TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2078 - TRUYỀN PHÁP CHÁNH TÔNG KÝ THƯ DÂNG TẤU HOÀNG ĐẾ

MỤC LỤC

SỐ 2078 - TRUYỀN PHÁP CHÁNH TÔNG KÝ THƯ DÂNG TẤU HOÀNG ĐẾ

TẬP SỚ TẤU TRÌNH CỦA VƯƠNG THỊ ĐỘC TRI PHỦ KHAI PHONG

TẬP SỚ CỦA TRUNG THƯ HỨA THÂU VÀO ĐẠI TẠNG

TẬP SỚ CỦA TRUNG THƯ CHẲNG HỨA TỪ NHƯỢNG SƯ HIỆU

TRUYỀN PHÁP CHÁNH TÔNG KÝ

QUYỂN 1

DẤU HIỆU CỦA THỦY TỔ THÍCH-CA NHƯ LAI

QUYỂN 2

1. TRUYỆN TÔN GIẢ MA-HA CA-DIẾP, TỔ THỨ NHẤT Ở THIÊN TRÚC

2. TRUYỆN TÔN GIẢ A-NAN, TỔ THỨ NHÌ Ở THIÊN TRÚC

3. TRUYỆN TÔN GIẢ THƯƠNG-NA-HÒA-TU, TỔ THỨ BA Ở THIÊN TRÚC.

4. TRUYỆN TÔN GIẢ ƯU-BA-CÚC-ĐA, TỔ THỨ TƯ Ở THIÊN TRÚC

5. TRUYỆN TÔN GIẢ ĐỀ-ĐA-CA, TỔ THỨ NĂM Ở THIÊN TRÚC

6. TRUYỆN TÔN GIẢ DI-GIÀ-LA, TỔ THỨ SÁU Ở THIÊN TRÚC

7. TRUYỆN TÔN GIẢ BÀ-TU-MẬT, TỔ THỨ BẢY Ở THIÊN TRÚC

8. TRUYỆN TÔN GIẢ PHẬT-ĐÀ-NAN-ĐỀ, TỔ THỨ TÁM Ở THIÊN TRÚC.

9. TRUYỆN TÔN GIẢ BẠT-ĐÀ-MẬT-ĐA, TỔ THỨ CHÍN Ở THIÊN TRÚC

10. TRUYỆN TÔN GIẢ HIẾP, TỔ THỨ MƯỜI Ở THIÊN TRÚC.

11. TRUYỆN TÔN GIẢ PHÚ-NA-DẠ-XA, TỔ THỨ MƯỜI MỘT Ở THIÊN TRÚC.

QUYỂN 3

1. TRUYỆN ĐẠI SĨ MÃ MINH, TỔ THỨ MƯỜI HAI Ở THIÊN TRÚC.

2. TRUYỆN ĐẠI SĨ CA-TỲ-MA-LA, TỔ THỨ MƯỜI BA Ở THIÊN TRÚC.

3. TRUYỆN ĐẠI SĨ LONG THỌ, TỔ THỨ MƯỜI BỐN Ở THIÊN TRÚC.

4. TRUYỆN ĐẠI SĨ CA-NA-ĐỀ-BÀ, TỔ THỨ MƯỜI LĂM Ở THIÊN TRÚC.

5. TRUYỆN ĐẠI SĨ LA-HẦU-LA-ĐA, TỔ THỨ MƯỜI SÁU Ở THIÊN TRÚC.

6. TRUYỆN ĐẠI SĨ TĂNG-GIÀ-NAN-ĐỀ, TỔ THỨ MƯỜI BẢY Ở THIÊN TRÚC.

7. TRUYỆN ĐẠI SĨ GIÀ-DA-XÁ-ĐA, TỔ THỨ MƯỜI TÁM Ở THIÊN TRÚC

8. TRUYỆN ĐẠI SĨ CƯU-MA-LA-ĐA, TỔ THỨ MƯỜI CHÍN Ở THIÊN TRÚC.

9. TRUYỆN ĐẠI SĨ XÀ-DẠ-ĐA, TỔ THỨ HAI MƯƠI Ở THIÊN TRÚC.

QUYỂN 4

1. TRUYỆN ĐẠI SĨ BÀ-TU-BÀN-ĐẦU, TỔ THỨ HAI MƯƠI MỐT Ở THIÊN TRÚC.

2. TRUYỆN ĐẠI SĨ MA-NOA-LA, TỔ THỨ HAI MƯƠI HAI Ở THIÊN TRÚC.

3. TRUYỆN ĐẠI SĨ HẠC-LẶC-NA, TỔ THỨ HAI MƯƠI BA Ở THIÊN TRÚC.

4. TRUYỆN ĐẠI SĨ SƯ-TỬ, TỔ THỨ HAI MƯƠI BỐN Ở THIÊN TRÚC.

5. TRUYỆN ĐẠI SĨ BÀ-XÁ-TƯ-ĐA, TỔ THỨ HAI MƯƠI LĂM Ở THIÊN TRÚC

QUYỂN 5

1. TRUYỆN TÔN GIẢ BẤT-NHƯ-MẬT-ĐA, TỔ THỨ HAI MƯƠI SÁU Ở THIÊN TRÚC.

2. TRUYỆN TÔN GIẢ BÁT-NHÃ-ĐA-LA, TỔ THỨ HAI MƯƠI BẢY Ở THIÊN TRÚC.

3. TRUYỆN TÔN GIẢ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA, TỔ THỨ HAI MƯƠI TÁM Ở THIÊN TRÚC.

QUYỂN 6

1. TRUYỆN TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN Ở TRUNG HOA (Chấn đán)

2. TRUYỆN TÔN GIẢ TĂNG XÁN, TỔ THỨ BA MƯƠI Ở TRUNG HOA

3. TRUYỆN TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT Ở TRUNG HOA.

4. TRUYỆN TÔN GIẢ HOẰNG NHẪN, TỔ THỨ BA MƯƠI HAI Ở TRUNG HOA.

5. TRUYỆN TÔN GIẢ TUỆ NĂNG, TỔ THỨ BA MƯƠI BA Ở TRUNG HOA.

QUYỂN 7

LƯỢC TRUYỆN CHÁNH TÔNG PHÂN GIA LỜI TỰA

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG.

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ BẢY SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM

QUYỂN 8

LƯỢC TRUYỆN CHÁNH TÔNG PHÂN GIA (Tiếp Theo)

ĐỜI THỨ TÁM SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG.

ĐỜI THỨ CHÍN SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ MƯỜI SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

ĐỜI THỨ MƯỜI HAI SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

QUYỂN 9

I. LƯỢC TRUYỆN LƯU XUẤT GẦN KỀ LỜI TỰA

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ SƯ TỬ

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ SƯ TỬ.

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ SƯ TỬ

TÔN GIẢ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA, TỔ THỨ HAI MƯƠI TÁM

TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN.

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

ĐỜI THỨ SÁU SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

ĐỜI THỨ BẢY SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

ĐỜI THỨ TÁM SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ SÁU SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ SÁU SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ BẢY SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ TÁM SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ CHÍN SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ MƯỜI SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ HOẰNG NHẪN, TỔ THỨ BA MƯƠI HAI.

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ HOẰNG NHẪN, TỔ THỨ BA MƯƠI HAI

II. LƯỢC TRUYỆN TÔNG CHỨNG LỜI TỰA

1. Sa-môn Trúc Đại Lực người nước Nguyệt Chi.

2. Sa-môn Đàm-ma-ca-la người xứ Trung Ấn Độ.

3. Sa-môn Chi-vương-lương-lâu người nước xứ Trung Ấn Độ.

4. Sa-môn Bà-la-phân-đa người xứ Trung Thiên trúc.

5. Sa-môn Phật-đà-bạt-đà-la người xứ Thiên trúc.

6. Sa-môn Tăng Hựu.

7. Sa-môn Na-liên-da-xá người nước Kế Tân.

8. Sa-môn Kiện Na người xứ Tây vức.

9. Cư sĩ Bùi Hưu.

10. Cư sĩ L ưu Húc.

 


Tháng 12, ngày......

Khế Tung tôi làm Sa-môn được truyền pháp, được ban tặng tử y ở Lam nhã, Vĩnh an tại Linh ẩn, Hàng châu. Kính cẩn mạo muội như dám phạm tội chết dám dâng tấu trình thư.

Hoàng đế bệ hạ!

Khế Tung tôi nghe: Người thờ phụng trời hẳn nhân ở núi, người phụng thờ đất hẳn nhân ở đầm. Nhưng chỗ nhân có cao và sâu thì điểm phụng thờ dễ đến vậy. Nếu nơi tôn sùng của bệ hạ có cao sâu rõ ràng thì cùng với núi và đầm cùng cách cả muôn vạn. Chỉ bởi người có điểm phụng thờ của mình, bỏ bệ hạ mà chẳng cầu ngay đó, tuy người ấy có vẻ tự đắc trọn đời cùng kiếp, sao có thể thành đạt ý chí ấy ư? Ước lại nghe trong kinh Phật nói là “Pháp của Ta hẳn đã giao phó cho các bậc Quốc vương đại thần”. Đó chánh có nghĩa là một mặt buông ra tổn ích của Phật giáo, tại nơi minh Thánh của bệ hạ vậy. Như vậy thì đồ chúng của Phật vì pháp ấy muốn có chỗ đáng thi hành đâu nên chẳng nhờ bệ hạ mà tự vất bỏ cỏ hoang dại ư? Khế Tung tôi một kẻ hèn mọn trong đồ chúng của Phật, thật muốn phù trì đạo pháp, nay từ chốn hang hốc nổi dậy cách xa ngàn dặm ân thư này đến dưới cửa quyết, nguyện mong bệ hạ dũ lòng ban ân để thành tựu chí nguyện!

Khế Tung tôi từng nghĩ rằng Đức Thích-ca nhủ lòng Từ bi thuyết giáo, hẳn lấy Thiền làm Tông, lấy Phật làm Tổ. Tổ là Đại phạm (khuôn phép lớn) của giáo ấy, Tông là Đại thống (bao gồm tất cả) của giáo ấy.

Đại thống bất minh thì tất cả học giả trong thiên hạ chẳng được đồng nhất nơi đến. Đại phạm bất chánh, thì sở chương không được chất thật, phàm, các hàng Tâm học xưa nay đua nhau lấy cái sở học ưu thắng, là do Tông bất minh Tổ bất chánh mà khiến có hoạn nạn ấy. Nhưng chẳng phải Tổ tông ấy vốn bất minh bất chánh vậy. Lại thêm, bởi sự sai nhầm của người làm sách đời sau lưu truyền nên vậy. Lại nữa, những người học Phật đời sau chẳng có khả năng khảo cứu kinh luận mà hiệu chánh đó, mới có người chuyên bó buộc nơi giáo chẳng tin yếu chỉ vi mầu của Phật ở tại ngôn ngoại, người nơi Thiền lại không lường được điều năng thuyên của Phật còn lưu lại nơi nội giáo. (Mới đầu, trong bản thảo tức gọi là Sở thuyên của Phật đại khái có thể thấy ở nội giáo. Đến lúc biên chép tấu trình mới sửa đổi là “Năng thuyên của Phật còn lưu lại nơi nội giáo”. Có ý là sự phương tiện khéo léo của Phật qua ngôn ngữ thuyên phát pháp này ở tại trong giáo bộ. Vì đồ chúng tập học đem bản thảo mới đầu lưu truyền ra bèn có khác so với bản tấu trình như vậy. Hai thuyết ấy, ý nghĩa đều có thể sử dụng. Ngoài ra, còn có bản khác hoặc nói là “Sở thuyên khái quát thấy ở giáo nội”, là bởi từ hai bản lưu xuất nên vậy). Tuy đồng nhất đều thuộc đầu tròn áo vuông mà sự phân vân lẫn lộn tự cùng quấy lẫn nhau. Cứ như vậy xưa nay nào từng tạm dứt. Khế Tung tôi chẳng tự biết lượng mình, trọn đời bình sinh trộm muốn thôi thúc đồng nhất về Tông tổ ấy và tất cả người học Phật trong thiên hạ dứt sự tranh cãi, giải thích điều nghi. Khiến cho cả trăm đời biết được điểm mình học có sự nhất thống vậy. Ở trong núi, Khế Tung tôi thường dốc sức lực tham cứu Đại tạng, hoặc kinh hoặc truyện, kiểm hiệu điểm được gọi là Thiền tông, suy lường chánh chỗ gọi là Phật tổ, thì các sách đã thấy được quả thật có sự sai nhầm. Tuy sách xưa hẳn bài xích, nhưng các đã thấy được quả nhiên thật rõ ràng, như bộ “Truyện đăng lục” cùng đồng loại ấy, đều vì các nhà ghi chép lưu truyền, cũng bởi trải qua nhiều đời, nên kiểm hiệu đó, tu chỉnh đó, biên thành một bộ sách có hơn mười vạn lời, với tên gọi là “Truyền Pháp Chánh Tông Ký”, còn loại bày trí họa vẽ tôn tượng Phật tổ tương thừa thì gọi là “Truyền Pháp Chánh Tông Định Tổ Đồ”, còn loại sắp xếp hợp thành ngọn nguồn của Tổ tông thì gọi là “Truyền Pháp Chánh Tông Luận”. Cả thảy có mười hai quyển. Lại đem các bức họa vẽ trên lụa, cái gọi là “Định Tổ Đồ”, một mặt bởi sự ngu cạn của Khế Tung tôi tự cho là Đức Phật của chúng ta thuyết giáo chỉ mới hai ngàn năm, giáo pháp ấy lưu truyền đến Trung Hoa đã một ngàn năm, Thiền tông lưu truyền đến nước ta chỉ mới năm trăm năm, mà Tông và Tổ sự tích ngọn nguồn ở đây hơi rõ ràng, có thể lưu truyền để bù đắp giáo pháp tiên Thánh một trong muôn phần vậy. Vừa thích đáng với bệ hạ, đem đến đạo từ trị thiên hạ, đất trời muôn vật hòa bình an lạc, mà giáo pháp của Phật của Lão được tán dương đại hóa. Bệ hạ lại lưu thần vui thiền càng vào đạo diệu ấy, tuy các bậc đế vương xưa trước đã có cả trăm đời chưa có ai cùng lý tân tánh như bệ hạ vậy! Cũng là đồ chúng của Phật giáo khoảnh khắc gặp được bệ hạ là một thời của cả muôn đời. Do đó, Khế Tung tôi gấp gáp chẳng lánh né đáng tội, muốn mong bệ hạ đặc biệt ban sắc đưa vào Đại tạng cùng các kinh luật đồng được lưu truyền Khế Tung tôi cuộc đời như loài kiến hôi đã chậm trễ, đối với đời hẳn không chờ đợi, chỉ một lòng khư khư muốn giáo pháp chẳng rã hoại chẳng mờ dạt mà mãi lưu bố truyền bá không cùng, mọi người nhờ được đó mà chuyên việc đạo làm điều tốt lành. Nên ngày Khế Tung tôi chết cũng như năm sống vậy. Chẳng dám kiêu ngạo muốn làm nhục ân đượm nhuần mưa móc của bệ hạ. Với điểm chứng cứ minh văn đều rút ra từ đại kinh đại luận, rất rõ ở chỗ gọi là “Truyền Pháp Chánh Tông Luận”, cùng với bộ “Định Tổ Đồ”. Ví thản bệ hạ, đất trời rủ lòng quán xét khiến được cùng thỏa sướng, nguyện được sắp xếp như “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục”, “Ngọc Anh Tập”, ban chiếu đến viện Truyền pháp, biên ghi đưa vào Đại tạng, tức là may mắn lớn sự sống chết nơi Khế Tung tôi vậy, ước cũng là may mắn lớn của giáo môn trong thiên hạ vậy. Nếu bệ hạ thấu hiểu xác thực hứa khả sự cầu mong của Khế Tung tôi thì xin đem sách này gồm mười hai quyển, đặc biệt ban bản Trung Thư thi hành “Truyền Pháp Chánh Tông Ký” và “Định Tổ Đồ”, và gồm tập “Phụ Giáo Biên Ấn Bản”, cả thảy là một bộ ba sách. Sách ấy cũng suy hợp nhị giáo, đạo của Thánh nhân, đồng với ích đời lợi người vậy. Cẩn tụng theo sách kính tấu dâng, cố kêu nài tua mũ miện. Khế Tung tôi chẳng mặc y tha thiết với chí tạo nên, thật rất lo rất sợ kính lời.

TẬP SỚ TẤU TRÌNH CỦA VƯƠNG THỊ ĐỘC TRI PHỦ KHAI PHONG

Ngày nay có Sa-môn Khế Tung ở chùa Linh Ẩn đến nơi phủ tôi tấu trình trạng văn, xưng là Tổ tông truyền pháp ở Thiền tông chưa lắm rõ ràng, giáo môn cạn cợt, mỗi người tự thấy riêng ở truyện ký, xưa nay có lắm sự đua tranh, nhưng khảo xét luận bàn về Đại tạng kinh luận, đầy đủ được ngọn nguồn của Tổ tông từ Thiền môn, nhân đó san lược rườm rà rút nhặt cốt yếu, chọn làm thành bộ “Truyền Pháp Chánh Tông Ký” gồm mười hai quyển, và một mặt họa vẽ chư Tổ để chỉnh sửa các sai nhầm ở truyện ký, gồm xưa trước có biên thuật tập “Phụ Giáo Biên Ấn Bản” một bộ ba sách, một phong thư dâng tâu trình bệ hạ, đều chẳng liên can mong cầu ân trạch, xin thần nộp dâng. Đối với Phật giáo, thần cũng từng lưu tâm, xem qua bút viết trước thuật, hẳn chẳng phải ước đoán tự nói, mà lại rất mực tinh vi. Bệ hạ nhân những lúc nhàn rỗi muôn duyên, rất đượm nhuần thấu đạt pháp lạc, cúi mong ban ân Thánh giám. Nếu có thể đáng tham khảo xin ban giao cho Trung Thư xem xét rõ, đặc biệt cho biên đưa vào mục lục Đại tạng, lấy làm tiến chỉ.

TẬP SỚ CỦA TRUNG THƯ HỨA THÂU VÀO ĐẠI TẠNG

Quyền Tri phủ Khai phong tấu trình có Sa-môn Khế Tung ở chùa Linh Ẩn soạn thành “Truyền Pháp Chánh Tông Ký” và họa đồ, xin biên ghi vào mục Đại tạng, lấy làm tiến chỉ.

“Phụ Giáo Biên” ba sách (đây là do Trung Thư phê lại, bởi sau vài ngày ban tập sớ, lại vâng phụng Thánh chỉ, lại cho “Phụ Giáo Biên” đều đưa vào Đại tạng nên phê ở đây vậy).

Kính vâng phụng Thánh chỉ, “Chánh Tông Ký” một bộ mười hai quyển, nên ban lệnh viện Truyền pháp gom đưa vào trong Đại tạng kinh. Phụ sớ giao cho viện Truyền pháp chuẩn cứ theo đây.

Ngày 17 tháng 03 năm Gia Hựu thứ bảy (1062) thời Bắc Tống.

Tể tướng ký tên.

TẬP SỚ CỦA TRUNG THƯ CHẲNG HỨA TỪ NHƯỢNG SƯ HIỆU

Sa-môn Khế Tung được ban tặng tử y ở Lan nhã, Vĩnh an chùa Linh Ẩn tại Hàng châu tấu trạng văn, nay là ngày 22 tháng nay (??) cúi được ban tặng hiệu là “Minh Giáo Đại sư”; một bức sắc điệp. Cúi nghĩ: Khế nùng tôi so với Tổ tông bản giáo chưa rõ pháp đạo mi vi, chẳng tự lường sức mình, nên trước thuật “Truyền Pháp Chánh Tông Ký”, “Phụ Giáo Biên” v.v... kính dâng tấu trình, xin được gội đượm Thánh triều, đặc biệt được ban tặng biểu dương này, chẳng chỉ không phải điều vốn mong muốn mà cũng là đạo đức rộng tỏa, thật chẳng dằn nỗi sự mặc tình, chẳng dám đương đầu nhận một bức hoàng điệp ấy, tùy theo trạng văn nộp trình rõ việc.

Kính tráp sớ trao giao tả nhai Tăng lục ty cáo thị chẳng hứa lại từ nhượng, chuẩn cứ theo đây.

Ngày mồng năm tháng tư năm Gia Hựu thứ bảy (1062) thời Nam Tống Tể tướng ký tên.

“Ngày mồng sáu tháng mười hai năm Tân sửu

(1061) thuộc niên hiệu Gia Hựu (1056-1064) thời Bắc Tống, Sa-môn Khế Tung đem bộ “Chánh Tông Ký”, “Phụ Giáo Biên” dâng tấu trình. Đến ngày 17 tháng 03 năm sau (1062), Tiên hoàng đế (Nhân Tông-Triệu Trinh 1023-1064 thời Bắc Tống) ban sắc đưa vào Đại tạng khiến cùng các kinh luật đều lưu truyền, bởi lưu lại tại chánh phủ bảy mươi mốt ngày, thừa tướng Gia Cự Công tự đọc xem xét duyệt, Phật giáo rực rỡ chấn phát từ xưa mà chưa có như vậy. Nên lấy gì để báo đáp ân ban đặc như vậy? Trở lại đất Ngô ba năm, có Khể Trọng Di là em của Tào Trọng Ngôn-người xứ đất Ngô rất vui thích nghe việc ưu thắng ấy, mới tìm mời các tay thợ khéo giỏi đến thiền viện Vạn thọ thuộc trong châu đó, cúng thí tài vật để khắc bản in, kính ngưỡng tán thán tốt lành lớn của nước nhà, và do các Sa-môn được truyền pháp như Giác sơ, Thủ kiên, Tri nhất tường tăng, Thiện tuệ, Tông ngộ hiệu xét.

Kính đề, ngày 11 tháng 04 năm Giáp thìn (1064) tức năm Trị Bình thứ nhất thời Bắc Tống”.

Mở lớn như trên, Sa-môn Thích Khế Tung, tự là Trọng Linh ở Đằng châu, thuở thiếu thời tập học Nho giáo, vân du vào đất Ngô, biên viết sách vở ở Tây hồ-Tiền đường. Trong khoảng niên hiệu Gia Hựu (1056-1064) thời Bắc Tống, đem các bộ “Truyền Pháp Chánh Tông Ký”, “Định Tổ Đồ”, “Phụ Giáo Biên” do chính khả năng tập học mà trước thuật nên đến cửa khuyết, văn từ sáng rỡ thấy như Hàn Ngụy Vương Âu Dương Văn Trung Công Vương Ký Công, các bậc cự công đương thời rất cùng chấp thuận. Lại dâng biểu văn tấu trình cùng Nhân Tông hoàng đế (Triệu Trinh 1023-1064) đọc xem, đến câu “Vì đạo chẳng vì danh, vì pháp chẳng vì thân”, vua rất mừng vui khen ngợi, lưu lại trong cung cấm qua thời gian lâu, và có ban sắc chỉ đưa vào Đại tạng. Đến trong khoảng niên hiệu Kiến Viêm (1127-1131) thời Nam Tống, bởi binh lửa nên thất lạc tan mất. Đến mùa thu năm Canh thìn (1160) thuộc trong niên hiệu Thiệu Hưng (11311163) thời Nam Tống, có trưởng lão Chánh Ngôn ở chùa Thái Bình tại Phước châu, nhân vân du đến khe Long thủ tại Đông sơn, gặp được bộ “Chánh Tông Ký” mười hai quyển, bèn đem “Phụ Giáo Biên” ba sách thêm vào, và kiểm xét mới lại, cho rằng, Thiền sư Minh-Giải Không, ở chùa Khai Nguyên nói là: “Sa-môn Khế Tung phụ giáo trong Phật giáo chúng ta là bậc Định tuệ kiêm tu, Đông hạ quanh năm chỉ mặc một áo nạp, thường ngồi chẳng nằm, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ban đêm trên đỉnh đầu mang đội tôn tượng Quán Thế Âm Bồ-tát mà hành đạo, trì tụng danh hiệu Bồ-tát mười vạn biến-lấy làm lệ thường, các bậc cao Tăng trong thời nhà Tống từ Bắc đẩu đến Nam chỉ một người mà thôi, tuy đem hết tre lụa cũng không thể biên ghi hết đạo hạnh ấy vậy”. Từ đó đốc suất các Thiền giả đồn sức khắc bản đưa vào Đại tạng ở chùa Khai Nguyên tại Phước châu để lưu truyền làm lợi ích vô cùng. Đại sư Phật Đăng-người nối dõi dòng pháp Tổ sư ở chùa Quảng Ứng tạo Thọ sơn san định và ghi bạc, Tỳ-kheo Đạo Ấn-người nối dõi dòng pháp Tổ sư trú trì chùa Sùng Báo-Giáo Trung hiệu chánh.

Sa-môn Khế Tung-Minh Giáo ở trong dòng họ Thích phù trì Chánh tông, bài xích dị thuyết, chỉ trách mà mở mang đó đều có viện cứ, chỗ gọi là chướng ngăn trăm dòng mà chảy về Đông, xoay sóng cả nơi đã đổ ngã vậy. Các bậc lão túc dốc sức cùng mở rộng sách ấy, đều là hàng thấu suốt tận đáy sách vở dụng tâm vậy. Duyên tùy hỷ có lớn đến như vậy ư?”

Ngày rằm (15) tháng 11 năm Giáp thân (1164) thuộc niên hiệu Long Hưng (1163-1165) thời Nam Tống, Tả phụng nghi lang đem đến Phước kiến bằng đường chợ thuyền buôn, thành sách kỳ đặc ở An lâm tại Tấn châu.

--------------------------------

TRUYỀN PHÁP CHÁNH TÔNG KÝ

-Sa-môn Thích Khế Tung ở đông sơn-Đằng châu thời Bắc Tống biên tu.

QUYỂN 1

DẤU HIỆU CỦA THỦY TỔ THÍCH-CA NHƯ LAI

Đất trời đổi mới, và châu Diêm-phù mới có vương giả xuất hiện, gọi là Đại nhân. Đại nhân ẩn một, thì vua sau nhân đó tiếp nối làm theo chẳng thôi, xưa nay hầu như chẳng thể tính kể, nhưng bậc Thánh thần mà có đức khác lạ thì xưng gọi đó là Chuyển luân vương, còn bậc đạo đức chẳng đạt cùng thì gọi đó là Lật tán vương. Đức đã có lớn nhỏ, mà chỗ trị vì cũng theo đó mà giáng sát, từ bốn thiên hạ giảm dần xuống ba, hai rồi đến một thiên hạ. Cho đến các nước, người được xưng gọi là vua tuy có cả muôn ức đời, mà chỉ một dòng họ Thích-ca tiếp nối nhau chẳng dứt. Mãi đến về sau có một vị vua tên là Đại Thiện Sinh. Đại Thiện Sinh, sinh ra Ý-sư-ma, Ý-sư-ma sinh ra Ưu-la-đà, Ưu-la-đa sinh ra Cù-la, Cù-la sinh ra Ni-phù-la, Ni-phù-la sinh ra Sư-tử-giáp, Sư-tử-giáp sinh ra Tịnh Phạn (cũng còn gọi là Phù Phạn), bảy đời này đều là vua nhưng chỉ có Ý-sư-ma và Tịnh Phạn là Thánh vương. Đức Thích-ca Như Lai sinh ra từ vua Tịnh Phạn, sống tại nước Trung Thiên Trúc. Thích-ca là dòng họ Mâu-ni là danh xưng.

Mới đầu, Đức Như Lai trong đời kiếp xưa trước gặp Phật Nhiên Đăng ở Đại thành Liên hoa, nhân trải tóc phủ đất để Phật giẫm bước qua. Vì sự rất mực chí kính Đức Phật Nhiên Đăng như thế nên bèn được dự ghi là: “Đời sau ông sẽ thành Phật như Ta, hiệu là Thích-ca Mâu-ni”. Sau đó, kiếp khác đổi mới, có vô số Thánh nhân đều tích tu thắng đức, mãi đến đời Đức Phật Ca-diếp, mới làm Bồtát thành đạo sinh lên cung trời Đổ-sử-đà, ứng sự bổ xứ, hiệu là Hộ Minh Đại Sĩ, giảng pháp trên trời để độ chúng trời. Đến lúc ứng vận vừa tới, Đại Sĩ mới nhóm hội chúng người trời cùng bàn nghị nơi hạ sinh. Chúng trời chưa có chỗ định, Đại Sĩ mới lấy nước Ca-tỳ-la trong Diêm-phù-đề. Gia đình vua Bạch Tịnh Phạn nhiều đời làm bậc đế vương, Thánh đức chí chân, chủng tộc Chuyển luân, nên nhân đó mà đến sinh. Khi ấy Đại Sĩ hiện tướng trời suy hao, sắp muốn hạ hóa, nhưng chúng trời đều khóc mang lưu ở lại. Đại Sĩ mới nói ý vãng sinh thành Phật đó để giải mở phan duyên ấy. Xong, Đại Sĩ bèn dứt tuyệt thọ mạng cõi trời, hiện tướng cưỡi bạch tượng từ trong mặt nhật giáng thần đến bên hữu hông Thánh Mẫu, Hoàng hậu của vua

Tịnh Phạn hiệu là Ma-da. Đêm ấy vội tâu cùng vua “Nay tôi nghiêm khiết thân tâm kính phụng pháp bát quan trai”. Vua Tịnh Phạn chấp thuận đó. Sau đó, Hoàng hậu mộng thấy Đại Sĩ cưỡi bạch tượng vào bên hông phía hữu mà dừng, các trời kính mộ quyến thuộc đó đồng thời sanh xuống nơi nhân gian nhiều vô số. Mới đầu Đại Sĩ ứng hiện trong thai, thân thể Thánh Mẫu rất khinh an, tự được Thiền lạc. Đến lúc sắp sinh hạ, hoàng hậu Ma-da mới có ý đến trong vườn uyển, như cung giám đều nghiêm trang kiệu báu. Vua lại ban chiếu các thị vệ cùng theo hầu đông nhiều. Đến dưới cây vô ưu ở trong vườn, hoa vừa mới nở, Hoàng hậu muốn hái hoa, vừa đưa tay vin lấy thì Thánh tử hiền từ hông phía hữu đản sinh. Có rồng thần liền phun nước tắm gội thân thể, từ đất, sen vàng mọc nở tiếp đỡ. Thánh tử mới lần lượt xoay bốn phương, mỗi phương bước bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, miệng nói: “Tứ duy thiên hạ chỉ có Ta là tôn quý”. Đến lúc nội yết vui mừng vào tấu trình. Nghe thế, vua Tịnh Phạn đem theo vô số quý thuộc đều đến trông xem, mới chẳng dằn nỗi vui mừng lớn. Khi ấy thiên thần địa kỳ đều trông thấy mà chúc tụng rằng: “Cầu mong Đại Sĩ chóng thành Chánh giác”. Sau đó, vua đưa Thánh tử đến bái yết Thiên miếu, tôn tượng trời tự nhiên đứng dậy kính lễ Thánh tử. Trở về cung, vua Tịnh Phạn mời các bậc Hiền giả vì đặt tên cho Thánh tử, mọi người mới tâu nên xưng Thánh tử với hiệu là “Tát-bà-tất-đạt”. Đến lúc vua Tịnh Phạn mời các thầy đoán tướng, tiên nhân A-tư-đà liền ứng chiếu, vừa đến trông thấy Thánh tử, A-tư-đà liền đảnh lễ sát chân Thánh tử mà khóc nói rằng: “Đây là bậc chí tôn của cả ba cõi, năm 19 tuổi sẽ làm Chuyển luân vương, nếu không như vậy thì sẽ xuất gia thành Phật, cứu độ người đông nhiều vô lượng. Chỉ hận tôi nay đã quá già yếu, chẳng thể gặp thấy đó!” vua Tịnh Phạn vì lời nói của tiên nhân A-tư-đà nên rất lo toan đó, càng cẩn mật nghiêm giữ quý báu. Lúc Thánh tử dần lớn, vua Tịnh Phạn mời thầy chỉ dạy cho Thánh tử tập học sách vở thế tục. Thánh tử mới đem pháp ấy thưa hỏi mà các thầy đều không thể trả lời. Ở đời có các sự việc kỹ nghệ, thiên văn, địa lý, bắn tên cưỡi ngựa trăm thứ nghề nghiệp, đều không đợi chỉ dạy mà Thánh tử đều có thể thực hành đó. Sau đó không lâu, lập làm Thái tử và ban giao cho Quốc bảo. Nhưng Thánh tử nhân đã rất khiết tịnh thanh bạch, tuy hiện tướng đồng lấy vợ như người đời mà chẳng có ý thức của phàm tục. Vì duyên nghiệp xưa trước, tức chỉ vào bụng của Hậu phi (cung của chúa Da-du-đà-la) và bảo: “Sáu năm sau ngươi sẽ sinh một nam tử”.

Một sáng nọ, Thái tử bảo chuẩn bị xa giá muốn dạo chơi, tuy đi ra bốn cửa thành mà đều có chỗ gặp, cuối cùng vì các cảnh người già, người bệnh, thây chết và vị Sa-môn gợi cảm, mà chí ý xuất gia của Thái tử càng phát mạnh khi đã trở về trong cung, Thái tử đem chí ý mình tâu cùng phụ vương. Vua Tịnh Phạn vì quốc gia không có Thánh tử nối dõi, mới nắm tay Thái tử khóc và bảo: muốn cản trở tâm chí Thái tử. Lại gặp người trời Tịnh Cư từ cung trời đến, đảnh lễ sát chân Thái tử mà thưa: “Đại Sĩ xưa trước chuyên tích tập thắng đức, nay xuất gia đúng phải thời vậy. Xin nên chóng đi!” Thái tử bảo: “Như lời các ông nói, nhưng ban đêm canh phòng rất nghiêm mật, muốn làm sao để đi?” Người trời mới dùng thần thông che mờ các người canh giữ, khiến đều say ngủ không ai cảnh tỉnh. Thái tử bèn kín bảo kẻ tớ Xa-nặc. Xa-nặc dẫn ngựa thần Kiền trắc đến trước, nhưng ngựa tỏ vẻ u buồn, Xa-nặc than khóc, Thái tử phải an ủi đó. Khinh tướng chóng tỏ, đuốc sáng cùng cả Đại thiên. Thái tử bảo: “Chư Phật ở thời quá khứ lúc xuất gia cũng vậy”. Khi ấy các trời bưng đỡ chân ngựa và tiếp Xa-nặc từ cửa phía Bắc thành nhảy vọt giữa không trung mà đi. Thái tử lại bảo: “Nếu chẳng dứt tám thứ khổ thì chẳng Chuyển pháp luân, nếu không thành tựu Vô thượng Bồ-đề thì trọn chẳng trở về”. Chúng người, trời đều tán thán “Tốt lành thay! Vì đó xin ghi nhận lấy”. Kịp lúc đến núi tên là Đànđặc, mới đầu dừng nghỉ chốc lát nơi cạnh rừng. Xong, Thái tử cởi bỏ áo mão, tự lấy kiếm báu có mang theo cắt bỏ mái tóc, phát thề rằng: “Nguyện cùng tất cả đoạn dứt phiền não này”. Và liền trao tóc đó cho vua trời. Khi ấy trời Tịnh Cư hóa làm người mặc y Tăng-già-lê bằng da nai đến xin hỏi áo bái của Thái tử. Nhân đó được pháp phục, mặc vào càng thêm tăng tấn. Nơi tốt lành của núi đó có tên gọi là núi báu Di lâu tiên nhân ẩn cư xưa trước tại Già-lam A-lam trông thấy Thái tử, đều cung kính nhường, đồng ngồi cùng luận bàn pháp. Đến lúc sai Xa-nặc trở về, phụ vương lo buồn nghĩ ngợi rất lắm, thảy đều muốn Thái tử trở về. Tuy nhiều lời can ngăn, nhưng Thái tử trọn chẳng nghe theo. Cuối cùng vua Tịnh Phạn ban sắc chiếu sai phái người đến nghinh đón Thái tử. Các quan đến nghinh thỉnh có cả muôn kế, tuy dụ dỗ khẩn thiết khuyên mời, mà Thái tử vẫn tự nhiên chẳng xoay đổi ý chí, mới để Kiều Trần Như v.v... năm người ở lại để sung lo theo hầu Thái tử. Từ đó Thánh nhân mới tập thực hành “Định Bất dụng xứ” trải qua ba năm, mà pháp ấy không thấu đạt rốt ráo, Thánh nhân bèn xả bỏ. Lại đi đến nơi Uất-đầu-lam-phất tập hành định phi phi tưởng, cũng trải qua ba năm (tức là nơi của hai tiên nhân Điều-phục, A-la-la-cA-lan). Lại vì pháp ấy không thấu đạt rốt ráo, Thánh nhân lại đến nơi đồng bạn ngoại đạo xen tạp, tập hành khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt gạo hạt mè. Ở đó sáu năm rồi vị ngoại đạo ấy cũng qua đời. Thánh nhân mới tự suy nghĩ rằng: “Nay pháp tu khổ hạnh này chẳng phải giải thoát chân chánh. Ta phải nên thọ thực lại, và sau mới thành Phật”. xong, Thánh nhân bèn đến tắm gội nơi sông Niliên-thuyền, chư Thiên uốn nghiêng cành cây để Thánh nhân vin đó mà ra, và thọ nhận bát cháo sữa của nàng chăn bò dâng cúng. Sau đó, Thánh nhân đến dưới gốc cây tất-bát-la. Vua trời hóa làm người ôm bó cỏ tốt lành (cát tường) đến dâng cúng để trải làm chiếu ngồi. Mây cảnh gió lành chen nhau đưa đến, thiên ma kinh sợ đốc suất binh chúng đến để náo loạn. Thánh nhân đưa ngón tay ấn xuống đất, quả đất rung động ma quân thảy đều té ngã, từ đó bèn chịu đầu hàng.

Sau đó, đến đêm mồng bảy tháng hai, Thánh nhân nhập Chánh Tam-muội, lúc sao mai sáng mồng tám sắp ló dạng, Thánh nhân hiện bày tự nhiên đại ngộ, mới thành Đẳng chánh giác. Bấy giờ, đại địa rúng động lay chuyển, mọi sự tốt lành trong đất trời thảy đều xuất hiện mà ứng nhận đó. Hoặc là trời, là ma, là người, là thần đều nhóm tụ rất mực chí kính. Đến lúc Như Lai lên tòa Kim cang, vua trời cùng theo đó và cầu thỉnh Chuyển pháp luân. Mới đầu, Kiều Trần Như v.v... năm anh em hầu Thánh nhân ở trong rừng, đến nay trước tiên nên độ cho họ, nên Đức Như Lai vào vườn Lộc uyển đàm giảng pháp Tứ đế. Nhân đó mà chứng đắc đạo quả có đến muôn ức người. Thế rồi, Đức Như Lai bảo cùng các Tỳ-kheo rằng: “Các vị đều có thể làm ruộng phước cho người đời, mỗi vị hãy tùy duyên mà đến cảm hóa mọi vật”. Xong, Đức Như Lai bèn riêng một mình đến nước Ma-kiệt-đề nguyên nước ấy trước đó có người kỳ đặc tên là Ưu-lâu-ca-diếp, anh em cả thảy có ba vị đều chứng đắc tiên thuật, rất ỷ lại đạo ấy mà tự cao, họ có đồ chúng khoảng vài ngàn người. Không ngờ rằng Đức Như Lai đến, tự nhiên đều theo sự cảm hóa của Như Lai, cùng cả đồ chúng đó thảy đều chứng đắc đạo quả.

Mới đầu, vua Bình Sa có khu vườn Trúc lâm, được xưng gọi đó là một cảnh xinh đẹp, vua luôn tâm niệm nghĩ suy “Nếu Đức Như Lai trước đến nơi đây, ta sẽ cúng thí khu vườn này”. Đức Như Lai rõ biết tâm niệm đó, bèn đến dừng nghỉ trong vườn. Nghe thế vua vui mừng mở lớn dẫn theo, chẳng những vậy mà có đến ngàn muôn người đồng đến nơi Như Lai. Đã thấy gặp mà trong chúng hoặc có người nghi ngờ, Đức Như Lai liền bảo Tôn giả Ca-diếp vì họ giảng nói pháp để giải mở mọi nghi hoặc. Vua cùng tất cả các chúng trời, người bèn chứng đắc pháp nhãn, vua mới cúng thí khu vườn ấy làm thành tinh xá, thỉnh mời Đức Như Lai chừng ở tại đó. Sau đó không bao lâu, trong chúng hội có vị Tỳ-kheo đến khất thực tại thành Vương xá, mà Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nghe pháp từ vị đó, nhân đó bèn được khai ngộ, bèn cùng vị Tỳ-kheo ấy trờ về nơi Đức Như Lai. Đức Như Lai bảo: “Hai người vừa lại đây, sẽ là đệ tử thượng túc của Ta”. Nên bèn vì hóa độ cho.

Đại Ca-diếp mới đầu tự cắt bỏ râu tóc, vào núi tập hành thiền định, một ngày nọ, giữa không trung có vị thần bảo: “Nay, Đức Phật đã xuất hiện nơi đời, đó là bậc thầy của ngươi”. Vì vậy, Đại Ca-diếp cũng đến nơi tinh xá Trúc lâm. Khi đã đến nơi, Đức Như Lai đứng dậy tiếp đón và ngoái lại bảo cùng Đại chúng”. Sau khi Ta diệt độ, giáo pháp vẫn còn lưu truyền lan tỏa ngoài sáu vạn năm, chính là do sức lực của người này vậy”.

Từ khi chứng đắc đạo quả đến đây đã sáu năm mà đối với phụ vương, Đức Như Lai chưa từng trở về thấy gặp, nên vua Tịnh Phạn rất nhớ trông, thị thần Ưu-đà-di xin đến thưa Đức Như Lai về ý của vua trông nhớ bởi lâu ngày cách biệt, nhân đó thỉnh mời Đức Như Lai về nước. Ưu-đà-di đã đến nơi, Đức Như Lai vì an ủi chỉ dạy, sau đó Ưu-đà-di cũng chứng đắc đạo quả A-la-hán. Và Đức Như Lai liền sai bảo trở về nước thưa cùng phụ vương là: “Bảy ngày sau Đức Như Lai sẽ về đến”. Đến kỳ hẹn, vua Tịnh Phạn ra khỏi nước cách bốn mươi dặm thiết bày nghi trượng để nghinh đón Đức Như Lai, nỗi mừng vui cảm động cả đất trời, vua cùng trông thấy rất mực vui mừng. Nhân đó ban chiếu cho năm trăm quý tử trong vương tộc đồng theo Đức Như Lai xuất gia tu đạo. Khi Đức Như Lai về lại trong cung, La-hầu-la ra kính lễ, mang áo của Thánh nhân ra mà bảo: “Đây chánh là của Như Lai vậy”. Với ý dụng vì mẹ mà giải thích mọi sự nghi ngờ, nhờ vậy mà phước trùm khắp chẳng cùng, tất cả sinh linh đều đội nhờ, đất nước bèn lớn mạnh, đượm hưởng cảm hóa của Đức Như Lai.

Từ đó, Đức Như Lai tùy cơ duyên giảng nói pháp, trên các cõi trời cho đến trong nhân gian, nơi long cung cho đến các phương khác, phàm nơi nào Đức Như Lai đến, đều vì làm lợi ích lớn. Nhưng việc làm của Thánh nhân, không thể ghi đầy đủ lại tất cả. Về sau, thời gian giáo hóa sắp gần hết, Đức Như Lai mới bảo Ma-ha Ca-diếp rằng: “Ta đem pháp nhãn thanh tịnh Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, Chánh pháp vi diệu, nay đây giao phó cho ông, ông phải hộ trì. Và bảo A-nan kế tiếp thứ hai hoằng truyền giáo hóa chớ khiến dứt mất”. Và Đức Như Lai nói kệ tụng rằng:

“Pháp vốn pháp vô pháp
Pháp vô pháp cũng pháp
Nay lúc trao vô pháp
Pháp pháp nào từng pháp”

Nói kệ tụng rồi, Đức Như Lai lại bảo Đại Cadiếp rằng: “Ta đem pháp y Tăng-già-lê bằng lụa vàng cũng giao phó cho ông, ông nên chuyển trao đến Phật Từ Thị (cũng gọi là Phật Di-lặc) bổ xứ, đợi vị ấy xuất hiện nơi đời, nên cẩn mật gìn giữ đó”. Đại Ca-diếp bèn vâng lời, đảnh lễ sát chân tán thán tốt lành kính phụng lời Phật chỉ dạy. Một sáng nọ, quả nhiên, Đức Như Lai đến thành Câu-thi-na giữa khoảng hai cây Sa-la, bảo cùng Đại chúng: “Ta nay muốn nhập Niết-bàn!” Trong chúng hội, có trưởng giả Thuần-đà khẩn thiết xin được cúng dường, Đức Như Lai nhân đó lại giảng nói pháp, và sau cùng là hóa độ Tu-bạt-đà-la, rồi Đức Như Lai trải qua các định Tam-muội và đứng dậy nơi tòa, vén pháp y Tăng-già-lê để lộ bày thể tướng sáng ngời sắc màu vàng tía, chúc lụy cùng Đại chúng rồi, Đức Như Lai nghiêng phía hữu mà nằm, điềm nhiên thị tịch. Khi ấy bốn chúng đệ tử có đến muôn ức, trời, người buồn khóc, luyến mộ chuyển động cả Đại thiên thế giới, trời rải mưa hoa quả đất rung động. Và lúc tôn trí kim thân Như Lai vào trong kim quan đợi chờ Đại Ca-diếp, mà lửa thế gian không thể đốt cháy. Khi Đại Ca-diếp vừa đến, hai bàn chân Đức Như Lai từ trong kim quan đưa ra. Đại Ca-diếp nâng vuốt kính mộ buồn khóc. Thế rồi kim quan tự nhấc bổng lên bay quanh thành Câu-thi-na, xong rồi hạ xuống, dùng lửa Tammuội tự đốt cháy đó. Đốt cháy rồi mà xá-lợi tỏa sáng cả đại đại. Trong chúng hội hoặc là trời là người là thần là rồng đều cùng phân chia nghinh thỉnh về tạo tháp tôn trí cúng dường!

* Thử xét:

Đức Như Lai xuất hiện nơi đời ngày mồng tám tháng tư năm Giáp dần tức năm thứ chín thời vua Chiêu Vương nhà Chu. Đức Như Lai xuất gia ngày mồng tám tháng hai năm Nhâm thân tức năm thứ hai mươi bảy thời vua Chiêu Vương nhà Chu. Đức

Như Lai thành đạo năm Mậu dần, tức năm thứ ba mươi ba cũng thời vua Chiêu Vương nhà Chu. Đức Như Lai diệt độ ngày 15 tháng 02 năm Nhân thân tức năm thứ ba mươi sáu thời vua Mục Vương. Đức Như Lai thị tịch đã qua một ngàn không trăm mười bảy (1017) năm, đến năm đinh mão (67) tức năm Vĩnh Bình thứ mười, thời vua Hiếu Minh Đế (Lưu Trang 58-76 thời Đông Hán), giáo pháp mới lưu truyền đến Trung Hoa. Than ôi! Đức Như Lai hiện tướng tuổi thọ đồng như người đời, chỉ 79 tuổi, đêm Chánh pháp truyền hóa nơi đời chỉ bốn mươi chín năm (theo Cựu Phả (Phả ký xưa trước) nói là Đức Như Lai năm 19 tuổi xuất gia, sáu năm tu hành tại núi Tuyết, năm 30 tuổi thành đạo, giảng pháp nơi đời bốn mươi chín năm, năm 79 tuổi diệt độ. Nay nếu đem số năm mà so sánh, nếu chỉ có sáu năm tu hành, tức thành đạo lúc 25 tuổi. Nếu nói năm 30 tuổi, Đức Như Lai mới thành đạo, thì phải có thêm sáu năm ở nơi hai tiên nhân tập học giáo pháp, mới hợp với số nguyên), mà hóa độ các loài hữu tình số đó không thể tính kể. Pháp Đức Như Lai giảng nói gồm có Kinh, Luật và Luận mênh mông như trăm ngàn biển lớn. Người tham cầu tùy sức cạn sâu mà đều chứng đạt. Nhưng nếu suy xét đến lâu xa thì cùng đồng với thủy chung của đất trời, nếu chỉ ở sự thân gần thì tận cùng sự thành hoại của da và tóc, sâu mầu thì cùng tận quỷ thần, huyền diệu thì thông cả biến hóa, lớn hẳn khắp cả trời, người, nhỏ thì chẳng để sót lọt một côn trùng. Đó là đầu mối của họa phước trong thiên hạ, là cội gốc của tánh mạng, đều ở trong đó. Ấy là đạo của Đức Như Lai lớn như thế, giáo pháp của Như Lai trùm rộng như vậy. Tự xét thấy mình là phàm phu bỉ lậu chẳng đủ biết đó mà dám tán thán. Nghĩ rằng từ khi có nhân sinh đến nay, chưa có tôn quý nào lớn sánh cùng Thánh nhân, từ khi có Thánh nhân đến nay chưa có ai thấu đạt rốt ráo như Đức Như Lai vậy. Xưa kia, Liệt Ngự Khấu từng nói là: “Khổng Tử từng nói cùng Thương Thái Tể: “Người phương Tây có Thánh nhân, không trị vì mà chẳng loạn, không giảng nói mà tự tin, không cảm hóa mà tự thực hành, mênh mông thay, dân không thể xưng gọi vậy! Khâu tôi nghi đó là Thánh, chẳng biết thật là Thánh hay thật chẳng phải Thánh ư?” Thái Tể im lặng mà tâm ý tự nghĩ: “Khổng Khâu khinh thường ta thay!” Lấy đó mà xét nghiệm, thì lời nói của Liệt Ngự Khấu chẳng là hư dối vậy. Những sự kiện xuất hiện đến diệt độ nơi đời, và đến cả sự kiện xuất gia thành đạo của Đức Như Lai, hoặc nhằm trong niên đại thời vua Chiêu Vương và Mục Vương. Nhưng trong thời nhà Chu từ đời vua Võ Vương đến thời vua Lệ Vương đều không có niên số. Đến thời vua Tuyên Vương mới có niên số. Ở Cựu Phả mới nói là năm thứ chín, năm thứ hai mươi bảy, năm thứ ba mươi ba thời vua Chiêu Vương, và năm thứ ba mươi sáu thời vua Mục Vương. Hoặc giả rất chẳng lấy làm vậy. Tôi từng biện giải đó, nên xét khảo “Tam đại thế biểu” của Thái Sử Công, thấy lời tựa trong đó nói: “Tôi đọc Điệp ký Hoàng đế trở lại nay đều có niên số, xét về thủy chung của Lịch, Phả và Điệp, truyện của Ngữ Đức, văn xưa hoặc chẳng đồng, trái khác với Phu tử chẳng luận về thứ tự năm tháng ấy, đâu hư dối ư?” Lấy đó mà nghiệm thì từ Tam đại trở về trước chẳng phải thật không có niên số. Bởi vì Thái Sử Công dùng Khổng Tử làm chỉ của thượng thư nên chẳng ghi về niên số mới làm “thế biểu”. Nghi thì lưu truyền nghi, mãi đến các bậc Hiền-Học giả đời sau, như đồng bạn Hoàng Phụ mật lại suy lường mà cải chánh đó, nên làm thành Cựu Phả của dòng họ Thích, nhân đó lấy làm sách.

Đó là có thể rõ ràng vậy, ai cho là không như thế!

* Thử bàn luận:

Đức Như Lai phó pháp cho Đại Ca-diếp, sự kiện ấy ở thời gian nào? Hẳn lấy gì để làm rõ ư? Xin đáp là: Xưa kia, mới đầu trong pháp hội Niếtbàn, Đức Như Lai bảo cùng Đại chúng Tỳ-kheo rằng: “Các người không nên nói như thế. Nay Ta có Chánh pháp Vô thượng hẳn đã phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp. Là Đại Ca-diếp sẽ vì các người làm nơi nương tựa lớn”. Đó là rõ ràng vậy (xem kinh Niết-bàn quyển hai). Nhưng về Chánh tông là, bởi vì mật tướng trao truyền và thọ nhận của Thánh nhân, hẳn không thể biết ở nơi nào và lúc nào vậy. Lấy theo kinh mà châm chước thì kinh Pháp Hoa giảng nói trước, kinh Niết-bàn giảng nói sau. Lúc Đức Như Lai mới giảng nói kinh Pháp Hoa thì Đại Ca-diếp đã dự lãnh vậy, đến lúc giảng nói kinh Niết-bàn, Đại Ca-diếp không ở trong chúng hội. Tôi cho rằng thời gian Đức Như Lai trao truyền Chánh pháp là tại trong hai kinh ấy.

Hoặc lại cho là: Tại trong pháp hội trên núi Linh thứu, Đức Như Lai nâng cành hoa chỉ bày, khi ấy Đại Ca-diếp mỉm cười, đó tức là lúc phó pháp. Hoặc lại cho là: Đức Như Lai phó pháp cho Đại Ca-diếp ở trước tháp Đa tử, mà ở đời cho là đó là sự thật của việc trao truyền và thọ nhận. Nhưng chưa thấy nơi lưu xuất điều ấy. Tôi tuy hơi chấp lấy cũng chẳng dám quả quyết nhất định hẳn vậy. Hoặc lại có người cho là ở đầu các sách khác, hẳn đều có nêu bày bảy Đức Phật, mà sách này thì không. Há kệ tụng của bảy được Phật, chẳng phải là cựu dịch ư? Xin đáp là: Không như vậy. Phàm là Chánh tông, hẳn lấy thân gần cùng thầy truyền thừa, vì hiệu nghiệm ấy, nên đây cắt từ Đức Thíchca Như Lai đã xuất hiện nơi đời, do đó, tôi không nêu bày lại ấy vậy. Tôi xét thấy Bảo Lâm truyền đăng, truyện ký của các nhà đều tố thuật từ Chicương-lương-lâu ở thời Tiền Ngụy và từ Na-liênda-xá ở thời Đông Ngụy, trong các bản dịch của hai vị Phạm Tăng ấy. Hoặc các bản ấy ở đầu nêu bài kệ tụng của bảy Đức Phật, bởi cũng xuất phát từ bản dịch của hai vị Chi-cương-lương-lâu và Naliên-da-xá vậy, đâu cho là không phải bản cựu dịch ư? Nhưng truyện Bảo Lâm ở phần đầu không nêu bày bảy Đức Phật, như là ý trong sách tôi (Khế Tung) đây vậy.

-(HẾT)-

QUYỂN 2

1. Truyện Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tổ thứ nhất ở Thiên Trúc

2. Truyện Tôn giả A-nan, Tổ thứ nhì ở Thiên Trúc

3. Truyện Tôn giả Thương-na-hòa-tu, Tổ thứ ba ở Thiên Trúc

4. Truyện Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa, Tổ thứ tư ở Thiên Trúc

5. Truyện Tôn giả Đề-đa-ca, Tổ thứ năm ở Thiên Trúc

6. Truyện Tôn giả Di-già-la, Tổ thứ sáu ở Thiên Trúc

7. Truyện Tôn giả Bà-tu-mật, Tổ thứ bảy ở Thiên Trúc

8. Truyện Tôn giả Phật-đà-nan-đề, Tổ thứ tám ở Thiên Trúc

9. Truyện Tôn giả Bạt-đà-mật-đa, Tổ thứ chín ở Thiên Trúc

10. Truyện Tôn giả Hiếp, Tổ thứ mười ở Thiên Trúc

11. Truyện Tôn giả Phú-na-dạ-xa, Tổ thứ mười một ở Thiên Trúc.

*****

1. TRUYỆN TÔN GIẢ MA-HA CA-DIẾP, TỔ THỨ NHẤT Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, người nước Ma-kiệtđà, vốn chủng tộc Bà-la-môn. Thân phụ Tôn giả hiệu là Ẩm Trạch, thân mẫu hiệu là Hương Chí. Vừa mới sinh, mà Tôn giả sớm hiện bày tư chất đẹp xinh, thân hình sắc màu vàng ròng và tỏa chiếu soi sáng rất xa. Có vị thầy đoán tướng, bảo: “Đứa trẻ này đời trước vốn có tu tạo phước đức thù thắng thanh tịnh, theo tướng pháp hẳn sẽ xuất gia”. Song thân của Tôn giả rất lấy làm lo buồn, mới cùng nhau bàn tính là “nên cưới vợ đẹp may ra có thể ràng buộc tâm ý Tôn giả”. Vừa hơi lớn, liền bị khổ bởi buộc phải lấy vợ, mà Tôn giả nhất định chối từ, bất đắc dĩ mới lừa dối nói: “Nếu không chọn được người nữ nào sắc màu vàng ròng như con, thì hẳn không cưới vợ”. Song thân mới dùng kế của các Bà-la-môn đúc một hình tượng người vàng để trên giá kiệu đưa đi khắp nước, nhân mọi người trông nhìn đó mà tìm cầu kết hôn cho Tôn giả, quả nhiên có được một người nữ sắc màu vàng ròng như Tôn giả, bèn cưới lấy làm vợ cho Tôn giả.

Nhân thời xưa trước, sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi nhập Niết-bàn, mọi người đem xá-lợi của Đức Phật xây dựng tháp để cúng dường, mà khuôn mặt tôn tượng nơi tháp ấy bằng vàng ròng, có bị khuyết hư. Bấy giờ Tôn giả Ca-diếp là một người thợ đúc vàng, gặp có một người nữ nghèo đem đến một tiền vàng, cầu xin vì sơn thếp lại tôn tượng Phật, muốn đến tu bổ sửa sang đó. Nghe thế, Tôn giả Ca-diếp vui vẻ vì giúp tu bổ, xong rồi, nhân đó cùng nhau thề nguyền đời đời cùng kết vợ chồng. Vì quả báo ấy nên trải qua chín mươi mốt kiếp, thân thể của hai người đều sắc màu vàng ròng. Sau đó, sinh lên cõi trời Phạm thiên, khi thọ mạng ở cõi trời đã hết, Tôn giả mới sinh ra trong gia đình giàu quý thuộc chủng tộc Bà-la-môn. Đến lúc đã sánh đôi vợ chồng mà hình thể vẫn tự nhiên như xưa cũ, nên mới đầu Tôn giả có tên gọi là “Ca-diếp-ba”, tiếng Trung Hoa dịch nghĩa là “Ẩm Quang”, bởi do lấy các nghĩa sắc màu vàng ròng vậy. (Trong bản ghi phiên âm Phạm ngữ thông cùng Hoa ngôn như thế. Ca-diếp-ba có nhiều loại, hoặc ghi lục các bản trước trong nước nhà đã lưu truyền, ở đây không dám lấy khả năng Phạm học mà so sánh đó). Nhưng cả hai người đều thanh tịnh, tuy sánh đôi nhưng trọn không có ý của tâm tình trai gái, cuối cùng cũng khẩn cầu xin được xuất gia. Song thân bèn phải thuận theo ý Tôn giả.

Khi đã làm vị Sa-môn, Tôn giả vào núi lấy hạnh Đầu-đà mà tự tu. Nhân nghe giữa hư không có tiếng bảo: “Đức Phật đã xuất hiện nơi đời, xin nên đến theo đó mà tu hành”. Tôn giả bèn đến tinh xá Trúc lâm, đầu thành kính cẩn đảnh lễ. Đức Như Lai mới phân tòa, bảo Tôn giả ngồi, cả Đại chúng đều rất kinh ngạc cho rằng: “Người này cớ sao được như vậy?” Đức Như Lai biết tâm niệm đó, mới giảng nói nhân duyên xưa trước của Tôn giả để dứt trừ tâm nghi ngờ trong Đại chúng. Sau đó, Đức Như Lai bèn vì giảng pháp, và Tôn giả ngay nơi tòa ngồi mà thành đạt đạo quả. Và nhân Tôn giả chưa nhóm công đức tu hành ưu thắng và trí tuệ cao xa, nên Đức Như Lai từng bảo: “Nay Ta có được các pháp Đại từ Đại bi, Tứ thiền Tam-muội, vô lượng công đức để tự trang nghiêm, mà Tỳ-kheo Ca-diếp cũng được như vậy!” Một ngày nọ, Đức Như Lai đem Chánh pháp phó chúc cho Tôn giả, dặn Đại sư Tôn giả lưu truyền khiến chớ đoạn tuyệt, sau đó, lại trao cho Tôn giả pháp y ca-sa dệt bằng vàng, bảo Tôn giả truyền trao đến Đức Phật Di-lặc. Đến lúc Đức Như Lai nhập Niết-bàn, thì Tôn giả đang ở tại núi Kỳ-đà-quật. Khi ấy quả đất lay động, ánh sáng tỏa chiếu khắp nơi, Tôn giả dùng thiên nhãn soi xét mới nhận biết, bèn bảo cùng đồ chúng đang theo mình rằng: “Đức Phật đã nhập Niết-bàn rồi! Than ôi! Mắt Chánh pháp tắt lịm, thế gian trống không”. Xong, Tôn giả liền dẫn đồ chúng đồng đến thành Câu-thi-na. Khi đến nơi hai cây Sa-la thì Đức Như Lai đã thị tịch và kim thân đã tôn trí trong kim quan. Tôn giả rất xúc động, bèn cảm hai bàn chân của Đức Như Lai hiện bày ra ngoài kim quan để an ủi sự buồn cảm của Tôn giả. Sau đó, Tôn giả dùng bông tơ trắng chiênđàn để cúng dường mà trà-tỳ. Xong rồi, Tôn giả bảo: “Kim cương xá-lợi nên để cho người trời lấy làm ruộng phước, còn chư vị Tỳ-kheo chúng ta nên chuyên việc kết tập giáo pháp để lại cho đời sau có được ánh sáng lớn ấy”. Và Tôn giả liền thần thông tự bay lên đỉnh núi Tu-di mà nói kệ tụng rằng:

“Là đệ tử Như Lai
Hãy chớ vội tịch diệt
Những vị đạt thần thông
Nên cùng đến kết tập”.

Tôn giả bèn khua chuông vàng, lời kệ tụng ấy nhân tiếng chuông mà vang xa khắp cùng nghe, nên có năm trăm vị ứng chân (A-la-hán), (có thuyết nơi là một ngàn vị) đều nhóm tập đến hang tất-bátđa. Chỉ có Tôn giả A-nan nghiệp lậu chưa hết nên chẳng được vào dự tham, dừng nghỉ ngoài cửa hang trọn đêm tư duy, đến lúc mờ sáng liền được đạt ngộ, bèn gõ cửa thưa vào. Tôn giả bảo: “Nếu đã đạt ngộ thì ông có khả năng vận dụng sức thần vượt qua khe khóa cửa mà vào”. Tôn giả A-nan bèn theo lời bảo đó mà cùng đến dự hội kết tập.

Khi ấy, Đại chúng đều bàn nghị: “Với Tam tạng Thánh giáo thì nên làm gì trước?” Tôn giả bảo: “Trước tiên nên kết tập tạng Tu-đa-la (kinh tạng)”. Và nhân đó, bảo cùng các Thánh giả rằng: “Tỳ-kheo A-nan đây là bậc tổng trì đệ nhất, vả lại thường luôn theo hầu Đức Như Lai, giáo pháp đã nghe được tợ như nước rót vào bình, không có rơi lọt”, nên mời Tôn giả A-nan kết tập tạng Tu-đa-la. Tiếp đến, mời Tôn giả Ưu-ba-ly kết tập tạng Tỳ-ni (luật tạng), (các bộ khác hoặc cho là mời Tôn giả Ca-chiên-diên). Xong rồi, Tôn giả (Ca-diếp) bèn nhập định nguyện trí Tam-muội quán sát các tạng đã kết tập quả thật không có sai nhầm. Nhưng Tôn giả ở nơi đời đã bốn mươi lăm năm, cuối cùng, việc kết tập pháp bảo đã hoàn tất, và việc thuyết pháp độ người cũng đông nhiều vô lượng. Tôn giả tự nghĩ mình đã già suy, nên đến nhập định tại núi Kê túc đợi chờ Đức Di-lặc ra đời, nên bảo cùng Tôn giả A-nan rằng: “Xưa trước, lúc sắp nhập Niết-bàn, Đức Như Lai đem Chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ta, nay ta sắp ẩn một, nên lại giao phó cho ông. Ông hãy khéo gìn giữ trao truyền, khiến chớ dứt mất”. Và Tôn giả bèn nói kệ tụng rằng:

“Các pháp, pháp xưa nay
Không pháp, không phi pháp
Tại sao trong một pháp
Có pháp, có phi pháp.”

Khi ấy, Tôn giả A-nan đảnh lễ kính vâng. Tôn giả lại nghĩ suy rằng: “Xá-lợi của Đức Như Lai đều ở trên các cõi trời, nên muốn đến giả từ”, bèn dùng sức thần bay đến khắp các tháp miếu tôn thờ Xálợi, lễ bái xong rồi trở về, Tôn giả nhân trước kia có ước hẹn là hẳn đến giả biệt cùng vua A-xà-thế. Khi Tôn giả đến cửa thì A-xà-thế vừa mới ngủ, nên bảo tên lính canh cửa rằng: “Ta là Ma-ha Ca-diếp sắp nhập định tại núi Kê túc, nên đến cùng giả biệt nhà vua. Vua thức dậy, nên tâu trình như thế”. Lúc ấy nhằm trong đời vua Hiếu Vương (Cơ Trích Phương 884-869 trước Tây lịch) thời Tây Chu ở Trung hoa.

Tôn giả vào sâu thẳm trong núi đó, trải cỏ mà ngồi, lại tự tư duy rằng: “Nay ta đắp mặc pháp y phấn tảo, gìn giữ pháp y Tăng-già lê của Đức Phật, hẳn phải trải qua năm mươi bảy câu-chi sáu mươi trăm ngàn năm, đến lúc Đức Di-lặc xuất hiện nơi đời trọn không rã hoại”. Mới bảo cùng thần núi: “Nếu vua A-xà-thế và Tôn giả A-nan đều lại đây, ông nên vì mở cửa ra rồi khép đóng lại”. Xong, Tôn giả vắng lặng mà nhập diệt tận định. Khi ấy đại địa chấn động, và vua A-xà-thế cũng tự mộng thấy đòn xà nơi cung điện gãy đổ, sau khi tỉnh giấc bèn hỏi kẻ canh cửa, thì quả nhiên đem lời Tôn giả bảo mà tấu trình. Nghe thế, vua buồn khóc và than thở, liền đến tinh xá Trúc lâm, lễ bái Tôn giả Anan và mời cùng đồng đến núi Kê túc. Khi đến nơi, quả nhiên núi mở bày, Tôn giả an trú trong định, thân thể vẫn nghiễm nhiên như lúc ở tại thế gian, vua A-xà-thế vừa buồn khóc vừa lễ bái, bảo lấy củi thơm muốn vì trà-tỳ. Tôn giả A-nan bảo vua rằng: “Chưa thể thiêu đốt, Đại Ca-diếp đây mới dùng sức thiền định giữ gìn tự thân mà chờ đợi Đức Di-lặc hạ sinh để trao pháp y Tăng-già-lê của Đức Phật, xong, mới nhập Niết-bàn”. Nghe vậy, vua A-xàthế kính ngưỡng và càng cảm động. Sau khi vua và Tôn giả A-nan rời khỏi đó, núi tự nhiên đóng lại như cũ.

2. TRUYỆN TÔN GIẢ A-NAN, TỔ THỨ NHÌ Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả A-nan vốn người chủng tộc Sát-đế-lợi, ở thành Vương xá, là con của vua Hộc Phạn, là anh em chú bác với Đức Thích-ca Như Lai. Mới đầu, Tôn giả có tên gọi là A-nan-đà, Trung Hoa phiên dịch nghĩa là “Khánh Hỷ”, cũng còn gọi là “Hoan Hỷ”, bởi vì ngay trong đêm Đức Như Lai thành đạo thì Tôn giả mới ra đời, cả gia đình vương tộc đều rất mừng lại vui, vì thế nên đặt tên Tôn giả như vậy. Tôn giả có tướng kỳ đặc và rất thông minh duệ trí chẳng đồng như phàm tình.

Thuở thiếu thời, nghe Đức Như Lai xuất hiện nơi đời, mới dùng thế huyễn mà tự cảm. Vì Đức Như Lai mới đầu từ dòng họ Thích xuất gia thành tựu Đại Thánh đạo, nhân đó, Tôn giả đến cầu xin xuất gia. Đức Như Lai hứa thuận và vì giảng pháp, Tôn giả bèn thành đạt quả vị Tu-đà-hoàn. Vừa lúc Như Lai muốn có người theo hầu, mà Tôn giả riêng vì Đại chúng suy cử là bậc có trí tuệ thiện xảo và rất biết thời gian thích nghi, rất hợp với Thánh ý. Nhưng Tôn giả ở trong đời kiếp thời quá khứ đối với chư Phật có công đức rất lớn, nên với các pháp được nghe thảy đều ghi nhớ tất cả, như nước rót vào bình không bị sót lọt. Vì vậy, Đức Như Lai thường xưng gọi Tôn giả là bậc “Tổng trì đệ nhất”. Đến lúc Đức Như Lai sắp nhập Niết-bàn, Tôn giả vừa ra ngoài rừng Bà-la và bị ma nhiễu loạn, Đức Như Lai bèn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đem thần chú đến giải cứu. Nhân đó, Tôn giả cùng Bồ-tát đồng trở về mà đảnh lễ kính hầu Đức Như Lai.

Sau khi Đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, Tôn giả Đại Ca-diếp nhóm tập chư vị A-la-hán đến nơi hang Tất-bát-la kết tập pháp tạng, riêng vì Tôn giả là bậc đại trí đa văn và thường theo hầu Đức Như Lai, giáo pháp được nghe rất rõ ràng, nên mới bạch chúng thỉnh mời Tôn giả vì trùng tuyên kết tập tạng Tu-đa-la và tạng A-tỳ-đàm-đạt-ma. Tôn giả bèn vâng nhận sự chỉ bảo của Tôn giả Đại Ca-diếp, và liền nói kệ rằng:

“Các quyến thuộc Tỳ-kheo
Vắng Phật chẳng trang nghiêm
Thí như trong không trung
Lắm sao mà không trăng”.

Sau đó, Tôn giả đảnh lễ Đại chúng rồi lên pháp tòa, tuyên đọc: “Tôi nghe như vậy, một thuở nọ, Đức Phật ở tại...... giảng nói kinh giáo... cho đến trời, người tin nhận vâng làm”. Khi đó, Tôn giả Đại Ca-diếp lại hỏi Đại chúng: “Những gì A-nan vừa nói có sai nhầm chăng?” Cả Đại chúng đều đáp: “Không khác lời Đức Thế Tôn trước kia đã giảng nói”.

Đến lúc Tôn giả Đại Ca-diếp sắp đến nhập định tại núi Kê túc, mới đem Chánh pháp nhãn tạng do Đức Như Lai trao truyền mà giao phó cho Tôn giả, và dặn Đại sư Tôn giả lưu truyền chớ để dứt tuyệt. Từ đó, Tôn giả đem giáo pháp du hóa khắp các phương. Một ngày nọ, Tôn giả đến nơi một rừng trúc, mới đầu nghe vị Tỳ-kheo nhầm đọc bài kệ tụng là:

“Nếu người sống trăm năm,
Chẳng thấy hạc nước già,
Chẳng bằng sống một ngày,
Mà được trông thấy đó”.

Nhân thế, Tôn giả than thở mà tự bảo rằng: “Đức Như Lai là mắt Chánh pháp trong đời, sao vội nhập Niết-bàn khiến quần sinh đây mất chỗ nương tựa, mà sai nhầm về Thánh giáo?” Tôn giả mới bảo vị Tỳ-kheo ấy rằng: “Đó không phải ý của Phật, không thể nương tựa theo đó, ông nên nghe tôi nói lại bài kệ chính xác là:

“Nếu người sống trăm năm,
Chẳng hiểu pháp sinh diệt,
Không bằng sống một ngày,
Mà thấu hiểu được đó”.

Vị Tỳ-kheo ấy đem lời đó về thưa với thầy của mình, vị thầy đó lại bảo: “A-nan già suy, ông ấy nói sai nhầm, há đáng tin ư? Ông nên y như trước mà đọc tụng”. Ngay sau, Tôn giả lại nghe vị Tỳ-kheo ấy đọc tụng bài kệ trước, mới hỏi: “Cớ sao như vậy? Mà không theo lời tôi chỉ dạy chỉnh sửa”. Vị Tỳ-kheo ấy mới nói đó là ý của thầy của mình vậy. Tôn giả cho đó là không tôn trọng lời của mình, mà càng cảm thương xót xa, nhân đó, bèn nhập Tam-muội, muốn cầu chư vị Tôn Thánh vì hiện làm chứng, nhưng trọn không thể được, khi ấy Tôn giả lại suy niệm là “Phật và Thánh chúng đều đã nhập Niết-bàn, biết theo đâu mà vì chứng minh đây?” Đang lúc như vậy, quả đất đột nhiên lay động, chỉ khoảnh khắc ánh sáng tỏa phát, và trong chốc lát, có bậc Đại sĩ Thánh túc ứng hiện, vị Tỳ-kheo ấy mà nói kệ tụng, và vì chứng minh cho đó là:

“Kệ của kia đọc tụng
Thật không phải lời Phật
Nay gặp Đức Hoan Hỷ
Rất đáng nương rõ đó”.

Thầy trò vị Tỳ-kheo ấy trông thấy Đại sĩ thần kỳ mới bẩm thọ lời dạy đó và liền đọc tụng bài kệ mà Tôn giả tuyên nói, bèn vì thế mà chứng đắc Đệ nhị quả (Tư-đà-hàm). Tôn giả đã được thấy chứng minh lại càng tự cảnh tỉnh, cho rằng: “Thân không an giống như bọt nước, huống gì già suy sao kham lâu bền ư?” Và bèn muốn nhập Niết-bàn.

Lại vì vua A-xà-thế thường luôn đau xót bùi ngùi không được thấy gặp Đức Như Lai và Tôn giả Đại Ca-diếp hai bậc Tôn Thánh nhập Niết-bàn, nhân thế mà ước hẹn với Tôn giả (A-nan) là nếu đến lúc tịch diệt xin được nói cho biết kỳ hạn đó. Vì vậy, Tôn giả đến báo cùng vua. Khi đến nơi cửa nhà vua thì tên lính canh gác chối từ không cho vào, vì vua vừa mới ngủ không dám tâu trình. Cũng trong lúc ấy, vua A-xà-thế đang trong giấc mộng vừa thấy một cái phan lọng được chiêm ngưỡng, bỗng chốc có gió mưa bão lớn ập đến bèn thổi gãy cán cây ấy, các vật báu vung vãi nơi đất. Vua rất kinh hãi, lúc tỉnh giấc, kẻ lính canh cửa đem sự việc Tôn giả đến mà tâu trình, nghe thế, vua bèn ngất tiếng gào khóc, buồn thương cảm động cả đất trời, bèn vội tìm đến thành Tỳ-xá-ly, mới thấy Tôn giả an tọa giữa dòng sông Hằng, vua liền lễ bái mà nói kệ tụng rằng:

“Kính lạy thầy ba cõi
Bỏ con mà đến đây
Tạm nương sức từ nguyện
Hãy chớ nhập Niết-bàn”.

Khi ấy, vua Tỳ-xá-ly cũng ở bên cạnh bờ sông, lại nói kệ tụng rằng:

“Tôn giả sao gấp vội
Mà về trường tịch diệt
Nguyện lưu lại chốc lát
Chứng nhận sự cúng dường”.

Tôn giả, thấy vua của hai nước đều lại cầu thỉnh, nên cũng nói kệ tụng rằng:

“Hai vua khéo nghiêm sống
Chớ vì khổ buồn thương
Niết-bàn sẽ ngã tịnh
Mà không có các hữu (cõi)”.

Khi ấy Tôn giả mới tự tư duy: “Nếu ta thiên lệch ở nơi một đất nước mà diệt độ thì các nước khác hẳn tranh giành nhau, đó là điều không đáng làm, nay đây nên lấy sự bình đẳng mà độ loài hữu tình”. Bèn liền đến giữa dòng sông Hằng mà muốn nhập Niết-bàn. Khi đó, quả đất có sáu thứ chấn động. Nguyên trước đó có năm trăm tiên nhân nương náu ở núi Tuyết, lúc cùng nhau đồng bay giữa hư không mà đến lễ bái Tôn giả và thưa rằng: “Nay chúng tôi định ở nơi trưởng lão thì sẽ chứng đắc Phật pháp. Nguyện xin xót thương vì cứu độ”. Tôn giả bèn im lặng mà hứa thuận cho. Và liền biến hóa sông Hằng thảy đều thành đất vàng ròng, đồng thời vì tiên chúng mà giảng Đại pháp yếu. Tôn giả lại tự nghĩ: “Các đệ tử ta đã hóa độ từ trước, nay nên nhóm tập lại”. Chỉ chốc lát liền có năm trăm vị A-la-hán từ trên không trung mà xuống, vì họ mà cho xuất gia thọ giới, tiên nhân sau đó đều chứng đắc Đệ tứ quả A-la-hán. Và trong tiên chúng có hai vị A-la-hán, một vị tên là Thương-na-hòA-tu, một vị tên là Mạt-điền-để-ca (cũng còn gọi là Mạt-điền-địa). Tôn giả biết hai vị ấy đều là Đại pháp khí, nên bảo đó rằng: “Xưa kia Đức Như Lai đem Chánh pháp nhãn phó chúc cho Đại Ca-diếp, đến lúc Đại Ca-diếp sắp nhập định lại phó chúc cho ta. Nay ta sắp tịch diệt nên truyền trao lại cho hai ông, hai ông nhận lời ta chỉ dạy, nên nghe bài kệ tụng đây:

“Xưa nay trao có pháp
Trao rồi nói không pháp
Mỗi mỗi phải tự ngộ
Ngộ rồi không không pháp”.

Tôn giả lại bảo Thương-na-hòa-tu: “Ông khéo nên hành hóa và hộ trì Chánh pháp chớ khiến dứt tuyệt”. Và bảo Mạt-điền-để-ca rằng: “Xưa kia Đức Phật có dự ghi là sau khi Phật diệt độ trong khoảng năm trăm năm sẽ có ông ở nước Kế Tân mà hoằng tuyên Đại pháp. Sau này ông nên đến đó để giáo hóa quần sinh”. Xong rồi, Tôn giả bay bổng thân mình lên giữa hư không làm thành mười tám thứ biến hiện, nhập phong luân phấn tấn Tam-muội, mới phân thân thành bốn phần: Một phần ban cho cung trời Đao-lợi; một phần ban cho cung rồng Takiệt-la; một phần ban cho vua A-xà-thế và một phần ban cho vua Tỳ-xá-ly. Mỗi nơi có được đều tạo dựng bảo tháp mà cúng dường. Lúc ấy tương đương với đời vua Di Vương (Cơ Tiệp 869-857 trước Tây lịch) thời Tây Chu ở Trung hoa vậy.

3. TRUYỆN TÔN GIẢ THƯƠNG-NA-HÒA-TU, TỔ THỨ BA Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Thương-na-hòa-tu, người nước Mađột-la, còn có tên gọi là Xá-na-bà-tư, thuộc chủng tộc Tỳ-xá-đa. Thân phụ Tôn giả tên là Lâm Thắng, thân mẫu hiệu là Kiều-xà-la. Tôn giả ở trong thai mẹ suốt sáu năm mới chào đời, mà trên thân Tôn giả tự có y phục theo hình thể mà lớn dần, tiếng Phạm gọi là Thương-nặc-ca, theo Trung hoa dịch nghĩa là “tự nhiên phục” (y phục vận mặc tự nhiên). Tại Tây vức xưa trước có giống cỏ tốt lành thường sinh mọc nơi chốn đất ưu thắng, nếu gặp người chứng đạt Thánh đạo xuất hiện nơi đời thì cỏ ấy hóa đâm chín cành để ứng điềm đó. Khi Tôn giả ra đời quả nhiên giống cỏ ấy có hóa như vậy.

Mới đầu, Tôn giả phụng thờ tiên nhân ở núi Tuyết, gặp lúc tiên nhân ấy theo Tôn giả A-nan cầu xin hóa độ, nhân đó mà Tôn giả cũng được dự phần xuất gia, sau đó thành đạo chứng quả A-la-hán, đến lúc ấy thì chiếc áo của Tôn giả có từ trong thai mẹ bèn biến làm pháp y chín điều. Xưa trước Đức Như Lai trên bước đường hành hóa từng đến nước Mađột-la, thấy một khoảnh rừng tươi tốt, mới ngoái lại bảo Tôn giả A-nan: “Rừng này có địa danh là Ưu-lưu-trà, sau khi ta diệt độ gần một trăm năm, sẽ có vị Tỳ-kheo tên là Thương-na-hòa-tu đến ở đây giảng nói pháp độ người”. Sau khi Tôn giả Anan diệt độ thì Tôn giả (Thương-na-hòa-tu) đem giáo pháp vân du giáo hóa đến nơi xứ ấy, bèn có ý muốn dừng ở, gặp có hai con rồng lửa đều cùng muốn chiếm đất đó bèn phát hung bạo làm gió làm mưa để trương bày uy lực, Tôn giả mới nhập từ Tam-muội để nhiếp phục, và nhân đó bảo cùng rồng rằng: “Xưa kia Đức Phật dự ghi nơi đây sẽ làm thành chốn Già-lam, các người nên xả thí vậy”. Vì nghe nói là Đức Phật có dự ghi nên rồng vui vẻ mà xả thí. Tôn giả bèn lập thành ngôi tinh xá và giảng nói pháp, rộng hóa độ các hàng trời, người, quả thật phù hợp với lời Phật dạy.

Lâu sau, Tôn giả nghĩ muốn phó pháp, nhân nhập Tam-muội quán xét ai là bậc Thánh sĩ do Phật dự ghi và người ấy hiện ở tại nước nào? Sau khi xuất định mới dùng sức thần thông riêng đến nước Tra-lợi phỏng tìm nhà của trưởng giả Thủ Đà Thiện Ý. Thiện Ý cùng gặp kính lễ Tôn giả xong mới hỏi nguyên do đến có việc gì? Tôn giả đáp: “Tôi sống đơn côi như thế này nên muốn cùng ông làm bạn”. Thiện Ý bảo: “Tôi đang ham thích dục lạc thế gian, do đó, không rảnh để cùng theo ông, đợi sau này có con, tôi sẽ cho nó kính phụng giáo pháp”. Tôn giả ngợi khen tốt lành thay rồi ra đi. Về sau, Thiện Ý quả thật có con người thứ nhất tên là Ưu-ba-cát-la, người thứ nhì tên là Ưu-ba-diệm-ma, đến lúc sinh dưỡng người con thứ ba tên là Ưu-bacúc-đa, Tôn giả biết hẳn đó là bậc pháp khí, nên lại đến nhà Thiện Ý, bảo: “Ưu-ba-cúc-đa, người con thứ ba đây vừa hợp lời dự ghi của Phật, sẽ theo tập học hoằng truyền giáo pháp của ta, ông nên cho phép”. Vì nghe nói là có lời dự ghi của Đức Phật nên trưởng giả Thiện Ý không dám chống trái. Khi ấy Ưu-ba-cúc-đa bèn nương theo xuất gia. Nhân đó, Tôn giả hỏi: “Ông nay bao nhiêu tuổi?” Ưu-bacúc-đa đáp: “Tôi mười bảy tuổi”. Tôn giả lại hỏi: “Thân ông mười bảy, hay tánh ông mười bảy ư?” Ưu-ba-cúc-đa ngược hỏi lại: “Tóc sư đã bạc là tóc bạc hay là tâm bạc ư?” Tôn giả bảo: “Tôi chỉ tóc bạc, chẳng phải tâm bạc”. Nhân vậy, Ưu-ba-cúcđa thưa: “Tôi mười bảy tuổi, không phải tánh mười bảy vậy”. Tôn giả càng rất quý lạ. Mãi đến lúc Ưuba-cúc-đa đắc đạo, Tôn giả mới bảo là: “Xưa kia Đức Như Lai đem Đại pháp nhãn trao truyền cho Đại Ca-diếp, lúc Đại Ca-diếp nhập định lại trao truyền cho thầy ta là Tôn giả Khánh Hỷ, rồi lại trao truyền đến ta, nay ta đem trao cho ông, ông khéo lưu truyền chớ khiến tuyệt dứt, nghe ta nói kệ đây:

“Phi pháp cũng phi tâm
Không tâm cũng không pháp
Lúc nói tâm pháp ấy
Pháp ấy phi tâm pháp”.

Xong rồi, Tôn giả đến ẩn cư ở núi Tượng bạch tại Kế Tân, muốn dùng Thiền định mà tịch diệt, tự sống một mình không bao lâu, gặp lúc trong định mới thấy năm trăm đệ tử của Ưu-ba-cúc-đa kiêu mạn không cung kính, Tôn giả bèn đến để chỉnh sửa. Đã đến nơi thì Ưu-ba-cúc-đa không có mặt trong chúng hội, Tôn giả thẳng lên ngồi trên tòa của Ưu-ba-cúc-đa, học trò của Ưu-ba-cúc-đa không lường biết Tôn giả là người nào nên đều rất tức giận không kính phục, và liền vội đi báo cùng Ưu-ba-cúc-đa. Ưu-ba-cúc-đa trở về thấy là thầy mình bèn lễ bái cung kính mà đồ chúng ấy tâm ý kiêu mạn vẫn hiện còn, Tôn giả mới đưa cánh tay phải chỉ thẳng lên, liền có sữa thơm từ giữa không trung giọt đổ xuống. Tôn giả bèn hỏi Ưu-ba-cúcđa: “Ông biết gì đó không?” Ưu-ba-cúc-đa đáp: “Không biết”. Và liền nhập Tam-muội quán sát đó cũng không thể biết, nên bèn thưa hỏi: “Đó là kết quả của việc tốt lành gì hay là pháp Tam-muội gì?” Tôn giả bảo: “Đó là Long phấn tấn Tam-muội, có năm trăm pháp Tam-muội như vậy mà ông đều chưa thể biết”. Tôn giả lại bảo Ưu-ba-cúc-đa rằng: “Pháp Tam-muội của Đức Như Lai, hàng Bích chi không biết được. Pháp Tam-muội của hàng Bích chi, hàng La-hán không biết được. Pháp Tam-muội của thầy ta là Tôn giả A-nan, ta đây không biết được. Nay đây pháp Tam-muội của ta, ông sao biết được ư? Người thành đạt pháp Tam-muội ấy, tâm không sinh diệt, trú trong Đại từ, lần lượt cùng cung kính người thấu đạt như thế mới có thể biết được”. Khi ấy Ưu-ba-cúc-đa và cả đồ chúng đệ tử đã thấy được sức thần kỳ của Tôn giả nên đều kính phục mà hối tạ lỗi quá. Tôn giả lại vì nói bài kệ tụng mà chỉ dạy rằng:

“Thông đạt không đây kia
Chí Thánh chẳng hay dở
Ngươi trừ tâm khinh mạn
Chóng chứng quả La-hán”.

Khi ấy, Ưu-ba-cúc-đa cùng cả đồ chúng đệ tử do đó mà đều chứng đắc Đệ tứ quả A-la-hán. Về sau, Tôn giả vụt thân bay lên giữa hư không, làm thành mười tám thứ biến hóa, xong, dùng lửa Tammuội mà tự thiêu đốt thân. Bấy giờ tương đương với đời vua Tuyên Vương (Cơ Tĩnh 827-781 trước Tây lịch) thời Tây Chu ở Trung Hoa. Ưu-ba-cúcđa mới đem xá-lợi của Tôn giả về tạo dựng tháp báu nơi chỗ đất ưu thắng tại núi Ca-la mà tôn trí, cùng các hàng trời, người chung cúng dường.

4. TRUYỆN TÔN GIẢ ƯU-BA-CÚC-ĐA, TỔ THỨ TƯ Ở THIÊN TRÚC

Ưu-ba-cúc-đa vốn người nước Tra-lợi, còn có tên gọi là Ưu-ba-quậc-đa, hoặc là Ổ-ba-cúc-đa, thuộc dòng họ Thủ Đà. Thân phụ của Tôn giả tên là Thiện Ý. Năm 17 tuổi, gặp Tôn giả Thương-nahòa-tu đến nhà Tôn giả mà hóa đạo dẫn dắt, nhân đó Tôn giả bèn nương theo mà xuất gia. Đến năm 20 tuổi Tôn giả mới chứng đạo, thành đạt quả vị A-la-hán. Rồi Tôn giả vân du giáo hóa khắp nơi. Mới đầu, đến nước Ma-đột-la giảng pháp, đồ chúng nhóm tập đông nhiều, và những người nghe pháp đều đắc chứng đạo. Vừa lúc Tôn giả giảng nói pháp, các trời mưa hoa, thần đất đều hiện, tuy là cung điện của ma cũng vì đó mà lay động, nên ma Ba-tuần rất lấy làm buồn lo bèn đến gây sự chướng nạn, dùng ma lực thường biến hóa ra hoa và Ngọc Nữ, muốn nhiễu loạn mọi người nghe pháp, Tôn giả liền nhập Tam-muội quán sát về nguyên nhân, ma nhân lúc Tôn giả đang an trú trong định, mang châu anh lạc đến buộc nơi cổ Tôn giả. Sau khi xuất định, Tôn giả biết đó là do ma gây ra, mới lấy thây chết của người, chó và rắn ba thứ hóa làm thành tràng hoa, và gọi ma Ba-tuần lại nhỏ nhẹ ủi an, đồng thời bảo là: “Ông cho ta chuỗi anh lạc thật đáng là ban tặng quý báu, ta có tràng hoa đây nên cùng đáp trả lại ông”. Ma Ba-tuần rất vui mừng, mới ngẩng cổ nhận lấy. Tràng hoa liền trở thành lại thây chết ba vật ấy, máu thịt thối rữa hôi hám, ma rất tức giận gìn nhím chối từ Tôn giả, và nói là: “Sao dùng thây chết mà cho ta như vậy?” Tôn giả bảo: “Ngươi dùng vật phi pháp muốn nhiễu loạn đạo chúng của ta, ta dùng vật ấy trả lại ứng xứng ý của ngươi, sao lại chán gớm ư?” Khi ấy, tự nhiên ma mất hẳn sức thần của tự thân và không thể bỏ trừ được, liền thẳng bay lên sáu tầng trời cõi dục báo cùng các Thiên chủ, lại đến nơi trời Phạm vương cầu xin giải cứu, các trời đều bảo với ma rằng: “Các thứ thần biến của người đệ tử đấng đầy đủ thập lực tạo ra, chẳng thuộc khả năng các trời chúng tôi có thể giải trừ được”. Ma BA-tuần mới nói: “Vậy biết làm sao đây?” Trời Phạm vương bảo: “Ông có thể quy tâm hướng nương Tôn giả, hẳn được giải trừ đó”. Mới vì nói kệ tụng chỉ bảo cho ma Ba-tuần hồi hướng rằng: “Nếu nhân đất ngã, phải nhờ đất dậy, lìa đất cầu dậy, lý ấy đâu có”. Ma Ba-tuần vâng nhận lời ấy, xuống khỏi các tầng trời, lại đến nơi Tôn giả, lễ bái sám hối chí thành khẩn thiết. Tôn giả bảo rằng: “Tiên Thánh bảo ta nhiếp phục ngươi. Tuy nhiên, ngươi vì vậy mà chuyển đổi tu thiện phụng thờ Phật mới không đọa lạc vào đường ác”. Nghe thế, ma Ba-tuần mừng vui thưa rằng: “Tôn giả đã vì tôi mà đem lại lợi ích lớn, vậy xin dứt bỏ thịt thối này đi”. Tôn giả bảo: “Đối với Chánh pháp, người còn vui thích nhiễu hại chăng?” Ma Ba-tuần đáp: “Kính xin vâng theo sự chỉ dạy, không còn dám như vậy”. Tôn giả bèn vì cởi bỏ đi, và nhân đó bảo cùng ma Ba-tuần rằng: “Ông đừng trông thấy Đức Như Lai lúc còn tại thế, vậy nay thử ứng hiện cho ta chiêm ngưỡng xem”. Ma Ba-tuần thưa: “Ứng hiện hẳn không gì đáng ngại sợ, chỉ xin Tôn giả chớ nên kính lễ”. Liền đó, ma Ba-tuần vào giữa khoảng rừng làm Đức Như Lai, tướng tốt kỳ đặc nghiễm nhiên cùng cả đồ chúng dẫn theo từ rừng đi ra. Thoáng thấy qua, tâm Tôn giả phát sinh vui mừng như thật được chiêm ngưỡng Đấng đại Thánh, bất chợt gieo mình xuống đất mà kính lễ đó. Ma Ba-tuần không ngăn cản được sự lễ bái ấy, bỗng nhiên ẩn mất, đến lúc Tôn giả ngẩng đầu dậy, không còn trông thấy tôn nghi. Song, ma Ba-tuần bèn lễ bái sát chân Tôn giả mà nói kệ tụng rằng:

“Kính lạy Đấng Tam-muội
Đủ mười lực Đại từ
Nay con xin hồi hướng
Chớ còn bị yếu hèn”.

Qua sau bốn ngày, ma Ba-tuần lại dẫn cả chúng trời đông đảo đến lễ bái tán thán Tôn giả xong rồi đi. Tôn giả hóa đạo dẫn dắt, các hàng hậu Thánh nhân đó mà chứng đắc đạo quả rất đông nhiều. Mới đầu mỗi lúc hóa độ được một người thì Tôn giả đem một cái thẻ để vào trong thạch thất. Thất đó dài mười tám khuỷu tay, rộng mười hai khuỷu tay, mà thẻ chất đầy. Xưa kia, Đức Như Lai từng dự ghi Tôn giả sẽ là vị Tổ thứ tư hoằng truyền giáo pháp, từng bảo là Tôn giả tuy không có tướng hảo, mà sự hóa độ so với Đức Như Lai lúc còn tại thế thì không khác. Đến đó mới thấy lời nói của Đấng Đại Thánh rất ứng nghiệm vậy.

Sau cùng, có Hương Chúng-con của một trưởng giả đến nương theo Tôn giả cố cầu xin xuất gia. Tôn giả hỏi: “Thân ông xuất gia hay tâm ông xuất gia ư?” Hương Chúng đáp: “Tôi đến cầu xin xuất gia chẳng phải vì thân và tâm”. Tôn giả lại hỏi: “Chẳng vì thân tâm, vậy thì ai xuất gia?” Hương Chúng đáp: “Phàm là người xuất gia vô ngã ngã cố, vô ngã ngã cố tức tâm không sinh diệt, tâm không sinh diệt tức là đạo thường, chư Phật cũng thường. Tâm không hình tướng, thể ấy cũng vậy”. Tôn giả bảo: “Ông sẽ đại ngộ, tâm tự thông đạt, nên nương theo Phật, Pháp, Tăng, tiếp nối làm lớn mạnh giống Thánh”. Và liền vì cho xuống tóc xuất gia thọ giới Cụ túc. Tôn giả bảo với Hương Chúng rằng: “Thân phụ ông từng mộng thấy mặt nhật vàng ròng mà sinh ông, vì thế ông có thể được gọi tên là Đề-đa-ca”. Về sau, Tôn giả lại bảo Hương Chúng rằng: “Đức Như Lai đem Đại pháp nhãn tạng lần lượt truyền trao nhận thọ mãi đến ngày nay. Nay ta lại giao phó cho ông, nên nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Tâm tự tâm xưa nay
Bản tâm chẳng có pháp
Có pháp có bản tâm
Chẳng tâm chẳng bản pháp”.

Thế rồi, Tôn giả vụt bay lên giữa hư không, thị hiện mười tám thứ biến hóa, rồi trở lại ngồi kiết già mà thị tịch. Lúc đó tương đương đời vua Bình Vương (Cơ Nghi Cửu 770-719 trước Tây lịch) thời Đông Chu ở Trung Hoa, Hương Chúng dùng thẻ trong thạch thất ấy mà trà-tỳ, gom thâu xá-lợi của Tôn giả, dựng tháp cúng dường.

* Thử bàn luận:

Các sách khác nêu bày sự tích của Tôn giả Ưuba-cúc-đa rất nhiều, cớ sao ở đây lại ước lược? Xin đáp là: “Ở đây chỉ chuyên việc gốc ngọn trong việc trao nhận của Tôn giả đó thôi. Phàm, sau khi Đức Như Lai diệt độ, hóa đạo dắt được người chỉ có Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa là đông nhiều hơn cả, nhưng về sự tích lắm nhiều đó, tôi (Khế Tung) sợ tuy dùng hết tre lụa cũng không thể ghi chép đủ cả. Và ai có thể viết đủ hết được ư? Đến như thẻ trong thạch thất cũng là ghi chép về các vị chứng đắc Thánh quả ấy, chưa hẳn đã cùng tột sự giáo hóa của Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa vậy”.

5. TRUYỆN TÔN GIẢ ĐỀ-ĐA-CA, TỔ THỨ NĂM Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Đề-đa-ca, vốn người nước Ma-già-đà, về dòng họ của Tôn giả thì chưa rõ biết được. Mới đầu, Tôn giả có tên gọi là Hương Chúng. Thuở thiếu thời, được gặp Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa đang hưng thạnh hoằng hóa tại nước Ma-đột-la, nhân đó, Tôn giả cầu xin nương tựa xuất gia, vì Tôn giả ứng đối rất thấu đạt chí lý nên rất được Tôn giả Ưu-bacúc-đa mến quý mà cho xuống tóc xuất gia thọ giới Cụ túc.

Mới đầu, lúc Tôn giả vừa chào đời, thân phụ của Tôn giả từng mộng thấy vầng mặt nhật vàng ròng từ trong nhà lưu xuất ra soi sáng tỏa chiếu khắp đất trời, lại có núi báu cùng mặt nhật tương đối, trên đỉnh núi ấy lại có dòng suối tuôn chảy. Đến đó Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa mới vì giải thích cùng Tôn giả rằng: “Núi báu tức là thân ta (Ưu-bacúc-đa) dòng suối, tức là dòng giáo pháp vô tận. Mặt nhật từ trong nhà lưu xuất là tướng của ông vào đạo, tỏa chiếu khắp đất trời tức là sự phát huy trí tuệ ở nơi ông vậy”. Nhân đó mà cải đổi tên như hiện nay. Tiếng Phạm gọi là Đề-đa-ca, Trung Hoa phiên dịch nghĩa là “Thông chân lượng”, bởi lấy theo nghĩa của điềm mộng ấy vậy. Nhưng xưa kia, Đức Như Lai từng dự ghi điều đó, đến đây đều ứng nghiệm. Tôn giả được nghe thầy mình nói lại như thế, vui mừng kính vâng, bèn lễ bái nói kệ tụng tán thán rằng:

“Cao vợi núi bảy báu
Thường trông mối trí tuệ
Chuyển làm pháp vị thật
Hay độ người có duyên”.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa cũng dùng kệ tụng mà đáp là:

“Pháp ta truyền cho ông
Sẽ hiện trí tuệ lớn
Vầng nhật từ nhà ra
Chiếu soi cùng đất trời”.

Thế rồi, Tôn giả đem giáo pháp tự chuyên việc hoằng hóa. Về sau đến xứ Trung Ấn Độ, gặp trong nước ấy có tám ngàn vị Đại tiên, vị đứng đầu chúng tiên tên là Di-già-ca. Nghe có Tôn giả đến hoằng hóa, bèn dẫn cả thảy tiên chúng đến nơi Tôn giả, kính lễ mà thưa rằng: “Nghĩ nhớ xưa kia cùng Tôn giả đồng sinh sống ở Phạm thiên, ta gặp tiên nhân A-tư-đà trao cho tiên thuật, mà Tôn giả thì chứng quả mới thành đạt ứng thân (A-la-hán), từ đó đến nay xa cách nhau đã trải qua sáu kiếp”. Tôn giả bảo: “Điều tiên nhân chỉ, thật đúng như lời nói ấy vậy. Nhưng chuyên việc tiên thuật của các ngươi, rốt cùng chứng đạt đến đâu?” Di-già-ca đáp: “Tôi tuy chưa gặp bậc chí Thánh, nhưng Tôn tiên A-tưđà từng dự ghi là “qua sáu đời kiếp sẽ nhân gặp được bạn đồng học chứng đắc quả vị vô lậu”. Nay cùng gặp gỡ đây há chẳng đáng vậy ư?” Tôn giả bảo: “Các ngươi đã biết vậy, đáng nên xuất gia, tiên pháp thuộc tiểu đạo, chẳng thể khiến người thành đạt giải thoát. Từ lâu, tôi du phương giáo hóa cũng muốn dừng nghĩ rồi, nếu các người hướng đến Đại pháp, đâu nên tự chậm trễ”. Di-già-ca nghe thế rất vui mừng, liền xin cầu xuất gia. Khi ấy đồ chúng của Di-già-ca thấy Tôn tiên của mình như vậy đều rất bùi ngùi, nói cùng Di-già-ca rằng: “Đềđa-ca đâu đủ đáng làm thầy mà theo xuất gia như vậy?” Tôn giả rõ biết tâm niệm không đồng nhất của tiên chúng, muốn khiến họ kính tin, liền tỏa phóng ánh sáng, vượt bước lên giữa hư không mà như đi trên đất bằng. Lại biến hóa làm thành chiếc lọng báu che phủ tiên chúng, lại có sữa thơm từ đầu ngón tay rơi giọt xuống, giữa giọt sữa ấy hóa hiện thành hoa, trên hoa lại có hóa Phật. Tiên chúng trông thấy sự thần biến phi thường như thế, bèn đốc suất nhau kính phục và đều cầu xin xuất gia, Tôn giả liền chấp thuận cho. Nhân đó bảo tiên chúng rằng: “Tuy vậy các người rất nên chánh niệm nương tựa Phật, khiến oai nghi của Tăng tướng tự nhiên mà thành khỏi phải dụng công”. Tiên chúng y như lời nói ấy quả nhiên râu tóc tự rơi rụng, pháp phục ca-sa tự hiện trên thân thể, sau đó đắc giới thành Thánh nhân chứng đắc tứ quả A-la-hán.

Về sau, Tôn giả riêng bảo Di-già-ca rằng: “Xưa kia Đức Như Lai đem đại pháp nhãn vi mật truyền trao cho Đại Ca-diếp, lần lượt trao truyền đến ta. Nay ta lại trao truyền cho ông, ông phải gìn giữ truyền trao chớ khiến dứt tuyệt. Nghe ta nói kệ tụng đây:

“Thông đạt pháp bản tâm
Không pháp không chẳng pháp
Ngộ rồi đồng chưa ngộ
Không tâm cũng không pháp”.

Nói kệ tụng rồi, Tôn giả liền khởi thân bay lên giữa hư không bày hiện mười tám thứ biến hóa, xong, dùng Hoả quang Tam-muội mà tự thiêu đốt thân. Lúc đó tương đương với đời vua Trang Vương (Cơ Đà 696-681 trước Tây lịch) thời Đông Chu ở Trung Hoa. Di-già-ca cùng Đại chúng gom thâu xá-lợi của Tôn giả, tạo dựng bảo tháp tại núi Ban trà mà tôn trí cúng dường.

6. TRUYỆN TÔN GIẢ DI-GIÀ-LA, TỔ THỨ SÁU Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Di-già-ca vốn người xứ Trung Ấn Độ, chưa rõ dòng họ là gì. Đã cùng với chúng thần tiên đồng xuất gia nơi Tôn giả Đề-đa-ca. Sau khi đắc độ, thành đạt Thánh quả, Tôn giả bèn đem pháp sở đắc ấy mà vân du giáo hóa các nơi. Một ngày nọ, đến một đất nước ở Bắc Thiên Trúc, bỗng thấy trên thành lũy có mây lành sắc màu như vàng ròng, Tôn giả mới ngoái lại bảo cùng mọi người chung quanh: “Đây là hơi khí Đại thừa vậy. Tại thành này sẽ có bậc chí nhân cùng ta nối dõi dòng pháp”. Đến lúc vào nơi chợ trong nước đó, quả nhiên có một người mang bình rượu đi ngược đến nơi Tôn giả mà hỏi: “Tôn giả từ phương nào đến và muốn đi đến nơi nào?” Tôn giả đáp: “Ta từ tự tâm đến, muốn đến lại không nơi”. Lại hỏi: “Có biết vật hiện trong tay tôi chăng?” Tôn giả đáp: “Đó là đồ đựng vật không thanh tịnh”. Lại hỏi: “Tôn giả có biết tôi chăng?” Tôn giả đáp: “Ta tức không biết, biết tức không phải ta”. Tôn giả lại bảo người ấy: “Ngươi có thể nói rõ tên họ thì ta sẽ chỉ bày rõ bản nhân”.

Người ấy bèn nói bài kệ tụng để trả lời rằng:

“Nay tôi sinh nước này
Lại nhớ ngày xưa trước
Vốn họ Phả-la-đọa
Tên là Bà-tu-mật”.

Nghe thế, Tôn giả nhớ lại duyên xưa, mới bảo Bà-tu-mật rằng: “Thầy của ta là Tôn giả Đề-đa-ca từng nói: “Xưa kia Đức Phật vân du đến Bắc Thiên Trúc, bảo cùng Tôn giả A-nan là: “Sau khi ta diệt độ hơn ba trăm năm, sẽ có bậc Thánh nhân thuộc dòng họ Phả-la-đọa, tên là Bà-tu-mật ra đời làm Tổ sư thiền đời thứ bảy”. Đó chính là Đức Như Lai đã dự ghi cho ông, nay ông nên xuất gia”. Người ấy bèn đặt để bình rượu xuống, kính lễ Tôn giả rồi đứng qua bên cạnh mà thưa rằng: “Tôi nhớ đời kiếp trước đã từng làm người cúng thí, dâng cúng Đức Như Lai một tòa báu. Đức Như Lai đó dự ghi cho tôi rằng: “Đến trong thời Hiền kiếp ông sẽ chứng đạt Phật pháp làm vị Tổ thứ bảy. Nay gặp gỡ đây là duyên ấy vậy. Xin Tôn giả nhủ lòng từ bi, tôi mong được độ thoát”. Tôn giả bèn vì người ấy mà xuống tóc và thọ lãnh giới pháp đầy đủ. Về sau,

Tôn giả bảo Bà-tu-mật rằng: “Ta nay già suy sắp nhập Niết-bàn, Chánh pháp nhãn tạng của Đức Như Lai nay đem giao phó cho ông, ông phải lưu truyền chớ để tuyệt mất. Nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Không tâm không thể được
Nói được chẳng gọi pháp
Nếu rõ tâm phi tâm
Mới hiểu tâm, tâm pháp”.

Nói kệ tụng rồi, Tôn giả bèn nhập sư tử phấn tấn Tam-muội, vụt thân bay lên giữa hư không cao bằng bảy cây đa-la rồi trở lại nơi tòa ngồi, hóa lửa tự thiêu đốt. Người, trời đều buồn xót cảm động cả đất trời. Lúc đó tương đương với đời vua Tương Vương (Cơ Trịnh 651-618 trước Tây lịch) thời Đông Chu ở Trung Hoa. Bà-tu-mật bèn gom thâu xá-lợi của Tôn giả dùng hộp bằng bảy báu mà tôn trí, dựng tạo tháp mà tôn thờ trên tầng cao tột để cúng dường.

7. TRUYỆN TÔN GIẢ BÀ-TU-MẬT, TỔ THỨ BẢY Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Bà-tu-mật, người nước Bắc Thiên Trúc, vốn dòng họ Phả-la-đọa thường mặc y phục sạch sẽ mang bình rượu rảo bước khắp xóm thôn mà ngâm vịnh tự vui, mọi người đều không lường biết, hoặc có người cho Tôn giả là kẻ điên cuồng.

Đến lúc gặp Tôn giả Di-già-ca, rõ được nhân duyên xưa trước, Tôn giả mới ném bỏ bình rượu, nương theo đó, cầu xin xuất gia, về sau được truyền trao Chánh pháp. Đến lúc Tôn giả Di-già-ca thị tịch rồi, Tôn giả mới rộng xiển dương giáo pháp đó. Khi đến nước Ca-ma-la mới lớn làm việc ưu thắng, bỗng có một bậc trí sĩ đến trước pháp tòa của Tôn giả mà tự xưng là: “Tôi tên là Phật-đà-nan-đề nay muốn cùng Tôn giả luận nghĩa”. Tôn giả bảo: “Nhân giả luận tức chẳng phải nghĩa, nghĩa tức Chánh pháp luận. Nếu phỏng định luận nghĩa, trọn chẳng phải luận nghĩa”. Phật-đà-nan-đề dự biết Tôn giả là bậc có nghĩa lý ưu thắng, nên cam tâm chịu phục, bèn thưa rằng: “Tôi mong muốn cầu đạo, muốn thưởng vị cam lồ”. Tôn giả bèn độ cho, đặc biệt bảo các Thánh nhân đã chứng đắc tứ quả A-la-hán vì cho Phật-đà-nan-đề thọ giới. Sau đó không bao lâu, Tôn giả mới bảo Phật-đà-nan-đề rằng: “Chánh pháp nhãn tạng của Đức Như Lai, nay ta giao phó cho ông, ông phải lưu truyền cẩn mật, chớ khiến dứt tuyệt, hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Tâm đồng như hư không
Dạy pháp bằng hư không
Lúc chứng đắc hư không
Không pháp phải, pháp quấy”.

Nói kệ tụng xong, Tôn giả vụt thân bay lên hiện bày mười tám thứ biến hóa, rồi mới nhập từ Tammuội để thẳng đến tịch định. Khi ấy trời Thích phạm cùng các chúng trời đều đến kính lễ mà nói kệ tán thán rằng:

“Thánh tổ trong Hiền kiếp
Đang là vị thứ bảy
Tôn giả xót thương con
Xin vì giảng Phật địa”.

Tôn giả nhập định đã qua bảy ngày, sau đó xuất định, chỉ dạy Đại chúng rằng: “Pháp ta thành đạt là không phải có. Nếu biết Phật địa thì lìa có và không vậy”. Nói xong, Tôn giả lại nhập tịch định thị hiện tướng Niết-bàn, chúng trời được nghe pháp đều vui mừng kính lễ, bèn tung rải hoa trời để cúng dường. Lúc đó tương đương với đời vua Định Vương (Cơ Du 606-585 trước Tây lịch) thời Đông Chu ở Trung Hoa. Phật-đà-nan-đề bèn xây dựng bảo tháp nơi pháp tòa Tôn giả đang an tọa mà bao bọc toàn thể đó.

8. TRUYỆN TÔN GIẢ PHẬT-ĐÀ-NAN-ĐỀ, TỔ THỨ TÁM Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Phật-đà-nan-đề, vốn người thuộc dòng họ Cù-đàm-ba ở nước Ca-ma-la. Lúc vừa mới sinh trên đỉnh đầu đã có nhục kế ánh sáng tỏa phát ra ngoài. Tôn giả có bẩm tánh rất thông minh, văn tự chỉ một lần xem qua tức có thể ghi nhớ tất cả. Năm 14 tuổi, Tôn giả mới kính mộ xuất gia, chuyên lấy phạm hạnh để tự tu. Mãi tới lúc Tôn giả Bà-tu-mật đến nước đó, thì Tôn giả chỉ một lần đến phỏng hỏi, bèn kính phục nghĩa lý ưu thắng của Tôn giả Bà-tu-mật nên liền nương theo tôn xưng làm thầy. Về sau được truyền trao Chánh pháp nhãn tạng, Tôn giả bèn dẫn đồ chúng đi khắp nơi giáo hóa. Mới đầu, Tôn giả đến nước Đề-già, trước đó trong nước ấy có gia đình tỳ-xá-la sinh được một người con tên là Phục-đà-mật-đa, tuổi đã năm mươi mà miệng chưa từng nói một lời, chân không hề giẫm một bước, song thân không lường biết bởi duyên gì vậy đều rất lo buồn, đã từng đem hỏi các bậc chuyên tập hành thiền định ở nước ấy nhưng các bậc đó đều không quyết định rõ ràng, chỉ bảo là “Sắp có vị Đại sĩ truyền Phật tâm ấn không bao lâu nữa sẽ đến đây, ông có thể thưa hỏi vị đó”. Đến lúc Tôn giả vào nước ấy, đi ngang qua cửa tỳ-xá-la bỗng nhiên thấy có ánh sáng sắc trắng phát ra từ trên nóc nhà, Tôn giả chỉ đó mà bảo Đại chúng: “Nhà này đang có bậc Thánh nhân chưa từng mở miệng nói một lời, thật là bậc pháp khí Đại thừa, không bước đến đầu ngã tư đường cái mà biết nơi xú uế. Đó hẳn sẽ nối dõi theo ta làm rạng ngời pháp hóa. Thánh nhân ấy sẽ hóa độ có năm trăm vị chứng đắc Thánh quả”. Tôn giả lại bảo: “Ánh sáng ấy soi suốt phía trên là tiêu biểu Thánh nhân ấy nương theo ta mà đắc pháp. Và ánh sáng ấy soi cùng phía dưới là tiêu biểu Thánh nhân ấy hóa độ lưu xuất được người, và người được hóa độ lưu xuất đó tên là Tỳ-kheo Hiếp, tâm rộng lớn như đất, sẽ tiếp theo ta làm đời thứ ba”. Khi ấy chủ nhà tỳxá-la bèn ra hỏi nguyên nhân Tôn giả đến muốn cần vật gì? Tôn giả đáp: “Ta đến đây chỉ cần tìm người chẳng phải cần vật”. Chủ nhà đáp: “Nhà tôi đâu có người nào kỳ đặc mà đáng tìm kiếm ư? Chỉ có một đứa con không biết nói không biết đi, tuổi đã năm mươi. Nếu Tôn giả muốn cần nó, hẳn tôi đây cũng không lận tiếc”. Tôn giả bảo: “Theo lời ông nói, đúng là tôi muốn tìm người ấy vậy”. Song thân bèn đưa Phục-đà-mật-đa trao cho Tôn giả. Đến lúc Tôn giả dẫn đưa về tới tinh xá, bỗng nhiên Phục-đà-mật-đa mở miệng nói, chân giẫm đi bảy bước, chấp tay nói bài kệ tụng mà cùng hỏi rằng:

“Cha mẹ chẳng phải thân
Ai là người chí thân?
Chư Phật phi đạo ta
Ai là bậc tột đạo?”

Tôn giả liền dùng kệ tụng mà đáp rằng:

“Lời ông cùng tâm thân
Cha mẹ chẳng sánh bằng
Hạnh ông cùng đạo hợp
Chư Phật tức là tâm
Ngoài cầu Phật có tướng
Cùng ông không giống gì
Nếu biết bản tâm ông
Chẳng hợp cũng chẳng lìa”.

Phục-đà-mật-đa được nghe pháp rất vui mừng, mới ân cần kính lễ, Tôn giả bèn cho phép xuất gia, mời các bậc Hiền Thánh vì cho thọ giới. Về sau Tôn giả mới bảo Phục-đà-mật-đa rằng: “Pháp nhãn của Đức Như Lai kín trao truyền đến ta, nay ta lại đem giao phó cho ông, ông nên gìn giữ lưu truyền, chớ khiến dứt tuyệt, nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Hư không chẳng trong ngoài
Tâm pháp cũng như vậy
Nếu hiểu rõ hư không
Là đạt lý chân như”.

Phục-đà-mật-đa hân hạnh được kệ tụng truyền pháp, liền vụt thân bay lên giữa hư không, tung rải các thứ hoa báu, nói bài kệ tụng mà tán thán rằng:

“Thầy tôi, Tổ trong thiền
Đang là vị thứ tám
Hóa độ chúng đông nhiều
Đều thành A-la-hán”.

Tôn giả truyền trao pháp nhãn rồi, từ nơi pháp tòa đứng dậy nghiễm nhiên cao vợi, hiện sức đại thần biến, từ nơi bụng Tôn giả phát ra tám luồng ánh sáng khác lạ soi chiếu cả Đại chúng. Số người được soi chiếu đó chỉ có năm trăm vị, chứng đắc Thánh đạo đệ nhị quả Tư-đà-hàm. Xong, Tôn giả mới nhập Niết-bàn. Lúc đó tương đương với đời vua Cảnh Vương (Cơ Quý 544-520 trước Tây lịch) thời Đông Chu ở Trung Hoa. Đại chúng bèn tạo dựng tháp báu phủ bao cả toàn thể Tôn giả.

9. TRUYỆN TÔN GIẢ BẠT-ĐÀ-MẬT-ĐA, TỔ THỨ CHÍN Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Phục-đà-mật-đa, vốn người thuộc dòng họ Tỳ-xá-la ở nước Đề-già. Song thân của Tôn giả đã nghi ngờ về bình sinh. Đến lúc gặp được Tôn giả Phật-đà-mật-đa nói về nhân duyên xưa trước, và bảo: “Người con này đời trước là bậc minh đạt, ở trong Phật pháp muốn làm lợi ích lớn từ bi cứu tế quần sinh, nên từng tự phát nguyện: “Nếu ta sinh bất cứ nơi nào sẽ không vì ân ái của cha mẹ ràng buộc, tùy theo duyên lành mà được giải thoát”. Miệng không mở lời nói là tiêu biểu cho đạo lý không tịch, chân chẳng giẫm bước là tiêu biểu cho pháp vốn không đến đi”. Khi ấy mối nghi sâu xa nơi song thân Tôn giả tự nhiên tan biến, bèn vui mừng đem Tôn giả trao cho Tôn giả Phật-đà-nanđề.

Sau khi được trao truyền Chánh pháp, Tôn giả mới du phương giáo hóa, đến Trung Ấn Độ. Nguyên trước, ở nước đó có vị trưởng giả tên là Hương Cái. Hương Cái có người con tên là Nan Sinh. Nan Sinh tuy ăn dùng ngũ cốc mà tuyệt không bẩn dơ. Đến lúc Hương Cái dẫn Nan Sinh đến lễ bái Tôn giả, và thưa: “Đứa con này ở trong thai mẹ suốt mười sáu năm, đến lúc nó chào đời, tôi lại có điềm mộng kỳ đặc. Tôi từng mời các tiên nhân đoán tướng của nó, họ bảo đứa con này không phải là phàm tình, sẽ gặp bậc Bồ-tát hóa độ cho nó. Vừa gặp Tôn giả đây là bởi duyên ấy, nên tôi xin cho nó xuất gia”. Và Hương Cái lại bảo Nan Sinh là: “Ông đã xuất gia, không vì ta ở từ mà tâm vui vẻ, ta trở về nhà mà sinh buồn não”. Nan Sinh thưa: “Nay con hiện ở đâu có đây kia, các lậu đã hết sao sinh được phiền não”. Tôn giả vì thế nên hóa độ đó. Về sau, không bao lâu, Tôn giả bèn đem pháp nhãn trao truyền cho Nan Sinh mà bảo: “Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai, nay đem giao phó cho ông, ông nên lưu truyền chớ khiến dứt tuyệt. Ông nhận sự chỉ bảo của ta, nghe ta nói kệ tụng đây:

“Chân lý vốn không tên
Nhân tên bày chân lý
Nhận được pháp chân lý
Chẳng chân cũng chẳng ngụy”.

Trao truyền pháp nhãn rồi, Tôn giả tự tư duy đã lâu giáo hóa dẫn dắt, việc giáo hóa đã hoàn tất, sẽ dùng diệt tận Tam-muội mà tự ngưng nghỉ. Khi ấy Tôn giả bèn nhập Niết-bàn, các trời đều tấu nhạc cúng dường, tuôn vọt giữa hư không. Lúc đó tương đương với đời Kính Vương (Cơ Cái 519-476 trước Tây lịch) thời Đông Chu ở Trung Hoa. Tỳ-kheo Hiếp bèn dùng củi gỗ thơm mà trà-tỳ, gom thâu xálợi, dựng tháp báu nơi chùa Na-lan-đà mà cúng dường.

10. TRUYỆN TÔN GIẢ HIẾP, TỔ THỨ MƯỜI Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Hiếp, vốn người nước Trung Thiên Trúc, về dòng họ chưa rõ biết. Tôn giả vốn tên là Nan Sinh, vì ở trong bào thai mẹ qua thời gian rất lâu, nên đặt tên như vậy. Đến lúc sắp sinh Tôn giả thì thân phụ tên là Hương Cái cảm mộng có một con voi trắng trên lưng chở một tòa báu, trên tòa báu ấy lại đặt một hạt minh châu từ nơi cửa nhà mình đi ra đến nơi một pháp hội, có ánh sáng tỏa chiếu cả Đại chúng, thế rồi bỗng nhiên không còn thấy. Vừa lúc Tôn giả chào đời quả nhiên có ánh sáng tỏa chiếu cả phòng nhà, thân thể Tôn giả có mùi thơm kỳ đặc, thân phụ rất lấy làm lạ. Lớn lên vừa độ tuổi nhi đồng, gặp lúc Tôn giả Phục-đàmật-đa đến hoằng hóa tại nước đó, Hương Cái bèn dẫn đến nơi nói về sự khác lạ lúc sinh Tôn giả, và cầu xin cho Tôn giả xuất gia. Tôn giả Phục-đà-mậtđa liền hứa nhận, đồng thời thỉnh mời bảy vị A-lahán chứng minh cho Tôn giả thọ giới. Vừa lúc nhận thọ giới pháp, trên đàn tràng hiện tướng tốt lành, giữa hư không lại đổ mưa xuống hai mươi viên xálợi. Nhưng Tôn giả tu hành tinh nghiêm khổ hạnh, thường chẳng nằm ngủ, tuy trọn đêm ngày mà hông chẳng dính chiếu, vì thế nên được xưng gọi là Tôn giả Hiếp. Mãi đến lúc đã dự phần được phó pháp, Tôn giả mới du phương hoằng hóa. Sau đó, đến nước Hoa Thị, Tôn giả dừng nghỉ dưới gốc cây, đưa cánh tay phải chỉ xuống đất và bảo Đại chúng rằng: “Đất đây biến thành vàng ròng hẳn sẽ có bậc Thánh giả vào dự pháp hội”. Chỉ chốc lát, đất ấy bỗng nhiên thành vàng ròng, khoảng sau có một người con trưởng giả tên là Phú-na-dạ-xa đến trước Tôn giả chấp tay mà đứng. Tôn giả bèn hỏi: “Ông từ đâu lại?” Phú-na-dạ-xa đáp: “Tâm tôi chẳng đi”. Tôn giả lại hỏi: “Ông ở nơi nào?” Phú-na-dạ-xa đáp: “Tâm tôi chẳng dừng”. Tôn giả lại hỏi: “Ông là người bất định ư?” Phú-na-dạ-xa đáp: “Chư Phật cũng vậy”. Tôn giả bảo:

“Ông không phải chư Phật”. Phú-na-dạ-xa đáp: “Chư Phật cũng chẳng phải”. Nhân đó, Tôn giả nói kệ tụng rằng:

“Đất này hóa vàng ròng
Biết có Thánh nhân đến
Ngồi dưới cây Bồ-đề
Hoa giác nở hoàn toàn”.

Phú-na-dạ-xa cũng nói bài kệ tụng mà đáp lời rằng:

“Thầy ngồi đất vàng ròng
Thường nói nghĩa chân thật
Chuyển ánh sáng soi con
Khiến được nhập Chánh định”.

Và nhân đó thưa rằng: “Nay con nguyện xin theo Tôn giả, mong cho con được xuất gia”. Tôn giả bèn chấp nhận và liền vì xuống tóc, mời các Thánh giả đã chứng đắc tứ quả chứng minh cho Phú-na-dạ-xa thọ giới. Về sau, Tôn giả bảo Phúna-dạ-xa rằng: “Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai nay đem giao phó cho ông, ông phải gìn giữ lưu truyền chớ khiến tuyệt dứt. Hãy nghe ta nói kệ tụng đây:

“Thể thật tự nhiên thật
Nhân thật nói có lý
Lãnh được pháp thật thật
Không đi cũng không dừng”.

Đã trao truyền giáo pháp xong, ngay nơi tòa ngồi, Tôn giả vụt thân bay lên giữa hư không mà nhập Niết-bàn, dùng lửa Tam-muội mà tự thiêu đốt. Xá-lợi của Tôn giả từ giữa hư không rơi xuống nhiều vô số kể, Đại chúng dùng vạt áo mà hứng lấy. Lúc ấy tương đương với đời vua Định Vương (??) thời nhà Chu ở Trung Hoa. Sau đó, Đại chúng tạo dựng tháp miếu để tôn thờ xá-lợi, và chư Thiên trải lọng báu che phủ phía trên.

11. TRUYỆN TÔN GIẢ PHÚ-NA-DẠ-XA, TỔ THỨ MƯỜI MỘT Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Phú-na-dạ-xa, vốn người dòng họ Cùđàm ở nước Hoa Thị. Thân phụ Tôn giả tên là Bảo

Thân, hiệu là Trưởng Giả. Mới đầu, Bảo Thân có bảy người con, mỗi người tự có điều mến thích riêng. Người thứ nhất tên là Phú-na-bàn-đa ham thích tập học tiên thuật, người thứ nhì tên là Phúna-kim tử, khéo thường vắng lặng, người thứ ba tên là Phú-na-nguyệt-quang, ham thích dốc sức đánh đấu, người thứ tư tên là Phú-na-thắng-đồng ham thích bố thí niệm Phật, người thứ năm tên là Phú-na-ba-đậu ham thích sự giết hại uống rượu, người thứ sáu tên là Phú-na-cát-đan đam mê đắm thích dục lạc, người thứ bảy tên là Phú-na-dạ-xa điềm nhiên không tốt xấu, tâm tư không tịnh không loạn, chẳng phàm chẳng Thánh. Tôn giả từng nói: “Nếu gặp có bậc Đại sĩ ngồi nơi đạo tràng, ta sẽ đến đó thân gần tùy hỷ”. Đến lúc Tôn giả Hiếp đến nước đó vừa mới xiển dương Phật sự, Tôn giả bèn đến nơi pháp hội, ứng đối rất nhạy bén, ngôn từ đều chí lý, quả nhiên sau đó được Tôn giả Hiếp trao truyền Chánh pháp nhãn tạng. Tôn giả bèn gìn giữ đó mà du phương giáo hóa, tiếng tăm vang vọng khắp xa, chẳng những đồ chúng có đến ngàn muôn, nhưng chứng đắc Thánh quả chỉ có năm trăm vị.

Về sau, Tôn giả đến nước Ba-la-nại, có một vị trưởng giả đến trong pháp hội, Tôn giả mới chỉ vị ấy mà bảo cùng Đại chúng rằng: “Các ngươi có biết người mới đến đây chăng? Xưa kia Đức Phật có dự ghi là: “Sau khi ta diệt độ gần sáu trăm năm sẽ có một vị Thánh giả tên là Mã Minh xuất hiện nơi nước Ba-la-nại, giảng pháp ở thành Hoa thị, nhiếp phục các hàng dị đạo, độ người nhiều vô lượng”. Nay chánh người này đây, và ban đêm ta cũng mộng thấy biển lớn dâng tràn cả một góc, mới muốn quyết định đó. Dòng nước ấy bèn chảy sầm sập đượm nhuần các cõi. Nay người này lại đây là biển lớn ấy vậy, sắp theo ta xuất gia, đem giáo pháp cứu độ người, là dòng nước đượm nhuần vậy”. Khi ấy Mã Minh kính lễ Tôn giả trước mà hỏi rằng: “Tôi muốn biết Phật, thế nào tức là phải?” Tôn giả đáp: “Ông muốn biết Phật, chẳng biết tức là phải”. Mã Minh lại hỏi: “Đã không biết Phật, sao biết là phải?” Tôn giả đáp: “Ông đã không biết Phật, sao biết là không phải?” Mã Minh nói: “Đây thật là nghĩa cưa”. Tôn giả bảo: “Đó là nghĩa vậy”. Và liền hỏi: “Ông nói nghĩa cưa là thế nào?” Mã Minh đáp: “Tôi cùng thầy phân ra bằng nhau” và cũng liền hỏi: “Còn thầy nói nghĩa cây là thế nào?” Tôn giả bảo: “Ông bị ta cắt xẻ”. Mã Minh bèn tỏ ngộ thắng nghĩa của Tôn giả, tự nhiên vui mừng, liền cầu xin xuất gia. Tôn giả mới vì hóa độ, cho thọ giới Cụ túc. Và trong chúng hội nhân đó mà chứng đắc Đệ tứ quả A-la-hán có đến hai trăm vị.

Về sau, Tôn giả bảo Mã Minh rằng: “Ông sẽ Chuyển pháp luân, làm Tổ đời thứ mười hai. Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai xưa kia, nay ta giao phó cho ông, ông nên gìn giữ lưu truyền. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng:

“Mê ngộ như ẩn hiển
Tối sáng chẳng rời nhau
Nay trao pháp ẩn hiển
Chẳng một cũng chẳng hai”.

Trao truyền pháp nhãn rồi, Tôn giả liền hiện bày thần thông, làm thành mười tám thứ biến hóa, xong trở lại nơi pháp tòa, an nhiên mà thị tịch. Lúc đó tương đương với đời vua An Vương (??) thời nhà Chu ở Trung hoa. Đại chúng bèn tạo dựng bảo tháp che phủ toàn thể.

* Thử bàn luận:

Trong thời Tiền Đường, có cao Tăng Thần Thanh không vui thích thiền giả, tự đề cao tông của mình, mới soạn viết sách để đè ép đó rằng: “Các Hiền Thánh trao truyền pháp tức lấy theo Thanh văn, như Đại Ca-diếp v.v... tuy là hồi tâm nhưng vẫn là tiểu trí, đâu có thể truyền được Phật tâm ấn ư?” Tức Thần Thanh trích dẫn trong truyện “Phó pháp tạng” nói: “Xưa kia Tôn giả Thương-na-hòA-tu bảo cùng Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa rằng: “Tammuội của chư Phật, hàng Bích chi không thể biết, Tam-muội Bích chi, Thanh văn không thể biết, Tam-muội của các vị Đại Thanh văn thì các Thanh văn khác không thể biết, Tam-muội của Tôn giả Anan, ta nay không thể biết, Tam-muội của ta nay, ông cũng không thể biết. Các pháp Tam-muội như thế đều theo ta ẩn diệt. Lại có bảy vạn bảy ngàn kinh bản sinh, một vạn A-tỳ-đàm, tám vạn Tỳ-ni thanh tịnh, cũng tùy theo ta ẩn diệt mất”. Ôi thôi! Thần Thanh nhọc bày sự mến ghét của chính mình, mà lại rất không biết khuất nhục tiên Thánh. Mới đầu, tôi (Khế Tung) đọc sách của Thần Thanh thấy so sánh luận bàn về Tam giáo, tuy văn từ không tốt lành, bởi vì ông ta khéo ghi kinh sách cũng riêng việc khinh trọng, không hẳn chẳng vậy, đến khi khảo xét điều ông nói gièm pha về Thiền giả, hỏi nạn có vài mươi điều đều tham tâm lấy từ sự ưa chuộng của các hàng thế tục và viện dẫn các sách truyện, lại chẳng được rõ ràng đó. Mới đầu, tôi cho đó không phải là chí luận nên không đáng đủ chú ý quan tâm. Từ từ nghĩ suy điều ông nói là: “Đại Ca-diếp v.v... đâu có thể truyền Phật tâm ấn”, rất là lời nói điên cuồng, sợ đó dối hoặc người đời bằng thêm sự rỉa rói của hàng hậu sinh chưa học mà thôi, mới cùng cải chánh đó, chứ không phải ưa thích biện luận vậy. Đại khái, phàm là muôn sự, lý là cội gốc đó, mà vết tích là cành ngọn đó. Người thông đạt được gốc thì có lắm nhiều thành đạt, người bó buộc cành ngọn hẳn mất mát đó lắm nhiều. Như trong Truyền pháp chỉ có vài mươi vị Hiền Thánh, tuy thị hiện đồng là Thanh văn, mà đâu nên vì Thanh văn hết cả đó ư? Trong kinh nói: “Nay Ta có Chánh pháp Vô thượng đều đã giao phó cho Ma-ha Ca-diếp”. Trong truyện lại nói: “Nay Ta có các pháp Đại từ, Đại bi, Tứ thiền, Tammuội, Vô lượng công đức mà tự trang nghiêm, mà Tỳ-kheo Ca-diếp cũng lại như vậy”. Và lại cho rằng: “Ưu-ba-cúc-Đa-la không có tướng tốt như Phật”. Lại bảo là “Tôn giả Phật-đà-nan-đề là đứa Bà-la-vương Như Lai ở thời quá khứ giáng hiện dấu vết làm Tổ”. Đồng loại như thế có lắm nhiều. Ấy há chẳng phải Thánh nhân muốn phù trì Chánh pháp cùng nhau tôn kính mà thị hiện làm lớn làm nhỏ ư? Theo trong kinh Lăng-già nói có ba thứ A-la-hán: Một là La-hán đắc quyết định Thanh văn; hai là La-hán từng tu hành hạnh Bồ-tát; ba là Lahán ứng hóa điều chư Phật ứng hóa”. Vậy, La-hán đây là dùng sức bản nguyện thiện căn, phương tiện, hiện sinh nơi cõi nước của chư Phật, trong các Đại chúng trang nghiêm Đại chúng hội của chư Phật, nên như Đại Ca-diếp truyền pháp vài mươi vị Hiền Thánh, há chẳng là La-hán ứng hóa điều Phật ứng hóa ư? Điều Phật ứng hóa, đáng ở điểm có các pháp Tứ thiền Tam-muội vô lượng công đức cùng các Đức Như Lai không khác vậy. Chẳng khác với Đức Như Lai mà truyền Phật tâm ấn, ai gọi đó chẳng phải vậy ư? Như Tôn giả Thương-na-hòa-tu bảo: “Tam-muội của Tôn giả A-nan mà ta không biết. Tam-muội của ta nay mà các ngươi không biết”. Tôi cho là: Đó là có sự đè ép và nâng bốc, chưa thể gọi ấy hẳn là như vậy. Trong kinh nói: “Người tu hành chứng đạt vào Viễn hành địa đã được vô lượng Tam-muội. Phàm người đã vào

Viễn hành địa tức là che trùm Bồ-tát ở ngôi vị thất địa. Bồ-tát thất địa còn có thể được vô lượng Tammuội, mà hóa Phật há lại không có được ư? Nhưng tâm ấn Phật truyền và các Tam-muội có nên để lại ngày khác sẽ nói thay? Phàm là tâm ấn tức là diệu bản chủng trí của Đại Thánh nhân, ngoài ra, các Tam-muội là trí tuệ phát sinh của diệu bản, đều lấy Tam-muội mà xưng đó vậy. Tâm ấn tức trong kinh gọi là Tam-muội của Tam-muội vương ấy vậy. Đức Như Lai lưu truyền Tam-muội đó vậy. Chỗ gọi là bảy vạn bảy ngàn kinh Bản Sinh, một vạn Atỳ-đàm, tám vạn Tỳ-ni thanh tịnh cũng theo ta mà diệt mất. Điều nói ấy, tôi đây chưa từng thấy ở các sách khác. Riêng chỉ trong truyện “Phó pháp tạng” nói vậy. Nên còn nghi ngờ đó. Giả sử khiến sách ấy không sai nhầm, vẫn sợ chẳng phải là Hiền Thánh truyền pháp không thể mặc thời gìn giữ như ấy vậy. Đó hẳn vì quần sinh ở đời sau cơ duyên Phật Đà càng yếu kém không hơn nỗi giáo pháp đó vì thế nên diệt mất. Mới chính là sự còn mất của ba thời Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp, đều cũng theo sự đời mà ô nhiễm hay sáng sạch, đâu từng vì Hiền Thánh hoằng pháp mà thiết đặt ra Chánh pháp, Mạt pháp đó ư? Than ôi! Người học không nghiên cứu kinh, không thấu đạt lý, máy đồng lầm sai ý của Thánh nhân mà nói đó. Tuy có thể biên chép liền việc cả muôn đời cũng đâu có ích lợi gì ư? Trong sách nói: “Học của nhớ tụng chẳng đủ làm thầy của người”. Như Thần Thanh chính là ấy vậy!

-(HẾT)-

QUYỂN 3

1. Truyện Đại sĩ Mã Minh, Tổ thứ mười hai ở Thiên Trúc

2. Truyện Đại sĩ Ca-tỳ-ma-la, Tổ thứ mười ba ở Thiên Trúc

3. Truyện Đại sĩ Long Thọ, Tổ thứ mười bốn ở Thiên Trúc

4. Truyện Đại sĩ Ca-na-đề-bà, Tổ thứ mười lăm ở Thiên Trúc

5. Truyện Đại sĩ La-hầu-la-đa, Tổ thứ mười sáu ở Thiên Trúc

6. Truyện Đại sĩ Tăng-già-nan-đề, Tổ thứ mười bảy ở Thiên Trúc

7. Truyện Đại sĩ Già-da-xá-đa, Tổ thứ mười tám ở Thiên Trúc

8. Truyện Đại sĩ Cưu-ma-la-đa, Tổ thứ mười chín ở Thiên Trúc

9. Truyện Đại sĩ Xà-dạ-đa, Tổ thứ hai mươi ở Thiên Trúc.

*****

1. TRUYỆN ĐẠI SĨ MÃ MINH, TỔ THỨ MƯỜI HAI Ở THIÊN TRÚC.

Đại sĩ Mã Minh, người nước Ba-la-nại, chưa rõ biết dòng họ là gì. Tôn giả còn có tên gọi là Công Thắng, bởi vì xưa trước Tôn giả có công đức thù thắng nên xưng gọi vậy. Nhưng mới đầu, đến nơi Tôn giả Phú-na-dạ-xa, vì hỏi đáp có điều hợp, nên mến kính đạo đó, Tôn giả bèn nương theo mà xuất gia thọ giới. Nhân đó, thế gian Phú-na-dạ-xa bảo: “đời trước ông có ưa thích nhiếp phục Phạm thiên sống ở nước Tỳ-xá-ly, nhưng vì nước ấy có ba hạng người thượng, trung, hạ. Hạng bậc thượng, thân có ánh sáng, họ ăn mặc tự nhiên, theo ý muốn mà có được. Hạng bậc trung, thân không có ánh sáng, ăn mực phải mong cầu mới có được. Hàng bậc hạ, thân thể trần truồng như ngựa. Ông xót thương hạng ấy, thường dùng sức thần phân thân làm tằm, hạng người ấy có được, dùng làm y phục, do công đức ấy, đời nay ông lại được sinh trong nước ấy. Lúc ông xả bỏ nước đó, thì chúng người ngựa ấy cảm mộ công đức của ông nên đều cùng kêu hý, ông cũng dùng kệ tụng để an ủi đó là:

“Xưa ta sống Phạm thiên
Vì có chút mến thương
Mà vào Tỳ-da-ly
Cùng người đồng ưu khổ
Ta thấy ngươi không áo
Tâm ta muốn cứu giúp
Hiện hóa nơi hang vườn
Sẽ được các cứu độ”.

Nói kệ tụng ấy xong, ông liền sinh đến đời nay, vì thế nên có được tên gọi là “Mã Minh (Ngựa hý). Nhưng ông sẽ Chuyển Đại pháp luân làm Tổ đời thứ mười hai vậy”. Sau đó, Tôn giả Phú-na-dạ-xa, đem Đại pháp nhãn tạng trao truyền cho Tôn giả. Thế rồi, Tôn giả đem giáo pháp ấy du phương giáo hóa đến nước Hoa Thị, mới làm Phật sự lớn, tuy đối với người học pháp Tam thừa nhưng đều có thể độ cả. Một sáng nọ, bỗng có một ông già gầy ốm đến nơi pháp hội của Tôn giả đang ngồi tự nhiên ngã té. Nhân đó, Tôn giả bảo: “Đây là việc phi thường, sẽ có tướng khác lạ”. Bỗng chốc ông già ấy bèn ẩn mất, chợt nhiên từ đất vọt lên một người con gái dáng dấp đẹp xinh, sắc màu vàng ròng, đưa tay chỉ vào Tôn giả mà nói kệ tụng rằng:

“Cúi đầu lễ trưởng lão.
Hiện nhân Phật dự ghi,
Nay ở tại xứ này,
Độ chúng khỏi sinh tử”.

Nói kệ tụng ấy xong, chỉ trong chớp mắt tự nhiên không thấy người nữ ấy đâu nữa. Tôn giả bảo: “Đây là ma lại, muốn cùng ta so sánh”. Quả nhiên, chỉ khoảnh khắc, gió mưa bão bùng ập đến, đất trời bỗng tối sẩm. Tôn giả lại bảo: “Đó là điềm tin ma đến vậy, ta sẽ diệt trừ nó”. Và Tôn giả liền đưa tay khua giữa khoảng không, bèn hóa làm con rồng vàng ngàn thước, oai thần mạnh mẽ, tuy núi gò cũng vì thế mà chấn động, và ma sự tự ngưng dứt. Sau đó bảy ngày lại có một con trùng nhỏ tướng trạng khép nép ngầm ẩn dưới pháp tòa, Tôn giả bắt đưa ra chỉ bảo cùng Đại chúng: “Đây là ma biến hiện đến lén trộm nghe pháp của ta”. Sau đó, Tôn giả thả nó và bảo: “Hãy tự đi nơi khác”. Nhưng con sâu ấy khiếp sợ mà không thể cử động, Tôn giả lại an ủi nó rằng: “Ta không giết hại ngươi, ngươi chỉ nên hiện lại nguyên hình”. Ma mới hiện rõ nguyên hình thể của nó, đảnh lễ Tôn giả mà sám hối. Nhân đó, Tôn giả hỏi: “Ngươi tên là gì? Quyến thuộc có bao nhiêu?” Ma đáp: “Tôi tên là Ca-tỳma-la, có ba ngàn quyến thuộc”. Tôn giả lại hỏi: “Sức thần tận cùng của ngươi có thể biến hóa được gì?” Ma đáp: “Tôi có thể biến hóa biển lớn, việc ấy không khó”. Tôn giả lại hỏi: “Ngươi biến hóa tánh biển được chăng?” Ma mịt mờ, mới đáp: “Lời nói ấy chẳng phải chỗ biết của tôi”. Tôn giả bèn vì giảng nói pháp, xong mới bảo: “Đó là tánh biển, núi sông đại địa đều nương theo đó mà dựng lập nên, Tam-muội lục thông cũng do đó mà phát hiện”. Ma nghe giảng pháp rồi bèn phát khởi tín tâm, dẫn cùng ba ngàn quyến thuộc đều theo cầu xin xuất gia. Tôn giả bèn vì hóa độ, cho xuống tóc, thỉnh mời năm trăm vị A-la-hán chứng minh cho thọ giới. Tôn giả lại bảo Ca-tỳ-ma-la rằng: “Ông hướng đến Bồ-đề, tức sẽ thành Thánh đạo”. Ca-tỳma-la quả nhiên đắc giới thể phát ánh sáng và có mùi thơm khác lạ tỏa khắp. Tôn giả nhân đó mới tạo các luận nghị lớn. Về sau, Tôn giả bảo Ca-tỳma-la rằng: “Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai, nay ta giao phó cho ông, ông phải lưu truyền chớ khiến tuyệt dứt. Hãy nghe ta nói kệ tụng đây:

Ẩn hiện vốn pháp này
Tối sáng nguyên không hai
Nay trao pháp liễu ngộ
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ”.

Trao truyền Chánh pháp xong, Tôn giả bèn nhập Long phấn tấn Tam-muội, chuyển thân bay lên giữa không trung như tướng Nhật Luân, sau đó bèn vào đại tịch diệt. Lúc đó tương đương đời vua Hiển-Thánh Vương (??) thời nhà Chu ở Trung Hoa. Bốn chúng bèn nghinh thỉnh thân thể tôn trí nơi Long khám.

2. TRUYỆN ĐẠI SĨ CA-TỲ-MA-LA, TỔ THỨ MƯỜI BA Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Ca-tỳ-ma-la vốn người ở nước Hoa Thị, chưa rõ biết thuộc dòng họ nào. Mới đầu, Tôn giả là một ngoại đạo có khả năng huyễn thuật lớn, nhân đến nơi Tôn giả Mã Minh, sánh tài đấu pháp nhưng không thắng nỗi, bèn cùng cả đồ chúng quyến thuộc cầu xin xuất gia. Sau khi đã chứng Thánh đạo, Tôn giả Mã Minh truyền trao cho Đại pháp nhãn tạng, Tôn giả bèn du phương giáo hóa, đến xứ Tây Thiên Trúc, gặp Thái tử nước đó tên là Vân Tự Tại, kính trọng đức hạnh của Tôn giả mới muốn thỉnh mời vào trong cung để cúng dường, Tôn giả chối từ mà bảo: “Phật dạy Sa-môn không được thân gần các bậc vua tôi, nhà có thế lực quyền hào, nên tôi đây không dám vâng nhận sự thỉnh mời”. Thái tử thưa: “Ở phía Bắc thành nước tôi có một núi lớn, núi đó có hang đá, thanh tịnh tuyệt tục, cũng có thể tọa thiền, tuy do các loài rồng rắn vật khác gìn giữ, mà Tôn giả là bậc chí đức, hẳn nó cũng thuận theo sự giáo hóa của Tôn giả”. Tôn giả bèn bảo: “Vâng, vậy thì được”. Xong bèn theo Thái tử mà đi. Vừa đến núi đó, quả nhiên có một con trăn lớn thân hình dài cả một dặm, trợn mắt trông nhìn. Tôn giả cứ thẳng bước mà đi chẳng ngó lại nó. Đến phía Nam núi đó, Tôn giả ngồi nơi chỗ đất bằng phẳng, con trăn ấy lại buộc quanh thân Tôn giả, Tôn giả cũng chẳng đoái hoài đối với nó. Chốc lát, con trăn ấy bèn bỏ đi. Tôn giả trông nhìn lại đồ chúng theo mình thì đều bấn loạn chạy trốn không còn một ai. Sau đó, một mình Tôn giả riêng đến nơi hang đá, bỗng chốc có một ông già vận mặc y phục sắc trắng mà ra, chấp tay kính lễ. Tôn giả hỏi: “Ông ở xứ nào?” Người ấy đáp: “Xưa trước tôi từng làm vị Tỳ-kheo, rất ưa thích sự vắng lặng, rất phiền nhọc các điều thưa hỏi của hàng Sơ học, nhân đó mà nỗi tâm sân, đến lúc mạng chung, đọa làm thân rắn, ở tại hang này đã ngàn năm, vừa may gặp Tôn giả là bậc Thánh đức, nên lại kính lễ”. Nhân đó, Tôn giả lại hỏi: “Vậy núi này còn có người nào ở nữa chăng? Và họ chuyên việc đạo gì, ông chỉ cho ta biết”. Ông già ấy đáp: “Từ đây về phía Bắc cách khoảng mười dặm, có một cây lớn, có thể che phủ năm trăm rồng lớn. Vua cây đó tên là Long Thọ, thường vì chúng rồng giảng nói pháp, mà tôi cũng có đến dự nghe ở đó”. Tôn giả lại nhóm tập tất cả đồ chúng lại cùng tiến tới trước. Khi đến cây lớn, quả nhiên Long Thọ ra nghinh đón, vui mừng lễ kính mà thưa hỏi Tôn giả rằng: “Nơi rừng sâu vắng vẻ, chốn rồng rắn nương ở, Đại đức chí tôn có duyên sự gì đến đây?” Tôn giả đáp: “Tôi chẳng phải là chí tôn đến phỏng hỏi Hiền giả”. Long Thọ bèn im lặng mà nghĩ tính, tự bảo: “Tôn giả này là bậc chứng đắc quyết định tánh minh đạo nhãn ư? Hay là Đại Thánh nhân kế thừa chân tông?” Tôn giả bảo: “Tuy ngươi chỉ tâm niệm mà ta đã biết ý, chỉ nên xuất gia, sao lo ngại ta không phải Thánh”. Khi ấy, Long Thọ bèn sám tạ, Tôn giả liền vì độ cho. Sau đó không bao lâu, Tôn giả bảo Long Thọ rằng: “Nay ta đem Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai trao lại cho ông, ông nên trao truyền đó. Hãy nghe ta nói kệ tụng đây:

Pháp không ẩn không hiển
Nói là lạnh chân thật
Ngộ pháp ẩn hiển ấy
Chẳng ngu cũng chẳng trí”.

Trao truyền Chánh pháp xong, Tôn giả bèn vụt thân bay lên giữa hư không hiện bày các thứ thần biến, xong mới vào tịch diệt, dùng hóa lửa mà tự thiêu đốt. Lúc đó tương đương đời vua Noãn Vương (??) thời nhà Chu ở Trung Hoa. Long Thọ bèn gom thâu xá-lợi năm sắc, xây dựng bảo tháp mà tôn trí cúng dường.

* Thử bàn luận:

Ở trong hai bộ sách Bảo Lâm và Truyền Đăng đều có ghi chép về thời gian thị tịch của chư vị Tổ sư ở Thiên Trúc đều hợp với năm tháng với thời nhà Chu, nhà Tần ở Hoa hạ-Trung Hoa. Nhưng từ đời vua Tuyên Vương thời nhà Chu trở về trước chưa có niên số. Thêm nữa, Trung Hoa và Thiên Trúc cách xa nhau hơn vài vạn dặm, chư Tổ sư hóa đạo diệt độ hoặc có vị đã hơn ngàn năm, việc ấy mịt mờ vượt xa cách biệt, tôi sợ đem dịch lại mà so sánh chưa dễ được sự thật, nên lược bỏ về niên số, tạm lưu lại tên đời vua thôi vậy. Chỉ có Đức Phật Thích-ca Văn, Tổ sư Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Hoa, và sáu đời Tổ sư ở Trung Hoa về năm tháng tịch diệt, hơi có thể suy tính mới biên ghi đầy đủ.

3. TRUYỆN ĐẠI SĨ LONG THỌ, TỔ THỨ MƯỜI BỐN Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Long Thọ, người nước xứ Tây Thiên Trúc, chưa rõ biết thuộc dòng họ nào. Có thuyết nói Tôn giả xuất phát từ chủng tộc Phạm Chí, Tôn giả bẩm tánh rất thông minh dĩnh ngộ, tài năng trí tuệ trác việt khác hẳn phàm khí. Thuở thiếu thời đã hay đọc tụng bốn bộ Vệ Đà, các kinh điển hơi trưởng thành bèn khéo biết thiên văn, địa lý, thông rành trăm thứ nghệ thuật, vốn là nơi giống rồng nương ở, và núi ấy có cây lớn có thể che phủ chúng rồng. Đến lúc Tôn giả có sự cảm ngộ, tỏ ý muốn xuất gia bèn vào núi đó tu hành, mới nương tựa nơi cây đó. Và đối với Tam tạng áo nghĩa, Tôn giả cũng tự thấu hiểu. Xong rồi, Tôn giả hay vì chúng rồng ấy giảng nói pháp, vì thế nên Tôn giả được xưng gọi là Long Thọ. Đến lúc Tôn giả Ca-tỳ-mA-la đến núi đó, cùng gặp rất tốt lành, Tôn giả mới cùng tất cả chúng rồng kính lễ tôn xưng làm thầy. Lúc được hóa độ xuống tóc, vua nước đó cùng các trời Đế-thích, Phạm vương đều đến dự pháp hội thù thắng đó. Tôn giả được thọ giới từ các bậc Đại A-la-hán. Tôn giả thành đạt Thánh đạo, chứng đắc sáu pháp thần thông. Sau đó Tôn giả Ca-tỳ-ma-la đem Đại pháp nhãn tạng trao truyền cho Tôn giả.

Thế rồi, Tôn giả du phương giáo hóa, đến nước xứ Nam Thiên Trúc. Trước kia, người nước đó thích tu phước nghiệp, kịp lúc Tôn giả đến đó giảng nói cốt yếu Chánh pháp, họ mới cùng nhau bàn luận là “Nếu chỉ chuyên tu phước nghiệp lấy làm việc ưu thắng, thì với điều giảng nói về Phật tánh, sao có thể thấy được ư?” Nhân đó, Tôn giả bảo họ rằng: “Các ngươi muốn thấy được Phật tánh, hẳn phải dứt trừ ngã mạn, mới có thể thành đạt đó”. Các người ấy hỏi: “Phật tánh lớn hay nhỏ?” Tôn giả đáp: “Chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng rộng chẳng hẹp, không phước không báo, chẳng chết chẳng sống”. Các người ấy cho là điều nói của Tôn giả thấu đạt chí lý, nên đều rất vui mừng cầu xin học pháp ấy. Tôn giả bèn ngay trên tòa hóa hiện thân tướng như một vầng nguyệt luân. Khi ấy Đại chúng tuy nghe giảng nói pháp mà không thấy hình tướng. Vừa lúc đó có một người con ông trưởng giả tên là Ca-na-đề-bà, ở trong các người ấy được trông thấy như vậy, riêng tự khế ngộ, bèn bảo cùng các người ấy rằng: “Có biết tướng này chăng?” Mọi người đều đáp: “Chúng tôi không thể nào biết được”. Ca-na-đề-bà bảo: “Đó là do Tôn giả hiện bày để biểu thị Phật tánh, muốn cho chúng ta rõ biết đó vậy. Phàm là vô tướng Tam-muội, hình như trăng tròn đầy, nghĩa của Phật tánh rỗng rang sáng sạch”. Nói lời ấy vừa xong, bỗng nhiên vầng nguyệt luân cũng ẩn mất. Tôn giả lại nghiễm nhiên ngồi nơi pháp tòa, mà nói bài kệ tụng rằng:

“Thân hiện tướng trăng tròn
Để bày thể chư Phật
Giảng pháp không hình tướng
Dùng rõ chẳng thanh sắc”.

Khi ấy các người ấy thảy đều cảm ngộ, liền thỉnh cầu Tôn giả làm thầy. Và Tôn giả đều độ cho tất cả, nhóm tập các Thánh giả chứng minh cho họ thọ giới. Và Ca-na-đề-bà dẫn làm thượng thủ. Lại nhân có năm ngàn ngoại đạo nguyên trước ở trong nước đó hiện bày các thứ huyễn thuật. Vua và dân chúng trong nước thảy đều nương theo đó, mà Phật đạo sắp bị khuyết lấp, khi ấy Tôn giả rất cảm xót bùi ngùi bèn đổi dạng oai nghi, làm người cư sĩ mặc áo trắng cầm nắm phan phướn, Đại sư xét mỗi lúc nhà vua xuất hành, thì rảo bước đi trước mặt, hoặc ẩn hoặc hiện, cứ như vậy suốt bảy năm. Một ngày nọ, vua rất lấy làm lạ, dùng ngôn từ hiền lành bảo gọi (Tôn giả) đến mà hỏi: “Ông quả thật là người gì mà thường đi trước ta? Ta đuổi theo mà không được, xua đuổi cũng không đi?” Tôn giả đáp: “Ta là người trí, biết rõ tất cả mọi việc”. Vua lại lấy làm lạ bởi lời nói ấy, liền muốn xét nghiệm nên hỏi: “Nay các trời đang làm gì?” Tôn giả đáp: “Nay các trời đang cùng A-tu-la đánh nhau”. Vua lại hỏi: “Việc trời đâu dễ rõ vậy ư?” Tôn giả bảo: “Hãy đợi chốc lát hẳn có ứng nghiệm”. Chỉ chốc lát bỗng nhiên có giáo mác, tay chân người lẫn lộn từ giữa hư không rơi rớt xuống. Vua thấy vậy mới tin, lại càng kính phục ngợi khen, bảo các hàng ngoại đạo đều quy hướng kính lễ Đại sĩ. Nhưng các ngoại đạo đều cầu xin muốn được chánh mắt họ thấy, Tôn giả bèn nhân đó mà tạo thuật các luận nghị, như luận Đại Trí Độ, luận Trung Quán, luận Thập Nhị Môn, chẳng những có cả ngàn muôn kệ tụng, thảy đều là phương tiện mở mang giải thích Chánh pháp để ứng đáp thích nghi căn cơ họ.

Về sau, Tôn giả mới bảo Ca-na-đề-bà rằng: “Đức Như Lai đem Đại pháp nhãn tạng trao truyền cho Tôn giả Đại Ca-diếp, lần lượt chư Tổ sư trao truyền đến ta. Nay ta lại giao phó cho ông, ông khéo nên gìn giữ lưu truyền, hãy nghe ta nói kệ tụng đây:

“Để rõ pháp ẩn hiển
Mới nói lý giải thoát
Với pháp, tâm không chứng
Không mừng cũng không sân”.

Tôn giả lại bảo Ca-na-đề-bà rằng: “Ông khéo nên lưu truyền chớ khiến tuyệt dứt, sẽ ở trong tương lai làm nên những Phật sự lớn”. Xong rồi, Tôn giả bay thân lên giữa hư không, nhập nguyệt Luân Tam-muội, hiện bày các thứ thần biến, rồi trở lại nơi pháp tòa mà nhập tịch định. Qua sau bảy ngày trời mưa xá-lợi, Tôn giả lại từ định xuất đưa tay chỉ giữa hư không mà bảo Đại chúng rằng: “Xá-lợi đây là của Tôn giả Ma-ha-ca; đệ tử Đức Phật Câu-na-hàm ở thời quá khứ, từng phát ba lời đại nguyện mà cảm nên, đó là: Một là nguyện ta lúc thành Phật, nếu có bậc Thánh sĩ hóa độ nơi đời, gặp được trời mưa đổ xuống nơi thân tức làm thành xá-lợi; hai là nguyện tất cả mọi vật từ đại địa sinh ra đều có thể làm thành thuốc thang để trị bệnh tất cho chúng sinh; ba là nguyện phàm có bậc Trí giả đều biết chỗ vi diệu để thông rành túc mạng”. Nói xong, Tôn giả bèn an nhiên tịch diệt. Lúc đó tương đương với Thỉ Hoàng Đế (Doanh Chính 246-209 trước Tây lịch) thời nhà Tần ở Trung Hoa. Ca-nađề-bà cùng bốn chúng đệ tử đồng dựng tháp để tôn thờ.

* Thử luận bàn:

“Chánh tông quý trọng điểm đơn giản tinh diệu. Vậy mà Tôn giả Long Thọ tạo thuật Quảng luận để phát huy điều gì ư?” Xin đáp: “Phàm là giản đơn tinh diệu, mọi người khó thấu đạt đến đó. Bởi vì căn cơ tánh khí mọi người có thượng hạ khác nhau, nếu chẳng dùng phương tiện dẫn đạo ấy thì hàng có tín tâm cạn cợt sao có thể tiến tới ảnh hưởng đượm nhuần? Vì thế nên Tôn giả mới tạo thuật luận chuyên vì phát huy một hạng căn cơ ấy vậy. Đâu phải trong kinh Niết-bàn chẳng nói ư: “Các ông phải cẩn trọng, vì hạng người lợi căn mà rộng giảng nói các pháp lớn. Vì hạng người căn cơ ám độn mà lược giảng pháp nhơ. Phàm là đơn giản tinh diệu cốt yếu đối với tâm có điểm thấu đạt.

Chẳng hẳn vì lời ấy chẳng nói, vì đó xác đáng chăng? Cho nên, người chứng nơi đơn giản tinh diệu, càng nơi càng thấu đạt đến cùng, người chẳng chứng nơi đơn giản tinh diệu, càng cách xa”.

4. TRUYỆN ĐẠI SĨ CA-NA-ĐỀ-BÀ, TỔ THỨ MƯỜI LĂM Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Ca-na-đề-bà, vốn người thuộc dòng họ Tỳ-xá-la ở nước xứ Nam Thiên Trúc, Tôn giả có sẵn bẩm tánh tài biện. Thuở bé thơ, tập theo phong tục nước ấy, vui thích tu tạo phước nghiệp. Mãi tới lúc Tôn giả Long Thọ đến nơi cửa nhà, muốn xét thử đó, Tôn giả Long Thọ bảo đem đến một bát nước đầy đặt để trước mặt. Tôn giả bèn ném cây kim vào trong bát nước, cùng bước tới trông xem, mừng vui khế hợp. Tôn giả Long Thọ hiện bày tướng nguyệt luân biểu thị cho Phật tánh, cả Đại chúng đều mịt mờ, riêng một mình Tôn giả nhận biết đó, bèn vì dẫn dụ mọi người. Về sau đồng nương theo Tôn giả Long Thọ mà cầu xin xuất gia, và quả nhiên Ca-na-đề-bà làm đệ tử cao túc. Đến lúc Tôn giả Long Thọ sắp nhập Niết-bàn, đem Đại pháp nhãn tạng trao truyền cho Tôn giả. Sau đó, Tôn giả bèn đem pháp mình chứng đắc mà du phương giáo hóa.

Nguyên trước đó, ở nước Ca-tỳ-la có một nhà giàu có tên là Phạm Ma Tịnh Đức, mọi người trong nước đó tôn xưng là trưởng giả. Ông có hai người con, người lớn tên là La-hầu-la-diệm, người nhỏ tên là La-hầu-la-đa. Tịnh Đức có tay khéo sửa sang vườn rừng trồng tỉa cây cối. Một ngày nọ, cây trong vườn tự nhiên bỗng sinh mọc tai như nấm lớn tợ bánh xe, mùi vị ngon lành có thể ăn dùng. Như thế trọn năm, chỉ cung cấp cho Tịnh Đức và Lahầu-la-đa ăn dùng, ngoài ra mọi người trong nhà muốn hái ăn thì nấm ấy tự nhiên ẩn mất. Nhưng Tịnh Đức rất nghi ngờ đó, từng nói với La-hầu-lađa rằng: “Tai của cây đây chỉ có ta và ngươi được ăn, hẳn là việc khác thường, người nào có thể làm sáng tỏ điều này đây?” La-hầu-la-đa liền nói bài kệ tụng muốn nhờ người khác bảo cho rằng:

“Cây đây mọc tai lạ
Ta ăn chẳng khô khao
Trí giả giải nhân này
Ta hồi hướng Phật đạo”.

Vừa lúc gặp Tôn giả đến nước đó, vào nơi nhà, cha con Tịnh Đức mừng vui cùng kính lễ, bèn đem sự việc ấy mà thưa hỏi, Tôn giả mới vì giải thích cho rằng: “Xưa trước, lúc ông hai mươi tuổi, thường mời một vị Tỳ-kheo đến nơi nhà để cúng dường. Vị Tỳ-kheo ấy tuy có chút giới hạnh mà pháp nhãn chưa tỏ sáng, tâm không thấu đạt lý, ngồi không mà thọ nhận sự cúng thí của ông, nhưng vị ấy hay có chút ít tu hành nên không đọa lạc đường ác, do đó trở lại quả báo làm nấm tại cây ấy để bồi thường cho ông. Mới đầu, vị Tỳ-kheo ấy ở trong nhà ông, các người trong nhà ông đều không vui thích, chỉ riêng mình ông với người con kế hay lấy lòng thành thật mà tiếp đãi, nên nay tai nấm chỉ riêng cho cha con ông được ăn dùng”. Tôn giả lại hỏi Tịnh Đức rằng: “Ông nay bao nhiêu tuổi?” Tịnh Đức đáp: “Tôi đã bảy mươi chín tuổi”.

Nhân đó, Tôn giả nói bài kệ tụng rằng:

“Học đạo chẳng thông lý
Làm thân đền tín thí
Ông năm tuổi tám mốt
Cây ấy cũng hết mầm”.

Nghe nói vậy, tâm ý Tịnh Đức bèn rỗng rang, càng ân cần thán phục, vả lại nói: “Nay tôi hổ thẹn tuổi đã già suy, tuy muốn xuất gia, đâu kham tôn thờ thầy. Nay có đứa con thứ đây vốn ưa thích vào đạo, tôi xin cho nó theo nương hầu hạ, xin Tôn giả nhủ lòng nhận cho”. Tôn giả bảo: “Xưa kia Đức Như Lai đã dự ghi về đứa con này là: Sau khi Phật diệt độ trong khoảng năm trăm năm, có vị Đại Bồtát tên là La-hầu-la-đa, nhân ăn nấm tai cây mà xuất gia thành đạo”. Và Tôn giả bèn hỏi người con ấy: “Ông tên là gì?” Người con ấy đáp: “Tôi tên là La-hầu-la-đa”. Tôn giả tiếp bảo: “Đây quả thật hợp điều dự ghi của Đức Phật. Ông nay nên xuất gia sẽ thành đạo quả lớn”. Sau đó Tôn giả bèn độ cho xuống tóc xuất gia, thỉnh mời các Thánh giả chứng minh cho thọ giới Cụ túc. Từ đó, bèn chuyên nương theo du hóa. Một ngày nọ, Tôn giả đến thành Ba-liên-phất, bỗng chốc nghe các ngoại đạo cùng tính muốn chèn ép Phật pháp, Tôn giả mới tự mang cây phan dài lớn đến đứng nơi chúng hội. Ngoại đạo bèn hỏi: “Sao ông chẳng tới trước?” Tôn giả đáp: “Sao ngươi chẳng lui sau”. Lại hỏi: “Ông tợ người giặc”. Tôn giả đáp: “Ngươi tợ người tốt lành”. Lại hỏi: “Ông hiểu được pháp gì?” Tôn giả đáp: “Trăm thứ ngươi chẳng biết”. Lại hỏi: “Ta muốn đắc Phật”. Tôn giả đáp: “Ta đốt cháy được”. Lại hỏi: “Ông không hợp được”. Tôn giả đáp: “Vốn đạo ta đắc, ngươi thật chẳng được”. Lại hỏi: “Ông đã chẳng đắc, sao bảo là đắc?” Tôn giả đáp: “Vì ngươi có ngã, do đó không đắc, ta đây không ngã, nên ta tự đắc”. Khi ấy, ngoại đạo tiếp nối tắt nghẽn, tự cùng bảo nhau rằng: “Đây hẳn là bậc Đại Thánh, nên đều quy hướng”. Bèn hỏi Tôn giả rằng: “Ông tên gì?” Tôn giả đáp: “Ta tên là Ca-na-đềbà”. Các ngoại đạo do từ trước đã từng nghe Tôn giả, khi ấy bèn cùng nhau phục ứng sám hối lỗi quá. Có một số chưa chịu cảm hóa, lại bày ra trăm ngàn thứ cật nạn, mà Tôn giả lần lượt dùng biện tài vô ngại vì giải thích, nên đều bẻ gãy tất cả. Do đó, Tôn giả tạo thuật nhiều bộ luận nghị, như bộ Bách luận v.v..., và Pháp sư ưu thắng đã hoàn tất, cuối cùng, Tôn giả gọi La-hầu-la-đa mà trao truyền pháp nhãn. Với bài kệ tụng rằng:

“Trước đối người Truyền pháp
Vì nói lý giải thoát
Với pháp, thật không chứng
Không chung cũng không thủy”.

Thế rồi, Tôn giả nhập phấn tấn Tam-muội, trên tự thể tỏa phóng tám luồng ánh sáng, mà tự vào tịch diệt. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Văn Đế (Lưu Hằng 179-156 trước Tây lịch) thời Tây Hán ở Trung Hoa. Bốn chúng cùng nhau tạo dựng bảo tháp, trời Phạm thiên hỗ trợ nghiêm sức chung cúng dường.

5. TRUYỆN ĐẠI SĨ LA-HẦU-LA-ĐA, TỔ THỨ MƯỜI SÁU Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả La-hầu-la-đa, vốn người thuộc dòng họ Phạm Ma ở nước Ca-tỳ-la. Sau khi đã tỏ rõ nhân duyên nấm tai cây nơi nhà mình, Tôn giả bèn nương tựa Tôn giả Ca-na-đề-bà mà cầu xin xuất gia, theo hầu đến thành Ba-liên-phất. Về sau thọ nhận trao truyền pháp nhãn tại thành ấy. Xong rồi, Tôn giả cũng thống lãnh đồ chúng vân du hành hóa khắp nơi. Sau đó không lâu, đến phía Nam thành Thất-la-phiệt, gần sông Kim thủy, bỗng nhiên Tôn giả bảo cùng Đại chúng rằng: “Các người có biết chăng? Vừa rồi hình ảnh của năm Đức Phật hiện trong dòng nước, ta vốc nước ấy lên liền có mùi vị khác lạ. Đầu nguồn sông này cách năm trăm dặm, đang có bậc chí nhân ở đó. Xưa kia, Đức Như Lai từng dự ghi rằng: “Sau khi Phật diệt độ, trong khoảng năm trăm năm, sẽ có bậc Thánh giả tên là Tăng-già-nan-đề xuất hiện nơi xứ này kế thừa tiếp nối làm Tổ đời thứ mười bảy”. Xong, Tôn giả bèn dẫn đồ chúng theo ngược dòng sông đi lên. Đã đến nơi quả nhiên thấy Tăng-già-nan-đề đang thiền định trong một hang đá. Dò hỏi đó đã hai mươi mốt ngày. Đến lúc Tăng-già-nan-đề xuất định, Tôn giả hỏi: “Thân ông nhập định hay tâm ông nhập định ư?” Tăng-già-nan-đề đáp: “Thân tâm tôi đều an định”. Tôn giả lại hỏi: “Thân tâm đều an định, sao lại có xuất nhập?” Tăng-già-nan-đề đáp: “Tuy có xuất nhập nhưng không mất tướng định. Thí như vàng ở trong đáy giếng, thể vàng thường vắng lặng”. Tôn giả lại hỏi: “Nếu vàng ở trong đáy giếng, và vàng ra khỏi giếng, vàng vẫn không động tĩnh, vậy vật gì vào ra?” Tăng-già-nan-đề đáp: “Nói vàng động tĩnh, vật nào vào ra, hứa cho vàng vào ra mà vàng chẳng động tĩnh”. Tôn giả lại hỏi: “Nếu vàng từ đáy giếng đưa ra là vật gì?” Tăng-già-nan-đề đáp: “Nếu vàng từ đáy giếng đưa ra chẳng phải là vàng thì vàng từ đáy giếng đưa ra chẳng phải vật”. Tôn giả bảo: “Nghĩa ấy không như vậy”. Tăng-già-nan-đề đáp: “Lý kia cũng chẳng nhằm”. Tôn giả lại bảo: “Nghĩa đây đáng rơi lạc”. Tăng-già-nan-đề đáp: “Nghĩa kia cũng chẳng thành”. Tôn giả bảo: “Nghĩa kia chẳng thành thì nghĩa ta đây thành vậy”. Tăng-già-nan-đề đáp: “Nghĩa ta đây tuy thành, nhưng pháp chẳng phải ngã vậy”. Tôn giả bảo: “Nghĩa ta đã thành, ta không ngã vậy”. Tăng-già-nan-đề bèn hỏi: “Ta không ngã, lại thành nghĩa gì?” Tôn giả đáp: “Ta không ngã, nên thành nghĩa ngươi”. Tăng-già-nanđề mới hỏi: “Thầy của Nhân giả là Thánh nào mà chứng đắc không ngã ấy?” Tôn giả đáp: “Thầy ta là Tôn giả Ca-na-đề-bà chứng pháp không ngã ấy”. Tăng-già-nan-đề thưa: “Cúi đầu kính lễ bậc thầy Ca-na-đề-bà lưu xuất ra Nhân giả. Nhân giả chứng đắc pháp Không ngã. Nay tôi muốn nương theo Nhân giả”. Tôn giả bảo: “Ta đã là Không ngã, ngươi cần thấy ngã nơi ta. Nếu ngươi muốn theo ta phải biết ta chẳng có ngã nơi ta”. Tăng-già-nan-đề bỗng nhiên tâm ý rỗng rang, bèn cúi đầu mà nói kệ tụng rằng:

“Ba cõi một ngọn đèn
Tỏa sáng soi chiếu tôi
Mười phương đồng xán lạn
Như mặt nhật giữa không”.

Nói kệ tụng xong, lại đảnh lễ cầu xin được độ, Tôn giả bảo: “Tâm ông tự tại, chẳng bó buộc nơi ngã, sao phải nương gá nơi khác mà cầu xin giải thoát?” Tôn giả lại liền dùng tay phải gõ bình bát vàng nâng lên trời Phạm thiên, lấy cơm thơm cõi trời về bảo Đại chúng cùng ăn, mà Đại chúng ấy bỗng sinh chán ghét, đều chẳng thể ăn. Tôn giả bảo: “Nhường nhịn mà chẳng thể ăn, chẳng phải bởi ta tiếc lận, mà bởi nghiệp các người tự nhiên như vậy”. Tôn giả mới bảo Tăng-già-nan-đề phân tòa đồng ăn. Đại chúng lại sinh nghi hoặc đó, cho rằng thầy trò lẫn lộn không có phẩm trật. Tôn giả biết vậy, bèn bảo: “Các người ăn không được là bởi như vầy. Nay, người cùng ta phân tòa vốn là Đức Ba-la-nương Như Lai ở thời quá khứ, ứng đối với vật tình nên giáng hiện dấu vết sẽ làm Tổ sư đời thứ mười bảy. Ở trong đời kiếp trang nghiêm, các người cũng đã từng đắc chứng đến đệ tam quả A-na-hàm, mà chưa thuần vô lậu, vừa rồi tuy thân gần ta mà đâu được thấy tánh, chánh nên chuyên ý quy hướng nhân giả đây. Sau khi ta diệt độ sẽ là bậc thượng thủ của Đại chúng. Lại xuất sinh ra một Tổ sư kế tiếp tên là Già-da-xá-đa, các người cũng nên biết đó”. Đại chúng đều thưa: “Đại sư là bậc đại thần lực, chúng tôi không dám chẳng tin. Với người kia, nói là vốn Phật ở đời quá khứ, hoặc còn có người nghi ngờ”. Tăng-già-nan-đề vì tâm ý Đại chúng chưa thuần phục như thế, mới nói cùng Tôn giả rằng: “Ngày Đức Thế Tôn còn ở nơi đời, thế giới bằng phẳng ngay ngắn, không có gò đồi, suối sông ngòi rạch, nước đều mát ngọt, cỏ cây đượm nhuận, nước nhà giàu mạnh, mọi người không bị tám thứ khổ bức bách mà chuyên thực hành mười thiện pháp. Đến lúc Đức Như Lai tịch diệt tại rừng

Ta-la song thọ mãi tới nay đã gần ngàn năm, mà thế giới biến thành gò nũng, cây cối khô gầy. Con người ít tâm kính tin, chánh niệm cạn cợt, chẳng chuyên tu diệu ngộ chỉ vui thích thần lực. Nhưng tôi tự chẳng thi vi hành động, giả sử có hành động cũng không lấy làm khó”. Bèn đưa cánh tay phải nhí xuống đất đến tận ngằn mé Kim cang luân, lấy nước cam lồ để trong bình lưu ly, đêm đến trong chúng hội, phân chia cho Đại chúng, mọi người uống đó tâm ý bèn khinh an. Khi ấy Đại chúng đều suy phục kính lễ sám hối lỗi quá.

Về sau, Tôn giả mới bảo Tăng-già-nan-đề rằng: “Nay tôi già suy còn sống ở đời không bao lâu nữa, Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai nay tôi giao phó cho ông. Hãy nghe tôi nói bài kệ tụng đây:

“Nơi pháp thật không chứng
Chẳng lấy cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng có-không
Trong ngoài do đâu khởi”.

Tăng-già-nan-đề nghe kệ tụng truyền pháp xong, càng thêm cung kính, lại nói bài kệ tụng mà tán thán rằng:

“Lành thay bậc Đại Thánh!
Tâm sáng như nhật nguyệt
Ánh sáng soi thế giới
Ma tối đều lui tan”.

Tôn giả liền ngay nơi pháp tòa mà nhập tịch diệt. Lúc đó tương đương đời vua Võ Đế (Lưu

Triệt 140-86 trước Tây lịch) thời Tây Hán ở Trung Hoa. Bốn chúng cùng tạo dựng bảo tháp để tôn trí toàn thân Tôn giả.

6. TRUYỆN ĐẠI SĨ TĂNG-GIÀ-NAN-ĐỀ, TỔ THỨ MƯỜI BẢY Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Tăng-già-nan-đề, vốn người thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi, ở nước Thất-la-phiệt. Thân phụ của Tôn giả tên là Bảo Trang Nghiêm, thật là vua nước đó. Lúc vừa mới sinh Tôn giả liền biết nói, từng cùng thân mẫu nói năng, Tôn giả chỉ chuyên nói chuyện Phật pháp. Song thân rất lấy làm lạ đó, ban chiếu mời vị Quốc sư hỏi nguyên nhân cớ sao đứa con như vậy? Vị Quốc sư ấy là người khác thường có khả năng nhận biết mọi việc đã qua, tâu cùng vua rằng: “Đứa con này chính là Đức Phật Bà-la-vương ở thời quá khứ, vì muốn thị hiện để hóa độ nên sinh vào trong nhà vua. Năm bảy tuổi sẽ lại vào đạo, ra ở nơi hang đá tại sông Kim thủy”. Song thân Tôn giả rất lấy làm lo buồn, thường luôn nghĩ sợ điều nói đó đúng như thật. Đến lúc bảy tuổi, quả nhiên Tôn giả nói bài kệ tụng báo cùng song thân tỏ ý muốn cầu xin xuất gia rằng:

“Cúi đầu lạy cha lành
Nghiêng mình kính mẹ hiền
Nay con muốn xuất gia
Xin thương chấp thuận cho”.

Mới đầu, song thân không chấp thuận, Tôn giả khổ thiết cầu xin mới được toại ý. Vua Bảo trang nghiêm mới thỉnh mời Sa-môn Thiền-lợi-đa vì Tôn giả mà xuống tóc. Tôn giả lưu ở lại trong cung, qua chín năm mới gặp vị Thắng Tăng chứng minh cho Tôn giả thọ giới. Một đêm nọ, Tôn giả mới phát thệ nguyện rằng: “Ta đã thọ giới Cụ túc mà ở nhà thế tục, nay lại đã 26 tuổi, làm sao được gặp Thánh giả mà được nghe đạo ư?” Bèn cảm trời tỏa phóng ánh sáng soi chiếu xuống, bỗng chốc thấy phía trước có một con đường phẳng bằng, và phía trước lại có một núi lớn. Tôn giả bèn rảo bước tới để đến núi đó, và sắc trời cũng tỏ sáng, Tôn giả tự thấy thân mình đã ngồi nơi một hang đá. Đến sáng ngày, vua Bảo Trang Nghiêm bị mất con tìm kiếm không được, bèn xua đuổi Sa-môn Thiền-lợi-đa đi. Thế rồi, Tôn giả ở tại đó tu thiền vừa mới mười năm mà mọi người quy hướng nhóm tụ. Một ngày nọ, nhân thấy hơi khí tốt lành, bỗng nhiên Tôn giả bảo: “Sắp có bậc Thánh nhân vì ta mà lại đây. Các người hãy chóng quét tước phía trước hang để chờ đợi tiếp đón”. Sau đó không bao lâu, quả nhiên Tôn giả La-hầu-la-đa đến đó. Khi ấy Tôn giả đang nhập định. Đợi qua bảy ngày, Tôn giả xuất định rồi mới hỏi đáp qua lại có vài trăm lời, mà nghĩa lý của Tôn giả La-hầu-la-đa vượt thắng, Tôn giả liền kính phục bèn xin theo cầu đạo. Tôn giả La-hầu-la-đa bảo: “Đức Như Lai xưa kia đã dự ghi ông sẽ làm Tổ đời thứ mười bảy”. Về sau, Tôn giả La-hầu-lađa lại gọi Tôn giả mà trao truyền Đại pháp nhãn tạng.

Một ngày nọ, Tôn giả bảo Đại chúng rằng: “Đại sư La-hầu-la-đa từng nói: “Tại nước Ma-đề sẽ có bậc Thánh giả xuất hiện, tên là Già-da-xá-đa, tiếp nối dòng pháp do ta trao truyền”. Nay ta cùng các người đồng nên đi tìm người ấy”. Trên bước đường đi tự nhiên có gió tốt lành từ phía Tây thổi lại thoáng mát tất cả mọi người, Tôn giả bảo: “Đây là luồng gió đạo đức vậy, theo hướng Tây đi khoảng ba ngàn dặm hẳn sẽ gặp được Thánh giả ấy. Gió này không thuộc loại gió bình thường của trời, rồng, quỷ, thần, A-tu-la, tuy có thổi động, nhưng không tổn hại muôn vật. Người bệnh tật gặp được thì sẽ lành mạnh, người tập học gặp được thì tỏ thông, người có ác nghiệp gặp được thì thành sạch không”. Khi ấy Tôn giả dùng sức thần mà thu nhiếp Đại chúng cùng nhau đồng đi trong chốc lát, bèn đến một quả núi, Tôn giả bảo Đại chúng: “Trên đỉnh núi này có mây tía như lọng, hẳn là Thánh nhân ở tại đâu đây”. Đại chúng ngó nhìn bốn phía quả nhiên có một núi nhà. Dần bước tới, vừa đến nơi cửa, bỗng nhiên thấy một trẻ nhỏ bưng tấm gương bước ra nghinh đón ở phía trước. Tôn giả liền hỏi: “Ông đã bao nhiêu tuổi?” Trẻ nhỏ ấy đáp: “Tôi đã trăm tuổi”. Tôn giả lại hỏi: “Ông còn trẻ nhỏ sao nói là đã trăm tuổi?” Trẻ nhỏ ấy tiếp đáp: “Tôi chẳng hiểu tại sao, nhưng chánh đúng đã trăm tuổi”. Tôn giả lại hỏi: “Ông có thiên cơ chăng?” Trẻ nhỏ ấy đáp: “Trong kinh kệ há Phật đã từng bảo là: Nếu người sống trăm năm chẳng hiểu cơ chư Phật, chẳng bằng sống một ngày, mà được quyết định đó”. Tôn giả lại hỏi: “Ông bưng gương tròn, ý muốn làm gì?” Trẻ nhỏ ấy mới dùng bài kệ tụng mà đáp đó là:

“Chư Phật gương tròn lớn
Trong ngoài không vết che
Hai người đồng được thấy
Tâm mắt đồng tương tợ”.

Song thân của trẻ nhỏ ấy thấy nó cùng Tôn giả đối đáp có lắm kỳ đặc, bèn cho trẻ nhỏ ấy xuất gia. Tôn giả liền chấp thuận đó, dẫn đưa về nơi tinh xá, thỉnh mời các Thánh giả chứng minh cho thọ giới. Tôn giả bèn đặt gọi tên trẻ nhỏ ấy là Già-da-xá-đa. Một ngày nọ, có gió lay động chiếc linh đồng nơi chánh điện tự nhiên phát tiếng, Tôn giả lại hỏi Giàda-xá-đa: “đó là linh kêu hay là gió kêu?” Già-daxá-đa đáp: “Chẳng phải linh chẳng phải gió. Chánh tâm ta kêu vậy”. Tôn giả lại hỏi: “Tâm ta là ai ư?” Già-da-xá-đa đáp: “Thảy đều tĩnh lắng”. Tôn giả bảo: “Lành thay khéo hợp Phật lý, nên giảng nói pháp yếu. Người nối dõi đạo ta nếu không phải ông thì ai nữa?” Về sau Tôn giả trao truyền Đại pháp nhãn tạng cho Già-da-xá-đa, mới nói bài kệ tụng rằng:

“Đất tâm vốn không sinh
Nhân đất theo duyên khởi
Giống duyên chẳng ngại nhau
Hoa quả cũng như thế”.

Thế rồi, Tôn giả đưa tay phải vin cành cây mà thị tịch. Lúc đó tương đương với đời vua Hiếu chiêu Đế (Lưu Phật Lăng 86-73 trước Tây lịch) thời Tây Hán ở Trung Hoa. Đồ chúng của Tôn giả cùng nhau bàn nghị là: “Tôn giả thị tịch dưới rừng cây tươi tốt. Đó cũng là rủ che cho con cháu về sau ư?” Hoặc có người muốn nghinh thỉnh đến nơi gò đồi cao mà trà-tỳ, tuy dốc hết sức lực nâng lên mà trọn không lay động, bèn trà-tỳ ngay đó rồi gom thâu xá-lợi đến dựng tháp tôn thờ nơi cao kia.

7. TRUYỆN ĐẠI SĨ GIÀ-DA-XÁ-ĐA, TỔ THỨ MƯỜI TÁM Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Già-da-xá-đa, vốn người thuộc dòng họ Uất-đầu-lam ở nước Ma-đề. Thân phụ của Tôn giả tên là Thiên Cái, thân mẫu tên là Phương Thánh. Mới đầu, lúc Phương Thánh mang thai, mộng thấy có một người bưng đến tấm gương báu trao cho mà nói là: “Tôi lại đây vậy”. Đến lúc tỉnh giấc trong thân mình sản khoái như lúc bình thường, những nơi phòng thất có mùi hương thơm khác lạ, có ánh sáng tốt lành có vài lần xuất hiện.

Mới trải qua bảy ngày mà sinh hạ Tôn giả, thân hình Tôn giả sáng sạch như lưu ly. Năm 12 tuổi, Tôn giả không tắm rửa mà thường sạch sẽ. Tôn giả thường lấy sự nhàn tỉnh tự sống. Hoặc có lúc cùng người đàm nói thì ngôn ngữ hẳn cao thắng. Gia đình vốn ở tại núi Bảo-lạc-ca, đến lúc hạ sinh Tôn giả mới có mây tía che phủ như lọng ở phía trên. Mới đầu, Tôn giả Tăng-già-nan-đề đến nơi nhà tìm kiếm. Tôn giả nhân đó xin nương theo. Về sau được trao truyền Đại pháp nhãn tạng, Tôn giả bèn đến hoằng hóa tại nước Nguyệt Chi.

Trước đó, nước ấy có vị Bà-la-môn tên là Cưuma-la-đa, trong nhà có một con chó mà chuyên ở dưới rèm trước nhà kể cả lúc ăn ngủ. Có những lúc mưa dầm thấm ướt thân mình, nó vẫn không tạm lìa xa nơi đó, cứ như thế trải suốt mười năm, tuy khổ công xua đuổi, nó cũng chẳng chịu chuyển dời ăn ngủ nơi khác. Cưu-ma-la-đa rất lấy làm ngờ vực đó. Muốn được tỏ rõ sự tình. Bấy giờ Cưu-ma-lađa tuổi vừa mới ba mươi, ý khí mạnh mẽ, chẳng đoái hoài có quả báo, chỉ chuyên theo thuyết tự nhiên của ngoại đạo, vui thích nghe mà bắt chước theo đó. Sau đó đem hỏi bậc thầy của mình là một vị Phạm chí rằng: “Con chó ấy cớ sao mà như vậy?” vị Phạm chí ấy đáp: “Tâm chó tự ưa thích mà như thế, chẳng phải do nhân duyên vậy”. Cưuma-la-đa lại hỏi: “Ban đêm tôi từng mộng thấy một vầng nhật vàng ròng, ánh sáng tỏa chiếu khắp cả đất trời, mà tôi cùng Phạm chí đồng ở nơi phòng thất tăm tối. Ánh sáng vầng nhật ấy bỗng nhiên chiếu đốt lại, thân tôi liền như lưu ly, từ từ có vô số trùng kiến nhóm bu gặm giấm, còn trên tự thân của thầy thì tẩy sạch không vật gì. Đó sao tự mà nhiên? Mong thầy vì giải thích nguyên do”. Phạm chí ấy cũng dùng thuyết tự nhiên mà đáp đó. Đầu không ứng nghiệm gì. Nỗi nghi ngờ của Cưu-mA-la-đa đã không được quyết trạch, bèn nói: “Chẳng vừa hợp ý người, đều cho là tự nhiên, đâu khác gì trong mộng mà nói mộng. Nếu riêng gặp bậc trí giả khác có thể vì giải thích, thì ta nguyện sẽ học theo đó”. Và bèn giã từ vị Phạm chí ấy mà trở về. Ngay lúc đó, Tôn giả bỗng thấy có hơi khí tốt lành nổi dậy, bèn từ nơi pháp tòa, bảo cùng Đại chúng rằng: “Điều trông thấy nay đây chính là hơi khí Đại thừa”. Tôn giả lại giải thích: “Hơi khí như vàng ròng thì sự việc ấy hẳn viên thành, hơi khí như ngọc đang, tức Bồ-tát ở bên cạnh, nay hơi khí tợ như ngọc đang, phía dưới ấy hẳn là có Thánh nhân, nhưng, xưa trước Đức Phật cũng từng dự ghi sau khi ta diệt độ trong khoảng năm trăm năm sau sẽ có vị Bồ-tát xuất hiện ở nước Nguyệt Chi, sau đó lại có một Đại sĩ khác xuất hiện tại nước Thiên Trúc, tiếp nối làm Tổ đời thứ hai mươi. Điềm khí tốt lành nay đây chánh ứng nghiệm ấy vậy”. Sau đó, Tôn giả dẫn Đại chúng đến nơi xuất phát hơi khí. Vừa đến đó chốc lát, quả nhiên có vị Bà-lamôn tướng trạng khoảng 30 tuổi đến hỏi vị Thị giả theo hầu Tôn giả: “Thầy này là người gì?” Thị giả đáp: “Đây là đệ tử của Đức Phật vậy”. Bà-la-môn ấy bèn xoay trở về đóng bít cửa. Tôn giả bảo: “Vậy người đáp không có đó là ai?” Cưu-ma-la-đa cho là tiếng nói bên ngoài có khác lạ, nghi đó ắt là bậc Trí giả, nghĩ muốn cầu xin quyết trạch việc trước, mới mở cửa mời vào, mời Tôn giả ngồi nơi chiếc giường chủ, bày biện các thứ cúng dường. Nhân đó đem sự việc con chó mà thưa và nói: “Nếu Trí giả giảng nói mở được tâm nghi ngờ của tôi, tức tôi sẽ theo tôn thờ”. Tôn giả bảo: “Nếu ta nói có ứng nghiệm, ông thật giữ đúng lời ấy ư?” Cưu-ma-lađa đáp: “Thật không lừa dối”. Tôn giả bèn vì giải thích đó rằng: “Con chó ấy là cha của ông, vì có chút nghiệp nhỏ nhiệm nên đọa trong loài súc sinh. Xưa kia, cha ông có cả ngàn đỉnh vàng ròng cất giấu trong đồ vật mà trộm chôn lấp dưới rèm nhà. Đến lúc sắp chết, thì ông không có ở nhà nên chưa giao phó được, nên nay mến tiếc vàng đó mà như vậy. Nếu ông lấy vàng ấy lên thì con chó hẳn đi nơi khác”. Cưu-ma-la-đa bảo thợ moi đào, quả nhiên có được vàng, và con chó ấy cũng đi nơi khác. Cưu-ma-la-đa tin đó mới kính mộ Phật pháp. Lại đem điềm mộng ngày trước mà thưa hỏi, Tôn giả cũng vì giải thích nguyên do đó là: “Ông mộng thấy vầng mặt nhật đó tức là Phật nhật, soi chiếu khắp đất trời, đó là độ cả hai chúng, hai người ở nơi phòng nhà tăm tối tức là tâm chưa tỏa sáng. Vầng nhật soi chiếu đến nơi thân tức là ra khỏi vườn nhà vô minh. Thân như lưu ly tức sự thanh tịnh của ông, thân thể của Phạm chí kia không vật gì, đó tức là chỉ tự lợi một thân mình chẳng hay cứu độ người khác. Trùng kiến gặm giấm trên thân ông tức là nơi mọi người đồng nhận biết mà ghé hợp ăn hưởng pháp vị từ nơi ông vậy”. Vì hai việc trên đều được giải quyết rõ ràng nên tâm ý Cưuma-la-đa tự nhiên rỗng rang, và càng thêm thán phục, bèn cầu xin xuất gia chuyên theo hầu hạ. Nhưng do đạo lực đời trước sung mãn nên tuy thuộc hàng đệ tử mà Tôn giả cũng rất mến quý đó, thỉnh mời Thánh chúng chứng minh cho thọ giới Cụ túc, muốn chóng thành đạt chứng quả.

Về sau, quả nhiên Tôn giả bảo Cưu-ma-la-đa rằng: “Xưa kia Đức Như Lai đem Đại pháp nhãn tạng trao truyền cho Tôn giả Đại Ca-diếp rồi lần lượt chư Tổ sư trao truyền đến ta. Nay ta trao lại cho ông, ông vâng nhận ta chỉ dạy, hãy nghe bài kệ tụng đây:

“Có giống, có đất tâm
Do duyên hay nẩy mầm
Với duyên, không ngăn ngại
Đáng sinh, sinh chẳng sinh”.

Cưu-ma-la-đa kính vâng sự chỉ giáo, lễ bái thọ nhận ân cần. Tôn giả bèn từ pháp tòa vụt bay thân mình làm thành mười tám thứ biến hóa, xong mới thị tịch, dùng lửa Tam-muội ở giữa hư không mà tự thiêu đốt, tuôn mưa xá-lợi lộn xộn đổ xuống. Bốn chúng hứng nhận, tùy nơi mỗi một tạo dựng bảo tháp mà cúng dường. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Chiêu Đế (Lưu Ngao 32-06 trước Tây lịch) thời Tây Hán ở Trung Hoa.

8. TRUYỆN ĐẠI SĨ CƯU-MA-LA-ĐA, TỔ THỨ MƯỜI CHÍN Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Cưu-ma-la-đa, vốn người thuộc chủng tộc Bà-la-môn ở nước Nguyệt Chi. Đời trước từng sống ở Phạm thiên, đến lúc tham thích chuỗi châu anh lạc của Bồ-tát mới bị sa đọa vào cõi trời khác ở Dục giới. Ở đó vì một người trời mà giảng nói tri kiến của Phật, vị trời ấy nhân đó mà chứng thành Sơ quả, vì thế mà Tôn giả được chúng trời tôn xưng là bậc Đạo sư. Bấy giờ có một ngọc nữ cõi trời đến lễ bái nơi pháp hội, trong chúng hội có một ngàn hai trăm vị chưa chứng đắc quả, liền khởi tình ái nên cùng phiền lụy, cũng nối tiếp minh số Tổ ấy vừa đến, lại chỉ bày chỗ sinh ở đời nay, nhưng ngọc nữ ấy cũng đọa lạc đồng sinh đến nước đó làm chủng tộc Phạm chí. Mới đầu, nhà Tôn giả rất giàu có, vàng báu chẳng thể tính lường, mà thân phụ của Tôn giả tham tiếc keo lận không cùng. Gặp trong nước đó có vị A-la-hán tên là Hải Thắng đến nơi trời ấy được nghe Tôn giả giảng nói pháp mới chứng quả như hiện nay, đến đây nghĩ muốn báo đáp ân đức xưa trước, sợ Tôn giả đắm chìm nơi giàu sang của thế tục, nên theo đó mà cầu xin vàng với ý muốn dẫn dắt ra khỏi, bèn đến nơi nhà Tôn giả. Khi ấy Tôn giả đang là trẻ nhỏ, liền bảo cùng Tôn giả rằng: “Ông có thể bố thí vàng cho ta thì sẽ có được phước lợi”. Tôn giả thưa: “Tôi nay mới mười lăm tuổi chưa chuyên trông coi việc nhà, thân phụ tôi không có ở nhà, xin đợi tôi thưa trình với mẹ”. Và Tôn giả bèn báo với mẹ, nghe thế, mẹ Tôn giả chấp thuận, Tôn giả liền đem một cân vàng mà cúng thí. Sau đó, vị La-hán ấy dự ghi rằng: “Mười lăm năm sau ông sẽ gặp được Bồ-tát chứng đắc Thánh đạo, nhưng có chút nạn nhỏ, cũng chiết phục nghiệp lớn”. Đến lúc thân phụ trở về, Tôn giả đem việc ấy mà thưa trình, thân phụ tức giận đánh Tôn giả trăm gậy. Sau khi thân phụ đã qua đời, Tôn giả cũng giải quyết được điều nghi từ Tôn giả Giàda-xá-đa, bèn kính phục tôn xưng làm thầy, sau đó Tôn giả lại được Tôn giả Già-da-xá-đa trao truyền Đại pháp nhãn tạng.

Về sau, Tôn giả du phương hoằng hóa, đến nước xứ Trung Thiên Trúc, gặp một vị Trí sĩ tên là Xà-dạ-đa, nguyên trước là du khách, nên lại kính lễ mà thưa hỏi Tôn giả rằng: “Song thân nhà tôi vốn kính tin Tam bảo, đúng như pháp mà tu hành, nhưng lại mắc phải các thứ tật bệnh, mọi ước muốn không được toại ý. Trái lại ở gần nhà tôi có người hung bạo giết hại, thường ngày tạo ác lắm nhiều mà thân thể khỏe mạnh, mọi sự mong cầu đều như ý muốn. Vậy, thiện ác báo ứng há chẳng luống dối ư? Tôi rất nghi hoặc điều đó. Cúi xin Nhân giả vì tôi mà quyết trạch cho”. Tôn giả bảo: “Đức Phật chỉ dạy, nghiệp quả thông cả ba đời. Do đời trước tu tạo thiện nghiệp nên được hưởng quả báo ở đời nay, giả sử đời nay tạo tác những điều bất thiện thì kết quả sẽ ứng ở đời sau. Nên có người trong đời nay tuy làm việc thiện mà ở đời không được hưởng phước là bởi quả báo nghiệp ác trong đời trước mạnh hơn. Giả sử đời nay đã không được phước báo, lại chuyên tạo ác thì đời sau càng đọa lạc trong đường xấu ác. Giả sử người ở đời nay đã được quả báo phước thiện mà lại chuyên làm việc thiện thì đời sau càng được sinh đến cõi tốt lành hơn. Lại có người đời trước tạo thiện, phước đức ấy chỉ mới một nửa mà đổi ý chí tạo điều xấu ác, đến đời nay hẳn trước được phước mà sau chịu họa. Đời nay tạo ác, việc ấy mới một nửa mà cải đổi tu tạo việc lành, đến đời sau thì trước mắc họa mà sau lại được phước. Như nay, song thân của ông và người ở gần nhà ông có sự báo ứng về thiện ác cũng thuộc loại như thế bởi hạnh nghiệp đời trước mà cảm nên vậy. Đâu có thể lấy việc trong một đời mà cầu mong rõ biết được ư?” Nghe giảng như thế, Xà-dạ-đa bèn chóng tiêu tan điều nghi ngờ. Tôn giả lại bảo: “Ông tuy đã tin nghiệp báo ba đời, nhưng chưa rõ biết nghiệp ấy từ mê hoặc sinh ra. Mê hoặc ấy nhân nơi thức mà có. Thức nương tựa từ bất giác, bất giác lại y cứ từ tâm, mà tâm vốn thanh tịnh, không sinh diệt, không tạo tác, không báo ứng, chẳng hơn kém, vắng lặng vậy, linh linh vậy. Nếu ông vào được pháp môn này thì có thể đồng với chư Phật, tất cả mọi thứ thiện ác, hữu vi, vô vi đồng như mộng huyễn”. Xà-dạ-đa tiếp nhận lời chỉ dạy ấy, liền phát túc tuệ, bèn cầu xin xuất gia. Tôn giả hỏi: “Ông là người xứ nào? Cha mẹ còn chăng? Nếu ông thật tâm muốn vào đạo thì nên trở về nước mình trình cùng song thân, được thỏa ý chí thì lại đây cũng không muộn”. Xà-dạ-đa thưa: “Tôi ở nước thuộc xứ Bắc Ấn Độ, cách đây hơn ba ngàn dặm, đâu tiện đi lại, cúi xin Nhân giả đến đó cho gia đình tôi tiện cúng dường và nhân đó mà tôi được độ thoát”. Tôn giả bảo: “Ta đi tuy xa nhưng không lấy làm khó, còn ông dùng gì để đi?” Xàdạ-đa đáp: “Tôi có chú thuật nhỏ, cũng có thể cùng theo, chỉ khoảnh khắc bèn đến”. Tôn giả: “Thuật gì?” Xà-dạ-đa đáp: “Anh tôi là Xà-dạ-ma nguyên trước là vị Tỳ-kheo ở tại nước nhà thường chuyên chú giữ tháp Phật Câu-na-hàm, có được hạt cây mạt-ha ở trước tháp, dùng vật thần ấy bôi xoa vào chân, chỉ chốc lát bèn có thể đi đến nơi xa, nếu muốn dừng thì vất bỏ lau chùi sạch dầu ấy chân mới dừng bước”. Tôn giả bèn thử dùng thuật pháp ấy cùng Xà-dạ-đa đồng đi, đến lễ bái tháp ấy. Phật liền tỏa phóng ánh sáng soi chiếu khắp Đại chúng. Xà-dạ-đa đã thưa trình song thân, rồi đến xuống tóc xuất gia ngay trước tháp Phật ấy, thỉnh mời các Thánh chứng minh cho thọ giới. Tôn giả mới vì nói bài kệ tụng rằng:

“Phật đây phóng ánh sáng
Hiện tướng độ cho ông
Ông đã được giải thoát
Các chúng cũng như vậy”.

Về sau, Tôn giả gọi Xà-dạ-đa mà bảo: “Xưa kia Đức Như Lai từng dự ghi ông sẽ làm Tổ đời thứ hai mươi, Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai, ta mới giao phó cho ông, ông khéo gìn giữ lưu truyền.

Hãy nghe bài kệ tụng đây:

“Trên tánh vốn không sinh
Vì đối người cầu nói
Với pháp đã không sắc
Sao người quyết chẳng quyết”.

Tôn giả lại bảo: “Kệ tụng đây là do Đức Như Lai Diệu Âm thấy tánh thanh tịnh nên giảng nói vậy, ông nên thọ trì”. Xà-dạ-đa lại kính lễ vâng theo Tôn giả liền ngay trên pháp tòa đưa móng tay rạch mặt như thế sen hồng nở tỏa phóng ánh sáng lớn soi chiếu khắp bốn chúng, rồi mới thị tịch. Lúc đó tương đương với đời Vương Tân Thất (09-23 sau Tây lịch) thời Tây Hán ở Trung Hoa. Xà-dạ-đa bèn tạo dựng bảo tháp tôn trí mà cúng dường.

9. TRUYỆN ĐẠI SĨ XÀ-DẠ-ĐA, TỔ THỨ HAI MƯƠI Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Xà-dạ-đa, vốn người ở nước xứ Bắc Thiên Trúc, chưa rõ biết thuộc dòng họ gì. Tôn giả vốn có nhận biết đạo, kính mộ thông hiểu diệu lý. Mới đầu làm khách du phương đến xứ Trung Ấn Độ, gặp lúc Tôn giả Cưu-ma-la-đa đang hoằng hóa tại nước đó, Tôn giả đem điều nghi ngờ về báo ứng mà thưa hỏi, được Tôn giả Cưu-ma-la-đa giảng nói nghiệp báo thông cả ba đời. Việc ấy được tỏ rõ. Nhân đó, Tôn giả cầu xin xuất gia. Tôn giả Cưuma-la-đa chẳng liền hứa khả, cùng Tôn giả đồng trở về lại nước mình, thưa cùng song thân, xong mới độ cho làm Tỳ-kheo. Tôn giả Cưu-ma-la-đa biết Tôn giả thật là bậc Pháp khí. Lại nhân sự dự ghi của Đức Phật xưa trước bèn đem Đại pháp nhãn tạng mà trao truyền cho.

Thế rồi, Tôn giả du phương đến các nước giáo hóa, đến thành La-duyệt. Nước đó vốn có nhiều đạo chúng, nghe Tôn giả đến, bèn cùng nhau nương theo. Nguyên trước trong chúng đó có vị thượng thủ tên là Bà-tu-bàn-đầu, tu hành tinh mật, trọn đêm ngày chẳng nằm, suốt sáu thời lễ Phật bái sám, mặc y phấn tảo, ngày ăn một bữa mà đạm bạc chẳng tham cầu gì. Thế gian hỏi Đại chúng ấy rằng: “Các ngươi tu hạnh Đầu-đà khổ hạnh, phạm hạnh như thế có thể chứng đắc Phật đạo chăng?” Đại chúng ấy đáp: “Thượng nhân đây tinh tấn như vậy, há chẳng đắc đạo?” Tôn giả bảo: “Người ấy cách đạo xa vời, giả sử tu hành khổ hạnh trải qua nhiều kiếp chỉ giúp cho gốc vọng đâu thể chứng đắc ư?” Đại chúng ấy hỏi: “Nhân giả tích chứa thứ gì mà khinh thường thầy tôi?” Tôn giả bảo: “Ta chẳng cầu đạo, cũng chẳng điên đảo, ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn, ta không ngồi mãi cũng chẳng biếng lười, ta không ngày ăn một bữa cũng chẳng ăn tạp, ta không biết đủ mà cũng chẳng tham dục”. Bà-tu-bàn-đầu nghe nói như thế, vô cùng mừng vui mới thuật kệ tụng mà tán thán rằng:

“Kính lạy Đấng Tam-muội
Chẳng cầu được Phật đạo
Chẳng lễ cũng chẳng mạn
Tâm chẳng sinh điên đảo
Chẳng ngồi chẳng biếng lười
Chỉ ăn không đắm vị
Tuy hoãn mà không chậm
Tuy gấp mà chẳng thô
Nay tôi gặp chí tôn
Kính lễ vâng Phật dạy”.

Tôn giả lại bảo Đại chúng: “Vị tu Đầu Đà này chẳng đồng như các ông. Ông này trong đời kiếp trước thường tu hạnh chẳng khinh nên mới được như vậy. Vừa rồi ta chê trách, bởi vì ông hướng đạo tâm rất tha thiết, sợ đó như sợi dây đàn căng quá ắt sẽ đứt, nên ta chẳng ngợi khen liền, vì muốn ông thú hướng đến nơi không chỗ được mà dừng đứng nơi chỗ đất An lạc”. Sau đó, Tôn giả lại gọi Bà-tu-bàn-đầu và bảo: “Ta nói trái ngược ý, ông có được chẳng động tâm chăng?” Bà-tu-bàn-đầu đáp: “Đâu dám máy động. Tôi nhớ bảy đời về trước, sống ở cõi An lạc, vì mến mộ đạo nên chuyên thờ trí giả Nguyệt Tịnh, mà người ấy bảo tôi: “Không bao lâu nữa ngươi sẽ chứng quả Tư-đà-hàm, phải nên chuyên cần tinh tấn. Phàm người tu hành thí như leo lên trời cao, hẳn phải cố gắng dần lên không được trụt lùi, giả sử có bị rơi lạc xuống mà lên lại càng khó”. Khi ấy tôi tuổi đã tám mươi, chống gậy mà chẳng thể lê bước, vừa gặp lúc có Bồ-tát Đại Quang Minh xuất hiện nơi đời, tôi muốn được kính lễ mới đến nơi tinh xá đó, lễ bái xong trở về, bỗng chốc, Nguyệt Tịnh đến mà quở trách tôi rằng: “Ôi thôi! Sao ông khinh cha mà trọng con. Hôm qua ta thấy ông sắp được chứng quả, nay lại mất rồi”. Khi ấy tôi tự cho không có lỗi quá, nên chẳng kính phục lời nói đó, bèn hỏi cùng Nguyệt Tịnh chỉ cho thấy lỗi quá. Nguyệt Tịnh bảo: “Ông đến lễ bái Đại Quang Minh, sao lại đem cây gậy tựa vào nơi mặt tôn tượng đắp họa”. Vì ông bị như thế nên quả vị thối lùi”. Tôi suy nghĩ chín chắn lại, quả thật đúng như lời nói đó. Từ đó về sau, phàm có nghe gì cũng không dám không tin. Dẫu những lời xấu ác kia cũng xem như gió thoảng qua tai, huống gì nay Tôn giả dùng Chánh pháp mà chỉ dạy, thì đâu dám buồn phiền.

Về sau, Tôn giả gọi Bà-tu-bàn-đầu mà bảo: “Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai, nay ta giao phó cho ông, ông nên lưu truyền chớ khiến dứt mất. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

Nói bày hợp không sinh
Đồng với tánh pháp giới
Nếu hay hiểu như thế
Thông đạt lý sự xong”.

Bà-tu-bàn-đầu bèn lễ bái mà vâng nhận. Tôn giả bèn nơi pháp tòa liền chúi đầu trồng ngược tượng cành cây Sa-la, an nhiên mà thị tịch, Đại chúng muốn thỉnh sửa lại trước lúc trà-tỳ, nhưng tuy cả trăm ngàn người đồng nâng dất mà trọn không lay động, chư vị La-hán lại đồng dùng thân lực nâng dất cũng chẳng thể động. Đại chúng bèn đốt hương khẩn cầu, di thể Tôn giả mới tự nghiêng rủ xuống. Trà-tỳ xong gom thâu xá-lợi, Đại chúng xây dựng bảo tháp để cúng dường. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Đông Hán ở Trung Hoa.

* Thử luận bàn:

Là đại sĩ, trồng ngược thân mình mà thị tịch đâu có gì khác lạ? Đáp: Thánh nhân thuận nghịch đều được, bởi sắc sức thần mà thi vi vậy, không thể dùng đạo thường mà cầu đó.

-(HẾT)-

QUYỂN 4

1. Truyện Đại sĩ Bà-tu-bàn-đầu, Tổ thứ 21 ở Thiên Trúc

2. Truyện Đại sĩ Ma-noa-la, Tổ thứ hai mươi hai ở Thiên Trúc

3. Truyện Đại sĩ Hạc-lặc-na, Tổ thứ hai mươi ba ở Thiên Trúc

4. Truyện Đại sĩ Sư-tử, Tổ thứ hai mươi bốn ở Thiên Trúc

5. Truyện Đại sĩ Bà-xá-tư-đa, Tổ thứ hai mươi lăm ở Thiên Trúc

*****

1. TRUYỆN ĐẠI SĨ BÀ-TU-BÀN-ĐẦU, TỔ THỨ HAI MƯƠI MỐT Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Bà-tu-bàn-đầu vốn người thuộc dòng họ Tỳ-xá-khư ở nước La-duyệt. Thân phụ tên là Quang Cái, thân mẫu tên là Nghiêm Nhất. Tôn giả cùng một người em đồng sinh, đều có việc tốt lành, mà riêng Tôn giả rất ưu thắng. Mới đầu, Quang Cái vì gia đình rất giàu sang mà chưa có con nối dõi, bèn cùng vợ là Nghiêm Nhất bàn tính đồng đến cầu con nơi tháp Phật ở phía Bắc thành. Sau khi đã cầu đảo, đêm đó quả nhiên Nghiêm Nhất mộng thấy có hai hạt châu: một hạt lớn mà sống, còn một hạt vừa sáng vừa tối, mà đều nuốt cả hai, lúc tỉnh giấc thì đã mang thai. Sau đó bảy ngày có vị Tỳ-kheo Lahán tên là Hiền Chúng đến nơi nhà mà bảo: “Tôi từ nơi nước khác tìm theo hơi khí khác lạ mà đến đây. Nhà các ngươi là ai?” Quang Cái liền thỉnh mời vào, cùng vợ đồng ra kính bái. Hiền Chúng riêng lánh Nghiêm Nhất mà chẳng đáng nhận lễ. Quang Cái lấy làm quái lạ, tự bảo: “Xấu thay Tỳ-kheo này nhận lễ, chẳng kính nhượng trượng phu mà cung kính người nữ”, bèn giả vờ đem châu báu cúng thí nhưng trong ý muốn thử thức lượng. Hiền Chúng đều nhận mà chẳng từ nhượng. Quang Cái thấy Hiền Chúng chẳng động như trước, bèn đem sự thật mà hỏi: “Tôn giả chẳng nhường lễ của tôi là bậc trượng phu, cớ sao lại lánh mặt người nữ kính lễ?” Hiền Chúng đáp: “Ta cho rằng ông là phàm phu nên đáng nhận ông kính lễ, nhận sự cúng thí của ông là muốn ông thêm lớn phước đức. Còn vợ ông vừa mới mang thai Bồ-tát, là pháp khí thượng thừa, thai nhi ấy sắp xuất hiện nơi đời tên là Bà-tu-bàn-đầu. Hạng người như tôi được vị đó hóa độ đông nhiều vô lượng, nên tôi cố lánh đó, chẳng phải tôi kính trọng người nữ đâu”. Quang Cái liền cảm tạ đó mà nói: “Tôn giả là bậc Thánh nhân, có khả năng nhận biết sự việc chưa xảy ra”. Hiền Chúng lại bảo: “Lại còn có một người con cùng đồng bào thai đó, xưa trước tên là Sô-ni, từng làm chim thước ở đồng hoang bay đến núi Tuyết làm ổ trên đỉnh đầu Đức Như Lai. Sau đó bởi duyên gặp Phật nên sinh làm vua nước Na-đề. Khi Đức Như Lai đến nước đó vì giảng nói nhân xưa trước. Lại dự ghi rằng: “Sau khi ta diệt độ ngoài năm trăm năm, ông sẽ sinh vào trong gia đình thuộc dòng tộc Tỳ-xá-khư ở thành La-duyệt, cùng Thánh giả Bà-tu-bàn-đầu đồng một bào thai. Thánh giả kia là Tổ sư đời thứ hai mươi mốt trong thời Hiền kiếp. Thánh giả ấy lại xuất sinh một Thánh đệ tử, tên là Đại Lực Tôn giả”. Vua Na-đề xưng tán may thay, bèn đem lọng báu mà dâng cúng. Đức Phật lại dự ghi rằng: “Về sau vì gặp được Bồ-tát ấy, ông sẽ sinh lên cõi trời Đao-lợi vậy”. Vua mới dùng kệ tụng tán thán. Sau đó quả nhiên Nghiêm Nhất sinh một lúc hai người con mà Tôn giả sinh trước. Lúc còn trong tả lót mà đã hiền lành dễ nuôi, chẳng đồng như các trẻ nhỏ bình thường. Vừa hơi lớn, Tôn giả bèn có chí khí vượt cao ưu thắng. Năm 15 tuổi, Tôn giả cầu xin theo La-hán Quang Độ mà xuất gia, Bồ-tát Tỳ-bà-ha vì chứng minh cho thọ giới. Tôn giả mới kính mộ hạnh tu của Ẩm Quang, nên chuyên lấy hạnh Đầuđà mà tự tu, người thời bấy giờ kính trọng cao quý, đều tôn xưng Tôn giả là “Biến Hạnh Đầu-đà”. Sau đó gặp được Tôn giả Xà-dạ-đa khơi phát đại tuệ, mới được trao truyền Đại pháp nhãn tạng.

Nhân đó, Tôn giả vân du giáo hóa các phương, đến nước Na-đề. Nguyên trước nước đó vốn có nhiều voi hung dữ làm hại, mọi vật không nơi nương sống. Mãi đến lúc vua nước đó tên là Thường-tự-tại sinh hai người con. Người lớn tên là Ma-ha-la tuổi đã bốn mươi, người em kế tên là Manoa-la tuổi vừa ba mươi. Ngay lúc Ma-noa-la đúng tuổi ba mươi, voi hung dữ làm hại ở nước đó bèn chấm dứt, dân chúng trong nước đó được an ổn, nhưng đều không biết nhờ đâu mà được vậy. Đến lúc Tôn giả vào nước đó, vua Thường-tự-tại thỉnh mời vào nội cung để cúng dường. Nhân đó thưa hỏi rằng: “Phong tục nước xấu tệ tôi đây chắc không bằng thuần phong mỹ tục ở thành La-duyệt vậy?” Tôn giả bảo: “Thành La-duyệt xưa trước nhờ được của ba Đức Phật che chở, mà nước này vừa có hai bậc Hiền giả hiện làm cội phước vậy”. Vua hỏi: “Hai Hiền giả ấy là ai ư?” Tôn giả đáp: “Xưa kia Đức Phật từng dự ghi là: Sau khi Ta diệt độ sau năm trăm năm, vua nước Na-đề vốn chủng tộc Sát-đế-lợi tên là Đa-mãn có người con tên là Ma-noA-la có được sức thần hơn mười Na-la-diên. Đó là thứ nhất, còn thứ hai là ta đây cũng cùng vậy”. Sau đó không lâu, bỗng chốc có sứ vào tâu có muôn voi lớn sắp bức thành nước. Vua lấy làm lo đó, đem hỏi Tôn giả: “Sự tình như thế làm sao cản ngăn?” Tôn giả bảo: “Chẳng cần phải dùng binh lính, chỉ cần bảo Vương tử Ma-noa-la đương đầu đó thì nạn ấy tự giải”. Vua hỏi: “Có được chăng?” Tôn giả bảo: “Vương tử đây chẳng thẳng oai chống voi địch muôn tướng, mà càng nhiều càng có thể”. Bèn bảo Ma-noa-la ra phía Nam thành đó. Ma-noa-la mới dẫn dụ voi vỗ vào bụng nó, phát tiếng hét lớn, tuy thành lô cũng vì đó mà lay động, đàn voi ngã té nơi đất chẳng thể đứng dậy, chỉ thời gian ngắn đều cùng bỏ chạy đi. Đến đó dân chúng trong nước mới biết sự an ổn ba mươi năm qua là nhờ từ đó. Vua cho rằng Vương tử có đạo hạnh ưu thắng bèn rất lấy làm kỳ lạ, mới thưa cùng Tôn giả rằng: “Người con nay xưa trước Đức Phật đã từng dự ghi. Và nó cũng có sức thần thông không nên lưu giữ lại nơi thế tục, xin Tôn giả nhân cho nó được xuất gia”. Tôn giả cũng bảo rằng: “Đây chẳng phải ta làm thầy thì về sau không ai có khả năng độ được”. Bèn thỉnh mời Thánh chúng đến nơi vương cung chứng minh cho Ma-noa-la được xuống tóc thọ giới. Được độ, Ma-noa-la bèn rất mừng vui, mới dùng kệ tụng tán thán rằng:

“Vì đuổi trăm muôn voi
Vỗ bụng làm thần thông
Hết thảy các cung điện
Không đâu chẳng chấn động
Gặp thầy, sức phương tiện
Mà tôi được độ thoát
Xin lạy từ song thân
Mà ra khỏi lửa ái”.

Đến lúc Tôn giả sắp đi đến nước khác, mới bảo cùng vua Thường-tự-tại rằng: “Ta đến đây để tìm cầu pháp khí, nay đã độ được chí nhân, tức ta đi nơi khác, vua chẳng phải lưu giữ”. Bèn cùng Manoa-la đồng đi.

Về sau, Tôn giả bảo Ma-noa-la rằng: “Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai, nay ta giáo phó cho ông, ông nên lưu truyền đó. Hãy nghe ta nói kệ tụng đây:

“Bọt huyễn đồng không ngại
Cớ sao chẳng liễu ngộ
Đạt pháp tại trong đó
Chẳng nay cũng chẳng xưa”.

Trao truyền đại pháp xong, Tôn giả liền ngay pháp tòa vượt thân lên cao nửa do-tuần lắng yên mà dừng. Bốn chúng vội cùng thưa: “Chúng tôi muốn phụng thờ xá-lợi, xin Tôn giả thần hóa vô vi”. Tôn giả mới trở lại nơi tòa ngồi mà thị tịch. Sau khi trà-tỳ, Đại chúng gom thâu xá-lợi, tạo dựng bảo tháp mà cúng dường. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu An Đế (Lưu Hổ 107-126) thời Đông Hán ở Trung Hoa.

2. TRUYỆN ĐẠI SĨ MA-NOA-LA, TỔ THỨ HAI MƯƠI HAI Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Ma-noa-la vốn người thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi ở nước Na-đề. Thân phụ tên là Thườngtự-tại là vua nước đó. Tôn giả là con thứ, lúc vừa mới sinh đã có điềm vết khác lạ, thân phụ không dám ràng buộc ở thế tục, nên bảo nương theo Tôn giả Bà-tu-bàn-đầu mà xuất gia thọ giới.

Sau khi được trao truyền Đại pháp nhãn tạng, Tôn giả bèn du phương giáo hóa. Mới đầu, đến nước xứ Tây Ấn Độ, vua nước đó tên là Cù-đàmđắc-độ rất sùng kính Phật pháp, thường tự dâng hoa sen vàng ròng mà cúng dường. Cầu mong được gặp bậc Thánh giả để thưa hỏi cho biết mọi việc đời trước đời sau của chính mình. Tôn giả suốt bảy năm hành đạo tại trong cung vua. Một ngày nọ, bỗng có một tháp Phật cao một thước bốn tấc xuất hiện nơi chỗ thường hành đạo, sắc màu xanh bóng, bốn mặt đều có tôn tượng, tợ như phía trước nêu bày vua Thi-tỳ cắt bắp vế để cứu chim cáp, phía sau nêu bày vua Từ Lực khoét lỗ trên thân mình để đốt đèn, bên tả nêu bày Thái tử Tát-đỏa gieo mình xuống vực để cứu hổ đói, bên hữu nêu bày vua Nguyệt Quang xả thí đầu báu. Vua Cù-đàm-đắc-độ rất lấy làm lạ đó, liền muốn nâng đất chuyển dời mà không lay động, mọi người chung quanh cùng phụ giúp, đến nỗi bảo các lực sĩ cùng nâng, đều không thể được. Sau đó mời các vị Trí giả trong nước đó cùng bàn tính muốn chuyển dời, khi ấy Tôn giả cũng có tham dự hội thảo, nhưng khước nhường cho một vị khéo giải chú thuật ở nước đó thực hiện công việc. Trước tiên vị chú thuật ấy tác pháp tức có khả năng chuyển nổi núi bạc trấn điện vua, tiếp theo muốn dùng pháp thuật để chuyển dời tháp. Vị ấy mới hét ba tiếng, tháp chưa hề lay động mà nội thể vị ấy đã tổn hại, phát cuồng chạy loạn, tuy các lực sĩ chung sức cản ngăn nhưng không thể dừng đứng. Tôn giả bèn ra giữa chúng tâu cùng vua rằng: “Việc này không có gì đáng phải kinh ngạc”. Rồi, Tôn giả dần bước đến nơi hành lan cung điện, gọi vị chú thuật đang chạy cuồng kia rằng: “Ngươi dừng lại”. Vị ấy liền bước đến nơi Tôn giả mà sám hối lỗi quá. Vua thấy Tôn giả bảo vị kia dừng được, bèn hỏi: “Tôn giả có pháp thuật gì mà có khả năng như vậy?” Tôn giả đáp: “Phật pháp”. Vua nói: “Xin nghe Phật pháp ấy có thể học được chăng?” Tôn giả bảo: “Với Phật pháp, phải đầy đủ bảy việc dứt bỏ ba vật mới có thể học”. Vua hỏi: “Bảy việc và ba vật đó là gì?” Tôn giả bảo: “Ba vật bỏ đó là: một, bỏ tham; hai, bỏ ái; ba, bỏ si. Bảy việc là: một, có đủ Đại từ; hai, có đủ hoan hỷ; ba, có đủ Vô ngã; bốn, có đủ dõng mãnh; năm, có đủ nhiêu ích; sáu, có đủ hàng ma; bảy, có đủ vô chứng. Sở dĩ người có được sáng tỏ hay bị không sáng tỏ đều do có hay không về ba vật và bảy việc ấy vậy. Nếu nay vua có khả năng dứt bỏ ba vật ấy và đầy đủ bảy việc ấy tức đối với mọi sự trước sau chỉ như xem vật trong lòng bàn tay. Thành đạt Bồ-đề chứng đắc Phật quả, đâu có gì xa vời ư?” vua ngợi khen tốt lành thay và xin được nghe về nguyên do của tháp Phật. Tôn giả lại nhường cho Đại chúng nói. Đại chúng đồng thưa: “Chỉ Tôn giả nên nói đó, khỏi phải khiêm nhường”. Tôn giả mới bảo: “Tháp ấy vốn xưa kia vua A-dục tạo dựng tám vạn bốn ngàn tháp bằng bảy vật báu để tôn thờ xá-lợi của Đức Thích-ca Như Lai, mà đây là một trong số tháp đó”. Và Tôn giả nêu dẫn việc ngày xưa của vua Adục tạo dựng bảo tháp v.v... đầy đủ như các kinh nêu tả. Xong, Tôn giả lại bảo cùng vua rằng: “Mới đầu, tôn trí mỗi một ngôi tháp thì địa điểm đó hẳn là nơi Hiền Thánh thành đạo nhập diệt v.v.... Nay nơi cung điện ngự uyển đây bởi xưa kia có Tỳ-kheo Bà-la-ca chứng quả tại đây, nên bảo tháp xuất hiện. Và cũng bởi do vua tu đức nên được cảm như thế”. Vua Cù-đàm-đắc-độ nghe việc ấy rồi bèn rất cảm ngộ tự xót thương mình nghe đạo muộn màng, bèn liền gọi Thái tử mà truyền trao ngôi vị và việc bàn giao nước nhà. Xong, vua mới cầu xin Tôn giả cho phép xuất gia. Với tình thế không thể ngăn cản, Tôn giả bèn phải độ cho. Đốt hương cầu chúc rằng: “Nay có Thiên tử ở nước Tây Ấn Độ theo Phật xuất gia, nguyện xin các Thánh trầm lắng hỗ trợ khiến vua chóng đạt Thánh đạo”. Chỉ chốc lát giữa không trung có tiếng báo rằng: “Ông độ vua ấy, chẳng hẳn phải lo, bảy ngày sau sẽ chứng đắc Đệ tứ quả”. Đúng như kỳ hạn, mới đầu gió mưa bão bùng ập đến, cung điện vắng hiu, mọi người đều lo sợ dẫn nhau bỏ đi, vua an nhiên đến giữa trưa ngày thứ bảy, rỗng rang như mộng, chốc lát thấy có người đưa cánh tay rất dài, trao cho một quả khác lạ. Vua bèn ăn, đến lúc tỉnh ra, tâm trí tỏ sáng, đã thành đạo quả A-la-hán. Vua liền dùng Tam-muội sắp bỏ cung điện đó, mới nói cùng Tôn giả rằng: “Lúc tôi chưa chứng quả, tự lấy nước mình đây làm lớn, đâu tin có cõi nước Phật rộng lớn. Nay được quán sát rộng khắp tức thấy đất xưa đâu khác gì đống đất ổ kiến bé nhỏ. Nhưng ở Diêm-phù-đề đây cũng như khoảng độ một bữa ăn, tuy có hơn ba ngàn đất nước mà phẩm lượng chẳng đồng, nước lớn bao nhiêu, nước vừa bao nhiêu, nước nhỏ bao nhiêu. Nhưng trong nước lớn ấy lại có ba phẩm lượng, nước vừa nước nhỏ cũng lại như vậy. Nếu người thật sự tu hành thì tất cả đều hay tùy tâm mà hiện sinh”. Khi ấy, Tôn giả cáo biệt, nói cùng vua Cù-đàm-đắc-độ rằng: “Ta sắp đi đến xứ khác để phỏng tìm bậc Đại pháp khí”. Cù-đàm-đắc-độ thưa: “Tôn giả là bậc thần thông chẳng thể lường, ở lại nơi đây tự có thể tiếp độ, sao hẳn phải nhọc thân đi?” Tôn giả liền đốt hương báu mà nói lời huyền ngữ rằng: “Hạclặc-na ngươi sẽ chứng quả. Thời gian ấy vừa đến, ngươi có biết chăng?”

Mới đầu, Tỳ-kheo Hạc-lặc-na ở nơi một khoảnh rừng có chín hạc trắng nương náu tại nước Nguyệt Chi, trì tụng kinh Đại Phẩm Bát Nhã, lấy đó làm hạnh nghiệp chính, cảm đàn chim hạc cùng đến nương tựa, vừa gặp lúc vua nước đó tên là Bảo Ấn thỉnh mời thiết trai cúng dường trong cung. Vừa mới ngồi bỗng nghe mùi khói hương phảng phất đến phía trước, Hạc-lặc-na hỏi vua: “Có biết chăng?” vua Bảo Ấn nói: “Đó là mùi hương trời ư?” Hạc-lặc-na bảo: “Không phải vậy. Đó là do Tôn giả Ma-noa-la hiện ở tại nước xứ Tây Ấn Độ chỉ bày tin vậy. Tôn giả ấy vốn là Vương tử nước Na-đề, là Đức Phật Ta-la-thọ-vương xưa trước, theo sự dự ghi của Đức Thích-ca Như Lai tức đang làm Tổ sư nối dõi dòng pháp đời thứ hai mươi hai,

Tôn giả hóa độ mọi người đông nhiều vô lượng. Vua nên cùng hướng về phía Tây mà kính lễ đó”. Khi ấy Tôn giả đưa tay gõ xuống đất ba cái, các vị A-la-hán hỏi: “Cớ sao như vậy?” Tôn giả bảo: “Vừa rồi Hạc-lặc-na ở nơi cung vua Nguyệt Chi kính lễ nên ta đây đáp lại vậy”. Và Tôn giả bèn bảo Đại chúng rằng: “Ta muốn đến xứ ấy, các ngươi ai đã chứng đắc thần thông nên cùng theo đến đó”. Rồi, Tôn giả dẫn đồ chúng bay lên hư không mà đến nước Nguyệt Chi. Khi đó, Hạc-lặc-na dẫn vua Bảo Ấn mỗi mỗi giá ngự voi báu xếp hàng nghi trượng ra ngoài xa để nghinh đón. Sau đó, Tôn giả cùng tất cả mọi người đồng vào nơi cung vua. Hạclặc-na đem việc đệ tử của mình trước đó là Long Tử mà hỏi Tôn giả rằng: “Vị đệ tử này có tài biện hơn hẳn trong đời, tôi từng dùng Tam-muội để quán sát xưa trước đã từng hành tập gì, mà trọn không thể biết được. Vậy theo ý Tôn giả gọi đó như thế nào?” Tôn giả hỏi: “Ông dùng Tam-muội quán sát được mấy đời kiếp?” Hạc-lặc-na đáp: “Tôi chỉ biết được ba đời”. Tôn giả bảo: “Công đức của vị đệ tử ấy không chỉ trong ba đời, mà trong đời thứ năm ở kiếp giảm đã sinh trong gia đình Bàla-môn ở nước Diệu Hỷ. Gặp lúc trong nước đó có một ngôi chùa vừa đúc xong một quả Đại Hồng chung, vị đệ tử ấy từng dùng gỗ chiên-đàn để làm dùi đóng chuông đó. Người kia tạo chuông đó đã chứng đắc Bồ-đề, mà vị đệ tử ấy ở đây được quả báo thông minh”. Hạc-lặc-na nghe thế liền muốn tôn thờ. Nhân đó lại hỏi: “Tôi tuy có cảm được đàn chim hạc cùng nương theo nhưng chưa biết đó là bởi duyên gì?” Tôn giả bảo” Xưa kia cách đây bốn đời kiếp ông từng làm vị Tỳ-kheo, đạo đức mang mãn, có năm trăm vị đệ tử. Mỗi lúc Long cung thỉnh mời để cúng dường, ông tự xét chúng đệ tử đó chưa đủ phước đức đáng để nhận sự cúng dường của Long cung, nên chẳng cho cùng theo dự. Chúng đệ tử ấy lấy làm quái lạ nói: “Mỗi lúc thầy giảng pháp thì bảo: “Đối với sự ăn dùng thì bình đẳng, đối với giáo pháp cũng như vậy. Nay sao lại riêng đi thọ trai một mình?” Về sau, ông đều bảo cùng đệ tử ấy đồng dự thọ trai. Bấy giờ vì ông có đạo đức đượm nhuần nên không hoạn nạn. Sau khi ông thị tịch chúng đệ tử ấy cũng lần lượt qua đời, bởi do lạm thực nên đều bị quả báo sinh làm loài chim, nhưng đã năm kiếp mới chuyển thọ sinh thân hạc đời nay. Bởi nhân duyên thầy trò xưa kia nên lại gặp như vậy”. Hạc-lặc-na rất cảm động, bèn hỏi: “Vậy nay nên tu pháp gì để giúp cho chúng nó trở lại làm người ư?” Nhân đó, Tôn giả bảo: “Ta có pháp bảo vô thượng đó là Như Lai Tạng, xưa kia Đức Thế Tôn trao truyền cho Tôn giả Đại Cadiếp, lần lượt trao truyền đến ta, nay ta giao phó cho ông, ông hãy hoằng truyền đó chớ để dứt tuyệt, và đàn chim hạc kia cũng nhờ đó mà được giải thoát. Ông nhận sự chỉ dạy của ta, hãy nghe bài kệ tụng đây:

“Tâm theo muôn cảnh chuyển
Nơi chuyển thật sâu mầu,
Theo dòng nhận được tánh
Không ngừng cũng không lo”.

Hạc-lặc-na vui mừng kính vâng hoằng truyền pháp. Tôn giả bèn vụt thân bay lên giữa hư không hiện bày mười tám thứ biến hóa rồi trở lại nơi pháp tòa, đưa tay chỉ xuống đất phát ra dòng suối thần.

Và lại nói bài kệ rằng:

“Đất tâm mối trong sạch
Hay đượm nhuần hết thảy
Từ đất tuôn vọt ra
Lợi ích khắp mười phương”.

Xong rồi, Tôn giả an nhiên thị tịch. Bốn chúng trà-tỳ, gom thâu xá-lợi, xây dựng tháp mà cúng dường. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Hoàng Đế (Lưu Chi 147-168) thời Đông Hán ở Trung Hoa.

3. TRUYỆN ĐẠI SĨ HẠC-LẶC-NA, TỔ THỨ HAI MƯƠI BA Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Hạc-lặc-na vốn người thuộc chủng tộc Bà-la-môn ở nước Nguyệt Chi. Thân phụ tên là Thiên Thắng, thân mẫu tên là Kim Quang. Mới đầu, vì chưa có con nối dõi, Thiên Thắng đến nơi tràng phan tôn thờ bảy Đức Phật ở nước đó, rồi trở về báo cùng vợ rằng: “Ta đã cầu xin con nơi tràng phan tôn thờ bảy Đức Phật”. Đêm đó, Kim Quang bèn mộng thấy có một Đồng tử ở gần núi Tu-di, tay mang vàng ròng đến nói cùng Kim Quang rằng: “Ta lại đây vậy”. Đến lúc tỉnh giấc, Kim Quang bèn mang thai. Ngày khác có một vị Tăng khác lạ đến nơi nhà, bảo Kim Quang rằng: “Hãy giữ gìn bào thai trong người, cẩn thận chớ khiến ô uế”. Kim Quang thưa: “Tôi nghiêm khiết tự thân đã mười tháng vậy”. Và nhân đó hỏi: “Tôi đây nếu sinh con có phước đức chăng?” Vị Tăng ấy bảo: “Ngươi sẽ sinh con trai. Trước đây bốn đời đứa con đó đã từ vì Long cung mà giảng pháp. Nên xưa kia Đức Phật từng dự ghi là nó sẽ làm Tổ sư Đại pháp”. Đến lúc sinh Tôn giả, trời liền mưa hoa, đất hiện tiền vàng. Dân chúng trong nước cho đó là điềm tốt lành, tấu trình lên nhà vua. Vua mới lấy đem về làm con, khiến dưỡng nuôi trong cung. Cung tần có cả trăm ngàn người đua nhau muốn nuôi dưỡng. Đứa con ấy (Tôn giả) liền vì phân thân, khiến mỗi người có được một con. Nhà vua cho đó là thần biến nhưng chẳng biện rành đâu là con chánh, bèn bảo rằng: “Ta vốn không có con nối dõi, nuôi dưỡng ngươi, muốn dùng làm Thái tử, vừa rồi ngươi biến hóa lắm thân, ta rất mờ hoặc đó. Nếu ngươi quả đắc thần thông nên lại thần hóa, không vậy thì trọn là có cả ngàn con”“. Vua nói vừa xong, đứa con ấy liền tỏa phóng ánh sáng, rồi bỗng nhiên ẩn mất, sau đó tìm thấy ở nơi nhà cha mẹ ruột. Lên bảy tuổi, gặp thấy dân chúng trong nước đó cúng tế thần Câu-la nơi Dâm từ, vì vậy Tôn giả than rằng: “Ba cõi yếu kém, hiếm ít người đắc Chánh pháp, mà tà ngụy phóng túng đua nhau tạo tác”. Nhân đó, Tôn giả đến nơi Dâm từ, miếu mạo ấy bèn liền sụp đổ. Năm 20 tuổi, Tôn giả nương theo vị Tỳ-kheo La-hán, cầu xin xuất gia, thọ giới tại núi đó. Mới đầu, vị thầy ấy bảo Tôn giả chuyên trì tụng kinh Đại Phẩm Bát Nhã, cứ như thế suốt ba mươi năm. Về sau, Tôn giả đến ẩn náu nơi một khoảnh rừng tại nước Nguyệt Chi, cảm có đàn chim hạc đến nương tựa, vì thế mà có tên hiệu như hiện nay. Sau nữa, gặp Tôn giả Ma-noa-la đến nơi cung vua, nhân đó mà Tôn giả được trao truyền Đại pháp nhãn tạng.

Mới đầu, Tôn giả du phương giáo hóa, đến lúc đến nước xứ Trung Thiên Trúc gặp vua nước đó tên là Vô-úy-hải, trước đó mộng thấy có vầng nguyệt soi chiếu đến thân. Các bề tôi đoán nguyên nhân tâu là: “Chẳng bao lâu nữa sẽ có bậc Hiền Thánh đến ứng mộng ấy”. Vua bèn nêu báo khắp bốn cửa thành. Tới lúc Tôn giả đến, lính canh gác cửa vào tâu, vua liền vội đem pháp trượng v.v... ra nghinh đón vào nơi vương cung, kính lễ tại chánh điện. Vừa mới ngồi, bỗng có hai người mặc áo lụa trắng đến trước lễ bái Tôn giả. Vua im lặng lấy làm kinh lạ: “Đó là người nào mà chẳng vái chào người chủ đây”. Nhận biết tâm ý đó, Tôn giả bảo vua rằng: “Đó là Thiên tử Nhật Nguyệt, chẳng phải là người phàm. Vì tôi đến đây nên lại cùng kính lễ”. Vua hỏi: “cớ sao biết vậy?” Tôn giả bảo: “Đời kiếp trước tôi từng vì giảng nói pháp cho đó, nhân vậy mà được sinh đến nơi cung Nhật nguyệt”. Chỉ khoảnh khắc, người ấy bỗng ẩn mất, chỉ còn lại mùi hương thơm thoảng còn thời gian lâu. Nhân đó, vua hỏi: “Nhật nguyệt như vậy có bao nhiêu cõi nước rốt ráo”. Tôn giả bảo: “Ở cõi Ta-bà thì Nhật nguyệt sơn vương có đến trăm ức, mà dưới Tứ thiên, ước có bốn ngàn không trăm lẻ tam

(4008) nước, nhưng lớn nhỏ chẳng đều nhau”. Vua lại hỏi: “Các cõi nước ấy đồng một lúc mà có hay là có trước có sau?” Tôn giả đáp: “Tùy trước sau ba đời mà có hay không vậy”. Vua hỏi: “Ba đời nương đâu mà có?” Tôn giả đáp: “Ba đời y cứ sáu tăm tối mà có”. Vua hỏi: “Những gì là sáu tăm tối?” Tôn giả đáp: “Hai khí trên dưới và bốn góc cùng hợp, gọi đó là sáu tăm tối. Giữa khoảng sáu tăm tối, ba đời cùng cách nhau. Mới đầu là có chủ, người đó tên là Điền Chủ. Sau Điền Chủ, cõi nước đó lại cùng phân chia nhưng đồng sinh sống giữa khoảng sau tăm tối. Và tuổi thọ cũng có phẩm hạn khác nhau, có người sống muôn tuổi, có người sống ngàn tuổi, có người sống trăm tuổi, có người chết yểu, có người không chết yểu. Quả báo đã chẳng ngang bằng nhau mà hình loại cũng có khác biệt. Tuy là hai vị Bồ-tát Nhu Đồng và Ca-diếp cũng không thể rõ biệt. Vừa rồi tôi chỉ nói ước mà thôi, như hạt cải đầy cả thành mà chỉ mới nhặt lượm một hạt”. Vua nghe thế càng tự cảm nhận khả năng mình thấy biết bé nhỏ.

Sau đó, Tôn giả ra khỏi cung vua. Mới đầu, Tôn giả có vị đệ tử tên là Long Tử qua đời sớm, song thân và anh của Long Tử là Tỳ-kheo Sư Tử đều tìm đến, sắp chuyển dời tẩn táng di thể Long Tử, cả Đại chúng nâng lên không lay động. Tỳ-kheo Sư Tử lấy làm quái lạ hỏi Tôn giả rằng: “Cả Đại chúng đồng dốc sức nâng lên, cớ sao mà không lay động?” Tôn giả bảo: “Lỗi ấy là bởi do ông”. Sư Tử hỏi: “Tôi có lỗi quá gì? Xin được biết nguyên do”. Tôn giả bảo: “Mới đầu ông theo vị Tăng Bà-lamôn mà xuất gia. Em ông suốt hai năm trọn đêm ngày nghĩ nhớ, mới muốn tạo phước để giúp ông, bèn nhờ thầy ông đắp họa một tôn tượng Phật, qua thời gian lâu mang thợ làm chưa hoàn tất, ông chán ghét nên ném tượng ấy nơi đất. Mà lại vì vậy, nay ông chỉ nên đi gom nhặt tôn tượng ông ném vất đó lại thì việc an táng đây hẳn được vậy”. Sư Tử bèn y theo lời Tôn giả mà làm, quả nhiên việc an táng người em được hoàn tất. Mãi đến lúc vị thầy Bàla-môn kia qua đời, Sư Tử cho rằng lời Tôn giả nói có ứng nghiệm, nên trở lại nói Tôn giả nương tựa tôn thờ làm thầy. Mới đầu, Sư Tử hỏi: “Tôi muốn cầu đạo, nên dùng tâm gì?” Tôn giả đáp: “Nếu ông cầu đạo, không cần có chỗ dụng tâm”. Sư Tử lại hỏi: “Đã không dụng tâm, sao làm Phật sự”. Tôn giả bảo: “Nếu ông có dụng tâm tức chẳng có công đức. Nếu ông làm mà không dụng tâm tức là việc Phật. Nên trong kinh Phật dạy các công đức ta tạo tác mà không có cái ta tạo tác vậy”. Nghe giảng như thế, Sư Tử bèn giải ngộ mới chịu sắp xếp theo trong hàng đệ tử. khi ấy đồ chúng đệ tử hoặc các người nương theo mà hỏi rằng: “Sư dùng Vô ngã để tu hành mà biết được túc mạng đây, hẳn là biết được mỗi người trong Đại chúng có phước nghiệp hay không? Xin được nghe biết điều đó”. Tôn giả đưa tay chỉ về hướng Đông bắc mà bảo: “Các người có thấy đó chăng?” Đại chúng đáp: “Không thấy”. Tôn giả bảo: “Đó là tướng con nai còn không thể thấy, huống gì là công đức vi diệu ư?” Tôn giả bước tới phía trước thưa: “Vừa rồi tôi có thấy”. Tôn giả hỏi: “Ông thấy gì?” Sư Tử đáp: “Tôi thấy hơi khí khác lạ như cầu vồng sắc trắng bao quanh đất trời, lại có hơi khí sắc đen năm đường giăng xẹt ngang, phía trước tương tợ như cầu thang lên cung trời Đao-lợi”. Tôn giả bảo: “Ông thấy hơi khí ấy mà có biết điềm ứng gì chăng?” Sư Tử đáp: “Điềm ứng thì hẳn là chưa biết, chỉ thấy mới nói được đó”. Tôn giả bảo: “Sau khi ta qua đời khoảng cuối năm mươi năm, tai nạn sẽ phát khởi tại Bắc Ấn Độ. Ông phải nên biết đó”. Nhân đó, Sư Tử hỏi: “Tôi sắp muốn du phương, xin Tôn giả chỉ dạy”. Tôn giả bảo: “Nay ta đã già suy, giờ phút nhập Niết-bàn sắp đến. Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai nay đây hẳn giao phó cho ông. Ông đi đến một nơi khác để hóa độ, nhưng ở nước đó có tai nạn hẳn ương lụy đến ông. Ông phải cẩn trọng sớm nên trao truyền chớ khiến dứt tuyệt. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Lúc nhận được tâm tánh
Mới nói chẳng nghĩ bàn
Rõ ràng không chỗ được
Lúc được không nói biết”.

Trao truyền Đại pháp xong, Tôn giả vụt thân bay lên giữa hư không, bày hiện mười tám thứ biến hóa, xong trở lại nơi pháp tòa an nhiên mà thị tịch. Bốn chúng trà-tỳ rồi, sắp phân chia xá-lợi tùy theo mỗi nơi mà dựng tháp cúng dường. Tôn giả lại ứng hiện mà nói kệ tụng rằng:

“Một pháp tất cả pháp Một pháp nhiếp hết thảy Thân ta chẳng có không Sao chia hết thảy tháp”.

Đại chúng bèn gom lại tôn trí trong bảo tháp thanh tịnh mà cúng dường. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Hiến Đế (Lưu Hiệp 190-220) thời Đông Hán ở Trung Hoa vậy.

4. TRUYỆN ĐẠI SĨ SƯ-TỬ, TỔ THỨ HAI MƯƠI BỐN Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Sư Tử vốn người thuộc chủng tộc Bàla-môn ở nước xứ Trung Thiên Trúc, vốn rất thông minh dĩnh ngộ, có trí tuệ biện tài xuất thế. Thuở thiếu thời, nương tựa một vị Tăng Bà-la-môn xuất gia mà hành tập thiền định. Về sau lại đến nương tựa Tôn giả Hạc-lặc-na. Sau đó lại được trao truyền Đại pháp nhãn tạng, Tôn giả bèn du phương giáo hóa, đến nước Kế Tân.

Mới đầu, tại nước đó có vị Sa-môn tên là Bàlợi-ca chuyên tu tập pháp Thiền quán Tiểu thừa. Về sau đệ tử của Bà-lợi-ca nương theo pháp ấy bèn phân làm thành năm học gia, đó là: Một là Thiền định; hai là Tri kiến; ba là Chấp tướng; bốn là Xả tướng; năm là hành trì tịnh khẩu, đua nhau tranh giành phần thắng. Tôn giả đều đến chỉnh định lại đó. Mới đầu đến bảo vị chuyên hành trì tịnh khẩu rằng: “Phật giáo cần giảng diễn Bát Nhã, cớ sao không nói mà phản trái lời Phật chỉ dạy ư?” tiếp đến bảo vị Xả tướng rằng: “Phật dạy oai nghi đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh, đâu bảo xả tướng ư?” Tiếp lại bảo vị Chấp tướng rằng: “Cõi Phật thanh tịnh, tự tại vô trước, sao chấp tướng ư?” Tiếp lại bảo vị Tri kiến rằng: “Tri kiến của chư Phật không chỗ được, nên pháp vi diệu ấy, nghe biết không thể kịp, vô vi không hình tướng, vậy sao là tri kiến ư?” Và đồ chúng của cả bốn vị ấy đều đượm phục sự chỉ giáo của Tôn giả. Tiếp đến trong đồ chúng của học gia thiền định, vị dẫn đầu tên là Đạt-ma-đạt, là bậc được tôn xưng là có tri thức các chúng đều tôn kính, vì bốn chúng trước đều khuất phục Tôn giả, nghe thế, Đạt-ma-đạt tức giận không cam lòng, bèn đến nói Tôn giả muốn cùng cật nạn. Vừa đến, Tôn giả liền hỏi: “Nhân giả hành tập định, sao lại đến đây? Nếu đã đến đây thì nào thường hành tập định?” Đạt-ma-đạt đáp: “Tôi đến nơi đây nhưng tâm vẫn không tán loạn, định theo ngươi hành tập, đâu phải tại nơi chỗ”. Tôn giả lại hỏi: “Nhân giả đến đây thì hành tập kia cũng đến. Đã không nơi chỗ thì đâu ở người hành tập”. Đạt-ma-đạt đáp: “Định hành tập người, chẳng phải người hành tập định”. Tuy tôi có đi lại nhưng định ấy thường hành tập”. Tôn giả lại hỏi: “Người chẳng hành tập định, định hành tập người, đang tự đi lại thì định ấy tập ai?” Đạt-ma-đạt đáp: “Như minh châu sáng sạch trong ngoài không ngăn che. Định nếu được thông đạt cũng lại như thế”. Tôn giả bảo: “Định nếu thông đạt hẳn tợ như minh châu, nhưng nay thấy Nhân giả chẳng thể sánh như minh châu”. Đạt-mađạt đáp: “Minh châu kia sáng suốt, trong ngoài đều định, tâm tôi không loạn ví như minh châu ấy”. Tôn giả lại hỏi: “Minh châu không có trong ngoài, Nhân giả sao hay định uế? Vật chẳng lay động, định đây chẳng phải sạch”. Biết nghĩa lý mình bị bẻ gãy, Đạt-ma-đạt bèn kính lễ Tôn giả và thưa: “Tôi học đạo nhọc nhằn trống rỗng, nếu không được nghe sự chỉ dạy của Tôn giả, làm sao biết được thấu đáo. Xin Tôn giả nhủ lòng thâu nhận tôi làm học trò”. Tôn giả cố nhường từ, nhưng Đạtma-đạt vẫn cầu xin không thôi. Tôn giả mới bảo: “Thiền định của chư Phật, không có chỗ được. Giáo đạo của chư Phật không có chỗ chứng, không chỗ được, không chỗ chứng là giải thoát chân thật. Đền nhân đáp quả, nghiệp báo ở đời, ở trong pháp đây hẳn không như thế. Nếu ông hành tập định, nên hành tập như thế”. Đạt-ma-đạt vui vẻ vâng theo.

Sau đó không bao lâu, trong nước đó có người con của trưởng giả tên là Tư-đa, tuổi đã hai mươi mà bàn tay trái thường như có nắm vật gì, chưa từng mở ra. Một đêm nọ, người cha mộng thấy có vị thần nhân bảo đưa đến Tôn giả chữa trị cho. Đến sáng ngày, ông bèn dẫn con tìm theo Tôn giả muốn để xét nghiệm giấc mộng ấy mà trong tâm trước đã nghĩ tính, nếu quả lành được bệnh ấy thì sẽ cho nó xuất gia. Tôn giả mắc hoạn nạn lâu ở nước đó mà giáo pháp chưa được hoằng truyền. Một sáng nọ, cha con ông trưởng giả dẫn nhau đến, đem sự việc giấc mộng và căn bệnh bàn tay ấy thưa cùng Tôn giả. Kính lễ xin Tôn giả nhận cho nó xuất gia. Tôn giả mới bảo mọi người rằng: “Vật trong tay người con này nắm, các người có biết là gì chăng?” Mọi người đều mờ mịt không biết là gì. Tôn giả lại bảo: “Vật người con này nắm là một hạt châu báu. Bởi đời trước ở nơi một nước nọ, ta là vị Tỳ-kheo, chuyên trì tụng một ngày nọ, gặp lúc Long cung thỉnh mời ta đến thọ trai, đem châu báu mà dâng cúng. Khi ấy người con này cùng theo hầu, nhân đó mà ta trao vào tay nó. Đến lúc ta qua đời lại sinh đến nước này, vì duyên nghiệp thầy trò chưa dứt, do đó, lại có sự gặp gỡ nay đây”. Và Tôn giả bèn bảo Tư-đa mở tay ra, quả nhiên có hạt châu báu ngời sáng trong bàn tay. Khi ấy Tôn giả bèn vì xuống tóc cho xuất gia, thỉnh mời chúng Thánh cho thọ giới Cụ túc, Tôn giả lại bảo: “Đời trước ông xuất gia đã có tôn là Bà-xá, mà nay lại như vậy, nên đem gộp chung lại tức tên là Bà-xá-tư-đa. Ta vừa quán sát tại nước này, sắp có hoạn nạn đưa đến nơi ta, nhưng ta già suy đâu lại thoát khỏi. Nên Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai do ta hoằng truyền, nay đem giao phó cho ông, ông nên phụng hành theo đó tức từ nay trở đi tự chuyên hoằng truyền giáo hóa, nếu gặp người nào nghi ngờ nên đưa pháp y Tăng-già-lê của ta để làm ứng nghiệm. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Ngay lúc nói Tri kiến
Tri kiến đều là tâm
Chánh tâm tức Tri kiến
Tri kiến tức hiện nay”.

Bà-xá-tư-đa vâng phụng sự chỉ dạy ngay ngày ấy liền ra đi, hoằng hóa tự nhiên không việc gì. Tại nước đó, tự nhiên có hai anh em, người anh tên là Ma-mục-đa, người em tên là Đô-lạc-già cùng nhau ẩn cư trong núi học pháp ngoại đạo. Một ngày nọ Đô-lạc-già học hành thành đạt trước, nói cùng anh rằng: “Tôi sắp lén vào vương cung làm phép giết vua để đoạt lấy đất nước”. Ma-mục-đa bảo: “Ông không nhầm việc, hẳn vương lụy đến dòng tộc của ta”. Đến lúc Đô-lạc-già vào trong cung bèn cải đổi đồ chúng của mình đều thành hình tướng Sa-môn, tính sự việc tập thành thì tự hiện bày, còn không như vậy thì quy tội thuộc do các Sa-môn. Đã làm phép ấy không hiệu nghiệm, bị nước đó bắt giam, quả nhiên binh lính đem Sa-môn mà tấu trình. Vua rất tức giận bảo: “Ta vốn rất kính trọng Phật pháp, cớ sao người ấy lại làm nghịch như vậy?” Bèn phá diệt Phật pháp giết hại các hàng Sa-môn. Tôn giả bèn bảo đồ chúng rằng: “Ngày nay nhà vua đem điều chẳng lợi đến với chúng ta. Các người cần nên trốn lánh xa”. Đồ chúng ấy muốn đưa Tôn giả cùng đi ẩn lánh. Tôn giả bảo: “Ta thấy các uẩn là không, vậy có gì phải trốn lánh ư?” vua Di-la-quật quả nhiên mang theo kiếm gậy hung dữ đến nơi Tôn giả mà hỏi: “Sư được pháp Vô tướng chăng?” Tôn giả đáp: “Đã được”. Vua lại bảo: “Đã được, vậy với sinh tử có còn sợ chăng?” Tôn giả đáp: “Đã lìa sinh tử, có gì phải sợ vậy”. Vua lại hỏi: “Chẳng sợ, vậy có thể thí cho ta cái đầu chăng?” Tôn giả đáp: “Thân đã chẳng phải của ta có huống gì là cái đầu”. Vua liền chém, đầu Tôn giả rơi xuống, có dòng sữa trắng tuôn vọt cao một trượng, nhưng cánh tay phải của cũng vua liền tự lìa đứt, sau đó mắc bệnh bảy ngày mà băng hà. Trong lúc vua mắc bệnh, có Thái tử tên là Quang Thủ rất lo buồn đó, thỉnh mời các bậc phương sĩ bàn tính vì vua cha mà sám tạ lỗi quá. Bỗng chốc có vị tiên ở núi Tượng bạch đến, báo cùng Quang Thủ rằng: “Đây là oán đối xưa trước, không có gì phải lấy làm lo buồn”. Thái tử Quang Thủ đến trước vị tiên ấy thưa hỏi muốn được nghe biết duyên việc xưa trước. Vị tiên ấy bảo: “Cách trước đây vài đời, phụ vương ông từng sinh ở nước này làm người cư sĩ, mà rất hiền thiện, khéo kính trọng Phật đạo. Một ngày nọ, kết chúng cùng thiết trai hội vô già. Bấy giờ thân trước của Tôn giả Sư Tử cũng làm người cư sĩ, lại cùng dự pháp hội ấy, mà Tôn giả Sư Tử lại là người thông mẫn, biện bác khéo giới, phàm cùng người đàm luận chưa bao giờ bị khuất nhục. Ngày đó mới đem Phật pháp cật vấn nhau, phụ vương ông tuy ứng đối trúng lý, mà tâm ý Tôn giả Sư Tử muốn dành phần thắng, liền tung hoành vặn hỏi. Thế đã lộn xộn, nghĩa bèn cứng gãy, do đó phụ vương ông tức giận, sau đó lén bảo lấy độc dược mà tự giết hại thân mạng phụ vương ông, tuy trước đã trải qua nhiều đời, mà minh số chưa đến nên việc cũ chưa làm được, nay duyên nghiệp cùng gặp gỡ, do đó, phụ vương ông giết hại Tôn giả Sư Tử! Thái tử Quang Thủ nghe thế, mới cởi mở chút lo buồn. Sau đó mới dựng tháp an táng di cốt của Tôn giả. Lúc Tôn giả bị hại tương đương với đời vua Phế Đế Tề Vương (Tào Phương 240-254) thời Tiền Ngụy ở Trung Hoa vậy.

* Thử luận bàn:

Dự phần phó pháp, lấy gì làm ứng nghiệm ư? Đáp: Lấy Thánh nhân làm ứng nghiệm. Chỉ có Thánh nhân mới hay dự biết huyền vi. Nay, Tôn giả Sư Tử đức hạnh đủ khả năng làm Tổ, tự có nghĩa là đã được các uẩn đều không. Đó là Thánh nhân cũng đã thấu đạt rốt ráo vậy, há chẳng phải là dự biết huyền vi ư? Lại nữa, Tôn giả Hạc-lặc-na thường dùng cật nạn, khuyên Tôn giả gắng truyền đạo. Đó có thể chẳng phải dự phần phó pháp ư? Ở truyện khác (Phó pháp tạng truyện) hay biết lúc Tôn giả mắc phải hình nạn có sữa trắng tuôn trào mới bảo: “Người tương truyền pháp đến đây bèn dứt tuyệt”. Sao chẳng tư duy mà vọng viết vậy ư?

(Đó do bởi vọng nghiệm nơi kinh thiền).

5. TRUYỆN ĐẠI SĨ BÀ-XÁ-TƯ-ĐA, TỔ THỨ HAI MƯƠI LĂM Ở THIÊN TRÚC

Tôn giả Bà-xá-tư-đa vốn người thuộc chủng tộc Bà-la-môn ở nước Kế Tân, cũng còn có tên gọi là Bà-la-đa-la, hay là Bà-la-đa-na. Thân phụ tên là Tịch Hạnh, thân mẫu tên là Thường An Lạc. Mới đầu, Thường An Lạc mộng thấy có người trao cho kiếm báu, nhân đó mà mang thai. Từ đó về sau trong phòng nhà thường có mùi thơm khác lạ, trời có vài lần mưa hoa nơi nhà. Đến lúc sinh Tôn giả, bàn tay trái thường như có nắm vật gì. Đến năm Tôn giả 11 tuổi, có vị dị Tăng đến nơi nhà, bảo cùng Tịch Hạnh rằng: “Đứa con này đến năm 20 tuổi sẽ thành đại Đại pháp bảo, vật trong tay nó hiện nắm cũng được phát sáng”. Nói xong, vị Tăng ấy bèn ẩn mất. Năm Tôn giả đủ 20 tuổi, thân phụ Tịch Hạnh bèn dẫn đến nơi Tôn giả Sư Tử, giải bày duyên xưa trước, bèn vui vẻ cho Tôn giả nương theo Tôn giả Sư Tử mà xuất gia. Và Tôn giả Sư Tử cũng đã đến lúc già suy, lại thêm vì vương lụy xưa trước ẩn kín sâu xa, mới đem Đại pháp nhãn tạng truyền trao cho Tôn giả, khổ thiết khuyên Tôn giả nên đi xa cách khỏi nước đó. Tôn giả liền vâng sự chỉ dạy, ngay trong ngày đó cất bước ra đi.

Mới đầu, Tôn giả đến nước xứ Trung Thiên Trúc. Vua nước đó tên là Ca Thắng đi ngược lại mà tiếp đón Tôn giả, bởi vì trước đó tại nước ấy có bị vị ngoại đạo tên là Vô Ngã, ỷ cậy pháp thuật khinh miệt Phật pháp, vua thường luôn bất bình, đến đây mới bảo Tôn giả đè ép đó. Đến lúc nhóm hội, ngoại đạo yêu cầu mặc luận (luận tranh trong nín thinh), muốn không dùng lời nói. Tôn giả chống đối lại, bảo: “Nếu chẳng dùng lời nói, sao biện rành được hơn kém?” Ngoại đạo bảo: “Chẳng tranh hơn kém, chỉ lấy nghĩa lý”. Tôn giả hỏi: “Thế nào là nghĩa?” Ngoại đạo đáp: “Vô tâm là nghĩa”. Tôn giả hỏi: “Ông đã vô tâm, sao được nghĩa ư?” Ngoại đạo đáp: “Tôi nói vô tâm, chính danh chẳng phải nghĩa”. Tôn giả hỏi: “Ông nói vô tâm, chính danh chẳng phải nghĩa, ta nói chẳng phải tâm, nghĩa thường chẳng phải danh”. Ngoại đạo lại nói: “Nghĩa thường chẳng phải danh, ai hay biện rành nghĩa?” Tôn giả bảo: “Ông nói chánh danh chẳng phải nghĩa, vậy danh này là danh gì?” ngoại đạo đáp: “Vì biện rành chẳng phải nghĩa nên không danh mà đặt danh”. Tôn giả bảo: “Danh đã chẳng phải danh, nghĩa cũng chẳng phải nghĩa, vậy người biện rành là ai và đang biện rành vật gì?” Ai luận bàn như thế qua hơn năm mươi lần. Ngoại đạo đuối từ cứng lý bèn kính phục, khi ấy nơi cung điện nhà vua bỗng chốc có mùi hương thơm khác lạ nồng nhiệt. Tôn giả chỉnh túc bảo rằng: “Đây là điềm thầy ta vừa thị tịch vậy”. Và tin ấy cũng vừa đưa đến, Tôn giả bèn xoay mặt về phương Bắc mà kính lễ. Sau đó, Tôn giả bảo nhà vua rằng: “Mới đầu giã từ thầy ta, nghĩ tính muốn đến xứ Nam Ấn Độ, nay dừng ở lại đây đã qua thời gian lâu, đâu thể chối từ ý của thầy ư?” Bèn vội từ giã nhà vua mà đi. Vua bảo: “Tôn giả lưu lại thời gian ngắn, hỷ thứ cho có điều muốn thưa hỏi. Nay trong vườn uyển của tôi có dòng suối nóng chẳng thể Đại sư, bên bờ có tảng đá, ban đêm thì phát sáng. Tuy rất lấy làm quái lạ đó nhưng trọn không thể biết. Nguyện xin Tôn giả vì xét quyết cho?” Tôn giả bảo: “Đó là dòng suối nóng, bởi ba duyên mà cảm nên vậy: Một là thần nghiệp; hai là quỷ nghiệp; ba là đá nóng. Đá nóng sắc màu như vàng ròng, tánh thường bốc cháy nên xuất sinh ra dòng suối như nước sôi nóng. Quỷ nghiệp nghĩa là nơi quỷ vừa ra khỏi tội đến nơi cõi người nhưng vì nghiệp lực dư thừa thiêu đốt nơi dòng suối ấy để đền thưởng oan trái xưa trước. Thần nghiệp tức là thần chẳng giữ đạo ấy, vọng làm điều họa phước để hưởng nhận lấy sự cúng tế, ác nghiệp xâu đầy, ngầm phạt sai sử, cũng khiến đốt cháy noi dòng suối ấy để đền thưởng lạm tế”. Vua lại hỏi: “Mong Tôn giả nghiệm xét qua ba duyên ấy thì đây quả bởi duyên gì cảm nên?” Tôn giả bảo: “Đây là thần nghiệp cảm nên vậy”. Và liền bảo đốt hương đến nơi suối ấy vì thần mà sám hối. Bỗng chốc từ giữa dòng suối trong veo hiện ra một người lớn đến trước mặt Tôn giả mà thưa: “Tôi nhờ có chút phước mạng được gặp Tôn giả, tức sinh đến trong cõi người, nên lại cùng giã biệt Tôn giả”. Nói xong, liền ẩn mất. Qua sau bảy ngày dòng suối đó quả nhiên trong mát như suối thường. Bấy giờ, mọi người ở xứ Trung Ấn Độ cho rằng lời Tôn giả nói có hiệu nghiệm, mới tôn xưng Tôn giả là Bàla-đa-na. Đến lúc ở nước xứ Bắc Thiên Trúc nghe việc ấy cũng tôn xưng Tôn giả tên là Bà-la-đa-la. Nhưng sự tôn xưng của hai nước ấy, như ở Trung Hoa gọi là “Biệt nghiệp truyền chúng”. Cuối cùng, Tôn giả cáo từ, đến nước xứ Nam Thiên Trúc, nhà vua đích thân thiết bày nghi trượng tiễn đưa Tôn giả. Và vua ở nước xứ Nam Thiên Trúc cũng đi ngược lại nghinh đón Tôn giả.

Mới đầu, vua ấy có người con kính thờ Phật rất đúng như pháp, tu tạo mọi thứ công đức. Nhưng cảm mắc bệnh tật trải qua nhiều năm. Nhân đó vua hỏi Tôn giả: “Con tôi kính thờ Phật làm lành mà lại mắc bệnh lâu ngày. Thiện ác báo ứng ấy như thế nào?” Tôn giả bảo vua rằng: “Bệnh của Vương tử thật cảm phát do bởi công đức, nhưng nghĩa lý sâu xa, vua hãy khéo lắng nghe đó. Phật dạy người có nghiệp nặng nơi thân, như bệnh bên trong đã lâu, thuốc thang không thể chữa trị. Đến lúc sắp chết bệnh ấy càng nặng dữ.

Còn bệnh cạn nhẹ gặp thuốc thang liền chuyển động, chuyển động dần dần có hiệu ứng lành mạnh. Người có nghiệp nặng cũng như vậy. Tuy có công đức không sao bằng đó, kịp đến lúc chết, nghiệp báo càng hiện rõ. Với người nghiệp nhẹ, nhờ có công đức nghiệp báo liền hiện, sau mới thanh tịnh. Nay con của vua tu tạo việc lành mà cảm mắc bệnh lâu dài, ấy hẳn do công đức tu tạo đó hiện phát nghiệp nhẹ ấy. Vừa rồi tuy có ít nhọc khổ nhưng sau sẽ mạnh khỏe vĩnh viễn. Há trong kinh chẳng nói điều ấy ư? Với trong ba đường xấu ác nếu đáng sẽ nhận chịu nghiệp báo, nguyện được đền thưởng ngay thân này, chẳng phải vào đường xấu ác nhận chịu. Sao vua nghi ngờ ư?” vua bèn kính tin theo lời Tôn giả bảo, lại vì tu tạo phước thiện, và Thái tử mắc bệnh quả nhiên lành mạnh. Nhưng trong nước đó từ trước có vị chú sư tên là Linh Thông rất được vua tin trọng đến lúc ấy mới ganh ghét Tôn giả, mưu tính dùng độc dược để thuốc Tôn giả, nhưng thuốc không thể hại. Lại dùng phép thuật để so sánh, phép thuật lại không thắng nổi. Do đó, ngậm hận càng sâu nặng. Khi ấy, Tôn giả rời khỏi cung vua đến hoằng hóa nơi bộ khác, qua mười sáu năm sau, vua Thiên Đức băng hà, vua sau tên là Đức Thắng lên nối ngôi vị, rất thích chuộng thuyết chú thuật. Các vị chú sư nhân đó mới sàm tấu với vua Đức Thắng rằng: “Bà-xá-tư-đa không phải đệ tử của Tôn giả Sư Tử, đâu có đạo gì ư? Xin vua nên thử nghiệm đó”. Vua tin nghe theo lời đó. Khi ấy có Thái tử tên là Bất-như-mật-đa biết đó là dàn dựng gây tạo điều xấu ác đối với Tôn giả, mới cản ngăn vua Thắng Đức rằng: “Bà-xá-tư-đa rất được Tổ vương (ông nội-Thiện Đức) kính trọng. Vị chú sư xưa trước không thể làm hại nên sau đó cũng tự chết mất. Đạo hạnh của Bà-xá-tư-đa rất thấu đạt, nước nhà khỏi phải thử nghiệm đó”. Vua Thắng Đức tức giận cho rằng Thái tử đồng đảng với Bàxá-tư-đa nên bèn bắt giam tù. Một ngày nọ, quả nhiên mời Tôn giả đến nơi vua đang ở chánh điện mà hỏi: “Nước ta không chứa tà pháp. Điều học của sư vốn thuộc tông nào?” Tôn giả đáp: “Điều tôi học là chánh tông của Phật pháp”. Vua hỏi: “Đức Phật diệt độ đã hơn ngàn năm, mà sao ông được đó?” Tôn giả đáp: “Từ khi Đức Thích-ca Như Lai truyền pháp, mãi đến đời thứ hai mươi bốn là thầy tôi tức Tôn giả Sư Tử. Pháp mà tôi vừa đạt được chánh là tiếp nối từ Tỳ-kheo Sư Tử vậy”. Vua lại hỏi: “Sư tử bị giết chết, sao được đem pháp tương truyền? Nếu quả thật có vậy thì lấy gì làm tin?” Tôn giả đáp: “Thầy tôi có trao truyền pháp y Tăng-già-lê cho tôi nay vẫn hiện còn”. Và Tôn giả đưa dâng trình vua. Mới đầu, vua không tin, bèn bảo thiêu đốt để làm chứng nghiệm, lửa vừa phực cháy, bèn có ánh sáng khác lạ phát ra từ y Tăng-già-lê ấy phủ bít lửa thế tục, mây lành tỏa phủ, hương trời phảng phất, mãi đến lúc lửa tàn mà y Tăng-già-lê vẫn như cũ. Vua rất kính tin mới kính lễ Tôn giả và cầu xin y Tăng-già-lê ấy. Bèn ban sắc chiếu phóng thả Thái tử. Mới đầu, Thái tử Bấtnhư-mật-đa bị giam tù, mọi người chung quanh bất đắc dĩ theo thời dâng đưa thức ăn nên đói khát rất lắm, mới nghĩ đến sự chết chỉ trong sớm tối, bỗng nhiên có một luồng sữa trắng từ giữa không trung đưa lại rót vào trong miệng, mùi vị như cam lồ, hình sắc thần tướng của Thái tử trở lại khỏe mạnh. Nhân có điều cảm ấy, Thái tử mới trộm tự nghĩ là “nếu được thoát khỏi nạn này, thì sẽ cầu xin xuất gia”. Chỉ thời gian ngắn sau, có sắc chiếu ban tha đưa đến. Thái tử đối trước vua cảm tạ xong, liền báo mắc bệnh xin khỏi nhậm giữ ngôi vị Thái tử, mà cầu xin được xuất gia. Vua thấu rõ chí ý của Thái tử, không thể cản ngăn được. Thái tử bèn đến nơi Tôn giả, kính lễ xin làm đệ tử, Tôn giả bảo: “Phụ vương có chấp thuận chăng?” Thái tử đáp: “Đã bằng lòng”. Tôn giả hỏi: “Ông muốn xuất gia sẽ làm việc gì?” Thái tử đáp: “Tôi sẽ làm việc Phật”. Tôn giả vì sự khẩn thiết chí thành ấy bèn độ cho Thái từ xuất gia. Khi ấy quả đất chuyển động, mặt trăng xuất hiện giữa ban ngày. Cả nước đều lấy làm kinh ngạc, vua lo sợ đó là điềm không tốt lành. Tôn giả bảo: “Đó không phải điềm chẳng tốt lành, chớ nên lo sợ”. Vua hỏi: “Tôi nghe mặt trăng xuất hiện giữa ban ngày, mặt trời xuất hiện ban đêm, ấy là âm dương tương phản, sao được tốt lành ư?” Tôn giả bảo: “Ban ngày thấy mặt trăng là biểu thị sự gặp được Thánh nhân. Ban đêm thấy mặt trời là biểu thị rất tối tăm đều được tỏ sáng”. Nỗi lo buồn của vua do nghe lời nói ấy mà liền cởi mở. Nhân đó, vua hỏi Tôn giả rằng: “Từ trước, tôi có năm điều nghi ngờ, nay gặp được Tôn giả là bậc Thánh trí, mạo muội xin đem hỏi đó: Một là trước kia thấy quả đất chuyển động, hoặc gần hoặc xa, là bởi nhân gì nên vậy. Nay đây cũng lại như thế, là đồng hay là khác? Hai là mặt trời mặt trăng muôn sao bởi nhân gì ẩn hiện chẳng đồng thời? Ba là từ đất sản sinh ra vật quái lạ là ứng với ai ư? Vầng mây khí tốt từ đất phát ra là bởi người nào chiêu vời? Bốn là các phía Đông tây xa tận cùng tầm mắt nhìn, ráng sắc chẳng định chợt phát sáng chợt ẩn mất. Năm là sắc trời xanh biếc là do bởi ai khiến nên vậy? Tôn giả không chuyên Phật pháp, chẳng nói theo Thế Đế, xin từ quyết định điều đó”. Tôn giả bảo: “Ba ngàn Đại thiên trăm ức nhật nguyệt đều là cảnh giới của Phật, mà ai có thể đàm nói ư? Đâu có Phật pháp hay Thế Đế nói và không nói ư? vua không vì lời ấy, nhưng điều nghi của vua đều có nguyên do. Vua hãy nên nghe kỹ đó. Phàm, ở đời có Phật xuất hiện thì quả đất có bốn lần chuyển động, ban ngày mặt trăng xuất hiện, ban đêm mặt trời xuất hiện. Ở đời có Phật thành đạo thì quả đất có năm lần chuyển động, mặt trời mặt trăng phát sáng hơn. Ở đời có Phật nhập Niết-bàn thì quả đất có sáu lần chuyển động, mặt trời mặt trăng đều mờ tối. Ở đời có Bồ-tát xuất hiện thì quả đất có ba lần chuyển động, ban ngày mặt trăng xuất hiện. Ở đời có Bồ-tát thành đạo thì quả đất có bốn lần chuyển động, ban đêm có mặt trời xuất hiện. Ở đời có Bồtát diệt độ, thì quả đất có năm lần chuyển động, ánh sáng của mặt trời và muôn sao đều mờ tối. Ở đời có vị La-hán xuất hiện thì quả đất có một lần chuyển động, ban ngày có các ngôi sao xuất hiện. Ở đời có vị La-hán chứng quả thì quả đất có ba lần chuyển động, ban đêm muôn sao đều tỏa sáng. Ở đời có vị La-hán diệt độ thì quả đất có bốn lần chuyển động, ban đêm muôn sao đều mờ tối. Ở đời có vị Tỳ-kheo hai đời không thối lùi học đạo của Phật đến lúc xuất hiện nơi đời thì quả đất có một lần chuyển động, vị Tỳ-kheo ấy sắp chứng Thánh quả thì quả đất có hai lần chuyển động, lúc vị Tỳ-kheo ấy sắp diệt độ thì quả đất có ba lần chuyển động. Ở đời có vị Tỳ-kheo ba đời không thối lùi học đạo Bồ-tát đến lúc xuất hiện nơi đời thì quả đất chuyển động một lần nữa, vị Tỳ-kheo ấy sắp chứng quả Thánh thì quả đất có một lần chuyển động, lúc vị Tỳ-kheo ấy muốn diệt độ thì quả đất có hai lần chuyển động. Ở đời có vị Tỳ-kheo bốn đời không thối lùi học đạo La-hán xuất hiện nơi đời thì muôn sao đều tỏa sáng, lúc vị Tỳ-kheo ấy sắp chứng Thánh quả thì quả đất chuyển động một nửa, lúc vị

Tỳ-kheo ấy sắp diệt độ thì quả đất có một lần chuyển động. Ở đời có người làm việc chí hiếu thì quả đất chuyển động một nửa. Ở đời có người tạo tội ngũ nghịch, thì quả đất chuyển động một nửa. Tám sự kiện trên, công đức có lớn nhỏ, mà nghiệp có thiện ác, tùy điều cảm mà quả đất chuyển động có xa gần. Mặt trời, mặt trăng ẩn hiện, các phía Đông tây có ráng khí chẳng cố định. Về sắc màu bởi hai mặt Đông Tây của núi Tu-di tùy theo mặt trời ngăn che khuyết thiếu tạo nên vậy. Sắc màu của các vật báu tỏa sáng hay ẩn mất chẳng đồng nhất, sắc trời xanh biếc cũng do mặt phía Nam núi Tu-di thổi lưu ly mà tạo thành, đến lúc sáng ánh nên có sắc màu ấy. Phàm điềm lành của trời, đất và người mỗi tự có ba phẩm bậc thượng trung và hạ, ứng hiện chẳng đồng”. Vua hỏi: “Ba phẩm bậc ấy lại như thế nào?” Tôn giả đáp: “Cảm điềm lành mặt trời thượng thượng, cảm điềm lành mặt trăng thượng trung, cảm điềm lành muôn sao thượng hạ, là chỉ có Phật-bậc Đại Thánh nhân mới hay có đó. Cảm điềm lành thượng trung ấy, là chỉ có bậc Bồtát-hàng thứ Thánh nhân mới hay có đó. Cảm điềm lành thượng hạ ấy, là chỉ có bậc A-la-hán-hàng thứ Thánh nhân mới hay có đó. Mây khí cầu vồng nổi hiện nơi đất, cũng có ba phẩm bậc thượng, trung, hạ. Điềm lành hơi khí cầu vồng thượng thượng, chỉ hàng quân vương có đạo mới hay cảm đó. Điềm lành cảnh mây năm sắc thượng trung, chỉ hành quan thần có đức mới hay cảm đó.

Điềm lành sắc mây như lọng thượng hạ, chỉ có người có việc hiền thiện mới hay cảm đó. Điềm hiện của các loài cầm thú cũng có chín bậc. Phàm vật hiếm thấy nơi đời mà bỗng nhiên có hình xuất hiện chẳng phải giống cái; mái, sắc màu như ngọc bích như loại long lân, đó là điềm lành thượng thượng. Vật có vốn chẳng trắng, bỗng nhiên sắc màu tợ tuyết, như loài rùa, sư tử, đó là điềm lành thượng trung. Vật có vốn không sừng, mà bỗng nhiên có sừng, sắc màu lại như vàng, đó là điềm lành thượng hạ. Vật có vốn không lông cánh, bỗng nhiên có lông cánh sắc màu lại như bạc, đó là điềm lành trung thượng (trong đây tiếp theo có một thuyết, nguyên bản cũ rơi lạc! Vật có vốn sắc màu chẳng phải tía, bỗng nhiên có sắc tía, đó là điềm lành hạ thượng. Vật có sắc màu chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, lại chẳng phải cái; mái, đó là điềm bậc hạ trung. Vật có vốn sắc màu chẳng phải đen mà bỗng nhiên có sắc đen, chẳng hẳn là giống cái; mái, đó là điềm bậc hạ hạ. Điềm lành của cây cỏ cũng có chín phẩm bậc. Phàm cây cỏ vốn có tánh cứng chắc ngay thẳng, mà càng đẹp lạ, vốn sắc mà chẳng trắng mà bỗng nhiên ánh ngời, đó là điềm bậc thượng thượng. Cây cỏ vốn có tánh hơi cứng chắc ngay thẳng, vốn sắc màu chẳng phải tía mà bỗng nhiên sắc tía, đó là điềm bậc thượng trung. Cây cỏ vốn chẳng nêu xinh đẹp mà bỗng nhiên phát sinh xinh đẹp, đó là điềm bậc thượng hạ. Cây cỏ vốn có hoa mà chẳng thật, bỗng nhiên sinh thật, đó là điềm bậc trung thượng. Cây cỏ do gốc khác trương tiếp mà sinh, đó là điềm bậc trung trung. Cây cỏ vốn có, bỗng nhiên đổi phát sinh hoa khác, đó là điềm bậc trung hạ. Cây cỏ có, bỗng nhiên phát sinh tương tợ như người, đó là điềm bậc hạ thượng. Cây cỏ vốn có bỗng nhiên phát sáng, đó là điềm bậc hạ trung. Cây cỏ vốn có, bỗng sinh khí tượng chạy chuyển, đó là điềm bậc hạ hạ. Phàm hóa cảnh của Đức Phật Thích-ca, điềm lành như vậy nhiều không hạn lượng, sợ chẳng thể nhớ ghi hết, nhưng đều tùy theo phước lực ở đời có lớn nhỏ mà cảm vời phát hiện ra ấy vậy”. Vua được nghe điều khác lạ, bèn càng kính lễ. Tôn giả bảo cùng vua rằng: “Vương tử xuất gia điềm cảm như vậy, thật đúng là bậc Đại sĩ, nên tiếp nối theo tôi làm lớn mạnh pháp bảo”.

Sau đó, Bất-như-mật-đa cũng chứng quả, Tôn giả bèn cho Bất-như-mật-đa trở về nơi chỗ trước kia mà giáo hóa. Về sau, Tôn giả mới gọi đến và bảo: “Nay tôi đã già lắm, không bao lâu sẽ từ tạ cõi đời, Chánh pháp nhãn tạng của Đức Như Lai xưa trước, nay tôi giao phó cho ông. Hãy nghe tôi nói bài kệ tụng đây:

“Thánh nhân nói Tri kiến
Ngay cảnh không phải quấy
Nay tôi ngộ tánh ấy
Không đạo cũng không lý”.

Bất-như-mật-đa đã thọ nhận phó pháp, lại thưa Tôn giả rằng: “Tôn giả đem pháp y Tăng-già-lê của Tổ sư cất kín nơi cung vua, không được truyền trao đó, cớ sao như vậy?” Tôn giả bảo: “Ngày xưa ta được trao truyền pháp y, bởi vì tiên sư mắc phải hoạn nạn, phó pháp không hiện bày, nên lấy đó làm niềm tin ứng nghiệm cho đời nay. Ông vừa tiếp theo nối dõi từ ta, cả năm xứ Thiên Trúc đều biết, đâu cần dùng pháp y làm gì, chỉ chuyên cần hoằng hóa dẫn dắt. Sau này ông sẽ độ người nhiều vô lượng”. Bất-như-mật-đa im lặng vâng nhận sự chỉ dạy. Thế rồi Tôn giả vượt thân bay lên giữa hư không, làm thành mười tám thứ biến hóa, tỏa phóng ánh sáng soi chiếu khắp đất trời, rồi bèn ở giữa hư không hóa lửa tự thiêu đốt, tuy mưa xá-lợi nhưng không rơi rớt đến đất. Đại chúng mỗi người tự căng vạt áo hứng lấy, sau đó tạo dựng bảo tháp, gom lại mà tôn thờ. Lúc đó tương đương đời vua Minh Đế (Tư Mã Thiệu 323-326) thời Đông Tấn ở Trung Hoa.

* Thử luận bàn:

Chỗ gọi là pháp y thiêu đốt không cháy, ấy chẳng là rất thần ư? Đáp: Kiếm báu rút ra từ Lương Dã, còn có thể biến hóa chẳng lường, mà tỏa sáng trùm cả muôn sao. Phương sĩ vốn chỉ phép thuật của thế gian cũng có thể vào nước không thâm ướt, vào lửa không bị thiêu cháy, huống gì thượng y của

Thánh nhân, là thắng khí của Đạp pháp đây có thể vậy ư? Hay không ngời sáng ư? Còn nói quả đất chuyển động, cho đến mây, mặt trời, cây cỏ v.v... các thứ điềm lành. Xa lấy nghiệp lý mà tìm cầu đó. Lớn thay rất khác với thuyết ngũ hành ở thế tục vậy.

-(HẾT)-

QUYỂN 5

1. Truyện Tôn giả Bất-như-mật-đa, Tổ thứ hai mươi sáu ở Thiên Trúc

2. Truyện Tôn giả Bát-nhã-đa-la, Tổ thứ hai mươi bảy ở Thiên Trúc

3. Truyện Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma, Tổ thứ hai mươi tám ở Thiên Trúc

*****

1. TRUYỆN TÔN GIẢ BẤT-NHƯ-MẬT-ĐA, TỔ THỨ HAI MƯƠI SÁU Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Bất-như-mật-đa vốn người thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi ở nước xứ Nam Thiên Trúc. Thân phụ tên là Đức Thắng, tức là vua nước đó. Tôn giả là Thái tử của Đức Thắng. Lúc Tôn giả ra đời, trong cung có mùi hương thơm khác lạ phảng phất, gia nhân đều lấy làm kỳ lạ. Bẩm tánh Tôn giả thuần hòa sáng suốt, từ thuở thiếu thời đã sùng kính Phật sự. Mới đầu Tôn giả Bà-xá-tư-đa đến hoằng hóa tại nước đó, Tôn giả bèn lấy cớ bệnh không giữ ngôi vị Thái tử, mà nương theo cầu xin xuất gia. Được phụ vương chấp thuận, Tôn giả Bà-xátư-đa bèn vì độ cho xuống tóc tại trong cung, nhóm hội các thắng Tăng truyền thọ giới Cụ túc (sự việc thấy ở truyện Tôn giả Bà-xá-tư-đa). Sau đó, theo Tôn giả Bà-xá-tư-đa ra khỏi cung, Tôn giả mới được trao truyền Đại pháp nhãn tạng. Về sau, Tôn giả du phương giáo hóa, đến nước xứ Đông Ấn Độ. Trước đó, vua nước ấy thuộc chủng tộc Sát-đếlợi tên là Kiên Cố, rất kính trọng ngoại đạo phạm chí Trường Trảo. Khi Tôn giả bảo tới nước đó, đồ chúng của ngoại đạo rất lo sợ thưa cùng thầy mình rằng: “Vừa mới biết được Bất-như-mật-đa vào đất nước này, người ấy đạo phong ưu thắng, sợ rằng bọn chúng ta không thể sánh bằng. Nên trước cần tính mưu kế để dứt trừ”. Ngoại đạo bèn xin theo vua ấy đồng lên chỗ đất cao, nhân đó ngóng trông về hướng Tây, bảo cùng vua rằng: “Ở hướng Tây có yêu khí, hẳn là có ma nào vào cảnh vức này, vua có thấy chăng?” vua đáp: “Không thấy, nhưng sự việc ra làm sao?” Ngoại đạo đáp: “Nơi quân ma đến thì nước nhà sẽ suy sụp, nhưng vì vua mà bàn tính, không gì hơn giết chết nó đi”. Vua bảo: “Chưa thấy tội nó, đâu nhẫn làm vậy”. Ngoại đạo lại đề cử một vị khéo giỏi về chú thuật ở trong đồ chúng mà tâu cùng vua: “Người nay có pháp có khả năng kinh động đất trời, có thể dùng đó để chế ngự quân ma”. Nhưng Tôn giả đã dự biết các ngoại đạo dối bày trông thấy yêu khí, nên trước răn bảo đồ chúng của mình rằng: “Ta đến trong thành này hẳn có nạn nhỏ, các ngươi chớ kinh sợ”. Đến lúc ra mắt vua, quả nhiên cật hỏi Tôn giả rằng: “Sư lại đây làm gì?” Tôn giả đáp: “Ta lại muốn độ chúng sinh”. Lại hỏi: “Sẽ dùng lấy pháp gì và hóa độ hạng chúng sinh nào”. Tôn giả đáp: “Tùy theo loại mà dùng pháp để hóa độ nó”. Lại hỏi: “Với người có phép thuật, ông dám đánh chăng?” Tôn giả đáp: “Phật pháp của ta rất mực chân chánh, tuy là thiên ma cũng không đủ để nhiếp phục đó, sao có yêu thuật gì mà dám đương đầu ư?” Nghe lời nói đó, bọn ngoại đạo càng tức giận, dùng phép hóa làm một quả núi lớn ngưng dừng giữa hư không. Tôn giả đưa ngón tay ấn xuống đất, quả đất chuyển động, cả năm trăm ngoại đạo đều không thể tự đứng vững, núi chuyển dời đến trên đầu, bọn ngoại đạo vô cùng kinh sợ. Tôn giả lại đưa tay đè xuống đất, quả đất trở lại yên tĩnh, núi biến hóa kia cũng ẩn mất, bọn ngoại đạo đều xếp thành hàng kính lễ, sám hối tội quá, vua cũng kính tạ Tôn giả mà thưa rằng: “Tôi không biết Đại sĩ, mới đem ánh lửa đom đóm muốn tranh sáng với ánh sáng nhật nguyệt”. Khi ấy, vua bèn chuyển dời đô thành. Ngày sau thiết bày đại trai hội để lạc thành đó, cũng ủi an ngoại đạo muốn Tôn giả cùng đến dự hội. Mới đầu

Tôn giả không nhận lời, từ từ quán sát thấy đất xứ thành mới ấy sắp bị vùi lấp, bèn dùng sức thần mà đến đó, vua trông thấy Tôn giả, bèn nói: “Quả nhiên Sư lại ư?” Tôn giả bảo: “Không phải ta nhận sự cúng dường mà vì muốn cứu độ nên đến đây”. Vua hỏi: “Cứu gì?” Tôn giả đáp: “Đất xứ này đã là phần sở hữu của rồng, không bao lâu nữa sẽ bị vùi lấp, mọi người chuyển dời đi, hẳn sẽ bị chìm mất”. Vua kinh sợ, vội dạy cùng mọi người chuyển dời đi, chưa xa đến nơi cao nguyên, ngoái trông nhìn lại thì đất nơi thành ấy quả nhiên sụp đổ thành vực sâu. Vua càng kính trọng Tôn giả. Liền nghiêm sức xa giá voi ngựa thỉnh mời Tôn giả cùng trở về nơi đô thành xưa cũ. Nhân đó, vua hỏi: “Năm ngày trước tôi từng mộng thấy giữa hư không duỗi xuống một vòng vàng rủ đến nơi đất, tôi liền nâng đỡ lên, cùng với sự việc ngày nay chẳng là điềm ứng đó ư?” Tôn giả cũng bảo vua rằng: “Xưa trước, lúc sắp đến nơi nước này, ta cũng thường mộng thấy có một trẻ nhỏ kỳ đặc mang lọng báu chạy rảo theo sau ta, đó hẳn là có bậc Thánh nhân xuất hiện nơi chốn của vua trị vì, sẽ kế thừa hoằng truyền Đại pháp”. Vua hỏi: “Với nước nhỏ này há có bậc chí nhân ư?” Tôn giả bảo: “Nếu vua không khiêm nhường thì hẳn ứng đó”.

Nguyên trước tại nước đó có người con Bà-lamôn, từ thuở bé thơ đã mất hết song thân, nên sống trơ trọi phóng đạt, tự xưng tên là Anh Lạc. Khắp trong xóm làng chẳng thể lường biết là hạng người gì. Một ngày nọ Anh Lạc chợt mở lời ẩn ngữ rằng: “Chân Thánh nhân đạp đất, trong hội gặp rồng hổ”. Ngày ấy đến nơi vua lại, vua bèn tùy theo đến nơi khác. Từ đó đi ở càng chẳng thường, kịp lúc vua cùng Tôn giả cưỡi xa giá đến nơi phía Đông thành cũ. Anh Lạc đặc biệt ra nghinh đón đến kính lễ trước xa giá. Tôn giả bảo cùng vua: “Điều gọi là Thánh sĩ ở nước vua chính là người này đây vậy”. Và Tôn giả liền bảo Anh Lạc rằng: “Ngươi nhớ việc xưa trước chăng?” Anh Lạc đáp: “Tôi nhớ xưa trước đồng trong pháp hội, Tôn giả diễn giảng Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa, mà tôi chuyển trai kinh giáo thâm diệu, duyên đáng gặp gỡ lại, nên cùng chờ đợi đây”. Tôn giả bảo vua rằng: “Đứa trẻ này là Bồ-tát Đại Thế Chí giáng hiện làm người nối dõi dòng pháp từ ta, sau này sẽ xuất sinh hai bậc Đại sĩ, người trước đến hoằng hóa ở nước xứ Nam Thiên Trúc. Người sau có duyên với xứ Chấn Đán (Trung Hoa), nhưng sau chín năm sẽ trở về nước cũ”. Tôn giả liền vì Anh Lạc mà cho xuống tóc, và bảo rằng: “Vì ngày trước tôi đàm giảng Bát Nhã còn ngươi diễn nói kinh giáo, đến nay lại gặp gỡ, tiện nên lấy chữ Bát-nhã-đa-la mà xưng gọi tên ông.

Khi ấy Tôn giả hoằng hóa ở nước xứ Đông Thiên Trúc đã hơn sáu mươi năm, một ngày nọ bèn bảo Bát-nhã-đa-la rằng: “Đại pháp nhãn tạng xưa kia Đức Như Lai trao truyền lần lượt đến đời ta.

Nay ta lại trao cho ông, ông nên lưu thông hoằng truyền chớ khiến tuyệt dứt. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Kho tâm địa châu tánh
Không đầu cũng không đuôi
Theo duyên cảm hóa vật
Phương tiện gọi là trí”.

Trao truyền Đại pháp xong, Tôn giả bảo vua rằng: “Nhờ ân huệ thí của nước nhà, bình an chẳng thể cảm đó, chỉ vì hóa duyên đã hết, chẳng thể còn lâu quyến luyến nhân thế, tôi sắp đi đây vậy, vua khéo gìn giữ đó”. Vua khóc than như chịu tang người thân. Tôn giả bèn ngay pháp tòa nơi cung vua hóa hình như mặt nhật, chỉ chốc lát trở lại như cũ, hiện bày mười tám thứ biến hóa, dùng lửa Tammuội tức tự thiêu đốt, mưa đổ xá-lợi sắc màu vàng ròng. Vua lại làm tháp bằng vàng để tôn thờ xá-lợi. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Võ Đế (Tư Mã Xương Minh 373-397) thời Đông Tấn ở Trung Hoa.

2. TRUYỆN TÔN GIẢ BÁT-NHÃ-ĐA-LA, TỔ THỨ HAI MƯƠI BẢY Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Bát-nhã-đa-la vốn người thuộc chủng tộc Bà-la-môn ở nước xứ Đông Thiên Trúc. Từ thuở bé thơ đã mồ côi song thân, trơ trọi một mình xin ăn tự sống, rảo cùng làng xóm, người thời bấy giờ chỉ kêu gọi là đồng tử Anh Lạc. Như có người sai bảo làm lụng, Tôn giả chẳng từ nhọc mệt, không luận thẳng ngay. Hoặc có người hỏi: “Ông dòng họ gì?” (??) “Các người cùng tôi đồng dòng họ”. Hoặc có người hỏi: “Sao ông đi gấp nhanh vậy?” Tôn giả lại bảo: “Sao các người đi chậm vậy?” Mọi người đều chẳng lường biết ra làm sao. Gặp lúc vua nước đó tên là Kiên Cố cùng Tôn giả Bất-như-mật-đa đang trên xa giá trở về thành cũ, Tôn giả bèn từ phía Đông thành đi ra đến trước xa giá, tự nói bày tỏ duyên xưa trước. Từ đó vết tích Tôn giả mới hiển bày, Tôn giả Bất-như-mật-đa liền dẫn Tôn giả đến nơi cung vua, qua ngày sau vì độ cho Tôn giả xuất gia, nhóm tụ Thánh Tăng truyền cho thọ giới Cụ túc. Và thể hình Tôn giả tức tỏa phát ánh sáng khác lạ. Sau đó không bao lâu, tự nhiên Tôn giả Bất-như-mật-đa đem Đại pháp nhãn tạng mà trao truyền cho, mặc tình Tôn giả du phương hoằng hóa.

Đến lúc Tôn giả đến nước xứ Nam Thiên Trúc, gặp vua nước đó tên là Hương Chí ban chiếu thiết lễ nơi nội cung, đem châu báu cúng thí Tôn giả. Vua vốn có ba người con, mà chí ý mỗi người tự có pháp tu riêng. Người con cả tên là Nguyệt-tinhđa-la khéo thích tu pháp niệm Phật Tam-muội. Người con kế tên là Công-đức-đa-la vui ưa tu phước nghiệp. Người con thứ ba tên là Bồ-đề-Đa-la khéo thông hiểu Phật lý, chuyên hành pháp xuất thế. khi ấy vua Hương Chí đều bảo ra kính lễ Tôn giả. Tôn giả cho rằng cả ba người con đều khéo ưa thích Thánh thiện, trong ý muốn xét nghiệm khả năng trí tuệ xa gần ra sao, bèn đem hạt châu do vua cúng thí mà bảo mỗi người tự biện giải về đó là: “Ở đời còn có châu báu nào hơn châu báu này chăng?” Người thứ nhất, Nguyệt-tinh-đa-la đáp: “Châu báu này tối thượng, ở đời không có châu báu nào hơn châu báu này, nếu chẳng ở trong vương gia của tôi thì không ai có được”. Người thứ hai, Công-đức-đa-la cũng nói như thế. Đến người thứ ba, Bồ-đề-đa-la đáp: “Châu báu này là vật báu ở đời, chưa đủ lấy làm tối thượng. Phàm trong các vật báu thì pháp bảo là tối thượng. Đó là ánh sáng ở thế gian, trong các thứ ánh sáng thì ánh sáng trí tuệ là tối thượng. Đó là sự tỏ rõ của thế gian, trong các thứ tỏ rõ thì sự tỏ rõ của bản tâm là tối thượng. Nhưng ánh sáng tỏ rõ của châu báu này không thể tự soi chiếu, cần nhờ ánh sáng tỏ rõ của trí tuệ mới biện rành được như vầy. Đã rõ bày đó tức biết nói là châu báu. Đã biết là hạt châu tức rõ biết tầm mức quý báu của nó. Nếu rõ biết quý báu ấy, quý báu chẳng tự quý báu. Nếu biện rành hạt châu ấy, hạt châu chẳng tự là hạt châu. Hạt châu chẳng tự là hạt châu tức cần có trí châu để biện rõ hạt châu của thế gian. Quý báu chẳng tự quý tức cần có trí báu mà rõ biết được pháp bảo. Nhưng mà bậc thầy tôi có đạo thì quý báu ấy tự hiện. Chúng sinh có đạo, tâm báu cũng vậy”. Tôn giả vui mừng với tài năng biện luận ấy, lại hỏi rằng: “Trong các vậy, vậy gì vô tướng?” Bồ-đề-đa-la đáp: “Ở trong các vật chẳng khởi vô tướng”. Lại hỏi: “Trong các vật, vật gì tối cao?” Bồ-đề-đa-la đáp: “Trong các vật, nhân ngã là tối cao”. Lại hỏi: “Trong các vật, vật gì là tối đại?” Bồ-đề-đa-la đáp: “Trong các vật, pháp tánh là tối đại”. Tôn giả bèn im lặng mừng vui, tự nhủ: “Đây là Đại pháp khí, hẳn sẽ vì nối dõi theo ta”. Sau đó, gặp lúc vua Hương Chí mắc bệnh quá lắm, luôn đưa tay sờ mò giữa khoảng không, mọi người không thể cản ngăn. Nhân đó Bồ-đề-đa-la hỏi Tôn giả rằng: “Cha tôi chuyên làm lành tạo phước, người bình thường chưa một ai có tâm như vậy, nay cảm mắc bệnh hoảng hốt, tay sờ mò giữa hư không, sợ sẽ qua đời trong trạng thái không tốt lành. Đó là tướng quả báo gì ư? Nay tôi rất ngờ vực. Nếu Tôn giả giải thích được điều ấy, tôi nguyện xin theo xuất gia”. Tôn giả bảo: “Đó là do nghiệp cảm ứng nên vậy. Nhưng mọi vật đều có nghiệp, tuy là hàng Thánh nhân Tam thừa cũng không tránh khỏi đó, chỉ là nghiệp ấy có thiện có ác vậy. Đức Phật dạy người có làm điều thiện thấu đáo, đến lúc mạng chung sẽ theo quả báo thác sinh lên cõi trời thì ánh sáng cõi trời duỗi xuống như dẫn đường lụa. Người sắp mạng chung ấy trông nhìn đó mà thần thức tùy theo đi lên. Ánh sáng ấy hoặc có năm sắc đan xen tỏa phát, bởi tiêu biểu sự dâng hưởng ấy mới vãng sinh về cõi trời. Nay phụ thân ông đưa tay sờ mò ấy cũng là biểu thị quả báo sinh lên cõi trời, cũng là hiệu nghiệm rõ ràng của sự tu tạo hiền thiện vậy, không chỉ chẳng khiến dứt mà sẽ dần hiện lớn đó, sắp có nhạc trời, các thứ hương hoa khác lạ ứng hiện. Sau đó, mọi sự đều đúng như lời Tôn giả nói. Đến lúc Hương Chí băng hà, hai người con lớn khóc than rất lắm, chỉ một mình Bồ-đề-đa-la riêng nơi quàng tang im lặng tỉnh tọa trọn ngày không rời khỏi. Hai người anh lấy làm quái lạ đem thưa hỏi Tôn giả, Tôn giả bảo: “Người con ấy đang nhập định sắp có chỗ quán, bảy ngày sau sẽ tự xuất định, chớ phải kinh ngạc”. Đến lúc Bồ-đề-đa-la từ thiền định dậy, nói cùng hai người anh là: “Tôi muốn quán sát phụ thân sinh về cõi nào, mà nhìn các nơi khác không trông thấy gì, chỉ thấy một mặt nhật soi chiếu khắp đất trời”. Sau khi an táng thân phụ xong, Bồ-đề-đa-la quả nhiên báo cùng hai người anh cầu xin theo Tôn giả mà xuất gia. Tôn giả biết đạo duyên đã thuần thục nên không thể cản trở Bồ-đề-đa-la, bèn vì làm thầy mới đặt gọi pháp danh.

Lâu sau, Tôn giả bèn đem giáo pháp mà giao phó, bảo rằng: “Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai lần lượt trao truyền, nay ta lại giao phó cho ông, ông hãy khéo hoằng truyền chớ khiến dứt tuyệt, hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Đất tâm sinh các giống
Nhân sự lại sinh lý
Quả đầy Bồ-đề tròn
Hoa nở thế giới bày”.

Truyền Đại pháp xong, bèn ngay nơi pháp tòa, Tôn giả duỗi hai tay phải trái, mỗi tự tỏa phóng ánh sáng tốt lành năm sắc có hơn bảy mươi luồng, sau đó, vụt thân bay lên cao cách đất bằng bảy cây Đa-la, dùng hóa lửa mà tự thiêu đốt, mưa đổ xá-lợi nhiều vô lượng. Bốn chúng đệ tử gom thâu, cùng vua nước đó là Nguyệt Tịnh chung tao dựng bảo tháp mà tôn thờ. Lúc đó tương đương đời vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 545-465) thời Tiền Tống ở Trung Hoa (sau đó sáu mươi bảy năm, Bồ-đề-đạtma mới đến Trung hoa, nên tính ra đúng là năm Hiếu Kiến thứ nhất thời Tiền Tống, tức năm Giáp ngọ-454 vậy).

* Thử luận bàn:

Theo “Xuất Tam Tạng Ký” nói là Bất-nhưmật-đa mà đây gọi là Bát-nhã-đa-la. Lại nói là Phất-nhã-mật-đa mà đây gọi là Bất-như-mật-đa. Sao có khác sai như vậy ư? Đáp: “Đây là từ Phạm âm phiên chuyển, bởi dịch thuật có sơ, hạ vậy. Nhưng, Bát-nhã-đa-la đối với chư Tổ riêng có nhiều lời sấm, mà sau có nhiều ứng nghiệm. Há chẳng dùng pháp từ đó về sau mà rất hưng thạnh ở Trung Quốc muốn có minh chí ư? Đem tâm chỉ bày Thánh nhân, chỗ biết ấy xa thay!

3. TRUYỆN TÔN GIẢ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA, TỔ THỨ HAI MƯƠI TÁM Ở THIÊN TRÚC.

Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma vốn người thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi ở nước xứ Nam Thiên Trúc. Mới đầu Tôn giả còn có tên Bồ-đề-đa-la, hay là Đạt-ma-Đa-la. Thân phụ tên là Hương Chí, là vua nước đó. Tôn giả là con thứ ba của vua. Từ thuở mới sinh, Tôn giả đã tỏ vẻ bẩm tánh cao thắng trội vượt chẳng như đồng lớp trẻ. Các người con của vua Hương Chí tuy sống tại gia mà đã hay thú hướng Phật lý. Đến lúc Tôn giả Bát-nhã-đa-la vào giảng pháp nơi cung vua, Tôn giả mới được diện kiến. Sau đó trả lời câu hỏi về nghĩa của châu báu của Tôn giả Bátnhã-đa-la, tỏ bày tài biện thanh thoát rất có lý thú, nên Tôn giả Bát-nhã-đa-la im lặng nhận cho là Đại pháp khí. Đến lúc phụ vương băng hà, Tôn giả bèn giã từ hai anh mà theo Tôn giả Bát-nhã-đa-la, cầu xin xuất gia, thưa rằng: “Tôi vốn chẳng đoái hoài ngôi vị quốc vương, muốn đem giáo pháp làm lợi ích mọi vật nên quyết chí xuất gia, nguyện xin nhủ lòng vi trí mà tiếp lấy”. Tôn giả Bát-nhã-đa-la bèn nhận tâm thành kính lễ ấy mà vì độ cho xuống tóc, bảo rằng: “Ngày trước ông nhập định là “Nhật Quang Tam-muội”. Ông đối với các pháp đã được thông lượng, nay nên lấy chữ “Bồ-đề-đạt-ma” mà đặt gọi tên ông”. Và mời các bậc Thánh tăng chứng minh cho Tôn giả thọ giới Cụ túc. Ngay khi ấy quả đất chấn động ba lần, mặt trăng xuất hiện giữa ban ngày. Sau đó không lâu, Tôn giả cũng chứng đắc đạo quả. Từ đó, dân chúng trong nước ấy theo tập tục xưng gọi Tôn giả là “Đạt-ma-đa-la” hay là “Bồđề vương tử”. Tôn giả bèn chuyên hầu thờ thầy suốt hơn bốn mươi năm. Sau đó Tôn giả Bát-nhãđa-la mới đem Đại pháp nhãn tạng truyền trao mà căn dặn Tôn giả rằng: “Ông tạm hoằng hóa tại nước này. Về sau sẽ có nhân duyên lớn với nước Chấn đán (Trung Hoa) nhưng phải sau khi ta thị tịch sáu mươi bảy năm mới nên đến phương Đông hoằng hóa. Nếu ông chúng vội đến, sợ sẽ suy giảm ở ngày sau”. Tôn giả vâng nhận sự chỉ dạy ấy, lại hỏi Tôn giả Bát-nhã-đa-la rằng: “Nếu tôi đến phương Đông, ngàn năm sau tại nước đó có nạn gì chăng? Có được bậc Đại pháp khí nào dõi tôi chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la đáp: “Giáo pháp truyền đến xứ đó, người thú hướng đến giáo pháp đông nhiều như lúa mè tre lau, không thể tính kể. Nhưng ở nước đó sau khi ta thị tịch hơn sáu mươi năm sẽ có nạn nhỏ làm vắn số trong dòng nước, ông khéo dẹp trừ đó, và ông đến phương Nam nước ấy không nên liền ở, bởi vì thiên vương xứ ấy vừa mới ham thích hữu vi, sợ không tin ông. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Đường đi giẫm nước lại gặp dê
Nên tự ngầm ẩn tối qua sông
Giữa ngày đáng thương đôi voi ngựa
Hai gốc quế non lâu tươi tốt”.

Tôn giả lại hỏi: “Qua đó đã đi có thể được nghe chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la lại đáp: “Sau khi ta thị tịch một trăm lẻ năm năm, lại có một nạn nhỏ”.

Và lại nói bài kệ tụng rằng:

“Trong tâm tuy tốt ngoài đầu xấu
Tăng phòng dưới dùng tên chẳng trúng
Vì gặp rồng độc sinh con võ
Chợt gặp chuột nhỏ lắng không cùng”.

Tôn giả lại hỏi: “Từ đó về sau lại còn có việc gì chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la đáp: “Sau khi ta thị tịch cuối một trăm sáu mươi năm lại có nạn nhỏ bởi cha con nối nhau làm thế lực, không lâu, chỉ khoảng ba đến năm năm vậy”. Lại nói bài kệ tụng rằng:

“Trên dường chợt gặp nơi nước sâu
Đẳng nhàn thấy hổ lại gặp heo
Trâu con nhỏ nhỏ tuy có sừng
Khe xanh rồng ra đều phải thua”.

Tôn giả lại hỏi: “điều gọi là Bồ-tát pháp thí, sau đó còn có xuất hiện chăng?” Tôn giả Bát-nhã-Đa-la lại nói bài kệ tụng rằng:

“Chấn Đán tuy rộng không khác đường
Cần mượn cháu con dưới chân đi
Gà vàng mở ngậm một hạt gạo
Cúng dường mười phương La-hán Tăng”.

Và tiếp bảo: “Sau khi ta tịch diệt ba trăm năm mới ứng điều ấy vậy”. Tôn giả lại hỏi: “Sau đó trong Phật pháp lại có người thấu rõ được ý ấy và khéo phân biệt chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la đáp: “Sau khi ta thị tịch khoảng ba trăm tám mươi năm, mới có vị Tỳ-kheo học mở tối mà dụng sáng sủa”.

Lại nói bài kệ tụng rằng:

“Tháng tám thương tôn bay có tiếng
Phước lớn lại lành qua chẳng kinh
Rủ ôm một gà vào dự hội
Tay cầm rồng rắn tại hai gian”.

Lại nói bài kệ tụng khác rằng:

“Gởi ông khăn chiếu tùy thời cởi
Ở trong văn tự tạm hình nhỏ
Đông hải voi về mặc áo phải
Hai nơi đội ân đều chẳng nhẹ”.

Lại nói bài kệ tụng khác rằng:

“Nhật nguyệt đều đi ông chẳng động
Anh không mũ mão lên núi đi
Lại cho một ngọn thêm xanh vút
Vua bảo người hay mới biết tên”.

Và tiếp bảo: “Khí lớn đang hiện gặp mây tức lên, tôi nào phải lo ư?” Tôn giả lại hỏi: “Nhưng sau người đó lại có nạn gì chăng?” Tôn giả Bát-nhãđa-la đáp: “Sau khi ta thị tịch khoảng bốn trăm sáu mươi năm, gặp có một người không mặc áo muốn làm việc ma”. Lại nói bài kệ tụng rằng:

“Non cao gặp người lại cởi áo
Rắn nhỏ tuy độc chẳng thể làm
Ở trong đáy giếng thấy trời gần
Sa-di nho nhỏ khéo cơ lớn”.

Và tiếp bảo: “Ông nên ghi nhớ điều ấy sẽ nghiệm các nạn nhỏ. Có đồng tử mặc áo đen hẳn khéo giải thích đó”. Tôn giả lại hỏi: “Sau đó lại còn có nạn gì chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la đáp: “Sau khi ta diệt độ khoảng đầu sáu trăm năm, cây bất sinh sẽ làm lưu nạn, tuy là có nạn dấy khởi nhưng hai người xuất hiện mới tự yên lặng”. Lại nói bài kệ tụng rằng:

“Sóng lớn tuy cao chẳng đủ biết
Trăm năm cây phàm lớn cành khô
Chim quạ bay Nam liền về Bắc
Hai người đến Đông lại về Tây”.

Và tiếp bảo: “Hòa thượng Bạch y nói pháp nhiều vô lượng, nếu thấy lời sấm này, về mà chẳng hưởng”. Tôn giả lại hỏi: “Sau đó có nạn gì chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la đáp: “Sau khi ta tịch diệt khoảng hai ngàn tám trăm năm sẽ có bốn con rồng nổi dậy một nạn, nhưng không lấy làm lớn, ông nên biết đó”. Lại nói bài kệ tụng rằng:

“Đáng thương trăng sáng riêng giữa trời
Bốn con rồng con mỗi tự dời
Đông Tây Nam Bắc quẩy sóng chạy
Mặt nhật lên thường chiếu chẳng cùng”.

Lại nói bài kệ tụng rằng:

“Sấm từ ta đây
Eo dài chân ngắn
Chấp tay hướng trời
Xoay đầu mất bạn
Thân mặc áo hồng
Lại như lụa trắng
Đứng ngay trước mắt
Lại như không thấy
Khéo khéo nghĩ lường
Nước trong trăng hiện”.

Tôn giả lại hỏi: “Sau đó lại còn có nạn gì chăng?” Tôn giả Bát-nhã-đa-la lại đáp: “Sau khi ta tịch diệt khoảng ba ngàn năm, sẽ có mười hai nạn, trong đó có chín nạn lớn. Đây tổng quát dùng một kệ tụng mà ghi lấy, đó là:

“Chim lại trên nhà cao muốn nhóm
Mây trắng vào đất sắc lại trong
Trên trời rồng vàng nhật nguyệt sáng
Nước biển Đông dương trong chẳng trong
Tay bưng gốc vòng nặng lại nhẹ
Tuy không tròng mắt chuyển rành rành
Chẳng đủ tai mắt khéo nhìn nghe
Thân thể vốn không không có hình
Chẳng nói chữ họ chỉ nghiệm tên
Ý tìm sách vở bày mở kinh
Miệng nói ân hạnh tâm vô tình
Hoặc đi hoặc lại thân chẳng dừng”.

Lại tiếp bảo: “Về sau có các nạn, hẳn ở trong mười hai câu đây, tuy là ghi xét việc xa, chẳng chỉ một đời ông trông thấy, nhưng thật chứng đạt thiên nhãn mới có thể thấy ngay”.

Sau khi Tôn giả Bát-nhã-đa-la đã thị tịch, Tôn giả kính vâng sự chỉ dạy, tạm lưu ở nước ấy cố gắng thực hành giáo hóa. Mới đầu, Tôn giả cùng Tỳ-kheo tên là Phật Đại Tiên đều xuất sinh từ Tôn giả Bát-nhã-đa-la, nên cả hai vị mỗi tự giữ lễ Bá Trọng mà gặp gỡ, khi ấy đều hưng thạnh xiển dương giáo pháp, người thời bấy giờ rất mực tán thán xưng gọi đó là mở hai cửa cam lồ. Vừa lúc tại nước đó có vị Tăng tên là Phật Đại Thắng chia lìa pháp truyền ấy phân làm sáu tông, phân hóa đến các nơi. Trong đó: một là Hữu tướng tông; hai là Vô tướng tông; ba là Định tuệ tông; bốn là Giới hạnh tông; năm là Vô đắc tông; sáu là Tịch tĩnh tông, mà người học nương theo rất đông nhiều, đồ chúng mỗi mỗi không dưới ngàn trăm vị. Tôn giả thường vì vậy mà than thở rằng: “Trong nước nhà tuy có sáu chúng, nhưng đạo ấy đều chẳng thấu đạt rốt ráo tinh vi. Nếu ta chỉnh sửa đó, người ấy sao được giải thoát ư?” Một ngày nọ, bèn đùng sức thần mà đến trong sáu chúng. Mới đầu, Tôn giả đến nơi chúng Hữu tướng tông, hỏi rằng: “Hết thảy các tướng sao gọi là thật tướng?” Vị đứng đầu trong chúng ấy tên là Tát-bà-la đáp rằng: “Ở trong các tướng, chẳng hỗ tương các tướng, gọi đó là thật tướng”. Tôn giả lại hỏi: “Hết thấy các tướng không hỗ tương, nếu rõ thật tướng, sẽ định thế nào?” Tát-bà-la đáp: “Ở trong các tướng, thật không có định các tướng tức gọi là thật”. Tôn giả lại hỏi: “Các tướng chẳng định tức gọi là thật tướng. Nay ông chẳng định sẽ được thế nào?” Tát-bà-la đáp: “Ta nói chẳng định, chẳng định các tướng, sẽ nói các tướng, nghĩa ấy chẳng phải vậy”. Tôn giả lại hỏi: “Ông nói chẳng định sẽ là thật tướng, định chẳng định tức không phải thật tướng”. Tát-bà-la đáp: “Định đã không định tức chẳng phải thật tướng. Biết ta chẳng phải nên không định không biến, sao gọi là thật tướng? Đã biến đã đi, nghĩa ấy cũng vậy”. Đáp rằng: “Chẳng biến ngay đây chẳng nhằm, nên biến thật tướng để định nghĩa ấy”. Tôn giả lại hỏi: “Thật tướng chẳng biến, biến tức chẳng phải tướng. Ở trong có và không sai gọi là thật tướng?” Khi ấy tâm Tát-bà-la liền mờ mịt, đưa tay chỉ giữa hư không mà hỏi Tôn giả rằng: “Ở đời này, có tướng cũng hay không, ngay thân lực này được tợ vậy ư?” Tôn giả bảo: “Nếu hiểu được thật tướng tức thấy chẳng phải thật, nếu rõ chẳng phải nên sắc ấy cũng vậy, ngay nơi trong sắc chẳng mất thể sắc, ở trong chẳng phải tướng không ngại đến đó. Nếu hay thấu hiểu như vậy nên gọi là thật tướng”. Tiếp theo, Tôn giả đến nơi chúng Vô tướng tông mà hỏi: “Ông nói Vô tướng, sẽ chứng thế nào đó?” Người đứng đầu trong chúng ấy tên là Ba-la-đề đến trước Tôn giả đáp rằng: “Tôi rõ Vô tướng nên tâm chẳng hiện”. Tôn giả hỏi: “Tướng ông chẳng hiện, sẽ rõ thế nào đó?” Ba-la-đề đáp: “Tôi rõ Vô tướng, tâm chẳng dám xả. Ngay lúc đang rõ cũng không người ngay đó”. Tôn giả hỏi: “Đối với có và không, tâm chẳng lấy hay bỏ, lại không người ngay đó, vậy ai rõ được không?” Ba-la-đề đáp: “Phật nhập Tam-muội còn không chỗ được, huống gì vô tướng mà cố biết đó”. Tôn giả hỏi: “Tướng đã không biết, ai bảo là có hay không? Còn không chỗ được, sao gọi là Tam-muội?” Ba-la-đề đáp: “Tôi nói chẳng chứng, chứng không chỗ được, chẳng phải Tam-muội nên tôi nói là Tammuội”. Tôn giả hỏi: “Chẳng phải Tam-muội sẽ rõ như thế nào đó? Ông đã chẳng chứng, chẳng phải chứng chứng gì?” Khi ấy, Ba-la-đề thấu đạt diệu ngộ, vội đứng dậy kính tạ. Tôn giả liền vì dự ghi rằng: “Ông sẽ chứng quả không lâu xa nữa, nhưng trong nước nhà có ma dấy khởi, cũng do ông nhiếp phục đó”. Tiếp theo Tôn giả đến nơi thứ ba là Định tuệ tông mà hỏi: “Ông học Định tuệ là một hay là hai?” Người đứng đầu chúng đó tên là Bà-lan-đà đến trước Tôn giả mà đáp: “Định tuệ tôi học đây chẳng phải một chẳng phải hai”. Tôn giả hỏi: “Định tuệ của ông đã chẳng phải một hoặc hai, vì sao nhắm vào đó mà gọi là Định tuệ?” Bà-lan-đà đáp: “Tại định chẳng phải định ở tuệ chẳng phải tuệ, một tức chẳng phải một, hai tức chẳng hai”.

Tôn giả hỏi: “Ngay một chẳng phải một, ngay hai chẳng phải hai. Đã chẳng phải định tuệ vậy ước định tuệ gì?” Ba-la-đề đáp: “Chẳng phải một, chẳng phải hai, định tuệ hay biết. Chẳng phải định, chẳng phải tuệ cũng có thể như vậy”. Tôn giả hỏi: “Tuệ chẳng phải định nên vậy có thể biết thay! Còn chẳng phải một, chẳng phải hai thì ai định ai tuệ ư?” Bà-lan-đà bỗng nhiên khai ngộ, kính lễ ứng phục. Tiếp theo Tôn giả đến nơi thứ tư là Giới hạnh tông mà hỏi: “Ông lấy gì làm giới, gọi là gì hạnh? Và giới hạnh ấy là một hay là hai?” Vị đứng đầu chúng ấy (mất tên) ra trước Tôn giả đáp rằng: “Một hay hai, hai hay một đều do kia sinh ra, y theo giáo mà không nhiễm, đó gọi là giới hạnh”. Tôn giả hỏi: “Ông nói “y theo giáo” tức là có nhiễm. Một hay hai đều là ở đây, sao nói là y theo giáo? Hai điều ấy trái ngược chẳng kịp đến hạnh. Trong ngoài không rõ sao gọi là giới?” Vị ấy đáp: “Ta có trong ngoài, kia vì biết hết, đã được thông đạt tức là giới hạnh, nếu nói trái ngược điều phải điều quấy. Nói hoặc tức giới tức hạnh”. Tôn giả hỏi: “Điều phải điều quấy sao gọi là thanh tịnh? Đã được thông đạt sao đàm trong ngoài?” Vị ấy bèn tự tĩnh rõ điều quấy nơi mình, kính bái sám tạ, tôn xưng may thay. Tiếp theo, Tôn giả đến nơi thứ năm là Vô đắc tông mà hỏi: “Ông nói vô đắc, không được gì được? Đã không chỗ được cũng không được được?” Người đứng đầu chúng đó tên là Bảo Tịnh đến trước Tôn giả mà đáp: “Tôi nói vô đắc, chẳng phải không được được. Đang nói được được, vô đắc cũng được”. Tôn giả hỏi: “Đã được chẳng được được cũng chẳng phải được. Đã nói được được được, được được gì?” Bảo Tịnh đáp: “Thấy được chẳng phải được, chẳng phải được là được. Nếu thấy chẳng được gọi là được được”. Tôn giả hỏi: “Được chẳng phải được, chẳng phải được không được. Đã không chỗ được, sẽ được được gì?” Khi ấy Bảo Tịnh mới tỏ rõ phát ngộ. Tiếp theo Tôn giả đến nói thứ sáu là Tịch tĩnh tông mà hỏi: “Ông lấy gì gọi là tịch, gọi là tĩnh?” Người đứng đầu trong chúng đó (mất tên) đến trước Tôn giả đáp rằng: “Tâm đây chẳng động thì gọi là tịch, ở nơi không nhiễm gọi đó là tĩnh”. Tôn giả hỏi: “Bản tâm chẳng tịch cần mượn tịch tịch. Nay đã được tịch sao dùng tịch tĩnh?” Vị ấy đáp: “Các pháp vốn không, vì không không nên ở nơi không không ấy gọi tên là tịch tĩnh”. Tôn giả hỏi: “Không không vì không, các pháp cũng vậy, tịch tĩnh không tướng, gì tịch gì tĩnh?” Vị ấy cụt nghĩa, bèn cảm kính Tôn giả. Từ đó cả sáu chúng đều quy hướng tôn xưng Tôn giả làm thầy, tiếng tăm đạo phong của Tôn giả càng vang vọng khắp xa. Các hàng học giả khắp năm xứ Ấn Độ không ai chẳng ghé đến nương theo.

Sau đó gặp lúc vua nước đó tên là Dị Kiến là con của vua trước tức là Nguyệt-tịnh-đa-la, và cũng là cháu của Tôn giả phát tin tà kiến phá hủy Phật pháp, bảo rằng: “Tổ tiên ta đều mê hoặc với Phật pháp, chẳng thành đạt chánh chân, nay ta vì vậy đâu nên giẫm bước theo”. Bèn đối với giáo pháp bày tạo hoạn nạn lớn. Tôn giả xót thương đó, bảo rằng: “Con cháu làm nhục tông xả ta mới dấy ác ý. Đây đâu phải phước nước nhà, nên vì chỉ dạy đó”. Nhân nghĩ trước kia trong Vô tướng tông có hai Hiền giả có thể bảo đến chuyển hóa vua Dị Kiến, người thứ nhất tên là Ba-la-đề, đạo lực sắp sung mãn, lại có duyên với vua. Vị thứ hai tên là Tông Thắng, tuy hay biện bác, mà đức nghiệp chưa đến mới tự cắt sự sai phái, và cả sáu chúng bỗng nhiên mỗi tự nghĩ rằng: “Đại sư Đạt-ma vốn đắc Thánh trí, nay giáo pháp có mắc nạn, nên cứu đó ư?” Tôn giả liền biết mới khảy móng tay ứng đáp lại đó. Các chúng đều kinh ngạc bảo: “Đây là tin của Đại sư ta vậy”. Đang cùng đến đó, các vị đã chứng đắc thần thông mỗi vị tự dẫn nhiếp đồ chúng của mình. Chỉ khoảnh khắc đều đến xếp hàng kính lễ dưới tòa. Tôn giả bảo: “Nay vua gây nạn đến chúng ta, tuy chỉ như một mảy bụi nổi lên ngăn che cõi Phật, nhưng trong các ông ai có thể quét trừ đi?” Bỗng chốc Tông Thắng ra trước thưa: “Tôi tuy đức kém nhưng nguyện xin đến giải trừ đó”. Tôn giả bảo: “Ông tuy biện bác nhanh nhẹn nhưng đạo lực chưa thắng, sợ không thể nhiếp phục được vua”. Tông Thắng không nghe theo lời dạy ấy, hẳn tự đến ra mắt vua. Mới đầu lấy hai đế chân tục cùng biện luận, lời qua tiếng lại đều không khuất phục, đến lúc vua hỏi: “Điều giải của ông hiện nay, pháp ấy ở đâu?” Tông Thắng bảo: “Như vua trị vì cảm hóa phải hợp đạo ấy. Đạo mà vua có, đạo ấy ở đâu?” vua đáp: “Đạo ta có dùng trừ tà pháp. Còn pháp ông có sẽ nhiếp phục vật gì?” Tôn giả dự biết Tông Thắng đuối lý, bảo Ba-la-đề rằng: “Tông Thắng chẳng nghe theo lời ta, nay hẳn bị khuất phục nơi vua, ông nên nhanh đến đó để cứu giúp”. Ba-la-đề vâng phụng sự chỉ dạy, dùng sức thần đi nhanh, liền đến nơi điện vua. Vua cùng Tông Thắng vừa mới cật chứng lại, chợt thấy Ba-la-đề cưỡi mây mà đến, vua kinh hãi đứng dậy bèn hỏi: “Kẻ vượt giữa hư không mà đến ấy là tà hay chánh?” Ba-la-đề đáp: “Ta chẳng phải tà chánh, mà lại chỉnh tà. Tâm vua nếu chánh, ta không tà chánh”. Vua tuy ngôn từ nghĩa lý cùng vụt, mà vẫn bướng ngạo không thôi, xua đuổi Tông Thắng đến ở chốn núi rừng. Ba-la-đề bảo rằng: “vua đã có đạo cớ sao xua đuổi Sa-môn? Tôi tuy không hiểu, xin vua hiện hỏi?” vua gằn tiếng hỏi: “Thế nào là Phật?” Ba-la-đề đáp: “Kiến tánh là Phật”. Vua hỏi: “Sư đã kiến tánh chăng?” Ba-la-đề đáp: “Ta thấy Phật tánh”. Vua hỏi: “Tánh ở nơi nào?” Ba-la-đề đáp: “Tánh ở nơi tác dụng”. Vua hỏi: “Ấy là tác dụng gì? Nay ta không thấy?” Ba-la-đề đáp: “Nay hiện đang dùng, tự vua chẳng thấy”. Vua hỏi: “Ở nơi ta có chăng?” Ba-la-đề đáp: “Nếu tác dụng vua không có chẳng phải. Nếu vua không dùng, thể cũng khó thấy”. Vua hỏi: “Nếu lúc đang dùng có mấy nơi xuất hiện?” Ba-la-đề đáp: “Hiện ở trong đời thì có tám nơi”. Vua hỏi: “Tám nơi xuất hiện ấy, xin nên vì ta nói”. Ba-la-đề liền nói bài kệ tụng rằng:

“Tại thai làm thân
Ở đời làm người
Ở mắt là thấy
Ở tai là nghe
Ở mũi ngửi hương
Ở miệng đàm luận
Ở tay cầm nắm
Ở chân chuyển vận”.
“Biến hiện đều gần
sa giới Thâu nhiếp
tại một mảy trần
Người biết biết là
Phật tánh Không biết
gọi là tinh hồn”.

Qua lời nói ấy, vua tỏ ngộ, liền sám tạ lỗi quấy trước, vụt chốc đổi thay chí khí, nương theo Ba-la-đề xin được nghe pháp yếu, trải suốt ba tháng kính phụng thảo luận.

Vừa lúc Tông Thắng bị xua đuổi ở trong núi rừng mới tự cảm nghĩ rằng: “Ta tám tuổi mới đắc Chánh kiến, hai mươi năm nay lại tu hành, chỉ đến lúc gặp nạn không không thể hộ pháp, tuy nay trăm tuổi đâu làm được gì, chẳng bằng chết mất”. Bèn ném mình từ trên vực cao xuống. Bỗng chốc có thần nhân đưa cánh tay dài ra nâng đỡ, đặt để trên tảng đá, thân thể không tổn hại gì. Tông Thắng lại nói: “Ta tự tủi nhục xuất gia, chẳng thể ép dẹp ý tà của vua mà hộ trì Đại pháp, chết đi hẳn là thích hợp. Thần nào lại cứu giúp khiến như thế này ư? Mong nói một lời chỉ bày nhân duyên ấy?” Thần nhân mới nói kệ tụng rằng:

“Sư thọ được trăm tuổi
Tám mươi mà làm quấy
Vì gần bậc chí tôn
Huân tu mà vào đạo
Tuy đủ ít trí tuệ
Mà có nhiều đây kia
Thấy gặp các bậc Hiền
Chưa từng sinh trân kính
Công đức hai mươi năm
Tâm ấy chưa yên tĩnh
Thông minh mà khinh mạn
Nên khiến thành như thế
Bị vua không tôn kính
Mới cảm quả như vậy
Từ nay chớ biếng trễ
Không lâu thành kỳ trí
Các Thánh ở tại tâm
Như Lai cũng lại vậy”.

Tông Thắng nghe bài kệ tụng của thần, mới tự trách, càng muốn tinh tu, thề trọn đời không ra khỏi núi.

Khi ấy vua hỏi Ba-la-đề rằng: “Tôn giả càng có trí tuệ biện tài như vậy, quả thật vốn học từ người nào?” Ba-la-đề đáp: “Bậc thầy nơi tôi cầu xin xuất gia tức là Tam tạng Pháp sư Ô-sa-bà ở chùa Bà-la. Còn bậc thầy nơi tôi đắc pháp xuất thế tức là Vương thúc Bồ-đề-đạt-ma vậy”. Vua nghe xưng gọi Đạt-ma, vội kinh hãi bảo: “Chú của ta còn ư? Ôi! Ta chẳng ghi nhớ mong đợi, lại vọng chèn ép Thánh giáo, ương lụy đến tôn thúc”. Liền ban sắc chiếu thỉnh mời Tôn giả, sau đó Tôn giả bèn cùng kẻ sứ đến nơi cung vua, vua than khóc kính lạy không đứng dậy nỗi. Tôn giả liền vì vua giảng pháp, sám hối lỗi quá. Nhân đó vua sai sứ mang chiếu đến nhanh thỉnh mời Tông Thắng. Kẻ sứ tâu: “Tông Thắng hổ thẹn bị xua đuổi nên ném mình xuống sườn núi chết đã lâu rồi”. Vua càng âu lo, đem hỏi Tôn giả rằng: “Cái chết của Tông Thắng là lỗi của tôi, Tôn thúc có phương thức gì khiến tôi được khỏi tội?” Tôn giả bảo: “Tông Thắng chẳng chết, vừa đang an tọa trong hang đá. Ông chỉ đến đó tìm hẳn có được lại”. Kẻ sứ đến tìm, quả thấy gặp Tông Thắng, bèn tỏ bày ý vua đã nghinh thỉnh Đạt-ma, nhưng Tông Thắng chối từ không vâng mạng lệnh. Tôn giả biết thế, bảo cùng vua rằng: “Ấy chưa thể dậy, hẳn phải trở lại nghinh thỉnh mới đến”. Xong, Tôn giả từ biệt vua trở về nơi ở trước, bảo cùng vua rằng: “vua càng nên tu tạo phước thiện, không bao lâu sợ có tật bệnh vậy”. Sau khi Tôn giả rời khỏi cung vua chỉ mới bảy ngày, quả nhiên vua cảm bệnh nặng, quốc y không thể chữa trị. Các hàng thân thích cận thần cho rằng lời dự ghi của Tôn giả có ứng nghiệm, trong ý cho là Tôn giả hẳn có thể cứu chữa. Vua liền sai sứ khẩn thiết đến thỉnh mời. Tôn giả lại vào cung vua. Khi ấy Tông Thắng có sắc chiếu thỉnh mời cũng vừa đến. Ba-la-đề vì bệnh tật của vua cũng đến thăm hỏi. Nhân đó, hai Sa-môn thỉnh cầu Tôn giả rằng: “vua mắc bệnh đã quá lắm, có được sống hay chết? Đại sư có phương thức gì vì cứu giúp đó”. Tôn giả liền rời khỏi chỗ ngồi, đưa tay sờ thăm trên thân thể vua mà bảo cùng hai Sa-môn rằng: “Chết thì hẳn sa đọa vào đường ác”. Hai Sa-môn hỏi: “Lấy gì làm ứng nghiệm đó?” Tôn giả đáp: “Ta vừa dùng pháp Đại sư xét ngũ uẩn mà thấy vậy”. Hai Sa-môn lại hỏi: “Đại sư đạo lực ưu thắng khác thường có thể vì vua tạo phước nghiệp gì để thoát khỏi khổ ấy?” Tôn giả liền bảo Thái tử cùng các quan thần tạm giữ quyền đại xá cho các tù nhân, phóng thả các loài sinh linh. Tôn giả lại bảo đốt hương, vì sám hối tội quá cho vua. Khoảnh khắc thời gian ngắn, bệnh vua quả nhiên có phần thuyên giảm hơi rõ biết nhân sự, vua mới bảo mọi người chung quanh rằng: “Ta vừa mộng thấy một con trăn lớn rất dài, mới đầu phun lửa bức đốt thân ta, sau đó bị một người lớn đưa tay trái nắm bắt nó đưa đến thả nơi đất trống. Liền đó ta được mát dịu, bèn được dậy vội đi ra một cửa sắt, khi ấy bèn tỉnh giấc”. Bệnh vua đã trở lại bình phục là nhờ từ Vương thúc.

Đến lúc Tôn giả dẫn dắt hoằng truyền ở nước đó đã hơn sáu mươi năm, nghĩ tuân theo lời chỉ dạy của thầy xưa trước, tính muốn đến phương Đông, nên liền dùng sức thần đến bái từ tháp miếu của Tôn giả Bát-nhã-đa-la. Lại đến nơi cửa nách cung vua cáo biệt nhà vua. Sau đó biết đồ chúng của sáu tông nghĩ muốn đến giã biệt, Tôn giả mỗi tự đến nơi trong các chúng ấy hóa ngồi nơi tòa sen báu và đều vì giảng nói pháp để ủi an chúng. Tôn giả lại bảo cùng vua rằng: “Ta đối với nước Chấn Đán (Trung Hoa) duyên ấy đã chín, nay đến phương Đông vậy. Khéo giúp thân ông gìn giữ nước nhà”. Vua khóc than mà nói: “Trời sao chẳng giúp tôi! Khiến tôn thúc tôi đi như vậy?” vua không thể lưu giữ Tôn giả, bèn vì chuẩn bị hành trang, dùng thuyền lớn để chuyên chở, phụ nhật vương cung soái các hàng thân thích thân thuộc tiễn đưa đến bờ biển. Mọi người trong nước nhà trông xem theo đó đều buồn khóc đổ lệ!

Tôn giả đến phương Đông, trải suốt ba năm, mới đầu đến Phiêu ngung, khi ấy là ngày 21 tháng 09 năm Canh tý (520) tức năm Phổ Thông thứ nhất trong đời vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương. Hoặc có thuyết cho là Tôn giả đến trong năm Đinh mùi (527), tức là năm Phổ Thông thứ tám. Châu thứ sử Tiêu Ngang đem tấu trình (theo “Truyền đăng lục”, cựu thuyết các nhà v.v... đều nói “Đạt-ma đến đất Lương trong năm Phổ Thông thứ tám (527)”. Nay xét theo sách sử thì niên hiệu Phổ Thông chỉ có bảy năm (520-527). Chỉ nay trong thường lịch của Vương Hữu nói về số năm, hoặc có tám năm. Có thể nghi ngờ, lại đều xưng Tiêu Ngang đem việc Đạt-ma mà tấu trình, nhưng xét về truyện Tiêu Ngang thì không thấy Tiêu Ngang làm Quảng châu thứ sử. Chỉ có cháu của Tiêu Ngang là Tiêu Lệ lúc bấy giờ từng làm thứ sử tại châu ấy. Sợ truyện lục xưa trước nhầm lấy Tiêu Lệ làm Tiêu Ngang, truyện lục trước là bản của quốc gia, đã là chẳng phải không hiềm tật, nay không dám chuốc vót, tạm để lại điều nghi ấy vậy) đến kinh đô. Ngày mồng 01 tháng 11 năm đó, Tôn giả đến Kiến nghiệp, pháp giá nghinh đón vào cung, nhân đó vua Võ Đế ban sắc chiếu sắp đặt tiếp Tôn giả nơi chánh điện. Vua mới hỏi: “Trẫm thường tạo dựng chùa chiền, biên tả kinh điển, độ các Tăng Ni, hẳn có công đức gì?” Tôn giả đáp: “Không có công đức”. Vua hỏi: “Sao không công đức?” Tôn giả đáp: “Đó chỉ là nhân của tiểu quả hữu lậu trong trời người, như bóng theo hình, tuy có nhưng chẳng thật”. Vua hỏi: “Thế nào là công đức chân thật?” Tôn giả đáp: “Tịnh trí diệu viên, thể tự không tịch, công đức như thế, chẳng thể tìm cầu nơi đời”. Vua lại hỏi: “Thế nào là đệ nhất nghĩa Thánh đế?” Tôn giả đáp: “Rỗng rang không Thánh”. Vua hỏi: “Người đối đáp với trẫm là ai?” Tôn giả đáp: “Không biết”. Vua Võ Đế không tỏ ngộ, liền bãi hầu bỏ đi. Tôn giả biết cơ duyên ấy không khế hợp. Ngày mười chín tháng đó, Tôn giả ngầm bỏ đất Lương vượt qua sông. Ngày hai mươi ba theo hướng Bắc vào đất Ngụy. Sau đó đến Lạc ấp. Khi ấy là năm Chánh Quang thứ nhất (520) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ) thời Bắc Ngụy.

Mới đầu, Tôn giả dừng ở chùa Thiếu Lâm tại Trung sơn, trọn ngày im lặng ngồi xoay mặt vào vách tường, mọi người đều không lường biết cớ sao vậy, bèn cho là “Bích Quán Bà-la-môn Tăng”. Sau đó không lâu, ở Lạc ấp có vị Sa-môn tên là Thần Quang là người thống thoáng lẫn lộn trong đời, người đời cũng cho đó là người không thể lường biết. Vừa lúc nghe Tôn giả là bậc đạo phong quỷ phạm tôn nghiêm, mới tự bảo: “Bậc chí nhân chánh tại ấy, ta đến mà nương tựa”. Thần Quang tuy đủ lễ thỉnh thưa mà Tôn giả im lặng chưa từng cùng nói một lời. Nhân đó, Thần Quang có cảm nghĩ rằng: “Người xưa cầu đạo bỏ quên thân mạng mình, nay ta đâu đã có được một trong muôn phần”. Đêm đó gặp lúc tuyết lớn đổ xuống, Thần Quang đứng nơi thềm, mãi đến sáng sớm tuyết phủ quá đầu gối. Tôn giả ngoái trông nhìn lại, bảo Thần Quang rằng: “Ông đứng trong tuyết muốn cầu việc gì?” Thần Quang khóc mà thưa: “cúi mong Hòa thượng dùng Đại bi trí mở cửa cam lộ độ khắp chúng con”. Tôn giả bảo Thần Quang: “Đối với diệu đạo Vô thượng của chư Phật, tuy trải qua nhiều đời kiếp tinh tấn chuyên cần, hay làm những việc khó làm, hay nhẫn những việc khó nhẫn, còn không thể thấu đạt, đâu chỉ chút nhọc mệt nhỏ nhoi ấy mà liền cầu Đại pháp ư?” Thần Quang nghe dạy răn như vậy mới ngầm dùng dao chặt cánh tay trái của mình đem đặt trước mặt. Tôn giả lại bảo Thần Quang rằng: “Chư Phật mới đầu cầu đạo, vì pháp quên thân mạng mình. Nay ông chặt tay trước mặt ta, tâm cầu đạo như vậy cũng có thể được vậy”. Thần Quang bèn thưa: “Tâm con chưa được an, xin thầy an cho”. Tôn giả bảo: “Đem tâm lại đây, ta an cho ông”. Thần Quang thưa: “Con tìm tâm mà trọn không thể được”. Tôn giả bảo: “Ta đã an tâm ông xong vậy”. Khi ấy Thần Quang bèn có chỗ khế ngộ. Tôn giả bèn đổi cho tên là Tuệ Khả. Về sau các hàng học giả mới tin. Các hàng Tăng tục đua nhau tìm đến nơi Tôn giả. Tiếng tăm đạo phong của Tôn giả vang vọng bèn tới tai triều đình nhà Bắc Ngụy. Vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 516528) ba lần ban sắc chiếu thỉnh mời, nhưng Tôn giả vẫn không lay động, vua càng kính trọng, liền ban sắc dâng tặng cây trích trượng hai pháp y ca-sa ma nạp, bình bát bằng vàng bạc, các vật v.v... Tôn giả đều từ chối, qua vài ba phen nhưng vua quyết ban tặng, nên Tôn giả bèn phải nhận.

Ở tại đất Bắc Ngụy chín năm, một ngày nọ, Tôn giả chợt bảo đồ chúng rằng: “Lúc ta trở về Tây Trúc đã đến vậy. Các người hãy nói sự thấu đạt của chính mình”. Khi ấy có Đạo Phó ra trước mặt Tôn giả mà thưa: “Theo chỗ con thấy thì chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đó là dụng của đạo”. Tôn giả bảo: “Ông được phần da của ta”. Tiếp có cô Ni Tổng Trì ra thưa: “Nay theo chỗ của con thì như Tổ sư A-nan trông thấy cõi nước Đức Phật A-sơ, chỉ thấy một lần không còn thấy lại”. Tôn giả bảo: “Ngươi được phần thịt của ta”. Tiếp có vị tên là Đạo Dục ra thưa: “Bốn đại chẳng không, năm uẩn chẳng có, theo chỗ thấy của con không một pháp có thể được, dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành”. Tôn giả bảo: “Ông được phần cốt của ta”. Tiếp theo, Tuệ Khả đến trước Tôn giả kính bái rồi trở về chỗ cũ mà đứng. Tôn giả bèn bảo: “Ông được phần tủy của ta”. Sau đó, Tôn giả bảo: “Xưa kia Đức Như Lai đem Đại pháp nhãn tạng trao cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, lần lượt truyền trao đến ta, nay ta đem trao cho ông, ông nên lưu truyền chớ khiến tuyệt dứt. Vật trao cho ông pháp y Tăng-giàlê, bình bát báu này để làm pháp tín. Chỉ vì sợ đời sau cho rằng ông đối với ta là người khác xứ, không tin thầy trò trao truyền cho nhau, ông nên gìn giữ đó làm ứng nghiệm, để định tông thú. Nhưng sau khi ta đi rồi, hai trăm năm sau, y bát chấm dứt không lưu truyền, pháp cũng hưng thạnh mở mang. Người biết đạo đông nhiều mà người tu hành đạo thiếu ít. Người nói lý đông nhiều, người ngộ lý hiếm ít. Tuy nhiên, ngầm thông kín chứng có hơn ngàn muôn. Ông gắng phô bày xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Ta vốn đến xứ này
Truyền pháp cứu mê tình
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành”.

Tôn giả lại bảo Tuệ Khả rằng: “Đây có bộ kinh Lăng Già bốn quyển, là pháp yếu cùng tột do Đức Phật giảng nói, cũng có thể dùng giúp cho người đời mở bày ngộ nhập, nay đều giao phó cho ông. Từ khi ta đến ở đây từng bị thuốc độc hại mà chẳng chết. Bởi vì Huyện Xích Châu Thần này tuy có khí Đại thừa mà chưa ứng hợp, nên lâu ngồi im lặng đợi chờ, nay được trao nhận tức có thủy có chung vậy”. Thế rồi, Tôn giả cùng đồ chúng đồng đến chùa Thiên Thánh ở Võ môn. Dừng ở đó, tự nhiên gặp Thái thú thành ấy là Dương Huyễn Chi vốn người sùng kính Phật pháp, nghe Tôn giả đến, bèn lại kính lễ, nhân đó ông hỏi: “Ở Thiên Trúc, Sư kế thừa làm Tổ, đạo ấy như thế nào?” Tôn giả đáp: “Rõ tâm tông của Phật, không nhầm mảy may, hạnh giải tương ưng, gọi đó là Tổ”. Dương Huyễn Chi tiếp hỏi: “Chỉ một nghĩa ấy hay còn có nghĩa gì khác?” Tôn giả đáp: “Phải rõ tâm người khác, biết rành xưa nay. Chẳng nhàm chán có không cũng chẳng chấp lấy. Chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ. Nếu hay rõ biết được như vậy cũng gọi là Tổ”. Dương Huyễn Chi lại tiếp hỏi: “Đệ tử bị nghiệp ràng buộc ở thế tục, ít gặp được tri thức, trí kém ngăn che, không thể thấy đạo. Xin thầy chỉ dạy, con nên nương theo đạo quả gì? Dùng tâm gì để được gần với Phật tổ?” Tôn giả bèn vì nói bài kệ tụng rằng:

“Đừng nên thấy ác mà sinh chê
Cũng chớ thấy thiện mà riêng bày
Cũng đừng bỏ ngu mà gần hiền
Cũng chớ vất mê mà đến ngộ
Đạt đạo lớn chừ quá lượng
Thông tâm Phật chừ chẳng kể
Vượt thoát, gọi đó là Tổ”.

Dương Huyễn Chi được chỉ dạy, vui mừng kính lễ mà thưa: “Xin thầy chớ vội rời bỏ cuộc đời để làm phước lợi cho quần sinh”. Tôn giả bảo: “Đời mạt pháp, lắm kẻ tệ ác. Ta tuy ở lâu nơi đời, sợ chẳng ích lợi gì mà thêm hoạn nạn, khiến người khác thêm nhiều tội ác”. Dương Huyễn Chi thưa: “Từ lúc thầy đến xứ này, ai thường làm hại, mong thầy chỉ người ấy để tiện xếp đặt”. Tôn giả bảo: “Nói ra hẳn có tổn hại, ta thà im lặng mà đi, đâu nhẫn hại người mà mình vui thích”. Dương Huyễn Chi càng khẩn thiết thưa: “Con không dám làm tổn hại người, chỉ muốn biết đó vậy”. Chẳng đặng đừng, Tôn giả bèn nói bài kệ tụng rằng:

“Mái chèo rẽ sóng ngọc
Đuốc soi mở khóa vàng
Năm miệng đồng cùng đi
Chín mười không người ta”.

Nghe bài kệ tụng rồi, Dương Huyễn Chi ghi nhớ kính lễ mà đi. Dừng ở đó không bao lâu, Tôn giả bèn an nhiên thị tịch. Lúc ấy nhằm giữa khoảng Ấu Chúa Lưu cùng Hiếu Trang Đế phế lập ở thời Hậu Ngụy. Năm đó tương đương năm Đại Thông thứ hai (528) thời Nam Lương. Sau đó an táng tại núi Hùng nhĩ. Từ đất Ngụy bèn đem việc tang lễ của Tôn giả báo cùng nhà Lương. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương liền đưa dâng lụa báu phúng viếng, và ban sắc các hàng tông tử chư vương tế lễ mà cúng dường. Thái tử làm bài văn điếu, đại khái là: “Lớn thay! Thánh mạo Đại sư, đội trí ấn của mười lực, cưỡi sáu thông vượt biển cả, vận bi trí ở Phạm phương. Cứu điên nguy nơi Hoa độ (Trung Hoa)”.

Sau đó, có lẻ sứ của Hậu Ngụy là Tống Vân từ Tây vức trở về, gặp Tôn giả tại Thông lãnh, thấy Tôn giả riêng mang chiếc giày nhanh nhẹn mà đi, Tống Vân hỏi: “Đại sư đi đâu?” Tôn giả đáp: “Trở về Thiên Trúc”. Và Tôn giả liền bảo Tống Vân rằng: “Chủ của ông đã băng hà”. Nghe thế, Tống Vân hoang mang cùng giả biệt. Khi trở về đến nơi quả nhiên Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ) đã băng hà, sau đó Tống Vân đem sự việc gặp gỡ Tôn giả tấu trình hậu chủ là Hiếu Trang Đế (Nguyên Tử Du), Hiếu Trang Đế bảo khai quật tháp mộ để xét xem, thì chỉ thấy một chiếc giày cỏ hiện còn thôi. Cả triều đình vì thế mà kinh ngạc tán thán. Sau đó, vua ban chiếu lấy chiếc giày còn để lại ấy, đưa đến tôn thờ nơi chùa Thiếu Lâm. Mãi đến trong niên hiệu Khai Nguyên (713-742) thời Đường, có người khéo giỏi việc trộm lấy đưa đến Tăng xá ở Ngũ đài, về sau cũng lại bị mất.

Mới đầu, vua Võ Đế thời Nam Lương cùng gặp Tôn giả, đã là cơ duyên chẳng hợp. Về sau nghe đạo phong của Tôn giả hưng thạnh hiển bày ở đất Ngụy, bèn muốn dựng bia ký nhưng còn chưa rảnh để làm, mãi đến khi nghe việc của Tống Vân, lại càng kính mộ, liền soạn thuật thành văn, đại khái là: “Là ngọc điệp lâu vùi, lời vàng chưa bổ, thề truyền pháp ấn, hóa người Thiên Trúc. Kịp đến lúc chống tích tới đất Nam Lương, giảng nói pháp Vô thuyết, như bậc đuốc trong nhà tối, tợ trăng tỏ mở mây, tiếng tăm vang động xứ Hoa Hạ (Trung Hoa), đạo phong vượt xa xưa nay. Vua cùng hoàng hậu nghe tên, khâm trọng như Hạo Nhiên”. Lại có đoạn viết: “Than ôi! Thấy đó mà chẳng thấy, gặp đó mà chẳng gặp, nay đó, xưa đó, hối đó hận đó. Trẫm tuy là một kẻ phàm phu, tiến lên ở sau Sư vậy!” Tôn giả được đế vương cảm mộ như ấy vậy.

* Thử luận bàn:

Phật pháp lưu truyền đến Chấn Đán (Trung Hoa) đã qua bốn trăm tám mươi bốn năm mới đến thời Tôn giả Đạt-ma, mà giáo của Thánh nhân càng ứng nghiệm, đạo ấy càng tôn quý, nên nói là công đức của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma. Hay lại đến ở các Tôn giả Ca-diếp-ma-đằng, Trúc Pháp Lan thì gọi là gì ư? Đáp: “Giáo tuy mở giảng có cả muôn mối, cốt yếu điểm kết quy chỉ có một Niết-bàn diệu tâm mà thôi. Phàm là diệu tâm ở trong các kinh hẳn khiến lìa văn tự phân biệt lấy làm thấu đạt, nhưng mà đời sau chưa từng có ai có khả năng thấu đạt như thế. Mãi đến lúc Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma mới bắt đầu chẳng dừng văn tự, chẳng mở cửa nẻo, thẳng lấy đó mà truyền trao, người học mới được dùng mà thấu đạt. Đó há chẳng là càng ứng nghiệm của giáo ư? Tâm ấy đã truyền, mà trong thiên hạ biết chuyên chánh tín nói đến tánh mạng đều suy tôn đó là điều nói của Đấng Năng nhân vì đó mà thấu đạt xác đáng, há cũng chẳng là càng tôn quý của đạo ấy ư? Tôi (Khế Tung) thường lấy đó mà so sánh với Hữu Đức của Phu Mạnh Tử ở trong Nho gia. Trước Phu Mạnh Tử, giáo của Nho gia há không đạo ư? Bởi vì đạo ấy tích chứa mà chưa từng hiển trước, đến lúc Mạnh Kha chuyên việc truyền đạo thì sự càng tôn quý ở Nho gia hiển bày.

Hoặc có người nói trong “Tục Cao Tăng Truyện” cho là “Bích Quán” và “Tứ Hạnh” là đạo của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma. Ấy là phải hay là quấy ư? Đáp: “Bích Quán Bà-la-môn (thầy Bà-la-môn ngời quán vách tường)” xuất phát từ lời nói của hàng lưu tục. Thuyết của “Tứ Hạnh” đâu phải là đạo cùng cực của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma ư? Trong đồ chúng của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma vị rất thân gần là Tuệ Khả, tiếp theo là Đạo Phó, Đạo Dục. Xưa nay các hàng Thiền giả lưu truyền lời của Tuệ Khả v.v... đều thành sách lắm nhiều. Nhưng đầy thiên hạ mà điều nói của Tứ Hạnh cũng chưa, mới đầu thấy khái quát, riêng chỉ có lời mở đầu của Sa-môn Đàm Lâm vậy, song, Sa-môn Đàm Lâm đối với thiền gia cũng vốn không xứng. Giả sử Sa-môn Đàm Lâm thật chứng đắc từ Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma, cũng sợ rằng lúc bấy giờ Tổ sư tùy cơ duyên mà khéo dùng phương tiện nói vậy. Nếu thật đạo ấy thì sao chỉ lấy Tôn giả Tuệ Khả lễ bái rồi trở về đứng nơi vị trí cũ mà bảo là “Ông được phần tủy của ta”. Lấy đó mà nghiệm thì lời của trong “Tứ Hạnh” chẳng phải là cùng cực của đạo ấy vậy.

Phàm đạo của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma là thiền của Phật Như Lai trong Tứ thiền vậy. Trong kinh nói: “Người quán Như Lai thiền nghĩa là như thật vào địa vị của Như Lai vào nội thân Thánh trí cùng Tam không, Tam chủng an lạc nên thành rõ ràng chỗ làm không thể nghĩ bàn nơi chúng sinh”. Nếu người Bích quán đâu có nghĩa là Truyền Phật tâm tông ư? Nhưng đạo của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma đến thời nhà Tùy (581-618) nhà Đường (618-907) đã rất hiển trước hưng thạnh. Vì vậy, người hoằng truyền tự có thể kiểm hiệu cái thật mà viết nên, sao được nương theo lưu tục mà chẳng tìm cầu tông của Thánh nhân ư? Đó há nghĩa là khéo hoằng truyền ư?

Hoặc có người nói: Trong truyện cho là Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma có sáu lần bị hại bởi độc dược là do Bồ-đề-lưu-chi gây nên, phải vậy chăng? Đáp: Đó là do người viết “Bảo Lâm Truyện” vì chưa suy nghĩ mà nói vậy. Theo Dương Huyễn Chi cố năn nỉ hỏi Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma bất đắc dĩ mà vì nói bài kệ tụng. Sự tình đâu có trước nói rõ mà sau phát sấm ư? Vì là người nói bởi đời sau do Bồ-đề-lưuchi rốt ráo thường quật luận đối với ý của Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma, nên nói như thế. Giả sử khiến có ít ứng nghiệm nơi lời sấm, cũng sợ là do bè đảng của Bồ-đề-lưu-chi ở đương thời lén làm thích khách xưa trước. Có như đồ chúng của Bắc Tông mà đến ám hại Lục tổ Đại Giám (Huệ Năng), đó đâu phải là ý của Tổ sư ư? Do đó, sự việc của Bồ-đề-lưu-chi há cũng chẳng rõ bày ư? Tôi (Khế Tung) hẳn là kẻ kém hèn, mà chẳng chấp lấy đó vậy.

Hoặc có người nói: Ông cho rằng điều thấy của Đạt-ma tứ tổ (??) ở nơi văn ký của Tam tạng Pháp sư Tăng Hựu. Nhưng Tăng Hựu tịch năm Thiên Giám thứ mười bảy (518) thời Nam Lương, mà Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma mãi đến năm Phổ Thông thứ nhất (520) thời Nam Lương mới đến đất

Lương. Há có điều người ấy chưa đến mà trước đã vì viết ư? Còn không như vậy thì sao niên kỷ trước sau có sự trái ngược vậy? Đáp: Đúng thế. Thật do Tăng Hựu trước đã vì viết nên và sau đó Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma mới đến vậy. Nếu Tôn giả Bồ-đềđạt-ma đắc pháp, hoằng hóa tại Thiên Trúc trải qua sáu mươi năm mới đến phương Đông. Đến phương Đông lại mất ba năm mới tới đất Lương. Nên bởi có người từ tây trúc lưu truyền việc ấy trước khi Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma đến. Tăng Hựu có được lưu truyền đó bèn cho là sách. Tăng Hựu đã tiếp thừa lưu truyền ấy mà làm nên. Nên sách ấy có trước mà người đến sau vậy.

-(HẾT)-

--------------------------------

Thuở thiếu thời, Khế Tung tôi nghe các bậc kỳ túc nói là từng thấy trong “Tổ Đồ” xưa trước nêu dẫn “Tục Pháp Ký” của Bảo Xướng ở thời nhà Lương (502-557) ghi rằng: “Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma đến đất Lương lúc ấy là tháng chín năm Phổ Thông thứ nhất (520) thời Nam Lương”. Mà theo trong “Bảo Lâm Truyện” nói là đến năm Đinh mùi tức năm Phổ Thông thứ tám (527), tức ngay năm đó qua đất Ngụy, đúng là năm Thái Hòa thứ mười thời vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ). Nhưng Thái Hòa không phải là niên hiệu của vua Hiếu Minh Đế. Lại nói là Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma thị tịch cũng tại năm Thái Hòa thứ mười chín thời vua Hiếu Minh Đế, mà vua Hiếu Minh Đế ở ngôi chỉ có mười hai năm (516-528), tức không có năm thứ mười chín. Lại lấy năm Đinh mùi (527) mà suy tính, tức năm cuối của vua Hiếu Minh Đế; năm của Thần Thú (??). Năm đó vua Hiếu Minh Đế đã băng hà (???). Nếu quả nhiên lấy tháng mười hai năm Đinh mùi (527) tức năm Phổ Thông thứ tám thời Nam Lương, Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma qua đất Ngụy, tức Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma ở đất Ngụy suốt chín năm ngồi im lặng tại chùa Thiếu Lâm, niên số ấy không xác đáng. Nếu lấy năm Canh tý (520) tức năm Phổ Thông thứ nhất thời Nam Lương mà suy tính tức việc ấy có phần tương đương. Nên nay đây lấy năm Phổ Thông thứ nhất tức năm Canh tý (520) để làm chuẩn cứ, còn điều thấy của các nhà về năm Phổ Thông thứ tám tức năm Đinh mùi (527), cũng không dám cắt bỏ. Tạm thời cả hai còn để đó. Các bậc thức giả rõ cho vậy. Lại về niên toán phiên dịch kinh thiền, Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma lúc ấy chính là 27 tuổi. Tôn giả giảng nói kinh thiền hẳn phải từ tuổi hai mươi bảy trở về trước theo đó tính lại để hợp với các truyện ký. Điều có nghĩa là Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma đã xuất gia, sau khi đắc pháp còn nương theo hầu thầy (Tôn giả Bát-nhã-đa-la) suốt hơn bốn mươi năm. Lại y theo lời căn dặn của thầy là tạm hành hóa tại Nam Thiên Trúc phải trải qua sáu mươi bảy năm. Lại nữa, đến phương Đông trên đường đi mất hai năm. Đã đến Trung Quốc, qua sau chín năm, Tôn giả mới thị tịch, vừa hợp là Tôn giả sống thọ một trăm năm mươi tuổi. Như vậy thì điều ghi chép về Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma của các nhà, sự tích ở hai xứ Trung Hoa và Thiên Trúc có phần chẳng sai. Còn nếu lấy năm Phổ Thông thứ tám thời Nam Lương tức năm Đinh mùi (527) Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma đến Trung Hoa, và điều ghi thuật trong “Bảo Lâm Truyện” là Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma năm 40 tuổi không nhận ngôi vị Quốc vương để chờ đợi Tôn giả Bát-nhã-đa-la mà cầu xin xuất gia. Đó tức là tính Tôn giả lúc ở Tây Trúc theo hầu thầy hơn bốn mươi năm. Kịp đến lúc tới Trung Hoa là đã một trăm năm mươi tuổi. Tôn giả ở đất Ngụy chín năm mới thị tịch, tức thành hơn một trăm sáu mươi tuổi. Nên biết theo như điều nói là Tôn giả năm bốn mươi tuổi không nhận ngôi vị Quốc vương, và năm Phổ Thông thứ tám (527) thời Nam Lương, Tôn giả đến đất Lương là rất sai nhầm, không thể lấy làm chuẩn cứ.

QUYỂN 6

1. Truyện Tôn giả Tuệ Khả, Tổ thứ hai mươi chín ở Trung Hoa (Chấn đán)

2. Truyện Tôn giả Tăng Xán, Tổ thứ ba mươi ở Trung Hoa

3. Truyện Tôn giả Đạo Tín, Tổ thứ ba mươi mốt ở Trung Hoa

4. Truyện Tôn giả Hoằng Nhẫn, Tổ thứ ba mươi hai ở Trung Hoa

5. Truyện Tôn giả Tuệ Năng, Tổ thứ ba mươi ba ở Trung Hoa.

*****

1. TRUYỆN TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN Ở TRUNG HOA (Chấn đán)

Tôn giả Tuệ Khả vốn người thuộc dòng họ Cơ ở Võ lao. Lúc thân mẫu mới mang thai Tôn giả, trong nhà có ánh sáng khác lại tỏa phát, đến lúc sinh hạ lấy đó mà đặt tên. Thuở thiếu thời, Tôn giả ham thích tập học sách vở thế tục, không thứ gì chẳng đọc xem. Lại rất khéo nói về lão Trang. Năm 30 tuổi, Tôn giả bèn tự cảm mà than rằng: “Lão dịch, sách vở thế tục chẳng phải là đại lý cùng tột”, mới tham tầm kinh Phật, bèn xa đến cầu thầy ở Lạc dương, Hương sơn. Tôn giả nương tựa Thiền sư Bảo Tịnh mà xin xuất gia, sau đó đắc giới ở chùa Vĩnh Mục. Năm 32 tuổi, Tôn giả trở về lại ở với bổn sư, ở được tám năm, một đêm nọ có vị thần nhân hiện hóa bảo Tôn giả rằng: “Sao lâu ở đây, ông sẽ đắc đạo, nên đi đến phương Nam”. Tôn giả vì thần gặp bèn thêm tên mình là Thần Quang. Tiếp đêm sau, trên đầu bỗng nhiên đau nhức không thể nhẫn chịu, vị thầy muốn vì cứu cho. Bỗng chốc nghe giữa hư không có tiếng bảo: “Đây là đổi cốt, đau nhức khác thường vậy”. Tôn giả đem thưa trình thầy, liền bỏ không dám chữa trị. Đến sáng sớm, trông nhìn nguyên cốt quả nhiên có năm nơi nổi cộm như núi, vị thầy ấy bảo: “Lạ thay! Ông hẳn gặp được bậc thắng hạnh, chớ để mất thời ấy”. Nhưng Tôn giả là người khoáng đạt có lượng xa cao, tuy có nơi ra vào mà chưa từng liền phát lẫn lộn tự ẩn, nên tuy ở lâu nơi Lạc kinh mà người đời không ai lường biết. Mãi đến lúc gặp được Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma trao đạo đổi tên đáng làm bậc chủ Pháp sư, các hàng học giả mới biết Tôn giả có đức lớn đua nhau về nương tựa như bãi nước trút đổ.

Một ngày nọ có một Cư sĩ tuổi khoảng bốn mươi mang tướng bệnh tật đến trước Tôn giả, chẳng xưng tên họ mà thưa Tôn giả rằng: “Đệ tử lâu nay mắc phải tật bệnh, muốn được thầy vì con mà sám tội, nguyện xin thầy nhận lời cầu thỉnh của con”. Tôn giả bảo: “Đem tội lại đây, ta sẽ vì ông mà sám”. Giây lâu người ấy thưa: “Con tìm tội mà không thể được”. Tôn giả bảo: “Ta đã vì ông mà sám tội xong rồi vậy, nhưng ông phải nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng”. Người ấy thưa: “Hiện giờ thấy thầy thì đã biết là Tăng, còn không biết thế nào là Phật là Pháp?” Tôn giả đáp: “Tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp, pháp Phật không hai, ông biết đó chưa?” Người ấy bèn thưa: “Ngày nay mới biết tội tánh chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở trung gian, như tâm ấy vậy, thật là Phật pháp không hai”. Tôn giả liền mến quý đó, liền vì cởi áo hạt, xuống tóc cho xuất gia, bảo rằng: “Đây là pháp bảo vậy, nên đặt tên ông là Tăng Xán”. Sau khi Tăng Xán thọ giới Cụ túc hai năm, Tôn giả bảo: “Xưa kia Đức Như Lai trao truyền Đại pháp nhãn tạng lần lượt đến Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma, Tôn giả Bồ-đềđạt-ma trao truyền cho ta, nay ta giao phó cho ông và cả pháp y bình bát đó, ông nên chuyên cần lưu truyền chớ để tuyệt dứt. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Xưa nay duyên có đất
Nhân đất giống hoa sinh
Xưa nay không có giống
Hoa cũng chúng ta sinh”.

Thế rồi, Tôn giả lại bảo Tăng Xán rằng: “Ta có ương lụy xưa trước tại đất Nghiệp sắp đến lúc đền thưởng đó, nhưng sau này tự ông cũng có hoạn nạn, rất nên ẩn lánh đó.” Tăng Xán thưa: “Đây thật là bậc thầy của con có Thánh trí biết trước, nhưng xin được nghe nguyên nhân chướng nạn ấy”. Tôn giả đáp: “đó không tiếng ta bảo, mà trước kia Tổ sư Bát-nhã-đa-la đã có lời sấm”. Tăng Xán hỏi: “Lời sấm gì?” Tôn giả đáp: “Đó là điều nói sau khi Tổ sư thị tịch một trăm mười năm mà có nên vậy, trong kệ tụng chẳng nói “trong tâm tuy tốt ngoài đầu xấu, Tăng phòng dưới tên chẳng trúng, vì gặp rồng độc sinh con võ, chợt gặp chuột nhỏ lắng không cùng” đó ư? Theo số mà tính là đúng ở đời ông, ông càng nên dốc sức hộ pháp”. Đến lúc Tôn giả tới nghiệp hạ giảng pháp, mọi người phần lớn đều được cảm hóa, trải suốt ba mươi năm, bỗng một ngày nọ, Tôn giả đổi thay nghi tiết rảo bước dừng nghỉ, có lúc ở vùng ven có khi nơi đồng trống, cho đến tuy lò mổ quán rượu đều đồng một mực lẫn lộn vào. Có bậc thức giả hoặc lén trông bảo: “Sư là bậc cao lưu đâu nên như vậy”. Tôn giả bảo: “Ta tự điều tâm, đâu liên quan gì ông”. Mới đâu, tại Nghiệp hạ có vị Tăng tên là Biện hòa nhóm tập đồ chúng giảng kinh Niết-bàn ở chùa Khuôn Cứu tại huyện Quản thành, Tôn giả mỗi lần đến nơi cửa chùa cùng người giảng nói, vừa gặp chánh triều cả Đại chúng đều theo Tôn giả, đồ chúng đệ tử của Biện Hòa cũng vì vậy mà đổi thay. Biện Hòa tức giận đến tìm, và bảo cùng Trạch Trọng Khản rằng: “Tuệ Khả là kẻ cuồng tà, lại dối hoặc mọi người, rất nên trừng trị đó”. Trạch Trọng Khản nghe lời nói ấy mới bắt Tôn giả xử hình ác nghiệt, nhân đó mà Tôn giả thị tịch, Tôn giả hưởng thọ một trăm lẻ bảy tuổi. Các hàng sĩ nữ buồn thương cùng nhau gom nhặt di cốt đưa về an táng ở phía Đông huyện Phủ dương thuộc Tư châu. Lúc đó là năm Quý sửu (593) tức năm Khai Hoàng thứ mười ba thời nhà Tùy. Đến thời Tiền Đường, vua Đức Tông (Lý Khoát 780-805) sắc phong Tôn giả thụy hiệu là “Đại Tổ Thiền sư”. Khoảng trong niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, cao Tăng Pháp Lâm nghe đạo phong của Tôn giả có làm bài bia ký, đại khái là: “Than ôi! Thiền sư, chẳng biết cớ sao như vậy, chỉ pháp ấy hiện còn, chẳng dùng viết minh chí thì sao biết được sự tôn quý của đạo ấy thay!” Tôn giả được các hàng hậu hiền tôn quý kính mộ như thế vậy.

* Thử luận bàn:

Theo “Đường Cao Tăng Truyện” nói là Tuệ Khả gặp giặc mà chặt cánh tay, cùng sách ông nói sao chẳng khác ấy ư? Đáp: Tôi (Khế Tung) khảo xét bia ký của cao Tăng Pháp Lâm viết là “Tôn giả đứng dưới tuyết qua vài đêm, chặt cánh tay không đoái hoài, ném xuống đất vụn nát thân tạo lập mong cầu chỉ dạy”. Nhưng vì Đường cao Tăng truyện cùng đồng thời với cao Tăng Pháp Lâm. Điều nói của cao Tăng Pháp Lâm hợp với sách của Thiền giả, mà tuyên phản đó, há chẳng bởi tham cứu nghe thấy chưa thấu đáo ư? Nên sách ấy không đủ để làm rõ ràng vậy.

2. TRUYỆN TÔN GIẢ TĂNG XÁN, TỔ THỨ BA MƯƠI Ở TRUNG HOA

Tôn giả Tăng Xán, không rõ biết vốn người ở xứ nào. Mới đầu với tư cách người cư sĩ đến diện kiến Tôn giả Tuệ Khả, Tôn giả không xưng họ tên, nhân qua hỏi đáp vài phen liền có sự phát ngộ, Tôn giả bèn nương theo mà xuất gia. Tôn giả Tuệ Khả cũng rất mến trọng bảo là “được pháp bảo”, nên vì đặt tên cho Tôn giả. Khoảng trong thời Bắc Chu (557-581), Tôn giả mới thọ giới Cụ túc tại chùa Quang Phước. Sau khi thọ giới vẫn trở về nương tựa thầy, lại trải qua hai năm mới được trao truyền Đại pháp nhãn tạng. Tôn giả Tuệ Khả từng xét xem mà bảo Tôn giả rằng: “Về sau hẳn có hoạn nạn, ông phải nên dẫn lánh xa”. Tôn giả tuân theo lời chỉ dạy ấy bèn đi đến ẩn dật tại núi Hoàn công ở Thư châu (nay gọi đó là chùa núi Sơn cốc), suốt hơn ba mươi năm vết tích ẩn ngầm dần lộ bày, các hàng học giả nghe biết tìm đến cầu đạo. Đến trong khoảng niên hiệu Khai Hoàng (581-601) thời nhà Tùy, mới có vị Sa-di tên là Đạo Tín một ngày nọ đến lễ bái dưới tòa mà hỏi Tôn giả rằng: “Xin Đại sư ban cho con pháp môn giải thoát”. Tôn giả hỏi: “Đã không người nào trói buộc tức là ông giải thoát, sao lại cần cầu giải thoát”. Nghe vậy, Đạo Tín liền tỏ ngộ, mới xin làm đệ tử, nguyện kính lễ theo hầu. Lâu sau, Đạo Tín đến cầu thọ giới Cụ túc ở Lô lăng đã trở về, Tôn giả bảo: “Ông đã thọ giới, đạo cũng hoàn bị vậy. Ta sắp đi đây, Đại pháp nhãn tạng của Đức Như Lai xưa kia, nay ta trao truyền cho ông và cả y bát đó, ông đều nên gìn giữ đó. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Hoa trồng tuy nhân đất
Từ đất giống hoa sinh
Nếu không người gieo trồng
Hoa đất đều không sinh”.

Tôn giả lại bảo: “Ông khéo hoằng truyền đó chớ khiến dứt mất. Nay ta đến La phù, không lâu sẽ trở lại”. Trải qua hai năm, Tôn giả trở về lại Sơn cốc, qua hơn một tháng dân chúng trong châu tấp nập kéo đến nghe Tôn giả giảng pháp. Thế rồi Tôn giả đứng mà thị tịch dưới gốc đại thọ. Lúc đó vào năm Bính dần (606) tức năm Đại Nghiệp thứ hai thời nhà Tùy. Khi ấy nhà Tùy mới loạn lạc, chưa thể dựng lập bảo tháp, mãi đến năm Thiên Bảo thứ năm (746) thời Tiền Đường, gặp Triệu Quận Lý Thường chuyển dời đến làm quan tại Thư châu, mới khai quật phần mộ, trà-tỳ di cốt, gom nhặt xálợi, dựng tạo Tốt-đổ-ba (tháp) tại nơi Tôn giả thị tịch.

Mới đầu Tôn giả vì bệnh phong mà xuất gia, mãi đến lúc vào ở Sơn cốc, chứng bệnh tuy lành nhưng đầu tóc không đen lại, nên người ở Thư châu xưng gọi Tôn giả là “Xích Đầu Xán”. Nhưng Tôn giả có cái nhìn kỳ đặc, đức hạnh khác thường, thật là người không thể lường biết được. Trước kia nơi chỗ Tôn giả ở phần nhiều hay bị rắn độc các giống thú làm hại, nhưng khi Tôn giả đến ở thì đều dứt tuyệt. Một ngày nọ chợt có ánh sáng thần tỏa phát nơi chùa ấy, cam lồ đượm nhuần cả núi rừng, người thời bấy giờ lấy làm quái lạ nên cùng thưa hỏi, Tôn giả bảo: “Đây là Phật pháp sắp hưng thạnh, xá-lợi muốn đến đó nên trước có điềm ứng vậy”. Sau đó, tại kinh đô có được lắm nhiều xá-lợi bèn phân ban khắp thiên hạ, quả nhiên có dựng tạo bảo tháp tại chùa Sơn Cốc. Tôn giả có các sự cảm ứng hiệu nghiệm như vậy. Vua Minh Hoàng thời Tiền Đường ban phong Tôn giả thụy hiệu là “Giám Trí Thiền sư”, tháp hiệu là “Giác Tịch”. Sau đó, tể tướng Phòng Quan tạo bia ấy thuật tựa rất rõ ràng. * Thử luận bàn:

Mới đầu tuy Tôn giả Tăng Xán chẳng tự nói dòng tộc quê quán của chính mình, sau lại ở trong đời hơn ba mươi năm đâu ngậm miệng mà chẳng lược nói ư? Đây là điều rất đáng nghi vậy. Đáp:

Tôi (Khế Tung) đọc xem văn bia do Phòng Quan dựng tạo, thấy viết: “Đại sư thường bảo Đạo Tín rằng: “Có người nhờ hỏi, chớ nói nơi ta đắc pháp”. Đó đủ rõ Tôn giả tự tuyệt ẩn rất lắm, bậc chí nhân vì vết vật làm lụy đại đạo, mới quên tâm ấy. Nay tông của Chánh pháp còn muốn bỏ sót đi, hướng gì dòng tộc quê hương nước nhà, việc của thế gian tục tình chịu lấy làm để ý ư.

3. TRUYỆN TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT Ở TRUNG HOA.

Tôn giả Đạo Tín, tổ tiên vốn ở xứ Hà nội, sau mới chuyển dời đến ở huyện Quảng tế tại Kỳ dương. Thế gian sinh tại đó bèn thành người xứ Kỳ dương. Vốn dòng họ Tư Mã. Năm nhâm tý (592) tức năm Khai Hoàng thứ mười hai thời nhà Tùy, Tôn giả là một vị Sa-di đến tham kiến Tôn giả Tăng Xán, qua một phen hỏi đáp mà ngộ đạo, Tôn giả bèn kính lễ tôn làm thầy, suốt chín năm sau mới được trao truyền Đại pháp nhãn tạng và y bát. Trong khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, Tôn giả thường theo hướng Nam đến Lô lăng, gặp bọn giặc Tào Võ Vệ đem binh lính bao vây thành ấy suốt bảy tuần không mở, nhân đó Tôn giả khuyên người trong thành đều tụng niệm “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật”. Bọn giặc bỗng thấy trên bờ thành có cả hàng ngàn người đều nắm gậy trượng dài dáng mạo sắc màu vàng ròng sáng rỡ như mặt nhật. Bọn giặc kinh sợ cùng bảo nhau rằng: “Thành này hẳn có người phước đức lớn, không thể đánh vào được vậy”. Ngay trong ngày ấy liền kéo nhau bỏ đi.

Đến năm Võ Đức thứ bảy (621) thời Tiền Đường, Tôn giả trở lại hướng Bắc vân du cùng khắp rồi mới đến ở Đại dương núi Phá đầu (tức nay gọi đó là núi Song phong) tại Kỳ châu, nơi trước kia Tôn giả đắc pháp. Các hàng học sĩ khắp bốn phương về nương tựa đông như ban ngày nhóm chợ. Đến trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627650) thời Tiền Đường, vua Thái Tông (Lý Thế Dân) nghe đạo phong của Tôn giả nên ba lần ban sắc chiếu thỉnh mời, nhưng Tôn giả chối từ chẳng đến. Vua lại ban sắc chiếu thỉnh mời lần nữa và bảo cùng sứ thần rằng: “Nay nếu không theo mạng lệnh ta thì lấy đầu đem lại đây”. Sắc chiếu đưa đến, quả nhiên Tôn giả trái ngược ý vua, ngẩng cổ đợi dao chém, sứ thần trở về tâu cùng vua như vậy. Vua Thái Tông mừng vui cảm thán sự kiên chánh của Tôn giả, ủy dụ rất lắm. Lúc đó Tôn giả ở núi đã hai mươi năm.

Một ngày nọ đến huyện Hoàng mai, giữa đường chợt thấy một trẻ nhỏ mặt mày đẹp xinh khoảng chừng bảy tuổi, trong tâm lấy làm kỳ đặc, nhân đó, Tôn giả hỏi: “Ngươi họ gì?” Đứa trẻ đáp: “Họ thì có nhưng thuộc họ khác thường”. Tôn giả hỏi: “Là họ gì?” Đứa trẻ đáp: “Là họ Phật”. Tôn giả hỏi: “Ngươi không có họ ư?” Đứa trẻ đáp: “Họ ấy là không vậy”. Tôn giả ngoái nhìn lại các người cùng đi theo mà bảo: “Đứa trẻ này không phải hạng phàm tình, sau này hẳn sẽ làm hưng thạnh việc Phật”. Bèn bảo dẫn đến gặp song thân đứa trẻ, Tôn giả nói lại sự ứng đối khác lạ của đứa trẻ và muốn xin cho nó xuất gia. Song thân chấp thuận. Đứa trẻ cùng chư Tăng đã trở về, Tôn giả liền vì độ cho xuống tóc xuất gia và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Về sau Tôn giả bảo Hoằng Nhẫn rằng: “Xưa kia Đức Như Lai trao truyền Đại pháp nhãn tạng lần lượt đến ta, nay ta giao phó cho ông và y bát. Ông nên gìn giữ cố gắng hoằng truyền chớ khiến tuyệt dứt.

Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Giống hoa có tánh sống
Nhân đất hoa nẩy mầm
Duyên lớn cùng tín hợp
Đáng sinh, sinh chẳng sinh”.

Tôn giả lại bảo Hoằng Nhẫn rằng: “Xưa trước trong khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, ta từng đến Lô phụ lên trên tuyệt đỉnh thấy núi Phá đầu, trên đó có mây sắc tía như lọng, phía dưới tỏa phát hơi khí sắc trắng giăng ngang phân ra sáu đường, ông cho đó là điềm lành gì?” Hoằng Nhẫn đáp: “đó hẳn là điềm hiện trước sau khi Hòa thượng đã thị tịch sẽ giăng ngang sinh ra một cành Phật pháp vậy”.

Tôn giả bảo: “Lành thay! Ông khéo biết đó”. Thế rồi Tôn giả tắm gội an nhiên tĩnh tọa mà thị tịch, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi. Lúc đó là ngày mồng 04 tháng 09 năm Tân hợi (651) tức năm Vĩnh Huy thứ hai thời Tiền Đường. An táng, ba năm sau, cửa tháp ấy bỗng nhiên tự mở mà thân thể Tôn giả vẫn nghiễm nhiên như lúc đang sống. Đến trong niên hiệu Đại Lịch (766-780) thời Tiền Đường, vua Đại Tông (Lý Dự) ban phong Tôn giả thụy hiệu là “Đại Y Thiền sư”, tháp hiệu là “Từ Vân”.

4. TRUYỆN TÔN GIẢ HOẰNG NHẪN, TỔ THỨ BA MƯƠI HAI Ở TRUNG HOA.

Tôn giả Hoằng Nhẫn vốn người thuộc dòng họ Chu ở xứ Hoàng mai tại Kỳ dương. Lúc thân mẫu mang thai, từng có ánh sáng tốt lành mùi hương khác lạ tỏa phát nơi phòng nhà. Đến lúc sinh, Tôn giả bẩm tánh rất thông minh, phàm có nghe thấy không gì khó dễ thảy đều hiểu cả. Phong cốt tuyệt dị, có tướng Thánh nhân. Có bậc Hiền giả từng thấy Tôn giả nơi xóm thôn, nói với mọi người rằng: “Đứa trẻ này đủ tướng đại nhân, chỉ kém thua Đức Như Lai bảy vẻ đẹp mà thôi”.

Năm bảy tuổi, Tôn giả gặp Tôn giả Đạo Tín bèn được xuất gia, đắc giới. Sau đó, Tôn giả nương theo thọ pháp, tiếp đến ở núi Phá đầu, và giáo hóa càng hưng thạnh. Bấy giờ các hàng học giả trong thiên hạ kính mộ đạo phong của Tôn giả chẳng kể xa ngàn dặm đều tìm đến nương theo. Trong khoảng niên hiệu Hàm Hanh (670-674) thời Tiền Đường, có vị Cư sĩ dòng họ Lô, tự xưng là Tuệ Năng đến trước pháp hội, kính lễ Tôn giả. Tôn giả hỏi: “Ông từ xứ nào lại đây?” Tuệ Năng đáp: “Từ Lãnh nam lại”. Tôn giả hỏi: “Muốn cầu việc gì?” Tuệ Năng đáp: “Chỉ cần làm Phật”. Tôn giả bảo: “Người Lãnh nam không có Phật tánh, sao làm Phật được?” Tuệ Năng đáp: “Người có Nam Bắc. Phật tánh há có vậy?” Tôn giả biết Tuệ Năng là người khác thường, giả vờ quát mắng rằng: “Lui nhà sau đi”. Tuệ Năng liền lui ra xin ở nơi chỗ xay giã, dốc sức chuyên việc cối chày, tuy giẫm trải qua nhiều ngày tháng mà chẳng từng bảo là nhọc mệt. Một ngày nọ đã đến lúc trao truyền Đại pháp, Tôn giả mới bảo chung cả Đại chúng rằng: “Chánh pháp khó hiểu, các ngươi mỗi nên tự làm nên tự làm một bài kệ tụng nói rõ điều thấy của mình, nếu thật có chỗ thấu đạt thì ta sẽ trao truyền Pháp y cho”. Bấy giờ Tỳ-kheo Thần Tú là người được tôn xưng có sức học rộng, Đại chúng cử đứng đầu, mà chẳng dám ra trước. Thần Tú tự vì Đại chúng suy cử, một đêm nọ bèn làm bài kệ tụng đem viết nơi tường vách hành lan rằng:

“Thân là cội Bồ-đề
Tâm là đài gương sáng
Phải thường luôn lau chùi
Chớ để dính bụi dơ”.

Tôn giả thấy, ngợi khen rằng: “Người đời sau y cứ theo đây mà tu hành cũng chứng đắc Thánh quả”. Và khuyên Đại chúng nên trì tụng đó. Tuệ Năng vừa nghe qua mới hỏi người tụng: “Bài kệ tụng ấy do ai làm vậy?” Vị ấy đáp: “Đó là kệ tụng của thượng tọa Thần Tú, Đại sư ngợi khen, sẽ được truyền trao Đại pháp, ông không biết ư?” Tuệ Năng nói: “Lời ấy tuy hay khéo nhưng chưa liễu ngộ”. Mọi người chung quanh đều cười cho rằng Huệ Năng nói lời vọng. Sau đó Tuệ Năng làm bài kệ tụng xướng hòa, đêm đó mượn bút của một đồng tử nhờ đến bên kệ tụng của Thần Tú mà viết rằng:

“Bồ-đề vốn không cội
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào dính bụi dơ”.

Đến lúc Tôn giả trông thấy đó, im lặng hứa khả, chẳng vội ngợi khen, sợ người ganh ghét cùng làm hại, mới giả vờ chê trách đó, bảo rằng: “Ai làm kệ tụng này cũng chưa thấy tánh”. Đại chúng nhân đó cũng chẳng ngó ngàng đến lời của Tuệ Năng. Nửa đêm Tôn giả bèn ngầm bảo Tuệ Năng vào thất mà bảo: “Chư Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên. Bởi vì căn khí của chúng sinh có lớn nhỏ khác nhau, bèn theo đó mà dẫn dắt, nên có các pháp ba thừa, mười địa, đốn, tiệm, gọi đó là giáo môn, riêng đem Đại pháp nhãn tạng chân thật vi diệu Vô thượng đầu tiên trao cho thượng thủ Ma-ha Ca-diếp, sau đó lần lượt truyền trao đến đời hai mươi tám, Tổ sư Bồ-đề-đạt-ma mới đem đến phương Đông truyền trao lần lượt đến đời ta. Nay ta đem Đại pháp nhãn tạng và pháp y Tăng-già-lê, bình bát báu thọ nhận trước kia đều giao phó cho ông, ông khéo nên gìn giữ chớ khiến dòng pháp dứt tuyệt, hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Hữu tình đến gieo giống
Nhân đất quả lại sinh
Vô tình đã không giống
Vô tình cũng không sinh”.

Cư sĩ Tuệ Năng đã thọ nhận Đại pháp và y bát đó, kính lễ mà hỏi Tôn giả rằng “Pháp thì đã nghe dạy, còn y bát nên truyền trao người sau chăng?” Tôn giả bảo: “Xưa kia Tổ sư Bồ-đề-đạt-ma vì đến từ xứ khác tuy truyền pháp cho Nhị tổ-Tôn giả Tuệ Khả, nhưng sợ người đời chưa tin Nhị tổ tiếp thừa từ thầy nên đem y bát truyền trao để làm chứng nghiệm còn tông ta nay khắp thiên hạ đều nghe biết, không ai chẳng tin, nên y bát ấy có thể dừng ở ngay ông, nhưng Chánh pháp từ ông mà càng mở rộng nếu cứ truyền ấy, sợ khởi nên mối tranh giành. Ông nên đi ngay vậy. Ông nên ẩn dật qua thời gian sau mới hoằng hóa”. Tuệ Năng lại hỏi: “Nay con nên đi về xứ nào?” Tôn giả đáp: “Gặp hoài thì dừng, gặp hội thì ẩn”. Tuệ Năng vâng lời chỉ dạy, đêm đó liền ra đi. Sau đó ba ngày, Tôn giả chẳng ra giảng pháp, Đại chúng đều nghi ngờ, cùng nhau đồng thưa hỏi. Tôn giả bảo: “Pháp ta đã lưu truyền đến phương Nam, giờ lại nói gì?” Đại chúng lại hỏi: “Người nào đắc pháp?” Tôn giả đáp: “Ông Năng đắc đó”. Đại chúng mới rõ Cư sĩ họ Lô được truyền Đại pháp, bèn cùng nhau đuổi theo, mà Tuệ Năng đã đi mất hẳn.

Sau đó bốn năm, một ngày nọ Tôn giả bỗng bảo Đại chúng: “Việc ta đã xong, đáng nên đi vậy”. Bèn vào thất an tọa mà thị tịch. Lúc đó là năm Ất hợi() tức năm Thượng Nguyên thứ hai thời Tiền Đường. Tôn giả hưởng thọ bảy mươi bốn tuổi. Bốn chúng tạo dựng tháp an táng tại Đông sơn thuộc huyện Hoàng mai. Về sau, vua Đại Tông (Lý Dự) ban phong thụy hiệu Tôn giả là “Đại Mãn Thiền sư”, tháp hiệu là “Pháp Vũ”.

5. TRUYỆN TÔN GIẢ TUỆ NĂNG, TỔ THỨ BA MƯƠI BA Ở TRUNG HOA.

Tôn giả Tuệ Năng vốn dòng họ Lô. Tổ tiên vốn người xứ Phạm dương. Thân phụ tên là Hành Thao. Trong khoảng niên hiệu Vĩ Đức (618-627) thời Tiền Đường, bị giáng quan đến Tân châu, mới sinh Tôn giả, nhân đó Tôn giả bèn là người xứ Tân hưng. Tôn giả vừa mới ba tuổi thì thân phụ qua đời, thân mẫu lại không tiếp bước, riêng nuôi dưỡng Tôn giả để được trọn đời, nhưng vì nhà nghèo khó, mẹ con cực khổ khó thể tồn tại, Tôn giả bèn làm nghề bán củi để kiếm sống. Một ngày nọ đến chợ, ngược đường đi lại nghe trong khách hàng có người đọc tụng kinh, Tôn giả liền hỏi người ấy: “Đó là kinh gì?” Người ấy đáp: “Kinh Kim Cang”

Tôn giả hỏi: “Ông có được kinh đó từ người nào?” Người ấy đáp: “Nay Ngũ tổ-Đại sư Hoằng Nhẫn hiện ở tại huyện Hoàng mai thường bảo mọi người: nếu trì tụng kinh ấy tức chóng được kiến tánh, nên tôi trì tụng đó”. Nghe thế, Tôn giả mừng vui, bèn lo chuẩn bị lương thực cho thân mẫu một thời gian, xong, nhân đó xin đi cầu pháp. Giã từ thân mẫu Tôn giả đi đến Thiều dương, gặp Cư sĩ Lưu Chí Lược dẫn Tôn giả kết làm bạn lành. Mới đầu, Lưu Chí Lược có người cô xuất gia làm Ni tên là Vô Tận Tạng chuyên trì tụng kinh Niết-bàn, Tôn giả đến nghe kinh ấy, sau đó không lâu muốn vì cô Ni mà giải thích. Cô Ni bèn đưa kinh cho Tôn giả, Tôn giả bảo: “Ngươi đọc kinh chứ ta không biết chữ”. Cô Ni bảo: “Chữ còn không biết, làm sao giải nghĩa”. Tôn giả bảo: “Diệu lý của chư Phật đâu ở nơi văn tự”. Cô Ni lấy làm lạ lời nói đó, biết Tôn giả hẳn là người khác thường, bèn nói cùng mọi người trong làng xóm. Mọi người kính trọng đức hạnh của Tôn giả, sau đó tu sửa Bảo Lâm Lan Nhã mà thỉnh mời Tôn giả đến ở đó. Ở chưa bao lâu, Tôn giả bỗng nhiên tự cảm nghĩ: “Mới đầu tu vì pháp mà đi tìm thầy, sao lại lâu ở nơi đây?” Bèn giã từ Bảo Lâm, đi đến huyện Lạc dương thuộc Thiều dương gặp Tôn giả Trí Viễn là bậc Sa-môn cao hạnh. Tôn giả tạm dừng nương tựa ở đó mới chỉ hơn mười ngày, Tôn giả Trí Viễn bảo cùng Tôn giả rằng: “Tôi nhận thấy sự hiểu của ông khác với người thường, tìm đến cầu đạo nơi tôi, nhưng tôi hẳn không đủ giúp cùng. Hiện tại, Thiền sư Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai mới đáng bậc Tổ sư Đại pháp, xứng làm thầy của ông, ông nên nhanh đến đó. Nếu đắc đạo, trở về phương Nam đừng quên độ tôi”. Tôn giả bèn theo hướng Bắc đi tới, lúc đó là đã 32 tuổi.

Khi đến Đông sơn, Tôn giả Hoằng Nhẫn im lặng nhận biết Tôn giả là bậc pháp khí, mới đầu dùng lời thử hỏi, sau mới truyền trao Đại pháp nhãn tạng. Khi đã đắc pháp, Tôn giả bèn trở về phương Nam, mà đồ chúng tiên tiến ở Đông sơn đều không cam chịu bèn đuổi theo tìm, trong đó có vị tên là Tuệ Minh đuổi theo đến Sưu lãnh, Tôn giả bèn đặt bình bát và pháp y trên tảng đá mà tự ẩn mình trong lùm cỏ. Tuệ Minh đến nâng dắt y bát nhưng không chuyển động, mới gọi: “Tôi vì pháp mà đến chứ không phải vì y bát, pháp huynh ẩn đâu nên ra đây”. Tôn giả bèn ra cùng gặp, đàm nói giáo pháp, Tuệ Minh liền tỏ ngộ, kính lễ Tôn giả, Tuệ Minh bèn bảo: “Người đó đi đã xa lắm vậy”.

Tôn giả trở về phương Nam ẩn dật tại Tứ hội, Hoài tập qua một thời gian lẫn lộn trong hàng thế tục tuy suốt bốn năm mà không ai hay biết. Mùa xuân năm Nghi Phụng thứ nhất (676) thời Tiền Đường, Tôn giả mới đến Nam hải dừng nghỉ tại chùa Pháp Tánh. Gặp Pháp sư Ấn Tông ở chùa đó giảng kinh Niết-bàn. Mới đầu Tôn giả nghỉ ở nơi hành lan phòng thất. Một đêm nọ gió nổi, cây phướn trước chùa rung bay. Chốc lát có hai vị Tăng ở ngoài phòng thất bàn luận, một vị bảo: “Gió động”, một vị bảo: “Phướn động”. Hỏi đáp qua lại như vậy lắm nhiều nhưng đều không thấy đạt lý. Tôn giả nghe vậy liền ra nói cùng hai vị Tăng rằng: “Có thể cho hàng tục sĩ cùng bàn nghị chăng?” Một vị Tăng bảo: “Xin nghe ông nói”. Tôn giả bảo: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chánh tâm của Nhân giả động vậy”. Hôm sau, hai vị Tăng ấy đem lời Tôn giả nói trình cùng Pháp sư Ấn Tông. Pháp sư Ấn Tông lấy làm lạ đó, liền dẫn mời Tôn giả vào phòng thất, cật vấn rốt cùng nghĩa lý ấy. Tôn giả cùng đem đại lý mà giải đáp. Khi ấy Pháp sư Ấn Tông càng kính phục, bảo cùng Tôn giả rằng: “Cư sĩ thật không phải người thường phàm. Học từ ai và sao mà đắc đạo, xin chớ ẩn giấu, mong vì chỉ bày cho!” Tôn giả bèn đem đầu đuôi việc mình đắc pháp mà trình bày. Pháp sư Ấn

Tông rất may mắn được gặp, liền giữ lễ làm đệ tử xin được học pháp yếu nơi Tôn giả. Và bèn bảo đồ chúng của mình rằng: “Đây là cư sĩ họ Lô, là Nhục Thân Bồ-tát, Ấn Tông tôi là kẻ phàm phu không có ý cùng được gặp gỡ mà được gặp gỡ”. Rồi chọn ngày nhóm tập các vị Tỳ-kheo kỳ túc vì xuống tóc cho Tôn giả, lại chọn ngày trang nghiêm giới đàn tại chùa, mời luật sư Trí Quang vì tác pháp để Tôn giả thọ giới Cụ túc. Giới đàn đó, trước kia trong thời Tiền Tống, Tam tạng Pháp sư Cầu-na-bạt-ma mở đầu phiên dịch kinh, có dự ghi rằng: “Sau khi này sẽ có Nhục Thân Bồ-tát thọ giới tại đây”. Và khoảng cuối thời nhà Lương, Tam tạng Pháp sư Chân Đế đến nơi đàn ấy tự tay trồng hai cây Bồ-đề và cũng dự ghi rằng: “Về sau bốn đời sẽ có bậc thượng thừa Bồ-tát thọ giới tại nơi đây. Vị ấy giảng pháp độ người đông nhiều vô lượng”. Thọ giới xong, Đại chúng liền thỉnh cầu Tôn giả khai giảng pháp môn của Đông sơn. Điều trước kia Tam tạng Pháp sư Cầu-na-bạt-ma và Chân Đế xưng gọi là “Thánh sĩ đắc quả”, đến lúc Tôn giả xuất gia mới thật ứng nghiệm.

Qua năm sau (677), Tôn giả nghĩ muốn trở về tinh xá Bảo Lâm, mới giã biệt Đại chúng ra đi. Pháp sư Ấn Tông cùng các hàng đạo tục có hơn ngàn người tiễn đưa Tôn giả đến Thiều dương. Sau đó không lâu thứ sử Thiều châu là Vi cứ thỉnh mời Tôn giả đến ở chùa Đại Phạm thuộc trong châu ấy giảng nói pháp. Khi ấy các hàng huyền nho sĩ tục đến hỏi đạo đông nhiều như Khổng Tử lúc ở tại Chu tứ vậy. Đại chúng ấy biên tập lại lời Tôn giả giảng, lấy tựa đề là “Đàn Kinh (tức kinh Pháp Bảo Đàn)”. Và bình thường Đại chúng cùng nương tựa Tôn giả chẳng dưới ngàn vị.

Nghe đạo phong của Tôn giả, trong khoảng niên hiệu Thần Long (705-707) thời Tiền Đường, vua Trung Tông (Lý Hiến) mới ban sắc chiếu: “Trẫm thỉnh mời hai sư Tăng: An và Tú vào trong cung để hỏi đạo nhưng hai sư Tăng ấy đều suy tôn là “Ở phương Nam có Thiền sư Năng là người đích thân thọ nhận y pháp từ Đại sư Hoằng Nhẫn, có thể đến đó để hỏi” nên nay thỉnh mời vào nội cung để cung phụng. Sai phái Tiết Giản mang sắc chiếu đến Tôn giả, nên nhớ nghĩ đến giúp ý của trẫm”. Tôn giả bèn dâng thư cáo bệnh không đến. Nhân đó, Tiết Giản hỏi Tôn giả rằng: “Các bậc Thiền giả ở kinh đô thường nói: “Muốn được hợp đạo, cần phải tọa thiền, nếu chẳng nhân thiền định mà được giải thoát thì việc ấy chưa từng có”, lời nói ấy như thế nào?” Tôn giả đáp: “Đạo do tâm ngộ, đâu tại ngồi ư? Trong kinh nói: “Nếu nói Như Lai có lại có đi, có ngồi có nằm thì người ấy không hiệu nghĩa ta (Phật) nói: “Vì sao? Như Lai không từ đâu lại cũng chẳng đi đâu là Như Lai. Phàm không từ đâu lại là chẳng sinh, không đi đâu là chẳng diệt. Nếu không sinh diệt tức là Như Lai thiền thanh tịnh. Các pháp không tịch tức là Như Lai tọa thanh tịnh. Rốt ráo không đắc, cũng không chỗ chứng, sao hẳn phải ngồi ư?” Tiết Giản lại hỏi: “Tiết Giản tôi trở về, Hoàng đế hẳn có điều đoái hoài han hỏi. Xin Đại sư chỉ dạy pháp yếu, ngỏ hầu đối đáp thỏa xứng để ban bố cho khắp kinh đô nước nhà, khiến người học tập tu theo đó. Tợ như đem một ngọn đuốc châm đốt đến trăm ngàn ngọn đuốc, ngỏ hầu tối tăm đều được tỏa sáng, và ánh sáng ấy sáng mãi mãi chẳng dứt”. Tôn giả bảo: “Đạo không tối sáng. Tối sáng là nghĩa của đối đãi. Sáng ấy sáng mãi không dứt cũng là có chỗ hết, bởi cùng đối đãi mà lập danh. Nên trong kinh nói: “Pháp không có so sánh, không tướng đối đãi”. Tiết Giản nói: “Sáng thí như trí tuệ, tối dụ như phiền não, người tu đạo nếu không dùng trí tuệ để chiếu phá phiền não thì sinh tử từ vô thỉ lại do đâu mà được thoát lìa?” Tôn giả bảo: “Nếu dùng trí tuệ để chiếu phá phiền não thì đó là căn cơ của hàng Tiểu thừa, trẻ con, nai, dê v.v... vậy. Với các bậc thượng trí đại khí đều không như vậy”. Tiết Giản hỏi: “Thế nào là kiến giải Đại thừa?” Tôn giả đáp: “Minh và vô minh, tánh ấy không hai. Tánh không hai tức là thật tánh. Thật tánh ở nơi hàng phàm ngu không giảm, ở hàng Hiền Thánh không Tăng, ở phiền não mà chẳng loạn, ở thiền định mà chẳng tịch. Chẳng đoạn chẳng thường không đi không lại, chẳng ở trung gian, cũng không trong ngoài, chẳng sinh chẳng diệt, tánh tướng như như thường trú chẳng đổi thay, gọi đó là đạo”. Tiết Giản hỏi: “Điều Đại sư nói chẳng sinh chẳng diệt cùng với lời ngoại đạo nào có khác gì?” Tôn giả đáp: “Ngoại đạo nói chẳng sinh chẳng diệt, tức lấy diệt để chấm dứt sinh, dùng sinh để hiển bày diệt, diệt như chẳng diệt, sinh nói không sinh, đâu thể đồng với ngoại đạo ư? Nhân giả muốn thấu rõ tâm yếu chỉ nên đối với tất cả thiện ác đều chớ nghĩ lường, tự nhiên được vào, tâm thể trọn nhiên thường tịch, diệu dụng khắp hằng sa”. Khi ấy Tiết Giản phát ngộ mà lui ra trở về triều đình, quả nhiên đem lời ấy tấu trình. Vua Trung Tông rất vui mừng lại ban sắc chiếu ủi an cảm tạ, dâng tặng Tôn giả các thứ tích trượng, pháp y, gấm báu, v.v... mỗi mỗi có khác, ban sắc cải đổi tên tinh xá Bảo Lâm thành chùa Trung Hưng. Năm sau lại bảo Thiều châu thứ sử mới đến lại đổi tên là chùa Pháp Tuyền. Lấy nơi Tôn giả ở xưa trước tại Tân châu là chùa Quốc Ân. Tôn giả từng bảo Đại chúng rằng: “Các Thiện tri thức! Các người mỗi nên tịnh tâm lắng nghe ta nói pháp. Tự tâm các người là Phật, chớ nên nghi ngờ, bên ngoài không một pháp nào có thể kiến lập, tất cả đều do tự tâm sinh muôn thứ pháp. Nên trong kinh nói: “Tâm sinh thì các thứ pháp sinh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt, nếu muốn thành đạt chủng trí, phải đạt “Nhất tướng Tam-muội”, “Nhất hạnh Tam-muội”. Nếu với tất cả các nơi mà không chấp trú tướng, đối với trong tướng ấy chẳng sinh thương ghét, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng nghĩ nhớ lợi ích, thành đạt hay bại hoại v.v..., các việc mà an ổn thanh tịnh. Đó gọi là “Nhất tướng Tam-muội”. Nếu với tất cả các nơi đi đứng nằm ngồi thuần nhất thẳng tâm, chẳng động đạo tràng, bèn thành Tịnh độ. Đó gọi là “Nhất hạnh Tam-muội”. Nếu người thành tựu hai môn Tam-muội đây, như đất có giống hay ngậm chứa nuôi lớn thành tựu thật đó. “Nhất tướng và Nhất hạnh Tam-muội” cũng lại như vậy. Nay ta giảng pháp cũng như lúc mưa đượm nhuần khắp cả đại địa, Phật tánh trong các người thí như hạt giống, gặp được đượm nhuần này thảy đều phát sinh. Người giữ lấy lời ta, quyết định sẽ chứng đắc Bồ-đề, người nương theo ta mà thực hành, nhất định sẽ chứng đắc Phật quả”.

Đến năm Tiên Thiên thứ nhất (712) thời Tiền Đường, một ngày nọ bỗng nhiên Tôn giả bảo Đại chúng rằng: “Ta tủi nhục ở nơi Đại sư Hoằng Nhẫn thọ pháp yếu và y bát, nay tuy giảng pháp, mà không truyền y bát, bởi vì tín tâm các người thành thục không còn nghi ngờ nên không truyền đó. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Đất tâm ngậm các giống
Mưu khắp thảy đều sinh
Hoa đến ngộ đượm tình
Quả Bồ-đề tự thành”.

Tôn giả lại bảo: “Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy, đạo ấy thanh tịnh cũng không các tướng.

Các người hãy cẩn trọng quán tịnh và không tâm đó, tâm đó vốn tịnh không thể lấy bỏ, mỗi người hãy tự nỗ lực, tùy duyên khéo đi hoằng hóa”. Tôn giả giảng pháp độ người đến lúc đó đã bốn mươi năm. Trước kia, Tôn giả từng bảo tạo dựng bảo tháp tại chùa Quốc Ân ở Tân châu. Ngày mồng 06 tháng 06 năm đó (712) lại thúc giục thêm thợ làm cho chóng thành. Bởi vì chùa Quốc Ân là nền móng nhà Tôn giả sinh sống xưa trước. Ý Tôn giả tạo dựng bảo tháp là muốn báo đáp ân đức của song thân Tôn giả.

Đến ngày mồng 01 tháng 07 năm Tiên Thiên thứ 02 (713) thời Tiền Đường, Tôn giả bảo môn nhân đệ tử rằng: “Ta sắp trở về Tân châu, các người nên chuẩn bị thuyền bè”. Khi ấy Đại chúng đều buồn xót kính mộ thỉnh cầu Tôn giả lưu lại. Tôn giả bảo: “Chư Phật ra đời còn nhập Niết-bàn. Có hẳn có đi đó là lý thường vậy. Hình hài ta đây trở về vì hẳn đã có nơi”. Đại chúng lại hỏi: “Từ nay thầy đi, bao lâu nữa trở lại?” Tôn giả đáp: “Lá rụng về cội, lúc lại không thể nói”. Đại chúng hỏi: “Đại pháp nhãn tạng từ thầy truyền trao cho người nào?” Tôn giả đáp: “Người có đạo thì đắc, người vô tâm thì không”. Đại chúng hỏi: “Sử lưu lại lời dạy về sau có nạn gì không?” Tôn giả đáp: “Sau khi ta diệt độ khoảng năm-sáu năm, hẳn có một người lại lấy đầu ta. Hãy nghe ta nói bài kệ tụng đây:

“Trên đầu nuôi (người) thân
Trong miệng phải ăn
Gặp mãn gây nạn
Dương liễu làm quan”.

Tôn giả lại bảo: “Sau khi ta thị tịch khoảng bảy mươi năm, có hai vị Bồ-tát từ phương Đông đến, một vị xuất gia và một vị tại gia cùng chung làm hưng thạnh Phật pháp, sửa sang chốn Già-lam, gìn giữ tông chỉ của thường”. Thế rồi, Tôn giả đi đến Tân châu ở chùa Quốc Ân. Sau đó tắm rửa xong, Tôn giả an tọa mà thị tịch, có mùi hương thơm khác lạ phảng phất, ráng cầu vồng giáng xuống đất. Lúc đó là ngày mồng 02 tháng 08 năm Quý sửu (713) tức năm Tiên Thiên thứ hai thời Tiền Đường. Bấy giờ ở hai quận Tân châu và Thiều châu mỗi nơi đều tạo dựng bảo tháp, muốn tranh giành nghinh thỉnh châu thể của Tôn giả qua thời gian lâu mà không thể quyết định đưa về đâu, thứ sử mới cùng mọi người ở hai quận đốt hương khấn nguyện: “Nếu khói hương đến xứ nào, tức được nghinh thỉnh đi”. Chỉ chốc lát mà khói hương chợt tỏa phát về hướng Bắc đến Thiều châu. Ngày 13 tháng 11 năm đó (713) mọi người ở Thiều châu mới được nghinh thỉnh về an táng tại khe Tào Hầu (Tào Khê), nay đó tức là chùa Nam Hoa, Tôn giả hưởng thọ 76 tuổi, Thứ sử Vi Cứ soạn thuật văn bia Tôn giả.

Mới đầu, lúc nghinh thỉnh nhục thân Tôn giả nhập tháp, đồ chúng nghĩ lời Tôn giả bảo là “sẽ có người đến lấy đầu ta”, nên dùng lá sắt bền chắc bao quanh nơi cổ Tôn giả. Đến nửa đêm mồng 03 tháng 08 năm Khai Nguyên thứ mười (722) thời Tiền Đường, bỗng nghe nơi tháp có tiếng như phá kéo sắt, người chủ trông giữ tháp kinh hãi dậy chợt thấy một người tướng trạng như Hiếu Tử (đó có nghĩa là ngày ấy thấy có một người vận mặc tang phục mà lẫn lộn nên nói thuộc loại như con hiếu bởi thuận theo ý của Tôn giả nói ẩn) từ nơi tháp vội chạy ra, sau đó đến trông xem quả nhiên lá sắt bao quanh gìn giữ ấy có vết sẹo, bèn cho là giặc cướp nên báo trình cùng châu ấp. Quan ban lệnh nghiêm bắt đó, ngày sau tại nơi góc đá trang ấp bên thôn quả nhiên bắt được kẻ giặc. Quan lại vặn hỏi, kẻ giặc tự khai họ tên là Trương Tịnh Mãn, vốn người xứ Huyện lương tại Nhữ châu, vừa đến ở chùa Khai Nguyên tại Hồng châu nhận sự đút lót của vị Tăng người nước Tân La tên là Kim Đại Bi khiến lấy đầu của Tổ sư đem về nước đó để tôn thờ. Quan lại muốn theo pháp luật bắt tội, nhưng thứ sử vì tình ấy không nỡ làm ác mới hỏi Thiền sư Linh Thao-đệ tử của Tôn giả. Thiền sư Linh Thao đem Phật pháp mà luận bèn muốn khiến để như nguyên. Thứ sử ngợi khen ý của Thiền sư Linh Thao và cũng theo đó mà tha cho Trương Tịnh Mãn. Khi ấy thứ sử tại châu ấy là Dương Tô Thiểm, huyện lệnh tên là Trương Khản, kẻ giặc tên là Trương Tịnh Mãn mới nghiệm chứng lời sấm của Tôn giả không sai nhầm.

Trong khoảng niên hiệu Thượng Nguyên (760762) thời Tiền Đường, vua Túc Tông rất kính mộ đạo phong của Tôn giả, thường ban sắc chiếu thỉnh lấy pháp y bình bát của Tôn giả được trao truyền lưu vào nội cung để kính lễ. Sau khi vua Túc Tông (Lý Hanh) băng hà, vua Đại Tông (Lý Dự) tiếp kế ngôi vị. Ngày mồng 05 tháng 05 Vĩnh Thái thứ nhất (765) thời Tiền Đường bèn mộng thấy Tôn giả đến thỉnh pháp y bình bát ấy về lại, vua càng kính trọng pháp ấy, ngày mồng bảy liền ban sắc chiếu sai sứ thần thỉnh đưa về lại Tào Khê. Vua Hiến Tông (Lý Truân) sắc phong thụy hiệu Tôn giả là “Đại Giám Thiền sư”, tháp hiệu là “Nguyên Hòa Linh Chiếu”.

Mới đầu, Tôn giả hiện tướng người nghèo hèn bán củi, lẫn lộn trong phàm tình, tự cho là không biết chữ. Đến lúc đạo pháp hơi hiển bày thì văn tự trong Tam tạng giáo điển cho đến các thứ sách truyện ở thế tục, Tôn giả đều dẫn nêu luận bàn, mỗi mỗi đều như vốn đã luyện tập, diễn giảng Thánh giáo, giải thích nghĩa kinh, đủ sức vô ngại đại biện như sông biển dâng trào, mọi người không thể thấu đạt bờ mé đó.

Xưa kia, ở thời Tiền Đường, tướng thủy hưng công Trương Cửu Linh lúc bé nhỏ người nhà dẫn đến kính lễ Tôn giả, Tôn giả đưa tay vỗ trên đỉnh đầu và bảo: “Đứa bé kỳ đặc này, sau sẽ là vật quý của nước nhà”. Tôn giả có sự thấy trước biết xa, đại loại đều như vậy. Ai bảo là Tôn giả không biết văn tự trong thế tại ư?” Các bậc thức giả bảo rằng: “Tôn giả chẳng phải là người không biết chữ, chỉ hiện bày tướng không biết. Bởi vì đạo ấy không phải văn tự ngữ ngôn của thế tục có thể dẫn kịp, bởi có chỗ nêu bày vậy. Nhưng Chánh pháp lưu truyền đến phương Đông, đến thời Tôn giả càng mở rộng, những người tiếp thừa đều là hàng đại sĩ trác tuyệt dần trăng trải khắp bốn biển. Đạo đức lợi người của Tôn giả dẫn mãi đến nay vẫn đội nhờ đó, rõ ràng Tôn giả đâu phải là người bán củi thật sự hay là kẻ mới học ư? Nên Tôn giả thật là hàng Thánh nhân giáng vết hiện bày nơi nhỏ nhiệm vậy. Tôn giả là bậc Đẳng giác hay Diệu giác ư? Không thể hẳn biết được đó vậy.

* Thử luận bàn:

Pháp của Thánh nhân vốn chỉ một, sao dụng có Nam Bắc phân tông ấy ư? Đáp: Chỗ về của một nước có đường gập ghềnh vậy, nếu chẳng phân, sao ngay thẳng được. Một dòng họ lưu xuất có đích có thứ vậy, chẳng phân ai thân. Trong truyện (Tống Cao Tăng truyện) dùng phương ba lực sĩ cùng bắn một loại xoa kiên cố. Một người tên là Ma-kiệnna tuy bắn trúng và phá mà không đạt. Một người tên là Na-la-diên bắn vừa trúng vừa phá vừa đạt mà lại xuyên đến vật khác. Chẳng phải lạc xoa kiên cố có mạnh có yếu, mà bởi do thế người bắn chẳng đồng. Tôn giả Tuệ Năng-Nam Tông có thể gọi là Na-la-diên đích thân được thưởng. Ấy cũng dụ cho gần ấy vậy.

-(HẾT)-

QUYỂN 7

LƯỢC TRUYỆN CHÁNH TÔNG PHÂN GIA LỜI TỰA

“Chánh tông đến đời Đệ lục tổ (ở Trung Hoa)-Thiền sư Đại Giám, Tuệ Năng, pháp ấy càng mở rộng. Đệ tử của Tổ sư mỗi mỗi lại tương truyền, nên đời sau được mỗi tự lấy làm gia, nhưng tiếp thừa đạo phong của gia ấy lấy làm thành học giả, đời sau lại càng đông nhiều tỏa khắp thiên hạ, đầu đuôi sự việc đó đã rõ ở “Truyền Đăng Lục”, “Quảng Đăng Lục” và “Tống Cao Tăng Truyện”, tôi (Khế Tung) không xếp đặt lại ở đây mà chỉ biên ghi thế hệ lần lượt lưu xuất thôi, nên truyện phân gia phát khởi từ Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng và kết thúc ở Thiền sư Trí Viễn, có cả thảy một ngàn ba trăm lẻ bốn vị”.

Từ Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng lưu xuất nối dõi dòng pháp (có bốn mươi ba vị):

1. Tam tạng Pháp sư Quật-đa người ở nước xứ Tây Ấn Độ

2. Thiền sư Pháp Hải ở Thiều dương

3. Thiền sư Chí Thành ở Lô lăng

4. Thiền sư Hiểu Liễu ở núi Biển thiền

5. Thiền sư Trí Hoàng ở Hà bắc

6. Thiền sư Pháp Đạt ở Chung lăng

7. Thiền sư Trí Thông ở Thọ châu

8. Thiền sư Chí Triệt ở Giang tây

9. Thiền sư Trí Thường ở Tín châu

10. Thiền sư Chí Đạo ở Quảng châu

11. Thiền sư Ấn Tông ở Quảng châu

12. Thiền sư Hành Tư ở núi Thanh nguyên

13. Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam nhạc

14. Thiền sư Huyền Giác ở Ôn châu

15. Thiền sư Bản Tịnh ở núi Tư không

16. Thiền sư Huyền Sách ở Vụ châu

17. Thiền sư Linh Thao ở Tào khê

18. Thiền sư Tuệ Trung ở Quang trạch-Tây kinh

19. Thiền sư Thần Hội ở Hà trạch

20. Thiền sư Kỳ Đà ở Thiều dương

21. Thiền sư Tịnh An ở Phủ châu

22. Thiền sư Tầm ở Tung sơn

23. Thiền sư Định Chân ở La phù

24. Thiền sư Kiên Cố ở Nam nhạc

25. Thiền sư Đạo Tấn ở núi Chế không

26. Thiền sư Thiện Khoái

27. Thiền sư Lục Tố ở Thiếu sơn

28. Thiền sư Tông Nhất

29. Thiền sư Thiện Hiện ở núi tần vọng

30. Thiền sư Phạm Hạnh ở Nam nhạc

31. Thiền sư Tự Tại ở Tinh châu

32. Thiền sư Hàm Không ở Tây kinh

33. Thiền sư Thái tường ở Giáp sơn

34. Thiền sư Pháp Tịnh ở Quang châu

35. Thiền sư Biện Tài ở núi Thanh lương

36. Thiền sư Ngô Đầu Đà ở Quảng châu

37. Thiền sư Đạo Anh

38. Thiền sư Trí Bản

39. Thiền sư Pháp Chân ở Thanh uyển

40. Thiền sư Huyền Giai

41. Thiền sư Đàm thôi

42. Thiền sư Vi Cứ ở Thiều châu 43. Bồ-tát Tôn ở Nghĩa hưng.

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG.

* Thiền sư Hành Tư ở núi Thanh nguyên, vốn người ở An vức, Cát châu. Mới đầu đến nơi pháp hội của Thiền sư Đại Giám làm bậc thủ chúng. Thiền sư Đại Giám từng bảo Hành Tư rằng: “Từ xưa trước pháp y và bình bát đều lưu truyền bởi giữ lấy chứng nghiệm cho người đời sau. Nay ta là người được truyền nào lo ngại ai không tin? Từ khi ta thọ nhận y bát đến nay thường lo ngại chẳng khỏi hoạn nạn. Nay lại trao truyền y bát đó thì lo ngại khởi mối tranh giành, nên y bát đó lưu giữ lại tại Sơn môn. Các người thì mỗi tự đem giáo pháp giáo hóa các phương chớ khiến dứt tuyệt”. Sau đó, Thiền sư Hành Tư trở về quê cũ ở chùa Tỉnh Cư tại núi Thanh nguyên, nơi lắm nhiều học giả đến nương tựa và có được một vị nối dõi dòng pháp là Thiền sư Hy Vận-Thạc Đầu ở Nam nhạc.

* Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam nhạc, vốn người ở Kim châu. Mới đầu từ pháp hội của Quốc sư An ở Tung sơn, Hoài Nhượng đến dự tham nơi Đệ lục tổ-Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng. Thiền sư Đại Giám hỏi: “Ông từ xứ nào lại?” Hoài Nhượng đáp: “Từ Tung sơn lại”. Thiền sư Đại Giám tiếp bảo: “Vật gì nghĩ gì lại?” Hoài Nhượng đáp: “Nói tợ một vật tức chẳng trúng”. Thiền sư Đại Giám tiếp hỏi: “Lại có thể tu chứng chăng?” Hoài Nhượng đáp: “Tư chứng tức chẳng không. Ô nhiễm tức chẳng được”. Thiền sư Đại Giám bảo: “Chỉ không ô nhiễm ấy là điểm gìn giữ và nghĩ nhớ của chư Phật. Ông đã như vậy, ta cũng như vậy. Lời sấm của Tôn giả Bát-nhã-đa-la xưa trước chính ngay dưới chân ông sản sinh một con ngựa non đạp giẫm giết chết người trong thiên hạ. Bệnh tại tâm ông chẳng đợi nói nhanh”. Khi ấy Hoài Nhượng chợt nhiên đại ngộ, theo hầu Thiền sư Đại Giám suốt mười lăm năm. Về sau đến ở tinh xá Bát Nhã tại Nam nhạc, học giả khắp bốn phương đều về nương tựa. Nên từ Hoài Nhượng lưu xuất nối dõi dòng pháp, có được chín vị:

1. Thiền sư Đạo Nhất ở Giang tây

2. Thiền sư Thường Hoạt ở Nam nhạc

3. Thiền sư Trí Đạt

4. Thiền sư Thản Nhiên

5. Thiền sư Thần Chiếu ở Triều châu

6. Thiền sư Nghiêm Lăng ở Dương châu

7. Thiền sư Bản Như ở nước Tân La

8. Thiền sư Huyền Thịnh

9. Thiền sư Pháp Không ở Đông vụ.

* Thiền sư Định Chân ở La phù lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp.

Đó là: Thiền sư Linh Vân.

* Thiền sư Đại Tấn ở núi Chế không lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Huyền Giác ở Kinh châu.

* Thiền sư Thiện Khoái ở Hạ hồi tại Thiều châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Thiện Ngộ.

* Thiền sư Bản Tịnh ở núi Tư không lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Trung sứ Dương Quang Đình.

* Thiền sư Duyên Tố (??) lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tiểu Đạo Tấn ở Thiều châu 2. Thiền sư Du Tịch ở Thiều châu.

* Thiền sư Kỳ Đà lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Đạo Thiếu ở Hành châu.

* Thiền sư-Quốc sư Tuệ Trung ở Nam dương. Vốn người dòng họ Nhiễm ở Gia kỵ, Việt châu. Tuệ Trung đắc pháp từ Thiền sư Đại Giám, sau đó về ẩn cư trong cốc Đảng tử tại núi Bạch nhai, Nam dương, hơn bốn mươi năm không ra khỏi núi đó. Vua Túc Tông (Lý Hanh) thời Tiền Đường nghe đạo phong của Tuệ Trung nên năm Thượng

Nguyên thứ hai (761) mới sai phái sứ thần tôn triều tấn mang sắc chiếu đến thỉnh mời. Đến lúc Tuệ Trung đến kinh đô, vua lại ban sắc khiên kiệu lên điện, dùng để thờ thầy mà tiếp đãi. Nhưng đạo lực của Tuệ Trung rất sung mãn, trí tuệ biện tài tuyệt thế, tuy dùng khuôn phép của đạo để chỉ dạy vua mà không tỏ vẻ khiếp sợ lo ngại. Phá dẹp bọn tà kiến tuy có cả muôn mối vạn hỏi nhưng chưa từng có chút khuất phục. Tuệ Trung lưu xuất được năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Chân Ứng-Đam Nguyên ở Cát châu

2. Thiền sư Duy Giới ở Hương nghiêm tại Đặng châu

3.Tôn Tri Hữu ở Khai phủ

4.Hoàng đế Túc Tông (Lý Hanh)

5.Hoàng đế Đại Tông (Lý Dự)

* Thiền sư Thần Hội ở Hà trạch tại Lạc dương. Mới đầu là một Sa-di đến tham kiến Thiền sư Đại Giám, nhân hỏi đáp mới phát đại tuệ. Sau khi thọ giới Cụ túc, gặp lúc Thiền sư Đại Giám đã thị tịch. Giáo thuyết của Thiền sư Thần Tú-Bắc tông dần hưng thạnh, Thần Hội bèn vân du đến kinh đô. Năm Thiên Bảo thứ tư (745) thời Tiền Đường, mới riêng cắt Tổ đạo phân làm Nam tông Bắc Tông biên thuật bộ sách lấy tựa đề là “Hiển Tông Luận”, nên pháp truyền của Thiền sư Đại Giám bèn cùng được tôn quý trong thiên hạ. Thần Hội lưu xuất được mười tám vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Phước Lâm ở núi Đại thạch tại

Hoàng châu

2. Thiền sư Quang Bảo ở núi Thủy mông

3. Thiền sư Pháp Như ở Từ châu

4. Thiền sư Chuẩn Bình ở núi Tây ẩn tại quận

Hoài an

5. Thiền sư Tuệ Diễn ở Lễ dương

6. Thiền sư Hoài Không ở Hà thang

7. Thiền sư Viên Chấn ở Nam dương

8. Thiền sư Quảng Phu ở Nghi xuân

9. Thiền sư Hạnh Giác ở Giang lăng

10. Thiền sư Thần Anh ở núi Ngũ đài

11. Thiền sư Vô Sinh ở núi Ngũ đài

12. Thiền sư Hạo Ngọc ở Nam nhạc

13. Thiền sư Chí Mãn ở Tuyên châu

14. Thiền sư Lãng ở Phù châu

15. Thiền sư Linh Thản ở Quảng lăng

16. Thiền sư Thông Ẩn ở Ninh châu

17. Thiền sư Nam Ấn ở Ích châu

18. Hà nam duẫn Lý Thường

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Hy Thiên-Thạch Đầu ở Nam nhạc, lưu xuất hai mươi mốt vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Đạo Ngộ ở Thiên hùng tại Kinh châu

2.Thiền sư Thi Lợi ở Kinh triệu

3.Thiền sư Thiên Nhiên ở Đơn hà

4.Thiền sư Tuệ Lãng ở Chiêu đề tại Đà châu

5.Thiền sư Chấn Lãng ở Hưng quốc tại Trường sa

6.Thiền sư Duy Nghiễm ở Dược sơn tại Lễ châu

7.Hòa thượng Đại Xuyên ở Đàm châu

8.Hòa thượng Thạch Thê ở Phần châu

9.Hòa thượng Phật Đà ở Pháp môn tại Phụng tường

10 Hòa thượng Hoa Lâm ở Đàm châu

11 Hòa thượng Đại Điên ở Triều châu

12 Thiền sư Khoáng-Trường Tỳ ở Đàm châu

13 Hòa thượng Thủy Không

14 Thiền sư Bảo Thông

15 Thiền sư Đại Biện ở Hải lăng

16. Hòa thượng Chử Kinh

17. Thiền sư Đạo Tiên ở Hành châu

18. Thiền sư Thường Thanh ở Hán châu

19. Hòa thượng Toái Thạch ở Phước châu

20. Hòa thượng Thương Lãnh ở Thương châu

21. Hòa thượng Nghĩa Hưng ở Thường châu.

* Thiền sư Đạo Nhất vốn người dòng họ Mã tại huyện Thập phương, Hán châu. Hình dáng khôi ngô rất có dị tướng. Mới đầu xuất gia tập học luật phạm thiền định đều hay tinh chuyên, về sau đến Hành sơn gặp Đại sư Hoài Nhượng, thấu rõ được cốt yếu Đại pháp. Sau đó đem pháp ấy về cho mọi người học Phật trong thiên hạ. Các hàng Vương hầu đại nhân kính mộ đạo phong xoay mặt giữ lễ làm học trò đến dưới pháp tòa đông nhiều vô lượng. Lời sấm của Tổ sư xưa trước đến đây đều ứng nghiệm vậy. Đạo Nhất lưu xuất được một trăm ba mươi bảy vị nối dõi dòng pháp. Sau đời Thiền sư Đại Giám, đem giáo pháp hóa độ được người thì chỉ một mình Đạo Nhất hưng thạnh cả. Đó là:

1.Thiền sư Tuệ Hải ở Đại châu tại Việt châu

2.Thiền sư Duy Chính ở Bách trượng

3.Thiền sư Pháp Hội ở Lặc đàm

4.Thiền sư Trí Kiên ở Sam sơn

5.Thiền sư Duy Kiến ở Lặc đàm

6.Thiền sư Đạo Hạnh ở Minh khê tại Lễ châu

7.Thiền sư Tuệ Tạng ở Thạch củng

8.Thiền sư Đạo Thông ở núi Tử ngọc

9.Thiền sư Nhượng ở Bắc lan tại Giang tây

10. Thiền sư Như Mãn ở Phật quang tại Lạc kinh

11. Thiền sư Đại Minh ở Nam nguyên

12. Thiền sư Tự Mãn ở Ly thôn tại Hàng châu

13. Thiền sư Hồng Ân ở Trung ấp tại Đảnh châu

14. Thiền sư Hoài Hải ở Bách trượng

15. Thiền sư Hạo Anh

16. Thiền sư Sùng Thái

17. Thiền sư Tiêu Nhiên ở núi Ngọc mổ

18. Thiền sư Sách ở Hoa châu

19. Thiền sư Trí Thông ở Lễ châu

20. Thiền sư Thần Giám ở núi Vân tú

21. Thiền sư Trí Thông ở Dương châu

22. Thiền sư Trí Tạng ở Hàng châu

23. Thiền sư Hoài Thao ở Kinh triệu

24. Thiền sư Pháp Tạng ở Xứ châu

25. Thiền sư Hoài Tắc ở phủ Hà Trung

26 Thiền sư Minh Cán ở Thường châu

27 Thiền sư Hồng Đàm ở Ngọc châu

28 Thiền sư Hoài Thản ở Tượng nguyên 29 Thiền sư Nguyên Lễ ở Lộ phủ

30 Thiền sư Bảo Khánh ở phủ Hà Trung

31 Thiền sư Chí Hiền ở Cam tuyền

32. Thiền sư Đạo Ngộ ở núi Đại hội

33. Thiền sư Pháp Nhu ở Lộ phủ

34. Thiền sư Giác Bình ở Kinh triệu

35. Thiền sư Thắng Biện ở Nghĩa hưng

36. Thiền sư Khánh Vân ở Hải lăng

37. Thiền sư Huyền Hư ở Hồng châu

38. Thiền sư Tổng Ấn ở núi Tam giác

39. Thiền sư Bảo Vân ở núi Lỗ tổ

40. Thiền sư Thường Hưng ở núi Lặc đàm

41. Thiền sư Trí Tạng ở Tây đường tại Xứ châu

42. Thiền sư Hoài Huy ở Chương kính tại Kinh triệu

43. Thiền sư Ninh Triết ở Bách nham

44. Thiền sư Đại Nghĩa ở Nga hồ

45. Thiền sư Tự Tại ở núi Phục ngưu

46. Thiền sư Bảo Tích ở Bàn sơn

47. Thiền sư Thái Dục ở núi Phù dung

48. Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma cốc

49. Thiền sư Tề An ở Diêm quan

50. Thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ tiết

51. Thiền sư Hải Thường ở núi Đại mai

52. Thiền sư Duy Khoan ở Kinh triệu

53 Thiền sư Như Hội ở Hồ nam

54 Thiền sư Vô Đẳng ở Ngọc châu

55 Thiền sư Trí Thường ở Quy tông

56 Thiền sư Thanh Hạ ở Thiều châu

57. Thiền sư Duy Kiến ở núi Tử âm

58. Thiền sư Hồng Tuấn ở Phong sơn

59. Thiền sư Thần Ngoạn ở Luyện sơn

60. Thiền sư Đạo Viên ở Quật sơn

61. Thiền sư Duy Nhiên ở Ngọc đài

62. Thiền sư Đàm Ký ở Hội sơn tại Trì châu

63. Thiền sư Bảo Tích ở Kinh châu

64. Thiền sư Pháp Tạng ở phu Hà trung

65. Thiền sư Lương tân ở Hán nam

66. Thiền sư Sùng ở Kinh triệu

67. Thiền sư Trí Châu ở Nam nhạc

68. Thiền sư Pháp Tuyên ở Bạch hổ

69. Thiền sư Duy Trực ở Kim quật

70. Thiền sư Thường Triệt ở Bách nham tại Đài châu

71. Thiền sư Huy ở Càn nguyên

72. Thiền sư Đạo Nham ở Tề châu

73. Thiền sư Thường Kiên ở Tương châu

74. Thiền sư Đạo Bản ở Bảo chánh tại Kinh nam

75 Thiền sư Tĩnh Tông ở Vân thủy

76 Thiền sư Linh Nhu ở Kinh châu

77 Thiền sư Viên Sướng ở Long nha

78 Thiền sư Đạo Phương ở Song lãnh

79 Thiền sư Tư Quảng ở núi La phù

80 Thiền sư Định Khánh ở Hiện sơn

81. Thiền sư Duy Hiến ở Việt châu

82. Thiền sư Phổ Mãn ở Quang minh

83. Thiền sư Vô Nghiệp ở Phần châu

84. Thiền sư Quảng Trừng ở Đại đồng tại Lễ châu

85. Thiền sư Phổ Nguyện ở Nam tuyền

86. Thiền sư Phong ở Đặng ẩn núi Ngũ đài

87. Hòa thượng Phật Áo

88. Hòa thượng Ô Cửu

89. Thiền sư Đại Thiện ở Thạch sương

90. Hòa thượng Thạch Cửu

91. Hòa thượng Bản Khê

92. Hòa thượng Thạch Lâm

93. Chủ tọa Lượng ở Tây sơn

94. Hòa thượng Mặc Nhãn

95. Hòa thượng Mễ Lãnh

96. Hòa thượng Tề Phong

97. Hòa thượng Đại Dương

98. Hòa thượng Sơn ở Hồng loa

99. Hòa thượng Vô Liễu ở Quy dương

100. Hòa thượng Lợi Sơn

101. Hòa thượng Nhũ Nguyên

102. Hòa thượng Tùng Sơn

103. Hòa thượng Tắc Xuyên

104. Hòa thượng Đàm Tạng ở Tây viên

105. Hòa thượng Bách Linh

106. Hòa thượng Kim Ngưu

107. Hòa thượng Động An

108. Hòa thượng Đả Địa ở Hàng châu

109. Hòa thượng Tú Khê

110. Hòa thượng Thần Tạng ở núi Mã đầu

111. Hòa thượng Thiện Giác ở Hoa lâm

112. Hòa thượng Thủy Đường

113. Hòa thượng Cổ Tự

114. Hòa thượng Bề Thọ ở Giang tây

115. Hòa thượng Thảo Đường ở Kinh châu

116. Thiền sư Chân Thúc ở Dương kỳ

117. Hòa thượng Mông Khê

118. Hòa thượng Mặc Giản

119. Hòa thượng Hưng Bình

120. Hòa thượng Tiêu Diêu

121. Hòa thượng Phước Khê

122. Hòa thượng Thủy Lão

123. Hòa thượng Phù Bôi

124. Hòa thượng Long Sơn

125. Cư sĩ Bàng Uẩn

126. Thiền sư Minh Giác ở Thiên mục

127. Thiền sư hạnh Minh ở núi Vương cốc

128. Thiền sư Trí Tạng ở Kinh Triệu

129. Thiền sư Hy Hạng ở Đại dương

130. Thiền sư Định Giác ở Côn sơn

131. Đại sư Hồng Sơn ở Tùy châu

132. Thiền sư Nguyên Đề ở Liên châu

133. Thiền sư Tuệ Trung ở Tuyền châu

134. Thiền sư Hoài Không ở núi An phong

135. Thiền sư Đạo Hạnh ở núi La phù

136. Thiền sư Pháp Tạng ở Lô sơn

137. Thiền sư Ninh Bí ở núi Lã hậu.

* Thiền sư Ngộ-Điều Thiện ở Hạ hồi lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Vô Học ở Đàm châu.

* Thiền sư Đại Thiến ở Hành châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Như Thật ở Hồ nam.

* Thiền sư Chân Ứng ở núi Đam nguyên lưu xuất một vị nỗi dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Chánh Thúy ở Cát châu.

* Thiền sư Pháp Như lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Duy Trung ở Kinh nam.

* Thiền sư Hoài Không ở Hà dương lưu xuất một nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Đạo Minh ở Thái châu.

* Thiền sư Viên Chân ở núi Ô Nha lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Ngô Đầu đà

2. Thiền sư Pháp Tín ở núi Tứ diện

* Thiền sư Vô Danh ở núi Đại lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp.

Đó là: Thiền sư Trừng Quán ở Hoa nghiêm tại núi Ngũ đài.

* Thiền sư Nhân ở Nam ấn tại Ích châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Nghĩa Nghê.

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Thiên Nhiên ở núi Đơn hà tại Đặng châu, lưu xuất bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Vô Học ở Thúy vi tại Kinh triệu

2.Thiền sư Nghĩa An ở Đơn hà

3.Thiền sư Tánh Không ở Cát châu

4.Hòa thượng Bản Đồng

5.Hòa thượng Mễ Thương

6.Hòa thượng Đại Ẩn ở Lục hợp tại Dương châu

7.Hòa thượng Tuệ Cần ở Đan hà.

* Thiền sư Duy Nghiễm ở Dược sơn lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Viên Trí ở Đạo ngô

2.Thiền sư Đàm Thịnh ở Vân nham

3.Thiền sư Đức Thành ở Thuyền tử, Hoa Đình

4.Thiền sư Tuệ Tĩnh ở Bề thọ tại Tuyên châu

5.Sa-di Cao ở Dược sơn

6.Nhan Minh Triết ở Ngọc châu

7.Thiền sư Quang Mật Kinh nguyên tại Dĩnh châu

8.Thiền sư Quý ở Dược sơn

9.Hòa thượng Lạc Hà ở Tuyên châu.

* Thiền sư Khoáng-Trường Tỳ ở Đàm châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Thiện Đạo ở Thạch thất tại Đàm châu.

* Hòa thượng Đại Điên ở Triều châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Nghĩa Trung ở núi Tam bình tại Chương châu

2. Hòa thượng Thù sơn.

* Thiền sư Đại Xuyên ở Đàm châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Tiên Thiên

2. Hòa thượng Phổ Quang ở Phước châu.

* Thiền sư Trí Tạng ở Tây Đường tại Kiền châu, lưu xuất bốn vị nói dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Xử Vi ở Kiền châu

2. Thiền sư Đại Nghĩa ở Kê lâm

3. Thiền sư Tuệ ở nước Tân La

4. Thiền sư Hồng Trực ở nước Tân La.

* Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma cốc, tại Bồ châu, lưu xuất hai vị nói dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Lương Toại ở Thọ châu

2. Thiền sư Vô Nhiễm ở nước Tân La.

* Thiền sư Như Hội ở chùa Đông tại Hồ nam, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Tuệ Siêu ở núi Thù du tại Cát châu

2.Thiền sư Cảnh Gia ở Thư châu

3.Thiền sư Quang Triệu ở chùa Trang nghiêm

4. Thiền sư Chiêu ở núi Mạc phụ tại Đàm châu.

* Thiền sư Hoài Huy ở chùa Chương Kính tại Kinh triệu, lưu xuất mười sáu vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Hoằng Biện ở Kinh triệu

2. Thiền sư Trí Chân ở Quy sơn

3. Thiền sư Hoài Chính ở Đảnh châu

4. Thiền sư Tháo ở Kim châu

5. Hòa thượng Cổ Đà ở Đảnh châu

6. Hòa thượng Công Kỳ ở phủ Hà Trung

7. Thiền sư Nhân Vân ở Bách lâm

8. Thiền sư Huyền Triết ở Tuyên châu

9. Thiền sư Bảo Kiên ở phủ Hà Trung

10. Thiền sư Đạo Chí ở Tây kinh

11. Thiền sư Thần Hựu ở Ráng châu

12. Thiền sư Trí Tạng ở Tây kinh

13. Thiền sư Vô tích ở Hứa châu

14. Thiền sư Duy Túc ở Thọ sơn

15. Thiền sư Huyền Dực ở Tân La

16. Thiền sư Giác Thể ở Tân La

* Thiền sư Tề An ở Diêm quan tại Hàng châu, lưu xuất tám vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Đạo Thường ở Quan nam tại Tương châu

2.Thiền sư Huyền Chân ở Song lãnh tại Hồng châu

3.Thiền sư Giám Tông ở Kính sơn

4.Thiền sư Đàm Tĩnh ở Bạch vân

5.Thiền sư Văn Cử ở Lộ phủ

6.Thiền sư Phẩm Nhật ở Tân La

7.Thiền sư Kiến Tông ở Thọ châu

8.Hoàng đế Tuyên Tông (Lý Thầm) thời Tiền Đường.

* Thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ tiết tại Vụ châu, lưu xuất bốn vị nối dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chánh Nguyên ở Quy sơn tại Phước châu

2.Thiền sư Hiểu Phương ở chùa Cam Tuyền

3.Thiền sư Nguyên Toại ở chùa Cam Tuyền

4.Thiền sư Tạng Áo ở chùa Thê Tâm tại Minh châu.

* Thiền sư Như Mãn ở chùa Phật Quang tại Lạc kinh, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thành Hư ở Thượng lâm tại Hồ nam

2. Hòa thượng Bí Ma ở Ngũ đài

3. Hòa thượng Lỳ Lâm ở Hồ nam

4. Thiền sư Văn Chất ở núi Lã hậu 5. Thiền sư Pháp Hà ở Tô châu.

* Thiền sư Bảo Tích ở Bàn sơn tại U châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Phổ hóa ở Trấn phủ

2. Hòa thượng Thượng Phương ở Trấn châu.

* Thiền sư Duy Khoan ở chùa Hưng Thiện tại Kinh triệu, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Pháp Trí ở Kinh triệu

2. Thiền sư Tuệ Kiến ở Kinh triệu

3. Thiền sư Vô Biểu ở Kinh triệu

4. Thiền sư Nguyên Tịnh ở Kinh triệu

5. Thiền sư Tuệ Quang ở Kinh triệu

6. Thiền sư Nghĩa Tông ở Kinh triệu.

* Thiền sư Tĩnh Tông ở Vân thủy lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thần Chiếu ở Tiểu Mã tại Hoa châu

2. Thiền sư Đạo Viên ở Hoa châu.

* Thiền sư Viên Sướng ở núi Long nha tại Đàm châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tạng Dặc ở Gia hòa

2. Thiền sư Tạng Xu ở Dương trường.

* Quốc sư Đại Đạt-Vô Nghiệp ở Phần châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thường Chánh ở Trấn châu

2. Thiền sư Nghĩa ở Phụng tiên tại Trấn châu.

* Thiền sư Pháp Thường (hoặc là Trí Thường) ở chùa Quy Tông tại Lô sơn, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Linh Huấn ở núi Phù dung tại Phước châu

2. Hòa thượng Cao Đình ở huyện Cốc thành tại Hán nam

3. Hòa thượng Đại Ngu ở Cao An tại Hồng châu

4. Thiền sư Trí Thông ở núi Ngũ đài

5. Thiền sư Đại Ngu ở Cao an tại Hồng châu

6. Thứ sử Lý Bột.

* Thiền sư Bản Vân ở núi Lỗ tổ, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Vân Thủy.

* Thiền sư Đạo Thông ở núi Tử ngọc, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Sơn nam đạo Tiết độ sứ Can Địch.

* Thiền sư Trí Nham ở chùa Hoa Nghiêm, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Hòa thượng Tề An ở Hàng châu.

* Thiền sư Hoài Hải, vốn người ở Trường lạc tại Phước châu, mới đầu đến Nam khương, tham học ở Thiền sư Đạo Nhất. Sau khi đắc cốt yếu Đại pháp, bèn đến ở núi Bách trượng. Các hàng học sĩ ở bốn phương đều quy hướng tựa nương, Hoài Hải có sự nhận biết rất xa, từng vì các pháp hội Thiền giả từ xưa trước chưa có chế độ, bèn vì việc ấy mà nhón rút các khuôn phép điều pháp trong kinh luật mà chỉ dạy lưu lại cho đời sau. Hoài Hải lưu xuất được ba mươi vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Linh Hựu ở Quy sơn

2.Thiền sư Hy Vận ở Hoàng nghiệt

3.Thiền sư Hoàn Trung ở núi Đại từ

4.Thiền sư Phổ Ngạn ở Thiên thai

5.Thiền sư Tánh Không ở Thạch sương

6.Thiền sư Thường Quán ở Quân châu

7.Thiền sư Đại An ở Phước châu

8.Thiền sư Thần Tán ở Cổ linh

9.Thiền sư Thông ở Quảng châu

10. Thiền sư Đài ở Vân long (hoặc Long vân) tại Giang châu

11. Thiền sư Đạo ở Vệ quốc tại Lạc kinh

12. Hòa thượng Vạn Tuế ở Trấn châu

13. Hòa thượng Đông Sơn tại Hồng châu

14. Thiền sư Vô Úy ở Cao an

15. Thiền sư Đạo Khoáng ở Đông nham

16. Thiền sư Tố ở Hình châu

17. Thiền sư Cát Bản ở núi Đại thừa tại Đường châu

18. Thiền sư Tuệ Thâm ở núi Tiểu thừa

19. Thiền sư Chiêu Nhất ở Dương châu

20. Thiền sư Giám Thâm ở La phù

21. Thiền sư Phạm Vân ở núi Cửu tiên tại Hồng châu

22. Hòa thượng Niết Bàn ở Bách trượng

23. Thiền sư Tháo ở Lô sơn

24. Thiền sư Khế Chân ở Việt châu

25. Thiền sư Thiên Tánh ở Bao sơn tại Quân châu

26. Thiền sư Bỉ Ngạn ở núi Đại mai

27. Thiền sư Tạng Thuật ở Liêu ớn

28. Thiền sư Đạo Khương ở núi Kỳ xà

29. Hòa thượng Thanh Điền

30. Hòa thượng Đại Vu.

* Thiền sư Duy Trung ở Kinh nam lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Viên

2. Thiền sư Như Nhất ở Ích châu

3. Thiền sư Nhã ở Đông lâm tại Lô sơn

4. Thiền sư Thần Chiếu ở Phụng quốc.

* Ngô Đầu Đà lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Huyền Cố.

* Thiền sư Phổ Nguyện ở Nam tuyền tại Trì châu, lưu xuất mười bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường sa

2. Thiền sư Đàm Chiếu ở Bạch mã

3. Thiền sư Sư Tổ ở núi Chung nam

4. Thiền sư Nghĩa Đoan ở Hương nghiêm

5. Thiền sư Tùng Nẫm ở Triệu châu

6. Thiền sư Nhàn ở Linh thứu tại Trì châu

7. Hòa thượng núi Thù du

8. Thiền sư Lợi Tung ở Tử hồ

9. Hòa thượng Tung Sơn

10. Hòa thượng Nhật Tử

11. Hòa thượng Tây Thiền ở Tô châu

12. Cư sĩ Cam Chí ở Trì châu

13. Thiền sư Tồn Chế ở Tư sơn

14. Thiền sư Đạo Hoằng ở Giang lăng

15. Thiền sư Huyền Cực ở Tuyên châu

16. Thiền sư Đạo Quân ở Tân La

17. Thứ sử Lục Tuyên ở tuyên châu

* Thiền sư Đạo Ngộ ở Thiên hoàng tại Kinh châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

Thiền sư Sùng Tín ở Long đàm tại Lễ châu.

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Sùng Tín ở Long đàm tại Lễ châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuyên Giám ở Đức sơn

2. Hòa thượng Bảo Phong ở Lặc đàm.

* Thiền sư Tùng Nẫm ở Đông viện tại Triệu châu, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Nghiêm Dương ở Hồng châu

2. Thiền sư Tuệ Giác ở Dương châu

3. Thiền sư Phụng ở Lũng châu

4. Thiền sư Tùng Lãng ở Vụ châu

5. Thiền sư Tân Kiến ở Vụ châu

6. Hòa thượng Đa Phước ở Hàng châu

7. Hòa thượng Tây Mục ở Ích châu

8. Hòa thượng Ma Cốc

9. Thiền sư Định Ngạc ở Quán âm

10. Hòa thượng Mính Bình ở Tuyên châu

11. Thiền sư Miễn Đạo ở Thái nguyên

12. Thiền sư Yến Vương ở U châu

13. Thiền sư Triệu Vương ở Trấn châu.

* Thiền sư Lợi Tung ở non Tử hồ tại Cù châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Thắng Quang ở Đài châu

2. Hòa thượng Phù Thạch ở Chương châu

3. Hòa thượng Tử Đồng

4. Hòa thượng Nhật dung.

* Thiền sư Thù du ở Ngạc châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Hòa thượng Thạch Thê.

* Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường sa lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thường Thông ở Tuyết đậu

2. Thiền sư Nghiêm Linh ở Vụ châu.

* Thiền sư Đàm Chiếu ở Bạch Mã, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Vô Danh ở Hoắc sơn tại Tấn châu.

* Thiền sư Tánh Không ở Cát châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Vụ Nguyên ở Hấp châu

2. Thiền sư Quang Nhân ở Tảo sơn.

* Thiền sư Vô Học ở Thúy vi tại Kinh triệu, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Linh ở Thanh bình tại Ngạc châu

2. Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu tử

3. Thiền sư Như Nột ở Đạo tràng tại Hồ châu

4. Thiền sư Ước ở Bạch vân tại Kiến châu

5. Thiền sư Nguyên Thông ở núi Phục ngưu.

* Thiền sư Viên Trí ở núi Đạo ngô tại Đàm châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Khánh Gia ở Thạch sương

2. Thiền sư Trọng Hưng ở Tiệm nguyên

3. Hòa thượng Lục Thanh

* Thiền sư Đàm Thịnh ở Vân nham tại Đàm châu lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Lương Giới ở Động sơn tại Quân châu

2. Thiền sư Giám Hồng ở Hạnh sơn tại Trác châu

3. Thiền sư Tăng Mật ở Thần sơn tại Đàm châu

4. Hòa thượng U khê.

* Thiền sư Đức Thành ở Thuyền tử tại Hoa đình lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Thiện Hội Giáp sơn tại Lễ châu.

* Thiền sư Đạo Thường ở Quan nam tạ Tương châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Ngô ở Quan nam

2. Thiền sư La Hán ở Chương châu

* Đại sư Giám Tông ở Kính sơn tại Hàng châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Hàm Khải ở Thiên đồng

2.Thiền sư Hạnh Chân ở Bội sơn

3.Thiền sư Hạnh Mãn ở núi Đại bi tại Hàng châu.

* Thiền sư Thiên Long, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Câu Chi ở Vụ châu

2. Thiền sư Ngạn Trung ở Tân La

* Thiền sư Đại Ngu ở Cao an, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp.

Đó là Thiền sư Ni Liễu Nhiên ở Mạt sơn tại Quân châu.

* Thiền sư Hồng Trực ở Tân La, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Đại vương Hưng Đức

2. Thái tử Tuyên Khương.

* Thiền sư Vô Tích ở Hứa châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Đạo Toại.

* Thiền sư Thần Chiếu ở Tiểu mã lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Hữu duyên ở quận Tấn vân.

* Thiền sư Đại An ở viện Trường khánh tại Phước châu, lưu xuất mười vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Pháp Chân ở Đại Tùy

2. Thiền sư Như Mẫn ở Linh thọ

3. Thiền sư Sư Giải ở thọ sơn tại Phước châu

4. Hòa thượng Nghiêu Sơn ở Nhiêu châu

5. Thiền sư Tuệ Nhật ở Sùng phước tại Bồ điền

6. Hòa thượng Phù Giang ở Đài châu

7. Hòa thượng Lục thủy ở Lộ châu

8. Thiền sư Viên (hoặc là Viên Minh) ở Quảng châu

9. Thiền sư Linh Dương ở Ôn châu

10. Hòa thượng Chỉ Y ở Hồng châu.

* Thiền sư Hy Vận ở núi Hoàng nghiệt, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Nghĩa Huyền ở Lâm tế

2.Trần Tôn Túc ở Mục châu

3.Thiền sư Sở Nam ở núi thiên khoảnh tại Hàng châu

4.Thiền sư Linh Quán ở núi Ô thạch tại Phước châu

5.Thiền sư Tông Triệt ở La-hán tại Hàng châu

6.Thiền sư Đại Giác ở Ngụy phủ

7.Tướng quốc Bùi Hưu

8.Thiền sư Đức Nguyên ở Dương châu

9.Thiền sư Tán ở Thổ môn

10. Thiền sư Chính ở Tương châu

11. Thiền sư Hoằng Tuyên ở núi Ngô môn

12. Thiền sư Siêu ở U châu

13. Thiền sư Hiến ở Tô châu.

* Thiền sư Linh Hựu ở Quy sơn tại Đàm châu lưu xuất bốn mươi hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Tĩnh ở Ngưỡng sơn

2. Thiền sư Trí Nhàn ở Hương nghiêm

3. Thiền sư Pháp Đoan ở Diên khánh

4. Thiền sư Hồng Nhân ở Kính sơn

5. Thiền sư Chí Cần ở Linh vân

6. Hòa thượng Ứng Thiên ở Ích châu

7. Thiền sư Từ Tuệ ở Cửu phong

8. Hòa thượng Mễ ở Kinh triệu

9. Hòa thượng Hoắc sơn ở Tấn châu

10. Thị giả Sơ Thường ở Vương kính tại Tương châu

11. Thiền sư Viên Giám ở Trường diên

12. Thiền sư Chí Hòa

13. Thiền sư Đạo Phương ở Hồng châu

14. Thiền sư Như Chân ở Quy sơn

15. Thiền sư Nguyên Thuận ở Tinh châu

16. Thiền sư Sùng Hạo ở phủ Hưng Nguyên

17. Thiền sư Toàn Nẫm ở Ngạc châu

18. Thiền sư Thần Kiếm ở Tung sơn

19. Thiền sư Hoằng Tấn ở Hứa châu

20. Thiền sư Văn Lập ở Dư hàng

21. Thiền sư Quang Tướng ở Việt châu

22. Thiền sư Văn Ước ở Tô châu

23. Thiền sư Trí Mãn ở Thượng nguyên

24. Thiền sư Pháp Lãng ở Kim châu

25. Thiền sư Siêu Đạt ở Ngạc châu

26. Thiền sư Tùng Ước ở Bạch lộc

27. Thiền sư Phục ở Tây đường

28. Thiền sư Linh Không ở Linh châu

29. Thiền sư Giản ở Đại quy

30. Thiền sư Trí Lãng ở Kinh nam

31. Thiền sư Phổ Nhuận ở Quy sơn

32. Thiền sư Pháp Chân ở Quy sơn

33. Hòa thượng Hắc Sơn

34. Thiền sư Thần Anh ở Trừ châu

35. Hòa thượng Sơn ở Thạch sương

36. Hòa thượng Nam Nguyên

37. Thiền sư Xung Dật ở Quy sơn

38. Thiền sư Ngạn ở Quy sơn

39. Thiền sư Pháp Ngộ ở Tam giác

40. Thiền sư Chí Thuyên ở Đặng châu

41. Thiền sư Hoằng Khuê ở Kinh châu

42. Thiền sư Đạo Khoáng ở Nham bội.

* Thiền sư Đạo Viên ở Toại châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Tông Mật ở Khuê phong tại núi Chung nam.

* Thiền sư Thần Chiếu ở Phụng quốc, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thường Nhất ở Trấn châu

2. Trí Viễn ở Cốt châu

3. Thiền sư Huyền Thúy ở Lộc đài.

* Thiền sư Lương Giới ở Động sơn tại Quân châu, lưu xuất hai mươi sáu vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Đạo Ứng ở Vân cư

2. Thiền sư Bản Tịch ở Phủ châu

3. Thiền sư Đạo Toàn ở Động sơn

4. Thiền sư Cư Độn ở Long nha

5. Thiền sư Hưu Tĩnh ở Kinh triệu

6. Hòa thượng hiện Tử ở Kinh Triệu

7. Thiền sư Phổ Mãn ở Quân châu

8. Thiền sư Đạo U ở Đài châu

9. Thiền sư Sư Khánh ở Động sơn

10. Thiền sư Tuần Nhu ở Lạc kinh

11. Hòa thượng Càn Phong ở Việt châu

12. Hòa thượng Hòa Sơn ở Cát châu

13. Thiền sư Hàm Khải ở Thiên đồng

14. Hòa thượng Sơn ở Bảo cái tại Đàm châu

15. Thiền sư Thông ở Ích châu

16. Thiền sư Bản Nhân ở Bạch thủy tại Cao an

17. Thiền sư Quang Nhân ở Sơ sơn tại Phủ châu

18. Thiền sư Văn Toại ở Khâm ớn tại Lễ châu

19. Thiền sư Nghĩa ở Thiên đồng

20. Thiền sư Phương ở Thái nguyên

21. Hòa thượng Kim Tạng ở Tân La

22. Thiền sư Bạch ở Ích châu

23. Hòa thượng Văn Thù ở Đàm châu

24. Hòa thượng Bạch Thủy ở Thư châu

25. Hòa thượng Tây Hồ ở Thiệu châu

26. Hòa thượng Thông Huyền ở Thanh dương.

* Thiền sư Tuyên Giám ở Đức sơn tại Đảnh châu, lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Toàn Khoát ở nham đầu

2. Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết phong

3. Thiền sư Tuệ Cung ở Thiên thai

4. Thiền sư Ngỏa Quang tại Tuyền châu

5. Thiền sư Cá ở Cao đình

6. Hòa thượng Tư Quốc ở Hồng châu

7. Thiền sư Thiệu Thích ở Đức sơn

8. Thiền sư Vô Cấu ở phủ Phụng Tường

9. Thiền sư Uất Trì ở Song lưu tại Ích châu.

* Tôn Túc Trần ở Mục châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thứ sử Trần Tháo ở Mục châu

2. Hòa thượng Điếu Đài ở Nghiêm lăng.

* Thiền sư Nghĩa Huyền ở Lâm tế tại Trấn châu. Vốn người dòng họ Hình ở Nam hoa tại Tào châu. Thuở thiếu thời đã có chí ý cao xa, sau khi thọ giới Cụ túc liền chuyên học tông thừa. Lúc tới nơi pháp hội Hoàng nghiệt, có Thiền sư Sơ Cần là bậc thượng tọa trong chúng. Nghĩa Huyền hỏi Hoàng Nghiệt: “Thế nào là đại ý đích xác của Tổ sư từ Tây vức lại?” Hoàng Nghiệt bèn đánh. Nghĩa Huyền ba lần hỏi, Hoàng Nghiệt đều đánh ba lần. Vì thế, Nghĩa Huyền mới cáo từ Sơ Cần muốn bỏ đi. Thiền sư Sơ Cần nói cùng Hoàng Nghiệt rằng: “Nghĩa Huyền tuy là hàng hậu học, nhưng có thể chỉ dạy. Nếu đến giã từ bỏ đi, Sư nên dùng các phương tiện mà tiếp độ nó.” Sáng hôm sau, quả nhiên Nghĩa Huyền ra giã từ, Hoàng Nghiệt bèn bảo: “Ông có thể đi sang Đại Ngu”. Khi đến nơi, Đại Ngu hỏi: “Ông từ đâu lại?” Nghĩa Huyền đáp: “Từ Hoàng Nghiệt lại”. Đại Ngu hỏi: “Hoàng Nghiệt có lời gì chỉ dạy chăng?” Nghĩa Huyền đáp: “Nghĩa Huyền tôi ba lần hỏi thế nào là đại ý đích xác của Tổ sư từ Tây vức lại? Hoàng Nghiệt đều đánh cả ba lần, không biết tôi có lỗi quá gì?” Đại Ngu bảo: “Hoàng Nghiệt nghĩ gì từ bi, vì ông được thấu triệt khốn cùng, còn tìm lỗi quá ở đâu”. Khi ấy, Nghĩa Huyền bèn đại ngộ, nói: “Xưa nay Phật pháp không lắm con”. Đại Ngu vội kéo Nghĩa Huyền và bảo: “Vừa mới lại ông nói là ta không hiểu mà nay lại nói là không lắm con. Là ít nhiều lại? Là ít nhiều lại? Nghĩa Huyền vung tay đấm ba đấm dưới xương sườn Đại Ngu. Đại Ngu buông thả Nghĩa Huyền ra và bảo: “Thầy của ông là Hoàng Nghiệt đâu liên can gì đến việc ta”. Nghĩa Huyền liền trở về lại nơi Hoàng Nghiệt. Hoàng Nghiệt hỏi: “Sao ông chóng trở lại vậy?” Nghĩa Huyền đáp: “Chỉ vì tâm từ bi tha thiết”. Hoàng Nghiệt bảo: “Đại Ngu gã ngăn che đợi thấy cùng đánh một dừng”. Nghĩa Huyền đáp: “Nơi gì đợi thấy tức nay tiện đánh”. Và đấm Hoàng Nghiệt một cái. Hoàng Nghiệt ngâm ngâm cười lớn. Sau, Nghĩa Huyền mới trở về Triệu châu. Mọi người ở Triệu châu rất kính mộ bèn mời đến ở Lâm tế. Các hàng học giả nghe đạo phong chẳng kể từ đâu xa đều đến nương tựa. Nghĩa Huyền lưu xuất được hai mươi bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Chí Nhàn ở Quán khê tại Ngạc châu

2.Thiền sư Đàm Không ở U châu

3.Hòa thượng Chiểu ở Bảo thọ tại Trấn châu

4.Thiền sư Tuệ Nhiên ở Tam Thánh ở Trấn châu

5.Thiền sư Tồn Tương ở Ngụy phủ

6.Thiền sư Thiện Thôi ở Định châu

7.Hòa thượng Vạn Tuế ở Trấn châu

8.Hòa thượng Vân Sơn

9.Am chủ Đồng Phong

10. Am chủ Sam Dương

11. Hòa thượng Chỉ Y ở Trác châu

12. Am chủ Hổ Khê

13. Am chủ Phúc Bồn

14. Hòa thượng Lịch Thôn ở Tương châu

15. Hòa thượng Mễ Thương ở Thương châu

16. Thiền sư Tề Tung

17. Thiền sư Tú ở Trác châu

18. Thiền sư Triệt ở Thiện quyền

19. Thiền sư Kim Sa

20. Thiền sư Duẫn Thành

21. Thiền sư Sơn ở Trí dị tại Tân La

22. Thiền sư Đại Giác ở Ngụy phủ

23. Thượng tọa Định

24. Thượng tọa Khoát

* Thiền sư Đại Giác ở Ngụy phủ lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đại Giác ở Lô châu

2. Thiền sư Mẫn Đức ở Trừng tâm tại Lô châu

3. Hòa thượng Nam Viện ở Nhữ châu

4. Hòa thượng Pháp Hoa ở Tống châu.

* Thiền sư Tông Mật ở Khuê phong, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Ôn ở Khuê phong

2. Thiền sư Thái Cung ở Từ ân

3. Thiền sư Thái Tích ở Hưng thiện

4. Thiền sư Tông ở Vạn thừa

5. Thiền sư Giác ở Thụy Thánh

6. Thiền sư Nhân Du ở Hóa độ.

* Thiền sư Huyền Thúy ở Lộc đài lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Niệm ở Long hưng.

* Thiền sư Trí Viễn ở Cốt châu lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thẩm Dụng ở Bành môn

2. Thiền sư Viên Thiệu

3. Thiền sư Chân ở Thượng phương

4. Thiền sư Pháp Chí ở Đông kinh

* Thiền sư Tuệ Giác ở viện Quang hiếu tại Dương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Đại Hiến ở Trường khánh tại Thăng châu.

* Thiền sư Tuệ Tịch ở Ngưỡng sơn tại Viên châu, lưu xuất mười vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Quang Mục ở Ngưỡng sơn

2. Thiền sư Cảnh Thông ở Tấn châu

3. Thiền sư Văn Hỷ ở Long tuyền tại Hàng châu

4. Thiền sư Thuận Chi ở Tân La

5.Thiền sư Quang Dũng ở Nam tháp tại

Ngưỡng sơn

6.Hòa thượng Đông Tháp ở Ngưỡng sơn

7.Thiền sư Thường Quyên ở Quán âm tại Hồng châu

8.Thiền sư Tuệ Mậu ở Đông thiền tại Phước châu

9. Thiền sư Đạo Sùng ở núi Minh nguyệt tại Phước châu

10. Thiền sư Toại Xướng ở Xử châu.

* Thiền sư Trí Nhàn ở Hương nghiêm tại Đặng châu, lưu xuất mười hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Chỉ Quán ở Cát châu

2.Thiền sư Thiệu Tông ở Thọ châu

3.Thiền sư Pháp Đoan ở Diên khánh tại Tương châu

4 Thiền sư Vô Nhiễm ở Ích châu

5 Hòa thượng Sơn ở Trường bình tại Ích châu

6 Đại sư Diễn Giáo ở Ích châu

7.Thiền sư Thanh Cán ở An châu

8.Hòa thượng chùa Phong Đức ở núi Chung nam

9.Thiền sư Huy ở núi Võ đang tại Quân châu

10. Thiền sư Điều Đạo ở Song khê tại Giang châu

11. Hòa thượng Chiếu Giác ở Ích châu

12. Hòa thượng Đông Thiền ở Mục châu.

* Thiền sư Song Phong ở Phước châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Cổ ở Song phong.

* Thiền sư Hồng Nhân ở Kính sơn tại Hàng châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Mễ Điên ở Hồng châu

2. Thiền sư Tịch ở Lô châu

3. Thiền sư Nghĩa Trực ở Lâm xuyên

4. Thiền sư Linh Đạo ở Công thần tại Hàng châu.

* Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu tử tại Thư châu, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Ôn-đời thứ hai ở Đầu tử

2. Thiền sư Vi ở Ngưu đầu tại Phước châu

3. Thiền sư Trừng Chiếu ở Hương sơn

4 Hòa thượng Thiên Phước ở Thiểm phủ

5 Thiền sư Tư Minh ở Hào châu

6 Thiền sư Chiêu Phước ở Phụng tường

7. Thiền sư Tuân Cổ ở núi Trung lương tại Hưng nguyên

8.Hòa thượng Cốc Ẩn ở Tương châu

9.Hòa thượng ở núi Cửu tung tại An châu

10. Hòa thượng đời thứ hai ở Bàn sơn tại U châu

11. Thiền sư Kính Tuệ ở núi Cửu tung

12. Thiền sư Nham Tuấn ở Quán âm tại Đông kinh

13. Thiền sư Chân ở Long phước tại Quế dương.

* Thiền sư Linh Tuân ở núi Thanh bình tại Ngạc châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Linh Khuê ở núi Tam giác tại Kỳ châu. * Thiền sư Khánh Gia ở Thạch sướng tại Đàm châu, lưu xuất bốn mươi mốt vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Tăng Nhất ở núi Nam tế

2. Thiền sư Cư Hối ở núi đại quang

3. Thiền sư Hoài Hựu ở Lô sơn

4. Thiền sư Đạo Kiền (Khánh?) ở Cửu phong

5. Thiền sư Cảnh Hân ở Dũng tuyền

6. Thiền sư Chí Nguyên ở núi Vân cái

7 Thiền sư Tạng

8 Thiền sư Hồng Tiến ở Phước châu

9 Thiền sư Tuệ Không ở Đức sơn

10. Thiền sư Sùng Ân ở Cát châu

11. Thiền sư Huy ở Thạch sương

12. Hòa thượng Ba Tiêu ở Dĩnh châu

13. Hòa thượng Phục ở Đàm châu

14. Thiền sư Huy ở Lộc uyển

15. Thiền sư Ước ở Bảo cái

16. Thiền sư Hải Mân ở Vân môn

17. Hòa thượng Văn Thù ở Hồ nam

18. Hòa thượng Thạch Trụ

19. Hòa thượng Trung Vân Cái

20. Thiền sư Tồn Thọ ở Hà trung

21. Thiền sư Huyền Thái ở Nam nhạc

22. Thiền sư Kính ở Hàng châu

23. Thiền sư Tông Hải ở Lộ phủ

24. Thiền sư Khâm Trung ở Tân La

25. Thiền sư Hạnh Tịch ở Tân La

26. Hòa thượng Lộc Nguyên ở Hồng châu

27. Hòa thượng ở núi Đại dương

28. Hòa thượng Quán Âm ở Cốt châu

29. Hòa thượng Chánh Giác ở Vận châu

30. Hòa thượng Cao Minh ở Thương châu

31. Hòa thượng Khánh Thọ ở Hứa châu

32. Hòa thượng Vạn Tuế ở Trấn châu

33. Hòa thượng Linh Thọ ở Trấn châu

34. Hòa thượng Hồng Tế ở Trấn châu

35. Thiền sư Giản Chi ở Cát châu

36. Thiền sư Hồng Phương ở Đại lương

37. Thiền sư Thủ Nhàn ở Ngang châu

38. Thiền sư Lãng ở Tân La

39. Thiền sư Thanh Linh ở Tân La

40. Thiền sư Sảng ở Phần châu

41. Thiền sư Thông ở Dư hàng

* Thiền sư Thiện Hội ở Giáp sơn tại Lễ châu, lưu xuất hai mươi hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Nguyên An ở núi Lạc phổ

2. Thiền sư Linh Siêu ở Hồng châu

3. Hòa thượng Tứ Thiền ở Vận châu

4. Thiền sư Hoài Trung ở Giang tây

5. Thiền sư Khả Văn ở Bàng long

6. Thiền sư Nguyệt Luân ở Phủ châu

7. Thiền sư Hoàn Phổ ở Lạc kinh

8. Hòa thượng Hải Hồ ở Thái nguyên

9. Hòa thượng chùa Bạch thủy ở Gia châu

10. Thiền sư U ở phủ Phụng Tường

11. Hòa thượng Đồng An ở Hồng châu

12. Thiền sư Đàm Phổ ở Thiều châu

13. Hòa thượng ở núi Tiên cư tại Cát châu

14. Thiền sư Đoan ở Thái nguyên.

15. Hòa thượng Diên Khánh ở Hồng châu

16. Hòa thượng Việt Phong ở Việt châu

17. Hòa thượng ở núi Kỳ xà tại Đảnh châu

18. Hòa thượng Thê Mục ở Ích châu

19. Thiền sư Toàn ở Tung sơn

20. Hòa thượng ở viện Giáp sơn tại Ích châu

21. Hòa thượng Vân Nham ở Tây kinh

22. Hòa thượng Hưu ở Diên khánh tại An phước.

ĐỜI THỨ BẢY SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM

* Thiền sư Chín Nhàn ở Quán khê, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Giáo ở núi Lỗ tổ tại Trì châu.

* Thiền sư Tồn Tương ở Hưng hóa tại Ngụy phủ, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là: 1. Hòa thượng Bảo Ứng ở Nhữ châu

2. Hòa thượng Thiên Bát.

* Thiền sư Chiểu ở Bảo thọ tại Trấn châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tư Minh ở Tây viện tại Nhữ châu

2. Hòa thượng Bảo Thọ đời thứ hai ở Tây viện.

* Hòa thượng Chỉ Y ở Trác châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Đàm Không ở Trấn châu.

* Thiền sư Tuệ Nhân ở Tam Thánh tại Trấn châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Thiện Bản ở Tương châu.

* Thiền sư Cư Hối ở núi Đại quang tại Đàm châu, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Hữu Duyên ở Đàm châu

2.Hòa thượng Long Hưng

3.Hòa thượng đời thứ nhất ở núi Phục long tại Đàm châu

4.Hòa thượng đời thứ hai ở núi Phục long tại Đàm châu

5.Thiền sư Thiện Tạng ở Bạch vân tại Kinh châu

6. Hòa thượng đời thứ ba ở núi Phục long tại Đàm châu

7.Hòa thượng ở núi Long lăng tại Thiểm phủ

8.Thiền sư Huyền ở núi Đại quang

9.Hòa thượng Đằng Hà ở Chương châu

10. Hòa thượng Tịnh Giác ở Tống châu

11. Hòa thượng Chứng ở Hoa châu

12. Hòa thượng Hòa ở Vĩnh thọ tại Ngạc châu

13. Hòa thượng Linh Trúc ở Ngạc châu.

* Thiền sư Đạo Kiền ở Cửu phong tại Quân châu lưu xuất mười vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Thanh Viện ở Tân La

2. Thiền sư Thần đảng ở Lặc đàm tại Hồng châu

3. Thiền sư Tu Hành ở Cát châu

4. Thiền sư Minh ở Hồng châu

5. Hòa thượng Kê ở Cát châu

6. Hòa thượng Diên Mậu ở Hồng châu

7. Thiền sư Thường Sát ở Đồng an tại Hồng châu

8. Thiền sư Ngộ ở Lặc đàm tại Hồng châu

9. Thiền sư Vô Ân ở Hòa sơn tại Cát châu

10. Hòa thượng Mâu ở Lặc đàm.

* Thiền sư Cảnh Hân ở Dũng tuyền tại Đài châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Thiệu ở Lục thông tại Đài châu.

* Thiền sư Chí Nguyên ở núi Vân cái tại Đàm châu lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chí Hãn ở núi Vân cái

2. Hòa thượng Ngọa Long ở Tân La

3. Hòa thượng Thiên Thai ở Bành châu.

* Thiền sư Tạng ở Cốc sơn tại Đàm châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Thụy Nham ở Tân La

2. Hòa thượng Bạc Nghiêm ở Tân La

3. Hòa thượng Đại Điên ở Tân La.

* Thiền sư Trung Vân Cái sơn tại Đàm châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Hòa thượng Cảnh ở núi Vân cái.

* Thiền sư Tồn Thọ ở Thê nham tại phủ Hà Trung lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Đạo Đức.

* Thiền sư Đạo Ứng ở núi Vân cư tại Hồng châu lưu xuất hai mươi tám vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1.Hòa thượng Phật Nhật ở Hàng châu

2.Thiền sư Chân ở viện Vĩnh quang tại Tô châu

3.Thiền sư Phi ở Đồng an tại Hồng châu

4.Thiền sư Đam Quyền ở Quy tông

5.Hòa thượng Quảng Tế ở Trì châu

6.Hòa thượng Nam Đài ở Thủy tây tại Đàm châu

7.Thiền sư Khiêm ở Tiên khê tại Hấp châu

8.Hòa thượng Phong Hóa ở Dương châu

9.Thiền sư Đạo Giản ở núi Vân cư

10. Thiền sư Hoài Uẩn ở Quy tông

11. Thiền sư Tuệ Hải ở Đại thiện tại Hồng châu

12. Hòa thượng đời thứ bảy ở Đức sơn tại Đảnh châu

13. Hòa thượng Nam đài ở Nam nhạc

14. Thiền sư Xướng ở núi Vân cư

15. Thiền sư Chương ở Kê sơn tại Trì châu

16. Hòa thượng Đại Phạm ở Tấn châu

17. Hòa thượng Vân Trụ ở Tân La

18. Thiền sư Hoài Nhạc ở núi Vân cư

19. Hòa thượng Lĩnh Giác

20. Thiền sư Ngộ Không ở chùa Long Hưng tại Đàm châu

21. Thiền sư Giảm ở Bạch vân tại Kiến châu

22. Hòa thượng ở núi Mạc phụ tại Đàm châu

23. Thiền sư Vĩ ở núi Bạch thủy tại Đàm châu

24. Hòa thượng ở núi Dã phụ tại Lô châu

25. Hòa thượng Pháp Chí ở Nam nhạc

26. Thiền sư Khánh Du ở Tân La

27. Thiền sư Tuệ ở Tân La

28. Thiền sư Tuệ Chí ở núi Phụng thê tại Hồng châu.

* Thiền sư Bản Tịch ở Tào sơn tại phủ Châu, lưu xuất mười bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Quang Tuệ ở Hà ngọc tại phủ Châu

2.Thiền sư Đạo Diên ở Động sơn tại Quân châu

3.Thiền sư Hoằng Thông ở núi Dục vương tại Hành châu

4.Thiền sư Tùng Chí ở Kim phong tại phủ Châu

5.Thiền sư Xử Chân ở Lộc môn tại Tương châu

6.Thiền sư Tuệ Hà ở Tào sơn tại phủ Châu

7.Thiền sư Phạm ở Hoa quang tại Hành châu

8.Thiền sư Dung ở Quảng lợi tại Xử châu

9.Thiền sư Hạnh Truyền ở viện Tiểu khê tại Tuyền châu

10. Hòa thượng ở non Bố thủy tại Tây xuyên

11. Hòa thượng Tây Thiền ở Thục xuyên

12. Thiền sư Pháp Nghĩa ở Thảo am tại Hoa châu

13. Hòa thượng Hoa Nghiêm ở Thiều châu

14. Sơn chủ Trì Long ở La-hán tại Lô sơn.

* Thiền sư Cư Độn ở núi Long nha tại Đàm châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tạng Dư ở Báo từ tại Đàm châu

2. Thiền sư Thẩm Triết ở núi Hàm châu tại Tương châu

3. Thiền sư Hoằng Tịch ở Bạch mã tại Phụng tường

4. Thiền sư Bân ở viện Quán âm tại Sở châu.

* Thiền sư Thể Tịnh ở chùa Hoa Nghiêm tại Kinh triệu lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1 Thiền sư Khuông Nhất ở Tử lăng tại phủ Phụng Tường

2. Thiền sư Duy Trực ở Bắc thiền tại Nhiêu châu

3. Hòa thượng Hóa Thành ở Duy châu.

* Thiền sư Phổ Mãn ở Cửu phong tại Quân châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Oai ở Đồng an tại Hồng châu.

Thiền sư Sư Kiến ở Thanh; âm lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Hòa thượng Long Quang ở Thiều châu

2.Thiền sư Hiến ở chùa Thạch Môn tại Tương châu

3.Hòa thượng Quảng Đức ở Tương châu

4.Hòa thượng Ba Tiêu ở Dĩnh châu

5.Thiền sư Tuệ Cự ở Thạch long tại Định châu

6.Thiền sư Thông Tánh ở diên khánh tại Tương châu.

* Thiền sư Tuần Nhu ở Bạch mã tại Lạc kinh lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng ở núi Thanh tỏa tại phủ Hưng Nguyên

2. Hòa thượng Bảo Phước ở Kinh triệu.

* Thiền sư Thông ở Bắc việc tại Ích châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Hòa thượng Hương Thành ở Kinh Triệu.

* Thiền sư Bản Nhân ở Bạch thủy tại Cao an, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Trí Huy ở Trùng vân tại Kinh triệu

2. Thiền sư Ấn Chương ở Thụy long tại Hàng châu.

* Thiền sư Khương Nhân ở Sơ sơn tại phủ Châu, lưu xuất hai mươi vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chứng đời thứ hai ở Sơ sơn

2 Thiền sư An ở bách trượng tại Hồng châu

3.Thiền sư Tuệ ở Hoàng nghiệt tại Quân châu

4.Thiền sư Thủ Trừng ở Hộ quốc tại núi Tùy thành

5.Thiền sư Quy Nhân ở Linh tuyền tại Lạc kinh

6.Thiền sư Phụng Lân ở Diên khánh tại Diên châu

7.Thiền sư Tỉnh ở núi Đại an tại An châu

8.Thiền sư Siêu ở Bách trượng tại Hồng châu

9.Hòa thượng ở viện Thiên vương tại Hồng châu

10. Thiền sư Uẩn ở viện Chánh cần tại Thường châu

11. Hòa thượng Động Sơn ở Tương châu

12. Hòa thượng Tam Tướng ở Kinh triệu

13. Thiền sư Hành Kế ở núi Ngũ phong tại Quân châu

14. Hòa thượng Cao Minh ở Thương châu

15. Thiền sư Đạo Thái ở Tây khê tại Hoa châu

16. Hòa thượng Sơ Sơn ở Phủ châu

17. Thiền sư Linh Ước ở núi Hoàng nghiệt tại Quân châu

18. Thiền sư Viễn ở Tường quang tại Dương châu.

19. Thiền sư Truyền Tánh ở núi Đại an tại An châu

20. Thiền sư Doanh ở Hoàng nghiệt tại Quân châu.

* Thiền sư Văn Thúy ở Khâm sơn tại Lễ châu lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tự Cổ ở Thượng lam tại Hồng châu

2. Thái thú Lôi Mãn ở Lễ châu.

* Thiền sư Nguyên An ở núi Lạc phổ lưu xuất mười vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thiện Tỉnh ở Vĩnh an tại Kinh triệu

2. Thiền sư Ngạn Tân ở núi Ô Nha

3. Thiền sư Truyền Sở ở Thanh phong tại phủ Phạm tường

4. Hòa thượng Trung Độ ở Ngạc châu

5. Hòa thượng Động Khê ở Gia châu

6. Hòa thượng Ngọa Long ở Kinh triệu

7. Thiền sư Tuệ Thông ở Mặc thủy tại Gia châu

8. Hòa thượng Bàn Long ở Kinh triệu

9. Hòa thượng Đông Thiền ở Đơn châu

10. Thiền sư Thiện Nhã ở Ly châu

* Thiền sư Hoài Trung ở núi Tiêu dao tại Giang tây lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sư Nguy ở Phước thanh tại Tuyền châu

2. Thiền sư Vô Hưu ở Bạch vân tại Kinh triệu.

* Thiền sư Khả Văn ở núi Bàn long tại Viên châu, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1 Thiền sư Tịnh Ngộ ở Vĩnh an, Lô sơn tại Giang châu

2. Thiền sư Thiện Đạo ở núi Mộc bình tại Viên châu

3. Hòa thượng Long Khê ở Thiểm phủ

4. Thiền sư Chí Thông ở Quế dương

5. Thiền sư Tịnh Tịch ở Thọ xương tại Lô châu.

* Thiền sư Nguyệt Luân ở Hoàng sơn tại Phủ châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng ở núi Đông tuyền tại Dĩnh châu.

* Thiền sư Hoàn Phổ ở Thiền sơn tại Lạc kinh, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Văn Thù ở Đàm châu

2. Hòa thượng Bạch ở Đại nham tại Tường châu.

* Thiền sư Linh Diệu ở Thượng lam tại Hồng châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Giản ở Bắc viện tại Hà đông

2. Nam Bình Dương Chung Truyền ở Hồng châu.

* Thiền sư Quang Dũng ở Nam pháp, Ngưỡng sơn, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Toàn Phó ở Thanh hóa tại Việt châu

2.Thiền sư Tuệ Thanh ở Ba tiêu tại Dĩnh châu

3.Thiền sư Nghĩa Sơ ở núi Hoàng liên tại Thiều châu

4 Thiền sư Hồng Cứu ở Tuệ lâm tại Thiều châu

5. Hòa thượng Hoàng Long tại Hồng châu.

* Thiền sư Quang Mục ở Tây tháp, Ngưỡng sơn tại Viên châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Như Bảo ở Tư phước tại Cát châu

* Thiền sư Toàn Khoát ở Nham đầu tại Ngạc châu, lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sư Ngạn ở Đài châu

2. Thiền sư Ngạn ở Hoài châu

3. Thiền sư Tuệ Tông ở Cát châu

4. Thiền sư Đạo Nhàn ở Phước châu

5. Thiền sư Tùng Phạm ở Phước châu

6. Thiền sư Nghiêm ở Phước châu

7. Thiền sư Hải Nhất ở Hồng châu

8. Hòa thượng Thiều ở Tín châu

9. Hòa thượng Nột ở Hồng châu.

* Thiền sư Tư Cốc ở Cảm Đàm tại Hồng châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Chí Viên ở An châu.

* Thiền sư Đạo Hiến ở Kim lăng lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Xử Vi ở Quảng hóa tại Kim lăng.

* Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết phong tại Phước châu, lưu xuất năm mươi sáu vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1 Thiền sư Sư Bị ở Huyền sa

2. Thiền sư Tuệ Lăng ở Phước châu

3. Thiền sư Huyền Thông ở Phước châu

4. Thiền sư Đạo Phú ở Hàng châu

5. Thiền sư Kiểu Nhiên ở núi Trường sinh tại Phước châu

6. Thiền sư Trí Phu ở Nga hồ

7. Thiền sư Hoài Nhạc ở Báo ân tại Chương châu

8. Thiền sư Hóa Độ ở Tây Hưng tại Hàng châu

9. Thiền sư Thần Yên ở Bành sơn tại Phước châu

10. Thiền sư Thiệu Khanh ở Long thọ tại Chương châu

11. Thiền sư Hành Thao ở Tiên tông tại Phước châu

12. Thiền sư Tùng Yểm ở núi Liên hoa tại Phước châu

13. Thiền sư Linh Chiếu ở chùa Long hoa tại Hàng châu

14. Thiền sư Linh Nham ở Thúy nham tại Minh châu

15. Thiền sư Hoằng Thao tại Phước châu

16. Thiền sư Quy Bản ở núi Vân cái tại Đàm châu

17 Hòa thượng Lâm Tuyền tại Thiều châu

18. Hòa thượng Nam Viện tại Lạc kinh

19. Thiền sư Khả Hưu ở Động nham tại Việt châu

20. Thiền sư Hạnh Châu ở Pháp Hải tại Định châu

21. Thiền sư Thông ở Long tỉnh tại Hàng châu

22. Thiền sư Tùng Triển ở Bảo phước tại Chương châu

23. Thiền sư Đạo Phổ ở Thụy long tại Tuyền châu

24. Thiền sư Tông Tỉnh ở chùa Long hưng tại Hàng châu

25. Thiền sư Khế Phan ở Nam thiền tại Phước châu

26. Thiền sư Sư Đảnh ở Việt Sơn tại Việt châu

27. Thiền sư Khả Quán ở Kim luân tại Nam nhạc

28. Thiền sư Huyền Nột ở Phước thanh tại Tuyền châu

29. Thiền sư Văn Yển ở Vân môn tại Thiều châu

30. Thiền sư Nhân ở Nam đài tại Cù châu

31. Hòa thượng Đông Thiền tại Tuyền châu

32. Thiền sư Tùng Tập ở Đại tiền tại Dư hàng

33. Hòa thượng Vĩnh Thái ở Phước châu

34 Thiền sư Thủ Nột ở núi Hòa long tại Trì châu

35. Hòa thượng Mộng Bút ở Kiến châu

36. Thiền sư Duẫn Nghiễm ở viện Cực lạc, Cổ điền tại Phước châu

37. Thiền sư Như Thể ở núi Phù dung tại Phước châu

38. Hòa thượng ở núi Khế hạc tại Lạc kinh

39. Thiền sư Thê ở Quy sơn tại Đàm châu

40. Thiền sư Diên Tông ở Hồ sơn tại Cát châu

41. Thiền sư Phổ Minh ở núi Phổ thông tại Ích châu

42. Thiền sư Am Tỉnh ở Lương gia, Song tuyền tại Tùy châu

43. Thiền sư Siêu Ngộ ở Bảo phước tại Chương châu

44. Thượng tọa Phu ở Thái nguyên

45. Thiền sư Duy Kính ở Nam nhạc

46. Thiền sư Thầm Siêu ở Thập tướng tại Đài châu

47. Thiền sư Nột ở Lô sơn tại Giang châu

48. Thiền sư Đại Vô Vi ở nước Tân La

49. Thiền sư Huyền Huy ở Lộ châu

50. Hòa thượng Thanh Tịnh ở Hồ châu

51. Hòa thượng Tuyết Phong ở Vĩnh an tại Ích châu

52 Thiền sư Đức Minh ở Lô tiên

53. Thiền sư Hoài Trung ở Minh Thủy tại Phủ châu

54. Thiền sư Hoài Cảo (hoặc là Quả) ở Ích châu

55. Thiền sư Tu Hành ở Nhĩ tướng tại Hàng châu

56. Thiền sư An Đức ở Tung sơn.

* Thiền sư Nam Viện ở Nhữ châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Diên Chiểu ở Phong huyệt tại Nhữ châu.

* Thiền sư Tư Minh ở Tây viện tại Nhữ châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Quy Tỉnh ở Hưng dương tại Dĩnh châu.

-(HẾT)-

QUYỂN 8

LƯỢC TRUYỆN CHÁNH TÔNG PHÂN GIA (Tiếp Theo)

ĐỜI THỨ TÁM SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG.

- Thiền sư Văn Yển ở núi Vân môn tại Thiều châu. Vốn người dòng họ Trương ở Gia hưng tại Tô châu. Bẩm tánh thông minh dĩnh ngộ từ thuở bé thơ đã khác hẳn đồng bạn. Sau khi xuất gia đắc giới, Văn Yển tập học kinh luật luận, không bao lâu thảy đều thông rành. Đến lúc vân du dự tham các bậc Thiện tri thức, chỉ một lần thấy gặp Trần Tôn Túc bèn thấu đạt tông chỉ, sau đó được ấn chứng từ Thiền sư Tồn tại Tuyết phong. Từ đó, Văn Yển ẩn dật tỏa sáng lẫn lộn trong Tăng chúng. Nhân theo hướng Nam đi đến trong Pháp hội của Thiền sư Mẫn ở Linh thọ tại Thiều dương. Thiền sư Mẫn là con người đặc dị được xưng gọi là bậc hay dự biết, mà trông thấy Văn Yển lại đặc biệt cũng mến trọng bèn bảo ở Đệ nhất tòa trong chúng. Đến lúc sắp thị tịch gởi thư đề bạt cùng Quảng chủ người dòng họ Lưu bảo mời Văn Yển tiếp lãnh thọ Đạo tràng đó. Về sau Quảng chủ tu sửa Đại già lam Vân Môn mời thỉnh chuyển dời Văn Yển đến ở đó. Tiếng tăm Đạo phong Văn Yển bèn vang vọng, các học giả ở bốn phương đều quy hướng nương tựa như nước trút đổ xuống, mà phong giáo của Văn Yển cao vời, hướng đạo càng thấu đạt. Nay trong thiên hạ còn xưng gọi đó là một Tông Vân môn. Văn Yển lưu xuất tám mươi tám vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Hòa thượng Tường ở Bạch vân tại Thiều châu

2.Thiền sư Duyên Mật ở Đức sơn

3.Thiền sư Đạo Tuân ở Nam đài tại Đàm châu

4.Thiền sư Cảnh khâm ở Song phong tại Thiều châu

5.Hòa thượng Tư Phước ở Thiều châu

6.Thiền sư Nguyên ở Quảng vân tại Quảng châu

7.Thiền sư Luân ở Long cảnh tại Quảng châu

8.Thiền sư Sảng ở Vân môn tại Thiều châu

9.Thiền sư Văn ở Bạch vân tại Thiều châu

10. Thiền sư Trí Tịch ở Phi vân tại Thiều châu

11. Hòa thượng Chương ở Tịnh pháp tại Thiều châu

12. Thiền sư Mãn ở núi Ôn môn tại Thiều châu

13. Thiền sư Hạo Giám ở Ba lăng tại Nhạc châu

14 Thiền sư Tuệ Từ ở Địa tạng tại Liên châu

15. Hòa thượng Nhân ở Đại dung tại Anh châu

16. Thiền sư Sùng ở La sơn tại Quảng châu

17. Thiền sư Bảo ở Vân môn tại Thiều châu

18. Thiền sư Cánh Thoát ở Lâm khê tại Dĩnh châu

19. Thiền sư Tuệ ở Hoa nghiêm tại Quảng châu

20. Hòa thượng Thiều ở Thuấn phong tại Thiều châu

21. Hòa thượng Quán Âm ở Anh châu

22. Hòa thượng Tuyền Lâm ở Thiều châu

23. Thiền sư Sư Khoan ở Song tuyền tại Tùy châu

24. Hòa thượng Hy ở Vân môn tại Thiều châu

25. Hòa thượng Trừng Viễn ở Hương lâm tại Ích châu

26. Thiền sư Khải Nhu ở Bát-nhã tại Nam nhạc

27. Thiền sư Pháp Tế ở Hoàng nghiệt tại Quân châu

28. Thiền sư Thủ Sơ ở Động sơn tại Tương châu

29. Hòa thượng Diệu ở Khương quốc tại Tín châu

30. Thiền sư Phong ở Sơn cốc tại Đàm châu

31. Thiền sư Khuôn Quả ở La-hán tại Dĩnh châu

32 Hòa thượng Lân ở Thương khê tại Đảnh châu

33. Thiền sư Thanh Bẩm ở Động sơn tại Quân châu

34. Hòa thượng Tịch ở Bắc thiền tại Kỳ châu

35. Thiền sư Đạo Khiêm ở Lặc đàm

36. Thiền sư Vĩnh Bình ở Nam thiên vương tại

Lô châu

37. Thiền sư Lãng ở Vĩnh an tại Hồ nham

38. Hòa thượng Đàm Minh ở Hồ nam

39. Thiền sư Minh ở Thanh lương tại Kim lăng

40. Thiền sư Thâm ở Phụng tiên tại Kim lăng

41. Hòa thượng Thừa ở Thanh thành tại Tây xuyên

42. Thiền sư Trăn ở Diệu thắng tại Lộ phủ

43. Hòa thượng Phong ở Phổ thông tại Hưng nguyên

44. Thiền sư Đăng Phong ở Thiều châu

45. Hòa thượng Viên ở Đại phạm tại Thiều châu

46. Hòa thượng Viên ở Dược sơn tại Lễ châu

47. Hòa thượng Vân Chấn ở Nga hồ tại Tín châu

48. Thiền sư Thành Diệu ở Khai tiên tại Lô sơn

49. Thiền sư Thanh Hải ở Phụng quốc tại Tương châu

50 Hòa thượng Từ Quang ở tại Thiều châu

51. Thiền sư Sư Mật ở Bảo an tại Đàm châu

52. Thiền sư Dung ở núi Vân cư tại Hồng châu

53. Thiền sư Thủ Hiền ở chùa Đại Thánh tại Hành châu

54. Thiền sư Huy ở Bắc thiên vương tại Lô châu

55. Thiền sư Hoằng Nghĩa ở núi Ba Tiêu tại Dĩnh châu

56. Thiền sư Quang ở viện Phước hóa tại My châu

57. Thiền sư Quảng Từ ở Đông thiên vương tại Lô châu

58. Thiền sư Khâm ở Tây thiền tại Tín châu

59. Thiền sư Chân ở Quảng vân tại Giang châu

60. Thiền sư Tuệ Chân ở Song phong tại Thiều châu

61. Thiền sư Pháp Cầu ở núi Vân môn

62. Thiền sư Quảng Ngộ ở Thiều châu

63. Thiền sư Chính ở núi Trường lạc tại Thiều châu

64. Thiền sư Viễn ở núi Phật-đà tại Thiều châu

65. Thiền sư Thiều ở núi Linh thứu tại Thiều châu

66. Thiền sư Chân ở núi Tịnh nguyên tại Thiều châu

67 Thiền sư ở núi Nguyệt hoa tại Thiều châu

68. Thiền sư Chân ở Song phong tại Thiều châu

69. Thiền sư Úc ở núi Song tuyền tại Tùy châu

70. Thiền sư Thâm ở núi Từ vân

71. Thiền sư Giám ở Hóa thành tại Lô châu

72. Thiền sư Hộ Quốc ở Lô sơn.

73. Thiền sư Khánh Vân ở Lô sơn

74. Thiền sư Lãng ở Vĩnh Phước tại Nhạc châu

75. Thiền sư ở núi Triệu hoành tại Dĩnh châu

76. Am chủ ở núi Toản tử tại Dĩnh châu

77. Thiền sư Hải ở Nam thiên vương tại Lô châu

78. Thiền sư Phổ Chiếu ở Giác hoa tại Quế châu

79. Thiền sư Giác ở Thiết tràng tại Ích châu

80. Thiền sư ở núi Diên tường tại Tân châu

81. Thiền sư ở núi Hoàng long

82. Thiền sư Quang ở Tây thiền tại My châu

83. Thiền sư Ngộ ở Bắc thiền tại Kỳ châu

84. Thiền sư ở núi Thiên trụ tại Thư châu

85. Thiền sư ở núi Long quang tại Thiều châu

86. Thiền sư Cung ở viện Thủy tinh tại Quán châu

87. Thiền sư Pháp Cận ở núi Trí môn tại Tùy châu

88. Thượng tọa Lãng ở núi Vân môn.

* Thiền sư Bị ở Huyền sa tại Phước châu, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Quế Sâm ở viện La-hán tại Chương châu

2.Thiền sư Tuệ Cầu ở An quốc tại Phước châu

3.Thiền sư Trọng Có ở Thiên long tại Hàng châu

4.Thiền sư Khế Phù ở Tiên tông tại Phước châu

5.Thiền sư Thao ở Quốc thái tại Vụ châu

6.Thiền sư Thành ở Nam đài tại Hành nhạc

7.Thiền sư Đạo Hy ở Bạch long tại Phước châu

8.Thiền sư Xung Ác ở Loa phong tại Phước châu

9.Hòa thượng Mục Long ở Tuyền châu

10. Thiền sư Quang Tự ở Vân phong tại Thiên thai

11. Thiền sư Khế Như ở núi Đại chương tại Phước châu

12. Hòa thượng Vĩnh Hưng ở Phước châu

13. Thiền sư Sư Tỉnh Quốc thanh tại Thiên thai.

* Thiền sư Lăng ở Trường khánh tại Phước châu, lưu xuất hai mươi sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Khuôn ở Chiêu khánh tại Tuyền châu

2. Thiền sư Ngạn Cầu ở Long hoa tại Hàng châu

3. Thiền sư Liên ở Bảo an tại Hàng châu

4. Thiền sư Quang Vân ở Báo từ tại Phước châu

5. Thiền sư Thiệu Tông ở Khai tiên tại Lô sơn

6. Thiền sư Bảo Tư ở Báo ân tại Vụ châu

7. Thiền sư Pháp Thao ở Khuynh tâm tại Hàng châu

8. Thiền sư Cung Nghiễm ở Thủy lục tại Phước châu

9. Thiền sư Hàm Trạch ở Quảng nghiêm tại Hàng châu

10. Thiền sư Tuệ Lãng ở Báo từ tại Phước châu

11. Thiền sư Thường Tuệ ở Trường khánh tại Phước châu

12. Thiền sư Tỉnh ở Thạch Phật tại Phước châu

13. Thiền sư Trùng Hân ở Thúy phong tại Xử châu

14. Thiền sư Thanh Hoán ở Chẩm phong tại Phước châu

15. Thiền sư Khế Nột ở Đông thiền tại Phước châu

16. Thiền sư Hoằng Biện ở Trường khánh tại Phước châu

17. Thiền sư Khả Long ở Đông thiền tại Phước châu

18. Thiền sư Phủ Tần ở Tiêu tông tại Phước châu

19. Thiền sư Hoài Liệt ở Vĩnh an tại Phủ châu

20. Thiền sư Linh Hàm ở Mân sơn tại Phước châu

21. Hòa thượng Qui Sơn ở Tân La

22. Thiền sư Đạo Ân ở núi Long tu tại Cát châu

23. Thiền sư Trừng Tỉnh ở Tường quang tại Phước châu

24. Thiền sư Minh Viễn ở Thứu lãnh tại Tương châu

25. Thiền sư Tùng Khôi ở Báo từ tại Hàng châu

26. Thiền sư Khế Doanh ở Long hoa tại Hàng châu

* Thiền sư Đạo Phú ở chùa Long sách tại Hàng châu lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sư Nột ở núi Thanh hóa tại Việt châu

2. Thiền sư Ngộ Duyên ở Nam thiền tại Cù châu

3. Thiền sư Trí Viễn ở Tư phước tại Phục châu

4. Thiền sư Quy Đoan ở Động sơn tại Quân châu

5. Thiền sư Cảnh Phong ở Ôn châu

* Thiền sư Trí Phu ở Nga hồ tại Tín châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Pháp Tấn.

* Thiền sư Hoài Nhạc ở Báo ân tại Chương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Sư Hoạt ở Diệu tế tại Đàm châu.

* Thiền sư Thần Yến ở Cổ sơn tại Phước châu, lưu xuất mười một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tử Nghi ở Thiên trúc tại Hàng châu

2. Thiền sư Trí Tác ở Bạch vân tại Kiến châu

3. Thiền sư Trí Nghiêm ở Cổ sơn tại Phước châu

4. Thiền sư Trí Tung ở Long sơn tại Phước châu

5. Thiền sư Cường ở núi Phụng hoàng tại Tuyền châu

6. Hòa thượng Định Tuệ ở Tương châu

7. Thiền sư Thanh Ngạc ở Cổ sơn tại Phước châu

8. Thiền sư Xung Hy ở Tịnh đức tại Kim lăng

9. Thiền sư Thanh Hộ ở viện Báo ân tại Kim lăng

10. 11.

* Thiền sư Linh Chiếu ở chùa Long hoa tại Hàng châu, lưu xuất bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sư Tấn ở Thụy nham tại Đài châu

2. Thiền sư Chí Cầu ở viện Lục thông tại Đài châu

3. Thiền sư Quy ở Vân long tại Hàng châu

4. Thiền sư Đạo Nhàn ở Công thần tại Hàng châu

5. Thiền sư Ngộ Duyên ở Trấn Cảnh tại Cù châu

6. Thiền sư Chiếu ở Báo quốc tại Phước châu

7. Thiền sư Nãi ở Bạch vân tại Đài châu

* Thiền sư Linh Tham ở Thúy nham tại Minh châu lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tử Hưng ở chùa Long sách tại Hàng châu

2. Thiền sư Trí Mặc ở Phật áo tại Ôn châu

* Thiền sư Hoằng Thao ở An quốc tại Phước châu lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sư Quý ở Bạch lộc tại Phước châu

2. Thiền sư Nghĩa Thông ở La sơn tại Phước châu

3. Thiền sư Tùng Quý ở An quốc tại Phước châu

4. Thiền sư Tạng Dụng ở Di sơn tại Phước châu

5. Thiền sư Ngạn Đoan ở Vĩnh long tại Phước châu

6. Thiền sư Chí Đoan ở Lâm dương tại Phước châu

7. Thiền sư Mãn ở Hưng Thánh tại Phước châu

8. Thiền sư Minh ở Tiên tông tại Phước châu

9. Hòa thượng Tường ở An quốc tại Phước châu.

* Thiền sư Tùng Triển ở viện Bảo phước tại Chương châu, lưu xuất hai mươi ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tỉnh Đặng ở Chiêu khánh tại Tuyền châu

2. Thiền sư Khả Trù ở Bảo phước tại Chương châu

3. Thiền sư Như Tân ở Bạch thủy tại Thư châu

4. Thiền sư Tuệ Liêm ở Chương giang tại Hồng châu

5. Thiền sư Văn Khâm ở Báo từ tại Phước châu

6. Thiền sư Thanh Vận ở Vạn an tại Tuyền châu

7. Thiền sư Hy ở Báo ân tại Phước châu

8.Thiền sư Tùng Sâm ở núi Phụng hoàng tại Tuyền châu

9.Hòa thượng Doanh ở Vĩnh long tại Phước châu

10. Thiền sư Thủ Thanh ở núi Thanh tuyền tại Hồng châu

11. Thiền sư Hạnh Sùng ở việc Báo ân tại Chương châu

12. Hòa thượng Nhạc Lộc tại Đàm châu

13. Thiền sư Đức Hải ở Đức sơn

14. Thiền sư Trừng ở Kiến sơn tại Hồng châu

15. Thiền sư Khế Ổn ở Khương sơn tại Phước châu

16. Thiền sư Tuệ Luân ở Diên thọ tại Đàm châu

17. Thiền sư Sâm ở Tây minh tại Tuyền châu

18. Thiền sư Nhu ở Thăng sơn tại Phước châu

19. Hòa thượng Chẩm Phong tại Phước châu

20. Thiền sư Pháp Tháo ở Đảnh châu

21. Hòa thượng Thứu Lãnh ở Tương châu

22. Hòa thượng Kính Liên ở Mục châu

23. Thiền sư Cú ở Cốc sơn tại Đàm châu

* Thiền sư Quán ở Kim luân tại Nam nhạc, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Hòa thượng Kim Luân sau Nam nhạc.

* Thiền sư Đạo Phổ ở núi Thùy long tại Tuyền châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Thanh Khoát ở viện Bảo phước tại Chương châu.

* Thiền sư Vĩnh ở núi Song tuyền tại Tùy châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng Đại Thông ở Quảng châu

* Thiền sư Sư Ngạn ở Thụy nham tại Đài châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Hoành Long ở Nam nhạc

2. Hòa thượng Thần Lục ở Thụy phong tại Ôn châu.

* Thiền sư Ngạn ở Huyền tuyền tại Hoài châu, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Hối Cơ ở Hoàng long tại Ngạc châu

2.Hòa thượng Bách Cốc tại Lạc kinh

3.Hòa thượng Hòa Long ở Trì châu

4.Hòa thượng đời thứ hai ở Huyền tuyền tại Hoài châu

5.Thiền sư Huyền Mật ở Diệu thắng tại Lộ phủ

* Thiền sư Đạo Nhàn ở La sơn tại Phước châu, lưu xuất mười chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Ẩn Vi ở Đại minh tại Hồng châu

2.Thiền sư Đức Khiêm ở Minh chiêu tại Vụ châu

3.Thiền sư Phạm ở Hoa quang tại Hành châu

4.Thiền sư Chiêu Tư ở La sơn tại Phước châu

5.Thiền sư Tuệ ở Tây xuyên

6.Thiền sư Linh Yểm ở Bạch vân tại Kiến châu

7.Thiền sư Nghĩa Chứng ở Thiên trúc tại Xử châu

8.Thiền sư Duy Khoáng ở Thanh bình tại Cát châu

9.Thiền sư Nghĩa Chiêu ở Kim trụ tại Vụ châu

10. Hòa thượng Cốc Sơn ở Đàm châu

11. Thiền sư Tùng Thịnh ở núi Đạo ngô tại Hồ nam

12. Thiền sư Nghĩa Nhân ở La sơn tại Phước châu

13. Hòa thượng Linh Nham ở Quán châu

14. Hòa thượng Khuôn Sơn ở Cát châu

15. Thiền sư Trọng Mãn ở Hưng Thánh tại Phước châu

16. Thiền sư Thanh Tấn ở Bảo ứng tại Đàm châu

17. Thiền sư Định Tuệ ở huyện Miên trúc tại Hán châu

18. Thiền sư Giám ở núi Long hội tại Đàm châu

19. Thiền sư Mục ở An châu

* Thiền sư Chí Viên ở núi Bạch triệu tại An châu, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Trí Hồng ở núi Đại long tại Đảnh châu

2.Thiền sư Hạnh Ái ở núi Bạch mã tại Tương châu

3.Thiền sư Hạnh Xung ở núi Đại dương tại Dĩnh châu

4.Thiền sư Hoài Sở ở núi Bạch triệu tại Am châu

5.Thiền sư Thanh Kiểu ở núi Tứ tổ

6.Thiền sư Chí Tháo ở núi Tam giác

7.Thiền sư Sư Phổ ở Hưng giáo tại Tấn châu

8.Thiền sư Chân giám ở núi Tam giác

9.Hòa thượng Hưng Dương ở Dĩnh châu

10. Thiền sư Huyền Giai ở Đông thiền tại Xâm châu

11. Thiền sư Tuệ Vân ở nước Tân La

12. Thiền sư Huyền Ngạc ở viện Tuệ nhật tại An châu

13. Thiền sư Ngạn Tân ở chùa Đại Tần tại Kinh triệu.

* Thiền sư Hồng Cứu ở Tuệ lâm tại Thiều châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Linh Thụy ở Thiều châu.

* Thiền sư Tuệ Thanh ở núi Ba tiêu tại Dĩnh châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thanh Nhượng ở Hưng dương tại Dĩnh châu

2. Thiền sư Pháp Mãn ở U cốc tại Hồng châu

3. Thiền sư Nghĩa Thâm ở Hưng Dương tại Dĩnh châu

4. Thiền sư Trú Ngộ, đời thứ hai ở Ba tiêu.

* Thiền sư Như Thật ở Tư phước tại Cát châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chân Thúy ở Tư phước tại Cát châu

2. Hòa thượng Phước Thọ ở Cát châu

3. Hòa thượng Lộc uyển ở Đàm châu

4. Thiền sư Đức Thiều ở Báo bi tại Đàm châu.

* Thiền sư Diên Chiểu ở Phong huyệt tại Nhữ châu lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chân ở Quảng tuệ tại Nhữ châu

2. Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ sơn tại Nhữ châu

3. Hòa thượng Trường Hưng ở Phụng tường

4. Hòa thượng Linh Tuyền ở Đàm châu.

* Thiền sư Đằng Hà ở Đàm châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng đời thứ bảy ở Dược sơn tại Lễ châu

2. Hòa thượng ở núi Văn cái tại Đàm châu

* Thiền sư Thường Sát ở Đồng an núi Phụng thê tại Hồng châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Lương Cúng ở Ngưỡng sơn tại Viên châu.

* Thiền sư Vô Ân ở Hòa sơn tại Cát châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Độ ở Vĩnh an tại Lô sơn

2. Thiền sư Nghĩa Sùng ở Tào sơn tại Phủ châu

3. Thiền sư Khế Vân ở Hòa sơn tại Cát châu

4. Thiền sư Sư Âm ở Thúy nham tại Hồng châu.

* Thiền sư Cảnh ở núi Vân cái tại Đàm châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tạng ở Nam đài tại Hành nhạc

2. Thiền sư Tùng Thật ở Thác thủy tại U châu

3. Thiền sư Trừng Giác ở núi Vân cái.

* Thiền sư Đam Quyền ở chùa Quy tông tại Lô sơn, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Hoằng Chương, đời thứ tư ở Quy tông

2. Thiền sư Nham Mật ở Quy tông.

* Thiền sư Chương ở Kế sơn tại Trì châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Kiền ở núi Song tuyền tại Tùy châu.

* Thiền sư Hoài Nhạc ở núi Vân cư tại Hồng châu, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Linh Sùng ở viện Phong hóa tại Dương châu

2. Thiền sư Trung Ngạn ở Dược sơn tại Lễ châu

3. Hòa thượng Long Tuyền ở Tử châu

4. Thiền sư Trú Duyên ở Vân cư

5. Thiền sư Trú Mãn ở Vân cư.

* Thiền sư Quang Tuệ ở núi Hà ngọc tại Phủ châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Phước ở núi Hà ngọc.

* Thiền sư Đạo Diên ở Động sơn tại Quân châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Khánh ở Thượng lam tại Hồng châu

2. Thiền sư Mẫn ở Động sơn.

* Thiền sư Tùng Chí ở Kim phong tại Phủ châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thần Giáng ở Đại ninh tại Hồng châu

2. Thiền sư Ngạn ở Dược sơn tại Lễ châu

* Thiền sư Xử Châu ở núi Lộc môn tại Tương châu, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sùng Châu ở Ích châu

2. Hòa thượng Đàm, đời thứ hai ở Lộc môn

3. Thiền sư Trí Tỉnh ở cốc Ẩn tại Tương châu

4. Thiền sư Hạnh Nhân ở hang Phật thủ tại Lô sơn

5. Thiền sư Minh ở núi Linh khê tại Tương châu

6. Thượng tọa Chân ở chùa Đại an tại Hồng châu

* Thiền sư Tuệ Hà ở Tào sơn tại Phủ châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Đông Đinh ở Gia châu

2. Thiền sư Chánh Tuệ ở Hoa nghiêm tại Hàng châu

3. Thượng tọa Kiên ở viện Chiêu khánh tại Tuyền châu

* Thiền sư Pháp Nghĩa ở Thảo am tại Hoa châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Tuệ Trung ở Quy dương tại Tuyền châu.

* Thiền sư Tạng Dư ở Báo từ tại Đàm châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng Tồn ở Hưng Thánh tại Ích châu.

* Thiền sư Thẩm Triết ở núi Hàm châu tại Tương châu, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng ở núi Long huyệt tại Dương châu

2.Hòa thượng ở núi Đại thừa tại Đường châu

3.Thiền sư Quy Hiểu ở Diên khánh tại Tương châu

4.Hòa thượng Chân ở núi Hàm châu tại tương châu

5.Thiền sư Chương ở núi Hàm châu

6.Thiền sư Yển ở núi Hàm châu

* Thiền sư Khuôn Nhất ở Tử lăng tại phủ Phụng tường, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Đạo Ẩn ở Khánh phước tại Tinh châu

2.Thiền sư Vi, đời thứ hai ở Tử lăng

3.Hòa thượng Đại Lãng ở phủ Hưng nguyên

* Thiền sư Oai ở Đồng an tại Hồng châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Thạch Cảnh ở Trần châu

2. Thiền sư Chí ở Đồng an.

* Thiền sư Hiến ở núi Thạch môn tại Tương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Tuệ Triệt lưu xuất từ đời thứ hai ở núi Thạch môn.

* Thiền sư Nghĩa Hòa ở Quảng đức tại Tương châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Diên đời thứ hai ở Quảng đức tại Tương châu

2. Hòa thượng Thượng Tuyền ở Kinh châu.

* Thiền sư Hương Thành ở Kinh triệu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

01. Hòa thượng La Văn ở Đặng châu.

* Thiền sư Ấu Chương ở viện Thụy Long tại Hàng châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Đức Ngôn ở Tây xuyên.

* Thiền sư Thủ Trừng ở Hộ quốc tại Tùy châu, lưu xuất tám vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Thủ Khâm ở Trí môn tại Tùy châu.

2.Thiền sư Tri Viễn đời thứ hai ở Hộ quốc

3.Hòa thượng Năng ở núi Đại an

4.Thiền sư Tư ở viện Tiến phước tại Dĩnh châu

5.Hòa thượng Diên Thọ ở Đàm châu

6.Thiền sư Chí Lãng đời thứ ba ở Hộ quốc

7.Hòa thượng Phong Quỳnh ở Hương lô tại Thư châu

8.Hòa thượng Mãn ở núi Bàn long tại Kinh triệu

Thiền sư Thiện Tỉnh ở viện Vĩnh An tại Kinh triệu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng ở núi Đại minh

* Thiền sư Ngạn Tân ở núi Ô nha tại Kỳ châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Hưng Cổ ở núi Đại an tại An châu

2. Thiền sư Hạnh Lãng ở núi Ô nha tại Kỳ châu

3. Thiền sư Thường-người dòng họ Lô ở Quắc châu.

* Thiền sư Thanh phong ở phủ Phụng tường, lưu xuất bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Hòa thượng Linh Kham ở Tây xuyên

2.Thiền sư Đoan Kỷ ở núi Tử các tại Kinh triệu

3.Thiền sư Hoài Trú ở Khai sơn tại Phòng châu

4.Hòa thượng Truyền Pháp ở U châu

5.Thiền sư Quy Tín ở Tịnh chúng tại Ích châu

6.Thiền sư Thanh Miễn đời thứ hai ở Thanh phong

7.Thiền sư Mãn ở núi Trường bình tại phủ Phụng tường.

* Thiền sư Bạch ở Đại nham tại Tường châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng Bích Vân ở Ngang châu.

ĐỜI THỨ CHÍN SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ sơn tại Nhữ châu, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần châu

2. Thiền sư Uẩn Thông ở Cốc ẩn tại Tương châu

3 Thiền sư Trí Tung ở Thừa thiên tại Tinh châu

4. Thiền sư Nguyên Liên ở Quảng tuệ tại Nhữ châu

5. Thiền sư Quy Tỉnh ở huyện Diệp tại Nhữ châu Hòa thượng không ở Trí môn (thừa một vị).

* Thiền sư Quế Sâm ở viện La-hán tại Chương châu, lưu xuất bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Văn Ích ở Thanh lương tại Kim lăng

2. Thiền sư Hồng Tấn ở Thanh khê tại Tương châu

3. Thiền sư Hưu Phục ở Thanh lương tại Kim lăng

4. Thiền sư Thiệu Tu ở Long tế tại Phủ châu

5. Thiền sư Tú ở chùa Thiên long tại Hàng châu

6. Thiền sư Truyền Ân ở Diên khánh tại Lộ châu

7. Thiền sư Thủ An ở Nam đài tại Hành nhạc.

* Thiền sư Khế Phù ở Tiên tông tại Phước châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Động Minh ở Tiên tông tại Phước châu

2. Thiền sư Hạnh Khâm ở Phước thanh tại Tuyền châu.

* Thiền sư Trọng Cơ ở Thiên long tại Hàng châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Linh Quang ở Vân nhạc tại Cao ly.

* Thiền sư Thái Thao ở Vụ châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Bảo Thắng ở Tề vân tại Vụ châu.

* Thiền sư Đạo Hy ở Bạch long, Thăng sơn tại Phước châu, lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Huyền Chỉ ở Quảng bình tại Phước châu

2. Thiền sư Thanh Mộ ở Bạch long tại Phước châu

3. Thiền sư Chí Ân ở Linh phong tại Phước châu

4. Thiền sư Huyền Lượng ở Đông thiền tại Phước châu

5. Thiền sư Huyền Ứng ở Báo cù tại Chương châu

* Thiền sư Pháp Nhân ở Chiêu khánh tại Tuyền châu, lưu xuất bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tông Hiển ở Báo ân tại Tuyền châu

2. Thiền sư Trừng Cải ở Long quang tại Kim lăng

3. Thiền sư Khả Hưu ở Bắc viện tại Vĩnh hưng

4. Thiền sư Thanh Hải ở Thái bình tại Xâm châu

5. Thiền sư Tuệ Thâm ở Từ vân tại Liên châu

6. Thiền sư Đạo Khâm ở Hưng dương tại Dĩnh châu

7. Thiền sư Thanh Khê ở Bảo phước tại Chương châu

* Thiền sư Bảo Tư ở Báo ân tại Vụ châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng Trừng ở Phước lâm tại Xử châu.

* Thiền sư Hân ở Thúy phong tại Xử châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Thủ Chân ở Báo ân tại Xử châu.

* Thiền sư Minh Viễn ở Thứu lãnh tại Tương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng thông đời thứ hai ở Thứu lãnh.

* Thiền sư Ngạn Cầu ở Long hoa tại Hàng châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Tuần ở viện Nhân vương

* Thiền sư Khả Trù ở Bảo phước tại Chương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Vô Dật ở Long thọ tại Chương châu

* Thiền sư Tuệ Luân ở chùa Diên thọ tại Đàm châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Thuyên ở Quy tông tại Lô sơn

2. Thiền sư Dụ ở Long hưng tại Đàm châu.

* Thiền sư Bạch Vân tại Thiều châu, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Hòa thượng Đại Lịch ở Thiều châu

2.Hòa thượng Bảo Hoa ở Liên châu

3.Hòa thượng Nguyệt Hoa ở Thiều châu

4.Hòa thượng Địa Tạng ở Nam Hùng châu

5.Thiền sư Hàm Khuôn ở Lạc tịnh tại Anh châu

6.Thiền sư Phước ở Hậu Bạch vân tại Thiều châu.

* Thiền sư Duyên Mật ở Đức sơn tại Đảnh châu, lưu xuất mười sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Văn Tập ở Lộc uyển tại Đàm châu

2.Thiền sư Khả Quỳnh ở Dược sơn tại Lễ châu

3.Thiền sư Cần ở Nam nhạc

4.Thiền sư Ứng Chân ở Văn thù

5.Thiền sư Nhu ở Đức sơn

6.Thiền sư Thiệu Yến ở Đức sơn tại Đảnh châu

7.Thiền sư Khoan ở Đảnh châu

8.Thiền sư Đạo ở Đảnh châu

9.Thiền sư Phổ ở Ba lăng

10. Thiền sư Tự Hưng ở Càn minh tại Xâm châu

11. Thiền sư ở núi Tấn vân tại Du châu

12. Thiền sư Càn Phổ ở Nhạc châu

13. Thiền sư Sùng ở phủ Hưng nguyên

14. Thiền sư Chí Nguyện ở Hoàng long tại

Ngạc châu

15. Thiền sư Thừa Cảnh ở núi Nga my

16. Thiền sư Tú ở Đông thiền tại Ích châu

* Thiền sư Trừng Viễn ở Hưng lâm, Thanh thành tại Tây xuyên, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng La-hán ở Vĩnh khương quân

2. Thiền sư Quang Tộ ở Sùng thắng tại Phục châu

3. Thiền sư Tín ở Hương lâm, Thanh thành tại Vĩnh khương quân.

* Thiền sư Thủ Sơ ở Động sơn tại Tương châu, lưu xuất bảy vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Tung ở Đàm châu

2. Thiền sư Nhã ở Nam nhạc

3. Thiền sư Mục ở Nhạc khâu

4. Thiền sư Đồng ở Đặng châu

5. Thiền sư Hồng Giáo ở Đặng châu

6. Thiền sư Xử Quỳnh ở An châu

7. Thiền sư Bảo Châu ở Lộ châu

* Thiền sư Khoan ở Minh giáo núi Long cư tại Tùy châu, lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1.Thiền sư Sư Giới ở Ngũ tổ

2.Thiền sư Chí Nhân ở núi Tứ tổ

3.Thiền sư Hoài Chí ở Quảng giáo tại Kỳ châu

4.Thiền sư Phụng Năng ở Hưng hóa tại Tương châu

5 Thiền sư Tuệ Mãn ở núi Thiên mục tại Đường châu

6. Thiền sư Trí Châu ở Kiến phước tại Ngạc châu

7. Thiền sư Trọng Thiện ở Phước xướng phủ Giang lăng

8. Thiền sư Nhân Vĩnh ở núi Long môn tại Thư châu

9. Thiền sư Bản ở Diên khánh tại Tương châu

10. Thiền sư Huệ Tuần ở núi Phước An tại Đường châu

11. Thiền sư Bính Hiền ở núi Đại long tại Đảnh châu

12. Thiền sư Quỳnh ở núi Song tuyền

13. Thượng tọa Nhạc Tự

* Thiền sư Thiều ở núi Thuấn phong tại Thiều châu, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Hy Lãng ở núi Đào viên tại Từ châu 2. Thiền sư Trí Thiện ở Pháp vân tại An châu

3. Thiền sư Thiện Chí ở Đặng lâm tại Thiều châu

4. Thiền sư Chí Thông ở Đại lịch tại Thiều châu.

* Thiền sư Úc ở núi Song tuyền tại Tùy châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Huệ Viễn ở Đức sơn tại Đảnh châu 2 Thiền sư Bân ở Hàm châu tại Tương châu.

* Thiền sư Giám ở Ba lăng tại Nhạc châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là: 1. Thiền sư Thuận ở Tương châu

2. Thượng tọa Linh Trừng.

* Thiền sư Minh ở núi Thanh lương tại Kim lăng, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Ngự ở Sùng thắng tại Lô sơn 2. Thiền sư Khoát ở Tây phong tại Cát châu.

* Thiền sư Thâm ở núi Vân cư lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp.

Đó là: Sơn chủ Hứa ở núi Liên hoa.

* Đại sư Đức Thiều ở Quy chân, Báo từ tại Đàm châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chí Khiêm ở Tam giác tại Kỳ châu

2. Thiền sư Từ Đạt ở Hưng dương tại Dĩnh châu

* Thiền sư Hối Cơ ở Hoàng long tại Ngạc châu, lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thiện Chiểu ở Tử cái tại Lạc kinh

2. Thiền sư Kế Đạt ở Hoàng long tại My châu

3. Hòa thượng đời thứ hai ở Tảo lâm

4. Hòa thượng Trừng ở núi Huyền đô tại phủ

Hưng nguyên

5. Hòa thượng Mặc Thủy ở Gia châu

6 Thiền sư Trí Ngung ở Hoàng long tại Ngạc châu

7. Hòa thượng Đạt ở Phước xướng tại My châu

8. Hòa thượng Nhiên ở Tuệ sơn tại Thường châu

9. Thiền sư Ngộ Hải ở Song lãnh tại Hồng châu.

* Thiền sư Đức Khiêm ở Minh chiêu tại Vụ châu, lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Khế Tùng ở Báo ân tại Xử châu

2.Hòa thượng Du ở Phổ chiếu tại Vụ châu

3.Thiền sư Bảo Sơ ở Song khê tại Vụ châu

4.Hòa thượng Cứu ở Dũng tuyền tại Xử châu

5.Hòa thượng Nghĩa ở La-hán tại Cù châu

6.Hòa thượng Điều ở Hưng Thánh tại Phước châu.

* Thiền sư Trí Hồng ở núi Đại long tại Đảnh châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Cảnh Như ở núi Đại long

2.Thiền sư Sở Huân ở núi Đại long

3.Thiền sư Tùng Thiện ở Phổ thông tại phủ Hưng nguyên.

* Thiền sư Hạnh Ái ở Bạch mã tại Tương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Trí Luân ở Bạch mã

* Thiền sư Hoài Sở ở núi Bạch triệu tại An châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Khuôn Hựu ở Bảo thọ tại Đường châu

2. Thiền sư Tự Nam ở Kỳ châu

3. Thiền sư Kế Huân ở Vĩnh khánh tại Quả châu.

* Thiền sư Trí Tĩnh ở cốc Ẩn tại Tương châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Trí Nghiễm ở cốc Ẩn

2. Thiền sư Pháp Hiển ở Phổ minh tại Tương châu

* Thiền sư Hoằng Chương ở Quy tông tại Lô sơn, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Thường Giác ở Phổ tịnh tại Đông kinh

* Thiền sư Vi ở Tử lăng tại phủ Phụng tường, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Hòa thượng Đại Lãng ở phủ Phụng tường 2. Hòa thượng Tân Khai ở Đàm châu.

* Thiền sư Tuệ Triệt ở núi Thạch môn tại Tương châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thiệu Đạt ở Thạch môn

2. Thiền sư Thủ Trân ở Linh trúc tại Ngạc châu.

* Thiền sư Chí ở Đồng an tại Hồng châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Duyên Quán ở Lương sơn tại Đảnh châu

2. Thiền sư Linh Thông ở Trần châu

* Thiền sư Diên ở Quảng đức tại Tương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Châu ở Quảng đức

* Thiền sư Quy Tín ở chùa Tịnh chúng tại Ích châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng ở núi Linh nham tại Hán châu.

* Thiền sư Tri Viễn ở Hộ quốc tại Tùy châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Thường Phổ ở Khai bảo tại Đông kinh

* Thiền sư Duyên Quán ở Lương sơn tại Đảnh châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Cảnh Diên ở núi Đại dương tại Dĩnh châu(1).

ĐỜI THỨ MƯỜI SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Ứng Thân ở núi Văn Thù tại Đảnh châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Hiểu thông ở Động sơn tại Quân châu.

* Thiền sư Kế Đạt ở Hoàng long tại My châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng đời thứ hai ở Hoàng long.

* Thiền sư Văn Ích ở Thanh lương tại Kim lăng, vốn người dòng họ Lỗ ở Dư hàng, có ý chí rất cao xa. Sau khi thọ giới Cụ túc, tập học Tỳ-ni nối Luật sư Hy Giác, bên cạnh đó tham cứu thêm Nho thuật, mà Văn Ích có khả năng văn tài nghệ thuật rất khả quan, Luật sư Hy Giác từng bảo Văn Ích: “Ông nên từ đây đến Kinh đô tìm học chuyên về Tông thừa”. Văn Ích bèn đến trong Pháp hội Trường khánh ở Phước đường. Ở đó chưa bao lâu mà dân tại đó đều suy tôn kính trọng. Về sau, Văn Ích lại du phương tham phỏng, giữa đường gặp mưa nên cùng đồng bạn tạm dừng nghỉ tại viện Địa tạng ở phía Tây châu đó. Nhân vào dự tham nơi Thiền sư Sâm mà thấu đạt pháp yếu, mới lưu ở lại am nơi Phước chi cam giá châu. Về sau lại vì đồng bạn dẫn đến Giang biểu tới Lâm xuyên bèn vì mọi người ở quận ấy mời ở tinh xá Xùng thọ. Từ đó Học chúng dần đông nhiều hưng thạnh. Giang nam Quốc chủ Lý Thị nghe đạo phong Văn Ích bèn mời vào Thành đô lãnh nhận Đại già lam Thanh lương, dùng lễ nước nhà tiếp đãi vàng trọng hậu. Học chúng khắp bốn phương đến nương tựa càng đông nhiều, mãi đến nay còn xưng gọi hiếm có trong thiên hạ, được xưng hiệu là Tông Thanh Lương, Văn Ích lưu xuất sáu mươi ba vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Quốc sư Đức Thiều ở Thiên thai

2. Thiền sư Tuệ Minh ở chùa Báo ân tại Hàng châu

3. Thiền sư Trí Y ở La-hán tại Chương châu

4. Thiền sư Đạo Khâm ở Chương nghĩa tại Kim lăng

5. Thiền sư Khiên Dật ở Báo ân tại Kim lăng

6. Thiền sư Văn Toại ở Báo từ tại Kim lăng

7. Thiền sư Thủ Nhân ở La-hán tại Chương châu

8. Thiền sư Đạo Tiềm ở chùa Vĩnh minh tại Hàng châu

9. Thiền sư Lương Khuôn ở Hoàng sơn tại Phủ châu

10. Thiền sư Thanh Tung ở Linh ấn tại Hàng châu

11. Thiền sư Huyền Tắc ở Báo ân tại Kim lăng 12. Thiền sư Hạnh Ngôn ở Báo từ tại Kim lăng

13. Thiền sư Trí Quân ở Tịnh Đức tại Kim lăng 14. Quốc sư Tuệ Cự ở Đạo phong tại Cao ly

15. Thiền sư Thái Khâm ở Thanh nguyên tại Kim lăng

16. Thiền sư Thiệu Nham ở chùa Bảo tháp tại

Hàng châu

17. Thiền sư Pháp An ở Báo ân tại Kim lăng

18. Thiền sư Khế Điều ở Sùng thọ tại Phủ châu

19. Thiền sư Thanh Tích ở Vân cư

20. Thiền sư Đạo Thường ở Bách trượng

Thiền sư Kính Tuân ở Bát-nhã tại Thiên thai

21. Thiền sư Sách Chân ở Quy tông

23 Thiền sư Thiệu Hiển ở Đồng an tại Hồng châu

24. Thiền sư Tuệ Viên ở Thê hiền tại Lô sơn

25. Thiền sư Tùng Hiển ở Quán Âm tại Hồng châu

26. Thiền sư Diên Quy ở Trường an tại Lô châu

27. Thiền sư Hy Phụng ở Chánh cần tại Thường châu

28. Thiền sư Thê Luân ở Hưng thiện tại Lạc kinh

29. Thiền sư Tề ở Tây hưng tại Hồng châu

30. Thiền sư Khuân Đạt ở Từ vân tại Nhuận châu

31. Thiền sư Thiệu Minh ở Tiến phước tại Tô châu

32. Thiền sư Cẩn ở Cổ hiền tại Trạch châu

33. Thiền sư Khả Huân ở Hưng phước tại Tuyên châu

34. Thiền sư Thủ Nột ở Thượng lam tại Hồng châu

35. Hòa thượng Phúc Thuyền ở Phủ châu

36. Thiền sư Pháp Khôi ở Phụng tiên tại Hàng châu

37. Thiền sư Tuệ Lãng ở Hóa thành tại Lô sơn

38. Thiền sư Đạt Hồng ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng châu

39. Thiền sư Linh Giám ở Cao ly

40. Hòa thượng Thượng Tuyền ở Kinh môn

41. Thiền sư Tăng Độn ở Đại lâm tại Lô sơn

42. Thiền sư Duyên Thắng ở Thiên vương tại

Trì châu

43. Thiền sư Nghĩa Nhu ở Quy tông

44. Thiền sư Tuệ Anh ở Thượng phương tại

Tuyền châu

45. Thiền sư Ngộ ở Hộ quốc tại Kinh châu

46. Thiền sư Chiếu ở Chi lãnh tại Nhiêu châu

47. Thiền sư Sư Tuệ ở Quy tông

48. Thiền sư Tỉnh Nhất ở Quy tông

49. Thiền sư Thông Tánh ở Diên khánh tại

Tương châu

50. Thiền sư Mộng khâm ở Quy tông

51. Thiền sư Huyền Xiển ở Xá lợi tại Hồng châu

52. Thiền sư Minh ở Vĩnh an tại Hồng châu

53. Thiền sư Khả Trang ở Thiền khê tại Hồng châu

54. Thiền sư Sảng ở Thạch sương tại Đàm châu

55. Hòa thượng Linh Sơn ở Giang tây

56. Thiền sư Nhân ở hang Phật thủ

57. Hòa thượng Chỉ ở Bảo an tại Kim lăng

58. Hòa thượng U ở Hoa Nghiêm tại Thăng châu

59 Thiền sư Đạo Đạt ở Mộc bình tại Viên châu

60. Thiền sư Đạo Mại ở Đại ninh tại Hồng châu

61. Thiền sư Đức Tân ở Long hưng tại Sở châu

62. Thiền sư Nhân ở Hoàng long tại Ngạc châu

63. Thiền sư Đạo Trung ở Tây sơn tại Hồng châu.

* Thiền sư Hồng Tấn ở Thanh khê tại Tương châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tùng Y ở núi Thiên bình tại Tướng châu

2. Thiền sư Đức Duyên ở Viên thông tại Lô sơn

* Thiền sư Hưng Phục ở Thanh nguyên tại Kim lăng lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Đồng ở Phụng tiên tại Kim lăng

2. Thiền sư Đạo Tập ở am Bảo khánh tại Lô sơn.

* Thiền sư Thiệu Tu ở núi Long tế tại Phủ châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Hòa thượng Quảng Nguyên ở Hà đông

* Thiền sư Thủ An ở chùa Nam đài tại Hành nhạc lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thiện Mỹ ở Thứu lãnh tại Tương châu

2. Thiền sư Minh ở Tuệ Nhật tại An châu

* Thiền sư Huyền Ứng ở viện Báo cù tại Chương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Nhân Nghĩa đời thứ hai ở Báo cù.

* Thiền sư Vô Dật ở Long thọ tại Chương châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Pháp Khiên ở Long thọ tại Chương châu

* Thiền sư Đạo Tuyên ở Quy tông tại Lô sơn, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Thủ Thuyên ở núi Cửu phong tại Quân châu.

ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Quốc sư Đức Thiền ở núi Thiên thai lưu xuất năm mươi mốt vị nối dõi dòng pháp. Đó là

1.Thiền sư Diên Thọ ở Vĩnh minh

2.Thiền sư Khả Hoằng ở Đại ninh tại Ôn châu

3.Thiền sư Bằng Ngạn ở Trường thọ tại Tô châu

4.Thiền sư Chí Phùng ở núi Ngũ vân tại Hàng châu

5.Thiền sư Pháp Đoan ở Báo ân tại Hàng châu 6. Thiền sư Thiệu An ở Báo Ân tại Hàng châu

7. Thiền sư Thủ Oai ở Quảng bình tại Phước châu

8. Thiền sư Vĩnh An ở Báo ân tại Hàng châu

9. Thiền sư Sư Hộ ở Quang Thánh tại Quảng châu

10 Thiền sư Thanh Dục ở Phụng tiên tại Hàng châu

11. Thiền sư Trí Cần ở Phổ giản tại Thiên thai

12. Thiền sư Nguyện Tề ở Nhạn Đãng tại Ôn châu

13. Thiền sư Hy Biện ở Phổ môn tại Hàng châu

14. Thiền sư Ngộ An ở Quang khánh tại Hàng châu

15. Thiền sư Hữu Thiềm ở Bát-nhã tại Thiên thai

16. Thiền sư Toàn Khẳng ở Trí giả tại Vụ châu

17. Thiền sư Nghĩa Long ở Ngọc tuyền tại Phước châu

18. Thiền sư Hiểu Vinh ở Long sách tại Hàng châu

19. Thiền sư Khánh Tiêu ở Công thần tại Hàng châu

20. Thiền sư Kính Tấn ở Xứng tâm tại Việt châu

21. Thiền sư Sư Thuật ở Nghiêm phong tại Phước châu

22. Thiền sư Tuệ Đạt ở Hoa Nghiêm tại Lộ châu

23. Thiền sư Đạo Viên ở Thanh thái tại Việt châu

24. Thiền sư Khánh Tường ở Cửu khúc tại Hàng châu

25 Thiền sư Hạnh Minh ở Khai hóa tại Hàng châu

26. Thiền sư Nghĩa Viên ở Khai thiện tại Việt châu

27. Thiền sư Ngộ An ở Thụy lộc tại Ôn châu

28. Thiền sư Tuệ Cư ở Long hoa tại Hàng châu 29. Thiền sư Ngộ Trăn ở Tề vân tại Vụ châu

30. Thiền sư Bản Tiên ở chùa Thụy lộc tại Ôn châu

31. Thiền sư Đức Khiêm ở Báo ân tại Hàng châu

32. Thiền sư Xử Tiên ở Linh ấn tại Hàng châu

33. Thiền sư Tỉnh Nghĩa ở Thiện kiến tại Thiên thai

34. Thiền sư An ở Quán âm tại Việt châu

35. Thiền sư Trạch ở Nhân thọ tại Vụ châu

36. Thiền sư Trọng Diệu ở Vân môn tại Việt châu

37. Thiền sư Vinh ở Đại võ tại Việt châu

38. Thiền sư Quỳnh ở Địa tạng tại Việt châu

39. Thiền sư Thiệu Quang ở Linh ẩn tại Hàng châu

40. Thiền sư Thiệu Loan ở Long hoa tại Hàng châu

41. Thiền sư Hạnh Tân ở Bích tuyền tại Việt châu

42 Thiền sư Hiếu ở Tượng điền tại Việt châu

43. Thiền sư Tùng Kiên ở Đăng vân tại Nhuận châu

44. Thiền sư Lãng ở Quán âm tại Việt châu

45. Hòa thượng Ngũ Phong ở Gia kỵ tại Việt châu

46. Thiền sư Đạo Tư ở Hà sơn tại Việt châu

47. Thiền sư Tự Quảng ở Đại võ tại Việt châu

48. Thiền sư Sư Dật ở Hoàng nghiệt tại Quân châu

49. Thiền sư Thanh Biểu ở Thụy quang tại Tô châu

50. Thiền sư Hồng thọ ở chùa Hưng giáo tại Hàng châu

51. Thiền sư Đạo Nguyên ở Thừa thiên tại Tô châu.

ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Tuệ Minh ở chùa Báo ân tại Hàng châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Đạo Thành ở Bảo minh tại Phước châu

* Thiền sư Văn Toại ở Đạo tràng Báo Từ tại Kim lăng lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ ở Tề vân tại Thường châu

2. Thiền sư Tường ở Song lãnh tại Hồng châu 3. Thiền sư Chân ở Quán âm tại Hồng châu

4. Thiền sư Mậu ở Long sa tại Hồng châu.

5. Thiền sư Tương ở Đại minh tại Hồng châu

* Thiền sư Đạo Tiềm ở Vĩnh minh tại Hàng châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Khôi Tỉnh ở Thiên Quang vương tại Hàng châu

2. Thiền sư Chí Trừng ở Trấn cảnh tại Cù châu

3. Thiền sư Khánh Tường ở Sùng phước tại Minh châu

* Thiền sư Thanh Trung ở Linh ẩn tại Hàng châu lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Đạo Từ ở Công thần tại Hàng châu

2.Thiền sư Nguyện Chiêu ở La-hán tại Tú châu

3.Thiền sư Sư Trí ở Báo ân tại Xử châu

4.Thiền sư Khả Tiên ở Cốc ninh tại Cù châu

5.Thiền sư Đạo Đoan ở Quang hiếu tại Hàng châu

6.Thiền sư Ngộ Minh ở Bảo thanh tại Hàng châu

7.Thiền sư Biện Long ở Chi đề tại Phước châu

8.Thiền sư Hy Viên ở Thụy long tại Hàng châu

9.Thiền sư Đức Văn ở Quốc Thái tại Hàng châu.

* Thiền sư Đạo Thường ở núi Bách trượng tại

Hồng châu, lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Trừng Thị ở Thê hiền tại Lô sơn

2. Thiền sư Đức Hưng ở Vạn thọ tại Tô châu

3. Thiền sư Vĩnh ở Vân môn tại Việt châu

* Thiền sư Nghĩa Nhu ở Quy tông tại Lô sơn lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Hạnh Lâm ở La-hán tại Lô sơn

2. Thiền sư Giác Kha ở Công thần tại Hàng châu

* Thiền sư Hạnh Ngôn ở Báo từ tại Kim lăng, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Nghĩa Năng ở Vân cư tại Hồng châu

2. Thiền sư Thanh Hiểu ở Bắc thiền tại Nhiêu châu

* Thiền sư Pháp An ở Báo ân tại Kim lăng lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Kiên ở Thê hiền tại Lô sơn 2. Thiền sư Tuệ Thành ở Quy tông

* Thiền sư Diên Quy ở viện Trường an tại Lô châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Biện Thật ở Trường an tại Lô châu

2. Thiền sư Dụng Thanh ở núi Vân cái.

ĐỜI THỨ MƯỜI HAI SAU ĐỜI THIỀN SƯ ĐẠI GIÁM-TUỆ NĂNG

* Thiền sư Diên Thọ ở Vĩnh minh tại Hàng châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tử Mông ở Phú dương tại Hàng châu

2. Thiền sư Tân ở viện Hồ minh tại Hàng châu. * Thiền sư Minh Ngạn ở viện Trường Thọ tại Tô châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Pháp Tề, đời thứ hai ở Trường thọ.

* Thiền sư Hy Biện ở chùa Phổ môn tại Hàng châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Hồng ở nước Cao Ly

2. Thiền sư Hồ Trí ở Thượng lâm tại Việt châu

* Thiền sư Đạo Tề ở Chân như tại núi Vân cư, lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Khế Khôi ở Vân cư

2.Thiền sư Văn Thắng ở Linh ẩn tại Hàng châu

3.Thiền sư Nghĩa Hải ở Thụy nham tại Đài châu

4.Thiền sư Cư Hy ở Đại mai

5.Thiền sư Cư Tế ở Bảo phước tại Đại mai

6.Thiền sư Thanh ở Thanh khê tại Kinh môn

7.Thiền sư Cư Diệu ở Vân môn

8.Thiền sư Tuệ Chấn ở Vân cư

9.Thiền sư Trí Đạt ở Tuệ nhật tại Lô sơn.

Thử luận bàn: Chánh tông đến đời Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng lưu truyền đã rộng lớn, mà các học giả bèn mỗi tự chuyên theo thuyết của thầy mình. Trong thiên hạ từ đó lấy làm khác lạ, tranh nhau tự làm thành gia (chủ trương), nên có nào: Tông Qui ngưỡng, tông Tào động, tông Lâm tế, tông Vân môn, tông Pháp nhãn v.v... như thế đông nhiều không thể tính kể. Mà đồ chúng của ba tông Vân môn, Lâm tế và Pháp nhãn đến nay rất hưng thạnh. Còn tông Qui ngưỡng thì đã tiệt mất. Tông Tào động chẳng qua còn nhưng dần hiếm ít dẫn đến cạn kiệt. Nhưng sự thạnh suy đó đâu phải pháp có mạnh yếu, chỉ bởi đời sau truyền thừa có được người hay không vậy. Các sách há chẳng nói ư. Giả sử không người ấy, đạo vốn chẳng trống truyền hành.

(HẾT)-

QUYỂN 9

- Lược truyện lưu xuất gần kề, có hai trăm lẻ năm vị

- Lược truyện Tông chứng, có mười vị.

I. LƯỢC TRUYỆN LƯU XUẤT GẦN KỀ LỜI TỰA

“Lưu xuất các Thiện tri thức gần kề đã ghi lục ở các sách khác. Đây lại nêu bày. Bởi vì những vị ấy đều lưu xuất từ Chánh tông. Đích hay thứ tuy có khác nhưng pháp chỉ có một. Niêm phong gồm cả đồng dòng họ nước nhà, vì quý cái Tông ấy, bởi nghĩa của thân gần, thì văn võ thành Khương an làm chánh. Mới đầu từ Tôn giả Đại Ca-diếp tương truyền tiếp thừa, điều đó cũng đã có thể rõ biết, và phát khởi lưu truyền đến Mạt-điền-để cuối cùng chấm dứt tại Thiền sư Thần Hội ở Ích châu. Có cả thảy hai trăm lẻ năm vị”.

Từ Tổ sư thứ nhì:

Tôn giả A-nan lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp gần kề.

Đó là Tôn giả Mạt-điền-để-ca.

Từ Tổ sư thứ hai mươi bốn:

Tôn giả Sư Tử lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp gần kề.

Đó là Đạt-ma-đạt.

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ SƯ TỬ

Tôn giả Đạt-ma-đạt, vốn người nước Kế Tân, không rõ thuộc dòng họ nào. Mới đầu, Đạt-ma-đạt nương theo Tôn giả Ba-lê-ca ở nước Kế Tân cầu xin xuất gia, mà Đạt-ma-đạt rất thông mẫn có trí tuệ biện tài, và đức hạnh lại tỏa trùm cả các bậc A-la-hán, đến lúc dòng pháp từ Tôn giả Ba-lê-ca phân chia thành năm nhà thì Đạt-ma-đạt lại là vị dẫn đầu tông Thiền định. Về sau, cùng Tôn giả Sư Tử biện luận, bèn phục theo đạo ấy, lại làm thầy của tông đó. Đến lúc Tôn giả Sư Tử gặp nạn hại, Đạt-mađạt mới cùng hai vị đệ tử ẩn dật trong núi Tượng bạch tại nước đó. Đạt-ma-đạt tuổi thọ rất cao, vượt ngoài số thường. Và Đạt-ma-đạt lợi ích hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Nhân-đà-la

2. Tôn giả Cù-la-kỵ-lợi-bà.

Thử luận bàn: Mới đầu, người chưa được chứng nghiệm từ “Xuất Tam Tạng Ký”. Có người bảo: “Tôi nghi ngờ ngôi vị Tổ sư đến đời Tôn giả Sư Tử là tuyệt dứt, mà pháp ấy lưu truyền rộng khắp. Còn Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng Tổ thứ sáu ở Trung Hoa chẳng như vậy ư?” Nhân đó, Khế Tung tôi thường cùng người ấy luận bàn rằng: “Phàm, ngôi vị Tổ sư dứt tuyệt là việc chẳng tầm thường. Các bậc hiền Thánh trước sau cũng đang nói đó. Như số danh chư vị tổ sư ở đây dừng ở Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng, là do có Tôn giả Bát-nhã-đa-la; Tổ thứ hai mươi bảy dùng Đại sĩ Bồ-đề-đạt-ma; Tổ tứ hai mươi tám đã có ghi trước. Đến đời Tổ thứ sáu (ở Trung Hoa) Thiền sư Đại Giám-Tuệ Năng tuy mỗi tự truyền trao pháp ấy mà cũng có người vậy. Nếu ông cho rằng đời Tổ sư dứt tuyệt từ Tôn giả Sư Tử, Tổ thứ hai mươi bốn, hẳn lấy gì làm chứng đó? Các Tổ sư trước đó ai từng dự ghi ư? Và phân truyền pháp quả nhiên có người nào đem đến phương Đông ư? Nếu không có người nào thì pháp ấy sao truyền đến xứ Trung Hoa đây được? Tuy Tôn giả Sư Tử lưu xuất Tôn giả Đạt-ma-đạt nối dõi dòng pháp gần kề tự vì đó là chi phải. Và lưu xuất đó mỗi mỗi không quá bốn-năm vị mà thôi chẳng phải lưu truyền khắp cùng. Và cũng chưa từng nghe Đồ chúng đó đem giáo pháp đến phương Đông lưu truyền xiển hóa. Giả sử Tôn giả Đạt-ma-đạt là người lưu truyền khắp cùng, thì sao Tôn giả Đạt-ma-đạt lại riêng chỉ nêu Tổ sư đời thứ hai mươi lăm rằng: “Ta có bạn đồng học tên là Bà-xứ-tư-đa Tiên sư (Tôn giả Sư Tử) đã dự ghi trao truyền cho Đại pháp, lại trao pháp y để làm chứng tín. Và Bà-xá-tư-đa đã đến xứ Nam Thiên trúc hoằng hóa vậy”. Đồng học vời Đạt-mađạt kia đâu bỏ mà không nói ư? Đó chẳng ấy vậy. Ông nên theo Lý mà tìm cầu đó, không thể phóng ý mà tự ức đoán”. Người ấy lại hỏi: “Nếu vậy thì Tôn giả Đạt-ma-đạt đã thuộc tông từ Tôn giả Sư Tử, sao chẳng tiếp thừa làm Tổ sư chánh vị, mà lại suy tôn đến Bà-xá-tư-đa?” Đáp: “Đó bởi do các Thánh nhân tùy thích nghi cơ duyên mà trao truyền Tổ vị, lại thêm tùy sự ngộ đạt có cạn sâu mà truyền trao pháp ấn. Như Tổ thứ năm-Tôn giả Hoằng Nhẫn truyền trao đại pháp cho Thiền sư Đại Giám

-Tuệ Năng mà chẳng truyền trao cho Tỳ-kheo Thần Tú, chẳng rõ đó thay?”

Hoặc có đồng vậy, vừa rồi có được sách của Sa-môn Tăng Hựu, mà Khế Trung tôi nói là rất chứng nghiệm, chẳng muốn vất bỏ đó. Nhân hệ thuộc được lưu truyền sau Tôn giả Đạt-ma-đạt.

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ SƯ TỬ.

* Tôn giả Nhân-đà-la, lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Đạt-ma-thi-lợi-đế

2. Tôn giả Na-già-nan-đề

3. Tôn giả Phú-lâu-cầu-đa-la

4. Tôn giả Bà-la-bà-đề

* Tôn giả Cù-la-kỵ-lợi-bà lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Bà-la-bạt-ma

2. Tôn giả Tăng-già-la-xoa.

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ SƯ TỬ

* Tôn giả Đạt-ma-thi-lợi-đế lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Ma-đế-lệ-phi-la

2. Tôn giả Ha-lợi-bạt-mậu

* Tôn giả Phá-lâu-cầu-đa-la lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Hòa-tu-bàn-đầu

2. Tôn giả Đạt-ma-ha-đế

3. Tôn giả Chiên-đà-la-đa

* Tôn giả Ba-la-bạt-ma lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Lặc-na-đa-la

2. Tôn giả Bàn-đầu-đa-la

3. Tôn giả Bà-la-bà-đa

* Tôn giả Tăng-già-la-xoa lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Tôn giả Tỳ-xá-dã-đa-la

2. Tôn giả Tỳ-lâu-la-đa-ma

3. Tôn giả Tỳ-lật-sô-đa-la

4. Tôn giả Ưu-ba-thiên-đà

5. Tôn giả Bà-nan-đề-la.

TÔN GIẢ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA, TỔ THỨ HAI MƯƠI TÁM

Tức Sơ tổ ở Trung Hoa lưu xuất chín vị nối dõi dòng pháp gần kề.

Đó là:

1. Tôn giả Tát-bà-la đứng đầu tông Hữu tướng

2. Tôn giả Ba-la-đề đứng đầu tông Vô tướng

3. Tôn giả Bà-lan-đà đứng đầu tông Định tuệ

4. Tôn giả (mất tên) đứng đầu tông Giới hạnh

5. Tôn giả Bảo Tỉnh đứng đầu tông Vô đắc

6. Tôn giả (mất tên) đứng đầu tông Tịch tỉnh

7. Tôn giả Đạo Dục 8. Tôn giả Đạo Phó

9. Ni Sư Tổng Trì.

TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

Tức Tổ sư đời thứ nhì ở Trung Hoa lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tăng Na

2. Cư sĩ Lưu Hướng

3. Thiền sư Tuệ Mãn ở Tương châu.

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

* Thiền sư Tuệ Mãn ở Tương châu lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thần Định ở núi Hiện

2. Thiền sư Bảo Nguyệt

3. Cư sĩ Hoa Nhàn

4. Đại sĩ Hóa Công

5. Hòa Công

6. Cư sĩ Liệu

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN.

* Cư sĩ Hoa Nhàn lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp, đó là Đàm Thúy

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

* Thiền sư Đàm Thúy lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Giản ở Diên lăng

2. Thiền sư Tuệ Sai ở Bành thành

3. Thiền sư Tuệ Cương ở Định lâm

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

* Thiền sư Tuệ Cương lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đại Giác ở Lục hợp.

ĐỜI THỨ SÁU SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

* Thiền sư Đại Giác lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đàm Ảnh ở Cao bưu.

ĐỜI THỨ BẢY SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

* Thiền sư Đàm Ảnh lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Minh Luyện ở Thái sơn.

ĐỜI THỨ TÁM SAU ĐỜI TÔN GIẢ TUỆ KHẢ, TỔ THỨ HAI MƯƠI CHÍN

* Thiền sư Minh Luyện lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tỉnh Thái ở Dương châu.

TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

Tức Tổ sư đời thứ tư ở Trung Hoa lưu xuất, vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Pháp Dung ở Ngưu đầu.

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Pháp Dung ở Ngưu đầu tại Kim lăng, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Trí Nham

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Trí Nham lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Phương.

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Tuệ Phương lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Pháp Trì.

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Pháp Trì lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Trí Oai.

ĐỜI THỨ SÁU SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Trí Oai lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tuệ Trung.

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Pháp Dung lại lưu xuất mười vị nối dõi dòng pháp gần kề. Đó là:

1.Thiền sư Đàm Thôi ở Chung sơn tại Kim lăng

2.Thiền sư Đại Tố ở Kinh châu

3.Thiền sư Nguyệt Không ở U thê

4.Thiền sư Đạo Diễn ở Bạch mã

5.Thiền sư Định Trang ở Tân an

6.Thiền sư Trí Sai ở Bành thành

7.Thiền sư Đạo Thọ ở Quảng châu

8.Thiền sư Trí Sảng ở Hồ châu

9.Thiền sư Đổ Mặc ở Tân châu

10. Thiền sư Trí Thành ở Thượng nguyên

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Trí Nham lại lưu xuất tám vị nối dõi dòng pháp gần kề. Đó là:

1. Thiền sư Cảnh Đàm ở Đông đô

2. Thiền sư Chí Trường ở Tương châu

3. Thiền sư Đoan Phục ở Ích châu

4. Thiền sư Quy Nhân ở Long quang

5. Thiền sư Biện Tài ở Tương dương

6. Thiền sư Pháp Tuấn ở Hán nam

7. Thiền sư Mẫn Cổ ở Tây xuyên. 8.

* Thiền sư Trí Thành lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Định Châu.

ĐỜI THỨ TƯ SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Định Chân lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp gần kề.

Đó là:

1. Thiền sư Như Độ.

ĐỜI THỨ NĂM SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Định Chân lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp gần kề.

Đó là:

1. Thiền sư Huyền Tố ở Ngưu đầu 2. Thiền sư Hoằng Nhẫn ở Thiên trụ.

ĐỜI THỨ SÁU SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Trí Oai lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp gần kề. Đó là:

1. Thiền sư Huyền Đĩnh ở An quốc tại Tuyên châu

2. Thiền sư Huyền Tố ở Hạc lâm tại Nhuận châu

3. Thiền sư Sùng Tuệ ở Thiên trụ tại Thư châu.

ĐỜI THỨ BẢY SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Tuệ Trung lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Duy Tắc ở Thiên thai.

* Thiền sư Huyền Tố lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Khâm ở Kính sơn

2. Thiền sư Đàm Ích ở Kim hoa

3. Thiền sư Viên Cảnh ở Ngô môn

ĐỜI THỨ TÁM SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Đạo Khâm-Quốc Nhất ở Kính sơn lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Đạo Lâm ở Điểu khóa

2.Thiền sư Ngộ ở núi Mộc chữ

3.Thiền sư Quảng Phu ở Thanh dương

4.Thiền sư Sùng Tuệ ở núi Cân tử tại Hàng châu.

* Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật quật tại Thiên thai lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là Thiền sư Trí ở Vân cư tại Thiên thai.

ĐỜI THỨ CHÍN SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Đạo Lâm ở Điểu khóa tại Hàng châu, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Hội Thông ở Chiêu hiền tại Hàng châu

2. Thiền sư Bảo Quán ở Linh nham.

* Thiền sư Trí ở Vân cư tại Thiên thai lưu xuất ba mươi ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Đạo Tánh ở núi Ngưu đầu

2. Thiền sư Trí Đăng ở Giang ninh

3. Thiền sư Hoài Tín ở Giải huyền

4. Thiền sư Toàn ở Hạc lâm

5. Thiền sư Hoài Cổ ở Bắc sơn

6. Thiền sư Quán Tông ở Minh châu

7. Thiền sư Đại Trí ở Ngưu đầu

8. Thiền sư Thiện Đạo ở Bạch mã

9. Thiền sư Trí Chân ở Ngưu đầu

10. Thiền sư Đàm Ngung ở Ngưu đầu

11. Thiền sư Vân Thao ở Ngưu đầu

12. Thiền sư Ngưng ở Ngưu đầu

13. Thiền sư Pháp Lương ở Ngưu đầu

14. Thiền sư Hạnh Ứng ở Giang ninh

15. Thiền sư Huệ Lương ở núi Ngưu đầu

16. Thiền sư Đạo Dung ở Hưng thiện

17. Thiền sư Chiếu Dung ở Tương sơn

18. Thiền sư Pháp Đăng ở Ngưu đầu

19. Thiền sư Định Không ở Ngưu đầu

20. Thiền sư Tuệ Thiệp ở núi Ngưu đầu

21. Thiền sư Đạo Ngộ ở U thê

22. Thiền sư Ngưng Không núi ở Ngưu đầu

23. Thiền sư Đạo Sơ ở Tương sơn

24. Thiền sư Tạng ở U cơ (Thê?)

25. Thiền sư Linh Huy ở Ngưu đầu

26. Thiền sư Đạo Dĩnh ở U thê

27. Thiền sư Cự Anh ở Ngưu đầu

28. Thiền sư Pháp Thương ở Thích sơn

29. Thiền sư Ngưng Tịch ở Long môn

30. Thiền sư Viễn ở Trang nghiêm

31. Thiền sư Đạo Kiên ở Tương châu

32. Ni sư Minh Ngô

33. Cư sĩ Ân Tịnh

ĐỜI THỨ MƯỜI SAU ĐỜI TÔN GIẢ ĐẠO TÍN, TỔ THỨ BA MƯƠI MỐT

* Thiền sư Tuệ Nghiệp, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thanh Nguyên ở Thê hà tại Nhuận châu Tôn giả Hoằng Nhẫn, Tổ thứ ba mươi hai.

Tức Tổ sư đời thứ năm ở Trung Hoa lưu xuất mười ba vị nối dõi dòng pháp gần kề. Đó là:

1. Thiền sư Thần Tú Bắc Tông

2. Thiền sư Tuệ An ở Tung nhạc

3. Thiền sư Đạo Minh ở Mông sơn

4. Thiền sư Đàm Quang ở Dương châu

5. Thiền sư Thần Tháo ở Tùy châu

6. Thiền sư Pháp Trì ở Kim châu

7. Thiền sư Trí Tiên ở Tư châu

8. Thiền sư Pháp Chiếu ở Thư châu

9. Thiền sư Nghĩa Phương ở Việt châu

10. Thiền sư Đạo Tuấn ở Chi giang

11. Thiền sư Huyền Trách ở Thường châu

12. Thiền sư Tăng Đạt ở Việt châu

13. Chủ bộ dòng họ Lưu ở núi Bạch tùng.

ĐỜI THỨ HAI SAU ĐỜI TÔN GIẢ HOẰNG NHẪN, TỔ THỨ BA MƯƠI HAI.

* Thiền sư Thần Tú lưu xuất mười chín vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ đài

2. Thiền sư Trí Phong ở Hà trung

3. Thiền sư Tạng ở Hàng ma tại Duyên châu

4. Thiền sư Đạo Thọ ở Thọ châu

5. Thiền sư Toàn Thực ở Hoài nam

6. Thiền sư Từ Lãng ở Kinh châu

7. Thiền sư Phổ Tịch ở Tung sơn

8. Thiền sư Hương Dục ở Đại Phật

9. Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây kinh

10. Thiền sư Trừng ở Hốt lôi

11. Thiền sư Nhật ở Đông kinh

12. Thiền sư Biến Tịnh ở Thái nguyên

13. Thiền sư Nguyên Quán ở Nam nhạc

14. Thiền sư Đỗ ở Nhữ nam

15. Thiền sư Kính ở Tung sơn

16. Thiền sư Tiểu Phước ở Kinh triệu

17. Thiền sư Quán ở Hoắc sơn tại Tấn châu

18. Thiền sư Sùng Khê ở Nhuận châu

19. Thiền sư Hoài Không ở An lục.

* Quốc sư Tuệ An ở Tung nhạc lưu xuất sáu vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Nhân Niệm ở Phước tiên ở Lạc kinh

2. Thiền sư Đọa ở Phá táo tại Tung nhạc

3. Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung nhạc

4. Thiền sư Thản Nhiên ở Thường sơn

5. Thiền sư Viên Tịch ở Nghiệp đô

6. Thiền sư Đạo Lượng ở Tây kinh.

* Thiền sư Đạo Minh ở Mông sơn lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Sùng Tịch ở Hồng châu

2. Thiền sư Hoàng ở Giang tây

3. Thiền sư Thần Chánh ở Phủ châu

* Thiền sư Thần Tháo ở Tùy châu lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Chánh thọ

* Thiền sư Trí Tiên ở Tư châu, lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư Xử Tịch ở Tư châu

* Thiền sư Huyền Trách, lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa hưng

2. Thiền sư Sướng ở Hồ châu.

ĐỜI THỨ BA SAU ĐỜI TÔN GIẢ HOẰNG NHẪN, TỔ THỨ BA MƯƠI HAI

* Thiền sư Tạng ở Hàng ma lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Tịch Mãn ở Tây kinh Thiền sư Định Trang ở Tây kinh Thiền sư Tuệ Ẩn ở Nam nhạc.

* Thiền sư Từ Lãng ở Kinh châu lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

Thiền sư Huyền Tông ở Tử kim Thiền sư Xa ở Đại mai Thiền sư Hoài Huy ở Đoàn giới * Thiền sư Phổ Tịch ở Tung sơn lưu xuất hai mươi bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

Thiền sư Duy Chính ở núi Chung nam Thiền sư Tuệ Không ở Quảng phước Thiền sư Việt Châu Thiền sư Tư ở Giáp thạch tại Tương châu Thiền sư Minh Toàn Thiền sư Chân ở Kính ái Thiền sư Thủ Hiền ở Duyên châu Thiền sư Thạch Tạng ở Định châu Thiền sư Trừng Tâm ở Nam nhạc Thiền sư Nhật Chiếu ở Nam nhạc Thiền sư Cán ở Lạc kinh Thiền sư Chân Lượng ở Tô châu Thiền sư Tuyền ở Ngõa quan Thiền sư Pháp Dung ở Dặc dương Thiền sư Diễn ở Quảng lăng Thiền sư Tuệ Không ở Thiểm châu Thiền sư Chân Lượng ở Lạc kinh Thiền sư Tuyên Nguyệt ở Trạch châu Thiền sư Đàm Chân ở Hào châu Thiền sư Sùng Diễn ở núi Đô lương Thiền sư Trừng ở Kinh triệu Thiền sư Nhật Hạnh ở chùa Tung dương Thiền sư Dung ở Kinh triệu Cư sĩ Đinh ở Định đào ở Kinh triệu * Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây kinh lưu xuất tám vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Mãnh ở Đại hùng Thiền sư Động ở Đại chấn tại Tây kinh Thiền sư Thần Phỉ

Thiền sư Quang ở Đại bi tại Tây kinh Thiền sư Đại Ẩn ở tại Tây kinh Thiền sư Định Cảnh Thiền sư Đạo Bá Thiền sư Huyền Chứng * Thiền sư Nguyên Quán ở Nam nhạc lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Thần Chiếu.

* Thiền sư Tiểu Phước lưu xuất ba vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1.Thiền sư Thâm Tịch ở Lam điền tại Kinh triệu Thiền sư Vân ở Thái bạch Thiền sư Pháp Siêu ở núi Đông bạch.

* Thiền sư Quán ở Hoắc sơn lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

1. Thiền sư U ở Hiện sơn.

* Thiền sư Đạo Lượng ở Tây kinh lưu xuất năm vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Đại Tổng Quản Lý Hiếu Dật ở Dương châu Công Bộ Thượng Thư Trương Tích Quốc Tử Tế Tửu Thôi Dung Bí Thư Giám Hạ Tri Chương Thứ Sử Khương Tiên ở Mục châu.

* Thiền sư Xử Tịch ở Tư châu lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

Thiền sư Vô Tướng ở Ích châu Thiền sư Mã ở Ích châu Thiền sư Siêu Thiền sư Hiểu Liễu ở Tử châu * Thiền sư Phỉ ở Nghĩa hưng lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp.

Đó là:

Thiền sư Trí du ở Tây kinh Thiền sư Thâm Trí ở Đông đô Đời thứ tư sau đời Tôn giả Hoằng Nhẫn, Tổ thứ ba mươi hai * Thiền sư Duy Chính ở Hưng thiện lưu xuất hai vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Định Tâm ở Hành châu Thiền sư Chí Chân.

* Thiền sư Chí Chân ở chùa Kính ái lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Chiếu ở Tung sơn Thiền sư Thận Huy ở Đoàn giới lưu xuất một vị nối dõi dòng pháp. Đó là: Thiền sư Võ Giới Thiền sư Vô Tướng lưu xuất bốn vị nối dõi dòng pháp. Đó là:

1. Thiền sư Vô Trú ở Ích châu Thiền sư Dung ở Kinh châu Vương Đầu Đà ở Hán châu 4. Thiền sư Thần Hội ở Ích châu.

II. LƯỢC TRUYỆN TÔNG CHỨNG LỜI TỰA

“Trong kinh Niết-bàn nói: “Lại đến phương khác, nơi có các thứ phiền não, tên độc, thị hiện làm Tổ mà vì trị liệu đó”. Lại nói: “Ta có Chánh pháp Vô thượng đều đã giao phó cho Ma-ha Cadiếp. Đại Ca-diếp sẽ vì các người làm nơi nương tựa vững chắc”. Đó là đạo của chúng ta có Tổ Tông cao thượng vậy. Chỉ vì Trung Hoa và Thiên trúc các vị lưu truyền xa xăm không thật, đến nỗi kiến đức hạnh đạo phong của các bậc Thánh nhân rất không rõ ràng xác thực, lại thêm gặp phải các vị vua hung bạo ganh ghét Thánh thiện hủy phá đại giáo, mà người con Phật chẳng khéo thuộc sách, vọng cho là Tổ sư tuyệt dứt ngay đời thứ hai mươi bốn (Tôn giả Sư Tử). Mới sinh khởi điều nghi ở đời sau, khiến Thánh đức càng khuất mờ. Khế Tung tôi thường xót xa đó, nhân chỉnh sửa sử sách, mới gặp được điều nói về việc của Tổ Tông gồm có mười vị của Sa-môn Chúng hiền. Nên cùng người ấy xếp đặt làm thành truyện Tông Chứng đây vậy”.

1. Sa-môn Trúc Đại Lực người nước Nguyệt Chi.

Sa-môn Trúc Pháp Lực người nước Nguyệt Chi, là đệ tử của Tôn giả Hạc-lặc-na, Tổ thứ hai mươi ba. Trúc Đại Lực bẩm tánh vốn thông mẫn rất rành hiểu các pháp Đại thừa Tiểu thừa, ở nước đó tôn xưng là Tam Tạng Pháp Sư, khoảng trong đời vua Hiến Đế (Lưu Hiệp 190-220) thời Đông Hán, Trúc Đại Lực đến Lạc ấp (Trung Hoa), thường cùng Sa-môn Khương Mạnh Tường phiên dịch “Chánh Nhị Bản Khởi Kinh”. Một ngày nọ tại Quán bỗng có một luồng ánh sáng sắc trắng tỏa phát phía trước, Trúc Pháp Lực nghiêm nét mặt bảo: “Ánh sáng này là tướng điềm Tôn giả Hạclặc-na thầy của Ta thị tịch”. Mọi người đều lấy làm lạ đó bèn đem tấu trình cùng vua, vua liền bảo ghi ký lại. Lúc đó tức là năm Kỷ sửu (209). Sau đó, Trúc Đại Lực vân du đến Giang nam, vừa gặp lúc Tôn Quyền (Đại Đế 222-252 thời Đông Ngô) xưng Vương tại Kiến khương, mới quy hướng Phật pháp, tạo lập chùa. Kính lễ thỉnh mời Sa-môn Khương Tăng Hội ở nước đó. Mới đầu gặp gỡ Trúc Đại Lực, Khương Tăng Hội rất tỏ vẻ không kính đức, sau đó cùng hỏi đáp, bèn dần mến trọng. Nhân đó hỏi: “Nhân giả thọ học từ bậc thầy nào mà có được khả năng như vậy?” Trúc Đại Lực đáp: “Thầy của tôi là Tôn giả Hạc-lặc-na. Nên tôi thấu đạt diệu ngộ này, và mới thông hiểu tâm người khác”.

Khương Tăng Hội hỏi: “Đệ tử của Tôn giả Hạclặc-na có lợi trí như Nhân giả được bao nhiêu vị? Lại có ai quá vậy chăng?” Trúc Đại Lực đáp: “Đồng bạn tợ như tôi có ba ngàn (3.000) người, còn thông đạt mẫn ngộ trội vượt khác thường chỉ có một Thượng nhân tức là Tỳ-kheo Sư Tử, đã được kính thọ nhận đại pháp nối tiếp đời thầy, mới đến xiển dương hoằng hóa ở nước xứ Bắc Thiên Trúc”. Khi ấy, Khương Tăng Hội bèn dẫn Trúc Đại Lực vào diện kiến Ngô chủ-Tôn Quyền, tán thán những điều kỳ đặc. Tôn Quyền mới hỏi: “Hẹp hòi ở đây có đất, vận nước ấy có gì chăng?” Trúc Đại Lực mới nói bài kệ tụng đáp rằng:

“Đêm lắng ăn cơm
Giữa mây đánh chạy
Sau mười bốn (14) năm
Hẳn gặp miệng heo”.

Khi ấy, Tôn Quyền không hiểu lời nói đó, mà cũng rất kính lễ. Trúc Đại Lực lưu ở tại đất Đông Ngô rất lâu. Đến lúc Tôn Quyền băng hà. Con là Tôn Lượng (Hầu Quan Hầu 252-258) lên nối ngôi, càng cùng thưa hỏi mà mọi lời giải đáp của Trúc Đại Lực đều có ứng nghiệm. Mãi đến năm Canh thìn (260) thuộc trong đời Tôn Hưu (Cảnh Đế 258264 thời Đông Ngô) Trúc Đại Lực mới trở về lại Tây vức.

2. Sa-môn Đàm-ma-ca-la người xứ Trung Ấn Độ.

Sa-môn Đàm-ma-ca-la người xứ Trung Ấn Độ. Năm Nhâm dần (222) tức năm Hoàng sơ thứ ba Tiền Ngụy, đến Hứa Xương, thấy chư Tăng oai nghi không chỉnh tề, Đàm-ma-ca-la luôn than: “Đó là không biết Pháp luật!” Bấy giờ tại Hứa Xương có vị Tăng tên là Quang Xán nhọc nhằn xót thương chúng ấy, hay khéo được gặp, mới kính lễ hỏi Đàm-ma-ca-la rằng: “Sư ở nước Tây vức có thấy được người nào là bậc thầy ưu thắng chăng? Và dùng pháp gì để trú trì? Mong được nghe chỉ bày!” Đàm-ma-ca-la đáp: “Ở Tây vức có hai vị Tăng rất ưu thắng, đó là Tôn giả Ma-noa-la (Tổ thứ 22) và Tôn giả Hặc-lặc-na (Tổ thứ 23) mà tôi đã được gặp và lễ kính. Hai Đại sĩ ấy đều truyền trao chánh pháp. Dùng pháp để trú trì. Những người dự tham trong đại chúng ấy hiếm ít chẳng chỉnh trang. Hai Đại sĩ ấy đều chứng đắc Thánh đạo, và oai đức khác lạ đều không thể nghĩ lường. Tôn giả Ma-noA-la mới đầu ở tại nước Chi-đề dùng sức thần thông vỗ một cái vào bụng mình mà hay nhiếp phục được cả trăm muôn con voi hung dữ. Đến lúc xuất gia, giáo hóa ở nước xứ Tây Ấn Độ. Lúc ở nước đó biện giải về Tháp Phật, chỉ bày dòng suối đều có ứng nghiệm (các việc này nói rõ đủ trong bản truyện). Còn Tôn giả Hặc-lặc-na là đệ tử nối dõi dòng pháp từ Tôn giả Ma-noa-la đã làm hưng thạnh việc Phật ở nước xứ Trung Thiên Trúc. Đến lúc thị tịch, bốn chúng trà-tỳ nhục thân sắp phân chia xá-lợi, Tôn giả Hặc-lặc-na lại hay ứng hiện, nói kệ tụng dạy răn không cho phân chia (bài kệ ấy đã nói rõ trong bản truyện)”. Sa-môn Quang Xán hỏi: “Tôn giả Hặc-lặc-na thị tịch đến nay đã bao lâu rồi?” Đàmma-ca-la đáp: “Đã mười hai năm”. Sa-môn Quang Xán hỏi: “Niên lịch ở nước Tây Vức so với xứ đây có đồng chăng?” Đàm-ma-ca-la đáp: “Tên gọi mùa thì tuy khác nhưng khí hậu thì không sai khác”. Và bèn giả nói là lịch số của năm xứ Thiên trúc v.v... Về sau, Đàm-ma-ca-la cũng trở về lại Tây vức, Samôn Quang Xán lưu truyền việc ấy. Về sau người làm truyện chứ Tăng có được nên biên ghi đó.

3. Sa-môn Chi-vương-lương-lâu người nước xứ Trung Ấn Độ.

Sa-môn Chi-vương-lương-lâu người nước xứ Trung Ấn Độ, thật là người đã chứng đắc quả vị không thể lường biết. Mới đầu, khoảng trong đời Tào Hoán (Nguyên Đế 260-265) thời Tiền Ngụy. Chi-vương-lương-lâu đến Lạc kinh, mới đầu dừng ở tại chùa Bạch mã. Lúc đó là năm Tân tỵ (261) tức năm Cảnh Nguyên thứ hai thời Tiền Ngụy. Khi ấy nhà Ngụy sắp đến lúc nguy ngập, Tào Hoán cùng đồng bạn rất ngại lo, nghe Chi-vương-lươnglâu là vị Tăng đặc dị nên cùng theo hỏi về sự hưng suy của nước nhà, Chi-vương-lương-lâu bèn vì Tào Hoán nói bài kệ rằng:

“Hai ông mang vị rỗng
Khỉ vượn chánh ngay đường
Năm (05) người bắt một (01) gà
Gà kêu khỉ chẳng bày”.

Đến lúc Tào Hoán ra đi, Chi-vương-lương-lâu lại nói bài kệ tụng rằng:

“Hai người khéo khéo đi
Bốn (04) năm nữa bình an
Gái trai sống Hà nội
Xe son dâng lên đàn”.

Bấy giờ tuy không hiểu lời nói đó, nhưng về sau đều có ứng nghiệm.

Sau đó, gặp các Sa-môn Đàm Đế, Khương Tăng Khải, Đàm Tùng Bạch thỉnh mời các Sa-môn phiên dịch chúng kinh. Một ngày nọ, Chi-vươnglương-lâu bảo cùng các Sa-môn rằng: “Lúc ở Tây Vức, tôi từng đến nước Kế Tân, vào cao nguyên thông đồ, đến núi Tượng bạch đi rất xa, bỗng thấy một am tranh. Có vị Tăng ở đó rất già, có đệ tử theo hầu, tôi mới đến lễ kính, nhân đó hỏi: “Nhân giả ở đây đã bao lâu, tên họ là gì?” vị Tăng ấy đáp: “Tôi tên là Đạt-ma-đạt, vốn người ở nước xứ Bắc Thiên Trúc. Mới đầu, tôi theo Tỳ-kheo Ba-lê-ca theo học, về sau được gặp Tôn giả Sư Tử (Tổ thứ 24) vì tôi làm thầy chỉ dạy pháp xuất thế. Đến lúc vua Di-laquật gây nạn giết hại Tôn giả Sư Tử, tôi bèn đến ẩn tại đây. Đã lâu từ tạ tuyệt dứt mọi việc người đời, đâu có ý lại cùng gặp ông đây”. Tôi nghe tên ấy lại càng kính trọng, bèn tiếp hỏi: “Tôn giả Sư Tử, theo tôi thật biết là bậc không tội mà bị hại, nhưng Đại pháp mà Tôn giả Sư Tử lưu truyền lấy gì làm Tông thừa, rất muốn phỏng hỏi đầu mối nguyên do đó mà chưa từng được, nay may gặp Tôn giả, tôi có thể được nghe nói chăng?” Đạt-mađạt đáp: “Xưa kia Đức Như Lai đem giáo thừa mà truyền trao cho các Thánh giả, riêng đem chánh pháp vi diệu tâm ấn tối thượng thừa phó chúc cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, lần lượt trao truyền đến Tôn giả Sư Tử; thầy Tôi, Tôn giả Sư Tử dự biết chính mình không khỏi mắc hoạn nạn, nên lúc còn tại thế, đem Đại pháp truyền trao cho bạn đồng học với Tôi là Tôn giả Bà-xá-tư-đa, lại trao cho pháp y để chứng tín. Bấy giờ Tôn giả Bà-xá-tư-đa tuân theo lời bảo của Thầy bèn đến hoằng hóa ở nước xứ Nam Ấn Độ”. Chi-vương-lương-lâu tiếp bảo: “Tôi cũng từng gặp Sư ấy (Tôn giả Bà-xá-tư-đa) tại nước xứ Nam Ấn Độ”. Nhân đó, đem việc của các Tổ sư mà phiên dịch cùng các Sa-môn. Phàm bảy Đức Phật từ thời quá khứ cho đến Tôn giả Bàxá-tư-đa, Tổ thứ hai mươi lăm là do Sa-môn Chivương-lương-lâu phiên dịch thành.

4. Sa-môn Bà-la-phân-đa người xứ Trung Thiên trúc.

Sa-môn Bà-la-phân-đa người xứ Trung Thiên trúc, cũng là người thần dị chẳng thể lường biết. Hoặc có thuyết cho là Tiền thân của Bà-la-phânđa vốn là rồng nhân nghe giảng kinh mà được thác sinh đời nay vậy. Khoảng năm canh ngọ (250) tức năm Gia Bình thứ hai thời Tiền Ngụy, Bà-la-phânđa đến Lạc kinh (Trung Hoa), chứ Tăng tại Lạc kinh phần nhiều đều nương theo Bà-la-phân-đa trở lại câu thọ Đại giới. Mãi đến năm Ất dậu (265) tức năm Thái Thủy thứ nhất, đời vua Võ Đế (Tư Mã Viêm 265-290) thời Tây Tấn, gặp có vị đệ tử tên là Ma-ca-đà đến, nhân đó Bà-la-phân-đa hỏi: “Lúc ông ở tại Tây vức từng đến nước xứ Bắc Thiên trúc chăng? Có người nói Tôn giả Sư Tử (Tổ thứ 24) không tội mà bị vua giết hại, việc ấy có thật chăng? Nay lại có người truyền pháp cũng kế thừa nối tiếp từ Tôn giả Sư Tử chăng?” Ma-ca-đà đáp: “Thật đúng vậy. Tôn giả Sư Tử bị giết chết đến nay đã hai mươi ba năm. Có Sa-môn tên là Bà-xá-tư-đa vốn người nước Kế Tân, trước khi gặp nạn đã được Tôn giả Sư Tử trao truyền Đại pháp và pháp y. Và trong ngày đó liền ra đi đến xứ Trung Thiên trúc hoằng truyền hưng thạnh việc Phật. Vua nước đó tên là Ca Thắng rất mến trọng. Tuy các ngoại đạo rất hùng mạnh biện luận nhưng cũng đều bị khuất phục. Sa-môn Bà-xá-tư-đa cùng vua biện giải về mối nghiệp trong ngự uyển. Dân chúng trong nước ấy rất lấy làm lạ, lại xưng gọi là Bà-la-phân-đa (sự việc xem ở Bản truyện)”. Sa-môn Bà-la-phân-đa bảo cùng vị đệ tử ấy rằng: “Ta cũng biết đó, vừa xét nghiệm điều ông nói thật có chỗ hợp”. Bấy giờ có người khéo việc, liền biên ghi tại chùa Bạch mã. Về sau có vị Sa-môn tức Pháp sư Hiền Lãng gặp được tại chùa ấy mới đem lưu truyền nơi đời. (Vì Sa-môn Bà-la-phân-đa đến Trung Hoa trong đời Tề Vương (Thiếu Đế-Tào Phương 240-254 thời Tiền Ngụy) tức đáng nêu bày trước truyện Sa-môn Chi-cương-lương lâu. Nhưng vì mới hiển bày bắt đầu trong niên hiệu Thái Thủy (265-275) thời Tây Tấn nên xếp đặt lưu sau vậy).

5. Sa-môn Phật-đà-bạt-đà-la người xứ Thiên trúc.

Sa-môn Phật-đà-bạt-đà-la, tiếng Trung Hoa phiên dịch nghĩa là “Giác Hiền”, người xứ Thiên trúc, vốn thuộc dòng họ Thích-ca là hậu duệ của vua Cam-lồ-phạn xuất gia từ thuở thiếu thời được độ làm Sa-di ở nước ấy. Về sau Phật-đà-bạt-đà-la đến thọ học theo đại Thiền sư Phật Đại Tiên, bẩm tánh rất thông mẫn, chỉ tập học trong một ngày đã hơn hẳn mọi người tập học cả tháng và rất chuyên về Thiền pháp, từng cùng Sa-môn Tăng-già-đạt-đa chung đi đến nước Kế Tân, mới đầu Tăng-già-đạtđa chưa lường biết được con người Phật-đà-bạt-đàla. Một ngày nọ Tăng-già-đạt-đa đang tọa thiền nơi thất kín, bỗng thấy Phật-đà-bạt-đà-la xuất hiện trước mắt nên kinh ngạc mà hỏi: “Từ đâu lại?” Phật-đà-bạt-đà-la đáp: “Tạm đến cung trời Đâusuất kính lễ Bồ-tát Di-lặc”, rồi liền ẩn, không còn thấy nữa, Tăng-già-đạt-đa rất lấy làm lạ đó. Ngày khác đem điều ấy mà hỏi, mới biết Phật-đà-bạt-đàla đã chứng quả “Bất hoàn”. Gặp có Sa-môn Trí Nghiêm người đất Tần đang đồng ở tại nước Kế Tân. Nhân đó, Sa-môn Trí Nghiêm khẩn thiết cầu thỉnh Phật-đà-bạt-đà-la đến Trung Hoa hoằng truyền thiền pháp. Khi ấy Đại Thiền sư Phật Đại Tiên cũng đang ở tại nước Kế Tân, nhân đó, bảo Sa-môn Trí Nghiêm rằng: “Hoằng truyền thiền pháp thì Phật-đà-bạt-đà-la thật đúng người vậy”. Phật-đà-bạt-đà-la bèn cùng Sa-môn Trí Nghiêm đến phương Đông. Mới đầu đến Trường an, cùng gặp Tam Tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập rất lấy làm tốt lành. Phật-đà-bạt-đà-la từng bảo cùng La-thập rằng: “Ông phiên dịch chẳng vượt ngoài ý người, mà sao đặc biệt vang vọng tiếng tăm vậy?” La-thập đáp: “Tôi tuổi già nên vậy, nào hẳn ngợi xưng tốt lành đàm luận”. Phật-đà-bạt-đà-la nghị luận phần nhiều cao vợi giản đơn, rất bị Đồ chúng đệ tử của La-thập chống kỵ. Về sau, nhân Phật-đà-bạt-đà-la tự nói: “Tôi dự thấy có năm chiếc thuyền từ nước ấy lại”. Các đệ tử lại nói: “Tự đắc quả vị A-nahàm.” Phật-đà-bạt-đà-la chẳng hẳn nghiệm hỏi.

Từ đó đưa đến sự phỉ báng, chư Tăng ở đất Tần cho rằng: “Phật-đà-bạt-đà-la dối hoặc quần chúng”. Bèn tẩn đuổi không dung đồng ở. Ngay ngày ấy, Phật-đà-bạt-đà-la cùng các đệ tử như Samôn Tuệ Quán v.v... ra ải theo hướng Nam đi đến Lô sơn. Pháp sư Tuệ Viễn vốn nghe tiếng tăm Phật-đà-bạt-đà-la nên lúc vừa thấy đến bàn tiếp đãi rất thân thiện, nhân đó gởi thư đến Tần Vương vì giải mở việc tẩn đuổi ấy, bèn xin Phật-đà-bạt-đà-la đưa các kinh thiền ra đồng phiên dịch. Phiên dịch xong, Pháp sư Tuệ Viện bèn vì ghi lời tựa. Nhân đó hỏi Phật-đà-bạt-đà-la rằng: “Chư Tổ ở Thiên trúc truyền pháp có được bao nhiêu vị?” Phật-đàbạt-đà-la đáp: “Chư vị Tổ sư ở Tây vức hoằng truyền pháp, từ Tôn giả Đại Ca-diếp lần lượt tiếp thừa đến nay đã có hai mươi bảy vị, vị Tổ thứ hai mươi sáu mới thị tịch gần đây tên là Bất-như-mậtđa, lưu xuất vị đệ tử nối dõi dòng pháp tên là Bátnhã-đa-la đang ở tại xứ Nam Thiên trúc thạnh hành giáo hóa, tôi đã từng gặp (Bát-nhã-đa-la hiện còn, khi ấy thì Đạt-ma-đa-la chưa nối dõi làm Tổ, nên chưa nêu xưng. Theo trong “Truyện Bảo Lâm” nêu cửu Phật-đà-bạt-đà-la nói về việc Tổ cùng đây tương đồng vậy). Khi Bát-nhã-đa-la đến phương Tây thì tôi đến Giang lăng”. Pháp sư Tuệ Viễn chưa kịp biên ghi điều ấy. Về sau, gặp Lưu Thái Úy Dụ Thôi nghỉ trấn nhậm tại Kinh châu, Phậtđà-bạt-đà-la đồng cùng trở lại dưới Thành đô, ở chùa Đạo tràng, và thị tịch tại chùa ấy. Lúc đó là năm Nguyên Gia thứ sáu (429) thời Tiền Tống.

Phật-đà-bạt-đà-la hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi.

6. Sa-môn Tăng Hựu.

Sa-môn Tăng Hựu vốn người xứ đất Tề đến ở đất Lương, trì luật rất nổi tiếng, từng trước thuật bộ: “Xuất Tam Tạng Ký”. Trong mục lục truyền thừa của “Tát-bà-đa-bộ”, Tăng Hựu nói: “Tôn giả Bà-la-đa-đa (Tổ thứ hai mươi lăm), Phất-nhã-mậtđa (Tổ thứ 26), Bất-như-đa-la (Tổ thứ 27) Đạt-mađa-la (Tổ thứ 28)”. Về sau, Tăng Hựu thị tịch tại đất Lương.

7. Sa-môn Na-liên-da-xá người nước Kế Tân.

Sa-môn Na-liên-da-xá người nước Kế Tân, khoảng trong đời vua Hiếu Tỉnh Đế (Nguyên Thiện Hiện 534-550) thời Đông Ngụy, Na-liên-da-xá đến ở Nghiệp đô, chuyên việc phiên dịch. Đến lúc dòng họ Cao thay thế nhà Ngụy, xưng hiệu nhà Tề, Na-liên-da-xá càng phiên dịch ra các kinh. Mới đầu, cùng xử sĩ Vạn Thiên Ý chung phiên dịch bộ “Tôn Thắng Bồ-tát Vô Lượng Môn Đà-la-ni Kinh”. Vạn Thiên Ý từng hỏi Na-liên-da-xá.” Ở Tây vức có Đại sĩ nào phụng trì giáo pháp này chăng?” Na-liên-da-xá đáp: “Chư vị Tổ sư ở Tây vức cả thảy hai mươi bảy Đại sĩ. Nhưng Tổ thứ hai mươi bảy tên là Bát-nhã-đa-la lưu xuất vị đệ tử nối dõi dòng pháp tên là Đạt-ma-đa-la (Tổ thứ 28), trước kia trong năm Chánh Quang thứ nhất (520) dưới đời vua Hiếu Minh Đế (Nguyên Hủ 516-528 thời Bắc Ngụy) đã đến Lạc dương đây, vị ấy (Đạtma-đa-la) cũng khéo giỏi kinh này”. Vạn Thiên Ý hỏi: “Tôi nghe Đại sĩ ấy đáng là vị Tổ sư hoằng truyền chánh pháp của Phật, sau đó có người nào kế thừa nối dõi chăng?” Na-liên-da-xá bèn nói bài kệ tụng mà đáp cùng Vạn Thiên Ý rằng:

“Tôn Thắng nay Tạng xưa Không tay lại có tay Rồng lại mới nhận báu Kính vật lại ghét tên”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi như trước. Na-liên-da-xá lại nói bài kệ tụng:

“Mới đầu không xưng tên
Gió cuồng lại có tiếng
Người lại chẳng thích thấy
Báu trắng mới bằng bằng”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi. Na-liên-da-xá lại nói bài kệ tụng:

“Tự dấy cầu không ngại
Thầy trao, Ta bày đây
Trên đường gặp Tăng lễ
Dưới chân sáu chi mọc”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi. Na-liên-da-xá lại nói bài kệ tụng:

“Ba bốn vàng không Ta
Cách nước nhận đèn tâm
Tôn hiệu quá các lượng
Không sân chẳng nổi giận”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi. Na-liên-da-xá lại nói bài kệ tụng:

“Kính vật nào từng kính
Nói siêng lại chẳng siêng
Chỉ viết bốn câu kệ
Cùng khuyên người thụy điền”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi. Na-liên-da-xá lại nói bài kệ tụng:

“Trong tâm hay giấu việc
Nói đến bến sông Hán
Sóng Hồ tìm vầng nguyệt
Cùng soi hai ba người”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi. Na-liên-da-xá lại nói bài kệ tụng:

“Lãnh được báu siêng nói
Xa quê mỗi ngày bày
Thóc kê dời gần đường
Tính thừa nhọc cẳng trời”.

Vạn Thiên Ý lại hỏi. Na-liên-da-xá bảo: “Theo dự ghi trước, sắp có bậc hữu đức trong nước nhà xuất hiện, Tôi không nói nữa, nhưng sự việc sau đó sẽ vì ông mà dự ghi bằng sáu bài kệ tụng mà dự ghi đó:

Bài 1:

“Đất cấn sinh Huyền chỉ
Thông Tôn đẹp cũng tôn
Sánh vai hai bảy (27) họ
Dưới chân một đống phân”.

Bài 2:

“Linh nhóm thích ân trời
Sinh ngà mười hai (12) người,
Trong pháp không mùi vị
Trên đá có công huân”.

Bài 3:

“Vốn là Trùng lớn mạnh
Xoay thành Sư tử đàm
Nhà quan bít phùng lãnh
Đồng rõ ba mươi ba”.

Bài 4:

“Chín (09) gái sinh nhân luân
Tám người chẳng hôn nhân
Giường mục thêm sáu chân
Tâm Tổ quý trong chúng”.

Bài 5:

“Chó chạy cùng gần sáng
Chim con nhẹ ra mình
Hai trời tuy có cảm
Ba hóa lắng không trần”

Bài 6:

“Nói thiếu nào từng thiếu
Nói lưu lại chẳng lưu
Cỏ như cắt bỏ đầu
Ba bốn tiếp môn tu”.

Na-liên-da-xá lại bảo cùng Vạn Thiên Ý rằng: “Sau khi Tôi thị tịch hai trăm tám mươi năm (280), nước này có bậc Đại vương khéo trị vì dân chúng, phong tục an lạc. Các bậc Hiền Thánh dự ghi xưa trước lần lượt đều xuất hiện nơi đời, làm điều lợi ích cho quần sinh. Nhưng do từ một vị Tăng ưu thắng mới bắt đầu mở môn cam lồ đó mà đến sau cùng như vậy”. Vạn Thiên Ý liền theo Na-liên-daxá phiên dịch các kệ sấm đó. Na-liên-da-xá lại nêu ra việc của Tôn giả Đạt-ma-đa-la Tổ thứ hai mươi tám đệ tử nối dõi dòng pháp từ Tôn giả Bát-nhãđa-la cùng Vạn Thiên Ý chỉnh tu đó (mất tên sách làm ở lúc bấy giờ)”. Về sau, Na-liên-da-xá bỗng nhiên riêng một mình vào Lô sơn, và bèn thị tịch trong núi. Sau đó vua Giản Văn Đế (Tiêu Cương 550-551) thời Nam Lương nghe được, nhân sai sứ thần Lưu Huyền vận sang đất Tề lấy sách đó đem về nước (Kim Lăng) và ban sắc chiếu mời Sa-môn Bảo Xướng biên ghi đưa vào “Tục Pháp Ký” (lúc vua Giản Văn Đế lên ngôi trị vì đang lúc nhà Tề có nước, mới hơn được một năm thì Giản Văn Đế băng hà, chết trong lúc giặc thần bạo loạn, đâu rãnh để mong cầu pháp sự ư? Há trước đó nhân Sứ thần nhà Bắc Tề hiến dâng lễ mà đã có sách đó ư? Lại không thấy Sa-môn Bảo Xướng trước thuật “Tục Pháp Ký”, về năm tháng đó hiện còn nghi ngờ. Chỉ lấy văn tự đó từ phương Bắc truyền đến phương Nam. Việc truyện lại đó có nguyên nhân, tạm theo cựu lục mà biên ghi như vậy). Nhưng về từ bảy Đức Phật thời quá khứ đến đời Tổ thứ hai mươi tám là Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma là do Sa-môn Naliên-da-xá.

8. Sa-môn Kiện Na người xứ Tây vức.

Sa-môn Kiện Na người xứ Tây vức, không biết quả thật là vốn người nước nào, cũng không biết đến Trung Hoa từ thời gian nào, khoảng trong niên hiệu Thiên Bảo (742-756) thời Tiền Đường, gặp có Hà Nam Duẫn Lý Thường có được xá-lợi của Đại sư Tăng Xán tổ thứ ba ở Trung Hoa, bèn thỉnh mời các Sa-môn đến nhà, thiết trai cúng dường khánh lạc, mà Sa-môn Kiện Na có cùng đến dự tham. Nhân đó, Lý Thường hỏi: “Thiền tông ở Thiên trúc có bao nhiêu Tổ sư?” Sa-môn Kiện Na đáp: “Từ Tôn giả Đại Ca-diếp cho đến Tôn giả Bát-nhã-Đa-la có cả thảy hai mươi bảy vị Tổ sư. Nếu bắt đầu từ Tôn giả Sư Tử (Tổ thứ 24) lưu xuất nối dõi dòng pháp gần kề thì đời thứ tư sau đời Tôn giả Đạt-mađạt có hai mươi hai vị. Như vậy, tổng cộng có cả thảy bốn mươi chín Tổ sư. Nếu từ bảy Đức Phật thời quá khứ đến đời Đâu-suất Tăng Xán đây chẳng bao quát các chi phái thì có ba mươi bảy đời. Lý Thường lại hỏi một vị Tăng Xán khác trong pháp hội rằng: “Tôi từng đọc xem Tổ đồ, hoặc nêu dẫn có hơn năm mươi tổ, cho đến chi phái thì sai sát, Tông tộc chẳng định, hoặc chỉ có tên không. Cớ sao như vậy?” Vừa lúc đó có vị đệ tử của Tổ thứ sáu tức Tôn giả Tuệ Năng là Thiền sư Trí Bản đáp rằng: “Đó bởi do trong thời Hậu Ngụy, Phật pháp bị phế hủy. Bấy giờ có Sa-môn Đàm Diệu trong lúc vội vàng riêng biên ghi danh mục chư Tổ, chẳng rảnh biên ghi toàn bộ, nghĩ nhớ mất nơi núi đầm, mãi đến đời vua Văn Thành Đế (Thác Bạt duệ (452-466) thời Bắc Ngụy phục hưng Phật giáo, trước sau trải mất ba mươi năm. Đến đời vua Hiếu Văn đế (Thác Bạt Hoành 471-450) thời Bắc Ngụy, Sa-môn Đàm Diệu mới lên làm Tăng Thống, sau đó nêu bày việc ấy trao cho các Sa-môn, tu sửa lại đó lấy làm đề mục là “Phú Pháp Tạng Truyện”. Nên sự sai nhầm quá mất ấy, phát xuất từ Sa-môn Đàm Diệu tạo nên vậy”. Về sau, cũng không biết Sa-môn Kiện Na như thế nào.

9. Cư sĩ Bùi Hưu.

Cư sĩ Bùi Hưu, tự là Công Mỹ. Từ trong khoảng niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường làm Binh Bộ Thị Lang Ngự Sử Đại Phu Đồng Bình Chương Sự, hiệu là Danh Tướng, soạn thuật văn bia truyền pháp của Sa-môn Tông Mật ở Khuê phong. Viết rằng: “Đức Thích-ca Như Lai sau cùng đem Đại pháp nhãn tạng truyền trao Tôn giả Đại Ca-diếp, khiến Tổ Tổ tương truyền riêng lưu hành nơi đời, chẳng riêng nơi Tôn giả Đại Cadiếp mà ngoài từ người, trời, Thanh văn, Bồ-tát. Từ Tôn giả Đại Ca-diếp đến Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma có cả thảy hai mươi tám đời. Tôn giả Bồ-đề-đạtma trao truyền Tôn giả Tuệ Khả, Tôn giả Tuệ Khả truyền trao Tôn giả Tăng Xán, Tôn giả Tăng Xán truyền trao Tôn giả Đạo Tín, Tôn giả Đạo Tín truyền trao Tôn giả Hoằng Nhẫn, Tôn giả Hoằng Nhẫn truyền trao Tôn giả Tuệ Năng làm Tổ sư đời thứ sáu ở Trung Hoa”.

10. Cư sĩ L ưu Húc.

Cư sĩ Lưu Húc, tự là Diệu Viễn, vốn người xứ Quy nghĩa, Trác châu. Trong khoảng niên hiệu Thiên Hựu (904-907) thời Tiền Đường, mới vì Quân sự nha suy cử làm quan. Đến đầu niên hiệu Khai Vận (944-947) thời Hậu Tấn (trong thời Ngũ đại) được trao làm Tư Không Bình Chương Sự, lại giám định chỉnh tu Quốc sư, nên soạn thuật bộ “Đường Thư Thần Tú Truyện”, viết rằng: “Xưa trước, cuối thời Hậu Ngụy, có Sa-môn Bồ-đề-đạtma vốn Vương tử nước Thiên Trúc, vì hộ trì nước nhà nên xuất gia vào Nam Hải mà chứng đắc Diệu pháp Thiền tông, từ Đức Thích-ca Như Lai tương truyền có pháp y bình bát làm chứng ký, đời đời truyền trao. Mới đầu, đến Nam Lương gặp vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550). Vua đem các việc hữu vi mà hỏi, Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma chẳng vừa lòng, mới bỏ đến xứ Bắc ngụy ẩn tại chùa Thiếu lâm ở Tung sơn và thị tịch tại đó. Năm đó có Quan sứ của Bắc Ngụy là Tống Vân từ Tây vức trở về bèn gặp Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma tại Thông lãnh. Về sau môn đồ khai quật tháp mộ thì chỉ thấy áo giày mà thôi. Tôn giả Bồ-đề-đạt-ma trao truyền cho Tôn giả Tuệ Khả, Tôn giả Tuệ Khả trao truyền cho Tăng Xán, Tôn giả Tăng Xán trao truyền cho Tôn giả Đạo Tín, Tôn giả Đạo Tín trao truyền cho Hoằng Nhẫn, Tôn giả Hoằng Nhẫn trao truyền cho hai Tôn giả Tuệ Năng và Thần Tú”. Lưu Húc qua đời trong khoảng niên hiệu Thái Bảo (1) thời Bắc Tống.

-(HẾT)-TRỌN BỘ

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]