TẠP TẠNG
SỐ 2103 - QUẢNG HOẰNG MINH TẬP
Thời Đại Đường, chùa Tây Minh, Sa-môn Thích Đạo Tuyên soạn.
SỐ 2103 - QUẢNG HOẰNG MINH TẬP
THIÊN THỨ TƯ: PHÁP NGHĨA (Phần 2)
NAM TỀ, HOÀNG THÁI TỬ GIẢI GIẢNG SỚ (Thẩm Ước)
TỀ CẢNH LĂNG VƯƠNG PHÁT GIẢNG SỚ (Thẩm Ước)
Bài Thứ Nhất: CÁNH LĂNG VƯƠNG GIẢI GIẢNG SỚ
Bài Thứ Hai: LẠI CẢNH LĂNG VƯƠNG GIẢI GIẢNG SỚ
GỞI THƠ CHO ẨN SĨ LƯU CẦU Ở CHÂU KINH
THỈNH VUA GIẢNG. KHẢI VÀ LỜI ĐÁP CỦA LƯƠNG HOÀNG THÁI TỬ CƯƠNG
LẠI THỈNH VUA GIẢNG VÀ LỜI ĐÁP CỦA VUA
TẠ THƯỢNG GIÁNG VÌ MỞ LỜI GIẢNG KHẢI
PHỤNG THỈNH VUA KHAI GIẢNG VÀ LỜI VUA ĐÁP
LẠI TẠ TRÊN GIÁNG VÌ KHAI GIẢNG
CHÚA THƯỢNG LẠI VÌ KHAI MỞ GIẢNG DIỄN, NGÀY THAM DỰ, VÀ LỜI VUA ĐÁP
THIÊN THỨ TƯ: PHÁP NGHĨA (Phần 3)
HOÀNG THÁI TỬ CƯƠNG DÂNG BIỂU TỤNG ĐẠI PHÁP
HOÀNG THÁI TỬ CƯƠNG DÂNG BÀI TỤNG ĐẠI PHÁP VÀ LỜI TỰA
TÂU THƯỢNG HOÀNG THÁI TỬ HUYỀN PHỐ MỞ GIẢNG TỤNG
HUYỀN PHỐ VIÊN GIẢNG TỤNG VÀ LỜI TỰA
VÌ PHÁP SƯ LƯỢNG SOẠN LỜI TỰA SỚ KINH NIẾT-BÀN CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
BÀI TỰA LƯƠNG GIẢN VĂN ĐẾ PHÁP BẢO LIÊN BÍCH DO TƯƠNG ĐÔNG DƯƠNG DỊCH
TỰA THÀNH THẬT LUẬN NGHĨA SỚ CỦA PHÁP SƯ TRANG NGHIÊM MÂN, LƯƠNG HOÀNG THÁI TỬ CƯƠNG
TỰA TẬP BIA CHÉP NỘI ĐIỂN của LƯƠNG NGUYÊN ĐẾ
BÀI TỰA THIỀN LÂM DIỆU KÝ TIỀN TẬP
BÀI TỰA THIỀN LÂM DIỆU KÝ HẬU TẬP
LỜI TỰA PHÁP UYỂN CHÂU LÂM CỦA LÝ NGHIỄM
THIÊN THỨ TƯ: PHÁP NGHĨA (Phần 4)
CHIÊU MINH THÁI TỬ NHÀ LƯƠNG TRẢ LỜI PHÁP SƯ VÂN THỈNH NGHE GIẢNG.
CẢM TẠ SẮC CHỈ TẶNG THỦY TÊ NHƯ Ý
RA LỊNH GIẢI Ý CHỈ NGHĨA HAI ĐẾ
LỊNH CHỈ GIẢI NGHĨA PHÁP THÂN, ĐỒNG THỜI HỎI ĐÁP
HOÀNG THÁI TỬ CHIÊU MINH ĐỜI LƯƠNG CẢM TẠ SẮC CHỈ BAN CHO NGHE GIẢNG
CẢM TẠ SẮC CHỈ BAN CHẾ CHỈ GIẢNG SỚ KINH ĐẠI NIẾT-BÀN
CẢM TẠ SẮC CHỈ BAN CHO CHẾ CHỈ GIẢNG SỚ KINH ĐẠI TẬP
TẤN AN VƯƠNG TRẢ LỜI THƠ QUẢNG TÍN HẦU
TẤN AN VƯƠNG GỞI THƯ CHO QUẢNG TÍN HẦU
THIÊN THỨ TƯ: PHÁP NGHĨA (Phần 5)
NGHĨA PHẬT BIẾT KHÔNG KHÁC CHÚNG SINH BIẾT. THẨM HƯU VĂN
NGHĨA SÁU ĐƯỜNG NỐI NHAU THÀNH PHẬT. THẨM ƯỚC
BẮT BẺ LUẬN THẦN DIỆT CỦA PHẠM CHẨN, THẨM ƯỚC
TỰA LUẬN NHÂN DUYÊN VÔ TÁNH, CỦA SA-MÔN THÍCH CHÂN QUÁN ĐỜI TRẦN
LUẬN VỀ TÁNH PHÁP TỰ NHIÊN, CHÂU THẾ KHANH
LUẬN NHÂN DUYÊN VÔ TÁNH CỦA PHÁP SƯ CHÂN QUÁN ĐỜI TRẦN
VĂN NGUYỆN NHẤT THIẾT KINH CỦA BA BỘ ĐỜI TỀ THUỘC VỀ NGỤY
VĂN NGUYỆN KINH TẠNG NHÀ CHU, VƯƠNG BAO
VĂN NGUYỆN BẢO ĐÀI KINH TẠNG, TÙY DƯƠNG ĐẾ
SẮC CHỈ ĐÁP BIỂU TÂU CỦA PHÁP SƯ HUYỀN TRANG
BÀI TỰA TAM TẠNG THÁNH GIÁO CỦA THÁI TÔNG VĂN HOÀNG ĐẾ
CẢM TẠ SẮC CHỈ GIÚP MỞ LỜI TỰA KINH
LỜI TỰA THÁNH KÝ TAM TẠNG KINH DO HOÀNG THÁI TỬ LÀ THẦN TRỊ SOẠN
HOÀNG THÁI TỬ ĐÁP THƠ SA-MÔN HUYỀN TRANG CẢM TẠ LỜI TỰA THÁNH GIÁO
BÁC SĨ THÁI THƯỜNG LIÊU TUYÊN GỞI THƯ CHO CÁC ĐẠI ĐỨC PHIÊN DỊCH KINH
LẠI THỈNH VIẾT LỜI TỰA TAM TẠNG THÁNH GIÁO, THÍCH HUYỀN TRANG
CẢM TẠ HOÀNG THÁI TỬ MỞ TỰA THÁNH GIÁO
TỔNG MỤC TĂNG HÀNH, HOẰNG MINH TẬP ĐỜI LƯƠNG
TỔNG MỤC CỦA THIÊN TĂNG HẠNH TRONG QUẢNG HOẰNG MINH TẬP ĐỜI ĐƯỜNG
THIÊN THỨ NĂM: TĂNG HẠNH (Phần Đầu)
ĐIẾU ĐẠO SĨ CHI ĐÀM ĐẾ, ĐỜI ĐÔNG
THÍCH TĂNG TRIỆU ĐIẾU PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP
THÍCH TUỆ LÂM, ĐỜI TỐNG, ĐIẾU PHÁP SƯ VÕ KHÂU PHÁP CƯƠNG
THÍCH TUỆ LÂM, ĐỜI TỐNG, ĐIẾU PHÁP SƯ TRÚC ĐẠO SINH Ở CHÙA LONG QUANG
TẠ LINH VẬN, ĐIẾU PHÁP SƯ ĐÀM LONG
TẠ LINH VẬN, ĐỜI TỐNG, ĐIẾU PHÁP SƯ TUỆ VIỄN Ở LÔ SƠN
TRƯƠNG SƯỚNG, ĐỜI TỐNG, ĐIẾU KÍNH PHÁP SƯ Ở NÚI NHÃ NA
ĐIẾU PHÁP SƯ THÍCH HUYỀN VẬN Ở CHÙA TÂN AN
HÀNH TRẠNG CỦA PHÁP SƯ TRÍ XƯNG LUẬT SƯ CỦA CHÙA AN LẠC, ĐỜI NAM TỀ, MẤT TÊN NGƯỜI SOẠN
HÀNH TRẠNG CỦA PHÁP SƯ CẢNH TRỤ CHÙA HƯƠNG SƯ PHONG, NÚI LÔ SƠN. (Ngô Hy)
THIỀN LÂM, ĐỜI NAM TỀ. (Thẩm Ước)
THIÊN THỨ NĂM: TĂNG HẠNH (Phần 2)
CHIẾU SA THẢI TĂNG CHÚNG (Tống Vũ Đế)
CHIẾU NHÓM HỌP NÊU ĐỨC TĂNG (NGUYÊN NGỤY, HIẾU VĂN ĐẾ) CHIẾU DÙNG TĂNG HIỂN VÌ SA-MÔN ĐỀU CHUNG
BAN CHIẾU CHO CÁC PHÁP SƯ MỘT THÁNG VÀO ĐIỆN BA LẦN
CHIẾU CHỈ RA LỊNH CHO CHÚNG TĂNG Ở CÁC CHÂU AN CƯ GIẢNG THUYẾT
CHIẾU CHỈ BAN CHỨC TĂNG THỐNG CHO CHÂU TỪ VÀ LẬP RA TRAI TĂNG
CHIẾU CHỈ CÚNG LỤA CHO ĐẠO NHÂN ỨNG THỐNG
CHIẾU CHỈ VÌ PHÁP SƯ TUỆ KỶ MẤT MÀ THÍ LỤA LÀM LỄ TRAI TĂNG
THẨM HƯU VĂN ĐỜI NAM TỀ NÓI VỀ VIỆC TĂNG ĂN NGỌ
THẨM HƯU VĂN, NÓI VỀ TĂNG LẬP HỘI
CHIẾU CHỈ NÓI VỀ SA THẢI THÍCH, LÝ
QUAN PHÂN HIẾU LIÊM KÍNH VÂNG CHIẾU
THƠ ĐIẾU PHÁP SƯ ĐẠO TRỪNG MẤT
VƯƠNG QUÂN, ĐỜI LƯƠNG, THƯ GỞI CHO PHÁP SƯ ĐÔNG DƯƠNG THẠNH
THÍCH TRÍ LÂM ĐỜI LƯƠNG, THƯ GỬI CHO ÔNG NAM CHU NGUNG
LÝ KÍNH PHỈ, THƯ GỞI CHO CHẤN HUYNH
THƠ ĐIẾU TĂNG CHÁNH PHÁP SƯ KINH QUA ĐỜI
ĐÔNG DƯƠNG KIM HOA SƠN THÊ CHÍ (Lưu Hiếu Tiêu)
THƯ GỬI CHO TỪ BỘ XẠ LÃNH QUÂN THUẬT VỀ SAI KHIẾN TĂNG
THƯ CAN NGĂN PHÁP SƯ NHÂN SƠN THÂM BỎ ĐẠO
BIỂU CAN GIÁN CHU THÁI TỔ SA THẢI TĂNG
ĐỆ TỬ BỒ-TÁT GIỚI TÊN ĐỚI QUỲ GỬI THƯ CHO THIỀN SƯ TIÊN THÀNH PHỤNG MỆNH DƯỚI TÒA THIỀN SƯ
SA-MÔN THÍCH TUỆ MẠNG Ở U LÂM GỬI THƯ CHO ĐÁI TIÊN SINH, TỀ BẮC
THIÊN THỨ NĂM: TĂNG HẠNH (Phần 3)
LUẬN PHƯỚC ĐIỀN CỦA KINH QUÁN HỌC SĨ SA-MÔN THÍCH NGẠN TÔNG
ĐƯỜNG CAO TỔ RA CHIẾU HỎI XUẤT GIA CÓ LỢI ÍCH HAY TỔN HẠI
ĐƯỜNG THÁI TỔ VŨ HOÀNG ĐẾ RA CHIẾU CHỈ SA THẢI ĐẠO PHẬT
ĐƯỜNG THÁI TÔNG RA LỊNH ĐẠO SĨ XẾP Ở TRƯỚC TĂNG
KIM THƯỢNG CHẾ SA-MÔN ĐỀU BÁI LẠY VUA THÂN
TĂNG OAI TÚ V.V... Ở CHÙA ĐẠI TRANG NGHIÊM DÂNG BIỂU "SA-MÔN KHÔNG NÊN LẠY KẺ TỤC"
TRUNG ĐÀI TY LỄ THÁI THƯỜNG BÁ, VƯƠNG BÁC XOA Ở LŨNG TÂY, ĐẠI PHU KHỔNG CHÍ ƯỚC V.V... BÀN
TY HÌNH THÁI THƯỢNG BÁ LƯU TƯỜNG ĐẠO
BÀN SA-MÔN GỒM BÁI TRẠNG, GỒM BA BÀI
HỮU THANH ĐẠO VỆ TRƯỜNG SỬ LÝ HIỆP V.V... NGHỊ TRẠNG (Một bài)
HUYỆN LỆNH TRƯỜNG AN LÀ TRƯƠNG TÙNG THỌ NGHỊ TRẠNG (Một bài)
TY LỄ TRUNG ĐÀI LÀ THÁI THƯỜNG BÁ, VƯƠNG BÁC XOA Ở LŨNG TÂY CHẤP NGHỊ TRẠNG TẤU
KIM THƯỢNG ĐÌNH CHIẾU CHỈ SAMÔN LẠY VUA
LÃO NHÂN KINH ẤP TRÌNH SĨ KHỎA, V.V... DÂNG BIỂU THỈNH (Một bài)
ĐẠO SĨ, TĂNG NI XIN Y XƯA TĂNG NI XẾP Ở TRƯỚC. TĂNG NI XIN Y XƯA KHÔNG LẠY CHA MẸ.
TĂNG ĐẠO TUYÊN CHÙA TÂY MINH DÂNG LÊN VINH QUỐC PHU NHÂN HỌ DƯƠNG XIN NÓI VỀ VIỆC LẠY
TĂNG OAI TÚ… Ở CHÙA ĐẠI TRANG NGHIÊM V.V... DÂNG BIỂU XIN (Một bài)
SA-MÔN TĨNH MẠI…, DỊCH KINH Ở CHÙA NGỌC HOA CUNG. DÂNG BIỂU NÓI: "LẠY CHA MẸ CÓ TỔN".
NÓI CHUNG VỀ SA-MÔN KHÔNG NÊN LẠY NGƯỜI THẾ TỤC
THIÊN THỨ SÁU: TỪ TẾ (Phần 1) Luận cứu cánh từ bi, Tề Tâm Hưu Văn.
LUẬN CỨU CÁNH TỪ BI, THẨM HƯU VĂN
THƯ GỬI CHO HÀ DẬN NÓI VỀ CẤM SÁT SINH-LƯƠNG CHU NGUNG
HẠ CHIẾU CHỈ DỨT VIỆC SÁT SINH, KHÔNG GIẾT SÚC VẬT ĐỂ CÚNG TÔNG MIẾU, LƯƠNG VÕ ĐẾ
GIỚI RĂN SÁT SINH, NHAN CHI THÔI
VĂN DỨT RƯỢU THỊT, LƯƠNG VÕ ĐẾ
BÀI TỰA THIÊN THỨ BẢY: GIỚI CÔNG
CÙNG SÁCH CỦA TIÊU TI NGHỊ-ĐỜI LƯƠNG, NGUYÊN ĐẾ
TRẢ LỜI THƯ TƯƠNG ĐÔNG VƯƠNG, VĂN GIẢN ĐỜI LƯƠNG
GỬI THƯ CHO LƯƠNG TRIỀU SĨ (Luật sư Viện)
GỬI THƯ CHO LUẬT SƯ VIỆN-THÍCH TUỆ TÂN
ĐỜI TÙY, DƯƠNG ĐẾ Ở NON THIÊN THAI, VĂN KHẢI THIỀN SƯ THỌ GIỚI BỒ-TÁT
BÀI TỰA TỔNG LƯỢC TỊNH TRỤ TỬ TỊNH HẠNH PHÁP MÔN, THÍCH ĐẠO TUYÊN
TỊNH TRỤ TỬ TỊNH HẠNH PHÁP NAM TỀ, VĂN TUYÊN CÔNG, HOÀNG GIÁC BIỆN ĐỨC MÔN THỨ NHẤT
BÀI TỤNG BIỆN ĐỨC MÔN, NAM TỀ, BÍ THƯ THỪA VƯƠNG DUNG
MÔN SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. THỨ NĂM
MÔN CHÊ TRÁCH THÂN TÂM-THỨ SÁU
MÔN XUẤT GIA THUẬN THIỆN-THỨ CHÍN
MÔN TẠI GIA THEO ĐIỀU ÁC-THỨ MƯỜI
MÔN ĐẮM CHÌM TRONG ĐỊA NGỤC-THỨ MƯỜI MỘT
MÔN XUẤT GIA CƯU MANG ĐẠO-THỨ MƯỜI HAI
MÔN TẠI GIA NHỚ NGHĨ ĐIỀU LÀNH-THỨ MƯỜI BA
MÔN KHỔ TRONG BA CÕI-THỨ MƯỜI BỐN
MÔN VUI RA KHỎI BA CÕI-THỨ MƯỜI LĂM
MÔN DỨT BỎ NGHI NGỜ-THỨ MƯỜI SÁU
MÔN MƯỜI THỨ HỔ THẸN-THỨ MƯỜI BẢY
MÔN RẤT ĐỖI HỔ THẸN-THỨ MƯỜI TÁM
MÔN THIỆN HỮU KHUYẾN KHÍCH THỨ MƯỜI CHÍN
MÔN GIỚI PHÁP NHIẾP SINH-THỨ HAI MƯƠI
MÔN TỰ VUI KHÔNG TẠO TỘI MỚI-THỨ HAI MƯƠI MỐT
MÔN ĐẠI NHẪN ĐỐI ÁC-THỨ HAI MƯƠI HAI
MÔN DUYÊN CẢNH VÔ NGẠI-THỨ HAI MƯƠI BA
MÔN NHẤT CHÍ CỐ GẮNG-THỨ HAI MƯƠI BỐN
MÔN LỄ BẢO THÁP XÁ-LỢI-THỨ HAI MƯƠI LĂM
MÔN KÍNH TRỌNG CHÁNH PHÁP-THỨ HAI MƯƠI SÁU
THỨ HAI MƯƠI BẢY: PHỤNG DƯỠNG TĂNG ĐIỀN
MÔN KHUYẾN THỈNH TĂNG TẤN-THỨ HAI MƯƠI TÁM
MÔN TÙY HỶ MUÔN ĐIỀU LÀNH-THỨ HAI MƯƠI CHÍN
MÔN HỒI HƯỚNG PHẬT ĐẠO-THỨ BA MƯƠI
MÔN PHÁT NGUYỆN TRANG NGHIÊM-THỨ BA MƯƠI MỐT
THIÊN THỨ TÁM: THIÊN KHỞI PHƯỚC, ĐỜI ĐƯỜNG
BẮC ĐẠI, NGỤY THIÊN TỬ, THƯ CHIÊU BẠT KHUÊ
ĐỜI TỐNG, THƯ TI MÃ XƯƠNG MINH CỦA VUA
ĐỜI TẤN, THƯ CỦA THÁI TỬ PHÙ KIÊN
ĐỜI YÊN, THƯ CỦA THIÊN TỬ MỘ DUNG THÙY
NAM YẾN, THƯ THIÊN TỬ MỘ DUNG ĐỨC
ĐỜI TẦN, THƯ CỦA THIÊN TỬ DIÊU HƯNG
ĐỜI NAM TỀ, SỚ NGUYỆN LỄ PHẬT CỦA HOÀNG THÁI TỬ
SỚ NAM QUẬN VƯƠNG, NAM TỀ, XẢ THÂN, THẨM ƯỚC
VĂN NGUYỆN NGÀY MỒNG 08 THÁNG 04 ĐỘ NGƯỜI XUẤT GIA, LƯƠNG GIẢN VĂN
BÀI TỰA BÁT QUAN TRAI CHẾ-LƯƠNG GIẢN VĂN
SỚ VÌ NGƯỜI XÂY DỰNG CHÙA, LƯƠNG GIẢN VĂN
NGUYỆN SỐ CỦA ĐÀN VIỆT VÌ CÁC CHÙA
LẬP VÔ NGẠI PHƯỚC HỘI GIÁO LƯƠNG TIÊU LUÂN
TRẢ LỜI THƯ CỦA TƯƠNG ĐÔNG DƯƠNG LƯƠNG GIẢN VĂN
GỬI THƯ CHO PHÁP SƯ VIÊN-LƯƠNG GIẢN VĂN
GỬI THƯ CHO LƯU TRÍ TẠNG-LƯƠNG NGUYÊN ĐẾ
THƯ GỞI CHO PHÁP SƯ ƯỚC-THẨM ƯỚC
THƯ GỬI CHO ẤN XÀ-LÊ-LƯU CHI LÂN
THƯ GỬI CHO VÂN TĂNG CHÁNH (VƯƠNG QUÂN, ĐỜI LƯƠNG)
THƯ GỬI CHO TRƯỜNG SA VƯƠNG BIỆT (VƯƠNG QUÂN ĐỜI LƯƠNG)
TRẢ LỜI THƯ PHÁP SƯ VÂN (Lưu Hiếu Xước đời Lương)
NGUYỆN VĂN CỦA CHÙA NÚI LIÊU DƯƠNG
ĐỜI BẮC TỀ, CHIẾU VUA THÀNH ĐẾ, LẤY CUNG TAM ĐÀI LÀM CHÙA ĐẠI HƯNG THÁNH.
CUNG VUA MINH ĐẾ ĐỜI HẬU CHU SỬA SANG XÂY DỰNG CHÙA
CHIẾU TÙY VĂN ĐẾ VÌ THÁI TỔ VŨ NGUYÊN HOÀNG ĐẾ THỰC HÀNH VIỆC BỐN NƠI XÂY CHÙA, LẬP BIA
CHIẾU VUA TÙY CAO TỔ LẬP CHÙA Ở CHIẾN TRƯỜNG CHÂU TƯƠNG.
TÙY DƯƠNG ĐẾ RA SẮC CHỈ HÀNH ĐẠO ĐỘ NGƯỜI
ĐƯỜNG THÁI TÔNG BAN CHIẾU CHỈ ĐỘ TĂNG TRONG NƯỚC
ĐƯỜNG THÁI TÔNG RA SẮC CHỈ KHÔNG ĐƯỢC BÁN TƯỢNG PHẬT
THƯ GỬI CHO TIẾN LUẬT THỜ THẦY
CHIẾU CHỈ TẠO LẬP CHÙA HƯNG THÁNH, NIÊN HIỆU TRINH QUÁN NĂM THỨ BA
VĂN NGUYỆN VÌ HOÀNG HẬU THÁI MỤC TRUY PHƯỚC, VĂN ĐẾ VIẾT SỚ
BÀI MINH KHẮC TRÊN CHUÔNG VỀ HAI GIÁO ĐẠI CHU, HOÀNG ĐẾ SOẠN
ĐẠI ĐƯỜNG, BÀI MINH KHẮC TRÊN CHUÔNG Ở CHÙA HƯNG THIỆN
BÀI TỰA KHẮC TRÊN CHUÔNG, CHÙA TÂY MINH, KINH ĐÔ, LINH CHẾ
QUẢNG HOẰNG MINH TẬP-BÀI TỰA THIÊN SÁM TỘI-NGÀI THÍCH ĐẠO TUYÊN SOẠN
VĂN SÁM HỐI SÁU CĂN CỦA LƯƠNG GIẢN VĂN
VĂN NGUYỆN CỦA QUẦN THẦN THỈNH TÙY, TRẦN, VÕ ĐẾ, GIANG TỔNG VĂN
VĂN SÁM MA-HA BÁT-NHÃ-CỦA LƯƠNG CAO TỔ
VĂN SÁM KIM CANG BÁT-NHÃ CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
VĂN SÁM THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ CỦA TRẦN TUYÊN ĐẾ
ĐỜI TRẦN, VĂN SÁM KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA CỦA VUA VĂN ĐẾ
VĂN SÁM KIM QUANG MINH CỦA TRẦN VĂN ĐẾ
VĂN SÁM ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG CỦA TRẦN VĂN ĐẾ
VĂN SÁM HƯ KHÔNG TẠNG BỒ-TÁT CỦA TRẦN VĂN ĐẾ
VĂN SÁM HỐI PHƯƠNG ĐẲNG ĐÀ-LANI CỦA TRẦN VĂN ĐẾ
VĂN SÁM DƯỢC SƯ CỦA TRẦN VĂN ĐẾ
VĂN SÁM SA-LA TRUI CỦA TRẦN VĂN ĐẾ
VĂN SÁM XẢ THÂN TRONG HỘI VÔ NGẠI, TRẦN VĂN ĐẾ VÌ HOÀNG THÁI HẬU XẢ BỎ NGÔI BÁU
ĐỜI LƯƠNG, MỤC LỤC THIÊN THỐNG QUY
PHÚ TỊNH NGHIỆP CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
BÀI PHÚ HIẾU TƯ CỦA LƯƠNG CAO TỔ
LỜI PHÚ "CHÙA TÚC SƠN" (Vương Tích đời Lương)
NÚI TIÊN THÀNH, BÀI PHÚ TƯỜNG HUYỀN, THÍCH TUỆ MẠNG
BÀI PHÚ: HUYỀN PHỐ VIÊN, TIÊU TỬ VÂN
BÀI PHÚ: THƯƠNG ÁI TỬ-GIANG AM
CHIẾU PHẠT MA VÀ LỜI TỰA ĐỜI NGUYÊN NGỤY, PHÁP SƯ Ý
PHẠT MA CHIẾU (chiếu chỉ phá ma)
THƠ KHEN PHẬT NGÀY MỒNG 08 THÁNG 04
THƠ VỊNH NGÀY MỒNG TÁM (3 bài)
BÀI TỰA ĐẠO NHÂN VỊNH THIỀN TƯ
BÀI TỰA TẬP THƠ "NIỆM PHẬT TAMMUỘI"
NIỆM PHẬT TAM-MUỘI (Lang Da Vương Tề Chi)
KHEN NGỢI TÁT-BÀ-ĐA LUÂN VÀO NÚI CẦU PHÁP
KHEN NGỢI TÁT-BÀ-ĐA LUÂN THỈ NGỘ MỤC CÚNG DƯỜNG ĐẠI SƯ
THƠ THUẬT BA GIÁO CỦA LƯƠNG VÕ ĐẾ
ĐỜI ĐƯỜNG, THÁI TỬ CHIÊU MINH LÀM THƠ "PHÁP HỘI CHÙA KHAI THIỆN"
PHÙ ĐỒ CHÙA ĐỒNG THÁI CỦA GIẢN VĂN VỌNG
ĐÊM NHÌN TƯỚNG LUÂN TRÊN THÁP, GIẢN VĂN
PHÚ VỊNH NĂM ẤM THỨC CHI CỦA GIẢN VĂN
LƯU XƯỚC PHÚ VỊNH BÁCH LUẬN XẢ TỘI PHƯỚC
GIẢN VĂN, MÔNG DỰ SÁM TRỰC SỚ VÀ HỌA (5 BÀI)
VƯƠNG QUÂN ỨNG CHIẾU VÀ LỜI TỰA
THÁI TỬ CHIÊU MINH GIẢNG TỊCH SẮP XONG PHÚ BA MƯƠI VẬN Y THEO THỨ LỚP DÙNG
VĂN GIẢN, RA GIẢNG CHÙA HƯNG NGHIỆP
LƯƠNG NGUYÊN ĐẾ HÒA LƯU THƯỢNG THƯ THỊ NGŨ MINH TẬP
THƠ CHUNG SƠN GIẢNG GIẢI VÀ HỌA THEO CỦA THÁI TỬ CHIÊU MINH
BÁT QUAN TRAI DẠ PHÚ TỨ THÀNH MÔN LẠI SOẠN BỐN BÀI SƯU TẬP NGÔ ĐỆ NHẤT PHÚ VẬN ĐÔNG THÀNH MÔN BỆNH
BÀI PHÚ THỨ HAI CỬA THÀNH PHÍA ĐÔNG-BỆNH
THỨ 3: CỬA THÀNH PHÍA ĐÔNG- BỆNH
THỨ TƯ: CỬA THÀNH PHÍA ĐÔNG BỆNH
THƠ NHIÊN ĐĂNG NGÀY MỒNG TÁM THÁNG GIÊNG
ĐỜI LƯƠNG, GIẢN VĂN Ở U TRẬP, CẦM BÚT SOẠN TỰA RẰNG:
THƠ LÂM CHUNG CỦA TẠ LINH VẬN ĐỜI TỐNG
LỜI BIỂU, LÚC LÂM CHUNG CỦA THẨM ẨN HẦU
THƠ LÂM CHUNG CỦA THÍCH TRÍ KHẢI, SA-MÔN ĐỜI TRẦN
ĐỜI TRẦN, GIANG TỔNG VÀO CHÙA THÊ HÀ Ở NHIẾP SƠN VÀ BÀI TỰA (1 bài)
TAM TÚC QUYẾT ĐỊNH TỘI PHƯỚC SÁM HỐI
TỪ HIẾU KHẮC NGƯỠNG ĐỒNG LINH QUÂN NHIẾP SƠN CHÙA THÊ HÀ, SƠN PHÒNG DẠ TỌA SÁU VẬN
TRẦN CHỦ ĐỒNG GIANG BỘC TẠ DU NHIẾP SƠN CHÙA THÊ HÀ
ĐẾN CHÙA THÊ HÀ Ở NHIẾP SƠN VÀ LỜI TỰA
NẰM TỊNH DƯỠNG Ở CHÙA THÊ HÀ VỌNG VỀ TỪ SÁT TỬU
TỪ TẾ TỬU HIẾU KHẮC NGƯỠNG HÒA LINH QUÂN
NGÀY 13 THÁNG 2 NĂM CANH DẦN ĐẾN TINH XÁ NÚI HỔ KHƯU
THƠ ĐẾN CHÙA HANG HỔ TRÊN NÚI CỦA TRẦN GIANG LINH
TRỊ TRUNG VƯƠNG HUÝNH PHỤNG HÒA
KÝ THẤT THAM QUÂN LĂNG TRÁC PHỤNG HÒA
TIỀN THẦN HÌNH NGỤC THAM QUÂN KHỔNG ĐẢO
CHÂU DÂN TIỀN SỬ HÌNH NGỤC THAM QUÂN VƯƠNG ĐÀI KHANH
TÂY TÀO THƯ TÁ BÀO CHÍ TÙNG GIÁ CHÙA NÚI HỔ QUẬT
TRẦN TÙNG SỰ HÀ XỨ SĨ NGÀY XUÂN THEO TƯỚNG QUÂN ĐẾN CHÙA NÚI
PHÁP SƯ BIỆT TÀI Ở TƯƠNG VỀ DĨNH BẮC (3 bài)
TRẦN THẨM HUÝNH TÙNG ĐẾN CHÙA THIÊN TRUNG THIÊN, ỨNG LINH
ĐỒNG SƯU TRUNG THỨ KIÊN NGÔ CHU XỨ SĨ HOẰNG NHƯỢNG ĐẾN CHÙA MINH KHÁNH
TỰ THƠ THEO VUA ĐẾN CHÙA ĐẠI TỪ CHIẾU, BẮC TỀ, LƯ TƯ ĐẠO
TẶNG SA-MÔN TRÚC PHÁP QUẬN (ba bài)
DƯƠNG ĐẾ RA MẮT CHÙA LINH NHAM, PHƯƠNG SƠN
PHỤNG HÒA, PHƯƠNG SƠN, CHÙA LINH NHAM, ỨNG GIÁO, CHƯ CÁT DĨNH
NGÀY RẰM THÁNG GIÊNG Ở THÔNG CÙ KIẾN ĐĂNG, BAN ĐÊM LÊN LẦU PHÍA NAM. TÙY DƯƠNG ĐẾ
PHỤNG HÒA THÔNG CÙ KIẾN ĐĂNG ỨNG GIÁO-CHƯ CÁT DĨNH
XẢ CHU ĐĂNG LỤC THỊ TUỆ NHẬT ĐẠO TRÀNG NGỌC THANH HUYỀN ĐÀN ĐỨC CHÚNG. TÙY DƯƠNG ĐẾ
TÙY TRƯỚC TÁC VƯƠNG TRỤ NGỌA BỆNH MAN VƯỢT THUẬT TỊNH DANH
TIẾT ĐẠO HÀNH TRIỂN KÍNH DÂNG CHÙA PHỤNG LÂM
ĐỜI LƯƠNG, CHÙA KHAI THIỆN, PHÁP SƯ TẠNG PHỤNG HÒA THƠ TAM GIÁO CỦA VÕ ĐẾ
THÁI TÔNG VĂN HOÀNG ĐẾ RA MẮT TINH CHÂU, CHÙA HƯNG QUỐC CA
VĂN ĐẾ VỊNH PHƯỚN TRƯỚC ĐIỆN PHẬT
THƯỜNG CHÂU, CHÙA HOẰNG THIỆN, PHÁP SƯ TUYÊN
NGÀY MÙA THU ĐẾN CHÙA ĐÔNG SƠN HAI PHÁP SƯ THÙ, ĐÀM
Tựa nội điển, Tề Thẩm Ước, Tề Hoàng Thái tử giải giảng sớ, Thẩm Ước, Tề Cảnh Lăng Vương phát giảng sớ, Thẩm Ước, Tề Cảnh Lăng Vương giải giảng sớ, Thẩm Ước, thơ cùng ẩn sĩ Lưu Cầu ở châu Kinh, Tề Cảnh Lăng Vương thỉnh Lương Tổ giảng Kim Tự Ba Nhã Khải, Lương Hoàng Thái tử Cương, thuật ngự giảng Tựa Bát-nhã, Lương Lục Vân, bày ngự giảng nghĩa Bát-nhã, Tề Túc Tử hiển Tạ Ngự giảng Bát-nhã xong, Lương Hoàng Thái tử, Tựa nội điển.
Thẩm Ước, Phùng Tề Từ luống xong giáo tác của Lăng Vương.
Từ trước, ban đầu chúng sinh, nghĩa ẩn ngoài ba tạng, sự chẳng phải Nhị thừa dòm đến được, tự đều biết đồng chạy theo duyên thọ nghiệp. Người trời khác phép tắc, máy động khác mối, khổ vui lật đổi, trí ngu nhiễm nhau, đâu chẳng phải nhà lửa vòng xe vịt trời phát họa đèn bị gió dữ xoay, lấy ngắn của tấc bóng đuổi theo dài của nhiều kiếp, tinh linh khởi phục muôn mối ngàn tên. Như Lai phát nguồn hằng phẩm, bởi cũng là một trong hàm sinh, còn như đều đầu tranh chạy. Đây vốn chưa đều khác, đến như úp sọt từ vô thỉ, ban đầu thành công cuối đoạn thẻ, đường xa nghiệp xa, xe màu xa tít, lụy rõ nhóm tuệ, linh giác sáng riêng, bốn mươi tám tướng lớn chiếu rõ ngàn thiên, tôn pháp hai mươi chín bao trùm không ngoài. Nghiệp sáu độ đã sâu, công mười phương tự xa, giúp vật dùng quyền, hàng ma chẳng phí sức, pháp mầu luân chuyển, cam lồ rơi lả tả, ghe kiệu sáu đường, bốn cầu năm đường, lên ngã tư đường dài, dạo đường rộng Nhất thừa. Đây đã sự đầy Phương Đẳng, nghĩa tràn thần nghi. Đến nơi đại quyền nhiếp hóa đối nêu bày tông cực, vật theo điềm từ bi, quên thân chấp chẳng thôi, hạnh phù hợp bốn đẳng, đạo lên Thập địa. Nếu chính tánh linh đặc biệt hiểu được tự ôm lòng, công thần sức diệu không đợi học thành, riêng thúc giục riêng chạy lồng lên đâu biết hạn cuộc, kết tập lộn xộn một theo lý ngộ.
Lại có tổn tình ngăn lo nghĩ, thân tâm chẳng muốn, nhàm siêng dài của sinh tử, nhìn lại vắng lặng mà xót xa, xa bỗng tự được lậu lụy như khói tiêu. Vả lại bến tâm đến đạo công chẳng phải một nghiệp, dẫu hiểu lý cùng nguồn mà mầm tình hoặc khác. Đây cho nên cao tâm hạnh xa chia đường đồng chạy, quên nhớ ngăn dục, sai đường một mối, hoặc cỏ nát thân thể, mất hài cốt ở rừng, ao. Trong quên hình tướng ngoài quen tê giác, hổ. Hoặc ngồi nằm đi đứng dấu vết không trái chúng, nghiệp thiền cửa định tạo thứ lớp không sai. An nhẫn cùng vàng đá đồng bền chặt, giới hạnh cùng châu báu đồng mầu dẫu chim mùa thu năm đến mùa xuân thời cá tầm bên, mà Cảnh giới, Trường Sơ lo lắng xót xa ở trong ý nghĩ, diệu tích chẳng xa, đường thần thầm gần, có ngộ quyết thông. Do đây đến cho nên có thể nhờ trí xét hư nương tâm chiếu lý, khu khu ôm trong lòng, rõ ràng chẳng chấp, đều ở ba cõi cùng thần dạo chơi riêng, bao gồm bốn trời, co duỗi muôn kiếp, nghe miếng nghĩa mà bước lên đạo tràng, nhận một lời mà lên bờ kia. Đêm dài chưa mở tâm quang tự hiểu. Che mờ vết Thánh, ngủ mất thần quang, đã mang túi theo thầy cũng thê lâm nghiệp chung. Chân đạp cửa tuệ học thông tạng rồng, sửa màu xa suốt âm loan tự xa, nếu quỳ gối vận tâm hẹn thành chẳng dấu vết, mà dẫn dắt đạt thần công chiếu soi người chưa ngộ, xướng nói nghĩa tốt đẹp gồm ở đây. Đã chín cõi khác phong tục, tám phương phong tục cũng chẳng giống, du hóa đã ôm, sự ra khen rộng đều đủ để dời cõi Tịnh quang lên đất nghi báu, truất hoa cắt trang sức, phá ái từ thân. Trống, mái chèo dòng vô sinh, vuông phép đường tục biểu vốn đã ngàn Phật xoa đảnh thất trụ đồng công, cho đến thanh nam tín nữ trồng duyên nhiều kiếp, dẫu rằng dung nhan y phục chưa sửa mà giới đức trong rộng, Chiêm-tỳ-gia mà nhún dây cương, trông Ba Tư mà lại thương nhớ, điều chế nhỏ nhiệm của bốn thiền, thiếu mù mịt của tám giải thoát, như bèn mười hiệu tôn sùng ba đạt chẳng ngại. Tuy pháp thân chẳng có mà thường trụ ở thân, Năng Nhân quyền tích bốn môn đã chẳng phải ban đầu ngộ đạo, giả diệt độ nơi song thọ chứ đâu có cùng của củi hết, mà trời, người chiêm mộ phảng phất khởi tình, khắc vàng chạm ngọc vẽ hình họa trang. Linh nghi mặt trời sáng rỡ, mây đến cõi báu, hoặc dịch công của quỷ thần, hoặc giúp sức tủy não, chế tạo chẳng phải thợ khéo loài người, dùng báu hợp thành, đâu không là rồng chương tám màu hoa quỳnh chín sắc. Cho đến răng tóc truyền linh y lại để làm chứng, Thánh tích chói lọi, mặt trời sáng rỡ nơi Diêm-phù.
Thần quang lìa đất bằng, sao buộc nơi cõi tịnh, nếu nương trực tâm này suy thành ám vãng thì nửa hơi có thể theo một niệm, cảm giáng tham sai mây lả tả rơi mù. Đây lại vời giúp tượng dịch sáng rỡ bản đồ lụa, giấy tờ thư sự dòng kia đã xa, bởi thế cho nên vết cũ to lớn, sáng rỡ thuật tiếng xa, dẫu triện trừu khác văn. Hồ, Hoa khác phép tắc, còn như hòa hợp bày tâm linh, ép hay nêu nghĩa dạy vốn cũng trong ngoài đồng nhìn người thần một đạo, gò sách gò điển, sử sách trong cõi vốn khởi hạ sinh đạo truyền ngoài cõi. Tóm lại, trước đều nêu khác mà kinh ghi nhiều rộng, dòng nguồn rời tan, một sự trước sau dật lý chia quyển, hoặc lời nghĩa lìa đứt, hoặc văn tự xen ra, lớn hợp điều sau, đã muội giám trước, tìm nguồn thảo dòng chưa biết nhỏ giọt. Dẫu tinh lý sáng tâm dừng nơi câu kệ, mà sơ ngô mới học có ra mê hoặc thì nhiều. Vả lại trong ngoài đều chở sách dạy, dù giáo có khác môn mà lý chẳng khác đường, cho nên hai sách chân tục thay nhau phò khen. Khổng phát khởi điềm kia, Đạo Thích cùng đầu mối kia, triệu võng bỏ cương, vì tuệ ở đây, biến dân đổi tục nên để lần đến. Tinh, thô, ép dẫn đều có lý do, cho nên khúc biện tình linh, gá tâm nơi sách màu, phục ứng thuyết có không, rộng gồm quên sách. Bao gồm các dòng nhóm thành sách này, sự để bày chia, nghĩa tùy lý hợp, công ước ngộ rộng đâu còn ở đây, có thể dùng lý cầu chứng thành diệu quả, như chính xe chở ty nam vẫn gọi là chẳng mê hoặc, phục cỏ bốn chiếu soi được dụng không mê, huống chi sáu ngựa đồng hàm muôn dòng chung suốt, mặt trời mặt trăng trải qua bầu trời, cõi này chưa thôi, sông biển và đất đâu đáng nói, bởi nơm bẫy vào đạo, chúng sinh có ngộ ở đây.
Hoàng Thái tử vào ngày 15 tháng 04 niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ tư nhóm Tăng theo Đại thừa ở vườn Huyền Phổ an cư ở đất báu Cấm Uyển, bốn thứ cúng dường đầy đủ cho Phật và chúng Tăng, chấn động huyền âm nơi sáu tiêu, xướng lời vi diệu trong nhiều kiếp, ba đại nói diệu quả kia, Thập trụ khen duyên lành kia, đúng hai khí mà nghiệp lên, lìa chín tuần mà công thành tựu, đến tháng bảy đã trông bèn thỉnh bỏ thân báu và đến kiệu, mũ miện từ tua mũ đã giáng chín mươi chín vật, xin đem sức này giúp khắp chốn u minh. Nhà của vua có tung hoa bền chắc, xanh đen hưởng phước nhân thọ, nếu có trôi nổi ở biển khổ được tùy lý ngộ. Rụng thể liệng đường không xa đây, mười phương ba đời đều chứng lời ông, đây thệ đều tội không chứng Chánh giác.
Lớn thay! Diệu giác là nhiệm mầu, vô tướng chẳng phải sắc, không, không thể cùng tột, mà lập lời dạy dỗ để hấp dẫn làm phương pháp. Sóng từ nước tuệ dẫu có thể tưới thấm mà đâu biết nguồn kia, thiên linh sách báu xa tham rồng chứa, bởi không chứng mà nói, đến nơi nghĩa chỉ trời nêu núi, văn ẩn ngoài giao hà, lại chẳng phải dứt thẻ mà đếm được. Đến nhiệm mầu của Kỳ Thọ, Yêm
Viên, rồng chánh thuyết Nhất thừa bốn đế, lại dịch mà chung kẻ bậc trung, đâu không là một trong hằng sa, mà nguồn lời biển rộng, đường lý sâu xa linh hiển, dẫu dòng chữ phụ tiếng vang, muôn xe đồng khởi chia điều, rải lá, lìa văn, che câu, chưa bằng trong muôn một.
Cảnh Lăng Vương điện hạ thần vượt thượng địa, đạo trùm sinh tri, cây nghiệp báu ở bốn minh, ngưng chánh giải ở xưng niệm, như sự sâu xa của Phương Đẳng sự mầu nhiệm của cam lồ, đâu còn có không dạo đường kia mà mở nhà kia. Tạng bí mật giúp các nước phía Đông. Chẳng phải không đều nhóm, đều rõ ràng dùng sách báu, văn dùng chữ lệ chữ triện, ngưng ánh sáng ngọc Quỳnh Tứ, sáng rỡ màu Dao Đằng, suy nghĩ muốn mở bày lời vi diệu chiêu cảm người chưa ngộ. Bèn đến ngày 08 tháng 02 niên hiệu Vĩnh Minh năm đầu đặt tòa giảng ở Thượng Để, nhóm danh Tăng ở Đế Kỳ (chỗ vua ở) đều nói sâu về chân tục so lường danh tướng, chia nhỏ chẳng dính mắc, còn nghi như hiểu, đồng nhóm mây pháp tinh lư trong dễ, diễn huyền âm ở sáu tiêu, mở pháp môn nơi ngàn năm, đông đúc nơi thật thạnh sự lớn nhất thời đại. Từ Pháp vương giáng sự cứng cỏi cho Tăng, điều chở như sau để ghi việc này, bèn làm bài tụng rằng:
Mười hiệu thần vắng lặng
Dấu vết do Thánh ẩn
Dạy dỗ từ lời nói
Dày đặc đầu mối pháp
Vời thông minh sót nơm
Nêu tiếng trụ nhiệm mầu
Vọt lên hoa sen báu
Văn truyền đi rồng chừa
Nghĩa tràn đầy cõi trời
Chỉ có vua bẩm chiếu
Đạo trùm thêm ngọc tuyền
Sao trùm như màn báu
Mây mở chiếu Phạm thiên
Suy nghĩ như ngựa chạy
Lý chẻ ve mùa thu
Cờ linh màu sắc sỡ
Nước chánh khởi liên tiếp
Nương đây mà chứng quả
Thường dẫn dắt duyên thơm
(Thẩm Ước)
Nương hình sáng hóa quyết do đường ủy khí, nhân phương dẫn lý quyết đồng chất tiêu thiên, do đây nêu điềm linh ứng sâu xa, Thánh đản sinh cung vua, trụ mùa sợi ngang, dừng hoa nơi ngày tháng. Cho nên có thể nhóm từ thành Thánh, chồng nhiệm mầu thành không, thẳng thắn chiếu đường nơi đạo tràng, cứu gốc mê nơi bờ khổ. Đệ tử là Túc Tử
Lương, gột rửa lự phiền, chánh nghiệp lầu tình phía Nam, nghiêm túc Tăng anh tài, cung kính bày sách tuệ, thầm chứa văn sâu xa, mây mở mưa rơi. Nay phách đầu đan quỳ, ngày huyền thượng sóc, người bước ngưng tưởng, hư không sáng thuộc tâm, dẫu thần tích hơi xa xôi mà để trần ở nơi đây, bèn trang sức điện Diên Tảo, trướng, màn đầy để khế thành kỳ sự, dựng nhóm báu này. Suối lan sóng vọt, đầy dẫy mây hương thơm vây quanh, lý mật sâu xa, chú màu kín nhiệm, tông điều đã nêu, tột công thành tựu, nhà luận cuốn tòa, trống nghĩa dừng âm, nương đây phương duyên định lên thượng trụ, mười phương ba đời có chứng không sai.
Tột nhiệm mầu các tượng, ân vắng quyết thông, lý trùm các phương có cảm đây ứng, từ tiếng loan liền xướng, vầng ánh sáng rực rỡ, tướng hoa không truyền thẻ vọt đất đã xa. Hạnh lời vào đạo, sự khó tạo thứ lớp, một phen ngộ giai cấp trống không, hiệu cách nơi khoảnh khắc, nếu chẳng nhóm lông thành dày chứa đuốc thành sáng thì không do phép tắc cửa tuệ buộc thuyền nơi bờ pháp. Đệ tử dùng đêm cảnh giác chở lòng, nhưng ngày không đủ, cho nên kính nhờ danh tăng diễn bày sách sâu mầu, chấn nhỏ khởi trệ luân động mây xa, điện nguyệt cung hàm, phách huyền lên ngày, cam lồ đã cùng tiếp lời ở tòa báu, cuốn văn bỏ tòa, áo giày hướng nhau, lại chỉ có trước sau bẩm thọ linh đẹp đức hợp cảnh qua hiên, đạo chở gò hoa hóa mát sông Hiệp, sông Phần, sớm bỏ cung Lan, tối trái tiêu dịch, ngàn xe không theo muôn chuông không kịp, trọn buổi chiều không nối năm ngắn, muốn báo đó thật suy nghĩ nối thạnh nhiều kiếp, kính lễ thân thể để đầy đủ cúng dường, nhờ đây u thông cầm giữ tình Diệu giác, ngưỡng mong Thánh linh mau lên ngôi báu vượt biểu bốn thiên, ghi tôn mười hiệu, chỉ có đây ba đời đều chứng nơi đây, dám thệ đơn trung kế phù hợp ánh sáng mặt trời.
(Tề Văn Tuyên Công Tiêu Tử Lương) Ban đầu Lưu Cầu làm quan ở Đương Dương sau làm quan ở quận Nam vừa mới tự khỏi. Ban đầu sự phủi áo, lúc ba mươi hai tuổi người luận sánh với Hán Sơ Bính bèn tránh cốc lìa hột gạo, ăn truật mặc vải gai vải bố dép cỏ nhà tranh vách đất, lễ tụng, chay trường sáu thời không thiếu, kinh sách thế tục không tu, sách vở tiểu nghề tất cả dứt hết, chỉ nghiên cứu tinh chuyên lý Phật, thuật thiện không thọ báo, đốn ngộ nghĩa thành Phật, ngay lúc đó đâu thể khuất phục. Chú giải các kinh như Pháp Hoa v.v... giảng đại tiểu các phẩm kinh Niết-bàn.
Niên hiệu Tề Kiến năm đầu, có chiếu chỉ cho ông làm Vị Thông Trực Tán Kỳ Thị Lang nhưng ông không làm, văn nói rộng về chánh pháp do cầu tinh thông lý nhà Phật muốn kia đông hạ Cầu thơ rằng: Đèn ngọc lên năm, thương vàng ở Luật, nóng mát mới đổi, động tịnh chỉ an, siêng mùi đạo, màu mỡ may mắn dẫn dắt nhã thượng đâu không vui ư? Tôi thật rất may mắn, trăm họ nhất tâm chúng sinh không bệnh, sánh nhà có thể phong toan lại cầu gì? Nhưng thơ Lương riêng ôm bản thiện phân tích không xin nói đó ông thật hiểu lòng ta cho nên không xa ngàn dặm thước thơ ý đạo. Tự trong sạch đã xong tưới tắm thấm ướt áo thay, ẩn hiển là thuật so le, nói nín là đường xen nhiều, hoặc trang sức trí để kinh động ngu, hoặc kích động tình để ngộ tục, hoặc dơ mình để ám thông, hoặc lầm ca để sáng đạo, buôn ngựa mổ dê chưa đáng làm mỏng bền chắc kia, giả điên như ngu, đâu thể làm đen được màu trắng, quan Sở Phiên Ngụy khí người ngoài càng xa, đến Hán đến Lương, vận trong khu vực càng ít và xúc phẩm nặng nhẹ kia, được mất kia, thì vực nhớ suối thưởng, đâu hoặc thẻ đó, xưa xuôi rảnh rang lâu mộ đại khái, dấu bụi thô to tâm buông sông hồ, chưa mặt tự thấy, nghe gió như xưa mà xa nương niệm theo xe, lễ thức cung không bậc, vốn đã đứng lâu trục sâu ở trong, nghiêng sọt đường xa.
Ông mạnh mẽ riêng xa thật khó cứu, chí trong cùng mây trắng đồng đi, cao tình và thông xanh cùng trong sáng, nói tập chất văn, đen rừng khô mà càng vui, hiện rõ có không, sông Liên bị lấp nên lại tràn, cái gọi là người quên lời có thể bàn mé trời người, đâu thể phụng nêu hạc lại có tâm bầy đàn. Vượt cao biển ái, sánh buộc đường thiền, thấm ướt soi đó thầm dạo khuất pháp lữ Linh Thứu, mở rộng ba thừa cùng tử, phát khốn mông hai đế, có là nhân, đâu có xướng ư? Nay hoàng phong đủ mục đến đạo giúp rộng, bốn biển không tràn đầy, năm núi ngạc không bụi trần tựa giao sửa sang, kinh pháp mở rộng, người nghèo ky Hoàn (hạt châu hình bán nguyệt) nhà tập lễ nhường, chuối tô quyết thời rừng ngoại ô toàn rậm rạp. Gặp lưới có mắt cánh đều liệng, đến từng núi bặt, thấm nhuần đai ngọc khơi thông kinh kỳ, đất ruộng màu mỡ, đồng trống bày trông không giảm, tin có thể gọi đến, ẩn luân tê nhóm rất kỳ lạ, cho nên văn nêu dựng nhà tựa thành đài. Kế tông cắm vịn nền núi Tây, dây sắn lớn chọn bàn nơi biển núi. Thích Viễn đầy đủ ẩn lánh nơi u tối, thường lẫn lộn dấu vết liền than sự sâu của chín nguồn, nếu bước cao có thể trùm khắp nào lo gì bốn chữ. Xưa Tuyên Ni thấy Bá Tuyết, Sư Lợi đến Duy-ma há không biết đạo quên tướng ư? Thiết nghĩ có đó chưa bày ở giữa là đạo tự thương, một hai khiến Lăng Cư miệng đủ lời Vương Nguyên Trường.
Vua lại cùng Nam Quận Thái Thú Lưu Cảnh Đình viết thơ rằng: Mùa đông năm ngoái nhân vua viết thư cho Lưu cư sĩ, mùa xuân năm nay được ngược văn kia lời lẽ ý thú nhanh nhẹn, đủ có tài thao lược, thật ông múa bút mây, thơ ghi Nguyên Du bày lại hỏi thăm càng thêm ý tưởng kính phục. Đây là ông ngâm chân ôm phác sánh khắc ráng mây, trái tục ở tối, vui ở rừng thục nuôi chí Nam Kinh, có thể cùng Biện Báu tranh giá Thao Quang, Phạm Phục vốn đồng chiếu theo cùng sáng, dẫu Nhan Đoạn chậm dừng, kính mong vắng lặng của Dương Trịnh, lãnh đạm yên tĩnh, giữ đó như người, tin sẽ đồng ngày mà nói?
Vả lại, nói tánh trời dạo thiền tâm tự thụy, ai vui chín bộ nghiên cứu vị ba thừa, Bồ-tát tại gia thực hành đó mà không ân hận. Cư sĩ tại gia tức đó mới dễ, thệ đem đèn đuốc tuệ đến chỗ tối mù, cứu người chìm đắm nơi cầu pháp, quạt Linh Ngạc giữ gió gương Trinh Lâm dứt bóng, tôi ở trước đã đồng tình khế hợp càng đến mà dạo chơi vườn ở kinh đô, trong lấy núi sông giả nhờ thần thông xa càng thầm giao. Bình minh sáng rỡ ai tả được vạt áo chẻ sâu, nói rõ ý chỉ sâu xa, dấu vết sinh diệt trong bàn luận, nghiên cứu nghĩa đế chân tục, cho nên lại có sách riêng, cảm ra kinh kỳ ấp thôn. Ở lời hỏi đạo kế đủ vì ai thỉnh, đây quế ở núi lan nước đã đủ nhàn nhã, bạn nho tông huyền lại nhiều bạn bè đến, chẳng phải do một tước thêm nhau cờ hiệu kia đâu đủ làm phần, thẳng đóng cửa thành nguyên chất, ngõ hầu quyết có thể rõ mầu nhiệm, chợt ông đến nghi tưởng thời càng thêm giúp sai khiến. Lại khiến cầu người quê của Sử Bộ Lang Dữu Cảo có thơ dụ ý rằng: Tư đồ Cảnh Lăng Vương siêng năng ở thần, lời tượng đã dứt, tiếp nơi sự xa gần tôn sùng, chuông đá chẳng lễ gốc nhạc, vải thô đâu thể gọi là triều đình và dân gian. Tưởng nhớ tối tăm không cho hình hài và ngăn trở, một ngày thông sách Lương Để, thân thờ lời lẽ, mộng tưởng nhan sắc sạch bị năm tháng nhóm, do trượng phu chẳng phải cừu non nên chỗ buộc, cho nên dứt sách hay của Bồ Bạch thầm gởi chung tha thứ có chậm gió hẹn, vua bói ở ngoài thành nhọc mang sông gò, rõ ràng chẳng theo công, thông minh không nêu dấu vết, từ trong dung mạo người quê mùa để cùng hai đầu mối. Vả lại rộng được là tâm rộng bày chân tục, suy nghĩ, lắng nghe, nối biểu cùng mổ xẻ các điều hay núi Thức Diên ven sông Hư Quán, thật mong rực rỡ ít thù đáp, suy lường chậm. Xưa đông bình vui thiện cờ hiệu vua ở lầu đông, Triết Vương mến mộ nên ta ở núi Tây đâu không thạnh ư? Trăm năm phiêu bạc, dính mắc nơi vật, ngàn năm một thời kỳ làm nhân do mình. Vả lại Lăng giới trắng như tuyết, đường chẳng phải hiệu bặt dấu vết, chuông lớn ngự trị há là đạo bỏ tiếng, đã nêu dấu vết dị nhân vốn có nhọc đồng vật há non nước vô tình ứng đó để hiểu ái nhàn ở ta, chạm đất tiêu điều gặp gò đâu có thân thích, núi Chung đâu mỏng tưởng rộng suy nghĩ có ở không hề lời ràng buộc.
Trong cầu vồng vốn đã quyết, vật ngoài chẳng làm động được. Niên hiệu Kiến Vũ năm đầu chọn làm Quốc Tử Bác Sĩ, mùa đông năm thứ hai bịnh dời về Giang Châu mây trắng bồi hồi như vào cửa, có mùi thơm lạ kỳ, trong hư không tiếng khánh thì Cầu chết thọ sáu mươi tuổi, đệ tử như để tang cha mà không mặc áo, kẻ đạo người tục đưa đám tang đến mấy trăm người, các luận đã soạn có bốn mươi hai quyển.
Đời Lương, niên hiệu Đại Thông năm thứ hai chư tử cúi đầu nơi thụy pháp, cao nhân Dữu Tân nói: "Đạo đức rộng nghe nói là văn, có thể tiến đó là thụy" Trần Thị nói: "Văn là khuôn phép ở đời, hạnh là phép tắc của kẻ sĩ". Nải Thụy nói: "Văn là phép tắc tiên sinh" Thái thú quận Nam là Nhậm Ngạn Thăng nói: Tôi và tiên sinh dầu tuổi đời bằng nhau mà kinh, Ngô mấy ngàn dặm chưa từng gối đi dưới gió bẩm thừa các luận, há thẳng phát giận ngay năm, vốn cũng hận sâu trọn đời, đêm vắng lặng nêu bày Kiềm Lư, Hàn Trác mộ Cự Trọng cây vốn đón ánh sáng, bụi nương gió bay, chính lại mong hướng lý xa, nhớ mãi ngàn năm. Nhưng người kia tự cao, dù cho trải qua ôm chổi ngày đêm quét cửa, không hề thấy một tấc của ngàn nhẫn ngói rảnh của muôn khoảnh, hoàn toàn đối mặt muôn cổ đâu thể kịp cửa. Cho nên do đây hận ngàn năm". U Trinh Tử Ngu Hiếu Kính nói: "Sự hiểu biết của người kia quan Thái Thường đời Lương cùng ông tốt, cầu vị tiên kia để thơ lại", kế lấy đó làm truyện.
Thần Cương, Thần Luân, Thần Kỷ nói: Thần nghe cung tím sáng đẹp nhiệm mầu, hiện đài ở núi xa nghe sách hay, do đó đạo càng thạnh mà lễ càng phức tạp, đức càng rộng mà sự càng nhiều. Đây là do ảnh hưởng đến tôn đài, là gốc dẫn dắt chúng sinh, phục vọng là điện Đại Quang Nghiêm, mâu thần rủ phép tắc xông lên trời mở cõi bờ, công sâu lớn lao, sự giúp rõ văn, nghi kiến thiết tột bực, mây mở tạo đèn chiếu tam quang hàm vượt trăm ngàn dặm, đều gọi là tâm hoa nêu bày lại chẳng phải sức thợ khéo, thần thông hiển hiện không nhờ ông đến mà thành, thật chỉ có cõi tịnh, vốn bặt lễ trông coi đôn đốc. Cung Thích cao xa lý không tiệc nai kêu, trộm nhìn chỉ có nhà xinh đẹp thù thắng, Bổn Sư ở đây Phật hống, nơi điện ma-ni Như Lai cũng mở giảng pháp âm, cúi mong thân giáng nhìn dung mạo rưới cam lộ, rõ ràng mây tuệ thấm nhuần mưa từ, ánh sáng này thạnh nghiệp dẫn dắt chúng sinh kia, lại ở trời mà nói vô tướng đồng chân. Kiến lập Phật sự mà giúp thống lãnh cõi nước giáo hóa kẻ tục, đồng chân hóa tục, chí lý thay! Một nêu mà ba đẹp hiển há không lớn ư? Cùng kia trên núi kinh truyền dưới núi Nham, đô tây phụng hoàng gánh vác chim nhạc trọc, đâu đủ cùng ngày mà nói ư? Dám lộ đơn ngu phục đợi bền được, nhẹ can xem nghe, chảy mồ hôi chiến nhiếp. Kính khải.
Xét khải. Muốn cần ta giảng đủ ý các ông, sách nói: "Một ngày hay ngày muôn cơ, nay lại qua đó", tuổi già gốc thục, hơi sức suy dần. Gánh vác tấm màn đây có càng thêm gánh vác, trong ngày có khi được ăn một bữa, có khi không được ăn. Châu Đán nhổ khạc nắm chưa đủ là nhọc, vua Sở ăn chiều cõi nay chẳng phải tha thiết, chưa sáng cầu y cây bút đến luôn nghĩ. Ban ngày nhọc nhằn ban đêm suy nghĩ tinh hoa đã cạn kiệt, mấy thuật nhiều việc chưa được cầm lấy, và việc nước chẳng gởi đâu được ngồi bàn, cần phải nói làm dân an mới phải bàn. Việt sắc.
Thần Cương, thần Luân, thần Kỷ nói: Một ngày rất nhẹ nhàng xin tâu lên, xin rủ mưa pháp, trời soi ngưng xa chưa mong giáng được, dự đồng thuốc chưa thành đồ đựng nước bằng đồng, luống đẹp hoa xuân lại thương thu xưa. Cúi xin bệ hạ, đức trùm nhận nước đạo giáng lời hay, bốn, ba, sáu, năm không thể dụ, mười Nghiêu chín Thuấn không dùng phương, mà gió thu lay động, còn cùng niệm chưa dứt, một vật mất chỗ dụ như khởi nhận nhân hào mời lưu tình nhà ngã tư, chưa bàn cấu thạch cừ, trộm dùng thần thông hiển hiện một niệm muôn cơ, đại quyền chỗ làm ứng thời ba mật, còn chỗ thiền tịch ảnh hiện mười phương một phen khởi đạo tràng đã là tám hội, há cùng sau thổi luật đều nhọc Hùng, Tương. Vua đúc đảnh, tha thiết việc gió mưa cúi xin dùng tuệ bình đẳng hành lòng từ Như Lai, vì độ chúng sinh giáng việc ít có, khiến sớm đủ tình nhất thừa, đều là mười điều lành, trí châu, đuốc pháp người người đều giữ, bốn nhẫn năm minh nhà nhà hãy mong. Xin mạo oai trời để khải tấu, ngẩng đầu thành chú, cúi mong đầy đủ, khiến bắc ký không núi há lại tự cao ở ngày xưa, Nam dương hồi bóng không riêng ngại ngày nay. Kính khải.
Xét lại, vẫn muốn cần ta giảng nói đủ ý các ông. Đã nhớ, cũng không khác lời đáp ở trước, bên duyên chưa vào nước qua nhiều thiếu sót, các việc như vậy thường cần qua chấp nhận, còn các phiền toái khác chẳng thể nói hết. Lãnh đạo đất nước chưa an, người ăn rau chúng gồm giúp tiếp nhau, thưởng cùng vị Chu, oán trông thì nhiều nhớ âm thì ít. Đời Hán lẫn lộn và giá cả thích hợp nên cũng suôn sẻ. Nhà Ngụy không Ngô Dương Phụ vẫn gọi là đáng thương. Huống chi ngày nay móng răng tâm bụng không hai quan, lại nói đạo người nơi màn trướng, bốn thông không mở tâm đạt đóng bít đường, vương hầu tuy nhiều chỉ thành luống gởi. Ngày nghiêm ngặt, đêm cảnh giác như đao sương để mục nát cổ xe sáu ngựa đâu đủ làm dụ, thì không hề nói ư? "Người biết ta gọi là ta tâm lo, người không biết ta gọi là ta đâu cầu". Mới ngày nay tin chẳng phải bàn rằng: "Các ông muốn vậy tự có thể khiến chư Tăng ở trong mây dày nói đạo nghĩa", Việt sắc.
Lại thỉnh vua giảng.
Thần Cương, thần Luân, thần Kỷ nói: Dám nhờ sự yêu mến nhiều lần con nghe xem, lại giáng ý thần chưa rủ đến đèn, xin để hoàng chánh sâu rộng, trời che ra xa, biển sông yên lặng, mặt trời mặt trăng sáng tỏ, túi nước có hồ xưng phiên, con đường bản thảo có chỗ quay về, đem giáo đi cất giấu, bụi thu không bay, gai hòe đều là thơ nhiều người, điều đang có được bài tụng bậc hiền, Thánh đức hướng về khiêm tốn nhọc nhằn buổi chiều xế bóng, dụ như thời gian nhiều Võ than vật chưa hiểu tâm. Trăm thí dụ hổ thẹn các ty cao vút, bọn thần hoặc ba thiện chẳng nghe, hoặc một quan không bắt chước, ham muốn Bào Phùng Tể Tướng thỉnh học nghiệm được tham dự bàn luận quân, mà tự để kết gốc thiên uyển, trộm cao năm trước, do đó chẳng sợ làm dơ bẩn lại dám tâu lên, cúi xin ưa nói đại từ rủ lòng thương xót phóng quang động đất, không cho là pháp ngại tục, tùy cơ cho thuốc, không do người bỏ lời, thấp hàm sinh đây phàm thiếu cõi làm đích. Tâm hoa thành cây cùng chuyển sáu trần, trong gương được hạt châu đều mở ba chướng, ở đó thật nguyện ai không mừng vui. Mạo muội vào chốn cung nghiêm càng thêm chiến dứt. Kính tấu.
Xét các ông khải tấu lại đủ sự mong mỏi, các ông chưa hiểu hết gian nan của việc cày cấy, đâu biết gánh nặng của thiên hạ, vua chúa tầm thường thiếu hiểu biết sở dĩ tiếp nối lật đổ đều do lúc an không suy nghĩ sự nguy hiểm, huống chi lại chưa an ư? Soi xét không xa chỉ ở ngay trời trước, nay ta thực hành tuy khác xưa nhưng biết sợ giảng nói không buồn lo việc nước thì khác thuật mà đồng mất với người kia. Kinh Dịch nói: "Kia mất buộc ở bào tang" đây thì cẩn thận cảnh giác mà sau khỏi, các ông hãy suy nghĩ việc đó, một, hai đủ như sắc chỉ ở trước. Việt sắc.
Thần Cương Khải, Xá Nhân Từ Nghiễm kính đọc.
Sắc chỉ, không ngại đại từ, không trái bổn thệ, tháng giêng năm đến mở nói kinh Tam Tuệ vâng mệnh trong chiếu thân tâm vui mừng như kẻ đói mong cỗ tiệc ngon, so với niềm vui này vẫn chưa bằng như người nghèo được của báu sánh đây chẳng dụ được. Cúi mong nguyên chánh mừng dòng đại cầu lễ xong, mây tuệ tiếp tục thấm, mưa pháp vẫn tưới xuống, ân lớn xuất thế cùng trời xuân mà rải thấm nhuần, hàm linh thấp kém đây tùy thuốc mà được thêm lớn mạnh, khen đồng vạn phước thầm chín vi, đâu gặp ngu thần được điều chưa từng có. Kính cẩn nay tuyên sắc lịnh báo giềng mối, đủ hướng về nhau không lời tạ tấu, kính khải.
Thần Cương nói: Trộm nghĩ chân như không thể nói, chẳng có nơm bẫy thì không ngộ, cực quả không nên chú ngưỡng chung ở đây, cho nên món đồ có duyên nước mới thấy hình bóng tròn, thuốc đều dưỡng tánh, được lòng từ của mây tuệ. Cúi xin bệ hạ gương ngọc ở cung son, xe vàng dạo đời, ứng thích hữu vi giúp lợi ích chúng sinh, không trái bổn thệ mở đường dẫn dắt người ngu muội, đều khiến Đại thừa ở mười phương, vận chuyển nhân thọ ở vạn nước, há chỉ trị ruộng lúa công bằng tạo hóa, chỉnh sửa núi sông, cho thành thiên hạ, trí cao chín Thuấn, thông minh vượt mười Nghiêu, thường theo xe vua giáng mưa cam lồ trời người nhảy múa, hâm sinh lợi ích, do đó trái dòng biết ngược bờ mê biết quay về. Thần tự tạm được dự hướng đến nghe pháp khát ngưỡng không nhàm một ngày mạo muội bày khen ngợi, cúi mong lại chuyển pháp luân, chưa quay lại suy nghĩ nghe mình, còn dứt nguyện của ngu thần nhanh chóng tấc chí lại dám vạch cầu. Cúi xin đem giáng một âm thương xót ba lần thỉnh, giúp gạn lời nơi Thành Vương-xá, nhóm nghĩa màu nơi gò báu, tâm Thánh đồng xem chúng sinh như con một thần thỉnh tức là khắp giúp vô biên, như do đây chấp nhận các trông mong cũng đủ, hai vai gánh vác đâu dám làm dụ, không nhậm nguyện sau, kính cẩn mở sự tâu lên.
Xét tấu trình, đủ như ông mong mỏi, pháp sự đã tốt đâu không vui mừng, ta các duyên trong ngoài lo nhọc phân vân đều ăn hơi không dấu vết. Bỏ việc, bàn đạo là lúc chưa rảnh rỗi, ông tiện vì chưa thể nhận nước nhà. Việt sắc.
Thần Cương khải tâu: Riêng nguyện thành khẩn thường mạo đến chỗ cung cấm mong giáng mưa cam lồ khắp giúp tam thiên đại thiên, trời nghe rất xa chưa rũ giám soi theo, mầm sớm thấm nhuần đâu sánh tự thương xót, nắng lên chim nhớ rừng đâu sánh với sự khát ngưỡng, do gần đại Tăng chánh tuệ lại dám cầu xin, giáng đến sắc chỉ rủ lòng chấp nhận tháng hai năm tới mở đề kinh Kim Tự Bát-nhã, ân đặc biệt lại ứng ngu thần thỉnh, cúi lạy cung kính tâu không xiết kể sự vui mừng, thân tâm vui vẻ như chạm từ quang, tay chân múa may nghĩa chẳng phải tập khí còn sót. Cúi xin thành thơm lời nhiệm mầu thật kính mến văn thần, thấm nhuần mây mưa càng sáng mặt trời mặt trăng, khiến cho đường mê biết chính là đại mộng buổi sáng. Phạm Chí sợ đến ma trời lễ từ xa, Đề Hoan đã nghe mà nay được nghe, Ba Luân chỗ cầu mong đời lại xuất hiện, kia vì lợi ích sâu rộng vô biên, chín vi được ngộ mười phương mong hiểu, dẫu lại biết khởi ban đầu dòng tâm và niệm chót, mới đáng chung tổn năm cái, đều chiếu một không, vòi vọi mênh mông khó mà dụ được. Thần vẫn mở tuệ khiến tiếp tục đọc sách này, Đại thừa khắp dẫn dắt là do Thánh từ, cong bút hết lời đâu bày gánh chở, không nhậm tình sau, cẩn mở sự tạ ơn tấu trình, kính khải.
Lý đến rốt ráo mà chiếu trọn nơi vắng lặng, vào ba môn mà rõ quán, dẫn dắt năm trược mà vượt bến, thí như sáng rỡ đèn xa tà mà không chạm, như kia mặt trời xuất hiện chỉ bày nhất tướng để đến đạo. Từ La-duyệt mở mang lời mầu nhiệm, cõi Chúng Hương rộng mở câu diệu kỳ. Di-lặc nêu chữ ở Viên quang, Đế Thích nghĩ thiện ở minh chú, thọ trì đọc tụng thần lực chẻ gió mạnh, cung kính tôn trọng phước lợi càng đầy ở tháp báu. Bởi chúng Thành tròn tột mà làm gốc nguồn nơi muôn pháp, Hoàng đế chân trí tự mình đại từ ứng vật, đón rước mặt trời mặt trăng bao bọc trời đất, trấn, gió nhiễu ba mùa, nhóm sụp đổ phong tục năm đời, ra đến ngã tư nhà lui việc giúp ở, chẳng cho nhà vàng là tôn quý, thường nghĩ nhớ đến chúng sinh, đức khắp cõi bờ chưa đủ nói lên lòng chí nhân, lý dứt danh ngôn lại hết lòng mật ngữ. Xưa đèn tuệ ẩn ánh sáng, pháp tạng chia dòng, ba thừa rong ruổi, năm bộ trái lầm, quở trách hẹp kém, luống rước ánh sáng mặt trăng đen. Tỳ-đàm nói: Bồn chồn đeo mang, chưa thấy báu Thẩm Châu, từ Thánh Hoàng ứng thời kỳ tham cứu tột diệu cơ, quyết tan quần mê dẫn dắt dị học, tột rộng lớn của thiên cung, cùng bí mật sâu xa của điện rồng. Vì thế phát Đại Bồ-đề rộng hoằng Bát-nhã, dứt hẳn phiền hoặc, đồng về thanh tịnh, thấm nhuần cam lồ cho chúng sinh, chuyển pháp luân không dứt, trên trời soi mười một năm chú thích đại phẩm, từ đây về sau cùng sự giảng nói lại để rõ ba tuệ rất là sâu xa bèn đưa ra một phẩm lập riêng quyển kinh, cũng nhờ năng lực Quán Âm đặc biệt mở rộng chương Phổ môn, trụ lên hạnh sâu, bèn đưa ra phẩm Hoa Nghiêm, cho nên để tiếp nêu cơ cốt yếu soi ngộ cho người mới học.
Đại Tăng Chánh Tuệ khiến cho thượng thủ pháp môn cũng tổng trì thần túc, nguyện đồng lời hỏi của Tu-đề, bèn đồng lời thỉnh của Ca-diếp. Bèn thỉnh vua giảng nói kinh này. Có chiếu chỉ chấp nhận mới lấy ngày 12 tháng 03 niên hiệu Đại Đồng năm thứ bảy giảng kinh Kim Tự Bát-nhã Ba-la-mật Tam Tuệ ở điện Trùng Vân trong vườn Hoa Lâm. Vườn Hoa Lâm, từ Giang Tả về sau sân sau dạo dọn yến tiệc, từ Tấn đến Tề gần hai trăm đời thuộc Oai Di Chủ nhiều thay thế quá đáng, nhà vũ quán chuông v.v... nên xưa A phòng, ao rượu rừng thịt đồng ca sớm, cho nên tự đến cõi vua loài người đều bỏ thinh sắc, mỹ nữ trong cung quy ngưỡng, cùng vườn linh với thứ dân, lại do vườn hoa tàn héo mà ngộ tất cả vô thường, đài báu giả hợp giúp mười phương bền chắc, bỏ vườn trời này mà dựng lập đạo tràng trang nghiêm pháp sự, nhóm họp chúng tăng, tiến vào cõi thần kết bóng mát núi xanh, vòi vọi lầu gác đến trên đan trĩ ánh sáng rộng khắp có đất Yêm-la xa, thân tâm an vui thật là phù hợp vườn hoan hỷ, ở thời ba xuân cong tiết, vạn vật duỗi tốt tươi, gió nắng thuận hòa không lạnh không nóng, hoa xinh cây báu soi rọi bảy lớp, đáy ngọc cát vàng sóng nước tám đức, mở rỗng suốt cửa cao nhóm mây đại chúng, hướng về pháp tòa để bỏ âm ỉ, nghe chuông ngân mà vắng lặng. Hoàng Thái tử trí đồng Tất-đạt đức vượt hơn Đàmma, bỏ tục vui của ba cung, kéo dài hai tòa để hỏi đạo. Tuyên Thành Vương và Vương hầu tôn thất cũng đều phát thâm tâm đều tu tịnh hạnh, xông hương giới để khắc thiện, mặc áo nhuộm mà thành tựu nhiều, che chở ve đội mũ miện, rắn đội mũ đeo đai, sắp cửa vàng, bên thềm ngọc, ngay thẳng thành hàng đã cảnh giác, cấm hướng về phía Bắc, người chuyển sang phía Đông, cửa bày rõ ràng bên cạnh nhổ khói thơm, mặc sắc phục cõi Tịnh Cư lên tòa Tu-di. Tám món tiếng nhiệm mầu phát lời không ngăn trệ, mười phương cất tiếng tùy loại được hiểu, nghĩa rất sâu ở nơi múc đổ mà khó cạn hết, biện tài vui nói đã qua rồi lại mà càng mới, còn bậc lão học kỳ Tăng tột huân thiên chấp chuyên bắt chước số luân, chưa rõ văn kinh, biến ý nhỏ để xứng lượng, rước thiên tôn mà nêu lên lời hỏi. Về thế cầm nắm đao tuệ cắt bỏ lưới nghi, chỉ bày cho kẻ mê lầm cách thức quay về nẻo chánh, đều rõ ràng giọt nước vui mừng đầu đội, như hoa sen dần nở, như trăng khuyết lại dần tròn.
Phàm các Thánh chúng từ Hoàng Thái tử, Vương hầu hoàng tôn quốc thích nội ngoại và Thượng Thư Linh Hà Kính Dung, trăm vua khanh sĩ lỗ sử, chúa Thôi Trường, Khiêm Sử, Phó Dương, Thôi Chi và tạp sử ngoài cõi có một ngàn ba trăm sáu mươi (1.360) vị đều dạo đường cửu dịch xa xôi muôn dặm. Xin mở mang để chở, nở hoa trời mà nhảy nhót đầu mặt bày trọn lễ, khen ngợi từ bày biện dưới kia. Và chỉ thỉnh Tăng nghĩa học cả ngàn vị ở chùa Đồng Thái, đêm lại chế nghĩa và đàn việt giàu có nổi tiếng trí hiểu như sông biển, truyền tập như bình vẽ, phúng tụng giống như mưa nhanh, Samôn Thích Pháp Long gần trăm tuổi, học khắp ba tạng, biết suốt tám thiền, nói pháp độ người hiển danh phía Bắc cửa tắc, nghe Trung Quốc ứng giảng kinh Ma-ha Bát-nhã cho nên từ xa đến. Bấy giờ Tăng Chánh Tuệ vẫn chưa diễn giảng, kẻ đạo người tục ở kinh đô cũng biết vua đang giảng. Đến ngày phát giảng lại có chúng Tăng người nước ngoài nhiều không thể kể hết và chúng không biết đồng nhóm dưới pháp tòa. Cho nên biết phát ra ánh sáng khắp soi địa thần tuyên bố đâu nhọc khiến rong ruổi, thầm phù hợp lúc trống tin.
Thích Pháp Hiển trụ chùa A-dục vương huyện Mậu, Cối Kê tu tập khổ hạnh chí cầu tuệ giải, đã đồng tư duy của Uất-đa, cùng đồng khẩn thiết của Ba Luân, bèn ở chỗ giảng tự bày nguyện lực, cắt máu rưới đất để nói lên lòng chí thành, khoét thân cúng dường, chẻ xương chép kinh, quy y chánh pháp chẳng tiếc thân mạng. Dùng nay trông xưa tin chẳng phải lời luống dối.
Giảng suốt hai mươi ba ngày, từ lúc khai giảng đến bế mạc, mỗi ngày cúng dường khắp cả kinh đô, quan văn quan võ quân hầu bảo vệ đều thêm ban đội, trên sàn nhà thiên hạ hơn bốn mươi năm, cùng việc nghiệm ước thể an rau cải sơ sài, thường ngự điện nhỏ che chở gió mưa chỗ ở màn tòa chỉ ở dung chứa đầu gối, ngoài bặt lễ ba khu trong gồm yến ngàn chuông, bữa ăn ở bàn tay năm rút bỏ muôn vàng, phí nhét sâu năm giảm, cự ức bao gồm để rộng thâu địa lợi, đồng vào châu báu vét biển, tràn đầy suối phủ dụ vô tận, nơi rồng vàng, cho nên có thể chẳng nhọc sức người không tổn cõi nước, tài pháp gồm thí cùng khắp không khô cạn là giảng. Linh dị loạn xạ không thể nghĩ bàn: Một thì tượng Phật trong cung đều phát ra ánh sáng. Hai là đại địa chấn động đủ các cách vọt chìm. Ba, là ban đêm mưa mát ban ngày tạnh ráo, rơi dịu dàng, hoa xinh đẹp, bụi đất không khởi. Bốn, kiền chùy đã kêu, chiếu giảng đã hợp, vai nặng trở ngại tụ hợp trấn đầy bốn cửa mà người ngựa điều hòa nhiễu ngại nhau. Năm, tòa thí pháp chỉ ngồi muôn người mà hằng sa đại chúng lại không chật hẹp. Sáu, bốn bộ rộng xa đều nghe lời mầu, ngoài hiên nghe nhân rõ ràng. Bảy, đồ thanh tịnh cúng bày đầy nhà bếp mà chẳng phải làm từ đêm, đồ ăn ngon đúng thời trăm vị đầy đủ. Tám, hương lạ dày đặc, theo gió chạm đủ. Chín, nhạc nhã leng keng tự nhiên phát tiếng. Mười, đồng tiếng khen lành khắp cả hư không.
Đây bởi tiên Phật chứng thấy, chư Thiên cảm ứng, vượt báu linh xưa, mưa hoa điềm lành xưa. Bấy giờ cõi nước vỗ tay hàm linh vui mừng, nguyện dự ruộng phước tranh việc hỷ xả. Trên đều khu tâm kia, dấu vết vì phát đại nguyện, trộm lấy một câu phụng trì còn chúng sinh lành hai chữ kinh vẫn là bậc thềm quả báo thù thắng, huống chi rộng chỗ Đại thừa tuyên dương chánh pháp rộng khắp, đồng phát gốc tuệ, đồng đến diệu quả mới xứng đáng các hòm báu bí mật truyền chữ vàng kia, nói lên muôn kiếp dùng ánh sáng, khắp đại thiên được lợi ích, thanh thay! Tin không đức mà xưng, tiểu thần dự ở chiếu giảng dệt tham sử chở, kính cẩn ghi chép thời gian, việc làm để lập, nay ghi lời tựa. Vua ra giảng chùa Đồng Thái kinh Kim Tự Bát-nhã Nghĩa Lưu Sớ Hỏi Đáp quyển một.
Ngày thứ nhất (26 tháng 02) phát đề kinh Bátnhã. Vua giảng tựa kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Thị Trung Quốc Tử Sát Tửu Thần, Tiêu Tử Hiển soạn.
Bao Hy Nải Thần, tám tượng sở dĩ thành bày, Chu Văn khắc Thánh, sáu hư được rộng bày. Bởi đạo hay tục có sách riêng, chẳng phải đại huấn chung phương, còn như Hán Minh tự giảng cuộc hạn do thuật Nho. Giản Văn bàn sớ lại tạ chuyên kinh, dụ như quán linh nhã vách giếng, mây mộng ở trong ngực.
Hoàng đế thể chí đạo mà nêu thạnh liệt, thật thông minh mà làm nguyên hậu. Thập địa ở đây phủ ứng nhân vương, tám phước là sinh đầy quy về thế chủ, huyền giám không bờ, ban đầu của trần kiếp xa, vắng lặng soi chiếu chỗ chung gồm ngoài vũ trụ, khuất đây không vì chỉ bày đồng hữu học, bố thí nhẫn nhục gồm tu, thiền định trí tuệ gồm nêu, vượt cõi nước mà đại xả, đã đồng thời cung vua, lường châu báu ở tứ thiên lại đồng ngày chuyển luân, nhẹ đó như lông hồng, bỏ đó như bỏ giày cũ. Cho nên đạo nhờ vua chúa, sự cao mới bỏ, nếu chẳng phải uẩn sinh thì biết đó là thượng đức, chứa nhóm cơ thần trong lòng, rõ suốt ba minh, đồng công hai trí, ai có thể cùng sánh với đây? Kinh Kim Tự Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật bởi là tôn quý của pháp bộ là cực giáo của viên thánh, khai tông lấy vô tướng rõ làm gốc, phát xe cộ rốt ráo cùng dòng, nghĩa thâm sâu như mây mù, văn sâu rộng sạch giàu, người đời trước có học rõ sẽ kham nhận được.
Hoàng thượng kính mến Đại thừa, dạo trong pháp tạng, đạo đồng ý hợp mến nhớ tổng trì, thân động lời vua, khéo vượt qua giây thao đeo ấn, dẫn dắt dụ xa rõ tâm, nêu kỳ thù của không giải bèn truyền đi lấy lụa xanh khắc làm tượng vàng, đầy đủ đồ trang sức báu, phẩm vật vô giá, anh tài giỏi giang nhường sự khéo léo, vàng ngọc thua sáng, dẫu vinh quang giúp vẽ sông, cõi này chẳng phải điềm lành, ngọc xanh làm tiên giản ở đây đã kém. Hoàng Thái tử nương ngày rảnh muôn cơ, nhờ nghe nhàn soi sáng sớm thí như kia huân gió nguyện nghe lời rộng, ân cần tấu thỉnh rồi sau được theo. Do vào ngày mồng một tháng hai năm Quý sửu niên hiệu Thái Tuế, niên hiệu Đại Thông thứ năm, ngày 26 Giáp thân, kiệu giá ra khỏi cửa Đại Thông đến chùa Đồng Thái để giảng, lập đại hội vô giá cho đạo và tục, vạn ngựa, rồng bay, ngàn xe chấn động. Nhạc trời chín thành, Phạm âm bốn hợp, ầm ầm đầy ắp bụi mù chở trời, để tạo đạo tràng mà dựng ruộng phước, long bào thôi không mặc, pháp phục thì tôn quý, điện hoa xanh tím, tòa dài cao rộng, thượng giới chớ nghĩ, người mới học không thể lên, dung nhan cõi trời tốt đẹp, giáng chiếu thầm chỉ, hẳn biện tài nhanh mạnh, mở rộng lời vô úy, quay vòng vô cùng, vòng nối tự mở, mặc tình thưa hỏi đã tiêu tan, nghĩa vướng mắc đồng hết, lưới nghi đều dứt, cũng như gương treo không che giấu, như rót chén rượu ở ngã tư, lại thêm chiếu dài thềm rộng mũ miện ngàn bầy, đầy nhà tràn mái Tăng lữ nhóm ở núi, đối riêng điện mà nặng vai, vòng cao mái hiên mà nối tiếp ngồi, dùi đứng không dung, gai nhọn không đất, nương mưa pháp thông thấm, mừng cam lồ mà quên về, như trăm sông về biển cả, các ngôi sao theo mặt trời mặt trăng.
Từ Hoàng Thái tử, Vương hầu, dưới đến Thị Trung Ty Không, Viên Húc v.v... sáu trăm chín mươi tám (698) vị, Tăng chánh tuệ kia khiến đồng Tăng nghĩa học ở tòa cả ngàn vị, ngày thì đồng lòng nghe nhận, đêm lại thuật chế nghĩa, các Tăng Ni khác và chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nam mũ đạo sĩ, nữ mũ đạo sĩ, cư sĩ tại gia, sứ nước Ba Tư, sứ nước Vu Điền, quán Bắc về hóa nhân, quán giảng là chỗ ban bày biện màn cúng có ba mươi mốt vạn chín ngàn sáu trăm ba mươi hai vị và thân võ vệ túc trực ở hai cung, cầm giữ giáo trụ giáp vàng đều mong giảng chọn riêng chấn gậy ở tuyền phủ. Lại mấy vạn người không ở trong hàng thính chúng. Sa-ha-na-xa là đạo nhân nước ngoài gần trăm tuổi, tọa thiền trong núi Đàn Đặc, ở xa nghe Trung Quốc có buổi đại giảng nên tìm đến, cơ cảm trước thông, tấc thước muôn dặm, ngôn ngữ không hiểu phải dịch lại bèn giảng nói, giải Tam tạng tình thánh chiếu xa.
Lại sứ nước Ba Tư, vua An Câu Việt, cõi đất xa xôi y phục bỏ phế, bèn tham dự tòa gần. Quỳ lạy đầu trần mừng nhận điều chưa nghe, nhiều hạng xuất gia nghe nghĩa là quý, liền có bốn người cùng cạo tóc một lúc, trước là Pháp sư Bảo Chí, thần thông không suy lường, sự tích linh hiển rất nhiều, tự có truyền riêng. Niên hiệu Thiên Giám năm đầu, Thỉ Quang có thiên hạ, mới lưu tâm lễ nhạc chưa gấp gởi ở Phần Dương, Pháp sư vào tháng chín năm đó tự cầm phất trần và tích trượng đưa lên mà không nói một lời, vua cũng chưa nhận ra ý kia, đến nay hơn ba mươi năm. Cái chuôi phất trần lấy dây nhỏ buộc, chỗ mắc vào dấu vết rõ ràng vẫn còn đầy đủ. Đến đây vua bèn chống gậy lên tòa cầm phất trần giảng nói, cho nên biết chấn động đại thiên mà giảng pháp, xét có minh phủ, năm ấy gọi là phương xuân, mỗi tối mưa ướt trống pháp, sáng ra trời liền sáng trong, khoảng hai mươi mốt ngày khí trời điều hòa mây che mát mẻ. Đến ngày bế giảng bốn chúng nhóm họp lễ sám vừa xong thì đại tượng mười phương ở chánh điện bỗng phát ra ánh sáng, bạch hào chiếu khắp hai bên chữ? linh tướng phát sáng nghi vàng sáng rỡ, phút chốc tượng Bồ-tát mười phương bên trái lại phát ra ánh sáng từ dưới nách suốt lên trên vai. Vua Thánh chính thân tự chí thành đảnh lễ đại chúng đều nhìn thấy, cho nên biết hiện mặt này chứng minh ý chỉ, như đệ tử nghe nhiều nội thành nương gió, hữu quan ghi lời, thật chỉ có vua bèn ra lịnh cận thần ghi chép sự việc ngày giờ. Phàm thiếu sự bàn bạc hỏi ý kiến quên không đủ học, không chung giải thích đã xa mà nghi xét mới đến, hoặc tông chỉ chưa nghe mà khải thỉnh đến trước, kia sai người xét đều vốn tập học điều ghi nhớ, hoặc cách ngày khác giờ nghĩa thành trước sau, hoặc tuy thân qua lại, trọn là một lời hỏi ý chỉ Thánh đều tùy phương đón rước, như tiếng vang ứng với âm thinh, muôn vật là tâm sự thấy ở đây, sau đó người học tuyên hiểu ý thú này.
Vua hoằng pháp lâu năm, gồm các học Tăng xa gần đồng nhóm họp, đều hội ở kinh đô, mà học sư của Tăng gia tập giữ nhau, chỉ tin miệng nói chuyên nương công sức của tai, mới nghiên cứu được văn kinh nương cầu liễu nghĩa. Vua thường vì đó giải thích chung, thần rực rỡ, ý được đã ở lời nói trước, cắt dẫn câu văn liền đến mấy mươi, tinh tường rõ ràng đâu thể theo lãnh. Chư Tăng cựu học buồn như đèn tắt, buông hơi kết lưỡi ai không như vậy. Muôn chúng ngước nhìn đồng thời tâm đều vui, các việc như thế chẳng phải Hàn hay Mặc có thể nói. Lại nghĩa chư Tăng ngoại quốc đã bàn không hẳn mở nghĩa là lập, nếu có tâm nghi chỉ đến cầu quyết, hoặc phát kệ tụng rồi mới hỏi bàn nghi, hoặc thưa hỏi đã bỏ khen ngợi phát nguyện, hoặc nói xong lại ngồi, chúng đều không biết, hoặc hỏi bàn rồi lại đi, không biết chỗ ở, gương mặt y phục khác thường, phàm thánh khó sánh, đó là giảng. Đông để dành mới nở chỉ trong bảy ngày, chư Tăng tìm tòi khát ngưỡng muốn bỏ mà không thể. Rồi lại đích thân thỉnh, lại nhờ mười bốn ngày mà chúng thỉnh cầu kính mến không thôi, vua đem việc nước che lấp từ lâu không có sự mong cầu, toan muốn giải tòa, Hoàng đế bỏ tài của thí khắp, tiền bạc tích trượng, các vật có hai trăm lẻ một món, thẳng có một ngàn không trăm chín mươi sáu vạn.
Hoàng Thái tử thờ kinh Sấn Ngọc, làm hòm kinh bằng bảy báu, cúng dường kinh và cúng tiền lụa cho Tăng giá trị ba trăm bốn mươi ba vạn, sáu cung cúng hai trăm bảy mươi vạn, chính thân vua cúng đến số ức triệu, tự coi nhẹ mình. Ty phục coi giữ bữa ăn sáng cho mọi người nếu chẳng phải điển chương của triều đình thì chỉ là luống phụng sự cho thân, thì thái quan một ngày gần mười vạn sinh y, một năm ất ngàn vàng vua đều không lấy, riêng tự do cấp áo thô vải nhuộm, đồ dùng bằng đất, một ngày mà quá ngọ thì không ăn. Trời lạnh hay nóng không mặc áo lót nếu chẳng phải vải thô, lại ở cung không thể ở phương trượng, xưa là ngai vàng màn trướng, nay là giường thấp, bên cạnh không có người hầu chăm sóc, không có vật châu ngọc, hai bên chỉ có kinh sách, trước mặt chỉ có lò hương, tích trượng. Trời chưa sáng đã ngồi, sáng trắng mới nghỉ, tối xem pháp bảo, sáng không ngủ, vì lợi người chứ chẳng chỉ vì mình, thành ra thật chép hằng sự trong cấm ở việc làm.
Lại người trong cung thường cách năm cấp mấy ngàn vạn đều theo dừng xét mà lưu lại, dẫu Hán Văn áo không đến đất mà lúa Quang Vũ mấy mươi học mới biết như mộng. Lập nhiều chùa tháp và các lễ trai tăng không tạ dân con đến, không giống lễ tụ nhau uống rượu, đều là chọn lựa núi non chốn đất lợi lộc, vì tịnh tài đúng như pháp, lượng vào vì ra giúp không chấp ngoài. Sự lao nhọc của một dịch tính hạn đủ ban cho, cho nên có thể chế tạo đồng với Thiên cung, làm món ăn giống như cõi Hương Tích, đại lễ quốc triều không quá ba nguyên, ba nguyên chỗ lập chúng chỉ vài vạn, cách năm dự doanh, kính cẩn sau học, xem xét lộn xộn vì phí tổn lớn. Đến ở hội này xuất ra tịnh tài của mình, trăm họ xa gần xin làm ấp tiết, vui mừng thỉnh nhận tranh lấy phước phần, không đợi hiệu lịnh không cần khóa xuất. Lúa gạo thơm lừng như thời kỳ liền đến, mấy mươi vạn chúng ăn cũng không hết, nên biết là do sức giáo hóa của Hoàng thượng cảm ra, thiện căn trăm họ có thành, còn như quân nước hằng độ kho vựa thường chứa đầy vốn cho thiên hạ, làm đồ công thì thu không mảy may xâm phạm.
Ban đầu vua làm mười ba món vô tận tạng, có hai khoa phóng sinh và bố thí, tạng này lợi ích đã là vô hạn mà trai hội mỗi tháng lại ở các chùa thí tiền tài và vật thực. Lại ra lịnh riêng đến các quán giết thịt của Trương Văn Hưu ngày xưa ra lịnh chớ động thớt tức thời cứu và mua chuộc giúp khỏi chết cả số ức, cho đó là thường. Văn Hưu trước làm Vân Sử, liền chở gạo cho dân nghèo nên vào đại tịch, vua thương kia một phần, xót xa không xiết chẳng những tha thứ tội nặng kia, mà còn thêm ngày chí đáo, đã chẳng nương nghĩa bố ấm áp, lại không gấp rút thỉnh tội. Người gạn tội nặng lúc xưa, Văn Hưu đã gánh vác giùm không hề tạm nghỉ. Quá ngọ không ăn mà chân không nghỉ đi khắp kinh ấp, đi bộ như bay, đánh trống treo phướn gánh mang chạy theo, gia cầm thú đồng trống chúng sinh bốn loài đều phóng sinh. Bấy giờ từ triều thần đến thứ dân đều tùy hỷ. Lại một ngàn một trăm mười bốn (1.114) vạn đồng tiền, vua phân biệt tâm kia có mười điều, hoặc bỏ tiền tài đồng pháp sự ngày nay, hoặc bỏ tài để cúng dường, hoặc bỏ tài làm từ bi, hoặc bỏ tài xin tụng kinh, hoặc bỏ tài vào tiết cúng, hoặc bỏ tài để phóng sinh, hoặc bỏ tiền tài để bố thí, hoặc bỏ thân thí cho đại chúng, hoặc đốt ngón tay cúng dường Tam bảo, hoặc nghe giảng cầu xin xuất gia, như xưa Như Lai hóa đạo được ngộ khác nhau, cho nên pháp nhãn vô sinh căn tánh chẳng phải một. Vua đều cho người kia đồng phát đại nguyện thấy riêng nguồn gốc. Tiểu thần thêm hầu hạ giảng tòa kính soạn tựa nay. Phàm lập nghĩa sáu khoa và hỏi đáp:
Một pho gồm chép mười ba, ngày thứ nhất.
Giảng đề kinh Bát-nhã (sáu người luận nghĩa), Tăng Hoài chùa Trung, Pháp Hỷ chùa Trị Thành, Đại Tăng Tuệ Linh chùa Linh Căn, Tăng Xước chùa Long Quang, Tăng ngoại quốc là Già-đà-bà, Tuệ Cự chùa Tuyên Vũ đầu giảng tại chùa Chỉ Viên, Pháp Bửu xướng rằng: "Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật".
Chế rằng: Mạn Tình nói "Bàn đâu dễ dàng, đối với chí lý càng không thể nói, dẫu hết hai điềm trọn hổ thẹn bốn đáp". Phàm thật trí thì không động, chí lý thì không nói, vắng lặng chẳng suy lường, càng vượt ra xa, soi tận không giới, không vận chuyển sáng kia, dụng cùng có cảnh không nhọc công kia, vô trụ mà trụ nơi trụ, vô đắc mà đắc nơi đắc, trăm phước khác tướng mà đồng vào vô sinh, muôn điều thiện khác dòng mà đều hội ở bình đẳng, cho nên có khả năng dẫn dắt quần mê mà đều đến, mới sáu ghe mà đều giúp, thành diệu quả Bồ-đề vào cửa mầu Niết-bàn. Ba minh không thể thấy được cơ kia, bảy biện không thể nói chỗ thật kia. Đại Thánh Thế Tôn không trái bổn thệ, dùng năng lực phương tiện dắt dẫn chúng sinh, nơi không danh tướng gởi lời danh tướng, khiến người hỏi đạo biết đường, khiến người hỏi bốn biết chỗ quay về. Cho nên ở thành Vương xá phát ra tiếng rống sư tử nói kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, kinh này cũng gọi là kinh Đại Phẩm.
Xưa tương truyền có năm thời Bát-nhã, xét tột kinh luận chẳng thấy thuyết kia, chỉ có Nhân Vương Bát-nhã đề riêng quyển sau đủ có văn kia. Thứ nhất, Phật ngự tại thành Vương-xá nói Đại Phẩm Bát-nhã. Thứ hai, Phật ở nước Xá-vệ trong rừng Kỳ Hoàn nói Kim Cang Bát-nhã. Thứ ba, Phật ở rừng Kỳ Hoàn, nước Xá-vệ nói Thiên Vương Bát-nhã. Thứ tư, Phật ở thành Vương-xá nói Quang Tán Bát-nhã. Thứ năm, Phật ở thành Vương-xá nói Nhân Vương Bát-nhã. Kinh ấy nói rằng: Kim Cang Bát-nhã có tám quyển, bộ Hoài Nam chỉ có một phẩm So Sánh Công Đức, là tên gốc của Kim Cang Bát-nhã. Quyển sau đề rằng: "Phật năm thời nói Bát-nhã, đây là thời đầu tiên", cõi này chưa có thời thứ hai, hai thuyết trái nhau khó mà nương dùng.
Luận Đại Trí Độ nói: Bộ Bát-nhã có nhiều có ít, chỉ nói rằng: "Quang Tán Phóng Quang và Đạo Hành, nêu ba kinh này không nêu năm thời". Cõi này có ba kinh Quang Tán, Phóng Quang, Đạo Hành, Phóng Quang tức Đại Phẩm, Quang Tán, Đạo Hành và Phóng Quang chẳng khác, chánh do lược là khác. Từ phẩm tự của Quang Tán đến phẩm Tán Hoa là hai mươi bảy phẩm, Đại Bổn đến Tán Hoa có hai mươi chín phẩm, Quang Tán thiếu phẩm không hai, Đạo Hành ban đầu khởi ba đoạn, rốt sau Chúc Lụy có ba mươi phẩm, nương Đại Bổn trừ sáu phẩm trước vần còn tám mươi bốn phẩm. Đạo Hành thiếu không năm mươi bốn phẩm, Quang Tán, Đạo Hành và Đại Phẩm sự nghĩa chẳng khác. Đây là lời người xuất kinh, có văn chất, đây là lúc ở Thiên Trúc đã chia ba bộ. Trước chú Đại Phẩm cũng khai là năm khác tùy văn chiết lý chẳng phải là chỗ khác.
Tăng Duệ Tiểu Phẩm nói: Chánh văn kinh này có bốn món là Phật khác thời giáo hóa nói rộng lược, văn kia nhiều thì có mười vạn bài kệ, ít thì có sáu trăm bài kệ. Đại Phẩm này chính là Trung Phẩm của Thiên Trúc, chỉ nói bốn món, không nói năm thời. Trước nói là tựa của Tăng Duệ Tiểu Phẩm tức bảy quyển Bát-nhã, người đi theo nghe lại thành khác nhau, không xa mà lại ngõ hầu không tiếc lắm. Tăng Duệ nói Tiểu Phẩm tức là Đạo Hành Bát-nhã. Vì sao? Vì nghiệm ba việc cho nên biết. Một, Đạo Hành Bát-nhã rốt sau cũng đề là Tiểu Phẩm. Hai, bảy quyển có hai mươi chín phẩm, văn Đạo Hành có ba mươi phẩm, tựa Tăng Duệ là ba mươi phẩm, không tự thì là hai mươi chín phẩm. Ba, tựa Tăng Duệ là chỉ khen hai chữ Đạo Hành, văn kia nói rằng: "Chương tuy ba mươi mà bao trùm là đạo. Lời tuy mười vạn, gấp bội là
Hành. Hành ngừng rồi sau vô sinh, Đạo đủ rồi sau có chỗ". Vì nghĩa này nên biết kinh Đạo Hành tức là Tiểu Phẩm.
Tên Đại Phẩm là việc xuất kinh sau của Pháp sư Đạo An. Đạo An nói: "Xưa ở Hán Âm mười lăm năm giảng kinh Phóng Quang thường lại khắp, lúc này vẫn chưa gọi là Đại Phẩm. Từ trước Tiểu Phẩm đến sau Tiểu Phẩm có ba mươi chương, Đại Phẩm có chín mươi chương, nhiều ít khác nhau. Do hình tướng đợi tên lớn nhỏ cho nên được sinh".
Lại có người nói: "Phật nói năm thời giáo. Thời thứ nhất ở vườn Lộc dã chuyển pháp luân Tứ Đế, đến thời thứ năm ở trong rừng Song Thọ chuyển Đại Bát Niết-bàn, nói là thời Đại Phẩm, đây là thời giáo thứ hai. Tịnh Danh Tư ích là thời giáo thứ ba. Kinh Pháp Hoa là thời giáo thứ tư, nghĩa này không đúng. Thích Luận nói là: "Tu-bồ-đề nghe trong kinh Pháp Hoa nói Thinh văn đều sẽ thành Phật", cho nên nay hỏi "Là nhất định hay không nhất định?". Đây là nghe kinh Pháp Hoa trước, nói Đại Phẩm sau, do nhân duyên này không được nói kinh Đại Phẩm là nói ở thời thứ hai. Lại như trong kinh Nhị Dạ nói: "Phật từ đêm chứng đạo đến đêm nhập Niết-bàn, khoảng giữa đã nói kinh giáo tất cả đều thật không điên đảo". Do nghĩa này nên biết từ bên sông Ni Liên Thiền ngày đầu chứng đạo cho đến đêm nhập Niết-bàn trong rừng Ta-la thường nói kinh Bát-nhã Ba-la-mật.
Kinh Bổn Khởi nói: Lúc Như Lai mới thành đạo, Ưu-đà-na trở về vua Tịnh Phạn hỏi: "Nay ở chỗ vắng suy nghĩ việc gì?"
Ưu-đà-na đáp: Thế Tôn chỉ có không, khổ vui đều chẳng chân thật. Vua Tịnh Phạn nói: Tai vạ, Tất-đạt đều có tất cả sao lại nói không?
Ngược lại, Tất-đạt so sánh với người".
Đây là lúc mới thành đạo nói Bát-nhã Ba-lamật.
Kinh Cao Quý Đức Vương nói: Bồ-tát tu hành
Phương Đẳng Đại Bát Niết-bàn, không nghe bố thí, không thấy bố thí, cho đến không nghe Đại Niếtbàn, không gặp Đại Niết-bàn, thấy biết pháp giới, hiểu rõ thật tướng, không thật có.
Thứ chín, kinh Công Đức nói: Bồ-tát tu Đại Niết-bàn, đối với tất cả pháp đều không chấp, nếu người nào chấp có thì không thấy Phật tánh, không thể tu tập Bát-nhã Ba-la-mật, không được nhập Đại Bát Niết-bàn, đến nói rộng", do nhân duyên này nên phải biết ngày mới thành đạo cho đến đêm Niết-bàn thường nói kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Bát-nhã Ba-la-mật-đa này là mẹ của chư Phật, Như Lai ba đời đều từ đây sinh ra. Đại pháp vô tướng chẳng thể hý luận, đâu lại được hạn cuộc thứ lớp ở năm thời ư? Căn tánh khác nhau nên nghe chẳng phải một, cũng lại không chỉ có năm thời. Năm xưa khiến Pháp sư Trang Nghiêm Tăng Mân và các học sĩ cùng nhau nghiên cứu sát hạch xét căn tánh kia chỗ đáng nghe có ba trăm tám mươi vị, đây là thời giáo vì chúng đông.
Một người xuất hiện ở đời nhiều người được lợi ích, há lại chỉ vì người một căn tánh thứ lớp năm thời chuyển đại pháp luân? Nói kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đề kinh đặt tên có ba ý:
Một, lấy người đặt tên. Hai, dùng pháp đặt tên. Ba, dùng cả người và pháp. Nói ý Tư Ích là lấy tên người làm tên kinh. Pháp Hoa Niết-bàn là lấy pháp làm tên kinh. Tịnh Danh, Thắng Man là người pháp đều nêu. Kinh này dùng pháp đặt tên, lìa pháp không người, lìa người không có pháp, làm sao được nói kinh này dùng pháp làm tên? Bát-nhã là thật pháp, người là giả danh, đây là pháp của nhà người chẳng phải người của nhà pháp, giống như đạo đế là thuộc về thật pháp, cho nên kinh này được tên pháp là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, đây là âm Thiên Trúc, kinh là tiếng Hán, tên nước ngoài là Tu-đa-la, Hán dịch là Pháp Bổn, gồm có năm nghĩa: 1/ Sinh ra; 2/ Suối vọt; 3/ Hiển bày; 4/ Dây mực; 5/ Kết man. Dạy giải thích chữ kinh cũng có ba nghĩa: 1/ Cữu; 2/ Thông; 3/ Do.
Cữu: Tên không biến diệt gọi là cữu, ba đời không dời đổi là nghĩa thường.
Thông: Lý không ngăn trệ gọi là thông, tất cả không ngại là nghĩa thông.
Do: Sinh ra các điều thiện gọi là do, làm phép tắc cho muôn hạnh là nghĩa pháp.
Lấy chữ kinh thay thế Tu-đa-la vì Tu-đa-la là tên chung, kinh là tên riêng. Tu-đa-la sở dĩ gọi là chung vì phàm thánh có chung. Kinh là tên riêng vì cõi này chỉ có bậc Thánh nói, gọi là kinh, cho nên là lấy riêng chữ kinh thay thế Tu-đa-la, muốn cho người nghe liền được tin hiểu.
Ma-ha, Hán dịch là Đại, Bát-nhã dịch là trí tuệ, Ba-la dịch là Bỉ ngạn, mật dịch là độ, lại dịch là đáo, dịch đủ là: "Đại trí tuệ độ". Nói đến bờ kia là quốc ngữ khác nhau; đây cho là sai kia cho là đúng, đây cho là đúng kia cho là sai. Lời tuy thế tục mà nghĩa không khác. Trong đây có bốn nghĩa: 1/ Xứng đức; 2/ Xuất thể; 3/ Biện dụng; 4/ Minh tông. Đại là xứng đức, trí tuệ là nêu ra thể, độ là nói về dụng, bờ kia là nói về tông. Trong đây lại có hai ý: 1/ Nói pháp; 2/ Nói dụ. Đại là nói pháp, bờ kia là nói dụ, tức dùng bờ kia dụ cho Niết-bàn. Thế nào là nghĩa đại? Không là nghĩa đại, Niết-bàn mười tám không nói rằng: Nói đại không nghĩa là Bátnhã Ba-la-mật không. Kinh này nói sắc đại cho nên Bát-nhã đại chẳng dời tiểu không, gọi là đại không. Nếu Đại nhất định là không thì chẳng gọi là đại, không đắc mà xưng, đó là nghĩa đại.
Thế nào là nghĩa trí tuệ? có thể biết thật tướng các pháp là nghĩa trí, có thể soi chiếu các pháp vô sinh là nghĩa tuệ. Nếu có chiếu có đắc không gọi là trí tuệ, không chiếu không đắc, vốn tròn sáng vắng lặng là nghĩa trí tuệ.
Thế nào là nghĩa độ? Sinh tử là bờ này, Niếtbàn là bờ kia, phiền não là giữa dòng, do độ thứ nhất giúp cho bốn dòng, do nhân duyên này gọi là độ. Nếu Độ nhất định là độ thì không gọi là độ, không qua không lại đây là nghĩa độ. Lại nói rằng: Đáo là dùng tuệ vô sinh chứng được Niết-bàn, chưa đến nói là đến là thể tánh năng đến, nên gọi là đến, không thấy nhân có thể đến, không thấy quả có chỗ đến gọi là nghĩa đến
Thế nào là nghĩa bờ kia? Sinh tử là bờ này Niếtbàn là bờ kia, sinh tử chẳng khác Niết-bàn, Niếtbàn chẳng khác sinh tử, không hành hai pháp nghĩa là bờ kia. Cho nên ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, Bồ-tát Ma-ha-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật có chứng Tát-bà-nhã hay chăng? Phật nói: Không.
- Bạch Thế Tôn, vậy không tu Bát-nhã Ba-lamật có được Tát-bà-nhã hay không?
Phật nói: Không.
- Bạch Thế Tôn, vậy tu hay không tu sẽ được Tát-bà-nhã chăng? Phật nói: Không.
- Bạch Thế Tôn, chẳng tu chẳng không tu sẽ được Tát-bà-nhã chăng?
Phật nói: Không.
- Bạch Thế Tôn, nếu không vậy thì làm sao chứng được Tát-bà-nhã?
Phật nói: Bồ-tát Ma-ha-tát chứng như tướng Tát-bà-nhã.
Tu-bồ-đề lại hỏi: Bạch Thế Tôn, Bồ-tát không dùng hai pháp, chẳng phải không dùng hai pháp, làm sao chứng được Nhất thiết chủng trí?
Phật nói: Không sở đắc tức là đắc, do đó là đắc vô sở đắc. Lại Phật nói: "Sắc tức Tát-bà-nhã, cho đến Nhất thiết chủng trí tức là Tát-bà-nhã, sắc như tướng cho đến Nhất thiết chủng trí như tướng đều là một tướng chẳng hai chẳng khác. Vì nghĩa này gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu có thể là duyên chấp trước, quên lý mong cầu, như vang nhận tiếng như huyễn nghe pháp, đây thật có thể gọi là Bátnhã Ba-la-mật.
Chỉ tụng chương đầu không biết điều khác, nghĩa trái truyền đăng, tâm chẳng nhận nước đâu thể tuyên miệng vàng ở điện tuệ, rải cam lồ nơi thành hương, thấm nhuần hạt giống ở ruộng tốt, phát mầm Bồ-đề, thí như nước ao Đường theo trăm sông vào biển lớn, như mắt con tiêu minh nhờ ngàn mặt trời mà sáng rỡ, đâu biết bờ kia là chỗ đậu lại, đâu thấy đèn chiếu xa gần, nương đại chúng mà trồng gốc đức, vốn nương căn lực hành từ của Như Lai, nếu có nghi nạn mong hãy thù đáp. Còn có hỏi đáp khác là mười hai quyển, hỏi thăm được gốc ngọn cho nên văn kia càng thiếu.
Thần, Cương nói: Xin nương xe giá đến chùa Đồng Thái khai đề kinh Kim Tự Bát-nhã Ba-lamật, đèn tuệ soi quần mê, dẫn dắt nguồn xuất thế, trăm hoa đồng mát mẽ, muôn dòng đều về biển, chốn thuyết hiển khen nêu cõi đất thấm nhuần. Thân thần ngại đã đến mong duỗi đủ thiếu, cam lồ khắp giúp, người trời đều nhờ, sáng như việc ma riêng ở thân hèn mọn, rong ruổi hệ thuộc pháp luân, sâu riêng khắc trách, không nhậm hạ tình, cẩn phụng khải phụng nương, kính khải.
Xét lời thưa đầy đủ vì ông giảng kinh Kim Tự Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát đề mới xong, bốn chúng như mây hợp, Hoa Hạ hay Man-di đều nhóm, mưa luôn cả ngày rất lo bỏ việc, lúc cảnh vật sáng dần u hiển đều mừng. Trong thật tướng vốn không khứ lai, thân tuy không đến mà tâm đều nhóm, khéo tự điều dưỡng cẩn thận chớ lao nhọc, còn có hai tuần thường vẫn thiếu. Nay tuy khác hội sau chưa trễ, ta mới trở lại đài không còn sắc chỉ nhiều. Việt sắc.
Thần, Cương nói: "Thần nghe giáng chí lý mà mở rộng đức âm, thành công đến mà tụng ra tiếng, ở đây xét thần tước lớn khen ngợi cây, dừng việc ở khu giữa, mừng gọi tất cả, vẫn là tay múa chân đạp truyền cách mới đến. Huống gì đạo nêu ra trăm phi, nghĩa cao ba đời mà có thể giấu lời gác bút, ca vịnh không làm. Cúi xin Bệ hạ bày lý Diệu giác riêng tròn ở trên trời dưới đất nơi tam thiên đại thiên vận lòng từ vô duyên để giúp khắp ghe tuệ chẳng cách, sức pháp không hạn cuộc, thân ở nơi tôn cực giáng nói chí lý, mưa thấm không riêng tư ruộng tâm nhuận tươi thấm, do đây chín cõi chìm đắm biết nẻo quay về, vạn nước nằm mộng cùng lúc đều thức tỉnh. Việc tốt của Phật pháp, tốt đẹp của quốc gia, xét thượng cổ chưa có việc thạnh, làm nhã tụng không thể thiếu. Kính dâng một bài tụng Đại Pháp,
Tào Phi theo phú của chinh, Lưu Đản dạo lời bàn thị, không hề loại xin gồm hổ thẹn sợ hãi, thật khôn xiết vui mừng, kính cẩn sai trạng chiếu Chung Khởi Bảo dâng biểu hiến tụng để xem. Thần Cương kính khải.
Hoàng đế vì pháp thân vắng lặng không bỏ bổn thệ, thần lực thị hiện giáng ở cõi này. Mặt của vua góc mặt trời, tham lậu quý con người, cân nhắc nêu bày nối văn châu làm đấu ngọc. Từ nhân lộc mở mang bờ cõi, đức trời đất đã mở, phong Đường bày dấu vết mặt trời mặt trăng soi sáng trước. Tựa trăm đạo là Thuấn, dẫn dắt chín sông đều là võ, còn mở mang việc ân lễ lại thì cong ở ruộng, tự năm sao mão sáng sớm bay báo điềm văn đỏ, kia mưa bảy ngày thọ điềm tốt sắc xanh Thần khí có chỗ quay về, đảnh vận nhóm đây Tiêu môn nhàm vua bỏ đức, vị thủy phát trận cờ trắng, rồi sau nhận lệnh của Hoàng thiên, phải suy tìm vui bốn biển đâu rảnh cùng Si Vưu nơi sân bái, gá nước sông nơi Vương bá. Vào lúc phụng phụng (âm Phạm) cắt tựa, thương thương khác độ bèn soạn năm đá để giúp. Trục khôn nghiêng lệch nhóm nước phát nứt ra bèn sợi ngang chín tẩu mà thẳng đó, âm thố hai lớp, dương ô ba chân, bèn định nghiệp chúa để làm cho sáng rỡ.
Kết cất nhắc trái phương, Mạnh Tưu mất (năm) Kỷ bèn đặt thanh đài mà nói. Chỉ có mũ miện ở mình, kế nối bội hành đã hư hủy. Tự nương ghế ngọc nắm gương trời, mang Quỳnh Cơ mà chui ra, ở chóp núi mà sâu đen đã ba mươi hai năm. Do đây thiên đức một ở trên, địa số hai ở dưới, lại sáng rõ tham thìn, không dời mặt trời mặt trăng, hai diệu (mặt trời và mặt trăng) như ngọc hợp, năm sao như nối châu, hết lòng thành khẩn cúng tế trời đất, cung kính làm lễ ngũ tự, công giúp trăm thần, sông gò trình điềm lành, gió khói nêu hạnh phúc. Mây xanh ngàn lữ, khí vàng nêu ra cành, nghe oai phụng ở núi Du, chế tạo Trinh quân của Đại Hạ, ống dương kêu xuân, chuông yếu ứng luật. Khoá thượng lâm chẳng sơ, bói phủ tướng không lầm, Tần Lục Anh ở Nhã Thủy, Trương Hàm Trì ở Động Đình, Bỉnh Địch Động hòa nhạc trời, Kiến Hoa Tuyên tấu dị tục, Hiếp Luật có lời tựa phiếm phiếm, sách nhạc có ra tiết hùng hùng, sách thơ bèn bày sách vở đầy đủ. Bồ Luân nhận tụng phục sinh, Khoa Đẩu giới thiệu văn Lỗ Trạch. Bọn Lật Sát Thanh khắc ngọc ghi đá nhồi bên trong rộng, kỳ lân sáng rỡ gặp đài màng suy, sông pháp nương núi, dựng ty cây chức, nhóm mây lành lửa cao núi hang cũng cùng uốn khúc, màu xinh đẹp văn chương thiêu dệt, trồng can ngăn treo cao, lời răn không bỏ. Phổi đá thông oán sách chê cầu ván, tên cỏ chỉ nịnh lại vua bỏ triều, thú xưng chạm tội, gian đồng buông bỏ.
Do đó rồng liệng, phụng nhóm, sông dời biển đổi, sương rơi như mật, suối tuôn như nước ngọt, củi quế không chặt mà nồi đơn tự chín, đầm ngọc lớn tràn, vò bạc lại đầy, ánh sáng sông giống kiệu màu sắc cây thành xe, dày đặc chiếu bốn bên, sáng rỡ năm màu, thần minh lỗi lạc, hiện điềm lành rải ngọc, lân vàng mặt sắt, cống châu báu bích, giao thông đường biển, núi bậc thang sứ dâng vòng ngọc trắng chở mặt trời chở đấu đều đến vua. Thái bình quá mông không suy nghĩ chẳng ghi nhớ. Phương Thúc tôi của Thiệu Hổ, Quân là tướng của Ưng Cổ, nương chiến thuật bí mật của Long Hổ, nắm thao lược kỳ lạ của Châu Huyền, thọ giàu có trên miếu đường, dương oai dưới quan tắc, ra cửa ngọc mà thẳng đến, vượt thành vàng mà đi mau, mênh mang yêu hèn tạp chủng, cứu giúp lầm than ở Trung Nguyên, Bắc đến địa chấn, tây xuất thiên cừ, Côn Di bỏ hoạn, Túc sa tự hàng phục được nai khuyển nhung, treo trống mật tu, Cảo Nhai có giặc thọ anh, Nặc Thủy xem đầu Thọ hành, bốn phương không bụi sáu hướng chung suốt, vua giáng đức, gió thái bình thấu suốt không ra ngoài.
Thiên tử trong thao lược trí tuệ vô sinh, ngoài ứng dấu vết rộng của thể đất trời, toan muốn đổi quyền giáo bày đạo thật, để nói phương tiện, dẫn dắt kẻ mê hóa thành, bèn điềm lành ỷ thần thở dài mà nói rằng: Nếu mờ xa mộng hoa, vui mừng tạm chán bỏ. Nhớ Tề Cung ở Huyền Hổ, tưởng đến trị ở Phần Dương, khinh cửu đảnh ở vèn quần áo, thấy muôn cổ xe như cởi giày, đây bởi chỉ bày yếu đạo chí công, chưa đến nơi xuất thế, đến tạng kim ngọc ở Xuyên Do, bỏ cầm sắc ở hang lớn. Thân hèn ăn rau hẹ, nhà tranh thềm đất, hình xe chẳng khéo, áo da nai chẳng trang sức, đây vì chỉ bày vật để nghiệm cũng chưa đến thềm xuất thế.
Mở cương, buông cầm, đào suối, che đậy mùi thum thủm, khởi đầm khấp cô, hành lòng từ quạt cảm nắng, đẩy niệm ngồi cỏ như không đủ, nhận tâm hào không quên ngủ đêm, bởi sở dĩ bày vật để làm nhân, cũng chưa đến thềm xuất thế. Phủ tím gò xanh núi kinh nước sông Chương, thành khẩn đạo văn Hà Thượng, mừng chương cú Kỳ Bá, Cam Tuyền mở đàn Thái nhất, núi Tung đặt thờ ấp cao. Bia đá khắc thệ tiễn môn, không hẹn làm bài ca giao môn, đây bởi chỉ ưa năm xưa, việc ở các người đôn đốc mà soạn luận càng có chưa rộng, dẫu được thiền của Sùng Tung trọn đọa nạn trường sinh, luống nương tựa vui ba thanh, không bỏ cảnh tám đảo, há như vậy đèn trí tuệ chiếu chỗ tối sinh tử, ra khỏi tụ năm ấm, lên ghe sáu độ, nổi biển đức chúng, đạp bờ không sinh. Vì vậy trang nghiêm cõi nước dựng lập đạo tràng rộng thực hành lợi ích, mở mang Phật sự, kéo chúng sinh kia đồng giúp nhân thọ, dẫn người còn bị ràng buộc đều vào Đại thừa. Chín cõi ngưỡng lòng, mười phương vang dội, như nương bến giúp đều nhờ quy y. Sáng chói như mặt trời buổi sáng, các hoa đều thấm nhờ, như nhà nông gặp mưa rào, cánh công đức đã tròn, cửa trí tuệ hẳn đủ. Vì kinh Bát-nhã là đại pháp Phương Đẳng, cao tột vang dội sâu xa không đáy, gom muôn điều lành ở vô tướng, triệu cửu gồm mà vô biên, thí như nhánh sông riêng dòng vào biển lớn lại đồng vị, các phương nhiều màu đến Tu-di chỉ một sắc, không không chẳng chấp như như đều hội, không hợp không tan không đến không đi, hạt giống giác sẽ sinh đầy biển Phật đây, các sách chẳng sánh kịp đây gọi là Kinh vương (đứng đầu các kinh). Bèn muốn tuôn xuống một trận mưa pháp, thị hiện năm mắt để dẫn dắt người mê muội nặng, chiếu sáng kỷ tuế, rỗng không nhiệm mầu kế sao. Chuông giáp ứng ở trọng xuân ngày tốt năm Giáp thân muốn đến Đồng Thái chuyển đại pháp luân, chùa này là vua ta lập, tạm sửa đại lý thành chỗ già-lam, hóa dây thiếc làm ao vàng, biến lưỡi sắt thành hương, soi thần quang ở cát nóng, khởi mát mẽ nơi lửa cháy, ngàn mái chèo, trăm củng khung giáng, tường hồng, cột đen, rui hoa, thềm ngọc, ba cấp đều bày, bốn chú trùm khắp trên cánh ngọc mà xét trời, bay cột bạc mà che bóng, kéo dài cầu vồng, chén nương, mui rủ, nhiễu mái chèo, kéo sen lật giếng mạo chữ đến cửa sổ, hình hình tháp báu đã đồng tòa Pháp Hoa. Bỗng chốc nêu dài, lại đồng ý nước vui dưới đào hào bạc trắng, bên cạnh sáng trưng gạch bằng vàng mỏng, cửa cao mở rộng, không nhân trung sức ngựa đồng, điện báu mở rộng, không rảnh điềm lành phụng hoàng, kim luân sáng rỡ mặt trời, nhiệm mầu dưới đất Lâm Truy, đài lầu chồng chất, hơn bay lên hư không, khí trời nóng lạnh nhà vẫn mát ấm, đến trong lầu khắc chạm động mà sinh tiếng vang, trong cửa rỗng hạc về mà khí vọt lên, cờ bằng ma-ni, phướn treo dây vàng. Mâm chừng mười trượng, linh tròn bốn hộc duỗi cành giao bảy báu, chảy nước sạch tám công đức. Đất cỏ chi đợi mặt trăng, hoa trời ngược gió, đêm kêu trống pháp, trong tiếng nghe pháp. Cành Quỳnh sáng động trong thành âm thanh, diệu thuốc bày nơi cung đẹp từ giữa đến ngoài, cho nên lan can đồng dài ba trượng tiếng cười giếng cạn, lầu ngọc mười hai xa hổ thẹn thần tiên thì dụ như đài mát mẽ giống chùa Phù Lan Đài.
Đao-lợi chiếu vườn đông, Đế Thích trời đất Bắc cho nên tân, nhâm, quý, giáp miên man. Than ôi! Kia không thể hùng tráng, cao ngất mặt trời, vòng ngọc lừa lọc lẫn lộn, ở xa kia không thể gọi vì vậy mặt trời ngọc nêu tinh chất, bóng mây chắc đẹp, gió đen từ từ động đầm sương rủ xuống, sau cừ cất oai, trước cỏ tranh kính nêu, trường võ, sao nối, trống lớn tiếng vang, chở xe pháp ở Thiên cung, mở oai thần đường trời, trăm linh phò trì, ngàn xe sấm động. Sáu cầu đồng thương xót, bảy đấu sáng rỡ, mây trống xe không, câu bày nương giá xe, phát ra ánh sáng tiếp bóng mặt trời giúp trời xa, dù vàng kiệu ngọc, áo báu, trống rùa, ngựa ô mềm nhã, thiên mã nửa Hán. Cung xanh nỏ vàng, trang sức voi, vẽ chỉ cho cá, giúp bay, xét tiết không nhọc kiếm giao. Đạo quân hùng tráng của vua gắn lông thao, đâu nhờ bắn chim, lặng lặng, lẽ lẽ, cao vời rạng rỡ, ra ngoài cửa đại thông, Thiên tử giáng quỳ của xe khắc chạm, thực hành lễ tiếp chân, đầu lạy núi vàng, quy y mặt trăng như nghe tiếng muôn năm, như xem động sáu biến vì vậy bèn đắp y Như Lai lên tòa sư tử đều gồm nhiều trăm lo, thương xót hết lòng ba lần thỉnh, mở tông sâu chân tuệ, rõ hoằng giáo độ kia. Hai đế hiện bốn có không, hai trí bao đáy quyền thật, Đại thừa rỗng suốt không ngại, đạo tâm rốt ráo về bờ, nhân quả tiếp nối không vận mà hành. Chân tục chờ cầu, chẳng động đến đây, không dùng hai pháp hội ở trung đạo, tận biển sâu Phật vào tạng Phật pháp, tột tu sách mầu nhiệm, nghiên cứu bí mật của Long cung, tuyên ý chỉ sâu xa của Ta-bà, mở lối vi diệu của các Thánh. Nước chánh đã thấm nạn tà tự dứt, mặt trời tuệ chiếu khắp, sương độc đều tiêu, trừ đen tối cho bốn loài dẹp vô minh của ba cõi, vòi vọi như núi Di-lâu nơi biển cả, xinh đẹp như các ngôi sao vây quanh mặt trăng. Bấy giờ trời rồng tám bộ đầy khắp cõi hư không nhóm y thành tòa rải hoa ngập gối, ba ngàn hóa chất cõi uế, nhà lửa có thời kỳ lìa khổ. Đường ác mong dứt, Nê Lê khắp nghỉ, bạn học đông đúc, danh Tăng đông vầy đều ưa nói như Thiên nữ Biện Tài, trí tuệ như Thân Tử, vượt mắt xanh răng đen, cao hơn gối vàng tóc đỏ, đều thẻ viết ân bình, đều thấm như lụa nhuộm. Như vàng được luyện như ngọc được khắc, nghe điều chưa từng nghe, được chứng điều chưa từng chứng, thơm lừng lay động sắc, thỉnh ích (hỏi thăm) không nhọc mệt. Trăm ty đều bày bỏ quan mà về đến nhau, báo beo cùng sáng rỡ, hoa cỏ tốt tươi, nghĩa là nhóm ở Xá-vệ giảng đại lâm không cho là quá. Toan khiến mỗi Phật tánh gặp liễu nhân mà đều xuất hiện, mỗi cõi Phật đều bỏ hai trừ ba, sánh ca với gió nam, từ trước Huỳnh Lão đến Tịch Ưng giảng Khổng, nhà ông bé nhỏ đâu đáng nói?
Đến ngày Giáp thìn tháng ba pháp tịch viên mãn Như Lai phát ra ánh sáng lớn, hiện việc ít có, hùng hùng nhổ sắc châu lửa chẳng phải đồng bạn. Con ngươi sáng rỡ đan tím tranh phát, sông Vinh hổ thẹn kia nhuần tươi đẹp, sông Phần xấu xa đen tối kia bóng sáng rỡ. Che mây tím vào điện, đoạt khí màu cửa lớn. Xưa Pháp Hoa ban đầu xướng bạch hào chiếu soi khắp rừng, bến Bát-nhã tuyên thông thân trọn cười. Thành Vương-xá điềm lành ngàn xe lại gặp, há chẳng phải Thánh chúa đồng chư Phật thân giáng diệu tướng này, đồng sức chư Phật khế hợp như thế, vẫn thưa lặng sâu khiêm tốn, rộng bẩm thọ chí thành, mà không chủ tể suy cư thì chớ ở, lấy tâm trăm họ làm tâm chẳng quan hệ các người, gánh vác không nhọc nhiếp thọ bốn loài. Hoàng Thái tử Thần Cương thấy bữa ăn ở chái Đông, thân nương đại pháp cho là Tây tuần, Đông đi săn tán tụng để hưng khởi, núi trông ghi ca ngâm đây làm huống gì đảnh khai mà nhận cam lộ cung thân mà nghe đạo, dám nói hình dung thạnh đức cho nên làm bài tụng:
Miếng ngọc du hoàng
Sử xanh nối dài
Đạo men năm thắng
Gió khác trăm vua
Gò buôn ngọc đẹp
Nước đẹp mở Huỳnh
Sông trong đợi Thánh
Biển yên hẹn vua
Trời mới đất thí
Công về có cầu
Rủ xuống mặt am
Khắc mình vách núi
Kiệu quyền nghĩa giáo
Cắt ra áo xiêm
Chín vận cách vang
Sáu nhạc sửa sang
Nghi phụng mềm mại
Đánh đá leng keng
Rộng tu Bích Thủy
Rộng mở Giao Dương
Xe nhỏ chở lễ
Cờ phách nêu bày
Lan đài lại giàu
Trong rộng đây cất
Thơm phức cỏ lan
Chữ lục truyền chương
Công văn đã giúp
Vết võ đây bày
Đầu khắc ức chạm
Lưỡi tím càng vàng
Ngỏ Nam thỉnh chất
Cửa Bắc vua đến
Cờ bay nhóm cánh
Tạc dấu vẽ chó
Xe bạc dẫn lối
Giờ đến hoang vắng
Văn đồng biển cả
Hóa khắp làng rồng
Hang trăng vượt Tây
Lần Đông phò tang
Loại vũ cung thấp
Mở lưới như sôi
Đường, nhà khác nhau
Đài sáng dẫn tốt
Cờ lành phất phới
Trống đánh thùng thùng
Muôn thẻ nhóm lại
Trăm thần mở bày
Hắc đơn thấm nhuần
Cỏ đó trải thơm
Châu nhớ tượng gương
Sao gồm sáng mừng
Hạc dưới ao nước
Phụng ở cây ngô
Gấu đỏ nhiễu sáng
Gà liệng sáng sớm
Xem ngọc Bá Hữu
Hỏi đạo Tây Vương
Dạo qua Kiến Mộc
Đi đến Thạnh Đường
Trọn chẳng chở ra
Há là cầu bến?
Ta có vô ngại
Cùng đến viên thường
Ngọc Loan từ động
Vòng vàng sáng rỡ
Cầu vồng giúp đỡ
Ngựa ký nhảy vọt
Hổ vằn lưu dấu
Rồng bay mở đường
Lan can bằng ngọc
Chiếu sáng cả trời
Cờ sáng mặt trời
Phụng xanh rạng đông
Bay trước đầm vuông
Sau ôm bờ cầu
Gió lay sấm quét
Sáng rỡ không đều
Vòi vọi tòa báu
Ngạt ngào hương thơm
Bạn bè học pháp
Trần sa tường vách
Mây từ thấm nhuần
Mưa pháp mát mẻ
Ba mật không hạn
Bốn biện khó lường
Giống biển báu này
Như núi ngọc kia
Dòng tuệ đồng giúp
Cây thuốc mở mang
Phật xuất hiện đời
Đồng dứt sương hoặc
Đế Thích ca vịnh
Thần minh khen ngợi
Hư không rải hoa
Nhạc trời tự trổi
Núi trùm bóng màu
Đất vào ánh sáng
Chẳng khói, hơi nhiễu
Đất nương mở phòng
Thấm khắp ba cõi
Ân đều tám phương
Nhà cao vòi vọi
Làm ghe làm thuyền
Thần Doãn cúi đầu
Muôn thọ không bờ.
Cương tâu trộm cho rằng nhạc thiếu thời vua Thuấn mới xướng linh nghi từ thời Thuấn, bày luật mới tuyên, gió tâm tranh mộng, cầm nhẹ lá ngắn còn biết ánh sáng, tắm điều lành tâm vui mừng đâu quên an ủi, cúi xin Điện hạ thể cao trán thông minh dưỡng tạo xuân cấm nhốt lồng văn Phố bắt cá sông Nghĩa, chú ý cung rồng nghiên cứu tâm ở bảo ấn. Mây nhóm sinh tài La-thập và mạng ứng thợ khéo vua, tham cứu chia chẻ lý, vui vẻ chẳng mệt nhọc, hoa châu cảnh trăng chống cự đây quên bỏ, không giấu tiết chiều huyền diệu mạnh mẽ khí sáng, sương trúc che mát, gió ngô rải hoa. Từ dung nhan nói mềm nhã, thật hiểu trong thần, lưới nhẹ sống nhiều, may mắn thuộc đời dừng đây phết mộc lớp được đủ bàn phiên, mà ruồi dính chưa cứu, voi mê không buộc, mất báu say y, châu chìm trán nổi, được nghe điều lành thù thắng thà quên ca vịnh. Kính cẩn tâu Huyền Phố Viên giảng một bài tụng. Văn hổ thẹn sự thêu dệt, phát suy nghĩ thiếu điêu luyện, luống nhớ tâm hớn hở, hoàn toàn hổ thẹn văn vẻ gió mát, mạo muội trình tâu, theo sâu xuất mồ hôi, kính khải.
Được thơ và chế giảng tụng, đầu đuôi có thể xem đâu thành tác phẩm hay. Lời hay văn dứt, đã ôn hòa lại tao nhã, đâu thẳng văn vẻ rõ có ý, có thể gọi là cao vút không bày xem đó vòng xa. Cỏ bạc mây vàng đâu được vật màu đẹp. Ta ở đầu nguồn ý rất dùng vui thích gặp mặt đều không nói hết, gồm đáp.
Trộm cho núi báu cao tột, chân xấu chưa dòm, biển tuệ sóng xa, ghe nhẹ chống thiếu, cho nên xét cát loạn nhiệm mầu, cái chày mê hình. Trăm đời đồng tối, ngàn năm ai tấu.
Hoàng thượng nương ứng vòng vàng đều hợp gương ngọc, khoe khoang khổ tập, đèn từ tiếp tục chiếu rừng hạc trở lại mùa xuân, suối rồng lại sáng, nước đen vọt điềm lành, đơn lăng sấm nhanh. Ánh sáng thao lược, lửa giáo hóa, đức che danh nổi, ánh sáng trí tuệ như mặt trời soi chiếu, năng lực nhẫn nhục như hạt châu minh nguyệt, thành trời đất bằng, xa cung kính gần hòa thuận, đầm sâu không đáy, hóa hạnh chẳng ra ngoài, sông thương, gương xanh, biển biếc, gió mát, dừng khí lành ở hai thìn, thấy khói lành ở năm tiết. Vẫy cánh giúp hiểu đầm rộng, lê dân tắm lòng từ nhân thọ, vì vậy chánh hóa dần thông, bánh xe pháp thường chuyển, luống truyền cảnh không như thấm nhuần sông huyền, đức vua bày tượng màu, thể thấu suốt như ngọc Xuân Quỳnh, thấy bữa ăn nhàn chấp dạo tâm pháp mạnh, cầm ống nắm chương, xinh đẹp mềm mại, bàn luận rõ ràng, cũng so le ngọc chiếu, hạ mở hổ thẹn đức, châu tụng hổ thẹn gió bèn đối Huyền Phố Viên đậu nhóm tài hoa dứt tâm, và ra lệnh bày cõi tột bàn hằng ngày, giảng đạo suốt buổi, khách theo không tiếng, cỏ thơm động khí, bảy biện treo dòng hai nhân đều mở, tình dạo bờ kia, lý vừa ý Kỳ Viên, tháp linh sắp vọt hoa trời chợt rụng.
Bấy giờ, là giữa mùa thu cảnh đẹp trời quang rạng hơi lạnh cửa vàng, sương nổi quán ngọc, vườn này tinh vi hoa đẹp, đất tốt, nhà châu, thềm ngọc, nước ngọc bích cát bằng bạc, chim bay liệng ở tiếng quỳnh, cây tươi tốt với lá màu, nước vọt dòng, cỏ bồng núi vẽ hình trạng, sinh gió điện mặt trăng, mặt trời soi chiếu khói cây hòe, tạm mượn lưới sủng ái gấp bội bụi trần, đầu vào lầu báu, lén nhìn nhiệm mầu giản dị, bơi lội cùng rong rêu riêng sáng tâm linh, xin làm bài tụng rằng:
Hoàng nghi đến ngày
Vua nói xướng mây
Hóa thạnh vọng quanh
Đức lan thơm rộng
Cỏ nương tám giải
Đạp chiếu ba gò
Vòi vọi mênh mông
Muôn đời một vua
Lại lìa chiếu cảnh
Gọt ngọc rủ hoa
Bảy tịnh nêu đẹp
Ba lành khen tốt
Giáng mưa pháp này
Khắp thấm mầm sống
Lăn tăn nghĩa nước
Rạng rỡ văn hoa
Cỏ thơm mù mịt
Cung trời loại báu
Chẻ luận thầm không
Cỏ màu vào đạo
Nhà kín trong sạch
Lầu gác xinh đẹp
Trời sáng mây vàng
Gió lay cỏ bạc
Vai theo tiếp võ
Nắm bảo linh châu
Đều trở bốn phía
Và bày chín nẻo
Chăm sóc nhiều thiếu
Theo thờ ánh ngọc
Trọn như đá yến
Lại giống Tề Vu.
Chẳng nói thì nương đâu gởi lời, lời đã không nhọc nói, nhọc nói thì sẽ dứt lời, lời dứt thì các tranh chấp khởi, cho nên Như Lai nương bổn nguyện để gá sinh, hiện sức từ để ứng hóa, lìa văn tự để lập giáo, quên tâm tướng để thông đạo, muốn cho ngọc mân khác giá trị, kinh vị chia dòng. Chế ngự sáu vị giáo chủ ngoại đạo mà sửa ngay bốn chấp, lật ngược tám tà mà quy về một vị, bẻ sừng trí đời thường, chấm dứt miệng dị nhân, dẫn dắt tâm cầu châu, mở mắt nhìn tượng, cứu sự thiêu đốt trong nhà lửa, vớt chìm đắm ở sóng biển. Cho nên giáng mưa pháp và mầm giống càng tốt tươi, mặt trời tuệ lên thì đêm dài bừng sáng, phát tức giận của Ca-diếp, tuôn lời thành của chân thật, dẫu lại hai thí đồng ở trước năm đại bày ở sau. Ba mươi hai câu hỏi biện khác so le, phương tiện dẫn dắt đều tùy ý đáp, nêu cốt yếu luận kinh không ngoài hai đường. Phật tánh mở gốc kia có nguồn, Niếtbàn sáng là tông quy cực, chẳng phải nhân chẳng phải quả, không sinh khởi không tạo tác, nghĩa cao muôn thiện, sự dứt trăm phi, không không chẳng thể suy lường mé chân kia, nhiệm mầu không thể tột cửa mầu ấy, tự chẳng phải đức đồng bình đẳng tâm đáp vô sinh, tường vàng nhà ngọc đâu dễ gì vào?
Trộm cho là, xem nơi thiên văn, lý do mặt trời mặt trăng sáng rỡ, xem nhân văn là lý do lửa phát soi chiếu, huống chi ngọc hào soi chiếu ra ngoài người trời, vàng càng không hiểu sinh ngoài văn chương. Dẫu cảnh trí kín mờ lời lẽ dứt tuyệt, ca vị làm có thể lược bàn, bèn sách xứng lời nước sôi, bài bày lời mộng.
Xưa thì Vương ở nhà chốn kinh kỳ, nay thì vua nghiệp chỉ nêu công thí thiên hạ, ta tự nêu ra há cùng Diêu Khư Thạch Nữu thành Tiều huyện Ôn rước rồng ở hạ, Đường Đổ vào Chu mà thôi. Hoàng đế rủ áo phụ xiêm nói về phương chánh vị, xe sách chỗ hội giống, Nam đến Giao Chỉ gió mây thấm giúp, Tây lần dòng cát võ thật ngừng dáo, nương kiếm tuyên sống vui bày trị định giảm đàn cầm bao hy, tướng gồm hai lần tám biết gạn biết chương, toan xưng bốn lần bảy như sói như cọp, thà hầu dung thành dạo nhà xanh, rộng thành hội nhà đá, cho nên tông tâm là quên tướng, về nương thường lạc. Xưa pháp cung Chuyển luân hộ Nam có điềm rồng vàng, Phạm vương thỉnh đạo triều Đông mở điềm lành bảo cái, tột cùng thiện mỹ, riêng cao Hoàng đại.
Xưa sở dĩ ra sư vào bảo, đông cánh thu kèn, thật để khắp tụng ấu xung dùng giúp đoan sĩ, Hán đầy kẻ chưa học lấy nương nghĩa chung. Đại truyền đó thì luận Mạnh Hầu, tiểu chỗ thì bàn ty nghiệp, núi sông quái lạ, hầu giao rước mà có thể biết. Sau màn trướng nói nhờ khai khẩn ruộng mà cầu nghiệp do nơi nay việc xưa thì không như vậy. Ta phò nghiệp vua hơn Tuyên Ni, đạo cao làm Khải Kinh, tiếng vượt Cơ Phát đâu nhờ tụng biện lan, thí như sự cao tột của hoành hoa như sóng cả vùng biển, hiển trung lập hiếu, tu hành, giảng đạo, rộng thí thượng nhân động nhỏ thành việc, trí xét gà múa, hào phân lấp kiến. Ban đầu lên quan rõ thử dùng công, đức thêm ba phụ oai hành chín dòng. Thầy trông coi hổ dựa tiết tháo vỏ ve mũ miện, bốn khanh chìm giúp, vật rước ân chia đều, Nghi, Đại, Cung, Mân dân nghĩ chính sách hậu lai. Trần Thương lưu giữ giáo hóa ngược cầu, Hoài Hải cao tiếng khăn mực. Oai lần cành vàng, hóa hạnh hang đỏ, Nam thông Thuấn ngọc, Bắc bình Nghiêu liễu, sáng tươi thông đường biển, chiều chàng ngưng bít. Thêm sáng điềm sáng trước, riêng đàn nguyên trinh, ân như gió xuân, tuệ như ngày đông, lấy đạo làm kiệu, buộc hiền thành xe, giáng ý vi biên, giữ thần khăn lụa, chấp nhận thuật buôn tính toán, vua ôm xạ phổ. Rùa Nam khác thuyết, ngựa Đông phú tạp, mặc cho dịch cơ, ham muốn môn pháp thức. Bài châm khởi đàn cầm, kiếm. Bài minh tự mâm chén, đều như ngón tay của bàn tay, xét sông Kinh, nói sông Vị, lại lấy phụng đẹp gió bay văn loan lửa sáng dọc. Nhỏ vào không luân, lớn gồm nguyên khí, vận điều luật cung tảo chấn đen vàng, đâu đợi lấy bờ, trước hỏi han nhã chủ, còn như vườn nai nghĩa sâu, cung rồng nói lời màu, mạng xa học đồ chính thân lên tòa giảng, câu là hiến chương, lời thành cách thức xưa lại cơm vua, thờ giúp Ngụy chủ, hỏi đáp bắt chước, đạo cao tấn lượng, như chuông treo ứng tiếng vang, như ngã tư đường đợi châm, đốc suất ông học theo người khác, người nghe xa nghe tiếng gió, là khiến vàng cứng bí mật pháp bảo sáng đêm mộng.
Không nhờ không mất hoa tư cảm đêm, tự chẳng dựng cầu tuệ, sáng gươm trí, huân hương giới, tắm nước định, đâu thể nhóm hư không bỗng gạn trải Hiền kiếp, mà hoàn toàn hiện lúa nếp, lụy hồi giấu càn che châu mà mới truyền, thêm do nhờ đại Tần chẳng phải thể tám thể, chữ triện của Khương Cư có khác lục giao, Nhị thừa mới tránh dụ ngựa truyền thỏ, một thể đồng quy, bỏ cả sùng tượng, nhuận lá thấm nhiều, kiến tư nhóm bằng, vốn có ngưng xa liễu chánh nương nhau, dầu bàn nhờ tục không nhiếp đan ảnh, tức hậu tâm này trở lại dấu lửa ban đầu, đều tông xuất đảo, hoa sen mọc ở bùn lầy và từng nhóm họp, minh châu sáng nơi nhà cô gái nghèo, tánh tướng thường không, Bátnhã không nói năm thời, không sinh phiền não, Niết-bàn là tông muôn đức, thảy đều châm chước tinh hoa kia tiếp ý chỉ cốt yếu kia, nhặt vảy đồi mồi bỏ lông chim thúy, thấm châu theo nước, cầm ngọc núi Côn, thường đến cửa đích sáng mở, thọ lụa vàng sớm nhóm, cá đèn tối sáng bầy Trần Ngô chiều hầu, đều ngước lên bẩm thọ pháp thần, thân nương ý chỉ thông minh, tích trượng xinh đẹp gọi là liên bích, liền ngậm châu mà phác họa được, ngọc bích cùng mặt trời mới mọc.
Do năm nay kế tiếp đề sao ở giám đức, Bách Pháp Minh Môn ở đây gồm đủ, ngàn vàng không lợi riêng cao sách đây, chung hai trăm hai mươi quyển gọi là Pháp Bảo Liên Bích. Dẫu chén ngọc nhiều lộ như dựa chắc, vàng điệp tạc cột nhà dường như nuốt mây mộng, liền tự phục máng sông Tây, tiếp quản nước Tây. Mười hội ngọc phụng, một vầng ánh sáng rồng, cây bút chưa động luống nhọc bói tựa thương. Xét xưa đầy khí văn tạm chế an quốc, cẩn sao soán tước vị bày các phương như dưới đây:
Sử Trì Tiết Bình Tây Tướng Quân, Thứ Sử Châu Kinh, Tương Tông Vương Dịch năm hai mươi bảy tuổi tự là Thế Thành.
Thị Trung Quốc Tử Sát Tửu, Nam Lan Lăng Tiêu Tử hiển, bốn mươi tám tuổi tự là Cảnh Sướng.
Tán Ky Thường Thị Ngự Sử Trung Thừa ở Bành Thành là Lưu Khái, năm mươi tám tuổi tự là Mậu Quán.
Tán Ky Thường Thị Bộ Binh Hiệu Úy Đông Quản Thị Nam Lang Na Vương Tuân, bốn mươi hai tuổi tự là Ngạn Viễn.
Thái Thú Quận Ngô Tiền Trung Thứ Sử Nam Lang Na Vương Quy, bốn mươi ba tuổi tự là Oai Minh.
Đô Quảng Thượng Thư Lãnh Hữu Quân Tướng Quân ở Bành Thành là Lưu Nhụ, năm mươi lăm tuổi tự là Hiếu Trĩ.
Thái Phủ Khanh Bộ Binh Hiệu Úy Hà Nam là Chử Cầu, sáu mươi ba tuổi tự là Trọng Bảo.
Trung Quân Trường Sử Tiền Trung Thứ tử Trần Quận Tạ Kiều, bốn mươi lăm tuổi tự là Quốc Mỹ.
Trung Thứ Tử ở Bành Thành là Lưu Tôn, bốn mươi bảy tuổi tự là Hiếu Lăng. Trung Thứ Tử Nam Lang Na Vương Tử, bốn mươi lăm tuổi tự là Nhụ Thông.
Tuyên Thành Vương Hữu Tiền Bộc Đông Hải Dư Giai, ba mươi hai tuổi tự là Ngạn Ung. Tiền Ngự Sử Trung Thừa Hà Nam Chử Vân sáu mươi tuổi tự là Sĩ Dương.
Bắc Trung Lang Trưởng Sử Nam Lan Lăng Thái Thú Quận Trần là Viên Quân Chánh bốn mươi sáu tuổi tự là Thế Trung.
Trung Tán Đại Phu Kim Hoa Cung nhà quận Linh Ngô là Lục Tương, năm mươi bốn tuổi tự là Sư Khanh.
Trung Tán Đại Phu Lang Na Vương Tạ năm mươi lăm tuổi tự là Văn Hải.
Thái Thú Tân An, Tiền Gia Linh Đông Hải Dư Cầm, sáu mươi bốn tuổi tự là Sĩ Hội. Tiền Thượng Thư Tả Thừa Bái Quốc Lưu Hiển năm mươi ba tuổi tự là Tự Phương.
Trung Thư Thị Lang Nam Lan Lăng Túc Cơ, bốn mươi bốn tuổi tự là Đức Huyền.
Vân Huy Trường Sử, Thái Thú Tầm Dương, Tiền Bộc Kinh Triệu Vi Lăng năm mươi lăm tuổi tự là Oai Trực.
Bác sĩ Tiền Quốc Tử là Phạm Dương Trương Oản bốn mươi ba tuổi tự là Hiếu Khanh.
Khinh Xa Trường Sử Nam Lan Lăng Túc Tử Phạm bốn mươi chín tuổi tự là Cảnh Tắc. Thứ Tử Quận Ngộ là Lục Tráo bốn mươi tám tuổi tự là Đổng Nguyên.
Thứ Tử Nam Lan Lăng Túc Trấn bốn mươi tuổi tự là Văn Dung.
Bí thư Thừa Tiền Trung Xá Nhân Nam Lang Na Vương Hứa hai mươi lăm tuổi tự là Ấu Nhân. Thành Tuyên, Vương Văn Học Nam Lang Na Vương Huấn hai mươi lăm tuổi tự là Hoài Phạm.
Tiễn Mã Quyền Kiêm Thái Chu Khanh ở Bành Thành là Lưu Hiếu Nghi bốn mươi chín tuổi tự là Hiếu Nghi. Tẩy Mã Quận Trần Tạ Hi hai mươi tuổi, tự là Hưu Độ.
Trung Quân Lục Tiền Tẩy Mã ở Bành Thành là Lưu Uẩn ba mươi ba tuổi tự là Hoài Phương. Tiền Tẩy Mã Quận Ngô, Trương Hiếu Tổng bốn mươi hai tuổi tự là Hiếu Tổng.
Châu Nam Dư, Trị Trung Nam Lan Lăng Túc Tử Khai bốn mươi bốn tuổi tự là Cảnh Phát.
Bình Tây Trung Lục Sự Tham Quân Điển Thơ Thông Sự Xá Nhân Quận Ngô là Hữu Kiên Ngô bốn mươi tám tuổi, tự là Tử Thận An.
Bắc Trung Ký Thất Tham Quân Dĩnh Xuyên Dữu Trọng Dung năm mươi bảy tuổi, tự là Trọng Dung.
Tuyên Tuệ Ký Thất Tham Quân Nam Lan
Lăng Túc Bàng ba mươi hai tuổi, tự là Hy Truyền. Xá Nhân Nam Lan Lăng Túc Thanh hai mươi bảy tuổi tự là Nguyên Chuyên.
Tuyên Tuệ Chúa Bạc Tiền Xá Nhân Quận Trần là Tạ Hổ hai mươi lăm tuổi, tự là Mậu Phạm. Thượng Thư Đô Quản Lang Quận Trần là Ân Khuyến ba mươi tuổi tự là Hoằng Thiện.
An Bắc Ngoại Binh Tham Quân ở Bành Thành là Lưu Hiếu Oai ba mươi chín tuổi tự là Hiếu Oai.
Tiền Thượng Thư, Điện Trung Lang Nam Lan Lăng Túc Khải hai mươi chín tuổi tự là Nguyên Tài.
Sự nương văn từ, lý thông khí tượng, người thiệp đó còn mê, người cầu đó đều thất bại. Vì vậy hỏi kinh màu với Dương Tử, lại nói rằng: Không học tập. Tần Cổ Lạc ở Văn Hầu, còn xưng thì ngủ, niên đại hiệu Thanh Đài, bài Thọ Vương không kín, khí hiện đẩu ngưu, đất Nam Xương đều sai trái huống chi thâm thúy của cửa tuệ, người vào vốn đã ít, sóng ngói biển pháp người bơi thuyền chưa dễ. Tự khiến sông ái hỗn lộn, ma trần lăng xăng, vằng vặc sương độc, trụi trọc cây khổ, mầm lúa ruộng tốt không nở ra, sắc màu hoa ý phát lớn, lầu vô, thường xen khởi, lửa nhà tối không sáng, vì vậy ăn mật, sứt mẻ bả đều là luận quý lạ. Đem trâu nằm gai, tranh khởi tông tà.
Từ khi mặt trời Phật nhóm hợp không, chánh dòng rửa dơ, tay bưng bốn bát. Bắt đầu giáo pháp ở Lộc Uyển, thân nằm ở Song Lâm, trọn nơi nói tượng dụ, hàm sinh phí đồng. Nghĩa mở đóng do cơ, cảm nhận khác nhau, lời cạn sâu đều khác, nơi nơi rải lời vốn ứng căn duyên, có không thứ lớp đều tùy quần phẩm. Kim quan đã vậy, than chiênđàn không theo, ao sữa lại cạn, tro lụa trắng đã hết, Ca-diếp nhập định vui mừng trí diệt. Báo cuối đất đã xong, thân Ưu-ba lại tạ, vì vậy năm bộ rộng lưu hành, tám càn khởi chấp, tìm nguồn đã khác, chấp trước rất sai. Bốn tướng chính là dao vô thường, ba nhóm là chất nhà khổ, tập tục không dứt gọi là tập đế, vô vi có thể giới nhưng có thể cầu, đẳng trí có thể dứt La-hán vẫn thoái lui, đâu chỉ khác ngàn dặm nghĩa khởi nơi mảy may. Sách ba thỉ lầm thẻ sử Tấn, Bắc Viên đến Dĩnh ngọn cây hoa sen, thí như ở Phục Tử Luận, Khâu chẳng biết lợi hại, keo trụ đàn sắc nóng mát không thay đổi.
Từ sau khi Phật nhập diệt hơn tám trăm năm ở nước Trung Thiên Trúc có Bà-la-môn tên là Ha-lêbạt-ma, đời Lương gọi là Sư Tử Cảo, bốn bộ Vệđà ở nhà đã học xong, ba phẩm tuệ tạng vào đạo càng thông, thờ Sa-môn Đạt-ma làm thầy, sự đều ngược mở, vì vậy lời than nhỏ đã dứt, tổn thương gió dữ chẳng rung, lời chống cự động luận, do châu tía làm đầu, phát y nhả lời hẳn kinh vị do mình. Vì vậy nêu bày lãnh hội bàn bạc khác đầu mối, cắt bỏ sự phù phiếm khó hiểu, tìm tòi thâu lượm tính chất trinh nguyên thật thà, tạo trăm có hai phẩm để soạn luận này. Thành thì y cứ văn thật thì rõ lý, nêu thành là đối hoại, gọi thật là bày dối, muốn cho hai đường Tỳ-đàm, ngoại đạo đều bỏ. Như Lai là luận chủ hai lý gồm khởi như Long Thọ, Mã Minh dừng nơm đại giáo, Chiên-diên Pháp Thắng bó buộc Tiểu thừa, gồm mà chung đó không vượt thuyết này, cho nên vua của Hoa Thị ở đây đầu đội, ngoại đạo Lâu Khư cứng lưỡi không nói ra lời. Trăm dòng khác chỗ xuất phát mà đồng về một biển, muôn nghĩa chi phân gồm nơi thành thật, đâu chỉ bụng trống Niết-bàn, cờ xí chẳng loạn vết, gà kêu chân đế tán tinh che màu, nhiều năm lại ít anh tài.
Đại Lương ta sáng mở vận đồ, đức của Hoàng đế bao gồm trời đất, lòng nhân sinh trưởng xuân hạ, do bổn thệ nguyện thống lãnh giáo hóa cõi này, phạm luân thường chuyển, Tam bảo hiện tiền, cam lồ bèn tuyên bốn bộ không nhàm, có Pháp sư Trang Nghiêm Mân cánh nghi loan phụng, gánh mang quang ảnh, sâu dùng thông chí, thần dùng biết đến, dấu kia đồng phàm, nguồn kia chớ suy lường, cho nên dùng tâm bao gồm bốn nhẫn, hạnh trùm ba không, tuệ sánh Văn Thù huyền như Thiện Kiết, tổng trì bằng Đức A-nan, ưa nói có công Phú La. Suy nghĩ vua ta dựng mâu chánh pháp, mở mang luận này, đại thạnh ở kinh đô, gánh hòm lướt nhanh, ôm chì đến xa, không nhọc thế quan quân, tự rước vệ khách, vốn có đức hoa âm người về thành thị, nghĩ nghi Xá-vệ khởi đến sông Tứ sông Thù, cửa Tây tự hổ thẹn, cung nam không tranh chùa Tương Cung, Trí Thiến Công bút trát, không khác báo pháp phương của An Thạch, nhiệm mầu của Thanh Biện đâu chỉ chiết phục Tử Hiến của Đạo Lâm. Phàm như ngàn quyển soạn thành một bộ, Pháp sư rất hổ thẹn sâu truyền dặn dò nhau, há thẳng quên Điền Sinh nằm riêng, tay đáp trả, học Mã Công mới do họ Trịnh mà bày nghĩa ấy.
Pháp tánh vắng lặng, chỗ tâm hành dứt, cảm mà bèn thông, tùy phương dẫn dắt, cho nên vườn hạc khéo dắt dẫn, nơi Mã Uyển rộng tuyên, rừng trắng toan tạ từ, cây xanh đã chia biệt. Đây tuyên lá vàng mới gởi thân bạc. Từ thời tượng giáo, về phương Đông hành hóa nước nam, chúa Ngô chí thành trải qua bảy tầng trời mà sáng rỡ, vua Tấn vẽ tượng trải qua năm vua mà càng mới. Kế nói Hiếu Bá Gia khách khéo độ mấy người đây cũng một đời danh nhân, hoặc tu lý chỉ ở Già-lam, hoặc quy tâm tột nơi bàn luận, chép bài tụng để xưng cùng ông mà thôi. Giở văn chất vấn nhau rộng ước thấm nhuần, ta nghe lời này mà chưa thấy người kia. Ban Cố học rộng còn nói rằng: tán tụng giống nhau, Lục Cơ sâu dẫn còn nghe bi, phú như một, chỉ có Bá Giai soạn bài minh lâm tông không hổ thẹn, đức cổ có thể tụng, vốn thường khéo vẽ. Thạnh nhất thời chớ được gót chân, huống chi Bát-nhã sâu mầu, chân như bí mật, chạm lời thành lụy, hệ cảnh chẳng phải chân, vàng đá đâu có sách, minh tụng ai mở mang, nhưng xây tháp ghi công chiêu đề lập chùa, hoặc khởi tạo có lý do, hoặc thệ nguyện chỗ ghi, cho nên khắc vào đá đen truyền xa không hư mục, cũng có người dứt tâm ứng cúng này gọi là tang môn, hoặc cho là đãy trí, hoặc gọi là ấn thủ, tòa cao đàn danh dự tòa Doãn Sư, Đạo Lâm thấy trọng thêm tòa rồng bay, hiền của gò núi Nga Mi, triết của Nghiệp Trung Uyển Đặng rõ thay sử sách có thể được tường tận, cho nên bia văn khởi ở đây.
Thế đời thay đổi lý văn luận chẳng phải một, thời sự đổi dời thể của lời dặn đều khác. Nhưng nhiều thì thương yếu, suất thì hận xét, giữ hoa thì mất thể, theo thật thì không vị, hoặc dẫn sự tuy rộng ý kia vẫn đồng, hoặc ý mới dẫu lạ không chỗ hẹn dựa, hoặc đầu đuôi luân thiếp sự dường như kéo lôi thì khóa, hoặc trước sau rộng hợp thể chế không cần nhân công, có thể khiến xinh đẹp mà không hoa, chất mà không trồng, rộng mà không nhiều, ít mà không suất, văn mà có chất, ước mà được thấm nhuần. Sự theo ý chuyển, lý theo lời sâu, đã gọi là tinh hoa không do ở giữa. Ông lúc nhỏ ưa khắc vẽ trùng, lớn lên càng dốc lòng, để tâm vào kinh Phật, để mắt ở rừng lời, đầu thường tìm tòi có lòng thuật, thí như biển pháp không từ bỏ sóng mòi, cũng giống như núi Tu-di đồng về một sắc. Cho nên bất luận cao thấp, chỉ có thể cùng nhau, nếu có chỗ chưa rõ thì đều tùy theo đó mà làm cho đầy đủ, gọi là bia chép tập lâm nội điển gồm có ba mươi quyển, ngõ hầu giúp kẻ quân tử sau này đều được xem thấy.
Thích Huyền Tắc trụ chùa Tây Minh ở Kinh đô. Tất cả chư Phật đều có ba thân:
1- Pháp thân: là viên tâm đã chứng.
2- Báo thân: là chỗ cảm muôn điều lành.
3- Hóa thân: là tùy duyên mà hiện.
Nay Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, pháp thân đã chứng từ lâu, báo thân đã thành từ lâu, nay xuất hiện là hóa thân. Nghĩa là ở thời quá khứ Phật Thích-ca đã phát tâm Bồ-đề nguyện đồng hiệu kia, cho nên nay thành Phật cũng hiệu là Thích-ca. Ba vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát, trong mỗi kiếp kính thờ vô lượng Phật, trong đó tiếp tục gặp Như Lai Định Quang, dùng tóc trải bùn, hoa vàng dâng lên, mong được thọ ký được vô sinh nhẫn, nhưng tất cả Phật khi sắp thành Phật phải trải qua trăm kiếp tu nghiệp tướng tốt. Đức Thích-ca phát tâm sau Đức Di-lặc. Do gặp Như Lai Phất Sa bảy ngày kiểng chân lên mới làm kệ khen ngợi mới vượt qua chín kiếp thành đạo trước Đức Di-lặc, khi sắp thành Phật, sinh lên trời Đâu-suất, hiệu là Bồ-tát Phổ Minh, khi tuổi thọ cõi trời kia hết mới hạ sinh xuống cõi
Diêm-phù-đề, hiện cỡi voi trắng vào hông phải của mẹ, người mẹ là Ma-da nằm mộng thấy voi trắng, Phạm tiên bói rằng: "Nếu mộng thấy mặt trời mặt trăng thì sẽ sinh quốc vương, nếu mộng thấy voi trắng thì sẽ sinh con là bậc Thánh". Người mẹ từ đó điều tịnh an nhiên thư thái, từ biện ngày càng lạ.
Bồ-tát khi mới sinh trời đất chấn động, thân sắc vàng tím, có ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu xa một tầm. Khi sinh ra ở bốn phương mỗi phương đều đi bảy bước, vì hàng phục Ma vương, Phạm thiên nên nói lời thành thật: "Trên trời dưới đất chỉ có ta là độc tôn", ẵm vào miếu thờ trời, tượng trời đều đứng dậy, tiên A-tưđà chắp tay khen rằng: "Tướng tốt rõ ràng, chắc chắn làm pháp vương", tự buồn mình sẽ chết không được gặp Phật, đây là Thái tử của vua Tịnh Phạn, tự là Tất-đạt-đa, ông nội là Sư Tử Giáp, cha tên Tịnh Phạn, mẹ là Ma-da đời đời làm Luân vương, họ là Cù-đàm. Lại do hay thờ họ riêng là Thích-ca. Các y thuật nghề nghiệp không cần học tự nhiên đều lãnh ngộ, tuy ở năm dục mà không thọ dục trần (bụi năm dục). Dạo ở bốn cửa thành gặp cảnh già, bịnh, chết và một Sa-môn, về lại trong cung rất sinh nhàm chán xa lìa. Bỗng vào lúc nửa đêm, thiên thần nâng chân ngựa báu vượt thành xuất gia. Khổ hạnh sáu năm biết chẳng phải đạo, liền nương chánh quán để chứng Bồ-đề.
Lúc này có cô gái chăn bò, chưng sữa làm cháo, cháo kia sôi vọt lên, mục nữ kinh lạ đem dâng Bồtát, Bồ-tát thọ ăn rồi khí lực đầy đủ, bèn xuống sông tắm rửa. Khi sắp lên bờ, cây tự rủ cành che trên Bồ-tát. Bồ-tát từ đây nhận cỏ cát tường, ngồi dưới cây Bồ-đề, ác ma thấy rồi sinh tâm sân não rằng: "Người này muốn làm trống rỗng thế giới của ta", liền dẫn quyến thuộc mười tám ức vạn, đem các dụng cụ tra khảo khổ sở đến uy hiếp Bồ-tát, muốn cho sinh khởi thọ vui ngũ dục lại sai ba Thiên nữ Diệu Ý đến mê hoặc Bồ-tát.
Bấy giờ, Bồ-tát nhập định Thánh ý từ, sinh tâm thương xót, quân ma tự nhiên bỏ chạy tán loạn, ba thiên nữ Diệu Ý hóa thành quỷ gầy ốm.
Đến ngày mồng tám tháng hai khi minh tướng xuất hiện liền thành Chánh giác. Đã thành Phật rồi quán sát căn cơ chúng sinh, biết kia ưa tiểu chưa có khả năng nhận lãnh đại pháp, liền đến nước Ba-la-nại độ năm anh em Kiều-trần-như, chuyển xe pháp Tứ đế, đây là lần đầu tiên Tam bảo xuất hiện. Sau nói pháp độ người vô số, nhóm các Đại Bồtát, bàn về vô tướng sâu xa, thị hiện năng lực thần thông, văn kinh có chép đủ. Lại có một thời lên cõi trời Đao-lợi trong chín tuần (ba tháng) an cư nói pháp để độ mẹ. Bấy giờ vua nước Ưu-điền và vua Ba-tư-nặc kính nhớ Đức Phật, khắc chiên-đàn và dùng lụa để vẽ hình Phật. Sau khi Phật từ trời Đaolợi trở về các hình tượng kia đều đứng tránh một bên, Phật xoa đảnh tượng nói rằng: "Ở đời sau ông sẽ làm Phật sự." Tượng Phật bắt nguồn từ đây".
Khi duyên giáo hóa sắp xong, tín đồ biếng nhác, Phật liền bảo đại chúng: "Ba tháng sau ta sẽ nhập Niết-bàn", lại ghi việc sau như kinh có nói đủ. Nhưng thân thật của Như Lai thường còn không mất, cho nên kinh Pháp Hoa chép: "Thường ở núi Linh Thứu và các chỗ khác". Nay sinh diệt là Phật hóa thân vì muốn dắt dẫn, hiện đồng loại với chúng sinh, cho nên thọ sinh. Lại muốn khiến cho biết hữu vi quyết thay đổi cho nên thị hiện diệt độ. Lại khi căn cơ chúng sinh thuần thục cho nên hiện sinh, cảm hết chúng sinh cho nên hiện diệt. Sau khi Phật Niết-bàn người trời cúng dường xây dựng các tháp báu. Lại Đại Ca-diếp triệu tập ngàn vị La-hán kiết tập pháp tạng, A-nan từ tòa tu mà vào, tụng kinh Phật nói không sót một chữ, như nước đựng trong bình này rót qua bình khác. Hơn một trăm năm sau có vua Thiết Luân tự là A-thâu-kha cũng gọi là A-dục, sai khiến quỷ thần trong một ngày ở trên cõi trời và chốn nhân gian tạo được tám muôn bốn ngàn bảo tháp xá-lợi, di vật, y, bát, gậy v.v... của Phật, và các xá-lợi thần biến chẳng phải một. Đến thời Hán Minh Đế cảm mộng thấy người vàng thân cao trượng sáu, giống như hình dáng Đức Thích-ca. Lại chúa nhà Ngô là Tôn Quyền đốt và giã xá-lợi vẫn không hư hoại, cho đến Phù Giang tượng đá điềm lành ở biển cả, năng lực thầm của Bát-nhã, nghiệm chứng bí mật của Quán Âm, có riêng ghi đầy đủ, việc rườm rà nên không chép.
Của Thích Huyền Tắc chùa Tây minh ở kinh đô.
Trộm nghe tượng chia bao quải khắc khen đức của thần minh, dụ mở ruộng ky, chép bày cung kính luân thường, từ đây người được hàng phục rất nhiều, đâu không là ngọc tuyền mà càng sáng, nhận vàng khuê mà cao giá, huống chi chân thừa thượng trị bến bờ vạn hữu để khởi lời. Viên âm bí mật nhắc nhở trăm sinh linh mà tuyên bày ý chỉ, soi suốt kẻ mê đều ở cảnh đẹp, thanh thần sánh nơi cam lồ, tự chẳng phải sáu ngọc anh đạp ngôi bốn luân bay đức, đâu thể tìm xét dấu vết đến chân nghiên cứu các cơ nhiệm mầu. Phải biết tươi tốt đối với đạo, giáo kia Khổng tu, xương nơi nghiệp văn kia Y Doãn sáng rỡ.
Cúi xin Hoàng đế Bệ hạ, theo giúp soạn biên cực Thánh kính ngưng tua mũ, mười điều lành nêu nhân từ, hóa nhu nhuyến bày sự mềm mại, bốn đẳng điều tục, gió cao trước Tư Toại, vẫn lại khuôn phép cao mầu mà truyền lời, rong rêu thường nguồn mà soi xét, mưa rơi tầm tả nhơ dây thừng, giữ suy nghĩ cấp vườn bèn dùng các vật khéo thân ở ý chỉ thông minh, chánh danh giữ điều lành đều tốt đẹp, Tăng đồng gánh vác ân đức thí, khép kín đầm nối thạnh, ban đầu rút lại gọi đến chép cẩn thận trong áo.
Lại do ý chỉ bậc Thánh khó gặp ít có, bến huyền ít liên quan, suy nghĩ hư không sánh với ống dòm, chưa mở hỗn độn, là nhờ trời đất khí tượng võng kia được như, Lan Đài Thái Sử gồm Tả thị tột ứng huyện Sơn mở nước hầu kia, toan soi xét luống mệt nhọc, xem coi không dính mắc chướng ngại, bèn cùng nhau nêu hoa tươi rừng thứ, mau đến núi Kiểu Kỳ, tìm tòi chỗ khác lạ của tám tạng, khống chế linh dịch của ba điểm, dùng thành một bộ chia làm mười quyển, giảo chánh tinh chỉ kia, sự tuyệt xưng lời. Nhưng do biển giáo đã xung, cửa pháp còn rộng, dầu ý chỉ cốt yếu nhiệm mầu đã đủ trước tu mà rộng xem văn trọn giúp chép riêng. Trộm cho là người lên núi gai suy nghĩ có hiến dâng nơi thành liên, dạo đến sở nguyện cống nạp ở Bảo Quỷ. Huống chi cung rồng thanh nhàn bảo chiếu xán lạn ở ruộng tình, nơi Lộc uyển để lại cỏ thơm ở Tự Diệp, nếu có tâm hòa nhã ai quên tiến cử. Thêm do hoặc hóa có tu rõ phép tắc ở dặn dò, quán vuông mở chọn lọc thì Lâm Lang đều chói rực, phát họa khu vực riêng thì hoa lan hoa cúc tự chia, có dẫn đến đây thí như ngòi rảnh của biển Đông, đều chảy về chỗ thích ứng, giống như cung bậc của kèn Nam.
Do nghĩa thuộc nhau có đến mười phương, chương thượng hạ thành hai mươi quyển, kinh xét hơn một ngàn năm trăm trục, nghĩa bày hơn ba trăm sáu mươi điều. Chỗ dẫn mười chương liền thành bốn lệ, ban đầu và thứ hai là lập cảnh chân tục, kế thứ ba gồm rõ lý do tịnh nhiễm, trong thứ tư chỉ là đường tu chứng. Hai thứ sau là rủ phép tắc dắt dẫn, nối nhau bày điều lệ nhiều mục, noi theo đại nghĩa sáng rỡ lời chí lý quên đọa lạc, trong chớp mắt mở bày ngàn môn, lảng phí gồm cả trăm đường vòng, đồng hiểu điều ghi chép ở trước, châu thành không thứ lớp mà ngay thẳng lỗi lạc. Xuân tươi tốt tô vẽ lụa thiết nghĩ chẳng phải thợ mà đều hoàn mỹ, là do soi xét khéo khế hợp sâu, cho nên khiến ý chỉ sâu xa thầm quay về, kia không rối ren có chỗ nương tựa.
Nhưng đầu một sợi lông có thể biết màu chim phụng, cho nên ghi chép chưa nhiều, cùng bay không đáng cái khánh Châu Phù, cho nên những nét đẹp khác khó tột. Đã hạn cuộc lời dạy từ kim khẩu (Phật) bởi không chê ngọc vụn, khắc gọt lời hỏi kia, hào phóng rộng rãi châm chước lấy bỏ, sợ để lại sai lầm ngàn dặm, thường xét theo nơi ba phục. Bí mật đến ngày 17 tháng 05, niên hiệu Long Sóc năm thứ ba mới dâng luân ngôn. Đến nay ngày mồng bốn tháng năm hiệu Lân Đức năm đầu, trước sau hai bộ sử xanh đều đủ, trước thì gón gọn mà có thể thông suốt, sau thì rộng mà không lẫn lộn, ngõ hầu có thể chấn giữ giềng mối của đạo Phật, gồm dựng cốt yếu của pháp môn, mở do dự dứt tâm, đủ vườn linh của đa văn. Cúi mong thượng vị đề hồ hằng rót vào trong thần, minh châu Bát-nhã hằng sáng trí thông minh, văn này không trụy đọa, tông chân và mặt trời mặt trăng đều cách xa, phước này không bờ mé, ngôi báu toan hư hoại vòm trời, đều phải nói là đúng.
Tổng mục của Thiền Lâm Diệu Ký Hậu Tập gồm có mười chương: 1-Chân tánh.
2- Giả duyên.
3- Lưu nhiễm.
4- Tiết tịnh.
5- Quán môn.
6- Hành pháp.
7- Thừa vị.
8- Cực quả.
9- Giáo lực.
10- Hóa công.
Mỗi chương trên đây gồm nhiều pháp tụ.
Từ sáu hào khởi tám quái thành liệt, bút có đường vẽ khế hợp soi chiếu sách dạy dỗ, khắc phụng vẽ giản vàng chữ ngọc, trăm nhà khác vết, muôn quyển chia phân, dẫu lý rốt ráo tinh vi, lời hết sức là phép tắc của vật, mà kỷ tình bao gồm tánh chưa ra khỏi hoàn trung, từ đầu đến cuối bao gồm ngoài tục, cũng có thuyết tạng sử, lời bàn viên quang lại kinh báo nỗi lâu dài, nệm gấm rối rắm quái lạ, đồng chạm trổ nước mà không thành, như vẽ hư không mà chẳng thật, cùng diệu chỉ xỏ hoa, viết lời mầu trên lá bối. Sự rộng lớn của Nhị thừa, bí mật của tám tạng, tranh sự cạn sâu, xét chỗ hơn kém cũng giống như con kiến sánh với sự cao lớn của núi Tung Hoa, như vũng nước trâu nằm mà sánh với Hán Giang, nghĩa kia bày rõ, phép tắc ẩn kín, môn giải thoát chất chứa tổng trì, mé trước mé sau đều khế hợp chân như, sơ tâm mạt tâm đều quy về Chánh giác, dẫn dắt chúng sinh mê mờ ở biển dục, tình trần chung lòng cấu đồng tiêu. Dẫn cùng tử về nhà cha lành, áo báu cùng châu trong búi tóc đều đến. Giáo hóa vượt qua cảnh hằng sa, công giúp kiếp vi trần, thật to lớn thay! Không thể nào xưng kể được.
Đến lúc mưa nhỏ khắp đeo mặt trời thông Hán, con rùa yên lặng bước bên Tây, trúc lan dạo mé đông. Lời kim khẩu (Phật) ý chỉ đài báu, đầy lụa mịn nhóm mạ giúp cõi trung mà cuốn trục phiền nhiều điều dòng sâu rộng, thật tướng nguồn chân khó rõ ràng. Khi vua Đường của ta tạo vật. Thánh thượng đến, giáo mầu được nói, tín đồ đầy đủ, truyền sáng, chép dịch, chiếu thấm cõi nước Phạm vang tụng âm xướng cổ họng được thông. Rộng nói đầy đủ, chỉ dụ khó tột, có Pháp sư Đạo Thế là bậc Đại đức ở Tây Minh tự là Huyền Uẩn, là lãnh tụ trong đạo Phật, lúc nhỏ ở Tụ Sa, khi cạo tóc xuất gia, ngài Từ Ân tiếp độ giúp cho đăng đàn thọ giới Cụ túc, giới phẩm tròn sáng cũng đồng như Tỳ-kheo hộ mạng con ngỗng nuốt hạt châu, hiểu rõ luật nghi tùy theo gương soi mà đồng vui mừng, kính mến Đại thừa rõ suốt thật tướng, chiêu mộ anh tài ở Tây Minh, bèn được hơn năm bộ, lúc rảnh xem khắp ba tạng kinh, cho là niên đại xưa nay chế tác nhiều người, dẫn đến lời hay hòa nhã không đủ ghi rộng, cho nên kéo tinh hoa của vườn văn, hội Chiêm bặc của đại nghĩa để giống biên chép gọi là Pháp Uyển Châu Lâm, gồm trăm bài chia thành mười pho, nghĩa đầy đủ, văn dón gọn, cái khuy rộng yếu của họ Ngu, dấu vết gương nói đạo, rộng rõ sự giúp đỡ của thần linh. Lời kia tốt đẹp, đạo kia đây biên soạn, nêu sâu xa mà không sót, trùm diệu môn mà hẳn hết trọn.
Thời Đại Đường niên hiệu Lân Đức năm thứ ba ở tiếp đề luật, duy Cô Tẩy ngày mồng mười tháng ba soạn chép xong, ngõ hầu sai biên tập lời mầu, xét quyển mà được ý châu, phép tắc chánh đạo mở văn mà uống cam lồ, dịch đó để biết chỗ sâu kín, xem đó mà thấy sự sâu xa, cùng Hoàn Cảnh mà đồng chiếu, đem ngọc trời mà chung lâu.
Thái tử Chiêu Minh đời Lương đáp thư Pháp sư Vân thỉnh giảng ba bài (và phần đáp). Chiêu Minh tạ sắc chỉ tặng Thủy Tê như ý khải. Thái tử Chiêu Minh giải nghĩa chương hai đế. Chùa Nam giản, Thích Tuệ Chiêu, luận hỏi nghĩa Hai đế (qua lại sáu lần).
Nhà Tấn, An Vương Cương hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế (qua lại năm lần).
Chùa Chiêu Đề, Thích Tuệ Diễm hỏi nghĩa Hai đế (qua lại bốn lần).
Chùa Thê Huyền, Thích Đàm Tông hỏi nghĩa Hai đế (qua lại bốn lần).
Trung Lang Vương Quy hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế. Chùa Linh Căn, Thích Tăng Thiên hỏi nghĩa Hai đế.
La Bình Hầu Túc Chánh Lập hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế (qua lại bốn lần).
Hoành Sơn, Hầu Túc Cung hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế.
Chùa Trung Hưng, Thích Tăng Hoài hỏi nghĩa Hai đế (qua lại bốn lần).
Đời Thỉ Hưng Vương năm thứ tư, Nam Tiêu Ánh hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế (qua lại bốn lần).
Thế Tử Ngô Bình Vương là Túc Lệ hỏi ý chỉ nghĩa nhị đế (qua lại năm lần, rộng học sách hơn ba vạn quyển).
Thỉ Hưng Vương năm thứ năm Nam Tiêu Diệp hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế (qua lại năm lần).
Chùa Hưng Hoàng, Thích Pháp Tuyên hỏi nghĩa Hai đế. Chùa Lang Hầu Túc Kỳ hỏi ý chỉ nghĩa Hai đế.
Chùa Quang Trạch, Thích Pháp Vân hỏi nghĩa Hai đế. Chùa Linh Căn, Thích Tuệ Linh hỏi nghĩa Hai đế.
Chùa Tương Cung, Thích Tuệ Hưng hỏi nghĩa Hai đế. Chùa Trang Nghiêm, Thích Tăng Mân hỏi nghĩa Hai đế. Chùa Tuyên Võ, Thích Pháp Sủng hỏi nghĩa Hai đế.
Chùa Kiến Nghiệp, Thích Tăng Mẫn hỏi nghĩa Hai đế. Chùa Quang Trạch, Thích Kính Thoát hỏi nghĩa Hai đế. Chùa Minh Thái tử khiến ý chỉ một chương nghĩa pháp thân. Chùa Chiêu Đề, Thích Tuệ Diễm hỏi nghĩa pháp thân.
Chùa Quang Trạch, Thích Pháp Vân hỏi nghĩa pháp thân. Chùa Trang Nghiêm, Thích Tăng Mân hỏi nghĩa pháp thân. Chùa Tuyên Võ, Thích Pháp Sủng hỏi nghĩa pháp thân.
Chùa Linh Căn, Thích Tuệ Linh hỏi nghĩa pháp thân. Chùa Linh Vị, Thích Tịnh An hỏi nghĩa pháp thân.
Cảm tạ sắc chỉ sai chủ thơ xem giảng. Tạ sắc chỉ hỏi giải giảng rộng.
Cảm tạ sắc chỉ tặng chế chỉ Sớ giảng kinh Đại Niết-bàn. Cảm tạ sắc chỉ tặng chế chỉ Sớ giảng kinh Đại Tập.
Nhà Tấn, An Chương cùng Quảng Tín Hầu ghi chép việc nghe giảng.
Nhà Tấn, An Xương cùng Quảng Tín Hầu ghi chép lại nội giáo. Quảng Tín Hầu là Tiêu Ánh đáp lời Vương Tâm Yếu.
Xét tông gần muốn thấy khiến nói nghĩa. Đạo Phật sâu xa chí lý uyên thâm, đạo nhất tướng mênh mông khó suy lường, môn không hai vắng lặng không tiếng vang, tự chẳng hiểu sâu tông nhiệm mầu tinh giải nghĩa kín đáo, chỗ như thế đâu dễ gì nói. Đến như tuyên dương chánh giáo, mục đích lợi vật, đệ tử đối với nội nghĩa thành thật tự ưa vui. Nhưng dẫn dắt sâu đến xa phần nhiều chưa đều, vì lý lợi đâu đáng nói. Chư Tăng đều vào pháp môn, dạo nơi mặt trời đạo rộng lớn, đến như Pháp sư càng không đợi nói, nói rằng muốn thấy bữa cơm bởi chỗ chưa dụ, tưởng được ý này không cần phải nói nhiều, đều chung đảnh lễ.
Thích Pháp Vân thưa: Điện hạ do sinh biết thượng thức, tinh nghĩa nhập thần tự nhiên thắng biện, luận nói nhiệm mầu xuất tục, mỗi lần qua lại cả tiệc tâm say thật khiến chư Thiên khen hay, thật khiến Đế Thích, Phạm thiên mưa hoa. Bần đạo dẫu nhỏ biết phương hướng mà lớn không thành nghiệp, lạm thổi xe hộ tống Thánh minh mà người biết hổ thẹn không lui sụt, há không nguyện bữa ăn tối tăm, dám cầu xin thật ở chỗ ít nghe khéo nói. Nay kẻ hèn mong đáp ý chỉ, chưa hứa quần tình, lại suy nghĩ dụng nhẹ thoát, rất sợ hãi, khát ngưỡng có thật đói trống không giả. Theo suy nghĩ xem xét xin lại tâu cầu, chỉ mong cam lộ sẽ mở dụng được bỏ hẳn xấu xa bủn xỉn, cúi xin bốn bổn thệ nguyện đầy đủ ba lần thỉnh, hết lòng kính tâu.
Lại xem đến chỉ bày, biết vẫn muốn khiến thuật nghĩa, không nói làm lợi đủ như lời trước, cam lồ đã mở càng hổ thẹn đến nói, nếu chỉ là lược nêu tông nghĩa, vô vi không phải vậy. Nhưng hổ thẹn lấy mắt cá phát họa dọc ngang của Pháp sư, gồm cả đảnh lễ.
Thần Thống tâu: Nên ra lịnh tả hữu Bá Phật Chưởng phụng tuyên sắc chỉ ban tặng một cái Thủy Tê Như Ý, thức là đạo nghĩa chỗ cần, ngọc trắng chiếu màu xứ này chẳng quý, san hô diên chất thệ này chưa phải là châu báu, điêu khắc đã thành trước giúp thường mỏng. Như nhờ cái trâm của Hán Đế, giống như được ấn của Triệu Nghiêu, kính cẩn ngưỡng mong oai thần bày các tòa giảng, phương tiện vui vẻ La-hán hoài bỏ than thở của bát, Ngọc Thức to lớn, nho phân tích nói về Ly Câu, gấu trang sức dao báu, Tử Hoàn hổ thẹn sự giúp đỡ lớn, bò rừng nhẹ phất, Trương Xưởng hổ thẹn nghi xưa, giáng ân thù đặt phục sâu vọt hoa sen, không kể hạ tình, kính tấu sự việc lên vua. Kính bạch.
Lý hai đế thật sâu mầu tự chẳng hư hoại, không do chung cả rộng xa kia, mới của sáng đạo kia lý do chẳng phải một, nêu yếu luận không ngoài cảnh và trí. Hoặc khi do cảnh rõ nghĩa, hoặc khi do trí hiển bày hạnh, còn như hai đế tức là đến cảnh rõ nghĩa. Nếu mê phương này ba cõi không dứt, nếu hiểu đầu mối kia muôn lụy từ đây hết.
Nói hai đế, một là chân đế, hai là tục đế. Chân đế cũng gọi là Đệ nhất nghĩa đế, tục đế cũng gọi là thế đế. Chân đế tục đế do thể mà đặt tên, Đệ nhất nghĩa đế hay thế đế dùng tụ lập chung đề mục. Nếu dùng thứ lớp ngôn ngữ nên nói rằng: 1-Chân đế; 2-Tục đế. Một hợp với hai, số là ba, chẳng phải gặp số quá hai, cũng gọi là có trước sau, đối với nghĩa chẳng tiện. Chân đã không nhân tục mà có, tục cũng không do nhân mà sinh, chính có thể được nói một chân tục. Chân là thật nghĩa tức là bình đẳng, không có pháp khác để làm lẫn lộn. Tục là tập nghĩa, pháp này được sinh luống dối khởi tạo. Đệ nhất nghĩa đến trong cảnh vô sinh đặt tên riêng đẹp, nói pháp này thắng diệu tột cùng không gì bằng được. Cho nên dùng cách biệt làm nghĩa, sinh diệt lưu động không có tướng trụ, kinh Niết-bàn nói: "Chỗ biết của người xuất thế gọi là Đệ nhất nghĩa đế, chỗ biết của người thế gian gọi là thế đế", đây là văn chứng lý bao gồm hai đế, đặt tên khác nhau, chân tục thế đồng do một nghĩa mà nói, Đệ nhất nghĩa đế dùng hai nghĩa mà nói. Chánh nói lý này đức đã đệ nhất thì nghĩa cũng đệ nhất. Thế đã hư ngụy lại không có nghĩa cho nên chỉ lập tên thế, đế dùng xét thật làm nghĩa, chân đế xét thật là chân, tục đế xét thật là tục. Chân đế lìa có lìa không, tục đế tức có tức không, tức có tức không này là giả danh, lìa có lìa không này là trung đạo. Chân là trung đạo lấy vô sinh làm thể, tục đã giả danh, dùng sinh pháp làm thể.
Chùa Nam Gian, Thích Tuệ Siêu hỏi rằng: "Luống dối khởi tạo gọi là tục, lìa có không gọi là chân, chưa xét dối nổi là sẽ cùng chân một thề hay là có khác". Nay ý chỉ đáp rằng: Sinh pháp người đời biết làm thể, cái vô sinh người xuất thế biết làm thể, nương người làm luận, nên nói như vậy, nếu nói về chân thì có là không, tục chỉ không làm có, nương nghĩa này nói không được riêng khác.
Lại hỏi: "Chân tục đã nói là một thể, chưa xét chân đế cũng có khởi động, là phải khởi động tự động không quan hệ gì đến chân đế". Nay ý chỉ đáp: "Chân lý vắng lặng không có tướng khởi động, phàm phu lầm thức tự chấp ngang là khởi động".
Lại hỏi: "Chẳng hay có khởi động mà phàm phu chấp ngang hay không khởi động mà phàm phu chấp ngang?". Nay ý chỉ đáp: "Nếu có khởi động thì không gọi là chấp ngang, do không động mà thấy động cho nên là chấp ngang".
Lại hỏi: "Nếu pháp không khởi động thì lẽ ra chỉ là một đế?" Khiến ý chỉ lại đáp: Lý này thường vắng lặng, đây từ một đế chấp ngang trái là khởi động lại là một đế, lẽ ra là có hai không được nói một.
Lại hỏi: "Là có chấp ngang hay không chấp ngang?" Ý chỉ lại đáp: "Nương người là nói có chấp ngang này". Lại hỏi: "Nếu nương người nói nên có chấp ngang, nương pháp mà bàn chẳng nên thấy động phải không?" Ý chỉ lại đáp: "Pháp chính là không động, không ngại gì người chấp ngang tự thấy kia động".
Đơn Dương Doãn Tấn An Vương Tiêu Cương hỏi rằng: Giải ý chỉ nương người mà nói là có sinh hay không? Chẳng hay dối nổi đó cùng không sinh chỉ là một thể hay có khác?
Ý chỉ đáp: Phàm tình thấy kia khởi động, bậc Thánh thấy đó bất không sinh, nương người mà bàn nên là khác thể, nếu nói tướng tức thì không thành khác, đủ như trước đã giải thích không cần nói nhiều.
Lại hỏi: "Nếu chân chẳng khác tục, tục chẳng khác chân, đâu được người tục chỗ thấy sinh pháp làm thể, bậc Thánh lấy thấy không bất làm thể?" Ý chỉ lại đáp: Tức tục biết chân, tức chân thấy tục, đến đây là bàn tự thành chẳng khác. Y cứ người mà nói thấy tự có sinh không sinh khác nhau.
Lại hỏi: "Chẳng hay thể của tục đế đã nói là phù huyễn, đâu được ở trong chân thật thấy phù huyễn này?", khiến đáp: "Thể của chân thật tự không có phù huyễn, người mê hoặc ngang bướng cho là có, không thương tổn thể chân thật mà tự bị hư huyễn". Lại hỏi: "Bậc Thánh thấy không lưu động, phàm phu thấy là lưu động. Đã lưu động và không lưu động khác nhau, người ngu cho rằng không được là một." Ý chỉ đáp: "Không cho là lưu hay không lưu đều là một thể. Ngay phàm phu ở trong không lưu động hoành thấy đây lưu động, do đây mà bàn có thể được thành một".
Lại hỏi: "Thể chân tịnh vốn tự không lưu, phàm phu thấy lưu không lìa chân thể, nhưng thì chỉ có một chân không thành hai đế?" Ý chỉ đáp: Thể hằng, tướng tức lý, chẳng được khác. Nhưng phàm phu thấy phù hư, bậc Thánh thấy chân tịch, y cứ phàm thánh kia có thể đặt tên hai đế.
Chùa Chiêu Đề, Tuệ Diễm hỏi rằng: "Phàm phu thấy tục dùng pháp sinh làm thể. Bậc Thánh thấy chân dùng bất sinh làm thể. Xét sinh và bất sinh chỉ thấy kia khác, lại nương theo nghĩa nào mà được nói là một?" Khiến ý chỉ đáp: "Phàm phu đối với không gọi là có, bậc Thánh thì có nói là không, có không tức nhau đây nói là một thể."
Lại hỏi: "Xét theo đây được nói là một, một y theo chỗ nào mà gọi?" Đáp: Chính là do có chẳng khác không, không chẳng khác có, cho nên gọi là một lại chẳng khác tên.
Lại hỏi: Nếu không chẳng khác có, có chẳng khác không, chỉ thấy kia là một, vì sao nói là hai? Đáp: Phàm phu thấy có, bậc Thánh thấy không. Hai cái thấy đã khác, do đây thành hai.
Lại hỏi: Bậc Thánh thấy không thì chẳng thể gọi là đế. Phàm phu thấy có, đâu được gọi là đế.
Đáp: Bậc Thánh thấy không, đối với Thánh là đế. Phàm phu xét cho là có cho nên đối với phàm là đế.
Đàm Tông ở chùa Thê Huyền hỏi: Bậc Thánh có thấy thế đế hay không?
Đáp: Bậc Thánh biết người phàm thấy có thế đế, nếu nói bậc Thánh thì không còn thấy thế đế.
Lại hỏi: Bậc Thánh không thấy thế đế, làm sao dùng thế đế giáo hóa chúng sinh?
Đáp: Bậc Thánh không có hoặc tự không thấy thế đế, không ngại Bậc Thánh biết phàm phu thấy có, cho nên tùy tình chúng sinh nói có hai đế.
Lại hỏi: Bậc Thánh biết phàm phu thấy thế đế tức là phàm phu này phải không?
Đáp: Phàm này tức là thế đế, bậc Thánh cũng không thấy phàm này.
Lại hỏi: Bậc Thánh đã không thấy phàm, sao biết phàm phu thấy thế đế?
Đáp: Thánh dẫu tự không phàm, cũng có thể biết có phàm, tự cho là có, cho nên khúc phó tình kia vì nói thế đế.
Tư Đồ Tùng Sự Trung Lang Vương Quy hỏi: Xét chân tục đã khác nhau, đâu được nghĩa tức nhau?
Ý chỉ đáp: Bậc Thánh đã được tự thấy kia không phải phàm nhân chỗ được thấy kia là có, chỗ thấy khác nhau, không ngại gì tục không ngoài chân?
Lại hỏi: Xét đã chẳng khác, một chất mà có hai nghĩa, phải là nghĩa lìa thể hay tức nghĩa tức thể? Đáp: Không còn có tướng ngoài danh là một thể. Ngu, Thánh thấy khác tự thành nghĩa khác.
Lại hỏi: Phàm phu chỉ thấy tục hay cũng được thấy chân? Đáp: chỉ được thấy tục không được thấy chân.
Lại hỏi: Thể đã tức nhau thì lẽ nào không thấy chân?
Đáp: Vì nếu thấy chân thì không nên thấy tục, thấy tục đã vọng đâu được thấy chân.
Tăng Thiên ở chùa Linh Căn hỏi: Nếu đệ nhất dùng không lỗi làm nghĩa, đây là tên khen ngợi, chân lìa nơi tục lẽ ra cũng là tên tán thán?
Ý chỉ đáp: Tức thể chân này không được nói khen Đệ nhất nghĩa đế đã lại lập tên đẹp cho nên là khen.
Lại hỏi: Không thắng ngã đã được khen, thể ngã tức là chân, vì sao chẳng tán thán?
Đáp: Không thắng ngã cho nên được xưng tán thán, thể ngã tức chân cũng là chân ngã cho nên chẳng tán thán. Lại hỏi: Ngã không lỗi cho nên được xưng là tán thán, ngã là không ngụy đâu được chẳng khen?
Đáp: Không ngụy thật là tên của đương thể, như thể người nghĩa gọi là giải nghĩa, chính đủ xưng thật thể kia, há thành khen ngợi?
Lại hỏi: Pháp đây không thể nêu ra, đâu được tức là tán thán? Đáp: Đã nói là không nêu ra, chẳng phải là khen hay sao? La Bình Hầu Túc Chánh Lập hỏi: Xét tục đế là sinh pháp hay không? Ý chỉ đáp: Thể của tục đế chính là sinh pháp. Lại hỏi: Thế tục đã chấp ngang đâu được có sinh? Đáp: Chấp ngang là có cho nên có sinh. Lại hỏi: Chấp ngang là có chữ thật tự không pháp. Thật đã không có pháp, nói gì là sinh?
Đáp: Tức sinh pháp này gọi là chấp ngang, cũng tức là cái chấp ngang này gọi là pháp sinh.
Lại hỏi: Nếu là chấp ngang chẳng nên có sinh, nếu quyết có sinh sao gọi là chấp ngang.
Đáp: Đã nói là chấp ngang, thật tự không sinh chỉ chấp ngang là có, có này ngang trái sinh ra.
Hoành Sơn Hầu Túc Cung hỏi: Xét Đệ nhất nghĩa đế đã có nghĩa mục, vì sao thế đế riêng không có nghĩa danh.
Đáp: Thế đã là phù tục không có nghĩa để nói? Lại hỏi: Nếu không nghĩa để nói lấy gì gọi là đế? Đáp: Phàm tục xét thấy cho nên đặt tên là đế.
Lại hỏi: Nếu phàm tục thấy có, được gọi là đế, lẽ ra cũng phàm tục thấy có được đặt chữ nghĩa?
Đáp: Phàm tục xét thấy cho nên tên đế được đặt, phù tục không nghĩa đâu được gượng gọi chữ là nghĩa.
Lại hỏi: Phù tục dẫu không thật nghĩa mà đều là nghĩa phù tục, đã có phù tục này, làm sao không nhận tên nghĩa được?
Đáp: Chánh do phù tục nên không có nghĩa để nói. Nếu có nghĩa để nói thì không gọi là phù tục.
Tăng Hoài ở chùa Trung Hưng hỏi: Lịnh ý chỉ giải rằng chân không lìa tục, tục chẳng lìa chân. Xét chân là vô tướng, tục là hữu tướng, hữu tướng vô tướng khác nhau, đâu được đồng thể?
Đáp: Tướng và vô tướng, chỗ này khác nhau. Nhưng phàm phu thấy có, tức là bậc Thánh thấy không, do đây mà luận có thể được là không khác. Lại hỏi: Đã là một pháp sao được thấy là hai? Thấy đã có hai đâu thể là một pháp?
Đáp: Lý không như vậy, tùy theo vật thấy cho nên được có hai. Lại hỏi: Thấy đã có hai đâu chẳng trái nhau? Đáp: Nếu Pháp thật hai, có thể được trái nhau. Pháp thường không hai, người tự thấy có hai, đến đây làm luận đâu được trái nhau.
Lại hỏi: Người thấy có hai, có thể nói hai người Lý đã là một đâu được có hai?
Đáp: Lý dẫu không hai mà y cứ theo người thành hai.
Thỉ Hưng Vương thứ tư, là Nam Tiêu Ánh hỏi: Đệ nhất nghĩa đế nghĩa kia thứ nhất, đức cũng là thứ nhất chăng?
Đáp: Nghĩa đã thứ nhất, đức cũng là thứ nhất. Lại hỏi: Nói thẳng thứ nhất đã bao gồm nghĩa đức sao lại thêm các nghĩa để gây ra phiền phức. Đáp: Nói thẳng đệ nhất ở nghĩa còn mê muội, đệ nhất thấy nghĩa có thể được tốt đẹp.
Lại hỏi: Nếu thêm chữ nghĩa có thể được tốt đẹp, sao không thêm chữ đức để có thể tốt đẹp?
Đáp: Đệ nhất là tức đâu đợi lại thêm, chỉ thêm chữ nghĩa thì đức nghĩa đều đẹp.
Lại hỏi: Gọi thẳng đệ nhất đủ thấy cái đẹp kia, nếu thêm chữ nghĩa dường như có cuộn hạn?
Đáp: Bậc nhất tiêu biểu cho đức, lại thêm chữ nghĩa thì hai cái tốt đẹp đều bày, đâu có hạn cuộc.
Ngô Bình Thế Tử là Túc Lệ hỏi: Thông chỉ nói rằng: "Đệ nhất nghĩa đế, thế đế, bao gồm đặt tên. Chân tục hai đế định thể đặt tên. Xét lý chân đế đã nhiệm mầu và dứt tuyệt nói năng suy nghĩ, xét vì sao có ý chỉ định thể?"
Ý chỉ đáp: Bàn vô tướng kia không chân, chẳng phải không chân nương danh tướng nói dùng chân định thể.
Lại hỏi: Nếu chân đế không có tự thể, nay nương lời nói thể, xét chân đế vô tướng sao không nương lời nói tướng?
Đáp: Nương lời nói thể còn sợ thiếu đức, nếu lại nương lời biện tướng thì có lụy hư huyễn. Lại hỏi: Chân đế hư huyễn lìa xa nói năng. Nay đã nói có chân, há chẳng nương lời nói tướng? Đáp: Nương có danh này, danh tự là tướng, không thương tổn lý vô tướng vắng lặng này.
Lại hỏi: Xét đây nương lời nói thể là đúng lý hay không? Đáp: Không danh mà nói danh là không đúng lý.
Lại hỏi: Nếu nương lời nói danh, danh không đúng lý, chẳng hay nương đây toan ở chỗ nào mà nói?
Đáp: Dẫu không đúng lý mà vì dắt dẫn chúng sinh cần nói danh tướng.
Tuệ Linh ở chùa Tống Hy hỏi: Chân đế thì bất sinh là thể, tục đế thì pháp sinh là thể, mà nói bất sinh tức sinh, sinh tức bất sinh, là đương thể trong tướng tức hay đương nghĩa trong tướng tức? Lại hỏi: Nghĩa đã không tức, thể làm sao tức?
Đáp: phàm phu thấy kia có, bậc Thánh thấy kia không, y cứ thấy thành khác, đến thể hằng tức.
Lại hỏi: Thể đã không hai, sự đâu cần tức? Đáp: Nếu thể không hai, duyên thấy có hai.
Thấy đã hai thì nói thể tức.
Lại hỏi: Nếu như ý chỉ giải, quả là đến người rõ tức?
Đáp: Y cứ người thấy là hai, hai đế gọi là sinh, đến người thấy rõ tức đây, đâu có ngại gì. Thỉ Hưng Vương thứ năm là Nam Tiêu Diệp hỏi: Chân đế gọi là chân, là thật chân chăng?
Lệnh chỉ đáp: Được là thật chân.
Lại hỏi: Khi Bồ-tát hội chân là quên tục quên chân chăng? Lịnh Chỉ đáp: Quên tục quên chân, nên nói là hội chân.
Lại hỏi: Nếu quên tục quên chân nên nói hội chân, quên tục quên chân sao gọi là thật chân? Đáp: Nếu còn tục còn chân đâu gọi là thật chân. Chính do cả hai đều quên nên gọi là thật chân. Lại hỏi: Nếu quên tục quên chân mà là thật chân thì lẽ ra cũng quên chân quên tục mới là thật chân?
Đáp: Quên tục quên chân cho nên thấy chân, quên chân quên tục càng thấy chẳng phải tục.
Lại hỏi: Bồ-tát hội chân, đã quên tục quên chân, nay gọi là thật chân liền thành trái lý?
Đáp: Giả gọi thật chân, trọn tự quên chân, cả hai đều quên nên gọi là thật sao gọi là trái lý?
Pháp Tuyên ở chùa Hưng Hoàng hỏi: Nghĩa chỉ nói rằng tục đế là có là không cho nên pháp sinh là thể, chẳng hay có pháp có tự thể nên được gọi là sinh, chẳng phải không pháp, làm sao có nghĩa sinh được?
Lịnh Chỉ đáp: Tục đế có không đối đãi nhau mà lập, đã là đối đãi nhau cho nên đều gọi là sinh.
Lại hỏi: Nếu hai pháp có và không đều gọi là sinh nghĩa sinh đã là một, thì có không chẳng khác nhau rồi?
Đáp: Đều là chỗ thấy của phàm phu cho nên nghĩa sinh được đồng là có là không, đâu được chẳng khác.
Lại hỏi: Nếu có, không, quả là khác nhau, lẽ ra có sinh hay không sinh?
Đáp: Đã đối đãi nhau đặt tên nên đồng một nghĩa sinh.
Trình Lang Hầu Túc Kỳ hỏi: Xét tên đệ nhất là hình đối đãi hay không? Đáp: Chính là hình đối đãi. Lại hỏi: Đệ nhất vô tướng có hình gì đối đãi? Đáp: Đã nói rằng đệ nhất đâu được chẳng đối đãi.
Lại hỏi: Đệ nhất là đối đãi, đã gọi là đệ nhất, thế đế đối đãi với đệ nhất, sao không gọi là đệ nhị, nếu tục đế là đối đãi mà không gọi là đệ nhị, lẽ ra chân đế cũng là đối đãi thì không gọi là đệ nhất?
Đáp: Nếu gọi đệ nhất là đối đãi thì đối với nghĩa đã đủ, không nhờ nói tục thứ hai mới thành đối đãi nhau.
Lại hỏi: Nếu danh từ thế đế không gọi là đệ nhị thì gọi là đệ nhất không có hình đối đãi được chăng?
Đáp: Đệ nhất Cao gồm chân, đã nói rằng đối đãi nhau thì tên đối là đãi gặp thẳng có thể biết.
Pháp Vân ở chùa Quang Trạch hỏi: Cảnh thấy biết của bậc Thánh đây là chân đế, chưa xét trí hay biết là chân đế hay tục đế?
Đáp: Hay biết là trí, chỗ bị biết là cảnh trí đến xét rõ cảnh được nói là chân. Lại hỏi: Người có trí là chân đế hay tục đế? Đáp: Nếu gọi người có trí tức là tục đế.
Lại hỏi: Xét người tục đế đâu được có trí chân đế? Đáp: Bậc Thánh quên được tục nên được có chân trí.
Lại hỏi: Người này đã nói vô sinh lẽ ra cũng không được gọi là người?
Đáp: Rõ vô sinh không được gọi là người, nương danh tướng mà nói thường tự có người.
Tuệ Linh ở chùa Linh Căn hỏi: Đối với chân đế thấy có hay đối với tục đế thấy có?
Lịnh Chỉ đáp: Đối với chân đế thấy có tục. Lại hỏi: Có tục đế là thật hay giả?
Đáp: Là luống dối mà có.
Lại hỏi: Là ngay đó thấy vọng hay ngay đó thấy có? Đáp: Thấy vọng có.
Lại hỏi: Đối với không danh tướng đâu được thấy có danh tướng? Đáp: Đối với không danh tướng thấy có danh tướng, cho nên vọng có.
Lại hỏi: Đối với không danh tướng vọng thấy có, thí như lửa nóng người nói lầm là lạnh, được đối với nóng có tướng lạnh không? Nếu đối với tướng không mà có danh tướng thì cũng như lửa có lạnh?
Đáp: Lửa tự thường nóng, vọng thấy có lạnh, đây là tự mê hoặc lạnh nóng chứ chẳng có thường khác.
Tuệ Hưng ở chùa Tương Cung hỏi: Hoặc của phàm phu là chỉ ở chân có mê hay ở tục cũng có mê?
Lịnh chỉ đáp: Ở chân thấy có, đây là mê chân, đã thấy có tục thì không thành mê tục.
Lại hỏi: Nếu khiến hiểu tục liền thành hiểu chân, nếu không hiểu chân đâu được hiểu tục?
Đáp: Chân lý vắng lặng, hoặc tâm không hiểu, dẫu không hiểu chân đâu ngại gì hiểu tục.
Lại hỏi: Tâm này không hiểu chân, đối chân có thể là lầm hoặc.
Tâm này đã hiểu tục, đối tục lẽ ra chẳng lầm hoặc?
Đáp: Thật mà là nói thông, tự là lầm hoặc, nói tục sâm la đối với tục đều hiểu.
Tăng Mân ở chùa Trang Nghiêm hỏi: Trong ba mươi tâm chỗ được giải không là chân giải hay là tục giải?
Lịnh Chỉ đáp: Có thể gọi là tương tự giải. Lại hỏi: Xét tương tự là chân hay tục? Đáp: Tập quán bất sinh không gọi là hiểu tục. Chưa thấy bất sinh không gọi là hiểu chân.
Lại hỏi: Nếu trí năng chiếu chẳng phải chân chẳng phải tục, lẽ ra cảnh sở chiếu cũng chẳng phải chân chẳng phải tục. Nếu là chẳng phải chân chẳng phải tục thì có ba đế?
Đáp: Cảnh sở chiếu đã là bất sinh, bất sinh là chân, đâu có ba đế. Lại hỏi: Nếu cảnh tức là chân cảnh sao không trí tức chân trí?
Đáp: Chưa thấy bất sinh cho nên chẳng phải chân trí, đâu ngại trí này chưa chân, mà tập quán chân cảnh, đâu được do trí chưa chân mà khiến cảnh chẳng phải là chân cảnh.
Pháp Sủng ở chùa Tuyên Võ hỏi: Chân đế bất sinh bất diệt, tục đế có sinh có diệt, hai nghĩa chân tục được nói có khác. Bàn pháp thể kia chỉ được là một, chưa xét thể từ nơi nghĩa cũng được có hai chăng?
Lịnh Chỉ đáp: Thể cũng chẳng được hợp từ nghĩa.
Lại hỏi: Chưa xét đến hai thấy của Thánh phàm được nói hai nghĩa, cũng đến hai thấy của Thánh phàm được nói hai thể?
Đáp: Lý chẳng khác nhau cho nên nói là một, đến hai thấy của thánh phàm được có hai thể khác nhau.
Lại hỏi: Nếu khiến người phàm thấy có bậc Thánh thấy không, lại lẽ ra phàm phu chỉ thấy thế đế là có, bậc Thánh nên thấy thái hư là không?
Đáp: Thái hư cũng chẳng phải chỗ thấy của bậc Thánh, thái hư được tên do đối đãi nhau, đã do đối đãi sinh đều là chỗ thấy của phàm phu.
Lại hỏi: Phàm phu thấy hư không có được nói là một chăng?
Đáp: Nói theo phàm thì có thật khác với không, nói theo thánh thì không chẳng khác có.
Tăng Mẫn ở chùa Kiến Nghiệp hỏi: Người tục hiểu tục là đúng hiểu tục so le mà nói hiểu tục, hay là thấy tục hư giả mà nói hiểu tục?
Đáp: Chỉ là thấy tục so le mà nói hiểu tục. Lại hỏi: Tục đế không chỉ so le, cũng là luống dối, vì sao hiểu so le mà không hiểu luống dối? Đáp: Nếu khiến phàm phu hiểu luống dối tức là hiểu chân không hiểu luống dối, nên gọi là hiểu tục.
Kính Thoát ở chùa Quang Trạch hỏi: Xét bậc Thánh thấy chân là tiệm thấy hay đốn thấy?
Đáp: Tiệm thấy.
Lại hỏi: Không có tướng hư hoại, một phen thấy lý này muôn tướng đều vắng lặng, xét vì sao thấy chân được có lý do là tiệm?
Đáp: Từ phàm đến thánh, hiểu có cạn sâu, chân tự vắng lặng không ngại thấy có do tiệm. Lại hỏi: Chẳng hay một được vô tướng đều quên muôn cái có hay là không đều quên?
Lịnh Chỉ đáp: Một cái được không tướng thì muôn có đều quên. Lại hỏi: Một cái Phật vô tướng thì quên muôn cái có, thì cũng có thể một cái được hư hoại tột cùng chân cảnh kia, không nên là tiệm thấy?
Đáp: Như Lai hiểu vắng lặng tự là tột cùng chân, bậc Thánh hạnh cạn hằng tự tiệm thấy.
Lại hỏi: Nếu thấy chân có tiệm không thể đốn hội, lẽ ra cũng tiệm quên muôn cái có không thể đốn quên?
Đáp: Hiểu có hơn kém cho nên thấy có đốn tiệm, quên hoại không riêng cho nên muôn có đều vắng lặng.
Pháp thân vắng lặng xa lìa cảnh có không, riêng thoát ngoài nhân quả, không thể dùng trí để biết, không thể dùng thức hiểu, há là xưng gọi có thể luận bàn. Toan muốn hiển lý không cho im lặng, cho nên tùy theo ngôn thuyết mới có ra tên gọi pháp thân. Thiên trúc nói là Đạt-ma Xá-lợi, Hán dịch là pháp thân. Nếu do đương thể thì là tên của tự tánh, nếu do ngôn thuyết thì là đối đãi nhau mà đặt tên. Pháp thì phép tắc làm ý chỉ, thân là nghĩa có thể, thể của phép tắc gọi là pháp thân. Lược nói ngôn thuyết thô bày thể kia là thân thường trụ, là thân Kim cang. Lại nghiên cứu thêm thì không như vậy, nếu nhất định là Kim cang tức là danh tướng, định là thường trụ liền thành nơi chốn. Cái điều gọi là thường trụ thì vốn là nương tên gọi là Kim cang, vốn là dụ nói bèn bàn thật thể, thì tánh đồng vô sinh, nên nói là thân Phật vô vi không rơi vào các pháp. Cho nên kinh Niết-bàn nói: "Thân Như Lai chẳng phải thân, là thân vô lượng vô biên, không có dấu chân, vô tri vô hình rốt ráo thanh tịnh, vô tri thanh tịnh mà không thể là không, xưng là diệu hữu mà lại chẳng có, lìa không lìa có gọi là pháp thân.
Tuệ Diễm ở chùa Chiêu Đề hỏi rằng: Xét pháp thân vô tướng không nên có thể, đâu được dùng thể để giải thích nghĩa thân?
Lịnh Chỉ đáp: Không danh không tướng chính là không có thể để bàn, nương danh tướng đều là diệu thể.
Lại hỏi: Nếu do nương danh tướng đều là diệu hữu, thì do nương danh tướng không thành vô tướng.
Đáp: Đã nói rằng nương danh tướng, đủ rõ lý thật không có tướng.
Lại hỏi: Nếu do nương danh tướng mà lý thật là vô tướng, lý đã vô tướng thì làm sao có tự thể? Đáp: Nương nói quỷ vật đâu được không có tự thể.
Lại hỏi: Lẽ ra cũng nương nói quỷ vật chẳng phải là không tướng?
Đáp: Bên nghĩa quỷ vật lý chẳng vô tướng, cái gọi là vô tướng vốn là bàn diệu thể.
Lại hỏi: Chân thật xưa nay vô tướng, chính là do quỷ vật này, đâu được ẩn chân thật này, mà gượng sinh nói tướng?
Đáp: Chân thật vô tướng chẳng phải học giả gần thấy được, cho nên tiếp những người cạn cợt tầm thường thì phải nương vào ngôn tướng.
Pháp Vân ở chùa Quang Trạch hỏi: Xét pháp thân thường trụ là muôn hạnh được chăng? Lịnh Chỉ đáp: Danh tướng trong đạo muôn hạnh có được.
Lại hỏi: Đã là muôn hạnh có được há là vô tướng? Nếu chắc chắn vô tướng há là muôn hạnh có được?
Đáp: Vô danh vô tướng, đâu hội có được nhờ danh tướng mà giả nói có được.
Lại hỏi: Thật có muôn hạnh, thật được quả Phật đâu thể cho vô tướng toàn không thật có?
Đáp: Người hỏi trụ tâm cho là thật có muôn hạnh, nay cho là muôn hạnh tự không, há có thật quả để được ư?
Lại hỏi: Hiện có chúng sinh tu tập muôn hạnh, chẳng hay vì sao hoàn toàn cho là không?
Đáp: Chỗ thấy của phàm tục cho là có, theo lý mà xét thật không có muôn hạnh.
Lại hỏi: Kinh nói thường trụ cho là diệu hữu, như kia giả nói cái gì cho là diệu hữu?
Đáp: Nhờ danh tướng nên nói diệu hữu, lý tuyệt danh tướng gì là diệu gì là hữu.
Tăng Mân ở chùa Trang Nghiêm hỏi: Xét pháp thân bặt tướng, trí không thể biết, tuyệt tướng tuyệt biết đâu được còn có thân mà gọi?
Lịnh Chỉ đáp: Vô danh vô tướng có gì là thân, giả danh tướng nói nên nói là pháp thân.
Lại hỏi: Cũng nên giả danh tướng nói là trí sở chiếu, đâu được không thể dùng trí biết, không thể dùng trí hiểu?
Đáp: Cũng có thể nhờ danh tướng tuệ nhãn mà thấy.
Lại hỏi: Nếu tuệ nhãn thấy được thì có thể dùng trí biết, nếu trí không thể biết thì tuệ nhãn không thấy?
Đáp: Tuệ nhãn không thấy, cũng không có pháp để thấy. Lại hỏi: Nếu nói là không thấy thì có gì là pháp thân.
Đáp: Lý tuyệt thấy nghe, thật không có pháp thân.
Lại hỏi: Nếu không pháp thân thì không có Chánh giác, Chánh giác đã có pháp thân đâu không?
Đáp: Hằng là nhờ lời cho nên có Chánh giác, Chánh giác đã nhờ nương lời thì pháp thân đâu được nhất định là có.
Pháp Sủng ở chùa Tuyên Võ hỏi rằng: Xét gọi pháp thân là chánh ở diệu bổn, thân vàng trượng sáu cũng là pháp thân phải không?
Lịnh Chỉ đáp: Thông mà làm luận bổn tích đều phải, biệt mà làm lời chỉ ở thường trụ.
Lại hỏi: Nếu chỉ ở thường trụ thì không nên có thân? Nếu thông lấy trượng sáu, trượng sáu đâu gọi là pháp thân?
Đáp: Thường trụ đã có diệu thể đâu được không thân, trượng sáu cũng có thể làm phép tắc của chúng sinh cho nên có thể gọi chung là pháp thân.
Lại hỏi: Nếu thường trụ không lụy mới gọi là pháp thân, trượng sáu có lụy sao gọi là pháp thân?
Đáp: Chúng sinh khát ngưỡng vọng thấy trượng sáu, trượng sáu chẳng phải có thì có gì thật lụy.
Lại hỏi: Nếu trượng sáu chẳng có thì chỉ đâu gọi là thân? Đáp: Tùy vật thấy có gọi là ứng thân.
Lại hỏi: Đã nói là ứng thân sao gọi pháp thân? Đáp: Tướng chung làm biện cho nên gồm bổn tích khảo xét cầu thật nghĩa không ở thân vàng.
Tuệ Linh ở chùa Linh Căn hỏi: Xét là cho cực trí gọi là pháp thân hay do tuyệt tướng mà gọi là pháp thân?
Lịnh Chỉ đáp: Vô danh vô tướng là tập diệt pháp thân, viên cực trí tuệ là thật trí pháp thân.
Lại hỏi: Vô danh vô tướng thì không thân chẳng thân, đã có pháp thân sao gọi là không tướng?
Đáp: Chính do vô tướng nên gọi là pháp thân. Lại hỏi: Nếu do không tướng nên gọi là pháp thân thì trí tuệ danh Tịnh độ chẳng phải pháp thân?
Đáp: Đã là vô tướng trí tuệ há chẳng phải là pháp thân.
Lại hỏi: Như kia có thân sao gọi là vô tướng? Nếu là vô tướng đâu được có thân?
Đáp: Đối với không danh tướng giả gọi pháp thân.
Lại hỏi: Nếu giả gọi pháp thân chính còn danh tướng làm sao chỉ thẳng vô tướng mà gọi là pháp thân?
Đáp: Đã ở vô tướng giả lập danh tướng, đâu được khác vô tướng này mà nói là pháp thân.
Tịnh An ở chùa Linh Vị hỏi: Xét pháp thân thừa ứng hay không? Linh Chỉ đáp: Pháp thân không ứng.
Lại hỏi: Vốn do không ứng hóa nên gọi là pháp thân, nếu không ứng hóa thì cái gì gọi là pháp thân?
Đáp: Vốn do thể của phép tắc gọi là pháp thân. Bàn ứng hóa chẳng phải phép tắc ngày nay. Lại hỏi: Nếu không ứng hóa làm sao có phép tắc? Đã là phép tắc của vật đâu không ứng hóa?
Đáp: Chúng sinh khát ngưỡng mong lợi ích nên nói rằng có thể làm phép tắc cho vật, hóa duyên đã xong đâu có chỗ nên hóa.
Lại hỏi: Nếu làm lợi ích cho chúng sinh thì liền thành ứng hóa.
Nếu không ứng hóa thì làm sao lợi ích cho chúng sinh?
Đáp: Có thể sinh khát ngưỡng phép tắc tự thành đâu nhọc đến người ứng theo trần tục.
Lại hỏi: Đã sinh khát ngưỡng đâu không ứng hóa? Nếu không ứng hóa khát ngưỡng ích gì?
Đáp: Chính do Thế Tôn chí cực thần diệu đặc biệt sâu xa, chỉ khiến khát ngưỡng tự nhiên mong nhờ nương cậy. Nếu ứng mà sau mới lợi ích thì sao gọi là chí thần. Không ứng mà lợi ích cho nên thành tốt đẹp cùng tột. Nếu quyết khiến thật ứng thì đâu khác gì Bồ-tát?
Thần gồm tâu, chủ sách quản muôn an, kính đọc sắc chỉ, do thần nay giảng xong cho phép nhọc hỏi, xin dùng lời ngay sâu xa bao gồm tất cả kinh, đều đấu môi dùng mạng bốn thời, đồng với mặt trời mà chiếu muôn nước. Thần không bờ bến tầm thường cạn cợt xin kính đọc chớ suy lường văn trời, luống xem ngọc phủ, sợ sệt giao bái, ngủ thức không đặt để, cúi ngước giữa khiến rủ lòng ban ánh sáng đến, vẻ vang gánh vác lòng từ đặc biệt, không biết chỗ tâu, không nhậm hạ tình, kính nép tâu việc cảm tạ, kính bạch.
Thần Thống tâu: Chủ Thơ Châu Mão vâng đọc sắc chỉ, rủ lòng tham gia, nay thần giảng giải. Lại do chí lý ít nêu bày, lời mầu sâu xa, chẳng phải chỗ nghiên cứu tìm tòi, bèn do không cần lạm ở đây tuyên giải thích, toan nên nhường lời lại giáng ân giáo vị, đầy đọc còn học lại gánh vác chiếu nói kinh. Trộm do ôm ấp sách tấn tám oai thì thần vật chẳng can hệ, phục hoa chín đơn thì tiên đồ sẽ sai khiến được. Thần ngưỡng nương oai vua dạy bạn học đây kính đọc thánh chỉ hiểu suốt quần nho, thống trị dị sư, gồm mọc trệ lâu, phương tiện tuệ thí hổ thẹn dài ngắn kia. Công tôn bỏ cứng trắng kia. Ngọc sinh khuất phục đã trọn thần khí, pháp mở nhận khuất phục, hằng ẩn núi đông. Trong sử khúc lâm càng sáng hàm tịch, mong chở thù từ không biết chỗ tâu, không nhậm hạ tình, kính tâu cảm tạ sự lắng nghe. Kính bạch.
Thần bạch chung: Sau xem nên sắc chỉ Mộc Phật Tử kính đọc sắc chỉ, ban cho chế chỉ giảng sớ kinh Đại Niết-bàn một bộ mười pho, gọi chung là một trăm quyển mùa đông lạnh thấy mặt trời chưa đủ gọi là kỳ lạ, đi hái thuốc gặp tiên đâu có gì dụ cho sự vui mừng ấy. Thần cúi xin sáu hào soi sáng đến chỗ sâu tột nơi cơ tượng, bốn trú chỗ bao gồm thí mạng lịnh dừng giữa nước, há có nhân quả lồng nhốt, biện giáo thành báu bao trùm chân tục, mở văn như trăng tròn đầy, mới ngay đạo truyền đi cả đại thiên, giáo hóa đều trăm ức, mây che chủng thức, mưa khắp ruộng thân, há lại nói vua Đường làm quy thư, vua Chu sách phủ, nào đợi khắc tẩm bàn vu truất bỏ khâu tốt, cam lồ sách màu trước giáng ân đặc biệt, xét mình theo ngu không vượt qua gánh vác vui mừng, không nhậm đầu đội, kính tâu.
Thần tâu chung: Tuyên chiếu Vương Tuệ Bảo phụng tuyên sắc chỉ, ban cho chế chỉ giảng sớ kinh Đại Tập hai pho mười sáu quyển. Cam lồ vào đảnh nước tuệ rưới tâm, dường như tối gặp sáng, như đói được ăn no. Cúi mong chẳng phải sắc chẳng phải dục hai cõi đồng phường, chẳng văn chẳng lý ba thừa nhóm mây, bốn biện tài nói mà chưa tột, tám âm thinh giảng mà chẳng cùng. Cúi mong cơ trời nương thánh tác đây đồng chân như mà vô tận, cùng mặt trời mặt trăng đều treo. Chỉ xem núi xuân báu được châu biển lớn, thần thật đâu thể hằng nhờ dạy dỗ giúp đỡ, mở sách khua bút đâu đủ bày tâm, giấu tay áo mở lời chưa than ca múa, không nhậm chí tột vui mừng gánh vác, kính cảm tạ tâu lên. Kính tâu.
Vương Bạch, ngưỡng nương so xưa khai thiện nghe giảng kinh Niết-bàn, dầu thường trong núi, dạo ngoài tâm người, thông xanh sương trắng chỗ nào cũng đáng vui. Núi kỳ đá lạ tột mắt quên về, thêm dùng nước pháp lưu chảy, đêm rụng hoa trời, qua mà quên lại, có hiểu lời xưa. Vua kéo vật theo, việc không đến riêng, kính dấu vết cao đây tận tâm như kết. Kính bạch.
Vương Bạch, rộng dứt âm chỉ, thường dùng kết dài, gió mạnh rất lạnh nguyện sánh vui hòa. Xin nương pháp tòa Tịnh Danh thân theo miệng vàng, lời quý giá ở Lộc uyển, lý hợp non Linh Thứu, sâu xa bí mật ở đây đã thạnh, đạo tràng trang nghiêm từ đây mở rộng, đâu chỉ đèn tâm sáng rỡ cũng là hoa ý bay xa. Huống chi suy nghĩ rộng rõ gốc dài của nội giáo, khiến thêm xe mười điều lành, mở đường tám chánh, dòng nước Bát-nhã rửa bụi ý thức, do đây xuân đẹp mới là thật thu.
Vua thường nhớ hội nhóm thù thắng ở rừng hoa cũng tạm nhờ cuối vị, từ sáng đến tối tắm gội lời nhiệm mầu, đến ngày bãi tòa hơn lui nghĩ xét bên. Nắm tay bên đến gồm mở nói cười, ngước trông chín tầng cúi xem trăm thước, ao vàng động trăng, cây ngọc ngậm gió, ngay lúc này đủ gọi là pháp lạc. Nay bộ thừa cuốn màn bày một góc, nghe bên mưa tuệ, dòng vui vọt khắp, luống ôm sông huyền mà thân nương bẩm thọ, hư không chẳng thật có, không sáng tánh linh, duyên bịnh có ái tự sai khó cứu. Gồm dưới xe xưa nay nghĩa lời càng ít, nhớ xưa đã hết giải mới chưa ăn, đã hổ thẹn miệng tụng lại chẳng phải tâm biện. Hằng cảm tạ vẽ bình trọn thẹn nhiễm ô lụa. Huống chi mây từ đã giúp, biển trí cũng sâu, bóng hơn ngọn sóng mong thường rưới quét, nhưng xa trái chuyển nhóm khởi lời đầy ở mắt, nguyện thêm kính nạp, lời không kể hết ý, kính bạch.
Tiêu Ánh, Khai quốc hầu ở huyện Quảng Tín, sợ hãi tội chết, tin đến vâng lời dạy. Lời trong gồm giấy văn vẻ hay đẹp, an ủi vấn vương, như ngày lạnh sương thảm thiết. Cúi xin đi, đứng hòa niệm, dân giàu ân nặng không qua ngưỡng tổn, hạ quan trí mờ thức tối người phàm học cạn, bèn được ủng hộ thềm ngọc, chính thân thờ giáo nghĩa. Tai nghe pháp cam lồ, tâm vương chế thuyết, ân trời sâu xa, tình duệ rộng sâu, ba minh một soi chiếu, giải thích nghĩa dính mắc với người mê lâu. Bốn biện đã bày mở rộng điều khó suy nghĩ mà đốn hiểu, há là vua Hán mộng dấu vết mà âm vang Phạm lại rộng. Dẫu chúa Tấn để tâm mà lời vi diệu mới hiện? Thường đến đêm rảo bước trên chiếu ngọc, sáng lên thềm châu, không hề chẳng nhớ rừng cỏ phương thắng hội, vườn nhiệm mầu, tòa pháp.
Điện hạ kéo lôi mây báu, hoặc theo dung nhan mà hỏi đạo, thí vạt áo rộng nhìn, chợt chẻ sừng mà mở trán. Bấy giờ lầm răng cuối chiếu dựa nghe tranh luận, thân thờ lời nói thường giúp nhan sắc. Đến như tòa giảng ngày nay, Điện hạ hạn đồng chia Thiểm, lầm ban thiên tướng vẫn đến hạ quan, ai không khâm phục nhân từ, ai không luyến mến đức, ngưỡng tâm đông chú, thường dùng kính ngưỡng làm đầu. Hạ Quan hèn tệ kính mến từ lâu, tuy nghe diệu nghĩa, tâm ngu khó mở, mới muốn theo Linh Thứu làng thông hỏi thăm điều nghi dưới tòa. Bỗng gặp Lịnh chỉ, ban cho tìm sóng dư, xét độc chiến hoàng cúi ngước thêm hổ thẹn ngõ hầu vì suy nghĩ đùa bỡn thiếu thái hạ tình. Chính ngay mây từ biển trí, lại lấy ngưỡng thuộc tạ bình, hổ thẹn lụa thật quy về hẹ tầm thường.
Hạ quan hoặc duyên đã nhóm trần lụy chưa tiêu, gần nhiếp bảo vệ, trái phương bèn giữa đường cảm bịnh, không được ăn nhờ rốt ráo, thiếu nghe phẩm cuối, luống tự trách mình trọn thiếu duyên vận, không xét ngày nào cho thần thức vui vẻ. Giở xem sử Nho, không còn tổn niệm. Hạ quan thường thăm hỏi tây bưu, giúp được linh đức, ngước nương nhìn dặn dò rõ trên hoa chương, hoặc nghe công ở dưới cam đường (nhà ngọc) chưa thưởng không văn bút, rối rắm sợi tơ, suốt sáng không dứt. Luận bàn xanh đen, đêm chia bèn ngủ, khách xuân hoa lên tòa bên phải mà thăng đường, khách thật thu ứng luống bên trái mà vào nhà. Văn tôn nghĩa cúi ở chung đàn, chỉ có đây rất vui thật nghiệm sáng này. Hạ quan xưa dạo Lương uyển. Mong xuân đoái hoài, nay riêng cách nhan sắc xanh nhìn lâu tiếp ngưỡng nghiêng tâm đã hết khởi lời rơi lệ.
Chỉ có khi gởi âm chỉ ban sự thơm lây. Cúi xin trân trọng xét lại sau nương, khúc phụng ân dạy dỗ dùng chép sâu gánh vác, Ánh đáng tội chết, tội chết.
Chúng sinh và Phật không có nghĩa khác nhau. Nghĩa sáu đường nối nhau thành Phật. Nghĩa nhân duyên. Nghĩa hình thần. Nghĩa thần chẳng diệt. Nghĩa khó phạm chẩn thần diệt, luận nhân duyên vô tánh. Trần Sa-môn chân quán. Nguyện văn ba bộ tất cả kinh của Bắc Tề. Nguyện văn Chu Tạng Kinh. Nguyện văn Bảo Đài Kinh Tạng. Tựa Tam tạng Thánh Giáo. Thuật Tựa Tam tạng Thánh Giáo. Thuật Tựa Chú Kinh Bát-nhã. Tựa Chú Tập Kinh Kim Cang Bát-nhã, gởi thơ cho chư Tăng phiên dịch kinh. Thái Thường Bác sĩ Liễu Tuyên.
Phật là giác, giác là biết, phàm phu và Phật địa, lập thiện biết ác ban đầu khác nhau. Nhưng chỗ biết của Phật địa được thiện đường chánh, chỗ biết của phàm phu mất thiện đường tà. Phàm phu biết được đường chánh và cái biết của Phật chẳng khác, gọi là do chỗ thiện chẳng phải thiện, vì thế mất đường chánh, cho nên biết cái biết của phàm phu và cái biết của Phật chẳng khác, do chỗ biết sự khác chứ biết không khác. Cái biết của phàm phu không gọi là chỗ biết chẳng lành, ở chỗ cầu thiện mà đến chỗ bất thiện, nếu nhóm tâm cầu thiện, hội này được quy về đường lành, hoặc được đường thì đến chỗ Phật, đây là Phật tánh của chúng sinh, là ở tánh biết kia thường trao truyền.
Nhất thiết chủng trí cùng chúng sinh trong năm đường sáu nẻo có phần nhận biết chung chứ không phần ra khác nhau.
Hỏi: Nhận biết chẳng phải biết ư?
Đáp: Chẳng phải.
Hỏi: Ở đây dùng gì làm thể?
Đáp: Là nối nhau không dứt. Nối nhau không diệt cho nên có thể nhận biết, nếu nay sinh công đào luyện lần nhóm thì quả vị lai lý chỗ biết càng tinh thông, biết càng tinh thông thì đời sau nên đến thành Phật mà không đoạn không dứt. Nếu nay sinh vô minh thì quả vị lai sự hiểu biết càng tăm tối, biết càng tăm tối cũng là đời sau sẽ đến sáu đường. Nhận biết đủ theo duyên nhận biết, biết tốt xấu không quan hệ đến sự nhận biết này.
Hỏi: Biết chẳng phải biết đã nghe mạng, nhận biết nhận biết tự là nối nhau không dứt, biết tự nhiên trong nhân duyên đến cùng đồ nhận biết ở đây theo lý mà quan hệ nhau ư?
Đáp: Có nối nhau không diệt, ở đây tự nhiên trong nhân quả đến, có nhân có quả đâu được không thiện không ác ư?
Tánh của hàm linh đâu không ưa sinh? Đường cầu sinh so le chẳng phải một, một niệm dời đổi đường nẻo đều khác, trong một niệm các duyên xen khởi, trong một nhân một quả có khác nhau. Tánh ưa sinh muôn phẩm ở đây đồng, tự nhiên bẩm thọ chẳng phải do duyên lập, vốn biết ưa sinh chẳng do nhân duyên, nhân duyên chẳng ưa. Sinh tuy lại đủ nhà hình hài mà đều là một vật, một niệm đã gọi các duyên, các duyên đều theo niệm khởi, hai niệm thiện ác thật có sự khác nhau, đều giúp sự ngoài do một lẽ, thí như chẳng có nước chẳng có đất thì mầm lúa đậu không mọc. Tánh nhân duyên biết kia vốn đã khác, nhân quả không lầm chắc chắn như vậy, thiện ác khởi riêng cũng có trở ngại. Dẫu nói là khởi riêng, khởi liền thành nhân trong nhân ngoài duyên đều là do đây.
Phàm thời một niệm của người phàm bảy thước không lại liên quan đến chỗ niệm, một niệm người phàm. Bậc Thánh thì không niệm nào không hết, bậc Thánh đã vậy, bảy thước vốn tự như hư không, do bảy thước như hư không nên đều cùng tận muôn niệm, cho nên có thể khác với phàm phu. Khi một niệm phàm phu quên bảy thước kia thì mắt bỏ chỗ thấy chân bỏ chỗ đạp lên, ngay cái quên mắt quên chân kia cùng phàm không mắt không chân nào có khác gì?
Người phàm tạm không vốn thật có, không chưa liếc mắt có đã theo, niệm trái với hình thì tạm quên, niệm từ tạ tâm thì lại hợp, niệm đối với bảy thước một chỗ thì khác chỗ, đồng với người khác thì chẳng phải ngã không khác. Nhưng người phàm tạm không kia, không kia không rất ngắn, bậc Thánh thì không kia dài, không kia rất xa. Phàm khác đường với Thánh, một niệm mà tạm quên thì là phẩm phàm, muôn niệm đều quên thì là Đại thánh. Do đây mà nói thì hình thần bao nhiêu? Hoặc người nghi nhân quả tướng chủ mảy may chia phân không khác nhau, tốt xấu đời sau đều có định nghiệp, mà sáu độ đã tu đều là đầu mối giúp sức. Nếu tu sức này lại có nhân trước, nhân chín mùi quả thành thục tự nhiên chiêu cảm nhau, thì công của sức gây ra không còn được lập. Sáu độ đã tu bao nhiêu đều bỏ. Thích-ca từ chín kiếp lâu xa dõng mãnh mà thành, vì định dõng mãnh từ vô thỉ vốn không chỉ là chín đâu được gọi là kiếp. Tôi cho là nhân quả tình chiếu vốn là hai vật, trước có tình chiếu, kiếp có nhân quả. Tình chiếu đã động mà nhân quả theo đó, chưa có tình chiếu thì nhân quả nương vào đâu? Nhân thức hai đường dùng hợp vốn khác, gốc kia đã khác, thể chắc chắn khác nhau, tình chiếu sai khởi ở lý chẳng ngại, sáu độ chín kiếp sai khác không đáng nghi.
Loài hàm sinh thức soi chiếu lẫn nhau, đẳng cấp so le ngàn lụy muôn chồng, côn trùng thì không thuộc loài chim bay, loài chim bay thì không thuộc chó ngựa, chói lọi rực rỡ không được nói là không đúng. Loài người do trên tánh hiền ngu khác nhau, không hòa hợp nhau không hiểu rõ nhau, yến bắc Việt Nam chưa đủ nói là khéo. Người ngu kia thì không phân biệt được đậu và lúa mạch, người ngược ngạo thì không biết yêu mến. Từ đây trở lên tánh thức càng rộng, ban vốn chín phẩm chưa hiểu đại khái trong muôn một, sao là người hiền và người ngu? Bởi biết và không biết, người ngu biết ít, người hiền biết nhiều, mà muôn vật giao nhau, các phương rộng lớn, tánh tình sáng tối, lý thú sâu mầu, do kia đường cầu lý kia, đã có thông minh tối tăm khác nhau bèn thành cao thấp không đồng. Từ đây đối nhau phẩm cấp càng cao, cùng nguồn gốc kia, tận tôn cực kia, xen nhau suy ngưỡng nên có chỗ tột cùng. Đường kia đã cùng không vi diệu nào chẳng cùng tận, lại không được cho là không như vậy. Vả lại năm tình đều có khu vực riêng tai mắt riêng có ty tồn, tâm vận động thì hình quên mắt dùng thì bỏ tai, đâu thì tình linh cạn yếu, tâm lự tạp nhiễu. Một niệm mà gồm không nhờ đâu mà đến được, đã không thể gồm lộn xộn thay nhau. Một niệm chưa thành, đầu mối khác xen khởi, xen khởi các đầu mối lại đồng như trước. Do không gồm nhau, do nơi cạn lầm, lầm cạn là bịnh, bịnh nơi chấp có. Không cạn không lầm xuất hiện gồm quên, do gồm quên nên được gồm chiếu này, từ phàm phu đến Chánh giác ban đầu lầm nơi không lầm, không gồm đến hay gồm, lại chẳng được cho là không.
Lại côn trùng yểu mạng, hàm linh chẳng hai, hoặc sáng sinh tối chết, hoặc không biết xuân thu, từ đây mà tiến tu ngắn chẳng phải một. Đã có ngắn kia đâu được không dài, luống dùng tổn năm, khéo nhiếp thêm thọ. Thiện mà lại thiện đâu được không có? Lại không được cho đó là không. Sinh đã có thể yểu thì thọ không thể không yểu, yểu đã không thì sinh không thể tột, khác nhau giữa hình thần đã vậy. Nhưng hình đã có thể nuôi, thần đâu riêng khác. Thần diệu hình thô, rõ ràng phân biệt được, dưỡng hình có thể đến không hư hoại, dưỡng thần đâu được có cùng. Dưỡng thần không cùng, vô sinh vô diệt, đầu ngọn bắt chước nhau há không là người kia? Từ phàm đến thánh, hàm linh nghĩa đồng, nhưng sự có tinh thô, cho nên người có thánh phàm. Thánh đã còn mãi, ở phàm riêng diệt, gốc đồng ngọn khác, nghĩa không gồm thông. Đại Thánh ban lời dạy há lầm ở đây sao?
Xưa luận rằng: "Hình tức là thần, thần tức là hình". Lại nói rằng: "Người thể là một, cho nên thần không được hai". Nếu suy luận này thì hai vật không được lìa nhau, bảy lỗ trăm thể không chỗ nào chẳng là thần. Bảy lỗ dụng đã khác, trăm thể chỗ lo chẳng phải một. Thần cũng theo sự mà ứng thì tên kia lẽ ra cũng theo sự mà thay đổi. Chân là tên đối hình, mà trong hình có dụng riêng kia, lẽ ra thần trong thần cũng nên đều có tên kia, nay nêu hình thì có bốn chi trăm thể khác nhau, co duỗi nghe nhận riêng, đều có tên kia, đều có dụng kia. Nói thần chỉ có một tên mà dụng chia trăm thể, đây là chỗ sâu xa chưa rõ. Nếu hình đối với thần, miếng không thể sai sao lại tên hình thì nhiều mà tên thần lại ít?
Như luận của Như Lai, thần bảy thước, thần thì không chỗ nào chẳng là hình, hình thì không chỗ nào chẳng là thần. Dao thì chỉ có dao gọi là bén, chẳng phải dao thì không được tên bén, cho nên dao là nêu gọi thể, bén là tên một chỗ, dao và bén khác nhau. Hình và thần đâu thể vọng hợp.
Lại ngày xưa là dao, nay đúc thành kiếm, kiếm bén thì tức là dao bén. Mà hình dao chẳng phải hình kiếm, dụng bén đã thay đổi mà hình chất đã dời, sinh trước là giáp sinh sau là bính. Đường người trời đều khác, thần thức xưa vẫn truyền, cùng với kiếm làm dao, dao làm kiếm nào có khác gì?
Lại chất của một dao chia làm hình hai dao, hình đã chia mà có bén kia riêng. Nay lấy thân một con trâu mà chia làm hai thì ăn uống lúc sống liền hết. Dụng của nhậm trọng không phân chia, lại đâu được dùng dao và sự bén để thí dụ cho hình và thần ư? Đến luận cho rằng dao và bén tức hình có thần, dao thì nêu thể là một bén, hình thì nêu thể là một thần, thần dùng nơi thể thì có tai, mắt, tay chân riêng khác, dụng của tay không phải là dụng của chân, dụng của tai không là dụng của mắt, mà bén là dụng chẳng chỗ nào không thể, cũng có thể cắt rắn, cũng có thể chặt chim hồng chim ưng, chẳng phải một chỗ riêng, có thể cắt dưa Đông Lăng, một chỗ riêng có thể chặt trúc Nam Sơn.
Nếu cho bén là dụng có thể chia được, thì chân có thể chấp vật, mắt có thể nghe tiếng. Nếu cho là lưng dao cũng có bén, hai bên cũng có bén, nhưng chưa rèn mà bén nhọn. Nếu bén cùng khắp bốn phương thì thể bén không còn chỗ lập, hình vuông hình thẳng đều không được khắp bén, bén đó là dụng chính ở một bên chỗ mảy lông. Thần và hình nêu thể hợp, lại đâu được đồng ư? Nếu dao nêu thể là bén, thần dụng theo thể thì hình. Nếu khiến dao và bén lý kia nếu là một thì dưới thần cũng có thể đặt mắt, trên lưng cũng có thể sắp mũi, có thể chăng? Không thể được.
Nếu cho thí dụ này là tột thì là không tột. Nếu cho là vốn không tột ư? Thì không thể dùng làm thí dụ. Nếu hình tức là thần, thần tức là hình, hai tướng giúp lý không riêng khác, thì ngày thần mất, hình cũng tiêu. Mà nay có biết thần mất mà không biết hình còn. Đây là vì thần vốn chẳng phải hình, hình vốn chẳng phải thần, lại không thể được gượng khiến là một.
Nếu cho là gồm chất của trăm thể gọi là hình, gồm dụng của trăm thể gọi là thần. Nay trăm thể có riêng phần kia thì mắt là hình mắt, tai là hình tai, hình mắt chẳng phải hình tai, hình tai chẳng phải hình mắt, thì thần cũng tùy trăm thể mà chia, thì mắt có thần mắt, tai có thần tai, thần tai chẳng phải thần mắt, thần mắt chẳng phải thần tai, mà thể thiên khô nửa kia đã diệt nửa đã mất sự đồng với cây đá. Thí như thây cứng kia nhiều năm không hư thì cũng nên cùng nửa này đồng diệt. Nửa thần đã diệt, nửa thể vẫn còn, hình thần đều mất càng gồm cảnh giác. Nếu thấy hai viên mà trải qua ức năm không hư hủy, thể riêng khai còn dư chất ở La Phù. Nếu thần hình hợp thì hai người này không nên thần diệt mà hình còn.
Đến luận lại nói rằng: Chợt sinh mà chợt diệt, lần sinh mà lần diệt, thỉnh hoành của tá tử dùng thành của công tự, lần mà diệt gọi là hình hài người chết, ban đầu là không biết mà đến hư mục. Nếu vậy thì hình và thần là một vật, hình đã bịnh lẽ ra thần cũng bịnh. Hình đã mất thần cũng nói là mất. Lần đó làm dụng nên chung với hình, do ban đầu mất chưa hư là tiệm thần, riêng không được do ban đầu là tiệm ư?
Đến luận lại nói rằng: Sống là hình hài, biến là cốt người chết. Xét Như Lai luận, thần minh sống hình hài sống, đã hóa thành cốt cách, rõ thần minh sống riêng không theo hình hài sống, đã hóa làm cốt cách, rõ thần minh sống riêng không theo hình mà hóa ư? Nếu theo hình mà hóa thì nên đồng thể với hình. Nếu hình hài tức là hài cốt thì thần minh chết không được khác thần minh sống. Từ trước cái gọi là chết, định tự chưa chết. Nếu hình hài chẳng phải hài cốt thì thần sống hóa thành thần chết. Thần sống hóa thành thần chết tức là ba đời, đâu gọi kia là không diệt? Nếu thần theo hình thì hình không biết, hình đã không biết thì thần vốn không chết, không biết thì là thần chết, thần chết mà hình còn, lại không thông binh.
Nếu hình tuy không biết, thần còn có biết, hình thần đã không được khác thì hình chết từ trước lại chẳng phải là cây khô.
Linh đức tuyền đình có châu ba nghị, chẳng phải chỉ có ngoại học thông minh, cũng là nội tín rõ sâu thường tự tâm trọng Đại thừa miệng tụng Bát-nhã, bỗng soạn luận tự nhiên, liền khởi chấp hữu tánh, hoặc thị hiện đồng tà kiến, hoặc là thật khởi tâm điên đảo, giao lại có tổn chánh chân, lỗi thương hại chí đạo. Tạm cắt hậu luận để trừ bỏ chấp kia, dẫu lại lời không đủ nhặt mà lý đều đáng xem, nếu cùng tôi đồng chí thì mong cùng xem xét.
Ngụ Tư tiên sinh ngạc nhiên than rằng: Muôn pháp muôn tánh đều là lý tự nhiên. Chỉ có tự nhiên nên không được dời đổi, cho nên người lành tuy biết lành, không đáng nương. Người lành không thể phút chốc mà làm ác, người ác lại cho ác không đáng răn dè, người ác cũng không thể phút chốc mà làm lành. Lại thể của người nhân từ không tự biết mình là thiện, thể kẻ ngu không tự biết mình là ác, đều tự nhiên mà như vậy. Khách ngồi đá là Đại phu học giả, bỗng nhiên khởi sắc mặt mà nói: "Bền chắc thay thuyết của tiên sinh! Trái đại đạo mà lầm lời bậc Thánh". Tiên sinh nói: "Đại đạo ai là chủ? Bậc Thánh nói gì?" Đại phu nói: "Đại đạo không có chủ mà chẳng ở đâu không có chủ, bậc Thánh không nói mà không đâu chẳng nói".
Tiên sinh nói: Xin nói lời đã nói. Nói tánh mạng lý do gây ra ư? Xin nói chủ kia là chủ báo ứng thiện ác ư?
Đại phu nói: Thế nào là không đúng. Bởi công trời đất đại đạo để chở nuôi. Bậc Thánh hợp đức đất trời để lập giáo. Tựa nhân nghĩa năm đức để nghiệm tâm kia, nói thi thẻ sáu nghề để dạy nghiệp kia, đây là lời bậc Thánh: "Nếu người làm lành quyết có niềm vui, người làm bất thiện thì chắc chắn có tai ương". Cho nên nói rằng bậc Thánh không thân thường cùng người lành, sáu cực tựa mà giáng hạnh trừng phạt, năm phước bày mà tâm lành gắng gổ. Ba đời là sắp dùng quyền che bại, bảy là tu thiện có tánh hưng thạnh, bày thưởng sủng mà không hầu, vui mừng xướng sớ mà chiêu với quốc, đây là hiệu của nhà đạo, sao tiên sinh nói đều là lý tự nhiên mà không thể dời đổi ư?
Tiên sinh cười mà nói: Đời cho là người gỡ dây, dây hết mà không thay đổi như bọn Đại phu. Kính khóa ống nhỏ hẹp là ông và tôi bày ra, bởi hai nghi chấp mà sáu chữ thí bày trăm họ nuôi mà năm tài dùng. Dùng câu này cách muôn pháp mà cùng tận. Người là chúng sinh lanh lợi nhất, ứng khí ủy tự nhiên, bẩm thọ chất đẹp, xấu, đầy, lưng, tình buồn, lo mừng, vui giận. Nắm cùng tột mạng dài ngắn, phong tánh ngu, trí, thiện, ác. Phàm buồn vui mừng giận phục ở tình, cảm vật mà động. Cùng tột dài ngắn giấu nơi mạng sự đến mà sau rõ. Xấu, đẹp, đầy, lưng chấp vào hình, có sinh mà nêu thấy. Ngu, trí, thiện, ác, phong kín ở tánh, chạm dụng mà hiển dấu vết. Tám câu này gồm hết việc người, đều do số tự nhiên, không có công tạo tác. Nếu có người tạo tác thì quyết nhọc mệt, có người ra vào thì quyết sót lọt, có người thù tạc thì quyết lầm. Ba người này chẳng có công tạo vật, cho nên Mặc Tử nói rằng: Dù cho tạo hóa ba năm thành một chiếc lá, lá của thiên hạ ít ư?". Bởi bậc Thánh lập bày sự khéo léo đề thành giáo, nương sự để khuyên oai, thấy bạo của mạnh mẽ ít khiếp sợ, sợ phất cấm của hình chém giết, bèn bày oai họa dâm, thương tổn đôn hậu thiện lành thì không khuyên, biết tánh mạng không thể thay đổi, nêu phước lành để khen đó, cho nên nghe lời nói ấy dường như chớ sai, gạn việc kia muôn điều không sai một.
Ông dùng gốc nhánh trồng nhiều, đây là đầu mối che đạo, thưởng phạt chẳng chủ, do hạnh chiêu cảm, thân ở vui trễ là báo sánh của người lành, thể sự tột khổ là hiển chết của người ác. Tôn Thúc lúc nhỏ không chôn rắn, lớn không sang Lịnh Doãn. Tốt, xấu trước không dâm đức, trọn thiếu tôn Thừa tướng. Nếu vậy thì thiên đạo do trọng mạng hoa văn. Đáp: Tột ngu của Huyền Tẩu để thương đều đơn chu, đáp chí thánh của Nghiêu Thuấn. Đại Bá ba đời không lỗi đạo binh mà rảnh tế Trọng Ngu, Hán Tổ bảy lá không nghe hạnh dốc thiện, bèn tạo nghiệp phối thiên, lồng xứng đình dùng năm phước, thân ôm đau đớn Di diệt.
Khổng Tử nói rằng: Vui mừng nhóm thiện, thân thờ lòng bi lữ nhân, sắc mặt trên bảy mươi, có không ý chỉ tài giỏi, lại ở đầu bốn khoa gây ra lời than người này, mà quan thương gia lụy Vương Kinh Nam, mạo độn đời ở nền Bắc. Đầu non không hiểu mặt quỷ, chìm nước có ôm hồn oán. Khanh thành dùng họ sửa là khanh, không giúp họa tiểu thánh, Vương Bao thương biến cây núi Lũng, chợt nhận tai chẳng quên. Hai đời bảo vệ che chở, đau đớn của (ghe) chu ai chịu tội? Ba nhân ở mảy lông, cắt tâm tàn khốc ấy tội gì? Nếu suy lường nước gần, tính kỹ đời xa, chẳng phải mồ mả sách vở được, ở ngay trước mắt tai, đến có bụng chứa hiểm mạnh môn, tâm chất độc soi chiếu rắn độc, chỉ suy nghĩ tâm niệm hại người khác, hạnh thì quyết định lợi mình là trước tiên, dao chùy mài che bén nhọn, hang khe lạ là khó đầy. Trong thì trăm lượng, ngoài tươi tốt ngàn chung nội thật, thêu thùa tốt đẹp, ngồi bày ngọt béo, vàng kêu ngọc vấn giàu sang trọn đời, tự có ngọc trắng mà khoe, châu sáng mà thành tánh, tâm không thể làm việc giết của Khải Trập, tay không nỡ chẻ điều vuông dài, ôm tài hay mà không nhặt chứa chí tốt mà ai nhìn, lẫn lộn trong phiền toái, thấy đáy nơi cuối cổng làng, ôm đói lạnh mà chết, chôn chung với nai hươu, dừng trải qua chiều tối, mẹ góa con côi không chỗ nương tựa, danh tự không nghe, khói chìm sấm diệt, đáng hận như thế há là một người ư?
Là biết hung tàn của Kiệt, trộm, không sợ họa đời sau sắp đến, dốc hạnh thương xót chớ nghĩ vui đời sau sẽ tới, cho nên Hạt Quan Tử nói: Mạng người là tự nhiên, kẻ hiền chưa chắc được, kẻ chẳng ra gì cũng chưa hẳn mất là nghĩa này.
Đại phu nói: Nếu dẫn lời của trăm nhà thì Liệt tử là tên, quyết liêm khiết, liêm khiết thì nghèo, là tên quyết nhường, nhường là hèn. Nếu vậy thì lập tên người nghèo hèn chỗ tính toán mà đến, thì giàu sang kẻ nghèo tranh đến cầu mà được, sao gọi là số tự nhiên?
Tiên sinh nói rằng: Đây là nói một góc chẳng phải khắp cả lý. Phàm giàu sang tự có nghèo tranh, giàu sang nghèo chẳng thể tranh mà được, nghèo hèn tự có liêm khiết khiêm nhường, nghèo hèn chẳng phải liêm khiết khiêm nhường muốn mời. Tự có giàu sang mà nghèo chẳng thể cầu được nghèo hèn mà không liêm khiết khiêm nhường. Vả lại ông ít nói mạng, đạo nhờ người mở mang cho nên lý tánh mạng bậc tiên Thánh thiền nói. Thiện ác, báo ứng, thiên đạo có thường mà quan hệ gì? Thí như gió mát thì nở hoa, lạnh thì tuyết rơi, có ủy lại phân rơi, có lụy trên thềm ngọc, gió dữ vô tâm nơi dày mỏng mà hoa, tuyết, có tịnh uế khác nhau. Đạo trời vô tâm đối với thương ghét mà tánh mạng có bít lấp hay thông suốt khác đường. Ông nghe Vu Công đãi phong mà phong đến, nghiêm mẫu trông chết mà chết đến. Nếu thấy người lành liền nói kia sau sẽ sướng, nếu thấy người ác thì nói kia sau sẽ chết. Đây giống như trọn đời ôm cây mà được thỏ.
Đại phu vì vậy đổi sắc mặt mà cảm tạ rằng: Như kẻ tôi tớ chỗ chấp riêng thuật mà đường mê muội thông, giữ hẹp gần mà mất rộng xa. Nay nhờ âm đức chợt khai mở, thí như sớ thục phục thi muôn đời xưa mà bỗng ngộ, say chìm núi Trung chưa ngàn năm mà bèn tỉnh, xin thờ lời này để chép bày ra.
Có kẻ hỏi: Chu Tử nương gá bàn hư bày đáy tấc vuông, luận tình chỉ sự rất có ý thú. Nhưng rõ ràng sách trước có chỗ chưa hiểu, phàm tình buồn vui mừng giận của con người bao gồm tánh thiện ác, giúp phương đối đãi không đủ, vì vậy sự tranh đoạt từ đây phát khởi. Tài thức đồng không thể chế ngự nhau trời sinh nhân thánh là khiến gồm thâu.
Nhạc do bậc Thánh làm, lễ là Tiên vương chế, nghi ba ngàn để xét dấu vết kia, hòa năm âm để dẫn dắt tâm kia, lập tước để khuyến thiện, treo hình phạt để trị ác, mảy may không lọt, thù tạc như tiếng vang.
Ngọc Bạch nói rằng: Ôi! Đều là chỗ tiến cử, trống chuông đây hợp đâu phải tự nhiên mà đều. Ngàn khoa đầy mắt đâu chẳng phải lực dụng gây ra, trăm mối so le đều do trí ngu gây nên. Chúng ta là quan của Thang, Vũ, là học trò của Chu, Khổng, ra vào cửa nẻo, phục ứng danh giáo mà nói rằng: "Người lành biết lành không đáng nương. Người ác biết ác không đáng răn dè, lành không thể cảm mừng, họa không thể báo ác, là sao lại bàn trái lý. Vả lại bò bay máy cựa còn biết đến huống gì con người là vật linh thiêng nhất mà đồng một vật tự nhiên, đây há thi cao dày, sao dùng phi loại mà dụ, tình chỗ chưa hiểu xin đợi đáp rõ.
Đáp rằng: Xưa Lư Ngao cõi hoang Bắc Tào, tự thương dấu chân chưa rộng, sông tông đông nhìn ra biển cả, mới than nước thu không nhiều. Chúng ta tập học thành tánh, chưa dễ gì có thể cùng bàn xa lớn. Nay ông cho co duỗi cúi ngước là tâm lự làm khắc thiêu cắt xẻo tay chân làm, nhạc lễ là bậc Thánh làm, bậc Thánh do trời đất sinh, xin vì chúng ta gần lấy các thân thì có thể xa chung các vật, ông cho mắt thấy, tai nghe, chân bước, tay cầm, ý bình luận, ai khiến như vậy? Thân bị bịnh nặng, lạnh nóng đều không tự biết. Buồn, vui, mừng, giận, hưng khởi, bỏ phế ở đâu. Đất đâu có biết, tự biết ý thức ở đâu? Người có trí tự biết chỗ ở của trí ư? Nếu biết ở khắp trong thân, thân thương tổn thì biết bị cắt. Nếu trí khởi theo sự, sự mất thì trí diệt, quả là thức không biết thức trí không biết trí, vì vậy suy gần để hiểu xa, chạm loại mà lớn. Cho nên biết lễ nhạc không tự biết lý do chế ra nó, bậc Thánh không tự biết lý do sinh ra mình, hai tượng cũng không biết lý do nào lập ra mình. Vì thế hình sai suy nghĩ khác ủy nhóm tràn đầy, động tịnh hợp tan tự sinh tự diệt. Động tịnh là không có thức làm chủ, sinh diệt không tự hiểu gốc kia, bởi lý tự nhiên như vậy. Cái gọi là chẳng phải tự nhiên chính là rất tự nhiên, là hữu vi chính là rất vô vi.
Ông nói rằng: Trời sinh bậc Thánh là khiến ty thâu, vì sao đời Đường Ngu nhiều bậc Thánh lại thêm năm thần (quan), Văn Vũ trọng sáng càng dùng mười loạn, hà thiên đạo không thể một cái sau trước kia. Sắp cuối đời ban cho mở trời đất, đại Nghiêu đại Thuấn chẳng muốn sinh con bất tài. Long Phùng, Tỷ Can, đâu thích thân đến chỗ tru diệt. Khổng Tử có hỏi thăm Thê Hoàng Tốt nói rằng: "Cầm roi không sợ", Nhan Hồi đâu dám chết, trọn khiến cha lành thỉnh xe. Sau ba Thánh ba nhân có thể cho là khéo lấy bỏ. Trời có khả năng làm cho biển Đông khô cạn, không bằng lý oán của phụ nữ hiếu, đất có thể khiến cao thành đậy hào, chưa bằng cứu chết Kỹ Lương. Cho nên vinh, nhục, sống, chết là định phần tự nhiên, nếu Thánh cùng nhân không thể tự khỏi, rất muội câu thô xấu mà lý vẫn hiển.
Thỉnh Nghi Công tử có lời với Thông Hối tiên sinh rằng: Hai nghi mới phán thì thứ loại nương, bảy diệu đã treo thì triệu dân kính ngưỡng. Nhưng sinh trước chết sau buộc tượng chưa rõ. Từ xưa đến nay Hiền thánh ở đây đâu xét, mà mong quân tử xen lẫn tham cầu, danh nhân mộ lý tranh xuyên tạc, góc đây chỗ nói thì nói đầy tự nhiên. Điều họ Giả nói thì cao bày báo ứng, dẫu tự nhiên nhọn bén sẽ hơn ở trước báo ứng chiến tranh bại hoại ở sau, mà tâm ngu khó mở, thức tối dễ mê, hai lý giao nhau chưa biết ai đúng.
Tiên sinh Thông Hối bèn chống tay đáp rằng: Xét Thanh Luận của hai ông thật đều là gò cao riêng góc. Tự nhiên thì nương bên Lão Trang, báo ứng thì bắt chước theo Châu Khổng, nếu gọi là cấm thì đã mất mà giúp cũng chưa được, nay vì các ông suy nêu mà trình bày. Ba kinh năm điển lý thiện ác chưa bày, tám sách chín khâu đường sáng tối vẫn bưng che, huống chi vườn sơn quan lại ngạo nghễ hoảng hốt sinh cuồng, riêng xưng tông tạo hóa, riêng cứ tánh tự nhiên, chính là cầu tục nhất thời chẳng quan hệ gì huyền mưu của khế lý. Nay xin hỏi gốc của tự nhiên là đến chỗ nào? Có nhân quả hay không nhân quả? Nếu cho là tự nhiên còn luận nhân quả thì sự giống mâu thuẫn, hai lời nuốt nhau người ngu cười, người trí buồn, thẳng để mình kính mến không phiền nhiều nạn. Nếu cho là không báo ứng đốn dứt nhân quả thì vua tôi, cha con không hành đạo này? Lời của nhân, nghĩa, hiếu, từ đâu dùng. Lại người làm ác được vui, làm lành gặp tai ương lẽ ra đốt lửa được nước, gieo đậu được gạo, chưa thấy tiếng chẳng hòa âm vang, hình cong mà bóng thẳng.
Nếu cho huân tập thượng thánh mà sinh con như Đan Chu, trọng hoa chí đức mà sinh ra mù gầy, lại là tự nhiên mà như vậy, dòm là dưới chân mà không chân, đạo chí thân gọi là thiên tánh mà đều tùy hạnh nghiệp không hề quan hệ nhau. Nghiêu Thuấn là cây đức ở đời xưa cho nên bẩm thọ linh trí. Mù gầy là khởi ác ở đời trước cho nên đến đây bị ngu độn mà lại cùng kết trọng duyên lại bày phát nhau, bèn muốn nhân phàm hiển Thánh dùng trí hóa ngu. Nếu không có hung xấu của mù gầy thì đâu biết sự tốt đẹp của khắc giai, tự chẳng phải huân hạnh Thánh thì ai giáo hóa ác mạn du? Cho nên A-nan và Điều-đạt đều là em của Thế Tôn, Lahầu, Thiện Sinh là dòng dõi của Như Lai, mà Anan gần gũi hầu hạ, còn Điều-đạt thì khởi nghịch lại. La-hầu thị hộ châu chớ phạm. Thiện Sinh thì phá đồ khó thâu. Do đây mà quán sát có thể biết. Nếu nói rằng đều có tự tánh không thể đổi dời, cái điều khác đây không như vậy. Còn như chim ưng hóa thành chim Cưu, bổn tâm mau hết, quýt biến thành chỉ vị trước chưa tiêu. Xưa giàu nay nghèo, lý định tánh khó đoạt, trước sang sau hèn thuyết phú mạng ở đâu? Lữ Vọng giết trâu sau làm Thái Sư, Y Doãn gánh đảnh cuối cùng được lên Thừa tướng, Tải Uyên bốn bên đều là hoạn sau được nổi danh, khắp nơi điềm ba hai, tối xưng linh đức. Xà Vương tội không nghe, bỗng nhiên đổi cơ đồ. Dục Vương tội đâu lớn bỗng có thể tôn vinh điều thiện. Nếu y lý tự tánh này thì có được nghĩa này?
Nghĩa lành chỉ nên tu lành đâu thể chút thời khởi ác, người ác thường tự khởi ác, không cho một niệm sinh thiên. Đây thì tươi khô, vinh nhục đều giữa tất nhiên, ngu trí, cao thấp không sửa đổi đâu phải kia vậy, hay quyết không vậy? Lại nếu cho người tu đức lại cảm ưu buồn, kẻ làm lành lại bị trầm luân vì mạng tự nhiên, cũng không đúng. Nếu làm lành mà mong quả báo là cách điều thiện càng xa, tu đức để nổi tiếng thì lìa đức càng lắm. Nếu quyết nổi bậc tánh khuê chương, hoại tâm ngọc uyển diễm, vốn không có ý ở tiếng tăm, không hề mừng nơi sang giàu mà tiếng anh tài quyết quẩn bách rất mừng mới đến. Hoặc có thể chưa gặp tri âm lại đồng tan cây, không gặp ngọc riêng thì đều chìm dưới bùn. Tạm là rồng ẩn không thiếu, đức phụng đâu dung, nhỏ mọn trong trời đất, quấy nhiễu thế gian, tự có thể vốn cùng không phiền được mất. Đến như Thái Bá, Cao Nhượng tiếng thơm ngàn đời. Trọng Ni nghèo khổ mà danh truyền muôn đời. Nhan Hồi chết yểu, nghiệp không lâu dài lại gây ra bịnh này, phải do nhân bịnh chưa hết. Hai ông chịu chém càng hiển ác của Vệ Linh, ba nhân chịu chết mới thấy lỗi của Ân Trụ. Đói ở đầu non không trách thỏ cầu danh, chìm ở sông Mịch còn để lại lỗi oán hoại.
Vả lại, nghiệp quyết định, chẳng phải thần lực cứu được quyết phải chịu báo, đâu phải Thánh trí mà đuổi được, đều khởi nhân xưa chẳng phải nay tạo. Nếu cho rằng cắt mổ là việc mà cầu thọ trăm năm, trộm cắp ở trong lòng mà của tiền đầy cả ức, cho là định tánh mà như vậy cũng chưa đủ dụ. Đây do đời xưa có chút lành, cảm mạng tài đây. Đời nay tai ương nặng chưa vời lấy quả báo, vì kia là tội đã lớn chịu khổ phải nhiều, cho nên lại hoãn sự chết kia, vì thế dầu kia ác, một sớm họa đầy nhóm gây hấn thì lật ổ bể trứng, lớn quỳ cách tử nê lê, thường ở địa ngục Vô gián. Cho nên sách nói rằng: "Ác không nhóm không cho là diệt thân" chính là nghĩa này. Cũng thấy có người chiêu cảm quả báo sự tiếp thấy nghe, đến như Vương Mãng soán nghịch thì bị treo đầu ở đoạn đài, Đổng Trác hung tàn thì phơi thây ở chợ, Tấn Hầu giết Triệu Sóc buồn cảm hầm xí, chúa Tề hại Bành Sinh có đua đổ xe, ngôi nhà Hạ đảo điên vì tội của Kiệt, tông nhà Ân tan vì lỗi của Trụ. Cho nên biết nghĩa nhân quả lẫn lộn khó có tiêu chuẩn, lý nghiệp báo so le không nhất định, cái gọi là sinh báo, hiện báo và hậu báo.
Công tử nghi ngờ nói rằng: Nếu cho chấp tự nhiên đối với nghĩa không thể, thì hiện báo ứng ở lời là được, mà ý chỉ trước lại nói rằng: "Những điều hai ông trình bày đều trái với khế lý," chưa biết ý này có thể được mà nghe ư?
Tiên sinh Thông Mẫn nói: Ông đã hết lời hỏi hai ba lần, tôi cũng mấy lần đáp lời ông. Nhưng tự xét mình thấp hèn chưa bày cốt yếu nhiệm mầu kia. Xét pháp vốn chẳng thật có, chẳng có thì không sinh. Lý tự chẳng phải không, chẳng không thì không diệt. Không sinh không diệt, các pháp ở đâu? Chẳng có chẳng không muôn vật nương đâu? Mênh mông thanh tịnh đường suy cầu đứt ở đây, dĩ nhiên bình đẳng, đường tắt thủ xa không theo, há có lý báo ứng để cầu, tướng thiện ác sẽ được. Ngay cả chúng sinh phàm phẩm chưa rõ đầu mối này, cho nên khởi tranh luận ngang trái, gượng sinh phân biệt, cái gọi là người khát theo bóng nước, nước ở ao nào? Dụi mắt thấy hoa, hư không không hề có hoa. Nhưng vì dắt dẫn tình gần bỏ lầm nặng kia gạn bày nhân quả lược hiển bày nghiệp duyên, khiến định tánh trừ chấp tự nhiên, nếu hiểu chánh lý ngộ chân pháp này cũng dựa vào chỗ nào mà có, chỗ nào mà không? Vì vậy hai ba quân tử nhìn nhau tâm kinh ngạc vui mừng lãnh ngộ, lui tòa kính phục nói rằng: "Ngày nay có thể gọi là sớm nghe chiều chết, luống xưa thật quỳ, nhóm đeo đều nghiêng giống gió thu hoa rụng, nhiều nghi đều tan. Thí như mặt trời mùa xuân làm tan băng. Cẩn thận phải cùng bỏ mê trước, đồng tôn nghiệp sau.
Ba cõi phân chia, bốn loài bẩm tánh cùng sống trong nhà lửa, đều chìm trong biển dục, cho nên Pháp vương phải vận cồn bãi, người giác ứng kỳ xe cộ dẫn dắt bọn đắm chìm kia về nơi đất thù thắng này. Từ mây báu bên Tây ánh pháp vẽ sông Đông, cam lồ chảy rộng theo gió cảm trao. Nhà vua thống lãnh thiên hạ, tôn đạo sùng pháp, cứu chúng sinh nơi có đối đãi, vớt chúng sinh nơi không hai, cho nên khắc chiên-đàn, làm lụa, tạo đá, chạm vàng, khắp nơi muôn nước số nhiều như cát bụi. Lại ra lệnh ty tồn có sự đen trắng tinh thành dụ nơi da cốt, câu kệ đều ở cung rồng, miệng vàng chỗ tuyên gồm khuyến thiện, đều có ba bộ, hợp cả ngàn quyển, đem công đức này tâm như hư không, dùng bình đẳng thí không suy nghĩ chẳng bàn bạc, nhờ nguyện lực của ta đồng lên thượng quả.
Ngày........ tháng...... năm, đảnh lễ v.v... Bởi có nghe dấu vết chín sông sách tấn Ôn Linh Khâu, trong bốn vết dây sách dấu các ngọc. Cũng có gò xanh phủ tía văn Tam Hoàng khắc đá, khuôn mẫu xanh, dây màu vàng chữ của Lục Giáp linh bay, đâu bằng bí tàng của Như Lai. Thí như minh châu kia. Chư Phật làm thầy đồng như gương sáng sạch, pháp Tứ đế ở Lộc uyển văn tám Kiền ở Ni Viên, năng lực Hương Sơn rộng lớn đâu nói rằng gánh vác được. Do ở năm Chiêu Dương rồng nhóm giếng trời Tấn làm v.v... kính tạo tất cả kinh tạng, ban đầu dạy ở sinh diệt đến thuyết Nê Hoàn luận bàn ít có, kệ ngắn hay văn xuôi, đầu xanh, hòm bạc, văn đen, hộp ngọc, thuốc bột Lăng Dương, chỉ quán tiên tự, cửa Doãn trông hơi, cắt nhận lời màu, chưa có Long Thọ lợi căn xem đề không khắp, hạnh Tư Đà cạn, cùng ngồi chưa nghe. Trọn âm Thiên Trúc cùng là Bối, tro chia tám nước, văn theo Kế Tân đá trọn sáu thù, sách về biển lớn. Kính mong thần linh quá khứ nương đạo lực này được vô sinh nhẫn đầy đủ oai nghi. Lại nguyện ngôi vua lâu dài thần dân an vui, bốn phương trong thêm muôn phước hiện tiền, oán thân sáu đường đồng lên Chánh giác.
Đệ tử thọ giới Bồ-tát là Dương Quảng kính lễ, kính nguyện Như Lai ứng thế, tiếng giáo giúp vật, tha thiết vi diệu bí mật kết tập pháp tạng. Đế Thích, Luân vương đã nhận lời phó chúc, Bồ-tát Thanh văn được nêu đại hóa, độ thoát vô lượng cho đến ngày nay, chí tôn cứu sự chìm đắm, trăm vua lẫn lộn, bốn biển ngày bình bày, đạo tục không thiếu mà Đông nam dân ngu xúi giục lẫn nhau nhận triều lược trọng ven biển xanh, sai dịch không nhọc thầy do thời yên, lại suy nghĩ sâu linh tượng tôn kinh nhiều như tro tàn, kết tóc dây mục chôn vùi cống rãnh. Đây là do mạng xa các quận nơi nào cũng đến nhóm, chưa đến một tháng ghe nhẹ gồm đến, bèn ra lịnh cho ty học nương tên chép thứ tự và lập đạo tràng, nghĩa phủ suy nghĩ kỹ chứng minh lý do, dụng ý so sánh phần nhiều được bổn loại trang nghiêm sửa chữa xưa cũ cho mới. Đài báu bốn tạng gần mười muôn cuộn, nhân phát thệ nguyện rộng lớn, thường làm cho lưu thông, bèn chép nguyện văn đều nối quyển sau, thường thuộc yết kiến chép công mới xong. Nay chỉ chánh tạng Bảo Đài trọn đời thọ trì, kia tạng kế trở xuống thì mặt trời tuệ, mây pháp, đạo tràng, hàng ngày trang nghiêm hằng thiện cõi linh. Ngoài ra, kinh đô chùa tháp tịnh xá các nơi, mà Phạm cung có xen lớn nhỏ, Tăng đồ cũng có nhiều ít, đều tùy kinh bộ nhiều ít châm chước chia giao, người trao đã chí khẩn, người nhận cũng nên hết lòng trân trọng. Trường tồn pháp bổn xa bày Đạt-ma hẳn muốn truyền văn đến vào chùa viết.
Bỗng khiến rơi rụng hai lỗi không làm, Phật trước Phật sau tin chắc đồng miệng vàng, tức giáo ngay giáo đâu khác ngọc điệp. Trên núi Tu-di các Thánh chung giữ gìn dưới biển Kim cang trời rồng đều ủng hộ mất ở Diêm-phù cũng giống như vậy. Người theo niệm sao chép thiếu thành thật rất thạnh, tâm hay siêng đốn đâu lường công đức, bỏ hết tịnh tài đâu hề tính kể, giúp mưa ngọt dùng tưới tốt mầm khô. Sinh ra chư Phật vốn là Bát-nhã, người mở mang chẳng phải đạo mở mang người, tha thứ mình ân sâu tức là tự làm. Nay bày ý này dường như chấp trước, nếu không khai kính thì không sâu bền, tự làm và dạy người đủ trong kinh luật, ngoái lại theo thức nhỏ bé thật hổ thẹn khắp nơi. Nhân quả suy nhau đâu khác mắt thấy, đâu không biết riêng thiện?
Vả lại vui tối thắng vô vi bậc nhất, pháp sau màu nội điện tự mở chúng Tăng đâu có việc khư khư gánh vác ngang hông. Nhưng mừng nhờ đời trước gieo trồng nuôi lớn cung vua, yết kiến vua đến sân, khuyến khích giữ gìn xa lớn. Ra nhận phiên gởi thường dùng thần căng, chẳng phải lễ nhạc chính hình một phen tôn thành ý chỉ, mà ghe thuyền chở ra càng thờ chẳng đọa, không cho bỏ lúa mà đồng vườn xiêu vẹo, biến Bồ-tát thành Thinh văn, vượt dụng trái phương cách, đã không thể dốc tin nhận dặn dò trộm dám đương nhân từ.
Nhưng năm hạng Pháp sư đều được sáu căn thanh tịnh, đúng như lời dạy tu hành, Niết-bàn rất gần. Đi giữ kinh luật không nương giới Phật, miệng lại nói không, tâm dính mắc nơi có, Vô thượng của Vương tùy bịnh cho thuốc khai sữa ngậm đề hồ vì phương đã khác, lưỡi lạnh đắng nóng, cách trị cũng khác, thí như cửa trước cửa sau, đến riêng cơ tánh, gốc, cành, nhánh, lá chịu thấm nhuần trọn giúp, gồm hội bốn cầu đều là vào đạo. Dụ như hỏi hiếu hỏi nhân Khổng Tử đáp tuy khác, trị thân trị quốc ý Lão Tử không trái, khác đường đồng về, một mối trăm lo, trong ngoài dung nhau, nghĩa đồng hỗn hợp, chỗ nào có học Tỳ-đàm mà không thành thánh, chấp lê-na liền sẽ ngộ chân.
Sư tử nghiêm khải trở lại cho hủy nơi mắt tò vò, chân tượng đến đáy lại bị chê trách nơi phòng, tâm đồng kiếm kích tranh như nước lửa. Ý kinh ý luận đều không như thế, thông kinh thông luận vì sao như thế? Sợ thí cam lồ liền thành thuốc độc, thảng như đồng vị biển thì có ra đề hồ. Thánh ngự bảo xanh, trời bay vòng vàng mây động, nhận muôn điều thiện ở nhân thọ, gồm Nhất thừa khắp hội, khai phát hàm thức giúp độ chúng sinh. Nay chỗ truyền kinh khắp trong cõi, chúng Thánh ẩn sức quyết chỗ phương khác, cùng lên Bồ-tát sớm chứng thường vui, là bày nói của đệ tử thuận theo thệ nguyện rộng lớn, ở nơi vô cùng bình đẳng chỉ vậy. Thông để xướng bạch, hiểu thức niệm thể tùy hỷ.
Sa-môn Huyền Trang nói: Trang tôi từ niên hiệu Trinh Quán năm đầu sang Tây Vức cầu bí tàng của Như Lai, tìm di chỉ của Đức Thích-ca gồm được sáu trăm năm mươi bảy bộ (657) đều cho chép ở Bạch Mã, đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười tám mới trở về kinh ấp, xét nhờ sắc chỉ. Nay ở đạo tràng Hoằng phước mở đợt phiên dịch, nay cho dịch ra các kinh Bồ-tát tạng, cúi xin rủ ân để soạn lời tựa kinh, chỉ có mong sắc chỉ mới khắp Trung Hạ và soạn Tây Vức truyện một bộ hai mươi bốn quyển, kính nhờ Xá Nhân Lý Kính một phen đem cung tiến, không nài sợ sệt kính dâng biểu tấu, kính lời.
Xét thư đầy đủ ý chỉ, Pháp sư xưa nêu chí cao soạn ra tờ biểu. Phàm nhờ ghe báu mà lên bờ kia, tìm tòi đạo màu mà mở cửa pháp, rộng mở mang dụ lớn, gột rửa các lụy. Cho nên mây từ muốn cuộn, mở nó mà che bốn loài, mặt trời tuệ sắp lặn làm sáng đó mà chiếu soi tám cõi. Duỗi sáng đó chỉ có Pháp sư, trẫm học cạn tâm ngu ngốc, đối với vật còn mê huống gì Phật giáo sâu màu, đâu thể suy lường, xin soạn lời tựa kinh chẳng phải chỗ mình nghe. Lại nói rằng mới soạn Tây Vức Ký ngay khi mở xem, ra lịnh cho Huyền Trang lại thỉnh soạn bài đề kinh.
Có nghe, hai nghi có tượng, hiển che chở hàm sinh bốn thời không hình ẩn nóng lạnh để hóa vật. Do vậy dòm trời xem đất, ngu dốt đều biết đầu mối kia, sáng âm rỗng dương, hiền triết sớ kia ít ỏi, nhưng mà trời đất bao trùm nơi âm dương, mà dễ biết do kia có hình tượng, âm dương ở trời đất mà khó cùng vì do kia vô hình. Cho nên biết tượng hiển rõ nhỏ nhiệm dẫu ngu cũng không lầm, hình ẩn không thấy kẻ trí còn mê, huống chi đạo Phật rộng lớn, rỗng không, nương vào sự vắng lặng rộng giúp muôn phẩm, kinh điển ngự mười phương nêu oai linh nơi Vô thượng, ép thần lực mà không thấp. Lớn đó thì hơn cả vũ trụ, nhỏ thì nhỏ hơn đầu lông, không sinh không diệt, trải qua ngàn kiếp mà không xưa. Hoặc ẩn hoặc hiện chở trăm phước mà dài đến nay, diệu đạo ngưng huyền, vâng theo đó đâu biết mé kia, dòng pháp vắng lặng rót đó đâu lường được nguồn kia. Lúc nhúc phàm ngu đầy tràn thấp kém gặp chỉ thú kia có thể không nghi ngờ hay sao?
Nhưng thời hưng khởi đại giáo nền tảng ở nước Tây, bay đến triều đình Hán mà báo mộng, chiếu cõi Đông mà lưu lòng từ. Xưa lúc chia hình phân dấu lời chưa rong ruổi mà thành hóa, đời ngay thường hiện thường. Dân ngưỡng mong đức mà biết tôn trọng, mờ bóng quy chân, dời nghi vượt đời. Mặt vàng che sắc, không gương sáng ba ngàn, tượng đẹp mở cơ đồ không điềm tướng bốn tám. Vì vậy lời vi diệu rộng giúp, cứu hàm loại nơi ba đường, di huấn xa đọc, dẫn dắt chúng sinh lên Thập địa.
Nhưng chân giáo khó mong, đâu thể một phen chỉ quay về, học cong vẹo lại dễ theo. Tà chánh ở đây lộn lạo nên nói có không, hoặc tập tục phải hay trái, thừa lớn nhỏ chợt theo thời mà thạnh hay ẩn có Pháp sư Huyền Trang là lãnh tụ của các Pháp sư, thông minh từ nhỏ, sớm ngộ tâm ba không, lớn lên khế hợp thần tình, trước ôm hạnh từ nhẫn, gió tùng nước trăng, chưa đủ sánh với tinh hoa kia. Sương tiên, châu sáng đâu thể so sánh sự sáng nhuận kia. Cho nên dùng trí không lụy, thần sánh chưa bày, vượt sáu trần mà vọt ra, riêng ngàn xưa mà không đối, ngưng tâm trong cảnh. Buồn cho chánh pháp chết dần suy nghĩ dừng ở cửa màu, khẳng khái văn sâu lầm lộn, suy nghĩ muốn chia điều, chẻ lý, rộng điều nghe trước kia. Dứt ngụy nối chân, mở cho kẻ học sau, ở đây do cao tâm nơi cõi tịnh, đi đến Tây Vức, nương dạo xa nguy, chống gậy riêng sửa, nhóm tuyết sớm bay, giữa đường mất chỗ, sợ cát đá tối khởi, ngoài không mê trời, muôn dặm núi sông. Trừ sạch mây mù mà tiến ảnh, trăm lớp lạnh nóng đạp sương tuyết mà bước tới trước, thật nặng, nhọc nhẹ, cầu sâu, nguyện đạt, dạo khắp cõi Tây mười bảy năm, trải qua khắp đạo tràng mưu cầu chánh giáo. Song lâm, tám thứ nước, mùi đạo, ăn gió, Lộc uyển, Linh Thứu, chiêm ngưỡng kỳ lạ.
Nương chí ngôn của bậc Tiên thánh, nhận chân giáo với bậc thượng hiền, tìm tòi cửa màu, tinh cùng nghiệp sâu. Đạo Nhất thừa năm luật rong ruổi nơi ruộng tâm, văn tám tạng ba hòm. Sóng cả ở cửa biển, tự chỗ trải qua cõi nước, gồm gần ba tạng văn cốt yếu, có sáu trăm năm mươi bảy bộ, dịch khắp Trung Hạ, giảng nói nghiệp Thánh. Dẫn mây từ ở cực Tây, giáng mưa pháp ở Đông độ. Thánh giáo thiếu mà lại đủ, chúng sinh tội mà lại phước, mát nóng nực trong nhà lửa, cùng cứu đường mê, sáng nước ái nơi sóng mê đồng đến bờ kia. Ở đây biết nhân ác đọa nghiệp, do duyên lành thăng lên, điềm đọa hay thăng chỉ do người gây ra, thí như cây quế sinh ở núi cao, mây mù mới ướt được hoa kia, sen vọt ra khỏi bùn bụi bay không thể làm dơ hoa kia, chẳng phải tánh sen tự trong sạch mà chất quế vốn trinh, vì chỗ nương, cao thì vật nhỏ không thể lụy, chỗ nương sạch thì loại dơ không thể dính, do cỏ cây vô tri mà còn nhờ tốt thành tốt, huống chi con người có sự hiểu biết, không duyên mừng mà cầu vui, so gởi kinh này truyền khắp ngày tháng mà không cùng, phước này xa bày cùng trời đất mà thường rộng lớn.
Sa-môn Huyền Trang nói: "Có nghe sáu hào nghiên cứu sâu xa cuộc hạn ở nơi sinh diệt, tên chánh trăm vật chưa hợp cảnh chân như. Vẫn lại xa gần nghĩa sách, thấy sâu xa không lường thần kia, xa tưởng đồ hiên trải qua lựa chọn đều quy về sự tốt đẹp kia. Cúi xin Hoàng đế Bệ hạ đài ngọc giáng chất vòng vàng ngự trời, mở chín châu của Tiên Vương che trăm ngàn mặt trời mặt trăng, chia bày niên đại khu vực, nạp hằng sa pháp giới, khiến cung cấp vườn tinh xá đều vào đề phong, linh văn lá Bối đều quy về pho sách. Huyền Trang tôi lúc xưa chống gậy đi đến núi cao, trải qua vạn dặm đường, nhờ oai trời như bước tấc, chẳng nương ngàn lá đến Song Lâm như mới ăn, tìm tòi ba tạng tột ở cung rồng nghiên cứu Nhất thừa cùng ý chỉ để lại ở Linh Thứu, đều che chở đến Bạch Mã, hiến dâng tử chấn, mong nhờ hạ chiếu ban cho được phiên dịch. Sự biết của Huyền Trang trái Long Thọ, lầm thêm sáng truyền đăng, tài khác Mã Minh rất hổ thẹn thông minh vẽ bình, kinh luận đã dịch khác nhau rất nhiều bèn nhờ ơn trời lưu thần soạn văn tựa, vượt tiêu biểu tượng, như mặt trời phóng ngàn tia sáng, lý làm cửa các nhiệm mầu, đồng mây pháp thấm trăm cỏ. Một âm giảng nói ức kiếp ít gặp, không cho chúng sinh nhỏ thân nương phạm hưởng, vui mừng khấp khởi như nghe thọ ký không nề tột mừng gánh vác, kính dâng biểu tâu lên bày tỏ cảm tạ, kính lời.
Trẫm vừa tạ Khuê chương, lời hổ thẹn rộng hiểu đến như nội điển, là chỗ chưa nghe, hôm qua soạn văn tựa rất vụng về, chỉ sợ làm dơ mực đen ở sách vàng, so ngói đá với rừng châu, bỗng được thơ gởi đến lầm nương khen ngợi, theo vòng xét suy nghĩ càng thêm dày mặt, thiện không đủ xưng luống nhọc có ra lời cảm tạ.
Hiển Dương chánh giáo, chẳng phải trí thì không gì làm rộng văn kia, mở mang lời màu, chẳng phải bậc hiền thì ai có thể định ý chỉ kia. Bởi chân như Thánh giáo là tông nhiệm mầu của các pháp, là phép tắc của các kinh, bao gồm rộng lớn ý chỉ suy xét nhiệm mầu. Tột hư không có sự tinh vi, là cơ yếu của thể sinh diệt, lời tươi tốt đạo thoáng rộng, tìm đó không tột nguồn kia, văn hiển nghĩa sâu. Che đó đâu suy lường được mé kia. Cho nên biết Thánh từ chỗ giúp, nghiệp không thiện thì chẳng đến, diệu hóa chỗ bày duyên không ác mà không cắt. Mở giềng mối lưới pháp, rộng chánh giáo sáu độ, cứu chúng sinh nơi lầm than, mở bí mật ba tạng, do đây gọi là không cánh mà bay xa, đạo không gốc mà thường vững bền, danh đạo truyền mừng, trải qua lâu xa chấn thường, đến thân cảm ứng trải qua nhiều kiếp mà không hư mục. Tối chuông chiều phạm, giao hai âm ở núi Linh Thứu, mặt trời tuệ lưu truyền pháp chuyển hai vòng nơi Lộc uyển, bày lọng báu ở hư không, tiếp mây lành mà cùng bay, làng xóm như rừng xuân, chung màu với hoa trời.
Cúi xin Hoàng đế Bệ hạ trên cao giúp phước rủ lòng bao bọc mà trị tám hoang. Đức giúp dân đen, xem vạt áo mà triều muôn nước, ân thêm cốt khô nhà đá quy về văn lá Bối, đầm và côn trùng, hộp vàng lưu kệ tiếng Phạm, bèn khiến nước A-nậu-đạt thông tám sông thần điện. Núi Kỳ-xà-quật tiếp ngọn xanh Trung Hoa, trộm cho pháp tánh vắng lặng chẳng quy tâm mà không thông, trí địa màu sâu, cảm khẩn thành mà hiển hiện, há gọi là đêm tối dày đuốc tuệ soi sáng, sáng nhà lửa giáng mưa pháp thấm mát. Vì thế trăm sông khác sông khác dòng đồng hội về biển cả, vạn khu chia nghĩa gồm thành nơi thật, há cùng Thang, Võ bắt chước hơn kém, Nghiêu Thuấn sánh cùng Thánh đức kia ư?
Pháp sư Huyền Trang, đời trước có tâm thông minh, nay lập chí lớn gọn, thần xanh thời măng sữa, thể cứu đời phù hoa, ngưng thần định thất, trốn dấu vết nơi thâm nghiêm, dừng nghỉ ba thiền tuần du Thập địa, vượt cảnh sáu độ, riêng bước Ca-duy, hội ý chỉ Nhất thừa, tùy cơ hóa vật. Do Trung Hoa không chất tìm chân văn ở Ấn Độ, xa hợp hằng hà trọn mong tròn chữ, liền lên núi Tuyết lại được nửa hạt châu, hỏi đạo trải qua mười bảy năm, đủ thông kinh Phật lấy lợi sinh làm tâm. Đến ngày sáu tháng hai, niên hiệu Trinh Quán thứ mười chín phụng sắc chỉ đến chùa Hoằng Phước phiên dịch văn yếu Thánh giáo, có sáu trăm năm mươi bảy bộ dẫn dòng pháp của biển cả rửa trần lao mà không cạn, truyền ánh sáng lâu của đèn trí chỗ tăm tối hằng sáng. Tự chẳng phải từ lâu đã gieo trồng nhân duyên thù thắng thì do đâu mà mở rộng ý chỉ này? Cái gọi là pháp tướng thường trụ bằng ánh sáng ba quang (mặt trời, mặt trăng, sao). Vua phước đến đồng bền chắc của hai nghi (trời và đất), xin được vua soạn lời tựa các kinh, soi xưa vượt nay, lý hợp tiếng vàng đá, văn bao trùm gió mây thấm nhuần. Trị nối để nhẹ trần, chân núi sương rơi thêm chảy, lược nêu đại cương để làm lời ký đây.
Tế trị không tài, tánh học chẳng thông minh, các văn nội điển đâu chưa xem, bài tựa luận đã soạn, vụng về rất nhiều, bỗng gặp thư đến khen ngợi thuật vỗ về, thân tự xét hổ thẹn, sợ giao bái nhọc thầy xa đến rất hổ thẹn.
Như đại hồn đều hình mất trí theo vật, tình nhân tu tập đổi, tánh cùng lự dời. Nhưng thì xem xét cùng tột bắt chước bậc tiên giác, đuốc tuệ lớn soi sáng để ra khỏi tối tăm dày, vớt sông ái mà lên bờ kia, cùng luân chuyển muôn kiếp bởi nhiễm sáu trần, chạy trốn khỏi xoay vần không bờ mé, rong ruổi mà đến đường tắt, đâu thể đồng ngày mà nói. Quay về đường chánh, hiển danh tướng Đại thừa, nêu tông cực bất trụ ra ngoài tâm lự, dứt ngoài ngôn tượng, là do kết tóc thọ trì nhiều năm. Dẫu âm mầu giảng nói thành tụng không thiếu, mà nguồn linh sâu xa hoặc có chưa ngộ, lầm luống xa mê phương làm đường bằng mà ngơi nghi.
Có Pháp sư Tuệ Tịnh rộng thông nghĩa sâu xa, biện đồng nói năng lưu loát, lý nghiên cứu liên hoàn, dẫu sinh vào nhà nghiên cứu cơ, phục ứng khéo dạy dỗ. Nương thệ nguyện này vẫn cầu chú thuật, Pháp sư treo gương quên bịnh tự đủ. Trên nương đạo thần ứng, bên cạnh dụng tâm cơ, mở bày lời vi diệu, tuyên dương chí lý. Ngày xưa nghi cũ đổi nước giải thích khiến diệu nghĩa đây sáng như sương tan, làm rường cột cho tượng pháp, làm tai mắt cho chúng sinh, lời lẽ bén nhọn, sáng non Thứu mà tướng cao, suối lời khích mạnh, đến cung rồng mà tranh xa.
Vả lại giáo pháp họ Thích, kinh điển cõi Tây, nguồn đạo chảy về tông, đời vui hiền trí, tài gồm ưu hợp, tinh thông ý chỉ ít người sánh được. Nay thì Sa-môn lại mở sách rất đúng thời, nghĩ huyền tông đây tươi tốt thơm tho làm đầu. Tuổi chỉ là yêm mậu mới sáng lập tay áo. Trăng giẫm Trọng Lữ ở đây tuyệt bút, đạo và tục du ngưỡng hiên dù thành mát. Hòa chuông theo lớn nhỏ kia, kiếm kêu phát ánh màu, một thời bạn học chuyên môn thọ nghiệp, đồng bước sóng ngòi thay nhau truyền trao. Mới lại đoái hoài lâm, xa nương thấy an sống, riêng bước đường cao, nêu bày chánh pháp đông xa gốc chân mong treo vàng mà không xét, chỉ nam chỗ nương, giấu quần ngọc mà không thiếu, há không đầy ư? Há không đầy ư?
Ty Nguyên đại phu Lũng Tây Lý Nghiễm tự là Trọng Tư soạn.
Phàm xem chim rủ văn, phép tắc rộng lớn ở tám thể. Khóc lân mở giáo điển, đổi sóng lớn ở chín dòng. Theo dấu vết kia không vượt qua cõi nước, hợp nguồn kia chỉ quy về nhân nghĩa, ai bằng chí Thánh nương thời, năng nhân chiếu pháp, mổ lông thu nơi Thập địa, gồm sa giới mà nói đạo, giải thích nước xuân ở Nhất thừa, trùm nhiều kiếp mà lưu hóa. Như chính thị tướng phi tướng, thị không phi không, sâu xa không suy lường rộng lớn không tượng, giả lời nói để lập thể, gồm quyền thật mà làm dụng, cùng chiếu của không chiếu, dẫn mê nặng ở cảnh mộng, vận tri của vô tri, dẫn quần mê nơi nhà mục, xét thật tướng kia thì Bát-nhã là tông, từ chân dung tây cảm tạ tượng giáo chảy đông, thành hương luống xây dựng nơi cõi mỏng manh. Bảo đài dời cấu tạo ở cõi trung, nhóm vây họp cánh, hoặc theo pháp kia, mây dày mù rộng, đã ngộ chân kia, chí lý thay.
Không đắc mà xưng, nhưng Phạm bổn này đến Tần rộng Thỉ, có Tam tạng La-thập ở thành Trường An dịch một bản, tên nước Xá-vệ. Đến Tuyên Võ đời Hậu Ngụy có Tam tạng Lưu-chi ở thành Lạc Dương lại phiên dịch một bổn tên là Xá-bà-đề. Giang Nam cuối đời Lương có Tam tạng Chân Đế lại phiên dịch một bổn tên là Kỳ Thọ Lâm. Đầu đời Tùy niên hiệu Khai Hoàng có Tam tạng Phật-đàda-xá lại dịch một bổn tên là Kỳ-đà Lâm. Thời Đại Đường có Tam tạng Huyền Trang lại dịch một bổn tên Thệ-đa Lâm. Dẫu chia phần truyền ra mà quyển chỉ nơi chí cực, lời nơm chẻ nghĩa cũng rất khác đường. Nhưng Lưu Chi phiên dịch gồm ba quyển Thích Luận của Thiên Thân, lại dịch Kim Cang Tiên Luận mười quyển. Đầu đời Tùy ngài Gia-xá lại dịch Thích Luận hai quyển của ngài Vô Trước. So sánh ba luận văn nghĩa phần lớn đồng, nhưng mới thì lý ẩn văn lược, cũ thì công hiển nghĩa khắp, gồm có La-thập đời Tần, Tạ Linh Vận đời Tấn, Đàm Sâm đời Tùy và Pháp sư Tuệ Tịnh Hoàng triều, đều là khí nghiệp tốt đẹp học rộng nghe nhiều đam mê vị kinh điển, đều soạn chú thích, nghiên cứu khảo sát bí mật, hoặc mở rộng nghĩa lạ.
Bấy giờ, ở chùa Tây Minh tại Trường An có Pháp sư Thích Đạo Thế tự là Huyền Uẩn đức rộng, truyền đạo giúp Tố Súc, kính phục Thánh giáo, hòa nhã ưa văn này, do giải thích nhiều môn, xét hạch nhọc gần chưa bằng tham gia tổng hợp, thiếu tốt đẹp một phen cho suốt đó. Xâu hết các nhà dịch mà làm tập chú, mở đề khoa gọn đồng chép bộ này làm thành ba quyển hiệu là Tập Chú Bát-nhã, gồm ba quyển xuất gia, hai quyển Huyền Nghĩa, hiện hành yếu dụng văn lý đều khắp, ngõ hầu khiến Linh Sơn nhóm họp, Can Thiên càng cao, biển lớn nạp sông, men sóng mặt trời càng rộng, mở văn đều cùng lý kia, giảng đạo rỗng suốt tánh kia, bạn học không mệt nơi công gấp bội, khách bàn có đồng gồm lượm lặt, miệng vàng diệu nghĩa che mặt trời mặt trăng để xa treo trục ngọc lời vi diệu suốt ba tài mà chẳng tuyệt, há chỉ tiếng thơm ở Linh Thứu, chữ chứa cung rồng mà thôi ư?
Cúi đầu lạy chư Phật
Xin oai thần ủng hộ
Sẽ bày nguyện chí thành
Không thẳng rất chê cười
Chìm đắm chưa tỉnh ngộ
Viên giác chỗ quay về
Chìm lâu nơi biển ái
Mong chờ ghe, mái chèo
Dị chấp trái tranh khởi
Hòa hợp là chỗ nương
Nhiệm mầu lìa chấp có
Lý dứt các lỗi lầm
Kiêu mạn trái tám chánh
Hý luận vào trăm lỗi
Lấy bỏ đều cùng nói
Nhiễm tịnh lẫn lộn nhau,
Lựa vàng bỏ ngói đá
Ngọc trác giúp thêm sáng
Năng nhân soi xét khắp
Suy nghĩ nghiên cứu cơ
Khế đại đạo thành thật
Ai dám mà chê cười
Thẳng thắn tôn sùng đức
Chỉ có thấm áo tang
Cúi xin lưu lại cho
Ngõ hầu có phát huy
Tỏ chút lòng thành khẩn
Thường qua lại dạy dỗ.
Quy kính rằng: Xưa Đức Năng Nhân thị hiện ở cung vua, thị tịch nơi Song Thọ, lời nhiệm mầu đã nêu chí lý cũng rộng mở, cõi nước nhờ ơn nhiếp thọ, chúng sinh thấm tuệ vời tô. Từ cây Phật mát ở Tây, bóng giác che đến Đông, Hán, Ngụy là lạm tràng, Phù, Diêu, thạnh phong thái, tự là danh Tăng xuất hiện, Đại sĩ nối đường. Mặt trời tuệ treo cao, bánh xe pháp hằng ngự, mở công soi xét mới tự vọt biển, rộng sức giảng bày bèn giúp Thập, An có riêng xa thì Đan Khai đến La Phù, gần thì Đồ Trừng hiện ở Triệu, Ngụy. Lời thô, sừng khuê chưa thể thường bày, đâu không nói có không ở Nhất thừa, luận tập khổ ở bốn đế, giả nói rõ có trọn chưa lìa hữu vi. Dứt lời sáng đạo mới khế chứng nơi vắng lặng, vẫn là chấp nhiệm mầu để cầu mầu nhiệm, lý là nhiệm mầu mà chẳng phải nhiệm mầu, do nhiệm mầu để quên nhiệm mầu, đều là nghĩa nhiệm mầu. Dẫu thầm hội u đồ, sự dứt ngôn tượng, nhưng nhiếp chúng sinh quay về vắng lặng trọn nhờ nơm bẫy, cũng đã lập lời phải quấy khởi nhọn, như chiến tranh can qua kia tranh phát khởi, người thua nín hơi người hơn là trước. Cho nên còn hàng ma chế ngoại đạo, tự chẳng phải biện tài vô úy đối đáp thì khó có phương cách, vật nhờ tuyên bày chúng ta hổ nhục. Đây cho nên chuyên tâm đến đạo, nhất ý tổng trì, dựng lập pháp tràng, trống pháp vang xa cờ trống đã dương lên thì kẻ địch suy tàn, pháp luân đã chuyển có thể oai không phục, như khiến trông cờ gió chẳng đối khó, ngậm kéo mà có thể mở mang Tam bảo là không có việc này. Còn Dược Lữ vâng mệnh vua vào cửa có không, chạy đường chánh kiến, nghe giữ nơi Hiền xưa, rỗng vi mâu ở thệ cũ, lời kia giải thích rõ nghĩa kia, đức kia chân hạnh kia chấp. Đã tắm dòng tám giải, lại ngộ phần bảy giác, ảnh hưởng thành giáo. Như Tịnh Danh đến vườn Yêm-la nghe đạo quyết cầu, như Thiện Tài về vô kiệt, ý mở mang Phật giáo, lập phá Sớ Nhân Minh như kia là đúng, quyết cần vậy kia chỗ hay như kia là sai, lý hợp chỉ chỗ dỡ kia.
Nay hiện Tăng đồ như mây nhóm đều là lượm đá núi khác, triều đình dân chúng đều nghe. Lữ Quân yêu cầu lợi ích đâu không so sánh cho, vẽ nước đều trông sóng mòi, điều nguồn trạo hối, nêu đống nghi niệm. Có Thái sử Linh Hiếu Thuần Phong nghe mà tâu rằng: Thần lòng ôm đường chánh, hạnh thuộc quy y, lấy thật tế làm đại giác thân nhiệm mầu, vô vi làm điều ngự pháp thể. Nhưng mặt trời sáng rỡ trên thiên không là trợ giúp vận dụng thượng huyện, hiền Tăng xiển pháp thật giúp diệu đạo của Thiên sư, là chỗ tin nhận, là chỗ an tâm, nhưng không dám lấy lá úa làm vàng, gà rừng thành phụng, Nam Quách lạm kêu, Truy Miễn lộn dòng, hoặc có dị nghị (chê bai) đâu bộc tâm ư? Há bộc tâm ư? Nhưng rừng hạc đã sau gần hai ngàn năm, chánh pháp đã qua, mạt pháp mới bước tới, lý màu tươi tốt mà không bày. Giáo đạo tưới thấm sắp chìm mất, Pháp sư Huyền Trang Đầu-đà Pháp Giới, Viễn Đạt Ca-duy, mục kích đạo thọ dòng vàng vẫn thấy bảy chỗ tám hội, thành Tỳla, núi Thứu, thân vào làng kia, Ta-la thềm báu vẫn xét hư thật. Còn như lịch lãm của Vương-xá, đàn trì hằng hà (sông Hằng), như thế đồng nương tựa chưa dễ nói đủ. Thêm danh Tăng Tây Vức đâu không nói thầm Ba-nhã, Đông Vức nghi nghĩa thảy đều là chất của sư kia. Tạng Tỳ-ni đã phụng trì mà không bỏ, Tỳ-đàm rõ nghĩa cũng rỗng suốt quán mà là thường. Tô đố lạc đã được rõ tiếng, Nậu-Đa-la cũng mổ xẻ ngưng trệ. Pháp không lớn nhỏ đâu không giấu ức bụng, lý không sâu cạn đều có thể quyết suy nghĩ thông minh, cho nên tên ba tạng ở Trung Quốc suy định, hiệu Ma-ha chính là La-vệ gọi chung, mé danh thật đâu thể gọi là đạo?
Nhưng Lữ Quân học thức rộng sâu, tinh thông nghĩa lý, ngôn hạnh khu cơ là chỗ rõ ràng. Còn như Phật Đà-la bẩm tự sinh biết, biện tài vô ngại đâu do phục tập. Nhưng do nhân minh ẩn nghĩa chỗ thấy khác nhau, dụ như chạm tượng đều được hình kia, chung đồ ăn có sắc khác. Lữ Quân đã chấp tình đạo tục, ngóng trông chỉ định, sương thu đã giáng, suy lường nghe tiếng chuông. Mây pháp đã mở sấm chấn ít phát, nhưng dấu chân long tượng loài lừa chẳng thể kham được như áo đen (tu sĩ) đức hạnh sâu xa, tại gia cư sĩ không bắt chước kịp. Chợt biết loài rồng kháng thuyết, Vô Cấu giải thích nghi, thì Bí-sô Tất-đàm cũng là Ưu-bà có thể hoàn toàn liền giúp chí vi diệu thỉnh không làm phiền. Như có nghi trệ mong hỏi ba tạng mới quyết, cho nên lãnh thọ truyền bày bốn chúng thì chánh đạo sẽ sáng rỡ, che chướng hằng dứt tuyệt, nối thạnh Tam bảo kia ở đây ư? Quá đây rồi đến chẳng lại chỗ xong. Đệ tử Liễu Tuyên bạch.
Đại Thánh hiển hách
Giống giác tròn sáng
Không tối chẳng xét
Như vang đáp tiếng
Phí giúp mừng thọ
Ai ngộ về thành
Đạo tốt đáng kính
Là dẫn chúng mê
Trăm sông sóng tà
Một vị gồm nuốt
Vật có lấy bỏ
Chánh chẳng thiếu đầy
Tám tà rong nhọn
Bốn câu Tịnh Danh
Tô trái lạm phải
Ức nặng làm nhẹ
Nắng chiếu băng tan
Châu làm nước sạch
Bày đức Vô thượng
Thể đạo ở trinh
Đầu thêm khen chê
Chưa động chút nào
Bình minh sáng rỡ
Tươi tốt hàm tình
Đợt người hiểu suốt
Định quyền hoành này
Tạm bày ấm ức
Để chọn tài giỏi.
Lại thuật rằng: Kính xem biểu dự thuộc lời quy kính, văn kia sáng rỡ vĩ đại đẹp đẽ, rõ hòa nhã có ra thành thật thay! Há không như vậy ư! Thương cho biển ái ngập trời, núi tà gạt phẳng mặt trời, phong nhân ngã, điên đọa kia đâu thôi. Ỷ mạn kết trầm luân mà không cùng, đến như sáu mươi hai kiến chấp tranh che ngăn mà tự ở, chín mươi lăm ngoại đạo tranh phò phục mà không trở về. Như Lai dùng bổn nguyện đại bi quên duyên phó ứng, trong đủ bốn trí ngoài hiển sáu thông, vận mười Lực để phục thiên ma, bay bảy biện mà dẹp ngoại đạo. Khô biển ái, giúp bẩm thức ở ba không, dứt núi tà kia, nghiệm tiêu hình nơi tám chánh, chỉ nhân bày quả, trở về nguồn cội, lớn lao thay! Bi trí, diệu dụng, không đức mà xưng.
Xưa đạo thọ lên thường, giúp tiếng giáo nơi trăm ức, bền rừng, dừng dấu vết, chấp sót bày ba ngàn. Từ khi mặt trời Phật nghiêng về phía Tây, ánh sáng chiếu đến Đông, nhà Chu cảm điềm đêm tàn, nhà Hán thông điềm tiêu mộng. Đằng, Lan sáng tuệ lớn ở trước. Đồ Trừng, La-thập kế tự truyền đăng ở sau, kia ở dịch kinh, hoằng pháp, thần khác giúp thời, cao luận hàng đà, an thiền răn đe vật, chắp nối lưới hư để tiếp võ, giữ gìn gút đứt theo vai, đâu không Di Hạ mừng gió, u minh giúp giáo hóa, hoa sen chẳng đổi có thể lược rõ.
Chỉ có ngày nay Tam tạng Pháp sư ẩn linh dụ xuất, hàm chương mà thể một vị, vẽ bình để chiêm ngưỡng năm thừa. Buồn vì cách Thánh càng xa, tiếc vì giáo đến thiếu nhiều, xa suy nghĩ nghĩa viên mãn theo đạo dùng thân, tâm miệng tự mưu, hình bóng đến nhau, giũ áo cầm gậy, tính gốc tìm nguồn, ra cửa ngọc mà đi xa, chỉ sông vàng mà một phen dứt. Kê cứu nghi phạm vũ, tham xét mờ tối rỗng suốt. Xoay hóa thần châu nêu chân dứt lầm, để nơm thiếu sách rất đủ thìn này. Viên tông Phương Đẳng càng rộng trước bày, đã rõ thắng nghĩa. Diệu tuyệt giữa của giữa vòng chân tánh chân không tột dụ ngoài của phương ngoài. Do có chấp, có chấp nên mất chân kia. Không hề mong cầu, không cầu hỏng thật kia. Quét dấu vết hai bên, quên tướng trung đạo, lụy sót chưa đổi, kịp đến kia rất nặng không do đâu đến tột kia, cốt yếu thay! Nhiệm mầu thay! Khế hợp nơi tâm rồi mới cho đó là pháp, ở tâm là pháp, hình ngôn là giáo. Pháp có tự tướng và cộng tướng, giáo chính là ngăn thuyên nêu thuyên, tinh túy của ý chỉ, xung yếu của tông môn, há tạo thứ lớp mà kể rõ được.
Pháp sư ngưng thần sai trí rõ ngay đầu cuối nói rộng sắc màu, mở lớn cửa tối, bí mật mong ứng, hòa đánh lớn nhỏ, nghĩa rộng biển nhận lớn nhỏ của triều tông. Vì vậy thạc đức khác phương, cao Tăng khác chốn phục ưng hỏi đạo, có nghi thưa hỏi, vốn đã uống sông đầy bụng chớ lường sông cạn sâu, linh âm gồm nghe ai biết nó xa gần, đến như nhân rõ đường nhỏ hiện sánh dù bé, đây chính là chỉ phương góc người mới học, nêu cờ xí lập luận, đến như trục chốt bí mật linh yếu, diệu bổn thành công đủ các sách sâu mầu chẳng phải điều ở đây nói.
Lữ Phụng Ngự dùng gió thần sai cứu Tảo Đàn nhiều tài, cõi nước gồm thông, chướng xưa rộng vật săn bắn mở sách xưa, đi câu rất hoại sách quý, chạm loại mà lớn ứng các số thuật, trấn gió dữ nơi vườn phân biệt, cầm hoa sáng ở rừng hàn. Đầu ngựa trong mây trước kêu mặt trời xuống, năm hạnh giúp bút kia, sáu ngôi chứa đàm cao kia, một giác thái huyền ứng, lời hỏi liền giải thích, lại xét ngôn tượng, lập cách liền thành thật dời Tần tươi tốt, triều tiên Hán mạn tình, nay mới bỏ đi như vậy. Mà đã bay liệng quần lược, rộng rãi có công dư, mà có tâm kính mến Đại thừa, đời trước ai thành tín, so sánh nhân ngược nhân ngược sinh đùa cợt bỗng lại thuộc tưởng, nhân minh không thầy giúp dẫn dắt mình xuyên tạc, so sánh quyết các sớ chỉ bác bỏ cầu phi, nói năng bàn luận ở triều, hình ở tạo thứ lớp, xét ý chí kia, vốn đã khó thêm hạch khảo hiểu biết kia, thật là đáng lầm.
Luận này dùng một quyển thành bộ, năm tờ thành quyển, nghiên cơ ba sớ, từ trước đã một vòng, nêu sai bốn mươi, tự không một đúng. Tự đã không đúng mà có thể nói đúng, bổn sớ không sai mà có thể nói sai, nói sai không sai, nói đúng không đúng. Nói đúng không đúng, là đúng mà thường sai, nói sai không sai chẳng sai mà hằng đúng. Chẳng hai hằng đúng, không làm sai chỗ sai. Là đúng thường sai, không làm đúng chỗ đúng. Do đây thiếu lỗi đến đổi lầm bịnh. Vả lại y cứ sinh nhân liễu nhân, chấp một thể mà quên hai nghĩa. Năng liễu sở liễu phong một tên mà lầm hai thể, lại dung tông nương tông, thể lưu nương bỏ thể để làm tông, dụ thể dụ nương bỏ thể lưu nương mà làm dụ, duyên đây hai hệ vọng khởi nhiều nghi, mê tột nhất thành lầm sinh bảy nạn.
Nhưng do tìm tòi cùng tận hai Luận sư đã nhất tâm, dính mắc văn cú ở trên dưới, lầm chữ âm ở bình khứ, lại cho Số Luận là Thinh Luận, nêu sinh thành làm diệt thành, đâu chỉ có sai tông do ly hợp, bởi cũng trái nghịch thuận trước sau. Lại lượm lặt lý dở lầm vận để phát thảo bổn Phạm, chuyển âm dẫu rộng, viện bảy món mà chỉ đúng một chuyển. Nhưng chẳng phải bảy món kia đã gọi bèn là tiếng kêu thứ tám, lẫn lộn, trái lầm, từ đâu mà đến? Lại xét Thắng Luận lập số thường cực vi chính là thể vô cùng, dẫu cực nhỏ lại lần hòa hợp sinh các chữ. Số nhỏ thì thêm bớt ở thường, thể nhỏ lại thêm bớt ở cha mẹ, đến cuối cùng rồi thể khắp đại thiên, nghiên cứu kia đến chỗ số cùng chỉ thành một. Lữ Công dắt dẫn, đổi nhiều nói rằng: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh muôn vật...", đây và kia lời khác nghĩa đồng.
Nay xét thái cực không hình mở đầu sinh có tượng, nguyên giúp một khí trọn thành muôn vật, đâu được do nhiều sinh một mà nêu một sinh nhiều? Dẫn loại muốn hiển bày rộng nghe nghĩa trái, lại nương vào đâu lập dẫn lớn nêu nghĩa sinh gần giống? Như giải thích đồng với tà kiến, lụy sâu như từ đâu khỏi, đâu được nếu muốn thời khen, lẫn chánh giống tà, ứng phi thân đến như thế. Chỗ sai sót rối ren sao đáng là lời hay, đặc biệt do dùng mình gây ra bối rối này. Gốc đã không ngay cành lá tự nghiêng, theo lầm sinh nghi, tùy theo nghi lập nạn, hình cong bóng thẳng có thể được ư?
Thử nêu hai ba mong rõ đại ý, tỳ vết sâu nhiều bày ủy đáp như riêng. Xét Lữ Công hiểu soi đâu phải sóng mạnh mà đến đây ư? Bày rõ chân, tục, mây, bùn, khó, dễ, sở, việt. Nhân bóng Phật giáo rộng xa, chánh pháp ngưng sâu, thí như lò hồng chẳng phải chỗ tuyết dính, vũng biển há ghe keo vượt được. Thái sử khiến Lý Quân linh phủ chìm kín, khâm kỳ xa mịt, chuyên tinh chín số, tổng hợp sáu hào, rộng xét sách vở, xem nhìn mây vật, thấp hèn vệ rộng lớn thất độ, xấu xa công cuối tiếp, thần không tiện dụng mong thật ở đây. Đã thuộc các luận Lự Công lại có ra trong lời, dùng thật tế làm đại giác thân vô vi nhiệm mầu là pháp thể Điều Ngự, đây chính là diện mạo tin huân tu, có phần chứng bẩm, tự nhiên trọn không thể thành. Bởi nói giống mà ý trái, lời gần mà ý chỉ xa.
Nhưng Thiên sư may mắn diệu đạo để lại đây, vả lại Thiên sư họ Khấu, Thôi Quân đặc biệt trung thực và để lại lỗi y. Nếu có nói gì, dầu cho là không lộn ở Truy Miễn, bởi đã tự lạm ở vùng vàng thau, chỉ có gió khỏi nhà thưa rộng học hết sách vở, che thân dùng nhân nghĩa, ứng vật dùng khu cơ, nghiêm chỉnh tràn trề, chọn cứng mạnh dùng can mây, bàn trong sạch sóng lớn mà trấn đất, vọt thơm văn hoa, dệt chốn rừng nho, lượm nhặt chín trù, nghiên cứu rõ thuyết hai năm. Còn như kính lễ ba trăm, sách lễ ba ngàn, đâu không nghĩa thẻ là ngón của bàn tay, sự như cúi nhặt chén mâm đều đẩy, kia chuẩn đích pháp độ quyết đợi kia lung tung. Bèn khiến cho thi tướng, chợt hết nghe ở dân gian, vịnh cá đẹp đầy tai nơi triều đình, chỉ có danh và thật tột tốt và đẹp mà thành kính lại bẩm thọ tự xưa thành. Tâm hoằng hộ thật chỉ chứa xưa nay, thuộc bàn nói ồn ào đây đồng hổ thẹn đau khổ trong lòng. Cho nên bẻ gai ngậm keo đầy ánh sáng đại nghĩa, chẳng phải tài phàm, gồm trong ngoài chiếu thật cỡ gần, đâu thể kích dương trong đục, giúp tục phò chân.
Xưa môn hạ của La-thập có ba ngàn vị, nay trong hội này người đông đúc như chợ, bần đạo hèn hạ quê mùa tạm ngồi cuối chiếu, dẫu mừng sáng nghe nhưng hổ thẹn tối cảnh giác, rõ để tạo sớ ba đức và là hiểu suốt năm thừa. Tường nhọn ít nhìn, lời nhọn khó kính mến, đã thuộc buôn dê múa trống mà mưa móc quyết thấm nhuần, lời sấm phát nhanh sợ không rảnh bịt tai. Xét bàn, người xưa nói: Một cành có thể cụp lông, đâu phiền Đặng Lâm, nước bẩn đáng để chìm vẫy, đâu đợi biển xanh". Cho nên không do ngu nho rủ bức khóa hư, lời phí được miễn, thô bày đại khái, dẫu văn không đủ mà nghĩa đáng xem. Nhìn lại tầm thường thấp kém của mình càng thêm hổ thẹn, chỉ trình bày, lại lời đáp còn bao nhiêu không có chỗ bày. Thích Minh Tuấn bạch.
----------------------------------
Cúi xin thầm ra lịnh chỉ dụ, kính thờ luân ngôn chuyên giữ thần Việt. Huyền Trang nghiệp được không sơ pháp lữ lầm tham, may mắn thuộc cửu loa có tài, bốn biển không ngu. Nhờ linh vua chinh phục xa, nương oai nước mà hỏi thăm đạo. Tột xa mạo hiểm, tuy gắng gổ ngu thành, biên tập khác lòng hoang mang, là giúp triều đình giáo hóa. Kinh luận đã được phụng sắc lịnh phiên dịch đã thành quyển cuốn, chưa có lời tựa, cúi xin bệ hạ tư duy thông minh, mây che, rải hoa trời xán lạn. Lý bao trùm tượng, điều thất lạc anh tài, khoe ngàn xưa để bay tiếng, che trăm vua mà vọt thật, nhìn dùng thần lực vô phương, chẳng phải suy nghĩ như thần thì không đủ nói lý kia. Thánh giáo nhiệm mầu sâu xa, chẳng phải tiết tháo bậc Thánh đâu đáng làm tựa cho nguồn kia. Cho nên mạo phạm oai nghiêm xin làm đề mục, thần quyền vọt xa rủ khoe khoang, vỗ về cùng lụy, dứt tướng ngó ngoái đánh mất cơ đồ.
Huyền Trang nghe, mặt trời mặt trăng sáng rỡ trên hư không, đã chia ánh nắng nơi song cửa, sông ngòi kỹ đất cũng thấm nhuần nơi núi cao, mây hòa rộng vui, không bí mật âm vang nơi mù điếc. Vách vàng thêm châu báu, đâu thể giấu màu với kẻ mù ngu, dám duyên lý này lại dùng ngàn cầu cúng. Cúi xin mưa sấm rủ xuống, văn trời soi chiếu, phối hợp lưỡng nghi mà chung lâu dài, cùng hai diệu (mặt trời mặt trăng) chung treo cao. Nhưng lời màu non Linh Thứu nhờ bút thần mà được rộng xa, nghĩa sâu xa ở Kê Viên nhờ lời hay mà tuyên bày, đâu chỉ khư khư chúng Phạm, gánh vác riêng ân vinh hiển cũng khiến người mê dốt có cách vượt trần lụy mà thôi. Cẩn phụng biểu tấu để nghe. Kính lời. Sắc chỉ bèn hứa. Nghĩa là Phụ Mã Cao Lý Hạnh nói: "Ông trước đã thỉnh trẫm làm bia cho cha ông, nay khí lực không bằng xưa, nguyện làm công đức soạn tựa cho Pháp sư, không thể làm bia ông biết đó". Niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi hai, may mắn ở cung Ngọc Hoa mời Trang đến hỏi phiên dịch kinh luận gì, đáp: "Đang dịch Du-già". Vua hỏi: "Vị Thánh nào soạn, nói những gì?" Đều đáp đủ rồi. Nay lấy luận tự mở xem, bèn hạ sắc chỉ mới dịch kinh luận viết chín bổn, công bố chín đại châu với Ung, Lạc, Tướng, Khắc, Kinh, Dương v.v.... Trong lại thỉnh đề kinh vua bèn nêu ra tên Đại Đường Tam tạng Thánh giáo tựa, ở điện Minh Nguyệt ra lịnh Hoằng Văn Quán Học Sĩ Thượng quan nghị đọc cho các đồng nghiệp nghe.
Huyền Trang nghe, bảy diệu giữ ánh sáng, nương trời cao mà rải bóng. Chín sông rưới nhuần, nhờ đất dày để lưu thông, là biết đẹp giúp nhau ở vật đã vậy. Giảng pháp nương người lý ở không lầm, cúi xin Hoàng Thái tử Điện hạ phát huy trí thông minh, thuật lại văn trời, khen ngợi Đại thừa trang nghiêm thật tướng, châu lăn ngọc chuyển, mù tan gấm duỗi, đem ngày tháng mà nối kết hoa cùng hàm anh mà hợp vận. Huyền Trang tuổi trẻ nhiều may mắn, tắm gội riêng đặc biệt, không ngại chép bội, kính mở bày cảm tạ, kính bạch.
Tựa rằng: Nói về Tăng lấy sáu hòa làm thể, đó là giới, kiến, lợi và ba nghiệp. Do đây đạo hợp tối sáng, đức thông Hiền thánh, mở vật thành việc thì phước giúp người trời, dẫn giải luật nghi thì hóa rủ có không và do thức kính sáu hòa nêu rõ Tam bảo, trong rộng cứu bốn ma, ngoài khuynh màn tám mạn, bèn khiến ba ngàn cõi nước đều bẩm thọ phép tắc của Tăng, sáu vạn năm xa đều vâng theo tiếng giáo, chẳng phải Tăng hoằng ngự thì ai chấn đây ư? Nhưng thời đạo hợp giáng sâu, đồi trăm sáu dương chín, bụi theo tin hủy, hoài lợi dụng an nguy, thông người không dính mắc, gượng ép, hèn tệ có ngăn trở ở thời tụng, cho nên khiến nhiều tà chánh, bày dẫn khang trang, tâm còn sáng tối, hiển lên cơ đường lớn, là biết bạn mãn nguyện, nương đường nhỏ mà tiếp sinh, luân trời thục, gởi tà đồ mà hóa vật, đánh bày hạch xét ở đến đạo, rộng dụ ở quyền mưu, chưa đội oai dung, chỉ giữ lìa chấp. Như đây nói luân thì chung ở lý hạnh, hoặc không đạt vọng khởi đầu mối khác, như thấy đi bên trái lầm tránh lạm võng càng nhiều.
Chớ suy nghĩ phiền hoặc của mình, chuyên sợ kia trái nghi với tức sấm đồng gánh vác mạo hầm tàn càng diệt. Nêu hạ phàm ôm oán thù mà tiêu vong bậc thượng Thánh thượng an nhẫn hung ngược. Từ xưa vua loài người ân cần xem xét kinh hưng vong, mở lưới rộng nuốt ghe, trải chánh sách rộng dung dưỡng, mở rộng nhân phong nơi ngung nội, ngồi hưởng thái bình, rộng nêu ra chỗ thành phép tắc, thết đãi của cải lớn này, còn bao nhiêu thì xét xét loạn nêu trái cách ngôn thuần mới. Thâu lưới lỗi lầm, ôm nghi mở thầm khiến, đến lỗi sau làm quạt tai ương. Đê điều chớ mở, che nước mắt hỏi góc, đây cần như làm trò cười cho thiên hạ. Cho nên nhóm các sửa đổi, rải đường hiền minh, hoặc kháng chiếu mà lập lời nói thẳng, hoặc khởi luận để rõ chánh bàn, hoặc bao ngưỡng mà tôn sùng cao thượng, hoặc ngậm đau buồn mà nêu lời cầu cúng, đạo này có thể xét giúp đời sau nêu.
Đời Tấn, Dữu Băng làm vua ra chiếu chỉ khiến Tăng chí kính. Đời Tần, Thượng Thư Lịnh Hà Sung kiến nghị hợp tấu. Đời Tấn, Hoàn Huyền Thư Luận Đạo Nhân kính vương giả. Hoàn Huyền hựu thư kính nghị. Thích Tuệ Viễn gửi thư cho Hoàn Huyền nói về bất kính. Hoàn Sở Ngụy chiếu Samôn không cần kính. Thích Tuệ Viễn, Sa-môn Bất Kính Vương Giả Luận. Thích Tuệ Viễn gởi thư cho Hoàn Huyền nói về việc sa thải. Chi Đạo Lâm gửi thư cho Hoàn Huyền nói về sách Tăng. Trịnh Đạo Tử gửi thư nói về ngồi xổm ăn. Phạm Bá Luân gửi thư nói về ngồi xổm ăn. Phạm Bá Luân dâng biểu nói về ngồi xổm ăn. Thích Tuệ Nghi đáp thư Phạm Bá Luân. Phạm Bá Luân gởi thư cho hai Pháp sư Sinh, Quán. Hậu Tần, vua ra chiếu lịnh Hoàn nêu việc hai Pháp sư bỏ đạo. La-thập gởi thư cho chúa Tần nói về việc Hoàn nêu bỏ đạo. Thích Tuệ Viễn đáp thư Hoàn Huyền lịnh phản tục. Thích Tăng Nghiễm đáp thơ Lưu Công không hoàn tục.
Thích Đạo Thạnh bạch với Tề Võ về việc sa thải.
Đời Đông Tấn, Khâu Hộ Chi Đàm Đế điếu. Hậu Tần, Thích Tăng Triệu, La-thập điếu.
Đời Tống, Thích Tuệ Lâm, Thích Pháp Cương, điếu. Đời Tống, Thích Tuệ Lâm, Trúc Đạo Sinh, lụy.
Đời Tống, Tạ Linh Vận, Thích Đàm Long, điếu. Đời Tống, Tạ Linh Vận, Thích Tuệ Viễn điếu.
Đời Tống, Trương Sướng Nhã, Na Sơn Thích Pháp kính điếu. Nam Tề, Thích Tuệ Lâm, Thích Huyền Vận điếu.
Nam Tề, Luật sư Thích Trí Xứng điếu. Nam Tề, Pháp sư Ngu Hy Cảnh hành trạng. Đời Lương, Thẩm Ước, Tịnh Tú Ni hành trạng. Đời Tống, Hiếu Võ Sa Thải Tăng Đồ chiếu.
Nguyên Ngụy, Hiếu Văn Bao, chiếu Sùng Chư Tăng. Nam Tề, Thẩm Hưu Văn, thuật về luận Trung Thực.
Thẩm Hưu Văn thuật lại luận Tăng Hội Thực. Bắc Tề, Văn Tuyên, chiếu Sa Thải Tăng Nghị.
Đời Lương, Giản Văn Điếu gửi thư cho Pháp sư Đạo Trừng. Đời Lương, Tấn An Vương cùng Sở Bộ Tăng Chánh giáo. Đời Lương, Vương Quân gởi thư cho Đông Dương Thạnh Pháp sư.
Đời Lương, Thích Trí Lâm gởi thư cho Nhữ Nam Châu Ngung. Đời Lương, Lưu Hiếu Tiêu gởi thư cho Pháp sư Cử.
Đời Lương, Vương Mạn Dĩnh gởi thư cho Hiệu Pháp sư. Đời Lương, Lưu Chi Lân gởi thư điếu Pháp sư Chấn mất. Đời Lương, Lưu Chi gởi thư điếu Chấn Huynh Lý Kính Phỉ. Đời Lương, Lưu Chi Lân thư điếu kinh Tăng Chánh mất.
Đời Trần, Từ Lăng Giản, Nhân Sơn Thâm Pháp sư thư bỏ đạo. Đời Chu, Thích Đàm Tích, vua Võ Đế xin dừng việc sa thải.
Đời Quỳ gửi thư Thiền sư Tiên Thành Tuệ Mạng.
U Lâm, Sa-môn Thích Tuệ Mạng đáp thư Bắc
Tề, Đới tiên sinh. Đời Tùy, nội sử Tiết Đạo Hoành gửi thư điếu Pháp sư Diên mất. Đời Tùy, Thích Ngạn Tông nói về Phước Điền.
Đời Đường, Cao Tổ chiếu hỏi Tăng xuất gia lợi ích hay tổn hại. Đời Đường, Cao Tổ ra chiếu sa thải đạo Phật.
Đời Đường, Thái Tôn chiếu lịnh Đạo sĩ ở trước Tăng. Nay vua chiếu lịnh bàn Sa-môn kính ba đại.
-----------------------------
Chư Tăng điều Hành Trạng, Chi Đàm Đế, Trúc La-thập, Thích Pháp Cương, Trúc Đạo Sinh, Thích Đàm Long, Thích Tuệ Viễn, Thích Huyền Kính, Thích Huyền Vận, Thích Trí Xưng, Thích Huyền Cảnh, Thích Tịnh Tú.
Ngày ấy tháng năm, niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ bảy đời Tấn, Đạo sĩ Chi Đàm Đế qua đời, thọ sáu mươi lăm tuổi buồn thay!
Pháp sư Triệu Dận ở Tây Vức, vốn sinh ở Khang Cư, lấy tên nước làm họ. Đã nhận lãnh lời thầy dạy, bèn theo pháp họ là Chi. Từ quận Ngô Hưng, huyện Ô Trình, làng Đô, thôn Thiên Thu, giúp trinh khí kim thương, nhờ Thiều luật của Dương Dục, mạo muội phương xa mà đến, vượt núi sông mà bẩm thần, thức tình tinh túy trong sạch, phong vũ sáng sạch nghiêm túc, đạo nêu ở thiên kỳ, đức bày nơi đồ trong trắng. Trinh ngộ riêng cứu, các đạo khác không đáng để động tâm kia. Chí thành rất bền, các luận đâu thể can chấp kia. Do đây vượt trần tuyệt đến, tuệ chỉ phát huy lúc còn nhỏ, nghiên cứu đam mê đạo nhiệm mầu, đạo lực sáng chiếu lúc tuổi xế chiều. Cho nên có thể nắm linh phong ở cảnh thần, giảng diệu hóa nơi lý. Tế thanh bậc tiền triết, cung kính đạo tục mà quy hoài, dạo bước các nơi mở bày nghiệp lớn, khéo xét chỗ nói sâu, lời trong chốn vi diệu, lại khéo dùng văn từ, biết thưởng thức tham lưu. Vốn đã đều khế hợp phong thắng, lãnh trùm nhất thời.
Lúc ngài trung niên bèn khẳng khái để bên thành nạn đặt ở tối sâu làm tiết. Vả lại tánh non nước vốn ưa tự nhiên, tịnh ngoài lặng thể tự nhiên tâm. Vì vậy duyên dứt, người phong là ẩn dấu vết ở non cao hang núi. Bèn xét nhà ở quận Ngô Hưng cho nên chướng Côn Sơn, vị đạo sùng hóa hơn hai mươi hai năm, nghiệp dừng chỗ rộng, rửa được tâm điền cấu, đẹp của nơm tượng đủ đến niên hiệu Hưng Vĩnh.
Vì thế, tông sáng quy nhân từ các phương nhóm lại, khâm phục tông phong, lòng hướng về không xa mà hỏi thăm bến. Thường mong anh hào, thường thỉnh mời giúp giảng, Ngài tâm trống ứng vật, không thường do động dừng mà đổ tâm, suy thành thuật nghĩa. Trước hết do đạo tục khác đầu mối, trong kia bao trùm nhất là đức, lại xa gần chỗ suy mới toan rưới quét đường màu dứt hết gió dữ, vượt ngoài cấp diệu kỳ phát họa, suốt vết nhiệm mầu. Tiếc không hằng còn, bị bịnh mà mất, người biết nói là rất đau đớn mất Ngài, thoáng buồn tình cảm chỉ là tốt. Bởi không chức tước mà sang, sống vinh chết thường là nghĩa này. Dẫu chí lý thầm một phen còn mất định ở hình ban đầu, thức màu khéo chiếu soi hình khí đồng hư hoại, nhưng thiếu tình hẹn ở cảnh mừng thích, chưa mất tâm ly hội, cũng đâu thể không cho được mất là buồn vui, đến trường mà đau đớn thay! Nếu thầm bỏ nạn thể, gởi nơm hàn để nhớ mong gió, viện lông mềm chút tình, xét trong sáng nơi không cùng bèn làm điếu rằng:
Dằng dặc trọn xưa, mập mờ đường huyền, diệu duyên chớ hỏi, ngủ dài chẳng tỉnh, sinh diệt phân vân, động dừng xen nhau, theo nhau trăm đời, lá lý càng mọt, nước chìm trần lao, ai biết kia cũ, đến người thừa vận. Trong linh giác mở đầu, chưa thấy biển cả, giếng ếch cho là chẳng nhỏ, sáng lớn dung lãng, đêm tối bèn sáng rỡ, dứt có về không, trừ tối liền sáng rõ, đạo hiệp vô phương, nhân giúp cầm điểu, người mê chẳng sót, người biết càng rõ, siêu thay Pháp sư, đạo tánh tự nhiên, nhất tâm tuyệt tục, kỳ thành trọng huyền, nghiên cứu vi diệu thần phong, khéo ngộ không môn, trần chỗ chấp trước ở tột kỳ tổn hại, lụy đó đã dẫn, thưa bạch càng bền chắc, lắc rơi trần ràng buộc, lôi kéo vực linh, nghiêm túc trinh vận, lênh láng xung kia, gắng gỏi tiến kia, hòa mà khẳng khái, khác mà không cao, dùng tâm riêng được, nêu tưởng ngàn nhẫn, trống để ứng vật, không đến chẳng thuận, dạo khắp mở mang hóa đạo, rung tiếng vang nêu sáng suốt, khai đạo quán huyền mở rộng cửa linh. Vị chế thầm tột, mổ xe u mầu, quên lòng khéo rót, lặng nghĩ chẳng trái, hội thông các phương, gồm đó quy về, xa kháng thuận lưới, mở pháp vị bền chắc, nối diệu tuệ đây bèn xét oai thần, cảnh tối vắng lặng vào quán dắt dẫn, nhàn rỗi sâu xa khác một, hoa lăng xăng khó dứt. Ngài vẫn khái nhiên trong chế ngự ẩn xót thương, bói ở sông núi làm nhà rừng sâu, trừ bỏ duyên ngoài, ẩn tinh yếu thông minh bên trong, chẳng phải nơm không phục, chẳng vi diệu thì không cùng, rậm rạp Côn lãnh, đồi gò cao lớn, núi liền mây đẹp, hang xa ngoằn ngoèo, sân mát tiêu điều, quanh thềm ao trong, che lấp xa kia, trang nghiêm hư không kia, mờ xa gió màu, Tăng đồ trầm lặng, vị đạo nhà trống thần ở vắng lặng, tâm theo đạo thân, tình cùng tục sơ, đạo vốn không riêng lẻ, đức quyết có gần gũi, vực trong dẫn ánh sáng, nghiệp thù thắng nhớ người, tông phong nhiệm mầu, từ xa khách đến cũng có chỗ khoe.
Khi đến hỏi bến lẳng lặng không cùng, ngày ngày thần vương, rừng nhưỡng có cảm tạ, đạo tâm thường mới, thánh triết vi tuyệt, hiền nêu trái nghĩa che mờ ngọn vận, huyền hóa sắp thuận, phu tử yên tĩnh đạo tục quy tâm, ngõ hầu hưởng năm xa, nắm dây rụng đây, bằng đâu không điều, bỏ đời hằng xa, nghi cảnh về dài, chết rồi không theo, loài có thức rất thảm sầu, loài hàm tình đồng bi thương. Ôi thôi, thương thay! Đẩy kéo vấn vương, đột ngột chìm sâu tin xưa yên nhàn cõi thanh tịnh, hang tối nương hoa cỏ hoặc rữa giặt chỗ nước xiết, dừng nghỉ nơi trúc xanh, thường khởi danh thìn, chén rộng hứng cúc, lê, bưởi ngon ngọt, cây lác măng tre làm. Phú, thi, vịnh... rõ ràng đều đủ, lòng xuân dạo đây, tưởng đó ở mắt, thương thay gặp đây ngàn năm không gặp lại nữa. Bước xưa thấm nhuần khoe khoang, nhìn phần mộ mà buồn khóc, Ô hô, thương thay! Có quyết rồi không, ban đầu thì sẽ quy về chung cuộc, người hiểu biết khéo quán sát, ngàn năm một ngày. Người mê muội hoặc ứng hoành làm lành dữ. Pháp sư xa rồi, xưa trở lại nhà huyền diệu, siêng năng nhiều kiếp, không chóng mà mau, ngõ hầu tạo duyên thầm, trọn hội linh thuật, diệu hạnh phí chở là rất tán chất, tình nơi chưa tối, buồn vì tự mất, gởi chút lòng sạch nhờ gió màu chở thuật ô hô thương thay!
Đạo không tự mở mang, mở mang là do người, tục không tự giác, giác phải đợi thầy, đợi thầy cho nên đời có thời kỳ ngộ cao. Do người cho nên đạo có vận nhỏ thành, vận ở nhỏ thành thì bến linh liền chảy, ở thời kỳ ngộ cao thì nhiệm mầu có thể đến. Nhưng bậc Năng Nhân nhất thời đại thờ thầy ngàn năm, tà tâm đúng sai tranh khởi. Cho nên khiến linh quy ẩn mất, mối dây gần như lộn lạo.
Có Pháp sư Thập để lại lời dạy của bậc Tiên giác, suy nghĩ nghi ngờ phương lớn rong ruổi ôm quán sát cao, xét lăng trì của đạo Thích, tiếc cùng kiệt của chúng sinh, cho nên bèn thần nghi mau chóng, ngụ hình lý tục, buông nương sợ lớn là thời thành hào, đời đó ngu an thì giác dùng âm lớn, thời đem sáng tối chính là do mặt trời tuệ, tư kiết thuận lưới ở đạo tiêu, nối sợi rụng nơi cùng vận, cho nên nương thời để hiểu, lầm lạc để sửa cho ngay, một phen giữ lại thì thời gian không xen trước, lại đánh thì xa, quy nhân ở lúc này. Xe dê nay gãy trục, xe sáu vị giáo chủ ngoại đạo mất vết, nhiệm mầu hai tưởng đã rõ, thâm sâu của Nhất thừa cũng hiển, là do ngồi thẳng núi Đông âm vang chạy tám cực. Thản nhiên vui vẻ dạy dỗ mà chín dòng thuận suy nghĩ, cho nên hai Đại vương Đại Tần, Phù Diêu trở về để kéo dài nhân vương này.
Tâm dạo cửa đại giác, hình trấn trên muôn hóa ngoài nêu gió hy hòa, trong đựng thuật hoằng pháp. Đạo khế thần giao, cong làm hình trao. Ngài cho tông thầy không trọng thì đạo kia không tôn, cho nên chứa lòng thần báo cảm mà sau động. Tự hình Ngài ứng ở Tần Xuyên, như đuốc rồng sáng rỡ thần quang, mở rộng đại tông hy hòa ra phù tang, dung trị thường đạo tốt lại nhiệm mầu, đóng tà ngộ, thân kính cẩn đối với sự tốt đẹp của danh giáo, lời đã hợp thời, lý có viện hội, cho nên bàn luận chẳng luống khởi, đạo không luống xướng. Đây là trống pháp lại chấn động ở Diêm-phù, bánh xe phạm hạnh lại chuyển ở trời Bắc. Tự chẳng ngôi vị vượt tu thành tinh thể trăm lần luyện, hạnh chứa ứng thời, ai khế hợp được đây?
Tóm lại, kia vì mở mang giáng ở xuân dương, vì dứt hoạn nên khích lệ ở sương thu, cho nên vòi vọi mênh mông, vận cao không bờ, nhưng vận hẹp khởi tối, như người nói là xế chiều (tuổi già).
Năm Quí Sửu, ngày 13 tháng 04, bảy mươi tuổi ngoài, mất tại chùa lớn. Ô hô! Buồn thay! Thầy đi về Tây, trục linh gãy mé đông, sáng rơi rụng ánh quang, núi báu sụp lở, trời đất mờ tối, xe mê xoay chín, vòng, cửa thần lại đóng, ba đường tranh nhau mở, ánh sáng đêm đáng tiếc, mất rồi tiếc thay! Cảm trời đất, người trăm lòng như một bên làm điếu rằng:
Tiên giác đi xa, gió linh mờ tít, thông tiên ẩn mất, ứng chân mờ mịt, rậm rạp chín dòng, đúng sai tranh khởi. Dạo xa mất rồi, thần căn chìm mất, đời không có kim chỉ nam ai biết qua chỗ tối, bậc đại nhân xa giác, u hoài riêng ngộ, xung ngộ lặng im ôm nhiệm mầu trong trắng đây ứng thời kỳ đến chở, liệng cánh nơi trời cao đã nói là ứng vận, nên đúng thời trông mong. Thọ sinh nương lợi, hình nêu tướng lạ, tuổi ấu thơ tài giỏi hơn người, lúc còn nhỏ khỏi lường được, suy nghĩ không lại trải qua, ngộ không đợi thầy, chân bước tám Chánh đạo, thần đi ba hướng, gốc huyền diệu duyên dáng tốt tươi, âm rộng xướng xa. Lại do kháng tiết bỗng bỏ vinh hoa ở đời theo cùng cửa đạo, tôn trọng chay tịnh, có kinh điển thì tra cứu, có điều mầu nhiệm thì biên chép, hoằng không tự thế, tông không suy nghĩ tộc họ. Sương đóng như băng, thần an như núi, dấu vết ngoài càng cao, trong sáng càng đủ, vận cao lồng lộng, đáng làm khuôn phép đáng làm nhân duyên. Trầm lặng xung đức chỉ có chân diệu, tịnh để thông huyền, động để ứng nhân, nói là báu ở đời, im lặng là quý báu của thời, phong hoa đã lập hai giáo cũng là khách ai cho là đạo tiêu? Huyền hóa phương mới là giáo của tự Ngài, đạo đều mở mang giáo hóa, gió linh cửa xa, tiếng vang vượt hẳn vọt lên cao, mở rộng phương lớn này.
Nhưng đèn tuệ này tiếng đạo mới xướng lưới tục liền rách, gốc nghi càng nhổ thượng thiện càng thêm, người ở tục đường kia không phương hướng, tất cả quần hữu này, cái khuy của lưới lủng đây, thuận dùng bốn ân, giáng dùng sương tuệ, như Duy-ma kia dấu vết nơi thành phường, hình dẫu viên ứng, thần xung hướng về vua đến giáo chỉ có diệu đâu đủ để giấu, lớn thay đại nhân!
Chấn thạnh viên đức nêu danh tướng này, hiển xung mặc kia, dùng chung các diệu, ước dùng huyền tắc, mới thạnh Bát-nhã để ứng trời bắc, thế nào khó chở. Thôn tối thầm khắc, đường trời ai thông, ba nẻo ai đóng, ô hô thương thay! Chí nhân vô vi mà không đâu chẳng vi, lưới quyền lồng xa, lưới dài không thể chẳng xa, thuần ân dưới lưỡi câu khách lữ trên bắt giữ, thật thà khéo dụ, nghiêm túc gió đuổi, đạo có công năng thay đổi thế tục, hóa có thể đổi thời, đâu ngại trời cao, bẻ gãy linh quy này, chí chân đã qua, một đạo đâu lập bày, trời người thương khóc buồn động thần linh, ô hô thương thay!
Ngài đã mất, thời chỉ có trăm sáu, đường thợ đạp cân, bánh xe phạm gãy trục, triều dương đổ bóng núi Quỳnh nghiêng đổ, vũ trụ tối tăm, đã mất mắt đạo, thương thay cho chúng sinh ai vỗ về ai nuôi nấng, khắp trời buồn cảm, tôi thêm rướm máu, ô hô thương thay!
Xưa ta một thời từng dạo sông nhân, tôn các sóng kia, biên soạn hư huyền dụng đó không cùng, khoan đó càng cứng, mặt trời vọt lên tuyệt, suy nghĩ thêm mấy năm, tình vi diệu chưa bày, đã theo hóa dời như có thể mua chuộc, lẫn lộn đó cả ngàn thời không thể đợi, mạng chẳng thể kéo dài, chỉ có thân người, chẳng nương nhân duyên, rong ruổi đất trời, tình buồn trời lồng lộng, ô hô thương thay!
Tháng mười một mùa Đông năm Tân Mùi niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một, Pháp sư Pháp Cương mất ô hô thương thay!
Chót vót lập phương, mạnh khỏe đã thương tổn ở thông nhâm, thấp theo viên tỷ lại thiếu cương khiết, ở núi giúp tệ khô héo, ấp thôn chỉ đến hoạn ồn ào chật hẹp, chước hai tình mà chọn hai việc, Pháp sư kia có đủ. Lúc nhỏ dạo kinh hoa, lớn dừng ở u lộc (chân núi), vui chí ra vào, nương tình qua lại, khinh nhàm nhân lưu, rảnh đến với cây đá, gò hang vắng lặng cầu quán nơi vật loại, người cho là không có tiết tháo lạ kỳ. Tôi thấy Sư thật vậy, thiên tánh thông minh, hun đúc dần phong vị, theo dung tình lý, thường nhờ văn nghĩa, giao du người đôn hậu, hiển bày hoàn toàn khế hợp, tiến đến kính mến đạo ngoài, chôn thân pháp phục, châu anh lụy sớm dứt, ngón chân ngang ngửa thần cương, trở ngại đan xen, xưa phán huống chi dấu vết uốn nắn tang môn, huống thường nương nhờ.
Xưa do tình cờ gặp gỡ giao du, đồng dùng trừ bỏ, càng khế hợp quần chúng rải lòng duỗi bỏ bực tức. Để đến năm nay bèn nắm tay dạo nơi Lương bắc, cánh dừng nước Đặng, ăn gió hang trống ôm đạo bến màu, sánh vui đồng yến tiệc ngàn năm một thuở. Từ rừng liền chim tan, am nhà bỗng đầy kỹ, ông gần cành cao, tôi chìm bùn đục, thường nhờ dự đoạn gặp chỗ sạch sẽ bèn thành riêng biển núi cao mát, sóng đông lớn phí phục, cảnh Tây chớ có thâu, đến tận sông chinh chiến trở về cốt ở gò, ô hô thương thay!
Ngài họ Ân là con cháu nhà Thang, tiếng vinh là trung vi, nguồn dòng chiếu sáng. Lúc nhỏ gặp Mẫn Hung, tông không người kế thừa, từ kết kinh doanh, nương đây nuôi dưỡng, đến ba năm, năm năm, thông minh đỉnh đạt đều kỳ lạ sánh cùng bậc tài giỏi. Kết đội La Tề Dĩnh, chí hẹp giữa khu, suy nghĩ chọn thần cảnh, chợt lạc sinh gần, kính mến duyên lâu đã theo dầu màu, hiểu rõ danh tích, ngoài nhân nghĩa thông suốt chẳng lầm, nhà dục chẳng theo, ngồi để hội đến. Chẳng nương cửa châu, xét dự đoán như vách núi, đến chẳng chậm chân, đi không tuyệt cảnh, bay lên bay xuống lên mất, tới lui tổn ích. Tôi ghét sóng nổi, ông có thể tức tâm đều tường tận đạo sâu, đồng nhóm rừng đức, đều vung gió hòa, cùng lắng nghe âm thanh mầu nhiệm, từ cung đến nước ở mắt ở tai, đến hóa dài xa, khiến suy nghĩ trầm ngâm cũng đã lìa bỏ. Thiên đạo sáng rõ, ông ra núi xưa, tôi lại xa dòng họ, ngõ hầu nương hòa vận đồng mát cùng nghỉ, tro lạnh bỏ khói, lá rụng lìa cành, trái nguyện chớ theo. Ông bèn tạ thế, người nói rằng chết, gió mong che ngăn, ô hô thương thay!
Đông đen băng giá, bờ sông tiêu điều, gió lạnh bay màn, bay sương vào thuyền, mạng có gần dừng, đường về còn xa, buồn rầu liền hết, vắng lặng đau thương, cô lữ như mỏng đều hóa không áo rộng, ô hô thương thay!
Lòng dạo ở Hổ Khâu, truy điệu thầm diệt ở núi Lô, chỉ chép nhặt ở Trung kinh, niệm dắt dẫn nơi phiên cảnh, tình phiêu diêu nơi song loan, ý nghĩ quấn quýt nơi hai tỉnh, đâu vấn vương vô cực, tâm chứa nghẹn hơi, xem đông lạnh đã tàn, nhờ thạnh nóng đã dứt, bốn vận phân tới lui, tình hẹn sâu xa để dài che đậy, nếu duyên đến thì chẳng mất cuốn tuổi đời để thêm suy lường, ô hô thương thay!
Tháng mười mùa đông năm Canh Tý niên hiệu Nguyên Gia mười một, Pháp sư Đạo Sinh tịch ở Lô Sơn. Ô hô thương thay! Người lành cáo tận, người tiễn đưa đau xót không cạn, bao hàm lý gọi là diệt, như tiếc lại sâu. Pháp sư vốn họ Ngụy người ở Cổ Thành, cha là quan huyện Quảng Thích. Lúc nhỏ rất lạ kỳ, dắt lên Pháp sư Pháp Thải liền đổi y phục theo nghiệp tu trì. Thiên tư thông minh, tư ngộ đỉnh đạt, chí học đến năm liền lên tòa giảng pháp. Lúc bấy giờ người mong Tăng đạo có tài nổi tiếng đều cùng lời khâm phục tinh chí kia, Lỗ vận khuất phục Điền Ba, Hạng Thác hàng phục Khổng Tẩu, cũng không hơn đây. Thêm do tánh tịnh mà cứng rắn khí hài hòa mà dễ tôn, hỷ xả để dẫn dụ, cho nên vật càng trọng. Trung niên du học rộng tìm tòi điều hay lạ, từ Dương đến Tần, bên Lư đạp Hoắc, tôn thú Đại thừa của La-thập, yếu chỉ tiểu đạo của Đề-bà đều xướng bày ý chỉ, nghiên cứu nêu sự sâu xa kia, chỗ nghe mỗi ngày suy nghĩ chỗ thấy càng thâm sâu, đã ngộ nói rằng: "Tượng là chỗ nhờ nương của lý, chấp tượng thì mê lý. Giáo là sở nhân của hóa, buộc giáo thì ngu hóa", do đây gạn danh trách thật, lầm nơi luống dối hoang đường.
Cầu tâm ứng sự, mê muội cách ngôn, từ xưa tương truyền thừa học của Trung Hoa, chưa ai có thể nói ra lời thành thật như thế. Bèn thâu mê riêng vận để lại di tích, vì thế các kinh vén mây quần các nghi nước Thích. Ý chỉ của Thích-ca đạm nhiên có thể tìm, lời quý báu đều thành luận chung, Đam Chu bày danh giáo, Tú Bật lãnh tâm huyền diệu, ở đây là dễ, vật kỵ quang dĩnh, người vết tỳ trinh việt. Oán kết đồng phục, khéo đổ bầy du động, bèn rủ cánh kiểng chân, cảnh trong hang núi vâng dạy chí đạo, đến dấu Ngu Công vết lên thuyền, có xưa không quy mạng tận núi Lộc, buồn khởi ở chốn kinh kỳ, ô hô thương thay!
Sông Tứ, sông biện trong sạch, cao vút Lữ Lương chỉ là thục linh, nuôi sáng đẹp đây, như cỏ lan, như ngọc cẩn của đá, chẳng nói rằng huân điều thành thơm tho sặc sỡ. Ban đầu chí học phục ứng vết máu, qua tai rõ tâm, mở văn điều hóa sách, nếu lên giảng chẳng chương không chiết, khéo dùng lời ước, phất còn lời lại, có hiểu biết khâm phục thừa lịnh, nhàm là tìm tòi sâu xa.
Trung niên nghiên cứu giáo điển, lý trước chưa tột, dụng là du phương cầu các điều sâu kín, dẫu gặp nghe điều khác nhau càng giác ngộ cùng gần, cùng đường không trở về, xoay chuyển đổi xót thương, trừ bỏ danh tích, mở mang sự biểu, đâu trệ chẳng thông, đâu phải tối tăm không hiểu. Nếu ra khỏi triều cầm sáng kia rực rỡ, bốn quả, thập trụ nhờ đó bay lên, đổi đó ngựa trâu, khỏe đó chim cá, ai gạn thật đây? Phí mê đạo này? Am lưu đạo này? Bảo ông dạy rằng: "Đạo thành thật ở đây", các người nghe đều phải xét, không riêng chống chọi nhau, tiêu hủy đa văn tôi cho là không hại, khuyên khéo tuyên truyền, biết chung sức trinh thành, thấy dạy dỗ ồn ào, âm thầm bỏ lớn, nghỉ đây vọt miệng thêm dừng hoặc anh, chạy xa đầm tre theo nguồn suối suy nghĩ, không ngại sông gò, ngõ hầu nương nhàn rỗi nói rằng: Người nhân thì sống lâu, mạng là có treo, không hề lâu xa, cỏ lan cỏ tôn liền loại, khí thương tổn cả đôi, ô hô thương thay!
Niệm mới lìa ba thu cái chiều, gió túc lưu tình, mây cao rừng sạch, tống biệt bốn Nam, giao tay chia đường bỏ đi mờ mịt, đau đớn tình đoái hoài, ai ở ẩn mất đều theo sông ngân, lo nghĩ là xa trái, khác thành hằng xen lẫn nhau, ô hô thương thay!
Nhớ đến gió đó bặt âm vang tiễn đi, mây đó đâu có nhân, dằng dặc ba tông đã từ tạ, chuyển hiến tuổi ở xuân này, nghe dương cầm vui vẻ, ngắm khói thần khí dày đặc, niệm tường tự ở tháng này, tin tập nghiệp tốt đẹp, ẩn giảng đường không thấy, xót xa tòa cao trống chẳng nghe, khen nhân sự để khoe lý, buồn duyên tình do nhớ người, ô hô thương thay!
Thiên đạo mờ mịt, tin thuận đáng suy tìm, lý không tiêu diệt ngõ hầu đều đồng về, thân yểu đáng lược, tình niệm đáng để lại, chương ngắn không rộng trải truyền bá, liền để buồn thương, ô hô thương thay!
Hiệp lực lý đặt luận, bá gia chưa thấy phải kia, nhân tâm tự rõ, một mình không bịnh hoạn vấp váp kia mà trọn biện nhau. Nếu ta đều muốn lật chìm được cứu rốt cuộc biết là ai, nhờ hành tích lập thì thiện ác chẳng gạn, tiếng dục truyền danh thì huân tốt xấu đồng hết. Nhưng ý chẳng phải chỗ khuất phục của thân, hẹn nêu ra kỳ hạn của mạng mắt thấy như người. Tuệ tâm sáng biết, phát ra lúc ấu thơ, sống tự bẩm thọ tinh hoa, gia đình suy kém vàng lụa lại thêm do khéo nương gởi hiểu tơ trúc, bọt dứt cảnh ở ngã tư đường, lộng dây đàn tiếng trúc ở quán hoa, chẳng luống qua tuần hợp sóc càng thêm trải qua năm tháng mà thôi. Thiết nghĩ Triệu lý đều nêu, Trình Trịnh đến ấn, đã hằng đêm ngộ riêng, giữa bữa nói lời than: "Than ôi! Buồn thay hân nhàm kịp đến, đều về lo khổ". Không chấm dứt gốc kia, siêu vượt ở đâu?
Vả lại ba cõi chìm đắm, chư Thiên đều nháy mắt, huống chi Tề Cảnh núi Ngưu, Triệu Võ mong mát thôi thúc tiết vật, sương móc ép ngặt, suy nguyện này nói y đâu thể lâu dài. Khẳng khái gọt bỏ vinh hoa, gồm giúp vật là chí của ta. Mẹ khoe khoang tâm kia, chị em bày tiết tháo kia, theo nhau đồng ý. Xuất gia cầu đạo một đời đã vậy, đóng cửa lìa đời vợ con dứt hẳn, hoan lạc hằng bỏ, đâu chỉ là từ hẳn chẳng vui. Phán đó đầy năm trọn xưa ân ái, ngày nay ràng buộc. Ghe lữ khách ngược dòng Nam đến Cảnh Lư Nhạc, một phen lên cửa đá ngọn Hương Lư, sáu năm không xuống núi, Tăng chúng kham nhận sâu xa kia. Pháp sư không đổi tiết kia, niệm cứu vật không cho ở tự kháng cự, bạn đồng học bị bịnh, chống gậy muôn dặm cứu giúp. Tôi khi hết bịnh ở núi Đông, theo gió động ham muốn, đâu mong người hẹn nghiêng du núi gây ra, Pháp sư đến thì ngay, người hèn nhọc mệt, thi trước bày thô đã nhờ đó cho nên không còn phiền, đến ở giữa ngược núi thành thuyết, hết nghi thì được, tiếp nóc chồng bờ đều nén suối xa, nếm chi thuật mà cùng ăn, mở lời pháp mà đồng cuốn. Lại trải qua lạnh nóng chẳng gặp núi Dương chẳng có dung mạo mừng giận khiến y một phen sắc tiến rồi, thật minh ngộ sâu suốt, gột rửa tay áo gần đai, nước sôi bỏ cấu mỏng, ngày quên bịnh kia, ngõ hầu đầu bạc đồng ở mà trái lìa không tượng, tin thuận chớ quy về gạn nhóm duyên gì, tiết chiều lo hiềm khích xa thấy tham cứu tìm tòi đến dứt trở ngại âm trần mới dứt. Gặp nóng làm bịnh chưa đến một tuần đã mất, thật mạng còn mất, hạnh này rất thật có lý do, nương hung cảm đau đớn, là thường tình, giấy mực mấy thời chẳng để tên này, bởi khâm phục chí tiết theo lâu dài bình sinh tự không thể im lặng cho nên bỏ lòng viện bút lời kia rằng:
Ngước tìm hình thức, cúi xét lý loại, lượm tiếng biết luật, nhổ cỏ tranh thấy con nhím, vật cho là linh dị, người cho là trí quý, tức là thần minh xem xét ý vị, ban đầu ở tao nhã, tuệ tâm xưa xét, cỏ hoa đâm chồi rút lại, lòng ôm ngày tháng như vườn lan kia, gió hơn khí vượt như trời con, vén mây phát sáng cầu danh hẹn thân. Khích lệ tháo đông rồi, thảng hoặc ngu ở đời, chưa hề gần giống, sống do ý thái, ý quản sinh lý, ai là mừng vui. Trình, Trịnh, Triệu, Lý, nhà chứa vàng lụa, tài luyện nghề nghiệp, ngẩng đầu phung phí, nhiều dây lụa đẹp, rượu say giọng nói ngắn, ý đẹp áo quần xa xỉ. Sáng ép cảnh hoàng hôn, chiều kỵ các sao, dạo chơi ban ngày, lạnh buốt đêm dài. Năm xưa mừng dòng, nhàm đến nhà, khổ vui xoay vòng đợi lúc chết đi, bỏ mà lại đến. Sống mau danh mượn ai có thể đổi đoạt? Thuật gì đổi dời? Tinh thô loạn giúp, thiện ác so le, tức tâm có hạn, đối với lý chẳng phép tắc, thử hạch xét các quán ngõ hầu được chỗ dòm ngó. Đạo gia thất bại, các dòng thiếu xa giả danh hằng là ai? Bên nghĩa đâu ngược có riêng gồm quên, nhân tâm thì lành, tổn vật trầm mê, tham muốn rong ruổi kia, luyến phục kinh đô, chống gậy lên đỉnh Lô Sơn, từ chối hẳn vinh hoa, dứt hẳn núi tối, nhà đẹp rập khuôn, bỏ phiền hà đến đơn giản, người khổ nạn kia, ông lấy tịnh kia, tối đó thấy sáng, tức ngu thành tuyệt, trí đó thưa tình, đối lý nhuộm đen này, tiếc rẻ đã phí bỏ, vướng cũng đâu cứu, ông đó khoe khoang là không khổ tiết, tiết khổ ở mình, lợi trinh còn kia, để rõ sáng mờ tối, để từ với bọn lụy phiền, muốn dùng cứu giúp vật, trước nên cứu ở đây. Phát đau xót trái tình, trọn vậy lý phải. Lương Bằng dẫn vợ, Hà Điều gặp con, gà Tần tiếp người, hạnh ca thông rồi, ở đời nói là cao, ở đạo khác thấp hèn, đợi đến gặp Pháp sư riêng tuyệt thần lý, hình thọ dễ hết nhưng bằng lòng khó dừng phán, thừa tâm liền hóa, bỏ thân chẳng than, mến đạo càng gắng gổ, cảnh mạng đã yên, khoe vật từ núi, dứt hẳn lữ quán, ô hô thương thay!
Hồn khí theo đó kéo dài lăng mộ đã rõ, diều hâu, dế nhủi đồng thí, vườn sơn hiểu được, ô hô thương thay!
Dằng dặc niệm bình sinh, đồng tối chung sâu, dẫn nhau qua ban đầu đều là đến bến, mở đá thông suối, chọn kha rừng sớ, nhìn xa lớp lớp, gần thấy gập ghềnh, sự ít đất rãnh, tìm vi tế xét sâu xa, câu nào không nghiên cứu, nghi ngờ che bỏ, mở sách cuốn trục, tạng vượt nếp giấy, hỏi qua đáp lại theo ngày hết đêm. Trường Thư, Kiệt Nịch cùng nhau cày ruộng, Bá Di, Thúc Tề chung rau vị, dầu đồng tâm vui, sự khác ý trái, nương bịnh đốt lòng, nghe hung dữ buồn rầu, ai nói rằng không đau đớn? Giọt lệ thấm áo ô hô thương thay! Ô hô thương thay!
Đi lâu tiết dời, bên đất đổi khí, cuối thu giữa Đông, đạp quế đến biển, thường nghĩ doãn nhân, nghĩ sâu tình gấp bội, cúi tạ thường nhân, ngước quỷ không đợi, ô hô thương thay!
Đạo còn một mối cho nên khác đời đồng sáng, đức hợp lý diệu cho nên khác nơi đồng đến. Thích Công chấn động gió màu ở cửa đá, Pháp sư nối ngọn dòng ở Giang Tả, nghe gió mà vui, bốn biển đồng quay về. Ông bèn hoài nhân núi rừng chí cầu ở ẩn, vì thế chúng Tăng mây nhóm riêng tu tịnh hạnh, đồng pháp ăn gió dừng chậm cửa đạo. Đáng gọi là hiếu ngưỡng năm trăm, nối gió Xá-vệ, ngọn Lô Sơn cúi truyền âm Linh Thứu, mênh mông chưa hề nghe. Tôi tuổi chỉ học mong cuối môn nhân, tiếc thay nguyện chí thành bèn bỏ, trái hẳn đời này. Tuổi tám mươi bốn, ngày mồng 06 tháng 08 mùa thu niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ mười ba ngài thị tịch, tuổi vọt buông tâm, công theo thân mất, có trước đây sau ngàn năm rủ ánh sáng ô hô thương thay! Bèn làm bài điếu rằng:
Xưa ngài An Công Đạo phong đầy đủ Đại pháp sắp hết Lưới đổ là gởi Thể tịnh dứt động
Nhớ chân sửa ngụy Dùng hiếu thờ Thầy Lấy nghĩa nuôi trò Mở rộng pháp Phật Rưới khắp mưa pháp.
Cúi trao Pháp sư, oai nghi đầy đủ, học không dòm phên, xét không ra cửa. Lúa thóc dầu ngự, làm riêng cây dương, rõ ràng nhà cao nghiêm túc pháp đình, đã nghiêm đã tịnh, càng cao càng sạch, theo dung âm chỉ, tài giỏi nghi hình, rộng diễn từ bi lợi ích chúng sinh, đường đường khí kia gắng gổ giúp kia, gồm sừng vị đạo, bỏ thân theo thầy, cúng dường Tam bảo, chẻ bỏ nghi ngờ, thạnh hứa cứu giúp, nhân đức vui vẻ ở đâu hỏi đạo, bốn biển nương gió, có tâm mang theo. Giới đức nuôi thân, tiếng tăm vang xa, năm trược tạm hưng, hoằng đạo khen ngợi càng trống càng xung, mười sáu Vương tử, Nho Đồng Tiên Giác, Ngài cho xuất gia. Tuổi chưa chí học, như Đặng Lâm kia, cam lồ thấm nhuần, như ngọc quỳnh dao đã mài đã giũa. Đại tông ngược lên, tòa chúng nhóm rộng, bèn đến cùng nhà, chùa linh lại lập, xưa mong nghiên cứu, mới học thời tập, Ngài và Trí Húc cùng nhau thân thiện bèn tu La-thập Tông mong giao thái bèn dẫn thiền chúng, thân nương Tam-muội, điều tốt hợp chảy, thật cao thật lớn, cung kính đạo đức, vượt hơn lợi hại. Trời đất chung chăng? Núi lở biển cạn, mặt trời mặt trăng mất ánh sáng, ba quang chìm ánh sáng, các núi đổ ngã, vận sóng giữa kết, nương hóa rủ mối, gió vi diệu thường diệt, ô hô thương thay!
Sống đều xung tố, chết thêm đau xót, đơn trập quách đất, chỉ bày đồng kiểm hài, người trời cảm thương, Đế Thích thảm sầu, tập tập để lại gió, nương dựa thêm lạnh buốt, buồn thay Pháp sư, trọn vậy là dừng, nhà không dừng vang, đường có rộng bước, ô hô thương thay!
Cây thẳng tan ni, buồn đến sáu năm, kính mến Thù, Tứ, cúi sợ nơm bẫy. Nay học trò ông, thật đồng khó này, sớm quét phòng trống, chiều khóc núi không. Ô hô Pháp sư, lúc nào trở lại, phong tiêu, trúc bách, mây đầy ngọn núi, sông hang như khóc, núi rừng đổi sắc, từ xưa nghe gió chí nguyện quy y, núi sông đường xa, tâm qua hình trái, trước sau ôm hận, duyên xưa nhẹ nhỏ, An Dưỡng có nương, Diêm-phù không mong, ô hô thương thay!
Phàm đãi vật mà dạo chơi có ra dụng sinh ngoại đạo, đến tự ngã ôm ấp mà vui, cho nên Hối Bảo dừng chân thật, dẫn đường cùng xe để ra khỏi Ngụy, Loan chạy trốn mối mây, đâu thêm xe hiên để vào Vệ. Là do người ngạo tục còn riêng đường kia, dân ở chỗ tối không buồn một mình sao, ta thường tuyên thơ dòng xưa chiếu rõ, cho nên đã kiễng chân cảm vịnh, thân tâm không đủ bèn xung riêng vận, tuổi nhỏ mà cao, khí vượt núi, chí sớm sẽ bay xa. Ban đầu dừng ở Lô Sơn, năm mới cạo tóc chí xa dằng dặc thẳng cả ngàn dặm, bèn cầu bỏ hình đến đạo quên nhà vào pháp.
Bấy giờ Sa-môn Thích Tuệ Viễn dẫu biết kia cao rất cao, mà vì còn nhỏ nên chưa chấp nhận, bèn lên đầu con suối Thái Dương, đến chỗ trống nhảy vào chỗ hiểm, dùng thân đổi chí, Pháp sư cho là kỳ lạ bèn thâu nhận. Mạo muội hoa bay liệng, nghiệp đời sau nhóm trắng sạch, đường tắt chưa nghiêm trước gió khổ tiết, đồng học không kể xiết sự nhọc mệt kia, như người không đổi tiết tháo kia.
Bấy giờ kinh tạng mới đến Đông độ, học tập hoa đá bèn bỏ đường muôn dặm thường dạo hàm lạc. Định tuệ hiểu nhau có ra dụng nhỏ nhiệm hàng ngày. La-thập đã mất, Tuệ Viễn cũng không còn, bèn trở lại chốn xưa đóng cửa ở trong núi sâu, không ra khỏi núi Nhã-na, ở đó hơn hai mươi năm. Dư Thúc hết bịnh trở về chỉ tưởng gió dừng, Pháp sư nương cảm đến chơi, nhóm tòa bàn yến, trong sạch tạ từ nói xong không chia biệt mà chia biệt, cho nên đã nói nín giao suốt mà động tịnh luống tròn. Gạn người có đầu lớn giỏi điều khéo chọn, thần ở chung buông thả, gió lý giao dung, bèn dựa núi thành hiên, dừng rừng mở quán, tức người này nhân ngoài tâm khế hội ngược, sông Tây sóng mới núi Đông đã đổ xuống, gió mây đã hết, cây còn buồn tâm bi ai, nước mắt không dứt, ô hô thương thay, bèn làm bài điếu rằng:
Ở trên còn vua
Ca phụng ông hạc
Chạy nhanh mây liệng
Hiên cao hạc kêu
Nguồn linh dòng đời
Người tối làm đời
Ông về đến đây
Bước xưa vận nhọn
Kết dấu nương gió
Vâng theo chịu nghe
Ngọc ngang thì mát
Vàng ngọc đây chấn
Tuổi học còn nhỏ
Năm đầy thường mới
Khiến đức đã cao
Tài giỏi chỉ khởi
Cao nhọn muôn đời
Gió nêu ngàn dặm
Tình ái tướng nhẹ
Nước nhà như cỏ
Hiểu người thông minh
Riêng buông huyền báu
Gồm nương bảy giác
Bay vượt tám đạo
Ba sông yên lặng
Lặng hơn Lô Sơn.
Đất cách muôn vật, dấu phép tắc từng nhiệm mầu, mênh mông tuệ trong sạch, kết nhà nương khói khu trước các cõi, đầu đường người trời, chúng ta chế dung nhóm gió mát kia, nghiệp chảy lành nhóm, tình trang trọng nhiệm mầu đồng, xuân thượng ngày sáng, trăng trong giữa thu, gang tấc không đáy, trời đất có thể cùng, vượt La-thập kia. Ba cõi đặc biệt tốt, chân tục mũ miện, thần đạo lãnh tụ, như người đối tiếng vang, nương xe liền vết, dệt lạnh nơi sa mạc, gió dài gánh tuyết, bỏ tay áo vào băng sương, buộc quần tiết chiều, ai đây hỏi bến, vằng vặc ở hiền triết, áo trẻ, đai già Khổng suy nghĩ, Chu nhớ mong, trăm thời như một. Kinh chở riêng mở, ngực đất đã đầy, cúi xin vỏ phách dời đây không sinh, xót xa ở chiếu cây, khéo vào trong vòng, đạo xuất trên thân, cái gọi là y nhân, đường màu sáng riêng, trí trống ở tình, chiếu thật tướng kia, sống trụ vô trụ, khác hoại tìm nhau, La-thập về cõi xưa, Tuệ Viễn bỏ đời nay, thợ đá vận gì, Bá Nha bỏ âm, ân ái trốn theo. Xưa vòng mạnh tâm ông, núi Đông mở dấu vết, tiêu cảnh Nhã-na, màn sớm đầu gió, chiếu xuân mây che, sân lưu kết cỏ, lại cồn ngậm sóng, trăng hiên đẹp phía Đông mặt trời lặn xinh phía Tây, tình bước không lời, ngủ khởi cao tuyệt, mây trắng đến tháo, gió mát luyện tiết trải qua năm đường, đi ngang sáu thú, bốn đế quy tưởng, ba thừa chung đường, sinh diệt ở pháp, các hạnh khó lường, người hiền hết củi, lửa xưa dời ánh sáng, ngày sáng chìm mê tối, giữa xuân nổi sương, ô hô thương thay!
Xưa tôi tóc đen, sớm yến tiệc áo xanh, đưa chí chẳng phải năm, rước vận là tâm, nhà nghèo cha già, cày cấy mà chẳng đủ ăn, đến hịch theo vui, thân sạch riêng yểu. Đã cách ở hình, luống thông dùng đạo, tự ngã theo bịnh, đài cao núi Đông, trăng sáng đường vắng, mây trắng đường yên, nương thông gầm hét, trên gió dũi lời, hỏi tôi bao tuổi, xưa ở Lương Tuấn, y nhân trữ quán, dòng tâm rót vận, thế nào cao sáng, cách thành sáng tối, năm giây tán lộng, ba chén ai uống, ô hô thương thay!
Non suối đồng bỏ, thông trúc buồn đau, sương móc sớm mùa thu, lạnh buốt đêm đông, ô hô thương thay!
Cáo, vượn, toan suy nghĩ, xa ứng thời nghe, rộng mở tánh phẩm, vô tánh là ai? Liên đài thành cỏ, so sánh quán chỉ buồn, còn mất đã thay thế, việt sắc đau thương, ô hô thương thay!
Chúng sinh mất người hướng dẫn, muôn vật không chỗ nương, mát sai lầm đến đêm, trùng dương liền sáng, ô hô thương thay!
Y tứ mong đó mênh mông, lòng đau đớn thương xót, dẫu nước mắt đến đó có điềm, vốn buồn lại kia không điềm, ẩn dài suy nghĩ do buồn than, tha thứ dọc ngang ở lời lẽ, ô hô thương thay!
Ngày Giáp ngọ mồng 08 tháng 05 niên hiệu Duy Kiến Võ năm thứ tư, Sa-môn Thích Huyền Vận qua đời, thần bỏ nguy thành, ô hô thương thay!
Pháp sư vốn người Tiều họ Thạch, ngụ ở Đôn Hoàng. Lúc nhỏ bẩm thọ thông minh tánh tình nhân hòa, lớn bên ý rộng đức cao, chân thật thẳng thắng, xưa xem đạo thù thắng, bèn bỏ thế tục, vượt ngoài ràng buộc trần ngại, rửa cảnh bến huyền, dựng lập đạo pháp, đều do tuyệt nghi luật, tinh học diệu mầu thể vi tế, hạnh ẩn nhân mờ danh, tan chứa thí quên tướng, không đức mà xưng, ngày đêm tươi tốt, bày thuyết tốt đẹp vào lúc này, lý tư quan mũ ở giữa đời, chúng kính ngưỡng từ xa mà đến, trống đến thật về khắp nơi dấu vết. Vua, hậu, hai người tôn quý, xét anh tài trọng đảnh lễ, đều vái đạo tôn thầy nhìn dâng cung kính, mà rộng lượng sâu xa không cho sang hèn khác nhau, ngó ngoái lại kia.
Sửa sang sâu xa không do nóng lạnh phẩm kia ôm ấp, cho nên gồm tông tượng, cuối sùng chấn dòng lở, Pháp sư là người như vậy.
Duyên dạy rộng có hạn, ca tay mang sẽ hết, gió lửa bảo gạn càng thản nhiên sáng nơi thức nguy, thánh linh diệt hiện thường cung kính vui vẻ ở cáo tiệm, thọ sáu mươi chín tuổi, ô hô thương thay!
Ngoài bẩm thức nghẹn, trong hỏi phách thảm thiết, kính đề vết xưa làm lời phù phiếm, điếu rằng:
Trệ đời rộng lớn
Biển khổ xa rộng
Che dục đậy tu
Lưới ái mở rộng
Đèn pháp không sáng
Trời tuệ bụi mù
Nhà mục đổ ngã
Lửa dữ nổi lên
Hai nghi tiêu hủy
Tính kia có tuổi
Ba lần chuyển rộng
Kiếp không ai tính
Theo tối chống sáng
Chìm sông chẳng cứu
Tiếp gót đã thưa
Là giúp mạng đời.
Ngày đản sinh bậc thông minh hiền triết, giáng linh tự duyên, hòm nhỏ chứa đồ, có nêu tuổi nhỏ, thần cơ vất ấu thơ nghi giám sớm đọc, dụ như ngọc mới sáng, như châu mở suối, nhàm lìa trần tục ô trược, siêu ngộ nhiệm mầu, quyết bỏ ngu si ràng buộc, lóng dứt tình trái, tuổi nhỏ tánh thẳng, lúc bé theo thầy nương phép tắc, xét nét cung kính, sửa oai nghi khuôn phép, chỉnh thân trong sạch, lặng sạch chân chánh tâm hạnh, học tập nguồn bí mật, hỏi tốt lý sâu xa. Trước ẩn dụng chiếu, nghi xưa đây soi, thợ thất lạc, công không phục tùng, tư tưởng cao, nghiệp đầy. Cho đến trung niên, rộng sâu mênh mông, luận nói pháp không, mây quét mặt trời sáng, nương ngã tư như di, mở ngăn trệ tự như mở cửa, phẩm loại mênh mông, cách thức là kính ngưỡng, sông bên phải chấn động, sông bên trái nêu xinh đẹp, tiếng nhân đức tuyên xứng duyên đạo giàu, cất nhắc, khen ngợi, hỏi han tìm cầu, vui vẻ chọn lựa nghiên cứu trao cho, nhân hậu như đất, chí cao như núi, dừng ăn đến nuốt, bỏ bông tơ khoe lạnh, chứa mặt trời không dừng, tiền tài để thí hết, thà hèn sắc mặt ngạo nghễ, chẳng sang mà dung nhan vui vẻ, rất vui mừng như vậy, đều nhờ cỏ lan kia, dạy cho chỗ thích hợp, thức mờ đây sáng, trí chỗ dẫn dắt, việc do tâm mà thành, tiếp mờ mịt, hàng hóa tốt, vỗ về mê tình tha thứ, nương vi tế thỉnh cốt yếu, đều cùng nhau hưởng, đường hiểm hằng xa, khai dẫn có tột cùng, sinh diệt vẫy gọi nhau niệm niệm chẳng dừng, năm sang ít lưu, ánh sáng phía Tây thay nhau ép ngặt, mây biến chẳng dừng, sắp chở cõi tịnh, ô hô thương thay!
Thể nhiều bịnh khổ, lự suốt bốn tật, thầy thuốc đồng bóng châm đá, chia thang tụt mất, điềm tĩnh bạn pháp, chánh nghĩ bến từ, không bỏ giới chăm chỉ, thệ cứu chúng sinh, ô hô thương thay!
Hợp đã trọn lìa, giả hợp ứng tạ, đồng bi rừng tố, vắng lặng giữa đêm, người bàn điều thiện, nhìn trời ngắm xe, tức cung cam kia, bỏ nhà trần này, ô hô thương thay!
Lời vi diệu tuyệt vời nơi chìm mất, hủy ghe thuyền nơi bốn xa, lần lượt sùng trần trang nghiêm đẹp đẽ, điêu khắc xinh đẹp nhà cao rậm rạp. Bỏ hình có như để lại, dời tình linh kia ở chỗ nào, giúp dạy kính mong cúc xuân, không có nước mắt đều qua đời, ô hô thương thay!
Pháp sư húy là Trí Xưng, người Văn Hủy, ở Hà Đông, họ Bùi, ôm nguồn trong của sông Phần Hội, bẩm thọ chất tài giỏi của núi sông, chứa linh nhân ở trên lá, cảm tánh tuệ ở Diêm-phù, thẳng thay chỉ có trong sạch, ban đầu xưa đủ, mát sạch cung nghiệm thể để có được. Nhưng vận trời xác thật, hàm chương ẩn diệu, chìm mất mọi người, đâu thể so lường cái xa gần kia, bởi đường tắt xinh đẹp gang tấc, giấu ánh sáng nơi hang hốc báu đầy thước chưa mổ đã thành, người xem xét lưới thức lớn đẹp kia, người nghe phí được tên lớn kia. Ky buộc mậu lữ gắng khởi bờ ruộng, tuổi lên ba mươi mới xem các kinh, lui mà than rằng: "Trăm năm trong phút chốc, công danh là trọng, danh không thường, ở công khó cho xong. Đâu biết ngoài tài cao chót vót trong rộng lớn, lồng trùm sáng tối, lớn không bờ mé?", vì kia có thầy, tôi biết quay về, bèn từ giã hẳn năm nhẫn, xét vạt áo bốn y, vấp nhọn mở phân vân, cho nên mới hết.
Trong niên hiệu Đại Minh đời Tống Ích Bộ có Thiền sư Ấn, khổ tiết quán động, làm chức Quốc sư. Thượng nhân nghe gió tự gá một mặt trọn thể, Ấn Công nói quay về Dung Thục, bèn nắm tay cùng lên thuyền. Đến niên hiệu Thái Thỉ năm đầu đời Tống xuất gia ở Vương Lũy, chí thành cảm người trời, tin xuyên cả vàng đá, trực tâm Bát-nhã, cao bước đạo tràng, đã kính nghiệp nương thầy đến hiền biện chí. Ngao du chín bộ, rong ruổi ba thừa, Ma-la tuyên dịch, Long vương giấu kín, dẫu lại thọ trì đọc tụng, nhưng chưa cho đó là tông, thường cho là nhiếp tâm vào dấu vết, dấu vết kín thì tâm xem xét. Hạnh do người mở mang, hạnh kín thì đạo còn, đâu phải trên trị người không trước ở lễ? Nhàn tà dời thiện đâu còn ở luật? có thể dong xe nơi nhà lửa, bay liệng trong biển khổ, nhìn ba đường mà chờ bước, trải qua muôn kiếp mà không suy, kia gọi là Côn ni? Bèn chọn lựa nhánh lá, gom nhặt gốc cây, đốn dây cương rửa tâm làm trách nhiệm của mình. Vì thế chống gậy đi xa ngàn dặm du học, ôm kinh trì bát trăm nhà không thôi, Tây trông núi gai, Nam qua Lễ Phổ, dạo khắp Hoa Hạ, rộng tìm tòi học hỏi điều hay lạ, đất, cây, hình hài, tâm thúc như ngọc khuê. Chẳng cao không ngước, không cứng chẳng công phá, ngủ chưa kịp nóng giường, suy nghĩ thì đến ăn không kịp nuốt.
Vào đạo ba năm, theo thầy bốn lần giảng, dạy nhanh, công gấp mà nghiệp đầy, kinh sáng, thường xưng đạo chẳng rơi dưới đất, người đều có tốt đẹp. Học Tuyên Ni đâu chống thường sư. Lúc bấy giờ, hai thượng nhân Cụ, Ẩn trước nương Cao Lưu, phụng kêu Tây Sở, Luật sư Đao Bảo Dĩnh hiệp nghe ôn hòa cho nên đến Đông đô, Pháp sư ở Giang Lăng bẩm Cụ Ẩn vì Chu mà trao, đến khi trở về Kinh Lạc chọn Dĩnh Công (Luật sư Dĩnh) làm bạn lợi ích, đều là điện Quyền Hoành lời cao tột cắt tinh hoa, bỏ cỏ đề cỏ kê mà ăn lúa gạo, hợp muối me mà thành vạc nấu ăn, lý kia luyện ý chỉ sâu xa kia, người chưa học được bao nhiêu đâu thể học theo. Đến thời Tần Thỉ Hoàng năm thứ sáu, ban đầu giảng luật Thập Tụng ở Chấn Trạch, mở rộng sự tướng thần đạo trong gang tấc, cao bàn nêu ra Vân Hán, tinh nghĩa vào vô gián, tám muôn oai nghi vui mừng xướng lý. Chương cú năm bộ tiêu tan như bọt sóng, do đó kẻ hậu học biết tông, trước hiểu đổi quán, sáng rỡ khiến hỏi rất nhờ ở đây. Lẽ ra Pháp sư không khác lạ cách thức thực hành có sức khác, lời trong trọn ngày mà sự ở trong ấy, mây dừng ở Cụ Khu, ngôi kéo dài ở Kiến Nghiệp, nay không đợi phòng nghiêm cửa sổ tịnh, đi xa không mau thêm.
Từ Phương Đẳng đến nghi, biến Hồ thành Hán tài lớn học rộng, nối trục sánh vai, tông Pháp Hoa, Duy-ma thường thường được nghe, Niết-bàn Thành Thật giảng nói, nơi nơi đến nhóm. Luật tạng hiến chương bấy giờ rất ít ỏi, chấn hưng bảo trì giềng mối thuộc nhân từ thời bấy giờ, như nguồn đầm rộng lớn sâu xa, cho nên già chỗ quay về hoặc, núi cao hiểm trở che kín, trước tu hiểu điều tốt đẹp, đều chia che đầu lông, phân tán keo kết. Câu sau đến nỗi xa ngộ riêng trong lòng, cho nên có khả năng khiến cho ngược cửa phía Nam cung loan phía Bắc, tìm tiếng theo âm vang vạn dặm mà đến, muôn nhân tuổi càng trẻ, sợi dọc ngày càng mới, ngồi nhà cao mà dẫn dắt bốn chúng, chuyển pháp luân mà triều định đồng nghiệp. Hơn hai mươi năm quân tử cho đạo này là trung hưng, dứt khánh điếu, che dòng tục. Cửa đỏ phòng hoa chẳng đi qua, Tề Cảnh, Lăng Văn, Tuyên Vương khinh thường ngàn xe, tâm trống tám giải thoát. Thường thỉnh Pháp sư giảng ở chùa Để. Đã chấp nhận cho giáng đức, hoặc cho là nên tu chủ khách Pháp sư cười và đáp rằng:
-Ta chưa rảnh, đến chánh vị hòm trượng mới giao như khói mỏng. Bấy giờ chiếu pháp mở rộng, sĩ mau như rừng, chủ khen đã chạy, khách nhiều dung nhan, phát đề bài mạng, nghi nạn nêu ra.
Lẽ ra Pháp sư ứng biến như tiếng vang, nếu không lưu đức, nhốt biện đất lở, gánh gượng gãy sừng, đâu không kéo khắp, đi chẳng quên gốc mất cành. Hạng xem nghe xứng làm nhóm này, tánh Pháp sư vốn ngay thẳng mà có thể vui để hầu, hỏi ra lời này không hề có sắc giận dữ, gây gổ, mình trống rộng ước đều hết tài cán, y chỉ sơ dựa dạy đó như một. Lúc trẻ ở nhà chỉ có bạn là Hiếu Vu, thong thả giày bốn nhiếp, yêu đắm cả hai đều hết, thân thuộc bạn bè thơ không gởi mà không phát, trong tha thứ an ủi, ép mà không đến, thường nói rằng: "Đạo tục khác nhau cho nên Ưu-đà chính thân nương âm chỉ đâu theo lời kia mà bỗng dạy bảo kia". Phiền não soi chiếu, tập quán nghiêm túc liền bỏ".
Pháp sư đối với kinh Thập Tụng ban đầu từ Ngô Hưng đến Kiến Nghiệp giảng hơn bốn mươi lần, soạn Nghĩa Ký tám thiên, y cứ lời bày chế, người học truyền thuật cho là tuyệt diệu xưa nay. Năm Pháp sư bảy mươi hai tuổi thuộc niên hiệu Vĩnh Nguyên năm thứ ba đời Tề, Ngài thâu thần thị tịch ở chùa An Lạc huyện Kiến Khương. Tăng Ni đến đưa tang khóc như mất anh mất chị. Thiết nghĩ không nói mà tin, không gọi mà cảm, nói rằng: "Nếu hễ kính hành chọn vui mừng, không hình ở sắc, người trí khéo dẫn dụ, rong rêu trôi mất".
Lúc bấy giờ, đến tiền tài gồm lấy ở nghĩa, rõ đầy vuông lớn không hề thay đổi, rộng lớn những chạc, bia biển, hoa sông chẳng thể đầy lượng kia, bởi biểu nghi của Tịnh Danh, là phép tắc dứt tâm ư? Đệ tử là Đạo Tấn cảm hương một đã suy, thảm thương đức âm hằng tuyệt mất, thấp bày lòng tin mà có điềm, ngõ hầu truyền hương thơm mà không hổ thẹn.
Pháp sư húy là Tăng Cảnh, người họ Âu Dương, làng Tương ở Hoành Dương. Nhờ nhân lành đời vô thỉ nên được xa ngộ đời nay, giữa thông lý, nhỏ mà tự nhiên, ưa tụng kinh, khéo giữ tiết tháo, đi đứng có cốt cách, thân miệng không nói lời khác lạ. Mười tuổi đã mất cha, thờ mẹ chí hiếu, mẹ vì Sư thỉnh nhà, nhà tốt mà chẳng ưa đắm, từ tạ không được lịnh.
Bấy giờ ngựa nhung sinh ngựa ô, lông hịch đến ngày, thân mặc giáp mão chân đạp núi sông, lại qua mười năm. Dẫu ngoài phải khó khăn gai góc, mà bên trong kết từ bi, cho nên chưa lìa mọi người đã có hạnh dứt tâm, sau đi qua Bành Lãi thấy Lư Nhạc mà vui, vì thế có chí suốt đời ở đó. Sau trở lại sông Tương, hơi bỏ có chẳng phải chỗ mùi vị đạo quên ăn, ngày ăn một bữa rau, sau được ra cửa hủy liền lìa bỏ vợ nhà, bỗng mộng thấy thần núi Lô đảnh lễ chí kính nói: "Lô Sơn, Duy Nhạc cao vút trời cao đây gọi là ba cung, vách dựng đứng cao muôn nhận, muốn mời chân nhân ở đó, nếu chân nhân không theo thì núi này hằng phế bỏ". Lại mộng thấy mình nhận lời thỉnh mà đến Hương Lư Phong đảnh cửa đá, thấy gác bạc lầu vàng suối đơn, cây ngọc bích cao chót vót, khắc gọt đời ít có. Vì vậy lúc gà gáy sáng liền thức giấc mà vẫn phơi phới.
Bấy giờ, Tăng chúng ở Giang Lăng phần nhiều có hành nghiệp, đều bảo Pháp sư rằng: "Pháp sư ở châu Kinh rất thạnh", bèn do đây mái chèo đông từ đầu hạ nổi phía Tây, gặp Tăng Tịnh đạo nhân rất hiểu thiền định, bèn nói: "Thật là thầy ta" bèn cạo tóc để theo, ở thiền phòng Trúc Lâm, ban đầu nhịn ăn im lặng suy nghĩ, suốt đêm không ngủ, quan thứ sử nghe danh vui mừng muốn gọi mời đến, hoặc nói rằng: "Người này đáng đến gặp gỡ, không thể bỏ qua", vì thế bèn đến am tranh và được trao giới pháp, nhân sĩ ở Giang Hán cũng theo học nhiều như mây, trước là miếu thần núi linh nghiệm như tiếng vang, chống trái liền gặp tai ương, đã hơn mười năm. Pháp sư xem xét phòng nhà, thần bèn hiện thân làm lễ, sai hai thần đồng sớm chiều đứng hầu, có người nữ đồng bóng thấy mà hỏi, Pháp sư không đáp, thần Lô Sơn lại đến cố mời.
Đến tháng bảy, hiệu Vĩnh Minh năm thứ mười, Ngài chống gậy bên ngọn Phong gặp cảnh đã thấy trong mộng, bèn lấy tảng đá làm nền, dựa vào vách núi, làm nhà sửa sang lại rồi ngồi ngay suy nghĩ, lấy hổ báo làm bạn, các bậc tiên đức như Đàm Long, Tuệ Viễn cũng đến ở đây, là chỗ ít có dấu chân người lui tới, bởi không chịu được sự buồn bã kia. Vả lại khí núi dày đặc khiến người đau đầu cảm sốt, chưa hề có ai ở đó mà không bỏ xuống núi chỉ có Pháp sư nếu đến là không bỏ đi. Đã khước từ giúp lúa gạo lại không tránh né khí tuyết sương, khi nắm leo vượt hiểm trở, hành động như bay, hoặc có bầy ma không ưa Pháp sư đến, có thể khiến biến thành sấm gió để thử, Pháp sư đã hiện thần dụng nghiễm nhiên bầy ma bèn lui. Lâu ngày lại chỗ hiểm tối tìm kiếm nơi làm cầu đá nhà đá, núi linh đất bí mật chỗ trăm thần dạo chơi, Pháp sư nói hương giới hạnh các thần đều cúi đầu đảnh lễ.
Xưa, vị thần Ngô Mạnh được vào đây dạo xem, từ đó về sau chỉ có Pháp sư đến. Từ Hy Hoàng về trước chỉ có hai người mà thôi. Ban đầu Pháp sư vào núi hai năm, thiền vị chưa đầy đủ, thường xem xét tâm mình vào vắng lặng riêng thấy Phật Di-lặc thường nói rằng: "Đây là duyên gieo trồng từ kiếp trước".
Mùa xuân niên hiệu Kiến Vũ năm thứ tư, Ngài bỗng nói với đệ tử rằng: Ta thọ phải chín mươi, nhưng nhiều năm không có ích cho đời, mà bốn đại có lụy với người, suy nghĩ cứu giúp chúng sinh, không được ở lâu nơi đây". Đến ngày 21 tháng 07 Sư đặt nêu ở đầu mé Tây chót núi làm chỗ đặt thi hài, người chẳng ai biết, lại bị bịnh bảy ngày, sau bảy ngày nữa thì qua đời, thọ năm mươi tám tuổi. Ngày qua đời chắp tay nguyện rằng: "Xin được sinh vào ba đường để cứu tất cả chúng sinh khổ", lại nói rằng: "Ta thí thân này cho chim quạ, chớ có chôn". Ban đầu Pháp sư gọi mấy người sau chùa an cư giảng trao, hoặc bảo Pháp sư rằng: "Nay muốn ra khỏi núi tìm thuốc", lại khuyên dâng cơm nước Pháp sư nói: "Ta lụy ở thân này, và ta không thân thì ta có lụy gì, chớ nhiều lời".
Sau khi mất sáu ngày mà dung mạo vẫn như sống, hai ngón tay co lại rồi duỗi ra như cũ, các Tỳ-kheo Túc Đức đều nói rằng: "Nếu là bậc đạo nhân phần nhiều lấy bảy làm số, Pháp sư từ khi bịnh cho đến chết không phải như vậy sao? Hai ngón tay không co duỗi cũng có lý do. Ban đầu ở Lư Phong riêng tuyệt lông cánh không sinh, từ khi Pháp sư đến có cặp chim đến làm ổ đến khi Pháp sư thác, chim cũng bỏ đi hẳn. Chỉ có Pháp sư xưa nhờ nguồn sâu xa lâu buộc tịnh nghiệp, cho nên từ bi hỷ xả giúp thành tánh, vi diệu huyền thông nhân tâm thì có, vào núi rừng mà không ra, bặt vinh hoa mà vượt trội. Như bằng tám trân báu giúp cứng cốt, thuật chín chuyển diên hoa đều như cởi hài, chỉ trụ tâm định chí ở ghe báu vô giá, mến hộ hóa thành hẹn làm bờ kia, kính ngưỡng không suy lường, cho nên chưa được mà gọi.
Tỳ-kheo Ni Thích nữ Tịnh Tú vốn họ Lương, ở An-định, người họ Ô. Trước xuất thân từ Thiểu Hạo đến Bà Ích Tà Vũ trị thủy, được vua ban họ Luy, thời vua Chu Hiếu phong cháu mười sáu đời chẳng phải con ở Tần, hội cháu Trần Trọng làm Hầu Bá Tuyên Vương, Bình Vương Đông Thiên phong Tần Trọng Thiếu Tử ở đời Lương gọi là Lương Bá. Đời Hán Cảnh Đế, Lương Lâm xây chùa Thái Nguyên Thái theo ở đất Bắc, họ Ô làm quận nhân. Từ lúc Quyết Hậu xưng phụ ở đời, danh đức càng sáng mũ miện càng rực rỡ. Nhà Hán, năm đầu niên hiệu Nguyên Gia, Lương Cảnh làm Thượng Thư, Thiếu Tập Hàn Thi làm thông Nho ở đời. Đời Ngụy, Lương Sáng làm Ty Đồ Tả Trường Sử Bí Thư Giám, xem rộng các sách, khéo bàn lý màu. Trong thời Tần Thái Thỉ, Lương Xiển làm Thái sử ở châu Lương và châu Ung, tức là Nải Tổ của Ni. Cháu của Xiển là Huy Tần, Phạm Dương, Vương Hao, làm Phiêu Ky Tham Quân Ngư Dương Thái thú, gặp Vĩnh Gia Thang Chiết Luân ở Ngụy Triệu làm Bí Thư Giám Chinh Nam Trường Sử, sau được về lại Tấn, làm chức Tán Ky Thị Lang, con là Trù Tự Đạo Độ làm Chinh Lỗ Tư Mã Tử Xán là tướng nhậm nhà Tống. Chinh Lỗ Phủ Tham Quân được phong Đô Đình Hầu ở huyện Long Xuyên, Ni là con gái thứ tư của Đô Đình Hầu, thông minh đỉnh đạt trí tuệ ngộ nhiều kiếp, thể diệu giải ngay năm đó, mà tánh nhu hòa điềm đạm không giống các trẻ nhỏ bình thường. Tuổi nhỏ mà thần tình cao vượt, phi thường hơn hạng đồng nhã, hạnh nhân chuộng đạo, rửa chí nơi cửa pháp.
Đến năm mười tuổi niệm từ càng mạnh, bỏ phấn son, bỏ lụa là gấm vóc, tụng kinh hành đạo, trường chay đạm bạc. Năm mười hai tuổi thì xin xuất gia, người nhà cấm đoán ép buộc không cho. Vì thế tâm cầu thầm cảm một niệm chuyên tinh bèn thường được cảm giáng điềm lành. Thứ lớp riêng vượt làm bậc tiên giác, mở dụ trong ngoài cho nên bèn được tiết tháo thanh nhã, tánh chuộng điều lành, thông minh từ nhỏ, vượt hơn mọi người. Đến năm bảy tuổi tự nhiên trì trai, trong nhà mời Tăng hành đạo, nghe đọc kinh Đại Niết-bàn bèn không ăn thịt, vì thế ăn rau không ăn thịt cáo, cha mẹ biết là nếu gặp cá thịt liền bỏ đi.
Xưa, có Đạo nhân Phổ Luyện là người nước ngoài xuất hiện ở kinh đô, đi qua nhà họ Lương liền trao thọ năm giới, khuyên cố gắng vâng giữ chưa hề trái phạm, ngày đêm thường dùng lễ bái đọc tụng làm sự nghiệp chứ không có việc gì khác, và tay có thể thường tự chép kinh, có chút tiền bạc thì dùng làm công đức, không ưa kinh doanh việc đời.
Lúc trẻ muốn vào đạo, cha mẹ không cho bèn bỏ trôi theo năm tháng, đến năm hai mươi chín tuổi mới được toại chí, được chủ chùa Phục Ưng ở Thanh Viên cạo tóc cho cô. Cô thờ Thầy rất chí kính, tiên ý nương yếu chỉ tận tâm tận lực vẫn sợ phí thời gian, thân tu ba nghiệp ngày đêm chẳng biếng nhác, làm việc trong chúng thường thường đi đầu, tinh tấn siêng năng, gặp việc là làm xong hết. Có tiên sinh Khai Sĩ Mã ở Thanh Viên thấy liền thọ ký rằng: "Vị Ni này sẽ sinh lên cõi trời Đâu-suất". Lại chính thân ngồi thiền ở điện Phật, có hai ba vị cùng ngồi thiền bỗng nghe trong hư không có tiếng giống như trâu rống, hai vị Ni bỗng kinh sợ chết giấc, Thượng Đàm tự nhiên như không, từ từ xuống giường thiền về phòng cầm đuốc đi tìm tiếng động ấy. Về đến lan can, hai Ni liền nghe trên chùa có tiếng người nói chuyện với nhau rằng: "Chúng ta nên tránh đường Sư ấy sắp trở lại". Sau trở lại trong phòng thiền mà ngồi với mấy người bạn, có một vị Ni ngồi ngủ say mà ngáy trong giấc ngủ thấy một người cúi đầu vào nhà nói rằng: "Chớ kinh động Sư cô ấy", vì thế vị Ni này không dám ngồi nữa, lại một hôm, lúc đang ngồi thiền, vị ni đồng bạn có chút duyên sự muốn xuống giường thiền, bỗng thấy có một người dơ tay chặn lại nói: "Chớ quấy nhiễu Sư cô ấy", vì thế ém khí ra từ từ mừng chưa từng có. Các việc như vậy so ra rất nhiều, thường đã quên hết không thể ghi đủ.
Tánh ưa thích giới luật, tới, lui, cúi, ngước, đều muốn vâng thừa, vì vậy bèn thỉnh Luật sư Huy giảng dạy, trong tâm tự nghĩ, nhưng có cả ngàn việc, trong lòng lo lắng sự không xong. Ban đêm nằm mộng thấy chim quạ, chim khách, sáo, sẻ, oanh vũ đều kéo xe, xe có màn che, xe lớn nhỏ đều xứng với hình chim, chúng nói với nhau rằng: "Tôi giúp Sư cô đi giảng", Ni thức giấc rất vui mừng vì biết việc sẽ thành. Đến chỗ giảng liền được bảy mươi vị đàn-việt lập bày đồ cúng dường, đồ ăn thức uống đều trong sạch. Sau lại thỉnh Luật sư Dĩnh khai luật, liền bỏ ngày giảng, nước trong tịnh bình tự nhiên thơm như hơi thơm của Thủy viên Ni rất lấy làm vui là đã ngồi thiền đắc định, đến nửa đêm mới đứng dậy thì không còn người bạn nào, liền tự nghĩ "Có phạm giới ngồi riêng chăng?" liền đi hỏi Luật sư, Luật sư nói là không phạm, nhưng trong ý còn do dự sợ mình có lỗi, lại thấy Tăng Ni các chùa phần nhiều không đúng như pháp, bèn thở dài bùi ngùi than rằng: "Vết lớn chưa xa, mối linh mới suy đồi, tự mình chẳng dẫn lỗi trách thân thì đâu thể dẫn dắt người", liền tự sám hối thực hành Ma-na-đỏa. Vì thế hai bộ chúng Tăng ở Kinh đô đều than thở rằng: "Người hành luật trong sáng khuôn phép đúng pháp như vậy mà còn tự suy nghĩ lỗi mình huống chi chúng ta động tịnh nhiều lỗi lầm mà không hổ thẹn ư?", bèn cùng nhau sám hối khắp, không sót một ai.
Lại đến chỗ Luật sư Dĩnh ở Nam Viên để thọ giới, ngay ngày thọ giới nước trong tịnh bình lại thơm như trước, các Ni ở Thanh Viên và các chùa khác đều thọ giới lại, Luật sư vì thế cũng thứ lớp đến chùa mở bày giới phẩm, mở mang đại giáo, cho nên hiến chương phép tắc lưu xa đến nay. Luật sư Dĩnh lại ra lịnh trên hẹn lời Ni các chùa có giường cao, đồ thế tục đều phải sửa đổi, vâng lệnh cấm ngăn không ai chẳng vâng theo, sự hưng khởi Luật tạng từ đây bắt đầu.
Sau lại đến Tam tạng Pháp sư thọ giới, nước trong tịnh bình lại thơm như trước, không khác ở Thanh Viên, đồ chúng đã rộng thấy khác nhau. Sư đã trở về lại không có người hầu, vì vậy nghĩ riêng định lập trụ xứ, có thể được nghiêm Thánh bên ngoài thì bên trong mới an nhàn. Đến tháng tám niên hiệu Đại Minh năm thứ bảy đời Tống, Cố Hoàng Tu Nghi và Công chúa Nam Xương rất tôn sùng Tam bảo, kính mến đức hạnh, ban đầu đặt tinh xá, dâng vải gai bỏ mát mẻ, ăn rau hoắc quên đói, thân giữ ngói đất trọn siêng năng cả ngày lẫn đêm. Cho đến niên hiệu Tần Thỉ năm thứ ba đời Tống, Minh Đế ban cho hiệu là Thiền Lâm, bởi tánh ưa vắng lặng, thầm cảm có điềm ứng, mà tạo khám đúc tượng đều đầy đủ. Lại viết chép các kinh đều khiến đầy đủ trang hoàng nhuộm thành, đều tự nhiên có hai anh em Long vương Bà-già-la hiện dấu vết cả ngày không mất, kẻ tri thức qua lại đều thấy.
Ni nhận hơn mười người cùng ở dạy dỗ giáo hóa khen thưởng đều dạy tu thiền tụng, mỗi lần đến phụng thỉnh Thánh tăng thức ăn dâng lên đều có dấu lạ. Lại có một thời Ni chí thành thỉnh Thánh chúng cúng dường bảy ngày, lễ sám vừa xong, nhiếp tâm vận tưởng liền thấy hai đạo nhân nước ngoài giơ tay cùng nói, một người nói "Pháp La", một nói "Tỳ Pháp La", cả hai đắp ca sa màu như lá dâu nấu rục, do đó liền dùng bùn để nhuộm màu y như đã thấy, vì thế Tăng Ni xa gần đều bảo nhau đổi màu sắc của y, cho nên dứt được lỗi của năm đại, đạo tục có phần riêng.
Sau lại thỉnh năm trăm La-hán ở ao A-nậu-đạt, hằng ngày phàm thánh dự đại hội vô già, đã gần hai mươi ngày lập bày đồ cúng đầy đủ. Lại thỉnh năm trăm La-hán ở nước Kế Tân đủ dâng làm mười, và thỉnh phàm Tăng cúng dường như cách thức trước. Mới qua một ngày thấy có một vị đạo nhân nước ngoài mà chúng Tăng chẳng ai quen, vì thế thử nhau giả hỏi, tự nói là từ Kế Tân đến, lại hỏi: "Đến đây bao lâu?" Đáp: "Đến đây một năm". Chúng Tăng biết lạ, sai người giữ cửa xem động tịnh của vị ấy, khi ăn xong bèn ở cửa Tống Lâm đi ra, liền sai người nhìn theo thấy đi ra từ cửa Tống Lâm hơn mười bước liền biến mất. Lại thường thỉnh Thánh tăng, đồ tắm đựng đầy nước thơm nóng và các tạp vật, nhân đó lễ bái, trong ngoài im lặng, bỗng nghe cái gáo buộc trong đồ đựng nước có tiếng như có người múc nước dùng, ý cho là hoặc có người ra, liền cùng đến xem chỉ thấy gáo nước tự nhiên dao động, cho nên biết là thần thánh khác thường.
Lại có lần giữa đêm bỗng thấy ánh sáng đầy nhà, tự nói là trời đã sáng bèn đứng dậy ra mở cửa, thấy bên ngoài vẫn còn tối liền đóng cửa, trở lại giường ngủ rất lâu trời mới sáng. Lại bị bịnh rất gấp, bỗng thấy luồng ánh sáng lớn, khắp cả thế giới, núi, sông, cây cối, rõ ràng không ngại, vui mừng tự cười một mình, người đi bên cạnh lấy làm lạ hỏi, Ni đáp đủ như điều đã thấy, liền có thể làm lễ, đọc tụng như thường không khác.
Lại có lúc: Ni bị căn bịnh rất nguy khốn, bỗng giơ hai tay giống như bưng vật gì, nói mà người bên cạnh không hiểu, hỏi rằng: "Bưng vật gì vậy?" Đáp: "Ta thấy tháp báu từ đất vọt lên, ý muốn đón lấy, tràng hoa kỹ nhạc chẳng chỗ nào không có". Vì vậy tật bịnh bỗng nhiên được lành, đều không còn hoạn nạn.
Lại nữa bị bệnh trong mấy ngày cũng khác lạ, tơ tằm hằng nhiều, nhìn hướng Đông chắp tay hướng lên hư không, trong khoảnh khắc gấp kéo lửa thơm, đổi thời chắp tay liền tự nói rằng: "Ta thấy Phật Di-lặc, các Thánh chúng Xá-lợi-phất. Mục-kiền-liên.... Chốc lát lại thấy Di-lặc hạ sinh ngẩng đầu cúi thành, nói rằng có người đem tràng hoa kỹ nhạc và ba đài đến rước, ở đây phướn lọng, hoa, kỹ nhạc thế gian chẳng thể sánh được, trụ cả nửa ngày, một đài đã ở giữa đường, một đài chưa đến nửa đường, một đài chưa thấy, chỉ nghe mà thôi. Bấy giờ đã làm hai đài vì điềm này cho nên liền làm một đài". Lại nói: "Có hai cây hoa báu ở bên", người đến gần giường bảo "chớ làm hư hoa của ta, từ đây về sau sẽ hết bệnh, trước sau bị bịnh thường có điềm lành, hoặc được gió mát, hoặc gặp thuốc hay, hoặc nghe hương lạ, bịnh liền được lành, bịnh lành lý do đều bỗng nhiên hết như thế, việc ấy thường không thể chép đủ.
Lại niên hiệu Thiên Giám năm thứ ba, một hạ nọ Ni bị bệnh, ban ngày mộng thấy Bồ-tát Hư Không Tạng, liền tự nhiễu quanh Bồ-tát và chúc tụng, tiếng chúc tụng phát ra bèn thức giấc, bệnh liền lành. Lại một hôm, nằm mở mắt thấy Phật đi vào, phát ra cờ phướn, lọng báu đầy nhà, sai người kệ bên đốt hương mà người ấy không tự thấy gì.
Ngày 17 tháng 06 niên hiệu Thiên Giám năm thứ năm, Ni bị bịnh khổ, tâm mê muộn không ăn uống. Pháp sư Lịnh ở chùa Bành Thành đêm ngày 19 tháng 06 mộng thấy một chỗ gọi là trên trời Đâu-suất, chỗ ở trang nghiêm đẹp đẽ, thế gian chẳng thể so sánh, nói đây là trụ xứ của Ni, liền thấy Ni ở trong đó. Vì thế Pháp sư có nói với Ni là ni được sinh về chỗ tốt đẹp, sẽ đón gặp nhau, Ni là Pháp sư tiểu phẩm là đàn việt, chớ thấy sai bỏ. Ni liền đáp: "Pháp sư là trượng phu lại rộng thông kinh giáo, lẽ ra phải ở chỗ thù thắng. Tôi là nữ nhi đâu có ích gì". Pháp sư lại nói:
-Không phải, dẫu là trượng phu mà không thể tinh tấn, trì giới thì không bằng Ni, thời thể đã chuyển xấu, cùng khiến Pháp sư ban sơ không thể gặp nhau.
Bịnh càng tăng, húp cháo ngày càng ít, cho là trị không ích gì lần đến mê dần. Đến ngày 12 tháng 07, trời mưa mát mẻ, sự mê muộn như có thuyên giảm, tự nói rằng: "Ta mộng thấy rước đến điện Phật phía Tây, người người cầm cờ phướn dụ như quân ở dưới đất, cờ phướn làm lịnh không khác quân đội ở thế gian theo lịnh cờ xí, trống chiên. Đến ngày hai mươi thì không ăn uống gì hết. Đến ngày hai mươi hai bảo thỉnh chúng tăng quen biết nhóm lập hội, ý dường như muốn từ biệt. Đến ngày hai mươi lăm nói rằng: "Thấy chư Phật mười phương đầy khắp hư không". Đến ngày hai mươi bảy sau Ngọ nằm im lặng rất lâu chừng nấu hai nồi cơm mới lại chuyển động, tự nói rằng: "Ta lên trời Đâu-suất thấy Phật Di-lặc và các Bồ-tát đều có màu vàng ròng, trong tay Ni tự có một tịnh bình bằng lưu ly, có thể cao ba thước để dâng lên Dilặc, Phật liền phát ra ánh sáng chiếu trên thân Ni, đến trời Đâu-suất cũng không thấy ăn uống mà tự nhiên vẫn no cho nên không cần đồ ăn ở nhân gian, chỉ ngửi thấy mùi đồ ăn của thế gian đều rất hôi, do đó không chịu ăn".
Lại ở trên trời kia, Ni được bánh Ba Lợi đem về, ý muốn cho Pháp sư Lịnh, có người hỏi: "Sao định đem bánh đi", đáp: "Định cho Pháp sư Lịnh", người này nói: "Pháp sư Lịnh là người trong quả báo đâu được ăn thức ăn trên cõi trời" bèn không cho đem đi. Đã muốn thấy Pháp sư Lịnh nhàn cư, Ni vì rước Pháp sư đến gặp nhau, nói Pháp sư hãy làm đồ ăn rau để nuôi đạo nhân ngồi thiền trong núi, nếu tu ba nghiệp mới được sinh lên cõi trời Đâu-suất, Pháp sư không ngồi thiền cho nên khiến làm lương thực ở núi, thượng đạo nhân muốn ngồi thiền với người nên làm nhân duyên như vậy.
Từ lúc vào tháng tám, thân thể cũng dẫn chuyển sang xấu, không còn nói việc khác, chỉ nói rằng có ba mươi hai đồng tử, một tên trời Công đức, hai tên Thiện nữ thống lãnh Ca-tỳ-la hằng đến ở hai bên cho ta sai khiến, hoặc nói "được người cho ăn uống, khiến trong chúng làm", lại nói rằng: "Trong hư không ngày đêm đều có kỹ nhạc huyên náo tai người".
Chiếu sa thải Tăng chúng (Tống Võ Đế). Chiếu bảo nêu Đức tăng (bảy bài), (Nguyên Ngụy, Hiếu Văn Đế). Thuật Tăng Trung Thực Luận (Nam Tề, Thẩm Hưu Văn). Thuật Tăng Thiết Hội Luận (Thẩm Hưu Văn). Bàn chiếu sa thải Tăng (Bắc Tề, Văn Hoàng đế). Thơ điếu Đạo Trừng Pháp sư mất (Đời Lương Giảng Văn). Thư cho Pháp sư Đông Dương Thạnh (Đời Lương, Vương Quân). Thư cho ông Nam Châu Ngung (Đời Lương, Thích Trí Lâm). Thư cho Pháp sư Cử (Đời Lương, Lưu Tuấn còn một tên khác là Hiếu Tiêu). Thư cho Pháp sư Giảo (Đời Lương, Vương Mạn Dĩnh). Thư điếu Pháp sư Chấn mất (Đời Lương, Lưu Chi Lân). Thư cho Chấn Huynh Lý Kính Chuyết. Thư điếu Tăng Pháp sư Chánh Kinh mất. Đông Dương Kim Hoa Sơn Thê Chí, (Đời Lương, Lưu Hiếu Tiêu). Thư cho Dư Bộc Xã Thuật Dịch Tăng (Trần, Thích Chân Quán). Thư can ngăn Pháp sư Nhân Sơn Thâm bỏ đạo (Trần, Dư Lăng). Biểu can ngăn Chu Tổ sa thải Tăng (Đời Chu, Thích Đàm Tích). Thư Tải Quỳ ban. U Lâm, Sa-môn Tuệ Mạng. Thư (Bắc Tề, Tải tiên sinh). Thư điếu Pháp sư Diên mất.
Môn hạ Phật pháp sai lầm, Sa-môn lẫn lộn, không đáng là giáo pháp lớn giúp đỡ, mà chuyên thành ẩn trấn, do tâm gian nên phát hình trạng dữ thường nghe. Hư đạo loạn tục, người thần đều giận, có thể giao chùa cho quan sở tại, người già càng phải sa thải, sau có trái phạm nghiêm trừng tòa kia, người chủ làm điều cách, mau thi hành.
Môn hạ, gần đây được Lục Công đồng dâng biểu, biết muốn sớm định Sa-môn đều chung, xét khảo đức chọn hiền, thức ngủ động tâm, nối tiếp trách nhiệm của Phật đâu biết gởi ai, hoặc có vị đạo cao tuổi lớn, lẽ ra không nhọc lo. Hoặc có vị khí pháp nhiệm mầu biết xa, ôm nhiều việc trần, nay do chủ chùa Tư Viễn, Pháp sư Tăng rõ, nhân từ hòa nhã, khâm mừng gió trong, gương tháo, rất thông minh, đạo tâm trong sáng vốn kham được trách nhiệm này, thử hòa các nhiệm mầu, gần đã miệng thưa, hãy ra lịnh làm Sa-môn thống lãnh. Lại phó nghi hai việc Tăng tục đều đồng, khoảnh nhân sáng rỡ gồm riêng giúp được bỏ trách nhiệm này. Nay vốn giúp đức khen thiện vốn cần người ấy. Pháp sư Tăng Nghĩa chùa Hoàng Cửu hạnh cung kính sướng ôn, thông minh cẩn chánh, nghiệp tươi tốt, đạo đức tài giỏi, dụng ứng giúp đỡ, có thể làm Duyma để sáng hiền đồ.
Môn hạ, ngưng giác lòng trong, sự vượt ngoài thế tục, các khuôn sùng lớn lý gởi quên lời. Nhưng chẳng có lời thì lấy gì giải thích giáo pháp, chẳng có thế tục thì đâu thể nêu chân? Do đó ba tạng thư thả gió quyết giúp sách răn dè, sáu độ rộng giáo hóa vốn nương thước sóng. Từ khi tượng giáo truyền đến đông độ đã hơn năm trăm năm, Tần, Hán, Hoa, tục cấm chế càng dày, cho nên anh tài đời trước tùy nghi khởi dụ, đời khinh đời trọng để giúp bày chỗ sâu kín, đời triều trước có làm Tăng cấm, có chút chưa rõ nên sửa lại. Gần đây thấy Samôn thống lãnh Tăng hiển đồng tự nói rằng: "Muốn lại một phen san định", trẫm liền dùng hiểu biết cạn để cùng rõ sách chí lý, sự khởi thấm thoát chạm chỗ chưa nghiên cứu rõ, vả lại có thể lập pháp nhất thời, thô cứu giáo thế, điện cần đứng thưa một phen đồng lại sửa sang sự khiếm thiếu sót.
Môn hạ, sùng nhân khen nghiệp đâu như Tôn Huyền bày thần nhuộm chí, ai là người anh tài trước tiên, cho nên Chu Đán làm lời cáo sáng rõ điều kia. Thích-ca xương văn khéo biết. Nhưng vì người tôn kính cho hiền là quý, kẻ đức ưu cho thân nhân từ là trên hết. Trẫm dẫu mê muội có thể không giúp mấy, đời triều trước sửa sang trời đất, chưa gấp phép tắc bên trong, bèn khiến triều đình thiếu dung mạo cao xa, cửa tím chọn nghi siêu tục, đối lý mừng thiện giúp ruộng phước, bởi là chưa đủ toan muốn Pháp sư Ý Đức đến gặp mặt, tiến có thể nhận nuốt vị đạo, lui có thể trang sức làm sáng triều đình, nên sắc chỉ cho kia một tháng ba lần vào trong điện, số người pháp hiệu, riêng phải nộp lên.
Môn hạ, nương về đạo nhiệm mầu vốn giúp chân phong, tu tập tuệ từ thật chuộng quả trí. Cho nên ba tai kiểm nhiếp hằng quy của đạo, chín hạ ôn thuyên tốt đẹp của pháp, có thể sắc chỉ các châu, chúng thanh tịnh an cư trong hạ này, châu lớn ba trăm người, châu vừa hai trăm người, châu nhỏ một trăm người, mặc theo số kia chỗ giảng thuyết đều là Tăng kỳ lúa gạo cấp đủ. Nếu lúa gạo thiếu ít, không đủ số này thì hãy khiến cho chiếu màu giảm lượng trở về tâu. Kia đều khâm phục cờ hiền khéo bởi suy tôn trí tuệ tài đức, chớ gây ra lạm trược biếng nhác cho kẻ hậu tấn này.
Môn hạ, đạo nhân ở châu Từ là Thống tăng Sính, phong thức yêm thông, khí cao nhân luân hòa nhã, đạo nghiệp sáng rộng, lý vị sâu trong, tiếng tốt khen xa, sớm bày ở Từ Bái. Anh tài ôm giáo nhiệm mầu, phong lưu ở Tiều Tống, tỷ xứng pháp Bắc Kinh, đức thơm khắp đạo tục, ứng cúng sân vui khéo bày chấn vũ, bởi nhân từ thông minh nên trẫm kính trọng, nương nhân đã trọn có ra lạ đời này, gần đây bỗng nghe lòng bi hằng ở trong lòng, nay đường kế Duyễn Bộc, Thanh, Tứ đâu xa, xót thương nghĩ đến đức lại thêm ngạt thở lòng, có thể sau châu Từ thì ba trăm xấp lụa để cúng dường tạo phước, lại hãy làm trai tăng năm ngàn vị.
Môn hạ, Ứng Thống kính nối nắm bậc tiền triết, giữ gìn phép tắc đạo môn, phép tắc nhiệm mầu tốt đẹp, xung mưu kế là nương gá. Nay đã từ bỏ tên tục, lẽ ra nên cúng riêng, có thể lấy nghĩa tám giải, cúng thí tám trăm xấp lụa, chuẩn cho bốn bọn tùy bốn thời mà chu cấp, lại gốc tu điều lành là nương sức mạng, nhân thí thực nội điển chỗ tốt đẹp hãy nương triều quan, thượng thu ngay tháng này mà thí, cho nên xa dụ lý sâu, chẳng riêng mở tôn sùng tâm tục, dằn ép cũng khích lệ ý.
Môn hạ, Pháp sư Tuệ Kỷ ở châu Từ, ngưng lượng trinh trắng xa đạo, thức thuần trống rỗng, tiết tháo trong sạch anh tài vượt ngoài thế gian, công tổng thiệp đây rất ít, ánh sáng pháp tiếng trống vuông, hoa tươi tốt. Nghiên cứu luận, đất Tống tôn đức xa gần, ở lúc xưa giảng bốn đế ở Lộc uyển làm thợ khéo truy diên thưởng nghiệp hiền. Chợt tử ma bỗng tiêu diệt lương khí, nghe vậy buồn than thương xót trong lòng, nên ra sắc chỉ châu Từ thí ba trăm bức lụa và lập lễ trai Tăng năm trăm vị để sùng truy lợi ích.
Người sở dĩ không đắc đạo là do tâm thần hôn mê, tâm thần sở dĩ hôn mê là do vật ngoài quấy nhiễu. Sự quấy nhiễu lớn có ba: Một là thế lợi vinh hoa danh tiếng. Hai là sắc đẹp yêu kiều. Ba là đồ ăn ngon ngọt béo mập. Vinh hoa danh lợi dẫu là hằng ngày của tâm mà cốt yếu không có lụy cắt thời gian, sắc đẹp yêu kiều mới là sâu xa, đồ ăn ngon ngọt béo bổ là lụy thấm thiết, muôn sự v.v... đều từ ba việc này mà ra. Bậc Thánh biết không dứt ba việc này thì cầu đạo không thể chứng đắc, không chứng đắc không bì đó lập pháp khiến chọn mà dễ theo. Nếu nói thẳng rằng ba sự gốc có lẽ đều nên cấm tuyệt, mà ba việc này là nhân tình rất lầm, niệm lự khó bỏ, dẫu có cầm ngăn sự khó làm xong. Thí như ghe vuông sông tế đâu không muốn thẳng đến bờ kia, dòng sông đã gấp không hề gặp lý giúp, chẳng được không theo dòng tà mỵ, lâu mà được đến, chẳng phải không muốn nhanh việc kho cũ. Cấm ba việc này nên có đầu mối đâu thì ăn đó đối với người không thể dứt ngay, kia đối tánh tình chỗ lụy đâu có nhiều. Cho nên suy theo đây ăn chiều và ngay trước ngọ, từ sau ngọ rảnh rang vô sự, do vô sự này niệm lự được gói gọn. Mới ở chưa chuyên, ở lâu tự quen, vì vậy buộc lấy tám chi, quanh co dùng giới cấm, dục tình đồi trụy không do được trước, vinh hoa, danh lợi, các lụy theo sự mà khiển. Cho nên nói rằng xưa kia như Phật quá ngọ không ăn, đây là phương tiện dứt lụy là con đường tắt đến đạo, mà hoặc đều cho là dứt không ăn đây chính là mê phương hướng, không biết thiếu đường ấy.
Tu các pháp sự, quyết có lý kia, ngày nay mời thỉnh chúng Tăng chỉ lập một hội, ngay khi Phật còn ở đời thường cũng nhận người thỉnh, do đây nghĩ là nghi cũ xưa. Mà lúc xưa Phật còn ở đời thì Phật và chúng Tăng ở trong Tăng-già-lam vốn không có tự sắm sửa đồ ăn, đến giờ bưng bát đi làm phước cho chúng sinh. Chúng Tăng ngày nay chẳng những ít người giữ ngọ mà còn có người buông lung nấu đồ ngon ngọt sắm bữa ăn thịnh soạn, nay có ai thỉnh mời đều bất đắc dĩ mới đến để bổ béo cái miệng. Dâng đồ ăn dỡ dài cổ nhăn mặt vì nó không ngon, đã chẳng ưa nhận, không cho lập phước, chẳng bằng xưa kia không được tự lo, chẳng giúp cho bốn chúng, thân miệng không nương gá. Vì sao người xuất gia vốn thực hành khất thực, giới luật rõ ràng không cho tự lập bếp và nuôi tịnh nhân. Nay đã chứa đủ trong chùa bỏ việc khất thực. Nếu có vị tăng nào ôm bát đến cửa, liền nói là chúng Tăng làm việc xấu xa thấp hèn, đã là chúng hổ thẹn đâu lại đi khất thực? Mờ mịt, người hậu tấn cầu lý rất ít, liền cho là nghiệp khất thực không nên thực hành nữa.
Con vua Bạch Tịnh là dòng tôn quý Chuyển luân mà ôm bát đi đến nhà người để làm phước thí, há không bằng ngoài ngàn năm hạng Sa-môn tầm thường thân mạng tôi tớ tự lo việc miệng bụng ư? Nay thỉnh Tăng một hội đã có thể gần giống hạnh khất thực, nhận thỉnh hai việc chẳng khác. Nếu cho ngày nay không thực hành khất thực nữa, lại không thỉnh mời, thì phép hành khất thực này hằng mờ dứt, phép này đã mờ dứt thì Tăng chẳng phải hạt giống Phật. Hạt giống Phật đã lìa thì Tam bảo rơi xuống đất. Nay vì người lập hội nên theo tư tưởng lúc xưa. Bốn mươi chín năm Phật dẫn Tỳ-kheo vào thành khất thực, oai nghi cử chỉ, động mắt ứng tâm, do đây cầu đạo thì đạo kia đến. Nếu vận tâm như thế thì làm hội là đúng.
(Văn Tuyên Đế thời Bắc Tề)
Trẫm nghe chuyên tinh cửu dịch, cảnh hạt cất lên ở châu Huyền, khổ tâm sáu năm giải thích gánh bến phiền não. Hoặc chú thuật của quỷ thần, rõ phương cửa giải thoát. Hoặc nói cốt yếu của nhân duyên, thấy đạo Nê Hoàn, đây là do Thái Nhất mở pháp, xong ở khinh cử, Như Lai chứng lý trở về nơi vắng lặng. Từ dấu vết giấc ngủ Tổ Long đến Lưu Trang cảm mộng, từ đây do trở về rõ ràng càng rộng, còn như có ủy thân dứt lụy bỏ nước quên nhà, quán xá đầy ở núi, đầm. Già lam khắp các châu quận, như vàng ròng có thể hóa, Hoài Nam không nên đến chết, oai thần tự tại Ương-quật đâu được là cá voi, như dùng ngự rồng chẳng thật, Kinh Sơn có luyến phan nhiên. Khống tượng là luống trống, sông triền sông lạc ngộ gian trá của bóng đêm, là chẳng phải đó khế hợp trẫm thật lầm. Bèn có chúng áo đen tham bán ở bình tục, bọn áo vàng thường qua cửa chánh, cho nên nước nhà chu cấp vì đây không đầy đủ. Vua dùng do đây lấy thiếu, muốn chọn chánh đạo kia?? tả thuật kia, một thì có thấm nhuần cho nước nhà, hai thì không hoặc quần phẩm. Vả lại nhóm tranh đến hành đó đã lâu, liền ở giữa đường sa thải thật khó, còn như hai nhà thăng giáng hai đường dài ngắn, có thể chỉ nói hơn kém, không đầu chuột lời kia.
Đáp rằng: Thần nghe thiên tạo tánh mạng, Bậc Thánh không nói, bởi do lý tuyệt hợp cầu khó mà xưng gọi. Bá Dương luận về đạo đức, Trang Chu ý chỉ tiêu dao, bỏ lời lấy ý còn có đáng tìm. Còn như Ngọc Giản sách vàng kinh thần chép bí mật, ba cửa chín chuyển kỳ lạ, tuyết đó sương đen dị kỳ, Hoài Nam thành đạo chó sủa trong mây, Vương Kiều được kiếm tiên bay lên trời, đều là thuyết nương hư không, là lời bàn biển tảo, cầu đó như buộc gió, học đó như bắt bóng, mà vua Yên, Hậu Tề, chúa Tần, vua Hán tin người phương kia, mong gặp chân kia, từ bỏ phước đi không trở lại, cây loan lớn xưa mà không được vẫn gọi là sương bay ngược bóng, cầm tay đáng hẹn xét quỷ cầu thần ngõ hầu đều không chết, sông xanh đã ngược lại vào bế tắt của núi Ly, mưu rồng đã đến, trọn sau tốt mộ Lăng. Mới biết Lưu Hướng tin Hồng Bảo, chết có dư trách Vương Sung chẳng phải Huỳnh Đế, đây là không hư mục.
Lại ngọn lá về trước phần lớn giữ gìn Phật giáo, chép kinh nước Tây (Ấn Độ) vẽ tương cung Nam, ao nối đất đen dùng làm tro kiếp thiêu. Xuân thu đêm sáng gọi là ngày giáng thần, vua ông tự tại biến hóa không cùng, đặt thế giới trong hạt bụi nhét tu-di vào hạt cải. Bởi lý vốn trống không mà bày các phương tiện, mà bọn yêu vọng nếu cầu xuất gia Dược Vương đốt thân, Ba Luân rưới máu, nếu chưa thể như vậy vẫn phải khắc niệm, đâu sửa hình chớ có đổi mạo khác người đời, buông ý phóng tình lại đồng với vật tục, cung rồng dư bàn, Lộc Dã nói trước, đây mà được cho thì đạo phong sắp đọa. Cúi xin Bệ hạ nhận mệnh thiên minh khuất mình giúp dân. Quỷ núi hiệu linh, thần biển lãnh chức, yến đá trong sông Tương, lúc tắm gội mưa mà bay bầy. Trên đài chim cùng hòa gió mà chuyển riêng, nhưng đô Chu ấp lạc trị ở Cảo Kinh, nhà Hán đều nêu hồn quy về Phong Bái, đất Phần Tấn dấu vua chỉ mới bắt đầu, đã mệt dạo vui mừng lại nhọc gọn lược, vẫn lại giáng tình, văn phạm châm chước trăm nhà, tưởng chấp ngọc ở ao xa, niệm mong cầu châu ở nước đỏ. Trộm cho Vương mẫu hiến vòng ngọc do cảm đức Thuấn, trên trời ban ngọc bội là thật báo công của Vũ. Hai ngựa ghi lời, hai ban chép việc, không thấy lời ba, không nghe ý chỉ Nhất thừa. Nhạc vua lễ chúa còn có sửa đổi, tả đạo quái lạ dân cũng đâu nghi mà sa thải? Thần xin kính đối.
(Giản Văn Đế đời Lương)
Khải xét nương Tôn sư Niết-bàn đêm qua rất buồn thương, Pháp sư chí nghiệp uyên bác, đạo phong thuần hậu, giới châu trong sạch, cánh phước gồm tròn, lại thêm hiểu biết thầm thông, tâm giải xét xa, nhớ mưa rơi mà xét quyết, xưng trâu đen mà chẳng lầm, phục ứng không xa gần, mong ích gồm đạo tục, đệ tử tự nói xoay kinh kéo liền bày kết duyên há gọi là một hơi không theo yêm đến ư? Nhưng nghiệp thù thắng vốn sâu, trí lực lanh lợi từ lâu quyết nên dạo thần nơi đất báu, dấu chân vọt trên trời tịnh. Nhưng lời kia ao sữa mở quan tài thơm, vào nhà không vào hư không, tâm ở đâu không thảm thiết? Nhưng Như Lai dấu vết giáng sinh, do đây mà vào Nê Hoàn, ngay khi sinh, trụ, diệt chẳng có tướng nhất định, tiên Thánh hậu hiền đâu hình bóng với tiếng vang kia? Suy lường nhân duyên ngọn ngành có dụ. Thượng nhân v.v... đều ở hai năm, nhóm trước sau bẩm thọ đạo, nên lẽ ra cùng nhau gắng gổ rộng dẫn dắt nghiệp cũ, khiến đạo tràng không dứt, lợi ích không đọa lạc, cứu giúp chúng sinh, đúng như pháp cúng dường làm sao làm sao?
Đệ tử thọ giới Bồ-tát là Vương Quân, pháp danh Tuệ Cự cúi đầu đảnh lễ hỏi thăm Pháp sư Đông Dương Thạnh. Đệ tử nhân xưa nhiều may mắn sớm được yết kiến, năm tháng theo nhau đã hơn ba mươi năm, kính mến phong đức riêng đầy trong lòng, nghe do núi sông chứ không do kính lễ. Tư Mã Tham Quân kính thuật còn xem rủ lòng thăm hỏi nhớ mong, đã gánh vác chép tình xưa, gồm đeo ý chỉ ân cần, vui mừng đầu đội khó mà nói dụ được. Kính nương rủ hòa lại phước dày có chín mươi bốn năm, cười cợt người đỏ thẩm chưa cao, đồng ân tôn thọ mạng ngắn ngủi. Vả lại tai dài thật đã quá cổ, tuổi cứng từng không vui đắm, hoa kéo dài trụ màu tinh thần vui vẻ giúp tánh, tự chẳng phải đời trước trồng nhân lành thì nhân đâu cảm lấy quả báo thù thắng này, thành tuổi tôn quý còn răng, nhớ đức khoản đôn hậu cũ, rất vui mừng khâm phục, khởi ở niệm thức và lòng đệ tử rất bị ràng buộc, ép bức gò bó không do đâu mà hỏi đạo, vỗ về thân như mất, ngõ hầu tâm mong thầm hội gang tấc núi sông, đạo thuật quên nhau bỏ gặp hình vết, cúi xin kính mời khuyến khích hẹn dưỡng nuôi đây. Tùng tía tóc đỏ lại đâu đúng quý, gậy bay thân vọt thật ở sáng tối, chỉ bày đơn khoảng đâu chưa bày xướng, nếu ban cho một lời đâu không may mắn lắm ư! Đệ tử Vương Quân cúi đầu đảnh lễ.
Gần đây nghe đàn việt bày ý mới của vua, nêu lấy bỏ của ba tông, tiếng khác Hoàn Luật, dẫu tiến vật không mau, soạn luận đã thành, tùy hỷ đầy khắp vật trọng phi thường. Lại nương đàn việt sợ lập dị ngay đó can phạm học chúng, chế luận dẫu thành định đâu cần đưa ra, nghe đó sợ vậy bất giác khởi lòng thương. Chỉ thú nghĩa này dường như chẳng phải mới mở, trong diệu âm tuyệt sáu mươi bảy năm, lý cao bận thường đâu thể truyền. Bần đạo lúc hai mươi tuổi đã tham chứng nghĩa này, thường cho là nhờ đây ngộ suốt có thể đắc đạo, trộm thường vui mừng không cùng chung lúc nhỏ, thấy người già ở Trường An phần nhiều nói rằng: "Trong cửa cao thắng bèn xưa có nghĩa này". Lúc thường pháp nhóm thành mà có thể sâu chứng ý thú này vốn không có nhiều người. Đã phạm vượt thường tình sau cho tiến thọ, lại tự rất ít truyền thông không hề có người kia.
Bần đạo từ khi nắm phất trần đến nay đã hơn bốn mươi năm, Đông Tây giảng nói, lầm đến nhất thời kia nghĩa dư gồm rất thấy tông lục, chỉ có đường này trăm dặm không người được. Bần đạo nhiều năm bèn phát bịnh, đã bịnh nặng chưa lành lại thêm ngày đêm xoay về Tây, đoái hoài chỉ có đường này từ nay dứt hẳn. Không nói đàn việt cơ phát không đầu mối, sáng lập riêng phương ngoài chẳng phải ý này âm tạp nhạp đến vào tai. Vừa mừng lại vừa an ủi, thật không có gì dùng để dụ, dựng sáng nghĩa này khiến đèn pháp truyền nối mới là công đức hành đạo chân thật bậc nhất, dẫu lại cõi nước, vợ con mà đem cúng cho Phật và Tăng lấy đó làm phước lợi không cho quá nhau. Đã may mắn rồi thì nói ý tưởng, liền nêu rộng khiến cho thường thấy. Luận rõ pháp lý ngay nhân từ không nhượng đâu được đoái hoài tiếc thương các tâm để bẻ gãy đường tà. Nếu luận này đã thành thì trong giấc ngủ sợ đàn việt mới đến, hoặc do đây làm pháp chướng đến ý lý, nhưng chẳng hý luận.
Tưởng lại chép một bổn làm ân tuệ, bần đạo tiễn đưa để trở về Tây, khiến nơi nơi rộng thông, sảnh nhỏ có thể kéo lôi, cho nên vào núi lấy bày rất mong chờ giữ lấy đó.
(Lưu Tuấn còn tên khác là Hiếu Tiêu, đời Lương)
Nghe các hạnh lý cao bàn suốt đức, xa nghe tiếng gió tâm hồn bay bổng lên, không khác mong Kỳ tiên tủy đá, suy nghĩ thái âm đèn rồng, sao xanh trời mờ tối, mây lạnh đưa mùa thu, đạo thắng thì màu mỡ, vốn nên nuôi dưỡng nhiếp lấy, áo xiêm rực rỡ màng trước như sương buổi chiều, ăn cơm rau sơ sài của cúc vàng, nhảy vọt lên thanh nhàn, sáng đợi ứng về, chiều nghe sáng lội, trói buộc mái riêng chim hạc, thần thức phơi phới. Bởi tượng túc sử cưỡi chim loan kêu, liệt tử ngự gió dài, dẫu gai góc bên ông như không người, Hiếu Nhiên nằm mãi băng tuyết chìm chìm ẩn ẩn, làm sao còn được? Còn như dạo qua vườn kinh bay liệng vườn sách, tột kinh điển mầu nhiệm ở cung rồng, khảy ghi rộng lớn nơi thất đá, đạo sinh phục thiên chân kia, mạn tình từ tạ nói vật kia, nhược bèn quen đây, đồng tử đặt chí chạm khắc trùng, suy nghĩ như rong trong dòng nước, anh tài phát bên ngoài sum suê trúc mùa thu, sáng đẹp tùng mùa xuân, tước tụng dứt khen minh châu, cửa dài lạm thưởng vàng ròng, thạnh thay! Tốt đẹp thay! Xán lạn thay! Đẹp đẽ thay!
Xưa xoay sông Triết thường thấy dây lụa, không biết đốt giấy thiêu luật hồn phách hết sạch, từ đây đến sau cả hai dứt ngọc khuê bích, ý trừng trừng nơi tinh hoa, ruột hồi hồi nơi cửu thệ. Ngày ngự dừng chiếu không vượt lỗ hang, biển như sóng vọt đâu hạn cuộc góc bờ, dùng ngọc cầm chim khách, may mắn truyền các báu, nhờ xem hiệu xanh để khỏi bịnh mắt lòa. Nhưng vượt dân chẳng chỗ mua quan, nước Tề đâu phải đất Tần Thiều, mong cùng kia tiến không để nói lời trách cứ.
(Vương Mạn Dĩnh, đời Lương)
Đệ tử cô tử Mạn Dĩnh cúi đầu đảnh lễ, một ngày mong chỉ bày soạn Cao Tăng Truyện và dạy kia nắm lấy, sức tìm mới xong chỉ thấy tài vĩ đại, giấy che mực dụ đến chưa thể bỏ, nếu cho đến pháp đã giúp danh đức đã khởi, hơn năm trăm tuổi, thời trải qua sáu đời, từ Ma Đằng, Trúc Pháp Lan xe báu chở đến từ Tây Vức, An Hầu Chi Sấm quảy gậy ở đông đô, đâu dấu vết nêu xã hội chìm mất, hạnh thật có cạn sâu đều làm ghe thuyền, cầu bến rất lợi ích, vốn nên đen trắng (đạo, tục) truyền bá tốt đẹp, chí tạm định lời chiêu vời hậu côn, khen ngợi tài giỏi mà Đạo An, La-thập dâng biểu tâu thư, Phật Trừng, Đạo Tấn tạp nghe trả sách. Sử đời Tấn thấy pháp lại hận cuộc đương thời, kinh điển đời Tống chỗ ưa hơi nhân hội kia, gồm lại chống ra ký vua dài, lẫn lộn ở thuyết nguyên lượng, cảm ứng hoặc chỗ đẩy cao, tối sáng đều đại khái. Rộng hiển bên văn chưa đủ mở sáng, mở có các truyện, chẳng còn che giấu. Cảnh Hưng tình cờ nhặt người ở núi, Tăng Bảo khắp nối kẻ du phương, Pháp Tế chỉ có Trương Cao Dật, Pháp An dừng mạng khoa chí tiết, Khương Hoằng chuyên kỷ đơn khai, Vương Lý chỉ xưng cao tòa, Tăng Du xuất sắc riêng chỗ, Huyền Sướng vượt xa chép riêng, chỉ có Thích Pháp Tấn chỗ tạo khăn vua có dính mắc, ý còn gồm tông có thể đàn một nhà.
Nhưng tiến danh rộng mà chưa rộng, khăn lễ đứng mà không thành, Lương đến làm cũng có các bịnh. Tăng Hựu thành giản, đã đồng trách Pháp Tế, Vương Lý nhuộm lông, lại được chê trách Cảnh Hưng, kia xướng công soán tập rất thật gần, cầu ý xấu kia đại khái rất thấy Pháp sư. Chế đây ban đầu cái gọi là chẳng khắc bút hồng, miên hoàn xưa nay bao trùm trong ngoài, thuộc lời so sánh sự không văn không chất, nghĩa là nhiều nạn xét rằng ước đâu có thêm, lấy Cao làm tên, đã khiến bỏ hổ thẹn, mở dụ thành rộng, đủ khiến có người lành khuyên hướng đó. Hai ba chư tử trước sau soạn thuật, đâu được y cứ dài lượng ngắn đồng năm cùng ngày mà nói ư?
Tín văn xong rồi không một lời để dự, khăn bói, quán trống lập thưởng ngàn vàng, mới vào sứu long, trên hòm lên lầu lân, ra trong tráp quỳnh, cuốn mở rương ngọc. đệ tử dẫu thật chẳng thông minh, mà lúc nhỏ hiếu học, ngày càng gầy yếu riêng đường nhiều mê muội, lại được khoác đến màn văn ở đây, khen ngợi chẳng rảnh thảo luận chỗ nào thành sai trái, con không thấy nguyên tắc luận rất hổ thẹn, chỗ đạo biết sách Hưu Địch luống sâu, cảm tạ An Mộ, Trúc Khoáng phong lưu, Ân Hạo, Thiền Chi theo người tài giỏi. Không gặp mười ngày đã nhọc với tình, sức phò trắng đây để thay thế nói hết. Đệ tử Cô Tử Vương Mạn Dĩnh cúi đầu đảnh lễ.
Quân Bạch một ngày để soạn Cao Tăng Truyện Tương Giản, ý còn cắt lựa mà mới làm, chồng giấy lại thêm lau chùi, nhìn lại chỉ có đạo nhờ người mở mang, lý nhờ giáo mà hiển, mà hoằng đạo thích giáo đâu còn Cao tăng, cho nên lần nhiễm đến nay chiếu rõ di pháp, công nhóm khác nhau, nhiều đời mà khởi khích lệ hậu sinh, lý nên gồm nối, bần đạo thiếu kém nhớ thỏ ôm sách, siêng tự khóa, tu lâu mến mực chì, tô xanh dương khéo đẹp, cho nên đối nghe xem trong dư lầm tâm truyền chép. Thường thấy một giới đáng xưng liền có tâm xét lại, nhưng có tìm các ghi chép nhiều gọn khác nhau, hoặc bài chép nêu so le, hoặc hành sự chìm nổi, đã rõ tựa riêng gồm đủ đến nói, cho nên không lường tấc ống liền cây mười khoa bàn bạc điều lưu, ý lời được nêu mà đường bút mênh mông lời lầm hẹp hòi vụng về, vốn do tự giúp sai sót đâu nên lạm vào cao thính, đàn-việt đã học cả Khổng, Thích, hiểu suốt huyền nho, trục văn nối liền trong ngoài sâu rộng tốt đẹp. Nhưng sự cao lời thô từ lâu ôm nhiều hổ thẹn đến nói, than ôi! Lại thêm mắc cỡ. Nay do việc làm khen mười khoa luận, lại để chọn nhau, nếu có sai lầm xin châm chước giúp (Thích Quân
Bạch)
(của Lưu Chi Lân đời Lương)
Đệ tử là Lưu Chi Lân cúi đầu đảnh lễ, sấm sét chớp nhoáng, ba tướng không dừng, như hư không chẳng có ngã, năm ấm đâu có trụ, Tôn sư Tăng Chánh, bỏ thọ mạng Diêm-phù dời thần về diệu lạc, dẫu nương duyên gieo trồng đời trước đây quyết lên đất lành, nhân tình hoằng hóa ôm ấp đau thương khổ sở, niệm ở lớp thứ ba truy mộ thương tiếc triền miên hằng đến lý chẳng thể mặc tình, vì sao, vì sao? Tăng Chánh tinh lý đặc biệt cứu kinh luận hợp thông, rau cỏ sơ sài trọn đời có làm lược hết, khô khan ngay năm, nghi hình, hai chúng, há thẳng dứt tâm nêu cổ cũng là xuất sắc của nhân luân. Đệ tử nhỏ lờn đi gặp mấy kỷ, đến đây bình sinh kính ngưỡng, bạn lành nương đây suy yếu bệnh tật lần đã hết, không được lạm khinh lờn, lòng thương tiếc hai ba thêm cấm, sức giúp đỡ tu thô tục quê mùa, mê mờ bỉ ổi không kế lớp. Đệ tử Lưu Chi Lân cúi đầu đảnh lễ.
(soạn đồng với trên)
Sinh diệt vô thường, hiền đệ Pháp sư Chấn yểm đồng lực sĩ, sinh xứ đạo thức dài đến pháp ngôn dứt hẳn đau tiếc, kéo đẩy không thể thôi năm thờ mình, chưa cao đức nghiệp mới gieo rắc bệnh tật, lớn vậy mà cho là không quá lo, bèn đến đỗi giáo hóa, đạo tục đều kinh ngạc, niệm rất tha thiết. Thiên luân rất thương tiếc, tình hằng đến không thể là chỗ ở, vì sao vì sao?
Pháp sư nghĩa vị gồm hợp, cổ và tay áo đen, thức độ vui sướng nhờ rất đáng đời. Xưa ở kinh đô Thánh thượng nhìn tiếp, tự trở về nước nhà trải qua lễ trọng. Vả lại giảng nói lợi ích đã thật rộng nhiều, xây dựng chùa miếu thật rộng về phước nghiệp, áo trùm bỗng nhiên không trái với vật, chỗ khởi dạo chơi đều là thời hiền, trắng đen quy về đẹp, xa gần cung kính, đâu chỉ dứt tâm tàn tụy, thật cũng tàn báu của nhân luân, nhớ thương khen tiếc đâu thể ngừng dứt và nhục di thư cùng vật khác, đối thêm nghẹn ngào than thở, điện hạ tự làm bài minh. Lại giáo báo ghi làm tựa chí, e bào tưởng đều chưa thể nghiên cứu tường tận, đã được mặt là bào thuyết các việc làm và mưu kế tốt đẹp, kế quyết buộc không hư việc. Như nay ngày chí đã làm tiến và gọi sư tu. Lưu Chi Lân cúi đầu đảnh lễ.
Ngày 20 tháng 08 Chi Lân đảnh lễ. Pháp giới trống rỗng, núi câu đổ ngã hư hoại, Tôn sư Đại Chánh dời Thần về cõi tịnh. Phàm phu cạn lụy anh tài trệ nhạc bi ai, nương điềm dữ này, năm việc bên trong kéo đẩy rất thương tiếc, không thể tự mình, niệm theo kính mến, hằng đến triền miên đoạn tuyệt, tình đang khó ở, vì sao vì sao?
Đại Chánh đức trùm một thời, đạo che mát bốn bộ dạy dỗ dẫn dắt học trò, nối thạnh tượng pháp. Năm ở, Tăng đầu hạnh làm thầy người, công tư chiêm kinh xa gần kính ngưỡng. Nếu bèn năm thời chín bộ lưu thông giải thích, ngang bằng tiến bối đồng loại hiền xưa, dẫu Thập, Triệu, Dung, Hằng, Lâm An, Sinh, Viễn đâu thể còn nhau. Đốn ngộ dẫu ra tụ sinh công, mở mang đời sau lời màu không dứt, thật nhờ Phu Tử, lại dùng ái ngữ lợi ích, cùng sự rộng lớn của bốn nhiếp, đàn nhẫn trí tuệ đủ sáu độ gồm sáng, đạo tục quy y, hàm thức biết đến. Ghe thuyền cho người ngu tối, là rường cột nơi chùa tháp. Hằng ngày không biết chí đức ẩn liền, đạo nào dài mà đời ngắn, công giúp mà thân mất, sáng nơi biển cả hằng chìm Tu-di, soi núi cao kia, dài thâu mặt trời. Xưa ấy ngại gì, nay lại ngại gì? Pháp sư nhỏ mà mặt Bắc sinh tiểu phục ứng, đến già xa xôi thường ở hai bên, ở lượng thứ ba một sáng chợt mất, thương tiếc buồn đau không chỗ nào sánh. Đệ tử lụa là dạo đón hơn năm mươi năm, chưa nói biết đoái hoài bạn lữ hẹn nhau, đến nơi Bồ-đề không dám sinh mạn, vị lai khó biết, hiện tại thường cách ngăn. Xem nói hằng sống, mãi đồng vạn cổ, suy nghĩ đau buồn gấp bội không thể tự kể xiết, chưa do quê mùa chấp bày khinh lờn thương thay! Cẩn cắt sách trắng, đầu bút nghẹn ngào hổ thẹn, đệ tử Lưu Chi Lân cúi đầu đảnh lễ.
Chim ở trên núi, ổ trên ngọn cây, cá ở đầm sâu dưới hang bùn cát đâu có tốt xấu? Bởi tánh nó như vậy, cho nên có chợt ngọc bích trắng mà ưa rủ lụa, nghèo ngọc đảnh mà muốn khanh tướng. Hành tạng lộn xộn hiển sai lầm kích bác, chẳng khác lửa mạnh dòng nước động quanh mới dứt. Đây thì miếu nhà và sông biển, cửa tranh cùng ngỏ ngọc, đều vậy vì kia như vậy, vui chỗ vui kia. Lông cánh chân chim vết thẹo ở trong đó, ngài sinh tự rộng rãi, khéo lo khó quen lờn. Tâm rong ruổi đài mây nhà ngọc, quên dứt dù cao lụa xanh, lại thấm ướt sương móc càng xin nhàn khỏi. Thường suy nghĩ giặt gội dòng nước sách dứt nơi đỉnh gò, thức ngủ thường nhớ kia đến trước. Con giun chuyên ăn đất, dân muốn trời theo, cho đến hai lông được ở hang núi, chỗ ở là núi Kim Hoa quận Đông Dương. Đông Dương thật là Cối Kê ở Tây Bộ là rừng trúc xanh núi sông xinh đẹp, đầm lầy tốt tươi, như các núi nhiều lớp lớp thì tiếp Hán liền Hà, rừng kiều rải man thì xuân xanh đông lục, vòng khe sáng dòng thì mười nhẫn rỗng suốt đáy, tấc mây hợp hẳn ngàn dặm mưa rơi. Tin cao ráo sạch rẽ thần ở nhà đẹp, do đây vua dạo chơi đúc đảnh đây, mưa Sư nhờ nương khói này, cho nên Giản Lặc tên Xích Tùng, Sơn Di hiệu Tấn Vân.
Đời gần đây trong Giang Trị xưa Vương Vi Sĩ gạn cặn đục cao cứu gió bụi, mâm rồng phụng đậu đều tốt đất này, bởi dòng nước xiết lôi đá có thể gây ra người tối ư? Núi Kim Hoa xưa là núi Mã An (yên ngựa) lam linh giấu Thánh nêu tên tiên điệp. Tả Nguyên buông xưng núi này nói rằng: "Đáng khỏi hồng thủy năm non, đáng hợp thần ghe chín chuyển".
Đầu Kim Hoa có núi Tử Nham, sắc núi hồng tím, do đó đặt tên, chẳng phải đi về phía Pha Đà dưới thuộc sâu xa, trên ẩn lân thiếu mặt trời mặt trăng, lên chân núi dần dần cao vút, đường vòng nguy hiểm, cá sâu mà lên, đường ắt có huyệt, khe ống sâu rộng, cúi vòm cây sao, tiêu nguồn sắt đá, chẳng riêng huyện Nguy, đến núi gần nửa liền có đầm rộng sông lớn, bờ cao ẩn giàu có, Ngài sửa lại nhà thật ở đây ư? Chỗ ở ba mặt đều quanh núi, vây quanh có tượng ngoài thành, trước quách thì bằng rộng đúc điều, mắt tột thông trông về Đông, Tây mang hai khe bốn mùa bay dòng suối, sóng trong mưa dầm nhỏ giọt sinh tiếng vang, sóng trắng đạp bọt cuồn cuộn thành âm thanh, chuyên chở đường sông quấy rầy chuyển giao, dẫn dòng giao rảnh lầm quấn, treo máng nước dưới mái hiên, nhỏ giọt xuống thềm cũng màng không dây gáo múc nước. Gội, súc miệng dứt bình bồn, cây phong, ỷ, lịch, cây tử, cây bá, cây quế, cây long não, chia hình khác sắc, ngàn tộc muôn giống, kết châu thật bao gồm rau xanh, gốc cây trắng, rút rau tía, gió thổi có tiếng rủ điều cửa, rải lá, trong cửa mạch hang khe bãi, hoa nhụy góp bày cho đến xuân xanh nhận cảm tạ. Bình thường suối động thì có cầu đô hàm thơm ngát, ngậm hương thơm tống tiễn cỏ thơm, lâu ưa gánh sương nên nam sương mênh mông, hoa sen hoa hồng soi nước, tô cao nêu là theo gió, nương hiên thường ngắm xa, quên mất lo bệnh tật.
Khâu a lục khúc các thuốc có bụi lùm, tùy đất cất giấu hành, gân núi kéo tiết. Muối vàng lại ở tường trắng, trống ngọc quý ở minh châu, có thể dưỡng tánh tiêu bịnh nặng, trở lại sắc năm trụ không nhờ văn cao lớn vàng rải, chớ dùng gánh cuộc hạn hòn tím, chim bay là là thai gió mưa cầu, cánh lục lông hồng, cánh trắng râu xanh, nghiêm túc lông cánh quan quan âm giai tốt. Quen thuần vườn ao xoay ăn vụ Kê, như ban ngày rộng lớn, dò xét môi âm vang gióng chuông trống, trùng kêu đợi rạng đông nghe đàn cầm đàn sắt. Vượn đen sương mỏng càng trong, bay theo khói vịnh linh, ồn ào lanh lảnh tâm mừng tai vui, thiết nghĩ sở dĩ rón rén bước qua, kèn sáo thao lược du dương. Nhà đông khởi chùa Chiêu Đề, lưng núi, mặt hang vách hiên dẫn cảnh, cõi xa lắc đến bờ, rộng vút trong hư không, cát tường sinh trắng trái nhìn phải liếc, nhân trí chỗ ở cho nên danh Tăng đức lớn chống tích trượng mây nhóm họp.
Bảy giác điều tâm, quở trách năm trần, lộng lẫy nêu giới hương, tắm nước định này, đến như bếp đen đêm nóng trống pháp sáng nghe. Ông thì dép cỏ vén áo thân đi đầu đảnh lễ, đầu câu người thông minh khâm hòa chí giáo, thường nghe sông này nhiều nhánh bờ kia hằng vắng lặng, hớn hở vui mừng như lên đài xuân mà ra vũ trụ, chỉ có điều lành là vui, đâu phải y theo lời. Phía Đông nam chùa có Đình Đạo Quán, dừng trên bờ thì trông xuống mây mưa, lầu tuệ đài lan, ẩn sáng rừng tre, bay nhìn hiên khói sương khéo léo. Ngày chỉ mất một hột của dân, năm kế khách cúng, ăn tủy sao, hít dòng sương, toan vẫn xiêm mây áo cầu vồng, nương rồng cưỡi hạc, nhìn xuống có giếng đá đứng sững giữa khe, chạm ngọc khắc gọt rất giống thợ làm, như dòng nước chảy nhanh vọt lên ùn ùn cổ họng, sấm chớp ầm ầm chói mắt kinh hồn, trước chùa quán đều trồng trúc đàn, loan, tiêu, sắt giúp gò xanh um, ngoài trúc ra thì có ruộng tốt, ranh giới bờ ruộng thông tiếp suối núi, tươi tốt thấm nhuần phì nhiêu. Trịnh Bạch, Quyết Chương đâu thể phác họa, còn như lúa hồng đầy tràn, vịt trời nên nhàm đầy.
Mùa xuân ba ba mở ngon như gà bích, mùa Đông vị rau quý như sương xuyết. Khăn nhiễu lấy ở ngọn núi, quần ngắn đưa ra từ trong vườn, hoàn tương bức ắt ở ao hồ, cỏ mây cỏ lác sát nhau trấn chỗ ẩm thấp nuôi nấng đời đời đều dùng, thảy đều gò thật rào phiên, đỉnh núi bờ cao cả nhẫn, đầu năm khi nhà nông nhàn rỗi, ban đầu rượu, đục rượu lọc trong, chén uống mới, thuần thục thì nhà nông có già rừng, cất ấm cùng đến, đám gai dưới rừng bày chuôi đồng đặt tước, rượu say tai nóng, thường múa ầm ĩ, thành luận rương kho, cao bàn thóc đậu, cười đùa khen ngợi nâng chén rót vào nhau, người sinh vui mừng. Niềm vui này há đều như con trùng mà cày áo, để ăn, ngày ra mà làm ngày vào mà dứt, ăn chiều ngay cả thịt không phải là quý, không cầu ở đời, không ngỗ nghịch với vật, đâu phân biệt vinh nhục, chẳng biết khen chê, bao la trong trời đất, tâm không cảnh giác đâu cùng sinh răng nhọn Dương Tử rơi lầu, so sánh kia hơn kém ư?
Thích Chân Quán tại chùa Quang Hiển ở Tuyền Đình gởi thư cho đàn việt Lãnh Quân.
Trộm nghe, khai sĩ bốn y phò chánh pháp nơi gần giống, cao nhân Thập địa thưa văn màu ở mình tuyệt. Có thể khiến núi nổi, khiến dấu vết không thiếu gió ngồi yên, cây thần các mầm được nêu bày đường kinh hành. Nhìn thấy ngày nay vua chúa kính đọc, nghiêm hiến, phàm thuộc loại Tăng Ni, không sách vở gọi là sách vở, đều khiến tổn pháp đây, giới đến dân đen này, cách già lam kia trở về cổng làng kia, đã khắp dưới trời đâu chẳng là vua quan, ngay khi cố gắng cúi mình cung kính vâng lời, nhưng ngu tình cho rằng trộm nghi ngờ.
Từ khi Phật pháp hưng khởi có hơn ngàn năm, lưu truyền đến cõi này có mấy trăm năm rồi, Tăng đồ đông đúc sẵn có, một bề đâu là thạnh, dẫu lại khắp triều gấp sửa đổi, phong hóa liên tiếp dời thì đèn tuệ thường sáng, hương giới hằng thơm, kia là phước lợi khó thể nói hết. Chỗ hiện điềm linh lành thì nghe các sử truyện, đến như tháp Hòa thượng xinh đẹp trong đất Nghiệp, tòa cao Pháp sư truyền hương thơm bền chặt, hoặc là trong ao Côn Minh biết còn lại tro của kiếp thiêu, trong chùa Trường Sa cảm khiến thân nát, đường mát mở vào cảnh tiên, sao bèn xuất hiện, pháp thành bỏ đời điềm lành ngựa tím nổi, bèn có mắt xanh, tóc đỏ, con ngươi vàng, chân trắng, nối mày, nêu xưng tai lớn truyền hương thơm, đâu không nước lóng đầm trong, nghĩa cao núi cứng, đạo tràn trề trông loại dấu cao Ca-diếp, oai nghi nghiêm túc, giống như hạnh trong sạch của sống mũi thấp. Một năm sai lầm bèn ngày rưới khắp, mà nền tảng chánh pháp vẫn còn chưa dứt. Bỗng lại trái bổn chí kia, đoạt tâm trước kia, đâu không ngước điện cao mà mỏi đau, từ chối phòng cũ mà đau đớn, nương tựa tòa pháp lại ngược kỳ sao, luyến tiếc cửa thiền lại không có ngày. Bèn chẳng phải đường rẽ mà có buồn chia tay, dẫu khác sông cầu bèn kết lời lìa thống thiết. Nếu cho không nối danh sách là rất tội, nếu kéo dài lỗi cũng đáng thương tiếc. Nếu là người xuất tục lẽ ra nên tu đạo, tính toán lễ ngoài phương, không câu tiết trong thành, hoặc có không suốt tên sách không quan hệ cổ mỏng, đều là du phương thu nhặt lắng nghe tùy chỗ lợi đặt trông cõi là trong chỗ ở xin cơm. Hoặc Đầu đà dưới rừng, hoặc Lan-nhã đầu núi, dòng như thế đâu cho kế tiếp, như thắng nghiệp không hoàn toàn rõ ràng nhiều chê hủy. Nên lẽ ra thôi đạo việc này thật vậy, mà trì phạm khó biết, thánh phàm xen lạm nhau.
Thí như trái Am-la sống chín khó biết, thuốc núi Tuyết chân ngụy khó phân, bỗng khiến trên Côn Phong ngọc đá đồng đốt. Trong đầm lớn rồng rắn đồng chết, đâu tiếc hẹn, ôi đáng thương thay! Lại hại kia mến lời, thân khoác áo đen tóc cắt, đã không nô bộc, dứt hẳn vợ con. Hoặc tuổi già bịnh, riêng kẻ nghèo đều nhờ đệ tử trở lại nuôi dưỡng bảo vệ nhau, như kia một sớm mưa tan, liền chết mất ở cống rãnh, có người đến hang cao mà buông thân, thắt cổ bằng giây dài mà tự tử. Mạng dẫu lại đau đớn chìm lỉm thì bọn này vẫn coi nhẹ, buồn hang hoang phế phương này chưa trọng.
Vả lại ý tài dứt học đều nhờ đời sau, nghe giảng, tụng kinh, đều giúp tuổi già tốt đẹp, cho nên Tu-đà đắc giới vẫn còn trẻ nhỏ, Thân Tử nổi tiếng chẳng phải bậc kỳ lão, hạng người như thế nếu đều lật đen, e pháp môn này sẽ không người nối tiếp, phạm luân dứt tuyệt, tinh xá trống rỗng. Nếu tám trận chưa dừng, bốn giao nhiều hủy, phòng trước chỗ gởi, điện sau đây nương Ngu tôi cho rằng người này thật là vô dụng, nếu quyết có cứu kia có khả năng sẽ nhảy vô đá, sức bẻ sắt làm lưỡi câu, thì đều theo quân ít lâu dự khu lớn. Nếu còn mặc áo đen vẫn ở trong chùa thì là tập tâm dõng mãnh vui đạo tình sâu. Nếu chẳng phải thanh luy hộ vệ giới ngọc, liền đồng khiếp nổi của mãnh sưởng. Đã không tiện cung ngựa luống nhọc hành quân, dẫu lại thân mặc giáp đầu lại mạo tưởng pháp y (áo pháp), tay cầm gươm giáo vẫn nghĩ cầm tích trượng, hẳn sẽ xa nghe trống trận, sắc mặt thay đổi tâm kinh sợ, xa nhìn cờ quân hồn bay khí khiếp, sợ có ngăn trở đều là oai ủng hộ, không lợi ích dõng mãnh hai Sư. Nếu cho là không thâu khóa vua chẳng giúp các nước, cho nên khiến khắp thâu thuế kia nghiêm ngặt. Nhưng thuận phù du, như bèo tung tóc, cỏ bay bổng. Dòng tán đản lại nghèo túng làng xóm đã không có ruộng nhà, kinh đô lại thiếu người làm chủ, mang giày thì hai gót chân đều lủng, mặc áo thì hai khuỷu tay đều lòi. Nhìn Đổng Sinh trăm kết còn biết khinh hoa, thấy Nhan Tử một giỏ lại nghi đầy cơm. Tìm hư hoại để làm thuốc, đâu biết hòn tím uống, phẩn tảo (giẻ rách) làm áo, đâu gặp lụa vàng lễ hàng hóa tiền tài. Ở đây không theo lỗi nhờ ngọc bích, tin ư? Lẽ ra là khỏi.
Nếu khiến kia ở đạo vẫn có thể chia vệ tự giúp, khiến cho người nhân là lương thực chớ gởi. Cúi xin Hoàng triều ngự qua cùng Thanh cho rõ, nối gót Hiên Hy, sánh vai với Viêm Hạo. Nắm gương gió càng xa, rủ y hóa mới sâu. Gồm lại rường cột Tam bảo, mở rộng mười điều lành. Xưa Hán Minh Đế cảm điềm lành mộng thấy người vàng, Tấn Vũ che sửa vừa chiêu cảm tượng ngọc, dùng xưa nay kia có hổ thẹn.
Hoặc kinh sâu là được đồng với tiên dự hàng Đại vương, bảo tháp đây này thế loại không lo vua cõi nước. Sáng nêu chật hẹp, tin ở cha trống sạch, gạn mời săn bắn chài lưới kế cao thượng của vua nghiêm, ngu tôi cho là trở ngại. Ngày nay miễn đầu Tăng Ni, nếu đã lìa pháp y không theo đạo nghiệp hoặc thường ở quán xá, hằng ở ruộng vườn đều nhờ dân chúng, nên theo sự sai khiến.
Như kia thiền tụng hiểu biết, ăn chay trong sạch, hoặc tuyên bố có công, phạm tinh đáng chép, hoặc khéo sửa sang tháp miếu tạo lập kinh sách cứu giúp tại tâm cho học tập là sự nghiệp, cho đến thuộc hạng già yếu, nghèo bịnh, may mắn ở cửa đan không chỗ dùng được, đều cho ở chùa vẫn ở trên sở Tăng. Quyết mong mười thành ngọc hoặc ra núi gai, trong trăm bước thời gặp cỏ thơm. Vì vậy, chùa dứt Tăng lưu tục, chúng không khách cơm hẩm, sáu thời kiều thỉnh thường lấy cõi nước làm tâm, ba nghiệp tinh tu quyết dùng vua chúa làm gốc đâu không sáng tối vui mừng, quỷ người hân hoan. Sức thầm che chở, duyên lành giúp đỡ, rồi sau đất trời giao tấu sáu khí điều hòa, quân mã nghỉ ngơi, cờ binh cuốn nghỉ, vào giúp biên cương hoang tàn, không đợi thợ thầy ghe nước ngọc lụa đến triều lại tưởng nhóm Kê Sơn, đâu hẹn vui ư? Thật đáng vui ư?
Nếu cương trường không quân Ngô giúp có quan hệ, rộng cần phí kế, cúi xin trưng cầu, chỉ có Lãnh Quân đàn việt. Ngoài thì tham cứu sách vở, trong thì hiểu sâu kinh luận, mới ao màn trướng gởi trọng muối me, quyết xin giáng ý người chân lấm tay bùn, lưu tâm chánh pháp. Ban ơn nghiên cứu tường tận, rộng dù lòng xem xét, như kia một mảy may có thể thâu nhặt sâu hy vọng, khúc vì khoe luận không khiến cỏ lan cỏ ngải đồng lúa, cỏ huân cỏ du đều cắt, ngõ hầu được ở trong khuôn mẫu tiên nhân, lại chuyển bánh xe pháp. Trưởng giả trong vườn lại trải giảng tòa, thì đức sửa sang giềng mối sánh với núi Hằng đồng cao, công ủng hộ rộng lớn như biển cả, hoành đây ngang ngược phiền muộn càng thêm kinh sợ.
(Trần Từ Lăng)
Trộm nghe người xuất gia nhà rộng như hư không, ở trong lòng thế tục dụ như ở lao ngục. Chẳng những có văn đã rõ, tự thế gian cũng thấy. Chợt nghe Pháp sư úp ghe thuyền kia đến ngược việc của người tu sĩ, đây là cái giỏi dưới mắt chữ chẳng phải kế hay lâu dài. Vì sao mà biết? Vì từ khổ vào vui chưa biết cái vui trong vui. Từ vui vào khổ mới biết cái khổ trong khổ. Đệ tử xưa nay cho Pháp sư dẫu không là người xưa cũ mà từ khi biết nhau đến nay cũng lại chẳng sợ, phàm thuốc hay thì không ngọt, lời ngay can ngăn quyết trái lỗ tai, nhờ thấy kia vắng vẻ do đây bất nhẫn không nói.
Vả lại trong ba mươi năm tạo nghiệp đâu lớn vì sao trong một sớm lại bỏ công đã thành, ai thật là đáng tiếc, kính vượt tâm cao, chưa hiểu ý sâu, e chẳng phải kế sách nhà binh, muốn nhóm Lưu hầu, hình loại rồng nằm xa cầu họ cát đá vàng binh pháp đâu thể gặp lại, ba đều là tranh lau không do hai lần gặp gỡ. Phong tước năm đẳng chỉ thấy chứ không gặp, trong lầu ngoài cửa khó đỏ dễ trắng. Kèn lá ống phụng chẳng được đều nghe, vũ nữ kỹ nữ không nhọc quen lờn, tìm đó giống như lông trâu, được giống như sừng trâu, ngoài ra chỗ nào nhìn trộm lỗ?
Nay nếu Pháp sư thoái chuyển chưa hẳn có một điều xứng tâm, giao mất mười món đại lợi hiện tiền. Vì sao? Vì Phật pháp không phân biệt dòng nhỏ, người vào thì tôn trọng, quy y thì quý kính, trên không hầu Thiên tử, dưới không nhượng chư hầu, riêng dạo chơi thế gian vô vi tự tại, đây là điều lợi thứ nhất.
Thân không làm lụng nhọc nhằn, miệng ăn cơm ngon, tâm chẳng lo việc vợ con, thân mặc áo thô sơ, sáng không lo tiền bạc, chiều không thể ngàn dặm, cúi ngước dạo chơi đâu không vui, đây là điều lợi thứ hai.
Thân không trách nhiệm nặng, ở quyết là cõi mới vách trắng cửa đỏ lý nhiên rất kính. Tối cầm sáng sắc là tự vui đùa, sáng sớm bút chiều lại thì luận tình luận đủ, đây là điều lợi thứ ba.
Dù cho gai sinh ở đường vua đi, cầu hóa thành cống dài, hẻm nhỏ cửa bé nhờ đâu mà thay đổi, tấc lụa không vận tải, quan kho đấu gạo, không tiến kho công thương, ty bội thương, đâu cần tìm cầu, đây là điều lợi thứ tư.
Trước cửa quấy rối ta lại an giấc ngủ, trong hẻm vân vân không vẻ kinh sợ, nhà thôi điêu khắc lớn nhỏ, cửa dừng đinh cứng mềm, vào ra tùy tâm, qua lại tự tại, đây là điều lợi thứ năm.
Tăng xuất gia không đúng vẫn hơn kẻ ở thế tục, dù cho tâm còn nghĩ giết chóc, tay không lỗi đoạn mạng, trong sâu kín thông tình quyết hơn đèn sáng rỡ, cầu tục như thế phiền cấu muôn lần còn hơn người tại gia, nếu vào sông ái thì chìm mãi chẳng đường ra, đây là điều lợi thứ sáu.
Nghe tiếng chuông mà chí kính, tìm hương thơm để sinh tâm, sáng thấy tôn nghi chiều khác trục báu, điều lành khoảnh khắc theo đây mà sinh, công nhỏ như giọt nước mà lần đầy chum lớn, chưa biết nhân duyên quả báo thiện ác rõ ràng, nói theo đây thì lợi kia khó bày. Dù cho hiểu tướng người tại gia vẫn có việc trần ai, dầu khiến xa gởi búng móng tay xa gần cúi đầu, hình bỏ tâm giữ thân dời ý qua, người có rảnh được như thế. Người nghèo khổ thường không nhân, gần ở trước mắt không nói có thể thấy, đây là điều lợi thứ bảy.
Trong núi dưới cây cho nên tự khó hẹn, gối trên đã, dòng nước súc miệng thật ít có, loại như thế không thể nghĩ bàn, người như thế khó gặp, nhất tâm người ít gặp, Pháp sư chưa thể không học, giao tập nhân thông minh thù thắng, một sớm thối tâm đối lý xa mù, đây là điều lợi thứ tám.
Dệt chỉ thành màn, thấy nhân quá khứ, truyền quyển lưu ly nghiệm quả đời sau. Biết nhân biết quả không cho là lỗi, biết phước biết quả báo do đâu gây tội? Trên không ghe và mái chèo sẽ thấy cái buồn bị chìm đắm, dưới mất phao nổi thì có cái họa chìm thân. Đây là điều lợi thứ chín.
Rộng giúp chúng sinh làm thầy trời người, nước, đất bằng, hư không, đều là chỗ tôn quý, nói quyết là Xà-lê, Hòa thượng. Thư liền gửi đến cung kính đảnh lễ, xa gần ca hát, sang hèn kính ngưỡng. Nay Pháp sư quyết thoái chuyển lập thành đáng nghiệm, vừa cởi ca sa, gặp người liền xưng "ông tôi" mới hiểu họ tên trịch vai thì cũng đáng gọi, bằng người cho nên tự không bàn, thấp kém cũng sợ không nhường, lời mỏng xưng mình, giường chõng tre khác theo đến. Nhỏ được tự ở, được vua phong, nếu không quì gối nghiêm này tự hiểu không nhân, cúi ngước nương đón chưa rảnh hợp độ, chuyên chú như thế do đâu mà cho. Đây là điều lợi thứ mười.
Lược nói mười việc không mất cơ này, trong kia đạo sâu đâu cho nói đủ. Ngước độ người nhân từ, tâm ở cảnh ma bị ma mê hoặc, ý nương đường tà nhận tà đổi tánh, dù cho mày như liễu nhỏ, đâu đáng quan hệ tấm lòng, gò má như trái hồng đâu thể lâu dài, đồng chăn chia gối vẫn có buồn tin dài, khi ngồi nằm quên, không khỏi oán thù, lạc sông thần nữ còn lại không lầm đông a. Trên đời bọn ca kỹ đâu quan hệ gì đến việc vua, phàm tâm là mặt. Nếu nói về quyến luyến thì chung khí chung lòng, một lần lỗi triền miên thì luôn đêm nhàm thức dậy. Pháp sư chưa thông phản chiếu đâu ngộ bán hoa, chưa chứng tha tâm thông thì đâu biết ý kia. Than ôi! Cây quế đem làm đuốc lớn để đốt, đáng tiếc hạt minh châu mà để trong bùn.
Đệ tử ngày nay bàn ngang quyết được Pháp sư mỉm cười. Trên đời người tại gia đâu nói xấu đâu hạn cuộc, vả lại một người thối đạo mà không an nguy, nói theo đây thì thật khó hiểu. Thí như ngói đá đầy đường người không kinh sợ, mảnh vàng ròng muôn phàm dứt bước, chánh nói công Pháp sư vào đạo đã đủ, pháp nhiễm tục chưa nhiều khác gì vàng mà đổi đồng đỏ, bạc mà đổi lấy chì thiếc, đáng thương, đáng tiếc, vẫn đáng buồn, lượng có thể nhẫn khó nhẫn, mới biết kia rất mong bỏ việc đời dứt trần lao, chánh niệm tương ưng, hạnh chí cả hai hoàn toàn, thêm rõ lo lự liền có thể suy nghĩ, hối ở trước không nhọc lo hận về sau. Nếu đệ tử tính xa thì mười mấy năm, ở giữa sẽ biết so lường, gần thì ba năm, năm năm, trong xướng trống thế nào, muôn hận nạn buồn đâu biết xa đến. Tự lầm tự lẫn bỏ hẳn mất một đời, bèn biết giây đàn đứt có thể nối, tính cách khó giữ. Hoặc như trong lửa sinh hoa có thể gọi là ít có, người mê biết ngược bỏ đạo không xa, mau chóng suy xét, gấp lên đường chánh. Pháp sư chẳng phải vô trí, nên bị người ngu làm mê, giống như A-nan bị ma quấy nhiễu, còn phải nhờ năng lực Tam bảo chế bày sự hung dữ kia, dựng tràng Bát-nhã thiên ma tự vâng lệnh. Ý chỉ lời này đáng nên liền cởi bỏ sự quê mùa, nếu không hội lòng cao, may mắn dừng quái sâu.
Tăng Đàm Tích thưa: Hoàng đế đại đàn việt đức gồm cả trời đất, tâm treo như nhật nguyệt, đạo soi chiếu không riêng tư, giáo hóa cuốn mở không suy lường, có thể oai đến đạo tục, thương đến Tăng Ni, kéo dẫn lưới màu chỉ bày đường ra, muốn cho trời trong luyện hạnh, hiển bày dấu vết ở thời sáng, Sa-môn đức kém hổ thẹn với đạo, tục. Giáng rõ chiếu chỉ trách kia xem xét sổ sách, ban xuống các châu hỏi khóa nghiệp kia, dòm chỉ có vào đạo nhiều mối thầm nghĩ chẳng phải một. Nương tướng xem xét người có năm lý không đúng. Những gì là năm?
Hoặc có Tăng Ni tuổi trẻ ở chùa tự ăn ở tiết kiệm, nguyện thực hành tâm yếu, không phạm các giới cấm, đốt hương nhiễu tháp, đảnh lễ hết lòng, chắp tay cúi đầu, quên ăn bỏ ngủ. Nhưng tánh vốn ngu độn đối với việc đọc tụng không có duyên, tập học rất khổ cực mà không được một chữ. Nay lượng chỗ cáo biểu, ý cần người văn thông minh là phải. Lại xét việc kiểm Tăng không lui thật hạnh là đúng, chánh ý riêng mong lấy sự sáng suốt kia. Vả lại thật thà mà không thông minh là gốc các hạnh, thông minh mà không thật thà là tướng của trí. Nếu cho là có nghiệp, là không tìm đủ ở một người. Nếu thật là chẳng phải Tăng thì trách biết ở đầy đủ. Bậc Đại giác trí tuệ không thể nghĩ bàn, các chỗ lập pháp trời người lãnh nhận, huống chi hạng phàm phu liền suy nghĩ sửa đổi? Các Thánh tự nói các món thần biến, đối đại pháp này còn không thể thêm bớt. Bậc đại nhân xuất thế biết gốc hiểu căn cơ, nhiều phương pháp khéo léo, giáo hóa người vẫn dùng tiệm, chúng sinh căn hạnh mỗi người khác nhau, nay Đại Thánh nói kinh sai khác chẳng phải một, trong ngoài thông nhau cũng không trái khác. Lại như Khổng Tử lãnh đồ chúng có ba ngàn mà người thông hiểu chỉ được bảy mươi hai người, còn thăng tòa, nhập thất chẳng quá vài người, còn bỗng nhiên đâu cho là bác bỏ.
Nay các châu, quận, huyện đều có học sinh, đức bằng Nhan Hồi được mấy người? Có thể không bằng Nhan Hồi thì bỏ quận không lập? Có thể Tăng ngang bướng không có đức đều khiến hoàn tục? Không bằng Nhan Hồi mà còn hơn người dân thường, Tăng ngu đần không có đức vẫn hơn ngoại đạo, phục hai đường này, đây là điều không đúng thứ nhất.
Có người chuyên ở gốc cây, cầm gậy trì bát, giữa ngọ mới ăn, chánh mạng tự sống, danh tiếng xả bỏ, lợi dưỡng không màng, lý quán dứt trừ phiền não, bèn thiếu văn tụng. Luận về người kia vào đạo thì nội nghiệp có dư, nghiên cứu văn giải kia thì công ấy chẳng đủ, cần gì chúng nhóm ở kinh đô đều là Tăng có đức, còn người ở rừng sâu hoang vắng đều là kẻ có hạnh sao? Cho nên trái có sống chín không thể do sắc tướng mà ăn. Người có chìm nổi không thể do hình hay danh tiếng mà lấy. Xin tự ba lần suy nghĩ, đây là điều không đúng thứ hai. Có người xây tạo hình tượng gắng sức nhiều năm tu bổ chốn già lam lo lắng siêng năng nhiều năm, bỏ thân cứu vật không do khổ hạnh mà nạn tâm, ban vui cho người không do đói nghèo mà đổi chí. Nhưng chẳng thông minh, ngày tụng không quá một lời, sáng tối bận bịu cả ngày đọc không đầy mấy trang giấy, chuẩn kia hồi hướng thì điều thiện chẳng luống thí, gạn sự phát thú kia thì thật là đệ tử Phật. Nay vô tội mà bắt trở về tục thật uổng phí người tu hành, trực tánh liền sai, đây là điều không đúng thứ ba.
Phật nói Tăng là ruộng phước, lý khó tổn ép, dẫu có thể tuổi già hình phàm mà pháp phục tôn trọng đâu cho sớm thí chiều đoạt tự thêm khinh hủy, ưa ghét vô thường đâu trách sự được mất ở một người. Thẳng không thường lầm nơi mười hai đầu mối sách vở e không hợp tâm thành rất trái ý thú lớn, trên tổn từ bi dưới thiếu chánh hóa. Chỉ sợ đời sau truyền nhau chịu sự vu báng Tăng, đây là điều không đúng thứ tư.
Nay đại Chu đại quốc Tăng Ni chưa bao nhiêu, chùa chiền rõ ràng có vạn mấy, chỉ nên gọi dẫn hai bộ tràn đầy trong kia, siêng đánh chuông vì nước hành đạo, phương tiện tột sự dài ngắn kia, đốn tìm lỗi lầm truất bỏ hoàn tục, khiến bậc rường cột trống vắng. Nếu cõi kia nước khác xa gần nghe biết, nghi cho là ta tìm binh trong Tăng chúng, lấy đất dưới chùa miếu, rất đáng quái lạ. Nhưng Tăng ngu độn nhậm dịch chưa đủ thêm binh, đất chùa cấp cho dân đâu thể làm nước giàu? Nhiễm không mau dứt, tánh do tiệm hiển tất cả chúng sinh có các phiền não, nếu bỏ ngay viên tu là diệt Phật pháp, chẳng thẳng tổn thân mà ma sẽ được dịp làm hại. Vì sao? Vì một bề thuần thiện tinh chuyên cúng dường, một bề thuần ác khiến cho hoàn tục, lời này đã thấy, diệt sâu Tam bảo. Hoặc thô tế đồng xem ma khó được dịp làm hại. Vì sao? Vì thuần thiện lui thô thành chúng, người chúng thô còn sinh điều lành cho chúng sinh. Văn kinh lý lẽ bất, luận hạnh thô tế, chỉ có không hoàn tục trọn thành đệ tử Phật, suy nghĩ tới lui ba lần, đây là điều không đúng thứ năm.
Bần đạo mấy năm thể chất hèn gởi mạng ở cửa đá, khâm hóa nhờ ân được còn đạo nghiệp, đây là do rên siết chống gậy đưa đơn thành khẩn, lỗi ngỗ nghịch cúi xin đàn việt, kính bạch.
Sông Vị trong, sông Kinh đục mà chung nguồn triều tông. Cây thông cao, mũi tên ngắn mà cùng chung chất cứng rắn. May nhờ hàm linh có năm thường lý nên phạm vi ba giáo. Do đây dặm cửa Nho đồng lễ kinh nơi Thù, Tế. Khổ luyện Ca-diếp dời diệu đạo ở sa mạc. Dẫu hai nghi cực nhọc bởi hận một đời này, đâu như khởi chánh pháp ở Lộc uyển, buông vọng tưởng ở Linh Thứu. Bán, mãn đã bày, quyến thuộc đây hiển, thành giáo có cạn sâu, người không trong ngoài. Thiền sư danh đức bay xa, chấn hạnh nêu cao vật, nhiếp thọ bốn y, nhờ chăn dê mà thành tụng, gánh hòm sách ngàn dặm, trải qua cùng rồng mà bao gồm, cho nên có thể trong suốt chín bộ gồm bí tàng của Tuyết Sơn, ngoài gồm bảy lượt, đủ sách vở của Bích Thủy. Chép chi nhánh Thiên Thai, ghi Trúc Chân La Phù, mây phủ bảy ngọn núi, bỏ vịnh ba sông. Bảo Sư, Diệu Triết, Trang Sinh, Cừ Công soạn luận viện tập như nuốt mây mộng như chỉ trong lòng bàn tay. Lại thêm khéo giữ tịnh giới như giữ minh châu, khéo giữ luật nghi như treo gương sáng. Bẩm thọ mật hạnh La Vân, gieo ruộng phước Tân Đầu, ôm ấp nước định liền thành giác quán, nhánh cây thiền cao mát, càng thêm hỷ xả. Do đây không xa sông Tiêu sông Tương, đến nghi bờ sông Miện. Chống gậy suối rồng vần làm tinh xá, quày xe hang ngựa liền dựng già-làm, đục núi đặt khám há rảnh mà nhóm cát. Thành tháp nhân núi dựng vườn không nhọc. Rải vàng mua đất kẻ sĩ như mây nhóm, tay áo như hoa mát, bạn pháp cân bằng, chúng đồng xế bóng thiền thất sớm khởi, thời cỏ thơm nhược, tháp chiều mở tạm vào nơi đào nguyên. Hương núi tiếng Phạm, toan Nguyễn gào mà phát nhau. Diệu âm nơi Nhật điện cùng cháu đàn cầm mà đồng vận. Dù thông tím ngay vẫn biện trên cờ chỉ huy. Bờ biển thần giếng tâm liền cao sáng, cho nên dùng tài kham mua núi đức xa đồng chở đi. Núi cao cảnh hạnh, tường cao treo tuyệt.
Đệ tử nghiệp phong lo trống, thân chìm ở biển dục, đến bãi cung chìm đắm lại sắp trải qua hai mươi năm, ngày mệt ngồi rong, đêm buồn thương vì mộng, chưa thể quên tâm bỉ ngã để quy về mối Nhất thừa, sai buông áo ngực, lảng mở ba đạt, đã nhớ cột chuộc càng tổn thương cho chim, hơi dứt mối dọc tạo thuật mối khác lên quan kém nhặt nhạnh trăm nhà, đến ở theo quan lại lưu luyến văn hàn, dẫu chưa thể tham cứu cửa rồng mà lau Cối Kê, phú hồng tước vịnh oanh vũ, nếu cầu kia một phần cũng phảng phất người xưa. Nhưng sâu ngộ bọt nhóm tình buồn nối tay, thường muốn xác ve giải tục tham vị chân như, một ngày thành vân mau tu quán Ngỗi, quỳ gối tình mừng buộc tất ngộ đồng, tiến giày chưa hết mở áo vội than. Bồng bềnh tìm mong, phủi áo lưới đời, cởi giày kéo dây tơ. Sóng biển vọt lên, giây tua hán ôm quanh cái chum. Làm cơm chín lần dùng sai lo tối, lần ngộ ba không toan lên khổ nhẫn. Cầu tiên nhìn ngọc không bỏ theo thầy, khe sâu bẻ đào không ngại hỏi thăm, chỗ mong thắng khí đầy trời, chợt đắn đo thạc sĩ, ứng môn cao luận thời đáp khách tốt đẹp. Đông ấm như mùa xuân xin quý trọng phép tắc sạch, nhà gần người xa đầy xe mang đồ cấm, bỗng nhiên lời tàn ác phân biệt niệm không vàng ngọc.
Như nhất chân thường trạm, ngăn chặn nhiệm mầu vì vậy đồng mầu nhiệm, muôn thành thừa cơ, trái thuận để đó khác dấu vết, do đây cửa Tây sáng đạo, đồng trống phía Đông bàn về lòng nhân, chạm khắc đổi thợ hữu vô khác nhau.
Nay nếu bao gồm hai môn này, nguyên hai giáo đây, há không quy về tôn ba lần chuyển hội vào năm thừa. Nương cạn bày sâu, giúp quyền hiển thật, đây như ao chia thành bốn dòng nước ban đầu thì khác tên, biển giữ tám sông không hề khác vị, đàn việt lúc nhỏ vượt kỳ tài, xưa nhờ đầu mối tươi tốt. Lời hoa cao hơn đời, hòa nhã đến tham cứu nhiệm mầu, trí hợp năm minh, học gồm ba giáo, càng thêm chí khí tài năng, vượt khỏi phép tắc Nhan Sinh, tổn đó làm đạo. Mộ vết nhiệm mầu họ Lý, dẫu lại sáu kinh gồm rộng trăm nhà giàu có. Thánh hiền khác y cứ Nho, mặc chia phái, hoặc việc khoáng đạt mà văn ân cần, hoặc lời cao mà nghĩa xa, đều nhận như bình chịu thuyết như sông nghiêng, gương sáng chẳng nhọc lau, chuông lớn mặc tình đánh, ông dựng ấp để gởi văn, lâu ông hổ thẹn với thích thú kia.
Cho nên dẫu Tần Sở chia chợ búa. Chu, Lương sửa đổi tục, mày trắng mắt xanh, giá rùa ngọc chẳng vượt. Phụng đậu rồng nằm, có nước giao nhau chẳng khác, thêm do biết soi xét khổ không, chí sắp bày trần tục. Hình tuy ở hiên miếu mà khí là ở sông hồ, do đây khen ngợi kéo sợi khởi lời lưới đời, lời đồng ứng sáu điều hợp trương nghiêm. Than ôi! Lửa đỏ vội truyền, xót sóng trong mau dứt, mới nên rửa chân theo đạo, rửa tai từ chối vinh hoa. Chín chuyển đầy hư không, bốn cánh cửa bày vội, rồi tìm tám chánh, dùng vị nhất chân. Mở mười triền mà dứt trừ ba hoạn, đức như thế đâu không lớn ư?
Bần đạo cảnh thức khó trong tâm trần dễ ứng, định thì hổ thẹn nước hoa, giới chẳng phải cỏ buộc, tài bằng đèn tắt, học tạ từ truyền đèn, trong có hổ thẹn với đức, ngoài không quen lờn với người đời. Do đây chìm đắm một gò, hình ngụ cỏ bồng nương cây liễu ngồi ở ngàn nhẫn chí nương cây thông. So sánh bốn tựa ở phong sương, đợi ba tuần nơi nhìn phách, cho đến đêm nghe chim núi vẫn thay chín thành, ngày thấy cá lội liền theo hai chữ. Cửa cỏ áo xấu vốn chẳng phải bịnh, cửa châu kết bốn ngựa đối với ta như mây, đã than giây mây chuột dễ xâm hại, vượn trên cây khó yên, nhọc tưởng đầu chim Thứu, mệt suy nghĩ chân chim trĩ. Còn như lá mùa thu rừng tàn tạ không hề rõ cảm giác, tiếng vang trong hang chim oanh mùa xuân trọn than rất ít người nghe. Bỗng nhờ hỏi đến, thấy cong khen sáng, u khí như cỏ lan, âm trong như ngọc, thật lại đầy mắt rất vui, mà thật an ủi nhiều hổ thẹn. Dẫu biết cảm tạ ao trời, chưa xong thuyết biển bắc, mà sự giống giếng bùn, hổ thẹn lời bàn trong biển Đông. Nhờ mọi người ưa mến tôi, đá vàng chẳng xa kết hẹn sớm tối, ánh sáng mặt trời có thể buộc dùng hằng triều nay, khéo kính đạo trong thời nhân trát trắng, nói không hết ý báo, ở đây bày đâu?
(Tiết Đạo Hoành đời Tùy)
Ngày 23 tháng 08 Tiết Đạo Hoành đảnh lễ. Cõi tục vô thường, Pháp sư Diên đã viên tịch, tâm rất buồn đau thương tiếc không thể thôi dứt, chỉ có buồn đau chứ suy hại sẽ không thể mặc tình. Pháp sư lìa tuổi bỏ tục, bước vượt biểu trần, chí qua khỏi rộng lớn, lý biết tinh ngộ, đài linh thần đáng kính mến mà không thể nhìn, biển trí nguồn pháp đắng bắt chước mà không thể suy lường, giống như gương sáng thường chiếu không mỏi mệt. Thí như chuông lớn kia có đến đây ứng, qua gặp đạo tán huyền dây buộc rớt khuy, chí đậu như núi cao vững chắc không đổ, ngôi cao lễ hậu không thể đổi lự kia, oai nghiêm pháp cao không đáng khiếp sợ tâm kia, kinh hành hay ngồi yên thì nguy hiểm hay bình yên chẳng hai. Giới đức luật nghi trước sau như một. Thánh Hoàng mở vận tượng pháp trùng hưng, cao là rừng đen, rậm rạp là xưng đầu, khuất thần tột tôn trọng, bày sư nghĩa giúp, Tam bảo nhờ kia mở mang che chở, hai đế nhờ đó giảng nói. Lòng tin đủ để theo dấu Đồ Trừng La-thập vượt xa Đạo An, Tuệ Viễn, mà trụ pháp bỗng đổ, ghe nhân từ lật úp, chẳng thẳng buồn buộc bốn bộ, vốn cũng cao cảm một người. Thầy tích trượng tịnh bình xưa nương dạy dỗ dẫn dắt, lên tòa nhập thất đủ thể vi diệu. Đối với ba tình, lý trăm hằng tha thiết, thường là sao, vô thường là sao! Vô ngại không được an ủi, chỉ rất buồn thương kết, cẩn bạch thư, thảm thương không xiết. Đệ tử là Tiết Đạo Hoành đảnh lễ.
Luận Phước Điền, Sa-môn Thích Ngạn Tông đời Tùy. Chiếu hỏi xuất gia tổn hại hay có ích? Đường Cao Tổ ra chiếu sa thải đạo Phật. Chiếu ra lịnh Đạo sĩ xếp ở trước Tăng. Đường Thái Tông bàn chiếu nói Sa-môn kính ba đại, nay dâng Hoàng đế.
Tùy Dương Đế, niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ ba mới hạ luật khiến cách thức, lịnh rằng: "Chư tăng, Đạo sĩ v.v... có điều khải thỉnh, đều trước phải chí kính rồi mới thưa bày". Dẫu có lịnh này mà chư Tăng rốt cuộc không thực hành. Bấy giờ, Sa-môn Thích Ngạn Tông bất nhẫn việc này bèn soạn "Luận Phước Điền" để chống cự, ý ở đọc trái khác mà lời nói lại vô tội, người nghe để tự răn dè. Sau đó, triều kiến vua các Sa-môn đều không chí kính.
Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ năm, đến Tây Minh, Giao Nam, hai tông Đại Trương văn vật khi yết triều Tăng đều nương xưa không bái lạy. Vua hạ sắc chỉ rằng: "Điều lịnh ban hành đã lâu, vì sao chư Tăng không chí kính?" Thì Pháp sư Minh Thiện thưa rằng: "Bệ hạ rộng ủng hộ Tam bảo nên thuận theo lời Phật. Trong kinh dạy không bái lạy người thế tục, cho nên không dám trái giáo".
Vua nói: Nếu không bái lạy người thế tục thì thời kỳ Tống Vũ sao lại chí kính?
Thưa rằng: Tống Vũ là vua bạo ngược riêng chánh không kính sẽ bị giết chết, bệ hạ khác với kia không được hạ lịnh bái lạy.
Vua nói: Chỉ cần lạy.
Tăng vẫn đứng sững, ra lệnh lạy như vậy đến bốn lần, Tăng thưa rằng: "Bệ hạ quyết lệnh Tăng lạy thì sẽ cởi bỏ pháp phục mặc áo thế tục, đây lạy không muộn." Vua yên lặng, không đâu thì dừng. Sáng ra lập pháp cúng tế chay lớn đều không ai noi theo. Sau nói với quần thần rằng: "Trẫm cho là trong Tăng không có người, hôm qua đối đáp ở Nam Giao cũng có người ư?" Vậy sau đến chết quyết không có người lạy. Còn nam nữ đạo sĩ khăn vàng nghe linh bái lạy hợp với họ Lý, chúng liền lạy không thôi, vua cũng không mở miệng hỏi.
Luận rằng: Xưa Đông Tấn, Thái Úy Hoàn Huyền Nghị ra lịnh Sa-môn phải lạy vua. Pháp sư Viễn ở Lô Sơn là bậc danh cao đức lớn thương tràng trí sắp gãy đổ, tiếc bảo giới gần chìm, bèn soạn luận "Sa-môn Bất Kính Vương Giả", nghi kính lễ lúc ấy bèn mất. Nhưng do lời biên chép ẩn kín, viện bày sâu thẳm, kẻ học sau mở xem khó thấy ý văn. Liền nhân lúc rảnh rỗi tôi bèn chép bày lại, đề hiệu là "Luận Phước Điền". Bỗng có người khách từ phương xa đến, xa giúp họ Hoàn lại thuật nghị trước. Chủ nhân chánh niệm hồi lâu rồi ứng tiếng kháng cự rằng: "Khách dường như chưa nghe yếu chỉ của Luận Phước Điền, nay tôi vì ông mà soạn"
Thế nào phước điền? Cái gì là ngôi báu?
Công thành trí màu, đạo chứng Viên giác là Phật. Lý lẽ nhiệm mầu sâu xa vắng lặng, Chánh giáo tinh thành là pháp. Cấm giới giữ chân, oai nghi vượt ngoài tục là Tăng. Đều là người dẫn đầu của bốn loài, là thuyền bè cho sáu đường, cao cứu trời người đạp lên vàng đá, châu báu ở tay, nghĩ bàn tướng kém. Phật dùng pháp chủ nêu tông. Pháp dùng Phật là thầy nơi gốc. Tăng là đệ tử tôn sùng Phật, pháp này. Có thể gọi là cao thấp đồng vị, gốc ngọn càng môn. Nói sự thì ba hạng, bàn thể thì chỉ một mối. Ở thì năm mươi năm, kinh điển rộng tám muôn, chỗ nói chỉ quy về chí cực này. Mất tiếng diệt bóng, tận vận ở Song Lâm. Khắc đàn sách lá lưu phép tắc một đời giáo hóa. Thánh hiền khởi trong, môn học giúp nhau, hòa hợp thành đàn, trụ trì là nương tựa.
Người vàng hiện ở cung điện nhà Hán, tượng pháp thông ở phủ Lạc và tông Tiên giác đều noi theo chương xưa. Ngoài cõi nước mà phát tâm, bỏ thế gian mà lập đức, quan tước vinh hoa không động chí thân thuộc chẳng thể lụy tình, áo thì cắt may mới hoại sắc, tóc thì bỏ để hủy dung nhan. Không đội mũ mà làm nghi, chẳng buộc đai mà trang sức. Vua cõi trời vẫn thường làm lễ, chúa cõi dưới vốn thường chí kính. Có kinh có luật pháp đây chưa khác. Hoặc xưa hoặc nay đạo kia không trở ngại. Suy ra vua chúa nặng nhẹ, khép lại thần kỳ lớn nhỏ, tám cõi xa xôi khâm phục đức, bốn biển quy y nhân, Tăng Ni lễ vua là điều chẳng nghe, như ôm ý chỉ khác xin bày, ý kiến hòa nhã.
Khách nói: Kinh Dịch đời Chu nói: "Đức lớn của đất trời là sinh, báu lớn của bậc Thánh là ngôi vị". Lão Tử nói: "Giữa nước có bốn: Một là chỗ Đại vương ở, trộm cho há chẳng phải vua cõi nước, dựng đó làm nước há chẳng phải vua quan? Buộc đó làm chủ, phép tắc trời đất che chở triệu dân, xuân sang đến hạ sinh trưởng muôn vật. Soi chiếu thì dùng ánh sáng mặt trời mặt trăng, thấm nhuần thì do khí mây mưa. Sáu hợp thì cùng tôn như biển, trăm họ thì chung ngưỡng như vua. Nhung, Di đổi mặt, ngựa trâu quày đầu. Rắn còn gánh nơi Hầu nhà Tùy, cá còn cảm nơi vua nhà Hán, đâu có khỏi cánh cửa kia". Nếu như pháp môn kia quên lòng nhân rộng lớn độ thoát, sót rộng tạo sự cúng dường cao lớn tự chấp nhận, cung kính kém liền bỏ, giống như loài cầm thú nào có khác gì? Quyết có thể cưỡi thần thông được thành quả Thánh, đạo giúp thiên hạ, lý ở ngoài lời. Nhưng nay rảnh việc bỏ trừ ba độc, sửa đổi y phục trang sức vẫn nhiễm sáu trần. Giới nhẫn chẳng tu, định trí không chứng có trái lời dạy chẳng khác phàm tục, đâu nên ỷ nhọc tuyên đọc mà kháng cự lễ muôn xe? Nhờ hình dung khác nhau mà thiếu cung kính một người. Xưa Tỳ-kheo tiếp sát chân ở cư sĩ, Bồ-tát cúi đầu với chúng ngạo mạn, văn này lại bày quyết đến đặt để, như dùng quyền đạo khó noi theo Phật tánh đáng tôn. Huống là vua gần trời chẳng phải thần giáng. Bá Dương mở phép tắc muôn năm, Trọng Ni bày khuôn thước trăm vua, còn như yết kiến lễ bái quyết vâng theo sách triều đình. Riêng có Sa-môn dám làm lăng mạn, đây thật đáng giận ai có thể tha! Thói tệ khó đổi, dòng xấu dễ vào, không gặp vua sáng ai san chính được, bỗng khởi thay đổi vô thường, chiêu cảm chê bai không tin, lời chí lý có bằng chứng mong rủ lòng xem rõ.
Chủ nói: Chỗ tôi lập là trong, điều ông nạn là ngoài. Trong thì thông lý pháp, ngoài thì cuộc hạn sự người, trông nhau xa tuyệt đâu thể đồng năm. Đây gọi là học mà chưa gồm, nghe mà không hợp. Điều nghi hoặc của ông tôi sẽ nói, thử nêu tổng yếu kia có bảy điều: Một, không đức nào chẳng báo. Hai, không điều thiện nào chẳng nhiếp. Ba, phương tiện không ngại. Bốn, vắng lặng không vinh hoa. Năm, nghi không thể vượt. Sáu, y phục không thể loạn. Bảy, nhân không thể quên. Bốn điều trước đối đáp ý nạn, ba điều sau dẫn ra thành cách thức.
Tôi nghe: Trời không nói mà bốn mùa thực hành, vua không nói mà muôn nước yên trị. Vua có năng lực gì mà dân không thể gọi? Thành mà không ở làm mà không ỷ đây chính là tốt thiện của Tiên vương. Đức lớn của đại nhân đồng thấm muôn loài, đồng dự dẫn khách. May mắn khác cỏ cây, chẳng phải côn trùng chim chóc. Chở tròn, che vuông cúi ngước nhớ ơn tuệ, ăn lúa uống nước, no đủ ngậm ơn. Đã có thể thương cho xuất gia, từ bi cho vào đạo, dứt nghiệp trần đã lâu, cầu diệu quả ở tương lai, đã nhờ ơn nặng lại suy nghĩ đáp sâu dày, mới nhờ ích muôn lành há lại kính một thân? Theo đó khéo đáp nhiếp báo bèn sâu, gạn đó thân kính thâu lợi càng cạn. Bởi Tăng mất chánh nghi, tục giảm điều mừng. Tăng không lạy tục Phật đã nói rõ, nếu biết đáng tin lẽ ra phải tuân lập, biết cho là khó nương sự nên trừ bỏ. Đâu cho tôn sùng đó muốn cầu phước thấp kia, lại trách lễ ấy? Liền khiến theo lễ đồng với thế tục. Dụ như nói rằng: Thỉnh phước chưa thấy kia thấm, đây thì còn mà dường như đã bỏ, Tăng mà giống dân, chẳng trắng chẳng đen không có tên gọi. Trộm thấy giao yên gồm xét chỉ còn, ngưỡng phước làm tôn Tăng còn quê mùa ở đây, không cung kính làm sao khiến Tăng lạy tục. Trời đất có thể ngược nghi này ít có trái, sau lại vì nêu bày, đây gọi là thứ nhất không đức nào không báo đáp.
Pháp đã tiệm, người suy cũng hơi cuối, ít có bậc Thánh kia thật như đã nói. Tuy chỗ phàm lưu vẫn trì giáp nhẫn, dầu thiếu học giới vẫn bàn sách trí, quý tháp như tôn kính Phật, quy về thì lành sinh, hủy phá thì tội nhóm. Mạnh do mới phát, cắt ái khó mà bỏ được, nguyện rộng trọn thời kỳ, thành Chánh giác xa mà đến được. Cho nên sớm cạo tóc thiên ma xa khiếp sợ, ngày nhuộm y Đế Thích xa vui mừng, kỹ nữ liền giúp vô lậu được đầy đủ, người say tạm cắt có duyên liền kết. Rồng còn nhờ mà dứt sợ, voi đầu đàn thấy mà hết khiếp, oai linh ở đây nghi phục là đồng. Còn nhỏ chưa thọ cụ túc đối nêu ý chỉ của Phật, nhỏ không thể khinh, ánh sáng nêu năng lực của Tăng, Ba Ly đã độ Thích Tử phục tâm, Ni-đà cũng quỳ vâng, vua Ba-tư-nặc khuất ý, cho đến hoặc già hoặc trẻ đáng làm thầy là pháp. Không hèn không sang chỗ còn là đạo, rồi sau mé hiền ngu trong nói nín, sống chín gần giống, lấy bỏ chẳng dễ, mắt thịt phân biệt sợ không gặp của báu. Lòng tin bình đẳng, có lúc thẳng thật vừa đủ bốn người liền thành một chúng. Tăng đã rộng nhận Phật cũng thông tồn tại. Ăn xem khác nước sôi mới sai thì Tăng, áo thấy kỳ lạ dệt vàng bèn khiến dâng chúng, oai đức của Tăng chẳng phải cũng lớn sao? Đủ đáng để gọi ruộng phước tốt rất y cứ Thánh giáo, đây gọi là thứ hai không điều thiện nào chẳng nhiếp.
Nếu nói về công Tịnh Danh sớm lên đất mây, ý bịnh nằm vốn vượt cảnh đời, lâu hành thần túc hoặc than biện tài, mới học đảnh lễ thật tạ pháp thí. Sự là quyền nên cách thức chẳng phải chuẩn thường, nghĩa là khi tạm biến lệ kia vẫn nhiều, thì có Không Tạng chẳng cung kính, Như Lai không trách. Sát-na lại nguyện, Hòa thượng đẩy trước, một phen quán thẳng đều sẽ kinh quái, lại rõ sách Phật đâu chẳng thông đường, không khinh Đại sĩ riêng khởi dấu vết cao, sợ hạng thượng mạn kia lập lại hạ tâm này, riêng hành một đạo dùng thẳng chí thành. Đã chẳng phải ba tuệ đâu là cách thức thường hằng. Nhân cơ làm pháp đủ là ít có, nhờ giáo hóa rộng khó làm luật nghi. Đại Thánh phát sáng hai trí, chế ước năm thiên, bỏ tước xỉ kia giữ giới hạ địa. Trước sau dạy chung, lợi độn đều kính ngưỡng, già trẻ có thứ lớp trước sau không lẫn lộn. Chưa cho một phen, nghiệp riêng khiến bảy chúng khắp làm, lý tự nhiên như vậy, rõ ràng rất dễ thấy.
Xưa vợ chết ca mà trống chậu, thân chôn gầy mà lộ đất, đâu thể đại khái rõ chế vua ư? Huống chi sách giác xung sâu sắc, lời Thánh sâu kín, chấp hạn cuộc một bên đâu trái bốn biện, đây gọi là phương tiện vô ngại thứ ba.
Vả lại quế Chu sử lâu kéo dịch vua, ty của Lỗ giặc đã ở, nước Tề tông quy đạo đức mới gọi là vô danh, dạy ở thi thơ, cuối cùng nói rằng: Không làm. Nói theo Nghiêu Thuấn hiến chương văn võ, cúi chào cung kính chẳng phải đây là ai. Ổ gió hứa trông xưa vẫn xa xôi, Di, Tề thao tác phác họa nay còn xa. Giống như vịn cao mười lực, xa vượt bốn dòng, nhàm khổ hữu vi này, mừng ưa vắng lặng vô dư kia, không buộc lự ở sân công, chưa lưu tình ở việc vua, giải thoát tự nhiên vốn khác bạn Nho, đây gọi là vắng lặng không vịnh hoa thứ tư.
Còn như cúng tế quỉ thần phẩm trật sông núi, Quốc Dung đầy sách vở khế hợp bàn tốt đẹp, thần được vua tôn kính, Tăng còn chẳng chí kính nơi lễ, Tăng chúng được thần lễ, vua đâu lại nhận cung kính kia. Trên dưới so le, lật trái chánh pháp, áo xiêm lộn ngược đâu đúng tướng vuông? Khiến thần ủng hộ xưa nay ở nơi Tăng, cầu thỉnh đó đến hội mở, chú lực cuối cùng không lý dạy, đây gọi là nghi không thể vượt thứ năm.
Gốc vua chúa xưa khởi quyết nương chân nhân mà sinh, bậc Thượng đức tuy bí mật nơi tịnh tâm, ngoài tượng vẫn nêu tướng tục, do đây đạo bày áo đen thì tình động nên mạnh. Nghiệp ẩn cửa huyền diệu thì hình cung kính nên dứt, cầu đó cho nên thật đủ có nghe trước. Quốc chủ Tần-bà, phụ vương Tịnh Phạn, xưa đây đồng hoặc đã khắc Thánh, chuyên tu tin thuận thường việc quy y, dù thấy phàm Tăng lại tưởng là Phật, không cho quỳ thân là hiếu, tính chẳng phải tội bất hiếu. Không cho lạy vua là kính, há là lỗi không kính, pháp khác, pháp đã riêng, lễ không lẫn lộn chế theo nơi đây. Đây gọi là phục không thể loạn thứ sáu.
Cẩn thận xét Đa-la sách màu Thích-ca chân thuyết bèn nói rằng: Vua Sát Lợi mà xưng tôn, nương Bát-nhã mà vì đó ủng hộ, bốn tín không hư hoại, mười điều lành không thiếu. Kính Phật thờ Tăng nhóm công chứa đức, rồi sau giáng ngày tinh tháng tượng, cảm ánh sáng đỏ khí trắng, kim luân đã chuyển châu báu lại treo cao, ứng trời thuận dân ngự cõi nắm cảnh, trước mở thuật năm thường, sau hoằng đạo tám chánh, cũng nên lại quán đời trước theo nhớ nhân duyên xưa. Kính lời Phật dạy mà tôn sùng Tăng bảo, đầy hương giới mà thêm năng lực tuệ, tự sẽ nền trời chuyển cao sánh với sự cao xa của cung Phạm, tuổi thọ của bậc Thánh hằng bền chắc, đồng với sự lâu dài của kiếp thạch, nhưng thời thế tột cùng của sấm sét, rồng cọp oai thạnh, mừng hẳn lại gồm, phạm khiến giận đến, phát lời trải lịnh như gió đi cỏ rạp, đã ép Tăng Thể ai dám dương vẫy. Chỉ sợ có tổn, công thầm chẳng giúp, thạnh nghiệp hết sức chân thành, trọn mạng như thế mà thôi. Đây gọi là nhân không thể quên thứ bảy.
Trên đã lược dẫn ý thô của tôi để dứt hoặc của ông, muốn nghe rộng nên tìm trong đại bộ.
Khách nói: Chủ nhân từ trước đã dẫn lý nêu rất nhiều. Tôi tuy tầm thường ám độn cũng nương xem, văn gồm sáng tối, nói bao gồm trong ngoài, chỗ luận xét sách còn có mê lầm. Kinh Dịch nhà Chu nói rằng: "Một âm một dương gọi là đạo, âm dương không suy lường gọi là thần, trộm cho muội ẩn đường thần cách bặt cảnh người, muốn làm pháp cúng tế, cốt yếu nhờ lễ quan, vốn đặt thái thường chuyên đồng thái chúc dầu biết việc quỷ nhưng vào hàng quan. Chân Phật đã ẩn Thánh Tăng lại diệt, kính tin đạo sáng toàn hợp thần tối, là lý phàm phu, rộng lời hồi hướng, chung phép tắc nhãn rỗi, tướng học cắt mổ, nắm tay đàn hội. Cho nên thêm pháp y kia, chủ giữ tháp miếu cho nên cần tục dịch kia. Vừa chạm lưới vua liền đọa làm dân, đã đồng sách tế tự đâu nên gọi là báu. Triều kính Thiên tử vốn là nghi xưa nay, khổ chấp cầu mạnh, nhất định chẳng thông biết. Họ Tống xưa chế gió kia không xa, chỉ nên theo nhau lại muốn từ gì?
Chủ nhân nói: Khách biết một mà chẳng biết hai, xin nghe lời tốt đẹp dứt trừ dị tưởng. Tôi nghe quỷ là quy, chết đó đã vào, thần là linh, hình đó tôn sùng. Quỷ kém hơn người chỉ dứt đường ác, thần hơn nơi sắc khắp gồm tình thú, tâm có linh trí gọi đó là thần, ẩn mà khó biết gọi là không suy lường toàn thể dụng kia hoặc động tịnh, phẩm tánh dục kia có âm có dương, ý chỉ Chu Dịch bởi ở đây thôi khác đường hiển ở một khí, lời thành thật quyết ở sáu thức, lập giáo lần đoán sẽ biết.
Quỷ báo thần thông, đến đi thầm kín, nêu dùng thần hiệu trì dùng ở đây, thường thử lời đó, nhận di thể mẹ cha bẩm phần trời đất, có thể tồn ở khí, sẽ lập ở hình. Còn đã gọi là thần đạo quyết là tâm nghiệp của ta, chưa hề cảm đến đất trời, được đó ở cha mẹ thức hàm thai, chứa đầy hoàn hư không, tâm trệ huân chủng lan đầy thế giới, đi mà lại sinh, như ngọn lửa liền ra, đến mà lại chết mất, như sóng nước liên tục chuyển gốc đó đâu thấy, ngọn kia nghiên cứu đó đâu thấy được chung cuộc. Đục thì là phàm, trong thì là Thánh, thần đạo nhỏ sâu, lý vốn khó rõ. Tột cao của thần gọi là đại giác, nghĩ bàn không được, danh tướng ai có thể cùng. Chân thân vốn không dời đổi, người mù bẩm sinh tự không nhìn thấy, gá tưởng đuổi theo vết xưa, nghiêng tâm đùa giỡn hơi di pháp. Nếu muốn gánh vác trách nhiệm truyền giữ, mở cửa yếu diệu, nhờ Tăng đồ đây ứng với Phật giáo phó. Nhờ mây từ làm bóng mát bên trong, nương oai chúa làm sức bên ngoài, gió màu xa kịp ở đây.
Giáo chung ba đời, chúng riêng bốn bộ. Hai theo với đạo, hai giữ với tục. Theo đạo thì phục tượng tôn nghi, giữ tục thì tạo sách cùng thờ. Tượng tôn là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni. Sách cùng nghĩa là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di. Tượng ấy, tôn thì chưa tham thần vị, sách ấy cúng thì sau dự hàng quan. Nguyên người cúng sách đồng sai dịch của chủ tế, ta chẳng phải đương chức, ông đâu có dẫn lầm, do ông lời tha thiết phát ra ta sâu đến, lý đã rõ ràng. Chớ lại giống các kẻ hoặc ở đầu đời Tống, tạm làm việc ép bức này, kia cũng trái chân không cần hợp luận. Bên phong tục hèn xấu chưa thấy cái đẹp kia, bỗng khiển đồng đó đáng quái lạ thật.
Khách nói: Có ý chỉ thay luận này! Nhờ cáo đạo lành xin theo và lui về.
Vua Đường mở vận các giáo đều hưng thạnh. Nhưng đối với Phật pháp càng thạnh tin trọng, bỏ kinh xưa kế đặt chùa Hưng Thánh, còn bao nhiêu hội xướng thắng nghiệp từ bi chứng quả nhóm chùa Tiên Đẳng, khuôn xây dựng tìm nhau, còn như đạo quán không nghe nơi tục. Võ Đế năm thứ tư có Thái Sử Linh Truyền Địch, trước là đệ tử khăn vàng rất kỵ áo đen, đã thấy quốc gia riêng kính, càng dùng tâm xấu bèn dâng biểu phế bỏ Phật pháp việc có mười một điều rằng: Phật sinh ra lời nói vọng việc yêu mị ẩn, tổn nước hại nhà chưa nghe lợi ích cho đời, xin thỉnh Phật Hồ tà giáo lui về Thiên Trúc, nếu là Sa-môn bắt trở về trồng dâu cày ruộng, nhà nước sẽ hưng thạnh giáo hạnh Lý, Khổng.
Vũ Hoàng cho kia là biện tiểu, triều phủ nhậm kia lời buông lung, bèn hạ chiếu hỏi Tăng rằng:
Bỏ tóc râu của cha mẹ, trừ phục chương của vua quan, lại ở trong môn nào? Ích ở ngoài tình nào? Tổn ích hai nghi xin khéo giải thích rộng.
Có Sa-môn Tương Dương Thích Pháp Lâm ở chùa Tế Pháp giận kích truyền lời hèn dốt nghe đợi cơ, nhờ có lời hỏi này mà bày đáp rằng:
Lâm tôi nghe: Chí đạo dứt lời há chín dòng mà nói được? Pháp thân không hình tượng mười lực chẳng nói được. Nhưng bốn đường mênh mông chìm đắm biển dục, ba cõi bấp bênh nghiêng đổ núi tà, các ông mê do tự đốt, phàm phu chìm đắm mà không ra. Chí nhân sở dĩ giáng linh, Đại Thánh vì đó xuất hiện ở đời, bèn nghe môn giải thoát chỉ bày đường an ổn. Vì thế là dòng vua ở Thiên Trúc mà từ ân ái để xuất gia, chí cầu nhất diệu Niết-bàn, làm điều thiện để báo bốn ân, lập đức để giúp ba cõi, đây là lợi ích.
Hủy mình để thành chí kia, cho nên bỏ râu tóc hủy dung mạo, đổi tục để hội đạo kia, cho nên bỏ áo hoa vua quan. Tuy hình thiếu thờ cha mẹ mà trong ôm hiếu hạnh, lễ trái thờ chúa mà tâm cất giữ ân kia. Ân thầm giúp oán thân để thành đại thuận, phước nhuần u hiển đâu câu nệ trái nghịch nhỏ. Người thượng trí nương lời Phật cho nên là có ích, loại hạ phàm thiếu Thánh giáo nên là tổn hại, gạn ác thì cả người tự mới, tiến thiện thì thông người cảm hóa, đại lược như thế.
Môn hạ Thích-ca mở giáo lóng sạch là trước tiên, xa lìa bụi nhơ, dứt trừ tham dục, cho nên nói rộng thắng nghiệp tu trồng căn lành, mở đường dẫn lối cho kẻ ngu mê, làm cầu bến cho phẩm thứ. Do đây mở bày kinh giáo xem xét học đồ điều phục thân tâm bỏ các đắm nhiễm. Y phục ăn uống đều nuôi bốn chúng, từ Chánh giác dời đổi, tượng pháp lưu hành, đời mạt lăng trì lần do thiếu lạm, nên có bọn xấu hèn lại tự tôn cao, người biếng nhác hoặc tránh sưu dịch vọng cạo tóc dối gọi xuất gia, tham dục không thỏa mãn, mưu cầu không dứt, ra vào cổng làng khắp vòng cổng chợ, rong ruổi chứa để nông sản, chứa nhóm hàng hóa, cày dệt làm kế sống, mua bán thành sự nghiệp, việc đồng thế tục dấu vết giống người đời. Tiến trái văn giới luật, lui không thuận sách lễ, cho đến thân làm cướp đoạt, mình tự đào tường khoét vách ăn trộm, làm việc yêu mị dối trá, giao thông nhà sang giàu, thường vướng lưới pháp luật, tự sa vào hình phạt nặng đảo lộn chân như, khuynh hủy diệu pháp, thí như đám lúa tốt có mầm mạ hư, loại kia như bùn dơ lộn với nước trong.
Lại đất già-lam vốn là chỗ ở sạch là chốn đậu tâm lý còn vắng lặng. Đời gần đây, phần nhiều lập chùa, tịnh xá không tìm cảnh rộng thoáng, chỉ hướng về chốn ồn ào, khéo xây dựng gồ ghề, rui nhà sai lầm, chiêu đến ẩn trốn dụ nạp gian tà. Hoặc có đến gần nhà chợ, cận kể lò mổ quán rượu, bụi đất đầy nhà tanh hôi tràn đường, luống nuôi lớn tâm khinh mạn, thiếu nghi tôn kính.
Vả lại họ Lão giáo hóa vốn quý xung, luống dưỡng chí vô vi, khiển tình ngoài vật, toàn chân giữ một này gọi là cửa màu. Rong ruổi việc đời rất trái tông chỉ. Trẫm ứng hẹn tiết chế nhà cửa hưng thạnh giáo pháp suy nghĩ sâu về lợi ích, tình ở hộ trì, muốn cho ngọc đá chia rõ, hôi thơm có phân biệt, nuôi dưỡng diệu đạo, thường bền chắc ruộng phước, chánh vốn trong nguồn nên theo gạn bỏ, chư Tăng, Ni, đạo sĩ, nữ quan v.v... có ao tinh cần luyện hạnh vâng theo giới luật, đều khiến ở chùa lớn, quán ở trụ, quan cấp áo cơm không để thiếu thốn. Còn ai không thể tinh tấn, giới hạnh thiếu kém không kham cúng dường đều khiến bỏ đạo trở về trồng dâu cày ruộng. Các quan ty sở làm điều thức việc y theo giáo pháp, việc trái chế đều nên dừng.
Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười một ở ấp Giá Tuần Lạc có người khăn vàng trước bàn luận với Tăng, tâu đó lên vua, vua bèn hạ chiếu rằng: Lão Quân lập, phép tắc nghĩa trong sạch, Thích-ca ban cho thì lý tồn nhân quả, cầu giáo kia dấu vết hấp dẫn khác đường, tìm tông kia gió rộng lợi ích đều có. Nhưng hưng khởi đại đạo Triệu ở xa xưa, nguồn nêu ra ban đầu không tên, việc cao ngoài hữu hình, vượt hai nghi mà vận hành, bao trùm muôn vật mà dừng nuôi. Cho nên có thể kinh bang, có thể ra trị nước, chất phác trở lại thuần thục. Còn như sự hưng khởi của Phật giáo, nền tảng ở Tây Vức, đến nơi Hậu Hán mới giúp Trung Độ, lý thần biến nhiều phương, duyên báo ứng chẳng phải một. Cho đến đời gần đây kính tin rất sâu, người nhờ phước ngay năm, nhà sợ họa đời sau, do đây người dính mắc thế tục nghe tông mầu nhiệm mà cả cười, kẻ ưa lạ thấy chân đế mà tranh nhau về. Ban đầu sóng vọt ở cổng làng, sau cùng gió thổi ở triều đình, khiến cho khác sách tục, tốt tươi sầm uất trước các nhiệm mầu. Giáo của chư Hoa lật ở sau Nhất thừa, dòng lừa dối vong phản ở nhiều đời đây. Nay ngôi vua khắc xướng, đã nương mừng thượng đức, thiên hạ đại định cũng nhờ công vô vi, nên có mở bày huyền hóa này. Từ nay về sau cúng trai lập hạnh, còn như xưng gọi Đạo sĩ nữ quan có thể ở trước Tăng Ni, ngõ hầu đôn đốc kẻ tục ngược gốc xướng ở chín cõi, gió tôn Tổ ban cho vạn lá. Bấy giờ Tăng đồ Kinh Ấp đều bày sự can ngăn tột đỉnh, có quan ty không nhận. Sa-môn hậu sinh thật trí là Tuấn Dĩnh trong ngoài đều sáng, dắt các bậc lão túc theo xe dâng biểu, bèn đến cửa quan, biểu kia lược rằng:
Tăng ấy đồng nói, năm ấy ép dâu du, ban đầu gặp đời thái bình, diện mạo đồng bồ liễu, mới gặp vua Thánh minh. Trộm nghe cha có con can ngăn vua có thần can ngăn, các vị ấy tuy dự xuất gia vẫn ở lệ thần con, có phạm không ẩn, dám chẳng đo bày, xin thấy chiếu thư, quốc gia vốn ra từ dưới chống chỏi. Gió Tôn Tổ hình ở trước sách, bố các thiên hạ không đức mà xưng. Nay Đạo sĩ đều ở trên Tăng Ni, vâng lệnh để chu toàn đâu dám chống cự. Xét Lão Quân mở phép tắc trị nước trị nhà, chỗ mang phục chương cũng không đổi khác, không lập chùa quán, không lãnh môn nhân. Ở dưới trụ để toàn chân, ẩn đức rồng mà dưỡng tánh. Người trí thấy đó gọi đó là trí, người ngu thấy đó gọi là ngu. Chẳng phải ty khấu đâu ai biết được? Đạo sĩ ngày nay không vâng theo phương kia, chỗ mặc áo đội mũ đều là khăn vàng, vốn chẳng phải thương của Lão Quân, hành thuật dơ của ba Trương, bỏ diệu môn năm ngàn, đồng với Trương Lăng Mạn hành chương cú, theo Hán Ngụy đến nay thường dùng quỷ giáo đạo ở nơi phù tục, vọng gá sau Lão Quân thật là mầm mống trả đạo. Nếu vị ở trên Tăng thật sợ chân ngụy cùng dòng, có tổn quốc hóa. Như không bày tâu lấy gì nêu hình thần con, cẩn thận chép kinh đạo và Hán Ngụy các sử Phật thì trước đạo sau sự, như riêng chỗ bày, cúi xin thiên từ rủ lòng soi cho.
Sắc chỉ nghĩa vua cha ở ba thuận là trọng, đại ái kính hạnh phàm trăm vụt trước. Nhưng hai môn Thích Lão tuy lý tuyệt mà cảnh thường, vết chân cung hiếu việc hợp bến Nho, bèn ở chỗ tôn cực không làm lễ quỳ lạy, nhân tuần tự lâu đến thần đây. Triều Tống tạm sửa phong tục này, thiếu chọn lựa lại vâng theo tập quán xưa. Trẫm bẩm thọ kinh trời để nêu hiếu giúp nghĩa đất mà tuyên lễ, định đem danh giáo giúp chân tục, mà nước chảy trên nền thôn khắc thành thiên cấu, hóa sông Liên giao cho, Quốc vương do cắt chế khoan dung quay về đây. Nay muốn cho Đạo sĩ, nữ quan, Tăng, Ni đều bái lạy cha mẹ, Hoàng Thái tử, Hoàng hậu và vua, hoặc sợ sai lầm hằng tình kia nên giao cho hữu ty bàn rõ tấu trình.
Ngày 15 tháng 04 niên hiệu Long Sóc năm thứ hai, Quang Lục Đại phu, Hữu tướng Thái tử, khách ở quận Cao Dương nước Thượng Trụ, quan Khai Quốc Công Hứa Kính Tông đọc.
Tăng Oai Tú, v.v... nói: Vâng lệnh minh chiếu khiến Tăng quỳ lạy vua, cha, nghĩa phải nương hạnh, lý không chống ý chỉ. Nhưng do minh giáo Thích Nho đều bày văn chánh can ngăn, nêu hóa rộng lớn đều tiến đạo quê mùa, Tăng đều mang ơn nặng của quốc gia, khai dùng lễ phương ngoài, ở yên nơi cõi nước, được rộng tâm xuất tục, sở dĩ từ xưa vua chúa đều vâng theo phép tắc kia, kính nghi đổi tục kia, toàn dấu tích kháng lễ kia, bèn khiến kinh giáo nẩy nỡ rộng, đời đời lần lần nhiều, tông khéo léo dạo xa thường thường rảnh phát. Từ Hán đến Tùy người tu hành lại trở ngại, gió Linh Thứu vẫn thơm nồng, giáo hóa của tiên quyển còn sơ sài, chưa bằng Hoàng Vận Triệu Hưng Đề Phong ngoài biển. Năm trúc và năm núi đồng trấn. Châu Thần đem Văn Tề Đại Hạ, mạng Hoàng Hoa chở thạnh xe ngựa tô tiếp trục, đâu không kính Thánh tích này dựng cây sót dấu vốn được. Cung phạm đến nghi theo nhau không dứt, nay trái lại nếu lạy vua cha, khác với các kinh, lại chứng khen kinh tục, hoặc bày vọng khinh hủy. Xưa Tấn Thành, Ấu Xung, Dữu Thủy, Kiều Chiêu, Hoàn Sở tô điểm lừa bịp, vua im lặng lời kháng cự và Tống Võ tuổi già sắp giáng chính sách bạo ngược, chế Tăng lạy vua xét lại dừng dứt. Bởi việc trái sách kinh nước nhà, lý vượt nghi thiên thường, tuy nói rằng: "Dòng lời trọn buộc hiển bàn", huống chi bèn bỗng ra lệnh bái lạy, nhận sự giận dữ của trên trời. Ngụy Đào làm công kích buông lung trách hạ ngu, đường đây lâu bày đủ nêu thấy nghe. Tăng đồng phụng đeo kinh hoàng chìm che chở mất đặt để, sợ dây tơ nếu phát thì muôn nước thông hành, hẳn khiến vùng biển mong gió, phương rộng lỗi khen lễ, mênh mông đời sau hoặc tiếp truyền bắt chước lỗi lầm. Cúi xin bệ hạ trùng hưng Tam bảo, từ nhiếp bốn loài, thân thừa ý chỉ phó chúc dùng khuyến khích học đồ, Tăng đồng trong vâng theo chánh giáo vốn tuyệt dung nghi quỳ bái, ngoài vâng minh chiếu khiến theo kính của Nho lễ, cúi ngước chỉ lỗi, hổ thẹn sợ thật sâu. Như không bày thỉnh có lỗi trái đạo thần tử, hoặc chê Phật hóa liền đọa tội chán nản vua, kính cẩn nêu các kinh có văn không lạy kẻ tục nhẹ dùng tâu lên, cúi xin trời từ ban bố rủ lòng soi xét, thì triều nghị đây cung kính vâng theo đường ở Tấn thần. Ủy lược thường bàn cuối cùng quy về vượt Tề Hậu, bụi bẩn uy nghiêm, chỉ rất sợ hãi ẩn núp. Kính lời.
Ngày 21 tháng 04 niên hiệu Long Sóc năm thứ hai dâng biểu Bấy giờ, Kinh Ấp có vị Tăng hơn hai trăm người đến cung Bồng
Lại dâng biểu, tướng tả hữu nói: "Sắc lịnh rõ bàn lạy hay không lạy chưa nhất định, hãy đợi sau nhóm" các vị Tăng bèn lui. Vì vậy rộng nhóm ở Tây Minh cùng nhau mưu bàn chung bày khải trạng, nghe các liêu thái nói:
Tăng Đạo Tuyên v.v... tâu! Từ sông vàng luống dấu vết, cửa ngọc giảng nói giáo hóa, trải qua tháng anh tài năm thạnh lượng phụ đâu không cúi đầu thỉnh đạo quy hướng biết bến, cho nên được cõi nước liền nhau miếu nhân rải khắp, trời người kính mến đường phước điền, chốn u minh nhờ nghi chánh đạo. Kẻ thanh tín như rừng dày, khách cao thượng như mây kết. Lại khiến giáo chia ra ba pháp, rủ nghi cánh muôn năm, vị khai bốn bộ, rải phép trong sạch của năm thừa, khoảnh dùng biển pháp, rộng lớn loại nhóm khó phân biệt, phạm lỗi ở đây bày, có dơ xem xét. Hạ chiếu trái thường khiến lạy vua cha, rủ so sánh ẩn hoài, hiển sơ sài của triều nghi. Tăng đồng gánh lấy minh mệnh này, cảm thương rơi lệ, bởi do hạnh thiếu ánh sáng nên khiến cho trên thầm mưu giúp.
Vả lại, từ khi giáo pháp đến đông độ lần gấp hợp sâu thạnh, ba phen giúp trừ, năm lần bái phục đều chẳng phải đời thôi sáng mà là vua bạo ngược, cho nên khiến ban bố lịnh trái khuôn mẫu kinh quốc trái thường gây ra chê trách của sử lành. Sự lý khó ngược, lại rập khuôn bến cũ. Cúi xin Đại vương là giềng mối kinh điện, nhiếp ngự cơ hoành, đạo tục tỉnh lại, việc bận rộn hay nhàn rỗi. Nay cửa pháp đóng bít, tiếng giáo chẳng truyền, dựa đây thu làm sạch chướng cứu nạn, ngày vớt chết chìm phò nguy ách. Tăng đồng gõ cửa cung điện khó kịp, chúng hạc trông nơi cửu trùng (vua), thềm trời ít bên, trọn đậu trăm mối lo, cho nên mạo muội bày than, vén sương mong được cúi giúp riêng lớn, chở rủ nâng nhiều, đây thì tôn sùng phó chúc, gió mát giúp chín cai, chánh tượng lại hưng thạnh, cảnh phước sáng ở bốn biển, không nhậm rất cùng tắc, đủ để tâu bày, bụi nhiễu sâu xa chỉ biết hổ thẹn thương xót, kính bạch.
Ngày 25 tháng 4 niên hiệu Long Sóc năm thứ hai
(Phu nhân là mẹ vợ vua, kính sùng chánh hóa rộng xây dựng cửa phước, tạo tượng, chép kinh, bắc cầu nối nhau ra vào cung cấm. Vinh hỏi: "Chẳng hay Tăng đồng đến cửa dâng thư nói gì vậy?")
Tăng Đạo Tuyên v.v... tâu rằng: "Từ khi Tam bảo đến đông độ dần hồi đã hơn sáu trăm năm, bốn tục lập quy nhờ giới, năm chúng mở việc phước điền, trăm vua nhờ hóa chí đạo, vạn năm chở quạt chỉ có gió Thánh. Cho nên được quanh cả cõi đất biết quy về, sinh linh hồi hướng. Nhưng do mặt trời tuệ ẩn đã hơn ngàn năm, chánh hạnh khó phân biệt, khoa nghiêm dễ phạm, bèn có cỏ đề cỏ kê lộn lạo làm dơ ruộng sạch, tuổi trẻ lo gạn bạc đầu, đủ bày ở trong kinh trước đã thấy nghe.
Vả lại bậc Thánh ở ẩn, phàm Tăng thì lộ khí. Trụ trì đời sau chẳng phải đây thì ai hiển? Cho nên vàng đá, đen trắng nêu dung nhân tượng, nhuộm y cạo tóc phát họa tướng toàn tăng, nương mà tin hủy hai phần nhân quả, trái đây khéo tu đều chẳng phải chánh đạo. Lại Tăng có chân ngụy sống chín khó biết, hạnh đức cạn sâu, nương trí giúp hoặc, cho nên kinh bày thông cúng như biển không cùng luật chế riêng khoa như núi có bờ mé, tông đồ đã nêu danh giáo là nương, lập ra oai nghi xuất tục, lên đường chân viên đức, vốn khiến trời rồng chí kính, u hiển quy tâm, rộng hộ trong lòng, lưu công chẳng dứt, tỷ dùng thời kinh trược nhiễm người thiệp điêu tàn sai lầm, rình phục đồ trang sức, tạm được may mắn bạn nương hư không, hạnh bất động ở trần tục, đạo có che chướng ở hiến chương, vua xem xét ban bố lạy cha và vua. Bèn liếc mắt trời rủ sắc chỉ triều nghị. Tăng đồng trong tỉnh hổ thẹn sợ như lửa đốt, chăm sóc nhau mất giữ đâu biết gởi lầm, chỉ có Phật giáo thông thuộc bốn bộ, u minh dám ôm trộm bàn. Phu nhân ngay đây khiến gởi, huống lại thể này tôn sùng, dựng lập chánh thiện làm tâm, ru khuôn phép cung vi oai sáng đạo tục. Nay Tam bảo bị chìm đắm thành giúp ở duyên, liền dùng thăm hỏi ít rủ cứu giúp, như mong cứu giúp nương trụ trì xưa thì phó chúc là quay về rộng che chở ở đây, khinh để tâu chọn, theo sâu rất sợ, kính tấu. Ngày 27 tháng 04.
Liệt Tử nói: Thời Chu Mục Vương ở Tây Vức có hóa nhân đến, ngược núi sông dời thành ấp, ngàn biến muôn hóa chẳng thể cùng tột, Mục Vương kính người đó như thần, trọng như Thánh, đây là Phật hóa ban đầu đến. Kinh Lục của Châu Sĩ Hành, Thích Đạo An nói: Thời Tần Thỉ Hoàng có mười tám vị Sa-môn đến giáo hóa Thỉ Hoàng chẳng theo cấm đó. Ban đêm, có người thân Kim cang cao trượng sáu, phá ngục mà ra, Thỉ Hoàng cúi đầu cảm tạ.
Sách Hán nói: Võ Đế trong niên hiệu Nguyên Thú ở cửa thành Tây được người vàng cao hơn trượng ở cung Cam Tuyền, vua cho là Đại thần, nhiễu hương lễ bái, sau sai Trương Khiên đến Đại Hạ tìm, nói rằng: Có nước Thân Độc tức là Thiên Trúc. Nước kia gọi là Phù Đồ tức là Phật-đà. Đây là lần đầu tiên biết đến danh tướng Phật, người Thủy Sử Đô Thành Đế là Lưu Hướng nói: "Từ trước kiểm tàng thư thường thấy có kinh Phật", đây là Chu, Tần đã làm, Thỉ Hoàng đốt không hết. Ai Đế vào niên hiệu Nguyên Thọ sai Cảnh Hiến đến nước Đại Nguyệt Thị, nhân tụng Phù Đồ kinh lúc trở về nước Hán mới thực hành trai giới. Y cứ đây có nghe Phật pháp, giữa đường ẩn núp, lại hưng khởi ở đây.
Sau Hán Minh Đế vào niên hiệu Vĩnh Bình mộng thấy người vàng bay đến trước điện, bèn sai Trần Cảnh v.v... đến Tây Vức tìm Phật pháp. Bèn được Tam bảo đông truyền ở Lạc Dương, họa tượng Thích-ca đây là Phật bảo, phiên kinh Tứ Thập Nhị Chương là Pháp bảo, Ca Trúc đến nghi là Tăng bảo, lập chùa ở cửa Tây Lạc Dương, độ người khai hóa từ gần đến xa lần lửa trụ trì trọn ngôi nhà Hán.
Nhà Ngụy một đời năm vị vua cai trị bốn mươi lăm năm. Thạnh kính lần sâu không nghe bái hủy. Niên hiệu Giang Biểu, họ Ngô, bốn vị vua cai trị năm mươi chín năm, Tôn Quyền khai sáng Phật pháp, cảm điềm lành lập chùa gọi là Kiến Sơ. Sau Tôn Hạo bạo ngược toan trừ bỏ Phật pháp, các quan can gián bèn thôi, gọi Tăng đến mà thọ năm giới. Trong nhà Thục hai vị vua cai trị bốn mươi ba năm. Vào thời Vận Quốc mưu toan Phật giáo không nghe tin hủy. Tấn Tư họ Mã đông tây lập chánh trị có mười hai vị vua cai trị một trăm năm mươi sáu năm. Triều giữa bốn vua rất kính tín, không nghe lời bàn khác, chỉ có Đông Tấn Thành
Đế Hàm Khương sáu năm, Thừa Tướng Vương Đạo, Thái Úy Canh Lượng chết. Sau Dữu Thủy phụ chính, vua ở thời Ấu Xung ra chiếu chỉ khiến Tăng bái lạy. Lúc ấy Thượng Thư Linh Hà Sung, Thượng Thơ Tạ Quảng v.v... kiến nghị không nên lạy, kiến nghị đến ba lần bấy giờ mới thôi. Như vậy, về sau sáu mươi hai năm, niên hiệu Nguyên Sơ, vua An Đế, Thái Úy Hoàn Huyền dùng oai vua hạ lịnh bảo lạy, Thượng Thư Lịnh Hoàn Khiêm, Trung Thư Vương Mật v.v... kháng cự can gián rằng: Nay Sa-môn dẫu ý rất cung kính, không dùng cong hình là lễ, dấu vết đầy trong nước mà siêu vượt phương nội, đây là do vua nước ngoài đều giáng lễ (như vua A-dục v.v... lễ Tỳ-kheo) bởi do đạo còn thì quý, không do người là khinh trọng (như Ngụy Văn Chi, Thức Can Mộc, Hàn Quang Chi, Ngộ Tử Lăng v.v...).
Xét ngày đại pháp lưu về Đông độ làm ngày xá tội, tuy dời phong tục sửa chánh trị mà hoằng hóa chẳng khác, đâu không do riêng hóa tuyệt. Có nhật dụng nơi Đào Tiệm, gió trong ước không hại ở Long Bình? Nhiệm mầu lại có sách Pháp sư Lô Sơn Viễn tự Lão Tử Quân vương hầu ở ba đại, xa đáp dùng nghi phương ngoài, không lệ thuộc lễ các hoa, bèn soạn luận "Sa-môn bất kính vương giả" năm bài, việc kia do đó mà dứt và đặt vua ngược chính trở lại tôn sùng kính tin trọn cung kính vua.
Có người đời Tống họ Lưu, tám vua năm kỷ, tuy Hiếu Võ Đại Minh năm thứ sáu tạm chế bái lạy vua, xét nương chính sách trước. Ba đời Tề, Lương, Trần cai trị hơn một trăm mười năm thạnh kính tột một lòng tin trọng càng sâu. Trung Nguyên Ngụy có hơn mười vị vua cai trị một trăm năm mươi năm rộng hành Phật pháp. Đủ thấy Ngụy Thâu Lương Sử, chỉ có Thái Võ Chân Quân bảy năm nghe sàm tấu diệt Phật pháp, năm năm sau bịnh cảm mà băng, trở lại hưng khởi Phật pháp trọn ở Tịnh Đế.
Từ khi Tấn mất Trung Nguyên, Giang Biểu xưng vua, nước chia thành mười sáu (nghĩa là năm
Lương, bốn Yến, ba Tần, hai Triệu, Hạ và Thục) các triều này ngụy chánh tin pháp không thiếu, chỉ có Hách Liên tràn ra chiếm cứ châu Hữu Hạ, hung bạo không thỏa mãn, lấy việc giết hại làm vui, đeo tượng trên lưng cho Tăng lễ, sau bị sét đánh chết. Sau đó bị Bắc Đại thôn tính, vợ con hình hài đủ như trong sách của Tiêu Tử Hiển Tề.
Cao Tề ở đất nghiệp, sáu đời vua cai trị hai mươi tám năm, tin trọng hơn các nước trước, không có hai việc. Nhà Văn Chu có năm đời vua cai trị hai mươi lăm năm, ban đầu Võ Đế tin trọng Phật pháp, sau nhận lời bàn của Trương Tân, lại thọ Đạo pháp định trừ diệt Phật giáo, có Pháp sư An soạn luận về hai giáo để chống lại, luận nói rằng: "Giáo của chín dòng dạy dừng thân kia gọi là ngoại giáo, giáo của ba thừa dạy tịnh tâm hoặc gọi là nội giáo. Lão chẳng phải giáo chủ, thuộc về kinh Dịch". Vua nghe rồi giữ hay bỏ đều trái lý bèn dứt cả hai, không đầy năm năm thì chết, chính sách thay đổi.
Nhà Tùy thừa vận có hai vua cai trị ba mươi bảy năm. Văn Đế sùng tín hưng khởi Phật pháp, trong biển đặt tháp, có hơn trăm châu đều phát điềm lành đủ như Đồ Truyện chép. Dương Đế nối tiếp sửa đổi triều trước tuy khiến Tăng chí kỉnh mà cuối cùng không khuất phục, tự đại hóa đông lần lần hơn sáu trăm năm, ba lần diệt trừ năm lần ra lịnh bái lạy, đã trái kinh điển của nước, lại sai chính sách Hưu Minh, hung tàn bạo ngược, bị loạn trong triều, nghi đè ép hay khuất phục nêu nơi dứt đời, cho nên khiến sự lý trái thường xét nương vết cũ.
Bởi Tam bảo là tông quy giới, năm chúng ở vị phước điền, tuy tin hủy đổi nhau, tai ương lỗi lầm thay nhau, từ đây người có thạnh chỗ trũng, y cứ đạo không hề hưng phế. Cho nên hơn ngàn Đại thánh xuất hiện ở kỳ lớn của Kiếp hiền, thọ sáu mươi tuổi, trụ chánh pháp của Thích Môn, huống chi mười sáu Tôn giả hành hóa ba châu, chín ức ứng cúng hộ trì bốn bộ, y cứ đây để nói nhiều đời chưa hết, đâu được tình đoạn đồng phù hợp sách Nho. Vả lại Kinh Dịch có cổ, hào không thờ vương hầu, sách lễ hạnh Nho không làm tôi Thiên tử. Ở tục bốn ngôi còn có người không khuất huống gì bỏ tục theo đạo mà lại trách lễ tôi con. Lại Thượng đế ở trời cao, thần linh ở núi rãnh là vua loài người, đâu không cúng tế mà sai lạy? Nay Tăng thọ giới của Phật, hình đủ nghi Phật, tám bộ trời rồng thờ đạo kia mà kính ngưỡng dung nghi kia, đâu không bái phục ở Tăng, cho nên được thầm giúp đỡ, hiển điềm lành rất nhiều. Nghe truyện trước, đâu lại đồng phù họ Lão Quân vương hầu nơi ba đại? Cho nên sinh nhà Sa-môn, tài sắc chẳng đoái hoài, vinh hoa bỗng lộc chẳng màng, quán thời tục như mây nổi hiểu hình mạng như bóng nắng, nên gọi là người xuất gia. Người xuất gia không giữ lễ tại gia, kẻ xuất tục không dính nghi thế tục, đạo kia rõ vậy, trăm đời không đổi lịnh sách, kia lưu bố rộng cho nên nói lược.
Nay nêu kinh luận của Phật để nói Sa-môn không kính thế tục. Kinh Phạm Võng quyển hạ nói: "Người xuất gia pháp không lễ bái Quốc vương, cha mẹ, lục thân, cũng không kính thờ quỷ thần". Kinh Niết-bàn quyển sáu dạy: "Người xuất gia không lễ kính người tại gia". Luật Tứ Phần nói: "Phật dạy các Tỳ-kheo lớn nhỏ thứ lớp lễ bái nhau, không nên lễ bái tất cả người tại gia". Kinh Phật Bổn Hạnh quyển năm mươi ba nói: "Vua Thâu Đầu Đàn và các quyến thuộc bá quan thứ lớp lễ Phật rồi, Phật nói: "Vua nay nên lạy Ưu-ba-ly và các Tỳ-kheo".
Vua nghe Phật dạy liền đứng dậy đảnh lễ năm trăm Tỳ-kheo mới xuất gia theo thứ lớp. Kinh Tátgià-ni-càn dạy: "Nếu chê bai pháp Thinh văn Bíchchi-phật và pháp Đại thừa hủy nhục đều gây ra chướng nạn thì phạm tội căn bản (nay Tăng y theo kinh Đại Tiểu thừa không lạy vua cha là vâng lời Phật dạy, nay bèn ra lịnh trái lời Phật dạy đi quỳ lạy người thế tục, tức là không tin lời Phật dạy, phạm tội căn bản). Lại chê bai không có nghiệp báo thiện ác không sợ đời sau, tự làm và dạy người, bền chặt không bỏ đây gọi là tội trọng căn bản".
Đại vương nếu phạm tội này mà không tự hối hận, thiêu đốt căn lành chịu khổ vô gián. Do vua làm nghiệp không tốt này, các La-hán tiên nhân phạm hạnh, bậc Thánh đều bỏ nước mà đi. Chư Thiên buồn khóc, các thiện thần không ủng hộ đất nước, Đại thần, phụ tướng tranh cãi lẫn nhau, bốn phương nổi loạn, Thiên vương không giáng, Long vương ẩn mất, mưa nắng không đúng thời, người chết vô số. Người bấy giờ không biết lỗi này mà oán chư Thiên trách quỷ thần. Đây cho nên thực hành pháp hạnh vua là cứu khổ này, không làm lỗi này rộng như kinh nói. Lại có các luận, văn nhiều không chép hết.
Tăng Đạo Tuyên v.v... thưa triều đình tể tướng công hầu: Xin xem chiếu thư lịnh Tăng chí kính vua cha, sự lý sâu xa chẳng phải tình cạn có thể suy lường. Phàm cho dấu vết xuất gia, các thánh đồng phép tắc, khoa chân tục trăm vua đồng khuôn mẫu. Can Mộc đời Ngụy cao kháng cự mà yết kiến Văn Hầu. Tử Lăng nhà Hán lạy hẳn mà tìm Quang Vũ. Kia xưng tiểu đạo còn nhờ cửa cao bước, há sinh mạng này không nương tốt đẹp mà rảnh buông? Nhưng do Tam bảo vang vị dụng bày nghi quy kính, năm chúng bày thành thật mở đường phước điền. Nay tước đồng lễ Nho thì Phật chẳng phải người xuất tục, bái lạy vua cha thì Tăng chẳng phải đáng kính. Đây thì Tam bảo đều phế bỏ, quy giới tuyệt ở nhân luân. Nho đạo là thầy Khổng, kinh tôn nơi sách Phật, khi xưa Tấn Tống có phép trước tám tòa bàn rõ đủ làm gương soi, Tăng đồng gánh vác đất nước, loại nhờ mở buông xuất gia, phụng pháp hành đạo, ngưỡng nương phép Thánh. Bỗng khiến bái lạy có lụy rất sâu, cúi, ngước, dừng, gấp, quên, biết, đến chở che, kính bày trong kinh và dùng việc xưa đủ nêu như trước, dùng lựa triều nghi, xin rủ lòng chọn rõ, kính bạch.
Đến ngày 15 tháng 05 nhóm hết văn võ quan liêu Cửu phẩm trở lên và các quan châu, huyện hơn ngàn vị, đều ngồi trong nhà Đài Đô để bàn việc kia. Bấy giờ Sa-môn Đạo Tuyên chùa Tây Minh ở Kinh Ấp, Sa-môn Oai Tú chùa Đại Trang Nghiêm, Samôn Linh Hội chùa Đại Từ Ân, Sa-môn Hội Ẩn chùa Hoằng Phước v.v... hơn ba trăm người, đều đêm theo văn kinh và dùng trạng trước, bày việc xưa kia để nêu thiếu lý.
Bấy giờ, Ty Lễ Thái Thường Bá, Vương Bác Xoa ở quận Lũng Tây bảo các Sa-môn rằng: "Sắc lịnh tục quan bàn rõ, các thầy hãy lui". Khi bàn luận xôn xao không thể ghi một điều, họ Vương ở Lũng Tây nói: "Phật pháp truyền thông đời vua đã xa, hạ sắc lịnh lạy vua cha lại cho bàn luận. Nay mọi người lập lý chưa thể vâng lệnh chung. Ty lễ đã nói là chức ty có thể trước kiến nghị, người đồng ý thì ký tên vào ai không đồng ý thì thôi. Đại phu ty lễ bấy giờ là Khổng Chí Ước cầm bút thuật trạng như sau. Khiến người chủ sự đọc lớn lên xong rồi bèn y thứ lớp ký tên, số người hơn phân nửa, Tả Túc Cơ Thôi mừng nói: "Sắc lịnh ty lập bàn riêng, chưa thể theo suốt, ty lễ xin phân tán có thể tùy hình trạng riêng mà dâng". Bấy giờ chỗ đưa văn kiến nghị ép bức tuyên dương lẫn lộn, nay kính cẩn nương sở ty trên dưới để chia riêng. Trước nêu văn không lạy, kế bày trạng gồm lạy, sau nói nghi lễ lạy, thiện ác đều chép như dưới đây.
Thầm cho rằng gồm trăm tại vị, tuy còn đạo kính thượng, ngay kia làm thầy còn có nghĩa không tôi, huống chi Phật rủ pháp sự việc vượt biểu nghi thế tục, cạo tóc đồng hủy tổn, giữ gậy khác nơi cài dây thao, xuất gia chẳng phải cảnh dưỡng sắc, lìa trần há là chỗ vinh dự danh tiếng, công sâu giúp đỡ, đạo tột sùng cao, cần gì phá cửa màu kia để kéo theo vết Nho này? Mặc áo Thích mà làm lễ Khổng, ở tục đồ mà đảm đương pháp lễ, bảo tồn giáo ấy mà hủy đạo ấy, cầu phước ấy mà cong thân ấy. Hai ba lần xem xét cho là trái đạo lý, lại đạo là giáo tuy toàn tóc da, xuất gia vượt tục quy về một lẽ, lại do xa nêu trời tạo rộng mở nền vua, nghĩa nhờ tôn nghiêm cách thức phù hợp cao thượng, đều vẫn suốt xưa không có điểm chương, như quyết sửa làm e chẳng hợp xưa, tuy vua cha tôn kính dùng trục trong thần, đạo pháp khó thiếu trở lại lưu tưởng thông minh, đã phụng theo chiếu, dám hết thật trần nhạc, sợ không chẳng vừa lòng, theo sâu chiến cảnh giác.
Tiêu hình hai khí, nghiêm phụ xưng đâu tôn do lớn, nuôi dùng năm vật liệu. Nguyên hậu nêu thì quý của trời, còn như lễ cong tay quỳ chân, bọn đào hóa đồng tôn theo, áo cần thành tựu cách nuôi dưỡng, bọn hoài sinh chung kỷ. Phàm đối vua cha lý tuyệt danh ngôn, mà đạo Lão, đạo Phật là xuất trần bỏ tục, một ý chỉ hư vô, lìa có hội không, điềm lành thấy Tỳ-na, xiển kệ từ bi, khí nổi hang hòm nghe bài đạo đức, ở trong cây ưng, nuôi sống niệm lự, bỏ tướng sắc thinh, vắng lặng làm tâm, cầm lễ đạp nghi chẳng cùng yếu diệu kia, giữ gìn trung hiếu, chưa châm sóng mòi lý tồn trước thái cực, sự ra ngoài biểu sinh linh, cho nên tôn đạo ấy thì khác y phục ấy, trọng giáo ấy thì khắp lễ ấy. Từ gần đến xa xưa cuối lá dẫu mến gấp tạm trái mà đạo này không trụy đọa, cho đến suy buộc song thọ thảm thiết kết ba hiệu, phòng ngừa gió thiếu hậu tấn. Ước tông Nho để kháng pháp, nên sẽ giúp thành giáo xưa, đâu nên cắt bỏ nghi mới, thật nên khuất nghiêm phòng bày ý chỉ phương ngoài, ủy trọng tôn thân, dạo trong cõi nước ngu quản châm lượng, vâng theo mà làm.
Thần nghe ba tai biến lửa sáu độ càng ngưng đọng, hai chữ làm kinh trăm thành mối giây dằng dặc. Do đây sợi lông trắng trước tướng, mở rộng Nhất thừa trong muôn kiếp. Khí tía nổi bóng lộn vạn thù nơi một mối, có bến Nho lại ngăn trở khác trục, bẩm thọ tài giỏi của trời đất âm dương, lễ cung kính vua, tôi, cha, con. Cho nên biết theo danh trách thật, bước theo khuôn phép thì hình ngay thời tiên giáo nơi cửa lý, đồng tâm lực hành tu đến tiếc xưa thì hóa tiệm ở sông Liên. Đạo Phật là ngừa trong, nhã có chỗ ở cửa Ngụy. Đạo Nho là xét ngoài, không thể bao quát đài linh. Có riêng tông mầu nhiệm phép tắc trong sạch chấn vật lảng đảng theo gió, vội vàng cánh chim bằng, vội vàng cánh chim yến, cây xuân ngắn, cái nấm xa, vô vi vô sự có gì được mất? Nhưng thời đạo Phật đạo Lão hai giáo đều là Tam bảo, Phật dùng Phật Pháp Tăng làm tông chỉ, đạo Lão lấy Đạo, Kinh, Sư làm nghĩa. Đâu thẳng nhiếp sinh có gá hun đúc tánh thông giúp, tin cũng là chính sách là nền tảng giúp cho giáo hóa, mà Tỳ-kheo chưa dụ tiên sinh nhiều vắng vẻ, ỷ xuất tục mà buông lung, dùng ngạo mạn kiêu căng làm khoe khoang dối trá, ở điều hèn thất phu gặp hình hài ở muôn thừa, quên ân nuôi con, không giáng khuất ở ba đại, vốn nên sửa đổi của vua cha, chính tôi con biết lỗi bèn giáng sợi tơ là sửa cái tệ kia. Dẫu gìn giữ hiếu, ở trung, xướng lời, sửa vết, mà xét xưa ái đạo, tham gia châm chước quần tình, nhớ tiếng vang hang trống, trói buộc tiếng vỗ về bụi núi không cách bụi nhỏ, hẳn đủ tụng kiệu người để cống thuyết quê mùa, đâu thì trụ sử nổi mé Tây có hơn ngàn năm. Pháp lưu về phương Đông dần dần đã sáu trăm năm, dẫu trải qua nhiều thay đổi của các triều đại mà sự không tổn ích, chỉ có Sửu Thủy trách Sa-môn lễ bái, Hoàn Huyền bàn Tỳ-kheo lễ lạy, may mắn có Hà Sung dâng tấu, Tuệ Viễn bày sách, việc cuối cùng không làm, đạo không hề bị đọa.
Ở đây biết Đại Dịch Kinh Luân ba Thánh, cổ tượng không thờ vương hầu, đại lễ đầy ních hai nghi Nho hạnh không tôi Thiên tử. Cũng có Nghiêm Lăng ngồi xổm ra mắt Quang Vũ, Á Phu xá dài Hán Văn, giới mạo đâu nói rằng "Chạm lân". Cho nên người không làm dây cương, chỉ có xưa nếu đạo Tiên sư thì pháp lữ đâu sau Nhung chiếu? Trên thì cửu thiên chân Hoàng, Bồ-tát Thập địa, dưới thì núi Nam bốn hạo, Hoài Nam tám công, hoặc thuận gió mà lễ yết, hoặc ngự khí mà dạo chơi. Một do suốt đó chẳng được mà cong, mười nhà trung tín cũng há không có người kia ư? Lập bày năm hình, ba cửa người gỗ không bái lạy, há năm đức đủ ở ba phục lễ bái. Tội không trách, đức nghiêm túc thật đủ dưỡng dung nhan, nhưng thì loại hàm thức, dòng hoài sinh đâu không có ra thân để thâu gồm trung. Kia thì không vua tôi đâu không hết sức mà tôn hiếu? Kia thì không kính cha mẹ chỉ y cứ thí ba xe, luật khinh ba thước, có một ở đây, ba ngàn đại kia mà không giúp để nghiêm giết. Đặt ở trọng trách to lớn, đâu không đạo Phật và Nghiêu, Khổng, khác chế, thương hủy cùng lễ giáo chánh trái, hoa sen chẳng kết sắc đỏ, bối diệp khác ý chỉ gọt ngọc khuê. Người dùng buộc đai làm chương thường, đạo thì mủ mà không đai, người dùng buộc tóc làm hoa trang sức. Đạo Phật thì lạc mà không dung, bỏ nước không là chẳng trung, lìa nhà không là chẳng hiếu, xuất trần cặn đục cắt ái với vua cha. Dứt tham dục, bỏ tình vợ con, lý vẫn phân chia đối với vật loại không thể kiểm bờ nơi thường đồ, sinh đâu trọng nơi cha mẹ, con thì không cảm tạ, thí đâu dày ở đất trời, vật thì không thù đáp. Ân vua cha sự tuyệt danh tượng, đâu cúi đầu bái lạy là có thể đáp được một phần trong vạn phần ư?
Xuất gia đối với vua cha, đâu nói là hoàn toàn không thâu báo đáp, một niệm quyết dùng nhân vương làm nguyện đầu, bốn đế thì đối cha mẹ là rộng lợi ích, mới bỏ nhiều kiếp, lìa hẳn sinh tử, đâu cùng người cong gối là tận trung? Sắc dưỡng làm thuần hiếu mà thôi ư? Quyết bao gồm cảnh tục, xử Nho bốn cong hình dung kia, giáng lễ kia, thì bất hiếu nào hơn tuyệt tự, đâu không chế do hôn nhân? Bất trung nào hơn ở không tôi thần, đâu không khiến xưng vợ quan. Dùng ca-sa làm triều phục, xưng bần đạo lẫn lộn, rất sợ lợi ích một phen quỳ không được sự tôn kính của muôn thừa, mà lao nhọc của một lạy thức bày đọa của ba phục, thì chỗ không thể mà như vậy ư?
Vua, không cha thờ ba lão, không anh thờ năm cựu. Tôn vua người cũng có chỗ kính, kính pháp phục chứ không kính người, nếu cong kính kia thì thấp đạo kia, kính mà thấp đạo thì nói là thiếu. Há như tôn kính ở mình, tồn đạo ở người kính tồn thì mình đến, đạo ở thì vật tôn, tôn đạo cho nên kính ở vật, kính vật cũng là tôn kính mình. Huống chi hình dụ như thân, đạo như bóng. Thân đã như tiếng, đạo cũng như âm vang, hình động thì bóng theo, tiếng nói thì vang ứng. Đạo sùng thì hình vẻ vang, thân ẩn thì đạo dứt, đâu thể khiến đạo ở thân mà cong thân ngoài đạo, há có thể khiến người ngoài sức tồn ở cung kính trong thân. Lại kia giữ một ở đạo không lẫn lộn trần tục, nếu lạy đó gọi là đạo của tục mà có thể tục tham đạo của tục thì một phải có hai mà đạo không chuyên hành, đâu thể do chia cõi thường của đạo tục, bảo đảm chí thành tựu chuyên nhất ư?
Theo luật Tăng-kỳ thì kính ca sa như kính tháp Phật, gọi ca-sa là phước điền, y gọi là tỏa sấu là có thể che thân gầy phiền não, áo dày gọi là nhẫn nhục, nghĩa là có thể hàng phục ma quân, cũng dụ như hoa sen không nhiễm bùn cặn, cũng là tướng màn của chư Phật, thì ca-sa là nghĩa chí kính kia.
Nếu tổn tháp Phật này hoại tướng cờ, toan khinh nhẫn nhục lại chê ruộng phước rất dụng nguy ách nghi trọn mê bỏ lấy. Cởi y phục mà lạy thì vượt tục trái nghi chương bổ. Sửa y phục mà hướng về thì áo đen trái sách triều tông. Cho nên thiền là cảnh xa Xá-vệ, bước đến đất cửa cao, lý tuyệt triều thỉnh, sự trái vinh hoa yết kiến, há không cho là ta tôn sùng đạo kia? Cho nên kia mời đến, thỉnh mà thấp đó lại làm gì? Lô Sơn là chỗ ở của đạo đức, không ở chỗ bày phân biệt. Cam thường là nghe tụng không dứt, cách thức có ra suy nghĩ chớ cắt. Núi và cây vô tâm, vả lại do đức mà tồn vật, pháp và đạo có đủ đâu thể sùng đạo mà bỏ người, ngạn ngữ nói: "Người có thể mở mang đạo thì đạo cũng cần người thực hành". Vua loài người tuy vị nhỏ mà vẫn ở trên chư hầu, bọn hành đạo đâu thể thấp lễ kia. Nếu cho là hai thì khi dối, thời có thể một mà ngủ, ngủ đó là đạo thì là nghĩa cắt bỏ. Ở đây thì chỗ đoạt nhiều đâu chỉ hàng khuất mà thôi, nếu cho cả hai là sau giúp đỡ thì tôn sùng, tôn sùng gọi đạo thì là nghĩa tôn quý, há tôn quý đạo kia mà khiến kia cung kính ư?
Nếu dùng vàng, ngọc bích làm chân nghi không dùng vàng, ngọc bích mà thêm nghiêm túc, do chó rơm mà tôn tượng không do chó rơm mà thêm khinh, túc kính hoàn toàn nương vào đạo, nặng nhẹ không lệ thuộc vào vật, vật không thể dời đạo, cũng giống như đạo thường theo vật. Sa-môn áo mặc ngang mình, giúp pháp phục làm quý, đâu không kính pháp phục kia mà há lệ thuộc ở người, sách không lạy nghĩa cao kinh luật, pháp giao quốc vương sự giúp hộ trì, pháp là thường, thường hành không đổi, một góc có thể sửa, ngàn muôn đều sai. Thông có hộ pháp giúp, bít có cái lo đọa pháp, cùng kia đọa làm sao bằng hộ, cần gì bẻ cong nghi dung Tăng. Tránh quanh pháp phục khiến muôn nước quy y ở cành cải ở trong đó ư?
Ngạn ngữ nói: "Nhân người có lợi mà làm lợi thì cái thuật làm lợi đó cũng có thể do tinh chỉ kia mà làm lợi". Đến khi mặt trời ở trên chiếu vận vua bày tông, biển tiếp ao trời, cành liền tạo báu, nhờ đạo Vô thượng, mở nghiệp không bờ, riêng họ khác tộc kính như tôn thờ đã lâu, nền thần phái linh đạo đâu khiêm tốn ngày nay, đây là rất không thể một. Họ Nguyệt nước Đông ngôi báu đây đợi, sóng mầu nước định mây pháp nhuần màu sắc. Cao mừng giải thoát, diễn phước thường trụ, vua trước chúa sau xưa còn tôn trọng, chúa Thánh tôi hiền Hồ an đây biến, thần ngu ngàn lo muôn phần không được một, nếu như duyên này sáng tạo không lợi ích cho tương lai, đối với hằng hà sa kiếp có mảy may lụy thì dầu cõi nước tan nát, dù chúng sinh tan xương cũng đâu do tắc mà có trách ẩn, tội bất trung, đây là rất lớn không thể có thứ hai.
Thần sở dĩ gấp rút sự kia, nhỏ nhặt lòng thành kia. Gãi đầu, nắm tim, hủy nát gan, nhỏ mật. Cúi xin Thánh triều trùng hưng chí giáo hằng xuân nơi Lộc uyển, thường chuyển pháp luân, lòng vui mừng chép người kia, trăm ngôi xa ánh sáng ở vua thì dẫu chết vẫn sống nơi sáng tối. Trộm chỉ có chiếu chỉ nghĩa nghiệp khó đến, thiên tình vẽ một thì sẽ khiến do đó tưởng trí tuệ cầu bên cạnh thì ai không hết sức lo nghĩ. Thần do mê muội tầm thường đâu đủ để ngụ ngôn, cho hai giáo là không thì tôn sùng ở vận thánh, Thánh mà tôn sùng thì chẳng phải không. Cho hai giáo là có thì bút gọt lúc thời sáng, thời mà gọt đó e chẳng có. Đây sở dĩ dùng đường tẻ, dùng bằng hai đầu giao chiến, đạo nên còn dấu vết lý chưa nhàm tâm, ống trúc đâu thể dòm trời, ếch đâu thể suy lường bể cả, lý bặt ngoài hầu như, sự vượt biểu trí thứ. Tự có thể lòng chí lầu bút gõ tịch tiếng xiềng xích, mà muốn chim ở trình lời trong ống vu rình thổi, toan tai điếc nghe mà đồng tục cùng người mù thấy mà đều là ông già, dẫu có tận cùng tâm linh cũng không bao giờ đến nghe thấy. Thẳng dùng tám gió hướng quạt, muôn ống tiêu đều cống âm thinh kia, hai mặt trời lên sáng rỡ, ngàn hình không giấu bóng kia, ở đây đâu mong chờ cảnh là ngõ hầu chuyển khuôn phép, đến ngày tâm quỳ cho chọn lựa sương móc, mà nhan sắc thẹn thùng tương hạ bước mỏng nước xuân, tranh cảnh giác đã rất xá sợ giao tập. Kính bạch.
Thầm cho triều đình bày nghiêm túc cung kính làm trước, ân sinh dục sắc dưỡng làm trọng hai giáo Thích, Lão nay đều ngược đó, thường lễ vua chúa, thọ kính cha mẹ mà lo dung nghi từ xưa đến nay, nguồn kia sâu đến nỗi bởi có do vậy. Tha thứ do cắt tóc có khác ở mũ miện, ca-sa không lấy ở chương phục, xuất gia cho nên không kính người tại gia, bỏ tục đâu câu nệ lễ, triều đình. Còn như giáo nhiệm mầu trong sạch đạo phong xa rộng, việc cao thượng kia không khuất vương hầu. Vua chúa có chỗ không bầy tôi bởi nghĩa này. Quốc gia đã tồn đạo ấy, cho nên không khuất thần ấy, vọng y theo chương trước không trái thói quen xưa. Kính bạch. Bèn bái lạy ấy, rõ Sa-môn nên bái lạy. Xưa Hoàng giác ngự ở Vũ Thượng khai nguồn tín hủy, há chỉ có tượng mạt là không truyền bá rộng ước, dùng riêng biển pháp rộng lớn, nhóm loại khó phân có cơ mưu nhiệm mầu. Vội tâu lên vua đến đỗi khiến người của Câu Văn bỏ đạo theo người, soi xét mà nói thì chưa gọi là xướng lớn thông phương. Sở dĩ tôi xét các thật xưa cũ vì theo đó mà khởi, ngõ hầu quân tử kính Phật, hoặc hãy xem rõ.
Tả Oai Vệ Trường Sử Thôi An Đô chép việc, Thẩm Quyền Minh v.v... bàn trạng, một bài.
Thầm cho khí tía vọt chân, gió huyền mái giúp tây, trắng hồng thẩm hóa, uẩn Niết-bàn lưu về Đông. Dây cương lông ngựa mù, bóng ngọc kinh mà ngưng các diệu, bền từ chiếu tịch, mở vườn vàng mà dung chí đạo. Nghĩa trùm có không, lý rỗng rất bình yên. Cổ tay áo giúp bụi, xông khắp gột rửa nhân lụy, thần đạo giúp giáo đây đâu có nhỏ. Thẳng thắn nghiệp đã tuân theo, lưu tệ nghĩa giúp răn sửa đổi (Châm rằng: Giữ pháp cao thượng gọi là lưu tệ, trái kinh lạy tục gọi là trừng cách, tức là việc không thể như lý kia). Vốn phàm nơi ba kính nơi sáu tức, cao vút tượng tôn thấp, trăm hạnh gốc bốn thỉ, xoay bàn lưới trời vốn lập, rồi đạo mới sinh. Kính hình ở lễ cung kính đây là ban đầu của vương hóa, chính là kinh của đất trời. Phật lấy pháp làm thầy, vua dùng trời làm phép tắc. Trong cõi có bốn Đại vương mỗi vị ở một chỗ, đạo vua đã hoành giúp kia, phép trời đồng suốt, thân là pháp khí, pháp chỉ là gốc đạo. Mũ vàng mến đạo, áo đen thờ Phật, chí kính vua cha xa khế hợp sóng mầu (Châm rằng: Phật pháp chính là tôn quý ngoài cõi, vua trời là to lớn trong nước, giáo còn mà khiến cong gãy, không kỵ lại giống khắp người, đây chính là nước pháp úng mà không chảy sao xa khế sóng nhiệm mầu ư?)
Vả lại, giới điều vừa cao vẫn tột nghiêm túc ở bái lạy, huống chi sang hèn xa xôi đốn hai cung kính ở cong đầu gối (Châm rằng: "Vương Mật nói: "Sa-môn sở dĩ trên dưới cung kính nhau mà kháng lễ. Ở vua là do tôn chí đã đồng thì già trẻ đều tựa, bốn đường có cách thì nghĩa không giáng cong", thành thật thay lời nói này, đáng làm gương soi.") Quyết do núi rừng qua riêng, vật ta gồm quên, hỗn lộn thân sơ, sưng phục đồng nhau, ban ơn ta không là phải, tổn hại mình gọi là trái, tự phải ngay thương xót như vô tình, vắng lặng thường tịch, đâu nhờ rước ca-sa mà sửa trán, thấy thiên tôn mà nhã bái? Hang trần không lụy tục, chí kính chưa trái chân (Châm rằng: "Sa-môn cạo tóc mặc áo đen, đạo tục cách xa, lạy trái lời Phật dạy, đủ rõ ở văn kinh. Mà nói kính chưa trái chân đâu cho khác tục, đây chính chỉ Nam cho là Bắc, ngược trắng thành đen).
Vả lại Bá Dương mỗi dạy ở hòa quang, không khinh diễn giáo nơi thường lễ, khéo gõ đức khiêm tốn, xa phù hợp khuôn phép chiếu gần (Bá Dương đản sinh từ Cơ Chu, thân sung trụ sử, làm quan thì một chức của Vương triều, nói thì một hạng Nho tông, bái lạy vua cha vốn là lễ nghi. Còn như không khinh lễ bốn chúng là một thời quyền đạo, kia dụ như văn mạng vào áo tục mà cởi xiêm thường, không thể so sánh cõi nước để làm phép tắc).
Lại trong ba cực, sư ở chót kia, chót mà vẫn cung kính, gốc đâu nghi buồn. (Châm rằng: Chúng đạo Phật sở dĩ thầy giúp kính nhau chính là do giáo nghĩa chẳng khác, chẳng phải nói theo gốc ngọn, đâu rất là sóng mạnh).
Nếu cho ca sa khác áo lễ vua, khăn cốc khác với mũ tế, phục đã nhung bái cần gì là hoa? Riêng theo gốc kia không sai phép tắc thường. Kia có giày trắng, thanh quy trinh độn, chấn tục thần hóa hình bóng tiếng vang, giới hạnh siêng năng, tỏ bày ngộ đồng, loan phạm, hạt trong trời không, cờ gấm với thú, phù quỳnh ngự linh, đức tài giỏi tuổi tác cao mỏi mệt lễ bái kia, còn bao nhiêu người sơ học hậu tận thinh trần vắng lặng đều khiến tột kính vua cha, mời tức biên thường hiến. (Châm rằng: Nếu cho không lạy là sai thì bậc đạo đức tài giỏi tuổi tác già nua nên được miễn, nếu cho không lạy là đúng thì người hậu tấn sơ học không nên lạy, tới lui mâu thuẫn, lấy bỏ tự trái mời liền biên hằng hiến, đâu là chỗ thấy ngắn ư?). Như vậy thì tấn đức tu nghiệp, phép tắc xuất trần càng thạnh, lầu đàn khổ tiết tâm vào đạo càng gắng gổ. Gió mây đây xa, quốc chương chỉ chép, ngõ hầu rõ bày được cảnh, thì tịnh một lỗi lầm. (Châm rằng: "Cho trái tông là cảnh thì gọi là giữ pháp làm lầm tệ", y cứ đây để nghiệm đâu thể xem).
Tự ta làm cho nên câu nệ xưa, gương phàm lý phi thường phải nhờ chiếu phi thường. Trời soi huyền giám, thể thông minh soi xét, chọn tượng ngoài di tông, tột cõi trong thuyết chí, tuy thì tạm ngạc nhiên thường nghe, ép bức cũng trọn đặt để ở đại đạo. Kính bạch.
Thầm cho đạo giáo xung hư không, Thích môn bí mật vắng lặng. Còn như chiếu nhân giúp vật sùng nghĩa làm tâm, bèn nhớ Nho phong lý toan không khác. (Đàn rằng: Nho giáo nói rằng không vượt đài thành, đạo Phật chỗ biện cao ngoài thấy nghe. Cho nên Đông Dương Vương nhà Ngụy nói rằng: "Phật pháp xung hiệp, Nho, Mặc chẳng thể biết được", nay nói chẳng khác, sao quá lầm vậy).
Còn như tuổi cao nhiều đức, giới luật không thiếu, rừng sâu hang độn cao thượng việc kia, nếu đây bạn có thể chí kính tôn sùng, kia có trẻ nhỏ mong cầu huân tu chẳng khen, trái chân lộn tục tâm hạnh nhiều sai trái, do đây không lạy nghĩa khó thông sung. (Đàn rằng: Xưng Sa-môn là gì? Nghĩa là nối pháp tượng hiền, phát mong mở hóa, nghi cắm giáp là trang sức, giáo khác khuôn mẫu của hiên miếu, cầu tông cũ cho nên thẳng hình hài, có thể chia đức nghiệp kia, kiêu tục cho nên đây kháng lễ, đâu cho cách để thấp cao). Nhưng tại gia việc nước thờ cha thờ vua, không lạy nghi đó đâu thể dạy. (Đàn rằng: Thành thật thay thờ vua cha chẳng nên không lạy. Sa-môn không thờ vương hầu, trái ơn thuộc thiên cho lạy là dạy dường như ân cuối). Ngưỡng mong sắc lệnh bái lạy rủ hiến ở sau, kính bạch.
Trộm nghe, hai môn Phật, Đạo vắng lặng một mối, dầu không thể luyện tâm ngoài cõi, đuổi bóng nhân gian vẫn đợi dấu vết, cùng thế tục chia việc cách thời. Nhưng khiến người xuất gia nhiều hàng ngủ tạp trần, ngoài cho rằng không khuất phục tự cao, trong cho yết kiến riêng làm việc, luống có tên vào đạo cuối cùng không thói quen lìa tục. (Đàn rằng: Không lựa chọn trừng phạt, người khuất phục vâng pháp mà như vậy, người riêng yết thật trái giáo nghĩa. Chỉ có thể cao vút sóng kia không lộ dòng kia, đâu cho buông lửa Côn Luân mà muốn đều đốt ngọc đá).
Còn như đất của vua cha, lễ gồm con, tôi. Hiếu kính tôn sùng, nghĩa sâu nước nhà, không có chế độ đâu do kinh luân, vọng thỉnh Tăng, Ni, Đạo sĩ, Nữ quan v.v... đạo là thời cần, sự nhân pháp hội, dầu ở vua hay Hoàng hậu cho y cách thức xưa. Bỏ đây đã qua đều khiến khen bái lạy, nếu quỳ hầu cha mẹ đạo làm con nên bày. Như ở chùa quán mặc tịnh vâng theo sách Phật. (Đàn rằng: Tăng Ni nên lạy thì chẳng nên không lạy, không được thì thời phương đâu được cạo tóc. Đồng là một người y cứ chỗ khiến khai, khác lễ pháp phục trước sau không hai. Cứ sự bèn chế khác kinh, đây chính là đầu chuột hai mối, lúc cần thì vọng lập). Ngõ hầu kia do thấp khuất làm hổ thẹn, hơi nổi tranh cãi cho đạo đức tự tôn lần lần rộng hoằng giáo pháp liền tiến ngu quản, cúi thêm hổ thẹn. Kính bạch.
Ty lễ nghị việc Tăng, Ni, Đạo sĩ, nữ quan lạy vua cha, có một ngàn năm trăm ba mươi chín người bàn xin không bái lạy.
Hữu đại ty Thành Lịnh Cô Đức nghị rằng: Trộm cho phàm trăm tại vị đều thạnh phụng thờ đạo, ngay kia làm thầy còn có nghĩa không tôi thần huống chi đạo Phật rủ pháp sự vượt phép tắc thường, cắt tóc đồng với hủy mình, chống gậy khác với cài trâm, xuất gia chẳng phải cảnh sắc dưỡng, lìa trần đâu chỗ buộc tên? Công sâu giúp đỡ, đạo tột sùng cao, cần gì phá môn mầu nhiệm kia kéo theo vết Nho này. Đáp: Pháp phục mà lễ bái thế tục, đạp cửa Khổng mà làm lễ Thích, tồn giáo ấy mà hủy đạo ấy, cầu phước ấy mà khuất thân ấy, rõ thể lý yếu sợ có chỗ chưa vừa lòng.
Lại đạo là phép tắc, tuy toàn da tóc, xuất gia vượt tục kia quy về một lẽ. Thêm do xa nêu, trời tạo lớn mở nền vua, nghĩa nhờ tôn nghiêm, thức phù hợp cao thượng. Chỉ có hai giáo này theo nhau từ lâu, lại ở đời Đường huy phong càng mạnh dẫu vua dụ xa xướng thật nhờ công trời, mà bánh xe Thánh thường chuyển, cách thức thầm giúp đỡ. Nay nếu một triều sửa điều xưa không lợi ích cho tương lai, ở kiếp hằng sa khởi mảy may trần lụy thì khắp thiên hạ đốt thân tan xương do đâu bít trách có ẩn, nhờ lỗi bất trung, và sửa đổi lỗi kia không bằng lầm nơi văn tu. Khổng Tử nói: "Vì chỗ lợi người mà làm lợi ích". Lão Tử nói: "Bậc Thánh tâm vô thường, dùng tâm trăm họ làm tâm", hai giáo có điều lợi rộng ích thêm nhiều. Tâm trăm họ quy về tín chúng, sửa chỗ lợi kia chẳng phải nhân đạo lợi ích, trái bổn tâm kia chẳng gọi là vô tâm, xin tuân theo xưa thật không lạy là tốt. Cúi xin Bệ hạ đức che Thượng hoàng nghiệp sáng xuống hỏi, tôn kính vua cha dầu lỗi trong thần, đạo pháp khó thiếu lại lưu tưởng thông minh, đã phụng chỉ tuân sô, dám tận thành thật bụi núi cao, sợ không gãy giữa, theo cảnh giác sâu chiến, ba trăm năm mươi bốn người bàn xin lạy.
Tả Khiêm Ty Bình Thái Thường Bá, Diêm Lập Bổn bàn rằng: Thần nghe cứng gãy mềm còn, quạt diệu chỉ của gió mầu, đáp hình ngọt nhục, nói lời vi diệu của đạo Thích. Cho nên có thể mở nguồn thiên hạ, hoằng nghĩa bất khinh. Do đây Thinh văn giáng lễ ở cư sĩ, Trụ xứ ủy chất ở Chu Vương, đây chính hành biểu kế của áo đen, lập gương rùa của mũ vàng. Từ đây đã giáng suy phép tắc tông kia, nhiều đời chìm chân lý kia, tập tục giữ nơi đường mê, một người tạo tác muôn vật nhìn thấy. Nút khuy đất trời điều khiển vua chúa, vua kim luân ở thắng cảnh, tạo ngọc kinh ở cõi mầu, bèn khiến tìm chân đạo sĩ theo giữ tạng gió xa, Sa-môn cạo tóc mở sách gấm lễ chân.
Huống gì mặt trời buông ánh sáng ở trời nêu rõ không hai, đại đế xưng tôn ngự cõi nước cực quý chung ba. Vả lại hai giáo phép tắc tuy dứt trần dung, sự chỉ xuất gia, chưa thể trốn nước, đồng giao hình nơi cảnh, đều ngưỡng hóa ở gió xinh, đâu kháng cự lễ, sâu ở riêng cao phép tắc chân. Nhưng khinh mạo tôn trưởng là người trái ngược, vua tôi kính cha ở đạo không chê, xét rõ nghĩa ấy quỳ lạy là tốt.
Trước phụng sắc chỉ ngày 16 tháng 04 muốn cho Tăng, Ni, đạo sĩ, nữ quan đối với vua cha bái lạy e sai lầm với hằng, nên giữ hữu ty rõ bàn tâu vua, hình trạng như trước cúi nghe sắc chỉ.
Đài Đông như phù, áo hoa các Thánh, khác trục đồng tiến lên, trong ngoài cắt gió, trăm lo mà đồng một mối. Từ Chu Tiêu rơi chiếu, Hán mộng sáng dài, diệu hóa ở đây dời tuệ về giúp đông, còn như cái mầu nhiệm, ý chỉ sâu xa, ngọc bích rơi ít tiếng, đủ mở cơ sáu thuận, đều gọi gốc năm thường, mà ở đất ái kính, quên ở nghi quỳ lạy. Kia đến lâu xa võng sửa tệ này. Trẫm tòa đồ lên chính sách sùng chân tôn tục, ngưng áo bến giải thoát, rèn đức suy nghĩ cảnh thường danh, chánh do đạo tôn thân, cách ngôn của lễ kinh, nghĩa hiếu hữu, rõ chuẩn của nhà thơ, há có thể do phép tắc cao vút tuyệt trần mà quên cung kính nương tựa, cứu lụy trinh quy bèn sót tựa ôn trong.
Trước muốn cho đạo sĩ, nữ quan, Tăng, Ni v.v... bái lạy toan sợ chấn động kinh ngạc hằng tâm, khiến cho rõ định, hữu ty đều dẫn điển cứ gồm bày tình lý, diên cách hai đường rối ren một nửa nhau. Trẫm bàn bạc các nghĩa xem xét âm thuyết, nhưng gió cơ dĩnh, cao thượng việc kia xa tưởng năm trước, cho nên cũng có. Nay ở chỗ vua bỗng cần lễ bái, chỗ cha mẹ kia, lòng từ nuôi nấng càng sâu, cầu xin rộng lớn đây lại định sắp đặt. Từ nay về sau đã nên quỳ lạy, người chủ thi hành, ngày 08 tháng 06 niên hiệu Long Sóc năm thứ hai. Thị lang đài Tây là học sĩ Hoằng Văn Quán, khinh xa Đô Úy Thượng Quan nghi tuyên.
Thần nói: "Thần nghe Phật hóa chỗ giúp vật đây là quý, bởi cứu chìm tối trong sáu đường, giúp mông thức ở ba thừa. Đức kia đã rộng công kia cũng lớn, cho nên Phật là pháp chủ, u hiển chỗ quy y thì pháp là thuốc hay, phiền hoặc do đó trong sạch, Tăng là giống Phật". Rộng giảng giúp cho đời sau, bèn khiến cho nhiều đời anh chủ trọng đạo đức mà hộ trì, thanh tín hiền minh độ nam nữ mà nối tiếp vốn được Tăng Ni khắp đất nước, rủ phép tắc dẫn dắt không cùng.
Cúi xin Bệ hạ lòng từ giúp chín cõi mở mang Nhất thừa, đạo ái kính càng thạnh, đường thành việc càng xa. Gần thì phụng minh chiếu khiến Tăng quỳ lạy cha mẹ, đây là tôn sùng nêu hiếu mới bày khuôn phép nguồn kính. Nhưng Phật có thật giáo xuất gia không lạy thân thuộc, muốn cho đạo tục khác bốn quy giới do đó ẩn giúp. Xuất xứ cả hai đều khác chân tục do có trái nhau, đâu chẳng phải tâm thọ giới Phật, hình đủ nghi Phật, lưới pháp xa khác tướng kính toàn riêng. Vả lại từ gió cao thượng, người chủ vẫn còn kháng lễ, đâu chỉ thần hạ trái nhận nghi quỳ lạy, cúi ngước vỗ theo không do mở xử ý, nguyện nước không hai kính, mở lớn dấu vết phương ngoài. Tăng phụng nối giáo lại được lập thân hành đạo, không trụ đến lòng. Kính dâng biểu lên vua, làm nhơ nhuốc oai nghiêm, lại thêm chiến vượt, kính lời thẳng đông đài Xá Nhân Phùng Thần Đức Thượng.
Thần nghe giáo pháp bí mật chảy về Đông, nhân Minh Hậu mà xiển hóa, gió mầu vận mé Tây, nương chí để mở tông, cho nên biết rộng giúp ngàn môn nghĩa tuyên ở nhã đạo. Nêu dẫn dụ muôn phẩm, lý che lấp ở bến tà, chỉ có thể tùy Thánh giáo để giơ cao, đâu được theo việc ngược mà khởi ẩn. Sa-môn cầu thắng quả đời sau, Đạo sĩ là tin có sinh tự nhiên. Tự nhiên là quý nơi tánh chân, tuyệt dấu vết gần ngụy. Thắng quả là ý ở chấm dứt dần dần, xa mở tâm hướng về đạo, dẫn dụ giúp nguồn dẫu khác nhau, theo thiện trọn quy về một mối. Cúi xin Hoàng đế Bệ hạ, ôm Nguyên Kiến tột ngự Phi Trinh, cưỡi đại đạo để lưu khiêm, thuận vô vi mà sau giúp. Nhân tâm hội vật giáo không đủ thành.
Này bèn định cao thấp của đạo Phật ép Sa-môn bái phục, bái phục có đồng lễ thường chưa phải là nhân xuất tục thấp cao. Tình vật ngã đâu thể nói là nhiệm mầu của vô vi. Bệ hạ đạo phong xiển dương, giáo lý nhà Phật mở bày, thường đến trai kỵ đều khiến cầu phước. Cầu phước thì một là y kinh giáo, hai là đâu riêng sai trái. Bệ hạ là thần tôn tạo hóa, cha mẹ là xưng từ của con. Bệ hạ do trọng chí cực vẫn dừng nghi bái kính, chỗ sinh đã nói là nhân thần đâu được cong thẳng tình lễ, bỏ tôn đến ái, lìa trọng trái kinh, duyên tình vẫn còn không thông, y cứ giáo như là hành dụng. Bệ hạ thống lãnh đạo thiên quang, thuận vật lưu hình, hình vật còn không cho trái, tịnh giáo đâu nên sửa đổi. Xin bệ hạ nhân chí trời người thuận tâm muôn vật, dừng nghi mới bái phục, tuân theo cao thấp xưa, ngõ hầu ánh sáng vàng chiếu soi phía Đông không xen tạp cái buồn trần tục, khí tím sáng trời Tây không lo quý của vật ngã, tức đại đạo không mê muội mà được thạnh ở minh thời, phước nghiệp hằng trong sáng ngõ hầu lại bày ở ngày thánh. Kính lời.
Tăng Đạo Tuyên đồng tâu. Trộm nghe, nối thạnh pháp trụ hẳn quy về bậc minh triết, tôn sùng hộ chân thuyên bởi giúp kính vọng. Cúi xin phu nhân đời trước huân tu mở phước vô biên, sớm nêu tín tuệ dựng nhân không hư hoại, còn như oai nghi Phật giáo, cách thức pháp môn, thật mong đặc biệt rủ ân giúp đỡ không để bị lãng quên.
Từ sắc chỉ Tông đồ phải cách triều bái lạy, thật đáng ý phó chúc, là sâu tình gánh vác. Nhưng đối cha mẹ vẫn khiến quỳ lạy, lòng riêng luống vừa ý mà với Phật dạy thì rất trái. Nếu không sớm có bày tâu, sợ rằng đồng với pháp tục. Tăng đồng trội hơn tất cả đâu dám mở bày, tình dụng hoảng hốt liền nói kệ này. Cúi xin lòng từ che chở, đặc biệt tâu lên vua, nhờ đó ân sáng càng sâu phước mừng, không xiết ý khẩn thiết, kính cẩn tâu lên để nghe, bày ưu lo sâu, chỉ biết dứt sợ hãi. Kính tâu.
Kính chép! Kinh Phật dạy Sa-môn xuất gia không nên quỳ lạy mẹ cha, vì có tổn không ích như sau:
Kinh Phạm Võng nói: Người xuất gia không, lễ bái vua chúa, cha mẹ.
Luận Thuận Chánh Lý nói: "Quốc quân không cầu Tỳ-kheo lễ Giáo bái". lý nhiệm mầu đến Đông độ hơn sáu trăm năm,
Thượng đại Hoàng Vương đều y kinh kính ngưỡng. Đến thời Thánh đế tôn phụng thật giáo càng thạnh, cho nên được nêu tướng chùa trông Tinh Lô vòi vọi, người biết mến thiện, nhà hiểu nghĩ lành, Tăng đồng thêm ở sinh linh đâu quên trung hiếu. Minh chiếu giáng xuống cả nước đều tuân theo, sợ bút ngay quan sử chép trái lời Phật dạy, muôn đời sau tạp nhạp dơ uế hoàng phong.
Tăng Oai Tú v.v... nói: Trộm nghe chân tục khác chốn, cửa dâu cắt luyến hữu sinh. U hiển khác y phục, áo ruộng không lạy dụng đầu, lý vốn vượt tình đạo vẫn khác vật. Huống chi đưa hình giới luật, dung nghĩ bốn cầu, đáp ơn không dùng hình hài có ra dưỡng hẹn nơi phước lành, mà nay nghi không sửa đổi Thích lạy hẳn giống Nho, đối với Tăng có lỗi vượt giới, đối với cha có lụy tổn phước. Nỗi lo thần con dám không hết lời. Cúi xin bệ hạ giúp chấn xa dâng nêu khen ngợi u khái. Đã tôn sùng ở nước mình, cũng xin chính đáng đối với nhà, đủ khiến bỏ tục không nghi tập tục, xuất gia dứt kính người nhà, hộ pháp ở đây phước may đâu gì ở trước. Tự nhiên giáo có cái đáng nêu tỏ, người biết tự gắng gổ, không xiết thành khẩn, kính cẩn dâng biểu để tâu, làm nhơ nhuốc màn cờ của vua, cúi thêm chiến vượt.
Sa-môn Tĩnh Mại nói: Trộm nghe ban cho bày tôi thì bảo trước, tôn cha cong thể ở con, hình chương sửa đổi, giới sĩ không lạy vua cha. Xin cho Tăng đồng nêu lời nối dòng Phật nghĩa tôn là đồng. Cho nên ái kính giáng cao bèn gãy tiết ở khí kia hình dung y phục khác tục, hình bày sửa đổi chẳng khác. Cho đến khiến Sa-môn cũng không cong chân nơi vua cha, cùng tột từ trong ngoài dẫu lại nối liền hình biến mà tâm kính vua cha dám có lười biếng ư? Còn tôi phục vua chết, lấy ngày đổi tháng, hình tuy theo xưa mà tâm tán ba năm, phải biết chặn kín tán âm hẹn ở ba năm, theo nơi tâm kính đến kia vẫn còn. Nếu khiến lạy trở lại cha mẹ thì đạo tục đều trái giới của Phật, chìm xuống hầm luân hồi không dứt. Huống chi động trời đất, cảm quỷ thần há ở quỳ lạy ư? Nhưng lợi nhà ông biết thì không ai chẳng làm, sợ nhân nay sửa đổi muôn cõi chung một lụy, thì phụ Thánh thượng ban ân lớn tập pháp, nhiều kiếp nát thân do tắc trách. Cúi xin bệ hạ rộng mở đường hiến thư, thông nhận lời quê mùa, khinh trần nghe xét, xin thêm chiến hạn, kính lời.
Bạt tôi nghe đạo tục hiến chương hình tâm khác nhau. Hình thì không lạy vua cha để hiển nghi xuất xứ, tâm thì kính thông ba đại để tôn trọng sự nuôi dưỡng. Gần đây phụng ân sắc lịnh Tăng không lạy vua chúa, mà nay lạy cha mẹ, đây thì thạnh lễ ái kính mà thiếu lời dạy của kinh điển. Tăng bảo còn mà thấy khinh, quy giới mất mà ẩn dài, đâu có vua mở dấu vết cao thượng không bằng lời Phật, thần quan lấy nghi bái lạy thầm trái với Thánh chỉ, có thể cho là buông con cầu phước nhận lạy vẫn được lỗi kia. Một phen giáo hóa có ra hai lý mâu thuẫn, cúi xin thỉnh theo lễ của kính vua để thông nghi thần hạ, khinh nhơ màng cờ của vua càng thêm tổn. Kính lời.
Luận rằng: Ty Oai Vệ bày đồng trạng, lời thì tốt đẹp, lý kia thế nào? Đều không chỉ thật mê muội đối với đại nghĩa, nếu cho cong gối là cung kính không ngộ họa mất môi. Nội kinh xưng Sa-môn, lạy tục tổn công đức và thọ mạng của vua cha, mà ép khiến cúi phục, Hồ nói là bất nhẫn, khinh phát khu cơ ư? Tuy đều nói chí kia cũng đâu tổn thương quá nhiều, mà oai vệ đồng trạng thông tắc gồm cả hai. Tuy bày đồng trạng một đường hằng chấp, hoặc chê bai. Hai bàn hơn kém. Tôi cho là sở thì mất. Mà Tề cũng chưa là được. Nhưng gồm cả hai thì là da mỏng, hằng chấp chính là mù tối, cho nên thăng Oai Vệ đến khoa ất, hư ty liệt nơi cảnh đệ. Còn Phạm Công chất vấn thì ý chỉ đầy đủ văn hoa. Sủng Tây chấp tấu lời y cứ lý nêu, đã là người ngõ hầu cung kính đây là dối gọi theo, cho nên được trời tan dưới đầm. Năm thạnh tốt đẹp của cao thượng, nơi từ dục, lại rộng nhân bái phục, thời pháp lữ danh Tăng đều là người già nghiệm rằng: "Kêu chí riêng trái giáo thế nào? Vì thế đủ hiển văn kinh rộng bày biểu tấu, chẳng phải sớm nương tối liền kể sân cửa. Nhưng cửa trời xa tít bày thỉnh chẳng do đâu vâng chiếu, cầu tông khó làm lấy bỏ. Kinh Dịch nói: "Dê đực húc rào gãy sừng kia", mới đó bạn Thích đâu không như vậy?
Khen rằng: Dòng Oai Vệ bàn tuy thông tắc, do người bỏ đạo thành chưa được. Thấp hèn đồng trạng ép Thích theo Nho, lạy tổn thương vua cha, đâu nói rằng: "Trung mưu", chất nghị kết thúc tốt đẹp, mở bày giản yếu, trời người hòa hợp, đóng ấn chiếu chỉ cung kính vâng lệnh sáng suốt, vỗ tay lại ca ngó ngoái nhìn sách mầu có lụy thế nào? Pháp tục bàn bạc đều bày tâu biểu, mở xem đơn lạ chưa quanh co đạo vàng, tới lui chỉ có lỗi, bèn bỏ chẳng lý do, kính mong thần Vũ sớ đây pháp lưu.
Thích Ngạn Tông nói rằng: Sa-môn không lạy thế tục là sao? Bởi xuất xứ khác dòng, trong ngoài riêng thần. Ở tông thể tột dứt lo quên thân, không vội vàng để cầu sống, không nhỏ mọn để thuận hóa. Tình vượt trong cõi dấu gởi trong nước, ở đây sở dĩ chống đối lễ sớm ở trái ân thiên thuộc, hóa vật không thể dời đổi hóa kia, đời đời không để lụy đời kia, xa hẳn vua cha đây là ý chỉ lớn của kia. Nếu suy việc người xét các lời dạy thì là chỗ không nên lạy, có mười trường hợp. Còn trông thu núi sông giao tế đất trời, muốn kia lợi vật vua tột sự chí thành.
Nay trụ trì Tam bảo quy giới rộng lợi ích, nơi sáng chỗ tối hóa có thể nói lược, đây là dòng thần kỳ, vì bày xét quyết đều chiếu cung kính, khi cắt lúc vật dâng đồ chín là không thần. Nay nhất thể Tam bảo, kính Tăng như Phật, đầy đủ trong nội điển không đợi nói nhiều, đây xét dòng chính. Vua Kỷ Tống sau hai vua, vua là chỗ trọng kính là khách nước, nay Tăng là dòng giống Pháp vương, vua nhận lời phó chúc của Phật, khuyến khích bốn bộ tiến tu ba hạnh, đây là dòng quốc tân. Trọng đạo tôn sư thì bỏ quan, dẫu yết kiến Thiên tử mười mặt Bắc. Nay Sa-môn truyền chí kính của Phật, dẫn dắt phàm vật nghiêm sư kính học, kia ở đây ư? Đây là dòng Nho hành.
Sách Lễ nói: Giới là không lạy, là kia mất ở dung tiết, cho nên Chu khép kín bỏ hẳn Hán Văn. Nay Sa-môn thân mặc giáp nhẫn, giết chết quân ái dục, tay nắm dao tuệ, chí đẩy tâm mê hoặc, đây là dòng giới mạo, thay thế cỏ phệ khách tôn trước trùm, mẹ anh bái lạy do lễ thành người, nay Samôn lấy đại pháp làm trách nhiệm của mình cứu chúng sinh ở đường tro than, kính tuân di chúc, nối giữ dòng giống ruột thịt, đây là bạn dòng truyền trọng. Nghiêu xưng thì là trời không khuất cao dĩnh dương, Vũ tột tốt đẹp. Trọn toàn trong sạch của cô trúc, nay Sa-môn cao thượng sự kia không thờ vương hầu. Trong xác ve ồn ào tự có ra ngoài cõi nước, đây là dòng người vượt trội. Phạm năm hình quan, ba cây, bị đánh gậy, đánh bằng roi, bị trói vàng thiết, không trách kia đủ lễ. Nay Sa-môn cắt lông tóc, tuyệt nối dòng dõi, hủy hình thể, đổi y phục, đây là hạng thậm hình.
Lại chiếu chỉ khiến tuy nhỏ mà nương trời thì quý. Sinh mạng dẫu hèn bẩm thọ mạng nên là tôn quý, huống chi đức động u minh, hóa thấm nhuần quỷ rồng, làm yên sóng khổ của trời người, làm trong lửa phần của phẩm thứ, công đã rộng ân cũng sâu, đâu khiến hạng tuyệt trần lạy vua cho đến. Hàng nhàn rỗi tiêu đồng danh giáo mà thôi. Tôi từ nhỏ đã đam mê việc này, lớn rất tìm tòi, lượn lặt sắp bày ở bài xanh, biên chép cỏ thơm trước ở nơi hàn giản. Trọng để cảm luân, sáng nơi mặt trời Phật, tột bó đuốc để khởi lời ngõ hầu thường ở tương lai truyền việc tốt.
Lại xưa nay sách luận đều nói là không kính, y cứ một chữ này ngu tôi mê trộm. Vì sao? Vì kính chính là thông tâm, cong lễ gọi là không phải chẳng kính, lạy chỉ thân cong, Chu Trần nghi chín bái. Vả lại vua cha tôn nghiêm tâm kính chẳng cho thì không được. Pháp luật tôn sùng quý trọng thân lạy có sai trái không kinh, dùng lạy thay kính, dung tướng làm đủ, cho nên sách kia nói: "Không lạy là văn". Tuệ Viễn có nói: "Đầm hang đâu đợi sương móc sớm ư?". Bởi tự bày võng cực kia, soạn sách này cũng do vậy, hiểu soi thông hiền, không chê bai.
Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ ba Tùy Dương Đế hạ luật lịnh cách thức, lịnh rằng: Chư Tăng, đạo sĩ v.v... có chỗ khải thỉnh đều trước phải chí kính rồi mới bày lý do. Dẫu có lịnh này, Tăng cuối cùng không thực hành. Khi Sa-môn Thích Ngạn Tông bất nhẫn với việc ấy, bèn soạn "Luận Phước Điền" để chống lại, ý ở lời tụng, người vô tội nghe để tự răn dè.
Vua thấy các Sa-môn đều không chí kính, đến niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ năm bèn đến Đại Trương Giao Nam Tây Kinh văn vật hai tông sớm thấy Tăng đồng y theo xưa không lạy, bèn hạ sắc chỉ rằng: "Điều lịnh ban hành đã lâu vì sao chư Tăng không chí kính". Bấy giờ Pháp sư Minh Thiệm thưa rằng:
-Bệ hạ mở mang giữ gìn Tam bảo phải thuận theo lời Phật dạy trong kinh, không khiến lạy thế tục cho nên không dám trái lời dạy.
Lại hỏi: Nếu không bái lạy thì thời Tống Vũ sao lại chí kính? Thưa rằng: Tống Võ là vua bạo ngược, chính sách nghiêng lệch, không kính thì sẽ bị giết.
Bệ hạ khác với Tống Võ, không nên hạ lịnh bái lạy. Lại hỏi: Chỉ có lạy mà chúng Tăng chống lại như vậy.
Tăng nói: Bệ hạ quyết khiến Tăng lạy thì sẽ cởi pháp phục mặc áo thế tục, lúc đó lạy không trễ.
Vua im lặng không nói gì rồi thôi. Sáng mai lập bày pháp cúng tế đại trai đều không thuật lại. Sau nói với quần thần:
Trẫm cho là trong Tăng không có người, hôm qua ở Nam giao đối đáp cũng có người.
Vậy sau đến cuối quyết không bái lạy. Kia nam nữ khăn vàng ban đầu nghe lịnh lạy hợp một chúng lý lạy liên tục không thôi, vua cũng không mở miệng hỏi gì.
Người bàn lạy, nói Sa-môn nên bái lạy. Xưa Hoàng Giác ngự cõi nước còn mở nguồn tin hủy, đâu chỉ có tượng mạt không chảy rộng lời bàn ước. Khoảnh khắc dùng biển pháp rộng lớn, loại nhóm khó phân có dơ uế có đạo nhiệm mầu. Không còn cách nào khác ngoài tâu vua cho đến nỗi khiến kẻ câu văn bỏ đạo so sánh theo người mà nói, chưa nói rằng thông phương xướng lớn. Sở dĩ tôi khảo xét cho nên thật tùy mà búng phủi, ngõ hầu tôn sùng Phật quân tử hoặc hãy xem rõ.
Phàm đạo từ tế mãi mãi chiêm ngưỡng; phương hậu mạng tôn trọng mãi mãi. Vì thế loài lúc nhúc, loài kêu hót thì thầm (loài chim chóc côn trùng) đâu không trọng thân, thương mạng, ưa sống, ghét chết, tức ngay nơi sự có thể thấy đâu đợi lời nói ư? Nhưng có tánh có liên quan đến sự mê mờ sáng suốt, rõ ràng gồm tham muốn.
Người sáng suốt lấy sự tha thứ làm dụ không não hại loài hàm linh. Kẻ mê mờ lấy việc lợi mình làm bổn hoài, không thương xót mạng sống chúng sinh. Vì thế có thể an nhẫn khổ cấm, phóng đãng tham si. Cho việc giết hại làm thanh thế, cho việc lợi ích là công sức. Đây là biết chôn sống hơn sáu mươi vạn, cuối cùng phục kiếm ở nước Tần. Cổ tiệc phương trượng là thường, hình phạt giết hại ở đô thị đến như họa khởi ương đến mới hối lỗi xưa, luống mong trở lại, không hề được gì. Nhưng đạo Phật giáo hóa vốn lấy việc không giết hại làm đầu. Do đạo này chuyên cứu giúp chúng sinh, nên lòng từ là tâm của Phật, lòng từ là nhà của Phật, lòng từ là căn lành, sức tùy nghĩa mà hiện. Có tâm từ đức, thông minh khởi lự mà sinh lên tầng trời cõi Sắc, huống gì từ định sâu xa thù thắng, binh ma không thể xâm phạm, từ đức cảm ứng rắn cọp được thuần hóa. Đời mạt pháp môn học sư tâm rất nhiều, không suy nghĩ sắp y nhẫn nhục, hiện tướng phước điền. Buông tình tham ăn, dùng rượu thịt làm thân là trước tiên. Ăn uống khác với thế tục, bước đi đồng với hiền Thánh. Kinh nói rõ ràng không được xứng Phật là Thầy. Bị chê bai xấu xa, diệt pháp do đây. Huống chi lại mặc áo tơ tằm ăn thịt, nghe lời răn dạy khắc khe của Trầm Hầu, nấu rượu là người giết mổ thấy nghiêm trừng của Lương Đế, xem lời khuyên kia, gồm sự chí tiết ân cần, đủ khiến cho tâm hoảng thân run, khởi lâm lý có thể suy nghĩ. Vì thế bậc Thượng sĩ nghe đó đủ rơi lệ không thôi, kẻ hạ ngu rõ đây đều giương kích đâm vào gió. Hơn nữa, sinh tử dời đổi không sớm thì muộn, tùy nghiệp chịu báo, trầm luân không cùng. Không nghĩ việc cực nhọc của hình thần mà chỉ coi trọng sự khoái lạc của miệng bụng. Cuối cùng cũng tan hoại ở đại địa, chỗ nào giúp cho tinh linh ư? Do đó, kẻ chí nhân thương xót thường bi cảm đối với cuồng sinh, bậc Đại sĩ khởi lời nói bùi ngùi oan hồn nơi phiền não. Một mai khổ đến làm sao trốn tránh và trách cứ được. Đã chưa lập nơi chánh tụ sao lại rơi vào ba đường ác. Chưa lên được Thập địa mà có bổn hoài nơi năm chỗ ghê sợ. Suy xét từ sự hoại, kẻ trí thức nên suy nghĩ đó.
--------------------------------------
Dữ Hà dân thư luận chỉ sát, Lương Chu Ngung. Chiếu dứt sát bặt tông miếu ly sinh, Lương Võ
Đế và biểu thỉnh Giới sát gia huấn-Bắc Tề, Nhan Chi Thôi.
Văn dứt rượu thịt, Lương Võ Đế.
Giáo nghĩa của đạo Phật vốn là từ bi. Cốt yếu của từ bi lấy sự sống làm chính. Tha thứ do tâm, dùng thân khuyên vật, muốn cho hoài bão thức hoài tri, bọn thích sống sợ chết đều quyết nghi không được đánh mất mà người đời mê mờ đã lâu, chìm đắm lầm hoặc khó đổi. Một mai sửa đổi thì nghi quái khó khởi. Thiết giáo lập phương thường do dần dần đến. Lại do tình ham muốn đã sâu, cam vị đã nhiều. Sự tham muốn đã sâu nơi tình khó sửa đổi nhanh được. Vì thế khai lập ba món tịnh để nêu quyền đạo (đạo phương tiện), đến khi nhập Niếtbàn rồi mới lập lời nói.
Ăn thịt, mặc áo tơ tằm vì phương chưa khác. Hại mạng chết yểu sự đồng một lý, đau không thể chịu nỗi. Treo trên bếp để lên thớt nghiệp há riêng nặng, mà bỏ lấy tình khác, khai ức điển khác, xét sóng tìm nguồn bởi có chỗ chưa đạt. Người bắt cá cho con cá vị, ăn thịt cùng có duyên kia. Gai kéo thành tơ, áo tơ tằm cùng chia phần kia. Nghĩa nhờ ở tay chưa khác, rõ thông bít không phân biệt, hỏi lý tìm tông chưa có sự thích hợp.
Ngoại điển nói: Nhà năm mẫu, trồng tằm, thì sáu mươi tuổi có thể dùng áo lụa. Gà, heo, chó, heo nái chớ mất thời kia, thì bảy mươi tuổi mới được ăn thịt. Nhưng năm mươi chín tuổi trở xuống, ăn uống đạm bạc. Khinh mãn ở thân, sự đã khó đổi. Vật ngon nơi miệng lại không dễ quên. Phong mà nói không có hơn kém. Gai quả rau sự đồng nghĩa đồng, nhương hàn thật phúc không hề có khác. Chỉ chung tơ lụa sẽ có đường khác, xin thử nói xem. Thánh đạo sâu xa không suy nghĩ thì không hợp được, lòng nhân ái cứu giúp chúng sinh, lý không riêng mất. Cứu thô bỏ thậm giáo nghĩa gấp nơi đây, mặc áo lụa ăn thịt chẳng được.
Đến sau nói kinh điển, hoằng tuyên diệu huấn. Ý chỉ cấm ăn thịt hiện nơi lời nói, nghĩa dứt rất dễ biết. Nhưng ban đầu cấm tịnh còn chung tằm cách, bởi đây là cách mở rộng lời nói đều có thứ lớp. Dụ như hai nghĩa xiển-đề đều ở trong một kinh, hai thuyết tham khác nhau, đều tùy giáo mà lập. Nếu trước chấp, sau chê thì xiển-đề không vào con đường lành, nếu cấm tịnh cho tằm thì hàm sinh chẳng trông mong ra khơi.
Khó ấy, lại do xiển-đề nhập đạo nghe ở thuyết sau. Tằm cách cấm không hề có lý đại khái. Đại thánh mở rộng ý chỉ, nghĩa há luống vậy hay sao? Phàm thường trụ ý sâu kín, truyền dịch cách trở. Nê Hoàn (kinh Niết-bàn) ban đầu độ đều cho là đã cùng tột, trung xuất Hà Tây mới biết chưa cùng, Quan Trung vẫn nói, nên nghĩa càng hay xem xét điều chương lý không đầy đủ.
Lại xét kinh Niết-bàn, trước nói ba bộ chúng của vua A-xà-thế, Đại Ca-diếp, A-nan không đến. Hai vị: A-xà-thế và A-nan đều đến, chỉ không có Đại Ca-diếp, Ca-diếp là đại đệ tử của Phật, chẳng được không đến nhưng kinh không có văn, lý không đầy đủ. Xưa, kinh Niết-bàn chưa có, trong mười mấy năm nhà đất danh Tăng có những vị ăn uống đạm bạc. Há chẳng phải là nương tâm noi theo tự cho lý là hợp ư? Vả lại, một triều cắt lụa có thể dùng trọn đời. Nấu nướng súc vật đãi tiệc hằng giờ cho đến cả ngày. Nhưng một năm tám tằm đã kinh sợ. Cả triều không ăn thịt mà mọi nhà kinh sợ than thở. Cứu nguy ách, giúp đau khổ là chỗ gấp rút, lời nói thứ lớp nghĩa thật ở đây.
Ngoại Thánh lại nói rằng: Một người không cày ruộng chắc chắn sẽ có sự đói khát. Vì thế, một người cấy lúa thì sẽ hưởng được sự no ấm. Vườn dâu, sông cá tuy chẳng phải việc của mình. Nướng thịt, cắt lụa đều chịu phần kia. Từ khi kinh Niếtbàn truyền sang Đông Độ, ba món nhục thực bỏ duyên, tuân theo lời dạy, tiết tháo càng xa. Mạng ngắn có hết, đạm bạc (chay trường) không mỏi mệt. Mùa thu ăn cầm thú, mùa hạ thì ăn trứng, xem như mây bay, loài có lông trên núi, những vật dưới biển xem đồng như chuột thối, mà y phục lụa là không hề hoài nghi. Đây bởi lo cùng tột ở văn tự, nghĩ mê mờ đối với hoằng chỉ (ý chỉ). Khách thông phương tin chắc, xem xét lý này một khi ngộ thì mê mờ tự hết, dứt nhân mặc áo tơ tằm, ăn thịt giữ việc ăn đạm bạc (ăn rau) mặc áo gai. Được như vậy thì loài hàm linh mới mong được khỏi khổ.
Trong niên hiệu Phổ Thông, Hà Dận rất xa xỉ đối với mùi vị, thức ăn phải ở phương trượng. Sau dần dần muốn nhiều hơn, khiến môn nhân bàn luận. Lúc đó, Học sĩ Chung Ngoan nói: Con giòi đến chỗ thịt luộc thì bỗng co duỗi. Con cua đến chỗ nồi nước sôi thì cử động càng nhiều.
Người có lòng nhân dùng ý sâu xa, tâm thương xót. Vả lại, không khốn khổ không cực nhọc thì không bằng người chân lấm tay bùn, không thơm không hôi cùng ngói gạch sao thừa nhận.
Có Chu Ngung ở Nhữ Nam gửi thư cho Hà Dận rằng: Trượng nhân do chưa cùng tột hạnh cao xa, lầm hoặc ở nơi không hoàn toàn cơm rau đạm bạc, chặt đứt để trên thớt, lưới võng bị sách, kia đến thật xa, ai dám can nghị. Xem bậc Thánh lập ra cỗ tiệc ngon, bèn lại cho là phẩm tiết. Bởi ăn lòng uống máu cùng sinh dân cộng thỉ, kẻ sĩ há không dùng sự tha thứ làm bổn hoài, đây là đều nên yên tĩnh, chớ lăng hại lẫn nhau.
Huống chi lại biến đổi, việc lớn ấy chẳng gì hơn tử sinh. Chỗ quan của sinh (sự sống) không gì hơn tánh mạng. Tánh mạng đối với sự sống rất cần thiết, thức ăn ngon đối với ta có thể lâu dài, mà trọn đời vì giúp thân mà phải lo mãi.
Kia oán ghét đâu thể tự nêu bày, nghiệp ta đã lâu, than ôi đáng sợ.
Vả lại, khư khư giữ trứng, nguy mỏng dễ căng thẳng, kia yếu đuối đáng thương xót. Thấy loài bay thì mổ, loài dưới nước thì uống khiến cho người thương xót. Huống chi cam tâm làm cho chúng lìa đàn lại thêm túng ý ăn nuốt. Cho đến dã mục thành đàn, nhàn rỗi giam cầm. Lường thịt cân lông để chờ bóc da. Như thổ che địa, đều gọi thường lý đáng để xót thương, sự đâu một đường.
Nếu nói rằng ba đời lý không thật, thì may mắn ư? Rất vui mừng nếu khiến đạo này quả như vậy mà thọ hình chưa dứt. Một đến một đi sinh tử sự thường. Tạp báo như nhà, trời người như khách. Đến khách ngày ít, ở nhà ngày nhiều. Ta tu tín nghiệp, chưa đủ lâu dài thì đáng thương tâm, hành cũng tự dứt. Trượng phu đối với loài máu huyết, tuy không chính thân giết hại, còn con le bay, cá chép chìm, chẳng thể không giữ bị cửa đồ tể. Tài sản để lại một, trải qua tay trộm, còn là chỗ bỏ của người liêm sỉ. Tánh sinh chỉ có một, khởi loan đao còn là chỗ nhẫn của tâm từ. Sô ngu tuy đói, cỏ không tự chết thì không ăn, nghe kia gió há không để cho người nhiều hổ thẹn.
Dận hoạch thư nạp đó. Bèn dứt mùi vị máu tanh. Chú thích trăm luận, mười hai môn luận, lưu hành ở thế tục.
Lương Cao Tổ Võ Hoàng đế trị vì thiên hạ được mười hai năm, hạ chiếu không được giết súc vật để cúng tông miếu, tu hành giới cấm của Phật ăn uống đạm bạc dứt sự tham dục. Chùa định lâm thượng Sa-môn Tăng Hựu, ấp Long Hoa, Chánh Bá Siêu độ đồng thượng khải rằng: Chốn kinh kỳ đã là đất phước, người ăn thức ăn tươi lại còn giăng lưới đặt nơm, kẻ đuổi ngựa lại còn săn chim rượt chó, không phải là ý chỉ tốt đẹp để xưng là Hoàng Triều.
Yêu cầu hai nơi Đơn Dương và Lang Da, dưới đất hoặc trên đất đều không được đi săn vào mùa thu. Ra sắc lệnh cho quan Thượng thư rõ đó, bảo cho Nghị Lang Giang Huống thực hành. Đạo bậc Thánh xem bá tánh như tâm mình. Giáo hóa người có lòng nhân từ đem thân mình ra làm để giúp vật. Hoàng Đức ưa sống hòa hợp với thiên hạ, ngày tháng dần dần sẽ tự nhiên sửa đổi được phong tục, một sớm ức chế được thì không sợ dân ngu. Hơn nữa, người đi săn trên núi kham chịu vượt non, kẻ săn dưới nước chẳng ngại sóng gió. Giang Ninh có cấm liền đến Ngưu Chử, Duyên Lăng không được thì đến Dương Thứ. Nơi sinh vật sống thì khác mà số sát sinh thì đồng. Không có phép tắc phòng giữ nuôi dưỡng chẳng có thuật lợi ích chúng sinh. Đều khiến Sử Vương kể lại, kinh đô làng ấp đông đúc, bốn phương đã thấy, dân lần lần đến sẽ giúp cho muôn nước. Nay rét mướt, nắng mưa người còn không oán, huống chi bỏ tục nhập chân, do đó đáng vui, cho rằng đoạn dứt là đúng.
Quan Tả Thừa Tạ Ki Khanh nói rằng: Lễ không sát sinh thật như chỗ bàn của Vương Thuật. Song bậc Thánh cho rằng giáo pháp cũng dời đổi với thế tục, tức đối với sự tích sợ không nên dứt riêng. Nếu hai quận riêng có cấm này, giống như ngoại đạo cho rằng giới không được sát sinh đều có cõi nước, do lúc đó cung kính đồng như lời bàn của Nghị Lang Giang Huống. Từ Thượng Thư Thần, Tả Bộc Xạ Thần Ngang Linh Oánh trở lên đều đồng Giang Huống.
Vua sai Chu Xá bắt bẻ Huống rằng: Kinh Lễ nói rằng: Người quân tử còn xa nhà bếp, loài có máu huyết không cắt thân, thấy kia sống không nở giết, nghe tiếng kêu không nỡ ăn thịt, đó đều là tự mình khởi lòng nhân từ chẳng phải cửa xa, trước mặt ta thì bỏ, sau lưng ta thì bắn. Đối với đây, y theo lời bàn của Vương Thuật bèn dứt bỏ.
Lại ra sắc chỉ các Thái y không được dùng các loài chúng sinh hợp làm thuốc. Các nhà dệt tơ lụa gấm vóc đều dùng hình vị tiên, chim thú. Cho đó là chiếc áo bẩn thỉu, mặc vào sẽ cắt đứt thân thể, trái với lòng nhân từ, khoan dung. Còn như cúng tế trời đất tông miếu nêu bỏ việc giết hại để giúp cho loài hàm thức. Cúng miếu thì dùng sợi miến làm súc vật. Những buổi tiệc lớn trong nước thì dùng các thứ rau bỏ đi các loài chúng sinh. Các tế lễ ở núi ở sông thì nghỉ. Bèn ra sắc chỉ cho quan Hữu Ti rằng: Gần do thần thật thương dân, không trách không biết, chỗ quý thành tín chẳng tổn thương máu huyết. Nếu có hoạn nước hạn liền quy lỗi cho trời. Không đồng với sinh vật, chỉ bảo biết mà thôi, muốn cho tánh cầu cúng siểm độc làm sư.
Núi sông nắng mưa đều trái, nhân dân đều oán. Ngu phu chấp thói quen khó dùng lý sửa đổi, từ nay cầu thỉnh báo đáp có thể như cách thế tục đã dùng. Do thân có lỗi, việc tự y theo trước.
Vị quan ở trước nói: Thần đạo mê mờ cầu xin chẳng phải một. Hoặc trọng cúng chất máu tanh, hoặc hưởng chất uẩn vào. Lập giáo tùy thời quý kia làm lành. Thành thật kia không thay đổi, đâu đến chỗ không thông. Nếu cúng tế không hưởng thì phong tục bốn đời là rõ ràng, đạo thần minh thật có thì đạo ba đời là rộng lớn. Kia nói không đâu chẳng tiếp đãi sự thanh khiết của súc vật cúng tế. Y cứ theo kia nên giữ lòng nhân bỏ việc giết hại, văn cúng tế xuân đời nhà Chu do đây mà có. Nếu có thần minh đức nhổ các thứ kia ra, mà dùng miến làm súc vật cúng tế thì đối với nghĩa không đạt. So sánh đó thì lụa gầm không mâu thuẫn ư?
Người quân tử trong Nho giáo xa lìa bếp nấu, thấy kia sống không nỡ giết, nghe tiếng kêu không nỡ ăn thịt. Ông Cao Sài, ông Chiết Tượng chưa biết nội giáo, đều có thể không sát hại. Đây là do sẵn có lòng nhân từ tự nhiên dụng tâm. Loài hàm linh đâu không thương mến thân mạng. Bỏ việc giết hại quyết gắng sức làm. Thấy những người háo sát đến lúc chết quả báo ứng nghiệm, con cháu bị ương họa số kia rất nhiều, không thể chép đủ. Vả lại, cũng có nêu một số trường hợp sau đây:
Đời Lương, có người thường dùng tròng trắng trứng gà hòa để gội đầu, cho rằng làm như vậy tóc sẽ đẹp. Mỗi lần gội như vậy đập chừng hai ba chục trứng. Đến lúc sắp qua đời nghe tiếng kêu "chíp chíp" của mấy ngàn con gà trong tóc.
Ở Giang Lăng, Lưu Thị làm nghề bán lươn, sau sinh một đứa con, đầu thì đầu lươn, từ cổ trở xuống là người.
Vương Khắc làm quan huyện Vĩnh Gia, có người đem tặng một con dê, Vương Khắc mời khách đãi tiệc. Lúc đó, con dê bị sút dây liền chạy đến một người khách, quỳ trước mặt hai tay lạy rồi núp vào áo người đó. Nhưng người khách này cuối cùng không nói một lời nào, vẫn không xin cứu nó. Lát sau, đồ tể giết con dê này rồi thui đốt. Trước mời người khách này dùng, một miếng vào miệng liền thấm vào da rồi khắp cả thân đau nhức kêu la. Sau đó, kêu la tiếng như dê rồi chết.
Đời Lương, có người làm chức Huyện lịnh xảy ra loạn Lưu Kính Cung, Huyện sở bị đốt, đến ở nhờ chùa dân đem đến tặng một con trâu và rượu làm lễ Huyện lịnh đem trâu buộc vào cây trụ của chùa, dẹp các hình tượng sắp đặt tòa ở giảng đường. Trong lúc tiếp khách, chưa giết con trâu, trâu bị đứt dây chạy đến bên thềm lạy, Huyện lịnh cười to, ra lệnh giết nó. Ăn uống no say, nằm mê dưới thềm. Lúc tỉnh giấc trong thân thể ngứa ngáy, cào gãi nổi dề, do đó thành bệnh, hơn mười năm thì chết.
Dương Tự Đạt, làm chức quan ở quận Tây Dương, gặp lúc Hầu cảnh làm loạn, lại gặp lúc hạn hán mất mùa dân chúng đói khát bèn trộm lúa ngoài ruộng. Tư Đạt sai Bộ Khúc canh giữ. Hễ bắt được một người ăn trộm thì liền chặt cườm tay và giết bằng cách bêu thây hơn mười người. Bộ Khúc sau sinh một đứa con trai, tự nhiên không có tay.
Ở nước Tề, có quan chức Phụng Triều Thỉnh, nhà rất giàu có, ăn chơi xa xỉ. Không phải chính tay mình giết trâu thì ăn không ngon. Đến năm ba mươi tuổi bị bệnh nặng, thường thấy trâu đến, toàn thân như bị dao cắt, kêu la rồi chết.
Ở Giang Lăng, Cao Vĩ theo cha đến nước Tề được mấy năm. Thường đến U Châu, bắt cá trong ao nước cạn. Sau bị bệnh, thường thấy bầy cá đến cắn rỉa thân thể rồi chết.
Đệ tử Tiêu Diễn kính bạch đại đức Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, tam quan các chùa. Phàm khuôn chính Phật pháp là việc của người xuất gia, không phải là chỗ gấp của người tại gia. Kinh giáo cũng nói: Phật pháp giao phó cho Nhân vương, đây là đệ tử chẳng được không nói. Nay các Tăng Ni khai ý cho thọ, chớ sinh nghi ngờ, ôm lòng giận dữ.
Người xuất gia khác với ngoại đạo ở chỗ do tin nhân, tin quả, tin kinh điển. Cái gọi là tin, đây là tin Phật nói kinh rằng: Người gây ra mười điều ác thì sẽ chịu quả báo xấu, người thực hành mười điều lành sẽ hưởng quả báo quả báo lành, đây là đại ý của kinh giáo. Như vậy, nếu người xuất gia còn ham muốn uống rượu, ăn cá ăn thịt, đây là thực hành đồng như ngoại đạo mà lại không bằng ngoại đạo.
Vì sao nói là đồng như ngoại đạo?
Vì ngoại đạo chấp đoạn, chấp thường. Không nhân không quả, không trí, không báo. Nay đệ tử Phật uống rượu ăn thịt, không sợ nhân tội, không sợ quả khổ, tức đây là không tin nhân không tin quả.
Không thí, không báo thế nào là khác?
- Việc này thấy đồng với ngoại đạo mà có chỗ không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo thế nào?
- Ngoại đạo đều tin thầy. Lời thầy đã nói đúng thì đệ tử nói đúng.
Lời thầy cho là sai thì đệ tử cho là sai. Kinh Niết-bàn nói:
"Này Ca-diếp! Ta dạy các đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt".
Mà nay người xuất gia còn ăn thịt.
Trong giới luật nói: Uống rượu phạm tội Ba-dật-đề, mà người xuất gia còn uống rượu, không hề nghi ngờ. Việc này trái với lời Phật dạy.
Đây là điều thứ nhất không bằng ngoại đạo.
Tuy ngoại đạo chứa tà, bắt giữ trâu chó. Nhưng khi đã thọ giới rồi về sau quyết không phạm. Nay người xuất gia đã giảng nói rồi mà còn khinh khi hủy phạm.
Đây là điều thứ hai không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo tuy dùng năm nguồn nhiệt đốt thân quăng xuống vực sâu hoặc xô vào lửa, cùng tột các khổ hạnh, cũng chưa chắc ăn thịt chúng sinh. Nay người xuất gia ăn thịt ăn cá.
Đây là điều thứ ba không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo thực hành dị học kia, tuy không đúng lý nhưng đều học phương của thầy không hề che giấu, nay người xuất gia ăn cá ăn thịt. Đối với chỗ thân thì lẫn lộn với họ, đối chỗ sơ thì có ẩn tránh.
Thực hành việc ấy, là điều thứ tư không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo đều tôn chỗ chấp, đều trọng pháp kia. Bèn tự lớn tiếng tuyên bố rằng: Không bằng đạo chân của ta. Đối với các dị nhân không nể nang. Nay người xuất gia hoặc năm tháng đã lâu, hoặc làm chỗ y cứ cho chúng sinh mà ăn cá ăn thịt, tự mình thật gian nan. Hoặc lánh xa đệ tử, hoặc lánh xa bạn học, hoặc tránh người tại gia, hoặc lánh xa chùa quán. Có tâm tà chí, mập mờ che giấu. Nhưng sau mới phạm một lỗi ăn uống.
Thực hành như vậy, là điều thứ năm không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo trực tình thẳng hạnh, có thể nuôi dưỡng đồ chúng xấu ác của mình chớ không thể nuôi dị bộ khác. Nay người xuất gia ăn cá ăn thịt. Hoặc bị đệ tử tại gia nghe thấy, trong không hổ thẹn, lại nói bừa rằng: Phật giáo là pháp vốn giữ nhân xa, trong ngay một ngày chưa thể dứt hết. Đem tiền mua thịt chó không phải mình tự giết, ở đây cũng không hiềm trách. Người tại gia ngu si nghe theo lời nói của vị Tăng này cho là lời chân thật, liền tin thọ, tự mình làm việc bất thiện tăng thêm các tội. Đây là điều thứ sáu không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo tuy phi pháp nói là pháp, pháp là phi pháp, nhưng đều tin kinh thư, chết cũng không trái phạm. Nay người xuất gia ăn cá ăn thịt, hoặc nói thịt chẳng phải mình giết được ăn, đem tiền mua thịt cũng không hiềm trách. Nói như vậy nhưng việc không đúng.
Kinh Niết-bàn nói: Tất cả thịt đều không dùng và tự nó chết, tự nó chết còn không dùng huống chi không phải tự nó chết.
Kinh Lăng Nghiêm nói: Vì lợi mà giết chúng sinh và dùng tiền dùng lưới mua thịt, hai nghiệp này đều ác, chết đọa địa ngục Khiếu Hô. Thế nào là dùng tiền tài và lưới để được thịt? Là trên đất liền dùng lưới săn súc vật, dưới nước dùng lưới bắt các loài dưới nước. Đây là dùng lưới để lưới thịt. Như người dùng tiền mua thịt của người đồ tể, đây là dùng tiền mua thịt. Hoặc như người này không dùng tiền mua thịt mà tập ác luật nghi, giết hại chúng sinh, người này chuyên tự cung cấp cho miệng mình, cũng lại có dự tính riêng. Nếu có dự tính, nghĩ đến chuyện ăn thịt đâu không có phần giết hại. Sao được nói là không sát sinh. Đây thật rõ ràng trái với kinh điển.
Đây là điều thứ bảy không bằng ngoại đạo.
Ngoại đạo đồng pháp kia thì hòa hợp khác pháp kia thì khổ trị, khiến thực hành cấm chỉ, đâu không noi theo.
Nay người xuất gia, hoặc làm sư trưởng, hoặc làm quan chùa, tự khai giới uống rượu, ăn cá thịt, không thi hành đúng giáo giới kia. Vì ham muốn phát lời nói này, liền bị chê bai, thầy lúc trước cũng vậy, quan chùa cũng vậy.
Trong tâm nóng bức, im lặng cúi đầu. Mặt đỏ toát mồ hôi không nói được. Thân đã có lỗi lầm thì không thể hàng phục được vật. Như vậy làm sao mà ở, do đó người trong chùa thì trái phạm, người thọ đạo thì buông lung. Đây là điều thứ tám không bằng ngoại đạo. Ngoại đạo thọ người thí giống như pháp mình.
Thọ giới ô (quạ), người thọ thí giới ô (quạ). Giới nai người thọ thí giới nai. Giới quạ, người không bao giờ thọ thí giới nai. Giới nai, người không bao giờ thọ thí giới quạ. Nay, người xuất gia nói rằng: Ta sẽ tinh tấn, ta sẽ khổ hạnh. Một thời trái tướng dối với người tại gia ra thì uống rượu mở các cửa ác, vào thì ăn thịt nhóm các gốc khổ.
Đây là điều thứ chín không bằng ngoại đạo. Ngoại đạo tuy điên đảo, nhưng không như các việc này.
Người uống rượu như thế nào? Hơi hôi thủy cốc mất giới chánh tánh kia thành khí riêng này, chúng sinh do tội nghiệp nhân duyên thọ ác xúc này.
Đây không phải là đạo pháp chân chánh, cũng chẳng phải là cam lồ thượng vị, vì sao Tăng Ni xuất gia còn sinh tâm ham muốn. Tăng Ni trao năm giới cho người tại gia, dạy họ không uống rượu, không vọng ngữ v.v... Tại sao tự mình uống rượu trái với lời thệ.
Bảy chúng, tám giới quan trai, năm thiên bảy tụ, luật nghi dài ngắn, trong khoa nào nêu ra văn này, các chúng tăng kia sao lại có thể làm. Còn người học luật càng không nên như vậy. Vả lại mở cửa buông lung, nhóm các gốc khổ, nếu người tại gia cam chịu thuốc cuồng loạn này thì người xuất gia phải quở trách bảo họ không nên và dạy rằng: "Ông đã đến ta thọ năm giới, không nên làm những việc như vậy".
Nếu người không thọ giới cũng nên nói với họ rằng: Này đàn việt! Rượu là gốc tội ác, là việc ma, nay đàn việt không nên uống nữa. Vì sao người xuất gia lại tự uống, địa ngục Ni-la-phù-đà thân như cục thịt không có sự hiểu biết, đây là ai? Đều là Tăng Ni xuất gia uống rượu, đâu thể không tin kinh giáo, tự bỏ chánh pháp thực hành tà đạo, nuôi dưỡng các căn ác, tạo khổ địa ngục. Làm những việc như thế há không hổ thẹn còn mặc y Như Lai, thọ của tín thí. Ở trong chùa, ngước nhìn tôn tượng, nếu uống rượu ăn thịt các việc như thế, thì người xuất gia không bằng cư sĩ.
Vì sao? Vì người tại gia tuy uống rượu ăn thịt nhưng không có tội phạm giới.
Đây là điều thứ nhất người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt, riêng có gò uổng hang ổ, nhưng không bao giờ đem những thứ này đến tôn tượng.
Đây là điều thứ hai người xuất gia không bằng người cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt, nhưng không bao giờ khạc nhổ, bài tiết trong chùa.
Đây là điều thứ ba người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu, ăn thịt nhưng không bị chê bai, người xuất gia uống rượu ăn thịt, khiến cho người đời coi thường Phật pháp.
Đây là điều thứ tư người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt, cửa, đường đi, giếng, ông táo đều có thần. Người xuất gia uống rượu ăn thịt hơi hôi xông lên, tất cả thiện thần đều lánh xa tất cả chúng ma đều ưa thích.
Đây là điều thứ năm người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt nhưng tốn tài sản của chính họ, không hao tổn tài vật của người khác. Người xuất gia uống rượu ăn thịt, tự phá pháp lành, lại phá phước điền của người.
Đây là điều thứ sáu người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt đều là tự sức mình làm. Người xuất gia uống rượu ăn thịt đều là của tín thí.
Đây là điều thứ bảy người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt, đây là việc bình thường không phải là việc lạ. Nếu người xuất gia uống rượu ăn thịt thì chúng ma và ngoại đạo được dịp làm hại.
Đây là điều thứ tám người xuất gia không bằng cư sĩ.
Người tại gia tuy uống rượu ăn thịt như vậy nhưng không mất sự nghiệp ở đời. Người quá đam mê thì không nên uống, người xuất gia uống rượu ăn thịt hoặc nhiều hoặc ít đều dứt mất hạt giống Phật. Đây là điều thứ chín người xuất gia không bằng cư sĩ.
Lược nêu lý do người xuất gia không bằng ngoại đạo và cư sĩ có chín việc như trên. Muốn nói về lỗi lầm điều chương rất nhiều, có thể tìm xem, ở đây không nói đủ.
Ngày nay, Tăng Ni Đại đức, Tăng Ni nghĩa học, quan chùa phải tự cảnh giác mình và nghiêm tịnh đồ chúng. Nếu các vị biếng nhác không vâng theo lời Phật dạy, cũng giống như nước Lương biên hộ nhất dân. Đệ tử ngày nay ra sức trị chế cũng như không nương theo Phật pháp. Các vị Tăng này phải y theo pháp hỏi kinh sư bao nhiêu tuổi giảng kinh Đại Niết-bàn, pháp luân nối nhau không dứt, còn như nghe thọ động có ngàn kế, nay lại thình Pháp sư Pháp Vân vì các Tăng Ni giảng phẩm Bốn tướng, Bốn trung tiểu phần, các Tăng Ni thường nghe kinh Niết-bàn.
Trong kinh Phật rốt ráo nói dứt bỏ tất cả thịt, cho đến tự nó chết cũng không cho ăn, huống chi không phải tự nó chết.
Các vị Tăng Ni xuất gia gọi là đệ tử Phật, vì sao nay không theo lời Thầy dạy.
Kinh nói: Người ăn thịt dứt mất hạt giống đại từ. Vì sao nói là dứt hạt giống đại từ? Vì nếu người có tâm đại từ đều muốn cho tất cả chúng sinh đồng được an vui, nếu ăn thịt thì tất cả chúng sinh đều oán ghét sẽ không được an vui.
Nếu người ăn thịt sẽ xa lìa pháp Thanh văn. Nếu người ăn thịt sẽ xa lìa pháp Bích-chi-phật, nếu người ăn thịt sẽ xa lìa pháp Bồ-tát. Nếu người ăn thịt sẽ xa lìa đạo Bồ-đề. Nếu người ăn thịt sẽ xa lìa pháp Đại Niết-bàn. Nếu người ăn thịt sẽ không sinh lên sáu tầng trời cõi Dục, huống chi quả Niết-bàn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng pháp bốn thiền.
Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng pháp bốn không. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng giới. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng định. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng tuệ. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng tín căn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng tấn căn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng niệm căn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng định căn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng tuệ căn. Nói đại khái là bị chướng ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng Bốn diệu đế. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng mười hai nhân duyên. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng sáu pháp Ba-la-mật. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng bốn thệ nguyện rộng lớn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng bốn món nhiếp pháp. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng bốn vô lượng tâm. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng bốn vô ngại trí. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng ba Tam-muội. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng tám giải thoát. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng chín thứ đệ định. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng sáu thần thông. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng một trăm lẻ tám pháp Tam-muội. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng tất cả pháp Tam-muội. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng Tam-muội Hải ấn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng Tam-muội Thủlăng-nghiêm. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng Tammuội Kim Cang. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng ngũ nhãn. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng mười Lực. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng bốn vô sở úy. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng mười tám pháp bất cộng. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng Nhất thiết chủng trí. Nếu người ăn thịt sẽ bị chướng Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì ăn thịt bị chướng tâm Bồ-đề, không có pháp Bồ-đề. Vì ăn thịt bị chướng ngại không thể chứng được quả sơ địa. Do ăn thịt bị chướng ngại không thể chứng được quả Nhị địa, cho đến chướng ngại không thể chứng được quả Thập địa, vì không có pháp Bồ-tát nên không có bốn Vô lượng tâm. Không có bốn vô lượng tâm nên không có tâm đại Từ, đại Bi, do đó nên hạt giống Phật không nối nhau, vì vậy kinh nói:
Người ăn thịt dứt mất hạt giống Phật. Các người xuất gia không thể thực hành đại từ đại bi, rốt ráo hạnh Bồ-tát, thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Vì sao không thể nhẫn chịu mùi hôi tanh này, tu Thanh văn, Bích-chi-phật đạo. Chim quạ thèm chuột, giòi tửu ưa hôi thối. Do đây suy ra mà biết, sao còn thèm muốn. Còn như chó sói, dã can đều biết thèm thịt, con người có sự hiểu biết hơn các chúng sinh, gần gũi với đây đồng cam chịu mùi hôi tanh, nên thường có tâm giết hại chúng sinh, đoạn hạt giống đại từ.
Người ăn thịt tự mình thấy thấp hèn.
Các Đại đức Tăng, các Tăng Ni nghĩa học giảng kinh Niết-bàn sao không thể hết lòng, điều này khiến người nghe thọ tâm được ngộ giải.
Lại có hàng người ngu si nói rằng: Ta chỉ ăn cá, thật không ăn thịt. Cũng nên khai thị, ở đây không phân biệt chúng sinh dưới nước hay trên đất liền, đều gọi là thịt. Các người nghe giảng há có thể không xét kỹ thọ trì, đúng như lời nói mà tu hành, nếu người ăn thịt như trước đã nói, đây đều là việc xa chưa phải cần gấp.
Các Đại đức Tăng Ni! Phải biết ăn thịt chúng sinh là hạnh ma.
Ăn thịt chúng sinh là chủng tử địa ngục.
Ăn thịt chúng sinh là nhân sợ sệt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân đoạn mạng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tự thiêu.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tự nấu.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tự nướng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tự châm lửa đốt vào các huyệt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tự cắt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tự lột da.
Ăn thịt chúng sinh là nhân chặt đầu.
Ăn thịt chúng sinh là nhân chặt tay.
Ăn thịt chúng sinh là nhân chặt chân.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị mổ bụng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân mổ lưng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân mổ dạ dày.
Ăn thịt chúng sinh là nhân đập nát tủy.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị móc mắt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị xẻo mũi.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị cắt tai.
Ăn thịt chúng sinh là nhân nghèo cùng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân thấp hèn.
Ăn thịt chúng sinh là nhân đói rét.
Ăn thịt chúng sinh là nhân xấu xí.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị điếc.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị mù.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị câm.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị ngọng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị què chân.
Ăn thịt chúng sinh là nhân chân đi khập khểnh.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh u nhọt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh ngứa ngáy.
Ăn thịt chúng sinh là nhân ghẻ lở.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh hắc lào. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh nổi cục (máu tụ thành cục nổi lên).
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bướu cổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị khập khểnh.
Ăn thịt chúng sinh là nhân có tật nhỏ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị ung thư.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị vết loét nhỏ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh trỉ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị ung nhọt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gù lưng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh cùi.
Ăn thịt chúng sinh là nhân làm bọ chét.
Ăn thịt chúng sinh là nhân làm rận.
Ăn thịt chúng sinh là nhân làm muỗi.
Ăn thịt chúng sinh là nhân làm con ruồi.
Ăn thịt chúng sinh là nhân gặp trùng độc.
Ăn thịt chúng sinh là nhân gặp thú dữ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh tật gầy ốm.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh sốt rét.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau đầu.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau tim.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị tức ngực. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau lưng. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau tay.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau chân.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau tủy.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau đường ruột.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị rút gân.
Ăn thịt chúng sinh là nhân dạ dày bị lật lên.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đứt mạch máu.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị mắc nghẹn.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đau cổ họng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị trúng gió.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị trúng nước. Ăn thịt chúng sinh là nhân bốn đại không điều hòa.
Ăn thịt chúng sinh là nhân ngũ tạng không điều hòa.
Ăn thịt chúng sinh là nhân lục phủ không điều hòa. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị điên.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị cuồng.
Ăn thịt chúng sinh cho đến bốn trăm lẻ bốn bệnh, tất cả các nhân khổ như thế.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị nhiệt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bức não.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị chịu đè ép.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gặp nạn nước.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gặp nạn lửa. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gặp nạn gió.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gặp trộm.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gặp cướp.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị gặp giặc.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị roi đánh.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị trượng đánh. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị đánh roi, đánh bằng bàn vả.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị thúc giục, đốc trách. Ăn thịt chúng sinh là nhân bị mắng nhiếc.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị làm nhục.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị trói.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị buộc.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tối tăm.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị che đậy.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị sinh khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị lão khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị bệnh khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân bị tử khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân ghét mà gặp khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân thương mà xa khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân cầu không được khổ. Ăn thịt chúng sinh là nhân năm ấm lừng lẫy khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân hành khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân hoại khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân khổ khổ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Tưởng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Hắc thằng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Chúng hợp. Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Khiêu hoán.
Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Đại khiêu hoán.
Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Nhiệt.
Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục Đại nhiệt. Ăn thịt chúng sinh là nhân địa ngục A-tỳ.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tám địa ngục lạnh, nóng.
Ăn thịt chúng sinh là nhân tám vạn bốn ngàn địa ngục cách tử cho đến không thể nói không thể nói địa ngục Cách Tử.
Ăn thịt chúng sinh cho đến là nhân của tất cả ngạ quỉ. Ăn thịt chúng sinh cho đến là nhân của tất cả súc sinh.
Phải biết ngạ quỉ có vô lượng khổ. Phải biết súc sinh có vô lượng khổ. Súc sinh sống tạm chết tạm bị chúng sinh hại. Khi sống có vô lượng sợ hãi. Lúc chết cũng có vô lượng sợ hãi, đây đều là do nhân duyên của nghiệp giết hại phải chịu quả như vậy, nếu muốn nêu đầy đủ quả báo của sự sát sinh thì lần lựa không cùng tận, địa ngục nhiều như cỏ cây cũng không thể chứa hết được. Ở trước đã nói tuy là nhiều đường, nêu tóm lược mà nói. Đồng một quả khổ nhưng trong đó có nhẹ có nặng. Do đó, ngày nay có các quả khổ đều do nghiệp sát sinh não hại chúng sinh. Lược nêu một khía cạnh, nói sơ một ít phần.
Các Đại đức Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, các quan tự phải nên suy nghĩ việc lớn này. Nếu ăn thịt cha của chúng sinh thì sẽ bị quả báo là chúng sinh đó sẽ ăn thịt cha của mình. Nếu ăn thịt mẹ của chúng sinh thì sẽ bị quả báo là chúng sinh ăn thịt mẹ của mình. Nếu ăn thịt con của chúng sinh thì sẽ bị quả báo là chúng sinh ăn thịt con mình.
Như vậy oán đối báo thù ăn thịt lẫn nhau, đêm dài nhiều kiếp không có cùng tận.
Như trong kinh nói: Có một người nữ năm trăm đời ăn thịt con của chó sói thì con của chó sói cũng năm trăm đời hại con của người nữ kia.
Lại có người nữ năm trăm đời cắt đứt mạng sống của quỷ, quỷ kia cũng năm trăm đời cắt đứt mạng sống của người nữ kia.
Nhưng trường hợp này đều là kinh nói, chẳng thể không tin. Còn lại những trường hợp báo oán khác suy ra sẽ biết.
Các Đại đức Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, các quan tự! Lại có một việc quan trọng (việc lớn) phải nên tin nhận: Từ vô thỉ cho đến ngày nay đã trải qua sáu đường chịu đủ các quả báo, tất cả thân duyên khắp tất cả chỗ, cho đến đời nay trải qua bao lần sinh tử, thần minh cách chướng, do đây các quyến thuộc không thể biết nhau. Ngày nay chúng sinh hoặc làm cha mẹ, hoặc làm sư trưởng, hoặc làm anh em, hoặc làm chị em, hoặc làm con cháu, hoặc làm bạn bè, nhưng không có đạo nhãn nên không thể phân biệt trở lại ăn thịt lẫn nhau mà không tự biết.
Khi ăn thịt, vật này có tánh linh liền sinh sân giận, trở lại thành oán thù. Những người chí thân trở thành chí oán. Việc như vậy đâu thể không suy nghĩ ư? Chỉ vì tranh miếng ăn ở đầu lưỡi, một chút vị ngon mà thường làm oán thù với người thân kiếp trước. Thật đáng thương tâm khó mà nói được. Cư sĩ tại gia chưa thể thích hợp với đạo, còn người xuất gia học đạo mặc áo Như Lai, tu hạnh Bồ-tát, phải nên suy nghĩ kỹ.
Các Đại đức Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, các quan tự! Lại phải suy nghĩ một việc: Nếu ăn thịt chúng sinh thì đó là ác tri thức của tất cả chúng sinh, là kẻ thù của tất cả chúng sinh. Như vậy, kẻ thù đầy khắp sáu đường, nếu muốn tu hành đều bị chướng nạn. Một là lý chướng nạn, hai là sự chướng nạn. Vì sao?
- Lý chướng nạn: Do nhân duyên của nghiệp tự sinh chướng nạn khiến cho người tu hành này ngu si không có trí tuệ, không biết xuất yếu, không có phương tiện. Dù cho có gặp thiện tri thức cũng không thể tin nhận, dù có tin nhận cũng không thể tu hành. Đây là trong lý chướng nạn.
- Sự chướng nạn: Các oán đối này hoặc ở trong ác quỷ, hoặc trong loài trùng độc, hoặc ở trong loài thần đại lực, hoặc trong loài rồng đại lực. Hoặc ở trong loài ma, hoặc ở trong chư Thiên, các oán đối ở các nơi này đến gây nạn, dù có gặp Thiện tri thức thâm tâm tin nhận muốn tu hành, liền đến khởi nạn, hoặc dẫn vào đường tà, hoặc xúc não khiến tâm loạn, tu giới, định, tuệ tu các công đức thường không thanh tịnh, thường không viên mãn. Đây đều là do oán đối đời trước khởi các chướng nạn. Đây là trong sự chướng nạn.
Những việc như vậy phải suy nghĩ cho kỹ, chỉ do một nhân duyên ăn thịt chúng sinh mà làm cho xa lìa tất cả Phật pháp, có những tai họa như thế. Tham độc cũng như vậy, sân độc cũng như vậy, si độc cũng vậy, đẳng phần của ba món độc đều đồng lỗi hoạn này, cùng nhau suy nghĩ kỹ, tự cảnh giác, khéo suy nghĩ phương tiện.
Đệ tử Tiêu Diễn, lại kính bạch các Đại đức
Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, các quan tự! Tưởng Đế ở Bắc Sơn còn bỏ việc sát sinh. Nếu không sát sinh cúng tế thì cầu nguyện liền được thượng giáo. Nếu sát sinh cúng tế cầu nguyện thì sẽ không được giáo tưởng. Ngày nay đại chúng đã nghe biết. Đệ tử đã khuyên các miếu cúng tế và bá tánh nếu khi cúng tế nếu có cầu báo đều không nên cúng các loài chúng sinh, phải thành tâm không nên sát hại cúng chay. Tưởng Đế ngày nay hành đạo Bồ-tát, các vị xuất gia vì sao lại ăn thịt chúng sinh, hành hạnh ma. Một hôm, ở Bắc Sơn, Tưởng Đế trai tăng. Do đó, đều yêu cầu dùng cơm rau đạm bạc, chính do U linh đều có thể xem thấy. Nếu thấy dùng cơm rau đạm bạc, Tăng làm cơm chay đến, sợ rằng Tưởng Đế chê bai Phật pháp, chê bai đệ tử.
Xin Pháp sư phải thấy ý này.
Đệ tử Tiêu Diễn, lại kính bạch các Đại đức Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, các quan tự! Đệ tử Tiêu Diễn đối trước mười phương tất cả tôn pháp, đối trước tất cả Thánh tăng trong mười phương và Tăng Ni hiện tiền mà nêu lên lời thệ nguyện. Ngày nay Tăng chúng khi trở về chùa, mỗi vị đều tự xem xét mình nương theo Phật giáo. Nếu ăn thịt uống rượu không đúng theo pháp thì đệ tử sẽ y theo phép vua mà trị tội. Các vị Tăng Ni nếu đắp y của Như Lai mà không thực hành hạnh Như Lai thì đây là Tăng giả danh không khác với kẻ trộm giới. Thực hành đúng như vậy mới là đệ tử, một người dân biên hộ trong nước. Ngày nay do pháp vua trị tội, sẽ cho quan ngoại ty xem xét nếu có chùa nào tự loạn không đúng pháp, bất luận lớn nhỏ, bất luận môn đồ nhiều ít, đệ tử sẽ khiến cho chùa đánh kiền chùy nhóm họp chúng Tăng xả giới hoàn tục mặc áo người tại gia. Y theo kinh Niếtbàn cho hoàn tục. Các vị kỳ lão nhất, Tăng đồ nhiều hai trường hợp này hỏi trước tiên. Vì sao?-Trị một không hành tiểu tăng không đủ để sửa đổi trị Tăng vật. Trị một Đại tăng như vậy đủ để kinh sợ thấy nghe, khuyên các vị Đại tăng danh đức không nên có lỗi này, nếu có thì sẽ y theo pháp mà trị, số còn lại kia là tiểu tăng cố tự nói dối. Ngày nay nhóm họp tăng, đây là một việc nhân duyên lớn, chẳng phải chỉ có tất cả chư Phật ở đây, không phải chỉ có tất cả tôn pháp ở đây, chẳng phải chỉ có tất cả Thánh tăng ở đây mà chư Thiên cũng đầy khắp hư không, chư Tiên cũng đầy khắp hư không, Tứ thiên vương hộ đời cũng có mặt nơi đây, Thần Kim Cang Mật Tích, đại biện Thiên Thần, Công Đức Thiên Thần, Vi-đà Thiên Thần, Ca-tỳ-la Vương, Khổng Tước Vương, Phong Đầu Vương, Phú-ni Bạt-đà-la-ca Vương, hai mươi tám Dạ-xoa
Thần Vương trong mười phương, tất cả trì chú Thần Vương, Đại hộ sáu phương an quốc, như vậy có tất cả năng lực đại thần túc, có năng lực đại oai đức, có tất cả Thiện Thần đầy khắp hư không như vậy.
Long vương Ngũ Phương, Long vương Bài Yết, Long vương A-nậu, Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Y-na-mãn tất cả các vị Bồ-tát, Long Vương như vậy cũng đầy khắp nơi đây. Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà Vương, A-tu-la Vương, Ca-lầu-la Vương, Khẩnna-la Vương, Ma-hầu-la-ca Vương, nhân, phi nhân v.v... như vậy có tất cả năng lực Đại thần túc, năng lực đại oai đức tám bộ Thần vương đều có mặt ở đây.
Ngày nay các thần Thổ địa, núi, sông, miếu cũng đầy khắp hư không, như vậy u hiển đâu không soi xét. Chỉ có người không lỗi lầm mới khuyên răn người được. Chỉ có người tự mình thanh tịnh mới có thể tịnh người được.
Ngày nay Đệ tử nêu lên sự việc này, Tăng Ni chắc chắn sẽ có sự bất bình, dù cho mổ tim quăng xuống đất để cho Tăng Ni thấy đôi chút cũng không tin.
Người xưa có nói khó biết được chỗ thực hành, đệ tử Tiêu Diễn là cư sĩ tại gia không giữ giới cấm. Ngày nay trước phải tự phát lời thệ để rõ bổn tâm. Đệ tử Tiêu Diễn từ nay về sau sẽ đến đạo tràng, nếu còn ăn thịt uống rượu, buông lung khởi lên các sự dâm dục, khinh khi nói dối ăn thịt chúng sinh, cho đến uống sữa, mật và bơ, lạc thì xin tất cả quỷ thần có sức mạnh, trước hết phải trừng trị thân Tiêu Diễn này, song sau đem giao cho Diêm-la vương ở địa ngục để chịu các sự khổ. Cho đến khi chúng sinh đều thành Phật hết, đệ tử Tiêu Diễn này vẫn còn đọa trong địa ngục A-tỳ. Nếu Tăng Ni có vị nào ăn thịt uống rượu mà không sám hối tội lỗi thì tất cả quỷ thần có sức mạnh cũng trị như vậy, để tăng thêm điều lành thanh tịnh đạo Phật. Nếu chưa bị sự trị phạt của Diêm-la còn sống trên đời thì đệ tử Tiêu Diễn sẽ đúng như pháp mà trị phạt, khiến mau hoàn tục mặc áo cư sĩ lúc nào cũng sai sử được. Nguyện ngày nay hai bộ Tăng Ni đều trở về bổn tự chỉnh đốn Phật pháp, sống hòa hợp chúng, đều khiến nghe pháp, đúng như lời dạy mà tu hành, không thể lại để cho đoạn mất hạt giống đại từ khiến cho Phật không được nối nhau. Nếu có người phạm pháp phá giới thì đều y theo quy chế của Tăng, đúng như pháp mà trị phạt. Nếu dung tha không trị phạt thì trái lại sẽ chịu tội.
Lại chùa Tăng, Ni có thờ Tứ thiên vương, Catỳ-la Thần, mà vẫn còn lập đầu Nai, thịt Dê v.v... việc này không thể gấp cấm đoán, nếu không cấm đoán chùa quan nhận lỗi cũng đồng với khoa trước. Riêng nêu ý (nghĩa đây nói hết tuyên ý như thế).
Đệ tử Tiêu Diễn, kính bạch các Đại đức Tăng Ni, các Tăng Ni nghĩa học, các Tự tam quan trước đã trình bày về việc ăn cá ăn thịt sẽ bị chướng lụy vời lấy quả khổ, nay lại muốn thông bạch một lời này:
Diêm-phù-đề thọ một trăm hai mươi tuổi, còn như trong đời ít nghe có người ấy, thay đổi suy tàn cũng không ít lắm.
Kinh nói: Trong khoảng một niệm có sáu mươi sát-na, sinh lão vô thường khác thời, tạm có các căn bỗng nhiên suy diệt, các khổ trong ba đường (địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh) bỗng nhiên đã đến, muốn thoát địa ngục việc ấy rất khó. Bậc giới đức thanh tịnh còn sợ không khỏi, huống chi đối với kẻ hủy phạm thì đâu thể khỏi được?
Tuy ăn chay trường mà không riêng tu phương tiện, muốn khỏi quả báo khổ cũng không có việc ấy. Vì sao? Vì như ơn đời này không phạm các tội nhưng nghiệp mạnh hậu báo, hiện đời không phương tiện thì khổ ba đường không thể ngăn dứt, huống chi uống rượu ăn thịt chúng sinh. Các Tăng Ni phải tin lời Phật dạy tự mình cố gắng. Nếu nói rằng ăn rau là khó thì lòng tin này rất ít. Nếu có tâm tin phải nên tự gắng sức, có tâm quyết định rồi thì ăn rau nào có khó gì. Ăn rau, ăn cá, thịt đều là một hoặc, nếu tâm được an vui thì thức ăn là cam lồ thượng vị, nếu tâm không an lạc thì thức ăn này trở thành món ăn dơ uế. Do đó kinh Niết-bàn chép: Khi thọ thực phải nghĩ là ăn thịt con mình, nếu chẳng phải hoặc thì đâu cần pháp này.
Vả lại nói việc xa để mượn thí dụ gần, nay người đã ăn rau được thì chán ghét mùi máu tanh. Người không thể ăn rau thì nhàm chán rau, việc đồng như thế, phải nên tự lực xoay đổi hoặc bất thiện trở thành thiện. Còn như hoặc thiện lại dùng phương tiện. Ăn rau tưởng như con, có tâm như vậy liền được quyết định. Người không thể lìa cá thịt đều cho rằng: Ăn rau lạt lẽo đối với người dễ bị yếu sức, cá thịt nóng đối với người có bổ ích, có lời nói này đều là ý kiến điên đảo. Nay nói lại lời thô trên, việc ấy không đúng. Nếu ăn rau lâu ngày người sẽ khỏe mạnh máu huyết lưu thông. Phàm nhân pháp như thế phần nhiều nóng bức. Khỏe mạnh, lưu thông thì dễ uống ăn, do dễ uống ăn được nên khí lực đầy đủ, đây thì ăn rau không bị lạt lẽo mà còn được bổ ích. Những người tu khổ hạnh cũng đều ăn rau, phần nhiều đều ấm áp, đều kiên cường, thần minh sáng suốt ít bị hôn mê, mệt mỏi. Nếu ăn cá ăn thịt là các loài chúng sinh đều thuộc về bệnh lạnh, máu tanh làm tăng trưởng một trăm bệnh. Do đó người ăn cá, ăn thịt thần minh đúng ra phải bị mê mờ, bốn đại đều bị trầm trọng không lưu thông. Mới bị chuốc lấy hậu báo chịu khổ trong ba đường ác, tức thời bốn đại đều chẳng thể điều hòa. Đây há chẳng phải là hoặc ư? Vì tâm có chỗ chấp riêng.
"Cam Ngư nhục": Nghĩa là cho cá thịt là vị cam lồ thuộc về nóng là bổ ích. Đây là ý kiến điên đảo không thể tin được.
Lại có người cho rằng ăn rau bị lạnh liền bỏ ăn chay, đây là chưa hiểu được ý ăn rau. Rau và cá thịt như nước và lửa. Ăn rau vừa muốn được sức khỏe, lại ăn cá ăn thịt hôi tanh có thể diệt sức của rau. Do đó nói rằng: Rau là tánh lạnh, những người bỏ ăn chay, tới thì không được sức khỏe của rau, lui thì không được tà ích của cá, thịt, phần nhiều bị yếu đuối không thể kham lãnh, các Tăng Ni lại phải biết một việc: Ăn cá thịt là cảnh giới của ma, thực hành hạnh ma, tâm không được quyết định, thường bị các nạn cản trở. Trong ngoài bị các ma nhiễu loạn. Vì thế người tu hành phải suy nghĩ kỹ cá, thịt, rượu là thức ăn của ma. Vì thế không đợi nói cũng biết được rằng người ăn cá ăn thịt uống rượu sẽ bị các vị Thiên thần xa lánh, bên trong không có chánh khí. Những người này phần nhiều bị suy não.
Lại có một hạng người tuy ăn rau mà lại kiêu mạn thường tức giận, ưa sống tham cầu. Những người này cũng đọa vào cảnh giới ma, bị nhiều suy não.
Lại có một hạng người, hạnh bên ngoài giống như thuần thục mà trong tâm thì thô ác, thấy người hơn mình thường có tâm ganh ghét. Việc làm không thiện đều có tướng che giấu. Những người này cũng thực hành cảnh giới ma, dù ăn rau (ăn chay) cũng bị suy não, hoặc tâm lực quyết chánh ăn chay hoặc ngược lại, những người như vậy phần nhiều được thiện lực giúp đỡ, có nhiều khả năng chịu đựng.
"Có chỗ không thẳng": Phải nên suy nghĩ tỉnh giác, chớ cho rằng người tâm không quyết định kỳ hẹn quyết định.
Các Đại đức Tăng Ni có hạnh nguyện đã thành, từ này trở đi tướng lành khai mở, dẫn dắt khiến cho người chưa được từ nay trở đi đều được, người đã lập hạnh nguyện được năng lực vững chắc, người chưa từng thực hành thì mong họ đều sửa đổi, ngày nay cùng nhau làm hạt giống Bồ-đề, chớ lấy làm lạ.
Đệ tử Tiêu Diễn hướng về kính bạch.
Quan Tự ba trăm sáu mươi tám vị, Túc đức hai mươi lăm vị, nghĩa học năm trăm bảy mươi bốn vị, Đạo sư ba mươi chín vị.
Hữu Điệp chúng Tăng gồm có một ngàn không trăm lẻ sáu vị (1006).
Tư Quan ba trăm sáu mươi chín vị, nghĩa học sáu mươi tám vị, Tôn sư năm vị.
Hữu Điệp: Tăng Ni gồm có bốn trăm bốn mươi hai vị.
Hữu Điệp: Tăng Ni gồm có một ngàn bốn trăm bốn mươi tám (1.448) vị. Vào canh năm ngày 22 tháng 05 xướng đến cửa Phượng Trang.
Sáng sớm ngày 23, tạo chùa Quang Trạch, ngài Pháp Vân ở trước điện Hoa Lâm lên tòa cao hướng Đông làm Pháp sư. Ngài Tuệ Minh ở chùa Ngõa Quan lên tòa cao hướng Tây làm Đô giảng, xướng về một trong bốn phần của phẩm "Bốn Tướng" trong kinh Đại Niết-bàn. Trình bày người ăn thịt là dứt mất hạt giống đại từ, ngài Pháp Vân giải thích. Nhà vua xe giá chính thân đến, địa bổ sàng vị ở tòa cao phía Bắc hai chúng Tăng Ni đều ngồi theo thứ lớp. Giảng xong, ngài Đạo Trừng ở chùa Kỳ-xà, lại lên tòa cao ở hướng Tây đọc văn dứt thịt này, kế xướng lời đã truyền, xướng xong lại lễ bái sám hối. Nói rộng về ăn ngọ đã xong.
-------------------------------
Ngày 23, họp các Tăng Ni, có vị nói rằng: Trong luật không có việc bỏ thịt và pháp sám hối ăn thịt. Ngày 29, lại ra chiếu chỉ yêu cầu Tăng Nghĩa học một trăm bốn mươi mốt vị, Ni Nghĩa học năm mươi bảy vị, điện Hoa Lâm, Hoa Quang thỉnh ngài Pháp Siêu ở chùa Trang Nghiêm, ngài Tăng Biện chùa Phụng Giới, ngài Bảo Độ chùa Quang Trạch v.v... ba vị Pháp sư thăng tòa, ngự tịch địa thí tòa, số Tăng Ni còn lại cũng như vậy.
Chế chỉ hỏi ngài Pháp Siêu v.v... ba vị Pháp sư rằng: Người xưa nói rằng: Nước hết sôi đâu bằng bỏ củi, dứt lỗi chẳng bằng không nói. Đệ tử không nói thì rất dễ, nhưng muốn thành người tốt khiến Phật chủng được nối nhau cùng với Tăng Ni mở mang giáo pháp, gồm các việc cũng không được im lặng. Vì thế nay nhóm họp trước đại chúng cầu ý trong luật, nghe các Tăng đạo. Trong luật không có việc bỏ thịt lại không có pháp sám hối ăn thịt. Các luật sư từ trước đã khai mở dẫn dắt khiến cho người có sự nghi ngờ này là vì sao?
Ngài Pháp Siêu đáp: Luật và giáo là một nhưng người thử ý chỉ của văn khác nhau. Chỗ giải thích của ngài Pháp Siêu cho rằng Luật tuy cho ăn ba thứ tịnh nhục nhưng ý thì thật muốn hằng hà, vì sao biết như vậy?
-Trước nói dứt trừ mười thứ bất tịnh nhục, kế cho ăn ba thứ tịnh nhục, cuối cùng cho ăn chín thứ tịnh nhục, như vậy lần lần chế. Ở đây ý muốn dứt hẳn. Ngài Pháp Siêu thường ngày giảng, vẫn nói lời như thế. Chế lại hỏi Pháp sư Tăng Biện, lại khai mở dẫn dắt thế nào?
Pháp sư Tăng Biện đáp: Tăng Biện từ trước đến nay đã giải thích đại ý cũng chẳng khác Pháp Siêu. Nhưng giáo có sâu có cạn, tùy giai cấp mà dẫn dắt chúng sinh. Nếu luận về cho ăn ba món tịnh nhục, lý đúng là có tội, nhưng giáo chưa cùng tột, do đó mới cho như vậy.
Chế lại hỏi Pháp sư Bảo Độ: Lại khai mở dẫn dắt thế nào?
Bảo Độ đáp: Ngu Đoãn đã giải thích chỉ là Tiệm giáo, do đó văn luật cho ăn ba món tịnh nhục. Như kinh Niết-bàn rốt ráo nói chánh lý là không cho ăn thịt. Nếu người lợi căn đối với lời dạy ba thứ tịnh nhục này liền hiểu được đều không ăn, kẻ độn căn mới đợi lời dạy sau.
Chế lại hỏi Pháp sư Pháp Siêu: Lời đáp trước là ý ngoài văn, nếu theo văn luật thì phán thế nào?
Pháp Siêu đáp: Thường ngày giải nghĩa chỉ nói như lời đã đáp ở trước.
Chế lại hỏi Pháp sư Tăng Biện: Ý có giống như Pháp sư Pháp Siêu hay không?
Tăng Biện đáp: Giống như sự giải thích của Pháp Siêu.
Chế lại hỏi Pháp sư Pháp Siêu: Từ trước đến nay giải thích luật, các Pháp sư có ăn thịt hay không?
Pháp Siêu đáp: Chẳng biết người khác thế nào, còn riêng Pháp Siêu từ trước đến nay không ăn thịt. Chế lại hỏi Pháp sư Tăng Biện: Ngài thì thế nào?
Tăng Biện đáp: Xưa thường không ăn thịt. Vào tuổi trung niên bị bệnh có khi tạm khai.
Chế lại hỏi Pháp sư Bảo Độ: Ngài thế nào?
Bảo Độ đáp: Trước ở chùa Định Lâm, sau dời đến chùa Quang Trạch, hai nơi này chưa hề ăn thịt. Còn ở nơi khác vì bệnh tật cũng không khỏi khai.
Lại hỏi: Khi giảng luật có ăn thịt không? Đáp: Khi giảng phải có đồ chúng, trong đồ chúng thì không dám.
Hỏi: Không dám có hai nghĩa: Không dám ăn hay không dám chẳng ăn.
Chế lại hỏi Pháp sư Tăng Biện: Thường ngày khi giảng luật, cho phép đồ chúng ăn thịt hay không cho ăn. Nếu không cho ăn thịt mà có người ăn thì đuổi ra khỏi. Nếu cho ăn thì nói thế nào?
Đáp: Nếu giải thích theo giáo thì không hoàn toàn nói không cho ăn, nếu luận về ý kia thì không hề khai cho.
Hỏi: Nay chánh hỏi: Khi nói về giáo là có cho ăn hay không? Đáp: Theo giáo thì không ngăn.
Hỏi: Không ngăn là có cho ăn hay không? Đáp: Dẫn lý trước thì cho được ăn ba thứ tịnh nhục.
Hỏi: Thấy giết cũng có thể không thấy, nghe giết cũng có thể không nghe, nghi vì sao được khỏi?
Đáp: Nếu thấy nhân duyên không nên nghi. Nghe nhân duyên cũng không nên nghi, chỉ gặp mới được nghi.
Hỏi: Đem tiền mua thịt cá, là nghi hay không nghi? Đáp: Như trong lý thì lý từ nghi này.
Hỏi: Không được cho là trong lý thấy? Đáp: Nếu nói theo lý thì chúng Tăng không nên ra chợ mua cá thịt.
Hỏi: Nay chỗ hỏi trong sự là có nghi hay không? Đáp: Nếu theo giáo thì không nghi.
Hỏi: Người ở chợ vì ai mà giết?
Đáp: Vì người mua mà giết, nhưng người mua không tác tưởng.
Hỏi: Người mua thịt, người này đã không mê loạn, đâu được chẳng biết đây vì người mua mà giết mà không tác tưởng.
Đáp: Lúc đó khởi thịt hiện chết.
Hỏi: Tự chết gọi là chết hay là giết khởi tâm giết?
Đáp: Ý này là nói theo lý, nói theo giáo chỉ được như thế.
Hỏi: Pháp sư đã vì người giảng nói, vì người dẫn dắt, vì người thành pháp, vì sao chỉ nói được như vậy? Chỉ hỏi tác ý khiến người mua tác ý là sao? Đáp: Khi mua tác ý là tự nó chết.
Hỏi: Nếu tự nó chết thì khắp nơi, lẽ ra có trong chùa cũng có tự chết, vì sao đến nhà đồ tể mua thịt? Đáp: Theo lý thì rõ ràng là nghi.
Hỏi: Theo lý rõ ràng là nghi, vì sao được không nghi ăn thịt. Tăng Biện không trả lời câu hỏi này.
Chế lại hỏi: Thịt này tác ý là mùi vị thịt hay mùi vị rau? Tăng Biện đáp: Vẫn tác ý mùi vị thịt.
Hỏi: Đây là tâm từ bi ăn thịt hay tâm không từ bi ăn thịt. Đáp: Đây không phải là tâm từ bi.
Hỏi: Nếu không phải tâm từ bi thì đâu được không giết ư? Đáp: Y cứ về lý thì không được, y cứ về sự nên nói như vậy. Hỏi: Luật và giáo có muốn giúp người xuất ly không?
Đáp: Giúp cho người xuất ly. Hỏi: Ăn thịt có được xuất ly không? Đáp: Không được.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao lại cho ăn thịt?
Đáp: Vì người hạnh thấp kém mà nói để dẫn dắt khiến cho họ lần lần hiểu rõ.
Hỏi: Vì người thọ giới Cụ túc mà nói hay vì người không giảng nói cụ túc mà nói?
Đáp: Vì người thọ giới Cụ túc mà nói.
Hỏi: Đã vì người thọ giới Cụ túc mà nói, không vì kẻ đồng môn mà nói. Vì sao khiến người ăn thịt để dẫn kia khiến cho hiểu rõ?
Đáp: Sơ giáo như vậy, không phải cực giáo. Hỏi: Vì sao, Sơ giáo dạy người thọ giới Cụ túc? Đáp: Chỗ giải thích của Tăng Biện chính từ đây. Chế lại hỏi: Luật và giáo khởi lúc nào?
Tăng Biện đáp: Khởi được tám năm rồi, sau đó mới có kinh Niết-bàn.
Hỏi: Như kinh Niết-bàn này có nói đoạn trừ việc ăn thịt. Kinh Lăng-già có nói đoạn ăn thịt. Kinh Ương-quật-ma-la cũng có nói đoạn ăn thịt, kinh Đại Vân, kinh Phược Tượng đều có nói đoạn ăn thịt, còn như kinh Niết-bàn sao không có việc đoạn ăn thịt.
Đáp: Luật nối tiếp sơ giáo, do đó nói như vậy. Hỏi: Trong luật đã nói rằng nối tiếp sơ giáo cho đến thời Niết-bàn. Đã đến thời Niết-bàn lẽ ra có nói đoạn ăn thịt?
Đáp: Nếu nghiêng về chế giáo, đây là tiếp tục sơ giáo chung với năm thời, không nói tất cả đều đồng. Tăng Biện giải thích chính đồng như thế.
Hỏi: Pháp sư đã là một bậc Đại luật sư vì chúng khai thị dẫn dắt. Ngày nay đại chúng y cứ theo sự phân biệt của Pháp sư, không được nói đều như thế. Đều như thế cũng không được trụ, không đều như thế cũng không được trụ. Chỉ hỏi đây có phải luật do Ưu-ba-ly kết tập hay không?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Ưu-ba-ly đã đích thân có mặt ở đó vì sao văn luật không có đoạn việc ăn thịt.
Đáp: Đây là nối tiếp cận giáo ở trước.
Hỏi: Nếu tiếp cận giáo thì cận giáo cũng chẳng nói ăn thịt. Hơn nữa, trước khi Phật nhập Niết-bàn, Ca-diếp đã trì giới tu hành không ăn thịt. Nếu Pháp luật khác đây thì chẳng phải luật do Ưu-ba-ly kết tập mà là luật của Dị Bộ, vì sao đem ra giảng nói để giáo hóa chúng Tăng.
Tăng Biện làm thinh không trả lời.
Chế lại hỏi Pháp sư Bảo Độ: Đã nói đồng đức đồng hạnh vì sao giải thích lời này?
Bảo Độ đáp: Như các việc trong luật thì do Ưuba-ly thuật lại; các việc trong kinh là do A-nan thuật lại.
Hỏi: Nếu như vậy thì việc trong luật đều không nêu việc trong kinh sao?
Đáp: Việc trong kinh có dính mắc (có liên quan) với luật, việc trong luật có liên quan với kinh.
Hỏi: Khi Phật nói kinh có chỗ chế ước, liền ghi chép để làm luật, chỗ nào liên quan đến luật, nếu kinh đều liên quan đến luật thì Phật nói kinh lẽ ra phải sau khi nói luật?
Đáp: Chỉ nói trong kinh có chỗ nói giới. Ngu tôi cho rằng có liên quan với nhau.
Hỏi: Nếu nói có liên quan với nhau, vì sao ba tạng không hề liên quan nhau. Trong Tu-đa-la (kinh) cũng có Tỳ-ni (luật) và Tỳ-đàm (luận). Trong Tỳ-ni cũng có Tu-đa-la và Tỳ-đàm. Trong Tỳ-đàm cũng có Tu-đa-la và Tỳ-ni. Không nói nghĩa như vậy, chỉ hỏi Pháp sư luật giảng hôm nay là luật do Ưu-ba-ly nói lại không trái với kinh chăng?
Đáp: Luật tôi giảng ngày nay là do Ưu-ba-ly nói lại, không trái với kinh.
Hỏi: Nếu luật này do Ưu-ba-ly nói lại không trái với kinh thì nghĩa đoạn ăn thịt chẳng khác kinh Niết-bàn?
Đáp: Kinh Niết-bàn nói về việc đoạn ăn thịt, văn luật tuy không nói nhưng ý của Ưu-ba-ly không hề khai cho ăn thịt.
Hỏi: Luật đã là Cụ giáo, Ưu-ba-ly đã không khai cho ăn thịt, trong luật vì sao được không có văn này. Nay Pháp sư giải rất tấn thối. Chỉ có thể vì Sa-di và thức Xoa-ma-na trong chùa mà nói, không được dùng lời này để trả lời đệ tử.
Bảo Độ tôi giải thích chỉ cùng tột ở đây. Chế lại hỏi: Các luật sư hạ tòa, làm sao giải thích?
Đạo Ân chùa Long Quang đáp: Văn luật không đoạn, kinh Niết-bàn mới đoạn việc ăn thịt. Hỏi: Luật Pháp sư đã giảng là luật của ai? Đáp: Luật của Phật.
Hỏi: Chỗ dẫn thật cùng tột rộng lớn, nhưng chưa biết luật này có phải luật do Ưu-ba-ly thuật lại hay không?
Đáp: Chính Ưu-ba-ly đã cung kính nói lại luật của Phật.
Hỏi: Ưu-ba-ly có kiết tập hết tất cả các thời
Phật nói hay không? Đáp: Kết tập bốn thời trước, không kết tập thời Niết-bàn.
Hỏi: Nếu như vậy thì Ca-diếp được nói lời của A-nan, Phật nói pháp chỗ nào, đến thời Niết-bàn kết tập Tạng Tu-đa-la (Tạng kinh). Nói lời Ưu-baly, Phật nói pháp chỗ nào, đến thời Niết-bàn kết tập tạng Tỳ-ni (Tạng luật). Vì sao được nói chỉ kết tập bốn thời trước, không kết tập thời Niết-bàn?
Đáp: Thời Niết-bàn không chế giới.
Hỏi: Kinh Niết-bàn nói: Người ăn thịt đoạn hạt giống đại từ, ta từ hôm nay cấm các đệ tử không được ăn tất cả thịt, tất cả đều đoạn trừ cho đến tự nó chết cũng không được ăn, đây là giới hay chẳng phải giới?
Ngài Đạo An làm thinh không trả lời.
Chế lại hỏi: Các Luận sư đích thân tự giảng luật, các Đại Pháp sư đều giảng kinh Đại Niết-bàn, Vì sao có lúc nói bỏ ăn chay. Vậy "ăn chay" là nghĩa gì? Nếu không bỏ là chay, bỏ thì không chay. Nếu chay khiến được không chay thì giới là tịnh cũng có thể khiến tịnh trở thành bất tịnh chăng? Các kinh Luật sư đã đích thân nói trái với giáo này. Sách ngoài nói rằng: Tự vượt bức tường thấp, thầm phân biệt thư pháp, chính là nghĩa này. Ngài Pháp Sủng ở chùa Tuyên Vũ đáp: Đóng cửa dơ uế gọi là tố; mở cửa dơ uế gọi là không tố. Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao chúng Tăng mở cửa dơ uế?
Đáp: Thật ra không nên mở nhưng vì tham dục tình sâu nên mới như vậy.
Hỏi: Thế nào là sám hối?
Đáp: Thành khẩn dốc lòng là sám hối, người năng sám hối là bậc Đại trượng phu.
Hỏi: Các người học có tức thời sám hối chăng? Như đệ tử thỉnh Pháp sư động đến số ngàn. Đạo sư dạy phải sám hối. Lúc đó, các Pháp sư có sám hối không?
Đáp: Sao được không sám hối.
Hỏi: Nếu sám hối rồi, ra khỏi chùa ăn thịt được không?
Đáp: Rõ ràng là không được, nhưng trong đó có không nói nhiều, hoặc cũng không khỏi ăn lại.
Hỏi: Ra khỏi chùa lại ăn thịt, như vậy thì người này giống như người mới phạm hay sao, phạm tội nhẹ hay tội nặng?
Đáp: Một loại.
Hỏi: Vì sao một loại. Ban đầu đã ăn, sau đã đối trước Phật phát lời thệ, lại ăn trở lại, vì sao một loại?
Đáp: Lúc đầu, người không biết hổ thẹn, sau người đó biết hổ thẹn, chính được hơn lúc đầu.
Hỏi: Nếu như vậy, trước nói hổ thẹn thống đã người trước, mà nói ta hổ thẹn với ngươi, ta đánh ngươi, ta hổ thẹn với ngươi, ta ăn ngươi thì sao?
Đáp: Như người đại tà kiến không biết hổ thẹn. Đã không biết hổ thẹn cho nên biết hổ thẹn với người mà không biết thẹn với chính mình.
Hỏi: Trước nói biết hổ thẹn mà còn ăn thịt, đây là biết mà cố phạm, không gọi là người biết hổ thẹn. Nếu lúc trước không biết hoặc lỗi lầm, sau mới khởi tâm hổ thẹn mới là người biết hổ thẹn. Há chẳng phải biết mà cố phạm, tội kia lớn đối với người không biết. Lại biết hổ thẹn không được phạm tội nặng mà kia phạm tội nặng, đây là trái phá sơ tâm, luận này là tội do đó càng lớn.
Đáp: Kinh có văn giới, Kỳ Bà nói rằng: Ông có tâm biết hổ thẹn cho nên tội sẽ diệt, biết hổ thẹn tức là pháp thanh bạch.
Hỏi: Pháp sư được ý kinh mà nói hay không được ý kinh mà nói. Nếu tạo tội rồi sau mới biết hổ thẹn, đây là Bạch pháp. Không nói ban đầu có tâm biết hổ thẹn mà cố tạo tội cho là Bạch pháp.
Đáp: Kinh lại nói biết hổ thẹn là Thượng phục, nếu như vậy thì có nghĩa chẳng phải Thượng phục. Hỏi: Nghĩa cũng như vậy, nếu khi tạo tội, tuy nói là biết hổ thẹn nhưng không hề có lợi ích. Nếu gây ra tội rồi, sau sinh tâm biết hổ thẹn, chính là Thượng phục.
Ngài Pháp Sủng làm thinh không trả lời.
Pháp Sủng trả lời xong rồi. Ba vị Luật sư đều hạ tòa. Lại ra chiếu chỉ chùa Thỉ Hưng ngài Cảnh Du thăng tòa đọc kinh Lăng-già, kinh Ương-quậtma-la chỗ nói về đoạn ăn thịt. Văn kinh này chép như dưới đây: Kinh Đại Niết-bàn, phẩm "Tứ Tướng" thứ bảy. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Đức Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Người ăn thịt không nên thí thịt. Vì sao? Vì con thấy người không ăn thịt có công đức lớn".
Phật khen Ca-diếp: Lành thay! Lành thay! Nay ông khéo biết được ý ta. Bồ-tát hộ pháp phải nên như vậy. Này thiện nam! Từ ngày nay bắt đầu không cho đệ tử Thanh văn ăn thịt. Nếu khi nhận đàn việt cúng thí thì nên quán tưởng món ăn này như thịt con mình.
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Vì sao Đức Như Lai không cho ăn thịt"? Này thiện nam! Người ăn thịt làm dứt mất hạt giống đại Từ.
Ca-diếp lại bạch: Vì sao Đức Như Lai trước đây cho phép Tỳ-kheo ăn ba thứ tịnh nhục?
Này Ca-diếp! Ba món tịnh nhục này tùy sự mà tạm chế. Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Vì sao mười thứ thịt bất tịnh cho đến chín thứ thịt thanh tịnh lại không cho phép ăn"?
Đức Phật bảo Ca-diếp: Cũng do sự mà thứ lớp chế, phải biết đây tức là hiện nghĩa dứt ăn thịt.
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng:
"Bạch Đức Như Lai! Vì sao Đức Như Lai khen ngợi cá, thịt là món ăn ngon ư?"
Này thiện nam! Ta không nói cá và thịt thuộc món ăn ngon, ta nói các thứ như mía, gạo tẻ, thạch mật, tất cả các thứ lúa mạch và hắc thạch, mật, sữa, lạc, tô, dầu là thức ăn ngon. Tuy nói cho chứa các thứ y phục, nhưng được chứa cốt yếu là y hoại sắc, huống chi tham đắm mùi vị thịt, cá này.
Ca-diếp lại bạch: Nếu Đức Như Lai chế không được ăn thịt. Như vậy năm thứ như: Sữa, tương, bơ sống, bơ chín và dầu mè v.v... và các thứ y phục: Y Kiều-xa-da, Kha cụ, da, vàng bạc, thau bồn, các vật như vậy cũng không nên thọ?
Này thiện nam! Không nên đồng với sự thấy biết của Ni-càn. Đức Như Lai đã chế tất cả giới cấm đều có ý khác, vì thế cho phép ăn ba tịnh nhục. Dị tưởng vì sao tất cả đều dứt cho đến tự chết?
Này Ca-diếp! Từ ngày nay ta chế các đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt.
Này Ca-diếp! Người ăn thịt, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, tất cả chúng sinh nghe mùi kia đều sinh sợ sệt, thí như có người đã gần sư tử rồi, mọi người thấy người đó nghe mùi hôi của sư tử cũng sinh tâm sợ sệt.
Này thiện nam! Như người ăn tỏi có mùi hôi đáng ghét, người khác gặp người đó nghe mùi hôi bèn bỏ đi. Như người từ xa thấy còn không muốn gặp huống chi là gần. Người ăn thịt cũng vậy, tất cả chúng sinh nghe mùi thịt kia đều sợ sệt sinh ý tưởng sợ chết, các loài vật ở dưới nước, trên bờ, trên hư không đều bỏ chạy, hoặc cho rằng người này là kẻ thù của ta. Vì thế cho nên Bồ-tát không ăn thịt vì độ chúng sinh mà thị hiện ăn thịt, tuy thị hiện ăn thịt mà thật ra không ăn.
Này thiện nam! Bồ-tát thức ăn thanh tịnh như vậy mà còn không ăn, huống chi là thường ăn thịt.
Này thiện nam! Sau khi ta nhập Niết-bàn vô lượng trăm năm, bậc Thánh khắp nơi đều nhập Niết-bàn, sau khi chánh pháp diệt, ở đời tượng pháp sẽ có Tỳ-kheo dường như trì luật nhưng ít đọc tụng kinh, tham đắm việc ăn uống, nuôi lớn thân mình. Y phục của những vị đó thô xấu, nhơ bẩn, hình sắc tiều tụy không có oai đức, chăn nuôi trâu dê, lo việc củi lửa, tóc, râu, móng đều dài và bén tuy đắp cà sa mà giống như thợ săn. Đi chậm rãi mắt nhìn xuống giống như mèo rình chuột, thường nói rằng ta là La-hán, bị nhiều bệnh khổ, nằm ngủ như đống phân dơ uế. Ngoài hiện tướng hiền lành, bên trong có tâm tham lam ganh ghét, như thọ pháp câm của Bà-la-môn v.v... Thật chẳng phải Sa-môn mà hiện tướng như Sa-môn, tà kiến lẫy lừng chê bai chánh pháp. Những người như này đã phá hoại, giới luật, chánh hạnh oai nghi, quả giải thoát, lìa pháp bất tịnh Như Lai đã chế. Và hoại giáo pháp bí mật sâu xa của Như Lai, đều tự tùy ý nói trái với kinh luật, như nói rằng: Đức Như Lai đều cho phép chúng ta ăn thịt, từ sinh ra luận này nói là Phật nói, xen nhau tranh tụng đều tự xưng là Sa-môn Thích tử.
Này thiện nam! Lúc bấy giờ lại có các Sa-môn chứa để ngũ cốc sống, thọ nhận cá thịt, tay tự làm ăn, cầm nắm bình dầu, lọng báu, giày dép, gần gũi quốc vương, đại thần, trưởng giả, xem tướng tinh tú, chuyên tu y đạo. Chứa nuôi tôi tớ, vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, pha lê, trân châu, san hô, hổ phách, ngọc bích, kha cụ, các món hoa quả, học các kỹ nghệ, thợ vẽ, tạo các sách dạy học, trồng các loại cây, trùng đạo chú huyễn, hòa hợp các thứ thuốc, ca xướng kỹ nhạc, hương hoa trang sức thân thể, đánh cờ bạc, học các công xảo. Nếu các Tỳ-kheo lìa được việc xấu này, phải nói người này thật là đệ tử ta.
Bấy giờ, Ca-diếp lại bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di vì người khác mà sống. Nếu khi khất thực được thức ăn có lẫn thịt thì làm cách nào để được thức ăn thanh tịnh?
Phật dạy: Này Ca-diếp! Phải dùng nước rửa và để riêng thịt ra, rồi mới được ăn. Nếu bình bát đựng thức ăn bị dơ uế thì phải rửa sạch không còn mùi vị, cho phép dùng không có tội. Nếu thấy trong thức ăn có nhiều thịt thì không nên thọ, tất cả thịt đều không nên thọ, ăn sẽ phạm tội.
Nay ta chế dứt trừ ăn thịt, nếu nói rộng thì không thể hết được.
Thời Niết-bàn đến, đây là nói lược.
Đây gọi là có thể tùy hỏi đáp kinh Lăng-già, kinh A-bạt-đà-la, quyển thứ tư nói rằng:
"Các vị Bồ-tát kia,
Chí cầu được Phật đạo
Dùng rượu, thịt và hành
Uống ăn vậy thì sao?
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi rằng:
Cúi xin Đấng Vô thượng
Thương xót mà giảng nói
Kẻ ngu thường tham đắm
Dơ uế không thể nói
Các cọp sói ham thích
Làm sao có thể ăn
Ăn sẽ sinh các tội
Không ăn được phước lành
Xin nói cho con nghe
Tội, phước ăn và không".
Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ xong rồi, lại bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn vì con nói công đức và tội ác của việc ăn thịt và không ăn thịt. Con và các Bồ-tát ở đời hiện tại và vị lai sẽ có những sự hy vọng phân biệt nói pháp về việc ăn thịt chúng sinh. Khiến cho chúng sinh có tâm từ bi với nhau. Được tâm từ bi rồi đều ở chỗ thanh tịnh trong sáng, mau thành Vô thượng Bồ-đề. Thanh văn, Duyên giác ở quả vị của mình (Tiểu thừa) dừng nghỉ rồi cũng mau thành Vô thượng Bồ-đề. Luận pháp tà ác, các bọn ngoại đạo, tà kiến đoạn thường điên đảo chấp trước còn có pháp ngăn ngừa không cho ăn thịt. Huống chi Đức Thế Tôn trụ ở đời cứu giúp cho chánh pháp thành tựu mà ăn thịt hay sao?
Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó ta sẽ nói cho ông nghe.
Đại Tuệ bạch Phật: Dạ vâng, con xin thọ giáo.
Đức Phật bảo Đại Tuệ: Có vô lượng nhân duyên, không nên ăn thịt, nhưng nay ta sẽ lược nói cho ông nghe.
Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay nhân duyên xoay vần thường làm lục thân quyến thuộc của ta. Do khởi tưởng là lục thân quyến thuộc vì thế không nên ăn. Các thứ thịt như thịt lừa, loa, lạc đà, hồ, chó, dê, ngựa, loài thú v.v... đồ tể bán xen lẫn, cho nên không được ăn thịt. Khí lực sinh trưởng cho nên không được ăn thịt. Chúng sinh nghe mùi đều sinh sợ hãi như Chiên-đà-la và Đàm-bà v.v... loài chó thấy kinh sợ sủa vang vì thế không nên ăn thịt. Lại khiến cho người tu hành tâm từ bi không lớn lên, vì thế không nên ăn thịt. Khiến các chú thuật không thành tựu vì thế không nên ăn thịt. Người ấy ăn thịt chư Thiên thấy bỏ đi, vì thế không nên ăn thịt. Khiến cho miệng hôi dơ vì thế không nên ăn thịt. Khi ngủ nhiều ác mộng vì thế không nên ăn thịt. Trong rừng núi vắng vẻ cọp sói nghe hơi, vì thế không nên ăn thịt. Khiến cho ăn uống chẳng điều độ, vì thế không nên ăn thịt. Khiến người tu hành không sinh tâm nhàm chán, lìa vì thế không nên ăn thịt.
Ta cũng thường nói: Khi ăn uống nên tưởng là thịt con mình, tưởng như uống thuốc, vì thế không nên ăn thịt, cho phép ăn thịt thì không có việc ấy.
Lại nữa, này Đại Tuệ! Vào thời quá khứ có một vị vua hiệu là Sư Tử Tô-đà-bà, thường ăn các thứ thịt cho đến ăn cả thịt người. Thần dân không chịu được bèn âm mưu làm phản, dứt bổng lộc kia. Do vì ăn thịt có lỗi như vậy, vì thế không nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Người sát sinh là vì tài lợi cho nên sát sinh mua bán. Những người ngu si kia ăn thịt chúng sinh, dùng tiền mua dùng lưới bắt để được các thứ thịt. Người sát sinh kia, hoặc dùng tài vật hoặc dùng lưới, câu bắt chúng sinh bay trên hư không, lội dưới nước, đi trên bờ, các thứ sát hại mua bán cầu lợi.
Này Đại Tuệ! Cũng không đâu chẳng giết, không cầu, không tưởng mà có cá thịt, vì nghĩa này nên không được ăn thịt.
Này Đại Tuệ! Ta có lúc nói ngăn năm thứ thịt, hoặc chế mười thứ. Nay đối kinh này trong tất cả món, tất cả thời khai trừ phương tiện tất cả đều dứt.
Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác còn không ăn huống gì là ăn thịt, cũng không dạy người ăn. Dùng tâm đại bi trước khi thực hành, thấy tất cả chúng sinh như con một, do đó không bảo ăn thịt con mình. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này bằng bài kệ rằng:
"Tất cả đều thân thuộc
Dơ uế lẫn bất tịnh
Bất tịnh chỗ lớn lên
Nghe mùi đều sợ sệt
Tất cả thịt và hành
Cùng hẹ tỏi vân vân
Các phóng dật, uống rượu
Tu hành thường xa lìa
Cũng thường lìa dầu mè
Và các giường thủng lỗ
Do các loài trùng nhỏ
Ở trong đó rất sợ
Uống ăn sinh buông lung
Buông lung sinh các giác
Từ giác sinh tham dục
Vì thế không nên ăn
Do ăn sinh tham dục
Tham khiến tâm mê say
Mê say thêm ái dục
Sinh tử không giải thoát
Vì lợi giết chúng sinh
Dùng tiền mua các thịt
Cả hai là nghiệp ác
Chết đọa ngục Khiêu Hô
Nếu không giết, tưởng cầu
Không cò ba tịnh nhục
kia không đâu chẳng có
Vì thế không nên ăn
Các người tu hành kia
Do đây đều xa lìa
Mười phương Phật Thế Tôn
Tất cả đều quở trách
Triển chuyển ăn lẫn nhau
Chết đọa loài cọp sói
Dơ uế đáng chán ghét
Sinh ra thường ngu si
Sinh dòng Chiên-đà-la
Thợ săn và Đàm-bà
Hoặc sinh Đà-di-nê
Và các loài ăn thịt
La-sát và mèo, cáo
Sinh khắp ở trong đó
Phược Tượng và Đại Vân
Ương-quật-lợi-ma-la
Và kinh Lăng-nghiêm này
Ta đều chế dứt thịt
Chư Phật và Bồ-tát
Đều quở trách Thanh văn
Ăn rồi không hổ thẹn
Đời đời thường si ám
Trước nói thấy nghe nghi
Đã đoạn tất cả thịt
Vọng tưởng không giác biết
Nên sinh chỗ ăn thịt
Như lỗi tham dục kia
Chướng ngại Thánh giải thoát
Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi
Đều làm chướng Thánh đạo
Chúng sinh đời vị lai
Nói ăn thịt ngu si
Nói đây tịnh không tội
Phật cho ta được ăn
Tưởng đây như uống thuốc
Cũng như ăn thịt con
Biết đủ sinh nhàm lìa
Tu hành đi khất thực
An trụ tâm từ bi
Ta thường nói nhàm lìa
Các thú dữ cọp sói
Thường có thể dạo đi
Ăn thịt tanh máu huyết
Chúng sinh đều sợ sệt
Vì thế người tu hành
Tâm từ không ăn thịt
Ăn thịt không từ bi
Thường trái chánh giải thoát
Và trái lời Phật dạy
Vì thế không nên ăn
Được sinh dòng Phạm Chí
Và các chỗ tu hành
Trí tuệ, nhà giàu có
Đây do không ăn thịt".
Kinh Ương-quật-ma-la quyển thứ nhất nói rằng:
Thượng tòa Ca-diếp, bỏ các món ăn ngon, bỏ mùi vị thịt, thọ trì tu hành không ăn thịt.
Kinh Ương-quật-ma-la quyển thứ hai nói: Vănthù-sư-lợi bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nhân Như Lai Tạng cho nên chư Phật không ăn thịt ư?
Đức Phật nói: Đúng vậy. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ sinh tử, đời đời luân chuyển không ai chẳng phải là cha mẹ, anh em, chị em. Dụ như cô đào hát thay đổi vô thường. Thịt của mình, thịt của người là một thứ, vì thế cho nên chư Phật đều không ăn thịt.
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế giới của tất cả chúng sinh và thế giới của ta là một thế giới. Thịt đã ăn tức là một thứ thịt. Vì thế chư Phật đều không ăn thịt.
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Kha cụ, lạp mật, da, vải lụa không phải thịt cõi mình ư?
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: Chớ nói lời này, Như Lai xa lìa tất cả thế gian. Như Lai không ăn. Nếu nói tập cận thế gian thì không có việc này. Nếu tập cận là pháp phương tiện. Nếu vật triển chuyển thì hãy tập cận. Nếu chỗ xuất xứ của vật thì không thể tập cận. Nếu triển chuyển lìa sát thì tay nên tập cận.
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: Trong thành này có một loại da, thợ có thể làm giày, giày này có người mua cúng cho, đây là triển chuyển đến, Đức Phật có cho thọ không?
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu trâu tự chết, người chủ có trâu từ dòng Chiên-đà-la giao da cho thợ, thợ làm thành giày da cúng dường người trì giới, đây là tranh chấp đến, có thể tập cận không?
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Nếu trâu tự chết, chủ có trâu đem da làm giày da cúng dường người trì giới, có được nhận không? Nếu không thọ là Tỳ-kheo đúng pháp, nếu thọ là người không có lòng Từ bi, nhưng không phá giới.
Xướng kinh rồi, chế lại hỏi các Tăng đạo, các vị Tiểu tăng xem kinh chưa khắp xen nhau nói không dứt ăn thịt. Ngày nay, kinh này nói gì? Sở dĩ xướng văn giày da, bổn ý chính không phải ở đây. Chính là ngày 23 Pháp sư Pháp Vân giảng kinh Niết-bàn dứt ăn thịt. Lúc đó, tăng chính là Tuệ Siêu, Pháp Sủng nạn rằng: Nếu văn kinh rốt ráo đoạn tất cả thịt, cho đến tự chết cũng không được ăn, đây là đồng Ni-kiền đoạn giày da, không được mang giày da. Nếu khai giày da được mang giày da cũng nên khai cho ăn thịt. Pháp sư Pháp Vân đã giải thích chung mà hai Pháp sư ý bắt bẻ không rõ. Lúc đó, tự nói: Nếu bậc Thánh tự không dùng vật đắt, như đi đường cũng không dùng. Nếu dùng đều là người đi đường. Do đó không đồng Ni-kiền đã nói. Nếu làng không có gai góc cũng có khai cho mang giày da, làng có gai góc nhưng người cò lòng đại từ thật cũng không nên mang. Việc này và việc ăn thịt không được xem đồng loại. Nếu mang một đôi giày da trải qua thời gian thật lâu không hư hoại, nếu ăn thịt chúng sinh thì cứ một lần ăn liền hại vô lượng thân mạng, huống chi thường ngày hay ăn số kia đến hằng sa, cũng không thể được dùng giày da để gồm việc đoạn trừ ăn thịt.
Lúc bấy giờ, các vị Tăng không còn qua lại, sợ các Tiểu tăng chấp cho là nghi sẽ thành tệ lớn do đó xướng văn không được nhận giày da này. Chính là muốn giải thích một chỗ nghi, không liên quan đến điều chế giới. Nếu người ăn thịt là tội chướng lớn. Văn kinh nói: Xưa làm cha mẹ thân thuộc với chúng sinh, sao chúng Tăng không suy nghĩ, lại còn ăn thịt chúng sinh. Đã không thể bỏ thân để giúp cho cọp đói, cắt thịt cứu chim bồ câu, sao lại ăn thịt thân phần của nó. Các vị Tăng và Pháp sư thống lãnh đồ chúng, các vị Ni và thống lãnh đồ chúng đều trở về bổn tự, tuyên bố cho các vị Tăng Ni nhỏ biết rõ ý này.
Chế nói lời này rồi, Tăng Ni hành đạo, lễ bái, sám hối. Thiết hội xuất tội.
Tối đó, lại ban chiếu chỉ cho quan Viên ngoại Tán kỵ, Thường Thị Thái tử, Tả Vệ Suất Châu xả rằng: Ngài Pháp Sủng đã nói hổ thẹn không ăn thịt chúng sinh. Trong kinh này nói La-sát phụ nữ rằng: Ta nghĩ đến ngươi, ta ăn thịt ngươi, tâm này của Pháp Sủng tức La-sát trong kinh.
Lại sắc chỉ xả rằng: Ngài Tăng Biện đã nói thịt chúng sinh tự chết. Nếu nói như vậy thì các loài như chim cú, quạ, tu hú ở chỗ không chết, ở kia không thấy có một con tự chết. Nai, trĩ đầy đồng trống hoặc lưới đầm cũng không có một con tự chết, mà tìm thịt của chết lại đến nhà đồ tể giết, tìm cá chết thì đến chỗ giăng lưới. Nếu không có người sát sinh thì đâu có tự chết.
Kinh nói: Mua thịt cùng tự sát tội này là một. Ta vốn không tự làm, chính là các Tăng Ni khởi nhân duyên lìa khổ.
Lại sắc chỉ xả rằng: Chúng sinh sở dĩ không thể sát sinh vì nếu một chúng sinh có đủ tám vạn hộ trùng. Trong kinh cũng nói tám mươi ức vạn hộ trùng. Nếu đoạn một mạng chúng sinh tức đoạn tám vạn mạng hộ trùng.
Chúng sinh tự chết lại không thể ăn vì số hộ trùng trước tuy đã diệt hết nhưng hộ trùng sau thì rất nhiều. Hoặc nấu hoặc nướng, đây là đoạn hộ trùng đều không phục mạng, chỉ ngon một chút ở đầu lưỡi mà hại vô lượng chúng sinh. Trong đó, loại trùng nhỏ không thể dùng nhục nhãn mà thấy được, loại trùng lớn thì thấy. Dứt tâm Từ bi tăng trưởng ác độc. Đó thật chẳng phải việc nên làm của Sa-môn Thích Tử.
Lại ra sắc chỉ xả rằng: Chúng Tăng ăn thịt tội nặng hơn người tại gia, người tại gia ăn thịt không khỏi đọa địa ngục nhưng chỉ là một tội, còn như chúng Tăng ăn thịt đã phạm tánh giới lại tổn thương giới luật. Do đây mà nói có hai thứ tội nặng:
1-Nếu là chúng Tăng học vấn ăn thịt, đây là nghiệp ác lại gấp bội trước. Sở dĩ như vậy là vì đã thông suốt kinh giáo, là người giảng nói, miệng nói từ bi mà tâm thì nghĩ việc độc hại. Chẳng phải là người không biết, biết mà cố phạm, lời nói và việc làm trái nhau tức thành dối trá gian xảo. 2-Nếu người học vấn ăn thịt thì có ba tội nặng. Do đó quý chỗ giải nghĩa, chính là đúng như lời nói tu hành, lại ăn cá thịt, tàn ác với sinh loại, thành ác trí thức khởi các oán đối, đọa địa ngục mau đến chỗ gươm giáo. Thiện ác báo ứng chắc chắn không mất. Nếu là người xuất gia thật phải nên suy nghĩ kỹ càng.
Lại ra sắc chỉ rằng: Hàng Thanh văn thọ giới luật nghi, bổn chế bảy chi thân miệng. Sau khi thọ, cho đến khi ngủ say v.v... luật nghi thường sinh, niệm niệm được chưa từng có luật nghi. Sở dĩ như vậy là vì ngủ không khởi tâm ác nên không tổn không mất, cho đến bình sinh, nếu khởi tâm muốn sát, đối với pháp Thanh văn tuy không mất giới thân và miệng nhưng đối với giới có tổn, không chỉ tổn giới bất sát mà còn dơ uế các giới khác. Đến như tay gắp, răng cắn động thân miệng nghiệp thì mất giới thân và miệng. Lúc đó, luật nghi không làm tức đoạn không nối nhau. Đã mất giới bất sát mà còn ô uế giới khác. Sở dĩ như vậy Chiên-đà-la khi giết hại sinh vật để có thịt là vì người nào mà giết, chính vì người ăn mà giết. Nếu ăn thịt thì có phần trong việc giết hại. Đối với giới bất sát không hề thiếu, đây là luật nghi bất thiện người trì tám giới quan trai, đây là luật nghi ác vẫn còn nối nhau. Nếu luật nghi ác người trì tám giới quan trai, luật nghi ác không nối nhau. Đây là biết luật nghi thiện người thọ các phần sát, giới bất sát này tức thời liền thiếu giới biệt giải thoát, lại không giải thoát. Luật nghi ác người bất luận giữ tám giới, hễ khởi một niệm lành, tâm luật nghi ác liền đoạn. Nếu một niệm không đoạn, nhiều niệm lẽ ra cũng không đoạn. Nếu nhiều niệm dứt này là biết khi một niệm đoạn, người luật nghi thiện việc kia cũng vậy. Bất luận thọ các phần sát, có chút ít phần sát thì luật nghi bất sát tức thời cũng vậy. Bồ-tát giữ tâm giới vì thế tự mình không có lý ăn thịt chúng sinh, nếu thiếu giới Thanh văn thì không khỏi các khổ địa ngục.
Đời Đại Đường, chùa Tây Minh, Sa-môn Thích Đạo Tuyên soạn.
Chúng sinh sở dĩ bị lưu chuyển trong biển sinh tử lâu dài là bởi không có thuyền giới đức. Nếu nương thuyền giới, dùng cây chèo từ bi mà không thể vượt sóng gió đến được bờ kia thì không có lý việc ấy.
Vì thế, chánh giáo tuy nhiều nhưng cùng một giới làm hạnh bổn, đâu chẳng phải do giới này. Đây là do ban đầu khởi đạo, ý là trước biết môn này. Đối các tâm cảnh so đo suy lường tướng trạng kia như thế nào?
Vì thế luận nói: Người thọ giới từ bi làm việc chính. Đối với tam thiên đại thiên thế giới muôn ức mặt trời, mặt trăng cho đến trời Phi tưởng, dưới đến địa ngục vô gián, chỗ nào có các loài chúng sinh đều khởi tâm từ không làm việc sát hại. Hoặc trọn một cuộc đời hoặc cho đến khi thành Phật, thời gian lâu xa, cùng khắp pháp giới, một niệm lành này công đầy cả hư không, đức kia khó lường, chỉ có Phật mới biết được chừng mé đó. Không sát sinh cũng vậy, các nghiệp khác cũng vậy. Do giới đức này nên có thể xa rộng, do đó trên trời dưới đất u hiển Thánh hiền đâu không nương theo duyên này làm nền tảng. Trong kinh không nói sao? Giới như đại địa, sinh thành trụ trì. Có tâm phát, đây là sinh. Tư lương Thánh đạo đây là giới. Pháp kéo dài sáu muôn, đây là trụ. Bảo nhậm ba nghiệp này là trì. Các pháp lành khác bởi thiếu công này, có nhập môn này thì gọi là Thánh chủng, trái với đây vọng lập gọi là phàm lưu, chìm đắm lâu ngày trong biển khổ không có ngày ra. Từ khi pháp truyền đến Đông Hạ hơn một ngàn năm, ở Ngụy Gia, Bình Phương nghe giới pháp, từ đó đến nay đạo tục lưu truyền. Nhưng bậc Đại thánh giáo hóa biết căn cơ cho nên khiến hiến chương của tục sĩ có đủ có thiếu, luật nghi của Đạo nhân có tiểu có đại. Do đó, năm giới, tám giới tùy lượng chế khai, đối cảnh không sai. Giới khoa ước phân ở lực dụng kia. Đây gọi là giáo hóa dắt dẫn thế tục, không thể nhất định thời gian nhân duyên kia. Xuất gia thì y cứ đạo khác với tục lưu, đầy đủ thời gian nhân duyên không khai giai cấp. Tuy địa vị phân ra đại tiểu, hai môn học y cứ theo hạnh đều đồng thượng hạ. Năm chúng y cứ về lỗi, phẩm loại có khác nhau. Kết chánh đồng giữ một giới. Giới là răn nhắc, thường ngự ở tâm. Giữ sự thanh tín nghe những điều đáng nghe. Vì thế nhiếp nêu có bốn, biết có người phụng pháp.
Triều đại nhà Lương, Hoằng Minh Tập giới công thiên lục. Quảng Hoằng Minh Tập, giới công thiên lục.
Đời Tấn, Sa-môn Thích Tuệ Viễn và sách của Lưu Di Dân Đời Lương, Nguyên Đế và các sách của Tiêu Ti Nghị.
Đời Lương, văn chọn lựa và sách của Tương Đông. Đời Trần, Luật sư Đàm Viện và sách của Triều Sĩ.
Đời Trần, Sa-môn Thích Tuệ Tân và sách của Luật sư Đàm Viện.
Đời Tùy, sách của Dương Đế và Trí Giả Khải
Thiền sư. Đời Tùy, văn thọ giới Bồ-tát của Dương Đế
Đời Tùy, Trí Giả Đại sư và sách của Dương Đế. Cuối đời Đường, ở Nam Sơn, Thích Thị gồm lược Tề văn tuyên pháp môn tịnh hạnh.
Thích Tuệ Viễn và các sách của ẩn sĩ Lưu Di Dân. Đời Tấn, non Lô Sơn, Thích Tuệ Viễn.
Lưu Di Dân ở Bành Thành, vào niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, trừ hai huyện Tuyên Xương và Sài Tang, thẳng đến Lô Sơn Linh Thúy. Cứ thẳng đến không trở lại, gặp Sa-môn Thích Tuệ Viễn rất khâm phục. Đinh Mẫu Ưu bỏ chức vào núi, bèn có ý chí. Ở phía Bắc Tây Lâm Nhàn, riêng lập thiền phóng, dưỡng chí nhàn cư, an bần không buôn bán lợi lạc. Lúc đó, kẻ sĩ nhàn thối khinh cử mà học tập, như Tông Yên, Trương Dã, Chu Tục và đồ đệ của thứ tông, đều có mặt ở hội. Di Dân và các bậc Hiền du xứ nghiên cứu lý nhiệm mầu. Thường ngày, Tuệ Viễn có gửi thư nói thường nghiên cứu sự việc đã qua, lưu tâm sách ở đời, cho là hoa uyển năm đó. Và gặp Lão, Trang, biết danh số là hư đàm biến mà thôi. Nay quán thì biết đường trầm minh, đâu được không dùng lý Phật làm đầu. Nếu hội Hữu tông thì trăm nhà đồng đến, vua dân đều là đệ tử của Như Lai. Sách danh thần phủ là đã lâu ngày, luống chứa hưng thịnh hoài viễn mà thiếu tư lương nhân tịch, do đó mà nhiều năm, há có thể khuyên túc tâm kia ư? Ý cho rằng sáu ngày trai, phải lựa dứt tuyệt việc thường ngày, chuyên tâm cửa thiền, nhưng dốc tình vào bến gởi, kế đời sau sâu xa. Nếu nhiễm văn hàn chuyết, có thể nương gá ở đây. Không nói sinh vào chỗ không đủ, nhưng chẳng nói không do ưa thích lý chỉ, nhân dụ người tài giỏi, cũng nào hẳn xa gởi người xưa. Đối đây, đạo tục sơn cư ngày thêm gắng sức, Di Dân siêng năng dốc chí, giữ đủ giới cấm, Tông Yên, Trương Dã v.v... không sánh kịp. Chuyên niệm thiền tọa mới được nửa năm, trong định thấy Phật. Đi trên đường thấy tượng Phật trên hư không hiện ánh sáng chiếu cả trời đất đều màu vàng. Lại đắp ca-sa tắm trong ao. Xuất định liền thỉnh Tăng tụng kinh, nguyện mau bỏ thân này, ở trong núi mười lăm năm, tự biết ngày mất, giã biệt chúng, đều không bị bệnh khổ. Đến giờ qua đời ngồi ngay thẳng, mặt hướng về phía Tây, thu tay khí tuyệt, năm đó được năm mươi bảy tuổi.
Trước làm đốc chung răn rằng "Hoàng phủ Mật Di Luân Bội Hiếu Kinh". Nêu bày không quên hiếu đạo. Bởi dường như có ý hành sự tiểu nhi. Ngay đất làm mộ, chớ dùng quan quách. Tử Ung làm theo, Chu Tục chi… Xây thất thứ lớp, đều có phương tích. Như chỗ khác nói.
Có nghe: Viên quang bảy thước chiếu đến mây trân châu, diệu môn năm màu suốt đến đất san hô, hóa thành đất vàng. Đoạt nước đẹp biến đồng kha tuyết cao màu huyền sương. Há không có căn cơ thì cảm, cảm thì liền thông. Có thần thì có trí, có trí thì quyết đoạn. Vì thế, lầu Ngọc bích thăng đường chưa dễ, điện tử cám nhập thất là khó. Cần phải có tín căn trong năm căn, vì căn tin làm đầu. Bố thí độ trong sáu độ, vì bố thí là trước hết. Cho nên có thể xả tài theo tín, bỏ có theo không, theo đây mà bàn, có thể biết. Thầm cho rằng điềm tốt phóng quang, đều tưởng mười ngày. Theo đuổi sự sâu xa của Thuấn, hình nơi ngũ thức. Lòng thành hớn hở, kết ở hưng tẩm, hơi giác biết chín mùi của chữ thập, ngửi mùi thức ăn ngon ở đâu. Vị ngũ đảnh từ giã yến tiệc. Táo, canh, lân bô không nghe tiếng nói kia. Sữa dê đỏ tươi đâu đủ, khốn khổ vì rượu thịt, chưa bằng lỗi không ăn. Ốc sò lên thớt, đâu kịp rau mùa xuân làm sạch. Muốn ba ngày trai tịnh, tự diễn chí nhung nhất trung mà thôi. Tự có gạo như ngọc duệ làm loại hình cọp. Rau cần ở Vân Mộng, rong biển ở Liêu Đông. Mười cân lê, ngàn cây quít. Măng xanh, gừng đỏ, gỗ lật rắn chắc, sương táo, vừa miệng, no bụng không tố không hoạch. Nước tám công đức đều nhập pháp lưu. Tứ vương đều đến mở mang đạo pháp, đồng chí làm bạn, há không thạnh ư. Tiêu dịch sớ.
Tối ngày 18, ở tỉnh Cáp Ngoại Hoa Lâm, được thư ngày mùng một tháng chín. Thậm úy huyện tưởng, tiết mùa thu trong mát như thường. Châu sự nhiều không đủ lao nhọc, khí hào lương không khác hằng ngày. Vui vẻ khi có việc vui. Du sĩ văn tân so được bàn thưởng, rốt cuộc theo nhau đâu có ngày nào gần. Chu Hán công phu chuyển có thứ lớp, suy nghĩ thấy sách này có nói sự đói khát kia. Tôi trông mong thọ giới cấm của Bồ-tát, dự bị Đại sĩ. Ngày 12 liền sám hối ở Đông Thành. Sáng sớm ngày 17 vào Bảo Vân. Cửa ngọc chiếu, mặt trời đỏ chói, rồng nhổ sương. Hồng tuyền gồm bày, hoa sen xanh thơm ngát, pháp lữ thành đoàn, núi vàng khắp tòa, thân tâm khoái lạc được chưa từng có.
Sáng hôm qua pháp hội ở pháp hội Bình Đẳng, giữa sau không ngại thọ trì. Thiên nghi lâm tịch, tối dung thân chứng, bái phục tuy nhiều, lao nhọc mau hết.
Khi thế đảnh tâm đây đặc chí, miệng thân tự gặp đều muốn rơi rụng không ngại lời bàn Mã Viện di sắc, không từ lời ứng, sự chê cười của Xích Á. Tăng tấn điển nghị chẳng khác ngày xưa. Cuối ngày hỏi Tấn, đâu bằng Tử Lộ. Tìm thủ danh, danh là nhân lý. Hoàng tình ấn khả nay liền phụng hành.
Đàm Viện ở chùa Quang Trạch bạch rằng: Bậc chí nhân thùy hối đều hướng đến cơ quyền, vì thế ngoài thì lấp ba ngàn ước sự, trong thì trình bày tám vạn luật nghi. Thật là khuôn phép dạy dỗ, dị môn không ở dâu chẳng răn bảo, Khổng Tử định các hình phạt để trị cấm kẻ gian cừu. Thích-ca lập pháp yết-ma để diệt hết các Tỳ-kheo trái pháp. Hai vị Thánh giáo riêng có chỗ còn. Bỗng thấy Tăng Ni có việc thường đến Công Phủ. Vả lại, trong ngoài khác nhau, khoa liệt khác nhau, hoặc trong luật thì khinh ngoài chế thành trọng, hoặc trong pháp thì trong ngoài lại là khinh. Phàm tình hoặc muốn lợi mình thì bỏ trọng bên trong mà theo khinh bên ngoài. Hoặc muốn hại người khác thì bỏ nặng nhẹ mà y theo trọng ngoài. Chẳng những ô uế thời tể mà còn trái với lý chế. Hạnh thuộc linh công khuôn bật. Xã tắc hòa âm dương, chèo thuyền Đại thừa giữ vững Tam bảo, xa gần hướng phong trắng đen đều vui. Bần đạo thiểm cư tăng lệ, tìm tu Tỳ-ni. Lụy hoạch Tăng tào tống sự phỏng luật, quyết tìm giới luật của Phật, nước thì có hiến chương. Tăng đồ tranh chấp, chưa xét kỹ y theo chiết đoán nào. Kính gửi vãng điệp, vâng phụng hoàn chỉ, ngõ hầu thành ước pháp thường để vâng theo. Thích Đàm Viện trình.
Tuệ Tân kính lễ
Trộm nghe tìm thầy muôn ngày dùng lễ thấy biết, mà tân phục chưa sâu, quá mong đón tiếp. Xưa Trưu Dương Thượng Thư, có khả năng dẫn làm thượng dung. Đời Tống, Ngọc Trần Phú thưởng nơi Lương Sơn. Vả lại, Khương Tăng Hội đến đất Ngô có khả năng làm sư biểu, Ma Đằng vào đất Hán, hạnh hợp luật nghi ư? Vì thế, phải biết đạo nhờ người mở mang thì đức không cô lập. Nay tham học xưa đều chẳng phải trường hợp kia.
Đâu thể trống rỗng tôn sùng linh thiêng, ngồi yên Long Ốc. Đó là tiếng tăm vang xa, khen vượt thân biểu. Nhưng pháp luân ban đầu khởi, thỉnh nghiệp như mây, chẳng phải bốn biển đồng phong tục, thiên hạ kính mến nghĩa, bèn khiến cho bạn đội hòm sách từ xa, kẻ sĩ quy nhân nối gót lại nghi. Hoa âm trở thành chợ, đâu từng có đủ. Giơ tay áo như tám màn, đâu được riêng cao đời trước. Huống chi lại mở mang môn ban đầu thiền định, mở đèn đuốc trí tuệ. Lòng tin thật có thể nghiêng sông ngã biển, giảng nói không cùng. Ban đầu đến, tàn phá thành vàng, đời sau bẻ dẹp răng bén, có thể gọi là huân tu giới thiện, có thể khiến cho Thập địa anh lạc giữ gìn thân hạnh, thì khiến tám món chánh đạo trang nghiêm thật đẹp, Thánh phàm hòa hợp u hiển. Gia thêm sự ưa thích hoài diên nắm dùi, siêng năng lấy lửa đom đóm lưu mạch. Hoặc mổ bụng con ve để tìm hạt châu, đào sông tìm của báu. Nhưng Tuệ Tân một hạt cải cũng chẳng thấy, trong ngoài không nghe. Học dứt huyền chung, nói tạm tán phân. Đồng như loại cây Trắc trực lan. Loại cây kiêm gia lầm cho là cây Ngọc mới biết mênh mông sâu rộng, không đợi giọt châu. Hoa nhạc khung sùng đâu đợi ngọc du trần. Thí như chim Phượng mùa thu như cây cối mùa xuân kia. Lá rơi không dự trăm cành, rụng một sợi lông nào có quan hệ đến sáu cánh. Chánh là nói thân danh ngưỡng ủy, gặp việc không biết giải quyết, khư khư giữ thành dụ như mặt trời sáng. Không để ý ba bên, mà có bốn bang nhiều lũy. Khiến cho khuy tán giảng đình thỉnh ích thành phế nói lời buồn bã, cố gắng bày hết. Chỗ trông mong khó thanh tịnh, chướng trừ lại thúc giục thọ lãnh, không nhậm luyến kết. Hành Di chỉ thừa, Tuệ Tân kính lễ.
Thư đến luống trả lời, bởi sự bùi ngùi, tôi học sơ sài không có chuẩn đích. Trung gian tuy có giảng thuyết nhưng khác nào lấy ống dòm trời, đâu đáng làm khuôn phép cho kẻ hậu lai nối gót bậc hiền triết. Bởi thân bệnh hoạn ốm gầy nhờ môn nhân dẫn đi. Một sư thạnh nghiệp, bỏ phế không truyền. Tuổi năm mươi bỗng chốc đã đến, đêm dài lo âu buồn bã nào thôi. Chưa có việc tốt, ngày càng áp tốt nhau. Bèn cho là bãi lão, lại tự cố gắng. Như Pháp sư số tử vốn xuất danh gia. Tài nay lại được lợi, quyết muốn nghiên cứu luận bộ, nhậm trì luật tạng, mới làm món đồ tốt, ngày thấy tuyệt trần. Lại có Hải biểu ký Tăng Tụ Trung khai sĩ, đều học Vô Thường sư, không xa mà đến hỏi học vấn, đủ gọi là vui một thời. Bất ý hồ binh phạm tất lỗ mã ẩm giang tháp miếu đốt như các Tỳ-kheo nghĩa học bị chôn sống. Ngay ngày đó Kinh Hoa Cố Lão không bàn, lại đến thăm nơi sâu xa, khiến sự dạy dỗ kia bỏ phế lâu ngày không tiếp tục, làm sao cho là dạy dỗ người. Vì thế trong miệng mọc gai góc, chất Thư hoàng (chất hóa học A2Z3) bỏ vào lưỡi. Nấu nước mà tìm nước, chưa đủ để làm thí dụ. Đứng lâu sẽ được nhìn gần, mới trình bày điều nghi. Viện bạch.
Đệ tử vốn thường chứa nhóm việc lành, sinh trưởng ở Hoàng gia. Đình huấn sớm đến, di giáo sớm thấm nhuần. Phước lộc vội đến, diệu cơ đốn ngộ. Hổ thẹn Tiểu thừa gập ghềnh, trông mong Đại thừa an nhàn. Chê sự dừng nghỉ ở hóa thành, nguyện chèo thuyền đến bờ kia. Khai sĩ muôn hạnh giới thiện làm đầu. Bồ-tát mười thọ, chuyên trì là trước nhất. Dụ như xây dựng cung, thất trước tiên phải có nền móng, nếu luống làm trên hư không thì không bao giờ thành. Khổng Tử, Lão Tử, Thích-ca đều làm khuôn mẫu. Không có khuôn phép nghi thức thì ai kính ngưỡng. Thật phục năng nhân xưng làm Hòa thượng, Văn Thù làm Xà-lê. Nương nhân sư hiển truyền Thánh trao. Từ gần xa có cảm thì liền thông, ba côn khánh tủy nơi vô kiệt, Thiện Tài quên thân ở pháp giới, kinh có văn rõ ràng, không luống ức thuyết. Tin sâu lời Phật, hạnh tôn thời đạo. Thiền sư Phật pháp long tượng, giới châu viên tịnh, nước định lóng trong. Do định phát tuệ, đâu được ngại nói. Trước vật sau mình, nắm lấy thành gió, tiếng tăm ở xa nghe, mọi người đều biết. Đệ tử sở dĩ kiền thành diêu chú, thân xa kính ngưỡng. Thường lo duyên sai khác, gặp các chướng nạn. Cũng đã đến dừng tâm lộ bày sáng tỏ. Vạch mây mù bao phủ phiền não. Vào ngày, tháng, năm, ở Kim Thành Dương Châu lập hội gồm một ngàn vị tăng, kính thuyết giảng giới Bồ-tát. Giới gọi là hiếu. Phương tiện trí độ quy tông, phụng kính rất trang nghiêm.
Lòng từ của Đức Như Lai cùng khắp. Chư Phật thương xót, xem bốn loài sinh giống như con một v.v... Đã thuyết giảng rồi, liền nêu pháp danh, Minh Đế làm Bồ-tát Tổng trì.
Vua đảnh thọ rồi, bạch rằng: Đại sư Thiền Tuệ nội dung đạo cho là Pháp Trạch, có thể phụng danh là Trí Giả, đây là đồng hiệu với đời Lương, Pháp sư Cao Cử Ước.
Thiền sư Thiên Thai Trí Giả gởi thư cho Dương Đế văn rườm rà không chép, có đủ trong soạn tục Cao Tăng Truyện.
Tịnh Trụ là Lưu Thượng kia. Phương pháp noi theo Pháp vương khai hóa dẫn dắt. Gồm nhiếp chúng sinh có lòng tin thành việc cứu giúp. Đây là chánh pháp tồn tại hay bị mai một đều do sự tin ưa và hủy báng. Thần dụng sáng tối hoàn toàn nhờ năng lực biếng nhác và siêng năng. Khai mở Luân vương hưng vận sáng lập đầu tiên có kiếp. Pháp chủ khai lập bắt đầu nơi trược hoặc kia là sao ư? Bởi lý do này. Lòng tin do thật thà kết nơi tâm kính cẩn, vì thế khiến cho cơ cảm tôn quý ở thấy nghe. Từ khi giáo pháp lưu truyền đến Trung Quốc hơn sáu trăm năm, đạo tục kính ngưỡng dấu vết khả kính kia, còn như biết căn cơ minh lược khi mở mang cứu giúp. Truyền thanh quy ở Di lê, dẫn dắt thành khuôn phép với người có lòng tin, văn này ở đây có thể làm Tông Cảnh.
Xưa Nam Tề, Tư Đồ Cánh Lăng, Vương Văn, Tuyên Công, Tiêu Tử Lương kính ngưỡng đạo Phật, thâm đạt giáo lý, chú thích kinh luận, đâu được từ lý, trừ tà đạo mở mang chánh luật, rộng truyền Nhất thừa khen ngợi bảy chúng. Đời gọi là bút hải, thời hiệu Trí Sơn, hoặc cảm mộng Độc tôn, càng khen ngợi Thiên vương, hoặc thầm trao kinh bối, truyền tinh hoa thần độ, noi theo đức nan, rõ ràng từ cửa cung.
Đời Tề, niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ tám, cảm mộng ở thế giới Phổ Quang ở Phương Đông, Thiên vương Như Lai lập pháp môn Tịnh trụ tịnh hạnh. Do kia giảng diễn, nói Tịnh trụ: là tên khác của Bố tát, Bố tát là tiếng nói của chư Thiên, Tịnh trụ là tiếng nói của loài người, hoặc gọi là Tăng Tấn, cũng gọi là trưởng dưỡng, đạo và tục đều bẩm thọ tu hành. Nghĩa là tịnh thân, miệng, ý đúng theo giới mà trụ, nên gọi là Tịnh trụ.
Tử: Là nghĩa nối tiếp. Do ba quy y, bảy chúng chế ngự tình trần, gốc lành thêm lớn, nối thạnh hạt giống Phật, nên gọi là Tịnh trụ tử.
Nói "pháp môn Tịnh trụ": Nhờ các nghiệp thanh tịnh, do đó giáo hóa ở đời, rõ được các pháp môn, nên có tánh tướng khác nhau. Đầu tiên ở hoài duyên, cuối cùng nơi tuyệt bút. Qua bảy tuần lễ, hai hòm kinh đều rõ, khai mở rộng lớn nhóm họp nhiều vị tài giỏi, thân ở nơi tòa bàn các tông phái. Mười chúng tập trung, hoặc đến núi Hoa Âm, bốn bộ kích dương đồng yết kiến hội Linh Sơn, có người nói: Nghe chỗ chưa nghe, thanh tâm lắng nghe, vì thế Giang Biểu Thông Đức thể đạo thừa quyền. Thống nhiếp tập học dùng khai linh phủ. Trần Bình, Tùy Thống giúp đến Quan Hà, Truyền độ không thiếu ở Tạng bộ. Đàn hậu tấn học ít, ý thức mê muội, tiến tu không hề nghiên cứu. Nhậm tình ức đoạn gọi là Ngụy Kinh. Theo nhau xả bỏ, đồ chúng ở đây, thật đáng thương xót. Nay tôi nhàn rỗi, xem xét tổng quát, văn thật tinh hoa, lý tồn gốc tin. Vì thế biết sở học giáo thuyên ngày nay toàn là sư tâm, tâm sao có thể noi theo, một chí như đây. Đây là do luận Trí Độ nói rằng: Sau khi Phật diệt độ, nếu chỗ nào chế thuật mở mang khen ngợi kinh Phật, đều gọi là A-tỳ-đạt-ma, là nhiếp hết mười hai bộ kinh, Thánh giáo rõ quyết, lý bặt khuôn phép. Do người mới học hoặc mê muội chưa có xem đến, lại bao gồm lược thành một quyển. Tóm lược đại khái rõ ràng. Phân biệt trình bày chỗ tốt đẹp, đủ để mở đầu nửa bước cho người sơ tâm, nêu chỗ theo của con cháu. Lại rộng khen nơi chùa chiền, ngõ hầu khiến cho kẻ ngu người trí hiểu biết và có niềm tin bền chắc. Đạo muôn đời khai mở, nền tảng bảy chúng thành lập. Cung kính mà có tín tâm, đây gọi là người Tịnh hạnh. Tôn mà thực hành là không mất mục đích Tịnh trụ. Dặn dò các bạn nên biết ý đó.
Trong chín mươi sáu đạo, đạo Phật là hơn hết, không đâu chẳng phải nghĩa ấy, nếu đặt tên để bày đức, không có đức thì không thể hiển bày danh. Có danh chưa chắc có đức, có đức thì danh không nói suông. Do đây mà biết danh có thật có giả, đức cũng có hư có thật, đâu thể đạo tục xen lẫn và đồng, thầm gọi giả thật mà không phân biệt ư? May thấy giáo khác khuôn phép khác nhau phân đường khác vết, chưa hề không có danh ấy mà thiếu đức ấy.
Không đâu chẳng gọi ấy mà cầu dụng ấy. Đây là biết có danh không có đức là ngoại đạo, có đức có danh là Phật đạo, thí như qua biển phải nhờ thuyền, bước đi phải nhờ đôi chân. Vì thế kinh nói: Trực tâm là đạo tràng vì không luống dối, Phát hạnh là đạo tràng vì có khả năng giải thích sự việc".
Như vậy, bốn thệ nguyện rộng lớn, sáu pháp độ đều gọi là đạo tràng. Nương nhân thù thắng này được quả nhiệm mầu này. Do đó bỏ được những phiền lụy kia, trí Bát-nhã soi chiếu kia. Tướng tốt bày nơi dung mạo kia, pháp thân hiển đức kia. Nói về chí nhân ấy thì ba niệm đều tưởng, nói về tự tại kia thì không sợ độc bộ. Nói về công đức chứa nhóm thì mười Lực làm dụng, tôn kính nhiệm mầu cùng tột kia thì mười tám pháp bất cộng, thần thông phương tiện v.v... vô lượng pháp môn. Thông suốt ba đời, soi chiếu muôn cõi, xuất sắc hiển rõ, anh Thánh siêu quần, vì thế hiệu là Như Lai, mười hiệu đều dần dần. Đã tự giác đối với đêm dài sinh tử, lại tự khởi cho người chưa giác ngộ. Đây có thể gọi là có danh ấy thì đức không đâu chẳng đầy đủ, đủ sự tốt đẹp ấy thì đức không đâu chẳng đủ, vì thế biết hình ngay thì bóng thẳng, âm thanh nhã nhặn thì tiếng vang hòa. Chưa thấy tướng mạo xấu soi gương mà thấy hình đẹp. Thân thấp chiếu Xa-nặc nước mà thấy cao rộng. Sách nói: "Không lên núi chẳng thể biết trời cao, chưa xuống nước thì không biết đất dày. Phàm các nhà dị học như thế đều rơi vào đại đạo của Phật.
Vì thế kinh nói: Thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Xuất thế gian cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vì thế sáu vị giáo chủ ngoại đạo kết thệ kinh hỏi danh Đức Phật. Đức Phật đáp:
"Tối chánh giác tự đắc Không nhiễm tất cả pháp Nhất thiết trí vô úy
Tự nhiên không thầy dạy Độc tôn không ai bằng Tự chứng ở chánh đạo Như Lai: Thiên nhân tôn Nhất thiết trí vô úy".
Nay đều đã biết đức có quy về tà chánh khác đường, thiện ác chia nẻo, phàm thánh cách biệt, may mắn tin lý nhân quả, ngộ lẽ vô thường, thuận trí lưu nhập chánh đạo. Các bậc hiền đều có thể diệu xuyên mà không theo kịp, gặp giao túy mà dần đến, ghét sinh diệt vô cùng, kính mến ngã tịnh thường an vui. Phàm ta đều ngưỡng phong xan hóa, cắt ái từ sự vinh hoa, đâu được không rõ ràng tăng đến, hình mạng tranh nhau? Vì thế thường thanh hòa tánh kia, thương xót loài hữu tình, tâm bình đẳng cứu giúp, dùng pháp ân thí. Không phạm không lấy có cầu không trái, thường hướng về Đại thừa, trong ngoài giúp nhau, đây gọi là đầy đủ pháp môn thanh tịnh.
Tụng rằng:
"Tím thật mờ đỏ
Cuồng tư lạm triết
Sai nẻo khác loài
Phân nguồn tranh chèo
Đẹp đẽ hoặc u
Rõ ràng mỗi thuyết
Nước mạnh sóng trào
Khói hết lửa tắt
Tình đoan luống chung
Lý hướng không tệ
Chẳng có tâm sáng
Ai nối dòng Thánh.
Đức Như Lai thương xót chúng sinh, coi như con một, đâu không dùng phương tiện khéo léo, rộng cứu giúp đến bờ lợi ích ư? Do đó thị hiện thân trượng sáu, nêu bày linh nghi. Tùy phương ứng cảm pháp thân chẳng phải một, và kim thân kia nương thể tướng tốt quang minh, hiển phát chúng sinh ưa thích chiêm ngưỡng. Đi thì cả Đại thiên chấn động, các ma nhiếp phục; đứng thì rỗng đạt định ngoại đạo quy hóa; ngồi thì diễn thuyết Phương Đẳng Thích Phạm; nằm thì khai đạo Nhất thật, ba thừa bẩm đức. Nói thì cứu khổ ba đường; cười thì bốn loài sinh được an vui. Nghe tiếng chứng đạo, thấy hình giải thoát đương thời há không thạnh ư? Người đời nay tuy bẩm tinh linh, hôn mê chướng nặng, tới không thấy khất thực quốc thành, lui không nghe tám âm giải thoát. Bởi tội nghiệp sâu dày, phiền não quá mạnh. Chẳng những sợ không thấy Phật tiền, Phật hậu, Lai Thánh, cận hiền mà thân lo đường ác cũng không do đâu để dứt. Phát được ý này thật có lòng từ bi tha thiết. Vận tưởng như thế không biết khổ đau tâm, há cho thuận mặc sử lưu nơi biển khổ, trầm luân nước sôi, lửa nóng mà không tự cứu? Cần phải mạnh mẽ lẫm liệt, chiết phục tình ý, sinh tâm tăng thượng, sám hối diệt tội, bỏ ác trần lụy, mới có được quy tín. Tự mình không giữ vững ý chí kia, quên bỏ thân mạng, lao nhọc chịu khổ bùi ngùi thương xót, sẽ sợ lửa phiền não đốt cháy không do đâu mà dập tắt được. Vô minh ám chướng chưa có lúc khai mở. Thí như lao ngục trói buộc các khổ mang kìm vàng, đội vòng sắt đánh đập thân kia, máu mủ dơ bẩn khắp thân hình, hôi dơ ràng buộc mà muốn tướng trạng này cầu thấy quốc chủ, quý thần, tuy nhất tâm không biếng nhác, chí thành đã có, sợ lên điện cao, đến Đình ngọc, cũng không do đâu mà có kết quả. Khiến hết lòng muốn thấy là khó. Vì sao? Vì kia đầy đủ tội ác không lìa các sự khổ. Nếu bỏ được gông cùm xiềng xích, giặt sạch y phục dơ uế thì vua không ngại ta tự nhiên hiển hiện, nay muốn quy y kính tin cũng vậy. Muốn thấy được tướng tốt quang minh của Đức Như Lai thì trước phải thanh tịnh thân, miệng, ý, trừ sạch tâm dơ bẩn. Sáu trần ái nhiễm, diệt hẳn không khởi, mười ác trọng chướng sạch hết không còn. Nghiệp lụy đã trừ, trong ngoài đều tịnh mới vận tư tưởng trong sáng nơi giả-duy, nêu tâm thanh tịnh ở cõi báu, bỏ các trần lao nhập vào môn quy tín. Tất nhiên sẽ thấy được pháp thân vô ngại. Như người bị nhốt trong lao ngục thoát khỏi gông cùm xiềng xích tự nhiên thấy vua. Nay ta dứt sạch phiền não cũng sẽ thấy được chư Phật. Nếu không như vậy tuy ân cần chí thiết gấp bội cũng e rằng bị chướng ngại không thông. Há không năm vóc sát đất như núi Thái sơn lở, nhất tâm quy tín không có sự nghi ngờ, kính vì bậc chí tôn Hoàng Thái tử bảy cung điện, Thánh linh, Long Thần tám bộ, tất cả chúng sinh bị khổ, kính lễ tất cả chư Phật trong ba đời mười phương cầu xin sám hối, khi sám hối rồi phải thường thực hành tâm mềm mỏng điều hòa, tâm kham thọ, tâm không buông lung, tâm vắng lặng, tâm chân chánh, tâm không xen lẫn, tâm không xan tham, tâm thù thắng, tâm rộng lớn, tâm từ bi an vui, tâm khéo léo hoan hỷ, tâm độ tất cả, tâm ủng hộ chúng sinh, tâm vô ngã sở, tâm Như Lai. Phát tâm bình đẳng rộng lớn, thù thắng, tốt đẹp như vậy rồi chuyên cầu học rộng tu định lìa dục, giữ giới thanh tịnh, nhớ báo ơn đức, thường ôm lòng vui vẻ không bỏ chúng sinh.
Bài tụng môn quy tín:
Sinh phù mạng ngắn
Thức mê tình trái
Mây nghiệp kết bày
Mặt trời tuệ sáng
Ngoằn ngoèo tu đạo
Đêm tối không về
Lên non Tiểu Lỗ
Biển lớn Nan Nghi
Tìm đá gặp ngọc
Biện gạch biết châu
Mê kia chưa suốt
Không chánh, sao nương?
Ba nghiệp thân, khẩu và ý là đầu của ba họa hoạn, cho nên kinh nói: "Có thân thì khổ sinh, không thân thì khổ diệt".
Đã biết kia là hoạn khổ thì phải khuất phục mà dứt trừ. Mục yếu của việc dứt trừ khổ không gì hơn sám hối. Pháp sám hối trước phải dứt sạch tâm kia, tịnh suy nghĩ kia, hình ngay thì tướng mạo thẳng, thân cung kính, trong tâm nghiêm túc, thì ngoài biểu lộ sự hổ thẹn.
Kinh Thư nói:
"Lễ không đâu chẳng kính Ngạo mạn không thể sinh".
Lại nói: Có lỗi mà sửa đổi, đó gọi là không có lỗi.
Kinh nói: Đối với tất cả chúng sinh cung kính như người thân. Đều tự tỉnh lại lỗi kia, sau mới sám hối. Chúng ta từ vô thỉ cho đến đời nay, do thân và ý tạo các nghiệp khổ, đều duyên ngu si, phần nhiều trái với chí giáo. Bèn kiêu mạn biếng nhác, thân không cung kính, ngồi ngủ buông lung, đi động khinh ngạo, hoặc vào phòng tăng, hoặc lên điện đường, lễ bái chung quanh, thân không cung kính. Hoặc đối trước cha mẹ, sư trưởng, bậc thượng trung hạ tòa, thiện hữu tri thức ăn mặc không đàng hoàng, hành động trái pháp, không lễ mà nhìn, trái với thể chế. Hoặc lấy trộm tài vật của Tam bảo và tất cả vật của thân thuộc và của người khác tịch thu cưỡng đoạt, dối trá tăng giảm, không nhân lấn hiếp. Hoặc dâm dật buông lung, không thời không xứ, bất kể cầm thú, không tránh thân tộc. Hoặc tạo tội ngũ nghịch nước sôi lửa đốt, công kích hầm hố, gia độc kẻ vô tội. Hoặc cắt mũi, chặt chân, cắt tai, tra khảo bằng roi, chặt bắn. Tổn thương chém chặt, mổ xẻ tàn độc. Mổ xẻ thui nướng, nấu chín các tội như thế hoặc vì dâm dục, hoặc vì tài lợi, hoặc vì tham lam keo bẩn, hoặc vì si ngã, không thẹn với hiền ngu không hổ với Thánh đạt. Nay suy nghĩ tội lỗi này như bóng theo hình, sợ sệt hổ thẹn, xót thương sám hối đau khổ, sám hối rồi, nếu có người làm hại thì từ này trở đi làm bạn lành chân thật, đời đời cùng nhau dùng phép chỉ bày sám hối. Nguyện chư Phật mười phương che chở nhiếp niệm. Sám hối thân nghiệp rồi, chướng không hề tạo nữa. Kế sám hối khẩu nghiệp, đây là cửa của khổ hoạn, là đầu mối tai họa.
Kinh Thư nói: "Một lời nói có thể làm cho nước nhà hưng thịnh, một lời nói có thể mất nước".
Lại nói: "Lời nói và việc làm là then chốt của người quân tử.
Then chốt nếu phát ra là đứng đầu của sự vinh nhục".
Kinh nói: Không được nói lời chia rẽ, lời ác, nói dối, nói thêu dệt. Nói lời nịnh hót, hoa mỹ, châm chọc xảo quyệt, vì thế lời nói có họa hoạn chuốt lấy quả báo thật nặng, rộng như trong "kinh Tự ái" có nêu bày nghiệp tướng này.
Lại như kinh nói: Có Nhân duyên mất mạng còn không nói dối, huống chi cười giỡn châm chọc xảo quyệt thị phi. Phải thường dùng tâm ngay thẳng sám hối khẩu nghiệp. Kế sám hối ý nghiệp, ý là căn bản của thân và miệng, là cửa của tội phước.
Kinh Thư nói: Xét bảy tình, vụ bảy suy nghĩ, suy nghĩ không tà vạy thì hành động sẽ chân chánh.
Bảy tình là: Ái, nộ, ưu, cụ, tắng, ai, ác.
Chín suy nghĩ: Thị tư; Minh thính tư; Thông sắc tư; Ôn mạo tư; Cung ngôn tư; Trung sự tư; Kính nghi tư; Vấn phẫn tư; Nan kiến lợi tư. Đây đều là trừ bỏ tà, thực hành chánh.
Kinh nói: Không được sân nhuế, ngu si, tà kiến, vì thế mà biết muôn điều ác đều do tâm tạo. Vì sao biết như vậy? Vì nếu mắt duyên thì tâm khởi. Cho nên miệng phát lời ác, lời là do ý hiển, liền hành động mà phạm tội nặng. Nay muốn giảm lời nói kia, chánh thân kia, không bằng trước trừ tâm kia, kế bẻ dẹp ý kia. Vì thế trong kinh nói: "Chú tâm vào một chỗ có việc gì mà không làm được". Tâm đã hội vào đạo, thân lỗi không ngăn cấm mà dứt, lỗi của miệng không ngăn mà diệt. Nhưng thân nghiệp và khẩu nghiệp thô có thể ức chế, còn ý nghiệp sâu kín tế khó biết được hết.
Rộng như trong các kinh có nói về tướng trạng kia.
Bài tụng về sám hối ba nghiệp:
"Vui do sinh diệt
Họa toàn do thân
Nghiệp giúp ý gây
Sự nương lời nói
Lợi suy đều nhờ
Vinh nhục ràng buộc
Yến, ký không bước
Châu giai đồ tuyên
Hoặc đoan phong tự
Cảnh ái tinh huyền
Không siêng nhất chí
Đâu lên tứ thiền.
Kinh nói: Tội không có tướng nhất định, tùy nhân duyên gây ra, đã do nhân duyên sinh thì nay cũng theo nhân duyên diệt. Trước đã sám hối tội trọng ác kia rồi thì ba nghiệp đều trong sạch. Lại muốn trang nghiêm tướng mạo nhan sắc thì sáu căn phải thanh tịnh. Đồng biết rằng tâm sai sử các thức. Cũng như vua sai sử các quan, vì thế Kinh Thư nói: "Người quân tử kinh sợ? Như sáu ngựa của vua mục nát". Nói kia sợ kính ngự vật không bằng quên mình. Nghiệm việc này hiểu rõ ràng, đều do muôn cảnh um tùm cảm phát trong ngoài, nương gá lẫn nhau tiếp nhận tâm thức, vì thế trong kinh nói: "Nếu vua chánh thì sáu thần không tà". Phải biết hổ thẹn chế ngự căn thức. Như phẩm tâm ý trong kinh Pháp Cú nói rằng: Xưa có đạo nhân học đạo bên bờ sông, chỉ nghĩ sáu trần không hề thôi dứt. Có một con rùa từ dưới sông ngoi lên, con chó định cắn rùa, rùa liền rút đầu, đuôi và bốn chân vào trong mai rùa. Thấy không thể cắn được rùa, chó liền bỏ đi, rùa liền bơi vào sông lại.
Đạo nhân do biết ta không bằng rùa, buông lung sáu căn không biết sự chết đến, luân chuyển trong năm đường đều do ý căn, vì thế phải nói chung tội nghiệp của sáu căn.
Ta từ vô thỉ đến nay, nhãn căn nhân duyên tùy theo các sắc. Thấy việc tốt đẹp không thể tu học, thấy nghiệp bất thiện thuận làm theo. Hai mắt này thanh tịnh rất ít, thấy sắc không biết hổ thẹn, không thấy sắc thì Hiền thánh thần thông phương tiện tác dụng, tuy có hai mắt mà giống như mù, đây là điều đáng hổ thẹn thứ nhất.
Ta từ vô thỉ đến nay, nhĩ căn duyên theo âm thanh bên ngoài. Nghe nói chánh thiện, tín, trung, khuyên, tốt thì không thể tu học, ngược lại còn sinh tức giận. Nghe việc tà ác thì vui vẻ thực hành. Duyên theo nhân này cho nên chỉ nghe tất cả âm thanh bất thiện, không nghe âm thanh bất thiện, không nghe âm thanh chánh pháp thanh tịnh. Chư Phật mười phương thường nói pháp nhiệm mầu, nay ta không nghe thì chẳng khác người điếc, đây là điều đáng hổ thẹn thứ hai.
Ta từ vô thỉ đến nay, nhân duyên tỉ căn nếu nghe mùi hương nhiệm mầu chánh giáo, giới đức thì không ưa nghe, lại sinh ngăn ngại. Còn nghe mùi hương ác dục, tà mị thì tâm sinh ưa thích. Vì nghiệp này nên bị đọa đại địa ngục, sinh ở biên địa, không nghe mùi hương năm phần của Hiền thánh, không nghe mùi hương ba thừa, bốn Nhiếp pháp, khiến cho ta phải bị luân hồi thường cách xa điều lành. Đây là điều đáng hổ thẹn thứ ba.
Ta từ vô thỉ đến nay, nhân duyên thiệt căn gây ra tội rất nhiều, tham đắm mùi vị, bất tịnh nói pháp, mới có tội duyên này thường bị trầm luân trong sinh tử.
Đây là điều đáng hổ thẹn thứ tư.
Ta từ vô thỉ đến nay, thân nghiệp nhân duyên phần nhiều gây ra các tội. Từ nặng đến nhẹ, thêm lớn si ái. Vì nghiệp này nên mắc quả báo thấp hèn, đối với thắng duyên của Phật không do đâu mà nương theo được, đây là điều đáng hổ thẹn thứ năm.
Ta từ vô thỉ đến nay, nhân duyên ý căn gây ra đủ các tội ác. Đến như kinh giáo cứu khổ thì tâm không mong muốn thực hành lại sinh trái nghịch, chống cự, học theo Dị luận, không có chánh tín. Cầu danh cầu lợi tăng trưởng ngã kiến, tà vạy rất nặng, đến khi sắp qua đời mới sám hối lỗi kia, đây là điều đáng hổ thẹn thứ sáu.
Bài tụng về thanh tịnh sáu căn:
"Ngước nhìn tốt đẹp
Nhiễu lương chi khúc
Ngựa mập áo mỏng
Tuệ hy phương lục
Tối tăm riêng sinh
Ngu muội tranh dục
Mạo đãng hồn phù
Thân cam ý xúc
Lanh lẹ nhiếp căn
Giữ gìn trong sáng
Trùng cỏ đều vui
Người sao không gắng".
Xét nhiều kiếp lâu xa đến nay, ba nghiệp ràng buộc, sáu căn mê hoặc, nghiệp ái nhiễm tươi nhuần chìm đắm cho đến nay. Sinh, già, bệnh, chết thật là nỗi khổ lớn. Vì thế trong kinh nói: "Thân này chết lại thọ thân khác, sinh tử vô số, chặt hết cỏ cây trong thiên hạ để làm thẻ đếm cũng không thể tính hết được. Do đó, người thông suốt nhàm chán sinh tử, muốn bay thoát ra ngoài sự ràng buộc này, còn kẻ ngu tham đắm hằng trầm luân trong ngục sinh tử, cho nên phải biết lỗi để dứt bỏ. Như trong kinh Bào Thai có nói: Chúng sinh thọ thai mờ mờ mịt mịt khổ sở phù trần. Ở trong thai mười tháng, bốn mươi hai lần chuyển biến khổ sở tha thiết khó chịu nổi. Ở chỗ hôi dơ bức bách, chật hẹp như ở lao ngục, đói khát lạnh nóng hơn loài quỷ đói. Mẹ ăn no thì bức nghẹt, mẹ đói thì khó chịu. Mẹ ăn thức ăn lạnh thì trong thai lạnh như băng, mẹ ăn thức ăn nóng thì bào thai nóng như lửa. Uống nước nhiều thì thai nhi như ở trong, mẹ đi nhanh thì thai như như bị rơi xuống hang hiểm, mẹ ngồi lâu thì thai nhi như bị đất đè, đứng lâu thì như treo trên nhà. Dưới huân trên yểm, chẳng lúc nào không khổ. Cho đến lúc sắp sinh thì gian nan gấp bội, thân như dao cắt kêu la dữ dội, tuy đủ các sự khổ này nhưng phần nhiều có những sự không hoàn toàn, hoặc một ngày, một trăm ngày, một tháng, mười tháng, hoặc bi hư thai, hoặc khi sinh mẹ con đều chết, phải nghĩ sinh này thật là một nỗi khổ lớn.
Kế, suy nghĩ về nỗi khổ già.
Trong kinh nói: Tuổi già căn suy, hình biến, sắc tàn. Ngồi đứng rất khổ, còn các hành động khác chẳng biết là bao nhiêu.
Kinh Niết-bàn nói: Thí như đèn đuốc nhờ dầu mỡ, nếu dầu hết thì ánh sáng ngọn đèn không còn bao lâu cũng tắt. Con người cũng vậy, chỉ nhờ lúc trai tráng mạnh khỏe, thời mạnh khỏe đó sẽ qua, ngọn đèn già suy đó nào được trụ lâu. Lại như trục xe bị gãy thì không thể dùng lại được, như gặp hoa trong sương người không muốn nhìn.
Lại trong kinh nói: Ngày nay đã qua, mạng sống cũng giảm theo. Như cá thiếu nước nào có vui gì. Phải suy nghĩ già này là một nỗi khổ lớn.
Kế nghĩ về khổ bệnh:
Đều do phong, hàn, lạnh, nóng, ăn uống không tiết độ.
Bốn mùa thay đổi thì nước và đá trái nhau, huống chi thân giả hợp, hình nguy ách này mà trông mong khỏi bốn đại và không thiếu một trăm lẻ một bệnh khổ, đâu thể nào được. Cho đến khổ hoạn, thân tâm phiền não, cầu sống không được, cầu chết không xong, khổ sở một trăm điều, lo phiền tự chịu. Chỗ phần tiểu hôi dơ thì vợ con không ưa, hình hài không đứng vững thì người bên cạnh tỏ vẻ bất bình. Huống chi thân mình bệnh hoạn ai chịu đỡ dìu, vì thế kinh nói: Cha từ con hiếu đến lúc bệnh chết cũng không thể cứu nhau được, đây là lời nói chí lý, thật là một nỗi khổ lớn. Kế là nghĩ về nỗi khổ chết.
Trong kinh nói: Chết là hết. Hơi dứt, thần chết, hình hài tan rã, người vật nhất thống vô sinh bất chung.
Lại trong kinh nói: Sống một mình, chết một mình, thân tự chịu lấy, mờ mờ mịt mịt thấy không có kỳ hạn. Đây là do bậc Thánh nói là thân là khổ hoạn, há lại cho rằng chết rồi lại thọ sinh ư? Qua lại năm đường lao nhọc tinh thần của ta, thệ dứt gốc tham lam, tuyệt gốc sinh tử kia. Vì thế, nỗi khổ của sự chết thật do thân này. Đức Như Lai vì người xuất gia lập lời nói này cũng từ ý này. Bài tụng về sinh, già, bệnh, chết:
"Hoa rậm dễ đổi
Chuối dày không thật.
Tính phát gân thai
Lân quang khế nhật
Lời khen nhị thụ
Mười tọa không nói
Sinh chính là qua
Thông cao tiêu sắt
Túc hóa phiên linh
Từ duyên đọa chất
Phệ tề chê bai
Ta nhiên hà bậc".
Thân là gốc khổ, từ chỗ tạo nghiệp, ở trong sinh tử, lại tăng thêm nghiệp ác không thể sửa đổi, thuận theo lời Phật. Vì thế cho nên phải suy nghĩ tự trách mình.
Trong kinh nói: Thấy lỗi người miệng không được nói. Bản thân mình có lỗi thì nên phát lồ.
Sách chép: Nghe lỗi người như nghe tên của cha mẹ, tai được nghe, miệng không được nói. Lại nói: Người quân tử hiển bày lỗi kia.
Trong kinh nói: Khen việc tốt của người, không nói điều tốt của mình.
Sách chép: Người quân tử khen ngợi điều tốt của người, không bỏ điều tốt kia.
Trong kinh nói: Tha thứ cho mình có thể làm ví dụ; chớ giết, chớ dùng gậy đánh đập.
Sách chép: Điều gì mình không muốn thì đừng đem đến cho người.
Nay trong kinh và trong sách cũng giống nhau. Lời dạy của nội kinh ngoại điển, điều căn bản kia chẳng khác nhau. Chính là âm khác tên khác. Nếu lý trái nghĩa thú thì không cho có sự giống nhau ở đây. Sở dĩ gọi là nội kinh ngoại điển là vốn không phải phân chia, chỉ dùng tâm nêu bày mà nói.
Trong kinh nói: Phật vì chúng sinh nói cách dứt trừ sự mê mờ, dụ như vị thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc.
Sách chép: "Thiên đạo không thân chỉ có lòng nhân là giúp cho". Nếu người xuất gia quán không vô thường, nhàm chán xa lìa sinh tử, thực hành pháp xuất thế đây là nội, trái lại là ngoại. Người tại gia quy y tôn kính Tam bảo, trì giới, tu thiện, vâng hành lễ nghĩa, đây là nội, trái với đây là ngoại. Nay nội ngoại, đạo tục cùng biết xưng nội tốt đẹp là do tâm, gọi ngoại xấu do việc làm, há được không bỏ điều xấu bên ngoài và siêng tu điều tốt bên trong ư? Nếu muốn tu hành trước phải tự khắc phục và tự trách, phải biết cầu tiến là giả danh, thối kiểm là pháp thật. Muốn bước đi ngàn dặm phải giữ gìn đôi chân mà tiến đến. Muốn lên bờ kia phải chứa nhóm trí tuệ, đầy đủ giới mà bước lên. Do đó, người có thể đạt đến kết quả thật do thối kiểm, giác sát, so sánh khinh và trọng, có thể trừ diệt vô minh, dứt tuyệt già chết. Ngu ám diệt thì ánh sáng trí tuệ bừng phát. Bốn tướng dời đổi thì giới đức hiển bày. Vì thế mà biết người thoái lui là khởi đầu của sự tiến tới, người tham lam tiến tới là mầm móng của sự thoái lui. Người cầu mà được là luống dối, thật là ái tình sâu xa cho nên có khổ nguy ách đọa lạc, đây là pháp ngoại. Thoái lui mà được là thật, thì ý không đắm nhiễm, vì thế được vui thường ở Niếtbàn, đây là pháp của Phật đạo. Nay chỉ nên lui sụt không bằng tự trách mình. Nếu quyết chí cầu tiến thì tổn hại cho mình, tổn thương muôn vật, bước lui xem xét lỗi lầm là kia và ta đều lợi. Phải biết quở trách tâm và miệng, đây là con đường tám chánh. Xem xét thân và hành động là con đường giải thoát. Vì thế cho nên như trên khéo tự quở trách thì không điều lành nào mà không quy về. Bài tụng về quở trách tâm hành.
"Nhịn bậc tấn đức
Không dám nhàn rỗi
Xem kẻ tiểu trí
Luống cho mạnh khỏe
Há chẳng thông thuật
Nhỏ vướng bận này
Dù có trọng lìa
Như lửa đom đóm
Nương theo tình trong
Vỗ về vật ngoài
Lưới hễ giăng rồi
Không niệm bay cao".
Quở trách tình còn mê mờ, xét ý chỉ chia rõ ràng, vì thế phải dùng sự để xem xét tâm, xem xét chỗ tu tập, đã biết không bằng lại càng thêm sợ sệt hổ thẹn. Thế nào là xem xét?
-Xét thân này của ta, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng, cho đến một thời, một khắc, một niệm, một khoảnh có bao nhiêu tâm, bao nhiêu hạnh, bao nhiêu điều lành, bao nhiêu việc ác. Có bao nhiêu tâm muốn dứt trừ phiền não. Có bao nhiêu tâm muốn hàng phục ma oán. Có bao nhiêu tâm nhớ nghĩ Tam bảo, bốn đế. Có bao nhiêu tâm khổ không vô thường. Có bao nhiêu tâm báo đáp công ơn cha mẹ. Có bao nhiêu tâm nguyện thay thế chúng sinh chịu khổ. Có bao nhiêu tâm phát tâm đạo nghiệp Bồ-tát. Có bao nhiêu tâm muốn bố thí, trì giới. Có bao nhiêu tâm muốn nhẫn nhục tinh tấn. Có bao nhiêu tâm thiền định, phát trí tuệ. Có bao nhiêu tâm muốn từ bi cứu giúp năm đường. Có bao nhiêu tâm khuyến khích thực hành chỗ có thực hành. Có bao nhiêu tâm muốn tìm cầu giải thích chỗ khó giải thích. Có bao nhiêu tâm chịu khổ kiến lập Phật pháp. Có bao nhiêu tâm muốn thành Phật để hóa độ chúng sinh.
Trên đây đã xem xét về tâm.
Kế lại xem xét về miệng, như thời khắc ở trước. Từ sáng đến nay đã giảng nói bao nhiêu câu nghĩa sâu. Đã đọc tụng bao nhiêu quyển kinh, đã được lý tụng bao nhiêu văn tự. Đã được bao nhiêu lần khen hạnh Bồ-tát, đã được bao nhiêu lần khen ngợi tùy hỷ, đã được bao nhiêu lần hồi hướng phát nguyện. Kế lại xem xét về thân, như thời khắc trên. Từ sáng đến nay đã được bao nhiêu lần thân cung kính lễ Phật bao nhiêu lạy, đã được bao nhiêu lần thân cung kính lễ Pháp, lễ Tăng, đã được bao nhiêu lần làm việc quét tháp, rưới đất. Đã được bao nhiêu lần thắp hương, rải hoa, đốt đèn. Đã được bao nhiêu lần lau chùi sạch bụi nhơ, sắp bày dụng cụ cúng dường. Đã được bao nhiêu lần treo phan trong chùa, chắp tay cúng dường, đã được bao nhiêu lần cung kính nhiễu Phật, bao nhiêu trăm vòng.
Xem xét như vậy, hội lý rất ít mà trái đạo thì rất nhiều, nghiệp bạch tịnh, không đủ để nói mà phiền não chướng nặng đầy dẫy trước mắt, ám ngại chứa nhóm thì giải thoát do đâu mà được. Xem xét như trên, tự mình còn không có công, thì làm sao có thời gian để bàn luận việc tốt xấu của người. Vì thế ba nghiệp phải tự xét trách để biết ta đã làm được bao nhiêu điều lành, bao nhiêu việc ác. Bài tụng về xem xét hành nghiệp:
"Gió tạp xa tít
Lữ tục càng dính
Cạnh văn trong tật
Ai thẹn lỗi tâm
Lại chỉ tình phản
Ba lần xét tâm
Sang nguy nghèo lạm
Bần nhiếp hào xa
Xa hướng sáu tế
Lăng xăng bảy tà
Không rõ ban đầu
Ngựa sổng khó bắt".
Trên đã xem xét các việc đã làm có nhiều sự bỏ bê biếng nhác, do đây mà bốn đại xảy ra trường hợp buông lung biếng nhác. Vì thế quở trách giúp cho kia giác ngộ. Phàm ba cõi rộng xa, sáu đường phức tạp, đâu chẳng do bốn đại giúp nhau mà thành thân này. Nhóm lại thì thân, phân tán thì trở về không. Nhưng tánh của gió và lửa khác nhau, tính chất của đất và nước không giống nhau. Đều xứng phần kia, đều muốn cầu thích hợp. Cầu thích hợp vừa ý không phải là một, do đó trái nghịch dễ động. Vì thế, một đại không điều hòa thì bốn đại đều bệnh. Chợt tăng chợt giảm bệnh nặng tiếp tục sinh. Gió nhẹ đất nặng, nước lạnh lửa nóng xen nhau nóng bức, không có lúc nào được yên. Trong kinh dụ như bốn con rắn, tin đó thật đáng sợ. Lại bốn đại này không hổ không thẹn không ân không nghĩa. Nay ta sợ thân kia không an, do đó mới giúp đỡ cung cấp các nhu cầu cần thiết. Nhưng bốn đại kia, ban đầu không thẹn, do đâu mà biết?
Còn như gió thổi tuyết rơi, mùa đông lạnh lẽo cần có chăn bông, áo lông cừu, mền đắp, nhà ấm. Mùa hạ nóng bức như lửa đốt lại cần vải mỏng, nhà thoáng mát, gió, quạt ngà chiếu nệm. Mùa xuân, mùa thu thời tiết thay đổi, khí hậu mát mẻ dễ chịu lại cần y phục nhẹ nhàng. Cho đến ăn thì món ăn ngọt ngọn quý giá đầy đủ, uống thì nước trái cây, nước mát tùy lúc mà cung cấp, an khổ cầu vui, đây đều là nhu cầu cần thiết của bốn đại mà ta cung cấp không hề chống trái. Bốn đại này cầu xin không hổ thẹn, chẳng biết có không, có thì cung cấp đầy đủ không nhàm chán, không thì ép ngặt khiến cho được, như đói phải ăn không thể tạm thiếu, nếu trái nghịch thì trong lòng âu sầu, ngoài chiến đấu, tăng phát hỏa đại, không biết ta gian khổ, không thông cảm ta thiếu thốn, chỉ muốn tham cầu không có thôi dứt. Đây gọi là không biết hổ, thế nào gọi là không biết thẹn?
- Chỗ cần thiết (nhu cầu) của người không cùng, ta tùy theo mà cung cấp không thiếu. Tuy nhiên lúc thọ không biết hổ thẹn. Ta đã lập trí hết mưu để tìm cách cung cấp theo nhu cầu, mà ngươi không xót thương nhớ nghĩ đến ta đối lúc nhỏ không cần y phục, thức ăn.
Thế nào là không ân?
- Nay đã được ta cung cấp mà không hề vì ta làm các việc lành. Được áo ấm, cơm no vui thích, lại suy nghĩ làm tất cả việc ác. Lúc nhỏ thiền tụng lễ bái liền sinh biếng nhác.
Thế nào là vô nghĩa?
- Thân bốn đại này không đáng mong mỏi, không đáng tin tưởng, nay ta vì người mà cung cấp đầy đủ các thứ cần thiết, ngược lại ngươi khởi các thứ ái trước, xúi giục ta thực hành sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Ta đã ngu si không thể kiềm chế sửa đổi mà lại thuận theo sinh các tật bệnh. Hoặc bị phép vua lao ngục, roi trượng, vì ngươi mà ta phải chuốc lấy. Ta đã chịu khổ ngươi cũng không lợi ích gì, lại còn không biết, lại cầu lại xin. Ngày nay trở đi, ta sẽ không theo người mà lưu chuyển trong biển lớn già, bệnh, sinh, tử. Ngươi phải theo ta mà hành đạo, làm các việc lành, ta mới cung cấp cho người y phục cơm nước đến các chi phần để trừ đói khát. Người phải khéo tự mình cố gắng. Có như vậy mới khiến cho ta sớm được năm phần pháp thân, thường du hóa tự tại vô ngại. Bài tụng về quở trách bốn đại:
"Trăm tuổi qua mau,
Ràng buộc sáu nhập
Ra vào mờ mịt
Khởi các yêu đắm
Siêng năng nhu cầu
Đòi hỏi cung cấp
Không đức trở về
Chỉ chuốt lấy họa
Người tham bại hoại
Không nhàm tự cấp
Rõ ràng không nhàm
Gò cao, sao khóc?"
Trên đã xem xét chỗ thực hành, biết trái với đạo thật xa, quở trách lỗi mình thì có đường tiến tới. Trước tuy đạo và tục luận bàn chung, đều biết lỗi kia. Song người tại gia thì tội nặng, người xuất gia tội nhẹ. Người xuất gia giai cấp hành nghiệp sinh thục (mới phát sinh và thành thục) khó phân biệt, nhưng quán chung chung cũng thấy được dấu vết kia. Nay người xuất gia chưa chứng được cảnh Thánh mà trông mong dẫn Thánh trách phàm. Bởi đại giáo thù thắng cao xa, người tôn trọng thì trách trọng. Pháp luật vi tế, người tin thì hy vọng sâu xa. Làm sao mà biết?
Nay muốn biết thân dịu dàng đẹp đẽ phải nhìn xem người dung mạo đẹp đẽ, đoan chánh. Muốn thấy phong cách nhân nghĩa thạnh đức phải tìm hạnh có lễ có nghĩa. Sao lại thường thấy nhiều miệng cạnh tranh, chê bai ngoại đạo, do không đáng nói nên dứt sự chê bai, trong chúng Tăng là đầu mối bàn luận, thật do ganh ghét ngã pháp thanh tịnh thù thắng ấy quá nhiều, chê bai ngã pháp cao xa cũng nhiều.
Kinh Thư nói: Thành cao thì xung sinh. Đạo tôn thì ma thạnh. Nay vừa nghe lời hỏi vặn chê trách bèn kinh sợ. Theo lý mà nghiên cứu chẳng phải vô nghĩa mà phát. Thử xem xét chỗ tu kia, thử so sánh chỗ tập kia, phước có sâu có cạn, tội có dày có mỏng, hãy để ý mà xét.
Phàm cha mẹ là đấng sinh thành đáng hết lòng thờ phụng, lưu luyến khó rời xa mà có thể từ biệt cha mẹ. Vợ con là ân ái khó dứt mà có thể dứt được. Thế tục, địa vị ở đời là chỗ cạnh tranh để được mà bỏ được sự vinh hoa đó. Đói khổ là chỗ khó chịu nổi của con người mà có thể ăn uống tiết độ. Mùi vị ngon là chỗ tham đắm của con người mà có thể chịu được ăn uống sơ sài đạm bạc. Cố gắng siêng năng là chỗ nhàm chán biếng nhác của con người mà có thể siêng năng tinh tấn. Bảy món trân bảo là chỗ xan tiếc của con người mà có thể xa lìa. Tiền bạc, lụa là, là chỗ chứa nhóm mà dứt bỏ được. Tôi tớ là kẻ hầu hạ mình mà có thể tự mình lo cho mình không cần sai sử. Năm sắc là chỗ ưa nhìn ngắm của con người mà có thể bỏ không thèm đoái hoài đến. Tám âm thanh là chỗ ưa nghe của con người mà dứt bỏ không thèm nghe. Trang sức đẹp đẽ, trơn láng là chỗ giữ của con người mà có thể tinh thô vô ngại.
An thân dưỡng thể là chỗ cộng đồng của con người mà có thể quên thân bỏ mạng. Ngủ nghỉ là chỗ không thể thiếu của con người mà có thể ngày đêm không ngủ là nghiệp. Buông lung nói chuyện, cùng bạn du chơi là thói quen của con người mà có thể vắng lặng tự xem xét mình. Người tại gia ăn uống không biết hạn lượng mà mình thì xem thức ăn như thuốc độc. Người tại gia ngày đêm không chỗ nào không cam, mà mình hạn chế, để thời khắc luống qua. Người tại gia thì nhà đẹp tượng xinh mà ta thì ở gò mả, lìa sự mê đắm.
Lại đi đứng nằm ngồi đúng như pháp. Lễ bái, nhiễu tháp đúng pháp này. Đọc tụng giảng nói đúng pháp này. Ăn uống tiện lợi đúng pháp này. Thọ cúng thực hành bố thí đúng pháp này, tu đạo tập hành đúng pháp này. Lược nói như trên không đâu chẳng có pháp số thì tính ra có ba ngàn oai nghi, rộng thì nói không thể hết. Còn lại như trong kinh "Xuất Gia Công Đức" có nói.
Bài tụng về xuất gia sinh thiện:
"Rửa thân gội đức Ẩn vết giấu tên Muốn an đất báu Ai lưu Hóa thành Đạo tràng yên tịnh
Thiền định vắng lặng Gió thổi mất tiếng Sét đánh không sợ Thét gào nào lo Thoát lạc nào mưu Trường quyên có kết Vĩnh chân vô sinh.
Mỗi khi tục sĩ bàn luận, có người hỏi:
Người tại gia quy hướng pháp nào là không?
Đáp: Họ Thích thuần tin, dầu lại thật tâm sai trái cũng hổ thẹn nói lỗi lầm kia. Sở dĩ như vậy là vì Đại pháp tinh thành thù thắng không muốn trái với thiện tướng. Đã nói lòng tin kia thì phải sự đồng với lời nói. Nếu nói sự tướng thì ngược lại. Liền là giả dối, nịnh hót, tà mị, chỗ thiên hạ sợ hãi, bốn hãi kinh ngạc. Nếu muốn chân thật hướng về ba đời, thấy lỗi của Sa-môn, phải biết phàm phu thấp hèn, hình phục tuy khác mà vui buồn nào có khác. Liền nghĩ lý kia, có thể tôn sùng vốn không phải ở người, đâu được cho là hạnh thấp kém mà bỏ đại đạo ư? Vả lại, đã chứa nhóm thắng nghiệp, dụ sông Hy liên có thể không nghĩ sâu hay sao? Nay các vị thử tự mình xem xét, tự mình có các lỗi.
"Sân giận không nể tôn quý
Mắng nhiếc không chừa tôn ty
Tham cầu không kể hủy nhục
San tham không biết lễ tiết
Dâm dục không chừa cầm thú
Xua đuổi không kể thân tộc".
Lại thêm kiêu mạn, buông lung, cống cao, oán hận tranh tụng, tà mạng dối hiện tướng khác, để cầu lợi cho nhiều, không cung kính, không thuận theo lời dạy về thân kiến, hữu kiến cho đến vô kiến, chưa từng phản tỉnh dùng lễ tự chế phục. Vì sao khổ ư? Chỉ sợ ta không hơn người, người không bằng ta.
Kinh nói: "Khởi tâm kiêu mạn, nghiệp này rất mạnh, đốt cháy hết những thiện căn đã gieo trồng đời trước".
Lại nói: "Làm việc ác tuy ít nhưng hậu quả chịu khổ thì vô biên, như chất độc ở trong thân, trụ phải bị khổ hoạn. Các tục nhân chỉ muốn nghĩ đến sự sống mà không biết đoái hoài đến sự chết. Nhưng sự sống không bảo đảm thì sự chết chắc chắn phải đến. Xét mạng nguy ách này không sớm thì tối trong khoảnh khắc đều thay đổi vô thường Đức Phật vì kẻ ngu si, người giàu có nói kệ rằng:
"Gấp rút lo tài sản,
Vô ngã, sao có được
Người ngu nhiều lo lắng
Chẳng biết đời sau đổi".
Như trong văn kia đã nói làm sao không suy nghĩ được, tham cầu chứa để cuối cùng cũng tán mất, thân chết tên không còn chỉ có nghiệp đi theo ta mà thôi.
Lại phải quán người nữ là chỗ sinh ra sự nguy hiểm tai họa gấp bội người nam. Trong kinh nói:
"Người nữ rất độc ác
Khó làm duyên với họ
Ân ái đã buộc ràng
Kéo người vào cửa tội
Người nữ có gì đẹp
Chỉ là các bất tịnh
Sao không suy nghĩ kỹ
Vì đây phát cuồng loạn".
Kinh "Úc-già Trưởng giả" nói: Người tại gia tu đạo phải quán người nữ sinh ý tưởng nhàm lìa, tưởng không lâu dài, tưởng không trong sạch, tưởng dơ uế, tưởng La-sát ác quỷ thường ăn nuốt con người, tưởng tham sắc khó thỏa mãn, không dừng nghỉ, tưởng ác tri thức làm ngăn ngại tịnh hạnh.
Ba đường ác thêm lớn, lo khổ không dứt. Mắt mặt môi miệng là những thứ làm mê hoặc con người. Bị người mê hoặc, phá gia diệt quốc, giết cha mẹ, hại con cái, các tai họa đó đều do sắc của người nữ mà có. Tụng rằng:
"Đá mài thì mỏng
Ngọc luyện thì bền
Ở rồi sẽ dời
Đâu có thể hiền
Băng tan ngày xuân
Lan tàn mùa thu
Giáo tùy loại trái
Tập là tình dời
Mạng hợp ba lậu
Sống với mười triền
Nay bèn chạy theo
Lo sợ còn dài".
Muôn pháp khác nhau, công dụng chẳng phải một. Đến như sáng suốt và mê mờ so sánh nhau, chỉ có hai đường thiện ác mà thôi.
Nói về thiện thì thân thiện thắng quả khác nhau đối sự mà xem xét. Nói về ác thì ba đường thật khổ rõ ràng không luống dối. Nhưng kẻ ngu hoặc ưa sinh nghi ngờ, phần nhiều cho rằng trời người là vọng tạo, địa ngục không có thật. Vì không thấy, lại không biết chọn nhân để lường quả. Vì không rõ, lại không biết nghiệm quả để tìm nhân. Nhân quả chưa phân, bàn luận thị phi, nghi ngờ loạn khởi rõ vào ngày nào, bất luận vị lai việc kia khó rõ. Chỉ ngay thiện ác ngày nay, đây nghiệm mờ mịt chẳng phải vọng. Nếu có hình thì bóng hiện, có tiếng thì vang ứng, chẳng có việc thấy hình mà bóng mất, tiếng còn mà tiếng vang không có. Vì thế, biết thiện ác giúp nhau cũng như vậy, đã nói là tin thì không còn tâm nghi ngờ. Thế nào là địa ngục?
Trong kinh có nói: Dưới lòng đất có tám địa ngục. Dưới cùng là ngục A-tỳ, rộng bốn muôn dotuần, bốn bên thành sắt trong ngoài lửa đốt. Chó đồng, rắn đen gầm thét to tiếng thật đáng kinh sợ. Các ngục nhỏ rải rác các nơi như trong núi Thiết vi, trong biển, chỗ hoang vắng, chịu đủ các sự nóng lạnh, khó thể nói hết được.
Mỗi ngục đều có chủ ngục. Ngưu Đầu A Bàng tánh kia rất tàn ác, không có một chút từ nhẫn, thấy người chịu khổ, chỉ sợ họ không khổ, chỉ sợ họ không bị hại.
Hoặc hỏi Ngục Tốt rằng: Chúng sinh chịu khổ thật đáng thương mà ngươi không có lòng thương xót, lại có tâm độc hại là vì sao?
Ngục tốt đáp: Những người chịu khổ này là do không hiếu thảo với cha mẹ, chê bai Phật, Pháp, Tăng mắng nhiếc thân sơ, hủy hoại tất cả, phá hòa hợp, sân giận, sát hại, tham dâm, dối trá, tà mạng, tà cầu cho đến tà kiến, kiêu mạn, biếng nhác, phóng dật, oán hận, mê mờ thanh sắc, đắm nhiễm rượu thịt, phạm giới đã thọ, không biết hổ thẹn, đủ các nghiệp ác nên phải đến địa ngục này để chịu khổ. Chịu khổ xong rồi lại nói lời can ngăn dẫn dắt rằng. Chỗ ác này đã ra khỏi rồi chớ nên trở lại. Nhưng chúng sinh không chịu sửa đổi, ngày nay được ra khỏi khoảnh khắc lại đến làm nhọc cho ta phải tra khảo độc ác đối với người kia. Nay nhìn bọn này đã không làm điều lành, không biết hướng về Niếtbàn, không biết tránh khổ, do đó phải bị sự khổ hại gấp bội, làm sao sinh lòng từ nhẫn được.
Lại trong kinh nói: Có mười nghiệp ác sát sinh trộm cắp,… làm cho chúng sinh đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh vô lượng số kiếp mới được làm người. Được làm người lại phải chịu các quả báo như chết yểu, nghèo cùng v.v... lại phải cảm quả báo như gai góc, đá gạch, nước cỏ, mê mờ v.v... không được như ý. Vả lại, do thân, miệng và ý ban đầu phát nghiệp. Tự mình làm, xúi giục người làm và thấy người làm vui theo là lý do thành nghiệp. Hiện báo, sinh báo và hậu báo là chỗ chiêu cảm nghiệp. Vì thế nghiệp phiền não sinh. Nhưng chín thứ trước, nghiệp có cả thiện và ác, thọ báo ba đường chỉ do ba độc. Vì thế người tu hành trước phải xem xét kia, thì đối với thân này có sẽ ra khỏi quả báo khổ.
Tụng rằng:
"Bến tối đâu còn hiểu
Tiếng cao có thể thấp
Tường tối tuy đều kín
Đêm tối có bốn biết
Núi lửa lại bốc cháy
Khen băng đều lạnh giá
La thành chấn màn mây
Cây nhọn tụ nhành sương
Quấn nhau không gọi khổ
Nhóm cây đâu gọi ách
Cầu nhân từng đã được
Than thở để làm gì".
Dưới bậc Đại thánh tánh thể chưa tròn đủ. Bốn tướng dời đổi, bốn núi vững chắc. Do đó, Đức Như Lai trí thông suốt cùng khắp đâu lại giả nói khổ thiết, khiến các chúng sinh được nhập luật hành. Nay phàm ngu thiện ác lẫn lộn, làm sao có thể khỏi tội phiền lụy và lỗi ái nhiễm. Nếu nghe lời nói phải suy nghĩ kỹ, lúc nào mới lìa khỏi lỗi này. Không được trong lòng kinh sợ nghi ngờ sẽ tăng thêm thù hận. Nhưng có sự thù hận là do chấp ngã, như trong kinh nói, chấp ngã kiến là đại hoạn sinh tử, là phá giới bậc nhất. Vả lại, nếu một ngã không nhân thì không họa khổ, tự không chánh tụ thì ai không tệ đó. Bổn ý của người xuất gia là dứt trừ hoặc này, vì thế người tu hành phải thường ngăn ngừa, chứa nhóm công đức không thôi thì dần dần sẽ ra khỏi khổ. Mê mờ điều này không tu thì lại đồng như thuở xưa, luống ở trong Tăng chúng lại chuốt lấy nghiệp khổ. Nay nghe điều tốt của người xuất gia, không được nói họ không có điều xấu. Lại nghe điều xấu của người thế tục, không được nói họ không có điều tốt. Vì thế nói chung đều phải tự răn nhắc mình. Người xuất gia có tín tâm nên nhập dạo, phải bỏ yêu đắm, thuận theo lời Phật là hạnh của người xuất thế. Nếu hạnh có thiếu sót thì không gọi là có tín tâm. Trong lòng đã không tin thì cạo tóc, đắp y, bưng bình bát v.v... đối với thân đều vô dụng. Lược dẫn một số trường hợp không được biếng nhác.
Đã bỏ ồn náo được an nhàn
Đã lìa tục ái chẳng phan duyên
Đã khỏi náo động vào vắng lặng
Đã lìa đắm nhiễm được vô ngại
Đã bỏ cảnh khổ không phiền não
Đã lìa vợ con không ràng buộc
Đã bỏ trang sức lìa xa xỉ
Đã dứt thanh sắc, bỏ tham cầu
Đã dứt vinh nhục, bỏ ngã kiến
Đã hướng tám Chánh đến đạo môn
Đã mang giáp hoằng thệ, nhẫn nhục
Đã mặc áo giải thoát Niết-bàn
Đã mong nhà rốt ráo vắng lặng
Đã lên nhà từ bi hỷ xả
Đã thấy được lợi lớn hồi hướng Đã nghe tiếng đa văn tự giác.
Đức Phật thấy lợi lớn của người xuất gia như thế nên khuyến khích răn dạy tu học. Vì thế kinh nói: Bởi nghe Sa-môn hành đạo. Xa vợ con, dứt ái dục, bỏ sáu tình, giữ giới vô vi. Kia thanh tịnh nhất tâm thì muôn tà đều diệt. Đạo nhất tâm thì thanh sắc không thể nhiễm ô, vinh hoa không thể động, lìa khỏi lo khổ, an trụ tự tại.
Bỏ năm món xan, trừ hai món uế, hai món phước, hai chướng pháp, hai món cấu, hai món mưa đá, hai bệnh ung thư, hai pháp thiêu, hai thứ bệnh.
-Bốn trường hợp phá giới:
1- Ba nghiệp không thanh tịnh.
2- Nghe không sợ sệt.
3- Không cầu Niết-bàn.
4- Tham đắm ngã kiến.
-Lại như trong kinh nói: Bồ-tát tu hành dứt bốn lỗi, đó là:
1-Lìa bỏ sự dối trá 2-Xem trọng việc báo ân.
3- Trừ sự chê bai, nghi ngờ.
4- Bỏ tâm nịnh hót.
Đầy đủ các độ diệu hạnh, thanh tịnh rộng lớn, an trụ vắng lặng. Tụng rằng:
"Uẩn thạch tin chẳng thật
Bình đẹp tin là giả
Trộm mặc cao môn thượng
Lạm thổi dưới mái hiên
Thờ phượng luống tâm kinh
Số văn chung hảo dã
Thật tướng đều chiếu soi
Phù vinh chưa thể bỏ
Dấu vết chưa khỏi khách
Sự tập luôn rong ruổi
Đã dứt hết âm trần
Không vậy loạn điều nhu".
Trước đã nghe điều ác kia rất hổ thẹn, nay nói điều thiện này vui mừng để tiến đạo. Làm sao để biết? Tự mình không có tình tham dục dày, tánh nhiễm ái sâu, ý giàu có trọng, tâm thế lợi nùng hậu thì không được an vui mà phải bị chỗ tối tăm ràng buộc, vì thế biết tại gia là gốc của các họa khổ, nên khiến cho nhà cửa, vợ con, tôn thân, quyến thuộc tới lui, bạn bè dạo chơi, phụng trên tiếp dưới đều phải để ý. Ý không đến riêng, kia giống như cái sọt, dụng của sọt không cầu thì không đến. Đã tìm cầu tài lợi, tâm niệm không cùng. Chỉ nghĩ đến việc chứa nhóm cho nhiều không để ý đến lý vô thường, chứa nhóm hư hoại không biết phân tán. Do đây muốn không tham lam thì không thể được. Đã bị quyến thuộc ràng buộc, trăm tâm khác nhau. Không bị roi phạt thì bị các điều ác khác. Tuy nói là dứt ác mà mục đích là do sân khởi. Do đây muốn không tức giận cũng không thể được, vì đây mà mưu tính rong ruổi tìm cầu muôn cách để được tài lợi, tâm không biết khổ họa và tai hại. Trải qua đủ các gian khổ về nước, lửa, trộm cướp, hoặc chết yểu, tàn sát vô tội. Yến tiệc vui vẻ chẳng phải đây thì không cứu giúp. Khởi tâm tham lam và ngu si cho rằng ta phải như vậy, sau khi ăn uống vui vẻ sung sướng không hề suy nghĩ. Đây là muốn không khởi si cũng chẳng thể được. Phải biết người tại gia trái với tướng thiện, vì thế nói: "Việc đã làm đối diện với địa ngục".
Lại nói: "Chỗ ở như lao ngục, vợ con như xiềng xích, tài vật như gánh nặng, thân thích như kẻ thù". Nhưng nay ở chỗ rất khổ, tai ách và gian khổ ràng buộc, đủ các sự khổ não, không gần gũi Tam bảo và chánh pháp.
Sống trong chỗ mê muội tối tăm cực khổ, mà một ngày một đêm giữ gìn được giới cấm, sáu thời hành đạo và tu sáu ngày trai giới. Một năm phải ba tháng trường trai, hoặc giữ một giới, hai giới, ba giới cho đến năm giới, tám giới, mười giới, ăn chay đạm bạc, tự xem xét thân miệng ý. Lại khuyên vợ con, quyến thuộc nội ngoại hồi hướng tôn thờ điều lành, lập nhân Bồ-đề. Hoặc bớt phần của cha mẹ, vợ con, tài sản y phục quý giá, tất cả những thứ đó đem cung kính cúng dường bậc thanh khiết.
Cả nhà vâng làm, sớm tối săn sóc, hoặc bị bệnh tật, hoạn nạn, tai ách, quan huyện lao ngục. Hoặc thân tộc chết cầu phước cho vong hồn. Hoặc sinh thiện diệt tội mới phát tín tâm. Tôn kính Sa-môn như Phật không khác. Do người kia thuận theo chánh giáo của Phật, nhờ thuận theo lời dạy của Phật nên ra khỏi sinh tử. Nếu trái lời dạy của Phật sẽ bị đọa vào đường ác. Vì thế cho nên thường phải phát chánh nguyện, nguyện thọ hóa sinh tự tại, bay đi khắp tất cả cõi Phật tùy chỗ cảm ứng dắt dẫn chúng sinh, học oai nghi của Phật, vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, phương tiện khéo léo, đại tuệ khai ngộ giải thoát. Đối với các pháp rốt ráo không bị chướng ngại, khắp hư không thế giới đại nguyện trang nghiêm. Tụng rằng:
"Ở cõi trần không nhiễm
Vải thô trọng hoài châu
Ngọc tốt soi đá tối
Hoa lan hơn cỏ rậm
Bốn dân không làm bạn
Ba cõi há trầm luân
Lượng tư thân ái nhiễm
Đâu bị tài lợi buộc
Phiền lưu bỏ báu trí
Vướng vít đường bằng phẳng
Muôn vật sao chật hẹp
Lửa cháy cây Hồng phù".
Ba cõi là lao ngục, bốn phía luân chuyển, tại gia xuất gia chưa dứt chấp ngã thì không ra khỏi được lao ngục này. Đã bị sinh tử ràng buộc thì thân tâm lao lụy dời đổi vô thường, không đâu chẳng phải là khổ, vì thế kinh nói rằng: "Ba cõi đều là khổ, có gì là vui. Mà chúng sinh thường làm cho là thế gian là thường là lạc, vui cho xuất thế vô thường là khổ, vì sao trần mê trong điên đảo này. Vừa nghiệm chích thân tức biết thọ khổ, đâu được nói là vui. Lược dẫn một số trường hợp để chứng biết là khổ:
- Nếu cho rằng ăn uống là vui thì lẽ ra ăn nhiều thân hòa tâm vui vì sao không vừa ý hoặc không chừng độ, trở thành bệnh hoạn.
Nếu cho y phục là vui thì lẽ ra mùa xuân và mùa hạ chỉ mặc một thứ y phục tâm ưa thích không nhàm chán vì sao khí hậu lạnh nóng thì y phục khác nhau, rõ ràng không ưa thích do đó thành gốc khổ.
Nếu cho rằng nhà cửa là vui, vì sao không thường ở một chỗ, đã muốn dời đổi, thì rõ biết tránh khổ.
Nếu cho rằng: Vợ con quyến thuộc là vui thì lẽ ra phải được vui vẻ lâu dài với nhau, sao trong phút chốc vô thường đến kêu khóc thảm thương, phải biết quyến thuộc thật là gốc khổ.
Nếu cho rằng: sắc đẹp là vui thì lẽ ra tâm mắt thường vui vẻ, hình hài thường yên ổn, sao trong khoảnh khắc thay đổi sắc đẹp tuổi trẻ thành tóc bạc mặt nhăn, bệnh hoạn. Vì thế phải biết sắc này vốn tự là khổ, chẳng phải từ bên ngoài đem đến.
Nếu cho rằng: âm thanh hay là vui thì lẽ ra tiếng đờn sáo xem nghe không nhàm chán vì sao trong một lúc đã mỏi mệt, tai không thích nghe, phải biết đây là khổ.
Nếu cho rằng uống rượu là vui thì lẽ ra ý thỏa thích chẳng có lo âu, không não loạn, vì sao thần mê mờ tâm phiền muộn, xương cốt đau nhức. Hoặc do việc uống rượu này mà bị roi gậy đánh đập hoặc bị gồng cùm, tán thân mất mạng, phá nhà mất nước, chịu khổ vô lượng.
Nếu cho rằng dạo chơi với bạn bè là vui thì lẽ ra suốt ngày dạo chơi không nhàm chán, vì sao dạo chơi đến lúc mỏi mệt, sau phải dìu nhau, không thể đi được.
Nếu cho rằng dâm dật là vui thì lẽ ra khí huyết mạnh mẽ, mắt tỏ thần sáng, trẻ không già, trai tráng không thay đổi, vì sao buông tình ham muốn thì có sự mỏi mệt. Não rút, tủy khô, đầu loạn, mắt mờ, tâm sợ, khí bức, gân cốt co giản, miệng khô môi nóng, tứ chi uể oải, suy yếu năm tạng, do đây chết yểu. Phải biết dâm dục thật là gốc khổ.
Nếu cho rằng địa vị là vui thì lẽ ra từ đầu đến cuối không thay đổi, không có sự hổ thẹn, không có sự tủi nhục. Vì sao bị truất phế, tiều tụy lập chí. Các điều trên đây là nêu đại khái để nói, nhưng chỗ tâm đi qua như sáu trần năm căn không đâu chẳng phải là khổ. Do đó, bậc Đại thánh giác ngộ biết được lao ngục ba cõi đều là khổ, không mê mờ giải thoát sinh tử. Tụng rằng:
"Tâm oán động phân vân
Tình vui liền thay đổi
Yêu thương một phen lìa
Ngồi lo lắng, suy não
Màn che kết thanh âm
Đài cao khởi gió sương
Hư độc duyên phương chỉ
Yêu phạt thật tu nhục
Muốn sống phải thiếu sống
Phồn trí hoặc toàn thỏ
Đêm mênh mông đâu cùng".
Đức Phật dạy rằng: Ba cõi thế gian đều là chỗ nhóm họp các khổ. Chẳng những chỉ có một nỗi khổ mà thôi, lại có vô thường, vô ngã, bất tịnh hoàn toàn trở về không. Xuất thế thì có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đủ tám thứ tự tại. Nhưng chúng sinh từ lâu mê muội vọng cho là vui, sao không đáng thương. Hơn nữa, nói một thứ khổ theo nhau có tám. Những gì là tám?
1. Sinh khổ
2. Lão khổ
3. Bệnh khổ
4. Tử khổ
5. Yêu thương mà chia lìa khổ
6. Ghét mà gặp khổ
7. Mong cầu mà không được khổ
8. Năm ấm lừng lẫy khổ.
Trong một thứ khổ lại có các khổ, vì thế người tu hành phải siêng năng tu đạo. Giữ gìn thân, miệng ý siêng năng không giải đãi. Phàm ngu không biết cho đó là khổ, bậc Đại thánh chiếu khắp thông suốt rõ ràng, biết khổ nhỏ này là chánh nhân của niềm vui lớn. Tuy có mệt nhọc nhưng chỗ trông là lớn, chẳng phải cho là khổ, vì thế dẫn các hình tướng để phân biệt người có tâm.
Nếu bỏ thân mạng thương xót chúng sinh thì sẽ được thân sắc vàng của Phật, ánh sáng chiếu khắp, đi đứng ngồi nằm chấn động cõi Đại thiên.
Nếu lễ bái cha mẹ, sư trưởng, Hiền thánh thì được đảnh tướng cao sáng.
Nếu không lừa dối chúng sinh, khen ngợi đức của họ thì được tướng sợi lông trắng của Phật.
Nếu thực hành lòng từ bi, thương xót cứu giúp chúng sinh thì được mắt xanh, búi tóc như của Phật.
Nếu dùng đèn sáng cúng dường Phật và bố thí cho người thì được tướng trên đảnh phát ra ánh sáng.
Nếu dùng lòng từ bi nhìn chúng sinh thì được hai mắt thanh tịnh.
Nếu dứt những thức ăn ngon dùng mười điều lành giáo hóa người thì được bốn mươi răng bằng khít.
Nếu nói lời từ thiện, ý chí kiên cường thì được bốn tướng ngã bạch tịnh của Phật.
Nếu dứt bốn lỗi của miệng thì được tướng má vuông, lưỡi rộng dài như Phật.
Nếu thực hành bố thí bình đẳng thì khi được quả Phật bảy chỗ đầy đặn.
Nếu chịu khổ hạnh quyết định không loạn thì được tướng ngực như ngực Sư tử của Phật.
Nếu thực hành chánh tịnh y dược cứu người thì được tướng thân Phật đoan chánh.
Nếu thực hành lòng từ bi nhân ái không đánh đập chúng sinh thì được tướng cánh tay dài của Phật.
Nếu thấy đất bước đi không đạp sinh mạng côn trùng thì được tướng bước đi không dẫm đất của Phật.
Nếu tay dìu dắt giúp đỡ chúng sinh bị khổ thì được tay cầm nắm trong ngoài của Phật.
Nếu thực hành bốn nhiếp pháp, nhiếp lấy chúng sinh thì được tướng tay chận bền chắc của Phật.
Nếu dùng tâm thanh tịnh cúng dường người lành thì được tướng lòng bàn tay bàn chân ngàn bức luân.
Nếu bố thí y phục che các tệ xấu thì được tướng mã âm tàng của Phật.
Nếu nói pháp trừ các họa chết thì được tướng đùi của Phật.
Nếu khéo trang nghiêm không mổ xẻ thân phần của chúng sinh thì được tướng xương cốt móc liền nhau của Phật.
Nếu xoay vần nhiễu bên phải tháp Phật thì được tướng lông xoay về bên phải.
Nếu nhổ gai góc để đường bằng phẳng thì được tướng một lỗ một sợi lông của Phật.
Nếu không mặc các thứ lụa là đẹp đẽ, tắm gội cho người thì được tướng da mịn màng của Phật. Nếu quét trừ các dơ bẩn trong tháp thì được tướng không bị bụi dơ của Phật.
Nếu tu muôn hạnh thường nguyện đầy đủ thì được tướng của Phật trên ngực có chữ vạn (?).
Nếu bỏ quốc thành, vợ con thì được tướng Tịnh độ quyến thuộc Hiền thánh.
Nếu tự ăn uống tiết độ, dùng bố thí thức ăn ngon cho người thì được thượng vị của Phật.
Nếu thường đọc tụng không nói với người những lời ác thì được hơi miệng thơm, có sức tổng trì.
Nếu nói pháp dắt dẫn chúng sinh thì được đầy đủ không đói khát, có năng lực biện tài.
Nếu giữ giới không thiếu thì được pháp thân viên mãn của Phật.
Nếu ở trong núi tu hành Đầu đà thì được tướng dứt hết trần lụy của Phật.
Nếu bỏ nhà đẹp, vào rừng vắng thiền định, chúng sinh cho là khổ không thể thực hành. Bồ-tát chí nguyện bền chắc hướng đại không cho là khổ, vì thế được cung điện tự nhiên, phòng xá bảy báu, sớm được thành Phật.
Chúng sinh còn bị lưu chuyển trong biển sinh tử, há chẳng phải là do điên đảo mê hoặc mà có ra sao? Vì thế phải siêng năng tinh tấn tu hành hạnh này, sẽ được ra khỏi ba cõi. Tụng rằng:
"Áo thẳng lường phiền biển
Kiểu bộ tả ai phân
Ba thọ như mưa dứt
Tám khổ như mây nổi
Luân tâm ngưỡng viên cực
Khánh chất ủy phương phần
Sáng dạo cõi nước tịnh
Tối nhóm họp Linh Sơn
Đèn sáng chiếu phương xa
Cỏ thơm càng xông mùi
Nghiêng đầu nhìn thế tục
Tin vậy, tĩnh là ông".
Phàm nhân quả cảm ứng ảnh hưởng sinh nhau, đạo lý tất nhiên không khác nhau. Nhưng nghiệp hành của chúng sinh không thuần, thiện và ác đắp đổi nhau. Vì không thuần cho nên quả báo có tinh có thô, hoặc giàu hoặc nghèo, hoặc đẹp hoặc xấu, sự tích kia chẳng phải một. Vì không rõ bổn hành nên có sự nghi ngờ. Vì sao? Vì như người tinh tấn trì giới lẽ ra được sống lâu, con cháu đông đủ, thân tộc vinh hiển, thế nhưng ngược lại thấy thân mạng chết yểu, dòng họ suy vi. Người giết mổ lẽ ra bị chết yểu, quyến thuộc tàn diệt, thế nhưng ngược lại được sống lâu, tổ tông hưng thịnh.
Người có hạnh thanh liêm lẽ ra phải được giàu có mà lại thấy họ nghèo khổ, người tham lam trộm cắp lẽ ra phải khốn đốn nghèo khổ thế nhưng họ được giàu sang. Đây chính là nhờ phước kia nên hiện đời chịu quả báo nhẹ.
Như trong kinh Kim Cang Bát-nhã có nói: Do trì kinh nên bị người xem thường. Người này bị tội nghiệp đời trước đáng đọa vào đường ác, do đời nay bị xem thường nên tội đời trước diệt. Sở dĩ có sự nghi ngờ này là do vô minh che lấp vọng khởi điên đảo không thể hiểu rõ được nghiệp tướng của ba đời. Nay lược nêu một số trường hợp, người đời mê lầm dùng việc này để răn nhắc, ngõ hầu cho đến biết mà trừ sự nghi lầm kia.
Người trí cho rằng sống là khổ, do đó không nhẫn chịu, kẻ ngu tham sống cho sống là vui. Đây là điều lầm hoặc thứ nhất.
Người trí cho rằng không sống thì không chết, vì thế nói Niết-bàn là vui vắng lặng. Nhưng kẻ ngu sợ chết, không biết phương pháp xa lìa sự chết. Đây là điều lầm hoặc thứ hai.
Người trí cho là nhà cửa là khổ, ví như lao ngục. Kinh thư nói: Dứt tình nơi kiêu sa. Thế nhưng người ngu đắm nhiễm cho là vinh hoa vui vẻ. Đây là điều lầm hoặc thứ ba.
Người trí biết vợ con khổ lụy, nên ví như gông cùm. Kinh Thư nói: Cắt tình nơi sở ái. Mà kẻ ngu cho ân ái là vui. Đây là điều lầm hoặc thứ tư.
Người trí cho rằng quyến thuộc là nguyên nhân của sự ràng buộc buông bỏ như cựu thù, nhưng người ngu vướng vít cho là thích hợp. Đây là điều lầm hoặc thứ năm.
Người trí cho vinh lợi là cái nơm tự diệt mình. Kinh Thư nói: Cắt tình nơi tốc đạt. Mà kẻ ngu không biết đó là độc hại nên cho là tôn quý. Đây là điều lầm hoặc thứ sáu.
Người trí cho sắc, thanh, hương, vị là gốc khổ. Kinh Thư nói: Cắt đứt tình hoặc, nhưng kẻ ngu chìm đắm mê say.
Hơn nữa như trước không cho xảy ra lầm hoặc, đây cho nên người trí phải siêng năng gắng sức. Sinh, già, bệnh, chết không lìa thân này, chớ sinh nghi ngờ, một đời luống qua, nay lại nêu ra để hiển bày tướng nghi.
Thấy người bố thí mà bệnh hoạn chết sớm liền khởi tâm bỏn xẻn, xan tham.
Thấy người giữ giới, quá giờ ngọ không ăn xảy ra bệnh hoạn, có tâm nghi là tự dưỡng.
Thấy người có đức nhẫn nhục xem xét tâm, nhiếp thân, xảy ra hoạn khổ, có tâm não động, bèn khuyên khiến cho khai ý.
Thấy người tụng kinh, sớm tối duyên ở lý, xảy ra hoạn họa, bèn khuyên đừng tụng kinh nữa.
Thấy người ăn rau quả hay ăn chay đạm bạc bị bệnh yếu đuối bèn khuyên ăn các thứ ngon để mập mạp.
Thấy người ngồi thiền sinh ra bệnh hoạn liền khuyên ngồi thiền.
Nghe nói dẫn tấn bèn xưng bổn tình, biếng nhác buông lung thuận theo thế tục. Không hề suy nghĩ rằng sớm nghe kinh, chiều chết cũng vui, như cứu lửa cháy đầu. Vì sao biếng nhác lại học theo thói của thế tục, dùng việc chết để tự thệ nguyện mới gọi là người có chí. Tụng rằng:
"Đường sống chẳng một lý
Mối thức chắc nhiêu tân
Đồ hãi đông lăng phú
Không ta bắc quách bần
Nước sinh từng đã lệ
Nhan thị tín vi nhân
Phùng vưu vời nghiệp trước
Tập thiện hội thân này
Siêng lo mãi di thái
Yến an chung khổ tâm
Khiến tên gọi là trọng
Đâu như nhân lành cây."
Đã biết điều xấu của nam nữ tại gia, lại thấy điều lầm lỗi của người xuất gia, lại nghe điều nghi ngờ điên đảo, tự suy nghĩ thức tỉnh lại, thật đáng hổ thẹn.
Kinh nói: Hổ thẹn được đầy đủ sẽ trừ được ám chướng. Vì thế lại nói: Cầm thú như lưỡi câu bằng sắt có thể cai quản người phi pháp. Nếu không biết hổ thẹn thì chẳng khác gì cầm thú.
Trong kinh Niết-bàn nói: Có hai pháp trong sạch có thể cứu giúp chúng sinh, đó là tàm và quý. Tàm là tự mình không làm việc ác; quý là không xíu giục người làm. Tàm là trong tâm tự mình xấu hổ; quý là bày tỏ với người. Vì có tàm quý nên sẽ cung kính cha mẹ sư trưởng. Vì biết tàm quý nên tội sẽ trừ diệt. Nêu bày tướng như thế nên phải biết tàm quý, thuận theo thực hành hai pháp trong sạch này. Sự thì có vô lượng. Ở đây lược nêu mười trường hợp để làm cương yếu:
1- Hổ thẹn với chư Phật: Đức Như Lai từ xưa muốn cho chúng ta lìa khổ được an, do đó phát tâm thực hành đạo Bồ-đề, chịu khổ chịu nhục để thành tựu pháp thân. Thường giảng nói chánh pháp cho chúng ta nghe nhưng chúng ta không thể đúng như lời Phật dạy để thực hành.
2- Hổ thẹn với cha mẹ: Thương thay cha mẹ sinh ta cực khổ, nuôi dưỡng dạy dỗ, thường có tâm lo lắng. Đã làm con không thuận theo lời dạy dỗ, lại học thói hung nghịch, khinh khi sang hèn. Đã trái với bổn phận làm con lại mất tiếng tăm. Thật đáng hổ thẹn.
3- Hổ thẹn với con cái: Nhưng kia thật có thể sớm tối định tĩnh, sắc dưỡng không thiếu, mà hoàn toàn nghèo khổ không có vật gì cung cấp, vì thế khiến các con không làm sao được vững vàng. Lại thiếu dạy dỗ khiến cho con ngu muội, thật đáng hổ thẹn.
4- Hổ thẹn với Sư tăng: Cha mẹ sinh ta và nuôi dưỡng dạy dỗ ta nhưng không thể giúp ta ra khỏi biển sinh tử. Nay Sư tăng đây dạy cho ta xuất gia thọ giới tăng thượng, mang thai La-hán được quả La-hán, thế nhưng ta lại trái phạm thật đáng hổ thẹn.
5- Hổ thẹn với đệ tử: Đã sớm tối y theo lời dạy sách tấn tu hành mà trái lại cố ngăn trở có trái với lời dạy của Phật, đến nỗi khiến cho đạo nghiệp không có chút công phu, một đời luống qua, không tìm cách chế phục. Nhìn kia phụ lòng cũng đáng hổ thẹn.
6- Hổ thẹn với Đế Vương: Thường dùng mười pháp lành giáo hóa thiên hạ vì thế quốc gia được an ninh ngũ cốc phong phú, bá tánh yên ổn, nhà nhà hưng thạnh. Người xuất gia thản nhiên an vui, lo việc thiền tụng kia, thế mà nay lại biếng nhác, thật là đáng hổ thẹn.
7- Hổ thẹn với đàn việt: Người xuất gia lo việc giải thoát làm gốc. Cho hình hài y thực là trước tiên. Do đó những người thế tục vì đạo làm phước, cung cấp những thứ cần thiết để hưng thạnh chánh nghiệp, nhưng lầm hoặc không hoàn toàn, lỗi đối với sự kính trọng, cũng đáng hổ thẹn.
8- Hổ thẹn với bạn bè: Tri thức dẫn dắt có nhân duyên gặp Phật, giúp đầy đủ phạm hạnh, đem kinh điển chỉ bày nhưng ta nghe, trở lại cho là trái nghịch Tam quy, hướng đến thần tục lễ bái. Mê chấp thiện đạo cho nên trái với lời dạy bảo chân chánh, thật đáng hổ thẹn.
9- Hổ thẹn đối với những người mình giáo hóa, vì ta không có đức, từ lâu không gieo trồng nhân duyên, đến nỗi khiến không thể khai ngộ, khiến người nghe luống uổng công phu, dù có nghe nhưng cũng tạp thiển không được thuần tịnh, trong tâm tự có bệnh, thật đáng hổ thẹn.
10- Hổ thẹn với trời, rồng, thần, quỷ, hộ pháp, thần linh. Ta vốn phát tâm thệ độ tất cả, vì thế các trời, rồng ủng hộ không phiền não mà ta tình chí không thường hằng, chỉ biết phụ ơn, thật tăng thêm sự hổ thẹn.
Tụng rằng:
"Thần cao chỉ thí trọng
Huyền tửu ân chưa hưng
Châu sáng tùy trên nước
Thấm ngọc soi trong ruộng
Bẩm thiên tánh cùng tột
Nhờ cung kính thờ đạo
Lông cánh chung thế lực
Bánh xe để thông nhau
Báo đức thương trước nhã
Thù ngôn ái dư phong
Tôn đồ thường sai sót
Xét tính không xem trọng".
Nghĩa hổ thẹn dùng không đến gốc. Nếu đối với chánh hạnh đều mà tôn thờ thì không cần phải xấu hổ.
Kinh thư nói: Trong tỉnh lại không bệnh, có gì phải lo, có gì phải sợ.
Lại nói: Nếu tâm không có lỗi, cần gì thương xót, nay lý nhiệm mầu khó tinh thuần, hướng về sai trái, trong một niệm tạo vô lượng tội, tội lỗi vô lượng cho nên hổ thẹn lẽ ra cũng vô lượng. Trước đã lược nêu đại khái, trong đó các chi tiết không thể trình bày hết, nay lại lập môn này khiến cho nghiên cứu văn tìm ý chỉ biết lý không đâu chẳng nhiếp.
Chúng sinh do chấp ngã nên không thể ban bố những sự tốt đẹp cho muôn vật, dẫn điều xấu ác về mình. Đã đối với muôn điều lành không thể tu tập, thấy người hơn mình thì ý muốn lăng nhục họ, sao không thấy hổ thẹn. Nay nêu để rõ, ngõ hầu để thúc liễm mình.
Thấy người thật tâm biết hổ thẹn, ta không thể làm được nên muốn người đó đừng làm.
Thấy người bố thí, giữ giới, khai mở môn giải thoát liền muốn người đó sớm dừng không nên làm.
Thấy người nhẫn nhục, tinh tấn, tự mình không thể làm được liền muốn họ sớm thoái lui. Thấy người đa văn, tu thiền định, tự mình không thể làm được nên không muốn họ làm.
Thấy người thực hành hạnh từ bi hỷ xả, tự mình không thể khen ngợi và gắng sức thực hành nên muốn họ không thực hành được.
Thấy người ăn chay đạm bạc ngày một bữa, tự mình không thể làm được nên khuyên họ thoái lui. Thấy người biết phục tâm, tương ưng pháp hổ thẹn nên xúi giục bèn khuyên họ đừng thực hành, đây là trái với tám Chánh đạo.
Thấy người học hỏi kinh điển, tự mình không thể làm được nên không muốn họ học hỏi. Thấy người nhiễu quanh lễ bái, tự mình biếng nhác nên ganh tỵ khiến họ đừng thực hành.
Thấy người xướng phạm âm, tự mình không bằng họ nên muốn họ đừng như vậy.
Thấy người tu hạnh đầu-đà, mình không thể tu được trở lại chê bai hủy diệt, nay nương theo thế tục lập pháp khai hóa cho rằng đây là cao.
Đúng ra phải sinh lòng tin, diệt trừ tội lỗi, cầu phước mở mang đạo pháp, mà nay lên tòa vô úy, khai rộng đầu mối trái ngược, trau chuốt lời lẽ hay đẹp, lời cao hứng khởi chê trách qua lại, nghi dung cao ngạo không có khiêm tốn, không nghĩ lại rằng ta hiểu chưa rõ ràng, chỉ lo gạn hỏi, kinh điển có sai lầm. Vì thế kinh nói:
Nếu vì lợi dưỡng, danh dự ngã tâm ái đãng mà nói pháp, đây gọi là phi pháp. Nếu vì lợi lạc cho người khác, tăng thêm tín tâm, diệt phiền não, khởi tịnh nghiệp, biết hổ biết thẹn, khai mở con đường tám chánh, đây gọi là nói pháp thiện. Như ở đời quá khứ, có Tỳ-kheo Khổ Ngạn nói có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng, trái với lời dạy của Phật, khi qua đời đọa vào địa ngục A-tỳ, nằm ngửa, nằm sấp, nằm hai bên hông, suốt chín trăm vạn ức năm. Như vậy, sau đó phải trải qua các địa ngục khác, chịu khổ ở các địa ngục thuộc, khó nói hết được. Vì thế, phải biết không y theo lời dạy của Phật chê bai chánh pháp, tội kia thật nặng. Phải biết làm Pháp sư cũng thật khó, nếu nói pháp lành thì được phước vô lượng, nếu nói pháp ác thì chuốc lấy tội lỗi cũng rất nặng. Vì thế cho nên Pháp sư phải biết hổ thẹn. Nhưng trong thế gian, việc cần gấp cho sự sống là cơm ăn áo mặc, do cơm áo này lao nhọc rất lắm. Những thứ cần dùng như tơ lụa, giày da không đâu chẳng tổn sinh tàn mạng, hại đến da thịt của chúng sinh trở lại nuôi dưỡng thân mình. Cho đến nếu ăn một hột cơm mà không dụng công phu thì chẳng nhờ đâu mà vào miệng được. Suy lường công phu, tính toán bụng ta, vào trên ra dưới thường lưu chuyển không dừng. Mà đối trong đó lựa chọn ngon dở, nhận thứ mềm mại, tham muốn vị ngon, không biết hổ thẹn. Trong khoảnh khắc biến thành mùi hôi thối không thể đến gần, như ngồi trên nhà xí chẳng khác. Sao người trí đối với việc ăn uống mà sinh tâm tham muốn, nếu sinh tâm tham muốn thì phải hổ thẹn. Nếu không biết hổ thẹn thì nào có khác gì súc sinh cầm thú. Tụng rằng:
"Mùa Đông lông cừu dày
Mùa xuân tơ lụa mỏng
Hình hài bị ngăn trở
Tâm thức lại tự khinh
Thủ dung ky thảo nhật
Bình sinh lúc trai trẻ
Ngựa xe đưa tiễn khách
Rót rượu vui kỹ nữ
Chỉ nghĩ vui trước mắt
Đâu biết khổ đời sau
Vui sướng biết hổ thẹn
Thường xa lìa tình ái".
Dứt trừ được nghi ngờ, khởi tâm biết hổ thẹn và có công khuyến khích, đó là Thiện tri thức. Nay muốn tu tập muôn hạnh mà không có thiện tri thức thì không thể nào tiến đạo được.
Trong kinh nói: "Như chiên-đàn ở trong rừng Y-la thì lá chiên-đàn bị hôi. Còn lá Y-la hôi mà ở trong rừng chiên-đàn thì lá Y-la sẽ thơm". Kinh thư nói: "Ở chung với thiện tri thức như vào nhà có cỏ thơm, sẽ được thơm lâu. Ở chung với người xấu như vào chợ tôm chợ cá hôi tanh, đều bị tanh".
Lại nói: "Gần mực thì đen, gần son thì đỏ".
Vì thế phải biết bạn tốt sẽ làm được Phật sự, đây là nhân duyên lớn, là đồng phạm hạnh. Thiện tri thức có thể dẫn dắt ta về Tịnh độ. Ác tri thức sẽ hại ta rơi vào địa ngục. Phải biết ơn của thiện tri thức không thể báo đáp hết được. Lý thiện ác rõ ràng minh bạch. Hễ mặc tình ưa thích thì lý hướng về chậm, nếu có thiện tri thức khuyên nhắc thì tâm dõng mãnh mau. Trong kinh có văn khuyên nhắc. Trong sách cũng có lời khuyên học hành. Phải biết yếu hạnh thật do khuyên nhắc mà thành, vì thế kinh nói:
"Bồ-tát tự mình bố thí cũng khuyên người khác thực hành bố thí. Tự mình trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng khuyên người khác làm những việc này. Nhưng việc tốt đẹp ưa thích ham muốn ngưỡng mộ, chuyện đó thường tình. Nay có người có tâm muốn được vui mà không thực hành việc muốn được vui, đo chưa thấy kết quả kia. Dụ như hết lương thực tư vị thì đối với kẻ đói khát hoàn toàn không giúp ích gì được. Vì thế lược dẫn một số trường hợp thạnh hành yếu sự để răn nhắc lẫn nhau. Nay có người giàu có, tài vật, nhà cửa đẹp đẽ đầy đủ không nhọc tìm kiếm mà có. Lại có người nghèo khổ đói khát, hình hài tiều tụy, suốt ngày muốn giàu có mà sự giàu có đó chưa hề tạm có. Do nỗi khổ này nên khuyên họ bố thí gắng sức tu phước.
Có người thì mặc áo lông cừu thêu hoa đẹp đẽ, lại có người một thước vải cũng không có đủ, dơ dáy bẩn thỉu.
Do đây khuyên họ bố thí y phục, nhà ở.
Như có người dùng thức ăn trân báu, bàn ghế đàng hoàng. Lại có người rau dưa sơ sài đạm bạc mà cũng không đủ. Do đó khuyên họ bố thí thức ăn, đồ uống.
Như có người địa vị vinh hiển, đầy đủ thích ý tự tại. Lại có người quê mùa thấp hèn, người không thèm ngó, bùn tro ngòi rãnh, ngồi nằm chỗ phẩn dơ uế. Khổ này đáng nhàm chán, khuyên họ tu phước để dứt trừ lòng kiêu mạn, vâng hành khiêm kính, đâu thể người khác thường sang, ta thường hèn ư?
Như thấy có người dáng vẻ đoan chánh, nói lời lợi lạc. Lại có người hình dáng lùn xấu, nói lời xảo quyệt, khổ này đáng xả bỏ, thì khuyên họ nhẫn nhục.
Như thấy có người ý chí sức lực mạnh mẽ, ít bệnh hoạn hành đạo vô ngại. Lại có người thường bệnh hoạn không được an ổn, việc lành không lợi ích. Thấy khổ này khuyên họ bố thí thuốc men, khiến họ tiến bộ.
Vì thế, kinh Pháp Cú nói: Bốn thời hành đạo được vượt qua các khổ: 1-Lúc tuổi trẻ có sức mạnh 2-Lúc có tài vật.
3-Lúc gặp phước điền Tam bảo 4-Lúc tính toán muôn vật đều ly tán.
Thường thực hành bốn việc này thì sẽ được dấu vết đạo. Nên tự mình lập thời khóa không đợi người khác khuyên nhắc. Tụng rằng:
"Nhà lan đổi tâm bồng
Chiên-đàn biến cỏ y
Đan thanh có sẽ hơn
Tơ sỏi đâu thường trắng
Khúc viên lại dây thẳng
Cây đổ bìm giậu leo
Một quỹ hoặc thành núi
Trăm dặm mỏi giữa đường
Long hán là vua quan
Đại sở tin vô bảo
Cố gắng đức không côi
Lời thành không luống dối".
Trước đã khuyên nhắc người khác, nay ta tự gia thêm thời khóa gắng sức. Nếu nói về thời khóa siêng năng mục đích là nương nhân cảnh hành. Nếu tâm chí trôi nổi thì hướng đến không chỗ nương. Nhưng nương vào nhân cảnh hạnh giới là trước tiên, có thể gọi là cửa ban đầu nhập Thánh, là con đường chánh để xuất tục. Nếu trái lời dạy này thì thường ở trong ba đường ác, cõi trời người hằng dứt tuyệt. Vì thế kinh nói: "Thí như đất nuôi dưỡng muôn vật". Giới cũng như vậy, có công năng sinh ra hoa quả người trời của chúng sinh. Vì thế kinh nói: "Nếu không có giới này thì các công đức lành đều không sinh được". Bởi khổ báo tội chướng trong ba đường ác ràng buộc. Thắng quả trời người phải là đạo khí, muốn cảm thắng quả mà không có giới thì không thể sinh được. Cho nên, bậc Thánh trước nói lời dạy này. Nhưng hai khoa pháp Tam quy, ngũ giới. Bảy chúng Tiểu thừa cốt yếu dùng Tam quy làm tông, Nhất thừa đại giáo tôn sùng ba nhóm làm chính đều như trong kinh luật có nói. Khuôn phép rõ ràng, hiến chương đầy đủ sáng hơn gương soi.
Nay nêu đại giáo hóa, đem ánh sáng chiếu tục, sở dĩ phát căn bản của giới cần phải nương tựa Tam bảo là vì Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo là ba ngôi báu đáng tôn trọng của trời người. Quy y sinh tín tâm có công năng ra khỏi ba cõi. Nếu quy y tà thần sẽ tăng thêm đường khổ, vì thế kinh nói: "Cư sĩ thanh tín quy y Phật rồi, không quy y các Thiên thần".
Do đó, trước phải định tà chánh mới biết nghịch thuận.
Kinh nói: "Tin là căn bản của đạo, là mẹ sinh ra các công đức. Trí là nhân giải thoát ra khỏi ba cõi. Thật là lời nói chí lý. Nếu không có lời nói này thì tâm chí phu hư quy giới không được. Đây là bước đầu tiên lập tín tâm làm đầu.
Thế nào là Tam quy:
- Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, ba ngôi này đáng tôn trọng cho nên là báu.
Thế nào là Phật?
- Là bậc tự giác, giác người khác, Đại Trí Vô Sư, năm phần pháp thân.
Thế nào là Pháp?
- Là chỗ làm phép tắc, làm chân chánh, diệt đế Niết-bàn thanh tịnh vô tướng. Thế nào là Tăng?
- Có thể hòa hợp, hòa hợp chúng, công đức vô học tự tha diệt xứ. Thế nào là Quy?
- Là chỗ đáng nương cậy, đáng hướng về. Thế nào là Bảo?
- Đáng làm lợi ích, chánh tâm nương nhờ, gần thì được quả trời người, xa thì chứng quả vô học. Đây chính là cửa khác nhau của Tam bảo. Nếu luận về giáo lý cùng tột thì chỉ có một, soi chiếu không đâu chẳng cùng khắp, soi chiếu Đẳng giác gọi là Phật bảo.
Thể không đâu chẳng phải pháp, gọi là Pháp bảo.
Chí đức thường hòa hợp, gọi là Tăng bảo, đây là "Thể một nghĩa ba, đồng tánh Tam bảo".
Chúng sinh hiểu ngộ, tin biết Phật tánh, lìa sinh tử này, sinh khởi lợi lạc. Vì thế nên tất cả không đâu chẳng nương về.
1- Bỏ tam quy tà
2- Ngũ giới tam quy
3- Tám giới, tam quy
4- Mười giới
5- Giới cụ túc
6- Mười điều lành
7- Giới Đại Bồ-tát.
Bảy giới này là chỗ ngăn ngừa cảnh lỗi, gần thì y cứ tất cả sáu căn sáu đại trong đại thiên thế giới đều là giới cảnh. Rộng thì như thường nói. Tụng rằng:
"Kim sơn nghiêm báu nhận
Quỳnh uyển liệt dao di
Tường cô nghị bất quật
Diêm yến khởi năng thê
Tinh hoa trang tư tự
Tuệ chiểu quán thân nghê
Nhóm lục quần chưa nhất
Bảy chúng cố thường ngay
Hình ngay thì bóng thẳng
Chánh đạo chẳng nghiêng động
Chỉ cung siêu vượt ngộ
Rốt ráo còn mê gì.
Từ trước phát tâm cho đến nay, biết bậc chí đức đáng quy y, tự mình xem xét tự trách, diệt các cửa ác, nghi ngờ đã dứt, hổ thẹn tiếp tục sửa đổi. Khuyên nhắc gồm hạnh, giới, đức lại hiển, được bởi tội chướng như vậy, nghe thọ được pháp thù thắng này há không vui mừng khấp khởi tự vui ư? Trong kinh nói: Tám nạn khó vượt qua, đó là:
1- Nạn địa ngục
2- Nạn ngạ quỉ
3- Nạn súc sinh
4- Nạn sinh ở Biên địa
5- Nạn ở cõi Trường thọ thiên.
6- Dù được làm người mà bị đui điếc câm ngọng không thể nghe nhận.
7- Tuy được thân người sáu căn đầy đủ mà thế trí biện thông tin tà điên đảo, không tin Tam bảo, buông lung khinh dễ, khi được làm người lại không sinh vào nhà chánh tín.
8- Phật tiền Phật hậu không gặp chánh pháp, luống sống một đời thêm lớn tà kiến, gây đủ các tội, tìm theo bọn ấy, vì thế cho nên trong kinh nói rằng: "Luống sống luống chết, thật đáng thương xót". Người tu hành tôn phụng pháp trước phải tôn trọng ý này, sống chết là việc lớn không thể coi thường. Nay lược nêu một số trường hợp tự mình đáng để ghi nhớ trong tâm.
Phật dạy: Địa ngục khó khỏi, mà nay được lìa khổ địa ngục này. Đây là điều tự vui thứ nhất. Phật dạy: Ngạ quỉ khó khỏi, mà nay đều được xa lìa khổ này. Đây là điều tự vui thứ hai.
Phật dạy: Súc sinh khó bỏ, mà nay đồng được nhân không thọ thân súc sinh. Đây là điều tự vui thứ ba.
Phật dạy: Sinh ở Biên địa chẳng biết nhân nghĩa, nay được ở Trung Quốc giữa nước tu tập lễ trí. Đây là điều tự vui thứ tư.
Phật dạy: Sinh ở cõi Trường thọ thiên không biết gieo trồng phước. Phước hết, chết đi trở lại đọa vào đường ác, mà nay không cho là đời vui, tự vui lại đem cúng dường. Đây là điều thứ năm tự vui.
Phật dạy: Thân người khó được, một phen mất không trở lại được, có được chăng cũng thí như con rùa mù mắt gặp bộng cây nổi, mà nay được thân người. Đây là điều tự vui thứ sáu. Phật dạy: Sáu căn khó đủ, nay không bị thiếu. Đây là điều tự vui thứ bảy.
Phật dạy: Thân trượng phu nam tử khó được, mà nay ta đã được.
Phật dạy: Thân người nữ mà biết Phật tánh thì là người nam, nay ta đã biết Phật tánh.
Phật dạy: Tà biện khó bỏ, nay ta đã quy y chánh pháp.
Phật dạy: Sinh trước thời Phật, sau thời Phật là đại nạn, nay đã cùng nhau. Thấy tượng Phật lại nghe chánh pháp, thì đồng Lộc dã không khác.
Phật dạy: Thấy được Phật là khó, nay ta đảnh lễ tượng Phật, công dụng ngang nhau.
Phật dạy: Nghe pháp là khó, nay ta được nghe pháp đầy đủ.
Phật dạy: Xuất gia là khó, nay ta thọ giới Cụ túc được ở trong chúng Tăng.
Phật dạy: Xuất gia lòng tin gấp bội là khó, nay ta nhất tâm không dám có hai pháp. Kính pháp, mến pháp, thờ pháp làm Thầy. Trong kinh có bài kệ rằng:
"Chỉ nhớ đời quá khứ
Cúng dường quá ít ỏi
Mong quả báo lâu xa
Phước kia gặp Thiền sư
Tịnh tuệ đoạn sinh tử
Si ái hết không còn
Ân Phật vô cùng tận
Nên tôn trọng tự quy".
Bài tụng về tự vui không gây ra tội mới:
"Xuân chẳng phải xuân, thu chẳng thu
Trải qua đêm dài thường ung dung
Nung hình luyện khí nhậm duyên tạo
Mở mang hiểm trở khỏi tối tăm
Vinh công ba lạc chẳng phải rộng
Ky sinh năm phước đâu thể cầu
Diệu cảnh nhiệm mầu thường khó tập
Lời sâu chí đạo gọi là tu
Năm gặp sinh hạnh hội dĩ khánh
Tội lỗi đã qua lại phải lo
Rốt ráo dứt mới, xa biển khổ
Mong hiền kế thiện nương dòng trí".
Phàm đạo từ khổ sinh, không do quả vui. Đức nương công lập, không phải chỗ nhóm họp của các căn.
Cho nên kinh nói: "Nhẫn nhục là đạo bậc nhất". Đối với chúng sinh tâm không ngại, cho nên ở trong khổ thì có nhiều chướng ngại, có nhiều phiền não, tạo nghiệp bất thiện. Nay sở dĩ được vô ngại là do ở trong chướng ngại mà tu vô ngại, vì thế ngại mà không bị ngại. Đã ở trong chỗ ngại mà không bị ngại, há chẳng phải do sức nhẫn mà được như vậy hay sao?
Trong kinh nói: Thế giới Ta-bà là cõi nước năm trược, năm điều đau khổ, năm điều thiêu đốt đủ các quả báo xấu ác. Vì thế cho nên người phát tâm Đại thừa phần nhiều sinh về cõi này, dùng việc cứu khổ làm tư lương, dùng việc trừ phiền não là yếu hạnh. Cõi này một ngày tu điều lành hơn ở cõi Tịnh độ kia trăm ngàn muôn kiếp. Sở dĩ như vậy là vì ở nơi rất khổ tâm không bằng thiện, mà có thể ở trong nơi rất khổ sở đó xuất sắc phát ý nhẫn nhục chịu khổ, há không phải là điều kỳ diệu sao? Cái gọi là trong lửa sinh hoa sen, đây thật là ít có. Tịnh độ phương khác không tu phước, do đó không bằng cõi này. Vì sao?
Vì cõi Tịnh bảy tài đầy đủ, không cần bố thí nhiếp nghèo cùng. Cõi Tịnh luật nghi viên tịnh, không cần trì giới nhiếp phá giới.
Cõi Tịnh không có nhục không có nhẫn. Cõi uế không có việc gì mà không nhục, ở trong chỗ nhục mà nhẫn được, thật hơn cõi kia. Cõi Tịnh tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, không cần siêng năng nhiếp biếng nhác.
Người ở cõi Tịnh nhập vào dòng pháp, niệm niệm tu điều lành không ngoài nhập quán, không cần phải thiền định nhiếp loại ý. Cõi Tịnh trí tuệ sáng suốt đầy đủ, không cần biện tài khéo léo nhiếp ngu si.
Lại người ở cõi Tịnh, không đâu chẳng phát thệ sâu rộng, nhưng công đức hoằng thệ không bằng ở cõi uế. Bốn món nhiếp pháp, bốn tâm Vô thượng đều vô dụng.
Vì ở cõi Tịnh an vui nên tâm cứu khổ kém mỏng.
Vì ở cõi Uế khổ nên tâm tu tiến điều thiện mạnh mẽ.
Vì thế kinh nói: "Thực hành phi đạo thông đạt Phật đạo".
Muốn phát tâm rộng lớn thực hành hạnh Bồtát, tự mình không dẫm chân đến những chỗ nguy hiểm chịu đủ sự gian nan khổ sở, vào lửa cháy, vượt qua băng tuyết, chịu sự gian khổ độc hại, đối với muôn nỗi khổ mà nhẫn chịu thì đạo tràng sẽ bước đến. Nếu không có sự não hại này thì đức nhẫn từ đâu mà sinh. Nhờ phiền não này mà ta mới phát các tâm lành. Cái gọi là bọn trần lao như hạt giống Như Lai. Phải biết người có đức nhẫn là người có năng lực lớn, là căn bản của công đức. Nghĩa là nhẫn chịu được nỗi đau khổ, nhẫn chịu được tư tưởng, nhẫn chịu được bệnh tật, nhẫn chịu được sứ đói khát, nhẫn chịu được sử mỏi mệt, nhẫn chịu được sự lạnh nóng, nhẫn chịu được sự nhiệt não, nhẫn chịu được sự mắng nhiếc, nhẫn chịu được sự hủy nhục, nhẫn chịu được sự đánh đập không sân giận, nhẫn chịu được sự tham dục không yêu đắm, nhẫn được sự kiêu mạn không trái đạo, nhẫn chỗ khó nhẫn, nhẫn chỗ khó hành, nhẫn chỗ khó làm, nhẫn chỗ khó nói. Người thực hành những đức nhẫn này thật đáng gọi là Đại nhẫn nhục.
Tụng rằng:
"Dưới Côn Luân ngọc bằng cầm thú
Phía Bắc sông Hán Ngọc ngàn vàng
Nghiệp sách thần chứa đức không trọng
Ngu tục thanh tịch đạo đã sâu
Thương ghét vui buồn sinh mà tập
Đẹp đẽ đức hạnh đời cung kính
Tài cao sức mạnh muôn người địch
Ai chịu chế thử tâm gang tấc
Ngựa sổng cuồng loạn không chế ngự
Ràng buộc hộp kín có thể cấm
Dứt tình bỏ sự có tưởng gì
Vắng lặng vô đãi bốn u tầm.
Trong kinh nói: "Thế tục gọi là phược, xuất gia gọi là giải".
Giải là do vô ngại mà có, phược là do đối đãi mà có. Nay nếu muốn có đối đãi trong không đối đãi thì có đối đãi lại phiền não. Không đối đãi trong không đối đãi thì có đối đãi tự hết. Có đối đãi đã hết thì cửa vô ngại sẽ nhập. Nếu ý chí ở nơi tư dưỡng thì thấy ràng buộc càng nặng. Nhưng chúng sinh phàm loại phần nhiều bị trở ngại, không riêng đối với vật thì tự cứu vô phương, riêng tư đối với vật thì ràng buộc càng nặng. Đã sinh ra sự ràng buộc thì giải thoát làm sao có được. Nay đã hiểu về sự ràng buộc kia, ràng buộc thật là khổ, làm sao biết được như vậy?
Nay muốn đi trên đất liền, nếu không có xe cộ thì người và ngựa không cử động được, đây là điều ràng buộc trở ngại thứ nhất.
Nay muốn đi trên nước, nếu không có ghe thuyền thì không di chuyển được, đây là điều trở ngại thứ hai.
Nay muốn dưỡng thân, nếu không có áo quần nhà cửa thì không có chỗ nương nhờ. Đây là điều trở ngại thứ ba.
Nay muốn nuôi dưỡng mạng sống mà không có lương thực, lúa gạo, năm vị mềm mại thì không có đối đãi, đây là điều trở ngại thứ tư. Nay muốn tu tập nhất tuệ mà phảng tượng vô hướng. Đây là điều trở ngại thứ năm.
Nay muốn thấy một Đức Phật, một cõi Tịnh phát tâm đặc biệt mà mờ mịt không thấy. Đây là điều trở ngại thứ sáu.
Nay muốn thấy suốt mười phương mà bị chướng ngại trước mắt.
Đây là điều trở ngại thứ bảy.
Nay muốn cầu trí tuệ Phật, Thánh để trừ hoặc chướng, gần tâm hạnh chúng sinh này mà ta không gặp. Đây là điều chướng ngại thứ tám.
Nay muốn xét văn tìm nghĩa, tuy có tâm lực, gần lời hỏi thấp cạn mà không rõ ý chỉ. Đây là điều chướng ngại thứ chín.
Nay muốn tụng tập kinh điển nhưng thọ rồi quên mất. Đây là điều chướng ngại thứ mười.
Những chướng ngại này, việc kia có vô lượng.
Sở dĩ bậc Thánh được vô ngại tự tại là do đâu? Đây chính là do xa lìa các trần lao, tự sách tấn mình làm căn bản, chỗ đối đãi này đâu không siêng năng, tự biện không nhờ người khác mà người khác bị ta dùng. Cái gọi là nhường nhịn mà đối đãi thì lý kia thông. Cầu mà được thì lý kia bị ngăn trệ. Bồ-tát không tự cầu tự lợi chỉ muốn lợi ích cho chúng sinh. Đây là vì lợi kia do mình nên được vô ngại. Chúng sinh thường vì lợi cho mình mà quên người khác, do đó thường bị ràng buộc không được giải thoát. Thánh hễ cầu là được, không phải là thường bị cách ngại mà không thông. Nay muốn học Thánh bỏ phàm thì phải noi theo chỗ tu tập của bậc Thánh. Tuy phương pháp có vô lượng nhưng bến bờ cứu giúp cốt yếu chỉ có giải thoát mà thôi. Vì thế kinh nói: Nếu từ chỗ không ràng buộc muốn giải thoát tự ràng buộc kia, thì đây có lý. Nay muốn học đạo Bồ-tát thì phải bỏ sự ràng buộc của phàm phu, ràng buộc của phàm phu chỉ có năm món dục túng ý tự tại, đây thật là sự ràng buộc lớn. Người tu hạnh Bồ-tát bỏ đó không thèm đoái hoài đến,
Trong kinh nói: Không được nuôi tôi tớ, súc sinh, phải tự mình cố gắng ra khỏi sinh tử. Nếu nhờ vả người thì người trở lại ràng buộc ta, không có lúc được giải thoát. Nay nói rằng không tôi không đứng vững, không tớ thì không nói được. Đây chính là khi khí lực mạnh mẽ, một mai nằm trên giường trăm việc đều bỏ. Tự cứu mình còn có không có thời gian rảnh rỗi thì làm sao lo cho người khác, phải tự mình cố gắng thì cửa giải thoát mới dễ đến được.
Tụng rằng:
"Tượng vật mập mờ, không có tên
Rồng bay phượng đậu, có gì nói
Dứt trí quên thân, ai làm ngại
Dấu danh ẩn tiếng, nên hiển rõ
Chẳng phải trời trăng, ánh sáng treo
Không bay không chạy, đến hư không
Tường đá không trống, tự ra vào
Nước lửa có tánh, tự co giãn
Pháp mầu ứng tục, mau truyền bá
Hiện tích nương phương mau như gió
Lành thay xuất thế không cùng bạn
Ngưỡng Viên mộ Thuấn, nên gắng gổ".
Từ trước nói về đức cùng tột ở vô ngại, hai đường thiện ác, phàm thánh khổ vui, xem xét rõ ràng lời nói này thật là đầy đủ. Chỉ nên cố gắng siêng năng mà thực hành.
Kinh nói: Cảm thương thế gian tham lam từ lâu trôi lăn trong biển ái dục. Ta thì riêng muốn trái nguồn kia, vì thế tự gắng gổ mà đặc biệt nêu ra. Đây là do đời đời siêng năng khổ nhọc mà không cho là lao nhọc.
Kinh nói: Ta và A-nan, vào thời Đức Phật Không Vương cùng phát tâm Bồ-đề, ta thường siêng năng tinh tấn, do đó mau thành Chánh giác.
Lại nói: Được trí chánh pháp rồi, dùng tâm không mỏi mệt nhàm chán nghe thuyết pháp cho chúng sinh đó gọi là cố gắng.
Chúng sinh lưu chuyển trong ba cõi, xúc khổ ràng buộc nhau, do đó tình thức mờ ám, yếu đuối, thấp kém, lo lắng nhiều mê mờ, mỗi niệm có trăm thay đổi khác nhau, nếu tự mình không siêng năng cố gắng làm giềng mối thì tâm dõng mãnh không phát.
Kinh nói: Chúng sinh đấu chiến với oán tặc cũng không khác thế gian đối địch. Muốn chế thế gian thì phải chiêng vàng đốt khí kia, trống chuông đánh tức giận kia, uất phất tăng giận dữ kia, quyết liệt thành sức kia. Không nương sự dõng mãnh này, không nhờ oai nghi hăng hái này thì làm sao bẻ dẹp được sự chiến đấu của minh điều, trừ dẹp được sư của mục dã ư. Nay cùng với phiền não đấu chiến phải nhóm trí vô lậu, vâng theo sư vô úy, giữ chúng Đạo phẩm, theo bạn sáu độ, dựng cờ đạo tràng, đánh trống cam lồ, mặc áo dày hoằng thệ, mang giáp nhẫn nhục, nắm cung trí tuệ, cầm tên kiên cố. Tinh tấn thúc giục kẻ biếng nhác, siêng năng thời khóa, không ai sánh bằng, phát hạnh đăng hoan hỷ, tháo bỏ ngay Pháp Vân, chủng trí dứt sự dõng mãnh kia, phương tiện vận chuyển tóm lược kia. Đối giặc vô minh, già chết đây phụ giúp quân bốn ma, ảnh hưởng ma Ba-tuần, nương thiên nữ, dựa quỷ thần, ức ngàn vạn chúng. Gánh núi phun lửa sấm sét chung quanh bốn phía, muốn vào nhà trọ ám hoặc, nhún nhường thấy Kim cang. Do vậy Bồ-tát nhẫn hòa vô tưởng, chứa đức từ lâu nên ma oán cúi đầu nép phục. Một niệm cố gắng khoát nhiên sáng tỏ. Chẳng phải Pháp vương hoại Chánh pháp vương, đây đều là việc trong kinh, nếu không cố gắng thì nhờ đâu mà nói được. Như Doanh gia sáng thức tối ngủ, cực khổ cố gắng thì trong nhà mới được đầy đủ, không bị đói khát. Nếu cố gắng thì không chỗ nào chẳng cứu giúp. Việc diệu hạnh xuất thế chẳng khác thế tục, nếu cố gắng lại thêm ý chí thì ba minh, sáu thông chẳng đáng cho là khó, lại vận phương tiện thêm thời khóa cho thân tâm thì sức nhẫn tin thuận lần lần tự đến, đâu thể luống bỏ qua một đời, ba đường khổ ép ngặt mình, sức không chịu nỗi mới sinh tâm hối hận thì đâu có kịp. Do đó, việc cố gắng thông suốt trước sau, tâm thực hành cùng tột chỉ ở đây mà thôi. Bậc Thánh soi xét rõ ràng, quán sát cùng tột nên mới phát ra lời nói nương văn hiện ý. Tụng rằng:
"Hai núi Dự Bắc đâu có đời
Một sông Hà Trung có thể làm
Tinh thành sẽ đến dưới tuyết trần
Ý chí đã cảm, lìa vàng đá
Hữu tử thích chưởng tu danh lập
Vương sinh trạc phát mỹ dự thùy
Tự đến tâm siêng ít tội đọa
Sao không cố gắng thoát khổ ách
Cờ đẹp trống pháp hãy đánh lên
Trí sư, đạo chúng lăng xăng đuổi
Hữu thường vô ngã đã xếp rõ
Vô minh có buộc ai thấy được".
Đại Thánh giáo hóa tùy căn cơ cảm ứng được lợi ích, thí như một âm thanh thuyết pháp chúng sinh đều được hiểu biết. Vì thế cho nên vì người hiện đời lợi lạc nên giáng thần vào thai mẹ, đản sinh vào cung vua. Đáng vì lợi ích cho người xuất gia nên bỏ ngôi vua, cạo bỏ râu tóc.
Đáng vì lợi ích người tướng tốt, do đó hiện thành chánh giác ngồi dưới cội Bồ-đề. Đáng dùng thật tướng lợi ích, do đó ba lần chuyển pháp luân, mười hai bộ kinh.
Đáng dùng diệt độ lợi ích, do đó ở song lâm ẩn ánh sáng, hiện Niết-bàn.
Bởi chúng sinh nhiều nghiệp chướng phiền não, vì thế Đức Phật giáo hóa tùy ứng chẳng phải một. Nhưng hiện nhập Niết-bàn là muốn tăng phát tâm luyến mến. Do thương xót luyến mến nên tâm lành phát khởi. Lễ bái tượng tháp đều cảm phát tâm thương mến, dần dần kính mộ. Thảm thương tình cảm kia mà nghĩ nhớ chánh pháp. Ta không kính mến khóc tưởng thì Đức Như Lai không chính thần nói ra các ý chí. Như vào miếu Tổ tiên cha mẹ thì thấy sự linh nghiệm, như than thở không có nhan sắc. Đức Như Lai hết lòng khiến ta đầy đủ các hạnh khổ, mà ta trái lại nên tự mình đọa vào đường ác. Đối với tướng đời sau mê mờ giải thoát. Do khổ báo nên nhớ ân Đức Như Lai. Đây là do ngày nay đều quy tâm đối với tượng tháp này.
Dốc lòng phụng thờ bậc chí tôn, Hoàng hậu, Hoàng Thái tử, bảy miếu Thánh linh. Ngày nay tín thí, Long thần, tám bộ, khắp vì tất cả chúng sinh đau khổ, kính lễ mười phương ba đời tất cả các cõi nước chỗ nào có hình tượng linh miếu của Đức Như Lai. Kính lễ tất cả linh cốt xá-lợi hiện tại của Đức Như Lai.
Kính lễ xá-lợi đảnh cốt hiện tại của Đức Như Lai. Kính lễ xá-lợi hộp sọ hiện tại của Đức Như Lai. Kính lễ xá-lợi mắt sáng hiện tại của Đức Như Lai.
Kính lễ tất cả xá-lợi tóc xanh, hồng hiện tại của Đức Như Lai. Kính lễ tất cả xá-lợi xương tay hiện tại của Đức Như Lai.
Kính lễ tất cả xá-lợi răng hiện tại của Đức Như Lai.
Kính lễ các dụng cụ như: y, bát, bình nước, tích trượng hiện tại của Đức Như Lai.
Kính lễ sinh địa và di tích đi ngồi của bốn Đức Phật quá khứ. Kính lễ Bảo tháp cây Bồ-đề đắc đạo của Đức Như Lai.
Kính lễ Bảo tháp chỗ chuyển pháp luân của Đức Như Lai. Kính lễ Bảo tháp chỗ Bát Niết-bàn của Đức Như Lai.
Kính lễ tám mươi bốn ngàn tháp do vua A-dục xây sau khi Đức Như Lai diệt độ.
Kính lễ vô lượng tượng chư Phật do vua A-dục tạo.
Kính lễ tất cả tượng pháp long cung trong biển của Thiên thượng nhân gian.
Kính lễ các tượng Phật bằng ngọc của các châu ở nước này. Kính lễ vô lượng linh tượng ở các núi, các chùa trong nước này. Kính lễ vô lượng hình tượng trong biển và ở Thiên thượng nhân gian.
Nguyện tất cả chúng sinh không sinh trước thời Phật, sau thì Phật, mà thường thấy Phật đản sinh, thường gặp Phật xuất gia, thường thấy Phật đắc đạo, thường thấy Phật nhập Niết-bàn. Có thể xây dựng vô lượng tượng tháp như thế, tột đời vị lai Phật sự không dứt. Tụng rằng:
"Việt nhân chú kim thành có tư
Ngụy hậu trang mộc cũng là buồn
Trung hiền tiểu tiết còn luyến mến
Cách Phật càng xa tình càng thấm
Kỳ thọ tiêu điều nhiều túc sở
Vương cung tịch mạc tư di cơ
Lập tượng ở nhà để chiêm ngưỡng
Khai nghi trú cảnh ấm như thế
Liên khanh cộng nhật độc trước sau
Đạo du mạng thù tương vô thời
Khuynh hoài kết tưởng trắc dĩ mộ
Thùy linh tả chiếu phất trần nghi".
Các pháp vốn không, vắng lặng không có nói năng, do nhân duyên nên hiện có văn tự. Phải biết văn tự kinh điển vốn để trừ bệnh diệt mê hoặc làm đầu.
Hoặc tức tám mươi bốn ngàn cho nên giáo môn cũng có tám mươi bốn ngàn pháp tạng. Đến lúc bệnh hết hoặc trừ thì thuốc cũng hết theo. Như dụ bè có thể cho là tình tất. Nhưng chúng sinh chìm đắm trong sự chấp trước tùy theo lời nói mà bị dính mắc, do đây nên lời dạy như phương thuốc nêu bày, do đó vàng lựa đầy bảo điện, trục ngọc sáng rỡ ở hung thần. Phân tích có không ở giả thật, biểu phát quyền trí ở vô phương. Vì thế, một đời bốn mươi chín năm tùy duyên chỉ bày giáo, thuyết pháp từng món, cho đến khi nhập Niết-bàn chỉ có thinh giáo, tùy ngôn thuyết sẽ đến chỗ quên mất. Nhưng dùng nghĩa lý bàn về sự mầu nhiệm, chánh tông chẳng mê muội, lời nói tuy mất nhưng ý chỉ của Phật khó trái được. Vì thế lập pháp nương theo dụng thường phán định, Thiên ma ngoại đạo đâu dám xâm phạm. Mặt trời tuệ đã lặn, mây pháp bủa xa, không phân biệt thì không làm sao mà hiến công. Tôn pháp môn của Đại Ca-diếp tài giỏi, đánh chuông triệu tập một ngàn vị Tăng vô học (A-lahán), một mùa hạ kiết tập lời di giáo. Mười hai nghĩa tìm văn của ba tạng, Tu-đa-la (tức kinh) số kia vô lượng không thể nghĩ bàn. Cất ở Tây Hạ cho đến ngàn năm. Lúc bấy giờ, lần lần chuyển đến Đông Độ phiên dịch thành chữ Hán, truyền đến nay trải qua sáu trăm năm, Tạp Lục Chánh Kinh hơn bảy ngàn (7.000) quyển. Từ nghĩa minh mẫn, bàn vị không sót gần thì siêu phàm chứng Thánh, đủ như trong kinh, người trí tìm xem. Hết lòng phụng vì bậc chí tôn, Hoàng hậu Hoàng Thái tử, Thánh linh bảy miếu, Thiên long tám bộ cho đến mười phương tất cả chúng sinh khổ ách.
Kính lễ tất cả chân như chánh pháp tạng. Kính lễ tất cả Pháp tạng chư Phật mười phương đã nói.
Kính lễ Pháp tạng của Đức Phật Câu-lưu-tôn ở Hiền kiếp, Pháp tạng của Như Lai, Thiên long cung.
Kính lễ Pháp tạng của Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni và Thiên long cung.
Kính lễ tất cả Pháp tạng của Đức Phật Ca-diếp và Thiên long cung.
Kính lễ tất cả Pháp tạng của Đức Phật Thíchca Mâu-ni, Thiên long cung.
Kính lễ tất cả Pháp tạng ở chùa Hắc phong ở Tây Ấn Độ. Kính lễ Pháp tạng, mười hai bộ kinh Đại thừa ở nước Thư Cừ. Kính lễ pháp tượng tường đá tám chữ xả thân ở Bắc Ấn Độ. Kính lễ Tất cả các tạng kinh điển của Thần Châu Đại Quốc.
Kính lễ kinh bằng đá ở Dịch Châu, kinh tượng hang đá ở Sóc Châu Hằng An.
Kính lễ các Pháp sư thọ trì Tam tạng.
Kính lễ tất cả các Thiền sư, Luật sư đọc tụng kinh điển và những vị tu hành v.v...
Nguyện tất cả hàm linh nhập vào pháp môn như thế, thường hay tổng trì, giáo hóa cùng khắp, thông đạt vô ngại.
Tụng rằng:
"Không ra khỏi nhà là vì sao
Hành không dùng pháp muốn tu gì.
Yên vào nước Sở đợi Ngựa tốt
Qua sông vượt biển nhờ thuyền nhẹ
Lòng nhân vì lợi sớm đã rõ
Thánh đạo khắp giúp xa khó tìm
Thông minh soi suốt từng sáng tỏ
Ngưng đọng thấm nhuần chìm vực sâu
Giúp thiện khai mở bày giáo nghĩa
Chiều tối mở hoặc rửa ưu phiền
Công thành chẳng có, danh cũng không
Đốt hết không chấp cùng du hóa".
Tăng gọi là phước điền, các đạo đều tôn thượng, vì sao? Vì phát mong tâm thuyết tối của thế tục, khởi đầu con đường xa chánh đạo. Cứu trầm luân, giúp ba cõi, mở mang chánh pháp ủng hộ muôn đời. Do đây đạo giúp thiên hạ, đức sáng bốn tục, có thể sinh hạt giống lành, gọi là phước điền. Đức vang như kiền chùy, lại gọi là ứng cúng. Tâm trái lý nghĩa, hành vượt pháp khoa, hiển dung mạo trái với người cạo tóc. U thọ không thọ chi báo. Chính làm thù hận với thí chủ, cùng với cốt nhục làm vết thương. Máu huyết có thể tìm, thạch nữ không xa, Tăng ủng hộ Phật tạng nói rõ không mê. Trí luận đại kinh có liên quan đến thanh quy. Trong một phải ba lần phản tỉnh, việc làm phải chín lần suy nghĩ, niệm niệm sách tấn, tâm chẳng lúc nào từ bỏ mới nhập vào một vị ba thừa, dự vào một thành viên của Tam bảo. Thạnh đức đáng quán, sáu đường quy y, vượt khỏi cao hạnh khó bàn, bảy chúng theo nhau làm phước điền, há chẳng phải thân ở trong cõi nước mà tình thì vượt ngoài cõi nước ư? Trôi lăn, ràng buộc gói kín hôn mê, nơi nơi chấp trước thì làm sao vượt xa được. Đây là lập Tăng bảo làm ruộng tốt cho thế tục, khiến khởi phước lực được ra khỏi sinh tử, không luống lập. Nhưng Phật vượt ra hệ lụy làm khuôn phép, vì chúng sinh thọ cúng mà thật không thọ. Pháp do dứt hoặc thanh tịnh phi tình, cúng dường cảm quả từ tùy sinh nghiệp, Tăng gồm phàm thánh, thân thuộc nhân trước. Dầu thành vô học cũng còn quả báo khổ, thân dứt bỏ hết không còn mới ra khỏi các cõi. Nay do thân lụy có duyên phần nhiều cần phải tư đãi, cho nên bố thí dạy phần nhiều đối với Tăng. Nhưng cúng dường Tăng là đầy đủ Tam bảo, vì thế Đức Phật nói: Thuận theo lời ta là cúng dường ta. Vì giải thoát cho nên cúng dường pháp. Chúng Tăng thọ dụng là cúng dường Tăng. Vì có lý nghĩa này nên gọi chúng Tăng là phước điền tốt.
Phụng vì bậc chí tôn, Hoàng hậu, Hoàng Thái tử. Thánh linh bảy miếu, Thiên long tám bộ cho đến tất cả chúng sinh khổ ách.
Kính lễ tất cả Tăng bảo trong mười phương. Kính lễ đương lai hạ sinh Phật Đâu-suất Thiên Di-lặc Bồ-tát tăng.
Kính lễ Đại sĩ du phương Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát tăng.
Kính lễ Đại sĩ cứu khổ Quán Thế Âm Bồ-tát tăng.
Kính lễ Đại sĩ hộ pháp Phổ Hiền Bồ-tát tăng.
Kính lễ Đại sĩ diệt tội Hư Không Tạng Bồ-tát tăng.
Kính lễ tất cả hành đại đạo tâm Bồ-tát tăng trong mười phương.
Kính lễ tất cả hành Duyên giác tâm, Bích-chiphật tăng trong mười phương.
Kính lễ tất cả hành Tiểu thừa, các Thanh văn Tăng trong mười phương.
Kính lễ Tân-đầu-lô-xà trụ pháp muôn đời các Thanh văn tăng.
Kính lễ Phật tử La-hầu-la trụ pháp muôn đời các Thanh văn tăng.
Kính lễ Diệu Châu, sơn hải chín ức vạn trụ pháp muôn đời các Thanh văn tăng.
Kính lễ ba ngàn cõi hiện ở trong tất cả các phàm thánh tăng.
Nguyện tất cả hàm linh thường cùng Hiền thánh đồng nương chánh đạo, khai trí tuệ sinh phước không bị đọa vào đường ác, đời đời gặp nhau làm thiện tri thức, diệt trừ phiền não được ra khỏi các cõi.
Tụng rằng:
"Năm ngọc đã nhuận bàn mà tín
Bất quế tuy phương gió bèn theo
Diệu lý chí ngôn chỉ Phật bảo
Không phải bậc kia ai mở đạo
Chiếu không quán pháp biết trôi chảy
Vỗ về thế tục nhàm sinh tử
Dứt tuyệt ham muốn trừ vui thích
Túng lạc hào vinh khí tiêu dao
Thân du hốt tin như gió bụi
Tài lợi thăm thẳm như cỏ, bụi
So với mây rồng đâu là cao
Trạc túc giang hán lại hổ thẹn".
Khuyến thỉnh là ý rất hết lòng. Do phát tâm ý ân cần thì muốn việc lành thêm sâu. Vì thế cho nên đối với tất cả các việc thiện nhỏ bé đều phải ân cần khuyến thỉnh, tăng tấn khiến sinh tuệ hạnh, không cho phế bỏ, nhưng khuyến thỉnh có hai:
1- Khuyến thỉnh chúng sinh tu hành giới thiện đầy đủ các công đức.
2- Khuyến thỉnh chư Phật cứu hộ chúng sinh trụ ở đời lâu để thuyết pháp.
Đối với bốn đường ác trong mười pháp, nay con đều khuyến thỉnh tu trì các giới hạnh để được thân người.
Đối với tất cả loài người trong mười phương, nay con đều khuyến thỉnh tu mười điều lành để được sinh lên cõi trời.
Đối với chư Thiên trong mười phương, nay con đều khuyến thỉnh lên giai vị nhóm Chánh định, được lìa đường ác.
Đối với các học giả trong mười phương, nay con đều khuyến thỉnh nên giác sát các phiền não mau chứng vị vô học.
Đối với bậc A-la-hán trong mười phương, con đều khuyến thỉnh biết ngôi vị này là không rốt ráo, chỉ có nhất Phật thừa rốt ráo mà thôi.
Đối với Bích-chi-phật trong mười phương, nay con đều khuyến thỉnh thành tựu trí đại bi, giáo hóa các chúng sinh.
Đối với Nhân thiên, hàng Nhị thừa, nay con đều khuyến thỉnh thể giác Như Lai tạng, tu tập hạnh Bồ-tát.
Đối với tất cả các Bồ-tát, nay con đều khuyến thỉnh tu hành hạnh mười độ, mau chứng ngôi Thập địa.
Đối với Bồ-tát ở trời Đâu-suất, nay con đều khuyến thỉnh thường chuyển bất thoái luân, mau độ chúng sinh.
Đối với Bồ-tát trí chưa sáng, nay con đều khuyến thỉnh trí Kim cang diệt trừ trần lụy, hiển phát tướng chân thật.
Đối với tất cả chư Phật trong mười phương mới thành Đẳng chánh giác, con thỉnh chuyển pháp luân, làm cho các chúng sinh an lạc.
Đối với tất cả chư Phật trong mười phương, nếu muốn xả thọ mạng, nay quy mạng thỉnh, xin trụ ở đời lâu.
Chư Phật và Bồ-tát như vậy, nay con đều khuyến thỉnh phát tâm tha thiết này, vì thế cho nên cúi đầu đảnh lễ.
Tụng rằng:
"Đợi sông trong gặp Thánh triều
Linh trí thương tiếp kẻ ở xa
Mặt trời trắng sáng không soi chiếu
Đạm bạc ẩn chí luống ngẩng đầu
Đầy khắp hư không, cùng ba cõi
Đầy dẫy vũ trụ, suốt tám liêu
Đức sáng nghiệp liền lên chí giác
Vắng lặng thường trụ có thể siêu
Đốt cháy khiến lửa nghĩ sương, mây
Chìm đắm khiến nước trông ghe, cầu
Lòng từ cứu độ xưa có thệ
Pháp luân đạo ngự lại thông dong".
Chúng sinh vì ngu hoặc, phần nhiều có tâm ganh ghét tăng thượng. Do đó nên thấy người làm việc lành thì khởi tưởng ác, hủy nhục phá hoại làm cho không thành tựu. Nhưng kia trước người chưa chắc tổn hạnh, mà người ganh ghét này vọng thêm nóng bức, nuôi lớn hoặc nghiệp nên sinh tử không dứt. Vì thế nên bậc Thánh điều tâm chế ý, thực hành hoan hỷ này, cũng khuyên các chúng sinh đúng như lời Phật dạy mà phụng hành.
Mười phương tất cả chúng
Chỗ có thiện nhỏ nhiệm
Nhân nghĩa và lễ trí
Hiếu dưỡng và cung kính
Từ hòa và hiếu kính
Hạnh liêm trinh, thanh khiết
Nếu có thiện như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Lìa dục ở nhân gian
Kính tu giới của Phật
Tam quy, năm, tám giới
Thập thiện, giới Bồ-tát
Thanh tịnh các luật nghi
Lìa các tiếng tăm ác
Các công đức như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Cúng Tăng thí pháp y
Rửa sạch cấu phiền não
Cứu các kẻ nghèo khổ
Đói lạnh và bế tắc
Bệnh tật và khổ ách
Cho thuốc và thương xót
Các công đức như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Làm đường lớn giềng tốt
Cầu, thuyền đưa người vật
Vườn rừng ao hoa quả
Cúng Phật và chúng tăng
Đói khát trừ nhiệt não
Phước kia thật vô lượng
Các công đức như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Chép kinh truyền giáo pháp
Đốt đèn phát tuệ sáng
Tự tụng và chuyển tụng
Hiểu rõ các nghĩa thú
Nếu lại vì người nói
Tăng thêm tâm vui vẻ
Các công đức như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Xây dựng các tháp miếu
Chánh điện và chùa báu
Tượng cây và tượng vẽ
Hoặc vàng bạc đồng đá
Truyện vẽ các tướng tốt
Hiển bày ở pháp thân
Các công đức như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Nếu có xây phòng tăng
Giường màn và đồ nằm
Khiến người kia dứt tâm
An ý ở thiền lâm
Ra vào cửa khổ, không
Thứ lớp quán vắng lặng
Các đối đãi như vậy
Nay con đều tùy hỷ
Như Lai đại từ bi
Khéo nói các pháp môn
Phát sinh hạnh tùy hỷ
Nay con cùng tu học
Tùy hỷ các Thanh văn
Chịu khổ độ sinh tử
Tùy hỷ các Bồ-tát
Không bỏ các đường ác
Tùy hỷ Phật mười phương
Thiên nhân tôn vô úy
Ở trong ngục ba cõi
Dẫn chúng sinh ra khỏi
Nguyện cho các chúng sinh
Đều được chứng Phật đạo
Vì thế con tùy hỷ
Cúi đầu lạy chư Phật.
Tụng rằng:
"Nghe thiện như mình xem sách hay
Thấy hiền nghĩ như lời răn tốt
Cảm u động địa hiếu có thật
Vận thủ lưu trường trung vi tháo
Chấn lễ cầm văn hoằng hiến tắc
Cơ mô viêm dõng tĩnh gian bạo
Minh bạch nhập tố chí xung nhàn
Cao luận cùng vi khế sâu kín
Bỏ thân cứu vật chẳng cầu danh
Khinh tài trọng nghĩa đâu đợi báo
Trăm hạnh muôn thiện nhiều phép tắc
Cầu thành khánh tưởng đều vui vẻ".
Hồi hướng là không mê đắm. Tất cả chúng sinh đầy đủ muôn hạnh, xả bỏ thân mạng tài sản.
Sở dĩ không được giải thoát sinh tử đều do đắm nhiễm quả báo không thể xả bỏ. Nếu có thể không chấp tâm kia, tu hành nhiếp độ. Nếu có chút phước nhỏ nào cũng hồi thí cho chúng sinh hướng về Phật đạo thì đối với quả báo không sinh mê đắm, liền đối với sinh tử được giải thoát. Vì thế, kinh nói: "Như chỗ nói tu hành hồi hướng vì lợi lớn". Do đây tất cả nghiệp lành đã làm đều nên hồi hướng và khuyên chúng sinh không mê đắm quả báo. Vì sao? Vì ngay thân hình đây là gốc của quả báo. Suốt ngày nuôi dưỡng, trang sức, trau chuốt, cuối cùng cũng sẽ chết mà luống giữ gìn chấp trước. Tự mình ngu ám nên tham ái thân này. Lúc nhỏ có trí tuệ sáng sao không có lúc không nhàm lìa. Do đây người trí phải để tâm không nên tham đắm hồi lưu sinh tử.
Chúng sinh trong mười phương
Nghiệp lành nhỏ đã làm
Do hiếu và cung kính
Từ ái và nhu hòa
Trung chánh tu lễ, trí
Gắng giúp người cô cùng
Thiện thế tục như vậy
Đều hồi hướng Phật đạo
Tất cả các ngoại đạo
Các thứ hạnh siêng khổ
Năm dục đốt thân kia
Lao vào núi, nước, lửa
Lại vào ngục tro bùn
Vô lượng các tà kiến
Nay đều xin hồi hướng
Đồng quy đạo chánh giác
Tất cả thanh tín sĩ
Quy giới hành thập thiện
Cho đến các người nữ
Cũng nên tu phước đức
Lại hay khéo thuyết pháp
Khai hóa các phước lành
Hồi hướng thí chúng sinh
Đều thành đạo Vô thượng
Tất cả chúng đệ tử
Nghe tiếng liền giải ngộ
Thiện lai, thành Tỳ-kheo
Cho đến bốn đạo quả
Phương tiện và sơ quán
Tưởng khổ, không, vô thường
Cũng hồi hướng chúng sinh
Đồng đến đạo Vô thượng
Các Bích-chi mười phương
Tự nhiên thành Duyên giác
Thâm ngộ ở đời khác
Hiểu rõ pháp nhân duyên
Ẩn hiện hóa chúng sinh
Ở riêng ưa vắng lặng
Như vậy gồm tất cả
Đều hồi hướng Phật đạo
Các Bồ-tát mười phương
Đọc tụng các kinh pháp
Nhập thiền và xuất thiền
Khuyên đều hành điều lành
Như vậy đồng ba thiện
Tất cả các công đức
Cũng hồi thí chúng sinh
Quy hướng đạo Vô thượng
Tất cả các việc lành
Cho đến quả Hiền thánh
Giải không chưa thể cùng
Có, không đều chưa dứt
Đều khiến cùng tất cả
Đồng nhập cảnh chân diệu
Nếu hồi có tướng tâm
Đều hướng đạo giải thoát
Các Bồ-tát như vậy
Nay con xin hồi hướng
Phát tâm không chấp trước
Nên cúi đầu đảnh lễ.
Tụng rằng:
"Thăm thẳm chín cõi đều khác hình
Quấy rối bốn tục chẳng phải một
Đánh xe đuổi ngựa theo nghiệp đời
Thị giao chúc nghĩa hư danh huyễn
Ba Mặc phân vân đâu không hội
Bảy Nho ủy uất hội chưa cùng
Kiết hung câu kỵ bèn số thuật
Thủ hợp với ly thật ngang dọc
Sáng trời, tối trăng trọn chấp gì
Lao vào núi, lửa không tổn mạng
Than ôi mất đạo lại hồi giá
Nhìn dòng nước kia chảy về Đông.
Các điều ác phát khởi đều do ý tham sân si mà có tự hại mình, hại người khác không có gì hơn đây, cho nên kinh gọi là ba món độc căn bản, hay phiền não nhiễu loạn thân tâm. Đối duyên khởi ác ba lần ba là chín món. Nhưng chín món này nghĩa có cả thiện ác. Ba gốc lành sinh gọi là nghiệp đạo thiện, ba gốc chẳng lành sinh gọi là nghiệp đạo ác. Vì thế cho nên người tu hành thường nên nhất tâm không để cho động loạn. Vi trần khởi tướng thấy liền giác sát, giữ gìn sáu căn không để cho trần nhiễm, thường phát nguyện rộng để tự trang nghiêm, nguyện tất cả chúng sinh từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ-đề, mắt thường không thấy sắc tham, dâm, tà vạy mê hoặc người, không thấy sắc sân nhuế, xấu xí, đồ tể, ngu si, ám độn, cống cao tà mạn. Nguyện thấy sắc của tất cả pháp thân mười phương thường trụ, sắc của Bồ-tát hạ sinh tám tướng, sắc của tướng tốt Như Lai, Thánh chúng hòa hợp đều khéo nhóm họp.
Nguyện tất cả chúng sinh tai thường không nghe tiếng đau buồn sầu khổ; tiếng địa ngục khổ sở; tiếng ngạ quỉ súc sinh chịu khổ; tiếng tám khổ giao đối; tiếng bốn trăm lẻ bốn bệnh phát khởi; tiếng tám vạn bốn ngàn trần lao. Nguyện tai thường nghe tiếng tám âm thanh của chư Phật thuyết pháp; tiếng tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật; tiếng Thánh quả ba thừa các công đức như vậy v.v....
Nguyện tất cả chúng sinh mũi thường không nghe hơi ăn uống của mùi vị sát sinh; hơi da bọc của ba mươi sáu vật; hơi phát dục la khỉ chi trạch, hơi ngũ tể hay huân chín tương thông. Nguyện mũi thường nghe mùi thơm của các cây cỏ ở các thế giới mười phương; mùi hương của các công đức năm giới, tám giới, mười điều lành, sáu niệm; mùi hương của bậc Hữu học, Vô học, Thập địa, Ngũ phần, mười Lực, tám mươi bốn ngàn các độ vô lậu, mùi hương của chư Phật mười phương thuyết pháp.
Nguyện tất cả chúng sinh lưỡi thường không nếm mùi vị thịt của chúng sinh có mạng sống; mùi vị có thể sinh phiền não. Nguyện lưỡi thường nếm mùi vị cam lồ bất tử, thức ăn tự nhiên ở lưỡi biến thành thượng vị; mùi vị chư Phật đã ăn; mùi vị Pháp thí thiền duyệt; mùi vị giải thoát Niết-bàn tối thượng.
Nguyện tất cả chúng sinh thân thường không biết va chạm tà dâm trơn láng sinh dục lạc; không biết va chạm nước sôi băng lạnh; va chạm các khổ não của ngạ quỉ, súc sinh; va chạm bốn trăm lẻ bốn bệnh, lạnh nóng gió sương, muỗi mòng rận rệp, đói khát khốn khổ v.v... Nguyện thân thường biết va chạm tám món tự tại như sự mát mẻ, mạnh khỏe, tâm ngộ, an ổn, chứng đạo, phi hành v.v.... Nguyện tất cả chúng sinh từ hôm nay cho đến lúc chứng quả Bồ-đề ý thường biết chín mươi tám món sử; pháp tám mươi bốn ngàn trần lao; mười ác năm tội nghịch; pháp chín mươi sáu tà sư; ba đường ác đáng nhàm chán, khổ lớn sinh tử. Nguyện ý thường biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Phật là vị thầy thuốc hay, pháp là thuốc tốt, Tăng là người khám bệnh vì các chúng sinh trị bệnh sinh tử, khiến được giải thoát, tâm thường vô ngại, vắng lặng không có nhiễm ô. Tụng rằng:
"Tâm là chỗ hẹn đến bờ kia
Việc gì thuận thế lâu ẩn mất
Chiếu mặt trời tuệ chở mây pháp
Vọt qua thành khổ ra khỏi trần
Cỏ thơm ngọc sáng, nghe năm tháng
Cây báu phất phới đánh thức dậy
Thanh lộ trong ngọt thường để rót
Vườn vui, sông đẹp thường du ngoạn
Không đợi giữa đảnh phương trượng dâng
Đâu cần đàn tranh khảy tiếng đàn
Cần thành nghi nguyện lớn chẳng vượt
Tập khổ tọa lao từ đây hết".
Đời Đại Đường, chùa Tây Minh, Sa-môn Thích Đạo Tuyên soạn.
Phước là gì? Nghĩa là cảm lạc thọ để an thân, lấy việc vui vẻ để vui tánh. Nhưng Pháp vương lập pháp bao gồm thức tâm, ba cõi lao ngục, ba khoa xét định gồm: Một là tội. Hai là phước. Ba là đạo.
Tội là chỗ kết ba độc, ràng buộc nghiệp thuộc ở quỷ vương. Luận về tướng trạng kia, ở thiên sau có nêu đầy đủ.
Phước là chỗ thành tựu bốn thệ nguyện rộng, ngã vốn thuộc ở thiên chủ.
Đạo là thông suốt không chướng ngại, y cứ theo hạnh thì không đâu chẳng mê muội, muội thì nương phân ra trí tiểu và đại, liên quan đến pháp tin. Minh là riêng đạt lý tánh cao siêu có không, đạo này sáng suốt như chỗ hiển bày riêng.
Nay luận về phước, Bi kính làm đầu.
Bi là gian khổ vượt sự khổ sở, suy nghĩ cứu giúp ra khỏi. Kính là biết Phật pháp khó gặp, mở mang tín ngưỡng là thần lắng, duyên cảnh chính là có dính líu đến sự tình.
Y cứ theo lý thì chỉ có tâm là gốc, nên rỗng suốt không ràng buộc, phước kia không trở về với tự tha. Tưởng điên đảo chưa dời, thì tạo nghiệp có trái đối với sự dụng, vì thế từ xưa đến nay theo nhau không dứt.
Vương là biết thân hình có đó chẳng phải ngã.
Hưng khởi trụ trì nơi chùa tháp. Còn lại thì do nơi không đủ. Phần nhiều hành thí đủ chu cấp, ở đây cho nên biết có tạo nghiệp thì không gọi là siêu thăng, phần nhiều do tạo tội càng thêm sinh tử, vì thế nói rằng: Có tạo tội vừa hướng về cần phải xả, có tạo phước tuy thực hành mà không chấp trước, do đây nên ý lập hạnh hai phần: Trệ thì thêm sinh, xả thì tăng đạo. Đạo y cứ nghịch lưu ra khỏi phàm nhập thánh. Phước thì thuận sinh điên đảo kiết nghiệp. Vì thế, tạo phước vốn trải qua hiền minh. Đời Lương, Hoằng Minh Tập Khởi Phước Thiên Lục Vương Cai Nhật Chúc.
Bắc Đại, Nam Tấn, Tiền Tần, Tiền Yến, Nam Yến, Hậu Tần: Các vua và sách Pháp sư Thái Sơn Lãng và sách của Pháp sư Lâm.
Nam Tề, Hoàng Thái tử nguyện sớ lễ Phật, Trầm Hưu Văn.
Xả thân nguyện sớ: Trầm Hưu Văn.
Nam tề Sớ Nam Quận Vương xả thân: Trầm Hưu Văn. Y trong các kinh hành sám hối nguyện văn:
Lương Cao Tổ.
Ngàn Tăng hội nguyện văn: Trầm Ước. Văn nguyện ngày mồng 08 tháng 04 độ người xuất gia: Lương Giản Văn.
Bát quan trai chế tự, và chế mười điều: Lương Giản Văn. Sớ nguyện của Đàn Việt làm các chùa: Lương Giản Văn.
Lập phước hội giáo vô ngại: Lương Tú Luân. Sách Đáp Tương Đông Vương: Lương Giản Văn.
Sách Diễm Pháp Sư.
Sách Lưu Trí Tạng: Lương Nguyên Đế.
Sách Ước Pháp Sư: Thẩm Ước.
Sách Ấn Xà-lê: Lưu Chi Lân Lương.
Sách Vân Tăng Chánh: Lương Vương Quân. Sách Trường Sa Vương Biệt: Lương Vương Quân. Sách Đáp Pháp Sư Vân: Lương Lưu Hiếu...
Chiếu chỉ Bắc Tề, Võ Thành Để dùng ba đài làm chùa: Ngụy Thu.
Chu Minh Đế ra chiếu chỉ lập hai chùa Trắc Dĩ và Trắc Hổ. Văn nguyện của chùa Liêu Dương Sơn, Bắc Tề: Tư Đạo.
Đời Tùy, Cao Tổ vì Thái Tổ ra chiếu chỉ tạo chùa: Lý Đức Châu. Đời Tùy, Cao Tổ ra chiếu chỉ ở Tương châu Chiếu Tràng lập chùa.
Đời Tùy, Dương Đế ra sắc chỉ hành đạo độ người trong nước. Đời Đường, vua Thái Tông ra chiếu chỉ ở Hàng Đông lập bảy chùa. Đời Chu, Võ Đế nói chung hai giáo.
Đời Đường, vua Thái Tông ra chiếu chỉ lập trai đàn hành đạo cho những người bị chết trong chiến tranh.
Đời Đường, vua Thái Tông xây dựng chùa Hưng Thiện.
Đời Đường, vua Thái Tông ra chiếu chỉ độ Tăng trong nước. Đời Đường, vua Thái Tông ra chiếu chỉ sửa nhà xưa thành chùa.
Đời Đường, vua Thái Tông ra sắc chỉ không được bán tượng Phật.
Đời Đường, vua Thái Tông vì Mục Hậu làm sớ truy phước thủ??
Đời Đường, Đông cung Hoàng Thái tử, chùa Tây Minh bài minh khắc trên chuông và các sách của luật sư Tiến.
Đời Đường, vua Thái Tông ra chiếu chỉ xây dựng chùa Hưng Thánh.
Hoàng đế kính hỏi Hòa thượng Thái Sơn Lãng, thừa sa Thánh linh, cốt yếu phải kinh lược dĩ mạng nguyên nhung. Thượng nhân đức rộng như núi như biển, thần thật rộng sâu, giúp việc sinh nhai, đem lại sự bình an khắc phục mất mùa đói khát. Nay sai sứ đem dâng cúng hai mươi tấm lụa trắng, năm mươi cái áo Bạch Chiên, hai bình bát bằng bạc, xin nhận cho.
Hoàng đế kính hỏi Hòa thượng Thái Sơn Lãng, khi hiểu đức sáng, tiếng vang đến Đông Nhạc. Linh hải quảng yêm, có sinh mông nhuận. Đại nhân xuất hiện ở dời, khéo cứu giúp người, nêu bày kinh lược, huyền bẩm diệu kế. Xưa Lưu Diệu sáng lập kế nghiệp Nhung, Địch. Nguyên Hoàng rồng bay bèn dừng ở Giang Biểu. Cựu kinh chìm đắm, Thần Châu khuynh đãng. Chúng sinh đồ liễu nương ở Tả Nhâm mỗi khi nghĩ đến thấy thật đáng thương. Tâm trẫm lo xa nước Ngụy, Triệu dẹp tan nước Yên chinh phạt. Nay cờ rồng mới dựng chế phục Y lạc. Suy nghĩ cùng Hòa thượng đồng nuôi dưỡng chúng sinh, chí nhân thông suốt, rõ được tâm của trẫm. Nay sai sứ đem tặng một tượng bằng châu năm màu, năm mươi xấp gấm quang minh, năm pho tượng bằng ngà voi, năm bình bát bằng vàng, cúi xin Hòa thượng nhận cho.
Tăng Lãng cúi đầu cúi đầu. Phàm chí nhân không ẩn, đức sinh là Thánh, không có đức thì chẳng phải Thánh, nào dám có thí dụ. Người xuất gia dừng chân trần tục, kính mến núi rừng vắng lặng, tâm muốn mầu nhiệm, linh tích khó kịp, hình lụy mà thôi, phụng giúp chiếu mạng, nên thăm hỏi chăng? Đại Tấn trọng cơ bản, trước nương hiếu trị. Lòng nhân ái rộng lớn như trời đất, che chở nuôi dưỡng vô biên, nguyện khai Đại thừa, mở mang đạo vị. Tăng Lãng cúi đầu, cúi đầu.
Hoàng đế kính hỏi Hòa thượng Thái Sơn Lãng, Đại Thánh ưng kỳ linh quyền siêu vượt, che chở mười phương, hóa dụng vô tận. Như núi biển nuôi dưỡng chúng sinh, đồng trời đất nuôi muôn vật, dưỡng còn sinh tử, thần lóng vắng lặng. Trẫm vì kém cỏi sinh cùng Thánh hội mà cách xa muôn dặm không được xe cộ. Nay sai sứ đem xe đến thỉnh, ngõ hầu muốn cho linh quang che chở làng ấp kinh thành. Nay dâng Tăng mấy cân vàng tím, hình tượng mạ vàng ba mươi bốn tấm lụa, ba người giúp việc để quét dọn đầy đủ, chí nhân không trái, kính mong nạp thọ, soi chiếu được tâm ý trẫm.
Tăng Lãng cúi đầu, cúi đầu nói Đức Như Lai vĩnh biệt cõi đời (nhập Niết-bàn) đạo phong lần lần mai một. Kẻ xuất gia hèn mọn này để tâm nơi núi rừng, tinh thành kém cỏi chưa thể mở mang, chẳng biết vì sao bệ hạ xa hỏi thăm sông núi, chiêu mạng hết lòng, thật cảm ơn kia. Khí lực yếu kém chưa thể bước chân đến, nguyện khai mở rộng pháp, giữ gìn ngai vua, Tăng Lãng cúi đầu, cúi đầu, nhận ân thưởng này liền thực hành. Công phước lực không ở đâu chẳng được nhờ cậy. Bần đạo tài kém không xứng với ân trọng này.
Hoàng đế kính hỏi Hòa thượng Thái Sơn Lãng, thần lặng tánh linh, lòng từ che khắp trăm nước. Loài hàm sinh ai không được thấm nhuần. Trẫm thừa tạ soán thống phương hạ sự ưng. Xưa, nước Thục không cung kính. Ngụy và Võ đều tức giận. Nay hai giặc không bình thì trẫm đâu có được an.
Lại Nguyên Nhung khởi quân chiến đấu bạo loạn. Chí nhân thông linh, tùy cơ chỉ hóa, nguyện binh lính không bị đao binh đổ máu, bốn biển bình an không còn lẫn lộn, dốc lòng quy thành, cung kính nào thôi. Nay sai sứ dâng tặng một trăm xấp lụa, ba y ca sa, năm mươi cân bông, mong được chú nguyện.
Tăng Lãng cúi đầu, cúi đầu nói: Bậc Năng nhân (Đức Phật) xuất hiện ở đời, khuôn phép tốt đẹp truyền xa. Ánh sáng đạo hóa ban bố cứu giúp bốn biển. Bần đạo là kẻ hèn mọn đối với đạo vị, họa giáo ở núi rừng, đâu chỉ có chiếu chỉ hỏi đến nạn quốc. Vương giả ưng kỳ thống hữu sáu hợp, đại có thể gồm tiểu, từ thường luân này nhược. Thái hoắc chi khuynh là mặt trời, tông phi bộ là lân phụng. Ân đức của vua đến khắp chúng sinh kính mến, bệ hạ cao minh, sao lại suy nghĩ không khắc phục được. Bần đạo ở tận rừng sâu được thưởng quá phần. Tăng Lãng cúi đầu.
Hoàng đế kính hỏi Hòa thượng Thái Sơn Lãng, gặp nhiều nạn, tai họa ập đến. Xưa ở Tây Việt nhà vua Kiến Hy, nhờ Võ Vương Trung Hưng, thần võ ngự đời sáng lập Đông Hạ, cứu giúp bờ cõi, xa gần được yên, thiên hạ hạnh phúc, trời chưa hết tai họa, vua Võ liền yên.
Đậu niên hiệu Vĩnh Khương, Tây Đông nổi loạn, Chúa thượng Kinh Hoa trốn chạy, thường nghĩ linh khuyết, kinh hoàng nuốt lệ. Trẫm vì không có đức, sinh thời binh hoạn, di dân không biết bao nhiêu, nối thừa lộc trời, may mắn được đại ân thần kỳ của Hòa thượng che chở giúp đỡ, trẫm sai sứ dâng tặng một trăm xấp lụa và giao cấp cho hai huyện Giả Đông Tề Vương và Phụng Cao Sơn Nhậm. Thư không trình bày hết ý để xứng với tâm của trẫm được.
Tăng Lãng cúi đầu, nói bệ hạ như rồng bay thống ngự trăm nước, trời đất chứa đầy ân đức che chở của nhà vua, khéo soi thông suốt, cứu giúp dân đen, khi bình định lo gì không thống nhất. Bệ hạ tin hướng về Tam bảo, ân chỉ rất thạnh. Bần đạo tu tập thanh tịnh ở núi sâu, đâu dám nghĩ đến địa vị này, lại thống lãnh nhân dân, tạo dựng chùa chiền, tôn sùng tượng phước, minh báo có chỗ quy về.
Tăng Lãng xin cúi đầu, cúi đầu.
Hoàng đế kính hỏi Hòa thượng Thái Sơn Lãng, cần thần lý đạo phi thinh chiếu soi đời, tiếng tốt đồn xa thường không thôi dứt. Kinh đô của trẫm ở
Tây Hạ, nghĩ cứu giúp đại đạo, nay cửa ải chưa bình định, sự việc chỉ do các quan tả hữu. Dĩ mạng nguyên nhung, khắc ninh y lạc. Mong nhờ đây hội đông phong tuần tỉnh. Nương oai linh hàng phục, cần thấy trao thọ. Nay sai sứ dâng tặng Phù Đồ bằng vàng cao ba cấp, một bộ kinh, một sở đài báu, ngõ hầu trông mong gương nhiệm mầu soi chiếu ý của trẫm.
Cúi đầu kính lễ, lý do của giáo pháp, quyết thông chỗ chưa ngộ của chúng sinh. Lý do thông suốt của vật cũng được ở thầy trò. Tuy huyền tông cao xa, ý chỉ nhiệm mầu sâu xa. Nhưng sở dĩ hội là vốn cũng dón gọn mà dễ. Đây nghĩa là tuy xa nhưng phải nhờ lời nói gần để rõ. Lý tuy mờ mịt nhưng phải nhờ ví dụ sáng tỏ để thấu suốt. Vì thế mới được ý chỉ có thể trải qua ngàn năm. Đường sắp bặt có thể ngộ trong một ngày. Nay vốn nói về không, mục đích lược nên thản nhiên, trong kinh thường nói, có thể gọi là nhiều. Nhưng lời nói tinh thuần nhưng thật khó làm. Lý thành thật đến cùng tột kia, thông đó chưa dễ, đâu thể cho là thông. Vì nói rộng về khác và đồng nên khiến cho bàn về không và có, rối rắm rất khác, kẻ hậu học chậm nghi không biết chỗ bắt chước theo. Nay đạo hạnh quy về, nêu chung sắc không, rất có thanh trí. Nhưng chưa rõ văn kinh có nói rõ ý chỉ hay chăng?
Hoặc được đối với ngoài tượng, gặp loại mà lâu dài? Nay các kinh rất nhiều, hoặc lấy thí dụ không xa, há chẳng phải một lời nói sáng tỏ để làm thí dụ hay sao?
Người xưa có nói: Lời nói của bậc Thánh có thể khiến cho người không thể tin liền tin, đây là thấu suốt ở văn, chưa biết chỗ giải thích, nay cố hỏi một vài việc kia, trông mong được dạy bảo để giải bày nghi ngờ kia, xin cúi đầu kính lễ.
Vào ngày mồng một tháng... năm... đệ tử là Hoàng Thái tử cúi đầu đảnh lễ chư Phật, tất cả Hiền thánh mười phương. Chí lý có thể cầu quyết nương theo Chánh giác. Cực diệu có cảm thì quy ngưỡng về chân như, song sau đó mới chứng quả hiện tiền. Tạm khuy ngự thiện tiểu phế càn hành. Bốn biển kinh hoàng, trăm nơi hoảng sợ. Trải qua nhiều kiếp may nhờ gặp duyên lành đời trước. Kẻ hèn này sinh trong Vương gia nối tiếp dòng dõi. Thần tử tâm địa bội dụng tiêu bách. Cấm môn đán khải, an ổn thưa hỏi. Tẩm thành chẳng sớm, phương thiện vắng lặng. Vườn Kỳ thọ Cấp cô độc hạ mình lễ bái, già-lam tinh xá nhiễu vòng đảnh lễ. Trăm phần phòng vệ, vạn phước đều đến. Không tin túc bậc
Thánh hòa dũ, há chẳng phải là hoằng từ của Tam bảo, pháp lực của mười phương. Đã là trời từ tâm muốn thành nguyện đủ quả. Nay ở điện Sùng Chính, phụng hoàn pháp hội một ngàn vị tăng. Nhưng giữ lại một trăm vị Tăng hành đạo Bát quan trai. Lại độ hai người, cùng ngày xuất gia. Cúi mong nhờ công đức này, giúp cho Hoàng đế Bệ hạ tuổi thọ lâu như Nam Sơn, sống lâu như Bắc Cực. Đạo lớn như Nông Hiên, đức cao như Nghiêu Thuấn. Thượng giới tám vạn kiếp có kỳ hẹn, hạ phương bảy trăm năm chưa định. Đối với địa vị của Nguyên Lương, thường thủ nương vui dưới gối. Sở của thượng tự thường giữ yêu thương trong tay áo. Dâng lên pháp điền này Trung Cung Hoàng hậu Điện hạ. Phước vẫn là thiện, vô tư chẳng đến. Đức của thiên mẫu dày rộng không thể thêm. Dường như hưng thạnh, khôn nghi đầy đủ, vị bằng các vua phi chủ, cung dịch, tân phòng. Nhân duyên vị lai, quyến thuộc quá khứ đều đồng tư thần dự??, lòng từ thiện này, lại khắp vì ngạ quỉ chịu khổ, súc sinh chịu tội, ba đường tám nạn, sáu đường mười ác, loài dưới nước trên bờ, bò bay máy cựa, loài thấp sinh hóa sinh, loài có tưởng không tưởng đều nhờ lòng từ bi hôm nay gội rửa rạch sẽ. Người trời nhiếp thọ, u hiển chứng minh. Ngõ hầu nương các năng lực này cùng nhau đến bờ giải thoát. Kính dâng sớ.
Ưu-bà-tắc Thẩm Quân kính bạch chư Phật ba đời mười phương, Đức Bổn sư Thích-ca Như Lai Đức Phật A-di-đà ở cõi An Dưỡng v.v... Tất cả Thánh chúng đạo tục ngày nay, các bậc đại hiền đức, thân này không phải nhất định do các duyên hợp lại mà thành. Bốn đại khác nhau, gió lửa cũng khác, chia chẻ ra thì vốn chẳng phải là một vật. Can nước Yên và đảm nước Sở chưa đủ làm thí dụ. Tịnh niệm cầu ngã chẳng lúc nào có thể được, mà chứa sự mê mờ này đời đời không thôi. Nếu gặp một niệm không hề dời đổi, chướng tập tương đãng toàn mê quyết lộ, rộng chỉ cho không ư? Gọi đó là có, tươi tốt cho mình, tổn thương cho vật, ngày đêm không thôi. Chứa tài vật ngoài thân để đầy đủ sự ham muốn kia. Trừ phần không phải của mình dùng thành xa xỉ kia. Há da nóng bụng đói như thế mà thôi ư? Còn như chứa hòm đầy kho mà chưa từng đăng thể, đầy thớt đầy mâm đã no nê thì quên bỏ kia, không hề biết lúa gạo tơ lụa đem đến chẳng phải do mình. Thăm thẳm da đen, đồng có phần kia, lìa nhiều cộng ít vẫn chưa bằng nhau. Nếu ta có vật khác do đâu mà đủ. Người có lòng nhân không nên như vậy, xâm phạm tài vật của người, đời gọi là trộm cắp. Người trộm cắp, ai hơn tội này. U hiển suy cầu không có một điều có thể được. Quân ngưỡng tịch thời lai cửu thừa hưu vận ngọc lạp buổi sáng nung, hoa chúc ban đêm tỏ. Từ đó đến nay trải qua ba mươi năm, làm quan trị nước, liệt sĩ thừa gia, thấm nhuần đầy thân, tôi tớ thê thiếp, nhà cửa vui vẻ, bổng lộc cả vàng. Cứu sự lạnh buốt chỉ có áo lông cừu dày, như bốn ủy dư tập. Đêm đông mông lụy, nhưng áo quan có đồ tẩm liệm. Từ đây trở đi xa xỉ không phải một, tuy đồng như nhà giàu có mà kia rất quê mùa. Các nhà nghèo túng hơn đây thật nhiều. Biết được việc phi thường đây do chư Phật có xả bỏ, chiếu sáng đạo tràng. Đói lạnh khốn khổ là hoạn ép ngặt, có đầy dẫy trong các châu huyện khó mà biết hết, kia phải xứng với sức lực, nhân việc một ngày mà tùy theo một năm. Đầu mắt tủy não thật khó yêu mến. Xét mình xem vật chưa dễ đốn hành. Thệ muốn nhớ nghĩ ân sâu, chứa vi thành trước. Bố thí đàn môn trông mong sẽ bước đến. Đời Đại Lương, niên hiệu Thiên Giám năm thứ tám ân huệ ngày một trôi qua, ngày mười tám ở Tân Sở Sáng Tương Lăng Hoàng thỉnh Phật và Tăng trông giống như ở vườn Kỳ Thọ. Dứt tâm Thượng sĩ gồm một trăm vị. Tuy quả tạ am viên phi hương quốc. Mà núi Dã lạp sơ đồng thuộc ủy. Gồm xả thân và các đồ cần dùng có một trăm bảy mươi thứ, vi tự thấu suốt để dâng cúng chúng Tăng hiện tiền. Phàm nhà cửa là khổ hoạn, dao thớt chẳng phải sắt. chế trừ túc tán hình chất siêu nhiên, loài chúng sinh máy động kia cũng có Phật tánh, không nhân việc cắt mổ, đây nếu không có ý do. Duyên nghiệp xen nhau khác, thế đế phiền ký. Biến hình cải dạng tức sự là khó. Vì thế khai làm tám giới quan trai để dẫn dắt các thanh tín kia, trong một ngày một đêm giống như Phật xuất gia, vốn mở mang pháp sự bên ngoài không phải là pháp tăng. Nhưng thế tình trái nghịch, cùng mê con đường này, chiêu mời danh tăng, hư thất của người trí. Chủ nhân nằm cao, ẩn dật an nhàn, giáo lý Bát quan trai. Cách đó thật xa, tuy có duyên cúng thí mà không đoạn được nghiệp hữu lậu. Ngày nay cẩn trọng tức ảnh hưởng đến ngày mai, diệt bỏ tục lụy tức đồng điều thiện đến. Phân lưu thượng đức giúp thành chí nhiệm mầu, mượn nhân này ngõ hầu chứng quả ngày mai. Nói công đức chẳng phải là chỗ sánh bằng.
Đệ tử Túc Vương, trên bạch chư Phật Thế Tôn, chúng Tăng đạo đức, sắc vốn là không tượng, chạm đến quyết quy về luận. Ba đời như giả tám vi trọn tán mất. Tuy oai hồi trời chấn động đất cùng tột nơi vắng lặng. Đẹp như mũ nhà Tề, ấn nhà Sở đâu cứu được như hư hoại, mà sự tham muốn dễ ràng buộc thường trở thành bệnh tâm thuật xả lập bày khó mở mang, dụng mê giả chiếu. Đệ tử thọ nhận nhiều kiếp hưởng quả báo sinh đây xe lan trì tử yến nhiễu loạn bên ngoài, màn trướng đẹp đẽ chiếu sáng trong nhà. Luống dùng nguồn tâm thừa trệ tình lộ chưa chiếu. Thức từ tạ gồm quên, lý hổ thẹn riêng ngộ. Không thể giúp đỡ điều hòa năm khí yên ngự sáu thần. Sương thử hoặc khiên phong lộ thời khác, đây là do phu khâm thượng bảo tê thành diệu giác. Kính xả bỏ một trăm mười tám thứ bên ngoài da. Khiến cho kinh về túc lý phủ cấp thời thuận. Muôn phước mây bay, trăm yêu sương quét. Hướng về Bắc cực mà có thường hằng, nhìn về Nam Sơn mà có vô vi. Lại nguyện thần cư giúp đỡ thì trời đều vui, thiểu dương phân phước mặt trời sáng rỡ tốt đẹp. Trừ phi mở mang tương ưng, rộng lớn khó ghi chép hết. Trang sức nhà cửa, nghiêm trí màn báu. Ngưỡng diên tức tâm, bàng lữ thanh tín, giúp hoằng thệ này, chứng u nghi kia. Ngõ hầu có thể cảm giáng trinh hòa chiêu đối linh ứng, huyền đồ không mê muội, thiết yếu không sáng.
Đệ tử Thẩm Ước, trên bạch chư Phật mười phương, chư Đại thánh trong mười phương, chúng Tăng hiện tiền. Ba cõi chẳng thật có, năm uẩn đều không. Bốn đảo mười triền cùng nhau hòa hợp, tất cả như điện chớp, tan rã muôn kiếp trong khoảnh khắc, gò nổng và giếng dễ chìm, trọn phiêu trầm nơi bờ khổ. Mê đồ càng xa, nịch táng vong quy. Bảy thước nhỏ nhặt đâu biết kia là quả. Ngoài tai mắt cho là không đàm, không quy y, không tin nhận. Sinh linh một khi từ tạ, lại không có kỳ hẹn. Sở dĩ vũ tâm tự trác chẳng phải bố thí. Chí thánh vắng lặng, vắng lặng không tìm, duyên ứng đã cảm, sự chỉ cứu vật, ôm bình bát khất thực ra khỏi kỳ viên, không quá giờ ngọ để phước chúng sinh. Phương trần pháp khác, Nga My chưa đổi. Đến mùa hạ gặp lúc bệnh nặng, Đế thượng thương xót, giũ lòng lo lắng. Vào ngày này ở nội diễn lập hội một ngàn vị tăng ở nhà tư kia, mở hội thí này không biết kỳ hạn. Đã phụng kính đức lớn, lại suy nghĩ tự chánh tài của. Đông cả ngàn vị Tăng, sức khó nói nổi. Về sau thỏa mãn sự hoặc dễ đủ. Pháp sư Thảo Đường Ước ở chùa Trụ Sơn, tám tập kia một, ngưỡng nhờ Hựu Pháp Chủ chùa Định Lâm, ngày 29 tháng này, hội thứ mười nhóm họp một trăm vị Tăng ở Điền Lư, phước không thể tính thể, nghe đó như lời dạy bảo, tâm được sáng tỏ. Lại hơn ở đây, gồm có quyên hào, ứng chứng nghiệp đời sau, không lớn không nhỏ đều quy về Thánh chủ. Kính nguyện mười phương cùng rõ lời thệ này. Há đủ một chút báo đáp thiên quyến, bởi nhờ sự thành tâm mới được như vậy.
Đệ tử Tiêu Cương, ngày này lập ra trai hội công đức nhân duyên, quy y tất cả chư Phật trong mười phương khắp cõi hư không pháp giới, quy y tất cả tôn pháp trong mười phương khắp cõi hư không pháp giới, quy y tất cả Thánh tăng trong mười phương khắp cõi hư không pháp giới. Trộm nghe kinh Niết-bàn nói: "Thân như tranh vẽ, nước tùy theo tranh vẽ mà hợp. Thân này bất tịnh chín lỗ thường chảy. Phàm phu ngu si thường mê đắm thân này, La-sát ngu si dừng ở trong đó".
Lại như trong kinh Thụy Ứng có nói: "Sa-môn vì đạo, xả bỏ vợ con, dứt trừ ái dục, đoạn tuyệt sáu tình, giữ giới vô vi". Kia thanh tịnh được nhất tâm thì muôn tà đều diệt. Đạo nhất tâm gọi là La-hán. Thanh sắc không thể nhiễm, địa vị vinh hoa không thể khuất phục, khó lay động như đất. Do khỏi sự lo khổ nên biết được ra khỏi ngục ân ái bạt tục là khó. Thiện lai, Tỳ-kheo, phước kia rất nặng. Đệ tử nhờ nhân duyên này, ngày nay độ người xuất gia. Nguyện tất cả chúng sinh trong sáu đường bốn loài thường lìa ái dục, mãi mãi trừ sạch căn bản vô minh, diệt trừ mê hoặc, tâm tu tập Bát-nhã Ba-lamật, chân đạp lên ánh sáng khinh luân, miệng biện tài cao xa, mặc giáp nhẫn nhục, cầm dao trí tuệ cỡi xe Bồ-tát, ngồi tòa Như Lai, mở sự ràng buộc, đảnh tướng sáng suốt, giới nhân trong sạch, quả báo đời sau được người tôn trọng, chỗ có quả nghiệp thảy đều thù thắng. Thọ trì Pháp tạng làm đệ tử chân thật của Đức Phật. Tất cả đạo hạnh đều có khả năng thực hành, tất cả đại thệ đều không thôi dứt. Ngưỡng nguyện tất cả chư Phật trong mười phương khắp cõi hư không pháp giới, kính nguyện tất cả tôn pháp trong mười phương khắp cõi hư không pháp giới, kính nguyện tất cả Thánh Tăng trong mười phương hư không pháp giới, kính nguyện tất cả các vị Tiên trong mười phương hư không pháp giới, kính nguyện tất cả Thiện Thần, tất cả thủ hộ thông minh chánh trực. Lại nguyện đại chúng u hiển hiện tiền, đều chứng minh, thệ nguyện ngày nay khiến cho đệ tử Tiêu Cương được như sở nguyện đầy đủ nguyện Bồ-đề. Tất cả chúng sinh đều theo nguyện này cũng được như sở nguyện. Nguyện đều lễ một lạy.
Phàm năm trạch dễ mờ, bốn lưu không trụ. Nghiệp động gió tâm, tình phiêu lửa ái. Tự mình chẳng thông suốt chân không, chiếu linh châu nơi khó hiểu. Thần duyên diệu cảnh chứa từ bi nơi chưa hóa. Không cho là trừ bốn ma mà lên được mười điều lành này. Nay trải chiếu rộng tĩnh cao vũ nhàn. Hương nhả sáu thù khói nổi năm sắc. Mắt nhìn thân kim sắc của Phật, tai nghe tiếng ngọc, không để cho tình duyên dị nhiễm, không thân cung kính. Lại nương nơi cung uyên, đồng sức nơi sừng dê. Phải chế phục tâm rắn này, bỏ voi say này. Lập chế như nêu ở phần sau, đều khuyên lắng nghe suy nghĩ. Cẩn trọng nên Bát quan trai chế như sau:
1- Ngủ mê không thức dậy phạt lạy hai mươi lạy, bưng lư hương nghe ba khế kinh.
2- Đi ra mà không xin phép, phạt lạy mười lạy.
3- Quá ba Khế kinh không trở lại, phạt lạy mười lạy.
4- Tòa bên cạnh ngủ say, Duy-na đến không nói, phạt lạy mười lạy.
5- Tòa bên cạnh ngủ say dung tướng ẩn không nói Duy-na, phạt lạy mười lạy.
6- Duy-na không siêng năng lóng nghe có phạm chế, không tức loạn cử vì các tòa phát giác, Duy-na phạt lễ hai mươi lạy.
7- Bưng lò hương nghe ba Khế kinh, bạch hắc Duy-na lại tương loạn sát. Nếu có ai ẩn phạt lạy hai mươi lạy.
8- Nghe Khế Kinh không xướng tán, phạt lạy mười lạy.
9- Thỉnh xin không thứ lớp, phạt lạy mười lạy.
10- Thỉnh xin bạch hắc có lầm, phạt lạy mười lạy.
Con tên... ở Dĩnh Châu kính bạch. Thầm cho rằng Tu-đạt trải vàng lập tinh xá ở vườn Cấp Cô Độc, vị Tiên ảnh thạch tạo già-lam ở Ly việt. Đâu không phải sự ở trong biểu khu mà tâm nương chân bên ngoài. Bốn triền não loạn, bỏ nguồn thiện thì không rửa sạch, năm trược nặng, không có dao trí tuệ thì đâu trừ được, vì thế thương củi ướt kia, thương tư trích khí. Nay ở núi nọ... thuộc Dĩnh
Châu, vì mười phương Tăng xây dựng chùa Chiêu Đề. Oánh phụ giao nguyên, diện đới thành trĩ. Gối dựa hõm núi thổ nạp yên vân. Trong môn đổng khải, chưa lập điện phi hành, còn ít công thạch mật. Nghiêm sức lý khó đều, bình bát đã trống rỗng, đạo tục đều vi diệu, lưu thiện niệm bạc tương duyên tốt. Thì sự đồng quán hương, nghĩa đồng tích thừa. Người xưa tu đàn xả thủ mưa bảy báu. Tiền hiền bạc thí chưởng đàn song kim, phước có minh dời, lời nói thường khiêm tốn. Kính bạch.
Thần cương kính khải: Điện sư Ngô Miêu kính đọc sắc chỉ, Thùy Tuyên Tước nê dâng nạp một tấm ca-sa, phân chia sóng lá rất khéo, ranh giới rõ ràng, áo nhẹ phất đá, hoa may vàng chẳng phải nặng. Ngày nay dần nhiễm chỉ có y phục ruộng phước, phương tiện sâu kín, tâm hổ thẹn như đóa hoa sen, tiên khác bày mây, y thường bay phất phới. Uế thực thân phàm, vô minh ám thức, ân rõ thường nặng, Hà Trạch khó hơn, chẳng nhậm minh tải đến nơi. Kính dâng khải sự cảm tạ, kính khải.
Thần Cương kính khải, nhờ Tuyên Tước Nê dâng nạp một tấm ca-sa, do nhiều sợi tơ hợp lại, do đó chế tập mà thành văn, lỗ cao tề chấp, mượn mùi thơm mà lãnh thọ, đầu tiên mở ra rương cũ, lại thấy ruộng vườn ở Xá-vệ. Không ra khỏi sân, ngồi gần Nam sơn, bước lên bờ ruộng. Do ba y thù nhẹ nên thầm gọi là y phục đẹp tịnh cư, ngàn vàng rực rỡ, được thọ dụng bởi Ca-diếp, vắng lặng ân đặc biệt bao trùm những kẻ ngu cùng. Sương giáng trao y, khúc trạch tiện cập, tâm vui rất cao, như từ trong hư không rơi xuống, bỗng không tự biết, lại cho rằng do cành báu sinh ra. Son đỏ bốn màu, việc chẳng rời thế gian, hai lá câu lan khác đầm thật long, chẳng nhậm minh tải đến nơi. Cung kính khải việc tạ nghe. Kính khải.
Thần Cương kính khải, tuyên truyền cho người hầu gần càng nhiều hơn, kính đọc sắc chỉ, Thùy Tuyên Tước nê nạp thẳng chín chiếc y ca-sa, chỉ dệt khéo léo, đều có kết lông thú. Xa ruộng tốt kia thành y phục tốt đẹp này, tuy là so sánh ngàn vàng còn nhẹ hơn hai lượng nhưng không thể so sánh với ân lớn ở đây khác xa, thần nằm bệnh nhiều tuần, chưa bước đi được, không được mặc y mới nhuộm, hầu ở bảo phường, trần duyên uế thể, hổ thẹn nhóm họp, không kham dần dần đưa đến. Kính khải sự tạ văn. Kính khải.
Đệ tử Tiêu Cương, thọ giới Bồ-tát, quy y tất cả chư Phật trong khắp hư không pháp giới mười phương, quy y tất cả tôn Pháp trong khắp mười phương hư không pháp giới, quy y tất cả thánh Tăng trong khắp mười phương hư không pháp giới, đêm dài chứa nhóm, luân chuyển phúc khôi. Đời mạt kiếp dễ bị tai ách, phiền não khó cứu. Bất thọ lưỡng môn há tu hai cánh. Thường sợ hư ảo nhiễm hoặc, thường ràng buộc việc vượt qua sông. Ân ái vướng vít ở mãi nơi bờ khổ. Dám nương sức Tam bảo giác ngộ, trước u hiển phát thệ nguyện rộng lớn. Nay nguyện vì chùa Vũ Đương Sơn Thái Bình và Vọng Sở Bạch Tháp ở Trấn này cùng các chùa An Tập, Thiện Duyên Minh, Đầu-đà, Thượng Phụng Lâm, Hạ Phụng Lâm, Quảng Nghiêm v.v... đều trọn đời thường vì đàn việt. Tuy bảy món báu và từ sự cúng dường, cảm ơn các vị tiền. Một niệm, một lời nói ngõ hầu hợp với Bát-nhã. Mới đồng như đèn không diệt, trọn không phải mật khởi khói. Nhờ công đức này trông mong phước Hoàng đế, xuân cung, trong ngoài quốc gia đều đồng điều lành này. Cho đến trời rồng, tám bộ, sáu đường bốn loài đều nhờ phước.
Đại sĩ Liêu Kỉ rộng cứu giúp, không phải vì mình dùng các món phương tiện dẫn dắt chúng sinh, do đó rỗng không thanh tịnh. Nội kinh xác thực ư? Khó cứu giúp. Chép từ ngoại điển lại thêm đi một mình, ý này đáng nói. Ẩn không cách chân chánh là Bồ-tát. Pháp sư Thiền Phương Trí Biểu ở Lư Sơn, đức xứng đáng là một vị Tăng xuất sắc, thật đáng gọi là Nhân Long. Vì đại giữ giới trải qua nhiều năm, không vì sự việc mà chịu khuất phục, không bị thời gian kéo dài. Thượng hạ vô thường, nhất tướng vô tướng, có thể bỏ Kỳ-xà kia, đi đến cấu trược. Hưng ngôn nhất diện định giao chủ cựu, do tôi đức mỏng cầm đến Đại bang, giáo nghĩa chưa nghe, quý hiền đều đến.
Xưa Kỵ Quý nêu năm Hán; Phàn Hứa khởi ngày nhà Đường, đây là nhờ lòng từ của Thánh chủ sự giúp đỡ của vua. Dị nhân xã hội vào sáng nay, không hơn ân của Thuấn Đế.
Ngày mồng 10 tháng này ở chùa Tây Hiền lập hội vô ngại, gồm khai sĩ chí kính, trên cầu thắng phước, dưới bày thức ăn. Phàm nhân dân, tôi tớ cho đến thứ sĩ, đâu không đốc suất theo thảy đều thỉnh nghiệp, trên đáp Càn Tuệ, thường đồng bờ kia, ngoài y theo sự mà tuyên hành.
Cuối xuân cảnh đẹp. Gió mây đẹp đẽ, hoa lan có thể cầm. Sông Nghi có thể tắm, đệ thiệu nam quả tụng.
Thời chuế cam trường chi âm, ký châu là chánh. Tạm dừng việc vén áo. Đường cảnh dâng thơ Đại ngôn, An Thái thuật nói liên hoàn. Đi chơi khắp cảnh đẹp, đủ vui chăng? Tôi, vào mùa xuân, ban đầu bị bệnh, rất thành kém hèn. Tuy Bạch Lộc ở Tây Sơn sợ không thể khỏi. Tủ Dự xích hoàn còn lo chưa cứu giúp. Cao ngọa lục an, thường suy nghĩ hỏi Biển thước. Vắng lặng bốn nhà, niệm bặt hương tu bộ. Há hướng về Văn-thù, riêng suy nghĩ biện của Ngô Khách. Chúc Dị Hoàng thượng từ bi suất sĩ, rót nước cam lộ. Tiếng xưa nay ở Bảo phường, chuyển kim luân nơi Hương địa. Pháp lôi kinh mộng, mặt trời tuệ sáng chói, đạo tục tập trung, xa gần đều đến. Thính chúng ngày đêm có đến ba muôn, chỉ vì bệnh chướng ngăn cách việc nghe đạo. Đâu chỉ Dương Bộc có quan ngoại, Chu Nam khởi hận dính mắc. Ngày thứ mười ba bắt đầu hầu pháp hội. Do đó quân trưởng gần trở về, chưa thể cầm bút. Kính tổ tiên không có gì hơn, thường tự suy nghĩ thương xót, mất hẳn Lư Giang. Nằm ngủ nhớ nhau, khi được thư của đệ, bệnh nặng giảm bớt chia tay đợi tin. Đây không có chỗ nêu bày.
Năm ế tiêu không, quang cảnh đẹp đẽ. Trăm hoa khác màu kết thành mùa xuân. Đạo thể thế nào, thường tình như vậy. Du ngoạn thanh hư đã đối với gió mây, du tâm nhập lý, có nhiều bui định tuệ. Đệ tử bị việc thế tục phân loạn rất lao nhọc. Bỗng nhiên ở Bác Lĩnh Khâm Hiền đã chứa. Lúc hội ngộ thì phải có đến. Bọn có duyên sự đồng đói khát. Đứng lâu nhìn đến oai nghi kia một ngày ba năm, suy nghĩ việc mở mang lợi ích. Lý không sai lầm. Chỉ khiến lời nói này không thuật thốn kim cang kính lễ.
Lại sáng sớm khí hậu mùa mưa, trời bắt đầu lạnh, giữ gìn đã lâu chuyển được sức kia, tuy ở phương khác, pháp giới lược dứt hóa duyên. Ở Kỳ Hoàn có ngữ đối, rất đỗi sâu xa, chẳng lúc nào không chứa nhóm. Thiền sư Cửu nhân có nói về trái tim. Không biết vị tăng chẳng có tài, có nhiều việc không làm được. Hôm qua đến nay, xét sự nghĩa tụ. Rồng voi đều đồng, ứng cúng đều nhóm, đuốc tuệ khai tâm, cam lộ nhập đảnh. Nghe đó khéo trái, đều được vui vẻ. Tưởng vị chi hoài, chuyển đổi vô cùng. Xưa, lúc còn nhỏ thường nghe chế chỉ. Thọ đạo càng cạn, phương Bắc chưa sâu. Tuy khác thiền na mà sự đồng hoa nước. Nay lo tây hạ, chứa nhóm bổn tâm. Phỏng lý chất ngại, thuộc ở minh đức. Không cho rằng Bát-nhã gây chướng nạn, hiện bệnh chưa khởi hỏi sông không đất, ân hận nào thôi. Nương ngồi xe ngựa, tìm chốn già lam. Trông mong lúc này được gặp một lần. Chỉ biện nói về thanh đậu chi phòng. Trừ nhà hoặc hoa đỏ. Tìm quyến thuộc đời trước. Thuật tấm lòng ngày nay. Việc này lúc này quyết trông chẳng sáng. Chỉ dẫn thừa vấn, lâu có hoàn thư. Cương bạch kính lễ.
Bồ-tát Tiêu Pháp Xa Trí Bưu, Thị giả Đại sĩ Lưu Trí Tạng.
Từ Lâm tông mau phản, huyền độ ngôn quy.
Do kiết tâm nguyên lễ, càng thêm tâm chân trường. Cho nên đến gió trông đẹp, ngắm trăng nho hiền. Lao nhọc ngủ say, không quên thức dậy. Nay huyền minh ở tiết, ngày tháng sắp hết. Mặt trời tợ lụa đỏ, mây nổi hai đồng. Thanh đài khôi trọng, Bắc cung giếng đầy. Tưởng thiền duyệt làm vui, hơi phù hợp với chín thứ lớp. Thành tựu công tụng, chuyển tìm ba mật. Trong núi Phương đổ tự có vui tùng lâm tiếng đời trong hàng không đâu chẳng đến nơi. Tu đức khác nhau đều vui vẻ. Hàn mai hai phước, cầu may hai trọng. Trịnh lâm nổi tiếng ở bằng dực. Chu đảng truyền cỏ thơm ở Thái Nguyên. Hoặc có trăm dật bị tổn, ngàn vàng không quý. Cây thông làm thức ăn, gốc cây làm y phục, chưa có chân như cao đạp, quy tông biển pháp. Phạm vương bốn hạt, tập trung trong rừng mà kêu nhau. Đế Thích ngàn ngựa, vượt Khưu Viên mà đến nhau. Có một điều này, còn gọi là kỳ lạ, gồm mà tổng đỏ, sao kia thạnh hành. Cho nên biết nước Nam Tuyền đồng sông Cung Lương, núi Bắc Thiếu giống núi Võ An. Há lại nghĩ đến sông, còn tưởng đài cương. Quyển bỉ hán trĩ nhớ hoài hang hoang. Do đây tìm nhau, tâm rất dễ biết. Câu nhàm trần bang, bổn hoài nhân ngoại lại thêm phục ưng, thường trụ nếm vị liễu nhân. Càng dùng tư tề, thường hay tìm bạn. Thường muốn lên núi, cây thông che mát. Rót nguồn ngọc tuyền mở kiếm hoa sen. Bờ rào có hạn, cởi giày không có. Thường ngồi giường hướng, thường nghĩ ghế quản ninh. Mộng Khuông Sơn mà quá dứt. Tưởng Hoàn Đình mà đứng lâu. Trong bạch vân, sông xanh không cùng, chưa do để chưởng. Ta nhọc thế nào? Tưởng không vàng bạc tồn tại. Đè nén cũng chìm dưới nước khó chèo. Còn để thư ở chim xanh, sông chảy không xa. Cỏ thơm nơi ngọc đỏ. Hạt hướng hoàn tin để đổi bơ ngon. Được chí quên lời, ở đây đâu cần nói nhiều.
Pháp Sa cúi đầu, cúi đầu.
Chu Trung Thư, gió đến cao kỳ, chí gởi nơi xa. Chân tình chuyển vận, nước quế cùng chất. Từ tiếp mễ đông thê. Năm vượt một kỷ. Sáng tối liên sự, ma nhật tạm vi. Mỗi thọ mộc ngôn lưu. Tiêu diêu quả vụ, đâu thường bất đắc tỳ du lãm nam cư an túc. Mùa xuân, tối nghe chim hót, mùa thu, tối hóng gió mát. Chẳng lập chẳng nói đều là sự thật, tiếng dùng đầy mắt, nói cười đầy tai. Cỏ cây đã trần, thu giả hợp nhau, quyến vãng hoài nhân, tình không thắng động. Đời nay dốc lòng tin, cam chịu ăn rau. Đến năm tháng bảo phỉ thường thấy thỉnh cầu. Phàm quyết thái phẩm hẳn linh dĩ tiến. Đệ tử tiếp cận nhi hậu dữ dụng vi hoan ngược. Việc kia chưa xa, người kia đã đi. Niềm vui ngày xưa đều thành đầu mối của sự lo buồn. Cách đông năm nay, nhân quỷ kiến phân. Thạch nhĩ tử thái, thượng diên hưng tưởng. Lệ hạ chẳng cấm. Chỉ đưa tiễn để sung vào một lần. Pháp sư dữ chu tình kỳ tránh khỏi. Chẳng phải chỉ thường giao, xem cách lập bày vật cũ thế nào, đau xót ra sao, về sau thế nào. Đệ tử Thẩm Ước kính lễ.
Đại Hỷ cúi đầu đảnh lễ. Đại Hỷ tinh thành vô cảm yêm đinh họa phạt. Phan hiệu hằng đến năm nội quái. Tự lỗi tự thương, muôn đời đâu có ích lợi gì. Mẹ hiền qua đời, chánh niệm không loạn. Tưởng nhớ chư Phật và Đức Bổn sư. Đến lúc qua đời phàm phu luyến tiếc, mẹ con ân nặng. Trẻ này từ biệt, gan tim phá vỡ, không thể tự nhận di chỉ. dâng cúng ba mươi lượng vàng cho đạo tràng công đức. Ngày 28 tháng 09, phụng doanh an thố. Trước sau thường xong chẳng thể trông mong, thường gọi áo mão không có tâm cẩu thả phục độ văn hỏi, lý thật đáng thương. Cầu mong vận tâm cứu giúp, khiến cho vong linh sinh về Tịnh độ. Bất đồ thử khởi, lâm chỉ dứt hẳn. Đại lý kính lễ.
Đệ tử Cô Tử Quân cúi đầu đảnh lễ. Đệ tử... kết u minh, bị anh đổ liệu. Phan viên mạnh mẽ. Cơ tủy mị quý. Tìm gỡ phiền oán, gan ruột dứt đoạn. Kêu trời gọi đất, thường cách tinh thần. Bỏ mạng quên thân, không hề lợi ích. Nghĩ muốn nhờ phước, rộng vì pháp sự. Để bày nỗi đau to lớn, gởi chút lòng thành kính mến. Đúc tượng độ tăng, tôn kính giáo pháp. Lập trai thiết hội nương theo kinh điển. Giảng nói Đại thừa, dẫn dắt chúng sinh. Phước kia không ít. Cúi mong Pháp sư Đại chánh, tâm đạo thuần tịnh, chí đức vắng lặng. Trí suốt có không, chiếu thông chân tục, học rộng không cùng, biện luận vô biên.
Một đời sự tượng, bốn biển suy tôn. Đệ tử đời trước gieo trồng nhân lành, sớm nhờ thân quyến, tình đồng cốt nhục, nghĩa đồng kim lan. Ngoại thư cái gọi là minh khế thần giao. Nội điển thì làm thiện hữu tri thức. Kính nhờ chút duyên, dám nêu nguyện lớn. Lai tuế hạ trung muốn thỉnh giảng thuyết mở mang chánh pháp không có kia đây. Quyến ái chi thêm đặc hy hàng khuất công tư đạo tục cầu thỉnh đã nhiều, nên có văn này, nguyện xin nhận cho.
Một hôm bỗng có lời bạch này
Lâm chỉ bằng nhận thố lời nói không thứ lớp.
Đệ tử Cô Tử Vương Quân cúi đầu, cúi đầu kính lễ.
Quân cúi đầu cúi đầu, cao thu trời lạnh giá. Lễ trung hà như. Nguyện thắng ước này. Thừa nhập đồng lễ bái, dụng tâm kính ngưỡng. Xưa Phiên Hậu ngao du không đâu chẳng phải việc này. Hoặc long chu thủy hi. Hoặc lâm xuyên tống viện. Dù nay chẳng bái, rộng mở dòng này. Vẫn phục kiến trọng lương thử, cho là thạnh đức. Chưa hề có ngày chọn các quan. Quy thành phiền niệm, đi tìm thành pháp, đậu ở kỳ viên. Kiêu tâm khen ngợi không thể thí thuyết. Bộc phong tật tăng sái. Thật phế bồng môn. Bất hoạch chấp ly. Càng thêm thỏa mãn. Nguyện kính chúc. Bạch thư bất thứ. Vương Quân cúi đầu cúi đầu.
Hiếu Xước kính lễ, tỏ bày sám hối, sắc chỉ đáp Lưu Thái bộc tư hiệu. Nghĩa càng sâu xa, lời nói khéo léo. Kính nghe ít có thân tâm hớn hở. Xưa chiến tranh đến đây, làm cho Chu Hậu không vui, binh tộc dẫn đến, chưa ngăn được vua Hán, đây là do chấp tâm, nhà rộng mà không có ngựa hay, việc cùng cực trong nhà ngụ, lý cách ngoài trời người, Hoàng thượng từ đây khéo giác, khác gì rồng voi trở về đường tắt của thỏ, biển mênh mông trong dấu chân trâu, thánh chỉ hết lòng, khúc tương dẫn dắt, đâu tịch thẳng một người, phá nhà tối của chúng sinh. Đệ tử thế truyền chánh kiến, từ nhỏ đã thấy lời chân ngôn. Vì là nhỏ mà được tươi nhuần nhờ mây lớn, mong được chỉ bày, rất tự vui mừng, khôn xiết hoan hỷ. Lược trình bày, Lưu Hiếu Xước kính lễ.
Đời Tề Hưng năm thứ hai mươi ba, hoàn cảnh lại an vui, các thánh lại xuất hiện, trăm thần thọ chức. Trời đất bình yên, vui vẻ hát ca. Lưới ân đức đã mở, các đôi cánh đều trở về chỗ, hoại ân thỉnh quan lại, trở về hết lòng ân cần, lễ bái cúi đầu, bốn biển phẳng lặng, trong ngoài đều phước. Công thành giúp định, đường nhỏ trong khu vực. Tâm theo biển giác, ý đông huyền môn. Tay cầm ngọc sáng, đầu rưới cam lộ, điều ngự trời người, minh hạnh đầy đủ, mười lực bốn tâm, đông tiệm tây bao gồm, nhật nguyệt xuất hiện, gió mưa tưới nhuần, hóa thành là nơi trang nghiêm thanh tịnh, là cảnh giới của nhân thọ, nơi sâu kín dấu chân vua cũng có in, tước lộc cao nghiêm sinh khởi, trấn giữ phía Đông. Phong ba các ngọc, hình dáng đầu chim thứu chẳng đẹp, nêu bày ba hạt châu, hình chân gà xấu xí, hang gió thổi vào phát ra khúc điệu hòa nhã, hạt ngọc chứa nước, nước chảy phát ra âm thanh hay. Bấy giờ, đuốc ngọc điều hòa kim thương ở luật. chức phương có lễ nhờ vào tây tuần, sáu rồng đều buộc, bảy tụy an bộ. Sấm động có lễ nhờ vào tây tuần, sáu rồng đều buộc bảy tụy an bộ. Sấm động mây dời, bèn lập nhân từ là nơi tốt đẹp kia. Chẳng có ngày thành, đã đẹp lại mạnh khỏe. Xưa nhà Châu đầu hôm, ao nhà Minh, Hán. Sự cách hoang sơ, đạo như còn như mất. Thần trăm năm xem nhẹ các hậu, một âm dẫn dắt, xa đồng với ngày Phật còn tại thế. Hoàng thái hậu phước hơn sông Khương, đức hơn núi Đồ. Sống lâu như mặt trăng, nghiệp đều đầy đặn. Thánh chúa đều sáng, trời trăng hợp đức hai nghi. Thọ lộc đặt ở sông Linh, mở kim giản ở ngục Tiên. Đều tắm gội nước định, đồng nương mày pháp, nếu thệ nguyện này không tròn thì không thành Chánh giác.
Đệ tử là Hoàng Cư Đế, ấp quỹ ngày xem sao, tuy xưa nay dời đổi văn chất, thời đại biến thiên, thành khuôn phép cho đời, nghĩa quý ở thích hợp thời đại, trẫm bao gồm bốn biển để nâng đỡ muôn nước. Cứu giúp lợi vật, không quên hoài bão. Chiêu nhân dạy bảo, không sót vội vàng. Nay được lắng nghe, đều cùng cực cao rộng, nơi An tức không thiếu hoa đẹp. Thường cho là lao nhọc, ở đó an nhàn, còn Ly cung biết quán có khi cũng được may mắn. Chỗ tai mắt đến có thể lãng quên, là ngàn cửa mở rộng, muôn cây cột nương gá. Trên đến mây Hán, dưới đến mưa sấm. Ba đài đều nêu, nhơ uế tự lâu. Cuối niên hiệu Thiên Bảo, kinh điển truyền bá rộng, vẫn mở rường cột, quy mô cao rộng. Đã chẳng phải điện nơi vua ngủ mà còn là nơi hư vệ. Hoa thành màu trắng trải qua nhiều năm tháng. Chiếu cố sự rực rỡ này sẽ có chỗ an ổn. Từ khi nhà Ngụy thất chánh thì chín khu vực đổ ngã, người thần vô chủ, thật cầu minh thánh. Ta là Thái tổ Hiến Vũ hoàng đế nắm trời này, giữ đất này, treo cao mặt trời mặt trăng, dụ như gió mây, trung trinh mà thành việc, chiêu cảm đại tạo linh trưng, đó là đầu tiên để được định, lập ra nghiệp đạo tràng. Dấu vết thần thầm hiển, đuốc lý u minh. Có thể dùng cung Tam đài làm chùa Đại hưng thánh. Nơi này cây cỏ rất cao lớn, cung nghiên đan tố, kỳ lạ đầy đủ nghi khắc. Rưới cam lộ ở đại thiên, đèn từ chiếu soi trong nhiều kiếp.
Chế sớ: Vua Hiếu Minh đế cảm thông, thần chiêm ngưỡng trời võng cực, đều bày vàng bạc mà mua Kỳ hoàn, để bạc mà thành điện báu, mới biết Lộc uyển có thể mong rừng Hạc không xa, cảm duyên nhã tụng, kính nhờ trang nghiêm, muốn cho công đức trời đất ca ngợi không có ngày dứt, khiến cho Thái sư Tấn quốc công Tổng giám Đại Trắc Hỗ Đại Trắc trông coi xây dựng hai chùa.
(Lý Đức Lâm)
Dưới cửa gió thổi cây chẳng yên tĩnh, bóng qua khe cửa như dòng nước chảy, có tâm tha thiết muốn báo ân, luống có sự mến mộ suốt đời. Cúi mong Thái tổ Vũ Nguyên Hoàng đế cùng thần tận tánh, mở ra kỷ Viêm Đức, nhà Châu hưng thạnh, đồng tâm khuông phò. Gián cách hai đời, tạo nền tảng cho vua ta, việc Đường Ngu giống như việc nhà Hạ Vũ. Phụ Hán Ngụy của Tấn Tuyên, khi đến thì nhà Lương sắp diệt, đích thân tìm cấu họa tiêu sát gọi là binh. Ủng chúng cứ hữu ở Tương dương, sắp đến đời Ngụy, cô nghi chưa giải quyết. Tiên đế ra binh, kia cảm uy hoài, liên thành liền tan. Tùy quận an lục, chưa theo gió ngay, kẻ địch viện phụ xa, trọng thành vững chắc có Kim thường canh giữ, nếu dấy lên thì chiến thắng, bắt đầu từ hôm nay khởi lên ở Hán đông, Tiêu Dịch đến Giang lăng. Hậu Lương xưng chế, ngoài thông biểu tấu, âm có mưu đồ khác, trong dấu tâm chưa hết thần tiết. Tuy việc chưa thành công mà uy đức vang xa, người đời Tề do đây mà bị chiết phục, Chu Võ nhờ đó mà thành công, còn tưởng sự siêng năng của nghiệp vua, xa chỉ có sự khởi đầu của phong hóa. Thống lãnh Di Địch để đánh Đông hạ, dùng quân binh để chiếm lấy các nước phía Nam, đâu luống thang chinh, Hạt Bá Chu phạt, sùng hầu mà thôi. Chứa nhóm công đức, để phước lại cho đời sau. Kính mong con đường của thần, sự mờ mịt vắng lặng. Trăm đánh trăm thắng, thực hành mười điều lành, cho nên binh khí chiến tranh đã giống hướng họa, vùng đất hoang sơ lâu ngày thì đồng tịnh quốc, nghĩ muốn sùng thọ, đất báu bắt đầu thành già-lam. Thêm lớn nhân phước, u chỉ sâu kín. Xưa, mùa hạ do dẫn nước mà còn khắc vào núi. Nhà Chu gọi là tuần du, có nghe lặc thạch. Ký sự của Đế vương xưa nay được ưa chuộng. Ở Tương dương, Tùy châu, Giang lăng, Tấn dương đều lập một ngôi chùa, đạo hưng thạnh thật lâu dài đồng với trời đất.
Năm xưa, đệ tử thấy đạo nhà Châu đã suy, các hung nô nổi dậy, đất Nghiệp thành thật là nơi khởi đầu tai họa, hoặc áp bức người lương thiện, hoặc đồng với giúp người ác, trong bốn biển hơn phân nửa là cọp sói, triệu dân đều lo bị ăn nuốt. Trẫm xuất quân đánh dẹp, trừ diệt yêu ma, thật có thảo phạt, chẳng phải không có nguyên nhân mà đánh nhau, tướng sĩ hăng hái thể hiện oai vũ, như lửa cháy lông mới không còn sót gì. Bấy giờ, trẫm ở lang miếu làm việc cho triều đình, đức dần dần dao động chúng sinh, dân rơi vào lưới võng, thật áy náy với tội lỗi của mình, chỉ thêm nhiều nước mắt thấy tội. Nhưng quân binh là hung khí, chiến tranh thật là nguy cơ, người có tiết nghĩa xem thường mạng sống, quên đi cái chết. Trong chiến tranh lại nghe sự rơi rụng, nói lên lời buồn bã, lâu ngày càng sâu. Mãi nhớ chúng sinh bị cái khổ binh đao. Cưu mang chí đạo, làm hưng thạnh nghiệp giải thoát. Chúng sinh và ta đồng gặp, quán và trí đều dứt, suy nghĩ xây dựng phước điền, thần công giúp đỡ, ngõ hầu mong mỏi việc chết. Bồ-đề thêm lớn, những người đồng trái nghịch. Từ tối ra sáng, đồng thời nghiên cứu khổ không, đều giúp sinh tử. Quán xét con cá kình hóa thành đài mầu nhiệm, chỗ hoang vắng của rồng rắn, mãi làm gương pha lê. Vô biên loài có tánh đều nhập vào pháp môn, có thể là đất chiến tranh của châu Tương, xây một ngôi chùa, lập bia ghi việc. Chế độ xây dựng, an trí tăng ít nhiều. Tên gọi các chùa có ghi chép đầy đủ.
Ngày hai mươi tám tháng giêng niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ ba. Đệ tử Hoàng đế thọ giới Bồtát, tổng trì đảnh lễ tất cả chư Phật trong mười phương, tất cả tôn pháp trong mười phương, tất cả Hiền Thánh Tăng trong mười phương.
Thẩm cho rằng diệu linh khôn lường, lý cảm báo thông suốt. Nhân quả giúp nhau, cơ ứng không sai lầm. Do đây sơ tâm phát khởi chấn động cung ma Ba-tuần. Một niệm đã đến thước tất đạo tràng. Tuy nhóm họp các tiên mà thật che giấu ở núi ấy. Giọt nước đã ít mà tràn ngập nơi biển pháp. Đệ tử nhờ gieo trồng duyên đời trước, nối nắm bảo mạng, lâm ngự cõi nước, cứu giúp chúng sinh mà đức hóa khôn hoằng, hình phạt chưa dứt, muôn phương có tội thật là ưu trách. Trăm họ không đủ, tăng thêm trần lụy. Đêm xưa cạnh tranh như đến vực sâu. Đây là do quy tâm chủng giác, quyết mong muốn thương xót, cẩn trọng trong suất sĩ, kiến lập thắng duyên. Châu biệt thỉnh Tăng bảy ngày hành đạo, độ một ngàn vị xuất gia. Đem công đức này khắp vì tất cả. Trên đến trời Hữu đảnh dưới đến địa ngục vô gián, loài bò bay máy cựa đồng bẩm thức tánh.
Nghiệp ác từ vô thỉ, tội cấu đời này, nhờ duyên lành này đều được thanh tịnh. Ba đường, địa ngục oán thân trong sáu đường cùng đến Bồ-đề, cùng một lúc thành Phật.
Đường Thái Tông ra chiếu chỉ ở Hành Trận xây dựng bảy chùa.
Đệ tử chí nhân hư kỹ, quên bỉ ngã ở trong lòng. Thích giáo từ tâm đều đồng khác ở bình đẳng. Đầy đủ biết bậc Thượng Thánh thương xót không cách muôn phương. Lòng đại bi cứu giúp xem như con một. Có tùy thất đạo, chín phục sục sôi. Trẫm gồm Nguyên Nhung xảy ra minh phạt này. Thệ mục đăng nhi không hề có năm tháng. Kia có Kiệt Đại Ngu hoặc động chạm Thang La này. Hàm tu nghĩa nọa cuối cùng tiết. Đều vâng chỗ phụng, đều có thể vui. Ngày đến tháng đến thệ xuyên tư viễn. Tuy phục hạng ta phóng mạng. Phong Thọ Phi ở gò mã. Phi tín quyên sinh. Đơn Thanh để ở Đồ Tượng. Còn sợ dưới cửu tuyền trẫm luân đảnh vạc. Trong tám nạn thường bị ràng buộc trong nước lửa. Xụi mặt đau lòng phải quên lăng tẩm. Suy nghĩ sở dĩ tạo lập phước điền để cứu giúp hồn phách kia. Có thể vào niên hiệu Kiến Nghĩa đến nay là chỗ giao chiến, vì nghĩa sĩ hung đồ bỏ thân ở chiến trận. Đều tạo lập chùa chiền chiêu vời bạn tốt, trông mong trống pháp biến lửa đỏ thành hoa sen xanh. Thanh Phạm đã nghe biến biển khổ thành cam lộ. Sở ty cần lượng định nơi chốn. Đều lập tên chùa. Chi phối Tăng đồ và tạo lập chùa, đủ làm sự điều để nghe, xứng với ý thương xót của trẫm.
Phá Tiết Cử ở U Châu, lập chùa Chiêu Nhân.
Phá Tống Lão Sinh ở Thai Châu lập chùa Phổ Tế. Phá Tống Kim Cang ở Phổ Châu lập chùa Từ Vân. Phá Lưu Võ Chu ở Phần Châu lập chùa Hoằng Tế.
Phá Vương Thế Sung ở Mang Sơn lập chùa Chiêu Giác. Phá... Kiến Đức ở Trịnh Châu lập chùa Đẳng Từ. Phá Lưu Hắc Thái ở Danh Châu lập chùa Chiêu Phước.
Bảy chùa vừa kể đều do quan xây dựng. Lại cấp nhà, người xe, trâu, ruộng đất, và lập bia ca tụng công đức.
Đường Thái Tông và chiếu chỉ lập trai đàn hành đạo vì người chết trong chiến tranh.
Môn hạ hình kỳ vô hình là linh điển (mẫu mực) của Hoàng vương.
Dùng chiến dừng chiến là khuôn phép của bậc Thánh. Do đây, binh khí đời Thang, đời Võ khi cứu giúp tranh loạn, há kia không thương xót dân đen tha hồ giết hại. Cấm bạo ngược đình chiến, bởi không được rồi. Trẫm từ đời Tùy chưa mở mang xây dựng, ý chí còn muốn cứu giúp kẻ đắm chìm. Bắc Đông bị chinh phạt, hướng về thái bình. Nhưng dưới búa vàng, đầu nồi sắt, nếu chỗ nào tổn thương giết hại khó dụng thắng kỹ. Tuy lại nghịch mạng loạn thường tự mất tuyệt tâm thương xót. Nhớ nghĩ coi trọng việc thương xót sinh linh, đâu không thể tiếc thương. Buồn rầu xót ruột không quên xây dựng lăng tẩm. Hơn nữa giáo pháp Đạo Phật lòng nhân từ sâu xa, khoa giới cấm sát hại là quan trọng. Nương lời nói, lý này càng thêm sự hối hận lo sợ. Vì từ khi chiến tranh đến nay, tay đã giết hại số người trước sau gần một ngàn, nay đều vì họ lập ra trai đàn hành đạo, chí thành lễ sám, y phục, đồ dùng của trẫm đều bố thí đầy đủ, cầu mong khổ nạn trong ba đường ác nhờ đây được giải thoát, khổ hoạn trong muôn kiếp nương đây mà rộng cứu giúp. Diệt trừ tâm oán thù, thẳng đến đạo Bồ-đề.
Đệ tử nghĩ ba thừa kết triệt, tế độ làm đầu. Tám Chánh đạo quy y từ bi là chánh. Chảy vào biển trí tuệ, thấm nhuần chúng sinh. Trừ rừng phiền não, làm cầu bến cho phẩm vật. Nhận chân thể đạo, lý hợp chí nhân. Diệu quả thắng nhân, sự phù hợp sự chưa tốt. Trẫm kính ngưỡng kim luân, cung kính bảo mạng. Lời giáo huấn chí đức không xa không suy nghĩ, khuôn phép của Đại thánh không u không xác thật. Muốn giúp cho người thoát khỏi nhà triền phược lên nhân thọ. Minh giúp hiển ứng che chở hàm linh. Năm phước ở nơi Hồng phạm, ba tai ở nơi thế giới. Gần đây, do tán loạn nên Tăng đồ giảm bớt, đài hoa, tháp báu không có người trông coi. Tượng Phật sen xanh dãi gió dầm mưa. Quyến thuộc điêu tàn, thật quá bùi ngùi. Các châu trong nước, chỗ nào có chùa viện thì cho độ người xuất gia làm Tăng Ni, tổng số giới hạn chừng ba ngàn vị. Châu thì có lớn có nhỏ, địa phương thì có Hoa có Di, tùy chỗ mà độ nhiều hoặc ít, có số lượng định, chọn đức nghiệp tinh thành, bất luận tuổi tác lớn nhỏ. Do trước đây số Tăng giảm bớt vì hoàn tục và độ riêng số người tại gia. Nếu hạnh nghiệp có thể xứng đáng thì cho nhận có giới hạn, quyết không có người để nhận lấy, cũng nhận số thiếu sót kia. Nếu vị quan lựa chọn không rõ ràng, nên chọn lọc điện thất. Nhưng giới hạnh chỉ trọng vô vi. Có một số Tăng đồ chìm đắm trong thế tục; hoặc giả nương thần thông vọng truyền yêu quái, hoặc lầm xưng thầy thuốc thầy bói dối đạo cầu tài; hoặc đến quan thự dặn dò đút lót; hoặc xâm da thịt đốt ngón tay làm cho người đời sợ hãi, kẻ ngu kinh hoàng, đều tặng cho người sự vui thích, động đẩy lưới thân, có một thứ nào ở đây là làm cho Thánh giáo thiếu sót. Trẫm có thâm tâm giữ gìn quyết không khoan hồng. Khiến y theo nội luật, tham khảo kim khoa đủ làm điều chế, khiến cho pháp, thanh tịnh. Quan ti sở tại phải thêm xem xét. Trong nội bộ kia có trái pháp luật mà không nêu ra thì sở ti phải viết bài trạng tâu lên. Người tốt thì chọn lấy, người xấu thì đuổi ra. Già-lam Tịnh độ đều biết pháp vị, đường Bồ-đề giác ngộ dứt các ác cấu.
Sắc chỉ rằng: Hình tượng đạo Phật thờ rất tôn nghiêm. Các nhà kỹ xảo đúc tạo nhiều tượng. Người cúng dường tranh nhau đến mua, phê bình thợ đúc so sánh tốt xấu. Người mua không nghĩ đến nhân quả chỉ cầu rẻ tiền; người bán vốn mong được lợi chỉ trông giá cao. Tội lụy rất sâu phước báo đều hết. Trái phạm kinh giáo, đều nên cấm dứt. Từ nay về sau các nhà kỹ xảo không được tạo đúc hình tượng đạo Phật đem bán. Các hình tượng đã đúc thành rồi cũng không được bỏ, nên đem tặng chùa và đền thờ Đạo sĩ, khiến cho đồ chúng của chùa và đền thờ Đạo sĩ đáp trả giá trị tượng kia. Quan ty của các châu huyện sở tại đến kiểm xem xét. Sắc chỉ này ban hành, nội trong mười ngày phải chấm dứt.
Thầm phục hạ phong, lâu nhường cao đức. Có lòng không nương vào ấp tốt đẹp. Cuối xuân mát mẻ, đạo thể tốt đẹp, đệ tử sinh ra gặp nhiều may mắn, sớm dự pháp duyên gần nơi Hoa Nhạc, sáng lập chùa tăng. Núi này ẩn chứa thần bí, khống tiếp sương mù. Núi nhọn nhiều nhậm, linh tuyền trăm trượng, thần tiên cho là thắng địa, là chỗ các bậc thiền triết đồng nhóm họp về. Kết cấu tuy lâu nhưng thiền tụng còn ít. Khuyết đạo hưng phế, hoằng do nơi người. Hơn nữa rường cột Tam bảo phải nhờ năng lực long tượng và oai nghi bốn chúng. Đặc biệt như uyên ương, cò trắng. Các vị Pháp sư thông suốt kinh điển, khen bày chân tục. Thật nên giáo hóa chúng sinh lên bờ kia. Hơn nữa, người thông suốt chịu khuất, để tâm nơi ứng vật. Đại đức quên danh chỉ lo giáo hóa. Lý thuyết rộng cứu giúp không cách xa gần. Ngưỡng nguyện rũ lòng hứa khả lời cung thỉnh này giáng tích lai nghi, thì Thích Viễn thiền cư, xa theo dấu chân để phỏng theo. Vương Tuần tinh xá, thanh trần không nổi.
Đây là sở nguyện.
Xưa, Đơn Lăng Khải Thánh, Hoa tự giáng điềm lành. Hợp đức thần cư, khắc giáng nghiệp lớn. Trẫm lớn nhờ nhà to đại bửu trong nước, xa nhờ vui cúng tế thành khẩn, ngưỡng mong phước xu điện. Lễ tư viên đã rộng, tình vũ cảnh tha thiết, mà hằng ôm lòng từ huấn, muốn báo không cùng.
Yên lặng nói nhân quả, suy nghĩ nhờ phước thầm. Thông nghĩa cung hoàng nhà xưa, chế độ rộng rãi, tôn sùng việc nhân từ cúng tế. Kính tăng Linh Hựu, nên sửa thành chùa Ni, tên là Hưng Thánh, thần thông vô phương. Vi thân khải phong suy nghĩ, người chủ thi hành.
Tháng năm niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười sáu, ngự chế nguyện văn (nhà vua viết văn nguyện), để tạo phước đối với chùa, văn rằng:
"Chỗ tôn thượng của bậc Thánh triết là hiếu, chỗ thương mến của người có lòng nhân là người thân. Trẫm lúc nhỏ mang nặng ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, lớn lên nhờ lời dạy bảo vỗ về nuôi nấng. Nhớ công lao to lớn ấy, do đâu mà quên được. Tình bao la đó, Hoàng Thiên chưa báo đáp. Xưa Tử Lộ than Thiên Chung vô dưỡng. Ngu Khưu than cha mẹ không tiếp đãi, trong lòng nổi loạn. Lòng tin đáng thương xót. Bệnh trong một tháng lại mắc hoạn nạn, nói lời mến tiếc, thật là thương xót, muốn báo đáp mà không biết làm sao, chỉ nhờ sự giúp đỡ thầm. Cung kính dâng hai trăm tấm lụa lên đại đạo từ bi, lòng chí thành thì có cảm ứng, trông mong tiêu trừ được tội lỗi đã qua. Gây nhân lành này ngõ hầu được quả vui ngày sau.
Niên hiệu Thiên Hòa năm thứ năm, tháng năm năm Canh Dần tuế thứ nhiếp đề, đúc một cái chuông, nếu chảy đá côn ngô, luyện thành đồng Nhã khê, vĩnh tượng hồng lư hóa thần khí này, tuy lúc bấy giờ thuộc Đình Tân mà điều giai di tắc. Vì thế trong "Xuân Thu Ngoại Truyện" có nói rằng: "Vịnh ca chín tắc bình dân không hai".
Mở mang hai giáo đồng quy về một đạo. Vàng đá thầm hợp, trời người đều khế hợp, chín cung chín địa xa thấu rỗng huyền, tam thiên đại thiên nghe xa biên tế. Gác bạc ứng cúng, mời pháp lữ tìm tiếng. Cửa vàng giáng chân, hầu tiên quan mà nghe tiếng vang, lưu truyền muôn đời, bèn khắc bài minh rằng:
Thật tế rộng xa, thông huyền rỗng suốt, hóa duyên đợi nghiệp, tạo lý nhờ căn cơ. Linh đồ tốt đẹp, mặt trời tuệ chiếu sáng. Sông vàng sương đọng, suối bạc mây bay.
Chín tầng trời tiên lục, năm nhạc chân văn. Đuốc trí chiếu xa, rừng thiền huân khắp. Trống vàng nhập mộng. Chuông ngọc thông mây. Tiếng điều đông lập, vang gọi mùa thu.
Hai giáo đều khởi. Hai chuông đồng vang, xa đến thiên sương, xa thiếu địa trấn. Sông Thiểm nổi ảnh, khe Hán truyền vận, nghe âm vang mở pháp, nghe tiếng khởi lòng tin.
Bát-nhã khôn cùng, có cửa nhiệm mầu, khai mở mê ám. Thường cứu đắm chìm, không cầu chánh giác. Không hội thiên tôn. Chỉ khiến biển trí, trước độ dân chúng.
Đạo hợp kim luân, thị hiện nhà vàng. Che trùm muôn phương, chuyên chở ba cõi. Muốn cho nhạc vân hòa, tiếng pháp kia đồng tuyên, tiếng nhã tụng cùng âm Phạm đều xa. Bèn dạy người dân, khuôn phép kim tích này. Tiếng hợp sấm gió, công ngang với tạo hóa. Ngựa nhảy hổ mạnh nhờ cây xà ngang mà bay. Xoay vần bàng long nương gió mà động. Âm thanh buổi sáng phát ra. Kiền chùy buổi tối khởi, đâu không vào tai để chứng quả vô sinh, nhập thần để chứng quả Chánh giác. Biển sâu có lúc cạn nhưng phước lộc thì khôn cùng. Đá vuông dễ tiêu nhưng nguyện lực thì vô tận.
Đời Đại Đường, niên hiệu Lân Đức năm thứ hai. Tuế triền tinh kỉ nguyệt thứ hàng lũ.
Ngày canh thìn mồng tám, tháng hai năm Quý dậu, Hoàng Thái tử kính vì hai vị Thánh ở chùa Tây Minh đúc một cái chuông đồng nặng chừng một ngàn cân. Phát kỳ trân ở sông Hán, tìm món báu ở núi Thục. Ngu luyện lửa, Tấn khoáng bay lư, mang rồng hổ mà đằng quy, ứng kình phù mà ghi chép. Tiếng vang chín cõi xa tuyên ân che chở, thấu suốt ba cõi vang xa đức an ổn. Đánh thức chúng sinh về đường giác, cảnh tỉnh muôn loài trong đường mê. Nghiệp đàn hương viên, công bằng trần kiếp. Thức cờ vết cao, cảm ngang trinh kim.
Minh rằng: Thanh kỳ cúng tế, huỳnh ly giáng thần. Sông oa lưu đức, núi dao phi hùng. Thổi đồng nêu tánh, hỏi tẩm đăng tình. Nói lời tịnh nghiệp, khai phát hương thành. Bảy báu xen đúc, chín lỗ đồ hình. Rồng bay như động, thú yển nghi kỉnh. Chế lấn nhà Chu, quy vượt sân Hán, gió thổi sáng vang, sương rơi đêm gọi. Kính nhờ Hoàng đế, dẫn dắt chúng sinh, tiếng vang ức kiếp, vui cả ngàn năm.
Phước gọi là giàu có, tội xưng đầy đọa, giàu có thì gần thì sinh bốn đường, quả báo giàu có, vinh hoa phước lộc đầy ở trước mắt. Xa thì tam Thánh, giúp nhau phong phú ở các cõi, cho đến tội lỗi, trái lại đây thì khác đường. Bởi tham lam tức giận quá nặng, có thể bị quả chịu khổ sở. Do đó, tội nghiệp ràng buộc, lao nhọc trải qua Thánh phàm. Tội nhóm lại không thể bàn luận. Ràng buộc chánh hạnh, sự gồm tiểu học, khiến cho hai quả này còn tệ hơn tức giận ngu si. Bậc La-hán lậu tận còn gặp nạn bị đánh đập. Đây phải biết nghiệp từ vô thỉ phân đoạn mà truy tìm chứng cớ. Hữu vi tích chướng, mong thay đổi hồi đầu. Từ xưa bậc Thánh khai dụ càng rõ. Lúc bấy giờ, mở rộng bốn hoặc, ba lần ba là chín phẩm, muốn cho tùy niệm dứt trừ, đâu được buông lung để đốt cháy? Nhưng do phiền não tăng mạnh khó cầm chế được. Bột khởi bỗng quên, sớm thọ căn cơ, tội kết đã thành hối hận không thôi. Nhưng nhờ lòng đại từ của chư Phật khéo léo phương tiện, giải bày lỗi trước dẫn dắt tinh linh, lập ra nghi thức sám hối tội, trình bày để tự sửa đổi thành mới, lỗi đã qua khó lặp lại. Dụ như phú thủy rất dễ biết. Vị lai quá khứ có thể cứu, cách gội rửa phải nêu. Bèn có bạn lữ Phổ Hiền, Dược Vương chia đường mà rộng trần đây; bạn là Đạo An, Tuệ Viễn bảo người đánh xe mà hành thuật này. Đến như Tước Vương Tể Bá đều kính mến tông khoa, thiện nam tín nữ không thiếu sự thành tâm. Xưa Ty Đồ Cánh Lăng Vương đời Nam Tề chế ra pháp Bố tát nghi Tịnh hạnh, số kia đầy đủ như chỗ hiển bày riêng. Nay giấy mực dễ phiền phức nên lược nêu số bốn, khai rõ then chốt tông sám hối tội.
Tạ sắc lập sám khải Niết-bàn của Lương Giản Văn. Văn sám hối sáu căn của Lương Giản Văn. Văn sám hối cao mạn của Lương Giản Văn.
Văn sám hối của Thẩm Ước.
Đời Trần, quần thần thỉnh. Văn sám hối của Tùy Võ Đế, Thẩm Giang.
Lương, Trần Hoàng đế y theo văn kinh sám tội.
Thần cương kính khải, nghe sắc chỉ ban. Vì thiền ở chùa Đồng Thái, điện Thụy Ứng, lập sám Niết-bàn. Thần chướng tạp nhiều tai, thân uế nhiều bệnh, châm cứu nước nóng, thường bẩn thỉu thiên lãm. Lại nhờ lòng từ giáng phước lớn này, trông mong mưa tuệ rưới xuống liền diệt lửa của thân này. Phạm âm vừa khởi, khắp nơi mát mẻ. Không việc gì mà chẳng ân nghĩa, phục gối đáp lời. Bất nhậm hạ tình. Kính phụng khải, tạ văn kính khải.
Đại chúng ngày nay thành tâm sám hối nghiệp chướng của sáu căn.
Nhãn thức vô minh duyên theo màu đỏ màu tím (màu sắc). Một khi theo nhiễm thì ngàn năm không quy về. Tuy là thiên nhục... khác căn, pháp tuệ rất đẹp. Vì thế do thấy cảnh trước mắt liền khởi ác theo. Nay nguyện bỏ nhục nhãn này, đầy đủ Phật nhãn, như vua móc mắt thấy Thất vuông vức một trượng của Tịnh Danh; thấy điềm tốt tháp Đa Bảo vọt lên; thấy ánh sáng của Đức Thích-ca ở Linh thứu; thấy hội Long Hoa của Đức Di-lặc, thường dạo chơi cõi Tịnh, thường đến cung trời.
Nhĩ căn ám độn có nhiều lỗi ác. Ưa nhiễm đồn ca, nghe thắng pháp thiện âm thì hôn mê muốn ngủ. Nghe Trịnh Vệ dâm ma thì thân nhảy tai lóng nghe. Biết sự vui của thắng pháp thì ít mà nghe ưa thích âm thanh dâm ma thì nhiều. Nguyện bỏ tai dơ uế này được Thiên nhãn thông kia. Nghe tiếng mở tháp đóng chốt, nghe tiếng búng móng tay cười nói. Những lời chư Phật nói đều tổng trì. Nghe tiếng gió thơm Tịnh độ, nghe âm vang leng keng của cây báu. Trong một niệm bỗng nhiên ngộ nhập. Tỷ căn lỗi lầm lại càng ngu đần. Đắm nhiễm sáu lan, quyến luyến trăm hòa. Uất kim dễ đắm, Chiêm-bặc khó trừ. Tuy lại, một loài cỏ thơm và một loại cỏ Du hợp tánh khó tìm. Trong hư không, trên mặt biển càng khó tự biết, còn như Điêu lô ở mây xanh bay khói, thức nhiễm lôi kéo nhau càng sinh ràng buộc. Do đó, con bọ hung, con giòi cam chịu tự cho là hương thơm. Nay nguyện tỷ căn này được tỷ căn của chư Thiên. Giũ áo bước đi, vượt rừng chiên-đàn, nâng túi lay bình bát, bưng cơm báu Hương Tích, lìa hẳn uế trược, thường giữ trong sạch.
Thiệt căn chướng nặng, nhiễm ác rất sâu. Kim độc tranh khởi, rắn độc đua nhau. Đã tham ý chi năm huỳnh sáu cầm. Lại cam chịu mùi vị chín đảnh tám trân. Do đó đốt núi, đập trứng, làm cạn nước cá ở trên khô. Canh cua không châm chước có lỗi nhiễm tay. Canh dê không kịp đến nỗi phải vào trận khổ. Dù dạ dày của con Yển, con Nai còn không xứng, phổi con phụng thai con rồng làm sao mà ngon cho được. Tuy dùng lưới, đảnh, thớt chưa hẳn đều đáng. Chúng sinh kia đối với mạng sống đã bị tàn ác. Hoặc bị bạn bè phản loạn phá tục tổn thương chân, biến màu tím thành màu đỏ, đổi màu trắng thành màu đen. Do đó, vừa nói ba lần, biết mẹ rơi vào máng, đoạn mộc nhất thuyết, vượt Bá Ngô vong. Vì thế biết lưỡi ba tất chưa dễ có thể quay lại. Bốn ngựa đã ra rất khó truy tìm. Nguyện dứt phiền hoặc này, nhân vật cảnh thanh tịnh. Đã đồng ngài A-nan khất khổng chi cơ, lại giống ngài Tịnh Danh im lặng, ăn sáu vị thiền duyệt, uống ba đức pháp lành, thân cung kính tâm chí thành thường hướng về bình đẳng.
Thân căn ngu mê va chạm, chỉ thích dịu dàng mềm mại, chất thể trần ngại không trọng giáo mâu. Đâu không thương ta khinh người, lấn người ngạo vật, mặc ý lõa trùng, không kiềm chế voi say. Sáu trần bốn đảo từ đây sanh ra, năm cái mười triền do đây mà có. Do đó, tượng khuẩn thanh nhàn ngao du ở hạ thất, trọng khâm hồ bạch lạnh nóng ở đông phòng. Xe buộc nhà rộng, động tịnh quyết an. Đều sạch lầu đẹp đến đi có thác. Do đó tội lỗi ba nghiệp có từ cơ quan, bốn đại giả thành đâu có chân ngã. Nguyện bỏ bình vẽ này được thân sắc vàng kia, tịnh pháp thân châu báu, chiếu tuệ thể lưu ly, thường quy về năm phần, hằng đồng mười thân.
Ý thức phan duyên, tội kia chứa cao như núi. Nguy hiểm đồng như mộng huyễn, thí như khỉ vượn. Treo gương nhà cao một niệm khó tịnh. Tẩu hoàn tác thượng, trăm lo rong ruổi trước. Còn hai mươi cõi không dừng, chín mươi tám sử không thôi. Do đó, khôi tâm diệt trí, hạnh chọn ba thừa, gió thiền linh ẩm, đạo cao sáu pháp Ba-la-mật. Nay nguyện dứt ý căn này, bỏ hết phiền lụy kia. Tâm sẽ điềm đạm rỗng chiếu vô sinh.
Tất cả các tội đều diệt tục môn, ba cõi khác đường quy y về cõi chân.
Sám hối đã xong, thành tâm đảnh lễ.
Đệ tử Tiêu Cương, lại dốc lòng quy y Tam bảo, thầm nghe lễ xưng không cao ngạo, nêu di văn của sông Thù, sông Tứ.
Kinh nói rằng: Không kiêu mạn, chứng nghiệm diệu điển của Du-xà. Vì thế, một khi gặp bằng thần. Lăng-già còn sinh tập khác. Thượng tân thiên đế ở Hoài Nam còn có lời lầm. Cũng có tài viết ẩn luân, điểu chỉ cao tục. Còn đủ ngồi chỗ vua Tấn, đứng trướng chúa Tề. Huống chi đạo giáng ba món vô lậu học, pháp gồm năm chúng. Như qua trước điện, dường ra khỏi cửa phía Bắc, nhưng không mật thất cung kính, di cung tiếp chân, xin nương thắng duyên, nguyện khởi thệ lớn, bắt đầu từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ-đề đối với người xuất gia đều cung kính, mới mong tiêu trừ bảy thứ kiêu mạn, chế phục sáu căn. Tân đầu hạ bước, ngõ hầu không lỗi lầm. Kỳ Đạt bỏ xe, mới nghĩ Cảnh Mộ, u hiển đại chúng đều chứng minh cho.
Đệ tử Thẩm Ước xin đảnh lễ, trước bạch chư Phật và Thánh chúng, Thẩm Ước từ đời này về trước cho đến vô thỉ, tội nghiệp lớn nhỏ, vốn không thể có văn tự nào tính kể cho hết. Chứng muội vãng duyên đâu do chứng cứ. Viên thủy thành đồng có tâm ham muốn. Không nói từ bi, chẳng rành tội báo. Cho rằng: Mao quần giới phẩm, sự do nhà bếp. Không có duyên đối, chẳng biết xót thương.
Sáng chặt tối đốt rõ tháng theo năm, hiềm phục trấn hư, chẳng phải đây thì đâu thể gồm. Túi xưa không nhỏ, tinh linh không đạt. Trong lúc ngao du mặc tình hành động yêu bạo, các loài bò, bay, hoặc bơi lội dưới nước không bị vướng vào lưới thì cũng bị lên thớt. Hễ gặp được là hành gia chận đánh. Kiếp số truy niệm, chủng loại thật phiên. Xa nghĩ tương gian khó mà tường tận. Lại tháng nắng nằm ngủ, muỗi mòng đốt da, tức giận trong tâm nên dùng tay đập. Mỗi năm đã giết tính hơn vạn con. Tay do sân giận, mạng do tay ngã. Vì đó giết hại, sự không đâu chẳng đủ, cho đến ngày nay, còn chưa hết được. Lại từng làm cho vạn nước, dùng lưới bắt cá. Đốc xuất binh lính hội họp vui chơi. Bọn người như thế rất nhiều không phải chỉ có một Đảng lệ tân du, tội lỗi xen nhau. Hoặc lấy trộm đồ đạc trong vườn của người, hoặc trộm thực phẩm, súc vật, tâm tánh mê mờ tùy hỷ vui theo, nhận phần trộm cắp rõ ràng không muội, tánh ưa sách vở. Cẩu đắc vong liêm, lấy chẳng thật có, gần hai trăm quyển.
Lại nói lời thêu dệt, các điều lệ nhiều rộng có tội giả dối. Tuy khỏi tội lớn nhưng xúc chạm nhỏ nhiệm cũng khó trình bày đủ.
Lại truy tìm lúc nhỏ, máu huyết phương tráng, tập lụy ràng buộc, sự khó bài hốc, máu huyết mạnh mẽ, tập lụy ràng buộc, sự khó bài hốc. Sông kỳ, cung thượng thật không biết là bao nhiêu, phân đào dứt tay áo cũng đủ xưng nhiều. Đây thật là hố sâu sinh tử chưa dễ gì trừ được. Quán chí hữu thảm thủ tánh sở đồng bẩm. Sân giận lỗi lầm, có khi đều như vậy. Mài sắc nghiêm thinh không ngày nào khỏi được. Lại nói lời đùa giỡn, việc làm ngừng dứt không hề nghiên cứu. Lỗi xúc chạm do đây phát khởi, trầm luân không rõ. Buổi sáng nhiễu loạn, chiều tối không thôi. Quả báo đời sau do đây mà có. Niệm trước vừa dứt, niệm sau lại khởi. Thước sóng chưa dừng, tất bóng vội đến. Trong tâm hối hận chẳng biết nói sao, nay đối trước chư Phật ba đời trong mười phương và trước chúng Tăng, tâm thệ khắc phục tự mình hối trách, dứt bỏ lỗi trước, rửa sạch lo lự ngày nay, xét lỗi của thân, quy mạng Đức Phật. Lại xét bảy thước là gốc, tám vi là cấu. Phân tích xa lìa đâu biết chủ kia. Tuy tạo nghiệp là do thân, thân tùy theo niệm diệt. Nhưng niệm niệm sinh khởi, dứt nối không thôi. Việc ác đời trước đã do tâm tạo, khi làm việc ác thì tâm kia đã nhiễm. Tâm kia nhiễm rồi tuy cùng niệm diệt nhưng chỗ đã nhiễm liền thành duyên sau. Nếu không có các chân đế, dùng không dứt có, thì tâm nhiễm càng nhiều khó mà trừ được. Nay khởi tâm hổ thẹn này, trừ diệt chỗ nhiễm xưa. Chỗ nhiễm đã trừ thì không thành tánh. Tánh kia đã không thì tội không chỗ nương. Cúi đầu đảnh lễ, u hiển chứng thành. Một niệm này đã thành thì nối nhau không đoạn. Ngày mài năm sáng đời đời không thôi, cho đến đạo tràng không bị thoái chuyển. Lại bị việc ác thêm vào cho mình, đều do khi xưa ta thêm cho người. Nếu không trừ duyên nặng này thì đời sau duyên ác càng gặp. Ngày nay đoạn diệt hẳn duyên đời sau. Đạo chẳng ở đâu không có, có cảm ứng này. Ngõ hầu nương tâm chí thành này đến được thông suốt.
Con là… đảnh lễ tất cả chư Phật mười phương ba đời, các vị Hiền thánh hiện tiền, các vị Đại đức tăng. Hoàng đế,… thọ giới Bồ-tát. Hiền triết thông minh, rộng lớn bằng Thánh. Tâm như hư không, chiếu suốt Bát-nhã. Phát thệ nguyện rộng lớn, gánh vác chúng sinh. Thần đạo hợp xướng chịu cảnh nghiệp này. Trăm vua đã quý, vận thuộc gian nan. Năm nhạc duy trần, sáu quần nhật động. Cu lao trong niệm, có tâm tha thiết, nhưng đã ngộ sâu khổ không, tin sâu vô ngã. Đài báu quế hoa vốn không thật có. Tặc thành lâu lỗ khổ cụ thêm nhiều, bèn ngồi đạo tràng tịnh cư thiền thất, giữ vững tâm làm, đầy đủ đàn-na. Vách đá, núi sông, trâu xe mã tượng, đầu mắt tủy não, vợ con quốc thành, xe lớn ngựa sang, màu xinh ghế ngọc. Phước đức đã cảm, oai ân đã được, đâu không nghiêm túc cúng dường Tam bảo, liền muốn rũ áo lên núi bất động, bước sao sáu hợp. Đến trong rừng ngồi thiền cùng Thích chủng dạo chơi. Cung trống nhiệm mầu, nhà vàng rộng lớn. Thượng linh chấn động, đất dày hoảng hốt. Đệ tử thân ràng buộc ái hoặc, nghiệp tạo ra phiền não. Thiên sinh chưng dân, cây bằng ty mục kiềm thủ chẳng dày chẳng mỏng. Há cho chí tôn ở vạn thừa mà nêu tình độc vãng, đối với Đế vương mà làm việc trải y. Vả lại Man Di loạn Hạ, bọn giặc gian cừu. Đốt lửa để cảnh thức người. Mặt trời chiếu lửa cam tuyền. Bốn vùng ngoại ô nhiều bờ lũy, chưa mở rộng được oai thế nhà cửa ghe thuyền. Như khiến bảy thánh vân mê rõ ràng trên sông phần, tám ngựa ba phược phương ở ao bến mới, thì thiên hạ nương vào đâu. Quần thần không tôn phụng đền thờ, miếu có bỏ phế thì đệ tử không hôn được loài lang sói. Cẩn thận như bấy nhiêu tiền, như bấy nhiêu vật, ngưỡng mong Tam bảo và đại chúng, phụng chuộc những gì đã xả bỏ của các vua và Hoàng đế đều trả lại ngôi vị cũ. Phục nguyện mười phương Tam bảo và Đại đức tăng hiện tiền, dùng năng lực từ bi và tâm vô ngại, thiền định phóng quang, hiển bày giảng nói, hoan hỷ hòa hợp siêu nhiên hứa khả. Khiến cho Hoàng đế hướng đến mây, hướng đến mặt trời cùng Nam Sơn đồng kiên cố. Đức của Thánh của Thần cùng Bắc cực đồng tôn. Tinh của Trung cung Hậu phi; thích của kim trinh ngọc cán, niềm vui chứa nhóm điều thiện, hoan hỷ suốt muôn năm. Ngọc loạn hồi tiêu đồng khải. Trăm người ngẩng đầu, con cháu quan đều kém. Nguyện trần lao và mây mù đều tiêu. Ức triệu cùng trời đất đều thư thái. Khiểm khiểm đan ngu, cảm dĩ tử thỉnh. Đệ tử... kính lễ.
Bồ-tát giới đệ tử Hoàng đế, cung kính đảnh lễ chư Phật trong mười phương, vô lượng tôn pháp cùng tất cả Hiền thánh, quán thường lạc ngã tịnh, bởi diệu bổn chân thường, vô thường khổ không. Chính là lụy pháp của thế gian, khổ vui đâu thấy con đường phân biệt khởi.
Chân tục khác tên, tình chấp dính mắc. Chỗ điên đảo ngã nhân càng thấy ngu si. Trọng lấy bỏ có không chuyển thành chuyên phụ. Đâu biết diệu đạo là vô tướng, chí lý thì tuyệt ngôn ngữ. Thật pháp chỉ có một, chân như không hai. Chư Phật dùng năng lực từ bi, mở cửa phương tiện. Dạy bằng khiên đãng, chỉ bày thì dùng minh diệt. Trăm phi đều bỏ, bốn câu đều vong, nhưng sau không bị trần lao, được giải thoát thanh tịnh. Nói Bát-nhã tuy có năm thời mà ý chỉ trí tuệ thì hoàn toàn quy về một đường, không đâu chẳng phải là Đệ nhất nghĩa đế đều là pháp môn Vô thượng. Đệ tử vừa học không đâu chẳng biết hư giả. Làm vua thống lãnh bốn biển không dùng vạn thừa làm tông; nhiếp thọ triệu dân càng biết muôn cơ thành lụy. Mỗi thời chẳng hiển, than ba cõi rõ ràng, trọn ngày vô ích. Than bốn loài đều chìm đắm, thường dùng đèn trí tuệ chiếu sáng thế gian, tàu thuyền Bát-nhã cứu độ hàm thức. Nay ở... kiến lập bấy nhiêu vị Tăng, bấy nhiêu ngày đại phẩm sám. Hiện tiền đại chúng dốc lòng kính lễ Tuệ mạng Tu-bồ-đề, nguyện các chúng sinh lìa tướng nhiễm trước, hồi hướng pháp hỷ, an trụ thiền duyệt, cùng đến Hương thành đồng thấy đài báu. Trí Bát-nhã biết các pháp là vô tướng, thấy tự tánh thường không, vô sinh pháp nhẫn tự nhiên đầy đủ. Cúi đầu kính lễ thường trụ Tam bảo.
Đệ tử Hoàng đế thọ giới Bồ-tát cúi đầu kính lễ. Chư Phật mười phương, vô lượng tôn pháp, tất cả Hiền thánh. Đức Như Lai trong bốn mươi năm đã nói Bát-nhã, bổn mạt, thứ lớp lược có năm thời. Đại phẩm, tiểu phẩm chi điều phân tán. Nhân vương Thiên vương tôn phái khác nhau. Kim cang đạo hành tùy nghĩa đặt tên. Cầu pháp thân để làm tiêu đề cho người. Tuy nói trước nói sau ứng hiện không đồng nhưng chí lý chí ngôn đồng quy một đường, không đâu chẳng phải là vô tướng diệu pháp đều là trí tuệ thâm kinh. Do có chấp đó đã là có lỗi, nếu không cầu đó càng thấy trái nhiều.
Nghĩa khác khứ lai, đạo không trong ngoài. Từ đó lại trừ đó, không thể được chân kia. Không đó lại không đó, chưa đủ rõ diệu kia, chân tục đồng bỏ, bổn tích đều quên. Được ở nơi tâm nhưng sau vì pháp. Đây là do không nói đồng tử nhiệm mầu mà được nhiệm mầu của không nói, không nói Bồ-tát sâu xa mà thấy sâu xa của sự không nói. Đệ tử tập học không đâu chẳng phải là tu hành trí tuệ. Sớm tôn trọng đạo, khắc phục hành pháp. Muốn dùng gia hình quốc từ gần đến xa. Một niệm lành ngàn dặm cảm ứng, nhất tâm muôn nước đều vui. Hằng sa chúng sinh đều là bạn pháp, vi trần thế giới đều là đạo tràng.
Nay kính cẩn, tại... kiến lập từng ấy vị Tăng, từng ấy ngày sám Kim cang Bát-nhã. Đại chúng hiện tiền dốc lòng kính lễ Kim cang Bát-nhã của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Kính lễ Trưởng lão Tu-bồ-đề. Nguyện chư Phật, Bồ-tát dùng nhân duyên Bát-nhã đồng thời tập hội, thương xót muôn loài, hộ niệm chúng sinh, dẫn nhập trí tuệ đồng quy về biển Phật, được diệu bảo Kim cang, thấy thâm kinh kim điệp. Đầu đội phụng trì, trọn không xa lìa. Được lợi ích cho mình và hết các cõi, tâm được tự tại không bị trần lao. Cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Đệ tử Hoàng đế thọ giới Bồ-tát, đảnh lễ chư Phật mười phương, vô lượng tôn pháp, tất cả Hiền thánh. Từ khi rừng Hạc bặt dấu, Linh thứu ngưng thần. Bình tả tổng trì, di chúc chẳng mất. Truyền đăng lưu bố, pháp luân càng rộng, khuôn phép hằng nói đã chiếu đến Tây Vức. Phân chia hiển thuyết cũng lần lần dời đến Đông Độ. Mà triều đại nhà Chu vi ứng chỉ thấy đêm sáng, Hán Đế cảm thông chẳng qua mộng ban đêm. Hương tượng đã chở Hổ quán, Long cung đã chứa lân các, trong đó chẳng lấy. Núi biển bị cách, truyền thọ bị suy vi. Hoa Di khác nhau, phiên dịch bao nhiêu. Lời Thiên vương hỏi chỉ được tên kinh. Kinh Kim Cang vừa thấy một phẩm, trải qua triều đại nhà Ngụy và nhà Tấn nhưng chưa đủ, kinh ở triều đại nhà Tống nhà Tề cũng thường thiếu. Con thừa gia lập quốc sáng trước tuyệt sau, đạo cách trời đất, đức bị suy vi. Mở lòng đại bi, rộng khai trí tuệ, thí tạo hóa ở nhân thọ, giúp chúng sinh đến giải thoát, khác thế giới mà thừa phong, không đồng thế giới mà hưởng ứng. Chân nhân pháp báu truyền thông.
Vào niên hiệu Thiên Gia năm thứ sáu, Thiên tử ở nước ngoài là Nguyệt Bà Thủ-na dạo chơi khuông lãnh, tuệ giải thâm diệu, không lường Thánh phàm. Phụng trì bộ kinh Thắng Thiên
Vương Bát-nhã, ở đó phiên dịch biểu hiến kinh đô, lựa chọn tên kinh, minh hợp phù khế. Gồm thông giáo của ba thừa, suốt biển sâu của sáu độ. Như khai mở nhà tối để chiếu Ưu-đàm. Chúng sinh trong mười phương như người nghèo được của báu, bốn bộ đệ tử như lực sĩ được ngọc châu. Kim điệp bảo ấn, thỉ tư thần nhi nhất khải. Trí tuệ thật pháp, đến lúc bấy giờ mới đủ. Vì thế, Đức Như Lai phó chúc phải đợi Nhân Vương. Bát-nhã hưng long hẹn nơi Thánh vận. Đệ tử toản thừa mối lớn, mở mang đại nghiệp. Nguyện pháp môn này khắp các u hiển. Nay ở... kiến lập từng ấy vị Tăng, bấy nhiêu ngày sám hối Thắng Thiên Vương Bát-nhã. Hiện tiền đại chúng dốc lòng kính lễ Đức Bổn sư Thíchca Như Lai. Kính lễ Bát-nhã Ba-la-mật, kính lễ Thiên vương. Nguyện tất cả chúng sinh cần cầu Bát-nhã không nề lạnh nóng, như Tát-đà-ba-luân không tiếc thân mạng. Như Bồ-tát Tinh Tấn Lực được tánh tướng Bát-nhã, tương ưng với Bát-nhã. Nhiếp hết muôn cõi, trụ nơi an ổn, hàm linh hữu tình đều được quy y.
Cúi đầu đảnh lễ, Thường Trụ Tam Bảo.
Đệ tử Hoàng đế thọ Bồ-tát giới, cúi đầu đảnh lễ chư Phật mười phương, vô lượng tôn pháp cùng tất cả Thánh hiền. Trộm cho rằng: Sinh trước Phật sau Phật các món nhân duyên. Đã nói sẽ nói các môn phương tiện, đâu chẳng phải là chân ngữ, đều là diệu pháp, lý không hai đường, thú hướng đồng quy. Chỉ do ở nghiệp, do tâm bẩm thức của muôn loại, nếu thấy liền chấp khác tướng của chúng sinh. Phẩm vị có cạn sâu, giác ngộ có mau chậm. Mưa pháp một vị mà người được không đều nhau, sấm pháp một tiếng mà người nghe có sai khác. Vì lý do đó nên Tiểu thừa đốn giáo có tên riêng, Thanh văn Bồ-tát do đây mà chia đường, còn như Lộc uyển ban đầu nói xe dê, Tiểu thừa dứt hẳn, Niết-bàn phần đoạn giải thoát. Do sự khéo léo của chư Phật, hiểu căn cơ của đại chúng. Đây là bán tự, chưa gọi là ba điểm. Phù hợp tam quy, trở về nguồn cội. Nói kinh Đại Thừa tên Vô Lượng Nghĩa, diệt hóa thành ở giữa đường, cỡi xe báu ở bốn nẻo. Minh châu trong áo ẩn mà lại hiện. Châu báu trong búi tóc ở đâu. Ban đầu được ra khỏi Tháp báu ở hư không, Bồ-tát vọt lên mặt đất. Hiện việc ít có, chứng pháp vi diệu. Tối thắng tối tôn, khó gặp khó được. Đệ tử do nhân địa phàm phu, thuộc phần gánh vác. Muốn hiến chương xưa dùng cứu muôn dân. Thần cho rằng vua Phục Hy kết cương, mất tâm đại bi. Thành Thang giải la còn không có diệu pháp. Dường cờ Đan Thủy, khác đạo thọ mà hàng ma. Cầm ngọc Đồ Sơn, chẳng phải đại tập của phường báu. Do đó, nương tâm bảy giác chi, buộc niệm bốn chánh cần, trụ Bồ-tát thừa, hiển giáo chẳng ba, học hạnh Như Lai, khai pháp môn chẳng hai, dẫn dắt quần mê, chỉ bày các hoặc. Nay ở... lập từng ấy vị Tăng, ứng ấy ngày hành sám Pháp Hoa. Đại chúng hiện tiền chí tâm kính lễ Đức Thích-ca Như Lai, Đức Thế Tôn Đa Bảo. Kính lễ kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, kính lễ Bồ-tát Phổ Hiền, kính lễ Pháp sư Diệu Quang. Nguyện xin Đức Như Lai Đa Bảo từ đất vọt lên, Bồ-tát Phổ Hiền nương voi từ trên hư không đến, đều vào đạo tràng chứng minh công đức. Đánh trống đại pháp chuyển diệu pháp luân, chấn động thế gian, giác ngộ phàm phu, khiến cho vô lượng Thanh văn vô biên chúng sinh tận pháp giới hư không đều là Bồtát, tổng trì tánh tướng, đồng chứng vô sinh. Cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Đệ tử là Hoàng đế thọ Bồ-tát giới, cúi đầu kính lễ chư Phật mười phương, vô lượng tôn pháp và tất cả Hiền thánh. Tìm xem trong núi Linh thứu tự có tướng thường trụ. Trong rừng Hạc trắng vốn không có pháp thay đổi. Vì thế, biết chân giải thoát ấy ai nói đến đi, thật trí tuệ ấy chẳng có sinh diệt, mà điên đảo mê ngu không hiểu lý ba điểm, vô minh che lấp, không có nghi tám mươi. Đối với bốn Đức Phật Thế Tôn, trăm ngàn Bồ-tát, đều hội nhà tám tướng, bày nói tuổi thọ của Đức Thích-ca, nói diệu kệ khen ngợi, nêu pháp âm sám hối. Đây là Pháp vương vi diệu đệ nhất, dùng chủng trí làm căn bản; dùng công đức làm trang nghiêm, có thể soi chiếu cung điện các cõi trời, có thể cùng chúng sinh vui vẻ, có thể tiêu biểu cho ngôi sao xấu, có thể dứt trừ sự đói khát, có thể dứt trừ sợ sệt, có thể diệt ưu não, có thể dứt trừ oán địch, có thể chữa lành bệnh tật. Đúng như pháp tu hành công đức đã sâu. Đệ tử dĩ tư quả muội thừa kế nghiệp lớn, thường sợ Vương lĩnh, không hợp chánh luân. Đạo ngự ở đời có trái luật vua, thứ tích chưa yên, lê dân không tốt. Nguyện quy y Tam bảo nương nhờ minh không, hộ niệm chúng sinh, giúp đỡ cõi nước. Nay ở... kiến lập từng ấy vị Tăng, bấy nhiêu ngày sám hối Kim Quang Minh. Hiện tiền đại chúng chí tâm kính lễ Đức Thích-ca Như Lai, bốn Đức Phật, kính lễ kinh Kim Quang Minh, kính lễ Bồ-tát Tín Tướng. Nguyện các Bồ-tát trụ lâu ở đời, các vị Thiện thần cõi trời không lìa cõi nước, phương tiện lợi ích tăng trưởng phước điền, chiếu mây từ bi, mặt trời trí tuệ lên, làm nhẫn nhục dẫn dắt, làm chỗ y chỉ, thành tựu đạo tràng Bồ-đề, an trụ cõi nước bất động.
Cúi đầu đảnh lễ Thường Trụ Tam Bảo.
Đệ tử là Hoàng đế thọ Bồ-tát giới, cúi đầu đảnh lễ Tam bảo. Trộm cho rằng cõi nước của chư Phật không thể nói năng; xưng hiệu Như Lai không có hạn lượng. Hoặc quá khứ hiện tại cùng lấy họ Phả-la, hoặc đồng thời khác đời, đều có tên Thích-ca. Hoặc mười ức Minh Vương, hoặc ba vạn Nhiên Đăng, đến đi ba đời đầy khắp mười phương. Người nghe tên được lìa trần cấu, người thọ trì được đắc đạo. Công đức kia thật khó nghĩ bàn. Đức Thíchca Như Lai dùng năng lực vô ngại dạo đi con đường thanh tịnh Bà-la, dừng ở đất phước cát tường. Ao báu hóa sinh, hoa vàng tự vọt lên. Nói kinh Đại Thông Phương Quảng, nêu danh hiệu Tam bảo. Thí như sáu cõi trời gồm quy về nhất thừa. Đệ tử dùng tâm từ bi, tu nghiệp bình đẳng. Thường cho rằng muôn nước có tội trách từ mười người. Bốn loài chưa an, lý vì trọng nhậm. Do đó, tự mình huân tu ngày đêm không mệt nhọc. Tinh tấn là tâm, nửa đêm chưa nghỉ, Bồ-tát hành xứ đều nguyện thọ trì. Pháp môn của chư Phật đều khiến như lời nói, muốn cho khắp trời cùng đất không còn bị trần cấu sợ sệt, loài bò bay máy cựa thường được chỗ quy y.
Nay y theo kinh dạy, ở tại... kiến lập đạo tràng sám hối kinh Phương Quảng gồm từng ấy vị Tăng, bấy nhiêu ngày. Đọc tụng một trăm biến, nhiễu bên phải bảy vòng. Hương đốt hương bột tột tướng trang nghiêm. Chánh niệm chánh quán rỗng tâm tinh khẩn. Đại chúng hiện tiền kính lễ Đức Bổn sư Thích-ca Như Lai, kính lễ kinh Phương Đẳng đã nói danh tự Tam bảo. Nguyện chư Phật và Bồ-tát theo tiếng mà đến như tiếng vang, phát ra ánh sáng thanh tịnh chiếu các chỗ nhơ tối, rưới nước mát mẻ trừ khát ái này, lên ghe sáu độ, vào biển Tam-muội. Gồm muôn cõi mà hội chân như, cứu ba cõi mà chứng được thật pháp.
Cúi đầu đảnh lễ Thường Trụ Tam Bảo.
Trộm cho rằng Bồ-tát đối với chúng sinh là chỗ y chỉ lớn, quán sát tánh tướng tùy căn cơ mà cứu giúp. Còn một người chưa độ thì không chứng đạo quả. Từ xưa đến nay hạnh nguyện như một, mà Bồtát Hư Không Tạng rất tối thắng, là cờ vua trong chúng, là tôn chủ trong đại minh, đầy đủ trí tuệ của chư Phật, được bí mật của Như Lai. Còn như nhân trong mộng thấy hình, tùy duyên nêu tướng, một khi nghe xưng danh hiệu, nước không thể nhận chìm, lửa chẳng thể đốt cháy. Nhất tâm xưng danh hiệu, dao gậy không thể làm tổn hại, thọ mạng tài sản nếu nguyện thì suy nghĩ sẽ được ổn thỏa. Sắc, thinh, vị, xúc cần thì cầu đều được như ý. Thân tâm bệnh não thì ân cần chữa trị. Lao ngục sợ sệt thì dùng phương tiện giải thoát. Đây bởi tùy theo pháp thế gian để an lạc chúng sinh và động thần biến tướng đến cảnh Hương tập, phóng tịnh quang minh đến cõi Diêm-phù, nhập định Tam-muội, dập tắt lửa phiền não. Nói Đà-la-ni phá chướng nghiệp ác. Đời ác năm trược cùng lúc thanh tịnh. Năm tội căn bổn đều giải thoát. Đây là khai mắt thế gian, chỉ con đường Niết-bàn. Đệ tử nương lời dạy của Đức Như Lai, bẩm từ bi của chư Phật, được công đức của Bồ-tát, thực hành nghiệp của Đại sĩ. Nguyện cõi nước mười phương đều có nhất thừa, chúng sinh mười phương đều tu Thập địa. Nay ở tại... kiến lập đạo tràng sám hối Bồ-tát Hư Không Tạng, gồm từng ấy vị Tăng, từng ấy ngày. Đại chúng hiện tiền chí tâm kính lễ Đức Bổn sư Thích-ca, kính lễ Đức Thắng Hoa Phu Tạng Như Lai, kính lễ thần chú Đà-la-ni, kính lễ Hư Không Tạng Bồ-tát. Nguyện Hư Không Tạng Bồ-tát theo tiếng liền đến, hiện năng lực thần thông mở ánh sáng trí tuệ, dùng các thân hình đến các cõi nước, độ thoát chúng sinh không trái với lời nguyện.
Cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Trộm cho rằng: Chư Phật ba đời do nhân duyên thệ nguyện. Như Lai mười phương dùng phương tiện trí tuệ, dùng biện tài vô ngại, khai mở pháp môn vô tận, pháp lưu có khác tông nguyên vô hạn. Pháp vốn phân tán mà chi nhánh không cùng, chẳng phải Ma-ha Bát-nhã có tám vạn bốn ngàn riêng mà ngay cả Đà-la-ni cũng có chín mươi hai ức, nơi nơi tuyên thuyết, món món gọi tên, công đức vô lượng thần thông không thể suy lường. Còn Bà-tẩu cứu địa ngục, ma Ba-tuần phát tâm Bồ-đề, Hoa Tụ được thần thông, lôi âm thoát yểm tệ, đâu không do chương cú này nhờ nghiệp lực này. Cũng có bốn bộ đệ tử, chúng sinh mười phương nghe một câu mà phát tâm, nghe một tiếng mà ngộ đạo. Vì thế, biết tất cả các pháp không đâu chẳng phải là chân diệu.
Đệ tử hết lòng tu hành, sở học là Bồ-đề ra sức sớm tối, sở hành là cứu độ. Dùng năng lực nhất tâm nhiếp lấy chúng sinh, trong khoảng một niệm khắp các pháp tướng. Chủng trí Như Lai đều nguyện tổng trì, công đức chư Phật đều muốn lưu truyền. Nay thành kính đối với kinh giáo pháp điển, đại chúng hiện tiền chí tâm kính lễ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, kính lễ chương cú Đà-la-ni, kính lễ Tỳ-kheo Lôi Âm, kính lễ Bồ-tát Hoa Tụ. Nguyện nương công đức này điều phục chúng sinh, diệt tâm ba độc, phá mười nghiệp ác bốn trăm phiền não tự nhiên thanh tịnh, tám mươi bốn ngàn trần lao cùng lúc giải thoát. Được năng lực thần chú, đủ pháp ấn thiện, nhập môn Đà-la-ni, quán cảnh giới Phật, ngục lửa tắt hẳn không còn.
Cúi đầu kính lễ Thường Trụ Tam Bảo.
Trộm cho rằng: Các hạnh vô thường đều là pháp lụy, muôn cõi điên đảo đều thành gốc khổ, lửa cháy cảnh tượng biết thay đổi không dừng. Cỏ trôi tranh giạt thấy sinh diệt mau chóng, theo gió nghiệp mà vào biển khổ, tùy báo chướng mà đến u đồ. Đến đi ba cõi chưa thấy có chỗ an, luân hồi năm đường không có lúc tạm dừng. Đức Như Lai Dược Vương có đại nguyện lớn dắt dẫn muôn vật, cứu giúp chúng sinh. Dẫn dắt trăm sông các cõi quy về biển pháp một vị. Cũng có thể thí cho Hoa Lâm tùy theo thế tục, khiến được an ổn, không còn sợ sệt. Còn như tám nạn, chín hạnh, năm trược, ba tai, nước, lửa, trộm, giặc, bệnh tật, đói khát. Kẻ thù nợ nần, Pháp vương Huyện quan, ỷ thế lực lấn hiếp vạn mối, nghịch pháp sát ngàn biến, đều chuyển tất cả họa thành phước, đổi tai ách thành an vui. Lại có người cầu giàu có phước lộc, ngôi vị, kéo dài tuổi thọ. Ham muốn của sinh dân, thiết yếu của thế gian. Đâu không tùy tâm ứng niệm tự nhiên đầy đủ. Vì thế chư Phật phương tiện, sự tuyệt tư lương. Đệ tử là Tư Mục quả phương thú tích vị hựu. Nương bổn nguyện của Đức Dược Sư thành tựu chúng sinh.
Nay y theo kinh giáo, ở tại.. kiến lập đạo tràng sám hối Dược Sư từng ấy vị Tăng, từng ấy ngày. Đại chúng hiện tiền chí tâm kính lễ Đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni, kính lễ Đức Dược Sư Như Lai từ bi che chở, không trái bổn nguyện, không bỏ thế gian, nổi mây tứ đẳng, giáng mưa sáu độ, dập tắt lửa sinh tử, bẻ mũi tên phiền não. Thế giới mười phương hoặc luân đăng mà sáng rỡ, bảy trăm quỷ thần tìm mà ứng phó. Chướng ngại vắng bặt, tai ương không còn. Mạng theo phướn tục, tạm lên thường trụ. Dạo pháp tánh sâu xa, vào Chánh giác vô đẳng, hạnh nguyện viên mãn như Đức Như Lai Dược Vương.
Giải thoát chân thật vốn tự vô sinh; thật trí tuệ nay cũng vô diệt. Vì thế biết rừng hạc biến sắc, chẳng phải thay đổi. Núi Linh Thứu thường trụ, thật pháp thường trụ. Chỉ vì thế giới chẳng phải một, do đó ứng phó không cùng, chúng sinh vô biên, do đó phương tiện không bờ mé. Tùy niệm tùy chấp, các món pháp môn. Do nghiệp do tâm mỗi việc thị hiện. Hoặc tám mươi tiểu kiếp thường ngồi yên không dời đổi, tám mươi năm căn cơ không dư chưa bì kịp. Bên sông Hy Liên sắc sao mai bỗng sáng, trong rừng Ta-la tiếng nửa đêm liền vắng lặng. Công đức sau cùng.
Hôm nay giờ này, đệ tử có duyên với cõi Diêmphù-đề, nhận phần trọng trách, thương chúng sinh điên đảo, xót những kẻ ngu mê.
Thường nguyện làm thuyền sáu độ cứu họ đến bờ kia. Cỡi xe Nhất thừa đến chỗ Trung đạo.
Nay ở điện Thái Cực đại hội vô ngại gồm một trăm vị Tăng trong một đêm Sa-la đại trai. Nguyện mưa pháp, mây pháp làm mát mẻ lửa trong ba cõi. Đèn tuệ, đuốc tuệ chiếu sáng nhà tối trăm năm. Hai chữ thường trụ trời người đều nghe, ba điểm chữ y phàm thánh đều ngộ. Không nhọc lời hỏi của ngài Ca-diếp, không đợi nghi ngờ của Tu-bạt, Nhất thiết chủng trí dùng làm căn bản, vô lượng công đức dùng để trang nghiêm. Cây ý nở hoa giải thoát, ruộng thân hợp nước định tuệ, ở đất an lành, nương đạo tràng phước đức, cùng với hai khí đều tinh, tùy theo bốn thời mà nạp thần. Mặt trời mặt trăng thân Thiên tử, chiếu hợp trần ở Đại thiên. Ngôi sao cung điện rải ngọc châu ở trăm ức, nước mưa từ bi và gió lành đều thổi, mây báu Bồ-đề cùng khói bay đều đến, sáu hợp bốn biển không bị trần lao, sáu đường bốn loài sinh đều được thanh tịnh.
Trộm thấy rằng nhã cáo nghĩa sâu, Hoàng vương khởi lời nói ở ta; lễ kinh linh điển bậc Thánh nêu lời nói về tội của mình. Vì thế, quên mình cứu vật là tâm của người có lòng nhân; sửa mình lợi người là đức của người quân tử. Huống chi Bồ-tát Đại sĩ pháp bổn hành xứ, ứng phó ba cõi, nhiếp thọ bốn loài, vận bốn tâm vô lượng, tu sáu độ bình đẳng, quốc thành vợ con, tôi tớ ngựa xe. Nói đại nghiệp của Tổ tông, kiệt sức nghỉ ngơi, trọng trách của thiên hạ, lê dân chưa an, thứ tục chưa vui, đi trên băng mỏng, không quên tranh nghiệp. Lại do, tướng thế gian như bọt bóng, pháp hữu vi như sương như chớp, sông ái chạy nhanh, biển dục bay cao. Bẩm thức đồng cháy, hàm thức cùng chìm. Thùy chấn nương ngọc, trở lại biết muôn thừa không phải tôn. Đương trữ phụ ỷ trở lại cho muôn cơ thành lụy, sớm tối cố gắng tư hoằng hấp dẫn, thường ngày không hiển bày.
Kính vì bảy miếu Thánh linh, phụng vì Hoàng Thái hậu Thánh ngự, phụng vì trời rồng quỷ thần u minh, không có ba cõi, bốn sinh, năm đường, sáu nẻo, hoặc sắc, hoặc tưởng, hoặc oán, hoặc thân, hoặc không oán thân, khắp hư không đầy pháp giới, cùng quá khứ, tận vị lai, vô lượng danh thức, tất cả chủng loại đều bình đẳng đại xả.
Tự thân đệ tử và xe cộ, pháp phục, châu báu, anh lạc, tô điểm trang nghiêm, chỗ cấp dùng tư đãi, chỗ thường ngày vui chơi, đều vì đàn-na hoặc cúng dường Tam bảo. Nay ở trước điện lập đại hội vô ngại, phụng hành sở nguyện và các công đức đều nêu ở trước. Nguyện chư Phật, Bồ-tát, minh không u hiển đều đến chứng minh, khai mở mặt trời trí tuệ, chiếu mây từ bi, dựng cờ báu ở Đại thiên, đánh trống pháp nơi trăm ức, chấn động thế giới, giác ngộ chúng sinh. Phóng Tịnh quang Tam-muội, rưới mưa pháp một vị, dẫn kẻ ngu si ở hầm lửa cứu phiền não trong rừng gai, ra khỏi sông luân chuyển, đến bờ vô sinh.
-----------------------------
Đường Thái Tông ban chiếu chỉ lập trai đàn hành đạo vì những người chết trong chiến tranh. Đường Thái Tông ban chiếu chỉ độ Tăng trong nước.
Đường Thái Tông ban sắc lệnh cấm bán tượng Phật và các thư của Luật sư Tiêm.
Đường Thái Tông ban chiếu chỉ sửa nhà thành chùa. Đường Thái Tông vì Mục Hậu truy phước viết sớ.
Bài minh khắc trên chuông về hai giáo của Chu Võ Đế. Đường Thái Tông, bài minh khắc trên chuông, Đại hưng thiện.
Đường Đông cung, Hoàng Thái tử, bài minh khắc trên chuông, chùa Tây Minh.
Đời Đại Đường, chùa Tây Minh, Sa-môn Thích Đạo Tuyên soạn
Quảng hoằng minh nghĩa là nói kia mở mang, giảng nói Phật pháp, khai sáng cho hữu thức.
Từ chín thiên trước tùy thời hiện khắp, so lường lý lộ. Duyên kia đầy đủ, nhưng chí đó chỗ đó thì chưa thấy rõ. Như không trình bày, ca tụng nương vào đâu. Vì thế thiên kế soi xét xa gần. Hơn nữa, Pháp vương ngự vũ ca tụng quyết sơ. Phạm vương, Thiên chủ, Thanh văn, Bồ-tát đều nhờ kệ tán dụng xướng u thành. Không có kinh thì không có nêu bày ở thấy nghe, Vương Thần Đông Hạ đường đây không hoặc nghĩ luân. Vua có đức, nước tốt đẹp đâu không xưng khen ư? Do đó, tả tống tánh tình, thống quy tổng loạn, chính là ở đây.
Nhưng từ triều đại nhà Tấn nhà Tống đến nay, các tập số hơn một trăm nhà tin trọng đạo Phật đều bày thanh lược, còn như thu nhặt gom góp một trăm không còn được một, nêu bày số đều dùng các trần để nhìn rộng.
Hoằng Minh Luận của Thích Tăng Hựu. Văn hịch ma của Thích Trí Tịnh Thích Bảo Lâm phá ma lộ bố.
Lời phú Tịnh nghiệp của Lương Cao Tổ.
Lời phú Hiếu tư của Lương Cao Tổ.
Lời phú dạo chơi chùa Thất Sơn của Lương Tuyên Đế.
Lời phú ở chùa Túc Sơn của Lương Vương
Tích.
Lời phú trần uyển của Ngụy Cao Duẫn Lời phú Đại thừa của Ngụy Lý. Đời Lương, ở Tiên Thành, lời phú tường huyền của Thích Tuệ Mạng.
Lời phú của Lương Tiêu Tử về Vân huyền bộ uyển giảng.
Lời phú Giấc mộng của Thích Chân Quán. Lời phú của Lương Giang Yêm, Thương Nhược Tử. Luận Vô Vi.
Chiếu chỉ phá ma và văn thư hịch. Tấu trình tâm lộ bố.
Lúc trẻ ưa núi sông, thích hang hốc, thân bị ràng buộc bởi lưới thế tục không được toại chí, trái với hạnh ở một mình, không thuận với tâm tự do. Do đó theo làm việc vua, thuộc thời nhiều nên đời phải truân chiên, hữu sự nhung lữ, lược năm vô minh. Trên thì chính trị mê mờ, hung nghịch, dưới thì bầy tôi gian loạn. Quân tử nói tiêu, tiểu nhân nói trưởng. Ngự đao vâng sắc trùng mai nhi nhự, pháp trân càng linh, vận phong mạnh mẽ. Những người như vậy, Chí Công gọi là loạn đới đầu.
Chí Công là Sa-môn Bảo Chí, hình phục không nhất định thị hiện vô phương. Bấy giờ, mọi người nghi Ngài là một vị Thần lạ, bèn giữ lại tại vườn Hoa ngoại các. Ngài Chí Công nổi giận nói rằng: "Loạn đới đầu, loạn đới đầu". Các chấp quyền trục nhân xuất hiệu linh. Oai phước tự do, sống chết ở miệng. Người trung lương thì bị hại chết, kẻ công thần thị chịu chết vô tội. Vâng sắc đều đồng, phân đầu đều đuổi. Đều xưng là đế vương, mọi người cho là tôn cực. Dụng kia dối trá, nghi loạn mọi người. Ra vào vui chơi không quên sớm tối, trừ bỏ kinh ấp không khỏi ngày đêm.
Chúc khoáng, dứt hơi bên đường còn không kịp khóc.
Lâm Nguyệt, sinh ở bên đường, mẽ không bồng kịp. Bá tánh kinh sợ như băng quyết giác.
Tuyên Võ Vương ở Trường Sa, có công lớn đối với nước, lễ báo vô báo, khốc hại yểm cập. Còn như em cháu cũng gặp họa kia.
Lại sai Hoàn Thần cùng Đỗ Bá Phù v.v... sáu bảy lần đến Ung Châu, các quân tướng muốn mưu hại. Mọi người cho là việc không thành.
Sau, đến Lưu Sơn Dương, biết rõ Tráng sĩ Du Hổ khí giáp tinh thuần sắc bén. Vua không phân biệt, liền muốn bó thân chịu chết. Hung bạo này phát xuất từ quần tiểu, sợ chìm đắm, ba lần không điếu, huống là gian xảo ư? Nếu im lặng sẽ chết, bị thiên hạ cười. Chốc lát từ Sơn Dương đến Kinh Châu, bị Túc Dĩnh cầm giữ. Liền sai Mã Dịch truyền đạo đến Ung Châu, chính là Đại hiệu Hách Nhiên. Lập cờ Nha Thọ, bốn phương đồng lòng, như vang ứng tiếng.
Đời Tề, tháng giêng niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ hai, phát xuất từ Tương Dương, nghĩa dũng như mây, kẻ bị mờ mắt. Thái Thú ở Cánh Lăng là Tào Tông. Mã Quân Chủ Ân Xương v.v... đều cưỡi ngựa đến gần bờ kính hầu. Sóng gió ngược dòng cũng bốn mươi dặm. Đến chỗ thuyền của trẫm bèn dừng, có hai con cá trắng nhảy vào trước khoang. Nghĩa đồng mạnh tân, sự hợp thầm ứng. Mây động trời đi, sấm nổi gió bay. Dĩnh thành khắc định, Giang châu quy phục. Cô thực giáp vị, vọng phong thối tán. Cư sĩ Tân Đình lý cúi đầu quy hàng. Tàn bạo đã trừ, chúng sinh yên ổn. Liền muốn quy chí về vườn rừng, nhậm tình cỏ đầm. Dưới bức bách tâm dân, trên sợ lệnh vua. Việc không được rồi, bèn giữ báu lớn. Như đến vực sâu, như đi trên băng mỏng. Còn muốn tránh vị, để đợi người có tài năng. Nếu kia nhún nhường thì lại như cá vỡ đê. Không thân chết danh nhục cũng lụy u hiển. Bèn làm lời phú rằng:
"Ngày đêm thường suy nghĩ
Tuần hoãn cũng cùng tận
Muội đáng can can, bóng chiều như xưa
Cố đòi xe sáu ngựa, huống chi ở đây chẳng ví dụ được".
Người đời luận rằng: So sánh trẫm với vua Thang, vua Võ. Nhưng trẫm không được sánh với vua Thang, vua Võ. Vua Thang vua Võ cũng không được so sánh với trẫm. Nhưng nghĩa quân thần của vua Thang vua Võ chưa dứt mà có việc Nam Sao Bạch Kỳ. Nghĩa quân thần của trầm đã dứt, nhưng sau tải định, tàn bạo vì thiên hạ trừ loạn. Do hai con đường này nên không được so sánh nhau. Lúc trẫm còn áo vải, tuy biết lễ nghĩa mà không biết tin hướng, giết hại chúng sinh để tiếp đãi khách. Tùy vật ăn thịt không biết mùi vị rau chay. Cho đến phương Nam, thiên hạ giàu có. Thức ăn ngon từ phương xa cống hiến liên tục. Thức ăn khác lạ trong biển đâu không biết đến. Trăm vị đầy thớt ở trước phương trượng. Đang ăn dừng đũa, trước bàn rơi lệ. Hiện không được khi ấm áp lúc mát mẻ, sáng tối cúng dường. Tâm nào riêng cam chịu món ăn này. Do ăn rau chay đạm bạc như vậy, không ăn thịt cá. Tuy từ hạnh bên trong, không để cho bên ngoài biết, còn lễ tiệc quần thần, cũng có ít đãi món ăn sang. Ăn rau chay đạm bạc chưa quen, thân thể yếu đuối, trong triều đầy dẫy bắt đầu có người biết. Tạ Thuyết Khổng Nhan Dĩnh… thường khuyên bỏ ăn chay, nhưng vẫn trung chí. Chưa rõ được tâm trẫm. Trẫm lại tự nghĩ: Có thiên hạ vốn chẳng phải túc chí.
Đỗ Thứ có nói: Mổ tim quăng xuống đất vài miếng thịt mà thôi, nương theo người minh đạt, quân tử thanh cao bổn tâm kia. Ai biết ta không tham thiên hạ, chỉ thực hành điều người không thể thực hành. Khiến cho thiên hạ có người biết tâm ta. Lại dứt phòng thất, không ở chung phòng với nữ hầu hơn bốn mươi năm. Bấy giờ, thân bốn đại chút lỗi nhỏ, hỏi Sư Thượng Tỉnh là Lưu Trừng Chi Diêu Bồ-đề tật hầu. Do đó, Lưu Trừng Chi nói rằng: Trừng Chi biết do lỗi ăn uống này mà ra. Bèn đáp Lưu Trừng Chi rằng: "Ta lúc còn áo vải tha hồ ăn những món ngon sang"…
Lưu Trừng Chi nói: "Ngày xưa ăn sao được đến ngày nay".
Diêu Bồ-đề mỉm cười, lắc đầu nói: Chỉ có Bồđề biết.
Vì việc phòng thất quá nhiều, do đó mới xảy ra như vậy.
Lúc đó, đã lâu không ăn thịt cá, cũng dứt việc phòng thất. Do trí kia không êm dịu, thuật không biển hoa. Im lặng không nói, không gạn hỏi nữa, vẫn còn muốn trị. Lưu Trừng Chi xử rượu, Diêu Bồ-đề xử hoàn, uống đó bịnh càng nặng thêm. Do kia không hề biết, nên không uống thuốc, cũng bốn mươi năm như vậy. Xưa không tinh tấn, đã không ăn thịt chúng sinh, lại chẳng giết hại. Chướng đã không đến bên trong, lại không muốn ác chướng. Dứt lại hai chướng này, ý thức từ từ sáng. Nội kinh, ngoại điển đọc liền giải ngộ. Từ đây về sau mới bắt đầu biết quy hưởng.
Kinh Lễ nói: "Nhân sinh mà tịnh Thiên tánh. Cảm vật mà động tánh ham muốn". Có động thì tâm cấu có tĩnh thì tâm thanh tịnh. Động bên ngoài hết thì tâm bên trong sẽ sáng. Bắt đầu giác ngộ, hoạn lụy không do đâu mà sinh. Bèn làm bài phú Tịnh Nghiệp rằng:
"Quán Thiên tánh của nhân sinh
Do diệu khí mà thanh tịnh
Cảm vật bên ngoài nên ham muốn
Tâm phan duyên mà thành lỗi lầm
Lỗi thường phát ở trần ngoài
Khổ lụy thường do tiền cảnh
Như hang trống thì tiếng vang
Giống như hình đi thì có bóng
Ôm tâm tham không thỏa mãn
Ý buông lung tự rong ruổi
Mắt theo sắc mà thay đổi
Cũng theo tướng mạo mà dời chuyển
Nhìn xem trời đất năm màu
Ngắm nhìn bảy báu rực rỡ
Chấp trước hoa lệ yểu điệu
Đam mê trị dung quanh co
Khi ngủ thức đều không bỏ
Ngày đêm cũng quên mỏi mệt
Như anh tài bị phát giác
Như tuấn mã bị kiềm chế
Như ban ngày sáng rực rỡ
Trải qua năm tháng không bị thiếu
Quán nhĩ thức ưa âm thanh
Cũng như chim bay về rừng
Đã quyến luyến nơi đàn sáo
Cũng ràng buộc năm âm thanh
Trải qua tối sáng không dứt được
Trải qua bốn mùa mà tìm nhau
Hoặc loạn tình mà hoặc lự
Cũng dối tai mà che tâm
Còn như mùi hương bốc lên
Chạm mũi phát thức dễ chịu
Đuổi theo mịt mờ khôn cùng
Lan, giáp bay như chim hai cánh
Như khát uống độc, như lạnh mặc gai
Lưỡi hưởng mùi vị các trần không có
Đắng, mặn, chua đâu không cam chịu
Ăn thịt chúng sinh, đến loài bay chạy
Ban ngày chưa đủ, đêm dài uống rượu
Làm loạn minh hành, vong nghĩ lỗi
Thân thể thọ xúc cho là vui
Mắt đẹp thanh dương, Nga Mi tươi cười
Eo nhỏ tay yếu xương suy da dày
Phương khiết bên thân, chạm mềm như mỡ
Tâm cuồng mê hoặc, đảo tưởng tự dối
Còn như ý thức phan duyên
Loạn niệm vô biên, hao mòn nghĩ lành
Đều khởi niệm ác
Sáu trần như thế chướng ngại đường lành
Phương tử đoạt chu như gió thổi cỏ
Ôm hoặc mà sống, cùng đó đến già
Tùy theo vô minh, đâu không phiền não
Luân hồi nhà cửa, chìm đắm biển khổ
Đêm dài có chấp, không thể thay đổi
Gian khổ theo nhau, tai họa xen khởi
Trong ôm tà kiến, ngoài theo dâm tế
Bài hư uổng mạng, thật chết ngang trái
Vọng sinh thần giúp để vời phước lành
Bánh trước gãy trục, xe sau che vết
Ương nước họa nhà mất thân tuyệt tự
Không tụng nội kinh, trách lại tự mình
Hoàng thiên không thân, ai cùng người lành
Ngoài sáng mắt cảnh, trong tịnh tâm trần
Không nhiễm không chấp không thích không sân
Như ngọc thấm nhuần, như trúc già chắc
Như hoa Phù dung ở dưới ao
Như hoa lan thơm vào mùa xuân
Bùn dơ không thể nhiễm thân kia
Mê mờ không thể che chân kia
Sương móc đọng nhưng ngọc châu chảy
Gió thì động mà sinh cỏ thơm
Vì lành nhiều hằng năm chứa nhóm
Hành động nên ngày càng mới
Thường theo với các đức
Thường gần gũi với đạo
Thấy tịnh nghiệp ưa thích quả
Do không sát sinh dùng làm nhân
Lìa sự ham muốn ác mà tự tu
Nên không bị chướng ngại tinh thần
Hoạn lụy đã dứt, chướng ngại cũng tịnh
Như nước lóng trong, như gương mới lau
Ngoài soi nhiều tượng, trong thấy các bệnh
Đã dứt khách trần, trở về tự tánh
Ba đường lìa xa, tám muôn diệt hẳn
Thượng thiện đã tu, làm lành không thiếu
Thanh tịnh một đạo, không có đường khác
Chỉ có triết nhân mới được khoác áo
Như đá ném xuống nước đâu nghịch tâm
Tâm mát mẻ giống như nước
Chí sáng sạch dường như mây
Nơi ràng buộc kia đã trừ
Tâm lo sợ kia cũng diệt
Thường trái với sự mến nhớ
Xem sinh tử thường khác
Xem ngày nay ít ỏi
Tưởng đời sau anh đồng
Ôm kinh ngọc mà chưa phanh
Chứa thần khí ở nơi thân
Tu Thánh hạnh kia không cùng
Nhiều kiếp khen ngợi tiếng tốt kia
Muôn đời truyền bá nơi gió mát
Đâu phục mạnh mà gọi dũng sĩ
Bèn nói thắng mà cho là anh hùng.
Tưởng duyên theo tình mà sinh, tình duyên theo tưởng mà khởi, vật loại cảm nhau nên kia như vậy. Thường đọc truyện Hiếu Tử, chưa từng bất chung trục chuyết thư bi hận phủ tâm minh yết. Tuổi còn thơ ấu, trong không chỗ nương.
Tuổi quá hai mươi, ngoài mất chỗ nhờ, hạn chức kinh man, lỗi lầm sáng tối, giang đồ liêu hạ, nhà vô chỉ tín, phảng phất đường đi. Tiên quân thân không được an, ngày thì bỏ ăn, đêm thì bỏ ngủ. Tấc lòng phiền loạn, không chỗ dung thân. Liền bỏ chức để hướng dẫn trở về. Lúc đó, Tề Tùy Quận Vương Tử Long trấn giữ Thiểm Tây, tầng phiền tín mạng, khiến dừng lại một ngày, sáng sớm ngày mai đến sông Giang tiễn biệt. Tâm lo bức thiết không được thừa mạng. Chỉ được ghe nhỏ, hướng theo ngôi sao tìm đường. Đêm xông pha sóng gió, không chút bình yên. Dừng nghỉ ở Định Lăng thì thuyền bị hư. Lúc đó, Môn Tân Chu Trung Liên vì Thước Đầu Nhung Chủ, mượn được một chiếc thuyền mành, bôn ba đi tiếp. Thường xảy ra nguy hiểm, chỉ có thể mà được cứu giúp. Cho đến dừng nghỉ không đến kịp. Năm tạng rã rời, tim gan tan nát, liền muốn gieo mình dưới núi, gởi chí ở mồ. Huynh trưởng thương xót chưa cho đi một mình. Kế ở cửa Bắc có khấu biên giảo quyệt. Triều đình cho Tiên quân đến ái kết dân. Đều suy nghĩ khi xưa, bộ điển còn có mấy ngàn. Tướng lãnh Võ Khánh Tông ở lại phòng giữ. Kia khi trấn giữ liền có ý chỉ. Khiến Thọ Xuân Vương sự ma giám từ chẳng khỏi được. Thích Sử Thôi Tuệ Cảnh, có tâm muốn lật đổ, từ xa kêu gọi lẩn trốn, chứa nhiều kẻ gian xảo. Đại loạn hung ác đâu không nhóm họp, còn như Bành Bồn, Hàng Nguyên Tông v.v... nhiều không thể tính kể Bội Đạo Điện Mại vội đến sông Hoài sông Phù bọn hung đồ ngờ vực dẫn nhau ly tán. Đài Quân Chủ, Từ Huyền Khánh, Phòng Bá Ngọc v.v... muốn đánh chiếm Tuệ Cảnh, bèn cấm, mới được dừng nghỉ.
Năm đó, Tề Minh soạn Luận Tương Nghi chưa quyết định, thầm dâng biểu sớ khuyên răn Tuệ cảnh. Phán đoán mà kêu gọi quyết không chống cự. Liền trở về lại để an tâm kia, gian ác đã ra, biên giới không lo sợ. Trong một tháng Tuệ Cảnh trở về Trần, liền cởi áo giáo để về Kinh đô. Do vậy vội đi không được dừng nghỉ. Số chung bá lục, thời Hội Vân Lôi phát loạn phản chánh, trừng trị bốn biển. Nhớ nghĩ Tử Lộ gặp Khổng Tử nói rằng: Vì khi kính thờ cha mẹ, thường ăn rau lê rau hoắc, vì cha mẹ mà đội gạo hơn trăm dặm. Sau khi cha mẹ mất rồi, dạo đến nước Sở, một trăm chiếc xe theo, chở lúa muôn giạ. Lót nệm mà ngồi, dọn trên đảnh mà ăn.
Nguyện ăn rau lê rau hoắc, vì cha mẹ mà gánh gạo. Không thể được, thường cảm động vì lời nói.
Tuy còn hoặc mất, ơn cha mẹ làm sao báo đáp cho được. Lòng từ như sông biển, chữ hiếu như hạt bụi. Ngày nay làm chủ thiên hạ mà không cúng dường, thí như mất mùa mà có bảy thứ báu. Đói không được ăn, lạnh không được mặc. Thường mến mộ danh tiếng, sao hiểu bi thương, bèn ở dưới Chung Sơn lập chùa Đại Ái Kính; lập chùa Đại Trí Độ ở bên Thanh Khê, để nói lên tình lớn như trời đất. Rõ được tâm nhớ tưởng việc lâu xa, không thể quên tình thương cao rộng của cha mẹ, lại xây điện chí kính trong cung. Chọn thợ rất khéo và những điểm kỳ tuyệt trong thế gian. Nước đá chảy quanh, cây thơm xen suối. Chỉ dành cho quốc sự không được sớm tối đãi ăn. Chỉ đến ngày mồng một và rằm đích thân dâng cúng. Tuy dâng cúng châu báu mà không được chiêm ngưỡng. Trong tim hồi họp như lửa như đuốc. Tình tha thiết bên trong, sự nêu bày ở lời nói, bèn làm bài phú Hiếu Tư rằng:
"Cảm biến đổi của bốn khí
Thấy hóa thành của muôn vật
Thọ hòa của trời mà khác mạng
Bẩm đức của đất mà đồng vinh
Xem tiêu minh ở Văn Mi
Nhìn Côn Bằng nơi biển Bắc
Cùng hàm thức mà dị kiến
Đồng hữu sắc mà khác hình
Tuy có muôn loài chúng sinh
Riêng con người linh thiêng nhất
Lễ nghĩa khác loài bay chạy
Ngôn ngữ khác anh tinh
Niệm quá khích chi du hốt
Thương qua sông mà không dừng
Đạp sương móc mà thương xót
Ôm bó đuốc mà nước mắt rơi
Giữ tình thương đây mà không bỏ
Cũng qua ngày mà không suy nghĩ
Trọng do nhớ cá khô mà thường kính mến
Khưu nói cảm gió cây mà thường thương xót
Tuy có một mà xả sinh
Nuôi cha mẹ mà đợi gì
Suy nghĩ do tình sinh
Tình do suy nghĩ khởi
Theo nguồn tình để giữ thọ
Dẫn tâm suy nghĩ mà không thôi
Đã ôm nổi lo đến trọn đời
Diệc hàm tuất nhi một xỉ
Thường ở yên để suy nghĩ
Xúc phủ ưng nhi tự thương
Không lên núi Hổ mà nhìn gì
Không lên núi Dĩ kia trông gì
Nước mắt ngang dọc chảy thành dòng
Máu lai láng thấm đầy áo
Xem nghĩa đất để tự hổ thẹn
Sợ diệt tánh trái phương
Nhìn thái cực để lo âu
Bèn bảo ai nơi trời xanh
Nhờ trời cao có cảm
Sao bái thí chi mang mang
Sáng trăm mảnh nơi Ngụy Quyết
Tôi muôn đoạn nơi Trung Tràng
Tâm và tâm mà nối nhau
Nghĩ và nghĩ mà chưa ương
Sáng ngồi một mình mà bận bịu
Tối ở một mình mà gấp rút
Hơi nghẽn kia dường như bị nghẹn
Nghĩ chứa trong tâm như là cuồng
Còn như Hiến tuế phát huy, ngày xuân tải dương
Cây rải trăm hoa, cỏ tỏa mùi thơm
Đối khi vui mà không vui
Bèn chạm mắt mà cảm thương
Chu minh khải tiết, ban ngày châu lâm
Mộc để quả ngọt, thọ tiếp âm thanh
Không rộng lớn mà ràng buộc tâm
Cỏ kiêm cỏ gia xanh xanh, móc trắng vì sương
Hơi lạnh vào áo, gió lạnh thấm xiêm
Tâm không áp bức mà tự tha thiết
Tình không xúc chạm mà tự thương xót
Như nước lạnh đã kết, cây mùa lạnh đã gãy
Rừng bay lá vàng, núi chứa tuyết trắng
Nhạn xa kêu mà thương xót
Gió bấc thổi mà da diết
Mặt chạm việc mà tan nát
Tâm tùy cảm mà đoạn tuyệt
Vô nhất tức nhi hoãn niệm
Cũng bốn mùa mà tha thiết
Năm đi qua không trở lại
Ngày vội qua như sấm chớp
Tưởng hình dáng nhân từ ngày xưa
Thương không thể gặp lại
Đau cho không báo đáp
công nuôi dưỡng sinh thành
Muốn báo đáp lại không có chút gì
Thương và ân hận kia cùng khởi
Nước mắt và máu kia như thuyết
Yến mùa xuân mà ở dưới ao
Hồng mùa thu mà bao cao
Đến đi còn đợi thời tiết
Bay, kêu ứng ở âm dương
Sao ở ta, không như vậy
Mà trái ngược với hai khí
Thường ràng buộc khổ mà luân hồi
Trải qua ngày đêm mà chẳng quên
Đã thấy đỏ mà thành xanh
Cũng thấy trắng mà cho là vàng
Nhiễu tánh tình mà lật đổ
Chìm thần lự mà mê lầm
Tưởng Hạc kêu mà hồn dứt
Nghe chim côi hát mà tâm chết
Thương cả trời mà không chỗ nương
Kêu cả đời mà không chỗ dựa
Xem hưu đồ mà nhật thiền
Giáo nghĩa nào có thể sánh bằng
Thấy Cam Tuyền vẽ tượng
Thường bái lạy mà rơi lệ
Bỗng tâm động không an
Vội vào hầu ở thất vua
Gặp Hà-la làm nạn
Bèn xem xét các đầu sắt
Siêu tên gọi vua quan
Thủ quan thành dũng nhi vô thất sĩ
Thực hành có nhiều phương
Thấy thạch tha có quyền
Thây tuy chết mà nổi tiếng
Chính là trung hiếu đều đủ
Nên đinh lan là người nào
Vua hoang trong sông nhà
Khi vũ tượng mới đến
Bắt đầu thành đồng thì cha mẹ mất
Khắc tượng mẹ bằng gỗ để cúng thờ
Sớm tối thường kề bên
Lưu Trấn đến dưỡng mà không rảnh
Thường viễn cấp nhưng sức ít
Khổ tiết cảm ở u linh
Suối nước ngọt sinh ở dưới hang
Nhìn Trường Sa ở Lâm Tương
Hữu cổ sơ chi đạo thỉ
Khi cha chết mà chưa an táng
Gặp quan giặc lửa nổi dậy
Bèn phục quan mà gọi dài
Mưa lớn đến thì lửa tắt
Lại Hà Kha cũng như vậy
Độc cữu ốc mà toàn chỉ
Đến như Vương Tường,
Huỳnh Tước vào trướng
Quỷ thông hoành thạch đặc khởi
Thạnh Ngạn mở mắt mẹ
Hình Cừ sinh răng cha
Xem việc như thế có rất nhiều
Cũng khó được mà đầy đủ
Linh xà ngậm châu để báo đức
Chim từ mớm mồi để đền ân
Loài trùng rắn kia còn như vậy
Huống lịnh nhân có ba tài
Trị bổn quy ở ba đại
Sinh dân tột nơi năm hiếu
Khắp trời đất mà đức này
Cùng bốn biển mà không nhiễu
Bước trên đường này mà không đi
Ôi đạo Khổng kia dạy gì.
Núi sông này rộng lớn, trời cao đất yên tĩnh, đường nhàn rộng mà đẹp đẽ, đất u tĩnh mà đĩnh đặc, cùng tận nêu tuyệt Chiết Tả, thắng cảnh ở trong hang, bài tựa của Thừa Hưng mà nghiêng nghiêng. Khanh bàng hoàng mà hớn hở, cùng tận sự tao nhã của đăng lâm, vui tạm dừng sự ồn náo, đều là sự đẹp lạ của phương Đông nam, đồng thời là quả cầu ngọc của Vũ huyệt. Ao nhóm bạn mà chứa người dẫn theo. Trong ngõ hẻm không ngồi ngựa, đường ít sót dấu, cùng tận chu chương mà lịch lãm, tận Ngô ngoạn mà ngao du, trải qua tâu lên vua, duyên vượt ao ở đường xưa, nhìn đường núi mà nhiễu theo, trải qua Nam hồ mà trở lại, liên tiếp với Hoa Lãnh của Thiên thai, dẫn đến sự chú thích dài của Nhã-da, vừa đầy cạn mà ngắm nhìn, hoặc lăng phong mà liếc qua, bấy giờ, rừng lịch lạc mà đi lên phía Nam, thăng Pháp hoa mà nhìn về Tây. Có nỗi lo mênh mang, lại khe dài lớp lớp, đã trong sạch như gương, lại thấy đáy mà không có bùn, đường núi nguy hiểm mà núi dứt, đường bước lên như bậc thang, đã vịn sắn bìm mà kéo dây leo, cũng giúp bạn mà nâng lên, cùng tận chỗ cong của ruột dê, tận cực chỗ cao thấp của núi ngựa. Sương mênh mang mà mờ tối, gió hiu hiu mà se lạnh. Nhìn sông lớn mà như mang. Nhìn biển như ngọc khuê, cầm lụa ngọc ở đất này. Nhóm các quan mà cúi đầu. Tưởng dòng sông cành là sum suê, nhớ đại cốt mà mê tối, truyền sự đẹp đẽ đến núi này, gọi là
Nhạc Nga đứng sừng sững, hang cao mà tối trong hư không, rừng xuân nêu đều là ngọc bích, ao thu sạch như hư không, đã liên tục nối nhau mà ẩn kín sự quý giá vô cùng. Tin sự tài giỏi vẫn dừng, thật nhóm họp chỗ tôn sùng. Cỏ mọc ở trước sau, cỏ tốt mọc thẳng hàng Tây đông, ngắm màu cửa đỏ rực rỡ, nhìn điện báu lung linh, nghĩ đến tinh xá ở đại lâm bằng với giảng đường Trùng các, đã sáng tỏ Thiền-na mà còn hiển bày sự rộng thoáng của phòng đẹp. Dòng trong nhiễu bốn bên, nước chảy vẫn dài, chày nước trong hang vàng, lầu bay dường như kiến chương. Đồ chúng vừa đi vừa ở, hoặc thần hoặc thánh, đều có chí tu đầu-đà, tâm đều siêng năng đối với khổ hạnh, tranh nhau nhờ ngủ mà tụng tập, đều hưng khởi tâm cung kính, biết dòng chảy mau khổ không, tiếc thời gian tranh qua, ẩn cỏ nhàn mà tu chánh, hoặc nhiễu thêm làm công đức, hoặc nguội thân mà nhập định, khí trời khí đất huân xông danh hương, đều bay đi mà ánh chiếu nhau, hoặc phất bụi lên mà nói lớn, hoặc ở không mà ngồi nghe. Thiền chúng nghi là cây sơn. Bậc trí sĩ đồng với gương treo. Đã hưng khởi Thích giáo, đó là tuyên thạnh pháp luân, chùa đã nương núi mà cấu tạo, núi cũng do chùa mà có bảy. Bởi mây lành kéo đến, cũng là chỗ xuất xứ của bậc kỳ sĩ, sinh ra dòng khe sót của kiếm rồng, đến thuật khác của cơ nai, cảm ơn phượng đến mà dung cho. Gió trái mà tiêu sắt, đã lặng lẽ lại trong vắt, cũng tràn đầy mà chảy suốt. Nhiều cây mọc mà thành rừng, quả quý tươi tốt chẳng phải một, trồng song lựu ở núi biển, gieo hai cây quýt ở Đan lô, hoa mai giao nhau dường như sương, cam vàng ánh lên như mặt trời, hoặc phơi phới nở vào mùa hạ, sum suê vào mùa Đông. Thấy huyền bạch mà đều vui, khắc đá ghi ân đức. Dốc núi cao trăm nhận, bóng ngả ngàn tầm. Ngọn cây cao chót vót, dòng suối trong suốt vào sâu, kính nhìn thêm lòng trắc ẩn, ngó ngang thấy mịt mờ, xa xa không bờ mé, mịt mịt chẳng tận cùng, núi xa cao dốc chợt nhô ra, cây gần cao ngất mà liền nhau, cây sắp ngã mà chưa rơi, núi cao Hán mà vẫn trèo, nhìn ve ngân qua ngày tháng, thấy lưu luyến mà liền trời, có dáng lạ của buồm đá, nghĩ suối tuôn như vải trải, thật gặp dốc núi mà nhóm sương, là chạm đá mà thành khói. Đã xa khống ở sông biển, lại gần tiếp ở ruộng hoang, gọi là thần châu trấn lãnh. Thật là dòng sông nổi tiếng trong nước, đến bỗng lai dạo các thánh tích, ngồi trục biểu của thần tiên. Hoàng Dương nghe hạ cống, Tung nhạc trọng Chu thiên. Đâu từng sánh với cái đẹp đồng nghiêng, lại có nêu giếng thần kỳ lạ, muôn năm trong suốt, múc mại chẳng cạn, thêm hoài chẳng đầy, dù thường khuấy cũng chẳng đục, dẫu xao động vẫn thường trong, vào mùa đông nước vẫn ấm, vào mùa nóng nước vẫn mát, khác với các giếng ở thành đô. Cũng có đạo sĩ Cô Đàm, phu nhân Tiêu Lý, một mình vui đạo, lặng dứt bạn bè, rảnh rang suốt ngày, tĩnh tọa ngàn năm, in dấu vô hành, đường sinh cỏ thơm, đã siêng nhọc mà hướng đạo, cũng tiêu sái mà quên thế gian hoặc tiêu dao phúng vịnh, hoặc bó gối mà ngâm dài, đều do sám hối huân sinh, học lời răn của Lương Tử. Thông cao mà cùng bạn, nghiêm vệ mà thân nhau. Rừng bụi càng dày đặc, vũ tộc tranh nhau về, vượn liền tay mà xuống uống, chim liền cánh mà bay từng bầy. Chim hạc nhóm họp ánh chiếu nhau. Voi cao mấy nhận, rắn dữ mười vi, nai dễ nương nhau, vịt thỏ đều nương. Đồng với nhà tiên của Bành Kiên, khác với tri cơ của chim biển, rừng cỏ thuốc mọc, đất sinh trưởng nhiều người già. Tợ như khe hang ở Nam sơn, báu chôn dưới giếng. Lại có gối trâu, ruột gà, đầu chim, cỏ yến, cúc ngọt, đã cay đắng, tham chua táo tím, vườn đỏ tên vàng, tinh bạch thiên môn xương đất, chi thịt não đá. Thần nông là từng, kinh tiên là tạo. Thỏ trắng uống mà thông linh, da nai làm mồi mà đắc đạo. Quả thì có mộc qua, táo, đào, mơ. Quýt đỏ mùa Đông sum suê vàng hực, mùa thu nở. Cam mọc thành rừng, thòng xuống đụng cỏ mà bồi hồi. Nửa hạ thành vườn, xuân mọc thành rừng, giữa thì nghiêm sương mà không đổ, đã thành ngô đồng phất phới, cũng biến thành trúc cao, hình loại lộn xộn, gân cốt khác với phẩm tộc, ánh lên mái nhà mà giao nhau, nhiễu quanh phòng nhà. Lá rụng bên suối trong kết gốc ở hang sâu, linh mộc tự mọc, chim mang điềm lành đến đậu nghỉ, thật là trụ địa tán thưởng, tín khai tâm mà tỉnh ngủ. Còn vào tháng chín thu mát, trăm cỏ mơn mởn khí lạnh cắt da, gió hiu hiu thường sinh buồn man mác, ve kêu ở phía Nam, bặt tiếng chim ở sân Bắc. Con dế tỉ tê kêu nghe xa, trời lạnh ban đêm nghe tiếng vang, gà rừng hót tiếng thanh vắng, thêm nỗi buồn mênh mang, xao động tâm tình của du sĩ, đều có chí sống một mình, gá tâm ở giải mũ, tin hội lành của người thông đạt, có thể trình bày du thuộc, hiếu trước đến mà thành chân. Vui mừng với kinh mà lìa dục, nhân sóng biển mà rửa chân. Bởi bậc Hiền xưa cũng đồng, cũng trước là cao học của Nho. Tôi trước kia tâm mong, thường ôm ấp xa xôi, hay bồi hồi vô cớ, liên tiếp những ngọn núi nổi tiếng, nghĩ ơn lớn của nước nhà, luyến dấu chân bước đi một mình, muốn ra khỏi mà chưa được, ca gởi cái đẹp ở đây.
Chỉ xa trật tứ, gần tối mới đến. Nhập giới đạo mà sáng tỏ. Dừng ở lại Kỳ Thọ. Chỉ cho nền tảng nơi chốn, thật hiển địch mà ở cao. Kéo dài mái hiên xa xôi, riêng rộng lớn mà tần ngần, lầm tú nhi mà trở mưa. Liệt thị quế mà nương góc. Như vậy, bèn trèo lên núi cao, bước cao nơi tuyệt đỉnh. Ở giữa trời mà thăng giáng cũng nương mây mà dạo đi. Hiên mát mẻ mà rộng lớn. Thềm nghiêm túc mà thanh tịnh. Chung lảng hoa thì tiếng vi diệu. Đèn sáng chói thì bóng trong sạch. Phòng kia đã mở mà cửa thì chưa. Phù trụ núi thông. Dẫn trăng lắng trong bao gồm ánh sáng. Nạp gió nhẹ từ xa. Nhân minh mục cực. Nương hồi vọng thông. Bình sơn không bờ mé. Liên sơn hề không cùng. Biết sinh khói ở trục. Nhìn hàng cây trên núi cao. Thọ lăng ách mà màu đẹp. Khói bay xa nổi trên hư không. Tình vượt xa nơi hoang vắng. Tâm phóng khoáng nơi rèm lung. Đêm dằng dặc mà đợi lúc nào. Sương dày đặc mà lần lần rơi. Quen lửa đom đóm một lá, nghe Hạc kêu chín dã. Quán truyền tạ phương đổ, vào hang mang hoa lan, tĩnh huýt sớ phiền tưởng, riêng đến tự du bàn, tin một nhánh dễ dừng, muôn vật đâu có liên quan. Nơi màng mỏng mà ngủ yên, nằm gối cao mà sao khuya.
Khởi trùng cơ ở Sóc Sĩ. Buộc hiên viên ở Hồng Duệ. Vua Võ nương trời để làm chữ. Vua Hy đại minh để trị đời. Rưới linh dịch để trôi chảy. Quạt nhân phong để xa giúp. Nối gót cơ văn mà lập Lộc uyển. Bọc sơn trạch để khai chế. Trồng các vật để đầy vụ. Trừ thuế cho bốn dân. Kịp kế thống của ngã hoàng, rộng sáng suốt Thiên tung. Tìm tích xưa của Lộc dã. Khởi nghĩa cao của ba chuyển. Giúp u tông đã thường hằng. Rộng ngàn năm mà có truyền đạt. Đối với đây bảo thợ chọn công. Làm Tây lãnh đây. Chú thành đoan tư. Kính mến thần hình. Được phảng phất chân dung. Chiếu thân vàng sáng rực, tức linh nhai để cấu vũ. Vượt trăm tầm mà thẳng lên.
Hoàn phi lương ở phù trụ, này hoa sen nơi giếng đẹp, vẽ thì dùng muôn hình, nối thì dùng nước trong. Như đối diện Kỳ Hoàn. Ai đồ huýnh đạo tràng. Than chỗ lập thần lực, vượt mãi mãi mà tú xuất. Thật khen ngợi linh kỳ, cho nên giữ gìn điềm tốt đẹp. Đục hàng tiên để ngồi thiền. Mở giai cấp để thông thuật, lóng thanh khí ở hiên cao. Cỏ thơm nơi nhà vua, hoa cỏ tốt ở tòa phân. Suối ngọt vọt đầy tràn. Cầu cung Rồng giáng mưa, đều cao dịch nơi tinh tất. Chính là luân lý nghiên đạo, hành nghiệp đơn giản. Mến đức nghĩ phong, trượng sách lại tiễn. Giữ giới cấm ứng chân. Mùi vị sâu xa của ba tạng. Hoặc đi bộ trong rừng để kinh hành. Hoặc ngồi yên tĩnh, hội các điều thiện để tiến đến. Trừ năm nạn mà đều còn. Đạo muốn ẩn mà càng bày. Danh muốn bỏ mà càng hiển. Y chỗ thực hành của hoàng dư. Thường rủ tâm nơi vườn hoa. Vui nhàn rỗi ở đây. Lìa cung để kiến lập. Nhờ cao ráo để tôn sùng. Làm đất cao bằng phẳng. Thản nhiên sự mong mỏi của nhân trí. Nhìn núi sông để vui mắt. Dạo rừng núi để tư duy. Dứt chim chó chạy theo. Nhìn kỳ lão để đức rộng, nuôi chúng sinh để tạo phước. Tuệ ái bên trong hàng phục, tiếng vàng phát bên ngoài. Công cứu giúp khắp trời. Điều lành không tự khoe. Còn hỏi bậc hiền về đạo. Hỏi người cắt cỏ để bổ khuyết. Hết sức cung kính ở linh tự. Tôn hối vọng mà đến yết kiến. Vâng giới thanh tịnh để hết ngày. Gồm sáu thời để qua tháng sao hết sức tinh thành như vậy. Bởi có thể vượt qua chín kiếp, bàn việc xưa của Thánh vương. Há theo việc thường để nói giáo. Nhìn mày lụa bay lên, muốn dẫm cao đảnh sinh. Nghĩ lìa trần để hơn tục. Đến chỗ sâu kín của huyền môn. Thiền sẵn trong cung để chánh vị. Thọ tôn hiệu của Thái thượng. Đã tồn vong mà ngự có. Cũng chấp tịnh để đè ép nóng nảy. Xem thiên quy ngày nay, tìm lời di chúc của bậc tiên triết, gặp ân nặng của hai càn. Xét tinh chiếu của minh lìa. Dưới cứu giúp triệu dân, trên chế phục bảy miếu. Một vạn nước để theo phong tục, gồm tất cả chúng sinh để dẫn dắt. Chánh phía Nam để vô vi. Mãi đặt tâm ở chỗ nhiệm. Phàm đạo hóa khó hẹn, may mắn được gặp gỡ. Gặp phù tạng (hai cây dâu sinh đôi) mới mọc. Gặp đêm dài mới thấy. Nhìn tuổi già yếu mà động lòng thương. Chỉ đôi lời thêm để răn bảo, xin bày tâm để tỏ lòng thành, lời nói quê mùa để tự chép.
Đại thừa là gì? Là đạo tràng của Đức Như Lai. Vì thế Duyên giác, Thanh văn gọi là Tiểu thừa. Nói thông trì của pháp giá như chỗ rất xa của xe thuyền. Bao gồm hưng khởi ở mảy may. Chín tầng làm nơi lụy thổ. Từ cạn đến cao lớn. Lý nhiệm mầu ở nơi chẳng có. Tích thô do nơi chẳng không. Nêu có để hướng về không thì chẳng không để thông. Quên không để gồm có thì có có để thông, chẳng không để tướng thì thừa này là Tiểu thừa. Có có để thông suốt thì thừa này là Đại thừa. Phàm bao gồm phước, đâu còn ở pháp thân. Nếu giảng thuyết tất cả sự hiểu biết đâu quý ở Như Lai. Vì thế thần bẩm linh chiếu để quán phương tiện của ba đạt. Suy nghĩ thâm diệu để vào cửa bốn trì. Biết sắc không mà chẳng hư hoại. Khởi diệt vô bờ, trước sau không giới hạn. Gởi trong vũ trụ mà tâm bao gồm ngoài hai tượng. Mắt xem hột cải nhỏ mà biết soi xét núi Tu-di lớn. Đẹp thay sâu xa! Nguồn kia vốn không lường được, than thở không đủ, bèn làm bài phú: Lập linh giá của đạo tràng.
Chấn lôi âm của trống pháp. Trừ dục nghi của hành cái. Hưởng vi diệu để vui tâm. Đầy giác ý như biển. Nói chỗ sâu mầu của Bát-nhã. Bình thản đàn của tám đạo. Đến Lộc Uyển của tổng trì. Định Tam-muội của thiền tư. Diệt sắc tưởng ở năm ấm. Chấp dẫn cung của Để-la, giữ gìn dụ cầm như ý. Phá các lưới sắp rách. Trừ tham cấu mà dứt dâm dục, như bọt nước lần lần kết, gió rét đáng sợ. Đều minh hành mà khéo thệ, chứa công huân đến ngày nay. Thâu không nghĩa của Tát vân. Vận mười lực mà ma cầm. Mở ánh sáng của chỉ quán. Tiêu trầm ngâm của tà kiến. Đóng bờ tường kiên cố, đều khó tìm ảnh hưởng.
Chỉ có nhất thật rộng lớn, than muôn pháp rắc rối. Chân tục khác mà thể thì đồng. Bậc Thánh hợp với đạo. Nương lời dạy của thầy bạn. Nhờ hương thơm của kinh luận. Hết tiểu chức của trần dung. Thỉnh hưng ngôn ở đại phương, sao các loài máy cựa ở pháp giới mờ mịt. Tánh tột kín mà càng tỏ. Lý chí tịch mà càng bày. Đã chẳng phải không cũng chẳng phải có. Lại như còn mà như mất. Bàn bí mật ở bốn dân. Thương mờ mịt ở Bá Dương, vắng lặng nhất hư mà chí cực. Gồm muôn có để làm cương yếu.
Tuy tức sự mà dễ mê, cũng rất gần mà khó biết, không có chỗ nói lên danh ngôn, tình trí đâu thể lường. Miệng muốn biện mà lời chẳng có tâm sắp duyên mà lự dứt. Vì thế, tuy một chữ có thể dạy khắp. Sức ba chuyển vi diệu. Đâu không dừng tám chánh đạo ở cửa vắng lặng. Thôi bốn món biện tài nơi điềm đạm, tìm đến bờ kia. Rộng thay không bờ mé. Tinh vi thay không cùng tột. Cội nguồn ở vô thỉ cùng tột ở vô chung, dứt hoặc để đều quán suốt đây. Nhiễm tịnh nơi đều dung, gồm không có mà vắng lặng. Bao gồm vũ trụ để chung cùng, luận về dụng kia. Một mà có thể nhiều, tịnh mà có thể loạn. Dẫn dắt muôn loại hình khác. Nói quán riêng của quần tình, kết bàn căn của năm trụ. Mở sự ràng buộc của mười triền, tùy mê ngộ mà thông bít. Tùy tối sáng mà tụ tán. Bốn lưu do đó mà phiêu đãng.
Sáu đường do đó mà đầy dẫy. Tam hiền Thập Thánh do đó liên miên. Hai trí năm căn... mà chiếu sáng. Đều thăng trầm cùng hang hốc. Phải trái thuận để chia đường rẽ. Thể không phải sai mà không phải đúng. Dụng vô tướng mà vô vi. Nếu thuần là vàng thì không cách nơi vòng xuyến. Cùng chứa nước không kiêng sợ ở sóng lăn tăn. Vì thế, khiến cho dụng huyên lẫn lộn khởi phân trì. Sự như muôn khung xe khác vết. Lý thì ngàn bánh xe đồng quy chế. Xem vô ngại ở duyên khởi. Tin nan tư ở vật tánh. Như treo châu trên điện báu. Như đài ngọc treo gương, kia đây khác mà nhập nhau. Hồng tím phân mà phản chiếu nhau. Pháp không nhất định ở tâm cảnh. Người không cách ở phàm thánh. Vật không dính mắc bởi tự tha, sự không ngăn ngại bởi tà chánh. Nào có lớn nhỏ khác đường. Bèn xen nhau mà dung trì. Lân hư gồm cõi Đại thiên. Sát-na gồm thời gian ba đời. Sợ lời nói này ít tin, mượn Đế Võng để trừ nghi. Bởi nhắm mắt mà nhìn được. Há hoặc thức để biết. Thăm huyền văn của chín hội. Xét di tắt của muôn Thánh. Nhìn Thường Đề ở Đông Thị. Ngưỡng mộ Thiện Tài ở Nam Quốc. Trải qua nhiều thành mà tiến giải. Học hỏi các Thầy mà trị hoặc. Mới thừa mạng với Bồ-tát Văn-thù. Cuối cùng quy về diệu đức của tông. Tuy thân dạo trong pháp giới mà chân chưa động đến kỳ viên. Than một đời dường như bạo ngược. Than năm nhiệt không mờ. Nắm tay vào nhà Hòa Tu. Búng ngón tay mở cửa A-dật. Nghe thường vận của một âm, xem thường còn của cực Thánh. Ba chín từ đây tuyệt nghe. Hai bảy từ đây vong hồn. Đây là cảnh giới sâu xa. Cũng đâu khác mà luận rõ. Thương bẩm thức nhiều mê. Xót chúng sinh ít trí tuệ. Giữ bốn tà một khác, khởi hai chấp đoạn thường. Sợ mộng hổ nơi mắt nhắm. Dạo hoa đốm trên hư không ở mắt đau. Ràng buộc mà chưa mở được. Nhậm phiêu lưu mà không cứu giúp. Trái với bảy giác mà mê mờ. Nhiễm sáu dục mà dính mắc. Sao lý thông mà chí cách. Pháp đã đúng mà tình thì sai. Bỗng linh mà đến riêng. Từ lâu chạy trốn mà quên trở về. Chôn cất kho báu nơi nhà cùng. Buộc minh châu trong áo rách. Ôm giữ nhất chân mà không biết. Loanh quanh trong phiền não để thở than. Than ôi! Tôi sinh ở quý tục, mê hoặc đã ràng buộc mà mạng sống thì hạn cuộc. Nhờ ánh sáng của năm bộ. Nương quyện lục của bốn y. Nhờ nghe giải thích để khai mở sự ngu si. Nương thiền lâm mà trừ bỏ sự ham muốn. Hầu trước tiêu mà dừng tháo. Rắn vào ống tre mà đổi khúc. Vào biển rộng dùng thuyền giới. Hiểu chỗ tối tăm dùng đuốc tuệ. Tuyệt tranh luận ở phong tưởng. Dứt đúng sai ở vọng tình. Lập liễm duyên nơi hữu giác. Chung tịnh lự ở vô sinh. Hiển bày thật tướng chân tông. Thông đạt hư danh của thế dụng. Đạo không mất ở thỉ hành. Tôi không chống đối nơi mới sáng. Nghĩ sáu giặc ở phương hội.
Mong có thể bằng mười quân. Lời rằng:
Tối mờ tụ lại tán
Sông tâm đục lại trong
Tánh biển không tăng, giảm
Trăng mọc có khuyết, tròn
Nghi chân thỏ giẫm đến
Sợ lông hồng thấy nhẹ
Núi nương nơi hòm quý
Có thể thành Côn luân.
Rằng: Thiên giám chi thập thất. Thuộc phương nghi của Trừ Đức, chỉ có ánh sáng mát mẻ của ngọc bạch. Tin xướng phù ở đâu. Đối với đây, trên chiếu trời, dưới thấm suối. Khí vòng tròn phun khói. Bóng mặt trời mặt trăng sáng lên. Chính là rồng bay của Thánh võ. Tải vi gia ở thiên hạ. Suy nghĩ nương phép tắc nơi cảnh số. Bèn trường phát mà minh xã. Như trọng quang đời Chu. Giống nhị anh đời Hạ. Ngôi sao phía trước mà chiếu ánh sáng. Bá hồng chung ở Dận nhã. Bỏ phước mãi mãi này, đến tức đông triều. Văn vật là kỉ. Thinh minh là chiêu. Khởi huyền chương ở vẽ màu. Mài dây xanh từ màu xanh. Loan nạp na mà rủ tảo, kèn hòa tiếng nhờ ống sáo. Tải tích ánh sáng khiến nghe, khiến trông. Xét tình màn trướng, nhượng xỉ ngu tường. Tánh cùng thiên đạo nói là ngọc khuê. Thi sử dao tập, lễ khác cao tường. Nghĩa hoa lạc thủy, văn lệ thanh chương. Xưa bảy giác nở hoa. Người trời cao mà dài. Đạo Tây giúp hằng ngày. Pháp Đông lưu thì chưa sáng tỏ. Vì thế thọ thần ở văn xướng. Gởi thuyền báu ở minh lưỡng. Khác lời bàn xưa mà đồng ngày nay. Cũng ngàn năm mà ảnh hưởng. Nghe sấm pháp thùng thùng. Thấy mây tuệ bắt đầu sáng. Khuôn phép chân như đã nhận. Công phát huy đã theo sau. Mở kim ni khai sớ ngọc. Gọt giũa đơn giản. Tìm lá la thọ. Thiên thạch thất linh, nam cung thần tráp. Do đó, một tiếng không thôi, mà đợi quy trọng đoản điệp giả hỷ. Chỉ chí nhân giảng đạo, quyết trong rừng nùi rộng lớn. Nại viên kia cùng hạnh đàn sâu xa. Tịnh Danh và Tố Vương khuôn mẫu. Thanh du chi hạo dưỡng. Nghĩ lạc hiền chỉ mạnh mẽ. Duệ tình yểu nhiên thị yên cung trướng. Bèn cao đàm ở Lộc uyển. Trương lạc nói con đường cao thượng. Xem phù linh phố yếu diệu. Tổng cấm lâm chi khiếu điều. Bẩm ba tinh của liễu đạo (đường trong cung), giẫm sáu diệu của cung ly. Tả minh tuấn chiêu, phương hoa tác tiểu. Núi kia thì cao ngất, hạ gồm tuyết sương, dưới thì hang hốc lóng trong, cầu vồng thăng giáng. Trên thì trời xanh khí đỏ, ráng mây ứ đọng. Kim hoa làm bích, chúc bạc làm đá. Tảo ngọc cầm bạch đơn hà màu đỏ. Chu dùng ngọc tưới quế tím phong thơm, bao gồm nhánh đào nuôi trùng, cỏ mầu mơn mởn, quả linh rủ xuống, trời lạnh giá giản tử thu hồng, sườn núi mây vờn mà tuôn mưa, cây khô nhánh mà khởi gió, trong đó có bãi lan ao hoa, càng nhìn mờ tối, đổ núi gác bay, phù hướng về Điếu đài, giương buồm trên thuyền lớn, chim so đẹp với gà vẽ chất cây, khác gấm chương tải còn hơn nhả tơ, ngọc thơm rùa tím, có chim uyên ương, gió thổi ngày càng nghĩ vui chơi trôi nổi, trong thì tiền hành, lăng hoa rải khắp, thêu nhiều lớp tôm hồng, rùa đồng thọ nước mà lội riêng, cá kình đá nhả sóng mà chở hoa, cho nên mượn cảnh tượng vườn vua, đem lông voi ở Tỳ-da trải rộng ở Thanh cung. Hoa đèn sáng rỡ, cây lửa tan mất, ánh chớp sáu thước, rừng chín tia sáng, như sông vàng tuôn cát, các sao sắp hàng động đến cõi trời. Sáng huân ánh sáng mà giới sớm, mây nương tựa mà cuốn trôi, nhẹ bay về vườn Tây, cung Tề vườn Bắc. Trượng nha ngay ngắn, Tăng đồ trang nghiêm. Trống pháp tiếng vang xa, các mùi thơm phưng phức, cũng có trăm thù bay nhảy, xe mây chín tầng, xe bốn nai kéo. Ngô, Cơ, Sở, Diễm, Hồ, Gia, Yên, Trúc thường từ tên mà xướng, ngựa vui tung tăng chạy qua Thiếu Dương.
Cây dương hoa rơi tản mác, tiếng vang đến rừng cây thanh phạm. Đăng Vương quy về tặng chiếu. Hương thơm chứa nhóm hiến dâng thuần thục, dường như thừa không của các thánh, hoặc ở trước mắt của Năng nhân, điện cao xa trang nghiêm như thần, lời nhỏ nhẹ vui vẻ mà đến lý, nói lời vui như đan thanh, được đích thân thừa thọ âm chỉ. Trí châu vật mà làm tâm, nghiên cứu cùng tận căn cơ mà tận đế, lời siêu vượt mà xuất tượng, lý cao xa mà hớn hở, bàn nói không đủ, lý khắp các chân giả há kịp ư? Sứ thần khen ngợi ngọc thức lẫn nhau. Đời đã nghe lời cam lộ, dân đã lên chỗ nhân thọ. Sẽ vâng theo nẻo Dao cung, bồi dưỡng bánh xe lên lầu mây.
Phước rộng lớn như mây, mãi mãi vô cực.
Đêm qua trong giấc ngủ, ý thức dần thông, giống như trang sinh thấy Hồ Điệp, như Khổng Tử gặp Chu Công. Tuy mộng tưởng hư ngụy, cũng tâm sự để minh đồng. Tôi thấy một người khách lạ, ngạo mạn làm kinh người, không tên không họ, như quỷ như thần. Tư dung nhàn nhã, phục ngoạn quang tân vào cửa bái chào, đến giường khoa trần (?). Tôi bèn hỏi rằng: Tà không liên quan với chánh, ác không loạn thiện. Trong đục khác dòng, thăng trầm đều giẫm. Tôi, thân khoác pháp dày, tâm dạo diệu điển. Sáu giặc vừa hàng, bốn rắn mới dứt. Đại thừa đã giá ngự, tiểu ma đã trừ. Ông là ai? Muốn đến đây giải thích điều gì?
Khách bèn đáp rằng: "Từ lâu nương danh hạnh, chưa rãnh để tu kính. Thường sâu chú ngưỡng, mỗi chân kiểu vịnh. Bỗng thấy ánh sáng, bởi có điềm lành. Muốn đến thăm hỏi. Nguyện giũ cao mạng. Người vay mượn, càng lúc như bỏ. Cầu vồng, sấm sét làm kinh sợ trời. Ngựa trắng vượt lỗ hổng, há không kịp thời tuổi trẻ sinh bình thích thú. Hoặc tẩu danh ký ở trước thiên. Hoặc xe chạy vòng nơi mạch rộng. Ngồi vườn phía Tây mà gọi bạn Địch. Nam trai mà đối khách. Ra ngoài đồng trống mà cầm vàng. Vào trong khuê phòng mà cầm đá. Hoặc phục hợp tôn xúc tọa truyền thương nêu bạch. Trọng đó để ca hát. Bày ra để nướng. Còn như: Học quý môn xướng, đức trọng danh tiếng. Giang Đông riêng bước, hằng ngày không hai. Tâm là hang nghĩa, tâm là túi trí. Điêu kim điếu hán, đeo ngọc đến lương. Xe cao bốn ngựa, cửa quế phòng lan. Bày yến cơ mà đầy đủ. Tâu Thái tử mà đầy nhà. Nghe đàn sáo thanh cao. Nghe ti trúc leng keng, một đời vui vẻ, cũng để tiếng thơm ngàn năm. Há có thể ở một chỗ mà không cười nói. Cạo bỏ râu tóc, trái cha phản chúa. Thân hình tiều tụy, áo quần lam lũ. Đã thiếu ruộng tằm, lại không buôn bán. Như phá bức vẽ trăm kết. Như xé áo ngăn vá. Đến như, sương ngọc sáng tụ, gió vàng đêm lạnh. Lão tái tái hành đến, tuế hốt hốt lan nhau, giường không màn lạnh, phúc bạt miên đơn. Tuyệt con cháu nối dòng. Bãi tân tùng mà lại vui. Muốn dùng đây làm đạo. Cũng làm sao được cái khó khổ của Đạo".
Tôi bèn vui vẻ cười. Lược bày tâm yếu, từ từ đáp rằng: "Tỉnh lại nói sẽ cố gắng. Bèn dẫn dụ nơi tà phương. Muốn đem con Ếch dưới giếng và con Côn dưới biển mà bàn luận lớn. Lửa bó đuốc mà tranh ánh sáng với mặt trời mặt trăng. Chẳng khác gì chim hồng tước mà sánh với chim Bằng dực, gò đất sánh với sườn núi côn luân. Như vậy, đã mê mờ sinh tử, cũng đắm nhiễm nơi trời đất. Chỉ biết, uống rượu thỏa thích, nhà cao tường chạm. Đâu có biết nhiều tại lợi thì bị hại, nào biết ôm ngọc bích mà bị tai ương. Vị ngon sướng miệng, ăn ngon thì nát bụng. Tham dâm bị hoạn, khát ái thành cuồng. Nhân sinh dễ hết, vật lý vô thường. Sớm ca tối khóc trước còn nay mất. Vui vẻ tạm có mà lo buồn thì lâu dài. Vả lại, thế gian bại hoại, cuối cùng không nhàn rỗi. Muôn điều khổ tranh đến, trăm điều lo tranh vào. Vợ con là gông cùm. Thân ái lại như mành lưới. Việc riêng thường tệ??, việc vua luống nhọc nhằn. Vinh hoa đồng như bọt nước, giàu sang thật như tiếng vang trong núi. Nhưng tự trầm luân điên đảo, thường ôm thảm độc. Không hiếu không từ, không đạo không đức. Lòng dạ ngang ngược, tâm phù như tặc. Bốn đại kiêu sa, chí hay hà khắc. Không hành nhân nghĩa, ai luận điển tắt. Không hướng tổn thương, không lý tham thức.
Thấy lợi tranh đến, thấy tài mong được. Mất vị mất danh, mất nhà mất nước. Mạng dây sắp dứt, thân thành đảo bặc. Nghiệp buộc đầu kia, quỷ đục xương sườn. Ao nước giẫm đến, núi sông mạo hiểm. Bỗng tịnh tự biết, nuốt sầu ai thương. Rừng đao cao vút, núi kiếm tha ma. Bò cháy lửa mạnh, vạc vọt sáng kinh. Lăng tằng võng sắt, sáu thốt khôi hà. Phàm các nạn khổ thứ lớp trải qua. Đầu gặp cưa xẻ, xương bị mài giũa. Nêu thân hoàng tán, hợp thể ràn rụa. Một sáng chung này, muôn hận như sao. Chánh pháp sâu rộng, diệu lý khó tìm. Không sinh không diệt, chẳng sắc chẳng tâm. Tùy cơ liền đến, tùy cảm liền đến. Trong tuyên muôn đức, ngoài khởi tám âm. Oai phục voi say, hình nhiếp cầm sợ. Thân như trăng tròn, sắc tợ kim dung. Bèn khiến, Ni-kiền bỏ dép Phạm Chí rút tâm. Song xuất gia vì đạo. Thì túc tán ưu du, không ham không cầu. Không thờ Thiên tử, không kính Vương hầu, giống như ngọc bích không dấu vết, như ghe không buộc. Tiếng vui không thể động hiên miện không thể nắm giữ. Vô vi vô dục nào sợ nào lo. Giới nhẫn đều học, thiền tuệ đều tu. Sư phạm thời người, dân chúng nương theo. Như, vì việc học ngày càng có ích, vì đạo ngày càng tổn. Tổn thì đạo nghiệp vượt cao, ích thì công học vượt xa. Vì thế, hình như tục nhân mà thường cách, tâm cùng thế tình mà lại trái. Y phục chỉ là ba y, việc ăn chưa từng ngày hai bữa. Theo thầy thì ngàn dặm vâng theo, kính mến pháp thì sáu thời tinh khẩn.
Trừ lo lự nơi ao tám giải, Thần vui ở vườn bảy tịnh. Đến như Đạo An, Đạo Lập, Tuệ Viễn Tuệ Trì. Pháp sư râu đỏ, Luật sư mắt xanh. Hoằng kinh biện luận, giảng dịch đàm thơ. Mở thần vui tai, trừ trệ bỏ nghi. Đều nổi danh đời sau, đàn bộ đương thời. Hoặc cùng xe với vua Tần, sắp đến vua Tấn mà đồng trái. Bèn khiến cho Hoàn Huyến lạy lại mà chẳng nhàn rỗi. Hi siêu ngàn hộc mà không từ. Như vậy, hành nhân đã chánh, mới hưởng vui khác. Bốn hạm tranh dạo, sáu trời đều mời. Phong cơ hiển tệ, cõi nước hoa tịnh. Cây báu nhánh ngọc, sen vàng nạp ngọc. Gió vang tiếng Phạm, suối chảy vịnh hòa. Ao sáng như bạc, đất bằng như gương. Diệu hương thơm phức, danh hoa chiếu nhau. Gần cảm thân vui, xa vời mạng thường. Sáu độ tu thành, mười địa tròn sáng. Linh trí đã sâu, chủng giác đã đầy. Tĩnh mịch rỗng suốt, sáng sạch lóng trong. Chất mà không phải chất của chất ngại. Danh mà chẳng phải danh tướng. Nước lửa ngút trời mà không sợ. Sấm sét động đất mà chẳng kinh. Chí diệu tột thiên hạ, ai có thể chống cự. Đối lại với đây, quân tử nghe lời này rồi chắp tay cúi đầu trong nháy mắt. Hồn bay khí sợ, thần như chí ác. Lật dật không nhan, rụt rè kinh sợ. Tự bày quê mùa, chưa biết tốt xấu. Truy dụng cảm thương, thật là hổ thẹn.
Ngày nay phụng giáo, thành kính tuân theo.
Giang Giao tự là Dận Khanh, là con thứ ba của kẻ hèn này. Lúc sinh ra đã tài giỏi, ắt là vật tốt. Tiếc thay, gặp văn thiệp tuế nên chết. Thương xót đến nỗi luẩn quẩn nên viết văn này. Chỉ sắc thu sáng trắng. Tâm kết cốt bi khởi. Từng thảm thê thương tiếc. Thương ái tử yêu quý. Thân lo lắng mà ngoài buông thả. Tâm tha thiết mà bên trong đổ nát. Ngày tháng có thể hao mòn mà tiếc thương không hết. Vàng đá có thể mòn mà nỗi nhớ nào nguôi. Miễn ngô tổ chi Hách Hi. Đế cao dương chi huyền vị. Tiếc thương tôn chìm đắm. Sợ dư nhân không gây dựng. Mong ba linh giáng phước. Đợi nhược tử ban điều tốt. Sao tàn ác Dận Khanh. Sao gặp trời không phước. Ngươi sinh nhằm thanh xuân. Nhiếp đề trinh mạnh tưu. Cho rằng sánh cỏ thơm nơi cổ liệt. Hướng bằng anh hùng nơi tiền tu. Hạnh mang cao dấu vết tốt đẹp. Hoằng thạnh nghiệp thanh du. Sương trắng bao phủ trăm cỏ đây. Nhĩ đồng với ngô thu. Nhớ chu minh ở tiết. Nhìn núi kỳ, núi nghi đáng quý. Xem lò, xem trướng mà vui vẻ. Ngắm cửa sổ mà có sự an ủi. Đâu vắng lặng ngày nay. Mất âm dung phảng phất. Trong mắt chị rơi nước mắt. Anh thương em mà rơi lệ. Cảm cây đá mà biến suy. Xúc động chung quanh mà nức nở. Đoạt hoài tụ chi thâm ái. Mẹ của ngươi là người xinh đẹp. Tiết đan khóc ở hạ hoại. Ân cần lo lắng ở thượng an. Nhìn đoan dung trước mà run sợ. Giẫm manh mối còn để lại mà đau khổ, quá thương xót mà mọi người thôi nghỉ. Quy lai mạng sao trình bày. Tôi quá may mắn lúc riêng tư. Bèn giữ quan ở sông tầm. Thương bạt mộ mà tăng thêm. Nghĩ đỏ vàng mà không cấm. Trăng tiếp mặt trời mà thành sáng. Ráng hợp mây mà thành tối. Sương mù bao phủ đọng trên cây. Ánh trăng trong xanh treo trên rừng. Than ôi! Nhược tử sao lại như vầy. Ngã bách gian hề thị tầm. Nghiệm đối chi dạ hoãn, sát bảo tẩn chi triêu xâm. Chỉ nhân sinh ở đời. Hằng vui quả mà thích nhiêu. Tuy mười năm không danh. Há một trăm tuổi có thể yếu. Ánh sáng đỏ ánh ban đêm. Sương trăng ngưng buổi sáng. Chỉ thí dụ đây mà lấy bỏ. Bỏ lý này mà tự tiêu. Nhưng thì sống vui, thân và ái, nội và ngoại, lớn và nhỏ. Thương cho nhược tử mờ mịt một mình ở chốn suối mờ mà thường sâu tối. Tôi không có tội với trời cao, cũng không oán với đất dày. Tin linh quả của Đạo Thích. Quy viễn chí của ba đời. Nguyện đồng sinh về cõi tịnh, trừ bỏ hẳn trần tập.
Tôi có hồi hướng chánh giác, quy y phước điền. Bạn bè khuyên tôi dốc lòng thành, chí tôi không đổi. Vì thế chép luận vô vi:
Có Công Tử Dịch Diệp, liên tiếp bảy đời làm quan đeo ấn, y phục phần nhiều là tơ trắng, áo thêu hoa, quần lụa màu. Mang kiếm dài lấp lánh. Mang ngọc minh kêu boong boong. Bấy giờ, dạo chơi dưới ruộng lúa, hoặc khách ở nơi lương. Nghe anh hùng báo biến. Nghe lợi hại dùng rồng ngựa. Bèn động dép đỏ, cỡi ngựa báu, rung ngọc lặc vàng sáng. Phóng đến cửa vô vi tiên sinh hỏi rằng:
Tiên sinh trí đức quang dung. Cao hoa vô đắc, năng lực tài giỏi. Đạo nghĩa thanh tịnh cao xa. Biển rộng không đủ để dụ cho sự sâu xa ấy. Không có môn học nào mà không dòm ngó đến. Không có việc gì mà không thông suốt. Dung nghi nhãn tịnh, nói cười ôn hòa. Còn kinh điển ba tạng của Đức Thích-ca, sách đạo đức của Lý Quân, văn sáu nghệ của Tuyên Ni, thuật bao gồm trăm dân. Đâu không rõ tân yếu kia mà tìm. Sáng như thấy trong gương, tỏ như thấy rõ chỉ trong lòng bàn tay. Tôi nghe đức lớn của trời đất là sinh, sao cho tụ nhân là tài. Đây cho nên Lão Đam cho là trụ sử, Trang Chu cho là viên sứ. Đông phương cầm kích mà không mỏi mệt. Cha của Tuyên Ni cầm roi mà không hổ thẹn. Thật là bậc khuôn phép của muôn đời, là cao sĩ một thời. Tiên sinh giá tuần dưỡng đức không thôi. Chính là chỗ đối đãi của liệt tử. Không thông chí lý của thiên hạ. Dù sông biển cho là vẻ vang. Thật là chỗ thô bỉ của lụa đào.
Tiên sinh cười, nói rằng: Giàu sang ai không muốn ư? Chính là vận mà không thông. Trung hiếu là việc gấp của nước nhà. Thân sinh năm viên không đắc chí. Quý đạo giữ đức là chỗ cao thượng của huyền phong. Dương hùng phương Đông chức kia chưa cao. Đại học-chẳng quá Nho lưu và Mặc lưu. Cũng vội vàng gấp rút nhiều có chỗ không toại. Kẻ sĩ mà không dẫn đó, tình tuy muốn mà chí không hành. Buồn vui không thay đổi tình kia, cho nên có thể vì đạo. Quá dĩ vàng đây ư? Đủ nói ư? Tôi nghe đại nhân giáng tích, rộng gieo trồng từ bi, phá sự ràng buộc của sinh tử, lên bờ Niết-bàn. Khai mở ba thừa để dẫn dắt muôn loài. Bỏ một tướng để quy về chân. Người có trí không thấy đến đi. Người có tâm không biết thỉ chung. Để được vắng lặng thường trụ, thường dứt các đường khác. Không thay không đổi. Thường trừ bỏ trăm lự, điềm nhiên dưỡng thần. Do an trí làm nghiệp. Muốn cho từ trời giúp. Điềm lành không đâu không lợi ích. Co duỗi tùy tay, tới lui tự nhiên. Ẩn dật mà không buồn bực, ở chỗ u tối mà thường tốt, cũng nào có vẻ vang, cũng đâu có quê hèn ư? Ông được, tôi nào có mất. Trần trong phương ngoài ở đây? Công tử Dịch Diệp bẽn lẽn mà có tám đức, rụt rè rồi lui bước.
- Sách Ủy Lạo Ma.
- Văn Hịch Ma.
- Bài hịch Ma Vương Báo.
- Bài hịch Phá Ma.
- Văn bài hịch Bình Ma.
Sinh trong ba cõi, thường bị bốn ma nhiễu loạn, trầm luân sinh tử khắp trong sáu đường. Một khi được thân người và nghe kinh pháp, thí như hoa
Ưu-đàm nở, như rùa gặp bọng cây nổi. Chỉ có Thánh giáo thật khai tâm mắt. Ý tôi-thân ở hạ lưu, trông mong đến bờ kia. Nhận thẳng sinh hữu, ác thử lậu tâm. Tâm bỏ chí cung luống uổng không lợi ích. Lược nhân ngu quản, trừ diệt bốn ma. Xưa, lúc còn nhỏ có làm hịch phá ma. Văn tuy thấp hèn nhưng là việc tốt, đã được truyền. Sau khi dời đô, ngụ ở Lạc Dương, bỗng ở trong tháp cũ nhặt được bổn văn. Bấy giờ, gặp lúc Pháp sư Quốc Độ còn ở chùa Kim Cang Bát-nhã giảng kinh Thắng Man. Liền đem trình bày, được Pháp sư xem qua trong ngoài, văn thái rất tốt. Bèn phân tích kinh quyển, nêu bày việc ma, đều được nghĩ phù. Lúc bấy giờ, văn Hịch Ma của ngài Thích Đạo An cùng tìm xét. Lại hết ngu tiện, sửa chữa văn xưa. Liền làm Bình ma xá. Lại dâng lên Pháp sư, pháp sư không ngờ. Nhưng Văn bài hịch của ngài Thích Đạo An thẳng trừ Thiên ma. Phàm vì đời khổ hoạn, kinh nêu có bốn. Vả lại, Thiên ma quyền biến không thuận theo chỗ lường của phàm tình. Còn phiền não ma, ấm ma, tử ma là khổ hoạn thật sâu. Liền khởi chiếu trừ dẹp ma và văn Ủy lạo. Văn này là đầu tiên, vì vậy cho nên trước sau khác nhau, lại có chút rườm rà. Nhờ quân tử tín tâm, cả hai đều được lưu hành, liền xếp văn của Pháp sư Đạo An, văn hịch để kế đó, hợp thành một quyển.
Đệ tử ngụy ma bổ tru ở đây nhiều kiếp. Ưng đến bốn núi, lang dòm năm đường. Tâm ngoan trúng độc. Thường hay cắn bậy. Cố giữ một góc. Cách ngăn thinh giáo. Từ đại thông trở xuống, cho đến Hiền kiếp. Tuy trăm vua kế tiếp, ngàn thánh tìm nhau. Uy hoài trăm đường, dẫn dắt ngàn kế. Còn không thể ngăn cấm được tâm tà kia, dứt được dị kiến này. Lại khiến, tham lam duyên nhau, sân si xen khởi. Thường kết bốn loài, đều trở về sáu nẻo. Nhìn lại bệnh này thật phải thương xót. Nay, nguyên liệu ở xa tẩm vào có thấm, chẳng nên khoan hồng, để khởi đảo điên. Hãy giản tương luyệt tốt, tùy cơ cứu giúp. Chớ để chúng sinh có tâm oán than. Người chủ cáo hạ, thì mau thi hành. Thần là tín tướng… kính lời.
Thần nghe: Người thấy cỏ thì thừa phong để phụ trước, kẻ chấp mê thì oai gia mà hàng sau. Đây là do thuấn cầm can thích, có miêu tự buộc ở Vương đình. Mục liên viên cung thì ngày đất vàng lan nhau. Vì thế có thể bẻ dẹp tâm vương, tắc tịnh lâu quán. Thân mặc áo nhẫn, tay mang đãy nổi. Bỏ của cải đã giữ gìn, lập danh hào thiền duyệt. Yến tiệc kia sắp tập trung anh dũng này. Chí có khuôn phép thì không đến không bẻ dẹp. Tâm có chỗ hướng về thì không tư không phục. Bốn ma nhỏ nhặt đâu đáng lo lắng? Nhưng nay kết tụ chưa phân tán, sự cần phải bình đẳng. Liền theo phần xứ. Hoàng ngôn túc giá, cẩn trọng thân văn, xin giao cho ngoài thi hành. Kính khải.
Trong ba cõi năm đường, chúng sinh có sự hiểu biết. Phàm hy hòa trật giá. Người mù còn mê ánh sáng kia. Tiếng sấm sét vang rền, người điếc còn không nghe, dù soi chiếu thuộc lý đồng mà bẩm thọ đạo có khác. Đến nỗi khiến cho pháp âm bị bít lấp ở sự nghe khác nhau, ánh sáng từ bi ngăn che dị kiến. Bệnh lâu kéo dài, đêm dài mê mờ. Kiếp thạch có hết mà duyên này không hết. Vì thế Cao tổ của ta thương kẻ mê mờ này, để tâm cứu vớt, thân giấu ánh sáng, tâm ẩn tiếng khác. Mở mang ở nơi vị tiền, lập thuyền giác ở hữu thỉ. Cho nên nếu mở rộng đường thì mọi người cạnh tranh. Lại chọn đạo giáo thì Dê Nai phục ngự. Chứng quả vô sinh ở tấm lòng, ẩn vắng lặng trong lòng. Tuy niên đức dời đổi mà tâm giữ thiền định. Bèn cho nối ngôi, nối tiếp đại nghiệp.
Tiên đế nhờ đây mà giúp được mối trước của ta. Tích đức ba đại, chứa công nhiều kiếp. Tâm biến minh cơ, thần dạo đến hội. Thân vẫn thuyền nan, vượt sóng cứu vớt. Chìm nổi mặc tình, quyền chỉ tự tại. Vì thế có thể vượt lên chín kiếp kia, hàng bốn trời này. Chiếm cứ một phương mà oai nhiếp muôn nước. Trong tám mươi năm hình phạt không dùng. Chỉ khi không có ta và Thánh thượng thiên hóa giáo tích đạo khác nhau. Người nhớ niệm khác các khanh hoặc là nhật chủng. Luân vương thế khoa bốn vức. Hoặc là dụng tánh cao lương. Trung thành không hai.
Hưởng danh quan của ba cõi, giữ vinh lộc một thời. Nhưng chức tước khó lường, thời có tốt chăng. Hoặc do kiêu mạn mà tán gia. Hoặc do tham tiện mà mất nước. Vì thế, khiến cho Hậu Dận ba lưu, yểm nhiên quên về. Lần theo nguồn ta kia, bơi theo biển dục này. Mà khiến cho thiên ma thừa dịp làm hoạn thượng phiền não do đây mà xâm dâm ở hạ quốc. Hoặc oanh trung âm khi chưa sinh. Hoặc rong ruổi theo năm suy để cáo lão. Trọn nhọc thăng giáng, thường siêng đến đi. Mạc phủ nhân cơ, kiệt khởi anh lược siêu quần. Vĩ văn kinh võ, thể chân luyện tục. Nương hồng quy của trăm vương, bẩm di tắt của muôn đời. Bước lên đạo cư ở kia rồng voi gõ bến môn này. Mới trì quang thượng hạ, hầu kị bát duy. Tổng quát các tà, vây quanh muôn cõi. Nhốt ba cõi trong một thần giấu trăm võng không gì ngoài. Xô ngã Tu-di, lật sóng biển lớn. Điên đảo vũ trụ. Dời mặt trời mặt trăng đi, khiến cho trời người treo ngược nước đất cháy sôi. Nhưng lại nghẽn tâm tất ngã kia, mở đương tử lai kia. Thổi gió mát nơi đồi khôi, bày đồng ái ở vô gián. Bình đẳng ba đường, nhiếp bốn cõi này. Oai do động đó, phước do phục đó. Nói chung là hơi xấu, đâu đáng nói? Các khanh đã bị mê lầm, trầm luân đã lâu. Nhờ thời cơ này, sớm lập lương đồ. Phàm thời khó được mà dễ mất, cơ còn mau mà sau hối hận. Nếu được thời thì phước lộc tranh nhau đến. Nếu mất cơ thì bại hoại cũng giành nhau đến. Vì thế Đậu Dung, Phanh Tước sự quy về bậc tiên đức. Công tôn anh lục thủ bại ở hạ cơ. Đây đều là gương cao đời trước, là lằn bánh xe đời nay. Vả lại người trí ở chỗ nguy ách mà cầu an. Kẻ ngu đắp thành mà bại hoại. Thành bại an nguy ở thời cơ, không phải do trời giáng xuống hay người mưu cầu. Nay ba xe đợi tiến, kho báu mới mở. Huyền trọng tước do đợi công. Lập Thiên cung do mạng triết. Chính là mùa thu Đại sĩ ngang dọc, là ngày trí dũng hiến công. Cùng các khanh phát khởi nguồn xa. Chi lưu dị sĩ truy tìm ngày xưa. Còn hiện tại nương theo, nói nghĩ bốn ma, bất giác tuốt gươm. Vì thế, trước để lại Bạch thư, nói lược về nêu thành bại. Từng sửa mê mờ tìm quang phó mạng. Cùng nhau đều đến đạo tràng, tỉ kiên luân hạ, tư bẩm chưa nghe thọ giáo. Quân tử bạn bè hảo hợp, cũng chưa tốt ư? Không rất tốt lành này, bàng hoàng say dật. Sợ sinh diệt đây tìm nhau, có không kế tác. Nếu ba độc thường rong ruổi thì nghĩa không có oán thân. Nếu bốn hung xen nhau khởi thì chết yểu sống lâu đều chẳng có. Dù muốn bảo toàn, kia có thể được chăng? Nay thân thiện đã lập, sáu quân mở đường ra khỏi nhà lửa kia, dò xét chưa phục. Khi bị bêu đầu không sáng thì tối. May mắn ý này khi mưu tính làm, có tâm do dự, lạm anh kỳ họa, bèn để lại sách, thấm thoát vô tận.
Di thiên Thích Đạo An cúi đầu. Ma tướng quân luân hạ cùng nhau tuy phục. Huyền đồ khác bến, trời người nhất thống. Tôn sư tuy cùng, ba cõi đại đồng. Thường quy lương tập, trình bày kỳ tích. Nhưng tiêu bảng chưa nói do đó ngăn cách. Nay Đấng Pháp Vương xuất thế, chín phục tư thuận. Linh võng mới bày, giềng mối rộng bủa. Đại thông có lúc, cao hội ở gần. Không nhậm kiều tưởng gồm nên dự ý. Thích Đạo An đảnh lễ.
Thời có thông bít, không chung thời thái. Ngàn
Thánh tìm nhau, muôn sư noi theo. Xưa, Cao Tổ của ta, bổn nguyên Thiên vương. Lễ hóa ứng phù, rồng bay sơ vức. Trượng quyền hình để cắt muôn nước. Phấn tuệ kha để phục sáu hợp. Hoặc dứt bốn tà, quét sạch ba cõi. Chống giềng mối ở tám nơi, bày linh vọng ở vũ trụ. Di tĩnh bảy hoang, thà nhất chín độ. Nhưng minh tông chẳng điếu, chân tục ngưng tịnh. Thêm sáng càng sáng, ghe lảng vào nước. Vì thế, khiến cho rắn, kiến, chim kêu, tranh khởi. Ế nhiễm chân đồ, mê hoặc chúng thanh tịnh. Nghịch hại chúng sinh, độc lưu muôn kiếp. Lo đạo có tình, dị tâm đồng nhẫn. Đấng Pháp vương của ta thể vận ứng kỳ lý vật. Trên nhờ cao quý, dưới nương tâm chúng sinh, nắm huyền cơ để giữ lấy cõi Tam thiên. Giữ Thánh chúng mà chấn hưng đại nghiệp. Mây nổi bốn cung, loan lượn Thiên Trúc. Giáng thần Ca-di làm hào pháp thành. Vỗ về thứ dân, khéo an khanh sĩ. Dẫn dắt quần thần, an ủi kẻ bệnh. Nghiêm tuệ kha ở giữa ngực, giúp thần giáo ở ngoài thân. Thương mười tám người vô tội, xót ba không lộ tuyệt. Chí giúp đại nghiệp, tình ắt bình nan. Trăm cõi ngàn nước cao phục phong hóa. Từ lâu ôm tâm mê hoặc, mê mờ tự lấp. Sâu chấp tâm ngu, cố giữ ý sai lầm. Sói ở dục thiên, kiêu kêu cửa Thần. Bạn đối cờ cương, chống cự linh tiết. Cho rằng, cõi trời có thể lên, hồng quy có thể đổi. Giám tư hai ba, viễn vi hoan tức. Vì sao đại thông thống nhiếp đời thì khắp nơi đều theo, mà ngụy si thiên ma không theo. Ngỗ nghịch Thánh thính, trần nhiễu thần tâm. Lĩnh tốt thì hư, hình ấy muôn biến. Tinh thần sáng suốt, sương giáo che mặt trời. Linh cổ cạnh tranh, vang lên phương ngoại, cao bộ lăng lượng. Tự cho là oai cường mà vương sử rung động quần tà tan hết. Chúng ma bỏ tâm, hướng phong nội phụ. Huống chi một mình ông kiêu hãnh một cõi. Sĩ không phương tìm, chúng không thành bạn. Mà muốn trái nghịch lý thường, lấn chiếm hoa ấp. Soán đoạt linh quyền, thắng thường thủ tín. Dùng ngụy nhục chân, vậy không mê lầm hay sao? Nay Thích-ca xuất thế, đạo giáng kiếp sơ. Diệu hóa đường đường, thần la xa đến. Trí sĩ hài hòa, huyền toán che đời. Võ phu như rồng bay lên, nắm huyền ngàn đội. Hiệp lược ứng chân mưu mô siêu bạt vì thế khiến cho trì tiết. Tiền phong đại tướng, quân Diêm-phù đô đốc quy nghĩa hầu Tác-đà-la-luân. Riêng bẩn thiên tư, nghĩa bày huyền giác. Thần cao như Tu-di, chí mạnh như lung thế. Võ giỏi văn hay, thành trung nhà vua. Lãnh đạo bốn mươi muôn ức người, dương tiêu lộ thủ, vì thế mạng khiến trì tiết. Oai viễn đại tướng quân tứ thiên đô đốc Đao-lợi công tôn sư Đàm-vô-kiệt. Võ thắng quần tiêu, văn vượt hơn Tùy Hạ. Mưu lớn tuyệt trần, tâm ở trong mộng. Thường lo thì quên thân, chí quyết giúp đời. Lãnh trăm ức chúng, hố ngắm Tu-di, nên mạng khiến trì tiết. Chinh ma thiên đại tướng quân lục thiên đô đốc Đâu-suất Vương giải thoát nguyệt. Diệu tư hư huyền, cao bộ trần biểu, lược tinh đồng chân, công ngang chín địa. Thương xót ba đường, nhẫn quân túng hại, viên kiếm bùi ngùi, rồng hồi tư phần. Lãnh năm trăm muôn ức chúng, loan kêu thiên cù, nên mạng khiến trì tiết.
Thông Vi tướng quân thất thiên đô đốc Tứ thiên vương Kim cang tạng. Lãng chí hư huyền, kim nhan xa ngắm. Ân khác chín tích, sức nghiêng núi biển. Đức không đâu chẳng thí, oai không đâu chẳng phục, lãnh bảy trăm muôn ức chúng, mây về cửa trời, nên mạng khiến cho trì tiết.
Trấn thành tướng quân cửu thiên đô đốc, Thập địa Đại vương Duy-ma-cật. Kỳ toán bất tư, pháp kha đạt chấn. Thể hợp thần tư, quyền tượng muôn biến. Thở hít thì chín phục mây băng. Quát tháo thì mười phương gió lướt. Oai giúp kẻ hạ ngu, thương kẻ khổ sở. Lãnh chín trăm ức chúng, ẩm mã bến linh, nên khiến cho mạng trì tiết. Giám Phục đại tướng quân Thập cửu thiên đô đốc, Thập trụ Đại vương Văn-thù-sư-lợi. Thừa vị nguyên hình, hình sáng ba diệu. Thân từ Kim cang, thần cao thân lớn. Ứng thích ngàn thương, huyền toán muôn kế. Quần động cảm ở một thân, chúng tịnh lự ở một niệm. Từ bi cùng khắp, tình gồm bốn nhiễm. Lãnh trần sa chúng, cao lượn cõi này, nêu mạng khiến trì tiết. Khuôn giáo Đại tướng quân, Thập cửu thiên đô đốc, sáu ma các quân sự quần tà giảo úy. Trung Thiên Vương Quán Thế Âm. Trí lược uyên thâm, tuệ cương hà võng. Minh đạt sáu thông, soi sáng ba cõi. Hoặc nương theo quần tà, chiếu kỳ phong khởi. Hoặc quyền hình hai chín, dứt ngục đồ khôi. Vẫy tay thì nghiêng núi Thiết Vi. Hít thở thì phù vân sụp lở. Có thể làm lợi ích cho mười phương mà không cần mời thỉnh. Lãnh chúng rất đông, gió ngâm hổ gầm, nên khiến mạng trì tiết. Phủ Hóa Đại tướng quân, mười phương ba cõi đại đô đốc, bổ xứ vương Đại Từ Thị (Di-lặc). Diệu chất tùng dung thiên tư tiêu lãng. Thân vượt Kim cang, tâm chứa trần biểu. Chí mạnh tột trời, búa tuệ động xa. Vô sinh chuyển ở ngực. Quyền trí ứng ở ngoài sự. Chí có khuôn phép, chẳng đến chẳng đi. Oai ân song hành, chân tục đều nói. Lãnh tám trăm muôn ức chúng. Nghiêm giá đãi mạng, đồ chúng dũng sĩ đầy khắp Đại thiên. Kẻ sĩ Kim cang lấp đầy tám cực. Hoặc tự trợ chính, tịch quyển sáu hợp. Nương hiên (nhà) báu Kim cang, giữ đường tốt tám chánh. Vượt ngựa hay sáu thông, nắm dây cương thần hư tông. Bắn cung tốt Tứ thiền, phóng mũi tên bắn quyền trí. Ngựa ký thênh thang, bước đi nhè nhẹ. Tuốt gươm bay mác trường ngâm mạng địch. mà tướng quân nhiều đời sáng chói. Cứu giúp Đế nghiệp, cung phụng Thánh đình, không hề có thiếu. Quý đức tôn sư, thân tử năm trăm. U giám thiên mạng, được vua giáo hóa. Thánh thượng khai khâm, đều thọ danh tước. Ban thưởng liệt sĩ công bằng cựu thần, tiếng vang muôn nước. Mà ông tâm gì hoành sinh dị kiến. Kiêu ngạo biên hoang, giữ chặt đế vị. Độc hại đến với chúng sinh, tai họa kéo dài hằng kiếp, có thể không đáng thương hay sao? Có thể không lầm lộn hay sao? Ông ngày xưa do khi mất mùa, đã cảm cuồng mê. Tâm ông đầu ngụy ngoại thoáng. Trăm hành một tội, Hiền đạt còn lỗi. Từ lâu cho rằng ông giám trí trái ngu. Quy tội tượng ngụy, thức thân rút trâm. Đồng dạo quần tuấn, dùng đạo tự lầm. Danh lợi trước sau, bèn chấp ngu giữ hoặc. Thâu an tà vị, nương núi si để tự cao. Nhờ rừng kiến để đi khắp. Đắm nhiễm uế trần sáu dục, đi khắp tánh ngu tà kiến. Dựng cờ cao kiêu mạn. Bày quân hung vô minh. Rộng bước đường dài, khinh lộng thần khí. Cưới đoạt thiên cung, chống cự mặt trời mặt trăng. Sợ chẳng khác, giơ tay muốn chướng ba quang. Kéo đất lấp bốn biển. Đánh trống tranh tiếng với sấm sét, dùng lửa tranh ánh sáng với chớp. Tuy nghĩ tâm hư trên mà sự khó thành tựu. nhưng tướng quân lập đức huyền tân, nguyên thừa càng xa. Huy hoa vi nhiên, quần há chăm chú. Hướng về nền quý dễ lên. Công đời sau đáng tiếc. Có thể sửa lỗi trước sau, phiên nhiên quy thuận. Tạ quá chu môn cùng đạo đều tốt. Nước nhà đều còn, quân thần cùng hiển. Thủ danh được am, mắt sáng đạt quán. Quyến thuộc an nhiên, không đáng tốt ư? Đại sư khắc cử, muôn phương nổi chớp. Tay nắm giáo pháp, đều tuốt kiếm tuệ. Đạo kha sáng chói ở phía trước, Linh cổ chấn âm ở đợi sau. Chuông thần nếu gióng thì mười phương nghiêng đổ. Sóng biển nổi lên thì nguyên lục thì nước sôi vọt lên. Bấy giờ, Tu-di là vi trần, trời đất là một hạt thóc, vô động để ở tay áo bên trái, diệu lạc để bên tay phải. Thần lực như thế, đâu có thích đáng ư? Nhưng Đấng Pháp vương của ta, thân đại từ bi, chưa muốn hợp lại. Quyền dừng các xe, tạm dừng dây cương. Đến đường gửi thư, thứ hồi mê giá. Ông hãy sớm định lương đồ. Diện phược quy khuyết, ủy mạng sân vua. Tiêu diêu cảnh nhàn, tể nhậm thượng phương, chẳng phải ông thì là ai? Phàm bậc Thánh thượng trí biết cơ, minh triết trừ họa, cùng mà biết phản, chỗ tốt của quân tử. Đây chính là cao thu chuyển phước, là lương tiết giữ công. Xưa vua Hạ, vua Kiệt vô đạo, vua Ân chinh phạt. Vua Thương, vua Trụ nổi loạn, vua Chu, vua Võ lập Sư. Đây là khuôn phép xưa nay. Minh giới của tướng quân, cùng nhau tuy phục nhưng hình trái với ngày nay. Phong lưu ở đạo vị, trời người gập ghềnh, đâu đủ để ngăn cách tư tưởng. Bỗng nhiên liền tùy sách gởi mạng, do đó tha thiết, kia từ ủy khúc. Từ xưa, không muốn hoa lan thơm hạ điêu thúy kha tồi dĩnh. Suy nghĩ chí ngôn, khéo theo kế tốt. Chỗ khiến thân ông khuynh khuôn ba khái. Chớ khiến sáu thiên thâm sinh hòa dữu. Mắt mau ngước nhìn, giúp lòng vui thích, văn không biểu ý.
Thích Đạo An đảnh lễ.
Nước Đại mộng, quận Trường Dạ, huyện Vị Giác, thôn Mị Ngữ. Lục Tự Tại Chủ Tha Hóa Hoàng đế. Báo hịch cao tòa Đại tướng quân Nam Diêm-phù-đề đạo tuy phủ đại sứ Thượng Thư An
Pháp sư tiết hạ. Tăm hơi tự xa, vui đồng tạm tiếp. Tìm xét cú vị, lương dụng vui vẻ. Mới thấy thần của Đại quốc lễ nghĩa cao xa. Tướng quân tâm rỗng rang rộng lớn, mật hạnh uyên thâm. Khâm đới núi sông, bao trùm vũ trụ. Lo cho tông miếu và các sinh dân. Khí tốt ngàn tầm, tâm chân muôn nhậm. Lượng nhanh như gió kính thảo. Trung thần loạn thế. Muốn gặp đạo thì gần, bỉ ngã không cách. Phủ tùng nhân sự, liêu thử báo chương. Xưa chu thất đã suy, sáu nước đánh thế. Hán triều vận diệt, ba phần thiên hạ. Hoặc ngoại di xâm phản, độc hại Trung Nguyên. Hoặc trong họa tạm làm, ương đến lương thiện. Khi ứng tích khởi, lúc đạt báo biến. Có đó từ xưa, đâu chỉ ngày nay. Chỉ vì chúng sinh vĩ tích, trên trời giáng họa. Thích-ca, Hoàng đế yểm nhiên đăng hà. Thần thiếp buồn rầu, suất sĩ bi ai. Hoàng Thái Tử Di Lặc dưỡng đức tâm cung, mãn nguyệt đình sơn, thâm tùng ẩn dược. Đời có sáu trăm quả chuông, đại khuy vua cửu ngũ. Các hầu gian loạn, nghi kỵ lẫn nhau.
Mười tám bộ giáo phép tắc khác nhau. Chín mươi sáu đạo tôn kính xen nhau. Sói cắn biển sông, kiêu kêu núi rừng. Trái không nói suông, phải không ký sự. Hiếu pháp của nước, sách vở của triều và sương gió điêu linh. Ấn của vua ngọc của Đế bị lửa nung tiêu tan. Thần oán dân giận các bạn thân lìa. Chạy trốn không về, đơn độc lâu dài. Thầm cho rằng số thuộc thái bình, tắm gội triều hóa gặp lúc đời loạn, giáo mác khó cứu. Bởi chính là quyền biến của người thông suốt. Đốc mất nghĩa binh, nổi giận quên ăn. Và, lên núi giết hổ, xuống biển hại rồng. Thông võ thạo văn, khinh thân trọng nghĩa. Xã tắc là chỗ không mưu cầu. Ngôi vua không phải là chỗ khâm phục thật do tâm thành không chủ, tà hí trần lao. Đạp dòng tà dục, Tâm nguồn cùng xa, hoảng hốt đại mộng. Cùng hằng đêm đều dài. Lại do nhờ ngủ, thương dân phạt tội. Trước sai Tụ mạt đại tướng quân Huỳnh Huyền, suất tốt không hoa, sách tấn con ngựa của Dương Viêm. Tức góc Càn Thành, kết luận Diêm-phù. Giáo pháp sáng rực, cung kính khác nhau. Mũi nhọn chưa gặp, phục binh bại trước.
Kế bảo Tiếp Hưởng Đại tướng quân Ty Trúc Công, lãnh chúng Cung Thương, ở hang Truyền thinh, nếu nghe tùy bỏ.
Kế bảo Bách Hòa Đại tướng quân Lan-xạ-bá, lãnh bạn Hinh hương. Nương gió cưỡi quân, ngàn dặm không mây.
Kế bảo Lục Vị Đại tướng quân, lãnh quân Phù mỹ. Vi diệu môn đô đốc giữ miệng thương minh. Cắn nuốt không sót.
Kế bảo Thất Xúc Đại tướng quân, lãnh chúng suôn sẻ. Trống chiên vừa đánh, thành thân ngói đổ. Năm quân đánh trước trăm chiến thường thắng. Từ trời là phước, khánh không đâu chẳng thích nghi. Trẫm lo chưa cùng hang ổ, thân hành vấn tội. Áo cung đã sửa, xuất từ hang trống. Phát trí sâu xa, động oai Nam Nhạc. Cởi binh vọng tưởng, số doanh triệu tải. Và ẩn biển thần thức, ẩn núi ảnh tâm. Mạng tương nguyên sư, án kiếm thành lữ. Triệt quân sĩ tốt, giơ dao kết quân. Bài không tắt hướng, khói bay sương nhóm. Đâu không anh khí xung thiên. Thổi mây vọng ở chân tế, gió cao nhiễu đất. Sợ sóng trần ở biển tánh. Kích đạo phẩm quan quân. Sương đêm khỏi tre. Nhất tâm đã mất, về nguồn càng xa. Sáu ái đã vậy, nhà lửa càng mạnh. Ngang dọc xâm lược, trước sau giăng bủa. Sáu kỳ ba lượt, trước chứa chí khí. Trăm bước ngàn vinh vốn không quân nghịch. Bèn mây tan, vụ cuộn. Đạo ta hưng thịnh. Đối đây, phần quan trí chức, hành phong hóa của ta.
Sắc chỉ: Vô liêm ngựa chạy, Hổ quỳ núi tham. Tánh sáp tướng quân, Rồng trở mình biển keo kiệt. Chiêm tuất chi sĩ nước đất không nương.
Sắc buộc đất lang tương phủ trí âm dương. Tình trần phụ mã nhìn sinh đôi. Nước ái tạm chảy, thành tâm bị trách, lửa dục vừa phát, miếu trời bừng cháy. Thiện tánh tướng quân đã từ phần nịch. Bào bột giảo úy, cung kiếm bên mình. Chẩm độc, ưng dương, dao kích trên tay, quân sĩ nghiêm nghị, báo động giữ thành. Khiến Bình Nhẫn tướng quân tiêu tiếng mất tích, sắc, chánh cần ngự sử, thả đình giám sát.
Thùy miên Võ hầu an phủ triều du, phóng đãng vô minh, buông lung hữu đái. Khiến tinh tấn một lần. Bỏ thực hành con đường bốn chánh cần. Hai mũi tên Ca-lưu, chẳng bắn ba cửa không, dũng mãnh tướng quân gió khói tiêu hết.
Sắc chỉ, Giác quán đại tư mã trí phủ Sơ thiền. Tà tư tuy đô ủy liệt trần tam hữu. Nguồn tâm chưa tịnh, thường bị sóng gió, nhánh thiền muốn tốt, gặp nhiều tuyết sương.
An Tĩnh tướng quân chôn thân loạn cảnh. Sắc ngã kiến hành cao trấn Đà-na chi lãnh. Hoặc núi muôn nhậm, nghi nhung trăm lớp. Thảo phản hoàn mè, thăm hỏi đường trời. Khiến quán thân thật tướng rõ như sừng Dê. Duyên nhà vọng nghiệp kín như vảy cá. Vì thế, độc đồng kẻ cuồng, rượu tỉnh khách say. Che chân kim tạng, ẩn cỏ béo phì.
Bát Thông tướng quân, ngả nghiêng như say. Đây là khách của quân sĩ đều là dân của ta. Nay mười quân ý chí năm tướng anh hùng. Thừa cơ phế lập thành tông miếu của nước. Trẫm bừa lên ngôi, lâm hiên ngư vũ, soán thừa nghiệp vua. Nắm đồ thọ mạng. Vì bánh xe yếu không bờ mé túc nghĩ kim luân. Tâm và ngựa mạnh có dư. Liền đủ ngựa xanh. Áo mũ khai. Xe sách chỉ một. Mới quạt gió ở nhà lửa. Phóng xe xao ở ngoài cửa. Giải thích giáp vị cùng dân lại bắt đầu. Tướng quân binh lính đều mất, trí lực đều tan. Đường cùng mũi tên hết, bỏ ngựa đốt xe. Bọ ngựa đưa tay, bởi thật đáng thương, bởi thật đáng xấu.
Đạo chích suất tốt, xâm bạo các hầu. Khổng Khưu để xe, Lưu Hãn về phủ. Tức minh giới của tướng quân.
Hoàng Thái tử Di-lặc đại để long phi. Trẫm chiến đấu về triều, hàm tội đình khuyết. Tướng quân thấy rõ, chưa dám vâng lệnh. Tình sâu bút cạn, không thể thưa nhiều. Mong quý cao quân tử, hẹn ở lời nói.
Ba-tuần đảnh lễ tội chết.
Quảng Duyên tướng quân lưu đãng giao úy, đô đốc sáu căn các quân sự tạo trừ ác, lập tâm vua tôi thiện.
Chẩn Tuệ tướng quân, thiện tán tử đô đốc, rộng giúp các quân sự giám quân thần thí.
Thiện Tánh tướng quân, khắc cõi Dục đô đốc, Nhiếp chí các quân sự Ti mã thần giới.
Bình Nhẫn tướng quân, Đãng Khuể hầu đô đốc, Hồng dụ các quân sự ti không quân thần nhẫn.
Dũng Mãnh tướng quân, cần tập bá đô đốc, sáu độ các quân sự hành đài thần tiến.
An Tĩnh tướng quân, chí niệm đô đốc ủy đô đốc, Quán lụy các quân sự nhiếp tán hầu thần thiền.
Bát Thông tướng quân Chu vật đại phu đô đốc Điều-đạt các quân sự giám chiếu Vương thần trí. Hành ngôn cẩn án thần văn. Trị tịnh thái bình. Hung đồ có lúc hưng thạnh. Hóa thanh trừ sát. Bọn nghịch do đó mà làm. Vì thế cho nên vâng lệnh tuần tra chín vi thành, gặp Tử-ma ở đảnh Đồ Sơn, sinh Đằng luân ở sáu hợp, gặp giặc tham ở Đaolợi. Vì thế, khiến cho thân diệt trí mạnh, hồn tán vượt lên. Luân đãng tha hương, lui mất ngôi vị. Bởi, trong nhờ gian tà, ngoài thọ lộc quỷ. Thưởng sai tín công, phạt trái thần ác. Từ đời Thích-ca Văn Hoàng đế, an giá cố lâm du dư thiên tải. Thái tử Từ Thị Di-lặc phần nhiều có thờ Đâu-suất, chưa rảnh noi theo. Pháp thành đạm không, Phạm luân vô chủ. Lộc vức ngoại phản, Sa Châu phí cống, bèn khiến cho ba cõi nổi gió, sáu trời lửa đỏ. Bọn tà nói dối, trở thành khác tục. Lầm chủ Tự tại thiên giặc vương Ba-tuần. Bẩm chất hôn mê, thân theo tà khí. Buông lung cõi Dục, dòm ngó cõi Hoàng. Vả lại, chánh giáo bại hoại, trong ngoài trái nhau. Chị em đồng gian, ngàn con quên chí. Ba nữ tà đãng, ngao ngã thượng cung. Tư thái chưa thí, tự tặng y điệt. Lại ma Ba-tuần đã học tiểu đạo, có chút biện tài. Tô điểm sai lầm, khéo xét phần. Không cần lời nói của Thuận Tử. Chuyên theo kế của nịnh thần. Bốn nước gian khích, thừa vĩ lai xâm.
Ngụy Kết Sử tướng quân các phiền não v.v... Do Thánh đạo tiêu vận chung. Tám trăm Quang âm vô gián, mười triều làm đây. Bèn bày binh ham muốn ở biển ái. Thúc giục Ngựa phi đến cao nguyên. Khống chế dây cương ở nước hai chấp. Rong ruổi trong cảnh vô minh. Gặp Thánh thì quyền tích cao xa. Gặp ác thì dứt ác trong đó. Phụ hiểm trọng quan, quán thời mà lập. Hoặc chí cầu vinh lợi, giả mị quyền môn. Hoặc hàm nhẫn oai chúng, chuyên hành độc hại. Ý khí oai linh, cố thủ tấc lòng búng ngón tay biên ngung, chưa biết chánh sóc. Lại nương đạo bảy sử, truyền xe ba chướng. Dối nói sáu điều, đến nổi khác tục. Người ngu thì nương giáo mà trạc anh, người trí thì bỏ đó mà gian ẩm, súc tốt hầu tiến, trữ phùng hầu tiến. Ngụy Tứ Thiên Đại đô đốc năm ấm ma v.v... Lập nhà ở cội nguồn vô thỉ. Bói xem ở chỗ hữu hình, hoa sen trong biển khổ, phóng dật trong ruộng nhà lửa, thầm gọi cung thân giả thự sáu phủ. Thâu vinh thuấn tức đam lạc thời nhan. Nguyên thủ vô cơ, đồ dịch vô toán. Binh sĩ đói khát, cùng khắp mọi nơi. Sĩ nhân lo sầu đầy núi khắp hang. Đồng ác tìm nhau, tập kết một phương. Dị loại tập trung, ngăn binh ba cõi. Ngụy thự hành đài có sinh tử. Tặc Vương xem năm đạo binh, trí quân ba đường. Sống thì nghịch mạng, chết thì làm giặc. Năm suy kỳ hẹn, bốn sinh ứng thế. Tắc nghẽn nguồn suối, lấp hết ánh lửa. Nghiệp lực gầm thét. Suất ách hiểm dĩ tiên trì. Ba độc hợp các bạn mà thệ nguyện lâu dài. An nhẫn không thân, họa tiếp chín đời. Oai nhẫn xen nhau, hại đến trung hiếu. Bèn hốt Thánh dối hiền, khinh chân dối chánh. Hãm hại lê nguyên, bao vây phàm thứ. Vọng chấp khổ không, cho là đã có. Sậu kinh chi thế. Cho rằng xưa đồng với vàng đá.
Lúc xế chiều, ngày 30 tháng giêng, có một người họ Thiện tên là Tri Thức, từ đạo tràng đến nói rằng: Giặc cách đây không xa, phải mau trừ diệt, không thì sẽ bị đại hoạn. Thần nghe lời này, chưa vội tin. Đơn giá xe dê chuyển quân hóa thành sửa sang hàng rào, phòng bị mà thôi. Bọn giặc đêm sau, sai một người sứ đến cống hiến người trân báu, cầu kết hảo hòa. Thần biết giặc đây như là bào diệm. Trí kế chưa xuất, ý tánh cuồng bột khó có thể gần gũi. Chẳng nói chuyện cùng, ôm hận mà đi. Chuẩn bị nhiều binh khí muốn đến xâm lược.
Vào ngày mồng bảy, sáng sớm ra khỏi cửa phương tiện đến chỗ giải thoát. Trì tin để thâm nhập, suốt quần mê để ra biển. Soán tập Tam-muội để đến một rào. Nhờ trừ sạch năm ấm, giới tình các cõi. Bọn giặc nhờ vững một sông, chống đối Hoàng uy. Nước kia tràn đầy rộng sâu khó lường. Lại gặp lữ phong khuynh bộ, mưa đá rơi xuống sóng gió nổi lên. Thần biển vọt lên bảy thứ tạp loại, hoặc bay hoặc chìm. Dạ-xoa giữ đường, La-sát chiếm bến. Bị điếc và mù che lấp thiện tài. Kia muốn không bị chìm đắm. Lại đến chỗ đất sâu hiểm trở, làm thành lũy lớn. Ở thành lũy lập cái ao, lầu hiểm, chỉ có một cửa, bên phía hang kín. Một người cầm giáo muôn người khiếp sợ. Từ quả khiếp sợ. Bích-chi run sợ, bèn nhóm chúng xướng khuôn phép tiến tới.
Kích nhóm độ năng kiểm rằng: Hoặc có thể cho quân sĩ vượt qua sông. Vì vậy, chuẩn bị lấy cỏ cây bện thành, bám vào đập sóng mà thắng tới. Các thần tay cầm túi nổi, ngược dòng mà đến. Cố thủ không được, bèn lên bờ kia.
Bộ Phần tướng quân chuẩn bị xe lính, đồng tâm sức cưỡi ngựa đến đánh. Liền sai An Tĩnh tướng quân, lãnh lính Quán lụy, chiếm cứ nguồn tán loạn. Lại sai Bình Nhẫn tướng quân đốc suất binh Hồng Dụ, lấp miệng hang giận. Lại khiến Chẩn Tuệ tướng quân dẫn chúng cứu giúp dẹp đường xan tham. Lại Lặc Bát Thông tướng quân chỉnh lính thông suốt, giữ đường cuồng si. Đốc sư la trương, bốn phía giao xâm. Tích chiến cáo tiệp, bất nguyệt mà ba. Hành dài sợ chúng giải tán, không được tranh tiến. Bèn thúc giục sáu quân, trí A-duy vượt đất tai nạn binh hỏa du hồn, thâu an Tha Hóa. Khu suất chó dê, muốn đến cự chiến. Bèn giả cọp sói để làm oai, kêu binh lính để tự vệ. Bọn khác đầu khác miệng phun gió lửa mà đợi phát. Loại gánh núi chở cây. Phương nghị tu dĩ tề hành, mong đến Hoàng gia, ưng phù thọ mạng. Mở cõi nhiều kiếp. Điệp Thánh nhiều lớp ánh sáng, hưởng phước vô cùng. Tiên đến ngày đảnh hồ, chiếu cố hết lòng. Khiến từ đời Văn Đức đến nay không chịu chiến tranh. Ban đầu đến Mạc Phủ lãnh thọ chiếu chỉ, y sắc lệnh mà thi hành. Lược lập sáu kỳ, cắt dứt mà thôi. Nhưng, cuồng thọ chu trương còn dám quên nghịch tiết. Tuy để lại nhiều hiểu dụ, đều không đổi tâm. Bèn lại mạng tương đại quyền, trừng trị mười vạn binh. Chưa hề tiếp thần. Mở rộng Tịnh độ, dùng vô úy để nghiêm thân. Gồm các điều hay riêng giúp. Rồng chiếm đạo thọ, cọp nhìn Ta-bà. Mười hiệu vừa đọc thì bốn mươi tám ứng kỳ. Ngôn giáo ba lập thì hai chín nhóm họp. Bèn đánh tiếng Phật mà xuất ba không. Dựng cờ từ bi để giúp tám nạn. Lập võ Đại thiên, oai chiếu muôn nước. Giáo thần tạm chỉ thì bọn ma mất mật. Kiếm tuệ vừa giơ thì bọn tà đều chết. Hiện đạo thân để chém tử ma. Dùng Bát-nhã (trí tuệ) để giết phiền não. Dẹp ma Ba-tuần ở rừng bất động. Diệt năm ấm ở cảnh kế tánh. Nhưng sau mới đuổi tổ giữ hang. Đối chỗ không đến, tuần phục ẩn tâm, chỉ một người mà thôi. Chỗ xa quan trọng, không có sức mạnh công kích đến. Bèn chạy trốn sinh tử ở nguồn vắng lặng, để lại già bệnh ở cảnh thường lạc. Dẹp ba chướng ở đường sáu thông, quăng mười sử ở cõi Ta-bà. Nguyên hung đã kiêu thủ đồ đãng phục tru. Người từ khác theo đều không thưa hỏi. Những người thành tâm nghi ngờ, đều khiến bỏ giáp quăng kiếm. Biên hộ dân lệ, thọ dùng hiệu xa. Dời cõi Cực lạc để nhổ năm mũi tên. Đều dùng thuốc hay trị lành bệnh cấu. Ban bố cháo thuốc. Vào lúc gió nghiệp dừng thổi, sáu trần không khởi. Mây lành bốn phía, linh cầm bay lên. Dẫn tám bộ mà tự lầm. Nghiêm bốn bảy để thủ vệ. Nương nhà an nhàn vô vi mà thôi. Đại giác Thiên vương v.v... còn thích phong quỹ, chí còn trừ bỏ. Giúp mưu ngày xưa, ân cần khuyên can. Từ không được miễn, thầm cho thường tấu. Bèn mở cửa cam lồ, xuất nhập chánh đạo. Ngàn đám mây sáng đến nghi Lộc uyển. Tứ thiên cúng bình bát ở trong tay. Hai nhà buôn dâng thức ăn lúc mới thỉnh. Vì thế duyên hành sáu huân thì bày như tiên phong. Chân đế khai mở thì Da-xá kế tiếp. Hoặc bạn bè nhờ vinh hoa. Hoặc anh em cảm trạch. Ấp không suy ở sơ quả. Ngoài có đức ở Thập địa. Y theo lễ xưa, tuần tĩnh phương nhạc. Chấn lữ sáu thành, trị quân tám nước. Lý oán trên Tam thiên, hỏi tội dưới Cửu địa. Nêu người tài giỏi ở mười phương. Hội muôn nước ở Linh Thứu. Hoa hoang khắc trân, đất khác vọt lên. Bấy giờ, khai mở kho báu để giúp kẻ bần cùng. Xuất ba xe để cho các con, an ủi dân đen, an vui phục nghiệp. Thân an Nhất thừa, tâm vững như bàn thạch. Ở rừng nhìn nước, giảng nói Hoàng trạch. Thường nói ẩn dận, chiêu vời chưa theo. Nhân phong tạp vũ, đạo quang chiếu xa. Bốn phía sáng thông, hóa lưu chẳng khác. Nghe tụng ở trung lộ, phán quyết ở núi báu. Vô lượng oai nghi, chấn động thành núi, trí tuệ vô ngại rỗng suốt núi sông. Cho nên, nước không có hai vị thống lãnh, xe sách một khuôn phép. Mặt trời, mặt trăng sáng rực, trời đất trong sáng, sáu vạn binh lính, mở vòng vây để theo chánh. Mười vị tiên bỏ sông lớn để đến, bậc hiền bất động. Không xa ngàn dặm. Hiền triết ý vui cảm ứng mà đến. Công nhân mất đan ăn ở Thành Thi. Tiệp thú bưng bình, uống ở nguồn dài. Trong ngoài đều trong, trong ngoài đều yên. Thật do đạo âm tứ phu, dư ba đông huấn. Chúa thượng dốc lòng, các quan cung kính. Bẩm thừa thần quy, trừ hung cấu này. Há trí lực của thần có thể khắc cảm. Nương theo đây huân tiệm vọng cánh. Tiến phương việc trước kế toàn chưa có ngày. Đều trình bày để nghe. Các thần đáng tội chết, đáng tội chết.
Đệ tử là Thủ Khu Đồng Nguyên do phái mà khác mối. Oa được đại hưng, tin trái ngàn đường. Vì thế, trí thắng tiêu tông. Trải qua nhiều kiếp, trên ba đèn sáng mở giáo. Trải qua trong chín mà chưa phải một. Thống gì tà đồ ngụy kiến, gia sắc độc ở nguồn tự nhiên. Kết giặc dối căn, ngự hình sắc ở cảnh điên đảo. Do đó mà thiên sư kháng hành trung đạo. Quyết ngôn hai ba bởi do bùi ngùi. Từ khi Tiên đế băng hà, thật là vô chủ. Thuần phong dần thiếu, linh giáo lập khác. Ngụy mà thừa dịp, bác bỏ thần ấp, giả biến chân tục, vọng bàn chẳng có. Khu dịch bốn loài, cùng khắp sáu đường. Ruộng đổi Dục thiên, Sói xoay đất ái. Độc hại biên hoang, nghịch lưu hoa hạ. Tuy Hiểm Duẫn (một giống rợ) xâm lấn Tông châu, hung nô lấn Viên Hán, chưa đủ làm thí dụ.
Trẫm do thần mê muội, từ tuổi nhỏ tham huyền. Hai mươi tuổi theo chánh trị. Nổi tiếng ở tuổi đại thông. Khu tụ ở Hiền kiếp. Gánh vác trăm ức trách nhiệm. Hổ thẹn đặc tôn ba cõi. Người trời ưa suy tôn, không hề nhường nhịn. Bèn lên linh đàn thọ phong thiền này, cố duy đa khuyết, hữu tạm thứ chánh, minh phát siêng năng, không gấp khởi xứ. Thường tiếc phong cảnh chưa đẹp, chánh giáo chẳng phải một. Khiến cho chúng sinh đắm chìm cảnh ma. Thường một niệm dụng phế tẩm thực. Bèn, mạng tương trừng binh để trong sạch lúc nạn. Trên nhờ kẻ sĩ Tam-muội, dưới nương thầy sáu độ. Khống thanh phương hạ, đại kham hoang phục. Vì thế, sáu quân sấm động thì ba cõi mây tiêu. Từ thí điện trì thì bốn hung diện phiền. Hàng phụ như trần, sinh cầm muôn kế. Chỉ một ma Ba-tuần, một ngựa bôn ba, trăm đường xếp bày, ràng buộc không lâu. Hơn nữa, khiến cho năm đường cáo thanh, ngoài cõi đều một. Nghĩ cùng thiên hạ đều phước vui này. Có thể đại xá thiên hạ cùng giống ban đầu. Đổi hiệu tượng giáo, là năm tháng tức chân. Từ ngày mồng tám tháng hai muội sáng về trước. Hệ võng kiến đồ, đều nguyên thí cho. Nếu vì bốn ma chỗ lầm, phù du ba cõi, phạm mười điều ác, năm tội nghịch, hủy kinh hoại tượng. Ba đời đã gây ra tất cả các tội. Người có thể sửa đổi tội lỗi thì bất luận tội đời trước, nếu bỏ mạng ở núi tham dục, cất giấu gian khí. Người trăm kiếp không biết tự thú thì phục tội như ban đầu. Người kia giết cha hại Thầy, tổn anh tổn mẹ. Tùy lúc chạy trốn, do dứt sau phạm kia một người xiển-đề không được ân xá. Giúp tội tránh xa, thần tốc đáng nương. Ý bày bảo khắp mười phương. Người chủ thi hành.
Ngày mồng 08 tháng 02 niên hiệu Chân nguyên. Trung thư linh bổ xứ Vương Thần Dật-da nói.
Thần là Văn-thù nói: Phụng giúp chiếu thư như bên cạnh. Thần nghe hủy trung chê điều lành, trải qua ngàn diệp mà chẳng không. Tà thần nghịch tử, trải qua trăm đời mà thường có. Đó là do ba giám lưu ngôn, phục tội lúc minh thời. Năm đời trái đạo. Cam trụ ở Thánh thế. Vì thế, Vương oai quyết chấn. Vui vẻ ở nước Chu. Chánh giáo dần thêm, phước quy ở đường xưa. Cúi xin bệ hạ, từ gồm trăm vua, trí bằng ngàn Thánh. Bỉnh thùy linh tân, ác đồ huyền hóa. Hiện ẩn động ở Đại thiên. Trì sính ứng ở các cõi. Phục vi hình để dẫn kẻ ngu mê. Rống lên pháp âm để chấn động người điếc. Cho đến bỏ thân chí đạo, chích máu cầu kinh, bỏ thân giữ cầm, đem mạng hàng thú. Bỏ ách thân nhiều kiếp thâu diệu chất một đời. Rồng ẩn Tứ thiên, lợi thấy Diêm-phù. Khinh bảy báu kia, trọng nhất thừa này, bỏ dạo thâm cung, giảm thiện hà trắc. Bỏ mũ báu ở rừng khổ. Giữ pháp y ở thợ săn. Vì thế có thể giá ngự tứ thiền, nương xe sáu độ. Dứt phục quần tà, đổi thành trở lại. Ba cõi không sợ lửa cháy. Bốn thứ dứt lo trầm luân. Mới phục tình còn, giải võng chí thượng hựu khiên. Mười tám lai tô, vạn nước hạnh sâu. Cẩn trọng trình bày có thể giao bên ngoài thi hành.
Kính bạch.
Vào ngày mồng tám tháng hai niên hiệu Chân nguyên.
Thị trung thần Văn-thù-sư-lợi, thị trung thần Tát-đà-ba Luân. Huỳnh môn thần Sư Tử hống. Huỳnh môn thần Xá-lợi-phất. Huỳnh môn thần Tubồ-đề.
Nghĩ Duy thức đạo hành quân phủ. Kính tâu việc bình tâm bày ra.
Nghĩ sử trì tiết nghi và tam ti lãnh đạo mười hai đại tướng quân.
Duy thức đạo hành quân nguyên sư thượng trụ quốc tấn quốc công thần Bát-nhã, đồng nói: Thần nghe bốn ma phóng mạng. Trải qua một đời cho đó là ngạnh. Năm trụ du hồn. Hàm thức do kia mà bị hoạn. Đây là do ba minh Thánh trí, mười phương hùng tôn, đâu không thường động thiên sư, thường hành đánh dẹp.
Cúi mong bệ hạ, rủ lòng đại từ mà mở vận, ứng minh cảm mà đến hẹn. Yêm trạch thần khu, quang lâm pháp hải. Thuật linh điển của vua trước, diễn viên âm của chúng diệu. Xét huyền mưu của bậc Thánh. Hội tịnh quốc của chúng sinh. Cõi nước Tam thiên đồng bẩm oai linh. Trăm ức các châu đều tuân thỉnh giáo. Chỉ có ngụy tâm chủ A-lại-da thức chuyên giả danh khí, thao thiết sinh dân. Vượt khỏi càn thành trải qua hằng năm. Thân mê muội trong cảnh mộng, đêm dài không trở về. Rất rối loạn đối với hoa đốm trong hư không, suốt năm như người say rượu. Đem phan duyên làm tấm bình phong. Dẫn thần hý luận làm màn che. Vùi lấp lê dân, nhiễu loạn chiến tranh. Bệ hạ ứng chân lý vật, điều tục ngự dân. Nhớ cá voi này, thương đồ khôi này. Trục chiêu thần dương tinh sắc đã hỏi tội tâm đình thần cảm hiệu dung hư, bẩm thừa kỳ lược. Ngày mười sáu tháng tư trước, quân thứ tâm cảnh, tức canh một đêm đó, cùng gặp giặc. Thần đối đây ẩn cơ mật hội, huyền khế minh trì. Tập trung thuyền, giáo mác ở bến sáu độ. Ra lệnh binh xe ở xe Nhất thừa. Truân doanh ba tháng. Dương thanh phạm để bày oai nghi. Bày trận chín tuần đánh tiếng linh để làm khí. Thức A-lại-da, vốn mê mờ không sáng suốt. Cố chấp thân không dời đổi. Như con bọ ngựa chống cự bánh xe, như con ong ngậm chất độc. Bèn khiến Ngụy hằng hành Đại tướng quân thức A-đà-na, đốc suất con em vô minh. Nhờ tấm lòng vô lại, cứ thủ thành Càn-thátbà cùng thần chống địch. Lại sai Ngụy tự tánh đại đô đốc tiên Ca-tỳ-la ngụy chấp thử Đại tướng quân Ca-chiên-diên tử dẫn dắt ô hợp, tụ kết bọn kiến.
Nghiêng ngã biên thùy, kích động thanh thế. Thần bèn phân bố các tướng, chỉ huy trù tính. Sai Nghĩ sử trì tiết bạt trần Đại tướng quân lãnh đạo bốn niệm xứ. Các quân sự suất đạo phẩm huyền khai quốc công thần cầu tri. Nghĩ sử trì tiết minh cảnh Đại tướng quân lành tu Bát Chánh Đạo. Các quân sự thông chân huyền khai quốc công thần như thật biết. Bộ Lặc nhiêu hùng tinh lưu điện chuyển. Tùy phương tiện các đạo. Cõi nước tịnh duyên. Thần cầu biết v.v... tìm danh xét nghĩa. Nhiếp ảnh tìm dấu. Chợt hoành hành ở giữa mật cung. Hoặc chuyển chiến ở lỗ hổng lân hư. Sự cùng lý tuyệt, cõi tận đường cùng. Minh tông do đó tiêu hẳn, số luận đối đây tan rã. Ca-tỳ-la đồng biết Đại thừa tồn tại. Thức huyền gồm nhiếp chỗ về. Binh tướng suy yếu mấy ngàn, đều đến xin lệnh. Thần thương sáng chiều kia, hứa sẽ tự mới liền khiến từ bi quán đạo sĩ đều vô duyên, tùy tiện an dưỡng. Ngụy gián nghị đại phu chất đế. Hoài dật quần chi tư. Phụ xuất thế chi kỳ. Đem cả nước để so sánh trở lại ách thân bị phiền thần.
Vào tối rằm tháng này, hiệp trung quân dũng khí, nương ngoại địch lìa tâm. Tay chống binh khí, thân tiên sĩ tốt viên mạng nghĩ sử trì tiết Đâu-suất đại tướng quân, Ta-bà đạo chiêu ủy đại sử thượng trụ quốc sí đầu mạt khai quốc công thần A-dật-đa. Nghị sử trì tiết diêm phù đại tướng quân Thiên Trúc, các quân sự thượng trụ quốc Phú-lâu-sa. Khai quốc công thần Bà-tẩu-bàn-đậu đều do đạo quá ba không, thần đi khắp bốn biện. Khiến cho kia vời lấy thắng thua, dạy bảo đúng sai. Lại sai Nghị sử trì tiết bình đẳng đại tướng quân kiêm hành quân trường sử thượng trụ quốc gia thanh lương huyền khai quốc công thần chánh niệm. Nghị sử trì tiết biến mãn đại tướng quân cùng hành quân ti mã thượng trụ quốc, thường lạc huyền khai quốc công chân như. Cùng thần trong ngoài huyền đồng, lại ứng tiếp nhau, vào lúc này. Bên thu khí mát, lấp ánh trăng lạnh. Tinh kỳ và vân hán đều đồng. Dao nhọn và sương trời tranh hơn. Giúp hoằng thệ viên thông, siêu hai quán mà tranh đến trước. Dẹp ngàn môn mà đều vào. Tuy sinh tử không bờ mé, nhưng một niệm thấy bờ bến kia. Trần lao có bạn trong khoảnh khắc thấy núi lở. Ngụy thừa tướng trần hiển ngụy phộc xạ, lự tư không chấp cầu sống đóng cửa tự chết.
Ngụy Tư Không Sư Tử Khải, Ngụy Tư Lệ Đạtma Đa-la đều hộ dư sư, tự anh sâu chứa. Hồ nghi tranh nhau khởi, sai lầm bắt đầu sinh, chịu nguy ách mà không thấy giúp đỡ, bèn luân vong mà chẳng thể giúp đỡ. Thức A-đà-na cùng với kia làm chính. Ngoài không giúp mạnh, trong ít thâm mưu. Thầy bạn khốn cùng, thành ao hãm đường. Quân thần thất sắc, tới lui không chỗ nương. Ngậm ngọc cúi đầu, dư sấn đợi tội. Thần liền bêu đầu Đà-na, thả để đế bị tù. Bỏ vương bị mê mờ kia, hiền từ kia. Phương tiện tông nhân không tuyệt, thường làm qua của mao thổ. Thế đức nối nhau. Thường tu lễ chức cống. Đối không khí khai đãng này, như hòa khí phản xuân thủy. Dơ uế trừ hết như gió mát mùa thu. Sáu căn siêu tuyệt, không xảy ra cái ngu đình chướng, ba cõi vắng lặng không sợ phong trần. Đây chính là oai quang xa giúp sĩ chúng đồng tâm. Há thần kém cỏi mà đến được, chí vui mừng không thể nói hết, kính nhờ hậu đức phủ biệt tương thần thấp trọng tri kính nêu bày, xin hết lòng nghe.
- Đời Đại Đường, chùa Tây Minh, Sa-môn Thích Đạo Tuyên soạn
- Đời Tấn, Sa-môn Chi Đạo lâm làm thơ khen Phật (8 bài).
- Đời Tấn, Sa-môn Chi Đôn vịnh hoài đại đức Thiền sư làm thơ nói về Sơn cư.
- Đời Tấn, Sa-môn Thích Tuệ Viễn, soạn lời tựa thơ niệm Phật Tam-muội.
- Thơ niệm Phật Tam-muội của Tấn Vương Tề.
- Ca từ Pháp lạc của Vương Nguyên Trường, đời Tề.
- Lương Võ Đế thuật thơ Tam giáo
- Lương Chiêu Minh, ở chùa Khai Thiện làm thơ Pháp Hội.
- Lương Giản Văn ở chùa Đồng Thái, làm thơ về Phù Đồ.
- Văn năm ấm thức của Giản Văn vịnh.
- Thơ Bách Luận xả tội phước của Lưu Hiếu Xước, đời Lương.
- Thơ Mông Hoa lâm viên giới của Giản Văn đời Lương.
- Thơ Giản ngật phú ba mươi vận của Chiêu Minh đời Lương.
- Thơ Dự sám trực sớ của Giản Văn, đời Lương.
- Đời nhà Lương, Giản Văn ở chùa Hưng Nghiệp giảng thơ.
- Tập thơ Hòa ngũ minh của Nguyên Đế, đời Lương.
- Đời Lương, Chiếu Minh ở Chung Sơn giảng giải thơ các nhân hòa.
- Đời Lương, Hoàng Thái tử làm thơ Bát quan dạ thuật du tứ thành môn.
- Đời Lương, Giản Văn làm thơ dạo chơi chùa Quang Trạch.
- Thơ Bị u thuật chí của Giản Văn đời Lương.
- Đời Lương, Thẩm Ẩn Hầu lâm chung dâng biểu.
- Thơ lâm chung của Tạ Linh Vận đời Tống.
- Thơ lâm chung của Sa-môn Thích Trí Khải, đời Trần.
- Thơ Đạo núi và Tạp thơ của Hà Xử Sĩ, đời Trần.
Trần Diêu Sát đến chùa Minh Khánh, Trướng nhiên hoài cổ.
- Thơ Dạo núi Nhiếp sơn của Thượng thư Linh Giang đời Tần.
- Thơ làm ở chùa Đại từ chiếu khi Lô Tư Đạo đời Bắc Tề theo hầu vua.
- Tạp thơ của Trương Quân Tổ, đời Trần (3 bài).
- Thơ Năm thứ Khổ của Sa-môn Thích Vong Danh.
- Thơ đến chùa Linh Nghiễm ở Phương Sơn của Dương Đế đời Tùy.
- Thơ lên lầu ngắm đèn xuân của Dương Đế, đời Tùy.
- Đời Tùy, Vương Vị thuật thơ Tịnh Danh.
- Thơ vào chùa Phụng Lâm của Tiết Đạo Hoành, đời Tùy.
- Thơ đến Tinh Châu, chùa Đại Hưng Quốc của Văn Đế, đời Đường.
- Thơ đến chùa Đại Từ Ân ở Kinh đô.
- Đời Đường, Pháp sư Tuyên ở Thường Châu vịnh Cao Tăng.
- Đời Đường, Pháp sư Tuyên đến Đông Sơn, Tìm hai Pháp sư Thù và Đàm.
Đời Đông Tấn, ở núi Ốc Châu, Sa-môn Chi
Đạo Lâm
Ba xuân điệt gọi tạ
Dầu hạ ngậm ngọc sáng An lành ngày thái bình Mênh mông huyền vắng lặng Bồ-tát thái linh hòa
Mênh mông nhân hóa sinh Tứ vương ưng mà đến
Kiểu chưởng thừa vương hình Phi thiên cổ nhược la
Đằng trạc rải chi anh Duyên lãn đồi Long thủ Phiêu nhị ế trôi chảy Hoa sen dục thân ba
Nghiêng cành hiến triều vinh Phương tân vụ bốn cảnh Cam lộ nhuận bình ngọc Trân tường doanh bốn tám Huyền huỳnh diệu tử hình Cảm long chẳng tình tưởng Sợ hãi không chỗ làm Huyền căn dân linh phủ Thần điều tú hình danh Viên quang lãng sáng đông Dáng vàng diễm xuân tinh Hàm hòa gồm tám âm Thố nạp mùi thơm bay Tích theo nhân sóng chất Tâm và thái hư minh
Sáu độ khải cùng tục Tám giải trạc thế anh Tuệ trạch dung không ngoài Không đồng vọng hóa tình
Đại khối huy khu tối
Sáng rực rỡ hai nghi
Muôn loài sinh hoa đẹp
Lóng trong ngưng huyền Thánh
Thích-ca nương linh hội
Viên thần đẹp cơ chánh
Giao dưỡng giữ điềm lành
Linh tri lưu tánh mạng
Động vi vụ hạ thi
Tịch vi vô trung cảnh
Chân nhân gieo thần hóa
Chảy, đọng vì có nhân
Rồng khen ấp Đâu-thuật
Phiêu cảnh bến Diêm-phù
Dừng xe ba xuân tàn
Ngựa bay Chu minh tuần
Tám phía vạch mây dày
Chín tầng trời rải hoa
Thần linh ca muôn khúc
Bàn giá tấu linh luân
Thuần trắng ngưng mưa thần
Lan tuyền đổi sắc thân
Đầu bộ ba tài thái
Dương thanh năm đạo dứt
Chẳng trái nên là quý
Vong kỳ nên kỳ thần
Xa ư, xa cổ tư
Tưởng thác do sự sinh
Tướng và đồ linh khí
Tượng ư, tượng hình kia
Xiêm vàng, màn chất lụa
Nguyên phục đà lụa xanh
Thần mà cung là tuệ
Tích mà động là hành
Nhà trống bày tiệc vui
Phát triển khởi tươi nhuần
Nghĩ tợ duỗi vui chơi
Ngã lượng tình tác giả
Ở đó sót chỗ chuộng
Tiêu tâm ngưng thái thanh.
Tinh lửa dưỡng trọng khí
Chu lìa thổ ngưng dương
Quảng chớ tán nguyên biến
Khởi gió nương hòa bay
Sức thấm nhuần vô biên
Bốn bộ kính vui mừng
Trong sạch lên nhà trống
Thanh tịnh hòa xuân sáng
Đêm sợ sương thu mạnh
Tiêu điều vịnh rừng đầm
Điềm tĩnh thành vị bàng
Dật dung nghiên xung cơ
Thải thài vận cung thương
Người thợ nắm thần nêu
Nương gió thổi cỏ thơm
Đạo hành nói hành sâu
Đẹp đẽ nói lý dài
Gắng gổ Duy-ma linh
Đức âm sướng du phương
Tráo lao mầu nghiêng huyền
Tuyệt trí do cận tạng
Lược lược vi dung giản
Tán tiếng chấn lưới đạo
Chọn phiền luyện câu trần
Ách đến dẹp chương hay
Rộng như sợ gió tan
Xa như ban đêm sáng
Ngụ ngôn há đã nương
Ý được thuyên tự táng
Thấm nhuần mầu tập dung
Ma ma khinh trần vong
Tiêu sách tình dữ đồi
Liêu lãng thần hiên trương
Ai cho bến tối xa
Nếu ngộ thì chống lại
Nguyện vi thầy Hải du
Chèo thuyền vào sông thương
Vượt sóng sấm nêu khách
Huyền quy hội đạo tràng.
Gian Dữ Hà phiêu kỵ kỳ đương vi hợp thành Bát quan trai
Ngày 22 tháng 10, tập trung những người cùng ý tại Ngô Huyện dưới mộ Sĩ Sơn.
Sáng ngày mồng ba là trai giới, Đạo sĩ, người tại gia gồm hai mươi bốn vị. Thanh hòa tú mục đâu không thanh tịnh.
Đến sáng ngày mồng bốn, các bậc hiền đều đi, tôi đã vui lặng lẽ nơi nhà vắng, lại có tâm tìm thuốc, liền một mình đi đến. Lúc đó bèn vẫy tay đưa về. Có tư tưởng hướng đến đường đi, tịnh cung hư phòng. Ngộ được chân ngoài thân, lên núi tìm thuốc và niềm vui bên vách đá và nước, để an ủi hai ba tình.
Kiến ý làm pháp trai
Lý nhân khế minh trù
Tướng và kỳ ngày tốt
Mộc dục tạo gò nhàn
Vui vẻ lên nhà hiền
Sáng sủa tâm tu sạch
Yểu điệu khách bát trai
Không kiền tự ràng buộc
Tịch mặc năm tập chân
Hăng hái lệ tâm nhu
Trống pháp tiến ba khuyến
Cảm động lời dạy bảo
Xót thương nguyện hoằng giúp
Mọi nhà đều đồng thuyền
Lời Thánh nêu rõ ràng
Ứng với lời mong cầu
Tồn thành giáp thất lý
Ba cõi khen thanh tịnh
Tốt đẹp quy tể tướng
Rậm rạp như mây nổi
Ba hối khởi buổi sáng
Hai sám vào trưa tối
Minh cầm giới trong sáng
Bị lễ tẩm huyền dịch
Tiêu sách đình tân ly
Phiêu diêu thích theo gió
Tần ngần ở đường rẽ
Giơ tay hạ nửa chừng
Ruộng trong nhẹ rong ruổi
Tập tập lăng điện kích
Tức tâm đầu từng bước
Linh linh chấn kim sách
Dẫn lĩnh vọng chinh nhân
Hận hận nhớ nghĩ chứa
Khuất thân chẳng có ngã
Vật ngoài đã vắng lặng
Ngâm vịnh quy hư phòng
Thủ chân ngoạn u trách
Tuy phi một lần qua
Thả dĩ nhàn tự thích
Tĩnh một tán bồng lư
Từng âm vịnh đầu tiên
Hoành mạc chỉ rừng nhỏ
Để vườn lệ khích giũ
Tùng dung hà tưởng dật
Thái dược lên bờ cao
Nương vách lên ngoài tầm
Tiêu điều đến vạn mẫu
Nhìn núi vui thông tươi
Ngắm đầm buồn sách liễu
Giải đới dài chỗ rẽ
Ta-bà sông xanh hữu
Gió lạnh giải phiền não
Suối lạnh rửa ấm tay
Vắng lặng thần khí sướng
Kính như bàn rừng xuân
Đạt độ thầm ba tài
Hoảng hốt đáng thần ngẫu
Du quán đồng gò ẩn
Thẹn không hóa trữu ngay
Cao ngạo nương thơ sách
Ngày qua rồi tháng lại
Như táng khốn sóng gió
Lưu lãng theo vật dời
Giữa đường cao vận ích
Yểu điệu kính trọng huyền
Trọng huyền ở hà hứa
Tìm chân ở trong lý
Lựa chọn vì ta dưỡng
Tiêu diêu khiến ta nhàn
Liêu lượng tâm thần sáng
Chứa đựng sáng tự nhiên
Bồi hồi trầm tình khứ
Rực rỡ lòng tươi mát
Do dự xem tượng vật
Chưa thấy hết toàn trâu
Lông Lân có chỗ quý
Chỗ quý ở quên nơm
Ngồi thẳng lân cao cảnh
Mênh mông nghĩ công lao
Nghiêng chân thân dây cương
Lĩnh lược gọi chung thư
Đến già cáp song huyền
Phi trang ngoạn thái sơ
Vịnh phát thanh phong tập
Xúc tư đều điềm đạm
Cúi vui chất văn tốt
Ngưỡng bi hai tượng tồ
Tiêu tiêu trụ hướng
Vắng lặng mông ấp trống
Mở mang việc ngàn năm
Tiêu dịch về không vô
Không có đâu bị thương
Muôn khác về một đường
Đạo hội quý tưởng thầm
Vong tượng xỏ châu đen
Khiến nước đục thành trong
Cơ quên soi nước trong
Úp gương về lóng lặng
Dung và làm đạo phù
Tâm và lý lý mật
Hình và vật vật sơ
Tiêu sách do việc đi
Riêng cùng thần minh cư
Mặt trời hy xuân phố
Du miến khen thời quan
Cảm vật nghĩ chỗ gá
Tiêu điều dật vận thượng
Còn nghĩ Thiên Thai cao
Phảng phất đều kính ngưỡng
Gió lạnh đẹp rừng lan
Ống sáo vang tiếng xa
Ven trời nuôi dây sắn
Thần sơ đều nhuận trường
Chu sa ánh chiếu soi
Phương chi diệu năm hiệp
Từng cạnh trọng vẫn sâu
Mắt mắt động đá rộng
Trong có tầm hóa sinh
Thân ngoài giải thế cương
Bão phát trấn hữu tâm
Huy huyền phất vô tưởng
Quỵ quỵ hình nhai đồi
Huýnh huýnh thần vũ sướng
Xoay vần vô tạo hóa
Phiếu miết lân nhân tượng
Nguyện đầu nhược nhân tung
Cao bộ gậy chấn sách
Nhà nhàn gá tĩnh thất
Vắng lặng hư thả chân
Dật tưởng tuôn trên đồi
Mông lệ vọng u nhân
Khái hỷ huyền gió thấp
Giao giao lìa nhiễm huân
Thời vô vấn đạo ngủ
Hành ca e nhân gì
Linh khê vô kinh lãng
Bốn núi không hạt bụi
Dư tương dạo núi xem
Giải giá chuyết chi luân
Phương tuyền đại cam lễ
Núi quả kiêm hành trân
Du lâm sướng khinh tích
Mưa đá tí vi thân
Sùng hư tập bổn chiếu
Tổn vô quy tích thần
Vì noãn noãn phiền tình
Giọt giọt trọng khí mới
Gần chẳng khách trong xứ
Xa sợ vi, vô vi
Cô tai tự có bạn
Đất sẽ nở hoa đẹp
Sáng trời chảy ánh quang
Thần lý mau chẳng mau
Đạo hội không lấn áp
Siêu siêu giới người đá
Ác huyền lãm cơ lĩnh
Dư sinh nhất hà tán
Phân chẳng giúp mé trời
Chìm vô minh đến vận
Biến bất dương ủy bính
Nhiễm nhiễm niên vãng tuấn
Du du hóa mong mãi
Kiều thủ hy bến huyền
Tưởng đăng cố chưa chánh
Sinh đồ tuy mười ba
Ngày đã tạo cảnh chết
Nguyện đắc lý vô thân
Đạo cao xung mật tĩnh.
Chim lượn hót Côn Luân
Chí ẩn vọt hư không
Hoảng hốt về Linh hàn
Sắc bền thê nam ngu
Trạc túc khuy lưu lan
Thái luyện chứa thần sơ
Cao ngâm súc phương lễ
Bay liệng lên thần ngộ
Túc túc kha minh phiên
Mênh mông dục thanh khu
Tưởng lâu huyền vận dời
Cúi đầu đợi linh phù
Sông trong thành có lúc
Chắp cánh khiến nhọc người
Tổng giác đôn đại đạo
Hai mươi lộng song huyền
Lần lượt thích trường la
Cao bước tìm vua trước
Diệu tổn giai huyền lão
Vọng hoài lãng hào xuyên
Đạt quán đều làm được
Xuy lụy đều tự nhiên
Cùng lý ghét linh tân
Chiêu chiêu thần hỏa truyền
Hi di an xung mạc
Ưu du lạc tĩnh nhàn
Cao du không vị nếm
Quyến luyến phi nhã huyền
Nguội tâm ủy hình độ
Lớp lớp tùy hóa dời.
Tưởng xa còn nhiệm mầu
Gió lộng nhất hà sưởng
Phẩm vật nhóm huy hoàng
Sinh đồ liên hoảng hốt
Đã táng đại trừng chân
Vật dụ thì trí rộng
Xưa nghe bào đinh tử
Huơ giáo nhậm thần đến
Cẩu năng từ xung âm
Nhiếp sinh vẫn chỉ tay
Nương kia lai vật gian
Đầu thử im lặng chiếu
Xa độ suy cuộn duỗi
Vọng hoài gá võng tượng
Giao lạc doanh ức câm
Thần hội để cúi ngước
Đại đồng la muôn khác
Úy nhược đủ diện võng
Gửi gắm biển khu hương
Ủy hóa đồng trời đất.
Tôn Trường Lạc
Làm một tượng Đạo sĩ ngồi thiền và khen ngợi, có thể cho rằng: Phủ đối gởi tâm thành, cầu tham yên hoành ách. Thế núi rừng cao tuyệt.
Tưởng y nhân ở đây. Dư tinh kỳ chế tác, mỹ kỳ gia văn, bất năng mật dĩ, liêu trước thư một bài như dưới đây:
Vân sầm rất hoang sơ Rơi rơi như tấm vải Trở lại với suối lan Túc lãnh tán gia thọ Úy hội vi du cầm
Tranh vanh bặt nẻo bước Trong có xung hy tử Ngồi thẳng mộ thái sách
Tự cường giúp thiên hành Chí hèn chẳng muốn đi Ngọc chất lăng gió sương Se lạnh xệ thanh thú
Dốc lòng khế thông lạnh Trù mâu mát chiều về
Trong hội giữa hai dứt Miên miên tiến việc thiền
Đầu nhất diệt quan biết Nhiếp hai do thần gặp Thừa điêu lụy ách hoàn Lụy mười cũng ngưng chú Huyền tâm đất vô khí Diệu nghiên cách thô lự Minh hoài di chấn kinh Sợ sệt tứ u độ
Gặp lồng duyên sáu tịnh Không đồng dứt thất trụ Thệ hư thừa hữu lai Mãi mãi là hữu đãi.
Ngũ Nhạc bàn thần cỏ
Tứ Độc chảy sông ngòi
Động cầu nhìn phương trí
Yên giữ nêu tĩnh nhân
Nếu không yên xuất xứ
Nương gá nhân hữu thường
Tìm nguyên còn chung cổ
Tưởng rỗng suốt ẩn dật
Ngọc sạch kia dưới núi
Tiếng vàng suốt sông nghi
Cuốn Hoa Tạng rối rắm
Chấn hạt phủi bụi trần
Dẫu từ sâu nhỏ khuất
Đạo và ngựa mạnh ruỗi
Tuấn vô đơn báo phạt
Phân chẳng đầu dương chân
Thở dài về núi rừng
Tốt đẹp dụng người tài.
(Đời Tấn, Thích Tuệ Viễn núi Lô) Tựa rằng: Gọi "Tam-muội" nghĩa là gì?
Nghĩa là chuyên tư tịch tưởng.
Tư chuyên thì chí nhất không phân biệt.
Tưởng tịch thì khí rỗng thần sáng.
Khí rỗng thì trí điềm đạo soi chiếu kia.
Thần sáng thì chẳng u chẳng suốt.
Hai điều này chính là huyền phù tự nhiên, hội nhất mà chí dụng. Thế nên cảm vật thông linh, ngự tâm chân chánh, động ắt nhập nhiệm mầu. Đây là mượn việc tu để ngưng thần, chứa công để chuyển tánh. Còn hoặc như thế, huống thân ở tọa vong, minh hoài chí cực, trí lạc vũ trụ, đến chỗ đại phương vi? Xin nói về lúc ban đầu kia.
Bồ-tát mới lên đạo vị, vừa để ý huyền môn. Thể vắng lặng vô vi mà không đâu chẳng vi, sánh bằng thần biến kia. Khiến cho dài ngắn cách thường độ, lớn nhỏ trái lẫn nhau. Ba quang hồi cảnh để soi chiếu, trời đất co duỗi mà nhập hoài.
Lại các Tam-muội, tên kia rất nhiều. Công kia dễ tiến, niệm Phật là bậc nhất.
Vì sao gọi là cùng huyền cực tịch tôn hiệu Như Lai? Thể thần hợp biến ứng không từ phương hướng, cho nên khiến cho đây nhập định. Mờ mờ quên biết tức sở duyên để thành gương soi. Sáng thì soi chiếu bên trong sáng tỏ muôn tượng đều sinh. Chẳng phải chỗ tai mắt đến mà nghe thấy thực hành ư? Đối với đây thấy được thể ngưng đọng hư cảnh. Ngộ thì linh căn vắng lặng thanh tịnh tự nhiên. Xem xét huyền âm khấu tâm thính, thì trần lụy thường tiêu, trệ tình dung lãng. Không phải chỗ chí diệu của thiên hạ thì ai chung với ở đây. Xét theo đây thì nhất địch chi cảm bèn phát chín tập lưu phú, dứt trọng mê của hôn tục. Nếu dùng sở duyên của các định thất phu, chẳng được nói sự hơn kém kia, rất dễ chịu. Đây là do phụng pháp các bậc hiền đều cảm khế hợp nhất đạo, cảm đồi cảnh tấc bóng. Sợ lai trữ chưa chứa nhóm. Đối đây rửa tâm pháp đường, chỉnh y thanh hướng. Phần đêm quên ngủ. Đêm trước chỉ siêng năng, đồng đến với chín duyên. Ngưỡng viện siêu bước bạt mâu chi hưng thương xót dẫn dắt kẻ yếu tiến bộ, sách tấn người học sau kia. Do đây mà xét, huy hàn của các thiên đâu luống văn vịnh mà thôi?
Diệu dụng sâu mầu
Thiệp có lãm không
Thần do muội suốt
Thức để chiếu thô
Chứa vi tự dẫn
Do công vốn rỗng
Dứt ba quán kia
Quên mảy may kia
Tịch Hán hà thỉ
Lý mầu thông suốt
Dung nhiên quên thích
Bèn rộng linh huy
Tâm xa bờ cõi
Không được theo cơ
Dụng đó để vui
Hội đó để mong
Thần giúp thiên ngưng
Viên ánh mây sáng
Cùng hóa mà cảm
Cùng vật thành bầy
Ứng không dùng phương
Người thọ tự phân
Vắng lặng gương sâu
Vàng, nước bụi xen
Khái tự một đời
Túc chi tuệ thức
Nương gá uyên nhân
Nương nhờ sức thầm
Chuyển đổi công phu
Chỗ sâu chỗ rộng
Một niệm chí thành
Chú tâm Tây cực.
Sâu thay đạt nhân
Thần kia thấu triệt
Cảm mộng hồn giao
Mở Thánh triết này.
Tiếng phát khắp núi
Tức phát u thành
Tiếng vào trong tai
Vui mừng Thần chánh
Vâng mạng tiêu du
Trăm lo đồng tối
Gởi tâm ở nguyện
Hóa chính hàng linh.
Quy đồ sắp mở
Cửa linh lại mở,
Thần công khó vẽ
Đợi tổn mà ích
Tin đạo quên mình
Vui không kỳ hạn
Không phải triết nhân
Ai tìm lời hay.
Vực sâu êm êm
Đạo huyền cùng tận
Như biển lớn kia
Trăm sông đều dẫn
Bờ không đợi bến
Đường vô toàn chẩn
Ba dòng mở nguồn
Nơi đây cùng dứt
Đẹp thay Chánh giác
Thể thần do không
Động không có bờ
Tĩnh không lân hư
Hóa mà chẳng biến
Tượng mà không mẫu
Chiếu chân tánh kia
Soi các thô kia.
(Đời Tề, Vương Nguyên Trường)
Trời dài mạng tự ngắn
Đời ngắn đạo thênh thang
Đường thiền xe rộng xa
Biển ái thuyền loạn khinh
Lụy trần chưa hề hết
Tâm thọ đâu đếm được
Bụi trần dùng gì rửa
Nước chánh có dòng trong.
Trăm thần rất cung kính
Ba linh sớm vượt qua
Thường chiếu khắp phương nêu
Huân phong động lan nguyện
Chu vinh tạo ao ngọc
Lông chim tô ngọc khuyết
Hạo thuế không luống đến
Giao luân đâu luống khởi.
Đã giữa xuân năm tốt
Sao sáng chưa nửa đêm
Thiên tự chung ngơi nghỉ
Muôn nước từng tốt đẹp
Kim thân giúp cảnh tối
Tóc đẹp mang thần quang
Biểu trần chỉ tịnh giác
Phàm tục là luân hoàng.
Nhận khí biến lìa cung
Trùng khác kính tầng điện
Tiếng ngân cảm tâm thần
Thân tu khởi vui vẻ
Sinh già rồi luân hồi
Bệnh chết đang bước đi
Mới là đến nước tịnh
Đâu kết ách thành luyến.
Cành xuân nhiều bệnh yểu
Lá thu ít tốt tươi
Thân tâm trọn tàn diệt
Thân ái tạm thời sinh
Gió mạnh thổi Bắc Lũng
Nước mạnh gấp Đông Lay
Biết ba tình đã vui
Được một thêm bền vững.
Phi sách từ quốc môn
Đoan nghi yển giao thọ
Từ ái luống nghĩ nhau
Trong phòng không luyến mến
Phong lệ trái vãng đồ
Chân ngựa một đường về
Giơ tay tạm biệt người
Đắc đạo lại trở về.
Minh tâm mở mười phương
Tịch lự chung bốn thiền
Chim xanh nương vết ẩn
Văn ly cảnh trọng xuyên
Thứu nham tiêu viễn thắng
Lộc dã cứu thanh huyền
Không hy vọng của báu
Làm sao dắt mông tuyền.
Đình đình cao tới mây
Ngất ngưỡng thần sương kết
Trên sông không bồi hồi
Giữa cành đều biến diệt
Linh trí vắng thường nhiên
Phù ứng có đủ thiếu
Cảm vận lại có nghi
Nhàm chán cõi nhân gian.
Xuân sơn ngọc đã chứa
Đàn lâm cỏ đã rậm
Dẫn lửa về đốt cháy
Rót nước từ đê trong
Vườn nhà chẳng vết khác
Kỳ quan có đồng bạn
Ngang nhau không xưa nay
Tiếp Võ há Yến, Tề.
Xưa ông khinh năm tháng
Đây cũng trọng thời gian
Trong phòng bỏ diên đại
Dưới cửa bỏ trâm anh
Thiền duyệt gồm phương chỉ
Pháp hỉ quên cầm thanh
Một khác không thể nói
Vinh nhục gì là tâm.
Cao lớn đến hư không
Xa xôi tận gió xa
Đằng phương thanh Hán lý
Tiếng Phạm cao trong mây
Hoa vàng thật tốt tươi
Cây huỳnh đây hành xanh
Tâm thành duyên cảnh tịnh
Nghiệp sâu nối Thiên cung.
Bóng tiếng không hề cách
Tối sáng đâu có gần
Hoằng từ gần rồi xa
Tuệ hậu phiến cao trần
Trong cõi đề phước lớn
Ngoài nước thấm nhân sâu
Muôn năm giữ phước nước
Ức triệu vui dân Đường
Chùa Tê Huyền nghe giảng xong đến các phủ, cộng bảy vận ứng từ đồ giáo (Vương Dung đời Tề):
Nghiệp đạo hơn xa đây
Tâm địa nhàn hay rỗi
Quế cháy uất sơ tải
Lan trì thản tương bích
Hư diêm đối trường tự
Mái cao lâm quảng dịch
Phương thảo liệt thành hàng
Cây gia phân như tích
Gió thổi chuyển hoàn kích
Khói trong rộng đá cứng
Mặt trời gá chiếu hồng
Thông ánh thủy hoa bích
Sướng tai nhân ngoại thưởng
Trì trì xuân sắp tối.
Lúc nhỏ học Khổng, Chu
Hai mươi rành sáu kinh
Hiếu nghĩa và phương sách
Nhân thứ Mãn Đan Thanh
Tiễn ngôn quý khứ phạt
Làm lành nơi thích sống
Trung niên xem sách đạo
Có tên và không tên
Diệu thuật chạm bảng vàng
Chân ngôn ẩn thượng thanh
Mật hạnh quý âm đức
Hiển chứng lúc trưởng thành
Tuổi già xem sách Phật
Như trăng soi các sao
Khổ tập mới hiểu biết
Nhân quả mới rành rõ
Giáo pháp chỉ bình đẳng
Chí lý quy vô sinh
Căn phân biệt khó đồng
Tánh chấp trước dễ sợ
Tột nguồn không hai tánh
Việc lành không ba anh
Cây xuân lớn ức thước
Cỏ nhỏ tài vân manh
Mây nhiều giáng mưa lớn
Tùy phần đều được tốt
Tâm tưởng khởi hiểu khác
Báo ứng có hình lạ
Sai biệt đâu tác ý
Sâu cạn vốn vật tình.
Chim đậu vẫn chưa bay
Mạng giá xuất sơn trang
Khuất khúc lên lĩnh ngựa
Xen nhau vào ruột dê
Vừa thấy nguồn rậm rạp
Dần thấy núi xanh xanh
Sao rơi vùi cây xa
Sương móc khởi ánh trời
Ao âm túc tảo nhạn
Gió lạnh giục sương đêm
Đất này tin nhàn tịch
Thanh tịnh chỉ đạo tràng
Cây ngọc nước lưu ly
Màn lông vũ, giường vàng
Quế đỏ, đất san hô
Cờ thần, ngọc trăng sáng
Khiên la xuống thềm đá
Phan quế dựa thân tùng
Khe nghiêng trời sắp lặn
Khói sinh lầu nửa tạng
Ngàn năm có gì xa
Trăm đời quy ngã cùng
Gương vắng lặng vô phương
Pháp luân nhà tối sáng
Biển tuệ vượt thuyền từ
Trần căn lâu chưa gội
Thấm nhuần giũ ánh sáng
Xa thấy Quan Phật đồ
Ngọc bích lại rũ châu
Chúc quân vượt Hán Nhữ
Bảo dịch mại Côn Ngô
Trời sáng tia ánh tỏa
Phong ngâm cung riêng khác
Lộ rơi đầy Bàn hằng
Đồng sinh phụng dẫn chim
Cờ bay xen cầu vồng
Họa ô hiệp thần oan
Phạm thế lăng dưới không
Ứng chân tệ cảnh xu
Đế mã đều ngàn dây
Thiên y đều sáu thù
Ý vui khai biểu dài
Món báu hiện toàn thân
Khiến cho qua biển khổ
Lại khiến vượt ngã mạn
Nguyện hay đồng bốn nhẫn
Thường ra khỏi chín cõi.
Phó quân ngồi bay quán
Bêu thành thuộc rừng lớn
Cửa vua tuy thông suốt
Lộ tháp lại ngàn tầm
Trúng lô xuất hán biểu
Tằng cung mạo vân tâm
Côn sơn ngọc chạm khắc
Nước đẹp vàng ánh sáng
Thuyền bàn đồng sương tay
Phụng đáp tợ thú bay
Trăng lặn thềm tây ám
Mặt trời đi đông xâm
Ngược dòng khai quyến thuộc
Ngọn bút động áo thần
Nguyện nương thuyền trở lại
Ra hẳn khỏi sông ái.
Ánh sáng thật xán lạn
Tháp vọt lên ngàn trượng
Nghi phụng khác chim linh
Kim bàn thay tay tiên
Tích củng thừa điêu giác
Mái cao đỡ mành châu
Đất báu như cát ao
Chuông reng như tiếng cây
Khoảnh khắc sinh ngàn biến
Nét vẽ họa muôn tượng
Sương mù lúc có, không
Thần tiên chợt đến đi
Sương sáng nửa tầng sinh
Cờ bay tiếp trên mây
Nghê đi đâu dám dừng
Gà bay đâu thể ngước
Khen lành giúp triết nhân
Lưu vịnh quy minh lưỡng
Nguyện nương thuyền bè kia
Bờ kia ai nói rộng.
Xa xa lên bầu trời
Chiếu điện gần Đông kinh
Bóng dài đến hai cửa
Cao vượt quá chín thành
Cũng tích hành vân ngại
Phướn động làm chim sợ
Phụng bay như mới đậu
Sen nở như mới mọc
Luân trọng đối trăng tròn
Tiếng chuông giống tiếng loan
Vẽ dòng nước toàn chảy
Họa sắc mây nửa nhẹ
Bày vãng bàn như giọt (nước)
Ngọc vào lửa lại sáng
Tùy vọng uyển rộng lớn
Lại tiếp thành cát bạc
Dưới điện quế Thiên hương
Tiên Phạm nhập y sinh
Nghe tám món giải thoát
Mới bỏ sáu trần tình.
Ánh sáng rõ phụng đáp
Trong sương thấy loan bay
Định dụng nước hương chư
Trì thiểm thừa lộ bàn.
Nước chảy cuộn thần nhân
Tâm hình lại nương sắc
Sóng dục theo tình bay
Lưới ái tùy tâm kéo
Vàng đúc tuy đổi hình
Trảm trù phương vị cực
Bồ câu xem không rõ
Vượn vịn đây đâu dừng.
Tìm nhân, đường bèn khác
Và bỏ đường vẫn cùng
Tột khổ trở lại vui
Tột vui khổ lại sinh
Há không luân hồi ái
Đều mê đắm ở tình
Mỗi mỗi biết tâm tướng
Nhiễm lạc pháp lưu thanh.
Người ngu đắm thế lạc
Tục sĩ trọng hư danh
Ba không đã khó rõ
Tám gió thường dễ nghiêng
Người ta đều đồng vật
Vốn tự một khô, tươi
Tuổi già ưa cô đơn
Do sau thọ bá thành
Phi vi ưa phì độn
Trì thị yểm phùng nghênh
Cầm ngọc giữ nước Phiên
Chủ khí làm nguyên trinh
Ngày xưa vẽ chữ bạc
Lâu tự thẹn tông anh
Đây há đeo ấn vàng
Do đâu đức rộng lớn
Ở cao thường lo thiếu
Cầm đủ hay sợ đầy
Đây nói tin không mạnh
Lòng son tốt đáng nói
Ghe thuyền phụng lời dạy
Dắt dẫn giáng hoàng tình
Đèn tâm sáng nhà tối
Thuyền chắc ra biển ái
Tiết đây cao thu vãng
Khí trời mênh mông trong
Giao môn quang cảnh đẹp
Cầu năm mây móc sinh
Trong sen đỏ thanh tỏa
Sương tím ướt nhà đỏ
Diệp mới qua kính sơn
Suối chảy reo quanh núi
Áo xanh nương ven sông
Trán đỏ phát trong rừng
Được tám thứ giải thoát
Mới khiến sáu trần nhẹ
Khi nghe thì bỏ được
Không xả bỏ trọng thành.
Hoàng tinh thương huyễn tục
Thánh đức xót kẻ mê
Chế sách khai nhiếp thọ
Tơ nhỏ rộng tuệ môn
Xưa, anh hùng đầy nước
Bạn pháp thạnh cõi trời
Lấp hết phược năm đường
Cùng dẹp oán bốn loài
Ba tu trừ ngựa ý
Sáu niệm tịnh tâm vượn
Sân rộng rừng đẹp đẽ
Đất lặng chim hót ca
Trên gió thổi ốc pháp
Chuông reo nơi mái hiên
Mai mới đều chưa nở
Quế rụng nhóm trở lại
Khói sớm chứa thềm đá
Thủy triều ngâm cửa sông
Một sớm khéo dẫn dụ
Mới mong khỏi lồng chim
Ngọc tuyền lậu đã hết
Cửa vàng sáng chưa thành…
Hoàng Thái tử, thơ phụng hòa sám hối. Bèn dâng Hoàng Thần, tột Thánh chỉ tức sớ hàng, cùng chỗ dùng mười vận tâm rộng lớn vui mừng chưa từng có vội sưu tầm các vận khác liền nêu lỗi lầm:
Nhất thánh trí sánh sáng
Đức vua sáng bốn biển
Gánh vác thật du thuộc
Độ thoát thật ở đây
Sám thuyết tề mông ngu
Suy tâm trừ khinh khi
Danh tăng dẫn định tuệ
Triêu anh nêu nguyên khải
Hoàn mê nhờ người lành
Phản tâm do chân thật
Hòa linh lẫn thổi âm
Phướn đẹp sáng màu tuyết
Bèo sáng muốn rút lá
Bụi tre muốn rũ cành
Hết lòng thương xót đến
Lòng thành tin gấp bội
Đẹp đẽ như sương mù
Hoa lan như hạt châu
Dẫn dụ muốn kế tục
Xá hào quỷ văn thái
Pháp uyển gọi gia nại
Vườn này trúc đẹp dài
Linh giác vời ảnh nhau
Thần tiên và tê túc
Tuệ nghĩa sánh ngọc quỳnh
Huân nhiễm dụ lan cúc
Lý huyền sánh mười kế
Công sâu như chín nhà
Hoa thủy sợ ghe bạc
Phương cù xếp trục vàng
Lời nói dứt đã lâu
Phiền lao ràng buộc nhiều
Do đây mở mây tuệ
Muốn cho phục tâm trần
Tám nước nhuần tiêu nha
Ba minh mở các mắt
Chuông báu sáng không đều
Danh hương tối ngào ngạt
Tạm bỏ sáu xe ngựa
Bỏ đi hai xúc này
Cây ý tu hoa trời
Sen lòng nghe thơm phức
Đây dụ biển khơi động
Như trái Am-la chín
Diệu trí như gấm màu
Lời thâm đồng sương mốc
Khéo học đồng Phạm trảo
Chân ngôn khác tâm đồng
Thấu suốt bao gồm thành
Ngọc trúc bày vàng rực
Châu hoa rợp tám khe
Dòng ngọc thông chín hang
Thú xanh chợt xuống lên
Nhạn trời bay trở lại
Nói lớn thuộc lúc nghe
Ít nghe luống tự thẹn
Trời sáng tổ uyên ương
Gió qua nhà nhền nhện
Hoa rơi rải hương xa
Mây nổi cuốn loài xa
Sông rộng đồng vườn voi
Trung thừa như dừng riêng
Lửa sau khó vững chắc
Sơ tâm dễ lui sụt
Nên phải lìa hoa nước
Chẳng nên trái cây sơn
Núi cao không đáng quý
Rừng rậm đâu thể giữ (yên)
Khí nguyệt ít giữ bóng
Tâm khôi nhiều phương khác
Thấy ái đồng tìm ong
Dạo thiện như nguyên thục
Tám ấm núi tiên nhân
Bốn sáu thần long úc
Dược thọ thường rậm rạp
Cành thiền đâu điêu khắc
Nhờ đây vui nghe đạo
Hầu bỏ được lo lắng
Nguyện truy lộ xe báu
Thoát lý thân suy cốc.
Mộc phương sớm mang lấy
Giá ngôn chỉ tịnh cung,
Hai cánh còn in bóng
Nạo thổi tạp hoàn phong
Ngô qua hạ bắn tên
Ngựa ký ghi thẩm cung
Nước chiếu liễu xanh rờn
Khói bay đào hồng lợt
Do có sáu trần phược
Từ lâu năm triền che
Thấy Hạc luống biết lầm
Xét voi lý khó đồng
Mới biết thẹn bốn biện
Đâu thể nói ba không.
Đức vua thấm cõi nước
Rũ áo bày thái bình
Huỳnh đường thẹn mậu thật
Con tợ thẹn tiếng hay
Trị gia bày năm lễ
Công thành tấu sáu anh
Hấp dẫn lưu thần giám
Ghe thuyền động thấu tình
Pháp vương chỉ một pháp
Vô sinh tin bất sinh
Nhân nhân từ đây thấy
Quả quả từ đây rõ
Nguyên lương ngưỡng phó hậu
Hàm nhất chấn hồng danh
Quy tạng du khải thệ
Lỗ lại quan xuân khanh
Cung nhật đẹp khí này
Điện nguyệt khéo gió mát
Khí tiền tệ Tây quán
Màn che cuốn nam vinh
Cửa vàng luyện trống sáng
Bầu ngọc nghỉ canh đêm
Cung quý lưu hiểu hợp
Thành ô xâm thự minh
Lộ quang trên cành động
Bóng ráng trong nước nhạt
Kém cõi nay việc gì
Luống biết luyến pháp thành.
Chung Nam gần cửa Hán
Cao chưởng vượt chu kinh
Đây lại thiếu Thiên lãnh
Khung long cách thành vua
Ngay đường lập quán châu
Lâm hạ dựng sơn doanh
Nam nhìn tận sông Hoài
Bắc ngắm tới sông Thương
Bộ đam thời trung túc
Phi giai hoặc thượng chánh
Nhà cửa họa vân khí
Trang thất vẽ tiên linh
Phó quân thương lưới đời
Quảng mạng tụy nhân anh
Đạo diên chung hậu nói
Loa bí xuất giao hướng
Vân phong hưởng lưu xuy
Thông dã ánh phong tinh
Duệ tâm gia đổ nhược
Thần tháo mậu lâm quỳnh
Đa tạ tiên thánh thường
Không ban hậu thừa vịnh.
Tung Nhạc dựng chữ xưa
Bàn lãnh vượt Nam kinh
Tâm sáng trọng thiền thất
Ngựa chạy vượt quá thành
Xe vàng từ từ chạy
Ngựa kiềm nhảy lại hí
Đồ phương sau trần hợp
Địa huýnh trước già thanh
Quanh co do đài thọ
Không bằng bởi cờ bay
Cao tùy gió thổi lớn
Thế cùng nguyên thiên tinh
Khí hiết liên thông xa
Vân thăng thu dã bình
Bồi hồi đến thôn ấp
Trong ngoài thấy sông Hoài
Quả báo tôn thường trụ
Cạn tuệ ở vô sinh
Tạm giữ phép núi đá
Muốn biết phương đỗ tình
Đảnh lễ nhờ vui mừng
Chiêm ngưỡng nghe tiếng tụng.
Ngự hạc bay y thủy
Sách Mã ra vương điền
Ta dạo nơi Kỳ Thứu
Sánh việc thật sáng suốt
Dù đẹp che cảnh sớm
Cờ Châu kéo khói sáng
Lầu trước đẹp hang núi
Đề tổ đẹp rừng, ruộng
Huống ở đất đăng lâm
Lại đến gió mùa thu
Nhánh cao biến trăm hoa
U nhàn sạch sông suối
Đình loan đối tòa báu
Biện luận vui trời người
Yểm trần giúp nước biển
Chiều tối nhờ đốt đèn
Pháp bằng nhất dĩ tán
Già kiếm nghiễm tương toàn
Gặp gỡ nhiều tốt đẹp
Nương nơi bạn hiền tài
Lồi khéo tuy gồm dạy
Ân hận riêng bài cuối.
Vui đẹp đến mái Đông
Xe cộ đến vườn Tây
Tuy tột lễ dạo chơi
Trọn vì trần tục ồn
Đâu bằng hoằng bảy giác
Giơ linh khởi bốn cửa
Khí đêm sạch ống sáo
Trận sáng sớm giao nguyên
Gió núi loạn Thái mạo
Sơ cảnh đẹp văn viên
Lâm khai tiền kỵ sính
Kỉnh khúc vũ toàn truân
Yên bích phù chim xanh
Thạch lại hưởng phi bôn
Hồi tình dưới lầu gác
Hàng đạo phát chân nguyên
Bàn không đủ suối chảy
Chuế tảo mại huyền phồn
Khinh sinh gặp quá lầm
Linh tác liễn rồng chim
Nguyện dĩ đồng chim tước
Hà dụng ấp cù tôn.
Kính yêu ánh sáng kia
A triền sinh dễ bẻ
Vô nhân tuyết cỏ bờ
Lự trái Mang sơn huyệt
Khô cạn da, sáu tạng
Đau đớn các thân phần
Làm sao trong xúc linh
Lo khổ không tạm dừng.
Hư tiêu thật dễ phạm Ách Đằng lại sẽ đứt Thường tùy kha đã ít Năm nay tin trường quyết Đã đồng Ngựa non đi Lại giống hoa hồng tàn
Một hôm, nghiên hanh bỏ Cô đăng hành tự lập.
Tâm chậm tuy đã khác
Cảnh diệt đâu hơn kém
Tùy theo gió nghiệp hết
Đều trở về luống dối
Năm ấm thật là giả
Sáu đường đâu có đứt
Suy tàn đều trở về
Ưu tư không kết nhau
Tục huyễn sinh ảnh không
Ưu nhiễu tâm trần tối
Ở đây trừ bốn triền
Bỏ đó, cầu Niết-bàn
Người học sau để tâm
Mới từ sâu xa khác
Đã buồn cảnh tướng không
Lại làm mây huyễn diệt
Không bệnh thật dễ lành
Bị bệnh nên có khỏi
Luống biết lợi năm màu
Trọn buồn rơi chín suối
Đã thông tuyết, sơn thảo
Bệnh nặng có ai thương
Lại lo chìm biển khổ
Do đâu quả Tịnh Thiên.
Xưa giống sen màu hồng
Tựa ở bên ao trong
Nay như cây hoa trắng
Lại buồn trước gương sáng
Ba trẻ muốn ở đâu
Ngày khác dời về Tây
Thanh tôn không còn vui
Bồng tẩn khởi lại nghiên
Cao đường tin bạn nghịch
Lý nghiệp hoại thường lôi
Ngọc hạp mới ủy sấn
Đài vàng không còn dài
Vãn thinh theo gần xa
La ảnh mang thông treo
Đâu thể giữ mười niệm
Chì ứng theo bốn duyên
Kinh hành dưới rừng cây
Cầu đạo chí bền vững
Đã có sức thần thông
Chấn tích xa ngược khói
Một là bốn nguyện rộng
Chí đạo đâu thể đắm
Không thể thọ nhiều kiếp
Bất luận năm dài ngắn
Bệnh triền miên trăm năm
Tự thương không năm phước
Tươi mãi vẽ hòm rắn
Không gặp Nai vị tiên
Tạp khí mê hình vẽ
Nằm ngồi cầu ngủ nghỉ
La Nhu khởi tái hoan
Lâm chi phương sĩ mộc.
Tuổi trẻ ưa hoa thêu
Suy mộ dần la nghị
Luống thương tuế nhiễm nhiễm
Bày thơ chẳng nhiều lắm
Tóc hạc từ hiên miện
Đài bối nấu với tiêu
Thông bách vừa nương nhau
Yêu thích mấy lúc hòa
Nhớ nghĩ lúc bình thường
Ngao du vườn Thượng Uyển
Thường ở dưới thông bách
Xuân quang luôn sáng tươi
Kết căn tố nhân quả
Nhánh lá duyên xương thịt
Tự nên như loa ốc
Thẳng đây theo gió dao
Ở đời chán ràng buộc
Nhờ ruộng có lúa ngon
Thường mặc áo nhẫn nhục
Bỏ đây mặc tơ lụa
Nguyện dắt chúng ba đường
Khiến điều phục mười sử
Châu nguyệt như trầm thủ
Thìa vàng chưa cạo mắt
Lụa tím chưa có được
Sông Chương luống lại xa
Vừa gặp bệnh thái mã
Bí dục bỏ chạy theo
Đã không chín chuyển thuật
Lại thiếu muôn vàng lạ
Không xem trao cương chưởng
Chỉ mộng ao hoa sen
Ngày trẻ ca hát
Nhìn lại tiếc dung nghi
Một mai già yếu đến
Tóc bạc rũ trắng xóa
Đã thương muôn việc hết
Lại nhớ đến chín cửa
Thừa hiên ý ở đâu
Ngồi một mình như vậy.
Một hơi thở nay dứt
Bình sinh đâu khuôn phép
Ngày dài hiểu lộ xúc
Ngàn năm ai có biết.
Nhà đẹp một khi bỏ
Màn thông thật khó nhìn
Muôn năm cất châu ứng
Ngàn năm thôi ngọc kỳ.
Thâm tâm không thể nhiễm
Chánh đạo cũng khó khăn
Mới dứt khổ năm dục
Và bỏ ba tà cách (ách).
Tuổi nhỏ ưa lụa hoa
Ngày sau đến Tây thiên
Ngọc hạp phương ủy khái
Đài vàng không kéo dài
Nương không lự khó tĩnh
Tập đường lành cũng vậy
Bỏ thân không nương gá
Một chén đâu đợi lường.
Ta thọ giao vô cực
Hoa vân y số trọng
Chức trúc năng vi tượng
Phược địch khéo thành long
Rơi như tro nhị thạnh
Rải dầu ướt vẽ núi
Thiên cung bỗng nhiên thấy
Đăng vương nguyện sẽ gặp.
Bách tía rũ liễu xanh
Hòe nhẹ phất gió tuệ
Tám suối sáng nương cây
Bốn quế noãn lâm không
Thúy võng tùy yên bích
Chu hoa cộng ngày hồng
Phương vui bủa mây rộng
Sáng từ lưu tịnh cung.
Chánh sĩ đời Lương
Giản lăng tiêu cương
Lập thân hạnh rồi
Trước sau như một
Gió mưa đêm tối
Chim kêu không thôi
Chẳng khinh nhà tối
Huống lại ba sáng
Nhiều đến như thế
Mạng cũng ra sao
Tôi nghe có người xưa giàu mà nay nghèo.
Có thể gọi nhiều mà giúp cho thì ít.
Đây là do độ tố dưới lầu, có riêng suy thần.
Thông bách kiều nam không dư bạch xã.
Tôi nghe nói có thể che lấp.
Lòng nhân có thể nuôi chúng sinh.
Đây là vì muốn coi thường sự chết kia.
Có đức thì sẽ sáng.
Binh giẫm nơi nghĩa, không nghĩ chẳng phục.
Nghe có đạo hạnh thì năm phước đều tốt.
Vận hạ thì sáu cực vang xa, đây là do: Lân xuất mà thương, đâu chỉ Khổng Tử, đường cùng thì thương. Đâu chỉ nối tông.
Hốt hoảng sương mù tan
Vi vu thông bách rợp
Núi sâu bạch dương xưa
Đường vắng trần vàng sâu
Không hề ngàn mặt trăng
Đâu có chín vàng đỏ
Trong cửa thường chìm mất
Trời xanh soi chiếu tâm.
Tháng 10 bị giết ở tỉnh Vĩnh Phúc, băng hà vào năm bốn mươi chín tuổi. Khi băng hà nhằm niên hiệu Thái Thanh thứ năm.
Cung Thắng có để lại
Nghiệp quý không cùng tận
Khê Sưu lý đã vội
Hoắc Tử mạng cũng mất
Thê thê hậu sương bách
Nạp nạp xung gió khuẩn
Gặp gỡ cũng có lúc
Tu ngắn chẳng chỗ thương
Hận ta chí quân tử
Không được chết trên núi
Tống tâm trước chánh giác
Bệnh này chịu đã lâu
Chỉ mong muốn đời sau
Oán thân đồng tâm trẫm.
Thần Ước nói:
Thần bị bệnh đã lâu
Đến nay thì hóa
Hình thần sắp lìa
Đã được mười tháng
Thân rất đau đớn
Không gì dụ được
Bình thường lúc khỏe
Không nói lời này
Dơ tay ngồi kiếm
So đây là nhẹ
Kính mong thâm nhập pháp môn
Bệnh này đau đớn
Trong thương ngoài thứ
Thật vốn nhân tình
Cúi xin Thánh tâm
Trọng gia suy rộng
Thần lúc qua đời
Không còn ân hận
Tuy dần dã tốt
Cũng vẫn kêu buồn
Kính khải.
Ngàn tháng vốn khó đủ
Ba thời lý dễ khuynh
Đá lửa không thường cháy
Sấm sét đâu sáng lâu
Di văn không đầy ống
Như vậy đời sau mê
Suối vàng mới u nghẹn
Thung lũng vừa se lạnh
Một sáng sương lộ hết
Đêm chỉ có tiếng thông.
Ngày mười tám tháng mười năm Nhâm dần, vào chùa Thê Hà ở Nhiếp Sơn. Lên đỉnh núi cao, trong lòng rất vui.
Ngày 26 tháng 10 năm Quý mão, năm đầu niên hiệu Chí Đức, lại đến chùa này. Pháp sư Bố truyền giới Bồ-tát. Ngày 25 tháng 10 năm Giáp Thìn, kính dâng tượng vàng. Trở về núi, thời gian công việc có giới hạn, không được ở lâu.
Ngày 16 tháng 11 năm Ất tỵ, lại được lễ bái, bèn ngủ lại trong núi. Hằng đêm quyến luyến thê thần theo nghe. Nhưng luôn tay không ngừng, củi trên tay buông, vội tiếp bài này ghi làm mục lục, người đời sau biết chí của tôi.
Tâm tĩnh chứa băng tuyết
Mộ xỉ bách dâu du
Thái tức ba xuyên tấn
Buồn thay câu nhân thế
Tế duật giai thải hoạch
Cuối cùng cụ nghiêm khô
Trạc lưu rót tám nước
Khai khâm nhập bốn câu
Núi này linh diệu hợp
Nên cùng với trời đất
Thạch lại vừa sâu cạn
Khói núi lẫn hữu vô
Khuyết bi ngang xưa trục
Bàn mộc nằm giữa đường
Hành hành đã trải qua
Từng bước nghe khập khểnh
Cao tăng dấu càng xa
Thắng địa tâm hợp nhau
Tiều ẩn các hữu đắc
Chu thanh riêng chẳng vượt
Di phong chứa quế thơm
Sánh đức dụ sinh con
Ký ngôn khách đi xa
Thê nhiên thương kẻ hèn.
Ngày 12 tháng 11 niên hiệu Chí Đức, thăng đức thí sơn trai.
Bốn trí không cao tâm
Ba trí khởi u tâm
Phân biệt tránh nhân vật
Dừng nghỉ ở núi rừng
Khúc nhàn đình xu hưởng
Giao chi rơi mạn âm
Đài ao chứa tuyết đông
Cửa chuồng để súc về
Đá màu chẳng mới cũ
Ngọn núi đâu xưa nay
Xe lớn sao thăm thẳm
Ngựa bèn chạy xa xăm
Vì sao tu sáu niệm
Chí thành ở một tiếng
Chưa phiếm thuyền từ xa
Luống khiến nguyện biển sâu.
Chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn. Sơn phòng dạ tọa giản từ tế tửu chu thượng thư tinh đồng du quần nhan giang linh công.
Thân sạch thờ châu giới
Chẳng phải học thuyền vàng
Thềm trăng thời gối ngang
Vân nhai túc giải yên
Mái phạm điều tâm dễ
Thiền đình dứt thì khó
Thạch gian dòng nước sạch
Song núi lá hết lạnh
Ông nghĩ xe Bắc Khuyết
Tôi tiếc mũ Đông Đô
Phiên sấu đêm chung tận
Đồng chí không bàng hoàng.
Giới đàn thanh thạch lộ
Linh tướng tử núi vàng
Ảnh tiến cáp quy y
Xan nghênh rồng che chở
Sáng sớm nói kệ thật
Đêm lạnh liễm sơ chung
Khê lan tịnh chứa ác
Nhân trí riêng theo khách
Năm thiền thanh tịnh lự
Bảy giác sạch trong tâm
Xin đối với nơi này
Thường nắm tay gặp nhau
Khi tâm tể Bàn Khê
Chẳng liên quan Trúc Lâm
Thức Nhạc thông xanh sáng
Núi Kê mặt trời lặn
Trời sáng mây nổi ít
Núi trống trăng sáng sâu
Tàn phá bóng cây khô
Úa héo cây mây mưa
Thôn đêm sương chim bay
Đường gió lạnh vượn hú
Tự tìm đường xuất tục
Há đây muốn rút tâm.
Niên hiệu Trinh Minh năm đầu thái tuế, ngày 19 tháng 4 năm Đinh mùi, ngày Quý hợi, vào Nhiếp Sơn, Pháp sư Bố mở tuệ. Nhớ Tạ Linh Vận nhóm họp. Về núi cũ vào vách đá suy nghĩ.
Đạo nhân Đàm Long có một bài thơ, mười một vận nay soạn ra, để học chương lạc lễ
Khi mưa phùn đã tạnh
Đầu tháng tư mát mẻ
Ngủ đêm trong đồng trống
Vội lên tận đơn hà
Kính ngưỡng bậc cao đức
Kháng chí trần vật biểu
Ba thông suốt đã ngộ
Muôn điều có sao ít?
Trước sau tình đã gởi
Minh kỳ lượng không ít
Nương áo vào suối rừng
Mạch khí tối sáng mát
Gió thổi mặt lành lạnh
Đợi trăng lên sáng tỏ
Khói núi dứt đã xưa
Vân lộ bài chinh đảo
Đường tắt lân sâm trầm
Phan điều tích yểu đảo
Bình thường quên thị phi
Suy yếu đâu xót thương
Năm tịnh từ đây có
Bảy trần không ưu phiền.
(Giang Linh Công)
Dứt tục tục không bạn
Tu tâm, tâm tự sạch
Liên nhai chiều khí hợp
Hư vũ tối mây mù
Nằm sẵn bìm tiếp hộ
Đá xanh lâu thành thềm
Cây khen không có ý
Thú giỡn tợ quên tâm
Người xưa bày sáng hẹp
Tâm hẹn trái hang núi
Chỉ thương cây đỗ thơm
Có thể làm ta sạch.
Thượng tể nói bốn không
Huýnh xe trong tám đạo
Đổng lương chứa mạch khí
Nghiêm trang đối nguyệt cung
Hương thơm đâu cần lửa
Hoa rụng không theo gió
Khe thông không dị quát
Thiền quế lưỡng phân tùng
Hư bạt thật là lụy
Do đâu bỗng đều đồng
Tạm thời trái sơn bắc
Có thể hướng đông tường.
Tháng giữa xuân niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai. Pháp sư Bố ở chùa Thê Hà, Nhiếp Sơn. Mỗ nhĩ thời chung. Tôi vào ngày 17 tháng này, kính vì sư, dân lập sám Niết-bàn, lại làm bài thơ này:
Không thể đồng một quán
Sinh tử cũng một điều
Huống đây trừ diệt hết
Đâu thiết yếu ở đời
Nhân đạo lìa chúng sinh
Minh kỳ xuất thế xa
Quyến luyến vào gian khúc
Khi xưa đến đỉnh núi
Thạch lưu thùy liền dứt
Sương thông cũng tự tiêu
Trên núi mây đen nghịt
Ngoài hang sương phất phới
Chớ nói không đại ẩn
Trở về tức sáng nay
Buông chèo thương hồi khúc
Tìm núi tịnh thấy nghe
Thường theo tánh cỏ thơm
Phải phân với người tục
Tháp miếu đều lưu động
Đài hoa bên núi thơm
Lồng kín xuất đam quế
Tản mạn nhiều mây trôi
Tình u khởi tuần vật
Chí xa dễ kinh người
Do đâu quen cá chim
Không mong khuất huyền huân
Giang Linh Công ghi rằng:
Ngài Tuệ Viễn ở núi Lô Sơn khi chưa xuất gia, bắn cung rất giỏi, bắn được một con Hạc trong hang Hạc, sau đó rình xem Hạc mẹ, thấy không động tịnh gì. Xem kỹ thì thấy nó đã chết trong hang, nghi rằng: Hạc mẹ kia vì thương con nên đã chết, mổ bụng ra thì thấy ruột đứt từng khúc. Pháp sư từ đó bỏ cung nỏ, phát tâm Bồ-đề.
Đời Tống, có ni sư Pháp Huỳnh, người phương Nam, không rõ nhân duyên xuất xứ. Thường hay ăn ngũ cốc. Không mặc tơ lụa, giới đức rất tôn nghiêm, thiền định được nhiều sự thông suốt, có đảnh lễ Tử Trương Sử Quân ở Quảng Châu, liền được cung kính. Theo Sử Quân trở về nước Ngô. Lại theo xuất Tây, tự biết ngày mất. Sau khi chết chớ liệm trong quan tài, chỉ để cho chim quạ ăn, như vậy cho đến hết. Khiến cho vua y theo lời dặn đem vào rừng vắng, để bảy ngày bảy đêm, chim thú không dám xâm phạm đến thi hài, bèn đem về tẩn liệm. Con gái thứ tư của vong tổ Thân Sử Quân đến Huỳnh Ni thọ giới, sắc chỉ tôi ghi lại đó.
Trong trần chứa huyên lự
Ngoài vật bỏ các tình
Đất đây tin cao ráo
Gò cao in bờ ruộng
Xe đông đúc đi xa
Cờ phất phới lơ lững
Tế tùng xiên nhiễu kinh
Nếu cao nữa tạng trời
Cây xưa không cành lá
Vùng vắng nhiều khói mù
Phân hoa xuất chim vàng
Treo đá dưới suối mới
Um tùm như song thọ
Thanh hư giống tám thiền
Gá thần trên đài tím
Buông ý bên mây trắng
Mất công than thuốc ít
Do đâu bằng năm lớn.
Cảnh đẹp nhiều thắng tích
Đạo tràng thật đất này
Tạo hóa vốn linh kỳ
Nhân công đều tạo tác
Hiên phòng bóng rợp nhau
Thềm cửa đều khác nhau
Cao sáng lưu duệ thưởng
Thanh tịnh thiền định sâu
Vui dạo cùng khắp núi
Nhờ xuân đến cỏ thơm
Hoa đẹp chiếm mắt người
Sơn thu chia đáng vui
Phong cảnh cùng hoa tươi
Nước, đá chiếu nhau đẹp
Tượng pháp không nhiễm trần
Chân Tăng dứt danh lợi
Cùng nhau đã phục tâm
Nghe đạo cùng khắc ý.
Gà gáy động túy gia
Nại uyển quyện thần du
Tiêu đỏ vượt chín đạt
Dù xanh quá tầng lầu
Tuế hoa mãn áo thơm
Hồng thái bị xuân châu
Bảo xuy đến gió xa
Cờ bày ánh sáng nổi
Nhánh cao ẩn đường tắt
Suối quanh dòng nước nhẹ
Quanh co hoa cỏ hợp
Tiếng chim hót trong veo
Tiếng kim bàn thanh phạm
Tháp vọt ứng tiếng dùi
Mây tuệ mới bềnh bồng
Nước pháp đang lững lờ
Thật quy luống nhờ giáo
Tin hiểu thẹn khó dạy.
Thánh tình tưởng ngoài cõi
Chỉ giá ra Tây nam
Ngựa trước nghe phụng, quản
Xe sau động Rồng, tham
Dạo chơi chẳng nhàn hạ
Hang kín có khám linh
Gồm thấy người dứt tâm
Ngồi yên đầm trong sạch
Thiền thực đâu cần lúa
Áo mây không đợi tằm
Tần, Hạnh nhờ hang cốc
La, cát, leo, thông, nam
Tiếng chim từng êm đềm
Xuân huề thúy dục hàm
Hoặc tâm tùy giáo sai
Pháp vị cùng ban ơn
Nương nhờ tám giải thoát
Dứt hẳn tham sáu trần
Vua ta kính thắng đạo
Lời vua xin nghe theo
Xe lớn chuyển trục đỏ
Ngựa ô đạp tơ xanh
Kiếng trong soi dù cao
Cây lớn cờ phất phới
Tân đồ phân tạp đạp
Cảnh vật đều nương tựa
Rường bay thông khe đạo
Hiên nhà tiếp nền núi
Rừng hoa đến thềm hướng
Chia chảy quanh ao cong
Ai nói không thắng cảnh
Mây núi riêng ở đây
Trần tình bởi dễ đắm
Nên đạo tánh khó tu
Nương ân phụng giáo nghĩa
Mới đáng mở thọ trì.
Thần tâm quyện vật tự
Phỏng đạo bặt trần hiệu
Rừng mới che bóng ra
Phong khứ quản thinh xa
Tức đồ nương cảnh đẹp
Thuế giá chỉ tiêu núi
Năm lại tiết là trọng
Khí đồng xanh mới thoảng
Lá ngắn sinh cây cao
Sơ hoa mọc cành sớm
Gió xa đối mây chìm
Khói bay lẫn mưa gió
Lại ở đây thiếu thốn
Ban tên cuối nhà Liêu
Nguyện nương khe liền sông
Kế ảnh đèn tuệ chiếu
Biết được báu trong áo
Đất từ bi mới nhiều.
Lan đình chán tục thưởng
Nại Uyển ngắm hoa năm
Mới vào đường núi thơm
Liền gặp nhà, xe lửa.
Cửa từ vài chiếc lá
Cây đạo một rừng hoa
Tuy ngộ chuộc ách đằng
Trọn thương ở rương rắn
Nương các việc sắp xa
Cầm áo bỗng buồn bã
Nam Sở trường sa hẹp
Tây Phù đường sá xa
Lìa đình hoa đã rơi
Thú riêng mã tân kiêu
Mặt trời chia ngàn dặm
Tương tư không một điều
Tiêu biểu Đạo lâm tục
Tăng Tuệ Viễn núi Lô
Mãi sơn tức cao thế
Ngồi trên chén qua sông
Mưa pháp thường thường rơi
Mây thơm thật nhiều đám
Giống như sắp vũ hóa
Đến giúp ở trần la.
Cung rồng đã nhập đạo
Cửa phụng bỏ vinh hoa
Khám thiền tám tưởng tịnh
Hang nghĩa bốn trần nhẹ
Lọng thơm, mây pháp khởi
Đèn hoa lửa tuệ sáng
Tự nhiên quên chấp trước
Chẳng chỉ ngộ vô sinh.
Đất phước cỏ mới mọc
Danh tăng cùng đến đây
Dương chi sinh cây chung
Tích trượng chú dòng thác
Tòa đá giảng buổi sáng
Khám núi đêm ngồi thiền
Chẳng phải nước Xá-vệ
Bán đất lấy vàng bạc
Linh Thứu ba tầng tháp
Yêm Viên một giảng đường
Chim thuần theo tiếng khánh
Thú quen nhiễu giường thiền
Đính cúc núi không rượu
Thông ban đêm có hương
May mắn đồng cao thắng
Nơi đây sáng tâm vương.
Hoàng đế như trên duệ thống thiên đại minh ngự cực. Đàn áp chín đời, khu giá trăm vua. Chí đức thượng thông, nhân sâu hạ lậu. Oai lăng, Tây được thinh giáo, Đông tiệm. Bố chánh hợp cung, hiếu nghi đại thất. Trương lạc đồng dã, có tính núi miêu. Trời không ưa thật, thần chẳng ban cho. Lông lân hiệu lực khác, núi đầm ban phước. Hoa Duệ cùng theo, u hiển đều giúp. Tám chánh chỉ tựa, sáu phù bình an. Lại, nương chí sâu xa ngưng thần thanh tịnh. Phủ lậu khu vực, có di hình hữu. Cứu tinh dân nơi khổ khí, giúp cõi Dục nơi ách thành. Thân tâm lên được cảnh tịnh lạc, sinh linh nhờ đó được thần lực của bậc Điều Ngự. Trong cung thì đức dày giúp vật, chánh vị lệ thiên. Đạo quan thiệu lăng, nghiệp du sân tợ. Mây tuệ buổi sáng khởi, bốn loài dừng lâu ở thốn hợp kia. Đèn từ bi ban đêm đốt. Chín phục chiếu ánh sáng kia, bèn quyện tham hư. Thật duy Đường cựu sơn xuyên Châu Vệ khâm mang nghiêm huýnh, đông giao thắng địa bèn xây bảo phường. Nghiêm như hóa thành, nhanh như vọt lên. Cảnh giẫm Tây Lăng, khí hợp Nam Cung. Gió thu chấn dã, sương trắng lạnh lẽo. Thánh chủ ngự biện tuần du thuận theo thời nuôi dưỡng chúng sinh. Sáu rồng lên xe bảy Thánh đều đông. Cờ đẹp phất phới, ngọc chạm bánh xe. Hỏi trăm năm mà trụ liễn, triều vạn linh để xét lúc. Hùng cừ những loài thích bay, nhập tham trung lũy. Bạn hổ điện cửa vàng, hướng về xe riêng. Sắp khuất hạ bộ, gặp cõi tịnh này. Đều ưa nhìn Linh Thứu, dùng thích dạo cung rồng. Thân tâm kính lễ rất thành kính. Khóa hư dẫn tịch bèn phát ca vịnh. Tuy sự hơn đánh xe mà nghĩa đồng gõ sừng. Cũng do: Ung dung mạnh mẽ, thuật tán tốt đẹp. Đâu như: Cao sóc văn từ, phủ trần nam chúc. Vương cốc trùng kiện, tài thí nữ công.
Tác giả hai mươi sáu người, lời ấy như vậy.
Gió huyền quan đông hộ
Nội phạm trật tây lăng
Sông lớn mở hộp báu
Đất phước hạ dây vàng
Tú nhi cao đáng soi
Họa cũng điệp tương thừa
Ngày ngự không khó giả
Vận sư vốn dễ nương
Dương thất nghi Đình Toại
Hiện âm giống đục băng
Huýnh đề bay tinh một
Trường mi đường tâm ngưng
Tinh môn ánh sáng chuyển
Lối cung tối mây bay
Thần núi hiệu linh vật
Nước như dâng điềm tốt
Hư bạt thao ân ghi
Vi khưu nguy tự lăng
Ưu đồ luống mong đợi
Châu lãi mãi khó hơn
Đáng lo thân là họa
Sinh thì lo cùng sinh
Tâm thần thường khổ riêng
Vinh nhục kinh sợ nhau
Ánh mai không chiếu lâu
Đèn tối tơ bao lâu
Trọn thành một nhóm khổ
Gượng tìm danh ngàn năm.
Lúc trẻ thích ngày thêm
Già đến năm khổ lấn
Hồng nhan đã hết đẹp
Tóc bạc nào ngâm lâu
Sân thềm chỉ nhờ gậy
Phủ sáng không hơn trâm
Cam phì và yêu lệ
Luống có tâm lúc mạnh.
Rút gươm bình bốn biển
Giơ mác khiếp muôn người
Một mai trên giường gối
Xoay chuyển nhờ người đỡ
Sắc trẻ theo da bớt
Rên rỉ và đau đớn
Lụa là tuy đầy đủ
Mắt riêng buồn thất vọng.
Đáng tiếc khí lăng vân
Bỗng theo sương mai tan
Từ biệt bao ngày tươi
Riêng xuống chốn suối vàng
Ao đài đã không có
Gò mã hướng ứng không
Chỉ ở nơi thông bách
Ngàn năm thường gió mạnh
Thương yêu mà xa lìa khổ
Ai chịu trong tâm thương
Biệt ly sau mới nghĩ
Khi nào dắt tay nhau
Huyên thuyên không xa được
Tuy nói vạn dặm cách
Còn hy vọng trở lại
Xuống dưới chốn cửu tuyền
Chẳng có lúc gặp nhau.
Năm ấm lừng lẫy khổ
Trước đi không từ biệt
Sau đến chẳng thân lâu
Mã mới thành nhà cũ
Kế nhau như vây cá
Mậu lăng ai biện được
Lìa núi cách thức Tần
Ngàn năm và hôm qua
Mỗi món đều thành trần
Định biết đất ngày nay
Lại là người khi xưa
Đâu thể lấy xương người
Lại đem chôn thân ta.
Địa linh cư năm tịnh
Sơn u vắng bốn thiền
Cung trăng soi gương đá
Hoa tán nhiễu sen núi
Giữa ráng sáng cờ hiện
Hơi mảy hợp lò khói
Thông cao lớn dù xếp
Nước mạnh, suối phân nhỏ
Gió thổi muôn âm thanh
Đường đi trăm hoa tươi
Ngày xưa tìm chân thật
Kết bạn thường quyến luyến
Sơn đình bộ hoặc mị
Cỏ giữa sông nước trôi
Do đây sự huân tập
Liền dứt được phan duyên
Sao nói theo mây mưa
Nghĩ đây thật buồn bã
Luống có hướng phía Nam
Hội toại đông lưu toàn
Vận hình không nêu khác
Tâm lặng không ham muốn
Ngồi nghỉ ngơi vương hầu
Cửa xoay về trục vàng
Gió đến vịnh du thanh
Lân tụy nguồn không nhơ
Đây là thuyền trung tử
Do đó kiểu dật túc
Cần gì vui u nhàn
Áo xanh nêu lìa tục
Trăm năm nếu không xa
Hôm qua cũng chẳng ngắn
Hy đằng nhìn duỗi chiếu
Nắng nay thay nhau soi
Một đi đều nghịch lữ
Đâu tiếc chớp qua mau
Khư khư không bè đảng
Và ngọc đá lẫn lộn
Quái thần cõng nghiệp uế
Vốn là do tâm khúc
Gió linh khởi sóng về
Mây bay vọt nghịch lân
Cẩu trạc nam dương tú
Cố nhóm ba tạo tân
Miến hoài kết đêm vắng
Vị tháo vịnh chung thần
Gần chứa thời vô cấu
Ai cũng phủi bụi trần
Tình xa gởi cực tắc
Túc điều độc ngao thần
Tương vọng đông minh lý
Đâu mong tây triều bến
Ngã sùng đạo vô phế
Trường diêu nhớ người nghĩa
Diêu độn rải hình hành
Trượng sách nghỉ Nam Dĩnh
Tao động ủy lãng tích
Ngô tĩnh đạm di tánh
Phủ quyển theo lão thoại
Huy luân và tráng vịnh
Nhìn xa riêng nhớ tưởng
Tiêu thần thổi trần chánh
Thời vô hỷ tuệ ngẫu
Dứt vận ai sẽ nghe
Tập tử tốt phương nêu
Có vui là âm lịnh
Dĩnh bày lăng sương thanh
Ba hi ba xuân thạnh
Phất cách kỳ tiêu tường
Há tranh với dâu, du.
Tôi vốn bất tài giáp
Dị tình quên điêu ánh
Tuy chẳng ánh dương dựa
Khanh gõ khánh làm gì.
Sa-môn Trúc Pháp Quận đi xa trở về Tây Sơn. Làm bài thơ đề tặng Ngài. Nhân cũng giỡn cợt.
Lược bớt hai kinh cùng làm để khen ngợi.
Hoa Dương Nhạc tươi đẹp
Không mây gối núi bay
Chót vót, suối lưu linh
Núi đẹp thông xanh tốt
Núi treo cao chót vót
Hang kín chánh ẩn kín
Núi đỏ dựa lạ kỳ
Thất xanh thiền sáu thông
Thần khí thật vắng lặng
Xa xôi bặt dấu vết
Chỉ quán chấp vô vô
Hoàn dính mắc không không
Vật ngoài đâu đại bi
Riêng đến đồng chẳng huyền
Không thấy Xá-lợi-phất
Chịu khuất Duy-ma-cật
Chí nhân như ảnh hưởng
Linh tuệ đào ức cõi
Ứng phương tro quyền hóa
Triệu loại nhờ từ vui
Mờ mờ chứa trần mê
Hằng ở cửa núi đóng
Bỏ thông, chẳng chiếu suốt
Đổi hình không diệt hết
Rõ thay, Như Lai giáng
Khoát hỷ khải tán huyệt
U tinh bị hư hoại
Ai như A-duy sát
Xa tạ mong huyền trù
Cần gì tự thanh khiết.
Xa xa thành vui nêu
Cao ngất núi nổi mây
Vượt cao mười hai núi
Riêng cảnh đẹp Diêm-phù
Đan lưu hoàn nền vuông
Dao đường lâm tiểu đảnh
Khe thấm nước cam tuyền
Núi mọc đầy phương chi
Rỡ rỡ đẹp hóa luân
Miễu miễu lăng nham chánh
Cung kính nhìn diệu giác
Hơi thở hy linh vĩnh
Nếu như được trúng tâm
Chỗ dứt đều yên tĩnh
Luyện thần siêu dõng mãnh
Vạn vật được tiêu diêu
Đâu cần nương hình ảnh
Gắng tìm pháp Đại thừa
Nguy nga nước Vương-xá
Sum sê vườn Linh trúc
Trong có thần hóa trưởng
Quán thể không thiện quyền
Quở trách cảnh mờ sáng
Đâu biết vết chân thật
Rộng lớn đạo nhiệm mầu
Giải phát chí thần vui
Phiêu hốt lăng hư khởi
Không nói thọ tuệ khó.
Vết vượt mười hai thiêu
Giới nhờ Tam-muội thành
Hiền hạnh rất vi diệu
Chí đạo tuệ để sáng
Chín bổn đã không động
Tứ thiền không đồng tối
Sâu xa không khởi diệt
Mới tự không tùng sinh
Xưa hỏi đạo khí luân
Đâu lường Niết-bàn linh.
Thơ tĩnh lặng pháp quận, kinh thông diệu viễn, gắng gỏi thanh tịnh. Tuy nói mà không hết ý, gần gũi có bao nhiêu? Chí nhiệm mầu, thần không đâu chẳng thông suốt. Phàm chưa thể minh đạt huyền thông, ác được bất hữu ngưỡng tán chi vịnh tai. Tôi tưởng hình dung đức tốt.
Tuy nương giữ đường khác nhưng nêu ký huyền đồng, kính đại trả lời, chưa đủ tốt đẹp mỗi người đều nói chí ấy, lời ấy rằng:
Vận Chân phát đã xếp
Muôn tượng đã nêu bày
Tinh linh cảm thầm hội
Biến hóa đâu không trải
Sóng gió sinh tử luống
Càng luân mới không tên
Bỏ gốc mà theo ngọn
Hối xan sinh hữu tình
Luống chẳng dứt đáng dục
Trái tông về vô sinh
Đạt quán đều có không
Xác ve thật sáng tỏ
Tiêu diêu các diệu tân
Ngưng ngọng ở huyền minh
Đại từ thuận biến thông
Hóa dục đâu thường dừng
U nhàn tự có chỗ
Đâu chung với Bồ-tát
Ma-cật phong vi chỉ
Quyền đạo nhiều chỗ thành
Mênh mông khắp thiên hạ
Ai biết đường tình sầu.
Mênh mông bản chất thành
Rộng lớn Tứ thiên sáng
Ba thần hoàn Tu di
Trăm ức đồng một tượng
Khói linh hòa đào ấm
Hội chi có diệu trường
Đại từ giúp chúng sinh
Thầm cảm như bóng vang
Chúng Sa di đông đúc
Xan xan vạn tâm kính
Ai không thích Đại thừa
Triệu định đối huyền nang
Ba pháp tuy thành rừng
Cư sĩ cũng có nhiều
Không thấy rồng có sừng
Sái lân lăng tiêu thượng
Xúng tâm vượt gửi xa
Sóng mang xa riêng đi
Nhiệm mầu thường chiếu sáng
Duy-ma tôi đã từng
Nếu chưa lễ thiện quyền
Cùng tôi đồng phảng phất
Mênh mông đầy khắp cõi
Xả bỏ các phế tưởng.
Xa nhìn hoa trên núi
Trời tím lồng ba ngày
Quỳnh nham sáng nhà ngọc
Ngọc rưới thấm bến linh
Đan Cốc đình cây giao
Lý Dĩnh động củi sáng
Tiếng ẩn do xen nhau
Loan phụng bay hồi nghi
Giao long rưới Phi lân
Trung hữu xúng mạc sĩ
Vui đạo nghĩ nhiệm mầu
Cao thượng ngưng huyền tịch
Muôn vật bỗng tự khách
Một mình dạo phương ngoại
Vượt thế dứt phong trần
Kiểu tưởng mong dấu vết
Từng bước tìm được người
Ngâm vịnh rồi bỏ đi
Vịnh hoa đâu đáng quý
Gội chí tám nguồn giải
Liêu lãng khoát minh thần
Nghiêng cơ thông vi diệu
Giác ngộ bỗng quên thân
Cư sĩ thành có bạn
Nhìn lại chẳng nghĩ thân
Mượn hỏi giữ thường đồ
Vì sao biết trái chân.
Phạm cung đã ẩn kín
Linh tụ cũng trầm trầm
Bình giao đưa qua ngày
Núi cao bóng mát xa
Huýnh phiên phi thự lĩnh
Sớ chung hưởng trú lâm
Tiếng ve sầu kêu gần
Suối nhổ khe đá sâu
Kháng tích thiền chi địa
Phát chí tâm Bồ-đề.
Danh sơn trấn sông biển
Phạm vụ giá gió khói
Họa cũng lâm thông cái
Tạc dũ đối sen núi
Sấm nổi dưới nền thềm
Mây về trước rường cột
Linh quang nói ngày đêm
Áo nhẹ mấy kiếp năm
Gấp bội hương làm thực
Thường dùng làm phước điền
Pháp luân chuyển cõi trời
Phạm thinh cõi trời đến
Đăng thọ ngàn tia chiếu
Hoa diễm bảy cái nở
Bóng nguyệt ngưng dòng nước
Gió xuân chứa mai đêm
Cờ động muôn đất vàng
Chung phát đài lưu ly.
Đường thơm lặng cảnh khuya
Đuốc pháp sáng khác nhau
Khi chuyển ánh sáng dời
Hoa đào sinh, nhánh rụng
Khói bay quanh định thất
Ánh sáng chiếu ao ngọc
Lầu các đăng lâm bãi
Ca quản thừa không dời.
Trời tịnh, sao mây quyện
Ngày nêu sông dài trong
Gió thổi hoa rừng rơi
Thổi quanh gió liễu rụng
Cô hạc thệ khiển bầy
Đề Oanh xa kêu nhau
Liên chu chỗ nước hết
Đường họa luân phân nửa
Sông biển đều từ xa
Đông Tây đều khen ngợi
Đã huân sức thiền tuệ
Lại nhờ sức vàng đỏ
Có đến ba sông khác
Không hề xem bốn cửa
Ở đâu được diệu đạo
Siêu vượt lên bờ kia.
Ý Tôi-Man Hải bị bệnh nằm đã hơn nửa tháng.
Thiện hữu là Pháp sư Ngung khuyên tôi dùng kinh Tịnh Danh nhiệm mầu để điều phục thân tâm.
Sức bệnh, thô bày ý kia kính Pháp sư Giản:
Khách đi hơn muôn dặm
Mịt mờ trên biển xanh
Năm núi thường rậm rạp
Trăm vượt nhiều khí độc
Đều mệt nhọc thân tâm
Do đây nên bị bệnh
Đồng lôi đã thật xa
Bởi Kim đá khó tìm
Bọt bóng thật đáng thương
Thấm áo riêng ngao ngán
Thành Tỳ có Trưởng giả
Bình thường trước đã có
Lại mượn nhân duyên lớn
Gắng dụng tâm hồi hướng
Đường tâm để điều phục
Đối đây nghĩ thật tướng
Nước bọt vốn khó mất
Thành càn không có tướng
Sinh đây không chí lý
Ngã này đều luống dối
Cầu đó không thể được
Ai thọ nghiệp chướng kia
Tin đó-Đại y vương
Năng lực này vô lượng.
Tịnh độ tiếp hang kín
Tháp báu đối núi ách
Rừng Phụng ở hang đỏ
Đất Rồng xa cát trắng
Độc nham lâu hướng xuất
Phức đạo gác trùng nhau
Động mở sáng sương rơi
Thạch thấp hiểu vân nùng
Trúc cao, lọng mây thấp
Gió thổi tiếng hòa chung
Nhà mát đổi liễu nhỏ
Gian ảnh lạc thông cao
Châu quế nổi trăng sáng
Tòa sen nở Phù Dung
Ẩn mất luống có ý
Tâm chứa nhóm theo nhau.
Nguồn tâm vốn chẳng hai
Học lý cùng về chân
Bốn chấp mê theo dược
Sáu vị thêm cực khổ
Giúp duyên bởi tạp phẩm
Tập tánh không đồng theo
Chí giác theo vật hóa
Một đạo mở khác bến
Đại sĩ thanh tịnh giúp
Huấn nghĩa bèn tinh trần
Chu, Khổng còn trung hiếu
Lập hạnh triệu quân thân
Họ Lão quý tải dục
Tồn sinh do thân ngoài
Nói lời ngàn lý thiện
Phân vị cùng thế trân
Hễ chẳng không thì có
Ba minh dường chưa đến
Gần thức khép đường rẽ
Phân trần nghi khác trần
Đâu biết ngộ là tiệm
Cùng tột vốn đồng bậc
Ngã Hoàng thể hội này
Gương đẹp xuất cơ thần
Quyến ngôn đều quy bí
Hồi chiếu dẫn chúng sinh
Cố duy tàm túc thực
Gặp gỡ điều tốt đẹp
Nguyện cùng nhậm minh giải
Tuế mộ đều có nhân.
Hồi loan đến đất phước
Tận mặt ngắm cỏ thơm
Phạm chung xen hai tiếng
Pháp nhật chuyển hai vòng
Bảo sát xa nương đường
Thiên hoa gần mùa xuân
Chưa đeo, lan còn nhỏ
Không tơ, liễu còn mới
Viên quang thấp nguyệt điện
Ảnh vụn loạn gió tre
Đối đây giữ tưởng khác
Siêu vượt lìa tục trần.
Mờ sáng nghi chuyển điện
Đằng hư dáng cầu vồng
Hang hiện trong sương mờ
Cúi ngước trong mây trắng
Phân phi vừa sương hướng
Kéo lôi hoặc theo gió
Nghĩ đây khinh bạc chất
Không cánh gượng diêu không.
Vâng hòa Đậu Sử Quân Pháp sư đồng kính Vịnh Cao Tăng.
Đại thệ thương lầm than
Thừa cơ nhập sinh tử
Trung châu pháp đã mở
Cát pha bạo cũng dừng
Lỗ trống sáng cả nhà
Chỉ tay rõ ngàn dặm
Đạo thạnh chú hoa sen
Tai sinh ngâm cức tử
Mai thạch duyên tuy tạ
Lưu sa hóa mới đầu
Bát-nhã chỉ bặt vết
Niết-bàn vốn không tên
Bậc hiền chưa thỉ giác
Chi tử xướng hy thinh
Vua Thái than lý nghệ
Đồng thọ ấp từ thanh
Suốt âm nghe trần nhạc
Tĩnh khó động Trung Nguyên
Thích Nghiệm trong phương bào
Kỳ tài rồi lại sinh
Cây đổ thọ tê táo
Nước trong, dòng lặng lẽ
Thuộc đây khí buồn thay
Phục tư la lữ thích
Đâu dụng tả ưu phiền
Suối núi kế du lịch
Vạn trượng khuy thâm gian
Ngàn tầm ngưỡng tuyệt trần
Bàng lĩnh trúc so le
Vịn sắn bìm mà đi
Hành hành rất sâu kín
Khứ khứ càng vắng lặng
Quả gặp dứt bạn tâm
Cành cao mới treo cao
Viên nhiễu đều chiên-đàn
Đốn lương há cát sỏi
Diệu pháp không thể lường
Thân kinh giải oán địch
Tâm vui liền đảnh lễ
Đạo còn ở tai mắt
Tuệ lực đã thông suốt
Lưới nghi cũng xé rách
Há dứt thẳng phiền não
Mới mong cứu đắm chìm
Cung nhật khai trăm nhận
Điện nguyệt cao ngàn tầm
Dù hoa bay bóng tròn
Cờ hồng kéo bóng mát
Ráng nương dao lung trướng
Tùng châu rừng võng tế
Liêu khuếch biểu khói mây
Siêu nhiên vật ngoài tâm
Hoàng phong thổi cây ấy
Chí đức tốt rừng thiền
Hoa tiên sáng mặt trời
Cờ thần kéo bóng xa
Nương điện lồng hà ảnh
Gác cao xuất tâm mây
Cỏ nhỏ trông nước từ
Ân quang nặng lại sâu.