhân ở Vân đài.

11. Thiền sư Hảo ở sơn

12. Thiền sư Thiệu Tiên ở Từ vân (Mười hai vị trên thấy có ghi lục).

13. Thiền sư Văn Hỷ ở Phù dung.

14. Thiền sư Tỉnh Triệu ở khê.

15. Thiền sư Tăng Khả ở Đức sơn.

16. Thiền sư Giác Hiển ở Thúy phong.

17. Thiền sư Nguyệt ở Bách Trượng.

18. Thiền sư Phụng Loan ở Thúy nham.

19. Thiền sư Tỉnh Nhất ở Quy tông.

20. Thiền sư Thuận ở Quảng tuệ.

21. Thiền sư Bảo Kiên ở Thiên đồng.

22. Thiền sư Trí Vân ở Bách Trượng.

23. Thiền sư Nghĩa Tung ở Quảng giáo.

24. Thiền sư Khẩu Thuyên ở Kỳ dương.

25. Thiền sư Hiểu ở Linh tuyền.

26. Thiền sư Tập ở Trường tùng.

27. Thiền sư Tuyên ở Dược sơn.

28. Thiền sư Doãn Cung ở Quảng phước

29. Thiền sư ở Thái bình.

30. Thiền sư Đức Tuyên ở Đại long.

-Đệ tử nối dõi Thiền sư Châu ở Văn Thù chỉ có một vị.

1. Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn (có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Cần ở Nam đài có hai vị

1. Thiền sư Pháp Quảng ở Cao dương

2. Thiền sư Tiết Thành ở Thạch sương (hai vị có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Cảnh ở Hắc thủy có một vị.

1. Thiền sư Nghĩa Khâm ở Hắc thủy (có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư giới ở Ngũ tổ có bốn mươi vị.

1. Thiền sư Tự Bảo ở Động sơn

2. Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm

3. Thiền sư Tư Quảng ở Bắc tháp

4. Thiền sư Trí Ngung ở Vân cái

5. Thiền sư Tuệ Ngung ở Thúy phong

6. Thiền sư Đoan ở Tứ tổ

7. Thiền sư Tú ở Ngũ tổ

8. Thiền sư Hoài ở Thiên đồng

9. Thiền sư Biện ở Bạch mã

10. Thiền sư Trí Dục ở Thủy nam

11. Thiền sư Thông ở Hải hội

12. Thiền sư Tử Tường ở Nghĩa đài

13. Thiền sư Hoài Sở ở Thập vương

14. Thiền sư Đạo Hải ở Định tuệ

15. Thiền sư Văn Cát ở Nhạn đảng

16. Thiền sư Diệu Viên ở Động sơn

17. Thiền sư Thúc Chi ở Bảo nham (Mười bảy vị trên hiện có ghi lục).

18. Thiền sư Văn Tụ ở Tây thiền

19. Thiền sư Mông Chánh ở Thuấn phong

20. Thiền sư Hiển Đồng ở Hải hội

21. Thiền sư Công thần Từ Ứng Viên

22. Thiền sư Khuê ở Thụy nham

23. Thiền sư U ở Tam giác

24. Thiền sư Minh ở Đại Minh

25. Thiền sư Phưởng ở Ngũ tổ

26. Thiền sư Đạt ở Đại ngu

27. Thiền sư Đăng ở Trung cung

28. Thiền sư Giản ở Cảnh đức

29. Thiền sư ở Xá lợi

30. Thiền sư Khánh ở Vân cư

31. Thiền sư Viên ở Vĩnh an

32. Thiền sư ở Thập vương

33. Thiền sư Đức Hưng ở Ung hy

34. Thiền sư Tu Kỷ ở Lục hợp

35. Thiền sư Văn xán ở Đức sơn

36. Thiền sư Thiên ở Long nha

37. Thiền sư Liễu Kỳ ở Lương sơn

38. Hòa thượng Báo Ân ở Tùy châu

39. Hòa thượng Long Môn ở Thư châu

40. Thiền sư Viên ở Thụy nham (hai mươi ba vị trên không có ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thiện ở Phước xương có mười một vị:

1. Thiền sư Tề Nhạc ở Thượng phương

2. Thiền sư Thường Thản ở Dục vương

3. Thiền sư Thụy Tân ở Kim sơn

4. Thiền sư Tuân ở Phước xương (Bốn vị trên hiện có ghi lục).

5. Thiền sư Duy Tuấn ở Giáp sơn

6. Thiền sư Văn Tiệp ở Đức sơn

7. Thiền sư Hiển Anh ở Linh phong

8. Thiền sư Trí châu ở Công an

9. Thiền sư Vân ở Tứ minh

10. Thiền sư Chánh ở Nguyên phong.

11. Hòa thượng Đạo Như ở Khai Thánh. (Bảy vị trên không có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tín ở Càn minh có ba vị:

1. Thiền sư Di Túc ở Dược sơn

2. Thiền sư Thùy Bạch ở Tây thiền (hai vị có ghi lục)

3. Thiền sư Vô Ước ở Bảo đường (không ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nhã ở Phước nham có bốn vị:

1. Thiền sư Trí Hiền ở Bắc thiền

2. Thiền sư Chấn ở Hành nhạc (hai vị có ghi lục)

3. Thiền sư Liễu Thật ở Hành sơn

4. Quốc Bảo Lý Sâm Điện Tuyển (hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hiền ở Khai phước có ba vị:

1. Thượng tọa Nhận Phương (có ghi lục)

2. Thiền sư Văn Dục ở Đại dương

3. Thiền sư Sinh ở Song khê (hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tung ở Báo từ có một vị:

1. Thiền sư Tốn ở Hưng dương (có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Viễn ở Đức sơn có tám vị:

1. Thiền sư Thiện Xiêm ở Khai tiên

2. Thiền sư Sở Tài ở Hòa sơn

3. Thiền sư Thạnh Cần ở Tư Thánh

4. Thiền sư Khuê ở Lộc uyển

5. Thiền sư Nhân Biện ở Đại trung

6. Thiền sư Quế Phương ở Bồ-đề (Sáu vị trên hiện có ghi lục)

7. Thiền sư Ngộ Cần ở Khâm sơn

8. Thiền sư Sơn Phổ ở Vương thị (hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Khoát ở Tây phong có một vị:

1. Tôn giả Tự Nghiêm ở Nam an nham (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Chí ở Quảng giáo có hai vị:

1. Thiền sư Hoài ở núi Tứ Diệu (có ghi lục) 2. Thiền sư Hữu ở Hưng hóa (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thiệu Viễn ở Thạch môn có bảy vị:

1. Thiền sư Họa Thăng ở cư

2. Thiền sư Phương ở Quảng tế

3. Thiền sư Giám ở Vân đảnh

4. Thiền sư Khế Thuyên ở Đạo ngô (Bốn vị trên hiện có ghi lục)

5. Thiền sư Thiện Lai ở Lỗ châu

6. Thiền sư Huệ Viễn ở Tương châu

7. Thiền sư Sùng Bảo ở Tùy châu (ba vị ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Quán ở Lương sơn có năm vị:

1. Sơn chủ La Văn Đức Trân

2. Thiền sư Lợi Dục ở Dược sơn

3. Thiền sư Nham ở Lương sơn (ba vị trên có ghi lục)

4. Thiền sư Thiếu ở Vân nham

5. Hòa thượng Đại Ca (hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Yến ở Đức sơn có một vị:

1. Thiền sư Trí Tiên ở Đức sơn (có ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Cảm ở Bắc thiền có một vị:

1. Thiền sư Thông ở Nam thiền (có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nghiễm ở Cốc ấn có năm vị:

1. Thiền sư Khế Sùng ở Cốc ẩn (có ghi lục)

2. Thiền sư Pháp Hối ở Cốc ấn

3. Thiền sư Trọng Mẫn ở Khai giải

4. Thiền sư Hoài Kiên ở Thứu lãnh

5. Hòa thượng Hoài Linh ở Kỳ châu (bốn vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Giác ở Phổ Tịnh có hai vị:

1. Cư sĩ Trương Sinh

2. Cư sĩ Cấp sự Đào Cốc (hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thượng tọa Linh Trừng có một vị:

1. Thượng Thủ Chân ở Giáp sơn (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thông ở Quảng Tế có hai vị:

1. Thiền sư Trí Độ ở Nam Hoa

2. Thiền sư Cần ở Cửu Hoa (hai vị có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Mục ở Càn minh có một vị:

1. Thiền sư Đăng ở Nhân thắng (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Chiêu ở Thừa thiên có mười một vị:

1. Thiền sư Hạo Thăng ở Linh tuyến

2. Thiền sư Dụng Hòa ở Dược sơn

3. Thiền sư Tỉnh Tông ở Giáp sơn

4. Thiền sư Dụng Thuần ở Linh tuyền

5. Thiền sư Nhân Tú ở Giáp sơn

6. Thiền sư Tư Khanh ở Hoàng long

7. Thiền sư Pháp trân ở Gia ngư

8. Thiền sư Bảo Hiền ở Khai phước

9. Thiền sư Cư Hựu ở Hưng giáo

10. Thiền sư Chí Khuê ở Sùng Thánh

11. Thiền sư Ngộ Hiển ở Chương pháp (đều không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI DÒNG PHÁP THIỀN SƯ TỘ Ở TRÍ MÔN

1. Thiền sư Trọng Hiển ở Tuyết đậu.

Thiền sư Trọng Hiển ở Tuyết đậu tại Minh châu vốn dòng họ Lý ở phủ Toại ninh, nương theo Nhân tiên thượng nhân ở viện Phổ an mà xuất gia. Sau khi thọ giới Cụ túc, vân du khắp các giảng tịch nghiên tầm phỏng học Huyền Lý, gạn hỏi bén nhạy nhanh nhẹn có biện không ai địch nổi. Mọi người đều biết Trọng Hiển là pháp khí. Trọng Hiển tham chỉ nam, dẫn đầu đến Thiền sư Tộ ở Trí môn, tỏ bày hỏi rằng: "Chẳng khởi một niệm, sao là có lỗi quá?" Thiền sư Tộ bảo Trọng Hiển đến gần phía trước, và dùng phất trần vụt đánh vào miệng, Trọng Hiển phỏng mở miệng, Thiền sư Tộ lại đánh, Trọng Hiển bỗng nhiên khai ngộ. Ra ở Thúy phong, sau dời đến ở Tuyết đậu.

Ngày khai mở giảng đường, đến trước pháp tòa trông nhìn đại chúng, Sư (Trọng Hiển) bảo rằng: "Không luận bản phận tương kiến, chẳng hẳn phải lên pháp tòa cao". Và đưa tay họa vẽ một đường mà bảo là: "Mọi người hay theo tay tôi nhìn xem, vô lượng cõi nước của chư Phật đồng một lúc hiện bày". Đại chúng mỗi mỗi vị đồng chăm nhìn kỹ, trong đó hoặc có ngằn mé chưa biết rõ, chẳng khỏi kéo bùn mang nước, Sư bèn lên pháp tòa, vị Thượng thủ bạch kiền chùy bải, có vị Tăng vừa mới ra, Sư ước bảo dừng lại và nói là: "Chánh pháp nhãn tạng của Đức Như Lai ủy thác ở ngày nay, buông phóng đi thì ngoái sỏi phát sinh ánh sáng, cầm nắm dừng ở thì vàng thật mất sắc. Quyền bính tại trong tay, sống chết đã đến lúc, như có kẻ làm thì chung cùng chứng cứ". Có vị Tăng ra bạch hỏi rằng: "Xa lìa Tổ Tịch Thúy Phong, đã đến Đạo tràng Tuyết đậu, chưa xét rõ là một hay hai vậy?" Sư bảo: "Ngựa không chạy ngàn dặm, lừa dối tìm đuổi gió". Lại hỏi: "Thế nào là mây tan, nhà nhà trăng tỏ?" Sư bảo: "Kẻ tài đầu rồng đuôi rắn". Lại hỏi: "Các ngài Đức Sơn Lâm Tế đánh hét đã rõ ràng, còn Sư là người như thế nào?" Sư bảo: "Phóng qua một trữ". Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị, sư bèn quát hét, vị Tăng ấy thưa: "Chưa xét rõ chỉ gì riêng hiện có?" Bắn chẳng thật, không nhọc rơi mảy lông". Lại hỏi: "Thổi pháp loa lớn, gióng pháp cổ lớn, các hàng triều tể vào sân, thế nào là tức thị?" Sư bảo: "Gió trong lành thổi lại chưa nghỉ tốt". Lại hỏi: "Thế nào thì được gặp đến Sư?" Sư bảo: "Một lời đã nói, bốn ngựa khó đuổi kịp". Vị Tăng ấy lễ bái. Sư bảo: "Phóng qua một trữ".

Và, Sư nhìn khắp đại chúng mà bảo rằng: "Trời người đồng nhóm tập, phát minh cái việc gì? Sao có thể cùng phân rành khách chủ vội sính hỏi đáp, tiện đáng với Tông thừa, môn phong rộng lớn, oai đức tự tại, vụt tỏa sáng xưa nay, cầm nắm an định đất trời. Ngàn vị Thánh chỉ nói tự biết Ngũ thừa, chẳng thể kiến lập, do đó, trước âm tỏ ngộ ý chỉ còn mê đầu mối đoái hoài suy xét, ngay lời nói biết được Tông chủ còn mờ mịt sự biểu đạt của thức tình. Mọi người cần nên biết chân thật tướng là gì. Chỉ lấy trên không mến vui kính ngưỡng, dưới dứt tuyệt chính mình, tự nhiên thường sáng ngay trước mặt, mỗi mỗi vách tường dựng đứng cao ngàn dặm, lại biện rõ được hay không, chưa biện biệt thì nên biện biệt lấy, chưa rành rẽ hãy tự phân rành rẽ lấy. Đã biện biệt rành rẽ tức có thể cắt đứt dòng sinh tử, đồng chứng cứ ngôi vị của Phật Tổ. Diệu viên siêu ngộ chánh tại lúc này, kham nhân báo đáp ân không báo đáp, để giúp hoằng hóa vô vi". Có vị hỏi: "Thế nào là Đại ý Phật pháp?" Sư bảo: "Mây lành năm sắc". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu". Sư bảo: "Trên đầu man mác". Lại hỏi: "Lúc Tổ sư Đạtma chưa đến thì như thế nào?" Sư bảo: "Vượn hú cây xưa". Lại hỏi: "Tức việc ngày nay làm sao sống?" Sư bảo: "Một chẳng thành, hai chẳng vậy".

Lại hỏi: "Lúc Hòa thượng chưa biết Trí môn thì như thế nào?" Sư bảo: "Lỗ mũi của ngươi trong tay ta". Lại hỏi: "Sau khi đã biết rồi thì thế nào?" Sư bảo: "Suốt qua đầu lâu".

Có vị Tăng ra lễ bái rồi đứng dậy thưa hỏi rằng: "Xin Sư đáp câu thoại". Sư bèn đánh gậy. Vị Tăng ấy lại hỏi: "Há không có phương tiện?" Sư bảo: "Tội chẳng đoán buộc lại". Lại có vị Tăng ra lễ bái và đứng dậy thưa hỏi rằng: "Xin Sư đáp câu thoại". Sư bảo: "Hai lớp công án". Lại hỏi: "Xin Sư chớ đáp câu thoại". Sư cũng đánh gậy. Lại hỏi: "Người xưa nói sao Bắc đẩu trong Tạng thân, ý chỉ ấy như thế nào?" Sư bảo: "Mười nghe chẳng bằng một thấy". Lại hỏi: "Câu thoại ấy hạnh lớn". Sư bảo: "Chuộc già ngậm sắt". Lại hỏi: "Người xưa nói: Rõ ràng đất tuyệt một mảy tơ, chỉ như núi sông đại địa, lại nên như thế nào?" Sư bảo: "Đỏ mặt chẳng như nói thẳng". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu". Sư bảo: "Nên hỏi ở các phương". Lại hỏi: "Thế nào là người học ở chính mình?" Sư bảo: "Cưỡi bè phá ngạch". Lại hỏi: "Chẳng chỉ ấy bèn vậy?" Sư bảo: "Chết trôi sống rỗng". Lại hỏi: "Thế nào là nghĩa Duyên sinh". Sư bảo: "Kim cang đúc khoán sắt". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư bảo: "Bia trong chợ ồn náo". Lại hỏi: "Thế nào là đi đến nơi cùng nước ngồi nhìn lúc mây nổi?" Sư bảo: "Sắp bày xuống". Lại hỏi: "Suốt bốn mươi chín năm, Đức Phật giảng nói chẳng đến cùng, nên nay xin Sư nói". Sư bảo: "Tranh giành đó chẳng đủ". Lại thưa: "Cảm tạ Sư đáp câu thoại!" Sư bảo: "Gậy sắt, hãy tự trông nhìn". Lại hỏi: "Thế nào là mắt nắm giữ an định đất trời?" Sư bảo: "Nhắc lấy lỗ mũi". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư bảo: "Một Hỷ một Bi". Vị Tăng ấy nghĩ phỏng bàn nghị, Sư bảo: "Khổ". Lại hỏi: "Thế nào là cởi bỏ ngự phục quý báu mà đắp mặc áo quần xấu tệ?" Sư bảo: "Duỗi tay chẳng duỗi tay". Lại hỏi: "Xin Sư chỉ bày phương tiện". Sư bảo: "Mắt trái gạt gân, mắt phải móc thịt". Lại hỏi: "Long môn tranh tiến cử, cái nào là đăng khoa?" Sư bảo: "Trọng Tào điểm ngạch". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư bảo: "Nước lùi che đậy vải". Lại hỏi: "Vắng lặng quên lời ai là người được?" Sư bảo: "Cởi khăn xuyên mây đi". Lại hỏi: "Thế nào là lãnh hội?" Sư bảo: "Vạch áo mang nước về". Lại thưa: "Hai mươi năm câu thoại này ban hành rộng rãi". Sư bảo: "Một Trường chua rít". Lại hỏi: "Ngồi dứt đáy Tỳ-lô, nhân Sư lại có tiếp chăng?" Sư bảo: "Ân cần tiễn biệt đến bờ Tiêu tương". Lại hỏi: "Thế nào thì người học mặc tội quá?" Sư bảo: "Trời rộng đất hẹp, người buồn sầu". Vị Tăng ấy lễ bái, Sư bảo: "Ngôn từ khổ khuất, chẳng phòng ngại khó nhả". Lại hỏi: "Lúc sinh tử đến, làm sao để tránh né?" Sư bảo: "Định Hoa trên bảng". Lại hỏi: "Chẳng tiện là khi ấy an thân lập mạng chăng?" Sư bảo: "Điềm hợp đến nên phụng hành".

Lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là thổi lông kiếm?" Sư bảo: "Khổ". Lại hỏi: "Vậy có người học nào dùng chăng?" Sư thở dài một hơi rồi bảo: "Trước đại chúng cùng chung xướng đáp, cũng phải là cái tài mới được. Nếu chưa có vội trôi chảy qua nhận đến đáy mắt, chẳng nhọc nhón ra, do đó nói như đống lửa lớn, gần được Sư hơ ngay cửa mặt, cũng như vỗ nắm kiếm báu Thái A, xin tới trước tức tan thân mất mạng, mới nói là Thái A tung vỗ Tổ đường lạnh, ngàn dặm cần nên dứt muôn mối, chớ đợi sáng lạnh liền lánh rựa sáng". Sư lại bảo: "Xem xem kìa!" Rồi bèn xuống khỏi tòa.

Lại có lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là một điểm Duy-ma?" Sư bảo: "Hàn sơn phỏng tìm Thập Đắc". Lại hỏi: "Thế nào thì vào pháp môn bất nhị?" Sư thở dài một hơi, lại bảo:

"Đại sĩ Duy-ma đi nào theo
Ngàn xưa khiến người trông chẳng cùng
Pháp môn bất nhị thôi lại hỏi
Đêm về trăng sáng đảnh non cao."

Lúc lên giảng đường:

"Núi xuân lớp lớp xanh,
Sông xuân vời sắc biếc
Xa xa khoảng trời đất
Riêng đứng trông nào cùng".

Sư bèn xuống pháp tòa, ngoái nhìn bảo Thị giả rằng: "Vừa rồi có người trông coi phương trượng chăng?" Thị giả đáp: "Có". Sư bảo: "Làm giặc, rỗng tâm người". Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mười phương không vách rơi bốn mặt cũng không cửa, người xưa hướng về phía nào thấy được khách. Nếu như nói được câu tiếp tay, hứa cho ngươi trên trời dưới trời. Lúc lên giảng đường Sư bảo: "Ruộng đất ẩn mật, đến Phật tổ chẳng dám gần, làm sao mà nâng cẳng chân không dậy? Thần thông du hý đến quỷ thần chẳng thể lường, vì sao mà hạ cẳng chân không được? Ngay thẳng nhiều đủ mười chữ dọc ngang, sáng sớm đánh ba ngàn gậy chiều tối đánh tám trăm gậy". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đại chúng ấy với một mảnh đất ruộng phân giao đến nay trải qua thời gian đã lâu. Các người nên nói bốn góc bờ mé còn chưa biết tại đâu, nấu cần cây hạt ở trung tâm, ta cũng không tiếc". Có người hỏi: "Thế nào là cội nguồn của chư Phật?" Sư đáp: "Ngàn núi sắc lạnh". Lại hỏi: "Gốc giao hướng thượng lại có hay không?" Sư bảo: "Mưa giọt nham hoa".

Có lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: "Lúc tuyết phủ Lô Hoa thì như thế nào?" Sư bảo: "Điểm". Lại hỏi: "Làm sao thì là tốt lành làm điềm đi?" Sư bảo: "Hai lớp công án". Mới nói:

"Tuyết phủ Lô Hoa muốn trời chiều
Tạ người nhà chẳng tại thuyền chài
Trâu trắng thả đi không chỗ tìm
Chẳng giữ trẻ núi tặng roi sắt".

Một ngày nọ, vân du lên núi, trông nhìn khắp bốn phía rồi Sư bảo Thị giả rằng: "Ngày nào trở lại nơi đây?" Thị giả buồn xin để lại kệ tụng. Sư bảo: "Bình sinh, ta mắc phải bệnh nói nhiều vậy". Qua ngày hôm sau, Sư đem Tích trượng, giày, y bát ra ban tặng cho đồ chúng, đệ tử, rồi bảo: "Đến ngày mồng 07 tháng 07 lại cùng gặp nhau vậy". Đến kỳ hạn đó, Sư tắm gội xong, xếp y, gối đầu về hướng Bắc nằm mà thị tịch. Đại chúng dựng lập Bảo tháp, an táng toàn thân tại gò phía Tây của chùa, sư được ban tặng thụy hiệu là "Minh Giác Đại sư".

2. Thiền sư Tử Vinh ở Diên khánh.

Thiền sư Tử Vinh ở Diên khánh tại Tương châu, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là tùy theo sắc ngọc ma-ni?" Tử Vinh đáp: "Ba đứa trẻ con đùa đánh cầu hoa". Lại hỏi: "Thế nào là trọn sáng sớm hết ngày?" Tử Vinh đáp: "Đầu bạc răng rụng".

Lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: "Linh quang ẩn ẩn trăng soi cửa lạnh trước thiện pháp đường cầu xin Sư cử xướng". Tử Vinh bảo: "Được". Lại hỏi: "Đây còn là việc bên này, biện bên này làm sao sống?" Tử Vinh bảo: "Lông mọc dưới cẳng chân". Lại nói: "Thế nào là Phật?" Tử

Vinh đáp: "Dàn ngang thân bày rõ mười diệu, vào quan quách bày biện hai gót chân". Lại hỏi: "Lấy gì đề cúng dường?" Tử Vinh đáp: "Chấp tay ngang ngực". Lại hỏi: "Thế nào là ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Tử Vinh đáp: "Lão Hồ Tăng xỏ lỗ tai, chân chẳng mang giày".

3. Thiền sư Trí Ánh ở Bách trượng.

Thiền sư Trí Ánh ở Bách trượng tại Hồng châu, có vị Tăng hỏi: "Sư xướng khúc nhạc nhà ai Tông phong có ai nối dõi?" Trí Ánh đáp: "Tốt-đổ-na-tra chống trên tay". Lại hỏi: "Thế nào thì Đích tử của Bắc tháp, con cháu Thiều Thạch?" Trí Ánh đáp:

"Đẽo trán nhìn Tân-la".

4. Thiền sư Bảo Duyên ở Nam hoa.

Thiền sư Bảo Duyên ở Nam hoa tại Thiều châu, có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Bảo Duyên đáp: "Non xanh nước biếc". Lại hỏi: "Lúc chưa đến lại có ý gì không?" Bảo Duyên đáp: "Cao thì cao, thấp thì thấp".

5. Thiền sư Thọ ở Hộ quốc.

Thiền sư Thọ ở viện Hộ quốc tại Hoàng châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là pháp môn Nhất lộ Niết-bàn?" Sư đáp: "Tùng lạnh sắc xanh có cả ngàn năm, một lúc trải qua gió vút thoảng hương cả bốn mùa". Lại hỏi: "Thế nào là một hội Linh sơn?" Sư đáp: "Như Lai vừa mới một lần trông nhìn lại, Đức Ca-diếp khiến thấp mày".

6. Thiền sư Cần ở Cửu phong.

Thiền sư Cần ở Cửu phong tại Thụy châu, có vị Tăng hỏi: "Trong các môn phương tiện, xin Sư rủ lòng chỉ bày". Sư bảo: "Phật chẳng đoạt mất tâm nguyện của chúng sinh". Lại hỏi: "Thế nào thì là phương tiện báo đáp Sư?" Sư bảo: "Cần phải ăn gậy".

Lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: "Lưới lưỡi phun vọt ngàn kêu muôn kêu. Trụ bày nhân gì chẳng xoay đầu?" Dừng giây lâu, Sư bảo: "Thức ăn ngon lành chẳng trong người no ăn". Rồi xuống khỏi tòa.

7. Thiền sư Kế Bằng ở Vân cái.

Thiền sư Kế Bằng ở Vân cái tại Đàm châu, mới đầu đến bái yết Thiền sư Nhã ở Song tuyền. Thiền sư Nhã bảo làm Thị giả, đem câu thoại cột gậy ba tiêu mà chỉ bày, qua thời gian lâu mà Sư (Kế Bằng) không phát ngộ. Một ngày nọ, Thiền sư Nhã đem lửa đến nơi chỗ Sư đứng hầu, Thiền sư Nhã bỗng nhiên hỏi rằng: "Câu thoại cột gậy thử nêu cử, nay lại cùng ngươi thương lượng". Sư phỏng nêu cử, Thiền sư Nhã nhơn lấy thớ lửa bèn lay, Sư chợt nhiên đại ngộ, Ở đó lâu sau, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Đầu lưỡi không xương cốt". Lại hỏi: "Thế nào là ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Bình nóng nương trong lửa". Lại hỏi: "Lúc Đức Phật chưa xuất hiện nơi đời thì như thế nào?" Sư đáp: "Trời". Lại hỏi: "Sau khi Đức Phật đã xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Đất".

Lúc lên giảng đường, sư bảo: "Cao chẳng quá đảnh, giàu chẳng tại phú nghiêm, vui chẳng tại Thiên đường, khổ chẳng tại địa ngục". Giây lâu, Sư bảo: "Cùng biết khắp thiên hạ, biết tâm được mấy người?"

8. Thiền sư Hải ở Hoàng long.

Thiền sư Hải ở Hoàng long tại Ngạc châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là gia phong của Hoàng long?" Sư bảo: "Xem nhìn". Lại hỏi: "Bỗng nhiên gặp khách lại, làm sao để tiếp đãi?" Sư bèn lấy gậy chống gõ đó. Lại hỏi: "Thế nào là câu đầu tiên?" Sư bảo: "Đào đất xét trời".

9. Thiền sư Trừng Tứ ở Chương pháp.

Thiền sư Trừng Tứ ở Chương pháp tại Đảnh châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Trừng Tứ đáp: "Có ít nhiều người phỏng dòi chẳng nêu". Lại hỏi: "Bỗng nhiên phỏng nêu làm sao sống?" Trừng Tứ đáp: "Kham nhận làm cái gì".

10. Thiền sư Tỉnh Nhân ở Vân đài.

Thiền sư Tỉnh Nhân ở Vân đài tại Tuyền châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Tỉnh Nhân đáp: "Sân giận nắm tay chẳng đánh lộ mặt cười". Lại hỏi: "Thế nào là Thi thiết?" Tỉnh Nhân đáp: "Thiên thai thì có, Nam nhạc thì không". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Tỉnh Nhân đáp: "Trăng chẳng phá mồng năm". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Tỉnh Nhân đáp: "Mồng ba và ngày mười một". Lại hỏi: "Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Tỉnh Nhân đáp: "Ngày nay lúa thóc sáng đẹp". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Tỉnh Nhân đáp: "Hỏi lấy xoa đầu".

Lúc lên giảng đường, Tỉnh Nhân bảo: "Chủng tử Bồ-tát chẳng tại trong, chẳng tại ngoài, chẳng tại khoảng giữa, thả tạm nói rơi ở nơi nào?" giây lâu, Tỉnh Nhân lại bảo: "Nam Thiệm bộ châu, Bắc Uất đơn việt".

11. Thiền sư Hảo ở sơn.

Thiền sư Hảo ở sơn tại Phục châu. Có vị Tăng hỏi rằng: "Sư xướng khúc nhạc nhà ai? Tông phong ai người nối dõi?" Sư đáp: "Ngày xưa tại Linh sơn thân gần thọ ký, sáng nay ở sông văn khiến mới thực hành". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là sấm trải động Vân môn, mưa rưới thành Cảnh lăng?" Sư đáp: "Cửu cung bát quái".

12. Thiền sư Thiệu Tiên ở Từ vân.

Thiền sư Thiệu Tiên ở Từ vân tại Phước châu, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là Phật?" Thiệu Tiên đáp: "Mồ hôi đổ trên trán". Lại hỏi: "Thế nào là núi Từ vân?" Thiệu Tiên đáp: "Chẳng nhọc ngửa mặt nhìn". Lại hỏi: "Thế nào là nước Từ vân?" Thiệu Tiên đáp: "Gấp".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHÂU Ở VĂN THÙ

1. Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn.

Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn tại Thụy châu, vốn con nhà họ Đỗ ở Thiều châu. Lúc du phương đến ở vân cư làm đăng đầu, thấy có vị Tăng nói: "Đại Thánh ở Tứ châu gần xuất hiện ở Dương châu". Có người bày hỏi: "Đã là Đại Thánh ở Tứ châu, cớ sao bỏ đến xuất hiện tại Dương châu?" Sư (Hiểu Thông) đáp: "Quân tử mến thích tài của, lấy đó làm đạo". Về sau có vị Tăng cử bày tợ như chủ am Tường ở núi Liên hoa, chủ am rất kinh sợ nói: "Con cháu của Vân môn vẫn hiện còn". Vào nửa đêm trông nhìn về Vân môn mà kính bái.

Ở đó lâu sau có vị Tăng hỏi rằng: "Lúc Tổ sư Đạt-ma chưa Truyền Ấn Tâm Địa, Đức Thích-ca chưa mở hạt châu trong búi tóc, khi ấy nếu hỏi về ý chỉ từ Tây vức lại, vậy có ý chỉ ấy chăng?" Sư đáp: "Tháng sáu mưa đổ xuống, rỗng thoáng tâm muôn người". Lại hỏi: "Thế nào là mây tan nhà nhà trăng tỏ, xuân đến chốn chốn Hoa khoe?" Sư bảo: "Dưới cẳng chân xuống đến đáy nước Kim cang là ít nhiều?" Vị Tăng ấy im lặng không nói. Sư bảo: "Tổ sư từ Tây vức lại đặc biệt đề xướng sự ấy. Từ đó lên tòa không chiếu cỏ. Do đó, mọi người theo cửa vào chẳng là nhà quý, nhận ảnh lầm đầu, đâu chẳng là sai nhầm lớn. Đã là Tổ sư từ Tây vức lại đặc biệt đề xướng sự ấy, lại sao hẳn phải đối trước chúng mà cằn nhằn. Trân trọng!" Có người hỏi rằng: "Cây con không rễ, đến trồng nơi nào?" Sư đáp: "Vị Tăng một sáng mai, ngàn năm thường trụ". Lại hỏi: "Thế nào là câu xa lìa sắc?" Sư đáp: "Nam Thiệm bộ châu, Bắc Uất đơn việt. Lại hỏi: "Thế nào thì người học biết ân bát muội?" Sư bảo: "Trông bốn biển lớn sâu cạn ít nhiều?" Lại hỏi: "Gương xưa, lúc chưa lau chùi thì thế nào?" Sư bảo: "Từ đây đi Hán dương chẳng xa". Lại hỏi: "Sau khi lau chùi rồi thì thế nào?" Sư đáp: "Hoàng hạc lâu trước oanh võ châu". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Sửa dài tức đến".

Lúc lên giảng đường, Sư dạy sơn Tăng nói làm sao tức đắc. Xưa tức là nay, nay tức là xưa. Do đó, trong kinh Lăng Nghiêm nói: "Tùng thẳng, cây gai cong, chim Hộc trắng, Quạ đen", lại biết được gì? Tuy như vậy chưa hẳn là Tùng một cây mực cây thẳng, cây gai một mực cong queo, chim Hộc là trắng, chim Quạ toàn đen. Động Sơn nói: Trong đó cũng có cong queo ở đáy cây tùng, ngay thẳng ở đáy cây gai, đen ở đáy chim Hộc, trắng ở đáy chim Quạ. Dừng đứng giây lâu. Lại có lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: "Người học tiến tới lại chẳng được thối lùi, lại chẳng được thời thì thế nào?" Sư bảo: "Ôm đầu mà khóc trời xanh". Vị

Tăng ấy im lặng không nói. Sư bảo: "Ông trở lại trông xem bình bát Bí tử rơi nơi nào? Nếu ông biết được nơi rơi tức từ nơi ông hỏi vậy. Ba mươi năm sau bỗng nhiên hỏi nêu cũng chẳng định vậy".

Có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử Câu Hàn Sơn nói là: "Đáy giếng sinh ra bụi hồng, non cao nổi sóng trắng, Thạch nữ sinh Thạch nhi, lông rùa dài từng tấc, nếu cần học Đạo Bồ-đề, chỉ trông xem mô dạng đây". Giây lâu, Sư lại bảo: "Lại biết được nơi rơi không? Nếu cũng không biết nơi rơi trông xem Bồ-đề lâu đi vào trong Tăng đường vậy". Dừng đứng giây lâu. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Xuân lạnh ngưng giá rét đêm về tuyết đẹp lại thấy gì, khắp Đại địa tuyết phủ lan tràn, gió xuân lạnh như cũ, nói Thiền nơi đạo dễ, thành Phật thành tổ khó. Trân trọng!"

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Gà sáng sớm gáy bảo sáng, sau bữa cháo bầu trời tỏ rõ, đèn lồng còn che ngủ, trụ bày liền kinh sợ". Sư lại bảo: "Kinh sợ nói thẳng là kinh sợ, rõ ràng nói thẳng là rõ ràng. Sáng sớm ngày sau chớ nhận đứa ở làm con. Trân trọng!" Lại nhân việc chỉ dạy đại chúng, Sư bảo: "Trời tạnh dù lọng tức phòng nhà, nhân khô ráo cắt liền lúa, sớm thâu thuế vua xong, bụng trống xướng Ba ca". Có người hỏi: "Với Đức Sơn, vào cửa tức liền đánh gậy, như là khởi mô hình họa vẽ dạng, với Lâm tế, vào cửa tức liền quát mắng, chưa khỏi nắm mắt sinh hoa. Lìa hai đường đó, chưa xét biết Động Sơn là người như thế nào?" Sư bảo: "Trời tạnh lâu không mưa, ngày gần đây có mây vụt bay". Lại hỏi: "Ngày khác nếu có người hỏi Tông chỉ của Động Sơn, dạy người học nêu cử thế nào cho tương tợ?" Sư bảo: "Vườn rau cỏ khô rất thèm giọt nước vọt Ba lăng".

Mới đầu, Tỷ bộ lang trung Hứa Công Thức ra trấn thủ Nam xương, qua núi Liên hoa, nghe Tường Công nói: "Người thông đạo đang ở tại Giang tây, nên thử tìm phỏng hỏi đó. Vị Tăng ấy là con mắt của trời người vậy". Khi đã đến nơi. Hứa Công nghe gia phong Sư ở núi, bèn làm thơ gởi sang nói rằng:

"Nói năng đều chẳng trệ
Theo dấu chân thầy tổ
Đêm ngồi liền mây đá
Xuân trồng dãy tùng mưa
Cảnh phân đèn điện vàng
Núi đáp chuông lầu trăng
Có hỏi ý Tây lại
Nhà rỗng đối non xa".

Một ngày nọ, thân thể bất an, Sư lên giảng đường giả biệt đại chúng, thuật nêu kệ tụng về pháp thân rằng:

"Tham thiền học đạo chớ xa xôi
Hỏi thấu Pháp thân, Bắc đẩu tàng
Tôi nay già đến suy yếu lắm
Thấy người không sức được cân lường
Chỉ có cái vạc biết ý tôi
Lúc trồng tùng lại lên Kim cang!"

Nói kệ tụng xong, Sư bèn thị tịch. Qua bảy ngày sau trà tỳ thâu nhặt được xá-lợi năm sắc, tạo dựng tháp tôn thờ tại đỉnh núi Kim cang!.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CẦN Ở NAM ĐÀI

1. Thiền sư Pháp Quảng ở Cao dương.

Thiền sư Pháp Quảng ở Cao dương tại Nhữ châu, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là Đại Bi thiên thủ thiên nhãn?" Pháp Quảng đáp: "Rơi hầm lạc hố".

2. Thiền sư Tiết Thành ở Thạch sương.

Thiền sư Tiết Thành ở Thạch sương tại Đàm châu, có vị Tăng hỏi rằng: "Người xưa nói: Cuốn rèm phải lúc ban ngày, dời giường đối mặt núi xanh". Vậy thế nào là cuốn rèm phải lúc ban ngày?" Tiết Thành đáp: "Qua bình sạch lại". Lại hỏi: "Thế nào là dời giường đối mặt núi xanh?" Tiết Thành đáp: "Tức an đặt như cũ".

Lúc lên giảng đường, Tiết Thành bảo: "Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, tùy duyên an vị, lại chớ trầm ngâm. Các ông là người vừa mới lên thềm đạo, bèn khéo xoay đi, lại chớ đợi thìa nước dơ thứ hai bắn vọt làm gì?"

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CẢNH Ở HẮC THỦY

1. Thiền sư Nghĩa Khâm ở Hắc thủy.

Thiền sư Nghĩa Khâm ở Hắc thủy tại Nga my, lúc lên giảng đường, có vị Tăng ra đảnh lễ. Nghĩa Khâm bảo: "Đại địa có trăm thứ tạp toái". Và bèn xuống khỏi tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ GIỚI Ở NGŨ TỂ

1. Thiền sư Tự Bảo ở Động sơn.

Thiền sư Tự Bảo ở Động sơn tại Thụy châu, vốn người xứ Thọ châu, sống trong nhà xướng hát không rõ dòng họ, là người liêm cẩn, tánh tình mến mộ Phật thừa, đến chùa Hiệp thạch thọ học. Sư (Tự Bảo) tu hạnh Đầu đà, ăn cơm gạo xép, mặc áo xấu tệ. Đến tham phỏng Hòa thượng Giới phát minh tâm địa rất có tiếng tăm. Sư từng làm Hội chủ chăm lo việc chùa ở Ngũ tổ. Một ngày nọ, Hòa thượng giới cảm mắc bệnh, sai bảo thị giả xuống nhà kho lấy gừng sống đế nấu thuốc, Sư quát mắng Thị giả, Thị giả lên trình lại Hòa thượng giới, Hòa thượng giới bảo đem tiền xuống mua, Sư mới lấy gừng trao cho Thị giả, trong tâm Hòa thượng giới rất mến mộ Sư.

Về sau, Sư vân du các Tòng lâm, lúc đến Động sơn, Thiền sư Thông đang ở tại đó và rất mực kính trọng Sư. Đến lúc sắp thị tịch, Thiền sư Thông lưu lại di chúc khiến Sư kế thừa pháp tịch đó. Thích Quận thú cũng gởi thư đến thăm hỏi Hòa thượng giới và nêu cử người nhận biết trông nom đó. Hòa thượng giới bảo: "Gã tài tử bán gừng sống ở đây được vậy!" Sư bèn khai giảng giáo pháp tại Động sơn, có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Đầu não tương tợ", hoặc bảo: "Eo lưng dài, cẳng chân ngắn". Có người hỏi: "Sư xướng khúc nhạc nhà ai, và gia phong ấy ai là người nối dõi?" Sư đáp: "Ngôn ngữ ấy còn tại lỗ tai". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đích tử của Ngũ tổ, là con cháu của Vân môn?" Sư đáp: "Mỗi ngày rong ruổi năm trăm". Sư chỉ dạy đại chúng rằng: "Tất cả những gì gió lặng sóng yên trong ấy được lại, bỗng nhiên gặp sóng lớn lan tràn, sóng trắng lộn trời, phải lúc nào tìm kiếm một thủy thủ cũng khó có được một người cầm nắm bánh lái trong chúng cũng không". Chúng Tăng im lặng, không ai đối đáp điều gì. Sư bảo: "Lừa dối người cả một thuyền". Và Sư dời về ở Quy tông.

Một ngày nọ, Sư chống gậy ra cửa núi, thấy la mắng mọi người qua lại trên đường, Sư hỏi: "Quan nào vậy?" Kẻ Sứ thưa: "Huyện úy bảo lánh đường". Sư bèn đứng lánh bên tả đường đi. Ngựa của huyện úy quỵ chân chẳng chịu đi, Sư bảo: "Súc sinh ấy mà cũng có nhận biết đến người". Sư bảo: " nhận biết ra Sư, bèn đảnh lễ rồi ngựa mới đi.

Sau đó, Sư lại dời đến ở Văn cư, một đêm nọ Thần núi khiêng kiệu Sư đi nhiễu quanh chùa, Sư quở trách rằng: "Nâng nhắc lên trên phương trượng đi". Thần bèn thẳng nâng lên trên phương trượng. Sư là người tinh nghiêm hộ trì giới pháp. Mới đầu, lúc đi hành khất ban đêm dừng nghỉ tại quán trọ, bị con hát ép bức cùng ngủ chung giường, Sư bèn tọa thiền suốt đêm đến sáng, con hát đòi tiền ngủ đêm, Sư cũng trả cho đó, bước ra ngoài cửa, Sư tự đốt chăn rồi bỏ đi. Con hát ấy mới đem sự thật tỏ bày cùng mẹ mình, và bèn thỉnh mời Sư trở lại thiết trai cúng dường sám tạ, tôn xưng Sư thật là Phật tử vậy. Nhưng tánh Sư ham danh, nhiều sự biên phúc. Mới đầu, đắc pháp ở Hòa thượng giới, Hòa thượng giới vì tuổi già nên bỏ chúng giao Sư lo liệu, Sư đem mọi việc cù mình ẩn tàng khiến người nghi tợ chẳng phải lễ. Lúc lên giảng đường, Sư nói kệ mà quở trách đó rằng: "Than ôi trông thấy ở đời lừa dối, lời nói trong sạch mà hành vi dơ bẩn lắm nhiều. Nếu không Diêm lão tử, ai là người nhẫn nại các ngươi ư?" Hòa thượng giới bèn đến Đại ngu. Một ngày nọ ở trước Tăng đường chống tựa gậy nói cười mà thị tịch.

Sư tuy rất có tiếng tăm ở chốn Tùng lâm, cũng ít người được vậy. Sư từng tạo tác chân tán Tổ sư Đạt-ma, rất được mọi người ở chốn Tùng lâm xứng tụng. Với lời tựa rằng: "Đồ hình chân thật của Sư xa vượt ba cõi không tích chứa, phỏng muốn an bài, biết ông bày biện lớn, nhọc không chỉ điểm nơi nào vỗ phỏng. Cần biết Sư thật là đất trời rỗng rơi".

Và tán thán rằng:

"Tướng mạo Sư ở đời hiếm có
Lông mày Sư tợ giăng mây rủ
Ánh mắt Sư như sấm phát sáng
Lỗ mũi Sư cao như núi Tu di
Cửa miệng Sư không răng quả tại ai
Phỏng vượt Lưu sa sao chẳng tự biết trái
Trượng phu đây kia truyền pháp cho ai.
Lại ở Thiếu lâm hổ thẹn bỏ trở về Tây vức
Gặp nạp Tăng khéo cùng một vội đánh
Tuy nhiên như vậy chẳng hiểu chẳng châm dùi".

2. Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm.

Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm tại Hồng châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư bảo: "Văn chẳng điểm thêm". Lại hỏi: "Chẳng cùng vạn pháp làm bạn là người nào?" Sư bảo: "Bồ-tát Quán Thế Âm". Lại hỏi: "Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Sư bảo: "Văn Thù tự Văn Thù, giải thoát tự giải thoát".

3. Thiền sư Tư Quảng ở Bắc tháp.

Thiền sư Tư Quảng ở Bắc tháp tại Phục châu.

Có vị Tăng hỏi rằng: "Thế nào là sự việc Nạp Tăng biến thông?" Tư Quảng đáp: "Vọt nổi phía Đông, chìm lặn phía Tây". Lại hỏi: "Sau khi biến thông thì thế nào?" Tư Quảng đáp: "Đất đai màu mỡ hạt sen non". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Tư Quảng đáp: "Tay trái thư, tay phải tự". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Tư Quảng đáp: "Bẻ đầu bẻ cẳng".

4. Thiền sư Trí Ngung ở Vân cái.

Thiền sư Trí Ngung ở Vân cái tại Đàm châu, có vị Tăng hỏi: "Hang báo sương mốc cuộn, đường chim mây mù tan, các vật trong biển đều đến, tiếng triều dâng mong chấn động là thế nào?" Trí Ngung đáp: "Trăng ánh ngời ngàn sông trắng xóa". Lại hỏi: "Thế nào thì năm mây non xinh đẹp, ba giếng gió trong lành?' Trí Ngung đáp: "Mây tan muôn dặm mới". Lại hỏi: "Thế nào là cảnh vân cái?" Trí Ngung đáp: "Góc núi vàng chắn bít, lưới tùng màn ngọc rủ". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Trí Ngung đáp: "Áo tía quân tử ít, tuyết đảnh hoang tàng nhiều". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Trí Ngung đáp: "Chùa xưa, văn bia khó đọc". Lại hỏi: "Chưa rõ ý chỉ ấy như thế nào?" Trí Ngung đáp: "Người đọc hết nheo mày". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Trí Ngung đáp: "Ngăn trời che đất". Lại hỏi: "Bỗng nhiên gặp khách đến làm sao tiếp đãi?" Trí Ngung đáp: "Triệu Châu nói đến". Và trông nhìn khắp đại chúng xong, Trí Ngung quát mắng rằng: "Các vị Thiền đức chẳng là khách và chủ rõ ràng ư? Chẳng là trước chiếu sau dụng ư? Chẳng là chiếu dụng đồng thời ư? Nếu chẳng hiểu biết Tông phong của Lâm tế bình lắng trong biển khổ. Đã chẳng nhận biết làm sao sống mà thương lượng?" Dừng giây lâu, Trí Ngung hét một tiếng và vỗ gõ xuống thẳng sàn. Lại có lần lên giảng đường, Trí Ngung bảo: "Hôm qua ba, ngày nay bốn, nắm dứt trọng yếu, phóng mở nắm nhóm, không hạn Thiền đồ đặt đất không bỏ hét một tiếng".

5. Thiền sư Tuệ Ngung ở Thúy phong.

Thiền sư Tuệ Ngung ở Thúy phong tại Tô châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Tuệ Ngung bảo: "Cửa mở trên đỉnh núi phía Đông". Lại hỏi: "Thế nào là Đích tử của Ngũ tổ?" Tuệ Ngung đáp:

"Vượn hú trên cành tùng già".

6. Thiền sư Đoan ở Tứ tổ.

Thiền sư Đoan ở núi Tứ tổ tại Kỳ châu, có kệ tụng về Pháp thân rằng:

"Đèn tâm găm mang cẳng Thạch nữ
Lửa gấp đi mời khắp thầy giỏi
Bỗng gặp Bàng công cùng nhờ hỏi
Ngày đầu tháng sáu hong phơi khô".

7. Thiền sư Tú ở Ngũ tổ.

Thiền sư Tú ở núi Ngũ tổ tại Kỳ châu, có vị Tăng hỏi: "Không pháp có thể nói thì gọi là nói pháp. Có pháp có thể nói lại làm sao nói?" Sư bảo: "Sương lạnh đất đóng băng". Vị Tăng ấy lại nói: "Không sinh chẳng hiểu ngồi trong hang, rước được hoa trời động đất lại". Sư bảo: "Mặt nhật xuất hiện, băng tuyết tiêu tan". Vị Tăng ấy phỏng nghĩ bàn nghị, Sư bảo: "Sao chẳng tiến tới nơi?" Vị Tăng ấy im lặng không nói gì, Sư bảo: "Xe chẳng tung hoành, đẩy sửa không khúc ".

8. Thiền sư Hoài ở Thiên đồng.

Thiền sư Hoài ở núi Thiên đồng tại Minh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạtma từ Tây vức lại?" Hoài đáp: "Trong mắt chẳng dính mang cát bụi". Lại hỏi: "Thế nào là Lãnh hội?" Hoài đáp: "Trong tai chẳng mang đọng nước".

Lại hỏi: " Thế nào thì lễ bái?" Hoài đáp: "Nhà Đông nhóm đèn, nhà Tây ngồi tối".

Lúc lên giảng đường, Hoài bảo:

"Tây Hồ ẩn hiện núi non đẹp
Lầu lỗ sâm sai như vẽ thành
Dòng thiền cùng tại Kỳ viên ở
Chớ bảo rỗng không một đời người".
Xong rồi, Hoài bèn xuống khỏi tòa.

9. Thiền sư Biện ở Bạch mã.

Thiền sư Biện ở Bạch mã tại Tương châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Nước đổ lại, sông dâng tràn". Lại hỏi: "Thế nào là Pháp". Sư đáp: "Gió thổi lại, cây lay động".

10. Thiền sư Trí Dục ở Thủy nam.

Thiền sư Trí Dục ở Thủy nam tại Tùy châu. Lúc lên giảng đường, Trí Dục bảo:

"Muốn biết đạo giải thoát
Ngày nay tham hiệu sớm
Chỉ nghĩ đường đi khó
Nước sâu cá chẳng ít".

Tham rồi, Trí Dục lại bảo:

"Muốn biết đạo giải thoát
Gà gáy trời đã sáng
Bách trước sân Triệu châu
Đánh rơi Táo châu".

Và Trí Dục hét một tiếng.

11. Thiền sư Thông ở Hải hội.

Thiền sư Thông ở Hải hội tại Dã châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là một câu Hòa thượng là người?" Sư đáp: "Sáng sạch đầy mắt". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp: "Bôi tro trét đất". Lại hỏi: "Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Cây thị cây thông che tơi nón". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp: "Lúc đi mang đội trên đầu, khi ngồi treo ở các cao".

12. Thiền sư Tử Tường ở Nghĩa đài.

Thiền sư Tử Tường ở Nghĩa đài tại Kỳ châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Nghĩa đài?" Sư đáp: "Đường đi chẳng nhặt vật rơi". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Chó ông Thuấn sủa ông Nghiêu". Lại hỏi: "Thế nào là Đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư bảo: "Đã từng hỏi bao nhiêu người rồi?" Vị Tăng ấy lại nói: "Tức nay hỏi Hòa thượng". Sư bảo: "Thả tạm chớ rỗng đầu".

13. Thiền sư Hoài Sở ở Thập vương.

Thiền sư Hoài Sở ở Thập vương tại Kỳ châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Hoài Sở đáp: "Nhà nhà cao vợi". Lại hỏi: "Thế nào là thấu suốt câu Pháp thân?" Hoài Sở bảo: "Lớn có người hỏi rồi". Vị Tăng ấy lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Hoài Sở đáp: "Tỉnh xứ Tát-bà-ha".

14. Thiền sư Đạo Hải ở Định tuệ.

Thiền sư Đạo Hải ở Định tuệ tại Tô châu, có vị Tăng hỏi: "Chư Phật xuất hiện nơi đời, đã giẫm trải qua nhiều từ, làm sao sống đúng ý chỉ". Đạo Hải đáp: "Gặp người không được nêu bày". Vị Tăng ấy lại nói: "Chẳng nhân một sự, chẳng lớn một Trí".

Đạo Hải bảo: "Quái lạ thay, chẳng kịp!".

15. Thiền sư Văn Cát ở Nhạn đảng.

Thiền sư Văn Cát ở Linh phong núi Nhạn đảng tại Ôn châu, có vị Tăng hỏi: "Tổ tổ tương truyền, truyền Tổ ấn, nay Sư đắc pháp nối dõi từ người nào?" Sư đáp: "trâu sắt không sừng ngủ nơi Thiếu thất, sinh con Thạch nữ Lão Hoàng Bá". Lại hỏi: "Thế nào là con cháu của Thiều Dương, đích tử của Tổ Phong?" Nhạn đảng, Thiên thai. Lại hỏi: "Ý Tổ đã được Sư chỉ bày, một câu làm người lại như thế nào?" Sư đáp: "Hai lớp công án". Lại hỏi: "Ngày xưa trên Linh sơn phân chia nửa tòa, Ca-diếp đối mặt bị bôi hồ, sáng nay nơi pháp tịch đây lại như vậy. Lại có câu hoàn toàn không?" Sư đáp: "Một bước hai bước". Vị Tăng ấy nói: "Gió vàng thổi rơi lá ngọc, giọt sương tùng xanh". Sư bảo: "Buộc cao giày cỏ". Vị Tăng ấy nói: "Một lần đem mang, một lần mới". Sư bèn đánh.

16. Thiền sư Diệu Viên ở Động sơn.

Thiền sư Diệu Viên ở Động sơn tại Thụy châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Đầu não tương tợ".

17. Thiền sư Thúc Chi ở Bảo nham.

Thiền sư Thúc Chi ở Bảo nham tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Thân đất cốt gỗ". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Trang sức vàng ròng năm sắc". Lại nói: "Thế nào thì đảnh lễ đi?" Sư đáp: "Thiên thai Lang lật".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THIỆN Ở PHƯỚC XƯƠNG

1. Thiền sư Tề Nhạc ở Thượng phương.

Thiền sư Tề Nhạc ở Thượng phương tại An cát châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Bồ-đề?" Sư đáp: "Đầu gạch con ngoái". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Khổ". Lúc lên giảng đường, Sư bảo:

"Lại nhặt lá vàng đốt khói xanh
Giường trúc áo che ngủ nửa đêm
Cháo xong, phóng tham ba hạ cổ
Ai hay đối đáp Tổ sư Thiền!"

Xong, Sư bèn xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Thường Thản ở Dục vương.

Thiền sư Thường Thản ở Dục vương tại Minh châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là có trong có?" Sư đáp: "Trên núi Kim Hà". Lại hỏi: "Thế nào là không trong không?" Sư đáp: "Trước nhà Bátnhã". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ngàn hoa đua nở trăm chim hót xuân, là câu hướng thượng. Chư Phật xuất hiện giữa đời, các hàng tri thức dấy khởi tâm từ, là câu hướng hạ. Làm sao sống là chẳng giẫm trải qua câu hai đường ấy? Nếu nhận biết được trên đỉnh cửa phát sinh ra hơi khí, nếu biết không được trâu đất cày ruộng đá". Và Sư đánh vỗ thiền sàng rồi xuống khỏi tòa.

3. Thiền sư Thụy Tân ở Kim sơn.

Thiền sư Thụy Tân ở Kim sơn tại Nhuận châu, có vị Tăng hỏi: "Tôi có hoạn nạn lớn là bởi tôi có thân. Vậy lúc cha mẹ chưa sinh, không xét biết thân này ở tại xứ nào?" Sư đáp: "Trong vô lượng kiếp lại không có nơi chốn, nếu luận bàn sinh diệt hết thì thành trái quấy". Lại hỏi: "Thế nào là khắp cùng mười phương tâm chẳng tại hết thảy chỗ?" Sư đáp: "Lay cây thông trong bùn".

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thế gian mến quý là ngọc bích dòng họ Hòa, là châu ngọc của Hầu-thời nhà Tùy. Núi vàng gọi làm nước đái lừa phẩn ngựa. Còn xuất thế gian mến quý là chân như, giải thoát, Niết-bàn, Bồ-đề, núi vàng gọi làm đuôi vọt chén kêu, vả lại nói sao là nói năng rơi tại nơi nào? Nên chẳng là lấy nhà Tâm trọng Tà tín nhận biết trái ngược, các ngươi cần biết gì? Hổ mạnh dữ chẳng đoái hoài thịt trên ghế, lò lớn đâu nung đúc dùi trong đãy".

4. Thiền sư Tuân ở Phước xương.

Thiền sư Tuân ở Phước xương tại Giang lăng, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Hoa nở hang vàng ấm, liễu phẩy thềm ngọc thơm". Lại hỏi: "Thế nào là xuân lệnh đã hành, muôn phương đạo thái?" Sư đáp: "Mở miệng mê toàn thể, không lời bày nửa thân".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÍN Ở CÀN MINH

1. Thiền sư Di Túc ở Dược sơn.

Thiền sư Di Túc ở Dược sơn tại Lễ châu, có vị Tăng hỏi: "Khi Đức Phật chưa xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Cây lớn trong da lớn". Lại hỏi: "Sau khi Đức Phật đã xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Cây nhỏ buộc da nhỏ". Lại hỏi: "Thế nào là Bất động Tôn?" Sư đáp: "Bốn vua nâng chẳng dậy".

2. Thiền sư Thùy Bạch ở Tây thiền.

Thiền sư Thùy Bạch ở Tây thiền tại huyện Bì, Ích châu. Có vị Tăng hỏi: "Lô hương vừa mới nhóm, đại chúng đồng tụ hội. Ý chỉ của Tổ sư Tây vức lại, xin Sư chỉ bày?" Sư đáp: "Tâm sáng tự soi chiếu". Lại hỏi: "Thế nào là một câu nơi Sư thân gần nhận lãnh được, trọn chấn thành Bì muôn xưa truyền?" Sư đáp: "Là người có phần".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHÃ Ở PHƯỚC NHAM

1. Thiền sư Trí Hiền ở Bắc thiền.

Thiền sư Trí Hiền ở Bắc thiền tại Thường ninh, Hành châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Ném bát non cao xinh đẹp, tiếng tăm vang tỏa hải ngoại". Lại hỏi: "Ngày xưa Phước Nghiêm thân gần được ý chỉ, sáng nay nơi đây giáo hóa đường mê". Sư bảo: "Chung cùng ăn no ở chốn Tùng lâm". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Thìa khêu chẳng nỗi". Lại hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Đường hiểm trở gác bắt cầu".

Đêm ba mươi tết, lên pháp tòa, Sư chỉ dạy Đồ chúng rằng: "Năm cùng tháng hết, không có gì để cùng đại chúng phân chia năm, Lão Tăng nướng một con trâu đầu bày nơi đất, nấu cơm gạo đất ruộng, nấu để rau, đốt lửa gốc cây, cùng đại chúng vây quanh lò xướng hạt khúc ca "quy điền". Cớ sao như vậy? Miễn bị nhờ tựa nhà cửa người khác, vách tường người khác bên cạnh lúc sai sứ đến người gọi làm con". Xong, Sư xuống khỏi tòa. Khi ấy từ phía sau có vị Tăng gọi lớn tiếng rằng: "Từ huyện có Quan lại đến". Sư quay đầu nhìn lại hỏi nguyên do. Vị Tăng ấy nói: "Hòa thượng giết trâu chưa nạp sừng và da". Sư cười, ném khăn quàng ấm nơi đất cho đó, vị Tăng ấy cúi xuống đất nhặt lấy khăn, quỳ dâng lên và nói: "Trời lạnh, xin trả khăn lại Hòa thượng". Sư quay nhìn lại hỏi Thị giả Ỷ Ngộ rằng: "Thế nào?" Ỷ Ngộ thưa: "Ngày gần đây, trong thành chỉ quý một trạng lệnh qua". Sư lại lên giảng đường, ngừng giây lâu, Sư bảo: "Oán khổ! Oán khổ! Làm thế nào Bách Trượng chẳng còn? Lão Tăng ngày nay khốn khổ phải xuống tòa". Sư lại lên giảng đường: "Ha! Ha!" cười lớn và bảo: "Tranh giành quái lạ được Lão Tăng".

2. Thiền sư Chấn ở Hành nhạc.

Thiền sư Chấn ở chùa Hành nhạc tại Nam nhạc chỉ dạy đại chúng rằng: "A! Ha, ha! Tùng gầy trúc lạnh khóa sóng trong

Có lúc riêng ngồi trên tảng đá
Không người cùng xướng khúc "Thái Bình"
Sáng nhìn mây trăng cửa động tỏa
Tối trông trăng tỏ chiếu Ta-bà
Có người hỏi Ta việc ở núi
Gậy con ba thước quấy Hoàng hà".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HIỀN Ở KHAI PHƯỚC.

1. Thượng tọa Nhật Phương.

Thượng tọa Nhật Phương, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu Hộp che đất trời?" Sư dựng đứng cây gậy. Lại hỏi: "Thế nào là câu cắt dứt các dòng?" Sư lại đè ngang cây gậy. Lại hỏi: "Thế nào là câu theo sóng đuổi sóng?" Sư ném cây gậy xuống. Vị Tăng ấy nói: "Ngoài ba câu đó ra xin sư nói". Sư bèn đứng dậy đi, và tán thán Khai Phước Chân rằng:

"Nghi dung bạch gầy đáng chiêm đáng ngưỡng.
Chiêm ngưỡng đó chẳng thân gần,
Đồ hình nét bút diệu đáng phỏng đáng tượng.
Tượng ấy chẳng phải chân thật.
Chẳng thân gần, chẳng chân thật, trăng thu tròn đầy.
Có lời nói không mùi vị đích trong đích
Đã qua rồi như hiện tại tìm sao tìm
Đương cơ ẩn hiện, mảy tóc lừa dối
Chim vàng ngựa trác, gió nhanh như sấm sét".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TUNG Ở BÁO TỪ.

1. Thiền sư Tốn ở Hưng dương.

Thiền sư Tốn ở núi Hưng dương tại Dĩnh châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Tóc bạc mặt nhăn". Lại hỏi: "Thế nào là Pháp?" Sư đáp: "Nóng qua lạnh lại". Lại hỏi: "Thế nào là việc ngoài ba cõi?" Sư đáp: "Lạc dương hơn ngàn dặm, chẳng được sách thời xưa".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VIỄN Ở ĐỨC SƠN.

1. Thiền sư Thiện Xiêm ở Khai tiên.

Thiền sư Thiện Xiêm ở Khai tiên tại Lô sơn, vốn người Lâm Giang Quân. Tiết tháo tánh hạnh khổ, trí thức thấu đạt uyên thâm. Có Thiền sư Viễn ở tại Đức sơn, Sư (Thiện Xiêm) sang đó nương tựa. Một ngày nọ, Thiền sư Viễn lên giảng đường, trông nhìn khắp đại chúng và bảo rằng: "Sư tử từng rên rì, voi chúa quay đầu nhìn". Sư bỗng nhiên có sự tỉnh ngộ. Sau đó, vào phòng thất trình bày kiến giải của mình. Thiền sư Viễn hỏi: "Ông làm sao phát sinh tỏ hiểu?" Sư xoay nhìn lại thưa: "Lừa ăn cỏ sau vườn". Thiền sư Viễn chấp thuận vậy. Từ đó, cơ biện của Sư tấn phát nhanh nhẹn, khắp chốn Thiền lâm đều tôn xưng Sư là "Hải thượng hoành hành xiêm đạo" vậy.

Sư lại đến tham vấn Thiền sư Hiển ở Tuyết đậu. Thiền sư Hiển rất mến quý Sư, sau đó Sư ở lại dưới pháp tòa vài năm, muốn đề cử Sư đến ở Kim nga tại Minh châu, Sư nghe thế bèn viết hai bài kệ trên vách tường mà đi. Sư viết rằng:

"Chẳng là không tâm tiếp đèn tổ
Đạo thẹn chưa ghé Lãnh-nam Năng
Canh ba dưới trăng lìa Nham độc
Nhìn lại không lời nhớ tầng biếc.
Hơn ba mươi năm trong bốn biển
Tìm thầy chọn bạn chưa lúc nhàn
Sáng nay đến được đất vô tâm
Liền bị vô tâm đuổi khỏi núi!".

Về sau, Sư ở Khai tiên nối dõi dòng pháp Thiền sư Viễn ở Đức sơn, tức thông sách Tuyết đậu. Trước núi, Bà Tử thấy Chuyên Sứ, lại hỏi rằng: "Thủ tòa Xiêm xuất hiện nơi đời vì ai mà đốt hương?" Chuyên Sứ nói: "Hòa thượng Viễn ở Đức sơn". Bà Tử bèn quát mắng rằng: "Tuyết đậu phấn chấn hy trường nơi Thiền vì ngươi, được cái gì cô phụ thâm ân?"

Ngày khai giảng pháp, thượng thủ bạch chùy bảo, Sư bảo: "Từ ngàn vị Thánh xuất hiện nơi đời trở lại chỉ là cúi đầu tán thán, các đời Tổ sư kéo mang chẳng dậy. Cho nên, bắt đầu từ Ca-diếp mãi đến sơn Tăng đã trải suốt hơn hai ngàn năm, đuốc trăng đèn tuệ, sao bày Đạo thọ, người trời khắp soi sáng, phàm Thánh đồng vẻ vang. Thả, Đạo tiếp thừa từ ân lực người nào. Lão Hồ chỉ đạo, lúc minh tinh xuất hiện, Ta cùng các loài hữu tình khắp đại địa đồng thời thành đạo. Như vậy thì kia đã là bậc Trượng phu, ta đây cũng thế, ai không thể được? Chỉ bởi các người chẳng chịu nhận lấy, tự sinh thối thất, do đó bèn đẩy gạt một cái nửa cái. Các bậc Tiên đạt xuất hiện trở lại vội cùng khai phát, cũng chỉ là các người làm cái chứng minh. Ngày nay người trời trên hội chẳng có lâu dài vân du xích thủy, xưa trước tại Kinh sơn, trong tay áo có vật trân quý, trên cửa đỉnh có mắt sáng, đến nơi giẫm bước trường giác ngộ đấng Nạp Tăng ư? Liền xin vì Trưởng lão mới xuất hiện đời làm cái chứng minh, lại có vậy ư?" Khi ấy có vị Tăng bước ra, Sư bảo: "Tượng giá vời vợi lừa dối bước lên đường, ai tin bọ ngựa có thể chống cự vết xe?" Vị Tăng ấy hỏi: "Một Hội tại Linh sơn đâu khác ngày nay?" Sư bảo: "Chớ vọng tưởng". Vị Tăng ấy nói: "Làm nhà Tông sư". Sư bảo: "Ba mươi năm sau tự có người biết". Lại hỏi: "Nói Phật nói Tổ như trên tuyết thêm sương, thế nào là căn cơ điểm điểm?" Sư bảo: "Bên khóe miệng ăn gậy". Vị Tăng ấy nghĩ phỏng bàn, sư bèn quát mắng. Lại hỏi: "Một đánh gậy, một quát hét còn là dây sắn leo, liếc mắt dương mày kèo bùn mang nước, thế nào là cắt ngay cội nguồn?" Sư bảo: "Nhanh lên". Vị Tăng ấy lại hỏi: "Thế nào là Chánh tông của Tổ sư, Hòa thượng nắm định?" Sư bảo: "Hoang trống vượt qua không người, thuyền tự ngang dọc". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Lạc dương thành cổ". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu". Sư đáp: "Thiếu thất núi cao". Lại hỏi: "Lúc Tổ sư Đạt-ma chưa đến thì thế nào?" Sư đáp: "Nghèo khổ trong sạch, vui lâu dài". Lại hỏi: "Sau khi đã đến thì thế nào?" Sư đáp: "Giàu có dơ bẩn lắm âu lo". Lại hỏi: "Thế nào là trâu trắng bày nơi đất?" Sư đáp: "Nhắm một mắt". Lại hỏi: "Trên đỉnh núi Diệu phong tức chẳng hỏi, còn việc thấy giữa chừng núi thì thế nào?" Sư đáp: "Nắm tay qua sông lại". Vị Tăng ấy nói: "Cao bước ra Trường an". Sư bảo: "Một câu dưới cẳng chân làm sao sống đạo?" Vị Tăng ấy bèn hét, Sư bảo: "Chạy trong eo núi". Lại hỏi: "Một cơn mưa thầm nhuần cớ sao muôn loại cỏ cây chẳng đồng?" Sư đáp: "Canh dê tuy ngon lành, miệng mọi người cảm nhận khó đều". Lại hỏi: "Lúc năm cùng tháng hết thì thế nào?" Sư đáp: "Vẫn y như cũ, qua đầu xuân còn lạnh". Lại hỏi: "Lúc canh sâu đêm lắng thì thế nào?" Sư đáp: "Chuột già vào lồng đèn". Lại hỏi: "Lúc liếc mắt sân, liếc mắt vui mừng thì thế nào?" Sư đáp: "Vừa lại mặt Bồ-tát, như đầu Dạ xoa ngày nay". Sư mới bảo: "Chọn Phật chọn Tổ nay đúng phải lúc, chớ nên vì gì ôm lòng nghi trọn ngày. Nhưng mà việc này cũng chẳng tại tranh giành môi lưỡi bén nhọn. Do đó nói lắng dứt cổ họng, môi mép chớ nói tương lai, như vậy thì bèn có thể quên nghĩ nhớ tự được lấy định tấc vuông, tự nhiên thường tỏa sáng trước mắt, mỗi mỗi riêng chuyển động khoảng không gian ấy, núi sông đất liền chẳng ngại sự thấy nghe, muôn hình vạn tượng tầm thường tự hiển phát. Lại có nhấn lấy như thế được đến cùng ư? Đã là mỗi tự riêng chuyển động, lại phải chỉ dạy ai nhận lấy, áo cỏ thâu từ khách miền quê, cây ăn thuộc của người ở núi. Trân trọng!" Lại, lên giảng đường, Sư bảo: "Một nếu vậy, hai tức chẳng phải người ở Đông, Tây, Nam, Bắc không biết, nghỉ nói chỉ trời và chỉ đất, núi xanh mây trắng chẳng do ngươi làm". Và, Sư nắm gậy chống đánh xuống Đài hương một cái. Sư ở tại Khai tiên suốt mười tám năm, về sau thị tịch tại núi ấy.

2. Thiền sư Sở Tài ở Hòa sơn.

Thiền sư Sở Tài ở Hòa sơn tại Cát châu, vốn người Lâm giang Quân. Có vị Tăng hỏi: "Lệnh của Phật, lệnh của Tổ khắp các phương đều thực hành. Chưa rõ biết còn Hòa thượng thì thế nào?" Sư đáp: Sơn Tăng lui sau". Lại hỏi: "Thế nào là các phương chẳng khác biệt?" Sư đáp: "Cúi vâng chỉ vì, cúi vâng chỉ vì". Lại hỏi: "Thế nào là câu lìa hết Thánh phàm?" Sư đáp: "Núi sông an đặt trên bàn tay". Lại hỏi: "Thế nào là vượt nhanh ngoài xưa nay?" Sư đáp: "Lần lượt buộc tại nơi người". Lại hỏi: "Lúc một mảy may chưa phát thì thế nào?" Sư đáp: "Biển yên sông lắng". Lại hỏi: "Sau khi đã phát thì thế nào?" Sư đáp: "Khắp nơi không biết mình". Lại hỏi: "Thế nào là đáy miệng Hòa thượng nói pháp?" Sư đáp: "Buông một đường chỉ". Lại hỏi: "Ôm ngọc phác đến Sư xin Sư đẽo giũa. Sư đáp: "Chẳng đẽo giũa". Lại hỏi: "Tại sao không đẽo giũa?" Sư đáp: "Mân mê khéo nhiều thành vụng".

3. Thiền sư Thạnh Cần ở Tư Thánh.

Thiền sư Thạnh Cần ở viện Tư Thánh tại Tú châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là chánh pháp nhãn?" Sư đáp: "Non xanh nước biếc". Lại hỏi: "Trong bốn oai nghi thế nào là giẫm đạp?" Sư đáp: "Cò, vịt đứng trên tuyết". Lại hỏi: "Thế nào là ngày nghe chuông mang bát lên lang can?" Sư đáp: "Cá lội nước ngàn sông, rồng vọt mây muôn dặm". Lại hỏi: "Rốt cùng như thế nào?" Sư đáp: "Trong núi gặp thú dữ, trên trời thấy sao băng".

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhiều đời giác ngộ chẳng liên can áo nạp, một điểm rõ ràng chẳng tại đèn". Sư bèn nắm gậy chống và bảo: "Đầu gậy chống trên Sư tổ, cẳng đèn lồng dưới Di-lặc. Eo núi Tu-di trồng nhỏ tức chẳng hỏi, các ông làm sao sống là rõ ràng một điểm. Nếu các ông nói được thì vô biên cảnh giới đều tại trên lông mày các ông. Nếu các ông không nói được thì làm sao sống được qua cầu La-sát?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Nước dùng trăng ngàn mạch, núi che mây một khe". Xong, Sư bèn chống đứng gậy mà xuống khỏi tòa.

4. Thiền sư Khuê ở Lộc uyển.

Thiền sư Khuê ở Lộc uyển tại Đàm châu, vốn người Quế châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Đầu Ngô đuôi Sở". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Cưỡi ngựa giẫm đạp chuông chẳng bằng đi bộ". Lại hỏi: "Thế nào là Đệ nhất nghĩa đế?" Sư đáp: "Người Hồ đọc sách Hán". Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phàm có nhân duyên phải hiểu Tông đó, nếu hiểu được bản Tông không gì không chẳng vậy. Dùng thì sóng gợn biển trào, toàn chân thể thì vận hành, Thể thì gương sạch nước lắng, nêu tùy duyên mà hiểu tỉnh lắng. Vả lại, nói cung trời Đâu suất có bao nhiêu người đi bao nhiêu người ngồi. Nếu đến trong đó biện rõ được trắng đen thì hứa cho các người Đông, Tây, Nam, Bắc như mây tợ Hạc. Từ đó, chẳng rõ đạp phá giày cỏ, chưa có trọn ngày tại tham".

5. Thiền sư Nhân Biện ở Đại trung.

Thiền sư Nhân Biện ở Đại trung tại phủ Hưng nguyên, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Tiêu nhai?" Sư đáp: "Trước sân, cây Bách già lạnh. Ý Tổ sư chẳng từ Tây vức lại". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Hồ Tăng mắt biếc sâu, chân không giẫm thềm đi".

6. Thiền sư Quế Phương ở Bồ-đề.

Thiền sư Quế Phương ở Bồ-đề tại Ích châu, có vị Tăng hỏi: "Chư Phật ra đời, trời Phạm Vương dẫn trước, trời Đế Thích theo sau. Còn Hòa thượng ra đời có điềm lành gì? Sư đáp: "Khắp ba phương, mọi vật và cảnh tượng đẹp kinh". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu". Sư đáp: "Hoa nơi khe nước sắc hồng tợ gấm, liễu trên sườn bờ xanh biếc như lam". Lại hỏi: "Tiện lúc đi thì thế nào?' Sư đáp: "Chưa từng cưỡi ngựa tre, rất kỵ khoe rồng vàng".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ KHOÁT Ở TÂY PHONG.

1. Thiền sư Tự Nghiêm ở Nam an nham.

Thiền sư Tự Nghiêm ở Nam an nham, vốn dòng họ Trịnh người xứ Đồng an, Tuyền châu. Năm mười một tuổi, Sư bỏ nhà đến nương tựa Samôn Khế Duyên ở chùa Ngọa tượng tại Kiến hưng làm Đồng tử. Đến năm mười bảy tuổi, Sư làm đại Tăng, bèn du phương đến yết kiến Thiền sư Kỳ Túc Khoát ở Tây phong. Thiền sư Khoát là đệ tử cao túc của Thiền sư Minh ở lương; là cháu của Vân Môn. Hoàng đế Thái tông (?) thường ban chiếu mời đến cung quyết, thiết đặt quán tại trong Ngự viên xá để hành tập Thiền định, lâu sau xin trở về lại núi. Sư nương tựa ở đó năm năm, kín hợp tâm pháp, sau đó giả từ, vượt qua sông Hoài nhân. Ở đó có con Giao lớn thường làm hại người qua lại, Sư bèn vì nói kệ răn dạy mà con Giao ấy bèn bỏ đi. Qua đến mỏm núi Hoàng dương, khát nước muốn uống lại gặp khe suối khô cạn, Sư bèn dùng gậy rõ vào đó mà dòng nước tuôn trào, các hàng phụ lão đều nhóm tụ trông xem, hợp trảo cho là Thần, Sư bèn bỏ trốn đi, khắp xứ Võ-Bình Nam-Hoàng thạch-nham có lắm nhiều rắn hổ, Sư đến dừng ở đó mà rắn hổ đều trở thành kẻ sai khiến được. Mọi người ở khắp bốn phương xa nghe thế thảy đều rất kinh sợ, đua nhau cung kính tôn thờ. Dân chúng vì trời mưa tạnh, người nam kẻ nữ cầu đảo đều tùy theo điều muốn ứng với tâm niệm mà được, mọi nhà họa vẽ hình tượng của Sư, mỗi lúc uống ăn thảy đều dâng cúng.

Ở gần chùa có vị Tăng thị tịch, Sư không biết theo luật pháp phải báo lên Quan, bèn tự cử hành lễ thiêu đốt, các Quan lại đòi bắt đưa về trong sân tra hỏi cung trạng, Sư không đối đáp gì chỉ đòi đưa giấy và viết kệ rằng:

"Ngoài mây, Tăng quê chết
Ngoài mây, Tăng quê thiêu
Hai pháp không sai trái
Đương Bồ-đề chẳng xa".

Nét chữ viết hiểm hóc cứng rắn như đường nét Đại Triệu, Quan lại rất tức giận, cho là cuồng lại man. Đã cách lìa y Tăng-già-lê hong phơi nửa ngày, đến lúc đã được phóng thích, Sư đem khăn vải quấn trên đầu và mặc y phục sắc trắng.

Sư hận các pháp Sư giảng nói, người nghe một nửa số người tin một nửa số người nghi. Nhân đó Sư im lặng suốt sáu năm. Chùa Nham đang thâu vải bố mà dân chúng theo năm chặt thâu lấy. Sư không nhẫn chịu nỗi, bèn viết thư buộc trong vải bố xin được miễn. Quan lại nhận được thư ấy tức giận, đòi đến hỏi, Sư cũng không đáp, Quan lại cho Sư là yêu quái, bảo người thiêu đốt khăn vải bố ấy, lửa cháy hết mà khăn càng mới sạch, Sư mới đòi đưa giấy viết kệ rằng:

"Hết thảy sức từ nhẫn

Đều tâm tôi phát sinh Vua Quan khổ bó buộc

Phật pháp chẳng lưu hành".

Từ đó về sau, Sư hơi mở miệng nói. Sau đó, Sư đến núi Bàn cổ ở Nam phương, nguyên trước kia Tôn giả Bà-lợi người Tây trúc mới đầu đến đó có lời sấm rằng: "Sau này sẽ có vị Bồ-tát mặc y phục sắc trắng đến dấy khởi tại núi ấy". Sư ở tại đó ba năm mà thành chốn Tùng lâm, Sư mới trở về lại Nam an, tại Giang nam có chiếc bè dừng ngủ làm cản trở các thuyền đi, thuyền Sư ngang qua đó, Sư xoa sờ vỗ về mà bảo: "Đi! Đi!" Chớ nên làm hại người. Có vị Tăng từ Huệ châu đến nói rằng: "Ở Hà nguyên có chiếc thuyền lớn cắm nơi cát, cả muôn con trâu kéo không lay động, xin Sư được dùng chở gạch đến xây dựng tháp ở Nam hải vì chúng sinh mà làm ruộng phước". Sư bảo: "Đó là vật của âm phủ, nhưng trao cho ngươi bài kệ rằng:

"Trời mưa nước Bá sinh

Thuyền vua âm phủ dời Chớ đứng lâu trong cát Nhận phước ân Bồ-đề".

Vị Tăng ấy đến nơi thuyền xướng đọc bài kệ, thuyền đó bèn chuyển động, muôn người đều hoan hô. Đến Ngũ dương có Thương khách lớn theo để chở, vị Tăng ấy hứa cho, vừa mới mở dây neo bỗng chốc gió thổi thuyền biến mất.

Có vị Sa-di không có trí tánh Đa văn, nhưng hầu thầy rất cẩn mật, Sư xót thương đó, nên làm bài kệ bảo chuyên đọc tụng, lâu sau sẽ thông minh.

Bài kệ ấy là:

"Đại trí phát từ tâm

Nhưng Tâm tìm xứ nào

Thành tựu Nhất thiết nghĩa

Không xưa cũng không nay".

Từ đó, đối với các thứ văn tự ngữ ngôn ở thế gian, vị Sa-di ấy chỉ một lần đọc xem thì đều không quên sót, làm kệ tụng nói năng chương cú viện dẫn bút lập thành.

Sư chỉ dạy cho người, phần nhiều hay dùng bằng kệ tụng, nhưng trong đề tặng có bốn chữ ở sau, không một ai biết được ý chỉ nó như thế nào, vết tích kỳ lạ lắm hiển trước. Các Quan sở thuộc viết trạng văn tấu trình, có chiếu vời gọi Sư đến, Tể tướng vương Khâm trọng Sư như Đại Tham, An Triệu Nhân trở xuống đều kính tặng thơ kệ lên Sư, Sư chưa từng xem đọc, đặt thừa trên bụi mà thôi. Đến ngày mồng sáu tháng giêng năm Ất mão (?) thuộc niên hiệu Thuần Hóa (?), Sư nhóm tập đại chúng mà dạy rằng: "Ngay nay tôi sinh, nay chẳng phải lúc". Rồi bèn nằm nghiêng mình phía hữu mà thị tịch. Sư được phong tặng thụy hiệu là "Định Quang Viên Ứng Thiền sư".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHÍ Ở QUẢNG GIÁO.

1. Thiền sư Hoài ở núi Tứ diện.

Thiền sư Hoài ở núi Tứ diện tại Thư châu, mới đầu Sư ở tại Hưng Hóa; kỳ khẩu, có vị Tăng hỏi rằng: "Lâm Tế tam huyền tợ thạch nữ đến trong sóng múa vũ, Vân môn Quan lệ thiểm thước như Dao tử qua Tân La. Bỏ hai đường ấy ra thì Hưng Hóa đang hành theo lệnh gì?" Sư đáp: "Nói gì?" Vị Tăng ấy nói: "Gì thì Hòa thượng cùng với người xưa mở hơi". Sư bảo: "Lại phạm tội không dung". Vị Tăng ấy đáp: "Kính vâng". Sư bèn nắm gậy đánh xuống thiền sàng và bảo rằng: "Nếu chẳng điểm phá, lấy gì là sơn Tăng ngủ gật".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THIỆN VIỄN Ở THẠCH MÔN.

1. Thiền sư Hạo Thăng ở cư.

Thiền sư Hạo Thăng ở cư tại Quả châu, có vị Tăng hỏi: Sư xướng hát khúc nhà nhà ai? Tông phong ấy, ai người nồi dõi?" Sư đáp: "Gà vàng gáy cửa đá, đắc ý đuổi sóng trong". Lại hỏi: "Chưa xét rõ là con của ai?" Sư đáp: "Cảm ơn ngươi đến cửa mắng chửi".

2. Thiền sư Phương ở Quảng tế.

Thiền sư Phương ở Quảng tế, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Cưỡi trâu đuổi theo cỏ xuân, vai mang cha trẻ tuổi". Lại hỏi: "Kiếm báu lúc chưa mài thì thế nào?" Sư đáp: "Quạ rùa gặm đậu đen". Lại hỏi: "Sau khi đã mài thì thế nào?" Sư đáp: "Cột đình treo lồng đèn". Lại hỏi: "Thế nào là tu hành?" Sư đáp: "Cột đình thương hàn".

3. Thiền sư Giám ở Vân đảnh.

Thiền sư Giám ở Vân đảnh tại Hoài an quận, có vị Tăng hỏi rằng: "Tuyết giọt lò hồng, xin Sư nghiệm ước?" Sư bảo: "Vương Bà nấu đôi". Lại nói: "Tranh làm sao tức nay là sao?" Sư đáp: "Còn hiềm một ít".

4. Thiền sư Khế Thuyên ở Đạo ngô.

Thiền sư Khế Thuyên ở Đạo ngô tai Đàm châu, có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạt của ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Phụng lãnh không khúc nhạc riêng tư, như nay lưu truyền trong thiên hạ". Thế nào là cảnh của Đạo ngô?" Sư đáp: "Hoa ở khe suối ngậm sương mốc ngọc, quả ở sân vườn rơi đài vàng". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Nâng bưng lò hương mặc áo nạp xưa cũ, hong phơi giữa ngày gối rễ cây rừng". Lại hỏi: "Lúc Ngưu Đầu thưa thấy Tứ Tổ thì thế nào?" Sư đáp: "Rùa xanh trên ngọc". Lại hỏi: "Sau khi đã thấy thì thế nào?" Sư đáp: "Băng đốt trong lò hồng".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ QUÁN Ở LƯƠNG SƠN.

1. Sơn chủ La Văn Đức Trân.

Sơn chủ La Văn Đức Trân, có vị Tăng thưa: "Là nơi thân thiết, xin Sư chỉ bày". Sư đáp: "Lão Tăng vốn là người Quảng nam".

2. Thiền sư Lợi Dục ở Dược sơn.

Thiền sư Lợi Dục ở Dược sơn, lúc lên giảng đường, bảo rằng: "Núi sông đất liền nhật nguyệt muôn sao cùng với các Thượng tọa đồng sống, Ba đời chư Phật cùng với các Thượng tọa đồng tham, Ba Tạng Thánh giáo cùng với các Thượng tọa đồng thời. Lại tin được kịp ư? Nếu tin được kịp thì trâu sắt ở Thiểm phủ nuốt liền đất trời, tuy nhiên như vậy, nhưng bị Pháp thân ngăn ngại tức chuyển thân không được, phải biết có đường xuất thân. Làm sao sống là đường của các Thượng tọa xuất thân? Hãy nói nói nhanh". Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Nếu nói không được thì trọn chìm đắm trong biển khổ. Trân trọng!" Có vị Tăng hỏi: "Nói bàn của cách ngoại, xin Sư chỉ bày". Sư đáp: "Yếu đạo chẳng khó". Lại hỏi: "Thế nào là muôn nhận xanh biếc, Đàm Hứa rủ một cuộn chỉ?" Sư đáp: "Đại chúng cười ông".

3. Thiền sư Nham ở Lương sơn.

Thiền sư Nham ở Lương sơn tại Đảnh châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Tân La nương cây con, đất Thục phải trở về".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ YẾN Ở ĐỨC SƠN.

1. Thiền sư Trí Tiên ở Đức sơn.

Thiền sư Trí Tiên ở Đức sơn tại Đảnh châu, có vị Tăng hỏi: "Thấy sắc bèn thấy tâm, lúc ấy thế nào?" Sư đáp: "Cung sừng cong tợ vầng nguyệt, kiếm báu bén như sương". Lại hỏi: "Thế nào là lãnh hội?" Sư đáp: "Áo giáp vàng tợ vảy cá, cờ đỏ như lửa cháy rực". Vị Tăng ấy lại thưa: "Từ xa xa đến, xin sư một lần tiếp". Sư đáp: "Không tiếp". Lại hỏi: "Thế nào là rỗng bày một lần hỏi?" Sư đáp: "Ít gặp xỏ lỗ tai khách, gặp nhiều lần thì khắc thuyền người". Lại hỏi: "Đức Phật Đại Thông Trí Thắng suốt mười kiếp ngồi nơi Đạo tràng, cớ sao chẳng được thành Phật đạo?" Sư đáp: "Tham trông nhìn trăng trên trời, mất liền châu ngọc trong lòng bàn tay". Lại hỏi: "Quân lúc nhanh gấp thì thế nào?' Sư đáp: "Mười chữ ngầm đầu mặt đầy bụi". Lại hỏi: "Làm sao như vậy?" Sư đáp: "Biết mà cố phạm". Lại hỏi: "Thế nào là đàm nói về vô vi?" Sư đáp: "Trâu đá, hổ đá nói lầm rầm". Lại hỏi: "Thế nào là ngôn giáo?" Sư đáp: "Sách trường hàng dài bất tận, kệ tụng ngắn tuyệt người nghe". Lại hỏi: "Thế nào là một xưng Nam Mô Phật?" Sư đáp:

"Đều được thành Phật đạo".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CẢM Ở BẮC THIỀN.

1. Thiền sư Thông ở Nam thiền.

Thiền sư Thông ở Nam thiền tại Hào châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đại ý của tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Tháng mùa đông mưa trong rừng sâu. Tháng ba mùa xuân gió thổi đất bằng". Lại hỏi: "Thế nào là cội nguồn của Đại đạo?" Sư đáp: "Mây nổi sau giờ ngọ, Hổ đá gầm thâu đêm".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGHIỄM Ở CỐC ẨN

1. Thiền sư Khế Sùng ở Cốc ẩn.

Thiền sư Khế Sùng ở Cốc ẩn, tại Tương châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đại ý Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Da cừu người Phiên, người Hồ Mặc". Lại hỏi: "Người học không hiểu lý ấy "như thế nào?" Sư đáp: "Người điếc nghiêng tai nghe người câm ca hát".

Quyển 2 (Hết)

QUYỂN 3

MỤC LỤC

Đời thứ mười một, dưới đời Thiền sư Đại Giám.

-Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Chiêu ở Phần dương, có 16 vị:

1. Thiền sư Viên Sở ở Thạch sương.

2. Thiền sư Tuệ Giác ở Lang da

3. Thiền sư Thủ Chi ở Đại ngu

4. Thiền sư Pháp Vĩnh ở Thạch sương

5. Thiền sư Toàn Cử ở Pháp hoa

6. Thiền sư Cốc Tuyền ở Ba tiêu

7. Thiền sư Hiểu Ngu ở Long hoa

8. Thiền sư Hạo Thái ở Thiên Thánh

9. Thiền sư Trí Viên ở Long đàm

10. Thiền sư Viên Tu ở Đầu tử

11. Thiền sư Đạo nhất ở Thái tử (mười một vị trên có ghi lục)

12. Thiền sư Liễu Đồng ở Càn minh

13. Thiền sư Hiểu Châu ở Sô sơn

14. Thiền sư Trúc Viên ở Kinh nam

15. Thiền sư La Hán Hưng ở Hồ châu

16. Thị giả Phần dương (năm vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Tỉnh ở huyện Diệp, có tám vị:

1. Thiền sư Pháp Viễn ở Phù sơn

2. Thiền sư Pháp Chiêu ở Bảo ứng

3. Thiền sư Tuệ Quả ở Đại thừa (ba vị trên hiệu có ghi lục)

4. Thiền sư Thủ Tấn ở Thạch môn

5. Thiền sư Hoài Khánh ở Quảng tuệ

6. Thiền sư Hà Mãnh ở Thừa thiên

7. Thiền sư Phương Thủy ở Thập phương

8. Thiền sư Hải Tiên ở Hương nham.

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI DÒNG PHÁP CỦA THIỀN SƯ CHIÊU Ở PHẦN DƯƠNG.

1. Thiền sư Sở Viên-Từ Minh ở Thạch sương.

Thiền sư Sở Viên-Từ Minh ở Thạch sương tại Đàm châu, vốn người dòng họ Lý ở Toàn châu.

Thửa thiếu thời là thư sinh, năm hai mươi hai tuổi, Sư mới đến nương tựa ở chùa Ẩn tỉnh tại Tương sơn mà xuất gia. Thân mẫu của Sư là người có hạnh Hiền khiến Sư du phương, nghe Thiền sư Chiêu ở Phần dương là bậc Đạo hạnh cao vợi, sư bèn sang bái yết. Thiền sư Chiêu trông thấy Sư mà thầm mến quý, trải qua hai năm chẳng cho Sư vào thất, mỗi lần thấy mặt thảy đều mắng chửi, hoặc hủy nhục ruồng đuổi, nếu như có dạy răn toàn là những việc thô bỉ thế tục. Một đêm nọ, Sư nói rằng: "Từ khi đến pháp tịch này tới nay đã hai mùa hạ, mà chẳng được chỉ bảo gì, chỉ Tăng thêm những ý niệm trần lao thế tục, năm tháng vùn vụt, bỗng nhiên việc mình không rõ biết, mất lợi xuất gia!" Sư nói chưa xong, thì Thiền sư chiêu thấy được bèn quát mắng rằng: "Ông là ác tri thức dám giúp hại ta". Và tức giận nắm gậy đuổi Sư đi. Sư phỏng nghĩ tỏ bày xin cứu, Thiền sư Chiêu bèn đè bít miệng sư. Sư đại ngộ, thưa rằng: "Là đã biết Đạo của Lâm tế vượt ngoài thường tình". Sư phục vụ ở đó bảy năm rồi giả từ, đến nương tựa Thiền sư Tung ở Đường minh. Thiền sư Tung bảo cùng Sư rằng: "Dương Đại Niên là bậc nội Hàn tri kiến cao, vào Đạo ẩn mật, ông không hề kinh nghiệm". Sư mới sang diện kiến Đại Niên.

Đại Niên hỏi Sư rằng: "Đối mặt chẳng cùng biết, ngàn dặm tức đồng phong". Sư đáp: "Gần phụng thỉnh sơn môn". Đại Niên bảo: "Thật là giải không". Sư nói: "Tháng trước lìa Đại minh". Đại Niên bảo: "Vừa lại sám hối cùng hỏi". Sư nói: "Làm nhà". Đại Niên bèn hét. Sư nói: "Vừa hợp vậy". Đại Niên lại hét, Sư đưa tay họa vẽ một đường. Đại Niên nhả lưỡi nói: "Thật đáng là Long tượng". Sư nói: "Thì nói gì ư?" Đại Niên gọi khách ty mang trà lại, vốn trước nay là người trong thất, Sư nói: "Cũng chẳng tiêu được". Uống trà xong, Đại Niên lại hỏi: "Thế nào là câu Thượng tọa làm người?" Sư nói: "Thiết". Đại Niên bảo: "Thế nào là Quần dài, Tân phụ kéo bùn chạy?" Sư nói: "Ai được tợ Nội Hàn?" Đại Niên bảo: "Làm nhà, làm nhà". Sư nói: "tha cho ông hai mươi gậy". Đại Niên vỗ tát hơn, hỏi: "Trong ấy cái gì là hiện tại?" Sư vỗ tay nói: "Cũng chẳng được phóng qua". Đại Niên cười lớn, lại hỏi: "Ghi nhớ được nhân duyên tỏ ngộ ở đương thời của Đường Minh ư?" Sư nói: "Đường Minh hỏi Thủ Sơn: Thế nào là Đại ý của Phật pháp?" Thủ Sơn đáp: "Nửa thành Sở Vương, sông Nhữ xuôi dòng về hướng Đông". Đại Niên hỏi: "Chỉ nói như vậy, thì ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Trên sông nước, treo lồng đèn". Đại Niên hỏi: "Cùng gì thì cô phụ người xưa đi?" Sư bảo: "Nội Hàn nghi ngờ thì Tham riêng". Đại Niên nói: "Ễnh ương ba cẳng nhảy trên trời". Sư bảo: "Mặc tình nó nhảy nhót". Đại Niên mới cười lớn. Đến quán thọ trai bữa trưa, tối lại cật vấn nghi ngại.

Trí chứng nhân nghe lời nói trước, đi sang, hận muộn thấy gặp, Triều trung thấy Phụ mã Đô úy Lý Công Tuân Ức nói rằng: "Gần được người đắc đạo, thật là sư tử Hà Tây". Lý Công nói: "Tôi vì bó buộc văn chẳng thể đến bái yết, làm sao?" Đại Niên im lặng, trở về nói với Sư rằng: "Lý Công là người trong Phật pháp, nghe Đạo phong của Sư từ xa đến có tâm nguyện mong được yết kiến, chính vì pháp chẳng được cùng thị tùng qua theo". Sư bèn đến Lê Minh bái yết Lý Công. Lý Công vui mừng yết kiến sai Đồng tử đến hỏi: "Đạo được tức cùng Thượng tọa đồng thấy". Sư bảo: "Ngày nay đặc biệt lại cùng gặp". Lý Công lại bảo Đồng tử nói: "Bia văn khắc chữ trắng, giữa đường trồng tùng xanh". Sư bảo: "Chẳng nhân tiết ngày nay, ngày khác định khó gặp". Đồng tử lại ra nói: "Đô úy nói cùng gì thì cùng Thượng tọa đồng gặp đi". Sư bảo: "Đầu cẳng chân, đáy cẳng chân". Lý Công mới ra ngồi yên mà hỏi rằng: "Tôi nghe đây hà có sư tử lông vàng có thật vậy không?" Sư bảo: "Từ xứ nào có được tin tức ấy?" Lý Công bèn hét. Sư bảo: "Dã can tru sủa". Lý Công lại hét, Sư bảo: "Vừa hợp vậy". Lý Công cười lớn. Sư giả từ. Lý Công hỏi: "Thế nào là câu Thượng tọa lâm hành?" Sư bảo: "Khéo sắp dứt". Lý Công nói: "Đâu khác gì các phương". Sư bảo "Đô úy lại làm sao sống?" Lý Công nói: "Tha cho Thượng tọa hai mươi gậy". Sư bảo: "Chuyên làm lưu thông". Lý Công lại hét. Sư bảo: "Kẻ mù lòa". Lý Công nói: "Khéo đi". Sư ứng tiếng đáp: "Vâng, vâng". Từ đó qua lại của nhà Lý Công, lấy pháp làm bạn.

Lâu sau, Sư giả từ trở về Hà đông. Đại Niên nói: "Có một lời gởi cho đến Dường Minh được ư?" Sư bảo: "Trăng sáng soi thấy người đi đêm". Đại Niên hỏi: "Tức chẳng cùng cán đáng?" Sư bảo: "Canh sâu còn tự có thể, sau giờ ngọ càng buồn người". Đại Niên hỏi: "Tượng Kim cang trước chùa Khai bảo, ngày gần đây nhân gì đổ mồ hôi?" Sư bảo: "Biết". Đại Niên hỏi: "Thượng tọa sắp đi, há không là câu làm người?" Sư bảo: "Lắm lớp ải đường núi". Đại Niên hỏi: "Cùng gì tùy theo Thượng tọa đi?" Sư thở dài một tiếng". Đại Niên nói: "Thật là sư tử con, sư tử lớn rống". Sư bảo: "Phóng thả đi mà thâu lấy lại". Đại Niên nói: "Vừa lại mất cẳng chân đạp té ngửa, lại được trẻ nhỏ trong nhà nâng đỡ dậy". Sư bảo: "Có gì liễu kỳ?" Đại Niên cười lớn.

Sư trở về lại Đường Minh, Lý Công sai hai vị Tăng đến thăm hỏi Sư. Sư bèn vẽ họa hai chân ở cuối thư, ghi tên hai vị Tăng lại để gởi cho Lý Công. Lý Công làm kệ tụng rằng:

"Bút mực xa ngàn dặm Quách vàng bày hai chân Trời người lẫn chẳng lường Trân trọng Hồ râu đò!"

Sư vì thân mẫu già yếu, nên trở về phương Nam, đến Thụy châu, làm thủ chúng ở Động sơn.

Bấy giờ Thiền sư Thông đang ở đó. Xưa trước Thiền sư Chiêu ở Phần dương nói cùng Sư rằng: "Ta vân du khắp nơi bái yết con cháu của Vân Môn, đặc biệt chưa gặp thấy Thiền sư Thông, thật lấy làm hận!" Nên Sư nương ở tại đó ba năm rồi mới đi đến Ngưỡng sơn. Dương Đại Niên gởi thư đến Nghi xuân thái thú Hoàng Tông Đán, khiến thỉnh mời Sư hoằng dương Phật pháp. Hoàng Tông Đán đem Nam nguyên dâng hiến Sư, Sư chẳng đến nhận. Sau đó trở lại đặc biệt yết kiến tâm nguyện của Hoàng Tông Đán. Hoàng Tông Đán hỏi về nguyên do. Sư đáp: "Mới đầu khước nhường, nay chợt muốn đến vậy". Hoàng Tông Đán rất kính hiền đó.

Sư ở đó, lâu sau lên giảng đường, Sư bảo rằng: "Hết thảy chư Phật và Pháp của chư Phật A-nậuđa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề đều từ kinh đây lưu xuất". Và Sư mới dựng đứng gậy chống mà bảo: "Cái ấy là gậy chống của Nam nguyên, cái ấy là kinh". Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Hướng hạ (trở xuống) văn dài, giao cho ngày sau". Rồi, Sư hét một tiếng mà xuống khỏi tòa. Có lúc, lên giảng đường, ngừng giây lâu, Sư bảo: "Người vô vi vô sự như là khóa vàng khó". Rồi Sư hét một tiếng và xuống khỏi tòa.

Có người hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: Nước phát xuất từ gò cao". Lại hỏi: "Thế nào là cảnh của Nam nguyên?" Sư đáp: "Chín khúc sông Hoàng nguồn nước phát xuất từ Côn lôn". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Theo dòng người chẳng nhìn lại, bẻ gãy tay trông ngóng Phù tang". Lên giảng đường, Sư bảo: "Lây cuộn sương tan, mặt trời cao giữa khoảng không chẳng rơi vào sáng tối, thế nào là thông tin?" Có vị Tăng hỏi: "Lúc núi sâu tìm không được thì như thế nào?" Sư đáp: "miệng hay chuốc họa". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Trong hồ Động đình sóng lộn trời". Lại hỏi: "Lúc vọt lên ở phương Đông, chìm ẩn ở phương Tây thì thế nào?" Sư bảo: "Tìm". Lại hỏi: "Lúc đêm vắng riêng đi một mình thì thế nào?" Sư đáp: "Ba bó cỏ tranh". Lại hỏi: "Kiếm báu lúc chưa rút ra khỏi hộp thì thế nào?" Sư đáp: "Hưởng". Lại hỏi: "Sau khi đã rút thì thế nào?" Sư thở dài một tiếng. Lại hỏi: "Lúc trong ồn náo, lấy được sự tỉnh lắng thì thế nào?" Sư đáp: "Đãy vải gối đầu". Lại hỏi: "Lúc Ngưu Đầu chưa thấy Tứ tổ thì thế nào?" Sư đáp: "Đống, đống đất". Lại hỏi: "Sau khi đã thấy thì thế nào?" Sư đáp: "Đống, đống đất". Lại hỏi: "Một lúc được trọn được thì thế nào?" Sư đáp: "Ôm đá ném xuống sông". Lại hỏi: "Lúc cây kiếm mạc tà phỏng lấy đầu Sư thì thế nào?" Sư đáp: "Chém lấy đi". Vị Tăng ấy phỏng nghĩ bàn nghị, Sư bèn đánh. Sư ở tại đó ba năm rồi bỏ đi.

Sư đến bái yết Thiền sư Ân ở Thần đảnh. Thiền sư Ân là Cao Đệ của Thủ Sơn, tiếng tăm vang vọng tôn quý một thời, trong hàng nạp tử chẳng người nào tinh tấn kỳ đặc như thế nên chẳng dám bước đến cửa. Thiền sư Ân ở tại núi suốt ba mươi năm, môn đồ đệ tử khí phách nuốt tuộc các phương. Sư để đầu tóc dài không cắt cạo, mặc áo xấu tệ, nói tiếng sở, những lúc bái yết thường xưng bằng pháp tánh, cả đại chúng đồng cười lớn. Thiền sư Ân sai Đồng tử ra hỏi: "Trưởng lão nối dõi của ai?" Sư ngửa mặt trông nhìn lên mái nhà, bảo: "Thần gần trông thấy Phần dương (Thiền sư Chiều) lại". Thiền sư Ân chống gậy mà ra, trông nhìn thấy Sư, ái ngại hỏi: "Phần châu có sư tử Tây hà, có phải đây chăng?" Sư chỉ hết về sau mà kêu là: "Phòng nhà đổ ngã vậy". Đồng tử bèn chạy trở lại. Thiền sư Ân xoay nhìn lại tướng mạnh khỏe, Sư ngồi xuống nơi đất, cởi một chiếc giày mà chỉ bày đó, Thiền sư Ân già quên điều hỏi, lại mất Sư ở đó, Sư bèn từ từ đứng đẩy chỉnh sửa y phục, vừa đi vừa nói: "Thấy mặt chẳng bằng nghe tên" Và Sư bèn bỏ đi. Thiền sư Ân sai bảo người đuổi theo mà không được, mới than rằng: "Phần châu mới có người con như vậy ư?"

Từ đó, tiếng tăm Sư vang vọng khắp các chốn Tùng lâm, có Sa-môn Bản Diên ở Định lâm là người rất có Đạo hạnh, nhã vì sĩ đại phu tin kính. Thiền sư Ân thấy Sa-môn Bản Diên xưng tán tri kiến của Sư có thể làm hưng thạnh dòng pháp của

Thiền sư Lâm Tế. Gặp lúc pháp tịch Đạo Ngô đang trống vắng, Sa-môn Bản Diên thưa cùng quận thỉnh mời Sư làm chủ ở đó. Pháp lệnh chỉnh túc, các hàng quên cả thân mạng vì chánh pháp đồng nhóm tập, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trước kia, Thiền sư Bảo Ứng nói: "Câu thứ nhất nêu cử được thì kham cùng Phật tổ làm thầy. Câu thứ hai nêu cử được thì kham cùng người trời làm thầy, câu thứ ba nêu cử được thì tự cứu chẳng xong". Ngược lại, Đạo ngộ thì không như vậy, mà câu thứ nhất nêu cử được thì hòa bùn hợp nước, câu thứ hai nêu cử được thì không dây tự trói buộc, câu thứ ba nêu cử được bốn lăng dính nơi đất. Do đó, Đạo khởi thì biển yên tỉnh sông trong lắng, người đi dứt tuyệt đường, ở thì đất trời mất màu sắc, nhật nguyệt không tỏ sáng. Các ông hướng đến xứ nào mà phát ra hơi? Và nay có người phát ra hơi ư? Nếu có thì ra trước đại chúng phát sinh ra hơi xem. Còn nếu không thì Đạo ngô vì các ngươi phát ra hơi đi vậy". Và, Sư thở dài một tiếng rồi chống gậy xuống khỏi tòa.

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đạo Ngô đánh trống thì bốn Đại bộ châu đồng dự tham, chống gậy nằm ngang, khiêu làm càn khôn đại địa, bình bát úp lại che cả hằng sa thế giới. Thử hỏi các người hướng đến xứ nào để an thân lập mạng? Nếu biết được hướng Bắc Câu-lô-châu ăn cháo ăn cơm, nếu như không biết trường liền trên sàng ăn cháo ăn cơm".

Tiếp sau đó, Sư đến ở Thạch sương, nhân ngày giải Hạ, Sư bảo cùng đại chúng rằng: "Hôm qua làm đứa con nít, sáng nay tuổi đã già suy, chưa rõ ba (03) tám (08) chín (09), khó đạp tường Cổ Hoàng. Tay nung Hoàng hà khô, chân đạp Tu-di ngã, thân huyễn hóa phù sinh, mạng người tối khó giữ. Thiên đường và địa ngục đều do tâm tạo nên. Tùng Nam sơn bắc lãnh, cỏ Bắc lãnh Nam sơn, một cơn mưa đượm nhuần vô biên, rễ mầm cứng mạnh khô khan. Ngũ hổ vào tham học, chỉ hỏi xét bàn về hư không, chết như cởi áo mùa hạ, sinh như đắp chăn mùa Đông, rõ ràng không việc người, đặt đất sinh phiền não". Rồi, Sư hét một tiếng xong bèn xuống khỏi tòa.

Lại, lên giảng đường, Sư hét một tiếng phân rành khách chủ, chiếu dụng đồng hành một lúc, cần hiểu ý bên trong, giữa trưa đánh canh ba, bèn hét một tiếng và bảo: "Tạm nói là khách là chủ lại còn có phân chia được ư? Nếu phân được thì sáng đánh ba ngàn gậy chiều đánh tám trăm gậy, còn chưa thể được thì Lão Tăng mất lợi". Nhân có đồng Đạo đến phỏng hỏi, lên giảng đường, Sư bảo: vùn vụt cảnh gió mát, đồng người hỏi lắng xa, nấu trà nước trên núi, đốt đảnh củi trong động. Trân trọng!" Có người hỏi: "Lúc Tổ sư Đạt-ma chưa đến thì thế nào?" Sư đáp: "Trường an hằng đêm nhà nhà trăng tỏ". Lại hỏi: "Sau khi đã đến thì thế nào?" Sư đáp: "Bao chốn sáo ca bao xứ buồn". Lại hỏi: "Lúc một vật không tương lai thì thế nào?" Sư đáp: "Cây hòe nhiều thành rừng". Lại hỏi: "Lúc bốn núi lửa đến thì thế nào?" Sư đáp: "Vật đuổi chạy, người hứng thú". Lại hỏi: "Lúc bước lên cao thì thế nào?" Sư đáp: "Mây tỏa dưới chân". Lại hỏi: "Người xưa phong giấy trắng, ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "Nhà nghèo khổ, đường giàu sang". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Ba ngày có cơn gió, năm ngày có trận mưa".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phàm là Tông sư tức là đoạt lấy áo mặc châu ngọc của con nghèo khổ, nghiên cứu chỗ thấy của hàng Đạt nhân. Nếu chẳng như vậy thì trọn chỉ có tài hòa bùn hợp nước mà thôi". Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Đi đường gặp kiếm khách phải trình kiếm, không như vậy thì thi nhân chẳng trình thơ". Rồi Sư hét một tiếng. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ta có một lời tuyệt tư duy mất các duyên, khéo nói chẳng được, chỉ cần tâm truyền. Lại có một lời không qua nêu thẳng. Vả lại sống làm sao là một câu nói thẳng?" Ngừng giây lâu, Sư nắm lấy gậy chống họa vẽ một đường, và hét một tiếng. Có người hỏi: "Việc mình chưa rõ lấy gì làm ứng nghiệm?" Sư đáp: "Huyền sa từng thấy Tuyết Phong lại". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "Một đời chẳng ra khỏi đảnh núi". Lại hỏi: "Ý Tổ và Ý khinh giáo là đồng hay là khác biệt?" Sư đáp: "Ngựa có báo rủ cương, chó có ân nằm cỏ". Lại hỏi: "Cùng gì thì chẳng khác?" Sư đáp: "Tây thiên đông độ". Lại hỏi: "Thế nào là người học tự chính mình?" Sư đáp: "Đánh xương cốt ra tủy".

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Vào nước thấy người dài". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mặt xoay hướng Tây, đi hướng Đông. Bắc đẩu chánh ung ly, đường đi nào từng đi, mục đồng cưỡi trâu nằm! Trân trọng!" Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Với xuân sinh hạ trưởng tức chẳng hỏi. Còn dưới cẳng chân các người một câu làm sao sống đạo?" Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Chủ chùa Hoa quang". Rồi bèn xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thuốc lắm bệnh lớn, lưới nhỏ cá điều". Rồi xuống khỏi tòa. Sư chỉ dạy đại chúng, dùng gậy chống đánh xuống Thiền sàng một cái rồi bảo: "Đại chúng có người hiểu chăng? Không thấy Đạo, một nâng đỡ quên chỗ biết, lại chẳng nhờ gá sự tu trì. Những bậc đạt đạo ở các phương đều nói là Thượng thượng có. Hương nghiêm làm sao tỏ ngộ đi? Rõ ràng ngộ được Như Lai thiền, Tổ sư thiền chưa mộng hiện tại. Vả lại nói Tổ sư thiền có nơi rất dài, như hướng đến lấy trong lời nói thì lừa dối người sau, đánh thẳng nhiều gậy thì nhận lấy cô phụ các bậc Tiên Thánh. Muôn pháp vốn nhàn tỉnh, chỉ con người tự ồn náo. Do đó Sơn Tăng ở Phước Nghiêm chỉ thấy cảnh giới Phước Nghiêm, yên dậy sớm, ngủ có giờ, mây tỏa núi xanh, trăng rơi đầm lạnh. Âm chim bay kêu trước đài Bát-nhã, hoa Sa-la tỏa hương nửa khoảng núi Chúc dung. Nắm bó cỏ tranh gầy, ngồi trên tảng đá, có lúc cùng với Nạp tử Ngũ hồ đàm nơi Huyền vi, Đầu tro mặt bụi ở Hưng hóa, chỉ thấy gia phong Hưng hóa nghinh lại đưa đi cửa liền thành chợ, xe ngựa nối nhau. Ngư ông xướng nhạc Tiêu tương, khỉ vượn hú vang sườn núi, tơ trúc ca dao luôn luôn vào tai. Lại cùng các cao nhân ở khắp bốn biển từng ngày đàm nói Thiền đạo, năm tháng đều quên. Tạm nói ở rừng sâu, ở thành quách lại có sự hơn kém hay không? Thử nói xem?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Nơi ấy là Từ Thị (Di-lặc), không cửa không thiện tài". Có người hỏi: "Lúc hành cước không gặp người thì thế nào?" Sư đáp: "Tơ câu thắc nước". Lại hỏi: "Với tầm gậy hái lá tức không hỏi, còn thế nào chặt thẳng cội nguồn?" Sư đáp: "Lang lật chống gậy". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Đi thì vai mang áo nạp mây nước, ngồi thì đặt nắm tay trong lòng bàn tay". Lại hỏi: "Đã là thiên thần hộ pháp, cớ sao lại nhương cung giá tên". Sư đáp: "Lễ phòng quân tử". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Có tiền oai sử tiền".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tâm ấn Tổ sư, một ấn ấn không, một ấn ấn nước, một ấn bùn, như nay lại có ấn chẳng dính ư? Thử hướng xuống dưới cẳng chân nói lấy một câu lại. Giả sử các ông nói được thích thản rõ ràng thì thứ nhất chẳng được đi qua dưới cửa của Nạp Tăng, vả lại nói nạp Tăng có nơi nào dài". Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Ba tấc tiều nhân vương, khắp đất là dao thương". Rồi Sư hét một tiếng, chống tích trượng xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường Sư bảo: "Trời đã sáng trống đã vang, Thánh chúng đến đều chấp tay, như nay lại có người không chấp tay ư? Nếu có tức Ni càn hoan hỷ, còn không tức Cù-đàm phát ghét". Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Trân trọng". Có người hỏi: "Mài cối kiếm ba thước, chết mất người bất bình, theo ý Sư thì thế nào? Sư đáp: "Khéo đi". Có vị Tăng nói: "Điểm". Sư bảo: "Ngươi xem!" Vị Tăng vỗ tay và trở về giữa đại chúng. Sư bảo: "Xong". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phía Nam của Bắc sơn, phía Bắc của Nam sơn, nhật nguyệt soi sáng cả hai, đất trời mờ tối. Biển lớn sông ngòi thảy đều tỏa sáng, gặp được Bồ-tát Quán Thế Âm hỏi Di-lặc. Trân trọng!" Có người hỏi: "Lúc có ký khỏi tỏ bày thì thế nào?" Sư đáp: "Khổ". Lại hỏi: "Thế nào thì lưỡi chống trên vòm họng?" Sư thở dài một tiếng. Có vị Tăng hỏi: "Lấy gì gọi là Hồ Tăng râu đỏ?" Sư đáp: "Mộng thấy cẳng chân hưng hóa ư?" Sư nói kệ chỉ dạy đồ chúng rằng:

"Hắc, hắc, hắc Đạo, đạo, đạo Minh, minh, minh, Đắc, đắc, đắc".

Trong phòng thất của Sư, cắm một cây kiếm, dùng một đôi giày cỏ, một bồn nước đặt bên cạnh cây kiếm. Mỗi lúc thấy có người vào thất, Sư liền bảo: "Xem, xem". Như có người đến bên cạnh kiếm phỏng bàn nghị, Sư liền bảo: "Hiểm nguy, tan thất mất mạng vậy". Và Sư quát đuổi ra. Một ngày mùa Đông, Sư đến tấm bảng ở Tăng đường, viết các chữ: "(?), phía dưới ghi chú rằng: "nếu người nào biết được, chẳng lìa trong bốn oai nghi". Vị Thủ Tòa trông thấy thế, nói: "Ngày nay Hòa thượng phóng tham". Nghe vậy, Sư bèn cười.

Năm Mậu dần (1038) thuộc trong niên hiệu Bảo Nguyên (1038-1040) thời Bắc Tống, Lý Đô Úy sai sứ đến mời thỉnh Sư, nói rằng: "Bạn Đạo ở trong nước nhà, chỉ có mình Sư cùng Dương Đại Niên, mà Đại Niên đã bỏ tôi đi trước, ngày tháng trở lại đây chóng cảm thấy suy yếu, nhẫn đợi chết muốn được một lần gặp thấy mặt!" Lý Công đưa thư ấy cho Đàm Sư thúc giục sai người mang đến. Sư xót xa cùng thị giả đồng đi thuyền theo xuống hướng Đông. Đang lúc đi trên thuyền, Sư làm kệ rằng:

"Sông dài đi chẳng tận

Đất vua lúc nào đến

Đã được tiện gió mát Nghỉ đêm mái chèo bày".

Khi đến kinh đô, cùng gặp Lý Công, quả nhiên hơn tháng sau Lý Công qua đời. Lúc sắp chết, Lý Công họa vẽ một vòng tròn và làm bài kệ dâng Sư rằng:

"Thế giới không nương

Núi sông chẳng ngại

Biển lớn vi trần

Tu-di nạp giới

Nhóm mở khăn đầu

Cởi giải dưới eo Nếu tìm sinh tử

Hỏi lấy đãy da".

Sư hỏi: "Thế nào là Phật tánh từ xưa lại?" Lý Công đáp: "Ngày nay nóng như ngày qua". Và theo tiếng mà hỏi lại Sư rằng: "Một câu lúc sắp đi làm sao sống?" Sư đáp: "Xưa nay không phải ngại, tùy chốn mặc tròn vuông". Lý Công nói: "Lại muộn khốn nhọc". Và không đối đáp gì. Sư bảo: "Nơi không Phật, làm Phật". Khi ấy Lý Công điềm nhiên mà qua đời. Vua Nhân Tông (Triệu Trinh 10231064) rất lưu tâm với không môn, nghe Lý Công lúc sắp qua đời cùng Sư hỏi đáp, cảm thán giây lâu. Sư thương khóc rất thảm thiết, đi đến nơi huyệt mã mà giả biệt, vua ban sắc chỉ sai quan dùng thuyền đưa Sư về phương Nam. Giữa đường Sư bảo cùng thị giả rằng: "Bỗng nhiên ta cảm mắc bệnh phong tê". Trông nhìn miệng Sư thì đã co rút méo, Thị giả bèn đưa chân giẫm đạp nói rằng: "Bởi vì lúc bình sinh luôn mắng Phật trách Tổ nên nay phải như vậy". Sư bảo: "Chớ lo vì ngươi chỉnh sửa đó". Và tự đưa tay sửa lại như cũ. Sư nói: "Từ nay về sau chẳng chậm chạp đặt để ông". Qua ngày mồng năm tháng giêng năm sau (1039), Sư thị tịch, hưởng thọ năm mươi bốn tuổi, ba mươi hai hạ lạp. Bia văn khắc ghi công hạnh ở chùa Hưng hóa, dựng tháp an táng toàn thân tại Thạch sương.

2. Thiền sư Tuệ Giác ở Lang da.

Thiền sư Tuệ Giác-Quảng chiếu ở núi Lang da tại Trừ châu, vốn người xứ Tây lạc. Thân phụ của Sư làm Hành dương Thái thú, nhân cảm mắc bệnh mà qua đời, Sư nghinh đưa về Tây lạc. Đi ngang qua chùa cổ Dược sơn ở Lễ dương, uyển nhiên như xưa trước đã từng ở, do duyên ấy mà xuống, rồi du phương tham phóng, khi đã đắc pháp, Sư ứng duyên ở sông trừ tại Phần dương. Cùng Thiền sư Minh Giác ở Tuyết đậu đồng thời xướng đạo, mọi người khắp bốn phương đều tôn xưng đó là hai cửa Cam lồ. Mãi đến nay tại Hoài nam, sự giáo hóa của Sư lưu lại vẫn còn như lúc sinh tiền.

Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Đầu đồng trán sắt". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Chim mổ má cá". Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Kỳ đặc thay! Chư Phật ở mười phương đều vốn là hoa trong mắt, muốn biết hoa trong mắt nguyên là chư Phật ở mười phương. Muốn biết chư Phật ở mười phương chẳng là hoa trong mắt, muốn biết hoa trong mắt chẳng là chư

Phật mười phương. Khi ấy rõ được qua ở chư Phật mười phương, khi ấy chưa rõ văn dậy múa, Độc giác trang sức. Trân trọng!" Có vị Tăng hỏi: "Với vấn đề A-nan kết tập tức không hỏi. Còn Ca-diếp mỉm cười, sự việc ấy như thế nào?" Sư đáp: "Ghi thời ghi tiết". Lại hỏi: "Từ sau khi phân chia đèn đuốc ở Linh thứu mãi đến lúc ở Trung Quốc làm tỏ rạng xưa nay thì thế nào?" Sư đáp: "Chấm son chấm sơn". Lại hỏi: "Thế nào là khách trong khách?"

Sư đáp: "Tay nắm thư kiếm bái yết minh quân". Lại hỏi: "Thế nào là chủ trong khách?" Sư đáp: "Quyển mở rèm lại không thể thấy". Lại hỏi: "Thế nào là khách trong chủ?" Sư đáp: "Canh ba qua Mạnh tân". Lại hỏi: "Thế nào là chủ trong chủ?" Sư đáp: "Riêng ngồi trấn Hoàn vũ". Lại hỏi: "Lúc hoa sen chưa trồi ra khỏi mặt nước thì thế nào?" Sư đáp: "Mèo con đội khăn giấy". Lại hỏi: "Sau khi đã trồi ra khỏi nước thì thế nào?" Sư đáp: "Chó con mang giày đi". Lại hỏi: "Với vấn đề nhón lấy dùi dựng đứng phất trần tức chẳng hỏi, còn máy mắt nhướng mày sự việc ấy thế nào?" Sư đáp: "Thiệu Châu từng thấy Nam Tuyền lại". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu". Sư đáp: "Nay mùa Đông có lắm mưa tuyết, nhà nghèo khó tranh giành nhau làm sao".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Muốn biết thân thường trú, phải quán thể tan rụi, muốn biết tánh thường trú, phải quán chiếc gậy chống. Gậy chống muốt ngay núi Tu-di, núi Tu-di nuốt liền chiếc gậy chống. Nạp Tăng đến trong đó như cũng phỏng bàn nghị, kiếm cứng rơi phanh nát thâu lấy hàng thực, sắt làm áo che ngực đến góc biển". Rồi Sư gõ vào thiền sàn, xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thấy nghe hay biết đều là nhân sinh tử, thấy nghe hay biết chính là gốc giải thoát. Thí như sư tử nhảy chồm trở lại. Nam Bắc Đông Tây tạm không định dừng. Nếu các ngươi chẳng hiểu, tạm chớ cô phụ thần chú của Đức

Thích-ca và Lão Tử". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ngày nay Sơn Tăng vì các ông nói phá, mắt sáng Nạp Tăng chớ để trong bùn đả tọa. Trân trọng". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trời cao chẳng lường, đất dày chẳng biết, mây trắng từng mảnh bay đầu non, nước biếc róc rách đáy khe gấp. Với phun vọt phương Đông chìm ẩn phương Tây một câu ấy tức chẳng hỏi, còn với một câu ông sống trước giết chết sau, làm sao sống? Nói xem?" Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Lúc lạnh uống trà đi!"

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ha, ha, ha, là cái gì? Mở miệng là ngậm miệng qua, thuyền nhẹ mái chèo ngắn nỗi sóng lòng, áo tơi nón lá theo ấy rách. Ôi!" Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật mười phương là cái cọc gỗ cháy, Tam hiền Thập Thánh là cái thẻ đầu chuồng tranh, các người đến trong đó làm sao sống?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Muốn được chẳng nhận chịu nghiệp vô gián, chớ nên phỉ báng chánh pháp của Đức Như Lai". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mũi tên bắn trừ bọn giặc cướp cuồng, quét sạch giống cướp giật, còn là việc bên cạnh công huân. Đạo vua tôi hợp thì biển yên sông lắng, giống như việc bên cạnh pháp thân. Làm sao sống là việc bản phận của Nạp Tăng?" Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Thấu lưới vàng còn ứ trệ nước, xoa đường ngựa đá ra lồng tơ". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tiếp thừa lời nói phải hiểu được Tông chủ, chớ tự lập nên quy cũ. Nếu các người dưới thông hiểu được phương cú, Ta sẽ cắt lấy cổ mà tạ đó".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư nhón lấy gậy chống mà bảo rằng: "Sơn Tăng có lúc một gậy làm lưới bủa khắp trời đánh bắt chim ưng tài giỏi khoái chim dao. Có lúc một gậy làm lưới tơ vải vớt bắt tôm hến, có lúc một gậy làm sư tử lông vàng, có lúc một gậy làm ễnh ương, giun trùng. Sơn Tăng đánh ông một gậy, vả tạm làm sao thương lượng? Nếu ngươi ra khỏi được trắng đen, thì chẳng phòng ngại chống gậy trên đầu mắt mở chiếu soi khắp tứ thiên hạ. Nếu chưa như vậy thì theo giáo lập tại bờ xưa lắng đợi sai xanh đỏ vào họa đồ". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đánh nước, đầu cá đau, vào rừng ngủ chim sợ, xẩm tối chớ gióng trống, giữa trưa đánh ba canh. Này chư vị thiền đức, đã là giữa trưa cớ sao lại đánh ba canh?" Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Hôm qua thấy cành dương rủ sắc xanh, ngày nay gặp lá vàng rơi". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhón lấy gậy chống lại không lên trên, buông thả gậy chống là mô dạng gì? Với đầu lâu ở sau ngọn núi tức không hỏi. Còn một câu pháp thân trong chuông ngựa, các ngươi làm sao sống? Nói, nếu nói không được, gậy chống nói đi?" rồi Sư xuống khỏi tòa trở về phương trượng. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tiến tới trước tức chết, lùi lui sau tức mất, chẳng tiến tới, chẳng rút lui lại rơi ở làng vô sự. Cớ sao? Trường an tuy vui, nhưng chẳng phải là nơi ở lâu". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các người ở tại trong Ta đây qua mùa Hạ. Cho các ngươi nêu ra năm thứ bệnh: Một là chẳng được hướng đến nơi muôn dặm không tấc cỏ. Hai là không được riêng ngủ qua đêm nơi núi đơn lẻ. Ba là không được trương cung giá tên. Bốn là không được an thân ngoài vật, năm là không được ngưng trệ nơi sinh sát. Cớ sao? Một nơi có ngưng trệ tự cứu khó làm. Cả năm nơi nếu thông mới gọi là Đạo sư. Các ông đến các phương nếu gặp được người mắt sáng thì cùng ta thông hiểu tin tức. Quỷ được Đạo phong Tổ đức không rơi lạc, nếu là Đồ chúng thường tức bèn ngủ nghỉ. Cớ sao lõa hình trong nước khoe phục sức, tưởng ông giết quá không biết thời". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Có vị Tăng nhân xem đọc kinh Hoa Nghiêm Chương Sư Tử Vàng Thứ Chín nói: "Do tâm xoay chuyển cửa thiện thành" lại chú thích là: Như tấm gương rộng lớn một thước nhận nạp lớp lớp ảnh tượng, như vậy tức Đạo có chỗ đắc, Đạo không chỗ đắc, Đạo chẳng cũng đắc, Đạo là cũng đắc. Tuy là như vậy lại phải biết có một lỗ trên đầu gậy chống, nếu không như vậy chống gậy xuyên qua lồng đèn vào trong điện Phật, khua trước Thích-ca xoang xoảng, đổ ngã Dilặc, bày chống vỗ tay cười lớn ha hả. Các ông thử nói cười cái gì?" Sư bèn chống gậy xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, nhón lấy gậy chống, Sư bảo: "Núi cuộn tròn đi lên một đường trơn trợt, đường Nam viện vách dựng đứng cao ngàn nhận hiểm nguy. Lâm Tế nói đá lửa xoẹt sáng chậm. Lang Da có câu an định đất trời. Các ngươi mỗi một nhướng cao mắt, nhướng cao mắt". Xong, Sư chống gậy xuống khỏi tòa.

3. Thiền sư Thủ Chi ở Đại ngu.

Thiền sư Thủ Chi ở núi Đại ngu tại Thụy châu, vốn dòng họ Vương ở Thái nguyên. Vừa mới lên pháp tòa, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư (Thủ Chi) đáp: "Một lời đã nói, xe bốn ngựa khó đuổi theo kịp". Lại hỏi: "Thế nào là Phật trong thành?" Sư đáp: "Trời có ba dài, đất có sáu ngắn". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Rất kỵ đất đầy rỗng không". Lại hỏi: "Xưa kia nơi Linh sơn phân chia nửa tòa, hai Sư cùng chung thấy, sự việc ấy như thế nào?" Sư đáp: "Ghi nhớ được gì?" Vị Tăng ấy ngừng im lặng giây lâu. Sư đánh xuống Thiền sàng một cái, bảo: "Nhiều năm quên ngay vậy". Và bảo: "Hãy tạm dừng, tạm dừng. Nếu tìm trong lời nói để lấy thì rõ căn cơ trong câu, cũng tợ như đầu mê nhận ảnh. Nếu vậy thì cử xuống Tông thừa rất tợ cả một trường ngủ nói mớ. Tuy là như vậy, nhưng Quan chẳng dùng chim châm riêng thông xe ngựa, buông một đường chỉ có cái nôi cây quấn leo". Và Sư lại đánh xuống Thiền sàng một cái và bảo: "Chư Phật trong ba đời đều đau đầu. Đại chúng hãy nói thử xem. Lại có khỏi bị vậy ư? Nếu một người khỏi được, hẳn là không có, nếu không khỏi được thì Hải Ấn phát sáng". Sư lại dựng đứng phất trần, bảo: "Cái này là ấn, cái kia là sáng, cái này là sáng, cái kia là ấn, căn cơ sét đánh, chẳng nhọc đợi nghĩ suy. Có hiểu Lão Tăng nói mộng ư?" Vả lại, nói mộng thấy cái gì? Nam Kha mười canh, nếu chẳng hiểu thì nghe lấy một kệ tụng:

"Bắc đẩu treo Tu-di

Đầu gậy khơi Nhật nguyệt Suối rừng khéo thương lượng Cuối Hạ gió thu sang".

Trân trọng! Có người hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Trời lạnh, thời gian ban ngày ngắn". Lại hỏi: "Tâm pháp không hình tướng làm sao gọt giũa?' Sư đáp: "Một Đinh hai Đinh". Lại hỏi: "Người chưa hiểu lãnh hội như thế nào?" Sư đáp: "Thấu bảy thấu tám". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Một đánh vang linh lung, ồn náo cùng vũ trụ, biết âm mới nghiêng tai, lớn vẫy qua Giang đông. Cùng với gì hiểu hợp nhận được yên lừa, cầu làm dưới cằm A-da?"

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đại ngu cùng tiếp cháu đại hùng, mây nước Ngũ hồ tranh đầu chạy, tranh đầu chạy có cửa nào? Bắn tên sao biết cây khô còn? Cây khô còn một năm lại trải hai mùa xuân. Hai mùa xuân, ngọc quý trong màn ném cho người, ném cho người, nghĩ lường là mến mộ Tây Tần". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Dọc dùng Tam tế, ngang khắp mười phương. Nhón dựng dậy thì Đế Thích kinh sợ, buông bỏ xuống thì địa thần sợ lo. Không nhón dựng không buông bỏ thì kêu làm cái gì?" Rồi Sư tự bảo: "Ễnh ương". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật ba đời không biết có. Ly nô và bò trắng không biết có". Sư mới nắm dựng đứng phất trần và bảo: "Ly nô và bò trắng đều tại trong đó tỏa phóng ánh sáng động đất. Sao gọi như vậy? Bởi cả hai chẳng đồng". Có người hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Cưa mở quả cân".

Lại có lúc lên giảng đường, đại chúng hành tập Thiền định, Sư mới bảo: "Công án hiện tại là đánh tường thành chẳng rõ". Rồi liền xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đại dương đáy biển bày dựng lang lỗ, từ đầu thứ hai lông tóc lang lỗ. Vì cớ sao không nói đầu thứ nhất lông tóc lang lỗ? Cần hiểu ư? Nhị vàng tơ bạc thành sương ngọc, Cao Tăng chẳng ngồi Đài phụng hoàng". Lại có lúc lên giảng đường, đại chúng nhóm tập, Sư mới bảo: "Vì đại chúng hết sức, họa xuất phát cửa riêng". Rồi liền xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thúy nham đường cao vợi hiểm nguy, cất bước giẫm trải qua ngàn khe suối lại có nguồn nước lớn tràn lan ở phía tây ngọn núi". Và Sư đánh xuống thiền sàng rời xuống khỏi tòa. Sư dạy bảo đại chúng nâng lò hương cùng nói: "Đầu sáng hợp, Đầu tối hợp, nói được thiên hạ hoành hành, còn nói không được tạm hợp ngay". Rồi Sư xuống tòa. Có người hỏi: "Thế nào là một câu làm người?" Sư đáp: "Bốn góc sáu trương". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "Tám lõm chín lồi".

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trong cát không dầu sự việc ấy có thể buồn thương. Thúy nham nhai cơm mớm cho con nít, lúc khác tốt xấu biết rõ ngay đầu mối, mới hiểu từ trước đầy mặt toàn là đất bụi". Rồi Sư bèn đánh xuống thiền sàng và xuống khỏi tòa.

4. Thiền sư Pháp Vĩnh ở Thạch sương.

Thiền sư Pháp Vĩnh ở Thạch sương tại Đàm châu, có vị Tăng hỏi:

"Thế nào là Phật?" Pháp Vĩnh đáp: "Cánh tay dài mà tay áo ngắn". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Quần vải xỏ qua đầu".

5. Thiền sư Toàn Cử ở Pháp hoa.

Thiền sư Toàn Cử ở viện Pháp hoa tại Thư châu đến nơi Hòa thượng Công An Viễn. Hòa thượng Viễn hỏi: "Thế nào là sống là già lam?" Sư đáp: "Núi sâu riêng mình hổ. Cỏ cạn bày bầy rắn". Lại hỏi: "Làm sao sống là người trong già lam?" Sư đáp: "Tùng xanh hết chẳng được, lá vàng đâu thể ngăn". Lại hỏi: "Nói cái gì?" Sư đáp: "Tuổi trẻ vui hết trăng bên trời, khốn đổ ném dâu chìm đầu mặt nhật". Lại hỏi: "Một câu hai câu mây tan trăng tỏ làm sao sống?" Sư đáp: "Chiếu soi cùng Phật Tổ".

Sư đến nơi Hòa thượng Thủ Chi ở Đại ngu, Hòa thượng Thủ Chi hỏi: "Người xưa thấy hoa đào, ý ấy làm sao sinh?" Sư đáp: "Cong chẳng chưa thẳng". Lại hỏi: "Cái này tạm theo cái kia làm sao sinh?" Sư đáp: "Đường rỗng nhặt được vàng, bốn bên tranh hỏi biết". Lại hỏi: "Thượng tọa có biết chăng?" Sư đáp: "Giữa đường gặp kiếm khách phải trình kiếm, không vậy thì thi nhân chẳng tặng thơ". Lại hỏi: "Làm nhà thơ khách ư?" Sư đáp: "Một dải chỉ hồng hai người lôi kéo". Lại hỏi: "Huyền sa nói: Chân thật phải rất chân thật nên dám bảo nhậm. Lão huynh chưa thấu triệt đến đó làm sao sống?" Sư đáp: "Biển khổ hẳn thấy đáy, người chết không biết tâm". Lại hỏi: "Tức là?" Sư đáp: "Thế lầu các lấn mây, núi cao lắm tầng biếc".

Sư lại đến nơi Hòa thượng Tuệ Giác ở Lang Da. Hòa thượng Tuệ Giác hỏi: "Gần xa lìa xứ nào?" Sư đáp: "Lưỡng chiếc". Lại hỏi: "Thuyền lại hay đất liền lại?" Sư đáp: "Thuyền lại". Lại hỏi: "Thuyền ở xứ nào?" Sư đáp: "Bước xuống". Lại hỏi: "Một câu chẳng trải qua Đồ trình làm sao sống?" nói: "Sư nắm tọa cụ phẩy một cái, nói: Đồ tuyển Trưởng lão như vừng (mè) như dê" và rủ áo mà ra Thiền sư Tuệ Giác hỏi Thị giả: "Ông ấy là người nào vậy?" Thị giả đáp: "Đó là Thượng tọa Cử (Toàn Cử)". Thiền sư Tuệ Giác nói: "Chẳng là Sư thúc Toàn Cử ấy ư? Tiên Sư dạy ta tìm kiếm vị đó". Bèn xuống khỏi tòa và qua thưa rằng: "Thượng tọa chẳng là Sư thúc Toàn Cử ư? Xin chớ quái lạ vừa mới lại có sự xúc phạm trái nghịch". Sư bèn hét, và hỏi lại: "Lúc nào Trưởng lão đến Phần dương". Thiền sư Tuệ Giác đáp: "Tôi đến Phần dương lúc... ấy". Sư bảo: "Lúc ta ở Chiết giang sớm đã nghe tiếng tăm ông, thì ra xưa nay kiến giải chỉ là như vậy! Làm sao mà gọi là Bá Hoàn Vũ?" Thiền sư Tuệ Giác đảnh lễ, thưa rằng: "Con có lỗi quấy!"

Sư lại đến Tây am ở Hàng châu, am chủ đã từng thấy gặp Minh Chiêu nêu cử xướng kệ tụng rằng:

"Trên tuyệt đảnh Tây phong

Cao vợi, ai dám đến

Siêu nhiên ngoài phàm Thánh Biếc dậy hai lớp sáng".

Sư hỏi: "Thế nào là hai lớp sáng?" Am chủ đáp: "Mặt nguyệt mọc tại phương Đông, mặt nhật lặn ở phương Tây. Sư hỏi: "Lúc Am chủ chưa thấy Minh Chiếu thì thế nào?" Am chủ đáp: "Bát dầu đầy khó hết". Sư hỏi: "Sau khi đã thấy thì thế nào?" Am chủ đáp: "Nhiều tâm dễ được khô". Sư ở đó lâu sau, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đoạt lấy người mà không đoạt cảnh?" Sư đáp: "Cúc trắng chợt nở, ngày mồng chín tháng chín trời ấm. Trăm năm công tử chẳng gặp xuân". Lại hỏi: "Thế nào là đoạt lấy cảnh mà không đoạt lấy người". Sư đáp: "Đại địa tuyệt tin tức, tự nhiên riêng nhậm chân". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh cả hai đều đoạt lấy?" Sư đáp: "Cỏ hoang người tuyệt sắc, Phàm Thánh thảy đều không". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh cả hai đều chẳng đoạt lấy?" Sư đáp: "Gió trong cùng trăng sáng, giữa đồng cười thân gần".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đức Thích-ca chẳng xuất hiện nơi đời, Tổ sư Đạt-ma chẳng từ Tây vức lại, Phật pháp khắp thiên hạ, đàm huyền miệng chẳng mở". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chuông khua trống gióng, chim thước hót quạ kêu, vì các ông nói Niết-bàn, giảng Bát-nhã đã xong. Các ông có tin được kịp ư? Bồtát Quán Thế Âm hướng đến trước mặt các ông biến hiện các thần thông lớn. Nếu tin không kịp, liền sang phương khác cứu khổ làm việc lợi ích quần sinh đi". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mở miệng lại thành thêm lời, không mở miệng lại thành thừa lời". Và bảo: "Kim luân Thiên tử ban sắc, tiệm cỏ gia phong riêng". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật ba đời miệng treo trên vách, Lão Hòa thượng dưới trời làm sao sống bày ngón tay? Các ông đến các phương làm sao sống? Nói. Sơn Tăng làm sao nói, cũng là lâu ngày hoa lại môi". Và Sư hét một tiếng. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Người xưa nói nếu ta một mực nêu bày Tông giáo thì trong pháp đường cỏ dày một trượng. Không thể làm xa-lê tiêu ngay cửa Tăng đường đi. Tuy là như vậy, cũng là quạ rùa trên đất liền nhảy tung bụi đi". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nói tiệm cũng lại thường hợp Đạo, bàn Đốn cũng chẳng lưu điềm vết. Ngay nhiều bàn luận đến ấy trở lại thường ấy, cũng chèn ép mà làm đó".

Có người hỏi: "Lúc Ngưu đầu chưa thấy Tứ tổ làm sao trăm loài chim ngậm dâng hiến?" Sư đáp: "Quả chín, vượn đều trọng". Lại hỏi: "Sau khi đã thấy sao chẳng ngậm hoa?" Sư đáp: "Rừng thưa chim chẳng qua". Lại hỏi: "Thất tinh tỏ rõ hình thái trời sắp sáng, chẳng phạm tinh phong thử nói xem?' Sư đáp: "Lưới ngựa tướng quân hồng". Lại nói: "Sai". Sư bèn đánh. Vị Tăng ấy lễ bái, trải bày tọa cụ rồi gom xếp tọa cụ, Sư bảo: "Một lần trải một lần gom xếp, pháp pháp đều đủ". Vị Tăng ấy phỏng muốn hỏi lại nguyên do đắp mặc. Sư hỏi: "Hiểu ư?" Vị Tăng ấy đáp: "Chẳng hiểu". Sư bèn đánh.

6. Thiền sư Cốc Tuyền ở Ba tiêu.

Thiền sư Đại Đạo-Cốc Tuyền ở am Ba tiêu tại Nam nhạc, vốn người xứ Tuyền châu, đến thọ pháp ở Phần dương, phóng đảng Hồ tương, về sau tỉnh ngộ đồng đến dự tham ở Thiền sư Từ Minh. Thiền sư Từ Minh hỏi: "Mây trắng giăng ngang cửa cốc. Đạo nhân từ đâu lại?" Sư ngó ngoái hai bên và đáp: "Đêm lại, lửa nơi nào đốt ra mộ người xưa". Thiền sư Từ Minh lại hỏi: "Chưa ở lại nói ở Sư bèn làm tiếng hổ gầm. Thiền sư Từ Minh nắm tọa cụ tiện phẩy, Sư tiếp đứng dậy đẩy Thiền sư Từ Minh đặt trên thiền sàn. Thiền sư Từ Minh liền làm tiếng hổ gầm. Sư cười lớn, bảo: "Ta thấy có hơn bảy mươi vị Thiện tri thức, ngày nay mới gặp nhà". Nhân có Thượng tọa Ỷ Ngộ đến dự tham (Ỷ Ngộ về sau đến ở Pháp Xướng). Hỏi: "Am chủ ở đâu?" Sư lại hỏi: "Ai đó?" Ỷ Ngộ nói: "Là Tăng hành khất". Sư hỏi: "Làm gì?" Ỷ Ngộ nói: "Lễ bái am chủ". Sư bảo: "Sao nói chẳng có, nói gì mày tao?" và Sư rút gậy sấn đuổi ra. Ngày hôm sau, Thượng tọa Ỷ Ngộ lại đến, Sư lại xua đuổi ra. Một ngày nọ, Thượng tọa Ỷ Ngộ lại đến hỏi: "Am chủ ở đâu?" Sư lại hỏi: "Ai?" Ỷ Ngộ đáp: "Vị Tăng hành khất". Ỷ Ngộ bèn vén rèm đi vào. Sư ra giữa lan can quay tay đứng, bảo: "Trong ta hổ lang tung hoành, nước tiểu đầy sàng, quỷ con ba hồi hai lượt lại xét hỏi gì?" Ỷ Ngộ nói: "Có người nói am chủ thân gần thấy Phần dương lại". Sư cởi áo, phấn chấn bảo: "Ngươi nói ta thấy Phần dương lại có ít nhiều kỳ đặc?" Ỷ Ngộ hỏi: "Thế nào là chủ trong am?" Sư đáp: "Vào cửa phải rõ lấy". Lại hỏi: "Chẳng chỉ ấy bèn là gì ư?" Sư đáp: "Lừa dối ngay nhiều người". Lại hỏi: "Lời nói trước ở đâu?" Sư đáp: "Nghe việc chẳng thật kêu chuông làm võ". Lại hỏi: "Lúc muôn pháp hết, toàn thể hiện, quân tử hợp ở tà trong chánh đi vậy?" Sư bảo: "Lừa tài giỏi chẳng gặp tiện nghĩ loạn tất cả làm gì?' Lại hỏi: "Chưa xét rõ khách lại, lấy gì để tiếp đãi?" Sư đáp: "Bánh hồ Vân môn, nước trà Triệu châu". Lại hỏi: "Thế nào là Tạ sư cúng dường đi?" Sư quát mắng, bảo: "Trong ta giống lửa chưa có, sớm nói tạ cúng dường!"

Nhân gặp lúc có tuyết lớn, Sư làm kệ rằng:

"Sáng nay tuyết rất đẹp

Lẫn lộn như trăng thu

Văn Thù chẳng bày đầu Phổ Hiền trình vụng về".

Từ Minh xa ở tận Phước nghiêm, Sư lại sang trông xét đó, dừng ở thời gian ngắn rồi trở về, làm kệ gởi đến nói là:

"Xa cách từ nay lại nửa năm Chẳng biết có ai cùng đàm thiền Một số sắc đẹp trong Tương sơn Người tự giúp chúng, Ta ngủ yên".

Thiền sư Từ Minh đọc xem và chỉ cười mà thôi.

7. Thiền sư Hiểu Ngu ở Long hoa.

Thiền sư Hiểu Ngu ở chùa Long hoa tại Hoàng mai, Kỳ châu, đến nơi Hòa thượng giới ở Ngũ tổ. Hòa thượng giới hỏi: "Một câu chẳng rơi lạc môi mép làm sao sống? Nói xem". Sư đáp: "Lão, lão, lớn lớn, thoại đầu cũng chẳng chiếu cố". Thiền sư giới bèn quát hét, Sư cũng hét. Thiền sư giới nắm lấy gậy, Sư bèn vỗ tay mà đi ra. Thiền sư giới gọi là bảo: "Xà lê tạm dừng nói ở". Sư kéo tọa cụ vắt trên vai, lại chẳng xoay đầu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ma-đằng vào đất Hán đã trải qua lắm từ. Đạt-ma từ Tây vức lại chẳng giữ phận mình. Ngày nay Sơn Tăng cho gì? Nói. Ấy cũng là vì người khác rỗi việc lớn vô minh".

8. Thiền sư Hạo Thái ở Thiên Thánh.

Thiền sư Hạo Thái ở Thiên Thánh tại An cát châu, vốn người xứ Hà đông, đến nơi Thiền sư Tuệ Giác ở Lang da, Thiền sư Tuệ Giác hỏi: "Chôn lính xứng đấu, chưa là làm nhà, xếp ngựa súng đơn xin cùng trông thấy là gì?" Sư chỉ thẳng Thiền sư Tuệ Giác và bảo: "Tướng đầu chẳng mạnh mang nặng ba quân". Thiền sư Tuệ Giác đánh Sư bằng một cái tọa cụ, Sư cũng đánh Thiền sư Tuệ Giác bằng một cái tọa cụ. Thiền sư Tuệ Giác tiếp đứng, và bảo: "Vừa lại, đánh một tọa cụ là Sơn Tăng khiến đi, còn Thượng tọa đánh một tọa cụ là rơi ở xứ nào?" Sư bảo: "Cúi mong chỉ chuộng hưởng". Thiền sư Tuệ Giác nâng lên mở miệng, nói: "Canh năm gần sáng dậy, lại có người đi đêm". Sư bảo: "Giặc sau qua trương cung". Thiền sư Tuệ Giác nói: "Hãy tạm ngồi uống trà".

Sư dừng ở, lâu sau có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Chấm sơn Chánh Tăng". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Xem tường vách tợ như màu sắc của đất".

9. Thiền sư Trí Viên ở Long đàm.

Thiền sư Trí Viên ở Long đàm tại Đường châu, Lúc giả từ Phần Dương, Phần Dương bảo: "Giả biệt không đưa đường cho con, chỉ một chiếc gậy chống và một cái khăn tay". Sư nói: "Khăn tay Hòa thượng nhận dùng, gậy chống tức chẳng tiêu được". Phần Dương bảo: "Ông chỉ nên lấy đi hẳn có nơi dùng". Sư bèn nhận lấy. Phần Dương bảo: "Lại nói chẳng dùng". Sư bèn hét. Phần Dương bảo: "Từ nay về sau chẳng nhường Lâm Tế". Sư nói: "Chánh là khiến mình đi". Ngày hôm sau, Phần Dương đưa tiễn Sư ra Tam môn mà hỏi: "Ông đến giới sơn, lúc gặp Uất Trì thế nào?" Sư đáp: "Một dao hai ". Phần Dương lại hỏi: "Uất Trì hiện Na-tra, lại làm sao sống?" Sư bèn rút gậy chống. Phần Dương quát hét, bảo: "Ấy xoay lại toàn thể phân phó".

Dừng ở lâu sau, có vị Tăng hỏi: "Trong thừa giáo có nói: "Là chân tinh tấn thì gọi đó là chân pháp cúng dường Như Lai", vậy thế nào là chân pháp?" Sư đáp: "Tối nhóm tụ, sáng tan rã". Lại hỏi: "Thế nào là kiếm của Long đàm?" Sư đáp: "Xúc chạm chẳng được". Lại hỏi: "Sử dụng thế nào?" Sư đáp: "Xương cốt trắng chất liền núi". Lại hỏi: "Ngày xưa nghiên cứu hết các kinh, ngày nay lại tham thiền, lý ấy thế nào?" Sư đáp: "Hai sắc thái, một so sánh". Lại hỏi: "Làm sao sinh lãnh hội?" Sư đáp: "Sau khi đi không để lại dấu vết". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Lửa đốt không cháy". Lại hỏi: "Điện xưa không có Phật thì thế nào?" Sư đáp: "Chấp tay trước Tam môn".

10. Thiền sư Viên Tu ở Đầu tử.

Thiền sư Viên Tu ở Đầu tử tại Thư châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc Tổ sư Đạt-ma chưa đến thì thế nào?" Sư đáp: "Ra miệng vào tai". Lại hỏi: "Sau khi đã đến thì thế nào?" Sư đáp: "Xoa tay và chân".

11. Thiền sư Đạo Nhất ở Thái tử.

Thiền sư Đạo Nhất ở viện Thái tử tại Phần châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Bán quạt lão bà tay che mặt nhật". Lại hỏi: "Lúc mặt nhật chưa xuất hiện thì thế nào?" Sư đáp: "Soi đuốc rõ ràng". Lại hỏi: "Sau khi mặt nhật đã xã hội thì thế nào?" Sư đáp: "Mò tới phỏng đất". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học thân thiết?" Sư đáp: "Như mẹ hiền bồng ẵm con thơ". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học chuyển thân?" Sư đáp: "Đầu ngoài đường, đuôi trong hẻm". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học dốc sức lực?" Sư đáp: "Gánh nặng ngàn cân, lay hai đầu". Lại hỏi: "Khúc nhạc cổ xưa không âm vận, làm sao hòa được ngang bằng?" Sư đáp: "Ba lần chín là hai mươi bảy (3 lần 9 = 27), đầu hàng rào thổi kèn". Lại hỏi: "Cung thương giác thủy chẳng liên quan huyền diệu, người đá vỗ tay cười ha, ha, là thế nào?" Sư đáp: "Đồng đạo mới biết".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỈNH Ở HUYỆN DIỆP

1. Thiền sư Pháp Viễn ở Phù sơn.

Thiền sư Pháp Viễn ở Phù sơn tại Thư châu, vốn người xứ Trịnh châu, đến nương tựa Hòa thượng Tung ở Tam giao mà xuất gia. Lúc bé thơ đang là Sa-di, thấy có vị Tăng vào thất thưa hỏi nhân duyên cây Bách giữa sân Triệu châu, Hòa thượng Tung cật vấn vị Tăng ấy, Sư đứng hầu bên cạnh mà có sự tỉnh ngộ. Đến sau khi đã tấn đàn thuyết giảng cụ túc, Sư đến bái yết Phần Dương, Diệp huyện, đều được ấn chứng. Sư từng cùng các vị Đạt Quán, Dĩnh Tiết, Đại Đầu, cả thảy bảy đến tám người bạn vân du đến đất Thục, tình cờ gặp phải trái ngược, Sư nhờ có trí tuệ mà được thoát khỏi, mọi người đều cho Sư là hiểu lại số sự, xưng gọi là Viễn Lục Công.

Lúc lên giảng đường khai pháp, Sư niêm hương, nói rằng: "Như hai cây khô sống ở trên, hoa riêng nghinh đón sắc xuân". Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Ông già tám mươi đánh cầu lông". Lại hỏi: "Thế nào là một câu vụt nhiên cởi mở mũ Tổ, binh lính Tam huyền chấn Tùng lâm?" Sư đáp: "Lý Lăng vốn là bề tôi thời nhà Hán". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Lớn xem như anh, nhỏ như em". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Đất bằng nổi đống xương cốt". Lại hỏi: "Dưới cửa Tổ sư vách tường cao ngàn dặm, chánh khiến phải đi mười phương ngồi dứt, Hòa thượng nêu bày như thế nào?" Sư đáp: "Trời lạnh mèo không bắt chuột". Lại hỏi: "Chẳng tiện là nơi làm người không?" Sư đáp: "Ba Tư chẳng buộc eo". Lại hỏi: "Năm mới đã đến, năm cũ đi đâu?" Sư đáp: "Trước mắt không quái ngại, chẳng dùng thêm má chuông". Lại hỏi: "Rốt cùng thế nào?" Sư đáp: "Sắp có nghĩa là trước mắt không có vị Tăng đưa tay họa vẽ". Lại hỏi: "Tranh sao cái ấy ư?" Sư bèn đánh.

Sư cùng với Vương chất đãi chế luận đạo, họa vẽ một tướng vòng tròn, và bảo: "Một là chẳng được xếp ngựa vào đón. Hai là chẳng được mặc áo gấm về làng, chim thước chẳng được mừng chim thước chẳng được chết-Hãy nói nhanh, nói nhanh". Vương mịt mờ. Sư bảo: "Khám phá đã xong rồi vậy". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chẳng là bàn xưa nói nay. Chỉ y cứ việc trước mắt để cùng các ông định đoạt phân khu". Có vị Tăng liền hỏi: "Thế nào là việc trước mặt?" Sư đáp: "Lỗ mũi". Lại hỏi: "Thế nào là việc hướng thượng?" Sư đáp: "Tròng con mắt".

Có Văn Trung Công ở Âu dương nghe tiếng Sư có các sự kỳ đặc vượt quá, bèn đến nơi phòng thất Sư chưa có gì lấy làm lạ cả. Văn Trung cùng khách đánh cờ, Sư ngồi bên cạnh, Văn Trung vội thâu rút cuộc cờ, xin Sư nhân cuộc cờ mà giảng pháp. Sư liền bảo gióng trống lên pháp tòa, Sư bảo: "Nếu luận về việc này như hai nhà đặt cờ tương tợ. Cớ sao vậy? Địch thủ biết âm, dương cơ chẳng nhường. Nếu là xâu năm nhiều ba, lại thông một đường mới được, có một đáy thuyền chỉ mở đóng cửa làm sự sống, chẳng gặp đoạt lấy xung đến cửa ải, cứng rắn tiết tháo cùng miệng hổ đều sáng tỏ, cuộc cờ sau khi đã phá, chẳng nhọc thừa thải cứng mạnh, do đó nói bên béo tốt dễ được, bên gầy yếu khó cầu. Nghĩ đi thì luôn luôn mắt dính, tâm thô mà mãi mãi khua đầu. Tốt khoe Quốc thủ, dõi nói Thần tiên. Doanh cục thâu thẻ tức chẳng hỏi. Hãy tạm nói trắng đen lúc chưa phân rành một nổi tiếng rơi lạc xứ nào?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Từ trước lại cả thảy mười chín đường, mê ngộ có nhiều người". Văn Trung càng thêm tán thán, thư thả nói với đồng bạn rằng: "Ta, mới đầu nghi ngờ Thiền ngữ là hư dối, ngày nay thấy Lão Tăng đây, cơ duyên nếu chẳng đắc chẳng đến, nếu chẳng tỏ ngộ tâm địa thì sao có được diệu chỉ như vậy ư!"

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "trời được một nhờ trong, đất được một nhờ an, Quân vương được một nhờ trị thiên hạ, Nạp Tăng được một là họa hoạn vào mình". Rồi Sư gõ vào Thiền sàng và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật xuất hiện nơi đời tạo lập môn pháp hóa chẳng lìa mắt trí ba thân cũng như ba mắt của Ma-hê-thủ-la. Cớ sao một cái nước rỉ chẳng thông Tăng tục chẳng biện rành? Một cái đại địa toàn mở, mười phương thông sướng. Một cái cao thấp một đoái hoài muôn loài đều trông xem? Tuy là như vậy, bổn phận Nạp Tăng trên bờ đê đường cùng gặp, riêng đầy đủ chánh nhãn thông thiên mới được. Do đó nói chư Phật ba đời chẳng biết có, Ly nô bò trắng tức biết có. Tạm nói Ly nô bò trắng biết có cái gì? Cần phải hiểu gì? Thu sâu rèm màn mưa ngàn nhà, mặt nhật tơi lầu đài một sao gió".

Lúc tuổi già suy, Sư nghỉ tại hang Hội Thánh, trước thuật áo nghĩa của Phật Tổ làm thành chín dải là: Một là dải Phật chánh pháp nhãn, hai là dải Phật pháp tạng, ba là dải Lý quán, bốn là dải Sự quán, năm là dải Lý sự tung hoành, sáu là dải Khuất khúc thùy, bảy là dải Lý hiệp kiêm, tám là dải Kim châu tiêu, chín là dải Bình hoài thường thật. Người học đã từng truyền tụng. Sư bảo: "Nếu y cứ theo pháp môn viên cực thì vốn đầy đủ mười số. Nay chín dải đầy đủ đã vì các người nói xong. Còn có một dải lại thấy được ư? Nếu thấy được thì thân thiết rõ ràng, xin mời ra trước chúng thử nói xem. Nói được rõ ràng thì hứa cho các ông thông chín dải trước Đạo nhãn tròn sáng. Nếu như thấy không thân thiết, nói chẳng tương ưng và chỉ y theo lời tôi nói mà cho là mình hiểu, ấy tức là phỉ báng pháp. Các người đến đây như thế nào?" Đại chúng im lặng không nói gì. Sư bèn quát mắng đó mà đi.

2. Thiền sư Pháp Chiêu-Diễn giáo ở Bảo ứng.

Thiền sư Pháp Chiêu-Diễn giáo ở viện Bảo ứng tại Nhữ châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc một lời hợp Đạo thì như thế nào?" Sư đáp: "Bảy điên tám đảo". Lại hỏi: "Người học lễ bái thì thế nào?" Sư đáp: "Bảo ngừng mà chẳng chịu ngừng, ngay đợi mưa ngâm đầu". Lại hỏi: "Đức Phật Đại Thông Trí Thắng suốt mười kiếp ngồi nơi Đạo tràng, Phật pháp chẳng hiện bày trước, chẳng được thành Phật đạo, cớ sao chẳng được thành Phật đạo?" Sư đáp: "Cẳng chân đỏ cưỡi lừa sắt thẳng đến ở bờ biển phía Nam".

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trong mười hai thời hứa cho các ông một thời tuyệt học tức là học Phật pháp, chẳng thấy A-nan là Đệ nhất đa văn liền bị Ca-diếp đuổi ra không được cùng kết tập. Mới biết thông minh học rộng, ghi nhớ nghĩ tưởng là hướng ngoại tìm cầu rong ruổi cùng tâm Linh giác chuyển chìm giao thiệp, trong võ Ngủ uẩn thấu thoát chẳng qua, thuận tình thì sinh mừng, trái tình thì sinh giận, che phủ sâu dày, tự trói tự buộc, không có giải thoát, trôi nổi trong sinh tử bởi sáu căn làm nên họa hoạn, các thứ khổ bức bách, chẳng tự do đâu phân rành, mà bị vọng tâm làm chủ tể bên trong. Trẻ nhỏ Đại trượng phu sớm tạo lấy tốt lành". Sư hét một tiếng và bảo: "Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Môn phong Bảo ứng rất hiểm nguy, người vào, mất hết cả thân mạng. Tàm thế nào sống là một câu thoát thân? Nếu nói không được thì ba mươi năm sau!".

3. Thiền sư Tuệ Quả ở Đại thừa.

Thiền sư Tuệ Quả ở núi Đại thừa tại Đường châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là hết ý từ xưa trước truyền lại?" Sư đáp: "Mâm vàng đem ra mọi người xem". Lại hỏi: "Lúc phẩy bụi thấy Phật thì thế nào?" Sư đáp: "Phẩy bụi tức trái, thấy Phật tức sai". Lại hỏi: "Lúc tất cả chẳng như vậy thì thế nào?" Sư đáp: "Sai nhầm". Lại hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Rộng ở rộng, hẹp ở hẹp". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Khổ sống khổ, vui sống vui". Lại hỏi: "Đạo và người trong đạo cách xa ít nhiều?" Sư đáp: "Mười vạn tám ngàn". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Trời tạnh mặt nhật hiện bày". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp: "Mưa xuống đất bùn sinh".

Quyển 3 (Hết)

QUYỂN 4

MỤC LỤC

Đời thứ mười một dưới đời Thiền sư Đại Giám.

Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Thông ở Cốc ẩn, có 35 vị:

1. Thiền sư Đàm Dĩnh ở Kim sơn

2. Thiền sư Tuệ Nguyệt ở Động đình

3. Thiền sư Tu Kỷ ở Trượng tích

4. Thiền sư Đức Tuân ở Đại thừa

5. Thiền sư Pháp Hiển ở Trúc viên

6. Thiền sư Diên Chiếu ở Vĩnh phước

7. Thiền sư Cư Tố ở Cảnh

8. Thiền sư Từ Trân ở Nhân thọ 9. Thiền sư Hiển Khâm ở Vân môn.

10. Thiền sư Quang Phổ ở Vĩnh khánh

11. Cư sĩ Phù Mã Lý Tuân Úc

12. Cư sĩ Anh Công Hạ Tủng (Mười vị trên hiện có ghi lục)

13. Thiền sư Tề Nhạc ở Long hoa

14. Thiền sư Thủ Tấn ở Thạch môn

15. Thiền sư Khả Tuân ở Cốc ẩn

16. Thiền sư Tự Nhiên ở Thê ẩn

17. Thiền sư Biện Nguyên ở Thừa thiên

18. Thiền sư Thượng Phương Tân ở Hồ châu

19. Thiền sư Phổ ở Thúy phong

20. Thiền sư Liễu Đồng ở Phụng hoàng

21. Thiền sư Tuệ Linh ở Thọ ninh

22. Thiền sư Linh Nghị ở Vân môn

23. Thiền sư Nghiêm-Thông chiếu ở An lạc

24. Thiền sư Viên Tuệ ở Tập thân

25. Thiền sư Liễu Đồng ở Quảng giáo

26. Thiền sư Bí ở Tứ châu, Tô châu

27. Thiền sư Dĩ ở Song lâm

28. Thiền sư Cổ ở Sơ sơn

29. Thiền sư Trừng ở Phổ minh

30. Thiền sư Tập ở Phước thắng

31. Thiền sư Viễn ở Quảng đức

32. Hòa thượng Phổ Chiếu

33. Thượng tọa Giác Viên ở Hàng châu

34. Cư sĩ Văn Khương Công Vương Thự

35. Hòa thượng Tiết Đại Đầu ở Cốc ẩn (hai mươi ba vị trên không có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Ân ở Thần đảnh có mười bốn vị:

1. Sơn chủ Bảo Tình ở Khai Thánh

2. Thiền sư Quang Vân ở Diệu trí (hai vị trên hiện có ghi lục)

3. Thiền sư Tử Anh ở Giáp sơn

4. Thiền sư Võ ở Hưng long, Đàm châu

5. Thiền sư Lan ở Thiện quang, Tùy châu

6. Thiền sư khế ở Chẩm phong

7. Thiền sư Chính ở Ngao khẩu

8. Thiền sư Diên Siêu ở vĩnh khương

9. Thiền sư Hoài Hữu ở Đức sơn

10. Thiền sư Tử Minh ở Linh chi

11. Thiền sư Hy Dự ở Mông dương

12. Thiền sư Tuệ Mục ở Long hưng

13. Thiền sư Pháp Minh ở Cao điền

14. Hòa thượng Văn Trí ở Linh nham (mười hai vị trân hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Liên ở Quảng Tuệ có bảy vị:

1. Thiền sư Đạo long ở Hoa Nghiêm.

2. Thiền sư Tuệ Nam ở Tuệ lực

3. Thiền sư Đức Tuyên ở Quảng tuệ

4. Cư sĩ Văn Công Dương Ức (bốn vị trên hiện có ghi lục)

5. Thiền sư Minh ở Hoa Nghiêm

6. Thiền sư Vân Kiểu ở Phật tích

7. Thiền sư Kỷ Thân ở Vân đài (ba vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nham ở Lương sơn có một vị:

1. Thiền sư Thiện Ký ở Lương sơn (có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thuyên ở Đạo ngô có một vị:

1. Thiền sư khế Ngu ở Thiên bình (có ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nhu ở Quy tông có chín vị:

1. Thiền sư Hành Lâm ở La Hán

2. Thiền sư Tân ở Thiên đồng

3. Thiền sư Giác Tha ở Công thần

4. Thiền sư Giản ở Thiên đồng (bốn vị trên hiện có ghi lục).

5. Thiền sư Pháp Đoan ở Hộ quốc

6. Thiền sư ở Tuyết đậu

7. Thiền sư Trí Tỉnh ở Phú lạc

8. Thiền sư Đạo Thành ở Cổ điền

9. Thiền sư Đạo Trân ở Sùng Thánh (năm vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hằng ở Bách Trượng có ba vị:

1. Thiền sư Trừng Thục ở Thệ hiền

2. Thiền sư Đức Hưng ở Vạn thọ

3. Thiền sư Hy Vĩnh ở Vân môn (ba vị hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Điều ở Sùng thọ, Phủ châu có bốn vị.

1. Thiền sư Linh Sầm ở Vân đài

2. Thiền sư Viên Tấn ở Tư quốc (hai vị hiện có ghi lục)

3. Thiền sư Duy Tố ở Tịnh độ.

4. Thiền sư Tử Ngưng ở Thiên đồng (hai vị hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tích ở Vân cư, có bốn vị:

1. Thiền sư Tùng Tấn ở Bát-nhã

2. Thiền sư Chí Siêu ở hóa (hai vị hiện có ghi lục)

3. Thiền sư Tiên ở Tịnh chúng

4. Thiền sư Hải Thiềm ở Pháp tế (hai vị hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Mật ở Từ vân, có một vị:

1. Thiền sư Pháp Toàn ở Cốc ẩn (hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thành ở Thạch sương, có ba vị:

1. Thiền sư Khuê ở Nhạc lộc (hiện không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THÔNG Ở CỐC ẨN.

1. Thiền sư Đàm Vĩnh ở Kim sơn.

Thiền sư Đàm Vĩnh-Đạt quán ở Kim sơn tại Nhuận châu, vốn người dòng họ Khâu ở Hàng châu. Mới đầu, Sư đến bái yết Thiền sư Huyền ở Đại Dương, mà hỏi: "Động sơn thiết đặt thiên về chánh quân thần, ý muốn làm sáng tỏ việc gì?" Đại Dương đáp: "Việc lúc cha mẹ chưa sinh". Sư hỏi: "Làm sao hiểu rõ?" Đại Dương đáp: "Nửa đêm chánh sáng tỏ, trời sáng chẳng lộ bày". Sư mờ mịt không hiểu gì, bèn đến bái yết Thiền sư thông ở Cốc ẩn và nêu câu thoại trước. Thiền sư Thông bảo lộ bày". Sư mờ mịt không hiểu gì, bèn đến bái yết Thiền sư thông ở Cốc ẩn và nêu câu thoại trước. Thiền sư Thông bảo: "Đại Dương không nói chẳng phải bởi chỉ là cửa miệng hẹp đầy miệng nói chưa hết, Lão Tăng đây thì không như vậy". Sư hỏi: "Thế nào là việc lúc cha mẹ chưa sinh?" Thiền sư Thông đáp: "Đồ phẩn đất". Sư hỏi: "Thế nào là nửa đêm chánh sáng tỏ, trời sáng chẳng lộ bày?" Thiền sư Thông đáp: "Dưới hoa mẫu đơn mèo con ngủ". Sư lại càng nghi ngờ kinh sợ. Một ngày nọ, thỉnh bảo khắp tất cả, Thiền sư Thông bảo: "Ngày nay chuyển vận củi ư?" Sư đáp: "Đúng vậy". Thiền sư Thông bảo: "Vân môn hỏi vị Tăng". Người dọn củi, củi dọn người "làm sao hiểu?" Sư im lặng không trả lời. Thiền sư Thông bảo: "Việc này như người học sách, chấm vẽ có thể so sánh khả năng là khéo hay vụng, bởi chưa thể quên pháp vậy, ngay khi nắm bút quên tay, tay quên tâm mới có thể được vậy". Khi đó, Sư có chút khế hội. Ngừng giây phút, Sư nói: "Như Thạch Đầu nói chấp sự vốn là mê, khế lý cũng chẳng ngộ". Thiền sư Thông bảo: "Ông lấy câu thuốc làm câu bệnh". Sư nói: "Ấy là câu thuốc". Thiền sư Thông quở trách bảo: "Ông lấy bệnh làm thuốc, vậy sao có thể được ư?" Sư nói: "Sự việc ấy như hộp được đậy. Lý ấy như mũi tên bắn thẳng Phong diệu, sao lại có thêm mà còn cho là bệnh, thật chưa hiểu ý chỉ!" Thiền sư Thông bảo: "Khéo đến là cũng chỉ gọi là Lý Sự. Với ý chỉ của Tổ sư thì trí thức không thể đến được, huống gì sự lý cao hết ư? Nên Đức Thế Tôn là "Lý chướng ngại Chánh biến tri, Sự chướng tiếp tục mọi sinh tử". Bỗng nhiên, Sư như người tỉnh mộng, hỏi: "Thế nào là thọ dụng?" Thiền sư Thông bảo: "Ngôn ngữ chẳng lìa lỗ cối, sao có thể ra khỏi che đậy buộc ràng". Sư than rằng: "Mới trải qua môi mép liền rơi vào ý tư. Đều là cửa chết, chưa phải là đường sống!"

Ngừng ở lâu sau, Sư chỉ dạy đại chúng rằng: "Vừa mới trải qua môi mép liền rơi vào ý tư, đều là cửa chết, chưa phải là đường sống. Ngay nhiều thấu thoát còn tại trầm luân, chớ bảo cô phụ lúc bình sinh, để uổng qua đời này". Cần được chẳng cô phụ lúc bình sinh ư?" Sư nhón lấy gậy chống cao xuống một cái, bảo: "Phải là chẳng bị gậy chống lừa dối mới được. Hãy xem gậy chống xuyên qua đầu lâu các người, nhảy nhót vào trong lỗ mũi các ông đi". Sư lại đứng xuống. Có vị Tăng hỏi: "Hai chữ đầu tiên trong kinh văn là chữ gì?" Sư đáp: "Chữ dĩ". Lại hỏi: "Có gì giao thiệp?" Sư đáp: "Chữ Bát". Lại hỏi: "Khéo lừa dối người ư?" Sư đáp: "Phỉ báng kinh ấy nên bị tội như vậy". Lại hỏi: "Thế nào là một trăm hai mươi căn sắt bảo Anan gánh lấy?" Sư đáp: "Lão Tăng". Lại hỏi: "Thế nào là tự tác tự thọ?" Sư đáp: "Khổ, khổ". Lại hỏi: "Hòa thượng có từng niệm Phật không?" Sư đáp: "Chẳng từng niệm Phật". Lại hỏi: "Thế nào là chẳng niệm Phật?" Sư đáp: "Sợ dơ bẩn miệng người". Có lúc lên giảng đường, đại chúng đang hành tập Thiền định, vị Thủ tòa ra lễ bái, Sư bảo: "Tốt, tốt, hỏi xem!" Vị Thủ tòa cúi đầu hỏi câu thoại, tiếp theo Sư bảo: "Ngày nay không đáp câu thoại". Bèn trở về phương trượng. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Sân cửa của Sơn Tăng có riêng khác, đã cải đổi dấu vết các phương vì Văn Thù nhổ nêm trong mắt ra, bảo Phổ Hiền nghỉ nhai sắt trong miệng, khuyên người buông mở tay cách xà, cho các người bẻ ngay cọc buộc lừa, chú ý phỏng nghĩ tư lương". Và Sư hét một tiếng, bảo: "Nắm, nắm, tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Bình sinh ý Sơn Tăng thích cùng đánh, chỉ là không có người phụ đối, ngày nay thử cùng thủ tòa phụ đối". Rồi Sư đứng dậy treo móc áo ca sa mà xuống khỏi tòa, đòi Thủ tòa ra cùng đánh. Thủ tòa vừa mới bước ra Sư bảo: "Trên đất bằng ăn giao". Rồi bèn trở về phương trượng. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật ba đời là đứa tôi tớ, một Đại tạng giáo điển là đàm dãi". Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Vả lại, chư Phật trong ba đời là tôi tớ của ai?" Và Sư nắm lấy phất trần họa vẽ một đường, bảo: "Chư Phật ba đời qua bên ấy. Hãy tạm nói một Đại tạng giáo điển là đàm dãi của ai?' Và Sư mới tự khạc nhổ một cái. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Quả cân trong đáy giếng bỗng nhiên nổi trên mặt nước, chuột già nhiều năm biến thành trâu, Tuệ không thấy xong vỗ tay cười, Hồ tôn ba cẳng khác biệt Hầu". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Năm ngàn giáo điển, chư Phật thường đám nói, tám vạn trần lao, chúng sinh khéo dùng, còn chưa là ở tròng mắt Kim cang, vậy thế nào là tròng mắt Kim cang?" Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Kẻ mù". Lại có lúc lên giảng đường, đại chúng đang hành tập Thiền định, có vị Tăng vừa mới ra lễ bái, Sư bảo: "Muốn biết được nghĩa Phật pháp, phải quán chiếu thời tiết nhân duyên". Có vị Tăng liền hỏi: "Thế nào là thời tiết nhân duyên?" Sư bèn bước xuống khỏi tòa. Lại hỏi: "Thế nào là hướng đi đến người?" Sư đáp: "Theo về trong núi xanh, chẳng ra mây trắng lại". Lại hỏi: "Thế nào là liền lại đến người?' Sư đáp: "Theo về trong núi xanh, chẳng ra mây trắng lại". Lại hỏi: "Thế nào là liền lại đến người?" Sư đáp: "Tự theo đi bờ đê tía, ai chịu ẩn trong núi biếc". Lại hỏi: "Thế nào là đoạt lấy người không đoạt lấy cảnh?" Trong nhà đã không có tin ngày trở về, bên đường trống có văn bia nhớ ngóng quê hương". Lại hỏi: "Thế nào là đoạt lấy cảnh chẳng đoạt lấy người?" Sư đáp: "Biển xanh hết giáo cây khô đến đáy, núi biếc thẳng được nghiền làm bụi trần". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh đều đoạt lấy?" Sư đáp: "Trời đất còn không ngày tháng Tần, núi sông chẳng thấy vua tôi Hán". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh đều chẳng đoạt lấy?" Sư đáp: "Chim oanh ríu rít ngàn từng hoa đầy đất, khách đi ba tháng cỏ lướt trời". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư đáp: "Duỗi tay chẳng thấy bàn tay". Lại hỏi: "bỗng gặp khách Tiên Đà đến lại làm sao sống?" Sư đáp: "Đối diện ngàn dặm". Lại hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Lâm Tế". Lại hỏi: "Thế nào là Đích tử của Cốc ẩn?" Sư đáp: "Đức sơn". Lại hỏi: "Thế nào là pháp thân dài?" Sư đáp: "Gậy chống sáu thước". Lại hỏi: "Thế nào là pháp thân ngắn?" Sư đáp: "Toán tử ba tấc". Lại hỏi: "Thế nào là pháp thân có hai?" Sư đáp: " lại có ở vuông tròn". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các nơi cần câu lại cong, bánh mồi lại thơm, đua nhau chạy đến như ong, ôm Thánh nhân vương. Trong ấy cần câu lại thẳng bánh mồi lại không giống như đáy nước treo hồ lô". Và Sư nâng gậy chống làm thế như đang câu cá và bảo: "Nước sâu bắt cá lớn tin mạng, chẳng từng đem rượu tế thần sông". Rồi Sư ném gậy chống và xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Tuệ Nguyệt ở Thúy phong, Động đình.

Thiền sư Tuệ Nguyệt ở Thúy phong, tại Động đình, Tô châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc một hoa nở năm cành kết quả tự nhiên thành thì thế nào?" Sư đáp: "Thoát tức đầu lồng, ngậm tức Giác đà". Lại hỏi: "Ép ra hư không đi, nơi nơi đều nghe mùi hương thơm là thế nào?" Sư đáp: "Mây sầu nghe quỉ khóc, tuyết phủ đầu lâu ngâm". Lại hỏi: "Lúc Hòa thượng chưa gặp Cốc Ân, một câu làm sao sống Đạo?" Sư đáp: "Bước bước lên núi xa". Lại hỏi: "Sau khi đã gặp thấy thì thế nào?" Sư đáp:

"Rong rượt tin vết ngựa".

3. Thiền sư Tu Kỷ ở Trượng tích.

Thiền sư Tu Kỷ ở núi Trượng tích tại Minh châu vốn người xứ Hàng châu. Sư từng cùng Viễn Công ở Phù sơn vân du, dựng am ở hang Phật thủ tại Lô sơn. Về sau, đến núi Tứ minh, Sư dừng tâm riêng ở qua hơn mười năm, hổ báo cùng đến thân gần. Sư từng nói: "Ruột dê đường chim không người đến, lẳng lặng trong mây có một người". Sau đó, các hàng đạo tục nghe đạo phong của Sư mà đến, bèn trở thành chốn rừng Thiền. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Tháp vô phùng?" Sư đáp: "Tứ Lăng dính đất". Lại hỏi: "Thế nào là người trong tháp?" Sư đáp: "Gối cao không lo buồn". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Thuyền bè qua biển, gã chân đỏ về làng".

4. Thiền sư Đức Tuân ở Đại thừa.

Thiền sư Đức Tuân ở núi Đại thừa tại đường châu. Sư đến hỏi Thiền sư Thông ở Cốc ẩn rằng: "Người xưa đòi lửa, ý chỉ ấy thế nào?" Sư Thông đáp: "Mặc tình kẻ kia diệt". Sư hỏi: "Sau khi đã diệt thì thế nào?" Sư Thông đáp: "Ngày mồng ba và ngày mười một". Sư hỏi: "Thế nào là thời tiết tốt". Sư Thông hỏi lại: "Ông thấy đạo lý gì?' Sư đáp: "Ngày nay một trường khốn khổ". Sư Thông bèn đánh, Sư mói có làm kệ tụng rằng:

"Có duyên đòi lửa thật khoái thay

Ẩn dùng phong diệu ít người hay Cần hiểu yếu chỉ thầy ta bảo Lò hồng lửa hết củi chẳng thêm".

Có vị Tăng hỏi: "Một câu thế giới viên dung là thế nào, xin Sư nói". Sư đáp: "Đoàn đoàn hơn bảy thước". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạtma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Lỗ mũi to mắt sâu". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Từ trước đến nay lại chẳng hỏi, xuống đi lại chẳng nghi, không biết phải chẳng phải, phải tức là rất kỳ". Bèn xuống khỏi tòa.

5. Thiền sư Pháp Hiển ở Trúc viên.

Thiền sư Pháp Hiển ở Trúc viên tại phủ Kinh nam. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Khéo tay họa vẽ chẳng thành. Lại hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Giao hoành mười chữ". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Thường luôn chẳng cùng biết".

6. Thiền sư Diên Chiếu ở Vĩnh phước.

Thiền sư Diên Chiếu ở viện Vĩnh phước tại Bành châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Bành châu?" Sư đáp: "Người ngựa giao tạp". Vị Tăng ấy đưa tay làm thế kéo cung tên. Sư nắm lấy chiếc gậy, vị Tăng ấy phỏng bàn nghị, Sư bèn đánh.

7. Thiền sư Cư Tố ở Cảnh.

Thiền sư Cư Tố ở viện Cảnh tại An cát châu. Có vị Tăng hỏi: "Ngay thấy nghe này chẳng phải thấy nghe, vì sao pháp thân có ba thứ bệnh hai thứ ánh sáng?" Sư đáp: "Lấp chỗ hõm thành khuyết". Lại hỏi: "Hòa thượng thừa có nói: "Trong Hoàn vũ sắc ban của Thiên tử, ngoài bờ cõi mệnh lệnh của tướng quân". Vậy thế nào là mệnh lệnh của Tướng quân ở ngoài bờ cõi?" Sư đáp: "Tỏ bày". Lại hỏi: "Việc trong ấy như thế nào?" Sư đáp: "Kính cẩn". Lại hỏi: "Chẳng tiện là nơi Hòa thượng làm người không?" Sư bèn khảy móng tay một cái. Lại hỏi: "Từ xa xa đến, xin Sư một lần tiếp?" Sư đáp: "Người Tân La đánh trống". Lại hỏi: "Thế nào là Lãnh hội?" Sư đáp: Thiền chủ chưa từng gặp". Lại hỏi: "Thế nào là một câu cuối trên?" Sư đáp: "Bên thành Câu thi". Lại hỏi: "Từ trước đến nay lại có việc gì không?" Sư đáp: "Có". Lại hỏi: "Thế nào là việc hướng thượng?" Sư đáp: "Ma-ba-tuần vỗ tay cười ha ha. Tôn giả Ca-diếp nghiêng đầu chẳng biết người".

8. Thiền sư Từ Trân ở Nhân thọ.

Thiền sư Từ Trân ở Nhân thọ tại Xử châu. Có vị Tăng hỏi: "Biết Sư đã chứng đắc ý chỉ trong Thiền, vậy một câu Đang Dương vì ai tuyên xướng?" Sư đáp: "Gà đất chó đá". Lại hỏi: "Thế nào là lãnh hội?" Sư đáp: "Trước cửa chẳng cùng trẻ núi quét, mặc tình thoa tùng đầy đường cao". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Rành rành không ngộ, có pháp tức mê. Trên mặt nhật không mây, sáng rực trời khắp chiếu, trong mắt không che mờ, giữa khoảng không chẳng hoa đốm. Đối trước người không có trí, không được nêu bày. Tham".

9. Thiền sư Hiển Khâm ở Vân môn.

Thiền sư Hiển Khâm ở Vân môn tại Việt châu. Có lúc lên giảng đường, ngừng giây lâu, Sư bảo: "Khéo thích một cái Thoại đầu, nếu đến các phương không được nêu bày". Rồi Sư bèn xuống khỏi tòa.

10. Thiền sư Quang Phổ ở Vĩnh khánh.

Thiền sư Quang Phổ ở Vĩnh khánh tại Quả châu. Mới đầu, Sư hỏi Thiền sư Thông ở Cốc ẩn rằng: "Người xưa nói". Lại nói: "Trong viện Đại bi có trai hội ý chỉ ấy như thế nào?" Thiền sư Thông đáp: "Mặt nhật xuất hiện, ngồi góc núi phía Nam, trời lạnh chẳng ngẩn đầu". Sư vào thất, tiếp đến Thiền sư Thông bảo: "Nhân duyên vừa lại, ngươi làm sao sinh hiểu". Sư đáp: "Hiểu thì thọ dụng trong mê, không hiểu thì lưu bố thế đế". Thiền sư Thông lại bảo: "Chưa ở lại nói: "Sư bèn phẩy tay áo bỏ đi ra". Ở lâu sau có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Đất Thục dùng khóa sắt".

11. Cư sĩ Phù mã đô úy Lý Tuân Úc.

Cư sĩ Phù mã đô úy Lý Tuân Úc vốn người ở Biện châu, đến bái yết Thiền sư Thông ở Cốc ẩn hỏi việc xuất gia. Thiền sư Thông đem công án của Thôi Thiệu Công hỏi Kinh Sơn mà đáp đó. Ngay lời nói ấy Cư sĩ được đại ngộ, làm bài kệ tụng rằng:

"Học đạo phải là sắc bén

Đặt tay tâm đầu bèn phán Thẳng đến Vô thượng Bồ-đề Hết thảy phải quấy chẳng quản".

Một ngày nọ, Cư sĩ cùng Thượng tọa kiên tiễn biệt nhau, Cư sĩ hỏi: "Gần lìa thượng đảng được đến Trung đô mới tiếp trần đàm vội xoay lại Hổ Dương chỉ Vân Bình đến Thúy Kiệu, phỏng hỏi Tuyết Lãnh đến Lưu, chưa xét rõ xứ này xứ kia mỗi mỗi việc làm sao sinh?" Thượng tọa Kiên đáp: "Kiếm bén phẩy mở trời đất lắng, Dao sương vừa nâng, Đẩu ngưu lạnh". Cư sĩ nói: "Vừa gặp ngày nay lỗ tai điếc. Thượng tọa Kiên bảo: "Một mũi tên bắn rơi hai con chim điêu". Cư sĩ hỏi: "Cớ sao Thượng tọa mang giày cỏ mà ngủ ngồi?" Thượng tọa Kiên đưa tay áo phẩy một cái. Cư sĩ cúi đầu nói: "Ngày nay có thể gọi là hàng phục vậy". Thượng tọa Kiên bảo: "Phổ hóa ra giữa Tăng đường".

Đến lúc Cư sĩ sắp qua đời, dưới ngực bụng và cẳng chân nóng ấm, có cô ni Đạo Kiên nói là: "Chúng sinh thấy kiếp tận, lúc lửa lớn thiêu đốt, Đô úy cần nên soi chiếu Quản chủ nhân công". Cư sĩ nói: "Đại sư cho ta nấu một thang thuốc lại". Cô ni Đạo Kiên im lặng không nói gì. Cư sĩ nói: "Thầy ấy thuốc cô chẳng hợp nấu được". Cư sĩ Từ Minh hỏi đáp vừa nghỉ thì điềm nhiên mà qua đời. Nói thấy tại trong truyện Từ Minh.

12. Cư sĩ Anh Công Hạ Tủng.

Cư sĩ Anh Công Hạ Tủng tự là Tử Kiều, từ khi khế hợp cơ duyên ở Thiền sư Thông tại Cốc ẩn. Một ngày nọ cùng Lão nạp vân du, chợt nhiên Thiền sư Phổ ở Thượng lam đến. Cư sĩ hỏi: "Lúc trăm hài cốt tan vỡ, cái nào là Trưởng lão từ nhà đến?" Thiền sư Phổ đáp rằng: "Ngày hai mươi tháng trước xa lìa Kỳ Dương". Cư sĩ nghỉ đi. Thiền sư Phổ liền hỏi: "Lúc hài cốt tan vỡ cái nào là Tướng công từ nhà đến?" Cư sĩ bèn hét. Thiền sư Phổ bảo: "Hét thì chẳng không, rốt cùng thì cái nào là Tướng công từ nhà đến?" Cư sĩ bèn dùng kệ tụng đáp rằng:

"Nghĩ nhận có thứ nhất trước gió

Thái hư nơi nào để tư duy

Sơn Tăng nếu cần thông tin tức Muôn dặm không mây lúc trăng lên". Thiền sư Phổ bảo: "Đó cùng là hồn lộng tinh".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ ÂN Ở THẦN ĐẢNH.

1. Sơn chủ Bảo Tình ở Khai Thánh.

Sơn chủ Bảo Tình ở Khai Thánh tại phủ Kinh nam. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Khai Thánh?" Sư đáp: "Ba con quạ dẫn đường". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Hai con hổ đi tuần quanh núi".

2. Thiền sư Quang Vân ở Diệu trí.

Thiền sư Quang Vân ở chùa Diệu trí tại núi Thiên thai. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Cúc vàng ở hàng rào phía đông". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Là ngày mồng chín tháng chín, đến trùng dương".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LIÊN Ở QUẢNG TUỆ.

1. Thiền sư Đạo long ở Hoa nghiêm.

Thiền sư Đạo long ở Hoa nghiêm tại Đông kinh. Mới đầu Sư đến tham yết Hòa thượng Triệt ở Thạch môn, hỏi rằng: "Người xưa nói: "Chỉ được tùy xứ an nhàn tự nhiên hợp với dấu vết xưa kia." Tuy có lời ấy nhưng lúc tâm nghi ngờ chưa hết thì thế nào?" Hòa thượng Triệt đáp: "Biết có mới có thể tùy xứ an nhàn, như người ở tại châu huyện, hoặc nghe hoặc thấy ngàn kỳ trăm quái, kia tất cả lấy làm tầm thường. Còn không biết có mà an nhàn thì như người ở nơi thân lạc, có chút ít sắc thì kinh lạ loan truyền". Nhân lời nói ấy mà Sư có sự tỉnh ngộ. Hòa thượng Phổ trao cho Quyết chỉ trên động. Về sau, Sư tiếp nối dòng pháp của Thiền sư Liên ở Quảng tuệ. Một ngày nọ, Hòa thượng Thừa ở Phước nghiêm hỏi: "Thiền sư thân gần thấy gặp Hòa thượng Triệt ở Thạch môn, cớ sao lại tiếp nối dòng pháp của Thiền sư Liên ở Quảng tuệ?" Sư đáp: "Lúc tôi thấy gặp Thiền sư Liên ở Quảng tuệ thì Cừ Dục xuất gia, bèn sai tôi mang chiếc ghế lại". Thiền sư Liên bảo: "Đạo, ta có bài thơ chiếc ghế, hãy nghe lấy" mới nói: "Buông xuống bèn bằng lắng". Khi ấy, Tôi bèn chấp thuận theo đó. Nhân đó thuật lại sở đắc ở Thiền sư Triệt tại Thạch môn. Thiền sư Liên ở Quảng tuệ bảo rằng: "Sự chỉ bày của Thiền sư Triệt ở Thạch môn như trăm thứ thức ăn ngon lành, chỉ là người no chẳng được.

Khoảng đầu niên hiệu Chí Hòa (1054) thời Bắc Tống, Sư vân du kinh đô làm khách Tăng ở chùa Cảnh đức, ban ngày rảo bước tham quan khắp đô thành phố chợ, thường trở về lúc trống báo canh hai. Một đêm nọ, không được vào chùa, Sư bèn nằm ngủ dưới cửa. Nửa đêm đó, vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) mộng thấy đi đến cửa chùa thấy con rồng nằm cuộn nơi đất, bèn kinh hãi tỉnh giấc, ngay trong đêm đó, vua sai Trung sứ đến xét xem, thấy Sư đang nằm ngủ ngáy, lay động thức tỉnh Sư dậy hỏi rõ họ tên và trở về trình tấu. Vua nghe sư tên là "Đạo Long" mới rất vui mừng bảo: "Điềm tốt lành ứng hiện!" Đến sáng ngày, vua mời Sư đến diện hỏi về Tông chỉ, Sư tấu trình đối đáp xứng hợp, vua rất vui mừng. Sau dùng câu kệ cùng đáp xướng nối liền nơi Đạo. Hoặc có lúc vào đối đáp, dừng nghỉ qua đêm trong cung cấm, vua kể tiếp rất nồng hậu, ban tặng Sư hiệu là: "Ứng Chế Minh Ngộ Thiền sư". Đến trong khoảng niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1054) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông ban chiếu thỉnh mời Thiền sư Liên ở Quảng tuệ đến giảng pháp tại điện Hóa thành, và thỉnh mời Sư hỏi đáp câu thoại, Sư đối đáp nhanh nhẹn bén sắc, vua rất vui lòng, các hàng thị vệ đều xưng hộ là núi. Sư bèn tấu sớ đề cử Thiền sư Liên tự thay, rừng cấm đãi hỏi, điện kín đàm Thiền, Sư xin trở về ở Lô sơn. Vua đọc xem biểu văn mà không hứa thuận, bèn ban sắc chỉ đến ngoài Tào môn tạp lập tinh xá và thỉnh mời Sư ở đó, lấy hiệu là Thiền viện Hoa nghiêm.

Ngày khai mở giảng đường thuyết pháp, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Cao cao thấp thấp". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Cẳng chân gầy, giày cỏ rộng". Đến năm ngoài tám mươi tuổi Sư mới thị tịch trong mùa nắng nóng, để nhục thân Sư an tọa bảy ngày mà tay chân vẫn mềm mại. Dựng tháp an táng toàn thân tại phía đông của chùa.

2. Thiền sư Tuệ Nam ở Tuệ lực.

Thiền sư Tuệ Nam ở Tuệ lực tại Lâm giang quân. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai. Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Trâu sắt chẳng ăn cỏ bên chuồng, đi thẳng lên đảnh núi Tu-di nằm ngủ". Lại hỏi: "Thế nào là ngày xưa Nhữ Dương thân gần đắc yếu chỉ, ngày nay Lâm giang đại phu dương?' Sư đáp: "Lễ bái xong rồi thì trở lui". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Đầu lớn đuôi nhỏ". Lại hỏi: "Chưa hiểu được lời Huyền, xin Sư chỉ bày lại". Sư đáp: "Lông mày dài ba thước hai". Lại hỏi: "Thế nào là người người đều đầu đội kẻ thấy hết hợp mày?" Sư thở dài một tiếng, vị Tăng ấy vỗ một cái. Sư bảo: "Một mặc tình nhảy vọt".

3. Thiền sư Đức Tuyên ở Quảng tuệ.

Thiền sư Đức Tuyên ở Quảng tuệ tại Nhữ châu. Có vị Tăng hỏi: "Tổ tổ tương truyền là truyền Tổ ấn. Ngày nay Sư đắc pháp nối dõi từ người nào?" Sư đáp: "Người em thổi còi người anh thổi sáo". Lại hỏi: "Thế nào là Đích tử của Quảng tuệ, cháu thân gần của Thủ Sơn?" Sư đáp: "Trong rui... ngồi đất chẳng đánh xà-lê".

4. Cư sĩ Văn Công Dương Ức.

Cư sĩ Văn Công Dương Ức tự là Đại Niên, vốn người xứ Kiến minh. Thuở bé thơ được xưng gọi là Thần Anh (trẻ nhỏ tài thần), đến tuổi tráng niên tự phụ tài danh mà chưa biết có Phật. Một ngày nọ qua nơi người bạn đồng liêu thấy đang đọc kinh Kim Cang, Đại Niên cười mà thương tội cho đó, người bạn ấy vẫn tự nhiên, Đại Niên mới nghi ngờ mà hỏi: "Ấy há ra khỏi bên trên Khổng Mạnh ư? Sao quá nịnh nọt vậy?", nhân đọc xem vài hàng và hiểu rõ mới bắt đầu có chút ít kính tin. Về sau gặp được Hành lâm Lý Công Duy khuyên bảo tham vấn, và do là Bí thư giám ra trấn thủ tại Nhữ châu. Mới đầu đến bái yết Thiền sư Liên ở Quảng tuệ, Thiền sư Liên tiếp kiến, liền hỏi: "Trống vải phải nâng đánh, ai là người biết tiếng?" Thiền sư Liên đáp: "Gió lại biện rõ sâu". Đại Niên hỏi: "Thế nào là Thiền khách cùng gặp chỉ khảy móng tay?" Thiền sư Liên đáp: "Quân tử có thể vào". Đại Niên ứng tiếng nói: "Kính vâng". Thiền sư Liên bảo: "Giặc cỏ đại bại".

Đến đêm, lại đàm nói: Thiền sư Liên hỏi: "Bỉ giám từng cùng người nào đàm đạo lại?" Đại Niên đáp: "Tôi từng hỏi chùa Lượng giám ở Vân nham là lúc hai con trùng lớn cùng cắn nhau thì thế nào?" Lượng Giám đáp là "Một hợp tướng". Tôi nói: "Tôi chỉ trông nhìn qua lỗ hổng", chưa xét rõ làm sao nói lại được ư?" Thiền sư Liên bảo: "Trong ấy tức chẳng như vậy". Đại Niên nói: "Xin Hòa thượng riêng một lần vì chỉ bày". Thiền sư Liên đưa tay làm thế kéo lỗ mũi và hỏi: "Súc sinh ấy nhảy vọt tại đâu?" Ngay lời nói ấy, Đại Niên bỗng nhiên không nghi ngờ, có làm kệ tụng là:

"Tám góc mài quanh không trong chạy

Sư tử lông vàng biến thành chó Phỏng muốn đem thân Bắc đẩu giấu Nên phải chấp tay sau Nam thân".

Đại Niên lại vụt thoáng nhận lấy mật chứng từ

Thầy, gởi thư cho Hàng lâm Lý Công Duy, nói là: "Bệnh của phàm phu tôi xưa trước vì ngu xuẩn, may được nhận sự tưởng thưởng đoái hoài, dự nghe yếu chỉ của Nam tông, lâu dần gấp vân du lên thượng quốc, động tỉnh dò hỏi, xoay quanh khuyên phát, giúp cho mổ tâm có chỗ đến, mặt tường không hổ thẹn, thật là ra từ nơi dưới sàn giường khoảng chỗ ngồi, huống lại, nên Đại sư An Công không rủ lòng chỉ dẫn. Từ Song Lâm Đức Thế Tôn ẩn bóng, mãi đến Tổ sư Đạt-ma quảy dép về Tây, trong tâm mờ mịt không biết chỗ dừng, mãi đến năm mắc bệnh trầm kha, tâm thần tư lự mê hoảng, bèn đến thời gian ngắn ngủi lại biện phân phương vị, lại được Vân Môn Lượng Công Đại sĩ thấy nhìn Bồng tung, yếu chỉ của Lượng Công Chánh đồng vết với An Công, đều từ Lô sơn, Vân cư, Quy tông mà lại, đều là con cháu nối dõi của Pháp nhãn. Năm trước nhân trấn thú quận ấy, vừa gặp Thiền Bá, Quảng Tuệ, thật là kế thừa tiếp nối Thiền sư niệm ở Nam viện, Thiền sư Niệm là nối dõi từ phong huyệt, phong huyệt lại kế thừa tiên Nam viện, Nam viện nối dõi từ Hưng hóa, Hưng hóa nối dõi từ Lâm Tế, Lâm Tế nối dõi từ Hoàng Nghiệt. Hoàng Nghiệt nối dõi từ Bách Trượng, Bách Trượng nối dõi Mã Tổ, Mã Tổ nối dõi từ Hòa thượng Nhượng, Hòa thượng Nhượng là đích tử của Tào Khê (Tuệ Năng). Công việc trong trai hội đơn giản, những lúc rảnh rỗi lui ăn, hoặc ngồi mời mà ngồi, hoặc bảo thiết giá theo đó, thỉnh gõ vô phương, mờ trệ chóng mở tan. Qua sau nửa năm vụt nhiên chẳng nghi như quên bỗng nhiên được nhớ, như ngủ bỗng thức, vật bằng xưa kia ngại ứng bộc nhiên tự rơi, mọi sự nhiều kiếp chưa hiểu bỗng dưng như trước mắt, hẳn cũng là chọn lựa suốt rành, ứng tiếp không lệch. Lại nghĩ nhớ tiên đức dẫn dắt nhiều tham tầm như chín lần lên Tuyết Phong, ba lần đến Động Sơn, đầu tử bèn tiếp thừa Đức Sơn, Lâm Tế đắc pháp ở Đại ngu cuối cùng kế thừa từ Huỳnh Nghiệt. Vân Nham phần nhiều nhờ Đạo Ngô dẫn dắt chỉ dạy mới làm con của Dược Sơn, Đơn Hà thân gần tiếp thừa Mã Tổ ấn khả mà cuối cùng làm con cháu nối dõi Thạch Đầu. Xưa kia phần nhiều đối với Lý không hiềm tật. Bệnh của kẻ phàm phu tôi ngày nay là duyên tiếp nối thật thuộc từ Thiền sư Liên ở Quảng tuệ, mà dẫn khởi đó tự tốt lành phát xuất ở Ngao Phong vậy. Hân hạnh thay! Hân hạnh thay!".

Đại Niên hỏi Thiền sư Liên ở Quảng tuệ rằng: "Hòa thượng thừa có nói: "Hết thảy các thứ tội nghiệp đều nhân của báu mà phát sinh. Khuyên người xem thường đối với của cải". Huống gì chúng sinh ở cõi Nam Diêm-phù-đề lấy của cải làm mạng sống. Các đất nước lấy của cải mà nhóm tụ người. Trong giáo điển có nói về Tài pháp nhị thí, sao được khuyên người xem thường đối với của cải ư?" Thiền sư Liên đáp: Cây cán tràng phan nhỏ vút lên trên đầu rồng sắt". Đại Niên nói: "Hải đàn ngựa con tợ lừa lớn". Thiền sư Liên bảo: "Gà đất Sở chẳng là chim phụng Đan sơn". Đại Niên nói: "Đức Phật diệt độ hai ngàn năm, các Tỳ-kheo thiếu sự hổ thẹn". Đại Niên nên đặt một trăm câu hỏi thỉnh cầu Thiền sư Liên giải đáp. Thiền sư Liên mỗi mỗi đều đáp lại.

Đại Niên hỏi Lý Đô Úy: "Đức Thích-ca suốt sáu năm tu hành khổ hạnh, chứng đắc việc gì?" Lý Đô Úy đáp: "Vác chẻ biết củi nặng". Đại Niên cảm mắc chút bệnh, hỏi Đại sư Hoàn rằng: "Ngày nay thân thể tôi không được điều hòa, xin Đại sư như lòng từ bi chỉ báo cho nên trị liệu thế nào?" Đại sư Hoàn bảo: "Dùng một chén thuốc Đinh hương nó ngấm". Đại Niên bèn làm thế bị ói mửa. Đại sư Hoàn bảo: "Ân ái thành phiền não". Đại sư Hoàn vì nấu thuốc giúp, tiếp đó, Đại Niên gọi "Giặc lại". Đại sư Hoàn bèn đặt thuốc xuống trước mặt Đại Niên và xoa tay đứng bên cạnh. Đại Niên trừng mắt nhìn thẳng vào thuốc mà nói: "Thiếu Tùng Lâm Hán". Đại sư Hoàn phẩy tay áo mà đi ra. Lại một ngày nọ, Đại Niên hỏi rằng: "Với tôi, tứ đại sắp muốn lìa tan, Đại sư làm sao có thể cứu giúp?" Đại sư Hoàn đánh vào ngực ba cái. Đại Niên nói: "Nhờ gặp được tác gia". Đại sư Hoàn bảo: "Bao nhiêu năm học Phật pháp mà tập khí thế tục vẫn còn chưa dứt trừ". Đại Niên nói: "Họa không đi riêng lẻ". Đại sư Hoàn làm tiếng hà hơi. Đại Niên viết kệ tụng gởi cho Lý Đô Úy rằng:

"Bể sinh cùng bể diệt

Hai pháp vốn ngang bằng Muốn biết nơi về thật

Triệu châu Đông viện Tây".

Lý Đô Úy thấy thơ kệ bèn nói: "Mua giấy tiền trong miếu Thái sơn". Lý Đô Úy liền đến nơi thì Đại Niên đã qua đời!

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHAM Ở LƯƠNG SƠN

1. Thiền sư Thiện Ký ở Lương sơn.

Thiền sư Thiện Ký ở Lương sơn tại Đảnh châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc phủi bụi thấy Phật thì thế nào?" Sư đáp: "Chớ hoa mắt". Lại hỏi: "Hòa thượng bao giờ thành Phật?" Sư đáp: "Hãy chớ nhàm tốt làm tiện". Lại hỏi: "Vì sao chẳng chịu nhận lấy?" Sư đáp: "Khéo việc chẳng như không". Sư có làm bài kệ tụng về Lỗ Tổ đối mặt vách tường rằng:

"Lỗ Tổ Tam-muội rất tĩnh lực

Vừa thấy Tăng đến, mặt xoay tường Nếu là biết tâm người đạt đạo Chẳng tại dương mày liền rõ ngay".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THUYÊN Ở

ĐẠO NGÔ

1. Thiền sư Khế Ngu ở Thiên bình.

Thiền sư Khế Ngu ở Thiên bình tại Tương châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hạt khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Gậy đánh trống hai đầu". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Trấn châu, đá La-bặc". Cư sĩ Hàm Trà hỏi: "Lúc pháp không lay động thì thế nào?" Sư đáp: "Ông từ Lộ phủ lại". Lại hỏi: "Thế nào là một bước chẳng từng vượt lên?" Sư đáp: "Nhân rất đến trong đó". Lại nói: "Hòa thượng ngủ nói mớ làm gì?" Sư đáp: "Phóng tha cho ông hai mươi gậy". Có quan nhân hỏi: "Không gần có thể cách ngăn vì sao chẳng cùng thấy?" Sư bảo: "Oán ghét ai?" Sư đi dưới hành lang thấy vị Tăng, bèn đưa gậy chống chỉ bảo đó. Vị Tăng ấy tiện đến gần phía trước tiếp, Sư bèn đánh.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHU Ở QUY TÔNG

1. Thiền sư Hành Lâm ở La-hán.

Thiền sư Hành Lâm ở La-hán tại Nam Khương Quân. Có vị Tăng hỏi: "Trời rủ cam lồ, đất vọt lên bảy báu, người nào phân việc trên?" Sư đáp: "Cảm tạ ông báo". Lại hỏi: "Thế nào là Phật tử tại xứ này tức là Phật thọ dụng đi?" Sư đáp: "Lại phải tử tế".

Lại có lúc lên giảng đường, vừa mới ngồi, bỗng nhiên có con mèo nhảy lên trên thân mình, Sư kéo đầu dậy chỉ bảo đại chúng là: "Ngày xưa Nam Tuyền đích thân giết chết liền. Ngày nay Da-xá chỉ bày cùng Huyền Đồ, và nay bán cho các thiền khác, Văn Khế rõ ràng cần hay không?" ngừng giây lát, Sư thả con mèo xuống và cũng xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Tân ở Thiên đồng.

Thiền sư Tân ở Thiên đồng tại Minh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là tác dụng bí mật?' Sư đáp: "Nào từng bí mật". Lại hỏi: "Lúc chưa thông tâm kinh thì thế nào?" Sư bảo: "Vật gì ngăn ngại ông?" Lại hỏi: "Lúc cầu đó không được thì thế nào?" Sư bảo: "Dùng cầu làm gì?" Lại hỏi: "Thế nào tức vậy?" Sư bảo: "Nào từng mất tức?" Lại hỏi: "Thế nào là cảnh Thiên đồng?" Sư đáp: "Mây không người gieo sinh nào cùng, nước có ai bảo đi chẳng lại?"

3. Thiền sư Giác Kha ở Công thần.

Thiền sư Giác Kha-Tâm ấn ở Công thần tại Hàng châu. Có vị Tăng hỏi: "Tổ sư chẳng tại phía Đông hay phía Tây núi. Vậy chưa xét rõ là tại xứ nào?" Sư đáp: "Hãy tạm dò xét". Lại hỏi: "Thế nào là Phật thiên chân?" Sư đáp: "Tranh dám trang điểm".

4. Thiền sư Giản ở Thiên đồng.

Thiền sư Giản ở Thiên đồng tại Minh châu, vốn người dòng họ Trương ở Tiền Đường. Sư chuyên việc đơn lẻ khiết, người thời bấy giờ xưng gọi là "giản chiếc khách". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Chẳng muốn nói cùng ông". Lại nói: "Xin Hòa thượng nói". Sư bảo: "Đạt-ma chẳng thể trở lại".

Lúc tuổi về già, Sư đến ở Tuyết đậu và thị tịch tại đó, an táng dựng lập tháp tại góc Đông nam của chùa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HẰNG Ở BÁCH TRƯỢNG.

1. Thiền sư Trừng Thục ở Thê hiền.

Thiền sư Trừng Thục ở Thê hiền tại Lô sơn, vốn người xứ Kiến Minh. Có vị Tăng hỏi: "Cầu đá Triệu châu để cho lừa ngựa đi qua, còn cầu đá Tam hạp để người nào đi qua?" Sư đáp: "Ễnh ương, giun trùng". Lại hỏi: "Thế nào là mọi vật đều đượm ân?" Sư đáp: "Đạp không đến". Lại hỏi: "Hôm qua Tiên động chầu Sư xướng bãi, ngày nay Thê Hiền thỉnh mời Sư tuyên bày". Sư đáp: "Ngày sau lại làm sao sống?" Lại hỏi: "Chưa xét rõ thế nào là lãnh hội?" Sư đáp: "Mũi tên bắn qua Tân La". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Trương ba Lý bốn". Lại hỏi: "Người xưa chém rắn, ý chỉ ấy như thế nào?' Sư đáp: "Còn chưa biết đau tiếc". Lại hỏi: "Thế nào là Tuyển Phật Trường Tâm không đổ đạt trở về? Người học thế nào để được đổ đạt trở về?" Sư đáp: "Không có tài cẩn trọng lui lui".

Về sau, Sư dự tham đại chúng nhóm tập, Sư bảo: "Lúc sáng sớm chẳng được cùng gặp gỡ các ông, chiều nay không thể không nói". Rồi Sư bèn xuống khỏi tòa. Có người hỏi: "Tỳ Mục Tiên nhân nắm tay Thiện Tài thấy chư Phật nhiều như số vi trần. Vậy như khi chưa nắm tay thì thấy cái gì?" Sư đáp: "Như nay lại thấy cái gì?" Lại có lúc lên giảng đường, ngừng giây lâu, Sư bảo: "May khéo một mâm cơm, không thể cơm canh tiêu gừng, tuy là như vậy, thử nếm ăn xem". Rồi Sư bèn xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Đức Hưng ở Vạn thọ.

Thiền sư Đức Hưng ở Vạn thọ tại Tô châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Đại chúng đồng một lúc chiêm ngưỡng". Lại hỏi: "Thế nào là một câu Hòa thượng làm người?" Sư đáp: "Ngươi hãy tự làm". Sư lại bảo: "Hỏi đáp đều đã đủ cả, vậy có ai đắc ý? Nếu hướng đến mong cầu nơi người khác trở lại thành đặc địa. Lão Tăng lâu ở nơi rừng sâu tợ như ẩn tàng vụng về. Mong sao ngày nay vào được dưới cửa vạn thọ có thể gọi đó là ẩn tàng không được. Đã ẩn tàng không được, rõ ràng hiện bày, chưa xét rõ trong các người ai được thấy trước. Như có chỗ thấy thì ra đối trước đại chúng nhà bày tin tức xem". Ngừng giây lâu, Sư bảo: "Đứng lâu, trân trọng!".

3. Thiền sư Hy Vĩnh ở Vân môn.

Thiền sư Hy Vĩnh ở Vân môn tại Triệu châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc sư tử chưa ra khỏi hang thì thế nào?" Sư đáp: "Tạm chẳng gầm rống". Lại hỏi: "Sau khi đã ra khỏi hang thì thế nào?" Sư đáp: "Lùi đứng ở sau". Lại hỏi: "Thế nào là đường thẳng của chư Phật xưa cổ?" Sư đáp: "Ai chẳng giẫm đạp qua". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học dừng tâm dứt ý?" Sư đáp: "Kéo bẻ gãy chống được hay chưa?" Lại hỏi: "Lúc tâm vương ban sắc ra thì thế nào?" Sư bảo: "Lại tuyên khắp một lần xem". Lại hỏi: "Thế nào là Nghĩa quyết định?" Sư đáp: "Không được chấp trước". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Ý ấy không nhỏ".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ ĐIỀU Ở SÙNG THỌ.

1. Thiền sư Linh Sầm ở Vân đài.

Thiền sư Linh Sầm ở núi Vân đài tại Tuyền châu, vốn người dòng họ Thái thuộc Bản châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Vân đài?" Sư đáp: "Trước núi sau núi". Lại hỏi: "Thế nào là trong cảnh?" Sư đáp: "Tài ngồi ngủ gật".

2. Thiền sư Viên Tấn ở Tư quốc.

Thiền sư Viên Tấn ở Tư quốc tại Hàng châu vốn người thuộc bản châu. Có vị Tăng hỏi: "Đan Hà thiêu đốt Phật gỗ, ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "vời nhân mang quả". Lại hỏi: "Cây bách trước sân, ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Lão Hồ tăng mắt xanh chấm đầu". Lại hỏi: "Người xưa nói nhà Đông làm lừa, nhà tây làm ngựa, ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Cùng biết khắp thiên hạ".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÍCH Ở VÂN CƯ.

1. Thiền sư Tùng Tấn ở Bát-nhã.

Thiền sư Tùng Tấn ở Bát-nhã tại Đài châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc khe xưa suối lạnh thì thế nào?" Sư đáp: "Rất kỵ uống dùng đó". Lại hỏi: "Nếu uống dùng thì thế nào?" Sư đáp: "Tan mất ngay tánh mạng ngươi".

2. Thiền sư Chí Siêu ở hóa.

Thiền sư Chí Siêu ở hóa tại Việt châu, vốn người dòng họ Đổng ở Hàng châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Ngươi là người gì?" Lại hỏi: "Chẳng tiện phải là không?" Sư đáp: "Phải tức chẳng giao thiệp".

Quyển 4 (Hết)

QUYỂN 5

MỤC LỤC

Đời thứ mười một dưới Thiền sư Đại Giám.

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn có sáu vị:

1. Thiền sư Hiểu Thuấn ở Vân cư

2. Thiền sư Hoài Hựu ở Đại quy

3. Thiền sư Khế Tung ở Phật nhật

4. Thái Thú Hứa Thức Lang Trung (bốn vị trên hiện có ghi lục)

5. Thiền sư Xiêm ở Bách trượng

6. Thiền sư Viên ở Kiến sơn (hai vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm có ba mươi ba vị:

1. Thiền sư Hoài Liên ở Dục vương

2. Thiền sư Vân Tri ở Linh ẩn

3. Thiền sư Duy Giản ở Thừa thiên

4. Thiền sư Giám Thiều ở Cửu phong

5. Thiền sư Hiển Thù ở Tây tháp

6. Thiền sư Dụng Lương ở Sùng thiện

7. Thiền sư Hữu Văn ở Tuệ lực

8. Thiền sư Tượng Đôn ở Tuyết phong

9. Thiền sư Thủ Ức ở Vân cư

10. Thiền sư Vĩnh Phù ở Động sơn

11. Thượng tọa Linh Thao (mười một vị trên hiện có ghi lục).

12. Thiền sư Phổ Triêm ở Thọ Thánh

13. Thiền sư Tỉnh Mân ở Kim nga

14. Thiền sư Ngộ Tân ở Quảng tuệ

15. Thiền sư Khánh Thành ở Hội sơ

16. Thiền sư Trung ở dương

17. Thiền sư Tỉnh ở Nam tuyền

18. Thiền sư Nhạc ở Trí giả

19. Thiền sư Tử Tượng ở Linh tuyền

20. Thiền sư Chí minh ở Thọ Thánh

21. Thiền sư Trí ở Vĩnh an

22. Thiền sư Lợi Cần ở Nam đảng

23. Thiền sư Vĩnh Ân ở Hành nhạc

24. Thiền sư Hồng Trạch ở Tô châu

25. Hòa thượng Nguyên hanh ở Hồng châu

26. Hòa thượng Khải Hà ở Minh châu

27. Thiền sư Đạo ở Thiên Thánh

28. Thiền sư Trí Minh ở Đại quy

29. Thiền sư Tuệ Hòa ở Lâm an

30. Thiền sư Đạo Thăng ở Vĩnh an

31. Thiền sư Thiệu Tân ở Dược sơn

32. Thiền sư Xử Hiền ở Song lãnh

33. Thiền sư Thủ Luân ở Quy tông (hai mươi hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tự Bảo ở Động sơn có bảy vị:

1. Thiền sư Biện ở Động sơn (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Giám Thiên ở Động sơn

3. Thiền sư Hải Lâm ở Nguyệt hoa

4. Thiền sư Khánh Ung ở Nguyệt hoa

5. Thiền sư Văn ở Nam đài

6. Thiền sư Hải ở Hoa quang

7. Thiền sư Tuệ Ân ở Trường khánh (sáu vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tư Quảng ở Bắc tháp có ba vị:

1. Thiền sư Thừa Hạo ở Ngọc tuyền (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Đức Trung ở Vĩnh lạc

3. Thiền sư Tùng Ổn ở Bắc tháp (hai vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Chí Ngung ở Vân cái có hai vị:

1. Thiền sư Văn Khánh ở Vân cư (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Kiêm ở Thê hiền (hiện không ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuệ Ngung ở Thúy phong có hai vị:

1. Thiền sư Trạch Năng ở Quảng quả

2. Thiền sư Nhượng ở Đức sơn (hai vị trên không ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Đoan ở Tứ tổ, có một vị:

1. Thiền sư Thường Ủy ở Quảng minh (hiện có ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thông ở Hải hội, có hai vị:

1. Thiền sư Văn Tú ở Thủy nam

2. Thiền sư Hòa ở Thừa thiên (hai vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Văn Cát ở Nhạn đảng có một vị:

1. Thiền sư Vi Giác ở Tịnh quang (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thụy Tân ở Kim sơn, có bốn vị:

1. Thiền sư Thủ Đạo ở Thiên Thánh (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Sở Tường ở Thiên Thánh

3. Thiền sư Dụng Cơ ở Cực lạc

4. Thiền sư Thủ Năng ở Thượng phương (ba vị trên không ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tề Nhạc ở Thượng phương, có một vị:

1. Thiền sư Thuận Tông ở Động sơn (hiện có ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thường Thản ở Dục vương có hai vị:

1. Thiền sư Trừng Dật ở Dục vương

2. Thiền sư Trạch Hiền ở Hồ sơn (hai vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Duy Tuấn ở Giáp sơn có một vị:

1. Thiền sư Đạo ở Giáp sơn (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Trí Hiền ở Bắc thiền, có bảy vị:

1. Thiền sư Thiệu Tiên ở Hưng hóa

2. Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp xướng

3. Thiền sư Trạch yếu ở Quảng nhân (ba vị trên có ghi lục)

4. Thiền sư Huy ở Hưng hóa

5. Thiền sư Thuận ở Bắc thiền

6. Thiền sư Thùy Tố ở Bạch triệu

7. Thiền sư Tử Tường ở Nam nhạc (bốn vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thiện Xiêm ở Khai tiên có mười ba vị:

1. Thiền sư Liễu Nguyên ở Vân cư

2. Thiền sư Bản Dật ở Trí hải

3. Thiền sư Nguyên Sơ ở Thiền đồng

4. Thiền sư Thiện Sảng ở Vạn Sam (bốn vị trên hiện có ghi lục).

5. Thiền sư Cung ở Nga hồ

6. Thiền sư Nguyên Thuấn ở Cửu tiên

7. Thiền sư Văn Thâm ở Quảng tuệ

8. Thiền sư Hải Uyên ở Khai tiên

9. Thiền sư Tư Hiệu ở An quốc

10. Thiền sư Thiện Toàn ở Thượng phương

11. Thiền sư Thiện ở Pháp tế

12. Thiền sư Thiệu Tân ở Trường khánh

13. Thiền sư Tuệ Viên ở Động sơn (chín vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Sơ Tài ở Hòa sơn có năm vị:

1. Thiền sư Hùng ở Tào sơn (hiện có ghi lục).

2. Thiền sư Thăng ở Bắc thiền

3. Thiền sư Thiệu Đoan ở Báo ân

4. Thiền sư Thủ Cơ ở Tiến phước

5. Thiền sư Toàn Trạm ở Tân phong (bốn vị trên không ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Cảm Cần ở Tư Thánh có hai vị:

1. Thiền sư Tỉnh văn ở Bản giác

2. Thiền sư Tử Chương ở Tư Thánh (hai vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi Thiền sư Ngộ Cần ở Khâm sơn có một vị:

1. Thiền sư Ứng Viên ở lương sơn (hiện có ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HIỂU THÔNG Ở ĐỘNG SƠN

1. Thiền sư Hiểu Thuấn ở Vân cư

Thiền sư Hiểu Thuấn ở Vân cư tại Nam khương quân, vốn người xứ Thụy châu. Thuở thiếu thời, Sư thô tháo mạnh dữ, bỗng nhiên cảm ngộ cuộc đời huyễn hóa bọt nổi, bèn tìm đến thầy cầu xin xuất gia, mới tu tế hạnh dự tham Động sơn. Một ngày nọ Sư đến Võ Xương hành khất, đầu tiên vào nhà Cư sĩ Lưu Công. Cư sĩ vốn người có đạo hạnh cao, mọi người ở đương thời rất kính trọng, trong ý muốn cho hay lấy vật gì không ai chẳng vâng theo. Bấy giờ, Sư đang tuổi trẻ không biết no đầy, tham rất dễ đó. Cư sĩ nói là: "Lão Hán có một câu hỏi, nếu cùng khế hợp tức liền mở thông, như chẳng khế hợp, xin mời Sư trở về núi". Cư sĩ mới hỏi: "Kiếng xưa cũ, lúc chưa lau chùi thì thế nào?" Sư đáp: "Đen tợ như sơn". Lại hỏi: "Sau khi đã lau chùi thì thế nào?" Sư đáp: "Soi trời chiếu đất". Cư sĩ vái dài mà bảo: "Tạm xin mời thượng nhân trở về lại núi" và phẩy tay áo mà vào nhà. Sư buồn bã trở về lại Động sơn. Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn hỏi về nguyên do, Sư mới tỏ bày đuôi đầu sự việc. Thiền sư Hiểu Thông bảo: "Ông hãy hỏi Ta, ta sẽ vì ông mà nói". Sư bèn đem điều trước để hỏi. Thiền sư Hiểu Thông đáp: "Từ đây cách Hán Dương không xa". Sư lại tiếp hỏi câu sau. Thiền sư Hiểu Thông đáp: "Hoàng Hạc Lâu ở trước Oanh Võ Châu". Ngay lời nói ấy mà Sư được đại ngộ, cơ biện bén chạy chẳng ai có thể xúc chạm nỗi.

Ở lâu sau, có vị Tăng hỏi: "Thiền sư Thừa có nói: "Chẳng đàm Huyền, chẳng nói Diệu" vật bỏ hai đường ấy làm thế nào mà chỉ bày?" Sư đáp: "Ễnh ương đuổi theo chim dao". Lại hỏi: "Toàn nhân gì hỏi vậy?" Sư đáp: "Chuột già đùa bỡn với khỉ". Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chỉ một thân bền chắc kín nhiệm, hiện trong hết thảy mảy trần. Các loài ễnh ương giun trùng đều có hang hầm, các loài chim quạ thước cưu cáp cũng có hang ổ. Vậy phải ngay lúc nào vì người giảng nói pháp?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Nơi chốn tùy các loài nhóm tụ, mọi vật lại phân đàn". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đường Tam hạp không riêng khác, mỗi sáng sớm mong nói gì, Tăng Diêu gặp tả chân, trấn phủ ra thép già". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chẳng dài chẳng ngắn chẳng nhỏ chẳng to. Cái đạo lý ấy là cảnh giới của ai? Ôi!" Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nghe nói hai chữ "Phật pháp", sớm làm dơ bẩn tai mắt ta, các người chưa giẫm đạp qua cửa Vân môn, dưới cẳng chân khéo đáng cho ba mươi gậy. Tuy là như vậy, nhưng cũng là đã hết sức lực". Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu bày Giáp Sơn mà nói: "Đầu cửa ồn náo, biết lấy Thiên tử, trên đầu trăm cỏ dâng lấy Lão Tăng. Đối với Vân cư tức chẳng vậy. Đàn bà lay máy nghiến chẹt, con nít đùa miệng oa oa". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các nơi có múa đầu rắn, phẩy đuôi hổ, nhảy biển lớn, tàng ẩn thân trong dao kiếm. Tại Vân cư trời lạnh thì dùng nước nóng rửa chân, về đêm cởi bít tất nằm ngủ, sáng sớm lại buộc đi, gió thổi hàng rào ngã đổ kêu người mổ phên buộc dậy". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Vân cư chẳng hợp thiền, rửa chân lên giường ngủ, dưa bí ngay thẳng mực, quả bầu cong như cung".

2. Thiền sư Hoài Hựu ở Đại quy.

Thiền sư Hoài Hựu ở Đại quy tại Đàm châu. Có vị Tăng hỏi: "Người thì lấy lời nói để thử, vàng thì dùng lửa để thử. Chưa xét rõ Nạp Tăng dùng gì để thử?' Sư đáp: "Dùng chiếc gậy". Lại hỏi: "Cuối cùng thì thế nào?" Sư đáp: "Lùi lui đứng sau". Vị Tăng ấy ứng tiếng nói: "Kính vâng". Sư liền đánh và bảo: "Bảo nghỉ chẳng chịu nghỉ, thẳng đợi mưa thấm đầu".

3. Thiền sư Khế Tụng ở Phật nhật.

Thiền sư Khế Tụng ở Phật nhật tại Hàng châu, vốn người dòng họ Lý thuộc Phiêu tân, Đằng châu. Năm bảy tuổi, Sư xuất gia, năm mười ba tuổi được độ. Năm mười chín tuổi, Sư du phương dự tham ở các bậc Thiện tri thức, và đắc pháp từ Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn.

Ban đêm, Sư đưa đảnh đầu mang đội tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm và trì niệm danh hiệu đủ số mười vạn biến mới đi ngủ đó là lệ thường. Từ đó đối với các thứ kinh thư chương cú ở thế gian, Sư không học mà tự thông, soạn thuật "Nguyên giáo luận) có hơn mười vạn từ. Thấu suốt đạo lý của Phật và nho đều là Nhất quán, để chống kháng Tông Hàn vạch bày Phật thuyết, người đọc vào đó thảy đều sợ phục. Về sau, Sư đến ở Vĩnh an lan nhã, trước thuật "Thiền môn định Tổ đồ truyện Chánh Tông Ký". Phụ giáo biên ghi tấu trình, vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) đọc xem mà tán thán, đưa đến viện truyền pháp biên ghi vào tạng. Vua ban chiếu ngợi khen tưởng thưởng, sắc phong hiệu là "Minh Giáo". Tể tướng Hàn Kha, Đại tham Ân Dương Tu đều thỉnh mời để diện kiến mà kính lễ Sư.

Kịp đến lúc trở về phương Đông. Ngày mồng 04 tháng 06 năm Hy Ninh thứ tư (1071) thời Bắc Tống, vào lúc sáng sớm, Sư ngẫu hứng làm bài kệ rằng:

"Đêm sau trăng mới tỏ

Nay ta mừng riêng đi

Chẳng học mai già lớn

Tham nghe tiếng chuột kêu".

Đến nửa đêm đó, Sư bèn thị tịch, trà tỳ có năm thứ không tiêu hoại là cốt đảnh đầu, lỗ tai, chiếc lưỡi, đồng chân và chuỗi châu. Cốt xương đỉnh đầu có xá-lợi sắc màu hồng trắng sạch đẹp. Các hàng Đạo tục gom nhặt các thứ không tiêu hoại ấy an táng tại bên tả của Vĩnh an. Về sau ở Tịnh từ, Bắc giản, Cư giản từng có trước thuật các bài tán thán năm thứ không tiêu hoại. Sư có bộ văn tập gồm hai mươi quyển, mục đề biên ghi là "Phiêu tân" hưng thạnh lưu truyền nơi đời.

4. Thái thú Hứa Thức Lang Trung.

Thái thú Hứa Thức Lang Trung ở Hồng châu, đến dự tham nơi Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn mà đắc chánh pháp nhãn. Một ngày nọ cùng Thiền sư Trừng ở Lặc đàm, Thượng Lam Đoàn đồng ngồi đàm đạo, Thiền sư Trừng nói: "Nghe Lang Trung nói: "Đêm ngồi liền cùng sương đá, mùa xuân trồng dãy tùng mưa. Khi ấy đáp câu thoại gì của Thiền sư Hiểu Thông ở Động sơn vậy?" Thái thú nói: "Ngày nay buông sở sớm". Thiền sư Trừng hỏi: "Nghe đáp Đại Thánh ở Tứ minh xuất hiện đến Dương châu có phải vậy không?" Thái Thú đáp: "Riêng điểm trà lại". Thiền sư Trừng nói: "Thật danh chẳng dối bày!" Thái thú hỏi: "Hòa thượng sớm muộn về núi?" Thiền sư Trừng nói: "Ngày nay bị Thượng Lam rình phá". Thượng Lam bèn hét. Thiền sư Trừng nói: "Phải là ông mới đắc?" Thái thú nói: "Chẳng nại gì thuyền sao đánh phá gáo múc nước ư?".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HOÀI TRỪNG Ở LẶC ĐÀM.

1. Thiền sư Hoài Liên ở Dục vương.

Thiền sư Hoài Liên-Đại giác ở núi Dục vương tại Minh châu, vốn người danh hiệu Trần ở Long khê, Chương châu. Đêm Sư chào đời, người nhà mộng thấy có vị Tăng già hiện đến nơi phòng, nhân đó thuở nhỏ, Sư có tên tự là "Tứ Châu". Đã có điềm lạ lại thêm biết ứng tốt lành. Đến tuổi mọc răng, Sư xuất gia, búi tóc trên đỉnh đầu tròn. Sư dốc chí học đạo, khi ăn lúc ngủ chẳng từng phế bỏ. Một ngày nọ rửa mặt đổ nước nơi đất, Sư có chút tỉnh phát, liền kính mộ tham tầm, xa đến pháp tịch của Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm, nêu có duyên, được ấn khả. Sư phụng thờ Thiền sư Hoài Trừng qua hơn mười năm, rồi đến Lô sơn Chưởng ký, tới nơi Thiền sư Nột ở Viên Thông.

Trong khoảng niên hiệu Hoàng Hựu (10491054) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông (1023-1064) có ban chiếu mời Sư đến ở Thiền viện Tịnh nhân, và mời Sư vào đối đáp đàm đạo ở điện Hóa thành. Vua hỏi Đại ý của Phật pháp. Sư tấu trình đối đáp xứng hợp Thánh chỉ, vua phong tặng Sư hiệu là "Đại Giác Thiền sư". Sau đó, vua sai Trung Sứ đến hỏi: "Mới bỏ cấm phất trần, người đứng khó đảm đang là thế nào?" Sư liền làm bài kệ tụng đáp lại rằng:

"Có mắc chẳng phải tre

Ba tinh nép nguyệt cung

Một người ở dưới trời

Chẳng cùng đồng mọi người".

Vua đọc xem mà rất vui mừng, mới ban chiếu mời Sư vào điện đối tiện, ban tặng một cái quạt lụa, biên ghi bài tụng của Nguyên Tịch ở trên. Vua cùng Sư hỏi đáp về thơ tụng, biên ghi để ban tặng có cả thảy mười bảy bài. Đến trong niên hiệu Chí Hòa (1054-1056) thời Bắc Tống. Sư xin trở về dưỡng già ở trong núi, mới dâng bài tụng rằng:

"Sáu năm thần kinh xướng Tổ cơ Hai lần điện vàng đối Thiên oai Núi xanh ẩn đi mừng mong được Đầy tráp chỉ đem ngự tụng thôi".

Vua xướng họa bài tụng mà không xứng hợp, bèn tuyên chỉ dụ rằng: "Núi tức thể như như Cũng sắp yên về ư?

Hãy ở lại kinh đô

Làm hưng thạnh Phật pháp". Sư lại dâng bài tụng cảm tạ rằng:

"Trung sứ tuyên truyền ra cầm vây

Bảo thần (Sư) ở lại cửa Thiền đây Núi xanh chưa hứa che ngàn vụng Tóc bạc sao giúp muôn cơ này!

Sương đêm ân sáng mới nhiều móc

Rừng suối mùi tình khổ nương theo

Nghiêu nhân huống là như trời thoáng Mặc tình mây lẻ tự do bay".

Thế rồi, vua sai Trung sứ mang bình bát bằng Long mão đến dâng tặng Sư. Sư cảm tạ ân vua, bưng bình bát lên tay mà nói: "Trong giáo pháp tôi theo tu tập thì mặc áo hoại sắc, ăn dùng bình bát bằng sắt bằng đất. Với bình bát này chẳng đúng như pháp". Xong, Sư bèn thiêu đốt bỏ. Trung sứ trở về tấu trình lại, vua Nhân tông tán thán không thôi.

Đến trong niên hiệu Trị Bình (1064-1068) thời Bắc Tống, Sư lại dâng sớ tấu xin trở về, mới tấu trình bài tụng rằng:

"Ngàn mây nhóm núi, muôn thác chảy

Nhàn thân nghỉ già đầu non đây

Tháng ngày còn lại chúc Thánh thọ Đốt nén hương trong tỏa-đà-lầu".

Vua Anh Tông (Triệu Thự 1064-1068) y cứ sự thỉnh cầu của Sư, bèn ban chiếu thư rằng: "Thiền sư Hoài Liên-Đại Giác vâng nhận sự mến trọng của Tiên đế, chống tích đến ở kinh đô đã nhiều năm, Sư từng cống hiến, thành khẩn xin trở về núi. Nay theo sự thỉnh cầu, giúp sư được toại nguyện an tâm. Phàm những nơi trải qua các am viện, mặc tình tùy ý Sư dừng ở trú trì, hoặc các chốn Thiền lâm ở mười phương không được bức ép nài thỉnh". Sư đã qua sông, dừng nghỉ thời gian ngắn tại Kim sơn, Tây Hồ Tư Minh Đô Úy cho là ở Dục vương, pháp tịch đang trống vắng nên thỉnh mời Sư đến ở đó. Thiền Công ở Cửu phong làm sớ mời mọi người ở Tây minh cùng dốc sức lực tạo dựng các tạng, ban tặng thơ tụng, đề bảng hiệu ở đó là "Thần Khuê Hàn Lâm". Tô Công Thức lúc trấn nhậm trông coi ở Hàng châu, biên thư gởi hỏi Sư rằng: "Tiếp thừa trọng yếu muốn làm văn bia ở "các Thần Khuê", kính cẩn để soạn thành, nhân vì già yếu bỏ học, không biết kham nỗi lên đá không, hiện dự tham từ xa nói, ngày Thiền sư ra khỏi Kinh đô, vua Anh Tông có ban sắc thủ chiếu, đại lược nói là "Mặc tình Sư dừng ở trú trì", không biết quả thật có vậy chăng? Nếu thật có thì tha thiết xin chỉ bày toàn văn lục vì muốn thêm vào". Đó là một chi tiết mà Sư trọn cất giấu không đưa ra, mãi đến sau khi Sư thị tịch mới tìm thấy được trong rương tráp. Ngày khai mở giảng đường trao truyền pháp, có vị Tăng hỏi: "Chư Phật xuất hiện nơi đời vì lợi ích cứu tế quần sinh. Với nghê tòa Sư lên sẽ cứu tế thế nào?" Sư đáp: "Ra cao, nước thoáng rộng". Lại hỏi: "Hoa phát sinh không cây rễ, cá nhảy non cao muôn nhận là thế nào?" Sư đáp: "Trong nước Tân La". Lại hỏi: "Thuyền từ chẳng lướt mái chèo trên sóng trong, kiếm lạp chẳng nhọc chém chim ngỗng gỗ là thế nào?" Sư đáp: "Cởi bỏ liền xiêm y nằm trên gai gốc". Lại hỏi: "Với người thì lấy lời nói để thử là thế nào?" Sư đáp: "Tập quen được thuận tiện ấy". Vị Tăng ấy bèn vỗ tay. Sư bảo: "Lại nên nhảy nhót". Lại hỏi: "Với ngự tụng của Thánh quân đích thân ban tặng, Hòa thượng lấy gì để báo đáp ân đó?" Sư đáp: "Hai tay nâng đất". Lại hỏi: "Thế nào là một người có niềm vui thì triệu dân được nhờ?" Sư đáp: "Một nửa tìm gậy chống quẫy động nước sông hồng". Lại hỏi: "Lúc mái chèo chẳng dừng thì thế nào?" Sư đáp: "Sóng lắng trong, mũi tên bắn gấp". Lại hỏi: "Thế nào là thế dời thuyền quen nước, nâng mái chèo riêng biệt sóng dâng?" Sư đáp: "Vượt sông nước đến Tân La". Lại hỏi: "Thế nào là trong vị Phật xưa giữ chẳng ở, đêm về như cũ ngũ Lô hoa?" Sư đáp: "Như đồng chẳng biết đường ngã tư". Lại hỏi: "Thế nào là hành nghiệp của người học?" Sư đáp: "Ngạch đá trông trăng tỏ". Vị Tăng ấy dùng tay phẩy một cái. Sư hỏi: "Làm gì vậy?" Vị Tăng ấy mịt mờ. Sư bảo: "Lừa dối ngay cả một thuyền người". Sư lại bảo: "Nếu luận bàn hai việc Phật pháp là thêm vào đó ngôn từ nói lắm màn rèm, nếu các người vào đó mà nhận lấy được tất cả là như mọc thêm hai đầu ba đầu. Thí như mạc vàng tuy quý nhưng không thể đặt để trong tròng mắt. Nếu là bản phận Nạp Tăng thì vừa mới nghe nêu bày, mở ra liền dứt, chẳng nhận một mảy trần, riêng thoát khỏi tự tại rất là chủ đích thân gần. Sau đó bèn có thể tại trời thì đồng với trời, tại người đồng với người, tại Tăng đồng với Tăng, tại tục đồng với tục, tại phàm đồng với phàm, tại Thánh đồng với Thánh, hết thảy mọi nơi ra vào tự tại. Và chẳng bó buộc kia không được, gọi đó là xa tít kia chẳng được. Cớ sao? Vì hắn có khả năng tạo lập tất cả các pháp. Tất cả pháp yếu lại chẳng là hắn. Hắn đã không trái mặt. Thứ nhất chẳng dùng vọng để cùng an bài, chỉ biết trong mười hai thời khắc bình thường ăn uống, an lạc không lo âu, chỉ cùng mong cầu vậy ngoài ra không việc gì khác. Do đó, người xưa nói: "Phóng khoáng lớn như người ngu đầu, nhà kia tự có mến người thông".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ứng vật hiện hình như trăng trong nước". Và Sư bèn nắm gậy chống dậy, bảo: "Cái ấy chẳng là vật, tức nay hiện hình vậy. Vả lại, hãy nói trăng tại xứ nào?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Giữa không trung có đường lại phải suốt qua, dưới đáy đầm không dấu vết chẳng dụng công mò tìm". Rồi Sư đánh vào đài hương và xuống khỏi tòa".

2. Thiền sư Vân Tri ở Linh ẩn.

Thiền sư Vân Tri-Từ giác ở Linh ẩn tại Lâm an phủ. Có vị Tăng hỏi: "Khi các Đức Phật xuất hiện nơi đời mỗi mỗi đều ngồi trên một đóa hoa. Vậy, lúc Hòa thượng xuất hiện nơi đời có điềm lành gì?" Sư đáp: Mây trắng giăng ngang cửa cốc". Lại hỏi: "Đức sáng trước dứt tuyệt sau là thế nào?" Sư đáp: "Sai nhầm". Lại hỏi: "Đại chúng chứng minh, người học lễ tạ là thế nào?" Sư đáp: "Điểm". Lại hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Đạo gì?" Lại hỏi: "Đại đạo". Sư đáp: "Muốn đi muôn dặm phải từ một bước đầu tiên". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Trời Tây ghé bến, đất đây dừng xem". Vị Tăng ấy lễ bái, Sư mới nói "Hồng, hồng".

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhật nguyệt mây mốc là nêu trời, núi sông cây cỏ là nêu đất, chiêu hiền nạp sĩ là nêu đức, sống nhàn tỉnh lắng là nêu đạo". Và Sư nắm lấy cây gậy mà hỏi: "Vậy cái này là nêu gì? Có hiểu ư? Nắm dậy thì có văn có hình thể, buông xuống thì kêu xoang xoảng. Ngay chỗ không nắm không buông, lại làm sao sống?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Nâng qua cầu nước, bạn về thôn không trăng". Rồi Sư chống xuống một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Gió thu thổi lá ngô đồng trong sân rơi. Nạp tử phân vân trông điềm lành, Trương ba Lý bốn đọc ồn náo, Thập Đắc, Hàn Sơn tranh sang hèn, thăm mặt cùng gặp lại không khó dễ, trong đường thông bốn ngã Bằng lan sỏi chợ. Cách ải hư không khắp trời cùng đất, nhậm thì Lâm Tế thịt đỏ trên Bồ đoàn, Tuyết phong Nam sơn lỗ mũi Ngao. Huyền sa thấy hổ, trăm ức cử chỉ, một lúc nắm lại ngay mặt mà bố thí, lại như phỏng nghĩ bàn nghị ngàn sông muôn núi, lại gọi đó là lỗi quá vậy".

3. Thiền sư Duy Giản ở Thừa thiên.

Thiền sư Duy Giản ở Thừa thiên tại Vụ châu. Có vị Tăng hỏi: "Phật cùng chúng sinh là một hay là hai?" Sư đáp: Hoa nở sắc hồng đấy cây hoa rơi muôn cành trống không". Lại hỏi: "Rốt cùng là một hay là hai?" Sư đáp: "Chỉ còn lại một đóa, ngày hôm sau sợ cũng theo gió". Lại hỏi: "Thế nào là thổi lông kiếm?" Sư đáp: "Sao nhiều chẳng sánh bằng trăng". Lại hỏi: "Dùng đó thế nào?" Sư đáp: "Rơi". Lại hỏi: "Sau khi rơi thì thế nào?" Sư đáp: "Bồ-tát Quán Thế Âm". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư đáp: "Lý trưởng tức đến". Lại hỏi: "Thế nào là lãnh hội". Sư đáp: "Thêu vẽ chim trĩ chẳng thành gà". Lại hỏi: "Mở miệng tức mất, ngậm miệng tức tan, chưa xét rõ thế nào nói?" Sư đáp: "Đầu lưỡi không xương cốt". Lại hỏi: "Không hiểu". Sư đáp: "Đối với trâu mà gảy đàn".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phàm, cảnh giới Giá-na là Huyền môn các diệu, các bậc tri thức nói đó mà chẳng cùng, Đồng Tử Thiện Tài rót chước đó mà chẳng cạn, Bồ-tát Văn Thù hiểu đó mà lẳng lặng, Bồ-tát Phổ Hiền chứng đó cho là lớp lớp. Nếu tùy theo pháp tánh thì mây tan trời xanh vốn không một vật, nếu tùy theo trí dụng thì như hoa nở xuân cốc ứng dụng không cùng, tuy nói khắp cả Hằng sa mới đồng tuân theo một đạo". Vả lại thử hỏi các người làm sao sống là một đạo?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Nơi mây trắng than thấy trăng tỏ, lúc lá vàng rơi nghe đập áo. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chớ lìa che đậy buộc ràng, chớ cầu Phật Tổ. Bỏ hẳn hai đường ấy làm sao nương tựa? Giang yêm mộng bút, trời rồng thấy hổ. Các bậc lão đức xưa trước tương truyền trăng chẳng vượt quá năm. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Một dao hai chôn vùi Tông phong, sư tử phiên thân kèo bùn mang nước, ngay nhiều ngồi dứt mười phương Thánh phàm chẳng thông, dưới cẳng chân khéo cùng cho ba mươi gậy".

4. Thiền sư Giám Thiền ở Cửu phong.

Thiền sư Giám Thiền ở Cửu phong tại Minh châu, có vị Tăng hỏi: "Nhân nghe Hòa thượng là đích tử của Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm, có phải vậy không?" Sư đáp: "Đúng vậy". Lại hỏi: "Vậy còn nhớ được câu đắc lực ở thời bấy giờ không?" Sư đáp: "Ghi nhớ được". Lại hỏi: "Xin Hòa thượng nên xem?" Sư bảo: "Tay trái kéo nắm tay, tay phải cầm lấy bút".

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Sơn Tăng nói Thiền như châu chấu nhả dầu, nắm ép bèn ra, nếu như chẳng nắm ép thì một giọt cũng không. Cớ sao chỉ vì chẳng từng đọc xem nhân duyên xưa nay, và dự trước bày sắp thắng diệu thấy nghe v.v... lúc lên giảng đường, tiện xoa mồm vuốt mép, phủi cháo cơm, hơi khí xông đốt các người. Phàm có một câu hỏi một lời đáp bởi bất đắc dĩ, đâu riêng một mình sơn Tăng. Hãy trông xem kia, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng ngồi mười kiếp, không nói mở miệng. Sau nhân các trời Phạm Thiên cùng mười sáu vị Vương tử vài ba phen cầu thỉnh, Đức Phật mới bắt đầu nói đó. Tức chẳng là bí mật tiêng tiếc, mà chỉ vì không dám chôn vùi các người. Sơn Tăng đã không chôn vùi các người, không được nói là Sơn Tăng tụ hội lên pháp tòa! Tham".

5. Thiền sư Hiểu Thù ở Tây tháp.

Thiền sư Hiểu Thù ở Tây tháp tại Vụ châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trên pháp tịch Hoàng mai, chúng đông như mè vừng, trong câu trình có, sự bày đáng thương, vốn là xưa nay không một vật, trời xanh ngày cũ bị mây giăng. Tham".

6. Thiền sư Dụng Lương ở Sùng thiện.

Thiền sư Dụng Lương ở chùa Sùng thiện tại Thiên thai. Có vị Tăng hỏi: "Tam môn cùng Tự kỷ là đòng hay là khác?" Sư đáp: "Tám lạng dời lại làm nửa cân". Lại hỏi: "Thế nào là nước mùa thu tràn ngập thuyền ngư ông đi?" Sư đáp: "Nhà phía Đông đốt đèn, nhà phía Tây làm sao đi tìm dầu". Lại hỏi: "Thế nào là núi cao trăng lên chậm?" Sư bảo: "Nói gì?" Lại nói: "Chớ ngủ gật". Sư đáp:

"Vào nước thấy người dài".

7. Thiền sư Hữu Văn ở Tuệ lực.

Thiền sư Hữu Văn ở Tuệ lực tại Lâm giang quân, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tạo dựng chùa vắng vẻ chớ ngồi tựa thành quách, đàm nói không mùi vị bảy linh tám lạc". Rồi Sư bèn nắm gậy chống đánh vào đài hương và xuống khỏi tòa.

8. Thiền sư Tượng Đôn ở Tuyết phong.

Thiền sư Tượng Đôn ở Tuyết phong tại Phước châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Nắm lửa soi chiếu cá lội đi". Lại hỏi: "Thế nào là Pháp?" Sư đáp: "Người thời nhà Đường phiên dịch không ra". Lại hỏi: "Phật pháp đã được Sư chỉ bày, chưa xét rõ sự việc ấy rốt cùng thế nào?" Sư đáp:

"Ngày ba mươi tháng chạp".

9. Thiền sư Thủ Ức ở Vân cư.

Thiền sư Thủ Ức ở Vân cư tại Nam khương quân, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mã Tổ vừa lên tòa, Hùng Phong bèn quấn chiếu, gió xuân một trận lại, khắp đất hoa rơi đầy". Rồi Sư bèn xuống khỏi tòa.

10. Thiền sư Vĩnh Phù ở Động sơn.

Thiền sư Vĩnh Phù ở Động sơn tại Thụy châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đầu gậy khơi Nhật nguyệt, ngựa gỗ hý kêu đêm". Và Sư nắm tích trượng, bảo: "Đại sư ân môn lại". Xong, Sư chống xuống một cái, bảo: "Nấu cát làm cơm, xem giếng làm khố. Tham".

11. Thượng tọa Linh Thao.

Thượng tọa Linh Thao lâu vào dự tham nơi Thiền sư Hoài Trừng ở Lặc đàm. Nhân đó, Thiền sư Hoài Trừng hỏi: "Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại, riêng truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Vậy ông làm sao sống hợp?" Sư đáp: "Con chẳng hiểu". Thiền sư Hoài Trừng hỏi: "Lúc chưa xuất gia, ông làm nghề gì?' Sư đáp: "Chăn trâu". Thiền sư Hoài Trừng hỏi: "Làm sao sống để chăn?" Sư đáp: "Sáng sớm cưỡi trâu đi ra, chiều tối lại cưỡi trâu trở về. Thiền sư Hoài Trừng bảo: "Ông rất khéo chẳng hiểu". Ngay lời nói đó, Sư liền đại ngộ, bèn làm kệ tụng rằng:

"Buông thả dây trâu bèn xuất gia

Cạo bỏ râu tóc mặc ca sa

Có người hỏi Ta ý Tây lại

Chống gậy khêu ngang La lý la".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỰ BẢO Ở ĐỘNG SƠN.

1. Thiền sư Biện ở Động sơn.

Thiền sư Biện ở Động sơn tại Thụy châu. Có vị Tăng hỏi: "Bách Trượng được đại cơ Huỳnh Nghiệt được đại dụng, chưa xét rõ Hòa thượng được cái gì?" Sư bèn hét, vị Tăng ấy cũng hét, Sư bèn đánh, vị Tăng ấy nói: "Tránh sao được mắt mọi người ư?" Bèn trở về chúng, Sư thở dài hai hơi.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TƯ QUẢNG Ở BẮC THÁP.

1. Thiền sư Thừa Hạo ở Ngọc tuyền.

Thiền sư Thừa Hạo ở Ngọc tuyền tại Kinh châu, vồn dòng họ Vương, người xứ Đan lăng, My châu. Sư mới đầu đến nương tựa ở viện Đại lực mà xuất gia đăng đàn thọ giới Cụ túc, về sau du phương phỏng học, Sư đến dự tham nơi Thiền sư Tư Quảng ở Bắc tháp mà tỏ rõ tâm yếu, chứng đắc đại tự tại Tam-muội. Sư tự chế tạo chiếc quần lỗ mũi trâu và viết họ tên của lịch đại chư vị Tổ sư. Sư nói: "Chỉ có Văn Thù Phổ Hiền sánh cùng đây vậy", và biên ghi lên trên đai. Nên khắp chốn Tùng lâm đều xưng gọi Sư là Hạo quần vải.

Trong khoảng niên hiệu Nguyên Phong (10781086) thời Bắc Tống, Sư đến làm thủ chúng ở Cốc ẩn tại Tương dương, có vị Tăng ở quê làng cũng học đòi theo đó, Sư trông thấy mà mắng trách rằng: "Ông có đủ đạo lý gì mà dám làm việc đùa bỡn vậy ư? Ông sẽ oái huyết không kịp vậy. Sau đó, vừa đến Lộc môn, vị Tăng ấy quả đúng như lời Sư nói mà qua đời. Trường Vô Tận vâng phụng đi sứ ở Kinh đô, theo đường Tây nam đến bái yết Sư, cuối cùng khai giảng pháp ở Đại dương tại Dĩnh châu, khi ấy người chủ ở Cốc ẩn riêng lấy đó làm vui mừng. Sư nhận sự thỉnh mời, lên pháp tòa, Sư bảo: "Tôi ở tại Cốc ẩn mười năm, chẳng từng uống một giọt nước ăn một hạt cơm gạo của Cốc ẩn. Nếu các ông không hiểu thì đến Đại dương sẽ bị các ngươi mà nói phá". Rồi Sư bèn nắm cây gậy chống bước xuống khỏi tòa ngang nhiên mà đi.

Sau đó, chuyển dời đến ở ngọc tuyền, Sư có chỉ dạy đại chúng rằng: "Một đêm trần mưa rào trút đổ đánh sập gác Bồ đào, Tri sự dẫn đầu các nhân lực chống che chống đỡ che đỡ, đỡ đỡ chống chống đến sáng ngày, vẫn y như cũ, thật đáng thương thay. Từ sau khi dùng cháo ngồi sàn giường chật hẹp nằm trước, kẻ tai điếc thích tiếng lớn, người mắt mờ cần chữ to". Đến mùa Đông, Sư lại chỉ dạy đại chúng rằng: "Tấc bóng đẩy dời, quần vải đỏ rực, chớ lấy làm quái lạ, không tẩy giặt không lại kéo mất". Có vị Tăng hỏi: "Có vị Tăng vào thất tiếp theo là con chó cũng trong thất, Sư quát la một tiếng, con chó liền chạy ra. Sư bảo: "Con chó ấy tức đã hiểu, còn ông chẳng hiểu gì".

Sư hiện tướng bệnh, môn nhân đệ tử vào vây quanh, Sư cười bảo: "Tôi tuổi đã tám mươi mốt, già chết khiêng thây ra, các con đều nỗ lực, một năm ba trăm sáu mươi ngày". Nói xong, Sư bèn thị tịch.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHÍ NGUNG Ở VÂN CÁI.

1. Thiền sư Văn Khánh ở Vân cư.

Thiền sư Văn Khánh-Hải ấn ở Vân cư tại Nam khương quân. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là hộp đậy càn khôn?" Sư đáp: "Hợp". Lại hỏi: "Thế nào là câu theo gợn đuổi sóng?" Sư đáp: "Rỗng thoáng". Lại hỏi: "Thế nào là câu cắt dứt các dòng?" Sư đáp: "Chật hẹp".

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đạo vốn vô vi, pháp chẳng xúc chạm dài, một niệm muôn năm, ngàn xưa tại trước mắt. Trăng tỏ gió mát, núi xanh nước biếc, pháp pháp hiện tiền mỗi mỗi đều đầy đủ. Ý tổ ý giáo điển chẳng thẳng chẳng cong. Cần nhận biết giá gạo ở Lô lăng, hiểu lấy lúa chín trước núi". Rồi, Sư nắm phất trần đánh xuống thiền sang và xuống khỏi tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ ĐOAN Ở TỨ TỔ.

1. Thiền sư Thường Ủy ở Quảng minh.

Thiền sư Thường Ủy ở Quảng minh tại Phước châu, có vị Tăng hỏi: "Biết Sư từ lâu tích chứa vật báu trong đãy, ngày nay ở ngay trường Đông thử xin mượn xem?" Sư bảo: "Hãy xem". Lại hỏi: "Thế nào là cảm tạ sự chỉ bày của Sư?" Sư đáp: "Rảnh rỗi thả buông một câu, dễ dàng kèo cần câu lên lại".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VĂN CÁT Ở NHẠN ĐẢNG.

1. Thiền sư Vi Giác ở Tịnh quang.

Thiền sư Vi Giác ở Tịnh quang tại Ôn châu, có vị Tăng hỏi: "Vân môn có một khúc nhạc, Sư thân gần xướng hát, chưa xét rõ đại ý Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại như thế nào?" Sư bảo: "Nói gì?" Lại nói: "Gì thì tùy nơi Hòa thượng làm người". Sư bảo: "Sai nhầm". Và Sư mới bảo: "Tịnh quang cam vũ, Phật xưa Kỳ viên, các bậc Danh văn tâm trần chóng dứt, những người xét xem tự nhiên như lên trời, mặt gần thành ngoài lưng tựa suối rừng, nơi nơi đều ca Hoàng hóa, sao phải diễn Diệu đàm Huyền. Một lỗ hướng thượng lại phải thế nào?" Sư nắm lấy gậy chống một cái rồi tiếp bảo: "Uyên ương thêu vẽ xong tùy ông xem, chớ nắm kim vàng qua cho người!" Rồi Sư xuống khỏi tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THỤY TÂN Ở KIM SƠN.

1. Thiền sư Thủ Đạo ở Thiên Thánh.

Thiền sư Thủ Đạo ở Thiên Thánh tại An cát châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhật nguyệt chạy quanh núi Tu-di, thế gian lấy đó phân đêm ngày. Con người ở Nam Diêm-phù-đề chỉ bị sự tối sáng sắc không làm ngăn ngại. Vậy hãy nói một câu chẳng rơi lạc tối sáng làm sao sống? Nói". Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Liễu non sắc vàng ròng, hoa lê hương tuyết trắng. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chẳng từ một địa đến một địa, trong tánh tịch diệt đâu có vị, Thích-ca cúi đầu hỏi Nhiên Đăng, nhân giả tên gì vì thọ ký".

Xong, Sư xuống tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỀ NHẠC Ở THƯỢNG PHƯƠNG.

1. Thiền sư Thuận Tông ở Đông sơn.

Thiền sư Thuận Tông-Quốc khánh ở Đông sơn tại Việt châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tâm sinh thì các pháp sinh, tâm diệt thì các pháp diệt". Rồi Sư nắm gậy chống dậy, bảo: "Cái này là pháp, cái nào là diệt đến tâm? Nếu người nào nói được thì hứa cho các ngươi đủ mắt trên cửa đảnh, còn như chưa đạt như thế, thì mây che mờ tối chẳng biết trời sớm chiều, tuyết phủ sâu kín khó rõ đường cao thấp. Tham".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TRÍ HIỀN Ở BẮC THIỀN.

1. Thiền sư Thiệu Tiên ở Hưng hóa.

Thiền sư Thiệu Tiên ở Hưng hóa tại Đàm châu vốn người xứ tuyền châu, lúc lên giảng đường, Sư nắm chiếc gậy và bảo: "Một Đại tạng giáo điển là giấy lau chùi đồ bất tịnh, Đàm nói vượt Phật quá tổ là tài lừa dối đầu đường ngoài cửa. Nếu luận bàn môn hạ của Nạp Tăng thì một điểm dùng chẳng được, vậy làm sao sống là việc môn hạ của Nạp Tăng?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Hai dối nhiều chẳng bằng chút ít thật". Rồi Sư đánh vào đài hương và xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp xướng.

Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp xướng vốn người dòng họ Lâm ở Chương châu. Thuở thiếu thời, Sư bỏ nhà đến nương tựa ở Sùng phước thuộc trong quận mà được độ, Sư có chí lớn. Từ khi thọ giới Cụ túc xong, Sư du phương tham học, tiếng tăm vang vọng khắp các pháp tịch Tùng lâm. Hòa thượng Viễn ở Phù sơn từng chỉ Sư mà nói với mọi người: "Đó là mô dạng hành khất của người hậu học".

Sư đến tham Thiền sư Trí Hiền ở Bắc thiền. Thiền sư Trí Hiền hỏi: "Ông sắp xa lìa xứ nào?' Sư đáp: "Phước nghiêm". Thiền sư Trí Hiền bảo: "Nghĩ lỗ mũi lớn dài ít nhiều?" Sư đáp: "Cùng đồng như Hòa thượng thời bấy giờ thấy đến". Thiền sư Trí Hiền bảo: "Ông thử nói Lão Tăng lúc thấy đó lớn bao nhiêu?" Sư đáp: "Hòa thượng lớn tợ như chưa từng đến Phước nghiêm". Thiền sư Trí Hiền cười, bảo: "Cái hàng học nói?" Lại hỏi: "Lúc lại, Đại sư Mã có khỏe không?" Sư đáp: "Khỏe". Lại hỏi: "Nói với ông điều gì?" Sư đáp: "Khiến Bắc thiền chớ loạn tất cả". Thiền sư Trí Hiền bảo: "Nghĩ ông mới đến nên chẳng muốn đánh ông". Sư nói: "Ỷ Ngộ cũng buông tha qua cho Hòa thượng". Sau khi tan cuộc, Thiền sư Trí Hiền lại hỏi: "Làng xóm ông là gì?" Sư đáp: "Chương châu". Lại hỏi: "Tam bình ở kia làm việc gì?" Sư đáp: "Nói Thiền nói Đạo". Lại hỏi: "Ông tuổi bao nhiêu?" Sư đáp: "Đồng tuổi với sương móc cột trụ". Lại hỏi: "Có sương móc cột trụ thì đồng tuổi, không sương móc cột trụ thì tuổi ít nhiều?" Sư đáp: "Không sương móc cột trụ, một tuổi cũng chẳng ít". Thiền sư Trí Hiền bảo: "Nửa đêm thả gà quạ". Nhân lời nói đó mà Sư lộn ngược tâm và phụng thờ Thiền sư Trí Hiền.

Về sau, vân du đến Tây sơn, trông nhìn song Lãnh sâu xa, Sư bèn dừng ở đó ba năm, cùng với Thượng tọa Anh Thiệu Võ Thắng vân du. Đáp lại sự thỉnh mời của Pháp xướng, lúc giả biệt nhau, Sư nói: "Ba năm chạm đầu không việc gì chẳng biết, kiểm điểm tương lai không gì chẳng rỉ hỏng". Sư nắm chiếc gậy họa vẽ một đường, bảo: "Cái ấy tạm dừng, còn việc Tông phong làm sao sống?" Thượng tọa Anh Thiệu nói: "Đem núi Tu-di đặt để trong lỗ mũi". Sư bảo: "Đến gần bờ trông nhìn khóe mắt, đặt đất một trường sầu". Thượng tọa

Anh Thiệu nói: "Cát sâu gắng sức tròng mắt". Sư bảo: "Tranh gì Thánh phàm không khác lối, phương tiện có nhiều môn". Thượng tọa Anh Thiệu nói: "Rắn sắt khóa chẳng vào". Sư bảo: "rất có nơi cùng nói: "Thượng tọa Anh Thiệu nói: "Tự duyên căn lực cạn, chớ oán mặt trời xuân". Và liền họa vẽ một đường, nói: "Tông phong thả tạm dừng. Cái việc ấy làm sao sống?" Sư liền cho một bàn tay. Thượng tọa Anh Thiệu ước dừng, nói: "Gả Chương Châu chớ không đi đến". Sư bảo: "Người làm cái thấy biết ấy, không đánh thì đợi đến lúc nào?" Sư lại cho một bàn tay. Thượng tọa Anh Thiệu nói: "Cũng là ta đến được, Pháp xướng tại phía Bắc Phần ninh. Ngàn núi muôn hang phòng nhà xưa vài gian".

Sư đến nhóm lửa cày ở An lạc, lúc Nạp tự có người đến, đều chẳng kham nhận sự khô khan đạm bạc ấy, ngồi đây thành một Đinh lẻ. Ngày khai lò, Sư nắm một cây dao khua trống, ngồi giữa thềm, Sư bảo: "Ngày nay pháp xướng mở lò, hành khất Tăng không một cái, chỉ có mười tám cao nhân ngậm miệng ngồi vây quanh lò đả tọa, chẳng là khuôn phép nghiêm ngặt khó khỏi thấy câu thoại của các người rơi lạc. Ngay như nhiều miệng tợ như quả cân chưa khỏi đèn lồng khám phá. Chẳng biết đạo dứt tuyệt công luân uổng dùng tu nhân chứng quả". Sư hét một tiếng, rồi bảo tiếp: "Tỳ-da ngậm miệng bắt chước Tông thừa, non Thứu niêm hoa, phiên thành thuốc độc, chín năm ngồi xoay mặt vách tường độn đặt viên Tông, nửa đêm truyền y khinh thường kia hậu học. Mã Tổ cho là tức tâm là Phật lớn tợ giữ gốc cây đợi thỏ, Bàn sơn cho là chẳng phải tâm chẳng phải Phật, có thể gọi là hòa bùn hợp nước. Những sự thấy như thế đều là bại hoại Tông phong tổ ấn diệt hủy chủng tộc, thừa tiếp hư hưởng, lừa dối Thánh hiền, hậu học không tội gặp phải chỉ dừng ấy. Nếu luận bàn về việc ấy thì chư Phật chẳng từng xuất hiện nơi đời, cũng không một pháp cho người. Tổ sư Đạt-ma chẳng từ Tây vức lại. Nhị Tổ không được cốt tủy, thẳng được phong hóa Hoàng vương, mênh mông khúc hát lão già miền quê. Tâm không chỗ cậy, hạnh chẳng nơi nương. Nghe Thiền và đạo tợ như gặp gỡ oan gia, nói sắc và tâm tợ hồ gặp hổ dữ. Pháp Xướng về sau cho ngươi hái rau lá đồng hoang, giả lúa gạo làm cơm hòa la, nấu canh cốt đổng, đói liền ăn, mệt liền ngủ, chẳng do các ngôi vị mà tự sùng cao, chẳng học ba thừa lập giờ giấc ăn".

Có Thiền sư Khoan ở Đại ninh đến, Sư họa vẽ nơi đất hình tướng con trâu (?) và kéo chiếc vạc ra. Ngày hôm sau chưa lên thềm ngồi, Sư nói cùng Thiền sư Khoan rằng: "Công án ngày qua như thế nào?" Thiền sư Khoan cũng họa vẽ hình tướng con trâu (?) ấy và liền vụt buông đó. Sư bảo: "Thiền sư Khoan thiền đầu gọi xuống không dối người". Lên bệ thềm ngồi, Sư bảo: "Bỗng nhiên đất tạnh, giữa trời sấm sét nổ vang, võ môn ba cấp sóng tung cao, có bao nhiêu đầu sừng làm rồng đi, cua tôm gắng sức tròng mắt". Lại có Thiền sư Nam đến, Sư vừa mới trồng tùng, Thiền sư Nam hỏi: "Viện nhỏ trồng nhiều tùng làm gì?" Sư đáp: "Lâm Tế nói đến". Lại hỏi: "Trồng được ít nhiều?" Sư đáp: "Chỉ thấy Quyến khóc, hạc đêm bay vút lướt mây". Thiền sư Nam chỉ vào đá và hỏi: "Trong đó cớ sao chẳng trồng?" Sư đáp: "Công không lãng phí". Thiền sư Nam nói: "Cũng biết nơi không hạ thủ". Sư liền chỉ cây tùng trên đá và bảo: "Từ xứ nào mà được lại đây?" Thiền sư Nam cười, nói:

"Trời xanh! Trời xanh!" mới làm bài kệ tụng rằng:

"Đầu đội khăn hoa liều Thiếu thất

Tay dẫn mãn chiếu ra Trường an Dưới núi Thứu phong lại cùng gặp Lỗ mũi vốn là một loại thôi".

Và lại họa vẽ tướng tròn mà chỉ bày đó, Sư bảo:

"Hồ lô trên gác ném bí dưa

Trong đống nước gạo câu được tôm

Ai ở lầu họa nơi bán rượu

Cùng mời lại uống trà Triệu châu".

Và Sư lại vẽ tướng mà đáp đó. Thiền sư Nam nói:

"Trâu sắt cân đối sừng vàng ròng

Ngửa gỗ cặp cặp móng ngọc trắng

Vì mến Tuyết sơn hương cỏ mịn

Đêm khuya nương trăng sang Tiền

Hán".

Lại họa vẽ hình tướng mà nêu bày đó. Sư nói: "Vảy ngọc mang trăng lìa đêm Hán

Phùng vàng ngậm hoa xuống Thái lâu Già quê chẳng hiềm công tử say

Cùng dẫn tay nhau đi đường vua".

Và Sư họa vẽ hình tướng mà đáp đó.

Sư lại cùng Thiền sư Nam nêu trình câu thoại của Đại Khanh nhìn duyên sinh. Sư hỏi: "Hòa thượng sao chẳng ngay đó cùng kia hớt lấy dứt tuyệt đi?' Thiền sư Nam đáp: "Cũng từng làm rắn họa chân lại, là kia chẳng tự liếc nhìn đất". Sư hỏi: "Cớ sao Hòa thượng làm vậy?" Thiền sư Nam đáp: "Ăn hết gừng sống uống hết giấm". Sư bảo: "Lưu tục sao Sư lại đi vậy?" Thiền sư Nam đáp: "Hòa thượng làm sao sống?" Sư liền nắm phất trần mà đánh. Thiền sư Nam nói: "Gã già này cũng là không tình người". Lúc bấy giờ Thiền sư Nam là người rất được các chốn Tùng lâm trong thiên hạ tôn sùng, mà Sư cùng Thiền sư Nam xướng đáp như giao bạn, nên một lúc các hàng hào kiệt phần nhiều đều quy hướng.

Từ Công Hy ở Long hồ lúc đang mặc áo vải cùng Sư qua lại giao du làm pháp hỷ. Trước lúc thị tịch một ngày, Sư có làm kệ tụng dặn dò lại rằng:

"Năm nay bảy mươi bảy (77)

Ra đi phải chọn ngày

Đêm qua hỏi quy ca Báo sáng ngày này tốt".

Từ Công Hy đọc xem kệ mà rung động, mời Thiền sư ở Linh nguyên đồng sang, thì Sư mới ngồi trong phòng ngủ, dặn dò Tri sự về mọi việc trong viện rằng: "Tôi ở tại núi này suốt hai mươi hai năm, giữ gìn quý trọng mọi vật của Thường trú, thường tự khóc đó, ngày nay ra đi, các ông phải mang giữ tinh thể". Nói xong, Sư lại nâng chiếc gậy mà hỏi: "hãy nói cái này phân giao cho ai?" Từ Công Hy và Thiền sư Thạnh đều ngưng nói hơi thở. Sư bèn ném chiếc gậy, nằm xuống giường, gối đầu lên cánh tay mà tịch.

3. Thiền sư Trạch Yếu ở Quảng nhân.

Thiền sư Trạch Yếu ở Quảng nhân tại Phước châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Vua đến ngôi báu, Hán Hồ đều đồng một phong hỏa. Một nửa cốt yếu phá ba điện Phật đổ ghế ẩn tàng thân; câu này tức khỏi hỏi. Vậy các ông làm sao thấu suốt rút ra một chữ mà sống được? Nói". Và Sư nắm cây gậy lên, bảo: "Gió xuân mở cửa trúc, đêm mưa giọt tim hoa". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Người xưa nói: "Chỉ sợ làm Tăng mà tâm chẳng rõ suốt. Làm Tăng làm tâm rõ suốt, tất cả đều là Luân Tăng". Vậy thế nào là các Thượng nhân rõ suốt đến tâm?" Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Ngư ông ngủ gặp xuân đầm thoáng rộng, chim trắng chẳng bay thuyền tự xoay". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Trường an phía Đông, Lạc dương phía Tây". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Cây trám Phước châu hai đầu nhọn". Lại hỏi: "Lúc Đức Phật chưa xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Mỏm núi hiểm nguy bên cạnh hang". Lại hỏi: "sau khi Đức Phật đã xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp:

"Phía trước núi, phía sau cũng núi".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THIỆN XIÊM Ở KHAI TIÊN.

1. Thiền sư Liễu Nguyên ở Vân cư.

Thiền sư Liễu Nguyên-Phật Ấn ở Vân cư tại Nam khương quân, vốn người dòng họ Lâm ở Phù lương thuộc Nhiêu châu. Lúc Sư chào đời có ánh sáng tốt lành soi chiếu lên. Râu tóc móng răng thảy đều đầy đủ, phong cốt sáng rỡ khác hẳn các trẻ nhỏ thường, mở miệng thành văn chương, nói năng hợp với kinh sử, nên các Tiên sinh trong xóm làng xưng gọi là "Thần đồng", gần đến tuổi búi tóc, Sư rộng các kinh điển sử sách, xem qua chẳng cần đọc lại, thấu suốt tất cả cổ kim, tài năng tư duy xa vợi, phong vận vượt cao. Chí ý mến mộ không Tông nên Sư tìm thầy xuất gia học đạo, thi kinh tròn đủ, cảm ngộ tu tập xưa trước, sư bèn vân du khắp cùng tham tầm gieo có ở nơi pháp tịch Thiền sư Thiện Xiêm tại Khai tiên, về sau Sư ra thành bậc Tông tượng, ngồi chín Đạo tràng, bốn chúng thảy đều dốc lòng quy hướng. Tiếng tăm vang đồn khắp triều đình đến thôn dã, vua Thần Tông (Triệu Húc 1068-1086) ban thưởng áo Nạp bát vàng cao để tán dương đức hạnh của Sư.

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Lạnh lạnh gió lay trúc tiếng khô, nước đóng cá bơi lội rít rưới, rừng thưa chim khó nghỉ đêm, sáng sớm sương dày nhiều lớp, nào kham hành khách mặc áo đơn, tốt lành nghĩ ngợi bờ núi sắc tía ngàn đóa, tạm nâng một lò lửa hồng buông xuống thù du cọc tre giữa khoảng không, ngã ngay cán sát trước cửa Ca-diếp. Ngay đó lại bảo chẳng hiểu tính lại rất không manh mối. Tham!"

Một ngày nọ, Sư dẫn học chúng vào thấu lần lượt, vừa lúc Cư sĩ Đông Pha đến trước mặt, Sư liền hỏi: "Nơi đây không giường ghế, Cư sĩ đến đây làm gì?" Đông Pha nói: "Tạm mượn tấm thân tứ đại của Phật Ấn để làm giường ngồi". Sư bảo: "Sơn Tăng có một câu hỏi, nếu Cư sĩ nói được thì xin cứ ngồi, còn nói không được tức Sơn Tăng lấy đai ngọc dưới eo của Cư sĩ". Đông Pha vui vẻ tự nhiên nói: "Xin Sư cứ hỏi!" Sư bảo: "Cư sĩ vừa lại nói là tạm mượn tấm thân tứ đại của Sơn Tăng để làm giường ngồi. Nếu như Sơn Tăng đây tứ Đại vốn không ngữ ấm chẳng thật có thì Cư sĩ ngồi nơi nào?" Đông Pha không đáp được, bèn cởi mở đai ngọc để lại, và Sư cũng tặng cho Đông Pha chiếc áo nạp Vân sơn. Đông Pha mới làm bài kệ rằng:

"Trăm ngàn đèn làm một đèn sáng

Đều là Hằng sa Diệu pháp vương

Cho nên Đông Pha không dám tiếc

Mượn thân Tứ đại ông làm giường

Cốt bệnh khó kham đai ngọc rịt

Độn căn mới rơi tên bén nhọn

Hiểu đáng xin ăn ca phi viện

Đoạt được Vân sơn áo nạp xưa

Đai đây xem người như nhà trọ

Lưu truyền đến ta cũng chợt thay Áo gấm lầm rơi còn tương xứng Xin cùng rồi dại lão muôn hồi".

2. Thiền sư Bản Dật ở Trí hải.

Thiền sư Bản Dật-Chánh giác ở Trí hải tại Đông kinh, vốn người dòng họ Bành ở Phước châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mở miệng phải, ngậm miệng phải, dưới mắt không phòng ngại dính mũi. Mở miệng sai ngậm miệng sai, mắt cùng lỗ mũi đều nắm lấy. Phật cũng đánh, Tổ cũng đánh, trước mặt chân nhân chẳng nói giả, Phật cũng an Tổ củng an, da dẻ nạp Tăng tợ biển rộng. Đây mới một ra một vào nửa ngậm nửa mở, là sự dụng đến bình thường của Sơn Tăng, dám hỏi cùng chư vị Thiền đức; sát can nhân gì đầu chỉ trời? Lực sĩ cớ sao xăn nắm tay?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Tham".

Lại một ngày nọ lên giảng đường, nắm cây gậy chống, Sư bảo: "Cây gậy chống này tại trời thì cùng Nhật nguyệt đều sáng, tại đất thì cùng núi sông đồng bền chắc, tại vương hầu dùng thay Bồ tiên, tại muôn dân thì phòng thân ngăn cản xấu ác, tại Nạp Tăng thì họa vẽ ngang trên vai qua nước xuyên mây, đếm ngủ nơi quán trọ chống nhà đổ cửa. Vậy hãy nói tại trong tay Sơn Tăng thì dùng để làm gì? Cần hiểu ư? Có lúc thả bộ lên Đồng hồ cùng Tăng xa chỉ núi mây xanh". Rồi Sư bèn chống vào Thiền sàng mà xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhớ được Lão Tăng lúc bảy tuổi, tại trường học trong thôn có được một pháp môn vượt tình lìa kiến tuyệt diệu tuyệt huyền, bèn tự nhiễm thần qua sáu mươi năm, ngày nay mới đem ra bảo cùng đại chúng, nếu muốn truyền trì cầu nên lắng nghe kỹ". Và Sư bèn bảo: "Đồng lạnh cày cấy xong, dẫn trâu mang củi về, đêm nay một lò lửa, vỏn vẹn áo trên thân. Này chư vị Thiền đức, gặp người không được lộ bày". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ta có một cái này, mọi người nhai trong miệng, nếu nhai nát được may phải nhả ra, còn nhai không nát được vụt nhiên sẽ biến thành thuốc độc. Mới mời gọi cùng chư vị Thiền đức ấy làm thành vị gì? Thử nói xem?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Thầy thuốc chẳng là nghĩa vô phương, ngàn dặm sống hương tượng chẳng lui".

3. Thiền sư Nguyên Sơ ở Thiên đồng.

Thiền sư Nguyên Sơ-Bảo nguyệt ở Thiên đồng tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Một năm có ba trăm sáu mươi ngày". Lại hỏi: "Tiện gì lúc hiểu thì thế nào?" Sư đáp: "Vời vợi mười vạn chẳng là xa". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trống đánh sai lạc, sắc núi cao vời, vốn đã chẳng có, nơi nào được lại?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Cao dính mắt".

4. Thiền sư Thiện Sảng ở Vạn sam.

Thiền sư Thiện Sảng ở Vạn sam tại Lô sơn. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh vạn sam?" Sư đáp: "Dưới vạn gốc sam, trúc ngàn tầm". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Lão Tăng xoa tay đối Xà-lê". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý Phật pháp, xin Sư chỉ bày?" Sư đáp: "Côn lôn đầu đội Hoa sơn nhọn". Và Sư mới bảo: "Xưa tức là nay, nay tức là xưa, nhà nhà dưới cửa có các Tổ, Văn Thù hiện bày khắp núi sông. Từ khi ấy mọi người chẳng ngộ. Đại chúng hãy nói: "Ngộ cái gì?" Và Sư hét một tiếng. Đến chiều đó cùng tham, Thị giả trao phất trần qua sư, Sư bảo: "Xưa kia Bách Trượng nhân nắm lấy liền ngộ, mới biết nấu hồ là làm bún. Thiền nhân đến đây chẳng thương lượng, bèn nói Tăng đường đối bếp kho". Sư lại bảo: "Kinh có kinh sư, Luận có luận sư, Luật có luật sư, dạy Lão Tăng nói gì?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Mùa xuân khổ khổ về nhà đánh ngủ".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ SƠ TÀI Ở HÒA SƠN TẠI LÔ LĂNG.

1. Thiền sư Hùng ở Tào sơn.

Thiền sư Hùng ở Bảo tích tại Tào sơn thuộc Phủ châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Trời lạnh, mèo không bắt chuột". Lại hỏi: "Mỗi một mảy bụi một cõi Phật, mỗi một đài cành là một Đức Thích-ca. Vậy người học làm sao đặt chân xuống đất?" Sư đáp: "Đại địa, cỏ mọc tràn". Vị Tăng ấy nói: "Xin cảm tạ Sư đã đáp cho câu thoại". Sư bảo: "Người mắt sáng khó mờ". Vị Tăng ấy nói: "Đại chúng đồng một lúc ghi nhờ lấy". Sư bảo: "Ngày nay Tào sơn mất lợi". Lại hỏi: "Pháp lôi một khi đã khua vang chấn động, làm sao hành lệnh?" Sư đáp: "Gió trong lành chẳng hiểu ý nhà nông, thôi tan mây trắng khêu loạn bay". Lại hỏi: "Người học có nơi an thân lập mạng không?" Sư đáp: "Cẳng chân đạp bước trên đất thật". Và Sư mới bảo: "Khéo ứng khắp các phương muôn cơ đều nhóm họp cùng gặp thấy, vấn đề ấy khỏi phải hỏi. Còn, khi các người nắm thìa cầm đưa vì sao nói không được?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Ngày nay Tào sơn mất lợi". Và Sư lại bảo: "Núi chẳng xanh, nước chẳng biếc, Nam Bắc Đông Tây không đặt chân xuống, mây trắng từng mãnh bay đầu non, đêm về tức vào Lô hoa ngủ". Và có lúc Sư lại bảo: "Ngàn sông đua nhóm muôn mạch đồng nguồn, Trăng báu lên cao tỏa sáng khắp cùng sa giới, núi sống đất liền sáng tối tự khác nhau. Trong đó chớ có nói năng dứt tuyệt, hộp đậy tương ưng đến nạp Tăng ư? Ra lại cùng Tào sơn đồng thấy". Khi ấy có vị Tăng mới ra đảnh lễ lần lượt, Sư bảo: "Đại chúng ghi lấy câu thoại đầu".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGỘ CẦN Ở KHÂM SƠN.

1. Thiền sư Viên Ứng ở Lương sơn.

Thiền sư Viên Ứng (Ứng Viên) ở Lương sơn tại Đảnh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đàm nói vượt Phật vượt Tổ?" Sư đáp: "Ăn cháo ăn cơm".

QUYỂN 6

MỤC LỤC

Đời thứ mười một, dưới Thiền sư Đại Giám.

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Huyền ở Đại dương có hai mươi lăm vị:

1. Thiền sư Nghĩa ở Đầu tử

2. Thiền sư Phẩu ở Hưng dương

3. Thiền sư Thẩm Thừa ở Phước nghiêm

4. Thiền sư Hiển Như ở La phù

5. Thiền sư Quy Hỷ ở Bạch mã

6. Thiền sư Tuệ ở Đại dương

7. Thiền sư Linh Vận ở Vân môn

8. Thiền sư Hải Bằng ở Vân đảnh

9. Thiền sư Cơ Thông ở Càn minh (chín vị trên hiện có ghi lục)

10. Thiền sư Hải ở Tứ tổ

11. Thiền sư Thừa ở Tư phước

12. Thiền sư Đạo Tề ở Giác thành

13. Thiền sư Viễn ở La phù

14. Thiền sư Tồn ở Động sơn

15 Thiền sư Bảo Ấn ở Vân môn

16 Thiền sư Tuệ Không ở Thái bình

17 Thiền sư Diên Phước ở An châu

18 Thiền sư Hiền ở Phước nghiêm

19. Thiền sư Tông ở Thừa thiên

20. Thiền sư Long ở Phương quảng

21. Thiền sư Trí Thông ở Sùng thắng

22. Thiền sư Xử Nhân ở Tứ tổ

23. Thiền sư Kỳ ở Đại dương

24. Thiền sư Quy Xuân ở Bạch mã

25. Thiền sư Vương Thự ở Hối thúc (mười sáu vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hiển ở Tuyết đậu có tám mươi bốn vị:

1. Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên y

2. Thiền sư Tỉnh Tông ở Xứng tâm

3. Thiền sư Truyền Tông ở Thừa thiên

4. Thiền sư Nhật Thận ở Nam minh

5. Thiền sư Pháp Tông ở Đầu tử

6. Thiền sư Uẩn Quán ở Bảo tướng

7. Thiền sư Hiển Thăng ở Quân sơn

8. Điển tòa Tuệ Kim ở Động đình

9. Cư sĩ Tằng Hội ở Tu tuyển

10. Thiền sư Hữu Lan ở Báo bản

11. Thiền sư Trí Phước ở Trường lô

12 Thiền sư Tuệ Viên ở Động sơn

13 Thiền sư Tư ở Hương tích

14 Thiền sư Tử Hoàn ở Bảo khánh

15 Thiền sư Tại Hòa ở Thiên y

16. Thiền sư Thủ Minh ở Xứng tâm

17. Thiền sư Trọng Khanh ở Phụng thê

18. Thiền sư Đức Sơ ở Linh nham

19. Thiền sư Trí Tuyền ở Long hưng

20. Thiền sư Tắc ở Càn minh

21. Thiền sư Tri Ứng ở Càn minh

22. Thủ tòa Nguyên Ích ở Vân phong (hai mươi hai vị trên hiện có ghi lục)

23. Thiền sư Tông ở An Quốc

24. Thiền sư Nguyên Sơ ở Vĩnh an

25. Thiền sư Diễn ở Xứng tâm

26. Thiền sư Thủ Hoàn ở Chứng Thánh

27. Thiền sư Thủ Ân ở Thang viện 28. Thiền sư Cảnh Tiên ở Quảng giáo.

29. Thiền sư Hiền ở Đông thiền

30. Thiền sư Đức Long ở Thượng sơn

31. Thiền sư Đức Thiên ở Hóa thành

32. Thiền sư Dụng Thư ở Quảng tuệ

33. Thiền sư Duy Chính ở Nhân thắng

34. Thiền sư Triệu ở Tư phước

35. Thiền sư Đức Tuyên ở Bạch vân

36. Thiền sư Đạo Mãn ở Hưng nguyên

37 Thiền sư Động Nguyên ở Thừa thiên

38 Thiền sư Hiển Xung ở Lộc uyển

39 Thiền sư Tri Nhất ở Tiến phước

40 Thiền sư Tông Thiện ở Nhạc lâm

41. Thiền sư Tuệ Chiếu ở Vạn thọ

42. Thiền sư Trạch Chi ở Hải hội

43. Thiền sư Tự Chính ở Diệu quả

44. Thiền sư Thuần ở Sơ sơn

45. Thiền sư Ứng ở Đức sơn

46. Thiền sư Quân ở Quân sơn

47. Thiền sư Văn Chính ở Nam nhạc

48. Thiền sư Chí Tuyên ở Khải hà

49. Thiền sư Mông ở La sơn

50. Thiền sư Thường ở Địa tạng

51. Thiền sư Nhã ở Chân như

52. Thiền sư Sùng ở Phụng đài

53. Thiền sư cung ở Dược sơn

54. Thiền sư Hãn ở Tây thiền

55. Thiền sư Chính ở Báo ân

56. Thiền sư Hy Bạch ở Ngọc trì

57. Thiền sư Hoan ở Bảo tướng

58. Thiền sư Nghị ở Vân môn

59. Thiền sư Hiển ở Hoành kim

60. Thiền sư Nguyên Độ ở Vân nham

61. Thiền sư Đức ở Vạn thọ

62. Thiền sư Nghi Liêm ở Hộ quốc

63 Thiền sư Trùng Cáo ở Bạch vân

64 Thiền sư Nghĩa Thân ở Tịnh độ

65 Thiền sư Lợi Chân ở Đại giác

66 Thiền sư Duy Đức ở Hộ quốc

67. Thiền sư Trọng Hoa ở Thiên Thánh

68. Thiền sư Khả ở Tiến phước

69. Thiền sư Phổ ở Thúy phong

70. Thiền sư Lợi Chương ở Thiên đồng

71. Thiền sư Thùy Tắc ở Diệu quả

72. Thiền sư Giác ở Long hoa

73. Thiền sư Đức Cơ ở Hộ quốc

74. Thiền sư Tông Bí ở Báo ân

75. Thiền sư Khả Khái ở Kiến phước

76. Thiền sư Tụ ở Tây phương

77. Thiền sư Tỉnh Tông ở Tuyết đậu

78. Thiền sư Hiểu ở Đại thừa

79. Thiền sư Sùng Phạm ở Khải hà

80. Thiền sư Hoài Tú ở Trượng tích

81. Thiền sư Đạo Năng ở Báo ân

82. Thiền sư Tông Phác ở Bạch y

83. Thiền sư Trí Hoa ở Bạch y

84. Thiền sư Thụy Vân ở Thủy lục (sáu mươi hai vị không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Bảo Nguyệt-Trí Anh ở Bách trượng có hai vị:

1. Thiền sư Hoài Trừng ở Huệ nhân

2. Thiền sư Nghĩa Ninh ở Huệ nhân (hai vị trên hiện có ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Bảo Duyên ở Nam hoa có mười bốn vị.

1. Thiền sư Diên Khánh ở Hưng hóa

2. Thiền sư Hạnh Đức ở Bảo thọ

3. Thiền sư Thủ Thăng ở Bạch hổ

4. Thiền sư Sùng Khâm ở Phật-đà

5. Thiền sư Pháp Nghinh ở Diên tường

6. Thiền sư Tuệ Bảo ở Thuấn phong (sáu vị trên hiện có ghi lục)

7. Thiền sư Tự Duyên ở Cam lồ

8. Thiền sư Tông Bảo ở Vĩnh thái

9. Thiền sư Pháp Sùng ở Song phong

10. Thiền sư Hải Nguyệt ở Bảo lâm

11. Thiền sư Hiển ở La-hán

12. Thiền sư Trí Tỉnh ở tòa

13. Thiền sư Văn Bạch ở Ông sơn

14. Thiền sư Pháp Mâu ở Diên thọ

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Kế Bằng ở Vân cái, có bốn vị:

1. Thiền sư Nhân ở Báo ân (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Chân ở Pháp luân

3. Thiền sư An ở Bạch hà

4. Thủ tòa Phục ở Lâm ấn (ba vị trên không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tử Vinh ở Động sơn. Có hai vị:

1. Thiền sư Cư Nột ở Viên thông (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Pháp Châu ở Diên khánh (hiện không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HUYỀN Ở ĐẠI DƯƠNG

1. Thiền sư Nghĩa ở Đầu tử.

Thiền sư Nghĩa ở núi Đầu tử tại Thư châu, vốn dòng họ Lý ở xã. Năm bảy tuổi, Sư thông minh dĩnh ngộ khác lạ, sang chùa Diệu tướng cầu xin xuất gia, thử khảo kinh Pháp mà được độ. Sư tập học luận Bách Pháp, sau đó không bao lâu, Sư tự than rằng: Ba A-tăng-kỳ kiếp đường dài tự khốn khổ đâu có ích gì? "Mới vào Lạc thành nghe giảng kinh Hoa Nghiêm, thấu hiểu nghĩa như xâu xỏ chuỗi châu ngọc. Sư từng đọc kệ tụng của Bồ-tát Gia Lâm, đến câu "tức tâm tự tánh", mạnh dạng Sư tự tỉnh biết mà nói là: "Pháp lìa văn tự, sao có thể giảng ư?" Và Sư liền vất bỏ, vân du đến tông tịch. Bấy giờ Thiền sư Viên Giám đang ở tại hang núi Hội Thánh, một đêm nọ mộng thấy nuôi được con chim ưng sắc xanh, lấy đó làm điềm ứng tốt lành, vừa đến lúc sáng sớm thì Sư đến nơi, Thiền sư Viên Giám lễ tiếp mời ở. Bảo Sư khán ngoại đạo hỏi Phật không hỏi có nói không hỏi không nói Ấn Độ.

Trải qua ba năm, một ngày nọ Thiền sư Viên Giám hỏi: "Ông nhớ được câu thoại đầu ư? Thử nêu cử xem?" Sư phỏng nghĩ sắp đối đáp, Thiền sư Viên Giám liền bịt miệng Sư, Sư vụt nhiên khai ngộ bèn lễ bái. Thiền sư Viên Giám lại hỏi: "Ông khéo ngộ Huyền cơ ư?" Sư đáp: "Nếu như có, tức nhả liền". Khi ấy Thị giả tự đứng bên cạnh nói: "Hoa xanh nghiêm ngày nay như bệnh được toát mồ hôi". Sư liền xoay nhìn lại đó bảo: "Ngậm lấy miệng chó, nếu cứ đau đáu tức ta liền mửa". Từ đó lại trải qua ba năm nữa. Lúc Thiền sư Viên Giám ra động hạ Tông chỉ mà chỉ dạy đó, Sư thảy đều khế hợp, Thiền sư Viên Giám bèn đem đảnh tướng Đại dương, giày da, áo trực chuyết ban tặng mà phó chúc rằng: "Hãy thay ta tiếp tục Tông phong này, không bao lâu sẽ ứ trệ nơi đây, hãy khéo nên hộ trì". Mới biết kệ tụng đưa cho rằng:

"Tu-di giữa Thái hư

Nhật nguyệt nương nhau xoay

Các núi tạm tựa kia

Mây trắng mới biến đổi

Thiếu lâm gió nỗi nhiều

Tào Khê rèm động cuộn Kim phụng ngủ ổ rồng Thần đài đâu xe nghiến".

Và bảo Sư đến nương tựa Thiền sư Tú ở Viên thông. Sư đến đó không tham vấn gì, chỉ ăn ngủ mà thôi, vị Tăng trông coi mọi việc của chùa thưa cùng Thiền sư Thông rằng: "Trong Tăng đường có vi Tăng ngủ cả ngày, phải nên hành xử theo quy pháp". Thiền sư Thông hỏi: "Người đó là ai?" Vị Tăng ấy đáp: "Thượng tọa Nghĩa ". Thiền sư Thông bảo: "Chưa thể, hãy đợi ta xét qua". Và Thiền sư Thông bèn kéo chiếc gậy bước vào tăng đường, thấy Sư đang ngủ, mới đánh gõ vào giường quở trách rằng: "Tôi đây không rảnh để ăn cơm, còn Thượng tọa ăn xong bèn ngủ là sao?" Sư hỏi: "Hòa thượng dạy tôi làm gì?" Thiền sư Thông bảo: "Sao chẳng tham thiền?" Sư đáp: "Thức ăn ngon chẳng trúng với người no ăn". Thiền sư Thông bảo: "Tránh sao được có người chẳng chấp nhận Thượng tọa!" Sư thưa: "Đợi chấp thuận kham làm gì?" Thiền sư Thông hỏi: "Thượng tọa từng thấy người nào lại?" Sư đáp: "Phù sơn". Thiền sư Thông bảo: "Quái lạ gì ngu dốt". Bèn nắm tay cùng cười mà trở về phương trượng. Từ đó tiếng tăm đạo hạnh của Sư vang vọng rất lắm.

Mời đầu, Sư ở tại Bạch vân, sau chuyển dời đến núi Đầu tử. Lúc lên giảng đường, Sư vời gọi đại chúng nhóm tập mà bảo: "Nếu luận bàn việc nay như loan phụng vút bay giữa trời xanh không lưu lại dấu vết. Linh dương treo móc sừng đâu có tìm tông tích. Rồng vàng chẳng giữ nơi đầm lạnh, thỏ ngọc đấu gá ở bóng trăng? Trong hoặc chủ khách phân lập, phải ngoài đời Đức Phật Oai Âm Vương lay đầu hỏi đáp nói bày, men bên cạnh đường huyền dẫn vì đề xướng, nếu có khả năng như vậy vẫn còn ở nửa đường. Nếu lại ngưng trừng mắt, chẳng nhọc cùng thấy". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu nêu cử Tông thừa, Thánh phàm đều tuyệt dấu vết, lầu các mở cửa, nhà riêng cùng thấy. Giả sử cuộn rèm tỏ ngộ đâu khỏi bị bàn quan, mùa xuân gặp hoa đào lại tăng thêm bệnh ngủ. Do đó, người xưa nói "một đường hướng thượng, ngàn Thánh chẳng lưu truyền". Cùng các nhân giả! Đã là chẳng lưu truyền làm sao trâu sắt chạy qua trong nước Tân La?" Sư bèn hét một tiếng, bảo: "Các hàng Đạt giả phải biết kinh sợ trong mờ tối". Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hạt khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Trước Phật Oai Âm Vương một mũi tên bắn thấu hai lớp núi". Lại hỏi: "Thế nào là việc tương truyền đến cùng?' Sư đáp: "Toàn nhân trăng đất Hoài, soi chiếu xuân Dĩnh dương". Lại hỏi: "Thế nào là vào nước thấy thân hình người dài?" Sư đáp: "Chỉ biết ngọc kinh khác, đâu rõ tâm vua Sở". Vị Tăng ấy bèn lễ bái.

Sư nắm lấy phất trần mà đánh đó. Sư lại bảo: "Vậy còn có ai hỏi câu thoại nữa chăng? Nếu như không đây kia thì tiện vậy". Có người hỏi: "Hòa thượng vừa lại niêm hương chúc Thánh thọ, vậy hãy tạm nói năm nay có được ít nhiều?" Sư đáp: "Trăng lồng đan quế xa, sao củng Bắc thần cao". Lại hỏi: "Nam sơn vụt thẳng ngang thiên thọ, Đông hải sóng lớn sánh phước nguyên là thế nào?" Sư đáp: "Hai chim phụng chầu cung vàng, tùng xanh xưa cũ vút vận cao". Lại hỏi: "Thánh thọ đã nhờ Sư chỉ bày việc trị hóa đất trời như thế nào?" Sư đáp: "Chẳng như ngậm miệng rút lui, tức là báo đáp ân vua".

Đến lúc sắp tịch, Sư viết kệ để lại rằng:

"Trú trì hai nơi

Không giúp gì đạo

Trân trọng các người Chẳng phải tìm xét".

Xong, Sư ném bút và liền thị tịch. Lúc trà tỳ có lắm điều linh dị không thể diễn nói hết. Có được xá-lợi năm sắc và linh cốt, dựng tháp an táng tại am Tam phong thuộc phía Bắc của chùa.

2. Thiền sư Phẩu ở Hưng dương.

Thiền sư Phẩu ở Hưng dương tại Dĩnh châu. Lúc ở tại Đại dương, Sư làm vườn trồng đậu, tiếp đến trồng dưa, Thiền sư Huyền ở Đại dương hỏi: "Dưa ngọt lúc nào được có chín?" Sư đáp: "Ngày nay đã có chín mùi vậy". Thiền sư Huyền bảo: "Chọn trái ngon ngọt hái đem lại". Sư hỏi: "Cho người nào ăn?" Thiền sư Huyền đáp: "Người không vào vườn". Sư hỏi: "Chưa xét rõ người không vào vườn có ăn không?" Thiền sư Huyền hỏi: "Ngươi lại biết như thế ấy ư" Sư đáp: "Tuy là không biết nhưng không thể không cho". Thiền sư Huyền cười mà bỏ đi.

Ở lâu sau lên giảng đường, Sư bảo: "Đại đạo lý từ Tây vức lưu truyền lại dứt tuyệt trăm phi, trong câu ném có toàn trái với diệu chỉ, chẳng đã mà đã khuất Tổ tông, há huống đau đáu đâu có ích gì? Tuy là như vậy nhưng sự việc không một hướng. Vả lại ở trong cửa xướng giáo thông một tuyến đường, mọi người thương lượng". Có vị Tăng hỏi: "Sa kiệt ra biển, đất trời chấn động, thăm mặt cùng lộ bày việc ấy như thế nào?" Sư bảo: "Kim súy điểu vương đáng vũ trụ, trong ấy ai người lộ bày đầu?" Lại hỏi: "Như gặp lúc lộ bày đầu, lại làm sao sống?" Sư đáp: "Tợ như chim cốt kéo chim cưu ông chẳng tin, đầu lâu nghiệm trước mới biết thật". Lại hỏi: "Thế nào là xoa tay ngang ngực, lùi thân ba bước?" Sư đáp: "Dưới tòa Tu-di quạ rùa con, chớ đợi gặp lại chấm trán xoay". Lại hỏi: "Từ trên các Thánh hướng xứ nào đi?" Sư đáp: "Trăng soi ngàn sông lắng, một đèn đáy biển ngời". Có Trịnh Kim Bộ hỏi: "Hòa thượng bao giờ mới khai đường giảng pháp?" Sư đáp: "Chẳng qua số Tăng kỳ, trước nhật nguyệt chưa sinh".

Sư cảm mắc bệnh, Thiền sư Huyền đến thăm, hỏi: "Đã là tấm thân như bào huyễn, trong bào huyễn thành rõ ràng, nếu không có cái bào huyễn thì Đại sự chẳng do đâu rõ ràng. Nếu muốn Đại sự rõ ràng thì biết lấy cái bào huyễn làm sao sống?" Sư đáp: "Đó còn là việc bên này". Thiền sư Huyền hỏi: "Vậy việc bên kia làm sao sống?" Sư đáp: "Cùng đất mặt nhật soi thấu, đáy biển chẳng trồng hoa". Thiền sư Huyền cười, bảo: "Là ông kinh sợ đó ứ?" Sư quát hét, nói: "Cẩu thả cho tôi quên tức trọn ông".

3. Thiền sư Thẩm Thừa ở Phước nghiêm.

Thiền sư Thẩm Thừa ở Phước nghiêm tại Nam nhạc, làm Thị giả đứng bên cạnh, Thiền sư Huyền lại bảo: "Có một người khắp thân mình rực hồng nằm tại trong rừng gai góc, chung quanh có lửa bao bọc. Nếu lại gần người đó được thì Đại tướng lịch mở. Còn trong lúc đến gần không được thì lấy gì làm chứng cứ?" Sư đáp: "Sáu căn chẳng đủ đầy, bảy thức không hoàn toàn". Thiền sư Huyền bảo: "Ngươi bảo người ấy ra đây, ta cần thấy người ấy". Sư đáp: "Vừa lại, riêng không hai bên tả hữu chỉ đối cùng Hòa thượng". Thiền sư Huyền bảo: "Quan chẳng dung tha châm ngươi". Sư bèn kính lễ.

Về sau, đến nơi Hòa thượng Long ở Hoa nghiêm nêu bày câu thoại trước, Hòa thượng Long bảo: "Lạnh như lông vật, nhỏ như băng tuyết". Có Lý tướng công đặc biệt lên núi hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư chỉ cây Bách trước sân. Tướng công hỏi như vậy đến ba lần. Sư cũng chỉ như vậy ba lần thay lời đáp lại. Tướng công vui vẻ tự nhiên, mới có bài kệ tụng rằng:

"Vào ra giữa mây đầy Thái hư

Xưa nay thật tướng không một trần

Lớp lớp thưa hỏi ý Tổ lại Chỉ chỉ trong sân Bách một cây".

4. Thiền sư Hiển Như ở La phù.

Thiền sư Hiển Như ở núi La phù tại Huệ châu, vốn người xứ Ích châu. Mới đầu, Sư đến nơi Thiền sư Huyền ở Đại dương. Thiền sư Huyền hỏi: "Ông là người xứ nào?" Sư đáp: "Ích châu". Lại hỏi: "Từ đây đến đó cách bao nhiêu dặm?" Sư đáp: "Cách năm mươi dặm". Lại hỏi: "Ngươi cùng ai lại đây từng đạp trải qua đâu chưa?" Sư đáp: Chưa từng đạp trải qua đâu". Lại hỏi: "Người hiểu biết được đằng không ư?" Sư đáp: "Chẳng hiểu biết đằng không". Lại hỏi: "Vậy làm sao đến được trong đó?" Sư đáp: "Từng bước chẳng lầm đường, thông thân không bày chốn". Lại hỏi: " Ngươi đã chứng đắc siêu phương Tam-muội ư?" Sư đáp: "Thánh tâm không thể đắc, Tam-muội há rõ tên". Thiền sư

Huyền bảo: "Đúng vậy! Ông nên tin chắc đó tức bản thể toàn rõ bày, Lý sự không hai, khéo tự gìn giữ".

Ở lâu sau, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh La phù?" Sư đáp: "Đột ngột lấn khoảng trời, vời vợi trốn bờ biển". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Trên đinh mây trắng tan, dưới chân khói đen tỏa".

5. Thiền sư Quy Hỷ ở Bạch mã.

Thiền sư Quy Hỷ ở Bạch mã tại Tương châu. Mới đầu, Sư hỏi Thiền sư Huyền ở Đại dương rằng: "Người học mê mờ, xin Sư chỉ cho một con đường vào?" Thiền sư Huyền đáp: "Được". Ngừng giây lát, Thiền sư Huyền gọi Sư lại. Sư đáp: "Dạ vâng!" Thiền sư Huyền bảo: "Ta đã chỉ cho ông con đường vào rồi đó". Ngay lời nói ấy mà Sư có sự tỉnh ngộ.

Ở lâu sau, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Chó khéo giỏi đeo mang bia". Lại hỏi: "Như rùa ẩn tàng sáu thời là thế nào?" Sư đáp: "Cung tên trong đãy vải". Lại hỏi: "Chẳng hướng về Phật để mong cầu, chẳng hướng về pháp để mong cầu, vậy phải mong cầu ở nơi nào?" Sư đáp: "Người trong thôn quỳ lạy Sư tử đá". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy nát nào?" Sư đáp: "Dưới cây trong xã thiết trai hội". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Bỗng nhiên chạy tức sai quá, mờ mịt đi bước chẳng lên, chẳng lường đại nạp Tăng không biết tính thế nào? Có lắm miệng nhiều lưỡi cuối cùng ra lại". Có vị Tăng hỏi: "Đối với một câu tức chẳng hỏi, còn thế nào là nửa câu?" Sư đáp: "Gieo ném thân mình xuống". Vị Tăng ấy nói: "Đó tức là một câu vậy". Sư đáp: "Nửa câu mò chẳng dính". Lại hỏi: "Thế nào là cửa viên tịch?" Sư đáp: "Chớ ồn náo, chớ ồn náo".

6. Thiền sư Tuệ ở Đại dương.

Thiền sư Tuệ ở Đại dương tại Dĩnh châu, có vị Tăng hỏi: "Vua Hán qua bảy mươi hai trận làm bá chủ hoàn cầu. Hòa thượng đến pháp diên, chẳng thí tấc mũi nhọn, ấy là tiếp thừa ân lực của ai?" Sư đáp: "Mặt nhật ca ngang hiên, sum la một dạng thấy". Lại hỏi: "Thế nào là quạ vàng ngưng sắc đẹp, thỏ ngọc mấy tốt sâu?" Sư đáp: "Giọt giọt không ý riêng, khắp nói một niệm huyền". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư đáp: "Vải thô trực chuyết lớp lớp dày, ngày dùng bừa xong lại mang vác". Lại hỏi: "Như khách chợt đến, làm sao tiếp đãi?" Sư đáp: "Cần dùng bèn dùng". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Mặt nhật ló phương Đông, trăng rơi cửa phía Tây". Và Sư lại chỉ bày bài tụng rằng:

"Sáng sớm mặt nhật hiện phương Đông

Đêm đêm trăng xuống cửa phía Tây Như nay nhà Quan thời Đại Tống Cành vàng lá ngọc thảy phô bày".

7. Thiền sư Linh Vận ở Vân môn.

Thiền sư Linh Vận-Bảo Ấn ở núi Vân môn tại Việt châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đêm về mây mưa rơi giữa không, muôn tượng sum la trăng ở trong, Linh quang muôn tượng chẳng trong ngoài, phải rõ một câu mới là thông không thấy. Có vị Tăng hỏi: "Hòa thượng Đại Ca là "Lúc trăng mọc giữa khoảng mây thì thế nào?" Hòa thượng Đại Ca đáp: "Ba đứa trẻ con ôm trống hoa, chớ lại ngăn đường cửa cầu ta". Là làm sáng tỏ việc gì? "Ba đứa trẻ con ôm trống hoa". Bắt chước nghĩ ngợi tức xa cách "Chớ lại ngăn đường cửa cầu ta". Cần phải có nơi thoát thân ra mới được. Nếu không có nơi thoát thân, thì kia cũng chỉ tợ con trâu đen nắm nước c-hết-Vậy một câu thoát thân làm sao sinh? Nói? Chẳng nhọc đứng lâu".

8. Thiền sư Hải Bằng ở Vân đảnh.

Thiền sư Hải Bằng ở Vân đảnh tại Hoài an quân, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đại nghi đến người?" Sư đáp: "Trong hang tất bát mặt mặt cùng thăm thấy". Lại hỏi: "Thế nào là chẳng nghi đến người?' Sư đáp: "Ta nghe nói là núi Tu-di nạt vụn". Lại hỏi: "Có đồng với đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại chăng?" Sư đáp: "Tổ sư Đạt-ma gặp vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, Ca-diếp Ma Đằng gặp vua Minh Đế (Lưu Trang (58-76) thời Đông Hán".

9. Thiền sư Cơ Thông ở Càn minh.

Thiền sư Cơ Thông ở Càn minh tại Phục châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Câu hỏi này thật chẳng hư dối". Lại hỏi: "Thế nào là cảnh Đông thiền?" Sư đáp: "Nước định chẳng lìa bờ xưa cũ, bụi Hồng tranh dám vào sóng lại".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HIỂN Ở TUYẾT ĐẬU

1. Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên y.

Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên y tại Việt châu, vốn người dòng họ Trần ở Lạc, Vĩnh gia. Gia đình nhiều đời sống với nghề chài lưới. Thân mẫu mộng thấy có vì sao rơi nơi phòng nhà mới mang thai, đến lúc sinh Sư có lắm điều tốt lành. Thuở bé thơ, Sư ngồi ở đuôi thuyền, thân phụ đánh bắt được cá sai bảo Sư xâu lại thành chùm, bất nhẫn Sư mới ném lén xuống lại nước. Thân phụ Sư tức giận đánh Sư, nhưng Sư vẫn tự nhiên như cũ. Đến lúc trưởng thành, vân du đến kinh đô, Sư nương tựa ở chùa Cảnh đức làm kẻ trẻ con đi chơi, rồi Sư vào chùa Thiên Thánh xét khảo kinh điển mà được độ xuất gia, Sư đến bái yết các vị Kim Loan Thiện Diệp huyện tỉnh và đều được ấn khả. Sư bèn từ Lạc thành đến Long môn, sau lại đến dưới Thành đô, muốn kế thừa Tông phong, nhưng trong tâm ý có điều chưa quyết định, bỗng gặp Ngôn Pháp Hoa vỗ vai Sư, bảo rằng: "Vân môn Lâm Tế". Sư liền đi đến Cô tô, đảnh lễ Thiền sư Minh Giác ở Thúy phong. Thiền sư Minh Giác hỏi "Ông tên gì?" Sư đáp: "Tên Nghĩa Hoài". Lại hỏi: "Sao chẳng gọi tên là Hoài Nghĩa?" Sư đáp: "Phải thời đến được". Lại hỏi: "Ai vì ông mà đặt tên?" Sư đáp: "Thọ giới đến nay đã mười năm vậy". Lại hỏi: "Ông đi bộ đã hao tốn bao nhiêu đôi giày cỏ?" Sư đáp: "Hòa thượng khéo chẳng là người mù". Thiền sư Minh Giác bảo: "Ta chẳng lượng được tội quá. Ông chẳng lường được tội quá, khi ấy làm sao sống?" Sư im lặng không nói gì. Thiền sư Minh Giác đánh Sư và bảo: "Cởi bỏ cái tài nói dối ấy ra đi". Lúc vào trong thất, Thiền sư Minh Giác bảo: "Gì cũng chẳng được, không gì cũng chẳng được, gì và không gì đều là chẳng được" Sư phỏng nghỉ bàn luận, Thiền sư Minh Giác lại đánh Sư và xua đuổi ra. Cứ như thế trải qua vài ba phen. Sau đó, Sư gánh múc nước, bỗng nhiên đòn gánh gãy, Sư bèn tỏ ngộ, làm bài kệ tụng đầu có rằng:

"Một hai ba bốn năm sáu bảy

Muôn nhân đầu non một chân đứng Dưới cằm ly rồng đoạt minh châu Một lời khám phá Duy-ma-cật".

Thiền sư Minh Giác nghe thế, vỗ tay vào ghế ngợi khen hay khéo. Về sau Sư lên ngồi nơi bảy

Đạo tràng, hành hóa khắp trong nhà, những vị nối dõi dòng pháp rất đông nhiều.

Ở lâu sau, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Trải tóc che bùn, nằm ngang thân trên đất". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Mặc tình Ba-tuần cau mày". Lại hỏi: "Thế nào là cảm tạ Sư chỉ dạy?" Sư đáp: "Trời Tây đất đây". Lại hỏi: "Người học từ trước lại đây muốn thỉnh Sư giảng nói Pháp". Sư đáp: "Trong rừng chim hót, dưới nước cá bơi". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trên đỉnh núi Tu-di chẳng đánh gõ chuông vàng trong hang Tất-bát không người nhóm tụ. Sơn Tăng ngã cưỡi điện Phật, các người mang trái dày cỏ, sáng vân du đến Đàm đặc, chiều tối tới La phù, gậy chống cái kim mỗi nhà tự gom lấy". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nạp Tăng nói ngang nói dọc, chưa biết có mắt trên cửa đảnh". Khi ấy có vị Tăng hỏi: "Thế nào là mắt trên cửa đảnh?" Sư đáp: "Áo mặc xương gầy bày, nhà rách thấy sao ngủ". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phàm là Tông Sư phải là xua đuổi trâu của người cày bừa cướp đoạt cơm của người đói. Gặp hèn tức quý, gặp quý tức hèn. Xua đuổi trâu của người cày bừa tức khiến lúa mạ của người kia tươi tốt, cướp đoạt cơm của người đói tức khiến họ trọn chấm dứt đói khát, gặp hèn tức quý tức là nắm đất thành vàng, gặp quý tức hèn biến vàng thành đất. Lão Tăng đây cũng chẳng xua đuổi trâu của người cày bừa cũng chẳng cướp đoạt cơm của người đói. Sao gọi là trâu của người cày bừa? Ta lại dùng thế nào? Sao là cơm của người đói, ta lại ăn thế nào? Ta cũng chẳng nắm đất thành vàng và cùng chẳng biến vàng thành đất. Cớ sao vậy? Vàng tức vàng, đất tức là đất, ngọc là ngọc, đá là đá, Tăng là Tăng, tục là tục, trời đất xưa nay, nhật nguyệt xưa nay, núi sông xưa nay, nhân luân xưa nay tuy là như vậy, đánh phá đại tán quan cái mê gặp Đạt-ma.

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhạn bay ngang sông, ảnh không lắng nước, Nhạn không có ý lưu vết, sông không tâm niệm giữ hình. Nếu có khả năng như vậy mới mở hướng đi trong loài khác, chẳng tiếp dùng chim kêu giết sạch chim nhạn non Nhạc đầy hóc hác, buông đi trăm dơ bẩn ngàn vụng về, thâu lại buộc buộc cuộn cuộn, dùng đó thì dám cùng tám Đại Long vương đấu tranh giàu quý, chẳng dùng đó thì chẳng giá trị bằng nửa phân tiền. Tham". Có vị Tăng hỏi: "Trời không thể che, đất không thể chở, chưa xét rõ đó là người gì?" Sư đáp: "Đào đất chôn lấp sâu". Lại hỏi: "Người ấy có chấp nhận an bài hay không?" Sư đáp: "Trên đất trác thêm bùn". Lại hỏi: "Lúc Ngưu đầu chưa thấy gặp Tứ tổ thì thế nào?" Sư đáp: "Sông dài không sáu tháng". Lại hỏi: "Sau khi thấy rồi thì thế nào?" Sư đáp: "Mỗi năm một độ xuân".

Lúc vào trong thất, Sư hỏi vị Tăng: "Người không tay hay thực hành nắm đấm, người không lưỡi hiểu nói năng, bỗng nhiên người không tay đánh người không lưỡi, người không lưỡi nói cái gì?" Sư lại bảo: "Thục phách suốt đêm kêu, xuyết cưu trọn đêm réo, viên thông cửa lớn mở, việc gì cách mây bùn". Qua năm sau, vì cảm mắc bệnh, Sư bèn ở tại am Sam sơn thuộc Trì dương, đệ tử của Sa-môn Trí Tài ở Phật Nhật tại Lâm bình nghinh đón Sư về để hầu hạ phụng dưỡng. Sa-môn Trí Tài đến Tô thành chưa trở về, Sư bảo: "Hãy gọi về gấp". Đến lúc Sa-môn Trí Tài vừa đặt chân vào cửa, Sư bảo: "Thời khắc đã đến, Tôi đi đây vậy!" Sa-môn Trí Tài thưa: "Sư có lời gì chỉ dạy cho đồ chúng?" Sư mới nói kệ tụng rằng:

"Mặt nhật chiếu Phù tang

Mây tạnh bít Hoa nhạc

Cạnh ba qua sắt vây

Kéo bẻ sừng Ly long"

Sa-môn Trí Tài lại hỏi: "Noãn tháp đã thành, thế nào là việc cứu cánh?" Sư đưa nắm tay mà chỉ bày đó, xong bèn đến giường đẩy gối mà thị tịch, dựng tháp an táng toàn thân tại gò đồi phía Đông của chùa. Đến trong niên hiệu Sùng Ninh (11021107) thời Bắc Tống, vua Huy Tông (Triệu Cát) truy phong Sư thụy hiệu là "Chấn Tông Thiền sư".

2. Thiền sư Tỉnh Tông ở Xứng tâm.

Thiền sư Tỉnh Tông ở Xứng tâm tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạtma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Người đi nghĩ nhớ đường". Lại hỏi: "Không hiểu". Sư đáp: "Buộc nhanh giày cỏ".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phật chủng theo duyên khởi, cho nên nói Nhất thừa". Và Sư nắm lấy gậy chống, bảo tiếp: "Cái nào là Phật chủng? Gậy chống là Pháp Nhất thừa. Cái nào là duyên? Trong ấy tham thấy Thích-ca và Lão Tử. Rõ tức mua giày cỏ đi chân, không được hướng đến dưới cửa nạp Tăng, đánh bẻ eo người. Vậy hãy nói nạp Tăng y cứ cái gì?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Ba mươi năm chớ cô phụ người". Rồi Sư chống gậy bước xuống khỏi tòa.

3. Thiền sư Truyền Tông ở Thừa thiên.

Thiền sư Truyền Tông ở Thừa thiên tại Tuyền châu. Có vị Tăng hỏi: "Đại dụng hiện tiền, lúc chẳng còn quy tắc thì thế nào?" Sư đáp: "Ngày nay Thừa thiên dựng cao cờ hàng". Vị Tăng ấy bèn hét. Sư bảo:

"Con cháu Lâm Tế". Vị Tăng ấy lại hét. Sư bèn đánh, vị Tăng ấy hỏi: "Thế nào là Thể Bát-nhã?" Sư đáp: "Mây lồng núi biếc". Lại hỏi: "Thế nào là Dụng Bát-nhã?" Sư đáp: "Trăng tại ao trong".

4. Thiền sư Nhật Thận ở Nam minh.

Thiền sư Nhật Thận ở Nam minh tại Xử châu. Có vị Tăng hỏi: "Ý Tổ và ý kinh giáo là đồng hay khác?" Sư đáp: "Thủy Thiên ảnh giao sắc biếc". Lại hỏi: "Rốt cùng là đồng hay là khác?" Sư đáp: "Tiếng tùng trúc cùng lạnh".

5. Thiền sư Pháp Tông ở Đầu tử.

Thiền sư Pháp Tông ở Đầu tử tại Thư châu, người thời bấy giờ tên xưng là Đạo giả. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là gia phong của Đạo giả?" Sư đáp: "Giày cỏ trong áo ca sa". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Đồng thành dưới cẳng chân đỡ".

6. Thiền sư Uẩn Quán ở Bảo tướng.

Thiền sư Uẩn Quán ở Bảo tướng tại Thiên thai. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Nhà nhà dài hơn tám thước".

7. Thiền sư Hiển Thăng ở Quân sơn.

Thiền sư Hiển Thăng ở Quân sơn tại Nhạc châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đại khương không ngoài ngậm trong mười hư, chí lý chẳng hình viên dung ba tế, cao siêu danh tướng, diệu thể toàn rõ, chóng ra xưa nay, cơ thất riêng bày. Nắm lấy Ly châu mà soi mọi vật, vật vật lưu tỏa ánh sáng, ném kiếm báu khua giữa khoảng không, từng khoảng không tuyệt mất dấu vết. Nắm Định thì Ma Kiệt bít thất, Duy-ma ngậm miệng, buông đi thì Thập Đắc lay đầu, Hàn Sơn vỗ tay. Vậy hãy nói là cảnh giới người nào?" Và Sư nắm cây gậy gõ xuống một cái và tiếp nói: "Nói máy mắt nhướng mày, nhờ quân tử xem kỹ".

8. Điển tòa Huệ Kim ở chùa Thủy nguyệt.

Điển tòa Huệ Kim ở chùa Thủy nguyệt tại Bình giang phủ. Sư nương tựa Thiền sư Minh Giác ở Tuyết đậu, nghe nêu câu thoại về núi Tu-di, thầm lặng mà có sự khế ngộ. Một ngày nọ muốn sang thăm hỏi, bỗng gặp nơi hiên điện, Thiền sư Minh Giác hỏi: "Ông tên gì?" Sư đáp: "Tên là Huệ Kim". Thiền sư Minh Giác hỏi: "Ai cho ông vàng (Huệ Kim)?" Sư đáp: "Tha cho thời gian ngắn sẽ đến phương trượng cảm tạ". Thiền sư Minh Giác lại bảo: "Tức là ngày nay...?" Sư đáp: "Trong đó dung thứ Hòa thượng không được".

9. Cư sĩ Tằng Hội ở Tu tuyển.

Cư sĩ Tằng Hội ở Tu tuyển, thuở bé thơ cũng ở chung gia đình với Thiền sư Minh Giác, đến lúc trở thành mỗi người mới đi khác đường.

Trong khoảng niên hiệu Thiên Hy (1017-1022) thời Bắc Tống, Tằng Hội ra trấn thủ tại Trì châu, một ngày nọ ông đến chùa Cảnh đức, ông bèn dẫn nêu Trung dung, Đại học, tham lấy Lăng Nghiêm hợp với ngữ cú của Tông phong mà cật vấn Thiền sư Minh Giác. Thiền sư Minh Giác bảo: "Cái ấy còn chưa thể hợp với giáo thừa, huống gì là Trung dung Đại học ư? Học sĩ cần phải đi tắt nhanh nhẹn lý hợp với sự đây". Và Thiền sư Minh Giác khảy móng tay một cái, tiếp bảo: "Chỉ cái gì dâng lấy?" Ngay lời nói đó mà Tằng Hội có sự lãnh ngộ ý chỉ.

Đến đầu niên hiệu Thiên Thánh (1023) thời Bắc Tống, Tằng Hội ra trấn thủ tại Tứ minh, mới dùng thư và tiền của nghinh thỉnh Sư đến phô bày ở Tuyết đậu. Khi đã đến nơi, Tằng Hội nói: "Gần đây, tôi cùng Trưởng lão thương lượng Triệu Châu khám phá câu thoại của Bà Tử, chưa xét rõ đầu mối đích thực có nơi khám phá không". Thiền sư Minh

Giác hỏi: "Trưởng lão nói cái gì?" Tằng Hội nói: "Lại cùng cái gì đi?" Thiền sư Minh Giác bảo: "Trưởng lão tạm buông qua một trứ. Học sĩ lại phải biết Nạp Tăng trong thiên hạ ra chuồng buộc Bà Tử ấy không được ư?" Tằng Hội nói: "Trong ấy riêng có cái nơi nói, Triệu Châu nếu chẳng khám phá Bà Tử một đời chịu khuất". Thiền sư Minh Giác bảo: "Khám phá xong vậy". Tằng Hội cười lớn.

10. Thiền sư Hữu Lan ở Báo bản.

Thiền sư Hữu Lan ở Báo bản tại Hồ châu. Có vị Tăng hỏi: "Đường không tắt ngang, người đứng đều nguy ách. Vậy thế nào là Đường?" Sư đáp: "Mặt nhật tỏa rạng ánh sáng tốt lành lặng lẽ". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Gió lay sắc đẹp đượm nồng". Vị Tăng ấy lễ bái. Sư bảo: "Còn khuyết thiết một trừ". Lại hỏi: "Với lúc phủi bụi thấy Phật tức chẳng hỏi, còn việc khua kiếm báu giữa không trung thì thế nào?" Sư đáp: "Dưới cẳng chân, khán". Lại hỏi: "Dưới cẳng chân tạm đặt, còn việc hướng thượng lại như thế nào?" Sư đáp: "Trời tạnh mặt nhật xuất hiện, mưa xuống mây nổi ùn". Lại hỏi: "Pháp vốn không giảng thuyết, phải nên giảng thuyết thế nào cho sáng tỏ?" Sư đáp: "Vị mặn trong nước, keo xanh trong màu". Lại hỏi: "Tiện lúc nào thì thế nào?" Sư đáp: "Ba mươi năm sau". Và Sư mới tiếp bảo: "Vật quý báu trong áo, sao mượn phủ cát lên? Mỗi nên tự mang đến lại giúp dùng gì? Ánh sáng giao thoa vào ngà chẳng ẩn chẳng sáng tỏ. Tổ sư Đạt-ma suốt chín năm chẳng dám động đến vì sợ khuất phục cháu con. Báo Bản đây chẳng tiếc lông mày bảo khắp cùng đại chúng đồng nắm gậy chống dậy. Nếu đại chúng phỏng nghỉ bàn nghị thì đồng một lúc đánh tan".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Lớn không phương hướng, nhỏ không nơi chốn, nửa ngậm nửa mở chưa thể cùng hứa. Lãnh mai mới bẻ nhiều hoa tươi tốt, mưa nhỏ tròng mắt nhỏ sức xuân khắp cùng. Sức xuân khắp cùng đến đầu, chớ hỏi Tổ Tào Khê". Và Sư lại bảo: "Pháp không có vậy, Lý thấy khác thường, chí đạo vô phương, khắp nơi ứng vật, ngay được gió thổi cỏ rạp, tiếng hòa vang thuận, chẳng mảy may có thể ngang bằng, thấy bia dựng nơi chợ ồn náo, cần được chẳng thương tổn hòa khí, nhàn cùng Lộ trụ thương lượng, giả sử có thể tự khế hợp chấm đầu.

Chớ cho là sơn Tăng lắm lời".

11. Thiền sư Trí Phước ở Trường lô.

Thiền sư Trí Phước ở Trường lô tại Chân châu, vốn người xứ Giang châu, là con cháu thuộc dòng tộc của Hạ Văn Trang. Sau khi xuất gia thọ giới Cụ túc xong, Sư bèn đến dự tham nơi Thiền sư Hiển ở Tuyết đậu và chóng được tỏ rõ ý Tổ. Đạo hạnh và tài trí của Sư sáng ngời vượt xa. Đến lúc ra đời hoằng hóa, Sư đến ở Trường lô. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là một câu giáo ngoại biệt truyền?" Sư đáp: "Hỏi chẳng trứ". Lại hỏi: "Vì sao hỏi chẳng trứ?" Sư đáp: "Mây trắng ngàn muôn dặm". Lại nói: "Người học lui thân ba bước". Sư bảo: "Lại chờ đợi đến lúc nào?" Lại hỏi: "Kiếm báu lúc xưa rút ra khỏi vỏ thì thế nào?" Sư đáp: "Rít". Lại hỏi: "Sau khi đã rút ra thì thế nào?" Sư đáp: "Sắc bén". Lại hỏi: "Thế nào là cơ thứ nhất?" Sư đáp: "Chẳng vì chuột con mà phát". Lại hỏi: "Há không phương tiện?" Sư đáp: "Tỉnh xứ Tát-bà-ha". Và Sư mới bảo: "Hỏi tại chỗ đáp, đáp tại hỏi Tông, mỗi một mặc tình các người chấm đầu, bỗng như hỏi chẳng tại chỗ đáp, đáp chẳng tại hỏi Tông. Lại tạm làm sao sống mò phỏng đòi lấy?" Và Sư bèn đưa nắm tay lên, bảo: "Không sót lại mảy lông tóc đồng một lúc phân giao, xin các người mỗi tự xét xem tử tế, thản như một niệm hồi quang, ngàn Thánh đồng dấu vết, chẳng trải qua số kiếm A-tăng-kỳ, đâu nhọc tu chứng, cắt tuyệt biển sinh tử, ngồi nơi ngôi vị của Phật Tổ, bèn mới vượt cao ngoài ba cõi, trọn ra khỏi bốn dòng, muôn đức tròn sáng, mười phương riêng bước, có thể chẳng đồng báo đáp ân Phật, cùng hiển bày vương hóa".

12. Thiền sư Tuệ Viên ở Động sơn.

Thiền sư Tuệ Viên ở Động sơn tại Quân châu, đến dự tham nơi Thiền sư Hiển ở Tuyết đậu mà đắc yếu chỉ, tuổi Sư rất nhỏ mà tiếng tăm vang vọng. Về sau, Sư đến nương tựa nơi pháp tịch của Thiền sư Xiêm ở Khai tiên. Gặp ở Động sơn khuyết thiếu người, Thiền sư Xiêm mới đề cử Sư ứng đáp sự thỉnh mời của mọi người ở Quân châu. Sư bèn xuất hiện nơi đời giảng nói pháp. Có vị Tăng hỏi: "Xa lìa Lô phụ sắp đến Tân La, chẳng giẫm trải qua đường đi, xin Sư chỉ bày đường thuận tiện". Sư đáp: "Ngày nay Sơn Tăng nhọc mệt". Lại hỏi: "Thiện tri thức phương tiện tại xứ nào?" Sư đáp: "Kẻ mù". Vị Tăng ấy bèn hét. Sư bảo: "Còn chưa tỉnh biết". Và Sư mới bảo: "Học chẳng phải xét cổ, Đạo thẹn ở đương thời, cúi ngưỡng không cửa mới tùy theo ý chúng. Người xưa nói: "Nhàn rỗi lên núi đi một chuyến, nhờ hỏi người thời ấy có hiểu không. Chỉ như Lão Tăng cùng các người từ Lô phụ lại, gặp đêm dừng nghỉ, gặp ngày thì đi, thẳng đến nơi đây một cẳng chân tại trước một cẳng chân ở sau. Như nay mỗi mỗi đem đãy bát treo nơi các cao, và nắm gậy chống. Lại có việc gì có thể hợp. Tuy là như vậy, nếu chẳng lên lầu ngóng trông thì sao có thể biết được biển xanh sâu".

Bấy giờ Thiền sư Nam ở Hoàng long đang ở tại Hoàng nghiệt, nhân ra nơi ấp cùng gặp Sư tại chùa Tịnh giới. Thiền sư Nam im lặng không nói năng gì, chỉ đốt hương cùng ngồi đối diện nơi tòa cao mà thôi, từ giờ thân cho đến lúc trống gióng báo đã canh ba, Sư bèn đứng dậy và nói: "Đêm đã khuya sợ ngại Hòa thượng yên nghỉ" rồi bèn đi ra. Đến sáng hôm sau, mỗi tự về lại núi. Tình cờ Thiền sư Nam hỏi Thủ tòa Vĩnh rằng: "Ở Lô sơn ông có biết lão Động Sơn (Tuệ Viên) ngày nay chăng?" Thủ Tòa Vĩnh đáp "Không biết, chỉ nghe tên vị đó thôi". Ngừng giây lát, Thủ Tòa Vĩnh lại hỏi: "Hòa thượng gặp thấy vị đó thế nào?" Thiền sư Nam đáp: "Người kỳ đặc". Thủ Tòa Vĩnh lui hỏi Thị giả rằng: "Ông theo Hòa thượng cùng gặp Động Sơn ban đêm đàm nói việc gì?" Vị Thị giả bèn đem sự thật mà nói đó, Thủ Tòa Vĩnh bèn cười, bảo: "Nghi giết người trong thiên hạ".

13. Thiền sư Tư ở Hương tích.

Thiền sư Tư ở Hương tích tại Lục hợp, Chân châu. Có vị Tăng hỏi: "Vướng bốn núi cùng ngăn cách thì chẳng hỏi, còn cửa Lục hợp mở việc ấy thế nào?" Sư đáp: "Bảy thông tám đạt". Lại hỏi: "Thế nào là diệu dụng ngang dọc?" Sư đáp: "Ễnh ương ba chân nhảy lên trời". Lại hỏi: "Thế nào là vị Tăng tọa thiền?" Sư đáp: "Muôn sự đều không thể". Lại hỏi: "Thế nào là vị Tăng nhập định?" Sư đáp: "Bốn biển đều lắng ngưng". Lại hỏi: "Thế nào là vị Tăng hành đạo?" Sư đáp: "Thể Lục hợp nhảy bay". Lại hỏi: "Thế nào là vị Tăng ứng cúng?' Sư đáp: "Ba luân đồng tánh không".

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đo Bồ-đề chẳng thể đo lường, muôn pháp vốn không, sao có chân giả. Vô vi là Tông, vô tướng là gốc. Lượng bao trùm sa giới, đức ngậm cả đất trời. Hoặc diễn nói Nhất thừa, hoặc rủ ban ba câu, hoặc khiến ngộ gốc thảy đều khiến trở ngược lại nguồn, rốt cùng trong đó thảy đều không việc ấy, rõ được bản tâm, tâm rành rẽ, núi sông đất liền cũng lặng yên". Sư lại bảo: "Tâm bản hữu, mảy may chẳng ngăn cách, nhân một niệm sai nhầm đây dẫn đến sai quấy. Dơ bẩn hết, gặp người bèn sáng tỏ sự thấy biết của mình. Vậy làm sao sống là sự thấy biết của mình?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Bốn biển sóng lớn lắng, một vầng trăng thu tỏa đất trời".

14. Thiền sư Tử Hoàn ở Bảo khánh.

Thiền sư Tử Hoàn ở Bảo khánh tại Bình dương, Ôn châu. Có vị Tăng hỏi: "Đại thì môn khai, xin Sư một quyết định". Sư đáp: "Gió lướt cỏ rạp". Lại hỏi: "Một câu cắt dứt dòng, làm sao sống?" Sư đáp: "Nước đến thành cừ". Lại hỏi: "Mây trên đỉnh núi hoa cái, nước trong dòng sông Thuận giang là thế nào?" Sư đáp: "Gió trong lại chẳng hết". Lại hỏi: "Sau khi đã lau chùi thì thế nào?" Sư đáp: "Trăng sáng soi chiếu nhiều lớp thành". Lại nói: "Thái thư đến pháp diên thỉnh cầu Sư một lần soi chiếu". Sư bảo: "Là mặt mắt nào?" lại nói: "Ba mươi năm sau". Sư bảo: "Lừa dối giết hại người". Sư nắm chiếc gậy chống và bảo: "Sáng sớm đến Tây thiên, chiều tối về Đông độ, tức tạm đến cùng. Nắm bẻ một câu cốt yếu làm sao sống? Nói. Nếu nói được thì chẳng ra khỏi cửa mà biết việc khắp thiên hạ, còn nếu nói không được thì gậy chống đây cười các ngươi vậy". Và Sư bèn đánh xuống Thiền sàng một cái

15. Thiền sư Tại Hòa ở Thiên y.

Thiền sư Tại Hòa ở Thiên y tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Tổ tổ tương truyền là truyền tổ ấn. Nay Hòa thượng đắc pháp nối dõi từ người nào?" Sư đáp: "Với người dùng ngôn ngữ thử, với nước dùng gậy thăm dò". Lại hỏi: "Mở rộng khắp sa giới thì thế nào?" Sư đáp: "Một đêm mai nở hết, trăm hoa còn chưa hay".

16. Thiền sư Thủ Minh ở Xứng tâm.

Thiền sư Thủ Minh ở Xứng tâm tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư bảo: "Nói cái gì?" Lại hỏi: "Thế nào là Pháp?" Sư bảo: "Nói cái gì?" Lại hỏi: "Thế nào là Tăng?" Sư bảo: "Nói cái gì?" Vị Tăng ấy lại thưa: "Xin cảm tạ Sư đã lớp lớp cùng vì". Sư bảo: "Nói cái gì?"

17. Thiền sư Trọng Khanh ở Phụng thê.

Thiền sư Trọng Khanh ở Phụng thê tại Hán dương quân. Có vị Tăng hỏi: "Từ xưa chư Phật xuất hiện nơi đời vì một sự nhân duyên lớn. Nay Hòa thượng xuất hiện nơi đời sẽ làm việc gì?" Sư há mồm le lưỡi. Lại hỏi: "Ngoài cái ấy lại còn có gì không?" Sư đáp: "Sáng ba ngàn, chiều tám trăm". Lại hỏi: "Trăm cốt đều tan hết, một vật trấn Trường linh, vậy thế nào là một vật?" Sư đáp: "Khổ thay Phật-đà-da". Lại hỏi:

"Hòa thượng lại còn có nơi làm người không?" Sư đáp: "Chỉ tài múa lộng tinh hồn". Lại hỏi: "Sao lại như thế?" Sư đáp: "Kỵ người nói chấp trước". Và Sư bảo: "Đạo không trước sau, Đạt giả do người. Tuy là căn tánh lợi độn mỗi có sai khác, rất sùng nguyên không có khác. Do đó, giáo pháp ba thừa dẫn tiếp người mê, kẻ chấp tướng trệ danh cuối cùng khó đến vào. Cho nên chư Phật thời quá khứ nhập Niết-bàn nơi đây, chư Phật thời hiện tại thành đạo ở nơi đây, chư Phật thời tương lai tu hành tại nơi đây. Không thấy Đại sư Đạt-ma nói: "Ta vốn đến xứ này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cành, kết quả tự nhiên thành". Và Sư nắm lấy gậy chống, tiếp bảo: "Hiểu không? Kia một thời, đây một thời. Quả chín tại Tung sơn cũng mặc tình các người chọn hái". Sư lại gõ gậy chống xuống một cái, tiếp bảo: "Nhà nhà vời vợi ba cõi chẳng sánh bằng. Lỗi lỗi lạc lạc mười phương xa rộng. Nghĩ phỏng bàn nghị thì tan thân mất mạng, nghĩ lường thì ngài sai muôn sai". Rồi Sư hét một tiếng và xuống khỏi tòa.

18. Thiền sư Đức Sơ ở Linh nham.

Thiền sư Đức Sơ ở chùa Linh nham, tại Nhạn đãng, Ôn châu. Có vị Tăng hỏi: "Đại chúng đến Pháp diên cử xướng như thế nào?" Sư đáp: "Cảm tả đường cỏ xanh từng năm sinh trưởng, bọt bờ nổi lại ngày mỗi mới". Lại hỏi: "Chẳng tiền là nơi vì người hay không?" Sư đáp: "Tạm chẳng lầm nhận". Lại hỏi: "Gậy đánh tiếng hét đều gom thâu, xin Sư cùng trông thấy?" Sư đáp: "Lão Tăng chẳng như ông". Lại hỏi: "Có phải là chuyên vì lưu thông?" Sư đáp: "Kham nhận làm gì". Lại hỏi: "Tam sinh chủng chủng pháp sinh. Vậy thế nào là chủng chủng pháp sinh?" Sư đáp: "Ta cùng ngươi đồng là dây sắn leo cành". Lại hỏi: "Ngày nay đã thấy nơi Sư vậy". Sư bảo: "Hãy tạm mừng vui chớ giao thiệp". Vị Tăng ấy lễ bái. Sư bảo: "Cô phụ giết người". Và Sư mới bảo: "Hỏi được núi Tu-di cao vợi, nước biển sóng vọt lên, trong cửa Tổ đạo chưa có thiếu phần, cớ sao từ cửa vào chẳng là nhà trân quý? Vốn tự viên dung sao phải đặc đất. Người người ngồi trên đỉnh núi Diệu cao, mỗi mỗi thấu suốt cội nguồn các pháp, chẳng nương gá lầu các của đức Từ thị. Ngày nay một thời rõ lấy, lại rõ được không? Nếu như rõ được thì xưng hiệu là Trượng phu, chẳng cô phụ ân sâu của ngàn Thánh, cũng là báo đáp đức trị hóa của Quốc vương. Trân trọng!"

19. Thiền sư Trí Tuyền ở Long hưng.

Thiền sư Trí Tuyền ở Long hưng tại Đàm châu. Có vị Tăng hỏi: "Từ lâu ở tại Hồ tương, muốn được tỏ bày một vấn đề, Sư có giải đáp cho chăng?" Sư bảo: "Sao phải kéo bùn mang nước?" Vị Tăng ấy bèn quát hét. Sư bảo: "Một trận mưa một trận mát". Vị Tăng ấy lễ bái. Sư bảo: "Có đầu mà không đuôi".

Trong khoảng niên hiệu Trị Bình (1064-1068) thời Bắc Tống, Sư thị tịch, phàm những nơi lúc bình sinh Sư từng đi đứng nằm ngồi đều tuôn vọt xá-lợi. Đồ chúng xướng được y vật, mỗi ngày xálợi phát sinh có ở nơi chân t hiện nói đời thì thế nào? tùy người chí thành khẩn cầu thì thảy đều tùy theo ý nguyện mà ứng hiện.

20. Thiền sư Tắc ở Càn minh.

Thiền sư Tắc ở Càn minh tại Tín dương quân. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Mảnh mây sinh mọc giữa biển, nơi núi kiệu một chim nhạn bay qua khoảng trời lạnh". Lại hỏi: "Cùng gì thì là đích tử của Tuyết đậu?" Sư đáp: "Một đỉnh núi tốt tươi, sáu hoa rực rỡ". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Gió trong sinh bích lạc". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "Trăng tỏ sáng sông dài". Lại hỏi: "Thế nào là Hải Ấn Tam-muội?" Sư đáp: "Chỉ hướng đến tìm cầu nơi chính mình". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp: "Chớ tìm cầu nơi người khác". Lại hỏi: "Thế nào là Đạo nhật dụng?" Sư đáp: "Một mũi tên bắn đến trời Tây". Lại hỏi: "Sau khi đã đến thì thế nào?" Sư đáp: "Khắp cùng pháp giới".

21. Thiền sư Tri Ứng ở Càn minh.

Thiền sư Tri Ứng ở Càn minh tại Đảnh châu, có vị Tăng hỏi: "Lúc hoa sen chưa trồi ra khỏi mặt nước thì thế nào?" Sư đáp: "Nâng trời chống đất". Lại hỏi: "Sau khi đã ra khỏi mặt nước thì thế nào?" Sư đáp: "Lấp đầy hang hóc". Và Sư mới bảo: "Mã Tổ lên giảng đường, Bách Trượng cuốn chiếu, lửa động khói sinh, mây kinh mưa sắc, thăm mặt cùng bày, một sao nhẹ ném, nặng thưởng ba ngàn nhẹ đáp tám trăm".

22. Thủ tòa Nguyên Ích ở Vân phong.

Thủ tòa Nguyên Ích ở Vân phong tại Nam nhạc. Cư sĩ Lý Lâm Tông hỏi rằng: "Ý muốn thoát trần mà nay chưa thoát được, ngày nay xin Sư quyết dứt nghi tình?" Sư bảo: "Làm sao sống là thoát trần?" Lý Lâm Tông mờ tịt. Sư bảo: "Hiểu được chăng?" Bỗng nhiên Lý Lâm Tông tỉnh ngộ.

Có làm kệ tụng rằng:

"Kiếng tâm xưa nay sáng

Sông lớn vốn tự sâu Chỉ nhân sau hỏi thầy Cát đá hóa thành vàng".

Sư bảo: "Chánh là thẳng đến địa ngục". Lý Lâm Tông nói: Nhân ngã không tướng, sao là địa ngục?" Sư bảo: "Nay ông hiện ở đâu?" Lý Lâm Tông đáp: "Nay hiện đang đối đáp". Sư bảo: "Chỉ đó là vàng ròng".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ BẢO NGUYỆT-TRÍ ANH Ở BÁCH TRƯỢNG.

1. Thiền sư Tường ở Huệ nhân.

Thiền sư Tường ở Huệ nhân tại Hàng châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai? Tông phong ấy, ai người nối dõi?" Sư đáp: "Trời tròn đất vuông". Lại hỏi: "Đầu mối đích thực ấy xin Sư nói một lời". Sư đáp: "Nếu đến các phương rõ ràng khắp tợ". Và Sư mới bảo: "Nam sơn cao, Bắc sơn thấp, mặt nhật xuất hiện ở phương Đông, chiều tối lặn ở phương Tây. Trâu trắng lên cây tìm chẳng được, quạ gà vào nước mọi người hay. Hãy nói sau khi tìm được thì như thế nào?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Kham nhận làm gì?"

2. Thiền sư Nghĩa Ninh ở Huệ nhân.

Thiền sư Nghĩa Ninh ở Huệ nhân tại Lâm an phủ. Có vị Tăng hỏi: "Lúc Phật chưa xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Ma-gia phu nhân". Lại hỏi: "Sau khi đã xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Thái tử Tất-đạt-đa".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DUYÊN Ở NAM HOA.

1. Thiền sư Diên Khánh ở Hưng hóa.

Thiền sư Diên Khánh ở Hưng hóa tại Tề châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Lời đầu dâng được cô phụ bình sinh, câu sau gieo cơ toàn trái đạo thể. Lìa hai đường ấy, dưới cửa Tổ tông lại như thế nào?' Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Trẻ nhỏ trong tròng mắt thổi sáo cây gỗ".

2. Thiền sư Hạnh Đức ở Bảo thọ.

Thiền sư Hạnh Đức ở Bảo thọ tại Thiều châu, nhân mùa Đông ở tại Nam hoa nhận sự thỉnh mời, Sư chỉ dạy đại chúng rằng: "Đông mới Bảo thọ mới, nói là nói lúc cũ, nếu hiểu ý Tổ lại, Ba tư lên thuyền bè".

3. Thiền sư Thủ Thăng ở Bạch hổ.

Thiền sư Thủ Thăng ở Bạch hổ tại Thiều châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Có mắt không lỗ mũi".

4. Thiền sư Sùng Khâm ở Phật-đà.

Thiền sư Sùng Khâm ở núi Phật-đà tại Thiều châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là một câu Hòa thượng cắt tiệt ngay vì người?" Sư đánh một phất trần rồi bảo: "Hiểu ư?" Lại nói: "Chưa hiểu?" Sư bảo: "Gặp người chớ nêu bày".

5. Thiền sư Pháp Nghinh ở Diên tường.

Thiền sư Pháp Nghinh ở Diên tường tại Thiều châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc Ngưu đầu chưa gặp thấy Tứ Tổ thì như thế nào?" Sư đáp: "Cây gậy chống". Lại hỏi: "Sau khi đã gặp thấy thì thế nào?" Sư bèn đánh. Lại nói: "Ngày nay thân gần thấy Hòa thượng". Sư bảo: "Tái phạm không dung tha".

6. Thiền sư Tuệ Bảo ở Thuấn phong.

Thiền sư Tuệ Bảo ở Thuấn phong tại Thiều châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc bước lên cao thì thế nào?" Sư đáp: "Nguy hiểm". Lại hỏi: "Lúc không tiến tới không thối lui thì thế nào?" Sư đáp: "Tăng mất". Lại hỏi: "Thế nào tức vậy?" Sư đáp: "Tô rô, Tô rô".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ KẾ BẰNG Ở VÂN CÁI

1. Thiền sư Nhân ở Báo ân.

Thiền sư Nhân ở Báo ân tại Gia kỵ, Chung sơn, Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Chí đạo không khó chỉ bởi chọn lựa. Vậy thế nào là chẳng chọn lựa?" Sư đáp: "Hôm qua mồng ba ngày nay mồng bốn". Lại nói: "Đó còn là chọn lựa?" Sư đáp: "Rồng rắn dễ biện rõ, nạp Tăng khó dối lừa". Lại hỏi: "Một hỏi một đáp còn rơi lạc nơi sân cửa Kiến hóa, chưa xét rõ ở trong Đệ nhất nghĩa cử xướng như thế nào?" Sư đáp: "Trước rèm mưa nhỏ giọt, tuyết đầy giữa khoảng không". Lại hỏi: "Nếu vậy, đến đầu sương đêm, trăng mặc tình rơi trước khe Hán?" Sư đáp: "Làm nhà Thiền khách". Lại nói: "Hòa thượng lừa dối người tốt lành". Sư bảo: "Tức là ông lừa dối Ta". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Mang một chiếc giày đã trở về Thông lãnh từ lâu, mà nay tốt lành lại hỏi đến đầu mối". Lại hỏi: "Tiện gì lúc đi thì thế nào?" Sư đáp: "Nam sơn nổi mây, Bắc sơn đổ mưa". Lại hỏi: "Trượng tích đã ở nơi ngày nay, xin Sư một câu lợi người trời?" Sư đáp: "Lỗ mũi đầu lớn hướng xuống dưới". Lại hỏi: "Hướng lên trên lại có việc gì không?" Sư đáp: "Có". Lại hỏi: "Thế nào thì phải?" Sư đáp: "Muốn thấy cùng ngàn dặm, mắt phải lên một tầng lầu". Và Sư mới bảo: "Pháp thân không tượng, ứng vật mà hiện hình. Các Thiền đức làm sao sinh nói cái ứng vật mà hiện hình đến cùng đạo lý?" xong, Sư nắm lấy gậy chống, bảo tiếp: "Đức Thế Tôn thân cao trượng sáu cây gậy này cũng dài trượng sáu. Đức Di-lặc thân cao ngàn thước, cây gậy này cũng dài ngàn thước. Tròn vuông tùy vật, ẩn hiện theo kia. Lớn thì bao trùm cả trời đất, nhỏ thì ném bỏ vào trong mấy bụi, như lừa rình trông giếng, như giếng nhìn rình lừa. Được đó thì vận thể màn trướng, nắm dứt cốt yếu, mất đó thì mờ mịt xao nhãng, hư sinh lãng tử, được mất hai đường đồng một lúc bỏ ngay. Dám hỏi cùng các người hãy nói cây gậy của Sơn Tăng rốt cùng dài bao nhiêu?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Cười chỉ thong dong xứ nào lại". Rồi Sư đánh vào đài hương một cái.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỬ VINH Ở ĐỘNG SƠN.

1. Thiền sư Cư Nột ở Viên thông

Thiền sư Cư Nột-Tổ ấn ở Viên thông tại Giang châu, vốn người dòng họ Kiển ở Trung giang tại Tử châu. Lúc Sư mới chào đời có ánh sáng thần soi chiếu khắp phòng nhà. Năm mười một tuổi, Sư đến nương tựa Sa-môn Nguyên Phưởng ở chùa Trúc lâm tại huyện Thập phương thuộc Hán châu mà xuất gia. Năm Sư mười bảy tuổi xét khảo kinh Pháp Hoa mà được độ thọ giới Cụ túc. Vì Sư giảng học bao trùm cả Lưỡng xuyên nên các bậc Lão niên phần nhiều đều xuống đó.

Gặp có vị Thiền giả từ Nam phương trở về tự xưng là Tổ Đạo bao trùm thiên hạ, Đại sư Mã-người huyện Thập phương ứng sấm của Bát-nhãđa-la. Các bậc hào tuấn ở đất Thục do từ kinh luận mà lừng danh như Lượng Công, mà Lượng Công vất bỏ Đồ chúng đến ẩn cư tại Tây sơn, như Giám Công, mà Giám Công lại thiêu đốt sớ sao, xứng giọt nước chẳng địch sánh với biển lớn. Sư bùi ngùi, ngừng giây lát rồi hỏi: "Ông biết thuyết ấy ư?" Thiền giả ấy đáp: "Tôi chẳng thể biết. Ông muốn biết đó sao lại tiếc một lần sang". Khi ấy Sư bèn ra khỏi đất Thục, phóng lãng đến kinh sư, giẫm trải qua thời gian năm tháng bèn không được gì. Sư lại theo hướng Tây đến Tương dương, dừng nương ở dưới pháp tòa của Thiền sư Tử Vinh tại Động sơn suốt mười năm. Đọc luận Hoa Nghiêm đến nói: "Núi Tu-di tại trong biển lớn cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, chẳng có tay chân nào vin leo đến được, để làm sáng tỏ núi Tám vạn bốn ngàn trần lao ở trong biển lớn phiền não. Trong chúng sinh nếu ai có thể đến với tất cả các pháp không tư duy không tạo tác, tức phiền não tự nhiên khô cạn. Trần lao biến thành núi Nhất thiết trí, phiền não biến thành biển Nhất thiết trí. Nếu lại khởi tâm tư lự tức có phan duyên, tức trần lao càng cao và phiền não càng sâu, chẳng thể đến nơi đảnh trí của chư Phật". Ngay đó bỗng nhiên Sư liền có sự tỉnh ngộ, mới than rằng: "Thạch cũng nói không nơi hạ thủ và Mã Tổ nói Vô minh nhiều kiếp, ngày nay tất cả đều tiêu diệt, chẳng phải lời nói hư dối vậy".

Về sau, Sư vân du đến Lô sơn, tiếng tăm Đạo hạnh của Sư ngày một tăng nhiều. Nam Khương

Thái Thú Trình Sư Mạnh thỉnh mời Sư ở Quy tông, Sư bèn nối dõi dòng pháp từ Thiền sư Tử Vinh. Sư lại đến ở Viên Thông. Vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) nghe danh hiệu Ngài, nên khoảng đầu niên hiệu Hoàng Hựu (1049) thời Bắc Tống, vua ban sắc chiếu mời Sư đến ở thiền vịnh Tịnh nhân tại huyện Thập phương. Sư lấy cớ tật bệnh cố khước từ chẳng đến mà cử vị thư ký của bản viện là Thiền sư Hoài Liên tự thay thế. Khi ấy vua lại ban sắc chiếu mời Thiền sư Hoài Liên, Thiền sư Hoài Liên đến dẫn đối đáp đại ý của Phật pháp xứng hợp với Thánh chỉ. Vua bèn phong tặng Thiền sư Hoài Liên hiệu là "Đại Giác Thiền sư" và phong tặng sư hiệu là "Tổ Ấn Thiền sư".

Sư trú trì tại đó hai mươi năm rồi chuyển dời đến ở hai chùa Tứ tổ và Khai tiên, Sư đến với đại chúng đơn giản nghiêm nghị, chẳng vọng nói cười. Sư thường nhập định mới đầu xoa tay tự như, nửa đêm dần lên đến ngực. Thị giả thường luôn trông thấy chờ đợi đến gà gáy. Sư tinh tấn như thế. Đến lúc đã già yếu, Sư trở về ở tại hang Bảo tích. Bấy giờ, Giang châu Mục Lưu Công thuật thường đến nơi Sư hỏi đạo. Một ngày nọ bỗng nhiên Sư giả biệt. Sau khi Lưu Công trở về, Sư tự tắm gội xong đoan tọa mà thị tịch. Lưu Công dẫn các hàng đạo tục sang nơi trà tỳ, trong ánh lửa dữ có khí trắng bay lên tỏa cùng Thái hư, đại chúng mọi người đều kinh sợ kính ngưỡng. Có Âu Dương Văn Trung Công là người gièm pha dị giáo nhưng đặc biệt riêng tôn kính Sư, thường hỏi các bậc sĩ nhân từ phương Nam lại là: "Có từng thấy Thiền sư Cư Nột chăng?" Lại cùng Lão Tô Minh Duân vân du cùng tốt lành v.v...

Quyển 6 (Hết)

QUYỂN 7

MỤC LỤC

Đời thứ mười hai dưới đời Thiền sư Đại Giám. Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Viên ở Thạch sương, có năm mươi vị:

1. Thiền sư Tuệ Nam ở Hoàng long

2. Thiền sư Phương Hội ở Dương kỳ

3. Thiền sư Khả Chân ở Thúy nham

4. Thiền sư Tán Nguyên ở Tương sơn

5. Thiền sư Sơn Chính ở Võ tuyền

6. Thiền sư Tỉnh Hồi ở Song phong

7. Thiền sư Đạo Khoan ở Đại ninh 8. Thiền sư Ngộ Chân ở Đạo ngô

9. Thiền sư Bảo Tâm ở Tương sơn

10. Thiền sư Duy Chính ở Bách trượng

11. Thiền sư Uẩn Lương ở Hương sơn

12. Thiền sư Duy Quảng ở Nam phong

13. Thiền sư Đức Càn ở Đại quy

14. Thiền sư Bản Ngôn ở Linh sơn

15. Thiền sư Nguyên ở Quảng pháp

16 Thiền sư Đức Chương ở Linh ẩn (mười sáu vị trên có ghi lục)

17. Thiền sư Đới Hưu ở Thái bình

18. Thiền sư Cảnh Thiều ở Lạc phố

19. Thiền sư Toại ở Thiên đồng

20. Thiền sư Giản Trình ở Tịnh từ

21. Thiền sư Nghĩa Tiên ở Dược sơn

22. Thiền sư Cư Phụng ở La-hán

23. Thiền sư Duyệt ở Vĩnh lạc

24. Thiền sư Chân ở Thọ ninh

25. Thiền sư Hạnh Nguyên ở Tạng viện

26. Thiền sư Ứng Quang ở Ô long

27. Thiền sư Chí Kiên ở Tịnh từ

28. Thiền sư Trừng Duyệt ở Báo bản

29. Thiền sư Sầm ở Phước tiến

30. Thiền sư Tu Giới ở Phổ chiếu

31. Thiền sư Ứng ở Thạch thất

32. Thiền sư Hải Thiện ở Tư phước

33. Thiền sư Vĩnh Ninh ở Đại la

34. Thiền sư Đức ở Kim cang

35. Thiền sư Tín An ở Vân tế

36. Thiền sư Đắc Nhất ở Hưng hóa

37. Thiền sư Khánh Dư ở Mạc phụ

38. Thiền sư Nhân Triệt ở La sơn

39. Thiền sư Liễu Văn ở Thừa thiên

40. Thiền sư Hồng Trạch ở Phổ môn

41 Thiền sư Quang Dụng ở Bồ-đề

42. Thiền sư Duy Thận ở La sơn

43. Thiền sư Đức Nhã ở Pháp thạch

44. Thiền sư Trạch ở Thúy phong

45. Thiền sư Thiện Tập ở Tứ châu

46. Thiền sư Nguyên Lục ở Tứ châu

47. Thiền sư Thiện ở Cổ điền

48. Thị giả Tố ở Lộc uyển

49. Thiền sư Thượng tọa Vĩnh

50. Cư sĩ Dương Điền ở Đề hình (ba mươi bốn vị trên, hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Giác ở Lang da, có hai mươi tám vị:

1. Thiền sư Siêu Tín ở Định tuệ

2. Thiền sư Hiểu Nguyệt ở Lặc đàm

3. Thiền sư Phương ở Khương sơn

4. Thiền sư Hiển Đoan ở Bạch lộc

5. Thiền sư Trí Thiên ở Lang da

6. Thiền sư Động Uyên ở Lương phong

7. Thiền sư Phương ở Chân như

8. Thiền sư Thản ở Hưng giáo

9. Thiền sư Khả Tuyên ở Quy tông

10. Thiền sư Tử Tuyền ở Trường thủy (mười vị trên hiện có ghi lục)

11. Thiền sư Kế Thuyên ở Lang da

12 Thiền sư Trung ở Tây dư

13. Thiền sư Tử Hòa ở Công an

14. Thiền sư Hữu Tân ở Hoàng long

15. Thiền sư Ngộ Không ở Ngọc tuyền

16. Thiền sư Trí Nguyệt ở Thiên trúc

17. Thiền sư Trí Kha ở Viên thông

18. Thiền sư Văn Tiệp ở Sùng thắng

19. Thiền sư Lương ở Chứng Thánh

20. Thiền sư Nhân Ích ở Cửu quỳnh

21. Thiền sư Lượng ở Cam lồ

22. Thiền sư Vụ Bản ở Ngọc tuyền

23. Thiền sư Khả Tuệ ở Hoàng hạc

24. Thiền sư Trung ở Bao thiền

25. Thiền sư Dụng Tôn ở Bao thiền

26. Thiền sư Lượng ở Hải hội

27. Thiền sư Hiểu Nghiêm ở Khai Thánh

28. Cư sĩ Đãi Chế Tra Công (mười tám vị trên không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VIÊN Ở THẠCH SƯƠNG.

1. Thiền sư Tuệ Nam ở Hoàng long.

Thiền sư Nam ở Hoàng long vốn dòng họ

Chương, húy là Huệ Nam. Tổ tiên Sư gốc người ở Ngọc sơn, Tín châu. Từ thuở nhỏ, Sư đã đượm nhuần, có tướng của bậc Đại nhân, chẳng ăn dùng các thứ tanh nồng, chẳng ham thích mua vui. Năm mười một tuổi sư bỏ gia đình thế tục đến nương tựa Thiền sư Trí Loan ở viện Định thủy tại Hoài ngọc. Sư từng nghe Thiền sư Trí Loan vân du trên đường thấy các đền miếu, bèn dùng gậy đánh phá và thiêu đốt xong bỏ đi. Năm mười chín tuổi, Sư xuống tóc và thọ giới Cụ túc, rảo bước xa đến Quy tông, Lô sơn. Lão túc Tự Bảo nhóm tập chúng tọa, và Sư bèn nương tựa đó. Tự Bảo thường luôn nháy mắt. Từ đó, Sư ngồi hẳn là kiết già, đi thì nhìn thẳng. Sư lại đến Thê Hiền nương tựa Thiền sư Thị. Thiền sư Thị đến với đại chúng đứng đi rất có nghi luật, Sư nương theo quy mô ấy ba năm. Rồi giả từ vượt qua sông Hoài đến nương tựa Thiền sư Trừng ở Tam giác. Thiền sư Trừng là người rất có tiếng tăm ở đương thời, qua một lần trông thấy Sư bèn liền chấp thuận. Mãi đến lúc Thiền sư Trừng chuyển dời sang Lặc đàm, Sư cũng cùng đi theo. Thiền sư Trừng bèn sai phân tòa tiếp thâu đồ chúng. Mà Thiền sư Văn Duyệt ở Nam xương thấy thế từng về nằm than rằng: "Thiền sư Tuệ Nam rất có đạo khí, chỉ tiếc là chưa nhận thọ bản sắc cam chùy!" Gặp lúc đồng đến Tây sơn, ban đêm cùng trò chuyện về Thiền sư Pháp đạo ở Vân môn, Văn Duyệt nói: "Trừng Công tuy là nối dõi Vân môn, nhưng pháp đạo thì khác vậy". Sư bèn hỏi về điều khác ấy. Văn Duyệt nói: "Vân môn như chín chuyển đan sa, chấm sắt làm vàng. Còn Trừng Công thuốc lộng ngân, Đồ chúng có thể mua vui, vào tôi luyện tức liền chảy đi". Sư tức giận, nắm gối mà đè ném đó. Đến sáng hôm sau, Văn Duyệt sám tạ lỗi quá và lại nói: "Vân môn khí vũ như vua, cam nhận câu chết xuống vậy. Còn Trừng Công có pháp trao người câu chết. Câu chết ấy có thể cứu sống được người vậy!" Và liền xoay lưng đi. Sư bèn kéo lại mà nói: "Tức như vậy ai chỉ ông ý ấy?" Văn Duyệt nói: "Thiền sư Sơ Viên mánh khóe ra các phương, ông muốn thấy đó, không nên đến sau vậy". Sư im lặng mà tính lường nói là: "Việc lớn hành cước này, Duyệt sư ở Thúy nham mà khiến ta diện kiến Sơ Viên ở Thạch sương, thấy đó có được đối với Văn Duyệt có gì ư?" Và liền ngay đó, Sư cụ bị hành trang, đến nửa đường, nghe Từ Minh chẳng tôn thờ, mọi sự khinh thường thiếu Tùng lâm, mới hối tiếc, muốn không, Sư dừng ở lại Bình hương qua nhiều ngày, kết bạn từ Du huyện lên Hành nhạc, dừng nghỉ tại Phước nghiêm. Lão túc Hiệu Hiền Xoa Thủ là người nối dõi Thiền sư Minh An ở Đại dương bảo sư trông coi thư ký. Các bạn Đạo ở Lặc đàm nghe Sư chẳng đến Thạch sương, bèn sai kẻ sứ đến thăm hỏi. Sau đó không lâu Hiệu Hiền thị tịch, mọi người ở quận đề cử Từ Minh thống lãnh Phước nghiêm. Sư trong tâm có chút vui mừng đó, vả lại muốn trông xét người ấy để xét nghiệm lời nói của Văn Duyệt. Khi Từ Minh đã đến, chỉ qua một lần trông thấy mà thâm tâm và dung nghi Sư đều chỉnh túc. Nghe Từ Minh đàm luận phần nhiều chê dập các phương, mà lớp lớp tính cho là kiến giải tà vạy, đều là chỉ quyết do Thiền sư Trừng kín trao, khí sách mà trở về nghĩ nhớ lời nói trước đó của Văn Duyệt. Vụt nhiên biến đổi nói là: "Tâm bậc Đại trượng phu, chỉ khoảng xương sống ấy có thể tự làm nghi ngại ư?" Và liền đi đến nơi phòng thất của Từ Minh mà nói là: "Huệ Nam tôi vì ám độn mê mờ ngắn ngủi ngóng trông Đạo chưa thấy, nhờ nghe đêm tham như kẻ mê đi gặp được xe lửa làm chỉ Nam, chỉ Đại từ lại thí pháp thí khiến hết các nghi còn thừa". Từ Minh cười, bảo: "Thư ký đã lãnh dẫn đồ chúng vân du các phương, tiếng tăm vang vọng khắp chốn tòng lâm. Tiếc có điều nghi chẳng vì suy yếu bị lậu mà vất bỏ. Hãy cùng ngồi mà thương lượt ngó lại chẳng thể ư?" Và Từ Minh sai bảo Thị giả mang giường ghế đến mà mời Sư ngồi. Sư cố từ nhượng, khẩn thiết ai thành càng lắm. Từ Minh nói là: "Thư ký học thiền Vân môn hẳn khéo thông diệu chỉ ấy, như nói buông tha Động sơn ba gậy. Khi ấy Động sơn nên đánh hay không nên đánh?" Sư đáp: "Nên đánh". Từ Minh đổi thay sắc mặt bảo: "Nghe tiếng ba gậy tức là ăn gậy thì ông từ sáng sớm đến chiều tối nghe các thứ tiếng quạ kêu, chim thước hót, tiếng chuông mỏ, trống, bảng cũng nên ăn gậy, ăn gậy lúc nào đáng nên thay?" Sư bèn trừng mắt trông nhìn mà bỏ đi. Từ Minh nói: "Tôi mới nghi, chẳng kham làm thầy ông, nay có thể vậy". Và sai bảo Sư lễ bái. Sư lễ bái xong đứng dậy, Từ Minh sửa lời nói trước mà bảo: "Nếu như ông hiểu được yếu chỉ của Vân môn, thì Triệu châu đã từng nói

"Bà Tử ở Đài sơn bị ta khám phá". Thử chỉ nơi Triệu châu đã khám phá đó xem?" Sư mặt nóng bừng toát đồ mồ hôi, chẳng biết đáp như thế nào?" Ngày hôm sau sư lại đến đó, lại bị mắng nhục, Sư thẹn thấy chung quanh hai bên mà liền nói: "Chính vì chưa hiểu, mới mong cầu giải quyết. Mắng nhục đâu phải là cách thức của từ bi pháp thí". Từ Minh cười bảo: "Thế là mắng nhục ư?" Khi ấy Sư thầm tỏ ngộ ý chỉ đó, liền nói thật rằng: "Lặc Đàm (Thiền sư Trừng) quả thật là câu chết!" và dâng bày lời kệ rằng:

"Tài vượt Tòng lâm là Triệu châu

Lão bà nơi xét không đầu mối

Mà nay bốn biển trong như kiếng Hành nhân chẳng vì đường làm thù".

Từ Minh đưa tay chấm chữ "Một" (không) mà ngoái nhìn lại Sư, Sư liền sửa đổi đó, mà tâm phục huyền diệu vi mật ấy. Dừng ở lại hơn một tháng rồi Sư giả từ mà ra đi. Khi ấy Sư vừa ba mươi lăm tuổi. Sư vân du đến Phương Quảng, sau Động thức tuyền, Đại Đạo lại Đồng Hạ. Tuyền là Phàm hay Thánh chẳng thể lường biết mà cơ biện trội vượt mọi người, tự nhiên vỗ vào vai Sư mà bảo là: "Ông thoát loại phần châu sâu dày, hãy nên tự vui mừng!"

Năm sau rảo bước đến Kinh châu, Sư bèn gặp Văn Duyệt ở Kim loan, vừa cùng trông thấy, Sư mỉm cười, nói: "Tôi không được là anh bạn và cốc tuyền, sau biết được Từ Minh?" Mùa thu năm đó, Sư trở lại hướng bắc, riêng một mình và Lặc đàm, mọi tốt lành xưa cũ của Trừng công đều-hết-Từ Vân cư Sư đến Đồng an, Lão túc hiệu là Thần lập, xét thấy Sư nhọc nhằn lo mọi việc, mới bảo là: "Tôi ở tại núi đã lâu mà không bổ ích gì cho Tông giáo, dám đem mọi việc của viện giao phó cho ông". Và tướng biết sư nói theo sự thỉnh mời của Thần lập là việc chẳng đặng đừng mà nhận đó. Trừng Công ở Lặc đàm sai vị Tăng đến xét xem sư đề xướng. Sư có nói: "Biển trí không tánh, nhân vì giác vọng mà Thánh phàm, giác vọng vốn hư dối, tức phàm tâm mà thấy Phật. Tiện đó nghĩ đi, nghĩa là Đồng an không chiếc bẻ hợp tùy sự ước muốn của các người điên đảo. Nam đẩu bảy, Bắc đẩu tám". Vị Tăng ấy trở về nêu cử tợ như Trừng Công. Trừng Công lấy làm chẳng vui lòng. Bỗng chốc nghe Sư nối dõi Thiền sư Sơ Viên ở Thạch sương. Các đạo bạn ở Lặc đàm phần nhiều đều bỏ đi. Ở Quy tông một đêm nọ lửa thiêu cháy hết, bị bắt đưa lên ngục tù, bị các kẻ lại tìm kiến khe hở cả trăm mối, Sư vẫn tự nhiên dẫn tấc bóng mà chẳng vì lụy người, chẳng ăn mà thôi. Lâu sau được phóng thích, kẻ lại đến ngang ngược, Sư chẳng đếm xỉa chưa từng mở lời. Sinh ở Huỳnh nghiệt tạo lập am tại trên khe đề tên là Tích Thúy, thế rồi bèn lui ở đó mà bảo: "Tôi sắp già suy". Vừa lúc ấy mọi người ở Giang hồ Mân việt nghe Đạo phong Sư mà có người ở khi ấy cùng nhau giao võ ngửa nghiêng nơi đường, chỉ sợ ở sau đó, chỉ nhàn nhã nhàm chán no nê hẳn lấy làm có thừa. Đến thì bùi ngùi tự mất sắp hàng lớp của đệ tử. Có Cao sĩ Diên Chi nối dõi Phan Hưng ở Nam châu từng hỏi về nguyên do ấy. Sư đáp: "Cha nghiêm thì con hiếu. Sự dạy răn của ngày nay là khuôn phép ở ngày sau. Thí dụ như đất, lớn thì hạ xuống, hõm thì lấp bằng. Kia sắp lên nơi đỉnh cao ngàn nhận, Tôi cũng cùng chung đó, khốn nhọc đến tận dưới chín vực. Tôi cũng cùng chung đó. Tài đến cùng thì vọng hết mà tự giải mở vậy". Và Sư lại bảo: Âu yếm đó, ôm ấp đó, do đó mà xuân hạ sinh dưỡng vậy, nhờ sương đó tuyết đó, do đó mà đến thu đông thành thục vậy. Tôi muốn không một lời có được ư?" Và Sư đem tay Phật cẳng chân lừa duyên sinh ấy thế nào là ba lần nói hỏi cùng các học giả, mà chẳng ai có thể khế hợp yếu chỉ ấy. Các chốn Tùng lâm trong thiên hạ gọi đó là ba cửa ải, giả sử như có người đối đáp, Sư không thể chẳng gom mắt ngồi cao, mọi người chẳng lường biết được ý chỉ như thế nào. Diên Chi lại hỏi về nguyên do đó. Sư đáp: "Người đã qua ải lắc cánh tay đi qua, sao biết có Quan lại, lại theo kẻ lại mà hỏi có được chăng, đó là người chưa thấu cửa ải". Sư ở Hoàng long, pháp tịch hưng thạnh đáng sánh bằng Mã Tổ ở Lặc đàm, Đại Trí ở Bách trượng.

Đến ngày 17 tháng 03 năm Hy Ninh thứ hai (1069) thời Bắc Tống, Sư thiết đãi Thiền sư Huệ Nhật và hai chuyên sứ ở Tứ Tổ, sau khi tan hội, Sư đứng dậy đến ngồi kiết già trước phòng ngủ, đại chúng nhóm tụ bao bọc chung quanh, giây lát sau thì Sư thị tịch. Trước đó một ngày Sư có nói kệ tụng dặn dò. Lại qua sau bảy ngày trà tỳ có được xá-lợi năm sắc, tạo dựng tháp tôn thờ tại ngọn núi chắn trước chùa. Sư hưởng thọ sáu mươi tám tuổi, năm mươi hạ lạp. Đến năm Đại Giám thứ tư (1110) thời Bắc Tống, vua Hy Tông (Triệu cát 1101-1126) truy phong Sư thụy hiệu là "Phổ Giác".

2. Thiền sư Phương Hội ở Dương kỳ.

Thiền sư Phương Hội ở Dương kỳ, vốn dòng họ Sinh lãnh, người xứ Nghi xuân thuộc Viên châu. Thuở thiếu thời, sư Cảnh Mẫn khôi hài, đàm nói đả kích rất có đạo vị, đến tuổi hai mươi chẳng vui thích theo việc bút nghiên, trốn danh thương thuế, chuyên việc khóa tối, bị không chức đánh phạt, nửa đêm Sư bèn trốn đi đến Cửu phong ở Quân châu, hoảng nhiên như nơi xưa trước đã đi qua, Sư nhìn lại chẳng nhẫn đi, bèn xuống tóc làm đại Tăng. Xem kinh nghe pháp, tâm thần cứng mạnh hội hợp, hay đau đớn tự cắt dứt, tiết tháo nương tựa dự tham ở các bậc Lão túc.

Bấy giờ Thiền sư Từ Minh ở tại Nam tuyền, Sư đến hỗ giúp An lạc cần khổ. Đến lúc Thiền sư Từ Minh chuyển dời sang đạo Ngô Thạch Sương, Sư cũng tự cầu xin nhận lãnh việc quản viện, đó tuy chẳng phải là ý của Thiền sư Từ Minh mà đại chúng bàn luận tạp nhiên xưng tốt lành, cặp áo bông vào vỏ sách vàng, luôn nói khờ khạo xoa phẩy Từ Minh. Các phương lưu truyền lấy làm đáng. Thường lúc cùng cơm xong, Thiền sư Từ Minh đều leo núi, các Thiền giả đến hỏi đạo chẳng biết nơi đâu, Sư dòm ngó Thiền sư Từ Minh đi chưa về, bèn khua trống nhóm tập đại chúng. Thiền sư Từ Minh vội trở về tức giận bảo: "Tùng lâm nhỏ, buổi chiều mà cũng lên giảng tòa ư? Từ đâu mà ông có được khuôn phép này vậy?" Sư từ đáp: "Tại Phần châu buổi chiều cũng có dự tham há cũng là không khuôn phép ư?" Thiền sư Từ Minh không nói gì cả, nên mãi đến nay ở chốn Tùng lâm, Tam bác niệm tụng xong còn có dự tham là phát xuất từ đó vậy.

Đến lúc Thiền sư Từ Minh chuyển dời sang Hưng hóa, nhân đó, Sư giả từ trở về lại Cửu phong, các hàng đạo tục ở Bình thật đến núi thỉnh mời Sư về ở Kỳ dương. Bấy giờ, Trưởng lão Cần Công ở Kỳ dương không biết Sư, kinh ngạc hỏi: "Hội giám tự cũng khéo giỏi Thiền pháp ư?" Sư nhận thiệp hỏi đáp xong mới bảo: "Vậy còn có người nào hỏi câu thoại chăng? Thử ra cùng diện kiến, ngày nay tánh mạng Dương Kỳ tại trong tay các người mặc tình kéo ngang kéo ngược. Tại sao vậy?

Đại trượng phu trẻ con phải ngay giữa chúng chọn lựa, chớ nên lật trái trong đất tợ nước dưới đáy đặt để Hồ lô, phải đối trước đại chúng khám nghiệm xem có chăng, nếu không thì Dương kỳ mất lợi". Nói xong, Sư xuống khỏi tòa. Cần Công nắm đứng lại và bảo: "Ngày nay tạm mừng được cái đồng tham". Sư hỏi: "Đồng tham đến việc, làm sao sống?" Cần Công đáp: "Dương Kỳ kéo cày, Cửu Phong kéo bừa". Sư hỏi: "Chánh ngay lúc nào Dương Kỳ ở trước hay Cửu Phong ở trước?' Cần Công im lặng không nói. Sư rập lấy đó mở bảo: "Sao gọi là Đồng tham mà trước nay chẳng vậy?" Từ đó, tiếng tăm của Sư vang vọng khắp các phương.

Sư chỉ bảo đại chúng rằng: "Không thấy một pháp là hỏa hoạn lớn". Xong, Sư nắm lấy gậy chống mà tiếp bảo: "Xỏ qua lỗ mũi của Thích-ca và Lão Tử. Vậy làm sao sống, nói một câu thoát thân xem? Đến nước chẳng tẩy rửa nơi nước. Nói đem lại một câu". Ngưng giây lát, Sư tiếp bảo: "Nói vừa rồi chẳng đi đường dưới núi, quả nhiên là nghe tiếng vượn kêu đứt ruột". Và Sư lại tiếp bảo: Hết thảy trí thông không chướng ngại". Xong, Sư lại dựng đứng gậy chống, tiếp bảo: "Cây gậy này hướng đến trước mặt các ông mà trình bày thần thông đi". Rồi, Sư ném bỏ cây gậy mà bảo: "Ngay được đất trời xé rách, núi non lay động. Hiểu ư? Chẳng thấy đạo Nhất thiết trí trí tịnh". Xong, Sư vỗ vào thẳng sàng mà bảo: "Ba mươi năm sau chớ nói Kỳ dương đầu rồng đuôi rắn". Sư Đề cương chấn lãnh đại loại như Vân môn" Sư lại hỏi vị Tăng vừa đến rằng: "Mây sâu đường hẹp, giá cao từ đâu lại?" Vị Tăng ấy đáp: "Trời không bốn vách tường". Sư hỏi: "Đạp phá đã hết bao nhiêu đôi giày cỏ?" Vị Tăng ấy bèn hét. Sư hỏi: "Một tiếng hét hai tiếng hét, sau đó làm sao sống?" Vị Tăng ấy nói: "Trong lão Hòa thượng này rất là bận rộn". Sư bảo: "Cây gậy chẳng có ở đây, hãy tạm ngồi uống trà!" Và Sư hỏi lại vị Tăng ấy rằng: "Đống lá rơi, mây sáng sớm lìa xứ nào?" Vị Tăng ấy đáp: "Quán Âm". Sư hỏi: "Dưới gót cẳng chân Quán Âm một câu làm sao sinh, nói?" Vị Tăng ấy đáp: "Vừa lại cùng thấy xong". Sư nói: "Cùng thấy việc đến cùng làm sao sống?" Vị Tăng ấy không trả lời. Sư bảo: "Thượng tọa thứ hai thay tham đầu nói xem". Vị Tăng ấy cũng không đối đáp. Sư bảo: "Đây kia cùng dốt đặt". Sư khám nghiệm bén nhọn, căn cơ lại đồng loại như Nam viện. Năm Khánh Lịch thứ sáu (1046) thời Bắc Tống, Sư chuyển dời sang núi Vân cái ở Đàm châu, đem chánh phái Lâm Tế giao giữ giềng mối.

3. Thiền sư Khả Chân ở Thúy nham.

Thiền sư Khả Chân ở Thúy nham tại Hồng châu, vốn người xứ Phước châu. Sư từng dự tham Thiền sư Từ Minh. Nhân đến nơi Thị giả Đồng Thiện ở Kim loan kiết hạ an cư. Đồng Thiện là đệ tử cao túc của Thiền sư Từ Minh, Thiền sư Chân ở Đạo ngô, Thiền sư Phương Hội ở Dương kỳ thảy đều suy phục đó. Sự tự phụ mình đã thân gần diện kiến Thiền sư Từ Minh, trong thiên hạ không ai đáng cần chú ý vậy. Đồng Thiện cùng đàm nói nên biết Sư chưa thấu triệt bèn cười đó. Một ngày nọ đi núi, nêu cử luận bàn bén nhạy cùng phát, Đồng Thiện mới nhặt lấy một mảnh gạch sỏi đặt để trên tảng đá mà bảo: "Nếu hướng vào dưới ấy mà được một câu chuyển đổi, thì hứa thật ông đã thân gần diện kiến Thiền sư Từ Minh". Sư trông nhìn hai nên phải trái phỏng muốn đối đáp, Đồng Thiện bèn quát hét: "Dứt nghỉ dừng có tình thức chưa thấu, sao từng mộng thấy?" Khi ấy, Sư tự thẹn sợ bèn liền trở về Thạch sương. Thiền sư Từ Minh trông thấy Sư đến liền quát la rằng: "Bản sắc người hành cước phải biết thời tiết. Có vị gì gấp lắm trong lúc chưa mãn hạ mà vội đến đây?" Sư khóc mà thưa là: "Bị Sư huynh Đồng Thiện dùng tâm xấu độc trọn làm lấp hại người, nên lại cầu khẩn Hòa thượng". Thiền sư Từ Minh hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Không mây mọc trên đảnh, có trăng rơi sóng tâm". Thiền sư Từ Minh tức giận trừng mắt, hét và bảo: "Bạc đầu răng long còn làm cái kiến giải ấy, làm sao thoát khỏi được sinh tử?" Sư kinh sợ mong cầu chỉ bày. Thiền sư Từ Minh bảo: "Vậy ông hãy hỏi ta". Sư bèn sửa lời trước mà hỏi; Thiền sư Từ Minh chấn động phát tiếng đáp: "Không mây mọc trên đỉnh, có trăng rơi sóng tâm". Ngay lời nói ấy, Sư bèn đại ngộ Sư sáng khí vượt ra, có biện nhanh nhẹn, khắp chốn Tùng lâm mọi người đều kính sợ đó.

Sư ở tại Thúy nham, một ngày nọ, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Đồng hầm hố không khác đất". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Cày sâu gieo cạn". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học chuyển thân?" Sư đáp: "Một đổ tường trăm đổ điều". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học dốc lực?" Sư đáp: "Chẻ củi ngàn ngày, thiêu đốt một ngày". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học thân thiết?" Sư đáp: "Lẫn lộn nhà dâng lên vượt đầu thuyền". Lại hỏi: "Thế nào là một câu lợi người, xin Sư chỉ bày?" Sư đáp: "Ễnh ương ba chân bay nhảy lên trời". Lại hỏi: "Thế nào là thôn trước tuyết sâu, trong đêm qua một cành mai nở?" Sư đáp: "Đói gặp cổ tiệc vua còn chưa dám tự ăn". Lại hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Ra cửa liền thấy". Lại hỏi: "Thế nào người trong đạo?" Sư đáp: "Vác gông cùm qua trạng".

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các bậc Tiên đức nói việc này như đốt văn rùa, đốt tức thành điềm, không đốt tức thành lụt. Đốt và không đốt ngay đó bèn nắm nặn. Thượng Lam tức chẳng vậy. Vô cớ không hẳn, ngựa chạy giữa hư không, đi thuyền trên đất nắng hạn. Nam sơn nổi mây, Bắc sơn mưa đổ". Rồi Sư nắm chiếc gậy chống mà bảo: "Cây gậy biến làm thiên hạ tướng quân giẫm trải khắp bốn thiên hạ, có thủ tiết chẳng thủ tiết, có giới hạnh không giới hạnh, đồng một lúc tấu trình đến Thiên Đế Thích". Xong, Sư tiếp hét một tiếng và bảo: "Là Trượng phu nên tự có chí xung thiên, chớ hướng đi theo nơi Đức Như Lai đi". Và Sư gõ xuống một cái. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử bài tụng của Long Nha là:

"Học đạo như dùi lửa

Gặp khói chưa thể ngừng Thẳng đợi kim tinh biện Về nhà mới đến đầu".

Thần Đảnh lại nói bài tụng là: "Học Đạo như dùi lửa

Gặp khói liền ngưng ngay Chớ đợi kim tinh biện Thiêu chân lẫn đốt đầu".

Sư bảo: "Nếu luận về Đốn thì Long Nha chánh tại giữa đường, nếu bàn về Tiệm thì Thần đảnh còn ít ngộ. Lúc đó, lại nên như thế nào? Chư nhân giả, năm nay có nhiều lá rụng, nơi nào quét về nhà?" Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Vào trộm chống kháng địch thù không sợ sống chết là dõng khí của tướng quân. Vào núi chẳng sợ hổ hủy là dòng khí của người săn bắn. Vào nước chẳng sợ giao long là dòng khí của ngư ông, vậy làm sao sống là dõng khí của nạp Tăng?" Sư bèn nắm lấy cây gậy tiếp bảo: "Cái này là cây gậy, nhón được, nắm được, lay động được thì cả ba ngàn đại thiên thế giới đồng một lúc lay động. Nếu nhón không được, nắm không được, lay động không được thì Văn Thù tự Văn Thù, giải thoát tự giải thoát. Hãy tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu bày có vị Tăng hỏi Ba Lăng rằng: "Thế nào là đạo?" Ba Lăng đáp: "Người sáng mắt rơi xuống giếng". Vị Tăng lại hỏi Bảo Ứng: "Thế nào là đạo?" Bảo Ứng đáp: "Năm con chim phụng trước lầu". Vị Tăng ấy lại hỏi Thủ Sơn: " Thế nào là đạo?" Thủ Sơn đáp: "Dưới cẳng chân sâu ba thước". Ba chuyển ngữ ấy, một câu là vách tường dựng đứng ngàn nhận, một câu là đi thuyền trên đất liền, và một câu là khách chủ cùng tham lẫn lộn. Các người chớ có chọn lựa được ư? Đưa ra nói xem. Nếu không thì tạm thực hành hạnh từ của La-hán phá dứt kết tặc, thực hành hạnh từ của Bồ-tát an ủy chúng sinh, thực hành hạnh từ của Như Lai mà chứng đắc đến cùng". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Hiền Thánh chứng đắc Ngũ thông". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp: "Chiếc lưỡi dài đến Phạm thiên".

Đến lúc sắp thị tịch, Sư hiện tướng bệnh tật rất lao khổ, trải chiếu cỏ nằm nơi đất, xoay chuyển không khoảnh khắc ngưng nghỉ. Thị giả Triết buồn khóc mà nói là: "Lúc bình sinh chê Phật mắng Tổ, nay làm sao mới vậy?" Sư nóng bừng trông nhìn mà quát bảo là: "Ông cũng làm kiến giải ấy ư?" Và Sư liền vùng dậy ngồi kiết già, bảo thị giả xông đốt lò hương, khói hương vừa bén, sư bèn tịch.

4. Thiền sư Giác Hải ở Tán nguyên.

Thiền sư Giác Hải ở Tán nguyên tại Tương sơn, vốn người xứ Nghĩa ô thuộc Vụ châu, dòng họ Phó; là con cháu của Đại sĩ Phó. Xưa trước tu tập chủng trí, tùy nguyện xuất hiện nơi đời, song thân được cảm điềm lành, khắp thôn xóm đều xưng gọi khác lạ. Năm ba tuổi Sư xuất gia, năm bảy tuổi, Sư làm Tăng. Năm mười lăm tuổi, Sư vân du xa đến Thạch sương lên nơi Trượng thất. Thiền sư Từ Minh chỉ lần đầu trông thấy, liền bảo: "Tốt, khéo đến chuồng, xưởng!" Sư bèn làm tiếng lừa kêu. Thiền sư Từ Minh bảo: "Thật đúng là pháp khí". Và bèn bảo làm Thị giả. Trong suốt hai mươi năm, Sư gánh nước bổ củi, chẳng ngại sợ nắng mưa, dốc hết thâm tâm thân gần cầu đạo. Sau ra giữa đời, Sư dừng ở tại Tô đài, Thiên phong, Long hoa, Bạch vân. Phủ soái thỉnh mời Sư đến ở nơi Đạo tràng của Chí Công. Sư nêu bày giềng mối tông yếu, có biện nhanh nhẹn, hành giải tương ưng, mọi người ở các phương vô cùng suy phục. Thừa tướng Vượng Công An Thạch kính trọng đức hạnh lớn lao của Sư, đặc biệt tấu trình phong tặng Sư hiệu. Và ông lại kiên quyết từ chối đảnh tịch, lập am trong núi Định thủy, cùng Sư thong dong dưới rừng, đàm nói trọn ngày. Ông tặng sư bài tụng rằng:

"Chẳng cùng vật trái đạo thật lớn

Thường tùy duyên khởi từ Thiền sâu Thiện căn đã sạch ai phá được Vết chân như không ta được tìm".

Đó cũng là một việc thấu suốt sự đời hiếm có vậy. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư đáp: "Vách tường Đông đánh vách tường Tây". Lại hỏi: "Có khách đến làm sao mà tiếp đãi?" Sư đáp: "Củi trên núi, nước trong giếng". Lại hỏi: "Thế nào là nơi chư Phật xuất thân?" Sư đáp: "Thai lừa bụng ngựa". Lại hỏi: "Lỗ Tổ đối mặt vào vách tường, ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Việc trú trì thật bề bộn". Lại hỏi: "Thế nào là Đại Thiện tri thức?" Sư đáp: "Giết trâu mổ dê". Lại hỏi: "Vì sao như vậy?" Sư đáp: "Nghiệp tại trong đó".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Cái này nếu là như hổ mang sừng, cái này nếu chẳng như vậy thì gọi là gì?" Ngừng gây lát, Sư lại bảo: "Nuôi lừa nuôi ngựa. Trân trọng".

Đến năm Nguyên Hựu thứ nhất (1086) thời Bắc Tống, Sư thị tịch. Thừa tướng Vương Công thương khóc đến nơi tháp, có làm bài tụng tán thán Sư chân rằng:

"Hiền thiện thay một người

Tinh tấn mà lặng lặng

Biết lời mà hay im

Ngợi khen chẳng làm mừng

Hủy nhục chẳng vì buồn

Chẳng căng và chẳng khắc

Mọi người tự xưng đức

Có Tăng và có tục

Đến từ khắp Nam Bắc

Chẳng thuận cũng chẳng nghị

Chẳng chống và chẳng ép

Chẳng Quán và chẳng Hoa

Chỉ ăn mà đã thật Ai người nối dõi đó

Ta có khuôn phép đây".

5. Thiền sư Sơn Chính ở Võ tuyền.

Thiền sư Sơn Chính ở Võ tuyền tại Thụy châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Áo thành người, nước thành ruộng". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trên pháp tịch Hoàng Mai, đại chúng có cả ngàn người, trao pháp truyền y đích thực phòng ngại hành giả. Phải thì mặt Nhật mọc ở phương Tây, quấy thì mặt nguyệt lên tại phương Đông. Tham".

6. Thiền sư Tỉnh Hồi ở Song phong.

Thiền sư Tỉnh Hồi ở Song phong tại Nam nhạc. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Người Nam phiên đi thuyền, người bờ Bắc lay bè, Ba Tư và Đại Đường, núi Tu-di múa vũ. Là nói năng gì?" Đến ngày 17 tháng 09 năm Nguyên Phong thứ sáu (1083) thời Bắc Tống, Sư cạo đầu, tắm gội, giả biệt đại chúng, làm kệ tụng rằng:

"Suốt chín mươi hai năm

Rõ ràng đối chúng nói Xa suốt tan mây lạnh Cửa mở trăng tàn qua".

Nói xong, Sư bèn ngồi mà thị tịch, đến lúc trà tỳ, răng và cốt đảnh không rã hoại, phía trên có ánh sáng năm sắc khác lạ.

7. Thiền sư Đạo Khoan ở Đại ninh.

Thiền sư Đạo Khoan ở Đại ninh tại Hồng châu. Có vị Tăng hỏi: "Tôn giả Ca-diếp thấy chư Phật là thấy cái gì? Mà Đức Như Lai vừa nắm cành hoa liền mỉm cười?" Sư đáp: "Nhẫn tuấn chẳng cấm". Lại hỏi: "Đơn Hà thiêu đốt Phật gỗ, vị chủ vì sao mà mày râu đều rơi rụng?" Sư đáp: "Giặc chẳng đánh con nhà nghèo". Lại hỏi: "Đã là một chân pháp giới, cớ sao lại có ngàn sai muôn khác?" Sư đáp: "Rễ sâu lá tốt". Vị Tăng ấy vừa đánh tướng vòng tròn vừa hỏi: "Lại còn có ra được cái này không?" Sư đáp: "Khéo đùa thành vụng". Lại hỏi: "Thế nào là trước ba ba, sau cũng ba ba?" Sư đáp: "Số chín chẳng đến chín". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Điểm trà phải là trăm sôi vọt". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế?" Sư đáp: "Uống hết chớ chừa cặn".

Có vị Tăng đến nơi phòng thất Sư mà hỏi: "Thế nào là trâu trắng nằm giữa đường?" Sư nắm gân lửa cắm vào lò lửa và bảo: "Hiểu không?" Vị Tăng ấy nói: "Không hiểu". Sư bảo: "Đầu chẳng thiếu, đuôi chẳng thừa". Ngày sư ở tại Đồng an, có vị Tăng đến hỏi: "Đã là Đồng an cớ sao lại có vị Tăng cảm bệnh mà thị tịch?" Sư đáp: "Bố thí chẳng như lại liền trách". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thiếu lâm diệu quyết, gia phong của chư Phật xưa trước, ứng dụng tùy cơ, nắm buông tự tại, như nắm tay trong lòng bàn tay mở hợp có lúc, tợ nước thành bọt bóng, nổi tan không định, động tình đều hiểu biết, nói nín toàn rành rõ, muôn dụng tự nhiên chẳng nhọc tâm lụy, đến trong đó gọi là thuận theo nước thả thuyền. Hãy tạm nói ngược gió đất mái chèo ai là kẻ khéo tay?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Đùa bỡn với sóng nước phải là người đùa bỡn sóng nước". Và Sư hét một tiếng, bảo: "Trân trọng".

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Vô niệm là Tông, vô trú làm bản, chân không làm thể, diệu hữu làm dụng. Do đó nói: "Khắp đại địa là chân không, khắp pháp giới là diệu hữu. Hãy tạm nói người nào dùng được? Vận dụng cả bốn mùa, nhật nguyệt sáng tỏ lâu dài. Pháp vốn không dời đổi, đạo không nơi chốn, tùy duyên tự tại, theo vật chẳng trầm. Cõi này xứ nọ, vào phàm ra Thánh, tuy là như vậy, nhưng hãy nói một câu vào làng tùy tập tục, làm sao mà sống, nói?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Trời Tây gọi là tiếng Phạm, phương này gọi là tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường".

8. Thiền sư Ngộ Chân ở Đạo ngô.

Thiền sư Ngộ Chân ở Đạo ngô tại Đàm châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhật nguyệt xưa nay, núi sông vẫn như cũ. Nếu rõ được đi thì mười phương chư Bạt-già-phạm đồng một môn Niếtbàn. Nếu rõ không được thì khinh hủy kinh ấy nên cảm mắc tội như vậy". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Sư tử con gầm rống, Long mã con nhảy cẩn, trong kiếng Phật xưa sáng tỏ ba núi ánh trăng lẻ sáng ngời". Rồi Sư bèn làm thế hát múa và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử Động sơn nói là: "Trên núi Ngũ đài mây ùn cơm, trước thềm điện Phật nước giải chợ trời, trên đầu sát can đốt chùy tử, ba con Hồ tôn đêm rây tiền". Lão Tăng đây tức chẳng vậy, ba mặt lý nô cẳng chân đạp nguyệt, hai đầu trâu trắng tay vốc khói, đội mão thỏ biếc đứng nơi sân cây bách, cởi vỏ quạ rùa bay lên trời. Lão Tăng chỉ là dây sắn bị các người trông nhìn phá hết vậy. Động Sơn Lão nhân rất là kỳ đặc. Tuy là như vậy, chỉ đi được ba bốn bước. Vả lại chẳng qua bảy nhảy tám nhảy. Hãy nói lừa dối ở tại nơi nào? Ngày nay Lão Tăng chẳng tiếc lông mày đồng một lúc bố thí: "Ngừng giây lâu, Sư lại bảo: "Đinh ninh góp đức ông, không lời thật có công, mặc tình biển xanh biến, trọn chẳng vì ông thông". Có người hỏi: "Ngưng nhiên bèn có lúc hiểu thì thế nào?" Sư đáp: "Trên đuôi chuột già đeo dùi nghiên". Lại hỏi: "Thế nào là Thể của chân như?' Sư đáp: "Dạ xoa quỵ gối trông mắt đen". Lại hỏi: "Thế nào là dụng của chân như?" Sư đáp: "Chày Kim cang đánh núi sắt nát vụn". Lại hỏi: "Thế nào là Thường chiếu?" Sư đáp: "Kim bén trên núi Tu-di". Lại hỏi: "Thế nào là Tịch chiếu". Sư đáp: "Nước biển trong lông mày". Lại hỏi: "Thế nào là xưa nay vốn chiếu". Sư đáp: "Nhảy nhót trong giày cỏ". Vì Tăng ấy rút lui. Sư bảo: "Tịch chiếu thường chiếu xưa nay chiếu, dưới đáy giày cỏ thường nhảy nhót, gặp kim bén trên núi Tu-di, nước trong lông mày thường giàn giụa". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Động đình không ngăn che". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Lúa chín trước núi, Lô lăng gạo có giá, Trấn châu la phục lại có một loại". Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Lúc hái rau và rễ trong đồng hoang để nấu, lại che củi tươi mang lá đốt". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Người xưa nói nhận chấp như trước lại chẳng phải, thật khó hiểu, đất xưa buông xuống râu tóc nhiều. Ba Tư mắt sâu lỗ mũi lớn rất là quái lạ, bỗng nhiên thấu qua biên giới của Tân La". Rồi Sư hỏi một vị Tăng: "Từ xứ nào lại?" Vị Tăng ấy đến gần phía trước chẳng xem xét. Sư bảo: "Nhà đông làm lừa nhà Tây làm ngựa". Vị Tăng ấy hỏi: "Qua ở xứ nào?" Sư đáp: "Muôn dặm nhai châu".

Sư trong thân thể không được bình an, có vị Tăng hỏi: "Những ngày gần đây, tôn vị Hòa thượng như thế nào?" Sư đáp: "Cháo cơm đầu chẳng rõ việc". Vị Tăng ấy im lặng không nói gì, Sư kêu chỉ xuống một cái. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phổ hóa sáng cũng đánh tối cũng đánh, đãy vải ngang suốt dọt cũng suốt. Thạch thất hành giả đạp cối giả, nhân gì quên ngay dưới cẳng chân?" Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đệ nhất Huyền?". Sư đáp: "Thích Tôn ánh sáng bắn vào vai A-nan". Lại hỏi: "Thế nào là Đệ nhị Huyền?" Sư đáp: "Trăng lẽ, muôn tượng nhóm". Lại hỏi: "Thế nào là Đệ tam huyền?" Sư đáp: "Khóc đến khô tang rướm nước mắt". Lại hỏi: "Thế nào là Đệ nhất yếu?" Sư đáp: "Rất đẹp tinh lệ chiếu". Lại hỏi: "Thế nào là Đệ nhị yếu?" Sư đáp: "Điện chớp đất trời tỏa sáng ngời". Lại hỏi: "Thế nào là Đệ tam yếu?" Sư đáp: "Cặp đường, tùng xanh già". Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử: Có vị Tăng hỏi Thủ Sơn: "Thế nào là Phật?" Thủ Sơn đáp: "Vợ mới cưỡi lừa nhà ai kéo". Sư bảo: "Tay đè lỗ mũi chân đạp đuôi, ngửa mặt nhìn trời nghe nước chảy, trời sáng đưa ra bên cạnh đường. Đêm lắng lại về trong am tranh".

9. Thiền sư Bảo Tâm ở Tương sơn.

Thiền sư Bảo Tâm ở Tương sơn. Có vị Tăng hỏi: "Lúc vầng trăng chưa tròn thì thế nào?" Sư đáp: "Theo số dẫn đi?" Lại hỏi: "Sau khi đã tròn thì thế nào?" Sư đáp: "Đảo ngược số dẫn lại". Lại hỏi: "Thế nào là thổi lông kiếm?" Sư đáp: "Sơn đen bày trụ". Lại hỏi: "Hai chữ sắc, thế nào thấu được?" Sư đáp: "Một tay xua thổi, một tay tát đánh".

10. Thiền sư Duy Chính ở Bách trượng.

Thiền sư Duy Chính ở Bách trượng tại Hồng châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Hòa thượng Nham Đầu dùng ba văn tiền đòi lấy được con vợ chỉ biết mò cua vớt kiến, cốt yếu lại chẳng biết sinh con dưỡng cái, thẳng đến ngày nay, môn phong tuyệt dứt. Đại chúng cần biết vợ của Khoát Công ư? Ngày nay Bách Trượng chẳng tiếc môi mép, cùng các người chú phá đó. Mai bồng thoa kinh đời hiếm có, quần vải còn là áo thời gả chồng". Có vị Tăng hỏi: "Lúc Ngưu đầu chưa thấy gặp Tứ Tổ cớ sao trăm chim ngậm hoa dâng?" Sư đáp: "Có tiền ngàn dặm thông". Lại hỏi: "Sau khi thấy gặp rồi cớ sao chim chẳng ngậm hoa dâng?" Sư đáp: "Không tiền cách vách điếc". Lại hỏi: "Đạt-ma lúc chưa đến thì thế nào?" Sư đáp: "Sáu lần sáu là ba mươi sáu". Lại hỏi: "Sau khi đã đến thì thế nào?" Sư đáp: "Chín lần chín là tám mươi mốt". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Mộc nhĩ mộc đầy cây". Lại hỏi: "Hết thảy các pháp đều là Phật pháp, ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Dưới một lớp núi một lớp người". Lại hỏi: "Trên thực hành dưới tập học chưa là tác gia, quay lưng với Sở đến với Ngô mới là Đạt sĩ, há chẳng là Hòa thượng nói ư?" Sư đáp: "Đúng vậy". Lại hỏi: "Thế nào là tài vật của cha mà con xài dùng?" Sư bảo: "Ông thử dùng xem". Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị, Sư bèn đánh.

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thiên thai mời thỉnh người người biết có, Nam Nhạc đi núi lại làm sao sống? Hiểu thì lồng đèn cười các ông, còn không hiểu thì có mắt vẫn như mù".

11. Thiền sư Uẩn Lương ở Hương sơn.

Thiền sư Uẩn Lương ở Hương sơn tại Minh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu Thấu pháp thân?" Sư đáp: "Trên đầu sát can ba đài múa". Lại hỏi: "Thế nào là câu dẫn tiếp sợ cơ?" Sư đáp: "Lên người lớn". Lại hỏi: "Thế nào là câu cuối cùng?" Sư đáp: "Dưới rừng Sa-la". Lại hỏi: " Thế nào là nơi người học chuyển thân?" Sư đáp: "Mài xát trong phường". Lại có lúc lên giảng đường, ngừng giây lát, Sư cười lớn: "Ha, ha" rồi bảo: "Cười cái gì? Cười chim hồng hộc vút bay giữa trời, quạ rùa đáy nước đuổi cá con, ba cái Lão bà sáu vú sữa, Kim cang trên lưng chín như bùn, A, ha, ha! Biết hay không biết? Thôn đông, Trần đại kỳ. Tham".

12. Thiền sư Duy Quảng ở Nam phong.

Thiền sư Duy Quảng ở Nam phong tại Tô châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Một hỏi một đáp như chuông ngậm hưởng tợ hang cốc ứng tiếng. Bởi vì việc đã chẳng được, hãy đến trong cửa kiến hóa buông một đường chỉ, nếu y cứ theo môn hạ của nạp Tăng thì đất trời sai khác. Hãy nói nạp Tăng có nơi nào lớn mạnh?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Trọn ngày tìm không được. Có lúc tự nhiên lại.

Ôi".

13. Thiền sư Đức Càn ở Đại quy.

Thiền sư Đức Càn ở Đại quy tại Đàm châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức đến?" Sư đáp: "Nước từ trên núi tuôn ra". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "Khe hang đâu có thể ngăn giữ". Và Sư mới bảo: "Hoa núi tợ gấm, Văn Thù khua đặt trong trông mắt, chim rừng miên man, Quán Âm bít liền lỗ tai. Các nhân giả lại nghĩ lường cái gì? Đêm hôm qua vào canh ba ngủ chẳng được, vụt mình chợt bắt được Phổ Hiền biếm đưa đến trong nước vô sinh. Đến khi tỉnh giấc thì trời sáng. Sáng nay lại gặp gỡ các ông nói lại chuyện mộng. Ý là nói thế nào?" Rồi Sư bèn chống tích trượng mà xuống khỏi tòa.

14. Thiền sư Bản Ngôn ở Linh sơn.

Thiền sư Bản Ngôn ở Linh sơn tại Toàn châu.

Có vị Tăng hỏi:

"Thế nào là Phật?" Sư bảo: "Ai dạy ông hỏi như thế?" Vị Tăng nói: "Ngày nay khởi động Hòa thượng vậy". Sư bảo: "Cảm tạ ông phỏng hỏi đến".

15. Thiền sư Nguyên ở Quảng pháp.

Thiền sư Nguyên ở Quảng pháp tại An cát châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Mãnh ngói đầu gạch". Lại hỏi: "Lúc trong ồn ào lấy được sự yên tỉnh thì thế nào?" Sư đáp: "Oán chẳng thể hết". Lại hỏi: "Thế nào là mắt chánh pháp?' Sư đáp: "Dưới lông mày". Lại hỏi: "Tiện lúc cùng gì tụ hội thì thế nào?" Sư đáp: "Con ngươi cười gật đầu". Lại hỏi: "Thế nào là việc hướng thượng?" Sư đáp: "Nhật, nguyệt, tinh thần". Lại hỏi: " Thế nào là việc hướng hạ?" Sư đáp: "Địa ngục vạc sôi". Lại hỏi: "Lúc muôn dặm không mây thì thế nào?" Sư đáp: "Khỉ chịu đói". Lại nói: "Xin Sư cứu giúp!" Sư bảo: " "Lửa màu sắc gì?" Lại hỏi: "Người xưa nắm dùi nâng phất trần, ý chỉ ấy thế nào?" Sư đáp: "ban ngày người không rãnh". Lại hỏi: "Thế nào là đảm nhận lấy?" Sư đáp: "Như gió thổi qua tai". Lại hỏi: "Lúc rút kiếm ngang ngực thì thế nào?" Sư đáp: "Quạ già thành đàn". Lại nói: "Chánh là nơi Hòa thượng thấy". Sư bảo: "Rắn xuyên qua lỗ mũi". Vị Tăng ấy bèn phẩy tay áo mà đi ra. Sư bảo: "Đại chúng cùng gặp". Lại hỏi: "Từ trước các Thánh đến nơi nào thì đi giày?" Sư đáp: "Đường thông bốn hướng". Lại hỏi: "Cùng gì bại khuyết?" Sư đáp: "Biết ông chẳng đến ruộng đất ấy". Lại hỏi: "Sau khi đã đến thế nào?" Sư đáp: "Ở nhà thường uống trà ăn cơm". Lại hỏi: "Ý tổ và ý của giáo điển là đồng hay khác?" Sư đáp: "Gừng khô trao cho con". Lại hỏi: "Cho gì thì chẳng đồng?' Sư đáp: "Mảnh băng nắm tuyết".

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mưa xuân nhỏ nhỏ đầu rèm nước giọt, nghe tiếng chẳng hiểu, về nhà xoay mặt vách tường". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu luận về Đại đạo trực giáo thì Trử sơn không nơi mở miệng. Vậy các người thử mở miệng xem". Có vị Tăng liền hỏi: "Thế nào là Đại đạo?" Sư đáp: "Vác không nỗi". Lại hỏi: "Vì sao vác không nỗi?" Sư đáp: "Đại đạo". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu luận về việc này thì chớ nói dính kẹt. Nói dính kẹt thì đầu mọc sừng". Có vị Tăng hỏi: "Cớ sao đầu mọc sừng?" Sư đáp: "Việc họa". Vị Tăng ấy nói: "Con mắc lỗi quá". Sư bảo: "Đầu rồng đuôi rắn. Cúi mong trân trọng".

Chiều ngày 12 tháng 10 năm Nguyên Phong thứ tám (1085) thời Bắc Tống. Bỗng nhiên, Sư viết bài kệ rằng:

"Mai tuyết râu sương chín chín năm

(99)

Nửa vai áo nạp hết các duyên

Vụt nhiên cười chỉ mây nổi tan

Thỏ ngọc tỏa sáng chiếu muôn phương".

Xong, Sư bèn ném bút mà thị tịch.

16. Thiền sư Đức Chương ở Linh ẩn.

Thiền sư Đức Chương ở Linh ẩn, mới đầu Sư ở tại viện kinh Tạng tại phía Tây chùa Đại tướng quốc. Ngày mồng 01 tháng 09 năm Khánh Lịch thứ tám (1048) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông (Triệu Trinh) ban sắc chiếu mời Sư đến dự trai hội tại dưới các Diên xuân. Tuyên bảo Thiền sư Phổ Chiếu hỏi: "Thế nào là một câu đương cơ?' Sư đáp: "Một lời vụt tuôn ngoài trời xanh, muôn nhận trước núi đi nơi hiểm". Lại hỏi: "Làm sao sống là đi nơi hiểm?" Sư bèn hét. Thiền sư Phổ Chiếu bảo: "Trước mặt Hoàng đế sao được như vậy?" Sư nói: "Cũng chẳng được buông thả qua". Năm sau, vua lại tuyên cáo mời Sư vào nội cung dự trai hội, và bảo Thiền sư Phổ Chiếu hỏi: "Thế nào là đoạt lấy người mà không đoạt lấy cảnh?" Sư đáp: "Sấm kinh động, cỏ mịn đâm mọc mầm, núi cao bước tới chớ chậm rờ". Lại hỏi: "Thế nào là đoạt lấy cảnh mà không đoạt lấy người?' Sư đáp: "Đội sừng mang lông khác lạ qua lại tung hoành". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh cả hai đều đoạt lấy?" Sư đáp: "Ra cửa ngoài trời xoay dòng sáng ảnh chẳng thật". Lại hỏi: "Thế nào là người và cảnh đều chẳng đoạt lấy?" Sư đáp: "Rừng lạnh không khách nghỉ lại, biển lớn nghe rồng ngâm". Sau vài ba phen mời vào điện hóa thành dự trai hội, tuyên bảo Thiền sư Thủ Hiền hỏi: "Trai hội thiết lập lớn, làm sao báo đáp ân Thánh quân?" Sư đáp: "Giữa không trung tìm dấu chim". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Dưới nước tìm tăm cá". Sư có dâng vua bài ca tâm châu rằng:

"Tâm như ý, tâm như ý,

Nhậm vận tùy duyên trọn chẳng lìa

Chỉ biết chớ hướng cầu bên ngoài

Cầu bên ngoài trọn chẳng thật

Uổng dụng công phu ẩn chân lý

Thức tâm ngọc sáng như mặt nhật

Ẩn tàng sâu, kín không hình chất Nhón lại trong tay mọi người sợ

Nhị thừa tinh tấn tranh tài lường

Mắt biếc sao phải chỉ ra

Gặp cơ, diệu dụng nào từng mất.

Tầm thường rất kỵ cho người xem

Núi sông đất liền động nguy hiểm".

Năm Hoàng Hựu thứ hai (1050) thời Bắc Tống. Sư xin trở về rừng núi dưỡng lão, vua Nhân Tông phê sắc Sư đến trú trì chùa Linh ẩn ở Hàng châu phong tặng Sư hiệu là "Minh Giác".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ GIÁC Ở LANG DA.

1. Thiền sư Siêu Tín ở Định tuệ.

Thiền sư Siêu Tín-Hải ấn ở Định tuệ tại Tô châu, vốn người xứ Quế châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Sương nguyên gậy trúc lan lỗ". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Cành cành mang vết lệ". Lại hỏi: " Thế nào câu thứ nhất?" Sư đáp: "Na-tra tức giận". Lại hỏi: "Thế nào là câu thứ hai?" Sư đáp: "Nạp Tăng không bày biện". Lại hỏi: "Thế nào là câu thứ ba?" Sư đáp: "Trời Tây đất đây". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Rắn bùn cắn ba ba đá, Lộ trụ kêu ty tỷ. Tu-di đánh một gậy, Lão quê cười ha ha. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu biết Bát-nhã tức bị Bát-nhã trói buộc. Nếu không biết Bát-nhã cũng bị Bát-nhã trói buộc. Biết và không biết, nắm buông một bên ngay. Xin hỏi các người thế nào thể của Bát-nhã? Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tiếng chim oanh dứt, tiếng ve kêu gấp, vào nước rùa đen đầu chẳng thấm ướt, cò trắng bay vào lô hoa rậm, trăng tuyết ngời ánh đều chẳng kịp. Hồng".

2. Thiền sư Hiểu Nguyệt ở Lặc đàm.

Thiền sư Hiểu Nguyệt ở Lặc đàm tại Hồng châu, vốn người dòng họ Chương ở Bản châu. Có vị Tăng hỏi: "Hết thảy kinh giáo như chỉ vầng trăng. Chưa xét rõ là chỉ cái gì?" Sư đáp: "Xin ngẩn cao mắt nhìn". Vị Tăng ấy nói: "Sắc nắng chưa phân người thấy hết, đến lúc trời tỏ lại tầm thường". Sư bảo: "Tuổi già quỷ lộng người".

3. Thiền sư Phương ở Khương sơn.

Thiền sư Phương ở Khương sơn tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là bất động tôn?" Sư đáp: "Đơn mặc áo sam vải xuyên qua chợ". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu?" Sư đáp: "Cưỡi lừa đạp phá sóng động đình". Lại hỏi: "Thấu qua ba cấp sóng chuyên nghe một tiếng sấm là thế nào?" Sư đáp: "Duỗi tay chẳng thấy lòng bàn tay". Lại hỏi: "Vậy có đứa người học tiến tới không?" Sư đáp: "Đạp đất báo hư không". Lại nói: "Dưới cửa sấm, bày trống khó vang tiếng". Sư bảo: "Trên tám hoa cầu tử chẳng dùng cờ lụa hồng". Vị Tăng ấy lại nói: "Ba mươi năm sau câu thoại này rất được thực hành". Sư bèn đánh. Lại hỏi: "Lúc hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào?" Sư đáp: "Xỏ kim chỉ hiềm mắt nhỏ".

Lại hỏi: "Sau khi đã ra khỏi thì thế nào?" Sư đáp: "Trọn ngày chân mày sầu". Lại hỏi: "Thế nào là một Trần vào Chánh thọ?" Sư đáp: "Rắn ngậm đuôi chuột già". Lại hỏi: "Thế nào là các Trần Tam-muội khởi?" Sư đáp: "Ba ba cắn cần câu cá". Lại hỏi: "Thế nào thì Đông Tây chẳng rõ, Nam Bắc chẳng phân đi?" Sư đáp: "Trước nhà một chén đèn đêm tỏ, ngoài rèm vài cành trúc gầy xanh". Lại hỏi: "Lúc chư Phật chưa xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Chẳng biết rượu trông con". Lại hỏi: "Sau khi đã xuất hiện nơi đời thì thế nào?" Sư đáp: "Câu cá trên thuyền tặng ba dùi". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Để râu lại biểu thị tướng Trượng phu". Lại hỏi: "Tuôn dòng vượt nhận vào lửa qua gió, chưa xét rõ dưới cửa Khương Sơn có hứa cho nương gá không?" Sư đáp: "Trời lạnh ngày ngắn đêm lại dài". Lại hỏi: "Trướng gấm họa vẽ uyên ương, hành nhân khó được thấy". Sư bảo: "Mặt trong đầu lâu, hơi khí xông lên trời". Vị Tăng ấy gọi: "Hòa thượng!" Sư bảo: "Đầu gà đuôi phụng". Lại nói: "Các phương trong bùn tẩy rửa Khương Sơn, họa vẽ tương lai". Sư bảo: "Ngày nay Khương Sơn vì khách. Hãy trông nhìn Xà-lê khéo truyền, tuy là như vậy, nhưng chẳng được buông thả qua". Và Sư bèn đánh.

Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Xuyên mây chẳng qua nước, qua nước chẳng xuyên mây. Đất trời nắm định và không nắm định. Hư không buông thả đi và không thả buông đi, ngang ba dọc bốn chợt lìa chợt hợp. Đem dài vá ngắn tức chẳng hỏi, còn cơm các người ăn là gạo làm ra một cấu cốt yếu tạm khó nói". Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Việc riêng chẳng được quan thù đáp". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chẳng là nói được nói chẳng được. Các phương nắm hết làm kỳ đặc. Hàn Sơn đốt lửa đầu đầy tro, cười mắng Phong Can Lão giặc kia".

4. Thiền sư Hiển Đoan ở Bạch lộc.

Thiền sư Hiển Đoan ở Bạch lộc tại Phước châu, vốn dòng họ Châu ở Bản châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Chín châu, Bách việt". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Cởi áo gấm mập". Lại hỏi: "Thế nào là Đại Thiện tri thức?" Sư đáp: "Nắm dao đón kiếm". Lại hỏi: "Vì sao như vậy?" Sư đáp: "Lễ phòng quân tử". Lại hỏi: "Thế nào là khác loài?" Sư đáp: "Ổ quạ sinh chim phụng". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tôn giả Ma Đằng vào đất Hán trên thịt khoét sẹo, Sa-môn Khương Tăng Hội đến đất Ngô trong mắt thêm mạc vụn. Tổ sư Đạt-ma chín năm xoay mặt vào vách tường bởi do ủy mỵ. Nhị Tổ đứng giữa tuyết cầu tâm vụt thành bất tiếu. Các người đến trong đó làm sao nhà mốc. Nếu nói được thì đi ngang trên biển. Nếu nói không được thì riêng nằm giữa rừng". Rồi, sư nắm gậy chống đánh xuống thiền sàng một cái. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là vô tướng Phật?" Sư đáp: "Sư tử đá đầu khe". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Có tâm đứng trên sông chẳng sợ cát sóng trào". Lại hỏi: "Lúc ngưng nhiên lắng đọng thì thế nào?" Sư bảo: "Chẳng là nơi Xà-lê an thân lập mạng". Lại hỏi: "Thế nào là nơi người học an thân lập mạng?" Sư đáp: "Mây có thể ra núi, nước không tiếng vào khe". Lại hỏi: "Thế nào là giáo ý?" Sư đáp: "Trên hội Lăng già?" Lại hỏi: "Thế nào là Tổ ý?" Sư đáp: "Trước núi Hùng nhĩ". Lại hỏi: "Giáo ý và Tổ ý cùng cách nhau bao nhiêu?" Sư đáp: "Tùng lạnh liền xanh, trúc thu đối nước sen hồng".

5. Thiền sư Trí Thiên ở Lang da.

Thiền sư Trí Thiên ở Lang da tại Trừ châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Lang da?" Sư đáp: "Tùng nhân có hạng Tiêu sơ già, Hoa vì vô tình lần lượt nở". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?"

Sư đáp: "Tóc dài dung mạo vị Tăng xấu". Lại hỏi: "Thế nào là câu Hòa thượng làm người?" Sư đáp: Trước mắt ba thước tuyết". Lại hỏi: "Chẳng tiện phải vậy không?" Sư đáp: "Sau đầu một cành hoa".

6. Thiền sư Động Uyên ở Lương phong.

Thiền sư Động Uyên ở Lương phong tại Tuyền châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Niết-bàn?" Sư đáp: "Dao chẻ búa bửa". Lại hỏi: "Thế nào là giải thoát?" Sư đáp: "Áo dài quần ngắn". Lại hỏi: "Nơi các Thánh chẳng đến, Sư có biết hay không?' Sư đáp: "Tuổi già không sức xuống thiền sàn". Lại hỏi: "Lúc ly Tứ cú tuyệt bách phi thì thế nào?' Sư đáp: "Sài môn cỏ tự sâu". Lại hỏi: "Con chó có Phật tánh không?" Sư đáp: "Cây tùng thẳng, cây gai cong". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Cát vàng soi chiếu cảnh". Lại hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Ngọc nữ buông cây thoi". Lại hỏi: "Phật và Đạo cách xa nhau bao nhiêu?" Sư đáp: "Lông rùa dài một trượng, sừng thỏ dài tám thước".

7. Thiền sư Phương ở Chân như.

Thiền sư Phương ở viện Chân như tại Chân châu, Sư đến dự tham nơi Thiền sư Giác ở Lang da, chỉ khán câu thoại cây bách. Sư từng vào thất trình bày điều nhận biết, chẳng dung dị bày tỏ ngôn từ nên thường bị quát mắng đuổi ra. Một ngày nọ bỗng nhiên đại ngộ, Sư đi thẳng vào phương trượng, nói: "Tôi hiểu rồi vậy!" Thiền sư Giác hỏi: "Làm sao ông phát hiểu?" Sư đáp: "Đêm lại nằm giường chiếu âm, đến lúc tỉnh giấc trời sáng bừng".

Thiền sư Giác bèn hứa khả đó.

8. Thiền sư Thản ở Hưng giáo.

Thiền sư Thản ở viện Hưng giáo tại Tuyên châu, vốn dòng họ Ngưu ở Vĩnh gia. Chuyên làm nghề đánh bạc, nhân rèn ráp binh khí mà có sự tỉnh ngộ, bèn liền xuất gia đến dự tham Thiền sư Giác ở Lang da, nhân vừa có ngôn ngữ liền chóng khế hợp. Sau Sư lại nương tựa Thiền sư Hoài ở Thiên y. Lúc ở tại Hưng giáo cất nhắc Sư lên ở Đệ nhất tòa. Thiền sư Hoài được nơi khác thỉnh mời đã nhận lời, mà muốn trong châu thỉnh mời Sư kế thừa đó. Khi ấy Điếu Cảnh Thuần học sĩ trấn thủ tại Uyển lăng, Thiền sư Hoài lo ngại Điếu Cảnh Thuần giẫm trải bên ngoài mà bàn nghị, mới đối trước tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mà chú nguyện rằng: "Nếu Thượng tọa Thản là bậc có Đạo nhãn ngời sáng đủ khả năng kham nhận trú trì, thì xin nên hiện bày mộng thấy Điếu Học sĩ". Đến đêm, Điếu Cảnh Thuần mộng thấy trên pháp tòa chùa Hưng giáo có một con trâu. Sáng sớm Thiền sư Hoài giả từ châu ấy, Điếu Cảnh Thuần kể lại điều mộng, Thiền sư Hoài bèn cười, Điếu Cảnh Thuần hỏi về nguyên do. Thiền sư Hoài nói: "Thủ tòa Thản vốn người dòng họ Ngưu, lại thuộc Ngưu". Điếu Cảnh Thuần đến tòa dâng thiệp thỉnh mời Sư. Sư nhận sự thỉnh mời đó mà lên pháp tòa. Có Thiền sư Tỉnh Tông là vị Hóa chủ ở Tuyết đậu bước ra khỏi: "Lúc chư Phật chưa xuất hiện nơi đời, mọi người lỗ mũi cách xa trời, sau khi xuất hiện nơi đời vì sao mịt mờ không tiêu tức?" Sư đáp: "Gió trước núi Kê túc lặng yên". Thiền sư Tỉnh Tông nói: "Chưa ở lại nói". Sư bảo: "Tuyết lớn đầy khắp Trường an". Thiền sư Tỉnh Tông nói: "Ai người biết ý ấy, khiến ta nhớ Nam tuyền?" Xong bèn phủi tay áo trở về chúng lại cũng không lễ bái. Sư bảo: "Ngày nay Tân hưng giáo mất lợi". Rồi cũng trở về phương trượng, bảo người sang thỉnh mời Thiền sư Tỉnh Tông đến, và Sư hỏi: "Vừa lại bày chỉ đối đáp một chuyển ngữ, trước chúng trời người sao chẳng lễ bái che phủ đi?" Thiền sư Tỉnh Tông nói: "Dưới đầu gối bậc Đại trượng phu có vàng ròng, sao chịu lễ bái Trưởng lão không mắt sáng?" Sư bảo: "Ta riêng có một câu sống". Thiền sư Tỉnh Tông mới sửa câu nói trước là: "Đến chưa tới, lại nói nơi ở". Sư bảo: "Ta có ba mươi gậy, gởi ông đánh Tuyết đậu". Thiền sư Tỉnh Tông mới lễ bái.

9. Thiền sư Khả Tuyên ở Quy tông.

Thiền sư Khả Tuyên ở Quy tông tại Giang châu, vốn người xứ Hán châu. Từ tuổi tráng niên, Sư đã xuất gia làm Tăng, bèn ra núi Hạp đến nương tựa Thiền sư Giác ở Lang da, vừa buông một câu, các điều nghi vụt tiêu mất. Thiền sư Giác bèn hứa khả đó. Sau đó không bao lâu, bảo Sư phân tòa, sống tỉnh lặng lắng không. Cư sĩ Quách Công Phủ thường qua hỏi đạo rất đượm nồng. Đến lúc Sư ra nhận lãnh Quy tông, khi ấy Công Phủ trấn nhậm Nam xương úy. Bỗng nhiên Quận thú giận ghét Sư, chẳng vì kính lễ nhặt nhạnh rất lắm, Sư bèn viết thư gởi Công Phủ nói rằng: "Duyên ở đời của Tôi có sáu năm, chẳng làm sao mà Châu chủ đè ép bức bách. Tôi sẽ bỏ hơi thở còn thừa, đến gá sống nơi nhà ông, mong chớ trở ngại!" Công Phủ đọc xem thư, vừa kinh sợ vừa vui mừng mà gật đầu đó. Nửa đêm vợ Công Phủ nằm mộng thấy Sư vào nơi phòng ngủ, bèn kêu thất rằng: "Đây không phải nơi Hòa thượng đáng lại". Công Phủ lay mình thức tỉnh mà hỏi đó, vợ Công Phủ bèn kể lại giấc mộng rõ ràng. Công Phủ bảo đốt đèn đem thư của Sư gởi để đọc và cùng cười không thôi. Bèn mang thai, đến lúc sinh nở bèn đặt tên là Tuyên Lão. Suốt qua một năm nhớ hỏi như xưa. Đến năm ba tuổi, Thiền sư Đoan ở Bạch vân đến nhà Công Phủ, Tuyên Lão vừa trông thấy, liền bảo: "Cháu ta đến kìa". Thiền sư Đoan hỏi: "Đã xa cách Hòa thượng thời gian bao năm rồi?" Tuyên Lão chỉ ngược bảo: "Đã bốn năm, bởi vì cùng xa cách nhau một năm mới qua đời". Lại hỏi: "Cùng xa cách nhau tại nơi nào?"

Tuyên Lão đáp: "Trên trang Bạch Liên". Lại hỏi: "Lấy gì làm chứng nghiệm?" Tuyên Lão đáp: "Ngày mai song thân thỉnh mời Hòa thượng dự trai hội". Bỗng nhiên nghe có tiếng đẩy xe, Thiền sư Đoan hỏi: "Ngoài cửa có tiếng gì vậy?" Lão Tuyên bèn đưa tay làm thế đẩy xe. Lại hỏi: "Sau khi qua thì thế nào?" Tuyên Lão đáp: "Đất bằng hai ngòi rãnh hẹp". Quả nhiên sau đó vừa tròn sáu năm, không bệnh tật mà Tuyên Lão qua đời.

10. Thiền sư Tử Tuyền ở Trường thủy.

Thiền sư Tử Tuyền ở Trường thủy tại Tú châu, vốn người xứ Gia hưng. Từ lúc mới xuất gia, Sư chuyên trì tụng kinh Lăng Nghiêm không khi ngừng nghỉ, Sư nương tựa theo Pháp sư Hồng Mẫn nghe giảng đến "Hai tướng động tỉnh liễu nhiên bất sinh" mà có sự tỉnh ngộ, bèn nói với Pháp sư Hồng Mẫn rằng: "Ném không đánh cây còn rơi lại nệm lưới, đất mắt dương mày đã thành phỏng bàn nghị, vất bỏ hai đường ấy đi mới khế hợp với ý chỉ này".

Pháp sư Hồng Mẫn vỗ về mà hứa khả đó. Nhưng Sư lại muốn tham cứu nguồn thiền, chưa rõ biết nói thửa sang. Nghe Thiền sư Giác ở Lang da là bậc đạo hạnh trọng vọng ở đương thời, liền tìm đến nơi pháp tịch, lên ngay giảng đường, tiếp theo Sư ra thưa hỏi: "tịnh bản nhiên, cớ sao bỗng sinh ra núi sông đất liền?" Thiền sư Giác cậy thế lực mà đáp rằng: " tịnh bản nhiên, cớ sao bỗng sinh ra núi sông đất liền". Sư bèn lãnh ngộ, liền đảnh lễ kính tạ thưa rằng: "Nguyện xin được theo hầu khăn Bình!" Thiền sư Giác bảo: "Tông của ông đã không được phát chấn từ lâu, ông nên gắng chí phù trì, ngõ hầu báo đáp ân đức chư Phật, chớ lấy Tông khác làm lớn vậy!" Sư mới y theo lời chỉ dạy ấy lễ bái lại mà tạ từ. Sau, Sư đến Trường thủy, thừa bẩm giáo pháp. Một ngày nọ, trông nhìn xuống đại chúng, Sư bảo: "Đạo chẳng do ngôn tượng mà được, Thiền chẳng bởi phỏng nghị mà biết. Hiểu ý thông Tông từng không riêng đạt. Do đó đối với hai Tông thảy đều kính ngưỡng vậy". Sư từng sớ giải các kinh Lăng Nghiêm v.v... hưng thạnh hành trì ở đời.

Quyển 7 (Hết)

QUYỂN 8

MỤC LỤC

Đời thứ mười hai, dưới đời Thiền sư Đại Giám.

Đệ tử nối dõi dòng pháp của Thiền sư Hoài ở Thiên y, có tám mươi ba vị:

1. Thiền sư Viên Chiếu ở Tuệ lâm

2. Thiền sư Pháp Tú ở Pháp vân

3. Thiền sư Giác Hải ở Tuệ lâm

4. Thiền sư Ứng Phu ở Trường lô

5. Thiền sư Trí Tài ở Phật Nhật

6. Thiền sư Trọng Nguyên ở Thiên bát

7. Thiền sư Tử Hồng ở Thụy nham

8. Thiền sư Trí Thiên ở Thê hiền

9. Thiền sư Phạm ngôn ở Tịnh chúng

10. Thiền sư Xung Hội ở Tam tổ

11. Thiền sư Tiệp ở Tư thọ

12. Thiền sư Khải ở Quán Âm

13. Thiền sư Nguyên Thiện ở Thiên đồng

14. Thiền sư Thể Minh ở Trường lô

15. Thiền sư Trí Tư ở Khai nguyên

16. Thiền sư Tuệ Từ ở Trừng chiếu

17. Thiền sư Tuệ Nguyên ở Pháp vũ

18. Thiền sư Trí Trừng ở Sùng đức

19. Thiền sư Hữu Bình ở Thê ẩn

20. Thiền sư Vân ở Định tuệ

21. Thiền sư Vượng ở Đại đồng

22. Thiền sư Nhân ở Thiết Phật

23. Thiền sư Pháp Tồn ở Báo bản

24. Thiền sư Thê ở Khai Thánh

25. Thiền sư Duy Lễ ở Hành sơn

26. Thiền sư Thiện Tư ở Hiển minh 27. Thiền sư Huệ An ở Khải hà

28. Thiền sư Linh Khản ở Vân môn

29. Thiền sư Nguyên Thản ở Thái bình

30. Thiền sư Văn Tổ ở Phật Nhật

31. Thiền sư Tông ở Vọng tiên

32. Thiền sư Dụng Cơ ở Ngũ phong

33. Thiền sư Xử Tường ở Phật túc

34. Thiền sư Tuệ Vân ở Minh nhân

35. Thiền sư Kỳ Biện ở Tây đài

36. Thiền sư Trí Đàm ở Khai nguyên

37. Thiền sư Trí Giác ở Vĩnh thái

38. Thiền sư Văn Hỷ ở Long hoa

39. Thiền sư Tự Nhân ở Vĩnh thái

40. Thiền sư Pháp An ở Diên ân

41. Cư sĩ Thị Lang Dương Kiệt (bốn mươi mốt vị trên hiện có ghi lục)

42. Thiền sư Khánh Đang ở Từ vân

43. Thiền sư Động Giai ở Linh nham

44. Thiền sư Thuyên ở Đồng thành

45. Thiền sư Khả Chứng ở Tịnh tuệ

46. Thiền sư Quang Tịch ở Bảo lâm

47. Thiền sư Đạo Tân ở Cảm từ

48. Thiền sư Tông Thượng ở Tứ châu

49. Thiền sư Hối ở Bạch pháp

50. Thiền sư Hòa ở Báo ân

51. Thiền sư Giản Gia ở Yển phong

52. Thiền sư Nguyên Thái ở Đạo ngô

53. Thiền sư Sơ Tiên ở Vô vi

54. Thiền sư Ứng Đầm ở Báo ân

55. Thiền sư Tông Bí ở Long môn

56. Thiền sư Thuận Tông ở Hiển thân

57. Thiền sư Tướng ở Trường nhĩ

58. Thiền sư Huệ Hồng ở Phước tiến

59. Thiền sư Ân ở Diên phước

60. Thiền sư Phổ Tuấn ở Cảnh đức

61. Thiền sư Minh Nhân ở Tiến phước

62. Thiền sư Huệ Viên ở Khai hóa

63. Thiền sư Hòa ở Vạn thọ

64. Thiền sư Bản ở Định pháp

65. Thiền sư Giám ở Trường lô

66. Thiền sư Hữu Kỳ ở Mặc sơn

67. Thiền sư Văn Đạt ở Thượng lam

68. Thiền sư Lai Sơn ở Pháp hải

69. Thiền sư Trí Tuân ở Đồng khánh

70. Thiền sư Chân ở Thượng phương

71. Thiền sư Ứng Đàm ở Vô tích

72. Thiền sư Chủng ở Bảo lâm

73. Thiền sư Như Bảo ở Báo ân

74. Thiền sư Bí ở Phù dung

75. Thiền sư Hữu ở Bạch vân

76. Thiền sư Tuệ Thâm ở Pháp vũ

77. Thiền sư Trạch Ngôn ở Tịnh chúng

78. Hòa thượng Linh Tuyền

79. Hòa thượng Năng ở Trà Đình

80. Hòa thượng Vĩnh Thái

81. Thiền sư Huệ Hồng ở Tứ châu

82. Thiền sư Tuân ở Sùng hóa

83. Hòa thượng Toàn Vịnh (bốn mươi vị trên hiện không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HOÀI Ở THIÊN Y.

1. Thiền sư Viên Chiếu ở Tuệ lâm.

Thiền sư Viên Chiếu-Tông bản ở Tuệ lâm tại Đông kinh, vốn dòng họ Quản ở Vô tích thuộc Thường châu, hình thể dung mạo to lớn, mọi việc làm thuần hậu. Năm mười chín tuổi, Sư mới đến nương tựa Thiền sư Đạo Thăng ở Vĩnh an-Thừa thiên tại Cô tô mà xuất gia. Theo hầu khăn nước suốt mười năm, xuống tóc thọ giới Cụ túc. Lại tiếp thêm ba năm nữa Sư mới giả từ rồi du phương tham phóng. Sư đến bái yết Thiền sư Chấn Tông ở Trì dương. Thiền sư Chấn Tông nêu cử về Tôn giả Thiên Thân tự nội cung của Bồ-tát Di-lặc mà xuống. Tôn giả Vô Trước hỏi: "Ở cõi nhân gian trải qua bốn trăm năm tức chỉ một ngày một đêm ở cõi trời ấy. Bồ-tát Di-lặc ở trong một thời giảng pháp khiến thành tựu năm trăm ức Thiên tử chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Chưa xét biết là giảng nói pháp gì?" Tôn giả Thiên Thân đáp: "Chỉ giảng nói pháp ấy". Vậy thế nào là pháp ấy? Trải qua thời gian lâu sau mà Sư vẫn chưa khai ngộ. Một ngày nọ trong thất, Thiền sư Chấn Tông hỏi: "Lúc tức tâm tức Phật thì thế nào?" Sư đáp: "Giết người phóng lửa đốt có gì khó". Từ đó tiếng tăm Sư vang vọng khắp nơi. Tào Sứ Lý Công Phục Khuê bảo Sư khai giảng pháp ở Thụy quang, Pháp tịch đó rất hưng thạnh. Võ Lâm Thú Trần Công Tương dẫn nêu hai chùa Thừa thiên và Hưng giáo bảo Sư nên chọn để ở. Mọi người ở Cô Tô chắn bít đường ngăn cản lưu giữ Sư lại. Lại vì Tịnh Từ cố cầu thỉnh. Dời đổi văn dụ, các hàng đạo tục đồng nói: "Nhờ Sư ba năm vì Bang châu này mà gieo trồng ruộng phước, không dám chiếm cứ dài lâu. Các hàng đạo tục mới vâng theo". Đến năm Nguyên Phong thứ năm (1082) thời Bắc Tống, vua Thần Tông (Triệu Húc) ban sắc chiếu mở rộng chùa Tướng quốc, xây dựng sáu mươi bốn viện, làm nên tám thiền hai luật, thỉnh mời Sư làm vị Tổ thứ nhất ở chùa Tuệ lâm. Khi đã đến nơi, vua sai sứ sang hỏi công lao, qua ba ngày bèn ban truyền sắc chỉ đến nơi Tam môn của chùa, vì các hàng sĩ dàn diễn giảng giáo pháp. Ngày hôm sau, vua lại mời vào điện Diên hòa để hỏi đạo. Sư bảo ngồi, Sư liền ngồi kiết già. Vua hỏi: "Khanh thọ nghiệp tại chùa nào?" Sư tâu: "Ở chùa Vĩnh an-Thừa thiên ở Tô châu". Vua rất hoan hỷ mời uống trà, Sư liền nâng bát hớp dài, lại vì nước nóng mà lay động đó. Vua bảo: "Thiền tông mới hưng thạnh, nên khéo khai giảng dẫn dắt". Sư tâu rằng: "Bệ hạ biết có đạo này như mặt nhật soi chiếu, Thần đâu dám biếng lười". Xong, Sư bèn giả từ mà lui ra. Vua đưa mắt tiển chân Sư rồi nói cùng mọi người chung quanh rằng: "Thật xứng đáng là vị Tăng đầy đủ phước đức và trí tuệ". Về sau vua đăng hà, bảo mời Sư vào điện Phước Ninh giảng pháp, Sư lấy cớ già yếu xin được trở về rừng và được chấp thuận và ban sắc mặc tình Sư vân du khắp các châu quận, không ai được ngăn cản bức ép trú trì. Bèn đánh trống giả từ đại chúng, Sư nói kệ tụng rằng:

"Vốn là khách không nhà

Nào kham mặc tình đi

Thuận gió thêm mái chèo

Thuyền con xuống Dương châu".

Khi Sư ra khỏi Đô thành, các hàng Vương công quý nhân tiễn đưa, ngựa xe tấp nập. Đến lúc giả biệt, Sư dạy răn rằng:

"Tháng năm chẳng thể cầm vui

Già bệnh không hẹn cùng người

Nên siêng tu hành chớ biếng

Là thật cùng vì!"

Mọi người nghe đều cảm động rơi lệ buồn khóc.

Về sau, Sư đến Linh nham, đệ tử nối dõi dòng pháp hoằng truyền đông nhiều không thể tính kể. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạtma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Hàn Tín vào chầu". Lại hỏi: "Với hàng căn cơ trung hạ làm sao lãnh hội?" Sư đáp: "Thây cúi vạn dặm". Lại nói: "Sớm biết việc ngày nay, hận chẳng thận trọng lúc mới đầu!" Sư bảo: "Trên mộ Tam hoàng, cỏ lìa lìa". Lại hỏi: "Trên là trời, dưới là đất, còn chưa xét rõ ở khoảng giữa là cái vật gì?" Sư đáp: "Núi sông đất liền". Lại hỏi: "Thế nào là cảm tạ Sư giải đáp câu thoại?" Sư đáp: "Núi sông đất liền". Lại hỏi: Hòa thượng sao được lừa dối người?" Sư đáp: "Tức là Lão Tăng có tội lỗi".

Vào ngày mười lăm tháng giêng, có vị Tăng hỏi: "Ngàn ánh đuốc cùng soi chiếu lẫn nhau, tơ trúc giao hòa âm hưởng, chánh là lúc nào Phật pháp tại xứ nào?" Sư đáp: "Xin cảm tạ sự bố thí". Lại hỏi: "Chẳng tiện là nơi Hòa thượng vì người không?" Sư đáp: "Lớn tợ chẳng trai hội đến". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Một Hào đoan hiệu cõi nước Bảo vương, ngồi trong mảy trần chuyển vận đại pháp luân". Xong, Sư nắm gậy chống dậy, tiếp bảo: "Cái này là mảy trần, làm sao sống nói cái đạo lý chuyển vận pháp luân? Ngày nay Sơn Tăng chẳng tiếc lông mày, cho các người nói phá. Nắm dậy thì nước biển vọt sóng núi Tu-di cao vời vợi, buông xuống thì bốn biển yên lặng đất trời chỉnh túc phẳng lắng. Dám hỏi cùng các người nắm dậy tức là phải buông xuống tức là phải, đáng dứt chẳng dứt, hai lớp công án ấy như thế nào?" Xong, Sư đánh xuống thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Khán, khán, rực rỡ thụy quang chiếu khắp đại thiên thế giới, trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức nước biển lớn, trăm ức Tu-di, trăm ức mặt nhật mặt nguyệt, trăm ức tứ thiên hạ, cho đến các cõi nước như số vi trần ở trong ánh sáng đồng một lúc phát hiện. Các nhân giả có thấy ư? Nếu thấy được tức hứa cùng các người thân gần nơi Thụy quang, còn thấy không được, chớ nói Thụy quang không tỏa chiếu. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đầu trên tợ trời, chân vuông tợ đất, dáng mạo xưa cũ lên tầng ý khí trượng phu, nhảy nhót lộn ngược núi Tu-di, đạp băng nước biển. Trời Đế Thích và Long vương không nơi gá thân". Và, Sư nắm lấy gậy chống, tiếp bảo: "Tức lại chống gậy lên trốn lánh. Ôi! Mặc tình các ông thần thông biến hóa, rốt cùng phải về trong đó". Rồi Sư chống gậy xuống một cái.

Sau khi Sư thị tịch, an táng toàn thân dựng tháp ở Linh nham tại Tô châu.

2. Thiền sư Pháp Tú ở Pháp vân.

Thiền sư Pháp Tú-Viên thông ở chùa Pháp vân tại Đông kinh, vốn người dòng họ Tân ở Lũng thành thuộc Tần châu. Thân mẫu mộng thấy có vị Lão Tăng đến dừng nghỉ qua đêm, đến lúc tỉnh giấc bèn mang thai. Trước đó có vị Lão Tăng ở núi Mạch Tích cùng Hòa thượng Lỗ ở chùa Ứng càn làm bạn hiền lành, thường muốn theo Hòa thượng Lỗ du phương, sau khi đã dùng du phương rồi, Lão Tăng tiếp nói: "Ngày sau nên đến tìm tôi ở dưới ngọn núi Thiết tràng trước bờ Trúc phô". Về sau, Hòa thượng Lỗ nghe nơi đó có trẻ nhỏ mới chào đời liền sang trông xem. Vừa gặp trẻ nhỏ liền mỉm cười, đến năm ba tuổi, muốn theo Hòa thượng Lỗ trở về, bèn lấy dòng họ Lỗ. Đến năm mười chín tuổi, khảo xét kinh pháp, thọ giới Cụ túc xong, Sư cố gắng chí nương tựa giảng tịch, tập học các kinh Viên Giác, Hoa Nghiêm, khéo thâm nhập tinh nghĩa. Nhân nghe pháp tịch của Thiền sư Hoài ở chùa Thiết Phật tại vô vi quân rất hưng thạnh, Sư bèn thẳng đến tham yết. Thiền sư Hoài hỏi: "Tòa chủ giảng kinh gì?" Sư đáp: "Kinh Hoa Nghiêm". Lại hỏi: "Kinh Hoa Nghiêm lấy gì làm Tông?" Sư đáp: "Lấy Phật giáo làm Tông". Lại hỏi: "Pháp giới lấy gì làm Tông?" Sư đáp: "Lấy tâm làm Tông". Lại hỏi: "Tâm lấy gì làm Tông?" Sư im lặng không trả lời. Thiền sư Hoài bảo: "Mảy may có sai, trời đất cách biệt. Ông nên tự khán sẽ có phát sáng". Về sau, nghe một vị Tăng nêu cử về Bạch Triệu tham hỏi Báo Từ là: "Lúc tình chưa sinh thì thế nào?" Báo Từ đáp: "Cách ngăn". Bỗng nhiên Sư đại ngộ bèn đi thẳng vào phương trượng trình bày sở chứng. Thiền sư Hoài bảo: "Ông thật đáng là pháp khí! Tông của ta đây ngày sau do ông lưu hành hưng thạnh vậy".

Mới đầu, Sư đến ở Long thư, Tứ viện, sau có sắc chiếu mời đến ở Pháp vân tại Trường lô và làm Thỉ tổ. Đến lúc vua Thần Tông (Triệu Húc 10681086) băng hà, có sắc ban mời Sư đến trước Ngự thần giảng pháp, ban tặng Sư hiệu là "Viên Thông".

Có vị Tăng hỏi: "Chẳng lìa sinh tử mà đắc Niếtbàn, chẳng ra ngoài cảnh giới ma mà vào cảnh giới Phật. Lý ấy như thế nào?" Sư đáp: "Đất đỏ bôi thoa trâu mẹ". Vị Tăng ấy thưa: "Cảm tạ Sư giải đáp câu thoại!" Sư hỏi: "Câu thoại đầu ngươi nói gì?" Vị Tăng ấy phỏng nghĩ bàn, Sư bèn hét mắng. Lại hỏi: "Tháng hai tháng ba mùa xuân, muôn vật đều nảy mầm, chưa xét rõ nói mầm ấy có tăng trưởng không?" Sư bảo: "Tự ở nhà khán lấy". Lại hỏi: "Chẳng tiện là nơi chỉ bày ư?"

Sư bảo: "Cây chuối cao ít nhiều". Vị Tăng ấy nói: "Lửa đồng hoang thiêu đốt chẳng hết, gió xuân thổi đến sinh trưởng". Sư bảo: "Cái đó là đáy của Bạch Công, Đáy Ông làm sao sống?" Lại nói: "Hãy đợi thời gian khác". Sư bảo: "Xem thấy ông nói không ra". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trông nhìn gió xoay chuyển buồm là theo gợn đuổi sóng. Chuyển dứt các dòng, chưa khỏi rò rỉ như trước, lường tài năng bổ nhiệm chức vụ, sao vượt ngắn dài. Mua khăn cùng đầu khó được vừa đẹp, ngay nhiều, trên chẳng thấy trời, dưới chẳng thấy đất, Đông Tây chẳng rành, Nam Bắc chẳng phân, có nơi nào dùng. Nhậm lấy thì thuần thép đánh đến sinh sắt đúc thành cũng phải đầu trán toát mồ hôi. Tất cả chẳng là gì làm thương lượng?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Lồng son mảnh mảnh ai được biết, cười giết Hoàng Mai con Thạch Nữ". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Sơn Tăng chẳng hiểu khéo nói, Đại để ứng với thời tiết, cùng kêu uống bát trà nóng, cũng không bí quyết huyền diệu của Tổ sư. Thiền nhân nếu cũng chưa cùng ngầm đạp dính, quả cân cứng tợ sắt". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mây thu nước thu núi xanh đầy mắt, trong đó sáng được ngàn chân muôn chân, hoặc là chưa như vậy thì Đạo sĩ cưỡi ngược trâu. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mưa tạnh nhỏ trông gió thổi cao cát chạy, đá nhổ cây kêu cành. Các người đều biết có. Hãy nói gió làm màu sắc gì? Nếu biết được thì hứa nhận các người đầy đủ mắt. Còn nếu không biết thì chớ quái lạ cùng lừa dối mù lòa. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thiếu lâm chín năm ngồi lạnh, tức bị Thần Quang đến thăm phá. Đến nay ngọc đá khó phân, chỉ được dây gai buộc trong giấy, có hiểu chăng? Người cười ta nhiều, người mỉm cười ta ít". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nhà nạp Tăng cao, chỉ kính bái Thích-ca, không bái Di-lặc chưa là bổn phận bên ngoài. Chỉ như nửa bài kệ thì mất thân, một câu ném vào lửa. Lại đồ họa cái gì?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Kia kia người ở núi, sao phải lại nói phá".

Đến lúc Sư hiện tướng bệnh tật, bảo cùng đại chúng là: "Lão Tăng trú trì sáu nơi, có phiền các vị tri sự, thủ tòa, đại chúng. Nay lại bốn Đại chẳng bền chắc gió lửa sắp tan. Mỗi vị hãy nên lấy Đạo để tự an, chớ trái lời tôi căn dặn!" Và Sư bèn nói:

"Lúc đến không vật,

Lúc đi không Đông Tây Nam Bắc mọi sự đồng

Sáu nơi trú trì không bổ ích".

Sư ngừng giây lát, Sa-môn Huệ Đang là vị Giám tự đến thưa: "Sao Hòa thượng chẳng nói câu cuối?" Sư bảo: "Trân trọng! Trân trọng!" Nói xong, Sư liền thị tịch.

3. Thiền sư Giác Hải ở Tuệ lâm.

Thiền sư Giác Hải-Nhã xung ở viện Tuệ lâm chùa Tướng quốc tại Đông kinh, vốn dòng họ Chung ở phủ Giang ninh. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Bích lạc lắng không mây, trời thu trăng sáng tỏ, Trường giang ngời như lụa, gió trong lại chẳng hết, dưới rừng Đạo nhân ẩn, cùng xem tình chung vui. Các Nhân giả vừa lại nói cái gió trong trăng sáng, còn là việc trong cửa kiến hóa, làm sao sống là phận việc trên của Đạo nhân?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Lúc đến trên đá nhìn dòng sông, muốn giặt áo thiền chưa có bụi". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Biển nghĩa vô biên đều về trong nhìn liếc, hình dung muôn tượng thảy vào nơi chiếu soi. Các người dựng xây đá xoang xoảng, nhân gì liền không biết?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Chớ quái lạ Sơn Tăng quá nhiều việc, thời gian như tên bắn, gấp cùng thúc giục. Trân trọng!.

4. Thiền sư Ứng Phu ở Trường lô.

Thiền sư Ứng Phu-Quảng chiếu ở Trường lô tại Chân châu, vốn người dòng họ Tương ở Trừ châu. Có vị Tăng hỏi: "Người xưa nói Như Lai Thiền là Hứu Lão huynh hiểu, Tổ sư Thiền chưa mộng thấy đó. Chưa xét rõ là Như Lai Thiền và Tổ sư Thiền là đồng hay khác biệt?" Sư đáp: "Một mũi tên bắn qua Tân La". Vị Tăng phỏng bàn nghị, Sư bèn quát mắng. Lại hỏi: "Lúc biết được trong áo có vật báu thì thế nào?' Sư bảo: "Ông thử lấy ra xem". Vị Tăng ấy bày một tay, Sư bảo: "Chẳng dùng chỉ Đông vẽ Tây. Vật báu tại xứ nào?" Vị Tăng ấy nói: "Vậy làm sao người học dùng được!" Sư bảo: "Ông thử dùng xem". Vị Tăng ấy bèn phẩy tọa cụ xuống một cái. Sư bảo: "Mọi người cười ông kìa". Có lúc lên giảng đường, Sư gọi đại chúng lại bảo: "Núi sông nhiễu quanh huyễn như bình phong thủy mặc, điện các lấn trời đẹp như động phủ thần tiên. Sum la vạn tượng hải ấn giao tham, một luồng thần quang lại không ngăn ngại. Các người hiểu chăng?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Xa xa giữa khoảng đất trời riêng đứng trông sao cùng? Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư trông nhìn đại chúng và bảo: "Cái này là gì? Gom chẳng nhóm, đánh chẳng tan, gió thổi không vào, nước rưới không dính. Lửa đốt chẳng được, dao chặt chẳng đứt, là cái gì ư? Trong chúng chẳng có mỏm đinh lưỡi sắt đến nạp Tăng, thử vì Sơn Tăng định đáng xem lại có ư?' Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Nếu không, ngày nay Sơn Tăng mất lợi!" Đứng thời gian lâu.

5. Thiền sư Trí Tài ở Phật Nhật.

Thiền sư Trí Tài ở Phật Nhật tại Lâm an phủ, vốn người dòng họ Kim ở Đài châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?' Sư đáp: "Nước lạnh thành băng". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Tuyết mùa xuân dễ tan". Lại hỏi: "Thế nào là đàm luận". Sư gõ ngón tay xuống một cái. Lại hỏi: "Đông Tây kín cùng trao, làm sao mọi người đều biết?" Sư đáp: "Mùa xuân không ba ngày tạnh". Lại nói: "Đặc biệt tỏ bày xin hỏi điều lợi ích". Sư bảo: "Kéo bùn mang nước". Lại nói: "Người học đến trong đó tức chẳng hiểu". Sư bảo: "Thân giặc đã lộ bày". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trong thành ồn náo nhiều, giữa núi yên tỉnh vắng lặng, tuy là như vậy, nhưng động tỉnh nhất như, sinh tử không hai, bốn mùa xoay chuyển, vật lý lắng yên, mùa hạ chẳng đi mà mùa thu tự lại, gió chẳng mát mà người tự sảng khoái, nay vậy xưa cũng vậy chẳng thay đổi mảy may, ai ít ai nhiều thân không hai dụng, chư vị thiền đức, đã là thân không hai dụng, làm sao long nữ hiện mười tám biến? Các ông không thấy. Đùa sóng phải là người đùa sóng. Trân trọng!" Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Gió mưa tiêu tao lấp bít lỗ tai ngươi, lá rơi xen thêm lấp bít mắt ngươi, mùi hương xen tạp lấp bít lỗ mũi ngươi, thức ăn nóng lạnh ngọt ngon bít lấp đầu lưỡi ngươi, áo gấm ấm mát che lấp xác thân ngươi, điên đảo vọng tưởng bít lấp ý thức ngươi. Chư vị Thiền đức, ngay nhiều ngươi vụt chuyển được, cùng là đống hài cốt trên đất bằng phẳng. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Gió rét cắt đất, đồng rộng trong lạnh, muôn dặm cỏ lìa suy, ngàn núi cây đen tối, chim săn được thế, chim cốt bay ngang, rất xứng với nạp Tăng bát đãy treo cao riêng bước phương xa, tợ như tướng mạnh ra bờ ải hoang, gặp cơ phải đánh địch, ngày nay còn có ư?" Ngưng giây lát, Sư lại bảo: "Kiếm báu trong hộp, dùi vàng trong tay áo, nay gặp thời thái bình, treo cao trên vách tường. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các vị Thiền đức có biết chăng? Song thân của Sơn Tăng đồng một lúc mất hết, thật là không nơi nương tựa!" Rồi Sư đưa tay đánh vào ngực, tiếp bảo: "Trời xanh, trời xanh!" Sư lại trông nhìn đại chúng giây lâu, tiếp bảo: "Các người là sắt đánh vào tâm can". Xong Sư bèn xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử câu thoại về cây bách, Sư bảo: "Cây bách nơi sân Triệu châu nói cùng các thiền khách, sơn đen lặng gió, lưới tùng sáng cách". Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là vô vi?" Sư đáp: "Trước núi tuyết tan một nửa". Lại nói: "Xin Sư chỉ bày phương tiện".

Sư bảo: "Tiếng nước chảy kêu nghẹn".

6. Thiền sư Trọng Nguyên ở Thiên bát.

Thiền sư Trọng Nguyên-Văn tuệ ở chùa Thiên bát tại Bắc kinh, vốn người dòng họ Tôn ở Thiên thừa thuộc châu. Thân mẫu Sư mộng thấy đối trước Đức Phật ăn nuốt một quả vàng sau mới sinh Sư. Tướng mạo dung nghi của Sư đặc biệt khác lạ bao trẻ thơ thường tình. Năm mười bảy tuổi xuất gia, năm hai mươi tuổi Sư thọ giới Cụ túc. Mới đầu, Sư vân du đến các giảng tứ rất thấu đạt về giáo tông, thường ngồi yên trong phòng thất cũ, bỗng nghe giữa không trung có tiếng bảo Sư rằng: "Người học pháp Thượng thừa không nên ngưng trệ nơi đây". Sư kinh hãi bước ra trông xem nhưng mịt mờ chẳng thấy gì cả. Ngày hôm sau khách đến ra Hàn sơn nhóm tập, chỉ một lần trông xem đó, Sư bèn kính mộ tham huyền. Sư đến nơi pháp tịch của Thiền sư Hoài ở Thiên y, gặp lúc đại chúng đang thỉnh hỏi điều lợi ích, bỗng nhiên Sư đại ngộ. Thiền sư Hoài ấn chứng mà bảo Sư: "Đây là ngựa non ngàn dặm của nhà ta vậy!"

Sau khi ra giữa đời hoằng hóa, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là hiền?" Sư đáp: "Vào lồng vào hạm". Vì Tăng ấy vỗ tay, Sư bảo: "Nhảy ra được mới là khéo tay". Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị, Sư bảo: "Xong". Lại hỏi: "Thế nào là câu thấu pháp thân?' Sư đáp: "Trên là trời, dưới là đất". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Mùa Đông không chịu lạnh, mùa hè không chịu nóng, áo trên thân, cơm trong miệng ứng thời ứng tiết, tức chẳng phải trời, nhưng tự nhiên đều là máu mỡ của mọi người. Các vị Thiền đức, Sơn Tăng làm sao nói được câu thoại là pháp thế gian, hay là Phật pháp? Nếu chọn được rõ ràng thì muôn lượng vàng ròng cũng tiêu được". Xong, Sư hét một tiếng. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phước thắng một mảnh đất, đi cũng mặc ngươi đi, ở cũng mặc người ở, bước đạp vào mới biết nơi rơi. Nếu người nào chưa như vậy, thì nên rút bước chân xuống mà xem lấy. Ôi!" Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Xưa nay đất trời muôn trượng lắm nhiều, thường năm thu gom đông giấu, mọi người cho ta biết hết, kỳ thật mảy may đều không, ngay nhiều mảy may sánh với kia, trước núi Kê túc là việc gì nhàn rỗi?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Sáng nay đầu tuần tháng mười trời lạnh nên không mời cùng tham được!"

Sư trải qua bốn lượt thay đổi chốn danh lam, các hàng Tăng tục đều kính ngưỡng trọng vọng. Đến lúc Sư thị tịch vào giữa mùa nắng nóng dữ, nhưng lại có gió trong mát thổi đến nơi phòng, có mùi hương thơm khác lạ thoảng phất. Lúc trà tỳ, khói lửa tỏa đến nơi nào đều có xá-lợi năm sắc. Đại sư Văn Công Ngạn bác tấu trình, nhà vua ban tặng bình lưu ly sắc trắng để tôn trí xá-lợi, lại gởi thêm gấm lụa và đích thân đến an táng vào tháp. Cư sĩ Hà Chấn có được cốt xương đầu trán, răng và xálợi nên xây dựng ngôi Phù đồ riêng để tôn thờ.

7. Thiền sư Tử Hồng ở Thụy nham.

Thiền sư Tử Hồng ở Thụy nham tại Đài châu, vốn người dòng họ Ngô ở Bản quận. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Mở mắt trông nhìn không thấy". Lại hỏi: "Pháp nhĩ chẳng vậy, thế nào là chỉ Nam?" Sư đáp: "Câu thoại sai lạc rồi". Vị Tăng ấy thưa: "Xin sư chỉ bày". Sư liền cười lớn ha, ha". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Một chẳng chấp giữ, hai chẳng nương theo, trên dưới bốn phía không lường bằng, đại dương trong biển sắt trôi, trên đỉnh Tu-di vụt sóng kình Lâm Tế rút co đầu lưỡi, Đức Sơn chống ngay cây gậy, ngàn xưa muôn xưa riêng vời vợi, để cho người đời làm bảng dạng".

8. Thiền sư Trí Thiên ở Thê hiền.

Thiền sư Trí Thiên ở Thê hiền tại Lô sơn, vốn người dòng họ Cao ở Hàng châu. Có vị Tăng hỏi: "Một hỏi một đáp đều là sân cửa kiến hóa, chưa xét rõ hướng thượng còn có việc gì không?" Sư đáp: "Mây theo rồng, gió theo hổ". Lại hỏi: "Thế nào là lúc rồng được nước thêm ý khí? Hổ gặp núi thì trướng oai nanh?" Sư bảo: "Ùn mây đến mưa lại làm sao sinh?" Vị Tăng ấy bèn quát hét Sư bảo: "Chẳng lại có đó". Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị. Sư bảo: "Ối! Kẻ nghĩ câu thoại ngậm câm". Lại hỏi: "Thế nào là tâm xưa nay?" Sư đáp: "Phá hàng rào phía Đông chắp vá vách tường Tây". Lại hỏi: "Thế nào là một ngày trai yến?" Sư đáp: "Lui sau đứng". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nghe hai chữ Phật pháp sớm là bẩn dơ tai mắt ta. Các người chưa đạp qua cửa pháp đường, dưới cẳng chân khéo cho ba mươi gậy. Tuy là như vậy, nhưng Sơn Tăng ngày nay cũng vì đại chúng mà dốc hết lực. Trân trọng!" Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Là vật gì được mặc tình ngoan ngu sáng tỏ?" Sư vỗ tay cười lớn "Ha, ha". Tiếp bảo: "Sáng nay ba tỷ ngày là Cù-đàm mặt vàng, khắp thân là miệng, cũng phân sơ chẳng xuống". Đứng giây lâu.

9. Thiền sư Phạm ngôn ở Tịnh chúng.

Thiền sư Phạm ngôn ở Tịnh chúng tại Việt châu. Sư chỉ dạy đại chúng rằng: "Quốc Sư Nam Dương bảo: "Nói pháp có sở đắc đó là dã can kêu, nói pháp không sở đắc tức là sư tử rống" Sư bảo: "Quốc sư gì nói lớn tợ bít tai thâu lấy Linh khánh. Cớ sao nói có nói không đều là dã can kêu. Các người cần biết sư tử rống ư? Ôi!"

10. Thiền sư Xung Hội ở Tam tổ.

Thiền sư Xung Hội-Viên trí ở Tam tổ tại Sơn cốc; Thư châu, vốn là người Lam am phủ. Ngày khai mở giảng đường. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đệ nhất nghĩa đế?" Sư đáp: "Trăm thứ tạp toái". Lại hỏi: "Thế nào là một hội Bao thiền chẳng khác Linh sơn?" Sư đáp: "Đem ky phẩn chổi quét lại". Lại hỏi: "Sư lên pháp tòa vách đứng ngàn nhận Chánh bảo phải đi mười phương ngồi dứt. Chưa xét rõ lấy gì làm người?' Sư đáp: "Chiếc nỏ nặng ngàn quân". Lại nói: "Đại chúng đội nhờ Ân". Sư bảo: "Lường tài sức bổ nhậm chức". Lại hỏi: "Lý tuy đốn ngộ, Sư mượn tiệm trừ. Trừ tức chẳng hỏi, còn thế nào là Đạo lý đốn ngộ?" Sư đáp: "Trong lời nói có vang hưởng". Lại hỏi: "Tiện gì lại tạm thế nào?" Sư đáp: "Sư tử lông vàng". Lại hỏi: "Sống còn như mặc áo, chết lại đồng như cởi khố, chưa xét rõ ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Thí như nhàn rỗi". Lại hỏi: "Vì sao như vậy?" Sư đáp: "Nhân đi chẳng phòng ngại chống cánh tay". Lại hỏi: "Thế nào là thiên đường?" Sư đáp: "Ở rất xa". Lại hỏi: "Thế nào là địa ngục?" Sư đáp: "Tha ông chẳng được". Lại hỏi: "Thiên đường và địa ngục xa cách nhau ít nhiều?" Sư đáp: "Bảy linh tám lạc". Lại hỏi: "Mây trắng đầy nơi lầu các mở, Thiện tài làm gì từ ngoài mà vào?" Sư đáp: "Mở mắt tức lóa mờ". Lại hỏi: " "Chưa xét rõ rơi lạc vào xứ nào?" Sư đáp: "Lấp ngòi bít hang". Lại hỏi: "Thế nào là Bất động tôn?" Sư đáp: "Tấc bước ngàn dặm".

11. Thiền sư Tiệp ở Tư thọ.

Thiền sư Tiệp ở viện Tư thọ tại Tuyền châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Trâu sắt sinh trứng đá". Lại hỏi: "Thế nào là câu tiếp người?' Sư đáp: "Chấp tay trước Tam môn". Lại hỏi: "Thế nào là câu đại dụng?" Sư đáp: "Cửa ngực dính đất". Lại hỏi: "Thế nào là câu vô sự?" Sư đáp: "Nằm ngả ngang giữa đường lớn".

Lại hỏi: "Thế nào là câu kỳ đặc?" Sư đáp: "Đích".

12. Thiền sư Khải ở Quán Âm.

Thiền sư Khải ở Quán Âm tại Hồng châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Cây tùng cao, cây bách thấp". Lại hỏi: "Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Lá rơi về cội".

13. Thiền sư Nguyên Thiện ở Thiên chương.

Thiền sư Nguyên Thiện ở Thiên chương tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Lớn không ngoài, nhỏ không trong. Đã không trong ngoài, rốt cùng là vật gì?' Sư đáp: "Mở miệng thấy mật". Lại hỏi: "Người học không hiểu?" Sư đáp: "Khổ trong khổ". Lại nói: "Vì đại chúng dốc hết sức lực, họa sinh ra cửa riêng". Sư liền đánh đó và bảo: "Đã bảo nghỉ mà chẳng chịu nghỉ, phải đợi mưa thấm ướt đầu". Lại hỏi: "Thế nào là câu đầu tiên?" Sư đáp: "Sau cùng hỏi tương lai". Lại hỏi: "Vì sao như vậy?" Sư đáp: "Trước đi chẳng đến". Lại nói: "Vào nước thấy người dài vậy". Sư bảo: "Tần Hoàng đánh phửu". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ông hỏi ý Tổ sư từ Tây vức lại, Mã Sư đạp nước ngập, nếu nhận được đầu mảy may, nào từng biết dậy ngã, kiếp lửa mới rành rỏi, kẻ ngu tìm cỏ khô, sao biết người sáng mắt, vì ông buồn thở dài".

14. Thiền sư Thể Minh ở Trường lô.

Thiền sư Thể Minh-Viên giám ở Trường lô tại Chân châu. Lúc lên giảng đường, Sư trông nhìn về bên tả rồi bảo: "Tướng trạng của sư tử đâu khỏi tần thân". Sư ngoái nhìn bên hữu, tiếp bảo: "Dung mạo của voi chúa sao quên xoay nhìn? Lấy đây trốn kia, bậc thượng sĩ sao kham nỗi, thức biến biết bao nhiêu hang ổ Dã hồ. Đến trong đó, phải biết có nơi Thánh phàm chẳng qua, nơi xưa nay chẳng đến. Hãy nói nơi nào có dấu người đi?' Ngừng giây lát, Sư bảo: "Là trượng phu nên có chí xung lên trời, chớ hưởng theo nơi Như Lai đi lại".

15. Thiền sư Trí Tư ở Khai nguyên.

Thiền sư Trí Tư ở Khai nguyên tại Đinh châu. Lúc lên giảng đường. Sư bảo: "Nạp Tăng đặt kim châm trong mắt giấu thân hơi rộng, trong biển lớn ngựa chạy hơi chật. Tướng quân chẳng lên cầu tiện, dõng sĩ nhọc treo áo giáp, ngày đi ba ngàn đêm đi tám trăm tức chẳng hỏi. Còn một câu chẳng động bước làm sao sống? Nói. Nếu nói được thì Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền chỉ tại trước mắt, còn nơi không được thì phải vén quần vải dây buộc giày cỏ cao. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trời lạnh rõ sáng, đất liền rộng dài, mây nổi từ cửa động, nước tuôn từ gò cao. Nếu nắm định thì mười phương thế giới rỗng rang, nếu buông đi thì Đông, Tây, Nam, Bắc thản nhiên. Vũ trụ mênh mông người vô số, mỗi mỗi lỗ mũi xa trời. Hãy nói các người nắm định tức phải, hay buông đi tức phải? Lại có người đoán được chăng? Nếu không có người đoán được thì ngoài ba cửa có hai cái Đại hán, một cái dương mày rút kiếm, một cái trừng mắt khua nắm tay. Tham".

16. Thiền sư Tuệ Từ ở Trừng chiếu.

Thiền sư Tuệ Từ ở Trừng chiếu tại Bình giang phủ. Có vị Tăng hỏi: "Rõ ràng vô sở đắc, vì gì trời cao đất rộng?" Sư đáp: "Chật hẹp". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu luận việc này, lông mày trên nháy mắt sớm là nhảy qua, đâu kham tiến bước đến trước? Lại cầu Sơn Tăng nói phá, mà nay nói phá xong vậy, lại hiểu ư? Hôm qua trời mưa, ngày nay tạnh".

17. Thiền sư Tuệ Nguyên ở Pháp vũ.

Thiền sư Tuệ Nguyên ở Pháp vũ tại Lâm an phủ. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu đầu tiên?" Sư đáp: "Vua Lương chẳng biết". Lại hỏi:

"Thế nào là câu cuối cùng?' Sư đáp: "Đạt-ma vượt qua sông".

18. Thiền sư Trí Trừng ở Sùng đức.

Thiền sư Trí Trừng ở Sùng đức tại Tư châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thăm mặt cùng bày lại không việc khác. Nếu cũng như vậy há chẳng tài tuấn thay! Sơn Tăng bởi chẳng đặng đứng con vì các người. Nếu đến trước mặt nạp Tăng một chấm cũng đính không được. Chư vị Thiền đức, hãy nói trước mặt nạp Tăng nói cái gì tức được?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Thu sâu màn rèm nhàn nhà mưa, tắm ngày lầu đài một gió sáo".

19. Thiền sư Hữu Bình ở Thê ẩn.

Thiền sư Hữu Bình ở Thê ẩn tại Tuyền châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đạo bình thường?" Sư đáp: "Hóa thân chấp tay, Đạo sĩ chống tay". Lại hỏi: "Trong mười hai thời, thú hướng thế nào?" Sư đáp: "Mặc áo ăn cơm". Lại hỏi: "Riêng có việc gì nữa không?" Sư đáp: "Có". Lại hỏi: "Thế nào tức phải?" Sư đáp: "Thọ trai xong lại xin một bát nước trà".

20. Thiền sư Vân ở Định tuệ.

Thiền sư Vân ở Định tuệ tại Bình giang phủ. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là một câu làm người?" Sư đáp: "Thấy đó chẳng lấy. Lại hỏi: "Người học chưa hiểu?" Sư đáp: "Nghĩ đó ngàn dặm".

21. Thiền sư Vượng ở Đại đồng.

Thiền sư Vượng ở viện Càn phù Đại đồng tại Kiến minh phủ. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Vào chợ quạ rùa". Lại hỏi: "ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Lúc được lụa, tạm là lụa".

22. Thiền sư Nhân ở Thiết Phật.

Thiền sư Nhân ở Thiết Phật tại Vô vi quân. Có vị tăng hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư đáp: "Một tầm gỗ lạnh từ là gần, ba sự thu mây lại ai hay". Lại hỏi: "Gia phong của Hòa thượng đã được chỉ bày, còn vì người làm tiêu tức lại như thế nào?" Sư đáp: "Trăng mới có đêm tròn, tâm người không lúc đầy".

23. Thiền sư Pháp Tồn ở Báo bản.

Thiền sư Pháp Tồn ở Báo bản tại An cát châu, vốn người dòng họ Lục ở Tiền Đường. Có vị Tăng hỏi: "Đàm nói vô vi bít dứt miệng người, vậy làm sao sống là một câu bít dứt miệng người?' Sư bèn đánh. Lại hỏi: "Thế nào là một câu lưu thông tai điếc của trời người?" Sư đáp: "Chỉ sợ chẳng phải ngọc, thất ngọc cũng rất kỳ đặc". Lại nói: "Chuyên vì lưu thông". Sư bảo: "Một mặc loạn Đạo. Lúc ở tại Thiên y, nhận sự thỉnh mời, lên giảng đường, Sư bảo: "Thánh thọ ở Ngô giang hiện mời trú trì, tới lui chẳng vội tạm tùy duyên phận. Đây đều do Hòa thượng đương đầu dẫn tai dạy răn nuôi dưỡng, trước sau giúp đỡ dẫn dụ. Nếu căn cứ cho ngày nay Chánh khiến đáng đi, tiện khéo một gậy đánh chết, đâu kham lại dung thứ đứng tại trước tòa. Tuy là như vậy, nhưng nuôi con mới thấy cha hiền".

24. Thiền sư Thê ở Khai Thánh.

Thiền sư Thê ở viện Khai Thánh tại Hòa châu. Ngày khai mở giảng đường, Sư ban lời rằng: "Mở trường chọn Phật, người trời đều tụ hội. Chớ có lâu trải qua trường giác ngộ, bãi khách tham thiền ra vào cùng thấy". Khi ấy có vị Tăng bước ra. Sư bảo: "Tác gia. Tác gia". Vị Tăng ấy nói: "Chớ đặt vội vàng". Sư bảo: "Vốn từ trước lại chẳng là tác gia ư?" Vị Tăng ấy kéo tọa cụ dậy và nói: "Xem xem từ nước Ma-kiệt-đà thân hành lệnh này". Sư bảo: "Chỉ nay làm sao sống?" Vị Tăng ấy bèn lễ bái. Sư bảo: "Đầu rồng đuôi rắn". Lại hỏi: "Đông Tây chẳng rành, Nam Bắc chẳng phân, người học từ trước đến xin Sư một lần tiếp?" Sư bảo: "Không tiếp". Lại hỏi: "Vì sao không tiếp?" Sư đáp: "Vì ông Đông Tây không rành, Nam Bắc chẳng phân". Lại hỏi: "Cớ sao đã nói là người Hồ râu đỏ lại cũng có nói là râu đỏ người Hồ?" Sư đáp: "Tô rô, tô rô". Lại hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Tha cho ông ba mươi gậy". Lại hỏi: "Vì sao như vậy?" Sư đáp: "Giết người có thể tha, vô lễ khó dung thứ". Có lúc lên giảng đường, nắm chiếc gậy, Sư bảo: "Đại chúng hãy gấp nhìn núi Tu-di, họa vẽ một cái trăm thứ tạp toái, Nam thiệm bộ châu đánh một gậy Đông nghiêng Tây ngã, chẳng khỏi tạm lấy trong tay khai Thánh, bảo nó hà hơi chẳng được". Xong, Sư chống xuống một cái.

25. Thiền sư Duy Lễ ở Hành sơn.

Thiền sư Duy Lễ ở Hành sơn tại Phước châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu luận về việc này ngay đây khó rõ, hàng Tam hiền chẳng thể lường, hàng Thập Thánh không biết. Đến trong đó phải cất cao lệnh Tổ đè ngang mạc da, Phật cũng chẳng còn, thì mảy trần sao lập "Trực giáo Tu-di nát vụn, biển lớn khô cháy, thả buông một luồng chỉ cho các người thương lượng. Hãy nói thương lượng cái gì?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Muối quý gạo rẻ".

26. Thiền sư Thiện Tư ở Hiển minh.

Thiền sư Thiện Tư ở Hiển minh tại Bắc sơn thuộc Lâm an phủ. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?' Sư đáp: "Chín năm luống không xoay mặt vào vách tường ma-la, lại trở về Tây vức". Lại hỏi: "Vì sao như vậy?" Sư đáp: "Thức ăn ngon chẳng trúng người no bụng ăn". Lại hỏi: "Thế nào là vô tình thuyết pháp?" Sư đáp: "Lồng đèn treo lộ trụ". Lại hỏi: "Người nào được nghe?" Sư đáp: "Vách tường có lỗ tai".

27. Thiền sư Huệ An ở Khải hà.

Thiền sư Huệ An ở Khải hà tại Minh châu. Có vị Tăng hỏi: "Chư Phật xuất hiện nơi đời là vì các hàng Quần sinh, vậy Hòa thượng xuất hiện nơi đời đáng vì hàng người nào?" Sư đáp: "Chẳng vì Xàlê". Lại hỏi: "Vì sao đầm sâu gợn sóng lắng, học rộng nói tiếng nhỏ?" Sư đáp: "Trên gậy chẳng thành rồng".

28. Thiền sư Linh Khản ở Vân môn.

Thiền sư Linh Khản ở Vân môn tại Việt châu.

Có vị Tăng hỏi: "Trong mười hai thời khắc dụng tâm như thế nào?" Sư đáp: "Đốt hương trong điện

Phật". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp:

"Chấp tay đầu Tam môn". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trần lao chưa phá xúc cảnh có ngàn sai, kiếng tâm tròn sáng mảy may chẳng lập, Linh quang sáng ngời riêng bày ở trước, xưa nay quên hết, Thánh phàm bặt lối. Đến trong đó mới có thể cuộn buông tự tại, ứng dụng không thiếu, vào ra qua lại trong nhân gian và Thiên thượng. Đại chúng tuy là như vậy, bỗng nhiên bị người nắm đứng. Thử hỏi các ông nói cây gậy đến nơi nào cắm, lại chỉ đối thế nào? Lại có người nói được chăng, bước ra nói xem?" Đại chúng im lặng không ai nói gì, Sư bèn đánh vào thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa.

29. Thiền sư Nguyên Thản ở Thái bình.

Thiền sư Nguyên Thản ở Thái bình tại Thiên thai. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Pháp là không Tông, tùy duyên kiến lập, sắc động tỉnh chẳng khuất mờ sự thấy nghe, nêu dụng ngàn sai, như chuông chờ đợi gõ, khi đó dâng được, lại tùy thời mặc áo ăn cơm, nếu là Đức sơn Lâm Tế lại phải đánh giày cỏ hành khất. Tham".

30. Thiền sư Văn Tổ ở Phật Nhật.

Thiền sư Văn Tổ ở Phật Nhật tại Lâm an phủ, có vị Tăng hỏi: "Căn cơ cao vợi, xin Sư chỉ bày?" Sư đáp: "Đầu ngã tư đường cái, đứng chữ bát". Lại hỏi: "Chỉ như đáy biển đại dương đi thuyền, trên núi Tu-di ngựa chạy lại làm sao sống?" Sư đáp: "Quạ rùa vào lửa". Lại hỏi: "Thế nào thì có thể cưỡi đầu hổ, khéo nắm đuôi hổ?" Sư nắm cây gậy gỡ xuống một cái và bảo: "Lễ bái đi".

31. Thiền sư Tông ở Vọng tiên.

Thiền sư Tông ở núi Vọng tiên tại Nghi châu. Có vị Tăng hỏi: "Với bốn mùa tám tiết tức chẳng hỏi, một câu bình thường sự việc ấy như thế nào?" Sư đáp: "Hòa sơn đánh trống". Lại hỏi: "Chẳng là nơi người học dốc sức phải không?" Sư đáp: "Quy tông kéo đá". Vị Tăng ấy im lặng. Sư bảo: "Thật là nạp Tăng". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ô dược ở Nam đài, Thiên ma ở Bắc hải, Tân La có Phủ tử, Thần miên có Chu sa". Ngừng giây lát, Sư tiếp bảo: "Đại chúng hiểu chăng?" Đứng giây lâu. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các ngươi có chịu buông xuống chăng? Nếu chẳng buông xuống thì vác lấy đi". Xong, Sư bèn xuống khỏi tòa.

32. Thiền sư Dụng Cơ ở Ngũ phong.

Thiền sư Dụng Cơ ở viện Tịnh giác tại Ngũ phong, Thụy châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Đầu ngã tư đường cái đạp chẳng dính". Lại hỏi: "Vây lúc đi thì thế nào?" Sư đáp: "Hãy chậm rãi". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: " bình qua nước, Đầu tử bán dầu, một năm ba trăm sáu mươi ngày, chẳng phải hướng trong đó mong cầu". Xong, Sư nắm phất trần đánh xuống thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa.

33. Thiền sư Xử Tường ở Phật túc.

Thiền sư Xử Tường ở Phật túc tại Vô vi quân, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Thể của Bát-nhã?" Sư đáp: "Trong điện lưu ly đèn ẩn lạnh". Lại hỏi: "Thế nào là Dụng của Bát-nhã?" Sư đáp: "Hoạt trác trúc địa". Lại hỏi: "Một sắc không biến đổi khác kêu làm trâu trắng nằm đất, vậy có trở lại đầu mối chăng?" Sư đáp: "Đầu sừng mọc". Lại hỏi: "Lúc đầu sừng chưa mọc thì thế nào?" Sư đáp: "Chẳng cần phạm đến lúa mạ của người'.

34. Thiền sư Tuệ Vân ở Minh nhân.

Thiền sư Tuệ Vân ở Minh nhân tại Bình an phủ. Lúc lên giảng đường, Sư đè ngang cây gậy và bảo: "Nếu cái gì đi thẳng được thì giữa trời không có hai mặt nhật, trong đất nước không có hai vua, Thích-ca, Lão tử uống khí hơi nước âm tiếng. Một đại tạng giáo điển như trùng mọc cây gỗ. Nếu như không xét ngưỡng kịp chánh là không dùi sắt lũng lỗ. Giả sử như nhiều thư tay gom lại cũng là canh thừa cơm cặn, đồng một lúc nhả ra mới có phần nhỏ tương ứng. Lại mới rơi lại không vang, y như cũ là kế sống của nhà quỷ. Cần muốn hiểu ư? Sau cơn mưa mới biết sắc núi xanh biếc, qua công việc khó mới biết tâm người Trượng phu". Xong, Sư bèn chống cây gậy và xuống khỏi tòa.

35. Thiền sư Kỳ Biện ở Tây đài.

Thiền sư Kỳ Biện ở Tây đài tại Hưng hóa quân. Lúc lên giảng đường, Sư nêu cử ngữ thoại Lâm Tế vô vị chân nhân xong mới gọi đại chúng bảo: "Lão Lâm Tế tài tầm thường chỉ một xương sườn cứng tợ sắt. Đến lúc vào trong đó, phần lớn tợ như giữa ngày lạc mê đường đi, mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Ngay nhiều người nói vô vị chân nhân là chuồng phẩn khô, chánh là rùa bùn lòi đuôi. Vị Tăng đó chỉ biết cuối mùa hạ rất nóng, không biết giữa mùa Đông rất lạnh. Nếu y cứ đương thời hợp đặt được ngữ thoại gì bít dứt đầu miệng lưỡi người trong thiên hạ. Tây đài chỉ mặc nghỉ đi, lại mới mắt không thấy bất tịnh, chẳng khỏi lòi ra một tay lẫn lộn đi vậy. Lâm Tế một vác, Tây đài một đống. Một vác một đống phân giao cho ai? Theo giáo bung ra các phương đi. Cười giết cái đùi già xưa lúc ấy".

36. Thiền sư Trí Đàm ở Khai nguyên.

Thiền sư Trí Đàm ở Khai nguyên tại Đinh châu. Lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu không riêng tư?" Sư đáp: "Mảnh trăng tỏa chiếu sáng khắp muôn hình tượng". Lại nói: "Cảm tạ Sư chỉ bày!" Sư bảo: "Chỉ bày cái gì?" Vị Tăng ấy nói: "Tránh sao lời nói còn ở tại lỗ tai?" Sư hỏi: "Lời nói gì?" Vị Tăng ấy đáp: "Mảnh trăng tỏa chiếu sáng khắp muôn hình tượng. Sư bảo: "Chỉ là hạng học nói". Lại hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Bày xưa bày nay". Lại nói: "Trước mắt không đường khác, tức các hàng Đạt giả cùng chung lối". Sư bảo: "Ông làm sao sinh hiểu?" Vị Tăng ấy đáp: "Đạp dính quả cân cứng tợ bắt". Sư bảo: "Còn bắt chước một ít". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Mùa xuân lạnh mùa thu nóng". Lại nói: "Người học không hiểu". Sư bảo: "Mùa thu nóng mùa xuân lạnh". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của chư Phật xưa trước?" Sư đáp: "Tán thán chẳng cùng". Lại hỏi: "Thế nào là tháp Vô phùng?" Sư đáp: "Gió thổi chẳng vào?" Lại hỏi: "Thế nào là người trong tháp?" Sư đáp: "Lỗ mũi đầu lớn hướng xuống". Và Sư mới bảo: "Ta vật ngầm hợp, lộ bày có thật, pháp pháp linh thông, tâm tâm riêng sáng, cuộn buông tự tại ẩn hiện không bó buộc. Có lúc vắng vẻ không dấu vết, có lúc mở toáng khắp pháp giới. Trong ánh sáng Bát-nhã thảy đều ứng hiện. Mỗi mỗi trần đã, mỗi mỗi niệm đều Như. Nói gì Tôn giả Mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất đầy đủ sức thần thông lớn, đến trong đó làm sao sống, mô phỏng lấy?"

37. Thiền sư Trí Giác ở Vĩnh thái.

Thiền sư Trí Giác ở Vĩnh thái huyện Tấn vân tại Xử châu. Có vị Tăng hỏi: "Tổ sư Đạt-ma ở Thiếu lâm một lần đi không tin tức, nay ân cần vì cử dương". Sư đáp: "Trăng hoa tự chiếu ba ngàn cõi, mây nước không theo mười vạn trình". Lại hỏi: "Suốt chín năm Tổ sư ngồi xoay mặt vách tường đáng vì việc gì?" Sư đáp: "Lại dắt một chiếc giày mà tự trở về Tây vức". Và Sư mới bảo: "Gió vàng róc rách, mốc ngọc lạnh trong, nơi nơi lên cao, người người vui thú. Chư vị Thiền đức, chỉ như giữa rừng Nạp Tử há chẳng biết thời, nếu cũng vui im quên hình mờ dạt cảnh quang kia, Thúy vi nơi sâu chẳng đuổi theo bốn mùa, một đám chiên đàn không ân gì chẳng báo đáp". Xong, Sư vỗ vào thiền sàng một cái và xuống tòa.

38. Thiền sư Văn Hỷ ở Long hoa.

Thiền sư Văn Hỷ ở Long hoa tại Hàng châu. Mới đầu Sư ở tại am Lục Liên, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Lục Liên?" Sư đáp: "Cỏ trước một đường thềm, vài gốc tùng sau sương". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Mở ra đường Thánh phàm, đáp phá họa cửa lại". Lại hỏi: "Thế nào là việc hướng thượng Tông thừa?" Sư đáp: "Một chiếc gậy Lang lật làm oai phong muôn dặm". Và Sư mới bảo: "Các nhân giả hãy nói đáp cảnh ấy không đáp cảnh ấy. Nếu nói đáp cảnh ấy thì mắt của Sơn Tăng ở nơi nào? Còn nếu nói không đáp cảnh ấy sao lại nói cỏ trước một đường thềm vài gốc tùng sau sương? Lại cùng ủy tất ư?"

Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Giờ giờ rõ ý Tổ, ngày ngày nổi gió trong. Trân trọng".

39. Thiền sư Tự Nhân ở Vĩnh thái.

Thiền sư Tự Nhân ở Vĩnh thái tại Xử châu, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là trâu trắng nằm đất?" Sư đáp: "Rất khó xem giữ". Lại hỏi: "Xem giữ tức dễ, còn chưa xét rõ làm sao để dùng?" Sư đáp: "Dùng được tức dùng". Lại hỏi: "Người học mượn dùng được không?" Sư đáp: "Ngay nhiều dùng được vậy, chỉ là người khác đến". Và Sư mới bảo: "Gió tùng lạnh lạnh, lá rụng lẫn lộn, bờ liễu gầy tàn, vượn kêu núi xa. Nếu cũng khéo giỏi xét xem thời tiết mới cùng các Thánh được gần, chưa ra được kế sống của nạp Tăng. Các Nhân giả, ngay lúc này chính là khéo vác ngang cây gậy, treo cao đãy bát, đến nơi khua mở cửa phương trượng, thì tạm cùng trông gặp lão người Hồ. Nếu nói một lời không khế hợp, rủ mở tọa cụ bèn đánh, há chẳng khoái thích ư? Sơn Tăng từ lúc hành cước đến nay, chưa từng gặp một cái nửa cái, cớ sao như vậy?" Ngừng giây lát, Sư lại tiếp bảo: "Đất rộng người hiếm cùng gặp rất ít. Trân trọng". Sư lại bảo: "Gió vàng chợt thổi, tùng trúc che râm, nước trăng rành rẽ, nạp Tăng chẳng lầm. Có hiểu chăng? Nếu có người hiểu được ra lại thông cái tin tức. Sơn Tăng sẽ vì người làm chứng cứ". Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Cái dùi trong đãy vải chẳng lòi đầu, thật là khéo tay!" Xong, Sư xuống khỏi tòa.

40. Thiền sư Pháp An ở Diên ân.

Thiền sư Pháp An ở Diên ân tại Hồng châu, vốn người dòng họ Hứa ở Lâm xuyên. Thuở thiếu thời Sư phụng thờ Sa-môn Thừa Thiên, nhân mến mộ Nhàn mà xuất gia. Năm hai mươi tuổi, Sư thông rành kinh pháp nên được độ. Sư du phương tham vấn, đến bái yết Thiền sư Hiển ở Tuyết đậu. Đến sau khi Thiền sư Hiển thị tịch, Sư lại đến nương tựa Thiền sư Hoài ở Thiên y, đại chúng suy kính Sư là người rất có Sư nhận biết. Sư lại rảo bước khắp các nhà Lão túc kỳ đức, chỉ mục đích vì nó tham. Sư trở về lại Lâm xuyên, thấy viện Như ý ở Hoàng sơn phòng thất hư nát tường vách trống rỗng chẳng có gì để che đậy gió mưa, Sư mới cầu xin ở đó, chỉ trong vòng mười năm mà điện các Sư tạo dựng như Hóa thành. Sư lại từ giả nơi đó, đi xuống Giang hán Hàng nhị chế, đi lên Thiên thai, Nghi, Hoài, Vấn mà trở lại, phàm những nơi Sư đến, tiếp vật lợi sinh chưa từng mất lời nói, cũng chưa từng mất người nào. Đến lúc bạc đầu, mến mộ đạo, vụt nhiên không có bạn, Sư đến nương tựa ở Nam xương, Thượng lam, Sư lại đến ở chùa Diên ân tại Võ minh. Mới đầu, chùa ấy do cha con trao truyền cho nhau, nghèo khổ không thể gìn giữ nỗi mới đổi lấy làm của Thập phương. Chỉ có nhà tranh vài gian, giường chỏng nát hư, chiếu màn trống không, Sư vẫn an vui ở đó. Huyện lệnh đốc suất những nhà giàu có bàn tính làm một ngôi mới, Sư cười, bảo: "Đàn pháp vốn để độ người. Nay tôi chẳng phát tâm nguyện ấy mà cũng cố gắng. Đây chỉ gọi là tác nghiệp chẳng gọi là Phật sự vậy". Sư dừng ở đó mười năm mà trở thành chốn Tùng lâm. Chư Tăng đến nương như trở về nhà xưa. Sư và Thiền sư Tú ở Pháp vân làm con em tạm tương đắc. Nơi ở của Thiền sư Tú trang nghiêm mỹ diệu trong thiên hạ, giảng nói pháp như mây mưa. Với sức lực có thể lấy làm anh em, tiếp giúp mà bay giữa trời vậy, từng gởi thư thỉnh mời Sư. Sư đọc xem thứ một lần xong chỉ cười mà thôi, hoặc có người hỏi về nguyên do, Sư bảo: "Mới đầu, Tôi thấy Sa-môn Tú có khí thế anh tài, nghĩa là có thể vì nơi Đạo, mà nay về sau mới biết đó là ngu si. Người si thì không thể cùng nói vậy. Sa-môn Tú đã chẳng thể như thế, lại đến đầu đường thông tám hướng tạo dựng phòng nhà lớn, theo người đời xin cơm để nuôi dưỡng vài trăm người nhàn rỗi tài giỏi. Há chẳng phải là ngu si ư?" Sư từng nói với mọi người là: "Muôn sự tùy duyên là pháp An lạc".

Đến tháng bảy năm Giáp tý (?) thuộc niên hiệu Nguyên Phong (?) thời Bắc Tống, Sư bảo đệ tử đem tất cả văn thư trong phương trượng ra nhóm lửa thiêu đốt-hết-Đem mọi công việc của viện giao phó cho một vị Tăng. Qua đầu tháng tám, Sư thị tịch, hưởng thọ sáu mươi mốt tuổi, bốn mươi mốt hạ lạp.

41. Cư sĩ Lễ bộ Dương Kiệt.

Cư sĩ Lễ bộ Dương Kiệt tự là Thứ Công, hiệu là vô vi, mới đầu trải qua dự tham nơi các bậc danh túc, về sau lại theo Thiền sư Hoài ở Thiên y vân du. Thiền sư Hoài từng dẫn cơ duyên của Lão Bàng mà cùng nói và bảo Cư sĩ nghiên cứu sâu đến. Về sau, Cư sĩ phụng thờ đến Thái sơn. Một ngày nọ có một tiếng gà gáy, trông nhìn mặt nhật như chiếc mâm vọt lên, Cư sĩ bỗng nhiên đại ngộ, mới riêng có người con trai không cưới vợ và người con gái không lấy chồng, Cư sĩ mới làm kệ rằng:

"Trai lớn phải lấy vợ, gái lớn phải lấy chồng, xét lắng nhàn công phu.

Lại nói câu vô sinh".

Cư sĩ viết lại gởi Thiền sư Hoài. Thiền sư Hoài bèn ngợi khen đó.

Về sau, Cư sĩ gặp Thiền sư Giai ở Phù dung, bèn hỏi: "Cùng Sư cách biệt đã bao nhiêu năm rồi?" Thiền sư Giai đáp: "Đã bảy năm". Cư sĩ nói: "học đạo lại, tham thiền lại". Thiền sư Giai bảo: "Chẳng đánh trống sáo ấy". Cư sĩ nói: "Thế nào thì không vân du sơn thủy, trăm thứ không tài năng". Thiền sư Giai bảo: "Riêng lại không bao lâu, khéo hay cao soi xét". Cư sĩ bèn cười lớn. Cư sĩ có bài kệ tụng tạ từ thế sự là:

"Không một đáng tiếc

Không một đáng bỏ

Thái hư không trung

Đến ư ấy vậy Sắp bày đến bày Tây phương Cực lạc".

Quyển 8 (Hết)

QUYỂN 9

MỤC LỤC

Đời thứ mười hai, dưới đời Thiền sư Đại Giám.

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Chi ở Đại ngu, có mười ba vị:

1. Thiền sư Văn Duyệt ở Vân phong

2. Thiền sư Nguyệt ở Thụy quang

3. Thiền sư Tử Viên ở Động sơn (ba vị trên hiện có ghi lục)

4. Thiền sư Thủ Nghĩa ở Khai phước

5. Thiền sư Khải Chu ở Hưng dương

6. Thiền sư Khải San ở Hưng dương

7. Thiền sư Giản Nam ở Đại võ 8. Thiền sư Thông ở Pháp luân

9. Thiền sư Kế Lan ở Vân đảnh

10. Thiền sư Ứng ở Thừa thiên

11. Thiền sư Sư Tấn ở Long vương

12. Thiền sư Thủ Cần ở Thừa thiên

13. Thiền sư Quang Ứng ở Khuê phong (mười vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Vĩnh ở Thạch sương, có tám vị:

1. Thiền sư Bảo Tông ở Phước nghiêm

2. Thiền sư Như Hán ở Đại dương (hai vị trên hiện có ghi lục)

3. Thiền sư Trí Tăng ở Thắng nghiệp

4. Thiền sư Thừa thái ở Bảo ninh

5. Thiền sư Ngọc Viên ở Đại quang

6. Thiền sư Hạo Thuyên ở Thạch sương

7. Thiền sư Tuệ Trí ở Hưng quốc

8. Thiền sư Văn Đoàn ở Viên thông (sáu vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Viễn ở Phù sơn, có mười chín vị:

1. Thiền sư Đạo Trăng ở Tịnh nhân

2. Thiền sư Nhân Nhạc ở Hưng hóa

3. Thiền sư Vị Phương ở Ngọc tuyền

4. Thiền sư Tuệ Sâm ở Định lâm

5. Thiền sư Nhã châu ở Bản giác

6. Thiền sư Phổ Tư ở Hoa nghiêm

7. Thiền sư Duy Thục ở ẩn

8. Thiền sư Phụng Năng ở Hành nhạc (tám vị trên hiện có ghi lục)

9. Thiền sư Phổ An ở Quy tông

10. Thiền sư Cảnh Vân ở Bạch mã

11. Thiền sư Khánh Dư ở Cam lộ

12. Thiền sư Hồng Thức ở Quy tông

13. Thiền sư Hồng Liên ở Phù sơn

14. Thiền sư Pháp Nhãn ở Cam lộ

15. Thiền sư Kế Đồ ở Tây thiền

16. Thiền sư Nhân Chiếu ở Đông thiền

17. Thiền sư Hiền ở Thái bình

18. Thiền sư Hoạt Tu ở Vạn sam

19. Thiền sư Hiểu Vân ở Khê sơn (mười một vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Chiêu ở Bảo ứng, có hai vị:

1. Thiền sư Phương Duyệt ở Lang da

2. Thiền sư Hy Ẩn ở Hưng dương (hai vị hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tấn ở Thạch môn, có một vị:

1. Thiền sư Trí Tài ở Thụy nghiêm (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Dĩnh ở Kim sơn, có hai mươi vị:

1. Thiền sư Kế Chân ở Quảng giáo

2. Thiền sư Sùng Trân ở Phổ từ

3. Thiền sư Trọng Hòa ở Thụy trúc

4. Thiền sư Hoài Hiền ở Kim sơn

5. Thiền sư Hiển Trung ở Thạch Phật

6. Thiền sư Cư Duyệt ở Tịnh trụ

7. Thiền sư Củng Thần ở Tây sư

8. Thiền sư Thiện Đoan ở Bát-nhã

9. Cư sĩ Tiết sứ Lý Đoan Nguyện (chín vị trên hiện có ghi lục)

10. Thiền sư Liễu Tố ở Thừa thiên

11. Thiền sư Tự Thông ở Nam thiền

12. Thiền sư Hy Nguyên ở Thượng phương

13. Thiền sư Tuệ Quán ở Ẩn tỉnh

14. Thiền sư Thiệu Minh ở Pháp tánh

15. Thiền sư Liễu Xiêm ở Ô nhai

16. Thiền sư Trọng Hi ở Ngũ phong

17. Thiền sư Thuyên ở Tuyết đậu

18. Thiền sư Duy Ngộ ở Thụy trúc

19. Thiền sư Dụng Chương ở Pháp tánh

20. Thiền sư Như Đạo ở Nhân thắng (mười một vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nguyệt ở Động đình, có ba vị:

1. Thiền sư Lượng ở Tiến phước (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Tung ở Thụy quang

3. Thiền sư Thế Trân ở Thừa thiên (hai vị không ghi lục)

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Dĩ ở Tích trượng, có hai vị:

1. Thiền sư Bảo Hiên ở Hoàng nham (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Chí ở Linh nham (hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nhạc ở Long hoa, có hai vị:

1. Thiền sư Tịnh Đoan ở Tây dư (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Hiển Trù ở Thúy nham (hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Cử ở Pháp hoa, có sáu vị:

1. Thiền sư Văn ở Vĩnh khánh

2. Thiền sư Văn ở Hải hội

3. Thiền sư Quy ở Hưng hóa

4. Thiền sư Ngung ở Long đàm

5. Thiền sư Khương ở Giác hoa

6. Thiền sư Hải ở Hải hội (cả sáu vị đều không ghi lục).

- Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thái ở Thiên Thánh, có sáu vị:

1. Thiền sư Bẩm Trân ở Thường thục

2. Thiền sư Bảo Thật ở Tây dư

3. Thiền sư Linh Nhiên ở Thường thục

4. Thiền sư Xử Thành ở Phước nghiêm

5. Thiền sư Hiển Ngọc ở Trung thiền

6. Hòa thượng Tri Văn ở Thái châu (sáu vị không ghi lục).

- Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nhất ở viện Thái tử, có một vị:

1. Thiền sư Đồng Quảng ở Thái tử (không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHI Ở ĐẠI NGU

1. Thiền sư Văn Duyệt ở Vân phong.

Thiền sư Văn Duyệt ở Vân phong tại Nam nhạc, vốn người dòng họ Từ ở Nam xương. Mới đầu Sư đến nơi pháp tòa Đại ngu, nghe Thiền sư Chi chỉ dạy đại chúng rằng: "Mọi người cùng nhóm tụ ăn rau hành dưa muối, nếu ăn một cọng rau hành dưa muối thì vào địa ngục nhanh như tên bắn". Rồi xuống khỏi tòa. Sư rất kinh sợ, ban đêm Sư tìm đến nơi phương trượng. Thiền sư Chi hỏi: "Ông đến mong cầu gì?" Sư đáp: "Cầu tâm pháp". Thiền sư Chi bảo: "Pháp luân chưa chuyển vận. Thực luân chuyển vận trước, sau sẽ sinh theo sắc lực mạnh khỏe, sao chẳng vì chúng cầu xin thức ăn? Ta đây nhẫn chịu đói còn chưa rảnh, thì đâu rảnh để vì ông mà nói Thiền ư?" Sư không dám trái lời. Sau đó không bao lâu, Thiền sư Chi từ Đại ngu lại đổi chuyển đến Thúy nham. Sư nhận sớ xong, lại qua Thúy nham cầu chỉ dạy. Thiền sư Chi lại bảo: "Phật pháp chưa đến sáng liền, tuyết đang lạnh nên vì chúng tìm cầu than lửa". Sư cũng vâng theo lời, công việc hoàn tất, Sư trở vào lại nơi phương trượng. Thiền sư Chi lại bảo: "Đường tuy khuyết thiếu người, nay vì làm phiền ông". Sư cũng vâng lời đó nhưng không được vui, Sư hận Thiền sư Chi chẳng dứt trừ tâm địa, bèn ngồi sau giá, bỗng nhiên có thùng sơn tan rơi từ trên giá xuống, và Sư cũng vụt nhiên khai ngộ, chóng thấy điều sử dụng của Thiền sư Chi, liền chạy đắp y Già-lê và vào ngay trên nhà ngủ. Thiền sư Chi nghinh đón Sư, mỉm cười bảo: "Duy-na hãy vui mừng việc lớn đã hoàn tất. Sư lại lễ bái và nói một lời giả từ mà đi. Sư chuyên cần phục vụ ở đó tám năm.

Sau đó, ra đời hoằng pháp, Sư ở tại Thúy nham, khi ấy vị Thủ tọa dẫn chúng ra nghinh hỏi rằng: "Với Tông thừa của Đức Sơn tức không hỏi, còn thế nào là đại dụng của Lâm Tế?" Sư bảo: "Ông ở xứ nào lại?" Thủ tọa phỏng bàn nghị, Sư liền chấp tay, Thủ tọa phỏng nghĩ đối đáp, Sư liền quát bảo: "Dẫn chúng về đi". Từ đó cả đại chúng đều rất khiếp sợ kính phục Sư. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Đi đường chớ lượm vật". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Giặc cỏ Đại bại". Vị Tăng ấy lễ bái, Sư thở dài một hơi. Lại hỏi: "Muôn pháp kết quy về một, một kết quy về đâu?" Sư đáp: "Sông Hồng chín khúc cong". Lại hỏi: "Thế nào là câu thứ nhất?" Sư đáp: "Duỗi tay quá đầu gối". Lại hỏi: "Thế nào là câu thứ hai?" Sư đáp: "Muôn dặm Nhai châu". Lại hỏi: "Thế nào là câu thứ ba?" Sư đáp: "Ky phẩn chổi quét". Lại hỏi: "Thế nào là Phật pháp nơi núi sâu rừng rậm?' Sư đáp: "Con khỉ đến trên cây". Lại hỏi: " Thế nào là việc dưới nạp y?" Sư đáp: "Cốt nằm trong da". Lại nói: "Chẳng giẫm qua màn rèm, xin Sư nhanh nói". Sư bảo: "Núi Tu-di". Lại hỏi: "Thế nào là tịnh pháp thân?" Sư đáp: "Đàn củi cỏ địch".

Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nói chẳng lìa đường hang ổ, sao có thể ra khỏi được sự ngăn che ràng buộc, mảnh mây vắt ngang cửa hang. Mê tức là nguồn của bao nhiêu người. Do đó nói: Lời lẽ không bày sự việc, nói năng chẳng gieo ném cơ căn. Người tiếp nhận lời lẽ tang mất kẻ ngưng trệ nơi câu thì mê mờ. Các người đến trong đó nhờ câu thoại nào mà được hiểu?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Muốn được chẳng rước nghiệp vô gián, chớ nên phỉ báng chánh pháp luân của Đức Như Lai". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật thời quá khứ đã diệt độ, chư Phật thời vị lai chưa xuất hiện nơi đời. Do đó, ngay ngày nay, Phật pháp ủy thác ở Thúy nham. Buông đi thì tùy cơ lợi vật, nắm ở thì ngói sỏi vỡ tan. Hãy nói nắm ở tốt hay buông đi tốt?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Ôi! Dã hồ tinh". Rồi đánh vào thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Các người cùng gì lên đến? Phần nhiều tợ như chích não đưa vào chén keo. Cùng gì xuống đi? Cũng là đất bằng ăn giao. Ngay nhiều chẳng đến chẳng đi, sáng sớm đánh ba ngàn, chiều tối đánh tám trăm". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đạo xa vời ấy thay! Xúc sự mà thật, Thánh xa vời ấy thay! Hiểu đó thì thần. Do đó, ở thế giới Ta-bà lấy âm làm Phật sự. Ở thế giới Hương tích dùng cơm thơm làm Phật sự. Trong Thúy nham ta đây chỉ ra vào hơi thở, cúng dường phụng thờ chư Phật nhiều như số cát sông Hằng từ thời quá khứ đến hiện tại và cả vị lai không bỏ luống qua một vị nào. Chư Phật như số vi trần ở từ thời quá khứ đến hiện tại và cả thọ lãnh đều là Thúy nham làm Thị giả không một nơi chẳng đến.

Nếu có một nơi không đến thì đáng cho ba mươi gậy. Chư vị Thượng tọa có hiểu chăng? Đem thâm tâm này mà phụng sự trần sát, đó chính là báo đáp ân sâu dày của chư Phật". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Gốc của hữu tình nương tựa biển trí lấy làm nguồn. Dòng của Hàm thức, đều lấy pháp thân mà làm thể. Chỉ vì Tình sinh nên Trí ngăn cách, Tưởng biến nên Thể đổi khác. Thấu đạt gốc (Bản) thì Tình mất, biết được Tâm thì Thể hợp. Chư vị Thiền đức có hiểu chăng?' Chư Phật xưa trước cùng với Lộ trụ có sự tương giao. Phật điện và lồng đèn đấu ngạch, như cũng chẳng hiểu đơn kép có giao chiết". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tre cây theo thân gặp Trường làm đùa vui. Tuy là như vậy nhưng mà một tay không thể riêng vỗ. Trong chúng chớ có tác gia bản phận thiền khách. Nạp Tăng ra lại cùng xướng hòa. Có ư?" Khi ấy có vị Tăng bước ra lễ bái. Sư bảo: "Y cứ hiếm có tợ như khúc nhạc mới có thể nhận nghe, lại bị gió thổi riêng điều trong". Rồi Sư xuống tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trời trong lúc sáng sớm muôn sự đều rõ ràng, Bắc-câu-lô châu cơm gạo canh dài". Và Sư xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nơi có Phật, không được ở, nơi không Phật phải gấp chạy qua. Các người vác ngang cây gậy hành cước đến xứ nào?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Đông thắng thần châu trì bát, Tây-cù-da-ni ăn cơm". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Giả sử tâm thông suốt vô lượng thời, trải vô lượng kiếp nào khác gì ngày nay. Hãy nói việc ở ngày nay làm sao sinh?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Quạ rùa đục phá vách tường". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thấy nghe hay biết không chướng ngại, sắc, hương, vị, xúc thường Tam-muội. Nạp Tăng đạo hợp vậy, núi là núi, sông là sông, đói thì ăn cơm, mệt nhọc thì nằm ngủ. Bỗng nhiên núi Tu-di nhảy nhót vào trong lỗ mũi các ông, cá Ma-kiệt xuyên vào trong tròng mắt các ông, làm sao sống thương lượng? Ngừng giây lát, Sư bảo: "Tham đường đi". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Một con dao hai, chưa xứng với Tông sư. Xuống dưới cao bằng hẳn chưa phải là tác gia. Thúy nham đến trong đó, miệng tợ như gánh dẹp, vậy các người làm sao sống thương lượng?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Muốn được không rước nghiệp vô gián, thì chớ nên phỉ báng chánh pháp luân của Đức Như Lai". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu thấy được các tướng là phi tướng, tức núi sông đất liền đều không lỗi quá. Chư vị Thượng tọa, trọn ngày mặc áo ăn cơm, chưa từng ăn dính một hạt gạo, chưa từng treo dính một mảy tơ lụa, bèn có thể biến đất liền thành vàng ròng, khuấy động nước sông làm thành váng sữa. Tuy là như vậy nhưng mặc áo ăn cơm tức chẳng không. Môn hạ của nạp Tăng làm dơ bẩn hơi khí cũng chưa mộng thấy đó". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Hạnh Phổ Hiền, Trí Văn Thù, trên núi Phổ-đà gió trong mát thổi, lừa mùa theo đội qua Tân La, cát liêu đầu lưỡi ba ngàn dặm". Lại có lúc lên giảng đường, Sư nắm chiếc gậy và bảo: "Mang ôm bình bát đến thế giới Hương tích, vì gì mà không có đường xuất thân? Khêu nhật nguyệt trên đầu chiếc gậy lên, vì gì mà có mắt vẫn như mù? Ngay được gió thổi cỏ rạp, tiếng hòa âm thuận, không mảy may có thể giữ lại, còn là giao tranh đến pháp. Làm sao sống là không giao tranh đến pháp?" rồi Sư gõ chiếc gậy một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Lâm tế trước bén nhọn phóng qua một trữ, Đức Sơn sau khiến tạm ở một bên, riêng bày vô tư một câu làm sao sống? Nói". Ngừng giây lát, Sư bảo: "Kham thán, chuông dưới sở lìa mùi vị!" Rồi Sư nắm phất trần đánh vào thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trong giáo điển nói: "Các thứ thủ xả đều là luân hồi, chưa ra khỏi luân hồi mà bàn biện viên giác thì tánh viên giác ấy tức đồng lưu chuyển, nếu thoát khỏi luân hồi, hẳn không có như thế. Các người đến trong đó hãy làm sao sống để biện bàn viên giác?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Lá sen tròn tròn tròn tợ kiếng, sừng ấu nhọn nhọn nhọn như dùi". Rồi, Sư nắm phất trần đánh xuống thiền sàng một cái. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Người xưa nói: Núi sông vách đá chẳng ngăn ngại ánh sáng của mắt".

Và Sư bảo: "Làm sao sống là mắt?" Xong, Sư nắm chiếc gậy đánh vào thiền sàng một cái, tiếp bảo: "Núi Tu-di trăm thứ tạp toái tức không hỏi. Còn các ông hãy nói vua rồng Ta-kiệt-la tuổi ít nhiều?"

Có vị Sĩ tục hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Mặc áo ăn cơm lường việc nhà". Lại hỏi: "Thế nào thì lùi thân ba bước, chấp tay ngang ngực đi?" Sư đáp: "Sau khi tỉnh say thêm một cốc chẳng như không". Có lúc tiểu tham, nêu cử Bách Trượng đêm cuối năm dạy răn đại chúng rằng: "Các ông là một đội hậu sinh, kinh luật luận hẳn là không biết, vào chúng tham thiền, thiền lại không hiểu. Ngày ba mươi tháng chạp hãy làm sao sống chiết hợp đi?" Sư bảo: "Đốt đèn các Thiền đức, cách Thánh thời gian lâu xa, tâm người dợt dạt. Xem ngay các tùng lâm ngày nay càng là chẳng có nơi được. Hoặc nhóm tụ đồ chúng ba trăm, năm trăm vị đông nhiều đầy đất, chỉ vì cơm ăn no đủ, phòng nhà yên ẩn, bèn cho là vượng hóa. Trong đó chăm chăm làm Đạo thì không có một người, giả sử như có mười vị, năm vị chạy trên chạy dưới, nửa xanh nửa vàng. Hiểu tức tất cả nói ta hiểu. Mỗi mỗi tự cho là nắm được châu ngọc của rắn linh, ai chịu biết là mình trái, đến lúc bị bức ép đánh đòn đem lại, ngay lúc ấy trong muôn vàng chẳng có một. Khổ thay! Khổ thay! Do đó nói Tùng lâm Bát-nhã mỗi năm một điêu tàn, cỏ hoang vô minh mỗi năm một tươi tốt. Tóm lại, ngày nay các hậu sinh mới vào trong chúng tiện tự ngồi yên khoanh tay, nhận sự cúng dường của người khác. Đến như, rau chẳng nhặt cọng, củi không bửa một bó, mười ngón tay chẳng dính đến nước, trăm việc chẳng liên can đến nỗi lòng. Tuy là một thời gian an vui thỏa ý, nhưng tránh sao khỏi lụy thân trong ba đường xấu ác. Há chẳng thấy nói trong kinh giáo là thà dùng sắt nóng buộc thân chứ không nhận áo mặc của người tín tâm. Thà đem nước đồng sôi rưới vào miệng chứ không ăn vật phẩm của người tín tâm. Các vị Thượng tọa nếu được như vậy thì biến đổi đất liền làm thành vàng rồng, khuấy động nước sông làm thành váng sữa, cúng dường Thượng tọa chưa là việc ngoài bổn phận. Nếu chưa như vậy thì đến như giọt nước tấc tơ, cũng phải mang lông đội sừng mang cày kéo bừa để đền trả lại mới được! Không thấy Tổ sư nói: "Vào Đạo không thông lý, mang thân đến tín thí". Đó là việc quyết định cuối cùng trọn không hư dối vậy! Cùng các vị Thượng tọa, tấc bóng rất đáng quý tiếc, thời gian chẳng đợi chờ người. Chớ đợi một mai mắt sáng rơi giữa đất. Ruộng phước không một chút công, thành sắt thống khổ vây hãm trăm thứ tội hình! Chớ bảo là tôi không nơi. Trân trọng!"

2. Thiền sư Nguyệt ở Thụy quang.

Thiền sư Nguyệt ở Thụy quang tại Tô châu. Có vị Tăng hỏi: "Câu chi một chỉ, ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Canh ba trăng rơi xuyên qua chợ".

3. Thiền sư Tử Viên ở Động sơn.

Thiền sư Tử Viên ở Động sơn tại Thụy châu. Lúc lên giảng đường, có vị Tăng bước ra vất tọa cụ xuống. Sư bảo: "Một lần câu tức bèn lên". Vị Tăng ấy kéo tọa cụ lên. Sư bảo: "Khéo đùa bỡn thành vụng". Vị Tăng ấy nói: "Từ xưa không phát sinh khúc nhạc, phải là gặp người biết âm". Sư bảo:

"Dân Ba Tư và nước Đường (Trung Quốc)". Vị Tăng ấy cười lớn, trở vào lại trong đại chúng.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VĨNH Ở THẠCH SƯƠNG.

1. Thiền sư Bảo Tông ở Phước nghiêm.

Thiền sư Bảo Tông ở Phước nghiêm tại Nam nhạc. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Đức Thế Tôn đi khắp các hướng bảy bước, dắt chân toàn trái, mắt nhìn bốn phương, xúc chạm các đường thành trệ. Áo vàng trao đi ương hại cháu con, kệ ngọc truyền lại treo môi mép người. Gió phướn tỏ ngộ tánh chưa lìa sắc trần, bát nước ném kim toàn thành thấy hẹp. Tổ Sư chín năm xoay mặt vách tường chẳng thấy mảy may. Lông Công sáu đời truyền y toàn tính người khác ít lợi, Giang tây một tiếng hét chẳng hiểu thận trọng ban đầu, Đức kiệu thí hết chưa biết hộ trì chưa. Nam Sơn lỗ mũi ba ba lừa chỉ Tông do, Bắc viện tùng khô nhọc bày phong thái. Vân môn soi xét lại rơi hai rơi ba. Lâm Tế dẫn hết lầm bảy lầm tám. Nếu nói về năm vị của quân thần ngay như ngựa giấy qua cầu, lại đẩy khách chư giao tham, vừa tợ người bùn tắm rửa, riêng vượt ngoài hình tượng. Vả lại, chẳng phải chim ưng bắt thỏ, lẫn vết trong bụi trần, chưa là chó cắn heo, sao khác nhảy hố rớt hầm. Chánh là lánh chìm mà ném đặt. Kiến giải như thế chánh tại đường thường, Đạo nhân vượt ngoài khuôn phép làm sao nói câu thoại hiểu. Há chẳng thấy Đào tiềm là kẻ tục tử còn tự thấy việc thấy có, mà nay con cháu trong nhà Tổ không thể dưới da không chút máu!" Xong, sư hét quát một tiếng.

2. Thiền sư Như Hán ở Đại dương.

Thiền sư Như Hán ở Đại dương tại Dĩnh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu ngang cứng xoang xoảng?" Sư đáp: "Ngoài cửa trúc lay gió rung thức tỉnh người ngủ nơi sâu tối". Lại nói: "Cửa lớn Quán Âm mở". Sư bảo: "Sư tử cắn người". Và Sư mới bảo: "Nghe tiếng mà ngộ Đạo, mất liền tròng mắt Quán Âm. Thấy sắc mà minh tâm, tịt ngay lỗ mũi Văn Thù. Một ra một vào, nửa mở nửa hộp. Đêm qua trâu bùn lội trong biển lớn mãi đến giờ này chẳng thấy trở về. Ôi!".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ VIỄN Ở PHÙ SƠN.

1. Thiền sư Đạo Trăng ở Tịnh nhân.

Thiền sư Đạo Trăng-Tịnh chiếu ở Tịnh nhân tại Đông kinh, vốn người dòng họ Đới ở Cổ điền thuộc Phước châu. Thân phụ Sư mộng thấy người mặc xiêm y đội mão vàng như lửa dữ dẫn theo đến nhà, thân mẫu Sư bèn mang thai. Lại mộng thấy nhạc trời phướn vàng phạm bối dẫn một vị Tăng mắt biếc mày dài đến tức liền sinh Sư. Từ bé thơ, Sư chẳng ăn dùng các thứ tanh nồng. Năm mười bốn tuổi, vào viện Thượng sinh cầu xin xuất gia, Sư hành trì hạnh Đầu Đà. Năm mười chín tuổi, sư làm vị đại Tăng, đọc xem các kinh luận Đại thừa Tiểu thừa, xong Sư đặt để xuống không đọc nữa mà nói: "Phương đây tiến nói như vậy". Rồi Sư mang một bình bát chạy đến Giang hoài, tham vấn phỏng học rất nhiều vị Thiện tri thức, mà chứng đắc yếu chỉ từ Thiền sư Viễn ở Phù sơn. Tại Giang châu có pháp tịch ở Thừa thiên muốn thỉnh mời Sư ở, song đó chẳng phải điều muốn của Sư, Sư mới vân du đến Đang Dương ngụ ở tại chùa Nhân Thánh. Một ngày nó đi trên sông, ngoái nhìn lại thuyền mà Sư im lặng nghĩ tính rằng: "Phải nên tùy chỗ đến tin là duyên của Ta vậy". Sư bèn nói với chủ thuyền: "Chở tôi ở cuối đuôi thuyền được không?" Chư thuyền cười hỏi: "Sư muốn đi đâu, Tôi sẽ đưa thuyền vào cặp bến?" nhân đó, Sư nói: "Tôi chợt muốn đi đến kinh đô". Chư thuyền bèn chở Sư xoay chuyển đến hướng Bắc. Sư vào bái yết Thiền sư Liên-Đại giác ở Tịnh nhân. Thiền sư bảo Sư làm Thủ chúng ở dưới tòa. Đến lúc Thiền sư Liên trở về đất Ngô, đại chúng thỉnh mời Sư kế thừa pháp tịch đó.

Ngày khai đường giảng pháp, vua Anh Tông (Triệu Thự 1064-1068) sai Trung sứ giáng hương dâng tặng Sư áo phương bào sắc tía và phong tặng sư hiệu là "Giác Chiếu", khắp chốn kinh Sư đô hội tốt xấu muôn mối. Các hàng quý nhân đạt quan đến đầy cửa, mà Sư một mực trông nhìn bình đẳng đó, muôn miệng một ngôn từ đều lấy làm bản sắc đạo nhận, không ai chẳng thêm kính trọng. Trải qua thời gian, đến mùa xuân năm Nguyên Phong thứ ba (1080) thời Bắc Tống, từ Thánh Quang Hiến qua đời, vua Thần Tông (Triệu Húc 1068-1086) ban sắc chiếu mời sư đến cung Khánh thọ giảng pháp. Có vị Tăng hỏi: "Từ Thánh vân du cảnh tiên, định về xứ nào?" Sư đáp: "Nước chảy nguyên tại biển, trăng rơi chẳng lìa trời". Vua rất vui lòng, ban chiếu thiết đặt tòa cao lớn cho mọi người đến hỏi đáp, mọi người chung quanh trên dưới đều cho đó là việc chưa từng có. Tiếng hoan hô hưởng ứng vang động cả cung điện, ban tặng mọi thứ rất nồng hậu. Lại nói đến sự chấp chỉnh, Sư vốn là người rất có đức hạnh, nên chọn lấy một mỹ hiệu để tấu trình, vua mới phong tặng Sư hiệu là "Tịnh Chiếu Thiền sư". Tại Kinh đô tạo dựng các ngôi thiền sát, mở mang chùa Tướng quốc làm thành hai ngôi Thiền tự là Tuệ lâm và Trí hải, đặt cử chư Tăng làm chủ coi sóc đó hẳn là do Sư chọn lựa. Các bậc Lão túc đều tùy phong hóa mà theo, từ nước Cao Ly có sai phái ba vị Tăng đến nơi chỗ Sư thọ học, Sư tùy thuận căn cơ khai mở dẫn dắt đều được khế hợp với Tông chỉ. Sư làm người có cung cách tự đắc, lẳng lặng tợ như chẳng thể nói, tánh từ hòa an lạc rất thuần cẩn, phụng dưỡng tự thân rất kiệm ước, mặc một chiếc quần vải bố suốt hai mươi năm chẳng đổi thay, không ham thích tốt đẹp gì, thường tẩy rửa vách tường phía Tây của phương trượng, viết văn và mặc trúc có thể quét chùi vào đó. Sư bảo mọi người rằng: "Tôi muốn khiến những người ngang qua đây trông thấy đó mà tâm tự trong mát, quân cái tán này là tôi nói pháp vậy". Sư ở góc phía Tây Đô thành có hơn bốn mươi vị Nạp tử, sống tự nhiên chẳng ra khỏi phòng nhà, suốt ba mươi năm mà chỉ như một ngày.

Đến ngày 17 tháng 08 năm Nguyên Hựu thứ tám (1093) thời Bắc Tống, bỗng nhiên Sư bảo cùng đệ tử là Sa-môn Tịnh Viên rằng: "Ba ngày nữa, Tôi sẽ đi vậy". Đến kỳ hạn, tắm rửa thay y phục xong, sư nói bài kệ tụng rồi, ngồi kiết già mà thị tịch, hưởng thọ tám mươi tuổi sáu mươi mốt hạ lạp.

Hoàng Lỗ Trực từng đề nơi tôn tượng Sư rằng: "Hổ già không răng,

Rồng nằm chẳng ngâm

Ngàn rừng trăng tối,

Lục hợp mây che

Núi xa làm mây hồng má hạnh Lấy chồng cùng gió xuân chẳng dùng mai mối

Lão bà ba năm, ngày niên thiếu Cũng hiểu Đông bôi Tây thoa lại".

Có thể nghĩ tưởng thấy được điểm cao cùng của Sư vậy.

Mới đầu xuất hiện giữa đời hoằng hóa, có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai, Tông phong ấy ai người nối dõi?" Sư đáp: "Có tiền sai sử tiền, không tiến giữ phận nghèo". Lại hỏi: "Ai là đích tử của trăng hoa, cháu con của Lâm Tế?" Sư bảo: "Tha cho ngươi ba mươi gậy". Lại hỏi: "Thế nào là cảnh tịnh nhân?" Sư đáp: "Văn bia điện Pháp quảng, đích thân vua Nhân Tông ghi tả". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Sáu đời Tổ sư khắp thiên hạ đều nghe". Lại hỏi: " Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Ngoài khói lửa của muôn nhà, một chiếc gối giữa khoảng nước mây". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Buổi sáng bôi thoa hương, buổi chiều kéo lửa". Lại hỏi: "Thế nào là Quán Âm diệu trí lực?" Sư đáp: "Hà nam chó sủa, Hà bắc lừa kêu". Lại hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Gậy chống vác ngang chẳng đến vai". Vị Tăng ấy nói: "Cảm tạ Sư giải đáp câu thoại!" Sư bảo: "Lầm nhận sao định bàn". Và Sư mới bảo: "Một hỏi một đáp, không có lúc hết, người xưa gọi là biển vô tận tạng, cũng gọi là cửa phương tiện. Ở trước mặt nạp Tăng mà xa vời vậy. Cớ sao quyền bính tại trong tay, phóng đoạt tự do, ngồi đoán Tỳ-lô, vách đứng cao ngàn nhận. Lầu các Thiện tài, ai chịu nhàn du, hộp ngọc Hoa tạng đâu thể xem lấy. Trượng phu mạnh nhanh vốn hợp như vậy, qua sàn nghĩ lường sẽ thành vầng trăng thứ hai. Trừ ném cơ mất khí đây dừng ở am tranh, xuống đến bằng cao cong thành muôn vật, khắp cùng không ngưng trệ, xúc xứ đều thông, giả sử chẳng hết mảy may tự chuốc lấy lỗi lầm ấy, đàm nói như vậy tức cười giết nạp Tăng. Hãy nói ai hiểu được người cười?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Khán lấy". Rồi Sư bèn xuống khỏi tòa.

Lại nữa, Sư chỉ dạy đại chúng nắm cây gậy mà bảo là: "Cây gậy gỗ lang lật khéo hay đàm nói Phật tổ, người điếc đã được nghe, người câm cũng hiểu lời. Chỉ vào đá trắng làm ngọc, gõ vào vàng ròng làm đất. Tiên gì hiểu đi. Nhà khác chưa cùng hứa. Chẳng cùng hứa chớ khinh suất, đường thông phía Nam đánh trống, đường thông phía Bắc múa vũ".

Xong, Sư gõ xuống một cái.

2. Thiền sư Nhân Nhạc ở Hưng hóa.

Thiền sư Nhân Nhạc ở Hưng hóa tại Lô châu, vốn người xứ Nam tuyền. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật pháp?" Sư đáp: "Lâm Tế hỏi Hoàng Nghiệt". Lại hỏi: "Người học không hiểu?" Sư đáp: "Ba lần lại ăn gậy". Lại hỏi: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng?" Sư đáp: "Cây gậy chống". Lại hỏi: "Một đại tạng kinh đều là danh ngôn, lìa danh ngôn ấy thì chỉ dạy như thế nào?" Sư đáp: "Ngựa mắc bệnh hủi mẫu liễu khô". Lại hỏi: "Người học không hiểu?" Sư đáp: "Lạc đà thích ăn muối". Lại hỏi: "Rốt cùng như thế nào?" Sư đáp: "Roi sắt chỉ mời ngựa không hý".

3. Thiền sư Vị Phương ở Ngọc tuyền.

Thiền sư Vị Phương ở Ngọc tuyền tại Kinh môn quân, vốn người đất Thục. Có vị Tăng hỏi: "Từ xưa đến nay chư vị Thánh giả dùng pháp gì để giáo hóa người?" Sư bèn nắm chiếc gậy lên. Lại hỏi: "Người học không biết". Sư bảo: "Hai tay phân giao". Vị Tăng ấy phỏng bàn nghị, Sư bèn đánh.

4. Thiền sư Tuệ Sâm ở Định lâm.

Thiền sư Tuệ Sâm ở Định lâm tại Túc châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Chỉ tại trước mắt". Lại hỏi: "Vì sao không thấy?" Sư đáp:

"Mù".

5. Thiền sư Nhã châu ở Bản giác.

Thiền sư Nhã châu ở Bản giác tại Tú châu, vốn người dòng họ Trác ở Phước châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đưa nắm tay lên. Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư bảo: "Đầu nắm tay cũng không biết". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nói Phật nói Tổ chôn vùi Tông thừa, nêu cổ giảng kim nhận chìm nạp tử. Đánh mở đường lên ai dám đương đầu, đứng ngang dưới gió chẳng nhọc rút ra. Nếu không hoa câu làm sao biện rõ cân lượng? Nếu cũng biện rõ được thì núi Tu-di chỉ nặng nửa Thù, nếu như biện không rõ được thì bẻ gãy cán cân đưa đến nước Nhật Bản cho mọi người cùng xem.

6. Thiền sư Phổ Tư ở Hoa nghiêm.

Thiền sư Phổ Tư ở Hoa nghiêm tại Đông kinh, vốn người danh hiệu Tạ ở Kiến dương thuộc Kiến châu. Từ thuở nhỏ bé, Sư tập học Nho nghiệp, thi cử đỗ đạt Tiến sĩ rất có tiếng tăm. Về sau, nhân đọc xem kinh Phật đến câu "Thức tự tâm nguyên", căn tánh xưa trước tự nhiên bộc phát, Sư bèn đến nương tựa Sa-môn Khả Sùng ở Luật viện tại phía Tây chùa Thái bình hưng quốc xin xuất gia, và được độ thọ giới Cụ túc. Sư du phương phỏng tham, đến nơi pháp tịch Thiền sư Viên Giám ở Phù sơn; Long thư, vào thất thưa thỉnh tâm thần dung hội. Mọi người ở Long thư thỉnh mời Sư đến ở hai chùa Cam lồ và Thái bình. Tiếng tăm đạo hành Ngài lại lan tỏa khắp xa. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là khách trong khách?" Sư đáp: "Khách đường như trời xa". Lại hỏi: "Thế nào là chủ trong khách?" Sư đáp: "Hầu cửa tợ biển sâu". Lại hỏi: "Thế nào là chủ trong chủ?" Sư đáp: "Thiên tử ban sắc trong nước nhà". Lại hỏi: "Thế nào là khách trong chủ?" Sư đáp: "Tướng quân ra lệnh ngoài biên ải". Rồi Sư tiếp bảo: "Trong khách hỏi chủ càng kéo có bén nhọn, trong chủ hối khách đồng sinh đồng tử, trong chủ biện chủ uống khí nuốt lời, trong khách tìm khách mây trắng muôn dặm. Nên trong câu không ý, ý tại trong câu. Từ đó rõ được, một đôi nhạn lẻ phẩy đất bay cao, từ đó chưa rõ. Một đôi uyên ương riêng đứng bên khe. Biết âm thiền khách, đồng cùng chứng minh, ảnh hưởng tuy khác dòng nhưng cần thiết phải tử tế". Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Như là Đào Uyên Minh cuộn mày tức trở về".

Về sau, Sư trở về tại Tịnh nhân, đức hạnh vang vọng mọi người. Càng kính trọng. Năm Nguyên Phong thứ năm (1082) thời Bắc Tống, mọi người ở Kinh đô thỉnh mời Sư đến ở Hoa nghiêm, lại càng chấn phát Tông phong, trong ngoài kinh thành tự nhiên đều quy hướng. Ngày mồng 10 tháng 04 năm Nguyên Phong thứ tám (1085) thời Bắc Tống, vua Thần Tông (Triệu Húc) ban sắc chiếu mời Sư vào trong cung cấm giảng pháp. Sau khi trở về, Sư không bệnh tật gì đi đứng vẫn như thường. Qua ngày mười bốn, bỗng nhiên Sư giảng trống, lên tòa giả biệt đại chúng mà thị tịch.

Sư là người tú kiệt xuất, xướng tam huyền cửu đái dưới Lâm Tế, tạo Ngũ vị Thập huyền ở Tào động, đều khéo được yếu chỉ của gia phong ấy. Sư sở học đã thông bác nên những nơi ghé đến chỉ trông mong biết được khuôn phép mà thôi. Mới đầu lúc đắc pháp tuổi Sư còn trẻ nhỏ, lâu ngày làm thị giả hầu Thiền sư Viên giám ở Phù sơn. Bấy giờ, Thiền sư ở Hoa nghiêm đã có phần tỉnh ngộ tỏ phát, mà Thiền sư Viên giám biết đó chưa thấu triệt hẳn mới bảo sư khơi dậy đó. Sư vâng theo sự chỉ giáo ấy dùng phương tiện khải phát, Thiền sư bèn khế chứng, về sau nối tiếp Tông phong dưới Động sơn. Nói ở truyện Thiền sư.

7. Thiền sư Duy Thục ở ẩn.

Thiền sư Duy Thục ở viện ẩn tại Nam khương quân. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Đạo?" Sư đáp: "Đường vẹo hẻm hẹp". Lại hỏi: "Thế nào là người trong đạo?" Sư đáp: "Trăm nghề đều biết hết".

8. Thiền sư Phụng Năng ở Hành nhạc.

Thiền sư Phụng Năng ở chùa Hành nhạc tại Đàm châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tông phong vừa mới cử, muôn dặm mây tan, pháp lệnh nếu ban hành ngàn núi toàn sắc lạnh. Trên đảnh Tu-di sóng bạc ngập trời, song trong biển lớn, bụi hồng đầy đất. Nên nghĩ Hoàng mai ngày xưa, thiếu thất ngày nay, chẳng thể lùi mình nhường người, bèn khiến giả gạo để đáp chí khí, cắt cánh tay để đáp tâm tư. Sau đó trong Hành nhạc, một thùng cơm gạo lật ruộng núi ngon không canh muối, khổ vui cùng ở tùy cao đến thấp, vả lại chẳng là đầu Nam mua quý, đầu Bắc bán hèn, dạy ngay Văn Thù cúi đầu, Ca-diếp cuộn mày, Long thọ Mã Minh nuốt tiếng uống hơi, Mục-kiền-liên Xá-lợi-phất lại chẳng thể làm. Vì sao vậy? Hãy quán sát kỹ pháp của Pháp vương, Pháp của Pháp vương như vậy".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ CHIÊU Ở BẢO ỨNG.

1. Thiền sư Phương Duyệt ở Lang da.

Thiền sư Phương Duyệt ở Lang da tại Trừ châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tạo vật không tâm sinh vật mà vật vật tự thành, mưa móc chẳng ý thấm vật mà mầm linh tự nẩy. Do đó thuốc tể chẳng ăn mà bệnh tự mất, thầy giỏi chẳng thân gần mà tâm tự sáng. Nêu biết Diệu tuệ Linh quang chẳng từ duyên mà được. Đến trong đó mới hứa cho các ông tiến bước. Lang da đây cùng các ông riêng làm cái tương kiến. Có vậy chăng? Nếu không thì chẳng thể nhàm chán tốt làm xấu".

2. Thiền sư Hy Ẩn ở Hưng dương.

Thiền sư Hy Ẩn ở Hưng dương tại Dĩnh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu núi cao buông tay?" Sư đáp: "Trăng sáng chiếu cốc sâu tối". Lại hỏi: "Thế nào là câu chết đi sống lại?" Sư đáp: "Mây trắng mọc giữa trời". Lại hỏi: "Thế nào là Tiều phu ra rừng đồi mới nói ca xuân sắc?' Sư đáp: "Là người đắc đạo". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Rõ thấy chẳng thấy, thấy rõ chưa thấy. Người đi trên đường, chim ngủ giữa rừng. Tháp trong trăng cao mười hai tầng. Sao ngoài trời giẫm năm trăm diễu. Cần hiểu ư? Tay nắm minh phù ban đêm, cái nào biết trời sáng? Tham".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TẤN Ở THẠCH MÔN.

1. Thiền sư Trí Tài ở Thụy nham.

Thiền sư Trí Tài ở Thụy nham tại Minh châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu cắt dứt các dòng?" Sư đáp: "Tốt". Lại hỏi: "Thế nào là theo gợn đuổi sóng?" Sư đáp: "Theo". Lại hỏi: "Thế nào là câu hộp đậy đất trời?' Sư đáp: "Hợp". Lại hỏi: "Ba câu đã được Sư chỉ bày, vậy thế nào là biện rành xưa nay?" Sư bảo: "Về sau không được nêu bày". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Trời bình đẳng nên thường che, đất bình đẳng nên thường chở. Nhật nguyệt bình đẳng nên quanh năm thường tỏa sáng, Niết-bàn bình đẳng nên Thánh phàm không hai, tâm người bình đẳng nên cao thấp không tranh". Và Sư nắm gậy chống xuống một cái, tiếp bảo: "Chư vị Thiền giả, cây gậy này họa đêm ngày vì các người nói pháp môn bình đẳng. Có nghe chăng? Nếu nghe được thì dám bảo hộ việc hành cước các người hoàn tất, nếu nói không nghe cũng hứa cho các người mắt chánh cửa đảnh. Cớ sao? Vì pháp bình đẳng, không có cao thấp, gọi đó là Anậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề". Và ngừng giây lát, Sư tiếp cười và bảo: "Về sau, văn còn dài".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DĨNH Ở KIM SƠN.

1. Thiền sư Kế Chân ở Quảng giáo.

Thiền sư Văn Giám-Kế Chân ở Quảng giáo tại Tuyên châu. Mới đầu đến dự tham ở Thiền sư Đạt Quán, bèn hỏi: "Tôi ngoài giảng thuyết ra còn nghiên tầm giáo điển quảng đại của chư Phật giảng nói, vậy thế nào là thấy được biên tế?" Thiền sư Đạt Quán bảo: "Bình thường nương tựa gì để giảng thuyết?" Sư đáp: "Y cứ giáo điển để giải nghĩa". Thiền sư Đạt Quán bảo: "Y cứ giáo điển nghĩa là oan chư Phật ba đời". Sư nói: "Lìa giáo điển một chữ tức đồng các ma nói". Thiền sư Đạt Quán bảo: "Không hỏi ông về giáo nghĩa, vậy người nào giải nói?" Sư đáp: "Chỉ thấy nói năng động tỉnh, không thể thấy được hình tướng ấy". Thiền sư Đạt Quán bảo: "Chỉ không hình tướng ấy bèn là quảng đại, nếu ngộ được tâm đây tức thấy được biên tế". Từ đó, Sư bèn có sự tỉnh ngộ. Sư ở tại Quảng giáo, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phàm muốn làm Tông sư phải thấu rõ câu tối sáng, dán mắt trong nửa đêm, hỗn thành trải đất không. Thích-ca Văn lắm sư, lúc sinh gắng trông nhìn bốn hướng, chỉ vào ngực riêng tự xưng tôn quý, lại đi khắp các phương bảy bước. Sáng lại ai biết, tối khiến người nào ngộ? Từ đó sau trăm ngàn năm, khuất chỉ số hà sa, một người mù dẫn cả chúng mù, mọi người mù cùng nhau nâng đỡ, ngày khác thấy Lão Diêm, gắng mắt không tướng thăm, lúc ấy nghỉ kêu đạo, vạc sôi không nơi lạnh, nghĩ ruột trống cao tâm, chỉ mâm cao chuyển đưa, gởi lời người đời sau, chớ bị từ lục lầm".

2. Thiền sư Sùng Trân ở Phổ từ.

Thiền sư Sùng Trân ở viện Phổ từ tại Nhuận châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh Phổ từ?" Sư đáp: "Ra cửa bèn thấy núi Hạc lâm". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Vào cửa tức thấy Trưởng lão Trân".

3. Thiền sư Trọng Hòa ở Đoan trúc.

Thiền sư Trọng Hòa ở Đoan trúc tại Thái bình châu. Có vị Tăng hỏi: "Người được tòa đắp y đều giao-hết-Còn việc hướng thượng Tông thừa thì thế nào?" Sư đáp: "Chỉ biết băng là nước". Lại hỏi: "Vậy còn có việc gì không?" Sư bảo: "Thôi hỏi nước thành băng". Lại nói: "Lộng trào phải là người lộng trào". Sư bảo: "Vị Tăng ấy từ Chế trung lại".

4. Thiền sư Viên Thông ở Kim sơn.

Thiền sư Viên Thông-Hoài Hiền ở Kim sơn tại Nhuận châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xiển dương tông chỉ người nào đắc pháp?" Sư nắm dựng cây phất trần dậy. Vị Tăng ấy nói: "Bình sắt đầu thành từng ấn chứng, khe biếc bờ sườn đèn Tổ soi. Sư liền phẩy một cái và bảo: "Nghe việc chẳng thật kêu chuông làm bát".

5. Thiền sư Hiển Trọng ở Thạch Phật.

Thiền sư Hiển Trọng-Tổ Ấn ở chùa Thạch Phật tại Việt châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Bất động tôn?" Sư đáp: "Lò lửa trên đầu khỉ". Lại hỏi: "Thế nào là trăm ngàn ức hóa thân?" Sư đáp: "Thêm hương thay nước châm đèn quét đất". Lại hỏi: "Thế nào là Tỳ-lô Sư pháp thân chủ?" Sư đáp: "Cột trụ buộc ngựa". Lại hỏi: "Có gì giao thiệp?" Sư đáp: "Buộc giết cái tài giỏi ấy". Lại hỏi: "Gặp giết Phật Tổ mới là Tác gia. Vậy thế nào là kiếm giết Phật Tổ?" Sư đáp: "Chẳng chém kẻ tài giỏi ấy chết". Lại hỏi: "Thế nào là kiếm của Hòa thượng?" Sư đáp: "Khiến chẳng thực hành lại". Lại hỏi: "Thế nào là tướng sinh?" Sư đáp: "Núi sông đất liền". Lại hỏi: "Thế nào là tưởng sinh?" Sư đáp: "Thỏ con ngóng trông trăng". Lại hỏi: "Thế nào là Lưu chú sinh?" Sư đáp: "Không gián ". Lại hỏi: "Thế nào là sắc không?" Sư đáp: "Bình phong năm sắc thái". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ôi! Ôi! Ôi!

Cá rồng đáy biển đều khô-hết-Ễnh ương ba chân bay lên trời. Quạ rùa thoát xác sống trong lửa". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Thời điểm chưa đến, trắng đen chưa phân. Đến thời chẳng điểm hòa bùn hợp nước. Lộ Trụ nhảy nhót vào trong lồng đèn tức tạm theo kẻ khác. Lông mày các ngươi nhân gì mà kéo xuống dưới cẳng chân, ngay nhiều khi ấy tức rõ được, cũng là con khỉ đội đeo khăn ở đó tức chưa rõ, nào khác gì nhện càng mang giày. Tuy là như vậy, nhưng người cười ta thì nhiều, còn người mỉm cười ta thì ít".

6. Thiền sư Chân Tịnh ở Tịnh trụ.

Thiền sư Chân Tịnh-Cư Thuyết ở viện Tịnh trụ tại Hàng châu. Sư đến dự thâm ở Thiền sư Đạt Quán, bèn hỏi: "Với tôi thì kinh luận có rõ biết phần nào, riêng đối với Thiền thì không tin, xin Sư giải quyết nỗi nghi?" Thiền sư Đạt Quán bảo: "Đã không tin Thiền thì đâu có thể rõ kinh. Vì Thiền là lưới giềng của kinh, kinh là giềng lưới của Thiền, nâng giềng lưới chánh giềng lưới, rõ thiền tức thấy kinh". Sư nói: "Xin vì tôi mà giảng nói Thiền xem". Thiền sư Đạt Quán bảo: "Phần sau văn dài". Sư nói: "Như kinh gì thì cùng với Thiền đồng một thể?" Thiền sư Đạt Quán đáp: "Phật và Tổ chẳng hai tâm, như tay xoa nắm tay, nắm tay cầm lấy tay". Nhân đó mà Sư có chút tỉnh ngộ, mới làm thành kệ tụng rằng:

"Hơn hai mươi năm dụng ý sai

Mấy phen từng nắm tâm tro đây Mà nay vất vả gặp tri kỷ

Lý Bạch xưa nay là Lý Tài".

7. Thiền sư Củng Thần ở Tây sư.

Thiền sư Củng Thần ở núi Tây sư tại An cát châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Linh vân hoa đốm trong mắt che mờ, huyền sa kiểng tay trên mình vướng vết, chẳng như tạm qua thời ấy, tự nhiên thân tâm An lạc. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Lý nhân sự mà có, tâm đuổi theo cảnh sinh, sự cảnh đều mất ngàn núi muôn sông. Làm sao sống được vừa tốt?" Ngừng giây lát, Sư lại bảo: "Hãy chớ mổ xẻ thịt thành vết sẹo". Sư có bộ "Tổ Nguyên Thông Yếu" ba mươi quyển, lưu hành ở đời.

8. Thiền sư Thiện Đoan ở Bát-nhã.

Thiền sư Thiện Đoan ở chùa Bát-nhã tại Côn sơn thuộc Tô châu.

Có vị Tăng hỏi: "Có sinh có diệt đều là thường nghi. Vậy lúc không sinh không diệt thì như thế nào?" Sư đáp: "Côn lôn mang giày đứng giữa không trung". Lại hỏi: "Chẳng tiện là nơi làm người không?" Sư đáp: "Thạch nữ cài trâm hoa ngủ trong lửa". Lại nói: "Đại chúng chứng minh". Sư bảo: "Lại là trâu bùn đánh đấu vào biển".

9. Cư sĩ Tiết sứ Lý Đoan Nguyện.

Cư sĩ Tiết sứ Lý Đoan Nguyện, thuở nhỏ ở tại Quán xá thường xem đọc sách Thiền, đến lúc trưởng thành tuy cưới vợ ra làm quan nhưng Cư sĩ dốc chí với Tổ đạo, bèn xây dựng phòng thất riêng sau vườn thuộc loại như Lan Nhã, thỉnh mời Thiền sư Đạt Quán đến ở đó, sớm tối tham vấn thưa hỏi quên cả ăn ngủ. Một ngày nọ Thiền sư Đạt Quán trông thấy Cư sĩ mà nói là: "Nếu chẳng phải do sứ thị hiện thì đâu được như thế ư? Sao không có cái nơi vào?" Cư sĩ nói: "Thiên đường, địa ngục rốt cùng là có hay không? Xin Sư chỉ bày". Thiền sư Đạt Quán đáp: "Chư Phật nhìn giữa không trung nói người có mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Thái úy có tầm trong ấy không? Tay nhóm bắt trăng nước, đủ cười trước mắt thấy lao ngục mà chẳng lánh. Nghe thiên đường ở ngoài tâm mà muốn sinh đến, rất là không biết mừng sợ tại tâm thiện ác thành cảnh. Thái úy chỉ cần chỉ rõ được tự tâm thì tự nhiên không lầm hoặc". Cư sĩ lại hỏi: "Tâm làm sao rõ?" Thiền sư Đạt Quán đáp: "Thiện ác đều chớ nghĩ lường". Cư sĩ lại hỏi: "Sau khi không nghĩ lường, tâm quy hướng về đâu?" Thiền sư Đạt Quán đáp: "Tạm xin mời Thái úy trở về lại nhà". Cư sĩ lại hỏi: "Chỉ như người sau khi chết, tâm quy hướng về đâu?' Thiền sư Đạt Quán bảo: "Sinh tử đâu đến?" Cư sĩ bèn không chỉ được. Thiền sư Đạt Quán đứng dậy đánh vào ngực mình và bảo: "Chỉ tại trong này, lại nghĩ lường cái gì?" Cư sĩ nói: "Con đã có hiểu được". Thiền sư Đạt Quán hỏi: "Làm sao phát sinh hiểu?' Cư sĩ đáp: "Chỉ biết đường tham, chẳng hay lối sai". Thiền sư Đạt Quán ấn mở bảo: "Trăm năm một giấc mộng, sáng nay mới tỉnh ngộ". Thế rồi, Cư sĩ nói bài kệ là:

"Ba mươi tám năm

Mịt mờ không biết

Đến lúc có biết

Nào khác không biết

Mênh mông sông biện

Ẩn ẩn bờ tùy

Sư trở về vậy

Tên sóng rong Đông".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGUYỆT Ở ĐỘNG ĐÌNH.

1. Thiền sư Lượng ở Phước tiến.

Thiền sư Lượng ở Phước tiến tại Tô châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là chẳng nương gá ngôn thuyên, xin Sư chỉ dạy?" Sư đáp: "Đại chúng đều thấy ông chăng?' Lại hỏi: "Chẳng chỉ ấy bèn là phải không?" Sư đáp: "Hiếm gặp khách xỏ xuyên tai".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DĨ Ở TÍCH TRƯỢNG.

1. Thiền sư Bảo Hiên ở Hoàng nham.

Thiền sư Bảo Hiên ở Hoàng nham tại Thai châu. Có vị Tăng hỏi: "Chẳng muốn không nói, lúc lược nhờ thi thiết thì thế nào?" Sư đáp: "Biết mà cố phạm". Vị Tăng ấy đảnh lễ, Sư bèn đánh".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHẠC Ở LONG HOA.

1. Thiền sư Tịnh Đoan ở Tây dư.

Thiền sư Tịnh Đoan-Sư Tử ở Tây dư tại An cát châu, vốn người dòng họ Khâu ở Bản quận. Mới đầu Sư thấy múa Sư tử mà phát minh tâm yếu, sang bái kiến Thiền sư Nhạc ở Long hoa mà được ấn khả, bèn trở về làng gom nhặt vải lụa làm da áo sư tử và thường luôn đắp mặc, nhân đó mà xưng gọi "Đoan Sư Tử". Thừa tướng Chương Công mến mộ đạo hạnh của Sư đích thân đến thỉnh mời Sư khai mở giảng đường có vị Tăng quan tuyên sớ, đến đẩy ngược xoay đầu nhảy nhót vụt chẳng gá bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa bảy quyển, có ngư phụ chưa từng tụng một tiếng, trước nghe Sư ở đó, bèn lên tòa, niêm hương chúc Thánh thọ xong mới cất tiếng ngâm rằng:

"Vốn là một khách chài lưới Tiêu Tương Tự Đông tự Tây tự Nam Bắc".

Đại chúng tạp nhiên đều khen hay giỏi. Sư trông nhìn đó, cười mà bảo: "Quán xét kỹ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương như vậy". Bèn xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Tháng hai có hai Thiền ông, có gì gọi là gió xuân chạm mắt trăm hoa nở, công tử vương tên ngày ngày vui vẻ say, chỉ có trước điện trần triều cối, chẳng vào lúc ý người. Nhà thiền để lại chỉ cái là chẳng nghĩ toan, thản nhiên ăn xong một bát trà, thả mình trên giường duỗi chân ngủ". Sư đến hoa đình, đại chúng cầu thỉnh. Sư lên giảng đường bảo: "Sư tử Linh sơn lúc gầm rống, Phật pháp không thể thương lường, chẳng như đánh cái thìa đẩu". Rồi Sư bèn xuống khỏi tòa. Có người hỏi: "Linh dương lúc chưa treo sừng thì thế nào?" Sư đáp: "Sợ". Lại hỏi: "Đã là Thiện tri thức nhân gì mà sợ?" Sư đáp: "Sơn Tăng chẳng từng thấy cái gì khác biệt súc sinh".

Quyển 9 (Hết)

QUYỂN 10

MỤC LỤC

Đời thứ mười hai, dưới đời Thiền sư Đại Giám.

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư ở Đầu tử, có chín vị:

1. Thiền sư Đạo Giai ở Phù dung

2. Thiền sư Báo Ân ở Đại hồng

3. Thiền sư Vân ở Động sơn

4. Thiền sư Văn ở Phước ứng

5. Thiền sư Đàm Quảng ở Long bàng (năm vị trên hiện có ghi lục)

6. Thiền sư Tường ở Quang hóa

7. Thiền sư Tiêu ở Phổ hiền

8. Thiền sư Thiện ở Diên hồng

9. Thị giả Quả (bốn vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hạo ở Ngọc tuyền, có hai vị:

1. Thiền sư Văn Khánh ở Lâm khê (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Hy Triệu ở Bắc thiền (hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuân ở Giáp sơn, có một vị:

1. Thiền sư Tri tín ở Phước xướng (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nguyên ở Phật Ấn, có hai mươi vị:

1. Thiền sư Tịnh Ngộ ở Khánh thiện

2. Thiền sư Tuệ Thái ở Thiện quyền

3. Thiền sư Đức Cơ ở Sùng phước

4. Thiền sư Hoài Cát ở Bảo lâm

5. Thiền sư Tông Tú ở Tư phước

6. Thiền sư Huệ Không ở Thúy nham

7. Thiền sư Đức Phổ ở Mật nham

8. Thiền sư Trọng Hòa ở Vân cư

9. Thiền sư Ấu Tông ở Đồng an

10. Thiền sư Cư Nhạc ở Long hưng

11. Thiền sư Tử Chương ở Vạn sam

12. Thiền sư Đức Diên ở Nga hồ (mười hai vị hiện có ghi lục)

13. Thiền sư Đạo Dụng ở Văn Thù

14. Thiền sư Tổ Liêm ở Quy phong

15. Thiền sư Dĩ Thâu ở An quốc

16. Thiền sư Viên Đồng ở Đông thiền

17. Thiền sư Huệ Kha ở Bắc tháp

18. Thiền sư Khai ở Hương nghiêm

19. Thiền sư Tông ở Đại biệt

20. Thiền sư Tư Văn ở Vân cư (tám vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Yếu ở Quảng nhân, có hai vị:

1. Thiền sư Như Xán ở Diệu phong (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Hộp Tri ở Giám sơn (hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Dật ở Trí hải, có mười một vị:

1. Thiền sư Chí Nhân ở Hoàng nghiệt

2. Thiền sư Đức Long ở Đại trung

3. Thiền sư Trọng Dự ở Bạch lộc

4. Cư sĩ Thiêm phán Lưu Kinh Thần (bốn vị trên hiện có ghi lục)

5. Thiền sư Trọng Ngôn ở Tiến phước

6. Thiền sư Phóng ở Bạch vân

7. Thiền sư Trí Chánh ở Hưng phước

8. Thiền sư Nghiêm ở Tiến phước

9. Thiền sư Thế Như ở Phụng sơn

10. Thiền sư Bật ở Song phong

11. Thiền sư Giác ở U nhạc (bảy vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Long ở Chi đề, có ba vị:

1. Thiền sư Huyền Bản ở Linh ẩn (hiện có ghi lục)

2. Thiền sư Văn Hàn ở Chi đề

3. Thiền sư Huyền Thuận ở Linh ẩn (hai vị hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Duy Tố ở Tịnh độ, có một vị:

1. Thiền sư Duy Chính ở Tịnh độ (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thù ở Bảo lâm, có một vị:

1. Thiền sư Dụng Minh ở Bảo lâm (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tông ở Động sơn, có một vị:

1. Thiền sư Hiểu Tuyên ở Định phong (hiện có ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Ngộ ở Pháp xướng, có ba vị:

1. Thiền sư Mật ở Ngũ phong

2. Sơn chủ Đại Hòa

3. Hòa thượng Tuệ Nhật (ba vị hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tiên ở Hưng hoa, có ba vị:

1. Thiền sư Dĩ Vị ở Nam đài

2. Thiền sư Thường Tuyển ở Hoa dược

3. Thiền sư Phân ở Sùng thọ (ba vị hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Nột ở Viên thông, có ba vị:

1. Thiền sư Trí Dục ở Hưng quốc

2. Thiền sư Dật ở Tứ tổ

3. Thiền sư Văn Tiên ở Tam tổ (ba vị trên hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tiên ở Tịnh chúng, có một vị:

1. Thiền sư Thiện Trân ở Long phước (hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư An ở Thụy lộc, có hai vị:

1. Thiền sư Uẩn Nhân ở Thụy lộc

2. Thông Phán Diêu... (hai vị hiện không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thiêm ở Bát-nhã, có một vị:

1. Thiền sư Long Nhất ở Bát-nhã (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tiên ở Thụy lộc, có một vị:

1. Thiền sư Như Trú ở Thụy lộc (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Khẳng ở Trí giả, có một vị:

1. Thiền sư Thiệu Trung ở Trí giả (không ghi lục).

-Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Dĩ ở Song lâm, có một vị:

1. Thiền sư Lai ở Phong kiều (không ghi lục).

- Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hiển ở Trúc viên, có hai vị:

1. Thiền sư Ngưu Tâm-Đạo Chẩn ở Quảng an

2. Thiền sư Thủ Chân ở Hương thủy (hai vị không ghi lục)

- Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuân ở Đại thừa, có bốn vị:

1. Thiền sư Cảnh Tỉnh ở Long sơn

2. Thiền sư Sủng ở Song trì

3. Thiền sư Dụng Thuần ở Trúc lâm

4. Thiền sư Trí Thường ở Trí môn (bốn vị không ghi lục)

- Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Thư tòa ích, có một vị:

1. Trưng thư Lý Lâm Tông (hiện không ghi lục).

*****

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ Ở ĐẦU TỬ.

1. Thiền sư Đạo Giai ở Phù dung.

Thiền sư Đạo Giai ở Phù dung, vốn người dòng họ Thôi ở Nghi thủy, Nghi châu Sư là người ngang cứng, từ thuở thiếu thời đã bỏ ăn học Đạo, ẩn dật trong Dương sơn, sau Vân du đến Kinh đô ghi danh ở chùa Thuật đài, thí khảo sở học, bèn được độ xuất gia thọ giới Cụ túc, đến bái yết Thiền sư ở Hoa nghiêm, đến Hải hội ở Hoài sơn thưa hỏi: "Câu lời Phật Tổ như ở nhà thường uống trà ăn cơm, ngoài điều ấy ra còn có câu lời làm người hay không?" Thiền sư đáp: "Ông nói trong nước nhà có sắc lệnh của Thiên tử, lại còn có nương gá Võ Thang, Nghiêu Thuấn nữa không?" Sư phỏng nghĩ muốn đáp đó. Thiền sư bèn nắm cây phất trần lay lay, bảo: "Ông phát ý sớm lại, có hai mươi cây vậy". Ngay lời nói đó, Sư bèn tỏ ngộ ý chỉ, bèn lễ bái mà đi. Thiền sư gọi "Hãy trở lại đây". Sư cũng chẳng trông nhìn lại. Thiền sư hỏi: "Ông đến nơi không nghi ngờ ư?" Sư đưa tay bít lỗ tai. Về sau, Sư trông coi công việc đại chúng ăn uống. Thiền sư hỏi: "Câu công việc nhà trù đáng rất khổ ư?" Sư đáp: "Không dám". Thiền sư hỏi: "Ông nấu cơm hay nấu cháo vậy?" Nhân công vo gạo nhóm lửa, hành giả nấu cháo nấu cơm". Lại hỏi: "Còn ông làm gì?" Sư đáp: "Xin Hòa thượng từ bi tạm cho nhàn nghĩ". Sư lại thường theo Thiền sư rảo bước quanh vườn. Thiền sư đưa cây gậy cho Sư và bảo: "Với lý hợp cùng ư?" Sư đáp: "Cùng Hòa thượng nâng giày nắm gậy chẳng là việc ngoài phận sự?" Thiền sư hỏi: "Có đồng đi ư?" Sư đáp: "Một người nào chẳng thọ giáo?" Thiền sư bèn dừng nghỉ. Đến chiều, Thiền sư bảo: "Từ sáng sớm đến đây nói câu thoại chưa xong". Sư thưa: "Lại xin nên xem". Thiền sư bảo: "Mèo sinh mặt nhật, chó sinh mặt nguyệt (buổi sáng giờ mão mặt nhật xuất hiện, buổi tối giờ tuất mặt nguyệt tỏ sáng)". Sư liền châm đèn mang đến. Thiền sư lại bảo: "Trên đến dưới đi đều là chẳng không vậy?" Sư đáp: "Tại chung quanh lý hợp như thế". Thiền sư bảo: "Tôi trai tớ gái con nhà ai ở trong phòng không trả lời?" Sư đáp: "Hòa thượng tuổi lớn, thiếu đó không thể được". Thiền sư lại hỏi: "Cùng gì ân cần?" Sư đáp: "Báo ân có phần".

Năm Nguyên Phong thứ năm (1081) thời Bắc Tống, theo hướng Bắc, Sư trở về lại Nghi châu, ở núi Mã yên, và bèn xuất hiện giữa đời giảng truyền giáo pháp. Mới đầu, Sư đến Tiên động thuộc Nghi châu. Về sau, Sư chuyển dời về Chiêu đề, Long môn thuộc Tây lạc, lại chuyển dời đến ở Đại dương thuộc Dĩnh châu, Đại hồng thuộc Tùy châu, đều là một thời Sư vang danh, các hàng công khanh khuyến thỉnh, phong hóa của động Thượng dần chấn phát khắp Tây bắc.

Đến năm Sùng Ninh thứ ba (1104) thời Bắc Tống, vua Hy Tông (Triệu Cát 1101-1126) có ban sắc chiếu thỉnh mời Sư đến ở thiền viện Tịnh nhân tại Đông kinh. Qua mùa Đông năm Đại Quán thứ nhất (1107) thời Bắc Tống, Sư lại chuyển dời đến ở Thiên ninh, vua sai Trung sứ cố giữ Sư lại không hứa thuận cho Sư chối từ. Sau đó bỗng nhiên khai phủ Lý Hiếu Thọ tấu trình là: "Sư là bậc Đạo hạnh ưu việt hơn cả ở chốn Tùng lâm, nên có khen thưởng để nêu bày biểu dương đó". Vua bèn ban tặng Sư y Tăng-già-lê sắc tía, và phong tặng Sư hiệu là "Định Chiếu Thiền sư". Sư đốt hương cảm tạ ân xong, liền dâng tấu văn biểu xin giả từ rằng: "Cúi nhờ Thánh từ đặc sai Chương Thiện các chỉ hầu đàm Trinh, ban tặng thần hiệu là Định Chiếu Thiền sư và Pháp y sắc tía, một bức văn điệp. Thần xin cảm đội ân ban xong, tức lúc đốt hương lên tòa ngưỡng chúc Thánh thọ xong, cúi nghĩ thần hạnh nghiệp thô sơ, đạo lực mai mỏng, thường phát thệ nguyện chẳng thọ nhận danh lợi, kiên giữ ý ấy đã được nhiều năm. Hằng mong cứ vậy truyền đạo đến tương lai, khiến người chuyên ý với Phật pháp. Nay tuy được đội ân khác quý, nếu toại nhục mạo thì thần tự trái với tâm nguyện vốn có, vậy lấy gì để dạy người? Đâu thể ngưỡng xứng ý Bệ hạ vì thế mà bảo thần trú trì. Với những ân điệp trước, không dám mong cầu thọ nhận. Cúi mong Thánh từ soi xét nỗi lòng bé bỏng của thần, không dám trau chuốc ngôn từ. Bệ hạ đặc ân ban tặng càng nồng đượm thì thần chẳng có năm tháng hành đạo để dâng báo đáp ân trời!" Vua đọc xem đó rồi đem giao Lý Hiếu Thọ đích thân sang khuyến dụ Sư là ý triều đình muốn biểu dương thiện hạnh, mà Sư vẫn xác quyết tự nhiên không đoái hoài, Lý Hiếu Thọ trở về tấu trình đầy đủ, vua phát giận thâu lấy giao cho Hữu Ty. Hữu Ty biết Sư là người trung thành mà vừa xúc phạm thiên oai, bèn hỏi Sư rằng: "Trưởng lão khô gầy buồn bã, phải chăng là đang cảm bệnh?" Sư đáp: "Thường ngày thì có bệnh, nhưng nay thật không bệnh". Hữu Ty bảo: "Nói có bệnh tức đối với luật pháp được miễn tội khiển trách". Sư đáp: "Đâu dám kiêu hãnh xưng bệnh mà mong cầu thoát khỏi tội khiển trách ư?" Hữu Ty thở dài. Từ đó, Sư nhận hình phạt mang vá cặp biên quản thúc tại Truy châu. Các hàng Đạo tục ở Đô thành trông thấy đều rơi lệ, mà Sư sắc mặt vẫn nhàn. Đến Truy châu, thuê mướn nhà để ở, các hàng học giả càng đến thân gần. Mùa Đông năm sau (1108), vua ban sắc lệnh phóng thả, khiến Sư tự tiện lập am ở trong hồ Phù dung, có cả vài trăm người vây quanh Sư nằm ngồi. Sư lo nghĩ đó là mối họa, mới quy định mỗi ngày mọi người chỉ ăn một bát cháo, những người không kham chịu nỗi dần dần bỏ đi, số còn lại khoảng trăm vị. Đến mùa Đông năm Chánh Hòa thứ bảy (1117) vua Huy Tông ban sắc tặng biển ngạch nơi am Sư ở đề hiệu là "Hoa Nghiêm Thiền Tự". Qua ngày 14 tháng 05 năm sau (1118), Sư không tật bịnh gì bỗng nhiên mà thị tịch. Trước lúc tịch Sư viết kệ tụng trao cho vị thị giả rằng:

"Ta tuổi bảy mươi sáu

Duyên đời nay đã đủ

Sống không ham thiên đường

Chết chẳng sợ địa ngục

Buông tay ngang mình ngoài ba cõi Nhảy bay mặc tình nào bó buộc".

Mới đầu, Sư ở tại Đại dương, Thiền sư ở Hoa nghiêm sai Thị giả Quả đem giày da và áo trực chuyết của Thiền sư Đại dương trao cho Sư, Sư lại đem trao cho Thiền sư Đạo Vi ở Động sơn, Thiền sư Đại Vi lui nghỉ ở Chế đông, thị tịch tại chùa nhỏ Song lâm. Nay lấy đem trở về lại núi Lộc môn, xây dựng ngôi các để tôn trí đó, gọi đó là "Tạng y".

Sư làm kệ tụng câu cú tinh thâm rất có chỉ pháp. Sư làm năm bài kệ tụng thuật về môn phong của mình.

Bài thứ nhất, tựa đề là "Khéo xướng chẳng dính lưỡi".

"Khắp nơi khắp chốn nói bàn cùng

Chẳng nhọc khảy tay Thiền tài tham Không sinh cũng hiểu thông tin tức Hoa mưa trước núi, chim chẳng ngâm".

Bài thứ hai, tựa đề là "Rắn chết kinh hãi ra ngoài cỏ".

"Nắng đốt gió thổi chôn trong cỏ

Động kia hơi độc lại trái sai

Đất tối như bảo mở cửa chết

Trường an như cũ chẳng ai hay".

Bài thứ ba, tựa đề là "Mở làm khô cốt ngâm".

"Sống được trong chết là phi thường

Kín dùng người khác riêng thọ trường Nửa đêm đầu lâu ngâm một khúc

Sông băng lửa dữ thành mát trong".

Bài thứ tư, tựa đề là "Cưa sắt với Tam đài".

"Chẳng là điệu cung thương

Ai người hòa một bài Bá Nha liệu ở đâu

Khúc đây xưa nay dài".

Bài thứ năm, tựa đề là "Chẳng hỏi xưa nay".

"Một pháp vốn không, muôn pháp không

Trong đây ai hứa ngộ viên thông Sao bảo Thiếu lâm tin tức mất Đào hoa như cũ cười gió xuân".

Xưa trước, Sư ẩn dật cùng hổ thân gần, hổ thường nuôi dưỡng bốn con hổ con, qua hơn một tháng, Sư dòm ngó thấy hổ mẹ ra khỏi hang lén sang trông nhìn đó, mùi tanh hôi chẳng thể nói, Sư bèn trộm bắt một con mang về. Hổ mẹ săn mồi bắt được một con lợn nái kéo về đùa bỡn nằm trước hang, mừng vẩy cao đuôi, bỗng nhiên chỉ thấy ba con hổ con, hổ mẹ tức giận đưa chân nhảy cẩn nơi đất gầm rống, cả đàn chim bay liệng kêu réo phía trên, Sư liền thả con hổ con Trưởng lão cho nó. Sự việc ấy, Dương Tể Hàn Thừa Nghị có làm bài thơ kệ rằng:

"Già mến nương non việc người ít

Hổ quen am bạn quái lại chờ

Xa xa thạch thất bụi trần lấp

Chẳng biết ngày nào mới trở về".

Lại nói:

"Vài dặm không người đến

Núi vàng mới biết thu Giữa hang một giấc ngủ Quên bặt trăm năm buồn".

2. Thiền sư Báo Ân ở Đại hồng.

Thiền sư Báo Ân ở núi Đại hồng tại Tùy châu, vốn người dòng họ Lưu ở Lê dương đất Vệ, gia đình nhiều đời đều là những bậc thạc nho. Chưa đến tuổi hai mươi, Sư trình cử phương lược, nâng dắt lên đỗ đạt. Sau, nhàm chán cảnh trần vào triều xin từ tạ áo dãi quan vị để xuất gia làm Tăng. Vua hứa thuận sự cầu xin đó. Sư bèn rong tâm trong Tổ đạo, đến nương tựa Thiền sư ở Đầu tử. Sau đó không bao lâu bèn được tỏ ngộ tâm yếu. Thiền sư bảo: "Ông trở lại nơi đời nên khéo tự gìn giữ". Giả từ Thiền sư, Sư đến bái yết các bậc danh túc và đều được ấn chứng. Thừa tướng Hàn Công Chấn thỉnh mời Sư đến khai giảng giáo pháp ở Thiếu lâm tại Tây kinh. Sau đó không lâu, Đại hồng thay đổi chuyên Luật thành Thiền, nhà vua ban chiếu thỉnh mời Sư đến ở đó.

Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Năm lần năm là hai mươi lăm, căn cứ núi, chúa sấm núi mưa, nạp Tăng sáng mắt chẳng dạy nêu bày. Có vị Tăng hỏi: "Với Cửu đảnh lắng sóng tức không hỏi, còn việc vi thoại vi tường là thế nào?" Sư đáp: "Xưa nay chẳng rơi lạc". Lại hỏi: "Cái ấy tạm rút bỏ một bên, với hướng thượng lại còn có việc gì không?" Sư đáp: "Rất không nhàm chán sống". Lại hỏi: "Tác gia Tông thừa như thế nào?" Sư đáp: "Cũng chưa tiêu được". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Hiểu câu thoại như thế, ai là người biết âm, ngay nhiều dưới một câu hướng có ngàn mắt chóng mở, đích xác là có mấy cái là mê gặp được Đạt-ma. Các ông cần biết Tổ sư Đạt-ma chăng?" Và Sư đưa tay làm thế nằm, tiếp bảo: "Tổ sư Đạt-ma lỗ mũi năm trong tay Thiếu lâm. Nếu buông mở đi, theo giáo điển phương đây trời Tây nói vàng nói đen xem thường người Hồ khinh mạn người Hán. Nếu chẳng buông qua chẳng tiêu một nắm. Có người cần cùng Tổ sư làm chủ, tiện thể xin mời ra lại cùng Thiếu lâm gặp gỡ. Có hay chăng?". Ngưng giây lát, Sư bảo: "Quả nhiên là có". Lại có lúc lên giảng đường, Sư nắm cây gậy dậy và bảo: "Thư tay ngày xưa Đức Sơn Lâm Tế nắm lại, bèn có thể ngồi dứt mười phương vách dựng cao ngàn nhận, được ngay sông băng lửa nổi, cây khô nở hoa tỏa hương. Các người nếu cũng khéo hay vác ngang dựng đứng tươi tốt khắp hỏi các phương, nếu hoặc chẳng vậy thì Thiếu lâm đi ngược lệnh đây đi". Xong, Sư gõ xuống thiền sàng một cái. Có vị Tăng hỏi: "Với một mũi tên một đàn tức không hỏi, còn một mũi tên một cái, việc ấy như thế nào?" Sư đáp: "Trúng". Lại hỏi: "Còn có đầu mối đích xác không?" Sư đáp: "Đồng tương ứng, đồng khí tương cầu". Lại hỏi: "Thế nào thì Thạch Củng hiện còn?" Sư đáp: "Chẳng chỉ một cái hai cái". Lại nói: "Khéo việc chẳng như không". Sư bảo: "Xuyên lũng liền rõ". Lại hỏi: "Với Tam huyền tam động tức chẳng hỏi, còn ngũ vị quân thần việc ấy như thế nào?" Sư đáp: "Chẳng phải cảnh giới của ông". Lại hỏi: "Thế nào thì người đá vỗ tay, mộc nữ cười ha?" Sư đáp: "Tiêu bốc nghe tiếng rỗng, ngủ say nhiều nói mớ". Lại hỏi: "Nếu chẳng từ trước lại hỏi, sao có thể thấy được cơ của Thiếu lâm?" Sư đáp: "Buông qua thì chẳng thể, theo sau tiện đánh". Lại có lúc lên giảng đường, Sư đè ngang cây gậy, bảo: "Tiện cùng gì nghĩ đi đã rơi lạc vào hai ba, lại nếu đau đáu thì trọn thành Dị kiến. Đã đến trong ấy thì không thể cung gãy mũi tên-hết-Vả lại, nhà nạp Tăng xa thì hay chiếu, gần thì hay sáng". Xong, Sư dựng cây gậy dậy, tiếp bảo: "Xuyên suốt tức lỗ mũi của Đức Sơn, kéo ngược tức tròng mắt của Lâm Tế, xốc vút ra biển lớn, đánh chuyển hư không. Hãy nói ngoài ba ngàn cõi ai là biết tiếng? Ở đó mà rõ được thì tợ như mặt nhật soi chiếu giữa trời, nếu hoặc chưa rõ thì chẳng khỏi mây bay đến mưa". Sư gõ xuống một cái. Có vị Tăng hỏi: "Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại, chín năm ngồi xoay mặt vách tường, một câu cuối cùng như thế nào xin Sư cử xướng?' Sư bảo: "Mặt đen tròng mắt bạc trắng".

Sư từng đặt cả trăm câu hỏi để hỏi các học giả. Đại lược như là: "Giả sử trăm ngàn kiếp trôi qua nhưng các hạnh nghiệp tác tạo vẫn không mất, vậy sao nói là một xưng Nam Mô Phật, diệt tội hết trong số kiếp như hằng sa?" Sư lại vẽ tướng vòng tròn và tiếp bảo: "Muôn hình vạn tượng tất cả tại trong đây, các Thiền nhân đầy đủ mắt sáng thử xin soi xét riêng". Lại có lúc lên giảng đường, Sư nắm lấy cây gậy và bảo: "Xem, xem đắt liền tuyết tràn lan, xuân lại khắp miền đất lạnh, Linh phong cùng với thiếu thất, liệu lắc chẳng cùng đến, nghĩ luận bàn về Phật ý Tổ ý, lừa dối cho là lời ngay nói thật, trâu sắt không dấu vết, trăng tỏ Lô Hoa, ông tự xem". Xong, Sư chống cây gậy mà xuống khỏi tòa. Sư vốn cùng Cư sĩ Vô Tận, Trương Công Thương Anh kết bạn tốt lành. Cư sĩ Vô Tận từng gởi thư hỏi Sư về Tam giáo, đại lược cốt yếu như là: "Trong Lương sớ quyển ba nói tà kiến ở Tây vức chẳng vượt ngoài bốn thứ kiến chấp. Nho giáo và Đạo giáo ở phương đây. Cũng chẳng vượt ngoài bốn thứ kiến chấp ấy. Như Trang Lão tính lường "tự Nhiên làm nhân có khả năng sinh ra muôn vật". Tức là tà kiến. Theo Chu Dịch nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi". Thái cực là nhân cũng là Tà nhân. Nếu cho là "một âm một dương gọi đó là Đạo". Có khả năng sinh ra vạn vật cũng là Tà nhân. Nếu tính một (nhất) là hư không, thì là không nhân. Nay nghi ngờ thuyết "Tự nhiên" của Lão Tử và thuyết "Tự nhiên " của ngoại đạo ở Tây vức là chẳng đồng. Lấy gì để nói vậy? Lão Tử nói: "Thường không dục (ham thích) để quán xét nó thì Huyền diệu, thường có dục để quán xét nó thì ngăn che. Không dục thì thường có, ngăn che thì đã vào trong Đạo ấy vậy". Nên gọi đó là Tà nhân. Há có nói ư? Lại nữa, Chu Dịch nói: "Một âm một dương gọi đó là đạo. Âm dương chẳng thể lường gọi đó là Thần. Thần ấy cũng huyền diệu với vạn vật mà vì nói. Vắng lặng tự nhiên bất động, cảm mà bèn thông khắp cùng thiên hạ. Nay mới phá đạo lý âm dương biến đổi là Tà nhân, đánh đi cái Thần không thể lường. Há có nói ư?" Sau khi xem đọc mong phê chỉ bày, vì muốn dứt trừ lưới nghi vậy". Sư đáp rằng: "Các hàng ngoại Đạo ở Tây vức Tông chủ có lắm đường, cốt lõi gồm thâu không ngoài có không cửa bốn thứ kiến chấp mà thôi, nghĩa là hữu kiến, vô kiến, diệc hữu diệc vô kiến, phi hữu phi vô kiến. Bởi vì chẳng ngay Nhất tâm làm đạo thì đạo chẳng ngã hữu, nên gọi là ngoại đạo. Chẳng ngay các pháp làm tâm thì pháp tùy kiến dị nên gọi là tà kiến. Như gọi đó hữu, hữu thì hữu vô, như gọi đó vô, vô thì vô hữu, hữu vô thì hữu kiến đua tranh phát sinh, vô hữu thì vô kiến ấy khởi. Như diệc hữu diệc vô kiến, phi hữu phi vô kiến cũng như thế vậy. Phàm chẳng thể lìa các kiến thì không lấy gì để tỏ sáng tự tâm. Không lấy gì để tỏ sáng tự tâm thì không biết chánh đạo. Nên trong kinh nói: "Giáo pháp nói ra bằng ngôn từ hàng tiểu trí vọng phân biệt, chẳng thể rõ tự tâm, làm sao biết chánh đạo?" Lại nói: "Hữu kiến tức là dơ bẩn, đây thì chưa là kiến, xa lìa nơi các kiến, như vậy mới thấy Phật". Lấy đó để luận bàn thì Tà chánh khác đường, chánh do kiến ngộ, khác đến cùng nên vậy. Nên Lương đem Trang Lão tính nói pháp Tự nhiên có khả năng sinh muôn vật. Chu Dịch cho là Thái cực sinh lưỡng nghi, một âm một dương gọi đó là đạo. Lấy tự nhiên Thái cực làm nhân. Một âm một dương là đạo, có khả năng sinh ra muôn vật thì là Tà nhân. Tính một (nhất) là hư không thì là không nhân. Thường thử luận đó, phàm ba cõi Duy tâm, muôn duyên nhất trí. Tâm sinh nên pháp sinh, tâm diệt nên pháp diệt. Suy mà rộng ra cùng khắp vạn hữu mà chẳng phải có, bao gồm mà hợp đó rốt cùng tịch diệt mà chẳng không. Phi vô diệc phi phi vô, phi hữu diệc phi phi hữu. Bến kiến chấp đã mất, trăm phi đều dứt trừ, thì tự nhiên, nhân duyên đều là hý luận, hư vô, chân thật đều là giả danh. Đến như cho rằng Thái cực âm dương hay sinh ra vạn vật, thường vô thường hữu ấy là môn của các huyền diệu. Âm dương chẳng thể lường thì gọi đó là Thần của vô phương. Tuy Thánh nhân thiết giáo khai ngộ có lắm phương. Nhưng đã khác với Nhất tâm, há chẳng là Bến kiến chấp. Lấy gì để rõ biết vậy? Bởi vì hư vô là đạo, đạo thì là vô, như tự nhiên, như Thái cực, như một âm một dương là đạo, đạo thì là hữu thường. Vô thường hữu thì là cũng vô cũng hữu, âm dương chẳng thể lường thì là phi hữu phi vô. Các bậc Tiên Nho hoặc cho là huyền diệu vạn vật thì gọi đó là Thần thì phi vật vật. Vật thì cũng là vô. Nên các Đại luận Sư ở Tây vức đều cho quan điểm ngoài tâm có pháp là ngoại đạo, vạn pháp duy tâm là chánh tông. Bởi lấy tâm làm tông thì các kiến chấp tự mất. Nói tuy hoặc có khác nhưng chưa đủ lấy làm khác, còn ngoài tâm có pháp thì các kiến chấp đua nhau phát sinh, nói tuy hoặc đồng nhưng chưa thể lấy làm đồng. Tuy là Thánh nhân trong Nho giáo và Đạo giáo chẳng phải không biết đó, mới còn mà chẳng luận vậy. Như các hàng ngoại đạo ở Tây vức đều là Đài Quyền Bồ-tát chỉ bày khai hóa điều thi thiết. Ấy chánh là đạo của Thánh nhân thuận nghịch đều là Tông, chẳng phải chỗ nghĩ lường mà có thể biết được. Nên người xưa có nói, duyên xưa chân Tông chưa đến. Khổng Tử lại lấy buộc tâm, nay biết lý có chỗ kết quy, chẳng nên như chấp quyền giáo, nhưng biết quyền ấy là quyền chưa hẳn biết quyền, biết quyền ấy là thật ấy mới là biết quyền, là cũng bản ý của các vị Chu, Khổng, Lão, Trang thiết giáo lập ngôn. Một Đại sự nhân duyên ấy mới thành thủy thành chung, thì Tam giáo Nhất tâm tuy đồng đường mà khác vết. Rốt cùng Đạo tông vẫn không ngôn thuyết. Nếu chẳng phải là đạo sĩ Duy-ma thì ai có thể biết được ý ấy".

3. Thiền sư Vân ở Động sơn.

Thiền sư Vân ở Động sơn tại Nghi châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Gió thu cuốn đất, đêm mưa buốt trời, trong đó riêng có cái trong mát không nóng bức, là kế sống của ai đạt đến, mới biết vừa rơi thấy nghe tức tại đường đi. Hãy nói sau khi về đến nhà thì như thế nào? Mặc tình riêng đi không bè bạn, chẳng ở địa vị chánh, chẳng ở một bên".

4. Thiền sư Văn ở Phước ứng.

Thiền sư Văn ở Phước ứng tại Trường an, có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Rành rành đầu trăm cỏ, rõ rõ ý Tổ sư. Ngay đây bèn tiếp nhận, lầm nhận cung làm tên, lẳng lặng đặt dính dập dính, rõ ràng hòa bùn hợp nước, phất trần lông rùa bức bít hư không, chiếc gậy sừng thỏ chống trời đỡ đất, mặt nhật bắn rừng san hô, biết tâm hay có mấy". Xong Sư gõ vào thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa.

5. Thiền sư Đàm Quảng ở Long bàng.

Thiền sư Đàm Quảng-Thánh thọ ở Long bàng tại Trừ châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc ai, Tông phong ấy ai người nối dõi?" Sư đáp: "Đầu núi Dương Quảng mây ngùn ngụt, bờ am hoa nguyệt bách xanh xanh". Lại hỏi: "Thế nào là Đích tử của Đầu tử, cháu chắt của Đại dương?" Sư đáp: "Chưa đạp gậy trâu sắt như mưa giọt". Lại hỏi: "Ngày nay đã biết đầu mối đích xác chăng?" Sư đáp: "Mặc tình gạch địch đánh chọi ngói sỏi".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HẠO Ở NGỌC TUYỀN.

1. Thiền sư Văn Khánh ở Lâm khê.

Thiền sư Văn Khánh-Hưng giáo ở Lâm khê tại Dĩnh châu, lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Sáu lần sáu là ba mươi sáu. Đông phương thiên can giáp ất thuộc hành mộc. Tượng lớn Hỷ châu ra ải lại, trâu sắt Thiểm phủ vào Tây thục. Tham".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TUÂN Ở GIÁP SƠN.

1. Thiền sư Tín ở Phước xướng.

Thiền sư Tín ở Phước xướng tại Giang lăng. Có vị Tăng hỏi: "Một hoa nở năm cành, thế nào là cành thứ nhất?" Sư nâng chiếc tọa cụ lên. Lại nói: "Mây mọc mảnh mảnh, mưa giọt lâm râm". Sư bảo: "Không đau không biết thương". Lại nói: "Cái ấy còn là ý gió sinh mưa, thế nào là cành thứ nhất?" Sư nắm tọa cụ phẩy một cái. Vị Tăng ấy vỗ tay, Sư bảo: "Mặc tình nhảy nhót". Lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Con trai nhà Đông con gái nhà Tây". Lại nói: "Người học không hiểu?" Sư bảo: "Ném bút vất thoa". Có lúc lên giảng đường, Sư kêu gọi đại chúng, đại chúng ngẩn đầu, Sư bảo: "Nam sơn gió gấp". Xong, Sư bèn xuống khỏi tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGUYÊN Ở PHẬT ẤN.

1. Thiền sư Tịnh Ngộ ở Khánh thiện.

Thiền sư Tịnh Ngộ ở viện Khánh thiện-Bách trượng tại phủ Lâm an. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư bảo: "Hỏi ai?" Lại nói: "Đặc hỏi Hòa thượng: Chim dao qua Tân La". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nói thì lay môi, đi thì động cẳng. Ngay lúc không nói không đi thì sai nhầm sai nhầm". Xong, Sư vỗ vào thiền sàng một cái và xuống khỏi tòa.

2. Thiền sư Tuệ Thái ở Thiện quyền.

Thiền sư Tuệ Thái ở Thiện quyền tại Thường châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Chư Phật xuất hiện nơi đời, rộng giảng nói giáo pháp ba thừa. Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại kín truyền Đại sư. Các bậc Thượng căn thì ngay lời nói bèn chóng vượt qua. Với hàng Trung căn thì phải dần dần tỏ sáng tâm địa, hoặc một lời xướng đạo, hoặc ba câu xiển dương, hoặc khéo léo ứng cơ bèn thành nhiều nghĩa, gồm tóm cốt yếu tất cả đều là hoa đốm hư không, một câu cùng nguồn, chôn lấp Tổ đạo. Dám hỏi các người một câu làm sao sống là y theo thời và tiết?" Ngừng giây lát, Sư tiếp bảo: "Mây móng nhạt sông Hán, mưa thưa giọt ngô đồng. Tham".

3. Thiền sư Đức Cơ ở Sùng phước.

Thiền sư Đức Cơ ở Sùng phước tại Nhiêu châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Nếu ở trong đó mà hiểu được bèn có thể vào trong một cõi nước Phật, ngồi một Đạo tràng, chim nước cây rừng cùng đàm nói cốt yếu ấy, lầu đài điện các cùng diễn giảng chân thừa, tiếp nối đèn đuốc ngàn Thánh chẳng dứt, soi chiếu sáng rực cả tám mặt không riêng tư. Do đó nói ở tại cõi trời đồng với trời, ở cõi người đồng với người. Lại còn có người biết tiếng ư?" Ngừng giây lát, Sư bảo: "Quạ vàng đáy nước là mặt nhật trên trời, tròng ngươi trong mắt là người trước mặt".

4. Thiền sư Hoài Cát ở Bảo lâm.

Thiền sư Hoài Cát-Chân Giác ở Bảo lâm tại Vụ châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Di phong của Thiện Tuệ dài năm trăm năm, mây vàng sắc núi vẫn y nhiên, mà nay Tổ khiến thực hành lại, một câu lưu thông khắp đại thiên đại chúng hãy nói là câu gì? Chẳng là hộp đậy đất trời, cắt dứt các dòng theo gọn đuổi sóng đến cùng ư? Hồng. Có gì giao thiệp. Từ khi có Phật Tổ trở lại chưa từng động đến, ngày nay không thể bài tiết cơ thật đi vậy". Sư ngoái trông nhìn đại chúng một lượt rồi tiếp bảo: "Nếu đến các phương thì không được cử thố".

5. Thiền sư Tông Tú ở Tư phước.

Thiền sư Tông Tú ở Tư phước tại Hồng châu. Lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Ngày nay Long Tuyền cùng các ông nói về dây sắn leo một ít". Ngừng giây lát, Sư bảo: "Trên cành dây sắn lại sinh mầm vương vít".

6. Thiền sư Huệ Không ở Thúy nham.

Thiền sư Huệ Không-Quảng Hóa ở Thúy nham tại Hồng châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo?" Sư đáp: "Ruộng hoang chẳng chọn".

Lại hỏi: "Chẳng tiện là nơi Hòa thượng vì người ư?" Sư đáp: "Lường tài năng mà bổ nhậm chức phận". Có lúc Sư dạy bảo đại chúng rằng: "Hôm qua trời mưa lâm râm, sáng nay trời tỏ sáng, Văn Thù cùng Phổ Hiền toàn thân vào cỏ hoang, nhờ được Vương Lão sư đêm lại ngủ dậy sớm". Sư nắm cây gậy dậy và tiếp bảo: "Lại, lại, chẳng thấy đường xuân không ba ngày tạnh". Xong Sư xuống tòa.

7. Thiền sư Đức Phổ ở Mật nham.

Thiền sư Đức Phổ-Tịnh Độ ở Mật nham tại Nhiêu châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh của Mật nham?" Sư đáp: "Trên đầu Phù dung gió trong mát nổi". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Mưa móc tăng thêm phía trước, cụ già miền quê ngâm ca". Lại hỏi: "Việc hướng thượng Tông thừa chỉ bày như thế nào?" Sư đáp: "Âm mới hòa diệu với khúc nhạc cổ, cái nào là biết tiếng?"

8. Thiền sư Trọng Hòa ở Vân cư.

Thiền sư Trọng Hòa ở núi Vân cư tại Nam khương quân, có vị Tăng hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Nơi hỏi đã rõ ràng". Lại nói: " Đêm vẽ tùng trúc nổi gió trong mát, thổi tan mây rằng vài ba câu". Sư bảo: "Tạm chớ xoang xoảng dính Lộ trụ". Vị Tăng ấy lễ bái trở về trong chúng, Sư thở dài một hơi.

9. Thiền sư Ấu Tông ở Đồng an.

Thiền sư Ấu Tông-Sùng Thắng ở Đồng an tại Lô sơn. Lúc lên giảng đường, Sư nắm cây gậy mà dạy đại chúng rằng: "Cây gậy đây là thể". Sư gõ xuống thiền sàng một cái và tiếp bảo: "Cái ấy là dụng, ngay đây, cao thấp đều thấy xa gần đều nghe. Chánh ngay lúc nào hãy nói là phân hay chẳng phân?" Ngừng giây lát, Sư tiếp bảo: "Liễu lật hoành khiêu Hoa tạng giới, trên bàn tay Duy-ma chưa lấy làm nhiều". Xong, Sư xuống khỏi tòa.

10. Thiền sư Cư Nhạc ở Long hưng.

Thiền sư Cư Nhạc ở Long hưng tại Viên châu. Có vị Tăng hỏi: "Sư xướng hát khúc nhạc nhà ai, Tông phong ấy ai người nối dõi?" Sư đáp: "Từ sau khi Tổ sư Đạt-ma phân dòng muôn phái đều kết quy về một nhà". Lại hỏi: "Người học chưa hiểu, xin Sư chỉ bày?" Sư đáp: "Nhóm tập dưới núi bốn cành dây leo".

11. Thiền sư Tử Chương ở Vạn sam.

Thiền sư Tử Chương ở Vạn sam tại Lô sơn. Có vị Tăng hỏi: "Đạo An Thái chẳng truyền lệnh Thiên tử, thời bình cùng xướng khúc ca Thái bình. Vậy thế nào là khúc ca Thái bình?" Sư đáp: "Mây tan, Nhật nguyệt tỏ, tuyết sạch đất trời xuân". Lại hỏi: "Thế nào thì mưa rưới ngàn núi đẹp, gió động cành muôn năm?" Sư đáp: "Sông Tinh Hà rộng liền trời biếc, núi Ngũ lão thoáng cùng vũ trụ". Lại hỏi: "Thầy trò lúc chưa thấy gặp thì như thế nào?" Sư đáp: "Định Quang đất vàng xa vẫy tay". Lại hỏi: "Sau khi đã thấy gặp thì thế nào?" Sư đáp: "Định ngôi vị tôn ty".

12. Thiền sư Đức Diên ở Nga hồ.

Thiền sư Đức Diên-Nhân Thọ ở Nga hồ tại Tín châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là cảnh của Nga hồ?" Sư đáp: "Một hồ sâu thẳm nước xuân sắc biếc. Một vài Tiên nga ngoài trời trở về". Lại hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?" Sư đáp: "Tiếng tùng lại khách ngồi, áo người trên núi xanh". Và Sư mới bảo: "Các miệng đều lại phát hỏi đầu mối, một điểm giữa không muốn trả lời nạn, mà nay đại nghĩa tuyên lại, xả lấy lông mày thăm mặt xem". Xong, Sư đứng giây lâu.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ YẾU Ở QUẢNG NHÂN.

1. Thiền sư Như Xán ở Diệu phong.

Thiền sư Như Xán ở Diệu phong tại Phước châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Sáng nay là tiết Đức Như Lai giáng sinh. Các hàng Tăng sĩ khắp trong thiên hạ không đâu chẳng dùng nước ấm hương thơm tắm gội tôn tượng cùng báo đáp hồng ân. Vì sao giáo điển nói "Như Lai là không từ đâu lại". Đã là không từ đâu lại, vậy không biết giáng sinh ấy là ai? Thử xin nói xem. Nếu nói được thì ân ấy tự báo, nếu nói không được thì ngày mồng 08 tháng 04 năm sau lại là bỗng dưng tưới đầu".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DẬT Ở TRÍ HẢI.

1. Thiền sư Chí Nhân ở Hoàng nghiệt.

Thiền sư Chí Nhân ở Hoàng nghiệt tại Thụy châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là câu đắc lực?" Sư đáp: "Cẳng chân". Lại hỏi: "Người học không hiểu". Sư đáp: "Một bước tiến một bước". Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Suốt bốn mươi chín năm giảng thuyết ân đượm nhuần chim cá, đường đi dài mười vạn, cảnh ngộ cả trời người. Hai Lão tài giỏi ấy mỗi người khéo nên cho ba mươi gậy, cớ sao một cái nói dài nói ngắn, một cái lời Hồ tiếng Hán?

Tuy là như vậy, nhưng tạm tha qua một lượt".

2. Thiền sư Đức Long ở Đại trung.

Thiền sư Đức Long-Hải Ấn ở Đại trung tại Phước châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Pháp không khác pháp, đạo không khác đạo, luôn luôn gặp thấy Đức Thích-ca, nơi nơi khua nhằm Tổ Đạt-ma, buông bước tức giao mày, mở miệng tức cắn phá, chẳng cắn phá lớn nhỏ lớn". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Phàm muốn trí tuệ nổi tỏa, trước phải an định mọi giao động". Xong, Sư gõ cây gậy một cái, tiếp bảo: "Án-lô-tô Tất-lợi Sa-bàha", rồi Sư trở về nhà uống trà. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Xúc cảnh không ngưng trệ, vì gì nâng đầu không dậy? Đất ruộng ẩn mật, vì gì đặt cẳng chân xuống không được? Thí như Thiên vương ban tặng cho phòng nhà hoa quý, tuy được vườn lớn cốt yếu phải nhân từ cửa mà vào. Mới nói: Cửa bít, phân rộng đạp mở chủ thật ra, linh lớn nâng tay lưới gấm phun. Tham". Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: "Người nào lúc sáng sớm giờ Dần, nơi nơi Phật Di-đà, nhà nhà Quán Thế Âm. Trong trăng kỳ lân xem Bắc đẩu, hướng dương về tử một bên xanh".

3. Thiền sư Trọng Dự ở Bạch lộc.

Thiền sư Trọng Dự ở núi Bạch lộc tại Phước châu. Ngày khai đường giảng pháp, sau khi hỏi đáp đã xong, Sư mới bảo: "Giả sử trong lời biện rõ Tăng cơ trong câu, ý nghĩ tư duy đan xen rong ruổi đồng đều dâng sóng, cớ sao đạo của Tổ ta đâu có như vậy? Nếu là bậc Thượng căn riêng bước giữa trời xanh gặp cơ đại dụng, nắm dừng từng giọt chẳng rỉ, buông đi mới là sóng vọt ngàn sông, ngồi đất toàn oai, vách dựng ngàn nhận, được chẳng anh linh tự mình mang đội tông phong, ngay nhiều gì cũng chưa xứng với nạp Tăng. Hãy nói nạp Tăng có cái kỳ đặc gì?" Ngừng giây lát, Sư tiếp bảo: "Thu sâu rèm màn ngàn nhà mưa, mặt nhật rơi lầu đài một khúc gió sáo". Xong Sư xuống khỏi tòa.

4. Cư sĩ Thiêm phán Lưu Kinh Thần.

Cư sĩ Thiêm phán Lưu Kinh Thần, tự là Hưng Thiều, thuở thiếu thời có tài trội vượt, Cư sĩ đăng danh Quan bảng, đối với Phật pháp còn chưa có niềm tin. Năm ba mươi hai tuổi, gặp Thiền sư Tổng-Chiếu Giác ở đông lâm cũng trò chuyện dẫn dắt, Cư sĩ mới kính phục. Nhân đó tâm say mùi Tổ đạo. Thế rồi, đến chốn Kinh đô, bái yết Thiền sư Xung ở Tuệ lâm, khi ấy có vị Tăng hỏi Tuyết Đậu thế nào là bản nguyên của chư Phật? Sư đáp: Sắc lạnh cả ngàn núi, ngay lời nói ấy mà Cư sĩ có sự tỉnh ngộ. Qua hơn năm sau, lại làm quan tại Lạc mạc, Cư sĩ lại đến tham yết Thiền sư Cảo tại Thiều sơn. Lúc sắp dời nhậm chức khác, Cư sĩ đến giả biệt Thiền sư Cảo. Thiền sư Cảo bảo: "Ông dụng tâm như vậy, sao lại buồn không tỏ ngộ?" ngày sau hoặc có cảnh giới phi thường có vô lượng điều hoan hỷ. Nên gấp thâu thập được đi bèn thành pháp khí, nếu thâu thập không được thì có tật bệnh không an mà cảm mắc hoạn mất tâm vậy". Sau đó không bao lâu, Cư sĩ lại đến kinh đô, vào nương tựa Thiền sư Dật-Chánh giác ở Trí Hải, thỉnh hỏi về nhân duyên. Thiền sư Dật bảo: "Người xưa nói: Tâm bình thường là đạo, trong suốt mười hai thời khắc ông phóng quang động địa chẳng tự nhận biết, hướng ngoại rong ruổi tìm cầu, chuyển dần xa ra". Cư sĩ càng thêm nghi ngờ chẳng hiểu. Một đêm nọ vào thất, Thiền sư Dật nêu trong sách Truyền đăng có ghi chép là "Quốc Vương Hương Chí đến hỏi Tôn giả Ba-la-đề: "Thế nào là Phật?" Tôn giả đáp: "Kiến tánh là Phật", Đề hỏi Cư sĩ, Cư sĩ không trả lời được, tâm nghi ngờ càng thêm lên, bèn trở về nằm ngủ. Ngủ say mãi đến trống canh năm khua động, tỉnh giấc Cư sĩ mới nghĩ nhớ đuổi theo câu hỏi ấy, bỗng nhiên thấy các thứ tướng khác lạ thấu triệt cả trong ngoài, sáu căn chấn động, đất trời xoay quanh, như mây tan trăng tỏ, mừng chẳng thể tả, bỗng dưng mới nhớ được lời dạy răn của Thiền sư Cảo ở Thiều sơn lúc giả biệt. Hằng cố đè nén đợi đến sáng, Cư sĩ vào ngay nơi Thiền sư Dật tỏ bày tất cả sở đắc của mình. Thiền sư Dật vì chứng cứ đó mà bảo là: "Lại phải dụng được mới được". Cư sĩ nói: "Chẳng là cốt yếu phải giẫm giày ư?" Thiền sư Dật gắt lời bảo: "Cái ấy là việc gì mà nói là giẫm giày?" Cư sĩ bèn im lặng thầm khế ngộ, mới trước thuật "phát minh tâm địa tụng" gồm tám bài, và "Minh đạo dụ Nho thiên" để cảnh răn người đời, văn từ viết là:

"Minh Đạo ở tại kiến tánh, sở ngộ của tôi là kiến tánh mà thôi". Mạnh Tử nói: "Miệng đối với mùi vị, mắt đối với cảnh sắc, tai đối với âm, mũi đối với mùi thơm. Tứ chi đối với An dật mà làm tánh". Dương Tử nói: "Thấy nghe ngôn từ dung mạo tư duy tánh vốn có. Có thấy ở đây thì hay rõ Đạo vậy". Phải biết Đạo chẳng xa người. Người đối với đạo như cá đối với nước chưa từng xa lìa trong khoảnh khắc chỉ vì mê quên lãng mình rong đuổi theo vật, nên trọn đời do đó mà chẳng thể biết. Phật gọi là Đại giác, Nho gọi là Tiên giác, chính là Giác (tỏ biết) cái này vậy. Người xưa có nói là "xưa nay nên không rơi lạc, rõ ràng tại trước mắt". Lại nói: "Đại đạo chỉ tại trước mắt. Cốt yếu là trước mắt mà khó thấy. Muốn biết được thật thể của Đại đạo, chẳng lìa nơi sắc ngữ ngôn". Lại nói: "Đêm đêm ôm Phật ngủ, mỗi sáng cùng Phật dậy. Dậy ngã trấn cùng theo, nói nín đồng từng ở, muốn biết nơi Phật đi, chỉ nói tiếng ấy vậy". Tiếng Phật nói đây là rất thân gần. Đứng thì thấy cùng tham phía trước. Ở kiệu thì thấy tựa tại đòn ngang, trông nhìn thì tại trước, bỗng nhiên hiện ở sau. Lấy đó, hai bên gặp được nguồn. Nói đạo của Nho ở đây rất gần. Cớ sao Đạo đây chỉ có tâm truyền? Bởi chẳng lập văn tự, Đức Thế Tôn nhơn nắm cành hoa mà diệu tâm trao truyền Tôn giả Ca-diếp, Tổ sư Đạt-ma xoay mặt vách tường mà Tông yếu trao cho Thần quang. Sáu cành đã nở, ngàn hoa đua xinh, phân Tông sắp phái mỗi tự có môn phong. Nêu hoặc nháy mắt dương mày, chống nắm chỉ chỏ, hoặc thực hiện bằng đánh gậy, bằng la hét, dựng đứng phất trần nắm lấy cái dùi, hoặc nắm kéo tay trương cung trục cầu múa hát, hoặc chọi đá ném đất, đánh trống thổi lông, hoặc một chấm một lời, một kêu gọi, một nụ cười, cho đến các thứ phương tiện đều là thân thiết vì người. Nhưng chỉ vì rất thân gần nên con người phần nhiều sai lầm, liếc nhìn trông thấy chẳng cách biệt mảy may. Đó hoặc như là trầm ngâm xa vời muôn dặm, người muốn rõ đạo nên không bất chợt. Tổ tổ tương truyền mãi đến nay không dứt tuyệt, thật đắc với Nho giáo ta chỗ gọi là phẫn giận mà chẳng mở phát mà chẳng trái đó vậy. Tôi có được, thật tại môn này, trở lại nghĩ Nho giáo tôi tự có đạo ấy. Tốt lành thay! Khổng Tử nói là "im lặng mà biết đó suốt cùng nhất quán, nên mắt đánh mà đạo còn, chỉ lòng bàn tay mà ý dụ. Phàm được như vậy đều hợp với diệu chỉ của Tông môn, đắc thật có của giáo ngoại. Nhưng mà đạo của Khổng Tử truyền đến Tử Tư, Tử Tư truyền đến Mạnh Tử, Mạnh Tử đã qua đời, không ai được truyền đạo ấy mà sở dĩ lưu truyền nơi đời là đặc biệt do từ văn tự vậy. Nên học của tôi hẳn câu tự đắc mà sau đã. May tôi trong một đêm được khai ngộ. Phàm mọi sự mắt thấy, mọi điều tai nghe, mọi sự tâm suy tư, mọi lời đàm nói, mọi cử chỉ vận động của tay chân không gì chẳng là huyền diệu. Đạt được đó đã lâu, ngày càng thấy rõ trước mắt, thường đem cho người mà người chẳng thể nhận. Nhưng về sau, biết diệu đạo ấy quả thật chẳng thể dùng văn tự để lưu truyền. Than ôi! Là đạo. Có người ấy thì truyền, không người ấy thì tuyệt, tôi đã được đó vậy. Ai tự biết đó ư? Trọn đời tôi mà có người ấy chăng? Hoặc không có người ấy chăng? Do Bất khả đắc mà biết vậy, nên vì ghi lời tụng ca để lưu bá việc ấy và trước thuật Thiên này để khuyến dụ học trò của Tôi vậy".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LONG Ở CHI ĐỀ.

1. Thiền sư Huyền Bản ở Linh ẩn.

Thiền sư Huyền Bản ở Linh ẩn tại Hàng châu. Có vị Tăng hỏi: "Lúc con trai ngậm miệng chưa mổ thì thế nào?" Sư bảo: "Ánh sáng từ đâu lại?" Lại hỏi: "Lâm Tế, vào cửa bèn hét. Đức Sơn, vào cửa bèn đánh. Ý chỉ ấy như thế nào?" Sư đáp: "Trời tạnh chẳng chịu đi". Có lúc, Sư thấy vị Tăng đang xem kinh, bèn hỏi: "Ông xem kinh gì vậy?" Vị Tăng ấy im lặng không trả lời. Sư mới dạy răn bằng bài tụng rằng:

"Xem kinh chẳng biết kinh, luống nhọc mất tròng mắt. Muốn được không hại mắt, rõ ràng biết lấy kinh".

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TỐ Ở TỊNH ĐỘ.

1. Thiền sư Duy Chính ở Tịnh độ.

Thiền sư Duy Chính ở viện Tịnh độ tại Hàng châu, vốn người dòng họ Hoàng ở Hoa đình tại Tú châu. Từ thuở bé, Sư nương theo Thiền sư Bản Như ở viện Tư Thánh tại Tiền đường xuất gia thọ học, đến lúc sắp kiểm xét nghề ở Hữu ty, Thiền sư Bản Như bảo Sư đối trước tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm đề cầu nguyện thầm gia hộ. Sư cảm tạ mà nói là: "Há nhẫn riêng tư đối với mình ư?" có Chu Thiệu An là người trong quận nghe thế mà càng thêm thán phục, muốn mở kho mà giúp Sư. Sư bùi ngùi mà nói là: "Xưa kia độ giúp người là lấy sự cơ căn bạch, yếu chỉ kín mầu, ngày nay trái lại với xưa xa vời. Tôi đọc trong Tam bảo, số đáng có thời ấy rồi, mà gặp điềm lành ân ban được hợp chí nguyện. Riêng mang áo bào lông quạ tạm che, đồng liệt thong thả đó".

Sư nói: "Phật ư? Phật ư? Nghi tường thế nào ư? Tăng ư? Tăng ư? Thạnh phục thế nào ư?" Về sau, Sư có nguyện chuyển vần phụng sự qua thời gian dùng độ giúp tiếp thêm công việc của viện, Sư cũng lại cảm tạ rằng: "Chỉ nghe mang bát khất thực, chưa nghe ngồi yên để hưởng. Chỉ nghe bái yết các Tổ, chưa nghe bỏ học tự đảm đan. Huống gì tôi đây tuổi đang khỏe mạnh khí lực sung túc, chánh tại gắng sức hành lễ, chẳng theo việc riêng của am thất vậy". Từ đó, Sư mang sách trượng dẫn hướng phương Đông, đến học Tam quán ở Thiên thai. Lại xoay trở đi đường núi, tiếp buông phóng riêng truyền cho ý chỉ từ Lão Túc Duy Tố. Thiền sư Duy Tố ở viện Tịnh độ tại núi Công thần thuộc Đổng làm an, Sư phụ giúp cùng đó và về sau kế thừa pháp tịch. Nhưng Sư là bậc cao nhân đơn giản, giới luật nghiêm thân. Các vị tiếng tăm trong làng xóm, các bậc công thần phần nhiều đều suy tôn.

Có Diệp Nội Hàn Thần Mục Trấn Kim Lăng nghinh thỉnh Sư giảng nói đạo. Một ngày nọ, Diệp thưa rằng: "Ngày mai tại phủ có yến hội, Sư hẳn là người phụng trì giới luật, nhưng có thể vì tôi lưu lại một ngày thực tình đàm nói bạch chăng?" Sư vâng nhận lời đó. Hôm sau, Diệp sai Sứ thỉnh mời Sư, Sư lưu lại một bài kệ tụng mà trở về, ghi rằng:

"Hôm qua từng hứa hẹn ngày nay Ra cửa tựa cành lại nghĩ suy Làm Tăng chỉ hợp ở hang cốc Hội vui Quan sĩ thật chẳng hay".

Các khách cùng dự yến hội thảy đều kính ngưỡng tiêu đích đó. Sư nhận thức tư lự trong sạch chẳng mang thế lụy. Nhã mến vượt qua Hoàng Độc, ra vào Quân trí, khăn bát đều máng treo trên sừng, mọi người phố chợ đua tranh trông nhìn mà Sư vẫn tự nhiên. Có Hàng Thú Tương Thị Lang cùng Sư kết bạn phương ngoài. Mỗi lần đến bái yết quận đình xuống Hoàng Độc đàm luận cười nói trọn ngày rồi mới đi. Tương có bài thơ rằng:

"Thiền khách bình thường vào đô cũ Trên sừng trâu vàng treo bát khăn Có lúc mang tuyết xuyên mây đi Khéo hòa cùng mây họa thành tranh".

Sư cũng từng làm những bài kệ ở trong núi rằng:

"Trên cầu núi muôn tầng Dưới cầu nước ngàn dặm Chỉ có cò trắng liệng Thấy ta thường lại đây".

Lúc bình sinh, Sư trước thuật có cả ba mươi quyển, đề hiệu là "Cẩm Khê Tập". Sư lại là người khéo giỏi bút pháp trác tuyệt, có Tần Thiếu Du rất trân quý cất giữ đó. Mùa Đông Sư chẳng ôm sưởi lò lửa, chỉ lấy Lô hoa làm áo nạp lông thuồng chân trong đó, khách đến ở lại cũng cùng chung vậy. Mùa hạ mùa thu, Sư vui thích thưởng ngoạn vầng trăng, dùng mâm bàn sơn lớn đặt chén nổi trên hồ, tự xoay chuyển chén ấy ngâm cười mãi đến sáng, lấy đó làm chuyện thường. Có Thiền sư Thiều ở Cửu Phong thường là khách đến ở lại viện Sư. Một đêm nọ cùng nằm trò chuyện, Sư mới khơi dậy Thiền sư Thiều rằng: "Sắc trăng như thế, nhọc sống phiền nhiễu, đối đáp đó có được bao người?" Thiền sư Thiều chỉ dạ, dạ mà thôi. Giây lâu, Sư gọi Đồng tử đem lửa, Thiền sư Thiều mới khát ý làm Dược thạch, chỉ khoảnh khắc là có cốc nước ấm vỏ quật, Thiền sư Thiều nín cười, nói: "Không là Thái ư?"

Có người hỏi: "Sư lấy tên là Thiều sư, cớ sao mà chẳng đàm nói về Thiều?" Sư đáp: "Nhọc phí ngôn từ. Tôi biếng lười, sao mượn khúc chiếc. Chỉ đêm ngày phiền nhiễu muôn tượng vì phu diễn vậy. Ngôn ngữ có khoảng thời gian mà pháp đây thì vô tận, chỗ gọi là tạo vật vô tận tạng vậy".

Đến ngày mồng 08 tháng 04 năm Hoàng Hựu thứ nhất (?) thời Bắc Tống, Sư bảo cùng đại chúng rằng: Phàm động vì đối với tĩnh, chưa đầu mối có chung cùng. Tôi một lần động đã trải qua sáu mươi bốn năm, nay đến lúc tĩnh vậy. Nhưng, động tịnh vốn nào có ư?" Khi ấy Sư điềm nhiên mà tịch.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THÙ Ở BẢO LÂM.

1. Thiền sư Dụng Minh ở Bảo lâm.

Thiền sư Dụng Minh ở Bảo lâm tại Vụ châu. Có vị Tăng hỏi: "Tam-muội của Đức Thế Tôn, Tôn giả Ca-diếp không biết. Tam-muội của Hòa thượng, có người nào biết?" Sư đáp: "Trâu bùn xuyên qua biển, ngựa gỗ suốt mây về". Lại hỏi: "Thế nào là người học thỉnh hỏi điều lợi ích?' Sư đáp: "Chưa dám cùng hứa". Vị Tăng im lặng không nói gì. Sư bảo: "Cái thật"

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TÔNG Ở ĐỘNG SƠN.

1. Thiền sư Hiểu Tuyên ở Định phong.

Thiền sư Hiểu Tuyên ở Định phong tại Kiến châu. Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý của Tổ sư Đạt-ma từ Tây vức lại?" Sư đáp: "Mây tan ngàn non biếc". Lại hỏi: "Lãnh hội như thế nào?" Sư đáp: "Mưa rửa trăm hoa xinh". Lại hỏi: "Người học từ trước lại thỉnh cầu Sư chỉ bày?" Sư đáp: "Sông lắng trăng đêm thu, gió quét ráng trời sáng". Lại nói: "Một câu mới nghe lưu thông ngàn xưa". Sư nói: "Ông làm sao sinh hiểu?" Vị Tăng ấy bèn hét, Sư liền đánh.

Quyển 10 (Hết)

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]