TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2087 - ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ

Tam tạng Pháp sư Huyền Trang vâng phụng chiếu phiên dịch. Sa-môn Biện Cơ ở chùa Đại tổng trì soạn thuật.

MỤC LỤC

SỐ 2087 - ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ

LỜI TỰA (1)

LỜI TỰA (2)

QUYỂN 1

1. 1-Nước A Kỳ Ni

2. 2-Nước Khuất Chi

3. Nước Bạt Lục Ca.

4. Nước Nô Xích Kiến.

5. Nước Giả Thời.

6. Nước Bố Hãn.

7. Nước Tốt Đổ Lợi Sắt Na.

8. Nước Tạp Mạt Kiến.

9. Nước Nhị Mạt Hạ.

10. Nước Khư Bố Đát Na.

11. Nước Khuất Sương Nhĩ Ca.

12. Nước Hát Hãn.

13. Nước Bổ Hát.

14. Nước Phạt Địa.

15. Nước Hóa Lợi Tập Di Già.

16. Nước Yết Sương Na.

17. Nước Đát Mật.

18. Nước Xích Ngạc Diễn Na.

19. Nước Hốt Lộ Ma.

20. Nước Thâu Mạn.

21. Nước Cúc Hòa Diễn Na.

22. Nước Hoạch Sa.

23. Nước Kha Đốt La.

24. Nước Câu Mê Đà.

25. Nước Phược Già Lãng.

26. Nước Hột Tất Mẫn Kiện.

27. Nước Hốt Lẫm.

28. Nước Phược Hát.

29. Nước Duệ Mạt Đà.

30. Nước Hồ Thật Kiện.

31. Nước Đát Thích Kiện.

32. Nước Yết Chức.

33. Nước Phạm Diễn Na.

34. Nước Ca Tất Thí.

QUYỂN 2

1. NƯỚC LẠM BA.

2. NƯỚC YẾT NA LA HẠT.

3. NƯỚC KIỆN ĐÀ LA.

QUYỂN 3

1. NƯỚC Ô TRƯỢNG NA

2. BÁT LỘ LA.

3. NƯỚC ĐÁT XOA THỈ LA.

4. NƯỚC TĂNG HA BỔ LA.

5. NƯỚC Ô THÍ THI.

6. NƯỚC CA THẤP DI LA.

7. NƯỚC BÁN NÔ TA.

8. NƯỚC ÁT LA XÀ BỔ LA.

QUYỂN 4

1. NƯỚC TRÁCH CA.

2. NƯỚC CHỈ NA BỘC ĐỂ.

3. NƯỚC XÀ LẠN ĐẠT LA.

4. NƯỚC KHUẤT LỘ ĐA.

5. NƯỚC THIẾT ĐA ĐỒ LÔ.

6. NƯỚC BA LÝ DẠ ĐÁT ĐA.

7. NƯỚC MẠT THẾ LA.

8. 8-NƯỚC TÁT THA NÊ THẤP PHẠT LA.

9. NƯỚC TẤT LỘC CẦN NA.

10. NƯỚC MẠT ĐỂ BỔ LA.

11. NƯỚC BÀ LA HẤP MA BỔ LA.

12. CÙ TỲ SƯƠNG NA.

13. NƯỚC ÁC HÊ CHẾ ĐÁT LA.

14. NƯỚC TỲ LA SANG NA.

15. NƯỚC KIẾP TỶ THA.

QUYỂN 5

1-NƯỚC YẾT NHÃ CÚC XÀ.

2-NƯỚC A THÂU ĐÀ.

3-NƯỚC A DA MỤC NHƯ.

4-NƯỚC BÁT LA DA GIÀ.

5-NƯỚC KIỀU THƯỞNG DI.

6-NƯỚC BÍNH SÁCH CA.

QUYỂN 6

1-NƯỚC THẤT LA PHẠT TẤT ĐỂ.

2-NƯỚC KIẾP TỶ LA PHẠT TỐT ĐỔ.

3-NƯỚC LAM MA.

4-NƯỚC CÂU THI NA YẾT LA.

QUYỂN 7

1-NƯỚC BÀ LA NẠI TƯ.

2-NƯỚC CHIẾN CHỦ.

3-NƯỚC PHỆ XÁ LY.

4-NƯỚC PHẤT LẬT THỊ.

5-NƯỚC NI BA LA.

QUYỂN 8

1-NƯỚC MA YẾT ĐÀ.

QUYỂN 9

1-NƯỚC MA YẾT ĐÀ (Tiếp Theo)

QUYỂN 10

1. NƯỚC Y LẠN NOA BÁT PHẠT ĐA.

2. NƯỚC CHIÊM BA.

3. NƯỚC YẾT CHU ỐT KỲ LA.

4. NƯỚC BÔN NA PHẠT ĐÀN NA.

5. NƯỚC CA MA LŨ BA.

6. NƯỚC TAM MA ĐÁT TRA.

7. NƯỚC ĐAM MA LẬT ĐỂ.

8. YẾT LA NOA TÔ PHẠT THÍCH NA.

9. NƯỚC Ô TRÀ.

10. NƯỚC CÔNG NGỰ ĐÀ.

11. NƯỚC YẾT LĂNG GIÀ.

12. NƯỚC KIỀU-TÁT-LA.

13. NƯỚC ÁN ĐẠT LA.

14. NƯỚC ĐÀ NA YẾT TRÁCH CA.

15. NƯỚC CHÂU LỢI DA.

16. NƯỚC ĐẠT LA TỲ TRÀ.

17. NƯỚC MẠT LA CỦ TRA.

QUYỂN 11

1. NƯỚC TĂNG-GIÀ LA.

2. NƯỚC TRÀ KIẾN NA BỔ LA.

3. NƯỚC MA-HA THÍCH THA.

4. NƯỚC BẠT LỘC YẾT CHIẾP BÀ.

5. NƯỚC MA LẠP BÀ.

6. NƯỚC A TRA LY.

7. NƯỚC KHẾ TRA.

8. NƯỚC PHẠT LẠP TỲ.

9. NƯỚC A-NAN ĐÀ BỔ LA.

10. NƯỚC TÔ THÍCH THA.

11. NƯỚC CÙ CHIẾC LA.

12. NƯỚC Ô XÀ DIỄN NA

13. NƯỚC TRỊCH CHỈ ĐÀ.

14. NƯỚC MA HÊ THẤP PHẠT LA BỔ LA.

15. NƯỚC TÍN ĐỘ.

16. NƯỚC MẬU LA TAM BỘ LÔ.

17. Nước Bát Phạt ĐA.

18. NƯỚC A ĐIỂM BÀ SÍ LA.

19. NƯỚC LANG YẾT LA.

20. NƯỚC BA THÍCH TƯ.

21. NƯỚC TÝ ĐA THẾ LA.

22. NƯỚC A ÁNG TRÀ.

23. NƯỚC PHẠT THÍCH NOA.

PHỤ LỤC: NÓI THÊM VỀ NƯỚC TĂNG GIÀ LA (Truyện 1).

QUYỂN 12

1. NƯỚC TÀO CỦ TRA.

2. NƯỚC PHẤT LẬT THỊ TÁT THẢNG NA.

3. NƯỚC AN ĐÁT LA PHƯỢC.

4. NƯỚC HOẠT TẤT ĐA.

5. NƯỚC HOẠT.

6. NƯỚC MĂNG KIỆN.

7. NƯỚC A LỢI NI.

8. NƯỚC HẠT LA HỒ.

9. NƯỚC NGỘT LẬT SẮC MA.

10. NƯỚC BÁT LỢI HẠT.

11. NƯỚC HY MA ĐÁT LA.

12. NƯỚC BÁT ĐẠT SÁNG NA.

13. NƯỚC DÂM BẠC KIỆN.

14. NƯỚC KHẤT LÃNG NOA.

15. NƯỚC ĐẠT MA TẤT THIẾT ĐẾ.

16. NƯỚC THI KHÍ NI.

17. NƯỚC THƯƠNG DI.

18. NƯỚC KHIẾT BÀN ĐÀ.

19. NƯỚC Ô SÁT.

20. NƯỚC KHƯ SA.

21. NƯỚC CHIẾC CÚ CA.

22. NƯỚC CÙ TÁT ĐÁN NA

GHI LỜI TÁN THÁN RẰNG:

 


LỜI TỰA (1)

Trộm lấy sự rộng lớn của khung nghi phương tải, sự khác lạ đến cùng cực, bao quát về đất há đủ để biện rõ nguyên nhân. Nên biết là điều chưa tuyền trong Phương Chí. Sự chưa kịp trong Thanh giáo, đâu có thể nói hơn thay? Rõ ràng rằng cõi nước Thiên Trúc từ xa xưa lại là nơi các bậc Thánh hiền lấy đó quanh co lắm lớp, nhân nghĩa ở đó đã trở thành phong tục. Nhưng mọi sự đã tuyệt từ xa xưa, cõi nước lại cách biệt với Trung Hoa. Núi kinh chẳng chép ghi, vương hội không viết tả, rộng xem rành rẽ không, vốn ít nghĩ nhớ đến Ấn Trúc. Côn Minh thường bít lối, lầm bậy bày sức ở thần trì, bèn khiến điềm ứng tốt lành phô bày như muôn sao soi sáng, ùn chứa huyền diệu đến cả ngàn năm. Từ khi (Hán Minh Đế) mộng thấy rõ người mang đeo mặt nhật, thần bí soi sáng muôn dặm. Kịp đến lúc Thái Hâm đi phỏng hỏi đạo, tôn giả Ma Đằng vào đến Lạc Dương. Kinh chứa nơi thạch thất, chưa biết áo nghĩa của Long cung. Tượng hạc ở Lương Đài sao cùng vẻ đẹp của non Thứu. Từ đó về sau thời cuộc chính sách có lắm sai lầm, hoạn quan dựng đứng tiếp thừa quyền bính, tan vỡ Đông kinh mà vướng đảnh trơ trọi, mẫu hậu thành lửa, cắt đứt trung triều, mà xé rách bức. Hiến chương hết sạch ở Hàm Lạc, đốt đuốc cảnh răn nơi đền ải, bốn phía giao biên nhân đó mà lắm lớp. Huống gì bang quốc ấy cách tuyệt như vậy. Nhưng mà khách câu kỳ hiếm đến thế gian, vả lại hiện còn ghi chú, sao hết được sở nghi của mọi vật và thể phong. Nhọc tham xét kinh thần chưa cùng tận yếu chỉ của chân như. Có thời đại nhà Tùy được nhất thống, thật chuyên việc khôi phục biên cương, còn thả trông nhìn tây hải mà than hỏi, ngó lại Đông lạc mà trử trục, dương cờ bày nơi cửa ngọc, tin cũng có lắm người, nhanh nhẹn giẫm trải ngọn nguồn của Thông Lãnh, bởi không đủ thời gian thì sao có thể chỉ Tuyết Sơn mà chạy lồng xa, trông Long Trì mà chỉ trong hơi thở. Bởi vì, đức chẳng trùm đến muôn vật, oai chẳng kịp khắp xa.

Từ khi triều đại nhà Đường chúng ta có được thiên hạ, mở mang hoàn vũ, sáng lập Đế đồ, quét cướp trộm lẫn lộn mà lắng sạch bước trời, công sánh bằng tạo hóa, sáng tỏ đồng chiếu lâm. Người người đội ân tái sinh, thịt xương nơi mép miệng lang sói, nhà nhà được nhờ tích thọ, hoàn hồn ở gò hoang quỉ vức. Tất cả đều khác loại nơi cỏ khô đường trống, bít xa hoang nơi đất rộng. Chứa mười châu mà ao vòng quanh biển. Nhỏ Ngũ Đế mà men Thượng hoàng. Pháp sư (Huyền Trang) từ thuở bé thơ dần đượm pháp môn, bùi ngùi chốn kỳ viên mà chân không giẫm bước, đến lúc trưởng thành nghĩ nhớ Chân tích, ngưỡng mộ Lộc Uyển mà tâm chí thành kiều kính. Vén xiêm nơi cảnh tịnh, thật chỉ vốn chứa giành, hợp thuần phong nơi Tây yển, thuộc hầu luật ở Đông quy. Vào năm Trinh Quán thứ 3 (629) thời Tiền Đường, pháp sư mang trượng tích men theo đường. Giúp Hoàng Linh mà chỉ khác tục, mạo xung lắm hiểm trở mà vẫn như thường, nhờ thần giúp mà đạp bước đường kinh sợ, dần hẳn nguy mà đã qua, lạnh dức lác mà chợt dời, lần lượt mới đạt. Nói tìm chân tướng, thấy chặng giữa khoảng có không, rộng xét tinh vi, nghe không nghe ở ngăn sinh diệt. Mở rỗng các mối nghi giữa biên tánh, khai sáng Diệu giác tại bến mê. Từ đó gồm tất các kinh không mãnh lời nào mà chẳng cùng tận. Không xét các Thánh tích, không một vật gì mà chẳng trông xem, giẫm trải nhiều năm mới bắt đầu xoay trở lại. Đến tháng giêng năm Trinh Quán thứ 19 (646) thời Tiền Đường, pháp sư về đến Trường An. Các kinh luận thỉnh mang về được có cả thảy 657 bộ, vua Thái Tông (Lý Thế Dân) có ban chiếu phiên dịch đó.

Pháp sư đã giẫm bước qua 110 đất nước, được truyền nghe có 28 nước, hoặc sự kiện thấy ở kinh điển trước, hoặc tên mới có ở đời nay, không gì chẳng hưởng hòa nhuần đượm. Cúi đầu mà biết chỗ trở về, xin mời quan lại cách âm, men thang núi mà phụng tiễn, cung đình mừng vui mà cùng hoan nghinh, tiếp nối đai mão mà thành đoàn, sản vật đó khác với thổ phong, tập tục ấy lạ với sông núi. Xa thì xét xem nơi sách nước, gần thì dò hỏi tại các bậc lão thành, tít mờ khác phương, y nhiên như tại trước mắt, không nhọc cầm bản đã rõ ràng do tố, đề tên là "Đại Đường Tây Vức Ký" một bộ 12 quyển, trộm chỉ viết sự ghi lời, hẳn đã biên tập nơi vi uyển. Từ vụn nói nhỏ mong có bổ ích cùng di khuyết.

Bí thư trước tác lang kinh khơi lời tựa vậy.

-----------------------------

LỜI TỰA (2)

Thượng thư tả bộc xạ Yến quốc công Trương thuyết chế.

Phàm là Ngọc hào tỏa chiếu, cam lồ rưới khắp đại thiên, Kim Cảnh khơi sáng, luân phong lan cùng hữu tiệt. Nên biết thị hiện nơi tam giới bèn xứng tôn quí của thiên hạ, tỏa sáng bốn phương thử nêu to lớn trong đất trời. Cho nên tuệ nhật trầm ảnh, dấu vết Tượng Hóa xoay về đông. Vận vua mở rộng, bước Đại Chương dần cùng Tây. Tại đạo tràng chùa Từ Ân có Tam Tạng pháp sư húy Huyền Trang, vốn giòng họ Trần, tiên tổ xưa trước người xứ Dĩnh Xuyên. Xưa kia, Đế Hiên bày tượng, ém Hoa chữ mà mở nguồn. Đại Thuấn đãi môn, gốc Lịch sơn mà động kết. Ba kính chiếu soi cơ tải, sáu kỵ sáng rỡ Hán Kỷ. Thư tấu mà tiếp thừa trăng tỏ, đi đường mà nhóm tụ sao đức. Buông hang liền vảy, vun gió bằng cách. Đời giúp cho vẻ đẹp, chứa làm thành cảnh trụ, pháp sư dẫm xéo tốt lành mà đản sinh, ngậm hòa giáng đức. Kết căn sâu mà tươi tốt, dẫn nguồn thẳm mà linh trường. Vừa tuổi mơ lạ ráng hiện ngời trăng tỏ, đến tuổi vốc cát, lan huân quế ngát hương. Kịp đến thời thành lập, trì nghệ hết phần tố, chín ven dần ảnh hưởng, năm phủ giao kết đàn. Bởi vì sớm tỏ ngộ chân giả, trước rõ rành từ tuệ. Soi chân thuyên mà chờ đợi lâu dài, nhìn tử sinh mà trọn dứt nghỉ. Và thao đỏ giải tía thật lưới mầu của hữu giới. Xe báu gối son chánh bến đường xuất thế. Do đó, gạt rơi bụi trần cặn đục, nói trở về cùng nhân khoáng, khiển anh đầu là pháp sư Tiệp là bậc rường cột của Thích môn, chiếm vị long tượng ngay thân thế, nổi trội Thu Lộ ở đương thời. Khắp triều đình đến thôn dã đều mến thích không du ấy, trong ngoài ham muốn thanh thái đó. Thế rồi, tình sâu bạn mến, đạo hòa thiên luân, pháp sư đượm phục chuyên cần thỉnh ích, tấc bóng chẳng bỏ. Học nghiệp tỏa sáng đứng đầu, cất cao anh tú rừng đàn, đức hợp trung dung, vút tỏa hương thơm lan thất. Vác sách đường ban, ân chín bộ mà nuốt mộng, gõ chèo bến huyền, gá bến vi mà nhỏ dốt. Từ đó, rảo bước khắp Đàm tứ, chuyển đổi cùng nóng lạnh, công đã đạt thành khả năng cũng hoàn tất. Đến lúc thái sơ nhật nguyệt, đuối soi linh đài, tử vân đai duyệt, phát huy thần phủ, khi ấy văn vàng tạm mở đợi giá thu mà bay vút theo mây. Chuôi ngọc vừa phẩy mặc áo sương móc mà gợn sóng. Như gặp được yếu chỉ của người đầy kinh nghiệm, tợ rõ rành vi diệu của sắc cầm, vì đa văn như nước rót bình, nổi thuyền không mà riêng xa vợi, mới đến đất của Hoàn Kiên, trước gạt bỏ khoe khoang của lòng sắt, quê hương tỉnh lạc, vội bày nén nỗi khác lạ, xa gần đều kính chuộng, vì vậy mà nói rằng: "xưa trước nghe họ Tuân có 8 rồng, ngày nay nhà Trần có hai ngựa ký. Ông khác lạ lắm nhiều kỳ sĩ". Thật thay lời ấy! Pháp sư từ thuở bé mãi đến lúc trưởng thành, buông tâm nơi huyền lý, danh vang cùng tiên đạt, bộ chấp tương giao rong ruổi, chạy theo ngọn bỏ quên gốc, nhặt nhánh phù hoa bỏ mất chân thật, bèn có lối học nam bắc khác nhau, phải quấy phân vân chằng chịt. Trọn nói đến đây bèn liền bùi ngùi, hoặc sợ truyền dịch lẫn lộn, chưa thể nơm đón đến cùng. Muốn tận cùng văn của Hương tượng, dẫu hết mắt của Long cung, dùng đức tuyệt luân, trông nhìn mong mỏi của Hội Xương, chống tích phẩy y, lần lượt đến cảnh vức xa. Khi ấy, trái Huyền Bá mà xa trông, chỉ thông lãnh mà nắn vết. Nước non xa dài, nếm đủ mọi gian nan nguy hiểm xấu xa. Rộng trông nhìn đó chẳng xa. Cười Pháp Hiển cho đó là hạn cục. Với những nơi dẫm bước qua thảy đều nghiên cứu phương ngôn khắc cầu sâu mầu, khéo tận cùng bến hội ngộ. Khi ấy ngôn từ phát ra thư vàng, tinh anh bay cùng Thiên Trúc. Văn truyền bối diệp, bèn trở về Chấn Đán. Bấy giờ, Thái Tông Văn Hoàng Đế (Lý Thế Dân 627-650) đang ngự Kim Luân, ngôi báu ngồi trên, chuyển đợi không huy. Vời thấy trên Thanh bồ, mới nhìn theo thể thức thường. Trước gối giữa khoang Hoàng Ốc, ban chiếu viết tay buộc ràng. Trung Sứ kế tiếp đường, cúi bắt Duệ Tư, mới chế tác bài tựa "Tam Tạng Thánh Giáo" gồm cả thảy 780 lời. Ngày trước, vua ở tại Xuân Vi, chế thuật "Thanh ký" gồm 579 lời, mở bến huyền diệu, ghi ý chỉ đức Phật dương. Như chẳng phải đạo ngời Kê Lâm, vẻ vang non Thứu, đâu có thể xa giáng Thần Tảo để nêu bày ưu tú ở đương thời, pháp sư vâng phụng sắc chiếu phiên dịch Phạm bản gồm cả thảy 657 bộ, đầy đủ trông nhìn phương xa khác tục, vùng tuyệt cảnh đất nước thuần phong, mọi sở nghi của bản xứ tường tự của nhân luân. Kịp đến chánh sóc, nhân sự sâu xa của Thanh giáo, bèn trước thuật "Đại Đường Tây Vức Ký" khắc thành 12 quyển, biên ghi điển áo, gồm khơi xét rõ, lập lời không hư bại. Ấy tại đây vậy.

------------------------------------

QUYỂN 1

(Nói về 34 nước)

1. Nước A Kỳ Ni

2. Nước Khuất Chi

3. Nước Bạt Lục Ca

4. Nước Nô Xích Kiến

5. Nước Giả Thời

6. Nước Bố Hãn

7. Nước Tốt Đổ Lợi Sắt Na

8. Nước Tạp Mạt Kiến

9. Nước Nhĩ Mạt Hạ

10. Nước Kiếp Bố Đát Na

11. Nước Khất Sương Nhĩ Già

12. Nước Hát Hãn

13. Nước Bổ Khát

14. Nước Đại Địa

15. Nước Hóa Lợi Tập Di Già

16. Nước Yết Sương Na

17. Nước Đát Mật

18. Nước Xích Ngạc Diễn Na

19. Nước Hốt Lộ Ma

20. Nước Thâu Mạn

21. Nước Cúc Hòa Diễn Na

22. Nước Hoạch Sa

23. Nước Kha Đốt La

24. Nước Câu Mê Đà

25. Nước Phược Già Lãng

26. Nước Hột Lộ Tất Mẫn Kiến

27. Nước Hốt Lẫm

28. Nước Phược Hát

29. Nước Duệ Mạt Đà

30. Nước Hồ Thật Kiện

31. Nước Đản Sắc Kiến

32. Nước Yết Chức

33. Nước Phạm Diễn Na

34. Nước Ca Tất Thí

Tuyển chọn qua Hoàng Đức Phật, xem xét xa về Đế Lục. Từ lúc mới đầu Bao Hy ra chấn, Hiên Viên rủ áo, do đó Ty Chăn Lê Nguyên Cương họa phân dã, kịp đến lúc Đường Nghiêu Thọ Thiên vận sáng hợp khắp bốn phương, Ngu Thuấn nhận địa đồ, đức tỏa cùng chín cõi. Từ đó về sau, không truyền sách viết sự. Xa nghe tiền tu, không nghe sử ghi lời, như thời gặp có đạo, vận thuộc vô vi ấy vậy!

Triều Đại Đường chúng ta trụ vì thiên hạ theo trời, nương thời vận cầm nắm kỷ cương, một là sáu hợp mà tỏa sáng, bốn là Ba Hoàng mà soi chiếu, huyền hóa lưu tràn, gió lành xa thổi, đồng với sự che chở của đất trời, bằng cùng đượm với của gió mưa. Cùng như Đông Di vào triều cống, tây nhung liền tiếp theo, mở sáng sự nghiệp, dẹp loạn phản chánh, nên vì bước vượt vua trước, bao quát đời xưa. Đồng văn cùng khuôn phép, đặt trị thần công. Nếu chẳng ghi truyền, thì không lấy gì để tán thán đạo lớn, nếu không soi sáng tuyên bày thì chẳng do đâu mà tỏa sáng nghiệp thạnh. Huyền Trang tôi tùy nơi đi đến, nên bày phong thổ ở xứ đó, tuy chưa xét phương biện tục, nhưng tim cũng đã vượt 5 quá ba. Tất cả Hàm sinh đều được vui đượm, với loài biết nói không ai chẳng xưng công. Vượt từ Thiên phủ kịp đến Thiên Trúc, các vùng tối tăm hoang vu khác tục, cùng vức khác bang, đều tiếp thừa chánh sóc đồng đượm nhuần thanh giáo, tán thán tích chức võ công, đọc tụng cảm thành miệng thật, ngợi khen hưng thạnh văn đức, vẻ vang làm xứng đầu, rõ xem nơi sách sử, chỗ chưa từng nghe, xa chỉ Đồ Điệp, thật không cùng hai, chẳng có chỗ bắt đầu, sao có thể ghi về hóa hợp? Nay y cứ sự thấy nghe mà ghi lại đây vậy.

Nhưng mà thế giới Sách Ha (xưa trước gọi là thế giới Sa Bà, lại còn gọi là thế giới Sa Ha, đều là sai nhầm vậy) có ba ngàn đại thiên cõi nước, là nơi nhiếp hóa của một đức Phật. Nay đây chỉ một mặt trời một mặt trăng soi chiếu. Bốn thiên hạ tức chỉ cho trong ba ngàn đại thiên, chư Phật Thế Tôn đều ở trong đây xót thương giáo hóa, hiện sinh hiện diệt dẫn Thánh dẫn phàm. Núi Tô Mê Lô (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là núi Diệu Cao, xưa trước gọi là Tu Di, lại còn gọi là Tu Di Lâu đều là sai nhầm gọi lược vậy), do bốn vật báu hợp thành, tại trong biển lớn, y cứ trên kim luân, nơi nhật nguyệt soi chiếu quanh, chỗ nhà đến dừng nghỉ của chư thiên, bảy núi bảy biển vây quanh cao vợi vây quanh liệt bày. Giữa khoảng núi trống biển nước đủ tám công đức. Ngoài bảy núi vàng mới là biển mặn. Trong biển là nơi có thể ở được, đại lược là có bốn châu. Phía đông là Tỳ đề ha châu (xưa trước gọi là Phất Bà Đề, lại còn gọi là Phất Ưu Đãi, đều là sai nhầm vậy), phía nam là Thiệm Bộ châu (xưa trước gọi là Diêm Phù Đề châu, còn gọi là Diệm Phù châu, đều là sai nhầm vậy). Phía tây là Cù Đà Ni châu (xưa trước gọi là Cù Da Ni, lại còn gọi là Đích Già Ni, đều là sai nhầm vậy). Phía bắc là Câu Lô châu (xưa trước gọi là Uất Đơn Việt, lại còn gọi là Cưu Lâu, đều là sai nhầm vậy). Kim Luân Vương là nhiếp hóa khắp tứ thiên hạ, Ngân Luân Vương thì nhiếp chánh trừ cách bắc Câu Lô. Đồng Luân Vương thì trừ cách bắc Câu Lô và Tây Cù Đà Ni, Thiết Luân Vương thì chỉ thống nhiếp Thiệm Bộ châu. Phàm nói là Luân vương tức ngôi vị lớn, tùy phước đức cảm nên, có xe báu lớn nổi giữa không trung mà lại ứng, đều có sự khác biệt giữa vàng, bạc, đồng, sắt. Và cảnh có sai biệt bốn ba hai một, nhân điềm lành sáng ấy tức lấy làm tên hiệu, thì đất trạng của Thiệm Bộ châu tức là ao A Na Bà Đáp Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vô Nhiệt Não, xưa trước gọi là ao A Nậu Đạt, đều là sai lầm vậy) tại phía nam núi Hương và thuộc phía bắc núi tuyết lớn, chu vi rộng hơn 800 dặm. Các vật vàng, bạc, lưu ly, pha chi nghiêm sức trên bờ ấy. Cát vàng tràn đầy, dáng trong gợn ảnh, có vị Đại Địa Bồ-tát dùng nguyện lực nên hóa làm Long Vương ở trong vườn nhà ngầm, lưu xuất ra nước mát lạnh cấp cho Thiệm Bộ châu. Vì vậy về mặt phía đông ao là có miệng trâu bạc lưu xuất ra sông Khắc Già (xưa trước gọi là Hằng Hà, còn gọi là Hằng Già, đều là sai nhầm vậy) lượn quanh ao một vòng rồi đổ vào biển ở phía đông nam. Về mặt phía nam ao có miệng trâu vàng lưu xuất ra Tín Độ (xưa trước gọi là sông Tần Đầu là sai nhầm vậy) lượn quanh ao một vòng rồi đổ vào biển phía tây nam. Về mặt phía tây ao có miệng ngựa lưu ly lưu xuất ra sông Phược Sô (xưa trước gọi là sông Bác Xoa là sai nhầm vậy) lượn quanh ao một vòng rồi đổ vào biển phía tây bắc. Về phía bắc ao có miệng sư tử pha chi lưu xuất ra sông Tỷ Đa (xưa trước gọi là sông Tư Đà là sai nhầm vậy) lượn quanh ao một vòng rồi đổ vào biển phía đông bắc. Hoặc có thuyết nói ngầm dòng dưới đất lưu xuất ra núi Tích Thạch tức là dòng của sông Tỷ Đa làm nguồn sông của nước Trung Hoa vậy.

Bấy giờ không có Luân vương ứng vận. Đất xứ Thiệm Bộ châu có bốn chủ. Phía nam có Tượng

(voi) chủ vì nắng nóng ẩm thấp thích nghi với voi. Phía tây có Bảo chủ là gần biển có nhiều vật báu. Phía bắc có Mã (ngựa) chủ vì lạnh cứng hợp với ngựa, phía đông có Nhân (người) chủ. Bởi hóa sướng đông nhiều người. Nên nước của Tượng chủ tiết thác mãnh liệt dốc học, ưu đặc nhàn du dị thuật, mặc thì quấn khăn vai hữu, đầu thì từ nhục kế rủ tóc bốn phía, tộc loại ở ấp, phòng nhà tầng gác. Làng của Bảo chủ thì không có lễ nghĩa chỉ quý trọng của cải, chế vạt áo ngắn bên tả, cắt tóc để râu, có chùa thành quách, chuyên việc buôn bán tài lợi. Tập tục của Mã chủ thì bẩm chất hung bạo, tánh tình chịu khó giết hại, mà trướng mềm mịn lò cao, chim muông nương ở bèn đuổi bắt lấy. Địa vức của Nhân chủ, phóng tục khéo ân huệ, nhân nghĩa rõ soi, mão đai vạc áo phía hữu, xa phục có thứ lớp, an ở đất lại đổi dời, chuyên bẩm chất có từng loại. Về phong tục của ba chủ thì phương đông là ưu thượng, nhà họ ở thì cửa mở xoay về hướng đông, lúc sáng sớm trông về hướng đông mà kính bái. Đất của Nhân chủ thì mặt hướng nam là quý, phương tục khác phong hóa, đại khái là như vậy. Đến như lễ của vua tôi trên dưới, nghi của Hiến Vương Văn Quỷ, đất của Nhân chủ không đâu thêm hơn nữa. Huấn răn của lắng lòng thích lụy, giáo nghĩa của thoát lìa sinh tử. Nước của Tượng chủ, về lý thật ưu việt vậy. Đó đều mang cả kinh cáo, hỏi các thổ tộc, rộng mở xưa nay, xét rõ thấy nghe. Nhưng mà đức Phật xuất hiện ở phương tây, giáo điển lưu truyền đến phương đông, thông dịch âm sai nhầm, phương ngôn nói xằng bậy. Âm sai nhầm thì nghĩa mất, lời xằng bậy là trái lý, nên nói ắc chánh danh ư? Quý ở điểm không trái bậy vậy. Phàm người có tánh cương nhu khác biệt, lời tiếng chẳng đồng, đó bởi buộc khí phong thổ, cũng là do tập tục tạo nên. Như về sự khác nhau của núi sông vật sản, sự sai biệt của phong tục tánh loại thì đất của Nhân chủ trong Quốc sử ghi đã rõ ràng. Tập tục của Mã chủ, làng quê của Bảo chủ, sử cáo đã ghi đủ, có thể lược mà nói đó. Đến như nước của Tượng chủ, xưa trước chưa rõ ràng, hoặc ghi đất lắm nắng nóng ẩm thấp, hoặc ghi tập tục ưa thích nhân từ, vả lại hiện còn ở Phương Chí chẳng thể rõ cùng. Đâu thể là đạo có tận cùng của hành tàng, đời có vận đổi thay chuyển dời vậy. Vậy biết Hầu luật vì quy hóa, uống đượm mà lại đón, vượt lắm lớp hiểm trở mà nghi là ngọc môn, cống dâng Phương kỳ mà kính bái ráng khuyết, bởi khó mà nói được vậy. Do đó nên đi xa phỏng hỏi Đạo, nhân lúc nhân rảnh thỉnh hỏi điều lợi ích còn ghi về phong thổ. Từ Hắc Lãnh trở lại không gì chẳng phải tập tục của người Hồ, tuy người Nhung đồng tập quán, mà tộc loại mỗi phân khác, họa vẽ biên giới phong ranh biên cương, đại khái là lắp đất, xây dựng thành quách, công việc trồng tỉa chăn nuôi, tánh trọng của cải, tục xem thường nhân nghĩa, cưới gã không lễ nghi, tôn ti không thứ lớp. Vợ nói thì dùng, chỗ ngồi nam ở dưới, chết thì thiêu đốt thi hài, kỳ hạn an táng vô số, sửa mặt, rạch tai, cắt tóc xé xiêm, giết hại các thức súc vật cúng tế u hồn. Tốt lành mới mặc y phục sắc trắng, hung xấu thì mặc áo sắc đen, đồng phong loại tục, lược nêu sơ qua. Chính sách quy chế khác biệt thì túy xứ riêng nêu bày. Phong tục của Ấn Độ nói ở phần sau. Ra khỏi xứ cũ của Cao Xương, bắt đầu từ gần tức là nước A Kỳ Ni (xưa trước gọi là nước Ô Kỳ).

1. 1-Nước A Kỳ Ni

Nước A Kỳ Ni hai phía đông tây dài hơn 600 dặm, hai phía nam bắc rộng hơn 400 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 6-7 dặm, bốn mặt đều tựa ven núi, đường đi hiểm trở rất dễ gìn giữ. Suối chảy đan xen nhau dẫn nước làm ruộng. Đất đai thích nghi với lúa môn lúa mùa lúa tẻ và các loại cây trái hương táo, bồ đào, lê, nại, v.v..., khí hậu hòa sướng, phong tục chất trực, văn tự thì theo lối chữ của Ấn Độ, ít có lụa là vải quyên, vận mặc bằng áo hạc vải gia, cắt tóc ngắn, không có khăn, buôn bán đổi chác bằng tiền vàng, tiền bạc, tiền đồng nhỏ. Vua nước đó là người hùng dũng mà ít mưu lược, thích tự dấy quân đấu đánh. Nước không có kỷ cương, luật pháp chẳng nghiêm túc. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng hơn 2000 vị, tập học theo giáo nghĩa Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Kinh giáo luật nghi đều tuân theo Ấn Độ. Người tập học tức y cứ ngay văn mà thưởng ngoạn, giới hạnh luật nghi thanh khiết chuyên cần, nhưng ăn dùng lẫn tạp tam tịnh nhục, còn ứ trệ nơi tiệm giáo vậy. Từ đó theo hướng tây nam đi hơn 200 dặm, vượt qua một quả núi nhỏ và hai dòng sông lớn, lại theo hướng tây vượt qua vùng đồng bằng có sông nước, và đi hơn 700 dặm là đến nước Khuất Chi (xưa trước gọi là nước Quy Tư).

2. 2-Nước Khuất Chi

Nước Khuất hai phía đông tây dài hơn ngàn dặm, hai phía nam bắc rộng hơn 600 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 17-18 dặm. Đất đai thích nghi với môn lúa tẻ, lúa canh, lúa giê, lại sản sinh các thứ bồ đào, thạch lựu, có lắm nhiều lê, nại, đào, hạnh. Đất đai còn lại sản sinh các thứ vàng, đồng, sắt, dung dịch, khí hậu điều hòa, phong tục thuần chất. Văn từ sử dụng tắc của Ấn Độ và hơn có phần biến đổi. Với các thứ đàn sáo kỷ nhạc đặc biệt khéo hay hơn các nước khác, vận mặc áo hạt gấm, cắt tóc ngắn có thân quấn đầu. Buôn bán đổi chác bằng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ. Vua thuộc chủng tộc Khuất Chi, trí mưu kém ít mờ mịt, mà áp bức các thần tớ mạnh, nước đó có tập tục sinh con tức dùng gỗ cây kẹp vào đầu vì muốn nó dẹp quanh. Có hơn trăm ngôi già lam, tăng chúng hơn 5000 vị, tập học theo giáo nghĩa Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Kinh giáo luật nghi lấy tắc của Ấn Độ, tập đọc tức y cứ vào bản văn gốc, còn bó buộc với tiệm giáo, ăn dùng xen tạp tam tịnh nhục, khiết tịnh thanh bạch ham học mọi người lấy đó tranh công.

Tại phía bắc thành thuộc phía đông nước đó, trước đền thờ trời có một ao rồng lớn. Các rồng luôn thay hình biến dạng giao hợp với ngựa cái, bèn sinh ra loài Long câu tánh nết ngang ngạnh khó cưỡi. Con của Long câu mới là thuần giá, do đó nước ấy phần nhiều sinh ra các ngựa tốt. Nghe các vị lão túc nói rằng: "gần đây có một vị vua tên là Kim Hoa, dùng chánh sách giáo hóa trị dân rất sáng sủa xác thực, nên cảm có rồng để nương cưỡi, vua ấy đến lúc sắp băng hà dùng roi xúc chạm tai rồng. Nhân đó rồng liền lắng ẩn mãi đến ngày nay. Trong thành không có giếng nên nước dùng lấy từ ao hồ ấy. Rồng biến làm người cùng các phụ nữ giao hợp nên sinh con khoẻ mạnh nhanh nhẹn, chạy kịp với ngựa trông, như thế dần nhiễm con người đều là giống rồng, cậy thế sức lực ra oai, không cung kính vương mạng. Vua mới dẫn đưa binh lính Đột Quyết đánh giết người ở thành đó, lớn nhỏ thảy đều bị giết, lược không còn loại cắn nhai. Nay tại thành đó hoang tàn, người vật khói lửa đều hết hẳn.

Từ thành hoang tàn ấy đi về phía bắc cách hơn 40 dặm, tiếp liền với Sơn a, lại cách một dòng sông, có hai ngôi già lam cùng đồng tên là Chiêu Hổ Ly, mà đông tây tùy xưng gọi. Phật tượng trang sức nghiêm lệ, hết khả năng tài khéo của các người thợ. Tăng chúng thanh tịnh trai giới thật rất mực chuyên cần. Trong Phật đường chùa Đông Chiêu Hổ Ly có một tảng ngọc thạch mặt rộng hơn hai thước, sắc màu ven theo vàng trắng, tướng trạng như Hải cáp (nghêu biển), trên mặt đá ấy có in dấu chân Phật dài một thước tám tấc, rộng hơn sáu tấc. Có lúc trong các ngày trai tỏa phóng ánh sáng. Ngoài cửa phía tây thành lớn hai bên đường đi mỗi mỗi đều có tôn tượng đức Phật đứng cao hơn 90 thước. Trước tượng ấy là nơi cứ năm năm kiến lập đại hội một lần. Mỗi năm vào dịp thu phân, khoảng vài mươi ngày, tất cả các hàng chư tăng trong nước đều nhóm tập lại, trên từ các bậc quân vương dưới đến các hàng sĩ thứ để phế bỏ việc thế tục chăn chuyên phụng trì trai giới, thọ đọc kinh nghe giảng pháp trọn ngày không mỏi mệt. Các ngôi Tăng-già lam trang nghiêm Phật tượng dùng các vật quý báu ánh ngời để nghiêm sức, lại dùng các thứ gấm lụa trang sức xe kiệu để nghinh chở, gọi đó là tôn tượng đi, động đến có cả số ngàn đều cùng nhóm tập về hội. Thường là chiều tối ngày 15 tháng 3, quốc vương và đại thần cùng nhau bàn tính việc nước nhà, phỏng hỏi ý kiến các bậc cao tăng sau rồi mới tuyên bố.

Từ hội trường về hướng tây bắc vượt qua dòng sông đến ngôi già lam A Xa Lý Nhị (tiếng Trung Hoa thời tiền đường gọi là Kỳ Đặc), sân nhà thoáng rộng. Phật tượng trang nghiêm kỳ công, chư tăng chỉnh túc hòa mục tinh cần chẳng biến trễ, đều là các bậc kỳ ngải túc đức thạc học, cao tài. Các hàng anh tài tuấn tú ở các phương xa kính mộ Đức Nghĩa đều đến nương ở. Các hàng quốc vương sĩ thứ hào gia chuyên lo cúng dường tứ sự, lâu dần càng sùng kính. Nghe các bậc lão đức nói là xưa trước Tiên vương nước đó rất sùng kính Tam bảo, sắp muốn du phương tham quan kính lễ các Thánh tích, mới bảo ban mẫu cùng con trông coi công việc còn lại. Người em ấy vâng nhận mạng lịnh, trộm tự cắt hạt dái đề phòng những mầm mống chưa phát sinh, đặt để trong hộp vàng mang giao lên vua. Vua hỏi: "ấy là vật gì?". Người em ấy đáp: "Nên đợi đến ngày xa giá trở về rồi hãy mở xem". Vua bèn giao cho quan trông coi công việc theo quân gìn giữ. Đến lúc vua trở về, quả nhiên có người dựng điều họa sàm tấu là: "vua bảo trông coi nước nhà mà gây ra dâm loạn trong cung". Vua nghe thế phát giận, muốn đặt xét nghiêm hình. Người em ấy nói: "Không dám trốn tránh điều trách phạt, xin mở hộp vàng trông xem". Vua bèn bảo mở hộp vàng để trông xem thì ra đó là hạt dái, vua hỏi: "vật gì lạ vậy, muốn làm rõ điều gì?". Người em ấy đáp: "Ngày trước, lúc du phương, vua bảo ban trông coi việc còn lại, sợ có người sàm tấu điều họa, nên tự cắt hạt dái để tự rõ ràng, nay quả thật có xảy ra điều đó, xin rủ lòng xét xem!". Vua rất kinh dị, tâm tình càng thấm đượm lớn mạnh, từ đó ra vào nơi nội cung không còn phải ngăn ngại. Về sau, người em ấy thường gặp một người nuôi giữ 500 con trâu, muốn giết thịt nó, người em ấy thấy mà nghĩ suy dẫn lại càng thêm xót thương, ta nay thân hình bị khuyết thiếu, đâu chẳng phải do nghiệp xưa trước! Bèn đem các thứ của cải vật báu để chuộc đàn trâu ấy. Do sức từ thiện nên hình tướng nam căn dần hồi đầy đủ. Vì hình tướng đầy đủ nên bèn chẳng vào trong cung. Vua lấy làm quái lạ mà hỏi đó. Người em ấy mới tỏ bày đầu đuôi sự việc. Vua lấy làm đặc biệt, bèn tạo lập ngôi già lam, để tán dương vết đẹp lưu truyền hương thơm cho đời sau.

Từ đó theo hướng tây đi hơn 600 dặm, vượt qua bãi sa mạc nhỏ đến nước Bạt Lục Ca (xưa trước gọi là Lô Mặc, hay là Hàm Mặc).

3. Nước Bạt Lục Ca.

Nước Bạt Lục Ca hai phía đông tây dài hơn 600 dặm, hai phía nam bắc rộng hơn 300 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 5-6 dặm. Đất đai thích nghi, khí hậu thuần hòa phong tục tánh người, phép tắc văn tự thì đồng như ở nước Khuất Chi, nói rằng có phần khác chút ít. Vận mặc đệm gia nhỏ mịn, áo hạt nhỏ mịn, các nước lân cận rất quý trọng đó. Có khoảng vài mươi ngôi già lam, tăng chúng có hơn ngàn vị, tập học theo giáo điển Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ.

Từ nước đó về phía tây bắc đi hơn 300 dặm vượt qua sỏi đá đến Lăng Sơn, đó tức cao nguyên phía bắc Thông Lãnh, các dòng sông phần nhiều xuôi chảy về hướng đông. Hang núi luôn chứa tuyết, mùa xuân mùa hạ đều ngưng đóng, tuy có lúc tiêu tan song sau đó lại kết đóng băng lại. Đường đi qua rất hiểm trở, gió lạnh thảm khốc, phần nhiều hay gặp nạn rồng dữ phạm hại người đi đường. Mọi người đi theo con đường ấy không được buông áo, cầm nắm trái bầu kêu la lớn tiếng, hơi có chút trái phạm, tai họa mắt trông thấy, gió bão mạnh dữ, cát bay mưa đá, những người gặp phải hẳn mất mạng khó mong sóng sót. Lại đi theo đường núi hơn 400 dặm đến ao Đại Thanh (còn gọi là Nhiệt Hải hay Hàm Hải) chu vi rộng hơn ngàn dặm, hai phía đông tây thì dài, hai phía nam bắc nhỏ hẹp. Bốn mặt men theo núi, các dòng đều tuôn chảy đan xen. Sắc màu đeo theo xanh đen, mùi vị có phần mặn đắng. Sóng lớn nhiều dơ bẩn, kinh sóng chìm vẩn đục, cá rồng chung ở lẫn lộn, linh quái hiện khởi, do đó mọi người qua lại luôn vì cầu phước, các loài thủy tộc tuy lắm nhiều mà chẳng dám vớt bắt. Từ ao Đại Thanh về phía tây bắc đi hơn 500 dặm đến thành Tố Diệp, chu vi thành ấy rộng khoảng 6-7 dặm. Thương buôn người Hồ tại các nước đến chung sống lẫn lộn. Đất đai thích nghi với lúa môn lúa tẻ, bồ đào, cây rừng sơ sài, khí hậu men theo gió lạnh, mọi người vận mặc áo hạt vãi giạ. Từ thành Tố Diệp trở về hướng tây có vài mươi thành quách đơn lẻ. Thành đều đứng dài. Tuy chẳng cùng vâng mạng nhưng đều phục dịch lệ thuộc Đột Quyết. Từ thành Tố Diệp đến nước Yết Sương Na, đất tên là Tốt Lợi, mọi người cũng gọi là như vậy, văn tự nói năng tức tự tuỳ xưng. Nguồn chữ giản lược vốn chỉ có hơn 20 lời, triển chuyển tương sinh dàn trải rộng sâu. Mới đầu tổ tiên có ghi viết, dựng đọc văn ấy, xa cùng truyền trao, thầy trò không ngầm mất. Mọi người vận mặc áo hạt vải giạ, y phục làm bằng da giạ. Xiêm mặc viền gấp, cắt tóc ngang bằng để bày đảnh đầu, hoặc cắt cạo toàn bộ, dùng vải lụa quấn quanh vầng trán, dáng mạo to lớn, chỉ tánh nhác sợ, phong tục bạc bẽo, lắm nhiều hành vi dối trá, đại để là chỉ biết tham cầu, cha con cùng tính lợi lẫn nhau, chỉ biết của cải lắm nhiều là quý, thuần lương nghèo hèn không đều nhau. Tuy giàu có tiền vạn, nhưng ăn mặc thô xấu. Những người dùng sức ruộng nương trục lợi có xen tạp một nửa.

Từ thành Tố Diệp theo hướng tây đi hơn 400 dặm đến xứ Thiên Tuyền (ngàn suối). Tại xứ Thiên Tuyền đất đai rộng hơn 200 dặm. Phía nam đối diện núi tuyết, còn lại ba phía đất phẳng bằng. Nước đất thấm nhuần, cây rừng sơ sài. Đến tháng cuối xuân, tạp hoa đan dệt, suối ao có cả ngàn dòng nên gọi tên như vậy. Vua rợ Đột Quyết tên là Khả Hàn thường đến đó lánh nắng nóng. Trong đó có đàn nai, phần nhiều đeo mang linh khánh, thuần quen với người, chẳng hề sợ chạy, Khả Hàn rất mến thương đó, ban sắc thuộc hạ như ai dám giết hại thì hẳn bị giết không tha nên đàn nai ấy được trọn chung sống đến già. Từ Thiên Tuyền đi về hướng tây khoảng 140-150 dặm đến thành Đát Ca Tư, chu vi thành ấy rộng khoảng 8-9 dặm. Thương buôn người Hồ ở các nước chung sống lẫn lộn tại đó. Đất đai thích nghi khí hậu thuần hòa phần lớn đều như ở thành Tố Diệp. Lại theo hướng nam đi hơn 10 dặm có một thành nhỏ đơn lẻ có hơn 300 hộ dân sinh sống; họ vốn là người Trung Quốc, xưa trước bị Đột Quyết đánh cướp. Sau đó cùng tụ hợp mọi người đồng nước chung nhau giữ gìn thành ấy, trong đó vườn nhà ăn ở vận mặc đi lại đều đông như Đột Quyết, nói rằng ngôn từ nghi quỷ còn giữ bản sắc nước nhà. Từ đó theo hướng tây nam đi hơn 200 dặm đến thành Bạch Thủy, chu vi thành ấy rộng 6-7 dặm, mọi vật đất đai sinh sản, thích nghi của phong khí ưu thắng hơn ở thành Đát Ca Tư. Lại theo hướng tây nam đi hơn 200 dặm đến thành Cung Ngự, chu vi thành ấy rộng khoảng 5-6 dặm, vườn đồi ẩm thấp phì nhiêu, cây rừng tươi tốt. Từ đó lại theo hướng nam đi 40-50 dặm đến nước Nô Xích Kiến.

4. Nước Nô Xích Kiến.

Nước Nô Xích Kiến chu vi rộng hơn ngàn dặm, đất đai đượm nhuần phì nhiêu, có lắm thứ giếng mạ, cây cỏ tươi tốt, hoa quả lắm nhiều. Phần nhiều là bồ đào cũng là vật quý, thành ấp có đến số trăm, mỗi mỗi đều riêng có Quân trưởng, đi ở qua lại chẳng cùng bẩm thưa mạng lệnh, tuy là phân chia khu vức nhưng đồng gọi chung là nước Nô Xích Kiến. Từ đó theo hướng tây đi hơn 200 dặm đến nước Giả Thời (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thạch Quốc).

5. Nước Giả Thời.

Nước Giả Thời chu vi rộng hơn ngàn dặm, phía tây gần Diệp Hà, hai phía đông tây hẹp nhỏ, nam bắc kéo dài, đất đai thích nghi khí hậu thuần hòa đồng như ở nước Nô Xích Kiến. Có vài mươi thành ấp, mỗi mỗi đều riêng có Quân trưởng, đã không có chúa chung nên mọi việc làm đều tùy thuộc Đột Quyết. Từ đó theo hướng đông nam đi hơn ngàn dặm đến nước Bố Hãn.

6. Nước Bố Hãn.

Nước Bố Hãn chu vi rộng hơn 4000 dặm, núi bao bọc quanh bốn phía, đất đai phì nhiêu, lúa má gặt hái nhiều lắm và có nhiều hoa quả, thích nghi với dê ngựa, khí hậu thần tự gió lạnh, con người mang tánh cứng mạnh, nói năng khác với các nước, hình dáng xấu xí. Từ vài mươi năm trở lại không có quân trưởng lớn, nên các nhà giàu có đứng đầu dốc sức đua tranh chẳng chịu khước phục, nương theo sông chiếm cứ điểm hiểm trở, họa vẽ đồng hoang phân chia đô thành. Từ đó theo hướng tây nam đi hơn ngàn dặm đến nước Tốt Đổ Lợi Sắt Na.

7. Nước Tốt Đổ Lợi Sắt Na.

Nước Tốt Đổ Lợi Sắt Na chu vi rộng khoảng 1400-1500 dặm, phía đông gần với Diệp Hà, từ Diệp Hà xuất sinh ra đồng bằng phía bắc Thông Lãnh, và về phía tây bắc là dòng nước lắm nhiều dơ bẩn vẩn đục, đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Giả Thời. Tự có vua nhưng phụ thuộc với Đột Quyết. Từ đó theo hướng tây bắc vài bãi sa mạc lớn, tuyệt không có cỏ nước, đường đi mờ mịt, biên cương khó lường biết. Trông nhìn theo núi lớn và tìm di cốt để biết phương hướng. Để ghi đường đi qua. Đi hơn 500 dặm đến nước Tạp Mạt Kiến (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Khương).

8. Nước Tạp Mạt Kiến.

Nước Tạp Mạt Kiến chu vi rộng khoảng 1600-1700 dặm, hai phía đông tây dài, hai phía nam bắc nhỏ hẹp. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, rất hiểm trở bền chắc và lắm nhiều người sinh sống. Những người từ các xứ khác buôn bán vật báu phần nhiều hay sản sinh giống ngựa hay, kỹ nghệ cớ xảo đặc biệt khéo léo hơn hẳn so với các nước khác. Khí hậu hòa sướng, phong tục mạch cứng. Phàm người Hồ ở các nước hiện ở trong đó mọi sự đi ở oai nghi xa gần mỗi mỗi đều theo phép tắc nước đó. Vua nước đó giàu mạnh, các nước láng giềng, binh ngựa mạnh đông phần nhiều là Giả Yết. Người Giả Yết tánh khí mạnh dữ, trông thấy chết như trở về, nên đánh không có địch thủ phía trước. Từ đó theo hướng đông nam đến nước Nhị Mạt Hạ (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Mễ).

9. Nước Nhị Mạt Hạ.

Nước Nhị Mạt Hạ chu vi rộng 400-500 dặm, chiếm cứ trong sông, hai phía đông tây nhỏ hẹp, hai phía nam bắc dài. Đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ đó theo hướng bắc đến nước Khư Bố Đát Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Tào).

10. Nước Khư Bố Đát Na.

Nước Khư Bố Đát Na chu vi rộng 1400-1500 dặm, hai phía đông tây dài hai phía nam bắc nhỏ hẹp, đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ nước đó theo hướng tây đi hơn 300 dặm đến nước Khuất Sương Nhĩ Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Hà).

11. Nước Khuất Sương Nhĩ Ca.

Nước Khuất Sương Nhĩ Ca chu vi rộng khoảng 1400-1500 dặm, hai phía đông tây nhỏ hẹp hai phía nam bắc dài, đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ nước đó theo hướng tây đi hơn 200 dặm đến nước Hát Hãn (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Đông An).

12. Nước Hát Hãn.

Nước Hát Hãn chu vi rộng hơn 1000 dặm, đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ nước đó theo hướng tây đi hơn 400 dặm đến nước Bổ Hát (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Trung An).

13. Nước Bổ Hát.

Nước Bổ Hát chu vi rộng khoảng 1600-1700 dặm, hai phía đông tây dài, hai phía nam bắc hẹp nhỏ. Đất đai thích nghi về phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ nước đó theo hướng tây đi hơn 400 dặm đến nước Phạt Địa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Tây An).

14. Nước Phạt Địa.

Nước Phạt Địa chu vi rộng hơn 400 dặm, đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ đó theo hướng tây nam đi hơn 500 dặm đến nước Hóa Lợi Tập Di Già.

15. Nước Hóa Lợi Tập Di Già.

Nước Hóa Lợi Tập Di Già thuận theo hai bên bờ sông Phược Sô, hai phía đông tây rộng khoảng 20-30 dặm, hai phía nam bắc dài hơn 500 dặm. Đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Phược Địa, nói năng có phần khác nhau chút ít. Từ nước Tạp Mạt Kiến theo hướng tây nam đi hơn 300 dặm đến nước Yết Sương Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Sử).

16. Nước Yết Sương Na.

Nước Yết Sương Na chu vi rộng khoảng 1400

-1500 dặm, đất đai thích nghi và phong tục đồng như ở nước Tạp Mạt Kiến. Từ đó theo hướng tây nam đi hơn 200 dặm vào núi, đường núi gập ghềnh, khe lạch hiểm trở. Đã không có làng người ở lại thiếu cỏ nước. Theo về hướng đông nam đi bằng đường núi hơn 300 dặm, vào Thiết Môn (cửa sắt). Thiết môn hai bên phải trái mang đeo theo núi, núi rất cao vút, tuy có đường tắt cặp theo, lại thêm hiểm trở, hai bên vách đá sắc màu như thiết (sắt). Đã có đặt cánh cửa. Nhân sự bền chắc và hiểm nguy ấy nên bèn lấy đó mà đặt tên. Ra khỏi Thiết môn đến nước Đổ Hóa La (xưa trước gọi là nước Thổ Hỏa La tức là sai nhầm vậy).

Địa thế nước Đổ Hóa La hai phía nam bắc rộng hơn ngàn dặm, phía đông tây dài hơn 3000 dặm. Phía đông hiểm ác bởi Thông Lãnh, phía tây tiếp liền với Ba Thích Tư, phía nam là núi tuyết lớn và phía bắc là Thiết môn. Theo dòng nước đổ về phía tây trong cảnh vức của sông lớn Phược Sô, từ vài trăm năm trở lại đây, vương tộc tuyệt tự không người kế thừa. Do đó các nhà giàu có dốc sức đua tranh, mỗi tự chiếm cứ làm quân trưởng. Men theo sông y cứ nơi hiểm trở phân chia thành 27 nước. Tuy họa đồ phân khu nhưng đều phục dịch tùy thuộc Đột Quyết. Khí hậu đã ấm nhưng dịch bệnh cũng nhiều. Cứ cuối đông đầu xuân, mưa phùn lâm râm tương tục. Nên từ xứ đó trở về hướng nam, và thuộc phía bắc của nước Lạm Ba thì nước đó phong thổ đều lắm dịch bệnh. Và chư tăng lấy ngày 16 tháng 12 bắt đầu vào an cư, đến ngày 15 tháng 3 năm sau là giải chế an cư. Đó là y cứ theo nói lắm mưa, và cũng là thiết giáo tùy thời vậy. Tập tục xứ đó thì dân chúng chí tánh nhút nhát, dung mạo xấu xí. Hơi biết tin nghĩa, không sự khi dối, nói năng đi đứng, có phần khác biệt so với các nước. Nguồn gốc chữ viết chỉ có 25 từ, lần lượt mà phát sinh, dùng đó có đủ mọi vật. Viết thì viết ngang, đọc từ trái sang phải, văn ký dần nhiều vượt rộng hơn nước Tốt Lợi (Tốt Đổ Lợi Sắt Na). Phần nhiều vận mặc áo giạ, ít mặc áo vải hạt thô. Buôn bán đổi chác dùng bằng tiền vàng tiền bạc, hình dạng khác biệt so với các nước. Từ đó thuận theo hạ lưu phía bắc sông Phược Sô đến nước Đát Mật.

17. Nước Đát Mật.

Nước Đát Mật hai phía đông tây dài hơn 600 dặm, hai phía nam bắc rộng hơn 400 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Hai phía đông tây dài, hai phía nam bắc hẹp nhỏ. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng hơn ngàn vị. Các Tốt-đổ-ba; tức xưa trước gọi là Phược Sô, còn gọi là Thâu Bà, lại còn gọi là Tư Thâu Bá, lại còn gọi là Tẩu Đẩu Ba, đều là sai nhầm vậy. Và các tôn tượng Phật lắm thần dị có linh giám vậy. Từ đó theo hướng đông tức đến nước Xích Ngạc Diễn Na.

18. Nước Xích Ngạc Diễn Na.

Nước Xích Ngạc Diễn Na hai phía đông tây rộng hơn 400 dặm, hai phía nam bắc dài hơn 500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Có năm ngôi già lam, chư tăng rất hiếm ít. Từ đó theo hướng đông đến nước Hốt Lộ Ma.

19. Nước Hốt Lộ Ma.

Nước Hốt Lộ Ma hai phía đông tây rộng hơn trăm dặm, hai phía nam bắc dài hơn 300 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Vua nước đó là Hề Tố; người xứ Đột Quyết. Có hai ngôi Già Lam, chư tăng có hơn trăm vị. Từ đó về hướng đông tức đến nước Thâu Mạn.

20. Nước Thâu Mạn.

Nước Thâu Mạn hai phía đông tây dài hơn 400 dặm, hai phía nam bắc rộng hơn trăm dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 16, 17 dặm. Vua nước đó cũng là Hề Tố; người xứ Đột Quyết. Có hai ngôi già lam, chư tăng rất hiếm thiếu. Từ đó về phía tây nam gần sông Phược Sô rồi đến nước Cúc Hòa Diễn Na.

21. Nước Cúc Hòa Diễn Na.

Nước Cúc Hòa Diễn Na hai phía đông tây rộng hơn 200 dặm, hai phía nam bắc dài hơn 300 dặm.

Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, có ba ngôi già lam, chư tăng có hơn trăm vị. Từ đó theo hướng đông đến nước Hoạch Sa.

22. Nước Hoạch Sa.

Nước Hoạch Sa hai phía đông tây rộng hơn 300 dặm, hai phía nam bắc dài hơn 500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 16, 17 dặm.

Từ đó theo hướng đông đến nước Kha Đốt La.

23. Nước Kha Đốt La.

Nước Kha Đốt La hai phía đông tây rộng hơn ngàn dặm, hai phía nam bắc cũng rộng hơn ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Phía đông tiếp liền với Thông Lãnh rồi đến nước Câu Mê Đà.

24. Nước Câu Mê Đà.

Nước Câu Mê Đà hai phía đông tây dài hơn 2000 dặm, hai phía nam bắc rộng hơn 200 dặm, y cứ trong Đại Thông Lãnh. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Về phía tây nam gần sông Phược Sô. Phía nam tiếp liền với các nước Thi Khí Ni, rồi theo hướng nam vượt qua sông Phược Sô đến nước Đạt Ma Tất Thiết Đế, nước Bát Đạt Sáng Na, nước Dậm Bạc Kiện, nước Khuất Lũng Noa, nước Hý Ma Đát La, nước Bát Lợi Hạt.

Nước Ngột Lật Sắc Ma, nước Hạt Ca Hồ, nước A Lợi Ni, nước Măng Kiện. Từ nước Hoạt theo hướng đông nam đến nước Khoát Tất Đa, nước An Đát La Phược, mọi sự như ghi tả ở Hồi Ký. Từ nước Hoạt theo hướng tây nam đến nước Phược Già Lãng.

25. Nước Phược Già Lãng.

Nước Phược Già Lãng hai phía đông tây rộng hơn 50 dặm, hai phía nam bắc dài hơn 200 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Từ đó theo hướng nam đến nước Hột Lộ Tất Mẫn Kiện.

26. Nước Hột Tất Mẫn Kiện.

Nước Hột Tất Mẫn Kiện chu vi rộng hơn ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó rộng khoảng 14-15 dặm. Từ đó theo hướng tây bắc đến nước Hốt Lẫm.

27. Nước Hốt Lẫm.

Nước Hốt Lẫm chu vi rộng hơn 800 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 5-6 dặm. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng hơn 500 vị.

Từ đó theo hướng tây đến nước Phược Hát.

28. Nước Phược Hát.

Nước Phược Hát hai phía đông tây dài hơn 800 dặm, hai phía nam bắc rộng hơn 400 dặm, phía bắc gần sông Phược Sô. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, mọi người đều gọi đó là "Tiểu vương xá thành". Thành đô tuy xưa cũ, người ở rất ít. Đất đai sản sinh ra vật loại rất nhiều, từ sông nước đến đất liền có các giếng hoa khó thể nêu bày đủ cả. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa.

Tại phía tây nam ngoài thành có một ngôi Tăng-già lam tên là Nạp Phược (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là chùa Tân) do vị tiên vương nước đó tạo lập nên. Các vị luận sư tạo luận ở phía bắc núi tuyết lớn chỉ có các vị ở chùa đó là sự nghiệp mỹ mãn không ngầm mất. Chùa đó có tôn tượng Phật dùng bằng các vật báu danh tiếng trang nghiêm ánh ngời. Phòng nhà trang nghiêm bằng các vật báu kỳ lạ. Nên Quân trưởng ở các nước vì ham lợi nên đánh cướp. Chùa ấy vốn có tôn tượng Tỳ Sa-môn Thiên Oai linh xem xét, rất đáng nương cậy thần gia hộ gìn giữ. Gần đây có Tứ Diệp Hộ Khả Hàn con của Diệp Hộ Khả Hàn; vua xứ Đột Quyết dốc hết bộ lạc dẫn hết binh lính vội nhóm tụ đến chùa ấy mưu toan cướp lấy vật báu. Cách đó không xa bèn nhóm tụ quân lính dừng nghỉ giữa đồng. Đêm đó mộng thấy tỳ Sa-môn Thiên đến bảo rằng: "Ông có sức lực gì mà dám phá hoại chốn già lam?". Và nắm kích dài đâm suốt từ trước ngực xuyên lui sau lưng. Tứ Diệp Hộ Khả Hàn kinh sợ tỉnh giấc bèn cảm thấy đau nhói nơi tim, liền bảo cho tất cả mọi người tùy tùng biết rõ về mộng cảm trừng trị lối quá, vội thỉnh cầu chúng tăng để tỏ bày sám tạ, nhưng chưa kịp theo như ước muốn bèn đã chết mất. Trong Phật đường ở phía nam chùa ấy có chiếc bồn đức Phật tắm có thể dung chứa được hơn một đấu nước, có các tạp sắc ánh ngời, khó thể gọi đó là bằng vàng hay bằng đá vậy. Lại có một chiếc răng của đức Phật dài hơn một tấc, rộng khoảng 8-9 phân, sắc màu trắng chất thuần sáng sạch. Lại có cái chổi của đức Phật quét được làm bằng loại cỏ ca xa dài hơn 2 thước, vòng đai rộng khoảng 7 tấc, cán nắm được trang sức bằng các vật báu tạp. Với ba loại vật trên, mỗi lúc đến sáu ngày trai các hàng pháp tục đều cùng nhóm tụ thiết bày cúng dường, do sự chí thành cảm nên hoặc tỏa phóng ánh sáng v.v...

Phía bắc chùa ấy có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước, được dùng bằng các chất kim cang khảm thếp các vật báu trang sức nên. Bên trong có xá lợi, luôn có đèn đuốc tỏa ánh sáng linh.

Phía tây nam chùa đó có một Tinh Lô, từ khi tạo lập trở lại nay đã trải qua thời gian lâu dài. Những bậc cao tài nhóm tụ, từ phương xa đua nhau đến, những vị đã chứng đắc tứ quả khó thể nêu bày rõ. Nên các vị A-la-hán lúc sắp nhập niết bàn, thị hiện sức thần thông, mọi người đều nhận biết mới có tạo lập các Tốt-đổ-ba, vết tích nền móng cùng gần nhau có hơn vài trăm ngôi vậy. Tuy có những vị đã chứng đắc Thánh quả nhưng khi thị tịch không hiện sức thần thông cũng có đến số ngàn nhưng không tạo lập Tốt-đổ-ba và phong ký. Hiện nay chư tăng có hơn trăm vị ở đó, sớm tối chẳng biếng trễ công phu, nên Thánh phàm khó thể lường biết được.

Từ đô thành lớn theo hướng tây bắc đi hơn năm dặm tức đến thành Đề Vị. Từ thành ấy về hướng bắc đi hơn 40 dặm có thành Ba Lợi. Trong các thành trên mỗi mỗi đều có một Tốt-đổ-ba cao hơn ba trượng, xưa kia lúc đức Như Lai mới chứng thành Phật quả, từ tòa Bồ-đề đứng dậy chỉ hướng đi đến vườn nai. Khi ấy có hai ông trưởng giả gặp được ánh sáng oai thần của Phật nên men theo đường đức Phật đi và bèn dâng cúng bún, mật. Đức Thế Tôn vì đó mà giảng nói về phước của người trời. Đó là hai người đầu tiên được nghe nói về năm giới và mười điều thiện vậy. Khi đã được nghe giảng pháp, và thỉnh cầu cúng dường rồi, đức Phật bèn trao cho tóc và móng tay. Hai ông trưởng giả ấy đưa về nước mình với nghi thức nghinh thỉnh rất cung kính. Đức Như Lai lại trao cho Tăng-già Chi (xưa trước gọi là Tăng Kỳ Lê tức sai nhầm vậy) vuông bằng giạ trải phía dưới. Tiếp lại trao cho Uất Đa-la tăng, tiếp nữa trao cho Tăng Tức Khi (xưa trước gọi là Tăng Kỳ Chi là sai nhầm vậy). Lại che đậy bình bát, cắm chống tích trượng. Cứ như vậy theo thứ tự tạo lập Tốt-đổ-ba. Hai ông trưởng giả ấy vâng thừa mạng lệnh trở về trong thành ấy, phỏng theo nghi thức Thánh chỉ thử tu tạo dựng lập đó. Đó tức là những ngôi Tốt-đổ-ba đầu tiên trong giáo pháp của đức Phật Thích-ca vậy.

Từ thành ấy đi về phía tây cách hơn 70 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn hai trượng được tạo dựng từ thời đức Phật Ca Diếp Ba. Từ thành lớn theo hướng tây nam vào núi tuyết rồi đi đến nước Duệ Mạt Đà.

29. Nước Duệ Mạt Đà.

Nước Duệ Mạt Đà hai phía đông tây rộng khoảng 50-60 dặm, hai phía nam bắc dài hơn trăm dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Từ đó lại theo hướng tây nam đến nước Hồ Thật Kiện.

30. Nước Hồ Thật Kiện.

Nước Hồ Thật Kiện hai phía đông tây rộng hơn 500 dặm, hai phía nam bắc dài hơn ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Xứ đó có lắm nhiều núi sông, nơi sản sinh ra giống ngựa hay tốt. Từ đó theo hướng tây bắc đến nước Đát Thích Kiện.

31. Nước Đát Thích Kiện.

Nước Đát Thích Kiện hai phía đông tây dài hơn 500 dặm, hai phía nam bắc rộng khoảng 50-60 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Phía tây tiếp giáp với biên giới nước Ba Thích Tư. Từ nước Phược Hát theo hướng nam đi hơn trăm dặm đến nước Yết Chức.

32. Nước Yết Chức.

Nước Yết Chức từ đông sang tây dài hơn 500 dặm, từ nam sang bắc rộng hơn 300 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 4

-5 dặm. Đất đai sành sỏi cứng nhắc gò đồi nối liền, hiếm ít hoa quả, có lắm nhiều tiêu, lúa tẻ, khí hậu rét lạnh, phong tục cứng mạnh. Có hơn 10 ngôi già lam. Chư tăng có hơn 300 vị, đều học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Từ đó theo hướng đông nam vào núi tuyết lớn, hang núi cao sâu, hang đảnh hiểm nguy, gió tuyết tương tục, đến giữa mùa hạ vẫn đóng băng, tuyết chứa đầy hang, đường khe trắc hiểm khó vượt qua. Thần núi quỷ mị, túng bạo yêu sùng. Trộm cướp đông nhiều tung hoành, chuyên làm việc giết hại. Đi hơn 600 dặm ra khỏi cảnh vức nước Đổ Hóa La, đến nước Phạm Diễn Na.

33. Nước Phạm Diễn Na.

Nước Phạm Diễn Na từ đông sang tây dài hơn 200 dặm, từ nam sang bắc rộng hơn 300 dặm, tại trong núi tuyết. Mọi người men theo hang núi tìm thế lập ấp sinh sống. Đô thành lớn của nước đó men theo sườn núi vượt hang cốc dài khoảng 6-7 dặm, phía bắc gối lưng đỉnh núi cao. Xứ đó có giống lúa túc mạch (lúa tẻ), hiếm ít hoa quả, thích nghi chăn nuôi súc vật có lắm nhiều dê ngựa, khí hậu rất rét lạnh. Phong tục cứng mạnh hung ác. Phần nhiều vận mặc y phục bằng da vải hạt, và đó cũng là điểm rất thích nghi, văn hóa chữ nghĩa thuần phong, sử dụng tiền bạc cũng đồng như ở nước Đổ Hóa La, ngôn ngữ có phần ít khác lạ, hình nghi dung mạo phần lớn tương đồng. Tâm tánh thuần tín đặc biệt rất gần nước nhà. Trên từ Tam bảo, dưới đến trăm thần, không đối với gì chẳng dốc tâm chí thành tôn kính. Các khách thương buôn bán qua lại, trời thần hiện chứng điềm lành, nêu bày cao sùng biểu hiện cầu phước đức. Có khoảng vài mươi ngôi già lam. Chư tăng khoảng vài ngàn vị, tôn kính tập học giáo nghĩa Tiểu thừa thuyết xuất thế bộ. Tại núi ở phía đông bắc vương thành có tôn tượng đức Phật đứng bằng đá cao khoảng 140-150 thước sắc màu vàng ròng sáng rỡ, dùng các vật báu trang nghiêm ánh ngời. Về phía đông có một ngôi già lam do tiên vương nước đó tạo lập, phía đông ngôi già lam ấy có tôn tượng đức Phật Thích-ca đứng bằng đá thau cao hơn trăm thước, phân thân riêng nhiều phần để chú đúc rồi ghép lại thành tôn tượng đứng.

Từ thành ấy về hướng đông cách khoảng 12-13 dặm, trong một ngôi già lam có tôn tượng đức Phật nằm nhập niết bàn dài hơn ngàn thước. Vua nước ấy thường đến tại đó thiết lập đại trai hội thí vô già. Trên từ vợ con dưới đến vật báu nước nhà, kho lẫm đã dốc hết, lại dùng tự thân để bố thí. Các quan tước liêu tả đến trong chúng tăng thù đáp cầu chuộc. Cứ như thế lấy làm việc thường chuyên vậy. Từ ngôi già lam có tôn tượng đức Phật nằm ấy theo hướng đông nam đi hơn 200 dặm, vượt qua núi tuyết lớn, lại theo hướng đông đến đầm sen nhỏ, suối ao lắng trong như kiếng soi cây rừng thông xanh, có ngôi Tăng-già lam. Bên trong có chiếc răng của đức Phật và răng vị Độc giác ở thời kiếp sơ dài hơn năm tấc rộng gần bốn tấc. Lại có chiếc răng của Kim Luân Vương dài ba tấc rộng hai tấc. Lại có bình bát bằng sắt của Đại A-la-hán Thương Nặc Ca Phược Sa (xưa trước gọi là Thương Na Hòa Tu là sai nhầm vậy) hành trì lường khoảng 8-9 thăng. Cả ba di vật của Thánh hiền đó đều dùng vàng ròng phong bịt. Lại có pháp y Tăng-già chi 9 điều của A La Há Thương Nặc Ca Phược Sa sắc màu đỏ tía được dùng bằng loại da cỏ Ca nặc ca dệt thành. Thương Nặc Ca Phược Sa là đệ tử của tôn giả A-nan, nhân trong đời trước đem áo cỏ Nặc Ca cúng thí chúng tăng trong ngày giải An Cư. Do phước lực đó mà trong 500 đời tự thân thường mặc loại áo ấy. Đến thân ở đời cuối cùng áo ấy cùng từ bào thai đồng sinh ra. Đến lúc gặp được tôn giả A-nan độ cho xuất gia thì áo ấy biến thành pháp phục, đến lúc thọ giới cụ túc lại biến thành pháp y Tăng-già chi 9 điều. Và lúc sắp lâm chung tịch diệt nhập biên tế định, phát trí nguyện lực lưu lại pháp y ca sa ấy mãi đến khi di pháp của đức Phật Thích-ca diệt hết. Sau khi Di pháp diệt hết pháp y ấy mới biết hoại, nay đã có hư tổn phần nào, nên tin có chứng nghiệm vậy. Từ đó theo hướng đông đi vô núi tuyết trải vượt qua Hắc lãnh đến nước Ca Tất Thí.

34. Nước Ca Tất Thí.

Nước Ca Tất Thí chu vi rộng hơn 4000 dặm, phía bắc gối lưng núi tuyết, còn ba phía kia là Hắc Lãnh. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, đất đai thích nghi giống lúa tê, có lắm nhiều cây trái, là nơi sản sinh ra giống ngựa hay tốt, và Uất kim hương. Các phương khác buôn bán vật lạ phần nhiều nhóm tụ tại nước đó. Khí hậu gió rét, con người hung tàn bạo dữ. Ngôn từ nói năng vận mặc xấu xí, hôn nhân loạn tạp. Chữ nghĩa phần lớn đồng như ở nước Đỗ Hóa La. Tập tục nói năng thuần phong mỹ giáo rất khác biệt. Vận mặc dùng bằng áo lông áo giạ và thêm loại áo hạt bằng da. Buôn bán đổi chác dùng bằng tiền vàng tiền bạc và tiền đồng nhỏ khuôn khổ hình dạng có khác so với các nước. Vua nước đó thuộc chủng tộc Sát đế lợi, rất có trí tuệ mưu lược, tánh tình mạnh mẽ, oai phong thống nhiếp các xứ lân cận có cả thảy hơn 10 cõi nước, mến thương nuôi dưỡng trăm họ. Rất sùng kính Tam bảo, thường năm chú tạo tôn tượng đức Phật bằng bạc cao trượng tám và thiết đại hội thí vô già, chu cấp mọi người nghèo khổ, bố thí cho các kẻ góa bụa. Nước đó có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 6000 vị, phần nhiều đều học tập giáo pháp đại thừa. Các ngôi Tốt-đổ-ba, Tăng-già lam đều cao lớn thoáng rộng trang nghiêm sạch sẽ, có khoảng vài mươi ngôi đền thờ, các hàng dị đạo có hơn ngàn người, hoặc để lõa hình hoặc bôi tro bụi, hoặc xâu đầu lâu làm thành tràng mũ đeo mang.

Từ thành lớn theo hướng đông đi khoảng 3-4 dặm, dưới núi phía bắc có một ngôi đại già lam, chư tăng có hơn 300 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Nghe các bậc lão thành nói là: "xưa kia, vua Ca Nị Sắc Ca ở nước Kiền Đà La, oai phong trùm cả các nước láng giềng, phong hóa thấm đượm đến phương xa, ngự trị binh lính mở rộng vùng đất đến tận phía đông thông lãnh. Phiền Duy, Hà Tây sợ oai phong đó nên dâng trao con tin. Vua Ca Nị Sắc Ca đã có được con tin lại đặc biệt thêm lễ, thay đổi cung quán theo thời tiết nóng lạnh, mùa đông thì ở các nước tại Ấn Độ, mùa hạ trở về lại nước Ca Tất Trí, mùa thu và mùa xuân dừng lại ở nước Kiền Đà La, nên các con tin tùy nơi ở hợp với ba mùa mỗi mỗi đều tạo lập già lam. Nay ngôi già lam ấy là dựng lập để ở vào mùa hạ vậy. Nên vách tường phòng nhà đồ họa hình ảnh các con tin, dung mạo và hình thức vận mặc rất đồng như ở đông Hạ. Về sau các con tin được trở về lại đất nước mình mà tâm tình vẫn còn gắn liền nơi chỗ ở cũ. Tuy núi sông cách trở nhưng vẫn không phế bỏ sự cúng dường. Nên chúng tăng ngày nay mỗi lúc vào an cư và giải chế an cư đều thiết lập Đại pháp hội vì các con tin mà cầu phước tu thiện tương tục không ngưng dứt mãi đến ngày nay.

Tại phía nam của cửa phía đông Phật viện già lam có tôn tượng Đại thần vương dưới chân phải chôn giấu vật báu trong đất, do các con tin cất giấu đó, và có khắc ghi rằng: "Đến lúc nào già lam bị hư hoại thì lấy đó để tu sửa. Gần đây có vị ở lân cận tham lam hung bạo nghe ở già lam ấy có cất giấu nhiều vật quý báu, bèn đến xua đuổi chư tăng rồi đào bới, từ trong mão của Thần vương có tượng chim Oanh Vũ vỗ cánh tung bay kinh sợ kêu réo, đất đai chấn động, vua ấy cùng với quân nhân lung lay ngã té, lâu sau mới dậy được, bèn sám tạ lỗi quá mà trở về.

Trên đảnh núi phía bắc ngôi già lam ấy có vài ngôi thạch thất là nơi các con tin tu tập thiền định, trong đó cất giấu lắm nhiều vật báu xen tạp. Bên cạnh đó có bài minh khắc ghi, do Dược Xoa gìn giữ, như có người muốn khai phá lấy vật báu trong đó thì thần Dược Xoa ấy biến đổi thân hình khác, hoặc làm hình sư tử, hoặc làm thân hình trăn rắn, thú dữ trùng độc, thân hình khác lạ kinh động giận dữ, cho nên không người nào dám khai phá. Từ thạch thất về hướng tây cách khoảng 2-3 dặm, lên trên đỉnh núi lớn có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại. Như có người chí thành cầu nguyện mong trông thấy, Bồ-tát từ trên trong tôn tượng ấy lưu xuất ra thân sắc vi diệu an úy người ấy.

Từ thành lớn về hướng tây nam cách hơn 30 dặm đến Tăng-già lam Hạt La Hổ, bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước. Có lúc đến các ngày trai tỏa phóng ánh sáng, hình thế bát úp đậy phía trên tảng đá giữa khoảng lỗ hổng lưu xuất mùi dầu Hắc hương, lúc trong đêm thanh vắng nghe có tiếng âm nhạc. Nghe các bậc lão thành nói rằng "xưa trước quan đại thần nước đó tên là Hạt La Hổ tạo lập tháp ấy khi công việc đã hoàn tất, bỗng nhiên trong đêm mộng thấy có người bảo rằng: "ngươi kiếp tạo Tốt-đổ-ba mà chưa có xá lợi, sáng sớm mai có người đem đến dâng tặng vua, ngươi nên đến nơi vua để cầu xin".

Đến sáng ngày, quan đại thần vào triều đình thưa thỉnh rằng: "chẳng lường sự ngu hiền, thần dám xin có sự nguyện cầu". Vua hỏi: "Ông muốn cầu điều gì?". Quan đại thần đáp: "Ngày nay có người đem xá lợi hiến tặng, xin giũ ân ban cho!". Vua bảo: "Được vậy!". Quan đại thần Hạt La Hổ bèn đứng tại cửa cung đợi chờ trông mong người đến. Bỗng chốc có người mang bình xá lợi đi đến. Quan đại thần Hạt La Hổ hỏi: "Ngươi dâng hiến vật gì vậy?". Người ấy đáp: "Xá lợi của đức Phật!". Quan đại thần Hạt La Hổ bảo: "Tôi sẽ vì ông giữ lại đây. Ông nên vào tâu cùng vua trước". Đại thần Hạt La Hổ khi ấy bèn nghĩ sợ vua sẽ trân quý xá lợi, bèn hối hận ân trước nên vội chạy sang Tăng-già lam, leo lên Tốt-đổ-ba, do sự chí thành cảm nên, tảng đá hình bát úp đậy ấy tự nhiên mở ra, bèn tôn trí xá lợi vào đó rồi vội rút lui mà còn kẹt lại vạt áo. Vua sai xứ đuổi theo, vừa đến nơi thì đá bịt lại vậy, nên giữa khoảng lỗ hổng tỏa mùi dầu hắc hương.

Từ thành ấy về phía nam cách hơn 40 dặm là đến thành Tập Tệ Đa Phạt Thích Từ. Phàm những lúc đất đai chấn động, núi đồi sụp đổ, chung quanh ranh giới thành ấy trọn không lay động. Từ thành Tập Đệ Đa Phạt Thích Từ theo hướng nam đi hơn 30 dặm là đến núi A Lộ Nhu, sườn đảnh cao vót, hang núi mịt mờ. Đảnh núi đó mỗi năm cao dần vài trăm thước, cùng đồng ngang núi Sô Na Hý La ở nước Tào Củ Tra phảng phất cùng trông thấy nhau thì bền liền sụp đổ. Nghe các hoàng sĩ tục nói rằng: "mới đầu thần trời Sô Na từ nơi xa mà đến, muốn dừng trụ ở tại núi đó. Thần núi đô kinh động tức giận lay động khe hang. Thần trời nói là "do không muốn cùng chung ở một nhà nên khuynh động như vậy. Nên đôi chút tình khách chủ, sẽ cùng doanh tạo của báu. Nay tôi sang núi Sô Na Hý La ở nước Tào Củ Tra, mỗi năm đến nhận sự cúng tế của vua và đại thần nước tôi sẽ cùng trông gặp nhau". Nên núi A Lộ Nhu tăng cao, thế rồi sau đó liền sụp đổ". Từ Vương thành theo hướng tây bắc đi hơn 200 dặm đến núi Tuyết lớn. Trên đảnh núi có ao. Mọi người cầu mưa cầu tạnh, v.v... tùy sự mong cầu thảy đều được mãn nguyện. Nghe các bậc lão túc nói rằng: "xưa kia tại nước Ma-kiệt-đà có vị A-lahán thường thọ nhận sự cúng dường của vua rồng ao ấy. Thường ngày đến giờ thọ trai, vị A-la-hán ấy vận dụng sức thần ngồi nơi thằng sân rồi bay bổng giữa không trung mà sang. Có vị sa di làm thị giả ẩn kín dưới thằng sâu men vịn trốn trong đó. Khi vị A-la-hán đó sang đến cung rồng mới thấy có vị sa di đi do cùng theo. Vua rồng nhân đó thỉnh mời ở lại dùng cơm. Vua rồng đem cơm cam lồ cõi trời dâng cúng vị A-la-hán, ma đem cơm nhân gian tiếp đãi vị sa di đó. Vị A-la-hán sau khi thọ trai xong bèn vì vua rồng mà giảng nói các pháp yếu.

Vị sa di ấy vẫn như thường ngày rửa dọn mọi vật chén bát của thầy. Nơi chén bát có sót lại vài hạt cơm có mùi thơm tỏa ngát. Vị sa di ấy liền sinh khởi ý niệm xấu xác, buồn hận thầy tức giận rồng mà nguyện đem tất cả các thứ phước lực có được nay đây thảy đều hiển hiện để đoạn đứt mạng sống rồng ấy. Và ta sẽ tự làm vua. Khi vị sa di ấy phát lời nguyện đó, vua rồng đã cảm thấy trong đầu mình đau nhức. Vị A-la-hán dạy bày các pháp can răn dẫn dụ. Vua Rồng sám tạ lỗi quấy tự trách thân mình. Nhưng vị sa di ấy vẫn ôm hoài tức giận không nhận sự hối tạ đó. Thế rồi trở về lại trong già lam, chí thành phát nguyện. Do phước lực cảm nên, đêm đó vị sa di ấy mạng chung làm vua Rồng lớn, oai thế mạnh dữ phấn phát bèn vào nơi ao giết hại vua Rồng ấy rồi vào ở nơi cung Rồng, tất cả bộ thuộc của vua Rồng trước thảy đều tuân vâng theo mạng lệnh. Do vì nguyện lực xưa trước nên dấy nỗi mưa gió bão bùng, nhổ bẻ cây cối muốn phá hoại ngôi già lam. Khi ấy vua Ca Nị Sắc Ca lấy làm quá lạ nên hỏi. Vị A-la-hán đó bèn đem đầy đủ sự tình tấu bày cùng vua. Vua liền vì Rồng (tức vị sa di xưa trước) mà đến dưới núi tuyết tạo dựng ngôi già lam và Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước. Rồng vẫn ôm hoài sự tức giận xưa trước, bèn nổi gió mưa. Vua lấy sự rộng tế độ làm tâm. Rồng nương sự tức giận mà hung bạo, nên ngôi Tăng-già lam và Tốt-đổ-ba đó trải qua sáu lần bị hủy hoại, bảy lần tạo dựng nên. Vua Ca Nị Sắc Ca lấy làm xấu hỗ công nguyện chẳng thành bèn muốn sang lấp ao rồng hủy phá nhà ở, nên liền khởi động binh lính đông nhiều đến dưới núi tuyết. Khi đó, vua Rồng ấy trong lòng rất lo sợ, biến hình làm một vị Bà-lamôn đến cúi đầu trước voi vua mà can ngăn rằng: "Đại vương xưa trước vốn gieo gốc lành, rắc nhiều nhân tố ưu thắng, được làm vua trong cõi người không nghĩ chẳng báo, ngày nay cớ sao lại giao tranh với loài Rồng? Phàm Rồng tức là súc vật, loài xấu ác thấp hèn, nhưng có oai thế lớn, ta không thể dùng sức mà đua tranh. Rồng nương mây cưỡi gió, vượt đạp giữa hư không, chìm lặng trong biển nước, sức người không thể ngăn chế nỗi. Đâu dễ như sự tức giận trong lòng vua nghĩ tưởng ư? Nay vua dấy động binh lính khắp cả nước cùng tranh đấu với một con Rồng, nếu thắng thì oai lực của vua cũng chẳng nhiếp phục đến xa, còn nếu thất bại hẳn vua sẽ xấu hỗ với kẻ địch. Do đó vì vua xin cùng bàn tính nên có thể cho binh lính rút lui trở về". Vua Ca Nị Sắc Ca chưa chịu nghe theo đó. Rồng bèn trở lại nơi ao tuôn phát âm thanh chấn động sấm sét nổ đùng, gió bão đẩy nhổ cây cối, cát đá tuôn đổ như mưa, mây mốc mờ tối, khiến quân ngựa đều kinh sợ, vua mới quy mạng Tam bảo, cầu xin sức gia hộ, nói rằng: "xưa trước gieo trồng lắm việc phước, nay được làm vua cõi người, oai lực nhiếp chế địch mạnh, thống trị cả Thiệm-bộ-châu, mà nay bị Rồng là loài súc vật khuấy động, thật là bởi tôi phước bạc vậy! Nguyện xin tất cả phước lực có được ngay hiện tại đây, giữa khoảng chặn mày nổi lên khói lửa lớn, khiến Rồng rút lui gió lắng mưa móc cuốn mất mây tan". Vua bèn khiến quân lính đông nhiều người vác một tảng đá đến bít lấp ao rồng. Rồng trở lại biến làm thân vị Bà-la-môn lại cầu xin cùng vua rằng: "Tôi là vua Rồng ở ao ấy, khiếp sợ oai thế của vua, nay xin quy mạng. Cầu xin vua rủ lòng thương xót ban tha cho lỗi quá xưa trước. Vua vốn mang ngậm chở che mạng sống sinh linh. Cớ sao nay riêng đối với tôi mà gia tâm muốn hại. Nếu vua giết tôi, tôi sẽ cùng vua đều sa đọa vào đường xấu ác. Vì vua có tội cắt đứt mạng sống, còn tôi có tâm ôm hoài thù hận, nghiệp báo rõ ràng thiện ác rành rành vậy!". Vua bèn cùng rồng (tức Bà-la-môn) minh bạch lập nên khế ước. Về sau nếu như có trái phạm thì không thể cùng dung tha. Rồng nói: "Tôi vì hạnh nghiệp xấu ác nên thọ thân nhận chịu làm loài rồng, mà Rồng vốn tánh mạnh dữ không thể tự gìn giữ. Mỗi khi tâm sân đã dấy khởi hẳn sẽ quên sự chế ước. Nay vua trở lại tạo lập ngôi già lam, tôi không dám phá hủy nữa, nhưng xin hãy bảo có một người hầu luôn trông nhìn trên đảnh núi, nếu như có mây đen nổi lên, xin gấp đánh kiền chùy. Tôi nghe âm thanh đó, tâm xấu ác liền tan mất". Khi đó, vua trở lại lên ngôi già lam, xây dựng Tốt-đổ-ba. Có người hầu trông canh mây khói nổi đến nay vẫn không ngưng nghỉ". Lại nghe các bậc Lão túc nói là: "trong Tốtđổ-ba có xá lợi cốt thịt của đức Như Lai nhiều hơn một thăng. Có những sự thần biến chẳng thể thuật bày rõ ràng nổi. Có một lúc từ trong Đổ tốt ba bỗng nhiên có khói nổi lên, chốc lát bàn phát ra lửa dữ. Mọi người thời bấy giờ cho là Tốt-đổ-ba đã theo lửa mà tiêu mất. Cứ chiêm ngưỡng lâu sau, lửa tắt khói tiêu, mới thấy xá lợi như phan cầu sắc trắng xoay quanh ngoài trụ uyển chuyển mà lên, lên cao đến giữa khoảng mây cuộn lượn xoay mà xuống lại.

Từ Vương thành về phía tây bắc, trên bờ phía nam sông lớn có nô-gi già lam cựu vương, bên trong có chiếc răng sữa của Bồ-tát Thích-ca lúc bé thơ sắc màu vàng trắng lớn hơn một tấc, về phía đông nam ngôi già lam ấy lại có một ngôi già lam cũng tên là cựu vương có một mãnh xương cốt đảnh đầu đức Như Lai mặt rộng hơn một tấc sắc màu vàng trắng lỗ chân tóc rõ ràng, lại có tóc của đức Như lai, tóc sắc màu xanh biếc, búi tóc quấn xoay về phía hữu kéo ra dài hơn một thước, cuốn lại còn khoảng nửa tấc. Phàm nơi có ba sự ấy, mỗi lúc đến sáu ngày trai, vua cùng các quan đại thần đều rải hoa cúng dường.

Từ ngôi già lam có cốt xương đảnh đầu về phía tây nam có ngôi già lam cựu vương phi. Bên trong có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đồng và vàng cao hơn trăm thước. Nghe các hàng sĩ tục kể rằng: "trong Tốtđổ-ba đô có hơn một thăng xá lợi Phật. Vào ngày 15 của mỗi tháng đêm đó bèn tỏa phóng ánh sáng vòng tròn soi sáng hiện bày mâm, ánh ngời như thế đến gần sáng hôm sau ánh sáng mới dần thâu lại vào trong Tốt-đổ-ba. Từ thành về phía tây nam có núi Tỷ la sa lạc, (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tượng Kiên). Thần núi đó biến làm hình voi (tượng) nên gọi là Tượng Kiên vậy. Xưa kia, khi đức Như Lai còn tại thế, thần Tượng Kiên phụng thỉnh đức Thế Tôn cùng 1200 vị Đại A-la-hán, trên đảnh núi có một tảng đá lớn, đức Như Lai bèn đến đó nhận sự cúng dường của Thần. Sau đó, vua Vô Ưu bèn đến trên tảng đá tạo lập ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước. Người đời nay gọi đó là ngôi Tốtđổ-ba Tượng Kiên vậy". Cũng còn có người nói ở bên trong có hơn một thăng xá lợi của đức Như

Lai.

Về phía bắc Tốt-đổ-ba Tượng Kiên, dưới hang núi có một suối Rồng, là nơi xưa kia đức Như Lai đã thọ nhận cơm của thần cúng dường rồi, cùng các A-la-hán đến trong đó súc miệng nhấm nhành dương, nhân đó bèn cắm rễ, nay thành rừng tươi tốt. Người sau đến đó dựng lập ngôi già lam tên là Tỳ Đạt Khư (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tước Dương Chi). Từ đó theo hướng đông đi hơn 600 dặm, hang núi tiếp liền đảnh núi cao vợi, vượt qua Hắc Lãnh vào cảnh giới phía bắc Ấn Độ vào nước Lạm Ba (thuộc bắc Ấn Độ).

QUYỂN 2

Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu ghi chép chùa Đại Tổng Trì, Sa Môn Biện Cơ soạn.

(Nói về ba nước)

1-Nước Lạm Ba 2-Nước Na Yết La Hạt 3-Nước Kiện Đà La.

Rõ thấy danh xưng của Thiên Trúc có lắm sự bàn nghị khác nhau rối rắm. Xưa trước gọi là "Thân Độc", hoặc gọi là "Hiền Đậu". Nay theo chánh âm nên gọi là "Ấn Độ". Người Ấn Độ tùy theo địa vức mà xưng nước. Dẫu khác phương khác tục xa gần gọi một tên chung, nói đến sự tốt đẹp nên gọi đó là Ấn Độ.

Ấn Độ, tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là "Nguyệt" (vầng trăng). Nguyệt có nhiều danh nghĩa. Nay nói về nghĩa thứ nhất là nói tất cả các loài quần sinh lưu chuyển luân hồi không ngưng dứt suốt đêm dài tối mịt không có điều khiển sáng sớm mai. Đó tợ như ánh bạch nhật đã ẩn. Giữa đêm ánh đuốc tiếp nối tuy có soi chiếu của sao sáng, nhưng đâu như ánh sáng của vầng trăng. Kể từ duyên ấy dẫn đến nhân mà thí dụ như vầng nguyệt. Bởi vì các bậc hiền Thánh ở cõi nước đây tiếp nối khuôn phép dẫn dắt phàm tình ngự trị mọi vật như vầng nguyệt soi chiếu đến. Do từ ý nghĩa ấy nên xưng gọi là Ấn Độ. Tại Ấn Độ, chủng tộc giòng họ phân đàn mà Bà-la-môn là đặc ưu thanh bạch cao quý. Từ sự nhã xưng ấy lưu truyền thành tục. Không nói riêng biệt của kinh giới, mà gọi chung là "nước Bà-la-môn".

Nêu theo cảnh vức phong cương có được mà có thể nói là cảnh vức của năm xứ Ấn Độ chu vi rộng hơn chín vạn dặm, ba phía là biển lớn, còn phía bắc gối lưng vào núi tuyết. Phía bắc thì rộng, phía nam hẹp nhỏ, hình như nửa vầng trăng. Vẽ họa đồng trống phân chia khu vực có hơn 70 nước, thời tiết đặc biệt nắng nóng, đất có nhiều suối ẩm thấp. Phía bắc mới núi đồi quanh co, gò đồi xếp lớp. Phía đông thì sông đồng tưới nhuận, đất đai phì nhiêu. Phía nam cây cỏ tươi tốt, phía tây đất đai sành sỏi. Đại khái như thế có thể nói lược vậy.

Phàm về danh xưng của số lượng thì gọi là Du Thiện Na (xưa trước gọi là Do tuần, hoặc gọi là Du xà na. Lại còn gọi là Do diên, đều là gọi lược sai lầm vậy). Thiện na tức là quãng đường mà quân của Thánh vương xưa kia đi trong một ngày. Xưa trước tương truyền một Du thiện na là 40 dặm, theo tục của nước Ấn Độ là 30 dặm. Theo trong Thánh giáo ghi chép thì chỉ có 16 dặm. Con số nhỏ tột cùng là phân một Du thiện na làm thành 8 Câu lô xá. Câu lô xá nghĩa là tiếng kêu của trâu lớn vang nghe ở điểm cùng cực thì gọi là Câu lô xá. Nhân một Câu lô xá làm thành 500 cung. Phân một cung làm thành bốn khuỷu tay, phân một khuỷu tay làm thành 24 ngón tay, phân một đốt ngón tay làm thành bảy hạt lúa tẻ. Cho đến lỗ hổng giữa khoảng chấy rận lông trâu dê lông thỏ nước đầy lược phân thành bảy phần cho đến hạt bụi nhỏ, hạt bụi nhỏ phân thành bảy phần làm thành hạt bụi cực nhỏ. Hạt bụi cực nhỏ không còn chia chẻ được nữa, chia chẻ tức kết quy về không, nên gọi là "cực vi".

Nếu theo âm dương lịch vận ngày tháng thứ lớp hợp xưng, nghĩa là tuy có khác mà thời gian không khác. Tùy theo Tinh Kiến (chuôi sao) mà nêu tên tháng. Với thời gian cực ngắn, gọi đó là Sát na. Cứ 120 sát na là một Đát sát na, cứ 60 Đát sát na làm một Lạp phược, cứ 30 Lạp phược làm một Mâu hô lật đa, xứ 5 Mâu hô lật đa làm một thời, cứ sáu thời hợp thành một ngày một đêm (ngày 3 đêm 3). Thế tục còn còn phân mỗi một ngày đêm có tám thời (ngày 4 đêm 4 ở mỗi một thời mỗi có 4 phân). Trăng từ đầu đến tròn gọi là Bạch phần, trăng khuyết đến tối gọi là Hắc phần. Hắc phần hoặc có 14 ngày hoặc có 15 ngày do tháng có tháng thiếu tháng đủ nên vậy. Hắc trước Bạch sau hợp thành một tháng. Cứ sáu tháng hợp thành một hành, mặt nhật đi lại xoay chuyển theo hướng bắc, mặt nhật đi tại ngoài xoay chuyển theo hướng nam. Gồm cả hai hành ấy hợp làm thành một năm. Lại phân một năm làm thành sáu thời (mùa); từ ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 3, tức là dần nóng. Từ ngày 16 tháng 3 đến ngày 15 tháng 5 là rất nóng. Từ ngày 16 tháng 5 đến 15 tháng 7 là mùa mưa. Từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 15 tháng 9 là mùa tươi tốt. Từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng 11 là dần lạnh. Từ ngày 16 tháng 11 đến ngày ngày 15 tháng giêng là (năm sau) là rất lạnh. Theo Thánh giáo của đức Như Lai thì một năm phân làm 3 mùa; từ ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 5 tức là mùa nóng. Từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 16 tháng 9 là mùa mưa, từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng giêng (năm sau) là mùa lạnh. Hoặc phân làm 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Ba tháng mùa xuân là tháng chế đát la, tháng phệ xá khư, tháng thệ sắc tra tức từ ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 4. Ba tháng mùa Hạ là tháng A sa trà, tháng Thất la phạt noa và tháng Bà la bát đà tức từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7. Ba tháng mùa thu là tháng Át thấp phược sưu xà, tháng Ca thỉ để ca mà tháng Mạt già thỉ la tức từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 15 tháng 10. Ba tháng mùa đông là tháng Báo sa, tháng Ma khư và tháng Át lặc lũ noa tức từ ngày 16 tháng 10 đến ngày 15 tháng giêng năm sau. Nên chư tăng ở Ấn Độ y theo Thánh giáo của Phật tọa an cư có hai mùa, hoặc 3 tháng trước hoặc 3 tháng sau. Ba tháng trước tức từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9. Đời trước những người phiên dịch kinh luật, hoặc gọi là "Tọa Hạ", hoặc gọi là "Tọa lạp" đó đều là xứ biên địa khác tục, chưa thấu đạt chánh âm của Trung Hoa, hoặc bởi dùng phương ngôn chưa dung thông mà truyền dịch có sai lầm. Lại suy tính về ngày tháng đức Như Lai nhập thai, sơ sinh, xuất gia, thành Phật, nhập Niết bàn, v.v... đều có sâm sai. Nói tại "Hậu kỳ".

Như về làng ấp thôn xóm phương vức rộng cao, đường thông ngỏ tắt lượn uốn quanh co, cửa chợ ngày đường, cờ đình cặp đường, giết mổ chài câu, con hát, đầu sỏ nem thịt, cờ quyết vườn nhà ở gạt bỏ ngoài ấp, hành lý qua lại, hẹp bên tả đường. Đến như chế vườn nhà ở, làm nên tường quách, thế đất thấp xấu ẩn trưng, thành nhiều lớp gạch. Cả đến như tường vách hoặc bện cây trúc, phông nhà đài quán, bảng nhà ngang bằng đầu, dùng đá tro bôi lấp, dùng ngói gạch đậy phủ. Các thứ khác lạ tạo dựng cao lớn, hình thức chế tác đồng như ở Trung Hoa. Che lợp bằng tranh bằng cỏ, hoặc bằng gạch bằng ván. Vách tường dùng bằng đá tro trang sức nên, đất bùn phẩn trâu làm sạch. Có lúc tán trải hoa, đó là khác lạ vậy. Các ngôi Tăng-già lam thiết chế rất kỳ đặc. Ở bốn góc lầu xây dựng nổi lên trùng các ba tầng, rui xà rường cột chạm trổ các hình kỳ lạ, cửa thông, cửa sổ quanh tường họa vẽ các hình sắc nơi ở của dân chúng lê thứ, bên trong xa xỉ phía ngoài cần kiệm, phòng ấm nhà giữa, tầng đài trùng trùng các hình thứ chế tác không gò bó. Cửa nẻo xoay trở về hướng đông, tòa Triều xoay mặt hướng đông. Đến như ngồi nghỉ đều dùng bằng thẳng sàng. Các hàng vương tộc đại nhân sĩ thứ giàu có trang sức tuy có khác nhưng quy cũ không khác. Tòa triều của quân vương lại càng cao lớn, khảm cẩn các thứ ngọc châu kỵ gọi đó là giường sư tử, dùng đệm giạ nhỏ mịn lót trải mà dẫm bước, lại dùng bằng các thứ ghế báu. Còn với trăm thứ quan liêu thứ tùy sự ưa thích mà khắc chạm hình loại khác nhau, châu ngọc ánh ngời. Xiêm y vận mặc không ít cắt chế đều dùng bằng các thứ quý đẹp trắng nhẹ, hình sắc xen tạp. Người nam thì quấn eo thắt nách, khăn rộng rủ vai phải, người nữ thì choàng xiêm rủ xuống hai khuỷu tay đều che kín, trên đảnh đầu là một búi tóc nhỏ, tóc còn lại đều rủ xuống, hoặc có người cắt tóc khác biệt làm sự lạ lùng với đời, đầu quấn vòng hoa, thân đeo mang chuỗi anh lạc. Người vận mặc như vậy gọi là áo Kiêu xa da, và bông vải v. v… Kiêu xa da tức là tơ của tằm hoang dã. Áo tùng ma, tức các loại sợi gai. Áo Hạm bát la được dệt bằng lông dê nhỏ mịn. Áo Hạt thích ly dệt bằng lông thú hoang dã. Lông thú nhỏ mịn có thể dùng chắp đánh sợi nên lấy làm trân quý mà sung vào mặc dùng. Tại phía bắc Ấn Độ phong thổ rét lạnh, cắt chế áo nhỏ hẹp, rất đồng như cách vận mặc của người Hồ. Các hàng ngoại đạo vận mặc trang sức chế tác khác lạ xen tạp, hoặc áo đuôi lông khổng tước, hoặc trang sức bằng đầu lâu chuỗi anh lạc, hoặc không vận mặc; để lộ bày thân hình, hoặc dùng tấm cỏ che thân, hoặc nhổ tóc cắt râu, rồi bong tóc mai đẩy lên làm búi tóc, xiêm y không nhất định, sắc màu đỏ trắng chẳng thường. Còn pháp phục của hàng Sa-môn-thích tử chỉ có ba y và Tăng khư khi, Nê phược ta na, Ba y cắt chế tùy bộ chẳng đồng, hoặc viền có rộng hẹp, hoặc lá có lớn nhỏ, Tăng khư khi ((tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Yêm dịch (bít che nách), xưa trước gọi là Tăng kỳ chi tức là sai nhầm vậy) phủ che vai tả, bít hai nách, bên tả mở bên hữu lợp kín dài cắt quá eo. Nê phược ta na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là quần, xưa trước gọi là Niết bàn tăng tức là sai nhầm vậy), đã không đai dãi, lúc mặc chỉ nắm lấy xếp thành nếp nhỏ để buộc, xếp nếp các bộ mỗi tự có khác, sắc mầu hoặc vàng hoặc đỏ chẳng đồng. Các hàng chủng tộc Sát đế lợi, Bà-la-môn ăn ở đơn giản thanh sạch thuần tố, kiệm ước minh bạch sáng sạch, các hàng quốc vương, đại thần vận mặc tốt lành quý báu có khác, tràng hoa mũ báu dùng để trang sức trên đầu, vòng xuyến anh lạc đeo mang nơi thân. Còn các hàng thương buôn giàu sang quý giá chỉ có vòng xuyến mà thôi. Ngoài ra mọi người phần nhiều là đi chân đất không giày dép, răng sức đều nhuộm hoặc màu đỏ màu đen, tóc cắt ngang bằng, xâu lỗ tai, mũi dài mắt lớn. Tướng mạo đại khái là như thế.

Còn về sự thanh khiết tự giữ thì chẳng kiêu chí khí ấy, phàm thiết bày thức ăn thì trước hẳn phải tẩy rửa. Thức ăn còn lại qua đêm không đem dùng lại, vật đựng thức ăn chẳng để lại, các thứ vật dụng bằng sứ bằng gỗ, dùng qua hẳn vất bỏ. Các vật bằng vàng bạc đồng sắt thì luôn chùi mài ngời ánh. Ăn cơm đã xong thì nhấm nhành dương mà làm sạch và súc miệng, mọi sự chưa xong thì chẳng cùng xúc chạm. Mỗi lúc có tiểu giải thì hẳn tẩy rửa, thân hình bôi thoa các thứ hương thơm như là chiên đàn, uất kim hương, v.v... các vị quân vương lúc sắp tắm thì giống trống tấu đàn ca hát cúng tế bái vái đền thờ bồn tắm rửa.

Xét rõ về văn tự thì Phạm thiên chế tác nên, nguyên thể bày trải khuôn phép chỉ có 47 ngôn từ, ngụ vật hợp thành, tùy sự mà chuyển dùng, lưu diễn thành chi phái, nguồn ấy xâm rộng ra, nhân địa vức tùy con người mà hơi có sự cải biến. Ngôn ngữ ấy đại lược chưa khác nguồn gốc. Mà tại trung Ấn Độ đặc biệt rõ ràng chính xác, từ điều hòa nhã đồng âm với Phạm thiên, khi vận trong sáng đáng làm khuôn phép cho người. Các vùng lân cận và nước khác tập học sai lầm thành thói dạy răn, đua tranh bạc tục chẳng giữ thuần phong. Đến như ghi lời viết sự mỗi mỗi đều có quản lý hiện còn. Sử cáo gọi chung đó là Ni la tệ trà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là "Thanh Tạng". Thiện ác nêu bày đầy đủ, tốt xấu viết đủ, mà mở mang cho kẻ trẻ nhỏ mờ tối, dẫn dụ tiến triển, trước hết dạy dặn bằng 12 chương. Đến bảy tuổi trở lên mới trao dạy "Ngũ Minh đại luận" tức: 1 là thanh minh tức là giải thích chữ nghĩa cổ huấn, thuyên phân từng mục lưu biệt-2 là công xảo minh tức là cơ quan kỷ luật, lịch số âm dương-3 là y phương minh tức là cấm chú gian tà, thuốc đá châm cứu-4 là nhân minh tức là xét định tà chánh nghiên tầm khơi xét chân ngụy (giả, thật)-5 là nội minh tứ là nghiên cứu thỏa sướng về ngũ thừa, diệu lý nhân quả. Còn đối với Bà-lamôn thì học Tứ phệ đà luận (xưa trước gọi là Tỳ đà tức sai nhầm vậy): 1 là thọ tức là dưỡng sinh sửa tánh-2 là tứ tức là cúng tế cầu đảo-3 là bình tức là lễ nghi chiêm bói binh pháp quân trận-4 là thuật tức là kỷ số tài năng khác lạ, cấm chú y phương. Các bậc thầy hẳn rộng nghiên cứu tinh vi, suốt cùng huyền ảo, chỉ bày đại nghĩa dùng lời vi diệu mà dạy răn dẫn dắt, khắc suy khuyên bạc, khéo dẫn dụ nhắc lên. Nếu là biết rộng thông mẫn, chí hoài trốn vượt xa thì bó buộc trở lại khai mở học nghiệp thành đạt. Đến tuổi 30 lập chí học thành, đã ở ngôi vị hưởng lộc, trước báo đáp ân đức của thầy. Như có rộng thông xưa cổ ưa thích thanh nhã, ẩn lánh béo tốt, sống đời thuần trinh. Chìm nổi ngoài vật, thong dong khỏi mọi sự. Sủng ái hay hỗ nhục chẳng kinh sợ, tránh xa tiếng tăm. Quân vương có nhã lòng mến chuộng cũng chẳng lay động vết chân. Nhưng mà nước nhà trọng người thông duệ, thế tục quý bậc cao minh, tán thán ngợi khen đã lớn, lễ mạng cũng trọng, nên hay gắng chí dốc học, quên cả mỏi mệt đuổi theo nghề nghiệp, phỏng tìm hỏi đạo nương tựa nhân từ, chẳng ngại ngùng vượt xa ngàn dặm. Nhà tuy giàu có mà chí đều theo ở trọ, của cải miệng bụng, theo chế độ kẻ tù mà chu cấp, có quý biết đạo, không xấu hỗ thiếu thốn của cải. Trái lại với kẻ ham vui theo nghiệp biếng khác, trộm cướp để ăn, xa xỉ vận mặc. Đã không có lệnh đức lại chẳng có lúc tập học, thì hỗ nhục đều đến, tiếng xấu vang vọng xa.

Đối với giáo lý của đức Như Lai tùy loại mà được hiểu, cách Thánh thửa xa, chánh pháp thuần nhạt. Mặc tùy tâm có kiến giải mà đều được ngộ nghe biết. Bộ chấp như núi cao vợi, tranh luận dấy nổi sóng. Các hàng dị học chuyên môn khác đường đồng đến. Cả thảy có 18 bộ phái, mỗi tự chiếm xứ sự bén nhọn riêng mình, đại thừa Tiểu thừa nói ở riêng biệt. Họ có điểm an tỉnh tư duy minh hành dừng đứng, định tuệ chột cách biệt, ồn náo và tĩnh lặng khác nhau hẳn. Tùy theo đồ chúng họ ở mà mỗi tự chế tác khoa điều phòng cấm, không nói Luật luận kinh là kinh Phật, tuyên giảng một bộ mới khỏi việc chư tăng biết, hai bộ thì tăng thêm phòng ở và mọi dụng cần thiết, ba bộ thì sai thị giả cầu nương theo, bốn bộ thì cấp cho tịnh nhân để sai sử phục dịch, năm bộ thì đi cưỡi ngựa kiệu, sáu bộ lại dẫn đồ chúng vây quanh vệ hộ. Đạo đức đã cao, cờ hiệu mạng cũng khác. Đến lúc nhóm tập giảng luận, xét phận sự hơn kém, rõ ràng riêng biệt thiện ác, gạt vượt tối sáng. Người ấy có đắn đo chống bẻ lời nhỏ nhiệm, đè nén hay dương bốc diệu lý. Ngôn từ thanh nhã đầy đủ tốt lành, khéo biện giải nhanh nhẹn. Khi ấy nương cưỡi ngựa báu dẫn theo như rừng, cho đến các hàng nghĩa môn mở rỗng, ngôn từ sắc bén bẻ dẹp bén nhạy, lý ít mà ngôn từ nhiều, nghĩa trái mà lời thuận, bèn liền mặt bôi đất đỏ, thêm các bụi dơ, ruồng bỏ ra ngoài đồng trống, vất đến nơi ngòi rãnh, đã phô bày sự trắng trong và vẩn đục, cũng lộ rõ hiền ngu. Người biết vui thích đạo, nhà chuyên cần chế học. Xuất gia trở về tục, theo chỗ tốt đẹp đó, mắc lỗi quấy phạm điều luật theo khoa liệu trong chúng tăng mà phạt, nhẹ thì tăng chúng la trách, tiếp thêm bậc nữa thì tăng chúng chẳng cùng nói năng, nặng mới chẳng cùng chung sống với chúng tăng. Không chung sống tức ruồng đuổi chẳng hề đếm xỉa. Ra khỏi một trụ xứ thì không nơi ném thân vào, theo nương trọ khó khổ, hoặc trở lại vâng phục như từ đầu.

Còn về giòng họ thì có bốn dòng:-1 là Bà-lamôn tức là Tịnh hạnh, chuyên giữ đạo, sống trinh thuần, thanh khiết trắng trong tiết tháo-2 là Sát đế lợi (xưa trước gọi là Sát lợi) tức chủng tộc vua chúa, nối đời quân vương, tâm chỉ có đủ nhân từ và tức giận-3 là Phệ xa (xưa trước gọi là Tỳ Xá tứ sai nhầm vậy) tức thương gia buôn bán, đổi chác có không, đuổi theo lợi xa gần-4 là Thú đà la (xưa trước gọi là Thủ đà tức sai nhầm vậy) tức là Nông nhân, dốc sức với ruộng đồng, lăn mình gặt hái lúa má. Phàm, bốn giòng họ đây, đục trong có khác dòng. Hôn thú thông gần bay nằm khác đường. Nội ngoại tông phái kết hôn chẳng tạp, người phụ nữ một khi đã gã chồng trọn không còn tái giá. Ngoài ra các giòng họ xen tạp thì có lắm nhiều. Chủng tộc mỗi một tùy loại tùy nhóm khó thể ghi bày rõ ràng. Quân vương nối đời chỉ có Sát đế lợi. Lúc cướp giết, nổi dậy giòng họ khác để xưng tôn, chiến sĩ tuy trong nước hùng mạnh đều tuyển chọn xong. Cha con truyền nghiệp theo cùng binh thuật. Ở thì nơi cung lô bảo vệ chung quanh, lúc chinh chiến thì phấn phát binh lính dẫn đầu. Có bốn loại binh lính là bộ, mã, xa, tượng. Tượng binh thì trang bị áo giáp bền chắc, ngà chuốc sắc bén, một tướng cỡi đều nhiếp trao đặt tiết độ, có hai binh lính hai bên trái phải vì đó mà giá ngự. Xa binh tức dùng xe bốn ngựa làm giá, binh soái nương cưỡi đó, liệt bày binh lính bảo vệ chung quanh, nâng đẩy bánh xe cặp theo bầu trục. Mã binh thì tán ngự đuổi chạy trông rượt mạng. Bộ binh thì gìn giữ nhẹ nhàng cảm dõng sung chọn, mang giáo lớn, nắm kích dài, hoặc mang dao, kiếm, phấn phát dẫn trước vào trận. Phàm các binh khí không gì chẳng bén nhọn, đó là: mâu, thuẫn, cung, tên, dao, kiếm, búa, nỏ, mác, thù, giáo dài, dây vồng, v.v... ở đời đều có tập luyện đó. Phong tục xứ đó tánh tình tuy có mạnh gấp, chí ý rất trinh thuần chân chất. Đối với của cải không cẩu thả mà có được, đối với đạo nghĩa thì có thừa khiêm nhượng. Lo sợ tội với minh vận, xem thường nghề nghiệp của sự sống. Dối trá quỷ quyệt chẳng làm, minh ước thệ nguyện rất tin kính, chỉnh sửa giáo lưu còn chất, phong tục vẫn hòa. Lúc đàn tiểu nhân hung nghịch trái phạm quốc hiến mưu toan nguy hại quân thượng, mọi vết tích sự việc rõ ràng thì thường bắt giam tù tối, không hề giết hại, mặc tình nó sống chết, chẳng đếm xỉa đến nhân luân. Với kẻ xúc phạm tổn thương lễ nghĩa, bội nghịch trung hiếu thì xẻo mũi cắt tai, bẻ tay, chặt chân, hoặc xua đuổi ra khỏi nước, hoặc phóng thả đến vùng ven hoang vắng. Ngoài ra, các lỗi phạm khác thì nộp đóng của cải để chuộc tội, xử trị bắt tù, xem từ, chẳng thêm luật hình đánh gạt. Tùy hỏi mà cứ thật đối đáp, thì y cứ sự tình mà bình liệu. Còn chống trái điều phạm, xấu hỗ quá cả sức phục trái quấy. Muốn nghiên cứu về tình thật, thì sự việc phải cứu xét, phàm có bốn điều đó là Thủy (nước) Hỏa (lửa) Xứng (cân) Độc (độc tố). Thủy tức người phạm tội mang cùng đãy đá thả chìm xuống dòng nước sâu để xét tội giả thật, nếu người chìm đá nổi tức là có phạm, trái lại người nổi mà đá chìm tức không ẩn giấu. Hỏa tức là đốt tấm sắt nóng, bắt người phạm tội ngồi lên, lại bảo đưa chân dẫm đạp, áp bàn tay lên trên, lại bắt thè lưỡi liếm, nếu là hư dối thì không tổn hại, nếu là có thật hẳn bị bỏng thương. Với người mềm yếu khiếp sợ, không thể xúc chạm đến lửa dữ, thì nắm hoa chưa nở tung ném vào lửa, nếu hư dối thì hoa nở, nếu thật có tì hoa tiêu cháy. Xứng tức là đem người và đá cân bằng, lấy sự nhẹ nặng mà rút ứng nghiệm, nếu hư dối thì người nặng xuống đáy, đá đất bỗng lên, nếu thật thì đá nặng người nhẹ. Độc tức là đem cắt đùi vế con dê đem ướp tẩm các độc dược vào đó, tùy người bị tố tụng ăn lấy một phần, nếu thật thì độc phát mà chết, còn hư dối thì độc tự tiêu hết mà sống. Nêu bày bốn điều đây để phòng đường có trăm lỗi quấy.

Còn về thể thức trí kính, hình nghi có chín thứ:

- 1 là mở lời an ủi hỏi han

- 2 là cúi đầu tỏ bày cung kính

- 3 là đưa cao tay vái chào

- 4 là chấp tay cân bằng khoanh vòng

- 5 là khom đầu gối

- 6 là quỳ dài

- 7 là tay và đầu gối quỳ nơi đất-8 là năm bậc đều cúi khuất-9 là năm vóc gieo sát đất.

Phàm chín thứ đây cuối cùng chỉ một bái. Quỳ mà tán thán đức hạnh, thì gọi đó là hết mực cung kính, xa thì cúi đầu vái tay, gần thì liếm chân xoa cẳng đùi. Phàm có bảo ban ngôn từ, mà vâng phụng mạng lệnh thì vén áo quỳ dài. Với các bậc tôn hiền nhận sự kính bái thì hẳn có lời an ủy, hoặc đưa tay xoa đảnh đầu, hoặc vỗ về trên vai lưng, khéo nói lời chỉ bảo ủy an để tỏ bày sự thân gần nồng đượm. Đối với hàng xuất gia Sa-môn đã thọ kính lễ, chỉ thêm tâm nguyện tốt lành, không chỉ quỳ bái, tùy theo sự việc tôn kính, phần nhiều có đi nhiễu quanh hoặc chỉ một vòng, hoặc lại ba vòng, giữ tâm riêng cầu thỉnh, số mục thì tùy theo sự ước muốn.

Phàm mắc phải bệnh tật thì bỏ ăn bảy ngày, trong kỳ hạn đó, phần nhiều có được thuyên giảm, hẳn chưa hoàn toàn lành khỏi mới nên uống thuốc, tánh loại danh chủng của thuốc chẳng đồng, tài nghệ của thầy thuốc đoán xem có khác. Như có người chết, đến viếng lễ tang buồn thương cùng khóc, xé áo, bứt tóc, đánh má đấm ngực, phục chế không hạn định, tang kỳ chẳng số lượng. Nghi thức tiễn đưa tống táng có ba cách:-1 là hỏa táng tức chất củi mà thiêu đốt-2 là thủy táng tức đem thả chìm dưới dòng nước và-3 là dã táng tức vất bỏ vào rừng cho cầm thú rỉa ăn. Quốc vương băng hà thì trước lập người kế dõi để làm chủ tang tế và đề định trên dưới. Khi sống có lập đức hiệu, đến lúc chết không bàn nghị tên thụy. Nhà có tang họa mọi người chẳng đến ăn. Sau khi tẩn táng, thường không húy kỵ. Mọi người đến dự đưa tang, cho là không sạch sẽ, nên đều ra ngoài thành quách tắm gội sau đó mới vào. Đến như những vị lão thành cao thọ, thời hạn chết sắp đến, bệnh tật trầm kha, ngằn mé sự sống sợ cùng cực, nhàm lìa trần tục, mong muốn xa bỏ cõi nhân gian, xem thường khinh bỉ sự sống chết, mong xa khỏi đường đời. Khi đó các người thân quen trước cũ, bè bạn cùng biết, tấu nhạc bày hội tiễn đưa, đặt để trên một chiếc thuyền, gõ mái chèo đưa đến trong sông Khắc già mà tự chìm đắm, cho đó là được sinh lên cõi trời. Mười người chỉ có một, thật sự chưa tận mắt thấy sự hẹp hòi đó. Với chúng tăng xuất gia thì có định chế không khóc gào, song thân qua đời thì tụng niệm để báo đáp ân đức, truy tìm tới xa cẩn trọng đến cùng, thật giúp minh phước vậy.

Chính sách khoa giáo đã khoan thoáng, có vụ cũng giản đơn, nhà không sách sổ, người chẳng thuế khóa, trong đất ruộng vua phần lớn phân chia thành bốn phần:-1 là sung vào nước nhà lo việc cúng tế-2 là để phong dựng phụ tả tể thần-3 là tưởng thưởng những người thông duệ thạc học cao tài-4 là gieo trồng ruộng phước, cung cấp các hàng dị đạo. Do đó thu kiểm nhẹ mỏng, dao thuế xét kiểm, mỗi tự an bài thế nghiệp đều thuê mướn theo khẩu phần, mướn gieo trồng ruộng đất vua đó là một trong sáu thứ thuế. Thương nhân buôn bán đuổi theo tài lợi qua lại đổi dời, bến đường phòng ải thuế nhẹ qua sau. Nước nhà xây dựng chẳng hư dối nhọc làm, căn cứ công việc hoàn thành mà đáp trả giá trị. Đối với người trấn thú chinh hành cung lô doanh vệ, lường sự chiêu mộ mà treo thưởng đãi người. Tể mục, phụ thần, thứ quan, liêu tả, mỗi mỗi đều có phân đất, phong ấp tự ăn. Thổ phong đất đai đã riêng biệt, địa lợi cũng sai khác, hoa cỏ cây trái giống loại xen tạp khác tên, như là: quả Am một la, quả Am nhị la, quả Mạt để ca, quả Bạt đạt la, quả Kiếp tỷ tha, quả A mạt la, quả Trấn đổ ca, quả Ô đàm bạt la, quả Mậu già, quả Na lợi cân, quả Bàn… sa, phàm các loại như thế, khó thể ghi bày đầy đủ. Thấy người đời trân quý đó nên lược nêu như vậy. Đến như các thứ táo, lật, cậy, thị, thì tại Ấn Độ không nghe có, còn lê, nại, đào, hạnh, bồ đào, v.v... các giống trái cây này từ nước Ca thấp di la trở lại thường thường có trồng. Các thứ thạch lựu, cam, quật, ở các nước đều có trồng. Đào xới đất đai nông vụ cày bừa gạt gieo lúa mạ, gieo trồng theo mùa, mỗi mỗi đều theo lao nhọc quá. Đất đai thích sinh sản các giống lúa giê lúa tẻ lắm nhiều. Còn giống rau lá thì có gừng, rau cải, dưa, bầu, huân đà, v.v..., hành, tỏi tuy thiếu ít mà người ăn cũng hiếm. Trong nhà có người ăn thì ruồng đuổi ra ở ngoài quách. Đến như các thứ sữa, lạc, mỡ, dầu, đường cát, đường phèn, dầu hạt cải là các gia vị ngon lành của các thứ bách bún. Lúc cúng tế hiếm thấy các thứ thịt cá, dê, chương, nai. Và với các thứ trâu, lừa, voi, ngựa, heo, chó, chồn, sói, sư tử, khỉ, vượn, loài thú lông này hết thảy đều không nghe đến mùi vị ăn uống. Nếu người nào ăn thì hẹp hòi xấu hỗ, mọi người đều ghét gớm, lánh ở ngoài thành quách, hiếm thấy dấu vết nơi nhân gian. Đến như sự sai khác của rượu lễ, mùi vị riêng biệt khác dòng. Bồ đào, cam giá thì chủng tộc sát đế lợi uống. Men bách rượu nồng thì hàng phệ xa, v.v... uống. Còn Sa-môn và Bà-la-môn uống nước tương của cam giá, bồ đào, chẳng gọi là đó là rượu lễ (rượu ngọt) vậy. Còn các giòng họ xen tạp, chủng tộc thấp hèn không có dòng riêng biệt, nhưng mọi vật họ sử dụng công và chất có khác, dụng cụ mọi vật tùy thời không thiếu. Tuy chỏ vạc dùng đó mà nồi nấu chẳng biết, phần nhiều sử dụng chén đất, ít dùng đồng đỏ, ăn thì chỉ trong một đồ vật, các thứ ăn trộn đều, dùng ngón tay bốc vốc, chẳng sử dụng thìa đũa, đối với người già bịnh mới dùng thìa bằng đồng.

Lại về các thứ vàng, bạc, than đá, bạch ngọc, hỏa châu phong thổ sinh lại càng chất đầy, vật báu xen tạp trân quý, kỳ đặc, khác loại khác tên, đưa ra ngoài góc biển để dễ tìm cầu trao đổi, nhưng mà của cải sử dụng giao đổi có không, tiền vàng, tiền bạc, ngọc bối, ngọc nhỏ, khắp biên giới cảnh vức Ấn Độ đều có đầy đủ. Về sự sai khác của thổ phong đất đai đại khái như vậy, đồng đều cùng suốt, bày sơ khái lược. Còn khác chánh sách khác tập tục sẽ y cứ theo từng nước mà nêu bày.

1. NƯỚC LẠM BA.

Nước Lạm Ba chu vi rộng hơn ngàn dặm, phía bắc gối lưng với núi tuyết, còn ba phía kia là Hắc lãnh. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Từ vào trăm năm trở lại đây, giòng họ vua chúa nước ấy không người nối dõi. Các nhà hào kiệt có sức lựa đua tranh lẫn nhau, không có quân trưởng lớn, gần đây mới phụ thuộc vào nước Ca tất thí. Đất đai thích nghi với lúa canh lúa giê, có nhiều cam giá. Cây rừng tuy lắm nhiều mà trái quả hiếm ít. Khí hậu dần ấm nóng, hơi có sương mù mà không tuyết. Tập tục nước đó rất phong phú về âm nhạc, mọi người đều mến chuộng ca vịnh, chỉ tánh nhút nhác, lòng dạ dối trá, lại cùng nhau khinh rẻ xoi bói, chưa có sự tôn kính nhường trước, thể chất dung mạo con người thấp nhỏ, cử chỉ hành động thô tháo, phần nhiều vận mặc vải lông tơ sắc trắng, trang sức sạch đẹp. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng hiếm ít phần nhiều đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Có vài mươi ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo rất đông nhiều. Từ đó theo hướng đông nam đi hơn trăm dặm, vượt qua đảnh núi lớn và một dòng sông lớn là đến nước Na Yết La Hạt (thuộc cảnh về bắc Ấn Độ).

2. NƯỚC YẾT NA LA HẠT.

Nước La Yết La Hạt từ đông sang tây dài hơn 600 dặm, từ nam đến bắc rộng khoảng 250-260 dặm, núi bao bọc chung quanh bốn phía, huyện cách hiểm trở. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, không có quân trưởng lớn, chủ lệnh làm việc đều phụ thuộc nước Ca Tất Thí. Nước đó có lắm lúa thóc, nhiều hoa quả, khí hậu ấm nóng, phong tục thuần chất, con người nhanh nhẹn hùng mạnh, xem thường của cải ham thích tập học, sùng kính Phật pháp, ít người tin theo dị đạo. Già lam tuy lắm nhiều mà chư tăng hiếm ít, các ngôi Tốt-đổ-ba đều hoang tàn hư hoại. Có năm ngôi đền thờ trời. Các hàng dị đạo có hơn trăm người.

Từ thành đi về hướng đông cách khoảng hai dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 300 thước, do vua Vô Ưu tạo dựng, đá sắp kỳ đặc cao nỗi, khắc chạm chế tác kỳ vĩ. Đó là nơi xưa kia Bồ-tát Thíchca gặp đức Phật Nhiên Đăng mà trải áo da nai và tóc để lấp che vũng sình mà được thọ ký. Thời gian đã trải qua kiếp hoại mà vết tích ấy không mất. Hoặc có những ngày trai, trời mưa các thứ hoa. Dân chúng thành tâm đua nhau cúng dường. Từ đó về phía tây, có một ngôi già lam, chư tăng hiếm ít. Lại tiếp về phía nam có một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là chỗ đất xưa kia bít che vũng sình, vua Vô Ưu tránh đường lớn mà tạo tượng nhỏ hẹp vậy.

Trong thành có một ngôi Tốt-đổ-ba lớn chỉ còn nền cũ. Nghe các bậc lão thành nói xưa trước có chiếc răng Phật cao lớn nghiêm lệ, nay đã không còn răng, chỉ còn lại nền móng cũ. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 30 thước, tập tục xứ đó tương truyền không biết nguồn gốc mà chỉ nói là từ trên không trung xuống, nền móng cao vợi như thế, đã chẳng phải công sức của con người, thật có lắm điềm linh.

Từ thành về phía tây nam cách hơn 10 dặm, có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai từ Trung Ấn Độ vượt giữa hư không đi giáo hóa giáng vết ở đó. Dân chúng nước đó cảm mộ nên tạo lập nền móng linh thiêng đó. Từ đó về hướng đông cách không xa lắm có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi xưa kia Bồ-tát Thích-ca gặp đức Phật Nhiên Đăng mà mua hoa tại đó.

Từ thành về phía tây nam cách hơn 20 dặm đến một đảnh núi đá nhỏ, có một ngôi già lam, nhà cao trùng các sắp chất đá làm thành, sân nhà vắng vẻ, tuyệt không có chúng tăng. Bên trong có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước, do vua Vô Ưu tạo dựng.

Từ ngôi già lam ấy về phía tây nam có một khe suối hiểm tuyệt, nước đổ dốc theo dòng bay sườn vách dựng đứng. Ở vách đá sườn núi phía đông có một hang động lớn là nơi ở của rồng Cù ba la, cửa tắt hẹp nhỏ, hang hóc mờ tối, sườn đá nước rỏ nhọt, đường tắc ra các dòng khác. Xưa trước có hình ảnh của đức Phật, rõ ràng như chân dung, tướng hảo đầy đủ, nghiễm nhiên như đức Phật hiện tại ở đời. Trong thời gian trở lại gần đây, con người chẳng thấy cùng khắp, giả sử như có trông thấy cũng chỉ phảng phất mà thôi. Nếu người chí thành cầu thỉnh thì có sự thầm cảm, thì tạm rõ thấy nhưng chẳng lâu dài. Xưa kia khi đức Như Lai còn tại thế, Rồng đó là một gã chăn trâu, đem sữa lạc dâng cúng vua, vì hiến dâng cử chỉ mất oai nghi nên đã bị khiển trách, trong lòng bèn ôm hoài sân hận, bèn dùng tiền vàng mua hoa đến cúng dường ở ngôi Tốt-đổba, nơi xưa kia Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Bồ-tát Thích-ca, mà phát nguyện làm rồng độc ác phá nước hại vua, rồi đến nơi vách đá ném thân mình mà chết, bèn sinh nơi hang đó làm vua rồng lớn liền muốn ra khỏi hàng để hành động cho thành đạt ý nguyện vốn độc ác. Vừa khởi tâm đó, thì đức Như Lai đã soi xét xót thương dân chúng nước đó sẽ bị rồng làm hại, nên vận dụng sức thần thông từ xứ Trung Ấn Độ đến đó. Rồng thấy đức Như Lai thì tâm ác độc liền ngưng dứt, vâng thọ giới không giết hại, và phát nguyện hộ trì chánh pháp. Nhân đó cầu thỉnh đức Như Lai thường ở tại hang đó, cầu thỉnh các Thánh đệ tử Phật thường thọ nhận sự cúng dường của mình. Đức Như Lai bảo là: "Ta sắp nhập Niết bàn, nên vì ngươi mà lưu lại hình ảnh, và khiến 500 vị A-la-hán thường nhận sự cúng dường của ngươi, mãi đến lúc chánh pháp ẩn mất, việc này cũng không tan mất. Nếu lúc tâm ác độc của ngươi nỗi dậy tức giận thì nên trông nhìn hình ảnh của ta lưu lại, do sức từ thiện nên tâm ác độc sẽ ngưng dứt. Và các đức Thế Tôn sau này trong đời hiền kiếp cũng vì xót thương ngươi mà lưu lại ảnh tượng". Phía ngoài hang ảnh tượng đó có hai tảng đá vuông, trên một tảng đá có dấu vết chân đức Như Lai dẫm đạp, tướng vòng tròn hiện rõ, có khi tỏa phóng ánh sáng. Hai bên ảnh tượng đó có nhiều ngôi thạch thất, đều là nơi các Thánh đệ tử đức Như Lai nhập định. Từ hang ảnh tượng ấy về góc tây bắc có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi xưa kia đức Như Lai kinh hành. Bên cạnh đó có một ngôi Tốt-đổ-ba có tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Cách đó không xa lại có một ngôi Tốtđổ-ba là nơi xưa kia đức Như Lai bày xướng Chân Tông giảng nói các pháp Uẩn, Xứ, Giới. Từ hang ảnh tượng đó về hướng tây có một tảng đá lớn là nơi xưa kia đức Như Lai giặt nhuộm pháp y ca sa trên đó, đường văn hình ảnh hiện tại vẫn còn.

Từ thành về phía đông nam cách hơn 30 dặm đến thành Hê La.

Chu vi thành ấy rộng khoảng 4-5 dặm, dựng đứng cao vợi chung quanh hiểm hóc, hoa rừng ao hồ sáng sạch lắng soi. Người ở trong thành thuần chất chánh tín. Lại có trùng các khắc họa đòn dong, cột đứng sắc son. Trong tầng các thứ hai có ngôi Phù đồ nhỏ bằng bảy báu tôn trí cốt xương đảnh đầu của đức Như Lai, chu vi cốt xương rộng một thước hai tấc, lỗ chân tóc rõ ràng sắc màu vàng trắng, dùng hộp báu để tôn trí rồi thiết đặt trong Tốt-đổ-ba. Nếu người muốn biết mọi sự thiện ác thì dùng mạt hương hòa với bùn ấn vào cốt xương đảnh đầu đó, sẽ tùy theo phước đức cảm hiện đường văn rõ ràng. Lại có một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ bằng bảy báu tôn thờ cốt xương đầu sọ đức Phật, tướng trạng như lá sen, sắc màu đồng như cốt xương đảnh đầu. Cũng dùng hộp báu tôn trí phong đậy mà thiết đặt. Lại có ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ bằng bảy báu tôn thờ tròng mắt của đức Như Lai, tròng mắt lớn như trái nại, tỏa sáng thấu suốt ánh ngời cả trong ngoài. Cùng dùng hộp báu tôn trí phong bít mà thiết đặt. Lại có pháp y Tăng-già chi ca sa của đức Như Lai bằng bông tơ nhỏ mịn làm nên, sắc màu vàng đỏ, tôn trí trong hộp báu. Thời gian năm tháng trải qua lâu dài đã hơi có phần hư hoại. Lại có tích trượng của đức Như Lai dùng bằng sắt trắng làm vòng, gỗ chiên đàn làm cán, làm ống bằng vật báu để tôn trí. Gần đây có vị quốc vương nghe các vật ấy đều là phục dụng xưa kia của đức Như Lai, bèn cậy ỷ thế lực bức hiếp lấy đem về, khi đã về đến nước nhà, tôn trí nơi cung ở, chưa tới sáng hôm sau, tìm kiếm lại thì đã mất, bèn trở lại tìm hỏi thì các vật trở về lại nơi chốn cũ. Năm Thánh tích ấy có lắm linh dị. Vua nước Ca-tất thí ban lệnh năm người tịnh hạnh chăm lo cấp hầu hương hoa. Mọi người đến trông xem lễ bái liên tục không ngưng dứt. Các vị tịnh hạnh v.v... muốn theo sư tĩnh lắng, thâu lấy tài vật của người kính trọng, tạp lập khoa điều để giảm bớt sự huyên tạp, đại khái như là: người muốn trông xem cốt xương đảnh đầu của đức Như Lai thì đóng thuế một tiền vàng, người muốn ấn xem tốt xấu thì đóng thuế năm tiền vàng, ngoài ra các tiết cấp theo thứ lớp khoa điều. Khoa điều tuy nặng mà người đến trông xem lễ bái lại càng đông nhiều. Từ trùng các về phía tây bắc có một ngôi Tốt-đổ-ba cũng rất cao lớn và lắm nhiều linh dị. Như người đưa ngón tay xúc chạm đến bèn liền lay động liền cả nền móng chuyển động, linh khánh hòa reo.

Từ đó theo hướng đông nam đi trong hang núi hơn 500 dặm, đến nước Kiện Đà La (xưa trước gọi là Càn đà vệ tức là sai nhầm, thuộc cảnh vức bắc Ấn Độ).

3. NƯỚC KIỆN ĐÀ LA.

Nước Kiện Đà La từ đông sang tây dài hơn ngàn dặm, từ nam đến bắc rộng hơn 800 dặm, phía đông gần sông Tín Độ. Đô thành lớn của nước đó tên là Bố Lộ Sa Bố La, chu vi rộng hơn 40 dặm. Giòng tộc vua chúa không người nối dõi, mọi việc làm đều phụ thuộc nước Ca Tất Thí. Thôn ấp hoang trống hiếm thiếu người ở. Tại một góc cung thành có hơn một ngàn hộ dân. Lúa thóc lắm nhiều, hoa quả tươi tốt, có nhiều cam giá, và cũng là sản sinh thạch lựu. Khí hậu ấm nóng, đại khái không có sương tuyết. Con người tánh tình khiếp sợ ưa thích tập học điển nghệ, phần nhiều kính sùng ngoại đạo, hiếm ít người tin kính chánh pháp. Từ xưa trở lại khắc các các xứ ở Ấn Độ, các luận sư trước tác luận như tôn giả Na La Diên Thiên, Bồtát Vô Trước, Bồ-tát Thế Thân, Sa-môn Pháp Cứu, Như Ý, Hiếp Tôn giả, v.v... vốn sinh tại nước ấy. Có hơn ngàn ngôi Tăng-già lam đều đã sụp đổ hư nát tiêu điều hoang phế. Các ngôi Tốt-đổ-ba cũng lắm nhiều nhưng đều hư hoại. Có hàng trăm ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn.

Bên trong Vương thành về góc đông bắc có một nền móng cũ, xưa trước là đài báu tôn trí bình bát của đức Phật vậy. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn, bình bát lưu tại nước đó, trải qua vài trăm năm kính lễ cúng dường, lưu chuyển các nước, hiện nay tại nước Ba Thích Tư. Phía ngoài thành về hướng đông nam cách khoảng 8-9 dặm, có cây Tỳ-bát-la cao hơn trăm thước, cành lá đơn sơ, bóng râm mờ kín. Bốn đức Phật ở thời quá khứ đã từng ngồi dưới đó, nay hiện còn có tôn tượng của bốn đức Phật ngồi. Còn lại 996 đức Phật trong thời Hiền kiếp đều sẽ ngồi tại đó. Thần minh cảnh vệ, linh giám ngầm gia bị. Xưa kia đức Thích-ca Như Lai ở dưới cây đó, xoay mặt về hướng nam mà ngồi và bảo tôn giả A-nan rằng: "Sau khi ta nhập Niết bàn khoảng 400 năm, sẽ có vị vua trị đời hiệu là Ca Nị Sắc Ca về phía nam này cách đây không xa tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba, tất cả xá lợi cốt thịt của ta phần nhiều nhóm tập vào trong đó".

Ở phía nam cây Tỳ-bát-la có ngôi Tốt-đổ-ba do vua A Nị Sắc Ca tạo dựng. Vua Ca Nị Sắc Ca là sau khi đức Như Lai nhập Niết bàn trong trăm năm thứ tư, ứng vận thống trị Thiện-Bộ châu. Vua vốn không tin tội phước, khinh hủy Phật pháp. Lượt đến đầm cỏ gặp thấy một con thỏ trắng, vua men gần rượt đuổi tới nơi, bỗng nhiên ẩn mất, thấy một trẻ nhỏ chăn trâu ở nơi rừng cây làm một ngôi Tốtđổ-ba nhỏ cao hơn ba thước. Vua hỏi: "Ngươi làm gì vậy?". Đứa trẻ chăn trâu ấy đáp rằng: "Xưa kia đức Phật Thích-ca dùng Thánh trí huyền ký sẽ có vị quốc vương đến chốn Thánh địa này tạo lập Tốtđổ-ba, và xá lợi thân Phật phần nhiều chứa nhóm trong đó. Đại vương là bậc Thánh đức Tốt đổ gieo trồng xưa trước, danh hiệu phù hợp với dự nghi xưa. Thần Công thắng phước đáng thuộc thời buổi này. Nên nay tôi trước cùng phát thệ nguyện". Nói lời ấy xong bỗng nhiên ẩn mất. Vua nghe lời ấy rồi, mừng vui dần lớn trong lòng, tự mang danh hiệu của đại Thánh dự ghi xưa trước, nhân đó phát khởi niềm tin chân chánh rất kính trọng Phật pháp, bèn bao quanh ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ ấy lại tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá, muốn dùng công lực xây dựng cao che phủ lên trên, nhưng tùy theo số lượng đó ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ kia vẫn nổi trội ra ngoài cao hơn ba thước. Cứ tăng cao như vậy vượt hơn 400 thước, nền móng cao vợi, chu vi rộng đến cả dặm rưỡi. Tầng nền 5 cấp cao 150 thước, mới che phủ được ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ kia. Nhân đó, vua càng vui mừng, lại ở phía trên đó tạo dựng 25 tầng tướng vòng bánh xe bằng vàng đồng, và đem một hộc xá lợi của đức Như Lai tôn trí trong đó, kính lễ tu tạo cúng dường. Xây dựng vừa xong bỗng thấy ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ xuất hiện một nữa bên cạnh dưới góc đông nam nền móng lớn, vua bèn sinh tâm bất bình, liền ném bỏ mà bèn ở trong nền móng đá dưới tầng cấp thứ hai của ngôi Tốt-đổ-ba lớn. Hiện một nữa, lại trở về chỗ gốc có xuất hiện một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, vua mới thối lui mà than rằng: "Than ôi! Việc người đời dễ mê mờ, công sức thần khó bít che. Phàm sự phù trì của linh Thánh, ta tức giận sao kịp!". Hỗ thẹn sợ hãi, sám tạ lỗi quá mà trở về. Hai ngôi Tốt-đổ-ba đó đến nay vẫn hiện còn. Như người có bệnh tật muốn mong cầu lành mạnh, thoa hương rải hoa, chí thành quy mạng, phần nhiều đều được lành mạnh. Nơi thềm cấp đá phía nam ở mặt phía đông ngôi Tốt-đổ-ba lớn khắc chạm làm hai ngôi Tốt-đổ-ba; một ngôi cao ba thước và một ngôi cao năm thước, quy mô hình trạng giống như ngôi Tốt-đổ-ba lớn. Lại tu tạo hai tôn tượng Phật; một tôn tượng cao bốn thước và một tôn tượng cao sáu thước phỏng theo hình dáng tôn tượng ngồi kiết già dưới gốc cây Bồ-đề. Mặt nhật chói sáng, sắc vàng ánh ngời. Bóng âm dần dời văn đá xanh biếc. Nghe các bậc lão thành nói là: "Vài trăm năm trước, có lỗ hổng nơi nền móng đá có loài kiến sắc màu vàng ròng; con lớn bằng ngón tay con nhỏ tợ hạt lúa tẻ, đồng loại cùng theo nhau gặm nhấm nơi vách đá đường văn như khắc chạm, bên cạnh dùng cát vàng làm bên tôn tượng ấy đến nay hiện còn".

Ở mặt phía nam thềm cấp đá của ngôi Tốt-đổba lớn có họa tôn tượng Phật cao một trượng sáu thước, từ ngực trở lên phân thành hai thân, từ ngực trở xuống hợp làm một hình. Nghe các bậc lão thành kể rằng: "Mới đầu có một người nghèo khổ dốc sức làm thuê mướn để tự sống, có được một tiền vàng, phát nguyện muốn tu tạo tôn tượng đức Phật, đến nơi ngôi Tốt-đổ-ba nói cùng người thợ đắp họa rằng: "Nay tôi muốn đắp họa Diệu tướng đức Như Lai, mà chỉ có được một tiền vàng trả công còn thiếu, giữ lòng buồn mang bức bách bởi sự nghèo thiếu". Khi ấy người thợ đáp họa đó xét thấy sự chí thành của người nghèo khổ ấy mà bảo rằng: "Chớ lo tính đến trị giá, tôi hứa sẽ làm hoàn thành". Sau đó lại có một người khác sự tình cũng đồng như thế, mang đến một tiền vàng, cầu xin họa tôn tượng Phật, khi ấy người thợ họa vẽ ấy nhận tiền của hai người nghèo khổ đó chọn mua các sắc màu xanh, đỏ diệu kỳ cùng chung họa làm một tôn tượng. Về sau, hai người nghèo khổ ấy đồng một ngày cùng đến kính lễ. Người thợ họa vẽ đó đồng chỉ một tôn tượng cho cả hai người ấy mà bảo rằng: "Đó là tôn tượng của các người tu tạo vậy". Hai người ấy cùng trông nhìn mà như có sự nghĩ ngợi lo toan. Trong tâm người thợ vẽ đó biết họ có điều nghi nên nói với hai người ấy rằng: "Cớ sao nghĩ ngợi âu lo lâu vậy? Phàm tiền vật tôi nhận, đã vì tu tạo, một mảy may cũng không khuyết thiếu. Nếu lời tôi nói đây chẳng sai lầm thì tôn tượng hẳn có thần biến". Lời nói chưa yên lắng, tôn tượng liền hiện linh dị, phân thân giao ảnh, tướng sáng tỏa chiếu hiển trước, hai người nghèo khổ ấy cùng vui lòng, kính tin hoan hỷ".

Từ ngôi Tốt-đổ-ba lớn ấy đi về phía tây nam cách hơn trăm bộ có tôn tượng đức Phật bằng đá trắng cao một trượng tám thước xoay mặt hướng bắc mà đứng, có nhiều linh tướng, từng tỏa phóng ánh sáng. Bấy giờ có người trông thấy tôn tượng ban đêm ra ngoài đi nhiễu quanh ngôi Tốt-đổ-ba lớn. Gần đây có bọn giặc muốn vào trộm cướp, tôn tượng bèn ra nghinh đón giặc, bọn giặc kinh sợ rút lui, tôn tượng trở về lại chỗ cũ đứng yên như cũ, bọn giặc nhân đó mà cải đổi lỗi quá làm mới cuộc đời, rảo bước trong thôn ấp, nói bày khắp gần xa. Hai bên ngôi Tốt-đổ-ba lớn có hàng trăm ngôi Tốtđổ-ba nhỏ xếp hàng như vảy cá. Tôn tượng Phật trang nghiêm, ân công thợ khéo cùng. Có lúc nghe thấy mùi hương khác lạ, âm thanh kỳ đặc, hoặc thấy tiên linh Thánh hiền đi nhiễu chung quanh. Với ngôi Tốt-đổ-ba, xưa kia đức Như Lai có dự ghi là trải qua bảy lần bị thiêu đốt, bảy lần tạo dựng lại thì Phật pháp mới diệt tận. Theo các bậc tiên hiền ghi chép lại là thành hoại đã qua ba lần. Mới đầu, khi Huyền Trang tôi đến nước đó vừa gặp phải hoạn nạn lửa lớn, nên đang thấy tạo dựng còn chưa hoàn thành.

Phía tây của ngôi Tốt-đổ-ba lớn có một ngôi già lam cũ do vua Ca Nị Sắc Ca tạo dựng. Trùng các nhiều lớp sàn, tầng đài phòng rỗng, cờ với cao tăng, kinh soi cảnh phước. Tuy đã hủy hoại mà còn đáng gọi là kỳ công. Tăng chúng tuy giảm ít và đều học theo giáo pháp Tiểu thừa, tự tạo dựng ngôi già lam, làm ra khác với nhân gian. Các bậc luận sư trước tác luận và những vị chứng đắc Thánh quả, gió trong còn quạt, chí đức chưa hết. Nơi trùng các thứ ba có phòng thất của tôn giả Ba Lật Thấp Phược (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hiếp) từ lâu đã bị sụp đổ hư hoại, mà còn lập nêu tiêu biểu. Mới đầu tôn giả làm vị thầy phạm chí, tuổi đến 80 mới xả tục xuất gia. Các hàng niên thiếu trong thành bèn gièm pha đó rằng: "Lão già ngu phu sao trí cạn thế, phàm người xuất gia có hai hạnh nghiệp:-1 là chuyên hành tập thiền định; 2-là tụng kinh, mà nay già yếu không thể tiến tới, lạm dấu vết nơi dòng thanh tịnh, không biết ăn no". Khi ấy tôn giả Hiếp nghe những lời gièm pha bàn nghị đó, nhân cảm tạ mọi người ở đương thời mà tự lập thệ nguyện rằng: "Nếu như tôi chẳng thông hiểu nghĩa lý của Tam Tạng Thánh giáo, chẳng dứt đoạn dục trong tam giới, chẳng chứng đắc sáu pháp thần thông và đầy đủ tám pháp giải thoát, thì trọn chẳng đặt lưng xuống chiếu". Từ đó về sau chỉ ban ngày chẳng đủ, kinh hành an tọa đi đứng tư duy, ngày thì nghiêm tầm tập học giáo lý, đêm mới tĩnh lắng ngưng thần, liên miên trải suốt ba năm, học thông Tam Tạng, dứt đoạn dục trong ba cõi, chứng đắc trí tam minh. Người thời bấy giờ rất kính ngưỡng, nhân đó xưng hiệu là Hiếp tôn giả vậy.

Phía đông của thất tôn giả Hiếp có phòng thất cũ, là nơi xưa trước Bồ-tát Thế Thân ở đó chế tác luận A-tỳ-đạt-ma câu xá. Mọi người tôn kính đó nên phong niêm và ghi lại vậy.

Từ thất của Bồ-tát Thế Thân về phía nam cách hơn 50 bộ (dặm?), tại trùng các thứ hai, xưa kia luận sư Mạt Nô Thích Tha (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Như Ý) ở tại đó chế tác luận Tỳbà-sa. Quận sư Như Ý xuất hiện sau khi đức Thế Tôn thị tịch trong ngàn năm. Thuở thiếu thời ham thích học, có tài hùng biện, tiếng tăm vang xa, các hàng pháp tục thảy đều quy tâm. Bây giờ vua nước Thất La Phạt Tất Để là Ngật La Ma A Điệt Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Siêu Nhật) oai phong thấm đượm xa. Quan thần đi đến các xứ Ấn Độ, vua Siêu Nhật đem năm ức tiền vàng chu cấp cho những người nghèo khổ cô độc, vị quan thần chủ kho tàng lo sợ nước nhà sử dụng thiếu thốn, mới tâu trình can ngăn rằng: "Đại vương oai phong trùm khắp các tục, đượm nhuần đến cả côn trùng, xin tăng thêm năm ức tiền vàng để cung cấp mọi người khốn khó khắp bốn phương, kho lẫm phủ tàng đã rỗng không, canh thuế có đất, lại kiểm không thôi, tiếng oán dần vang thì quân thượng có Ân chu cấp, mà thần hạ bị trách cang". Vua bảo rằng: "Nhóm tụ thì có thừa mà ban cấp chẳng đủ. Chẳng phải cẩu thủ vì tự thân xa xỉ chẳng dùng cho nước nhà". Bèn tăng thêm năm ức tiền vàng ban cấp cho những người nghèo thiếu. Sau đó, vua đi săn, đuổi theo một con heo mất dấu vết. Nếu ai tìm thấy được dấu vết hẳn sẽ ban thưởng một ức tiền vàng. Luận sư Như Ý sai một người cạo đầu, liền được ban thưởng một ức tiền vàng. Sứ thần nước đó y cứ theo vậy mà ghi chép. Vua xấu hỗ bị chơi cao, trong lòng tấm tức, muốn mọi người làm nhục Luận sư Như Ý, mới chiêu tập các hàng dị học đức nghiệp cao sâu có cả trăm người mà ban lệnh rằng: "Muốn thâu sự thấy nghe đến các cảnh thật, các hàng dị đạo lẫn lộn xen tạp quy tâm chẳng thi thố, nay xét xem sự hơn kém để chuyên tinh tuân phụng". Kịp đến lúc nhóm tập cùng nghị luận, vua lại ban lệnh rằng: "Các luận sư ngoại đạo đều là những bậc anh tuấn. Pháp chúng Sa-môn khéo nên giữ vững tông nghĩa. Nếu thắng thì sùng kính Phật pháp còn thất bại thì giết hết chúng tăng". Khi ấy luận sư Như Ý cật vấn các ngoại đạo, hết 99 người đã rút lui bay khỏi. Chỉ còn một người dưới chiếu trông nhìn đó mà khinh thường luận sư Như Ý, và nhân đó mà kịch liệt đàm luận nói đến lửa khói. Vua cùng vị ngoại đạo đầu rầm rĩ nói rằng: "Luận sư Như Ý trông nhả ngôn từ nghĩa lý có sự thất bại. Phàm trước nói về khói, sau đề cập đến lửa, đó là sự lý có thường vậy". Luận sư Như Ý tuy muốn giải thích cật nạn mà vua và ngoại đạo trọn chẳng nghe xét, bèn tự xấu hỗ bị chúng làm nhục, bèn cắn lưỡi mình, và viết lời răn bảo chúng cùng môn nhân là Bồ-tát Thế Thân rằng: "Bọn đảng viện không biết tranh đua đại nghĩa, trong bầy mê chẳng hiện rõ chánh luận". Nói viết xong, bèn thị tịch, sau đó không lâu, vua Siêu Nhật mất nước. Vị vua mới lên ngôi tiếp nhận ban biểu chiêu thử tài hiền. Khi ấy Bồ-tát Thế Thân muốn rửa tủi nhục xưa trước nên đến tâu cùng vua rằng: "Đại vương dùng đức Thánh mà ứng vận, vì quần sinh mà làm chủ mạng. Thầy tôi xưa trước là Luận sư Như Ý học cùng huyền áo. Tiên vương giữ luận bảo chúng làm nhục cao tăng. Tôi được tiếp thừa sự răn dạy dẫn dụ nên muốn trả lại oán trước". Vị vua ấy vốn biết luận sư Như Ý là bậc triết nhân, tán thán tiết tháo cao nhã của Bồ-tát Thế Thân, mới chiêu tập các hàng ngoại đạo ngày trước đã từng tranh luận với luận sư Như Ý. Bồ-tát Thế Thân bèn thuật lại ý chỉ xưa trước, các hàng ngoại đạo đều tạ khuất mà rút lui.

Từ ngôi già lam do vua Ca Nị Sắc Ca tạo lập theo hướng đông bắc đi hơn 50 dặm, vượt qua một dòng sông lớn đến thành Bố Sắc Yết La Phạt Để, chu vi thành ấy rộng khoảng 14-15 dặm, dân chúng sinh sống đông nhiều, cửa nẻo thôn xóm thông liền. Tại ngoài cửa phía tây thành có một ngôi đền thờ trời, tôn tượng trời rất oai nghiêm, có lắm linh dị tương tục.

Từ thành về phía đông có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo lập, tức là nơi giảng pháp của bốn đức Phật thời quá khứ. Xưa trước các bậc Thánh hiền từ Trung Ấn Độ giáng thần tiếp hóa mọi vật ở xứ ấy thật lắm nhiều, như Luận sư Phạt Tô Mạt Đát La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thế Hữu, xưa trước gọi là Hòa Tu Mật Đa tứ sai nhầm vậy) ở tại đó chế tác luận Chúng sự phân A-tỳ-đạt-ma.

Từ thành về hướng bắc cách khoảng 4-5 dặm có một ngôi già lam cũ, sân nhà hoang lạnh. Chư tăng chiếm ít, nhưng đều tôn kính tập học theo giáo nghĩa Tiểu thừa. Và cũng là nói luận sư Đạt Ma Đát La Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Pháp Cứu, xưa trước gọi là Đạt Ma Đa-la tức sai nhầm vậy) ở tại đó chế tác luận Tạp A-tỳ-đạt-ma.

Bên cạnh ngôi già lam có ngôi Tốt-đổ-ba cao vài trăm thước do vua Vô Ưu tạo lập, chạm khắc trên cây gỗ đường văn nói đá rất khác lạ với công năng của con người. Là nơi xưa kia đức Phật Thích-ca làm vị quốc vương tu hạnh Bồ-tát, tùy theo tâm mong muốn của chúng sinh mà ban ân bố thí không mệt mỏi, táng thân không bỏ sót. Ở tại cõi nước đó đã ngàn đời làm vua, va ngay tại xứ ấy ngàn đời xả thí mắt.

Từ nơi xả thí mắt về hướng đông cách không xa, có hai ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá, mỗi ngôi cao hơn trăm thước. Ngôi bên hữu do Phạm vương bên tả có tượng Đế Thích tạo lập, dùng bằng các vật báu vi diệu ngời ánh để trang sức đó. Sau khi đức Như Lai diệt độ các vật báu ấy đều biến thành đá, nền móng tuy sụp đổ mà vẫn còn cao lớn.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba do Phạm Thích tạo lập theo hướng tây bắc đi hơn 50 dặm, có một ngôi Tốt-đổba, là nơi xưa kia đức Thích-ca Như Lai đến đó giáo hóa Quỷ Tử Mẫu, khuyên bảo chớ nên làm hại người. Nước đó có tập tục đến đó cúng tế để cầu con nối dõi.

Từ nơi đức Như Lai giáo hóa Quỷ Tử Mẫu theo hướng bắc đi hơn 50 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia Bồ-tát Thương Mạc Ca (xưa trước gọi là Bồ-tát Ánh Ma tức là sai nhầm vậy) cung kính hành hạnh cúc dục nuôi dưỡng chăm sóc song thân bị mù, đến đó nhặt hái rau quả, gặp vua đi săn nên bị trúng nhằm tên độc, do sự chí thành cảm linh được thiên đế ban trao thuốc, nhờ đức cảm động đến minh Thánh nên sau đó liền được sống lại.

Từ nơi Bồ-tát Thương Mạc Ca bị trúng độc hại theo hướng đông nam đi hơn 200 dặm đến thành Bạt Lỗ Sa, phía bắc thành ấy có ngôi Tốt-đổ-ba. Là nơi xưa kia Thái tử Tô Đạt Noa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiện Nha) đem voi lớn của vua cha ban thí cho vị Bà-la-môn nên bị trách phạt xua đuổi để đoái hoài tạ tội với nước nhà và dân chúng, khi đã ra ngoài cửa thành quách đến đó là cáo biệt. Bên cạnh đó có hơn 50 ngôi già lam, chư tăng đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Xưa kia luận sư Y Thấp Phạt La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tự Tại) ở tại đó chế tác luận A-tỳ-đạt-ma minh đăng.

Ngoài cửa phía đông thành Bạt Lỗ Sa có một ngôi già lam, chư tăng có hơn 50 vị đều tập học theo giáo pháp Đại thừa. Có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo lập, là nơi xưa kia thái tử Tô Đạt

Noa bị xua đuổi đến núi Đàm đa lạc ca (xưa trước gọi là Đàm Sơn tức sai nhầm vậy), vị Bà-la-môn xin hai người con trai gái của thái tử đến ở đó để bán cháo.

Từ thành Bạt Lỗ Sa theo hướng đông bắc đi hơn 20 dặm đến núi Đàm đa lạc ca, trên đảnh núi có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo lập, là nơi xưa kia thái tử Tô Đạt Noa đến đó ẩn náu. Bên cạnh đó không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi thái tử đem hai người con trai gái cấp thí cho vị Bà-la-môn. Vị Bà-la-môn ấy đánh hai người con đó đổ máu nhuốm nơi đất, đến nay các cây cỏ ở đó vẫn còn mang sắc màu ráng đỏ. Nơi thạch thất trên đảnh núi là nơi thái tử cùng vương phi tu tập thiền định. Cây rừng trong hang rủ cành như màn che đều là những nơi xưa kia thái tử đến dừng nghỉ. Bên cạnh đó không xa lại có mọt lò đá là chỗ ở của tiên nhân thời xưa kia vậy.

Từ lò đó của tiên nhân theo hướng tây bắc đi hơn trăm dặm, vượt qua một núi nhỏ, đi đến núi lớn. Phía nam núi ấy có một ngôi già lam, chư tăng rất hiếm ít, đều tập học theo giáo pháp Đại thừa. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo lập, là nơi xưa kia tiên nhân Độc Giác nương ở. Tiên nhân vì dâm nữ dẫn dụ loạn lạc thối mất thần thông, dâm nữ mới cưỡi trên vai tiên nhân ấy mà trở về thành ấp.

Từ thành Bạt Lỗ Sa theo hướng đông bắc đi hơn 50 dặm đến một núi cao. Tại núi đó có tôn tượng vợ của Đại Tự Tại Thiên tức là Thiên nữ Tỳ Ma bằng đá xanh. Nghe các hàng sĩ tục nói rằng: tượng trời ấy tự nhiên mà có linh dị đã lắm nhiều, mà người cầu đảo cũng đông. Mọi người ở các nước xứ Ấn Độ đến cầu phước thỉnh nguyện, các hàng sang hèn đông tấp nập mọi người xa gần đều tụ hội. Trong đó như có người nguyện mong thấy hình thiên thần, mà chí thành không nghi ngờ, bỏ ăn suốt bảy ngày, hoặc có người được thấy, cầu nguyện phần nhiều được thành đạt. Phía dưới núi có đền thờ Đại Tự Tại Thiên, do các hàng ngoại đạo bôi tro thân mình chăm lo kính tu cúng tế.

Từ đền thờ trời Tỳ Ma theo hướng đông nam đi 150 dặm, đến thành Ô đạt ca hán trà, chu vi thành ấy rộng hơn 20 dặm, phía nam gần sông Tín Độ. Dân chúng ở đó giàu sang an lạc, vật báu chất chứa đầy. Những thứ quý lạ ở các phương khác phần nhiều gom tập đến đó.

Từ thành Ô đạt ca hán trà theo hướng tây bắc đi hơn 20 dặm đến ấp Bà la đổ la, là nơi sinh sống của Ba Nhĩ Ni Tiên chế tác luận Thanh Minh. Nói đầu xa xưa, văn tự rộng nhiều, trải qua thời gian kiếp hoại, thế giới rỗng không, các tiên trường thọ giáng linh dẫn dắt người đời. Do từ đó văn tự sổ sách nãy sinh lại. Từ thời gian ấy về sau, nguồn gốc văn tự bị phiếm loạn. Các phạm vương thiên đế tạo ra phép tắc tùy theo thời. Các tiên dị đạo mỗi tự chế tác văn tự. Mọi người cùng nhau tố thuật đua nhau tập học những gì được lưu truyền. Các học giả luống hư công khó khó dùng nghiên cứu rõ ràng. Đến lúc tuổi thọ con người được trăm năm, khi ấy có Bà nhĩ ni tiên vừa sinh mà rộng biết mọi vật, xót thương thời thế khinh bạc, nên muốn chuốt gọt sự phù ngụy, san định sự lắm nhiều tạp nhạp, mới du phương phỏng hỏi đạo, gặp được tự tại thiên, bèn tỏ bày ý chí muốn tác thuật. Tự Tại Thiên bảo rằng: "Lớn vậy thay! Tôi sẽ giúp đỡ ngươi". Tiên nhân thọ giáo rồi lui về. Từ đó nghiêm tinh trầm tư nhặt nhạnh các ngôn từ làm thành chữ viết, đầy đủ có ngàn bài tụng, mỗi mỗi bài tụng có 32 ngôn từ, nghiên cứu tận cùng xưa nay, bao quát tất cả ngôn phong lại mà tấu trình lên vua. Vua rất lấy làm quý lạ, ban lệnh trong nước nhà rộng khiến trao truyền tập học. Có người tập tụng thông lợi được thưởng ngàn tiền vàng, do đó thầy trò trao truyền cho nhau thạnh lưu hành nơi đời. Nên các Bà-la-môn ở trong ấp đó đều là những bậc thạc học cao tài, rộng biết mọi vật hùng mạnh nhận biết.

Trong ấp Bà la đổ la có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi vị A-la-hán giáo hóa hậu tấn tiến nhân Ba nhĩ ni. Sau khi đức Như Lai diệt độ khoảng 500 năm, có vị Đại A-la-hán từ nước Ca Thấp Di La trên đường du đến đó, thấy vị phạm chí dạy răn một trẻ nhỏ. Khi ấy vị A-la-hán hỏi ông Phạm Chí rằng: "Cớ sao làm khổ đứa trẻ này vậy?". Ông Phạm Chí ấy nói: "Bảo nó học luận Thanh Minh mà sự học chẳng lúc nào tiến". Vị A-la-hán đột nhiên phát cười. Ông Phạm chí ấy nói: "Phàm là Sa-môn lấy tâm từ bi làm tình xót thương muôn vật mọi loài. Nay nhân giả cười, tôi chẳng hiểu bởi ý gì, xin muốn được nghe nói đó". Vị A-la-hán nói: "Đàm nói chẳng dung dể, sợ đặt để nghi sâu. Ông có từng nghe tiên nhân Ba Nhĩ Ni chế tác luận Thanh Minh để răn dạy nơi đời chăng?".

Ông Phạm Chí ấy nói: "Ông ấy ở ấp này, hàng hậu tiến kính ngưỡng đức đó thiết lập tôn tượng nay vẫn hiện còn". Vị A-la-hán bảo rằng: "Đứa con của ông đây tức là tiên nhân ấy vậy. Do vì sức nhận biết mạnh nên ham thích tập học pháp điển thế gian, chỉ bàn nói về dị luận, chẳng nghiên cứu lý chân, thần trí tổn mất nên lưu chuyển chưa ngưng dứt. Còn nương nhờ các điều thiện khác nên được làm con ông mến thương. Nhưng mà văn từ pháp điển thế gian chỉ lao nhọc tích chứa công phu, đâu như Thánh giáo của đức Như Lai phước trí thầm thấm đượm. Xưa kia tại bờ biển Nam Hải có một cây khô, có 500 con dơi nương ở trong hang động. Bấy giờ có các người khách thương buôn đến dừng nghỉ dưới cây ấy, gặp lúc gió rét mọi người đều lạnh cóng đói khát bèn chất củi un lửa phía dưới; khói lửa dần cháy dợm bốc, cây khô ấy bèn bị cháy theo. Khi ấy trong đoàn thương buôn có một người đã quá nữa đêm đọc tụng A-tỳ-đạt-ma tạng, đàn dơi tuy bị lửa đốt khốn khổ nhưng vì ham thích Pháp Âm nên chịu nhẫn chẳng bỏ đi, do đó mạng chung, và tùy theo nghiệp thọ sinh, đều được làm thân người, bỏ tục xuất gia tu học. Nương nhờ sức nghe pháp âm nên có được thông minh lợi trí. Do đó đều chứng đắc Thánh quả, vì đời mà làm ruộng phước. Gần đây, vua Ca Nị Sắc Ca cùng Hiếp tôn giả chiêu tập 500 vị hiền Thánh đến tại nước Ca thấp di la chế tác luận Tỳ-bà-sa, đó chính là 500 con dơi xưa trước ở trong bọng cây khô ấy vậy. Tôi (tức vị A-la-hán) tuy ngu hèn chẳng được một phần trong số đó; nhưng mà mọi sự hơn kém hay khác, hay nằm tách biệt. Nay, nhân giả thương con, thì nên cho nó xuất gia. Công đức xuất gia ngôn ngữ chẳng thể thuật hết". Nói lời ấy xong, vị A-la-hán ấy biến hiện những sự thần thông, nhân đó bỗng nhiên biến mất. Ông Phạm chí đó sinh tâm rất kính lạ, ngợi khen tốt lành giây lâu. Sau đó nói bày sự tình với mọi người các làng lân cận và bèn cho người con đó xuất gia tu học. Và nhân đó cũng xoay chuyển đức tin tôn sùng Tam bảo. Mọi người trong làng theo phong hóa ấy, đến nay càng phát mạnh.

Từ thành Ô Đạt La Hán Trà theo hướng bắc vượt qua núi băng qua sông đi hơn 600 dặm đến nước Ô trượng na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Uyển; là vườn hoa xưa kia của Luân vương vậy. Xưa trước gọi là Ô tràng hay là Ô trà, đều là sai nhầm. Nước ấy thuộc Bắc Ấn Độ).

QUYỂN 3

(Nói về 8 nước)

1 -Nước Ô Trượng Na.

2 -Nước Bát Lộ La

3 -Nước Đát Xoa Thỉ La

4 -Nước Tăng Ha Bổ La

5 -Nước Ô Thí Thị

6-Nước Ca Thấp Di La

7-Nước Bán Nô Ta.

8-Nước Át La Xà Bổ La.

1. NƯỚC Ô TRƯỢNG NA

Nước Ô Trượng Na chu vi rộng hơn 5000 dặm, núi hang cùng thông thuộc, sông đầm liền nhau kéo dài. Lúa má tuy gieo trồng nhiều mà đất sinh lợi chẳng đượm đủ. Lắm nhiều cây bồ đào, hiếm ít cây cam giá. Đất đai sản sinh ra vàng, sắt, thích nghi giống cây uất kim hương. Cây rừng sầm uất, hoa quả tươi tốt, lạnh nóng hòa sướng, gió mưa điều thuận. Con người tánh chí mềm yếu, tục tình dối trá, ham thích học mà hiếm ít thành công, chuyên dùng cấm chú làm nghề nghiệp. Phần nhiều vận mặc lông tơ sắc trắng, ít mặc các sắc phục khác. Nói năng tuy khác, nhưng phần lớn đồng với Ấn Độ, văn tự lễ nghi hơi tương quan tham dự. Con người rất sùng trọng Phật pháp kính tin đại thừa. Cặp theo sông Tô bà phạt tốt đổ xưa trước có 1400 ngôi già lam, nay phần nhiều đều đã hoang tàn, xưa kia Tăng chúng có đến 1800 vị, đến nay dần giảm ít, mà đều tập học theo giáo pháp đại thừa, chuyên nghiệp hành trì tịch định, khéo giỏi đọc tụng bản văn ấy mà chưa nghiên cứu nghĩa lý sâu mầu, giới hạnh thanh khiết, đặc biệt thông rành về cấm chú. Luật nghi truyền dạy gồm có năm bộ: 1 là pháp mật bộ; 2 là Hóa địa bộ; 3 là Ẩm quang bộ; 4 là Thuyết nhất thiết hữu bộ và 5 là Đại chúng bộ. Có hơn 10 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Thành quách kiên cố có 0 4-5 cái, vua nước đó phần nhiều thống trị ở thành Măng yết ly, chu vi thành ấy rộng khoảng 16-17 dặm, dân chúng sinh sống đông nhiều.

Từ thành Măng yết ly về hướng đông cách khoảng 4-5 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba rất lắm điềm linh. Là nơi xưa kia đức Phật làm tiên nhẫn nhục bị vua Yết Lợi (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đấu Tránh, xưa trước gọi là Kha Lợi tức là sai nhầm vậy) cắt xẻo chi phần thân thể.

Từ thành Măng yết ly về hướng bắc cách khoảng 250-260 dặm vào trong núi lớn, đến nơi suối rồng A Ba La La, tức đầu nguồn của sông Tô Bà Phạt Tốt Đổ, mạch dòng theo về hướng tây nam, mùa xuân mùa hạ đều đóng băng, sớm tối đều có tuyết bay, tuyết bay lất phất có năm sắc, ánh sáng tỏa chiếu bốn phía. Rồng đó, vào thời đức Phật Ca Diếp Ba vốn sinh trong loài người tên là Khắc Kỳ rất thông giỏi về chú thuật, cấm ngăn chế ngự được rồng độc không cho tung hoành mưa bão, nhân dân nước ấy nhờ đó mà tích chứa lương thực được dư thừa, vua tôi dân chúng cảm ân mến đức nên mỗi nhà đóng một hộc thóc để dâng tặng đó đã nhiều năm. Bấy giờ có người trốn thuế khóa, Khắc Kỳ ôm giữ tức giận phát nguyện làm rồng độc bạo hành gió mưa làm tổn hại lúa má. Sau khi mạng chung sinh làm rồng ở ao đó, dòng suối biến thành nước bạc làm tổn hại vật lợi từ đất. Đến khi đức Thích-ca Như Lai với tâm đại bi xuất hiện nơi đời, xót thương dân chúng nước đó riêng gặp phải nạn ấy nên giáng thần đến đó muốn giáo hóa rồng độc, nên cầm nắm chày thần Kim cang đánh gõ vào sườn núi. Vua rồng kinh sợ mới ra quy y, nghe đức Phật giảng kinh nói pháp, tâm thanh tịnh kính tin tỏ ngộ. Đức Như Lai bèn cấm chế chớ làm tổn hại lúa má của nông phu. Rồng thưa rằng: "Phàm sự ăn uống đều nhờ thâu ở ruộng lúa con người, nay nhờ nghe Thánh giáo, sợ khó cấp giúp cứu tế, nên xin cứ 12 năm thâu lấy lương thực một lần". Đức Như Lai ngậm che thương xót mà hứa thuận đó, nên mãi đến nay cứ 12 năm có một lần gặp phải tai họa nước bạc.

Từ suối rồng A ba la la theo hướng tây nam cách hơn 30 dặm, trên bờ phía bắc dòng suối nước bạc có một tảng đá lớn trên mặt có dấu chân của đức Như Lai, tùy theo phước lực của mỗi người mà lường đo có ngắn dài. Đó là nơi sau khi đức Như Lai đã nhiếp phục Rồng độc ấy rồi, lưu lại dấu vết mà đi. Về sau có người lên đó sắp chất đá làm thất, mang hoa hương đến cúng dường, mọi người theo dòng suối đi xuống hơn 30 dặm đến nơi tảng đá xưa kia đức Như Lai tẩy giặt pháp y, đường văn của pháp y ca sa hiện rõ ràng như khắc chạm vậy. Từ thành Măng yết ly theo hướng nam đi hơn 400 dặm đến núi Hê La, hang nước bắt nguồn từ phía tây chảy ngược dòng đến phía đông. Có lắm tạp hoa, trái lạ phủ cùng khe hang men theo sườn núi, đảnh núi hiểm nguy, khe hang cuộn quanh, hoặc nghe có tiếng rầm rĩ, hoặc nghe tiếng âm nhạc vang vọng, có tảng đá vuông như chiếc giường, có vườn như do công sức người tạo thành, nối liền tương tục tiếp trải theo bờ sườn hang núi. Đó là nơi xưa kia đức Như Lai vì nghe pháp của nữa bài tụng (xưa trước gọi là Già Phạm tức là lược văn, hoặc nói là Kệ Tha là phạm âm; tức sai nhầm. Nay theo chánh âm nên gọi là Già Tha. Già Tha tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là tụng, một bài tụng gồm có 32 ngôn từ), mà xả bỏ thân mạng tại đó vậy.

Từ thành Măng yết ly theo hướng nam đi hơn 200 dặm đến bên cạnh núi lớn, có ngôi già lam tên là Ma-ha phạt na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Lâm), là nơi xưa kia đức Như Lai tu hạnh Bồ-tát, làm vua hiệu là Tát phược đạt (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nhất thiết trí) trốn lánh địch thù bỏ nước đến ngầm ẩn tại đó, gặp phải một vị Bà-la-môn nghèo khổ đến cầu xin, vì đã mất ngôi vị và cả nước nhà nên không còn gì để bố thí, bèn bảo vị Bà-la-môn ấy trói buộc lấy mình dẫn đưa đến cho vua giặc địch, mong được tưởng thưởng của cải trở làm làm huệ thí.

Từ già lam Ma-ha phạt na theo hướng tây bắc xuống núi đi khoảng 30-40 dặm, đến già lam Ma Thâu (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đậu). Tại đó có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước, bên cạnh đó trên tảng đá vuông lớn có dấu vết bàn chân của đức Như Lai, là nơi xưa kia đức Như Lai dẫm bước chân đến tảng đá đó tỏa phóng ánh sáng câu chi soi chiếu đến già lam Ma-ha phạt na vì các hàng người trời mà giảng nói về việc Bản sinh. Dưới nền ngôi Tốt-đổ-ba đó có một tảng đá, sắc đai vàng trắng, thường có thấm nhuộm, là nơi xưa kia đức Như Lai lúc tu hạnh Bồ-tát, vì nghe chánh pháp nên ở đó chẻ cốt xương ghi tả kinh điển.

Từ già lam Ma Thâu về hướng tây đi khoảng

60-70 dặm đến một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai tu hạnh Bồtát đang làm vua hiệu là Tỳ Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường và xưa trước gọi là Thi Tỳ Ca tức là sai nhầm vậy) vì cầu Phật quả nên ở đó cắt thịt cân cấp cho chim ưng để thay chim cáp.

Từ nơi Tháp chim cáp (Bồ câu) về hướng tây bắc đi hơn 200 dặm, vào sông Sang ni la xà, đến Tăng-già lam Bầu sát địa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Xà Dược) có một ngôi Tốt-đổba cao hơn 80 thước. Là nơi xưa kia đức Như Lai lúc làm trời Đế Thích gặp phải năm đói kém dịch bệnh hoành hành, các thứ phương thuốc đều không công hiệu, nơi đường đi người chết tương tục, trời Đế Thích buồn thương nghĩ tìm phương cách để cứu giúp, mới biến thân hình làm một con trăn lớn vất thây chết nơi hang men sông, và từ giữa không trung có tiếng rao bảo khắp cùng. Mọi người nghe đều vui mừng cùng kéo nhau chạy đến, tùy theo cắt lóc, thịt lại nổi sinh, trị liệu được nạn đói kém và dịch bệnh. Bên cạnh đó không xa có ngôi Tốt-đổba lớn tên là Tô Ma. Là nơi xưa kia đức Như Lai lúc làm trời Đế Thích, trong đời đang mắc nạn dịch bệnh, trời Đế Thích xót thương quần sinh nên tự biến thân mình làm rắn Tô Ma, phàm mọi người ăn thịt rắn đó, không ai chẳng lành mạnh.

Từ sông Sang ni la xà về hướng bắc bên cạnh sườn đá có một ngôi Tốt-đổ-ba. Những người bệnh đến đó cầu nguyện phần nhiều đều được lành mạnh. Xưa kia đức Như Lai làm vua chim Khổng Tước cùng cả đàn đến đó, bởi nóng khát bức bách tìm kiếm nước không được, chim khổng tước vua mới dùng mỏ mổ vào sườn núi, bỗng có dòng suối tuôn chảy đến này bèn thành ao, mọi người dùng uống và tắm đều lành bệnh. Trên tảng đá còn có dấu chân chim khổng tước.

Từ thành Măng yết ly theo hướng tây nam đi khoảng 60-70 dặm đến phía đông dòng sông lớn có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 60 thước do vua Thương Quân tạo lập. Xưa kia, lúc đức Như Lai sắp tịch diệt, bảo cùng các đại chúng rằng: "Sau khi ta nhập Niết bàn, đối với vua Thương Quân ở nước Ô Trượng Na, nên phân chia cho một phần xá lợi". Và đến lúc các vua sắp muốn phân lường đều, vua Thượng Quân đến sau bèn sẽ có sự bàn nghị khinh bỉ, khi ấy đại chúng trời người tuyên bày lại lời đoái hoài ủy thác của đức Như Lai, vua Thượng Quân mới được dự đồng phần, nghinh thỉnh xá lợi Phật trở về nước kính lễ sùng phụng tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba. Bên cạnh bến bờ sông lớn có một tảng đá lớn tướng trạng như con voi, xưa kia vua Thượng Quân dùng voi trắng lớn để chở thỉnh xá lợi đức Phật, về đến nơi đó, bỗng nhiên voi ngã té, nhân đó mà tự chết bèn biến thân hình thành đá. Và vua liền ngay bên cạnh đó tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba.

Từ thành Măng yết ly theo hướng tây cách hơn 50 dặm, vượt qua sông lớn, đến ngôi Tốt-đổ-ba tên là Lô Hê Đát Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Xích) cao hơn 50 dặm, do vua Vô Ưu tạo lập. Là nơi xưa kia đức Như Lai tu hạnh Bồ-tát làm vị Đại Quốc vương hiệu là Từ Lực, ở đó chích lấy máu thân mình để bố thí cho năm Dược Xoa (xưa trước gọi là Dạ Xoa tức sai nhầm vậy).

Từ thành Măng yết ly theo hướng đông bắc cách hơn 30 dặm đến nơi ngôi Tốt-đổ-ba tên là Át bộ đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Kỳ Đặc) bằng đá cao hơn 40 thước, là nơi xưa kia đức Như Lai vì các hàng người trời giảng nói pháp mở dẫn tu đạo, sau khi đức Như Lai thị tịch, ngôi Tốtđổ-ba đó từ đất nổi lên. Mọi người sùng kính dâng cúng hương hoa không ngưng dứt.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá đó theo hướng tây vượt qua dòng sông lớn cách khoảng 30-40 dặm đến một ngôi tinh xá. Trong đó có tôn tượng Bồtát A Phược Lô Chỉ Để Thấp Phạt La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Quán Tự Tại tức hợp chữ liền tiếng. Theo Phạm ngữ như trên mà phân văn chia âm thì "A Phược Lô chỉ để" dịch nghĩa là "Quán" và "Y thấp phạt la" dịch nghĩa là "Tự tại". Theo các nhà phiên dịch xưa trước gọi là Quang Thế Âm, hay là Quán Thế Âm, hoặc là Quán Thế Tự Tại, đều là sai nhầm vậy), oai linh ngầm khắp, vết thần tỏ sáng, các hàng pháp tục cùng nhau tìm đến cúng dường không ngưng ngớt.

Từ tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại Tha theo hướng tây bắc cách khoảng 140-150 dặm, đến núi La Bột Lô. Trên đảnh núi có ao Rồng, chu vi rộng hơn 30 dặm, sóng biếc tuôn trào, dòng trong ngời ánh kiếng soi. Xưa kia vua Tỳ Lô Thích-ca trước đánh chiếm các người giòng họ Thích. Có bốn người chống kháng quân lính, Tông Thân bèn tẩn đuổi, mỗi tự phân bay. Có một người trong giòng họ Thích ấy đã ra khỏi đô thành của nước nhà, lặn lội nhọc mệt bèn dừng nghỉ giữa đường. Khi ấy có một con nhạn bay vượt qua trước, thế rồi dần thuần quen, nhân đó bèn cưỡi nương. Con nhạn đó bay lượn xuống bên cạnh ao đó. Người giòng họ Thích đó đi bằng đường không trung xa đến nước khác, mê mờ không biết đường sá, bèn gá ngủ dưới tàng cây. Khi ấy, thiếu nữ con của rồng ao đó rảo bước xét xem bờ nước, bỗng thấy người giòng họ Thích, sợ chẳng được đương đầu, bèn biến làm thân hình người mà xoa vỗ. Người giòng họ Thích ấy tỉnh giấc kinh sợ, nhân đó liền cảm tạ rằng: "Kẻ ở nhờ này thân người gầy yếu, sao được thân gần vỗ về?". Bèn thành thực ân cần lấn bức hợp quê. Người nữ ấy nói: "Cha mẹ có dạy răn, an tâm vâng phụng không trái nghịch. Tuy được ân huệ đoái hoài, nhưng chưa thể vâng thừa cao mạng". Người giòng họ Thích hỏi rằng: "Đây chốn núi hang mịt mờ, vậy nhà của ngươi ở đâu?". Người nữ ấy đáp: "Tôi là con gái của Rồng ở ao này, kính nghe giòng họ Thánh giả lánh nạn lưu ly, may nhân rảo bước trông xem, dám ủy an tệ nhọc, mạng có sum họp riêng, chưa nghe được ý chỉ tại đây, huống hồ bởi chất chứa học phải nhận thọ thân rồng này, người vật khác đường, chẳng phải chỗ nghe vậy". Người giòng họ Thích bảo rằng: "Một lời thấy đáng giữ tâm đến rốt cùng vậy". Con gái rồng ấy nói rằng: "Kính vâng nghe mạng lệnh vậy. Chỉ chở đi đến... ". Người giòng họ Thích mới phát thệ tâm nguyện rằng: "Phàm tôi có được bao nhiêu sức lực phước đức, khiến con gái rồng này khắp thân thể đều biến thành người". Do phước lực cảm nên, con gái rồng bèn biến đổi thân hình. Khi đã được thân người bèn rất tự mừng vui, mới cảm tạ giòng họ Thích rằng: "Tôi tích chứa vận tai vạ, lưu chuyển trong đường ác, nay được rủ lòng đoái hoài nhờ phước lực gia hộ nên thân xấu tệ trong nhiều kiếp, một mai được cải đổi. Muốn báo ân đức này dầu nát nhừ thân mình cũng chưa thể tạ hết. Tâm nguyện muốn gấp sang còn bó buộc vật bàn nghị. Nguyện thưa cùng mẹ cha, sau đó hẳn đầy đủ lễ". Con gái rồng trở về lại ao thưa trình cùng cha mẹ rằng: "Ngày nay rảo bước trông xem bỗng gặp một người giòng họ Thích, do phước lực cảm nên biến đổi thân hình con làm thành người. Tình còn hảo hợp, dám xin tỏ bày sự thật". Vua rồng trong tâm mừng kính loài người, tình lại quý trọng chủng tộc Thánh hiền, nên bèn theo sự thỉnh cầu của con gái, mới ra khỏi ao cảm tạ người giòng họ Thích rằng: "Chẳng để sót chẳng phải đồng loại, giáng hạ tôn quý xuống tới thấp hèn, kính mời đến phòng nhà chúng tôi, dám cung phụng quét tước". Người giòng họ Thích trông thấy thân hình của rồng, trong tâm luôn sợ gớm, mới muốn từ tạ lui ra, vua Rồng ngăn cản nói rằng: "Mong chớ ngại xa nhà, gần đây có vườn nhà ở được, tôi sẽ khiển trấn vạch biên cương đất đai tôn xưng hiệu lớn, và gồm có bề tôi dân thứ chở giúp kéo dài ở đời". Người giòng họ Thích cảm tạ với vua Rồng rằng: "Lời ấy tôi chẳng mong cầu!". Vua Rồng bèn đem kiếm báu đặt để trong hộp, và dùng bông tơ sắc trắng xinh đẹp vi diệu che phủ lên trên, nói cùng người giòng họ Thích rằng: "Mong mang bông tơ này đến dâng cúng quốc vương, quốc vương hẳn lại gần nhận lấy vật triều cống của người từ xứ xa. Ngay khi đó có thể ra tay hại vua ấy, và nhân đó chiếm cứ ngay nước nhà, đó chẳng tốt lành ư?". Người giòng họ Thích vâng nhận sự chỉ bày của vua Rồng, bèn đi sang dâng hiến lên vua nước Ô trượng na, vua ấy đích thân nâng bưng bông tơ đó. Người giòng họ Thích nắm lấy tay áo vua mà giết chết, các thị thần vệ binh huyên loạn nơi thềm cấp, người giòng họ Thích vung kiếm mà bảo rằng: "Trượng kiếm của ta đây là do Rồng thần hiến dâng, để giết kẻ phục sau, để chém kẻ bất thần". Khi ấy mọi người đều lo sợ, Thần Võ suy tôn người giòng họ Thích lên ngôi vị lớn. Từ đó men theo xử đoán mà lập chính sách, biểu dương người hiền tài, giúp đỡ kẻ khốn khó, thế rồi cất động chúng đông, chuẩn bị pháp giá liền đến nơi cung rồng mà báo đáp ân mạng, nghinh đón con gái rồng về nơi thành đô. Con gái rồng bởi nghiệp xưa trước chưa hết, quả báo dư thừa vẫn hiện còn, nên mỗi lúc xum họp riêng, trên đầu nổi lênh chín đầu rồng. Người giòng họ Thích gớm sợ, chẳng biết đó là mưu đồ kế tính gì, bèn xét dò lúc con gái rồng ngủ yên, dùng dao bén cắt bỏ đó, con gái rồng kinh hãi tỉnh giấc nói rằng: "Đó chẳng phải lợi của con cái nối dõi, chẳng những mạng ta có ít tổn thương mà con cháu của ông sẽ phải khổ đau đầu". Nên chủng tộc nước đó thường có bệnh hoạn ấy, tuy chẳng liên miên chỉ một lúc phát động. Sau khi người giòng họ Thích đã qua đời, người con tiếp nối kế vị, đó là vua Ốt Đát La Tê Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thượng Quân).

Sau khi vua Thượng Quân lên kế vị, người mẹ bị mù mắt, khi ấy đức Như Lai vừa nhiếp phục rồng A ba la la trở về, từ giữa không trung đến trong cung đó. Vua Thượng Quân vừa mới đi săn. Đức Như Lai nhân vì người mẹ đó lược giảng nói pháp yếu. Người mẹ đó gặp được Thánh giả, được nghe giáo pháp bèn được mắt sáng trở lại. Đức Như Lai bảo rằng: "Con của ngươi là người cùng giòng họ với Ta, nay đang ở đâu?". Người mẹ ấy đáp: "Lúc sáng sớm nó vừa đi săn, nay sắp trở về". Đức Như Lai cùng đại chúng muốn cất bước ra đi. Người mẹ nói rằng: "Tôi nhờ phước đức gặp sinh và nuôi dưỡng con của giòng họ Thích. Đức Như Lai lại xót thương mà đến đây, con tôi sắp trở về, mong dừng ở giây lát chờ đợi". Đức Thế Tôn bảo rằng: "Người ấy là trong giòng tộc của Ta, có thể nghe chỉ giáo mà tin ngộ, chẳng cần phải gần gũi để răn dạy khiến phát tâm. Ta nay đi đây vậy. Sau khi con người trở về nên bảo cùng nó rằng: "Đức Như Lai từ đây sang thành Câu Thi, ở giữa khoảng cây sa la mà nhập niết bàn, nên sang đó nhận phần mà tự cúng dường". Nói xong, đức Như Lai cùng đại chúng bỗng vượt giữa hư không mà đi. Vua Thượng Quân vừa mới đi săn, từ xa trông về thấy trong cung có ánh sáng rực rỡ, nghi là gặp phải nạn lửa, bèn bỏ cuộc đi săn mà trở về, mới thấy mẹ mình mắt sáng lại, vua rất vui mừng mà hỏi rằng: "Sau khi con đi bao lâu thì có được điềm cảm tốt lành như vậy? Mà khiến mẹ hiền được sáng mắt lại như xưa". Người mẹ ấy bảo rằng: "Sau khi con đi khỏi, đức Như Lai đến đây, mẹ nghe Phật giảng nói pháp mà được sáng mắt lại như vầy. Đức Như Lai từ đây sang đến thành Câu Thi khoảng giữa cây sa la sẽ nhập niết bàn, gọi bảo con nhanh đến đó để phân chia lấy phần xá lợi". Khi ấy, nghe nói như thế, vua Thượng Quân buồn khóc ngã quỵ, giây lâu mới tỉnh lại, bảo chuẩn bị xa giá vội đến giữa khoảng hai cây sa la, thì đức Phật đã nhập Niết bàn. Khi ấy các vị quốc vương xem thường vua Thượng Quân, cho đó là biên bỉ, mà quý trọng xá lợi chẳng muốn phân chia cho. Lúc đó trời người đại chúng nói bày lại ý Phật, các vua nghe rồi, bèn trước cho trao cho vua Thượng Quân.

Từ thành Măng yết ly theo hướng đông bắc, vượt qua núi qua hang đi ngược dòng lên sông tín độ, đường đi nguy hiểm, núi hang mịt mờ, hoặc phủ dây nhợ, hoặc kéo vòng sắt, cầu treo lửng lờ giữa hư không, cầu bay tạo dựng nguy hiểm, rui cọc, men bước ngơ ngác, đi hơn ngàn dặm đến sông Đạt lệ la, tức là đô thành xưa cũ của nước Ô trượng na, xứ đó sản sinh có lắm vàng ròng và uất kim hương. Bên trong sông Đạt lệ la có ngôi già lam lớn, bên cạnh có khắc chạm gỗ tôn tượng Bồtát Từ Thị, sắc màu vàng ròng chiếu sáng rực rỡ, linh giám ngầm thông cao hơn trăm thước, do A-la-hán Mạt địa để ca (xưa trước gọi là Mạt Điền Địa, tức lược gọi sai nhầm vậy) tạo dựng. A-la-hán dùng sức thần thông dẫn đưa các người thợ lên cung trời Đổ Sử Đa (xưa trước gọi là Đâu-suất Đà, hoặc gọi là Đâu Thuật Tha tức là sai nhầm vậy) đến gần xem Diệu Tướng, sau ba lần lên xuống mới hoàn tất công việc. Từ khi có tôn tượng ấy, Phật pháp lưu truyền đến phương đông.

Từ đó theo hướng đông đi vượt qua đỉnh núi vượt qua hang cốc, ngược lên sông Tín Độ, qua cầu bay cầu treo hiểm dẫm nguy trải hiểm, đi hơn 500 dặm đến nước Bát Lộ La (thuộc Bắc Ấn Độ).

2. BÁT LỘ LA.

Nước Bát Lộ La chu vi rộng hơn 4000 dặm, nằm giữa khoảng núi tuyết lớn, từ đông sang tây dài, từ nam sang bắc hẹp, có lắm lúa tẻ, đậu. Đất đai sinh sản vàng bạc, nhờ lợi của vàng mà đất nước sử dụng giàu có. Thời tiết chỉ lạnh gắt, con người tánh khí mạnh mẽ, khinh bạc đối với nhân nghĩa, không nghe thấy có lễ tiết, thân hình dáng mạo thô xấu, vận mặc thuần áo lông vải sợi. Văn tự phần lớn đồng với Ấn Độ. Nói năng có phần khác so với các nước. Có vài trăm ngôi già lam, chư tăng khoảng vài ngàn vị, học không chuyên tập, giới hạnh phần nhiều khuyết lạm. Từ đó trở lại thành Ô đạt ca hán trà, phía nam là sông Tín Độ, sông ấy rộng khoảng 3-4 dặm, xuôi dòng về phía tây nam, nước lắng trong ngời ánh gương soi, lắng cặn đục tràn đầy dòng. Rồng độc thú dữ làm hang ổ ở trong, như có người mang theo vật quý báu, giống cây trái lạ cũng như xá lợi Phật vượt qua sông, thuyền bè phần nhiều đều bị chìm đắm. Vượt qua sông đó tức đến nước Đát Xoa Thỉ La (thuộc Bắc Ấn Độ).

3. NƯỚC ĐÁT XOA THỈ LA.

Nước Đát Xoa Thỉ La chu vi rộng hơn 2000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, các tù trưởng và những nhà giàu có nỗ lực đua tranh nhau. Giòng tộc vua chúa đã tuyệt dứt không người nối dõi. Ngày trước mọi việc làm đều tùy thuộc nước Ca Tất Thí, gần đây lại phụ thuộc làm thuê mướn cho nước Ca Thấp Di La. Đất đai màu mỡ, lúa thóc lắm nhiều, sông suối nhiều, hoa quả tươi tốt, khí hậu hòa sướng, phong tục xem thường mạnh dữ, rất sùng kính Tam bảo. Các ngôi già lam tuy lắm nhiều mà đều hoang phí hư hoại rất lắm, chư tăng hiếm thiếu, đều tập học theo giáo pháp đại thừa.

Từ thành lớn theo hướng tây bắc cách hơn 70 dặm có ao vua rồng Y La Bát Đát La chu vi rộng hơn trăm bộ. Nước trong ao đó lắng trong, hoa sen tạp sắc đồng tươi tốt dáng vẻ khác nhau. Rồng đó vốn là vị Bí Sô phá hoại cây Y La Bát Đát La ở thời đức Phật Ca Diếp Ba. Nên nay tại xứ đó cầu mưa cầu tạnh thảy đều cùng với các Sa-môn đồng đến nơi ao đó khảy móng tay ủy an han hỏi, tùy theo ước nguyện đều được thành quả.

Từ ao rồng ấy theo hướng đông nam đi hơn 30 dặm, vào giữa khoảng hai quả núi có một ngôi Tốtđổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn trăm thước. Là nơi xưa kia đức Như Lai dự ghi trong tương lai lúc đức Từ Thị Thế Tôn xuất hiện ở nơi đời, tự nhiên có bốn kho tàng báu lớn, tức tại Thánh địa đó sẽ có một kho. Nghe các bậc lão thành nói rằng có lúc đất chuyển động các nước đều lay động, chung quanh kho tàng khoảng trăm bộ, không nơi nào chẳng lay động. Khi có kẻ ngu phu vọng phát khởi đào bới, đất bị chấn động, mọi người đều ngã té. Bên cạnh đó có ngôi già lam đã hư hoại rất lắm, từ lâu tuyệt hẳn không có chúng tăng.

Từ thành về hướng bắc cách khoảng 12-13 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, có lúc đến các ngày trai tỏa phóng ánh sáng, hoa thần nhạc trời, từng có nghe thấy. Nghe các bậc lão thành nói là gần đây có người phụ nữ thân hình mắc phải bệnh cùi hủi rất dữ, trộm đến ngôi Tốt-đổ-ba đó mà tự trách mình, chí thành lễ sám, thấy nơi sân nhà có các phẩn uế, bèn vốc bỏ quét dọn, bôi thoa hương thơm, rải hoa, lại hái nhặt hoa sen xanh trải phủ nơi đất đó, mà bệnh độc dữ được trừ lành, hình mạo trở nên xinh đẹp. Từ thân tỏa ra mùi thơm hoa sen xanh đồng phảng phất. Đó là nơi xưa kia đức Như Lai tu hạnh Bồ-tát làm vị Đại quốc vương hiệu là Chiến Đạt La Bát Thích Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nguyệt Quang) với chí cầu đạo Bồ-đề nên cắt bỏ đầu mình để bố thí. Xả thí như thế trải qua cả ngàn đời.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba xả thí đầu ấy có ngôi Tăng-già lam, sân nhà hoang vắng, chúng tăng hiếm ít. Xưa kia, luận sư Kinh Bộ Câu Ma La La ở tại đó chế tác các bộ luận.

Tại phía tây bắc của Nam Sơn thuộc phía đông nam ngoài thành có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước là nơi thái tử Câu Lãng Noa con vua Vô Ưu bị mẹ ghẻ (kế mẫu) lừa dối mà móc mắt, do vua Vô Ưu tạo dựng, những người mù đến nguyện cầu, phần nhiều có được sáng mắt lại. Thái tử Câu Lãng Noa do chánh hậu sinh ra, nghi mạo đẹp xinh cao nhã, nhân từ sớm hiển trước. Sau khi chánh hậu qua đời, kế thất (vợ kế của vua Vô Ưu) quá dâm phóng túng ngu mờ, riêng cưỡng bức thái tử, thái tử đổ lệ khóc dẫn trách, lùi thân tạ tội. Kế mẫu thấy chống trái càng tăng thêm sự tức giận. Nhân lúc vua nhàn rãnh kế thất thong dong nói rằng: "Phàm yếu lãnh của nước Đát Xoa Thỉ La, nếu chẳng phải con em thân gần thì ai là người có thể giao phó cho đó ư? Nay, thái tử nhân từ hiếu hạnh vang xa, thân hiền đều chiếu cố, vật nghị tại đây". Vua lầm nghe nói nhã duyệt mưu gian, bèn gọi thái tử đến mà dạy răn rằng: "Ta tiếp thừa cơ đồ rủ ban kế nghiệp, chỉ sợ rơi lạc mất, trên trái phụ đối với tiên vương. Áo đai của nước Đát Xoa Thỉ La, nay ta phải bảo con ra trấn nhậm nước ấy. Việc nước nhà rất lớn nặng, mà tình người quỷ quyệt gian tạp. Con chớ vọng đến đi mà có khuyết trái cơ đồ giềng mối. Phàm như có vời bảo, phải nghiệm xét ấn dấu răng ta. Ấn tại miệng của Ta, con chớ sai nhầm đó vậy!". Khi ấy, thái tử vâng mạng đến trấn. Ngày tháng tuy đã ngầm lắng xa, mà kế thất càng tức giận, bèn dối phát ban chế thư, dùng đất bùn sắc đỏ phong ký, nhân hầu vua lúc ngủ say trộm lấy răng làm Ấn, vội sai kẻ sứ mang sang, đem thư trách khiển ban trao. Phụ thần quỳ đọc mà trông nhìn mất mưu đồ. Thái tử hỏi rằng: "Cớ sao tỏ vẻ ưu buồn?". Phụ thần đáp: "Đại vương có ban thư trách thái tử, móc bỏ hai mắt, xua đuổi đến núi hang, mặc tình hai vợ chồng tùy thời sống chết. Tuy có mạng lệnh này, nhưng còn chưa nên y cứ. Nay nên xin thình buộc mặt đợi tội". Thái tử bảo rằng: "Cha mà bảo chết, dám từ chối ư? Răng ấn làm phong thư, thật chẳng sai nhầm vậy". Rồi Thái tử bảo gã Chiên Trà La móc lấy hai mắt mình. Mắt đã bị móc, mất hẳn ánh sáng. Thái tử cùng vợ bèn làm kẻ xin ăn tự sống, lưu lạc triển chuyển dần đến đô thành phụ vương. Vợ thái tử nói rằng: "Đây là thành vua. Than ôi! Đói lạnh thật khổ, xưa trước làm thái tử, nay làm kẻ ăn xin, mong được nghe biết, lại tỏ bày sự khiển trách xưa trước". Khi ấy bèn mưu tính vào trong chuồng ngựa của vua, quá nửa đêm khóc đối mặt với gió trong lành, huýt kêu dài buồn ngâm, không hầu và trống hòa vang, vua ở nơi lầu cao nghe vọng tiếng nhã xướng ấy, ngôn từ rất buồn oán, lấy làm quái lạ mà hỏi rằng: "Tiếng ngâm ca và không hầu ấy tợ như là con ta, cớ sao nay lại đến đây vậy?". Liền hỏi trong chuồng ngựa ai là người ca huýt vậy. Bèn dẫn người mù ra đối trước Thánh chỉ. Vua thấy thái tử, đành ngậm đau buồn mà hỏi rằng: "Ai hại thân con gặp phải họa hấn này. Thái tử mù mắt còn chẳng tự biết. Phàm đối với trăm dân lê thứ to lớn làm sao mà cứu xét? Trời ơi! Trời ơi! Đức đâu suy vậy?". Thái tử buồn khóc lạy tạ mà thưa rằng: "Thật là bất hiếu, phụ trái đối với trời. Ngày... tháng... năm... đó, bỗng nhiên phụng vâng từ chỉ, không do đâu để chối từ và cũng chẳng dám trốn trách nhiệm". Trong tâm vua liền biết kế thất làm điều trái với pháp luật, không chỗ đáng phải cứu xét nữa, bèn xử hành hình. Bấy giờ tại già lam Bồ-đề Thọ, có A-la-hán Cù Sa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Diệu Âm) là vị chứng đắc tứ biện vô ngại, tam minh đầy đủ, vua bèn dẫn con (thái tử) mù đến bày tỏ sự việc, và cầu xin giũ lòng từ bi khiến thái tử được sáng mắt lại. Khi ấy A-la-hán Cù Sa nhận lời cầu thỉnh của vua rồi liền trong ngày đó tuyên bảo cùng mọi người trong nước ấy là: "Ngày mai tôi muốn giảng nói Diệu lý, mỗi người mang theo một đồ vật đến nghe pháp để đựng nước mắt khóc đổ". Khi ấy mọi người khắp xa gần đều kéo tới, các hàng sĩ nữ đồng tụ hội. Bấy giờ A-la-hán Cù Sa giảng nói pháp 12 nhân duyên. Mọi người đến nghe pháp, không ai chẳng cảm khóc, bèn dùng đồ vật mang theo đó hứng đựng lệ đổ. Đến lúc giảng pháp đã xong, gồm thâu tất cả nước mắt của thính chúng đó đặt để trong mâm vàng, và A-la-hán Cù Sa tự phát thệ nguyện rằng: "Phàm tôi giảng nói chí lý của chư Phật. Lý nếu chẳng chân thật, giảng nói có sai nhầm, như thế thì thôi, còn như chẳng phải thế thì nguyện đem tất cả nước mắt này tẩy rửa mắt mù kia, mắt ấy sáng trở lại được thấy rõ như xưa cũ". Nói lời ấy rồi, A-la-hán Cù Sa đem mâm nước mắt ấy tẩy rửa mắt thái tử, mắt thái tử bèn sáng lại. Vua mới trách phạt vị phụ thần ấy, cật vấn các liêu tá, hoặc có người bị trục xuất, hoặc phóng tha, hoặc đổi dời, hoặc xử tội chết, v.v... các nhà giàu có trong thế tục dời đến ở trang bãi sa mạc thuộc phía đông bắc núi tuyết.

Từ đó theo hướng đông nam vượt qua các núi hang, đi hơn 700 dặm đến nước Tăng Ha Bổ La (thuộc Bắc Ấn Độ).

4. NƯỚC TĂNG HA BỔ LA.

Nước Tăng Ha Bổ La chu vi rộng khoảng 3500-3600 dặm, phía tây gần sông Tín Độ, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm, tựa núi y cứ trên đỉnh bền chắc cao vợi. Việc nông tuy làm tốn kém ít công mà đất đai cho lợi nhuận lắm nhiều. Khí hậu thuần lạnh, con người tánh tình cứng mạnh, tập tục mến chuộng khỏe mạnh, lại lắm nhiều quỷ quyệt. Nước đó không có quân trưởng, chủ vị, mọi việc làm đều phụ thuộc nước Ca Thấp Di La. Từ thành về phía nam cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, trang tiết tuy có khuyết thiếu mà linh dị tương tục. Bên cạnh có một ngôi già lam trống rỗng chẳng có chúng tăng.

Từ thành theo hướng đông nam đi khoảng 40-50 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá do vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn 200 thước, ao hồ có cả 10 cái ánh ngời đeo quanh hai bên phải trái, khắc chạm đá làm bờ có lắm hình loại khác lạ. Nước xoáy dòng trong, lắng gạn vẩn đục trút bỏ, cá rồng thủy tộc làm hang huyệt ngầm bơi lặn, hoa sen bốn màu lan tràn giữa đầm trong. Trăm thứ cây trái lắm nhiều đồng tốt tươi khác sắc màu. Ao rừng giao ánh ngời bóng thật đáng rảo bước thưởng ngoạn. Bên cạnh đó có ngôi già lam, từ lâu không có chúng tăng sinh hoạt. Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba cách không xa, có nói của Bạch y ngoại đạo mà vị bổn sư của họ đã tỏ ngộ lý qua sự tìm cầu, giảng nói pháp lần đầu tiên, ngày nay hiện có phong ghi, bên cạnh có tạo dựng ngôi đền thờ trời. Đồ chúng đó tu hành khổ hạnh, đêm ngày tinh cần, chẳng chút ngưng nghỉ. Pháp do bổn sư họ giảng nói phần nhiều trộm lấy nghĩa trong kinh Phật, tùy loại mà thiết bày bài pháp, phỏng theo phép tắc nghi quỷ. Các vị lớn xưng gọi là Bí Sô, những người nhỏ gọi là Sa Di, oai nghi luật hạnh rất đồng như pháp chế của chúng tăng. Họ chỉ để lại một ít tóc lại thêm để lõa hình, hoặc có vận mặc thì y phục sắc trắng là khác. Xét cứ theo dòng riêng đó thì hơi dùng phân khu. Tôn tượng thiên sư của họ phỏng trộm như tôn tượng đức Như Lai, chỉ y phục là sai biệt, còn tướng hảo không khác lạ.

Từ đó trở lại nước Đát Xoa Thỉ La về biên giới phía bắc vượt qua sông Tín Độ, theo hướng đông nam đi hơn 200 dặm, qua cửa đá lớn, là nơi xưa kia vương tử Ma-ha Tát Đỏa đến đó ném thân thí cho Ô Đề (hổ-cọp) đói ăn. Từ đó về hướng nam cách khoảng 140-150 bộ, có một ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá là nơi vương tử Ma-ha Tát Đỏa sợ thú đói không còn sức lực, nên vừa đến đó, bèn lấy cây tre khô tự đâm vào mình lấy máu cho thú liếm ăn, từ đó thú mới gặm ăn. Trong đó, đất đai cho đến cây cỏ hơi mang sắc màu ráng đỏ, bởi do máu huyết nhuốm nhiễm vậy. Mọi người đi ngang qua đó như mang cỏ gai chích, chẳng kể là nghi hay tin, không ai chẳng buồn thảm. Về phía bắc của nơi vương tử Ma-ha Tát Đỏa xả thân đó có một ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, điêu khắc chế tác kỳ đặc, luôn có tỏa phóng ánh sáng. Có hàng trăm ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ và các khám đá bao bọc chung quanh đó ánh ngời cả cảnh vức. Những người bị bệnh tật đi nhiễu quanh đó phần nhiều có được lành mạnh.

Phía đông ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá có ngôi già lam, chư tăng có hơn một trăm vị đều tập học giáo pháp đại thừa. Từ đây đi về hướng đông hơn 50 dặm thì đến núi Cô Sơn, giữa núi lại có một già lam. Tăng tín đồ hơn 200 người. Họ đều tu học theo giáo pháp Đại Thừa. Nơi đó, hoa quả lắm nhiều tươi tốt, ao suối lắng trong như gương soi. Bên cạnh có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước, là nơi xưa kia đức Như Lai đến đó giáo hóa quỷ Dược Xoa bạo ác, khiến chẳng ăn thịt.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 500 dặm đến nước Ô Thí Thi (thuộc Bắc Ấn Độ).

5. NƯỚC Ô THÍ THI.

Nước Ô Thí Thi chu vi rộng hơn 2000 dặm, núi đồi liền tiếp, ruộng đồng men cặp. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 7-8 dặm. Không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều phụ thuộc nước Ca Thấp Di La. Đất đai thích nghi với lúa thóc, hiếm thiếu hoa quả, khí hậu ấm hòa hơi có sương tuyết. Phong tục không có lễ nghĩa, con người tánh tình cứng mạnh, phần nhiều làm các việc dối trá, không kính tin Phật pháp. Từ thành lớn về hướng tây nam cách khoảng 4-5 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng. Bên cạnh đó có ngôi già lam, chư tăng hiếm ít, mà đều tập học theo giáo pháp Đại thừa. Từ đó theo hướng đông nam leo lên núi dẫm trải hiểm nguy, vượt qua cầu sắt đi hơn ngàn dặm đến nước Ca Thấp Di La. (Xưa trước gọi là Kế Tân, tức sai nhầm, nước đó thuộc Bắc Ấn Độ).

6. NƯỚC CA THẤP DI LA.

Nước Ca Thấp Di La chu vi rộng hơn 7000 dặm, bốn phía đều đeo mang theo núi, núi rất cao vợi, tuy có cửa đường mà lại hiểm trở nhỏ hẹp. Từ xưa các nước giặc địch lân cận không dám đến đánh chiếm. Đô thành lớn của nước đó về phía tây gần sông lớn, từ nam sang bắc rộng khoảng 20-30 dặm, từ đông sang tây dài khoảng 4-5 dặm. Đất đai thích nghi với thóc lúa, có lắm nhiều hoa quả, nơi sản sinh các giống Rồng, ngựa, và uất kim hương, hỏa châu, cỏ thuốc. Khí hậu lạnh cứng, nhiều tuyết ít gió. Con người vận mặc vải sợi lông, y phục bằng bông tơ sắc trắng. Thể tục khinh lật, con người tánh tình nhút nhát. Nước đó được Rồng hộ trì nên bèn hùng mạnh cảnh vức xung quanh. Con người dung mạo xinh đẹp, tánh tình dối trá, ham học nghe nhiều, tà chánh đều kính tin. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 5000 vị. Có bốn ngôi Tốt-đổ-ba đều do vua Vô Ưu tạo lập, trong mỗi một ngôi đều có hơn một thăng xá lợi của đức Phật.

Theo "Quốc chí" nói: Đất của nước đó xưa kia vốn là ao rồng, khi đức Phật từ nước Ô trượng na nhiếp phục thần ác đã xong, muốn trở về lại nước Trung Ấn Độ, đang bay giữa hư không ngay trước trên nước đó, đức Phật bảo cùng tôn giả A-nan rằng: "Sau khi ta nhập Niết bàn, có A-la-hán Mạt Điền Để sẽ đến xứ này lập nước an dân, hoằng dương Phật pháp". Quả thật sau khi đức Phật nhập Niết bàn. Trong 50 mươi năm, có A-la-hán Mạt Điền Để đệ tử của tôn giả A-nan là vụ chứng đắc sáu pháp thần thông, có đủ tám pháp giải thoát, nghe lại xưa trước đức Phật có huyền ký như thế, trong tâm tự vui mừng, bèn đến xứ đó ở trên đảnh núi lớn an tọa trong rừng, hiện sức đại thần biến, rồng trông thấy bèn sinh kính tin sâu sắc, thỉnh cầu sẽ hỗ giúp điều ước muốn. A-la-hán Mạt Điền Để vận sức thần thông nới lớn thân, vua rồng tung sức rút nước, hết nước ao trống không, vua rồng bèn vụt cầu xin đất dung thân. A-la-hán Mạt Điền Để mới về góc tây bắc, nơi đó lưu lại một ao nhỏ chu vi rộng hơn trăm dặm. Các chi thuộc của rồng đều riêng đến ở nơi ao nhỏ. Vua rồng thưa rằng: "Đất ao xin nguyện cúng thí hết, và nguyện xin thường đến nhận sự cúng dường". A-la-hán Mạt Điền Để Ca nói rằng: "Tôi nay không bao lâu nữa sẽ nhập Vô dư Niết bàn, tuy muốn nhận sự thỉnh mời, như thế có được ư?". Vua rồng lại cầu thỉnh: "Xin thỉnh 500 vị A-la-hán thường đến nhận sự cúng dường của con mãi đến lúc pháp hủy diệt hết. Sau khi giáo pháp hủy diệt hết, con sẽ trở lại lấy đất nước này để làm ao ở". A-la-hán Mạt Điền Để Ca đã có được chốn đất đó, bèn vận dụng sức thần thông lớn tạo lập 500 ngôi già lam. Đối với hạng nghèo hèn mua cháo ở các nước khác đều đưa về sung vào làm kẻ sai khiến để cung phụng chúng tăng. Đến sau khi A-la-hán Mạt Điền Để Ca nhập Niết bàn, người nghèo hèn ở các nước ấy tự lập Quân trưởng. Các nước láng giềng bèn xem thường cho đó là người thuộc chủng tộc thấp hèn nên chẳng cùng thân thiện tương giao. Mà gọi đó là "Khất Lợi Đa" (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là "Mãi Đắc" (đổi mua được). Mãi đến thời nay thì mỗi nước đã có nhiều lạm phát.

Tại nước Ma-kiệt-đà, sau khi đức Như Lai diệt độ trong trăm năm thứ nhất, có vua Vô Ưu xuất hiện trị vì, oai đức trùm xa khác tục, rất kính tin Tam bảo, mến thương bốn loài chúng sinh. Bấy giờ có 500 vị tăng A-la-hán và 500 vị tăng phàm phu, vua đều tôn kính, cúng dường không riêng khác. Có vị tăng phàm phu tên là Ma-ha Đề Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Thiên) là người thông biết rộng nhiều trí, ngầm cầu danh thật, lắng suy tư soạn tác luận, lý trái với Thánh giáo, phàm mọi người thấy nghe đều có những điều bàn nghị khác nhau. Vua Vô Ưu không biết phàm Thánh, điều tốt của đồng tình chỗ thân gần của Đảng viện, bèn vời gọi tất cả chúng tăng đến bờ sông Khắc già muốn cho chìm sâu dưới dòng sông giết chết tất cả. Khi ấy các vị A-la-hán gặp nạn bức đoạn mạng đều vận dụng sức thần thông bay vọt giữa không trung mà đến nước đó ẩn náu nơi núi hang. Khi ấy vua Vô Ưu nghe mà kinh sợ đích thân đến sám tạ lỗi quá thỉnh cầu trở về lại nước cũ (tức Ma-kiệt-đà). Các vị A-la-hán ấy xác thức không theo lời vua. Vua Vô Ưu mới vì các vị A-la-hán tạo dựng 500 ngôi già lam, đem hết của cải nước đó mà cúng thí chư tăng.

Sau khi đức Như Lai diệt độ trong trăm năm thứ tư, tại nước Kiện Đà La có vua Ca Nị Sắc Ca ứng thời vỗ vận, oai phong của vua trùm xa, mọi người khác sắc tộc bên trong đều nương nhờ. Những lúc công việc nước nhà rảnh rỗi, vua thường tập học kinh Phật. Mỗi ngày thỉnh một vị tăng vào trong cung để giảng nói pháp. Mà các lời bàn nghị khác nhau, bộ chấp chẳng đồng. Vua sinh tâm nghi ngờ sâu xa, không làm sao để dứt trừ lầm hoặc. Khi ấy có Hiếp tôn giả bảo rằng: "Đức Như Lai đã nhập Niết bàn thời gian lâu dài. Đệ tử theo bộ chấp, thầy trò bàn luận khác nhau, mỗi tự y cứ sự thấy nghe của riêng mình, cùng làm mâu thuẫn lẫn nhau". Bấy giờ, vua nghe vậy rồi bèn rất cảm thương, buồn than giây lâu mới nói cùng Hiếp tôn giả rằng: "Tạp nhạp phước thừa, bèn tuân theo giềng mối trước. Cách Thánh tuy lâu xa mà còn có may, dám quên hạng hèn xấu tiếp nối làm ngời sáng giáo pháp, tùy theo từng bộ chấp đều nên giải thích đầy đủ về Tam Tạng". Hiếp tôn giả bảo rằng: "Đại vương xưa trước gieo trồng gốc lành, lắm nhờ phước giúp đỡ, lưu tình đối với Phật pháp đó là điều ước nguyện vậy". Vua mới tuyên lệnh chiêu tập tất cả các bậc Thánh triết ở khắp xa gần. Khi ấy khắp bốn phương đồng kéo đến, xa muôn dặm đều vội vàng. Các bậc anh hiền đồng nhóm tụ, duệ Thánh đều vân tập, suốt trong bảy ngày cúng dường tứ sự. Đã muốn luận bàn về giáo pháp lại còn lo sợ trong đó huyên tạp, vua mới đem cả nỗi lòng thưa cùng chúng tăng rằng: "Những vị nào đã chứng đắc Thánh quả thì ở lại. Vị nào còn các thứ buộc ràng thì trở về". Như vậy mà đại chúng vẫn đông nhiều. Vua lại tuyên lệnh "Những ai đã chứng đắc vô học thì ở lại, còn hàng hữu học thì trở về, nhưng chúng vẫn đông nhiều. Vua lại hạ lệnh: "Ai đã chứng đắc Tam minh, đầy đủ lục thông thì ở lại, ngoài ra mỗi tự trở về". Tăng chúng vẫn còn đông nhiều. Vua lại hạ lệnh: "Những ai bên trong đã suốt cùng Tam tạng, bên ngoài đã thông rành ngũ kinh thì ở lại, ngoài ra mỗi tự lui về". Khi ấy còn được 499 vị. Vua muốn thực hiện tại nước nhà (Kiện Đà La) nhưng vì khổ bởi nắng nóng và ẩm thấp, lại muốn đến nơi thạch thất xưa trước kia tôn giả Đại Ca Diếp kết tập kinh điển tại thành Vương Xá. Hiếp tôn giả, v.v..., cùng bàn nghị rằng: Không thể được, tại xứ đó lắm nhiều ngoại đạo dị luận rối ren, không rảnh để đối đáp, công đâu mà trước thật luận. Tâm của chúng hội chú ý đến nước đó. Tại nước đó (Ca Thấp Di La) bốn phía đều là núi bao bọc kiên cố, có thần Dược Xoa thủ hộ gìn giữ, đất đai phì nhiêu, các sản vật lắm nhiều. Nơi các bậc hiền Thánh nhóm tập cùng ở, nơi các tiên linh đến dừng nghỉ. Chúng bàn nghị tại đó, mọi người nói thật đáng hòa hợp. Khi ấy vua Vô Ưu cùng các vị A-la-hán từ nước Kiện Đà La sang đến nước Ca Thấp Di La tạo dựng già lam, kết tập tam tạng Thánh giáo, muốn chế tác luận Tỳ-bà-sa. Khi ấy, tôn giả Thế Hữu ở ngoài phòng nhà dâng nạp áo. Các vị A-la-hán bảo cùng tôn giả Thế Hữu rằng: "hàng kết sử chưa dứt trừ, tranh luận sai lầm. Ông nên tránh vết xe đổ ở nơi đây". Tôn giả Thế Hữu nói rằng: "Chư vị Hiền giả đối với giáo pháp không sinh nghi ngờ, thay thế đức Phật thiết thi hành hóa, mới nhóm kết đại nghĩa, muốn chế tác chính luận. Tôi tuy chẳng thông mẫn, song thô sơ thấu đạt lời huyền diệu. Đối với Huyền văn trong Tam tạng, chỉ lý của ngũ minh, cũng có phần nghiên tầm và thấu đạt chỉ thú ấy vậy". Các vị A-la-hán bảo rằng: "Nói không thể là như vậy, ông nên lắng ở để chóng chứng vô học. Xong rồi vào dự hội đây, khi ấy cũng chưa muộn vậy". Tôn giả Thế Hữu nói rằng: "Tôi trông xem quả vị vô học còn như là đàm dãi, chỉ mong cầu Phật quả chớ hướng theo con đường nhỏ hẹp. Ném cuộn chỉ này chưa rơi tới đất, hẳn đã chứng đắc quả Thánh vô học". Khi ấy các vị A-la-hán cùng nhau quở trách rằng: "Người tăng thượng mạn mới cho là như vậy, với quả vị vô học, chư Phật đều tán thán. Ông phải nên mau chứng để quyết dứt lòng nghi của đại chúng". Khi ấy tôn giả Thế Hữu liền ném cuộn chỉ lên giữa không trung. Các trời tiếp nhận lấy cuộn chỉ mà cầu thỉnh rằng: "Đức Thích-ca Như Lai vừa mới chứng Phật quả, tiếp đến bổ xứ đức Từ Thị Thế Tôn, khắp cả ba cõi đều đặc biệt xưng tán. Cả bốn loài chúng sinh thảy đội nhờ. Cớ sao nay đây lại muốn chứng đắc tiểu quả?". Khi đó, các vị A-la-hán trông thấy sự việc ấy rồi, bèn sám tạ lỗi quấy, sùng kính đức hạnh thỉnh mời làm thượng tòa. Phàm có những điểm bàn nghị nghi ngờ thảy đều được giải quyết. 500 vị A-la-hán ấy trước đã tạo 10 vạn bài tụng luận Ô Ba Để Thước (xưa trước gọi là luận Ô Ba Đề Xá tức sai nhầm vậy). Giải thích Tố Đát Lãm Tạng (xưa trước gọi là tạng Tu Đa-la tức sai nhầm vậy). Tiếp theo tạo 10 ngàn bài tụng luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-sa giải thích tạng Tỳ-nại-da (xưa trước gọi là Tạng Tỳ na da tức là sai nhầm vậy). Sau đó lại tạo 10 vạn bài tụng luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa giải thích tạng A-tỳ-đạt-ma (hoặc còn gọi là Tạng A-tỳ-đàm là lược gọi vậy). Phàm có cả thảy 30 vạn bài tụng 960 vạn lời, đầy đủ giải thích về tam tạng Thánh giáo, cao suốt cả ngàn xưa, không gì chẳng tận cùng cành lá, rốt ráo mọi cạn sâu. Đại nghĩa sáng lại, lời huyền trải bày, rộng hoằng tuyên lưu bố, các hàng hậu tiến rất được đội nhờ vậy. Vua Ca Nị Sắc Ca bèn bảo dùng đồng đỏ làm lá, khắc tả luận văn, dùng hộp đá để tôn trí mà phong bít rồi tạo lập Tốtđổ-ba mà cất chứa bên trong. Bảo các thần Dược Xoa vây quanh gìn giữ đất nước đó, không cho các hàng dị học mang các luận đó ra ngoài. Như người muốn tìm cầu học hỏi thì vào trong đó mà tập học. Đến lúc công việc đã hoàn tất, vua bèn rút quân trở về lại đô cũ. Ra khỏi ngoài cửa phía tây nước đó, xoay mặt về hướng đông mà lạy. Vua lại đem đất nước đó cúng thí cho chư tăng.

Sau khi vua Ca Nị Sắc Ca băng hà, chủng tộc Ngật Lợi Đa trở về lại tự xưng vương, bài xích ruồng đuổi chúng tăng, phá hủy Phật pháp. Tại nước Đổ Hóa La có vua Hý Ma Đát La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tuyết Sơn Hạ), tiên tổ vốn giòng họ Thích, vua ra đời trong khoảng trăm năm thứ sáu sau khi đức Như Lai diệt độ. Tiên tổ của vua có biên cương đất nước, nối tiếp cơ nghiệp làm vua, trồng tâm nói đất Phật, đặc tình trong biển pháp. Nghe vua Ngật Lợi Đa hủy diệt Phật pháp, bèn chiêu tập các bậc tài sĩ dũng cảm ở đó trong nước có được 3000 người, dối bày làm thương buôn mang theo nhiều của báu hàng hóa, cắp giấu binh khí mũi nhọn dao bén, đến vào nước đó (Ca Thấp Di La), vua nước đó đặc biệt rất trọng đãi khách vô cùng hậu lễ. Trong số các thương buôn ấy lại chọn tuyển 500 người khỏe mạnh lắm mưu, mỗi tự cất giấu mũi nhọn dao bén trong tay áo, cùng mang theo các vật báu nặng, đích thân mang đến dâng hiến lên vua. Khi ấy vua Tuyết Sơn Hạ cất bỏ khăn quấn đầu mà ngồi, vua Ngật Lợi Đa kinh sợ không thi thố. Vua Tuyết Sơn Hạ bèn chém đầu Ngột Lợi Đa và bảo cùng quần hạ rằng: "Ta là vua Tuyết Sơn Hạ ở nước Đổ Hóa La tức giận giòng giống hèn mọn các ông làm điều trái ngược chính sách, nên nay đến nay để giết kẻ có tội". Phàm trăm chúng dân thứ chẳng có tội ấy, nhưng các hàng quốc phụ tể thần nước đó đều chuyển dời đến ở cảnh vức khác. Khi đã bình trị được đất nước đó, vua Tuyết Sơn Hạ lại thỉnh mời nhóm tập chúng tăng, kính lễ tạo lập các ngôi già lam, an đặt như xưa cũ. Vua là đến ngoài cửa phía tây của nước đó, xoay mặt về hướng đông quỳ lạy dâng cúng chúng tăng.

Chủng tộc Ngật Lợi Đa ấy đã từng bị chúng tăng lấp diệt tông tự, nên đời đời tích chứa nỗi niềm oán hận ấy nên ghét ganh Phật pháp. Năm tháng tuy đã cách dài xa, mà lại tự xưng vương, nên nay tại đất nước đó chẳng kham tôn sùng kính tin. Đối với đền thờ trời, ngoại đạo, thì lại đặc biệt lưu ý.

Từ thành mới, theo hướng đông nam đi hơn 10 dặm đến phía nam núi lớn thuộc phía bắc thành cũ, có một ngôi Tăng-già lam, chư tăng có hơn 300 vị. Ở đó, bên trong ngôi Tốt-đổ-ba có chiếc răng của đức Phật dài lớn tấc rưỡi, sắc màu vàng trắng, đến những ngày trai thường tỏa phóng ánh sáng. Xưa kia, khi chủng tộc Ngật Lợi Đa phá diệt Phật pháp, chư tăng giải tán, mỗi tự tìm nơi thuận lợi để ở. Có một vị Sa-môn vân du đến nước Ấn Độ, chiêm ngưỡng lễ bái Thánh tích tỏ bày chí thành. Về sau nghe ở nước nhà đã được bình trị, liền muốn trở về, đang đi giữa đường gặp một đàn voi hoành hành nơi đầm cỏ, chạy rảo gầm rống. Sa-môn thấy vậy bèn leo lên cây để trốn lánh. Khi ấy đàn voi cùng nhau chạy tìm hút nước ao hồ đến phun xói gốc cây, cùng nhau lay lắc, gốc cây bèn ngã đổ. Đã bắt gặp được vị Sa-môn ấy, đàn voi mang chở mà đi đến trong rừng lớn nơi có con voi đang mắc bệnh đau đớn mà nằm. Đàn voi dẫn đưa tay vị Sa-môn ấy nói chỗ vết thương đau thì đó là một cây tre khô đâm chích vào, Sa-môn ấy bèn nhổ tre khô ra rồi rắc thuốc, xé xiêm y trong chân để bó buộc lại. Riêng có một con voi lớn khác mang một hộp vàng trao cho con voi bệnh. Con voi bệnh nhận lấy rồi chuyển trao dâng cúng vị Sa-môn ấy. Vị Sa-môn ấy mở hộp ra trông xem, thì trong hộp là chiếc răng của đức Phật. Các con voi khác lại bao bọc chung quanh. Vị Sa-môn ấy không do đâu mà thoát ra khỏi. Đến sáng hôm sau vào giờ thọ trai, mỗi con voi tự mang lại trái cây khác lạ dâng cúng dùng bữa trưa. Sau khi dùng xong đàn voi lại chở đưa vị Sa-môn ấy ra khỏi rừng cách ngoài vài trăm dặm mới đặt để xuống, và mỗi con tự quỳ bái lạy rồi bỏ đi. Vị Sa-môn ấy đến biên giới phía tây của nước đó, vượt thuyền qua một con sông, vừa đến giữa dòng, thuyền sắp muốn đắm chìm. Mọi người đi chung thuyền cùng cho rằng: "Nay tai họa thuyền này muốn đắm chìm là do vị Sa-môn này. Vị Samôn này hẳn có xá lợi của đức Như Lai, nên các rồng ham thích lấy lại đó". Vị chủ thuyền liền kiểm xét, quả nhiên có chiếc răng của đức Phật. Khi đó, vị Sa-môn ấy nâng răng Phật trao cho và nói cùng rồng rằng: "Nay tôi giao gởi ngươi, không bao lâu nữa sẽ trở lại lấy". Và bèn chẳng qua sông mà xoay ngược thuyền lại để đi, trông nhìn lại dòng sông mà than rằng: "Tôi không có cấm thuật, nên loài rồng khinh dễ!". Vị Sa-môn ấy sang lại nước Ấn Độ học pháp cấm ngăn rồng. Sau ba năm trở về lại nước nhà, đến bên bờ sông ấy, thiết lập đàn tràng, và rồng ấy bèn bưng dâng hộp răng đức Phật trao lại vị Sa-môn ấy. Vị Sa-môn ấy mang về trong ngôi già lam đó mà thiết tu cúng dường.

Từ ngôi già lam đó theo hướng nam đi khoảng 14-15 dặm, có một ngôi già lam nhỏ, bên trong có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại đứng. Như có người bỏ ăn, lấy sự chết làm kỳ hạn, nguyện được thấy Bồ-tát, tức từ trong tôn tượng xuất hiện ra thân tướng vi diệu.

Từ ngôi già lam nhỏ ấy theo hướng đông nam đi hơn 30 dặm đến núi lớn, có ngôi già lam xưa cũ, hình dáng tạo dựng rất rộng lớn hùng tráng nhưng đều đã hư hoại rất lắm, nay chỉ còn nơi một góc xây dựng một trùng các nhỏ, chư tăng có hơn 30 vị đều học theo giáo pháp Đại thừa. Xưa kia, luận sư Tăng-già Bạt Đà La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Chúng Hiền) ở tại đó chế tác luận "Thuận Chánh lý". Hai bên ngôi già lam đó có các ngôi Tốt-đổ-ba. Xá lợi của các vị A-la-hán đều tôn thờ tại đó. Thú hoang vượn núi hái trái dâng cúng, quanh năm không lúc nào ngừng nghỉ như vâng thừa chỉ mạng. Và trong núi đó có lắm linh tích, hoặc là vách đá phân chỉ ngang, hoặc là trên đảnh núi lưu lại dấu vết chân ngựa. Các loại như thế tướng trạng rất kỳ quái, đều là những vị A-la-hán sa di từng đoàn đùa vui, đưa tay chỉ lụa họa vẽ cưỡi ngựa qua lại. Những di tích như thế, khó thể thuật rõ.

Từ ngôi già lam tôn thờ răng đức Phật theo hướng đông đi hơn 10 dặm, giữa sườn núi phía bắc có một ngôi già lam nhỏ, là nơi xưa kia Đại luận sư Sách Kiến Địa La ở tại đó chế tác luận "Chúng Phân Sự Tỳ-bà-sa".

Trong ngôi già lam nhỏ có một ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá cao hơn 50 thước, là nơi tôn thờ xá lợi di thân của vị A-la-hán. Xưa trước có vị A-la-hán thân hình rất to lớn. Vị đó uống ăn nhiều ngang đồng như voi. Người thời bấy giờ gièm pha rằng: "Chỉ biết ăn no, sao biết được mọi sự phải quấy". Đến lúc sắp nhập tịch diệt, vị A-la-hán ấy bảo cùng mọi người rằng: "Nay tôi còn không bao lâu nữa sẽ nhập vô dư niết bàn, nên muốn giảng nói Diệu Pháp của tự thân tôi đã chứng đắc". Mọi người nghe thế lại cùng nhau gièm pha cười rộ. Nhưng cũng đều nhóm tập để trông xem thử sự được mất thế nào. Khi đó, vị A-la-hán ấy bảo cùng mọi người rằng: "Nay tôi vì các ông mà nói về nhân duyên của bản thân mình. Nhân đời trước tôi chịu quả báo làm thân voi ở trong chuồng nuôi của vua tại Đông Ấn Độ. Khi ấy tại nước đó có một vị Sa-môn đi xa đến Ấn Độ tìm cầu phỏng học Thánh giáo thỉnh cầu các kinh luật luận. Vua đó bèn đem tôi trao cho vị Sa-môn ấy chở mang kinh Phật mà đến nơi này. Sau đó không lâu bèn mạng chung, nhờ phước lực chuyên chở kinh nên tôi bèn được làm thân người này đây, lại tiếp nối các điều tốt lành khác nên sớm dự phần xuất gia, chuyên cầu xuất ly, chẳng tạm ngưng nghỉ, nên đã chứng đắc sáu pháp thần thông, đoạn trừ dục trong tam giới. Nhưng sự ăn uống của tôi là bởi tập khí dư thừa hiện còn. Tôi thường tiết chế tự thân, trong ba phần chỉ ăn một phần". Tuy nói như vậy nhưng mọi người còn chưa tin. Vị A-la-hán ấy bèn bay bổng giữa hư không, nhập định hỏa quang tự thân tỏa phóng khói lửa mà nhập tịch diệt. Di cốt còn lại rơi xuống, nên xây dựng Tốtđổ-ba phụng thờ như thế.

Từ Vương thành theo hướng tây bắc đi hơn 200 dặm đến ngôi già lam tên là Thương Lâm, xưa trước, Luận sư Bố Thứ Noa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Viên Mãn) ở tạo đó chế tác luận "Thích Tỳ-bà-sa". Từ Vương thành theo hướng tây đi khoảng 140-150 dặm, đến phía bắc sông lớn, tiếp men phía nam sườn núi đến ngôi già lam tên là Đại chúng bộ, xưa kia luận sư Phật Địa La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giác Thủ) ở tại đó chế tác luận "Đại chúng bộ tập chân".

Từ đó theo hướng tây nam, vượt qua núi băng hiểm nguy đi hơn 700 dặm đến nước Bán Nô Ta (thuộc Bắc Ấn Độ).

7. NƯỚC BÁN NÔ TA.

Nước Bán Nô Ta chu vi rộng hơn 2000 dặm, núi sông nhiều, đồng ruộng gò đồi hẹp nhỏ, lúa thóc gieo trồng theo mùa vụ, hoa quả lắm nhiều tươi tốt. Có nhiều cam giá, không có bồ đào, cây quả Am Một La, quả Ô đàm bạt la mậu già, v.v... Mọi nhà đều trồng rừng, rất quý mùi vị ấy. Khí hậu xứ đó ấm nóng, phong tục dõng mạnh, xiêm y chế tác, phần nhiều vận mặc y phục vải bố bông tơ. Con người tánh khí chất trực, thuần tin Tam bảo. Có năm ngôi già lam, phần nhiều đều là hoang tàn đổ nát, không có Quân trưởng lớn. Mọi việc làm đều tùy thuộc nước Ca Thấp Di La. Phía bắc của thành có ngôi già lam nhỏ có chư tăng ở.

Phía bắc ngôi già lam ấy có một ngôi Tốt-đổba bằng đá thật lắm nhiều linh dị. Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 400 dặm đến nước Át La Xà Bổ La (thuộc Bắc Ấn Độ).

8. NƯỚC ÁT LA XÀ BỔ LA.

Nước Át La Xà Bổ La chu vi rộng hơn 4000 dặm. Đô thành lớn nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Địa thế rất hiểm trở bền bỉ, có lắm núi đồi, sông gò hiểm hẹp, vật lợi từ đất không nhiều. Đất đai thích nghi và khí hậu đồng như ở nước Báu Nô Ta. Phong tục rất mạnh dữ, con người tính khí hùng dũng. Nước đó không có Quân trưởng, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Ca Thấp Di La. Có 10 ngôi già lam, chư tăng rất hiếm thiếu. Có một ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo rất đông nhiều. Từ nước Lạm Ba đến nước đó, con người vóc hình dung mạo thô xấu, tánh tình mạnh dữ. Ngôn ngữ hẹp hèn thô bỉ, lễ nghĩa khinh nhạt. Chẳng phải cảnh vức chánh của Ấn Độ, đó mới chỉ là tập tục quanh co của vùng ven biên địa vậy.

Từ đó, theo hướng đông nam xuống núi vượt qua sông, đi hơn 700 dặm đến nước Trách Ca (thuộc Bắc Ấn Độ).

QUYỂN 4

(Nói về 15 nước).

1.Nước Trách Ca

2.Nước Chí Ma Bộc Để.

3.Nước Xà Lạn Đạt Đa

4.Nước Khuất Lộ Đa

5.Nước Thiết Đa Đồ Lô.

6.Nước Ba Lý Dạ Đát La.

7.Nước Mạt Thố La

8.Nước Tát Tha Nê Thấp Phạt La.

9.Nước Tốt Lộc Cần Na

10. Nước Mạt Để Bổ La.

11. Nước Bà La Hấp Ma Bổ La.

12. Nước Cù Tỳ Sương Na.

13. Nước Ác Hê Chế Đát La 14. Nước Tỳ La Sang Na

15. Nước Kiếp Tỷ Tha.

1. NƯỚC TRÁCH CA.

Nước Trách Ca chu vi rộng hơn vạn dặm, phía đông men tựa sông Tỳ Bá Xà, phía tây gần sông Tín Độ. Đô thành lớn của nước đó rộng hơn 20 dặm. Đất đai thích nghi với lúa canh lúa giê, có lắm nhiều lúa tẻ. Là nơi sản sinh các thứ vàng, bạc, than đá, đồng, sắt. Khí hậu nắng nóng đất lắm gió cuốn lật. Phong tục bạo ác, nói năng thô xấu bẩn thỉu, vận mặc y phục trắng đẹp như là áo Kiều xa da, áo Thiêu hà, v.v… Ít người kính tin Phật pháp, phần nhiều phụng sự trời thần, có 10 ngôi già lam, vài trăm ngôi đền thờ trời. Nước đó từ xưa trước có nhiều ngôi nhà làm phước để giúp đỡ cho người nghèo khổ túng thiếu, hoặc cho thuốc thang, hoặc cấp thức ăn, mọi thứ ăn mặc, lữ hành không phải phiền lụy.

Từ thành lớn theo hướng tây nam cách khoảng 14-15 dặm, là đến thành cũ Xa yết la, trường thành bao bọc chung quanh, tuy đã đổ nát hư hoại nhưng nền móng vẫn còn bền chắc, chu vi rộng hơn 20 dặm, bên trong lại xây dựng một thành nhỏ chu vi rộng khoảng 6-7 dặm, dân chúng sinh sống giàu sang đông đúc. Đó tức là thành đô xưa cũ của nước ấy. Cách vài trăm năm về trước có một vị vua hiệu là Ma hê la củ la (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Tộc) đóng đô trị vì tại thành đó. Vua đến Ấn Độ, tất có tài trí, tánh khí mạnh mẽ, các nước lân cận không ai chẳng thần phục. Những lúc công việc rãnh rỗi, vua muốn tập học Phật pháp, khiến trong chúng tăng suy cử một vị tài đức.

Khi ấy trong chúng tăng không một ai dám ứng mạng, phần nhiều đều là ít muốn vô vi, chẳng mong cầu tiếng tăm trọng vọng, học rộng cao minh có sợ oai nghiêm. Khi ấy có một vị là đứa nhỏ xưa trước trong nhà vua, xuất gia đã lâu, có khả năng văn từ biện luận thanh nhã, nói bàn sáng suốt, chúng tăng cùng suy cử vị ấy ứng mạng. Vua bảo: "Ta kính trọng Phật pháp, xa đến hỏi các bậc danh tăng, mà chúng tăng suy cử kẻ tôi tớ này cùng ta đàm luận. Và thường cho đó là bậc hiền minh sánh ngang vai trong chúng tăng, lấy đó mà biết đâu có gì đáng kính ư?". Khi ấy vua bèn ban tuyên lệnh khắp năm nước xứ Ấn Độ nối dõi Phật pháp thảy đều hủy diệt. Tăng chúng xua đuổi tất cả không để sót lại một vị nào.

Bấy giờ tại nước Ma Yết Đà, có vua Bà La A Điệt Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Ấu Nhật) rất sùng kính Phật pháp, mến thương dân chúng, vì vua Đại tộc sử dụng chánh sách trái nghịch luật hình quá ác, nên vua Ấu Nhật tự giữ cương trường chẳng kính trọng chức cống. Khi đó, vua Đại Tộc dẫn binh lính sang đánh. Vua Ấu Nhật nghe tiếng tăm đó, bèn bảo cùng quan thần rằng: "Nay nghe có giặc cướp đến, ta chẳng nhẫn đánh đấu với binh lính ấy, mong các người liệu thứ tha cho chớ bắt tội. Ban cho tấm thân mỏng manh này ngầm ẩn nơi đầm cỏ". Nói lời ấy xong, vua bèn ra khỏi cung men nương theo núi đồng. Dân chúng trong nước kính mộ cảm ân cùng đi theo có hơn vài vạn người, nương náu ẩn trốn nơi đảo biển. Vua Đại Tộc đem binh lính nước nhà giao cho người em và từ mình trôi nổi bằng đường biển sang đánh. Vua Ấu Nhật trấn giữ nơi hiểm nguy, rong cưỡi dẫn dụ khiêu chiến. Trống vàng đến lúc giáng động, binh lính kỳ đặc từ bốn phía nổi dậy, bắt sống vua Đại Tộc, trở lại dẫn ra. Vua Đại Tộc hỗ thẹn mất đạo bèn đem áo che phủ mặt. Vua Ấu Nhật ngồi nơi tòa giường sư tử các quan thần bao bọc chung quanh. Vua mới bảo thị thần nói cùng vua Đại Tộc rằng: "Ông hãy phô bày mặt ra, tôi muốn có đôi lời với ông". Vua Đại Tộc đáp rằng: "Tớ và chủ khác ngôi vị, oán địch cùng trông nhìn nhau, đã chẳng phải là giao hảo, sao phải cần đối mặt đàm nói". Vài ba phen vua Ấu Nhật bảo mở bày nhưng vua Đại Tộc trọn chẳng vâng mạng. Khi ấy vua tuyên lệnh nói về tội vua Đại Tộc là: "Tam bảo là ruộng phước, cả bốn loài chúng sinh thảy nương nhờ. Cẩu thả theo tính lang sói phá hủy thắng nghiệp, phước chẳng hổ giúp ngươi nên bị bắt đến nơi ta. Tội không thể tha nên theo luật xử hình". Khi ấy mẹ của vua Ấu Nhật là người nghe rộng hiểu biết nhiều, khéo thấu đạt chiêm tướng, nghe giết vua Đại Tộc, nên vội bảo cùng vua Ấu Nhật rằng: "Ta từng nghe vua Đại Tộc dáng dấp kỳ đặc lắm nhiều trí mưu, nên muốn một lần được thấy khuôn mặt đó". Vua Ấu Nhật vâng lệnh, dẫn vua Đại Tộc đến trong cung của mẹ. Mẹ của Ấu Nhật bảo rằng: "Than ôi! Đại Tộc! Mong chớ nên xấu hỗ vậy, thế gian là vô thường, vinh nhục là chuyện đổi thay. Tôi đây như mẹ của ngươi, ngươi như con của tôi, nên cởi bỏ áo che cùng nói một lời đối mặt". Đại Tộc nói: "Xưa kia làm vua nước địch, ngày nay làm kẻ nghịch tù, phế nát vương vị, diệt mất tông tự. Trên thẹn với tiên linh, dưới hỗ với dân thứ. Thật xấu hỗ mặt mắt, cúi ngưỡng với đất trời, chẳng giằng nổi sự tự tan mất nên che phủ áo như vậy". Mẹ vua Ấu Nhật bảo rằng: "Hưng phế tùy thời, còn mất có vận. Đem tâm đặt để ngang bằng tâm thì khen chê nỗi lại. Nên tin nghiệp báo cùng thời đổi thay. Nên cởi bỏ áo che cùng đối diện nói bàn, hoặc có thể còn được thân mạng". Đại Tộc cảm tạ nói rằng: "Cẩu thả đem sự bất tài tiếp ứng vương nghiệp, sử dụng chánh sách luật hình trái đạo, vận nước diệt mất. Tuy ở trong gông cùm trói buộc, nhưng vẫn còn tham mạng sống trong sớm chiều. Xin vâng thừa khí hòa của trời đất mà đối mặt cảm tạ ân sâu". Khi đó liền cởi bỏ áo che để lộ bày mặt. Mẹ vua Ấu Nhật bảo rằng: "Ông nên tự vui mừng sẽ được trọn thọ mạng của ông". Và bà bảo cùng vua Ấu Nhật rằng: "Phép tắc xưa trước có răn dạy rộng thứ cho kẻ tội quả là khéo sống. Nay vua Đại Tộc tuy tích chứa tội ác lâu nhiều nhưng phước thừa chưa hết. Nếu giết người này trong vòng 12 năm sắc thái sẽ cùng thâu gần, nhưng có khi trung hưng, trọn chẳng là vua của nước lớn. Nên cho đến ở phương bắc nơi có đất của nước nhỏ". Vua Ấu Nhật vâng thừa mạng lệnh của từ mẫu, xót thương cho vị vua mất nước, bèn đem con gái nhỏ gã cho và dùng lễ ưu đặc mà đãi tiếp. Tất cả binh lính để lại và các vệ tùng khi chưa ra khỏi đảo biển, em của vua Đại Tộc trở về lại nước nhà tự lập, nên vua Đại Tộc mất ngôi vị, bèn ẩn trốn giữa chốn rừng hoang. Men theo hướng bắc đến nước Ca Thấp Di La, vua nước Ca Thấp Di La lại ban thêm cho lễ mạng, xót thương vì mất nước nên cấp đất phong cho vua Đại Tộc. Năm tháng trải qua đã lâu, Đại Tộc cầm dẫn người dân ấp đó trở lại giết hại vua nước Ca Thấp Di La mà tự tôn lập. Nương nhân oai phong chiến thắng ấy bèn men đến hướng tây đánh chiếm nước Kiện Đà La, ngầm phục binh giáp bèn giết được vua nước đó. Và đối với quốc tộc đại thần đều giết hại hết, phá hủy những ngôi Tốt-đổ-ba và Tăng-già lam có cả thảy 1600 ngôi. Ngoài binh lính đã giết hại ra, còn có đến chín ức người, vua Đại Tộc đều muốn giết hết không để sót một ai. Bấy giờ các hàng phụ tá đều đến can ngăn rằng: "Đại vương oai thế nhiếp phục giặc địch hùng mạnh, còn binh lính chẳng dao khua bén nhọn, chỉ nên giết kẻ ác cầm đầu, muôn dân đâu có lỗi gì, chúng tôi xin đem tấm thân mảnh mai này thay thế chịu chết đó". Vua Đại Tộc bảo: "Các ông tin theo Phật pháp, sùng trọng minh phước, phỏng nghĩ muốn thành Phật quả rộng giảng nói về bản sinh, muốn rao bày ta xấu ác cho đời sau ư? Các ông nên trở về vị trí của mình chớ có nói thêm lời nào nữa". Khi ấy, vua Đại Tộc đem ba ức người thuộc giòng tộc bậc thượng đến nơi bờ sông Tín Độ mà giết chết, đem ba ức người thuộc giòng tộc bậc trung thả chìm giữa dòng sông Tín Độ giết chết, còn ba ức người thuộc giòng tộc bậc hạ phân cấp cho binh lính. Và mang của cải của người mất nước mà trở về. Sau đó không lâu, chưa qua năm khác thì vua Đại Tộc qua đời. Khi đó mây móc phủ trùm mờ tối, quả đất chấn động, gió bão đua nhau nỗi dậy. Có người đã chứng quả Thánh xót thương đó mà than rằng: "Giết oan uổng người không tội, hủy diệt Phật pháp nên phải đọa vào ngục vô gián, sẽ bị lưu chuyển không thời nghỉ".

Trong thành Xà Yết La xưa cũ có một ngôi tăng già lam, chư tăng có hơn trăm vị ở đó đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Xưa kia Bồ-tát Thế Thân ở trong đó chế tác luận "Thắng Nghĩa Đề". Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước, là nơi bốn đức Phật thời quá khứ ở đó giảng nói pháp, lại có di tích của bốn đức Phật kinh hành. Từ ngôi già lam ấy theo hướng tây bắc cách khoảng 5-6 dặm có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng. Đó là nơi bốn đức Phật thời quá khứ giảng nói pháp.

Từ đô thành mới theo hướng đông bắc đi hơn

10 dặm đến một ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai sang phương bắc hành hóa đến đó dừng nghỉ giữa đường. Theo "Ấn Độ ký" nói là trong ngôi Tốt-đổ-ba đó có lắm nhiều xá lợi. Hoặc có lúc vào những ngày trai từng tỏa phóng ánh sáng.

Từ đó theo hướng đông đi hơn 500 dặm đến nước Chí Na Bộc Để (thuộc Bắc Ấn Độ).

2. NƯỚC CHỈ NA BỘC ĐỂ.

Nước Chỉ Na Bộc Để chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm. Lúa thóc rất đượm nhuận tươi tốt mà trái cây sơ sài. Sắp xếp quanh nhà an nghiệp, nước dùng đầy đủ, khí hậu ấm nóng, phong tục nhút nhát, học gồm cả chân tục, tin lẫn chánh tà. Có 10 ngôi già lam, 8 ngôi đền thờ trời.

Xưa kia, vua Ca Nị Sắc Ca đang trị vì thiên hạ, tiếng tăm vang động khắp các nước láng giềng, oai đức trùm khắp các dị tộc. Nên các xứ Hà Tây Phiên Duy kính sợ oai phong ấy bèn dâng giao con tin. Vua Ca Nị Sắc Ca đã có được các con tin bèn đãi ngộ nồng hậu, theo thời tiết ba mùa mà thay đổi quân, có bốn binh chủng canh phòng cận vệ. Tại nước đó tức nơi ở trong mùa đông của vua, nên gọi là nước Chí Na Bộc Để (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hán Phong). Các con tin ở đó nên nhân vậy mà làm quốc hiệu. Từ cảnh vức ấy đến các nước xứ Ấn Độ, đất đai vốn không có giống cây lê, đào, do các con tin trồng nên, do đó mà gọi là đào "chí na nhĩ" (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hán trì lai), gọi lê là "chỉ na la xà phất đát la" (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hán Vương Tử). Nên người nước đó rất kính trọng Đông Độ (Trung Hoa), lại cùng nói với nhau là "Tiên vương chúng ta vốn người nước đó".

Từ thành lớn theo hướng đông nam đi hơn 500 dặm đến ngôi Tăng-già lam tên là "Đáp mạt tô phạt na" (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Xà Lâm), chư tăng có hơn 300 vị, tập học theo thuyết nhất thiết hữu bộ, oai nghi chỉnh túc, đức hạnh thanh cao. Những vị học theo Tiểu thừa đặc biệt lấy đó làm nghiên cứu rộng. Ngàn đức Phật trong thời Hiền kiếp đều ở tại xứ đó nhóm tập các chúng trời người mà giảng nói diệu pháp sâu mầu. Sau khi đức Thích-ca Như Lai nhập niết bàn trong trăm năm thứ ba, có luận sư Ca Đa Diễn Na (xưa trước gọi là Ca Chiên Diên, tức sai nhầm vậy) ở tại xứ đó chế tác luận "Phát trí" vậy.

Trong già lam Xà Lâm có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng. Bên cạnh đó có vết tích còn lại của bốn đức Phật ở thời quá khứ thiền tọa và kinh thành. Có những ngôi Tốtđổ-ba nhỏ và các thạch thất lớn sắp bày thứ lớp cùng đối nhau, chẳng thể thuật rõ hết số lượng đó. Và từ kiếp sơ trở lại những vị đã chứng đắc quả Thánh thị tịch tại đó khó thể nêu bày đầy đủ, răng cốt vẫn hiện còn. Các ngôi già lam bao bọc quanh núi chu vi rộng đến 20 dặm. Những ngôi Tốt-đổba tôn thờ xá lợi Phật có đến trăm ngàn ngôi, liền góc tiếp ảnh lẫn nhau.

Từ đó theo hướng đông bắc đi khoảng 40-50 dặm đến nước Xà Lạn Đạt La (thuộc Bắc Ấn Độ).

3. NƯỚC XÀ LẠN ĐẠT LA.

Nước Xà Lan Đạt La từ đông sang tây dài hơn ngàn dặm, từ nam đến bắc rộng hơn 800 dặm. Đô thành của nước đó chu vi rộng khoảng 12-13 dặm. Đất đai thích nghi với lúa thóc, có nhiều lúa canh lúa giê, cây rừng sơ sài, hoa quả rất tươi tốt. Khí hậu ấm nóng, phong tục cứng mạnh, con người dung mạo xấu xí, nhà cửa giàu sang. Có hơn 50 ngôi già lam, chư tăng có hơn 2000 vị, đối với giáo pháp đại thừa Tiểu thừa đều chuyên môn tập học. Có ba ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo có hơn 500 vị đều là chúng bạn bôi than tro bụi vào mình. Tiên vương của nước đó rất sùng kính ngoại đạo, về sau gặp được vị A-la-hán, được nghe giáo pháp mà tỏ ngộ, nên tại Trung Ấn Độ các vua rất hiểu sự thuần tín ấy. Mọi việc của Tam bảo ở năm nước Ấn Độ, vua đều trông coi tất cả, lẫn lộn cả đây kia, quên mất mọi thương ghét, đốc xét chư tăng, khéo thấu cùng mọi sự trong sạch hay tà vọng. Nên đối với những vị đạo đức vang vọng, vua hết lòng chí thành kính ngưỡng. Với người giới hạnh khuyết phạm thì vua trách phạt nặng nề. Những nơi Thánh tích vua đều xây dựng tán thán, hoặc là Tốt-đổ-ba, hoặc là Tăng-già lam. Khắp trong cảnh vức Ấn Độ, không nơi đâu vua chẳng khắp cùng.

Từ đó theo hướng đông bắc vượt qua núi non cao vợi, băng lội hang động, dẫm trải đường sá hiểm nguy, đi hơn 700 dặm đến nước Khuất Lộ Đa (thuộc Bắc Ấn Độ).

4. NƯỚC KHUẤT LỘ ĐA.

Nước Khuất Lộ Đa chu vi rộng hơn 3000 dặm, núi non bao bọc bốn phía. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm, đất đai màu mỡ, lúa thóc gieo trồng thời vụ, hoa quả tươi tốt, cỏ cây xanh tươi. Đã gần núi tuyết bèn có nhiều thuốc quý, là nơi sản sinh các thứ vàng, bạc, đồng đỏ, than đá. Khí hậu dần lạnh, sương tuyết hay đổ, con người dáng mạo thô xấu, đã mắc bứu lại thủng. Tánh khí mạnh mẽ, mến chuộng nghĩa dõng. Có hơn 20 ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị, phần nhiều tập học theo giáo pháp đại thừa, ít tập học các bộ. Có hơn 15 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn, nương hang núi tựa đảnh núi có nhiều thạch thất nối liền nhau, hoặc là nơi các vị A-la-hán ở hoặc là nơi các tiên nhân đến dừng nghỉ. Trong nước đó có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo lập. Xưa kia đức Như Lai từng đến nước đó giảng nói pháp, hóa độ người, di tích hiện ghi chép tại đó.

Từ đó theo hướng bắc đi khoảng 1800-1900 dặm bằng đường sá hiểm nguy vượt núi băng hang, đến nước Lạc Hộ La. Từ đó lại theo hướng bắc đi hơn 2000 dặm, qua đường sá gian nan hiểm trở gió lạnh tuyết bay mới đến nước Mạt La Sa (cũng còn gọi là nước Tam Sa Ha).

Từ nước Khuất Lô Đa theo hướng nam đi hơn 700 dặm, vượt qua núi lớn và sông lớn, đến nước Thiết Đa Đồ Lô (thuộc Bắc Ấn Độ).

5. NƯỚC THIẾT ĐA ĐỒ LÔ.

Nước Thiết Đa Đồ Lô chu vi rộng hơn 2000 dặm, phía tây gần sông lớn, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 17-18 dặm, là nơi lúa thóc lắm nhiều, hoa quả tươi tốt, có nhiều vàng, bạc, châu ngọc, vật quý. Dân chúng ăn mặc tốt đẹp. Con người tánh khí thuần thiện, trên dưới có thứ lớp, thuần tín Phật pháp, tâm lành kính thật. Trong ngoài vương thành có 10 ngôi già lam, sân nhà đều hoang tàn vắng vẻ, chư tăng hiếm ít. Từ thành về phía đông nam cách khoảng 3-4 dặm, có ngôi Tốtđổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo lập. Bên cạnh đó là nơi có vết tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Lại từ đó, theo hướng tây nam đi hơn 800 dặm đến nước Ba Lý Dạ Đát La (thuộc Trung Ấn Độ).

6. NƯỚC BA LÝ DẠ ĐÁT ĐA.

Nước Ba Lý Dạ Đát Đa chu vi rộng hơn 3000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm. Đất đai thích nghi với lúa thóc, có lắm nhiều lúa tẻ, có giống lúa giê khác lạ chỉ gieo trồng 60 ngày là thu hoạch. Có lắm nhiều trâu dê, ít hoa quả, khí hậu nắng nóng, phong tục cứng mạnh, chẳng chuộng học nghề, tin kính ngoại đạo. Vua nước đó thuộc chủng tộc Phệ Xả, tánh khí cứng rắn lắm nhiều võ lược. Có 8 ngôi già lam hủy hoại đã rất lắm, tăng chúng hiếm ít đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có hơn 10 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo có hơn ngàn vị, từ đó, theo hướng đông đi hơn 500 dặm đến nước Mạt Thế La (thuộc Trung Ấn Độ).

7. NƯỚC MẠT THẾ LA.

Nước Mạt Thế La chu vi rộng hơn 5000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Đất đai màu mỡ, lúa thóc gieo gặt theo vụ. Giống cây quả Am mật la mọi nhà đều trồng thành rừng, tuy đồng một tên gọi mà có hai loại: loại nhỏ lúc sống màu xanh, lúc chín màu vàng, loại lớn sống chín đều màu xanh. Là nơi sản sinh bông tơ lan lỗ nhỏ mịn, và vàng ròng, khí hậu nắng nóng, phong tục thuần thiện, ưa thích tu tạo ninh phước, rất sùng đức, chuộng học. Có hơn 20 ngôi già lam, chư tăng có hơn 2000 vị, đối với giáo pháp đại thừa và Tiểu thừa đều dốc công tu tập. Có năm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Có ba ngôi Tốt-đổ-ba đều do vua Vô Ưu tạo dựng. Di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tại nước đó thật lắm nhiều. Có những ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ di thân của các Thánh đệ tử đức Thích-ca Như Lai, như là xá lợi tử (xưa trước gọi là xá lê tử, còn gọi là xá lợi phất, đều là lược gọi sai nhầm vậy). Một Đặc già la tử (xưa trước gọi là Mục-kiền-liên tức sai nhầm vậy). Bố thí noa mai đát lệ diễn ni phất đát la (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Mãn Từ Tử, xưa trước gọi là Di Đa-la ni tử, đều là lược gọi sai nhầm vậy). Ổ Ba Ly A-nan đà, La hổ la (xưa trước gọi là La hầu la, còn gọi là La Vân, đều là lược gọi sai nhầm vật). Và Tốt-đổ-ba tôn thờ như vị Bồ-tát, như Mạn-thù-thất-lợi (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Diệu Cát Tường, xưa trước gọi là Mãn Thủ, lại còn gọi là Văn-thù-sư-lợi, hay gọi là Mạn thù thí lợi, dịch nghĩa là Diệu Đức, đều là sai nhầm vậy). Mỗi năm, vào 3 tháng trường trai, và 6 ngày trai trong mỗi tháng, chư tăng cùng nhau đồng ưa thích mang mọi vật đến thiết bày cúng dường, tùy chỗ chính mà thiết đặt tôn tượng, như chúng chuyên học tập A-tỳ-đạt-ma thì cúng dường tôn giả Xá Lợi Tử, chúng chuyên tập hành thiền định thì cúng dường tôn giả Một Đặc Già La Tử, chúng chuyên trì tụng kinh thì cúng dường tôn giả Mãn Từ Tử, chúng chuyên tập học Tỳ-nại-da thì cúng dường tôn giả ở Ba Ly, các Bí Sô Ni thì cúng dường tôn giả A-nan. Các vị chưa thọ giới cụ túc (sa di) thì cúng dường tôn giả La Hổ La, chúng chuyên học tập giáo pháp đại thừa thì cúng dường chư vị Bồ-tát. Ngày đó, tại các ngôi Tốt-đổ-ba có lắm nhiều người đua nhau tu tạo cúng dường, phan ngọc trải bày, lọng báu dàn lưới, khói hương như mây, hoa rải như mưa, che khuất cả mặt nhật nguyệt, chấn động tỏa cùng các khe hang. Các hàng quốc vương, đại thần chuyên tu lo tạo phước thiện. Từ thành về hướng đông đi khoảng 5-6 dặm đến một quả núi làm ngôi già lam, men theo bờ sườn làm phòng thất, mượn hang cốc làm cửa do tôn giả Ổ Ba Cúc Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là gọi là Câu Hộ) tạo dựng nên, bên trong đó có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ móng tay của đức Như Lai.

Có một ngôi Già Lam ở phía bắc nằm trong núi có nhiều phòng bằng đá cao hơn 20 thước, chiều dài hơn 30 thước. Cứ 4 tấc, có một tấm thẻ, làm dấu nơi Ngài Cận Hộ (Ưu Ba Cúc Đa) thuyết pháp và hóa độ cho một cặp vợ chồng. Họ đã chướng quả A La Hán. Cứ cách một thẻ thì có những phòng khác, có tộc khác, tuy có chứng cớ; nhưng không ghi gì cả.

Từ ngôi già lam ấy theo hướng đông nam đi khoảng 24-25 dặm đến một ao rỗng lớn, bên cạnh có ngôi Tốt-đổ-ba. Là nơi xưa kia đức Như Lai kinh hành tại đó, khi ấy có con Nhĩ Hầu bưng mật đến dâng cúng Phật, đức Phật bảo hòa với nước để cúng dường cả đại chúng. Con Nhĩ Hầu ấy vui mừng nhảy nhót, bị rớt xuống hầm hố mà chết, nhờ phước lực đó mà sinh trong cõi người.

Từ ao ấy về phía bắc cách không xa vào trong rừng lớn có vết tích còn lại của bốn đức Phật thời quá khứ kinh hành. Bên cạnh đó có nơi xưa kia tôn giả Xá Lợi Tử, Một Đặc Già La Tử, v.v... cả thảy có 1250 vị đại A-la-hán tập hành thiền định đều có tạo dựng những ngôi Tốt-đổ-ba và ghi chép lại di tích. Xưa kia, khi còn tại thế, đức Như Lai từng đến nước đó, những nơi đức Phật giảng nói pháp đều có tạo dựng Tốt-đổ-ba.

Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn 500 dặm đến nước Tát Tha Nê Thấp Phạt La (thuộc Trung Ấn Độ).

8. 8-NƯỚC TÁT THA NÊ THẤP PHẠT LA.

Nước Tát Tha Nê Thấp Phạt La chu vi rộng hơn 700 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Đất đai mầu mỡ, lúa thóc rất lắm nhiều, khí hậu ấm nóng, phong tục khinh bạc, nhà cửa giàu sang, đua nhau xa xỉ, rất thông rành về huyễn thuật, cao chuộng tài năng khác lạ, phần nhiều đuổi theo danh lợi, hiếm ít người chuyên việc nông phu. Của vật quý lạ ở các phương khác phần nhiều đều tích tụ tại nước đó. Có ba ngôi già lam, chư tăng có hơn 700 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có hơn trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo rất đông nhiều.

Bốn phía thành lớn chu vi trong vòng 200 dặm, mọi người ở xứ đó đều cho đó là Phước địa. Nghe các bậc lão thành kể là: xưa trước cả năm nước Ấn Độ, có hai vị vua phân chia nhau trị vì, nên cảnh vức đất đai xâm chiếm lẫn nhau, chiến tranh không ngưng dứt. Hai chúa cùng mưu tính, muốn quyết liệt bằng binh chiến, để phân định trống mái, để an bình dân tộc, song dân chúng đều thán oán chẳng tuân theo quân mạng. Vua cho là chúng đông nhiều khó cùng lo trước vậy, sức thần có thể cảm động vật, quyền xảo có thể lập nên công. Bấy giờ có một vị phạm chí vốn biết tài cao, mới kín mang bó lụa, bảo đem vào sân sau, tạo tác pháp thư, đem cất giấu nơi hang ở đảnh núi cao. Trải qua năm tháng đã lâu, cây cối lợp bao quanh, vua ngồi nơi triều, bảo cùng các quan thần rằng: "Tôi là kẻ không đức, nhục ở ngôi vị cao, Thiện đế giũ thương soi chiếu, mộng ban cho linh thư, nay hiện ở núi... ấy, cất giấu tại hang đảnh... ấy". Và khi ấy, vua ban lệnh đi tìm kiếm, có được thư ở dưới núi rừng, các quan đều tán thán, dân chúng đồng mừng vui, tuyên bày khắp xa gần khiến mọi người đều được nghe thấy. Đại khái pháp thư ấy viết rằng: "Phàm, sống chết không bờ mé, lưu chuyển chẳng cùng, mọi loài đều chìm đắm chẳng do đâu để tự cứu. Ta đem mưu chước kỳ đặc khiến đều lìa các khổ. Nay vương thành đây chu vi rộng 20 dặm, là chốn đất phước lợi của các đời vua xưa trước, năm tháng đã xa xôi, minh ký đều hư hoại. Các sinh linh không tỏ ngộ bèn chìm đắm trong biển khổ. Đắm chìm mà không cứu vớt, nghĩa là thế nào ư? Các ngươi, loài hàm thức vào chiến địch, binh lính chết được sinh trong loài người, phần nhiều giết hại không tội lệ nên hưởng phước lạc cõi trời. Con cháu hiếu thuận đỡ nâng tôn thân già yếu đến xứ này được phước vô cùng. Công ít mà phước nhiều, đâu là mất lợi. Một khi đã mất thân người, mịt mờ trong ba đường. Cho nên các loài hàm sinh mới nên chuyên tu tịnh nghiệp!". Khi ấy mọi người đều nhóm tập binh chiến, trông xem sự chết như trở về. Vua bèn hạ lệnh, chiêu mộ các người hùng dũng, hai nước cùng đánh nhau, người chết như cỏ, mãi đến ngày nay hài cốt vẫn còn vung vãi khắp đồng hoang. Thời gian đã xa xưa, hài cốt con người to lớn. Trong nước có phong tục tương truyền gọi là "Đất Phước".

Từ thành theo hướng tây bắc cách khoảng 4-5 dặm, có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, gạch xây toàn sắc màu vàng đỏ sáng sạch, bên trong có một đấu xá lợi của đức Như Lai thường luôn tỏa phóng ánh sáng, vết tích thần linh thật có lắm mối.

Từ thành theo hướng nam đi hơn trăm dặm đến ngôi Tăng-già lam tên là Câu hôn trà, trùng các liền rui, lầu tầng cao vợi, chư tăng thanh tịnh chỉnh túc, oai nghi nhàn nhã. Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn 400 dặm đến nước Tốt Lộc Cần Na (thuộc Trung Ấn Độ).

9. NƯỚC TẤT LỘC CẦN NA.

Nước Tất Lộc Cần Na chu vi rộng hơn 6000 dặm, phía đông gần sông Khắc Già, phía bắc gối lưng núi lớn, cảnh vức nằm trong sông Diêm-mâu Na mà xuôi dòng. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, phía đông gần đến sông Diêm Mâu Na, cảnh đất hoang vắng tuy nền móng vẫn còn bền bỉ. Mọi thứ do đất đai sản sinh cũng như thích nghi của phong khí đều đồng như ở nước Tát Tha Nê Thấp Phạt La. Con người tánh khí thuần chất, tôn sùng kính tin ngoại đạo, quý học nghề, chuộng phước tuệ, có năm ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị, phần nhiều đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa, ít học các bộ phái khác, đắn đo xác thực lời huyền, thỉnh cầu bàn luận sâu mầu, nên những bậc tài giỏi ở các phương khác tầm luận xét nghi. Có trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo rất đông nhiều. Giữa khoảng phía đông nam thành lớn, thuộc phía tây của sông Đổ Ba do vua Vô Ưu tạo dựng, xưa kia đức Như Lai từng đến nơi đó giảng nói pháp hóa độ người. Bên cạnh đó lại có một ngôi Tốt-đổ-ba, bên trong có tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Và các ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay của các vị A-la-hán như tôn giả Xá Lợi Tử, Một Đặc Già La, v.v..., bao bọc chung quanh đó có hơn vài mươi ngôi. Sau khi đức Như Lai tịch diệt, nước ấy bị các ngoại đạo lừa dối khiến tin nhận theo tà pháp, phế tổn chánh kiến. Nay hiện có năm ngôi già lam là nơi các luận sư người nước khác cùng các ngoại đạo và Bà-la-môn luận bàn thắng nghĩa, nhân đó mà tạo dựng.

Từ sông Diêm-mâu Na theo hướng đông đi hơn 800 dặm đến sông Khắc Già, từ đầu nguồn sông rộng khoảng 3-4 dặm xuôi dòng theo hướng đông nam chảy vào biển, nơi rộng khoảng hơn 10 dặm, sắc nước xanh trong, sóng vỗ tràn bờ, linh quái lắm nhiều nhưng chẳng làm hại vật, mùi vị nước ngọt ngon, cát mịn chảy theo dòng, sách vở tập tục xứ đó gọi là dòng sông nước phước. Người có tội tuy tích chứa lắm nhiều nhưng tắm gội bèn được trừ ít. Người xem thường mạng sống mà tự đắm chìm hẳn được sinh lênh cõi trời hưởng thọ phước lạc. Người đã chết mà ném thi hài xuống sông đó hẳn chẳng bị sa đọa vào ác thú. Người vẫy sóng khơi nguồn thì vong hồn người thân đã qua đời được cứu tế. Bấy giờ có Bồ-tát Đề Bà người nước Chấp Sư Tử là bậc rất thấu đạt thật tướng, chứng đắc các pháp tánh, xót thương các hàng ngu phu nên đến đó dẫn dụ. Đang lúc ấy các hàng sĩ nữ đều nhóm tụ, già trẻ rất đông nhiều đến nơi bờ sông vẫy sóng khơi nguồn, Bồ-tát Đề Bà cùng chung với họ mà cúi đầu khơi ngược lại, tướng trạng khác hẳn mọi người. Có vị ngoại đạo bảo rằng: "Con tôi ới! Sao làm lạ vậy?". Bồ-tát Đề Bà đáp rằng: "Cha mẹ thân thích của tôi vốn ở nước Chấp Sư Tử, vì sợ khổ đói khát nên tôi mong cầu từ nơi xa đây cứu tế". Các vị ngoại đạo bảo rằng: "Con tôi ơi sai nhầm quá vậy! Sao không nghĩ lại mà làm như vậy? Nhà ở nước xa cách núi sông ngàn trùng xa vợi. Khơi vẫy nước ở đây để cấp giúp ở kia đói khát, đó giống như bỏ hàng để tìm cầu trước, và chẳng phải chỗ nghe vậy". Bồ-tát Đề Bà bảo rằng: "Những người ở trong đường tăm tối tội khổ chồng chất còn mong nhờ được nước sông này. Còn đây, núi sông tuy hiểm trở, nhưng cớ sao chẳng thể cứu giúp được?". Khi ấy các vị ngoại đạo biết khó thể nhiếp phục Bồ-tát Đề Bà nên bỏ tà kiến, thọ học chánh pháp, cải đổi lỗi quá tự làm mới cuộc đời, phát nguyện vâng phụng lời chỉ dạy của Bồ-tát Đề Bà.

Từ đó vượt qua bờ phía đông của sông, đến nước Mạt Để Bổ La (thuộc Trung Ấn Độ).

10. NƯỚC MẠT ĐỂ BỔ LA.

Nước Mạt Để Bổ La chu vi rộng hơn 6 ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Đất đai thích nghi với lúa thóc, lúa tẻ, lắm nhiều hoa quả. Khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất. Con người sùng chuộng học nghề, rất thấu đạt về cấm chú. Hạng người kính tin cả tà lẫn chánh số đó có một nửa. Vua nước đó vốn chủng tộc Thú Đà La, không tin Phật pháp, kính thờ trời thần. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn 800 vị, phần nhiều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn.

Từ thành lớn theo hướng nam đi khoảng 4-5 dặm đến một ngôi già lam nhỏ, chư tăng có hơn 50 vị. Xưa kia luận sư Cù Noa Bát Thích Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đức Quang) ở tại đó trước tác luận Biện Chân, v.v..., cả thảy có hơn trăm bộ. Luận sư ở tuổi thiếu thời là bậc anh kiệt, đến lúc trưởng thành rộng thông nhanh nhẹn, hiểu rành mọi vật, nhận biết lắm nhiều, học rộng nghe nhiều, vốn tập học theo giáo pháp đại thừa mà chưa thấu cùng huyền áo, nhân đọc xem luận "Tỳ-bà-sa" thối lui mà học theo giáo pháp Tiểu thừa, trước tác vài mươi bộ luận, chống phá kỷ cương của đại thừa, thành chấp trước Tiểu thừa, lại trước tác hơn vài mươi bộ sách thế tục, chẳng bài xích điển luận của các bậc tiền bối trước thuộc, lắng ngầm tư duy trong kinh Phật có hàng chục điều chẳng quyết sạch, tinh tường nghiên cứu tuy lâu dài mà nghi tình vẫn chưa trừ sạch. Bấy giờ có A-la-hán Đề Bà Tê Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiên Quân) thường lên xuống nơi cung trời Đổ Sư Đa. Luận sư Đức Quang (Cù Noa Bát Thích Bà) nguyện muốn được gặp đức Từ Thị để dứt quyết điều nghi, nên thỉnh cầu A-la-hán Thiên Quân vận dụng sức thần thông dẫn đưa lên cung trời. Khi đã thấy gặp đức Từ Thị, mà chỉ đứng vái chẳng kính lễ. A-la-hán Thiên Quân bảo rằng: "Bồ-tát Từ Thị sắp tiếp nối quả vị Phật, cớ sao ông dám tự cao chẳng chí kính? Muốn thọ học cớ sao lại chẳng khuất phục?". Luận sư Đức Quang nói rằng: "Lời nói của tôn giả thật là sự dạy răn, nhưng mà tôi đây là đệ tử xuất gia đã đầy đủ giới pháp Bí Sô. Bồ-tát Từ Thị hưởng thọ phước lạc cõi trời, chẳng phải đồng bạn của người xuất gia. Mà muốn đảnh lễ sợ chẳng hợp nghi". Bồ-tát Từ Thị biết luận sư Đức Quang mang tâm ngã mạn nên chẳng phải khí cụ nghe nhận giáo pháp. Do đó dẫu qua lại ba phen mà chẳng được quyết nghi. Lại cầu thỉnh A-la-hán Thiên Quân trở lại muốn hầu lễ. A-la-hán

Thiên Quân ghét tâm ngã mạn ấy nên khinh miệt chẳng đối đáp. Luận sư Đức Quang đã không toại nguyện, bèn khởi sân hận, đến nơi núi rừng tập tu pháp định phát thông, nhưng vì tâm ngã mạn chưa trừ nên không chứng đắc đạo quả.

Từ ngôi già lam luận sư Đức Quang ở theo hướng bắc đi khoảng 3-4 dặm, có một ngôi già lam lớn, chư tăng có hơn 200 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Đó là nơi luận sư Chúng Hiền thị tịch vậy. Luận sư Chúng Hiền vốn là người Ca Thấp Di La, là người thông mẫn bác đạt, từ thuở nhỏ tiếng tăm đã vang vọng, đặc biệt nghiên cứu thâm sâu về luận "Tỳ-bà-sa" thuyết nhất thiết hữu bộ. Bấy giờ có Bồ-tát Thế Thân là bậc nhất tâm huyền đạo, cầu hiểu ngoài ngôn từ, trước thuật luận A-tỳ-đạt-ma câu xá phá xích điều chấp của các luận sư chuyên nghiệp Tỳ-bà-sa, ngôn từ ý nghĩa khéo léo, lý mầu thấu đạt thanh cao. Luận sư Chúng Hiền lén trộm xem bèn có điểm tâm đắc, từ đó ngầm nghiên cứu đến cùng suốt 12 năm, trước thuật luận "Câu xá bạc" gồm 25000 bài tụng cả thảy 80 vạn lời. Và cho đó là ngôn từ sâu, đặt để sâu, thấu cùng u mầu, suốt đạt vi diệu, mà bảo cùng môn nhân đệ tử rằng: "đem tài của ta, dùng luận chánh của ta để bài xích Thế Thân, bẻ gãy sức bén nhọn ấy, không để lão già suy ấy riêng chiếm nêu danh trước. Khi đó có 3-4 vị tài giỏi đệ tử của luận sư Chúng Hiền mang luận ấy đến phỏng hỏi Bồ-tát Thế Thân. Bấy giờ Bồ-tát Thế Thân đang ở tại thành Xa Yết La thuộc nước Trách Ca, từ xa vang vọng có tiếng là luận sư Chúng Hiền sắp đến. Bồtát Thế Thân nghe thế, liền chuẩn bị hành trang. Môn nhân đệ tử hoài nghi bèn đến cản ngăn rằng: "Đại sư là bậc tài cao tiên triết, tiếng tăm vang vọng ở đương thời. Các hàng học chúng xa gần không ai chẳng suy tôn kính trọng. Nay nghe luận sư Chúng Hiền đến, sao bàng hoàng gấp vội hẳn có sự hạ thấp, chúng ta thật mặt dày không biết xấu hổ". Bồ-tát Thế Thân bảo rằng: "Nay tôi đi xa chẳng phải tránh mặt ông ấy. Trông nhìn lại trong nước này, không còn có người xét xem thấu đạt, luận sư Chúng Hiền là hàng hậu tiến, dối trá biện luận như dòng chảy. Tôi đây già suy luận còn chẳng mong nổi. Muốn đem một lời để làm sụp đổ dị chấp ấy thì dẫn đến Trung Ấn Độ đối đáp cùng các bậc tài giỏi hẳn xác thực chân ngụy và rõ ràng sự được mất". Sau đó, Bồ-tát liền bảo đồ chúng mang tráp đi xa. Luận sư Chúng Hiền đến đó chỉ sau một ngày, bỗng nhiên tự cảm thấy khí lực suy yếu, bèn liền viết thư sám tạ cùng Bồ-tát Thế Thân rằng: "Sau khi đức Như Lai tịch diệt, các đệ tử phân bộ chấp chặt, truyền trao tông học của mình, mỗi tự chuyên môn. Bạn đảng thì đồng đạo mà ghét ganh bộ phái, tôi ngu đem sự mờ mịt của mình mà tạp nhạp trông xem truyền trao tập học, xem đọc luận A-tỳ-đạt-ma câu xá do Bồ-tát trước thuật để phá chấp đại nghĩa của các luận sư chuyên nghiệp Tỳ-bà-sa, liền chẳng lường sức trầm ngâm nghiên cứu nhiều năm, làm nên luận này để phò trợ chánh tông học, trí nhỏ mà mưu đồ lớn, chết sắp đến nơi. Bồ-tát tuyên dương lời huyền diệu đè nén hay xiển dương chí lý, chẳng hủy phá điều chấp, được còn di văn là điều ước mong vậy. Chết đâu gì phải hối hận ư?". Khi ấy luận sư Chúng Hiền tuyển chọn qua trong môn nhân đệ tử những vị có khả năng ngôn từ biện luận mà bảo cùng rằng: "Tôi thật là hàng hậu học mà khinh thường lấn lướt các bậc tiên đạt, mạng sống chưa biết như thế nào, ắt sẽ chết nơi đây. Các ông mang thư này và vài bộ luận tôi chế tác, đến sám tạ Bồ-tát Thế Thân, thay tôi mà tỏ bày hối quá!". Nói lời ấy xong, luận sư Chúng Hiền lắng dần mà tịch. Các môn nhân đệ tử mang thư ấy đến nói Bồ-tát Thế Thân mà trình bày rằng: "Thầy của chúng con là luận sư Chúng Hiền đã xả thọ mạng, sai bảo chúng con mang thư này đến đây tỏ bày sự trách thân và sám tạ lỗi quá. Không rơi mất danh ấy chẳng phải điều dám mong". Bồ-tát Thế Thân xem thư đọc luận ấy rồi trầm ngâm giây lâu mà bảo rằng: "Luận sư Chúng Hiền là hàng hậu tiến thông mẫn, lý tuy chẳng đủ mà lời có thừa. Nay ta muốn phá bỏ luận của Chúng Hiền như chỉ trong lòng bàn tay, nhưng trông nhìn lại sự gởi gấm lúc sắp qua đời. Ta trọng các ngôn từ biết nạn, tạm duyên đại nghĩa mà còn chí xưa đó. Huống gì luận này lại là phát minh làm tỏa sang tông của ta". Bèn vì cải đổi tựa đề là luận "Thuận chánh lý". Các môn nhân đệ tử can ngăn rằng: "Luận sư Chúng Hiền chưa qua đời, mà đại sư đã cất xa dấu vết. Nay đã có được luận ấy, lại vì đó mà sửa đổi tựa đề. Hàng hậu học chúng con mặt mũi nào mà nhận lấy hỗ thẹn?". Bồ-tát Thế Thân muốn trừ lòng nghi ngờ của đại chúng mà nói bài tụng rằng:

"Như sư tử chúa
Lánh đường heo đi
Hai sức hơn kém
Người trí nên hay".

Luận sư Chúng Hiền thị tịch rồi, thiêu đốt thi thể gom lấy hài cốt đưa đến trong rừng Am Một La cách ngôi già lam ấy hơn 200 bộ, xây dựng ngôi Tốt-đổ-ba mà tôn trí, đến nay vẫn hiện còn.

Bên cạnh rừng Am Một La có một ngôi Tốtđổ-ba tôn thờ di thân của luận sư Tỳ Mạt La Mật Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vô Cấu Hữu). Luận sư Vô Cấu Hữu vốn người nước Ca Thấp Di La, xuất gia theo thuyết nhất thiết hữu bộ. Thông rành các kinh điển, nghiên cứu các dị luận, vân du học Phật khắp năm nước Ấn Độ, tập học huyền văn tam tạng. Đến lúc danh thành nghiệp đạt, sắp trở về lại quê cũ, trên bước đường lần lượt đến nơi Tốt-đổ-ba của luận sư Chúng Hiền, vỗ về mà than rằng: "Chỉ có luận sư là người nhã lượng thanh cao, đè nén xiển dương đại nghĩa, sắp muốn dẹp phá dị bộ, lập nghĩa của bản tông, cớ sao mà tuổi lớn lại chẳng trọn? Tôi là Vô Cấu Hữu thuộc hàng tạp nhạp tiếp thừa học cuối. Tuy khác thời nhưng kính mộ cao nghĩa, cả đời không có mến mộ đức. Kia, Thế Thân tuy có qua đời nhưng tông học vẫn còn truyền. Tôi đem hết điều hiểu biết của mình sẽ chế tác các bộ luận, khiến tất cả mọi người cầu học, v.v... Ở Thiệm-bộ-châu dứt tuyệt danh xưng đại thừa, diệt mất tiếng tăm của Thế Thân, đó là không hư nát, dùng hết tâm xưa". Nói lời ấy rồi, bỗng nhiên tâm phát cuồng loạn, năm cái lưỡi đồng một lúc nổi mọc, máu nóng tuôn trào. Biết mạng sống sắp dứt, Vô Cấu Hữu mới viết thư sám hối rằng: "Phàm, đại thừa giáo là thuyết cứu cánh trong Phật pháp danh vị tuyệt hết, lý đạt sâu mầu, khinh vì ngu muội, bài xích các bậc tiền bối, nghiệp báo hiển hiện, diệt hoại thân đáng vậy. Xin báo cùng tất cả hàng môn nhân đệ tử hãy nên soi xét đây, mỗi tự thận trọng chí khí của mình, không được ôm hoài nghi ngờ". Quả đất chấn động, mạng sống luận sư Vô Cấu Hữu bèn dứt mất, và ngay chỗ qua đời đó, đất hẻm thành hố. Các đồng bạn bèn vì thiêu đốt thi thể gôm nhặt hài cốt, dựng Tốtđổ-ba để nêu bày đó. Bấy giờ có một vị A-la-hán trông thấy vậy mà than rằng: "Tiếc thay! Khổ thay! Nay luận sư này mặc tình chấp kiến ghét hủy đại thừa, hẳn sa đọa vào địa ngục vô gián vậy!".

Về cảnh vức phía tây bắc nước ấy, trên bờ phía đông sông Khắc Già có thành Ma Du La chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông đúc, dòng nước trong sạch giao dãi. Là nơi sản sinh các thứ than đá, thủy tinh, các đồ vật báu. Cách thành đó không xa, gần sông Khắc Già có một ngôi đền thờ lớn, rất lắm linh dị, bên trong có ao sắp đá làm bờ, dẫn nước từ sông Khắc Già làm bến. Người của năm nước Ấn Độ gọi đó là cửa sông Khắc Già, là nơi sinh phước diệt tội. Thường có cả trăm ngàn người từ phương xa tụ tập đến đó tắm rửa. Các vua vui thích làm việc thiện, xây dựng những ngôi nhà làm phước, có đủ các vật ngon lành, tích chừa thuốc thang, ban bố cho mọi người góa bụa, chu cấp cho người cô độc.

Từ đó theo hướng bắc, đi hơn 300 dặm đến nước Bà La Hấp Ma Bổ La (thuộc Bắc Ấn Độ).

11. NƯỚC BÀ LA HẤP MA BỔ LA.

Nước Bà La Hấp Ma Bổ La chu vi rộng hơn 4000 dặm, núi non bao bọc bốn phía. Đô thành lớn của nước đó rộng hơn 20 dặm, người ở đông đúc, nhà cửa giàu sang, đất đai màu mỡ, lúa má gieo trồng theo mùa vụ. Là nơi sản sinh các thứ than đá, thủy tinh. Khí hậu hơi lạnh, phong tục cứng mạnh, ít học nghề, phần nhiều đuổi theo lợi, con người tánh khí hung dữ, kính tin lẫn lộn vừa tà vừa chánh. Có năm ngôi già lam, chư tăng rất hiếm thiếu. Có hơn 10 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn.

Về phía bắc cảnh vức nước đó ở trong núi tuyết lớn có đất nước tên là Tô Phạt Thích Noa Cù Đát La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Kim Thị) là nơi sản sinh các loại vàng ròng trên nên lấy tên đó, từ đông sang tây dài, từ nam sang bắc hẹp, tức là nước Đông Nữ, ở đời vì lấy người nữ làm vua, nên lấy nữ xưng tên nước. Người chồng (đàn ông) cũng làm vua nhưng không biết chính sự. Đàn ông chỉ đi đánh chiếm và làm ruộng mà thôi. Đất đai thích nghi với lúa tẻ. Nuôi dưỡng lắm nhiều dê ngựa, khí hậu rất lạnh. Con người tánh khí thô tháo mạnh dữ. Phía đông tiếp liền với nước Thổ Phiên. Phía bắc tiếp liền với nước Vu Điền, phía tây tiếp giáp với nước Tam Ba Ha.

Từ nước Mạt Để Bổ La theo hướng đông nam cách hơn 400 dặm đến nước Cù Tỳ Sương Na (thuộc Trung Ấn Độ).

12. CÙ TỲ SƯƠNG NA.

Cù Tỳ Sương Na chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm, cao vợi hiểm chắc. Dân chúng sinh sống đông đúc, hoa rừng ao hồ liên tiếp nối nhau, khí hậu và đất đai thích nghi đồng như ở nước Mạt Để Bổ La, phong tục thuần chất, chăm học ham thích việc phước, phần nhiều tin theo ngoại đạo, mong cầu niềm an lạc ngay đời hiện tại. Có hai ngôi già lam, chư tăng có hơn trăm vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có hơn 30 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Bên cạnh thành lớn trong ngôi già lam xưa cũ có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn 200 thước. Xưa kia đức Như Lai ở đó một tháng giảng nói các pháp yếu. Bên cạnh có di tích của bốn đức Phật kinh hành và tọa thiền. Bên cạnh đó có hai ngôi Tốt-đổba tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai, mỗi ngôi cao hơn một trượng. Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 400 dặm đến nước Ác Hê Chế Đát La (thuộc Trung Ấn Độ).

13. NƯỚC ÁC HÊ CHẾ ĐÁT LA.

Nước Ác Hê Chế Đát La chu vi rộng hơn 3000 dặm. Đô thành lớn của nước đó rộng khoảng 17-18 dặm, nương tựa nơi hiểm chắc. Đất đai thích nghi với lúa thóc, lắm nhiều rừng suối. Khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất, vui thích thưởng đạo, dốc chí tập học, nhiều tài năng, hiểu biết rộng. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị, tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có chín ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo có hơn 300 vị, phụng thờ tự tại thiên, đồng bạn bôi tro vào mình. Phía ngoài thành bên cạnh ao rồng có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Là nơi xưa kia đức Như Lai vì vua rồng mà ở tại đó bảy ngày giảng nói giáo pháp. Bên cạnh đó có bốn ngôi Tốtđổ-ba nhỏ hơn là nơi di tích của bốn đức Phật thời quá khứ kinh hành tọa thiền. Từ đó theo hướng đông đi khoảng 260-270 dặm, vượt qua sông Khắc Già rồi theo hướng nam đến nước Tỳ La Sang Na (thuộc Trung Ấn Độ).

14. NƯỚC TỲ LA SANG NA.

Nước Tỳ La Sang Na chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Khí hậu và đất đai thích nghi đồng như ở nước Ác Hê Chế Đát La. Phong tục mạnh bạo, con người biết học nghề nghiệp, tôn sùng kính tin ngoại đạo, ít kính Phật pháp. Có hai ngôi già lam, chư tăng có khoảng 300 vị, và đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Có năm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Trong ngôi già lam xưa cũ tại trong thành lớn có nền móng ngôi Tốt-đổ-ba tuy đã hủy hoại đổ nát mà còn cao hơn trăm thước, do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai ở trong đó bảy ngày giảng nói các kinh về Uẩn, Xứ, Giới. Bên cạnh đó có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền kinh hành đến nước Kiếp Tỷ Tha (xưa trước gọi là nước Tăng Ca Xá, thuộc Trung Ấn Độ).

15. NƯỚC KIẾP TỶ THA.

Nước Kiếp Tỷ Tha chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Khí hậu và đất đai thích nghi đồng như ở nước Tỳ La Sang Na. Phong tục thuần hòa, con người phần nhiều tập học nghề nghiệp. Có bốn ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có 10 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn, đồng cùng tôn thờ trời Đại Tự Tại.

Từ thành về phía tây cách hơn 20 dặm có một ngôi già lam lớn. Cách thức chế tạo rực rỡ hết mực kỳ công khắc chạm các Thánh hình tôn tượng vô cùng trang nghiêm, chư tăng có khoảng vài trăm vị tập học giáp pháp của chánh lượng bộ. Có vài vạn tịnh nhân tạo lập vườn nhà ở bên cạnh ngôi già lam đó. Bên trong tường thành lớn có ba đường thềm cấp bằng vật báu sắp hàng theo nam bắc xoay mặt xuống hướng đông, là nơi đức Như Lai từ cung trời Tam Thập Tam trở về lại nhân gian. Xưa kia, đức Như Lai từ tinh xá Thắng Lâm lên cung trời ở tại Thiện Pháp Đường vì Thánh Mẫu mà giảng nói pháp. Qua sau ba tháng sắp muốn trở xuống, trời Đế Thích mới tung phóng thần lực tạo nên đường thềm cấp bên tả bằng thủy tinh và đường thềm cấp bên hữu bằng bạc trắng. Đức Như Lai từ Thiện Pháp đường cùng các chúng trời dẫm bước đường thềm cấp giữa mà xuống. Trời Đại Phạm nắm phất trần trắng, dẫm bước trên đường thềm cấp bạc mà ở phía hữu hầu Phật đi xuống. Trời Đế Thích cầm nắm lọng báu dẫm bước trên đường thềm cấp thủy tinh ở phía tả hầu đức Phật đi xuống. Các chúng trời bay vọt giữa hư không, rải hoa tán thán đức hạnh của Phật. Khoảng vài trăm năm trước còn có thềm cấp, mãi đến ngày nay thì đã vùi lấp hết dưới lòng đất. Các bậc quân vương ở các nước buồn than bùi ngùi chẳng gặp thấy, bèn dùng gạch đá sắp chất nhiều lớp, dùng các vật quý báu để trang sức. Ngay nơi nền móng cũ ấy phỏng theo thềm cấp bằng vật báu xưa kia cao hơn 70 thước, phía trên đó tạo dựng một ngôi tinh xá, bên trong có tôn tượng đức Phật bằng đá. Và nơi thềm cấp hai bên tả hữu có hình tượng trời Đại Phạm và Đế Thích, dáng thế phỏng theo như mới đầu đang đi xuống. Bên cạnh có trụ đá cao hơn 70 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, sắc màu y xanh biếc sáng nhuận, hình chất bền chắc kín lý. Phía trên có hình tượng sư tử ngồi hướng nhìn về thềm cấp, hình dáng khắc chạm kỳ đặc, chung quanh bốn mặt trụ đá đó tùy mỗi người tội phước khác nhau mà hiện hình trong đó.

Bên cạnh đường thềm cấp bằng vật báu không xa có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi di tích của bốn đức

Phật thời quá khứ tọa thiền kinh hành. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai thường tắm rửa tại đó. Bên cạnh đó có ngôi tinh xá là nơi xưa kia đức Như Lai nhập định.

Bên cạnh tinh xá có nền móng đá lớn dài 50 bộ cao 7 thước, là nơi xưa kia đức Phật thường kinh hành, nơi dấu vết bước chân của đức Phật có đường văn hoa sen. Hai bên tả hữu nền móng đá ấy mỗi bên đều có ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ do trời Đế Thích và Đại Phạm tạo lập. Trước ngôi Tốt-đổ-ba do trời Đế Thích tạo lập là nơi xưa kia Bi Sô Ni Liên Hoa Sắc muốn trông thấy và đón rước đức Phật trước hết nên biến hóa thân làm Chuyển Luân Vương. Khi đức Như Lai từ cung trời trở về lại Thiệm-bộ-châu, khi đó tôn giả Tô Bộ Để (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiện Hiện, xưa trước gọi là Tu Phù Đề, Tu Bồ-đề, dịch nghĩa là Thiện Cát, đều là sai nhầm vậy) an tọa nơi thạch thất trận tự tư duy rằng: "Nay đức Phật sắp trở lại các hàng người trời cùng đi theo. Nay ta làm sao nên đi? Từng nghe đức Phật bảo là "biết được các pháp không là thấu suốt pháp tánh". Vậy thì dùng tuệ nhãn để quán pháp thân đó". Bấy giờ Bi Sô Ni Liên Hoa Sắc muốn được diện kiến đức Phật trước hơn ai hết nên hóa làm Chuyển Luân Vương có đủ bảy báu, dẫn theo và có cả bốn binh chúng cảnh vệ, đi đến nơi chỗ đức Phật và biến đổi lại thân tướng Bí Sô Ni. Đức Như Lai bảo Liên Hoa sắc rằng: "Chẳng phải ngươi là người được diện kiến đức Như Lai trước hết. Tôn giả Thiện Hiện đã quán đủ chư pháp không là thấy các pháp thân. Các Thánh tích bên trong tường thành thường có những linh dụ tương tục.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba lớn về phía đông nam có một cái ao có rồng ở đó thường luôn gìn giữ Thánh tích. Đã có thần minh hộ vệ nên khó thể khinh phạm. Năm tháng trải qua lâu dài nên tự hủy hoại, sức người chẳng thể phá hủy được. Từ đó theo hướng đông nam đi gần 200 dặm đến nước Yết Nhã Cúc Xà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Khúc Nữ Thành, thuộc Trung Ấn Độ).

Đại Đường Tây Vức ký, hết quyển 4.

QUYỂN 5

(Nói về 6 nước).

1. Nước Yết Nhã Cúc Xà.

2. Nước A Thâu Đà.

3. Nước A Da Mục Khư.

4. Nước Bát La Da Già.

5. Nước Kiều Thưởng Di.

6. Nước Bính Sách Ca.

1-NƯỚC YẾT NHÃ CÚC XÀ.

Nước Yết Nhã Cúc Xà chu vi rộng hơn 4000 dặm, phía tây đô thành lớn nước ấy gần sông Khắc Già. Thành ấy dài hơn 20 dặm, rộng khoảng 4-5 dặm. Thành Hoàng bền chắc cao vợi, đài các cùng trông nhìn thấy nhau. Hoa rừng ao hồ sáng đẹp lắng trong như kiếng soi. Những của cải kỳ lạ ở các phương khác phần nhiều đều nhóm tụ tại đó. Dân chúng sinh sống phong phú an vui, nhà cửa giàu có. Hoa quả đầy đủ lắm nhiều, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ. Khí hậu hòa hợp, phong tục thuần chất. Con người dung mạo xinh đẹp thanh nhã, vận mặc xinh đẹp. Dốc lòng tham học đeo đuổi nghề nghiệp, luận bàn cao xa. Hạng người tin theo cả tà lẫn chánh có đến một nữa. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị chuyên công tập học giáo pháp của đại thừa lẫn Tiểu thừa. Có hơn 200 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo có hơn vài ngàn vị.

Nước Yết Nhã Cúc Xà vào thời con người trường thọ, vương thành xưa cũ ấy hiệu là Câu Tô Ma Bổ La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hoa Cung), vua hiệu là Phạm Thọ, là người phước trí vốn đủ từ xưa trước, văn võ đều hoàn bị, oai đức thống nhiếp cả Thiệm-bộ-châu, tiếng tăm chấn động các nước láng giềng. Có ngàn người con đều là trí dũng nghị lực mạnh. Lại có trăm người con gái nghi mạo đẹp xinh thanh nhã. Bấy giờ có vị tiên nhân ở bên cạnh bờ sông Khắc Già thâu thần nhập định trải qua vài vạn năm, hình hài như cây khô, chim muông nhóm tụ nương đậu vung vãi hạt cây Ni Câu Luật trên vai tiên nhân, nắng qua mưa lại rủ bóng hợp quanh, trải qua nhiều năm, từ định mà dậy, tiên nhân muốn gỡ bỏ cây ấy đi lại e ngại rơi đổ ổ chim. Người thời bấy giờ mến quý đức hạnh ấy nên xưng gọi là tiên nhân Đại Thọ. Tiên nhân ghé mắt qua bờ sông, vân du trông xem rừng mỏng thấy các người con gái của vua cùng nhau vui đùa, tâm ái dục giới sinh khởi nhiễm trước, bèn đến nơi Hoa Cung muốn tỏ bảy lễ thính. Vua nghe tiên nhân đến đích thân ra nghinh đón an ủy rằng: "Đại tiên giá tình ngoài vật, sao lại có thể khinh cử tiếp đón?". Tiên nhân nói rằng: "Tôi nương náu nơi rừng chầm trải qua năm tháng lâu dài, sau khi xuất định rảo bước trông xem, thấy các con gái của vua, tâm bèn sinh nhiễm ái, vì do vậy mà từ xa đến đây cầu thỉnh". Vua nghe nói vậy không biết tính sao, bèn nói cùng tiên nhân là: "Nay tiên nhân trở về lại ở nơi cũ, xin đợi thời gian tốt lành". Tiên nhân nghe theo vậy, trở về nơi rừng chầm, vua mới hỏi khắp cùng các người con gái, không ai chịu sính hôn. Vua bèn sợ oai đức của tiên nhân nên lo buồn tiều tụy. Người con gái út của vua lo hầu lúc vua rảnh rỗi mới thong dong hỏi rằng: "Phụ vương có ngàn người con trai, có cả muôn nước kính mộ phong hóa, cớ sao mà u buồn như có điều lo lắng vậy?". Vua bảo rằng: "Tiên nhân Đại Thọ mong đoái hoài muốn cầu hôn mà bọn các con chẳng ai chịu vâng mạng. Tiên nhân có oai lực có thể tạo nên mọi điều tai ương hoặc tốt lành, thảng như không toại tâm nguyện hẳn nổi sân hận phá hoại nước nhà hủy diệt cúng tế, nhục đến tiên vương, rất lo lắng đến tai họa ấy nên thật có sự khổ sợ". Người con gái nhỏ ấy tạ lỗi mà thưa rằng: "Để lại nỗi lo buồn sâu xa này là lỗi của chúng con. Nay con xin đem tấm thân mỏng manh này để mong được kéo dài vận tốt của nước nhà". Vua nghe thế, vui mừng bảo chuẩn bị xa giá nghinh đưa. Khi đã đến chỗ ở của tiên nhân, vua tạ lỗi cùng tiên nhân mà nói rằng: "Đại tiên rủ tình ở phương ngoài, xót đoái hoài thế gian, xin dâng đứa con nhỏ để cung cấp quét tước". Tiên nhân trông thấy mà chẳng vui mới nói cùng vua rằng: "Ông khinh tôi già yếu nên gã cho người con không xinh đẹp này". Vua nói: "Đã hỏi qua tất cả các người con gái nhưng không ai chịu vâng lời, chỉ có đứa nhỏ này, xin đưa đến đại tiên sai sử". Tiên nhân ôm hoài tức giận, bèn chú nguyện xấu ác là: "99 người con gái kia đồng một lúc cong lưng. Thân hình đã hủy hoại xấu tệ hẳn trong đời không ai đến cầu hôn". Vua sai người sang nghiệm xét, quả nhiên đều đã bị gù lưng. Từ đó về sau bèn gọi đó là "Khúc nữ thành" vậy.

Còn vua ngày nay vốn chủng tộc Phệ Xa, tự là Hạt Lợi Sa Phạt Đàn Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hỷ Tăng). Từ khi tiên quân có được đất nước đã trải qua hai đời mà ba vua. Thân phụ tự là Ba La Yết La Phạt Đàn Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Quang Tăng), người anh hiệu là Hạt La Xà Phạt Đàn Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vương Tăng). Vương Tăng là anh lớn nên kế thừa ngôi vị dùng đức mà nhiếp trị. Bấy giờ tại Đông Ấn Độ có vua Thiết Thương Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nguyệt) ở nước Yết La Noa Tô Phạt Thích Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là "Kim Nhĩ") từng nói với quan thần rằng: "Gần đây có vị hiền chúa, là họa của nước ta vậy". Khi ấy bèn dẫn dụ mời nhóm hội mà giết hại vua (Hạt La Xà Phạt Đàn Na). Vua Hạt La Xà Phạt Đàn Na đã mất, nước nhà cũng hoang loạn. Khi ấy quan đại thần Bà Ni (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Biện Liễu) là người biết lo cao lớn nặng nhọc, nói cùng các hàng liêu thứ rằng: "Kế lớn của nước nhà phải quyết định ở ngày nay, con của tiên vương đã mất, em của vua là người bản tánh nhân từ, tâm luôn chiếu kính các thân liền đáng nên chú ý, tôi muốn đề cử kế tiếp ngôi vị. Đối với việc này thì thế nào?". Mọi người đều bảo đồng chung chí ấy. Mọi người thường kính ngưỡng đức hạnh, không phải tính bàn gì khác. Khi ấy quan phụ thần đều cùng khuyên (Hỷ Tăng) rằng: "Xin vương tử rủ lòng chấp thuận nghe tiên vương tích chứa công lao, lắm nhiều đức hạnh, tỏa sáng vận nước nhà. Người nối dõi đó là Vương Tăng đã là qua đời. Các hàng phụ tá không tài giỏi xả bỏ thân mạng ứng đối tay chân, làm cho nước nhà mắc xấu hổ lớn đó thật là tội của hạ thần vậy. Lúc bàn nghị đã vang lời đồn đãi quy hướng minh đức, soi sáng đến nước nhà, khắc phục thân thù, rửa nhục của đất nước, làm sáng nghiệp của phụ thân, công ấy gì lớn hơn thay? Mong chớ chối từ vậy". Vương Tử (Hỷ Tăng) bảo rằng: "Việc nối tiếp vận nghiệp của nước nhà rất là lớn nặng, xưa nay đều cho là việc khó. Ngôi vị vua của muôn dân dựng lập nên xét kỹ. Tôi đây thật là kẻ kém đức, cha và anh đều bỏ xa, nay suy cử nối tiếp ngôi vị lớn, làm sao có thể cứu giúp ấy ư? Bàn nghị đã làm nên thế đâu dám quên hư đãng! Nay tại bờ sông Khắc Già có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại đã có lắm soi xét kinh dị, xin nên sang đó để cầu thỉnh". Vương tử Hỷ Tăng bèn đến trước tôn tượng, bỏ ăn mà cầu thỉnh. Bồ-tát cảm tâm chí thành đó nên hiện hình mà bảo rằng: "Con chỉ bởi tích chứa họa, từ phụ đã qua đời, lại thêm hình phạt chua cay nữa là nay người anh bị hại, tự xét xem mình khiếm khuyết tài đức mà dân chúng trong nước nhà suy tôn khiến tiếp nối ngôi vị lớn để làm sáng tỏ sự nghiệp của phụ thân. Con ngu mê không biết, dám cầu mong Thánh chỉ". Bồ-tát Quán Tự Tại bảo rằng: "Đời trước ông ở trong rừng này làm (Tỳ-kheo) Bí Sô luyện nhã mà tinh cần không biếng nhác, nhờ phước lực ấy nên sinh làm con vua đây. Vua nước Kim Nhĩ đã hủy hoại Phật pháp. Ông sẽ tiếp nối vương vị nên phát huy hưng thạnh vẻ vang lại, lấy từ bi làm chí nguyện, đem sự xót thương giữ ở cõi lòng. Không bao lâu sẽ làm vua toàn cảnh vức năm xứ Ấn Độ. Muốn kéo dài vận tốt của nước nhà, phải nên nghe theo ta dạy răn, nhờ thần minh gia hộ cảnh phước, quanh láng giềng không có thù địch mạnh. Chớ lên tòa sư tử, chớ xưng hiệu đại vương". Khi ấy Vương Tử Hỷ tăng thọ nhận sự răn dạy rồi trở về. Bèn liên tiếp nối ngôi vua, tự xưng là Vương Tử hiệu là Thi La A Điệt Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giới Nhật). Khi ấy (Giới Nhật = Hỷ Tăng) bảo cùng các quan thần rằng: "Mối thù của anh chưa báo trả, các nước láng giềng không thể tiếp đãi, trọn không có tay phải lúc dâng thức ăn. Nên các hàng liêu thứ các ông phải đồng lòng góp sức". Bèn đốc suất tất cả binh lính trong nước nhà, giảng tập chiến sĩ, có 5000 quân lính voi, 20000 quân lính ngựa, 50000 quân lính bộ. Từ phương tây đến hướng đông đánh diệt kẻ bất thần, voi không mở yên, người không cởi giáp, trong vòng sáu năm, trải khắp năm nước Ấn Độ, đã rộng mở địa thế, lại tăng thêm binh lính, quân lính voi có đến 60000, quân lính ngựa lên đến 10 vạn. Rồi trải suốt 30 năm, chiến tranh không nỗi dậy, nền chánh trị răn dạy hòa bình, chuyên tu tiết kiệm, tạo phước gieo thiện, quên ăn bỏ ngủ. Ban khắp năm xứ Ấn Độ mọi người không được ăn thịt, nếu ai giết hại sinh mạng thì hẳn giết không tha. Đến bên cạnh bờ sông Khắc Già dựng tạo vài ngàn ngôi Tốt-đổ-ba, mỗi ngôi cao hơn trăm thước. Khắp năm xứ Ấn Độ từ thành ấp xóm làng tụ lạc đến các ngõ hẻm đường thông tạo dựng những ngôi nhà túc trực, dự trữ các thức ăn uống thuốc men, ban thí cho người nghèo khổ, chu cấp cho kẻ không nơi nương tựa. Các nơi có Thánh tích đều tạo dựng các ngôi già lam. Cứ năm năm có một lần thiết lập đại hội thí vô già, dốc hết của cải trong kho phủ ban thí cho mọi người, chỉ lưu lại binh khí không ban xả. Và trong mỗi năm có một lần nhóm tập tất cả các hàng Sa-môn ở các nước suốt trong 21 ngày cúng dường tứ sự, trang nghiêm pháp tòa, rộng bày nghĩa diên, khiến cùng nhau luận nghị để phân rành hơn kém, khen chê trong đục, cắt phân tối sáng. Với những vị giới hạnh trinh thuần kiên cố, đạo đức thuần túy thì suy tôn lên ngồi tòa sư tử, đích thân vua đến gần thọ học giáo pháp. Với những vị giới hạnh thanh tịnh, mà tài học không xét đến xưa thì vua chỉ kính lễ tỏ bày sự có tôn sùng. Với hàng không có luật nghi kỷ cương, dơ bẩn đức hạnh đã rõ bày thì vua xua đuổi ra khỏi đất nước, chẳng muốn thấy nghe hạng đó. Các nước láng giềng, những vị tiểu vương, phụ tá đại thần biết gieo trồng phước đức không biếng lười, cầu pháp lành quên mỏi mệt thì vua kéo tay cùng ngồi chung tòa, xưng gọi đó là "bạn lành". Trái lại như thế, thì vua chẳng đối mặt cùng nói năng. Như có việc tấu trình bàn nghị thì vua liền sai sứ qua lại. Và vua thường đi tuần các nơi, xét xem phong tục, chẳng thường ở tại một chỗ. Thường tại nơi Hành cung, mỗi ngày sắm sinh các thức ăn ngon lành cúng dường các hàng dị học và tăng chúng cả ngàn vị, Bà-la-môn 500 vị. Mỗi ngày vua tự phân thời gian thành ba phần, một phần chuyên lo công việc chấp chánh nước nhà, hai phần tạo phước tu thiện, chăm chăm không mỏi mệt, hết ngày còn chưa đủ.

Mới đầu, Huyền Trang tôi nhận sự thỉnh mời của vua Câu Ma La là từ nước Ma-kiệt-đà sang đến nước Ca Ma Lũ Ba. Khi ấy vua Giới Nhật đi tuần các phương đang ở tại nước Kiệt Chu Ốt Kỳ La, bảo vua Câu Ma La rằng: "Nên cùng vị Sa-môn khách phương xa hiện ở Ba Lạn Đà lại phó hội". Khi ấy, Huyền Trang tôi bèn cùng vua Câu Ma La sang ra mắt. Vua Giới Nhật đã nhiều ngày nhọc khổ, hỏi rằng: "Từ nước nào lại và sẽ muốn điều gì?". Huyền Trang tôi đáp: "Từ nước Đại Đường đến thỉnh cầu Phật pháp". Vua Giới Nhật hỏi: "Nước Đại Đường ở tại phương nào? Đường sá trải qua thế nào? Cách đây xa gần?". Huyền Trang tôi đáp: " Từ đây về hướng đông bắc cách hơn vài vạn dặm. Với người Ấn Độ thì gọi đó là nước Ma-ha Chí Na vậy". Vua Giới Nhật nói: "Tôi từng nghe ở nước Ma-ha Chí Na có thiên tử Tần vương từ thuở thiếu thời đã là minh giám đến lúc lớn thì thành Thần Võ. Xưa trước đó tán loạn khắp nước nhà phân chia sụp đổ. Chiến tranh đua nhau bùng nổ, muôn dân ngậm nuốt khổ độc mà Thiên tử Tần Vương sớm ôm hoài mưu lược xa, dấy khởi tâm đại từ bi cứu tế muôn loài, bình định trong nước nhà, mỹ phong thuần giáo trùm xa, đức hạnh thấm đượm cùng khắp. Khác phương cách xứ kính mộ phong hóa mà xưng thần. Dân chúng đội ân nuôi dưỡng ấy đều ca bản nhạc "Tần Vương phá trận", nghe nhã tụng ấy đến nay đã lâu xa. Vẻ vang đức lớn đó thật có vậy ư? Đại Đường há là nước ấy sao?". Huyền Trang tôi đáp rằng: "Đúng vậy, Chí Na là quốc hiệu của vua trước, Đại Đường là quốc hiệu của vua chúng tôi ngày nay. Xưa kia chưa nối tiếp ngôi vị thì gọi đó là Tần Vương, nay đã tiếp thừa nhất thống xưng là Thiên Tử. Đời trước hết thời vận muôn dân không có chủ, nên chiến tranh loạn khởi tàn hại sinh linh, Thiên tử Tần Vương mở tâm dung rộng phát động xót thương, oai phong cổ vũ, hung dữ diệt sạch. Khắp tám phương tĩnh lắng, muôn nước đều đến triều cống. Thương nuôi bốn loài, kính sùng Tam bảo, mỏng manh ban cấp, kiểm xét hình phạt, mà đất nước sử dụng có thừa, dân tộc không thiếu kém. Phong đức Phật xiển hóa rộng lớn, khó thể nêu bày hết!". Vua Giới Nhật nói: "Thật thạnh vậy thay!".

Tại đất nước đó (Yết Nhã Cúc Xà) dân chúng cảm phước Thánh chúa. Khi ấy vua Giới Nhật sắp trở về lại Khúc Nữ thành để thiết lập pháp hội. Có cả vạn người cùng đi theo, tại bờ phía nam sông Khắc Già. Và vua Câu Ma La có vài vạn người cùng theo ở bờ phía bắc, phân giữa dòng sông và đất liền cùng tiến tới. Hai vua đồng dẫn trước, bốn thứ binh lính nghiêm cẩn hộ vệ, hoặc đi bằng thuyền hoặc cỡi bằng voi, đánh trống thổi loa, gãy đàn, khua sáo, qua 90 ngày mới đến Khúc Nữ thành, tại trong Hoa Lâm lớn ở phía tây sông Khắc Già. Bấy giờ có hơn 20 vị vua ở các nước trước đó đã vâng phụng cáo mạng cùng các bậc Sa-môn tài đức và những Bà-la-môn các quan thần binh sĩ ở nước mình đến dự hội. Trước kia tại phía tây bờ sông vua đã tạo lập ngôi già lam lớn, phía đông ngôi già lam ấy tạo lập đài báu cao lớn trăm thước, bên trong có tôn tượng đức Phật hình dáng đồng như thân vua. Ở phía nam đài báu làm một đàn báu làm nơi tắm gội tôn tượng đức Phật. Từ đó về hướng Đông Bắc cách khoảng 14-15 dặm riêng xây dựng một Hành cung. Bấy giờ đang trong tiết tháng hai. Bắt đầu từ ngày mồng một, sắm sinh các thức ăn ngon lành cúng dường chư vị Sa-môn, Bàla-môn, từ ngày mồng một đến ngày 21, từ hành cung hướng đến ngôi già lam, cặp hai bên đường có tạo lập các trùng các, mọi thứ trang sức ánh ngời. Các Nhạc nhân (người đánh trỗi nhạc) chẳng đổi dời, hòa tấu âm thanh cao nhã. Vua từ nơi hành cung nghinh thỉnh ra một tôn tượng bằng vàng ẩn nổi giữa khoảng không cao hơn ba thước, thỉnh chở bằng voi lớn, căng bày màn báu. Vua Giới Nhật mang mặc y phục trời Đế Thích cầm nắm lọng báu theo hầu phía tả, vua Câu Ma La làm dung nghi của trời Phạm Vương cầm nắm phất trần trắng theo hầu phía hữu, mỗi mỗi có 500 quân lính voi mặc phủ áo giáp bao quanh trước sau nghinh vệ tôn tượng Phật. Mỗi phía lại có trăm con voi, các nhạc nhân dùng chở trống, hòa tấu âm nhạc. Vua Giới Nhật dùng các trân châu vật báu xen tạp cùng với vàng bạc và các thứ hoa, theo từng bước một rải tung cả bốn phía, cúng dường Tam bảo. Trước hết đến nơi đàn báu, dùng các thứ nước hương thơm gội tắm tôn tượng Phật. Đích thân vua đội mang đưa lên trên đài phía tây, dùng các vật báu như áo Kiều xa da có cả ngàn trăm chiếc mà cúng dường. Khi ấy chỉ có hơn 20 vị Sa-môn cùng theo tham dự. Vua các nước làm kẻ hầu vệ. Sau khi thiết trai thọ thực đã xong, nhóm tập các hàng dị học cùng đồng đắng đo xác quyết lời huyền diệu, đè nén và xiển dương chí lý. Tới lúc trời sắp chiều tối mới xoay trở xa giá về lại hành cung. Cứ như thế cho đến ngày tan hội.

Tại đài lớn bỗng nhiên nổi lửa, cửa lầu ngôi già lam khói lửa bốc mạnh dữ. Vua Giới Nhật bảo rằng: "Dốc hết mọi vật quý báu của nước nhà, vì tiên vương mà tạo dựng ngôi già lam này, kính lễ chiếu soi hạnh nghiệp ưu thắng, nhưng vì kém đức, không được thần giúp, nên mới có tai họa này, lỗi quá hiện điềm như thế, dùng gì để sống đây?". Vua mới đốt hương lễ thỉnh mà tự phát lời thề rằng: "Xin đem mọi việc thiện xưa trước của các vua khắp xứ Ấn Độ nguyện giúp cho tôi có được phước lực diệt trừ hỏa tai này, như không được linh cảm thì mất mạng ngay đây". Và liền đó, vua cất thân từ cửa nhảy xuống thành. Như có sự đánh diệt, lửa tắt khói tan, các vua trông thấy lạ thường, càng tăng thêm kính cầu mà kinh sợ. Thế rồi, nhan sắc của vua Giới Nhật vẫn không đổi thay, nói năng vẫn như cũ mà hỏi các vua rằng: "Bỗng nhiên tai họa này biến mất khói lửa đều hết, hẳn là công thành, hoài mong trong tâm, ý các vua thế nào?". Các vua đều cúi phục buồn khóc, đồng đáp rằng: "Công thành thắng tích mong lưu truyền cho đời sau. Một ngày mà tro lửa tiêu tan sao có thể nghĩ nhớ, huống hồ các ngoại đạo an khoái trong tâm cùng mừng vui!". Vua Giới Nhật bảo: "Lấy đây mà xem xét, thì điều giảng dạy của đức Như Lai là thật vậy. Các hàng ngoại đạo dị học luôn giữ chấp thường kiến. Chỉ có bậc thầy cao cả của chúng ta chỉ dạy là vô thường. Như vậy chúng ta xả thí đã chu toàn, tâm nguyện đã toại, nên tai họa đây biến diệt, lại càng thấy điều dạy bảo của đức Như Lai quả nhiên chắc thật. Đó là điều tốt lành lớn, không nên buồn cảm". Khi đó vua Giới Nhật cùng các vua theo hướng đông lên ngôi Tốt-đổ-ba lớn. Vừa mới lên tới, trông nhìn dưới tầng cấp bỗng nhiên có một người khác lạ nắm mũi nhọn đi ngược đến nơi vua. Khi ấy vua vội vàng liền đến tầng cấp cúi bắt người ấy giao cho các quan. Bấy giờ các quan kinh sợ vội vã chẳng biết đến cứu, các vua đều xin giết chết người đó. Vua Giới Nhật khác hẳn, không tỏ vẻ tức giận, cản ngăn bảo không nên giết. Và tự thân vua lại gần mà hỏi rằng: "Ta mắc nợ gì, mà ngươi hung bạo như vầy?". Người đó đáp: "Đại vương đức hạnh đượm thấm không riêng trong ngoài, đâu mắc nợ gì! Nhưng vì tôi là kẻ cuồng ngu không mưu kế lớn, nên nhận lời dụ hoặc của ngoại đạo liền làm kẻ thích khách dẫn đầu mưu toan nghịch hại". Vua Giới Nhật hỏi: "Cớ sao các ngoại đạo dấy khởi tâm xấu ác ấy? Người đó đáp rằng: "Đại vương nhóm tập các nước, dốc hết kho phủ cúng dường Sa-môn, chú đúc tôn tượng đức Phật, mà các ngoại đạo từ xa chiêu tập đến chẳng được hỏi han đoái hoài, trong tâm thật xấu hỗ, mới sai khiến kẻ cuồng ngu làm điều dối trá hung ác". Khi ấy vua Giới Nhật tìm hiểu xét hỏi các hàng ngoại đạo. Có 500 vị Bàla-môn đều là những bậc tài cao, vâng mạng chiêu tập, ganh ghét các Sa-môn được vua tiếp lễ trọng hậu, mới bắn tên lửa thiêu đốt đài báu, mong lúc cứu lửa mọi người hỗn loạn, muốn nhân thời gian ấy mà giết hại đại vương. Đã không có cơ duyên hở trống, bèn thuê mướn người ấy vào nơi hiểm hóc để đâm giết vua. Khi ấy các vua, đại thần xin được giết chết các vị ngoại đạo. Vua Giới Nhật mới phạt người cầm đầu sự việc hung ác ấy, còn các đồng bọn khác không bắt phạt tội. Di dời 500 vị Bà-la-môn đưa ra khỏi cảnh vức nước Ấn Độ. Sau đó, vua Giới Nhật trở về lại đô thành.

Ở phía tây bắc của thành có một ngôi Tốt-đổba do vua Vô Ưu tạo lập, là nơi xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó bảy ngày giảng dạy các diệu pháp.

Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ kinh hành và tọa thiền. Lại có ngôi Tốtđổ-ba nhỏ tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Từ ngôi Tốt-đổ-ba, nơi xưa kia đức Phật giảng pháp về hướng nam gần sông Khắc Già có ba ngôi già lam cùng chung tường vách mà khác cửa. Tôn tượng đức Phật trang nghiêm tráng lệ, chư tăng rất chỉnh túc, các hàng tịnh nhân lo việc công quả có hơn ngàn hộ. Trong tinh xá có chiếc răng đức Phật tôn thờ trong hộp báu dài hơn tấc rưỡi. Có ánh sáng đặc thù, sắc màu biến đổi sáng chiều khác nhau. Mọi người xa gần đều tìm đến, các hàng sĩ thức cùng nhóm tụ kính tu chiêm ngưỡng mỗi ngày có trăm ngàn người. Các vị trông coi gìn giữ phiền nhọc bởi sự ồn náo đông đúc mới tạm lập bày thâu nặng thuế tuyên cáo khắp gần xa rằng: "Người nào muốn trông thấy răng đức Phật thì thâu một tiền vàng lớn". Nhưng mà mọi người đến chiêm lễ vẫn đông nhiều, với thuế tiền vàng ấy vẫn vui lòng tranh nhau. Thường vào những ngày trai là nghinh thỉnh ra tôn trí trên đài cao, có cả trăm ngàn người đến hương rãi hoa, hoa tuy chứa chất đầy mà hộp răng đức Phật vẫn không bị khỏa lấp.

Hai bên tả hữu trước ngôi già lam mỗi bên đều có tinh xá cao hơn trăm thước, nền móng xây bằng đá, phòng thất xây bằng gạch, bên trong có tôn tượng đức Phật dùng bằng các vật báu trang nghiêm, hoặc chủ đúc bằng vàng bạc, hoặc rót đổ bằng than đá. Trước hai ngôi tinh xá mỗi mỗi đều có một ngôi già lam nhỏ.

Từ ngôi già lam về phía đông nam cách không xa có một ngôi tinh xá lớn, nền móng xây bằng đá, phòng thất bằng gạch cao hơn 200 thước, bên trong tạo tôn tượng đức Như Lai đứng cao hơn 30 thước, được chú đúc bằng than đá, dùng các vật báu kỳ diệu trang sức. Phía trên vách đá ở bốn mặt tinh xá khắc họa các tôn tượng đức Như Lai thời tu Bồ-tát hạnh, theo các sự tích trong kinh thảy đều khắc họa cả thảy. Phía nam đền thờ có cách không xa lại có đền thờ Tự Tại Thiên, đều được xây dựng bằng đá xanh ánh ngời, khắc chạm cùng khắp, quy mô rộng lớn đồng như ở tinh xá thờ Phật. Mỗi bên có ngàn hộ dân chúng lo việc quét tước, trống nhạc đàn ca ngày đêm không ngưng nghỉ.

Từ thành lớn theo hướng đông nam cách khoảng 6-7 dặm đến phía nam sông Khắc Già có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước, do vua Vô Ưu tạo dựng. Là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó 6 tháng giảng nói về pháp "Thân Vô thường, khổ, không, bất tịnh". Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ kinh hành tọa thiền, lại có ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ tôn thờ tóc và móng tay đức Phật. Như người có nhiễm mắc tật bệnh, chí thành đi nhiễu quanh đó, hẳn được lành mạnh và được phước lợi. Từ thành lớn về hướng đông nam đi hơn

200 dặm đến thành Nạp Phược Đề Bà Củ La nằm tại bờ phía đông sông Khắc Già, chu vi rộng hơn 20 dặm, hoa rừng ao trong soi chiếu ảnh hình lẫn nhau.

Ở phía tây bắc thành Nạp Phược Đề Bà Củ La; thuộc về phía đông sông Khắc Già có một đền thờ trời, trùng các tầng đài xây dựng kỳ đặc. Từ thành về phía đông cách khoảng 5 dặm có 3 ngôi già lam cùng chung vách tường mà khác cửa, chư tăng có hơn 500 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Trước ngôi già lam cách hơn 200 bộ có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, nền móng tuy đã sụp đổ nhưng còn cao hơn trăm thước, là nơi xưa kia đức Như Lai ở đó bảy ngày giảng nói diệu pháp. Bên trong có xá lợi có lúc tỏa phóng ánh sáng. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ kinh hành và tọa thiền.

Từ ngôi già lam ấy về phía bắc cách khoảng 3-4 dặm gần bờ sông Khắc Già có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó 7 ngày giảng nói pháp. Bấy giờ có 500 quỷ đói đến nói đức Phật nghe pháp bèn tỏ ngộ, xả báo kiếp quỷ sinh lên cõi trời. Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba ấy là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba thờ tóc và móng tay của đức Như Lai.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 600 dặm vượt qua phía nam sông Khắc Già đến nước A Thâu Đà (thuộc Trung Ấn Độ).

2-NƯỚC A THÂU ĐÀ.

Nước A Thâu Đà chu vi rộng hơn 5000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Xứ ấy lúa thóc lắm nhiều, hoa quả tươi tốt, khí hậu hòa sướng, phong tục thuần tiện, con người ưa thích tu tạo phước đức, chuyên cần tập học nghề nghiệp. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị, với giáo lý đại thừa Tiểu thừa đều dốc công tập học. Có 10 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo hiếm ít. Trong thành lớn có ngôi già lam xưa cũ, là nơi xưa kia Bồ-tát Phạt Tô Bạn (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thế Thân, xưa trước gọi là Bà Lũ Bàn Đậu dịch nghĩa là Thiên Thân tức là sai nhầm vậy) ở tại đó trong vài mươi năm chế tác các luận khác nhau giữa đại thừa và Tiểu thừa. Bên cạnh đó có nền móng giảng đường cũ là nơi Bồ-tát Thế Thân vì các vị quốc vương, các vị Samôn, Bà-la-môn tài đức, v.v..., ở khắp bốn phương mà giảng nghĩa nói pháp.

Từ thành về phía bắc cách khoảng 4-5 dặm, gần bờ sông Khắc Già, trong ngôi già lam lớn có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai vì các hàng người trời mà ở tại đó ba tháng giảng nói các diệu pháp. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi có di tích của bốn đức Phật thuở quá khứ kinh hành và tọa thiền. Từ ngôi già lam ấy về hướng tây cách khoảng 4-5 dặm có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay đức Như Lai. Từ ngôi Tốt-đổ-ba thờ tóc và móng tay về phía bắc có nền móng của một ngôi già lam còn lại, là nơi xưa kia luận sư Kinh Bộ Thất Lợi La Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thắng Lợi) ở tại đó chế tác luận Kinh Bộ Tỳ-bàsa.

Từ thành về phía tây nam cách khoảng 5-6 dặm, trong rừng Am một la lớn, có ngôi già lam xưa cũ, là nơi xưa kia Bồ-tát A Tăng Già (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vô Trước) ở tại đó thỉnh cầu pháp lợi ích và dẫn dắt hàng phàm phu. Bồ-tát Vô Trước ban đêm lên cung trời đến nơi Bồ-tát Từ Thị mà thọ học luận Đức Phật Già Sư Địa, kinh luận Trang Nghiêm đại thừa, luận Biện Trung Biên, v.v... còn ban ngày vì đại chúng mà tuyên giảng diệu lý. Từ rừng Am Một La về phía tây bắc cách hơn trăm bộ có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay đức Như Lai. Bên cạnh đó có nền móng xưa cũ là nơi Bồ-tát Thế Thân từ cung trời Đổ Sử Đa xuống thấy gặp Bồ-tát Vô Trước. Bồ-tát Vô Trước vốn là người nước Kiện Đà La, xuất hiện ở đời cách sau đức Phật nhập niết bàn khoảng trong 1000 năm; là người lợi kiến thừa phong ngộ đạo, mới đầu xuất gia tu học theo ở Di Sa Tắc bộ, sau đó xoay lại kính tin đại thừa. Em của Bồ-tát Vô Trước là Bồ-tát Thế Thân xuất gia thọ học ở Thuyết nhất thiết hữu bộ, là người rộng nghe nhận biết mạnh, thành đạt sở học, nghiên cứu tận tường căn cơ. Bồ-tát Vô Trước có người đệ tử tên là Phật Đà Tăng Ha (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Sư Tử Giác) là người có mật hạnh khó nghĩ lường, tài cao vang vọng. Cả ba vị hiền triết ấy cùng nói với nhau rằng: "Phàm hạnh nghiệp tu hành của chúng ta là nguyện mong được hầu đức Từ Thị. Nếu ai xả báo thọ mạng trước mà được toại tâm nguyện xưa trước thì nên cùng báo cho nhau nói nơi thác sinh đến". Về sau, Sư Tử Giác thị tịch trước, trải qua ba năm không có tin báo. Tiếp đến Bồ-tát Thế Thân cũng xả bỏ thọ mạng, trải qua thời gian sáu tháng cũng không tin báo. Bấy giờ các hàng dị học đều cùng nhau gièm pha cho là Bồ-tát Thế Thân và Sư Tử Giác lưu chuyển trong ác thú nên không có sự soi chiếu linh thiêng. Sau đó, vừa mới đầu đêm, Bồ-tát Vô Trước vì các môn nhân đệ tử dạy trao định pháp, bỗng nhiên có ánh đèn soi sáng từ không trung tỏa chiếu lóa cả mắt người, và có một tiên trời từ giữa hư không mà xuống, liền đến nơi thềm sân kính lễ Bồ-tát Vô Trước. Bồ-tát Vô Trước hỏi: "Sao ông đến chiều tối vậy và nay tên gọi là gì?". Vị tiên trời (tức Bồ-tát Thế Thân) đáp rằng: "Từ khi nơi đây xả bỏ thọ mạng sinh sang cung trời Đổ Sử Đa thác sinh trong hoa sen giữa đại chúng của đức Từ Thị. Hoa sen vừa hé nở đức Từ Thị ngợi khen là "Lành thay trí tuệ lớn! Lành thay trí tuệ lớn!". Bèn đi nhiễu quanh vòng liền trở lại đây báo mạng!". Bồ-tát Thế Thân đáp rằng: "Lúc đi nhiễu quanh thấy Sư Tử Giác ở trong chúng tại ngoại viện đắm trước dục lạc không được rảnh rỗi để cùng hỏi han có đâu trở lại báo mạng". Bồ-tát Vô Trước bảo rằng: "Sự việc ấy đã là như vậy. Có tướng đức Từ Thị thế nào? Giảng nói pháp gì?". Bồ-tát Thế Thân đáp: "Tướng tốt của đức Từ Thị ngôn ngữ không thể tuyên bày, diễn nói diệu pháp nghĩa chẳng khác đây. Nhưng Bồ-tát Từ Thị có diệu âm thanh nhã hòa sướng, người nghe quên cả mỏi mệt, nhận thọ không nhàm chán!".

Từ nền móng giảng đường xưa cũ của Bồ-tát Vô Trước theo hướng tây bắc đi hơn 40 dặm đến một ngôi già lam xưa cũ, phía bắc gần sông Khắc Già, bên trong có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước, là nơi xưa kia Bồ-tát Thế Thân lúc mới đầu phát tâm kính tin Đại thừa. Bồ-tát Thế Thân từ bắc Ấn Độ đến đó. Khi ấy Bồ-tát Vô Trước bảo môn nhân đệ tử sang cùng nghinh đón, đến ngôi già lam đó gặp mà cùng hội kiến. Đệ tử của Bồ-tát Vô Trước ở ngoài cửa sổ phòng thất quá nữa đêm đọc tụng kinh Thập Địa. Bồ-tát Thế Thân nghe xong bèn cảm ngộ mà hối tiếc cho là diệu pháp sâu mầu từ trước đến nay chưa từng được nghe.

Tội khiên phỉ báng phát xuất từ chiếc lưỡi.

Chiếc lưỡi là gốc của tội lỗi, nay nên cắt bỏ đi liền nắm dao bén muốn tự cắt bỏ. Mới thấy Bồ-tát Vô Trước đến trước mặt, bảo rằng: "Phàm các Thánh thảy tôn sùng, tôi muốn răn bảo ông cải hối, mà nay ông tự tỏ ngộ. Lúc tỏ ngộ đó có gì tốt lành bằng? Trong Thánh giáo của chư Phật dạy cắt bỏ chiếc lưỡi chẳng phải là hối lỗi. Xưa trước vì chiếc lưỡi mà ông hủy báng đại thừa. Nay ông cũng nên dùng chiếc lưỡi ấy để tán thán đại thừa, bù đáp cho lỗi quá, tự làm mới cuộc đời, như làm việc lành vậy. Còn ngậm miệng dứt lời, lợi ích ấy ở đâu?". Nói lời ấy rồi bỗng nhiên ẩn mất. Bồ-tát Thế Thân vâng thừa lời dạy ấy bèn không cắt bỏ chiếc lưỡi. Qua sáng sớm đến nơi Bồ-tát Vô Trước cầu hỏi thọ học pháp đại thừa. Từ đó tinh chuyên nghiên tầm, lắng đọng tư duy, chế tác các luận đại thừa, có cả thảy hơn trăm bộ đều hưng thạnh hoằng tuyên lưu hành.

Từ đó theo hướng đông đi hơn 300 dặm, vượt qua phía bắc sông Khắc Già đến nước A Da Mục Như (thuộc Trung Ấn Độ).

3-NƯỚC A DA MỤC NHƯ.

Nước A Da Mục Như chu vi rộng khoảng 2400-2500 dặm, đô thành lớn của nước đó gần sông Khắc Già, chu vi rộng hơn 20 dặm. Xứ đó khí hậu và đất đai thích nghi đồng như ở nước A Thâu Đà.

Con người thuần thành, phong tục chất trực tinh cần tập học ham thích phước thiện. Có năm ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị, tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hơn 10 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn.

Từ thành về phía đông nam cách không xa, gần bên bờ sông Khắc Già, có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn 200 thước, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó ba tháng giảng nói pháp. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền kinh hành. Lại có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Bên cạnh đó lại có ngôi già lam, chư tăng có hơn 200 vị, tôn tượng đức Phật trang nghiêm thiết trí như hiện còn tại thế. Đài các rộng đẹp, tạo dựng kỳ đặc nổi lên rất nhiều. Đó là nơi xưa kia luận sư Phật Đà Đà Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giác Sử) ở tại đó chế tác luận "Đại Tỳ-bà-sa" theo Nhất thiết hữu bộ.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 700 dặm vượt qua phía nam sông Khắc Già, thuộc phía bắc sông Diêm-mâu Ni đến nước Bát La Da Già (thuộc Trung Ấn Độ).

4-NƯỚC BÁT LA DA GIÀ.

Nước Bát La Da Già chu vi rộng hơn 5000 dặm. Đô thành lớn của nước đó nằm tại nơi hai dòng sông giao nhau, chi rộng hơn 20 dặm. Đất nước đó thóc lúa rất tươi tốt, hoa quả sơ sài, khí hậu hòa sướng, phong tục thuần thiện, ưa thích học nghề, kính tin ngoại đạo, có hai ngôi già lam, chư tăng rất hiếm ít và đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có vài trăm ngôi đền thờ trời. Các hàng dị đạo rất đông nhiều.

Từ thành lớn về phía tây nam đến trong rừng hoa Chiêm Bác Ca, có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, nền móng tuy đã sụp đổ nhưng vẫn còn cao hơn trăm thước, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó nhiếp phục các ngoại đạo. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay, hiện còn di tích đức Phật xưa kia đi kinh hành.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba ấy, có ngôi già lam xưa cũ là nơi Bồ-tát Đề Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiên) chế tác luận "Quảng Bách" để bẻ phá Tiểu thừa và nhiếp phục ngoại đạo. Mới đầu Bồ-tát Đề Bà từ Nam Ấn Độ đến ngôi già lam đó, trong thành có các vị ngoại đạo Bà-lamôn là những bậc cao luận có tiếng tăm, biện tài vô ngại, trốn danh trách thật, trở lại cật vấn cùng từ, nhũ biết Bồ-tát Đề Bà là vị nghiên cứu sâu rộng về huyền áo, muốn bẻ gãy khả năng bén nhọn đó, mới danh hỏi rằng: "Ông tên là gì? Bồ-tát Đề Bà đáp: "Ta tên Thiên". Ngoại đạo hỏi: "Thiên là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Thiên là ta". Ngoại đạo hỏi: "Ta là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Ta là chó". Ngoại đạo hỏi: "Chó là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Chó là ngươi". Ngoại đạo hỏi: "Ngươi là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Ngươi là Thiên". Ngoại đạo hỏi: "Thiên là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Thiên là ta". Ngoại đạo hỏi: "Ta là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Ta là chó". Ngoại đạo hỏi: "Chó là ai?". Bồ-tát Đề Bà đáp: "Chó là ngươi". Ngoại đạo hỏi: "Ngươi là ai?". Bồtát Đề Bà đáp: "Tuần hoàn như thế". Các ngoại đạo mới tỏ ngộ, từ đó về sau rất kính phục phong đức Phật của Bồ-tát Đề Bà. Ở trong thành có đền thờ trời, trang sức ánh ngời, có lắm điều linh dị. Y cứ theo sách vở ở đó thì xứ đó là thắng địa của chúng sinh gieo trồng phước đức. Nếu ai đến đền thờ đó xã thí chỉ một tiền. Công đức ưu thắng hơn cả ban thí ngàn vàng nơi các xứ khác. Lại nữa, nếu ai có khả năng xem thường sự sống đến trong đền thờ ấy mà dứt tuyệt mạng sống, hẳn sẽ được hưởng phước lạc cõi trời, vĩnh viễn không cùng.

Trước nhà đền thờ có một cây lớn, cành lá chồng chất che phủ kín sóng, có quỷ ăn thịt người nương tựa đó làm vườn nhà ở, nên chung quanh đó có lắm nhiều di cốt. Như người đã đến trong đền thờ đó không ai chẳng xem thường xả bỏ thân mạng, đã sợ hãi bởi tà thuyết lại bị thần dụ dẫn, từ xưa mãi đến nay tập tục sai nhầm ấy không dứt mất. Gần đây có vị Bà-la-môn vốn giòng họ Tử là người thông hiểu rộng rãi, lắm trí, thông minh tài cao đến trong đền thờ ấy, bảo cùng mọi người rằng: "Phàm tập tục cong queo, chí khí bỉ lận, khó thể dẫn dụ. Tôi mới đồng cộng sự, sau mới nhiếp hóa đây. Cũng đã đến nơi phủ nói cùng người bạn thân rằng: "Tôi chết đây vậy. Xưa trước cho là dối vọng ngụy bày nhưng nay nghiệm xét là chân thật. Tiên trời đánh trổi kỹ nhạc nương giữa không trung mà tiếp dẫn. Sẽ theo cảnh ưu thắng mà vất bỏ thân hình bỉ lậu này". Sau đó tôi ném thân mình tự chuốc lấy sự chết mất. Người bạn thân tôi cản ngăn nhưng chí ý ấy vẫn không đổi thay. Bèn trải y phục quanh khắp dưới gốc cây. Đến lúc tự ném thân xuống thì được toàn mạng sống, giây lâu tỉnh lại mới thấy là giữa không trung có các trời chiêu vời mạng, đó là tà thần dẫn kiến. Chẳng có được nhạc trời vậy".

Phía đông của thành lớn có hai dòng sông giao nhau rộng hơn 10 dặm, đất đai cao ráo, cát mịn tràn đầy. Từ xưa đến nay các hàng quân vương hào tộc phàm có muốn xả thí thì không ai chẳng đến đó mà thực hành, chu cấp không tính kể, xưng gọi là "Đại Thí Trường". Ngày nay vua Giới Nhật bèn tu tiếp nối giềng mối trước, dốc thuật huệ thí, của cải tích chứa trong suốt năm năm chỉ một sáng mai dốc sạch xả thí, đến nơi thí trường ấy, chứa nhóm nhiều của cải quý báu, ngày thứ nhất thiết đặt tôn tượng đức Phật lớn, dùng các món báu để trang nghiêm, và liền đội dâng các vật trân quý kỳ diệu mà cúng dường. Tiếp sau đó là cúng dường chư tăng thường trụ, thứ nữa là đại chúng hiện tiền, tiếp theo là các bậc tài cao thạc học, rộng thông mọi vật có lắm khả năng, tiếp đến là đồ chúng ngoại đạo, những vị ẩn trầm trốn lánh béo tốt, thứ nữa là những người góa bụa cô thân, nghèo khổ xin ăn, đầy đủ các thứ trân quý tột cùng cho đến các thức ăn thương vị, tiết cấp như thế, không ai chẳng ban thí đủ đầy. Kho phủ đã dốc sạch, các thứ trang phục tốt đẹp đều hết. Vua mới lấy minh châu trong búi tóc các ngọc anh lạc nơi thân mình lần lượt thí cấp như mới đầu, không chút hối tiếc. Khi đã xả thí xong rồi, vua reo mừng rằng: "Thật an lạc thay! Phàm tất cả của cải của ta đều đã đưa vào kho tàng kim cang kiên cố". Từ đó về sau, những bậc quân vương ở các nước, mỗi tự dâng hiến các trang phục quý báu. Thường chưa tới 10 ngày mà kho phủ đã tràn đầy lại.

Phía đông "Đại Thí Trường" là cửa hai dòng sông hợp lại. Mỗi ngày có vài trăm người đến đó tự chìm đắm thân mình mà chết. Tập tục xứ đó cho là làm như thế là vì muốn cầu sinh lên cõi trời. Đến nơi đó bỏ ăn mà tự đắm chìm, tắm gội trong dòng sông đó thì tội cấu tự tiêu trừ. Vì vậy mọi người từ phương xa, các nước khác đua nhau kéo đến, bỏ ăn bảy ngày sau đó mới tự chìm đắm tuyệt mạng. Đến như các loài khỉ vượn ở núi, nai thú đồng hoang từng đàn kéo nhau đến nơi bến sông, hoặc tắm rửa mà trở về, hoặc bỏ ăn mà tự chết. Đang lúc vua Giới Nhật thiết đại thí hội, có một con Nhĩ hầu ở nơi bến sông, riêng một mình dưới gốc cây lắng bậc dấu vết bỏ ăn, qua vài ngày sau tự đói khát mà chết. Nên các hàng ngoại đạo tu hành khổ hạnh đến trong dòng sông dựng lập một trụ cao, mỗi ngày từ lúc sáng sớm bèn liền lên trụ ấy, một tay một chân bám lấy đầu trụ, đạp cọc bên cạnh, còn một tay một chân treo bày ở ngoài, gần giữa khoảng không mà vẫn chẳng khuất, kéo dài cổ trương lớn mắt, trông nhìn mặt nhật xoay chuyển theo phía hữu, mãi đến chiều tối mới xuống khả trụ. Hạng người làm như vậy có đến vài mươi, họ mong mỏi nhờ sự cần khổ ấy mà được ra khỏi tử sinh. Có người trải suốt cả vài mươi năm, chưa từng thấy biếng lười ngưng nghỉ. Từ đó theo hướng tây nam vào trong rừng lớn, nơi có thú dữ voi hoang hung bạo đi từng đàn. Nếu chẳng đồng bạn đông nhiều khó thể dẫm trải qua đó, đi hơn 500 dặm thì đến nước Kiều Thưởng Di (xưa trước gọi là nước Câu Diệm Di, tức là sai nhầm vậy, thuộc Trung Ấn Độ).

5-NƯỚC KIỀU THƯỞNG DI.

Nước Kiều Thưởng Di chu vi rộng hơn 6000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm. Đất đai màu mỡ, địa lợi trồng tỉa lắm nhiều lúa canh lúa giê, có nhiều cam giá tươi tốt. Khí hậu nắng nóng, phong tục cứng mạnh, con người ưa thích tập học điển nghệ, mến sùng tạo tu phước thiện, có hơn 10 ngôi già lam, nhưng đều đổ nát hoang phế, chư tăng có hơn 300 vị tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có hơn 50 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo thật đông nhiều.

Trong cung xưa cũ phía trong thành có ngôi tinh xá xưa cũ cao hơn 60 thước, có tôn tượng đức Phật được khắc chạm bằng gỗ đàn hương, phía trên có treo chiếc lọng đá, do vua Ổ Đà Diễn Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Xuất Ái, xưa trước gọi là vua Ưu Điền, tức sai nhầm vậy) tạo lập. Linh tướng hay hiện bày, ánh sáng thần có lúc tỏa chiếu. Các bậc quân vương ở các nước ỷ cậy sức lực muốn nghinh thỉnh đi, tuy nhiều người chung sức mà chẳng thể di dời, bèn đồ tả đắp họa lại theo tôn tượng ấy để cúng dường, và đều cho là được sự chân thật, và nói về nguồn gốc tức chỉ từ tôn tượng ấy vậy. Mới đầu là sau khi đức Như Lai đã chứng đắc đạo quả chánh giác, lên trên cung trời, vì Thánh mẫu mà giảng nói pháp suốt ba tháng chưa trở lại. Vua ấy nghĩ nhớ đức Như Lai nên muốn đồ họa tôn tượng Phật mới thỉnh cầu tôn giả Một Đặc Già La viện sức thần thông đưa người thợ lên cung trời thân gần trông xem diệu tướng đức Như Lai rồi khắc chạm bằng gỗ chiên đàn. Đến lúc đức Như Lai từ cung trời trở lại, tôn tượng khắc chạm ấy bèn đứng dậy nghinh đón đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ủy an rằng: "Giáo hóa có nhọc mệt chăng? Khai dẫn cho chúng sinh ở đời mạt pháp thật nhờ ở đây vậy!".

Từ tinh xá ấy về hướng đông cách hơn trăm bộ, là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Bên cạnh đó không xa có giếng và nhà tắm của đức Như Lai. Giếng nước vẫn còn sử dụng, phòng nhà tắm đã hư hoại.

Ở góc đông nam tại trong thành có nền móng còn lại của vườn nhà xưa cũ, tức vườn nhà cũ của Trưởng giả Cụ Sử La (xưa trước gọi là Cù Sư La, tức sai nhầm vậy). Bên trong đó có tinh xá của đức Phật ở, và ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay, lại có nền móng xưa cũ là phòng nhà tắm của đức Như Lai.

Từ thành về phía đông nam cách không xa có ngôi già lam xưa cũ, đó là khu vườn cũ của trưởng giả Cụ Sử La. Bên trong có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước, do vua Vô Ưu tạo dựng, xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó vài năm giảng nói pháp. Bên cạnh đó là nơi có dấu vết của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Lại có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Từ ngôi già lam ấy về phía đông nam, ở trên trùng các có phòng nhà bằng gạch, xưa kia Bồ-tát Thế Thân thường ở trong đó soạn thuật luận Duy Thức để phá dẹp Tiểu thừa và cật nạn ngoại đạo.

Từ ngôi già lam ấy về phía đông, tại trong rừng Am Một La có nền móng phòng nhà xưa cũ, là nơi xưa trước Bồ-tát Vô Trước ở tại đó trước thuật luận "Hiển dương Thánh giáo".

Từ thành ấy về phía tây nam cách khoảng 8-9 dặm có hang đá của Rồng độc. Xưa kia đức Như Lai đến nhiếp phục Rồng độc và lưu lại hình ảnh ở trong đó, tuy là truyện ký nay không trông thấy. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, bên cạnh đó lại có dấu vết của đức Như Lai đi kinh hành xưa trước và ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay đức Như Lai. Những người bệnh khổ đến đó cầu nguyện, phần nhiều được lành mạnh. Giáo pháp của đức Thíchca Như Lai hủy diệt hết cả cuối cùng là tại nước đó, nên trên từ các bậc quân vương dưới tới các hàng thứ dân bước vào cảnh vức nước đó tự nhiên cảm thương, không ai chẳng nuốt lệ buồn than mà trở về.

Từ hang đá rồng độc theo hướng đông bắc vào trong rừng lớn, đi hơn 700 dặm vượt qua sông Khắc Già, lại theo hướng bắc đến thành Ca Xa Bố La. Thành ấy chu vi rộng hơn 10 dặm, dân chúng sinh sống giàu có an vui. Bên cạnh thành có ngôi già lam xưa cũ, chỉ còn lại nền móng, là nơi xưa trước Bồ-tát Hộ Pháp nhiếp phục ngoại đạo. Tiên vương nước đó phù trì tà thuyết, muốn hủy diệt Phật pháp, sùng kính ngoại đạo. Trong chúng đông của ngoại đạo mời một vị luận sư thông mẫn cao đức, thấu đạt sâu mầu trước thuật tà thư có ngàn bài tụng gồm cả thảy 32000 lời, chẳng hủy phá Phật pháp phù trợ chánh bản Tông. Khi ấy nhóm tập các hàng tăng chúng, khiến cùng luận bàn phá bẻ. Các ngoại đạo có ưu thắng sẽ phá hủy Phật pháp. Chúng tăng không cậy vào đâu, hầu cắt lưỡi mà tạ tội. Khi ấy, chư tăng lo sợ có lui thẹn, cùng nhau nhóm tập bàn nghị rằng: "Tuệ nhật đã trầm lắng, cầu pháp sắp hủy diệt. Vua và bạn đảng ngoại đạo ấy, sao có thể địch nỗi ư? Sự thế đã như vầy, biết tỉnh ra làm sao?". Cả chúng tăng đều im lặng không một ai dựng lập nghĩa. Bồ-tát Hộ Pháp tuổi còn bé nhỏ mà trí tuệ tài biện đa văn, phong thái khuôn phép rộng xa. Ở giữa đại chúng xướng lời tán rằng: "Tôi tuy ngu chẳng thông mẫn, nhưng xin trình bày sơ lược đó, thật nên đưa tôi nhanh ứng đáp với vương mạng. Cao luận được thắng đó là nhờ linh thần hộ giúp. Còn nêu bày nghĩa bàn nghị có rơi lạc thua kém ấy là tuổi nhỏ vậy. Nhưng mà tiến thối hẳn có ngôn từ, pháp tăng không xấu hỗ vậy". Mọi người đều hòa đồng chấp thuận. Như sự trù tính ấy, sau đó liền ứng với vương mạng, bèn lên tòa luận. Các ngoại đạo mới nêu cử nhanh chóng giềng lưới, đè nén và xiển dương từ nghĩa, đọc tụng điều chấp của mình khiến kia luận nghị. Bồ-tát Hộ Pháp nghe nhận lời ấy rồi cười mà bảo rằng: "Tôi được thắng vậy, sắp ngược lại mà tụng ư? Làm loạn từ mà tụng ư?". Các ngoại đạo tái người đi mà bảo rằng: "Ông không tự cao đó chứ?

Nếu có khả năng lãnh hội hết ngôn từ đây là thắng vậy. Trước là thuận nhận theo văn ấy, sau giải thích về nghĩa đó". Bồ-tát Hộ Pháp mới tùy theo thanh điệu đó mà thuật về văn nghĩa ấy. Từ lý không nhầm lẫn, khí vận không sai sót. Khi đó các ngoại đạo nghe xong muốn tự cắt lưỡi. Bồ-tát Hộ Pháp bảo rằng: "Cắt lưỡi chẳng phải tạ lỗi, cải đổi điều chấp mới là hối quá". Và liền vì giảng pháp, các ngoại đạo tâm khởi niềm tin, ý sinh tỏ ngộ, vua ấy bèn bỏ tà đạo, tôn sùng chánh pháp.

Bên cạnh nơi Bồ-tát Hộ Pháp nhiếp phục ngoại đạo có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, nền móng tay đã sụp đổ mà còn cao hơn 200 thước. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó sáu tháng giảng nói giáo pháp. Bên cạnh có dấu vết đức Phật kinh hành, và ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay. Từ đó theo hướng bắc đi khoảng 170-180 dặm đến nước Bính Sách Ca (thuộc Trung Ấn Độ).

6-NƯỚC BÍNH SÁCH CA.

Nước Bính Sách Ca chu vi rộng hơn 4000 dặm. Đô thành lớn nước đó chu vi rộng 16 dặm. Lúa thóc tươi tốt, hoa quả lắm nhiều, khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất. Con người ham thích học hành không mỏi mệt, mong cầu phước đức chẳng xoay trở lại. Có hơn 20 ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị, đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo đông nhiều.

Bên tả đường đi ở phía nam của thành có một ngôi già lam lớn, xưa kia A-la-hán Đề Bà Thiết Ma ở tại đó tạo luận Thức Thân, giảng thuyết về Vô ngã, nhân. A-la-hán Cù Ba tạo luận Thánh giáo yếu thuật, giảng thuyết về Hữu ngã, nhân. Nhân pháp chấp ấy bèn tranh luận sâu. Lại là nơi Bồ-tát Hộ Pháp ở tại trong đó bảy ngày nhiếp phục 100 luận sư Tiểu thừa. Bên cạnh ngôi già lam ấy có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 200 thước do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó sáu năm giảng pháp dẫn dắt giáo hóa. Bên cạnh nơi đức Phật giảng pháp có giống cây kỳ đặc cao khoảng 6-7 thước. Quanh năm chặt phá nhưng vẫn không tăng giảm. Vốn là xưa kia đức Như Lai nhấm hành nhành dương, để sót lại một cành, nhân đó đâm mọc rễ, phát triển cành nhánh tươi tốt mãi đến nay. Các người tà kiến và chúng ngoại đạo đua nhau đến chặt phá, nhưng sau đó sinh mọc lại như cũ. Bên cạnh đó không xa là nơi có dấu vết của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Lại có một ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai, nền móng linh thiêng nối liền góc cạnh, ao rừng soi ánh. Từ đó theo hướng Đông Bắc đi hơn 500 dặm, đến nước Thất La Phạt Tất Để (xưa trước gọi là nước Xá Xệ, tức sai nhầm, thuộc Trung Ấn Độ).

Đại Đường Tây Vức ký, hết quyển 5.

QUYỂN 6

(Nói về 4 nước)

1. Nước Thất La Phạt Tất Để.

2. Nước Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ.

3. Nước Lam Ma.

4. Nước Câu Thi Na Yết La.

1-NƯỚC THẤT LA PHẠT TẤT ĐỂ.

Nước Thất La Phạt Tất Để chu vi rộng hơn 6000 dặm. Đô thành đều đã hoang tàn, cương trường không còn giềng mối. Nền móng cung thành xưa cũ chu vi rộng hơn 20 dặm. Tuy lắm hoang tàn đổ nát, nhưng vẫn có người ở. Xứ ấy lúa thóc đầy đủ, khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất, con người ham thích phước thiện. Có khoảng vài trăm ngôi già lam, nhưng hư hoại đã lắm nhiều, chư tăng hiếm thiếu đều tập học theo chánh lượng bộ. Có trăm ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo rất đông nhiều. Thời gian đức Như Lai còn tại thế, đất nước đó do vua Bát La Tê Na Thị Đa (tiếng

Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thắng Quân, xưa trước gọi là Ba-tư-nặc tức lược gọi sai nhầm vậy) trị vì, và Đô thành đóng tại đó, nên trong cung thành có nền móng cũ là dấu vết cung điện còn lại của vua Thắng Quân vậy. Tiếp về phía đông cách không xa có nền móng xưa cũ, phía trên có tạo lập ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi xưa kia vua Thắng Quân vì đức Như Lai mà xây dựng Đại pháp đường.

Bên cạnh Đại pháp đường cách không xa có nền móng cũ, phía trên có ngôi Tốt-đổ-ba, đó là tinh xá của Bí Sô Ni Bát La Xà Bát Để (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Sinh Chủ, xưa trước gọi là Ba Xa Ba Đề, tức là sai nhầm vậy)-là di mẫu của đức Phật, do vua Thắng Quân tạo lập. Tiếp về hướng đông có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi vườn nhà xưa cũ của Tô Đạt Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiện Thí, xưa trước gọi là Tu Đạt, tức sai nhầm vậy).

Bên cạnh vườn nhà Trưởng giả Thiện Thí có ngôi Tốt-đổ-ba lớn, là nơi Ương Lũ Lợi Ma La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Chỉ Man, xưa trước gọi là Ương Quật Ma, tức sai nhầm vậy). Xả bỏ tà kiến. Ương Lũ Lợi Ma La là người hung ác ở nước Thất La Phạt Tất Để, làm hại sinh linh, bạo hành nơi Quốc thành, giết người cắt lấy ngón tay xỏ đeo thành vòng quấn quanh trên đầu, sắp muốn giết hại mẹ mình để sung đủ số lượng đã ấn định. Khi đó đức Thế Tôn xót thương bèn dùng phương tiện để dẫn dắt nhiếp hóa. Từ xa trông thấy đức Thế Tôn, Ương Lũ Lợi Ma La trộm tự vui mừng mà bảo rằng: "Nay ta chắc hẳn được sinh lên cõi trời vậy! Lời dạy để lại của tiên sư chánh ở ngay đây, hại được Phật, giết được mẹ thì sẽ sinh lên cõi Phạm Thiên". Và bảo cùng người mẹ là: "Lão già ngày nay tạm ngưng, trước hết là phải hại Sa-môn kia đã". Khi ấy liền nắm trượng kiếm đến nghịch hại đức Thế Tôn. Đức Như Lai bước từ từ rút lui, Ương Lũ Lợi Ma La đeo mang vòng ngón tay rượt đuổi nhanh nhưng không kịp. Đức Thế Tôn bảo rằng: "Cớ sao giữ chí xấu xa như thế? Tự bỏ gốc thiện mà khơi nguồn ác". Khi ấy, Ương Lũ Lợi Ma La nghe lời dạy răn đó bèn tỏ ngộ việc làm của mình là sai trái. Nhân đó, liền quy mạng, cầu xin vào trong giáo pháp tinh tấn chuyên cần không biếng trễ, bèn chứng quả A-la-hán.

Từ thành về phía nam cách khoảng 5-6 dặm, có rừng Thệ Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thắng Lâm, xưa trước gọi là Kỳ Đà, tức sai nhầm vậy), là vườn Cấp Cô Độc. Vua Thắng Quân cùng đại thần Thiện Thí vì đức Phật mà tạo lập tinh xá. Ngôi già lam xưa kia nay đã hoang phế. Hai phía tả hữu cửa phía đông, mỗi bên đều có dựng trụ đá cao hơn 70 thước. Trụ đá bên tả khắc chạm luân tướng ở đầu trụ. Trụ đá bên hữu khắc hình trâu ở phía trên, đều do vua Vô Ưu tạo dựng. Phòng nhà đều đã đổ nát chỉ còn lại nền móng cũ. Riêng có một phòng được xây bằng gạch vẫn nghiễm còn lại. Bên trong có tôn tượng đức Phật. Xưa kia, sau khi đức Như Lai lên cung trời Tam Thập Tam vì Thánh mẫu mà giảng pháp, vua Thắng Quân nghe vua Xuất Ái (Ổ Đà Diễn Na) khắc tạo tôn tượng đức Phật bằng gỗ chiên đàn, nên vua bèn tạo tôn tượng này. Còn trưởng giả Thiện Thí là người vừa nhân từ mà lại thông mẫn, tích chứa của cải mà hay phân tán, cứu giúp người nghèo khổ, xót thương kẻ cô đơn già yếu. Người thời bấy giờ ngợi khen đức hạnh ấy nên xưng gọi trưởng giả là Cấp Cô Độc. Trưởng giả Thiện Thí nghe về công đức của Phật, phát sinh tâm tôn kính sâu sắc, nguyện tạo dựng tinh xá, thỉnh mời đức Phật đến ở. Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Tử theo cùng trưởng giả để trông xem và lường tính, chỉ có rừng Thệ Đa của thái tử là thế đất cao thoáng đáng nên tạo dựng tinh xá. Bèn tìm đến chỗ thái tử, đem sự tình mà tỏ bày đầy đủ. Thái tử cười và bảo rằng: "Cứ đem vàng lót trải khắp đó, tôi mới bán". Trưởng giả Thiện Thí nghe thế trong tâm bỗng nhiên ưng thuận, liền ban xuất kho vàng, theo lời giao ước mà trải đất, vàng còn thiếu một ít chưa đủ khắp. Thái tử xin lưu lại, nói rằng: "Đức Phật là ruộng tốt, nếu gieo trồng giống lành". Và bèn ngay chỗ đất trống mà tạo dựng tinh xá. Đức Thế Tôn nhân đó mà bảo cùng tôn giả A-nan rằng: "Vườn đất là do Thiện Thí mua, còn cây rừng do Thệ Đa hiến cúng. Hai người ấy đồng tâm kính sùng công nghiệp. Từ nay trở đi nên gọi chốn đất này là rừng Thệ Đa vườn Cấp Cô Độc".

Từ vườn Cấp Cô Độc về phía đông bắc có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi xưa kia đức Như Lai tắm rửa cho vị Bí Sô cảm mắc bệnh. Xưa kia, lúc đức Như Lai còn tại thế, có vị Bí Sô cảm mắc bệnh, ngậm chịu khổ, riêng ở một nơi. Đức Thế Tôn thấy vậy, hỏi rằng: "Ngươi có nỗi khổ gì? Cớ sao ngươi ở riêng?". Vị Bí Sô ấy đáp: "Tánh con biếng nhác, không chịu khó chăm sóc bệnh tật, nên nay cảm mắc bệnh không có người chăm nom". Khi ấy, đức Như Lai xót thương mà bảo rằng: "Này Thiện nam! Nay ta sẽ chăm sóc ngươi". Và liền đưa tay vỗ về, bệnh khổ đều tiêu tan. Đức Phật lại đỡ dìu ra ngoài cửa, thay đổi chăn màn, tự tay đức Phật giặt tẩy tắm rửa, thay đổi y phục mới sạch. Đức Phật lại an ủy vị Bí Sô ấy rằng: "Phải nên tự cố gắng siêng năng!". Vị Bí Sô ấy nghe lời dạy răn đó, nghĩ cảm ân đức, trong tâm vui mừng, thân bèn thư thái.

Từ vườn cấp cô độc về phía tây bắc có ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi tôn giả Một Đặc Già Tử vận dụng sức thần thông nhấc giải y của tôn giả Xá Lợi Tử mà không lay động. Xưa kia, khi đức Như Lai đến nơi ao Vô Nhiệt Não, các hàng người trời đều tụ hội, chỉ riêng tôn giả Xá Lợi Tử khi ấy chẳng nhóm tập. Đức Như Lai bảo tôn giả Một Đặc Già La sang mời đến nhóm hội. Tôn giả Một Đặc Già La vâng lời mà sang đó. Khi ấy tôn giả Xá Lợi Tử đang vá Y hộ pháp. Tôn giả Một Đặc Già La bảo rằng: "Hiện nay đức Thế Tôn đang ở tại ao Vô Nhiệt Não, bảo tôi sang đây gọi mời nhân giả". Tôn giả Xá Lợi Tử nói là: "Tạm đợi chờ giây lát vá y xong, sẽ cùng nhân giả đồng đi". Tôn giả Một Đặc Già La bảo: "Nếu chẳng nhanh đi tức muốn tôi vận dụng sức thần thông nâng đưa nhân giả và cả thạch thất đến nơi đại hội". Tôn giả Xá Lợi Tử mới cởi giải y đặt để nơi đất mà nói là: "Nếu nâng cất được giải y này thì thân tôi hoặc có thể lay động". Khi ấy tôn giả Một Đặc Già La vận dụng sức đại thần thông nâng cất giải y nhưng không lay động, quả đất vì đó mà chấn động. Nhân đó bèn dùng sức thần túc trở về lại nơi chỗ đức Phật thì thấy tôn giả Xá Lợi Tử đã ngồi trong pháp hội, Tôn giả Một Đặc Già La mới cúi đầu mà tán thán rằng: "Ngày nay tôi mới biết sức của thần thông, không bằng sức của trí tuệ vậy!".

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba nâng cất giải y ấy cách không xa có một cái giếng. Xưa kia đức Như Lai còn tại thế thường múc lấy sử dụng. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Bên trong có tôn thờ xá lợi đức Phật. Là nơi có dấu vết kinh hành và giảng nói pháp, đều có dựng biểu tán dương và tạo lập các ngôi Tốt-đổ-ba. Có các thần minh gìn giữ, điềm linh có lúc hiển hiện, hoặc tránh trổi nhạc trời, hoặc nghe có mùi hương thần. Điềm tốt lành của cảnh phước, khó thể nêu bày đầy đủ cả.

Phía sau ngôi già lam ấy cách không xa là nơi ngoại đạo phạm chí giết chết một dâm nữ để vu báng đức Phật. Đức Như Lai là bậc đầy đủ 10 lực vô úy, nhất thiết chủng trí, người đời đều kính ngưỡng, Thánh hiền thảy tuân vâng. Khi ấy các hàng ngoại đạo cùng nhau bàn nghị rằng: "Nên làm điều dối trá đến trong đại chúng để phỉ báng làm nhục". Mới dẫn dụ thuê mướn một dâm nữ giả dạng đi nghe giảng pháp. Trong đại chúng ai cũng biết mặt dâm nữ ấy rồi, các ngoại đạo mới kín giết dâm nữ đó, vùi chôn thi hài bên cạnh gốc cây, và kêu oán tấu trình lên vua. Vua ban lệnh truy tìm, bèn đến trong vườn Thệ Đa tìm được thi hài dâm nữ đó. Khi ấy các hàng ngoại đạo cao tiếng bảo rằng: "Đại Sa-môn Kiều Đáp Ma thường xưng là người hành trì giới nhẫn, mà nay tư thông với người nữ này rồi giết hại để bít miệng. Đã dâm, đã sát, thì đâu là giới? Đâu là nhẫn?". Khi đó từ trong hư không, các trời theo tiếng mà xướng rằng: "Hàng ngoại đạo, những người hung ác, hành động ấy là phỉ báng vậy".

Từ ngôi già lam ấy về phía đông cách hơn trăm bộ có một hầm hố sâu lớn, là nơi Đề Bà Đạt Đa muốn dùng thuốc độc để hại đức Phật, mà thân sống đời nay bị vùi lấp vào địa ngục. Đề Bà Đạt Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiên Thọ) con của vua Hộc Phạm, trong 12 năm đầu đã tinh cần tụng trì tám vạn pháp tạng. Về sau vì lợi dưỡng nên cầu học thần thông, thân gần bạn xấu ác, cùng nhau bàn nghị rằng: "Ta có được 30 tướng tốt, kém thua đức Phật không bao nhiêu, có đại chúng vây quanh ta đâu khác gì đức Như Lai". Nghĩ suy như thế rồi liền làm những việc phá hoại chúng tăng. Các tôn giả Xá Lợi Tử, Một Đặc Già La vâng phụng sự chỉ dạy và nương oai thần của đức Phật mà giảng pháp khuyên răn dẫn dụ, chúng tăng trở lại hòa hợp. Còn Đề Bà Đạt Đa vẫn không xả bỏ tâm xấu ác, bèn dùng thuốc độc trét trong móng tay, muốn nhân lúc tác lễ mà làm tổn thương hại đức Phật, vừa bắt đầu thực hành mưu tính đó, từ xa mà đến đó, tự nhiên đất nứt nẻ, thân Đề Bà Đạt Đa đang sống mà bị vùi lấp vào địa ngục. Từ đó về phía nam, có một hầm hố lớn, là nơi Bỉ Sô Cù Già Lợi hủy báng đức Như Lai mà thân đang sống bị vùi lấp vào địa ngục. Từ hầm hố vùi lấp Cù Ma Lợi về phía nam cách hơn 800 bộ, có một hầm sâu lớn, là nơi Bà-la-môn nữ chiến già phỉ báng Như Lai mà sa đọa vào địa ngục. Đức Phật đang vì người trời giảng nói các pháp yếu, có một đệ tử của ngoại đạo xa thấy đức Thế Tôn có được đại chúng cung kính, bèn tự tư duy rằng: "Ngày nay, ta cần phải làm nhục Kiều Đáp Ma. Nếu kia thất bại thì tiếng tăm tốt lành ấy sẽ khiến thầy ta riêng một mình chiếm ưu thế, tiếng thơm lan tỏa. Bèn buộc bình bát bằng gỗ vào trước bụng đi đến trong vườn Cấp Cô Độc, vào giữa đại chúng cất tiếng lớn nói rằng: "Người đang giảng pháp đó cùng ta tư thông. Đứa con trong bụng ta đây là giòng giống của họ Thích vậy". Những người tà kiến không ai chẳng tin, nhưng những người trinh thuần kiên cố biết đó là hư dối để phỉ báng. Khi ấy, trời Đế Thích muốn dứt trừ điều nghi đó bèn hóa làm một con chuột trắng cắn đứt sợi dây buộc bình bát. Tiếng cắn dây đứt chấn động cả đại chúng, mọi người thấy nghe càng thêm vui mừng sâu xa. Trong chúng có một người đứng dậy nắm lấy bình bát gỗ chỉ cho người nữ đó mà bảo là: "Đây là con của ngươi ư?". Khi ấy tự nhiên đất nứt nẻ, toàn thân người nữ đó bị lấp vùi rơi thẳng vào địa ngục Vô Gián, nhận chịu đủ đầy sự ương lụy ấy. Cả ba hầm hố đó sâu hút không bờ đáy, mùa thu mùa hạ mưa dầm, các sông ngòi ao hồ nước dâng tràn mà ba hầm hố sâu ấy thường không có nước đọng.

Từ ngôi già lam ấy về phía đông cách khoảng 6-7 bộ, có một ngôi tinh xá cao 60 thước, bên trong có tôn tượng đức Phật, xoay mặt về hướng đông mà ngồi, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó cùng các ngoại đạo luận bàn nghĩa đạo. Tiếp về hướng đông lại có một ngôi đền thờ trời cao lớn cũng đồng như tinh xá ấy. Lúc sáng sớm mặt nhật ló dạng dần lên cao bóng hình của đền thờ trời không hiện che phủ ngôi tinh xá, nhưng khi mặt trời ngã dần về hướng tây, bóng hình tinh xá che phủ lên đền thờ trời.

Từ tinh xá che phủ bóng hình ấy về phía đông cách khoảng 3-4 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi tôn giả Xá Lợi Tử cùng các ngoại đạo luận nghị. Mới đầu, trưởng giả Thiện Thí mua được vườn của Thái tử Thệ Đa muốn vì đức Như Lai mà tạo dựng tinh xá. Khi ấy tôn giả Xá Lợi Tử cùng đi theo trưởng giả đến trông xem và tính lường. Các hàng lục sư ngoại đạo đòi muốn đấu sức thần. Tôn giả Xá Lợi Tử bèn tùy sự mà nhiếp hóa, ứng vật mà điều phục. Bên cạnh đó, trước mặt ngôi tinh xá có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó bẻ gãy nhiếp phục các ngoại đạo, lại nhận sự thỉnh mời của Tỳ Xá Khư mẫu.

Từ nơi ngôi Tốt-đổ-ba đức Như Lai nhận sự thỉnh mời ấy, về phía nam, là nơi vua Tỳ Lô Thíchca (xưa trước gọi là vua Tỳ Lưu Ly, tức sai nhầm vậy) dấy binh lính giết hại chúng tộc Thích-ca, vừa đến đó trông thấy đức Phật, bèn dẫn binh trở về. Vua Tỳ Lô Thích-ca sau khi lên nối ngôi vị, nghĩ nhớ oán thù nhục nhã xưa trước, bèn dấy binh giáp đông nhiều, các bộ thực đã đủ đầy, bèn tự thân vua dẫn đầu chinh chiến. Bấy giờ có vị Bí Sô nghe vậy, đem trình bạch cùng đức Phật, khi ấy đức Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây khô. Vua Tỳ Lô Thích-ca xa thấy đức Thế Tôn, bèn xuống xa giá mà kính lễ xong rồi lui đứng mà thưa rằng: "Cớ sao nơi cây tươi tốt mà không ngồi lại ngồi nơi gốc cây khô trơ trọi cành lá sắp bị nguy ách thì che chở nơi đâu?". Thế Tôn bảo rằng: Tông tộc cũng như cành lá vậy, cành lá mà ngay thì gốc đâu còn nữa. Vua Tỳ Lô Thích-ca nói rằng: "Đức Thế Tôn vì Tông Thân như thế, nên có thể xoay xa giá trở về". Khi ấy vua trông nhìn Thánh dung, cảm nghĩ trong lòng là lui binh quay trở về lại đất nước mình.

Bên cạnh nơi vua Tỳ Lô Thích-ca lui binh có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi các người nữ giòng họ Thích bị giết hại. Khi vua Tỳ Lô Thích-ca đánh diệt được giòng họ Thích-ca thành công, bèn chọn 500 người nữ đưa vào trong cung các, các người nữ giòng họ Thích tức giận mở lời oán đối không vâng theo, mắng thẳng vua là người con của người trong vương gia. Vua Tỳ Lô Thích-ca nghe thế tức giận, ban lệnh bảo giết chết. Người chấp hành công việc vâng theo mạng lệnh vua, chặt tháo tay chân ném xuống các hầm hố. Khi ấy các người nữ trong giòng họ Thích ngậm nuốt khổ độc kêu vang đến đức Phật. Đức Thế Tôn với mắt Thánh xét xem thấy cảnh khổ độc ấy, bèn bảo vị Bí Sô vén y mà sang vì các người nữ giòng họ Thích giảng nói các pháp vi diệu, chỉ cho thấy sự buộc ràng của năm món dục, lưu chuyển trong ba đường xấu ác, ân ái xa lìa. Sinh tử dài lâu. Khi ấy các người nữ giòng họ Thích nghe sự dạy răn của đức Phật bèn xa lìa trần cấu, chứng đắc pháp nhãn tịnh, đồng thời mạng chung đồng thác sinh lên cõi trời. Và bấy giờ, trời Đế Thích biến hóa làm vị Bà-la-môn thâu nhặt hài cốt ấy mà hỏa táng. Người đời sau ghi nên lại vậy.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba giết hại các người nữ giòng họ Thích, cách không xa có một ao động lớn, là nơi vua Tỳ Lô Thích-ca bị vùi lấp thân mình vào chốn địa ngục. Đức Thế Tôn quán sát các người nữ giòng họ Thích xong, trở về lại vườn Cấp Cô Độc, bảo cùng các vị Bí Sô là: "Bảy ngày sau, vua Tỳ Lô Thích-ca sẽ bị lửa thiêu hại". Vua Tỳ Lô Thíchca nghe đức Phật dự ghi như thế trong lòng rất khiếp sợ kinh hoàng, mãi đến ngày thứ bảy vẫn còn được an lạc không nguy ách, vua mừng bảo các cung nữ cùng đến bên hồ ao ca nhạc vui chơi ăn uống, như đang còn sợ lửa nổi, bèn gõ mái chèo giữa dòng nước trong theo sóng gợn nhấp nhô, bỗng nhiên lửa dữ nổi đến thiêu đốt thuyền nhẹ, vùi lấp thân vua vào thẳng địa ngục Vô gián, nhận chịu đủ các thứ khổ.

Từ ngôi già lam ấy về phía tây bắc cách khoảng 3-4 dặm, đến rừng đắc nhãn, nơi đó có dấu vết của đức Như Lai kinh hành, có nói các Thánh hiền tu tập thiền định, đều có dựng tạo Tốt-đổ-ba lập trụ ghi chép sự tích lại đầy đủ. Xưa kia tại nước đó có đoàn trộm cướp gồm 500 người, hoành hành khắp các thôn ấp, dẫn xéo đến quốc thành. Vua Thắng Quân bắt được hết cả, bảo móc mắt và thả vào rừng sâu. Bọn giặc cướp khổ bức kêu cầu ai oán, tiếng vang đến đức Phật. Khi ấy đức Như Lai đang ở tại tinh xá Thệ Đa nghe tiếng buồn đau nên khởi tâm thương xót, giữa lúc gió mát trong lành hòa sướng thổi tiếng nhạc núi tuyết, thoảng khắp cùng mặt bọn giặc cướp ấy rồi, sau đó bỗng nhiên mắt được sáng lại, và thấy đức Thế Tôn đang đứng trước mặt mình, bọn giặc cướp ấy đều phát tâm Bồ-đề, vui mừng đảnh lễ, vất bỏ gậy mà đi, nhân đó mọc rễ vậy.

Từ thành lớn theo hướng tây bắc đi hơn 60 dặm có một thành xưa cũ, là nơi trong thời hiền kiếp lúc con người có được tuổi thọ hai vạn năm, đức Phật Ca Diếp Ba vốn sinh sống tại thành đó. Phía nam thành đó có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi lần đầu tiên gặp thấy vương phụ sau khi đức Phật thành đẳng chánh giác. Phía bắc thành ấy có ngôi Tốt-đổ-ba, bên trong có toàn thân xá lợi của đức Phật Ca Diếp Ba, đều do vua Vô Ưu tạo lập.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 500 dặm đến nước Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ (xưa trước gọi là nước Ca Tỳ La Vệ, tức sai nhầm vậy, thuộc Trung Ấn Độ).

2-NƯỚC KIẾP TỶ LA PHẠT TỐT ĐỔ.

Nước Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ chu vi rộng hơn 4000 dặm, có hàng chục cung thành đều đã hoang phế rất lắm. Vương thành đã đổ nát, nên chu vi khó lường biết rõ ràng, còn thành ở nội cung chu vi rộng khoảng 14-15 dặm, được xây đắp nhiều lớp gạch làm thành, nền móng cao vợi bền chắc. Vì hoang phế với thời gian lâu dài nên thôn xóm dân chúng sinh sống hiếm ít thưa thớt. Không có Quân trưởng lớn, mỗi thành tự lập nên người chủ. Đất đai màu mỡ, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, khí hậu không khắc nghiệt, phong tục hòa sướng. Nền móng già lam xưa cũ có hơn ngàn ngôi, và bên cạnh cung thành có một ngôi già lam, chư tăng có hơn 30 ngàn vị tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hai ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn.

Trong cung thành có nền móng xưa cũ, là chánh điện xưa cũ của vua Tịnh Phạn. Phía trên tạo lập một ngôi tinh xá, bên trong có tôn tượng vua Tịnh Phạn. Bên cạnh đó không xa có một nền móng xưa cũ là tẩm đường của phu nhân Ma-ha Ma Da (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Thuật). Phía trên có xây dựng tinh xá, bên trong có tôn tượng hoàng hậu Ma-ha Ma Da. Bên cạnh đó có một ngôi tinh xá là nơi Bồ-tát Thích-ca giáng thần vào thai Thánh mẫu, bên trong có tạo tôn tượng Bồ-tát giáng thần. Theo thượng tọa bộ thì Bồ-tát Giáng thần vào thai Thánh mẫu trong đêm 30 tháng Ất Đát La Át Sa Trà; tương đương với ngày 15 tháng 5 tại Trung Hoa. Còn các bộ khác thì cho là Bồ-tát giáng thần vào thai Thánh mẫu đêm 23 tháng 2; tương đương với ngày mồng 8 tháng 5 ở Trung Hoa. Từ tinh xá nơi Bồ-tát Giáng Thần về phía đông bắc có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi tiên A Tư Đà đoán tướng Thái tử. Ngày Bồ-tát đản sinh, điềm lành vui mừng vang cùng. Khi ấy vua Tịnh Phạn mời các thầy tướng số đến mà bảo rằng: "Đứa con vừa mới sinh đây, tốt xấu như thế nào, nên lấy lời rõ ràng minh bạch mà phân đáp". Các thầy tướng số đáp rằng: "Y cứ theo sự ghi chép của các bậc tiên Thánh, thì xét đây là điềm ứng tốt lành. Nếu thái tử ở tại gia sẽ làm chuyển luân Thánh vương, còn xả tục xuất gia thì sẽ thành đẳng chánh giác". Khi ấy tiên A Tư Đà từ xa mà đến, cúi đầu nơi cửa cầu xin được ra mắt. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng, tự thân ra nghinh tiếp lễ kính, mời đến ngồi tòa báu, mà thưa rằng: "Chẳng hay đại tiên ngày nay giáng lâm đoái hoài". Tiên A Tư Đà bảo rằng: "Tôi ở tại cung trời an cư tĩnh tọa, bỗng thấy các trời đua nhau nhảy múa, khi ấy tôi hỏi rằng: "Cớ sao vui mừng quá lắm vậy?". Các trời đáp: "Đại tiên nay nên biết trong Thiệm-bộ-châu, phu nhân thứ nhất của vua Tịnh Phạn vốn giòng họ Thích vừa mới sinh được vị Thái tử. Thái tử đó sẽ chứng đắc tam miệu tam Bồ-đề, viên minh nhất thiết trí". Tôi nghe nói vậy nên lại đây để chiêm ngưỡng. Có điều buồn tủi bởi tôi đã già nua không gặp được Thánh hóa!".

Tại cửa phía nam thành có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi thái tử cùng các vị trong giòng họ Thích đấu sức ném voi. Thái tử là người có được kỹ nghệ đa năng riêng nổi bật không ai bằng. Vua Tịnh Phạn rất mến thương. Lúc sắp trở về, kẻ phu bộc đánh voi ngựa sắp ra thành. Đề Bà Đạt Đa vốn là người tự phụ sức mạnh, từ bên ngoài đi vào, hỏi người đánh voi đi rằng: "Nghiêm giá voi này, để ai là người muốn cưỡi vậy?". Người phu bộc ấy đáp: "Thái tử sắp trở về nên đưa sang để thái tử cưỡi". Đề Bà Đạt Đa nổi cơn tức giận, dẫn lấy voi vã vào đầu trán voi, đá vào ức voi, khiến voi ngã té bít lấp đường tắt nghẽn lối đi không thể di dời, mọi người đông nghẹt. Khi ấy Nan Đà từ sau đi đến mà hỏi rằng: "Ai giết voi ấy vậy?". Mọi người đáp: "Đề Bà Đạt Đa giết". Nan Đà liền kéo voi tránh khỏi đường đi. Sau đó, thái tử đến đó lại hỏi rằng: "Kẻ nào làm điều bất thiện giết hại voi này vậy?". Mọi người đáp: "Đề Bà Đạt Đa giết hại làm bít lấp đường đi, Nan Đà kéo đưa sang đó để mở lối". Thái tử mới nhấc nâng xác voi lên cao ném vượt qua khỏi vách tường thành, xác voi ấy rơi xuống nơi đất làm thành một hầm hố sâu rộng. Các hàng sĩ tục tương truyền gọi đó là hầm hố voi rơi. Bên cạnh đó trong ngôi tinh xá có tạo tôn tượng của thái tử. Bên cạnh đó lại có ngôi tịnh xá là nơi tẩm cung của thái tử và hậu phi, bên trong có tạo tôn tượng của cung chúa Da Thâu Đà La và La Hổ La. Bên cạnh tẩm cung ấy có ngôi tinh xá, tạo hình tượng thọ học, đó là nền móng phòng nhà xưa cũ nơi thái tử thọ học vậy.

Từ thành về góc đông nam có một ngôi tinh xá, bên trong có tạo hình tượng thái tử cưỡi con ngựa trắng lướt giữa hư không, là nơi thái tử vượt thành xuất gia vậy. Ngoài bốn cửa thành mỗi mỗi đều có các ngôi tinh xá, bên trong có các hình tượng người già, người bệnh, người chết và vị Sa-môn. Là các nơi Thái tử trông xem thấy các tướng, càng thêm nghĩ nhớ, rất nhàm chán trần tục, từ đó mà cảm ngộ, bèn bảo kẻ phu bộc xoay giá trở về.

Từ thành về phía nam đi hơn 50 dặm đến một thành xưa cũ, là nơi trong thời hiền kiếp thuở con người có tuổi thọ sáu vạn năm, đức Phật Ca La Ca Thôn Đà vốn sinh sống tại đó. Từ thành về phía nam cách không xa, có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi sau khi đã thành đẳng chánh giác, đức Phật gặp thấy phụ thân. Từ thành về phía đông nam có một ngôi Tốt-đổ-ba có xá lợi di thân của đức Phật ấy. Phía trước có dựng trụ đá cao hơn 30 thước, phía trên khắc hình tượng sư tử, bên cạnh khắc ghi về sự tịch diệt, do vua Vô Ưu tạo lập.

Từ thành của đức Phật Ca La Ca Thôn Đà về phía đông bắc đi hơn 30 dặm đến một thành lớn xưa cũ, bên trong có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi trong thời hiền kiếp của thuở con người có được tuổi thọ bốn vạn năm, đức Phật Ca Mặc Ca Mâu Ni vốn sinh sống tại đó. Từ đó về phía đông bắc cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi sau khi đã thành chánh giác, đức Phật hóa độ phụ thân. Tiếp về phía bắc có một ngôi Tốt-đổ-ba, bên trong có xá lợi di thân của đức Như Lai ấy. Phía trước thọ dựng một trụ đá cao hơn 20 thước, trên có khắc hình sư tử, bên cạnh khắc ghi về sự tịch diệt, do vua Vô Ưu tạo lập.

Từ thành về phía đông bắc cách hơn 40 dặm, có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi thái tử ngồi dưới bóng cây trông xem cày ruộng. Tại đó, thái tử tập hành thiền định mà được lìa dục. Vua Tịnh Phạn trông thấy thái tử ngồi nhập định dưới bóng cây, ánh sáng mặt nhật xoay chiếu mà bóng cây không di dời. Tâm vua biết đó là linh Thánh, càng thêm tôn kính.

Từ thành lớn về phía bắc, có vài trăm ngàn ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi chủng tộc giòng họ Thích bị giết chết. Vua Tỳ Lô Thích-ca đã giết chết mọi người trong dòng họ Thích, trái ngược tộc loại có cả thảy 9990 vạn người bị giết, thây chất như cỏ rạ, máu đổ thành ao, trời kinh sợ lòng người bèn thâu gom hài cốt mà an táng.

Từ nơi chủng tộc giòng họ Thích bị giết hại về phía tây nam có bốn ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi có bốn người trong giòng họ Thích chống lại quân địch. Mới đầu vua Thắng Quân lên ngôi kế vị, đến giòng họ Thích để cầu hôn. Trong giòng họ Thích khinh chê cho vua Thắng Quân là hàng phi loại, bèn dối đem tớ gái trong nhà làm lễ trọng gã cho vua. Vua Thắng Quân bèn lập làm chánh hậu. Về sau sinh được một người con, đó là vua Tỳ Lô Thích-ca. Thuở nhỏ Tỳ Lô Thích-ca muốn sang nhà người cậu để thỉnh cầu điều lợi ích mà thọ học. Vừa đến nơi phía nam thành ấy, thấy một giảng đường mới tạo dựng, bèn vào bên trong dừng nghỉ. Những người trong giòng họ Thích nghe thấy vậy bèn xua đuổi mà mắng rằng: "Con của hạng thấp hèn tôi tớ mà dám vào ở trong nhà này ư? Các người trong giòng họ Thích xây dựng ngôi nhà này, phòng để đức Phật ở nghỉ vậy". Sau khi đã lên ngôi kế vị vua Tỳ Lô Thích-ca nghĩ nhớ lại điều bị nhục xưa trước bèn dấy binh giáp đến đó đóng quân. Trong giòng họ Thích khi ấy có bốn người đang canh cày ruộng, bèn liền chống cự, quân lính lui tan. Sau khi đã vào trong thành, mọi người trong giòng tộc đều lấy đó làm những người con nối dõi tốt lành kế thừa ngôi vị quân vương làm tông tử (con chánh) của pháp vương. Vua Tỳ Lô Thích-ca dâm hành hung bạo, nhẫn chịu giết hại làm ô nhục tông môn, tuyệt dứt thân gần xa xôi phóng thả. Bốn người ấy bị đuổi, theo hướng bắc đến núi tuyết. Một người làm vua nước Ô Trượng Na, một người làm vua nước Phạm Diễn Na, một người làm vua nước Hý Ma Đát La và một người làm vua nước Thương Di Ca, rực rỡ ở đời lưu truyền sự nghiệp con cháu không dứt tuyệt.

Từ thành về phía nam, cách khoảng 3-4 dặm đến trong rừng cây Ni Câu Luật, có một ngôi Tốtđổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi đức Thích-ca Như Lai sau khi thành đẳng chánh giác, trở về lại đất nước mình gặp thấy phụ vương mà giảng nói pháp. Vua Tịnh Phạn biết đức Như Lai hàng phục ma quân rồi du hành giáo hóa, nỗi lòng càng thêm khát ngưỡng, nghĩ muốn được lễ kính, mới sai kẻ sứ đến trình bạch đức Như Lai rằng: "Xưa trước có ước hẹn sau khi thành Phật sẽ trở về nơi quê nhà. Lời nói ấy nay đã đến lúc nên trở về vậy". Kẻ sứ đến nơi đức Phật trình bày đầy đủ về ý của cha. Đức Như Lai bảo rằng: "Bảy ngày sau, ta sẽ trở về quê cũ". Kẻ sứ trở về tâu trình lại cùng vua như vậy. Vua Tịnh Phạn mới ban lệnh tất cả thần dân lo quét tước đường sá, chuẩn bị hương hoa. Vua cùng quan thần ra ngoài biên giới cách 40 dặm, xuống giá đứng đợi nghinh đón. Khi ấy, đức Như Lai cùng đại chúng đồng đi đến, có tám vị thần bảo hộ chung quanh, bốn vị thiên vương dẫn đường đi trước. Trời Đế Thích cùng các trời cõi dục theo hầu bên tả, trời Phạm Vương cùng các trời cõi sắc theo hầu bên hữu. Các Bí Sô tăng sắp hàng thứ lớp theo sau. Chỉ đức Như Lai tại giữa đại chúng, như vầng nguyệt soi sáng ánh sao, oai thần rung động cả ba cõi, ánh sáng vượt hơn hẳn thất diệu, bước giữa hư không mà đến đất nước quê nhà. Vua Tịnh Phạn và các quan thần cùng theo lễ kính xong đều trở về lại nước mình (Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đồ), dừng nghỉ tại ngôi Tăng-già lam Ni Câu Lô Đà. Bên cạnh đó không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi đức Như Lai đến dưới gốc cây lớn xoay mặt về hướng đông mà ngồi, nhận áo ca sa dệt bằng vàng ròng của Di Mẫu. Tiếp theo đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi đức Như Lai độ tám vị vương tử và 500 người trong giòng họ Thích.

Tại bên tả đường đi bên trong cửa phía đông thành, có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia thái tử Nhất Thiết Nghĩa Thành ở tại đó tập học các thứ kỹ nghệ. Tại phía ngoài cửa có đền thờ Tự Tại Thiên. Trong đền thờ đó có tôn tượng trời bằng đá thế nỗi cao vợi, là nơi lúc thái tử còn ẵm trong tả lót đưa vào đền thờ. Vua Tịnh Phạn từ vườn Lạp Phạt Ni đến nghinh đón thái tử trở về, trên đường đến nơi đền thờ trời, vua bảo: "Đền thờ trời này có nhiều linh thiêng soi xét, các trẻ nhỏ trong giòng họ Thích đến cầu nguyện xin thần hộ giúp hẳn có linh nghiệm, nên đưa thái tử vào đó để tu kỉnh". Khi ấy người mẹ đỡ giúp ẵm thái tử vào đền, tôn tượng bằng đá đó đứng dậy nghinh đón thái tử. Sau khi ẵm thái tử ra khỏi rồi, tôn tượng trời ấy ngồi trở lại như cũ.

Bên tả đường đi ngoài cửa phía nam thành có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi thái tử cùng các người trong giòng họ Thích thi đấu tài nghệ bắn trống sắt. Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 30 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ. Bên cạnh đó có dòng suối, nước suối lắng trong như kiếng soi, là nơi thái tử và các người trong giòng họ Thích nâng cung thử tài năng, cung tên đã bắn ra xuyên qua mặt trống rồi đến đất lút mất xuống, nhân đó nước suối tuôn vọt thành dòng chảy trong sạch. Tập tục bấy giờ tương truyền gọi đó là suối mũi tên. Những người mắc phải bệnh tật đến tắm uống phần nhiều đều được lành mạnh. Người ở phương xa đến mang đất bùn tại suối đó trở về, tùy sự khổ độc mà bôi thoa vào trán, nhờ thần linh thầm gia hộ phần nhiều đều được lành mạnh.

Từ dòng suối mũi tên theo hướng đông bắc đi khoảng 80-90 dặm đến rừng Lạp Phạt Ni, có một ao tắm của các người dòng họ Thích, lắng trong ánh ngời như gương soi. Các thứ hoa tạp sinh mọc lan tràn. Từ đó về phía bắc cách khoảng 24-25 bộ, có cây hoa Vô Ưu, nay đã khô rụi, là nơi Bồ-tát đản sinh. Bồ-tát đản sinh sau nữa ngày mồng 8 tháng Phệ xá khư; tương đương với ngày mồng 15 tháng 3 tại Trung Hoa. Từ đó tiếp về hướng đông có một ngôi Tốt-đổ-ba do Vô Ưu tạo lập, là nơi hai con Rồng tắm gội thân Thái tử. Khi Bồ-tát vừa đản sinh xong, không người nâng đỡ mà từ đi khắp bốn phía, mỗi phương ắt đi bảy bước, và tự nói rằng: "Thiên Thượng Thiên Hạ duy ngã độc tôn, kim phần nhi vãng, sinh phần dĩ tận", (trên trời dưới trời, chỉ có ta là cao quý hơn cả, từ nay trở đi không còn tái sinh). Tùy chân dẫm bước đều có hóa hiện hoa sen lớn nâng đỡ bước chân. Có hai con rồng nhảy vọt lên trú giữa hư không và mỗi tự phun nước, một con phun dòng nước lạnh, một con phun dòng nước móng âm tắm thân thái tử.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba ấy về phía đông có hai dòng suối trong mát, có hai ngôi Tốt-đổ-ba là nơi hai con rồng từ đất vọt lên. Sau khi Bồ-tát đã đản sinh, mọi người trong chi thuộc tông thân giòng họ Thích đua nhau kiếm tìm nước để tắm gội thân thái tử. Trước mặt các người trời có hai dòng suối bỗng nhiên xuất hiện tuôn trào, một dòng mát lạnh và một dòng ấm nóng, bèn lấy đó là tắm gội. Từ đó về phía nam có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi trời Đế Thích nâng tiếp Bồ-tát. Bồ-tát vừa mới ra khỏi bào thai, trời Đế Thích dùng y Diệu Thiên quỳ tiếp nâng Bồ-tát. Tiếp đó lại có bốn ngôi Tốt-đổ-ba là nơi bốn Thiên Vương ẩm giữ nâng Bồ-tát. Khi Bồtát từ hông phía hữu của Thánh mẫu sinh ra, bốn vị thiên vương dùng y Bông tơ sắc màu vàng rồng bồng nâng Bồ-tát đặt trên ghế vàng, và đưa đến trước Thánh mẫu mà nói rằng: "Phu nhân hạ sinh người con phước này thật rất đáng vui mừng. Các trời còn mừng vui huống hồ người đời ư?".

Bên cạnh các ngôi Tốt-đổ-ba, bốn vị thiên vương ẩm nâng thái tử, cách không xa có một trụ đá lớn, phía trên làm hình tượng con ngựa, do vua

Vô Ưu tạo dựng. Về sau bị Rồng độc dữ nổi sấm sét đánh giữa trụ đổ ngã nơi đất. Bên cạnh đó có dòng sông nhỏ xuôi dòng đổ về phía đông nam. Các hàng sĩ tục gọi đó là dòng sông Dầu, là nơi phu nhân Ma Da sau khi sinh hạ thái tử rồi, trời hóa hiện dòng sông sáng nhuận lắng sạch muốn khiến phu nhân lấy để tắm gội tẩy sạch bụi trần. Nay biến thành dòng sông, nước dòng sông ấy còn trơn nhuần.

Từ đó theo hướng đông, đi trong đồng trống rừng hoang vượt qua hơn 200 dặm đến nước Lam Ma (thuộc Trung Ấn Độ).

3-NƯỚC LAM MA.

Nước Lam Ma hoang phế đã lâu năm nên cương trường không còn giềng mối, nơi thành ấp gò đồi dân chúng sinh sống hiếm ít hoang sơ. Từ thành cũ về phía đông nam có một ngôi Tốt-đổ-ba bằng gạch cao gần trăm thước. Xưa kia, sau khi đức Như Lai đã nhập Niết bàn, tiên vương nước đó được chia một phần xá lợi, mang về nước nhà, kính tuân tạo lập mà phụng thờ, những điềm linh dị có lúc hiện khởi, ánh sáng thuần có khi tỏa chiếu.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba đó có một ao nước trong mát, có Rồng thường luôn vào ra biến hiện hình thân rắn nằm, hoặc theo phía hữu chuyển nhiễu quanh ngôi Tốt-đổ-ba. Voi hoang từng đàn hái nhắc hoa trái đến tung rãi, do sức thần minh cảnh vệ giám sát, từ lúc mới đầu không lúc trầm lắng. Xưa trước khi vua Vô Ưu phân chia xá lợi của đức Phật để tạo dựng các ngôi Tốt-đổ-ba, thì các ngôi Tốt-đổ-ba ở bảy nước kia đều đã khai quật. Khi đến nước đó (Lam Ma) vừa muốn dấy công khai quật, thì rồng từ ao đó kinh sợ bị lấn lướt chiếm đoạt mới biến hình hóa làm vị Bà-la-môn đến cúi đầu trước voi của vua Vô Ưu mà thưa rằng: "Đại vương lưu tình chuyên ý với Phật pháp, rộng gieo trồng ruộng phước, xin mời dừng giá quan lâm vườn nhà của tôi giây lát". Vua Vô Ưu hỏi: "Nhà ngươi tại đâu, cách đây xa gần?". Vị Bà-lamôn ấy đáp: "Tôi là vua rồng ở trong ao đây. Nhân vì đại vương muốn tạo lập thắng phước nên đến đây bái yết thỉnh mời". Vua Vô Ưu nhận lời thỉnh mời đó, bèn cùng vào cung Rồng. Ngồi chừng giây lát, rồng xuất hiện ra thưa rằng: "Chỉ bởi tạo nghiệp xấu ác nên tôi phải nhận chịu làm thân rồng này. Tôi nguyện cúng dường xá lợi mong cầu tiêu trừ tội quá. Xin vua cùng sang trông xem mà lễ kính". Vua Vô Ưu trông thấy rồi, kinh hãi mà nói rằng: "Phàm các thứ cúng dường chẳng phải nơi nhân gian có được". Rồng liền bảo: "Nếu vậy thì xin Đại vương không nên phá hủy ngôi Tốt-đổ-ba này". Vua Vô Ưu tự lường sức mình chẳng thể ngang bằng đó, bèn không khai quật mà ra khỏi nơi ao. Hiện nay còn có trụ dựng ghi chép nêu bày.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba cách đó không xa có một ngôi già lam, chư tăng hiếm ít, nhưng thanh tịnh chỉnh túc đoan nghiêm. Và dùng vị sa di trông coi đảm nhận tất cả mọi việc của chúng tăng. Chư tăng từ phương xa đến thì lễ tiếp đón đãi nồng hậu hẳn lưu giữ lại ba ngày cúng dường tứ sự. Nghe các bậc lão thành nói rằng: "Xưa kia có một vị Bí Sô đồng bạn cùng thỉnh mời, từ xứ xa đến đảnh lễ ngôi Tốt-đổ-ba, thấy đàn voi cùng nhau rảo chạy qua, hoặc là ngà ủi cỏ, hoặc dùng vòi rưới nước, mỗi tự cùng mang hoa trái khác lạ đến cúng dường. Khi ấy các vị tăng thấy vậy buồn than cảm hoài, có một vị Bí Sô bèn xả giới cụ túc, phát nguyện ở lại lo việc cúng dường, cùng chúng tăng mà từ tạ rằng: "Tôi chỉ lo nhiều phước nên lạm vết trong chúng tăng năm tháng lâu dài mà hạnh nghiệp không bao nhiêu. Nay tại ngôi Tốt-đổ-ba này có xá lợi của đức Phật, Thánh đức ngầm thông, nên đàn voi dẫm đạp tưới rưới. Tôi nguyện đem tấm thân này ở lại đây cùng làm đồng bạn, trọn hết năm tháng còn lại lại may mắn lắm vậy!". Chúng tăng đều bảo: "Ấy, thật việc lớn vậy! Chúng tôi bởi dơ bẩn nặng nề, trí hiểu biết không mưu tính được như thế". Vị ấy bèn tùy thời tự mừng vui không khuyết khiếm thắng nghiệp, cũng đã lìa khỏi chúng đông càng tỏ bày chí nguyện khẩn thành, hoan hỷ riêng ở có chí đến trọn đời vậy. Từ đó cắt nhặt cỏ tranh làm nhà, dẫn khơi dòng nước thành ao hồ, hái nhặt hoa theo mùa, quét tước sạch sẽ quanh vùng, trải qua năm tháng dài lâu mà tâm chí và mọi việc không biếng trễ. Những vị vua ở các nước láng giềng nghe thế mà nhã chuộng đua nhau xả thí của cải vật báu cùng chung tạo dựng ngôi già lam. Nhân đó thỉnh mời vị ấy trông coi tổng quát mọi việc của chúng tăng. Từ đó lần lượt nối bước theo nhau không để mất công khó mới đầu, và nhân vậy nên lấy vị sa di trông coi tất cả công việc của tăng.

Từ ngôi già lam do sa di trông coi việc tăng ấy theo hướng đông vào trong rừng lớn đi hơn trăm dặm, đến một ngôi Tốt-đổ-ba lớn do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi thái tử vượt thành đến đó, cởi bỏ áo báu chuỗi châu anh lạc bảo kẻ tớ hầu mang về lại. Vào nữa đêm thái tử vượt thành, mãi đến gần sáng thì tới đó, đã thỏa xứng với tâm ý xưa trước, mới nhìn lại hình hài mà bảo rằng: "Vậy là ta đã ra khỏi phên lồng giam hãm, vượt thoát sông xích trói buộc. Đây là nơi mở giá cuối cùng vậy". Và tự mở ngọc báu Mạt Ni từ trong Thiên quan, trao cho kẻ tôi tớ mà bảo rằng: "Ngươi mang vật báu này trở về tâu với phụ vương: từ nay ta trốn đi xa, chớ nhọc cản trái sự xa lìa, ta muốn dứt đoạn vô thường, tuyệt hẳn các Hữu lậu!". Xiển Đạt La (xưa trước gọi là Xa Nặc, tức sai nhầm vậy) nói: "Há có tâm nguyện gì, không giá mà trở về?". Thái tử phải khéo dùng lời ủy an vỗ về dẫn dụ. Xiển Đạt Ca cảm ngộ mà trở về.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba xoay giá ấy về phía đông có cây Thiệm bộ, cành lá tuy đã điêu tàn khô rụi nhưng gốc vẫn hiện còn. Bên cạnh đó lại có một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi thái tử đem y báu còn lại đổi lấy chiếc áo da nai. Thái tử đã cắt tóc đổi xiêm y, tuy bỏ hết chuỗi châu anh lạc mà vẫn còn có thiên y, bèn tự nói rằng: "Y phục này rất xa xỉ, làm sao cải đổi đây?". Khi ấy trời Tịnh Cư biến hóa thân hình làm người thợ săn, mặc áo da nai, mang cung tên đội lông. Thái tử bèn dâng áo mình đang mặc mà nói rằng: "Tôi muốn cùng trao đổi, xin được chấp thuận". Người thợ săn bảo: "Tốt thay!". Thái tử bèn cỡi áo đang mặc trên thân trao cho người thợ săn. Người thợ săn được áo rồi hiện lại thân hình trời nắm giữ áo ấy, vọt giữa hư không mà đi.

Bên cạnh thái tử đổi áo cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, do vua Vô Ưu tạo lập, là nơi thái tử cắt tóc. Thái tử nắm lấy dao từ Xiển Đạt Ca trao cho mà tự cắt bỏ tóc mình, trời Đế Thích tiếp nhận lấy đưa về cung trời để cúng dường. Khi ấy con trời Tịnh Cư hóa hiện làm người thợ cắt tóc, nắm dao sắc bén từ từ bước đi. Thái tử bảo rằng: "Ông có thể cắt tóc được ư? Mong hãy vì ta mà cắt cạo sạch giúp". Người ấy nhận lời bèn vì cạo tóc cho thái tử.

Về thời gian thái tử xuất gia cũng không nhất định. Có thuyết nói là Bồ-tát xuất gia lúc 19 tuổi. Có thuyết nói là lúc 29 tuổi. Và có thuyết nói là xuất gia sau nửa ngày mồng tám tháng Phệ Xá Khư; tức tương đương ngày mồng 8 tháng 3 ở Trung Hoa. Có thuyết nói là xuất gia sau nửa ngày 15 tháng Phệ Xá Khư; tức tương đương ngày 15 tháng 3 ở Trung Hoa.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba nơi thái tử cắt tóc theo hướng đông nam đi trong đồng trống qua khoảng 180-190 dặm, đến rừng Ni Câu Lô Đà, có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 30 thước. Xưa kia sau khi đức Như Lai nhập niết bàn, xá lợi đã phân chia, các Bàla-môn không có được phần, bèn đến nơi Niết Điệp Ban Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Phần Thiêu, xưa trước gọi là Xà Duy, tức sai nhầm vậy) gom thâu tro than mang về nước nhà tạo dựng nền móng linh thiêng ấy mà thiết tu cúng dường. Từ đó trở lại giáng hiện các điềm tích kỳ đặc. Những người mắc phải bệnh tật đến cầu thỉnh, phần nhiều đều được lành mạnh.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba thờ tro than ấy, trong ngôi già lam xưa cũ là nơi có dấu tích của bốn đức Phật thời quá khư tọa thiền và kinh hành.

Hai bên ngôi già lam xưa cũ ấy có vài trăm ngôi Tốt-đổ-ba, trong đó có một ngôi lớn, do vua Vô Ưu tạo lập, nền móng tuy đã sụp đổ, nhưng còn cao hơn trăm thước. Từ đó theo hướng đông bắc, băng trong rừng lớn, đường đi gian nguy hiểm trở có đủ thứ trâu núi voi hoang từng đàn, trộm cướp từng đoàn dò xét tìm kiếm người đi đường làm hại không nhỏ. Qua khỏi rừng ấy rồi đến nước Câu Thi Na Yết La (thuộc Trung Ấn Độ).

4-NƯỚC CÂU THI NA YẾT LA.

Nước Câu Thi Na Yết La thành quách đã hủy hoại, thôn ấp tiêu điều. Nền móng bằng gạch thành xưa cũ, chu vi rộng hơn 10 dặm, dân chúng sinh sống hiếm ít thưa thớt, cổng đường hoang vắng. Tại góc đông bắc phía trong thành có một ngôi Tốtđổ-ba di vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi vườn nhà xưa cũ của Chuẩn Đà (trước kia gọi là Thuần Đá tức sai nhầm vậy). Trong vườn ấy có cái giếng. Khi Chuẩn Đà sắp hiến cúng đức Phật và chúng tăng mới khởi công đục, năm tháng trải qua tuy đã lâu xa mà nước vẫn trong sạch mát ngọt.

Từ thành về phía tây bắc cách khoảng 3-4 dặm, vượt qua sông A Thị Đa Phạt Để (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vô Thắng, người đời nay cùng xưng gọi vậy, xưa trước gọi là sông A Lợi La Bạt Đề, tức là sai nhầm vậy. Theo điển ngôn gọi đó là sông Y Lại Noa Phạt Để, dịch nghĩa là sông Hữu Kim Sa), cách bờ phía tây không xa đến rừng sa la, loại cây ấy tợ như cây học mà vỏ da xanh trắng, lá rất sáng nhuần. Có bốn cây đặc biệt cao lớn đó là nơi đức Phật nhập niết bàn. Tại đó, trong ngôi tinh xá lớn xây dựng bằng gạch có tạo một tôn tượng đức Như Lai nhập niết bàn, gối đầu về hướng bắc mà nằm. Bên cạnh có ngôi Tốt-đổba do vua Vô Ưu tạo lập, nền móng tuy đã đổ nát nhưng còn cao hơn 200 thước, phía trước có dựng một trụ đá để khắc ghi về sự kiện đức Như Lai nhập niết bàn. Tuy có văn ghi mà chẳng viết tháng ngày. Nghe các bậc lão thành nói là đức Như Lai đến năm 80 tuổi, nhập niết bàn vào sau nửa ngày 15 tháng Phệ Xá Khư, tức tương đương ngày 15 tháng 3 tại Trung Hoa. Theo thuyết nhất thiết hữu bộ thì cho là đức Phật nhập niết bàn sau nửa ngày mồng 8 tháng Ca Thí Để Ca; tức tương đương ngày mồng 8 tháng 9 tại Trung Hoa. Từ sau khi đức Phật nhập niết bàn, các bộ phái có những quan điểm bàn nghị khác nhau. Có bộ phái có những quan điểm bàn nghị khác nhau. Có bộ phái cho là đức Phật nhập niết bàn đã hơn 1200 năm, hoặc nói hơn 1.300 năm, hoặc nói hơn 1.500 năm. Có bộ phái cho là qua hơn 900 năm chưa đầy 1000 năm.

Bên cạnh tinh xá cách đó không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi ở thời đức Như Lai tu hạnh Bồtát làm vua đàn chim trĩ mà cứu lửa. Xưa kia tại xứ đó là một khu rừng lớn cây cối tươi tốt, là nơi các loài chim muông nhóm tụ làm hang ổ sinh sống, bỗng nhiên có gió dữ từ bốn phía nỗi dậy, đồng một lúc lửa dữ vụt bay tới, khi ấy có một con chim trĩ có tấm lòng xót thương, cổ động lặn hụp thân mình xuống dòng nước trong rồi bay lên giữa hư không rũ cánh tung rảy nước. Bấy giờ, trời Đế Thích cúi xuống mà bảo rằng: "Sao ngươi đem sự ngu dốt nhọc bức lông cánh vậy? Lửa lớn mới nỗi dậy thiêu đốt rừng hoang, đâu thể dùng tấm thân nhỏ bé của ngươi mà có thể dập tắt được?". Chim trĩ hỏi rằng: "Người nói ấy là ai vậy?". Có tiếng đáp rằng: "Ta là trời Đế Thích". Chim trĩ nói: "Nay trời Đế Thích có phước lực lớn, không điều ước muốn gì mà không toại nguyện, cứu tai giúp nạn như chỉ trong lòng bàn tay, trái lại mà gặn hỏi không công, lỗi ấy thế nào? Lửa dữ đang cháy bừng, không nên lắm lời". Sau đó chim trĩ lại nhảy bay sang dòng nước. Trời Đế Thích bèn vốc nước rưới giúp cánh rừng đó, lửa tắt khói tiêu, tất cả sinh loại đều được toàn thân mạng. Nên nay xưng gọi đó là ngôi Tốt-đổ-ba cứu lửa vậy.

Bên cạnh nơi chim trĩ cứu lửa cách không xa, có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi thời đức Như Lai tu Bồ-tát hạnh làm thân nai cứu vớt quần sinh. Tức vào thời xa xưa kia, tại đó là một khu rừng lớn, bỗng nhiên lửa dữ từ đồng hoang táp vào, các loài chim thú đều cùng quẩn, phía trước hiểm ác bởi dòng nước ngăn cản, phía sau khốn cùng bởi nạn lửa dữ, nên không vật gì chẳng tự đắm chìm mình tự táng mất thân mạng. Con nai ấy xót xa nỗi lòng bèn đứng ngang giữa dòng nước, xuyên thủng da, cắt đứt xương cốt tự gắng cứu vớt các vật đắm chìm, có con thỏ bị què chân đến sau, nhẫn chịu nhọc mệt mà cứu giúp đó. Đến lúc sức lực cứu giúp cùng kiệt bèn đắm mình giữa dòng nước mà chết. Các trời gom nhặt hài cốt mà tạo dựng ngôi Tốtđổ-ba để tôn trí.

Từ nơi nai cứu vớt vật đắm chìm ấy về phía tây, cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi Tô Bạt Đà La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thiện Hiền, xưa trước gọi là Tu Bạt Đà La tức sai nhầm vậy) nhập diệt. Thiện Hiền vốn là một vị thầy Phạm Chí, đến lúc đã 120 tuổi, là một bậc lão túc lắm trí, nghe đức Phật sắp nhập niết bàn, bèn đến nơi song thọ, hỏi cùng tôn giả A-nan rằng: "Đức Phật Thế Tôn sắp nhập niết bàn. Tôi nay trong lòng có sự nghi trệ mong muốn được thỉnh hỏi". Tôn giả A-nan bảo rằng: "Đức Phật sắp nhập niết bàn, mong chớ phiền nhiễu". Thiện Hiền nói rằng: "Tôi nghe đức Phật xuất hiện nơi đời rất khó được gặp, chánh pháp lại khó được nghe, tôi mang nặng điều nghi sâu xa, sợ không có nói để thưa hỏi nữa!". Và Thiện Hiền bèn vào trước đức Phật mà hỏi rằng: "Có các chúng khác tự xưng là thầy, mỗi tự có giáo pháp riêng để răn dạy người đời. Kiều Đáp Ma (xưa trước gọi là Cù Đàm tức sai nhầm vậy) có biết hết chăng?". Đức Phật bảo: "Tôi hẳn nghiên cứu sâu xa qua hết mới vì giảng nói". Thiện Hiền nghe vậy, tâm thanh tịnh tin hiểu. Cầu xin đức Phật cho phép được vào dòng pháp, thọ giới cụ túc. Đức Như Lai bảo: "Ông có thể được vậy ư? Các hàng dị học ngoại đạo muốn tu hành phạm hạnh phải trải qua bốn năm thử thách trông xem về đức hạnh, xét kiểm về tánh nết, oai nghi vắng lặng nói năng thành thật, thì có thể ở trong giáo pháp của ta tịnh tu phạm hạnh. Ở nơi nhân hạnh đâu có gì khó ư?". Thiện Hiền thưa rằng: "Đức Thế Tôn xót thương cứu độ khắp cùng không riêng. Qua bốn năm thử học, ba nghiệp thân khẩu ý mới điều thuận". Đức Phật bảo: "Tôi trước đã nói đó chỉ tại nhân hạnh vậy". Khi ấy Thiện Hiền được xuất gia và liền thọ giới cụ túc, tinh cần cố gắng tu tập, thâm tâm dõng mãnh, thế rồi đối với giáo pháp không sinh tâm nghi ngờ, tự thân hiện chứng, đến đêm tối chưa bao lâu bèn chứng quả A-la-hán. Các lậu đã hết, phạm hạnh đã lập, không nhẫn thấy đức Phật nhập đại niết bàn, nên bèn ở trong đại chúng nhập hỏa giới định, hiện các việc thần thông mà nhập diệt trước. Đó là vị đệ tử cuối cùng của đức Như Lai mà lại diệt độ trước, và đó tức là con thỏ què chân được cứu sau cùng xưa kia vậy.

Bên cạnh nơi Thiện Hiền nhập diệt có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi Thần Chấp Kim Cang ngã quỵ nơi đất. Đức Đại Bi Thế Tôn tùy cơ duyên lợi kiến, công phu hóa độ đã hoàn tất, nhập tịch diệt an lạc giữa hai cây sa la, gối đầu về hướng bắc mà nằm, Thần Chấp Kim Cang, lực sĩ Mật Tích thấy đức Phật nhập niết bàn bèn gào khóc, than rằng: "Đức Phật bỏ chúng ta mà nhập đại niết bàn, không còn nơi nương tựa, không còn được chở che bảo hộ!".

Tên độc thấm sâu, lửa sầu cháy mạnh, buông chày kim cang, muốn tuyệt quỵ ngã nơi đất. Giây lâu tỉnh lại buồn than luyến mộ, cùng nói với nhau rằng: "Biển lớn sinh tử ai là người làm thuyền chèo cứu vớt, đêm dài vô minh, ai là người làm ánh đuốc soi sáng?!".

Bên cạnh các thần chấp kim cang ngã quỵ nơi đất có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi sau khi đức Như Lai đã nhập niết bàn, lưu lại tại đó bảy ngày để cúng dường. Lúc đức Như Lai sắp nhập niết bàn, ánh sáng soi chiếu khắp cùng, người trời thảy đều tụ hội, không ai chẳng buồn cảm, lại cùng bảo nhau rằng: "Ngày nay đức Đại Giác Thế Tôn sắp nhập niết bàn. Chúng sinh phước đã hết. Thế gian không còn nơi nương tựa!". Đức Thế Tôn nằm nghiêng phía hữu trên giường tòa sư tử bảo cùng đại chúng rằng: "Chớ cho là đức Như Lai rốt ráo nhập tịch diệt. Pháp thân vẫn thường trú, vượt lìa khỏi mọi sự biến đổi. Phải nên buông bỏ tâm biếng lười, sớm cầu giải thoát". Khi ấy, các hàng Bí Sô, v.v... sùi sụt gào khóc. Tôn giả A Nê Luật Đà (xưa trước gọi là A Na Luật, tức sai nhầm vậy) bảo cùng các Bí Sô v.v... rằng: "Thôi! Thôi! Chớ hoài buồn khóc. Các trời quái lạ gièm pha kìa!". Khi ấy chúng Mạt La cúng dường đã xong, muốn nâng nghinh kim quan đức Phật đến nơi Niết Diệp Ban Na, tôn giả A Nê Luật Đà bảo rằng: "Hãy tạm dừng, chư thiên muốn lưu lại bảy ngày để cúng dường". Khi ấy chúng trời mang các thứ hoa trời kỳ diệu tung rãi bay giữa hư không tán thán Thánh đức, mỗi mỗi đều dốc tâm chí thành cùng dâng cúng dường.

Bên cạnh nơi lưu lại kim quan có một ngôi Tốtđổ-ba, là nơi Thánh mẫu Ma-ha Ma Da khóc cảm đức Phật. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn đã hiện vào kim quan xong. Khi ấy tôn giả A Nê Luật Đà lên trên cung trời báo cùng phu nhân Ma Da rằng: "Đức Đại Thánh pháp vương, nay đã nhập niết bàn!". Thánh mẫu Ma Da nghe thế rồi, bèn khóc nghẹn ngào, muốn tuyệt giây lâu, bèn cùng các chúng trời giáng xuống đến rừng sa la, trông thấy y tăng già chi, bình bát và tích trượng, bèn vỗ thoa, gào khóc mà lại cất tiếng than rằng: "Người trời phước đã hết, mắt thế gian đã diệt mất, nay đây mọi vật rỗng không, không có chủ". Đức Như Lai vận dụng sức Thánh, nắp kim quan tự bung mở, tỏa phóng ánh sáng, đức Như Lai chắp tay ngồi ủy an hỏi han Từ mẫu từ xa xuống đến, hành pháp là như vậy, xin chớ quá cảm buồn". Khi ấy tôn giả Anan ngậm nén đau thương mà thỉnh hỏi đức Phật rằng: "Người đời sau hỏi đến, con phải đáp thế nào?". Phật dạy: ""Đức Phật đã nhập niết bàn. Từ mẫu Ma Da từ cung trời xuống đến nơi rừng sa la, đức Như Lai vì các hàng chúng sinh bất hiếu, nên từ trong Kim Quan ngồi dậy, chấp tay giảng nói pháp".

Từ thành ấy theo hướng bắc, vượt qua sông, cách xa hơn 300 bộ có một ngôi Tốt-đổ-ba, đó là nơi tiêu nhục thân đức Như Lai. Đất xứ đó hiện nay sắc màu vàng đen lẫn tạp tro than. Có kẻ chí thành cầu thỉnh, hoặc có được xá lợi. Đức Như Lai tịch diệt, các hàng trời người buồn cảm, dùng bảy vật báu làm kim quan, dùng ngàn bức bông tơ quấn quanh thân, thiết bày hương hoa, cắm dựng phan lọng, chúng người Mạt La nghinh khiêng kiệu giá phát dẫn, trước sau dẫn theo, từ phương bắc vượt qua sông Kim Liên, để đầy dầu thơm vào kim quan, chất nhiều gỗ thơm, phóng lửa để thiêu đốt. Có hai bức bông tơ không cháy, đó là một bức quấn sát trong thân Phật, và một bức che phủ ngoài cùng. Phân chia xá lợi cho các chúng sinh. Chỉ có tóc và móng tay vẫn nghiễm nhiên không tổn hại.

Bên cạnh nơi thiêu thân đức Phật có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi đức Như Lai vì tôn giả Đại Ca Diếp Ba mà hiện bày hai bàn chân. Kim quan Như Lai đã hạ xuống, gỗ thơm đã chồng chất, phóng lửa đốt không cháy. Đại chúng đều kinh hãi. Tôn giả A Nê Luật Đà nói là: "Chờ đợi tôn giả Đại Ca Diếp Ba đến". Khi ấy, tôn giả Đại Ca Diếp Ba cùng 500 vị đệ từ từ núi rừng xa đi đến thành Câu Thi, hỏi tôn giả A-nan rằng: "Thân đức Thế Tôn có thể con được trông thấy chăng?". Tôn giả A-nan thưa rằng: "Thân đức Thế Tôn đã quấn quanh ngàn bức bông tơ, lại tẩn liệm trong kim quan, gỗ thơm đã gom chất, chỉ còn việc thiêu đốt". Khi ấy, đức Phật từ trong kim quan vì duỗi hiện hai bàn chân ra ngoài trên luân tướng thấy có sắc màu khác lạ. Tôn giả Đại Ca Diếp Ba hỏi A-nan rằng: "Cớ sao có thế này?". Tôn giả A-nan đáp rằng: "Lúc đức Phật vừa mới nhập niết bàn, các hàng trời người buồn thương gào khóc nhỏ lệ vấy nhiễm nên có sắc màu khác lạ như thế". Tôn giả Đại Ca Diếp Ba đảnh lễ, đi nhiễu quanh cùng tán thán, xong rồi, gỗ thơm tự thiêu đốt, lửa cháy lớn mạnh mẽ.

Sau khi đã nhập niết bàn, từ trong kim qua, đức Phật đã ba lần lưu xuất ra, lần đầu là duỗi cánh tay hỏi A-nan sửa trị đường, lần thứ hai là ngồi dậy vì Thánh mẫu giảng nói pháp và lần thứ ba duỗi hiện hai bàn chân cho tôn giả Đại Ca Diếp Ba thấy.

Bên cạnh nơi đức Phật duỗi hiện hai bàn chân có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi tám vị vua phân chia xá lợi. Phía trước có dựng một trụ đá khắc ghi sự việc ấy. Sau khi đức Phật nhập niết bàn và đã Niết Điệp Ban Na xong, các vị vua của tám nước chuẩn bị bốn loại binh lính cùng đến đó, khiến Bà-la-môn Trực Tánh nói cùng các lực sĩ ở thành Câu Thi rằng: "Bậc đạo sư của trời người tịch diệt tại nước này, nên từ xa cùng đến xin được chia phần xá lợi để tôn thờ". Các lực sĩ bảo rằng: "Đức Như Lai giáng hiện tôn quý tức dưới đất đây, diệt mất ánh sáng dẫn dắt thế gian, tang vùi cha lành của chúng sinh. Xá lợi của đức Như Lai, chúng tôi phải tự cúng dường, chớ nhọc đường sá xa xôi, trọn không được chia". Khi ấy các vua nhóm thuận từ để lại, đã không được thỏa đáng, lại nói cùng các lực sĩ rằng: "Lễ thỉnh đã không thuận theo, binh lính oai hùng cách đây đâu xa". Bà-la-môn Trực Tánh cất lớn tiếng bảo rằng: "Mong hãy nhớ nghĩ cho: Đức Đại Bi Thế Tôn, nhẫn tu phước thiện trải qua nhiều kiếp, nghĩ tưởng điều đó mọi người đều đã nghe rõ đủ. Nay muốn cùng tranh lấn lướt nhau, ấy hẳn chẳng nên vậy. Nay xá lợi đức Phật hiện tại đây phải chia đều tám phần, mỗi mỗi đều được cúng dường, sao đến nỗi phải dấy binh lính". Các lực sĩ bèn y theo lời đó, và liền phân lường đều muốn làm tám phần. Trời cũng sẽ có một phần, xin đừng dùng lực mà mang đi, Trời Đế Thích nói cùng các vua rằng: "vua rồng A Na Bà Đáp Đa, vua rồng Văn Lân, vua rồng Y Na Bát Đát La lại cùng nhau bàn nghị rằng: "Không nên để sót bọn chúng tôi. Nếu dùng sức lực đấu tranh thì các chúng không thể sánh kịp". Bà-la-môn Trực Tánh bảo rằng: "Chớ nên ồn náo tranh cãi, nên cùng phân chia đó". Bèn phân làm ba phần: một phần của các trời, một phần cho chúng rồng và một phần lưu lại tại cõi người. Trong tám nước các vua lại phân chia nhau. Trời, rồng, vua người thảy đều buồn cảm.

Từ nơi ngôi Tốt-đổ-ba phân chia xá lợi theo hướng tây nam đi hơn 200 dặm, đến một thôn ấp tụ lạc lớn, có nhà Bà-la-môn giàu có cự phách, xác thực không gian tạp, học tập nghiên cứu ngũ minh kính sùng Tam bảo, tiếp theo bên cạnh nhà ở, xây dựng tăng phường, đầy đủ các thứ tư dụng trang sức hết mực quý báu. Hoặc có chư tăng qua lại giữa đường, Bà-la-môn ấy ân cần thỉnh mời lưu lại, dốc hết tâm thành cúng dường, hoặc dừng ở một đêm cho đến bảy ngày. Về sau, nơi đó bị vua Thiết Thưởng Ca phá hủy Phật pháp, chư tăng tuyệt dứt tới lui, năm tháng dần ngấm ngầm sâu lắng, mà vị Bà-la-môn ấy thường luôn nghĩ nhớ khẩn thiết bùi ngùi. Nhân lúc đang kinh hành, thấy có một vị Samôn lông mày quăn, tóc bạc, chống tích trượng mà đến. Bà-la-môn ấy vội sang nghinh đón, thưa hỏi từ đâu đi đến. Và thỉnh mời vào trong tăng phường, chuẩn bỉ đầy đủ các thứ cúng dường. Đến sáng sớm, dùng thuần chất sữa để nấu cháo dâng cúng. Vị Sa-môn nhận rồi, vừa mới đưa vào ngang môi răng, liền đặt bát xuống, trầm ngâm thở dài. Vị Bà-la-môn dâng cúng cháo vội quỳ mà hỏi rằng: "Đại đức là bậc trí tuệ bén nhặm tùy duyên. Con đây may được đoái hoài quan tâm, vì đêm qua không được an giấc ngủ ư? Hay vì bát cháo không hợp mùi vị?". Vị Sa-môn ấy xót thương mà bảo rằng: "Tôi buồn thương cho chúng sinh phước nay dần mỏng nhạt! Thẻ tạm ngay đây mà ăn xong rồi hẳn nói". Vị Sa-môn ăn xong bèn xếp lấy áo liền đi. Vị Bà-la-môn ấy nói rằng: "Nãy hứa có nói, cớ sao giờ chẳng lời nào?". Vị Sa-môn bảo rằng: "Tôi chẳng quên đó, đàm nói chẳng dễ dàng. Sự việc hoặc đặt để điều nghi. Hẳn muốn được nghe, thì tôi vì nói lược. Hồi nãy tôi than chẳng phải khinh nhạt cháo của ông. Mà từ vài trăm năm về trước tôi chưa từng nếm thử mùi vị như vầy. Xưa kia lúc đức Như Lai còn tại thế, bấy giờ tôi từng dự theo, hoặc ở tại thành Vương Xá hoặc tinh xá Trúc Lâm, rủ dòng nước trong mà tẩy rửa đồ vật, hoặc dùng để súc miệng, hoặc dùng để tắm rửa. Than ôi! Nay đây chỉ thuần chất sữa mà chẳng bằng nước đạm nhạt ngày xưa. Đó hẳn là người trời phước giảm nên khiến như vậy". Vị Bà-la-môn ấy nói: "Vậy là đại đức đã thân gần thấy được đức Phật ư?". Vị Sa-môn đó bảo: "Đúng vậy, ông há chẳng nghe con của Phật là La Hổ La chính thân tôi đây. Vì hộ trì chánh pháp, nên tôi chưa nhập tịch diệt". Nói lời ấy rồi, bỗng nhiên không còn thấy vị Sa-môn đó nữa. Vị Bà-la-môn ấy bèn đến nơi phòng vị Sa-môn ấy nghỉ qua đêm, bôi hoa hương thơm quét tước, thiết bày tôn tượng trang nghiêm chỉnh túc, cung kính như hiện tại đối với mặt thật vậy.

Từ đó, băng trong rừng lớn đi hơn 500 dặm, đến nước Ba la nại tư (xưa trước gọi là nước Ba La Nại, tức sai nhầm vậy, thuộc Trung Ấn Độ).

Đại Đường Tây Vực ký hết quyển thứ 6.


 

QUYỂN 7

(Nói về 5 nước).

1. Nước Bà La Nại Tư.

2. Nước Chiến Chủ.

3. Nước Phệ Xá Ly.

4. Nước Phất Lật Thị.

5. Nước Ni Ba La.

1-NƯỚC BÀ LA NẠI TƯ.

Nước Bà La Nại Tư chu vi rộng hơn 4000 dặm, phía tây đô thành lớn nước đó gần sông Khắc Già, dài khoảng 18-19 dặm, rộng khoảng 5-6 dặm, xóm làng kề nhau, dân chúng sinh sống đông nhiều, nhà nhà giàu có tiền vạn, phòng thất chất đầy của cải kỳ đặc. Con người khí tánh ôn cung, tập tục mến tụng mạnh học, phần nhiều tin theo ngoại đạo, hiếm ít cung kính Phật pháp, khí hậu điều hòa, lúa thóc lắm nhiều, cây trái đều đặn, cỏ đậu tốt tươi. Có hơn 30 ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hơn trăm ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo có hơn vạn vị, và phần nhiều đều tôn thờ trời Đại Tự Tại, hoặc cắt cạo tóc, hoặc búi cao đống, hoặc để khỏa hình không vận mặc, hoặc dùng tro bôi thân, tinh cần khổ hạnh, cầu thoát sinh tử.

Bên trong thành lớn có 20 ngôi đền thờ trời, tầng đài nhà thờ khắc đá chạm gỗ, rừng tốt che bóng, ao trong giao đãi, có tôn tượng trời bằng than đá cao gần trăm thước, oai nghiêm chỉnh túc, trông nhìn sợ run như hiện tại thật.

Từ thành lớn về phía đông bắc; thuộc phía tây sông Bà La Nại có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn trăm thước, phía trước có dựng trụ đá sắc màu xanh biếc mới sạch như gương soi, sáng nhuần như nước ngưng đọng, bên trong thường hiện ảnh tượng đức Như Lai.

Từ sông Bà La Nại về hướng đông bắc đi hơn 10 dặm đến ngôi già lam Lộc Dã, khu biệt ranh giới tám phần tường thành liền nhau bao bọc chung quanh. Tầng đài lan can trùng các ánh ngời cùng quy cũ. Chư tăng có cả thảy 1500 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Bên trong tường thành lớn có một ngôi tinh xá cao hơn 200 thước, phía trên dùng vàng ròng ẩn hiện làm quả Am Một La, dùng đá làm nền móng thềm cấp, dùng gạch làm tầng khám bao quanh bốn phía, có cả hàng trăm tiết cấp, đều có tôn tượng Phật bằng vàng ròng ẩn hiện. Phía trong tinh xá có tôn tượng đức Phật bằng than đá cao lớn đồng như thân đức Như Lai, làm theo thế đang chuyển pháp luân.

Từ tinh xá về phía tây nam có một ngôi Tốt-đổba do vua Vô Ưu tạo dựng, nền móng tuy đã sụp đổ mà còn cao hơn trăm thước, phía trước có dựng trụ đá cao hơn 70 thước, đá ngậm ngọc nhuận soi chiếu ánh ngời. Nếu người chí thành cầu thỉnh ảnh hiện các tượng, mọi tướng thiện ác có lúc được thấy. Đó là nơi sau khi đã thành đẳng chánh giác, đức Như Lai chuyển pháp luân lần đầu tiên. Bên cạnh đó không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi các tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, v.v..., thấy Bồtát xả bỏ khổ hạnh bèn chẳng theo hầu hộ vệ, mà đi đến đó và tự tập hành thiền định. Bên cạnh đó lại có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi 500 vị Độc giác đồng nhập niết bàn. Lại có ba ngôi Tốt-đổ-ba là nơi có di tích của ba đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành.

Bên cạnh di tích ba đức Phật kinh hành có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Bồ-tát Ma Đát Lệ Da (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi Từ là giòng họ, xưa trước gọi là Di Lặc tức lược gọi sai nhầm vậy) nhận lời dự ghi sẽ thành Phật. Xưa kia đức Như Lai ở tại núi Linh Thứu, thành Vương Xá bảo cùng các vị Bí Sô rằng: "Ở đời tương lai tại Thiệm Bộ châu này cõi đất bằng phẳng, lúc con người có được tuổi thọ 8 vạn năm, có một người chủng tộc Bà-la-môn; giòng họ Từ, thân hình thuần sắc vàng ròng, quang minh tỏa sáng, sẽ xả bỏ nhà thế tục, xuất gia thành Đẳng chánh giác, rộng về các chúng sinh lập ba hội giảng pháp, những người được đức Phật đó tế độ đều là các chúng sinh trong di pháp của Ta gieo trồng phước đức, đối với Tam bảo, nhất tâm kính tin sâu sắc, dẫu tại gia hay xuất gia thảy đều trì giới phạm hạnh và đều được dẫn dắt giáo hóa chứng quả giải thoát. Trong ba hội giảng nói pháp đều hóa độ đồ chúng đã sống trong di pháp của ta, sau đó mới giáo hóa các hàng bạn lành đồng duyên". Khi ấy, Bồ-tát Từ Thị nghe đức Phật nói vậy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch cùng đức Phật rằng: "Xin nguyện cho con là Thế Tôn Từ Thị kia vậy". Đức Như Lai bảo rằng: "Như lời ông nói, sẽ chứng đắc quả vị đó. Các điều nói trên đều là nghi thức của ông giáo hóa".

Từ nơi Bồ-tát nhận lời dự ghi thành Phật về phía tây có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Bồ-tát Thích-ca nhận lời dự ghi thành Phật. Trong thời hiền kiếp, thuở con người có được tuổi thọ hai vạn năm, đức Phật Ca Diếp Ba xuất hiện nơi đời chuyển diệu pháp luân, khai mở dẫn hóa quần sinh, dự ghi cho Bồ-tát Hộ Minh rằng: "Bồ-tát ở đời sau lúc con người có được tuổi thọ 100 năm, sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni".

Từ nơi Bồ-tát Thích-ca nhận lời dự ghi thành Phật, về phía nam cách không xa là nơi có dấu tích của bốn đức Phật thời quá khứ kinh hành dài hơn 50 bộ cao khoảng 7 thước, dùng đá xanh sắp chất thành, phía trên làm tôn tượng đức Như Lai kinh hành. Hình tượng ấy hùng kiệt khác lạ, oai nghiêm chỉnh túc, phía trên nhục kế đặc biệt nổi hiện búi tóc, linh tướng chẳng ẩn, thần linh soi suốt. Phía trong tường thành ấy, các Thánh tính thật lắm nhiều, các tinh xá và Tốt-đổ-ba có hơn vài trăm ngôi. Ở đây chỉ lược nêu vài ba sự kiện chứ không thể thuật hết.

Từ nơi tường thành ngôi già lam về phía tây có một ao hồ trong sạch, chu vi rộng hơn 200 bộ, xưa kia đức Như Lai từng tắm rửa trong đó. Tiếp về phía tây có ao hồ lớn, chu vi rộng 180 bộ, xưa kia đức Như Lai thường tẩy rửa các đồ vật tại trong đó, tiếp về phía bắc có một cái ao hồ, chu vi rộng 150 bộ, xưa kia đức Như Lai thường giặt nhuộm y trong đó. Trong ba ao hồ ấy đều có rồng ở, nước ao hồ ấy đã sâu mùi vị lại mát ngọt, lắng trong sáng sạch, thường không tăng giảm, như người có tâm khinh mạn vào giặt rửa trong ao ấy, có loài thú Kim Tỳ La phần nhiều làm hại đó. Còn như người với tâm cung kính sâu sắc thì múc dùng không ngại sợ. Bên cạnh ao giặt nhuộm y có một tảng đá vuông lớn, phía trên có dấu vết đường văn của áo ca sa đức Như Lai, đường văn ấy hiện rõ ánh ngời như khắc phạm. Các vị tịnh tín thường đến đó cúng dường. Các hàng ngoại đạo những kẻ hung dữ dẫm đạp lên tảng đá đó thì vua rồng trong ao liền nổi gió mưa.

Bên cạnh ao ấy cách không xa có một ngôi Tốtđổ-ba, là nơi đức Như Lai trong lúc tu Bồ-tát hạnh làm con voi chúa có sáu ngà. Có người thợ săn muốn cắt lấy ngà đó nên dối mặc áo ca sa mang cung tên dò rình để bắt. Voi chúa vì kính trọng pháp y ca sa mà vặn bẻ ngà trao cho đó.

Bên cạnh nơi voi chúa bẻ ngà cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi đức Như Lai lúc tu Bồtát hạnh, thương đời vô lễ, nên hiện làm thân chim, cùng với voi trắng kia, và nhĩ hầu đồng ở đó hỏi nhau ai là người trước tiên thấy cây Ni Câu Luật, mỗi vật tự nói về sự tích, bèn xếp đặt lớn nhỏ, tỏa lan xa gần, mọi người biết trên dưới, các hàng đạo tục thảy quy tâm.

Bên cạnh đó không xa vào trong khu rừng lớn, có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai cùng Đề Bà Đạt Đa đồng làm nai chúa mà dứt trị. Xưa kia tại xứ đó, trong khu rừng lớn, có hai đàn nai, mỗi đàn có hơn 500 con. Bấy giờ vua nước đó đi săn bắn lùng khắp đồng bằng, đầm nước. Nai chúa Bồ-tát bèn đến trước mặt vua mà thưa rằng: "Đại vương đi săn bắn, phóng lửa phóng tên thì mạng sống của đàn chúng tôi đều dứt hết trong hôm nay, chẳng mấy ngày thịt sẽ rã thối, không còn có để sung cấp ngon lành. Nên xin muốn lần lượt mỗi ngày sai bắt nộp một con nai, thì đại vương đã có được thịt tươi mới ngon lành, mà chúng tôi cũng được kéo dài mạng sống trong sáng tối". Vua thuận theo lời ấy bèn xoay xa giá trở về. Từ đó trong hai đàn nai lần lượt dâng nộp mạng. Trong đàn nai của Đề Bà Đạt Đa làm chúa có hơn một con đang mang thai, theo thứ tự đáng đến lúc chết, con nai ấy nói cùng nai chúa (Đề Bà Đạt Đa) rằng: "Thân tôi tuy đáng chết, nhưng còn con chưa phải lúc". Nai chúa tức giận bảo: "Ai không quý mạng sống?". Con nai cái ấy mới than rằng: "Chúa tôi bất nhân, không cho chọn ngày chết". Và báo gấp với nai chúa Bồtát. Nai chúa Bồ-tát bảo rằng: "Buồn thương thay! Tâm của mẹ hiền! Ân đến với con chưa được thành hình. Nay tôi thay mạng cho ngươi". Và nai chúa Bồ-tát bèn đến cửa nhà vua. Mọi người đi trên đường sá truyền xướng rằng: "Nai chúa lớn kia nay lại vào ấp!". Dân chúng thành đô, các hàng sĩ thứ, không ai chẳng vội đến trông xem. Nhà vua nghe thế lấy làm chẳng thật. Đến khi có người ngoài cửa vào tấu trình vua mới tin. Vua hỏi nai chúa Bồ-tát sao vội đến vậy? Nai chúa Bồ-tát đáp rằng: "Có một con nai cái đáng đến lúc chết, nhưng vì mang thai con chưa sinh. Tâm tôi không thể cam nhẫn, nên đem thân này xin thay thế". Vua nghe thế, than rằng: "Ta đây tuy làm thân người mà còn thua nai. Ngươi tuy thân nai mà hơn cả người!". Từ đó phóng thả tất cả đàn nai không thâu nạp mạng nữa, liền dùng khu rừng ấy làm nơi loài nai sinh sống, nhân thế mà gọi đó là rừng "Thí lộc" (thả nai), và tên gọi Lộc Dã phát xuất từ đó vậy.

Từ ngôi già lam ấy về phía tây nam cách khoảng 3-4 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn 300 thước, nền móng rộng lớn cao vợi, trang trí bằng các vật trân quý ánh ngời. Phía trên không có tầng khám, tiện thiết đặt hình bình bát úp. Tuy tạo dựng phô bày ngoài trụ mà không có vòng khánh đạt bao quanh. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi các tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, v.v..., cả thảy năm vị bỏ ước chế nghinh đón đức Phật. Mới đầu, thái tử Tát Bà Hạt Thích Tha Tất Đà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nhất Thiết Nghĩa Thành, xưa trước gọi là Tất Đạt Đa, tức lược gọi sai nhầm vậy) sau khi vượt thành đến nương tựa núi rừng ẩn náu hang cốc, quên thân cầu hỏi đạo. Vua Tịnh Phạn mới gọi ba người trong gia tộc và hai người bên họ ngoại mà bảo rằng: "Con của ta là Nhất Thiết Nghĩa Thành đã bỏ nhà đi tu đạo. Một mình đến chốn núi đầm, riêng thân sống trong rừng chầm, nên nay ta bảo các ông cùng đi theo dò xét nơi ở. Bên trong thì bà con chú cha bác cậu, bên ngoài đã là vua lại tôi, phàm mọi sự động tĩnh đều nên xét biết đi ở v.v… Năm vị ấy tuân vâng mạng lệnh cùng mang đến chung sống gần để bảo vệ thái tử. Nhân đó cũng cầu cầu muốn mong thoát lìa. Từng cùng nói với nhau rằng: "Phàm người tu đạo phải cần khổ mới chứng? Hay an lạc mới chứng?". Trong đó, ba người cho là cần khổ là đạo, còn lại hai người cho là an lạc là đạo. Một bên hai người, một bên ba người giao tranh lẫn nhau chưa phân minh. Khi ấy thái tử tư duy chí lý, vì phục các ngoại đạo khổ hạnh, nên tiết dục chỉ ăn hạt gạo hạt mè để giữ thân mạng. Hai người kia thấy thế mà bảo rằng: "Điều thái tử đang thực hành chẳng phải là pháp chân thật. Phàm tu đạo phải có sự an lạc để chứng đắc đó. Nay chỉ chuyên cần khổ chẳng phải cùng đồng bọn với chúng tôi". Bèn bỏ trốn đi xa để tư duy về quả chứng. Qua sáu năm khổ hạnh, thái tử chưa chứng quả Bồ-đề, muốn nghiệm lại khổ hạnh chẳng phải là pháp chân thật, nên thọ nhận bát cháo cúng dường mà chứng quả. Ba người kia nghe thế mà than rằng: "Công đã sắp thành, nay tự thối thất, suốt sáu năm chuyên hành khổ hạnh chỉ một ngày tổn mật công không!". Khi ấy bèn cùng nhau tìm kiếm hỏi đến hai người kia, đã được gặp nhau rồi, lại cùng ngồi bàn luận cao siêu, mà nêu bày rằng: "Xưa kia thấy thái tử Nhất Thiết Nghĩa Thành ra khỏi cung vua tìm đến núi hoang vắng, vất bỏ y phục trân quý, vận mặc áo da nai, tinh cần gắng chế, trinh tiết khổ tâm, mong cầu diệu pháp sâu mầu, hoài mong chứng quả vô thượng. Nay lại thọ nhận bát cháo sữa của mục nữ, thật là hư bại đạo, khuyết phá ý chí. Chúng tôi biết đích thực như thế, không thể làm vậy!". Hai người kia bảo rằng: "Các ông sao thấy điều ấy muộn thế? Đây là hàng người còn rõ vậy. Phàm ở nơi cung sâu, an thay cao quý ưu thắng, mà chẳng thể tự tĩnh chỉ, xa dấu vết đến chốn núi rừng, vất bỏ ngôi vị chuyển luân vương, làm hành nhân thấp hèn bỉ lậu. Sao có thể đáng nghĩ nhớ thay! Nói ra càng thêm xót xa vậy". Bồ-tát xuống dòng sông Ni Liên Thuyền, tắm xong lên ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, thành đạt quả vị chánh đẳng chánh giác, hiệu là Thiên Nhân Sư, điềm nhiên vắng lặng, tư duy quán sát người nào đáng độ, mới tự bảo rằng: "Ông Uất Đầu Lam Tử kia chứng định phi tưởng, có khả năng nhận thọ diệu pháp". Bỗng nhiên từ giữa không trung các trời tìm theo tiếng báo rằng: "Ông Uất Đầu Lam Tử qua đời đến nay đã bảy ngày". Đức Như Lai than tiếc rằng: "Cớ sao không được gặp để lắng nghe diệu pháp mà vội theo biến hóa!". Đức Phật lại quán sát xem cùng khắp thế giới, nghĩ nhớ có ông A Lam Ca Lam là người chứng đắc Vô Sở Hữu Xứ Định, ta có thể trao cho chí lý. Các trời lại bảo là: "A Lam Ca Lam mạng chung đã năm ngày". Đức Như Lai lại than tiếc, xót thương cho các vị ấy bạc phước. Lại quán xét xem ai là người đáng thọ giáo pháp? Chỉ tại trong rừng Thí Lộc có năm người, có thể đáng được dẫn dắt trước hết. Khi ấy, đức Như Lai từ cây Bồ-đề đứng dậy đi đến vườn Lộc Dã, oai nghi tĩnh lắng, thần quang tỏa sáng, giữa chặn mày ngậm chiếu sắc ngọc, thân thuần sắc màu vàng ròng, an tường nhẹ nhàng đi tới dẫn dắt năm vị ấy. Từ xa trông thấy đức Như Lai, năm vị ấy cùng nói với nhau rằng: "Nhất Thiết Nghĩa Thành kia đang lại đây, hẳn là năm tháng vội trôi qua mà Thánh quả không chứng đắc, tâm hoài mong đã thối thất nên tìm trở lại với bọn chúng ta. Chúng ta mỗi người tự nên im lặng chớ đứng dậy nghinh đón lễ tiếp". Đức Như Lai đi dần lại gần, do oai thần cảm chuyển vật tình, năm sự ấy bèn quên mất ước chế nên bái lạy nghinh tiếp hỏi han, theo hầu như nghi thức. Đức Như Lai dần dần dẫn dụ chỉ bày diệu lý, qua hai mùa an cư, năm vị ấy mới được quả chứng.

Từ rừng Thí Lộc về hướng đông đi khoảng 2-3 dặm đến một ngôi Tốt-đổ-ba, bên cạnh ấy có một ao rộng chu vi rộng hơn 80 bộ; ao ấy có tên gọi là "Cứu Mạng", lại còn gọi là ao "Liệt Sĩ". Nghe các bậc lão thành kể là vài trăm năm trước có một vị ẩn sĩ đến bên ao đó dựng lập am tranh mà ẩn vết, rộng tập học các thứ kỹ thuật, nghiên cứu tận cùng về thần lý, có khả năng khiến ngói sỏi biến thành vật báu. Người vật thay đổi hình dạng, chỉ chưa đủ khả năng cưỡi trên gió mây, tiếp cùng tiên giá. Xét duyệt đồ cổ, lại cầu tiên thuật. Phương ấy nói là phàm thuật thần tiên là thuật trường sinh. Như muốn cầu học, trước phải định chí ý, dựng lập đàn tràng chu vi rộng hơn một trượng, bảo một liệt sĩ có niềm tin dõng mãnh tỏa chiếu trước khắp, cầm nắm dao dài đứng ở góc đàn, lắng nhẹ hơi thở, dứt tuyệt nói năng từ tối đến sáng. Còn người cầu tiên đạo ngồi tại trong đàn, tay đè nén dao dài, miệng tụng thần chú, thâu trả thấy nghe đến sáng sớm lên tiên. Với dao bén nhọn nắm giữ ấy biến làm thành kiếm báu, vút dẫm giữa hư không tức cùng các tiên đồng bạn, nắm kiếm chỉ huy, mọi điều ước muốn thảy đều vâng theo, không suy yếu, không già nua, không bệnh, không chết. Người ấy đã được phương thuật thần tiên, mới đến phỏng hỏi Liệt Sĩ, bày biện mong cầu trải qua nhiều năm mà chưa hài hòa tâm nguyện. Về sau, đang ở trong thành, thấy gặp một người buồn khóc men theo đường đi. Ẩn sĩ trông thấy tướng dáng đó, trong tâm rất vui mừng liền vì ủy an thăm hỏi cớ sao mà oán thương đến thế. Người ấy đáp rằng: "Tôi vì nghèo khổ, phải dốc sức làm thuê mướn để tự sống, người chủ thấy biết rất đặc biệt tin dùng, kỳ hẹn đủ năm năm sẽ đền đáp trọng thưởng. Từ đó tôi nhẫn chịu cần khổ, quên cả gian nan, sắp đủ năm năm, bỗng có một sáng mai trái nhất, đã bị đánh nhục, lại không được gì. Vì vậy mà tâm đau buồn, biết ai cứu giúp!". Vị ẩn sĩ bảo cùng đi đến nơi am tranh, dùng sức lực phương thuật biến hóa đủ thứ thức ăn ngon lành cho ăn uống rồi, lại dẫn bảo vào trong ao tắm gội, thay mặc áo mới. Lại đem 500 tiền vàng cho đó mà bảo rằng: "Cứ sử dụng hết thì đến đây kiếm cầu không vượt ngoài vậy. Từ đó về sau qua vài lần cấp tặng, ngầm làm điều âm đức cảm khái tâm người ấy. Vị liệt sĩ luôn cầu công hiệu mạng để bảo cùng tri kỷ. Vị ẩn sĩ bảo: "Ta cầu tìm liệt sĩ, trải qua thời gian năm tháng lâu dài may mà được hội ngộ. Dung mạo kỳ đặc ứng đồ, chẳng phải có nguyện xưa cũ khác, một đêm không nghe tiếng vậy". Liệt sĩ bảo rằng: "Chết còn chẳng từ, đâu nhọc gì lắng thở". Khi ấy bèn thiết lập đàn tràng tập thọ tiên pháp. Y theo phương thức mà hành sự, ngồi giữ ánh sáng thừa của mặt nhật. Từ sau khi mặt trời lặn mọi sự dò xét việc của mình, ẩn sĩ tụng thần chú, còn liệt sĩ đè nén dao bén nhọn, mãi đến lúc gần sáng, bỗng nhiên phát tiếng kêu. Khi ấy từ giữa không trung lửa phóng xuống khói đất may ngùn ngụt. Ẩn sĩ vội kéo dẫn Liệt sĩ vào nơi ao lánh nạn, thế rồi hỏi rằng: "Đã răn bảo ông không được mở tiếng cớ sao kinh hãi kêu?". Lực sĩ đáp rằng: "Tôi đã vâng theo lời mãi đến cuối đêm, mịt mờ trong cơn mộng khổ, biến đổi khác lạ lại nổi lên, thấy người chủ nơi tôi làm việc xưa kia đích thân đến ủy an thứ tạ, cảm đội ân sâu dày, tôi vẫn nhẫn chẳng mở lời đáp, người chủ ấy tức giận, tôi bèn bị giết hại. Đang lúc nhận chịu thân trung ấm, trông nhìn lại thi thể mà tự than tiếc, mà vẫn giữ nguyện trải qua trọn đời không nói, để báo ân sâu dày, bèn thấy thác sinh trong nhà Đại Bà-la-môn tại xứ Nam Ấn Độ. Cho đến lúc vào thai ra thai, trải qua đủ thứ khổ ách, vì cảm đội ân đội đức nên thường chẳng mở lời, kịp đến lúc thọ học, thành thân, cưới vợ, chịu tang song thân, sinh con, mỗi mỗi đều nghĩ nhớ ân đức xưa trước nên nhẫn mà chẳng nói. Mọi người trong bà con thân thuộc đều thấy quái lạ. Đến lúc tuổi đã 65, người vợ tôi mới bảo rằng: "Ông nên nói chứ. Nếu như chẳng nói thì tôi sẽ giết con của ông đây". Khi ấy tôi chỉ nghĩ nhớ đã cách qua đời kiếp, tự nhìn thấy mình đã già suy, và chỉ có được đứa con nhỏ ấy. Nhân cản ngăn người vợ, khiến không giết hại, mới bèn phát ra tiếng ấy vậy". Ẩn sĩ bảo rằng: "Đó là lỗi quá tại tôi. Đó là ma nhiễu vậy". Liệt sĩ ấy cảm ân. Buồn sự việc không thành nên tức giận mà chết. Vì thoát khỏi nạn hỏa tai, nên gọi là "Cứu Mạng", vì cảm ân mà chết, nên gọi là "Liệt sĩ" vậy.

Từ ao Liệt Sĩ về phía tây có ngôi Tốt-đổ-ba ba con thú. Là nơi đức Như Lai ở thời tu Bồ-tát hạnh thiêu thâu. Vào thời kiếp sơ, tại rừng hoang trống ấy, có con chồn, con thỏ và con khỉ tuy ba con khác loại mà luôn vui hòa. Bấy giờ trời Đế Thích muốn xét nghiệm người tu hạnh Bồ-tát nên giáng linh hiện hóa làm một lão phu đến nói cùng ba con thú ấy rằng: "Nghe nói ba ông khéo an ẩn với nhau ư? Không kinh sợ nhau ư?". Ba con thú đáp: "Dẫm trải qua cỏ tươi tốt, rảo bước giữa rừng bao la, tuy khác loài mà đồng vui vẻ, đã an lại lạc". Lão phu ấy bảo rằng: "Nghe nói ba ông tình sâu ý kín, quên cả sự già tệ nên từ xa lại tìm. Nay chánh đang lúc đói khát, vậy có gì để cho ăn?". Ba con thú nói: "Mong đợi chờ giây lát, tự thân chúng tôi sẽ gấp kiếm tầm". Khi ấy cả ba con thú đồng tâm quên cả chính mình phân chia đường đi tìm kiếm thức ăn. Con chồn men theo bến nước bắt được con cá chép ngon lành. Con khỉ vào trong rừng cây bẻ hái hoa trái kỳ lạ, cùng mang trở lại đồng dâng cho lão phu. Chỉ có con thỏ trở về không, nhảy nhót chung quanh. Lão phu mới bảo rằng: "Theo sự thấy của tôi thì các ông chưa thật sự hòa, khỉ và chồn cùng đồng chí mỗi mỗi đều làm theo tâm, còn thỏ lại trở về không, riêng chẳng có gì đãi ăn. Lấy đó mà nói thì thật sự có thể biết vậy". Con thỏ nghe lời gièm pha ấy rồi, bèn nói với khỉ và chồn rằng: "Nên nhóm chất lại nhiều củi khô tôi mới kiếm ra làm thức ăn". Chồn và khỉ đua nhau vội ngậm cỏ, kéo cây, đã chất thành đống cao, lửa dữ sắp đốt cháy, thỏ nói cùng lão phu rằng: "Thân tôi nhỏ yếu, nên sự mong cầu khó được toại. Nay xin đem tấm thân nhỏ nhoi này để sung dâng làm một bữa ăn!". Nói vừa dứt lời, thỏ bèn nhảy vào đống lửa, chốc lát liền chết. Khi ấy lão phu hiện lại thần trời Đế Thích dập trừ lửa tắt, gom nhặt hài cốt của thỏ, thương than giây lâu, rồi nói cùng chồn và khỉ rằng: "Sao phải đến nỗi này? Tôi cảm tâm chí đó, không để mất hết vết tích ấy. Xin gởi thỏ lên vầng trăng lưu truyền lại gương sáng cho đời sau". Nên ở xứ đó mọi người đều nói: "Thỏ trong ánh trăng do từ đó mà có". Và người đời sau ở đó tạo dựng nên ngôi Tốt-đổ-ba ấy.

Từ đó thuận theo phía đông dòng sông Khắc Già, đi hơn 300 dặm đến nước Chiến Chủ (thuộc Trung Ấn Độ).

2-NƯỚC CHIẾN CHỦ.

Nước Chiến Chủ chu vi rộng hơn 2000 dặm, đô thành gần sông Khắc Già chu vi rộng hơn 10 dặm. Dân chúng sinh sống đông vui, thôn ấp gần kề nhau. Đất đai màu mỡ, lúa thóc gieo trồng theo mùa vụ, khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất. Con người tánh khí mạnh dữ, tà chánh đều kính tin. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có gần ngàn vị, đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Có 20 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn.

Từ thành lớn về phía tây bắc, trong một ngôi già lam có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Theo các bậc lão thành nói là: trong đó có một đấu xá lợi của đức Như Lai. Xưa kia đức Thế Tôn từng đến ở xứ đó, suốt trong 7 ngày vì các chúng trời người mà hiện bày diễn nói diệu pháp. Bên cạnh đó là nơi có dấu vết của ba đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Gần đó lại có tôn tượng đức Bồ-tát Từ Thị, hình lượng tuy nhỏ mà oai thần cao vợi. Linh giám ngầm thông, vết tích kỳ đặc có lúc hiện khởi.

Từ thành lớn theo hướng tây đi hơn 200 dặm đến Tăng-già lam A Tỵ Đà Yết Thích Noa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Bất Xuyên Nhĩ = không xỏ lỗ tai). Tường thành chung quanh chẳng rộng chạm trổ trang sức rất kỳ công, hoa ao giao ảnh. Đài các liền mái, chư tăng chỉnh túc hòa mục, oai nghi tường tự. Nghe các bậc lão thành nói là: xưa trước ở nước Đổ Hóa La tại phía bắc núi tuyết lớn, có vị Sa-môn ham thích học đạo ham thích học đạo, cùng vài ba người đồng kết chí hướng, những lúc nhàn rỗi việc trì tụng, thường cùng với nhau rằng: "Diệu lý sâu xa ngôn từ chẳng thể bàn nói đến cùng cực, các Thánh tiên hiển hiện có thể giẫm bước truy tầm, chúng ta cầu nên phỏng hỏi chớ ngại nghịch cảnh đích thân đi chiêm lễ các Thánh tích". Khi ấy cả hai ba người đồng kết bạn chống tích đồng đi. Khi đã đến Ấn Độ dừng ở tại các ngôi già lam, bịnh khinh thường cho là ở chốn biên bỉ, nên chẳng có được phòng nhà dừng ở, bên ngoài thì bị bức bách bởi gió sương, bên trong thì bởi thiếu đói nhiều ngày, nên nhan sắc tiều tụy, thân hình chỉ còn như cây khô. Bấy giờ vua nước đó (Chiến Chủ) tuần du ra gần ngoài biên giao, thấy các khách tăng, lấy làm quái lạ mà hỏi rằng: "Các khất sĩ vốn người ở xứ nào, có nhân duyên gì mà đến đây? Tai đã không xỏ, lại vận mặc y phục dơ bẩn xấu tệ?". Các Sa-môn ấy đáp rằng: "Chúng tôi là người ở nước Đổ Hóa La, kính vâng tiếp thừa di giáo, dẫm bước phong trần dẫn cùng đồng bạn muốn tham quan chiêm lễ các Thánh tích. Nhưng xót xa thay, vì kém phước nên mọi người đều bỏ rơi. Các vị Sa-môn xứ Ấn Độ này chẳng đoái hoài cho dừng nghỉ trọ, muốn trở về lại quê cũ thì sự thăm quan lễ bái chưa cùng khắp, tuy vội vàng cần khổ mà tâm bèn để sau vậy!". Vua nghe nói vậy rất mực thương cảm, bèn đến chọn Thánh địa này mà tạo dựng ngôi già lam, dùng bông tơ sắc trắng vì các vị Sa-môn ấy mà chế định rằng: "Ta đã được ở ngôi vị cao quý cùng cực trong đời, đó là do sự chở che giúp đỡ linh thiêng của Tam bảo. Đã làm vua trong cõi người nhưng lại nhận sự phó chúc của chư Phật, nên phàm đối với những người xuất gia tôi đều hộ giúp. Tạo lập ngôi già lam này là để kính mời các hàng Sa-môn khách lữ. Từ nay trở đi, với các hàng Sa-môn có xỏ lỗ tai không được dừng ở tại ngôi già lam tôi tạo lập đây". Nhân sự tích ấy mà gọi tên như vậy.

Từ Tăng-già lam A Tỵ Đà Yết Thích Noa theo hướng tây nam đi hơn trăm dặm, lại theo hướng nam vượt qua sông Khắc Già, đến ấp Ma-ha Bà La. Xứ đó thuần là chủng tộc Bà-la-môn, không tuân kính Phật pháp, nhưng thấy các hàng Sa-môn, trước hết phỏng hỏi về khả năng học nghiệp, biết ai là người có sự nhận biết lớn mạnh thì rất mực lễ kính.

Tại phía bắc sông Khắc Già có ngôi đền thờ trời

Na La Diên, trùng các tầng đài trang sức rất ánh lệ. Tôn tượng chư thiên được đục khắc đá tạo thành, sắc sảo hết sức nghĩ ngợi của con người. Linh ứng khó thể diễn bày hết được. Từ đền thờ trời Na La Diên ấy theo hướng đông đi hơn 30 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng đã hơn một nữa bị vùi lấp dưới đất, phía trước có dựng một trụ đá cao hơn hai trượng, phía trên làm hình sư tử, khắc ghi sự tích nhiếp phục quỷ. Xưa kia tại xứ đó có quỷ khoáng dã tự cậy ỷ có oai lực lớn nên ăn thịt uống máu người làm hại sinh linh. Ngang tàng hiện bày lắm sự yêu quái, đức Như Lai xót thương những chúng sinh chết mà chẳng được toàn thây. Đức Như Lai bèn dùng sức thần thông dẫn dụ giáo hóa các quỷ. Dẫn dắt bằng sự cho biết kính trọng quy y. Và dùng giới không giết hại mà cứu tế, các quỷ tuân theo sự chỉ giáo, kính phụng chu toàn, thiết đặt tảng đá tại đó, thỉnh Phật lên ngồi. Và cầu xin được nghe giáo pháp, khắc niệm hộ trì. Từ đó về sau có những hạng người không tin dời chuyển tảng đá do các quỷ sắp đặt, có cả số đông hàng ngàn người mà vẫn không lay chuyển. Cây rừng xanh tốt, ao nước trong xanh bao chung quanh đó, mọi người đến đó không ai chẳng sinh tâm kinh sợ. Bên cạnh nơi đức Phật nhiếp phục các quỷ ấy cách không xa có vài ngôi Tốt-đổ-ba, trong đã bị hư hoại lắm nhiều, nhưng hiện còn có chư tăng sinh hoạt, và đều tập học theo giáo pháp đại thừa.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn trăm dặm, đến một ngôi Tốt-đổ-ba, nền móng tuy đã sụp đổ hư hoại, nhưng hiện còn cao hơn vài trượng xưa kia, sau khi đức Như Lai diệt độ, các vị vua của tám nước phân chia xá lợi, vị Bà-la-môn đong lường xá lợi, dùng mật bôi phết trong bình đong phân chia cho các vua, còn vị Bà-la-môn ấy giữ lấy chiếc bình đó mang về, đã có được xá lợi dính ở trong bình nên bèn tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba đó để tôn thờ. Thiết đặt chiếc bình ấy trong đó và cũng nhân vậy mà đặt tên. Về sau, vua Vô Ưu khai quật lấy bình xá lợi, lại tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba lớn, hoặc đến các ngày trai có lúc tỏa phóng ánh sáng.

Từ đó theo hướng đông bắc vượt qua sông Khắc Già, đi khoảng 140-150 dặm đến nước Phệ Xá Ly (xưa trước gọi là Tỳ Xá Ly tức sai nhầm vậy, thuộc Trung Ấn Độ).

3-NƯỚC PHỆ XÁ LY.

Nước Phệ Xá Ly chu vi rộng hơn 5000 dặm, đất đai màu mỡ, hoa quả tốt tươi. Quả Am Một La, Quả Mậu Già đã lắm nhiều mà lại quý. Khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất, ưa thích sự phước đức, quý trọng điều học hành. Có vài trăm ngôi già lam, phần nhiều đều đã hư hoại, chỉ còn lại năm ba ngôi, chư tăng rất hiếm ít. Có vài mươi ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn.

Hàng lõa hình ngoại đạo đồng bạn đông nhiều. Thành Phệ Xá Ly đã hư hoại lắm nhiều, dấu vết nền móng xưa cũ còn lại rộng khoảng 60-70 dặm, chu vi cung thành rộng khoảng 4-5 dặm đến một ngôi già lam, chư tăng hiếm ít và đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai giảng nói kinh Tỳ Ma La Cật, trưởng giả Tử Bảo Tích, v.v... dâng cúng lọng báu. Từ đó về phía đông có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi các tôn giả Xá Lợi Tử, v.v... ở tại đó chứng đắc quả vị Vô Học.

Từ nơi các tôn giả Xá Lợi Tử v.v..., chứng đắc quả vị vô học về phía đông nam có ngôi Tốt-đổ-ba do vua nước Phệ Xá Ly tạo dựng. Xưa kia, sau khi đức Như Lai nhập niết bàn, tiên vương nước đó phân chia được phần xá lợi, nên tạo lập tôn thờ. Theo "Ấn Độ Ký" nói là trong Tốt-đổ-ba đó xưa trước có một hộc xá lợi của đức Như Lai, vua Vô Ưu đã mở lấy hết chín đấu, về sau có vị quốc vương lại muốn mở lấy, vừa mới chuẩn bị khởi công, liền đó quả đất chấn động bèn không dám mở lấy. Từ đó về phía tây bắc có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo lập, bên cạnh đó có một trụ đá cao khoảng 50-60 thước, phía trên làm hình tượng sư tử. Từ trụ đá đó về phía nam có một cái ao là do đàn khỉ vượn vì đức Phật mà moi đào. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại nơi đó. Từ ao ấy về phía tây cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi các khỉ vượn mang bình bát đức Như Lai leo lên cây để lấy mật. Lại từ ao ấy về phía nam cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi các khỉ vượn dâng bát mật cúng dường đức Phật. Và từ ao ấy về góc tây bắc còn có hình tượng của khỉ vượn.

Từ ngôi già lam ấy về phía đông bắc cách khoảng 3-4 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi vườn nhà xưa cũ của Tỳ Ma La Cật (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vô Cấu Xưng. Xưa trước gọi là Tịnh Danh, nhưng "Tịnh" tức là "Vô cấu", còn "Danh" tức là "Xưng", nghĩa là tuy đồng nhưng tên gọi khác. Xưa trước gọi là Duy Ma Cật, tức là lượt gọi sai nhầm vậy), có nhiều linh dị, cách đó không xa có một thần xá (nhà thần) hình tướng như gạch chất nhiều lớp. Tương truyền nơi sắp chất gạch đá đó là nơi trưởng giả Vô Cấu Xưng hiện tướng bệnh để giảng nói pháp. Cách đó không xa có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi vườn nhà xưa cũ của trưởng giả tử Bảo Tích. Cách đó không xa lại có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi vườn nhà xưa cũ của Am Một La Nữ, là nơi di mẫu của đức Phật cùng các Bí Sô ni ở tại đó mà chứng nhập niết bàn.

Từ ngôi già lam ấy về phía bắc cách khoảng 3-4 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi xưa kia đức Như Lai sắp qua nước Câu Thi Na để nhập niết bàn, người cùng các hàng phi nhân cùng đi theo đức Thế Tôn đến đó đứng chờ đợi. Từ đó tiếp về phía tây bắc cách không xa lại có một ngôi Tốt-đổba là nơi đức Phật đứng tại đó trông nhìn lại thành Phệ Xá Ly lần cuối cùng. Từ đó về phía nam cách không xa lại có một ngôi tinh xá, phía trước có tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba là nơi khu vườn của Am Một La Nữ dâng cúng đức Phật.

Bên cạnh khu vườn của Am Một La Nữ có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi đức Như Lai dự báo sẽ nhập Niết bàn. Xưa kia đức Như Lai đến tại đó cùng tôn giả A-nan rằng: "Người đã chứng đắc tử thần túc, có thể sống kéo dài thọ mạng với thời gian một kiếp. Ngày nay đức Như Lai đến tại đó bảo cùng tôn giả A-nan rằng: "Người đã chứng đắc tử thần túc, có thể sống kéo dài thọ mạng bao lâu?". Qua vài ba phen đức Phật hỏi như thế, mà tôn giả Anan bị Thiên Ma làm mê hoặc nên chẳng trả lời. Và tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trong rừng ngồi im lặng. Khi ấy Ma lại thỉnh cầu đức Phật rằng: "Như Lai ở tại thế gian giáo hóa đã lâu, chúng sinh được cứu độ lưu chuyển số đông như cát bụi, niềm an lạc của sự tịch diệt nay đã đúng phải thời vậy". Đức Thế Tôn bèn lấy ít đất đặt để trên móng tay mà bảo cùng ma rằng: "Đất giữa đại địa nhiều hay đất trên móng tay của ta nhiều?". Ma đáp rằng: "Đất giữa đại địa nhiều". Phật bảo: "Số chúng sinh ta đã hóa độ thì như số đất trên móng tay của ta, còn số chưa độ thì như giữa đại địa vậy. Ba tháng sau, ta sẽ nhập niết bàn". Ma nghe đức Phật bảo vậy bèn vui mừng mà rút lui. Bấy giờ tôn giả A-nan đang ở trong rừng bỗng cảm điều mộng khác lạ, trở lại thưa bạch cùng đức Phật rằng: "Con ở trong rừng mộng thấy có một cây lớn cành lá tươi tốt, che bóng kín khắp cùng, bỗng nhiên gió nổi dậy thổi bẻ tan nát không còn một gì. Đâu chẳng phải là đức Như Lai sắp nhập niết bàn ư? Trong tâm con ôm hoài lo sợ, nên lại thỉnh hỏi?". Đức Phật bảo tôn giả A-nan rằng: "Trước kia tôi đã bảo hỏi ông, nhưng ông bị ma che mờ khuất lấp nên khi đó ông không thỉnh cầu lưu ở lại. Ma vương đến khuyên thỉnh tôi sớm nhập Niết bàn. Tôi đã nói kỳ hạn hứa thuận. Nên điềm mộng ấy là như thế vậy".

Bên cạnh nơi đức Phật dự báo sẽ nhập niết bàn cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi ngàn người con được gặp thấy lại song thân. Xưa kia có vị tiên nhân ở ẩn nơi hang cốc, vào trong tháng hai xuống tắm rửa dưới dòng suối trong mát, có con nai xuống uống nước nơi dòng suối ấy bèn cảm sinh một người con gái dáng mạo xinh đẹp trội vượt khác người thường. Tiên nhân gặp thấy vậy bèn đưa về nuôi dưỡng. Về sau, tiên nhân bảo người con gái (nàng nai) ấy đến nơi vị tiên khác để xin lửa. Những dấu vết bước chân giẫm trên đất đều nổi hiện hoa sen, vị tiên kia thấy thế lấy làm kỳ lạ, bèn bảo đi nhiễu quanh am tranh mới cho lửa để mang về. Nàng nai bèn y theo lời bảo ấy mới có được lửa mang trở về. Bấy giờ, vua Phạm Dự đang đi săn thấy hoa sen nên tìm theo dấu vết, khi đã thấy gặp, rất vui lòng và lấy làm quái lạ, bèn đưa nàng nai trở về cung. Sau đó, các thầy tướng chiêm đoán nàng nai sẽ sinh ngàn người con, các người vợ khác của vua nghe thế không ai chẳng dám mưu tính. Đến lúc ngày tháng đã đủ, nàng nai sinh ra một hoa sen, hoa có ngàn cánh, mỗi mỗi cánh có một người con ngồi ở trong. Các người vợ khác của vua gièm pha sàm tấu đều gọi đó là điềm không tốt lành, bèn đem ném vất giữa dòng sông Khắc Già, theo làn sóng dập dìu trôi nổi. Khi ấy vua Ô Kỳ Diên đang tham quan phía dưới dòng sông, thấy mây vàng che phủ cưỡi sóng mà lại, vua vớt lên mở xem thì có ngàn người con, bèn đem về chăm sóc bú mớm nuôi dưỡng, đến lúc trưởng thành có sức lực mạnh. Vua ỷ cậy có ngàn người con bèn dẫn binh đánh chiếm khắp bốn phương. Binh lính thừa oai thế chiến thắng lần lượt kéo đến nước đó (Phệ Xá Lý thuở xưa trước). Khi ấy, vua Phạm Dự nghe binh lính đông mạnh kéo đến trong lòng rất lo sợ binh lính của mình không sức địch nỗi, chẳng biết tính sao. Bấy giờ, trong tâm nàng nai biết binh lính đó là con của mình nên nói cùng vua rằng: "Nay binh lính sắp đánh chiếm nước nhà, trên dưới đều rối ren cõi lòng, tiện thiếp đây nghĩ suy có thể đánh bại giặc địch mạnh". Vua chưa thể tin hiểu điều đó, lo sợ càng sâu xa. Nàng nai mới leo lên lầu thành chờ đợi giặc đến. Ngàn người con ấy dẫn binh lính vây bọc khắp bốn phía thành. Nàng nai bảo rằng: "Chớ nên làm điều trái ngược. Ta là mẹ của các ngươi, các ngươi là con của ta". Ngàn người con ấy bảo rằng: "Cớ sao dám nói xằng bậy vậy?". Nàng nai bèn đưa tay đè nén hai núm vú, bỗng tuôn vọt ngàn dòng sữa, như thiên tánh cảm nên đều rơi vào trong miệng ngàn người con. Khi ấy ngàn người con ấy bèn cởi áo giáp, giải tan binh lính trở về với giòng tộc. Hai nước giao hảo muôn dân thảy đều an lạc.

Bên cạnh nơi ngàn người con ấy quay về lại với tông tộc có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi có dấu vết xưa kia đức Như Lai kinh hành đến đó, và chỉ bảo cùng chúng tăng rằng: "Đây là nơi xưa kia ta trở lại với tông tộc được thấy gặp song thân. Muốn biết ngàn người còn ấy tức là ngàn đức Phật ở thời hiền kiếp này vậy".

Từ nơi đức Phật thuật bày về Bản sinh về phía đông có một nền móng xưa cũ, phía trên có tạo dựng một ngôi Tốt-đổ-ba, có lúc tỏa phóng ánh sáng. Mọi người đến cầu nguyện phần nhiều đều được toại nguyện. Đó là nơi xưa kia đức Phật giảng nói các kinh Phổ Môn, Đà La Ni, v.v... Trùng các giảng đường hiện còn lại nền móng xưa cũ.

Bên cạnh giảng đường cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba, bên trong có một nửa thân phần xá lợi của tôn giả A-nan. Cách đó không xa có khoảng vài trăm ngôi Tốt-đổ-ba, muốn xác định số lượng đó chưa thể biết rõ. Đó là nơi ngàn vị độc giác nhập diệt vậy. Cả trong và ngoài chung quanh tường thành Phệ Xá Ly, các Thánh tích có lắm nhiều khó thể nêu bày đầy đủ, hình thế ưu thắng thành quách xưa cũ đổ nát xếp sắp như vảy cá cao vợi, năm tháng chợt biến đổi, mưa nắng thuở đổi thay, rừng đã gãy đổ suy tàn, ao cũng khô cạn, gốc cây trơ trọi còn lại dấu vết có thể lấy đó nghiệm rõ vậy.

Từ thành lớn theo hướng tây bắc đi khoảng 50-60 dặm, đến một ngôi Tốt-đổ-ba lớn, là nơi các Lật Chiếp Bà Tử (xưa trước gọi là Ly Xa Tử, tức sai nhầm vậy) giả biệt đức Như Lai. Xưa kia, lúc đức Như Lai từ thành Phệ Xá Ly đi đến nước Câu Thi La, các Lật Chiếp Bà Tử nghe đức Phật sắp nhập niết bàn, bèn cùng nhau buồn khóc tiễn biệt. Đức Thế Tôn đã thấy sự buồn thương luyến mộ đó, ngôn từ không thể dẫn dụ được, bèn dùng sức thần hóa hiện thành một dòng sông lớn, bờ mé cao vợi, nước sông sâu thẳm, sóng dâng cuồng cuộn, các Lật Chiết Bà Tử bèn buồn khóc dừng lại, đức Như Lai lưu lại cho cái bình bát để làm vật truy niệm.

Từ thành Phệ Xá Ly về phía tây bắc cách gần 200 dặm có một khu thành xưa cũ đã hoang tàn với năm tháng lâu dài, người ở hiếm ít trống vắng thưa thớt. Bên trong có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa trước đức Phật có ở tại đó vì các vị Bồ-tát cùng các chúng trời người dẫn nói về Bản sinh, tu Bồ-tát hạnh. Đức

Phật đời trước từng ở tại thành đó làm vua chuyển luân, hiệu là Ma-ha Đề Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Thiên) có ứng bảy báu, làm vua cả tứ thiên hạ, thấy được tướng suy tàn biến đổi, thấu rõ lý vô thường, bèn thầm ôm hoài giẫm bước cao, quên tình ngôi vị lớn, xả bỏ nước nhà mà xuất gia học đạo.

Từ thành về phía đông nam cách khoảng 14-15 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba lớn, là nơi 700 vị hiền Thánh kiết tập kinh điển lần thứ hai. Sau khi đức Phật nhập niết bàn khoảng 110 năm, tại thành Phệ Xá Ly có các vị Bí Sô, xa lìa Phật pháp, hành trì sai nhầm về giới luật. Bấy giờ có trưởng lão Da Xá ở nước Kiều-tát-la, trưởng lão Tam Bồ Già ở nước Mạt Thố La, trưởng lão Ly Ba Đa ở nước Hàn Nhã, trưởng lão Sa La ở nước Phệ Xá Ly, trưởng lão Phú Xà Tô Di La ở nước Sa La Lê Phất, và các vị Đại A-la-hán tâm được tự tại, hành trì gìn giữ Tam tạng, chứng đắc Tam minh, có tiếng tăm lớn, mọi người đều nghe biết, và đều là đệ tử của tôn giả A-nan. Bấy giờ trưởng giả Da Xá Đà sai sứ báo mời các vị Hiền Thánh đều có thể nhóm tập tại thành Phệ Xá Ly, còn thiếu một người, chưa đủ số 700. Khi ấy trưởng lão Phú Xà Tô Di La dùng thiên nhãn xem xét thấy các bậc Đại hiền Thánh cùng nhóm tập bàn nghị về pháp sự, bèn vận dụng sức thần túc, đến nơi pháp hội. Lúc đó, trưởng lão Tam Bồ Già ở giữa đại chúng trịch áo bày vai hữu quỳ dài mà xướng lời rằng: "Đại chúng không rầm rĩ, thật đáng khâm trọng thay? Thật đáng nghĩ nhớ thay! Xưa kia đức đại Thánh pháp vương khéo dùng phương tiện thị hiện nhập niết bàn, năm tháng trải qua tuy xa nhưng ngôn giáo hiện còn. Tại thành Phệ Xá Ly có các Bí Sô biếng lười, sai nhầm đối với giới luật. Có nêu bày 10 sự trái ngược với giáo điển 10 lực. Nay chư vị Hiền giả thấu suốt sâu xa về mọi sự trì phạm. Và đầu tiếp thừa sự dạy răn của đại đức A-nan, nghĩ nhớ muốn báo đáp ân đức chư Phật trùng tuyên lại Thánh chỉ". Khi ấy các bậc đại Thánh không ai chẳng buồn cảm, liền vời các vị Bí Sô nhóm tập rồi y cứ vào Tỳ-nại-da (Luật tạng) mà quở trách và cấm chế ngăn cản, gạt trừ các vị sai nhầm giáo pháp và tuyên bày rõ ràng về Thánh giáo lại.

Từ nơi 700 vị hiền Thánh kết tập kinh điển theo hướng nam đi khoảng 80-90 dặm đến ngôi Tăng-già lam Thấp Phệ Đa Bổ La, tầng đài vòng quanh, Tốt-đổ-ba trùng các bày liệng, tăng chúng thanh tịnh chỉnh túc đều tập học giáo pháp đại thừa. Bên cạnh đó là nơi có dấu vết của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô-ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai theo hướng nam đến nước Ma Yết Đà, xoay về hướng bắc trông nhìn lại thành Phệ Xá Ly, dấu vết dừng nghỉ giữa đường vẫn hiện còn.

Từ Tăng-già lam Thấp Phê Đa Bổ La theo hướng đông nam đi hơn 30 dặm, hai phía nam bắc của sông Khắc Già mỗi bên đều có một ngôi Tốtđổ-ba là nơi tôn giả A-nan Đà phân thân chia cho hai nước. Tôn giả A-nan Đà là con người chú của đức Như Lai, là bậc đa văn tổng trì nhận biết sâu xa thông rành mọi vật. Sau khi đức Phật nhập niết bàn, tôn giả A-nan nối tiếp tôn giả Đại Ca Diếp đảm nhận hành trì giáo pháp giảng dạy sách tấn người học. Đang lúc kinh hành ở trong rừng ở nước Ma Yết Đà thấy một vị sa di đọc tụng kinh Phật, chương cú sai nhầm, chữ câu lẫn lộn, tôn giả Anan nghe rồi, cảm thương nghĩ nhớ càng xót xa, bèn từ từ bước đến nơi vị sa di ấy dẫn dắt chỉ dạy. Vị sa di ấy cười bảo: "Đại đức là người già nua suy yếu, nói điều sai nhầm. Còn thầy của tôi là bậc cao minh, tuổi tác còn trẻ khỏe, tôi được thừa sự chỉ dạy thật không sai nhầm vậy". Tôn giả A-nan im lặng rút lui mà than rằng: "Ta nay tuy tuổi đã lớn nhưng vì xót thương các hàng chúng sinh nên muốn dừng ở dài lâu nơi thế gian để gìn giữ chánh pháp, nhưng vì chúng sinh nghiệp lực sâu nặng khó thể dạy răn, nên nếu ta có ở lâu nơi đời cũng chẳng ích lợi gì. Ta nên chóng nhập niết bàn". Khi ấy từ nước Ma Yết Đà, tôn giả đi đến nước Phệ Xá Ly, vượt qua sông Khắc Già, đi bằng thuyền đang giữa dòng sông, vua nước Ma Yết Đà nghe tôn giả Anan cất bước ra đi, trong lòng rất kính mộ đức hạnh liền chuẩn bị binh lính nghiêm giá vội đuổi nhanh để thỉnh cầu trở lại với số vài trăm ngàn quân lính đóng dừng ở tại bờ phía nam. Còn vua nước Phệ Xá Ly nghe tin tôn giả A-nan đến nước mình cũng chuẩn bị binh quân vội sang nghinh đón với số quân vài trăm ngàn đến dừng đóng tại bờ phía bắc. Hai bên bờ sông quân lính đối nhau giăng treo cờ hiệu ngăn che cả mặt nhật. Tôn giả A-nan lo sợ có sự đấu loạn binh lính hai bên giết hại lẫn nhau, mới từ thuyền vọt bay lên giữa hư không, hiện bày thần biến và liền nhập niết bàn, hóa lửa tự thiêu đốt nhục thân, lại phân chiếc giữa đầu thân hình, một nửa rơi xuống bờ phía nam, một nửa rơi xuống bờ phía bắc. Do đó hai vua ở hai bên, mỗi bên được một phần xá lợi, cả quân lính đồng khóc gào và đều trở về lại nước mình, tạo dựng Tốt-đổ-ba mà phụng tu cúng dường. Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn 500 dặm đến nước Phất Lật Thị (người phương bắc gọi là nước Tam Phạt Thị, thuộc Bắc Ấn Độ).

4-NƯỚC PHẤT LẬT THỊ.

Nước Phất Lật Thị chu vi rộng hơn 4000 dặm, từ đông sang tây dài, từ nam sang bắc hẹp. Đất đai mầu mỡ, hoa quả tươi tốt, khí hậu hơi lạnh. Tánh tình con người gấp vội. Phần nhiều kính trọng ngoại đạo, ít tin Phật pháp. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có gần ngàn vị, đối với giáo pháp Tiểu thừa đại thừa đều dốc công học thông. Có vài mươi ngôi đền thờ trời. Các hàng ngoại đạo đông nhiều.

Đô thành lớn nước đó tên là Thú Noa, phần nhiều đã hư hoại sụp đổ. Phía trong cung thành xưa cũ còn có hơn 3000 nhà, tợ như thôn ấp vậy.

Từ dòng sông lớn về phía đông bắc có một ngôi già lam, tăng chúng hiếm ít, học hạnh thanh cao. Từ đó về hướng tây đi theo phía nam dòng sông có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn ba trượng. Ở dải phía nam dòng sông dài là nơi xưa kia đức Đại Bi Thế Tôn hóa độ các ngư nhân. Xưa kia, lúc đức Phật còn tại thế, có 500 ngư nhân kết đàn hợp đảng vớt bắt loài thủy tộc ở nơi dòng sông đó, vớt bắt được một con cá lớn có 18 đầu, mỗi đầu có hai mắt, các ngư nhân muốn giết hại đó. Khi ấy đức Như Lai đang ở tại nước Phệ Xá Ly, dùng thiên nhãn trông thấy, bèn khởi tâm thương xót, nhân thời gian hoằng hóa đạo, nhờ có duyên ấy mà khai ngộ nên bảo cùng chúng là: "Ở tại nước Phất Lật Thị hiện có con cá lớn, ta muốn dẫn dắt nó để khai ngộ cho các ngư nhân, các ông nên phải biết thời cơ". Khi ấy đại chúng vây quanh vận dụng sức thần túc vượt giữa hư không mà đến bến sông đó, vẫn như lệ thường bày tòa mà ngồi, đức Phật bảo các ngư nhân rằng: "Các ông chớ nên giết hại con cá ấy". Và đức Phật liền dùng sức thần thông mở môn phương tiện, oai lực phủ trùm cá lớn ấy, khiến nó nhận biết được túc mạng, có thể nói được tiếng người, suốt hiểu tâm tình con người. Bấy giờ đức Như Lai nhận biết mà cố hỏi rằng: "Thân trước ngươi từng làm tội ác gì mà lưu chuyển trong đường xấu ác phải nhận chịu thân hình xấu tệ này?". Con cá lớn ấy đáp: "Xưa trước nhân nhờ phước tốt lành tự sinh trong giòng tộc cao quý, Đại Bà-la-môn Kiếp Tỷ Tha chính là thân con. Do ỷ lại giòng tộc ấy nên lấn lướt khinh miệt người thường, ỷ mình hiểu thông mọi sự vật mà khinh bỉ người nghèo hèn, xem thường kinh pháp. Do vì tâm khinh mạn, phỉ báng chư Phật, dùng lời nói xấu ác mà nhục mạ chúng tăng, dẫn loại hình sánh ví như lạc đà, lừa, voi, ngựa, v.v... các loại hình xấu xí mà đối đãi đó, do vì nghiệp ác ấy nên phải nhận chịu thân hình xấu tệ này. Lại nhờ phước thiện xưa trước nên sinh đời này được gặp đức Phật, chính mắt trông thấy Thánh hóa, thân gần tiếp nhận Thánh giáo". Nhân đó mà con cá ấy sám tạ ăn năn các nghiệp ác đã tạo từ trước! Đức Như Lai bèn tùy cơ duyên mà nhiếp hóa, như ứng đối mà mở dẫn. Con cá lớn ấy đã được nghe pháp, bèn liền mạng chung nương phước lực ấy được sinh lên cung trời. Ở đó, tự quán xét thân mình do duyên gì mà được sinh đây. Khi đã biết được túc mạng, bèn nghĩ nhớ muốn báo đáp ân Phật, liền cùng các chúng trời sánh vai cùng đến nơi đức Phật, lễ bái xong rồi theo phía hữu mà đi nhiễu quanh và lui đứng một bên, dùng các hương hoa vật báu cõi trời để dâng cúng đức Phật. Đức Thế Tôn chỉ bảo cho các ngư nhân thấy rõ và vì giảng nói diệu pháp. Khi ấy các ngư nhân bèn liền cảm ngộ chí thành đảnh lễ sám tạ, xé phá lưới chài, đốt bỏ thuyền bè, quay trở lại nguồn chân thọ học giáo pháp, sau khi đã được xuất gia lại nghe chỉ giáo, và đều được ra khỏi trần cấu đồng chứng đắc Thánh quả.

Từ nơi đức Phật hóa độ các ngư dân theo hướng đông bắc đi hơn trăm dặm đến phía tây một thành xưa cũ có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn trăm thước. Là nơi xưa kia đức Phật từng ở tại đó sáu tháng giảng nói giáo pháp hóa độ các người trời. Từ đó về phía bắc cách khoảng 140-150 bộ có một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi xưa kia đức Phật từng ở đó vì các vị Bí Sô mà chế giới. Tiếp theo về phía tây cách không xa lại có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ tóc và móng tay của đức Phật, là nơi xưa kia đức Phật từng ở tại đó, mọi người ở các thôn ấp xa gần cùng nhau kéo đến đốt hương tung rải hoa, đèn đuốc luôn rực sáng không ngưng dứt. Từ đó theo hướng tây bắc đi khoảng 140-150 dặm vượt qua núi vào hang động đến nước Nị Ba La (thuộc Trung Ấn Độ).

5-NƯỚC NI BA LA.

Nước Ni Ba La chu vi rộng hơn 4000 dặm nằm trong núi tuyết. Đô thành lớn nước đó rộng hơn 20 dặm, núi sông liền nhau, đất đai thích nghi với lúa thóc lắm nhiều hoa quả. Là nơi sản sinh ra các thứ đồng đỏ, trâu mao, chim mạng mạng. Mua bán đổi chác dùng bằng tiền đồng đỏ, khí hậu rét lạnh, phong tục hiểm bí, con người tánh khí cứng mạnh hung dữ, tín nghĩa khinh bạc, không học nghề, có sự khéo léo, thân hình xấu xí. Với các giáo nghĩa tà chánh đều kính tin. Các ngôi già lam và đền thờ trời, tiếp nhau vách tướng nối tiếp góc cạnh, chư tăng có hơn 2000 vị. Đối với giáo lý đại thừa Tiểu thừa đều dốc công tập học. Các hàng ngoại đạo dị học số lượng chẳng rõ là bao nhiêu. Vua Sát Đế Lợi thuộc chủng tộc Lật Chiếp Bà, có chí học thanh cao, thuần kính tin Phật pháp. Gần đây có vị vua tên là Ương Thân Phạt Ma (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Quang Trụ) là người học rộng thông mẫn tự chế tác luận Thanh Minh. Mến trọng người ham học, kính chuộng các bậc đức hạnh, nên tiếng tăm vang khắp xa gần. Từ đô thành về phía đông nam có ao nước nhỏ, nếu dùng lửa người ném xuống, nước liền bốc cháy, lại ném các vật khác cũng biến thành lửa.

Từ đó trở về lại nước Phệ Xá Ly theo hướng nam vượt qua sông Khắc Già đến nước Ma Yết Đà (xưa trước gọi là Ma-kiệt-đà, còn gọi là Ma Kiệt Đề, đều là sai nhầm vậy, thuộc Trung Ấn Độ).

Đại đường tây vức ký hết quyển bảy.

QUYỂN 8

(Nói về một nước).

1. Nước Ma Yết Đà.

1-NƯỚC MA YẾT ĐÀ.

Nước Ma Yết Đà chu vi rộng hơn 5000 dặm. Tại đô thành hiếm ít người ở, nơi thôn ấp nhà cửa sắp liền. Đất đai mầu mỡ rất thắm đượm lúa thóc. Có giống lúa giê khác lạ, hạt nó thô lớn, mùi vị khác hẳn, sắc màu sáng đẹp đặc thù. Người ở nước ấy quen gọi đó là gạo cúng đại nhân. Đất đai có phần ẩm thấp, thôn ấp người ở gò đồi cao. Từ sau tháng tư đến trước tháng tám, bình thường sinh sống men theo dòng sông có thể sử dụng thuyền bè trôi nổi. Phong tục thuần chất, khí hậu ấm nóng, rất sùng tụng người có chí học, tôn kính Phật pháp. Có hơn 50 ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị, phần nhiều đều kính trọng tập học giáo pháp đại thừa. Có vài mươi ngôi đền thờ trời. Các hàng dị đạo rất đông nhiều.

Từ sông Khắc Già về phía nam có thành xưa cũ, chu vi rộng hơn 70 dặm, hoang tàn tuy đã trải qua thời gian lâu dài nhưng nền móng địa chỉ vẫn hiện còn. Xưa kia lúc con người có được tuổi thọ không biết bao nhiêu năm thì gọi đó là thành Câu Tô Ma Bổ La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là cung thành Hương Hoa) vì nơi vương cung có lắm nhiều hoa nên gọi tên như vậy. Mãi đến lúc con người có được tuổi thọ khoảng vài ngàn năm, thì lại gọi đó là thành Ba Tra Ly Tử (xưa trước gọi là Ấp Ba Liên Phất tức sai nhầm vậy). Mới đầu có vị Bà-la-môn tài cao học rộng, môn nhân đệ tử có vài ngàn người, dùng sở học mà truyền trao. Các học trò cùng nhau đi dạo chơi, có một thư sinh buồn bã bồi hồi trông ngắm. Đồng bạn mới hỏi rằng: "Cớ sao u buồn vậy?". Thư sinh ấy đáp: "Sắc đẹp mới cứng mạnh, rảo bước giẫm bóng hình, năm tháng đã chồng chất mà nghề nghiệp không thành. Trông nhìn lại đây mà nói lòng buồn càng quá lắm". Khi ấy các học trò cười đùa mà bảo rằng:

"Nay sẽ vì ông mà sính hôn". Thân gần mới giả lập ba người làm cha mẹ của người nam, hai người làm cha mẹ của người nữ, bèn ngồi nơi gốc cây Ba Tra Ly, nói với người nữ bằng tiếng cây rằng: "Lúc hái, quả rót dòng trong, bày đầu mối của hôn nhân, xin khéo hợp với kỳ hạn". Khi ấy giả làm cha của người nữ xin cành hoa trao cho thư sinh mà bảo rằng: "Đây là tình cờ gặp gỡ tốt lành, xin chớ chối từ vậy". Trong lòng thư sinh mừng vui tự đắc. Đến lúc xế tối, mọi người mới trở về, nhưng thư sinh quyến luyến mà ở lại. Các học trò bảo: "Lời nói trước là đùa vui thôi vậy, mong có thể đồng trở về. Trong rừng có nhiều thú dữ, sợ cùng làm hại đó". Thư sinh vẫn cứ ở lại, và qua lại bên cạnh gốc cây. Sau khi trời đã tối, bỗng nhiên có ánh sáng khác lạ tỏa chiếu khắp trống vắng, âm thanh đàn sáo thanh nhã hòa vang, bỗng chốc thấy có một ông già trên tay với trượng sách đến ủy an. Lại có một bà già dẫn theo người thiếu nữ cùng với khách theo đến đông đầy đường, vận mặc y phục đẹp xinh tấu trổi ca nhạc. Ông già mới chỉ người thiếu nữ mà bảo cùng thư sinh rằng: "Đây là người vợ nhỏ yếu của ông vậy". Và bèn cùng ca nhạc yến tiệc trải qua bảy ngày. Các học trò nghi là thư sinh đã bị thú dữ làm hại, bèn sang mà tìm kiếm, mới thấy thư sinh riêng một mình ngồi dưới bóng cây, dáng thế đang như đối đãi với thượng khách, bảo cùng trở về nhưng thư sinh khước từ không vâng theo. Sau đó tự vào thành một mình, thư sinh bái yết thân thích xưa cũ, tỏ bày đầu đuôi sự việc, mọi người nghe đều kinh hãi. Các người bạn thân đồng sang trong rừng và đều thấy cây hoa ấy là một ngôi nhà ở lớn, có các tôi tớ sai sử mọi công việc qua lại vội vàng. Và ông già ấy thong dong tiếp đối, thiết bày thức ăn ngon tấu trổi ca nhạc, chủ khách đều đủ lễ. Các người bạn trở lại trong thành kể cùng mọi người xa gần. Đến lúc tuổi già, thư sinh ấy sinh được một người con. Thư sinh mới bảo cùng vợ rằng: "Tôi nay muốn trở về quê cũ mà chưa nhẫn lìa xa cản trở. Vừa lại lưu ở, nương náu nơi trú ngụ vụt lộ bày". Người vợ nghe thế rồi, bèn đem thưa cùng cha già. Ông già ấy bèn bảo cùng thư sinh rằng: "Người đời hành lạc há hẳn phải có quê cũ. Nay sắp xây dựng nhà cửa, ông nên chớ có ý chí đổi khác". Khi ấy bèn sai sử mọi người lo việc xây dựng không mấy ngày mà đã hoàn thành. Thành cũ Hương Hoa dời đô đến ấp này. Do sức thần của người con kia vì xây dựng thành, từ dó về sau nhân đó mà gọi tên là thành Ba Tra Ly Tử vậy.

Từ cung xưa cũ của vua về phía bắc có một trụ đá cao vài mươi thước di vua Vô Ưu tạo lập, đó là nơi tạo dựng cảnh địa ngục vậy. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn trong 100 năm thứ nhất, có vị vua tên là A Thâu Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là vua Vô Ưu, xưa trước gọi là vua A Dục, tức sai nhầm vậy), là tằng tôn của vua Tần Tỳ Bà La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Ảnh Kiên, xưa trước gọi là Tần Bà Sa La, tức sai nhầm vậy), từ thành Vương Xá dời đô đến Ba Tra Ly, xây dựng thành quách phía ngoài bao quanh thành cũ, thời gian trải qua đã lâu xa chỉ còn lại địa chỉ nền móng cũ. Các ngôi già lam, đền thờ trời, Tốt-đổ-ba nền móng xưa cũ có vài trăm ngôi mà hiện còn chỉ vài ba ngôi. Chỉ có nơi phía bắc cung thành gần sông Khắc Già, trong một thành nhỏ còn có hơn trăm ngôi nhà. Mới đầu, sau khi lên ngôi, vua Vô Ưu mọi cử chỉ hành động vô cùng hung bạo, mới lập ra cảnh địa ngục làm hại sinh linh, chung quanh tường vách cao vợi. Góc lầu đặc biệt nổi cao, có lửa dữ cháy phừng phực, lò vạc, dao, mũi nhọn bén sắc, có đủ thứ khí cụ làm khổ quần sinh, phỏng theo hình tượng nơi chốn u đồi, vời gọi. Các người hung dữ lập làm chủ ngục, mới đầu thì đem các tội nhân phạm pháp trong nước nhà bất kể nặng nhẹ đều đưa vào chịu đựng sự khốn khổ. Về sau, đem những người đi ngang qua ngục thảy đều bị bắt lấy giết hại. Những người đến đó thảy đều bị chết, bèn bít miệng được vậy. Bấy giờ có vị Sa-môn mới vào pháp chúng, rảo bước khắp các thôn ấp để khất thực. Không may, gặp đến chốn địa ngục ấy. Chủ ngục sai người hung dữ bắt lấy muốn giết hại. Vị Sa-môn ấy kinh sợ, xin được lễ sám. Bỗng chốc lại thấy có một người bị trói dẫn đưa vào địa ngục, cắt chặt tay chân, nghiền nát hình hài, chỉ khoảnh khắc cúi xuống ngửa dậy mà khắp thân phần đều nát tan. Vị Sa-môn ấy thấy vậy rồi rất lấy làm buồn thương, thành tựu được pháp quán vô thường, chứng quả vô học. Ngục tốt bảo rằng: "Có thể đến lúc chết vậy". Vị Sa-môn ấy đã chứng quả Thánh, trong tâm xem thường mọi sự sống chết, nên tuy vào trong vạc sôi mà tợ như ở trong ao nước mát, có hoa sen lớn hiện ra và ngồi trên đó. Chủ ngục kinh sợ vội sai sứ chạy đến báo vua.

Vua bèn đích thân đến trông xem và vô cùng tán thán linh thần hộ giúp. Chủ ngục bảo rằng: "Đại vương đáng chết". Vua hỏi: "Cớ sao?". Chủ ngục nói: "Trước kia đại vương có răn bảo đến trông coi hình ngục, phàm mọi người đến nơi tường ngọc, thảy đều giết hại, không thể nói là vua vào được mà thoát khỏi". Vua Vô Ưu bảo: "Pháp tắc đã nhất định, lý không cải đổi. Ta trước có bảo đâu nói trừ thân ngươi. Từ lâu ngươi lạm sống trong lỗi quá của ta". Và liền bảo các ngục tốt ném thân chủ ngục vào trong vạc lớn. Chủ ngục đã chết, vua Vô Ưu mới được ra khỏi. Khi ấy, vua bèn phá hủy tường vách phế bỏ tù ngục, khoan tha các tội hình. Từ cảnh địa ngục ấy về phía nam cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, nền móng đều đã sụp đổ chỉ còn hình thế như bình bát úp, được dùng các vật báu để trang sức, dùng đá làm lan hạm. Đó là một trong 84000 ngôi Tốt-đổ-ba. Vua Vô Ưu dùng sức người mà xây dựng trong cung. Bên trong có một đấu xá lợi của đức Như Lai. Linh giám có hiện nổi, có khi tỏa phóng ánh sáng.

Sau khi phá hủy cảnh địa ngục, vua Vô Ưu gặp được đại A-la-hán cận hộ sử dụng phương tiện khéo léo dẫn dụ, tùy cơ duyên mà dạy răn. Vua nói cùng A-la-hán Cận Hộ rằng: "May nhờ có phước xưa trước nên ở ngôi vị cao quý trong loài người. Song xót xa bởi chướng lụy sâu dày nên không gặp được Phật giáo hóa. Nay đối với xá lợi di thân của đức Như Lai, tôi muốn tu tạo các ngôi Tốt-đổ-ba để cúng dường tôn trí". A-la-hán Cận Hộ bảo rằng: "Đại vương dùng sức phước đức sai sử trăm linh, dùng tâm thệ nguyện rộng lớn mà hộ trì Tam bảo. Với tâm nguyện đó, nay đúng phải thời vậy". Và nhân đó mà A-la-hán Cận Hộ rộng giảng nói về các nhân duyên hiến cúng đất nước, đức Như Lai dự ghi công phu phục hưng hoằng hóa Phật pháp. Vua Vô Ưu nghe xong rất lấy làm vui mừng, chiêu tập các hàng quỷ thần mà bảo rằng: "Đấng pháp vương dẫn bày pháp lợi, các loài hàm linh có được vui mừng. Ta vốn nhờ có thiện căn xưa trước nên ở ngôi vị cao quý trong loài người. Nay đối với xá lợi di thân của đức Như Lai, ta muốn trùng tu cúng dường. Các ngươi hàng quỷ thân nên hợp sức đồng tâm, đến cùng khắp cảnh vức của Thiệm-bộ-châu, mỗi hộ khắp cả câu chi, đem xá lợi Phật mà tạo dựng các ngôi Tốt-đổ-ba để cúng dường. Phát tâm vốn từ nơi ta mà công thành do ở các ngươi. Lợi ích thắng phước ấy, chẳng muốn riêng ta có được. Nên mỗi mỗi hãy tự tạo dựng, đợi sau sẽ bảo tiếp". Các hàng quỷ thần vâng nhận ý chỉ rồi, đi đến tùy nơi mà khởi công tạo dựng. Tạo dựng đã hoàn thành nên bèn cùng nhau trở lại cầu xin sự chỉ bảo. Vua Vô Ưu đã khai quật mở các ngôi Tốt-đổ-ba ở tám nước phân chia xá lợi ấy giao phó cho các quỷ thần xong, bèn thưa cùng A-la-hán Cận Hộ rằng: "Tâm nguyện tôi muốn đồng một lúc ở khắp các nơi cùng hạ xá lợi tôn trí, tâm tuy mong muốn như thế, nhưng sự việc chưa hẳn đã theo ước muốn!". A-la-hán Cận Hộ bảo rằng: "vua nên bảo các quỷ thần đến các nơi đúng với ngày kỳ hạn, lúc mặt trời có tướng mạng bị ẩn che như lòng bàn tay thề khi ấy nên hạ xá lợi". Vua Vô Ưu nghe theo sự chỉ bảo đó mà bảo cùng các quỷ thần. Mãi đến ngày đã kỳ hạn, vua Vô Ưu thấy bầu trời quang đãng, giữa lúc buổi trưa. A-la-hán Cận Hộ dùng sức thần thông duỗi xòe bày tay ngăn che mặt nhật. Các nơi tạo dựng Tốt-đổ-ba các quỷ thần đều ngóng đợi chiêm ngưỡng, và đồng lúc ấy hạ xá lợi tôn trí, công việc được hoàn tất.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba cách đó không xa có một tảng đá lớn, là nơi xưa kia đức Như Lai giẫm bước dấu vết vẫn hiện còn. Dấu chân ấy dài một thước tám tấc, rộng hơn sáu tấc. Cả hai dấu chân đều có luân tướng, cả 10 ngón chân niệm dãi hoa văn, hình cá ngời sáng nỗi bày, có lúc phóng tỏa ánh sáng. Xưa kia, đức Như Lai lúc sắp nhập niết bàn, theo hướng bắc đến thành Câu Thi Na, ngoái lại phía nam trông nhìn đến nước Ma Yết Đà. Giẫm đạp trên tảng đá đó mà bảo cùng tôn giả A-nan rằng: Nay là cuối cùng ta lưu lại dấu vết chân này tại đây, lúc sắp nhập niết bàn ngoái nhìn về phía nước Ma Yết Đà, khoảng trăm năm sau có vua Vô Ưu thống trị muôn dân sẽ xây dựng thành đô tại xứ này. Hộ trì Tam bảo, sai sử các hàng quỷ thần".

Kịp đến lúc vua Vô Ưu lên ngôi, dời đô xây dựng Ấp bít bọc bao quanh tảng đá có dấu chân đức Phật. Do vì đã gần nơi cung thành nên vua thường đến cúng dường. Về sau các vua nước khác đua nhau muốn dời chuyển tảng đá đó về đất nước mình. Tuy tảng đá không lớn lắm, mà có nhiều người cũng không khả năng dời chuyển. Gần đây vua Thiết Thưởng Ca hủy hoại Phật pháp, bèn đến nơi tảng đá đó muốn phá hủy Thánh tích, đục bỏ rồi lại hiện đường văn bình thường như xưa cũ. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành.

Bên cạnh tinh xá có dấu chân đức Phật cách không xa có một trụ đá lớn cao hơn 30 thước, văn thư ghi chép đã bị mòn khuyết, mà đại khái nói là: "vua Vô Ưu có tín căn tinh thần kiên cố, đã ba lần đem cõi Thiệm bộ châu cúng dường Phật pháp tăng, ba lần đem các vật quý báu lại tự đáp tặng, v.v... văn từ ở đó ghi chép, đại lược là như vậy!

Từ vương cung xưa cũ về phía bắc có một ngôi thạch thất lớn. Bên trong rộng khoảng vài trượng, bên ngoài tướng trạng như núi cao, do vua Vô Ưu và người em xuất gia mà sai các quỷ thần tạo dựng. Mới đầu vua Vô Ưu có người em cùng mẹ tên là Ma Hê Nhân Đà La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Đế) vốn sinh từ quý tộc lại lạm dụng vương chế, xa xỉ hung bạo, các hàng thứ dân ôm hoài oán hận. Các hàng quốc phụ lão thần đến can ngăn cùng vua Vô Ưu rằng: "Người em của vua kiêu căng làm oai cũng đã quá lắm. Phàm chính sách của bình đẳng thì nước nhà an trị, dân hòa thì chúa an. Phép tắc dạy răn từ xa xưa trở lại nay đã lâu lắm vậy, xin vua nên bảo tồn phép nước. Bắt giao cho người nắm giữ luật pháp xử trị". Vua Vô Ưu buồn khóc bảo cùng em rằng: "Tôi tiếp thừa giềng mối cơ nghiệp che chở bão thọ sinh linh, huống hồ đối với ông là người đồng chung một bào thai mà há quên ban ân mến quý. Ông đã trước giúp đỡ dẫn dắt muôn dân lại giẫm đạp xem thường luật hình quốc pháp. Trên sợ đối với tiên linh, dưới bức bách bởi mọi người bàn nghị...!" Ma Hê Nhân Đà La cúi đầu sám tạ rằng: "Em chẳng tự nghiêm cẩn mọi hành vi, dám can phạm đến pháp hiển của nước nhà. Xin được ban ân sinh lại và khoan thứ cho bảy ngày". Và khi ấy bèn đi thẳng vào nhà tối. Nghiêm mật thêm sự giữ gìn canh vệ, mọi thứ ngon lành thức ăn thượng vị cấp dâng không khuyết thiếu, kẻ sử trông coi xướng rằng: "Đã qua một ngày, còn lại sáu ngày nữa". Đến ngày thứ sáu, đã rất buồn sợ, Ma Hê Nhân Đà La lại cố gắng dốc hết thân tâm tinh tấn, bèn được chứng quả, liền bay vọt giữa không trung biến hiện thần lực, ra khỏi trần cấu, xa đến nương náu nơi hang núi. Vua Vô Ưu đích thân sang tìm mà bảo cùng em rằng: "Xưa kia bó buộc bởi quy chế phép tắc của nước nhà, muốn đưa đến sửa trị nghiêm hình, đâu có ý thanh tịnh vượt cao để chứng lấy Thánh quả". Đã không ứ trệ bởi hình lụy, có thể nên trở về với nước nhà!". Ma Hê Nhân Đà La đáp rằng: "Xưa kia nghiêm buộc bởi lưới ác, tâm tình rong ruổi với thanh sắc, nay đã ra khỏi thành lũy nguy ách, tâm chí vui thích ở chốn núi hang. Xin từ bỏ cõi nhân gian mãi sống lâu dài nơi gò nũng!". Vua Vô Ưu bảo rằng: "Như muốn tĩnh lắng tâm tư đâu hẳn phải ở chốn núi hang sâu thẳm. Tôi sẽ theo chí nguyện của ông mà vì tạo dựng". Bèn vời gọi các quỷ thần mà bảo rằng: "Ngày hôm sau, ta sẽ chuẩn bị các thứ ngon lành, các ngươi hãy cùng nhau nhóm tập đến nơi hội của ta. Mỗi mỗi hãy tự mang theo một tảng đá lớn để làm sàng tòa". Các quỷ thần vâng mạng, đến kỳ hạn đều nhóm tụ đông đủ. Khi chúng hội đã xong, vua Vô Ưu bảo cùng các quỷ thần rằng: "Tòa đó nghinh ngang nên nhóm chất lại, nhân công khó chẳng nhọc sắp chất làm thành thất rỗng". Các quỷ thần vâng lệnh rồi, không mấy ngày bèn hoàn thành. Vua Vô Ưu lại đích thân sang nghinh đón thỉnh mời Ma Hê Nhân Đà La về ở nơi hang núi ấy.

Từ vương cung xưa cũ về phía bắc, thuộc phía nam nơi chốn cảnh địa ngục có một máng đá lớn, do vua Vô Ưu khéo sai sử công sức quỷ thần làm nên vật đó để lúc cúng dường chư tăng mà tích chứa thức ăn. Từ vương cung xưa cũ về phía tây bắc có một núi đá nhỏ bao quanh hang cốc có khoảng vài mươi thạch thất, do vua Vô Ưu vì chư vị A-la-hán như Cận Hộ, v.v..., mà sai sử quỷ thần tạo dựng nên. Bên cạnh đó đền đài xưa cũ, nền móng chất sắp đá vẫn hiện còn, ao cong sóng gợn lăn tăn, sóng lắng trơn sạch như gương soi. Mọi người ở các nước xa gần gọi đó là nước Thánh, nếu có được dùng uống hay tắm rửa thì tội cấu tiêu trừ. Từ núi ấy về phía tây nam có năm ngôi Tốt-đổba, nền móng tuy đã sụp đổ mà hiện vẫn còn cao. Từ xa trông nhìn đó núm uất như gò núi, mỗi mặt rộng khoảng vài trăm bộ, người đời sau lên trên đó tạo dựng một ngôi Tốt-đổ-ba. Theo "Ấn Độ Ký" nói là: xưa kia vua Vô Ưu tạo dựng 84000 ngôi Tốt-đổ-ba xong rồi, phân chia xá lợi đến các nơi còn lại hơn năm đấu, nên riêng tạo dựng năm ngôi Tốt-đổ-ba đó, hình dáng chế tác khác lạ so với các nơi, các điều linh dụ có lúc hiện bày để biểu thị năm phần pháp thân của đức Như Lai. Các hàng đức tin mỏng cạn cùng nhau bàn nghị là: "Đó là nơi xưa kia vua Nan Đà xây dựng năm kho tàng ấy để cất giấu bảy báu". Về sau có vị vua không tâm thuần kính tin, nghe những điều nghi ngờ bàn nghị trước nên ứng tâm tham cầu, dấy động binh lính đích thân dẫn đến quật phá, bỗng nhiên quả đất rúng động núi non sụp đổ, mây tối ngăn che mặt nhật. Từ trong Tốt-đổ-ba phát ra tiếng sấm nổ lớn. Các hàng binh lính ngã té, voi ngựa kinh sợ trông chạy. Từ khi đã giáng điềm ấy, về sau không còn dám mong mỏi. Hoặc có người bảo rằng: "Các sự bàn nghị tuy lắm nhiều mà chưa là xác thực luận rõ. Theo sự ghi chép của người xưa thì tin được đó là thật vậy".

Từ cung thành xưa cũ về phía đông nam có ngôi Tăng-già lam Khuất Tra A Lạm Ma (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Kê Viên) do vua Vô Ưu tạo dựng. Mới đầu, vua Vô Ưu phát tâm kính tin Phật pháp, kính tuân tạo dựng gieo trồng nhân thiện, thỉnh mời ngàn vị tăng cả hai chúng Thánh phàm, cúng dường tứ sự cung cấp đầy đủ mọi vật, tuy bị hư hoại hủy nát từ lâu mà nền móng hiện còn. Bên cạnh ngôi già lam đó có ngôi Tốtđổ-ba lớn tên là A Ma Lạc Già; là tên của một loại trái cây thuốc ở xứ Ấn Độ. Vua Vô Ưu cảm mắc bệnh lâu dài, tự biết mạng sống chẳng thể cứu chữa nổi nữa, muốn xả bỏ tất cả mọi vật quý báu để tu tạo phước điền. Quyền thần chấp chính răn chớ theo sự ước muốn ấy. Về sau, nhân ăn lại quả A Ma Lạc, ngẫm nghĩ đó nữa trái chín mùi, bèn nắm quả thở dài. Vua Vô Ưu hỏi quần thần rằng: "Chủ Thiệm bộ châu ngày nay là người nào? Quân thần đáp rằng: "Chỉ có một mình đại vương". Vua Vô Ưu bảo: "Không phải vậy. Ta nay chẳng phải chủ, chỉ nửa ngày mà được tự tại. Than ôi! Thế gian giàu sang, nguy ác rất như gió đuốc. Ngôi vị chiếm cứ cả hoàn vũ, danh cao thật xứng lý vậy. Đến lúc sắp mạng chung thiếu thốn bị bức bách bởi bề tôi mạnh. Thiên hạ chẳng phải của ta có. Chỉ nửa quả này tại đây!". Mới gọi thị thần mà bảo cùng rằng: "Mang nửa quả này đến ngôi già lam Kê Kiên cúng thí chúng tăng mà thưa rằng: "Ta ngày xưa làm chủ cả Thiệm-bộ-châu, nay chỉ nửa quả A Ma Lạc làm vua, xin cúi đầu trước đại đức chúng tăng nguyện xin nhận sự cúng thí cuối cùng này. Phàm mọi thứ có được thảy đều mất tan, chỉ nửa quả này được ít tự tại. Xót thương kẻ túng thiếu được tăng trưởng giếng phước". Khi ấy, vị thượng tọa trong chúng tăng bảo rằng: "Đại vương Vô Ưu xưa trước ước mong cứu tế rộng khắp, nay bệnh khắc nghiệt đang lấn áp thân mình, gian thần lại cướp đoạt quyền mạng. Của cải tích chứa chẳng còn phải của mình, nên vua dâng nửa quả A ma lạc này để cúng thí. Vâng thừa ý muốn của vua muốn cúng thế khắp cùng chúng tăng". Liền mời vị tăng trông coi mọi việc đem để vào nấu chung trong canh. Nhặt lại hạt quả ấy, xây dựng ngôi Tốt-đổ-ba. Đã được đội nhờ ân đức sâu dày bèn nêu bày đoái hoài mạng lệnh của vua!

Từ ngôi Tốt-đổ-ba A ma lạc già về phía tây bắc trong ngôi già lam xưa cũ có ngôi Tốt-đổ-ba tên là "Kiến Kiền Chúng Thanh". Mới đầu trong thành đó có cả trăm ngôi già lam. Chư tăng rất chỉnh túc hòa mục, học hạnh thanh cao, các hàng dị học ngoại đạo ngậm miệng khóa môi. Về sau, chư tăng lần lượt thô tháo sa lạc, và các hàng hậu tấn chẳng nối nghiệp tiến tu, còn thầy trò ngoại đạo truyền dạy lẫn nhau thành đạt nghề nghiệp. Bèn bảo đồng bọn nhóm tập bạn đảng đông cả ngàn vạn, tụ tập đến nơi tăng phường khơi lời xướng rằng: "Phàm đánh kiền chùy tức nhóm tập người học. Đây chỉ bọn ngu đần ở mà cũng lầm sai đánh gõ". Bèn tấu trình cùng vua, xin được kiểm xét sự hơn kém. Ngoại đạo đều là những bậc thầy tài cao học đạt, còn chư tăng tuy đông nhiều mà ngôn từ biện luận cạn cợt. Các ngoại đạo bảo rằng: "Ta đã đối luận được thắng, từ nay trở về sau trong các ngôi Tăng-già lam không được đánh kiền chùy để nhóm tập chúng". Vua chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, chư tăng đành phải nhận chịu sự xấu hỗ chê mắng mà rút lui trở về, suốt thời gian 12 năm chẳng đánh kiền chùy. Bấy giờ tại nam Ấn Độ có Bồ-tát Na Già Át Thích Thọ Ma (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Long Mãnh, xưa trước gọi là Long Thọ, chẳng có vậy) từ thuở bé nhỏ đã lan tỏa tiếng tăm thanh nhã đến lúc trưởng thành lại chuyên chiếm cao danh, xả bỏ ái dục xuất gia học đạo, nghiên tinh đạo lý sâu mầu, chứng đắc quả vị sơ địa. Có vị đệ tử lớn tên là Đề Bà là người có trí huệ thông mẫn, cơ thần cảnh ngộ, thưa cùng thầy mình (Long Mãnh) rằng: "Các hàng Sa-môn học nhân ở thành Ba Tra Ly khuất phục ngoại đạo không đánh kiền chùy, ngày tháng vụt đổi thay đã 12 năm rồi. Nay con muốn phá dẹp tà giáo để trông thấy núi, đốt đèn chánh pháp tỏ soi". Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Các hàng ngoại đạo ở thành Ba Tra Ly đều là những bậc học rộng cao tài, chẳng phải nơi ông có thể sánh đấu nỗi, nên nay tôi phải đi vậy". Đề Bà thưa rằng: "Muốn phá dẹp cỏ thúi há hẳn phải nghiêng dốc núi, xin được tiếp nhận ý chỉ dạy răn để truất phế các dị học. Đại sư nên lập nghĩa của ngoại đạo, con sẽ tùy theo văn mà phá chiết, rõ bày sự hơn kém, sau đó sẽ tính đi". Bồ-tát mới nêu bày lập nghĩa của ngoại đạo, Đề Bà tùy theo phá dẹp lý đó, sau bảy ngày, Bồ-tát Long Mãnh mất hẳn chánh tông. Thế rồi ngợi khen rằng: "Sai nhầm lập từ dễ mất, nghĩa tà vạy khó đỡ chống. Ông đi sang đó hẳn có thể dẹp phá các ngoại đạo ấy được vậy!". Bồ-tát Đề Bà sớm đã vang tỏa cao danh. Các hàng ngoại đạo ở thành Ba Tra Ly đã từng nghe biết, bèn cùng nhau nhóm tập vội tấu trình cùng vua rằng: "Xưa trước uất hận nghe xem, cấm chế các Sa-môn không được đánh kiền chùy. Nay xin nên bảo ban những người canh phòng ở các cửa, đối với các Samôn khác lạ ở các vùng láng giềng, không cho vào thành, vì sợ cùng đồng đảng cấp viện, xem thường mà cải đổi chế định trước". Vua chấp thuận lời cầu xin đó của ngoại đạo, tăng thêm sự dò xét nghiêm cẩn. Đề Bà khi đã đến nơi không được vào thành, nghe lệnh nghiêm cấm chế ấy bèn đổi thay y phục, xếp y tăng già chi giấu trong bó cỏ, vén quấn xiêm vội xua đuổi mang đội mà vào. Sau khi đã vào được trong thành, Đề Bà bèn vất bỏ cỏ, đáp mặc lại pháp y. Đến ngôi già lam đó muốn cầu xin dừng nghỉ. Biết người đã hiếm ít, chẳng có cùng ở chung phòng, Đề Bà bèn lên ngủ qua đêm trên đài kiền chùy. Đến thời sáng sớm, Đề Bà liền giống kiền chùy, tăng chúng nghe tiếng bèn sang xét xem, thì ra đó là vị Bí Sô du khách đến dừng nghỉ từ hôm qua. Các ngôi già lam khác cũng nghe tiếng vang mà giáng kiền chùy vọng hòa hưởng ứng. Vua nghe tiếng kiền chùy như thế, bèn tìm hiểu xét hỏi, chẳng tìm được nơi phát xuất đầu tiên, lần lượt đến ngôi già lam đó, chư tăng đồng đưa đẩy cho là Đề Bà gióng đánh kiền chùy. Đề Bà nói rằng: "Phàm là kiền chùy tức phải đánh để nhóm tập đại chúng, có mà không sử dụng, treo đó để làm gì?". Vua mới sai bảo người đến báo rằng: "Lúc trước chư tăng luận nghị đạo lý bị rơi lạc thua kém, vì thế cấm chế không được đánh kiền chùy đến nay đã là năm thứ 12". Đề Bà hỏi rằng: "Có vậy ư? Ngày nay tôi gióng lại trống pháp". Kẻ sử về báo lại cùng vua là: "Có vị Sa-môn khác lạ, muốn rửa vết nhục xưa trước". Vua mới chiêu tập các hàng học nhân mà định chế rằng: "Nếu tranh luận mà lạc mất bản tông, thì phải giết thân mình để hối tạ". Khi ấy các ngoại đạo đua nhau nêu bày cổ xúy, đàm luận dị nghĩa mỗi tự sáng rỡ, ngôn từ bén nhọn. Bồ-tát Đề Bà đã lên luận tòa, lắng nghe các ngoại đạo nêu nói trước, và tùy theo nghĩa ấy mà thiết phá, chưa tròn một buổi mà dẹp phá xong các dị đạo. Vua cùng các quan đại thần thảy đều vui mừng, nên tạo dựng nền móng linh thiêng đó để tán dương bậc chí đức. Từ ngôi Tốt-đổ-ba kiến kiền chùy về phía bắc có một nền móng xưa cũ, là nơi xưa kia, có quỷ biến loạn vị Bà-la-môn mà ở đó. Xưa trước trong thành ấy có vị Bà-la-môn chấp vá phòng nhà ở nơi thẳm hoang vắng, chẳng tương giao với thế sự, chuyên thờ quỷ cầu phước, vọng lượng cùng tựa nương, luận bàn cao xa đàm nói quá lắm, nhã từ được hưởng ứng. Như có người khơi kích nạn thì rủ màn đối đáp. Những bậc học cũ tài cao không ai chẳng phát xuất từ sự giúp đỡ ở đó. Các hàng sĩ thứ tự nhiên kính ngưỡng đó như Thánh thần. Có Bồtát A Thấp Phược Lũ Sa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nhã Minh) là bậc trí tuệ rõ cùng muôn vật, đạo hạnh truyền bá cả ba thừa, từng bảo cùng mọi người rằng: "Bà-la-môn ấy học chẳng thọ nhận từ nơi thầy, tài nghệ không suy xét từ xa xưa, vắng bặt ở nơi tĩnh lặng, riêng chiếm cao danh. Nếu chẳng phải có quỷ thần nương tựa, yêu mị gá gẫm sao có thể được như vậy ư? Phàm biện luận vốn từ quỷ thần đạt, nói năng chẳng đối mặt với người, ngôn từ nói ra nghe qua một lần không thể thuật lại được. Tôi nay phải sang đó trông xem cử chỉ như thế nào". Bèn liền đến nơi am cỏ của Bà-la-môn ấy mà bảo rằng: "Kính ngưỡng khâm trọng bậc tài đức lớn làm ánh sáng soi tỏa đã lâu, cúi mong vén màn, tôi nay muốn tỏ bày chí nguyện xưa trước". Mà Bà-la-môn ấy vẫn cứ ngạo tự nhiên rủ màn đối đáp. Trong tâm Bồ-tát Mã Minh biết đó là quỷ mị, tánh tình rất tự phụ. Giả từ xong, lui về nói cùng mọi người: "Tôi đã nhận biết ra rồi, dẹp phá kia hẳn được vậy". Sau đó bèn sang tấu trình cùng vua: "Cúi xin rủ lòng xét hứa cho cùng được đối luận kính đàm với cư sĩ kia". Vua nghe thế kinh hãi bảo: "Đây là hạng người nào vậy? Nếu chẳng phải là bậc đã chứng tam minh đắc lục thông, thì làm sao có thể cùng với cư sĩ kia đối luận ư?". Và bèn bảo chuẩn bị xa giá đích thân vua đến xét xem tận mặt cuộc đối luận. Khi ấy Bồ-tát Mã Minh luận nêu vi ngôn trong tam tạng, thuật bày đại nghĩa của Ngũ minh, khéo biện ngang dọc, luận cao trong xa. Và khi Bà-la-môn đã thuật từ lại rồi, Bồ-tát Mã Minh lại bảo rằng: "Lạc mất yếu chỉ của tôi rồi vậy. Nên thuật lại đi". Khi ấy, Bà-la-môn im lặng ngậm miệng. Bồ-tát Mã Minh quát rằng: "Sao chẳng giải thích cật nạn? Với quỷ mị ngươi phụng thờ hãy mau truyền đạt ngôn từ, nhanh vén bỏ màn ấy để thấy rõ sự kỳ quái đó". Bà-la-môn ấy kinh sợ mà nói rằng: "Thôi! Thôi! Bồ-tát Mã Minh bèn trở lui mà nói rằng: "Tiếng nói của người này sáng nay nghe đã rời rạt trầm lắng, danh hư còn chẳng bao lâu nữa, ý nghĩa chính ở ấy vậy". Vua bảo rằng: "Nếu không phải là bậc tài đức lớn, ai có thể soi xét được đường trái. Tài triết biết được người, dứt tuyệt ngày sau tỏ sáng từ xưa trước. Nước ta có pháp tắc thường, nên nêu bày sự tốt lành chân thật này vậy".

Từ cung thành về góc tây nam cách hơn 200 dặm có ngôi già lam hiện còn dấu vết, bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba, ánh sáng thần có lúc tỏa chiếu, điềm linh dị có khi hiện nỗi, mọi người xa gần không ai chẳng cầu thỉnh. Đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền kinh hành vậy. Từ ngôi già lam xưa cũ theo hướng tây nam đi hơn trăm dặm, đến ngôi già lam Đề La Thích-ca, sân nhà bốn viện, quán các ba tầng, đài cao nhiều lớp nhọn, cửa lớp mở thông, do người cháu út của vua Tần Tỳ Sa La tạo dựng, nêu bày vời gọi các vị tài cao, rộng mời những bậc tuấn đức, các học nhân ở những địa vức khác, những hàng tài giỏi nơi xứ xa, đồng loại cùng đến, kề vai cùng nương ở, chư tăng có ngàn vị, đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Ngay đường phía trong cửa có ba ngôi tinh xá. Phía trên thiết đặt quân tướng, linh khánh treo rỗng giữa khoảng không, phía dưới xây dựng tầng nền, lan can bày quanh, cửa thông cửa sổ, rường cột liền tường làm thềm cấp, dùng các thứ vàng đồng ẩn hiện nghiêm sức trang hoàng. Bên trong tinh xá có tôn tượng đức Phật đứng cao ba trượng, bên tả là tôn tượng Bồ-tát Đa La, bên hữu là tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại. Cả ba tôn tượng đều được chú đúc bằng than đá, oai thần chỉnh túc, thầm xét khắp xa. Trong mỗi tinh xá đều có một thăng xá lợi, ánh sáng linh thiêng có lúc tỏa chiếu, điềm hiện kỳ đặc có khi nỗi bày.

Từ ngôi già lam Đề La Thích-ca theo hướng tây nam đi hơn 90 dặm đến một núi lớn. Mây đá ùn nổi sùm uất như ở nhà của linh tiên, rắn độc rồng dữ làm hang huyệt nơi đầu chằm, thú dữ chim ương nương náu nơi hang rừng. Trên đỉnh núi có một tảng đá lớn, phía trên có tạo dựng một ngôi Tốtđổ-ba cao hơn 10 trượng, là nơi xưa kia đức Phật nhập định diệt tận. Xưa kia đức Như Lai giáng thần đến đó ngồi trên tảng đá ấy, nhập định diệt tận, thời gian trải suốt qua đêm, có các trời và linh Thánh đến cúng dường đức Như Lai, tấu trỗi nhạc trời, mưa rải hoa trời. Đến lúc đức Như Lai xuất định, các trời cảm mộ bèn dùng các thứ vàng bạc vật báu để xây dựng ngôi Tốt-đổ-ba. Thời gian trải qua cách Thánh lâu xa, các vật báu biến hóa thành đá. Từ xưa mãi đến nay chưa từng có người nào đến đó. Từ xa đứng trông xem lên núi cao mới thấy các loài khác nhau như rắn dài thú dữ từng đàn theo nhau đi nhiễu về phía hữu, các trời, các tiên, linh Thánh kề nhau theo đến lễ bái tán thán.

Tại sườn phía đông núi có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi có dấu vết xưa kia đức Như Lai dừng đứng trông nhìn về nước Ma Yết Đà. Từ núi đó theo hướng tây bắc đi hơn 30 dặm lại đến một núi có ngôi già lam tựa vào đảnh núi, làm bền bám tại mé sườn, trùng các cao vợi, chư tăng có hơn 50 vị, đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Đó là nơi Bồ-tát Cù Ma Mạt Để (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đức Tuệ) nhiếp phục ngoại đạo. Xưa kia trong núi đó có ngoại đạo Ma Đạp Bà, tổ thuật pháp của Tăng Khư mà tập học đạo, học cùng nội ngoại giáo nghĩa, nói suốt cả hữu không, tiếng tăm hiển bày trước, đức hạnh rất được đương thời kính trọng, các hàng quốc vương, v. v…, đều trân kính xưng gọi đó là quốc bảo, các lớp thần dân đồng tông ngưỡng đều tôn xưng là gia sư. Các người tham học ở những nước lân cận nhân đạo phong mà kính mộ đức hạnh, nên kết tụ từng đoàn kéo đến, thật đáng là bậc bác đạt vậy, được ban thực ấp cả hai thành bao ở quanh mà tạo dựng. Bấy giờ tại Nam Ấn Độ có Bồ-tát Đức Tuệ, từ thuở bé nhỏ mà đã mẫn đạt sớm chiếm tinh vi, học thông tam tạng, thấu suốt lý tứ đế, nghe ngoại đạo Ma Đạp Bà đàm luận sâu mầu, trong tâm ân hoài muốn bẻ gãy sự bén nhọn ấy, mới bảo cùng một môn nhân mang thư đến, nói rằng: "Kính hỏi cùng Ma Đạp Bà có khéo được an lạc chăng? Nên quên nhọc mệt tinh cần luyện tập điều học xưa cũ. Ba năm sau tôi sẽ bẻ gãy tiếng tăm tốt lành của ông vậy!". Đến trong năm thứ hai, năm thứ ba, cũng luôn sai sứ đến báo cùng. Và đến lúc sắp cất bước lại sai người đem thư tấu, nói rằng: "Kỳ hạn năm tháng đã hết, học nghiệp đã thế nào rồi? Nay tôi đang đi đến, ông nên biết cho đó!". Ngoại đạo Ma Đạp Bà trong lòng rất lo sợ, răn bảo các môn nhân đệ tử và khắp mọi nhà trong thôn ấp là: "Từ nay trở về sau không được cho các hàng Sa-môn dị đạo đến dừng ở lại, phải gấp tuyên bày cho nhau, không được trái phạm". Khi ấy, Bồ-tát Đức Tuệ chống tích đến thôn ấp nơi Ma Đạp Bà ở, người trong thôn ấp gìn giữ cấm ước. Chẳng có phòng nhà cho dừng ở. Các Bà-lamôn lại mắng Đức Tuệ muốn dẹp trừ dị đạo nên mong được dừng nghỉ qua đêm tại ấp đó, nhân đó với tâm từ nhỏ lời cảm tạ rằng: "Các ngươi là hàng tịnh hạnh thế đế, tôi đây là hàng tịnh hạnh thắng nghĩa đế, tịnh hạnh đã động, sao lại bị chống cự?". Các Bà-la-môn nhân đó chẳng cùng đối đáp, chỉ một mực xua đuổi. Xua đuổi ra ngoài thôn ấp, Bồtát Đức Tuệ đi vào trong rừng lớn, trong rừng đó có thú dữ từng đàn luôn hành hung bạo. Có một vị tịnh tín sợ Bồ-tát Đức Tuệ bị thú dữ làm hại, nên ôm bó đuốc mang cung tên gậy trượng đến nói cùng Bồ-tát Đức Tuệ rằng: "Tại Nam Ấn Độ có Bồ-tát Đức Tuệ, tiếng tăm vang xa, muốn cùng đến luận nghị, nên người chủ trong ấp này sợ gãy mất tiếng tăm tốt lành xưa nay, do đó nghiêm cấm không cho các Sa-môn vào dừng nghỉ lại. Vì sợ bị vật làm hại ngài nên tôi đến cùng tiếp viện, mong nên đi gấp để được an toàn, chớ có toan nghĩ gì khác". Bồ-tát Đức Tuệ bảo cùng người tịnh tín ấy rằng: "Bồ-tát Đức Tuệ chính là tôi đây". Người tịnh tín ấy nghe thế lại càng rất mực cung kính, nói cùng Bồ-tát Đức Tuệ rằng: "Thật đúng như điều báo, nên có thể nhanh đi!". Liền ra khỏi rừng sâu đến dừng nghỉ nơi đầm trống. Người tịnh tín ấy nhóm đốt lửa, cầm nắm cung tên xoay quanh gìn giữ, mãi đến lúc đêm hết, lại nói cùng Bồ-tát Đức Tuệ rằng: "Cần nên đi vậy, sợ có người biết sẽ cùng làm hại!". Bồ-tát Đức Tuệ cảm tạ nói rằng: "Không dám quên mất ân đức này!". Và khi ấy, Bồ-tát Đức Tuệ bèn đến nơi cung vua, nói với người giữ của rằng: "Nay có Sa-môn từ phương xa đến xin vua giũ lòng hứa cho cùng biện luận với Ma Đạp Bà". Vua nghe thế kinh hãi bảo: "Đây là người hư dối vậy!". Và liền sai sứ thần sang chỗ Ma Đạp Bà tuyên cáo ý chỉ của vua là: "Có vị Sa-môn khác lạ lại cầu xin cùng đối luận. Nay đã trong thiết luận trường, báo cùng tất cả mọi người xa gần đứng đợi trông lai nghi, xin đến dự". Ma Đạp Bà hỏi kẻ sứ của vua rằng: "Há chẳng là luận sư Đức Tuệ ở Nam Ấn Độ ư?". Kẻ sứ đáp rằng: "Đúng là người ấy vậy". Ma Đạp Bà nghe thế trong lòng rất không vui vẻ, song sự việc khó thể chối khỏi, bèn phải đến nói luận trường. Từ Quốc vương cho đến các hàng đại thần sĩ thứ hào tộc thảy đều tụ tập, đồng muốn được nghe đàm luận cao xa. Trước tiên Bồ-tát Đức Tuệ đứng dậy nêu lập tông nghĩa. Kịp đến lúc xế bóng, Ma Đạp Bà lấy cớ tuổi già trí tuệ mờ kém khó đối biện nhanh mà chối từ, xin được trở về tỉnh lắng tư duy mới đáp lại cật nạn. Tuy để theo sự nói trở về, đến sáng hôm sau lên tòa, trọn không nghị luận được gì khác lạ. Đến ngày thứ sáu bèn oái máu mà chết. Lúc sắp chết, trông nhìn lại người vợ, Ma Đạp Bà bảo rằng: "Ngươi có tài cao, chớ quên sự tủi nhục này". Ma Đạp Bà chết rồi bèn giấu kín không phát tang. Vợ Ma Đạp Bà lại mặc y phục the lụa mới đẹp đi đến nơi luận hội. Mọi người đều rầm rì cùng bảo với nhau rằng: "Ma Đạp Bà tự phụ tài cao, lấy làm xấu hỗ phải đối đáp với Đức Tuệ, nên sai người vợ đến, sự hơn kém nay đã rõ ràng vậy. Bồ-tát Đức Tuệ bảo cùng vợ Ma Đạp Bà rằng: "Nếu có thể cấm chế ngươi thì ta đã cấm chế vậy". Vợ Ma Đạp Bà biết khó rút lui. Vua hỏi rằng: "Bồtát nói gì kín nhiệm, kia đành phải im lặng thế?". Bồ-tát Đức Tuệ nói rằng: "Đáng tiếc thay Ma Đạp Bà đã chết!, vợ ông ta muốn lại cùng tôi đối luận vậy". Vua hỏi: "Cớ sao Bồ-tát biết thế, nguyện xin chỉ bảo cho?". Bồ-tát Đức Tuệ đáp: "Người vợ Ma Đạp Bà đến trong sắc mặc tỏ vẻ tang chết, trong lời nói ngậm tiếng ai oán. Vì thế nên biết Ma Đạp Bà đã chết vậy. Còn nói có thể cấm chế ngươi, có nghĩa là chỉ cho chồng người ấy vậy" (Ma Đạp Bà). Vua bèn sai sứ sang trông xem, quả thật đúng như lời Bồ-tát Đức Tuệ nói, vua mới cảm tạ rằng: "Phật pháp huyền diệu, có các bậc anh hiền tiếp vết khuôn phép. Vô vi giữ đạo, muôn loài thấm đượm ân hoằng hóa. Y theo khuôn phép nước nhà từ xưa trước tán dương khen thưởng tài đức có thường". Bồ-tát Đức Tuệ nói rằng: "Ví thực lấy sự ngu muội hiểu biết đạo, sống trinh thuần còn đủ sự chánh chân, luận bàn cứu tế mọi vật, giúp rộng cấp dẫn. Trước phá dẹp cứ ngạo chỉ là phương tiện nhiếp hóa. Nay đến thời đây chỉ cầu mong đại vương đem tất cả con cháu trang ấp hộ của Ma Đạp Bà suốt ngàn đời thường cung cấp người vào chốn Tăng-già lam, thì đuổi dài dạy răn đời sau lưu truyền sự tốt lành không cùng, chỉ có người tịnh tín kia được giúp hộ, phước kéo dài ngàn đời, ăn cùng đồng như chư tăng, để khuyên các thanh tín để khen thưởng người đức dày". Khi ấy bèn tạo dựng ngôi già lam đó kính tu nên bày Thánh tích. Mới đầu, sau khi Ma Đạp Bà đối luận thất bại, có khoảng 10 vị tịnh hạnh Bà-la-môn trốn nạn chạy đến các nước láng giềng báo cùng các ngoại đạo ở các xứ ấy biết về sự sỉ nhục đó, và chiêu mộ những bậc anh tài trở lại rửa nhục ngày trước. Vua đã trân kính Bồ-tát Đức Tuệ nên đích thân sang mà cầu thỉnh rằng: "Nay các ngoại đạo chẳng tự lường sức mình, kết tập bạn đảng liền đàn, dám cùng muốn tranh luận, cúi xin đại sư dẹp bỏ các dị đạo". Bồ-tát Đức Tuệ bảo rằng: "Nên nhóm tập những người muốn đối luận". Khi ấy các học nhân ngoại đạo vô cùng vui mừng ủy an lẫn nhau chúng ta ngày nay nhất định hẳn sẽ thắng vậy. Đến lúc các ngoại đạo nêu bày nghĩa lý, Bồ-tát Đức Tuệ bảo rằng: "Nay các ngoại đạo trốn nạn đi xa, như chế định của tiên vương thì đó đều là kẻ giặc. Tôi nay làm sao cùng kia mà đối luận, Đức Tuệ tôi có mang theo một sàn tòa dựng đứng vốn nghe được các nghị luận của kẻ khác lại khéo thông rành ý chỉ tinh vi, đang đứng đợi bên cạnh mà lắng nghe các vị cao đàm". Bồ-tát Đức Tuệ vỗ về sàn tòa ấy mà nói rằng: "Sàn tòa ơi! Ngươi có thể đối luận đi". Mọi người đều kinh dụ sự bảo ban ấy. Khi ấy tòa sàn được mang theo dựng đó liền phát tiếng cật nạn nghĩa lý sâu xa tuôn ra như suối vọt, biện luận mất tông nghĩa. Lại bẻ gãy sự bén nhọn ấy, lại dứt tiệt vây cánh ấy. Các ngoại đạo tự phục đối luận xong, trở lại tạo dựng ngôi già lam nơi ấp hộ.

Từ ngôi già lam nơi Bồ-tát Đức Tuệ đối luận theo hướng tây nam đi hơn 20 dặm, đến một núi đơn lẻ, có ngôi già lam, là nơi luận sư Thi La Bạt Đà La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giới Hiền) luận nghị được thắng nên xả thí Ấp tạo dựng nên, đứng sững trên đảnh núi cao như ngôi Tốt-đổ-ba, có tôn trí xá lợi đức Phật. Luận sư vốn người thuộc vương tộc ở nước Ma Đát Tra; chủng tộc Bà-la-môn, thuở thiếu thời ham thích học hành rất có phong thái tiết tháo, rảo bước đến khắp các xứ Ấn Độ tìm cầu các bậc minh triết, đến tăng già lam Na Lan Đà ở nước đó, gặp được Bồ-tát Hộ Pháp, nghe giảng giáo pháp mà tin ngộ, cầu xin được xuất gia, tìm cầu lấy sự thấu đạt rốt ráo học hỏi lấy đường giải thoát. Đã thấu cùng chí lú cũng rốt ráo với vi ngôn, tiếng tăng vang vọng ở đương thời, đạo hạnh tỏa lan các xứ khác. Bấy giờ tại Nam Ấn Độ có vị ngoại đạo tham cứu sâu xa, viện dẫn kín ẩn, thông suốt u vi, nghe tiếng tăm của Bồ-tát Hộ Pháp mà khởi sinh ngã mạn, ghét ganh sâu sắc, chẳng ngại cản trở bởi núi sông, gióng trống muốn cầu đối luận, bảo rằng: "Ta là người ở xứ Nam Ấn Độ, nhân trong nước nhà cửa vua đây có vị Đại luận sư, ta tuy chẳng thông mẫn nhưng muốn được cùng đối luận". Vua bảo rằng: "Thật có vậy, thật như điều muốn nghị luận". Mới sai sứ thần đến cầu thỉnh Bồ-tát Hộ Pháp rằng: "Tại Nam Ấn Độ có một vị ngoại đạo chẳng ngại đường xa ngàn dặm đến cầu muốn được đối luận. Cúi xin Bồ-tát cất bước đến dự ở luận trường". Bồ-tát Hộ Pháp nghe thế rồi xếp y sắp sang, môn nhân đệ tử Giới Hiền là người tài giỏi trong hàng Hậu tấn bước ra trước mà thưa rằng: "Sao vội đi vậy?". Bồ-tát Hộ Pháp bảo rằng: "Từ khi tuệ nhật ngầm ẩn ánh sáng, thuyền đăng lắng soi chiếu. Các hàng ngoại đạo đông nhiều như kiến bu, dị học tợ ong bay, nên nay ta phải phá dẹp kẻ muốn đấu luận kia". Luận sư Giới Hiền thưa rằng: "Cung kính được nghe các luận khác, dám xin phá dẹp dị đạo". Bồ-tát Hộ Pháp biết Giới Hiền là hàng tài tuấn, nhân đó mà hứa khả. Khi ấy luận sư Giới Hiền vừa mới 30 tuổi, mọi người đều xem thường cho là còn nhỏ khó thể riêng một mình đảm nhận. Bồ-tát Hộ Pháp biết tâm bất bình của đại chúng mới giải thích đó rằng: "Có cần quý ở sự cao minh, đâu cần gì đến tuổi tác. Lấy ngày nay mà trông xem đó hẳn phá dẹp hơn kia vậy". Mãi đến ngày nhóm tập đối luận, mọi người xa gần đều đến, già trẻ thảy nhóm tụ. Ngoại đạo ấy nêu bày mưu chước lớn hết cả sự sâu mầu. Luận sư Giới Hiền theo lý trách thật sâu cùng u huyền. Vị ngoại đạo ấy bèn hết ngôn từ đành mang sự tủi nhục mà rút lui. Vua muốn để đáp ân đức hạnh đó bèn phong tặng ấp thành ấy, luận sư Giới Hiền chối từ rằng: "Kẻ sĩ mặc áo nhuộm vốn chỉ nên biết đủ thanh tịnh tự giữ, đâu lấy thành ấp làm gì?". Vua bảo: "Đấng pháp vương ẩn uất, thuyền trí tuệ lắng sâu, nên chẳng có nêu bày riêng biệt đâu biết lấy gì để khuyên răn hàng hậu học. Vì muốn hoằng dương chánh pháp, nguyện xin giũ lòng xót thương nhận nạp". Luận sư Giới Hiền chối từ không được, bèn nhận ấp ấy, và tạo dựng ngôi già lam đủ đầy mọi quy cũ, xả thí ấp hộ ấy, kính tu cúng dường.

Từ ngôi già lam của luận sư Giới Hiền theo hướng tây nam đi khoảng 40-50 dặm, vượt qua sông Ni liên thuyền đến thành Già Da là nơi rất hiểm trở kiên cố, hiếm ít người ở, chỉ có hơn ngàn gia đình Bà-la-môn là con cháu nối dõi của Đại tiên nhân, vua không có bề tôi, mọi người đều tôn kính. Từ thành ấy về phía bắc cách hơn 30 dặm có một dòng suối trong. Ở Ấn Độ tương truyền xưng gọi đó là dòng nước Thánh, phàm những người uống dùng hay tắm rửa thì tội cấu đều tiêu trừ.

Từ thành ấy về phía nam cách khoảng 5-6 dặm, đến núi Già Da, khe hang mịt mờ đảnh núi nguy hiểm, ở các xứ Ấn Độ có tập tục xưng gọi đó là núi linh. Từ xưa các bậc quân vương lên ngôi trị vì thiên hạ tiếp thừa thống lãnh, cảm hóa thấm hợp đến người phương xa, đức hạnh sáng tỏa đời trước, không ai chẳng lên đó để khấn cáo công thành. Trên đảnh núi có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá cao hơn trăm thước do vua Vô Ưu tạo dựng, thần linh soi xét ngầm khắp, ánh sáng thần có lúc tỏa chiếu. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó giảng nói các kinh Bảo Vân, v.v...

Từ núi Già Da về phía đông nam có ngôi Tốtđổ-ba, là nơi thôn ấp tôn giả Ca Diếp Ba vốn sống tại đó. Từ đó về phía nam lại có hai ngôi Tốt-đổba tức là nơi Già da Ca Diếp Ba và Nại Đà Ca Diếp Ba (xưa trước gọi là Na Đề Ca Diếp là sai nhầm, và các Ca Diếp nêu bày đều không có chữ "Ba" là lược gọi vậy) phụng thờ lửa. Từ nơi Già Da Ca Diếp Ba phụng thờ lửa theo hướng đông vượt qua dòng sông lớn đến núi Bát La Cấp Bồ-đề (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là núi Tiền Chánh Giác. Đức Như Lai lúc sắp chứng đắc chánh giác, trước tiên bước lên đó nên xưng gọi là núi Tiền Chánh Giác). Xưa kia đức Như Lai suốt sáu năm cần cầu khổ hạnh mà chưa thành chánh giác, sau đó xả bỏ pháp tu khổ hạnh, thọ nhận bát cháo sữa, đi từ phía đông bắc lên đến núi đó, trong tâm âm hoài tỉnh lắng, muốn chứng đắc Thánh giác. Từ sườn núi phía đông bắc lên đến trên đảnh, đất đã chấn động, núi lại nghiêng lay, thần núi kinh sợ báo thưa cùng Bồ-tát rằng: "Núi này vốn chẳng phải nơi phước địa thành đẳng chánh giác, nếu Bồtát ở tại đây nhập định kim cang thì đất sẽ chấn động nghiêng đổ, núi cũng vùi lấp". Bồ-tát bèn xuống theo hướng tây nam đến nữa lưng chừng núi, lưng kề đảnh núi mặt xoay xuống khe suối có một thạch thất lớn, Bồ-tát bèn đến đó ngồi kiết già, đất cũng lại chấn động núi cũng nghiêng lay. Khi ấy trời Tịnh Cư ở giữa không trung xướng rằng: "Đây không phải là nơi đức Như Lai thành đẳng chánh giác. Từ đây theo hướng tây nam đi khoảng 14-15 dặm cách rừng khổ hạnh không xa có cây Tỳ-bát-la phía dưới có tòa kim cang. Từ xưa trước trở lại chư Phật đều ngồi tại đó mà thành đẳng chánh giác. Xin Bồ-tát nên đến xứ ấy!". Bồ-tát vừa mới đứng dậy, có rồng trong thất thưa rằng: "Thất này thanh tịnh ưu thắng có thể lấy làm nơi chứng đắc Thánh quả, cúi xin Bồ-tát với tâm từ bi chớ di dời đâu khác". Bồ-tát đã biết đó không phải là nơi chứng đắc đạo quả bèn để toại theo ý rồng nên lưu lại hình ảnh mà đi (hình ảnh tại đó, ngày trước các hàng ngu liền đều trông thấy, mãi đến thời nay, có lúc có thể được thấy), chư thiên dẫn đường đi trước sang đến nơi cây Bồ-đề. Mãi đến lúc vua Vô Ưu tôn sùng Phật pháp, tất cả các dấu vết trên dưới của Bồ-tát lên núi thảy đều tạo dựng các ngôi Tốt-đổba nêu dấu, hình lượng tuy có khác nhau, nhưng linh ứng chẳng khác, như là hoặc mưa hoa trời trong không trung, hoặc ánh sáng tỏa chiếu giữa hang cốc u tối, mỗi năm đến ngày tự tứ mãn kỳ an cư, các hàng pháp tục từ những phương xa khác nhau cùng lên đến đó cúng dường qua vài ngày mới trở về. Từ núi tiền chánh giác theo hướng tây nam đi khoảng 14-15 dặm đến nơi cây Bồ-đề, tường vách bao quanh được sắp chất bằng gạch cao vợi bền chặt, từ đông sang tây dài, từ nam sang bắc hẹp, chu vi rộng hơn 500 bộ, cây quý hoa lạ che mát liền bóng, cát mịn cỏ lạ mọc tràn xanh khắp. Cửa phía chánh đông mở thoáng đối diện với sông Ni Liên Thuyền. Cửa phía nam tiếp liền với ao hoa lớn, phía tây hiểm ác bền chặt, cửa phía bắc thông liền với ngôi già lam lớn, ven tường bên trong, những Thánh tích tiếp liền nhau, hoặc là Tốt-đổba, hoặc là tinh xá, đều do các vị quốc vương, đại thần, các hàng hào tộc ở Thiệm-bộ-châu khâm kính di giáo mà tạo dựng ghi nhớ.

Bên trong vòng tường cây Bồ-đề, chính giữa có tòa kim cang, khi thời hiền kiếp hình thành thì cùng với đại địa không đồng nổi, nằm giữa ba ngàn đại thiên thế giới, dưới đến tận nơi Kim Luân, trên xâm cùng ngằn mẻ đất, dùng bằng chất kim cang làm thành chu vi rộng hơn trăm bộ, ngàn đức Phật trong thời Hiền kiếp đều ngồi tại đó nhập định kim cang, nên xưng gọi đó là tòa kim cang, là nơi chứng đắc Thánh đạo, cũng còn gọi là đạo tràng, khắp đại địa chấn động riêng nơi đó không lay động. Cho nên xưa kia đức Như Lai lúc sắp chứng đắc chánh giác đi đến bốn góc đất đều lay động, sau đến nơi đó, được tỉnh lắng không khuynh động. Từ dần vào thời mạt phát, chánh pháp suy giảm, cát đất càng phủ che nên không còn được thấy. Sau khi đức Phật nhập niết bàn, những bậc quân vương ở các nước truyền nghe đức Phật giảng nói về lượng của tòa kim cang, bèn đem hai tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại đến tôn trí nêu bày mốc giới ở hai phía nam bắc xoay mặt về hướng đông mà ngồi. Nghe các bậc lão thành nói là đến lúc nào tôn tượng Bồ-tát ấy thân hình vùi lắp không còn trông thấy thì Phật pháp sẽ diệt tận. Đến nay tôn tượng ở phía nam đã bị vùi lấp quá ức ngực vậy.

Cây Bồ-đề trên tòa kim cang tức là cây Tất Bát La, xưa trước lúc đức Phật còn tại thế, cây đó cao đến vài trăm thước, từng trải qua nhiều lần phá hại đốn chặt nên còn cao khoảng 4-5 trượng. Đức Phật ngồi dưới gốc cây ấy thành đẳng chánh giác, nhân đó mà xưng gọi là cây Bồ-đề. Cành nhánh sắc màu vàng trắng, cọng lá sắc màu xanh biếc, mùa đông mùa hạ chẳng hề điêu tàn, sắc màu vàng sáng đẹp không biến đổi. Thường năm đến ngày đức Như Lai nhập niết bàn lá đều rơi rụng, sau đó trở lại tươi tốt như cũ. Ngày đó những vị quân vương ở các nước, các hàng pháp tục ở các phương khác có cả số ngàn muôn không mời gọi mà tự nhóm tập, dùng các thứ nước thơm sữa thơm để rưới lên tẩy rửa, khi ấy tấu trổi âm nhạc, thiết bày hương hoa chong đốt đèn nến liên tiếp từng ngày để cúng dường. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn, vua Vô Ưu mới lên tiếp nối ngôi vị tin nhận theo tà đạo, hủy phá các di tích của Phật giáo, phát động binh lính đích thân vua dẫn đến chặt phá, cành nhánh cọng lá bằm chặt thành từng phân tấc đưa về phía tây cách vài mươi bộ chất thành đống lớn, bảo vị Bà-la-môn thờ lửa châm đốt để cúng tế trời. Khói lửa chưa dứt lắng bỗng nhiên sinh mọc lên hai cây, đang trong lửa dữ mà cành lá tươi tốt ngậm biếc, nhân thế mà gọi đó là cây Bồ-đề tro lửa. Vua Vô Ưu trông thấy kỳ lạ như vậy rồi bèn sám hối lỗi quá, dùng sữa thơm rưới vào gốc rễ còn lại, đến sáng sớm hôm sau cây xanh mọc trở lại như cũ. Vua thấy linh thiêng kỳ lạ lại càng rất vui mừng, đích thân tu tạo cúng dường, vui thích quên cả sự trở về. Vương phi vốn tin theo ngoại đạo, kín sai kẻ sứ vào lúc quá nửa đêm lén đến chặt phá cây Bồ-đề đó. Đến sáng sớm, vua Vô Ưu sắp ra kính lễ chỉ thấy còn gốc đâm chồi, vua cùng thần buồn cảm xót xa. Chí thành cầu thỉnh, dùng sữa thơm tưới tẩm, không mấy ngày sau mọc lại. Vua rất kính dị, sắp chất đá làm tường thành bao bọc chung quanh cao hơn 10 thước nay vẫn hiện còn. Gần đây vua Thiết Thưởng Ca tin theo ngoại đạo, ghét ganh phá hủy Phật pháp, phá hoại các Tăng-già lam, chặt cây Bồ-đề đào bới sâu xuống tới suối nước chẳng hết đáy rễ, mới phóng lửa thiêu đốt, dùng cam giá rưới đổ xuống khiến tiêu hủy dứt tuyệt mầm mống sót lại. Vài tháng sau, vua Bổ Thích Noa Phạt Ma (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Mãn Trụ) ở nước Ma Yết Đà là cháu út của vua Vô Ưu nghe thế mà than rằng: "Tuệ Nhật đã ngầm ẩn chỉ còn lại cây của Phật, nay lại bị chặt phá tàn hại, sinh linh còn thấy gì đâu!". Ném vật thân mình nơi đất, buồn cảm động đến vật tình, đem vài ngàn con bò vắt lấy sữa để tưới tẩm xuống đó, qua đêm sau, cây xanh mọc lại cao hơn một trượng. Sợ người sau chặt phá nên sắp chất đá bao bọc chung quanh cao hai trượng bốn thước, nên nay cây Bồ-đề ẩn trong vách đá đã lồi ra ngoài hơn một trượng.

Từ cây Bồ-đề đi về phía đông có một ngôi tinh xá cao 160-170 thước, mặt nền phía dưới rộng hơn 20 bộ, dùng bằng gạch xanh để sắp xây, dùng than đá để tô thoa, tầng khám đều có tôn tượng bằng vàng, bốn phía vách tường đều khắc họa chế tác kỳ công, hoặc hình chuỗi châu liền vòng, hoặc tượng chư thiên chư tiên, phía trên đặt quả A ma lạc ca (cũng gọi là Bảo Bình, hay là Bảo Đài) bằng đồng vàng, mặt phía đông tiếp làm trùng các, diềm mái đặc biệt nổi cao ba tầng, xà trụ rường cột, cánh cửa thông cửa sổ dùng bằng vàng bạc khắc chạm trang sức, lại dùng châu ngọc khắc làm khỏa bít, thất kín nhà sâu cửa thông ba lớp, hai bên tả hữu ngoài cửa mỗi mỗi đều có khám thất, bên tả thiết đặt tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại, bên hữu thiết đặt tôn tượng Bồ-tát Từ Thị dùng bằng bạc trắng chú đúc thành cao hơn 10 thước. Chỗ đất tinh xá xưa cũ, mới đầu do vua Vô Ưu tạo dựng ngôi tinh xá nhỏ. Về sau có vị Bà-la-môn mở mới xây dựng rộng thêm. Mới đầu có vị Bà-la-môn không tin Phật pháp, phụng thờ đại tự tại, truyền nghe trời thần ở tại trong núi tuyết, bèn cùng người con sang đó nguyện cầu. Trời bảo: "Phàm mọi sự nguyện cầu đều có phước mới thành quả, chẳng phải chỗ mong cầu của ngươi, cũng chẳng phải do ta có khả năng khiến được toại nguyện". Bà-la-môn ấy thưa rằng: "Nên tu phước gì có thể được toại tâm nguyện". Trời bảo: "Muốn gieo giống thiện lành, tìm cầu ruộng phước ưa thắng. Thì cây Bồ-đề là nơi chứng đắc Phật quả. Với thời gian này nên gấp trở về sang nơi cây Bồ-đề, xây dựng ngôi tinh xá lớn, đục làm ao nước lớn, tu tạo mọi sự cúng dường thì điều ước nguyện sẽ được toại ý". Vị Bà-la-môn ấy vâng nhận sự chỉ bảo của trời, phát tâm tin lớn cùng dẫn nhau trở về, người anh thì xây dựng tinh xá, người em thì đào đục ao nước, từ đó rộng tu tạo mọi sự cúng dường, chuyên cần mong cầu tâm nguyện về sau được thành quả làm vua và quan đại thần. Phàm có được mọi thứ phước lộc đều đưa vào xả thí. Đến lúc tinh xá được hoàn thành, chiêu mộ các người thợ đồ họa tôn tượng đức Như Lai lúc mới thành đạo, trải qua tháng năm lâu dài mà không người nào ứng đáp sự mời gọi. Lâu sau có một vị Bà-la-môn đến bảo với mọi người rằng: "Ta có khả năng hay khéo đồ họa diệu tướng đức Như Lai". Mọi người bảo: "Nay hãy giúp ta tu tạo tôn tượng. Ông cần có những vật gì?". Bà-la-môn ấy đáp: "Cần có bột bùn thơm nên đặt trong tinh xá và đốt một ngọn đèn, sau khi tôi đã vào trong rồi đóng chặt cửa ấy, sáu tháng sau mới có thể nên mở cửa". Khi ấy các hàng tăng chúng đều y theo lời yêu cầu đó. Mãi đến lúc còn hơn bốn ngày chưa đủ sáu tháng tăng chúng đều lấy làm quái lạ mở cửa ra để trông xem, thấy trong tinh xá có tôn tượng đức Phật nghiễm nhiên ngồi kiết già chân phải gác đặt phía trên, tay trái cong rút lại, tay phải duỗi ra, xoay mặt về hướng đông mà ngồi, chỉnh túc trang nghiêm như đức Phật đang hiện tại, tòa cao bốn thước hai tấc, rộng một trượng hai thước năm tấc, tôn tượng cao hai trượng năm tấc, hai đầu gối xa cách nhau tám thước tám tấc, hai vai rộng sáu thước hai tấc, tướng tốt đầy đủ, dung nhan hiền từ như thật, chỉ có phía trên nắm vú bên hữu đắp thoa ngọc sáng chưa hoàn tất. Đã không còn thấy người Bà-la-môn ấy nữa, mới nghiệm là do thần soi xét, chúng tăng đều buồn than, ân cần cầu thỉnh muốn được biết. Có một vị Bà-la-môn trước ấy mà bảo rằng: "Ta là Bồ-tát Từ Thị, sợ sự nghĩ suy của các người thợ chẳng lường biết Thánh dung nên ta đã đích thân đến đồ họa tôn tượng đức Phật. Duỗi cánh tay phải, tức xưa kia lúc đức Như Lai sắp chứng Phật quả, thiên ma đến quấy nhiễu, địa thần đến báo, vị thứ nhất xuất hiện hỗ trợ đức Phật nhiếp phục quân ma. Đức Như Lai bảo: "Ngươi chớ phải lo sợ. Ta dùng sức nhẫn để nhiếp phục quân ma kia hẳn sẽ thắng nó". Ma vương hỏi: "Ai làm minh chứng?". Đức Như Lai mới duỗi tay chỉ xuống đất và bảo rằng: "Nơi đây có người minh chứng". Khi ấy vị địa thần thứ hai nhảy vọt ra làm chứng. Nên nay tôn tượng phỏng theo việc xưa mà duỗi xuống". Mọi người nghe thế, biết là linh thiêng soi xét, không ai chẳng buồn cảm. Khi ấy, nơi trên núm vú chưa làm hoàn tất, mọi người mới dùng các vật báu chuỗi châu xỏ quấn các thứ trân quý kỳ lạ giao xen trang sức. Sau khi chặt phá cây Bồ-đề, vua Thiết Thưởng Ca muốn hủy hoại tôn tượng đó nhưng khi đã thấy từ nhan tâm không an nhẫn. Lúc sắp xoay trở xa giá trở về, bèn bảo Tể thần rằng: "Nên trừ bỏ tôn tượng đó để thiết đặt hình tượng trời đại tự tại". Quan tể thần vâng nhận Thánh chỉ, song lo sợ mà than rằng: "Hủy hoại tôn tượng Phật thì trải qua nhiều kiếp phải nhận chịu tai ương. Còn trái với lệnh vua thì tan thân và cả giòng tộc bị chết hết. Tới và lui như thế, nên thực hành ra sao?". Mới vời gọi những người có tín tâm để làm kẻ sai sử, bèn đến trước tôn tượng sắp chất gạch chấn ngang thành bức tường, trong tâm dần mờ tối. Lại đặt một cây đèn sáng phía trước tường gạch, đắp họa hình tượng trời tự tại, công việc hoàn tất báo tin cùng vua. Vua Thiết Thưởng Ca nghe thế mà trong tâm kinh sợ, khắp cả thân hình nổi đầy mụt nhọt, da thịt lở loét, sống không mấy ngày bèn sau qua đời. Sau khi vua Thiết Tưởng Ca qua đời, quan Tể Thần vội trở lại tinh xá phá hủy bức tường chắn ngang ấy. Tuy thời gian trải qua đã nhiều ngày nhưng cây đèn ấy vẫn không tắt mất. Tôn tượng đó ngày nay vẫn hiện còn, công thần khuyết hủy. Đã thiết trí trong phòng thất sâu kín, đèn đuốc phải đốt sáng tương tục, muốn trông thấy được từ nhan chẳng do đâu mà thẩm xét. Vào lúc sáng sớm phải mang kiếng sáng lớn dẫn ánh sáng soi chiếu vào bên trong mới thấy được linh tướng. Phàm những người được trông thấy đều tự tăng thêm buồn cảm!

Đức Như Lai là thành đẳng chánh giác sau nữa ngày mồng 8 tháng Phệ Xá khư ở Ấn Độ; tương đương ngày mồng 8 tháng 3 tại Trung Hoa. Theo thượng tọa bộ thì đức Như Lai thành đẳng chánh giác sau nữa ngày 15 tháng Phệ Xá Khư; tức tương đương ngày 15 tháng 3 ở Trung Hoa. Và, khi ấy đức Như Lai vừa tròn 30 tuổi, có thuyết nói là đức Như Lai vừa 35 tuổi.

Từ cây Bồ-đề về phía bắc, có nơi đức Phật kinh hành. Xưa kia, lúc mới thành đẳng chánh giác đức Như Lai chẳng vội đứng dậy khỏi tòa, mà ngồi thiền định tỉnh lắng suốt bảy ngày, đến lúc đứng dậy thì đi đến góc phía bắc của cây Bồ-đề, trải qua bảy ngày đi kinh hành qua lại theo hướng đông tây. Đi hơn 10 bộ thì có hoa khác lạ, nổi theo vết chân có 18 đường văn. Người đời sau đến đó sắp gạch làm thành nền móng cao hơn ba thước. Nghe các bậc lão thành nói là nơi nền móng Thánh tích đó biểu hiện thọ mạng ngắn dài của con người, nên trước phát khởi tâm nguyện chí thành sau mới đo lường, tùy thọ mạng ngắn dài mà số ấy có tăng giảm.

Từ nền móng nơi đức Phật kinh hành về phía bắc, bên hữu đường đi, trong tinh xá trên một tảng đá có tôn tượng đức Phật ngửa mặt trông nhìn lên. Xưa kia đức Như Lai đến tại đó suốt bảy ngày trông nhìn cây Bồ-đề mắt chẳng tạm rời, vì muốn báo đáp ân đức cây Bồ-đề nên trông nhìn vậy.

Từ cây Bồ-đề về phía tây cách không xa trong tinh xá lớn, có tôn tượng đức Phật bằng than đá, và trang sức bằng các vật trân quý kỳ lạ, tôn tượng xoay mặt về hướng đông mà ngồi, phía trước có tảng đá sắc xanh, đường văn kỳ đặc hình thái khá lạ. Đó là nơi xưa kia đức Như Lai mới thành đẳng chánh giác, trời Phạm vương xây dựng nhà bằng bảy báu, trời Đế Thích làm tòa bảy báu, đức Phật lên ngồi trên đó suốt bảy ngày tư duy, tỏa phóng ánh sáng khác lạ soi chiếu lại cây Bồ-đề. Vì các Thánh xa dần nên các vật báu biến thành đá.

Từ cây Bồ-đề về phía nam cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước do vua Vô Ưu tạo dựng là nơi xưa kia Bồ-tát sau khi đã tắm rửa dưới sông Ni Liên Thuyền rồi, sắp đi đến nơi cây Bồ-đề, tự suy nghĩ nên dùng vật gì để làm tòa? Sau đó bỗng tự phát minh là nên dùng cỏ sạch. Khi ấy trời Đế Thích biến hóa thân hình làm kẻ đi cắt cỏ, mang đội đuổi theo đường đi. Bồ-tát gặp thấy bèn bảo rằng: "Cơ ông mang đội, có thể ban cho một ít chăng?". Người cắt cỏ ấy bèn cung kính dâng cỏ cúng dường Bồ-tát. Bồ-tát nhận cỏ rồi thẳng theo đường đi về phía trước.

Từ nơi Bồ-tát nhận cỏ về phía đông bắc cách đó không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Bồ-tát sắp chứng Phật quả có đàn chim tước sắc xanh và đàn nai bày hiện điềm lành. Ở Ấn Độ có tập tục tốt lành ứng hiện đó là điềm ứng an vui, nên trời Tịnh Cư tùy thuận theo thế gian biến hiện thành đàn bay liệng quanh để hiệu ứng điềm linh hiển bày quả Thánh. Từ cây Bồ-đề về phía đông hai bên con đường lớn mỗi bên đều có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Ma vương nhiễu loạn Bồ-tát. Bồ-tát lúc sắp chứng đắc Phật quả, Ma vương đến khuyên nên nhận ngôi vị Luân vương, răn nói nhiều mà Bồ-tát không thực hành, Ma vương đành ôm lo buồn lớn mà trở về. Con gái của Ma vương lại xin sang dụ dỗ, Bồ-tát nhờ sức oai thần khiến suy biến sửa đổi hình dung, khiến ma nâng đỡ thân hình suy gầy chống gậy cùng dẫn nhau rút lui.

Từ cây Bồ-đề về phía tây bắc trong ngôi tinh xá có tôn tượng đức Phật Ca Diếp Ba, đã xứng linh Thánh, có lúc tỏa phóng ánh sáng. Nghe các bậc lão thành kể rằng nếu người chí thành đi nhiễu quanh bảy vòng thì ngay đời nay chứng đắc trí túc mạng.

Từ tinh xá có tôn tượng đức Phật Ca Diếp Ba về phía tây bắc có hai thất bằng gạch mỗi thất đều có hình tượng của Địa thần. Xưa kia lúc đức Như Lai sắp thành Đẳng chánh giác, một vị báo có Ma vương đến, một vị hộ Phật chứng quả. Người đời sau ghi niệm công lại nên đắp họa hình tượng để nâng bày đức.

Từ tường thành cây Bồ-đề về phía tây cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba là Uất kim hương cao hơn 40 thước do vị thương chủ ở nước Tào Cũ Tra tạo dựng. Xưa kia tại nước Tào Củ Tra có một vị Đại thương chủ tôn sùng phụng thờ trời thần cúng tế mong cầu phước lợi, khinh miệt Phật pháp, không tin nhân quả. Sau đó, dẫn các người khác buôn đi buôn bán đổi chác, trôi nỗi thuyền bè trên Nam Hãi gặp phải gió dữ, lạc mất đường hướng, sóng gió cuồn cuộn cuốn tấp trải qua ba năm, lương thực cạn hết, cháo hồ còn không đủ sung cấp vào miệng, mọi người cùng chung thuyền sống buổi sáng chẳng tính nghĩ đến buổi chiều đồng tâm hợp lực xưng niệm vị trời họ đang tôn thờ. Tâm tư đã nhọc mệt mà công sức thầm lắng chẳng cứu giúp. Bỗng chốc thấy một núi lớn, sườn cao đảnh vút, có hai mặt nhật nối liền tỏa sáng, ánh sáng chồng nhau soi chiếu. Khi ấy các khách buôn cùng ủy an với nhau rằng: "Chúng ta có phước nên gặp được núi lớn này, nên vào trong đó dừng nghỉ hẳn được an lạc". Vị thương chủ ấy bảo rằng: "Đó chẳng phải là núi, chính là Cá Ma Kiệt, sườn cao đảnh vút ấy là râu tóc, hai mặt nhật nối liền tỏa sáng đó là nhãn quang". Tiếng nói chưa lắng dứt, buồm thuyền vụt tới nơi. Vị thương chủ lại bảo các khách buôn rằng: "Tôi nghe Bồ-tát Quán Tự Tại ở nơi các thứ ách nạn hay ban sự an lạc, nên mỗi người liền đồng tiếng quy mạng xưng niệm, núi cao ấy bèn ẩn, hai ánh mặt nhật cũng lặng mất. Chỉ chốc lát lại thấy có vị Sa-môn hình nghi tường tự chống tích bay vượt giữa hư không không mà đến cứu vớt, chẳng qua thời gian bao lâu mà đã về đến nước nhà, nhân đó phát khởi tín tâm trinh thuần kiên cố, cầu phước chẳng đoái lại, bèn tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba kính tu cúng dường, dùng bột uất kim hương để bôi thoa trên dưới. Đã phát tâm tin, vị thương chủ ấy lại dẫn những người cùng đồng chí ý đi đảnh lễ các Thánh tích, chiêm ngưỡng cây Bồ-đề, chưa rỗi nói trở về mà đã qua cả tháng trời.

Các khách buôn đồng đi lại cùng nói với nhau rằng: "Núi sông cách trở, quê hương xa vời, ngôi Tốtđổ-ba chúng ta tạo dựng ngày trước mà nay chúng ta hiện ở tại đây thì ai lo việc quét tước?". Nói xong bèn đi nhiễu quanh, đến đó bỗng thấy ngôi Tốt-đổba, kinh hãi sự xuất hiện đó, bèn đến phía trước chiêm lễ xem xét quả nhiên đúng thật là ngôi Tốtđổ-ba do họ tạo dựng ở tại nước nhà. Nên nay tại nước Ấn Độ nhân đó mà gọi tên là Tốt-đổ-ba "uất kim hương" vậy.

Từ tường thành cây Bồ-đề về góc đông nam bên cạnh cây Ni câu luật có ngôi Tốt-đổ-ba. Bên cạnh đó lại có ngôi tinh xá, bên trong có tạo tôn tượng đức Phật ngồi, là nơi xưa kia lúc đức Như Lai vừa mới chứng đắc Phật quả, trời đại Phạm thiên đến đó khuyên thỉnh đức Phật chuyển Diệu pháp luân. Bên trong vách tường quanh cây Bồ-đề ở bốn góc đều có các ngôi Tốt-đổ-ba lớn, là các nơi xưa kia đức Như Lai sau khi đã nhận cỏ cát tường đi đến nơi cây Bồ-đề, trước tiên trải quả bốn góc, đất đều chuyển động, sau đó đến tòa kim cang mới được an tĩnh. Bên trong tường vách cây Bồ-đề, các Thánh tích có lắm nhiều, khó thể nêu bày cùng khắp.

Bên ngoài tường vách cây Bồ-đề về phía tây nam có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi vườn nhà xưa cũ của hai mục nữ dâng cúng bát cháo sữa. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi mục nữ dâng cúng bát cháo sữa ấy. Tiếp theo lại có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi đức Như Lai nhận bát cháo sữa.

Ngoài cửa phía nam tường vách cây Bồ-đề có một ao lớn chu vi rộng hơn 700 bộ, nước trong trơn nhận lắng như gương soi, do hai anh em vị Bà-lamôn vâng sự chỉ bảo của trời Đại tự tại mà đục tạo nên. Tiếp về phía nam lại có một ao, là nơi xưa kia đức Như Lai mới thành Đẳng chánh giác muốn tắm rửa, nên trời Đế thích vì Phật mà hóa thành ao. Tiếp về phía tây, có một tảng đá lớn, là nơi xưa kia đức Phật giặt y xong vừa muốn hong phơi, trời Đế thích từ núi tuyết lớn mang tảng đá đó lại. Bên cạnh đó, lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai nhận chiếc y cũ của bà già dâng cúng. Từ ao do trời Đế Thích biến hóa về phía đông vào trong rừng có ao vua rồng Mục Chi Lân Đà, nước ở đó trong đen mùi vị ngọt mát. Trên bờ phía tây có một ngôi tinh xá nhỏ, bên trong có tạo tôn tượng đức Phật. Xưa kia đức Như Lai lúc mới thành Đẳng chánh giác đến đó ngồi yên nhập định suốt bảy ngày. Khi ấy vua rồng đó cảnh vệ đức Như Lai tức đem thân mình quấn quanh dưới đức Phật bảy vòng và hóa ra nhiều cái đầu làm lọng tàn che phủ phía trên, nên trên bờ phía đông ao có ngôi thất đó.

Từ ao vua rồng Mục Chi Lân Đà về phía đông vào trong rừng có ngôi tinh xá, có thờ tôn tượng đức Phật thân hình gầy ốm. Bên cạnh đó có nơi xưa kia đức Phật đi kinh hành dài hơn 70 bộ, hai phía nam bắc mỗi bên đều có cây Tất bát la. Nên nay các hàng sĩ tục những người mắc phải bệnh tật mà dùng dầu thơm bôi thoa vào tôn tượng đó, phần nhiều đều được lành mạnh. Đó là nơi xưa kia Bồtát tu khổ hạnh, nơi Như Lai vì phục ngoại đạo, lại nhận sự thỉnh cầu của Ma ở đó suốt sáu năm tu khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè hạt thóc, thân hình tiều tụy còn da bọc xương, kinh hành qua lại phải vịn cây để đứng dậy.

Bên cạnh cây Tất bát la; nơi Bồ-tát tu khổ hạnh có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi dừng ở của năm tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, v.v... Mới đầu, lúc thái tử bỏ tục xuất gia, bàng hoàng nơi chốn núi đầm nương nghỉ nơi suối rừng, khi ấy vua Tịnh Phạn mới bảo năm người đi theo để chăm lo cho thái tử. Đến lúc thái tử đã tu khổ hạnh, thì A Nhã Kiều Trần Như, v.v... cũng cần cầu. Từ nơi nương ở của năm tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, v.v..., về phía đông nam có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia Bồ-tát vào sông Ni Liên Thuyền để tắm rửa. Bên cạnh sông cách không xa là nơi Bồ-tát nhận bát cháo sữa. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi hai vị trưởng giả dâng cúng bột mật. Xưa kia đức Phật đang tại dưới cây Bồ-đề ngồi kiết già tỉnh lắng cảm thọ sự an lạc giải thoát qua bảy ngày sau mới từ thiền định dậy, khi ấy có hai vị thương chủ đang đi ngoài mé rừng, và thần ở rừng đó mách báo cùng hai vị thương chủ rằng: "Thái tử giòng họ Thích nay đang ở trong rừng này vừa mới chứng đắc Phật quả, tâm ý đang ngưng lắng tịch định, đã qua hơn 49 ngày đêm không ăn uống gì. Hai ông nếu có gì dâng cúng sẽ được phước lợi rất lớn". Khi ấy hai vị thương chủ đều cùng đem bột và mật mang theo vào dâng cúng. Đức Thế Tôn bèn thọ nhận.

Bên cạnh nơi hai trưởng giả dâng cúng bột và mật có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi bốn vị trời dâng cúng bình bát cho đức Phật. Sau khi hai thương chủ đã dâng cúng bột và mật, đức Phật nghĩ nên dùng vật gì để nhận đựng. Khi ấy bốn vị trời từ bốn phương lại, mỗi vị mang đến một bình bát bằng vàng dâng cúng đức Phật, đức Thế Tôn im lặng mà không nhận, vì người xuất gia không nên sử dụng đồ vật ấy. Bốn trời lại bỏ bình bát vàng mà dâng cúng bình bát bằng bạc, cho đến các bình bát bằng pha chi, lưu ly, mã não, xa cừ, chân châu, v.v... Đức Thế Tôn vẫn như trước im lặng không nhận lấy. Bốn vị trời lại trở về cung mang đến bình bát bằng đá sắc màu xanh biếc ánh ngời mà dâng cúng, Đức Thế Tôn đoán biết đây kia mà nhận hết tất cả, lần lượt chất đè nén làm thành một bình bát, nên bên ngoài có bốn đường sáng lớn.

Bên cạnh nơi bốn vị trời dâng cúng bình bát cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai vì Thánh mẫu mà giảng nói pháp. Xưa kia, lúc đức Như Lai đã thành Đẳng chánh giác, xưng là thầy của trời người, khi ấy Thánh mẫu Ma Da từ cung trời giáng hiện xuống đó, đức Thế Tôn bèn tùy cơ duyên nêu bày chỉ nói lợi mừng. Bên cạnh đó có ao hồ cạn, trên hồ có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai hiện các sự thần biến để giáo hóa những người có duyên. Bên cạnh nơi đức Phật hiện sức thần biến có ngôi Tốtđổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai hóa độ ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp Ba cùng với hơn một ngàn người đệ tử. Như Lai vì con đường thiện mỹ mà tùy cơ nghi ứng phó để hàng phục. Thế rồi Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp Ba cùng với 500 người học trò cầu xin thọ học Phật giáo. Ca Diếp Ba nói rằng: "Ta cùng các người đồng đi ngược lại đường mê". Khi ấy bèn cùng dẫn nhau đi đến chỗ đức Phật, đức Như Lai bảo rằng: "Nên vất bỏ áo da nai, bỏ các vật dụng cúng tế lửa". Lúc đó các Phạm chí vâng thừa Thánh chỉ cởi bỏ tất cả ném vất xuống sông Ni Liên Thuyền. Nại Địa Ca Diếp Ba thấy các vật cúng tế trôi nổi giữa dòng nước, bèn cùng các học trò tìm đến dò xem anh mình động tĩnh thế nào. Đã thấy cải đổi tất cả, bèn cũng tùy theo cầu xin xuất gia. Khi ấy, Già Da Ca Diếp Ba nghe hai người anh mình xả bỏ pháp đang tôn thờ, bèn đến nơi chỗ đức Phật phát nguyện xin tu phạm hạnh.

Từ nơi đức Phật hóa độ ba anh em Ca Diếp Ba về phía tây bắc có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Phật nhiếp phục rồng lửa do anh em Ca Diếp Ba tôn thờ. Khi đức Như Lai sắp giáo hóa ba anh em đó, trước tiên là nhiếp phục sự phụng thờ của họ, nên đến dừng nghỉ nơi thất rồng lửa phạm chí. Qua nửa đêm, rồng phun nhả lửa khói, Phật đã nhập định cũng phóng hỏa quang. Thất đó bỗng nhiên sáng rỗng, lửa dữ cháy mạnh, các thầy phạm chí khiếp sợ cho là lửa hại đức Phật nên cùng nhau chạy đến khóc gào buồn tiếc. Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp Ba bảo cùng các phạm chí rằng: "Lấy đó mà trông xem chưa hẳn là lửa vậy, có thể là Sa-môn đó nhiếp phục rồng lửa vậy". Đức Như Lai mới cuộn hết lửa rồng để trong bình bát, đến sáng sớm mang ra chỉ bày cho các học trò ngoại đạo. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi 500 vị Độc giác đồng nhập Niết bàn.

Từ nơi ao vua rồng Mục Chi Lân Đà về phía nam có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Ca Diếp Ba đến cứu đức Phật đắm chìm trong nước. Lúc đó anh em Ca Diếp Ba suy tôn chứng đắc thần thông. Mọi người xa gần đồng kính ngưỡng đức, các hàng lê thứ thảy quy tâm. Đức Thế Tôn dùng phương tiện dẫn trốn đồ chúng, sử dụng quyền biến lớn để nhiếp hóa nên dấy giăng mây kín mít, tuôn trút mưa bão lớn, quanh nơi Phật ở riêng không có nước. Khi ấy Ca Diếp Ba thấy mây mưa như thế bảo cùng môn nhân học trò rằng: "Trụ xứ của Sa-môn sắp bị nước dập chìm, nên đem thuyền bè đến cứu". Đến nơi thì thấy đức Thế Tôn giẫm bước trong nước đi như giữa đất liền, đạp giữa dòng sông thì nước rẽ phân, cát hiện bày, Ca Diếp Ba thấy thế, trong tâm kính phục mà trở về.

Ngoài cửa phía đông tường vách cây Bồ-đề cách khoảng 2-3 dặm có một ngôi thất rồng mù. Rồng đó bởi ương lụy nhiều đời kiếp trước nhân chịu quả báo thọ sinh bị mù. Lúc đức Như Lai từ núi tiền chánh giác sắp đến cây Bồ-đề, rồng mù ấy nói với Bồ-tát rằng: "Nay đây, nhân giả không bao lâu nữa sẽ thành đẳng chánh giác. Mắt tôi bị mù từ trước đến nay đã lâu lắm, mỗi lúc có đức Phật xuất hiện nơi đời thì mắt tôi liền được sáng. Trong thời Hiền kiếp này có ba đức Phật ở quá khứ xuất hiện nơi đời, mắt tôi đã có sáng thấy được. Nay nhân giả tới đây, mắt tôi bỗng mở được, do đó mà biết nhân giả sắp thành Phật vậy".

Bên cạnh cửa phía đông tường thành cây Bồđề có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Ma vương kinh sợ Bồ-tát. Mới đầu Ma vương biết Bồ-tát sắp thành chánh giác, đến dẫn dụ hoặc loạn mà không thành, buồn sợ không nơi nhờ cậy, bèn nhóm tập các chúng thần, chỉnh trang quân ma, sửa sang binh lính dốc sức cùng uy hiếp Bồ-tát, khi ấy gió mưa tuôn đổ sấm sét mịt mù, phóng lửa bay khói, tung cát vung đá, đủ cả các thứ giáo mác, dụng cụ cung tên. Khi ấy Bồ-tát nhập định đại từ, khiến tất cả mọi thứ binh trượng đều biến thành hoa sen, quân ma kinh sợ vội chạy rút lui. Bên cạnh đó không xa có hai ngôi Tốt-đổ-ba do trời Phạm vương và Đế thích tạo dựng nên.

Ngoài cửa phía bắc cây Bồ-đề có ngôi Tăng-già lam Ma-ha Bồ-đề, mới đầu do vua nước Tăng-già-la tạo dựng. Nhà sân sáu viện, quán các ba tầng, tường vách bao bọc chung quanh cao 3-4 trượng, các thợ dựng xây hết sức kỳ diệu, trong tiết xanh đỏ rất mực đẹp xinh. Đến như tôn tượng đức Phật được chú đúc bằng vàng bạc, mọi thứ trang nghiêm đều dùng bằng các vật báu. Các ngôi Tốtđổ-ba cao rộng diệu kỳ, sáng nhuận sạch đẹp, bên trong có tôn thờ xá lợi của đức Như Lai, xá lợi bằng cốt lớn như đốt lóng ngón tay, sáng nhuận trắng sạch ánh suốt trong ngoài, xá lợi bằng thịt lớn như chân châu dãi sắc màu hồng phiến. Mỗi năm đến ngày mãn tháng Như Lai đặc thần biến nêu bày ra cho đại chúng trông xem (tức ngày 30 tháng 12 ở Ấn Độ, tương đương ngày 15 tháng giêng ở Trung Hoa). Khi ấy hoặc có tỏa phóng ánh sáng, hoặc mưa hoa. Chư tăng có gần 1000 vị đều tập học giáo pháp đại thừa Thượng tọa bộ, luật nghi thanh tịnh, chỉnh túc, giới hạnh trinh thuần trong sáng. Xưa kia có vị vua ở nước Tăng-già-la tại Nam Hải, vua ấy tinh thuần kính tin Phật pháp bẩm phát tự nhiên, có người em họ xuất gia, kính tưởng các Thánh tích của đức Phật nên từ xa đến Ấn Độ, dừng nghỉ trong các ngôi già lam, đều bị khinh thường cho la biên bỉ, khi ấy bèn trở gót trở về lại nước nhà. Vua ấy đích thân ra đến nơi xa nghinh đón. Vị Sa-môn ấy buồn nghẹn tự như không thể nói. Vua ấy hỏi: "Mắc phải điều gì mà u buồn vậy?". Vị Sa-môn đó đáp: "Tôi nương nhờ oai phong của nước nhà, vân đức Phật phỏng hỏi đạo đến nương trọ nơi cảnh vức khác. Giẫm trải nắng mưa, gặp phải khinh thường hủy nhục, nói thấy gièm pha, mang điều đau buồn tủi nhục ấy, làm sao trong tâm hân hoan được?". Vua ấy hỏi: "Như vậy nghĩa là sao?". Vị Sa-môn đó nói: "Thật cầu mong đại vương luôn lấy ruộng phước đặt để tâm ý, đi đến các xứ Ấn Độ tạo dựng những ngôi già lam, đã là nêu bày Thánh tích lại còn có được cao danh. Phước đức ấy có thể giúp được cho tiên vương, ân ấy lại đượm khắp đời sau". Vua ấy bảo: "Việc ấy rất tốt lành, nghe đó sao có thể hoảng muộn?". Khi ấy bèn đem các vật báu trong nước sang dâng hiến vua xứ Ấn Độ. Vua xứ Ấn Độ đã nhận sự triều cống, nghĩa cử còn nghĩ tính xa, nên bảo cùng sứ thần rằng: "Nay ta nên lấy vật gì để đáp trả tâm tình?". Sứ thần tâu rằng: "vua nước Tăng-già-la cúi đầu với xứ Ấn Độ đây hướng về vua Đại Cát Tường. Đại vương oai đức vang động phương xa, ân huệ đượm trùm khắp. Các Samôn nước dưới khâm sùng kính mộ phong hóa dám rảo bước đến nước trên đó bày kính lễ các Thánh tích. Đến nương ở nơi các ngôi già lam, chẳng nói đâu thấy quán, trải qua đủ thứ khổ nhọc mang chịu lấy sự tủi nhục mà trở về. Nghĩ tính ước xa dâng tặng khuôn phép với sự nghiệp tương lai, muốn đến các xứ Ấn Độ xây dựng những ngôi già lam, để cho các đức Phật khác khất sĩ có nơi dừng nghỉ, hai nước giao hảo hân hoan mọi người qua lại không ngưng dứt". Vua xứ Ấn Độ bảo: "Đức Như Lai lắng ẩn giáo hóa, mà Di phong hiện còn đây. Với các chỗ Thánh tích, mặc tình chọn một nơi". Sứ giả kính vâng về báo lại, quần thần đều kính bái vui mừng chúc tụng, bèn chiêu tập các hàng Sa-môn bèn nghị sự tạo dựng. Có vị Sa-môn nói rằng: "Nơi cây Bồ-đề, từ xưa trở lại chư Phật đều chứng đắc Thánh đạo tại đó". Xét bàn mọi kiến nghị khác đều không ngoài ước tính đó, khi ấy bèn xả thí các vật trân quý của nước nhà đến tạo dựng ngôi già lam đó, vì chư tăng nước đó mà phụng tu cúng dường, và mới khắc bản đồng làm bài minh ký rằng: "Phàm phu cấp không riêng chư Phật chỉ giáo, ban huệ với hàng có duyên, kính tạo ngôi già lam, dùng nêu bày tán dương Thánh tích, phước giúp cha ông, ân ban khắp dân chúng, chỉ mong chư tăng ở nước tôi được tự tại, và mọi người nước tôi cũng đồng như chư tăng, lưu truyền điều này tiếp nối về sau, mãi mãi không cùng tận". Nên ngôi già lam đó phần nhiều là chư tăng người nước Sư Tử sinh hoạt tu tập.

Từ cây Bồ-đề về phía nam xa hơn 10 dặm các Thánh tích tiếp liền nhau, khó thể nêu bày đủ hết. Mỗi năm đến ngày chư tăng giải kết an cư, các hàng pháp tục ở khắp bốn phương có cả trăm ngàn chúng suốt bảy ngày đêm mang hương hoa đến, tấu trỗi âm nhạc khắp cùng cả khu rừng lễ bái cúng dường. Chư tăng ở Ấn Độ y cứ theo Thánh giáo của Phật đều lấy ngày mồng một trước nửa tháng Thất La Phạt Noa vào an cư kỳ mưa, tương đương ngày 16 tháng 5 ở Trung Hoa, và lấy sau nữa ngày 15 tháng Át Thấp Phược Sưu Xà Giải An Cư kỳ mưa, tương đương ngày 15 tháng 8 tại Trung Hoa. Tại Ấn Độ tên tháng y cứ theo ngôi sao mà lập, xưa nay không cải đổi. Các bộ không sai, chỉ bởi phương ngôn chưa dung thông nên sự truyền dịch có sai nhầm, phân thời tính tháng đặt kỳ trái khác, nên lấy ngày 16 tháng 4 vào An Cư và đến ngày 15 tháng 7 giải An cư vậy.

Đại Đường Tây Vức ký hết quyển tám.

QUYỂN 9

(Nói về một nước).

1. Nước Ma Yết Đà (tiếp theo)

1-NƯỚC MA YẾT ĐÀ (Tiếp Theo)

Từ cây Bồ-đề về phía đông vượt qua sông Ni Liên Thuyền Na vào trong rừng lớn có một ngôi Tốt-đổ-ba. Từ đó về phía bắc có một cái ao, là nơi voi Hương Tượng hầu mẹ. Xưa kia đức Như Lai đang trong thời tu Bồ-tát hạnh làm voi con Hương Tượng ở trong Bắc Sơn rảo bước đến bên cạnh ao hồ đó, voi mẹ bị mù, nên voi con nhặt hái ngó rễ sen hút nước trong để nuôi dưỡng cung kính hành hiến theo thời gian suy dời, gặp lúc có người vào rừng lạc mất đường đi, bàng hoàng qua lại buồn khóc thảm thiết. Voi con Hương Tượng nghe thế mà xót thương đến vì chỉ dẫn, đưa đường trở về. Người ấy sau khi đã về được, bèn tấu trình cùng vua rằng: "Tôi có biết một con voi Hương Tượng đi ở nơi rừng chăm, đó là loài vật kỳ đặc rất giá trị, có thể nên sang bắt lấy". Vua chấp thuận nghe theo lời đó bèn chuẩn bị binh lính sang bắt. Người ấy dẫn đường đi trước chỉ nơi voi ở cho vua. Và liền đó hai cánh tay người ấy rơi rớt như có người chặt lìa, vua tuy kinh sợ điều kỳ lạ ấy nhưng vẫn trói bắt voi con Hương Tượng mà dẫn về. Con voi Hương Tượng đã bị trói buộc trải qua thời gian lâu dài mà chẳng chịu ăn uống cỏ nước. Người cai quản voi tấu trình cùng vua. Vua bèn đích thân đến hỏi thăm, voi con Hương Tượng bèn đáp rằng: "Mẹ tôi bị mù trải qua nhiều ngày đói khát, nay bị u ách há làm sao cam lòng mà ăn uống?". Vua xót xa nghe tình cảnh ấy nên bèn phóng thả voi. Bên cạnh đó lại có ngôi Tốt-đổ-ba, phía trước có dựng trụ đá, là nơi xưa kia đức Phật Ca Diếp Ba an tọa tĩnh lắng tại đó. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành.

Từ nơi bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền về phía đông vượt qua sông Mạt Ha đến trong rừng lớn có một trụ đá, là nơi vị ngoại đạo nhập định và phát ác nguyện. Xưa trước có ngoại đạo Uất Đầu Lam Sử chí khí vượt ngoài ráng mây, thân hình để nơi cỏ đầm, đến trong rừng pháp đó gá thần ẩn vết, đã đầy đủ ngũ thông lại chứng đắc Đệ nhất hữu định, vua nước Ma Yết Đà đặc biệt rất tôn kính, thường vào giữa trưa mỗi ngày thỉnh mời đến trong cung thọ thực, Uất Đầu Lam Tử giẫm vượt giữa hư không qua lại không ngăn ngại, vua nước Ma Yết Đà theo đúng thời gian chiêm ngưỡng trông mong, cũng đã đến rồi bưng tiếp đặt tòa. Đến lúc vua sắp ra ngoài tuần đức Phật muốn giao phó công việc còn lại, lựa chọn khắp trong cung mà không có ai đủ khả năng vâng nhận công việc. Chỉ có một người nữ tuổi nhỏ đang trinh thuần thận mật hợp nghi đã thân gần lại hiền không ai vượt hơn, vua nước Ma Yết Đà gọi lại và bảo rằng: "Tôi muốn đi xa, sắp có công việc cần giao phó, ngươi nên dốc lòng thận trọng với công việc. Đại tiên Uất Đầu Lam kia là bậc đáng tôn kính, theo đúng thời gian đến thọ thực, ngươi phải như ta mà kính dâng". Răn bảo rồi, vua bèn tuần du. Thiếu nữ ấy vâng thừa Thánh chỉ, chăm hầu đúng như nghi tắc. Đại tiên đến nơi thì bưng dâng đặt tòa. Uất Đầu Lam Tử đã xúc chạm người nữ, khởi nhiễm dục giới, lùi mất thần thông. Thọ trai xong, nói trở về mà không thể vượt giữa hư không, trong tâm xấu hỗ, dối bảo cùng thiếu nữ ấy rằng: "Tôi tu đạo nghiệp như vậy, nhập định vui vẻ tâm thần, nhảy vượt giữa hư không qua lại lược không nhàm cảnh. Dân chúng nước nhà nguyện muốn trông thấy, tôi nghe vậy đã lâu, nhưng trước thấu đạt giũ bày dạy răn, lấy việc lợi vật làm chính. Đâu phải chỉ giữ tốt lành riêng mình mà quên sự lợi tế khắp cùng. Nay muốn từ cửa đây mà ra giẫm bước giữa đất mà đi, khiến những người trông thấy đều được phước lợi". Thiếu nữ ấy nghe vậy rồi bèn tuyên cáo gần xa. Khi ấy mọi người vội đua nhau quét tước, dọn dẹp đường sá, có cả trăm ngàn vạn người đứng đợi trông ngóng lai nghi. Uất Đầu Lam Tử đi bộ từ vương cung về đến rừng pháp đó, an tọa nhập định, tâm vội rong theo ngoại cảnh, nương náu nơi rừng thì chim chóc réo rít, đến gần cạnh bờ ao thì cá, ba ba, v.v... quẫy động phát tiếng, ý tan tâm loạn, mất thần, bỏ phế tập định, mới sinh khởi phẫn hận, liền phát ác nguyện: "Nguyện tôi trong đời sau sẽ làm thân thú dữ chồn ly, làm thân chim vỗ cánh bắt ăn sinh loại, thân lớn rộng 3000 dặm, hai cánh; mỗi cánh rộng 1500 dặm đến nơi rừng thì bắt ăn các loài chim muôn, vào sông nước thì vớt bắt ăn loài thủy tộc". Phát nguyện ấy rồi tâm tức giận dần lắng dứt. Cần cầu chỉ khoảnh khắc trở lại được với cảnh thiền định xưa cũ. Sau đó không bao lâu bèn mạng chung thác sinh lên cõi trời Đệ nhất hữu, tuổi thọ sống đến tám vạn kiếp. Đức Như Lai dự ghi về Uất Đầu Lam Tử khi thọ mạng ở cõi trời đã hết sẽ phải nhận chịu quả báo bởi phát nguyện xưa trước nhận làm thân xấu tệ, từ đó lưu chuyển trong đường ác chưa có thời kỳ ra khỏi.

Từ sông Mạt Ha về phía đông vào trong rừng hoang lớn, đi hơn trăm dặm đến núi Quật Quật Tra Bá Đà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là núi Kê Túc), cũng còn gọi là núi Lũ Lô Bá Đà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tôn Túc) cao vút nhọn hoắc, vực thẳm sâu rỗng không bờ, sườn núi lắm khe hang, rừng cao nhiều cốc, ven núi nhỏ chấn như bình phong nhiều cỏ phủ kín hang, trót vót nỗi cao ba ngọn tột cùng, khí gần tiếp liền chân trời, hình đồng tợ mây. Sau đó, tôn giả Đại Ca Diếp Ba ở bên trong tịch diệt không dám chỉ lời, nên xưng là gọi là "Tôn Túc". Tôn giả Ma-ha Ca Diếp Ba là đệ tử thanh văn của đức Như Lai, đã chứng đắc sáu pháp thần thông, có đủ tám pháp giải thoát. Khi đức Như Lai do duyên giáo hóa đã hoàn tất, sắp nhập Niết bàn, bèn bảo cùng Đại Ca Diếp Ba rằng: "Ta trải qua nhiều kiếp chuyên cần tu khổ hạnh, vì các chúng sinh mà cầu pháp vô thượng, mong cầu xưa trước, nay đã quả mãn. Nay ta sắp muốn nhập Đại niết bàn, đem tất cả pháp tạng giao phó cho ông. Ông khéo nên gìn giữ tuyên truyền lưu bố chỗ để lạc mất. Và đem pháp y ca sa thêu dệt bằng vàng của Di mẫu hiến cúng giao cho ông, đợi đến lúc đức Từ Thị thành Phật, ông nên lưu truyền giao phó lại. Đối với những người tu hành trong Di pháp của ta như các Bí Sô, Bí Sô Ni, Ổ Ba Sách Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Cận Sự Nam. Xưa trước gọi là Y bổ tắc, còn gọi là Ưu ba tắc, hay Ưu bà tắc đều là sai nhầm vậy) đều nên trước cứu độ họ khiến được lìa khỏi lưu chuyển". Tôn giả Đại Ca Diếp Ba vâng thừa sự chỉ giáo mà trú trì chánh pháp, sau khi kết tập kinh điển đã xong đến năm thứ 20, nhàm chán thế sự vô thường, sắp nhập tịch diệt sang núi kê túc, từ dưới tàn núi mà lên cuộn quanh lấy đường đến sườn núi phía tây nam, đỉnh núi hiểm trở, bờ đường cuộn quanh, tôn giả bèn dùng tích trượng gõ rạch vào như cắt, đường núi tự mở, tôn giả bèn men đường mà đi, quanh co khúc chiết xoay trở đâm thông, lên đến đảnh núi, xoay đưa mặt ra phía đông bắc. Khi đã vào trong ba ngọn núi, tôn giả Đại Ca Diếp Ba bưng pháp y của đức Phật trao mà đứng, do sức nguyện lực nên ba ngọn núi khép đậy kín lại. Nên đến nay ba ngọn núi ấy nổi cao lên. Trong tương lai lúc đức Thế Tôn Từ Thị xuất hiện nơi đời, sau ba hội giảng nói pháp. Còn lại có Vô lượng chúng sinh kiêu mạn dẫn nhau lên núi đó đến chỗ tôn giả Đại Ca Diếp Ba. Đức Từ Thị khảy móng tay, đảnh núi tự mở ra, các chúng sinh ấy đã thấy được tôn giả Đại Ca Diếp Ba lại càng thêm tâm kiêu mạn. Khi đó tôn giả Đại Ca Diếp Ba trao pháp y cho đức Từ Thị, đặt từ kính lễ, xong rồi cử thân bay vượt giữa không trung, hiện bày các thứ thần biến, hóa lửa tự thiêu thân bèn nhập tịch diệt. Khi ấy mọi người chiêm ngưỡng mà tâm kiêu mạn tự dứt trừ, nhân đó cảm ngộ đều chứng Thánh quả. Nên nay trên đảnh núi ấy có tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba, giữa đêm tĩnh lắng đứng từ xa trông nhìn hoặc thấy có đuốc, nhưng leo lên núi, không còn trông thấy gì cả. Từ núi Kê Túc theo hướng đông bắc đi hơn trăm dặm, đến núi Phật Đà Phạt Na, đảnh sườn cao vót hiểm hóc, giữa khoảng hang rỗng có thạch thất, đức Phật xưa kia từng giáng hiện dừng nghỉ, bên cạnh có tảng đá, là nơi trời Đế Thích và Phạm Vương mài gỗ ngưu đầu chiên đàn bôi thoa nghiêm sức tôn tượng đức Như Lai, mãi đến nay trên tảng đá ấy vẫn còn hương thơm phảng phất. Có 500 vị A-la-hán thường ngầm linh tại đó. Những người có cảm ngộ có lúc được trông thấy, có lúc hoặc hiện hình sa di vào trong thôn ấp khất thực, vết tích ẩn hiện linh kỳ. Đẹp tốt khó thể nêu thuật.

Từ núi Phật Đà Phạt Na vào trong hang cốc rỗng theo hướng đông bắc đi hơn 30 dặm đến rừng Tiết Sắc Tri, đó là rừng trúc, cành dài phủ núi cùng hang. Xưa kia có vị Bà-la-môn nghe nói đức Phật Thích-ca thân cao trượng sáu, thường ôm hoài nghi hoặc, chưa đủ kính tín, mới dùng chiếc gậy trúc cao trượng sáu muốn lường đo thân đức Phật, thường đặt chiếc gậy đứng thẳng vượt quá trượng sáu, cứ như vậy tăng cao mà chẳng thể thấu cùng thật, bèn ném gậy mà đi, chiếc gậy ấy đâm rễ bốn phía trở thành rừng trúc. Bên trong có ngôi Tốt-đổba lớn do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó bảy ngày vì các hàng trời người hiện sức thần thông lớn, giảng nói giáo pháp thâm diệu.

Gần trong rừng gậy trúc, có Ổ Ba Sách Ca Xà Da Tê Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thắng Quân) vốn chủng tộc Sát Đế Lợi ở Tây Ấn Độ, chí khí mến chuộng thường nhàn, tâm tình vui thích ở rừng núi, hình tích tuy tại cảnh huyễn mà tâm vân du giữa khoảng chân tế, đối với sách vở trong ngoài đều nghiên cứu hết sâu mầu, từ luận trong cao, nghi phạm nhàn nhã. Các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, dị học, Quốc vương, đại thần, trưởng giả, hào tộc đều cùng nhau tìm đến bái yết thỉnh cầu tầm học điều lợi ích. Các hàng môn nhân đến thọ học trong mười nhà có hết sáu. Đến lúc gần 70 tuổi, đam mê đọc tụng không nhàm mỏi, các tài nghề khác đều vất bỏ chỉ lưu tâm tập học kinh Phật, khuyên gắng tâm thân, chẳng xả bỏ đêm ngày. Ở Ấn Độ có pháp dùng mạt hương làm bùn bột, Thắng Quân bèn dùng đắp nắn Tốt-đổ-ba nhỏ cao khoảng 5-6 tấc, ghi tả kinh văn đặt vào trong đó, và gọi đó là pháp xá lợi. Số lượng dần đầy nhiều lại làm ngôi Tốt-đổ-ba lớn, tất cả các Tốt-đổ-ba nhỏ đều nhóm tụ bên trong đó, thường tu cúng dường. Nên hạnh nghiệp của Thắng Quân là miệng thì tuyên nói diệu pháp dẫn dụ người học, tay thì làm Tốt-đổ-ba, kính sùng thắng phước, ban đêm lại kinh hành lễ tụng tĩnh tọa tư duy, ăn ngủ chẳng thư nhàn, ngày đêm không biếng trễ. Mãi đến lúc tuổi ngoài 100 mà chí nghiệp vẫn chẳng suy yếu. Suốt thời gian 30 năm làm được 7 câu chi (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi bằng một ức) Tốt-đổ-ba pháp xá lợi, thường đủ một câu chi là làm một ngôi Tốt-đổ-ba lớn mà thiết đặt tất cả vào trong kính tu cúng dường, cầu thỉnh chúng tăng cùng dự pháp hội, tán thán vui mừng. Khi ấy có lúc ánh sáng thần tỏa chiếu, những điềm linh dị hiển bày rõ ràng. Từ đó mãi về sau, thường luôn tỏa phóng ánh sáng.

Từ rừng gậy trúc về phía tây nam cách hơn 10 dặm, đến phía nam núi lớn có hai dòng suối ấm nóng, nước đó rất nóng. Xưa kia đức Như Lai còn tại thế hóa ra dòng suối đó để vào tắm rửa, ngày nay vẫn hiện còn, dòng nước trong sạch vẫn không giảm bớt, mọi người xa gần đều đến tắm rửa, những người cảm mắc các bệnh trầm kha nay nổi sởi phần nhiều đều được lành hẳn. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi xưa kia đức Phật thường kinh hành.

Từ rừng gậy trúc về phía đông nam đi khoảng 6-7 dặm đến núi lớn, phía trước đảnh chắn ngang có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá, là nơi xưa kia đức Phật ở tại đó ba tháng vì các hàng trời người mà giảng nói pháp. Bấy giờ vua Tần Tỳ Sa La muốn đến nghe pháp, mới mở núi chất đá làm thềm cấp để đi lên rộng hơn 20 bộ, dài khoảng 3-4 dặm.

Từ núi lớn về phía bắc cách khoảng 3-4 dặm có một quả núi đơn lẻ, là nơi xưa kia tiên nhân Quảng Bác nương náu đến ở đó đục sườn núi làm thất, địa chỉ đến nay vẫn hiện còn, truyền dạy cho môn nhân đệ tử, di phong vẫn còn. Từ núi đơn lẻ ấy về phía đông bắc cách khoảng 4-5 dặm lại có một núi đơn lẻ nhỏ hơn, vách núi có thạch thất thoáng rộng có thể dung chứa ngồi hơn ngàn người. Xưa kia, đức Như Lai ở tại đó ba tháng giảng nói pháp. Phía trên thạch thất lại có tảng đá lớn, các trời Đế Thích, Phạm Vương ở đó mài bột gỗ chiên đàn ngưu đầu bôi thoa nghiêm sức thân Phật, đến nay trên tảng đá vẫn còn mùi thơm phảng phất.

Từ thạch thất ấy về góc tây nam có một hang núi. Ở Ấn Độ gọi đó là cung A Tố Lạc (xưa trước gọi là A tu la, còn gọi là A tu luân hay A tô la, đều là sai nhầm. Xưa trước có người việc tốt rất thông rành về chú thuật, đoái hoài bảo cùng đồng bạn gồm 14 người ước giao ký kết đồng chí ý vào trong hang núi đó. Đi khoảng 30-40 dặm, bỗng nhiên rỗng rang sáng tỏ, mới thấy thành ấp đài quán đều bằng vàng bạc, lưu ly. Người ấy đến rồi có các thiếu nữ đứng đợi chờ bên cạnh cửa, vui mừng đón tiếp rất là lễ ngộ. Khi ấy dần đi thẳng vào bên trong. Cửa thành có hai người hầu, mỗi bên đều bưng mâm vàng đựng đầy hoa hương mà lại nghinh hầu, nói cùng mọi người là: "Nên đến nơi ao tắm rửa, bôi thoa hương hoa rồi sau mới có thể vào, trên đó rất tốt đẹp, chỉ thuật sĩ kia nên tức thời vào nhanh". Còn lại 13 người bèn liền đi tắm rửa. Khi đã vào trong ao, hoảng hốt như có quên, mới ngồi trong đồng ruộng lúc. Cách đó về phía bắc bên trong dòng sông bằng phẳng đã khoảng 30-40 dặm.

Bên cạnh thạch thất có một cầu treo rộng hơn

10 bộ, dài khoảng 4-5 dặm. Xưa kia vua Tần Tỳ Sa La sắp sang chỗ đức Phật mới chẻ đá thông hang mở sườn núi lấp sông, hoặc sắp chất đá hoặc đục hang làm thành tầng cấp để đến nơi chỗ đức Phật. Từ đó theo trong núi lớn về phía đông đi khoảng 60 dặm đến thành Củ Xa Yết La Bổ La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là cung thành Thượng Mao). Cung thành Thượng Mao ở ngay trung tâm nước Ma Yết Đà, là nơi các bậc Quân Vương xưa trước đóng đô, nơi sinh sản rất nhiều cỏ mao. Núi cao quanh bốn phía lấy làm vòng quách bên ngoài, phía tây thông với đường hẹp, phía bắc mở thoáng cửa núi. Từ đông sang tây dài, từ nam sang bắc hẹp, chu vi rộng hơn 150 dặm, nền móng hiện còn cửa thành bên trong chu vi rộng khoảng hơn 30 dặm, cây Yết Ni Ca trồng khắp các lối đi, hoa ngậm hương thơm đặc thù, sắc màu khi chín vàng ròng, đến tháng cuối xuân (tháng ba) cả rừng đều sắc màu vàng ròng.

Ngoài cửa thành phía bắc cung thành có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi Đề Bà Đạt Đa cùng vua Vị sinh oán cùng là bạn thân mới phóng túng tài của cho voi uống rượu say, muốn hại đức Như Lai. Đức Như Lai duỗi thẳng ngón tay sinh xuất năm con sư tử. Voi say khi ấy bèn chịu thuần phục mà đến.

Từ nơi voi say thuần phục về phía đông bắc có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi tôn giả Xá Lợi Tử nghe Bí Sô A Thấp Bà Thị (tiếng Trung Hoa thời Tiền

Đường gọi là Mã Thắng) giảng nói pháp mà được chứng quả. Mới đầu, lúc còn ở tại gia, tôn giả Xá Lợi Tử là người tài cao nhã lượng rất được kính trọng ở đương thời. Môn nhân học trò đông nhiều, hiện đang truyền pháp thọ học. Khi ấy Xá Lợi Tử sắp vào thành Vương Xá lớn, Bí Sô Mã Thắng cũng vừa đi khất thực, từ xa trông thấy Bí sô Mã Thắng, Xá Lợi Tử bảo cùng học trò rằng: "Người đang đi lại kia rất là tường tự, nếu chẳng chứng đắc Thánh quả thì đâu có điều hòa tĩnh lắng như thế. Chúng ta nên đứng dừng thời gian ngắm trông nhìn người ấy đi đến". Bí Sô Mã Thắng đã chứng quả A-la-hán, tâm được tự tại, dung nghi cử chỉ hòa nhã, chống tích trượng đi lại. Xá Lợi Tử thưa hỏi rằng: "Trưởng lão khéo được an lạc ư? Thầy của người là ai? Đã tu chứng pháp gì mà duyệt dự như thế?". Bí Sô Mã Thắng bảo rằng: "Ông không biết ư? Thái tử con vua Tịnh Phạn xả bỏ ngôi vua Chuyển Luân, xót thương các loài chúng sinh, mà tu khổ hạnh sáu năm, chứng đắc đạo quả Tam Bồđề, đầy đủ nhất thiết trí, đó là thầy của tôi. Còn về nói đến pháp tức chẳng phải "có" chẳng phải "không". Khó thể thuyên giải nổi, chỉ có Phật với Phật mới đủ khả năng thuật bày rốt ráo, đâu phải điều mà hạng ngu muội ấy có thể bàn nghị được". Nhân đó, Bí Sô Mã Thắng vì đọc tụng giảng nói xưng tán Phật pháp. Xá Lợi Tử nghe xong, bèn được chứng quả.

Từ nơi tôn giả Xá Lợi Tử chứng quả đi về phía bắc cách không xa, có một các hầm hố sâu lớn, bên cạnh đó có tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi Thất Lợi Cúc Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thắng Mật) dùng hầm lửa và cơm độc muốn hại đức Phật. Thắng Mật là người rất kính tin ngoại đạo đắm trước tà kiến sâu nặng. Các Phạm chí bảo rằng: "Kiều Đáp Ma rất được mọi người trong nước nhà tôn kính bèn khiến chúng ta không còn có nơi cậy nhờ. Nay ông có thể nên thỉnh mời đến nhà thiết bày phạn hội. Nơi cửa đào một hầm hố lớn, bên trong chất đầy than lửa, dùng cây gỗ mục gác ngang và phủ kín bằng đất khô ráo, còn các thức ăn uống đều pha trộn thuốc độc, nếu thoát khỏi hầm lửa thì cũng trúng phải thức ăn độc". Thắng Mật vâng theo lời chỉ bảo đó bèn thiết bày độc hội mà thỉnh mời đức Phật đến dự. Mọi người trong thành đều biết Thắng Mật có tâm ác hại đối với đức Thế Tôn nên đều khuyên thỉnh Phật chớ đến. Đức Thế Tôn bảo rằng: "Chớ nên phải lo buồn, thân Như Lai, mọi vật không thể làm hại". Và đức Phật nhận lời thỉnh mời mà đến, chân giẫm bước đến ngạch cửa, hầm lửa biến thành ao, nước lắng trong sạch như gương soi, hoa sen mọc nở lan tràn. Thắng Mật thấy thế lo sợ, không thể bày biện, nói với mọi người đồng bọn rằng: "dùng pháp thuật thoát khỏi nạn lửa, vẫn còn có thức ăn độc". Đức Thế Tôn ăn cơm xong, lại vì giảng nói diệu pháp.

Thắng Mật nghe xong, sám tạ lỗi quá mà quy y.

Từ nơi hầm lửa nhà Thắng Mật đi về phía đông bắc nơi khúc cong thành núi có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi Đại Y Phược Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Kỳ Bà, tức sai nhầm vậy) đến đó vì đức Phật mà xây dựng giảng đường thuyết pháp. Chung quanh tường thành lắm nhiều hoa quả, nền móng gốc chồi hiện còn dấu vết. Xưa kia, lúc còn tại thế, đức Như Lai phần nhiều thường ở trong đó. Bên cạnh đó lại có vườn nhà xưa cũ của Phược La. Nền móng vách tường miệng giếng sụp đổ vẫn hiện còn. Từ cung thành theo hướng đông bắc đi khoảng 14-15 dặm đến núi Cô Lật Đà La Củ Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thứu Phong còn gọi là Thứu Đài, xưa trước gọi là núi Kỳ Đà Quật tức sai nhầm vậy). Tiếp liền phía nam của Bắc Sơn, riêng cao tít đặc biệt nổi trội, đã nói chim thứu nương ở lại thuộc loại đài cao, giữa khoảng không xanh biếc, đậm nhạt phân sắc. Suốt 50 năm đức Như Lai giảng đạo hành hóa trong đời, phần nhiều ở tại núi đó rộng giảng nói diệu pháp. Vua Tần Tỳ Sa La vì nghe pháp nên phát động mọi người từ sườn núi lên đến đảnh cao, đạp cốc vượt hang sắp chất đá làm thềm cấp, rộng hơn 10 bộ, dài khoảng 5-6 dặm, giữa đường có hai ngôi Tốt-đổba nhỏ; một gọi là "Hạ Thùy" tức vua đến đó thì chỉ đi không mà đến nơi Phật; và một gọi là "Thối Phàm", tức chọn lựa những kẻ phàm nhân không cho đồng đi. Trên đảnh núi đó thì từ đông sang tây dài, từ nam sang bắc hẹp. Gần sườn núi phía tây có ngôi tinh xá xây dựng bằng gạch cao rộng chế tác rất kỳ đặc, cửa mở xoay về mặt về phía đông, là nơi xưa kia đức Như Lai phần nhiều thường ở tại đó giảng nói pháp, nay có tôn tượng đức Phật thuyết pháp hình lượng đồng như thân đức Như Lai vậy.

Từ tinh xá đó về phía đông có một dãy đá dài, là nơi xưa kia đức Như Lai kinh hành giẫm bước trên đó. Bên cạnh đó có tảng đá lớn cao một trượng 4-5 thước, chu vi rộng hơn 30 bộ, là nơi xưa kia Đề Bà Đạt Đa từ xa ném đánh đức Phật. Từ đó về phía nam dưới sườn núi có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi xưa kia đức Phật ở tại đó giảng nói kinh Pháp Hoa. Từ tinh xá về bên cạnh sườn núi phía nam có một thạch thất lớn là nơi xưa kia đức Như Lai nhập định tại đó.

Từ nơi thạch thất đức Phật nhập định về phía tây bắc lại có một thạch thất, phía trước có một tảng đá lớn là nơi tôn giả A-nan bị Ma khủng bố. Tôn giả A-nan nhập định tại đó, ma vương hóa làm chim thứu, quá nữa đêm không trăng đến đậu nơi thạch thất vỗ cánh kêu réo khủng bố tôn giả. Khi ấy tôn giả A-nan kinh sợ chẳng biết làm sao, đức Như Lai quán sát thấy vậy bèn duỗi tay sang ủy an, đưa tay thông qua vách đá thoa sờ đảnh đầu tôn giả A-nan, dừng lời nói đại từ mà bảo rằng: "Đó là do

Ma biến hóa ra, chớ nên phải kinh sợ". Tôn giả Anan được ủy an nên thân tâm an lạc. Phía trên tảng đó hiện còn dấu chân chim, và trong sườn núi có lỗ hang thông tuy đã thời gian lâu dài mà vẫn hiện còn.

Bên cạnh tinh xá đó có vài ngôi thạch thất là nơi các Đại A-la-hán Xá Lợi Tử, v.v... nhập định ở đó. Phía trước thạch thất Xá Lợi Tử có một cái giếng lớn khô cạn không có nước miệng thành vẫn hiện còn.

Từ tinh xá đó về phía đông bắc trong khu đá có tảng đá lớn, là nơi xưa kia đức Như Lai hong phơi pháp y ca sa, đường văn pháp y hiện bày rõ ràng như khắc chạm, bên cạnh đó phía trên tảng đá có dấu vết cẳng chân của đức Phật, đường văn luân tướng tuy mờ tối nhưng vẫn có thể phỏng sờ xem xét. Trên đảnh núi phía bắc có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai đứng trông nhìn về thành Ma-kiệt-đà và ở tại đó bảy ngày giảng nói pháp.

Từ cửa phía bắc thành núi về phía tây có núi Tỳ Bổ La, nghe các hàng sĩ tục nói là ngầm dưới sườn núi phía tây nam xưa kia có 500 dòng suối ấm nóng, hiện nay chỉ còn có vài mươi dòng mà thôi, nhưng còn có lạnh có nóng, chưa hết nóng ấm. Nguồn suối ấy phát xuất từ ao Vô Nhiệt Não tại phía bắc núi tuyết, dòng phân chẻ thành 500 cành ngang qua địa ngục tiểu nhiệt, lửa nóng nung đốt lên, đến đó biến thành ấm nóng, nơi cửa miệng dòng suối đều có khắc chạm đá làm tượng đầu sư tử, voi trắng, hoặc làm ống đá treo đường dòng nước, phía dưới mới sắp chất đá làm ao. Mọi người ở các phương vức xa khác đều đến đó tắm rửa, người tắm rửa nơi suối đó các thứ bệnh tật xưa trước đều lành hẳn. Hai bên dòng suối ấm nóng ấy có các ngôi Tốt-đổ-ba và tinh xá, nền móng sắp liền kề nhau, và là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Xứ ấy đã là nơi núi sông liền nhau, là nơi các bậc nhân trí thường ở, các kẻ sĩ ẩn lánh đời thường cũng rất lắm nhiều.

Từ dòng suối ấm nóng về phía tây có thạch thất Tất Bát La, là nơi xưa kia đức Thế Tôn thường ở trong đó, phía sau vách tường hang rỗng là nơi cung A Tố Lạc. Các vị Bí Sô hành tập thiền định phần nhiều ở tại thất đó. Có lúc phát ra các thứ quái lạ như hình rồng, rắn, sư tử. Có người trông thấy đó, tâm phát cuồng loạn. Những nơi thắng địa, chỗ dừng ở của Linh Thánh, mọi người dẫm vết nối gót khâm chuộng mỹ phong, quên cả mọi tai họa ấy. Gần đây có vị Bí Sô giới hạnh tinh khiết, tâm chí ưa thích ở chốn u tịnh, muốn đến nơi thất đó ẩn vết hành tập thiền định. Có người can gián rằng: "Chớ nên sang nơi đó, nơi đó có lắm sự tai dị làm hại không ít. Đã khó giữ pháp định mà cũng còn sợ tan mất thân mạng. Nên soi xét việc trước, chớ để về sau phải hối hận". Vị Bí Sô ấy bảo rằng: "Không thể như vậy. Chí ý tôi muốn mong cầu Phật quả, nhiếp phục thiên ma, những tai hại như vậy đâu có gì đáng phải nói". Bèn chống tích mà sang thất đó. Đến đó thiết lập đàn tràng, đọc tụng cấm chú. Sau hơn 10 ngày từ trong hang có một thiếu nữ xuất hiện ra nói cùng vị Bí Sô đó rằng: "Tôn giả là người đắp mặc nhiễm y, hành trì giới pháp, làm nơi nương tựa của các loài hàm sinh, tu tuệ tập định, làm người dẫn đường tốt lành cho sinh linh, mà nay lại ở đây làm cho chúng tôi phải kinh sợ. giáo pháp của đức Như Lai đâu chỉ dạy như vậy ư?". Vị Bí Sô đó bảo: "Ta giữ gìn tịnh giới tuân theo Thánh giáo, ẩn vết nơi chốn núi hang xa lìa huyên tạp. Bỗng nhiên bị gièm pha như vậy, lỗi đó tại đây?". Thiếu nữ ấy đáp: "Tôn giả tụng chú tiếng phát ra lửa tử ngoài vào thiêu đốt phòng nhà ở của chúng tôi làm khổ chi thuộc chúng tôi. Xin nguyện tôn giả giũ lòng từ bi chớ nên tụng chú nữa!". Vị Bí Sô đó bảo: "Tụng chú là để tự bảo hộ chính mình đâu phải muốn hại mọi vật. Xưa trước các hành giả đến ở nơi đây tu tập thiền định mong thành đạt Thánh quả để cứu độ chúng sinh nơi chốn tối tăm, trông thấy những sự quái lạ kinh sợ đến nỗi táng mất thân mạng. Tội ấy do ngươi gieo rắt. Như thế nói sao ư?". Thiếu nữ ấy đáp: "Tội chướng đã nặng nề, trí tuệ quá mỏng cạn, trí tuệ quá mỏng cạn, từ nay trở về sau tôi xin sống yên lặng tự giữ phận mình và cũng xin tôn giả chớ nên trì tụng thần chú". Vị Bí Sô ấy từ đó tập tu thiền định như mới đầu an tĩnh không hại.

Trên núi Tỳ Bố La có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Như Lai ở tại đó giảng nói pháp. Nay có các lõa hình ngoại đạo nương ở nơi đó lắm nhiều, tu tập khổ hạnh, sớm tối chẳng biếng lười. Từ sáng sớm cho đến chiều tối xoay chuyển quán sát. Bên tả cửa phía bắc thành núi, dưới sườn núi phía nam theo hướng đông đi khoảng 2-3 dặm đến một thạch thất lớn, là nơi xưa kia Đề Bà Đạt Ma nhập định tại đó.

Từ thạch thất về phía đông cách không xa, trên một tảng đá có hình thái lan lỗ tướng trạng như vướng máu. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi vị Bí Sô tu tập thiền định tự hại thân mình mà chứng quả. Xưa kia có vị Bí Sô chuyên cần dốc cả thân tâm ở nơi tĩnh lắng tu tập thiền định trải qua năm tháng lâu dài mà không chứng đắc Thánh quả, bèn thối lui tự trách, lại than rằng: "Quả vị vô học trọn không bao giờ chứng đắc, phiền lụy xác thân, sống không chẳng ích gì". Bèn đến nơi tảng đá đó tự đâm vào cổ mình, khi ấy liền chứng quả A-lahán, cử thân bay lên giữa hư không, bày hiện các thứ thần biến, hóa lửa tự thiêu thân mà nhập tịch diệt. Người sau tán thán tiết tháo cao nhã ấy nên dựng tạo Tốt-đổ-ba để ghi nêu công danh.

Từ nơi vị Bí Sô chứng quả ấy về phía đông trên sườn núi đá có một ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá, là nơi vị Bí Sô tu tập thiền định tự ném thân mình xuống sườn núi mà chứng quả. Xưa kia, lúc đức Như Lai đang còn tại thế có một vị Bí Sô an tọa nơi núi rừng tu tập mong chứng quả định, tinh cần đã lâu mà chứng quả, ngày đêm buột niệm không quên tĩnh định. Đức Như Lai nhận biết căn cơ vị ấy sắp phát, bèn sang đó mà khiến thành đạt, nên từ vườn trúc lâm đến dưới sườn núi khảy móng tay mà gọi đứng đợi tiếp đón. Vị Bí Sô ấy từ xa trông thấy Thánh chúng, thân ý vui mừng ném buông thân mình xuống sườn núi, còn giữ tâm thanh tịnh kính tin lời Phật, chưa đến nơi đất bèn đã chứng đắc Thánh quả. Đức Thế Tôn bảo rằng: "Nên biết ngay thời gian ấy". Vị Bí Sô đó liền bay giữa không trung hiện bày các thứ thần biến. Người sau vì để nêu rõ tâm tịnh tín nên dựng tạo Tốt-đổ-ba ghi nhớ đó.

Từ cửa phía bắc thành núi đi hơn một dặm đến vườn trúc Ca Lan Đà, hiện nay còn có tinh xá, nền móng đá phòng thất bằng gạch cửa mở xoay về hướng đông. Xưa kia đức Như Lai tại thế, phần nhiều thường thường ở trong đó giảng nói giáo pháp nhiếp hóa các hàng phàm tục, hiện nay có tạo tôn tượng đức Như Lai ở tại đó. Mới đầu trong thành đó có vị đại trưởng giả tên là Ca Lan Đà người thời bấy giờ thường xưng gọi ông là giàu sang. Ông đem vườn trúc lớn cúng thí cho ngoại đạo. Đến lúc thấy gặp đức Như Lai, được nghe giáo pháp, tâm thanh tịnh phát sinh kính tin, ông bèn đuổi các hàng dị chúng ở nơi vườn trúc xưa trước với cớ là hiện nay bậc thầy của cả trời người không có nơi quán xá dừng ở. Khi ấy các hàng quỷ thần cảm sự tâm thành của ông bèn hỗ trợ xua đuổi các ngoại đạo mà bảo rằng: "Trưởng giả Ca Lan Đà sắp lấy vườn trúc xây dựng tinh xá cúng Phật. Các ngươi nên đi mau đi khỏi để được thoát khỏi nguy ách". Các ngoại đạo tức giận ngậm oán mà đi. Trưởng giả đến đó xây dựng tinh xá, đến lúc công việc hoàn tất, đích thân trưởng giả đến thỉnh mời đức Phật. Đức Thế Tôn khi ấy bèn nhận sự cúng dâng đó".

Từ vườn trúc Ca Lan Đà về phía đông có ngôi Tốt-đổ-ba do vua A Xà Đà Thiết Đốt Lộ (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vị Sinh Oán, xưa trước gọi là A Xà Thế tức lược gọi sai nhầm vậy) tạo dựng. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn, các vua cùng nhau phân chia xá lợi, vua Vị Sinh Oán được chia một phần thỉnh đưa về, kính tuân tạo dựng Tốt-đổ-ba đó tôn trí cúng dường. Về sau, khi vua Vô Ưu phát khởi tín tâm khai mở lấy xá lợi tạo dựng các ngôi Tốt-đổ-ba để cúng dường, do còn sót lại nên có lúc tỏa phóng ánh sáng.

Bên cạnh ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vị Sinh Oán tạo dựng, lại có một ngôi Tốt-đổ-ba có xá lợi nửa thân phần của tôn giả A-nan. Xưa kia, lúc sắp nhập niết bàn, tôn giả A-nan từ nước Ma Yết Đà đến thành Phệ Xá Ly, khi ấy hai nước giao tranh nhau muốn dấy khởi binh lính, tôn giả A-nan xót thương lo ngại có sự tổn hại, bèn tự phân thân mình, vua nước Ma Yết Đà nghinh thỉnh đưa về để cúng dường, bèn đến nơi thắng địa đó, kính tu tạo dựng Tốt-đổ-ba để tôn trí xá lợi của tôn giả mà cúng dường. Bên cạnh đó có nơi xưa kia đức Như Lai từng đi kinh hành. Cách đó không xa lại có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi các tôn giả Xá Lợi Tử, Một Đặc Già La Tử, v.v... ở giữ.

Từ vườn rừng trúc theo hướng tây nam đi khoảng 5-6 dặm, đến phía nam của Nam Sơn trong rừng trúc lớn có ngôi thạch thất lớn, là nơi tôn giả Ma-ha Ca Diếp Ba cùng với 999 vị Đại A-la-hán ở tại đó kết tập tam tạng, sau khi đức Thế Tôn nhập Niết bàn ba tháng. Phía trước có nền móng cũ, do vua Vị Sinh Oán vì các Đại A-la-hán kết tập pháp tạng mà tạo dựng giảng đường phòng nhà đó. Mới đầu tôn giả Đại Ca Diếp Ba an tọa trong núi rừng, bỗng thấy ánh sáng tỏa phóng, lại thấy quả đất chấn động; tôn giả tự nghĩ "có điềm tốt lành gì mà biến hiện khác lạ như vậy?". Lại dùng thiên nhãn quán sát thấy đức Phật Thế Tôn đã nhập niết bàn tại rừng Sa La Sang Thọ, liền bảo đồ chúng nhanh cùng đi đến thành Câu Thi, giữa đường gặp một vị Phạm Chí trên tay nắm cành hoa trời, tôn giả Đại Ca Diếp Ba hỏi rằng: "Ông từ đâu lại? Có biết Đại sư của tôi hiện nay ở đâu chăng?". Vị phạm chí ấy đáp rằng: "Tôi vừa từ thành Câu Thi lại đây, thấy đại sư của ông đã nhập niết bàn.

Các hàng trời người đại chúng cùng nhau cúng dường. Cành hoa tôi nắm đây là nhặt từ đó vậy". Tôn giả Đại Ca Diếp Ba nghe thế rồi bảo cùng đồ chúng rằng: "Tuệ nhật đã lắng ngầm hết tỏa chiếu, thế giới mờ tối. Bậc thầy khéo dẫn dắt bỏ đi xa, chúng sinh điên đảo loạn lạc!". Khi đó các Bí Sô biếng lười cùng mừng vui nói với nhau rằng: "Đức Như Lai đã tịch diệt, chúng ta được an lạc, như có điều trái phạm cũng không ai quở trách cấm chế". Tôn giả Đại Ca Diếp Ba nghe thế lại càng thêm cảm thương, nghĩ muốn kết tập pháp tạng y cứ luật giáo để sửa trị trái phạm. Bèn đến nơi Sa La Song Thọ chiêm ngưỡng kính lễ đức Phật. Đấng pháp vương đã xa bỏ cõi đời, các hàng trời người không ai dắt dẫn, những vị Đại A-la-hán cũng lần lượt thị tịch, khi ấy tôn giả Đại Ca Diếp Ba khởi lên suy niệm là "thuận theo lời Phật dạy, nên kết tập pháp tạng", và bèn lên núi Tô Mê Lô đánh kiền chùy lớn mà xướng lời rằng: "Nay tại thành Vương Xá sắp có pháp sự. Những ai có chứng đắc Thánh quả, nên gấp rút thời gian nhóm tập". Trong tiếng kiền chùy lan tỏa lời xướng của tôn giả Đại Ca Diếp Ba khắp đến 3000 đại thiên thế giới. Những vị đã chứng đắc thần thông nghe thế đều cùng nhóm tập. Khi ấy tôn giả Đại Ca Diếp Ba bảo các chúng rằng: "Đức Như Lai đã tịch diệt, thế giới trở thành trống không, nên phải kiết tập pháp tạng dùng để báo đáp ân Phật. Nay sắp kết tập pháp tạng việc trước tiên phải tuyển chọn sự thanh tịnh, không thể tin cậy chúng đông mà chẳng thành thắng nghiệp. Những vị đã đủ pháp tam minh, chứng đắc lục thông, nghe nhớ không sai nhầm, biện tài chẳng ngăn ngại. Những vị như thế trở lên mới ứng vào việc kết tập. Ngoài ra các quả vị hữu học mỗi nên tự trở về lại trú xứ của chính mình". Khi ấy có được 999 vị, trừ tôn giả A-nan đang còn ở địa vị hữu học. Tôn giả Đại Ca Diếp Ba bèn gọi A-nan lại và bảo: "Ông chưa hết các lậu, nên ra ngoài Thánh chúng". Tôn giả Anan thưa rằng: "Tôi theo hầu đức Như Lai trải qua nhiều năm tháng mỗi lúc có pháp nghị, tôi chưa từng bỏ sót. Nay sắp kết tập pháp tạng, mà bị xua đuổi, thật là đấng pháp vương đã tịch diệt, tôi không nơi nương tựa!". Tôn giả Đại Ca Diếp Ba bảo rằng: "Chớ ôm hoài ưu não. Ông thân gần hầu Phật thật lại là nghe nhiều, nhưng mà ái hoặc chưa hết, tập kết chưa dứt". Tôn giả A-nan vâng nhận mà lui ra, đến nơi chỗ rỗng rang tỉnh lắng, muốn được thành chánh quả vô học, chuyên tâm cần cầu mà chẳng chứng đắc, đã quá sức nhọc mệt bèn muốn nghiêng lưng nằm ngủ, đầu chưa tới gối bèn chứng đắc quả A-la-hán, liền sang nơi chỗ kết tập gõ cửa thưa xin vào, tôn giả Đại Ca Diếp Ba hỏi rằng: "Các lậu kết ông đã hết ư? Nên vận sức thần thông từ nơi không cửa mà vào". Tôn giả A-nan nghe theo lời bảo ấy, men theo lỗ hổng ổ khóa mà vào, đảnh lễ chúng tăng xong lui vào chỗ ngồi. Khi ấy tăng chúng đã an cư 15 ngày. Khi ấy tôn giả Đại Ca Diếp Ba ngợi khen và đề xướng rằng: "Đại chúng cần nên nghĩ nhớ A-nan là người có khả năng nghe và nhớ được đức Như Lai tán thán, nên kết tập tạng Tố Đát Lãm (xưa trước gọi là Tu Đa-la tức sai nhầm vậy). Ưu Ba Ly là người trì luật nghiên cứu thấu suốt rõ ràng, đại chúng đều đã biết, nên kết tập tạng Tỳ-nại-da (xưa trước gọi là Tỳ Na Da, tức sai nhầm vậy). Còn tôi Ca Diếp Ba kết tập tạng A-tỳ-đạt-ma". Qua vài ba tháng công việc kết tập tam tạng hoàn tất, vì tôn giả Đại Ca Diếp Ba là bậc thượng tọa trong chúng tăng, do vậy mà xưng gọi đó là Thượng Tọa Bộ.

Từ nơi tôn giả Đại Ca Diếp Ba kết tập tam tạng Thánh giáo về phía tây bắc có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi tôn giả A-nan nhận chịu sự la trách của chúng tăng chẳng được dự tham kết tập mà đến đó an tọa tĩnh lắng bèn chứng đắc Thánh quả A-la-hán. Sau khi chứng đắc Thánh quả mới vào dự tham kết tập. Từ nơi tôn giả A-nan chứng đắc Thánh quả theo hướng tây đi hơn 20 dặm có một ngôi Tốt-đổba do vua Vô Ưu tạo dựng, là nơi đại chúng bộ kết tập tam tạng Thánh giáo. Các hàng hữu học và vô học có đến vài trăm ngàn vị chẳng dự trong chúng kết tập Thánh giáo của tôn giả Đại Ca Diếp Ba mà đến nơi đó cùng nói với nhau rằng: "Lúc đức Như Lai đang còn tại thế thì đồng học một thầy, nay đấng pháp vương đã tịch diệt lại kén chọn khác bọn chúng ta! Muốn báo đáp ân đức của Phật, chúng ta phải kết tập pháp tạng". Khi ấy các hàng phàm Thánh đều tụ hội, những bậc hiền trí đồng nhóm tập, lại kết tập tạng Tố Đát Lãm, tạng Tỳ-nại-da, tạng A-tỳ-đạt-ma, tạng Tạp tập và tạng Cấm Chú, riêng làm thành năm tạng. Và cuộc kết tập ấy, phàm Thánh đồng tụ hội, nhân vậy mà gọi đó là Đại chúng bộ.

Từ tinh xá rừng trúc về hướng bắc đi hơn 200 bộ, đến ao Ca Lan Đà, xưa kia đức Như Lai còn tại thế thường hay giảng pháp tại đó. Ao ấy, nước đã trong lắng lại có đủ tám thứ công đức. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn bèn khô cạn không còn.

Từ ao Ca Lan Đà về phía tây bắc đi khoảng 2-3 dặm có một ngôi Tốt-đổ-ba di vua Vô Ưu tạo dựng cao hơn 60 thước, bên cạnh có trụ đá khắc ghi việc dựng tạo ngôi Tốt-đổ-ba đó cao hơn 50 thước, phía trên làm hình tượng con voi.

Từ trụ đá đó về phía đông bắc cách không xa đến thành Hạt La Xà Cô Lợi Hý (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Vương Xá). Khung quách phía ngoài đã hư hoại không còn dấu vết, thành phía trong tuy đã hư hoại nhưng nền móng vẫn còn cao vợi chu vi rộng hơn 20 dặm, mỗi mặt đều có một cửa. Mới đầu, vua Tần Tỳ Sa La đóng đô tại trên cung thành, các ngôi nhà chung quanh thường bị gặp phải tai họa nạn lửa, chỉ một ngôi nhà buông lung không canh phòng thì cả bốn phía lân cận đều mắc phải tai ương. Nên canh phòng nạn lửa còn không rảnh, sản nghiệp phế bỏ, dân chúng thán oán sống không an ổn. Vua nói rằng: "Bởi ta không có đức nên dân chúng mắc lấy tai nạn. Nên tu tạo phước đức gì có thể dùng để cầu đảo đó?". Quần thần tâu rằng: "Đại vương là người có đức cảm hóa khắp Ung mục, chính sách dạy răn rõ ràng xác thực. Nay trong dân chúng sống bất cẩn đến nỗi khiến thường xảy ra hỏa hoạn, nên cấm chế nghiêm khắc để lắng sạch kẻ phạm sau.

Nếu có nạn lửa xảy ra bốc cháy, phải tìm xét trước tiên phát xuất từ đâu, phạt kẻ xấu ác đầu tiên đó dời đưa đến ở nơi rừng lạnh, rừng lạnh là nơi vất bỏ tử thi. Trong thời gian đó gọi là chỗ đất không tốt lành, mọi người dứt tuyệt dấu vết qua lại, mà nay bị dời đưa đến đó tức đồng như tử thi vất bỏ. Kẻ ấy đã xấu hỗ sống nơi xấu xa, sẽ tự cẩn mật". Vua bảo: "Khéo nên tuyên cáo khắp trong dân chúng biết điều đó". Khoảnh khắc sau đó không bao lâu, trong cung vua tự nhiên bị nạn lửa. Vua bảo các quan thần rằng: "Ta nay phải chuyển dời vậy". Mới bảo thái tử lo liệu mọi việc của nước nhà còn lại. Vì muốn trong sạch hiến pháp của nước nhà nên vua dời chỗ ở vậy. Khi ấy vua nước Phệ Xá Ly nghe vua Tần Tỳ Sa La dời đến ở nơi rừng lạnh hoang dã bèn chỉnh trang nhóm tập binh lính muốn tiếp lấy ngôi vị không cần do dự. Ở xứ biên vức đã nghe, mới dựng lập thành ấp để vua trước đến ở nơi đó, nên xưng gọi là thành Vương Xá. Các hàng quan thuộc sĩ thứ đều dời nhà cửa theo cùng. Hoặc có thuyết nói là đến thuở vua Vị Sinh Oán mới xây dựng thành đô. Khi thái tử Vị Sinh Oán đã tiếp nối ngôi vua, nhân đó bèn dời đô. Kịp đến lúc vua Vô Ưu dời đô ở thành Ba Tra Ly đem thành Vương Xá cúng thí cho các Bà-la-môn, nên nay trong thành đó không có phàm dân, chỉ có chủng tộc Bà-la-môn có gần ngàn gia đình.

Từ cung thành về góc tây nam có hai ngôi già lam nhỏ, là nơi khách tăng các nước qua lại dừng nghỉ, là nơi xưa kia đức Phật từng ở tại đó giảng nói giáo pháp. Từ đó tiếp về phía tây bắc lại có một ngôi Tốt-đổ-ba là nơi làng ấp quê cũ của trưởng giả Châu Để Sắc Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tinh Lịch, xưa trước gọi là Thọ Đề Ca, tức sai nhầm vậy) sinh sống.

Bên tả đường đi ngoài cửa phía nam thành có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia đức Phật ở tại đó giảng nói pháp và hóa độ La Hổ La. Từ đó về phía bắc đi hơn 30 dặm đến ngôi Tăng-già lam Na Lạn Đà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thí Vô Yểm). Nghe các bậc lão thành nói rằng: Phía nam Tăng-già lam ấy vào trong rừng Am Một La có một cái ao, rồng ở ao đó tên là Na Lạn Đà, bên cạnh có xây dựng ngôi già lam nên lấy đó mà đặt tên. Theo sự thật để bàn nói thì xưa kia đức Như

Lai lúc tu Bồ-tát hạnh làm vị Đại quốc vương đóng đô tại đất đó, vì thương xót chúng sinh nên chu cấp mọi vật đầy đủ, người thời bấy giờ ngợi khen đức hạnh đó nên xưng gọi là "Thí Vô Yểm". Do vậy mà ngôi già lam ấy lấy đó làm tên gọi. Khi đức Phật còn tại thế, đất ở đó vốn là vườn Am Một La, có 500 thương nhân dùng 10 ức tiền vàng mua để cúng dường đức Phật. Đức Phật ở tại đó ba tháng giảng nói pháp.

Các thương nhân, v.v... cũng chứng đắc Thánh quả. Sau khi đức Phật nhập niết bàn không bao lâu, tiên vương nước đó tên là Thước Ca La A Dật Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đế Nhật) là người kính trọng nhất thừa, tôn sùng Tam bảo, thử chiêm bói đất phước, tạo dựng ngôi già lam đó. Mới đầu khởi công, đào bới làm tổn thương thân rồng. Bấy giờ có vị Ni Càn Tử ngoại đạo rất thông giỏi về đoán tướng, thấy vậy mà dự ghi rằng: "Với thắng địa đó tạo dựng chốn già lam hẳn sẽ xương thạnh, sẽ làm khuôn phép cho cả năm xứ Ấn Độ, hơn ngàn năm sau lại càng lớn mạnh, các hàng hậu tấn người học dễ bề thành nghiệp, nhưng phần nhiều hay bị oái máu, bởi làm tổn thương thân rồng nên vậy". Kế tiếp người con là vua Phật Đà Cúc Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giác Hộ) nối tiếp ngôi vị, thể thừa truyền thống, tuân hành theo thắng nghiệp, đến đó, tiếp về phía nam tạo dựng thêm ngôi già lam. Sau đó là vua Đát Tha Yết Đa Cúc La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Như Lai) dốc lòng kính tu tiếp nối theo trước nên đến đó tiếp về phía đông lại tạo dựng thêm ngôi già lam. Tiếp ngôi vị đó là vua Bà La A Dật Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Ấu Nhật) tiếp về phía đông bắc đó lại tạo dựng ngôi già lam, công việc hoàn tất, thiết bày phước hội mừng vui, xoay quanh chí thành u hiển, thỉnh mời các hàng phàm Thánh, phước hội ấy có đủ chư tăng năm xứ Ấn Độ, xa cả muôn dặm cũng tụ hội. Đại chúng an tọa đã định, có hai vị tăng đến sau, dẫn lên trùng các thứ ba, có người hỏi rằng: "vua sắp thiết hội, trước đã thỉnh mời tất cả phàm Thánh, đại đức ở xứ nào mà đến sau cùng vậy?". Hai vị tăng ấy đáp: "Chúng tôi ở nước Chí Na, vì Hòa thượng cảm mắc bệnh sởi nên phải thọ trai xong mới đi, nhân sự thỉnh mời của vua từ xa nên lại phó hội". Người hỏi ấy kinh sợ, vội đem sự việc tấu trình cùng vua. Trong tâm vua cảm biết đó là Thánh tăng nên đích thân sang thăm hỏi, đợi lên đến trùng các thì không biết hai vị tăng đó đã đi đâu. Vua càng kính tin sâu sắc bỏ nước xuất gia. Sau khi đã xuất gia vua được ở hàng cuối cùng chúng tăng nên trong lòng thường luôn tấm tức chẳng được tự an, vua nghĩ rằng: "Xưa trước ta làm vua ở ngôi vị cao quý trên hết, ngày nay xuất gia lại thấp kém ở cuối cùng chúng tăng!". Sau đó vua sang thưa bạch cùng chúng tăng thuật bày sự tình tâm tư. Khi ấy chúng tăng Yết ma hòa hợp bảo ban tất cả mọi người chưa thọ cụ túc đều lấy tuổi tác ở đời mà sắp thứ tự. Nên tại ngôi già lam đó riêng có định chế ấy. Con của vua đó là Phạt Xà La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Kim Cang) sau khi lên ngôi với tín tâm kiên cố, lại đến phía tây nơi đó tạo dựng ngôi già lam. Từ đó chung quanh tường vách cao vợi đồng làm chung một cửa, đã trải qua các đời quân vương tiếp nối sự nghiệp thế gian tạo dựng chốn già lam, cùng các khắc chạm thật là trang quán vậy. Vua nói: "Nơi ngôi già lam lớn chính, nay đặt tôn tượng đức Phật, trong đại chúng mỗi ngày cắt cử 40 vị tăng đến đó thọ trai để báo ân của thí chủ. Chư tăng ở già lam đó vài ngàn vị đều là tuấn kiệt anh tài cao học, đức trọng ở đương thời, tiếng tăm vang xa đến cảnh vức khác, có hơn vài trăm vị, giới hạnh thanh bạch luật nghi thuần túy, chư tăng có định chế nghiêm minh, chúng đều trinh thuần trong trắng. Các nước xứ Ấn Độ đều kính ngưỡng khuôn phép ấy, nên đến thỉnh hỏi điều lợi ích, đàm luận cao sâu hết ngày chưa đủ, sớm tối cảnh răn; lớn nhỏ cùng thành. Như có người chẳng đàm luận yếu chỉ sâu mầu của Tam tạng Thánh giáo thì hình ảnh tự hỗ thẹn. Nên các hàng người tham học ở các xứ khác muốn vang vọng tiếng tăm đều lại xét nghi mới lưu tỏa danh dự cao nhã, do đó, hoặc có vị trộm danh mà đi, đều được lễ trọng. Những vị ở phương xa khác muốn vào đàm luận, cật nạn phần nhiều thối khuất mà trở về. Những ai có được sở học sâu xa nghiên cùng kim cổ mới được vào. Vì vậy các hàng đức Phật khách hậu tấn hiện rõ tài năng thì trong 10 người có hết 7-8 người rút lui, 2-3 người thông rành mọi vật vào trong chúng tiếp tục cật vấn, không ai chẳng gãy đổ bén nhọn ấy, giảm tổn tiếng tăm. Còn nếu là người tài cao thông mọi vật nhận biết lớn mạnh lắm nhiều tài năng và những minh đức triết nhân nối liền tỏa sáng kế tiếp khuôn vết, đến như các tôn giả hộ pháp, hộ nguyệt chấn bày bụi thơm nơi di giáo, đức tuệ, kiên tuệ lưu tỏa vẻ vang ở đương thời. Quang Hữu có luận bàn trong suốt, thắng hữu được đàm giải cao xa, trí nguyệt thì mỹ phong soi chiếu minh mẫn. Giới Hiền là bậc chí đức sâu xa. Những bậc thượng nhân trên mọi người đều cùng nhận biết, đức sáng tiêu đạt, học suốt cựu chương, thuật trước luận thích mỗi vị có cả hàng chục bộ đều hưng thạnh lưu thông được trân quý ở nơi đời. Bốn phía chung quanh ngôi già lam đó, các Thánh tích có cả hàng trăm, đây chỉ nêu vài ba điều có thể lược nói vậy.

Từ ngôi già lam đó về phía tây cách không xa có một ngôi tinh xá, xưa kia đức Phật từng ở tại đó ba tháng vì các hàng trời người rộng giảng nói Diệu pháp. Từ đó về phía nam cách hơn trăm bộ có một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ, là nơi các vị Bí Sô từ phương xa trông thấy đức Như Lai và Thánh chúng, từ bên trong phát tâm cung kính, gieo cả năm vóc xuống sát đất mà phát thệ nguyện mong cầu quả vị luân vương. Đức Như Lai thấy vậy bảo chúng tăng rằng: "Vị Bí Sô kia thật đáng tiếc thương, có được phước đức sâu xa, tâm tin bền chắc, nếu cầu Phật quả thì không bao lâu hẳn sẽ chứng đắc, nay vị đó lại phát thệ nguyện mong cầu quả vị làm vua Chuyển luân. Ở trong đời tương lai hẳn nhận quả báo đó. Thân thể gieo xuống đất đến tận Kim luân, trong đó với số lượng vi trần, mỗi mỗi mảy trần là quả báo của một luân vương. Đã đam mê vui thú thế gian thì Thánh quả đồn xa!". Từ đó về phía nam có tôn tượng Bồ-tát Quản Tự Tại, hoặc có người trông thấy cầm nắm lò hương đi sang nơi tinh xá Phật theo phía hữu đi nhiễu quanh.

Từ tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại về phía nam, trong một ngôi Tốt-đổ-ba có tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai dài ba tháng mới cắt cạo. Những người cảm mắc bệnh tật đến đi nhiễu quanh đó phần nhiều đều được lành khỏi. Từ đó về ngoài tường thành bên cạnh cái ao có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi có vị ngoại đạo bắt chim sẻ đến đó hỏi đức Phật về việc sinh tử. Từ đó về phía đông nam bên trong tường thành cách hơn 50 bộ có lùm cây kỳ lạ cao khoảng 8-9 thước, thân có hai cành, là nơi xưa kia đức Như Lai nhấm cành dương vất bỏ nơi đất, nhân đó đâm rễ lên mầm. Năm tháng trải qua tuy đã lâu dài nhưng vẫn như mới đầu không thêm bớt. Tiếp về phía đông lại có ngôi tinh xá cao hơn 200 thước, xưa kia đức Như Lai từng ở đó trong bốn tháng giảng nói các pháp thâm diệu. Tiếp về phía bắc cách hơn trăm bộ trong một tinh xá có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại, các hàng tín đồ thanh tịnh kính tin thiết bày cúng dường, được cảm thấy không đồng và cũng không nơi cố định, hoặc thấy đứng bên cạnh cửa, hoặc thấy ra trước diềm hiên, v.v... các hàng pháp tục ở các nước đều lại cúng dường.

Từ tinh xá có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại về phía bắc có một ngôi tinh xá cao hơn 300 thước, do vua Bà La A Dật Đa tạo dựng, độ lượng trang nghiêm và tôn tượng đức Phật bên trong đồng như ở tinh xá lớn dưới cây Bồ-đề. Từ đó về phía đông bắc có ngôi Tốt-đổ-ba, xưa kia đức Như Lai còn tại thế từng ở tại đó bảy ngày diễn giảng các giáo pháp thâm diệu. Từ đó về phía tây bắc là nơi có dấu vết của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền. Từ đó về phía nam có ngôi tinh xá bằng thau thạch do vua Giới Nhật tạo dựng, công việc tuy chưa hoàn tất mà đồ lượng cao lớn 10 trượng, về sau mới xây dựng hoàn thành đó. Từ đó tiếp về phía đông cách hơn 200 bộ, phía ngoài tường thành có tôn tượng đức Phật đứng bằng đồng cao hơn 80 thước. Trùng các cao sáu tầng mới được phủ che, do vua Mãn Trụ tạo dựng từ xưa trước.

Từ tôn tượng đức Phật do vua Mãn Trụ tu tạo về phía bắc cách khoảng 2-3 dặm, trong ngôi tinh xá bằng gạch có tôn tượng Bồ-tát Đa La, hình tượng đã cao lớn mà linh ứng cũng lắm xác thực. Mỗi năm vào ngày mồng một tết, thiết bày cúng dường rất long trọng, các hàng quốc vương, đại thần, các nhà hào tộc ở các nước láng giềng mang các thứ hương hoa kỳ diệu, cầm nắm các phan lọng quý báu, vàng, đá, xúm quanh tấu trổi, đàn sáo cùng hòa. Trong thời gian bảy ngày thiết bày pháp hội ấy. Từ đó về bên trong cửa phía nam tường vách có một cái giếng lớn, xưa kia lúc đức Như Lai còn tại thế, có đoàn khách buôn lớn gặp phải nóng khát bức bách, đến nơi chỗ đức Phật. Đức Thế Tôn bèn chỉ xuống chỗ đất đó và bảo ở đó có thể có được nước, vị thương chủ mới đem trục xe đóng xuống đất, đất đã hõm xuống, nước bèn tuôn trào thành dòng suối, các thương buôn dùng uống rồi, nghe giáo pháp đều được tỏ ngộ và chứng đắc Thánh quả.

Từ ngôi già lam đó theo hướng tây nam đi khoảng 8-9 dặm đến ấp Câu Lý Ca. Trong ấp đó có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, đó là làng quê cũ của tôn giả Một Đặc Già La Tử. Bên cạnh đó có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi tôn giả nhập vô dư niết bàn, bên trong Tốt-đổ-ba đó có xá lợi di thân của tôn giả. Tôn giả Một Đặc Già La vốn chủng tộc Đại Bà-la-môn, thuở thiếu thời cùng tôn giả Xá Lợi Tử kết bạn thân giao. Xá Lợi Tử do tài trí anh minh mà được tôn quý. Còn tôn giả Một Đặc Già La thì tinh thông soi xét mà vẻ vang. Tài trí cùng sánh, động chỉ đồng nhau, kết ước thỉ chung, đồng hợp đến đi. Cả hai vị cùng chán thế tục, đồng mong cầu xuất gia, bèn thờ vị thầy là Sang Xà Da. Tôn giả Xá Lợi Tử gặp được A-lahán Mã Thắng, nghe pháp môn tỏ ngộ Thánh đạo, bèn trở về vì tôn giả Một Đặc Già La mà thuật bày lại. Tôn giả Một Đặc Già La nghe xong mà tỏ ngộ giáo pháp bèn chứng đắc sơ quả. Cùng với đồ chúng học trò gần 250 vị đồng đến chỗ đức Phật. Từ xa trông thấy tôn giả Một Đặc Già La, đức Thế Tôn và bảo đại chúng rằng: "Người đang đi lại đây sẽ là bậc thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của ta!". Khi đã đến nơi, tôn giả Một Đặc Già La cầu xin gia nhập vào trong giáo pháp. Đức Thế Tôn bảo rằng: "Lành thay Bí Sô! Tịnh tu phạm hạnh, được lìa ngàn vức khổ". Nghe lời đó rồi, râu tóc của tôn giả Một Đặc Già La tự nhiên rơi rụng. Xiêm y thế tục biến đổi thành pháp y, giới phẩm thanh tịnh, oai nghi đều thuận, qua sau bảy ngày các kết lậu đều hết, chứng quả A-la-hán, đắc sức thần thông.

Từ làng quê cũ của tôn giả Một Đặc Già La theo hướng đông đi khoảng 3-4 dặm có một ngôi Tốtđổ-ba, là nơi vua Tần Tỳ Sa La nghinh đón đức Phật. Xưa kia đức Như Lai lúc mới chứng đắc Phật quả, biết tâm tư của dân chúng nước Ma Yết Đà rất khát ngưỡng. Nhận sự thỉnh mời của vua Tần Tỳ Sa La, vào lúc sáng sớm, đức Thế Tôn đắp y mang bình bát cùng theo 1000 vị Bí Sô vây bọc chung quanh đều là những bậc lão thành các hàng phạm chí búi tóc do kính mộ giáo pháp đắp mặc nhiễm y trước sau cùng phụ giúp đồng đi vào thành Vương Xá. Khi ấy trời Đế Thích biến hóa thân hình làm Ma Na Bà trên đầu quấn búi tóc tay trái bưng bình vàng, tay phải nắm gậy báu, chân đạp bước giữa hư không cách đất khoảng bốn ngón tay tại trong đại chúng dẫn đường đi trước đức Phật. Bấy giờ vua nước Ma Yết Đà là Tần Tỳ Sa La cùng các hàng Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ trong nước đó có cả trăm ngàn người, trước sau dẫn nhau ra thành Vương Xá cung kính nghinh thỉnh Thánh chúng. Vua Tần Tỳ Sa La nghinh thỉnh đức Phật theo hướng đông nam đi hơn 20 dặm đến ấp Ca La Tý Noa Ca. Trong ấp đó có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Đó là nơi làng quê cũ của tôn giả Xá Lợi Tử. Có cái giếng đến nay vẫn hiện còn. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi tôn giả Xá Lợi Tử tịch diệt, bên trong Tốt-đổ-ba đó có xá lợi di thân của tôn giả Xá Lợi Tử. Tôn giả Xá Lợi Tử là người vốn chủng tộc Đại Bà-la-môn, thân phụ của tôn giả Xá Lợi Tử là người tài cao nhận biết lớn, suy xét xâu xa tinh vi, phàm đối với các thứ sách vở, không thứ gì chẳng nghiên cứu học tập. Người vợ (mẹ của tôn giả) cảm mộng tỏ bày đầy đủ cùng chồng rằng: "Đêm qua nằm ngủ cảm mộng thấy người khác lạ thân mặc áo giáp, tay cầm nắm kim cang đập phá các núi rồi sau đó lui đứng dưới một quả núi". Người chồng (thân phụ của tôn giả) bảo rằng: "Điềm mộng đó rất tốt lành, ngươi sẽ sinh một người con trai, học hành thấu đạt thông rành thế sự, dẹp trừ các luận sư, phá hủy các tông ấy đến cuối cùng, chỉ không bằng một người, và sẽ làm đệ tử người đó". Quả nhiên có thai, người mẹ bỗng thông mẫn, luận bàn cao xa quá lắm, đàm nói không khuất trệ. Sau đó hạ sinh tôn giả Xá Lợi Tử vừa mới 8 tuổi mà tiếng tăm lan tỏa bốn phương, tánh khí thuần chất, tâm tình từ bi, rả hoại mọi buộc ràng, thành tựu trí tuệ, cùng với tôn giả Một Đặc Già La từ thuở thiếu thời đồng kết bạn thân. Nhàm chán tục trần nhưng chưa có nơi quay về nương tựa, khi ấy bèn cùng tôn giả Một Đặc Già La Tử đến chỗ ngoại đạo Sang Xà Da mà tu tập, mới cùng nói với nhau rằng: "Đây chẳng phải là lý cứu cánh, chưa thể dứt hết ngằn mé các khổ. Mỗi trong chúng ta nên tìm cầu bậc thông tuệ dẫn dắt, trước tưởng thưởng mùi vị cam lồ ấy hẳn đồng báo cho nhau chung hưởng". Bấy giờ Đại A-la-hán Mã Thắng đang bưng bình bát vào thành khất thực, tôn giả Xá Lợi Tử thấy A-la-hán Mã Thắng oai nghi nhàn nhã liền đến mà hỏi rằng: "Thầy của ông là ai?". A-lahán Mã Thắng đáp rằng: "Thái tử giòng họ Thích nhàm chán thế tục, xuất gia tu đạo thành đẳng chánh giác, đó là thầy của tôi". Tôn giả Xá Lợi Tử hỏi rằng: "Vị thầy ấy giảng nói pháp gì? Có thể cho nghe được chăng?". A-la-hán Mã Thắng bảo: "Tôi mới thọ giáo nên chưa thấu đạt nghĩa sâu". Tôn giả Xá Lợi Tử nói: "Xin nêu nói những gì đã được nghe!". A-la-hán Mã Thắng mới tùy nghi giảng nói. Tôn giả Xá Lợi Tử nghe xong liền chứng sơ quả bèn cùng đồ chúng học trò có cả thảy 250 vị sang đến chỗ đức Phật. Từ xa trông thấy tôn giả Xá Lợi Tử, đức Phật chỉ và bảo chúng tăng rằng: "Người ấy là bậc trí tuệ đệ nhất trong hàng đệ tử của ta vậy!". Khi đã đến nơi, tôn giả Xá Lợi Tử đảnh lễ, nguyện xin theo Phật pháp. Đức Thế Tôn bảo rằng: "Lành thay Bí Sô!". Lúc nghe lời nói ấy, tôn giả Xá Lợi Tử tự nhiên giới phẩm đầy đủ. Qua hơn nữa tháng sau, nghe đức Phật vì phạm chí Trường Trảo mà giảng nói diệu pháp, nghe lời nói thừa mà tôn giả Xá Lợi Tử cảm ngộ bèn chứng quả A-la-hán. Về sau, nhân tôn giả A-nan vâng thừa Phật bảo kỳ hạn tịch diệt, lần lượt lan truyền lẫn nhau, mọi người đều ân hoài buồn cảm. Tôn giả Xá Lợi Tử càng thêm tâm kính ngưỡng, luyến mộ, không nhẫn trông thấy đức Thế Tôn nhập bát niết bàn, bèn cầu xin đức Thế Tôn nhập tịch diệt trước. Đức Thế Tôn bảo: "Nên biết thời vậy!". Tôn giả Xá Lợi Tử cảm tạ và báo cùng môn nhân đệ tử xong trở về lại làng quê cũ. Vị đệ tử sa di làm thị giả báo khắp trong thành ấy. Vua Vị Sinh Oán cùng dân chúng trong nước đó thảy đều tụ tập. Tôn giả Xá Lợi Tử rộng vì giảng nói diệu pháp, mọi người nghe xong trở về. Vào sau nửa đêm, tôn giả Xá Lợi Tử chánh ý buộc tâm nhập định diệt tận, từ thiền định dậy mà nhập tịch diệt.

Từ ấp Ca La Tý Noa Ca theo hướng đông nam đi khoảng 4-5 dặm có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi vị môn nhân đệ tử của tôn giả Xá Lợi Tử nhập niết bàn. Có thuyết nói vào thời đức Phật Ca Diếp Ba, có ba câu chi (câu chi tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Ức) vị Đại A-la-hán đồng nhập vô dư tịch diệt tại nơi đó.

Từ ngôi Tốt-đổ-ba của môn nhân tôn giả Xá Lợi Tử theo hướng đông đi hơn 30 dặm đến núi Nhân Đà La Thế La Hũ La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đế Thích Quật), núi đó hang cốc mịt mờ, hoa rừng um tùm, trên đảnh núi có hai ngọn cao vợi đặc biệt nổi trội. Nơi hang phía nam của ngọn núi phía tây có thạch thất lớn, rộng mà không cao, là nơi xưa kia đức Như Lai thường nghỉ ở đó, khi ấy trời Đế Thích đem 42 điều nghi ngờ khắc họa trên đá để thỉnh hỏi đức Phật, đức Phật vì giảng nói giải thích, vết tích ấy vẫn còn, nay tạo hình tượng ấy phỏng theo Thánh nghi xưa. Những người vào bên trong lễ kính, không ai chẳng chỉnh túc kinh sợ. Trên hang núi là nơi có dấu vết của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Và trên ngọn núi ở phía đông có ngôi già lam, nghe các hàng sĩ tục nói là tăng chúng trong đó hoặc có lúc vào nữa đêm trông thấy đến ngọn núi phía tây trước tôn tượng Phật nơi thạch thất có đèn đuốc thường luôn tỏa sáng.

Trước ngôi già lam ở ngọn núi phía đông của núi Nhân Đà La Thế La Lũ Ha có ngôi Tốt-đổ-ba tên là Hoàn Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nhạn). Xưa kia trong ngôi già lam đó, chúng tăng tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa. Tiểu thừa là tiệm giáo nên mở khai cho ăn dùng tam tịnh nhục, mà ngôi già lam đó tuân theo không rơi lạc. Về sau, tam tịnh nhục tìm cầu có lúc không được. Có vị Bí Sô đang kinh hành, bỗng thấy đàn chim nhạn bay liệng đùa nói với nhau rằng: "Ngày nay trong chúng tăng ăn dùng không no đủ. Ma-ha Tát Đỏa cần nên biết thời vậy". Tiếng nói chưa ngưng dứt, trong đàn có một con nhạn bay lùi đến trước vị Bí Sô ấy tự ném vật thân mình mà chết. Vị Bí Sô ấy thấy vậy rồi thưa bạch cùng chúng tăng. Mọi người nghe, buồn cảm cùng nói với nhau rằng: "Đức Như Lai diễn bày giáo pháp tùy căn cơ mà dẫn dụ chúng ta giữ lấy sự ngu mê tuân hành theo tiệm giáo. Đại thừa mới thật là chánh lý, nên sửa đổi điều chấp trước chuyên theo Thánh chỉ, con nhạn này giũ lòng cảnh răn, thật đáng là bậc thông tuệ để dẫn dắt chúng ta vậy. Nên tuyên bày đức hạnh sâu dày, truyền ghi trọn ngàn xưa đó". Khi ấy bèn cùng nhau tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba, kinh soi di liệt đem thi thể con nhạn chết đó chôn cất ở dưới.

Từ núi Nhân Đà La Thế La Lũ Ha theo hướng đông bắc đi khoảng 150-160 dặm đến ngôi già lam Ca Bố Đức Ca (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Cáp = bồ câu), chư tăng ở đó có hơn

200 vị đều học theo giáo pháp thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Phía đông ngôi già lam ấy có ngôi Tốtđổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, xưa kia đức Phật ở tại đó một đêm vì các đại chúng giảng nói pháp, bấy giờ có La Giả đến trong rừng đó bủa lưới bắt các loài chim muôn trọn một ngày mà không được con nào, bèn tự bảo rằng: "Ta chỉ vì phước bạc thường làm việc xấu tệ". Lại đến nơi chỗ Phật mà nói rằng: "Ngày nay đức Như Lai đến đây giảng nói pháp, khiến tôi giăng lưới săn bắt không được gì! Vợ con tôi tớ hiện tại đói khát, biết tính sao đây?". Đức Như Lai bảo rằng: "Ông nên nhóm chất lửa, ta sẽ cho ông thức ăn". Khi ấy, đức Như Lai biến hóa làm một con chim cáp (bồ câu) lớn ném mình vào lửa mà chết. La Giả mang đem về, vợ con tôi tớ cùng ăn dùng, sau đó lại sang nơi chỗ Phật. Đức Như Lai bèn dùng phương tiện nhiếp hóa. La Giả nghe pháp xong hối cải lỗi quá tự làm mới cuộc đời, bỏ nhà tu học, bèn chứng đắc Thánh quả.

Nhân đó gọi chỗ tạo dựng ấy làm ngôi già lam cáp (bồ câu).

Từ ngôi già lam Ca Bố Đức Ca theo hướng nam đi khoảng 2-3 dặm đến một quả núi đơn lẻ. Quả núi ấy cao vợi, cây rừng um tùm, hoa quý dòng trong phủ sườn men hang, phía trên có nhiều tinh xá, miếu linh, khắc chạm rất mực tinh xảo. Tinh xá chính giũa có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại, thân lượng tuy nhỏ mà oai thần cảm khắp, tay nắm hoa sen, đảnh đầu đội hình tượng Phật. Từng có số người bỏ ăn phát tâm cần yếu cầu thấy Bồ-tát, hoặc trải qua bảy ngày, hay 14 ngày, cho đến một tháng thì có sự cảm ứng thấy Bồ-tát Quán Tự Tại với Diệu tướng trang nghiêm oai quang rực rỡ từ trong tôn tượng lưu xuất ủy an dẫn dụ người ấy. Xưa kia vua nước Tăng-già-la ở Nam Hải, vào một buổi sáng sớm dùng gương soi mặt, không thấy thân hình mình mà thấy trên núi nhỏ trong rừng Đa-la ở nước Ma Yết Đà thuộc Thiệm bộ châu có hình tượng Bồ-tát đó, vua rất cảm mừng, toan tính để tìm cầu. Khi đã đến núi đó, thật chỉ giống tợ. Nhân đó vua tạo dựng ngôi tinh xá, thiết bày mọi thứ cúng dường. Từ đó về sau, các vị vua mến chuộng kính tưởng di phong, bèn đến bên cạnh đó lần lượt tạo dựng các ngôi tinh xá và miếu linh, dùng các thứ hương hoa kỷ nhạc cúng dường không ngưng dứt.

Từ quả núi đơn lẻ có tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại đó theo hướng đông nam đi hơn 40 dặm, đến một ngôi già lam, chư tăng ở đó có hơn 50 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa. Phía trước ngôi già lam đó có ngôi Tốt-đổ-ba lớn có lắm nhiều sự linh dị, xưa kia đức Phật từng ở đó bảy ngày vì các phạm thiên vương, v.v..., giảng nói diệu pháp. Bên cạnh đó là nơi có di tích của ba đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Từ ngôi già lam ấy theo hướng đông bắc đi hơn 70 dặm, theo phía nam sông Khắc Già đến một tụ lạc lớn. Dân chúng ở đó đông nhiều, có vài ngôi đền thờ trời, đều điêu tàn hết mọi thứ nghiêm sức. Từ đó về phía đông nam cách không xa, có ngôi Tốt-đổ-ba lớn, xưa kia đức Phật từng ở nơi đó một đêm giảng nói pháp. Từ đó theo hướng đông vào trong núi rừng đi hơn 100 dặm, đến tụ lạc Lạc Ban Nị La, ở đó có ngôi già lam, phía trước có ngôi Tốt-đổ-ba lớn, do vua Vô Ưu tạo dựng, xưa kia đức Phật từng ở nơi đó ba tháng giảng nói diệu pháp.

Từ đó theo hướng bắc đi khoảng 2-3 dặm có một ao hồ lớn chu vi rộng hơn 30 dặm, hoa sen bốn màu đua nở quanh năm. Từ đó lại theo hướng đông vào trong núi rừng lớn đi hơn 200 dặm đến nước Y Lạn Noa Bát Phạt Đa (thuộc Trung Ấn Độ).

Đại Đường Tây Vức ký hết quyển chín.

QUYỂN 10

(Nói về 17 nước).

1. Nước Y Lạn Noa Bát Phạt Đa.

2. Nước Chiêm Ba.

3. Nước Yết Chu Ốt Kỳ La.

4. Nước Bôn Na Phạt Đàn Na.

5. Nước Ca Ma Lũ Bà.

6. Nước Tam Ma Đát Tra.

7. Nước Đam Ma Lật Để.

8. Nước Yết La Noa Tô Phạt Thích Na.

9. Nước Ô Trà.

10. Nước Cung Ngự Đà.

11. Nước Yết Lăng Già.

12. Nước Kiều-tát-la.

13. Nước Án Đạt La.

14. Nước Đà Na Yết Trách Ca.

15. Nước Châu Lợi Đa.

16. Nước Đạt La Tỳ Trà.

17. Nước Mạt La Củ Tra.

1. NƯỚC Y LẠN NOA BÁT PHẠT ĐA.

Nước Y Lạn Noa Bát Phạt Đa chu vi rộng hơn 3000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, phía tây gần sông Khắc Già. Xứ ấy lúa thóc tươi tốt, hoa quả lắm nhiều, khí hậu hòa sướng, phong tục con người thuần chất. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn 4000 vị, phần nhiều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hơn 20 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Gần đây có vị vua ớ nước láng giềng, xả bỏ ngôi vị và nước nhà, đem đô thành lớn dâng cúng cho chúng tăng đến trong đô thành đó tạo dựng hai ngôi già lam, mỗi ngôi có gần ngàn vị tăng tu tập và đều học theo giáo pháp Tiểu thừa Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Bên cạnh đô thành lớn gần sông Khắc Già có quả núi Y Lạn Na thường luôn ngậm nhả mây khói che khuất cả mặt nhật mặt nguyệt. Từ xưa tới nay các bậc tiên Thánh tiếp nối nhau đến gá thần ở đó. Nay có đền thờ trời còn tuân theo phép tắc để lại. Xưa kia, đức Như Lai cũng từng ở lại nơi đó vì các hàng trời người rộng giảng nói diệu pháp. Phía nam đô thành lớn có ngôi Tốt-đổ-ba, xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó ba tháng giảng nói pháp. Bên cạnh đó là nơi có di tích của ba đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành.

Từ nơi có di tích của ba đức Phật thời quá khứ kinh hành về hướng tây cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi quê hương sinh sống của Bí Sô Tần Thiết Để Câu Chi (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Văn Nhị Bách Ức. Xưa trước gọi là Ức Nhĩ tức sai nhầm vậy). Xưa kia tại thành đó có vị trưởng giả giàu sang phú quý nhưng chậm muộn có con nối dõi. Đến lúc có báo kết quả, liền ban cấp tặng 200 ức tiền vàng, và nhân đó gọi tên người con ấy là "Văn Nhị Bách Ức". Mãi đến lúc trưởng thành mà chân chưa từng dẫm bước nơi đất, nên dưới bàn chân có sợi lông dài hơn cả thước sáng sạch nhỏ mịn sắc vàng như vàng ròng. Trưởng giả trân quý người con ấy sắm sinh đủ thứ vui chơi tốt đẹp. Từ nơi nhà ở đến tận núi tuyết dựng nhà trạm liền góc, tôi tớ đứng giao nhau giữa đường, phàm cần các thứ thuốc tốt ưu diệu liền đáp đổi cùng báo nói, trao nhận chẳng vượt mất thời gian. Ông trưởng giả ấy giàu sang đến thế. Đức Thế Tôn dự biết căn lành của trưởng giả tử sắp phát, bèn bảo tôn giả Một Đặc Già La Tử đi sang giáo hóa. Khi đã đến dưới cửa chẳng do đâu mà tự biết nhà ông trưởng giả thờ cúng nhật thiên, thường mỗi sáng sớm mai xoay mặt hướng đông mà lễ bái. Khi ấy tôn giả Một Đặc Già La dùng sức thần thông từ trong vầng mặt nhật giáng hiện đứng trước. Trưởng giả tử nghi ngờ cho đó là Nhật Thiên (thần mặt trời), nhân đó cúng thí cơm thơm mà trở về, mùi cơm thơm ấy tỏa khắp cùng thành Vương Xá. Khi ấy vua Tần Tỳ Sa La lấy làm kinh lạ mùi thơm phảng phất, bèn bảo kẻ sứ đi hỏi khắp cùng, mới biết là ở tinh xá Trúc Lâm do tôn giả Một Đặc Già La mang từ nhà trưởng giả đến, nếu đi bằng thuyền gõ mái chèo thì có gian nguy sóng gió, cưỡi xe cưỡi voi sợ hoạn vấp váp. Khi ấy bèn từ nhà ở đến thành Vương Xá, khơi ngòi thông rãnh đổ đầy dòng bằng hạt cải, đến lúc dừng thuyền cặp nghỉ dùng dây dài dẫn đến thành Vương Xá, trước vào kính lễ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo rằng: "vua Tần Tỳ Sa La bảo kẻ sứ mời gọi ông đến chẳng qua là muốn thấy sợi lông dưới bàn chân ông vậy. Vì vua muốn trông thấy nên ông phải ngồi kiết già bày bàn chân hướng đến vua. Đúng quốc pháp là đáng chết vậy". Trưởng giả tử vâng nhận lời dạy răn ấy rồi sang đến nơi vua, dẫn vào sân bái yết, vua muốn trông xem sợi lông, trưởng giả tử mới ngồi kiết già. Vua ngợi khen và ban lễ thù đặc và cũng rất mến quý. Thế rồi tạ từ trở về nơi chỗ đức Phật. Khi ấy đức Như Lai vì giảng nói giáo pháp dạy răn dẫn dụ. Trưởng giả tử nghe mà cảm ngộ bèn liền xuất gia. Từ đó tinh cần tu tập tư duy mong cầu chứng quả, kinh hành chẳng luống bỏ nên chân bèn tổn thương đổ máu. Đức Thế Tôn thấy vậy bảo: "Này gã thiện nam! Lúc còn ở nhà, ông có biết đánh đàn chăng?". Trưởng giả tử (Bí sô Thốt Lũ Đa Tần Thiết Để Câu Chi) thưa: "Dạ có biết!". Đức Thế Tôn dạy: "Nếu vậy thì lấy đó để thí dụ, nếu dây đàn quá căng hẳn không hợp vận, dây đàn quá chùng thì điệu không hòa nhã, nên phải là dây đàn không căng không chùn âm thanh mới hòa. Phàm người tu hành cũng vậy. Gấp quá thì thân nhọc mệt tâm sinh biếng lười, hoảng quá thì tình buông duỗi và chí phóng túng". Trưởng giả tử vâng theo sự chỉ dạy của đức Phật mà hành trì chu toàn, như vậy sau đó không bao lâu bèn chứng đắc quả vị.

Ở biên giới phía tây nước đó tức thuộc phía nam sông Khắc Già, có một quả núi nhỏ đơn lẻ chập chùng cao xót, xưa kia đức Phật từng an cư tại đó ba tháng để nhiếp phục Bạc Câu La Dược Xoa. Dưới hang ở phía đông nam của núi trên tảng đá lớn có dấu vết của đức Phật ngồi in sâu vào đá hơn một tấc, dài 5 thước 2 tấc, rộng 2 thước 1 tấc, phía trên đó có tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba. Tiếp về phía nam trên tảng đá thì có dấu vết đức Phật đặt Quấn Trỉ Ca (tức là bình tắm, xưa trước gọi là Quân trì, tức lược gọi sai nhầm vậy), in sâu trên đá hơn một tấc làm nổi đường hoa văn. Từ nơi dấu vết đức Phật ngồi về phía đông nam cách không xa có dấu vết cẳng chân của Bạc Câu La Dược Xoa dài khoảng 5-6 tấc, rộng khoảng 7-8 tấc, in sâu trên đá gần 2 tấc. Phía sau dấu vết cẳng chân Dược Xoa có tôn tượng đức Phật ngồi bằng đá cao khoảng 6-7 thước. Từ đó tiếp về phía tây cách không xa là nơi có dấu vết của đức Phật kinh hành. Trên đảnh núi đó có thất cũ của Dược Xoa. Từ đó về phía bắc có dấu vết bàn chân của đức Phật dài 8 tấc, rộng hơn 6 tấc in sâu trên đá gần nửa tấc. Phía trên dấu chân đó có ngôi Tốt-đổ-ba. Xưa kia đức Như Lai ở đó nhiếp phục Dược Xoa, khiến không giết hại người ăn thịt. Dược Xoa kính thọ giới pháp của Phật, về sau được sinh lên cõi trời. Từ đó về phía tây có khoảng 6-7 dòng suối nóng ấm. Nước các suối đó rất nóng. Ở biên giới phía nam nước đó trong rừng núi lớn có lắm nhiều voi hoang dã thân hình rất to lớn.

Từ đó dọc theo bờ phía nam sông Khắc Già theo hướng đông đi hơn 300 dặm đến nước Chiêm Ba (thuộc trung Ấn Độ).

2. NƯỚC CHIÊM BA.

Nước Chiêm Ba chu vi rộng hơn 4000 dặm. Đô thành lớn nước đó chu vi rộng hơn 40 dặm, gối lưng phía bắc gần sông Khắc Già. Đất đai thục thấp, lúa má tràn đầy, khí hậu ấm nóng, phong tục thuần chất. Có khoảng vài mươi ngôi già lam phần nhiều đều đã bị hư hoại, chư tăng có hơn 200 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa, có hơn 20 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo chung sống lẫn lộn. Đô thành được sắp chất bằng gạch cao đến vài trượng, nền móng cao vợi cách ngự phòng địch cao hiểm. Xưa kia vào thời đầu kiếp, người vật mới đầu hoang dã ở nơi hang hầm, chưa biết làm cung thất. Về sau có một thiên nữ giáng hiện trong loài người rảo bước đến sông Hằng tắm gội tự vui, cảm linh có thai sinh ra bốn người con, phân chia ở Thiệm Bộ Châu mỗi người chiếm một khu vức, xây thành đô, lập thôn ấp, phân biên cương, họa ranh giới, nơi đó là đô thành nước nhà của một trong bốn người con đó vậy, và cũng là đầu tiêu của các đô thành ở Thiệm-bộ-châu. Từ đô thành ấy hướng về đông cách khoảng 140-150 dặm, về phía nam sông Khắc Già dòng nước cuốn xoay lại nổi lên một hòn đảo nhỏ cao vợi, trên đó có đền thời trời. Thần lắm linh cảm, đục sườn đảo làm thất, dẫn dòng nước thành ao cong, hoa rừng cây lạ, đá lớn ngọn cao nguy hiểm, là nơi các bậc nhân trí nương ở. Người đến trông xem quên cả trở về. Trong núi rừng ở cảnh vức phía nam nước đó, voi hoang thú dữ kết đàn cùng đi rất đông nhiều. Từ đó theo hướng đông đi hơn 400 dặm đến nước Yết Chu Ốt Kỳ La (xứ ấy có tập tục hoặc xưng gọi đó là Yết Dăng Yết La, thuộc Trung Ấn Độ).

3. NƯỚC YẾT CHU ỐT KỲ LA.

Nước Yết Chu Ốt Kỳ La chu vi rộng hơn 2000 dặm, đất đai thấp ẩm, lúa thóc lắm nhiều, khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất, con người dốc chuộc cao tài, sùng quý nghề học. Có khoảng 6-7 ngôi già lam, chư tăng có hơn 300 vị. Có mười ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Từ vài trăm năm trở lại đây, giòng họ nhà vua tuyệt tự không người nối dõi, mọi việc làm tùy thuộc các nước lân cận, do đó thành quách gò thành phần nhiều ở nơi thôn ấp. Nên vua Giới Nhật tới Đông Ấn Độ xây dựng cung quán sửa trị các việc nước nhà, đến thì nép tranh cỏ làm nhà ở, đến lúc đi thì phóng lửa thiêu đốt. Cảnh vức phía nam nước đó có lắm nhiều voi hoang. Cách vức phía bắc cách sông Khắc Già không xa có đài cao lớn, sắp chất gạch đá mà xây dựng nên, nền móng rộng cao, khắc chạm chế tác rất kỳ đặc. Chung quanh đài mặt vuông, chạm khác hình tượng các Thánh, hình Phật và trời phân biệt rõ mà làm. Từ đó theo hướng đông vượt qua sông Khắc Già đi hơn 600 dặm đến nước Bôn Na Phạt Đàn Na (thuộc trung Ấn Độ).

4. NƯỚC BÔN NA PHẠT ĐÀN NA.

Nước Bôn Na Phạt Đàn Na chu vi rộng hơn 4000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm, dân chúng sinh sống đông nhiều, ao quán hoa rừng thường luôn đan xen. Đất đai ẩm thấp, lúa thóc tươi tốt. Quả Ban Hạch Sa đã lắm nhiều mà lại quý. Quả ấy lớn như quả Đông Qua (bí đao), lúc chín sắc màu vàng đỏ, xẻ bổ ra bên trong vài mươi quả nhỏ lớn bằng trứng chim hạc, lại phá ra nữa thì giọt nước vàng đỏ, mùi vị ngọt ngon, hoặc tại trên cành như kết thật nhiều quả, hoặc tại dưới gốc rễ cây thì tợ như Phục Linh nơi đất. Xứ đó khí hậu hòa sướng, phong tục ham học. Có hơn vài mươi ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị, đối với giáo pháp Đại thừa Tiểu thừa đều dốc công tập học. Có vài trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn, với hàng lõa hình Ni càn tử thật đông nhiều.

Từ đô thành về phía tây cách hơn 20 dặm, có ngôi Tăng-già lam Bạt Thỉ Bà, dân nhà rỗng thoáng, đài các lớn cao, chư tăng có hơn 700 vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Những bậc thạc học danh tăng ở cảnh vức phía Đông Ấn Độ phần nhiều đến ở trong đó. Bên cạnh đó cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó ba tháng vì các hàng trời người giảng nói giáo pháp. Hoặc đến những ngày trai có lúc tỏa phóng ánh sáng. Bên cạnh đó lại là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Cách đó không xa lại có một ngôi tinh xá, bên trong có tạo tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại, thần quang soi xét chẳng ẩn, linh ứng luôn hiện bày, nên mọi người ở khắp xa gần đến đó bỏ ăn mà cầu thỉnh.

Từ đó theo hướng tây đi hơn 900 dặm, vượt qua sông lớn đến nước Ca Ma Lũ Ba (thuộc Đông Ấn Độ).

5. NƯỚC CA MA LŨ BA.

Nước Ca Ma Lũ Ba chu vi rộng hơn vạn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm. Đất đai thấp ẩm, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ. Quả Ban hạch sa, quả Na la kê la, cây giống ấy tuy lắm nhiều mà lại càng trân quý. Sông, rạch, hồ, vũng giai dãi quanh thành ấp. Khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất. Con người thân hình thấp nhỏ, dung mạo đen sạm, nói năng ít khác so với các nước xứ Trung Ấn Độ. Tánh khí con người hung dữ mạnh bạo, chí chuyên mạnh học, phần chính là tôn thờ trời thần, không tin Phật pháp. Nên từ khi đức Phật xuất hiện nơi đời mãi đến ngày nay, còn chưa tạo dựng được một ngôi già lam nào để chiêu tập các hàng tăng lữ. Nước đó có một số tịnh tín nhưng chỉ trộm nhớ nghĩ mà thôi. Có vài trăm ngôi đền thờ trời, cách hàng dị đạo đông đến vài vạn vị.

Nay, vua nước đó vốn là con cháu nối dõi của trời Na La Diên, thuộc chủng tộc Bà-la-môn, tự là Bà Tắc Yết La Phạt Ma (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Nhật Trụ), hiệu là Câu Ma La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đồng Tử) tự chiếm cứ đất đai biên cương, lớn mạnh bành trướng, mãi đến ngày nay đã qua 1000 đời vua. Do các vị quốc vương ham học nên dân chúng đều theo phong hóa, các bậc cao tài từ phương xa kính mộ nghĩa khách du. Vua tuy không thuần tin Phật pháp nhưng rất kính trọng các hàng Sa-môn cao học. Mới đầu nghe có Sa-môn ở nước Chí Na đang ở Tăng-già lam Na Lạn Đà tại nước Ma Yết Đà từ phương xa đến học giáo pháp thâm sâu của Phật, vua bèn sai người ân cần qua lại vài ba phen thỉnh mời, nhưng Huyền Trang tôi vẫn chưa đáp ứng ước muốn đó. Khi ấy luận sư Thi La Bạt Đà La bảo rằng: "Muốn báo ân đức của Phật, phải nên hoằng dương chánh pháp. Ông nên đi sang đó chớ ngại sợ giẫm trải đường xa. Vua Câu Ma La ở đời kính thờ ngoại đạo, nay lại cầu thỉnh Sa-môn, đó là việc tốt lành, nhân nay mà cải đổi đường vết phước lợi rộng xa. Xưa kia ông khởi tâm rộng lớn, phát hoằng thệ nguyện, một mình loi lẻ đi đến cảnh vức xa khác, bỏ quên thân mạng vì mong cầu giáo pháp khắp cứu tế hàm linh, đâu không là quê hương nước nhà, nên quên mọi sự được mất, chớ bó buộc bởi vinh nhục, tuyên dương Thánh giáo mở dẫn quần mê, trước lợi vật sau mới thân mình, quên danh tiếng để hoằng dương giáo pháp". Khi ấy, chối từ không được khỏi, Huyền Trang tôi bèn cùng sứ giả đồng đi mà hội kiến. Vua Câu Ma La nói rằng: "Tôi tuy bất tài, nhưng thường mến mộ những bậc cao học, nghe tên bèn nhã chuông liều dám việc xa thỉnh mời!". Huyền Trang tôi nói: "Tôi tài năng hiếm ít, trí tuệ riêng kém, hèn tệ theo nghe". Vua Câu Ma

La bảo rằng: "Lành thay! Kính mộ giáo pháp, khéo tham học, xem thân mạng như bọt nổi, giẫm vượt lắm hiểm trở, đi xa đến cảnh vức khác, ấy hẳn do mỹ hóa của quân vương; thuần phong của nước nhà mến chuộng học khiến các nước xứ Ấn Độ phần nhiều có ca tụng bản nhạc "Tần vương nước Ma-ha Chí Na phá trận", tôi nghe đó đã lâu vậy. Há đó là quê hương đất nước đại đức ư?". Huyền Trang tôi nói: "Thật đúng vậy. Đó là bản nhạc ca ngợi khen oai đức của nước chúng tôi vậy". Vua Câu Ma La nói: "Không để ý đại đức là người nước đó, tôi kính mộ phong hóa xoay về phương đông đã từ lâu. Nhưng vì núi sông cách trở đường sá hiểm nguy không do đâu để đến đó được!". Huyền Trang tôi nói: "Thánh đức vua nước chúng tôi thắm đượm cùng xa, nhân hóa khắp trùm. Các xứ khác tục khác vức đều đến bái yết cung quyết xưng thần rất đông nhiều vậy". Vua Câu Ma La nói rằng: "Với sự chở che như thế, tâm tôi đây rất mong được triều cống. Nay đây, vua Giới Nhật ở tại nước Yết Chu Ốt Kỳ la sắp thiết bày đại thí hội, tu tạo phước tuệ lớn. Các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, những người có học nghiệp ở khắp năm xứ Ấn Độ không ai chẳng được chiêu tập, nay có sai sứ đến đây thỉnh mời, nguyện xin đại đức cùng đồng đi đến đó!". Khi ấy tôi bèn cùng vua Câu Ma La đến nước Yết Chu Ốt Kỳ La.

Từ nước (Ca Ma Lũ Ba) đó về hướng đông, núi đồi liền tiếp nhau, không có đô thành nước lớn, cảnh vức tiếp liền với tây nam Di Viên, con người về xứ đó thuộc giống Man lão. Hỏi rõ về thổ tục thì đi khoảng hai tháng thì vào đến cảnh vức phía tây nam đất Thục. Nhưng vì núi sông hiểm trở, chướng khí dịch bệnh, rắn độc cỏ độc làm hại rất lắm. Về phía đông nam của nước đó, voi hoang đi từng đàn hung bạo, nên trong nước đó vẽ tượng quân rất đặc biệt lớn mạnh.

Từ đó theo hướng nam đi khoảng 1200-1300 dặm đến nước Tam Ma Đát Tra (thuộc Đông Ấn Độ).

6. NƯỚC TAM MA ĐÁT TRA.

Nước Tam Ma Bát Đa chu vi rộng hơn 3000 dặm, bến bãi gần biển lớn, đất đai thấp ẩm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, lúa thóc gieo trồng tươi tốt, hoa quả lắm nhiều, khí hậu hòa sướng, phong tục điều thuận, con người tánh khí cứng mạnh, thân hình thấp nhỏ sắc da đen sạm, ham thích cầu học chuyên cần mài miệt. Tà chánh đều kính tin, có hơn 30 ngôi già lam, chư tăng có hơn 2000 vị đều vâng tu tập học theo giáo nghĩa Thượng tọa bộ. Có trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn, hàng lõa hình Ni càn tử đồ chúng đông nhiều. Cách đô thành không xa có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó bảy ngày vì các hàng trời người mà giảng nói diệu pháp sâu mầu. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Cách đó không xa, trong ngôi già lam có tôn tượng đức Phật bằng ngọc xanh cao tám thước, tướng tốt tròn đầy, linh ứng lắm hiệu nghiệm. Từ đó về phía đông bắc có bến bãi biển lớn, theo trong đường hang núi có nước Thất Lợi Ta Đát La, tiếp về phía đông nam ở góc biển lớn có nước Ca Ma Lũng Ca, tiếp về phía đông có nước Đọa La Bát Để, tiếp về phía (tiếp đến phía đông có nước Y Thưởng Na Bổ La) đông có nước Ma-ha Chiêm Ba; tức ở Trung Hoa gọi đó là Lâm ấp vậy. Lại tiếp về phía tây nam có nước Diêm-ma Na Châu. Cả sáu nước đó núi sông đường sá hiểm trở nên Huyền Trang tôi không vào các cảnh vức đó, nhưng phong tục đất đai cảnh giới tiếng tăm có thể biết được vậy.

Từ nước Tam Ma Đát Tra theo hướng tây đi hơn 900 dặm đến nước Đam Ma Lật Để (thuộc Đông Ấn Độ).

7. NƯỚC ĐAM MA LẬT ĐỂ.

Nước Đam Ma Lật Để chu vi rộng khoảng 4.500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, bến bãi gần biển, nên vùng ven đất đai thấp ẩm, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, hoa quả tốt tươi lắm nhiều. Khí hậu ấm nóng, phong tục thô tháo nóng nãy, con người tánh khí cứng mạnh. Tà chánh đều kính tin, có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị. Có hơn 50 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Đất nước đó bến bãi ở gần góc biển, đất liền và sông nước giao hội. Các vật trân quý báu lạ phần nhiều đều tích tụ tại đó, nên dân chúng nước đó đại khái đều là giàu sang. Bên cạnh đô thành có ngôi Tốtđổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, bên cạnh đó là nơi có dấu vết của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành.

Từ đó theo hướng tây bắc đi hơn 700 dặm đến nước Yết La Noa Tô Phạt Thích Na (thuộc Đông Ấn Độ).

8. YẾT LA NOA TÔ PHẠT THÍCH NA.

Nước Yết La Noa Tô Phạt Thích Na, chu vi rộng khoảng 1400

-1500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông nhiều, nhà cửa giàu sang. Đất đai thấp ẩm, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ. Các thứ hoa tươi tốt, quả lạ lắm nhiều. Khí hậu điều sướng, phong tục thuần hòa. Con người khéo mến chuộng học các nghề nghiệp. Tà chánh đều kính tin, có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn 2000 vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo thật lắm nhiều. Riêng có ba ngôi già lam, chư tăng không ăn dùng sữa lạc, tuân theo di huấn của Đề Bà Đạt Đa.

Bên cạnh đô thành lớn có ngôi Tăng-già lam Lạc Đa Vị Tri (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Xích Nê), sân nhà rỗng thoáng, đài các cao vợi, các bậc tài cao đạt học thông mẫn có tiếng tăm trong nước nhà đều tụ tập tại đó, cảnh tỉnh răn dắt nhau cùng thành đạt, mài giũa đạo đức. Mới đầu, tại nước đó chưa kính tin Phật pháp, khi ấy tại Nam Ấn Độ có một ngoại đạo bụng bịt đồng lá, đầu đội đuốc đốt sáng chống mang trượng sách cao bước vào trong thành đó, bày đánh trống luận, tìm cầu muốn nói bàn đối luận. Có người hỏi rằng: "Đầu và bụng của ông mang đội gì khác lạ vậy?". Ngoại đạo đó đáp: "Tôi học nghề, lắm nhiều tài năng, sợ bụng xé rách, lại xót thương hàng ngu tối, do đó đeo mang soi chiếu". Trải qua cả 10 ngày mà không người nào hỏi han gì, ngoại đạo đó phỏng hỏi tìm kiến các bậc tài giỏi mà chẳng có hạng người đó. Vua nước đó bảo rằng: "Khắp trong nước nhà đâu có những bậc minh triết, có khách đến cật nạn mà không đối đáp, đó thật là tủi nhục sâu lớn, nên tìm kiếm phỏng hỏi ở các nơi có những vị ẩn dật sâu kín". Có người bảo rằng: "Trong rừng lớn có một người khác lạ, tự xưng là Sa-môn, có sức học sâu mạnh, nay hiện lắng ở nơi sâu kín đã lâu vậy. Nếu vị ấy chẳng tỏ rõ các pháp, hợp đức, thì đâu có thể sống được như vậy ư?". Vua nghe thế, đích thân đi đến núi rừng tìm kiếm thỉnh mời. Vị Sa-môn ấy đáp rằng: "Tôi vốn người ở xứ Nam Ấn Độ làm du khách đến nương náu nơi đây, khả năng học nghiệp cạn cợt, sợ chẳng như điều vua nghe, song xin vâng thừa ý chỉ, không dám chối từ. Nhưng đối luận không thua, xin được tạo dựng ngôi già lam để nhóm tập chư tăng xiển dương tán thán Phật pháp". Vua nói: "Kính nghe điều đó, không dám trái đức!". Vị Sa-môn ấy vâng nhận sự thỉnh mời đi đến luận trường. Vị ngoại đạo đó khi ấy nên xướng chính tông của mình có hơn ba vạn lời, nghĩa lý sâu xa văn từ rộng lớn, bao hàm cả danh tướng, bủa khắp thấy nghe. Vị Sa-môn ấy nghe qua một lượt rốt cùng trông xem từ nghĩa không sai nhầm, dùng vài trăm lời biện minh để giải thích đó. Nhân đó hỏi về điểm cùng cực của chánh tông, vị ngoại đạo đó cùng cụt ngôn từ khuất nghĩa ấy bèn mang tủi nhục mà rút lui. Vua rất kính trọng tài đức của Sa-môn ấy nên tạo dựng ngôi già lam ấy. Từ đó về sau mới hoằng dương Phật pháp. Bên cạnh ngôi già lam đó cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Xưa kia đức Như Lai từng ở nơi đó bảy ngày giảng pháp khai dẫn. Bên cạnh đó lại có ngôi tinh xá là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Và có vài ngôi Tốt-đổ-ba đều là những nơi xưa kia đức Như Lai từng đến giảng nói pháp, do vua Vô Ưu tạo dựng.

Từ đó theo hướng tây nam đi hơn 700 dặm đến nước Ô Trà (thuộc Bắc Ấn Độ).

9. NƯỚC Ô TRÀ.

Nước Ô Trà chu vi rộng hơn 7000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Đất đai mầu mỡ lúa thóc tươi tốt, các thứ trái quả lớn hơn so với các nước, cỏ lạ hoa quý lắm nhiều khó thể nêu thuật, khí hậu ấm nóng, phong tục con người mạnh dữ. Con người dáng mạo khôi ngô, nhan sắc đen sạm, nói năng ngôn từ phong thái điều nhã có phần khác so với các nước xứ Trung Ấn Độ. Khéo ham thích tập học không mỏi mệt, phần nhiều kính tin Phật pháp, có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa, có khoảng 50 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Có hơn 10 ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng đều là những nơi xưa kia đức Như Lai từng đến giảng nói pháp. Ở cảnh vức phía tây nam nước đó, trong núi hơn ngôi Tăng-già lam Bổ Sáp Ba Kỳ Ly. Ở đó có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá rất nhiều linh dị, hoặc đến những ngày trai có lúa tỏa phóng ánh sáng, nên các hàng tịnh tín xa gần đều tụ hội mang theo lọng hoa kỳ diệu đua nhau cúng dường, để bày mâm phía dưới, thế bình bát úp phủ phía trên. Đem cây lọng hoa cắm đặt đó bèn đứng như đá nam châm hút kim vậy. Từ đó về phía tây bắc trong ngôi già lam cũng tại núi có ngôi Tốt-đổ-ba có những sự khác lạ cũng đồng như trước. Cả hai ngôi Tốt-đổ-ba đó do quỷ thần tạo dựng nên có sự kỳ đặc như vậy.

Ở cảnh vức phía đông nam nước đó gần bãi biển lớn có thành Chiếc Lợi Bát Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Phát Hành) chu vi rộng hơn 20 dặm, các hàng thương nhân đi vào biển hay lữ khách phương xa đều vào thành đó dừng nghỉ giữa đường. Thành đó bền bỉ cao vợi có lắm nhiều vật báu kỳ lạ. Phía ngoài thành theo thứ lớp có năm ngôi già lam, đài các cao lớn, tôn tượng đẹp xinh kỳ công. Từ đó về phía nam đến nước Tăng-già-la cách khoảng hơn vài vạn dặm giữa đêm tĩnh lắng xa trông nhìn lại trên ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ răng của đức Phật có châu ngọc báu sáng rực xếp lớp như treo đèn đốt sáng.

Từ đó theo hướng tây nam đi vào trong rừng lớn đi hơn 1200 dặm đến nước Cung Ngự Đà (thuộc Đông Ấn Độ).

10. NƯỚC CÔNG NGỰ ĐÀ.

Nước Công Ngự Đà chu vi rộng hơn ngàn dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, bến bãi gần góc biển, núi đồi đan xen. Đất đai ẩm thấp, lúa thóc gieo trồng thời vụ. Khí hậu ấm nóng, phong tục con người mạnh mẽ nóng nảy, thân hình to lớn dáng mạo đen sạm, hơi có phần lễ nghĩa, không lắm dối trá. Đến như văn tự đồng như các nước ở Trung Ấn Độ, nói năng phong thái nhã điệu hơi có phần khác. Dân chúng sùng kính ngoại đạo, không tin Phật pháp. Có hơn trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo có hơn vạn vị. Trong cảnh vức nước đó có vài mươi khu thành nhỏ tiếp liền đảnh núi, gắn cùng biển cả. Thành quách đã bền chắc cao vợi. Binh lính lại quả cảm oai hùng, nên các nước láng giềng không dám cường địch. Đất nước gần liền bãi biển nên có nhiều vật quý báu kỳ lạ như ốc trai ngọc ky, và lấy đó làm vật dụng đổi chác. Xứ đó là nơi sản sinh loài voi lớn sắc xanh cưỡi vượt thấu đến xa. Từ đó theo hướng tây nam vào đồng hoang trống lớn, lại vào rừng sâu có lắm cây gỗ to lớn che phủ cả ánh mặt nhật, đi khoảng 1400-1500 dặm đến nước Yết Lăng Già (thuộc Nam Ấn Độ).

11. NƯỚC YẾT LĂNG GIÀ.

Nước Yết Lăng Già chu vi rộng hơn 5000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Lúa thóc gieo trồng thời vụ, hoa cỏ có lắm nhiều, rừng chằm liên tiếp dài cả vài trăm dặm. Là xứ sản sinh loài voi sắc xanh, các nước láng giềng lấy làm quý lạ. Khí hậu ấm nóng, phong tục con người thô tháo hung bạo, tánh khí phần nhiều hẹp hòi bạo ác, song chí tiết còn có tín nghĩa. Nói năng nhẹ nhanh âm điệu chất thực chính xác, từ chỉ phong thái có phần khác so với các nước ở xứ Trung Ấn Độ. Hiếm ít người kính tin chánh pháp, phần nhiều tôn sùng theo ngoại đạo. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn 500 vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa thượng tọa bộ. Có hơn trăm ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo rất đông, phần nhiều là đồ chúng của Ni Càn Tử.

Vào thời xa xưa đất nước Yết Lăng Già, dân chúng đông nhiều kề vai tụ hội giăng tay áo thành màn che phủ, có vị tiên nhân chứng đắc ngũ thông nương náu nơi núi hang, có người lấn lướt xúc chạm, vị tiên nhân ấy lùi mất sức thần, bèn dùng chú thuật xấu ác tàn hại dân chúng nước đó, lớn nhỏ không bỏ sót, hiền ngu đều chết mất. Người khỏi tuyệt dứt trải qua thời gian lâu dài. Dần hồi dời đổi chỗ ở nhưng vẫn chưa sung đủ, nên đến nay, tại nước đó, dân hộ còn hiếm ít.

Từ đô thành về phía nam cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước, do vua Vô Ưu tạo dựng, bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Về biên thùy phía bắc cảnh vức nước đó, trên đảnh núi có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá cao hơn trăm thước. Vào thời đầu kiếp lúc con người có được tuổi thọ vô lượng. Khi ấy có vị Độc Giác ở tại đó nhập tịch diệt. Từ đó theo hướng tây bắc vào trong rừng núi đi hơn 1800 dặm, đến nước Kiều-tát-la (thuộc Trung Ấn Độ).

12. NƯỚC KIỀU-TÁT-LA.

Nước Kiều-tát-la chu vi rộng hơn 6000 dặm, núi non bao quanh bốn phía, rừng chằm liên tiếp. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 40 dặm, đất đai mầu mỡ sản sinh lắm thứ lợi nhuận rất lắm. Thôn ấp liền nhau, dân chúng nhà cửa lắm nhiều. Con người hình dáng to lớn, sắc da đen sạm, phong tục cứng mạnh, con người tánh khí mạnh mẽ nóng nảy. Tà chánh đều kính tin, học hành tài nghệ sáng suốt cao vời. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợi. Tôn kính Phật Pháp, nhơn từ đức độ. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có gần vạn vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Có hơn 70 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn.

Từ đô thành về phía nam cách không xa có ngôi già lam xưa cũ, bên cạnh có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó, hiện sức thần thông lớn nhiếp phục các ngoại đạo. Về sau, Bồ-tát Long Mãnh đến ở ngôi già lam đó. Bấy giờ vua nước đó hiệu là Sa Đa Bà Ha (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Dẫn Chánh rất trân quý Bồ-tát Long Mãnh nên bao học gìn giữ cửa nẻo phòng thất. Khi ấy Bồ-tát Đề Bà từ nước Chấp Sư Tử đến cầu xin luận nghị, nói với người giữ cửa rằng: "Tôi mong được cùng bái yết (Bồ-tát Long Thọ)". Người giữ cửa bèn vào trình bạch. Bồ-tát Long Thọ đã nhã biết danh tiếng của Bồ-tát Đề Bà, nên đưa một bát đựng nước đầy và bảo đệ tử rằng: "Ngươi đem bát nước này ra bày cho người kia (Bồ-tát Đề Bà)". Bồ-tát Đề Bà thấy bát nước bèn chỉ im lặng mà ném cây kim vào bát nước. Vị đệ tử ấy bưng bát nước mà hoài nghi trở vào. Bồ-tát Long Mãnh hỏi rằng: "Người ấy nói gì chăng?". Vị đệ tử ấy đáp: "Người ấy chỉ im lặng không nói gì, ném cây kim vào bát nước mà thôi". Bồ-tát Long Mãnh bảo: "Trí tuệ thay, người ấy! Ta biết rõ căn cơ tinh thần người ấy xác thực là bậc Á Thánh, đức lớn như thế, hãy nhanh ra bảo người ấy vào đây". Vị đệ tử ấy hỏi: "Vậy nghĩa là sao? Người ấy không nói năng gì mà đại sư khéo biện rõ về đó ư?". Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Phàm, nước thì tùy đồ vật chứa đựng hình thể vuông tròn, theo vật đục trong mà lan tràn không ngăn ngại, lắng đượm chẳng thể lường, khắp đầy mà nêu bày đó sánh như trí của ta học thấu khắp cùng. Người ấy ném cây kim bát nước hẳn lặn tới đáy, nên đó là người phi thường, nên gấp chóng vời vào đây!". Và, Bồ-tát Long Mãnh vốn phong thái khuôn phép khiến mọi người kính sợ, chỉnh túc mọi vật. Mọi người muốn nói năng đàm luận thảy đều cúi ngẩng đầu. Bồ-tát Đề Bà vốn kính trọng phong huy đó, từ lâu đã mong muốn đến thỉnh hỏi điều lợi ích mới muốn đến thọ học. Trước sợ cơ thần, nhã sợ oai nghi. Lúc vào phòng thất đứng kề bên tòa đàm nói sâu mầu trọn ngày, ngôn từ nghĩa lý trong suốt cao siêu. Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Thật là kẻ hậu học thông cùng cả thế gian, khéo biện sáng tỏ xưa trước. Ta nay già sau, gặp được bậc anh tài như ông thật như nước rót bình, có nơi gởi gấm trao đèn nối đuốc không dứt tuyệt. Sự hoằng tuyên giáo pháp thật rất mong nhờ con người như ông, may có khả năng đối trước pháp tịch nhã đàm huyền áo". Bồ-tát Đề Bà nghe bảo vậy, trong tâm riêng tự kiêu phụ, sắp mở nghĩa phủ, trước rảo quanh vườn biện luận, nêu bày lời đầu, ngưỡng trông thấy nghĩa lý thất thật, bỗng thấy oai nghi dung chỉ của Bồ-tát Long Mãnh, bèn quên lời ngậm miệng, lánh mặt khỏi pháp tịch dẫn bày tự trách, bèn cầu xin thọ học. Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Hãy ngồi lại đây, nay sắp trao cho ông diệu lý chí chân, giáo pháp chất thật của đấng pháp vương". Bồ-tát Đề Bà liền gieo cả năm vóc xuống đất, nhất tâm quy mạng, thưa rằng: "Từ nay trở về sau cúi xin vâng theo sự chỉ dạy!".

Bồ-tát Long Mãnh khéo thông rành về dược thuật tự ăn dùng phẩm vật bổ dưỡng sinh mạng tuổi thọ kéo dài cả vài trăm năm, chí khí dung mạo không suy lão. Vua Dẫn Chánh đã được diệu dược ấy tuổi thọ cũng được vài trăm năm. Vua có người con trẻ nhỏ nói cùng với mẹ rằng: "Đến lúc nào con đây mới được nối tiếp ngôi vua?". Mẹ bảo rằng: "Lấy sự ở ngày nay mà xét xem thì kỳ hạn ấy chưa thể có. Bởi vì phụ vương của ông tuổi thọ có thể đến vài trăm năm, khi ấy con cháu thảy đều già cả cũng đã lắm nhiều. Đó là điều do phước lực của Bồ-tát Long Mãnh gia trợ giúp dược thuật mà cảm nên. Đến lúc nào Bồ-tát Long Mãnh tịch diệt thì phụ vương của ông mới qua đời! Bồ-tát Long Mãnh là bậc trí tuệ rộng xa, tâm từ bi sâu dày, chu cấp cho các loài quần sinh, xem thân mạng chỉ như là vật thừa. Nay ông nên sang đó thử cầu xin cái đầu. Nếu toại được chí nguyện ấy, thì điều ước của ông hẳn sẽ thành". Vương tử vâng theo sự chỉ bảo của mẹ, đến ngôi già lam đó, người giữ cửa kính sợ nên vương tử được vào tự tại. Khi đó Bồ-tát Long Mãnh vừa đang tán tụng kinh hành, bỗng thấy vương tử, bèn dừng đứng mà bảo rằng: "Đêm nay có nhân duyên gì mà quá bước đến tăng phường?". Vương tử vừa như nguy ác như kinh sợ, nhanh vội bước đến mà đáp rằng: "Tôi vâng theo lời bàn thừa của từ mẫu, nói bàn về các bậc sĩ tu hạnh cấp xả, vì là hàm sinh đều quý mạng. Kính cáo cách ngôn chưa có nói đến xem thường xả bỏ báo thân thí cho kẻ muốn mong cầu. Từ mẫu tôi bảo là: "Không phải như vậy. Những bậc thiện thệ ở khắp mười phương, các đức Như Lai trong ba đời, từ lúc xa xưa mới đầu phát tâm cho đến khi chứng quả, chuyên cần mong cầu Phật đạo, tu tập giới nhẫn, hoặc ném bỏ thân mình cho thú vật ăn, hoặc xẻo lót thịt đùi để cứu chim bồ câu, như vua Nguyệt Quang thí đầu cho vị Bà-la-môn, vua Từ Lực cấp máu cho quỷ Dược Xoa đói uống, v.v..., những sự đại loại như vậy thật lắm nhiều khó nêu bày hết đủ. Những bậc mong cầu giác ngộ trước đời nào không có". Nay Bồ-tát Long Mãnh dốc chí cao ấy, tôi có sự mong cầu một cái đầu người vì cần dùng, chiêu mộ đã lâu, mà chưa có người thí xả cho. Muốn hành hung bão giết hại thì tội lụy rất nhiều, ngược hại kẻ không tội thì dơ bẩn đức hạnh rõ bày. Chỉ có Bồ-tát tu tập Thánh đạo, xa mong cầu quả Phật, tâm từ đượm nhuần các loài hàm thức, ân huệ ban cấp không cùng, khinh thường mạng sống như bọt nổi, coi rẻ thân hình tợ gỗ mục. Chẳng trái với bản nguyện, xin hứa thuận cho điều mong cầu! Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Thật tốt lành thay lời nói ấy của ông! Tôi mong cầu quả vị Phật Thánh, tôi tập học hạnh năng thí xả của Phật. Xem thân này chỉ như vọng hưởng, xem thân này chỉ tợ bọt bóng nổi trôi, lưu chuyển trong bốn loài sáu đường, xưa trước đã từng khế hợp với thệ nguyện sâu rộng, chẳng trái với mọi vật mong cầu. Nhưng nay đối với vương tử có một điều không thể được. Đó là gì? Như thân mạng tôi đã dứt thì phụ thân vương tử cũng mất". Vương tử nói rằng: "Nếu đoái hoài với ý ấy thì ai là người có thể giúp đây?".

Bồ-tát Long Mãnh bồi hồi trông nhìn thấy điều mong cầu dứt tuyệt mạng, bèn lấy lá cỏ tranh khô, tự cắt lấy cổ mình như kiếm bén cắt đứt, thân và đầu mỗi phần lìa một nơi. Vương tử trông thấy thế rồi kinh sợ tuôn bỏ chạy đi. Người giữ cửa bèn tấu trình nói bày đầy đủ đuôi đầu. Vua Dẫn Chánh nghe thế buồn cảm, quả nhiên cũng băng hà.

Từ nước đó về phía tây nam cách hơn 300 dặm đến núi Bạt La Mạt La Kỳ Ly (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hắc Phong) cao vợi nổi trội đảnh ngọn chót vót hiểm nguy, đã không hang cốc ven sườn, y nhiên tợ toàn vùng đá. Vua Dẫn Chánh vì Bồ-tát Long Mãnh mà đục khoét bên trong núi đó tạo lập ngôi già lam. Cách núi xa khoảng 10 dặm đục mở con đường rỗng, đến dưới chân núi ngửa trông nhìn lên đục xẻ đá, bên trong thì làm hành lang đi bộ dài, đài cao trùng các, mỗi cái có năm tầng, mỗi tầng có bốn viện đều xây dựng tinh xá, mỗi nơi đều chú đúc tôn tượng bằng vàng, hình lượng đồng như thân đức Phật, đẹp xinh hết mực của tư duy khéo léo. Ngoài ra, các thứ trang nghiêm chỉ chỉ trang trí toàn bằng vật báu vàng ròng. Từ trên ngọn núi cao gần như suối bay trút đổ, dòng nước bao quanh trùng các, giao dãi khắp hiên nhà. Đục sâu cách ngoài hang đặt đèn soi sáng trong phòng nhà. Mới đầu vua Dẫn Chánh tạo dựng ngôi già lam đó, sức người đã cùng kiệt khổ nhọc, kho đụn cũng hết của cải, song công việc chưa được một nửa, trong tâm vua rất lo buồn. Bồ-tát Long Mãnh mới hỏi rằng: "Cớ sao đại vương như có vẻ lo buồn gì vậy?". Vua Dẫn Chánh nói: "Tôi vận khởi đại tâm, muốn tạo dựng thắng phước, mong đó được vĩnh viễn kiên cố để chờ đợi đến lúc đức Từ Thị xuất hiện nơi đời. Nhưng công việc chưa hoàn thành mà của cải sử dụng đã hết, thường nghĩ nhớ buồn hận đó, ngồi mà chờ đợi tháng ngày!". Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Đại vương chớ phải lo buồn, tạo phước thiên ưu thắng, lợi ích đó chẳng cùng. Có phát khởi thệ nguyện lớn, chớ lo ngại không ai hỗ trợ. Ngày nay trở về cung, đại vương sẽ được vô cùng hoan lạc, sáng sớm mai ra xét xem nơi núi đồng rồi đến đây để bàn tính việc tạo dựng". Vua Dẫn Chánh đã nhận sự chỉ bảo ấy rồi, kính lo chu toàn. Bồ-tát Long Mãnh vận dụng sức thần diệu dược nhỏ giọt các tảng đá lớn đều biến làm thành chất vàng ròng. Vua Dẫn Chánh đi ra trông xem, thấy vàng, trên miệng cùng vui mừng chúc tụng, rồi xoay xa giá đến nơi quỷ thần dụ hoặc, lúc đến trong núi rừng thấy toàn vàng đống". Bồ-tát Long Mãnh bảo rằng: "Không phải quỷ thần dụ hoặc đâu. Đó là do sự chí thành cảm ứng nên có vàng ấy. Đại vương nên tùy thời lấy dùng giúp đỡ để hoàn thành công nghiệp ưu thắng". Vua Dẫn Chánh bèn vì tạo dựng, đến lúc công việc hoàn thành, vàng vẫn còn thừa. Do đó ở trong năm tầng các mỗi mỗi đều có chú đúc bốn tôn tượng lớn bằng vàng, vẫn còn dư thừa, sung chất vào trong các kho khố. Và nhóm tập ngàn vị tăng đến ở trong ngôi già lam đó lo việc lễ tụng. Bồ-tát Long Mãnh đem kho tàng giáo pháp của một đời đức Như Lai giảng nói. Các bộ luận do chư vị Bồ-tát diễn thuật, nhóm tập từng bộ riêng biệt cất chứa trong đó. Nên ở tầng các thứ nhất trên cùng là nơi để thiết trí tôn tượng đức Phật và các kinh luận. Tại tầng thứ năm dưới cùng là để các hàng tịnh nhân cư sĩ ở và cất chứa mọi thứ vật dụng của cải, v.v... còn ba tầng các khoảng giữa là nơi phòng thất của chúng tăng sinh hoạt. Nghe các bậc lão thành nói rằng: "vua Dẫn Chánh tạo dựng ngôi già lam đó đến lúc hoàn tất. Tính về muối các người thợ ăn dùng mua mất hết chín câu chi (câu chi tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Ức) tiền vàng. Về sau trong chúng tăng có sự phân tranh dữ dội, dẫn đến vua bình nghị. Khi ấy các hàng tịnh nhân nói cùng với nhau rằng: "Chư tăng nổi dậy phân tranh mở lời bàn luận trái nhau, hẳn khiến người hung xấu xét dò lỗ hổng mà phá hoại ngôi già lam". Khi đó trùng các trở lại chống cự xua đuổi chư tăng. Từ đó trở đi không còn có tăng chúng. Từ xa trông nhìn đến đảnh núi chẳng biết cửa nẻo nơi nào. Có lúc đưa dẫn người khéo giỏi phương thức vào bên trong chữa trị bệnh tật. Nhưng toàn mở mắt ra vào, chẳng biết đường đi.

Từ đó, đi trong rừng lớn theo hướng nam cách hơn 900 dặm đến nước Án Đạt La (thuộc Nam Ấn Độ).

13. NƯỚC ÁN ĐẠT LA.

Nước Án Đạt La chu vi rộng hơn 3000 dặm. Đô thành lớn của nước đó hiệu là Bình Kỳ La chu vi rộng hơn 20 dặm. Đất đai mầu mỡ, lúa thóc tươi tốt lắm nhiều, khí hậu ấm nóng, phong tục con người cứng mạnh hung bạo, nói năng từ điệu khác với các nước xứ Trung Ấn Độ. Còn về văn tự phép tắc thì phần lớn có sự tương đồng. Có hơn 20 ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị. Có hơn 30 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo rất đông nhiều.

Bên cạnh đô thành Bình Kỳ La cách không xa có ngôi già lam lớn, trùng các tầng đài chế tạo khắc chạm rất mực kỳ công, tôn tượng Phật Thánh oai dung xinh đẹp. Phía trước ngôi già lam đó có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá cao vài trăm thước đều do Đại A-la-hán A Chiếc La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Sở Hành) tạo dựng.

Sau chùa A La Hán Sở Hành về hướng tây nam chẳng bao xa lại có một bảo tháp do vua A Dục xây. Nơi đây ngày xưa Đức Như Lai đã thuyết pháp, luận đại thần thông, độ vô lượng chúng.

Từ ngôi già lam của A-la-hán Sở Hành tạo dựng. Về hướng tây nam đi hơn 20 dặm đến một quả núi đơn lẽ. Trên đảnh núi có ngôi Tốt-đổ-ba bằng đá. Xưa kia Bồ-tát Trần Na đến ở tại đó tạo luận Nhân Minh. Bồ-tát Trần Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đồng Thọ). Sau khi đức Phật đã nhập niết bàn, nương thừa di phong mà xuất gia, là bậc trí nguyện rộng lớn, tuệ lực sâu bền, xót thương ở đời không nơi nương tựa, nghĩ suy muốn hoằng dương Thánh giáo, nên tạo luận nhân minh, lời sâu lý rộng. Các hàng học giả hao tốn lắm công sức mà khó thành học nghiệp, Bồ-tát Trần Na bèn ẩn vết nơi núi sâu, gá thần trong tịch định, quán xét sự lợi hại của trước thuật, dò xem sự ít nhiều về văn nghĩa. Khi ấy hang núi chấn động tiếng vang, mây khói bủa trùm khắp cả. Thần núi bưng nâng Bồ-tát lên cao vài trăm thước, và xướng lời rằng: "Xưa kia đức Phật Thế Tôn dùng phương tiện quyền biến giáo hóa dẫn dắt mọi vật, dùng tâm từ bi giảng nói luận Nhân Minh, bao gồm tất cả diệu lý, nghiên cứu sâu sắc lời huyền. Từ khi đức Như Lai tịch diệt, đại nghĩa dần ẩn mất. Nay đây, có Bồtát Trần Na là người có được phước tuệ sâu xa, rất thấu đạt Thánh chỉ. Do đó, luận Nhân Minh lại được xiển dương ở ngày nay". Bồ-tát Trần Na mới tỏa phóng ánh sáng lớn soi chiếu vào nơi tối tăm, khi ấy vua nước đó rất sinh tâm cung kính, thấy ánh sáng đó, cùng nghi là Bồ-tát Trần Na nhập định kim cang, nhân đó thỉnh cầu Bồ-tát Trần Na chứng quả Vô Sinh. Bồ-tát Trần Na bảo rằng: "Tôi nhập định, quán xét muốn giải thích nghĩa kinh sâu mầu, tâm mong cầu quả vị chánh giác, chẳng nguyện chỉ ở quả vị vô sinh". Vua nước đó nói: "Quả vị vô sinh, các Thánh đồng vui thích ngưỡng mộ, đã đoạn dục trong ba cõi, thông suốt trí tam minh. Đó là việc lớn, nguyện mau đắc độ". Khi ấy Bồ-tát Trần Na vui nhận sự thỉnh cầu của vua nước đó, vừa muốn chứng nhận Thánh quả vô học. Lúc đó, Bồ-tát Diệu Cát Tường nhận biết mà than tiếc đó, muốn cùng cảnh tỉnh răn bảo, mới khảy móng tay khai mở ngộ mà bảo cùng Bồ-tát Trần Na rằng: "Thật tiếc thay! Cớ sao xả bỏ tâm rộng lớn mà làm theo chí ý yếu kém, tự ôm hoài riêng tốt lành cho chính mình mà bỏ hạnh nguyện rộng cứu tế cùng khắp? Muôn làm điều thiện lợi, phải rộng hoằng truyền giảng nói về luận Du Già Sư Địa do Bồ-tát Từ Thị tác thuật, dẫn dắt khuyên dụ hàng hậu học lợi ích ấy rất lớn vậy". Bồ-tát Trần Na bèn kính nhận lời chỉ bảo dạy răn đó và lo chu toàn, từ đó đàm luận tư duy nghiên tầm sâu rộng về luận Nhân Minh, còn sợ các hàng học giả hãi sợ về văn nghĩa vi diệu, ngôn từ ước lược, mới nêu gồm đại nghĩa, bao quát vi ngôn, tạo luận Nhân Minh để dẫn dắt hàng hậu tiến. Từ đó trở về sau lại tuyên dương luận Du Già Sư Địa, các hàng môn nhân đệ tử thành đạt hạnh nghiệp lớn, rất có tiếng tăm ở nơi đời.

Từ trong rừng hoang đó theo hướng nam đi hơn ngàn dặm đến nước Đà La yết Trách Ca (cũng còn gọi là nước Đại An Đạt La, thuộc Nam Ấn Độ).

14. NƯỚC ĐÀ NA YẾT TRÁCH CA.

Nước Đà Na Yết Trách Ca chu vi rộng hơn 6000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 40 dặm. Đất đai mầu mỡ, lúa thóc lắm nhiều. Do vì hoang dã đã lâu dài nên thôn ấp hiếm ít dân chúng ở. Khí hậu ấm nóng, con người dung mạo đen sạm, tánh khí mạnh mẽ nóng nãy, khéo léo ham học nghề nghiệp. Những ngôi già lam xếp bày theo thứ lớp đã hoang tàn lắm nhiều, chỉ còn hơn 20 ngôi. Chư tăng có hơn 1000 vị, phần nhiều đều tập học giáo pháp đại chúng bộ. Có hơn trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo rất đông nhiều.

Phía đông đô thành, tựa men vào núi có ngôi Tăng-già lam Phất Bà Thế La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đông Sơn) ở phía tây đô thành cũng men tựa vào núi có ngôi Tăng-già lam A Phạt La Thế La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tây sơn), do tiên vương nước đó vì đức Phật mà tạo dựng nên. Moi đạo thông đường, xẻ sườn núi đặt các, hành lang dẫn bộ dài gối đầu vào hang thông liền với đảnh núi, có linh thần cảnh vệ trông coi, là nơi các bậc Thánh hiền đến nương nghỉ. Từ sau khi đức Thế Tôn đã diệt độ trong khoảng 1000 năm, mỗi năm có cả ngàn vị phàm phu tăng đồng vào đó an cư, đến ngày giải chế an cư đều chứng quả A-la-hán, bèn dùng sức thần thông vượt giữa hư không mà đi. Qua sau ngàn năm đó, các hàng chư tăng phàm Thánh đồng chung ở. Từ trăm năm trở lại đây không còn có chư tăng, mà thần núi biến hiện thân hình, hoặc làm lang sói, hoặc làm khỉ vượn, v.v... khủng bố mọi người đi đường qua lại, nên trở thành hoang vắng, tuyệt không dấu vết chư tăng.

Từ đô thành về phía nam cách không xa có một hang núi lớn. Xưa kia luận sư Bà Tỳ Phệ Già (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thanh Biện) ở tại cung A Tố Lạc đến đó chờ đợi đức Bồ-tát Từ Thị xuất hiện nơi đời thành Phật. Luận sư Thanh Biện là người nhã lượng rộng xa, chí đức sâu sắc, bên ngoài hiện bày sắc phục của tăng khư, song bên trong mở rộng giáo học của Bồ-tát Long Mãnh, nghe Bồ-tát Hộ Pháp ở nước Ma Yết Đà tuyên dương giáo pháp, đồ chúng học trò có cả ngàn vị, rất muốn đàm luận nghĩa đạo, nên luận sư Thanh Biện chống tích tìm sang. Vừa đến thành Ba Tra Ly, biết Bồ-tát Hộ Pháp đang ở tại cây Bồ-đề, luận sư Thanh Biện mới bảo vị đệ tử rằng: "Ông nên đến cây Bồ-đề, nơi Bồ-tát Hộ Pháp đang ở tại đó, theo như lời ta mà trình bày rằng: "Bồ-tát tuyên dương di giáo, dẫn dắt quần mê, ta đây kính ngưỡng đức hạnh, rỗng rang cõi lòng đã lâu lắm, nhưng mà ước nguyện xưa chưa thành quả thì bèn trái với lễ yết. Vì đối với cây Bồ-đề, ta nguyện chẳng thấy rỗng không, hể thấy hẳn phải có quả chứng xứng là bậc thầy của trời người". Bồ-tát Hộ Pháp bảo cùng vị đệ tử ấy rằng: "Người đời như huyễn mộng, thân mạng chỉ như bọt bóng nổi trôi. Khát ngưỡng từng ngày chuyên cần thành thực, chưa vội phải đàm nói nghị bàn". Đệ tử ấy đưa tin qua lại trọn không gặp thấy. Khi đã trở về lại nơi đất nước mình, giữa lúc tĩnh lắng mà tư duy rằng: "Nếu chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị thành Phật thì ai là người có thể giải quyết điều nghi của mình". Bèn đối trước tôn tượng Bồ-tát Quán Tự Tại mà trì tụng "Tùy Tâm Đà La Ni". Bỏ ăn, chỉ uống nước trải suốt thời gian ba năm. Bồ-tát Quán Tự Tại mới hiện thân sắc tướng diệu mầu bảo cùng luận sư rằng: "Ông có điều chí nguyện gì ư?". Luận sư Thanh Biện đáp: "Nguyện muốn lưu giữ thân này đợi thấy Bồ-tát Từ Thị thành Phật". Bồ-tát Quán Tự Tại bảo rằng: "Mạng người dòn vỡ", thế gian này chỉ như bọt bóng nổi trôi, nên tu thiện nghiệp ưu thắng, phát nguyện sinh lên cung trời Đổ Sử Đa, ở đó thân gần tham hầu còn nhanh hơn là chờ đợi trông thấy ở thế gian này". Luận sư Thanh Biện nói rằng: "Chí nguyện không thể đoạn dứt, tâm mong cầu đoạn dứt, tâm mong cầu chẳng thể đổi thay". Bồ-tát Quán Tự Tại bảo rằng: "Nếu vậy, nên sang nơi hang núi ở phía nam đô thành của nước Đà Na Yết Trách Ca; chỗ thần Chấp Kim Cang ở mà trì tụng "Chấp Kim Cang Đà La Ni thì sẽ được toại nguyện ấy". Luận sư Thanh Biện mới sang đó trì tụng, ba năm sau, thần Chấp Kim Cang mới nói cùng luận sư rằng: "Ông có điều nguyện gì mà chuyên cần cố gắng như vậy?". Luận sư Thanh Biện đáp rằng: "Tâm nguyện muốn lưu lại thân này chờ đợi Bồ-tát Từ Thị thành Phật, được Bồ-tát Quán Tự Tại chỉ bảo đến đây để cầu thỉnh. Thành đạt ước nguyện của tôi, chính do thần đây ư?". Thần Chấp Kim Cang mới trao phương thuật bí mật, và bảo cùng luận sư rằng: "Trong hang đá này có cung A Tố Lạc, nếu đúng như pháp hành trì cầu thỉnh, thì vách đá thường mở. Khi đã mở thì vào trong đó có thể ở chờ đợi được thấy Bồ-tát Từ Thị vậy". Luận sư Thanh Biện nói: "Ở nơi tối tăm còn không thấy, vậy làm sao biết lúc đức Phật xuất hiện nơi đời?". Thần Chấp Kim Cang bảo rằng: "Đến lúc Từ Thị xuất hiện nơi đời, tôi sẽ cùng báo cho biết". Luận sư Thanh Biện vâng nhận theo lời ấy, chuyên tinh tụng trì trải qua ba năm nữa vẫn như mới đầu không thay đổi ý tưởng, chú nguyện hạt cải để đánh vách hang đá, bỗng nhiên bèn mở rỗng. Khi ấy có cả trăm ngàn vạn người cùng đến trông xem quên cả trở về. Luận sư Thanh Biện dẫm bước lên cửa hang mà bảo rằng: "Từ lâu tôi mong cầu thỉnh nguyện đợi chờ được trông thấy Bồ-tát Từ Thị xuất hiện nơi đời thành Phật, được Thánh linh cảnh tỉnh hỗ giúp nên nay đại nguyện được toại thành. Các người nên có thể vào đây để đồng được trông thấy đức Phật xuất hiện nơi đời". Mọi người nghe nói vậy đều kinh sợ chẳng ai dám giẫm bước lên cửa ấy, mà cho rằng: "Đó là nơi hang ổ của rắn độc, sợ sẽ tan mất thân mạng". Luận sư Thanh Biện lại thêm vài ba phen khuyên nhủ nhưng chỉ có được sáu người theo vào. Luận sư Thanh Biện ngoái nhìn lại mọi người lúc đó và thong dong đi vào. Sau khi vào rồi, vách đá tự nhiên bít lại, mọi người bên ngoài đều oán thán tự trách lỗi lầm của lời nói trước.

Từ đó theo hướng tây nam đi hơn ngàn dặm đến nước Châu Lợi Da (thuộc Nam Ấn Độ).

15. NƯỚC CHÂU LỢI DA.

Nước Châu Lợi Da chu vi rộng khoảng 2400-2500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Đất đai hoang rỗng, đầm chầm hoang vu, nhà người ở hiếm ít, giặc cướp đường từng đoàn lộng hành, khí hậu ấm nóng. Phong tục con người gian dối hung dữ, tánh khí cứng mạnh nóng nãy, rất sùng tín ngoại đạo, các ngôi già lam xưa cũ đều đã đổ nát, lơ sơ hiếm có chư tăng. Có vài mươi ngôi đền thờ trời, phần đông là đồ chúng lõa hình ngoại đạo.

Từ đô thành về phía đông nam cách không xa có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, xưa kia đức Như Lai từng ở nơi đó hiện sức thần thông lớn, giảng nói giáo pháp thâm diệu, nhiếp phục ngoại đạo, hóa độ các chúng trời người.

Từ đô thành về phía tây cách không xa, có một ngôi già lam xưa cũ là nơi xưa kia Bồ-tát Đề Bà cùng luận nghị với vị A-la-hán. Mới đầu Bồ-tát Đề Bà nghe ở ngôi già lam đó có A-la-hán Ốt Đát La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thượng) là vị chứng đắc lục thông có đủ tám pháp giải thoát, bèn từ xa tìm đến trong xem đạo phong nghi phạm. Khi đã đến nơi ngôi già lam đó vào phòng nghỉ của A-la-hán. A-la-hán tu hạnh thiểu dục tri túc chỉ đặt một chiếc sàng tòa, Bồ-tát Đề Bà đã đến nơi không có gì để làm tòa, bèn nhóm nhặt các ngọn lá rơi để ngồi. Vị A-la-hán đó nhập định quá nữa đêm mới xuất. Khi ấy Bồ-tát Đề Bà mới trình bày điều nghi cầu xin quyết trạch vị A-la-hán đó tùy sự cật nạn mà vì giải thích. Bồ-tát Đề Bà men theo tiếng, trở lại chất vấn. Trải qua bảy lược, vị A-la-hán đó tự nhiên ngậm miệng không đối đáp, lén vận dụng sức thần thông lên cung trời Đổ Sử Đa hỏi Bồ-tát Từ Thị. Bồ-tát Từ Thị vì đó mà thích nạn và cũng nhân đó mà bảo rằng: "Bồ-tát Đề Bà là người đã trải qua nhiều đời kiếp tu hành. Ở trong thời Hiền kiếp sẽ tiếp nối ngôi vị thành Phật, chẳng phải điều ông biết được, nên phải rất kính lễ". Chỉ trong khảy móng tay, vị A-la-hán trở về lại sàng tòa, và mới đè nén và xiển dương diệu nghĩa, vạch chiếc vi ngôn. Bồ-tát Đề Bà nói rằng: "Đó hẳn là sự thích nạn do Thánh trí của Bồ-tát Từ Thị, chứ đâu phải khả năng tỏ rõ rốt ráo của nhân giả chứ?". Vị A-la-hán đó nói: "Thật đúng vậy. Đó là diệu chỉ của đức Như Lai". Và khi ấy bèn lánh rời khỏi sàng tòa lễ tạ và rất kính trọng thán phục.

Từ đó theo hướng nam vào trong rừng hoang đi khoảng 1500-1600 dặm đến nước Đạt La Tỳ Trà (thuộc Nam Ấn Độ).

16. NƯỚC ĐẠT LA TỲ TRÀ.

Nước Đạt La Tỳ Trà chu vi rộng hơn 6000 dặm. Đô thành lớn của nước đó hiện là Đãi Chí Bổ La, chu vi rộng hơn 30 dặm, đất đai màu mỡ lúa thóc lắm nhiều và lắm hoa quả, là nơi sản sinh các vật báu. Khí hậu ấm nóng, phong tục con người mạnh mẽ nóng nảy, rất dốc lòng với tín nghĩa, cao chuộng nhận biết rộng, mà nói năng và văn tự có phần hơi khác so với các nước xứ Trung Ấn Độ. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị đều tuân theo tập học theo giáo pháp của thượng tọa bộ. Có hơn 80 ngôi đền thờ trời và lắm nhiều đồ chúng lõa hình ngoại đạo. Xưa kia, lúc còn tại thế, đức Như Lai từng đến nước đó giảng nơi giáo pháp hóa độ mọi người, nên tại nơi các Thánh tích vua Vô Ưu đều có tạo dựng các ngôi Tốt-đổ-ba. Thành Đãi Chí Bổ La tức là thành nơi quê hương sinh sống của Bồ-tát Đạt Ma Ba La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hộ Pháp). Bồ-tát vốn người con đầu của quan đại thần nước đó. Từ thuở bé nhỏ đã ôm hoài nhã lượng, đến lúc trưởng thành lại càng rộng xa. Vừa đến tuổi 20, vương phi ban giáng xuống, trong đêm lễ diên mà cõi lòng lo buồn thảm thiết, bèn đối trước tôn tượng đức Phật ân cần cầu thỉnh. Do sự chí thành mà cảm ứng được vị thần mang đi trốn lánh xa cách đó khoảng vài trăm dặm, đến ngồi trong điện Phật ở một ngôi già lam tại núi. Có vị tăng mở cửa, thấy thiếu niên ấy bèn nghi là kẻ trộm, lại cật hỏi từ đâu đến, Bồ-tát mới đem cả nỗi lòng nói bày, và nhân đó cầu xin xuất gia. Chúng tăng đều kinh dị bèn hứa thuận với chí ý ấy. Vua nước đó ban lệnh tìm kiếm khắp xa gần, mới biết Bồ-tát được thần mang đưa lánh xa cõi trần. Vua biết như vậy rồi càng thêm sự kính trọng khác lạ. Từ sau khi đã xuất gia, Bồ-tát dốc chí chuyên cần cầu học. Khiến vang vọng phong thái phép tắc như ghi bày ở các nơi trước.

Từ đô thành về phía nam cách không xa có một ngôi già lam lớn. Các bậc thông minh tài duệ trong nước nhà đều ở tại đó đông nhiều. Ở đó có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước do vua Vô Ưu tạo dựng. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó giảng nói giáo pháp nhiếp phục ngoại đạo, rộng hóa độ các hàng trời người. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành.

Từ đó theo hướng nam đi hơn 3000 dặm đến nước Mạt La Củ Tra (cũng còn gọi là nước Chỉ Mạt La, thuộc Nam Ấn Độ).

17. NƯỚC MẠT LA CỦ TRA.

Nước Mạt La Củ Tra chu vi rộng hơn 5000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 40 dặm. Đất ruộng nhiễm muối mặn nên mặt địa lợi chẳng có gì. Bến bãi gần kề biển, do vậy các vật quý báu phần nhiều nhóm tụ ở nước đó. Khí hậu nóng cháy, con người phần nhiều sắc da đen sạm, chí tánh cứng mạnh nóng nãy. Tà chánh đều tôn sùng, chẳng chuộng tập học các nghề nghiệp, chỉ khéo đuổi theo vật lợi. Những nền móng của các ngôi già lam xưa cũ còn lại thật lắm nhiều, nhưng các ngôi già lam hiện còn thì hiếm ít và chư tăng cũng rất ít. Có vài trăm ngôi đền thờ trời. Các hàng dị đạo rất đông nhiều, phần nhiều là đồ chúng lõa hình ngoại đạo.

Từ đô thành về phía đông cách không xa có ngôi già lam xưa cũ, sân nhà đã hoang nát, nền móng vẫn hiện còn, do em của vua Vô Ưu tạo dựng. Phía đông ngôi già lam đó có ngôi Tốt-đổba do vua Vô Ưu tạo dựng, nền móng cao vợi tuy đã sụp đổ nhưng hình thế bát úp vẫn hiện còn. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó giảng nói pháp, hiện sức thần thông lớn hóa độ vô lượng chúng. Vì muốn nêu bày sáng tỏ các Thánh tích nên vua Vô Ưu tạo dựng đó, lâu năm thêm thần linh, cầu nguyện bèn toại cảm.

Ở bến bãi biển phía nam nước đó có núi Mạt Thích Da sườn cao đảnh vót, cốc hang thông rỗng khe suối ngầm sâu. Bên trong có giống cây bạch đàn hương, cây chiên đàn nể bà. Loại cây Bạch Đàn không thể dùng riêng. Chỉ vào giữa mùa hạ nắng nóng leo lên trên cao từ xa trông nhìn, cây ấy có rắn lớn quấn quanh, khi ấy mới được đó như cây gỗ ấy có tánh mát lạnh nên rắn quấn ở, đã trông thấy thế rồi dùng cung tên bắn đến làm dấu đến sau ngày đông chí mới chặt lấy dùng. Còn cây Yết bố la hương thân như cây tùng mà lá hoa quả khác biệt. Mới đầu chặt lấy thì ẩm ướt còn chưa có mùi thơm, tướng trạng như vân mẫu sắc màu tợ băng tuyết. Ở Trung Hoa gọi đó là Hương long não.

Từ núi Mạt Thích Da về phía đông có núi Bố Đát Lạc Ca, đường núi hiểm nguy, hang dốc quanh co. Trên đảnh núi có ao, nước ao đó lắng trong như kiếng soi, dòng chảy đổ vào sông lớn, kéo dòng chạy quanh núi khoảng 20 vòng mới vào Nam Hải. Bên cạnh ao đó có cung trời bằng đá, Bồ-tát Quán Tự Tại thường qua lại dừng nghỉ. Như người có ước nguyện mong trông thấy Bồ-tát chẳng đoái hoài thân mạng, gắng mang nước lên núi, quên cả mọi sự gian nan hiểm trở. Hạng người có khả năng thấu đạt như thế thật hiếm ít. Mà tại dưới núi mọi người ở dốc tâm mong cầu trông thấy, hoặc làm hình tượng Tự Tại Thiên, hoặc làm ngoại đạo bôi tro bụi thân mình, an ủy dẫn dụ người đó toại được ý nguyện.

Từ đó về hướng đông bắc, bên cạnh bờ biển có một khu thành là đường sang đến nước Tăng-giàla ở Nam Hải. Nghe các hàng sĩ tục nói là từ đó vào biển theo hướng đông nam đi hơn 3000 dặm đến nước Tăng-già-la (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là nước Chấp Sư Tử, chẳng thuộc cảnh vức các xứ Ấn Độ).

Đại Đường Tây Vức ký hết quyển mười.

QUYỂN 11

(Nói về 23 nước).

1. Nước Tăng-già La 2. Nước Trà Kiến Na Bổ La

3. Nước Ma-ha Thích Tha.

4. Nước Bạt Lộc Yết Chiếp Bà

5. Nước Ma Lạp Bà

6. Nước A Tra Ly

7. Nước Khế Tra

8. Nước Phạt Lạp Tỳ

9. Nước A-nan Đà Bổ Đà La

10. Nước Tô Thích Tha

11. Nước Cù Chiếc La

12. Nước Ở Xa Diễn Na

13. Nước Trịch Chỉ Đà

14. Nước Ma Hê Thấp Phạt La Bổ La

15. Nước Tín Độ

16. Nước Mậu La Tam Bộ

17. Nước Bát Phạt Đa

18. Nước A Điểm Bà Sí La

19. Nước Lang Yết La.

20. Nước Ba Thích Tư.

21. Nước Tý Đa Thế La

22. Nước A Áng Trà

23. Nước Phạt Thích Noa.

1. NƯỚC TĂNG-GIÀ LA.

Nước Tăng-già-la chu vi rộng hơn 7000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 40 dặm, đất đai mầu mỡ, khí hậu ấm nóng, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, hoa quả lắm nhiều. Nhà cửa dân chúng đông đúc, của cải giàu có. Con người dáng thấp nhỏ sắc da đen sạm, tánh khí mạnh mẽ nóng nãy, ham thích học kính chuộng tài đức, tôn sùng điều thiện, chuyên cần tu tạo phước. Nước đó vốn là bến bãi vật báu, có lắm nhiều thứ trân quý, là nơi quỷ thần nương ở. Về sau, tại Nam Ấn Độ có một vị quốc vương cầu hôn với người con gái nước láng giềng, chọn ngày tốt nghinh đưa về nước, giữa đường gặp phải sư tử, các hàng thị vệ bèn vất bỏ người con gái ấy mà chạy trốn nạn, còn người con gái ấy ngồi trong kiệu giá cam tâm chịu mất mạng. Khi ấy sư tử chúa mang người con gái ấy đi vào trong rừng núi sâu đã ở nơi hang cốc, thường ngày bắt nai hái trái theo thời cung cấp nuôi dưỡng, đã trải qua nhiều năm tháng bèn mang thai sinh ra hai người con một trai một gái, hình dáng đồng như người mà tánh khí thuộc súc vật. Người con trai lớn dần có sức mạnh khỏe đích nổi với thú dữ. Đến năm 20 tuổi trí tuệ con người mới phát, bèn nói với mẹ rằng: "Con đây gọi là gì ư? Cha là loài thú hoang dã, còn mẹ là loài người. Đã chẳng đồng tộc loại làm sao phối ngẫu?". Người con trai ấy mới nói rằng: "Người và thú khác loài, nên mau trốn lánh đi". Người mẹ bảo: "Trước kia, mẹ cũng đã từng trốn lánh mà không được thoát". Người con trai đó về sau theo sư tử cha lên núi vượt non, xét dò mọi chỗ đi ở của cha để có thể trốn lánh nạn. Đã dò xét sư tử cha đi rồi, người con trai đó bèn mang dẫn mẹ và em cùng chạy xuống trong làng ấp của người. Người mẹ bảo: "Chúng ta mỗi tự phải lo cẩn mật, chớ nói ngọn nguồn sự tình, hoặc có người nghe biết sẽ khinh bỉ chúng ta". Khi ấy người mẹ dẫn con về lại nước nhà của cha xưa cũ, thì nước nhà chẳng còn gia tộc, giòng họ đã tiệt mất, bèn đến ở ngụ nơi làng ấp của người. Mọi người ở đó hỏi rằng: "Các người vốn ở nước nào?". Ba mẹ con đáp rằng: "Chúng tôi vốn người nước này, xa lìa đến ở xứ sở khác đã lâu. Nay mẹ con chúng tôi cùng dẫn nhau về quê cũ". Nghe vậy, mọi người đều cùng xót thương mà cung cấp cho mọi thứ. Sử tử chúa kia sau khi trở về không thấy vợ, nghĩ nhớ hai đứa con trai gái. Dần hồi tức giận đã phát bèn ra khỏi hang núi tìm đến nơi làng ấp, gầm gừ gào thét hung bạo, làm hại người và vật, tàn hại sinh loại, người trong làng ấp vừa ra thì bèn bắt giết, nên mọi người phải đánh trống thổi ốc, mang cung cầm mâu đi thành từng đoàn, sau mới thoát khỏi. Vua nước đó lo sợ, dùng nhân từ cảm hóa đó mà chẳng cảm được, mới phóng tung những người săn bắn mong sẽ bắt được sư tử. Đích thân vua dẫn có bốn loại binh lính đông đến vạn người, vây bít quanh rừng chằm dẫm đạp khắp núi hang. Nhưng sự tử gầm rống thì người vật đều lánh sợ. Đã không thể nào bắt được, sau đó vua lại chiêu mộ nếu ai bắt giữ được sư tử đó, dứt trừ họa hoạn cho nước nhà thì sẽ đền đáp, trọng thưởng, kính trọng tán thán công tích. Người con trai đó nghe lệnh ban như thế của vua mới nói với mẹ rằng: "Chúng ta đã đói lạnh rất lắm, nên có thể ra đáp ứng sự chiêu mộ, hoặc như có được gì để cùng nuôi dưỡng nhau". Người mẹ bảo rằng: "Nói vậy không thể được. Kia tuy là súc vật, nhưng còn gọi là cha, đâu thể vì khó, khổ mà trở lại nghịch hại?". Người con trai đó nói rằng: "Người vật khác loài, lễ nghi ở đâu? Đã trái ngược cản trở, tâm này sao an!". Mới giấu con dao nhỏ trong tay áo mà ra đáp ứng sự chiêu mộ. Khi ấy có cả ngàn người vạn kỵ cùng nhóm tụ như mây mốc. Sư tử ngồi xẩu trong rừng, không ai dám đến gần. Người con trai đó đi đến trước, sư tử cha bèn thuần phục, khi ấy thân ái vỗ về lắng quên sự tức giận. Người con trai đó mới nắm dao đâm vào bụng sư tử. Sư tử với lòng từ ái, còn không tức giận oán độc, đành chịu xé rách bụng ôm ngậm khổ mà chết. Vua nước đó bảo: "Người ấy là ai mà có sự kỳ lạ vậy ư?". Đem mọi sự phước lợi mà dẫn dụ, lấy những điều oai mạnh mà chấn động, sau đó người con trai ấy bèn trình bày đuôi đầu đầy đủ, thuật nói rõ về sự tình. Vua bảo rằng: "Trái nghịch thay! Đối với cha mà còn có khả năng giết hại như thế, huống gì với người chẳng thân ư? Chủng tánh súc vật khó thuần, tâm tình hung dữ dễ động. Trừ hại cho dân chúng, công ấy thật lớn vậy, nhưng giết chết mạng cha, đó là nghịch tâm vậy". Bèn trọng thưởng để đền áp công khó đó, nhưng nên thả đi xa để trừ nghịch hại đó thì phép tắc nước nhà không khuyết trái. Lời vua ban nói không hai. Khi ấy liền chỉnh trang hai chiếc thuyền lớn, chất chứa tích trữ nhiều lương thực, lưu giữ người mẹ ở lại tại nước đó chu cấp mọi thứ để thưởng công. Còn hai người con trai gái mỗi người lên một chiếc thuyền, nổi trôi theo sóng gió phiêu bạt. Thuyền người con trai đó trên biển trôi dạt đến bến bãi vật báu đó, thấy lắm nhiều châu ngọc quý giá, bèn dừng ở lại trong đó. Về sau, có các thương nhân đi tìm kiếm vật báu lại đến trong bãi đó. Người con trai đó mới giết hại người thương chủ, lưu giữ lại một người nam một người nữ, lần hồi sinh nở con cháu dần đông nhiều, bèn lập thành vua tôi, sắp đặt trên dưới, dựng đô lập ấp, chiếm cứ cương vức. Vì tiên tổ của họ (tức người con trai đó) bắt giữ được sư tử. Nhân nêu bày công tích xưa trước mà đặt thành tên hiệu nước. Còn thuyền người con gái kia, trôi dạt đến phía tây nước Ba Thích Tư, do quỷ thần mị hoặc bèn sản sinh một đàn con gái, nên ngày nay gọi đó là nước Tây Vương Nữ vậy. Nên người ở nước Chấp Sư Tử dung mạo thấp nhỏ đen sạm, gò má vuông trán lớn, tánh tình hung bạo nóng nãy, chịu nhẫn ngậm độc, đó cũng bởi chúng tánh còn sót lại của loài thú dữ, nên người nước đó phần nhiều đều mạnh mẽ. Đó là một thuyết nói về khởi nguyên của nước Chấp Sư Tử (Tăng-già La).

Còn theo sự ghi chép trong Phật pháp thì là: xưa kia ở đó là thành sắc lớn của Bảo Châu (châu lục lắm vật báu). Trong đó có 500 La Sát nữ chung sống. Phía trên lầu thành dựng hai cây phướn biểu thị sự tốt xấu. Như có sự tốt lành thì cây phướn tốt lành lay động, có sự xấu xa thì cây phướn xấu xa lay động. Thường dò xét các thương nhân đến Bảo Châu, liền biến thành những người nữ xinh đẹp mang hương hoa, tấu trổi âm nhạc ra nghinh đón ủy an, dẫn dụ vào trong thành sắt, xum họp ca hát vui chơi, thế rồi bắt giam trong chuồng sắt, dần lấy ra ăn thịt uống máu. Bấy giờ tại Thiệm Bộ châu có vị đại thương chủ tên là Tăng-già, có người con tên tự là Tăng-già La. Vì cha đã già yếu nên Tăng-già-la thay thế mọi công việc nhà. Tăng-già-la dẫn 500 thương nhân vào biển tìm kiếm vật báu, theo sóng gió phiêu bạt, bèn gặp đến Bảo Châu. Khi ấy các La Sát nữ trông thấy cây phướn tốt lành lay động, liền mang các thứ hương hoa tấu trỗi âm nhạc ra nghinh đón dẫn dụ vào thành sắt, lúc đó thương chủ (Tăng-già La) cùng với La Sát nữ vương mua vui cùng nhạc hội. Ngoài ra, các thương nhân mỗi mỗi cùng các La Sát nữ phối hợp. Trải qua thời gian khoảng một năm, mỗi mỗi đều sinh được một người con. Các La Sát nữ tình mến cố nhân, muốn dẫn dụ bắt giam vào chuồng sắt, lại dò xét các thương nhân. Lúc ấy, đang đêm ngủ, Tăng-già-la cảm mộng xấu ác, biết hẳn có điềm không tốt lành, lén tìm đường trở về, bỗng gặp đến nơi chuồng sắt mới nghe có tiếng kêu khóc bi thương, bèn leo lên phủ cao mà hỏi rằng: "Ai trói buộc các ngươi mà kêu khóc oán thương như thế?". Những người trong chuồng sắt đáp rằng: "Ông không biết ư? Các người nữ trong thành đều là La Sát. Xưa trước dụ dẫn chúng tôi vào thành cùng mua vui. Ông đã sắp đến nơi chuồng đen tối, chúng tôi dần bị sung vào làm thức ăn nay đã hơn một nửa. Không bao lâu nữa, ông cũng mắc phải họa này!". Tăng-già-la nói: "Vậy phải tính thế nào để thoát khỏi ách nạn?". Các người trong chuồng sắt bảo: "Chúng tôi nghe tại bờ biển có một con ngựa trời, đến đó chí thành cầu thỉnh, ắt có thể cùng được cứu giúp". Tăng-già-la nghe thế rồi, lén báo cùng các thương nhân cùng ngóng trông về bờ biển chuyên tinh cầu cứu. Lúc đó, ngựa trời lại bảo mọi người rằng: "Các ông nên tự bám chắc vào bờm của tôi không được xoay trở lại, tôi sẽ cứu các ông vượt khỏi biển ách nạn, đến Thiệm-bộ-châu về tới quê hương nước nhà!". Các thương nhân vâng theo sự chỉ bảo đó, chuyên nhất không đổi thay bám lấy bờm ngựa. Ngựa trời mới nhảy vọt giữa đường mây, vượt qua bờ biển. Các La Sát nữ bỗng phát giác chồng mình trốn mất, vội báo cho nhau, mỗi mỗi phân chia đường hướng, dẫn theo con nhỏ vượt giữa hư không mà qua lại. Biết các thương nhân sắp ra bờ biển, bèn cùng gọi nhau bay đi xa tìm hỏi. Đang lúc chưa vượt thì gặp các thương nhân, buồn vui cùng đến, lệ trào hoen mi, mỗi tự bưng ngậm khóc mà nói rằng: "Tôi chỉ cảm ngộ, may gặp được người tốt, gia thất đã có sự mừng vui, ái ân đã lâu dài. Mà nay vội bỏ đi xa, vợ con để lại cô quạnh, dằn vặt cõi lòng như thế này ai nhẫn chịu nỗi ư? Mong nên trông nhìn lại cùng trở về thành!". Trong lòng các thương nhân chưa chịu xoay lại ý tưởng, các La Sát nữ khuyên nói không công hiệu, bèn buông tủa yêu mị, hành xử theo kiêu hoặc. Các thương nhân bị tình ái luyến, khó thể kham nhẫn, tâm nghi tan mất lưu để thân lại đều cùng rơi rớt. Các La Sát nữ lại cùng vái chào mừng vui, cùng các thương nhân đó dẫn nhau mà đi. Còn Tăng-già-la có được trí tuệ sâu chắc, tâm không ngưng trệ tình lụy, nên vượt qua biển lớn thoát khỏi ách nạn đó. Khi ấy La Sát nữ vương trở về thành sắt một mình trống không. Bị các La Sát nữ khác bảo rằng: "Ngươi là kẻ không có mưu trí phương kế, bị chồng vất bỏ, đã không tài nghề thì nên chớ ở đây nữa". Lúc đó, La Sát nữ vương bèn dẫn đứa con mình sinh bay đến trước mặt Tăng-già-la phóng tủa yêu họa dụ dẫn cầu xin nên trở về. Tăng-già-la miệng tụng thần chú, tay nắm khua kiếm bén, quát la mà bảo rằng: "Ngươi là loài La Sát, ta là con người. Người và quỷ khác đường, sao có thể cùng sánh hợp? Nếu khổ cùng bức bách ta sẽ giết mạng ngươi". La Sát nữ vương biết là dụ hoặc không thể thành công, bèn vượt giữa hư không bay đến nhà của Tăng-già-la lừa dối người cha tức Tăng-già rằng: "Tôi là con gái của vua nước... đó, Tăng-già-la lấy tôi làm vợ sinh được một người con, do mang các của cải vật báu trở về lại quê hương nước nhà, thuyền bè nổi trôi giữa biển gặp phải sóng gió, mọi người đều chìm chết, chỉ có mẹ con tôi và Tăng-già-la được cứu thoát. Trải qua núi sông hiểm trở, đường sá gian nan. Chỉ một lời nghịch ý mà Tăng-già-la bèn bỏ rơi tôi, mắng chửi hết từ tốn, mạt sát cho là La sát. Trở về quê cũ thì nước nhà xa vợi, ở lại thì một mình cô quạnh khách lữ. Tới hoặc lui đều không có nơi nương tựa, mới dám mạo muội tỏ bày tình sự". Tăng-già bảo rằng: "Thật sự như vậy thì nên vào nhà". Ở chưa bao lâu thì Tăng-già-la về đến nhà.

Tăng-già bảo rằng: "Cớ sao quý trọng của báu mà khinh thường vợ con?". Tăng-già-la nói: "Đó là La Sát nữ vậy". Và đem tất cả mọi sự từ trước tới nay tỏ bày cùng mẹ cha. Bà con thân thích đều cùng nhau xua đuổi. Khi ấy La Sát nữ bèn đến tố cáo cùng vua, vua muốn bắt tội Tăng-già La. Tăng-giàla nói rằng: "La Sát nữ tánh lắm yêu quái nhiễu hoặc". Vua cho là Tăng-già-la nói đều không thật, lại thêm tình mến thích sự đẹp xinh của La Sát nữ, nên bảo cùng Tăng-già-la rằng: "Nếu ông hẳn bỏ người nữ này, nay ta lưu giữ lại trong cung". Tăng-già-la nói: "Sợ sẽ sinh ra tai họa. Nữ đó đã là La Sát chỉ chuyên ăn uống máu thịt". Vua không tin lời Tăng-già La, bèn lấy làm vợ. Sau đó, lúc quá nữa đêm, La Sát nữ vương bèn bay về bãi báu, gọi kêu 500 quỷ La sát nữ cùng đến trong cung vua, dùng chú thuật độc ác tàn hại trong lòng, tất cả người vật đều bị uống máu ăn thịt. Mang các thây chết còn thừa đem về bãi báu. Sáng sớm hôm sau quần thần vào triều tụ tập trước cửa vua mà đóng bít chẳng mở, mọi người cùng nhau tiến vào bèn đến trong cung đình, vắng teo không thấy người nào chỉ có các hài cốt, các quần thần liêu tá cùng trông nhìn mất hết mọi mưu tính, buồn xót gào khóc, chẳng lường biết nguồn gốc tai họa. Tăng-già-la mới tỏ bày đầy đủ đầu đuôi sự tình, các hàng thần thứ tin rõ tai họa ấy do vua tự rước lấy. Lúc đó các bậc quốc phụ lão thần, các quan tướng cụ lần lượt dò hỏi tìm người minh đức, suy cử cao quý. Mọi người đều kính ngưỡng phước trí của Tăng-già La, mới cùng bàn nghị với nhau rằng: "Phàm làm chủ mọi người đâu có thể cẩu thả lựa chọn ư? Trước tiên là vốn có phước đức, thứ đến rõ suốt minh triết. Nếu không có phước đức thì không sao ở được ngôi báu, nếu chẳng là bậc minh triết thì chẳng biết lấy gì để xử lý mọi việc. Tăng-già-la thật là người vốn đủ các thứ đó vậy. Từ giấc mộng xét biết cơ họa, cảm ứng gặp được ngựa trời. Với tâm trung thành mà can gián cùng chủ, có đủ trí tuệ để mưu tính cho bản thân. Trải qua lắm vận như thế, mãi đến nay, chỉ mới nên tạo thành ca vịnh". Mọi người đều vui mừng suy tôn Tăng-giàla lên làm ngôi vua. Tăng-già-la từ chối không thoát khỏi, đáng nắm giữ trong đó, bèn cung kính vái chào các quan, nhận lấy ngôi vua. Từ đó, dần men cải đổi những tệ hại trước, nêu bày kính trọng các bậc hiền lương. Mới ban sắc lệnh rằng: "Tôi trước kia làm khách thương buôn đi đến cõi nước Quỷ La Sát, sống chết khó thể lường. Thiện ác chẳng phân rành, nay sắp vì cứu nạn, nên chỉnh trang binh lính, cứu nguy giúp hoạn nạn, đó là phước của nước nhà, thâu nhặt được mọi vật quý báu là lợi của nước nhà vậy". Khi ấy bèn chuẩn bị binh lính thuyền bè theo đường biển mà sang. Khi đó cây phướn xấu ác trên thành sắt lay động. Các La Sát nữ trông thấy mà khiếp sợ, bèn phóng tủa yêu mị nghinh đón cuống hoặc dẫn dụ. Vua Tăng-già-la vốn biết đó là dối trá nên khuyên bảo các binh sĩ miệng đọc tụng thần chú, thân mạnh dạng ra võ oai, các La Sát nữ quýnh chân rơi rớt, hoặc chạy trốn ẩn nơi đảo biển, hoặc trầm lặn dưới dòng lớn, v.v... Từ đó, vua Tăng-già-la phá hủy thành sắt, và chuồng sắt cứu các thương nhân, thâu nhặt được nhiều châu ngọc vật báu, chiêu mộ các hàng thứ dân dời đến ở Bảo Châu, dựng thành đô, lập làng ấp, bèn thành một nhà nước. Nhân lấy tên vua mà làm hiệu nước. Tăng-già-la tức là sự tích bản sinh của đức Thích-ca Như Lai vậy.

Thời xưa trước, ở nước Tăng-già-la chỉ tôn thờ dâm từ. Sau khi đức Như Lai nhập niết bàn trong trăm năm thứ nhất. Có người em của vua Vô Ưu là Ma Hê Nhân Đà La, xả bỏ ái dục, chí ý mong cầu Thánh quả, tu hành chứng đắc sáu pháp thần thông, có được tám pháp giải thoát, dẫm bước giữa hư không đi đến nước đó, hoằng tuyên chánh pháp, lưu bố di giáo. Từ khi đã giáng hiện, phong tục dần thuần tin, tạo dựng được khoảng vài trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vài vạn vị, tất cả đều tuân hành tập học theo giáo pháp đại thừa thượng tọa bộ, dần hồi Phật giáo đến sau đó hơn 200 năm. Các Sa-môn mỗi tự chiếm cứ chuyên môn, phân thành hai bộ phái: "Một là Ma-ha Tỳ Ha La Trụ Bộ, bài xích đại thừa, chỉ chuyên tập học giáo pháp Tiểu thừa. Và một là A bạt Tà Kỳ Ly Trụ Bộ, gồm học cả giáo pháp đại thừa lẫn Tiểu thừa, hoằng dương xiển hóa Tam tạng, chư tăng giới hạnh trinh khiết, định tuệ lắng trong tỏa sáng, nghi phạm đáng xứng bậc thầy, đông đúc như vậy.

Bên cạnh vương cung có tinh xá Phật Nha (tinh xá tôn thờ cốt răng đức Phật) cao vài trăm thước, dùng các thứ châu ngọc quý báu trang nghiêm ánh ngời. Phía trên tinh xá tạo dựng một trụ biểu, thiết đạt Bát Đàm Ma La Già thêm các vật báu lớn. Vật báu tỏa sáng soi chiếu khắp cùng. Ban đêm ở từ xa trông nhìn sáng rực như sao sáng, mỗi ngày, vua ba lần nghinh thỉnh răng đức Phật ra rưới tẩm hoặc bằng nước hương thơm, hoặc bằng bột hương thơm, hoặc tẩy gội, hoặc xông ướp, công việc rất trân quý kỳ đặc, kính tu cúng dường.

Bên cạnh tinh xá Phật nha có ngôi tinh xá nhỏ, cũng dùng bằng các vật báu để nghiêm sức, bên trong có tôn tượng đức Phật bằng vàng, lường bằng thân hình của tiên vương nước đó mà chủ đúc, nhục kế lại được nghiêm sức bằng các vật báu. Về sau có kẻ trộm dò xét muốn trộm lấy, mà cửa lớp bao bọc chung quanh, có người trông coi cẩn mật, kẻ trộm mới đục đường thông vào tinh xá mà đột nhập đó, bèn muốn lấy vật báu đó thì tôn tượng dần cao xa lên, kẻ trộm đó đã không thành đạt sự mong cầu, rút lui mà than rằng: "Xưa kia đức Như Lai tu Bồ-tát hạnh, khởi tâm quảng đại, phát hoằng thệ nguyện, trên từ thân mạng, dưới đến cung thành nhà nước, vì xót thương mọi loài chúng sinh mà chu cấp tất cả. Ngày nay cớ sao với di tượng mà lẫn tiếc vật báu? Lắng nghe lời như thế, chẳng rõ hạnh nguyện xưa!". Khi ấy tôn tượng đó bèn cúi đầu mà trao vật báu cho kẻ trộm đó. Đã được báu vật rồi, kẻ trộm đó bèn mang ra đổi bán. Mọi người trông thấy đều bảo kẻ trộm đó rằng: "Vật báu này là vật báu nơi nhục kế trên đảnh đầu tôn tượng đức Phật bằng vàng của tiên vương, từ đâu mà ông có được mang đến đây đổi bán?". Bèn bắt kẻ trộm đó tấu trình cùng vua. Vua hỏi từ đâu mà có được? Kẻ trộm đó đáp: "Đức Phật tự cho tôi, chẳng phải tôi trộm lấy". Vua cho là không thành thật nên sai kẻ sứ đến trông xem kiểm xét, quả nhiên tôn tượng đức Phật vẫn còn cúi đầu. Vua thấy Thánh linh như thế, tâm sinh kính tin càng thuần thục kiên cố, chẳng bắt tội kẻ trộm đó, mà chuộc lại vật báu ấy để nghiêm sức lại nhục kế tôn tượng Phật đặt lại trên đảnh đầu. Tôn tượng nhân cúi đầu như thế mãi đến ngày nay vẫn vậy.

Bên cạnh vương cung có một nhà trù lớn, mỗi ngày sắm sinh vật thực cúng dường 18000 vị tăng. Đến giờ thọ trai, chư tăng mang bình bát đến nhận lấy thức ăn, xong rồi mới tự trở về nơi ở của mình. Từ khi Phật giáo lưu truyền đến thì lập nên sự cúng dường đó, con cháu cứ nối tiếp nhau tuân hành mãi đến ngày nay. Trong khoảng mười năm trở lại đây, bởi vì trong nước nhà nhiễu loạn chưa có định chủ, mới phế bỏ hạnh nghiệp đó.

Nơi góc bến bãi biển là nơi sản sinh các vật quý báu, đích thân nhà vua ra đến cúng tế, thần bày tỏ cho các vật quý báu kỳ lạ. Mọi người ở thành đô, các hàng sĩ tục qua lại mong cầu, tùy xứng với phước báu, nên mỗi người có được chẳng đồng. Tùy được các vật ngọc báu châu ky mà thâu thuế có thứ bậc.

Ở góc đông nam nước đó có núi Lăng Ca, hang cốc sâu thẳm cao vợi, nơi các quỷ thần thường đến nghỉ ở. Xưa kia, đức Như Lai đến núi đó giảng nói kinh Lăng Ca (xưa trước gọi là kinh Lăng Già tức sai nhầm vậy).

Từ nước đó về phía nam, đi bằng đường biển khoảng vài ngàn dặm đến châu Na La Kê La. Con người ở châu đó thân hình thấp nhỏ, cao hơn ba thước mà miệng chim. Lúa thóc đã không có, chỉ ăn dùng trái dừa.

Từ châu Na La Kê La đi bằng đường biển về phía tây cách vài ngàn dặm đến một hòn đảo đơn lẻ ở sườn bờ phía đông có một tôn tượng đức Phật bằng đá cao hơn trăm thước, xoay mặt về hướng đông mà ngồi, dùng chất châu ngọc ái nguyệt mà làm nhục kế, lửa trăng sắp lên soi chiếu, nước liền treo thành dòng dàn dụa theo sườn đảnh rót đổ vào khe hang. Bấy giờ có các thương nhân gặp phải sóng gió phiêu bạc, theo cơn sóng mà đến đảo đơn lẻ đó. Vì nước biển chất mặn không thể lấy uống, thiếu khát đã lâu. Khi đó vào ngày 15 giữa tháng, từ trên đảnh đầu tôn tượng Phật nước đổ chảy xuống thành dòng, mọi người đều được cứu giúp qua cơn khát, bèn cho là bởi sự chí thành mà cảm nên được linh Thánh cứu giúp. Những người đó dừng ở lại trải qua nhiều ngày, mỗi lúc trăng ẩn thì nơi đảnh đầu núi nước không tuôn đổ thành dòng. Khi ấy vị thương chủ mới bảo là: "Chưa hẳn vì cứu giúp bọn chúng ta mà nước tuôn đổ thành dòng. Tôi từng nghe loại châu ngọc Ái nguyệt mỗi lúc trăng soi chiếu sáng thì có nước tuôn chảy thành dòng vậy. Chẳng là trên đảnh đầu tôn tượng đức Phật có loại ngọc báu ấy ư?". Bèn men leo lên sườn mà trông xem thì mới rõ là thật dùng châu ngọc Ái nguyệt để làm nhục kế tôn tượng Phật. Huyền Trang tôi chính được nghe người đó nói về đầu đuôi sự kiện ấy vậy.

Từ nước đó theo hướng tây đi bằng đường biển cách vài ngàn dặm, đến một châu có vật báu lớn. Tại đó không có người ở, chỉ có các bậc hiền nương náu. Trong đêm tĩnh lắng từ xa trông nhìn, thấy đuốc sáng, núi nước. Các hàng thương nhân đi sang đó lắm nhiều nhưng đều không có được gì. Từ nước Đạt La Tỳ Trà theo hướng bắc vào trong rừng hoang. Trải qua khu thành đơn lẻ, lại qua thôn ấp nhỏ, xứ đó các người hung dữ kết thành bạn đảng làm hại lữ khách, đi hơn 2000 dặm đến nước Trà Kiến Na Bổ La (thuộc Nam Ấn Độ).

2. NƯỚC TRÀ KIẾN NA BỔ LA.

Nước Trà Kiến Na Bổ La chu vi rộng hơn 5000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm. Đất đai rất mầu mỡ lúa thóc lắm nhiều, khí hậu ấm nóng, phong tục con người vội vã nóng nảy, thân hình đen sạm, tánh tình mạnh dữ hung bạo, ham thích tập học, mến chuộng tài đức và nghề nghiệp. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị, đối với giáo lý đại thừa Tiểu thừa, đều gắng công sức tập học. Có vài trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn.

Bên cạnh thành vương cung, có ngôi già lam lớn, chư tăng có hơn 300 vị, thật chỉ những bậc anh tài đức hạnh. Tại già lam đó, có ngôi tinh xá lớn cao hơn trăm thước, bên trong có bảo quan (mũ báu) của thái tử Nhất Thiết Nghĩa Thành cao gần hai thước được trang sức bằng các vật trân báu, tôn trí trong hộp báu. Thường đến những ngày trai, đưa ra đặt trên tòa cao, dùng các thứ hương hoa để cúng dường, có lúc tỏa phóng ánh sáng.

Bên cạnh đô thành, trong ngôi già lam lớn có ngôi tinh xá cao hơn 50 thước, bên trong có tôn tượng Bồ-tát Từ Thị được khắc chạm bằng gỗ đàn hương cao hơn 10 thước. Đến những ngày trai thường tỏa phóng ánh sáng thần, nghe nói tôn tượng đó do 200 ức A-la-hán tu tạo nên vậy.

Từ đô thành về phía bắc cách không xa có rừng cây Đa-la chu vi rộng hơn 30 dặm, giống cây ấy lá dài rộng, sắc màu sáng nhuận. Các nước có việc ghi chép đều đến hái nhặt để dùng. Trong rừng đó có ngôi Tốt-đổ-ba là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Bên cạnh đó nghe có ngôi Tốt-đổ-ba tôn thờ xá lợi di thân của 200 ức vị A-la-hán.

Từ đô thanh về phía đông cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba nền móng tuy đã nghiêng đổ, mà vẫn còn cao hơn ba trượng. Nghe các bậc lão thành nói là trong đó có xá lợi của đức Như Lai, đến những ngày trai có lúc tỏa phóng ánh sáng linh thiêng. Xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó, giảng nói giáo pháp, hiện sức thần thông độ các quần sinh.

Từ đô thành về phía tây nam cách không xa có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước do vua Vô Ưu tạo dựng. Nghe nói là 200 ức vị A-la-hán ở tại đó hiện sức thần thông lớn để hóa độ chúng sinh. Bên cạnh đó có ngôi già lam chỉ còn lại nền móng là do các vị A-la-hán tạo dựng.

Từ đó theo hướng tây bắc vào trong rừng hoang lớn, nơi có những thú dữ hung bạo làm hại, có lắm nhiều giặc cướp tàn hại, đi khoảng 2400-2500 dặm đến nước Ma-ha Thích Tha (thuộc Nam Ấn Độ).

3. NƯỚC MA-HA THÍCH THA.

Nước Ma-ha Thích Tha chu vi rộng hơn 6000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm, phía tây gần dòng sông lớn. Đất đao mầu mỡ, lúa thóc lắm nhiều, khí hậu ấm nóng, phong tục con người thuần chất, thân hình to lớn, tánh tình xấc láo, có ân thì đáp, có oán thì trả thù, như có người lấn lướt làm nhục thì quên cả thân mạng để báo thù. Với người túng cùng thì ném bỏ phần mình quên nghĩ tự thân mà vì cứu giúp. Trước lúc trả oán hẳn báo cho kẻ kia biết, mỗi bên tự mặc mang giáp phục, sau đó mới đánh nhau. Lúc vào chiến trận xua đuổi đến phương bắc, chẳng giết đã đầu hàng, binh lính sắp mất lợi, không buộc hình phạt, ban cho một bộ nữ phục, rồi cảm kích mà tự chết. Trong nước nhà nuôi dưỡng các dõng sĩ, có vài trăm người, mỗi lúc sắp quyết chiến thì uống rượu vui say. Một người đánh dẹp bén nhọn thì cả muôn người đều bẻ gãy sắc bén. Gặp người phóng túng làm hại, luật nước không hành hình, mỗi lúc xuất hành, đánh trống dẫn trước. Lại nuôi dưỡng đàn voi hung dữ có vài trăm con. Sắp muốn ra đánh trận cũng cho voi uống rượu trước, cả đàn rong ruổi dẫm đạp, phía trước không còn có kẻ địch cứng mạnh. Vua nước đó ỷ cậy sức người sức voi như thế nên khinh thường lấn lướt các nước lân cận. Vua nước đó vốn chủng tộc Sát Đế Lợi tên là Bổ La Kê Xá, mưu trí rộng xa, nhân từ trùm khắp, các hàng quan thần rất mực trung thành kính thờ. Hiện nay, vua Giới Nhật đánh chiếm khắp đông tây, xa gần đều chỉnh túc. Chỉ có riêng đối với người nước đó không thần phục. Vua Giới Nhật từng dẫn tất cả binh lính khắp cả năm xứ Ấn Độ và chiêu mộ những tướng liệt hùng ở các nước, và đích thân vua sang đánh phạt nhưng vẫn chưa chiến thắng. Đất nước đó có được quân đội binh lính như thế, có được phong tục như thế! Con người nước đó biết ham thích học. Tà chánh đều kính tin. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 5 ngàn vị, đối với giáo lý đại thừa Tiểu thừa đều dốc lòng cầu học. Có khoảng trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo rất đông nhiều.

Trong và ngoài đô thành lớn có năm ngôi Tốtđổ-ba đều là những nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành do vua Vô Ưu tạo dựng. Ngoài ra những ngôi Tốt-đổ-ba bằng gạch đá số đó lắm nhiều, khó thể nêu bày rõ đủ.

Từ đô thành về phía nam cách không xa có ngôi già lam xưa cũ, bên trong có tôn tượng Bồ-tát Quản Tự Tại bằng đá, thần linh soi xét ngầm khắp, mọi người đến mong cầu, phần nhiều được toại ý.

Ở phía đông cảnh vức đó có một quả núi lớn, lắm ngọn ngăn chướng liền nhau, nhiều lớp quanh co hiểm tuyệt, có ngôi già lam nền móng cắm trong hang sâu, nhà cao phòng sâu xẻ sườn gối đảnh, trùng các tầng đài gối lưng vào đảnh núi xoay mặt vào hang hốc, do Đại A-la-hán A Chiếc La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Sở Hành) tạo dựng. A-la-hán Sở Hành vốn người xứ Tây Ấn Độ. Sau khi thân mẫu đã qua đời, A-la-hán Sở Hành quán xét sinh về xứ nào, thấy thác sinh đến nước đó làm thân người nữ. A-la-hán Sở Hành bèn đến nước đó sắp muốn dẫn dắt giáo hóa, tùy căn cơ mà nhiếp thọ. A-la-hán Sở Hành vào trong thôn ấp khất thực đến nhà người mẹ thác sinh. Bỗng nhiên có người con gái ra cúng thí mà sửa bỗng giỏ giọt. Mọi người trong thân thuộc thấy thế cho là điềm không tốt lành, A-la-hán Sở Hành bèn nói về nhân duyên xưa trước, người con gái ấy bèn chứng Thánh quả. A-la-hán Sở Hành cảm ân sinh dưỡng, nghĩ nhớ về nghiệp duyên, để báo ân đức sâu dày nên tạo dựng ngôi già lam đó.

Tại ngôi già lam đó có ngôi tinh xá lớn cao hơn trăm thước, bên trong có tôn tượng đức Phật bằng đá cao hơn 70 thước. Phía trên có chiếc lọng đá bảy lớp lơ lửng giữa hư không, không nơi bám víu, giữa mỗi tầng lọng cách nhau khoảng ba thước. Nghe các vị nói là đó là do sức nguyện lực của A-la-hán Sở Hành giữ gìn vậy". Lại có thuyết nói: "Do công sức của Dược thuật". Nhưng xét quyết thực lục chưa rõ ràng đến cùng. Khắp bốn mặt tinh xá đều khắc chạm vách tường đá, tạo những sự tích của đức Như Lai xưa kia tu hạnh Bồ-tát ở phần nhân địa và những điềm tốt lành chứng đắc Thánh quả, những linh ứng lúc nhập tịch diệt, v.v... mọi sự lớn nhỏ không để sót, đều khắc chạm đầy đủ tất cả. Bên ngoài ngôi già lam ở hai phía nam bắc, mỗi bên có một con voi đó. Nghe các hàng sĩ tục nói là: "Có lúc voi đá ấy rống tiếng lớn, quả đất chấn động. Xưa kia Bồ-tát Trần Na phần nhiều thường ở trong ngôi già lam đó.

Từ đó theo hướng tây đi hơn ngàn dặm vượt qua sông Nại Mạt Đà đến nước Bạt Lộc Yết Chiếp Bà (thuộc Nam Ấn Độ).

4. NƯỚC BẠT LỘC YẾT CHIẾP BÀ.

Nước Bạt Lộc Yết Chiếp Bà chu vi rộng khoảng 2400-2500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Đất đai nhiễm muối mặn, nên cỏ cây sơ sài hiếm ít, trên bãi biển chuyên sản xuất muối, lấy lợi suất từ biển làm nghề chính. Khí hậu nắng nóng, gió xoáy vụt nổi, phong tục kiểu bạc, tánh khí con người dối trá, không biết tập học các thứ nghề nghiệp, tà chánh đều kính tin. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn 300 vị, đều tập học theo giáo pháp đại thừa thượng tọa bộ. Có hơn 10 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Từ đó theo hướng tây bắc đi hơn 2000 dặm đến nước Ma Lạp Bà (tức là nước Nam La thuộc Nam Ấn Độ).

5. NƯỚC MA LẠP BÀ.

Nước Ma Lạp Bà chu vi rộng hơn 6000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm ở gần phía đông nam của sông Mạt Hê. Đất đai mầu mỡ, lúa thóc lắm nhiều, cỏ cây tươi tốt, hoa quả có nhiều, đặc biệt thích nghi lúa tẻ, con người phần nhiều ăn dùng bánh bột. Con người tánh tình thuận thiện, đại để là rất thông mẫn, nói năng ngôn từ thanh nhã rõ ràng, học nghề rất ưu tú sâu sắc. Ở năm xứ Ấn Độ có hai nước quý trọng việc học, đó là ở tây Nam Ấn Độ có nước Ma Lạp Bà và ở đông bắc Ấn Độ có nước Ma Yết Đà. Quý đức mến chuộng nâng, thông minh mạnh học, mà nước đó đối với tôn giáo tà chánh đều kính tin xen tạp, có vài trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn hai vạn vị, tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có vài trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo thật đông nhiều, và phần nhiều là đồ chúng bôi thoa tro bụi thân mình. Theo "Quốc chí" nói là: "60 năm trước có vị vua hiệu là Thi La A Dật Đa (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giới Nhật) là người có tuệ cao sáng, tài học thông mẫn, mến thương nuôi dưỡng bối nhạng quần sinh, kính sùng Tam bảo. Mới đầu từ lúc chào đời đến khi băng hà dung mạo chưa từng tỏ vẻ tức giận, tự tay không bao giờ làm hại sinh mạng nào. Voi ngựa cần uống nước, lọc rồi mới cho uống sau vì sợ tổn thương loài thủy tộc. Vua Giới Nhật có đức nhân từ như thế, ở ngôi vua hơn 50 năm, khiến các loại thú hoang quen thuần với người. Tất cả các hàng dân chúng trong nước nhà đều không giết hại. Tại bên cạnh cung tạo dựng một ngôi tinh xá, thiết chế rất mực khéo léo, trang nghiêm đầy đủ mọi thứ, bên trong tạo tôn tượng bảy đức Phật Thế Tôn, mỗi năm thường thiết đại hội thí vô già, nhóm tập chư tăng ở khắp bốn phương, kính tu cúng dường tứ sự, hoặc dâng ba pháp y các đạo cụ, hoặc cúng các vật bảy báu trân kỳ, tiếp nối tương thừa hạnh nghiệp tốt lành không ngầm mất.

Từ đô thành lớn về phía tây bắc cách hơn 20 năm đến thôn ấp Bà-la-môn, bên cạnh có hầm hố bị vùi lấp, mùa thu mùa hạ trời mưa dầm dìa trải hơn cả 10 ngày, tuy nhận nước đổ về của các rạch nguồn mà nước không hề tích chứa. Bên cạnh đó có dựng một ngôi Tốt-đổ-ba nhỏ. Nghe các vị lão thành kể là: đó là nơi xưa kia có vị Bà-la-môn rất kiêu mạn tự thân bị vùi lấp vào chốn địa ngục. Xưa kia, trong ấp đó có vị Bà-la-môn thông rành mọi vật, học trùm các bậc tài giỏi ở đương thời, đối với nội ngoại giáo điển đều nghiên cứu tận cùng sâu mầu, đối với lịch số huyền văn chỉ như trông nhìn mọi vật trong lòng bàn tay. Phong thái nghi phạm thanh cao kiến vang vọng khắp xa gần. Vua nước đó rất trân kính, mọi người đều tôn trọng. Môn nhân học trò có cả ngàn vị đượm hưởng đạo vị, khâm chuộng phong thái. Bà-la-môn đó thường nói rằng: "Ta vì đời mà thuật Thánh đạo dẫn dắt phàm tình. Các bậc tiên hiền hậu triết chẳng có ai sánh bằng với ta. Đối với các vị trời Đại Tự Tại, trời Bà Lũ, trời Na La Diên, Phật Thế Tôn, mọi người đều đượm phục phong mỹ, tố thuật đạo ấy, không ai chẳng đồ tả hình tượng, đua nhau tu kính. Nay, ta đức hạnh vượt hẳn những vị đó, tiếng tăm nổi bậc ở đương thời, chẳng có điều khác, vậy lấy gì để hiển bày?". Bèn dùng gỗ chiên đàn sắc đỏ khắc làm các tôn tượng trời Đại Tự Tại, trời Bà Lũ, trời Na La Diên, đức Phật Thế Tôn, v.v... thiết đặt ở bốn góc chân, phàm đi đến đâu đều mang theo vậy. Bà-la-môn đó kiêu mạn xấc láo đến nỗi như thế. Bấy giờ tại Tây Ấn Độ có Bí Sô Bạt Đà La Lũ Chi (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Hiền Ái) khéo thông rành nhân minh, thấu đạt sâu mầu các dị luận, đạo phong thuần túy, hương giới tỏa ngát, chuyên hành thiểu dục tri túc, chẳng tham cầu mọi vật, nghe thế mà than rằng: "Thật đáng tiếc thay! Ở thời không có người vậy, khiến kẻ ngu phu kia dám làm nhưng việc hung đức!". Bèn chống tích trượng từ xa đến nước đó, đem cả tâm nguyện từ xưa trước tấu trình đầy đủ với vua. Vua thấy Bí Sô Hiền Ái vận mặc rách rưới, trong tâm chưa mến kính, nhưng cao chuộng chí khí ấy nên gượng mà thi lễ, bèn thiết lập luận tòa, bảo cùng Bà-la-môn đó. Bà-la-môn đó nghe xong, cười mà bảo rằng: "Kẻ đó là hạng người nào mà dám ôm hoài chí khí ấy". Và bảo các đồ chúng cùng đến luận trường, có cả trăm ngàn người trước sau cùng hầu nghe Bí Sô Hiền Ái mặc giáp phục thô tệ cũ kỹ, trải cỏ mà ngồi. Bà-la-môn đó ngồi xổm nơi tòa, chẳng bài xích chánh pháp mà phô thuật tà tông. Bí Sô Hiền Ái biện luận rành rõ như dòng chảy, xoay quanh qua lại. Lâu sau, Bà-la-môn đó tự tạ lỗi thối khuất. Vua nước đó mới bảo rằng: "Từ lâu lạm dụng hư danh, khinh thường những bậc trên mình, dối hoặc mọi người. Với phép tắc xưa trước có ghi chép là luận nghị thua cuộc hẳn bị giết chết". Và muốn đốt lò sắt và bắt Bà-la-môn đó lên ngồi ở trên. Bà-lamôn đó quẩn bách mới quy mạng cầu cứu. Bí Sô Hiền Ái xót thương đó, mới xin vua rằng: "Đại vương đức nhân cảm hóa đượm xa, tiếng tăm trong xưng tụng vang cùng. Nên ban bố tâm từ nuôi dưỡng, chớ làm việc tàn khốc, tha thứ cho kẻ đó chớ cùng ruồng đuổi, chỉ nơi đi đến". Vua mới bảo cưỡi lừa đi báo khắp thành ấp. Bà-la-môn đó xấu hỗ sự tàn diệt tủi nhục đó nên phát nỗi ói máu. Bí Sô Hiền Ái nghe thế rồi bèn sang ủy an mà bảo cùng Bà-la-môn đó rằng: "Ông là người học hết cả nội ngoại giáo điển, tiếng tăm vang khắp xa gần, mọi sự vinh nhục, tiến lùi hẳn rõ. Phàm danh đâu có gì thật ư?". Bà-la-môn đó càng thêm phẫn hận sâu sắc, mắng rủa Bí Sô Hiền Ái, phỉ báng đại thừa, khinh miệt các bậc tiên Thánh. Tiếng nói chưa lắng dứt, tại đất đó bỗng nứt nẻ, thân đang sống bèn bị vùi lấp. Di tích hiện còn tại đó.

Từ đó theo hướng tây nam vào đường biển, rồi lại theo hướng tây bắc đi khoảng 2400-2500 dặm đến nước A Tra Ly (thuộc Nam Ấn Độ).

6. NƯỚC A TRA LY.

Nước A Tra Ly chu vi rộng hơn 6000 dặm. Đô thành lớn nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông đúc, các vật quý báu tích chứa lắm nhiều, lúa thóc tuy đầy đủ nhưng hưng thạnh hay suy bại tùy theo nghề nghiệp. Đất đai có nhiều cát muối nên hoa quả hiếm ít. Là nơi sản sinh giống cây Hồ tiêu, cây lá như giống tiêu ở đất Thục, và cũng là nơi sản sinh giống cây Huân Lục Hương, cây lá tợ như cây đường lê. Khí hậu nắng nóng có nhiều gió bụi. Con người tánh tình kiêu bạc, quý trọng của cải, khinh tiện tài đức. Các thứ chữ nghĩa, nói năng, hình nghi, phép tắc phần lớn tương đồng như ở nước Ma Lạp Bà. Phần nhiều không tin tội phước, giả sử có người tin cũng chỉ tôn thờ trời thần. Có hơn mười ngôi đền thờ quán xá, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn.

Từ nước Ma Lạp Bà theo hướng tây bắc đi hơn

3 ngày thì đến nước Khế Tra (thuộc Nam Ấn Độ).

7. NƯỚC KHẾ TRA.

Nước Khế Tra chu vi rộng hơn 3000 dặm, đô thành lớn của nước đo chu vi rộng hơn 20 dặm, nhà cửa dân chúng đông đúc có lắm nhiều của cải, không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Ma Lạp Bà. Mọi phong tục, đất đai thích nghi, mọi sản vật, v.v... đều đồng như ở nước Ma Lạp Bà. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị, đối với giáo pháp đại thừa Tiểu thừa đều cố gắng tập học. Có vài mươi ngôi đền thờ trời. Các hàng ngoại đạo thật lắm nhiều.

Từ đó theo hướng bắc đi hơn ngàn dặm đến nước Phạt Lạp Tỳ (tức nước Tỷ La La, thuộc Nam Ấn Độ).

8. NƯỚC PHẠT LẠP TỲ.

Nước Phạt Lạp Tỳ chu vi rộng hơn 6000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm. Với mọi thứ đất đai sản sinh, khí hậu thích nghi, phong tục, tánh tình con người, v.v... phần lớn đông như ở nước Ma Lạp Bà. Dân chúng sinh sống đông đúc, nhà cửa giàu sang, tích chứa của cải có đến trăm ức nhà mới có hơn trăm nhà vậy. Những vật kỳ lạ ở các phương xa, phần nhiều đều nhóm tụ tại nước đó. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 6000 vị, phần nhiều đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có khoảng vài trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo thật lắm nhiều. Xưa kia đức Như Lai từng đến nước đó, nên những nơi đức Phật có dừng nghỉ, vua Vô Ưu đều tạo dựng các ngôi Tốt-đổ-ba nêu bày tiêu biểu. Và các nơi có di tích của ba đức Phật thời quá khứ tọa thiền kinh hành vẫn còn tương quan. Còn nay, vua nước đó thuộc chủng tộc Sát Đế Lợi tức cháu của vua Thi La A Dật Đa ở nước Ma Lạp Bà, khiến làm con rễ của vua Thi La A Dật Đa ở nước Yết Nhã Các Xà hiệu là Đổ Lỗ Bà Bạt Tra (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Thường Duệ) tánh tình thô gấp, trí mưu cạn gần, nhưng rất thuần tin Tam bảo. Mỗi năm thường thiết đại hội bảy ngày, đem các thứ trân quý thượng vị cúng dường chư tăng, giá trị như ba pháp y, thuốc thang, trân quý như bảy báu. Đã cúng thí khắp cùng tất cả rồi nêu gấp bội giá đáp chuộc lại. Vua rất quý đức, chuộng hiền, tuân theo đạo, mến trọng học. Đối với các bậc cao tăng ở phương xa lại đặc biệt thêm sự lính lễ.

Cách đô thành không xa, có ngôi già lam lớn, do A-la-hán A Chiếc La (Sở Hành) tạo dựng, là nơi các Bồ-tát Đức Tuệ, Kiên Tuệ ở trong đó chế thuật các bộ luận, và thạnh hành lưu bố nơi đời.

Từ đó theo hướng tây bắc đi hơn 700 dặm đến nước A-nan Đà Bổ La (thuộc Tây Ấn Độ).

9. NƯỚC A-NAN ĐÀ BỔ LA.

Nước A-nan Đà Bổ La chu vi rộng hơn 2000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông nhiều nhà cửa giàu sang, không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Ma Lạp Bà. Đối với mọi thứ đất đai thích nghi, khí hậu, chữ nghĩa, phép tắc, v.v... đều đồng như ở nước Ma Lạp Bà. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có gần ngàn vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có khoảng vài mươi ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn.

Từ nước Phạt Lạp Tỳ theo hướng tây đi hơn 500 dặm đến nước Tô Thích Tha (thuộc Tây Ấn Độ).

10. NƯỚC TÔ THÍCH THA.

Nước Tô Thích Tha chu vi rộng hơn 4000 dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm, phía tây gần sông Mạt Hê. Dân chúng sinh sống đông đúc, nhà cửa lắm nhiều của cải, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Phạt Lạp Tỳ. Đất đai nhiễm chất muối mặn nên hoa quả hiếm ít. Khí hậu lạnh nóng tuy quân bình nhưng gió lùa táp không lắng yên. Thổ tục kiêu bạc, con người tánh tình khinh tháo, chẳng ham thích tập học nghề nghiệp. Tà chánh đều kính tin. Có hơn 50 ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị, phần nhiều tập học theo giáo pháp đại thừa thượng tọa bộ. Có hơn trăm ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Nước đó ngay đường của tây hải, mọi người đều thờ nguồn lợi của biển, mọi hưng thạnh hay suy bại đều theo nghề nghiệp đổi chác mọi thứ có không.

Cách đô thành không xa có núi Úc Thiện Đa, trên đảnh núi có ngôi già lam, phòng nhà hiên vũ, phần nhiều đều xẻ đục từ sườn đảnh núi, cây rừng tươi tốt ma trùm, dòng suối giao quanh cảnh vức, là nơi các bậc hiền Thánh thường đến dừng nghỉ, các hàng linh tiên tụ tập qua lại.

Từ nước Phạt Lạp Tỳ theo hướng bắc đi hơn 1800 dặm đến nước Cù Chiếc La (thuộc Tây Ấn Độ).

11. NƯỚC CÙ CHIẾC LA.

Nước Cù Chiếc La chu vi rộng hơn 5000 dặm. Đô thành lớn của nước đó hiệu là Tỳ La Ma La, chu vi rộng hơn 30 dặm, mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán, v.v... phần nhiều đồng như ở nước Tô Thích Tha. Dân chúng sinh sống đông đúc, nhà cửa của cải lắm nhiều. Con người phần nhiều phụng thờ ngoại đạo, ít tin Phật pháp, có một ngôi già lam, chư tăng có hơn trăm vị, tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Có khoảng vài mươi ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Vua nước đó thuộc chủng tộc Sát Đế Lợi, tuổi mới 20 mà trí mưu dũng mãnh cao xa, rất kính tin Phật pháp, mến chuộng những bậc có tài năng khác lạ.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 2800 dặm, đến nước Ổ Xà Diễn Na (thuộc Nam Ấn Độ).

12. NƯỚC Ô XÀ DIỄN NA

Nước Ô Xà Diễn Na chu vi rộng hơn 6000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán đều đồng như ở nước Tô Thích Tha. Dân chúng sang sống đông đúc, nhà cửa lắm nhiều của cải. Có khoảng vài mươi ngôi già lam, phần nhiều đều đã hư hoại, hiện còn chỉ có 5-3 ngôi, chư tăng có hơn 300 vị. Đối với giáo pháp đại thừa, Tiểu thừa đều dốc công tập học. Có khoảng vài mươi ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Vua nước đó thuộc chủng tộc Bà-la-môn, xem đọc thông rành sách tà, chẳng tin chánh pháp. Cách đô thành không xa có ngôi Tốt-đổ-ba, là nơi xưa kia vua Vô Ưu tạo cảnh địa ngục. Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn ngàn dặm đến nước Trịch Chỉ Đà (thuộc Nam Ấn Độ).

13. NƯỚC TRỊCH CHỈ ĐÀ.

Nước Trịch Chỉ Đà chu vi rộng hơn 4000 dặm.

Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 15-16 dặm, đất đai mầu mỡ, lúa thóc gieo trồng tốt tươi, lại thích nghi các giống đậu, lúa tẻ, có nhiều hoa quả, khí hậu điều sướng. Con người tánh tình thuần thiện, phần nhiều tin theo ngoại đạo, ít tôn kính Phật pháp. Có khoảng vài mươi ngôi già lam, chư tăng hiếm ít. Có hơn 10 ngôi đền thờ trời, các hàng ngoại đạo có hơn ngàn vị. Vua nước đó thuộc chủng tộc Bà-la-môn, không kính tin Tam bảo, không tôn trọng những người đức hạnh, cho nên những bậc đạt sĩ ở các phương phần nhiều đều tụ tập đến nước đó. Từ đó theo hướng bắc đi hơn 900 dặm đến nước Ma Hệ Thấp Phạt La (thuộc Trung Ấn Độ).

14. NƯỚC MA HÊ THẤP PHẠT LA BỔ LA.

Nước Ma Hê Thấp Phạt La Bổ La chu vi rộng hơn 3000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán đều đồng như ở nước Ổ Xà Diễn Na. Tôn kính ngoại đạo, không tin Phật pháp, có khoảng vài mươi ngôi đền thờ trời, phần nhiều là đồ chúng ngoại đạo bôi thoa tro bụi vào thân mình. Vua nước đó thuộc chủng tộc Bà-la-môn, chẳng kính tin Phật pháp lắm.

Từ đó trở về lại nước Cù Chiếc La, lại theo hướng bắc vượt qua bãi sa mạc hoang vu hiểm trở đi hơn 1900 dặm, vượt qua sông lớn Tín Độ đến nước Tín Độ (thuộc Tây Ấn Độ).

15. NƯỚC TÍN ĐỘ.

Nước Tín Độ chu vi rộng hơn 7000 dặm, đô thành lớn của nước đó hiệu là Tỳ Chiêm Bà Bổ La chu vi rộng hơn 30 dặm. Đất đai thích nghi với lúa thóc có lắm nhiều lúa tẻ, lật, là nơi sản sinh các thứ vàng, thau, đá. Lại thích nghi các giống vật trâu, dê, lạc đà, loa, v.v… Giống lạc đà xứ đó thân hình thấp nhỏ. Lại có một quả núi là nơi sản sinh loại muối đỏ, sắc màu như đá đỏ, muối trắng, muối đen và muối đá trắng, v.v… Ở các phương vức xa khác dùng lấy đó làm thuốc. Con người tánh khí cứng mạnh nóng nãy nhưng mà chất thực, thường luôn đấu tranh, hay phỉ báng, học hành chẳng khéo rộng sâu, rất kính tin Phật pháp. Có khoảng vài trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ nhưng phần nhiều tánh nết biếng lười giới hạnh uế tệ, còn những vị tinh cần hiền thiện, riêng ở tĩnh lặng ẩn vết nơi chốn núi rừng, sớm tối chẳng biếng lười phần nhiều là có chứng đắc Thánh quả. Có hơn 30 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn, vua nước đó thuộc chủng tộc Thú Đà La, tánh tình thuần chất, kính tin Phật pháp. Xưa kia đức Như Lai từng đến nước đó, nên tại các Thánh tích, vua Vô Ưu đều có tạo dựng Tốt-đổ-ba có vài mươi ngôi. Đại A-la-hán Ô Ba Cúc Đa cùng từng đến nước đó giảng pháp giáo hóa, những nơi dừng ở đều có nêu bày di tích, hoặc xây dựng Tăng-già lam, hoặc tạo lập Tốt-đổ-ba, có lắm nhiều nay đây chỉ nói sơ lược mà thôi.

Bên cạnh bờ tây sông Tín Độ trong khoảng ngàn dặm, men theo đê đầm có khoảng vài trăm ngàn người làm vườn nhà ở đó, tánh khí cứng mạnh nóng nãy, chuyên việc giết hại, chăn nuôi trâu để tự sinh sống, không có gì bó buộc thân mạng, nam nữ như nhau, không có sang hèn, cạo bỏ râu tóc mặc áo ca sa, hình tướng tợ như Bí Sô mà làm việc thế tục, chuyên chấp lấy kiến thức nhỏ mọn, chẳng phỉ báng đại thừa. Nghe các bậc lão thành nói là: xưa kia dân chúng xứ đó cam nhẫn chỉ chuyên việc hung dữ tàn hại. Bấy giờ có vị A-la-hán xót thương sự tệ hại ấy, vì muốn giáo hóa họ nên vượt giữa hư không mà đến, hiện sức đại thần thông, bày những việc hiếm có, khiến họ tin nhận, dần hồi dẫn dắt bằng ngôn giáo. Các người kính tin vui mừng nguyện vâng làm theo sự chỉ dạy. Vị A-la-hán ấy biết tâm họ đã thuận phục mới vì trao cho pháp tam quy, dứt bỏ việc làm hung bạo, bỏ hẳn việc giết hại, cạo bỏ râu tóc, vận mặc pháp y, cung kính tuân hành theo giáo pháp. Trải qua năm tháng lâu dài, sự đời dần hồi đổi thay, nên việc giữ gìn Thánh thiện đã khiếm khuyết mà phong hóa lại còn chẳng mất hết. Nên họ tuy vận mặc pháp phục mà không giới thiện, con cháu nối đời noi tập theo thành tục lệ.

Từ đó theo hướng đông đi hơn 900 dặm vượt qua bờ phía đông sông Tín Độ đến nước Mậu La Tam Bộ Lô (thuộc Tây Ấn Độ).

16. NƯỚC MẬU LA TAM BỘ LÔ.

Nước Mậu La Tam Bộ Lô chu vi rộng hơn 4000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm, dân chúng sinh sống đông đúc, nhà cửa có lắm nhiều của cải. Mọi việc làm đều tùy thuộc theo nước Trách Ca, đất đai mầu mỡ, khí hậu điều thuận, phong tục con người chất thật, khéo ham thích tập học, mến chuộng tài đức, phần nhiều phụng thờ trời thần, ít kính tin Phật pháp. Có hơn 10 ngôi già lam phần nhiều đều đã bị hư hoại, chư tăng hiếm ít, học hành không chuyên tập. Có tám ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Có đền thờ Nhật Thiên (thần mặt trời) trang nghiêm rất mỹ lệ, tôn tượng Nhật Thiên chủ đúc bằng vàng ròng, dùng các vật báu kỳ đặc để nghiêm sức, linh thiêng soi xét cùng khắp, công thần ngầm trùm. Có nữ nhạc thay nhau tấu trỗi, đuốc nến đốt sáng liền ngày, hương hoa cúng dường như mới đầu không phế tuyệt. Các hàng quân vương hào tộc ở các xứ Ấn Độ, không ai chẳng đến đó xả thí những vật quý báu để tạo dựng phước xá (nhà tình thương), dụng mọi thứ ăn uống thuốc men cung cấp mọi người nghèo khổ bệnh tật. Dân chúng ở các nước đến đó cầu nguyện thường có hàng ngàn người. Bốn phía đền thờ trời đó, ao cong hoa rừng đẹp xinh rất đáng nên đến thưởng ngoạn.

17. Nước Bát Phạt ĐA.

Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn 700 dặm là nước Bát Phạt Đa, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông đúc, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Trách Ca. Có lắm nhiều lúa giê làm mùa nắng hạn, thích nghi với các giống đậu, lúa tẻ. Khí hậu điều thích, phong tục con người chất trực. Con người tánh khí nóng vội thô tháo, nói năng ngôn từ xấu xa, học nghề rất sâu rộng. Tà chánh đều kính tin xen tạp. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn ngàn vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa lẫn Tiểu thừa. Có bốn ngôi Tốt-đổ-ba di vua Vô Ưu tạo dựng. Có 20 ngôi đền thờ trời, các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn. Bên cạnh đô thành có một ngôi già lam lớn, chư tăng có hơn trăm vị, đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Xưa kia Luận sư Thận Na Phất Đát La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Tối Thắng Tử ở tại nước đó trước thuật "Thức Luận Du Già sư địa". Và đó cũng là nơi các luận sư Hiền Ái, luận sư Đức Quang vốn xuất gia tại đó. Ngôi già lam lớn đó gặp phải hoạn nạn lửa trời thiêu đốt hư sụp đổ nát!

Từ nước Tín Độ theo hướng tây nam đi khoảng 1500-1600 dặm đến nước A Điểm Bà Sí La (thuộc Tây Ấn Độ).

18. NƯỚC A ĐIỂM BÀ SÍ LA.

Nước A Điểm Bà Sí La chu vi rộng hôn 5000 dặm. Đô thành lớn của nước đó hiệu là Khiết Tể Thấp Phạt La chu vi rộng hơn 30 dặm. Cảnh vức phía tây nỏ hẹp, gần sông Tín Độ, gần bãi biển lớn. Nhà cửa trang nghiêm có nhiều vật quý báu. Gần đây không có quân trưởng nên toàn tùy thuộc nước Tín Độ. Đất đai thấp ẩm, đất bới lên chất muối, cỏ dơ hoang phủ tươi tốt, ruộng gò ít khai khẩn. Lúa thóc tuy đủ loại, mà đặc biệt giống lúa tẻ lắm nhiều. Khí hậu hơi lạnh, gió thổi vù vù cứng mạnh. Thích nghi các giống vật trâu, dê, lạc đà, loa. Con người tánh khí hung bạo thô gấp, chẳng khép ham tập học. Nói năng hơi khác so với các nước xứ Trung Ấn Độ. Xứ đó, tập tục thuần chất, kính sùng Tam bảo, có hơn 80 ngôi già lam, chư tăng có hơn 5000 vị, phần nhiều đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có 10 ngôi đền thờ trời, phần nhiều là đồ chúng ngoại đạo bôi thoa tro bụi vào thân mình sinh sống. Trong đô thành có ngôi đền thờ trời Đại Tự Tại. Đền nhà khắc chạm trang sức, tôn tượng trời linh thiêng soi xét. Các ngoại đạo bôi thoa tro bụi thân mình đến ở trong đó. Xưa kia đức Như Lai từng đến nước đó giảng pháp độ người dẫn phàm lợi tục nên các nơi Thánh tích vua Vô Ưu đều tạo dựng Tốt-đổ-ba có đến sáu ngôi. Từ đó theo hướng tây đi gần 2000 dặm đến nước Lang Yết La (thuộc Tây Ấn Độ).

19. NƯỚC LANG YẾT LA.

Nước Lang Yết La cả bốn phía đông tây nam bắc dài rộng cả vài ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 30 dặm hiệu là Tốt Đồ Lê Thấp Phạt La. Đất đai mầu mỡ, lúa thóc tươi tốt. Các thứ khí hậu phong tục đồng như ở nước A Điểm Bà Sí La. Dân chúng sinh sống đông nhiều, có lắm vật quý báu, gần bãi biển lớn, có đường đi vào nước Tây Nữ. Không có quân trưởng lớn, men tựa theo sông sống tự lập, chẳng cùng vâng thừa mạng lệnh. Mọi việc làm tùy thuộc nước Ba Thích Tư. Văn tự phần lớn đồng như ở các nước Ấn Độ, nói năng phần nhiều có phần hơi khác. Tà chánh đều kính tin. Có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 6000 vị, đối với giáo pháp đại thừa Tiểu thừa đều gắng công tập học. Có khoảng vài trăm ngôi đền thờ trời. Các hàng ngoại đạo phần nhiều là đồ chúng bôi tro bụi vào thân mình rất đông. Phía trong đô thành có ngôi đền thờ trời Đại Tự Tại, trang nghiêm rất mỹ lỵ, các ngoại đạo bôi tro bụi thân mình chuyên kính thờ đó.

Từ đó theo hướng tây bắc đến nước Ba Thích Tư (tuy chẳng phải nước thuộc các xứ Ấn Độ, xưa trước gọi lược là nước Ba Tư).

20. NƯỚC BA THÍCH TƯ.

Nước Ba Thích Tư chu vi rộng vài vạn dặm, đô thành lớn nước đó hiệu là Tô Thích Tát Thảng Na chu vi rộng hơn 40 dặm. Sông đất đã rộng nhiều mà khí hậu cũng khác lạ, đại để là ấm nóng. Dẫn nước làm ruộng, nhà cửa dân chúng đông nhiều giàu sang, là nơi sản sinh các thứ vàng, thau, đá, pha chi, thủy tinh, vật báu khác lạ trân quý. Thợ dệt thảm gấm mịn, đệm lông thô, v.v... Lại có nhiều ngựa giỏi tốt, lạc đà, buôn bán đổi chác dùng bằng tiền vàng lớn. Con người tánh khí thô tháo hung bạo, tập tục không có lễ nghĩa, chữ nghĩa nói năng khác với các nước, không tập học nghề nghiệp, có lắm nhiều công kỷ. Phàm mọi sự tác các cảnh vức lân cận đều mến trọng. Hôn thú tạp loạn. Người chết phần nhiều vất bỏ thi thể. Con người thân hình to lớn, cắt ngang tóc lộ bày đảnh đầu, vận mặc áo vải thô, hoặc gấm, giạ. Đóng thuế nhà mỗi người bốn tiền bạc. Các ngôi đền thờ trời có lắm nhiều do đồ chúng ngoại đạo Đề Na Bạt tôn thờ. Có vài ba ngôi già lam, chư tăng có khoảng vài trăm vị, đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Bình bát của đức Thíchca Thế Tôn hiện ở tại vương cung nước đó. Cảnh vức phía đông nước đó có rừng Hạc Lâm. Bên trong đô thành không rộng, phía ngoài thành quách chu vi rộng hơn 60 dặm. Dân chúng sinh sống đông đúc, nhà cửa lắm nhiều của cải. Về phía tây bắc tiếp liền với nước Phất Lẫm. Cảnh vức đất đai, phong tục đồng như ở nước Ba Thích Tư, con người dung mạo và nói năng có phần hơi khác. Có nhiều vật quý báu cũng lắm nhiều nhà giàu sang. Ở góc đảo biển phía tây nam nước Phất Lẫm có nước Tây Nữ, nước đó toàn là người nữ, không có người nam, có lắm nhiều của cải quý báu, mọi việc đều phụ thuộc nước Phất Lẫm. Nên mỗi năm vua nước Phất Lẫm sau các người nam sang đó phối hưởng. Nước đó có tập tục nếu sinh con trai đều chẳng đều không phải là sinh đẻ.

Từ nước A Điểm Bà Sí La theo hướng bắc đi hơn 700 dặm đến nước Tý Đa Thế La (thuộc tây Ấn Độ).

21. NƯỚC TÝ ĐA THẾ LA.

Nước Tý La Thế Đa chu vi rộng hơn 3000 dặm.

Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông đúc, không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Tín Độ. Đất đai pha lẫn cát muối, gió lạnh tê buốt. Có lắm nhiều giống lúa tẻ, hiếm ít hoa quả. Phong tục con người hung bạo, nói năng khác biệt so với các nước Trung Ấn Độ, không khéo ham thích học nghề, nhưng biết thuần tín. Có hơn 50 ngôi già lam, chư tăng có hơn 3000 vị, đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có hơn 20 ngôi đền thờ, đều là đồ chúng ngoại đạo bôi thoa tro bụi vào thân mình. Từ đô thành về phía bắc cách khoảng 15-16 dặm vào trong rừng lớn có ngôi Tốt-đổ-ba cao vài trăm thước do vua Vô Ưu tạo dựng. Bên trong có tôn thờ xá lợi, có lúc tỏa phóng ánh sáng, là nơi xưa kia đức Như Lai làm vị tiên nhân bị quốc vương giết hại. Từ đó về phía đông cách không xa có ngôi già lam xưa cũ do Đại A-lahán Đại Ca Đa Diễn Na tạo dựng. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành, đều có tạo dựng các ngôi Tốtđổ-ba để nêu bày.

Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn 300 dặm đến nước A Áng Trà (thuộc Tây Ấn Độ).

22. NƯỚC A ÁNG TRÀ.

Nước A Áng Trà chu vi rộng khoảng 2400-2500 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm, không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Tín Độ. Đất đai thích nghi với lúa thóc, đặc biệt lắm nhiều lúa tẻ, hoa quả hiếm ít, cây rừng đều đặn tươi tốt. Khí hậu gió lạnh. Con người tánh khí mạnh dữ nóng nảy, nói năng chất phác. Chẳng chuộng học tập nhưng đối với Tam bảo giữ tâm thuần tin. Có hơn 20 ngôi già lam, chư tăng có hơn 2000 vị, phần nhiều đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa chánh lượng bộ. Có năm ngôi đền thờ trời, đều là hàng ngoại đạo bôi thoa tro bụi vào thân mình. Từ đô thành về phía đông bắc cách không xa, trong rừng trúc lớn, hiện có nền móng ngôi già lam. Đó là nơi xưa kia đức Như Lai ở đó chấp thuận cho các Bí Sô mang giầy cực phược. Bên cạnh đó có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng, nền móng tuy đã bị đổ nát lấp vùi mà còn cao hơn trăm thước. Bên cạnh ngôi già lam đó có ngôi tinh xá có tôn tượng đức Phật đứng bằng đá xanh, vào những ngày trai thường tỏa phóng ánh sáng thần. Tiếp về phía nam cách hơn 800 bộ vào trong rừng có ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Xưa kia đức Như Lai đến đó nghỉ qua đêm gặp phải rét lạnh mới dùng cả ba pháp đắp y phủ lên thân mình, đến sáng sớm, đức Phật khai giới cho các Bí Sô đắp mặc áo phức nạp. Trong rừng đó có nơi xưa kia đức Phật đi kinh hành. Lại có các ngôi Tốt-đổ-ba sắp đặt thứ lớp đều là nơi bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền. Trong ngôi Tốt-đổ-ba có tôn thờ tóc và móng tay của đức Như Lai. Vào những ngày trai phần nhiều có tỏa phóng ánh sáng. Từ đó theo hướng đông bắc đi hơn 900 dặm đến nước Phạt Thích Noa (thuộc Tây Ấn Độ).

23. NƯỚC PHẠT THÍCH NOA.

Nước Phạt Thích Noa chu vi rộng hơn 4000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Dân chúng sinh sống đông đúc, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Ca Tất Thí. Đất đai lắm nhiều núi rừng. Lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, khí hậu hơi lạnh, phong tục con người mạnh mẽ nóng nãy, tánh khí vội vã thô bạo, chí ý xấu tệ, nói năng hiếm ít giống các nước xứ Trung Ấn Độ, tà chánh đều tôn sùng. Chẳng khéo ham thích tập học nghề nghiệp. Có khoảng vài mươi ngôi già lam, phần nhiều đều đã hoang phế hư hoại, chư tăng có hơn 300 vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Có năm ngôi đền thờ trời, phần nhiều là đồ chúng ngoại đạo bôi thoa tro bụi vào thân mình. Từ đô thành về phía nam cách không xa, có ngôi già lam xưa cũ, xưa kia đức Như Lai từng ở tại đó giảng nói giáo pháp, chỉ bày mọi sự lợi mừng, khai ngộ các quần sinh. Bên cạnh đó là nơi có di tích của bốn đức Phật thời quá khứ tọa thiền và kinh hành. Nghe các hàng sĩ tục nói là phía tây nước đó tiếp giáp với nước Kê Khương Na ở giữa khoảng núi sông, riêng tự lập chủ, không có quân trưởng lớn. Có lắm nhiều trâu ngựa, có giống ngựa hay giỏi thân hình rất lớn, các nước hiếm có giống ấy, các xứ lân cận rất quý trọng. Lại từ đó theo hướng tây bắc vượt qua núi lớn và sông rộng, trải qua thêm thành ấp nhỏ đi hơn 2000 dặm ra khỏi cảnh vức Ấn Độ đến nước Tào Củ Tra (còn gọi là nước Tào Lợi).

Đại Đường Tây Vức ký hết quyển mười một.

----------------------------------

PHỤ LỤC: NÓI THÊM VỀ NƯỚC TĂNG GIÀ LA (Truyện 1).

Nước Tăng-già-la tức là nước Sư Tử xưa kia, lại còn gọi là nước Vô Ưu thuộc Nam Ấn Độ, xứ đó lắm nhiều vật báu kỳ đặc, nên còn gọi tên là Bảo Chữ (bãi vật báu). Xưa kia đức Phật Thích-ca Mâuni hóa thân với tên gọi là Tăng-già La, các đức hạnh đều gồm đủ, mọi người trong nước đó suy tôn lên làm vua, nên nước đó cũng lấy chữ "Tăng-già La" làm hiệu. Vua Tăng-già-la dùng sức thần thông lớn, phá hủy thành sắt lớn, diệt các La sát nữ, cứu giúp mọi người mắc phải ách nạn, từ đó xây dựng đô thành phân lập thôn ấp, cảm hóa dắt dẫn phương ấy, tuyên dương giáo pháp, lại thị hiện tịch diệt, lưu lại cốt răng. Hiện nay xứ đó thuần toàn kim cang bền chắc, trải qua thời gian lâu dài mà chẳng hư hoại. Báu sáng soi chiếu khắp xa như muôn sao tỏa rực giữa không trung, như vầng trăng soi sáng giữa đêm trường, tợ vầng thái dương rực lệ giữa ban ngày. Phàm như có cầu đảo đều được ứng đáp như vọng hưởng. Nếu nước nhà có sự hung hoang biến dị, tinh ý khẩn cầu, điềm linh tốt lành sẽ tuỳ theo đến. Nay núi Tích Lan tức là nước Tăng-già-la xưa kia vậy. Bên cạnh vương cung có tinh xá Phật Nha, dùng các vật báu nghiêm sức ánh ngời, trải qua nhiều đời tiếp nối kính lễ không suy giảm. Nay vua nước đó tên là A Liệt Khổ Nại Nhi người xứ Tỏa Lý, tôn thờ ngoại đạo, chẳng kính Phật pháp, bạo ngược hung tàn, chẳng giúp đỡ dân chúng trong nước, khinh thường cốt răng đức Phật.

Năm Vĩnh Lạc thứ ba (1405) thời nhà Minh ở Trung Hoa, vua Thành Tổ (Chu Lệ 1403-1425) sai phái trung sứ thái giám Trịnh Hòa mang hương hoa đến nước đó cúng dường. Trịnh Hòa khuyên vua nước đó là A Liệt Khổ Nại Nhi kính sùng Phật giáo, xa lìa ngoại đạo. Vua A Liệt Khổ Nại Nhi tức giận muốn làm hại, Trịnh Hòa nhận biết mưu đồ đó, bèn bỏ đi. Về sau lại sai phái Trịnh Hòa sang ban tặng ở các phiên, đến bái tặng vật vua nước núi Tích Lan: vua A Liệt Khổ Nại lại càng thêm khinh mạn chẳng cung kính, muốn mưu tính làm hại sứ giả, dùng năm vạn binh lính chặt cây đóng cắm bít đường, phân binh lính cướp thuyền biển, nhóm hội các hạng người dưới dự tham bèn tiết lộ mưu cơ đó. Trịnh Hòa phát giác ra kịp vội xoay thuyền, giữa đường đã ách tuyệt, ngầm sai người ra, thuyền soái chống cự đó. Giữa ban đêm, Trịnh Hòa dẫn 3000 binh lính dẫn đường đánh vào vương cung và trấn giữ đó, Phiên binh muốn cướp thuyền biển đó cùng với Phiên binh trong nước đó từ bốn mặt đánh lại, hợp vây vài lớp, đánh nhau suốt sáu ngày. Trịnh Hòa bắt lấy vua A Kiệt Khổ Nại Nhi dấn bước thời gian mở cửa chặt cây lấy đường, vừa đánh vừa đi hơn 20 dặm, tới chiều mới đến nơi thuyền, bèn đến lễ thỉnh cốt răng đức Phật xuống thuyền, có lắm linh dị khác thường như đã nói ở trước kia, sấm sét nổ dụng chấn động lớn, từ xa trông thấy đều ẩn tránh, dẫm trải qua biển lớn cả vài mươi vạn dặm, sóng gió chẳng kinh động như bước đi trên đất bằng; Rồng dữ cá ác phân đường dẫn trước, an nhiên chẳng làm hại. Mọi người trong thuyền đều an ẩn khoái lạc.

Tới ngày mồng 9 tháng 7 năm Vĩnh Lạc (1411) thời nhà Minh, ở Trung Hoa, về đến kinh đô, vua Thành Tổ bảo ban nghinh thỉnh vào trong hoàng thành, dùng gỗ chiên đàn, vàng, kim cang để trang nghiêm tòa báu và tôn trí cốt răng của đức Phật đó mà kính tu cúng dường, làm lợi ích cho các loài hữu tình, cầu phước cho muôn dân, tạo vô lượng công đức.

QUYỂN 12

(Nói về 22 nước)

1. Nước Tào Cũ Tra.

2. Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na.

3. Nước A Đạt La Phược.

4. Nước Hoạt Tất Đa.

5. Nước Hoạt.

6. Nước Măng Kiện.

7. Nước A Lợi Ni.

8. Nước Hạt La Hồ.

9. Nước Ngật Lật Sắc Ma

10. Nước Bát Lợi Hạt.

11. Nước Hý Ma Đát La.

12. Nước Bát Lạt Sáng Na.

13. Nước Dâm Bạt Kiện.

14. Nước Khuất Lãng Noa.

15. Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế.

16. Nước Thi Khí Ni.

17. Nước Thương Di.

18. Nước Khiết Bàn Đà.

19. Nước Ô Sát.

20. Nước Khư Sa.

21. Nước Chúc Cú Ca.

22. Nước Cù Tát Đán Na.

1. NƯỚC TÀO CỦ TRA.

Nước Tào Củ Tra chu vi rộng hơn 7000 dặm. Đô thành lớn của nước đó hiệu là Hạt Tất Na chu vi rộng hơn 30 dặm, hoặc thành Đô Hạc Tát La chu vi rộng hơn 30 dặm đều là cao vợi hiểm nguy bền chắc, núi sông liền giải, ruộng gò cao ráo, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, lắm nhiều giống lúa tẻ, cỏ cây đều đặn tươi tốt, hoa quả lắm nhiều. Đất đai lại thích nghi giống cây Uất kim hương, là xứ sản sinh giống cỏ Hưng Cù, cỏ sinh vùng sông Ma La Ấn Độ. Trong thành Hạc Tát La có dòng suối tuôn trào chảy thành dòng phái. Dân chúng trong nước lấy lợi từ đó tưới rót ruộng đồng, khí hậu lạnh cứng, sương tuyết lắm nhiều. Con người tánh khí khinh tháo, tình ý lắm dối trá, khéo ham học nghề, có nhiều kỹ thuật, thông mẫn mà chưa khéo, mỗi sáng sớm mai tụng tấu hư đàm, hiến ít thành sự thật văn tự, ngôn ngữ khác với các nước khác, hay nói những chuyện hư cấu rồi trở thành sự thật. Tuy cúng tế trăm thần mà vẫn kính sùng Tam bảo. Có khoảng vài trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Hiện nay vua nước đó vốn được thuần tin nhiều đời tiếp nối nên chuyên lo tu tạo thắng phước, thông mẫn mà lại khéo ham học. Vua Vô Ưu có tạo dựng hơn 10 ngôi Tốt-đổ-ba tại nước đó. Có khoảng vài mươi ngôi đền thờ trời. Các hàng dị đạo chung sống lẫn lộn, tính kể có lắm nhiều ngoại đạo. Đồ chúng rất hưng thạnh, tôn thờ trời Sô Na. Thiên thần đó xưa kia từ núi A Lộ Nhu nước Ca Tất Thí chuyển dời đến trong núi Sô Na Hý La ở cảnh giới phía nam nước đó, ra oai làm phước, hiện hung bạo tạo ác. Người kính tin mong cầu thì toại quả nguyện, kẻ khinh miệt thì phải chịu tai ương. Nên mọi người từ xa gần đều tông ngưỡng, trên dưới thảy kính sợ. Các hàng quân thần liêu thứ ở các nước láng giềng hay cách khách phong tục mỗi năm vào ngày tốt lành chẳng hẹn mà cùng tụ hội, hoặc mang các thứ vàng bạc vật báu kỳ đặc, hoặc đem trâu ngựa các súc vật đua nhau dâng hiến tỏ bày thuần khiết, do đó vàng bạc trải cùng đất, dê ngựa đầy hang cốc, không dám dòm ngó, chỉ tu cúng dường, tôn thờ ngoại đạo, khắc tâm khổ hạnh. Thiên thần trao cho chú thuật, các ngoại đạo tuân hành, có nhiều công hiệu trị liệu bệnh tật rất được lành mạnh.

Từ đó, theo hướng bắc đi hơn 500 dặm đến nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na.

2. NƯỚC PHẤT LẬT THỊ TÁT THẢNG NA.

Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na từ đông sang tây dài hơn 2000 dặm, từ nam sang bắc rộng hơn 1000 dặm. Đô thành lớn của nước đó hiệu là Hộ Tất Na chu vi rộng hơn 20 dặm. Các thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán đều đồng như ở nước Tào Củ Tra, nói năng có khác. Khí hậu lạnh gắt, con người tính khí cứng mạnh nóng nãy. Vua nước đó thuộc chủng tộc Đột Quyết, rất kính tin Tam bảo, mến chuộng tập học, tôn kính tài đức.

Từ nước đó theo hướng đông bắc, vượt núi băng sông, vượt qua biên giới nước Ca Tất Thí, qua khoảng 20 thành nhỏ và thôn ấp, đến đảnh núi lớn Bà La Tê Na ở núi tuyết lớn. Đảnh núi đó cao vợi hiểm nguy, đường đi quanh co, sườn đảnh xoay quanh, hoặc vào hang cốc sâu, hoặc lên sườn đảnh cao. Vào giữa mùa hạ mà tuyết đóng, gió lạnh tê buốt, tuyết đóng dày hang cốc. Các lữ hành đi qua chẳng thể dừng bước chân, bay nhảy liệng quanh, chẳng thể vượt qua, dấu chân vừa dẫm bước sau đó liền vụt bay, trông nhìn xuống các núi phía dưới như nhìn các đống đất nhỏ. Trong Thiệm-bộ-châu, đảnh núi đó đặc biệt cao vợi, trên đảnh núi đó không có cây cối, chỉ có nhìn ngọn núi đá, nhóm đứng tựa nhau lắm nhiều như rừng. Lại đi mất thêm ba ngày nữa mới xuống khỏi đảnh núi đó, đến nước An Đát La Phược.

3. NƯỚC AN ĐÁT LA PHƯỢC.

Nước An Đát La Phược là chỗ đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La chu vi rộng hơn 3000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm, không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc Đột Quyết, núi đồi liền nhau, sông, đồng ruộng nhỏ hẹp. Khí hậu lạnh buốt, gió tuyết cứng mạnh. Lắm nhiều lúa thóc, rất thích nghi với hoa quả. Con người tánh khí hung bạo, tập tục không có cương kỷ, không biết tội phước, không mến chuộng tập học, chỉ tu cúng thờ thần, không tin Phật pháp. Có ba ngôi già lam, chư tăng có khoảng vài mươi vị nhưng đều tuân theo tập học giáo pháp đại chúng bộ. Có một ngôi Tốt-đổ-ba do vua Vô Ưu tạo dựng. Từ đó theo hướng tây bắc vào hang cốc vượt đảnh núi, băng qua các thành nhỏ đi hơn 400 dặm đến nước Hoạt Tất Đa.

4. NƯỚC HOẠT TẤT ĐA.

Nước Hoạt Tất Đa là chỗ đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La, chu vi rộng gần ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm. Không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc Đột Quyết. Núi nhiều sông hẹp, lại lắm gió lạnh. Lúa thóc nhiều hoa quả tươi tốt. Con người tánh khí hung bạo, tập tục không có pháp độ. Có ba ngôi già lam chư tăng rất hiếm ít. Từ đó theo hướng tây bắc, vượt núi băng hang, qua các thành ấp, đi hơn 300 dặm đến nước Hoạt.

5. NƯỚC HOẠT.

Nước Hoạt là chỗ đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La, chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 20 dặm. Không có quân trưởng riêng biệt, mọi việc làm đều tùy thuộc Đột Quyết. Đất đai bằng phẳng, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, cỏ cây tươi tốt hoa quả lắm nhiều. Khí hậu hòa sướng, phong tục thuần chất. Con người tánh khí thô tháo nóng nãy, vận mặc y phục đệm giạ vải sợi thô. Phần nhiều kính tin Tam bảo, ít tôn thờ thần. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có khoảng vài trăm vị. Đối với giáo pháp đại thừa Tiểu thừa, đều gắng công tập học. Vua nước đó thuộc chủng tộc Đột Quyết, thường đóng ở các nước nhỏ từ Thiết Môn trở về phía nam, luôn dời đổi như chim, chẳng thường ở tại ấp. Từ đó, theo hướng đông là vào Thông Lãnh. Thông Lãnh ở trong Thiệm-bộ-châu, phía nam tiếp liền với núi Tuyết lớn, phía bắc đến tận ngàn suối biển nóng, phía tây đến tận nước Hoạt và phía đông đến nước Ô Sát. Bốn mặt đông tây nam bắc mỗi mặt dài rộng khoảng vài ngàn dặm, sườn bờ đảnh núi có vài trăm lớp. Hang sâu đảnh vót thường luôn tích chứa băng tuyết, gió lạnh cứng gắt, là nơi có nhiều cây thông sinh sống nên gọi là thông lãnh. Lại về chung quanh sườn núi toàn thông xanh biếc, bèn lấy đó mà đặt tên. Từ đó theo hướng đông đi hơn trăm dặm đến nước Măng Kiện.

6. NƯỚC MĂNG KIỆN.

Nước Măng Kiện là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La, chu vi rộng hơn 400 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 15-16 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán, v.v... đều đồng với như ở nước Hoạt. Không có quân trưởng lớn, mọi việc làm đều tùy thuộc Đột Quyết. Từ đó về hướng bắc là đến nước A Lợi Ni.

7. NƯỚC A LỢI NI.

Nước A Lợi Ni là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La, men dãi theo hai bờ sông Phược Sô, chu vi rộng hơn 300 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 14-15 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán, v.v... đều đồng như ở nước Hoạt. Từ đó về hướng đông là đến nước Hạt La Hồ.

8. NƯỚC HẠT LA HỒ.

Nước Hạt La Hồ là chốn đất xưa cũ của nước

Đổ Hóa La, phía bắc gần sông Phược Sô, chu vi rộng hơn 200 dặm. Đô thành lớn của nước đó rộng khoảng 14-15 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán, v.v... đều đồng như ở nước Hoạt.

Từ nước Măng Kiện về hướng đông, vượt qua đảnh núi cao vót vào hang cốc thông suốt, đi qua vài dòng sông và thành ấp, đi hơn 300 dặm đến nước Ngột Lật Sắc Ma.

9. NƯỚC NGỘT LẬT SẮC MA.

Nước Ngột Lật Sắc Ma là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La. Từ đông sang tây rộng hơn 10 dặm, từ nam sang bắc dài hơn 300 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 15-16 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán, v.v... đều đồng như ở nước Măng Kiện. Chỉ có khác là con người tánh khí hung bạo ngu xuẩn tàn ác mà thôi. Từ đó về hướng đông bắc là đến nước Bát Lợi Hạt.

10. NƯỚC BÁT LỢI HẠT.

Nước Bát Lợi Hạt là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La. Từ đông sang tây rộng hơn trăm dặm, từ nam sang bắc rộng hơn 300 dặm. Đô thành lớn của nước đó rộng hơn 20 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, phong tục tập quán, v. v…, đều đồng như ở nước Ngột Lật Sắc Ma.

Từ nước Ngột Lật Sắc Ma theo hướng đông vượt qua núi trải qua sông, đi hơn 300 dặm đến nước Hy Ma Đát La.

11. NƯỚC HY MA ĐÁT LA.

Nước Hy Ma Đát La là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La chu vi rộng hơn 3000 dặm. Núi sông quanh co, đất đai mầu mỡ, thích nghi với lúa thóc, có nhiều lúa tẻ. Trăm thứ cỏ tươi tốt, các giống hoa quả lắm nhiều. Khí hậu lạnh gắt. Con người tánh khí hung bạo gấp vội, không biết tội phước, hình dáng thô xấu, oai nghi đường đột, vận mặc y phục bằng giạ, da, vải sợi thô rất đồng như ở Đột Quyết. Ở nước đó, người vợ trên đầu quấn sừng gỗ cao hơn ba thước, phía trước có hai nanh vót tượng trưng cho cha mẹ chồng. Nanh vót phía trên tượng trưng cho cha, Nanh vót phía dưới tượng trưng cho mẹ, tùy cha hay mẹ qua đời trước mà vất bỏ đi một nanh vót. Cậu cô đều đã qua đời thì vất bỏ sừng gỗ đó. Xưa trước, đó là một đất nước hùng mạnh, vua thuộc dòng họ Thích. Ở phía tây của Thông Lãnh rất được nhiều thuần phục. Cảnh vức láng giềng thuộc chủng tộc Đột Quyết nên bèn bị nhiễm theo phong tục đó, lại vì bị xâm lấn nên phải tự giữ lấy cảnh vức của mình. Nên dân chúng nước đó lưu lạc đến các cảnh vức khác. Có khoảng vài mươi khi thành bền chắc, mỗi tự riêng lập chủ, chòi nhà màn trước dời đổi qua lại. Phía tây tiếp liền với nước Ngật Lật Sắc Ma. Đi hơn 200 dặm đến nước Bát Đạt Sáng Na.

12. NƯỚC BÁT ĐẠT SÁNG NA.

Nước Bát Đạt Sáng Ma là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La, chu vi rộng hơn 2000 dặm, đô thành lớn của nước đó men tựa trên sườn núi chu vi rộng khoảng 6-7 dặm, núi sông quanh co, cát đá lan tràn, đất đai thích nghi với các giống đậu lúa tẻ. Có lắm nhiều giống cây trái bồ đào, hồ đào, lê, nại (mít), v.v... Khí hậu lạnh gắt. Con người tánh khí cứng mạnh, tập tục không có lễ phép, không biết học nghề, con người dáng mạo thô xấu, phần nhiều vận mặc y phục vải giạ, vải sợi thô. Có khoảng 3-4 ngôi già lam, chư tăng rất hiếm ít. Vua nước đó tánh tình thuần chất, kính tin Tam bảo. Từ đó theo hướng đông nam vào trong hang núi đi hơn 200 dặm đến nước Dâm Bạc Kiện.

13. NƯỚC DÂM BẠC KIỆN.

Nước Dâm Bạc Kiện là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La, chu vi rộng hơn ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, núi đảnh liền nhau, sông nước ruộng đồng nhỏ hẹp. Mọi thứ đất đai thích nghi, khí hậu phong tục, tánh khí con người, v.v... phần nhiều đồng như ở nước Bát Đạt Sáng Na, chỉ có nói năng hơi khác. Vua nước đó tánh khí hung bạo, không khéo rõ mọi việc thiện ác. Từ đó, theo hướng đông nam, vượt đảnh băng hang, đường sá quanh co nguy hiểm, đi hơn 300 dặm đến nước Khất Lãng Noa.

14. NƯỚC KHẤT LÃNG NOA.

Nước Khất Lãng Noa là chốn đất xưa cũ của nước Để Hóa La chu vi rộng hơn 2000 dặm. Mọi thứ đất đai thích nghi, núi sông, thời tiết, v.v... đều đồng như ở nước Dâm Bạc Kiện. Tập tục nước đó không biết tạo phước, ít kính tin Phật pháp, dung mạo xấu xí, phần nhiều vấn mặc y phục vải giạ, vải sợi thô. Lại trong hang núi hay sản sinh nhiều kim tinh, bổ chẻ đá đó ra sau hẳn có được. Các ngôi già lam đã ít, chư tăng cũng hiếm thiết. Vua nước đó tánh tình thuần chất, sùng kính Tam bảo. Từ đó theo hướng đông bắc leo lên đảnh núi vào hang cốc, đường sá hiểm nguy, đi hơn 500 dặm đến nước Đạt Ma Tất Thiết Đế (còn gọi là nước Trấn Khản, ha nước Hộ Mật).

15. NƯỚC ĐẠT MA TẤT THIẾT ĐẾ.

Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế ở giữa khoảng hai quả núi là chốn đất xưa cũ của nước Đổ Hóa La. Từ đông sang tây dài khoảng 1500-1600 dặm, từ nam sang bắc rộng khoảng 4-5 dặm, nơi hẹp nhất thì không quá một dặm. Gần sông Phược Sô, quanh co khúc chiết, gò đồi cao thấp, cát đá lan tràn, gió lạnh rét buốt, chỉ gieo trồng được giống lúa tẻ, đậu, hiếm cây rừng. Là nơi sản sinh giống ngựa tốt giỏi, ngựa thân hình tuy nhỏ mà có sức nhẫn nại vượt nhanh, tập tục không có lễ nghĩa, con người tánh khí hung bạo, dáng mạo thô xấu, vận mặc y phục vải giạ, vải sợi thô, tròng mắt phần nhiều xanh biếc, đó là điểm khác so với các nước. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng hiếm ít.

Trong đô thành của nước Hôn Đà Đa Thành có ngôi già lam do tiên vương nước (Đạt Ma Tất Thiết Đế) đó tạo dựng, xẻ đục sườn núi cắm đóng hang cốc mà tạo dựng nên nhà cửa. Mới đầu, nước đó chưa có Phật giáo hoằng truyền, chỉ chuyên tôn thờ tà thần. Khoảng vài trăm năm trước đây mới hoằng dương pháp hóa. Mới đầu, vua nước đó mến thương người con cảm mắc bệnh, khổ nhọc tìm cầu thuốc thang chữa trị mà chỉ có thêm, chứ không giảm bớt, đích thân vua mới đến đền thờ trời, lễ bái nguyện xin cầu cứu. Khi ấy người chủ đền thờ ấy làm thần bảo hẳn sẽ lành khỏi, không có gì phải lo toan. Vua nghe thế vui mừng an ủy xoay trở xa giá ra về, đi giữa đường gặp một vị Sa-môn dung mạo khả quan, vua kinh sợ hình phục ấy mới hỏi: "Từ đâu đến?". Vị Sa-môn đó đã chứng đắc Thánh quả muốn hoằng dương Phật pháp nên hiện hình nghi đó mà bảo cùng vua rằng: "Tôi là đệ tử của đức Như Lai, nên gọi là Bí Sô". Vua đã ôm lòng buồn lo nên liền trước hỏi rằng: "Con tôi cảm mắc bệnh tật, sống chết chưa phân rành". Vị Sa-môn đó bảo: "Tiên linh của vua đã khởi dậy, mến thương con khó cứu". Vua nói là: "Thiên thần bảo là nó hẳn không chết". Vị Sa-môn đó bảo: "Con vua sẽ chết. Hạng dối trá trong đời, làm sao đáng nên tin?". Vua về đến trong cung thì đứa con mến thương đã chết. Vua bèn giấu yên chẳng phát tang, mà lại sang hỏi thần chủ. Thần chủ còn bảo: "Con vua không chết, bệnh tật ấy sẽ lành khỏi". Vua bèn tức giận trói buộc thần chủ mà bảo rằng: "Bọn các ông sống từng đàn nuôi lớn điều xấu ác, vọng bày điều oai phước. Con ta đã chết mà còn bảo là sẽ lành bệnh. Dối hoặc như thế này, sao có thể nhẫn chịu được?". Vua bèn giết thần chủ, phá dẹp miếu linh. Sau khi giết thần chủ, phá dẹp tượng thần, ném vất xuống sông Phược Sô, vua xoay trở xa giá mà về. Lại gặp vị Sa-môn đó, vừa thấy nhà vua liền kính mừng cúi đầu lễ tạ rằng: "Ngày trước do vô minh dẫn dắt nên dẫm chân trong đường tà. Tệ hại tuy đã lâu dài, nhưng men theo đổi mới ở tại ngày nay. Nguyện xin rủ lòng xót thương đến nơi ở phòng nhà tôi!". Vị Sa-môn đó nhận lời thỉnh mời bèn theo vào trong cung. Sau khi lễ tang người con mến thương đã xong, vua nói cùng Sa-môn đó rằng: "Người đời quanh co, sống chết xoay vần. Con tôi cảm mắc bệnh tật, hỏi thần nó sống chết thế nào. Thần vọng bảo nó hẳn sẽ lành mạnh! Ngày trước vâng sự chỉ bảo của ngài quả thật không nói dối bày. Đó là pháp đáng kính phụng. Chỉ xin giũ lòng xót thương dẫn dắt đàn mê lầm đường này!". Và vua cầu thỉnh vị Sa-môn đó đo tính ngôi già lam, vua y cứ khuôn phép đó mà tạo dựng. Từ đó trở về sau, Phật giáo mới bắt đầu tỏa sáng. Nên trong ngôi già lam đó có vì vị A-la-hán (tức vị Sa-môn đó) mà tạo dựng ngôi tinh xá. Trong ngôi tinh xá lớn của già lam đó có tôn tượng đức Phật bằng đá. Phía trên đầu tượng có treo lọng tròn bằng bàng đồng dùng các vật báu để trang nghiêm. Như có người đi nhiễu thì lọng đó cũng tùy theo mà xoay chuyển, người dừng đứng thì lọng đó cũng dừng đứng. Chẳng lường biết được sự linh thiêng soi xét đó. Nghe các bậc lão thành, có người nói là do nguyện lực của Thánh nhân gìn giữ, hoặc có người nói là một cơ quan bí mật xếp đặt nên. Nhưng trông nhìn vào phòng nhà thuần toàn vách đá bền chắc cao vợi. Xét về mọi sự nghị bàn chẳng biết được thực lục. Vượt qua núi lớn của nước đó, theo hướng bắc là đến nước Thi Khí Ni.

16. NƯỚC THI KHÍ NI.

Nước Thi Khí Ni chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng khoảng 5-

6 dặm, núi sông liền nhau, cát đá tràn khắp đồng hoang, có nhiều giống lúa tẻ, hiếm ít lúa thóc gieo. Cây rừng hiếm ít, hoa quả không bao nhiêu. Khí hậu lạnh gắt, phong tục con người hung bạo mạnh dữ, nhẫn làm việc giết hại, chuyên theo nghề trộm cướp, không biết lễ nghĩa, không biết thiện ác, mê mờ mọi họa phước của tương lai, chỉ lo sợ tai ương trong hiện tại. Con người hình dáng xấu xí, dùng da thú vải sợi làm y phục. Văn tử đòng như ở nước Đổ Hóa La, nói năng có phần khác. Từ đó vượt qua núi lớn của nước Đạt Ma Tất Thiết Đế theo hướng nam đến núi Thương Di.

17. NƯỚC THƯƠNG DI.

Nước Thương Di chu vi rộng khoảng 2400-2500 dặm, núi sông liền nhau, gò đồi cao thấp. Lúa thóc gieo trồng đủ, các giống đậu và lúa tẻ lại càng lắm nhiều, có nhiều bồ đào. Là nơi sản sinh giống thư lòng, đục sườn núi chẻ bổ đá, sau đó hẳn có được. Thần núi bạo ác thường làm điều tai hại, sau khi cúng tế xong mới vào thì bình thường tốt lành qua lại, còn nếu không cầu đảo thì gió bão sẽ nổi lên đùng đùng. Khí hậu lạnh buốt, phong tục vội gấp, con người tính khí thuần chất, mà tập tục không có lễ nghĩa, trí mưu hẹp hòi, tài năng kỹ thuật cạn mỏng. Văn tự đồng như ở nước Đổ Hóa La, nói năng khác biệt, phần nhiều mặc y phục bông tơ, vải sợi. Vua nước đó thuộc giòng họ Thích rất sùng kính Phật pháp. Dân chúng trong nước đều theo phong hóa nên đều thuần tin. Có hai ngôi già lam, chư tăng hiếm ít.

Từ cảnh vức đó về phía đông bắc trèo núi vượt hang dẫm trải qua hiểm nguy, đi hơn 700 dặm đến sông Ba Mê La. Từ đông sang tây dài hơn ngàn dặm, từ nam sang bắc rộng hơn trăm dặm, nơi nhỏ hẹp nhất không quá 10 dặm, nằm giữa khoảng hai núi tuyết, nên gió lạnh rét buốt, mùa xuân mùa hạ luôn có tuyết bay, đêm ngày gió thổi vùn vụt. Đất nhiều muối mặn, có nhiều đá chẻ, gieo trồng không được nên cây cỏ hiếm ít, bèn khiến hoang vắng tuyệt không dấu vết chân người dừng ở.

Trong sông Ba Mê La có một ao rồng lớn, từ đông sang tây dài hơn 300 dặm, từ nam sang bắc rộng hơn 50 dặm nằm trong Thông Lãnh lớn, ngay giữa Thiệm-bộ-châu. Đất xứ đó rất cao, dòng nước lắng trong ánh ngời như gương soi, chẳng lường biết sâu đến bao nhiêu, sắc màu xanh đen, mùi vị rất ngọt ngon. Ngầm ở trong đó thì có các loài cá giao, ly, cá, rồng, ngoan, đà, rùa, ba ba, v.v..., nói bay trên mặt có các loài chim uyên ương, hồng nhạn, gia nga, nga sy... các giống chim sa thải trứng, bò sát bỏ mặc giữa đồng hoang, hoặc trong đầm cỏ, hoặc trên bãi cát. Dòng mạch phía tây của ao làm thành một dòng sông lớn theo hướng tây đổ đến biên giới phía đông nước Đạt Ma Tất Thiết Đế cùng hợp với dòng sông Phược Sô mà xuôi dòng về hướng tây. Nên từ đó trở về phía hữu các dòng sông đều đổ về hướng tây. Dòng mạch ở phía đông của ao làm thành một dòng sông lớn, theo hướng đông bắc đổ đến biên giới phía tây nước Khư Sa, cùng hợp với dòng sông Tỷ Đa mà xuôi dòng về hướng đông. Từ phía nam sông Ba Mê La vượt qua núi có đất nước tên là Bát Lộ La, là nơi có nhiều vàng, bạc. Sắc vàng màu như lửa.

Từ trong dòng sông đó theo hướng đông nam leo lên núi dẫm trải qua đường sá hiểm trở, không có làng ấp dân chúng, chỉ lắm nhiều bằng tuyết đi hơn 500 dặm, đến nước Khiết Bàn Đà.

18. NƯỚC KHIẾT BÀN ĐÀ.

Nước Khiết Bàn Đà chu vi rộng hơn 2000 dặm. Đô thành lớn của nước đó xây dựng nền móng trên đảnh núi đá lớn, lưng tựa dòng sông Tỷ Đa. Chu vi rộng hơn 20 dặm, các đảnh núi liền nhau, sông và đồng bằng nhỏ hẹp, lúa thóc hiếm ít, mà các giống đậu và lúa tẻ lắm nhiều.

Cây rừng hiếm, hoa quả ít. Đồng bằng thấp trũng, gò đồi hoang vu, thành ấp trống rỗng. Tập tục không có lễ nghĩa, con người ít chăm học nghề, tánh khí đã hung bạo mà sức lực lại mạnh mẽ, dung mạo xấu xí. Vận mặc y phục bằng vải giạ vải sợi thô. Chữ nghĩa nói năng phần nhiều đồng như ở nước Khư Sa, nhưng biết thuần tin, sùng kính Phật pháp. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có hơn 500 vị, tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ.

Hiện nay, vua nước đó là con người thuần chất, kính trọng Tam bảo, nghi dung nhàn nhã, dốc chí khéo ham học. Từ khi lập quốc trở lại nay thời gian đã rất lâu dài, mà ở nước đó tự xưng là: "Chí Na Đề Bà Cù Đát La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là chủng tộc Hán Thiên Nhật) là tiên tổ của nước đó". Ở trong Thông Lãnh có dòng sông hoang, xưa kia vua nước Ba Lợi Thích Tư lấy vợ người xứ đất Hán, nghinh đón về đến đó, khi ấy gặp phải binh loạn, cả hai phía đông tây đều tắt nghẽn đường, bèn đưa vương nữ an đặt trong đảnh núi đơn lẻ rất cao vợi hiểm nguy, men leo theo sườn núi mà lên xuống, dàn bày binh lính chung quanh bảo vệ, canh ngày phòng đêm. Trải qua thời gian ba tháng, giặc cướp mới tạm yên tĩnh, muốn lên đường trở về thì vương nữ ấy đã mang thai. Các sứ thần lo sợ, bảo cùng mọi người đồng theo rằng: "vua bảo chúng ta đi nghinh đón vợ, gặp phải giặc cướp loạn nổi dậy, đã qua đồng trống tiếp đến sông hoang, sống buổi sáng chẳng tính đến chiều tối. Đức của vua chúng ta cảm đến, yêu khí đã tạm lắng yên, nay sắp trở về nước, mà vợ vua đã mang thai, trông nhìn đó thật rất đáng lo sợ, chẳng biết chết tại nơi nào? Nên đẩy tội ác trước hay để giết chết sau?". Bàn luận ồn náo chẳng rốt cùng được sự thật. Khi ấy đứa hầu bé nhỏ nói cùng các sứ thần rằng: "Chớ cùng phải lo toan lắm vậy, đó là do Thần hội, mỗi ngày vào lúc giữa trưa có một gã trượng phu từ trong vầng nhật luân cưỡi ngựa đến đây". Các sứ thần bảo: "Nếu vậy, làm sao rửa tội? Về hẳn sẽ bị giết. Ở lại cũng sẽ tìm đánh bắt. Tiến thối đều như vậy, nên thực hành thế nào đây?". Mọi người đều cùng nói: "Việc ấy chẳng phải nhỏ, ai chịu đến giết sâu, thà chờ đợi tôi ở ngoại cảnh, thả mặc tùy sớm tối". Khi ấy bèn lên đảnh núi đá xây dựng cung, tạo lập quán, chu vi rộng hơn 300 bộ, bao quanh cung xây dựng thành, tôn xưng người nữ đó làm chủ, sắp đặt các quan, ban bày pháp luật. Đến kỳ hạn sinh ra một người con trai dung mạo xinh đẹp. Mẹ nắm giữ chánh sự, con xưng tôn hiệu. Bay đi giữa hư không, khống chế cả gió mây, oai đức trùm xa, thanh giáo đượm khắp. Các cảnh vức láng giềng, các nước xa khác đều đến xưng thần. Sau khi vua đó băng hà, an táng tại trong thạch thất ở hang núi lớn cách thành đó hơn trăm dặm về phía đông nam, thi thể khô thịt đến nay hiện còn không rã hoại, tướng trạng như người gầy ốm, nghiễm nhiên tợ nằm ngủ. Theo thời gian thay đổi y phục, thường đặt các thứ hương hoa, con cháu nối tiếp đời đời mãi đến ngày nay. Xuất phát của tiên tổ nước đó thì mẹ là người xứ đất Hán, còn cha tức giống nhật thiên. Nên người nước đó họ tự xưng là chủng tộc Hán Nhật Thiên. Nhưng vương tộc đó dung mạo đồng như người ở Trung Hạ (Trung Hoa), trên đầu nghiêm sức mũ mão vuông, thân mặc y phục người Hồ. Về sau con cháu tiếp nối lấn lướt các xứ man di, hiện tại gần như là một đất nước hùng mạnh.

Khi vua Vô Ưu trị vì thiên hạ, đến trong cung đó tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba. Vua nước đó về sau dời đến ở góc đông bắc của cung. Lấy cung xưa cũ vì tôn giả luận sư Đồng Thọ mà tạo dựng ngôi Tăng-già lam. Đài các cao rộng, tôn tượng đức Phật oai nghiêm. Tôn giả Đồng Thọ vốn người nước Đát Xoa Thỉ La. Từ thuở bé nhỏ mà đã thông minh đĩnh ngộ, sớm xa lìa tục trần, đặt để tâm ý vào kinh điển, gá thần thức với diệu chỉ cao huyền. Mỗi ngày đọc tụng 32000 lời và gồm ghi chép 32000 chữ, nên khả năng sở học trùm suốt đương thời, danh cao tài giỏi vang tỏa giữa đời. Lập vững ngôi nhà chánh pháp, phá dẹp tà kiến, luận đàm cao xa nêu cử trong suốt, không cật nạn nào mà chẳng đối đáp. Nên các nước khắp năm xứ Ấn Độ đều suy tôn cao quý. Tôn giả chế tác các luận có khoảng vài mươi bộ, đều hưng thạnh lưu bố, không ai chẳng vui thích thưởng vị tập học. Tôn giả chính là Bản sư của kinh bộ vậy. Ở thời bấy giờ tại phía đông có Bồ-tát Mã Minh, tại phía nam có Bồ-tát Đề Bà, tại phía tây có Bồ-tát Long Mãnh, tại phía bắc có Tôn giả Đồng Thọ. Được xưng tên đó là bốn mặt nhật soi chiếu nơi đời, nên vua nước đó nghe tiếng đức lớn của tôn giả bèn dấy binh động chúng đến đánh nước Đát Xoa Thỉ La, lấn hiếp mà có được tôn giả, nên tạo dựng ngôi già lam đó, kính soi chiêm ngưỡng vậy.

Từ đô thành đó về phía đông nam đi hơn 300 dặm đến một sườn núi đá lớn có hai ngôi thạch thất, trong mỗi ngôi có một vị A-la-hán đang nhập định diệt tận ở trong, đoan nhiên mà ngồi, khó thể lay động, thân hình như người gầy, da thịt hài cốt không rả hoại đã trải qua hơn 700 năm, râu tóc thường dài nên mỗi năm đều vào cắt bỏ râu tóc thay đổi y phục.

Từ sườn núi đá lớn theo hướng đông bắc, vượt qua đảnh núi giẫm trải hiểm trở đi hơn 200 dặm, đến trong bốn sườn núi ở phía đông Thông Lãnh có ngôi Bôn Nhưỡng Xá La (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Phước Xá = nhà tình thương), đất vuông rộng hơn trăm khoảnh, chánh giữa trũng thấp xuống, mùa đông mùa hạ đều có tuyết đóng, gió lạnh vút mạnh, ruộng trũng nhiễm muối mặn, lúa má không được tốt tươi, đã không có cây rừng, chỉ có cỏ nhỏ vụn. Thời tiết tuy nắng nóng mà lắm nhiều gió tuyết. Mọi người mới vào thì mây móc đã ùn nổi, các hàng thương lữ qua lại phải chịu khổ gian nan nguy hiểm đó. Nghe các bậc lão thành kể rằng: "Xưa kia, có đoàn thương buôn có hơn vạn người cùng với lạc đà có vài ngàn con mang theo của cải đổi kiếm lợi nhuần, đến đó gặp phải gió và tuyết, nên người và vật đều chết, khi ấy tại nước Khiết Bàn Đà có vị Đại A-la-hán từ xa quán sát thấy thế, xót thương sự nguy ách ấy muốn vận sức thần thông để đến cứu giúp sự đắm chìm đó, nhưng vừa đến đó thì các thương nhân đều đã chết hết. Khi ấy vị A-la-hán đó gom nhặt tất cả các thứ vật báu quý giá, gom hết tất cả để tạo lập nên quán sá, tích chứa của cải, mua đất ở cảnh vức nước láng giềng, dựng xây phòng nhà bên cạnh thành quách để cứu giúp mọi người qua lại. Nên mãi đến nay, mọi người đi đường hay thương khác buôn bán đều được chu cấp.

Từ đó theo hướng đông, xuống sườn núi phía đông Thông Lãnh, lại leo lên đảnh núi hiểm nguy, vượt qua hang động, đường khe hiểm trở, gió tuyết tiếp liền đi hơn 800 dặm ra khỏi cảnh vức Thông Lãnh đến nước Ô Sát.

19. NƯỚC Ô SÁT.

Nước Ô Sát chu vi rộng hơn ngàn dặm. Đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, phía nam gần sông Tỷ Đa. Đất đai mầu mỡ, lúa thóc lắm nhiều, cây rừng um tùm tươi tốt, hoa quả rất nhiều, là nơi sản sinh ra nhiều thứ ngọc tạp như ngọc trắng, ngọc đen, ngọc xanh. Khí hậu hòa sướng gió mưa điều thuận, tập tục hiếm thiếu lễ nghĩa, con người tánh khí cứng mạnh, phần nhiều dối trá, ít hiếm liêm sĩ. Chữ nghĩa và nói năng ít đồng như ở nước Khư Sa. Dung mạo con người xấu xí, vận mặc y phục bằng da thú, vải sợi thô, nhưng hay sùng tin, kính phụng Phật pháp. Có hơn 10 ngôi già lam, chư tăng có gần ngàn vị đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ. Từ vài trăm năm trở lại đây, vương tộc tuyệt tự không người nối ngôi, riêng không có quân trưởng, mọi việc làm đều tùy thuộc nước Khiết Bàn Đà.

Từ đô thành về phía tây cách hơn 200 dặm đến một núi lớn. Khí núi lung tung xúc chạm vào đá tức liền nổi mây. Sườn núi trót vót như muốn sắp sụp đổ mà chưa rơi xuống. Trên đảnh núi có ngôi Tốt-đổ-ba, chế tác rất kỳ đặc. Nghe các hàng sĩ tục nói là: vài trăm năm trước sườn núi đó sụp đổ, bên trong có một vị Bí Sô nhắm mắt mà ngồi, thân hình to lớn dung mạo khô khan, râu tóc phủ xuống, lông mày che kính mặt. Có người đi săn trông thấy thế rồi đến tấu trình vua. Vua đích thân đến trông xem kính lễ, mọi người ở thành đô, các hàng sĩ tử chẳng vời gọi mà đến, đốt hương rải hoa đua nhau cúng dường. Vua bảo: "Đây là người gì vậy thay! Sao lớn đến thế?". Có vị Bí Sô đáp rằng: "Râu tóc phủ dài, thân mặc áo ca sa như thế, đó ắt là Đại A-lahán nhập định diệt tâm vậy. Phàm người nhập định diệt tâm là trước đã có kỳ hạn. Có người nói hoặc nghe tiếng kiền chùy, hoặc có người nói là đợi ánh sáng mặt nhật soi chiếu. Có các sự cảnh sát như thế, bèn từ định mà dậy. Nếu không có sự cảnh sát thì vắng lặng không lay động. Bởi do sức định gìn giữ thân hình không hoại diệt. Thân thể bỏ ăn, sau khi xuất định sẽ tàn tạ nên cần dùng các thứ dầu tô rưới tẩm khiến được tươi nhuận, sau đó cổ xúy lay động cảnh ngộ tâm định". Vua bảo: "Nếu vậy thì nên đánh kiền chùy". Tiếng kiền chùy vừa mới chấn động, vị A-la-hán đó bỗng nhiên mở mắt trông nhìn, giây lâu mới bảo rằng: "Các ông là hạng người gì mà thân hình bé nhỏ yếu kém vậy?". Vị Bí Sô đắp mặc áo ca sa đáp rằng: "Tôi là Bí Sô vậy". Vị A-la-hán ấy bảo: "Vậy thầy của ta là đức Như Lai Ca Diếp Ba hiện nay ở đâu?". Vị Bí Sô đó đáp rằng: "Đức Ca Diếp Ba Như Lai nhập đại niết bàn đến nay đã lâu lắm vậy". Nghe thế, vị A-la-hán ấy nhắm mắt buồn bã như có sự nghĩ nhớ, chốc lát lại hỏi rằng: "Vậy, đức Thích-ca Như Lai đã xuất hiện nơi đời ư?". Vị Bí Sô đó đáp rằng: "Đức Thích-ca Như Lai xuất hiện nơi đời giáo hóa quần sinh cũng đã nhập tịch diệt vậy!". Nghe thế, vị A-la-hán ấy lại cúi đầu, giây lâu bỗng bay lên giữa hư không, hiện các thứ thần biến, hóa lửa tự thiêu đốt thân mình, di cốt rơi xuống đất, vua bèn thâu nhặt di cốt đó tạo dựng ngôi Tốt-đổ-ba để tôn thờ.

Từ đó theo hướng bắc đi qua núi cát đá hoang trống hơn 500 dặm, đến nước Khư Sa (xưa trước gọi là nước Sơ Lặc tức gọi tên Đô thành của nước đó. Chánh âm thì phải gọi là Thất Lợi Ngật Lật Đa Để. Ngôn từ Sơ Lặc còn là sai nhầm vậy).

20. NƯỚC KHƯ SA.

Nước Khư Sa chu vi rộng hơn 5000 dặm. Nước đó lắm nhiều cát đá, hiếm ít đất đai. Lúa thóc lắm nhiều, hoa quả tươi tốt, là nơi sản sinh loại Đệm giạ nhỏ mịn, và vải sợi thô. Thợ dệt đệm giạ nhỏ mịn. Khí hậu hòa sướng, gió mưa thuận mùa. Con người tánh khí hung bạo. Tập tục lắm nhiều dối trá, khinh bạc lễ nghi, học nghề cạn mỏng. Nước đó có tập tục sinh con ép đầu cho dẹp lép, dung mạo thô xấu, có đường văn trên thân, tròng mắt sắc xanh, còn văn tự thì lấy theo phép tắc của các nước xứ Ấn Độ, tuy có sang lược sai lầm nhưng vẫn còn thể thế. Nói năng từ điệu có khác so với các nước. Dân chúng thuần tin Phật pháp, chuyên cần tu tạo phước lợi. Có vài trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn vạn vị, đều tập học theo giáo pháp Tiểu thừa thuyết nhất thiết hữu bộ, chẳng nghiên cứu nghĩa lý, phần nhiều chỉ đọc tụng kinh văn, nên tụng thông rành cả Tam Tạng và Tỳ-bà-sa Giả Đa.

Từ đó theo hướng đông nam đi hơn 500 dặm, qua sông Tỷ Đa vượt đảnh núi Cát lớn đến nước Chước Cú Sa (xưa trước gọi là nước Trở Cừ).

21. NƯỚC CHIẾC CÚ CA.

Nước Chước Cú Ca chu vi rộng hơn ngàn dặm, đô thành lớn của nước đó chu vi rộng hơn 10 dặm, cao vợi hiểm trở bền chắc sắp xếp hộ nhà đông đúc, núi đồi liền nhau, cát sỏi lan tràn. Gần giải của hai dòng sông nên đắp đê canh cày để trồng các thứ bồ đào, lê, nại, v.v… trái quả lắm nhiều. Thời tiết gió lạnh, con người thô tháo hung bạo, tập tục chỉ chuyên dối trá, công khai làm điều trộm cướp. Văn tự đồng như ở nước Cù Tát Đán Na, nói năng có phần khác. Lễ nghĩa khinh bạc, học nghề cạn cợt. Con người thuần tin Tam bảo, khéo vui thích việc phước lợi. Có khoảng vài mươi ngôi già lam, hư hoại đã lắm nhiều, chư tăng có hơn trăm vị, đều tập học theo giáo pháp đại thừa.

Cảnh vức phía nam nước đó có quả núi lớn, sườn đảnh cao vợi, ngọn núi bao quanh nhiều lớp. Cây cỏ lấn vượt giá lạnh, mùa thu mùa xuân đều như nhau. Khe suối sâu thẳm nước chảy xiết tuôn đổ thành dòng khắp bốn phía, ở sườn núi có nhiều khám và thạch thất, cội rễ tòng lâm. Những người đã chứng quả ở Ấn Độ phần nhiều vận dụng sức thần thông nhẹ vút bay xa đến dừng ở tại đó. Các vị Đại A-la-hán nhập tịch diệt lắm nhiều, cho nên có nhiều ngôi Tốt-đổ-ba. Nay hiện còn có ba vị A-la-hán ở trong hang núi nhập định diệt tận, thân hình như người gầy ốm, râu tóc thường luôn dài, nên các Sa-môn thường luôn sang đó vì cắt bỏ. Và trong nước đó, các kinh điển đại thừa số bộ rất nhiều. Phật pháp lưu truyền chẳng nơi đâu thạnh hơn nước đó. Cứ 10 vạn bài tụng làm thành một bộ, mà có cả hàng chục bộ như vậy. Từ đó đã giáng, dòng ấy thật rộng nhiều.

Từ đó theo hướng đông vượt qua đảnh núi, băng vào hang cốc đi hơn 800 dặm đến nước Cù Tát Đán Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là "Địa Nhũ", tức là ngữ ngôn của phong tục ấy vậy. Theo tập tục gọi đó là nước Hoán Na. Theo Hung Nô thì gọi đó là Vu Độn. Các người Hồ gọi đó là nước Khê Đán, ở Ấn Độ thì gọi đó là nước Khuất Đan. Xưa trước gọi đó là nước Vu Điền, tức sai nhầm vậy).

22. NƯỚC CÙ TÁT ĐÁN NA

Nước Cù Tát Đán Na chu vi rộng hơn 4000 dặm. Cát sỏi nhiều hơn một nữa, đất đai mầu mỡ hẹp ít, rất thích nghi với lúa thóc, lắm nhiều giống cây trái, nơi sản sinh các thứ đệm giạ nhỏ mịn và loại thô to. Lại là nơi sản sinh các thứ ngọc trắng ngọc đen. Khí hậu hòa sướng, gió xoáy bay bụi, tập tục có biết lễ nghĩa, con người tánh khí ôn hòa khiêm cung, khéo học các nghề nghiệp sách vở, thông rành mọi kỷ năng. Dân chúng giàu sang an lạc, sắp xếp cửa nhà an cư lạc nghiệp. Nước đó mến chuộng âm nhạc, mọi người khéo giỏi ca múa. Ít vận mặc y phục bằng các thứ lông, vải sợi thô, vải giạ, lông cừu, phần nhiều mang mặc y phục bằng tơ sợi thô và bông tơ sắc trắng. Hình nghi có tiết lễ, phong thái phép tắc có kỷ cương, văn tự, hiến chương đều tuân theo các nước xứ Ấn Độ, có thay đổi một ít thể chế, hơi có men theo cải cách. Nói năng khác biệt so với các nước. Dân chúng sùng kính Phật pháp, có hơn trăm ngôi già lam, chư tăng có hơn 5000 vị, phần nhiều đều tập học theo giáo pháp đại thừa. Vua nước đó rất mạnh võ mà kính trọng Phật pháp, tự xưng là con cháu nối dõi của trời Tỳ Sa-môn.

Xưa kia nước đó hoang trống không có người ở, trời Tỳ Sa-môn mới đến dừng ở nơi đó. Thái tử của vua Vô Ưu ở nước Đát Xoa Thỉ La bị móc mắt rồi, vua Vô Ưu tức giận đuổi quan phụ tá dời tất cả hào tộc ra ở nơi hang cốc hoang trống phía bắc núi tuyết, dời người đuổi vật đến biên giới phía tây nước đó, suy cử tù trưởng hào gia lên làm vua. Đang lúc bấy giờ, con của vua ở Đông độ bị khiển đuổi lưu đày đến ở biên giới phía đông nước đó, mọi người cùng theo, khuyên nên tiến tới, lại tự xưng vua. Năm tháng đã lâu dài mà phong giáo chẳng thông, mỗi bên đều nhân làm ruộng, đi săn bắn gặp nhau ở giữa đầm hoang, lại hỏi về tông tộc nối dõi. Nhân đó mà tranh giành sự lâu dài, nói năng tức giận lại muốn giao binh. Có người can ngăn rằng: "Nay sao vội thế? Nhân đi săn mà quyết chiến, chưa hết sự bén nhọn của binh lính. Nên trở về chuẩn bị binh lính, kỳ hẹn thời hạn mà nhóm tập sau". Khi đó cả hai bên đều xoay xa giá mà trở về. Mỗi tự về nước mình nhóm tập binh ngựa, đốc suất binh lính. Đến kỳ hẹn nhóm tập binh lính, cờ trống giao nhau, vào một sáng sớm vào trận chiến. Vị chủ ở biên giới phía tây bất lợi, nhân đó mà đuổi đến phía bắc và bèn chém đầu vị chủ đó. Còn vị chủ ở biên giới phía đông thừa sự thắng lợi mà vỗ về ủy an dân chúng bị mất nước đó, chuyển dời đóng đô vào trong thành rồi mới xây dựng thành quách, buồn lo không có đất đai sợ khó thành công, mới tuyên cáo khắp gần xa, ai là người biết rành về địa lý. Khi ấy có vị ngoại đạo bôi thoa tro bụi vào thân mình mang trái bầu lớn chứa đựng đầy nước mà tự đến nói là: "Tôi biết rành về địa lý". Bèn đem bầu nước đó cúi cong rưới theo dòng khắp cùng cuối trở lại mới đầu. Nhân liền vội chạy, bỗng chốc bèn không thấy. Y theo vết nước đó mà xếp đặt nền móng tường thành, bèn được dấy công tức bình trị nước đó. Chỗ đóng đô của vua ngày nay tức là thành đó vậy. Thành đó cao vợi, công kích đánh chiếm khó khắc địch, từ xưa trở lại nay chưa ai có khả năng đến đánh thắng. Vua đó dời đô, lập ấp, dựng nước, an dân, công việc tạm hoàn thành thì tuổi đã già suy, lại chưa có con nối dõi, sợ tuyệt mất tông tộc tiếp nối, mới sang nơi đền thờ thần trời Tỳ Sa-môn cầu đảo nguyện xin có con nối nghiệp. Từ trên vầng trán tôn tượng thần bổ vạch ra một đứa nhỏ. Vua bèn bồng nhận lấy và xoay giá trở về, dân chúng trong nước đều xưng tụng mừng vui. Đã không uống sữa, sợ chẳng sống thọ, liền đó vua lại đến nơi đền thờ thần cầu xin nuôi dưỡng, nơi đất trước tôn tượng thần bỗng nhiên nổi sáng tướng trạng như sữa. Thần đồng bèn mút uống, liền đến dáng trưởng thành, mưu trí mãnh dõng sáng tỏ xưa trước, phong giáo tỏa trùm xa. Liền tạo dựng đền thờ thần, tôn phụng đó là tổ tiên vậy. Từ đó trở về sau đời đời tiếp nối truyền thừa ngôi vị quân vương trị nước chẳng mất giềng mối. Nên nay tại nơi miếu thần có lắm nhiều vật báu trân quý, mọi người lễ bái cúng tế, không tạm phế mất. Lại nơi chỗ tuôn trào sữa nuôi dưỡng, nhân lấy đó là hiệu nước nhà (tức gọi là nước Địa Nhũ) vậy.

Từ vương thành về phía nam cách hơn 10 dặm có một ngôi già lam lớn, do tiên vương nước đó vì Đại A-la-hán Tỳ Lô Chiếu Na (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Biến Chiếu) mà tạo dựng. Xưa kia, lúc nước đó Phật pháp chưa được hoằng truyền, A-la-hán Biến Chiếu từ nước Ca Thấp Di La đến trong khu rừng đó an tọa hành tập thiền định. Bấy giờ có người trông thấy kinh ngạc dung nghi pháp phục đó, bèn đem đầy đủ tướng trạng đó tấu trình cùng vua. Vua đích thân đến trông xem mà hỏi rằng: "Ông là người gì mà riêng ở nơi chốn rừng sâu thế này?". A-la-hán Biến Chiếu đáp: "Tôi là đệ tử đức Như Lai, ở chốn nhân tĩnh hành tập thiền định. Nhà vua nên tu tạo phước đức hoằng dương tán thán Phật giáo, tạo dựng già lam, thỉnh mời chư tăng... ". Vua nói: "Như Lai có đức gì? Có sức thần gì? Mà ngươi nương náu cầu khổ kính phụng pháp giáo như thế?". A-la-hán Biến Chiếu đáp rằng: "Đức Như Lai có tâm từ xót thương bốn loài chúng sinh, dẫn dắt mọi loài trong ba cõi. Hoặc ẩn hoặc hiện, bày sinh bày diệt. Nếu người tuân theo giáo pháp đó để tu tập thì sẽ ra khỏi sinh tử, còn kẻ mê lầm giáo pháp đó thì bị trói buộc trong màn lưới ái". Vua nói: "Thật như điều nói đó tức là nói bàn cao siêu vậy. Đã nói là đại Thánh thì nên vì ta mà hiện hình. Khi đã được chiêm ngưỡng, ta sẽ về tạo dựng, dốc tâm kính tin quy hướng, hoằng dương giáo pháp". A-la-hán Biến Chiếu nói rằng: "Nhà vua nên tạo dựng già lam, công việc hoàn thành sẽ có cảm ứng". Vua tạm theo lời thỉnh bảo đó, tạo dựng ngôi Tăng-già lam. Mọi người xa gần đều nhóm tập tán thán mừng vui, mà chưa có kiền chùy gõ đánh nhóm tập đại chúng, vua hỏi A-lahán Biến Chiếu rằng: "Ngôi già lam đã tạo dựng hoàn thành, vậy Phật ở nơi đâu?". A-la-hán Biến Chiếu bảo rằng: "Phải nên chí thành, Thánh đức soi xét không xa". Vua bèn đảnh lễ cầu thỉnh, bỗng thấy giữa không trung có tôn tượng đức Phật giáng hiện xuống trao cho vua chiếc kiền chùy. Nhân đó, vua liền tri kính thành thật, hoằng dương Phật pháp.

Từ vương thành về phía tây nam cách hơn 20 dặm, có núi Cù Thất Lăng Già (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Ngưu Giác), trên ngọn núi bỗng nhiên nổi hiện hai hang sâu hút. Giữa khoảng hang cốc sườn núi tạo dựng một ngôi già lam. Bên trong có tôn tượng đức Phật, có lúc tỏa phóng ánh sáng. Xưa kia đức Như Lai từng đến tại đó vì các hàng trời người lược giảng nói pháp yếu. Đức Phật có dự nghi chốn đất đó sẽ lập nên nước nhà, kính sùng Di giáo, tuân hành tập học Đại thừa.

Ở hang núi Ngưu Giác có ngôi thạch thất lớn, bên trong hiện có vị A-la-hán nhập định diệt tâm chờ đợi đức Phật Từ Thị xuất hiện nơi đời, đã trải qua vài trăm năm cúng dường không ngưng ngớt, gần đây, sườn núi sụp đổ bít lập đường đi, vua nước đó dẫn cùng binh lính muốn dẹp trừ đá sụp đổ đó, liền có một đàn ong đen bay lại đốt cắn nhả độc vào mọi người, cho nên mãi đến nay cửa đá vẫn còn chưa được mở lại.

Từ vương thành theo hướng tây nam đi hơn 10 dặm có ngôi già lam Địa Ca Bà Phược Na, bên trong có tôn tượng đức Phật đứng bằng vải sợi ép. Tôn tượng đó vốn từ nước Khuất Chi mà lại đó. Xưa kia trong nước đó có vị quan thần bị phạt đuổi đến ngụ ở tại nước Khuất Chi. Quan thần đó thường lễ bái tôn tượng ấy. Về sau, được trở về lại nước nhà quê cũ, quan thần đó vẫn dốc lòng xa kính ngưỡng, quá nữa đêm bỗng nhiên tự đến.

Quan thần đó bèn xả thí vườn nhà tạo dựng ngôi già lam đó.

Từ vương thành về hướng tây đi hơn 300 dặm đến thành Bột Già Di, bên trong có tôn tượng đức Phật ngồi cao hơn bảy thước. Tướng tốt đầy đủ, oai nghi chỉnh túc nghiễm nhiên, trên đầu tôn tượng đội Bảo quan (mũ báu), ánh sáng thường luôn tỏa chiếu. Nghe các hàng sĩ tục nói là: Tôn tượng đức Phật đó vốn từ nước Ca Thấp Di La do sự thỉnh cầu mà chuyển dời đến đó. Xưa kia có vị Đại A-lahán có vị đệ tử sa di lúc sắp mạng chung mong cầu được ăn bánh bột gạo. Vị A-la-hán đó dùng thiên nhãn quán sát thấy ở nước Cù Tát Đán Na có loại bánh ấy, bèn vận dụng sức thần thông đến đó mà cầu xin được. Vị sa di ấy ăn bánh bột gạo rồi nguyện thác sinh về nước đó. Quả nhiên được toại tâm nguyện xưa trước, vị sa di đó sinh làm vương tử. Sau khi đã lên tiếp ngôi vua, oai phong nhiếp khắp xa gần bèn vượt núi tuyết đến đánh chiếm nước Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La nhóm tập chỉnh trang binh ngựa muốn đến trấn ngự dẹp giặc cướp ở biên cương. Khi ấy, vị A-la-hán đó can ngăn vua rằng: "Chớ nên đánh đấu bằng binh lính. Tôi có khả năng khiến giặc rút lui. Sau đó, vị A-la-hán ấy lại vì vua nước Cù Tát Đán Na giảng nói về các pháp yếu, mới đầu chưa tin, vua còn muốn dấy động binh lính. Vị A-la-hán đó bèn đem chiếc áo của vua ở đời trước lúc làm vị sa di mà chỉ bày đó. Vua thấy chiếc áo ấy rồi liền chứng đắc trí túc mạng, bèn đến nơi chỗ vua nước Ca Thấp Di La sám tạ tội lỗi quấy, kết giao mừng vui giải tan binh lính mà trở về. Cung kính nghinh thỉnh tôn tượng đức Phật ở thời làm sa di mà thường cúng dường. Tôn tượng đức Phật đó tùy theo quân lính lễ thỉnh về đến nơi chỗ đất đó, tự nhiên không thể chuyển dời được nữa, vua bèn bao quanh tạo dựng ngôi già lam, thỉnh mời chư tăng tụ hội, vua xả thí Bảo quan an đặt lên đảnh đầu tôn tượng đức Phật. Nay Bảo quan đó tức là do tiên vương ấy cúng dâng vậy.

Từ vương thành về phía tây cách khoảng 150-160 dặm, giữa đường chánh cát sỏi lớn, có gò đồi toàn là hang chuột. Nghe các hàng sĩ tục nói là: "Chuột trong cát sỏi đó lớn như con nhím. Đuôi nó thì vàng bạc khác màu. Con làm tù trưởng của đàn mỗi lúc ra hang thì có cả đàn chuột cùng theo. Xưa kia bọn Hung Nô dẫn cả vài mươi vạn binh lính đến đánh cướp ở biên giới đô thành, vừa đến nơi gò đồi hang chuột thì đóng quân. Khi ấy vua nước Cù Tát Đán Na dẫn đầu vài vạn binh lính, sợ sức lực không đánh nổi với địch. Vốn biết trong đường cát sỏi đó có chuột kỳ đặc mà chưa rõ thần linh thế nào, kịp đến khi giặc cướp đến thì không nơi cầu cứu. Vua tôi mới chấn động kinh sợ chẳng biết mưu tính ra sao, mới tạm thiết bày cúng tế đốt hương khẩn cầu chuột, mong có sức linh ít nhiều giúp cho binh lính. Đêm đó, vua nước Cù Tát Đán Na mộng thấy một con chuột lớn nói: "Kính muốn cùng giúp sức, xin nên gấp chuẩn bị binh lính sáng sớm mai xáp đánh hẳn sẽ thắng Tốt đổ giặc". Vua nước Cù Tát Đán Na biết là có thần linh giúp đỡ, bèn chỉnh trang binh ngựa, đích thân dẫn đầu tướng sĩ, trời chưa sáng đã thực hành, rượt đuổi dài bít ập, bọn Hung Nô nghe đến, không ai chẳng kinh sợ, mới muốn lên giá cưỡi, mặc áo giáp, mà các thứ yên ngựa, áo giáp, dây cung, v.v... các thứ dây giải đều đã bị chuột cắn gặm đứt hết cả. Lính giặc đã đến bèn buộc mặt nhận chịu chết. Khi ấy vua nước Cù Tát Đán Na bèn giết tướng giặc và bắt tù binh lính đó. Bọn Hung Nô chịu nhiếp phục cho là có thần linh giúp đỡ. Vua nước Cù Tát Đán Na cảm ân sâu dày của chuột, bèn tạo dựng đền thờ, thiết bày cúng tế, đời đời luôn tôn kính, đặc biệt rất trân quý kỳ lạ. Nên trên từ các bậc quân vương dưới đến các hàng thứ dân đều kính tu cúng tế để mong cầu phước giúp đỡ. Phàm đi đến gò đồi hang chuột đó thì xuống giá cưỡi chở vào lễ bái rất thành kính, dùng các thứ y phục cung tên, hay các thứ hương hoa thức ăn ngon lành để cúng tế cầu phước. Và đã chí thành thì cũng cảm được nhiều thứ phước lợi, còn không cúng tế thì gặp phải tai ương biến nạn. Từ vương thành về phía tây cách khoảng 5-6 dặm có ngôi Tăng-già lam Sa Ma Nhã, bên trong có ngôi Tốt-đổ-ba cao hơn trăm thước, rất lắm nhiều điềm linh, có lúc tỏa phóng ánh sáng thần. Xưa kia có vị A-la-hán từ phương xa đến ở trong rừng đó, dùng sức thần thông phóng ánh sáng lớn. Bấy giờ, vua nước đó đang trong đêm ở trên trùng các xa thấy trong rừng có ánh sáng rực rỡ. Khi ấy trải qua thăm hỏi, mọi người đều nói là: "Có một vị Sa-môn từ phương xa đến ngồi yên trong rừng hiện bày sức thần thông". Vua bèn bảo chuẩn bị xa giá, đích thân vua sang trông xem. Khi đã rõ thấy là Thánh hiền, tâm vua mới cầu kính, khâm phục đạo phong không thôi, vua liền thỉnh mời vào trong cung. Vị Sa-môn ấy bảo: "Nói vật có thích nghi thì chí gắn ở đó. Rừng sâu đầm chằm là chỗ hướng thượng của tâm tình. Đài cao nhà sâu chẳng phải nơi tôi thoáng nghe". Nghe thế, vua càng thêm kính ngưỡng, và thêm lắm tôn trọng, bèn vì xây dựng dựng ngôi già lam, tạo lập Tốt-đổ-ba. Vị sa môn ấy bèn nhận lời thỉnh mời vào ở bên trong, qua thời gian, vua cảm có được vài trăm viên xá lợi, trong tâm rất vui mừng, trộm tự suy nghĩ rằng: "Xá lợi ứng hiện lại sao muộn vậy ư? Nếu như sớm có được mà tôn trí dưới ngôi Tốt-đổ-ba há chẳng là Thánh tích sao?". Vua đến ngôi già lam thưa bạch đầy đủ với Sa-môn ấy. Vị Sa-môn A-la-hán ấy bảo vua rằng: "vua không nên phải lo buồn vậy, nay tôi sẽ vì vua mà an đặt xá lợi. Vua nên làm các hộp bằng vàng, bạc, đồng, sắt, đá lớn, v.v..., theo thứ lớp mà đựng vào". Vua liền bảo các người thợ làm hộp không mấy ngày bèn được hoàn thành, chở bằng các kiệu báu đưa đến ngôi già lam đó. Khi ấy từ vương cung dẫn theo các hàng liêu thứ có cả trăm người trông xem nghinh đưa xá lợi, động bày tính cả muôn kế. Vị A-la-hán ấy mới dùng tay phải nâng ngôi Tốtđổ-ba lên, và đặt các ngón tay vào bên trong mà bảo cùng vua rằng: "Có thể đem đặt giấu ở phía dưới đó". Vua bèn chôn khỏa đất, an đặt hộp xá lợi, công việc ấy xong xuôi, khi ấy vị A-la-hán đó mới hạ ngôi Tốt-đổ-ba xuống không chút ngã nghiêng tổn hại. Mọi người trông nhìn đều tán thán là việc chưa từng có. Tâm tin Phật càng dốc mạnh, chí kính pháp càng bền chắc. Vua nói cùng các hàng quan thần rằng: "Ta thường nghe sức của đức Phật không thể nghĩ bàn, sức thần thông khó lường tận. Hoặc phân hiện trăm ức thân hình, hoặc ứng giáng trong cõi trời người, nâng cả thế giới đặt để trong lòng bàn tay, mà chúng sinh không khởi ý tưởng động tĩnh. Biển nói pháp tánh với lời tiếng thường, nhưng chúng sinh tùy loại mà được nghe và tỏ ngộ. Đó chánh là sức thần chẳng ai chung cùng trí tuệ mà ngôn ngữ không thể thuật bày. Linh tướng đức Phật đã ẩn mà thanh giáo vẫn còn lưu truyền, hưởng hòa đượm ân, thưởng vị đạo, khâm trạng mỹ phong, còn được điềm linh như thế, thật nhờ phước đó. Cố gắng thay, gấp trăm lần, nên cung kính sâu. Phật pháp sâu mầu, sáng tỏ ở đây vậy!".

Từ đô thành về phía đông nam cách khoảng 5-

6 dặm có ngôi Tăng-già lam Ma Xạ, do tiên vương phi nước đó tạo dựng. Xưa kia ở nước đó chưa biết về dâu tằm, nghe ở phương đông giữ kín mà không cho. Ban sắc nghiêm lệnh các cửa ải canh phòng đều không cho mang giống dâu tằm ra ngoài. Vua nước Cù Tát Đán Na mới nhún mình bày lễ đến cầu hôn. Vua nước phương đông có ý chí ân hoài xa rộng, bèn hứa sự cầu hôn ấy. Vua nước Cù Tát Đán Na mới bảo gọi kẻ sứ đi nghinh hôn mà căn dặn rằng: "Ngươi đem lời này đến nói cùng con gái vua nước phương đông là nước ta vốn không có giống dâu tằm tơ lụa, nên có thể mang theo đến để gieo trồng tự làm xiêm y". Vương nữ nghe nói vậy, tìm kiếm giống ấy, lấy hạt dâu tằm gói trong khăn tơ. Khi đã đến nơi ải canh phòng, người chủ ải rà xoát khắp cả, chỉ còn chiếc khăn của vương nữ không dám kiểm xét, bèn đưa vào nước Cù Tát Đán Na, dừng ở tại chỗ đất cũ của ngôi già lam Xa Mạ. Mới chuẩn bị mọi lễ nghi nghinh đưa vào cung. Vì hạt giống dâu tằm để lại nơi chỗ đất ấy. Đến tiết dương xuân mới bảo gieo trồng giống dâu ấy, tháng tằm đã đến mới lo việc hái nuôi. Lúc đầu mới đến còn dùng các thứ lá tạp cho ăn. Từ đó trở về sau, cây dâu dần liền cành tỏa bóng, vương phi mới khắc đá làm quy chế rằng: "Không được khiến tổn thương giết hại, đợi đến lúc tằm ngài bay hết mới được sữa chửa kén. Nếu người nào dám trái phạm thì minh thần sẽ không giúp đỡ". Bèn vì tổ tiên của tằm mà tạp dựng ngôi già lam đó. Có số gốc cây dâu khô, mọi người đều gọi đó là cây giống chính vậy. Nên nay tại nước đó có tằm không bị giết hại. Như người trộm lấy tơ thì năm sau liền chẳng nên tằm.

Từ đô thành về phía đông nam cách hơn trăm dặm có dòng sông lớn xuôi chảy về phía tây bắc. Dân chúng trong nước lợi dụng nước ấy dùng bón tưới ruộng đồng. Về sau bỗng nhiên nghe tắt cạn dòng nước, vua nước đó rất lấy làm quái lạ, bảo lo xa giá đến hỏi vị tăng A-la-hán rằng: "Nước của sông lớn, dân chúng trong nước nhà lấy dùng. Nay bỗng nhiên cắt đứt dòng, lỗi ấy do đâu? Phải chăng công việc chánh trị có sự không công bằng, hay đức chẳng đượm khắp? Nếu không như vậy thì đuổi trách gì nặng vậy?". Vị A-la-hán đó bảo rằng: "Đại vương trị vì nước nhà, chánh sách chuyển hóa trong sạch hòa mục. Sông nước dứt tắt dòng đó là do rồng khiến nên vậy. Cần nên sớm gấp cúng tế thỉnh cầu, sẽ được lại lợi xưa". Nhân đó, vua xoay xa giá trở về đền thờ cúng tế rồng sông. Bỗng nhiên có một người nữ vượt rẽ sóng mà đến, nói rằng: "Chồng tôi sớm qua đời, lệnh vua không theo, do đó nước sông cắt đứt dòng, người làm nông mất lợi. Vua nên trở lại trong nước nhà tuyển chọn một quý thần để phối làm chồng tôi thì dòng nước sẽ có lại như xưa". Vua nói: "Kính nghe theo sự ước muốn đó". Người nữ ấy bèn đưa mắt vui nhìn quan đại thần nước đó. Sau khi xa giá đã về đến cung, vua nói cùng thuộc hạ rằng: "Đại thần là trọng trấn của nước nhà, việc nông là làm lương thực nuôi mạng sống của muôn dân. Nước nhà mất người trấn giữ thì nguy lớn và chết chóc nên thực hành theo bên nào?". Quan đại thần liền rời khỏi chỗ, quỳ thẳng mà tâu rằng: "Từ lâu trống rỗng lạm nhận trách nhiệm lớn, tôi thường nghĩ báo đáp nước nhà mà chưa gặp được thời kỳ đó. Nay được dự phần tuyển chọn, nguyện xin lấp kín trọng trách sâu. Ví như có lợi cho được muôn dân thì sao lại lần tiếc một kẻ bề tôi (thần)? Thần là kẻ phụ giúp nước nhà, dân chúng là gốc của nước nhà. Xin đại vương chớ cần phải nghĩ lại! Mong nên vì tu phước, tạo dựng các ngôi Tăng-già lam!". Vua bèn chấp thuận sự cầu xin ấy, không mấy ngày công việc bèn được hoàn thành. Quan đại thần ấy lại xin sớm được vào Long cung. Khi ấy các hàng quan liêu thứ dân khắp cả nước nhà đánh trống trỗi nhạc, bày tiệc linh đình. Quan đại thần ấy mới mặc y phục sắc trắng, cưỡi ngựa trắng giả biệt vua, kính tạ tất cả dân chúng trong nước nhà, rượt ngựa vào sông, dẫm đạp trên nước mà chẳng chìm, đến nơi giữa dòng bèn khua roi rẽ nước, từ giữa nước tự vạch đôi mà chìm lắng. Chỉ khoảng khắc ngựa trắng nổi lên mang theo một cái trống lớn bằng gỗ chiên đàn và một hộp thư. Trong thư đại khái viết là: "Đại vương chẳng bỏ sót nhỏ nhiệm sai lầm dự tham thần tuyển chọn. Nguyện xin tạo nhiều việc phước lợi nước ích thần. Nên đem trống lớn này treo tại góc đông nam đô thành. Nếu như có giặc cướp đến thì đánh trống tiếng chấn động trước... " và sông nước bèn tuôn chảy lại, mãi đến nay luôn có được dùng lợi. Ngày tháng dần dà lâu xa, trống của rồng từ lâu đã không còn, nay nơi chỗ treo xưa cũ cũng có một chiếc trống. Bên cạnh ao có ngôi già lam bị hoang tàng hư hoại, không có chư tăng. Từ vương thành về hướng đông cách hơn 300 dặm vào trong một đầm hoang lớn rộng khoảng vài mươi khoảnh, đất ở đó tuyệt nhiên không có mầm chồi cây cỏ, mà đất sắc màu đen đỏ lẫn lộn. Nghe các bậc lão thành nói là: Đó là chốn đất bại trận. Xưa kia có nước ở phương đông dẫn cả trăm vạn quân lính đến đánh phương tây. Bấy giờ vua nước Cù Tát Đán Na cũng chỉnh trang binh ngựa, chỉ có vài mươi vạn quân đến phương đông chống cự quân địch mạnh. Vừa đến chỗ đất đó, hai bên cùng đánh nhau. Quân lính phương tây bị thất bại. Thừa thắng tàn hại, quân địch chém vua giết tướng, giết sạch binh lính không sót một người nào, máu đổ nhuộm đất vết tích như ấy vậy.

Từ nơi chiến địa đó theo hướng đông đi hơn 30 dặm đến thành Bể Ma. Ở đó có một tôn tượng đức Phật khắc chạm bằng gỗ chiên đàn, cao hơn hai trượng, rất lắm linh ứng, có lúa tỏa phóng ánh sáng. Phàm những người cảm mắc bệnh tật, tùy nơi chỗ đau mà dùng vàng mỏng thếp vào tôn tượng tức thời liền được lành khỏi. Với người tâm thức rỗng lắng cầu nguyện phần nhiều cũng được toại ý. Nghe các hàng sĩ tục nói là: "Tôn tượng đó xưa kia vào thời đức Phật còn tại thế do vua Ổ Đà Diễn Na ở nước Kiều Thưởng Di tu tạo. Đến sau khi đức Phật nhập niết bàn, tôn tượng đó bèn bay bổng giữa hư không mà đến trong thành Hạt Lao Lạc Ca của nước Cù Tát Đán Na. Mới đầu, vừa tới thành đó, dân chúng an lạc giàu sang rất đắm trước tà kiến mà không trân kính tôn tượng, truyền nhau cho là tôn tượng tự lại, thần mà chẳng quý. Về sau có vị A-la-hán đến lễ bái tôn tượng đó. Dân chúng trong nước kinh hãi khi thấy dung nghi vận mặc kỳ lạ của vị A-la-hán đó bèn tấu trình cùng vua. Vua mới ban lệnh dùng cát bụi trong vải người khác lạ đó. Khi ấy, vị A-la-hán đó mình mẩy lấm đầy cát bụi. Chỉ vì ngậm hồ lót miệng bỏ ăn, lúc đó có một người tâm thấy vậy không an nhẫn, và ngày trước cũng từng lễ bái tôn tượng đó, đến lúc thấy vị A-la-hán đó bị như vậy bèn kín đáo chăm sóc. Đến lúc sắp đi, vị A-la-hán đó bảo người ấy rằng: "Bảy ngày sau sẽ có mưa cát bụi lấp đầy thành này không sót một loại vật nào. Ông nên biết đó và sớm tính kế thoát ra khỏi đây. Bởi vì tung vãi cát bụi nơi ta mà khiến phải chịu lấy tai ương ấy vậy". Nói thế rồi, vị A-la-hán đó bèn cất bước ra đi, chốc lát bỗng nhiên không thấy tăm dạng đâu nữa. Người đó bèn vào trong thành nói đầy đủ cùng những người thân quen xưa trước. Mọi người nghe thế không ai chẳng cười đùa mỉa mai. Qua ngày thứ hai, bỗng nhiên gió lớn nổi lên thổi sạch mọi dơ bẩn, mưa đổ các thứ vật báu xen tạp khắp đầy đường sá. Mọi người lại mắng rủa người mách bảo đó. Nhưng tâm người đó biết hẳn sẽ đến như thế, nên kín mở một con đường hang rỗng ra ngoài thành ẩn trốn. Đến quá nữa đêm của ngày thứ bảy, mưa cát bụi lấp đầy trong thành. Người ấy mới theo đường hang mà thoát ra, theo hướng đông đến ở trong thành Bể Ma của nước Cù Tát Đán Na. Người ấy vừa đến nơi thì tôn tượng đó cũng đến cùng. Bèn liền y cứ theo đó mà cúng dường, không dám di chuyển đổi dời. Nghe các bậc lão thành nói là đến lúc giáo pháp của đức Phật Thích-ca diệt hết thì tôn tượng đó sẽ vào trong Long cung. Hiện nay, tại thành Hạt Lao Lạc Ca là một gò đống lớn. Các hàng quân vương ở các nước khác, các nhà giàu sang ở cảnh vức khác phần nhiều muốn vào đó đào bới để lấy các vật báu đó, nhưng vừa đến bên cạnh thành, thì gió bão mạnh dữ nổi phát, khói mây phủ khắp bốn phía, đường sá mê mất.

Từ thành Bể Ma theo hướng đông vào bãi sa mạc, đi hơn 200 dặm đến thành Ni Nhưỡng. Thành đó chu vi rộng khoảng 3-4 dặm nằm tại trong đầm lớn. Đầm đất nóng ấm khó thể dẫm vượt qua, cỏ lau hoang ùn tốt không con đường tắt qua lại, chỉ có con đường đến thành được đi thông. Nên mọi người qua lại không ai chẳng do từ thành đó. Và nước Cù Tát Đán Na lấy đó làm đồn ải canh phòng của cảnh vức phía đông vậy.

Từ đó, theo hướng đông đi vào sông cát lớn, cát chảy lan tràn, tan tụ tùy theo gió. Người đi không có dấu vết nên phần nhiều lạc mất đường. Bốn phương xa vợi mịt mờ chẳng biết nhắm hướng để đến. Nên mọi người qua lại nhặt nhóm thì cốt để ghi dấu. Thiếu cỏ nước, nhiều gió nóng, mỗi lúc gió nổi lên thì người và vật đều hôn mê, nhân đó thành bệnh, có lúc nghe các thứ âm thanh như đàn sáo ca hát hoặc nghe tiếng gào khóc, qua chốc lát nghe thấy, hoảng nhiên chẳng biết đi đến đâu. Do đó mà thường có chết chóc, bởi quỷ mị đặt khiến nên vậy! Đi hơn 400 dặm thì đến nước Đổ Hóa La, từ lâu đã hoang rỗng, thành quách đều trống không. Từ đó, theo hướng đông đi hơn 600 dặm đến nước Chiếc Ma Đà Na xưa cũ, tức là chốn đất Niết Mạt vậy, thành quách trơ trọi, người, vật lửa khói tuyệt dứt! Từ đó lại theo hướng đông bắc đi hơn 1000 dặm đến nước Nạp Phược Ba xưa cũ tức chốn đất Lâu Lan vậy.

Huyền Trang tôi nêu bày sông núi, khảo xét nhặt hái ở các cảnh đất, rõ bày mọi sự cương nhu của các nước, buộc hơi gió của nước đất. Động tĩnh chẳng thường, lấy bỏ bất nhất, mọi sự khó cùng nghiệm xét, chẳng thể đè nén mà nói bày. Tùy các nơi có đi đến mà lược ghi đại khái, nêu bày mọi sự thấy nghe, ghi chép mọi điều phong hóa kính mộ. Từ ngày xa xưa đó trở lại đều gội nhuần nhờ ân trạch. Nói kịp đến phong hành đều kính ngưỡng chí đức, lẫn đồng thiên hạ cùng trong một nhà, lẫn đồng thiên hạ cùng trong một nhà! Đâu nhọc xe đơn ra khiến thông các trạm muôn dặm đó thay!

-----------------------------------

GHI LỜI TÁN THÁN RẰNG:

Lớn lao thay! Đấng pháp vương ứng hiện nơi đời, linh hóa lắng ngầm vận, thần đạo rỗng thông. Hết hình thức giữa thế giới hằng sa, tuyệt đến đi trong kiếp số vi trần. Hình thức tuy hết, ứng hiện sinh mà chẳng sinh, đến đi tuyệt, nêu bày tịch diệt mà không diệt. Đâu phải chỉ thật ứng ngầm ở thành Ca Duy, ngầm hóa tại rừng Sa La mà thôi. Nên biết là ứng với vật mà linh hiệu, cảm hợp duyên mà in vết. Nối dõi chủng tộc Sát Đế Lợi, tiếp theo giòng họ Thích-ca. Kế thừa ngôi vị tôn quý trong cảnh vức, chiếm danh đạo hạnh ở phương hào mà soi sáng vỗ về quần sinh. Đạo thấm khắp mười phương, trí soi cùng vạn vật. Tuy vượt ra ngoài hiếm có vui vẻ mà dẫn giúp trong mọi sự thấy nghe. Ba lần xoay chuyển bánh xe chánh pháp giữa đại thiên, một lời biện bày khắp các cõi. Khu biệt thành tám vạn môn, gồm yếu trong 12 bộ loại. Do đó, Thanh giáo được nhuần khắp rong ruổi giữa rừng phước, phong phạm thổi quạt chở rượt cùng thành thọ. Nghiệp của Thánh hiền lớn vậy. Nghĩa của trời người khắp vậy. Nhưng quên mọi động tĩnh giữa rừng bền chắc, bớt sót đến đi trong cảnh huyễn hóa. Chẳng tiếp nối ư? Có đợi chờ! Không toại được ư? Chẳng có vật! Tôn giả Đại Ca Diếp Ba tuyển chọn các vị A-la-hán giúp báo ân Phật nên kết tập pháp bảo ấy, bốn bộ A-hàm gồm cả nguồn ngọn, ba tạng giáo điển bao quát mọi then chốt. Tuy các bộ phái chấp riêng dấy khởi từ đó, mà báu lớn vẫn hiện còn, bèn từ khi giáng sinh kịp đến lúc ngầm hóa, Thánh tích có cả ngàn biến, điềm thần nhiều đến muôn khác. Điềm linh chẳng hết vượt hiển, giáo điển vô vi càng mới. Đầy đủ hiện còn trong kinh cáo, rõ ràng trước thuật nơi ký truyện. Nhưng còn lắm lời rối rắm, nghĩa khác lầm sai, cội gốc từ thỉ cốt yếu đến chung, hiếm có khả năng nói chánh, đó chỉ là sự thực lục, còn các luận bàn như đây. Huống gì là chánh pháp sâu mầu, chí lý cao xa, nghiêm xét áo chỉ, văn lắm khuyết vậy. Vì thế, trước tu linh đức, tiếp khuôn phép học dịch kinh, sau tiến tới tài giỏi, theo võ văn khuyết chọn. Đại nghĩa tuy lắm nhiều mà chưa sáng rõ. Vi ngôn khuyết thiếu mà không được nghe. Pháp giáo lưu truyền dần, trải qua nhiều năm tháng. Mới đầu từ thời Viêm Hán, mãi đến Thánh đại, việc truyền dịch là hạnh nghiệp lớn, lưu tỏa tốt đẹp mãi hợp sáng. Huyền đạo chưa đội, chân tông còn mờ tối, chẳng phải là hành tàng của Thánh giáo, hẳn do đặt để của vương hóa. Triều đại nhà Đường chúng ta đến thời răn dắt thiên hạ làm phao nổi ngoài biển khơi, khảo xét khuôn phép để lại của Thánh nhân, chỉnh sửa sách xưa của tiên vương, xiển dương tượng giáo, nhóm tụ làm đại huấn, đạo chẳng rỗng lành. Hoằng truyền nhờ ở các bậc minh đức, bèn khiến giáo nghĩa của tam thừa tích chứa dưới ngàn năm, di linh của 10 lực bặc ngoài muôn dặm. Thần đạo hết phương thức, Thánh giáo có gởi gắm, đợi duyên sẽ hiển bày. Lời đó thật đáng nên tin vậy!

Pháp sư Huyền Trang thông suốt dòng trong ở đầm Lôi (sấm) mạch nguồn lớn tại sông Quy, thể trinh tường của thượng đức, chứa thuần tùy của trung hòa, dẫm đạo hợp đức, sống trinh sửa hạnh. Phước trồng nhân xưa, mạng gặp vận thạch, dứt vết tục trần, nhàn tĩnh sống nơi học tứ. Vâng phụng nhã huấn của tiên sư, kính ngưỡng lệnh đức của tiền triết, mang tráp theo học, du phương thỉnh hỏi. Đi khắp địa vức của Yên Triệu, dẫm trải xét xem cùng Lỗ Vệ, trở trái ba sông mà vào trong đất Tần, bước cùng ba Thục mà đến Ngô cối, thấu đạt tập học tài giỏi, khắp xét hiệu chuyên cần thỉnh hỏi điều lợi ích, trùm suốt các bậc anh hiền ở trong đời, thường ý chí cầu pháp, lắng nghe các luận khác, xét quyết mọi mưu toan, tranh đua bạn nghĩa chuyên môn, đều ghét ganh học dị đạo. Tình phát xét nguồn, chí còn khảo rõ, gặp lúc bốn biển tiệt đường, tám phương chẳng yên.

Vào sáng sớm ngày mồng một tháng tám năm Trinh Quán thứ ba (629) thời Tiền Đường, vén áo lên đường, chống tích đi xa, nhờ hoằng hóa mà hỏi đạo, nương minh hựu mà riêng một mình riêng đi, ra đất hiểm của cửa sắt đá, vượt đất trở ngại của núi lăng núi tuyết, chợt dời đến quán than, thấu xứ Ấn Độ, tuyên bày mỹ phong của nước nhà nơi khác tục, dẫn dụ thuần hóa ở nước người, thân gần tiếp thừa phạm học, dò hỏi các bậc triết nhân. Với điều nghi xưa trước thì trong xem văn thấy rõ. Với áo chỉ thì rộng hỏi ở các bậc tài cao. Mở linh phủ mà nghiên cứu lý, vén thần chung mà tỏ rõ đạo, nghe điều chưa từng nghe, được điều chưa từng được, làm bạn lợi của đạo tràng, thật là người thợ khéo giỏi của pháp môn ấy vậy. Thế đủ biết hiển trước, đức hạnh cao bày. Học suốt ba năm mà tiếng tăm vang khắp muôn dặm. Người học ở Ấn Độ đều kính ngưỡng đức lớn. Đã gọi đó là Thùng Kinh, cũng tôn xưng là Tướng Pháp. Với học chúng Tiểu thừa thì xưng gọi là Mộc Xoa Đề Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Giải Thoát Thiên). Với học chúng đại thừa thì tôn xưng là Ma-ha Da Na Đề Bà (tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là Đại Thừa Thiên). Đó chính là nêu cao đức hạnh mà truyền huy hiệu, kính trọng con người mà nghị bàn tên tốt lành. Đến như áo nghĩa của ba thời giáo, vi ngôn của ba thừa, nghiên cứu sâu xa về nguồn dòng, khéo thấu cùng cành lá, sáng rực tuệ ngộ, dễ dàng lý thuận. Với nghĩa chất vấn điều nghi, muốn rõ nên xem ở các biệt lục. Thế rồi tinh thông huyền nghĩa, chuyển quạt gió trong. Học đã rộng, đức đã lớn, khí ấy bèn trải giẫm trông xem sông núi, bồi hồi các chốn giao ấp, ra Thành Mao Mà và Vườn Nai, đến Trượng Lâm mà dừng nghỉ tại Kê viên, xoay mắt nhìn lại nước Ca Duy, để ý đến thành Câu Thi. Nền móng xưa kia nơi đức Phật đản sinh cùng sông đồng mà tươi tốt. Địa chỉ cũ chốn lắng vết đối biên gò mà mang mác. Trông xem vết thần mà thêm nghĩ nhớ, kính ngưỡng huyền phong mà trọn thán ca. Chẳng chỉ lúa tẻ đơm bông mà buồn lớn, lúa giê rụng rơi mà thương khắp mà thôi, là dùng rõ việc xưa cũ của đức Phật Thích-ca, nêu tốt tươi thật của các xứ Ấn Độ. Lại gặt hái những phong hóa tốt lành, còn ghi trong các thuyết khác. Trải qua năm tháng lâu dài nhưng có nghĩ nhớ vui thích quê hương nước nhà, không quên xoay bước trở về. Pháp sư thỉnh được 150 hạt xá lợi thịt của đức Như Lai, một tôn tượng đức Phật bằng vàng và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng sáu tấc. Phỏng theo ảnh tượng trong hang rồng ở núi Tiền chánh giác tại nước Ma Yết Đà, một tôn tượng đức Phật bằng vàng và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng cao 3 tấc 3, phỏng tả hình tượng Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Dã tại nước Ba La Nại Tư, một tôn tượng đức Phật khắc chạm bằng gỗ chiên đàn và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng cao một tấc năm, một tôn tượng đức Phật khắc chạm bằng gỗ chiên đàn phỏng theo do vua Xuất Ái ở nước Kiều Thưởng di mến mộ nghĩ nhớ đức Như Lai mà khắc chạm tôn tượng bằng gỗ chiên đàn, và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng cao hai tấc chín, một tôn tượng đức Phật bằng bạc phỏng theo hình tượng đức Phật từ cung trời giáng xuống dẫn bước trên thềm cấp báu ở nước Kiếp Tỷ Tha và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng cao bốn tấc, một tôn tượng đức Phật bằng vàng phỏng theo hình tượng đức Phật ở núi Thứu Phong tại nước Ma Yết Đà giảng nói các kinh Pháp

Hoa, v.v... và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng cao 3 tấc 5, một tôn tượng đức Phật khắc chạm bằng gỗ chiên đàn phỏng theo ảnh tượng đức Phật nhiếp phục rồng độc ở nước Na Yết La Hạt mà lưu lại và tòa ngồi thông tỏa ánh sáng cao 1 tấc 3, một tôn tượng đức Phật phỏng theo tượng đức Phật đi tuần quanh thành hành hóa tại nước Phệ Xá Ly. 224 bộ kinh điển đại thừa, 190 bộ luận đại thừa, 14 bộ kinh luật luận của Thượng tọa bộ, 15 bộ kinh luật luận của Đại chúng bộ. 15 bộ kinh luật luận của Ca Diếp Tý Da bộ Tam Di Đề Bộ kinh Sa Di Tắc bộ kinh, luật, luận 22 bộ. 42 bộ kinh luật luận của Pháp Mật bộ. 67 bộ kinh luật luận của Thuyết Nhất Thiết hữu bộ. 36 bộ Nhân luận, 13 bộ Thanh luận, gồm cả thảy 520 tráp, tổng cộng có 657 bộ, giúp hoằng dương giáo pháp của đấng chí tôn, vượt trải đường sá, bớt lời vụt ngăn trở, nên chở vội mà về. Ra khỏi nước Xá Vệ xưa cũ, trở trái biên giao cũ của thành Già La, vượt trèo Thông Lãnh hiểm nguy, dẫm trải đường sá cát sỏi gian nan. Đến tháng giêng năm Trinh Quán thứ 19 (645) thời Tiền Đường, về tới kinh ấp.

Pháp sư bái yết vua Thái Tông (Lý Thế Dân) tại Lạc Dương, và chỉnh tích vâng thừa minh chiếu chuyển ban tuyên dịch, pháp sư bèn chiêu tập người học cùng giúp hoàn thành hạnh nghiệp ưu thắng. Mây pháp trở lại bủa giăng, tuệ nhật lại soi sáng tiếp. Hoàng đồ lưu bố pháp hóa của thứu sơn, xích luyện diễn bày giáo điển của Long cung, thời vận tượng giáo phục hưng, đó là lớn thạnh vậy. Pháp sư khéo hiểu thông phạm học, kinh tán kinh sâu, xem văn như đã rồi, chuyển âm còn vọng hưởng. Kính thuận theo Thánh chỉ, chẳng thêm văn sức. Phương ngôn không thông, phạm ngữ chẳng dịch, chuyên việc nung đúc, lấy điển mô chánh, suy mà khảo xét đó, sợ trái với sự thật vậy.

Có tiên sinh cầm hốt đổi sắc mặt cùng đến. Pháp sư vẫn thản nhiên đến mà hỏi rằng: "Phàm, Ấn Độ là một đất nước, nơi các bậc linh Thánh giáng hiện tụ hội, các hàng Hiền ý trội nổi đản sinh. Với sách thì gọi là sách trời, với ngôn ngữ thì gọi là ngôn ngữ của trời. Văn từ uyển nhã kính mầu, âm vận tuần hoàn lẫn nhau, hoặc một lời mà bao gồm nhiều nghĩa, hoặc một nghĩa xuyên suốt nhiều lời. Âm thanh thì có đè nén và nâng bổng. Điệu vận theo thể chế đục trong. Phạm văn sâu cùng, phiên dịch phải nhờ người rành mạch, yếu chỉ kinh pháp cao mầu, rõ nghĩa phải nhờ bậc đạo đức lớn, nếu như biên chép giũa gọt làm thể chế, lấy cung thương làm điệu vận, thật là chỗ chưa an, và thật chẳng phải luận nói thẳng. Truyền đạt kinh ý chỉ sâu mầu, việc chuyên từ dễ hiểu, nếu như được chẳng trái bản gốc, đó thật là tốt lành vậy! Văn quá thì rực rỡ, chất lắm thì què quặt. Nói thẳng mà không văn biện rõ mà chẳng chất thì có thể không quá lắm vậy, mới có thể cùng lời chuyển dịch vậy". Lý Lão nói rằng: "Lời đẹp thì không nên tin, lời đáng tin thì không đẹp". Hàn Tử nói rằng: "Lý chánh thì ngay thẳng lời nói, còn lời nói có điểm trang thì làm mờ tối lý ấy". Vậy thì biết rủ nhau ban dạy răn khuôn phép, vật nghĩa vốn cao sâu đồng theo văn, điều hại rất lắm. Hờ hửng do cựu chương, điều ấy đức Thế Tôn rất mực răn dạy. Các hàng tăng tục đều nói là vâng theo điều nói thẳng ấy vậy. Xưa kia, Khổng Tử đang tại vị nghe kiện tụng, văn từ có người cùng chung đồng, chẳng riêng mình có. Đến như tu sửa sách Xuân Thu, biên chép thì biên chép, giũa gọt thì giũa gọt. Với hàng đồ đệ của Du hạ, văn học Khổng môn thường chẳng thể tán thán một từ. Việc phiên dịch kinh điển của pháp sư cũng như vậy, chẳng như Tam Tạng Pháp Sư Đồng Thọ, nhóm tập văn ở vườn Tiêu Dao, giao việc viết bút cho các Sa-môn Đạo Sinh, Tăng Triệu, Tăng Dung, Tăng Duệ, huống hồ ở đời vườn vuông làm bàn tròn, thời buổi đẽo chạm chất phác. Ấy chỉ có thể thêm tổn hại Thánh chỉ, dệt tảo kinh văn ấy ư! Biện có xa tiếp thừa nối dõi khinh cử. Thuở thiếu thời đã ôm hoài tiết tháo đẹp cao, vừa đến tuổi chí học rút trâm đổi phục làm đệ tử của pháp sư Đạo Khâu theo Tát Bà Đà Bộ ở chùa Đại Tổng Trì, tuy gặp được thợ đá, nhưng gỗ rã mục khó khắc chạm, may vào trong dòng pháp, béo tốt chẳng đượm nhuần, không ăn no mà trọn ngày thật xoay mặt vách tường quanh năm. May nhờ thời cơ đến, gặp hội tốt lành đây, nhờ vốn liếng của yến tước, ghé cuối đàn uyên hồng, cậy mạng tài hèn soạn phương chí đây, học chẳng thông cùng xưa, văn từ không mỹ lệ, mài giũa chậm lụt gắng gỗ hư mục, sức nhọc kép quệ chân, cung thừa ghi chép theo thứ tự văn đó. Quan thượng thư cấp bút thẻ mà soạn ghi. Với trí cạn, tài năng nhỏ hẹp, lắm chỗ khuyết thiếu sai lọt, hoặc có đầy từ còn có khắc lạc. Xưa kia, con trưởng của Tư Mã là người tài giỏi về lương sử tường tự như thái sử Công Thư, nhưng cha con kế nghiệp, hoặc có danh mà không tự, hoặc có huyện mà không có quận. Nên nói một người tinh tường tư duy thì lắm nhiều văn trọng, bởi không rảnh vậy. Huống gì hàng trí biết hạ ngu mà có thể thấu rõ khắp cùng ư? Còn như là các thứ sai khác của phong thổ tập tục, ghi chép về phong cương sản vật, phẩm chất tánh trí từng vùng, thời tiết nóng lạnh thì ghi tả đầy đủ vì ưu thắng và mỏng manh đó. Còn xét về căn thật, đến như giòng họ Hồ Nhung có phần xứng cùng nước đó. Phong hóa của các xứ Ấn Độ, đục trong có lắm phần nên lược ghi đại khái. Đầy đủ như ở lời tựa trước, đãi nghĩa lễ tốt, số nhà và người hơn quân, ấy chẳng phải điều ghi rõ của kẻ sĩ nhiễm y. Nhưng chư Phật dùng sức thần thông để tiếp vật, linh hoa chủ ban dạy răn. Nên nói Thần Đạo rỗng cao thì lý tuyệt cảnh vức con người, linh hóa u hiển thì sự vượt ngoài trời. Do đó, nơi cảnh vức chư Phật giáng hiện tốt lành, chốn thành cũ tiên Thánh để lại đẹp xinh, lược nêu di linh, thô bày ghi chú. Đường sá cảnh vức quanh co, cương trường xoay trở, đi đến đâu tức ghi xứ đó, chẳng tại xếp bày. Nên các xứ Ấn Độ không phân cảnh nhưỡng, rải tán ghi cuối đất nước đó lược chỉ nêu về phong cước. Ghi chép nơi chốn hành giả giẫm bước chân đến. Nêu chỗ đến tức truyền nghe ghi, hoặc thẳng ghi sự việc đó, hoặc uốn thỏa văn đó, ưu thắng mà mềm dịu đó, suy cử mà thuật ghi đó. Việc chuyên theo thực lục. Dâng bày thành thật lên hoàng cực.

Đến tháng 7 năm Trinh Quán thứ 20 (646) thời Tiền Đường, dứt bút nơi chùa xanh, văn thành trơn trắng, chấm trần Thánh xét, há xứng khuôn phép trời, nhưng mà xung mạo xa vời thật nhờ ở Triều hóa, nghĩ nhớ kỹ, biên chép lạ, thật đội Hoàng linh, đuổi theo tháng ngày đi khắp tám xứ hoang vu, chẳng chuyên khoe sức của cha, đục rỗng ngàn dặm, không nghe công trông rộng. Non Thứu dời đến Trung Châu, vườn Nai bít tại ngoài nước, tưởng sự ngàn năm như chính mắt đánh chạm, xem muôn dặm tợ đích thân đi đến. Điều xa xưa chưa từng nghe, việc năm trước chưa từng ghi viết, chí đức trùm khắp, khác tục qua lại. Thuần phong thổi quạt xa, nơi sâu xa hoang vắng không ngoài. Ngõ hầu địa chí đây bổ khuyết núi kinh, ban bố ghi sự của tả sử, hoàn bị khắp nêu của chức phương.

Đại Đường Tây Vức ký hết quyển thứ 12.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]