TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2095 - LÔ SƠN KÝ (GHI VỀ LÔ SƠN)

Thượng thư Đồn Điền Viên ngoại lang Gia Hòa, Trần Thuấn Du-lịch cử soạn thuật.

MỤC LỤC

SỐ 2095 - LÔ SƠN KÝ (GHI VỀ LÔ SƠN)

LỜI TỰA. (I)

LỜI TỰA (II)

QUYỂN 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUÁT NÓI VỀ NÚI SÔNG

CHƯƠNG II: NÓI VỀ SƠN BẮC

QUYỂN 2

CHƯƠNG III: NÓI VỀ SƠN NAM

QUYỂN 3

CHƯƠNG IV: SỰ TRÔNG THẤY KHÁC NHAU CỦA CÁC NGƯỜI VÂN DU ĐẾN NÚI THAM QUAN.

CHƯƠNG V: TRUYỆN MƯỜI TÁM VỊ HIỀN GIẢ

1. Pháp sư Tuệ Viễn chủ xướng Bạch Liên Xã.

2. Lưu Di Dân ở Bành Thành.

3. Lôi thứ Tông ở Dự Chương.

4. Chu tục Chi ở Nhạn môn

5. Tông Bính ở Nam Dương

6. Trương Dã ở Nam Dương

7. Trương Thuyên.

8. Đại Sư Giác Tịch ở chùa Tây Lâm

9. Đại Sư Phổ tế ở chùa Đông Lâm

10. Pháp sư Thích Tuệ Trì.

11. Tôn giả Phật-đà-da-xá người nước Kế Tân.

12. Tôn giả Phật-đà-bạt-đà-la người nước Kế Tân.

13. Pháp sư Thích Tuệ Duệ.

14. Pháp sư Thích Đàm Thuận.

15. Pháp sư Thích Đàm Hằng.

16. Pháp sư Thích Đạo Bính.

17. Pháp sư Thích Đạo Kính.

18. Pháp sư Thích Đàm Tiên.

QUYỂN 4

CHƯƠNG VI: NHỮNG GHI VIẾT CỦA NGƯỜI XƯA LƯU LẠI.

QUYỂN 5

CHƯƠNG VII: GHI MỤC VĂN BIA XƯA CỔ

1-Tại quán Thái Bình

Văn Bia Linh miếu sứ giả

Sứ Giả Linh Nghiệm Ký

Trương Linh quan Ký

Truyện Hồ Tắc

2-Tại quán Thái Nhất

Chân Nhân miếu Ký

3-Tại chùa Đông Lâm

Bia minh của Pháp sư Tuệ Viễn

Văn bia Thiền sư Phật đà bạt đà la ở thời Tiền Tống

Văn bia Thiền sư Ngột Ngột

Văn bia chùa Đông Lâm và lời tựa

Bi âm Ký

Văn bia tại ảnh đường Pháp sư Tuệ Viễn tại chùa Đông Lâm Do Lý Diễn ở Lũng Tây soạn thuật, Giang-châu-lục sự-tham-quân

Bia Minh Đại Đức Luật sư Hy Di ở chùa Đông Lâm

Bia Minh Kính Tạng ở chùa Đông Lâm

Bia minh Đại Đức Luật sư Sán Công ở chùa Đông Lâm

Minh Chí tại tháp Đại Đức Lâm Đân ở chùa Đông Lâm Lô Sơn.

Kiệt Minh tại tháp Đại Đức Luật sư Thấu Công ở chùa Hưng Quả tại Lô Sơn thời Tiền Đường

Chí Minh buồn thương mến mộ Đá Đại sư Luật ở chùa Đông Lâm

Văn Bia Cổ Đại Đức Luật sư Tỷ ở chùa Thê Hà thời thời tiên Đường

Ghi về văn tập của giòng họ Bạch ở chùa Đông Lâm

Bia tháp Cổ Đại Luật sư bảo Xứng ở chùa Đông Lâm, Lô Sơn thời Tiền Đường

Biên ghi về phương trượng Quán âm tại chùa Đông Lâm Lô Sơn

Bia minh tháp đá cổ Hòa Thượng Đại Đức Luật sư Thượng Hoằng ở chùa Cảnh Vân tại phủ Châu thời Tiền Đường

Lại, Bia minh chùa Đông Lâm

Kinh tạng bi âm Ký ở chùa Đông Lâm

Giang hồ châu tây đạo quán sát sứ Võ Dương Công vi công tả châu tán

Bia minh cổ thiên đại đức Công tạo dựng lại chùa Đông Lâm tại Lô Sơn thời Tiền Đường

Quảng bình công cựu nhân ký

Đức hóa Vương ở chùa Đông Lâm thiết đặt lại Bạch thư văn tập Ký

Di Lặc Bồ-tát thượng sinh Điện Ký

Thượng phương Thiền sư xá lợi tháp Ký

4-Tại chùa Tây Lâm

Bia Văn Đạo Tràng chùa Tây Lâm

Văn bia Hòa Thượng Đại Đức Luật sư Tề Lãng ở viện Thuỷ các, chùa Tây Lâm tại Lô Sơn

5-Tại quán Giản Tịch

Bia quán Giản Tịch tại Lô Sơn

Trụ mốc Tôn sư Hùng quân ở quán Giản Tịch tại Lô Sơn

Tạo dựng lại Đại Điện quán Giản Tịch tại Lô Sơn

Văn Ký về Thạch Đàn mới tạo dựng tại quán Giản Tịch ở Lô Sơn

Bia tiễn sinh lục quân ở quán Giản Tịch

Văn ký về sửa sang Linh Bảo và thư đường tại quán Giản Tịch ở Lô Sơn

Văn bia về tu sửa đường đá ở quán Giản Tịch, Lô Sơn

Văn bia mới tạo dựng Thiền viện Khai nguyên tại Lô Sơn thời Tiền Đường

Văn ký về thư đường của nhà họ Lý

CHƯƠNG VIII: NGƯỜI XƯA ĐỀ DANH

LỜI BẠT

 


LỜI TỰA. (I)

Xưa kia, tôi đọc sách trong núi, mến thích sự... Của suối đá Thấp miếu, chẳng rõ những gì xưa cổ để lại gần đây, hoặc xuất phát từ lời của các hàng ngu phu dã lão. Ngôn ngữ văn từ lẫn lội, với điều đúng lấy thì chẳng do đâu, mà sắp xếp xét luận sàng lọc thứ lớp đó thì chưa có ngày rảnh. Sau 20 năm, so sánh các sách ở Bỉ Các, có được bộ "Lô Sơn Ký", hân hoan lấy làm vui mừng vì ước nguyện xưa trước được toại, nhưng xét về sự ghi chép rất là sơ lược. Năm Hy Ninh thứ 5 (1072) tới Bắc tống, có Trần Lệnh cử-thuấn Du ở gia hòa bị giáng Quan đến ở trước núi, rất ham thích rảo bước trông xem, dốc sức mất 60 ngày đi khắp các thắng cảnh từ nam sang bắc lên cao vào sâu. Ban ngày thì rảo bước giữa khoảng núi rừng nhặt nhanh mảy mang chiết giản bên cạnh sao ghi thành cật, lớn nhỏ chẳng kể. Ban đêm thì mở sách sửa lại, mãi đến lúc có thể truyền về sau vậy. Với các thứ cao thấp rộng hẹp, núi đá suối nước cùng với Phù Đồ. Cung miếu của Lão tử, nhà ở của các bậc Đạt sĩ những người ẩn dật. Bia khắc thi kế, mọi thạnh suy còn mất, không gì chẳng ghi chép. Lại làm Đồ Kỷ để cúi xem, lần lượt đều núi trước sau. Khơi suối hòn đá, không để sai sót, thành sách cả thảy 5 quyển. Sau đó 3 năm, Tôi trấn thú tại Ngô Hưng, Lệnh Cử-thuấn Du đi thuyền con cùng qua, vì Tôi là người ở trước núi, nên đem bản thảo cùng trao xin khắc thành bảng để cất tàng giữa khoảng núi. Lại gặp lúc Tôi được Ân ban chuyển dời đến Tế Nam, vội cùng giả biệt, Lệch Cử-thuấn Du tìm lại vật cũ. Tôi càng vì việc sai sử bèn chạy khắp 4 phương, nghĩ muốn 1 lần quay trở lại, song, mịt mờ chẳng thể được, liền làm lời tựa soạn thuật ân cần đưa tặng. Quân tử thích việc tốt, ngõ hầu thành chí ý của Lệch Cử-thuấn Du.

Sung Bí Các Hiệu Lý, Lý Thường Kinh đề tựa.

*****

LỜI TỰA (II)

Tôi nhã thích thắng cảnh của Lô Sơn, bỏ nghiệp quan trở về phương nam, bèn được... Vân du trông xem đã lâu, gặp cảnh cũng nhiều, hoặc là thơ phú hoặc là ký lục, lẫn lộn làm... sắp xếp theo thứ tự đó nhưng chưa có thời gian rãnh. Trong khoảng niên hiệu Hy Ninh (1068-1078) thời Bắc Tống, gặp Trần Lệch Cử-Thuấn Du, vì nói năng sự... ở nơi bang giao, ham thích núi rừng đã đồng, bèn cùng cưỡi trâu vàng qua lại giữa khoảng núi non, trải lắm năm tháng, bèn được tham xét khắp cùng, không gì chẳng nghiên cứu. Trần Lệch Cử-thuần Du mới tham xét sự ghi chép của mình, và những ghi chép của xưa nay, mọi lưu truyền của các bậc kỳ lão, phàm mọi sự trải qua nghe thấy của tai mắt, theo loại mà xếp đặt đó làm thành bộ "Kỷ" rõ ràng, đủ để lưu truyền cho người sau. Tôi tài năng không thể đáp ứng thời nghi, về già ở chốn rừng hoang đồng trống. Trần Lệch Cử-thuấn Du vì chế sách được cất nhắc lên đổ đạt, tiếng tăm rực rỡ kinh hãi người đời, làm quen chưa đầy 20 năm mới lùi phế ở giữ kho, và cùng tôi đồng thấy bộ "Ký" ấy, thật rất đáng tiếc vậy! Nhưng suy cổ để xét kim đâu đặc biệt 1 mình Trần Lệch Cử-thuấn Du đáng tiếc ư.

Giang Tây, Lưu Hoán Kinh đề tựa.

---------------------------------

QUYỂN 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUÁT NÓI VỀ NÚI SÔNG

Căn cứ theo "Thái Sử Công" nói là: "Tôi theo hướng nam lên Lô Sơn, trông xem võ Cửu Giang". Theo "Tiền Hán Giao từ Chí" nói là: "Trong niên hiệu Càn Phong (Nguyên Phong 110-104 trước tây lịch?) Võ Đến (Lưu triệt?) đi đường sông, từ Tầm Dương ra, khua dương qua bành lễ, lễ bái Sinh Sơn sông nước lớn đó". Theo Kinh "Tang Khâm thủy" nói là: "Từ Lô Sơn ra Đo Tam Thiên Tử, phía bắc qua huyện Bành lễ". Theo "Lô Sơn lực ký" của Thích Huệ Viễn nói là: "Núi tại Tầm Dương, Giang Châu, phía nam là bến cung đình, phía bắc đối diện với Cửu Giang. Phía nam của Cửu Giang, Giang là sông nhỏ. Núi (Lô Sơn) cách sông nhỏ hơn 30 dặm. Bên tả cặp theo Bành Lễ, bên hữu kề dòng sông thông, là sòng nước của Tam giang (03 dòng sông) và y cứ nhân hội đó". Theo "Kinh Sơn Hải" nói là: "Từ Lê giang ra Đô Tam thiên tử, 1 Thiên tử chướng ngăn nên xưa trước nói: Do đó bến là Bình lễ, có tiên sinh khuông tục xuất hiện khoảng thời nhà Ân nhà Chu, trốn đời lánh thời ngầm đến ở dưới đó. Hoặc có thuyết nói là: Khuông Tục học Đạo Tiên nhân, cùng đi đến núi đó, bèn gá giữa sườn núi rỗng không tức từ hang làm thành Quán. Nên người thời bấy giờ gọi chỗ ở đó là Lô (lều) của Thần Tiên, nhân đó mà gọi thành tên núi (Lô Sơn) vậy. Núi đó, trên đảnh lớn, có 7 lớp, nền nóng phía dưới tròn chu vi 500 dặm, chỗ gió mây lao theo, nơi sông hồ đeo vắt, ven sườn cao trái Vũ, vách vút muôn tầm, hang tối cùng mực, người thú cách tuyệt. Như trời sắp mưa thì có khí trắng đánh trước và anh lạc từ đảnh xuống, kịp đến lúc xúc chạm đến đá nhả thành mây, thốt nhiên nhóm tụ, hoặc gió lớn chấn động sườn núi vút vọng hưởng động hang cốc, các âm thanh của đất trời đua nhau bày tấu, tiếng vang kinh rợn người. Các sự biến hóa đó chẳng thể suy lường được vậy.

Trong các đảnh núi thì đảnh núi thứ 3 cao vút hơn hẳn, nơi hiếm có dấu chân người dẫm trải qua. Xưa kia, Thái Sử công vận du phương đông leo lên ngọn núi đó mà xa trông nhìn về hướng nam đến tận Tam Hồ, phía bắc ra tới Cửu Giang, hai phía Đông tây nhìn hết tầm mắt thì như giẫm trải đến Thiên Đình, từ ngọn núi ấy luống khoảng nữa dặm có hai ngọn núi cao, phía trên có Huyền nhai, bên cạnh có ngôi thạch thất, là nơi các Tiên xưa kia nương ở. Phía sau có cái hang, quán của Đổng phụng thời nhà Hán ở dưới hang đó thường vì người mà giúp trị bệnh, có nhiều phương pháp thần kỳ, khác hẳn thuốc thang trong thế tục. Những người bệnh lành khỏi thì bảo trồng 5 gốc hạnh, chỉ trong vòng vài năm mà rậm tốt thành rừng. Tính về Đổng Phụng sống ở nhân gian khoảng 200 năm mà dung mạo tướng trạng vẫn thường như lúc 20 tuổi, bỗng chốc mà thăng cử bèn tuyệt dấu nơi rừng hạnh. Ở ngọn núi phía bắc sườn phía tây thường có dòng cao, mưa lâu khơi thế cùng đến hơn trăm nhận bên trong mây khí ánh ngời giữa trời. Trông nhìn đó như núi ở giữa khoảng trời nương mốc. Ngọn núi phía nam gần hồ cung đình tức lấy tên cung đình để gọi. Việc An-hầu-thế-cao cảm hóa nói ở chương Sơn Bắc (II) 7 ngọn núi đồng tụ hội, đến phía Đông cùng thành Phong ngạc, sườn núi đó cùng tuyệt, chẳng có ai lên đó. Có người nông phu miền quê thấy có người mặc y phục Sa-môn vượt giữa hư không lên thẳng đó. Đã đến nơi thì xoay thân ngồi yên, giây lâu mới cùng mây khí đồng tan mất, đó tợ như người đã đắc đạo vậy. Khi ấy các kẻ sĩ năng văn đều lấy làm lạ. Lại nơi cỗ sừng đứng có nhiều kỳ lạ. Phía bắc, lưng gối liền nhiều gò đồi, phía trước mang đeo 2 dòng sông. Bên tả chỗ núi của lưng có hình rồng và nền móng tháp đá. Phía dưới có dòng suối mát ngọt tuôn đổ, lạnh ấm cùng với thời tiết nắng mưa đổi biến, đầy vơi qua dòng nước hạn hán mà không đổi khác.

Tìm về nguồn thì tợ như xuất phát từ đầu rồng, phía nam đối diện với cao sầm, ở trên có cây gỗ kỳ đặc riêng tuyệt bày ngoài rừng khoảng vài mươi trượng, phía dưới tơ như ngôi phù đồ thờ Phật 1 tầng, là nơi Hạc trắng bay liệng, là chỗ mây đen ùn vào. Về phía Đông nam có núi Hương lô, ngọn núi riêng lẽ đẹp xinh nổi trội, hơi khí bay trùm trên hơi khí ấy như khói hương, mây trắng ánh ngời phía ngoài sáng lạng đặc biệt riêng khác các núi. Lúc trời sắp mưa thì khí nước phía dưới trông trào lên như lọng xe ngựa, đó tức là giếng rồng nhả ra. Bên tả có rừng cây xanh biếc, là nơi chim tước sắc xanh vượn sắc trắng nương ở, nơi chim đen tiềm tàng. Về phía tây có cửa Đả, phía trước tợ như 2 cổng, vách dựng đứng cao hơn ngàn nhận và cũng là dòng thác vậy. Bên trong, chim thú cây cỏ đẹp xinh, thuốc linh phương vật kỳ đặc. Thật đáng xưng gọi là thắng danh vậy! Ở đây chỉ lược nêu sự kỳ lạ. Lưu Chiêu chú giải "Tục Hán Chí", Ly Đạo Nguyên chú giải "Thuỷ Kinh" đều dùng từ ngôn ngữ của Sa-môn Huệ Viễn.

Lại theo "Dự Chương Cựu Chí" nói là: "Chữ Tục quân Bình, là con cháu của Hạ Võ" hoặc nói là: "Chữ Quân Hiếu, thân phụ là Đông dã Vương cùng Ngô Nhuế giúp Hán bình định Thiên hạ, mà mất phong tục của Hán ở Ly Dương" hoặc nói là: "Việt lô Quân ở đời anh em có 7 người đều khéo giải về đạo thuật, bèn gá tinh ở núi của Động Đình, nên gọi đó là Lô Sơn". Theo "Tầm Dương Ký" của Trương Tăng Giám nói là: "Phía nam núi (Lô Sơn) có 3 cung, đó gọi là Đô của Thiên Tử. Lô Cung từ khe nước xuất phát ra. Thượng Cung là nơi con người không đặt chân đến, có 3 cầu đá dài hơn 10 trượng. Các chỉ vật màu sắc đỏ, phía dưới không đáy. Còn Trung Cung tại 1 hang riêng, đều có đá văn, 2 bên có ngọn núi tròn nhỏ, ngọn kỳ đặc gọi là ngọn núi Hữu Chướng, đá hình như đường trâu ngựa lại, tương đối với Hạ Cung. Giữa khoảng hồ Bành lễ là nơi xưa cũ của miếu cung đình. Núi cao 2360 trượng, chu vi rộng 250 trượng. Núi có 9 lớp, sông cũng có 9 dòng. Theo "Quận quốc Chỉ" nói là: "Lô Sơn có 9 tầng lớp chưởng cách, núi cao muôn hận, ôm hoài các linh dị, bao bọc những vết tiên". Theo "Tầm Dương Ký" lại nói là: "Năm thứ 17 sau khi lên ngôi (230 trước tây lịch) Tần Thỉ Hoàng (Doanh Chính) theo hướng đông lên Lô Sơn để trông nhìn cửu giang, đến trên tiêu phong để cùng tiếp đối với Tiêu Hán, nhân mạng tại đó". Phía sau ngọn núi có khắc đá, v.v... là khắc từ thời Hạ Võ, Trượng xích sổ lý, chữ viết không thể biết được rõ ràng. Theo "Phục thao du sơn tự" nói là: "Lô Sơn tại giang đương có lắm hang ngục, hình thế rộng lớn, lưng gối tựa nga lưu, mặt đối diện Bành lễ, rễ cuộn chiếm cứ, tường thấp dài vài dặm, tột đảnh có lắm lớp rất mực chước cách, ngửa mặt cắm tận giữa khoảng mây trời, cúi nhìn các dòng của sông hồ vậy". Theo lời tựa trong "Sơn Phủ" của vương Bưu nói là: "Lô Sơn là núi Bành trạch, tuy chẳng trong số ngũ nhạc, giữa khoảng trời xanh cao vót, thật là một danh sơn diệu vợi". Theo "Sơn Phủ" của Tôn Phỏng nói là: "Phía nam của Tầm Dương có Lô Sơn, trấn của Cửu Giang, gần đầu của Binh lễ, tiếp liền với Bình nguyện bằng phẳng rỗng thoáng". Theo "Trương dã Ký" nói là: "Lúc trời sắp mưa thì có mây trắng hoặc cuộn quanh hang núi, hoặc trên đảnh trong tường thấp, người đời gọi đó là dãi núi chằng qua khỏi 3 ngày thì hẳn mưa, mỗi lúc mưa đổ thì lút ngập mà phía trên còn có ánh sáng mặt nhật. Trên đầu núi có tảng đá lớn, có thể ngồi được vài trăm người. Những điều trên đây đều là thuật bày về Lô Sơn vậy.

Trong thời Tiền Tống, Chi Đàm Đế có bài Phú rằng: "Xưa thay núi cao tráng lệ, khí hòa bao bọc linh kỳ, ẩn tàng cất chứa mây xanh nơi tột đảnh. Cảnh lắng thì đảnh trát vót mở soi, gió động thì hương rừng thoảng tỏa. Trên đảnh có lắm kỳ đặc nên thần minh nhóm tụ, lược dứt hẳn dấu vết người xưa có thể rành rõ. Lúc trời trong lẳng lên núi, đến huyền nhai đòi cao rủ hóa ở cung đình, Bậc Ứng Châu (A-la-hán) vượt mây lên tận đảnh, kẻ chột mắt bỗng che mờ cảnh mà vào hợp nghi, đều dự nghe thanh trần khéo xứng danh vô đắc đây. Về mặt phía nam thì trội nổi cao vợi, lưng phía bắc thoảng cắm chặt cao vợi nước dơ giọt phân dòng chảy xiết, 7 ngọn núi nổi trội sắp lớp với thế Trúc Bách ánh ngời, Sinh trùng tươi tốt, có 3 hồ cuộn quanh, 9 sông kéo dài. Ôi! Lan nậm 4 vật riêng đẹp xinh ở huyền đông. Khe nước rầm rì 2 dòng mỹ miều trăm bến sông đến đường thông. Cửa cao vợi trăm tầm. Cảnh chót vót ngàn nhận. Lò hương nhả khói tượng thành mây, suối ngọt tuôn nước giọt đượm thấm trước!". Vua Nguyên Đố (Tiêu Dịch 552-555) thời Nam Lương có lời tựa rằng: "Phàm nhật nguyệt sáng ngời giữa trời trong, do đó, Trinh quán núi sông dãi đất Hậu thổ, do đó mà thôi ninh. Lô Sơn cũng là Đúc trấn của Nam quốc, tuy rừng đá khác thế mà mây ráng cùng sắc, đêm rút gió dài thì muôn dòng đồng vọng hưởng, thần ngô sớm nhâm cả trăm đảnh núi đồng ứng. Theo hướng đông trông nhìn hồng tỉnh biết tiết tơ tại đó, từ hướng tây ngóng nhìn Thạch Lương thấy vật báu bỏ có thể nhặt, thật lại mến loại dễ thương, trong núi tuy lâu, xin la kết quế, thấy lắm dòng ngầm". Ngoài ra, những bài phú vịnh từ xưa đến nay rất khó ghi chép lại đầy đủ. Thật đáng là sinh sơn trong Thiên hạ!

Giang châu tại Sơn Bắc cách 20 dặm, vốn tại phía bắc Trượng Giang thuộc phía nam Tầm thủy, nhân đó mà gọi tên là Tầm Dương. Nay Lan thành của Kỳ Châu tức thuộc phía bắc xưa cũ của đó vậy. Năm Hàm Hòa thứ 9 (334) thời Đông tấn, thứ sử Ôn Kiệu mới từ Giang bắc dời đến ở phía nam bồn thành. Đến năm Nghĩa Hy thứ nhất (405) thời Đông tấn, thứ Sử Quách Sưởng dời đến ở Giang Hạ, đến năm Nghĩa Hy thứ 8 (412) thời Đông tấn, Mạnh Hoài Ngọc trở lại bình trị Tầm Dương. Năm Thái Thanh thứ 2 (548) thời Nam Lương, Tiêu Đại Tâm nhân từ Hầu Cảnh muốn nương nơi bền chắc hiểm nguy, mới dời đến ở thành Bồn Khẩu, bèn gọi thành xưa cũ là Cố Châu. Theo "Lãm tầm dương ký" của Trương Tăng nói là: "Thành Bồn Khẩu là do Quán Anh tạo dựng. Trong niên hiệu Kiến Bình (?) thời nhà Hán, Tôn Quyền đi đến Bắc thành, bảo đục giếng. Vừa đến trong cổ phạm có được 1 hộp đá khắc đề bài minh rằng: "300 năm sau sẽ bị lấp bít, sau đó chưa đầy trăm năm sẽ ứng vận liền mở thông lại". Tôn Quyền vui mừng cho đó là giếng điềm lành của chính mình". Giếng ấy rất sâu, sông Bồn nếu có sóng gió thì nước giếng liền động. Dân chúng trong bang giao nhân đó mà gọi là "Lãng tỉnh" (giếng sóng), nên Lý Bạch xuống thành Tầm Dương, bàn phiếm về Bành lễ, có lời thơ rằng:

"Giếng Quán Anh gợn sóng Sông Tầm Dương gió nổi".

Nay, giếng tại vườn phía tây trong Nha thành. Trên thành có Bắc lầu, phía dưới gần sông Bồn. Nhờ cao nên trông nhìn thấy xa, là cảnh thắng của 1 quận. Trong thời nhà Trần, Tàu-kỵ-thường-thị Trương Chánh trông thấy Bồn thành có lời thơ rằng:

"Núi khuông ấm hang xa Quán điệp thuộc giữa dòng Hoa thành bay chiếu nước Trăng sông chiếu sáng lầu".

Căn cứ theo Truyện Sưu Lượng trong "Tấn Thư" nói rằng: "Sưu Lượng ở tại Võ Dương, các Tá lại Ân, Hạo, v.v... nhân đêm thu cùng lên Nam lầu, bỗng chốc bất chợt Sưu Lượng đến, mọi người dẫn nhau lánh né. Sưu Lượng bảo: "Các ông hãy dừng chốc lát, Lão tử ở tại xứ này hứng thú mà chẳng tán". Bèn nằm ngồi trên giường người Hồ cùng Hạo, v.v... đàm nói ca vịnh trọn ngồi, thì việc tại Nam lầu của Võ Xương. Người đời sau vì Sưu Lượng từng làm Giang châu thứ sử, nhân thế mà gọi đó là Sưu lầu, thật chẳng phải chỗ đến trong đêm thu để lại đó vậy. Quận đó, đời trước gọi là Cửu giang, hoặc gọi là Tầm Dương, đến đời Đường giòng họ Dương và họ Lý có đó vậy lên làm phụng hóa quân tiết độ. Đến trong năm Khai Bảo thứ 4 (971) thời Bắc Tống, Bình giang Nam giang làm quân Châu sự. Đến năm Thái Bình hưng quốc thứ 3 (978) thời Bắc Tống, Thăng tinh tử trấn làm Huyện bèn lệ thuộc đó. Đến năm Thái Bình hưng quốc thứ 7 (982) thời Bắc Tống, mới cắt 3 huyện Tinh Tử, Kiến Xương và Đô Xương đặt quân thuộc Nam Khương, từ đó, Sơn Nam thuộc Nam Khương và Sơn bắc thuộc Giang châu vậy.

----------------------

CHƯƠNG II: NÓI VỀ SƠN BẮC

Từ phía nam Giang Châu ra cửa Đức Hóa cách 5 dăm đến viện Diên Thọ, xưa trước gọi là Đàn Lahán. Qua khỏi viện Diên Hóa cách 5 dặm đến cầu Thạch Đường, có Liêm Khê (khe suối Liêm) là nơi ẩn cư của chu lang Trung. Chu vốn tên là Đôn Di, tự là Mậu Thúc, người xứ Đạo Châu. Là 1 sĩ quan rất có tài lược, sớm mến mộ cao danh, ưa thích cảnh thắng của Lô Sơn. Nhân nhà là 1 biệt thự ở Tầm Dương, đến nương gá với thành quách mà xưng gọi tên là Liêm Khê. Qua khỏi Liêm Khê theo hướng đông vào thiền viện Bảo Điện cách 10 dặm theo hướng bắc đến quán Thái Nhất cũng cách khoảng 10 dặm. Thiền viện Bảo Điện xưa trước gọi là Song Khê. Đến năm Cảnh Đức thứ 3 (1006) thời Bắc Tống, vua Châu Tông (Triệu Hàng) ban tặng tên như hiện nay. Viện ở ngay Quan đạo. Nam càn Trinh thứ 2 (?) thời nhà Ngô, Sa-môn Thường Chân mới tạo lập nền móng đó. Thường Chân vốn người xứ Kinh Nam, giòng họ Điền, người đời xưng gọi đó là Điền Đạo Giả. Chuyên cần dốc thân canh cày vót đẽo để tiếp đãi những vị vân du khắp 4 phương. Ở Nhị lâm có Sa-môn Tu mục hiệu là sở trương, ở 2 phía Đông Tây Nhị Lâm trông coi chùa đàm luận. Đại đức Quan vâng mạng phê xét am nhà. Sa-môn Tu mục bảo cùng đô rằng: "Nay phá triệt nhà cửa nơi ở thì ông trở về đâu?". Điều Đạo giả đáp rằng: "vốn là người ở tại dưới rừng!". Và bèn liều đi xuống dưới rừng. Tu mục lấy làm lạ lời nói ấy, nhân đó kính đãi, tặng bài thơ rằng:

"Vào cửa không lặng lẽ
Thật xứng xuất gia tủ
Quỷ có hành chẳng biết
Người vô tâm gọi si.
Hang xưa lạnh đối Bách
Dòng nước hoa rơi theo
Muốn xa sao biếng lười
Cùng gặp hận chậm trễ".

Từ đó trải qua Nam Đường làm nhà tiêu tiểu ở trong núi. Đến năm Hiển đức thứ 6 (?) Nguyên Tông (?) ban tặng Điền Đạo giả sử cấp các am hang. Năm không có Điền Đạo giả thì lấy lương thực ấy cả 26 am hang, về hướng nam bền chặt đến ngọn núi Ngô Chương cách 5 dặm. Từ đảnh núi xống hướng bắc đi 1 dặm, về hướng tây của đường đi có am Vân Khánh, xưa trước gọi là Vân Cảnh. Nhân 1 dòng suối làm thành ao nuôi nhiều cá mè cá chép, trải qua năm tháng lâu dài, bơi lội rất lờn quen, từ am Vân Khánh về hướng tây cách 1 dặm đến am Bảo tích, tùng trúc che kín, có đình Bạch Vân tại trên đó, theo hướng bắc trông nhìn đến sông Bồn có tảng đá lớn ngồi được vài người, suối kêu rít qua phía dưới đó. Đó là 1 am của Chư Tăng rất đẹp xinh tại Sơn Bắc. Am Vân Khánh và am Bảo Tích đều ở phía nam của Bảo Nghiêm. Từ am Vân Khánh trở lại am Bảo Nghiêm cũng xa cách 3 dặm. Từ am Bảo Nghiêm về đông cách 15 dặm có viện Hạ Long tuyền. Ở phía bắc Quán Thái nhất riêng cá am Long Tuyền, nên ở đây gọi là "Hạ" để khác biệt đó. Từ Long Tuyền cách 10 dặm đến am Tôn Thắng, từ am Tôn Thắng cách 8 dặm đến Đài Bạch Lộc, từ đài Bạch Lộc cách 15 dặm đến viện Nhân thọ, từ viện Nhân thọ cách 10 dặm đến viện Hương Tích. Từ viện Hương Tích cách 20 dặm đến viện Trường lãnh. Trường lãnh tức là 1 đảo nhỏ của hồ Bành lễ. Phàm từ viện Hạ long tuyền đến viện Hương tích chẳng thuộc giữa khoảng núi non, nhưng các hàng sơn nhân Dã Khách vân du thưởng ngoạn khắp cùng sâu xa đều thường đến đó, âm thanh suối nước sắc màu đồng nội rất đủ đẹp xinh vậy. Từ viện Hương tích về hướng tây cách 20 dặm có vườn trường của chùa Khai tiên thuộc Sơn Nam, gọi đó là trang vườn Đại Phú, qua khỏi trang vườn Đại Phu là đi đến phía nam của Lô Sơn vậy. Từ viện Bảo Nghiêm về hướng tây cách 1 dặm đến am Long Trì, xưa trước gọi là Mạo Phong, từ Mạo Phong cách 5 dặm đến trang vườn am nham, cách trang vườn am nham 1 dặm đến viện Thiền Trí, xưa trước gọi là Tịnh Cư. Phía sau đó có đình Lộc Dã. Cách viện Thiền Trí 5 dặm đến quán Đại Trung Tường phù, xưa trước gọi là Cung Thái nhất, đến trong niên hiệu Đại Trung tường phù (1008-1017) thời bắc tống, vua Châu Tông (Triệu Hằng) ban sắc đổi tên như hiện nay. Theo "Cát hồng thần tiên truyện" nói là: "Đổng Chân nhân tên là Phụng, tự là Quân Dị, người xứ Hầu quan, Mân trung, từ thuở thiếu thời đã có đạo thuật, có giao chỉ thái thú Sĩ biến chết đã 3 ngày, chân nhân phụng đưa 1 viên thuốc cho uống, lấy nước cho ngậm, bưng đầu Sĩ biến mà lay lắc, chừng khoảng bữa ăn, Sĩ bắt đầu mở mắt cử động tay chân, nhan sắc dần hồi phục, qua nửa ngày có thể ngồi dậy được, qua 4 ngày thì nói năng được, trở lại bình thường. Sau đó đến ở Lô Sơn chữa trị bệnh cho người, chẳng nhận lấy tiền của, bảo những người lành bệnh mỗi người trồng 5 gốc hạnh, chỉ trong vòng vài năm mà rậm tốt thành rừng. Châu nhân phụng mới làm kho lẫm chứa đựng, tuyên bố với mọi người rằng: "Người nào muốn đổi hạnh chẳng cần phải lại đáp đền, chỉ cử 1 vật gì đựng hạnh thì đong lường lại đó vật đó bằng lúa mùa. Nếu người nào có ý khinh thường đó thì thú dữ liền rượt đuổi. Với lúa thóc tích chứa đó Châu nhận phụng lại đem bố thí cho người, về sau thượng thăng hiệu là Bích hư thượng giám. Quán đó tức là chỗ đất rừng hạnh xưa cũ vậy. Năm Thăng nguyên thứ 6 (?) thời nhà Đường, Từ tri chứng làm bài ký về miếu Châu nhân và có bài ký Bảo Đại 12 năm, đến nay vẫn hiện còn, khí tượng tiêu nhiêu, những người qua đó tên Kính mà chẳng dám vào luôn, có suối ao cá lội rất quen lờn. Hoặc có thuyết nói: Rừng Hạnh Châu nhân ở tại Lô Sơn.

Trương Cảnh có bài thơ rằng:

"Hoa Đào nhàm nói nguồn Võ Lang
Nhầm giết Lưu Lang chẳng được tiên
Tranh tợ khách dưới núi Liên hoa
Trồng thành Hồng hạnh trên trời xanh".

Nay, núi Liên hoa tại phía sau Quán. Từ Quán về phía bắc cách 5 dặm có am Lang tuyền. Mới đầu, Pháp sư Tuệ Viễn đến Lô Sơn, mến thích cảnh rỗng thoáng đó, muốn dựng am để ở, vốn chỗ đất không có dòng suối tuôn trào trâu thấm thành khe dòng. Thế rồi, gặp năm tại tầm Dương bị hạn hán, Pháp sư Tuệ Viễn trì tụng Kinh Long vương ở trên ao, chỉ chốc lát có rồng nổi và bay lên trời, mưa lớn đủ khắp, nên gọi là Long Tuyền. Từ Long Tuyền về phía nam cách 10 dặm có Viện Diệu Trí, xưa trước gọi là đình Hành xuân. Cách viện Diệu Trí 5 dặm là đến sườn núi rắn. Theo "Cao tăng truyện" nói là: Sa-môn An thế cao là Thái tử vua nước An Tức, nhường ngôi trị vì nước nhà cho người chú út mà xuất gia, trong khoảng thời nhà Hán nhà Ngụy, đi đến hồ Cáo Đình. Bấy giờ vị thần ở hồ ấy có khả năng phân gió trên dưới, mọi người đi thuyền đều kính sợ, Sa-môn An thế cao cùng đồng bạn lưu 30 người đi thuyền mang sinh lễ đến cúng thỉnh phước thần. Bỗng nhiên thần giáng chúc rằng: "Xưa kia ở nước ngoài, Tôi và ông đồng xuất gia học đạo, mà tánh tôi có lắm sâu hận nên bị đọa chịu quả báo làm thần. Nay gặp thấy bạn đồng học, buồn vui lẫn lộn không thể nói nên lời". Sa-môn An thế cao thỉnh thần xuất hiện thân hình. Thần mới nỗi lòi đầu con trăn lớn, không biết đuôi dài bao nhiêu. Biết thế rồi, Sa-môn An thế cao sử dụng tiếng người Hồ tán bái vài phiên. Con trăn buồn cảm lệ đổ như mưa, phút chốc lại ẩn. Tại miếu có cả ngàn xấp lụa quyên cùng các vật báu xen tạp, Sa-môn An thế cao bèn mang lấy đi đến Dự Chương tạo dựng Chùa Đông. Người sau đến trong đầm phía tây núi thấy thân hình con trăn chết từ đầu đến đuôi dài vài dặm. Nay Thân Xà (rắn) ở quận Tầm Dương tức là đó vậy, nên gọi chỗ cao ấy là sườn núi rắn (Xà cương). Từ sườn núi rắn đi xuống khoảng 5 dặm là đến Quán Thái Bình. Từ Quán Thái nhất về phía tây nam cách 2 dặm có am Quốc thái, trên phía tây đó có ngọn núi Liên Hoa, cách khoảng 10 dặm lên tới đảnh núi có am Liên hoa. Từ am Quốc thái cách 5 dặm đến am Báo Ân, cách am Báo Ân 1 dặm là đến am Vân Tế. Từ am Vân Tế cách 2 dặm đến am Vĩnh Thanh cũng còn gọi là am Hạ Liên hoa. Phía bắc khe suối của am Vĩnh Thanh có Ngưu Đạo nhân ẩn cư tại đó. Từ am Vĩnh Thanh về phía tây cách 1 dặm đến am Vân Khê có 8 chỗ ở của các Tăng sĩ và Đạo sĩ, đồng tại dưới ngọn núi Liên Hoa. Cách am Vân Khê 2 dặm cũng đến quán Thái Bình, thời Tiền Đường gọi đó là Cửu thiên sứ giả, Quán Chân quân. Năm Thăng nguyên thứ nhất thời Nam Đường (?) ban sắc gọi là phủ Thông Huyền. Đến năm Thái Bình Hưng quốc thứ 2 (977) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Thiệu Quỳnh) ban sắc đổi tên gọi như hiện nay. Theo "Lục Dị Ký" nói là: "Ngày 21 tháng 8 năm Khai nguyên thứ 19 (731) thời Tiền Đường, vua Huyền Tông (Lý Long cô) mộng thấy Thần tiên Vũ vệ ngàn cưỡi muốn chở nhóm tập giữa không trung, có 1 người mặc áo sắc đỏ đội mũ vàng cưỡi xe xuống yết kiến vua và nói là: Chúng tôi là cửu thiên tham phỏng đi tuần khắp nhân gian, muốn đến phía tây bắc của Lô Sơn thiết đặt Hạ cung cây đá nền móng vốn có đầy đủ chỉ cần sức lực để dựng lên vậy. Vua liền sai phái trung sứ đến phía tây bắc Lô Sơn, quả thật có nền móng địa chỉ, uyển nhiên vài hôm có vài ngàn đoạn cây gỗ lớn tự nhiên mà đến. Đường điện quách vũ tùng loại thiết đặt cây gỗ đều có sử dụng đầy đủ. Có thuyết nói là: cây gỗ ấy do vua Cửu Giang góp nhặt phỏng tính làm cung điện cất chìm dưới bến sông Bồn, đến lúc ấy bèn nổi hiện lên, sắc màu đỏ trắng son vàng, đục moi đất ở phía bắc miếu mà có được, lụa màu trang sức đầy đủ. Thế rồi tạo dựng xướng độ, có hơn 500 vị Linh quan vận mặc y phục như Đạo sĩ và đều nói là đến làm sứ giả ở miếu. Nhân đó đồ tả hình tượng nơi vách tường. Hoặc có thuyết nói là: Mới đầu, Minh Hoàng (vua Huyền Tông) đem điều mộng đó nói cùng mọi người chung quanh, mọi người không tin, bỗng chốc có Thần Giáng hiện nơi sân, lụa mây cuốn cưỡi dưới chân, nghi trượng phù vệ rất hùng vĩ, Minh Hoàng bèn bảo Ngô đạo tử nhanh lấy bút giấy họa tả đó để đắp họa tôn tượng, liền y theo đó mà phỏng đặt. Về miếu ký do Lý thử soạn, Lý Thử tự xưng là "Thần dưới tranh cỏ ở của Sơn Hành phía Đông huyện Hoàng Mai thuộc Kỳ Châu, tạo dựng ngày 25 tháng giêng năm Nhâm thân (732) tức năm Khai Nguyên thứ 20 thời Tiền Đường. Văn Ký ấy đại lược là: "ban sắc đặt miếu sử nội cúng dường, đưa đồ hình sứ giả Thật Kiếu lập đền thờ chương tế miếu, hành đạo thiết tế sử do Pháp sư Trương Hình Công ở quán Đại Hoằng Đạo, sử thì tiết, các quân sự ở Giang Châu gìn giữ, Giang-châu-thứ-sử Độc Cô Trinh, Triềután-đại-phu hành trướng sử Dương Sở, Vươnghành-tư-mã-hoàng phụ Sở Ngọc, Tiền Dương huyện lệnh Ngụy Xương đồng ủng hộ tu phụng. Lại có "Sứ giả tường Nghiệm Ký" Khắc ngày mồng 8 (Tân Hợi) tháng 3 năm Nhâm thân (732) tức năm Khai Nguyên thứ 20 thời Tiền Đường do Tuyên Nghĩa lang hành Bành trạch huyện úy Phan Quán soạn thuật, gồm 5 sự ứng nghiệm tốt lành đại lược là: "Một là nước sông nỗi tràn thổi mái chèo gần đến núi, tính cây vừa lên, nước liền trở lại như cũ. Hai là trúc đồng hoang tan trải cây gỗ quý thì liền sườn núi hang cốc lớn. Đay lẫn lộn các sắc tạp thì hang huyệt nỗi xuất bờ sườn núi sinh. Ba là đêm tạ thổ, mây gió giữa không trung ngầm mất, đèn đuốc Tiên sư sáng chiếu xa. Bốn là vượt qua hồ Bành lễ đến bái yết miếu có vài trăm người, người thuyền qua ngày hôm sau đều được giấy tiền. Năm là cưỡi theo Rồng Hổ, khắc vót người nhự, hoặc bằng đất hoặc bằng gỗ, vào miếu đều thành thứ lớp, bỗng nhiên có mồ hôi tuôn đổ nơi mặt". Văn bia ấy trải qua năm tháng lâu dài sai nhầm mòn rỉ. Đến năm Trị Bình thứ 2 (1065) thời Bắc Tống, có dựng lập lại. Lại có "Trương Linh quan ký". Linh Quan vốn tên Hoài, là vị tướng nhỏ của Võ Thái, từng có công ngầm đươm đến mọi vật, vua (?) ban sắc làm khang quan, hình tượng trên vách tường có 500 người, mà Trương Linh quan là 1 trong đó vậy, sự việc rõ ràng trong Bản Ký, do Ngự Sử trượng phu Từ Huyền soạn thuật vào ngày 15 tháng giêng năm Quý dậu (973) tức năm Khai Bảo thứ 6 thời Bắc Tống. Hữu nội sử xá nhân gan tập, Hiền học sĩ biên ghi ngôn từ lắm nhiều, ở đây không ghi tả. Bên tả Của Quán có tảng đá Lưu Việt, đến giữa đường, Quận thủ khảo công viên ngoại lang Tôn mại mới dựng đặt đá móc lập đền thờ. Xưa kia Khuông đục làm am ở núi, có người thiếu niên thường đến đó, tự thường gọi là "vốn giòng họ Lưu tên Việt, nhà ở phía tả của Tiền sơn, mời Khuông tục đến đó, lúc sáng sớm đến dưới núi có tảng đá cao khoảng 2 thước, đó là nơi Tôi ở, có thể nên gõ vào đá tức liền có Tôi". Sau đó, Khuông Tục y như ước hẹn sang đến dưới núi, trông nhìn khắp 4 phía không am thất ở, quả nhiên chỉ có tảng đá, mới gõ vào đó, tảng đá liền mở ra, nhân đó gặp được thần tiên và mọi việc ở động phủ. Theo "Tuệ Viễn Ký" nói là: "Khuông Tục thọ học đạo ở Tiên nhân", tức là nói là về sự kiện ấy vậy. Bên cạnh Quán, có đình Tiên Hương, trông nhìn xuống dưới lầu Quán nghiễm nhiên như động phủ. Mọi người vân du tham quán thảy đều lên đến đó. Từ Quán Thái Bình về phía tây nam cách 5 dặm có am Thanh Thái. Cách am Thanh Thái 1 dặm là đến viện Quảng Trạch, xưa trước gọi là Long Đàm, ở góc Đông nam của viện có 3 đầm Rồng, đến núi leo lên khoảng 5 dặm, gặp năm hạn hán, các huyện thảy đều đến cầu đảo.

Từ viện Quảng Đàm xuống núi, đến chùa Tháibình-hưng-quốc cách khoảng 7 dặm, phía trước chùa có dòng nước tên là Thanh Khê. Trên dòng thanh khê có đình Thạnh Khê. Chùa đó được tạo dựng vào năm Thái Nguyên thứ 9 (384) dưới thời vua Hiếu Võ Đế (tư mã Xương Minh) nhà Đông Tấn, xưa trước gọi là chùa Đông lâm. Đến năm Hội Xương thứ 3 (843) thời Tiền Đường thì được tạo dựng lại, mãi đến năm Thái Bình hưng quốc thứ 2 (977) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quých) ban sắc tên gọi như hiện nay. Pháp sư hủy là Tuệ Viễn, vốn giòng họ giả, người xứ Lâu Phiền; nhạn môn người thầy là Sa-môn Đạo An ở Hằng sơn. Pháp sư Tuệ Viễn là đệ tử cao túc của Sa-môn Đạo An, mới đầu ở chùa Thượng minh tại Kinh Châu, sau muốn đến ở La Phù, trên bước đường đi do từ Lô Sơn, đến ở Tinh Xá Long Tuyền cách chùa Đông Lâm khoảng 15 dặm đường sá xa xôi mà học chúng đến nương theo đông nhiều. Bấy giờ lại có Thiền sư Huệ Vĩnh đã ở tại núi Hương Cốc đến xin kết bạn thân gần, thứ sử Hoàn y cũng rất khâm phục kính ngưỡng, mới xếp đặt tạo dựng chùa, mọi sự rõ đủ như nơi văn bia chùa do Tiền Trần Châu thứ sử Lý Ung soạn thuật và biên ghi ngày 15 tháng 7 năm Khai nguyên thứ 19 (731) thờ Tiền Đường, mãi đến năm Hội Xương thứ 3 (843) thờ Tiền Đường, Sa-môn Vân Cao mới khắc bia đá. Bấy giờ, Bùi Hưu làm Giang nam tây đạo quán sát sứ, Trương Hựu Tân làm Giang Châu thứ sử, thật tâm hỗ trợ hoàn thành đó. Bùi Hưu có đề ở cuối Thiên ấy rằng: "Trông nhìn ngôn từ bút mực Bắc hải tưởng như thấy được phong thái" và Trương hưu Tân cũng làm bài ký sau lưng bia rằng: "Ngày 13 tháng 4 năm Đại Trung thứ 10 (856) thời Tiền Đường, Sa-môn Huyền Quán thỉnh Bùi Quang Viễn ở Hà Đông ghi đề Triệu biển ngạch". Bùi Quang Viễn là Quốc-tử-giám-thái-học-bác-sĩ. Mới đầu, Pháp sư Tuệ Viễn muốn dời đến ở Hương Cốc, thần núi đến báo mộng rằng: "Nơi đây u tĩnh, đủ để gá Thần". Bỗng đến đêm sau, sấm mưa chuyển động, tới sáng sớm, trông nhìn đó chỉ có cát trắng trải đất và có hàng rào chắn quanh, có Văn tử gỗ tốt đã làm thành Điện, nên gọi tên là Thần vận. Năm Đại hòa thứ 4 Đại Hòa: có lẽ là niên hiệu Thái Hòa (827-836) và năm thứ tư tức năm 830 vậy, Ngưu tăng Nhu từ Võ Xương trở về, lúc sáng sớm đi ngang qua đó, có ghi trên bảng 4 chữ "Thần Liên... ". Lại có cây lớn vài thước, vua Nguyên Tông thời Nam Đường (?) cũng có ghi là "Thần vận thủy", nay đều hiện còn. Đến trong niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường, chùa và cây rừng đều bị Hộ bộ phá hủy bán. Đến trong niên hiệu Đại trung (847-860) thời Tiền Đường mới tạo dựng lại. Thứ sử Thôi Ảm quyên góp của tiền, làm kệ cúng thí, các hàng quan lại cùng theo có khoảng vài trăm vị, họ tên ủy lý, nay đều khắc tên mà cất giấu. Lời sở thời bấy giờ cũng là ngôn từ của Thôi Ảm. Thôi Ảm làm lại văn bia của chùa, Tả tán Kỵ thường thị Liễu Công quyền biên ghi. Dòng suối bề tôi phía dưới chùa chảy vào Hổ Khê. Xưa kia Pháp sư Tuệ Viễn đưa tiễn khách qua đó, Hổ liền lên tiếng báo hiệu, nên gọi tên như vậy. Bấy giờ, Đào Nguyên Lương ở phía nam núi Lật lý. Lục tu Tỉnh cũng là kẻ sĩ có Đạo, Pháp sư Tuệ Viễn thường tiễn đưa 2 người đó, cùng nhau nói bàn hợp Đạo, bất chợt vượt quá khe Hồ, nhân đó cùng nhau cười lớn. Nay ở đời lưu truyền tranh đồ "Tam tiếu" là phát xuất từ đó vậy. Phía sau điện Thần Liên có ao Bạch Liên (sen trắng), xưa kia, Tạ linh vận là người ỷ cật tài năng khinh ngạo mọi vật, ít điều suy trọng, bỗng 1 lần gặp thấy Pháp sư Tuệ Viễn, tự nhiên tâm phục, mới liền ở tại chùa đó phiên dịch kinh Niết-bàn, nhân đó đục ao làm Đài, trồng sen trắng trong ao, gọi tên Đài đó là Đài Phiên Kinh. Đình Bạch Liên ngày nay tức là thổ đất xưa cũ ấy vậy.

Pháp sự Tuệ Viễn cùng các hàng tăng tục như Tuệ Vĩnh, Tuệ Trì, Đàm Thuận, Đàm Hằng, Trúc Đạo sinh, Tuệ Duệ, Đạo Kính, Đạo Bính, Đàm Tiên, Bạch y, Trương Dã, Tiên Bích (?), Lưu Di Dân, Trương Thuyên, Chu tục Chi, Lôi thứ Tông, Phạm tăng Phật-đà-da-xá (Giác Hiền), v.v... cả thảy 18 vị đồng tu Pháp môn Tịnh Độ, nhân đó mà gọi là Bạch Liên Xã. 18 vị Hiền Giả này có Tiểu truyện phụ ghi tại cuối chương. Trên ao, xưa kia có các tên thờ thụy tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đến nay tôn tượng bị mất các đã hư phế. Có thụy tượng tại điện Văn-thù-sư-lợi. Trong thời nhà Tấn, mới đầu Đào Khản làm Quảng Châu thứ sử, tại Hải tân, có ngư nhân ban đêm trông thấy cá ánh sáng tuyệt đẹp bèn bủa lưới giăng kéo được tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bằng vàng. Bên cạnh có khắc ghi là "do vua A dục chủ đúc xưa kia". Về sau có thương nhân đến Đông hải cũng có được Viên quang (vầng hào quang) mang đến nơi tôn tượng ấy, quả nhiên phù hợp. Đào Khản nghinh đưa đến chùa Hàn Khê tại Võ Xương. Chủ chùa là Tăng Trân thường qua lại cửa, mộng thấy chùa bị nạn lửa, mà tôn tượng và phòng thất có thần vật bao quanh. Tăng Trân vội trở về chùa thì quả nhiên chùa đã bị thiêu cháy, chỉ tôn tượng và phòng thất đều còn lại. Đến khi Đào Khản chuyển dời đến trấn đốc tại Giang Châu, vì tôn tượng là thần linh, nên bảo người nghinh thỉnh để tự đi, lại bị sóng gió làm đắm chìm, nên bấy giờ tại kinh sở vì thế mà có bài ca dao rằng:

"Đào Chỉ kiếm hùng
Tượng là Thần Tiên
Gió liệng bùn đổ
Xa sao vời xa!
Dốc chỉ thành
Khó dùng sức vời".

Đến lúc Pháp sư Tuệ Viễn tạo dựng chùa, mới đến trên dòng nước để cầu đảo, tôn tượng ấy bèn nổi lên, mới nghinh thỉnh đưa đến tôn trí tại điện Thần Vận. Về sau tạo dựng Trùng Các để tu phụng hương hỏa. Nên trong "Tự Ký" Lý Ung ghi là:

"A-dục chuộc tội
Văn-thù giáng hình
Giẫm biển chẳng chìm
Xua đến Đào Khản
Gặp lửa chẳng cháy
Báo mộng Tăng Trân".

Tức là nói về sự kiện ấy vậy. Đến trong niên hiệu Hội Xương (841-847) thờ Tiền Đường, chùa bị phá hủy, có 2 vị Tăng mang tôn tượng đến cất giấu trên Phong đảnh của cốc Cẩm tú. Sau khi chùa đã xây dựng lại, đến phỏng tìm nơi cất giấu tôn tượng mà không có được, 2 vị Tăng ấy cùng nghĩ hoặc là trốn lánh, bỗng nhiên thấy sắc đẹp viên quang hiện giữa không trung. Nên mãi đến nay, những người vân du đến Phong đảnh, hang Phật thủ, ao Trời, thấy có tướng ánh sáng vậy. Tại chùa có Tấn Liễn (Chiếc Kiệu ở thời nhà Tấn), trang sức cầu long hoàn bị, xưa trước gọi là Tuyên đế Liễn, nên Quán Lâm có lời thơ rằng:

"Kiệu xưa Tuyên huyền tàng mây ẩn
Mộ lẽ Sa Xá rơi chiếu chậm".

Người đời nay đề trách cho đó là kiệu của An

Đế. Xét lại năm Đại Hạnh thứ 2 (?) thời nhà Tấn. Tuyên huyền soán vị phế đế làm Bình Cổ Vương, dời chuyển đến ở Tầm Dương. Đến lúc nghĩa sư nỗi dậy, Huyền... bôn chạy Tầm Dương, cờ hiệu kiệu phục còn đầy đủ nghĩa của hàng Đế giả. Khi ấy, Bách bức Bình... theo hướng tây chạy lên nhang huyệt ẩn trốn, nhân đó để Liễn ở lại Đông lâm, nên xưa trước gọi là "Tuyên liễn" tức có nguyên do ấy vậy. Bởi âm "Tuyên" và "An" cùng gần nhau, người đời sau không xét kỷ mà cải đổi như thế Viện Kinh Tạng tại chái hiên phía Đông chùa. Lời bạt cuối kinh ghi là: "Ghi tả vào năm Trinh quán thứ 13 (639) thời Tiền Đường". Văn bia kinh tạng nói là: Ngày 15 tháng 7 năm Nhâm thìn (812) tức năm Nguyên Hòa thứ 7 thời Tiền Đường, Triều thỉnh lang thế Hiệp luật lang Lý Triệu ở chùa Thái Thường soạn thuật, Đại lược là: "Năm Nguyên Hòa thứ 4 (809) thời Tiền Đường, Sa-môn Linh Triệt ở Vân môn lưu lạc ẩn trốn mà trở về nương náu ghé tại núi đó, sắp đi, nói đến Giang nam tây đạo quán sát sứ Võ Dương Công Vi Công Đan. Phu nhân của Vi Công Đan vốn giòng họ Tiêu ở Lan Lăng qua đời, từng đem các của cải y phục vòng đeo đổi mua lấy đất ruộng ở Kinh Châu, thâu lấy thuế nhập để phụng dâng đàn thế, đến lúc ấy lấy đó làm lợi ích bổng lộc riêng của mình, tức Hồng Châu sao đằng mà đặt để đó, bèn xây dựng Điện đường. Lại bảo Phù Tra, Sa-môn Nghĩa... ở chùa làm thủ Bí Tạng. Đến lúc gặp tai ách trong niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường, Sa-môn Tăng Chánh nói bổ túc lại chút ít. Đến năm Đại Trung thứ 12 (858) thời Tiền Đường, con của Võ Dương Vi Công Đan là Vi Trụ trở lại thời kiểm xét, nhân đó cúng thí tiền để tạo dựng Đường Vũ. Có ghi khắc việc đó, nên có đồ tả chân hình của Vi Công Đan và Vi Trụ. Năm Hàm thông thứ 8 (867) thời Tiền Đường, thứ sử niêu thân có bài ngợi khen 2 chân hình của cha con giòng họ Vi. Mưu Thân là cháu ngoại của Vi Trụ. Lại có 1 nhân vật sắc đề rằng: Có vị Sa-môn ở chùa Kỷ Vương nói là: Bên cạnh đó xưa trước có cụ hàm, Giang Châu thứ sử Đức hóa Vương Dương Triệt, Văn tự khắc rơi chẳng... nhân đó phấn sức mà mạn diệt đó. Nay tại chùa có đất ruộng dưới rừng bằng phẳng đều do... cúng thí, nên Chư Tăng ở chùa Đồ tả chân hình thiết giữa khoảng 2 cha con giòng họ Vi, để nêu bày truy niệm phụng thờ vậy. Căn cứ theo sử thời Tiền Đường thì Dương Triệt được vua từng phong làm Kỷ Vương. Năm Thiên hựu thế 15 (?) Từ tri Huấn ở tại Dương Châu bị Chu Cẩn giết hại, đến trong niên hiệu Bảo Đại (1121-1124) thời nhàn Liêu, mới được truy phong là Kỷ Vương, thì sự tích ấy không tương tiếp với nhị lâm (Đông lâm và Tây lâm?) vậy, bởi người đời sau vọng thêm vào đó thôi. Am tranh của Bạch Công ở góc Đông bắc của chùa. Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815) thời Tiền Đường, Bạch Công từ Thái tử tán thiện đại phu, về nói sự việc trái ngược, bị bắt chỉnh sửa đưa ra làm Châu tư mã, năm sau (816) làm Am tranh tại phía bắc núi Hương Lô thuộc phía nam chùa Di Ái, là nơi mọi người vân du qua lại. Bạch công cũng tự làm bài ký, thấy ở Bản tập. Về sau cùng chùa Di Ái đều đã bị hư phế từ lâu, những người vui thích việc tốt mến mộ phong tích của Bạch Công nên dựng nhà ở ngoài tường lam thuộc phía bắc chùa Đông Lâm. Đến thời Ngũ Đại (907-960) loạn lạc, lại bị thiêu đốt phá hủy. Đến trong niên hiệu Chí Đạo (995-998) thời Bắc Tống, Quận thú Tôn Khảo Công truy niệm mà tạo dựng nhưng đều chẳng phải nơi nền móng cũ trong niên hiệu Nguyên hòa (806821) thời Tiền Đường xưa trước. Xưa kia, Bạch Công đến chùa Đông lâm thấy trong Kinh tạng, có Xướng hòa Tập" của Bạch Công, đồng cất tàng ở đó. Đến năm Đại Hòa thứ 9 (835) thời Tiền Đường Bạch Công, làm Thái tử tân khách, mới đem Văn tập gồm 60 quyển về đó. Đến trong niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường, Bạch Công trao trả chức quan, lại đưa Hậu tập gồm 10 quyển và tượng của cư sĩ Hương Sơn. Trong niên hiệu Quảng Ninh (880-881) có trao Khuông sơn tập của Viễn Công, đều bị Cao Biền ở Hoài Nam lấy đến đất Ngô. Trong năm Đại (thái) Hòa thứ 6 (832) thời Tiền Đường, Đức Hóa Vương Triệt từng sao đằng để bổ túc các điểm khuyết thiếu, sau lại mất hết. Nay tại trong kho tàng thật chỉ có Bản từ năm Cảnh Đức thứ 4 (1007) thời Bắc Tống, vua Chân Tông Triệu Hằng ban chiếu sử quán thư hiệu kiểm mà tặng đó. Và "Khuông sơn tập" cũng có 20 quyển, trong năm Cảnh Đức thứ 2 (1005) thời Bắc Tống, từng biên tả lại. Đến trong niên hiệu Minh Đạo (1032-1034) thời Bắc Tống, vì Bộ-sử-giả-hình-bộ Hứa Thân mượn, đến nay "Lô Sơn lược ký" và lời tựa thơ "Du thạch môn" đều khắc nơi bia đá tại chùa, đều nhân Bản trong tập nói vậy.

Qua khỏi Am Tranh của Bạch Công đến nữa lưng chừng núi có 2 dòng suối phát xuất giữa khoảng đá, có tên gọi đó là khe song ngọc, do thiền sư Phật-đà-bạt-đà-la tạo lập. Tiếng phạm gọi tên Phật-đà-bạt-đà-la, tiếng Trung-hoa phiên dịch nghĩa là Giác Hiền. Thiền sư vốn là cháu chắt nối dõi của vua Cam-lộ-phạm-vương ở nước Ca-duyla-vệ. Năm 17 tuổi, được Sa-môn Cư-ma-la-lợi độ cho xuất gia, cùng đồng bạn tập học, cả Đại chúng đều phải trải qua thời gian 1 tháng mà Giác Hiền chỉ xem đọc trong 1 ngày, nên Sa-môn Lưu-ma-lalợi ngợi khen là: "Chỉ 1 mình Giác Hiền có khả năng địch nỗi 30 người!". Sau khi vào Trường An, Thiền sư Giác hiền cùng Tam tạng Pháp sư Cưuma-la-thập (Đồng thọ) phân chiếc huyền chỉ, Cưuma-la-thập vì thế mà khuất phục. Thiền sư Giác Hiền lại đến Lô Sơn cùng Viễn Công ở đồng xã. Nguyên trước, Thiền sư có mang theo 3 viên Xálợi của Đức Phật Thích Ca. Nhân đó tôn trí an táng tại núi, dự dâng Biểu văn để dựng tạo phù đồ. Về sau, vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 454-465) thời Tiền Tống thỉnh mời Thiền sư Giác Hiền đến ở chùa Đạo tràng phiên dịch Kinh Hoa Nghiêm. Đến năm Khai nguyên thứ 14 (726) thời Tiền Đường, khố-bộ-lang-trung-thư-xá-nhân Giang Châu thứ sử Lý Nột làm bài ký về Thiền sư Giác Hiền, Lý Nột cũng tự xưng là Thiền sư Ngột Ngột, Kim-tửquang-lục-đại-phu. Đồng-châu-thứ-sử-thượng-trụ, Quốc-phạm-dương-huyện-khai-quốc-nam trương đình Như biên ghi. Đến ngày 15 tháng 7 năm Kỷ tỵ (729) tức năm Khai nguyên thứ 17 thời Tiền Đường. Bên cạnh đó, Khắc Nhan lỗ Công ghi đề tên gồm 600 chữ. Phía bắc của thượng phương có sói hổ báo. Xưa kia, Viễn Công cùng các hiền giả trong đồng Xã mỗi lúc đến đảnh núi đó thường gặp hoạn cảnh nước quá xa, ngày khác đến, có hổ liền nhảy cẳng trên đá tuôn trào thành dòng suối, tiếp đến là các Ngũ Sam (05 cây Sam). 5 cây Sam cao lớn tươi tốt cùng hợp ôm chụm, trông nhìn các rất cao nguy. Trong thời Nam Đường (?) Tăng Ứng ở Tây Sơn từng đến dựng am ở giữa khoảng 5 cây Sam. Đến trong niên hiệu Bảo Đại (1121-1124) thời nhà Liêu, Vì Nguyên Tông... gặp làm ngũ san tập, lưu hành nơi đời, là sách Tang môn đầy đủ để sử dụng vậy. Nay, Tử... Vẫn hiện còn phảng phất. Cam lồ giới đàn tại góc Đông nam của chùa. Trong khoảng niên hiệu Thái thanh (547-550) thời Nam Lương, có Pháp sư Tập giảng kinh Kim quang minh tại giữa rừng mà cam lồ thấm đượm cây suốt 3 ngày, nhân đó đến giữa rừng thiết lập Giới Đàn. Ở đời tương truyền tại Giang nam có 3 giới đàn mà đó là 1 vậy. Từng vì Tăng phường mà trồng trọt luống rau, vị Tăng làm đó mộng thấy có thần đội mũ trụ vàng rộng đến chèn ép nơi cổ họng mà trách là làm dơ uế thốn đất giới đàn. Vị Tăng ấy kinh sợ đem gạch đá hiện còn ấy mà chuyển dời đến nơi khác. Mới đầu, Viễn Công thị tịch, tôn phong thụy hiệu là "Biện Giác". Đến năm Thăng Nguyên thứ 3 (?), cải đổi thụy hiệu là "Chánh Giác Đại sư", mãi đến năm Thái bình hưng quốc thứ 3 (978) thời Bắc

Tống, vua Thái Tông (Triệu Quỳnh) mới đổi phong thụy hiệu là "Viên Ngộ Đại Sư", và nơi phần mộ gọi là tháp "Ngưng tịch". Tháp nằm giữa khoảng Đông lâm và Tây lâm. Bên cạnh đó có 2 cây sam, 1 cây tại nơi cao, chu vi lớn 27 thước, một cây nơi hơi thấp, chu vi 20 thước. Viễn Công thị tịch năm Nghĩa Hy thứ 12 (416) thời Đông Tấn, an táng tại núi đó, bởi đương thời gieo trồng tại đó vậy.

Chùa Càn Minh tại phía tây Tháp Ngưng Tịch cách hơn trăm bộ. Xưa trước gọi tên là "Tây lâm Hưng... " nay đề biển ngạch là "Đạo Tràng của Thiền sư Tuệ Vĩnh ở đời Đông Tấn". Theo văn bia ở Đạo tràng Tây lâm, do Thái-thường-bác-sĩ-bộthải Âu dương Tuân ở thời nhà Tùy soạn thuật, không thấy họ tên người biên ghi, nhưng nét bút thanh nhã cứng mạnh, ở đời tương truyền là do Âu dương Tuân biên ghi vậy, dựng lập ngày 15 tháng 10 năm Đinh Sửu (617) tức năm Đại nghiệp thứ 12 thời nhà Tùy, đại lược là: "Trước có Tỳ-kheo Đàm Hiện vốn giòng họ Trúc, nguyên là 1 vị tướng tốt lành ở thời Ngụy Triệu, Vì Khuông phụ linh nham tươi tốt nên đến nương náu nơi sâu xa. Đến lúc thị Tịch tức hóa tại Tịch nham. Trước đó có sa di Tuệ Vĩnh vốn giòng họ Phần người xứ Hà Nội là đệ tử cao túc đứng đầu của Tỳ-kheo Đàm Hiện, thường có mùi hương khác lạ vào phòng thất, thú dữ thuần quen nơi thềm cấp, tiếp nối làm ngời sáng chư nghiệp, dựng lập Am an tịnh thiền pháp. Quang lục Hương Tầm dương... phạm đế ở thời nhà Tấn tạo dựng ngôi già lam đề hiệu là chùa Tây Lâm. Lúc đó là năm Thái hòa thứ 2 (367) thời Đông Tấn. Đến năm... Thiên (?) thứ 3 thời nhà Lương, có Luật sư Tuệ Ân, đến thời nhà Tùy, có Thiền sư Tuệ Viễn, đến năm Đại nghiệp thứ 7 (611) thời nhà Tùy, có Pháp sư Đạo Tuy đều gia tâm tu bổ đó". Đến năm Vĩnh thái thứ nhất (765) thời Tiền Đường, Nhan Lỗ Công cùng Luật sư Pháp Chân leo lên Trùng các trông xem, Trương Tăng Diêu đắp họa tôn tượng Phật Lô-xá-na. Vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502550) thời Nam Lương cùng bức chỉ lụa bát đấy cũng để trên đầu năm bia của Ân Dương Tuân ở Trùng các, dựng lập vào năm Đại nghiệp thứ 2 (606) thời nhà Tùy, đến nay cả 3 vật ấy đều mất hết. Thiền sư Tuệ Vĩnh thị tịch năm Nghĩa Hy thứ 10 (414) thời Đông Tấn, an táng tại cửa Hương Cốc thuộc phía nam khe nước. Đến năm Thái bình hưng quốc thứ 3 (978) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) cũng truy tôn thụy hiệu là "Giác tịch Đại Sư", và đề tên tháp là tháp "Thật Trí". Phía sau chùa nơi chỗ đất cao, có đình Hương Cốc, xưa kia, Vĩnh Công ở tại chùa Tây lâm riêng dựng lập am thất ở trên đảnh, mỗi lúc muốn Thiền tọa tư duy tức sang ở nơi đó. Trong thất thường có hơi khí phảng phất, nhân đó mà gọi tên là Hương Cốc. Người đời sau tạo dựng Đình ở trên đó đề hiệu là Đình Hương Cốc để lưu giữ sự tích xưa cũ đó. Phía dưới đó có viện Thủy Các. Đến trong niên hiệu Thái Bình hưng quốc (976-984) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) ban sắc tên là "Long Giáo", đó là nơi Đạo tràng của Luật sư Tề Lãng trong năm Trinh nguyên thứ 2 (786) thời Tiền Đường. Luật sư Tề Lãng thị tịch ngày 16 tháng 10 năm Trường Khánh thứ 2 (822) thời Tiền Đường, hiện có văn bia do Trịnh Tố Hương-người thời Tiền Đường soạn thuật, dựng lập ngày mồng 6 tháng 3 năm Nhâm tý (832) tức năm Thái Hòa thứ 6 thời Tiền Đường. Đến năm Bảo Đại thứ 8 (?) thời nhà Liêu, Nam Đường Bao Quốc Lý định Công Từ Cảnh Vận tu sửa lại, Tạng Kinh cũng do Lý định Công cúng thế, đều có lời bạt ở cuối. Trên vách phía tây kho Tạng Kinh, người xứ Nam Đường họa vẽ tôn tượng Tên giả Tu Bồ-đề tự xưng là Vương Hàng người lượm củi. Đó là vẻ đẹp xinh của thuỷ thạch ở chùa vậy, từ trước người có đức cũng là ở hạng kế tại Đông lâm vậy. Khoảng đầu niên hiệu Khánh lịch (1041) thời Bắc Tống, ngay Đường Sa-môn đại sư Tông Tuệ, Đạo Châu đạt, có ngôi Phù Đồ 7 ở tầng cấp tại viên Lang giáo. Y cứ theo thẳng hình của Hương Cốc thì từ trước chùa qua cầu Thông ẩn cách 1 dặm, đến chợ ở cửa Rừng, xưa kia, Sa-môn Trúc Đạo sinh thị tịch an táng tại đó. Bởi đời trước rừng sâu cốc tối. Đến trong niên hiệu Thừa bình (452) thời bắc ngụy, mở mang làm am thất, gặp phần mộ của Thương lữ tại Đông lâm còn ẩn tàng nơi Thủ trạch. Phía tây đó có thềm đá 300 tầng cấp, do từ thượng phương mà xuống, qua hang Tích thúy, lại phải qua 3 lần nghỉ mới đến suối Thông minh. Suối Thông minh là nơi Ân Trọng Kham ở Kinh Châu đến phỏng hỏi Viễn Công, cùng nhau đàm luận về chu dịch ở giữa khoảng các cây tùng. Ân trọng Kham biện luận sâu rộng, Viễn Công nhân đó chỉ dòng suối mà bảo rằng: "Sức biện luận của ông như suối này tuôn trào vậy". Người đời sau nhân đó mà gọi là suối Thông minh. Xưa kia, trong "Khuông lô phú" Lý Vệ Công nói là: "Viễn Công giảng kinh nghĩa giữa khoảng các cây tùng", và ghi chú là: "Chùa Đông lâm có vài gốc tùng, nay hiện còn. Nay tại trên suối, có phòng thất mà không có cây tùng nào. Đó là nơi chỗ đất xưa cũ vậy". Tiếp đến có Đài Phật ảnh, trong "Khuông sưu tập" của Viễn Công nói là: "Phật ảnh tại phía nam nước Na-già-a ở tây phương trong thạch thất tiêu nhân xưa trước. Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm tý (912) tức năm Nghĩa hy thứ 18 (phải là năm thứ 8 mới đúng!) thời Đông Tấn, nhân có Thiền sư người nước Kế Tân cùng Đạo sĩ Luật học ở nước Nam đồng tạo lập Đài ấy. Phỏng Tượng vốn tại núi nhân dấu vết kỳ đặc, sự thật tuy thành, nhưng do người thợ mà công làm chẳng thêm. Đến như tại năm Tinh Kỷ Xích Phấn nhã trinh, đến thành hư Thái Âm, ngày mồng 3 tháng 9 mới nghiệm rõ, riêng khắc ghi bài Minh ở đá.

Mạnh Giang Châu hoài Vương biệt giá Kiều Chi Trương thường thị dã Ân. Thời nhà Tấn có An ẩn mao hoàng môn tu chi Tông ẩn sĩ Bính mạnh tán lỵ, Mạnh Tư mã (khuyết thiếu tên 2 người), Ân Chủ Bộ úy Phạm hiếu liêm duyệt chi Vương Sâm Quân Hoàng hoàng dạ, v.v... đều có thơ phú minh văn tán thán, Viễn Công cũng có 5 bài Minh nói về Phật Ảnh ghi chép tại Cao Tăng truyện. Lưu Di Dân cũng có bài Tán bạch: "Đồ Cảnh Vân phô bày rực rỡ, Ảnh sánh ngang bằng đứng đầu tạo dựng, Quất Công Lý hợp mà sự không người". Vận Lý Ung có bài Ký rằng: "Ảnh... từ tây phương lại, Xálợi hóa phương đông, hoặc tháp vạt nơi đất, hoặc sáng soi giữa trời". Ảnh Đồ... tức là Ảnh vậy, Xálợi nghĩa là do Sa-môn Bạt-đà-la ẩn tàng. Đài ấy do Chư Tăng ở chùa nghĩ nhớ mà tạo dựng vậy. Và chùa ấy cũng là ngôi chùa xa xưa của Lô Sơn vậy. Từ trong khoảng niên hiệu Khai nguyên (713-742), Nguyên Hòa (806-821) thời Tiền Đường trở lại, mãi đến trong niên hiệu Bảo Đại (1121-1124) thời nhà Liêu, niên hiệu Hiển Đức (954-960) thời Hậu Chu (trong Ngũ Đại), Bia Chí của các vị Văn Sĩ, ca vịnh của các người tham quan ghi đề loan lỗ vẫn hiện còn. Nay đây ghi đề danh mục ở chương sau. Trong niên hiệu Đại Trung (847-860) thời Tiền Đường, Viễn Công với Thụy hiệu được truy phong là "Biện Giác Pháp sư", Bùi Hưu ghi viết. Trên bảng ở vách tường phía Đông điện Quán Âm có uyển lăng Hồng giai mô phỏng, Trương Tăng Diêu họa tôn tượng Cư Sỹ Duy ma trong năm Đại trung thứ 11 (857) thời Tiền Đường. Ngoài ra còn có các bức họa trên vách tường cũng ghi tả trong khoảng các niên hiệu Đại trung (847-860), Quảng Minh (880-881), Hàm thông (874-874), v.v... thời Tiền Đường. Tuy nét bút thế tục mà các thợ vẽ ở thời gần đây không thể sánh kịp. Văn bia ở Viện Pháp Hoa Tư Thánh, Tăng Tề đã biên ghi, lại có tôn tượng bằng đồng của Minh Hoàng, Trưởng giả Lý thông Huyền đồ tả chân hình, đều là vật cũ đời trước. Đến trong thời Bắc Tống, cải đổi biển ngạch hiệu chùa. Từ Huyền thường thị đích thân viết 6 chữ "Triệu" Thái Bình Hưng Quốc Chi tự", nay đều ẩn tàng vậy.

Xưa trước tương truyền, tại chùa có pháp y ca sa của Viễn Công, tức nơi Nhan Công Kính lễ, pháp y Tăng-già-lê đến nay đã cũ mục, và có giày da của 2 tôn giả Phật-đà-da-xá, Tạ Linh vận phiên dịch kinh bối tên là Diệp có 5-06 mãnh, ngoài ra đều mất hết vậy. Trong văn bia, Lý Ung ghi là: "La thập thiết đặt bình tắm ấy, khéo cùng 2 cửa, Diêu Hoằng phụng thờ tôn tượng khắc chạm, công hết 5 năm". Sự tích cũng đầy đủ tại Cao tăng truyện, năm tháng thời đại dần xa, nên không hiện còn. Trong thơ Quán Hưu, Thuyền Nguyệt nói là:

"Bức họa của Lô Lăng
già rêu mọc tràm hết
Văn bia của Ân trọng
Kham mưa giọt thủng xuyên".

Quán Hưu là 1 người cự phách trong khoảng niên hiệu Thiên hưu (904-909) thời Tiền Đường, sống cách nay hơn 150 năm, Chư Tăng ở trong chùa cũng không biết, cảnh vức bèn tại trong chốn huyên náo. Đến đầu niên hiệu Khương định (1040) thời Bắc Tống, Quận thú Điền Du hỗ trợ Chư tăng ở chùa cải táng tại bên tả tháp Ngưng tịch. Theo "Cửu Giang lục" nói là: "phía nam Cầu thông Ẩn có ngọn núi Kim Sư tử. Phía trên có 3 ngôi mộ Lan nhã, dưới ngọn núi có đường sách Cốc". Nay đường sách Cốc hiện còn, ngoài ra đều đã mất hết. Về phía tây Cầu Thông Ẩn cách 1 dặm có miếu Khuông Quân. Theo "Tầm Dương Ký" nói là: "Xưa kia vua Võ Đế thời nhà Hán (?) đi tuần phương nam, đến đền thờ gọi là núi, hỏi: "Lô Quân là Thần gì?" bác sĩ đáp rằng: "Xưa kia, Khuông tục đắc Đạo tại đây". Mới ban tặng hiệu là "Đại Minh Công". Đến năm Thiên bảo thứ nhất (742) thời Tiền Đường, vua Huyền Tông (Lý Long Cơ) mới ban chiếu tạo dựng đền thờ. Từ chùa Tây lâm về phía Đông cách 5 dặm đến am Hương thành, bên cạnh am Hương thành có am Quán Âm, tiếp đến có am Đông, cách am Đông xuống 1 dặm có am Quảng tế, lại cách nữa dặm có hang Thánh Tăng, cách hang Thánh Tăng 2 dặm là đến am Thạch Bồn, từ chùa Tây lâm về hướng Đông nam cách 5 dặm là đến Viện Hạ hóa thành, cách Viện Hạ hóa thành 3 dặm là đến am Hộ Quốc, cách am Hộ Quốc 1 dặm cũng đến am Thạch Bồn. Thạch Bồn (bồn đá) tại trên núi, không phải do đục đá làm thành, trong Bồn có dòng suối nước trong mát, nắng hạn không bị khô cạn. Từ thạch bồn lên trên nữa dặm đến am Bảo Dư. Bên cạnh đó cách nữa dặm có am Đại Sư và tiếp đến là viện Thượng Hóa Thành, cũng do Viễn Công tạo dựng trong khoảng niên hiệu Nghĩa Hy (405-419) thời Đông Tấn, là nơi Trần thượng thư thứ ở thời Bắc Tống lúc mặc áo vãi nâu du đến đó vậy, con của Thượng thư Trần Thứ là Cung Công lúc chấp chính có xin ban sắc ngự thư độ Tăng, nay hiện có nhà đền thờ của giòng họ Trần có 3 cột mốc dời chùa v.v... trong khoảng niên hiệu Bảo Đại (1121-1124) thời nhà Liêu, do người khéo giỏi việc tốt khắc ghi, thơ "Đến chùa Đại Lâm" của Bạch lạc Thiên, đều xếp đặt thứ tự trước sau, Đá hỏn nơi tường vách phòng ốc. Phàm những người đi đến nơi chùa Đông lâm và Tây lâm, trông nhìn lầu các của thượng hóa thành ẩn náu trong ráng mây, có như tranh vẽ. Từ chùa Đông lâm đi tắt đến, còn lâu hơn nữa ngày. Đã đến Hóa thành thì chư Tăng ở đó hẳn hỏi khách rằng: "ngày sau còn lên núi nữa chăng?". Bởi qua Thượng Hóa thành đường núi hiểm nguy, khoảng giữa thường thường không thể gá kiệu trên vai. Thẳng lên 10 dặm, giữa đường qua đá Kê quán, tiếp đến đá Tứ Vọng, tiếp đến đá Tả du, tiếp đến là ngọn núi Hương Lô. Cả sơn nam và sơn bắc đều có hình tròn cao vót đó thường tỏa hơi mây, đổi lấy hình voi mà gọi tên vậy. Lý Bạch có lời thơ rằng:

"Trời soi Hương lô sinh khói đá
Xa nhìn thác nước treo dòng dài".

Tức là nói về ở Sơn Nam vậy. Và, Mạnh Hạo nhiên có lời thơ rằng:

"Chiếu Quế vài ngàn dặm
Thích núi đều chưa gặp
Nương thuyền ghé Tầm Dương
Mới thấy núi Hương Lô".

Tức chỉ ngọn núi ở đây vậy.

Từ chùa Đông Lâm thẳng xuống dưới, qua ngọn núi Hương Lô đến viện Phong đảnh. Bên cạnh viện có tảng đá bằng phẳng rộng lớn, trông nhìn xuống dưới là khoảng không gian rỗng thoáng không vật gì ngăn cách. Trong "Sơn Ký", Trương Dã nói là: "Tại Phong Đảnh có tảng đá lớn, có thể ngồi được vài trăm người". Tức là nói về ở đó vậy. Dưới Phong đảnh có hang Tàng Kinh, tức kinh ở chùa Đông lâm được cất giấu trong khoảng niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường. Có nền móng am Quảng Đạo thời Nam Đường. Từ Phong đảnh về phía nam cách 10 dặm có am Hương Tích. Qua am Hương Tích trông nhìn xuống ngọn núi Ngũ Lão, trông thạch tinh rơi trong nước như cái chén úp. Thẳng xuống dưới núi cách 20 dặm thì phía nam của núi là khe Lâu Hiền, phía Đông là nguồn Vạn Thọ, đường đi rất hiểm trở, hiếm người đi đến đó. Tháng 9 năm Hy ninh thứ 4 (1071) thời Bắc Tống, Tôi cùng vài Đạo nhân ăn cơm tại Phong đảnh rồi theo đường am Hương tích mang sách chống trượng mà xuống đến khe Lâu hiền thì trong một ngày đêm vậy. Trước Viện Phong Đảnh có ao Tích Xà hành giả Ẩm ngưu. Mới đầu, Viễn Công đến ở Lô sơn, có lắm nhiều trùng rắn. Hành giả, không biết là người xứ nào, thường theo hầu Viễn Công, khéo giỏi xua đuổi rắn, vì thế mà rắn đi hết nên xưng gọi là "Tích Xà hành giả", thường canh cày tại Phong đảnh có ruộng của Tích xà hành giả. Thửa ruộng rồng phảng phất có thể biện rõ, nay không người canh cày. Có thuyết nói là: Bởi do thần núi, nên đến nay, núi tuy cao sâu. Tiều Tô là người khéo giỏi săn bắn không nghe lo sợ độc hại của trùng rắn. Người ở trong núi nói: Tại núi có 1 con hổ cũng chưa từng làm thương hại người, sau giẫm vào trong đất có lúc chỉ thấy dấu vết đi, mọi người cho đó là hổ đi rảo núi, hoặc là khách đạo vân du đến núi. Việc ấy sợ can thiệp đến sàm tiếu ghét ganh, cũng gọi đó là hổ đi tuần quanh núi vậy. Cách Phong đảnh 5 dặm là đến chùa Đại Lâm, nay gọi là chùa Bảo Lâm, do thứ sử Tiêu Cương tạo dựng trong năm Thiên giám thứ 2 (503) thời Nam Lương, sau đó bị hư phế, đến đều thời Tiền Đường mới tạo dựng lại, nên có "Phục Tự Ký" do Ngu thế nam soạn thuật. Xưa trước có am Bình Vân, nơi vườn cây trái của Pháp sư Tuệ Viễn hư phá tạo thành nền móng chùa. Tích Xà hành giả an táng phần mộ của ngư đều tại nơi đảnh cao tuyệt, mà trái lại rộng dài suốt thông chẳng biết đến điểm cùng cực. Xưa kia, Tạ Linh vận lên tuyệt đảnh, trông thấy các núi cao nhọn mà làm thơ rằng:

"Eo hẹp bỗng nhiên mờ
Đường phẳng đã bít liền
Gò núi có chất chồng
Qua lại không dấu vết
Đêm ngày mờ nhật nguyệt
Đông hạ sương tuyết ngưng".

Chánh là nói về đó vậy. Lại nữa, Bạch Lạc Thiên có bài thơ nói về chùa Đại Lâm là:

"Tháng tư nhân gian hoa cỏ hết
Chùa núi hoa đào mới nở đầy
Buồn hận xuân về không chỗ kiếm
Chẳng biết đưa vào lại trong đây".

Và, nơi lời tựa bài thơ ấy nói là: Tôi (Bạch Lạc thiên) cùng Nguyên Tập hư, Phạm Dương, Trương Duẫn Trung ở Hà Nam, Trương thâm chi ở Nam Dương, Tống úc, An định, Lương tất, Phạm Dương, Trương Trì ở Quảng Bình, Sa-môn Pháp Diễn, Trí mãn, Sĩ Kiên, lợi Biện, Đạo Thâm, Đạo Kiến, Thần Chiếu, Vân Cao, Tịch nhiên, Tức Từ v.v... ở chùa Đông lâm, cả thảy có 17 người, từ Am tranh, chùa Di ái vân du khắp chùa Đông lâm Tây lâm, đến Hóa thành, dừng nghỉ tại Phong đảnh, lên núi Hương Lô, dừng nghỉ đêm tại chùa Thiên Lâm, đến chùa Đại Lâm xa cùng cực, là nơi dấu chân người hiếm bước đến. Quanh chùa có nhiều dòng nước trong mát, đá xanh, tùng thấp, trúc gầy. Trong chùa chỉ có bảng phòng ốc sử dụng bằng gỗ. Chư Tăng đều là người xứ Hải Đông, núi cao đất sâu, thời tiết cùng tuyệt muộn màng. Khi ấy đang là tháng 4 mà như trời tháng giêng tháng 2, đào, lê mới đơm hoa, cỏ khe còn non ngắn. Người vật, khí hậu khác hẳn so với nơi bình địa tụ lạc. Mới đầu đến mà hoảng nhiên, như tạo lập riêng 1 thế giới mới. Thế rồi trông xem quanh vách tường phòng ốc, thấy văn cú họ tôn 3 người: Tiêu lang trung tồn, Ngụy lang trung hoằng và Lý bổ Khuyết bột. Tôi cùng đồng bọn Tập Hư, v.v... tán thán và nói rằng: "Đây thật là cảnh thứ nhất của Khuông Lô". Đi bằng đường ngựa trạm đến cửa núi, từng không chỉ lộ trình nữa ngày. Từ thời các nhà Tiêu, Ngụy, Lý (Nam Lương, Bắc Ngụy, Tiền Đường) mãi đến nay đã 200 năm, vắng bặc, không người kế tiếp. Ôi! Thật là danh lợi dẫn dụ con người vậy". Hàn thối Chi có đề về chùa Tây lâm, nên trong nhà xưa cũ của Tiêu lang Trung có lời thơ rằng:

"Lang có con gái hay truyền nghiệp
Bách Đạo không con già giữ nhà
Chợt đến Khuông Sơn nơi từng ở
Bao hàng lệ buồn rơi khói mây!"

Và ghi chú là: Công có người con gái xuất gia làm vi, tại Giang Châu, nay người hay giỏi việc ghi trên bảng bài thơ ấy. Trong "Hàn tập" ở chùa Tây lâm, không có tên Tiêu Lang trung, hoặc nghi đó là Tiêu Dĩnh Sĩ chẳng phải vậy. Tiêu Dĩnh Sĩ khốn cùng trở ngại chẳng đạt, chánh gọi đó là Tiêu lang Trung Tồn vậy. Phàm cảnh của Phong đảnh, chùa Đại Lâm, Bạch Công nói tả rất đầy đủ vậy. Trong tháng 9, Tôi thường đến chùa Đông lâm, Tây lâm, nắng mùa thu chưa thể liền lìa bỏ quạt. Ngày hôm sau đến chùa Đại lâm, dòng suối ngưng đóng thành băng vậy. Lại trong tháng 3 cũng từng đến núi, đào lê vút lạnh, mẫu đan hé nở, đồng như Dữ Công trông thấy vậy.

Cách chùa Bảo Lâm 1 dặm là đến ngọn núi Trịch bút, dưới ngọn núi ấy gần hang hóc lớn, các ngọn núi cao vót, không thể nói được về hình trạng. Xưa kia, Viễn Công chế tác Niết-bàn kinh sớ, ở tại đó mà sớ thành nên lấy đó mà gọi tên ngọn núi ấy. Giữa khoảng các ngọn núi ấy có 1 ngọn tên là Đài Văn-thù, tức là xưa kia cất giấu tôn tượng Văn-thù bèn mất tại núi ấy vậy. Cách ngọn núi Trịch bút 1 dặm là đến hang Phật thủ. Tại đó dùng đá làm thất có thể dung chứa được trăm người. Bên cạnh đó dòng suối, nhân dùng đá làm cừ. Phía trên hang, có đá lớn nép nghiêng như ngón tay, nên gọi là Phật thủ (tay Phật). Ở thời vua Nguyên Tông; Nam Đường, có Tăng Hành, nhân ở tại hang đó suốt 30 năm, chế tác "Hoa Nghiêm biệt luận" 10 quyển, vua Nguyên Tông (?) ban chiếu mời gọi mà chẳng đến. Cách hang Phật thủ 3 dặm là đến viện Thiên Trì, còn 1 tên gọi là ao La-hán, ao tại trên đảnh núi, tuy nắng hạn rất lắm mà chẳng khô cạn. Trương Cảnh có lời thơ rằng:

"Nếu dùng hình núi cốt người đây
Ao này nên hợp là Nê-hoàn".

Mọi người lấy đó làm câu đích xác. Từ đó về phía tây có hang La-hán-bả-châm, Tảng đá nơi Đệ tứ tổ tọa Thiền, đình Văn-thù. Ở đời tương truyền là nơi ở của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là tại núi Ngũ Đài ở Đại Châu. Mọi người đi đến đó thường luôn thấy mây Đâu-la-niêm, Viên quang vũ sắc, trong ánh sáng ấy có các tướng Bồ-tát và Sư tử. Tại núi ấy tương truyền có tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sưlợi xưa cũ. Gần đây, khoảng trong niên hiệu Hoàng hựu (1049-1054), Trị Bình (1064-1068) tới Bắc Tống trở lại. Mọi người ghi chép thấy ở đình ấy thật lắm nhiều vậy. Từ viện Thiên Trì về phía nam xuống núi cách 1 dặm, có tháp Thiền sư Long. Thiền sư tên là Trí Long, người xứ Kim Châu. Trong niên hiệu Bảo Đại thời Nam Đường (?) được truy phong thụy hiệu là "Chứng Chân Đại Sư", tháp hiệu là Viên Trí, còn 1 tên gọi là Đài Vọng Tiên, lại còn tên gọi là Đá định tâm. Phàm đến đó đều có thể trông nhìn xuống dưới khoảng không thoáng rỗng muôn dặm. Hang Tân la tại dưới đó cách khoảng 2 dặm, giữa khoảng nham thạch, có thể che chắn gió mưa, cũng có dòng suối sâu tối, có thể cung cấp để nấu dùng gội rửa. Xưa kia có vị Tăng người xứ Hải Đông ở đó, nên xưng gọi là hang Tân la. Từ đó về phía Đông cách 2 dặm, có đài Thập bát hiền giả, bằng phẳng thoáng rộng có thể ngồi được hơn 10 người. Thập bát Hiền giả tức chỉ từ Pháp sư Tuệ Viễn trở xuống có cả thảy 18 người. Từ Viện Thiên trì thẳng xuống núi cách 15 dặm, có cốc đồng tên là Cẩm Tú. Theo "Cựu lục" nói là: Trong Cốc, hoa kỳ cỏ lạ, không thể nói thuật hết, vào khoảng tháng 3 tháng 4, sắc màu Hồng tía trải khắp đất như đắp trùm gấm lụa, nên gọi tên như thế. Nay, giữa khoảng núi, phòng sâu hiên nhỏ luôn luôn gieo trồng thùy hương. Ở Quán Thái bình, chùa Đông lâm rất lắm nhiều, hoa ấy sắc màu tía mà hương thơm mạnh dữ, các thứ hương cỏ thơm chẳng thể sánh bằng. Mới đầu mọc hoang dã nơi rừng sâu cỏ dại. Người ở núi nghe mùi thơm ấy mà được trồng tỉa gấp bội, chỉ trong vài năm thì rất tươi tốt, nay chuyển dời đổi bán khắp trong thiên hạ, đều xuất phát từ núi ấy vậy. Nguồn nước Cốc đó phát xuất từ trong Cốc. Bên cạnh nguồn nước Cẩm tú có am Song Long, tiếp đến là am Quảng Phước, tiếp đến là am Tôn thẳng, tiếp đến là am Bảo Ninh, trước phía tây am Bảo Minh có cửa đá. Nguồn nước phát xuất giữa khoảng cửa đá, về hướng đông cùng hợp với dòng nước của Cốc Cẩm Tú, dòng đổ về hướng tây cách 50 dặm tức vào sông Bồn. Từ am Song Long đến am Bảo Minh có 4 am, cùng trông thấy nhau không quá trăm bộ, đồng tại giữa khoảng 2 khe nước. Tạ Linh Vận trông nhìn cửa đá có lời thơ rằng:

"Núi cao cách giữa trời
Sườn dài cắt ngàn dặm
Trong khe xanh, gà gáy
Giữa mây trắng vượn kêu".

Theo "Viễn Công Ký" nói là: "Phía tây có cửa đá, ở trước tợ như 2 cánh cửa, vách dựng đứng cao hơn ngàn nhận, và là dòng thác đổ vậy". Lại theo "Sơn Ký" nói là: "Mới đầu vào rừng vượt qua 2 cánh cửa. Có nghĩa là dẫm bước lên nền móng ấy, vượt lên hơn 10 dặm, mới ra ngoài rừng xoay bước bèn được tầng lớp núi cao. Theo hướng đông, trông nhìn đến Hương lô, đẹp xinh hơn hẳn các dòng. Theo hướng bắc nhìn đến Cửu Giang, mất theo dòng thần trông xem. Qua đó chuyển thấy đường nhỏ hẹp mà hợp sức cùng tiến tới, lại trải qua vài trăm bộ mới đến Vĩnh lãnh, Tích thạch, Phiên phụ, Sương ngạc, Tương Thừa, sau đó mới men vịnh cành mềm yếu vượt đường cao vót. Chân biếng lười thân hình mỏi mệt, chỉ đến được Cô Tùng. Phía dưới đó có tảng đá có thể ngồi được 10 người, đến rừng tùng còn khoảng 14-15 dặm. Đã đến, mới tựa bên mé rừng dừng nghỉ trên đảnh rùa, trông nhìn trong 4 đảnh núi như nhìn ở lòng bàn tay vậy. Chưa đến rừng Tùng lại có đá treo rơi rớt xuống dưới từ từ khiến người lóa mắt. Nguồn thác đổ là mở đầu của 3 nguồn. Phía trên đó có 2 tảng đá gần giữa hư không, như sắp rơi xuống mà chưa rơi. Bên cạnh có thất bàn quanh co, vách đá dựng đứng ngàn nhận, rừng xanh trải khắp sườn, muôn thứ tiếng cùng vọng hương để sót âm thanh lại giữa hang núi, như dứt tuyệt mà có nghe. Đứng chốc lát tợ như cảnh xa mờ, khí vật sâu vời lượng ấy nên vậy. Trên đây đều nói về cảnh trí ư thắng của Cửa Đá.

Nay lại, từ am Bảo Ninh men theo khe suối về hướng đông mà đi qua ngọn núi nhỏ. Người đời gọi đó là đảnh núi Tân Phụ, cách 3 dặm mà gần. Ở hai phía nam bắc có ngọn núi Thạch trụ và ngọn núi Thiết Hang, dòng thác treo cao đổ xuống phía trước là Long Đâm. Trời sắp mưa, mây vật chưa có gì chẳng ra. Trông nhìn thẳng phía trên chánh là Đài thập bát Hiền giả. Dưới ngọn núi Thạch trụ có nền móng am, trong những năm gần đây vì khe nước phá hoại nên không có người ở. Các hiền giả xưa kia vân du đến đó, lấy đường tại đó để lên tuyệt đảnh. Người đời nay qua ngọn núi Thạch trụ không ai đến đó. Từ am Bảo Ninh cách 5 dặm đến am Phước Hải, cách am Phước Hải 2 dặm đến am Tường Vân. Am Tường Vân là thư đường của Điền Hoảng thời nhà Tấn, nay theo địa danh gọi đó là nguồn thư đường, phía trước có sườn núi Hương tượng, về phía bắc gọi là đường Thông A Na, bên trong có nền móng chùa A Na. Xưa trước tương truyền ở giữa khoảng núi có lúc có người nghe tiếng Phạm Chuông. Chùa ẩn không thấy. Bên cạnh cách nữa dặm có hang La-hán. Theo "Sơn Ký" của Viễn Công nói là" "Có... phu thấy người đắp mặc y phục Sa-môn, vượt giữa hư không mà lên thẳng trên. Xoay thân mình ngồi trên yên, giây lâu, cùng với hơi mây đồng ẩn mất. Đó hẳn là người Đặc Đạo vậy, cũng gọi đó thuộc loại chùa La-hán vậy. Núi sâu đất linh, chốn vườn nhà của các bậc Thánh hiền, chẳng lấy làm quá vậy". Từ am Tường Vân cách 8 dặm là đến am Nguyệt luân, bên cạnh am Nguyệt luân có Linh..., cách Linh tuyền 7 dặm đến am Báo quốc, cách am Báo quốc 1 dặm ra đường Quan... ngựa trạm cam tuyền, lại cách 5 dặm là đến thiền viện Sùng Thắng, xưa trước gọi là Đạo tràng Quán âm Viên thông. Mới đầu thiết đặt tạo dựng trong năm Càn Đức thứ 6 thời Nam Đường (?), ban sắc mời Sa-môn Duyên Đức người xứ Đông Ngô đến ở đó và sắc ban hiệu. Thiền sư Đạo Tế thị tịch, an táng tại ngọn núi phía Đông của Đạo tràng Viên Thông. Nay gọi đó là Viện Quảng Phước, cách Đạo tràng Viên Thông 2 dặm, vì Tráng quán của Đạo tràng Viên Thông giáp trùm ở Sơn bắc chẳng giảm, và Quy Tông của Sơn nam, đất ruộng mầu mỡ, thường năm vào gấp bội, dòng nước Thạch cứ dài hơn 250 trượng. Ở đầu nguồn nước có đình Thanh âm, nhưng đó là chùa vậy, riêng không 1 người nào từ xưa đến nay ghi đề thơ vịnh văn bia khắc ghi. Trong niên hiệu Càn Đức (?) ban thư chiếu Duyên đức có 4 lá, binh thư thời Tống Tề đơn giản có 8 bức. Tấn-vươngcảnh-toại Thư, Bách-thắng-quân-tiết-độ-sứ Vương sùng văn thư, và 3 Pháp y áo nạp của Thiền sư Đạo Tế đều cất tàng tại viện Quảng Phước. Từ viện

Quảng Phước trở lên đều thuộc về Giang Châu v.v...

QUYỂN 2

CHƯƠNG III: NÓI VỀ SƠN NAM

Từ Đạo tràng Viên thông cách 20 dặm đến Cốc Khương Vương, Quán Cảnh đức, xưa trước gọi là Quán Khương Vương. Vào trong Cốc đi ngược dòng suối 5 dặm đến viện Long tuyền. Lại cách 20 dặm có Thủy liêm (rèm nước), suối bay tràn khắp hang mà phía dưới có khoảng 20-30 dòng, về chiều cao không thể tính biết, về mặt rộng có hơn 70 thước. Theo Lục Hồng tiệm Trà Kinh từng xếp rèm nước đó là đứng đầu trong thiên hạ. Xưa trước tương truyền là: Khương Vương ở nước Sở bị Vương Tiển tướng nhà Tần đuổi đến cùng quẩn, bèn nép trốn trong Cốc đó, nhân Khương Vương ẩn trốn tại đó nên gọi là Cốc Khương Vương, xem về văn bia khắc chữ đều nói như thế, nhưng xét cứu thì chẳng phải vậy. Khương Vương người nước Sở rõ ràng sống trong năm 28 của Lỗ Tương Công thời Xuân thu, và là Quân vương của Tống Lỗ Trịnh Hứa, đưa an táng tại ngoài cửa phía tây. Các Đại phu nước chư hầu đều đến nơi phần mộ đó.

Bấy giờ nước sở mới mạnh, cách Vương Tiểu Lỗ phụ sô diệt nước Sở đến 326 năm. Khoảng thời gian đó không lẽ lại có Khương Vương khác? bị mất nước mà ẩn trốn nơi Cốc núi, hoặc là con cháu của Khương Vương cũng chưa thật rõ biết. Xưa trước, nền móng Quán nằm tại trong Cốc. Đến năm Đại Đồng thứ 2 (536) thời Nam Lương, do Đạo Sĩ Trương pháp thí tạo dựng, đến năm Khai Hoàng thứ 10 (590) thời nhà Tùy có Đạo sĩ Đinh Huyền Chân là người có khả năng nhiếp phục quỷ thần, bèn dời miếu ngựa đồng đến trong Cốc, và tạo dựng Quán ở chỗ ngày nay.

Từ Quán Khương Vương về phía tây cách nữa dặm có am Đại Minh. Từ am Đại Minh đến am Tỳ Lô, am Trường Hưng đều cách xa khoảng 2 dặm. Từ Quán Khương Vương về phía nam cách 5 dặm lại có am Càn thọ, cách am Càn thọ 2 dặm đến viện Nhân Vương. Từ viện Nhân Vương đến viện Tịnh tuệ cách 7 dặm, từ Quán Khương Vương theo đường quan đi 15 dặm cũng đến thiền viện Tịnh Tuệ. Viện Tịnh Tuệ xưa trước gọi là viện Hoàng long linh thang, có suối ấm nóng quanh năm phun trào, làm mùi vị của Đan hoàng phút chốc chín mùi sinh vật. Những người mắc bệnh ghẻ lỡ tắm bằng nước đó thì được lành khỏi. Núi Hoàng Long tại phía nam Linh Thang, cũng là 1 ngọn núi riêng biệt của Lô Sơn. Từ đó về phía nam cách 10 dặm cũng có Quán Thanh Hà, từ Linh Thang về phía Đông cách 2 dặm. Bên cạnh đường có "Đài Tạ Khương lạc Kinh". Lại cách 3 dặm qua nguồn Lật lý, có đá Đào lệnh Túy. Đào lệnh tên là Tiềm, tự là Nguyên Lượng, hoặc có thuyết nói tự là Uyên Minh. Năm Nghĩa Hy thứ 3 (407) thời Đông Tấn, làm Bành trạch lệnh mà nói là: "Tôi sao có thể làm được 5 đấu gạo, chiếc eo cho con nhỏ ở làng quê!" mới bỏ đi, làm bài phú Quy khứ lai. Trong Tấn thư nam sử có bản truyện, ở nơi giữa khoảng 2 núi tại Lật Lý có tảng đá lớn, ngửa mặt trông nhìn như dòng thác treo, bằng phẳng rộng lớn có thể ngồi được hơn 10 người, Nguyên Lượng tự dùng rượu phóng túng, nên gọi là Túy Thạch (Đá say). Từ nguồn Lật Lý cách 3 dặm đến Thiền viện Thừa Thiên quy Tông. Năm Hàm Khương thứ 6

(340) thời Đông Tấn, Ninh Viễn Tướng quân Giang Châu thứ sử Vương Nghĩa chi đặt lấy nơi Phạm tăng tôn giả Na-liên-da-xá 1 tên là Đạt-mađa-la, nên có ao nước Thạch Quân. Đến đầu niên hiệu Bảo lịch thời Tiền Đường (825), Sa-môn Trí Thường ở tại đó, mới làm 1 chùa rất hưng thạnh thiền pháp. Trong khoảng niên hiệu Đại Lịch (766780) thời Tiền Đường, Sa-môn Trí Thường đắc pháp ở Thiền sư Đạo nhất tại Giang Tây. Thiền sư Đạo Nhất vốn giòng họ Mã, nên trong Tăng sử xưng gọi là Mã Tổ, mắt Sa-môn Trí Thường có 2 tròng ngươi, dùng thuốc độc tự áp thoa vào đó khiến vành mắt đều đỏ, nên người đời xưng gọi là "Xích nhãn quy tông" Giang Châu thứ sử Lý Bột cùng Sa-môn Trí Thường hỏi đáp nói năng, hiện ghi chép đầy đủ trong "Cảnh đức truyền đăng lục". Tại đó đất đai cây cối rất tươi tốt, thật đáng suốt trùm ở Sơn nam. Ngọn núi Kim luân, ngọn núi Thượng Tiêu Chánh ở phía sau đó, hai bên quanh co lẫn lộn, thế mặt phẳng bằng xa. Xưa kia có người bói đoán nên móng đó là "Núi ấy có thế chim Loan bay liệng triển chuyển giúp. Phía Đông Thiền viện có dòng nước xưa trước gọi là khe suối Loan. Trên khe có cầu, phía tây khe có Thạch cừ và dòng suối dài hơn 200 trượng, nhân nước làm thành bậc đá, khơi vườn trồng rau, quy mô khí tượng đều rất khả quan. Hai bên ngọn núi Kim luân có kiếng đá, ẩn hiện không thời gian nhất định, sáng nhặn như gương soi. Mùa hạ năm Hy Ninh thứ 5 (1072) thời Bắc Tống, có vị khách vân du đến Quy Tông, trở về nói với tôi rằng: "Ngày nay tại trên cửa chùa, thấy kiếng đá ở ngọn núi Kim Luân, chư tăng ở chùa bảo là có người từng ở đã vài năm mà chưa hề thấy". Ngọn núi Thượng Tiêu, Kiệt nhiên rất cao, tức nơi Tần thỉ Hoàng (Doanh Chính 246-209 trước tây lịch) lên đến đó và nói là "cùng tương tiếp với Tiêu Hán" vậy, nhân thế mà gọi tên như vậy. Ở thời nhà Trần Thái bộc Khanh Lưu San có lời thơ rằng:

"Thì Hoàng ngắm vũ trụ,
Hán đế lên Tinh Chiêu".

Tức là nói về đó vậy. Ở đời tương truyền: ngay nửa ngọn núi như có thạch thất. Bên trong có văn tự, nói là do Hạ Võ Khắc viết, chữ lớn như bàn tay, đường văn đều ẩn nỗi. Phía ngoài có đá bằng chắn che đó. Từ trên dùng dây treo thòng xuống mới đến, mùa xuân mùa hạ suối nước không thể hiện rõ, mùa thu mùa đông mới rạch ròi. Xa kia có người khéo giỏi việc, sang đó mô phỏng chỉ được hơn trăm lời, người đời nay không ai đến đó. Ao biển để cũng tại sau ngọn núi Thượng Tiêu. Theo "Tầm Dương Ký" nói là: "Ngô mãnh cưỡi thuyền, rồng mang mà đi. Ngô mãnh răn mọi người trong thuyền nhắm mắt. Mọi người trong thuyền nghe tiếng kéo xúc chạm cây rừng, kinh sợ mà trộm lén hé mắt nhìn. Rồng bèn ghé đổ thuyền tại Sơn dự". Xưa trước tương truyền các bậc lão thành thật thấy ở đảnh núi có thuyền bị hư bại. Từ lâu Hiền về phía Đông lui sau có nguồn Lỗ Đoạn, cũng nhân Ngô Mãnh mà có tên gọi, năm tháng trải qua đã lâu xa, chẳng thể xét nghiệm vậy. Theo "Tầm Đương Ký" nói rằng: "Núi có 3 cầu đá dài vài trượng, rộng chẳng đủ 1 thước, phía dưới mịt mờ không đáy. Ngô Mãnh cùng đệ tử men cầu đá mà qua. Thấy cử vàng phòng ngọc, đất đều đường văn 5 sắc, đá như trứng chim Trĩ, và có cây kỳ đều cao hơn cả trượng, gió nhẹ có lúc lướt qua, nghe tiếng chuông khánh, thấy 1 người già ngồi dưới cây Quế, với chén ngọc đựng đầy nước tương cam lồ trao cho Ngô Mãnh. Lại gặp vài người tự nhiên như quen biết xưa cũ, bèn thiết bày ngọc cao. Đệ tử của Ngô Mãnh lén trộm lấy 1 vật báu, muốn đem trở về nói cho người đời, phút chốc mây mốc mờ tối, cầu hóa lại như ngón tay, Ngô Mãnh bèn khiến đưa trở về, mới đưa tay dẫn dắt các học trò nhắm mắt mà trở lui lại". Trong thơ Lưu San có nói:

"Cầu Cao sáng hắc lớn
Thác nước kéo giữa trời".

Và trong thơ của Lý Bạch cũng nói là:

"Cửa Vàng trước mở hai núi dài
Sông Bạc ngược chống ba cầu đá".

Việc của Thần Tiên hẳn chẳng biết ở đâu vậy! Từ viện Quy Tông về hướng tây đi hơn trăm bộ, có Quán Tường Phù, xưa trước gọi là Linh Khê (suối Linh). Theo "Cửu giang lục" nói là: "Năm Vĩnh minh thứ 1 (483) thời Nam Tề, đạo sĩ Tống Văn Siêu men tựa chân núi phía nam Lô Sơn mà tạo dựng đó". Theo Văn Ký tại Quán nói là: theo "Ngọc Tứ Sơn Ký" nói là ở thời nhà Tần loạn lạc, có 13 vị Danh Quan bỏ quan chức, theo học Đạo, giẫm trải đến Lô Sơn. Trong đó có 3 võ sĩ là Đường Kính Oai, Lý đức Thù, Tống Vân Đao muốn toại nương náu. Ngoài ra còn 10 người kia nói: "Không như vật, chí ý mới đều muốn trở về Quần Ngọc động phủ, đâu thể mới nữa đường mà phế bỏ". Nói xong mà còn chưa đi, qua 1 đêm sấm sét mịt mù, đến nơi am xá chung quanh hai bên hóa thành 2 khe suối, trong khe trên tảng đá có thẻ ngọc triện trời, ghi là:

"Thần Hóa linh Khê
Thẻ vàng nêu đề
Chân nhân nhận chỉ
Động ngọc ngầm nương".

10 người ấy về sau như thế nào, không rõ biết, còn 3 võ sĩ bèn nương náu bên cạnh khe suối. Đến thời vua Võ Đế nhà Hán (?) mới sắc ban tên là Quán Kinh Khê. Đến thời Nam Đường (?), Tề Vương, Cảnh Đạt sửa sang tu bổ lại, công việc chưa hoàn thành mà bèn qua đời! Cung Phi hiền Thuận thật thành chí khí ấy, tạo lập văn bia. Văn-lâm-lang-thí-bí-thư-tỉnh-chánh tự là Chưởng Công Trạch dâng biểu văn tấu trình. Tống Hoán vâng phụng mạng lệnh soạn thuật, dựng lập ngày mồng 6 tháng 8 năm Nhâm thân (972), tức năm Khai Bảo thứ 5 thời Bắc Tống. Nên giữa khoảng vách tường ở phòng thất có đồ tả chân hình và đề ghi là: "Thúthái-sư-thượng-thư-lệnh-tề-vương được phong thực ấp vạn Hộ. Thật phong 3.000 hộ, Lý Đạt, Thụy hiệu là Chiêu Hiếu, sau phong Thái Đệ. Ghi tả ngày 24 tháng 2 năm Quý dậu (973).

Từ Linh Khê cách 1 dặm là đến Viện Hương Tuyền, năm Đại Hòa thứ 6 (?) thời nhà Ngô, Samôn Huệ Trân thiết đặt Thứ Thượng Tháp và thứ hạ Tháp, đều cách nhau trăm bộ cùng trông thấy đến viện Hương Tuyền. Vì dòng nước qua Đỗng phụng đến rừng Hạnh nên gọi tên 2 tháp, tức phương phần của Quy tông vậy. Từ hạ Tháp cách 5 dặm đến viện Long giáo tại trên đảnh núi Bát nhã, xưa trước gọi là Đài Bát Nhã. Bên cạnh viện Long Giáo có am Thạch môn, tiếp đến có am Bố Thủy, tiếp nữa có am Giác Tánh, còn 1 tên gọi là Đài Thôi Sư, đều chẳng xa quá trăm bộ. Từ am Giác Tánh đi lên hơn trăm Bộ, có am Trùng Nham, vượt qua am Trùng Nham cách 3 dặm, đến nhà tranh Tạ Cảnh Tiên. Cảnh tiên dùng y trượng bơi lội cửa Công Khanh. Thừa tướng Hàn ngụy công và các hàng danh sĩ đài các thường luôn tặng thơ. Tạ Cảnh Tiên tự nói "nơi ở của mình chính là chỗ đất xưa cũ của rừng hạnh". Rừng hạnh tại Sơn Bắc, mọi sự kiện đầy đủ ở Quán Thái nhất. Từ nhà tranh của giòng họ Tạ cách 3 dặm đến viện Linh Thê. Có 1 ngọn núi tại trên đó cao hơn trăm bộ trôi nổi đặc biệt riêng đứng, cũng còn gọi là ngọn núi Tử Tiêu. Trên đảnh ngọn núi có ngôi Phù Đồ (tháp) bằng sắt cao 9 tầng. Theo "... Ký" nói là: "Trong lời tựa, Lưu Viện nói là: trong niên hiệu Hiển Đức (954960) thời Hậu Chu (Trong Ngũ Đại), có ánh sáng tốt lành hiển hiện nơi chỗ đất đó, mỗi người đều lấy làm quái lạ, đào bới sâu xuống 12 thước, có được 1 Văn Ký xưa cũ nói là: "Năm Xích ô thứ 2 (239) thời Đông Ngô, có vị Sa-môn người xứ Thiên trúc, đem Xá-lợi của Đức Phật Thích Ca đến an táng tại đó". Nhưng, căn cứ theo Cao Tăng truyện thì nói là năm Đinh mão (247) tức năm Xích Ô thứ 10 thời Đông Ngô, Sa-môn Khương Tăng Hội đến Kiến nghiệp. Nước Đông Ngô lúc ấy lần đầu tiên thấy vị Sa-môn dung mạo y phục khác thường, Quan Hữu ty tấu trình nên kiểm xét. Khi ấy, Tôn Duyền (Đại Đế 222-252) liền mời Sa-môn Khương Tăng hội đến cật nạn hỏi rằng: "Phật có điều gì linh?" Sa-môn Khương Tăng hội đáp: "Đức Như lai diệt độ đã hơn ngàn năm, di cốt Xá-lợi thần biến vô phương". Tôn Quyền cho đó là dối trá, bảo rằng: "Nếu có được xá-lợi thì sẽ vì tạo dựng tháp để phụng thờ". Sa-môn Khương Tăng hội, mới thanh khiết phòng thất, thiết trí 1 bình đồng, gia tâm lễ thỉnh, đến ngày thứ 20, bỗng nhiên nghe trong bình đồng có tiếng soan soản, quả nhiên có được Xá-lợi. Cả triều đình đều nhóm tụ trông xem, Xá-lợi tỏa ánh sáng 5 sắc rạng ngời. Tôn Quyền lại dùng lửa dữ thiêu thứ mà không cháy, lại đập Xálợi vào sắt nhưng không vỡ nát. Tôn Quyền rất thán phục, liền vẽ tạo dựng Bảo tháp để phụng thờ, và mới đầu có Phật Vũ (chùa) hiệu là Kiến Sơ. Ở đời giả sử như muốn trải lớn sự việc ấy, mà lại mất đi sự chất thật, lắm nhiều loại như vậy! Đến trong niên hiệu Cảnh đức (1004-1008) thời Bắc Tống, mới đổi làm Phù Đế bằng sắt, đến năm Hoàng Hựu thứ 2 (1050) thờ Bắc Tống có sửa sang tu bổ lại. Xưa kia, trong khoảng niên hiệu Hàm Khương (335-343) thời Đông Tấn, Phạm Tăng Da Xá thị tịch cũng an táng tại viện Linh Thê.

Từ Viện Linh Thê đi xuống cách 8 dặm có miếu 3 Tướng Quân, cách viện Quy Tông 1 dặm, tức nơi tôn thờ 3 võ sĩ Đường Kiến oai v.v... ở thời nhà Tần, dân chúng trong làng Rán thường năm đều cúng tế. Từ viện Linh Thê đến am Trùng Vân cách khoảng 4 dặm, tiếp đến có am Vạn Tuế, tiếp đến có am Thiên Cung, đều cùng cách nhau khoảng trăm bộ. Từ am Thiên Cung đến am Dư Phong cách 1 dặm. Từ am Dư Phong leo lên núi khoảng 20 dặm đến ngọn núi Bạch Vân. Phía trên có động hang, có tảng đá lớn như sàng giường, trong động có dòng suối, đất ở đó có thể cày xới, hiện nay không có người ở. Trong núi, những người vân du tham quan trông thấy dòng thác cao thẳng xuống vài trăm thước, đều biết nó được phát xuất từ động Bạch Vân vậy. Từ am Dư Phong cách 2 dặm đến Quán Tiên Thiên, xưa trước gọi là Sùng Thiện, do Bà dương thái thú Dương hữu giang thiết đặt trong năm Đại Đồng thứ 2 (536) thời Nam Lương. Đến đầu niên hiệu Bảo Đại (?), nữ chân Dương Bảo Tông sửa sang tu bổ lại, ban sắc tên là "Chân Phong". Đến ngày 28 tháng 8 năm Đinh mùi (?) tức năm Bảo Đại thứ 5 (?), Triều-nghị-langthượng-thư-nga Bộ-viên-ngoại Lang-võ-kỵ-úy-tứphi-ngư đại Hàn-hy-tải vâng phụng sắc chiếu, soạn thuật văn ký, đại lược là: "Trong Lục Cung đua nhau cúng thí các thứ ngoạn phục trân châu gấm lụa, tính quá hơn ngàn vạn". Phía sau lưng bia khắc họ tên các tần ngự ở đương thời có hơn 10 người. Từ đó về phía tây bắc cách nữa dặm, có Liễu đại sư, tên là Hoằng, người xứ Kiến Dương, làm quan tại Giang đông vui thích chân cảnh đó, bèn đến dựng thất để ở. Từ Quán Tiên Thiên đến Quán Thái hư giản tịch cách 2 dặm, là nơi ẩn cư của Lục Tiên sinh thời Tiền Tống. Tiên Sinh tên là Tĩnh Tu, người xứ Đông thiên; Ngô hưng. Khoảng cuối niên hiệu Nguyên Gia (454) thời Tiền Tống, nhân đến mua bán thuốc tại Kinh Ấp. Vua Văn Đế (Lưu Nghĩa Linh (424-454) vốn Khâm trọng đạo phong của Lục Tĩnh Tu, nên làm Kiệu Đình Hà Bảo, sai Tả-bộc-xạ Từ Trạm tuyên Thánh chỉ lưu giữ lại. Tiên sinh cố từ khước, bèn đi đến Giang hán. Về sau vua có hoạn nạn Đại hòa, mọi người đều lấy làm lạ đó. Đến năm Đại Minh thứ 5 (461) thời Tiền Tống, mới thiết đặt Quán tại Lô Sơn. Đến năm Thái thỉ thứ 3 (467) thời Tiền Tống, vua Minh Đế (Lưu Úc 465-473) lại ban chiếu mạng, bèn sai thứ sử Vương Cảnh Văn Đôn khuyên mời. Tiên sinh luôn từ chối mà không được, mới đến cung khuyết thiết đặt quán Sùng Hư, nhà Thông Tiên, để tiếp đãi đó. Bèn nhóm hội các Tăng sĩ nho sĩ cùng giảng đạo tại chùa Trang Nghiêm. Lâu sau, đến đầu niên hiệu Vĩnh Huy (?) Tiên Sinh Khải cầu xin trở về núi, nhưng không được hứa thuận. Đến ngày mồng 2 tháng 3 năm thư 5 (?), Tiên Sinh bèn hóa, da dẻ nhan sắc vẫn như lúc sinh tiền, có hương thơm trong lành thoảng tỏa không ngưng dứt. Sau đó 3 ngày, các học trò ở Lô Sơn đều thấy Tiên sinh từ trên ráng cầu vồng lẫn lộn lại dừng, chỉ chốc lát không biết ẩn mắt đâu. Tiên sinh mỗi khi đi thường mang đãy áo vải, đến nơi thì treo móc đãy vải ở cây cạnh hang, nên nay về phía tây khe suối có 1 ngọn núi có tên là hang Bố ngang (Đãy Vải). Vua (?) ban tặng Thụy hiệu là "Giản tịch Tiên sinh". Mới đầu lấy chỗ ở cũ gọi là Quán Giản Tịch. Đến ngày mồng 7 tháng 2 năm Thái cực thứ nhất (712) thời Tiền Đường, vua Duệ Tông (Lý Đán) mới ban sắc cúng tế tại Quán, có rồng đen, đàn chim hạc khác lạ, vua lại ban chiếu ngợi khen khác thường, bèn giao cho sứ quán, cố từ chối nhiều lần chẳng ghi biên. Quán ở tại dưới ngọn núi Bạch Vân, giữa khoảng đó riêng biệt chỉ 1 ngọn núi nổi lên đẹp xinh khác lạ, gọi tên là ngọn núi Tử Tiêu. Nên trong thơ Trương Hựu nói là:

"Dưới núi Tử Tiêu nhà cỏ Tiên
Ngàn năm không sót khánh đá treo".

Từ đó về phía bắc lại có núi Bình Phong, sườn non vách tía cuộn quanh lẫn lộn, thật xứng Quán thứ nhất ở tại Sơn Nam! Phía trước đó cách 1 dặm có núi kê lung cao hơn trăm trượng, bên cạnh trên ngọn núi có tảng đá, từ xa trông nhìn như Kê (gà) 1 xanh 1 đỏ. Theo "Tầm Dương Ký" nói là: "Dưới núi kê lung có khe nước thường sâu 1 thước, suối vọt như triều dâng, đo lường thời khắc chẳng sai, trọn tháng thường đầy, ở đời gọi đó là suối Triều, nay hoang vu ẩn mất không biết". Tại trên cửa quán có các Tiều Chân, phía trước viện có tảng đá cúng tế của Tiên sinh cao 5-06 thước, vuông rộng hơn 1 trượng. Từ đó hướng đến Càn hợi cũng gọi là đá lễ Đẩu. Phía sau Điện có tảng đá khắc mục lục Đạo tạng thiết bày ở 4 phía vách tường. Trong tạng có tượng Thiên Tôn bằng đồng. Theo các bậc Lão Thành nói là: "tôn tượng ấy vốn là tượng Phật ở chùa Quy Tông. Đến trong niên hiệu hội Xương (841-847) thời Tiền Đường, phá hủy chùa, các đạo sĩ lấy được. Sau khi chùa tuy đã tạo dựng lại, mà không hoàn trả nên Tôn tượng ấy mặc y phục Samôn, chỉ có thêm quan miện". Mọi người nghe thế đều mỉm cười vậy. Tiếp đến có khánh đá của Tiên sinh, âm thanh suốt trong vượt xa. Phía tây nhà đền thờ có lầu Bạch Vân. Quán ấy ở thời nhà Lương, gọi là Quán Giản tịch. Tư-đồ-hữu-trưởng-sử-tháitử-bộc-kiến-xương-huyện-khai-quốc-hầu-ngôhưng Thẩm Tuyền soạn thuật Văn Ký, lập trong tháng 11 năm Thiên giám thứ 14 (515) thời Nam Lương. Đến trong niên hiệu Bảo Ứng (762-763) thời Tiền Đường, đạo sĩ Ngô Quân lại soạn thuật văn bia Tiên Sinh, đến ngày 13 tháng 9 năm Tân Sửu (?) tức năm Thượng Nguyên thứ 2 thời Tiền Đường dựng lập. Cả 2 văn bia đó đến trong niên hiệu Bảo Đại (?) đều được sửa sang dựng lập lại. Tại quán ấy hiện còn các bài Đề vịnh của các người từ thời nhà Trần, nhà Tùy, và thời Tiền Đường để lại. Phía tây có khe suối, thác nước cao đổ xuống trước hiên vũ. Khi Vi ứng vật làm thứ sử tại đó có vân du đến dưới đó, nên thơ ông ở cuối chương nói là:

"Năm rãnh nhớ đây thường
Vui xuân mới lại tìm,
Liền kéo ngang huýt sáo
Tả rõ tiếng núi sông".

Từ đó về phía bắc riêng có dòng thác, phía dưới cùng hợp với khe suối phía tây. Ngồi tại lầu Bạch Vân trông thấy cả 2 dòng thác đó, tre cằn khổ sống quanh cốc núi, mùa xuân măng tre mới lú mọc, mùi vị măng ấy ngọt ngào. Ở đời có tương truyền lời thơ là:

"Trong quán Giản Tịch măng đắng ngọt
Ở chùa Quy Tông muối vị nhạt".

Nói đều trân quý khoái thích. Ngoài cửa quán có giếng nơi Tiên Sinh luyện Đan. Tiếp đến có cây Liên lý, cành nhánh nó hợp âm, rễ nó cuộn quanh trên đá lớn. Trong khe có tảng đá nơi Hứa Kiên hang phơi áo. Hứa Kiên vốn người chất phác ở Giang Nam rất có Đạo thuật, cũng khéo giỏi về Ngâm Vịnh, qua đời tại Kim lăng nghịch lữ, thế mà có người từng gặp, thường ưa giặt giả y áo hong phơi trên tảng đá đó. Từ quán Giản Tịch đến quán Thê Ẩn cách khoảng 5 dặm. Xưa trước gọi là động Thê Ẩn. Xưa trước tương truyền đó là Thư đường của Thái Tử Chiêu Minh thời nhà Lương vậy. Đến trong niên hiệu Bảo Đại, đạo sĩ Đàm Tử Tiêu đến từ Mân trung, bèn ban tặng hiệu là Kim Môn Vũ Khách, mới bắt đầu dựng lập quán tại đó. Đàm Tử Tiêu ở tại Man Trung hiệu là Động huyền thiên Dư Trinh nhất Tiên Sinh. Từ quán Thê Ẩn về hướng đông cách 5 dặm có am Cổ Vân. Từ am Cổ Vân đến thiền viện Khai Tiên cách 10 dặm, xưa trước tương truyền đó là nơi gá ẩn của thái tử Chiêu Minh vậy. Lại tạo dựng phòng thất Chiêu ẩn tại đó. Đến thời Nam Đường (?) vua Nguyên Tông lúc ở tại phiên để, lấy đó là thư đường, sau khi lên ngôi đến trong niên hiệu Bảo Đại (?) mới làm thành ngôi già lam đề hiệu là Khai Tiên. Phùng Diên đã ghi Văn Ký, mốc đá thấy hiện còn. Đến năm Thái bình hưng quốc thứ 2 (977) thời Bắc Tống. Vua Thái Tông (Triệu Quýnh) mới ban sắc hiệu là Hoa Tạng. Ngọn núi Hạc minh nằm tại phía sau đó. Khi vua Nguyên Tông chuyển dời về nam đô, đến nơi viện đó quyến luyến lâu dài, nên có họa khắc tôn tượng của Liệt Tổ nguyên Tông hậu chúa. Đến lúc vua Nguyên Tông băng hà, ẩn tàng mãi đến nay, chư tăng ở 4 viện Khai Tiên, Thê Hiền. Quy Tông, Viên Thông đều lấy 3 ngày húy Kỵ mà thiết trai cúng dường để nghĩ nhớ đó vậy.

Do từ đường quan qua khe cầu, đi lên có đình Tứ Hội, tiếp đến có đình Dương Mai. Ngay cửa chùa có cầu Chiêu Ẩn, phía dưới cầu có giếng đá, gọi đó là suối Chiêu Ẩn. Theo như trong "Lục Vũ trà Kinh" ở phẩm thứ 6, thì Chiêu Ẩm đều là tên gọi xưa cũ vậy, vua Nguyên Tông mới bắt đầu làm cầu. Từ đó về phía tây có dòng thác, tại Sơn nam và Sơn bắc có các dòng thác không to hơn 10 nơi. Nên Quán Lâm ghi đề về Lô Sơn nói là: "Thác nhỏ điện cao 300 thước, tùng thấp thọ lắm chỉ ngàn năm. Chỉ dòng nước đây đã có tiếng tăm từ đời trước vậy. Trong thời Tiền Đường, Từ Ngưng có lời thơ là:

"Xưa nay chỉ như lụa trắng bay
Một dãi biên rách xanh màu núi".

Lý Bạch lại có lời thơ rằng:

"Dòng bay thẳng xuống ba ngàn thước
Nghi là sông bạc rơi giữa trời".

Tức là tả về dòng nước đó vậy. Ngọn núi Hương Lô và ngọn núi Song Kiếm cùng kiên thuộc bên cạnh dòng thác. Từ đó về phía Đông bắc có cốc Thiên oanh, nguồn nước xuất phát từ trên đảnh núi, con người chưa có thấu cùng. Hoặc có thuyết nói là: "Từ phía tây vào cốc Khương Vương làm thành rèm nước, phía Đông là thác nước ở viện Khai Tiên. Từ Viện về phía Đông có Đình Đại Bi và các nhà Sàn, thường luôn ẩn nhân thấy đó. Đá trong khe nước hoặc ngậm vân mẫu, có thể nằm, có thể súc miệng, có thể rửa ráy. Phía trên khe có cầu đá, trên cầu có đình Thấu Ngọc. Đó là tuyệt cùng Sơn nam vậy.

Từ trước viện qua khe nước đến hướng tây cách 1 dặm có am Thạch Bi, có tảng đá lớn tại giữa núi, tự nhiên như mốc lớn bền chắc, không thể đục chạm khắc ghi. Từ am Thạch Bi lên núi đi khoảng 7 dặm đến viện Vĩnh Thái, trên đó có hang Hoàng Thạch. Theo "Cửu Giang Lục" nói là: "Xưa trước chùa Chiêu Ẩn ở tại dưới hang Hoàng Thạch", tức ở đó vậy. Từ viện Vĩnh Thái đi lên có am Đạo nhân, tiếp đến có hang Thánh Tăng, tiếp theo là hang Thiện Tài, tiếp theo là hang La-hán. Cả 4 am và hang ấy cùng cách nhau trong khoảng 5 dặm, là nơi dòng thác đều có đổ qua. Lại trong 5 dặm đó đều là nơi ở của Hoàng Thạch Công, thật chẳng phải vậy. Sườn núi vách đá đó thuần toàn sắc vàng, trông nhìn 3 hang trước, đặc biệt phẳng bằng rộng rãi có thể dung ở trăm người. Trước Viện Vĩnh Thái có đài Văn-thù, cùng núi Hương Lô, núi Song Kiếm cùng liền lẫn nhau cao thấp. Trước thác nước tại dưới núi đều ngửa mặt mà trông nhìn lên đó, hẳn nhiên rất là hùng vĩ. Đến đài Văn-thù thì chỉ ngang bằng mà trông nhìn đó. Sau đó biết sấm sét oanh liệt lụa bay đều Phú Trượng mà chẳng đủ vậy. Từ viện Khai Nguyên về phía Đông tại nữa núi riêng có thác nước nhỏ, vút rưới nước cũng chẳng dưới trăm thước, gọi đó là suối Mã Vĩ, nói nhỏ là chẳng được đồng mà gọi là thác nước vậy. Từ viện Khai Tiên đến viện Vạn Sam cách 2 dặm, mới được tạo dựng trong năm Cảnh đức thứ 2 (1005) thời Bắc Tống, xưa trước có sườn núi đá cũ. Trước kia có vị Sa-môn tên là Thái siêu tứ ở núi đó trồng vạn gốc cây Sam, có tiếng tăm việc làm vang đến Triều đình, mới ban tặng tiền để xây dựng viện, mới ban đất ruộng tô tượng Phật mọi vật cúng dường. Đến lúc hoàn thành, vua Nhân Tông (Triệu Trinh 1023-1064) thời Bắc Tống mới ban ngự viết bảng triện viện đó, đề là "Kim tiên Bảo Điện", Nội hàn Tiền đổi viết ở bảng cửa, có ngự dung chương ý minh túc tả chân hình và áo chăn gấm y phục vòng vàng vài sự ở miếu Nhân ẩn tàng tài đó đều là những vật được ban tặng ở thời bấy giờ. Sa-môn Thái Siêu còn có tên gọi là Pháp sư Quảng Trí. Viện đó xưa cũ có tên là Khánh Vân. Đến trong niên hiệu Thiên Thánh (1023-1032) thời Bắc Tống, vua Nhân Tông mới ban sắc cải đổi biện ngạch như hiện nay. Thẳng đến viện Tập Hiền, Từ Thích ghi trụ mộc vẫn hiện còn. Phía sau viện có dòng suối. Trên bờ suối có đình Trích Thúy, mọi người vân du đến đó tham quan hẳn lâu vậy. Từ viện Vạn Sam về hướng đông bắc cách 3 dặm có am Lăng Vân, xưa trước gọi là Lăng Vân thư đường. Theo "Cửu Giang Lục" nói là: "Lưu Kha thư đường tại dưới núi Lăng Vân. Năm xưa ở tại đó, Liêm Sĩ Bùi Công ngợi khen tài năng Lưu Kha nên đề cử thượng đệ làm sử quan, biên trước soạn thuật có lắm nhiều lưu truyền nơi đời. Từ Hàn Lại bộ trở xuống đều suy trọng Lưu Kha". Lại có Tiết Gián Nghị thư đường, tức chỗ ở xưa cũ của Lưu Yểm thị ngự. Trong khoảng niên hiệu Hội Xương (841-847) thời Tiền Đường. Tiết Gián Nghị tự Nam hải sách vở biên ghi đầy pho, tự thân kinh doanh đó. Được thấy 2 dòng thác đổ, suối đá tùng trúc đặc biệt rất là khoảng tuyệt. Quận thú đi chơi xuân cùng mọi người rảo bước tham quan phần nhiều đều qua đó. Tiết Gián Nghị chưa thấy tên, và Đường sử của Lưu Kha và Lưu Yểm đều không lưu truyền. Năm Nguyên Hòa thứ 14 (819) thời Tiền Đường, Lưu Kha đổ đạt tiến sĩ, qua đầu niên hiệu Thái Hòa (827) thời Tiền Đường, trải qua làm giám sát ngự sử, năm Thái Hòa thứ 4 (830) thời Tiền Đường, chuyển vào Nội Điện. Đến trong niên hiệu Khai Thành (836-841), Lưu Kha lại chuyển đổi làm bí thư Thừa Sử quán tu soạn học sĩ, ra làm Lạc Châu thứ sử, nên Bia chỉ ở chùa Đông Lâm và Tây Lâm phần nhiều đều là thư bút của Lưu vậy. Chỗ gọi là am Làng Vân che nền móng cũ của Lưu Tiết vậy. Hoặc có thuyết nói: "Hà Càn diệu thị lang mới đầu lấy thư đường làm nơi Chư Tăng ở". Hà Càn Diệu, cũng chưa rõ là người thuộc thế hệ nào, nay có phần mộ tại cốc Thiên Anh.

Từ viện Vạn Sam đến viện Châu Giáo cách 3 dặm, xưa trước gọi là Vân Phong, trước kia cho là sườn núi Cổ Thạch ở tại phía sau đó, núi cao hiểm hóc như ngăn chướng. Từ viện Chân Giáo đến viện Cảnh Đức cách 3 dặm, xưa trước gọi là Cao Diêu. Từ viện Cảnh Đức cách 1 dặm đến Lý Chưng Cổ thư đường. Trong khoảng niên hiệu Bảo Đại (?), Lý Chưng Cổ làm quan giữ chức xu mật tả hữu phó sứ, bị binh lính bè đảng tống Tề cùng phóng tứ tự hết. Từ thư đường nhà họ Lý đi lên cách 4 dặm có viện Hương Tích. Viện Hương Tích tại dưới núi Ngũ nhũ. Cách viện hương Tích 2 dặm là đến am Câu Chi, bên cạnh am Câu Chi có am Quán Âm, tiếp thêm nữa dặm có am Tề Vân, tù am Tề Vân cách 3 dặm đến am Ngọa Long, do đó mà Lô Sơn đặc biệt nỗi trội trong Thiên hạ, bởi thác nước ở viện Khai Tiên thấy ở trong thơ của Từ Ngưng và Lý Bạch, dòng nước ở cốc Khương Vương thấy ở Trà Kinh của Lục Vũ, đến như các nơi sâu xa hiểm tuyệt đều có vẻ đẹp của đá nước. Phía tây am ấy sườn núi xanh rờn 4 phía, thác dữ tuôn đổ, thác lớn vức sâu, lạnh lẽ đáng sợ, có Hoàng Thạch dài lớn vài trượng, ẩn ách liền thuộc, tại trong song vỡ, người trông nhìn lóa mờ mắt xoay chuyển, như muốn ngoằn ngoèo nhảy múa nên gọi là Ngọa Long, đó là nơi đặc thắng của núi nước vậy. Từ am Ngọa Long đi xuống cách 5 dặm có viện Thanh Liên, xưa trước gọi là am Bạch Vân. Trong thời Nam Đường (?) có Sa-môn Xung Chiếu hiệu là Thiền sư Tuệ Ngộ. Thang duyệt đổ tả chân hình tán thán, Từ Huyền khắc đá chữ Triệu đang hiện còn. Bên cạnh viện Thanh Liên có am Linh Phong, xưa trước gọi là Hạ Yển đài Lan nhã. Cách am Linh Phong 5 dặm là đến am Đạo Lâm, bên cạnh am Đạo Lâm có viện Thiền Tĩnh, xưa trước gọi là am Trung Hưng. Viện Thiền Tĩnh so với các am viện khác thì riêng không có dòng suối, phải đục giếng lấy nước uống dùng, không có đất ruộng, bán huyết đang sống để tự dưỡng, nhưng nhà cửa cũng đặc biệt hoàn toàn thanh khiết. Tiếp đến có am Bảo Khánh, tiếp nữa có viện Tịnh Ẩn, xưa trước gọi là am Bảo Phong, có 2 khe suối phát xuất từ trong đó. Mưa xuân lúc đầy, chảy xoáy gọi là giận dữ, cũng là nơi đẹp của đá nước vậy. Về phía tây khe suối có am của Lưu Cư Sĩ. Cư Sĩ tên là Hoán, tự là Ngưng Chi, người xứ Quân Châu, năm Thiên

Thánh thứ 8 (1029) thời Bắc Tống, đổ đạt tiến sĩ ra làm quan, nhưng tánh khí thẳng thắng, chẳng thèm, bèn vất bỏ đi đến ở Tinh Chữ, thường cưỡi con trâu vàng qua lại trong núi, rất mến thích khe suối ấy, từ đó đến Sơn Tăng dựng am để tiếp đãi. Từ am Bảo Lâm đến am Bảo Phong, 3 am viện cùng cách nhau 1 dặm. Đến viện Tổ Giáo, xưa trước gọi là đài Thượng Yển. Phía nam viện ấy có am Bàng Long, am Tây Nguyên. Phía sau có am Bảo luân, đều chẳng xa nhau quá trăm bộ. Từ am Bảo Lâm đến am Điều mộc. Từ am Điều mộc đến am U Thúy cách 1 dặm, cách am U Thúy-1 dặm là đến tháp Thiền sư Xích nhãn. Thiền sư tức là xích nhãn Quy Tông, thị tịch an táng tại dưới ngọn núi Thạch nhân, dùng đá làm tượng, lẫn nhiên như hiện sống. Năm Kiến Long thứ 2 (961) thời Bắc Tống, vua Thái Tổ (Triệu Khuông Dận) truy phong thụy hiệu là "Chỉ Giác Thiền sư" và tháp hiệu là "Diệu Tướng". Từ tháp viện ấy đến thiền viện Thê Hiền cách khoảng 10 dặm, giữa khoảng đó có cầu rừng rậm rạp che phủ. Phía trên ngăn khuất mặt nhật nắng nóng, mọi người vân du ngang qua đó thảy đều mến thích mà dừng nghỉ. Bên cạnh đường qua viện Thê Hiền có vườn rau, gò luống bởi rộng cũng rất khả quan. Phàm từ núi Ngũ nhũ xuống viện Hương tích rồi đến đó có cả thảy 8 nơi đồng thuộc phía tây khe suối Thê Hiền. Theo các bậc lão thành cho là đến các am hang phía tây khe suối Thê Hiền. Viện Thê hiền, núi Thạch Nhân ở tại phía bắc đó, nay gọi là Bảo Giác được sắc ban trong niên hiệu Thái Bình hưng quốc (976-984) thời Bắc Tống. Mới đầu, trong năm Vĩnh Minh thứ 7 (489) thời Nam Tề, Chứng nghị tham quân Trương Bố tấu trình thiết đặt chùa cách Tầm Dương khoảng 20 dặm về phía tây nam. Đến đầu niên hiệu Bảo Lịch (825) thời Tiền Đường, thứ sử Lý Bột chuyển dời thiết đặt chùa đến núi, thỉnh mời Sa-môn Trí Thường đến ở đó. Sa-môn Trí Thường có khoảng vài trăm học giả nương theo. Mùa xuân mùa hạ ở tại viện Thê Hiền, mùa thu mùa đông ở tại viện Quy Tông. Đến trong niên hiệu Hội Xương (841847) thời Tiền Đường, chùa bị phá hủy. Đến trong niên hiệu Cảnh Phước (892-894) thời Tiền Đường, lại đổi hiệu là "Chùa Hộ Quốc Thê Hiền". Bảng hiệu đó do Thôi-khám-sứ-tướng-sĩ-lang-thú-tháitử-thông-sự-xá-nhân Chung Khuông Thời biên ghi. Lúc ấy, Chung Khuông Thời mới vừa 16 tuổi, nên người đời nay mến trọng mà ẩn giấu vậy. Trải qua trong niên hiệu Bảo Đại (?) thời Nam Đường, chùa càng phát triển rộng lớn, hiện còn các Chế thư thời bấy giờ có hơn 10 bản. Trong đó có 1 bản nói là: "tháng 7 năm Càn Minh thứ nhất (894) thời Tiền Đường, vua Chiêu Tông (Lý Diệp) ban sắc biển ngạch chùa Thê Hiền". Thư-lễ-bộ-thị-langbình-chương sự-trĩnh đến Thượng-phụ-thư-thịtrung-kiêm-trung-thư-lệnh sử quan, cả thảy có 30 người. Lại có 1 bản đề là: "Tháng 11 năm Càn Ninh thứ 4 (897) thời Tiền Đường, vua Chiêu Tông (Lý Diệp) ban sắc hiệu tháp Ba môn Hoài Hựu là "tháp

Truyền Đăng" và Thụy hiệu là "Huyền Ngộ Đại Sư". Sắc thư ấy do Thư-trung-thư-thị-lang-bìnhchương-sư-thôi đến Thái-sư-kiêm-Trung-thưlệnh-sử-quan, cả thảy 32 người. Bấy giờ Giangtây-quán-sát-sứ Chung Truyền phụng hành vậy. Đến đầu niên hiệu Kiến Long (960) thời Bắc Tống, vua Nguyên Tông (?) chuyển dời đến Nam Đô, rảo bước trông xem qua thời gian lâu dài, nên có đình Trú Loan. Hoặc có thuyết nói: Trên đá bên cạnh khe nước vua Nguyên Tông có ghi khắc chữ vào đá, nhưng đến nay trầm lắng không thể còn thấy. Khe suối Tam Hạp xuất phát bên tả của chùa, nguồn ấy rất sâu xa. Trong khe suối có 3-4 ao rồng, chẳng thể biết đến cùng cực, mới đưa nắng mưa đến, các ngòi khác ở núi đồng rầm rỉ ở dưới như sấm sét. Tại khe đá lớn đá nhỏ có cả ngàn muôn chẳng thể tính kể và thảy đều lấp đầy trong ao. Xưa nay không thấy cửa ải nhỏ, nghi là phía dưới thông liền với biển cả. Bên cạnh đó có xây dựng đền thờ rồng, những năm hạn hán thì đến đó cầu đảo. Trong niên hiệu Đại Trung tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống, Sa-môn Văn Tú người đất nâng tạo lập cầu đá ở trên, suốt rộng 60 thước, dùng ngôi nhà lớn che phủ phía trên, rất là hùng Quán ở trong núi vậy. Bên cạnh khe suối có giếng Lục Vũ, tiếp đến có đình Hàn Tuyền, tiếp đến có đình Ngọc Uyên, dưới đình có ao rồng, hoặc có cá trung xuất sinh tại đó, mọi người cho là thần vật nên rất kinh sợ. Phía tây của Tăng đường có hang La-hán và hang Bảo Đà. Về phía nam cách hơn trăm bộ có am Bạch Vân. Phía sau viện có Ái Đường, mọi người vân du tham quan thảy đều dừng nghỉ tại đó. Phía trước chùa Thê Hiền cách 10 dặm có thiền viện La-hán, về phía bắc cách 1 dặm có hang Lahán. Năm Hàm Bình thứ 3 (1000) thời Bắc Tống, đại sư Quảng Tế-pháp Kiên mới tạo dựng đó, Triều đình có ban cấp đất ruộng để nuôi dưỡng đồ chúng, gọi tên là "Thánh Huệ Trang" (Nông trang vua ban). Năm Đại trung tường Phù thứ 3 (1010) thời Bắc Tống, đại sư Tổ Ấn, Sa-môn Tăng Hạnh Kế tiếp đó, mới trồng tùng che phủ đường quan dài 10 dặm dùng vách tường Đạt Quân, Văn Công Dương đại niên làm Văn Ký Trồng Tùng. Có chiếc trống rất lớn tại trên pháp đường, chu vi rộng 23 thước, gióng đánh vang tiếng chuyển động cả cốc núi, cũng thuộc loại trống siêu xuất vậy. Phía tây viện có dòng nước tên là Ngọc Khê. Về phía Đông vào hồ Bành lễ các 10 dặm, về phía bắc khe suối là nơi an táng đại sư Tổ Ấn, nên tướng Trương Sĩ Tốn có bài minh bia tháp ấy. Từ Thiền Viện La-hán về phía Đông cách 5 dặm có việt trang Chiếc Quế. Lại cách 5 dặm là đến động Bạch Lộc. Trong khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thời Tiền Đường, Lý Bột tự là Tuấn Chi, cùng với Trạng Huynh hài hòa chung ở ẩn, sau chuyển dời đến Thiểu Thất, Vi Hữu Thập Di vời gọi mà không bái đáp, tức như trong thơ Hàn Văn Còng nói là: "Người núi Thiếu thất" tức là đó vậy. Trong khoảng niên Hiệu Thái Hòa (827-836) thời Tiền Đường, làm quan đến chức Thái tử tân khanh. Trước đó, trong niên hiệu Bảo Lịch (825-827) thời Tiền Đường, từng làm Giang Châu thứ sử, mới đến động dựng lập Đài Sàn, chung quanh dùng dòng nước trồng các cây hoa xen tạp, đó cũng là cảnh thắng 1 thời vậy. Lưu Mộng Đắc (Võ Tích) lên quán Thanh Huy có đề thơ rằng:

"Nhan sắc Tầm dương trào thêm đẹp
Tiếng thu Bành Lễ Nhạn đua về
Nam nhìn Lô Sơn ngàn muôn nhận
Cùng khoe mới ra sườn cột tài".

Quán Thanh Huy tại Giang Châu, cũng do Lý Bột tạo dựng, nên Vạn Tích ngợi khen đó. Trong khoảng niên hiệu Thăng Nguyên thời Nam Đường (?), nhân Động tạo lập Học quán, ban đặt ruộng để cung cấp lương thực cho các sinh đồ, các học giả nhóm tụ đông nhiều. Lấy Quốc tử giám Cửu Kinh Lý thiện đạo làm Động Chủ, lấy chủ làm giáo thọ. Đến trong niên hiệu Bảo Đại (?), dùng ruộng đất Tích Chưng Sĩ Hư Bạch, Hư Bạch người xứ Bắc Hải, lánh đất đến ở Lô Sơn, Hàn Hy Tải đề cử có thể dùng được. Vua Nguyên Tông (?) ban chiếu vời đến Tiền Điện. Vua Nguyên Tông bảo là: "Đây là thật bậc xử sĩ!". Nhân đó ban cấp đất ruộng và sai bảo trở về, và miễn khỏi đóng thuế đó. Đến lúc Hư Bạch qua đời, con cháu phải khốn khổ đóng nộp thuế, không đủ khả năng để có ruộng đất đó, bèn đổi sang chủ khác. Đến năm Hàm Bình thứ 5 (1002) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng) ban sắc sửa sang tu bổ lại, mới đắp họa tượng của Tuyên Thánh so vị Triết Nhân. Nay nuôi dưỡng cỏ tươi tốt vậy.

Từ động Bạch Lộc cách 3 dặm đến quán Thừa Thiên, xưa trước gọi là quán Bạch Hạc. Theo "Cửu Giang Lục" nói là: "Tháng 12 năm Hoằng Đạo thứ nhất (683) thời Tiền Đường, mới đầu vâng phụng sắc ban thiết đặt quán tại dưới thành Tầm Dương. Đến ngày mồng 3 tháng 6 năm Thần Long thứ 2 (706) thời Tiền Đường, vua Trung Tông (Lý Hiên) ban sắc thiết đặt quán Long Hưng, nhân đó chuyển dời vào trong núi, đổi tên là Long Hưng. Đến trong niên hiệu Đại Lịch (766-780) thời Tiền Đường, đạo sĩ Lưu Huyền Hòa, Hà tử Ngọc đến ở đó. Theo "Đạo môn Linh Nghiệm Ký" Trương Hoằng nói là: "Lưu Huyền Hòa là Địa Tiên, từng làm quận thú Lý Thừa Tiết Biện, Chương tấu đều có phê báo Thiên Tào. Mọi sự đều phù hợp với kiểm nghiệm. Từ quán về phía Đông bắc leo lên núi có hang Mộc Qua, Lưu Huyền Hòa mới đầu ở trong hang đó, thường trồng giống đó, đến nay mầm tược vẫn đang hiện còn. Trong quán có cây sam lớn cao hơn trăm thước, chu vi rộng 20 thước, cũng được trồng ở thời bấy giờ. Đến năm Hy Ninh thứ 5 (1072) thời Bắc Tống, triều đình làm Trung Thái nhất cung tại kinh đô, ban chiếu kiếm cây treo phan dài 120 thước, Thiên hạ sai quan đi khắp núi rừng, tìm gặp cây sam đó đốn chặt đưa về. Từ quán Thừa Thiên theo hướng tây đến viện Thê Hiền cũng cách xa 5 dặm, mọi người vân du tham quan thường luôn qua theo vậy. Ở phía Đông viện Thê Hiền men theo bên cạnh khe nước đi nữa dặm đến viện Tịnh Trú, xưa trước gọi là am Đăng Vân. Từ viện Tịnh Trú qua khe suối đến viện Quảng Thọ các 2 dặm mà gần, xưa trước gọi là Tư Thánh Thái Huyền. Phía trước có ngọn núi, bên cạnh cách hơn trăm bộ có đài Kim Sư. Xưa kia Sa-môn Đạo Mạc người xứ Đông Hải vốn giòng họ Kim ở đó nên gọi tên là đài Kim Sư. Từ viện Quảng Thọ vào nguồn Vạn Thọ đến viện Vạn Thọ cách 2 dặm. Từ viện Vạn Thọ trở ra lại theo hướng nam đi 3 dặm đến viện Lăng Già, xưa trước gọi là đá Hạ Bạch. Ở núi đó tên là nguồn Lỗ đoạn. Tại viện Lăng Già có sơn phòng Lý thị, Lý tên là Thường, tự là Công trạch. Thuở thiếu thời, anh em cùng nhau đọc sách trong núi, đã bỏ chùa không chư Tăng, thất ấy chẳng ở, nhân đó tàng chứa sách trong thất cả vạn quyển. Tô Từ Chiêm Kính làm Sơn phòng tàng thư ký, nay khắc đá lưu lại trên vách tường. Từ viện Lăng Già theo hướng đông đi lên núi cách 3 dặm đến viện Chứng Đạo, xưa trước gọi tên là đá Thượng bạch. Cách viện Chứng Đạo 3 dặm là đến viện Thái bình hưng quốc, xưa trước gọi là am Ngọa Vân, có ngọn núi tại phía sau đó, cũng gọi tên là núi Hương Lô, phía trước có Kinh Các, tức là nơi cất tàng kinh sách vậy. Năm Đại trung tường phù thứ 2 (1009) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng) ban sắc ấn kinh viện mà tặng đó. Cách viện Thái Bình hưng quốc 1 dặm đến viện Hương Lâm ở núi Thượng

Ngũ, giữa đường ngang qua khe suối sâu tối, nước chảy trong cạn, đặc biệt có thể quen lờn đùa vui. Từ viện Hương Lâm cách 5 dặm đến viện Tịnh Cư, xưa trước gọi là am Thượng. Từ viện Tịnh Cư cách 5 dặm đến núi Hạ ngũ viện Diên Phước. Trong đó có các chế thư viết tay ban gởi Thiền sư Đạt quántrí quân ở trong thời Nam Đường gồm 30 bản. Có 3 bản do vua Nguyên Tông ghi viết, ngoài ra đều do Hậu chúa. Thiền sư Trí Quân người xứ Hà Trung. Trong khoảng niên hiệu Bảo Đại (?) ở viện Thê Hiền. Đến trong niên hiệu Khai Bảo (968-976) thời Bắc Tống vua Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) ban chiếu mời đến ở chùa Thanh Lương. Sau đó trở về Ngũ Phong, mới đầu gọi là viện U Thê, sau gọi tên là Thê Huyền Lan nhã. Đến năm Đại trung tường phù thứ nhất (1008) thời Bắc Tống, lại đổi gọi là Diên Phước, từ viện Diên Phước cách 3 dặm đến viện Trúc Lâm. Cách viện Trúc Lâm 2 dặm lên hang Lăng Tiêu viện Minh Châu. Phàm từ viện Tịnh Trú đến viện Minh Châu có cả thảy 13 nơi, đá nước không đâu chẳng đẹp xinh, chỉ đá ở hang Minh Châu bóng lộn, hoặc nằm dài hoặc dựng đứng, có tướng trạng như Động Phủ. Ngồi trên tảng đá lớn đối mặt với núi Ngũ Lão, tợ như đón tiếp khách, đó cũng là nơi rất ưu thắng của Lô Sơn vậy.

Từ viện Minh Châu lại xuống núi cách 5 dặm đến viện Tịnh Diệu, xưa trước gọi là am Đức

Chính, xưa trước đó còn có tên là cốc Thanh Ngưu.

Theo "Cửu Giang Lục" nói là: xưa kia có Đạo Sĩ Hồng chỉ cưỡi con trâu xanh ở đó mà đắc đạo, đàn tràng vẫn hiện còn. Nên Dương Hành người thời Tiền Đường dừng nghỉ qua đêm tại cốc Thanh Ngưu có lời thơ là:

"Theo mây bước vào cốc Thanh Ngưu
Đạo sĩ trâu xanh cho nghỉ lại
Thích thay đêm dài trong trăng tỏ
Chỉ có bê đàn một cành tre".

Đó cũng là 1 danh tích xưa cũ vậy, nay đã canh cày gò luống vậy. Cách viện Tịnh Diệu 1 dặm đến am Vân Đài, phía sau am có sườn núi đá. Trên sườn núi có dòng suối. Từ am Vân Đài vượt qua con đường nhỏ cách 3 dặm đến Việt Thánh Quả, xưa trước gọi là am Tịnh Minh. Phía trước viện Thánh Quả có viện Giải Không, xưa trước gọi là am Cát Tường. Tại 3 am Viện Đức Chính, Tịnh Minh và Cát Tường trông nhìn chư Tặng sinh sống đều hoàn toàn thanh khiết. Từ viện Giải Không về phía tây bắc cách trăm bộ có am Cốc Nguyên. Trước am bên tả đường đi sắp chất đá, tuy không cao vợi nhưng hẳn tự kỳ đặc hùng vĩ. Phía sâu am có suối sâu tối dòng nước róc rách không khô cạn, chẳng hẳn chảy xiết mà sau rất đáng thích. Từ am Linh Nguyên về phía Đông bắc đi khoảng 2 dặm là đến viện Chứng Tịch, xưa trước gọi là am Chiếc Quế. Có Lý Phùng Cát tướng thời Tiền Đường xưa trước nương theo Lý Bột học tại núi đó. Sau khi Lý Phùng Cát đi rồi lấy đó làm nơi chư Tăng ở, nên gọi tên là Chiếc Quế. Lý Phùng Cát tự là Hư Chu, trong khoảng niên hiệu Trường Khánh (821-825) đến Bảo Lịch (825-827) thời Tiền Đường, nhờ Trịnh Chú Vương mà Thủ Chứng ra làm quan giữ chức Tể Tướng, trong Đường thư có lưu truyền sự kiện đó. Am Chư Tăng ở nhân vốn là nhà của Lý Phùng Cát, trong tập ký lục khắc ghi ở đá, ngôn từ có lắm sai lầm. Núi đó có tên là Phan Can Nguyên, trên núi có phần mộ đá của Thiền sư Huệ Tế ở thời Nam Đường. Từ am Chúng Tịch cách nữa dặm đến viện Hoa Nghiêm. Từ viện Hoa Nghiêm theo hướng đông bắc đi 3 dặm đến viện Vĩnh Phước, xưa trước gọi là Long Vân, giữa đường trông nhìn núi Ngũ Lão, rành rành có thể tính đếm cao thấp có hơn 10 ngọn. Trong đó có núi sư tử, tước trạng như vót cao, mây vật ẩn ngời rất là giống tợ, phía sau am có lắm đá loạn. Về phía tây bắc đi thẳng lên có núi Ưng Chảy, cũng tại trong khoảng núi Ngũ Lão. Phàm từ viện Tịnh Trú đến viện Vĩnh Phước có cả thảy 31 nơi đều thuộc phía Đông khe suối của Thê Hiền, theo các bậc Lão thành thì cho đó là các am hang thuộc phía Đông khe suối vậy.

Từ viện Vĩnh Phước đi xuống núi vào trong vườn Đại Phú cách 8 dặm. Từ trong vườn Đại Phú theo hướng đông bắc đến thiền viện Tuệ Nhật cách khoảng 10 dặm. Viện đó tại phía tây đường Quan, men theo bên cạnh khe suối phía dưới đường Quan mà đi, 2 bên núi cặp theo khe suối dài 5 dặm ngổn nhiên như động phủ, xưa trước gọi là động Tiên ở. Theo Văn Ký của viện nói là: Trong khoảng niên hiệu Càn Minh (894-898) thời Tiền Đường, mới đầu có Sa-môn Như Nghĩa đến đó kết dựng am nhà. Đến đầu niên hiệu Đại Hòa thời nhà Ngô (?) có Sa-môn Huệ Tùng mới mở mang tạo dựng Thiền Sát. Bấy giờ, Dương Triệt làm thứ sử Giang Châu, rất dốc lòng quyên góp tín thí, bèn thân gần đề triệu bảng ngạch là "Tiên Cư Vĩnh an Thiền Viện" và đề là: "Ngày 1 tháng giêng năm Quý tỵ (?) tức năm Đại hòa thứ 5 thời nhà Ngô (?), phụnghóa-quân-tiết-độ-sứ-giang-châu-quán-sát-xứ trị, v.v... Sứ-đặt-tân-kiểm-hiệu-thái-úy-trung-thưlệnh-sứ-đặt-tiết. Giang-châu-kiêm-quân-sự-giang Châu-thứ-sử-thượng-trụ-quốc-đức-hóa-vương được ban thực ấp 3000 Hộ Dương Triệt Khắc triệu". Đến trong năm Đại trung tướng phù thứ 2 (1009) thời Bắc Tống cải đổi biển ngạch như ngày nay, mà triệu Tăng Bảo vẫn như cũ. Xưa kia Samôn Như Nghĩa ở tại núi, Chu Phác thường nương tựa vì lệ thuộc học nghiệp. Trong niên hiệu Càn Minh (894-898) thời Tiền Đường, có đạo sĩ Hứa Nham Sĩ ra vào trong cung cấm làm gian lợi. Chu phác nương theo đó mà được tiến cử, Chu Phác có tài kinh tế, vua Chiêu Tông (Lý Diệp 889-904) vời gọi vào gặp, Chu Phác đối đáp nghĩa kinh rất xứng hợp ý vua, liền ngày đó được phong làm quốc tử bác sĩ, bái đối Gián Nghị Đại phu bình chương sự, nghị luận xa rộng động dao mỉm cười. Vài tháng sau đó sự việc Hứa Nham Sĩ bại lộ đều bị Hàn Kiếm giết chết, nên nay còn gọi đó là Chu Phác thư đường. Bên cạnh đường đi có đầm Thùy Long (rồng ngủ), tiếp đến có ao Bạch Quy (rùa trắng), tiếp đến có đài Văn Thú, nơi sản sinh giếng đá trắng ánh ngời có thể sử dụng trong dược phẩm, trong đó có ánh sáng 5 sắc, người đời nhân thế mà gọi đó là đá Bồ-tát, tiếp đến có đài La-hán, tiếp đến có suối Quán Âm, cho đến viện Tuệ nhật. Có núi Ngũ Loan tại phía trước đó, dưới núi Ngũ Loan có am Đại Hùng, cách viện Tuệ Nhật 3 dặm, thể núi bao quanh cao vợi như vách thành, cũng riêng có 1 nơi sâu kín, mà trong "Hàn tiền dị Ký" nói là: Năm Trinh Quán thứ 2 (628) thời Tiền Đường, có vị Phạm Tăng tìm núi, mến thích nơi sâu xa đó, như là chỗ đất Đại Hùng diễn giảng pháp, nên gọi tên là Đại Hùng". Đến trong niên hiệu Đại Hòa (?), vua Tuyên Tông (?) lánh nạn cùng Sa-môn Chí Nhàn thường ở tại đó.

Từ đó lại ra đường quan đi giữa khoảng ruộng đồng cách 7 dặm, đến am Phật Điện, chỉ đồng nhà cửa ruộng đồng. Cách am Phật điện 1 dặm đến am Hưng Phước, lại là hoàn toàn thanh khiết. Từ am Hưng Phước cách 3 dặm đến viện Trí Lâm, xưa trước gọi là Từ Vân. Phía trước đó có hang Thụy Vân, tợ như mây đổ xanh tía muốn rơi nơi đất. Xưa kia đại Sư Mã Tổ từng ở tại đó, có hang Mã Tổ, suối Mã Tổ. Từ đó về phía bắc đến ngọn núi Ngô Chương cách 3 dặm, qua khỏi đảnh núi là biên giới của Giang Châu. Từ viện Tuệ Nhật về phía Đông nam cách 10 dặm đến am Đại Thành. Ở đó, thế núi như thành quách nên gọi là Đại Thành. Lại về phía bắc thêm 1 dặm là qua núi Trương Gia, giữa khoảng núi đó có vài trăm ngôi nhà đều người thuộc giòng họ Trương. Từ núi Trương Gia về phía tây cách 3 dặm đến quán Diên Chân, xưa trước gọi là quán Thiên Đức. Năm Trị Bình thứ 3 (1064) thời Bắc Tống, vua Anh Tông (Triệu Thự) ban sắc tên như hiện nay. Trước kia, trong niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thoi Tiền Đường, do Lý Nữ Chân tạo lập, Nữ Chân tên là Đẳng Không, là con gái của tể tướng Lý Lâm Phủ. Lý Thái Bạch đưa Lý Nữ Chân về Lô Sơn có bài thơ rằng:

"Thích người tướng môn nữ
Học đạo mến Thần Tiên
Tay trắng vốc ráng thu
Áo lụa kéo khói tía
Một sang gió lẳng chất
Cưỡi loan ngồi yên ngọc".

Liễu Hồn từ Giang Châu thứ sử vào chầu, gặp lúc hoàng hậu Chiêu Đức qua đời, nhân đó nói Vịnh Chân động Thái Tầm Chân và nơi ở của Đằng Không có thể ban đặt tên quán để tỏ bày nghĩ nhớ tên phụng. Vua Đức Tông (Lý Khoát 780-805) nhân vì tìm tên Vịnh Chân động đó mà đặt thành quán, và lấy thụy hiệu của Chiêu Đức mà đặt tên đó vậy. Đời gần đây có người khéo giỏi việc tốt lấy bài thơ của Lý Thái Bạch đưa Nữ Chân về núi và thơ đưa nội Tầm dương Đằng Không khắc vào đá trên vách đền thờ. Từ trước quán Chiêu Đức về phía tây cách 1 dặm có am Đông Đăng Vân, rừng sâu nước xa, cũng là 1 nơi xinh đẹp của núi vậy. Ở phía Đông khe suối Thê Hiền, cũng có am Đăng Vân, nên ở đây dùng thêm chữ Đông để phân biệt đó. Nguồn Chiêu Minh tại phía bắc quán, trên nguồn có ngọn núi Lăng Vân, dưới núi có viện Tịnh Tuệ, cách quán Chiêu Đức 1 dặm, trong thời Tiền Đường gọi là viện Vĩnh Xương. Đến trong niên hiệu Đại trung tường phù (1008-1017) thời Bắc Tống, mới cải đổi tên gọi như hiện nay. Theo Văn Ký ở viện nói là: "Trong niên hiệu Hoằng Thỉ (?) thời nhà Tần, Đức An Thượng nhân từ Tây Lương đến ở đó. Đến trong niên hiệu Quang Hóa (?) hy Phụng Thượng nhân sửa sang tu bổ lại. Giang Châu thứ sử thành Kỷ Hầu Lý Phụng Tông đấu xin làm quán Vĩnh Xương. Đến năm Mậu thìn (?) tức năm Thiên hựu thứ 5 (?) do Tăng Tề đã soạn thuật. Từ quán Chiêu Đức về phía tây ra đường quan cách 20 dặm đến quán Tầm Châu xung hư, xưa trước gọi là động Vịnh Chân. Đạo thư chân cáo nói thuật về 30 động thiên. Động Thiên Vịnh Chân là động thứ 8 trong 72 phước địa. Lô Sơn là phước đại Nguyên Thần, thì quán ấy là động Thiên Vịnh Chân vậy. Và ngọn núi Ngũ Lão tại phía sau đó. Trong niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thời Tiền Đường, Nữ Chân Thái Tầm Chân ở tại đó, nhân thế mà lấy đặt tên, phía sau quán có đầm Bạc Long, thác nước trên cao đổ xuống, theo sử xưa nói là: vua Võ Đế thời nhà Hán (?) qua Cửu Giang tạo dựng quán Vũ Chương như lắng chướng chồng chất dưới, gần khe suối Tương Tư. Nay 1 ngọn núi của Ngũ Lão chất chồng nhiều đá như lắng chướng vậy, bởi vì đó là chốn đất xưa cũ. Nay, tại trên đầm, có đình Lục Tịnh. Từ dưới Tầm Chân về hướng tây nam các 2 dặm có viện Phổ Giác, xưa trước gọi là Trường Khánh. Từ viện Phổ Giác về hướng tây trở lại khoảng 10 dặm cũng đến thiền viện La-hán. Từ viện La-hán về phía nam cách 5 dặm đến nông trang Thánh Huệ, tức nơi trong niên hiệu Hàm Bình (998-1004) thời Bắc Tống, vua Chân Tông (Triệu Hằng) ban cấp cho Sa-môn Quảng Tế. Sau khi Sa-môn Quảng Tế thị tịch cũng an táng tại đó. Từ nông trang về phía nam các 2 dặm có am Đại Xung. Từ Nam Khương Quân đến đông bắc ra cửa Tầm Dương cách 1 dặm thì có viện Đông Am. Trong viện có cách Trùng Hồ. Trên Hồ có cung đình thần miếu hoàn vũ. Theo "... Ký" nói là: Võ Vương thời nhà Chu (?) năm thứ 15 thiết đặt đó. Thần đó có khả năng phân gió rẻ dòng, các lữ hành qua đó hẳn phải cung kính cúng tế, sau mới được qua". Nên trong thơ "Tào Tỳ" nói là:

"Phân gió làm hai
Chỉ dòng thành đôi".

Theo Vu Bảo Sưu thần ký nói là: "Xưa kia, Ngô Quận thái thú Trương Công Trực tự thủ chưng trở về theo đường từ Lô Sơn. Quán đền thờ con cái, đứa tớ đưa tay chỉ con gái đùa cười tượng Phi. Người vợ ban đêm nằm mộng cuối cùng tìm hỏi, kinh sợ mà vội đi, đến giữa dòng thuyền bèn chẳng đi được, mọi người trên thuyền đều kinh sợ nói rằng: "Nến thương 1 người con gái mà khiến cả nhà chịu họa thế này ư?". Trương Công Trực không nhẫn nỗi bèn bảo vợ thả con gái xuống dòng sông. Người vợ ấy kinh sợ vượt lên trên dòng nước, đem người anh của con gái ấy mất mà thay thế đó. Trương Công Trực biết là thả mất người anh của con gái, tức giận vợ mà bảo rằng: "Tôi còn mặt mũi nào mà sống giữa đời này!" lại thả mất con gái mình trong dòng sông. Sắp vượt qua, xa thấy 2 người con đứng trên bờ, bên cạnh có 1 quan lại bảo rằng: "Tôi là Lô Quân chủ bộ, kính việc nghĩa của ông, nên thảy đều trả lại cả 2 người con gái!". Theo "Tầm Dương Ký" nói là: "Đó là nơi An Thế Cao đi ngang qua, thần ấy mới hóa hình (nói rõ trong việc sườn núi rắn), mãi đến nay mọi người đi thuyền qua lại, vẫn thường kính lễ cầu đảo. Vịnh Thần Rừng ở tại phía tây bắc của Hồ. Lại từ Quân nam ra cửa Phước Tình thì đá lạc tinh tại trong nước hồ Bành lễ, trên đá có chùa Lạc tinh, trước kia, Vương Tăng Biện, Trần Võ Đế đánh phá Hầu Cảnh tại Vịnh Lạc Tinh tức là chỗ đất đó vậy. Từ đó về phía tây có đài Điếu Ngư, ở phía nam có am Lưu thanh cũng tại bên cạnh dòng nước. Từ vịnh Lạc Tinh đi thuyền qua đài Điếu Ngư cách 1 dặm. Lại đến viện Minh Tâm, xưa trước gọi là am Thúy Vi. Từ viện Minh Tâm đến am Lăng Già cách 5 dặm, từ am Lăng Già đến am Thiện Tài cách 5 dặm, cách am Thiện Tài 3 dặm là đến am Lăng Vân. Từ am Lăng Vân cách 3 dặm đến thiền viện Vạn Sam. Từ viện Minh Tâm về hướng Đông nam cách 5 dặm lại đến núi Đông Cổ viện Pháp Luân. Từ viện Pháp Luân đến viện Vạn Sam cũng cách 10 dặm. Lại có núi Tây Cổ, trên núi có viện Hùng Thiện. Từ viện Quy Tông về hướng đông cách 10 dặm. Lại từ đó về phía Đông cách 30 dặm đến Nam Khương Quân, chỗ gọi là núi Đông Cổ và núi Tây Cổ chẳng thuộc Lô Sơn, nhưng cây cỏ thoáng rộng cũng tự rất đáng mến thích, phòng nhà ở am Thiện Tài cũng cao thoáng. Tại am Lăng Già có dòng nước ở phía sau. Từ Nam Khương Quân vào núi phải qua am Lăng Già thì không đâu chẳng có nước chảy rầm rì. Phàm từ Quân theo hướng tây ra cửa Kiến Xương các 1 dặm, bên cạnh đường quan có viện Thừa Thiên, viện tựa gò đồi trội cao, phía trên có đình Tùng Phong, nay gọi là Thảo Đường, qua đó thì đi đến viện Khai Tiên. Từ Quân theo hướng bắc ra cửa Ngũ Lão cách nữa dặm qua đình Vọng vân, lại cách 5 dặm qua nông trang Thánh Huệ, lại cách 5 dặm qua viện La-hán thì đi đến viện Thê Hiền vậy.

Bên hữu từ viện Vân Khánh thuộc phía nam viện Bảo Nghiêm đến viện Viên Thông đồng thuộc về Giang Châu, gọi đó là Sơn Bắc. Nhà (Vũ) của Lão tử có 2 ngôi, đồng gọi là quán, nhà của Phật giáo gồm có 55 ngôi, hoặc gọi là chùa, là viện, là am, còn hang thì gọi là Lan Nhã, kỳ thật đều là nơi chư Tăng ở. Từ Quán Khương Vương đến viện Từ Vân thuộc phía bắc viện Tuệ Nhật đều thuộc Nam Khương, gọi đó là Sơn Nam. Nhà của Lão tử có 9 ngôi, nhà của Phật giáo có 93 ngôi. Mới đầu, Tôi vân du đến Lô Sơn, hỏi về các tháp miếu hưng phế và danh thắng của đá nước trong núi, không ai có thể vì tôi mà đáp giải, tuy có nói đó cũng luôn luôn tiếp nối sai lầm mất sự thật. Nhân lấy "Cửu Giang Đồ Kinh" và các Tạp lục của người xưa trước, xét tra các bản sử, hoặc các nơi đích thân đi đến, khảo nghiệm về Minh Chí, tham cứu sửa chữa của các bậc lão thành, mà làm thành "Lô Sơn Ký" này. Hoặc là nét bút lâu năm hoang phế mất mát, không thể còn biết lại thì quyết nghi vậy. Phàm các Bia Ký từ thời Tiền Đường trở về trước có ghi năm tháng rõ ràng trước ký, nên đều ghi chép đó, ngõ hầu có chút bổ ích cho các nhà làm sử vậy.

QUYỂN 3

CHƯƠNG IV: SỰ TRÔNG THẤY KHÁC NHAU CỦA CÁC NGƯỜI VÂN DU ĐẾN NÚI THAM QUAN.

Từ Giang Châu ra cửa Đức Hóa cách 5 dặm đến viện Viên Thọ (xưa trước gọi là Đàn La-hán). Từ viện Diên Thọ cách 5 dặm đến Liêm Khê trong Chu Lang cầu Thạch Đường. Từ Kiêm Khê theo hướng Đông nam cách 10 dặm đến thiền viện Bảo Nghiêm (xưa trước gọi là Song Khê), từ thiền viện Bảo Nghiêm về phía tây nam cách 10 dặm đến quán Tường Phù (xưa trước gọi là Thái nhất). Từ thiền viện Bảo Nghiêm về hướng nam cách 3 dặm lại có am Vân Khánh, cách am Vân Khánh 1 dặm đến có nông trại Am Nham, cách nông trại Am Nham 1 dặm đến viện Thiền Trí (xưa trước gọi là Tịnh cư), từ viện Thiền Trí cách 5 dặm đến quán Tường Phù. Từ quán Tường Phù cách 5 dặm về hướng bắc đến am Long Tuyền. Từ am Long Truyền cách 10 dặm đến viện Diệu Trí (xưa trước gọi là đình Hành Xuân). Từ viện Diệu Trí cách 5 dặm đến sườn núi Rắn. Từ sườn núi Rắn xuống 5 dặm đến quán Thái Bình (xưa trước gọi là Phủ Thông Huyền), từ quán Tường Phù về hướng tây nam cách 2 dặm lại có am Quốc Thái, từ am Quốc Thái về phía tây lên đảnh núi Liên Hoa cách 15 dặm thì đến am Liên Hoa. Từ am Quốc Thái về phía nam cách 5 dặm đến am Báo Quốc, cách am Báo Quốc 1 dặm đến am Vân Tế, cách am Vân Tế 1 dặm đến am Vĩnh Thanh (còn có 1 tên gọi là am Hạ Liên Hoa), bên cạnh đó có nơi Đạo nhân ẩn cư, từ am Vĩnh Thanh về phía tây cách 1 dặm đến am Vân Khê (còn có 1 tên gọi là động hạ Liên Hoa), cách am Vân Khê 1 dặm cũng đến quán Thái Bình, từ quán Thái Bình về phía tây cách 5 dặm đến chùa Đông Lâm-thái Bình hưng quốc. Từ quán Thái Bình về phía tây nam cách 5 dặm lại có am Thanh Thái, cách am Thanh Thái 1 dặm đến viện Quảng Trạch (xưa trước gọi là am Long Đầm. Từ đó lên cách 5 dặm đến 3 đầm rồng. Cách viện Quảng Trạch 7 dặm cũng đến chùa Đông Lâm. Từ chùa Đông Lâm về hướng tây cách hơn trăm bộ đến tháp Viễn Công. Từ tháp đó về phía tây cách hơn trăm bộ đến chùa Tây Lâm Càn Minh. Từ chùa Tây Lâm về phía Đông cách 5 dặm đến am Hoàng Thổ. Bên cạnh đó có am Khánh Kinh. Cách am Khánh Kinh 1 dặm đến am Sùng Phước, cách am Sùng Phước 5 dặm đến am Hương Thành, bên cạnh đó có am Quán Âm, am Đông. Từ am Đông đi xuống 1 dặm là đến am Quảng Tế, cách am Quảng Tế nữa dặm đến hang Thánh Tăng, cách hang Thánh Tăng 2 dặm đến am Thạch Bồn. Từ chùa Tây Lâm về phía Đông nam cách 5 dặm lại có viện Hạ Hóa Thành, cách viện Hạ Hóa Thành 3 dặm đến am Hộ Quốc, cách am Hộ Quốc 1 dặm cũng đến am Thạch Bồn, từ am Thạch bồn đi lên nữa dặm đến am Bảo Hưng, cách am Bảo Hưng nữa dặm đến chùa Thượng Hóa Thành Phổ Chiếu, bên cạnh đó có am Đại Sư. Từ Thượng Hóa Thành đi lên 10 dặm qua ngọn núi Hương Lô, đến am Phong Đảnh, từ am Phong Đảnh về phía nam cách 10 dặm đến am Hương Tích. Có đường xuống núi ở phía nam có khe suối Thê Hiền, về phía Đông đến nguồn Vạn Thọ cách 20 dặm mà đường sá hiểm nguy. Từ Phong Đảnh về hướng tây cách 5 dặm đến chùa Bảo Lâm (xưa trước gọi là chùa Đại Lâm). Từ chùa Bảo Lâm cách 1 dặm đến núi Trịch Bút, lại cách thêm 1 dặm đến hang Phật Thủ. Cách hang Phật Thủ 2 dặm đến viện Thiên Trì, từ viện về phía nam cách 1 dặm đến tháp Thiền sư Long, từ tháp xuống 2 dặm đến am La-hán, cách am La-hán 2 dặm về phía Đông đến đài Thập Bát Hiền Giả. Từ viện Thiên Trì xuống núi cách 15 dặm có cốc đồng tên là Cẩm Tú. Dòng nước ở dưới núi, 1 dòng xuất phát từ cốc Cẩm Tú và 1 dòng xuất phát từ cốc Thạch Môn (Cửa Đá) và hợp dòng đổ vào sông Bồn. Phía trên 2 dòng nước đó có am Song Long, am Quảng Phước, am Tôn Thắng, am Bảo Minh, cả 4 am cùng trông thấy nhau và đồng cách nhau không quá trăm bộ. Khe suối Thạch Môn tại trước am Bảo Ninh, vào trong khe cách 5 dặm có núi Thạch Trụ, núi Thiết Hang, dưới 2 núi ấy có 2 am Đạo Nhân. Từ am Bảo Ninh về phía nam cách 5 dặm đến am Phước Hải. Cách am Phước Hải 2 dặm đến am Tường Vân. Từ am Tường Vân đi lên 10 dặm đến núi Vân Đảnh, tại núi Vân Đảnh có am Vân Đảnh. Từ am Tường Vân về phía nam cách 8 dặm đến am Nguyệt Luân, bên cạnh đó có am Linh Tuyền. Cách am Linh Tuyền 7 dặm đến am Báo Quốc, cách am Báo Quốc 5 dặm đến Thiền Viện Viễn Thông Sùng Thắng, bên cạnh đó có viện Quảng Phước, cách thiền viện Viễn Thông Sùng Thắng 20 dặm đến quán Khương Vương Cảnh Đức. Từ thiền viện Viên Thông Sùng Thắng trở lên đều thuộc Giang Châu.

Từ quán Khương Vương Cảnh Đức về phía bắc vào trong cốc cách 5 dặm đến viện Long Tuyền, lại thêm 20 dặm đến Thủy Liêm. Từ quán Khương Vương Cảnh Đức về phía nam cách trăm bộ đến am Tỳ Lô. Cách am Tỳ Lô 2 dặm đến am Đại Minh, cách am Đại Minh 2 dặm đến am Trường Hưng, bên cạnh đó lại có viện Nhân Vương, cách viện Nhân Vương 2 dặm đến viện Càn Thọ, cách viện Càn Thọ 7 dặm đến thiền viện Linh Thang Tịnh Tuệ. Từ thiền viện Linh Thang Tịnh Tuệ về phía nam cách 10 dặm lại có quán Thanh Hà. Từ thiền viện Linh Thang Tịnh Tuệ về phía Đông cách 2 dặm qua đài Khương Lạc Kinh, lại thêm 2 dặm đến Túy Thạch của Đào Công. Từ Túy Thạch lại ra đường quan cách 3 dặm đến thiền viện Quy Tông Thừa Thiên. Từ thiền viện Quy Tông về phía tây cách trăm bộ đến quán Linh Khê Tường Phù, cách quán Linh Khê Tường Phù 1 dặm đến viện Hương Tuyền, tiếp theo là Thượng Tháp và tiếp theo là Hạ Tháp đều cùng cách nhau hơn trăm bộ. Cách Hạ Tháp 5 dặm đến đài Bát Nhã và viện Long Giáo. Bên cạnh đó có am Thạch Môn, tiếp đến có am Bố Thủy, tiếp nữa là am Tỉnh Giác (còn 1 tên gọi là đài Thôi Sư), tiếp đến là am Trùng Nham, đều cùng cách nhau hơn trăm bộ. Cách am Trùng Nham 3 dặm đến Thảo Đường (am tranh) của Tạ Sơn Nhân, cách Thảo Đường 3 dặm đến viện Linh Thê. Từ viện Linh Thê đi lên trăm bộ đến đảnh núi Tử Tiêu có tháp Xá-lợi. Từ viện Linh Thê đi xuống cách 8 dặm đến động 3 Tướng quân, từ động 3 Tướng quân đi xuống vào thiền viện Quy Tông cũng cách 1 dặm. Từ viện Linh Thê về hướng đông cách 4 dặm đến am Trừng Vân, tiếp đến am Vạn Tuế, tiếp đến am Thiên Cung, đều cùng cách nhau hơn trăm bộ. Cách am Thiên Cung 1 dặm đến am Dư Phong, từ am Dư Phong đo lên 20 dặm đến động Bạch Vân, từ am Dư Phong đi xuống 2 dặm là đến quán Tiên Thiên (xưa trước gọi là Chân Phong), bên cạnh đó có Thảo đường của Liễu Đại Khanh, cách quán Tiên Thiên 2 dặm đến quán Thái Hư giản tịch, cách quán Thái Hư giản tịch 5 dặm đến quán Thê Ẩn, từ quán Thê Ẩn về phía Đông cách 5 dặm đến am Cổ Vân, cách am Cổ Vân 10 dặm đến thiền viện Khai Tiên, từ thiền viện Khai Tiên về phía nam cách 1 dặm đến am Thạch Bi, từ am Thạch Bi đi lên 7 dặm đến hang Hoàng Thạch, viện Vĩnh Thái, đến trước viện Vĩnh Thái nữa dặm là đến đài Văn-thù, từ viện Vĩnh Thái đi lên 10 dặm có am Đạo Nhân, hang Thánh Tăng, hang Thiện Tài, hang La-hán, hang Hoàng Thạch. Từ thiền viện Khai Tiên về phía Đông cách 2 dặm đến thiền viện Vạn Sam. Từ thiền viện Vạn Sam về hướng đông bắc cách 3 dặm đến viện Chân Giáo (xưa trước gọi là Vân Phong), cách viện Chân Giáo 3 dặm đến viện Cảnh Đức (xưa trước gọi là Cao Diêu), cách viện Cảnh Đức 1 dặm đến Thư đường của Lý Chưng Cổ. Từ Thư đường đi lên 4 dặm đến núi Ngũ Nhũ viện Hương Tích, cách viện Hương Tích 2 dặm đến am Câu Chi. Bên cạnh đó có am Quán Âm, cách am Quán Âm nữa dặm đến am Tề Vân, cách am Tề Vân 3 dặm đến am Ngọa Long. Từ am Ngọa Long đi xuống 5 dặm đến viện Đạo Lâm, cách viện Đạo Lâm 1 dặm đến viện Thiền Tĩnh (xưa trước gọi là Trung Hưng), cách viện Thiền Tĩnh 1 dặm đến am Bảo Khánh, cách am Bảo Khánh 1 dặm đến viện Tịnh Ẩn (xưa trước gọi là Bảo Phong). Cách viện Tịnh Ẩn 3 dặm đến viện Tổ Giáo (xưa trước gọi là đài Thượng Yển), bên cạnh đó có am Bàng Long, am Tây Nguyên, am Bảo Luân đều cách nhau chẳng quá trăm bộ. Cách am Bảo Luân 3 dặm đến am Điêu Mộc, cách am Điêu Mộc 3 dặm đến am U Thúy, cách am U Thúy 1 dặm đến tháp Xích Nhãn. Từ tháp Xích Nhãn về hướng đông bắc cách 10 dặm đến thiền viện Thê Hiền Bảo Giác. Từ nam Khương Quân ra cửa Ngũ Lão cách 5 dặm có am Đại Xung, cách am Đại Xung 5 dặm cũng đến viện La-hán, cách viện Lahán 10 dặm cũng đến viện Thê Hiền. Từ thiền viện La-hán về hướng đông cách 5 dặm đến Tăng trang Chiếc Quế. Từ Tăng trang về hướng tây 5 dặm đến động Bạch Lộc, thư đường của Lý Bột. Cách động Bạch Lộc 3 dặm đến quán Thừa Thiên Bạch Hạc, cách quán Thừa Thiên Bạch hạc 5 dặm cũng đến viện Thê Hiền. Từ viện Thê Hiền về hướng đông nữa dặm đến viện Tịnh Trú (xưa trước gọi là Đăng Vân), từ viện Tịnh Trú về phía Đông 2 dặm là đến viện Quảng Thọ (xưa trước gọi là Tư Thánh), bên cạnh đó có đài Kim Sư. Từ viện Quảng Thọ về hướng bắc cách 2 dặm đến viện Vạn Thọ. Cách viện Vạn Thọ 3 dặm về hướng nam đến viện Lăng Già (xưa trước gọi là Hạ Bạch Thạch), từ viện Lăng Già đi lên 3 dặm đến viện Chứng Đạo (xưa trước gọi là Thượng Bạch Thạch). Cách viện Chứng Đạo 3 dặm đến viện Thái Bình hưng quốc 1 dặm đến núi Thượng Ngũ, viện Hương Lâm cách viện hương Lâm 5 dặm đến viện Tịnh Cư (xưa trước gọi là am Thượng). Cách viện Tịnh Cư 5 dặm đến núi Hạ Ngũ Viện Diên Phước. Cách viện Diên Phước 3 dặm đến viện Trúc Lâm. Cách viện Trúc Lâm 2 dặm đến am Phước Nguyên (xưa trước gọi là Linh Nguyên). Cách am Phước Nguyên nữa dặm đến am Thạch Tuyền, cách am Thạch Tuyền 2 dặm đến hang Lăng tiêu Viện Minh Châu. Từ viện Minh Châu đi xuống 5 dặm đến viện Tịnh Diệu (xưa trước gọi là am Đức Chính). Cách viện Tịnh Diệu 1 dặm đến am Vân Đài, cách am Vân Đài 3 dặm đến viện Thánh Quả (xưa trước gọi là Tịnh Minh). Phía trước đó có viện Giải Không (xưa trước gọi là Cát Tường). Từ viện Giải Không về hướng tây bắc khoảng trăm bộ đến am Cốc Nguyên, từ am Cốc Nguyên về hướng đông bắc cách 2 dặm đến viện Chứng Tịch (xưa trước gọi là Chiếc Quế). Cách viện Chúng Tịch nữa dặm đến viện Hoa Nghiêm, cách viện Hoa Nghiêm 3 dặm đến viện Vĩnh Phước (xưa trước gọi là Long Vân). Từ viện Vĩnh Phước đi xuống 8 dặm đến nông trang Đại Phú. Cách nông trang Đại Phú về phía Đông bắc 10 dặm đến Thiền Viện Tuệ Nhật, cách Thiền Viện Tuệ Nhật 3 dặm đến am Đại Hùng. Từ am Đại Hùng lại ra đường quan cách 7 dặm đến am Phật Điện, cách am Phật Điện 1 dặm đến am Hưng Phước, cách am Hưng Phước 3 dặm đến viện Trí Lâm (xưa trước gọi là Từ Vân), cách viện Trí Lâm 3 dặm thì lên đảnh núi Ngô Chương, thuộc biên giới của Giang Châu.

Từ viện Tuệ Nhật về hướng tây nam cách 10 dặm đến am Đại Thành, cách am Đại Thành 3 dặm đến quán Diên Châu Chiêu Đức, trước quan Diên Chân Chiêu Đức cách 1 dặm đến am Đăng Vân. Sau quán Diên Chân Chiêu Đức cách 1 dặm đến viện Tịnh Tuệ. Từ quán Diên Chân Chiêu Đức về hướng tây ra đường quan cách 20 dặm đến quán Tầm Chân Xung Hư. Cách quán Tầm Chân Xung Hư 2 dặm đến viện Phổ Giác (xưa trước gọi là Trường Khánh). Từ viện Phổ Giác về hướng tây cách 10 dặm trở lại đến Thiền Viện La-hán. Lại từ chùa Lạc Tinh ở Nam Khương đi thuyền qua Đài Điếu Ngư. Cách 1 dặm đến viện Minh Tâm (xưa trước gọi là Thuý Vi). Cách viện Minh Tâm 5 dặm đến viện Lăng Già. Cách viện Lăng Già 5 dặm đến am Thiện Tài, cách am Thiện Tài 3 dặm đến am Lăng Vân (xưa trước gọi là Lăng Vân Thư đường). Cách am Lăng Vân 3 dặm cũng đến Thiền viện Vạn Sam. Từ viện Minh Tâm về hướng Đông nam cách 5 dặm lại đến viện Đông Cổ Pháp Luân. Từ viện Đông Cổ Pháp Luân về hướng bắc cách 10 dặm cũng đến Thiền Viện Vạn Sam. Lại từ Nam Khương theo hướng tây nam ra 15 dặm đến viện Tây Cổ hưng thiện. Cách viện Tây Cổ Hưng thiện 10 dặm cũng đến thiền viện Quy Tông. Phàm từ

Nam Khương ra cửa Kiến Xương qua viện Thừa thiên thì hỏi đường Khại tiên. Ra cửa Ngũ Lão qua đình Vọng Vân thì hỏi đường Thê Hiền v.v...

------------------------

CHƯƠNG V: TRUYỆN MƯỜI TÁM VỊ HIỀN GIẢ

Lô Sơn, không chỉ đá nước có thể suốt trùm thiên hạ, do vì đời đời có các bậc cao hiền ẩn cư lưu truyền. Tại chùa Đông Lâm, xưa trước có truyện 18 vị Hiền Giả, không biết do ai trước thuật, văn từ cạn cợt, lấy sự mà nghiệm xét với các sử trước thường luôn có sai trái nhầm lẫn, người đọc cảm thấy hẹp hòi, khiến Đạo Phong vết tích người xưa dùng mà không biết. Thật tiếc thay! Tôi đã biện thuộc "Lô Sơn Ký" này, mới nhân xem bản cũ và tham khảo sử sách các triều đại nhà Tấn nhà Tống và Cao tăng truyện, thô sơ thêm phần chỉnh sửa, hoặc các điều ghi xưa trước có sự thoát lược, nay không có nơi có thể khảo chứng, nên cũng chưa biết làm sao được về điều ấy vậy!

1. Pháp sư Tuệ Viễn chủ xướng Bạch Liên Xã.

Pháp sư húy là Tuệ Viễn, vốn giòng họ Giã, người xứ Lâu Phiền; Nhạn Môn, thuở thơ ấu là 1 thư sinh. Đến năm 13 tuổi, theo người cậu giòng họ Lệnh Cô đến học ở Hứa Lạc. Pháp sư rất khéo giỏi về Lão trang, tánh khí rỗng thoáng cao lớn. Năm 21 tuổi, Pháp sư muốn vượt Giang đông đến Phạm Tuyên Tử cùng kết bạn với Gia Tuần. Bấy giờ tại Trung Nguyên giặc loạn, đường phía nam cản trở tắt nghẽn. Khi ấy, Sa-môn Thích Đạo Am tạo lập chùa tại Thái Hành, hoằng dương Phật pháp, Pháp sư bèn sang đó nương tựa. Mới đầu, nghe giảng kinh Bát Nhã, bỗng nhiên đại Ngộ, Pháp sư mới than rằng: "09 học thuyết của nho giáo đạo giáo đều tợ như võ trấu!" bèn cùng người em là Sa-môn Tuệ Trì đồng cởi trâm xuống tóc xuất gia, dốc mạng thọ học. Tâm đã nhập Đạo, Pháp sư bèn đem Đại pháp làm trách nhiệm của chính mình, Tuệ Giải vốn sẵn xưa trước, sớm tỏa phát, thần minh ánh ngời vượt trội. Sa-môn Đạo An thường ngợi khen rằng: "Khiến Dòng Đạo lưu truyền khắp nước phương đông, ấy chính do Tuệ Viễn đây vậy!". Năm 24 tuổi, Pháp sư bèn lên giảng thuyết, thường có khách đến nghe giảng nghĩa thật tướng, những điều nghi mạn qua lại, càng dùng nghi bít lấp, Pháp sư mới dẫn dùng nghĩa của Trang Tử để vì sánh loại, những người nghi hoặc được mở rõ biết. Từ đó trong môn nhân đệ tử cửa Sa-môn Đạo An riêng nghe giảng chẳng phế bỏ sách thế tục. Về sau, Pháp sư theo Thầy (Sa-môn Đạo An) vân du phương nam đến Tương dương. Sa-môn Đạo An bị Chu Tự bắt giam giữ, mọi người đều tan rã bỏ đi, Pháp sư mới cùng các đệ tử khoảng 20 người đồng đến Kinh Châu, ở chùa Thượng Minh. Sau đó muốn sang núi La Phù. Năm Thái Nguyên thứ 6 (381) thời Đông Tấn, vừa đến Tầm Dương, Pháp sư mến thích cảnh trí rỗng thoáng của Lô Phụ (Lô Sơn), mới dựng lập Tinh Xá Long Tuyền. Lâu sau có Thiền sư Sa-môn Tuệ Vĩnh trước đó ở chùa Tây Lâm, cùng có quen biết Pháp sư ngày trước, nên muốn mời Pháp sư đồng đến chung ở, mới nói cùng thử sử Hoàn y rằng: "Viễn Công hoằng Đạo, các học giả mỗi ngày mỗi nhóm tụ đông nhiều, mà chỗ ở của Bần đạo đây nhỏ hẹp không đủ nơi. Không biết làm sao đây!". Khi ấy lại mộng thấy Thần núi đến cầu thỉnh rằng: "Núi đây thật là nơi đủ để gá thần". Một đêm nọ bỗng nhiên sấm mưa nỗi dậy, chuyển động mãi đến sáng sớm, nơi chân men bờ rừng rỗng thoáng, chỉ thầu cát trắng trải đất, lại có thêm hàng rào ngăn chấn, văn tử gỗ tốt. Hoàn y mới liền đến nơi chỗ đất đó dựng lập Phòng Điện, xưng gọi điện ấy là Thần Vận, vì ở phía Đông so với chỗ ở của Thiền sư Tuệ Vĩnh nên xưng hiệu chùa là "Đông Lâm". Chùa được hoàn thành trong năm Bính tuất (386) tức năm Thái Nguyện thứ 11 thời Đông Tấn vậy. Trước kia, có tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi của vua A-dục chìm đắm trong dòng sông Võ Xương, Đào Khản không sao tìm cầu được, đến lúc ấy (tức lúc chùa Đông Lâm đã hoàn thành) bỗng nhiên tôn tượng đó nhẹ nhàng nỗi lên nên nghinh thỉnh về tôn trí trong điện Thần Vận, để tu Phật sự. Lại nhân cùng 1 Đạo nhân người nước Kế Tân cùng tạo Đài Phật ảnh, đều có thần cảm, sự tích rõ đủ như trong Cao tăng truyện. Từ đó các đồng bạn kính cẩn hành trì luật, khách dứt tuyệt cảnh trần khắp 4 phương xa, không mong hẹn mà tự đến, như Lưu Di Dân ở Bành Thành, Lôi thứ Tông ở Dự Chương, Chu tục chi ở Nhạn môn, Tông bính, Trương Dã, Thương Thuyên ở Nam Dương, v.v... gồm có 123 vị cùng Pháp sư đồng tu Liên xã Tịnh độ. Pháp sư mới bảo Lưu Di Dân trước thuật văn phát nguyện. Ân trọng Kham đến trấn nhậm Kinh Châu, vào Lô Sơn triển chuyển cung kính trọng, nhưng chỉ 1 lần gặp thấy Pháp sư tự nhiên nghiêm túc tâm phục, vì đục 2 ao ở phía Đông và phía tây mà trồng sen trắng, cầu xin được vào Liên xã Tịnh độ, Pháp sư vì tâm tạp nên ngăn dừng đó. Phạm Ninh ở Dự Chương noi theo đó mà cầu xin vào Bạch Liên Xã, nhưng rồi Phạm Ninh không đủ khả năng theo đó. Diêu Hưng cùng Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập đều khâm trọng Đạo phong đức hạnh của Pháp sư, nên từ xa đưa dâng mọi sự đến cúng thí. Hoàn Huyền chốn chủ bất chợt mà rất mục tôn kính. Vua An Để (Tư mã Đức Tông 396-419 thời Đông Tấn) từ Giang Lăng trở về kinh đô, Phụ Quốc Hà Vô Kỵ khuyên Pháp sư kính hầu thăm vua. Pháp sư lấy cớ bệnh không đến, vua sai sử nhọc đến hỏi. Phàm Pháp sư ở tại núi suốt 30 năm, ảnh bóng dấu chân chẳng đến trong trần tục, mỗi lúc đưa tiễn khách ra về thì lấy Hổ Khê làm biên giới. Đến ngày mồng 6 tháng 8 năm Bính thìn (416) tức năm Nghĩa Hy thứ 12 thời Đông Tấn, Pháp sư thị tịch, hưởng thọ 83 tuổi. Mới đầu, Pháp sư cảm bệnh, tán động dưới rừng, các bậc lão túc kỳ đức uống dùng nước gạo dấm rượu, Pháp sư đều không chấp thuận, lại xin Pháp sư hòa mật trong nước làm tương, Pháp sư bảo 1 vị Luật sư lật tìm trong văn luật có cho phép chăng? Vừa lật tìm chưa được phần nữa thì Pháp sư thị tịch. Pháp sư căn dặn nên để lộ bày hình hài ở dưới rừng. Thế nhưng các hàng Đệ tử cùng các quan thuộc ở Tầm Dương đồng phụng an táng tại đảnh núi phía tây. Tạ Kinh Vận viết bài Minh, Thương Dã ghi lời tựa. Đến năm Ất sửu (845) tức năm Hội Xương thứ 5 thời Tiền Đường, chùa bị hư phế, qua năm Mậu thìn (848) tức năm Đại trung thứ 2 thời Tiền Đường, mới phục hưng lại. Sau khi hoàn tất, Sa-môn Chánh ngôn cầu xin ban khen kính tưởng, vua Vũ Tông (Lý Viêm) trong phong thụy hiệu là "Biện Giác Đại Sư". Đến năm Thăng Nguyên thứ 3 (?), cải đổi thụy hiệu là "Chánh Giác". Đến năm Thái Bình hưng quốc thứ 3 (978) thời Bắc Tống, vua Thái Tông (Triệu Quýnh) lại truy phong thụy hiệu là "Viên ngộ Đại Sư", bèn đề hiệu phần tháp là "Tháp ngưng tịch". Đại sư có bộ "Khuông Sơn tập" 20 quyển, lưu truyền ở đời.

2. Lưu Di Dân ở Bành Thành.

Lưu Di Dân (Lưu Trình Chi) tự là Trọng Tư, người xử Tụ Lý; Bành Thành, là con cháu nối dõi của Sở Nguyên Vương thời nhà Hán, qua đến thời nhà Tấn, gia đình làm quan giữ đến chức khanh tướng. Thuở thiếu thời, Lưu Trình Chi mồ côi phụng thờ mẹ, khắp châu quận thôn làng đều ngợi khen hạnh hiếu, với sách vở của Bách gia chư tử, không thứ gì Lưu Trình Chi chẳng đọc xem, nhưng rất ham chuộng Phật lý, các hiền giả Ân trọng Kham, Hoàn Huyền, v.v... ở Trần quận đều cùng sùng ngưỡng, cởi bỏ áo hạc phủ tham quân. Lưu Trình Chi đã kính mộ Danh đức của Viễn Công, muốn được bạc đầu vào Bạch Liên Xã, mới ghi lục sài tang Tầm Dương lấy làm vốn liếng vào núi, đến năm mãn bỏ đi đến lập am ở gần chùa Tây Lâm, che phủ bằng bụi cây vướng vít. Đến trong khoảng niên hiệu Nghĩa Hy (405-419) thời Đông Tấn, các hàng công hầu đến, đều lánh mặt chẳng tiếp, sau đó lại đổi tên là Lưu Di Dân, Viễn Công cùng các Hiền giả ở Bạch Liên Xã đều suy tôn là Thượng khách. Lưu Di Dân thường gởi sách đến tặng ở quan trung, cùng kết giao thân thiện với Pháp sư La Thập và Tăng Triệu. Lưu Di Dân viện dẫn các kinh luận trước thuật thơ "Niệm Phật Tam muội", đạo đức danh thật, tinh hoa các từ văn nghĩa đồng

1 thời trút rót. Lưu Di Dân bèn nương theo niệm Phật tam muội, xưng niệm Phật A-di-đà, đến đầu tháng 6, quả nhiên thấy được tướng Bạch hào, tiếp đến thấy hình ảnh chân thật Đức Phật đến xoa vào trên đảnh đầu. Lưu Di Dân lại thiết trai cúng dường tạo phước, nguyện chóng xả báo thọ mạng, lại cầu thỉnh chư Tăng đọc tụng Kinh vô lượng thọ, kinh Pháp hoa, qua đến ngày 27 (tháng 6) chư Tăng đều đã nhóm tập, Lưu Di Dân nói là: "Ngày nay Tôi sẽ đi vậy! Đến lúc Tôi tắt thở, xin chớ khóc khiến não loạn". Lưu Di Dân lại hành hương, cầu thỉnh chúng Tăng, cúng dường Đức Phật Thích-ca-mâu-ni để kính tạ vì khiến con biết được có Đức Phật A-di-đà, ngày nay nguyện hẳn sẽ đến nghinh tiếp. Chỉ trong chốc lát, Lưu Di Dân bèn chắp tay, xoay mặt về hướng tây mà xả bỏ báo thân, căn dặn con là Ung tích sĩ vì làm phần mộ, chớ dùng quan quách, khi ấy mọi người không ai chẳng kính ngưỡng cao trọng. Lúc đó là năm Canh tuất (410) tức năm Nghĩa Hy thứ 6 thời Đông Tấn, Lưu Di Dân qua đời, hưởng thọ 57 tuổi.

3. Lôi thứ Tông ở Dự Chương.

Lôi thứ Tông, tự là Trọng Luân, người xứ Nam Xương; Dự Chương. Rộng học thông rành Kinh Thi, Kinh lễ, nhưng chẳng chịu đáp lại sự vời gọi, mà vào Lô Sơn, lập quán tại phía Đông Tăng phòng chùa Đông Lâm, cùng đồng Bạch liên xã với Viễn Công. Năm Nguyên Gia thứ 15 (438) thời Tiền Tống, vua Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) vời gọi đến kinh đô, lập Học núi Kê Lung, thiết đặt sinh viên có hơn trăm người. Lâu sau, Lôi thứ Tông lại trở về Lô Sơn. Các hàng Công Khanh tổ đạo sau đó lại vời gọi, tạo dựng phòng thất tại dưới hang phía tây Chung Sơn, gọi đó là quán Chiêu Ẩn. Lôi thứ Tông vẫn giữ gìn tiết tháo, không vào công môn, thường từ vườn hoa lâm chùa Đông Lâm vào nhà Diên Hiền, vì thái tử và các vương hầu, giảng kinh tang phục. Đến năm Mậu tý (448) tức năm Nguyên Gia thứ 25 thời Tiền Tống, Lôi thứ Tông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi.

4. Chu tục Chi ở Nhạn môn

Chu tục Chi, tự là Đạo Tổ, người xứ Quảng Võ; Nhạn môn. Sau, dời đến ở Kiến Xương; Dự Chương. Năm 12 tuổi, Chu Tục Chi đến Phạm

Ninh thọ học, thông rành 5 kinh 5 vĩ, gọi là 10 kinh, các bạn đồng môn suy tôn như là Nhan Tử. Lưu Nghị Bảo làm tham quân, lại vời làm bác sĩ đại úy huyện, Chu Tục Chi đều chuộng đến dự nhận. Về sau, vào Lô Sơn dự tham Bạch Liên Xã tu Tịnh Độ với Viễn Công. Lại cùng Lưu Di Dân và Đào Uyên Minh, gọi là 3 ẩn sĩ ở Tầm Dương. Chu Tục Chi chẳng chuộng danh tiết cao vợi, Giang Châu thứ sử thường cùng vời thỉnh, Chu Tục Chi cũng sang theo đó. Vua Võ Đế (Lưu Tục 420-423 thời Tiền Tống) đến ngoài đông quách mở quán để tiếp đãi, cưỡi kiệu giáng đến, hỏi Chu Tục Chi về lễ nghĩa, Chu Tục Chi biện luận phân rành tinh dị, nên thời bấy giờ xưng gọi Chu Tục Chi là Thông Ẩn, hoặc có người hỏi Chu Tục Chi rằng: "Lúc giẫm bước đến sân vua thì thế nào?". Chu Tục Chi cười đáp: "Người Tâm rong cửa quyết cao lấy giang hồ làm gông cùm, kẻ tình đặt quên cả hai thì phố thị cũng là hang huyệt vậy". Đến năm Quý hợi (422) tức năm Thăng Bình (phải là Cảnh Bình mới đúng) thứ nhất thời Tiền Tống, Chu Tục Chi qua đời tại Chung Sơn, hưởng thọ 67 tuổi.

5. Tông Bính ở Nam Dương

Tông Bính, tự là Thiếu Văn, người xứ Nát Dương; Nam Dương. Ông nội là Thừa Nghi làm Đô-thái-thú, thân phụ là Dao Chi làm Tương Khanh lệnh. Tông Bính học thông rộng, khéo giỏi các thứ đàn viết đồ họa, rất tinh thông Huyền ngôn. Lúc vua Võ Đế (Lưu Tục) thời tiền Tông đang ở tại Kinh Châu vời Tông Bính làm Chủ Bộ mà Tông Bính chẳng chịu ra làm. Hỏi về nguyên do, Tông Bính đáp rằng: "Nương náu gò đồi, ẩm đượm hang cốc đã hơn 30 năm vậy". Bèn vào Lô Sơn dựng lập am Thất, cùng Viễn Công đồng chung Bạch Liên Xã. Về sau, người anh tên là Tạng làm Nam Bình thái thú, áp bức Tông Bính cùng trở về, Tông Bính mới đến 3 hồ ở Giang Lăng lập tạo vườn nhà, sau đó vời gọi làm tham quân thái úy huyện, Tông Bính đều chẳng chịu đến, mới sai Nam quận trưởng cấp kẻ lại phục dịch, từng có vài lần đưa thức ăn đến cấp tặng. Nam Dương Vương Nghĩa Quý đích thân đến nhà Tông Bính, bảo mang đai mặc áo vải ra cùng diện kiến, Tông Bính chẳng kính bái, Vương Nghĩa Quý nói rằng: "Thật chịu khuất phục tiên sinh vì trọng duyên có được chăng?". Tông Bính đáp: "Duyên như cỏ mục, suy thạnh có là sao, mến chuộng núi sông, đến liền quan về". Tông Bính thường từ Tây Trắc Kinh Vu theo hướng nam lên Hành Nhạc. Đến lúc tuổi già hết đồ họa, ghi nơi phòng thất rằng: "Ta già suy vậy, Danh Sơn chẳng thể còn trông thấy lại, chỉ có lắng lòng quán đạo, nằm để đi đó, vỗ về đàn cầm mà động tiết tháo, muốn tất cả các ngọn núi đều cùng giao hưởng". Đến năm Nguyên Gia thứ 24 thời Tiền Tống tức năm Quý mùi (nếu đúng năm Quý mùi (443) tức năm Nguyên Gia thứ 20, còn nếu là năm Nguyên Gia thứ 24 (447) thì phải là năm Đinh hợi vậy!), Tông Bính qua đời hưởng thọ 69 tuổi.

6. Trương Dã ở Nam Dương

Trương Dã, tự là Lai Dân, người xứ Uyển Nhân; Nam Dương, sau dời đến ở Sài Tang; Tầm Dương, cùng Đào Nguyên Lượng thông làm hôn nhân. Học gần Hoa Trúc, khéo giỏi thuộc văn, tại Châu quận xưng cữ là Tú tài. Nam-trung-lang-phủcông-tào-châu-trị-trung, sau đề cử làm Tán-kỵthường-thị, Trương Dã đều chẳng chiếu đáp ứng, bẩm tánh hiếu từ mến bạn, ruộng vườn nghiệp cũ đều giao phó cho em, chỉ một vị ngọt bùi, chỉ một vựa lúa tẻ, cùng 9 giòng tộc phân chia đó, nhưng Trương Dã chẳng đổi niềm vui. Phàm các thứ trước thuật lưu truyền nơi đời có hơn vạn lời, noi theo tôn kính Viễn Công, cùng đồng Khuông Viết với Lôi Thứ Tông và Lưu Di Dân. Đến lúc Viễn Công thị tịch an táng tại đảnh núi phía tây, Tạ Linh Vận làm bài Minh Chí, Trương Dã ghi lời tựa đó, tự xưng là Môn Nhân. Đến năm Mậu ngọ (418) tức năm Nghĩa Hy thứ 14 thời Đông Tấn, Trương Dã qua đời, thọ 69 tuổi.

7. Trương Thuyên.

Trương Thuyên, tự là Tú Thạc, người xứ Chi Tộc; Li Dân, tánh tình cao xa, ham thích các thứ sử sách, tuy canh cày mà còn mang sách kinh tự vui. Triều đình vời cử làm Tán Kỵ thị thường, nhưng Trương Thuyên chẳng dư nhận, tìm vui với cảnh nhà nghèo khó. Đem Tầm Dương lệnh ban lộc đó, Trương Thuyên cười bảo rằng: "Người xưa chánh dùng dung tất tự an, khuất chí tôi cũng có gì làm vui ư?" nên trọn chẳng dự can. Trương Thuyên vào Lô Sơn, nương theo Bạch Liên Xã tu Tịnh Độ của Viễn Công. Đến năm Quý hợi (423) tức Cảnh Bình thứ nhất thời Tiền Tống. Trương Thuyên qua đời, thọ 65 tuổi.

8. Đại Sư Giác Tịch ở chùa Tây Lâm

Đại sư húy là Tuệ Vĩnh, vốn giòng họ Phồn, người xứ Hà Nội. Năm 12 tuổi, phụng thờ Sa-môn Trúc Đàm hiện làm thầy, Đại sư có được Tuệ ngộ tập học xưa trước nên đối với nội ngoại giáo điển không gì chẳng thông đạt. Và đối với trong Phật sự, Đại sư chuyên lấy sự hành tập Thiền Định làm vui. Trước kia đã cùng Pháp sư Tuệ Viễn đồng nương tựa Sa-môn Đạo An ở Hằng Sơn, cũng cùng ước hẹn đồng lập thảo am ở núi La Phù. Sau đó, Đại sư đến dừng ở tại Tầm Dương trước, khoảng đầu niên hiệu Thái Nguyên (376) thời Đông Tấn, Thứ sử Đào Phạm rất mến trọng Đạo Phong của Pháp sư, uyển nhã như đồng bạn từ xưa trước, từ đó lưu giữ Đại sư dừng ở tại Lô Sơn, xả bỏ vườn nhà cùng nương náu. Đại sư vốn trinh thuần kiết tố tự nhiên, gạn lọc trong sạch tự tâm, chế khắc bản thân mình, nói năng luôn mỉm cười, ngôn ngữ chẳng tổn hại vật, lại riêng lập am vườn ở trên đảnh núi, mỗi lúc muốn thiền tọa tư duy thì Đại sư sang đó ở. Tại chỗ Đại sư ở thường có mùi hương thơm phảng phất, nhân đó mà gọi là Hương Cốc. Trong phòng Đại sư thường có con hổ, mọi người đến hoặc khiếp sợ, nên Đại sư xua đuổi hổ lên núi, mọi người đi rồi, hổ trở lại nằm trong phòng thuần quen. Về sau, Pháp sư Tuệ Viễn ở viện Long Tuyền, đồ chúng ngày một đông nhiều, Đại sư mới mời Pháp sư Tuệ Viễn đồng đến nghỉ ở tại Hương Cốc. Lại cảm điềm Thần mộng khác lạ, Hoàn y tạo lập chùa Đông Lâm. Đại sư mới lấy hiệu nơi ở của mình là Tây Lâm. Trần Quốc tướng quân Hà Vô Kỵ đến trấn nhậm tại Tầm Dương, mỗi lúc đến chiêm lễ thảy đều rất mực chí thành. Đại sư chuyên ý hành trì Pháp môn Tịnh Độ. Đến năm Giáp dần (414) tức năm Nghĩa Hy thứ 10 thời Đông Tấn, Đại sư cảm mắc bệnh rất nặng, một ngày nọ bỗng nhiên ngồi dậy, chỉnh sửa y phục, chấp tay, tìm kiếm giày dép muốn dậy đi, như không điều thấy, Đại chúng đều kinh sợ mà hỏi. Đại sư đáp rằng: "Phật đến!". Nói xong, bèn thị tịch, Đại sư hưởng thọ 83 tuổi. Khi ấy trong núi nghe có mùi hương thơm suốt 7 ngày không ngưng dứt. Đại chúng bèn nghinh thỉnh toàn thân Đại sư an táng cách chùa 200 bộ về phía tây. Đến thời Nam Đường, vua Nguyên Tông (?) lại tạo dựng tháp đình, sau đó lại ban giáng phần hoàng, truy phong Đại sư thụy hiệu là: "Giác tịch Đại sư", tháp hiệu là "Thật Trí".

9. Đại Sư Phổ tế ở chùa Đông Lâm

Đại sư Trúc Đạo Sinh vốn giòng họ Ngụy, người xử Cự Lộc, đến ngụ ở tại Bành Thành, gia đình đời đời là hàng sĩ tộc phụ quảng. Đạo sư từ thuở mới chào đời đã đỉnh ngộ, thông triết như thần, thân phụ biết Đạo sinh hẳn chẳng phải khí vật tầm thường, về sau Đạo sinh nương theo Sa-môn Trúc Pháp Thải mà xuất gia, bèn lấy chữ "Trúc" làm họ. Đã giẫm bước vào Pháp môn, Đạo Sinh tư duy cao vợi, nỗi trội kỳ đặc, nghiêm tầm pháp vị cú nghĩa, xúc loại mở giải. Năm 15 tuổi, Đạo Sinh bèn lên giảng tòa, nhả nạp hỏi đáp như xỏ xâu chuỗi châu ngọc, đến năm 20 tuổi, Đạo Sinh khí chí soi xét ngày một sâu xa. Đến năm Tân hợi (411) tức năm Nghĩa Hy thứ 7 thời Đông Tấn, Đạo Sinh mới vào Lô Sơn, nương náu suốt 7 năm, để mong cầu chí khí ấy, thường lấy cốt yếu vào Đạo dùng Tuệ giải làm gốc, nên tán ngưỡng các kinh điển, chước rót nghĩa tạp, muôn dặm đều tùy theo pháp, không sợ khổ nhọc, Đạo Sinh mới lần đến Trường An, thọ học nơi Đạo tràng Pháp sư Cưu-ma-lathập, Chư Tăng ở Quan trung đều tôn xưng Đạo sinh là Thần Ngộ. Sau đó, Đạo Sinh trở về lại kinh đô, dừng ở tại chùa Thanh Hà, kiểm duyệt chân tục, tư duy nghiên tầm nhân quả, mới nói: "Thiện chẳng thọ báo, đến ngộ thành Phật, soạn thuật luận "Tánh thường hữu", luận "Pháp thân vô sắc", luận: "Hữu vô Tịnh Độ duyên" v.v... bọc trùm các thuyết xưa trước, khéo diệu có ý chí sâu mầu, mà các hàng chấp giữ văn ghét ganh phân khởi. Lại thêm, 6 quyển kinh Niết-bàn mới đầu truyền đến kinh đô, nói hạng người A Xiển đề được thành Phật. Bấy giờ Đại bản kinh Niết-bàn chưa hoằng truyền đến, chỉ 1 mình Đạo sinh phát minh trước hết thấy ngược với mọi người, do đó, các vị cựu học cho là Tà thuyết, bèn ruồng đuổi Đạo sinh đi khỏi nơi đó. Đạo sinh mới nghiêm sắc mặt phát thệ nguyện rằng: "Nếu như điều nói của Tôi trái với nghĩa kinh thì xin ngay hiện thân này cảm mắc tật bệnh. Còn như đối với thật tướng cùng không chống trái, xin nguyện xả bỏ sự nhận biết nay đây". Đạo Sinh ngồi nơi tòa nhà sư tử, nói lời ấy xong liền rủ áo mà đi vào núi Hổ Khê ở Ngô quận. Chỉ trong 10 ngày mà Học đồ có đến vài trăm người. Đến mùa hạ năm nọ, sấm sét chấn động nơi điện Phật vườn xanh, rồng bay lên giữa trời, các vị thức giả nín thinh mà than rằng: "Rồng đã bay, Đạo Sinh hẳn đi vậy!". Quả nhiên, Đạo Sinh giả từ Đại chúng, lại trở về Lô Sơn, lắng ảnh nơi núi hang sâu. Về sau, Đại bản kinh Niết-bàn lưu truyền đến Nam kinh, quả thật kinh văn nói là xiển đề đều có Phật tánh, cùng với điều nói xưa trước của Đạo Sinh như hợp phù khế vậy. Đạo Sinh đã có được bản kinh đó, sau đó lại giảng thuyết. Đến tháng 10 năm Giáp tuất (434) tức năm Nguyên Gia thứ 11 thời Tiền Tống, Đạo

Sinh đang giảng thuyết nơi Pháp tòa tại Tinh Xá Lô Sơ, Đại chúng đều cung kính lắng nghe, đến lúc pháp tịch sắp hoàn tất, bỗng nhiên thấy phất trần phân loạn mà rơi rớt, Đạo Sinh ngồi đoan nghiêm tựa ghế mà thị tịch, nhan sắc không đổi khác, uyển nhiên như nhập định, các hàng Đạo tục đều tán thán kinh dị. Các Đại sư ở kinh đô nghe thế, thảy đều sám hối tin phục. Bèn an táng nhục thân Đạo Sinh tại gò của Lô Sơ. Vương Vi sánh ví Đạo Sinh bằng với Quách Lâm Tông, mới vì lập truyện, thuật bày Di đức. Vua Nguyên Tông (?) ban sắc dựng lập nhà phụng thờ, xây tạo bảo tháp, truy phong thụy hiệu là "Phổ tế Đại sư", đề tháp hiệu là "Pháp Thí".

10. Pháp sư Thích Tuệ Trì.

Pháp sư Tuệ Trì là con ruột của Pháp sư Tuệ Viễn, chí khí xung nhiên có lượng cao xa. Năm 14 tuổi tập học đọc sách, mỗi 1 ngày ghi nhớ có thể sánh địch 10 ngày của mọi người, khéo giỏi văn sử rất hùng tài chế thuật. Năm 18 tuổi, Pháp sư cùng anh (Tuệ Viễn) xuất gia, đồng tôn thờ Sa-môn Đạo An làm thầy, học khắp các kinh, đọc hết Tam tạng. Pháp sư thân cao 8 thước, thức thần phong thái sáng suốt, thường mang giày cỏ, mặc áo nạp nữa co lưng. Mới đầu đồng ở Bạch Liên Xã Tịnh Độ Đạo tràng tại chùa Đông Lâm. Đồ chúng tại Lô Sơn qua lại có cả 3.000 vị, mà Pháp sư xứng bậc thượng thư. Tam tạng Pháp sư Cưu ma la thập ở tại Quan trung xa cùng khâm trọng kính phục. Đến năm Long An thứ 3 (399) thời Đông Tấn, Pháp sư muốn vân du chiêm lễ các Thánh tích ở núi Nga My, bèn chống tích đến mân tụ, mới giả từ Pháp sư Tuệ Viễn để vào đất Thục. Pháp sư Tuệ Viễn khổ tâm muốn lưu giữ nhưng không thể được mới than rằng: "Mọi người ai ai cũng thích nhóm tụ vui vầy, chỉ riêng ông lại thích chia lìa!" Pháp sư nói rằng: "Nếu như ứ trệ tình ái ham thích nhóm tụ, vốn chẳng nên xuất gia, nay đã cắt ái ân cầu Đạo, chánh vì chỉ lấy tây phương Tịnh Độ làm nơi ước hẹn vậy!". Từ đó, bèn buồn bã mà giả biệt, Pháp sư qua Kinh Châu. Ân Trọng Kham, Hoàn Huyền đều tiếp lễ đãi ngộ muốn lưu giữ Pháp sư nhưng đều không thể được. Pháp sư đến chùa Long Uyên huyện Vì thiệu, Thành đô đất Thục. Mọi người lên đến nơi phòng thất Pháp sư dừng ở đều gọi là lên cửa Rồng. Tiều Túng đến nhiễu loạn theo con là Đạo Phước là kẻ hung nghịch rất lắm, vào chùa, người ngựa đều tắm máu, chúng tăng trông thấy rửa cho, không trái nghịch. Đạo Phước trông thấy thế, hổ thẹn sám hối đổ mồ hôi, nói cùng mọi người chung quanh rằng: "Thật là bậc Đại nhân nên có khác với mọi người!". Đến năm Nhâm tý (412) tức năm Nghĩa Hy thứ 8 thời Đông Tấn, Pháp sư thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi.

11. Tôn giả Phật-đà-da-xá người nước Kế Tân.

Phật-đà-sa-xá, tiếng Trung hoa phiên dịch nghĩa là Giác Minh. Tôn giả vốn chủng tộc Đại Bàla-môn, người nước Kế Tân. Năm 13 tuổi, tôn giả theo Thầy vân du đến khoảng đồng trống, tình cờ gặp hổ, Thầy muốn lánh mặt, tôn giả nói: "Hổ này đã no, hẳn không còn ăn thịt người". Chỉ chốc lát, hổ bèn bỏ đi, đến giữa đường quả nhiên thấy thức ăn còn thừa, Thầy kín lấy làm lạ đó. Đến năm 15 tuổi, tôn giả trì tụng kinh Đại thừa có trăm vạn lời. Khi ấy mới đang là Sa Di, Tôn giả đã tập học luận Ngũ Minh, các thứ pháp thuật ở thế gian phần nhiều tôn giả đều có luyện tập. Nhưng tánh tình Tôn giả kén chọn khinh ngạo cho là hiếm người kham nỗi làm bậc thầy của mình. Đến năm 27 tuổi, Tôn giả mới thọ giới cụ Túc, thường xuyên đọc tụng, tay chẳng rời bỏ quyển sách. Mỗi lúc đoan tọa tư nghiệm nghĩa lý, Tôn giả còn lường tấc bóng mà than. Sự tinh chuyên của Tôn giả đến nỗi như vậy! Lúc ở tại Sa Lặc, Tôn giả đã cùng Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập rất kính trọng nhau, về sau, vào nước Quy tư, hoằng dương Phật pháp rất hưng thạnh. Khi ấy, La Thập đã bị Lã quang giam giữ. La Thập ở tại Cô Tàng, sai người mang thư cần thiết đến Tôn giả muốn theo đó, nhưng e ngại mọi người trong nước (Quy Tư) lưu giữ lại, mới dùng 1 bát nước trong, bỏ thuốc vào trong đó chú nguyện vài mươi lời, đưa cho Đệ tử cùng rửa chân, rồi đang trong đêm cất bước ra đi, đến sáng sớm thì đã cách xa vài trăm dặm, dân chúng trong nước tìm đuổi theo không kịp. Tôn giả hỏi Đệ tử là: "Ông cảm thấy thế nào?". Đệ tử đáp: "Chỉ nghe tiếng vọng hưởng của gió vút nhanh, mà trong khóe mắt có đổ lệ". Tôn giả mới vì chú nguyện vào nước và bảo rửa chân rồi mới ngưng. Khi vừa đến Cô Tàng thì Thập Công đã vào Trường An, mới xin Diêu Hưng nghinh tiếp đó. Tôn giả riêng dựng lập Tân tỉnh tại vườn Tiêu Dao, cùng La Thập đối chiếu phiên dịch các luận Thập-trụ-bà-sa v.v... Tôn giả có viền râu mép sắc đỏ, nên người thời bấy giờ xưng gọi Tôn giả là: "Xích tỳ luận chủ" (vị luận sư râu mép đỏ). Trước sau mọi người dâng tặng các Di vật, cúng dường trí sự mà Tôn giả đều chẳng nhận lấy, đến thời khắc thì đi khất thực, mỗi này chỉ thọ trai 1 bữa bèn thôi. Các thứ y bát ngọa cụ, v.v... chất đầy phòng thất 3 gian, mà Tôn giả chẳng lấy làm quan tâm. Diêu Hưng lại vì bán đổi đó mà tạo dựng chùa tại phía nam Thành. Tôn giả, trước chuyên đọc tụng luật Đàm Vô đức, Diêu Hưng nghi ngờ có sai nhầm mới thử khiến đọc Khương Tạ dược phương có đến 5 vạn từ, qua 2 ngày sau, Diêu Hưng nắm văn quyển dò lại, Tôn giả đọc chẳng nhầm sai 1 chữ, mọi người mới phục khả năng nhớ mạnh Kỷ của Tôn giả. Trong khoảng niên hiệu Hoằng Thỉ (?) thời Hậu Tần, Tôn giả Phiên dịch luật Tứ phần thành văn tự Trung Hoa thời Hậu Tần. Năm Nhâm tý (412) tức năm Nghĩa Hy thứ 8 thời Đông Tấn, Tôn giả vào Lô Sơn vì Viễn Công mà dự phần làm khách của Bạch Liên Xã. Sau đó, giả từ Tôn giả trở về lại quê cũ, từ nước Kế Tân, Tôn giả đem Kinh Hư Không Tạng 1 quyển gởi tặng khách, đến Lương Châu. Không biết về sau Tôn giả như thế nào!

12. Tôn giả Phật-đà-bạt-đà-la người nước Kế Tân.

Phật-đà-bạt-đà-la, tiến Trung Hoa phiên dịch nghĩa là Giác Hiền.

Tôn giả vốn giòng họ Thích, người nước Caduy-la-vệ là em cháu của Cam-lồ-phạm Vương. Năm 3 tuổi, Giác Hiền đã phải chịu tang thân mẫu, đến năm 5 tuổi lại phải chịu tang thân phụ, Giác hiền được bên giòng họ ngoại nuôi dưỡng. Theo Tổ Cưu-ma-bà-lợi nghe Giác Hiền là người thông ngộ, mới nghinh đón trở về độ cho làm Sa Di. Năm 17 tuổi, Giác Hiền cùng bạn đồng học vài người đều lấy sự tụng tạp làm hạnh nghiệp chính. Mọi người tụng tập 1 tháng, thì Giác Hiền chỉ đọc tụng trong 1 ngày, nên được thầy ngợi khen rằng: "01 ngày, Giác Hiền có khả năng địch nỗi 30 người/1". Đến lúc đã thọ giới cụ túc, Giác hiền lại rộng học các kinh, có lắm điều thông đạt. Từ thuở thiếu thời, vì chuyên Thiền Luật nên Giác Hiền đã nổi danh, cùng Sa-môn Tăng-già-đạt-đa là bạn học đồng xã cùng đi đến nước Kế Tân. Sa-môn Tăng-già-đạt-đa tuy kính phục tài năng thông mẫu của Giác Hiền nhưng chưa lường biết về con người Giác Hiền như thế nào, sau, đang tọa thiền nơi Thất Kính, bỗng nhiên thấy Giác Hiền đến, Sa-môn Tăng-già-đạtđa kinh hãi mà hỏi về ý thú. Giác Hiền đáp là: "Tạm đến đâu suốt kính hầu Bồ-tát Di lặc". Nói xong, Giác Hiền bèn ẩn, Sa-môn Tăng-già-đạt-đa mới biết sức thần của Giác Hiền, sau lại thấy được các thứ thần biến, bèn kính tâm cầu hỏi, mới biết Giác Hiền là người đã chứng đắc quả vị Bất Hoàn. Giác Hiền vui thích du phương hoằng hóa, mới vượt Thông lãnh trải qua 6 nước, từ Giao chỉ nương thuyền vượt biển đến quận Đông Lai; Thanh Châu. Nghe Cưu-ma-la-thập ở tại Trường An, Giác Hiền liền sang theo đó. La thập rất vui mừng cùng nhau đồng phát huyền chỉ, có lắm điều suy trọng nhiếp phục. Sau đó, Giác Hiền đến Lô Sơn, Pháp sư Tuệ Viễn từ lâu đã nghe Đạo phong của Giác Hiền mới nghiêng che như cũ, Giác Hiền đến núi phía sau Hương Cốc dựng lập am tranh mà ở. Từ đó ở Giang Đông, mới bắt đầu đam vị Thuyền duyệt. Trước đó có vị Sa-môn đến nước Vu Điền thỉnh được phần đầu Kinh Hoa Nghiêm, có cả thảy 36.000 kệ tụng, nhưng chưa có ai truy dịch. Năm Nghĩa Hy thứ 14 (418) thời Đông Tấn, vua An Đế (Tư Mã Đức Tông) mới thỉnh mời nghinh đón Giác Hiền đến chùa Đạo Tràng làm

Dịch Chủ, cùng Ngô-quận-nội-sử Mạnh Khải, Hữu-vệ-tước-quân độ, Sa-môn Pháp Nghiệp v.v... thuyên định văn chỉ, hợp thông Hoa văn lẫn Phạm ngữ, khéo được ý thú của kinh, và trước sau cùng phiên dịch được các kinh luận như Quán-phật-tammuội-hải v.v... cả thảy 95 bộ, 117 quyển đều lưu hành ở đời. Đến năm Nguyên Gia thứ 6 (429) thời Tiền Tống, Giác Hiền thị tịch tại Kiến Nghiệp, hưởng thọ 71 tuổi, Giác Hiền có 3 viên Xá-lợi của Đức Phật Thích Ca thường luôn mang theo bên mình, nhân đó an táng tại đảnh núi phía bắc, và dựng lập bảo tháp vậy.

13. Pháp sư Thích Tuệ Duệ.

Pháp sư Thích Tuệ Duệ người xứ Ký Châu, xuất gia từ thuở thiếu thời, gìn giữ tiết tháo thanh cao, rộng học du phương, du lịch khắp các nước, đến biên giới xứ nam Thiên Trúc, dịch âm Cổ huấn, Nghĩa phương khác lạ, không gì chẳng thông hiểu. Sau đó trở về dừng ở Lô Sơn, dựa vào Bạch Liên Xã tu tịnh nghiệp với Pháp sư Tuệ Viễn, thường đến kinh đô, dừng ở tại chùa Ô y, Tuệ Duệ giảng thuyết đều tư duy sâu triệt vượt ngoài lời. Trong thời Tiền Tống, Bành Thành Vương Nghĩa Khương thỉnh mời vào để cầu xin thọ giới. Tuệ Duệ bảo rằng: "Nghe lễ thì đến cầu học". Vương Nghĩa Khương rất hổ thẹn mới vào chùa kính lễ chí thành để vâng thọ giới pháp. Sau đó, Nghĩa Khương đem áo lông cừu lông chuột dâng tặng, Tuệ Duệ chẳng vận mặc, thường để ngồi vậy. Vương Nghĩa Khương kín sai các kẻ tùy tùng mua lấy bằng 30 vạn tiền. Tuệ Duệ bảo: "Tuy chẳng phải thứ đáng mặc, nhưng Đại Vương ban thí, tạm vì theo dùng vậy". Tạ Kinh Vận rất dốc tín khéo giỏi Phật lý, ngôn ngữ khác lạ trong thế tục phần nhiều có được thấu đạt, mới đem các chữ trong kinh cùng các âm chứng đến cùng Tuệ Duệ trước thuật 14 âm huấn, tuần tự phân bày, Phạm Hán rành rẽ đáng rõ ràng, khiến văn tự có nơi y cứ. Đến năm Kỷ mão (439) tức năm Nguyên Gia thứ 16 thời Tiền Tống. Tuệ Duệ thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi. Người thời bấy giờ tôn xưng trong thời Đông Tấn có 4 bậc Thánh đó là Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung và Tuệ Duệ là 1 trong 4 vị đó vậy.

14. Pháp sư Thích Đàm Thuận.

Thích Đàm Thuận, người xứ Hoàng Long, xuất gia từ thuở bé thơ, thân gần tiếp thừa sự dạy răn của Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, mọi điều nghi trệ xưa trước phần nhiều đều được mở thông, bàn luận chiếc nghị tinh rành, giảng thích các kinh, diễn giải tán thán Đại thừa, trọn ngọ Huyền Vi, sắc không chẳng đắm trước, Pháp sư La Thập thường ngợi khen rằng: "Đàm thuận thật là con người kỳ khí vậy!". Về sau, vào Lô Sơn, theo Pháp sư Tuệ Viễn đồng tu pháp môn Tịnh Độ tại Bạch Liên Xã, Chí Đại trội vượt chẳng ai bằng, lấy việc lợi tế làm gốc. Ninh man hiệu úy Lưu Tuân Khảo đến Giang Lâm tạo dựng chùa, thỉnh mời Đàm Thuận đến ở. Pháp sư Tuệ Viễn bảo nên theo đó. Đến năm Kỷ sửu (đúng phải là năm Ất sửu (425) vậy) tức năm Nguyên Gia thứ 2 thời Tiền Tống, Đàm Thuận thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi.

15. Pháp sư Thích Đàm Hằng.

Pháp sư Thích Đàm Hằng người xứ Giang Đông, xuất gia từ thuở bé thơ. Năm 13 tuổi, Đàm Hằng đã tập giảng các kinh luận Đại thừa, thông rành chí lý sâu xa. Đến lúc thọ giới cụ túc, đối với nội ngoại giáo điều thảy đều thông suốt, đức hạnh riêng sáng trong, thời gian không cải đổi, gá thần nơi cảnh sâu xa, có đàn nai thuần đến nhiễu quanh, thật là tâm vô ngã, vật tĩnh tự nhiên, nguyện tu tây phương đồng về Tịnh Xã. Đến năm Mậu Ngọ (418) tức năm Nghĩa Hy thứ 14 thời Đông Tấn, Đàm Hằng thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi.

16. Pháp sư Thích Đạo Bính.

Pháp sư Thích Đạo Bính vốn giòng họ Trần, người xứ Dĩnh Xuyên. Xuất gia từ thuở nhỏ, làm đệ tử của Pháp sư Tuệ viễn, thấu đạt kinh luật sâu mầu, dẫm trải đọc xem ngoại thư, đặc biệt rất thông rành về Lão trang, đức hạnh riêng trội vượt cao vợi, tuệ ngộ xưa trước sâu xa, các văn điển đã mở bày đọc qua không cần phải xem lại, giảng thuật kinh điển, lý vị thẳng suốt. Đến năm Mậu tý (Ngọ) (418) tức năm Nghĩa Hy thứ 14 thời Đông Tấn. Dự Chương thái thú Vương Ngu vào Lô Sơn bái yết, mến chuộng Đạo phong nên thỉnh mời Đạo Bính làm sơn chủ, tiếp nối dấu vết của Đại sư Tuệ Viễn, mọi người đều vì nguồn Đạo nối tiếp dòng Pháp nên đều kính ngưỡng mà ủng hộ đó. Đến năm Ất hợi (435) tức năm Nguyên Gia thứ 12 thời Tiền Tống, Đạo Bính thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi.

17. Pháp sư Thích Đạo Kính.

Pháp sư Thích Đạo Kính thuộc giòng tộc Lang Da Vương, theo Tổ Ngưng đến làm Thứ sử ở Giang Châu. Năm Thái Nguyên thứ 16 (391) thời Đông Tấn, vào Lô Sơn xuất gia làm đệ tử của Pháp sư Tuệ Viễn, rộng đọc xem sách nho, kiêm thông rành chí điển. Năm Thái Nguyên thứ 17 (392) thời Đông Tấn. Đạo Kính thông hiểu các kinh luận Đại thừa. Mỗi ngày đọc tụng quá hơn vạn lời, tài năng tập học sâu xa, các bậc hiền giả ở đương thời thảy đều kính phục. Đạo kính thường tự than rằng: "Đối với giới luật, trọn đời khó giữ vẹn toàn, nguyên gạn lọc thanh tịnh 6 căn, chỉ xin bẩm thọ 1 giới!". Pháp sư Tuệ Viễn cũng chấp thuận cho đó. Đạo Kính nghiêm trì như băng sương ngời ánh, đức hạnh cao lớn rất hiển trước. Sau khi Pháp sư Tuệ Viễn thị tịch, Đạo Kính vào núi Nhã Da. Đến năm Canh thân (420) tức năm Vĩnh Sơ thứ nhất thời Tiền Tống. Đạo Kính thị tịch, hưởng thọ 51 tuổi.

18. Pháp sư Thích Đàm Tiên.

Pháp sư Thích Đàm Tiên người xứ Quảng Lăng, xuất gia từ thuở bé thơ, làm đệ tử của Pháp sư Tuệ Viễn. Đàm Tiên rất thông rành ngoại học, riêng khéo biết sắc màu các loài cầm thú trong núi rừng, tánh tình nhanh nhẹn hay chậm lụt, thông hiểu cành nhánh cỏ cây, mùi vị đắng ngọt tốt xấu. Lại rất có tài giảng nói, phong thần trội vượt tỏa sáng, bờ khí ngưng xa, xét rõ truyền tả, cầm giữ bản chẳng rời, chú giải kinh Duy Ma, trước thuật "Cùng thông luận". "Liên Xã Lục". Sau 55 tuổi mới tạo dựng chùa. Đến cuối năm Canh thình (440) tức năm Nguyên Gia thứ 17 thời Tiền Tống, Đàm Tiên thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi.

QUYỂN 4

CHƯƠNG VI: NHỮNG GHI VIẾT CỦA NGƯỜI XƯA LƯU LẠI.

Những điều ghi chép của người xưa lưu lại về Lô Sơn thật lắm nhiều, lời trong câu sáng đã rơi vào miệng người. Các bậc già lão ở núi đồng tương truyền không ngưng dứt. Tuy nơi hang sâu cùng cốc, hiếm ít dấu chân người bước đến. Lại những con người đã từng xa cách hàng trăm năm. Nhân văn từ ấy mà tưởng biết phong thái của học, có như giẫm vết đồng đi và đồng án kỷ chung cùng bàn nói vậy. Nên thơ trong núi của các bậc hiền giả ở thời nhà Tấn, Tiền Tống, thường luôn còn có thể thấy được. Đến trong triều đại bắc Tông, có Trương Hối đền ở nhờ, vân du Lô Sơn rất lâu, các nơi đá nước đẹp xinh, phần nhiều có thơ ở trong đó. Từ khi có "Lô Sơn tập". Nhân thời bình trở lại, mọi người mến chuộng phong nhã, các bậc hiền sĩ của Triều Đình lại lên cao đến xa cũng có hứng thú của Phong nhân tao, phàm để lại các Thiên thập đều đồng 1 thời gian. Năm tháng của con người chỉ 1 sáng sớm rất gần, chẳng hoạn nạn không lưu truyền vậy. Nay đây ghi chép văn thơ của những người từ thời Tiền Đường trở về trước, làm thành 1 chương, quý ở tại mà khinh rẻ mắc vì chiếm lấy bỏ vậy.

* Đến Lô Sơn:

Của Pháp sư Tuệ Viễn

Hang cao nhã khí trong
Núi sâu gá vết thần
Lời hiếm hòa các Tiếng
Vọng hưởng núi rơi ra
Có khách riêng ngầm đến
Đường đi quên nơi đến
Khua tay vỗ cửa mây
Cửa Linh sao đủ mở
Lưu tâm gõ nghe sâu
Cảm chí lý chẳng cách
Ai từng lên Cữu Tiêu
Chẳng đoạt cánh Xung Thiên
Khéo đồng đến tự bắt

(Chưa thấy hết toàn văn).

* Phụng Hòa:

Của Lưu Di Dân

Lý Thần hẳn siêu tuyệt
Lướt qua hiếm đồng cùng
Ai đến ngoài khói tiêu
Hiểu rõ cùng vật phân
Mờ mờ trong Cốc Cao
Tiếng vọng tu tự nghe
Vầng núi không rỗng đẹp
Giao đảnh thông vùng mây
Ngô sâu Uyển Xung Tư
Tại cần mở thầm vui
Trong hang nâng hứng nhỏ
Núi tưởng sâu xa nghe
Sáng yếu trở về soi
Mạnh nhở Phó Linh Huân
Vĩnh đào thợ Huyền Tân
Rơi chiểu đợi rỗng cân.

* Phụng Hòa

Của Vương Kiều Chi

Vượt xa hiếm gặp Thần
Diệu Thiện tự cao đồng
Cùng vua cảnh ngợi rỗng
Mịt mờ bụi bít ngăn
Các gò bằng liêu quách
Một núi riêng trội cao
Tiêu cảnh nhờ hang rơi
Khí trong cùng thời êm
Có nêu đến Thần Cực
Có khách vượt non kia
Sông dài rửa đều tốt
Mưa hiểm bày tùng thu
Bước cao đến tuyệt mờ
Hác linh ngời vạn lớp
Gió suối điều khí xa
Vọng vang nhiều vui hưởng
Xa đẹp đã dài lâu
Mắt xin nhiều Cửu Giang
Sự thuộc cõi trời người
Thường nghe tiếng trong thổi.

* Phụng Hòa

Của Trương Dã

Nhìn đảnh lẫn thái tượng
Trông sườn chẳng nghiệm đâu
Vật xa nhóm giữa trời
Vượt bộ chẳng thiếu dầu
Đi lại qua lắm cấp
Một nhấc dứt trần nhiễu
Tỏ sáng trong mắt xinh
Thoáng vút xa nhìn hậu
Nương đỏ lắng ngời tâm
Có thể quên vết ngọc
Gió thoáng khắp vườn sâu
Đường yêu hẳn giảm chết.

* Vào cửa hồ Bành Lễ Của Tạ Linh Vận

Khách đến nhọc nước đêm
Gió trào khó luộm đủ
Châu Đảo chợt xoay hợp
Sườn bờ đổ cỏ hoang
Nương trăng nghe tủi buồn
Thấm mốc thoảng mùi hương
Xuân muộn đồng xanh đẹp
Hang cao mây trắng giăng
Ngòm nghĩ nhỏm đêm ngày
Muôn cảm đầy sớm tối
Vui sướng soi gương đá
Kéo lá vào cửa tùng
Ba sông sư lắm qua
Chín dòng Lý không còn
Vật Linh lộn quý lạ
Khác người kín tinh hồn
Cao vàng dứt ánh sáng
Nước biết cạn dòng ấm
Nhọc làm cang ngàn dặm
Đàn tuyệt nhớ càng lâu.

* Trông nhìn Thạch Môn Của Tạ Linh Vận

Sáng mở vạch mây phủ
Lên cầu xa gả dừng
Núi cao cách nữa trời
Sườn dài dứt ngàn dặm
Gà gáy giữa khe trong
Vượn ngâm trong mây trắng
Sóng Dao ruồng không mở
Ráng đá xui núi bày
Xoay cùng chẳng một hình
Sâm sai đều tương tợ.

* Lên đảnh tối cao của Thạch Lam

Của Tạ Linh Vận

Sớm sách tìm tuyệt vách
Tối nghỉ tại núi lầu
Núi thoáng gối quán cao
Đối đỉnh gần khe xoay
Rừng dài bày sân cửa
Khất đá nông thềm nền
Liền hang thấy đường bít
Trúc kín khiến đi nhanh
Người lại quên thuật mới
Kẻ đi hoặc lối tắc
Sống đêm dòng ngựa chạy
Gào gào tiếng vượn khóc
Thầm lắng đâu lý riêng
Giữ Đạo tự chẳng đắc
Tâm hợp cánh chín Thu
Ngày vui mầm ba xuân
Sống thường vì đợi trọn
Ở thuận nên gạt sao
Tiếc không khách đồng lòng
Cùng lên thang mây xanh.

* Lên Lô Sơn

Của Bảo Chiêu

Dáng cao loạn âu nước
Khách bạc lần trụ núi
Ngàn hang tưởng chồng chất
Muôn thác thế xoay quanh
Lung tung dáng cao xưa
Phân loạn tên tiếp trước
Khe động nhìn mạch đất
Cây đứng ẩn ngang trời
Thềm trùng một mê kín
Mây dưới tháo tung hoành
Băng ngầm Hạ thường đóng
Cây cứng đêm Dông Tươi.

* Theo Quán quân Kiến Bình Vương lên núi Hương Lô

Của Giang Yêm

Quảng Thành mến Thần đảnh
Hoài Nam chuộng Đan Kinh
Núi đây đủ Loan Hạc
Xưa trước hết Tiên linh
Dao đứng thẳng hợp đẹp
Ngọc dựng tin trùng xanh
Ráng hơi dưới quanh mong
Mây trắng trên mịt mờ
Ngồi trông nhìn vòng cong
Gắng cúi trông dòng sao
Chẳng tìm xa cùng lạ
Thì biết tai mắt kinh
Bóng rơi bãi cát dài
Từng nậm muôn dặm sống
Ta lon vốn nhiều ý
Gần gió lắng ngậm tình
Vừa học Bách tùng ẩn
Thẹn theo danh giếng chợ
Vâng thừa cuối Quang tụng
Cúi nghĩ gá sau cờ.

* Chùa Đông Lâm

Của Lưu Hiếu Xước

Điện trăng ngời phan ngọc
Gió xoay hòa linh báu
Sớm vượn réo rui xà
Tối tiếng nước róc rèm
(không thấy hết toàn bài!)

* Ghi đề về Quán Giản Tịch Của Trương Chánh Kiến

Hai cầu khe cách tuyệt
Ngàn nhận đường khó thông
Dây trong cõi Thần Tiên
Mắt bảng ngời Tiên cung
Gương tợ gần non trăng
Dòng như uống khe mống
Quế sâu không lường ảnh
Tùng xa gió mạnh lay
Chỉ ngay đây xa ngóng
Biết tại trong trắng mây.

* Thu muộn về lại Bành Trạch Của Trương Chánh Kiến

Tham quan đến gò hác
Hỏi thu đầy bằng cao
Đường lắm lối thành Dãi
Cửa thông giữa cỏ cây
Núi sáng sắc mây họa
Trời trong chim bay cao
Tự có chậu Cúc đông
Về mang đầy rượu đục.

* Trở lại trong núi Bành Trạch đi lúc sáng sớm

Của Trương Chánh Kiến

Lay rơi sáng trong núi
Hơi thu khắp góc rừng
Ánh đóm ngời ngọn cỏ
Ảnh chim hiện đầu cành
Nắng tàn lánh ngày hết
Dứt ráng theo gió bày
Không về huyện Đào Tiên
Trọn chẳng Tống ngọc Tài.

* Lên Lô Sơn

Của Lưu San

Khói đồng tỏa trên am
Hoa núi rơi trước Kiếng
Cầu cao lấy Hác lớn
Thác nước Quế giữ trời
Tần thỉ ngắm vũ trụ
Hán Võ lên Tinh Chiên
Kết am phân chiếu cũ
Giữ thuyền ánh năm xưa (không thấy được hết toàn bài!)

* Đến chùa Đông Lâm

Của Thôi Dung

Trước qua dưới khuông sơn
Ánh xuân sớm lọng bày
Nay lại sông Bồn cong
Nhạn thu bay về muộn
Nước có Văn Hoàng Triệu
Người thẹn trách truyền về
Xoay đi qua phạm tháp
Xem cùng khắp kinh Ngô
Cây Hạnh trồng lâu năm
Hoa sen nơi khắc dấu
Nam Khê mưa vùn vụt
Đông hiệu mặt nhật ngời
Thác giọt gậy Thiên Chương
Hương Lô vườn pháp chúng
Khói mây theo đường đi
Loan Hạc xa ngựa kèm
Xa lên Linh nghi túc
Sinh Huyền bòm gậy khua
Một đây nhìn ảnh Phật
Tạm muốn áo chầu

Ngày 29 tháng 2 năm Nguyên Hòa thứ 13(818) thời Triều Đường, Tằng Tôn-Triễu-Tân-đại-phusí-trù-tiết-giang-châu-các-quân-sư, Giang Châuthứ-Sử-Thượng-tụ-quốc-thanh-hà-Huyện-khaiquốc-nam-tử-tử-kim-ngư-đại Năng Tái khắc ghi.

* * Chiều muộn ghé Tầm Dương trông nhìn Lô Sơn

Của Mạnh Hạo Nhiên

Trong không vầng nguyệt chiếu
Người thuyền biết gió xoay
Treo chiếu chờ tỏ sáng
Xa tít trong hồ Bành
Giữa dòng thấy Đảo xa
Thế hùng đè chín sông
Im lìm khách đợi tạnh
Vời vợi ráng hồng lên
Lô Sơn một ngày mới
Thác nước phun thành vồng
Lâu muốn tìm hướng tử
Huống nay nhớ Chiễn Công
Tôi đến phần, phần lo
việc Chưa rãnh nghĩ thân
mình Hoài Hải đường gần
nữa Nắng sương năm sắp
cùng Gởi lời người hang
Cốc Hẳn đến ngày sau
đồng.

* Lô Sơn ca về Gá nghỉ am thuyền rỗng thị ngự

Của Lý Bạch

Ta vốn kẻ ngông cuồng
Phụng ca cười khổng khâu
Tay cầm gậy ngọc xanh
Sớm lìa Hoàng hạc lâu
Ngũ nhạc tìm Tiên chẳng lìa xa
Một đời thiếu đến cảnh Danh sơn
Lô Sơn đẹp, ra bên Nam đẩu
Gió chằn chín lớp mây gấm giăng
Ảnh rơi hồ gợn ánh sáng xanh
Cửa vàng trước mở hai núi dài
Sông bạc treo ngược ba cầu đá
Hương Lô dòng thác xa cùng trông
Sườn xoay núi Hạnh lướt xanh biếc
Xanh ảnh hồng rỗng ngời sáng sớm
Chim bay chẳng đến trời Ngô dài
Lên cao trang quán khoảng đất trời
Sông lớn mờ mịt đi chẳng về
Mây vàng ngàn dặm rung sắc gió
Sóng trắng chín luồng nguồn núi tuyết
Thích làm lời ca Lô Sơn, hứng
phát từ Lô Sơn Rãnh nhìn Gương
đá sạch lòng ta
Tụ công nơi đến, rêu phủ hết
(Có một bản nói là:
"Rêu xanh nơi mơ treo trăng tỏ")
Sớm đượm xoay Đau không tình đời
Đàn tâm ba lớp Đạo mới thành
Xa thấy tiên nhân trong mây lụa
Tay nắm phù dung chầu ngọc kinh
Trước mong mờ khả trên chín Đàn
Nguyện tiếp Lô vui đến Thái Thanh.

* Giã biệt Tăng sĩ chùa Đông Lâm

Của Lý Bạch

Đông Lâm nơi tiễn khách
Trăng tỏa vượn trắng kêu
Cười xa Lô Sơn (Tuệ Viễn)
Sao phiền qua Hổ Khê.

* Trông dòng thác đổ ở Lô Sơn

Của Lý Bạch

Tây lên núi Hương Lộ
Nam thấy dòng thác đồ
Tro dòng ba trăm trượng
Hắc phong vài ngàn thước
Chợt như điện xẹt lại
Ẩm tợ ráng trắng bày
Mới sợ sông Hán rơi
Nữa rưởi trong mây trời
Ngửa nhìn thế mạnh thuyền
Mạnh thay! Tạo hóa công
Gió biển thổi chẳng dứt
Sông Trăng phản chiếu trời
Thông không bắn tóc cùng
Hai bên rửa vách biếc
Ngọc bay tan ráng nhẹ
Bọt nước phẩy đá hoang
Mà ta đến Danh Sơn
Đối cùng Tâm càng mở
Thủ hợp ưa thích xưa
Nguyện trọn lìa nhân thế
Trời soi Hương Lô sinh khói tía
Xa nhìn thác nước treo sông dài
Dòng bay thẳng xuống ba ngàn thước
Nghi là sông bạc rơi chín trời.

* Trông nhìn núi Nghĩ Lão ở Lô Sơn Của Lý Bạch

Đông nam Lô Sơn, núi Nghĩ Lão
Trời xanh vót nổi phù dung vàng
Cửu giang sắc đẹp nên cuộn kết
Tôi sắp đến đây cuộn mây tùng.

* Tiễn đưa Lý nữ chân đằng không về Lô Sơn

Của Lý Bạch

Thích người tướng nữ môn
Học Đạo mến Thần Tiên
Tay trắng uốn ráng Thu
Ao lụa kéo khói tía
Một sáng gió lắng chất
Cưỡi loan ngồi yên Ngọc.

* Tiển đưa nội tầm Đăng không Của Lý Bạch

Ông tầm Đằng không Từ
Nên đến nhà núi xanh
Nước giã vân mẫu thực
Gió quét đá Nam hoa
Như khéo mến ở sâu
Cùng mời vui ráng tía.

* Thác nước

Của Tuyên Tông hoàng đế

Xuyên mây thấu đá chẳng nhọc lao
Tới đất mới hay ra nơi cao
Suối khe đâu dễ bám ở lại
Trọn về biển cả gợn sóng trào.

* Lật Lý

Của Nhân Chân Khanh

Trương Lương nghĩ đáp Hán
Cung Thắng thẹn thời nay
Vượn đánh khổ chẳng đến
Bỏ đời buồn vui dãi
Than ôi! Đào uyên tỏ
Bỏ nghiệp làm Tấn tôi
Thưa vì sau Công Tưởng
Mỗi nhớ nước nhà đau
Đề thơ năm canh tý
Tự làm người nghĩa Hoàng
Tay nông kinh Sơn Hải
Đầu đội khăn rưới lọc
Hứng theo mây lẽ xa
Bay theo về chim hết. (Chưa thấy hết được toàn bài)

* Quán Giản Tịch Của Trương Hựu

Dưới núi Tử Tiêu nhà cỏ Tiên
Ngàn năm đâu để Khánh đá treo
Khỉ trắng đêm sinh Rồng trong nước
Mây biết khi ngắt Hạc về trời
Phòng trúc ảnh dính trăng giữa sân
Hiên Tùng tiếng lại nữa vách suối
Mặt nhật hận buồn đời nổi trôi
Khắp núi nhọc chất mộng như vầy.

* Ngày xuân trông xem thuộc thành mới dừng nghỉ tại Tinh Xá Đông Lâm và Tây Lâm.

Của Vi Ứng Vật

Nhân lúc xét phong tục
Bom ân đãi tuổi giá
Chuẩn định ra Tầm Dương
Sửa giá vui sông núi
Mây trắng thu hang tạnh
Các núi riêng xa trời
Sừng sửng tướng cửa đá
Mốc mờ khói Hương Lô
Cây vương vải quấn treo
Xa nghiêng hết che đảnh
Mới đến am thọ Thích
Lúc vật từng hoa gian
Đàm viễn xưa mới đến
Ở đây buồn cao sâu
Đông Tây chùa rừng trúc
Rưới rót khe suối lạnh
Người việc đã sạch hết
Năm tháng lại đã dài
Điện phòng thừa xanh đỏ
Thềm các đều quen cao
Xưa Hiền sĩ dừng nghỉ
Huyện thân tuyệt duyên trần
Nay Ta nhờ Triều gởi
Giáo hóa chấm dặm bày
Diệu Đạo như tạm đắc
Ra xử lý không thiên
Tâm thường đồng mến chuộng
Vết đâu lìa dây giăng.

* Ghi đề Tùng Điệt tiếp nối Thư Trai tinh xá Tây Lâm

Của Vi Ứng Vật

Gả tâm mới lắm mến
Dứt tăm ông riêng thiếu
Mến tạ Tinh xá mời
Nương Tăng muốn quán Diệu
Suối trong trước thềm rót
Ao sạch cửa bắc soi
Quả thuốc lẫn lộn bày
Tùng tre đều xưa cũ
Thường men cảnh người sâu
Từng thoảng hương sớm nhìn
Nhặt dẻ hang vượn cao
Hái cỏ Thuyền rừng vợi
Quấn áo đâu cản lạnh
Ăn rau sau no lòng
Tuy chịu Đơn bắc hẹp
Đâu lạnh tỏa tía xanh
Quận có giường ưu Hiền
Triều biên cống sĩ dua
Muốn đồng Chu luân chuyển
Chớ sợ đổi Văn chê.

* Ghi đề về am tranh của Trịnh Thị Ngự Di

Ái

Của Vi Ứng Vật

Cư sĩ gồm nương Tăng
Núi xanh kết thất lá
Tùng thông ngời non muộn
Ao xuân ngậm rêu xanh
Lắm hoa chen Dương lãnh
Thú mới vọng cốc sâu
Rít dài men rừng cao
Mến đây vết cao đời.

* Ghi dưới thác nước khe phía Tây quán

Giản Tịch

Của Vi Ứng Vật

Dòng tuôn tuyệt vách tan
Khói linh xanh khe sâu
Giữa hang gió Tùng nỗi
Vùn vụt rưới áo trần
Nhìn khắp vui quạ vượn
Mở dãi tan rừng mây
Trà quả mời bạn thật
Chén rót thấm đồng lòng
Năm rộng nhớ vui đây
Chơi xuân mới lại tìm
Tạm đem sáo thổi ngang
Một tả lời non nước.

* Tìm thác nước ở quán Giản Tịch Của Vi Ứng Vật

Men đá quen nguy qua khe gấp
Vui sườn vội vã đùa suối cao
Còn dẫu Hổ trúc nhiều năm tháng
Muốn giao về người dứt thế duyên.

* Quán Giản Tịch

Của Tần Thao Ngọc

Vết linh ngoài vật khách hiếm đến
Phòng trúc liệu đóng cửa gai xưa
Sách Đan muôn quyển ghi chữ đỏ
Núi biếc ngàn trùng khoá thuý ai
Khóc dê vượn trắng dẫn con đi
Kêu gió Hạc đen cạnh người về
Chỉ nên cửa ngọc tên còn mãi
Chiều về mây rỗng giữa trời bay.

* Thác nước

Của Lục Thiềm

Ngay dòng người chẳng biết
Ngàn thước treo đầu mây
Sắc núi nhuốm chẳng được
Công thần cắt khó thay
Hạ phun vượn chim ngưng
Nước thu đầu ngưu lạnh
Đợi giúp sau bể cả
Vụt sống càng khéo trông.

* Đài Phiên Kinh

Của Bao Cát

Cỏ dại dưới đài cao
Đời trước ghi chẳng sai
Văn vàng phiên kệ Cỗ
Chữ Hán biến Hồ thư
Chỉ lụa gió vụt đứt
Lụa vàng lửa cháy hết
Xé mây mở Bạch nhật
Xuyên nước soi Sen Hồng
Khoa đẩu từng cải đổi
Am vườn cày xới khắp
Cửa chân gồm quá vận
Hai Dục mếu cùng như.

* Ghi đề ở nhà cũ Tiêu Lang Trung tại chùa Tây Lâm

Của Hán Dũ

Con gái Trung Lang hay truyền nghiệp
Bá Đạo không con giữ nghiệp nhà
Chợt đến khuông Sơn nơi từng ở
Vài hàng buồn lệ rơi ráng mây.

* Thác nước

Của Từ Ngưng

Suối dữ, suối dữ ông chống thẳng
Sấm vội vào biển không tạm dứt
Xưa nay vài tợ lụa trắng bay
Một dãi biên rách sắc núi xuân.

* Phỏng hỏi vườn nhà cũ của Đào Công (và lời tựa)

Của Bạch Cự Dị

Tôi từ xưa trước mến mộ cung cách làm người của Đào Uyên Minh.

Năm trước tại Vị Châu, những lúc nhàn rỗi từng có đọc xét 16 bài thơ thể của Đào Uyên Minh. Nay đến Lô Sơn, qua làng cũ Sài Tang, nghĩ nhớ Đào Uyên Minh nên phỏng hỏi vườn nhà của Đào Uyên Minh mà chẳng biết được, lại tạm đề thơ là:

Bụi trần không nhuốm ngọc
Phụng linh chẳng ăn dơ
Than ôi! Đào Tĩnh Tiết
Sống trong thời Tấn, Tống
Thật tâm có đều giữ
Miệng nói chẳng thành lời
Trọn chỉ tre con lẽ
Rủ áo đầu Dương Nam
Di tề mỗi một thân
Đói khổ chưa là khó
Tiên sinh nam Nam tử
Cùng chung phận cơ hàn
Trong lòng ăn chẳng đủ
Áo không che kín thân
Mời luôn, trọn chẳng đến
Đó thật đáng chân Hiền,
Tôi ra đời sau ông
Cách xa năm trăm năm
Từng đọc truyện Ngũ Liễu
Thuật làm mười sáu chương
Nay lại hỏi nhà cũ
Mịt mờ tại trước ông
Chẳng mến cháu không rượu
Chẳng chuộng Đàn không dây
Mến ông bỏ danh lợi
Già chết vườn gò đây
Sài tang thôn lạc cũ
Lật lý núi sông xưa
Chẳng thấy cúc dưới chậu
Chỉ thoáng khói trong thành
Con cháu tuy không nghe
Giòng tộc chưa đổi dời
Lúc gặp người họ Đào
Khiến lòng tôi nhớ ông!

* Ngày xuân đến chùa Đông Lâm và Tây Lâm

Của Bạch Cư Dị

Xuống ngựa chùa Tây Lâm
Vội vàng gấp thẻ nhẹ
Sáng làm Quan Công Phủ
Chiều là khách núi linh
Tháng hai, bắc khuông Lô
Băng tuyết mới tiêu tan
Rừng Dương ngắc mỏm trà
Dưới hác rõ mạch mối
Rực rỡ phong thổ ấm
Mờ mờ đảnh chửa mây
Tan lâm muôn hác xuân
Ngưng đong một khi biếc
Thân nhân dể đạm bạc
Quan tán không kéo lôi
Xa kia mười tám Hiền
Xưa nay đồng đến đây
Là năm chuẩn quan nỗi
Xứ Xử dấy binh đao
Trí Sĩ nhọc mưu nghĩ
Trung thần như ngọc việc
Chỉ người không tài cán
Trong núi đùa suối đá.

* Đến khe Thạch Môn

Của Bạch Cự Di

Thạch Môn xưa không đường
Phanh hùm tìm dấu vết
Lúc gặp núi nước thu
Trong sáng như xưa trước
Từng nghe bạn Tuệ Viễn
Đề thơ vách hang này
Mây che rong rêu phủ
Xanh tươi không tìm thấy
Sơ sài tre hoang mọc
Đá vỡ đổ nhiều năm
Từ sau thời Đông Tấn
Không còn người tham quan
Chỉ còn tiếng khe thu
Rì rào cùng sớm tối.

* Ghi đầu Đình Khe 18 vị Hiền giả

(tại dưới núi Ngũ Lão thuộc phía Đông nam cua Lô Sơn).

Của Bạch Cự Dị

Lạ, Ông chẳng thích Quan
Lại không đến xóm làng
Ngày nay đến sâu ở
Trọn chẳng biết là sao
Trước Ông, đình khe đá
Rì rào tiếng đầy tai
Uống Ông, cốc rượu Xoắng
Say nằm không dạy nỗi
Thấy Ông, núi Ngũ Lão
Càng tiếc ở chợ thành
Mến Ông, ba nam Tử
Mới than mình không con
Tôi đến dưới Lô Phụng
Lập am làm Cư Sĩ
Núi Nam và núi Bắc
Qua lại theo từ đây.

Am tranh mới dựng tạo dưới ngọn núi Hương Lô, tức sự Vinh nghĩ nhớ tại mặt phía Bắc núi Hương Lô, thuộc biên ranh phía Tây chùa Di Ái. Đá trắng sao đục được, dòng trong cũng rì rào, có vài mươi gốc tùng, có hơn ngàn cây trúc, tùng tỏa xanh như lọng, trúc tựa lang cang biết. Phía dưới đó không có người ở. Thật tiếc thay đã nhiều năm, có lúc chim khỉ nhóm tụ, trọn ngày rông không gió khói. Bấy giờ có Thâm Minh Tử, vốn dòng họ Bạch, tự là Lạc Thiên, lúc bình sinh không ham chuộng gì, thấy vậy Tâm vẫn y nhiên, như được chốn đất được trọn sống về già, bỗng nhiên chẳng biết trở về, gá hang lập am tranh cỏ, mở mang hốc hác làm vườn trà. Lấy gì để rửa tai ta? Đầu phòng suối bay rơi, lấy gì để rữa sạch mắt ta? Dưới thềm mọc nở sen trắng. Tay hữu nâng một đài, tay tả xách 5 Đàn, ý ngạo nhiên tự đủ, ngông ngáo giữa khoảng ấy, hửng say ngửa mặt lên trời ngâm ca, trong ngâm ca có lời gởi gắm:

Ta vốn kẻ quê mùa
Lầm vì lưới đời buộc
Lúc đến xưa bưng Nhật
Già đi, nay về núi
Chim nhọc được rừng tốt
Cá cạn lại dòng trong
Bỏ đây muốn sang mãi
Giữa đời lắm hiểm nguy.

* Lên đảnh núi Hương Lô Của Bạch Cư Dị

Xa xăm đảnh Hương Lô
Tâm còn tai mắt tưởng
Trọn đời làm sai sử
Nay mới một lần sang
Men rên đạp đá cao
Tay chân nhọc cúi ngửa
Đồng đi ba bốn người
Hai người không dám lên
Lên đến trên đảnh núi
Mắt hoa, thầm hốt hoảng
Cao thấp có vạn tầm
Rộng hẹp không số trượng
Chẳng cùng xem nghe khắp
Sao biết đất trời rộng
Nước sông nhuyến như dây
Thành bồn nhỏ bằng tay
Rồi tôi sao vụn vặt
Chưa thể khỏi giày trần
Về đi nghĩ tự than
Cúi đầu vào đất Kiến.

* Nghỉ qua đêm tại quán Giản Tịch Của Bạch Cư Dị

Hang, mây trắng còn giăng
Rừng, lá hồng vừa rụng
Ánh thu dẫn bước nhàn
Chẳng biết thân gần xa
Đêm ghe ngủ Đông Linh
Ngắm tỉnh máy trần hết
Tạm lại còn như thế
Huống gì trọn đời ẩn
Lấy gì trừ đêm đói
Một thừa phẩm vân mẫu.

* Nghỉ lại đêm tại chùa Tây Lâm Của Bạch Cư Dị

Cây rơi trời tạnh núi xanh bày
Mến núi cưỡi ngựa vào mí chơi
Tâm biết chẳng như Sài tang lệnh
Đêm một Tây Lâm khiến về thôi.

* Nghỉ lại đêm tại chùa Tây Lâm, sáng sớm sang chùa Đông Lâm, gặp Mãn Thượng

Nhân, nhân gởi Thôi 12 viên ngoại

Của Bạch Cư Dị

Từ trách cửa cao Uyên loan cách
Già vào Lô Sơn, hưu nai theo
Chiều tàn tiêu điều ghé chùa ngủ
Sáng sớm sạch trong cùng Tăng mong
Song Lâm, tôi dậy sau chuông báo
Ngày lễ ông đến vào các thay
Bằng yến cao thấp đều phân định
Chớ nhọc sức tâm nghĩ tưởng vời.

* Ghi đề ở dòng suối nóng dưới núi Lô Sơn

Của Bạch Cư Dị

Một mắt suối nóng dòng về Đông
Lấm bùn ngấm có ấm không công
Ly Sơn nước ấm bởi cớ sao
Chảy vào trong phố vàng giếng ngọc.

* Lên núi Hương Lô

Của Bạch Cư Dị

Tựa đá men rêu dốc thân bệnh
Mắt xanh gậy trúc khăn lụa trắng
Lúc khác họa ra Lô Sơn chướng
Bèn là thượng nhân núi Hương Lô.

* Từ núi Hương Lô xuống dừng nghỉ tại nhà cỏ mới làm thành, tình cờ ghi trên vách phía Đông

Năm giá ba gian nhà tranh mới
Đá vây trụ Quế sắp quanh tường
Thềm Nam mặt nhật ngày Đông ấm
Cửa Bắc đón gió mát ngày hè
Dưới thềm suối bay, tài có điểm
Phẩy cửa Huệ Trúc chưa thành hàng
Xuân về cỏ chớm hiên Đông tốt
Các ấy rèm am dáng ánh gương.

* Đùa tặng 13 phán quan giòng họ Lý Của Bạch Cư Dị

Duỗi roi cùng tiễn say ngất ngây
Xa thấy Lô Sơn chỉ tợ ông
Tưởng ông mới tỉnh từ Quân hứng
Chưa mến Hương Lô, núi Thượng Nhân.

Dẫn các khách thăm núi Đông lên núi Hương Lô, gặp trời mưa mà trở về, thấm ướt lẫn lộn, cùng nhau cười đùa ghi đề bài này để cởi mở giễu cợt của Bạch Cư Dị

Lặng vẫy lên núi đi
Chuông rồng gặp mưa lui
Thềm cao vin Bệ lệ
Đá trơn giẫm mốc meo
Vạt áo dơ cùng đùa
Giày xỏ tôi tự than
Chớ khinh chân bùn đất
Từng đạp thềm ngọc lai.

* Đọc thơ Linh Triệt

Của Bạch Cư Dị

Trong chùa Đông Lâm dưới hiên Tây
Phiến đá khắc ghi vài thơ bài
Lời câu quái lạ riêng chỉ dạy
Xem tên biết rõ Lão Thang thầy.

* Ba bài tứ tuyệt giã biệt am tranh

Của Bạch Cư Dị

Nghe ngay chim núi về Nam ngủ
Giấy vàng trước gối bỏ viết rơi
Vì cảm ân ông phải tạm dậy
Lô Sơn chẳng nghĩ ở nhiều năm!
Ngủ lâu đổi áo làm cư sĩ
Bỗng treo bào lụa kẻ sứ quân
Thân rơi am cỏ tâm chẳng cách
Lô Sơn chưa phải động dời văn.
Ba gian nhà cỏ mở nhìn núi
Một dãi núi suối cuộn quanh nhà
Sắc núi tiếng nước chớ buồn bã
Ba năm quan mãn, lại về đây!

* Ghi đề giả biệt am tranh chùa Di Ái, và trình 12 sứ quân giòng họ Lý. (Lý Phương Lô

Sơn, thường ở động Bạch Lộc) Của Bạch Cư Dị

Từng ở dưới Lô Phong
Thư đường đối Đài thuốc
Chặt rêu mới giữa đường
Men cửa trúc xưa mở
Thềm nước gần khơi ngòi
Ao sen tai tự hái
Năm năm mới tạm đến
Một đêm phải lui về
Tạm chưa ở lâu được
Còn hơn chẳng vãng lai
Nhà ông, động Bạch Lộ
Nghe Đạo cũng thành rêu.

* Trước am tranh mới mở ao, trồng sen nuôi cá, có 1 ngày nọ ngầm đến đó

Của Bạch Cư Dị

Tuôn tuôn nước ba hạp
Mênh mông bờ muôn khoảnh
Chưa như trên đường mới
Gió nhẹ sóng lăn tăn
Lục bình nỗi lênh đênh
Bờ mới ngay hàng rào
Cá lý ba bốn tấc
Sen trắng tám chín cành
Rẻ nước muốn thành đường
Men đê mới nhổ rào
Đã bị khách trong núi
Gọi làm ao Bạch gia.

* Mây trắng mong (làm dưới hang Hoàng

Danh)

Của Bạch Cư Dị

Tuổi ba mươi khí mạnh
Trong lòng lắm thị phi
Sáu mươi thân già suy
Tứ chi khó duy trì
Bốn mươi đến năm mươi
Đúng lúc lui nhân nghỉ
Tuổi lớn biết mạng phần
Tâm ngu thiếu tu đạo
Thấy rượu hứng hiện còn
Lên núi sức chưa say
Tôi mong tuổi đến thế
Tạm cùng mây trắng mong.

* Ngâm ca ra núi

Của Bạch Cư Dị

Sáng vịnh thơ chơi Tiên
Chiều ca khúc lai vi
Nằm mây ngồi đá trắng
Trong núi mười lăm đêm
Đi theo ra động nước
Lui xa vin trúc hang
Sớm chiều thường qua lại
Tâm mong duyên Dao thảo.

* Chùa Đông Lâm, gởi Bao Thị lang Của Sa-môn Linh Triệt

Điện cỗ trong ngầm núi cây xuân
Bên ao đá kiểng một quán Thân
Ai hay đến đây đốt hương ngồi
Cùng làm Lô Phong người đến núi.

* Ghi đề ở Thuỷ Đường tại chùa Tây Lâm, kính gởi Võ Dương Công

Của Sa-môn Linh Triệt

Ngày ngày đến núi về đã muộn
Rảnh rỗi huống không trẻ một thời
Thân già định gởi vào rừng núi
Tâm cùng Tùng lớn mảnh đá mong.

* Quán Giản Tịch

Của Sa-môn Liễu Triệt

Sam Bách già cỗi giữa vách hang
Vượn vin ổ Hạc cành khô gãy
Tháng năm băng đóng, tháng sáu hàn
Lúc thấy tiên ông lại thấy tuyết.

* Tặng ẩn sĩ ở quán Đại Minh núi Ngũ Lão

Của Diệu Hệ

Mây quán núi bắc đây
Cùng ông dắt tay thưa
Rừng ngay giẫm nước đầy
Cửa Động vào lường sáng
Chợt thấy Loan hạc gần
Bỗng là khói mốc bay
Người xưa khách hòa trong
Im gặp đàn tâm nhỏ
Đan thuật mong được bày
Rồng xanh sau trở lại
Dằn dặc ý trọn đời
Ngày nay lại cùng trái.

* Quán Giản Tịch

Của Tôn Phường

Điện lang cùng mây liều
Bên Tử tiêu xanh biếc
Tự nhiên ứng có thuốc
Ai dám nói không tin
Sắc đẹp muốt đường sườn
Tiếng Tùng nhường thác suối
Chưa hay thơ dài đi
Đâu tiện là duyên trước.

* Ngủ đêm tại cốc Thanh Ngưu, nơi ở của

Tiêu luyện Sư thời nhà Lương

Của Dương Hành

Theo mây bước vào cốc Thanh Ngưu

Đạo Sĩ trâu xanh cho nghỉ lại

Thích thay đêm dài trong trăng tỏ Chỉ có bên đàn một cành tre.

* Gởi Ẩn Sĩ ở Lô Sơn

Của Dương Hành

Gió rít chuông ngoài mây
Hạc đậu Tùng ngàn năm
Nghĩ tưởng mờ chẳng thấy
Trăng soi núi lớp bày.

* Thác nước

Của Giang Vi

Lô Sơn chánh phương Nam
Thác nước tiếng xưa lai
Muôn dặm chầu triển xanh
Ngàn tầm ngoài mây trắng
Tiếng lạnh trọn từ xa
Mạch linh ai phân rành
Chỉ trừ sau Thiên Thai
Sông thường chẳng đâu bằng.

* Quán Giản Tịch

Của Giang Vi

Mới đến Huyền Đô mơ uất Đào
Vũ nhân cùng bạn khắp du ngao
Khe rộng cửa Động bụi trần dứt
Núi lớn lòng trời khí tía cao
Giếng vàng suối Thu ngời sóng sánh
Đàn Đá Tùng già vận tiêu bay
Ngâm thừa liền than đời bèo bọt.

* Quán Giản Tịch

Của Giang Vi

Tiền đốt đầy sân người tế bãi
Núi Tây ảnh mắt trăng chìm chìm
Tới lui việc cũ trong bia nói
Bên Đàn bồi hồi cảnh Thu sâu.

* Giả từ chùa Đông Lâm

Của Tào Phần

Đầu núi chẳng ở nỗi khói riêng
Trên ao sen trắng cùng lưu lại
Lưới trần rành rẽ biết bó buộc
Cần phải cưỡi ngựa cách mối mây.

(Ngày 15 tháng 7 năm Hội Xương thứ 3 (843) thời Tiền Đường, ghi đề là phần. Năm khai thành thứ 4 (839) thời Tiền Đường, Thôi Lễ Hạ Tiến sĩ, sau làm Tung-thư-xá-nhân-hình-hộ-quân-thị-langtrung-võ-quân-tiết-độ-sứ)

* Tôi từ Hữu Hạt ra trốn Chung Lăng, kín xét nhà anh chẳng nhẫn xa biệt. Đàm thấy Tể tọa xin đổi thay, bèn được đồng lúc đến Giang Tây, có Đại Đức Hiển Công ở chùa Tiến Phước là bậc Thượng thủ chốn Thiền môn nói là "Về đông Lâm cũng được kết bạn Đạo", đường giúp đi, từng tiếp thừa luận bàn trong mất. Nay qua chùa, nhân ghi lưu lại một bài thơ: của Bùi Hưu.

Đài Lân triều sĩ từ thư phủ
Cửa phụng Thiên Tông ra Đế Kinh
Về đến Sông Lâm gần Tuệ Viễn
Đi qua Ngũ Liễu bãi Uyên Minh
Bạch Y cư sĩ nhẹ ban trước
Bại..... Cao tăng.....
Tình Dẫn được người bệnh không tưởng khác
Nhất tâm noi việc....

* Hòa xá đệ gởi đề chùa Đông Lâm Của Bùi Mô

Nguyên khách chẳng tựa Phụng vin rồng
Vốn thân vượn núi lẫn Nai đồng
Rỗng hướng ban đi quấn dây thao
Tranh nhủ trần Khuyên đồng ngọc quý
làm bạn tốt Mừng dòng vàng nhân
Ngày nay qua dưới núi Hương Lô
Mới mừng ngoài vật có di Dân.

* Quán Giản Tịch

Của Thẩm Bôn

Núi chứa thắng cảnh đáng........ lâu Đài Động Phủ mở
Tóc bạc đầy đầu ai chịu đến
Rêu xanh phủ bước tự thường qua
Buồn gió việc rỗi bỏ ba ngày
Ngọc dịch Trường sinh mong một chén
Đường này có Tâm trăng sao hiện
Đàn Hạnh bạn Tiên chớ cùng ngờ.

* Lại đến chùa Đông Lâm

Của Thẩm Bôn

Mười lăm năm trước lại đến đây
Ao sâu rêu đẹp cây tủa dây
Lại đến vài nơi, tâm nghĩ nhớ
Đâu thấy thời xưa Tăng bạc đầu
Hoa có ngậm sương đêm trăng tỏ
Điện không gió động suốt đèn soi
Thật kinh đây đi già lại già
Chưa có cùng lại hay chẳng hay.

* Thác nước

Của Thẩm Bôn

Rót ra trong núi nguồn hóa nước
Phung y hành thác đổ đời hiếm thay
Tay như Tiên nữ xinh ngồi dệt
Chẳng thấy sơn công hái được về
Muôn xưa sắc ghen trăng mờ tỏ
Ngàn tầm mạnh học mây trắng bay
Như nói thật cái hay cắt được
Dự khắp nhà giàu mua làm áo.

* Ngóng nhìn Lô Sơn

Của Thẩm Bôn

Đông qua khuông Lô nhẫn ngủ say
Hai ngươi trọn ngày treo đảnh hiểm
Đè thấp Ngô Sở liệm nước tươm
Ước phá ráng mây riêng tựa trời
Một mặt cao lại không chim bay
Vài núi cuồng muốn đuổi thuyền câu
Người song chẳng cười riêng lắng ngóng
Bói ẩu nghĩ dài trước thác bay.

* Ghi đề về chùa Đông Lâm

Của Bổ Y Chu Thước

Tuyên Tông hoàng Đế ân biển sâu
Lại khiến kẻ mê biết tâm Phật
Nữa chết sen trắng mới giáng mưa
Muốn thành đất hoang lại trải vàng
Tăng mở thất đá, kinh như cũ
Hổ ấn suối khe, dấu chưa chìm
Ai bảo Ngũ Hồ ghi kiếm khách
Đời nay lại được đến Đông Lâm.
Lại sùng huyền pháp tượng trời Tây
Mở các mây cao núi biếc bày
Gió đưa mãnh mây vời ngựa trắng
Hạc nghinh bần nữ cúng vòng tiền
Sa-môn tìm Phật từng ngầm bước
Biển khổ thương người đổi thuyền ngay
Tam giáo thạnh hưng đàm Đế Đạo
Niên hiệu Đại Trung (847-860), năm Thái Bình.

* Bốn bài thơ ghi về chùa Đông Lâm Của đại sư Thiền Nguyệt-qua Hưu

Rãnh đi rỗi ngồi nghĩ phan duyên
Nhiều lắm Đông Lâm, chùa xưa cổ
Thác nhỏ tiện cao ba trăm thước
Tùng trung nhiều lắm chỉ ngàn năm
Am Lăng già họa đồ rêu phủ
Bia ân trạng Kham, mưa giọt xuyên
Nay muốn sửa sang liên xã cũ.
Chiên-đàn trắng hoa sương giọt giọt
Bí sô xanh cỏ thơm dầm dầm
Đất ruộng lại không một chấm trần
Ai người đáng hợp sống trong đây.
Tượng ngọc khám châu, hương trận hoạnh
Ráng gấm nhiều bên Đàn đá sinh
Hành giả đuổi rắn nay tại đâu
Khoảnh núi chỉ nghe tiếng chim cưu
Tuyên Huyền Kiệu cũ mây tàn ẩm
Mộ lẽ Da Xá rơi chiếu chậm
Có một Lão Tăng tựa góc Tùng
Sợ người đẹp lấy vượn trắng con.

* Nhớ các Đạo Giả ở chùa Tây Lâm

Của đại sư Thiền Nguyệt-quán Hưu

Ngoài Đảo ai người thân
Các núi bốn phương gần
Đầu bạc gối đá lạnh
Áo xanh sóng không trần
Hạt ghẻ đống đường đi
Khỉ vượn nhiễu định thân
Thản nhiên cùng kết Xả
Nguyện làm kẻ quét Đàn.

* Ghi đề về chùa Đông Lâm

Của Sa-môn Tề Kỷ ở Kinh Môn

Trước núi dưới rừng, chùa Đông Tây
Góc đất chân trời, Tăng qua lại
Suối đá lắng dòng nhàn thế giới
Mây Tùng lạnh thấm ngày đèn hương
Giành như Đại Sĩ sửa sang xã
Lợp có các Hiền lại phục ưng
Từng gởi phòng gần treo Bình gậy
Ồn nghe hang giọt giải mưa xuân.

* Ảnh đường Viễn Công

Của Sa Môn Tề Kỷ ở Kinh Môn

Sen trắng bên ao, ảnh đường cũ
Phong Cốt Lưu, Lôi hết Long Chương
Cùng khinh Thiên tử, chư hầu quý
Đồng mến thầy ta pháp trưởng đây
Đào Lệnh say nhiều vòi chẳng được
Tạ Công tâm loạn vào vô phương
Người nào đến đây nghỉ cao vết
Gió lắng vết rêu đầy phấn tường.

* Quán Giản Tịch

Của Sa-môn Tề Kỷ ở Kinh Môn

Muôn khơi ráng mây ảnh
Ngàn năm tiếng cây Tùng
Cớ sao dạy hạ sĩ
Dung dịch tin Trường sinh
Trăng cùng hư không trắng
Hương hòa nguyên móc trong
Nhân tìm hiên cổ họa
Ghi được tên Liệt Tiên.

* Chùa Lạc Tinh

Của Sa-môn Tề Kỷ ở Kinh Môn

Sao đây cớ gì xuống hang xanh
Riêng làm Tăng ở quá xa xăm
Lầu các mưa rồi núi xanh lạnh
Cửa sông gió thoảng hương bạch tần
Kinh thu Nhạn xa ngang qua Hán
Trăng vút sóng lạnh vọng đêm phòng
Trọn ngày tựa hiên nhờ tả vọng
Chong nghi thân bỗng tại tiêu tương.

* Thuỷ các ở chùa Tây Lâm

Của Sa-môn Tăng Kỷ ở Kinh Môn

Tùng Thu quanh Tháp Cổ
Hiên cửa rảnh mở bày
Nước nhiễu trong Thanh Âm
Người từ xứ nóng lại
Gió rít liền dãi Hạc
Tựa cây đá cùng rêu
Đến sống dưới Đông Lâm
Chầm chậm bỏ đây về.

* Ghi đề câu Liễn ở chùa Đông Lâm

Điệu xưa cao vợi tại non xanh
Đời Tấn ứng linh hiện vết Thần
Giữa rừng chim hoang đợi kinh sóng
Trên đảnh vượn đơn nghe chuông chiều,

(Tiết độ sứ lúc đến kiểm hiệu thái uý Bình Chương, tự từ chứng biết).

Miệng nhọn mây lạnh sáng dưới hiên
Khe Hổ trăng thu rọi Tùng hàn

(Tặng củi cho vị Tăng Chí Thành tinh tu).

Hương bay điện báo trùm tượng vàng
Cây tựa củi Tùng che Dung Ngọc

(Đạo Sĩ ý Huyền)

Bướm mến nữa hoa rực rực
Nai ngủ cốc sâu cỏ lú mầm

(Quan sát thôi quan tặng Tử Kim Ngư Đại Lý).

Du Tăng chống gậy Tâm đều Phật.
Cây già khói cuộn thể như rồng

(Quan sát Thôi quan tặng lụa ngư đại Vương tam)

Trúc che cửa Thiền mốc xanh hợp
Hang nấu đường sâu đối duyên đài

(Tư lý Tham quân chưởng biểu tấu mạnh củng Thần).

Dòng suối quanh thềm tiếng trong xa
Xếp núi rảo cửa còng bông lông
Ngâm hỏi cửa không chẳng cháu trùng.

(Quản tuần quan tặng Tử Kim Ngư đại trung kính Du)

Ngày 16 tháng 3 năm Thiên Lộ thứ 2 (?), tình cờ cùng mạc khách môn quán Tăng đạo nhàn du đề đối liễn.

* Hai bài ghi đề về chùa Đông Lâm Đại sư Văn Thông-khuông Bạch

Đông Lâm cảnh đẹp một sông dài
Lan huệ sinh nhiều đất cũng thơm
Thương thay người ít đến được
Bèn theo mây cây già không ngại
Tựa trời xanh biếc cửa không mưa
Miệng rơi róc rách hiên đêm nhểu
Đến đây chỉ trừ đồng kết xã
Ngoài ra nhàn sự chớ nghĩ lường.
Đông Lâm tiếp tứ tuyệt Vật tượng
càng lắng sâu Xã, khách đi chẳng
lại Chuông, núi mây giăng khe Tùng
khô đàn khỉ tán Khe lớn khoét
chặt dòng Đợi tính kế về nghỉ
Cùng lại năm Thạch lâu.

Người tợ Hạc hồng nai, trên đường mọi sự như gai đá tốt tươi, mưa dầm thêm xanh... nước phú

Tùng lớn trói hoa xanh, chớ nói nơi đây ta không phần, Di Dân ở mãi nhà Tuệ Trì.

* Chùa Lạc Tinh

Của Đại Sư Văn Thông-khuông Bạch.

Núi này đều đi khắp
Nam đến đất Sở Ngô
Chợt lên chùa trong Hồ
Nghi đến núi trong Biển
Riêng cây tươi nấm ẩm
Bãi xa chim trắng nhàn
Trọn khoảnh xa trời mộng
Nằm nghe nước thì thào.

Ghi Về Lô Sơn quyển thứ tư hết.

QUYỂN 5

CHƯƠNG VII: GHI MỤC VĂN BIA XƯA CỔ

Lô Sơn, từ các triều đại Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường cho đến thời Bắc Tống có cả 800 năm, trong thời gian ấy mọi sự hưng phế thạnh suy đều có ghi thuật, nhưng năm tháng dần lâu thường lương bị mất mát, như văn bia của Viễn Công do Ân Trọng Kham soạn thuật, trong khoảng niên hiệu Thiên Hựu (904-907) thời Tiền Đường, còn thấy ở thơ của Quán Hưu, đến nay tản mác không còn. Nay chỉ ghi từ Quán Thái Bình chùa Đông Lâm trở xuống cả thảy 5 ngôi, và từ thời Ngũ Đại (907-923) trở về trước các thứ bia chỉ tước Lý, ngày tháng năm của các người biên thuật có cả thảy 41 bài, văn từ nhiều, ở đây không ghi chép.

1-Tại quán Thái Bình

Văn Bia Linh miếu sứ giả

Do Bề Tôi Lý Thử ở nhà tranh tại dưới cửa Hành Sơn thuộc phía Đông huyện Hoàng Mai; Kinh Châu soạn thuật, dựng lập ngày 25 tháng giêng năm Nhâm Thân (732) tức năm Khai Nguyên thứ 20 thời Tiền Đường.

Sứ Giả Linh Nghiệm Ký

Do tuyên Nghĩa Lang đến soán Quán Uý Phan ở huyện Bành Trạch, dựng lập ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Thân (732) tức năm Khai Nguyên thứ 20 thời Tiền Đường, đến năm trị Bình thứ 3 (1066) thời Bắc Tống dựng lập lại

Trương Linh quan Ký

Do ngự sử đại phu Từ Huyễn soạn thuật, Hữunội-sứ-xá-nhân-tập-hiệu-điệu-học sĩ Từ Khải biên ghi và khắc triệu ngạch vào ngày 15 tháng giêng năm Quý Dậu(?)

Truyện Hồ Tắc

Do Thái-thường-thừa-tập-hiền-hiệu-lý-thôngphán-giang-châu-quận-châu sự Chương Môn soạn thuật và biên ghi việc Hồ Tắc trấn thủ tại Giang Châu năm Khai Bảo thứ 8 (?).

2-Tại quán Thái Nhất

Chân Nhân miếu Ký

Ngày mồng 6 tháng 7 năm Nhâm dần (?) tức năm Thăng Nguyên thứ 6 (?), ứng-vân-khuôngquốc-tá-Thánh-công-thần-ninh-quốc-công-tiếtđộ-tuyên-châu-quản-điều quán sát xử đặt. v.v... sai Đặc-tiến-kiểm-hiệu-đại-uý-kiêm-trung-thư-lệnh trì tiết Tuyên Châu các quân sự, tuyên-châu-thứsử-thượng-trụ-quốc ban thực ấp 1 vạn hộ, Hàn Vương tri chứng ký lên làm quan lang-thú-tuyênchâu-tư-hộ-tham-quân-chưởng dâng biểu tấu xét, Bí-thư-tỉnh-hiệu-thư-lang-ban tặng phi-ngự-đại mạnh củng Thân biên ghi và khắc ngạch.

* Lại có 1 bản: tháng 11 năm Ất hợi (?) tức năm Bảo Đại thứ 12 (?), Đạo Sĩ Nghệ Thiếu Thông ở Chu Lăng; Nam nhạc soạn thuật, Đạo Sĩ Chung Đức Tải ghi triện.

3-Tại chùa Đông Lâm

Bia minh của Pháp sư Tuệ Viễn

Do Tạ Linh Vận soạn thuật, Trương dã ghi lời tựa (không tên năm tháng ngày dựng lập).

Văn bia Thiền sư Phật đà bạt đà la ở thời Tiền Tống

Dựng tạo ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Tỵ (729) tức năm Khai Nguyên thứ 17 thời Tiền Đường.

Văn bia Thiền sư Ngột Ngột

Do Trung-thư-xá-nhân-triệu-quân Lý Nột soạn thuật văn, Kim Tử-quan-lục-đại-phu-hàng-đồng châu-thứ-sử-thượng-trụ-quốc-phạm-dưngnguyện-khai-quốc-nam Trương Đình Khê biên ghi, Giang-châu-thứ-sử-hà-đông Liễu trinh vọng dựng lập, năm Bính Ngọ (766) thuộc trong niên hiệu Vĩnh Thái (765-766) thời Tiền Đường, Nhan Chân Khanh biên ghi bên cạnh bia có cả thảy 166 chữ.

Văn bia chùa Đông Lâm và lời tựa

Do Tiền Trần Châu thứ sử Giang Hạ Lý Ung soạn thuật và biên ghi, dựng lập ngày 15 tháng 7 năm Khai Nguyên thứ 19 (721) thời Tiền Đường. giang-châu-thứ-sử Bùi Hưu có đề là: "Xem Ngôn từ Bắc Hải, bút tưởng phong thái. "

Bi âm Ký

Năm Hội Xương thứ 3 (843) thời Tiền Đường, do Giang-châu-thứ-sử Trương Hựu Tân soạn thuật, ngày 30 tháng 4 năm Đại Trung thứ 10 (856 thời Tiền Đường, Bùi Quang Viễn biên khắc triệu ngạch.

Văn bia tại ảnh đường Pháp sư Tuệ Viễn tại chùa Đông Lâm Do Lý Diễn ở Lũng Tây soạn thuật, Giang-châu-lục sự-tham-quân

Vương-duật khắc ghi triệu ngạch. Sa-môn Duy Tung ở chùa Đầu Đà tại Ngạc Châu biên ghi, dựng lập trong niên hiệu Trinh Nguyên (785-805) thời Tiền Đường, đến ngày 15 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời Tiền Đường, tạo dựng lại.

Bia Minh Đại Đức Luật sư Hy Di ở chùa Đông Lâm

Do Nhiếp-độ-đoàn huyện-thôi-quan-thúkiền-châu-tư-mã-hứa Nghiêu Tá soạn thuật, Thừaphụng-long-tiền-thú-thái-chân-chân-dương huyện-lệnh-lý Hành Ngôn biên ghi và khắc triệu ngạch. Dựng lập năm Bính Tý (796) tức năm Trinh Nguyên thứ 12 thời Tiền Đường, đến ngày 23 tháng 7 năm thứ 8 (854) thời Tiền Đường, tạo dựng lại.

Bia Minh Kính Tạng ở chùa Đông Lâm

Triều-thỉnh-lang-thí Hiệp Luật lang Lý Triều ở chùa Thái Thường soạn thuật, dựng lập ngày 15 tháng 9 năm Nhâm Thìn (812) tức năm Nguyên Hòa thứ 7 thời Tiền Đường. Đến ngày 8 tháng 7 năm Đại Trung thứ 13 (859) thời Tiền Đường, Hương Cống tiến sĩ Bằng soạn thuật lại, biên ghi và khắc triệu nghạch.

Bia minh Đại Đức Luật sư Sán Công ở chùa Đông Lâm

Do Cát-châu-tư-hộ-tham-quân Viên ngoại-tríđồng tránh-viễn Hứu Nghiêu Tá soạn thuật, Ngô quân lục uý Chi biên ghi và khắc triệu ngạch, dựng lập ngày mồng 5 tháng 5 năm Quý Tỵ (813 thuộc trong niên hiệu Nguyên Hòa (806-821) thời Tiền Đường. Đến ngày 22 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời Tiền Đường, tạo dựng lại.

Minh Chí tại tháp Đại Đức Lâm Đân ở chùa Đông Lâm Lô Sơn.

Do Lưu Kha soạn thuật trong tháng 10 năm Nguyên Hòa thứ 10 (815) thời Tiền Đường, môn nhân đại tử Đàm Cao biên ghi. Đến ngày 15 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời Tiền Đường, tạo dựng lại.

Kiệt Minh tại tháp Đại Đức Luật sư Thấu Công ở chùa Hưng Quả tại Lô Sơn thời Tiền Đường

Do Trung Châu thứ sử Bạch Cư Dị soạn, Samôn Vân Cao biên ghi, dựng lập ngày mồng 1 tháng 10 Nhuận năm Trường Khánh thứ 2 (823) thời Tiền Đường, đến ngày 15 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời Tiền Đường, tạo dựng lại.

Chí Minh buồn thương mến mộ Đá Đại sư Luật ở chùa Đông Lâm

Do Hầu Cao ở Thương cốc soạn, Sa-môn Vân Cao biên ghi, dựng lập ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thìn (824) thuộc trong niên hiệu Trường Khánh (821-825) thời Tiền Đường.

Văn Bia Cổ Đại Đức Luật sư Tỷ ở chùa Thê Hà thời thời tiên Đường

Do Phước-kiến-quán-sát-chi-sứ-triều-nghilang-giám-sát-ngự-sử-lý-hành-thượng-trụ-quốcLưu Kha soạn, Sa-môn Cao Vân biên ghi, Nhiếphồng-châu-đô-đốc-phủ-sĩ-tào-tham-quan-tuyênnghi-lang-tiền-hành-thư-châu-hoài-ninh-huyệnuỷ-Tề Dư khắc triệu ngạch. Dựng lập ngày 11 tháng 7 năm Thái Hòa thứ 3 (829) thời Tiền Đường, đến ngày 23 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854 tạo dựng lại. Sau lưng bia có thơ của Tào Phần ghi đề ngày 13 tháng 7 năm Hội Xương thứ 3 (834) thời Tiền Đường.

Ghi về văn tập của giòng họ Bạch ở chùa Đông Lâm

Mùa hạ năm Thái Hòa thứ 9 (835) thời Tiền Đường Thái tử Tân-khách-tấn-dương-huyện-khaiquốc-nam-đại-Nguyên Bạch Cự Dị có biên thuật "Lạc Thiên Ký", Triều-tán-đại-phu-thú-giangchâu-thứ-sử-thượng-am-quốc-triệu-phan-phụngthư-long bảo tạo lập trụ mốc, Sa-môn Vân Cao biên ghi.

Bia tháp Cổ Đại Luật sư bảo Xứng ở chùa Đông Lâm, Lô Sơn thời Tiền Đường

Do Triều-nghị-lang-thú-bí-thư-thừa-thú-quántu-soạn, thượng Trụ-quốc Lưu Kha soạn thuật, thúgiang-châu-tư-hộ-tham-quân-viên-ngoại-trí đồngchánh-viên Trần Khứ Tật biên ghi, Triều-chấn-võtiết-độ-tham-mưu xét phụng lễ lang Lý... Ngạn Khắc triệu ngạch. Dựng lập ngày 27 tháng 4 năm Khai thành thứ 4 (839) thời Tiền Đường, đến ngày 23 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời Tiền Đường tạo dựng lại.

Biên ghi về phương trượng Quán âm tại chùa Đông Lâm Lô Sơn

Ngày 15 tháng 2 năm Nhâm Thân (852) tức năm Đại Trung thứ 06 (852) thời Tiền Đường, do Sa-môn Nguyên sở ở Giang Hạ biên ghi, Đông-di minh đảo Thái huyền cốc xung tịch Dã Sưu biên ghi.

Bia minh tháp đá cổ Hòa Thượng Đại Đức Luật sư Thượng Hoằng ở chùa Cảnh Vân tại phủ Châu thời Tiền Đường

Do Giang-châu-tư-mã Bạch Cư Dị soạn, Nhiếp Hoài Nam quản sát-thí-đại-lý-bình-sự-kim-giámsát-ngự-sử-lý Khắc Cung biên ghi, Hoài-nam-tiếtđộ-tham-mưu-giám-sát-ngự-sử-lý-hành-Đoàn

Toàn Vi Khắc triệu ngạch. Đến ngày 15 tháng 7 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời tiên Đường, tạo dựng lại.

Lại, Bia minh chùa Đông Lâm

Hồ Nam Đô Đoàn luyện quán sát xử trí v.v... Sai Phái Trung Đại-phu-sử-trì-tiết-đô-đốc-đàmchâu các quân sự Thứ-sử-kim-tử-quang-lục-đại phu-tả-tán-kỵ-thường-thị-thượng-trụ-quốc-hàđông-quận-công ban thực ấp 2000 Hộ Liễu Công Quyền biên ghi, dựng lập ngày 26 tháng 4 năm Đinh Sửu (857) tức năm Đại Trung thứ 11 thời tiền đường.

Kinh tạng bi âm Ký ở chùa Đông Lâm

Do Tiều-nghị-lang-kiểm-hiệu-thượng-thưthượng-đô-lang-trung-sử-trì-tiết-phủ-châu-cácquân-sự-thú-phủ-châu-thứ-sử-kiêm-thị-trung-sửtrụ-quốc được ban tặng Phi-ngư-đại Thái Kinh soạn thuật dựng lập ngày 29 tháng 5 năm Đại Trung thứ 14 (860) thời Tiền Đường.

Giang hồ châu tây đạo quán sát sứ Võ Dương Công vi công tả châu tán

Do cháu ngoại Nhiếp-trấn-nam-quân-tiết-độphó-sứ-triều-tán-đại-phu-sử-trì-tiết-giang-châuthứ-sử-thượng-trụ-quốc Miêu Thân soạn thuật, biên ghi ngày 8 tháng 4 năm Hàn Thông thứ 8 (867) thời Tiền Đường.

Bia minh cổ thiên đại đức Công tạo dựng lại chùa Đông Lâm tại Lô Sơn thời Tiền Đường

Do Triều-tán-đại-phu-sử-trì-tiết Giang-châucai-quân-sự-thư-giang-châu-thứ-sử-trụ-quốc được ban tặng-tử kim-ngư-mưu-thân soạn thuật, Triều-nghị-lang-tiền-hành-quốc-tử-đại-học-bácsĩ-trụ-quốc Bùi Quan Viễn biên ghi và khắc triệu ngạch. Tạo dựng ngày 13 tháng 12 năm Mậu Tý (868) tức năm Hàn Thông thứ 9 thời Tiền Đường.

Quảng bình công cựu nhân ký

Do tuyên-hấp-tiết-độ-chưởng-thư-ký-tướng-sĩlang-thí-đại-lý-bình-sự được ban tặng Phi Ngư đại Tiết Chánh kỷ soạn thuật, Ngân-thanh-quan-lụcđại-phu-tiền-thú-khánh-châu-tư-mã-kiêm-điệntrung-thị-ngư-sử Lưu Tuân biên ghi và khắc tiêu ngạch. Giang-tây-giám-quân-sử-trung-tán-đạiphu-hành-nội-tỉnh-nội-thị-viên-ngoại-trì-đồngtránh-viên-thượng-trụ-quốc được-ban-tặng-tửkim-ngư-đại Tống sư Tích dựng lập ngày 20 tháng 6 năm Quang Khải thứ 2 (8860) thời Tiền Đường.

* Đại sư Đường Ký ở chùa Đông Lâm-lô Sơn Năm Thái Hòa thứ 3(829)thời Tiền Đường, Phụng-hóa-quân-tiết-độ-giang-châu-quán-sát-xửtrí, v.v... Sứ-đặc-tấn-kiềm-hiệu-thái-uý-kiêm-thịtrung-sử-trì-tiết-giang-châu các-quân-sự-thúgiang-châu-thứ-sử-thượng-trụ-quốc-đức-hóavương được ban thực ấp 3.000 hộ Dương-triệt-tiếtđộ-thôi-quan-thông-phán-quân-phủ-công-sựtriệu-nghi-lang-kiểm hiệu-thương-thư-lễ-bộ-viênngoại-tức-kiêm-thị-ngư-sử-vân-kỵ-uý được ban tăng tử-kim-ngư-đại nguyên-hạo-tiết-độ-quan-tướng-sĩ-lang-thí-đại-lý-bình-sự-chưởng-tấu ban tặng phi Ngự đại Nghê Khuông minh biên ghi và khắc triệu ngạch.

Đức hóa Vương ở chùa Đông Lâm thiết đặt lại Bạch thư văn tập Ký

Do nhiếp-quán-phong-mạc-tuần-lại-thí-lang-đài-lang sư Văn Trinh biên ghi, ngày 20 tháng 8 năm Giáp Ngọ (nếu năm Giáp Ngọ tức năm Nguyên Hòa thứ 9 (814). Còn nếu là năm Thái Hòa (Đại Hòa) thứ 6 tức năm 832) tức năm Thái Hòa thú 6 thời Tiền Đường, quan nội tăng chánh giảng kinh luận đại đức được ban tặng Tử Kim Samôn Khuông Bạch Uý, Tiết-độ-tuần-cung thử châu tư quân sự được ban tặng Tử Kim Ngư đại Nghê Khuông minh khắc triệu ngạch.

Di Lặc Bồ-tát thượng sinh Điện Ký

Do tướng sĩ lang thú Giang Châu tư-sĩ-thamquân chưởng-biểu thấu-thứ bí-thư-tỉnh chánh tự Dương Bật soạn thuật. Ngày 20 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 3 (?), Dực-chánh-công-thần-giang-châuđô-đoàn-luyện-quán-sát-xử-trí, v, v... Sử-kim-tửquang-lục-đại-phu-kiểm-hiệu-thái-bảo-thú-thứsử-kinh-triệu-huyện-khai-quốc-tử được ban thực ấp 500 hộ Đỗ Xưởng Nghiệp dựng lập, công đức thủ giảng luận đại đức mộ Trang biên ghi.

Thượng phương Thiền sư xá lợi tháp Ký

Do triệu-tán-đại-phu-hành-thượng-thư-thuỷbộ-viên-ngoại-lang Võ Kỵ uỷ Bành soạn thuật và đề biển ngạch, ngân-thanh-quang-lục-đại-phukiểm-hiệu-quốc-tử-tế-tửu-kiêm-giám-sát-ngự-sửthượng-trụ-quốc y tùng Đạo biên ghi, dựng lập trong tháng 10 năm Bảo Đại thứ 14 (?)

4-Tại chùa Tây Lâm

Bia Văn Đạo Tràng chùa Tây Lâm

Do Thái-thường bác-sĩ-bột-hải Âu Dương Tuân soạn thuật, dựng lập ngày 15 tháng 10 năm Đinh Sửu (617) tức năm Đại Nghiệp thứ 13 thời nhà Tùy. Năm Bính Ngọ (766) thuộc trong niên hiệu Vĩnh Thái (765-766) thời Tiền Đường, Nhan

Chân Khanh ghi đề biển ngạch văn bia ấy có cả thảy 120 chữ, sau lưng bia có ghi là năm Đại Trung thứ 10 (856) thời Tiền Đường và tên của 5 người ghi đề.

Văn bia Hòa Thượng Đại Đức Luật sư Tề Lãng ở viện Thuỷ các, chùa Tây Lâm tại Lô Sơn

Do tiền quảng văn quán tiến sĩ Trịnh Nghiệp Khanh soạn, Sa-môn Đạo Chân ở An Định biên ghi, dựng lập ngày mồng 6 tháng 3 năm Nhâm Tý (832) tức năm Đại Hòa (Thái Hòa) thứ 6 thời Tiền Đường, đến ngày 27 tháng 11 năm Đại Trung thứ 8 (854) thời Tiền Đường dựng lập lại (khắc tại sau lưng bia), kiểm-hiệu-tư-phong-lang trung-thú giang châu thứ sử Bùi Phúng, đến ngày mồng 8 tháng 4 năm Đại Trung thứ 14 (860) thời Tiền Đường, khiết Thụy đồng du siêu hoa tùng hành (cũng đề sau lưng bia).

5-Tại quán Giản Tịch

Bia quán Giản Tịch tại Lô Sơn

Do Từ đồ-hiểu-trưởng-sử-thái-tử-bộc-kiếnxương-huyện khai quốc hầu Ngô Hưng Thẩm Toàn tạo tác, dựng lập tháng 11 năm Thiên Giám thứ 14 (515) thời Nam Lương, đến ngày 15 tháng Giêng năm Giáp Dần (?) tức năm Bảo Đại thứ 12 thời Tiền Đường (?) dựng lập lại, do Hồ Duy Sở ở An Định biên ghi và đề biên ngạch.

Trụ mốc Tôn sư Hùng quân ở quán Giản Tịch tại Lô Sơn

Do Môn Nhân Tam động đệ tử Triều-tán-đạiphu-trì-tiết-hàng-châu-các quân sư thư-hàngchâu-thứ-sử-trụ-quốc-vu Đức Hối soạn thuật, Phạm thương Hạo biên ghi.

Tạo dựng lại Đại Điện quán Giản Tịch tại Lô Sơn

Do Thôi Trung Dực Thánh công thần An-tây Đại tướng quân Đức Thắng quân-tiết-độ-sứ-lôchâu-quán-sát-xử-trí v.v... sử Đặc-tấn-kiểm-hiệuthái-uý-đồng-trung-thư-môn-hạ-bình-chương-sựsử-trì-tiết-lô-châu các quân-sự, lô-châu-thứ-sửngự-đại-hiến-thượng-trụ-quốc-thanh-hà-quậnkhai-quốc-hầu được ban thực ấp 2000 hộ Trưng Sùng biên ghi ngày mồng 1 tháng Giêng năm Đinh Hợi (?) tức năm thuận nghĩa thứ 10 (?).

Văn Ký về Thạch Đàn mới tạo dựng tại quán Giản Tịch ở Lô Sơn

Do Tuyên châu quán sát phán quan đăng sĩ lang kiểm hiệu thượng thư ngu bộ viên ngoại lang được ban tặng phi-ngự-đại Trần Giác soạn thuật và biên ghi.

Bia tiễn sinh lục quân ở quán Giản Tịch

Do đạo sĩ Hàn lâm cúng phụng Ngô quân ở Trung nhạc soạn thuật văn và biên ghi, dựng lập ngày mồng 3 tháng 6 năm Đinh Mùi (?) tức năm Bảo Đại thứ 5 thời nhà Đường (?).

Văn ký về sửa sang Linh Bảo và thư đường tại quán Giản Tịch ở Lô Sơn

Do Nội-tri-khách-kiêm-cổ-án-tư-sự-ngânthanh-quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệu-công-bộthượng-thư-kiêm-ngự-sử-đại-phu-trụ-quốc Vương Lộ vàng phụng sắc ban soạn thuật và biên ghi, ghi ngày 15 tháng 2 năm Ất Mão (?) thuộc trong niên hiệu Bảo Đại thời nhà Đường (?).

Văn bia về tu sửa đường đá ở quán Giản Tịch, Lô Sơn

Do Thừa-vụ-lang-thú-đại-lý-bình-sự Chưởngnguyên-soái biểu tấu ban tặng phi-ngự-đại-từ Hiển soạn thuật và đề ngạch. Ngân-thanh-quang-lụcđại-phu-kiểm-hiệu-quốc-tử-tế-tửu-kiêm-ngự-sửtrung-thừa-thượng-trụ-quốc Tân Ái biên ghi, ghi ngày 15 tháng 5 năm Ất Mão (?) tức năm Bảo Đại thứ 13(?).

* Tại quán Giản Tịch có bia phú núi Đại Cô Do Đặc-tấn-thái-uý-bình-chương-sự-vệ-quốccông Lý Đức Dụ soạn thuật văn trong tháng 4 năm Hội Xương thứ (845) thời Tiền Đường. Giangnam-tây-đạo-đô-đoàn-luyện-quán-sát-xử-trí sử Tiều-nghị-đại-phu-hồng-châu-thứ-sử-kiêm-ngựsử-đại-phu Chu Trì dựng lập.

Văn bia mới tạo dựng Thiền viện Khai nguyên tại Lô Sơn thời Tiền Đường

Do Chiêu-nghĩa-quân-tiết-độ-sứ-đặc-tấn-thúđại-đệ-thái bảo-thượng-trụ-quốc-thỉ-bình-quậnkhai-quốc-hầu được ban thực ấp 1.000 hộ Thân Bằng Diên Dĩ vâng phụng sắc ban soạn thuật Bìnhlô-quân-tiết-độ-sứ-quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệuthái-phó-hình-bộ-thương-thư-thượng-trụ-quốcthượng-nhiêu-thuận-công được ban thực ấp 2.000 hộ Thần Từ Tốn vâng phụng sắc biên ghi và đề ngạch, dựng lập ngày mồng 10 tháng giêng năm giáp dần (?) tức năm Bảo Đại thứ 12 (?).

Văn ký về thư đường của nhà họ Lý

Ngày mồng 10 tháng 5 năm Nhâm Tý (?) tức năm Bảo Đại thứ 10 thời Cự Đường (?), do Ngânthanh-quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệu-tư-đồ-sứ-trìtiết Viên Châu các quận sự thú-viên-châu-thứ-sửkiêm-ngự-sử-đại-phu-trụ-quốc Lý chưng cổ ghi ký, nghi ở Thái Nguyên biên ghi.---------------------------

CHƯƠNG VIII: NGƯỜI XƯA ĐỀ DANH

Tôi vân du đến chùa Đông Lâm, rất mến thích phòng thất ở đó có đề tên từ thời Tiền Đường trở lại, chư tăng ở chùa nhân đó nói cùng tôi rằng: "năm trước đổi sửa phòng thất, bảng vuông có vài trăm tấm, chữ viết đã hơi mờ chất đống nơi chỗ rỗng, chẳng thật là tiếc thay, nơi đây may mà chưa vứt bỏ vậy!". Than ôi! người xưa ngợi khen các bậc hiền đạt thắng sĩ lên núi ngắm trông xa thật lắm nhiều vậy, nhưng đều đã bị ẩn mất không còn được thấy nghe, với nơi đây nay còn có được 17 người kể từ Nhan Ngạn Công ở trong khoảng niên hiệu Vĩnh Thái (765-766) thời Tiền Đường trở lại ghi đề tên còn có thể trông thấy được, nên tôi ghi lại đây để đề phòng bị sự mất mát vậy.

Năm Bính Ngọ (766) tức năm Vĩnh Thái thứ 2 thời Tiền Đường, Chân Thanh vì tội giúp Cát Châu, trong tháng 6, Hưng Ân Lượng Vi Bá Ni, giả dật Đồng lần lượt đến chùa Đông Lâm, giả dật Đồng thì tiếc 2 ông hy di, 2 Luật sư huệ Tú và Khánh Nghĩa, Tuyền dương Túc hiện còn vậy, kính ngưỡng Lô Phong của Lô Phụ, mến tưởng di liệt của Viễn Công, ra ngoài điện Thần Vận kính lễ y tăng già, trông xem chiếc quạt và phất trần của Pháp sư Đạo Sinh, bản kinh Niết-bàn do Tạ Linh Vận phiên dịch, vui mừng kính mộ đó mà chẳng đủ, tạm ghé ghi khắc vào bên cạnh văn bia của Thiền sư Da-Xa và 2 Trương Lý. Lỗ quận Nhan Châu Khanh biên ghi (khắc đá bên cạnh văn bia Thiền sư Da Xá tại chùa Đông Lâm).

Năm Bính Ngọ (766) tức năm Vĩnh Thái thứ 2 thời Tiền Đường, Châu Khanh vì sơ xuất vụng về nên bị biến đày đến giúp Cát Châu, Tháng 6 năm đó, Hưng Ân Lượng, Vi Bá Ni, Giả Dật, Dương Túc nghỉ tại chùa Tây Lâm. Có Luật sư pháp chân là người thâm cứu học thôn luật tạng thanh tịnh, là đệ tử Thượng Túc của tổ sư Luật Chí Ân, tôi, nội đệ A-xà-lê chánh nghĩa là người nghĩ nhớ xa dài về di liệt của 2 ông Viễn, Hiệu, dẫn tôi đi đến nơi Trùng các chỉ bày cho thấy tôn tượng Đức Phật Lôxá-na do Trương tăng Diêu họa vẽ trên lụa tuyết, chiếc đãy đựng bình bát bằng gốm lụa của vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, nhân đó ghé đề ghi nơi văn bia Vĩnh Công do Ân Dương Công soạn thuật. Lỗ Công Nhạn Chân Khanh ghi đề (Khắc tên bia Thiền sư Tuệ Vĩnh tại chùa Tây Lâm).

Lũng tây tự đức tiến quốc tử thân Hà nam Hư trung kinh triệu hy viễn, Lũng tây mậu thưởng, ngày 11 tháng 4 năm Đại Trung thứ 10 (856) thời Tiền Đường đồng đến mậu thưởng biên ghi (khắc đá tại chùa Tây Lâm).

Năm Đại Trung thứ 12 (858) thời Tiền Đường, Đại-lý-thiếu-khanh-kiêm-ngự-sử-trung-thừa được ban tăng tử Kim-ngư-đại Vi Trụ chuẩn cứ sắc chiếu Lanh nam tiên hỏi, ngày 20 tháng 7 năm đó lại qua tạng kinh đây, ngày trước tạo lập bởi Tùy theo sự hưng phế của chùa, may nhờ Hòa Thượng Đạo Thân cất tàng nơi Thạch thất, được Ngôn thượng nhân và minh thượng nhân chỉ bày cửa ấy được thấy như cũ, tiếp tục xúc chạm giềng mối đẹp quyên lụa cúng thí 300.000 để tạo dựng lại Đường vũ. Bấy giờ tại Hồ Nam Giang Tây đều đang nhiễu loạn, 1 giả từ kinh quyết, 3 đạp lấy bang giao nguy ách đến đây vài giờ cùng trò chuyện với Ngôn thượng nhân và Minh thượng nhân, lại cưỡi xe ngựa đi đến phương Bắc, Nam Trạch hầu theo đi (khắc đá tại chùa Đông Lâm).

Tháng 7 năm này (?), tôi vòng mạng Ấn phủ lãnh nam, mới đầu trung trần, từ Phiên Ngu đến cung quyết, binh lính lớn mạnh nhiễu loạn, mới đi thẳng đến Trung Lăng, đã đến nơi bèn dừng ở lại 1 đêm dò xét mưu ngầm ở đó, đã rõ biết tình trạng, đến sáng sớm liền vượt Chương Giang. Tới ngày 29 bèn dừng nghỉ tại đó cùng 2 thương nhân Ngôn Minh đàm luận lý huyền, và hỏi về di tích dấu vết của kinh tạng. Đến chiều tạnh theo hướng tây đi suốt 64 ngày, tôi xét hỏi đến Giang Tây, nhưng soái Trương, Ngạc, Hứa, Thái 4 quân đều đến trấn, tới ngày 27 tháng 11 năm đó, binh loạn tiếp nổi ở Bắc điều, tôi tuy chọn việc binh lính mới ngang qua cửa Tùng, chầm chậm chẳng thể đi. Đến ngày thật sự nhân rãnh bèn đóng tiền phong tại núi Hiện, lại cùng Ngôn Công đồng đi. Bấy giờ Minh Thương Nhân đã là người thiên cổ, buồn thương giây lâu, lại thúc giục ngựa đi tới trước, nhân ghi hàng trên, đề tại vách thuỷ đường. Ngày 27 tháng 11 năm Đại Trung thứ 12 (858) thời Tiền Đường, Giang-nam-tây-đạo-đô-đoàn-luyện-quán-sát-xửtrí, v.v... Sứ-kiêm-ngự-sử-trung-thừa Vi Trụ đề, Đô-đoàn-luyện-nha-thôi-tướng-sĩ-lang-quyềnđàm-châu-hộ-tào-tham-quân Chu Kinh quán-sátnha thôi-tiền-chí-phụng lễ lang ở chùa Thái Thượng Trương tự mục nam-an-nam-nhu-viễnquân-phán-quan-thí-tả-nội-suất-phủ-trụ-thamquân Thăng theo đi.

Ngày mồng tám tháng 11 năm Còn Phù thứ 3 (876) thời Tiền Đường, Giang Châu thứ sử Trần Liễn sắp lìa xa bến sông Bồn, cùng Xử Sĩ Đặng tư tề đồng đến thăm hỏi giả biệt Tư Tông Tông 1-02 Vị Đại Đức. Thôi-trung-dực-Thánh-công-thần-antây-đại-tướng-quân Võ Ninh Bình nạn các quân, Tiết-độ-lô-châu-quán-sát xử trí đằng sử Tây nam diện hành danh thảo ứng viện sứ quang lục đại phukiểm-hiệu-kim-thái-phó-kiêm-ngự-sử-đại-phuthượng-trụ-quốc-thanh-hà-quận-khai-quốc-hầu Trương sùng vòng phụng chiếu ban đi đánh chiếm, ngang qua đó. Ngày 27 tháng 11 năm Võ Nghĩa thứ nhất (?), Triều-nghi-lang-kiểm hiệu-binh-bộthượng-thư-được ban tặng tử-kim-ngư-đại Thương-đảng-quận-công thực ấp 1.000 hộ Cảnh Điều từ kinh thành theo hầu bá phụ, từ trên sông về quận, được theo nhà Anh là Quế-dương-quậncông, phỏng hỏi cảnh thắng ưu tuyệt nơi đây, khi ấy đang sắp đến mùa xuân, rừng tỏa hương thơm, chiều mưa mới tạnh, nhảy múa rã bộ quên cả nhọc mệt, lòng trần chóng sạch, hết ngày mới trở về, nên ghi lại đây biên ghi ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Hợi (?) tức năm Thăng Nguyên thứ 3 (?). Tây thượng cáp môn Sử-quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệu-tưđồng-hành-hữu-võ-vệ-đại-tướng-quân-kiêm-ngựsử-đại-phu-trung-thượng-trụ-hạ Khiêm vâng phụng Duệ chỉ phong san hùng phan, dừng ghé hơn 10 ngày, sắp là đầu năm, bên nhận ân vua mà được nhuần nhiều lớp, nghĩ nhớ càng sâu, mà lại hứa ghé xe vua được vân du hóa cảnh, lúc đó là ngày 28 tháng giêng năm Thăng Nguyên thứ 2 (?), nên lưu lại đề ký.

Trong thời Tiền Đường, Phụng-hóa-quân-tiếtđộ-giang-châu-do-anh điều-quán-sát xử trí v.v... Sai Phái kim-tử-quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệuthái-phó-đồng-trung-thư-môn-hạ-bình-chươngsự-thượng-trụ-quốc-bằng-dực-huyện-khai quốc bá thực ấp 700 hộ nguyên tục trong tháng 7 năm Kỷ Dậu (?) tức năm Bảo Đại thứ 7 (?), đến trấn tại xứ đó, tuy không hết tháng mà cũng có 1 ngày vân du đến Tinh Xá chùa Đông Lâm và Tây Lâm, trông xem các di tích xưa cổ xong rồi trở về, nên ghi rõ năm tháng ý vậy.

Thôi-trung-phụng-bảo-nhân-công-thầnphụng-hóa-quân-tiết-độ-giang-châu-doanh-điềnquán-sát-sử-trí v.v... Sai phái Giang-lục-đại-phukiểm-hiệu-thái-uý-sử-trì-tiết-giang-châu các quânsự-giang-châu-thứ-sử-kiêu-ngự-tướng-quânkiêm-ngự-sử-đại-phu-thượng-trụ-quốc An Định huyện khai quốc bá thực ấp 700 hộ Hoàng Phủ Huy phục phụng sắc chỉ, đặc đến Thiền viên Bảo đại khai Tiên, đi qua chùa báu, Tùng cối phủ trùm khói, núi non lắm lớp xanh, trông xem khắp các thắng cảnh rất thoả hợp nỗi lòng, lúc đó là ngày mồng 5 tháng 2 năm Quý Sửu (?) tức năm bảo đại thứ 11 thời Tiền Đường (?) đề ghi vậy.

Kim-tử-quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệu-tưđồng-tiền-sử-trì-tiết-quân-châu các quân sự thú quân-châu-thứ-sử-ngự-sử-đại-phu-thượng-trịquốc-thái-nguyên-huyện khai quốc nam thực ấp 300 hộ Vương Nhan cởi mở trao ấn về kinh đô, vân du các thắng cảnh, nên biên ghi, lúc đó là ngày 24 tháng 4 năm Quý Sửu (?) vậy.

Thôi-thành-phá-địch-công-thần-phụng-hóaquân-tiết-độ-giang-châu-doanh-thiền-quán-sátxử-trí, v.v... sai phái quang-lục-đại-phu-kiểmhiệu-thái-uý-sử-trì-tuyết-giang-châu các quân-sự giang-châu-thứ-sử-kiêm-ngự-sử-đại-phu Giang hạ huyện Khai Quốc Bá thực ấp 700 hộ Hoàng đình Khiêm tự đến trấn nhậm quận ấy, thường mến ngưỡng danh sơn, khi ấy đang lúc sang thu, đặc biệt đến chiêm ngưỡng cung kính, biên ghi ngày 16 tháng 9 năm Bảo Đại thứ 15 (?).

Thôi trung đánh địch công thần, phụng-hóaquân-tiết-độ-giang-châu-doanh = điền-quán-sátxử-trí v.v... sai phái quang-lục-đại-phu-kiểm-hiệuthái-uý-đồng-trung-thư-môn-hạ-bình-chương-sựsứ-trì-tiết-giang-châu-các-quân-sự, Giang-châuthứ-sử-thượng-trụ-quốc-phú-xuân-quận-khaiquốc-hầu thực ấp 1000 hộ Tôn Hán Huy, ngày mồng 8 tháng 8 năm Hiển Đức 5 (?) lãnh mạng giám quân sứ Dĩnh Xuyên Trần Công và liêu tá v.v... đồng đến bái yết đền thờ sứ giả Châm, nơi đó gần chùa Đông Lâm và Tây Lâm, nhân vân du cảnh thắng đại khái, may được trông xem khắp, liền ghi thời gian năm tháng.

--------------------------

LỜI BẠT

Trong tạng bản ở chùa Cao Sơn có "Lô Sơn Ký" 5 quyển, mà trong đó quyển 2 và 3 là khắc bản gỗ thời nhà Tống, còn lại 3 quyển (01-04-05) là xưa trước viết trích rút bổ đắp đó. Nhưng tên húy ở thời nhà Tống đều khuyết không biên ghi, ấy cũng do từ bản thời nhà Tống hủy là "chiên" tự là "chỉ", mà Quang Tông chi hiềm tên là "Đôn" tự là "Tắc" thì không biên sót, đó là khắc bản trong thời gian Cao Quang vậy. Sách này tại nước ta nhân coi giữ sơn các tổng thư san tứ khố vốn chỉ còn được 3 chương đầu làm 1 quyển, quán thần cho đó là ẩn mất chương 4 và 5. Nay trong bản khắc gỗ thời nhà Tống thật là gồm có 5 quyển và 8 chương. Chương 1 và 2 là quyển 1, chương 3 là quyển 2, chương 4 và 5 là quyển 3, chương 6 là quyển 4, chương 7 và 8 là quyển 5. Coi giữ sơn Các vốn chẳng chỉ ẩn mất từ chương 4 trở xuống, mà sự phân quyển cũng chẳng phải lâu xưa của đương thời vậy. Quán thần thấy bản ngày nay phân chương làm 1 quyển nên ghi là ẩn mất chỉ 2 chương 4 và 5, ức đoán mà lại sai nhầm vậy. Sách này toàn bản không biết từ thời nào đã ẩn mất hơn 1 nữa, Quán thần cho là Đại Điểu của Vĩnh Lạc vốn cũng chỉ có 3 chương, thì thời đầu nhà Minh đã ẩn mất khắc bản ở Đông Bang. Ngoài bản khắc gỗ ở thời nhà Tống ra còn có khắc bản đều hoàn bị trong năm Nguyên Lục thứ 10 (?), nay lấy bản Nguyên Lục trông coi 2 bản khắc ở Sơn Các cùng bản thời nhà Tống để so sánh khám xét thì biết bản Nguyên Lục tuy hoàn bị nhưng cũng có nguy đoạt, trông coi bản ở Sơn Các thì ngụy thoát càng rất lắm. Trong chương 1 trông coi bản ở Sơn Các đoạt mất "Lô Sơn kỳ của Thích Tuệ Viễn, lược đến lược khắp khác lạ có vài mươi hàng (trong bản Nguyên Lục đoạt mất ở phần cuối). Trong chương 2, từ Ảnh Đồ trở xuống, bản Nguyên Lục nhầm rút hơn 10 hàng (trông coi bản Sơn Các không sai nhầm), mà Viễn ông Ký nói trên thuật về cảnh thắng của Thạch Môn có hơn mười hàng, Lại nữa, bản ký của Viễn Công nói trên nói về loại của A-la-hán hết 3 hàng. Trông coi bản Sơn Các đều đoạt ẩn mất. Trong chương 3, trông coi bản Sơn Các đoạt mất Tăng mại ở Đông Hải xưa trước v.v... gồm 13 chữ. Lại đoạt mất Nguyên do khước v.v... 28 chữ. Trong chương 6, bản Nguyên Lục đoạt mất nữa trong thơ chùa Lạc Tinh. Trong chương 7, bản Nguyên Lục thuật về các bia ở chùa Đông Lâm có lắm sai nhầm, xếp đặt bia Minh chùa Đông Lâm và bia Minh Đại Đức sán công ở trước 3 văn bia Pháp sư Tuệ Viễn v.v... biết rằng bản Nguyên Lục đã không thể không mất vậy. Bản này tại quyển 1 mất trong 2, quyển 4 khuyết mất 2 trang 21 và 28. Lại trong quyển 1, lời tựa của Lý Thường ghi ghép ở trang 3, thì biết trên đây đang có 2 trang cũng ẩn mất. May trang 2 trong quyển 1, y cứ theo bản Nguyên Lục mà bổ khuyết đó, Ngoài ra, các trang thì ở bản Nguyên Lục cũng khuyết thiếu vậy. Oán đời không còn có bản nào để có thể y cứ mà bồi đắp.

Tôi từ xưa trước rất mến chuộng sách này, tựa thuật nhã tặng tợ như nước chảy qua rêu trong xanh, chưa thấy được đủ bản. Năm Tuyên Thống thứ nhất (?), làm khách vân du Đông Kinh, bổng gặp bản khắc gỗ của thời nhà Tống này ở Đức Phú thị thành Trách đường Văn khố, rất vui mừng quá ước mong, lâu nghĩ nhớ đó chẳng bỏ khỏi lòng. Mùa đông năm trước mới dời từ Tô Phong ông nhờ ẩn in đã xin, mới là sách bản khắc gỗ thời nhà Tống thật đáng quý ở cuối quyển, chuộng chẳng chỉ không ẩn mất quyển mà thôi vậy.

Tháng giêng năm Đinh Tỵ (?) thuộc niên hiệu Tuyên Thống (?), Vĩnh phong hương nhân La chấn Vân ghi ở Đông Sơn, ngụ ở đó quanh năm, vui mừng chí hiện vậy.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]