TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2103 - QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

MỤC LỤC

SỐ 2103 - QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

BÀI TỰA QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

QUYỂN 1

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN I)

QUYỂN 2

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN II)

QUYỂN 3

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN III)

MỤC LỤC CỦA TẤT LỤC (Bảy lục)

QUYỂN 4

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN IV)

QUYỂN 5

BÀI TỰA

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 1)

QUYỂN 6

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 2)

QUYỂN 7

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 3) LƯỢC NÊU VUA QUAN CÁC TRIỀU ĐẠI TRỆ HOẶC GIẢI HẠ

QUYỂN 8

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 4)

QUYỂN 9

THIÊN THỨ HAI BIỆN HOẶC (PHẦN 5)

1. Tạo lập trời đất:

2. Niên hiệu khác nhau:

3. Vốn là người trời:

4. Kết đất thành người:

5. Nói năm vị Phật đều đồng xuất hiện.

6. Ngũ Luyện Sinh Hộ ấy:

7. Quán Âm hầu Lão Tử:

8. Phật sinh ở Tây âm:

9. Chu vi và đường kính mặt trời mặt trăng:

10. Côn Luân bay nổi:

11. Pháp đạo lập quan:

12. Xưng "Nam-mô Phật":

13. Vết chim văn trước:

14. Trương Khiên Thủ Kinh:

15. Mặt trời, mặt trăng khắp nhóm:

16. Đại Thượng tôn quý:

17. Ngũ cốc mạng tạc:

18. Lão Tử thành Phật:

19. Sai khiến Cù-đàm:

20. Sự tà cầu đạo:

21. Phật tà loạn chánh:

22. Nghe giới cây chết khô!

23. Khi lễ thì lễ phương Bắc trước:

24. Giết cha cầu đạo:

25. Phù phép kéo dài mạng sống:

26. Xuân và kiếp trai:

27. Tùy kiếp sinh tử:

28. Phục đơn sắc vàng:

29. Trộm sửa kinh Phật thành kinh đạo Lão:

30. Trộm kinh Nhân Quả của Phật:

31. Kinh đạo Lão chưa xuất nói xuất:

32. Năm ức lớp trời:

33. Nghi thức ra vào của Đạo sĩ:

34. Đạo sĩ thờ Phật: Kinh Hóa Hồ nói:

35. Đạo sĩ hợp khí:

36. Sách đạo Lão của Chư Tử:

QUYỂN 10

THIÊN THỨ HAI BIỆN HOẶC (PHẦN 6)

QUYỂN 11

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 7)

QUYỂN 12

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 8) QUYẾT ĐOÁN ĐỐI VỚI VIỆC TRUYỀN DỊCH PHẾ BỎ PHẬT PHÁP.

QUYỂN 13

THIÊN THỨ HAI: BIỆT HOẶC (PHẦN 9)

QUYỂN 14

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 10)

QUYỂN 15

THIÊN THỨ BA: PHẬT ĐỨC (PHẦN 1)

QUYỂN 16

THIÊN THỨ BA: PHẬT ĐỨC (PHẦN 2)

BÀI MINH TƯỢNG PHẬT THÍCH-CA

BÀI TỤNG NGÀN PHẬT

KHEN BỒ-TÁT DI-LẶC.

BÀI MINH SÁT HẠ CHÙA QUANG TRẠCH

BÀI MINH TINH XÁ THÊ THIỀN

QUYỂN 17

THIÊN THỨ BA: PHẬT ĐỨC (PHẦN 3)

GHI CẢM ỨNG VỀ XÁ-LỢI

QUYỂN 18

THIÊN THỨ TƯ: PHÁP NGHĨA (PHẦN 1)

1. THÍCH NGHI LUẬN CỦA TẤN TẢI AN

2. THƠ CÙNG PHÁP SƯ VIỄN

3. PHÁP SƯ VIỄN ĐÁP

4. BẮT BẺ LUẬN THÍCH NGHI CỦA CHU ĐẠO TỔ

5. LẠI GỬI THƠ CHO PHÁP SƯ VIỄN

6. LUẬN THÍCH NGHI ĐÁP LỜI VẶN HỎI CỦA CHU CƯ SĨ

7. THƠ CỦA CHU CƯ SĨ

8. THƠ CỦA PHÁP SƯ VIỄN

9. THƠ ĐÁP PHÁP SƯ VIỄN

10. HỎI VỀ BÁO ỨNG CỦA HÀ THỪA THIÊN

11. LƯU THIẾU PHỦ ĐÁP LỜI HÀ THỪA THIÊN

12. BIỆN TÔNG LUẬN CỦA TẠ LINH VẬN

13. HUỆ LÂN GIẢNG, TĂNG DUY HỎI

14. ĐÁP LỜI HAI VỊ PHÁP SƯ CƯƠNG VÀ LÂM

15. ĐÁP LỜI BẮT BẺ CỦA CƯƠNG CÔNG

16. ĐÁP LỜI BẮT BẺ CỦA LÂM CÔNG

17. VƯƠNG VỆ QUÂN HỎI

18. VƯƠNG HOẰNG KINH ĐÁP LỜI VƯƠNG VỆ QUÂN HỎI

19. VƯƠNG VỆ QUÂN LẠI ĐÁP THƯ

20. TRÚC ĐẠO SINH TRẢ LỜI THƯ VƯƠNG LỆ QUÂN

21. THƠ CỦA TUNG GỞI CHO AN THÀNH HẦU (DIÊU HƯNG)

22. LUẬN CHUNG VỀ BA ĐỜI

23. PHÁP SƯ LA-THẬP ĐÁP

24. BẬC THÁNH PHÓNG HÀO QUANG LỚN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG

25. THÔNG BA ĐỜI

26. THÔNG TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG

27. AN THÀNH HẦU, DIÊU TUNG BIỂU

28. BẮT BẺ VỀ THÔNG TẤT CẢ CÁC PHÁP ĐỀU KHÔNG

29. DIÊU HƯNG ĐÁP

30. AN THÀNH HẦU TUNG LẠI DÂNG BIỂU

31. LUẬN CHIẾT NGHI CỦA SA-MÔN THÍCH TUỆ TỊNH ĐỜI ĐƯỜNG

 


BÀI TỰA QUẢNG HOẰNG MINH TẬP

Cuối đời Đường, Sa-môn Thích Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh soạn.

Cuối đời Đường, niên hiệu Lân Đức năm thứ nhất, Sa-môn Thích Đạo Tuyên ở chùa Tây minh.

"Quảng Hoằng Minh Tập" từ đời Đại Hạ lưu truyền dần về phía Đông. Đây là do tình hình hỗn loạn, ba hiền, trí ngu, bốn chiếu nên khiến cho bọn ác nghiệt vọng nêu ra tà phong làm ảnh hưởng đến những người chân chánh.

Lúc bấy giờ, gặp được những bậc có tài hùng biện, do đó giáo pháp được truyền đến nước Trung Quốc hơn sáu trăm năm. Riêng nước Trung Quốc này bị tai họa ba lần tàn phá, không kịp trở gót. Sau cùng, nhìn lại sự tốt đẹp và tai họa đã bị xảy ra trước đây, lấy đó làm trò cười cho thiên hạ. Hơn nữa, lòng tin là mẹ sinh ra các công đức; trí là nhân của bậc Thánh, là bắt đầu Tổ đạo, là cuối cùng của sự chứng quả.

Theo luận lý này thì bên trong kính mến sự mê hoặc của tám món kiêu mạn. Xét sự đồng tình kia thì bên ngoài dẹp được sự che lấp của sáu trần.

Nghiêm trang bên ngoài không phải là sự trau chuốt của đạo, tiến lên chỗ cao xa rộng lớn chính là chỗ ngao du của bậc thượng nhân. Nhưng do thời gian trải qua (ba pháp tệ, đắm chìm của năm Tể), không biết tà chánh. Lựa chọn cương pháp của trời người, cho nên bên trong dạy kinh vĩ, lập pháp y để nhiếp cơ. Bậc hiền minh, kẻ thế tục nương văn luận để làm khuôn phép.

Xưa, vào đời Lương, Pháp sư Tăng Hựu ở chùa Định lâm o núi Chung sơn học thông hết thuyết của Cửu Lưu, nghĩa bao gồm mười đế, dốc lòng từ cứu giúp nghĩ đến vấn đề tồn tại lâu dài của Phật pháp. Tất cả các vị anh hùng đời Tấn, đời Lương đã lưu tâm đến pháp soạn bài tựa mười thiên, soạn bộ "Hoằng Minh Tập" gồm mười bốn quyển. Thảo luận về phong quy của họ Nhan, họ Tạ; bao gồm môn đồ của ông Châu, ông Trương, chọn chỗ sâu xa của tình lý, nghiên cứu so sánh tánh linh. Thật là chỗ cao tột của người trí, (đầy đủ chỗ sâu kín, bày tâm trần) nhưng người trí thì không mê muội, mê muội thì không phải người trí. Vì thế, bậc trí sĩ khi phát ra lời nói hay cử chỉ thì tâm đều lãnh ngộ (các điều quan trọng). Người mê thủ ngộ cần phải nhiều lời nói mới được sự cung kính của thần. Nếu tin hiểu sẽ giúp cho thần dụng, khế hợp sẽ tinh thông khuôn phép. Vì thế tin có ba: Tri, kiến và ngu.

Tri là sinh tri, trụ ba hiền mà nhập chánh tụ. Ngu là ngu tẩu, dính mắc bốn hoặc mà chìm đắm trong dục trần.

Hóa mà không thể đổi kẻ hạ ngu bằng với bậc Thượng trí.

Sách Trung Dung nói kiến, tín từ thiện, kia hoặc lưu tai. Đây do pháp làm mai một ba đời, đều vướng bận kẻ ít học. Vì thế, được tâm của thầy, dứt trừ tai họa, dự tính vạch ra "Đồ Bát tạng tông", văn nghĩa thành công, tìm manh mối cửu thức, thông đạt chỗ mê giải của người trí thì lòng tin chân chánh như mặt trời sáng. Năm lọng dù che mà hơn được ánh sáng hay sao?

Tôi đã dò xem kỹ bộ "Quảng Hoằng Minh" để làm giang biểu năm đời, hưng thịnh Tam bảo? Quân thần sĩ tục không khác, tôn là xưng văn quốc, người trí nương vào văn để khai. Ở Trung Nguyên, đời Châu đời Ngụy trọng đạo Lão, khinh đạo Phật, tin và hủy báng lẫn nhau, đến nỗi khiến cho công ngôn đã bày ninh hãnh tư cập.

Lúc bấy giờ không thiếu bậc hiền, nội tâm đặc đạt. Nhưng tối sáng xen nhau, tà chánh lẫn lộn. Căn cứ theo tượng thì có hai phần vân nê, luận về tình thì nương cậy giao dưỡng. Đây là sáu thuật tuyên dương Phật Tam Trương Xương đối với pháp lưu đều là quyền mưu của Đại sĩ, là thích hóa của bậc chí nhân. Đây đầy đủ hạnh nguyện tà kiến của ba độc. Ngài Tịnh Danh hàng phục Ma vương sáu tầng trời cõi Dục, hoặc mở đường khác ép ngặt, đều lập bánh xe lớn chống lại. Vả lại, y cứ theo hành sự kia chắc chắn dính mắc ở tư lăng.

Thí dụ rõ suốt như dòng suối, lời sớ chung cả tánh hải. Còn như ông Khấu Khiêm chống cự với Thôi Hạo họa phước rõ ràng. Trịnh Ái chiến đấu với Châu Quân thành bại trong khoảnh khắc. Diêu An chép luận ức chế đạo Lão ở Nho lưu. Trần Lâm viết sách mở mang đạo Phật vượt hơn mẫu mực của triều đình. Đây là đọc và bàn luận nhiều mà không lưu loát, rồi vào các điều sai khó mà chắp nối được. Lại hai quan võ đời Lương, đời Chu đều phân rõ nghi hiển hối, hai vị vua tài đức đời Tống, đời Ngụy đồng nương yếu lược của hoằng dụ. Tâm từ cứu giúp của Thẩm Hưu Văn; quy tâm của họ Nhan. Lời văn cao tuyệt, mở rộng vật biểu, thường dùng hoàn cảnh khác răn nhắc, nêu những điều tệ xấu trong "Duy Hư Tổng Tập Lạo Lạc", có Hán Âm Bác Quán Sa-môn làm văn tán thành, kỷ cố duy trực? đặt bút trình bày. Nếu xem xét điều chương, suy tìm nghĩa sẽ ngộ Hiền minh, tóm lược phụ nêu ra, gọi là "Quảng Hoằng Minh Tập", một bộ ba mươi quyển, do Lương Sở soạn, hoặc chia ra nghiên cứu. Lược tùy theo điều lệ, chọn đề mục rõ ràng để nêu ra, ngõ hầu bày tỏ với người chưa đọc rộng tin đạo Phật. Vốn không phải luống dối. Như còn chỗ nào ẩn khuất xin tìm xem sẽ rõ.

- Thiên thứ nhất Quy chánh: Nói Phật là Đại thánh phàm tục nương về quy y. Hai nghi, ba ngũ (tam quy, năm giới) không đáng quy kính.-Thiên thứ hai Biện hoặc: Nói chánh tà xen nêu, cuồng triết thay nhau lấn hiếp mà xét định không cần quy cảnh.

- Thiên thứ ba đức của Phật

- Thiên thứ tư Pháp nghĩa: Xe báu chuyên chở nhiếp độ, người từ bến này vượt qua bờ kia, tâm soi chiếu khắp.

- Thiên thứ năm hạnh Tăng: Người nối gót bậc Thánh để mở mang đạo pháp, thật xứng đáng là một trong ba ngôi Tam bảo, chỗ quy về nương tựa.

- Thiên thứ sáu Từ trắc: Được người đời xem trọng, tha thứ, thương xót lấy đó làm giác bổn.

- Thiên thứ bảy Giới công: Răn nhắc sự buông lung biếng nhác, kiêu mạn, lăng mạ, muốn ngang bằng bậc Thánh, xem xét sự sai trái không biết sợ.-Thiên thứ tám khởi phước: Phước là việc làm hằng ngày, tài vật quý giá khi đem làm phước không chấp trước.

- Thiên thứ chín Diệt tội: Tội được diệt trừ rồi, mà khởi lại, tâm ưa thích, che giấu khi sám hối tập khí tánh tướng.

- Thiên thứ mười Tổng quy: Vâng theo điều chân chánh dẹp tà thuyết, y đạo thành đức, thần giải đã thông suốt, nêu bày lời ca vịnh.

Bài tựa của Thiên Quy Chánh trong "Quảng Hoằng Minh Tập" ghi rằng: Tà chánh lộn xộn, trí ngu xen lẫn, không phải là bậc cực Thánh (Thánh cùng tột) thì đâu thể khai mở. Vì thế, Thiên ma ở cõi Dục còn có thể hiện tướng Phật, huống chi những hình tượng khác, ai có thể biết được ư? Phải biết trong một châu có muôn nước, một nước có một ngàn vị vua, thay nhau lên ngôi truất vị không thể bình luận hết. Đây là dùng chín mươi sáu bộ để nối tiếp gốc trời ở thượng giới, để nghiệm xét minh bốn của cực kế, đều trình bày chánh sóc, gọi là Tam bảo đối với mọi người hoặc xưng là đại tế, ban bố (Từ, Bi, Hỷ, Xả) khắp trong thiên hạ. Lại có Lỗ Bang, Khổng Tử noi theo lễ nhạc ở chín châu. Lý Công ở nước Sở khai linh huyền trang Ngũ nhạc, chẳng phải xưng là giáo chủ đều trình bày đối với Tiêu vương, khen ngợi thời thể quốc, các thần sử đối với cơ vụ. Đây là ngã tư đường phân cách bờ cõi (là vùng sa mạc ở phía Đông do Khổng Tử giáo hóa và sông Thông ở phía Tây do Bộ khác thống lãnh. Biện ngự quai trương trời lý lộ khác. Tự riêng biệt như vậy, sao rõ như vậy ư? Vì thế Đại Hạ ở Tây Vức thành lập Ngã thần, đạo Nho ở Đông Hoa đại lược ở thân quốc. Ai biểu vọng tưởng lưu ái ràng buộc ở Cửu cư. Đảo điên luống trệ, trừ bỏ bảy thức, đến nỗi khiến cho mê hoặc cương yếu, che lấp tâm đâu biết chỗ hướng về. Mờ mịt giữa sóng nước đâu rõ chỗ trở về.

Không thể bắt chước làm điều lầm lạc, cần phải phản tỉnh. Phàm tiểu đạo, đại đạo từ xưa thường bàn luận, Đại thánh Tiểu thánh thời nay cùng thuật. Còn như đối diện trước mình mà không hề hiểu biết. Theo thể phụ theo đó mà cạnh tranh, vì thế có khắc niệm làm Thánh, cuồng triết xen nhau xưng, ngay đây là luận chưa khế hợp đầu mối.

Xưa Hoàng Giác ở nước Xá-vệ, hai mươi lăm năm, chín ức biên hộ nghịch tùng Thái Bán, Tố Vương ở huyện môn học ba ngàn. Tử Hạ coi thường mà sinh ra sự nghi ngờ lời nói của Nhan Hồi không thể lường được, dùng đây luận bàn về đạo lại có thể ngờ lạ (mê lầm) được sao?

Do thấu hiểu chân chánh gọi là Thánh, không chỗ nào chẳng thông suốt, căn trần không ngại đối với có không, giáo hóa không ngại nơi tánh dục. Hình không thể dùng tướng mà được, vượt hơn thân vàng ba mươi hai tướng tốt. Tâm không thể dùng trí để cầu.

Mười tám món bất cộng, đây chỉ có một người xưng là Phật Thánh, vì thế cứu giúp các cõi, u hiển đều quy y. Từ chỗ cao rộng khác, như con đường cõi trời chưa lên được. Vả lại, địa vị trong nước khác nhau không lạm quyền được. Trên trời không thể có hai mặt trời, nước không có hai vua chỉ có Đức Phật xưng là Đại Thánh, ánh sáng của Ngài chiếu khắp thiên hạ. Vì thế, khiến cho môn học ngày càng thạnh, không nước nào chẳng kính mến phong tục kia. Giáo nghĩa phải tu, người hiểu biết đều tham dự kiến giáo pháp kia. Địa vị của Khổng Tử và Lão Tử đồng thế tục chẳng khác người thường, noi theo tiên vương không dạy bảo làm sao được so sánh với Đức Phật mà chống đối nhau ư?

Vả lại, y theo lược âm dương tám sát, cúng tế núi sông. Bảy chúng nương theo đó làm di chúc, năm giới bỏ đi không đoái hoài đến. Xem một đường này, cao thượng tự đủ đầu thành, huống chi là có các bậc Hiền thánh là bậc Thầy trời người ư? Phải biết trên trời dưới đất chỉ có Đức Phật là tôn quý. Sáu đường bốn loài đều khổ, là thân tâm thường khổ nghĩa tất rong ruổi. Không suy nghĩ điều này, ôm lòng vọng cho là cao lớn. Lớn mà có thể xưng lớn thì không bị vùi lấp trong hữu vi. Đã đến chỗ phi thường, thì hãy trở về chánh giác, có sự loại như thế nên bạo dạn soạn bài tựa này.

Quảng Hoằng Minh Tập, thiên thứ nhất: Quy chánh. Mục lục của thiên Quy chánh trong Quảng Hoằng Minh Tập, đời Lương: Tổng mục của thiên Quy chánh trong Quảng Hoằng Minh Tập, đời Đường.

- Trong Tử Thư, đời Thương, quan Thái Tể hỏi, Khổng Tử cho rằng Phật là bậc Thánh.

- Lão Tử, Phù Tử nói Phật là Thầy.

- Đời Hán, Hiển Tông khai Phật hóa lập bổn truyện.

- Đời Hậu Hán.

- Ngô Chủ Tôn Quyền nói về Phật hóa ba tông.-Tống Văn Đế. Tập Triều Tể nói về Phật giáo.

- Đời Nguyên Ngụy, Hiếu Minh Đế nói Thích Lão môn nhân nói về tông.

- Sách đời Nguyên Ngụy nói về chí khí của đạo Phật và đạo Lão.

- Thiên Nam Tề Giang Yêm Toại Cổ.

- Thiên Bắc Tề, Nhan Chi suy qui tâm.

- Bài Tựa, Lương Nguyễn Hiếu tự thất (bảy) lục.

- Bắc Triều, Vương Thiệu Tề Chí nói về Phật giáo.

- Lương Cao Tổ bỏ sự đạo chiếu.

- Bắc Tề, Tuyên Đế hạ chiếu bỏ thờ đạo.

- Luận Tùy Thích Ngạn Tông thông cực.

Quảng Hoằng Minh Tập. Thiên thứ nhất Quy chánh. Đời Thương, Thái Tể hỏi Khổng Tử ai là bậc Thánh, xuất xứ từ Liệt Tử.

Sách Tử Thơ cho rằng: Phật là thầy, xuất xứ từ Khổng Tử, Phù Tử.

Hán Pháp Bổn Nội Truyện, không rõ tác giả. Hậu Hán, Giao Tự Bổn Chí, xuất ra từ sách "Phạm Hoa Hậu Hán". Ngô Chủ Tông Quyền Luận Phật Hóa Ba Tông, xuất xứ từ sách nhà Ngô.

Tống Văn Tập Triều Tự Phật Giáo, xuất xứ từ "Cao Tăng Truyện".

Đời Nguyên Ngụy, Hiếu minh thuật Phật tiên hậu xuất xứ từ sách đời Ngụy.

****

QUYỂN 1

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN I)

Đời Thương, Thái Tể hỏi Khổng Tử ai là bậc Thánh, rút ra từ tổ.

Liệt Thái Tể hỏi Khổng Tử rằng:

-Phu Tử có phải là bậc Thánh không? Đáp: Phu tử là người kiến thức cao rộng chớ không phải bậc Thánh. Lại hỏi: Ba vua là bậc Thánh phải không?

Đáp: Ba vua khéo dùng trí, dũng, còn phải là bậc Thánh hay không thì Phu Tử không biết.

Hỏi: Năm đế có phải là bậc Thánh hay không?

Đáp: Ngũ đế khéo dùng nhân, nghĩa, còn có phải là bậc Thánh hay không thì Phu Tử không biết.

Hỏi: Ba Hoàng có phải là bậc Thánh hay không?

Đáp: Tam Hoàng khéo dùng thời, còn có phải là bậc Thánh hay không thì Phu Tử không biết. Thái Tể ngạc nhiên, hỏi rằng: Vậy ai là bậc Thánh?

Phu Tử nghiêm sắc mặt đáp: Ta nghe ở phương Tây có bậc Thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không hóa mà tự hành, mênh mông như vậy, không thể gọi tên.

Theo đây mà nói thì Khổng Tử biết rõ Đức Phật là bậc Đại thánh. Vì thời cơ chưa đến nên im lặng mà biết, nay có cơ hội nên nêu ra, song chưa nói đến chỗ cùng tột kia.

* Đức Phật là Lão sư:

Lão Tử có nói rằng: Thầy của ta du hóa đến Thiên Trúc khéo nhập Niết-bàn.

Phù Tử nói: Thầy của Lão Tử là Đức Thích-ca. Tôi tìm xem biết được ba Hoàng, năm Đế có thờ Bôn Hãn và Văn Đông Thê ở phương Tây, vì thế ngựa xe đến nước Hoa Tư, Vương Thiệu nói rằng tức là Thiên Trúc. Lại đến núi Côn Luân tức Hương Sơn. Lão Tử theo dấu đó đến Trầm Phù Phong, sử thuật ở vùng sa mạc. Mà các sách Đạo gia đã nói đều là Tây thăng côn khưu mà lên cõi trời do sự rõ đó đều từ cõi nước của Đức Phật. Vì thế Bá Ích nói nước của Thân Độc Sơn Hải gần gũi và thương yêu người. Quách Phộc là người am hiểu việc thời xưa nói rằng: Thiên Trúc tức Thân Độc, đã xây dựng tháp Phật, nay nghe việc đó nên nói rằng: Vật hư hoại trong đất màu đỏ sẫm rất đẹp đẽ. Nhân dân biết rõ về nhân, trí; thế tục thông lý học, lập đức rộng lớn giúp chúng sinh nào có cậy nhờ các nơi. Xưa gọi là nước thương yêu nước, là bậc Thánh hiền đỉnh đạt ở đời há là hư cấu ư?

* Đời Hán, truyện vua Hiển Tông khai mở Phật hóa pháp. Không rõ tác giả.

Truyện rằng: Thời Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ ba, vua mộng thấy có một vị thần, thân màu vàng, cao trượng sáu, ở cổ có vầng ánh sáng. Khi thức dậy, hỏi các hạ thần, quả quyết so sánh biết được có Đức Phật ra đời ở Thiên Trúc, bèn sai sứ đến đó tìm cầu, được kinh tượng và hai vị tăng. Vua lập chùa Phật, vẽ tượng, ngàn xe muôn tượng nhiễu quanh tháp ba vòng. Lại ở trên đài Thanh Lương ở Nam Cung và cửa Cao Dương có xây một ngôi Lăng lớn, vẽ tượng đứng và kinh Tứ Thập Nhị Chương để kín trong nhà bằng đá ở Lan Đài, rộng như tập trước Mâu Tử đã nói. Truyện rằng: Lúc bấy giờ có Sa-môn Ma Đằng, Trúc Pháp Lan, lập hạnh khó lường, chí để tâm vào sự khai hóa vua thầm lặng sai người đến thỉnh Ma Đằng đến, không giữ theo đến Lạc Dương.

Dẫn dắt vật tình, kính minh tin bổn. Vua hỏi Ma Đằng rằng Đức Phật xuất hiện ở đời giáo hóa thế nào, sao không đến đây?

Ma Đằng đáp: Nước Ca-tỳ-la-vệ, là trung tâm của tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức mặt trời mặt trăng, chư Phật ba đời đều giáng sinh ở nước đó, cho đến trời, rồng, quỷ, thần có hạnh nguyện đều sinh ở đó, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật đều được ngộ đạo, còn chúng sinh những nơi khác không có duyên cảm Phật nên Phật không đến. Đức Phật tuy không đến nhưng ánh sáng của ngài cũng chiếu đến những chỗ đó. Hoặc năm trăm, hoặc mười ngàn năm, hoặc hai ngàn năm đều có bậc Thánh truyền sự giáo hóa của Phật mà hóa độ dẫn dắt chúng sinh.

Nói rộng giáo nghĩa, văn rộng nên lược.

Truyện rằng: Ngày mồng một tháng giêng niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn, Đạo sĩ ở các núi Ngũ Nhạc triều chính chi thứ tự tương mạng chép:

Thiên Tử bỏ Đạo pháp của ta, xa cầu Hồ giáo (giáo pháp của rợ Hồ). Nay nhân lúc triệu tập hãy làm tờ biểu để dâng lên, tờ biểu lược rằng: Mười tám núi ở Ngũ Nhạc quán Thái Thượng Tam Đổng Đệ Tử Đỗ Thiện Tín v.v...

Sáu trăm chín mươi người chết tội nói ở trên, thần nghe Thái Thượng vô hình, không tên, vô cực vô thượng, hư vô tự nhiên, Thái thượng xuất thế trước tạo hóa, Thượng cổ đều vâng theo, trăm vua không sửa đổi. Nay bệ hạ nói Hoàng Đức cao tột, Nghiêu Thuấn cao thượng, Bệ hạ bỏ gốc theo ngọn cầu giáo ở Tây Vức, chỗ thờ chính là Hồ Thần, chỗ nói không can dự đến Hoa Hạ, xin Bệ hạ tha thứ tội cho thần, Bệ hạ cho phép thần thử nghiệm. Các Đạo sĩ ở các núi, phần nhiều nhìn rộng nghe xa, thông suốt kính điển. Từ thời Nguyên Hoàng đến nay, các sách Thái Thượng phù chúc của Thái Hư không đâu chẳng thông thạo đạt đến bờ kia. Hoặc sai khiến quỷ thần, nuốt sương uống khí, hoặc vào lửa không cháy, hoặc xuống nước không chìm, hoặc thanh thiên bạch nhật hoặc ẩn hình không lường được, còn như phương thuật chẳng chỗ nào không làm được, xin được tỉ thí với kia.

1- Thánh thượng an ủi.

2- Nói lược chân ngụy.

3- Đại đạo có chỗ quy y.

4- Không loạn phong tục Trung Hoa.

Các thần nếu so tài không đúng trách nhiệm thì sẽ xử quyết nặng. Nếu kia thắng thì xin trừ hư vọng. Vua ra sắc lệnh sai Thượng thư khiến Tống Tường dẫn vào cung Trường Lạc, vào ngày rằm tháng nay hãy tập trung tại chùa Bạch mã. Các Đạo sĩ liền lập ba Đàn tế. Đàn riêng khai hai mươi bốn cửa.

Đạo sĩ ở Nam Nhạc là Chử Thiện Tín, Đạo sĩ ở Hoa Nhạc là Lưu Chánh Niệm. Đạo sĩ ở Hằng Nhạc là Đàn Văn Độ. Đạo sĩ ở Đại Nam là Tiêu

Đắc Tâm. Đạo sĩ ở Tung Nhạc là Cung Tuệ Thông Hoắc. Đạo sĩ ở Sơn Thiên Mục, Ngũ Đài, Bạch Lộc v.v... ở mười tám núi là Văn Tín v.v... Đều đem linh báu, và các sách chân văn Thái Thượng, Ngọc Quyết, Tam Nguyên Phù v.v... Năm trăm lẻ chín quyển để ở đàn phía Tây. Mao Thành Tử, Hứa Thành Tử, Huỳnh Tử, Lão Tử v.v... hai mươi bảy nhà Tử Thư gồm hai trăm ba mươi lăm quyển để ở Đàn giữa, dọn thức ăn cúng một trăm vị thần ở đàn phía Đông. Vua ngự ở điện thuộc cửa phía Nam chùa. Xá-lợi Phật và kinh tượng để đạo Tây. Ngày rằm, thiết trai xong rồi, các Đạo sĩ dùng củi thơm, chiên đàn, trầm hương làm đuốc, đi nhiễu quanh kinh điển mà khóc rằng: Các thần thượng khải Thái cực đại đạo xưa nay trời tôn quý, các Đạo sĩ có một trăm sự linh nghiệm, nay Hồ Thần loạn hạ, chủ tin tà giáo, chánh giáo mất dấu vết, huyền phong mất cội nguồn nay các thần xin để kinh trên đàn dùng lửa thử nghiệm, vì để khai thị tâm ngu tối, làm rõ chân ngụy. Nói xong, dùng lửa đốt kinh, kinh từ trong lửa bay ra, lửa tắt. Các Đạo sĩ thấy vậy nhìn nhau tái mặt sinh tâm sợ hãi, toan muốn bay lên trời ẩn hình, nhưng không thể được. Các quỷ thần có uy lực lớn quát rằng không nên có tâm xấu hổ. Đạo sĩ ở Nam Nhạc là Phất Thúc Tài tự hổ thẹn mà chết. Thái truyền Trương Diễn nói với Chử Tín rằng: Các khanh thử không có hiệu nghiệm tức là luống dối, Tây lai đúng là chân pháp.

Chử Tín nói rằng: Mao Thành Tử cho rằng: Sự linh báu Thái thượng trời còn tôn trọng, tạo hóa cho là Thái Sách, đây há là luống dối ư?

Trương Diễn đáp: Thái Sách có tên quý đức, không gọi là ngôn giáo, nay ông nói có ngôn giáo là không đúng. Tín nghe vậy, liền yên lặng.

Lúc bấy giờ, xá-lợi Phật phát ra ánh sáng năm màu chiếu thẳng lên hư không xoay thành vòng tròn như lọng báu, che khắp đại chúng và phủ lấp cả ánh sáng như thế Pháp sư Ma Đằng bay vụt lên cao, ngồi nằm trên hư không, hiện các thần biến. Lúc đó, trời mưa hoa báu trên tượng Phật và chúng tăng. Lại nghe nhạc trời nổi lên cảm động lòng người, đại chúng vui mừng chưa từng có, đều vây quanh Ma Đằng nghe nói pháp, phát ra Phạm âm khen ngợi công đức Phật, cũng khiến cho đại chúng xưng dương Tam bảo. Nói về nghiệp lành, nghiệp ác đều có quả báo. Sáu đường ba thừa các tướng chẳng phải một. Lại nói công đức xuất gia, phước đó rất cao. Đầu tiên lập chùa Phật đồng phạm phước lượng? Quan Ty ở Dương thành là Hầu Lưu Tuấn, cùng các quan, nhân sĩ, thứ dân v.v... hơn mười ngàn người xuất gia. Đạo sĩ ở các núi Tứ Nhạc như Lữ Tuệ Thông v.v... sáu trăm hai mươi người xuất gia. Phu nhân của vua, các quan Tiệp Dư nữ v.v... cùng các phụ nữ trong cung hai trăm ba mươi người xuất gia. Liền xây dựng mười ngôi chùa, bảy ngôi chùa ở ngoài thành thì Tăng ở, ba ngôi chùa trong thành thì Ni ở.

Từ đây về sau sẽ nói rộng. Truyện có năm quyển, lược không chép đủ. Có người nghi truyện này thuộc cận đại, vốn không có việc đọ sức. Xét trong sách nhà Ngô nói Phất Thúc tài cảm động chết, vì thế truyện cho là ghi lại sự thật. * Hậu Hán Thư Giao Tự Chí (xuất xứ từ Mang Hoa Hán thư):

Chí nói: Phật: Sách Hậu Hán dịch là Giác, dùng giác này giác ngộ chúng sinh. Bao gồm giáo pháp kia là dùng tu thiện, tâm từ bi làm chính. Không sát sinh, chuyên thanh tâm, tinh tấn là Sa-môn. Dứt tâm cạo tóc xuất gia, dứt tình bỏ sự ham muốn mà quy về chỗ vô vi.

Lại cho rằng: Người chết tinh thần không diệt, trở lại thọ thân đời sau. Đời này làm các việc lành và ác, đời sau đều có báo ứng; tôn quý thực hành các việc lành để luyện tinh thần kia, luyện mãi không thôi, cho đến vô sinh sẽ được thành Phật. Thân Phật cao một trượng sáu thước, sắc vàng, quanh cổ có vầng ánh sáng, biến hóa vô cùng, không chỗ nào không đến. Vì thế, có thể hóa thông vạn vật mà cứu giúp chúng sinh. Kinh điển có đến mấy ngàn quyển, dùng hư vô làm tông, bao la cùng khắp, chẳng nơi nào không thống nhiếp. Khéo nói lời rộng lớn thù thắng, chỗ cầu ở trong một thể, chỗ nói trong chốn thấy nghe. Quy y vi diệu, sâu xa khó lường được, vì thế Vương Công Đại nhân quán bờ mé sinh tử báo ứng không đâu chẳng phải bỗng nhiên tự mất.

Sách nhà Ngụy nói: Kinh của Đức Phật đại khái nói về việc sinh tử đều do hạnh nghiệp mà khởi, có ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Tu đạo, giai cấp v.v... chẳng phải là một đều từ duyên cạn đến sâu, khoan dung, nhiệm mầu dùng làm thứ lớp. Noi theo việc chứa nhóm lòng nhân, thuận tập hư tịnh mà thành thông chiếu v.v...

* Ngô Chủ Tôn Quyền trình bày ba tông của đạo Phật, xuất xứ từ sách nhà Ngô.

Đời Tôn Quyền, niên hiệu Xích Ô năm thứ tư, có Trưởng giả Khương Cư là Đại thừa tướng trong nước, bỏ tục, xuất gia, tên là Tăng Hội, họ Khương, thần nghi đỉnh đạt, lấy việc du hóa làm trách nhiệm.

Lúc bấy giờ, Tam quốc quyền lực ngang nhau mỗi nước đều chiếm lấy oai quyền. Phật pháp từ lâu ở Trung Nguyên, chưa đến Giang Biểu. Tăng Hội muốn đạo Phật truyền đến chỗ chưa được nghe bèn du hóa đến Nam Quốc. Đầu tiên đến đất Nghiệp, lập một lều tranh, lập ra tượng Phật để hành đạo. Người nhà Ngô, lúc đầu thấy vậy bèn cho là kỳ dị. Có một vị quan tâu lên nhà vua, vua Ngô hỏi rằng: Phật có linh nghiệm gì?

Tăng Hội đáp: Sự linh nghiệm của Đức Phật đã xuất hiện hơn mười ngàn năm nay, đã lưu lại xálợi ứng hiện vô phương.

Vua nói: Nếu có được xá-lợi thì ta sẽ xây tháp.

Ba tuần sau thì vua được xá-lợi, năm màu chiếu sáng, càng bền chắc hơn, đốt không hề cháy. Ánh sáng phát ra lửa thành hình hoa sen lớn chiếu sáng rực rỡ cả cung điện, nhà vua và quần thần thấy vậy đều kinh ngạc, đây thật là điềm lành ít có. Thế là, nhà vua phát khởi lòng tin, do đây xây tháp, độ người lập chùa. Sự giáo hóa bắt đầu hưng khởi, vì thế gọi là chùa Kiến Sơ.

Vua hạ chiếu bảo quan Thượng Thư Linh Hám Trạch rằng: Từ đời Hán Minh đế đến nay đã bao nhiêu năm, Phật giáo truyền đến nhà Hán đã lâu, vì sao nay mới đến Giang Đông.

Hám Trạch tâu rằng: Đời Hán Minh đế, niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười, Phật pháp mới đến, cho đến nay là niên hiệu Xích Ô năm thứ tư tính ra là một trăm bảy mươi năm rồi.

Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn, lúc Đạo sĩ ở núi Ngũ Nhạc đọ sức (so tài), kết quả Đạo sĩ không thắng. Các Đạo sĩ ở Nam Nhạc như Chử Thiện Tín, Phất Thúc Tài v.v... ở trong hội động tâm chết, môn đồ đệ tử quy táng ở Nam Nhạc. Không dự xuất gia không người truyền bá. Sau gặp chánh sách nhà Hán xâm lấn binh đao không dứt. Kinh nay chép nhiều, bắt đầu thạnh hành.

Lại nói: Khổng Tử, Lão Tử có thể so sánh với Đức Phật được chăng?

Hám Trạch tâu rằng: Khổng Tử, Lão Tử là bậc anh tài lỗi lạc, Thánh đức siêu vượt, người đời gọi là Tố Vương. Chế thuật kinh điển, dạy bảo khắp nơi, giáo hóa đời sau, phong cách nhà Nho thấm nhuần xưa nay. Cũng có những người sống ẩn dật như Hứa Thành, Tử Nguyên, Dương Tử, Trang Tử, Lão Tử v.v... trăm nhà hiền triết đều tu thân tự vui. Thong thả nơi hang núi, ẩn dật tâm kia. Học quy về đạm bạc, sự trái nhân luân những người già trẻ cũng được an vui. Còn vua Hán Cảnh Đế dùng nghĩa lễ của Huỳnh Tử, Lão Tử rất sâu xa. Đổi tử làm kinh mới lập đạo học, ra lệnh khắp nơi đều tụng. Nếu đem giáo lý của Khổng Tử, Lão Tử so sánh với Phật pháp thì thật thua xa. Vì sao như vậy? Vì giáo pháp của hai đạo Khổng và Lão, do pháp trời chế dùng, không dám trái ý trời. Còn chư Phật lập giáo thì chư Thiên phụng hành không dám trái Phật. Do đây mà nói, thật không để so sánh được.

Vua nghe xong, rất vừa ý.

Hám Trạch là Thái tử Thái Truyền v.v... Tống Văn Đế tập Triều Tể bàn luận về Phật giáo.

Văn đế là con thứ ba của Tống Cao. Thông minh, tài ba lỗi lạc, trị vì được ba mươi năm. Những ngày rảnh rỗi thường hỏi quan Sử bộ

Dương Huyền Bảo là Thị trung Hà Thượng rằng:

Trẫm lúc nhỏ ít đọc kinh, gần đây lại không có thời gian rảnh rỗi, nhân quả ba đời cũng chưa biết rõ, lại không dám lập điều khác.

Tạ Linh Vận Thường nói: Văn sáu kinh điển vốn cứu giúp người đời là chính, quyết tìm tánh linh chân thật, đâu không dùng giáo pháp đạo Phật làm kim chỉ nam ư? Gần đây thấy các luận: "Nhan Diên chi chiết đạt tánh", "Tông Yên nan bạch hắc" nói Phật pháp rất sâu xa, rất là đúng lý, đều đủ khai mở tâm ý cho người. Nếu khiến cho đều mê mờ sự giáo hóa này thì trẫm ngồi đến thái bình cũng đâu có việc gì?

Thượng đáp: Bọn hoang đường phần nhiều không tin Phật pháp. Thần là kẻ tầm thường, lại đảm nhiệm việc quan không dám trái. Còn như các bậc anh tài đời trước không dám trái lời vua ban xuống. Từ đời Trung triều trở đi khó còn có người biết hết. Từ thời Độ Giang đến nay thì Vương Đạo Chu Khải, Dữu Lượng Vương Mông, Tạ Thượng Hy Siêu, Vương Đán, Vương Cung, Vương Bật, Quách Văn Cử, Tạ Phu Tài, Lục Hứa Tuần và anh em Cao tổ đã mất cùng với Vương Nguyên Lâm, con cháu là Phạm Uông Tôn Xước, Trương Huyền Ân Khải,… hoặc là con với Tể Phụ, hoặc bà con với nhân luân, hoặc lúc tận tình với trời người, hoặc chống lại dấu vết khỏi sóng, đồng thời bẩm chí quy y, gá tâm kính tin. Trong đó so sánh thì lan hộ khai thế, sâu xa kín đáo, đều không có người sánh bằng.

Pháp sư Tuệ Viễn có nói: Sự giáo hóa của đạo Phật không đâu chẳng thích hợp, đạo vốn từ nguồn gốc giáo hóa, cứu giúp mọi người là việc gấp trộm xét lời nói này có sự khế hợp. Nếu khiến mọi nhà đều vâng theo giới cấm của Phật thì tội dứt, hình phạt không còn, bệ hạ cái gọi là ngồi yên hưởng thái bình, thật đúng như ý chỉ của Đức Phật.

Dương Huyền Bảo nói: Lời bàn này trùm khắp trời người, đâu phải chỗ biết của thần. Trộm cho là đời Tần đời Sở luận về việc binh mạnh. Tông Ngô hết cách thôn tính cũng không dám thử nơi đây.

Vua nói: Đây không phải là dụng cụ chiến quốc như lời khanh nói:

Thượng Chi đáp: Phàm lễ ẩn dật thì chiến sĩ lười biếng, quý nhân nghĩa thì binh khí quy kém. Nếu dùng Tông Ngô làm chí, ví như có nuốt chững cũng không giữ đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn, đâu chỉ giáo lý đạo Phật mà thôi ư?

Vua nói: Đạo Phật có khanh cũng như đạo Khổng có Lý Lộ, cái gọi là lời xấu không vào tai. Từ đây Văn Đế để tâm đến kinh điển của Phật, đồng thời gặp các vị Tăng như Nghiêm Quán v.v... cùng luận bàn nghĩa đạo. Vua thường mời đến cung điện dự hội, đích thân vua cùng ngồi dự tiệc với vị tăng. Lúc bấy giờ, có Sa-môn Trúc Đạo Sinh là bậc kỳ tài xuất chúng, hào kiệt nhân từ, vua rất tôn trọng. Thường thuật nghĩa đốn ngộ, các vị Tăng thần nạn, vua nói: Dù cho chết cũng đáng vui thích, đâu vì các ông mà oan ức.

Lúc bấy giờ, Nguyện Diện Chi soạn luận Ly Thức, vua mời Nghiêm Pháp sư biện về sự giống và khác nhau đó. Vua đi đi lại lại cả ngày, cười nói: Các ông ngày nay không thẹn với lời bàn của Chi Hứa.

* Nguyên Ngụy, Hiếu Minh Đế Thiệu Thích Đạo Môn Nhân luận trước sau.

(Đời Nguyên Ngụy, Hiếu Minh Đế mời môn nhân của đạo Phật và đạo Lão đến luận bàn về tuần tự trước sau), xuất xứ từ sách đời Ngụy. Niên Hiệu Chánh Quang năm đầu, Minh Đế gia triều đại xá cho thiên hạ. Mời môn nhân của hai tông Phật và Lão đến trước điện, dùng cơm xong, Quan Thị Trung là Lưu Đằng tuyên bố sắc chỉ mời các Pháp sư luận nghị với Đạo sĩ để giải thích lưới nghi cho các đệ tử. Lúc bấy giờ, Thanh Thông Quán Đạo sĩ, Khương Bân cùng vị Tăng ở chùa Dung Giác là Đàm Mô Tối biện luận.

Vua hỏi rằng: Đức Phật và Lão Tử có cùng thời hay không?

Khương Bân đáp: Lão Tử đến phương Tây giáo hóa giặc Hồ. Phật có cùng thời.

Đàm Mô Tối hỏi: Vì sao biết được như vậy?

Bân đáp: Khảo xét trong kinh Khai Thiên của Lão Tử mà biết được.

Đàm Mô Tối hỏi: Lão Tử sinh vào năm nào, nhằm thời vị vua nào của nhà Chu, năm nào từ phương Tây đến?

Bân đáp: Lão Tử sinh vào đêm 14 tháng 9 thuộc năm Ất mão thời Châu Định Vương thứ ba, tại ấp Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở. Đến thời vua Châu Giản, năm Đinh sửu thứ tư, thời vua nhà Chu giữ kho sử. Đời vua Giản Vương năm thứ mười ba đổi làm quan Thái Sử. Đến niên hiệu Kính Vương năm đầu tức năm Canh Dần, năm tám mươi lăm tuổi thấy Chu Đức hình phạt tàn nhẫn và giam cầm, nên khiến Doãn Hỷ đến phương Tây giáo hóa giặc Hồ, từ đây mà rõ biết.

Mô Tối nói: Đức Phật giáng sinh vào ngày mồng 8 tháng 4, niên hiệu vua Châu Chiêu Vương năm thứ hai mươi bốn. Diệt độ vào ngày rằm tháng hai niên hiệu Mục Vương thứ năm mươi ba. Tính ra, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn ba trăm bốn mươi lăm năm mới đến niên hiệu Định Vương năm thứ ba (tức thời Chu Định Vương năm thứ ba) thì Lão Tử mới sinh. Năm Lão Tử được tám mươi lăm tuổi là niên hiệu Kính Vương năm đầu, tính ra là bốn trăm hai mươi lăm năm cùng Doãn Hỹ đến phương Tây, y theo năm tháng này thì chênh lệch quá xa, không phải sai lầm ư?

Khương Bân nói: Nếu nói Đức Phật sinh vào thời Chu Chiêu Vương, thì có sách nào ghi lại không?

Mô Tối đáp: Trong "Dị Ký Hán Pháp Bổn Nội Truyện" sách nhà Chu, đều có ghi.

Khương Bân nói: Khổng Tử đã là bậc Thánh chế pháp, đương thời đối với Phật không có sách nào ghi ư?

Mô Tối đáp: Sự hiểu biết của người có lòng nhân đồng như ống dòm, nhìn xem không rộng xa. Khổng Tử có kinh Tam bị bốc nghĩa là Thiên Địa Nhân (trời, đất, người). Sách của Đức Phật nêu đầy đủ trong đó. Lòng nhân tự mình nghiên cứu không có sự mê lầm ở đây.

Khương Bân nói: Bậc Thánh Khổng Tử không nói mà biết, đâu cần bói toán?

Mô Tối: Chỉ có Đức Phật là vua của các vị Thánh là Thầy trong bốn loài, thông suốt tất cả hàm linh hai đời trước sau, nguyên nhân kết quả của sự tốt sự xấu không cần bói toán, còn các bậc Tiểu thánh khác tuy hiểu mà chưa thấu suốt, phải nhờ sự bói toán để thông suốt sự linh nghiệm.

Quan Thị Trung Thượng Thư bảo Nguyên Hựu tuyên bố sắc chỉ rằng: Đạo sĩ Khương Bân luận không có tông chỉ phải xuống tòa.

Lại hỏi: Kinh "Khai Thiên" từ đâu có và do ai nói? Liền sai Trung Thư Thị Lang Ngụy, Thượng

Thư Lang Tổ Tổ Oánh v.v..., đến lấy kinh xem, vua bảo luận nghị.

Thái Úy: Đan Dương Xương, Tiêu Tổng Thái Truyền, Lý Thị. Quan Vệ Úy: Hứa Bá Chẩm. Sử Bộ Thượng Thư: Hình Luyến Tán, Kỵ Thường Thị, Ôn Tử Thăng v.v... một trăm bảy mươi người, đọc xong tâu rằng: Lão Tử chỉ chép năm ngàn lời không có lời nói, chỗ luận nghị của các Thần, tội của Khương Bân đã mê hoặc chúng, vua gia cực hình Khương Bân. Tam Tạng Pháp sư Bồ-đề Lưu Chi can ngăn nên được tha chết, đày đi Mã Ấp.

QUYỂN 2

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN II)

- Nguyên Ngụy Thư Thích Lão Chí (bổn đời Minh không có mục lục này) đời Tề soạn, đời Ngụy thu lục.

- Cao Tề thư thuật Phật Chí, tùy trước tác Vương Thiệu.

- Ngụy Thư Thích Lão Chí.

Đại nhân làm quan Ty Mục sinh dân, thâu kết sách trước đây không cho lưu hành. Từ đời Hy Cán về sau đến Tam Đại, dấu vết sách xưa bị nhà Tần đốt. Nhà Hán sưu tầm sách còn sót lại như sách của Sơn, Khưu, vốn khiến cho sáu nhà bảy lượt, họ ban họ Mã phân chia. Người học đạo Phật nghe vua Võ Đế đời Tiền Hán, Nguyên Thú Trung Hoắc hết bệnh được ngọc quý và tượng người vàng cao hơn một trượng, vua cho là Thiên thần, thờ ở cung Cam Tuyền, đốt hương lễ bái. Từ đây Phật đạo dần dần lưu thông và đến biên giới Tây Vức, sai Trương Khiên đi sứ đến Đại Hạ, trở về nói rằng: Nước Thiên Trúc có giáo pháp của Đức Phật. Ai đế nguyên thọ, trung cảnh hiến thọ, Đại Nguyệt Dân Vương Khẩu trao kinh Phù-đồ. Đời Hậu Hán, vua Minh Đế nằm mộng thấy có người thân sắc vàng, ở sau cổ có vầng ánh sáng, bay đến trước điện. Vua ra lệnh đem tượng Phật để trước vua. Sai quan Lang Trung là Thái Âm, Tiến sĩ Tần Cảnh v.v... đến Thiên Trúc viết di tích của Phật. Cùng với Sa-môn Ma Đằng và Trúc Pháp Lan trở về Lạc Dương. Lại thỉnh được kinh "Tứ Thập Nhị Chương" và tượng Đức Phật Thích-ca. Nhà vua bảo vẽ tượng thờ ở đài Thanh Lương và trên lăng Hiểu Tiết. Cất kinh trong thạch thất Lan Đài.

Phù Đồ hoặc gọi là Phật-đà, thanh tướng chuyển. Dịch là Tịnh giác, nghĩa là dứt trừ dơ uế thành đạo sáng suốt là Thánh ngộ. Phàm ý chỉ kinh Phật, đại khái nói về việc sinh tử đều do hành nghiệp mà khởi, có quá khứ, hiện tại, vị lai trải qua ba đời thần thức thường không diệt. Làm việc lành hay việc ác đều có báo ứng, dần dần chứa nhóm các nghiệp lành, sửa đổi những nghiệp xấu, trải qua vô số kiếp thao luyện thần minh cho đến vô sinh mà thành Phật đạo. Trong đó, ngôi vị thứ lớp tu chứng chẳng phải một, đều từ cạn đến sâu, từ thấp đến cao, nương vào chỗ vi diệu mà trụ, noi theo việc tích chứa lòng nhân, thuận ích ưa muốn, tu tập thanh tịnh mà thành chiếu chung. Vì thế, ban đầu tu tâm thì phải nương Phật, Pháp, Tăng gọi là Tam quy y, như ba úy (ba điều đáng sợ) của người quân tử. Lại có năm giới: Không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, đại ý giống như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nếu phụng trì thì được sinh về cõi trời, nếu thiếu và phạm thì bị đọa vào các đường khổ ngạ quỉ, súc sinh v.v... lại thiện ác gồm có sáu đường.

Những vị mặc pháp phục của đạo Phật thì cạo bỏ râu tóc, cắt ái từ thân xuất gia, tìm Thầy vâng theo giới luật, ở chung hòa hợp, sửa đổi tâm tánh tu tịnh hạnh, khất thực để tự sống, gọi là Sa-môn, hoặc gọi là Tăng môn, cũng là thanh tướng cận. Căn nghiệp khác nhau gọi là ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Đại thừa. Do ngôi vị này có thể vận chuyển để đến đạo làm tên.

Thượng căn là tu sáu độ cho đến vạn hạnh. Cứu giúp trải qua thời gian lâu xa, đến được chỗ giác ngộ gọi là Phật.

Đức Bổn sư Thích-ca, Hán dịch là Năng Nhân, nghĩa là đức cao đạo đủ cứu giúp muôn loài, giáng sinh làm con của vua nước Ca-tỳ-la-vệ ở Thiên Trúc. Sinh vào ngày mồng tám tháng tư, từ bên hông phải của mẹ mà sinh ra. Hình tướng khác thường có ba mươi hai tướng tốt, trời hiện điềm lành cũng có ba mươi hai điềm ứng.

Ngày rằm tháng hai nhập Niết-bàn, gọi là diệt độ, có chỗ nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nói không có sự dời đổi và các sự khổ lụy.

Lại có chư Phật có hai nghĩa:

1- Chân thật: Thể chí cực nhiệm mầu, dứt bặt sự ràng buộc. Không thể dùng nơi chốn, thời gian, chẳng thể dùng hình tướng hạn lượng, có cảm thì có ứng, thể thường vắng lặng.

2- Quyền ứng: Sống chung với sáu đường cùng muôn vật ở đời, sinh diệt tùy thời, tốt xấu ứng vật, hình do cảm sinh thể không thật có. Quyền hình tuy hết nhưng thật thể không thay đổi, chỉ vì thời cơ không diệu cảm nên không được thường thấy mà thôi. Do đây mà biết được Phật sinh không phải thật sinh, diệt không phải thật diệt.

Đức Phật đã nhập diệt dùng gỗ thơm đốt nhục thân, linh cốt phân vụn ra, lớn như hạt lúa, đập không bị vỡ, đốt cũng không cháy, nhưng thấy có ánh sáng linh nghiệm, gọi là xá-lợi. Đệ tử thỉnh về phụng thờ hương hoa chí kính, ngưỡng mộ, lập cung thờ, gọi là tháp, giống như Tông miếu. Vì thế, lúc bấy giờ gọi là Tháp miếu là do đây.

Sau một trăm năm, có vua A-dục dùng thần lực phân chia xá-lợi Phật. Sai khiến các quỷ thần tạo tám muôn bốn ngàn ngôi tháp, cùng khắp thế giới đều đến cùng một ngày. Nay ở Bành Thành Lạc Dương và Cô Tạng Lâm Truy đều có chùa Dục Vương, bởi theo di tích này. Nhưng các ảnh tích như móng và răng thì để lại Thiên Trúc, người tới lui đều nói là vẫn còn thấy.

Ban đầu nói giáo pháp, sau đều có ghi chép. Nghiệm xét sâu xa không có chỗ nào thiếu sót sai lầm, vì thế ba tạng và mười hai bộ kinh có khác với chín dòng. Gồm nhiếp số nhiều kia chung quy đều dùng ba thừa làm gốc. Sau có các vị La-hán, Bồtát kế tiếp nhau soạn luận nói rõ nghĩa kinh. Để phá ngoại đạo, đều nương vào đại nghĩa các tạng bộ, giả lập bên ngoài để hỏi nhưng dùng nội pháp (Phật pháp) để giải thích, giáo pháp truyền đến Trung Quốc dần dần truyền bá rộng ra.

Đời Hán, ban đầu có Sa-môn đều đắp y bằng vải đỏ, sau đổi thành tạp sắc. Còn như lời nói tinh vi, nghĩa ẩn chưa nghiên cứu rõ ràng.

Có Sa-môn ở Thường Sơn Vệ là Đạo An, tánh thức thông minh, một ngày tụng hơn muôn lời, nghiên cứu cầu ý chỉ nhiệm mầu. Bùi ngùi vì không có bậc sư tượng, một mình ngồi trong tịnh thất mười hai năm tư duy thiền quán, tinh thần ngộ được ý chỉ nhiệm mầu sâu xa. Vì trước đây kinh nêu ra phần nhiều có sự lẫn lộn. Chính là chỗ sai lầm ấy. Về sau, Sa-môn truyền pháp, phần nhiều chép ở Trung Nguyên.

Đời Ngụy, Tiên Vương lập nước ở Huyền Sóc, phong tục thuần nhất, thuần nhất với Tây Vức rất tuyệt. Vì thế, giáo pháp của Phật chưa được nghe. Đến thời Nguyên và Ngụy, Tấn khắp tìm kiếm học hỏi. Văn Đế ở Lạc Dương; Chiêu Thành ở Tương Quốc đã nghiên cứu đầy đủ ở Nam Hạ kính thờ Phật pháp. Thái tổ bình định Trung Sơn, trải qua các quận, các nước gặp các vị Sa-môn đều chí thành cung kính, cầm quân lính không được xúc phạm đến Sa-môn. Bấy giờ, có Sa-môn Tăng Lãng ở ẩn với đệ tử trong núi Thái. Vua gởi thư và các vật như lụa trắng, nệm bông, bình bát, tích tượng đến lễ. Nay còn gọi là Lãng Công Cốc.

Niên hiệu Thiên Hưng năm đầu vua hạ chiếu chỉ rằng: Sự hưng thịnh của Phật pháp rất lâu rồi, cứu giúp lợi ích cho cả kẻ còn người mất. Thần tích, giáo pháp truyền lại đáng tin để làm chỗ nương tựa.

Lại ra sắc chỉ cho quan Hữu Ty, ở kinh thành thành lập khuôn phép, tu sửa các cung xá, để cho những người có lòng tin Phật pháp hướng đến và có chỗ tạm nghỉ. Cũng vào năm đó, xây ngôi tháp Phật cao năm tầng, xây dựng điện ở núi Kỳ-xà-quật và núi Tu-di. Tiếp tục sửa chữa giảng đường, nhà thiền, phòng xá cho đến tòa của Sa-môn thật trang nghiêm đầy đủ. Vua Thái Tông lên ngôi cũng noi theo đời vua trước. Kinh đô thôn ấp bốn phương đúc tạo hình tượng Phật, thường khiến Sa-môn dẫn dắt dân chúng.

Thời Hoàng Thỉ, ở quận Triệu có Sa-môn Pháp

Quả giới hạnh trang nghiêm, giảng nói pháp yếu. Thái Tổ cho vị Sa-môn này thống lãnh Tăng đồ.

Vua rất thỏa thích, cúng dường trọng hậu. Vua Thái Tông cung kính Sa-môn càng hơn trước.

Niên hiệu Vĩnh Hưng, lần lượt trao chức Phụ Quốc cho Nghi Thành Tử, Trung Tín Hầu An Thành Công, đều một mực từ chối. Vua thường đích thân đến đó, cửa nhỏ hẹp xe không thể qua được, nhà vua liền sửa cho rộng thêm.

Đến năm tám mươi tuổi, nhằm niên hiệu Thái Thường thì Sa-môn Pháp Quả thị tịch. Vua ba lần đến dự lễ an táng, làm lễ truy điệu thụy tặng danh hiệu: "Lão Thọ Tướng Quân Triệu Hồ Linh Công". Pháp Quả năm bốn mươi tuổi mới làm Sa-môn, trước khi xuất gia có con tên là Pháp Mãnh, vua hạ chiếu cho Mãnh noi theo Pháp Quả và phong cho chức tước.

Thế Tổ kế ngôi cũng noi theo nghiệp của Thái Tổ, Thái Tông, thường cùng các vị Sa-môn cao đức bàn luận. Ngày mồng 8 tháng 4, các tượng Phật được chở đi ngang qua con đường lớn, nhà vua đích thân ngự đến cửa lầu nhìn xuống rải hoa để tỏ lòng cung kính. Thái Tổ bình định Hách Liên Xướng. Các vị Sa-môn: Tuệ Chỉ, Bổn Trương Thị, Thanh Hà Nhân nghe tin ngài La Thập xuất bản kinh, những vị này liền đến Trường An yết kiến ngài và tu tập thiền định ở Bạch Cừ Bắc. Ban ngày thì vào thành nghe giảng, tối về ở phủ Tịnh Tam, người trí thức phần nhiều theo về.

Lưu Dụ diệt Diêu Hoằng, giữ Nghĩa Chân lại để trấn giữ Trường An, Nghĩa Chân và quan huyện đều kính trọng. Sau Nghĩa Chân bỏ Trường An, Hách Liên dương cùng đuổi theo nhưng thất bại, người đạo kẻ tục đều bị chôn sống. Lúc đó, Tuệ Thỉ mang bạch đao (kiếm trắng) nên thân không bị tổn thương. Hách Liên nổi giận gọi Tuệ Thỉ đến trước mặt dùng kiếm báu đâm nhưng cũng không thể hại được, thấy vậy Hách Liên bèn kinh sợ mà tạ tội. Sau Tuệ Thỉ đến kinh đô giáo hóa dẫn dắt nhiều người, mọi người không thể sánh được dấu vết của Ngài. Vì thế Thái Tổ rất tôn trọng, càng kính lễ thêm. Từ khi mới tu tập thiền định đến khi thị tịch hơn năm mươi năm không hề ngủ nằm. Chân không mang dép lội dưới bùn đất mà chẳng dơ chân, gót chân trắng nõn nên người đời gọi là Cước A Luyện. Tự biết giờ qua đời, hôm đó trai giới thanh tịnh, ngồi ngay thẳng, Tăng chúng có mặt đầy đủ, thanh thản mà thị tịch. Thi hài để mười ngày mà dung sắc vẫn như thường. Hơn mười năm, khải tẩn cải táng, nhục thân không hư hoại, thật là điều kỳ lạ ở đời. Lễ an táng có hơn sáu ngàn người đến dự, đều cảm động. "Trung Thư Giám Cao Sung" là truyện ca tụng về đức tính của Tuệ Thỉ.

Trên phần mộ lập một tinh xá bằng đá, hình tượng vẫn còn.

Thế Tổ ưa thích Trang Tử, Lão Tử, phụng thờ sớm tối, quý kinh Xuân Thu. Ý chí lanh lẹ, có tài võ công. Tuy quy y Phật pháp, kính trọng Sa-môn, nhưng không hề xem kinh giáo, thâm cầu ý chỉ duyên báo. Được đạo của Khấu Khiêm, cho là thanh tịnh vô vi có chỗ chứng tiêu hóa, bèn tin và thực hành theo. Quân Ty Đồ Thôi Hạo cũng kính thờ đạo của Khấu Khiêm, không tin Phật pháp, thường cùng với vua nói những lời phỉ báng, cho rằng đạo Phật là hư dối hoang đường làm cho đời hao phí công sức, vua cho là Khấu Khiêm biện tài rộng lớn nên tin theo, Ngô phản ở Hương Thành, ở đất Quan Trung làm loạn, nhà vua đi chinh phạt đến Trường tu, vào chùa tham quan. Thấy Sa-môn ăn uống giống như những vị quan. Vào tiếp trong thất thấy tài sản, cung tên và những đồ vật của người giàu có. Trước vua nổi giận cho là Sa-môn phi pháp. Lúc bấy giờ Hạo theo nhà vua, nên vua bảo hạ chiếu giết Sa-môn ở Trường An, đốt phá tượng Phật chỉ để lại Đài Hạ. Khắp nơi đều y theo Trường An mà hành sự. Lại ban chiếu chỉ: Sa-môn kia giả Tây Nhung hư dối hoang đường vọng sinh yêu mị, không phải là đồng nhất giáo hóa cùng khắp, đức thanh cao trong thiên hạ. Từ đời Vương Công sắp về, nếu ai cung cấp cho Sa-môn đều để cho qua kỳ, không trao cho Sa-môn, có ai chết thì đều để dồn vào một cửa.

Bấy giờ, Cung Tôn làm Thái tử giám quốc (giám sát trong nước), rất kính đạo Phật. Ở sông Dĩnh nêu bày hình phạt giết hại, lại không phải là tội về hình. Hai, ba lần vua không bằng lòng, bèn hạ chiếu rằng: Xưa, vua đời Hậu Hán hoang đường tin hoặc tà ngụy, vọng dựa theo điềm mộng, tin tưởng yêu quỷ để loạn thiên hạ, từ xưa Cửu Lưu không ai như thế. Khoe khoang dối trá không có nhân tình. Đời của Thúc Lý mê vua loạn chúa, đâu không phải là quỷ thuật ư? Do đây chánh giáo không thực hành, lễ nghĩa bại hoại, ma quỷ thạnh hành, bắt chước vua xem thường Phật pháp. Từ đó trở đi đời kế họa loạn thiên phạt cực hình, dân chúng chết hết. Trong năm phục (năm loại áo tang) cúc chi khưu khu ngàn dặm tiêu điều không thấy dấu chân người đều do ở đây. Trẫm vâng theo sự phó thác của trời, phải đích thân thay đổi sự xấu tệ kia, muốn trừ ngụy định chân. Lại sửa đổi hy nông tất cả trừ dẹp Hồ Thần, diệt bỏ dấu vết kia ngõ hầu không tạ tội với nhân dân. Từ đây về sau người nào dám thờ Hồ Thần và đúc các hình tượng bằng đất bằng đồng sẽ bị giết.

Tuy nói Hồ Thần, hỏi nay người Hồ hoặc có hoặc không đều là đời trước người Hán không nương các đệ tử Lưu Nguyên Chân, Lữ Bá Cường tiếp nối lời hoang đường của Khất Hồ. Dùng sự luống dối của Lão Tử, Trang Tử phụ thêm vào đó, đều không phải chân thật. Đến nỗi khiến cho phép vua phế bỏ không thực hành, là do bọn đại gian. Đời có người phi thường có khả năng làm việc phi thường, không phải trẫm thì ai có thể trừ bỏ sự tà vạy nhiều đời.

Quan Hữu Ty tuyên bố rằng ở nơi nào có hình tượng Phật và kinh điển đều đập phá và đốt bỏ. Samôn bất luận lớn nhỏ đều chôn sống, năm này là tháng ba niên hiệu Chân Quân năm thứ bảy. Cung tôn nói tuy chưa dừng, song còn hoãn tuyên chiếu thư. Do đó, xa gần dự biết đều mưu tính được, Samôn ở các kinh thành, làng ấp khắp nơi lẫn trốn mà Phật thoát khỏi, các tượng báu vàng bạc, kinh luận phần nhiều được giấu kín. Còn cây gỗ, chùa chiền, tháp, kinh điển không dấu cất kịp đều bị thủ tiêu hết.

Tập luận nói: Vua người làng Nhung Mã, bặt dấu vết văn nghĩa. Đã tham gia quân sự, rất tàn bạo. Chỉ có việc này là chính, còn những vấn đề khác không nghe nói đến. Vì thế giết người viết sử xấu hổ nói lỗi kia. Thôi Hạo thầm gièm pha nhưng vua đâu biết ông ta nịnh hót nên làm việc giết trừ. Lúc đó, chỉ vì sự khoái ý một đời mà thôi không bao lâu phát bệnh hủi, ăn năn cũng không kịp. Xem Thôi Hạo như thù oán, đã tàn ác dã man bị thiên hạ chê cười.

Ban đầu, Thôi Hạo cùng Khấu Khiêm đều là đồ đệ, Khấu cùng Hạo tranh luận Hạo không nghe theo, Khấu Khiêm bèn nói: Khanh nay tuổi còn trẻ sao giết hại dòng dõi như vậy?

Đến niên hiệu Chân Quân năm thứ mười một, Hạo bị chết phải chịu đủ năm thứ hình phạt. Bấy giờ, được bảy mươi tuổi. Thấy vậy rất hối hận, nhưng việc đã làm rồi khó mà sửa được. Cung Tôn thầm muốn phục hưng nhưng chưa dám nói. Bấy giờ, pháp lệnh khoan hồng, nhưng nhà nào còn lòng tin Phật pháp được kính thờ Sa-môn, thầm mặc pháp phục giảng tụng kinh rất đông người tham dự.

Đến tháng hai năm thứ mười ba, vua bị bệnh hủi rồi băng. Thái tử Hoảng do Hạo gièm pha cũng bị giết, người cháu lên ngôi. Bộ Kiểm Biệt truyện ghi rằng: Thôi Hạo chê bai Phật pháp. Tôn sùng Thiên sư Khấu Khiêm, học Đạo Tiên. Những người họ Khương kính tin đọc tụng kinh điển của Phật như kinh Kim Cang, kinh Bát-nhã, Hạo lấy đốt hết bỏ vào nhà xí, rồi bỏ lên xe tù chở đến thành phía Nam, cho mười vệ sĩ đi tiểu trên đó, tiếng kêu oái oái trên đường.

Hạo nói: Đây là hiện báo của việc ta quăng ném kinh. Ban đầu, Hạo mặc ý dua nịnh vua, giết hại môn đồ họ Thích, viết văn phỉ báng, xướng lời hạ chiếu, nên bị cho là đứng đầu ma quỷ, vua chưa rõ việc đó. Có thể cho rằng người phi thường làm được việc phi thường?

Dòng họ của Hạo bị giết hết. Họ Hạo ở Thanh Hà không có bà con. Và họ Lư ở Phạm Dương, họ Quách ở Thái Nguyên, họ Liễu ở Hà Đông đều là bà con bên ngoại của Hạo đều bị giết hết.

Có lời thơ rằng:

"Gièm pha khắp nơi, Giao loạn bốn nước".

Hiệu nghiệm ư?

Bộ Tập Luận nói: Xưa, sự gia hình của Tam Công, đây là rất tàn ác. Đâu không hận lời dối trá tà nịnh độc ác nhân từ, cho đến khi bị bệnh hủi thì chính thân phải chuốc lấy quả báo không thể tránh khỏi được. Tàn bạo gièm pha, ăn năn lỗi trước, khắc chế tự mình vốn là điều khó. Không tự trách mình về sự ám hoặc kia, làm việc bạo ngược với người, không nào thể hết được tội lỗi kia, ắt hẳn là cắn tới cái rốn của mình.

Xưa, Long Phùng gặp Hạ Kiệt, Bỉ Can phanh thây Ân Tân, lập Bào Lạc làm cây nghiêm hình, ao rượu để vui lòng hạ thần (đổ rượu xuống ao). Lúc bấy giờ, mọi người đâu cho là chánh giáo ư? Buông lung phô bày điều quấy mà gọi là tốt. Đến đời Hậu Nam Sào bị phóng cờ trắng treo đầu, không có người thay thế phải tự mình đương đầu mà chịu, nước mắt thân không còn, không thể tránh khỏi được, tai họa đến không kịp trở gót tự mình phải chuốc lấy. Từ đây về sau, đời đời noi theo đạo của Khấu Khiêm, văn đời Ngụy khai mở Thật Lục kia. Xem xét đời chung cổ, vua Nghiêu vua Thuấn còn bị bệnh, vì thế kinh Phật nói rằng: Hai nghi còn mất, nước nhà có gì là thường, đây là lời chí lý. Thế Tổ có tự hỏi lại mình vốn thuộc lễ nghi, không thực hành lòng từ cứu giúp, do đời sau không rõ, không biết rằng khi xưa nương vào nghiệp gì mà có Trung Nguyên, vì sao lại buông lung mê mờ hung ác làm việc bạo ngược này, việc này thật không thể được. Đây là tự khuyên nhắc mình, ăn năn được ư?

Xưa có Sa-môn Huyền Cao là bậc tài giỏi của Không môn. Thông linh cảm chúng, được Đạo

Vương Lương Bình ở Hà Tây và Thái Võ ở Đông Quy tin tưởng kính trọng, là Thầy của Thái tử Hoảng.

Thái tử Hoảng hiếu kính với vua, tôn kính Phật pháp. Thôi Hạo và Khấu Khiêm may mắn được lòng vua, sợ Thái tử nhiếp chánh sẽ gặp nguy hiểm bèn thầm gièm pha với vua rằng có mưu đồ khác phải lo trước. Vua tin theo liền nhốt Thái tử vào cung sâu. Đêm đó, vua mộng thấy ông nội của Thái tử tay cầm kiếm, nổi giận nói rằng: Thái tử là người đầy đủ nhân hiếu trung thành, vì sao tin theo lời gièm pha như vậy.

Vua thức dậy, tập trung các quan trong triều để kể lại giấc mộng đó. Các vị Bá tước anh hùng tâu rằng: Thái tử là người vô dụng, đáng bị nhốt ở thâm cung. Lại một lần nữa, vua tin theo.

Vào tháng giêng niên hiệu Chân Quân năm thứ năm, vua hạ chiếu rằng: Trẫm vâng theo đầu mối của Tổ tông xán lạn, suy nghĩ rằng đã mở mang nghiệp lớn, khôi phục hưng thịnh muôn đời. Võ Công tuy sáng rạng nhưng văn giáo chưa thông suốt, không phải là chỗ để muôn dân tôn sùng và cai trị cho đất nước thái bình. Nay ở Tây Vức an lành, muôn dân giàu có, nên theo chế độ là pháp của muôn đời. Phàm âm dương có qua lại, bốn mùa có thứ lớp. Thọ tử nhậm hiền đâu hoàn toàn giao cho nhau được. Do đó phải nghỉ ngơi lao nhọc, cách thức vốn lâu dài, xưa nay không dễ gì tìm được người mẫu mực. Có thể cho Hoàng Thái tử là người hợp lý muôn cơ, gồm nhiếp muôn việc. Lại nêu các vị hiền lương để nêu đủ chức vị, chọn người trao trách nhiệm mà truất vị. Tất cả kẻ sĩ, thứ dân trong triều đều xưng thần với Thái tử v.v... Thôi Hạo lại gièm pha rằng: Việc trước của Thái tử thật có âm mưu, chỉ kết với đạo thuật của Huyền Cao vì thế khiến trước kia vua nằm mộng. Như vậy chớ luận bàn, sự tích khó rõ ràng, nếu không sớm trừ thì sẽ có hại lớn, vua lại nghe theo Thôi Hạo, liền giết Thái tử chết và bắt Huyền Cao treo cổ ở phía Nam Bình Vức, bấy giờ nhằm niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi mốt, đời Tống. Đêm đó, đệ tử ngài Huyền Cao không biết Ngài bị chết, bỗng một luồng ánh sáng nhiễu quanh tháp rồi vào phòng, có tiếng nói rằng: Ta đã chết rồi.

Các đệ tử nghe vậy vội chạy đến chỗ thi hài xin Ngài ban cho vài lời dặn dò.

Huyền Cao bỗng nhiên ngồi dậy nói: "Đại pháp ứng hóa tùy duyên có lúc thạnh lúc suy. Thạnh suy ở nơi dấu vết, lý thường vắng lặng. Chỉ lo cho các ông không bao lâu cũng bị như ta mà thôi. Các người sau khi chết pháp sẽ hưng thịnh trở lại, phải khéo tự mình tu tâm đừng để sau này hối hận". Nói rồi liền nằm xuống thị tịch.

Lời gièm pha của Thôi Hạo đã thâm độc, có thể khiến cho cha phải hiềm nghi con, cho đến giam nhốt đến chết, huống chi Sa-môn ư! Ngày mồng 5 tháng 2 niên hiệu Chân Quân năm thứ hai mươi ba, vua Thái Võ băng hà, Thái tử đã bị chết. Ngày mồng chín Ngô Vương lên ngôi, đổi niên hiệu là Vĩnh Bình. Đến ngày mồng 1 tháng 10 Ngô Vương lại băng hà. Cháu của vua húy là lên ngôi, đổi niên hiệu là Hưng An, đây là văn Thành Đế, miếu hiệu là Cao Tông. Nhưng Phật giáo cao xa, sáng chói cả bốn biển, châu đây muôn nước không vua nào không phụng thờ. Bắc Ngụy tuy trừ nhưng Nam Tống càng mạnh, xưng là Chân Quân minh chủ, không mê hoặc ư? Ngờ vực con tin theo bọn giặc thần ai dám thương tiếc ư? Cảm quả báo bị bệnh hủi tự mình chịu sự đau đớn của căn bệnh này. Đây thật là tàn ác! Dân chúng suy nghĩ dù sao đi nữa tồn vị chẳng phải một.

Niên hiệu Hưng An năm đầu, Cao Tông nối ngôi, hạ chiếu rằng: "Phàm làm vua phải thờ kính linh minh hiển bày lòng nhân đạo. Kia có thể ban ơn cho chúng sinh, cứu giúp lợi ích cho muôn loài. Tuy còn xưa nay, vẫn nói theo phong cách kia, đây là dùng sách Xuân Thu gia thêm lễ sùng minh. Sách cúng tế ghi chép công của dòng họ cúng thí, huống chi giáo pháp của Đức Như Lai công cứu giúp cả đại thiên thế giới, ân huệ lưu truyền khắp mọi nơi. Người nghiên cứu về việc sinh tử thì khen giáo pháp kia là quán sát thông suốt, người xem văn nghĩa thì tôn quý kia là pháp môn nhiệm mầu, giúp cho pháp luật ngăn cấm của chính sách cai trị của vua, lợi ích cho thiện tánh của lòng nhân, trí, bài bác bọn tà, mở rộng chánh giác, vì thế đời trước đến nay đều tôn trọng. Cũng như quốc gia của ta thường tôn trọng. Đời Thế Tổ, Hoàng Đế Thái Võ rộng mở biên cương, đức thấm nhuần mọi nơi. Samôn Đạo sĩ hạnh lành thuần thành như Tuệ Thỉ không nơi nào chẳng đến. Phong cách oai nghi cảm hóa mọi người, thường như rừng cây. Ở núi sâu biển cả có nhiều quái vật, bọn gian dâm được nhờ ơn. Trong các chùa đến nỗi có bọn hung đảng. Đây là do triều đại trước giết hại có tội kia. Quan Hữu Ty theo ý chỉ sai lầm cấm đoán tất cả Hoàng đế Cảnh Mục thường bùi ngùi. Lúc đó, việc quan, việc quân, việc nước quá nhiều, chưa kịp sửa lại. Trẫm theo sự nghiệp lớn lao, vua đến muôn nước, suy nghĩ lể lại ý chí trước để hưng thịnh đạo này. Nay ra lệnh cho các châu, thành, quận, huyện chỗ nào đông người ở đều cho phép xây dựng một ngôi chùa, tài dụng xây dựng không chế hạn lượng. Ở những nơi đó có người nào ưa mến đạo pháp, muốn làm Sa-môn, bất luận lớn nhỏ hễ xuất thân từ gia đình lương thiện, tánh hạnh trong sạch, dốc chí cầu đạo, biết rõ làng xóm thì cho phép xuất gia. Đại khái ở Đại châu có năm mươi người, Tiểu châu có ba mươi người, đủ để đổi ác thành thiện mở mang đạo pháp. Trong thiên hạ vâng theo phong tục lại tu sửa tượng Phật, kinh luận đều được công khai hiển bày. Lúc bấy giờ, dòng họ vua nước Kế Tân là Sa-môn Sư Hiền. Từ phương Đông du hóa đến kinh thành, lại đến kinh Hạ, nhân lúc Phật pháp bị suy vi, phương tiện giả làm y thuật mà giữ đạo không sửa đổi. Đến lúc khôi phục lại, liền làm Samôn. Đồng bọn có năm người, chính thân nhà vua xuống tóc, Sư Hiền làm Tăng Thống v.v...

Niên hiệu Hưng Quang năm đầu, vua ra sắc lệnh cho quan Hữu Ty ở chùa lớn năm tầng cầu phước cho năm vị vua Thái Tổ trở xuống, từ đúc năm tượng Phật Thích-ca, mỗi tượng cao một trượng sáu thước, dùng hai mươi lăm vạn cân vàng tía để sơn phết.

Vua lễ Sa-môn Đàm Diệu làm Thầy.

Yêu cầu vua ở kinh Tây, Vũ Châu, Tây Sơn, Thạch Bích, khai đào hang để điêu khắc, mỗi hang điêu khắc một tượng Phật. Tượng cao nhất là bảy mươi thước, kế cao sáu mươi thước, chạm khắc kỳ vĩ nhất đối với muôn đời nay. Thời nay, có người đến đó nhìn thấy, kể lại rằng: Hang sâu ba mươi dặm. Phía Đông là chùa Tăng, gọi là Linh Nham; phía Tây là chùa Ni. Đều đục đá làm bàn thờ (khám). Chứa cả ngàn người. Trở về phía Bắc có vách núi đá cao bảy dặm đỉnh cao nhất bảy dặm. Bàn thờ Phật liên tiếp các nơi. Bấy giờ, có lúc làm, có lúc nghỉ, số lượng tượng Phật ai có thể tính đếm được. Có một đạo nhân, tám mươi tuổi, lễ tượng Phật làm nghiệp. Cứ một tượng lạy một lạy đến trong bàn thờ (khám) mà chết. Thi hài nằm dưới đất, dùng đá đậy lên, nay vẫn còn thấy. Đâu thể tính được thời đại. Ở phía Đông Sóc châu ba trăm dặm, phía Tây thị trấn Hằng An hai mươi dặm, người thường đến, kể lại như vậy, thật là một việc phước không thể nghĩ bàn.

Niên hiệu Hoàng Hưng năm đầu, Cao Tổ Văn Đản xây dựng chùa Vĩnh Ninh ở đài phía Bắc Hằng An, tượng Phật có bảy bậc, cao hơn ba trăm thước, chu vi khuôn nền này là bậc nhất trong thiên hạ.

Lại, đúc tượng Đức Phật Thích-ca tại chùa Thiên Cung, cao bốn mươi ba thước, dùng mười vạn cân vàng đỏ và sáu trăm cân vàng ròng để sơn phết tượng. Tiếp đó, xây dựng tượng Phật bằng đá ba tầng cao mười trượng. Rui, nóc, xà ngang, cột trên dưới nhiều lớp kết nhau, lớn nhỏ đều bằng đá, kiên cố đẹp đẽ, đây là quang cảnh trang nghiêm ở Thủ đô Bắc Kinh.

Niên hiệu Duyên Hưng năm đầu, Hiển Tổ Hiến Văn nhường ngôi cho Thái tử, Tăng Cái Nhất Danh Hoằng tức Hiếu Văn. Lúc lên năm tuổi, sáng suốt anh minh thấu rõ lý nhiệm mầu, cùng thần biết căn cơ. Khi mới lên ngôi, Hiển Tổ dời đến cung Sùng Quang ở Bắc Uyển xem xét học tập về sách nhiệm mầu. Lập chu vi Lộc dã ở Tây Sơn thuộc Uyển Trung. Cách cung Sùng Quang về bên phải chừng mười dặm, xây thiền thất để chúng Tăng tu thiền ở.

Niên hiệu Thừa Minh năm đầu, Hiếu Tổ Thái Thượng Hoàng băng, xây dựng chùa Kiến Minh, sau đó làm phước, độ tăng, lập chùa chẳng phải một.

Niên hiệu Thái Hòa năm thứ mười sáu hạ chiếu: Mỗi năm vào ngày mồng 8 tháng 4 và ngày rằm tháng 7, cho phép ở Đại Châu một trăm người, Trung Châu năm mươi người, Hạ Châu hai mươi người xuất gia làm Tăng Ni, vì muốn lấy đây làm phép tắc bình thường.

Niên hiệu Thái Hòa năm thứ mười chín, thường đến chùa Bạch Thái ở Từ châu, nói với các Thần vương hầu rằng: Chùa này có vị danh Tăng là Pháp sư Tung thọ học luận Thành Thật với ngài La-thập, sau trao lại cho Pháp sư Uyên, Pháp sư Uyên lại trao cho hai vị Pháp sư là Đăng và Kỷ, trẫm thường xem luận Thành Thật này, có thể cho là người đạo thích thâm tình, vì thế trẫm đến chùa này. Dáng dấp oai nghi của Đạo Đăng có nghĩa nghiệp, Cao Tổ thường nhìn ngắm và đợi nghe giảng luận ở trong cung. Đến khi Đạo Đăng thị tịch, vua rất thương tiếc, cúng dường cả ngàn tấm lụa. Mời tất cả chúng Tăng vào kinh thành hành đạo bảy ngày. Hạ chiếu rằng: Pháp sư Đạo Đăng là Thầy của trẫm bỗng nhiên bị chết. Sau lưng Ngài bị đau dữ dội không thể chịu được. Đã tìm mọi thứ thuốc để trị, cẩn táng thận chưa cho phép liền đi, nhớ lại nghĩa thầy, khóc ngoài các cửa, người xuất gia, tại gia đều vinh hiển.

Ở Tây Vức có Sa-môn Bạt-đà, đạo nghiệp rất cao sâu, vua rất kính trọng, vua ban chiếu chỉ lập chùa Thiếu Lâm ở Thiếu Thất Sơn Âm, mời Samôn Bạt-đà đến ở và cúng dường y thực.

Tháng năm năm thứ hai mươi mốt hạ chiếu rằng: Pháp sư La-thập có thể gọi là bậc Thần xuất năm tài, chí nhập bốn hạnh. Nay ở chùa vẫn còn di tích, khâm phục dấu tích tu hành của Ngài và tình cảm thấm nhuần xa gần, nên ở giảng đường xưa xây tháp Phật ba tầng. Lại thấy bị ép ngặt, bạo ngược vì đạo bỏ thân. Đã đồng lễ của thế tục, lẽ ra có con cái nối dòng. Nên trước là lập giám Phước Tào, lại đổi thành Chiêu Huyền, đủ có quan thuộc để giải quyết việc Tăng, tức đồng như nay là Sùng Huyền Thự của chùa đây.

Lúc bấy giờ Cao Tổ biết tên các vị Sa-môn như Đạo Thuận, Tuệ Giác, Tăng Ý, Tuệ Tự, Tăng Phạm, Đạo Biện, Tuệ Độ, Trí Đản, Tăng Hiển, Tăng Nghĩa, Tăng Lợi, Cao Tổ đều tôn trọng.

****

Có Ngụy Hiếu Văn Thánh Thiên Tử, năm năm tu thiền, mười năm làm quan. Niên hiệu Thái Hòa năm thứ mười tám dời đô đến Lạc Dương. Năm thứ hai mươi đổi thành họ Nguyên. Trăm bài văn chương lỗi lạc xưa nay, khi mới lên ngôi thì nhờ các quan hữu ty, niên hiệu Thái Hòa về sau đều tự mình vận bút, trước sau các vị vua không thể bì kịp. Như Thiên Tăng Hành đã hạ chiếu.

Thế Tông lên ngôi, hạ chiếu rằng: Giới luật đã khác, pháp luật cũng không giống. Vì thế đạo giáo xen nhau hiển, nghiêm cấm và khuyến khích đều có sự thích nghi. Tăng phạm tội trọng giết người thì y theo pháp luật thế gian mà xử, còn phạm những tội khác đều giao cho Chiếu Huyền dùng giới luật của Tăng giải quyết.

Niên hiệu Hy Bình năm đầu, hạ chiếu cho Samôn Tuệ Sinh đi sứ sang Tây Vức sưu tầm kinh luật, trải qua bảy năm, đến mùa Đông niên hiệu Chánh Nguyên thứ ba mới trở về, số kinh luận đã được gồm một trăm bảy mươi bộ. Niên hiệu Cảnh Minh, vua Thế Tông hạ chiếu cho Đại Trường Thu Khanh, y theo hang đá chùa Linh nham ở đại kinh. Tại núi Y Khuyết thuộc Lạc Nam được Hoàng Thái hậu của Cao Tổ là Văn Chiêu xây dựng hai hang đá cách mặt đất ba trăm mười thước. Sau do phá núi quá cao phí công, khó được, bèn dời xuống thấp hơn, cách đất chừng một trăm thước, hai đầu (Nam, Bắc) cách nhau một trăm bốn mươi thước.

Vào niên hiệu Vĩnh Bình, được Thế Tôn xây dựng ba hang đá, từ niên hiệu Cảnh Minh năm thứ nhất, đến niên hiệu Chánh Quang năm thứ tư, tính ra hai mươi bốn năm mới hoàn thành, với tám mươi vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi sáu công thợ. Thời vua Túc Tông, niên hiệu Hy Bình, trong thành xây dựng chùa Vĩnh Ninh. Linh Thái hậu đích thân đốc suất cả một trăm người xây nền lập chùa, tháp có chín tầng cao hơn bốn mươi trượng, phí tổn không thể tính kể. Niên hiệu Cảnh Minh chùa tháp ít hơn. Sau, thời quan Tư chùa tháp rất nhiều.

Niên hiệu Thần Quy năm đầu Ty Không Thượng Thư khiến lãnh nhiễm thành, Vương Trừng phụng thờ chùa tháp dần dần nhiều thêm, ngại cho chỗ ở của dân.

Lược rằng: Đức Như Lai mở mang giáo pháp phần nhiều ở núi rừng. Nay Tăng chúng quyến luyến người thân, thành thị, há chỗ chật hẹp là chỗ thích nghi cho việc kinh hành, ồn ào là chỗ ngồi thiền ư? Sẽ bị lợi dưỡng dẫn dắt tâm kia đâu thể dừng lại. Vả lại, người ở đã đánh mất sự chân thật kia, người xây dựng chùa chiền tổn phước kia. Chính là cặn bã của dòng họ Thích, là con chuột của pháp môn, giới luật không dung chứa, phép vua cũng đáng bỏ. Có thể làm được ư? Không bao lâu thiên hạ tán loạn, thêm họa ở Hà Âm. Quan chức trong triều có người chết lại bỏ nhà kia mà vào chùa, nên liền cấm không cho làm nữa.

Niên hiệu Hưng Hòa năm thứ hai vua xuống chiếu dùng cung xưa ở Nghiệp thành làm chùa Thiên Bình. Đời Thế Tông đến cuối thời Vũ Định, các vị trong pháp môn biết tên như: Tuệ Mãnh, Tuệ Biện, Tuệ Thâm, Tăng Xiêm, Đạo Khâm, Tăng Hiến, Đạo Hy, Tăng Thâm, Tuệ Quang, Tuệ Ngung, Pháp Vinh, Đạo Trường đều xem trọng đạo và tục. Từ khi nhà Ngụy lên ngôi đến khi nhường ngôi, kinh Phật lưu thông đến Trung Quốc tính ra có bốn trăm mười lăm bộ gồm mười ngàn chín trăm mười chín (1.919) quyển. Niên hiệu Chánh Nguyên về sau, thiên hạ phần nhiều lo lắng rất sợ nhà vua bắt đi thú ngoài biên ải. Đối biên hộ sở tại đây theo nhau vào đạo. Mượn cớ là kính mến Samôn, nhưng thật ra là để tránh sự điều động đi thú ngoài biên ải. Thật là quá hèn nhát. Từ khi Trung Quốc có Phật pháp đến nay chưa khi nào có trường hợp như vậy. Lưu tệ không quy nhất đến nỗi như thế. Người trí thức phải dừng ở đó.

Nguồn gốc của đạo Lão phát xuất xứ từ Lão Tử, Lão Tử tự nói như vậy. Trước trời đất sinh để giúp muôn loài. Trên, ngọc kinh là tông của Thần chủ. Dưới, tử vi là chủ của phi tiên. Ngàn muôn biến hóa có đức không đức, tùy cảm ứng vật khuyết tích vô thường. Trao càn xe ở Nga Mi. Giáo Đế cấp báo ở Mục Đức Đại Vũ nghe pháp bí truyền trường sinh, Doãn Hỷ thọ ý chỉ đạo đức, nói diệu hữu linh đồng không thể thù thắng, kia chính là giáo. Hoặc trừ bỏ tà lụy tháo tuyết tâm thần, tích hạnh thọ công, chứa đức thêm thiện, cho đến bạch nhật thăng thiên, trường sinh trên đời. Đây là do Tần Hoàng Hán Võ cam tâm không dứt, lao tâm kiệt sức để truy tìm, nhưng không được, thoái hận về sau. Vì thế, có việc giết hại ba họ Loan, Đại và Từ. Nhưng đạo kia mê hoặc người bắt chước học theo chẳng phải một.

Linh Đế dùng hoa che rồng to lớn, lập ra đàn tràng làm lễ, và Trương, Lăng thọ đạo với Hộc Minh (Thiên Nga kêu). Truyền chương Thiên Cung một ngàn hai trăm (1.200) chương. Đệ tử truyền nhau việc làm kia. Đàn chay cúng tế quỳ lạy đều có thành pháp. Đối Tam nguyên cửu phủ đây có một trăm hai mươi vị quan, tất cả các thần đều gồm nhiếp. Lại xưng kiếp số, tạm trộm kinh Phật và kiếp kia hết gọi là trời đất đều hoại. Sách đó phần nhiều cấm mật, không phải bọn họ thì không được xem. Còn như hóa vàng, tiêu ngọc, bùa chú, sắc thủy, ỷ phương diệu thuật muôn cách ngàn điều. Trên nói là hóa cánh bay lên trời, kế gọi là tiêu trừ tai họa. Vì thế, người ưa điều khác lạ thường thường tôn thờ. Ban đầu, Văn Đế đến nước Tấn, người theo hầu nói rằng: Đăng Tiên y khuyết, Thái Tổ ưa lời nói của Lão Tử, tụng vịnh không mỏi mệt.

Vào niên hiệu Thiên Hưng Nghi Tào Lang Đổng Mật, vua đọc kinh đạo Tiên mấy mươi bài. Bèn sắp đặt vị Tiên Bác sĩ, lập tiên phường nấu luyện một trăm vị thuốc, giao cho Tây Sơn để cung cấp củi. Khiến cho tử tội uống, phần nhiều chết không linh nghiệm. Thái Tổ còn riêng tu. Thái y Chu Đam cố sức kỳ tiên thái chi dịch, muốn bỏ việc kia. Âm khiến vợ hóa thành vị Tiên Bác sĩ vợ của Trương Diệu, Diệu che giấu tội. Diệu sợ chết, do đó xin sống ở nơi xa xôi hẻo lánh (Tích cốc), Thái Tổ cho đó, cung cấp đồ dùng cho Diệu, tạo Tĩnh đường ở Uyển Trung, cho người quét dọn hai nhà, làm nơi luyện thuốc, làm Tiên lục. Thời gian lâu, Thái Tổ mệt mỏi mới thôi.

Thời Thế Tổ, Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi tự là Phụ Chân, người Châu Nam Ung là em của Sử Tán. Trước theo đạo Tiên, tu theo thuật của Trương Hội, uống thuốc cả năm mà không có hiệu quả. Có vị Tiên Thành Công Hưng làm thuê cho nhà Khiêm Chi. Sau đó, Khiêm Chi tính Thất Diệu, Hưng hoang mang không rõ, liền nói: Sao không giải thích?

Khiêm Chi nói: Ta học toán nhiều năm, gần đây tính Chu Bể không hợp.

Hưng khiến theo lời nói trình bày, trong giây lát liền giải quyết được. Khiêm Tán Thục muốn tôn Hưng làm Thầy. Hưng một mực từ chối, xin làm đệ tử của Khiêm Chi. Không bao lâu cùng vào Hoa Sơn ở thạch thất (tịnh thất bằng đá) Hưng tìm thuốc cho Khiêm uống, không bị đói. Lại cùng vào thạch thất ở núi Tung, nói rằng sẽ có người đem thuốc đến, được thì uống chớ nghi. Sau đó, có người đem thuốc đến, đều là thuốc độc. Khiêm Chi sợ bỏ đi. Hưng trở về hỏi sự việc đầy đủ, liền than rằng: Tiên sinh chưa phải là tiên, chỉ có thể làm Thầy Đế vương mà thôi. Hưng thờ phụng hầu hạ Khiêm bảy năm. Một hôm nói rằng không được ở lại đây lâu, sáng mai nên đi. Đến lúc sắp mất, thấy có hai đồng tử, một người cầm pháp phục, một người cầm tích trượng và bình bát đến chỗ thây chết của Hưng, Hưng bỗng nhiên đứng dậy đắp y cầm tích trượng và bình bát mà đi.

Khiêm Chi thủ chí có Tung Nhạc, do Thần báo điềm lành vào tháng 10 năm thứ hai, gặp vị Đại thần cỡi ngựa nương mây và một trăm vị thần linh đi theo tập trung ở đỉnh núi, xưng là Thái Thượng Lão Quân, bảo Khiêm Chi rằng: Từ khi Thiền sư Trương Lăng tạ thế đến nay, người cai quản ở đời, văn thân trực lý của Khấu Khiêm Chi, ta muốn trao địa vị Thiên sư cho ngươi, tặng cho ngươi "Vân Trung Tân Khoa" hai mươi quyển. Từ khi khai mở đến nay không lưu truyền ở đời, người phải tuyên truyền Tân Khoa Thanh Chỉnh đạo giáo của ta, trừ bỏ Tam trương ngụy pháp thuế gạo, thuế tiền và thuật hợp khí của nam nữ. Đại đạo thanh tịnh đâu có việc này, chuyên dùng lễ độ làm đầu, lại thêm nấu ăn, luyện thuốc, khiến cho Ngọc Nữ Cữu Nghi mười hai người lãnh thọ sự dẫn dắt bằng lời nói của Khiêm Chi, bèn được tích cốc khí thạnh, nhan sắc đẹp đẽ, đệ tử có hơn mười người đều được phương thuật đó.

Tháng 10, niên hiệu Thái Thường năm thứ tám có Mục Sĩ Thượng Thư Lý Phổ Văn đến Tung Nhạc nói là cháu chín đời của Lão Quân. Xưa ở Đại Quận Tang càn. Thời Hàn Võ Đế được đạo làm Cung Chủ Mục Sĩ. Thống lãnh ba mươi sáu nước nhân quỷ, địa phương rộng mười tám vạn dặm. Trong đó làm phương vạn dặm, có ba trăm sáu mươi phương. Bảo đệ tử rằng: Tung Nhạc chỗ thống lãnh phương vạn dặm để giao cho Khiêm, làm lời cáo v.v...

Lục Đồ sáu mươi quyển, Chân kinh giao cho ngươi, phụ tá phương Bắc, Thái bình chân quân nêu pháp Thiên cung tịnh luân. Nếu xây dựng thành công thì vượt lên chân tiên.

Lại nói: Chúng sinh đời nay, kiếp mạt sắp đến hành giáo rất khó, nam nữ lập đàn tràng sớm tối lễ bái v.v...

Lại nói: Trong Nhị nghi có ba mươi sáu cõi trời, mỗi cõi trời có ba mươi sáu cung. Mỗi cung có một người chủ. Những người đứng đầu trong đó gồm: Tùng Vương, Kiều Hàn chung, Trương An Thế, Lưu Căn, Trương lăng, những vị Tiên đời cận đại, đều làm tùy tùng, bảo Khiêm Chi cùng các vị tiên làm bạn.

Lại nói: Khi xưa Phật ở Tây Hồ đắc đạo, ở cõi trời ba mươi hai làm Diên chân cung chủ, dõng mãnh khổ giáo nên đệ tử của Phật đều cắt tóc nhuộm y, dứt bặt giao tiếp với người. Y phục cõi trời đều như vậy. Trong niên hiệu Thỉ Quang, ban đầu kính phụng sách kia, hiến cho Thế Tổ, khiến Khiêm Chi dừng việc cung cấp thực vật cho Trương Diệu ở Tích cốc (sống một mình ở nơi hẻo lánh). Trong triều, ngoài nội nghe đó hoặc còn hoặc mất chưa hoàn toàn tin. Thôi Hạo riêng khác lời nói đó, tôn làm thầy mà thờ, lãnh thọ pháp thuật kia. Dâng sớ làm sáng tỏ việc ấy rằng: Thần nghe Thánh vương thọ mạng thì có thiên ứng, mà bộ "Hà Lạc Đồ Thơ" nương lời nói nơi văn trùng thú, chưa phải ngày nay do thần tiếp đối tay viết, buồn cười từ chỉ thâm diệu, từ xưa không có việc này. Xưa bậc Hán cao anh thánh, tứ hạo còn lấy làm hổ thẹn không chịu luồn cúi. Nay Thanh đức ẩn tiên không mời tự đến. Đây thật là Bệ hạ ngang hàng tung tích phù chú Hiên Huỳnh ứng thiên, đâu thể để thế tục thường bàn luận chịu lệnh của Thượng linh, thần thầm sợ đó. Thế Tổ vui vẻ, bèn khiến yết giả phụng Ngọc Bạch Sinh lao quán sát Tung Nhạc. Tiếp đón đệ tử khác ở trong núi, kính thờ Thiền sư ở Tung Nhạc, lập đàn tràn mở mang Tân pháp, thông báo thiên hạ thực hành đạo nghiệp, phụng thờ Thiên sư rất cẩn bạch bái lễ, bị người chê bai.

Lúc đó, hơn ba mươi Đạo sĩ ở núi Tung đến phía Đông nam của Đạo Tràng kinh Thiên Sư, đàn cao năm tầng, y theo chế độ Tân Kinh. Cung cấp y thực cho một trăm hai mươi người, trai giới nghiêm túc sáu thời. Mỗi tháng tập trung ở nhà bếp hơn ngàn người.

Khiêm Chi tâu rằng: Bệ hạ cho Chân Quân mà giao du ở thế gian, lập Thiên Cung Tĩnh Luân, từ xưa chưa có, nên đến thọ phù lục, giúp pháp điều khiển lá cờ đều màu xanh để theo màu của đạo gia. Từ nay về sau các vua lên ngôi đều như vậy. Cung Tôn thấy Khiêm Chi xây dựng Thiên Cung Tĩnh Luân phải thật cao để không nghe tiếng gà gáy tiếng chó sủa và giao tiếp với Thiên thượng, công lao muôn kế, qua cả năm mà chưa hoàn thành, bèn nói với Thế Tổ rằng: Đạo của trời người định lực cao thấp khác nhau. Nay Khiêm Chi đã ước định thời gian mà không thành, nói việc không đúng, tài sức phí tổn, trăm dân khổ nhọc, đâu thể như vậy được. Quyết phải đúng như lời nói, không gì bằng nhờ Đông sơn có bờ cao muôn nhận, là công lao sai khác, vua rất thâm hiểu.

Chỉ vì Thôi Hạo tán thành nên khó trái với ý của ông ta. Trầm ngâm giây lâu, Thế Tổ nói: Ta cũng biết việc kia không thành, đã như vậy sao tiếc năm, ba trăm công?

Niên hiệu Chân Nguyên năm thứ chín, Khiêm Chi chết. An táng theo lễ của Đạo sĩ. Các đệ tử cho là thi hài tan rã, biến hóa mà đi. Thế là Thiền cung Tĩnh Luân cuối cùng không hoàn thành, liền xây dựng lại.

Lúc bấy giờ, kinh Triệu Vi Văn Tú ở ẩn trong núi Tung. Thế Tổ tìm hỏi Phương Sĩ việc Kim Đan. Phương Sĩ đáp: Thần thông sâu xa biến hóa không lường. Có thể không công khai, khó dự định thời gian. Thần khi xưa thọ nơi tiên sư, chưa làm việc đó. Thế Tổ trọng hào tộc ôn hòa nhã nhặn, cho Thượng Thư Thôi Trách đến núi Vương.

Hợp tan cuối cùng không thành công.

Lúc bấy giờ, Phương Sĩ đến, trước sau mấy mươi người lịch xuất danh hành. Kỳ Tiêm ở Hà Đông ưa tướng nhân Thế Tổ thân mật, bái Tiêm Thượng Đại Phu.

Tần Dương Phùng vừa nghe Hỷ Ngô khuyến khích hướng dẫn cách dưỡng sinh, hơn một trăm tuổi mà thần khí không bị suy hao. Các Đạo sĩ Hằng Nông, các bình rộng đọc, một trăm nhà không thể đạt ý, nhưng đối chiếu từ thì sẽ ghi chép được. Phù Phong Lỗ kỳ gặp Hách Liên phản nghịch, trách vào núi Địa Hàn truyền giáo được mấy trăm người, ưa phương thuật ít ham muốn.

Thức ăn của La Sùng ở Hà Đông là nhựa cây thông, không ăn ngũ cốc. Nói rằng thọ đạo tu ở núi, có huyệt đạo Côn Lôn, Bồng Lai được thấy vị Tiên thường đến. Vua khiến về quê lập đàn cầu thỉnh, ban chiếu chỉ Hà Đông cung cấp chỗ cần thiết. La Sùng vào hàng (huyệt đạo) một trăm bước, cùng đường quay lại, quan hữu ty vu khống chẳng nói, tâu tội lên vua.

Thế Tổ tha tội cho, để mở ý tiếp đãi người hiền. Đông lai, Vương Đạo, Đực Ẩn, Hàn Tín ở trong núi bốn mươi năm. Không ăn lúa gạo ăn lúa mạch, thông suốt kinh chương phù chú không giao tiếp thế tục. Hiển Tổ sai Thứ sử Thanh Châu đến kinh đô, vẫn giữ bổn tháo, bèn khiến Tăng Tào cung cấp y thực trọn đời.

Niên hiệu Thái Hòa năm thứ hai mươi lăm, ra chiếu chỉ rằng: Phàm chí đạo vô hình, vắng lặng vô chủ. Từ khi có nhà Hán về sau làm đàn cúng tế, triều đại trước do thuận kia có thể quy y, vì đó lập ra chùa chiền.

Xưa trong kinh thành Cư xá còn ít. Nay nhà cửa san sát, người dân đông đúc, chẳng phải là chỗ tôn sùng chí pháp, cung kính thần đạo. Có thể dời đến phía Nam kinh Đô thuộc phía Bắc Tang Càn, phía

Nam núi Nhạc. Xếp đặt cung cấp năm mươi hộ để làm chỗ cúng tế, gọi là chùa Sùng Hư. Mời ẩn sĩ ở các châu, được chín mươi người, dời đến đất nghiệp nối tiếp việc như cũ. Đạo tràng đó ở Nam Giao, vuông vức hai mươi bộ, vào những ngày mồng bảy tháng giêng, mồng 7 tháng 9, mồng 5 tháng 10, Đạo sĩ Đàn chủ một trăm sáu mươi người hành lễ cúng bái. Các Đạo sĩ ít có thể tinh chí, lại không có tài thuật cao.

Niên hiệu Võ Định năm thứ sáu, quan Hữu Ty bảo ngừng. Ở Hà Nam, các ông Trương Viễn, Du Hà Gian, Triệu Tĩnh Thông, Tề Văn, Tương Vương lập riêng Quán Kinh Sư, trong đạo thuật đó mà lễ bái.

Tôi xét sự trình bày của Thiên sư Khấu Khiêm Chi về Thái Thượng Lão Quân giống như lư hải hạ của cảnh Bồng Lai, phi phù thiên thượng của Côn Luân.

Lại nói: Ba mươi sáu nước muôn dặm, là phương ba trăm sáu mươi v.v..., có khác gì ba mươi sáu phương của Trương Giác ư?

Trong truyện "Hoàng Phủ Cao" đời Hậu Hán chép rằng: Cự Lộc Trương Giác tự xưng là Đại Hiền Lang, thờ phụng Huỳnh Lão, thực hành thuật của Trương Lăng, dùng pháp bùa thủy chú để trị một trăm bệnh. Cho tám người đệ tử đi hành hóa đạo pháp khắp bốn phương, truyền nhau cuồng hoặc, trong hơn mười năm chúng đông đến mười vạn. Dân chúng ở tám châu: Thanh, Từ, U, Ký, Kinh Dương, Duyễn và Tượng đều ứng theo. Bèn lập ba mươi sáu phương. Phương còn gọi là Tướng quân. Đại phương có hơn vạn người, Tiểu phương có sáu vạn người, ngoa ngôn thương Thiên chất, Huỳnh Thiên lên ngôi, năm Giáp tý thiên hạ rất tốt. Dùng bạch thổ viết ở cửa kinh Ấp Chùa, làm chữ Giáp tý. Ngày mồng 5 tháng 3 niên hiệu Bình Nguyên trong ngoài đều khởi, Đạo sĩ mặc y phục màu vàng, đội mũ màu vàng. Hoặc giết người cúng tế trời. Lúc đó, bọn giặc mấy vạn người, ban đầu nổi loạn ở Dĩnh Xuyên làm loạn thiên hạ, truyện "Hoàng Phủ Cao" thảo luận bỏ bớt, còn lại thì cất giấu, hiện nay vẫn còn.

**** Sách nước Tề nói về chí của Đức Phật-thứ chín.

Thiều nói rằng: Đạo Thích (đạo Phật) không thể nhìn bằng ống dòm mà hiểu được. Đại khái là các ông chỉ vọng ngữ thôi. Lại dẫn "liệt ngữ khấu thư" nói về việc Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử về bậc Thánh. Lại Huỳnh Đế nằm mộng thấy đến nước Hoa Tư Dân nước Hoa Tư Dân nơi Phật thần dạo đi mà thôi, đây là chỗ nói lờ mờ đối với Phật. Kinh Thạch Phù Diêu Thế giảng dịch rộng khắp, bởi muốn thu phục tâm người, vì thế dùng ngụ ngôn để làm phương tiện. Không biết đây vì sao mà thần kỳ lờ mờ đến thế. Kia nói thân tâm người, nhân duyên việc đời thiện ác, Từ Bi Hỷ Xả, Thường Lạc Ngã Tịnh, thủ biện chí sáng suốt như mặt trời mặt trăng, không phải là bậc Chánh giác thì ai chứng được. Phàm bọn dân đen (kẻ ngu dốt) đâu không quy mạng, người hiểu biết thì dè thân khẩu, tu định tuệ, bình đẳng giải thoát rốt ráo Bồđề và một số ít người không thông lý, uổng công vô ích tài lực công lợi trói buộc. Còn như sáu Kinh có chỗ lỗi lầm, chưa được thâm sâu.

QUYỂN 3

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN III)

- Thiên Thúy Cổ-Đời Lương, quan Thị Trung tên Giang Yêm.

- Thiên Quy Tâm-Đời Bắc Tề, Nhan Chi Thôi.

- Tựa Thất Lục-Nguyễn Hiếu Tự Xử sĩ, đời Lương.

****

Thiên Toại Cổ-Thị trung Giang Yêm, đời Lương:

Bộc Thường là bài tạo hóa, do học xưa chế nay, xúc loại mà mở rộng nên có bài này, gồm tượng Thiên Vấn, dùng để suy nghĩ:

Nghe rằng Toại Cổ lửa bừng cháy
Nước cũng bến bờ không ngằn mé
Nữ Oa luyện đá để vá trời
Chung sức va chạm không khắp núi
Hà lạc giao chiến há vực sâu
Huỳnh Viêm tranh đấu Trá Lộc Xuyên
Chín người Nữ kỷ là họ tiên
Sư Vưu chế nỏ mấy ngàn năm
Mười ngày đều xuất vào đời Nghiêu
Hậu Nghệ che trời sợ lửa dậy
Hằng Nga trốn vào trăng ai truyền
Phong Long nương mây chứa linh tiên
Hạ Khai cưỡi rồng nhân duyên gì
Truyền thuyết nương sao đâu được nói
Khoa phụ Đặng Lâm nghĩa cũng khó
Tìm cây ngàn dặm, ôi dễ luận!
Mục Vương, Chu Lưu lại trở về.
Vương Mẫu Hà Tông có thể nói
Thanh điểu chỗ mở đường thành thật
Ngọc thạch năm màu xuất Tây thiên
Núi Côn Luân ở giữa Hải Bắc.
Bỏ tông kia một vạn hai ngàn
Kinh sách núi xưa loạn biên thiên
Quách, Thích có hai chưa tinh chắc
Trên có cương khí nói Đạo gia
Trời trăng ngôi sao đều trên không
Bỏ cảnh lìa đất vượt khói mây.
Dưới chín lớp đất như có trời
Thổ bá cửu ước giống như tiên
Tây phương nhục thu ty kim môn
Bắc cực ngu cường là thường còn
Hai con gái vua dạo nguồn tương
Trời trong đuốc sáng đều rực rỡ
Thái nhất ty mạng đầu nguồn quỷ
Quỷ núi nước Ngụy, hồn dạo đi
Ca-duy-la-vệ đạo rất tôn
Thân sắc vàng ai có thể bì
Hằng tinh không thấy đâu thể nói
Thuyết kia rõ ràng nhiều Thánh nói
Trong tâm sáu hợp thường vẫn đục
U minh tánh quỷ làm trí mờ
Hà đồ lạc thư tin như vậy
Khổng Giáp nuôi Rồng xưa cũng truyền
Vua Vũ ngăn gió ở Ngung Sơn
Xuân thu trường địch sống nơi nào
Sông Thao thấy được do duyên gì
Nước ở Bồng Lai cạn phía trước
Sóng ở Đông Hải là ruộng dâu.
Núi lở ấp chìm yên mấy ngàn
Đá sống đất lớn phải nhiều năm
Hán tạc Côn Minh toàn tro than
Ngụy khai tế cừ ếch nhái đầy
Bạch nhật nhiễm trung ai làm vậy
Bắc đẩu không thấy ẩn nơi nào
Lập chương phượng khuyết thần quang hợp
Chưa ươm hạt hoa nở hoa tươi
Đồng làm binh khí trước đời Tần
Trượng phu ái gấm đầu sáu nước
Thời Chu nữ giới xuất thế gian
Ban Quân giày lụa dạo núi Thái.
Ranh giới người quỷ có ẩn chìm
Ngoài bốn biển ra, gì vuông tròn
Ốc, Thư nghiêm túc bên Đông bắc
Tay dài hai mặt cũng ngồi thuyền
Đông nam nước Nhật đều văn thân
Ngoài kia Hắc Xỉ dân khỏa thân
Người lùn ba thước là hàng xóm
Tây bắc leng keng lại Ô Tôn
Xa sư nguyệt chi chủng loại nhiều
Nước có vó ngựa khéo chạy nhanh
Tây nam Ô dặc và Kế Tân
Tây Vức phần nhiều đều người Hồ
Nhánh nhóc đâu dứt nước Tây Hải
Dấu vết người đến tận Đại Tần
San hô, châu sáng, đồng, vàng, bạc
Lưu ly, mã não được bày ra
Xà cừ, thủy tinh đâu chẳng chân
Hùng hoàng thư thạch xuất núi bạc
Hoa sen trong trắng đầy bến nước
Cung điện lầu gác đều bảy báu
Đất liền biển cả lại có dân
Mắt to đùi rộng há vua tôi
Trượng phu người nữ và ba thân
Buộc thân trở lưỡi một tay người
Kỳ chủng giao hình cùng vũ dân
Nước không mất là do duyên gì.
Mênh mông tạo hóa lý khó theo
Bậc thánh không lường huống kẻ ngu
Rảnh rỗi đặt bút viết văn này
Sắp tối sấm sét dễ quên sầu.
Lại chỉ bày cho ông.

Sách đời Lương viết rằng: Giang Yêm vị đăng kim tử. Khi mới lên sáu tuổi đã có thể thuộc văn làm thơ. Lớn lên hiểu biết cao xa, ưa kỳ thượng. Đến hai mươi tuổi trao Ngũ Kinh cho các vua đời Tống, tiếp đãi như khách. Năm mười ba tuổi, nhà nghèo, ông đi lượm củi bán kiếm tiền nuôi mẹ, có tiếng là hiếu thảo. Đến đời Lương, sáu lần thay đổi chức quan Thị Trung. Một đêm nằm mộng thấy Quách Phát xin cây bút năm màu, Yêm liền cho. Từ đây không viết văn nữa, mọi người cho rằng ông hết tài, nhưng vì không đắc chí. Có viết một tập gồm mười quyển. Rất tin văn của Duyên Quả ở Thiên Trúc.

Tôi nghĩ việc này không khác với truyện. Thuật tiếp Phật lý, phần nhiều không chép, vì kia có bài riêng, biết ý chí của bậc minh hiền mà thôi.

****

Bài gia huấn quy tâm:

Của Quang lục Nhan Chi Thôi, đời Bắc Tề.

Việc ba đời, tin phải có chứng cớ. Gia nghiệp quy tâm chớ nên xem thường. Những ý chỉ nhiệm mầu trong đó đều có đủ trong các kinh luận, chớ không phải chỉ chút ít lời trong đây mà khen ngợi đủ. Chỉ sợ các ông chưa tin chắc nên tóm lược một vài điều để khuyên bảo, răn nhắc vậy thôi.

Vốn xét bốn trần năm ấm phân tích ra hình dáng mọi loài; sáu thuyền ba xe duyên chở chúng sinh. Muôn hạnh rốt về không, ngàn cửa quy về thiện. Trí tuệ biện tài đâu chỉ bảy kinh, thiên hạ rộng bằng ư! Nói là không phải bậc Thánh của Nghiêu Thuấn, Chu Công, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử bì kịp được.

Hai giáo pháp nội điển và ngoại điển vốn là một thể, lần đến chỗ cực điểm là khác bởi cạn sâu khác nhau.

Nội điển về cửa pháp ban đầu lập năm điều cấm, ngoại điển có năm thường đều phù hợp.

Nhân hợp với điều cấm: Không sát sinh

Nghĩa hợp với điều cấm: Không trộm cắp

Lễ hợp với điều cấm: Không tà dâm Trí hợp với điều cấm: Không uống rượu Tín hợp với điều cấm: Không vọng ngữ.

Còn các việc: Cày ruộng, săn bắn, đi quân dịch, yến tiệc, xử hình phạt là bởi tính tình của người dân không thể dẹp bỏ, nên còn phải dùng các việc ấy để làm chừng mực, khiến cho dân không lộn xộn mà thôi. Thế mà, những kẻ tin Chu, Khổng mà trái với Đạo Phật, sao lại mê mờ như vậy.

Đối với giáo pháp của Đạo Phật, kẻ thế tục chê bai, đại khái có năm điều:

1. Họ cho là việc ngoài thế giới và thần thông biến hóa vô cùng đó là viển vông dối trá.

2. Họ cho rằng các việc tốt xấu, họa phước chưa thấy có báo ứng là lừa phỉnh.

3. Tăng Ni phần nhiều hạnh kiểm không được tinh thuần, cho là gian là giấu.

4. Tiêu phí tiền của, hao tổn xâu thuế, họ cho là tổn hại của nhà nước.

5. Dù có nhân duyên, quả báo thiện ác, đâu thể nào A cực khổ ngày nay mà đời sau B lại được hưởng lợi ích ư? Vì là người khác, nay đều giải thích rõ dưới đây.

Giải thích điều thứ nhất: Vả chăng, với vật gì quá xa quá lớn đâu thể đo lường được. Chỗ hiểu biết của người đời nay không gì hơn trời và đất. Họ cho rằng: Trời là chất chứa khinh thanh, mặt trời là tinh của khí dương; mặt trăng là tinh của khí âm; ngôi sao (tinh tú) là tinh thần của muôn vật. Đó là thiên văn học của nhà Nho đặt để vậy. Như nói tinh tú rơi xuống bèn thành đá. Vậy tinh thần đã là đá thì không thể sáng được, tánh chất nó đã chắc chắn và nặng làm sao buộc được trên hư không.

Chu vi của một tinh cầu lớn hàng trăm dặm; một tinh tú từ đầu đến cuối cách nhau cả mấy ngàn dặm, những vật ở xa ngàn trăm dặm: Cái này cách cái kia vài trăm dặm, nhưng ở đây ta thấy liên tiếp nhau, rộng hẹp ngang xéo thường không nới ra thâu vào, vì sao?

Lại, tinh tú và mặt trời mặt trăng màu sắc giống nhau chỉ lớn nhỏ là khác thôi. Nhưng mặt trời mặt trăng lại là đá ư? Đá thì nó cứng và kín thì làm sao chứa được kim ô, ngọc thố? Đá ở giữa khí khinh thanh, đâu thể tự xoay chung quanh mặt trời mặt trăng tinh tú. Nếu là khí thì bản thể của nó nhẹ nổi lên phải hiệp với trời qua lại vòng quanh đâu được sai trái. Mà trong đó hoặc mau, hoặc chậm, lẽ ra đồng một bề với nhau mới phải. Vì sao mặt trời mặt trăng, năm ngôi sao, hai mươi tám vì tinh tú đều có chừng mực dời động không quân bình với nhau, đâu phải cái khí rơi xuống rồi thoạt nhiên biến thành đá được?

Đất đã là cặn đục, lẽ ra phải chìm xuống, người ta đào được mạch nước, vì sao nó lại nổi trên mặt nước được? Lại còn phía dưới chỗ chứa nước còn vật gì nữa không? Sông lớn, sông nhỏ, trăm mối từ đâu mà phát sinh, chảy mãi về biển Đông vì sao không tràn?

Hang Quy khư, đá Vĩ lư rút nước chảy đến chỗ nào? Đá Ốc tiêu nhờ khi gì mà cháy. Nước thủy triều chảy đến đâu, rút về tới chỗ nào ai có thể biết chừng đỗi. Ngôi sao Thiên hán treo trên trời sao không rơi xuống. Tánh nước chảy xuống sao lại vọt lên. Trời đất khi mới khai mở liền có tinh tú. Nước Trung Hoa từ khi chưa phân chín châu, chưa cắt các nước, ai làm lớp lang cắt ranh, chia khu vực. Từ khi phong kiến đến nay ai đã chia cắt. Nước nhà có thêm bớt, tinh tú không tới lui. Tai ương điềm lành, họa, phước trong đó không sai là sao?

Trời thì lớn, ngôi sao thì nhiều, vì sao phân chia khu vực lại lệ thuộc nước Trung Quốc.

Sao Mão là sao Mao đầu, nó chỉ chiếu ngay xuống nước Hung Nô mà thôi. Còn các nước Tây Hồ, Đông Di, Điều Đê, Giao Chỉ, nó lại bỏ đi không chiếu đến?

Lấy lễ trên đây mà tìm hỏi, chắc không ai hiểu đúng. Đâu được y cứ việc tầm thường ở cõi người để giải quyết được việc ngoài vũ trụ ư?

Chỗ tin của kẻ phàm, là những điều mà tai mắt họ nghe thấy được, còn việc gì ngoài tai mắt thì họ đều nghi ngờ cả.

Đối với trời, nhà Nho nói có mấy người: Hoặc nói Hồn thiên, Cái thiên, Tuyên thiên, An thiên.

Quanh giáp ngoài Bắc đẩu, nó làm chủ các sao sở thuộc. Nếu đến gần nhìn thấy thì không dung không đồng, nếu xét lường thì đâu đáng để y cứ. Vì sao tin lời bịa đặt của người phàm, nghi ngờ ý chỉ nhiệm mầu của bậc Đại thánh, mà muốn không hẳn có hằng sa thế giới và vi trần kiếp số ư?

Như ông Trâu Diễn cũng có nói về chín châu. Người ở trong núi không tin có cá lớn bằng cây. Người ở biển không tin có cây lớn bằng cá. Đời Hán, vua Võ Đế không tin có loại keo gắn liền dây cung. Đời Ngụy, Văn Đế không tin thứ áo giặt bằng lửa đốt. Người nước Hồ thấy gấm không tin có loài trùng ăn lá cây nhả ra tô rồi dệt thành.

Xưa ở tỉnh Giang Nam, không tin có một cái mùng bằng vải lông nằm được ngàn người. Còn ở Hà Bắc không tin có chuyến thuyền chở được hai vạn cục đá, đây đều là sự thật cả.

Ở đời, cũng có các Thầy luyện thần chú và các trò huyễn thuật, còn có thể đi trong lửa, bước trên gươm, trồng dưa, dời giếng, chỉ trong chốc lát đã ngàn lần biến vạn lần hóa. Sức người có thể chuyên luyện được như vậy, huống chi là pháp thần thông cảm ứng không thể nghĩ lường. Chẳng hạn như: Cây phướn báu cao ngàn dặm, pháp tòa cao trăm do-tuần hóa thành Tịnh độ; dưới đất vọt lên ngôi tháp nhiệm mầu.

Giải thích điều thứ hai: Con người ta khởi lòng tin hay chê bai đều có ảnh hưởng, tai nghe mắt thấy việc ấy rất nhiều.

Hoặc người tinh thành chưa sâu, nghiệp duyên chưa cảm, thời gian sai khác, cuối cùng đều khó tránh khỏi quả báo. Việc làm thiện ác là chỗ để cho phước họa quy về. Chín dòng, trăm họ đều đồng lời bàn luận này, đâu chỉ kinh điển đạo Phật mà cho là luống dối ư?

Hạng Thác, Nhan Hồi bị chết yểu, Nguyên Hiến, Bá Di bị đói rét. Đạo Chính, Trang Kiểu được phước thọ. Tề Cảnh Công, Hoàn Đồi hưởng phú quý, với hoàn cảnh của những người này nếu dẫn nghiệp đời trước, chịu lấy quả báo đời sau thì đúng thật như vậy.

Nếu chỉ lấy việc làm lành mà phải trả báo bị họa như Nhan Hồi; làm ác mà may mắn hưởng phước như Đạo Chích, thì sẽ vội oán trách là luống dối, thì cũng như lời của Nghiêu Thuấn dối trá và Chu Công, Khổng Tử nói không thật, cho nên biết nương vào đâu để tin chắc mà an thân lập mạng ư? Giải thích điều thứ ba:

Trong thế giới này, từ khi khai mở đến nay người ác thì nhiều người lành thì ít, do đâu mà chê trách sự tinh khiết ư?

Thấy các vị danh tăng cao hạnh, họ bỏ đi không nói gì đến, nếu thấy các vị phàm tăng còn tập tục liền sinh phỉ báng. Vả lại, tại người học không siêng năng đâu phải lỗi do người dạy. Tăng tục học kinh luật khác gì Nho sĩ học kinh thi, kinh lễ. Thử đem cách dạy của kinh thi kinh lễ so với những người ở triều đình thì thiếu gì người không hoàn toàn tiết hạnh. Lấy điều cấm của kinh luật so với người xuất gia lại trách việc không phạm giới ư?

Vả lại, quan thần thiếu hạnh còn cầu bổng lộc địa vị, người hủy phạm giới cấm sao chẳng hổ thẹn với sự cúng dường của đàn việt ư? Những vị ấy đối với giới hạnh có phạm, nhưng một phen mặc pháp phục rồi, đã xếp vào số Tăng rồi, tính trong một năm nào là ăn chay trường, giảng pháp, tụng kinh niệm Phật, so với người tại gia vẫn còn hơn như núi và biển.

Giải thích điều thứ tư:

Nội giáo nhiều đường mà xuất gia vẫn từ một pháp này mà thôi. Nếu người giữ lòng trung thành hiếu nghĩa, lấy nhân tuệ làm gốc như ông Tu Đạt, Lưu Thủy thì không cần cạo bỏ râu tóc. Đâu thể khiến khắp cả ruộng nương đều xây chùa và khắp dân chúng phải xuất gia làm Tăng Ni làm gì? Đều do không thể tiết độ, khiến cho chùa phi pháp choán đất trồng tỉa cắt gặt của dân chúng. Các vị tăng vô nghiệp luống mất xâu thuế của nhà nước, chớ không phải bổn ý của Phật.

Vả lại, luận rằng: Người cầu đạo là kế để tu thân; kẻ tiếc của hao phí là mưu để lợi nước. Với thân kế, nước mưu một người không thể đủ cả hai điều kiện này được. Vị quan trung thành theo vua phải bỏ cha mẹ, an hiếu lo cho gia đình đành quên việc nước, đều có hạnh riêng cả.

Nhà Nho cũng có kẻ không chịu lòn cúi ở vương hầu để cao chuộng lấy sự thể. Ẩn sĩ cũng có người nhường ngôi, từ chức để tránh đời nơi núi rừng. Đâu thể xâu thuế mà buộc tội cho người ư?

Nếu có thể đều là dân đen, đồng vào chốn đạo tràng như đời của Di-lặc, nước của vua Nhương Khư thì thế giới này lúa gạo tự nhiên có, kho báu vô tận, đâu cần đến cái lợi làm ruộng nuôi tằm nữa?

Giải thích điều thứ năm:

Hình thể dù chết nhưng tinh thần vẫn còn. Con người khi còn sống ở đời, trông mong đến thân đời sau. Đến khi chết rồi thì cùng thân đời trước dường như lúc già với lúc trẻ, mai với chiều vậy thôi.

Ở đời, có quỷ hồn của người chết về tỏ bày trong giấc chiêm bao của người còn sống. Hoặc giáng ở tôi đòi; hoặc vào xác vợ con để đòi ăn uống, hoặc yêu cầu làm phước siêu độ cũng là không ít.

Người đời nay nghèo khổ, bệnh tật đâu không tự trách mình: Đời trước không tu công đức, lấy đây mà luận thì đâu không vì đó mà làm phước ư? Vả lại, con cháu chỉ là thương sinh trong trời đất này mà thôi chớ nào có can dự gì đến thân sau của ta mà ta thương yêu để dành gia nghiệp. Còn tinh thần của ta lại đành muốn bỏ đi. Vì thế hai điều được một, nhiều đời ca ngợi mà càng sáng tỏ?

Phàm phu bị vô minh che lấp không thấy được đời sau, vì thế nói rằng đời kia và đời nay chẳng phải là một thể liên hệ nhau. Nếu có Thiên nhãn soi rõ thì thấy được niệm này dứt, niệm khác sinh, thân này cũng thế sinh diệt không dứt, đâu thể không lo sợ ư?

Lại người quân tử ở đời, điều quý nhất là hãy tự mình dẹp lòng ích kỷ để đem lại điều lễ mà giúp đời cứu vật.

Trị nhà là muốn một gia đình yên vui hạnh phúc.

Trị nước là mong cả nước được an ổn, tốt đẹp. Bộc, thiếp, thần, dân cũng không thân thiết gì với ta thế mà ta phải siêng năng khổ nhọc? Cũng là Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng luống mất sự yên vui. Một người tu đạo, cứu giúp được biết bao chúng sinh, giải thoát được bấy nhiêu thân tội lụy, mong hãy suy nghĩ kỹ điều đó.

Người sống ở đời, phải đoái hoài đến sinh kế, gây dựng gia đình. Chưa bỏ được vợ con để xuất gia, thì nên tu hạnh nghiệp, để tâm tụng đọc làm tư lương cho đời sau, thân người khó được, chớ để luống qua!

* Bài tựa Thất Lục-thứ mười hai, Xử sĩ nhà Lương là Nguyễn Hiếu Tự soạn.

Ánh sáng mặt trời mặt trăng, không phải quang cảnh thì không thể chiếu được. Tung Hoa tải dục, không phải gió mây thì không thể huyền hoặc.

Bậc Đại Thánh xuất hiện ở đời, ứng thời dạy đời, do đó cứu giúp phong tục, sửa chữa điều xấu, nếu không có sách xưa như kinh Thi, kinh Thơ, Lễ, Nhạc của Khổng Tử thì lấy gì để thành công sâu xa hầu giáo hóa rộng lớn? Cho nên đạo rộng lớn mất. Hoàng đế hưng khởi vẽ quẻ hào (một quẻ của kinh Dịch), kết dây ẩn nghĩa. Vua chỉnh sửa văn tự kia. Từ đây noi theo xưa mà truyền bá khác, công thành trị định đều có phương sách. Chánh tông đã hết, nhạc mất, lễ hoại.

Pháp của bậc Tiên thánh có sự nối tiếp nên Trọng Ni khen rằng: Hạnh của đại đạo. Và bậc anh hùng của ba đời Trọng Ni chưa đến kịp. Vì thế từ nước Vệ đến nước Lễ bắt đầu lập Tố Vương (vua không ngai), đối với đây bỏ bớt kinh Thi, kinh Thơ lấy Lễ, Nhạc. Lệ năm đối với xuân thu, nêu mười giúp Đạo Dịch. Phu Tử đã mất thì lời nói cũng dứt. Thất Thập đều mất, đại nghĩa đều trái. Đến thời Chiến Quốc thù tục chánh khác trăm nhà tranh khởi, chín dòng xen làm, đầy sự ganh ghét nên xảy ra họa chôn sống chúng Tăng, đập phá kinh tượng. Đến Hán Tuệ năm thứ tư mới trừ được luật hiệp sách. Sau đó, bên ngoài có tạng của Thái Thường, Thái Sử, Bác sĩ; bên trong có phủ của Duyên các Quảng nội bí thất. Mở đường Hiến Thư, bố trí quan tả thư. Đến đời Hiếu Thành, có một ít bị thất lạc, bèn sai Trần Nông tìm số sách bị sót và thất lạc trong thiên hạ, ra lệnh cho Quy Lộc đại phu Lưu Hướng và Tử Lâm v.v... so sánh xem xét sổ sách. Mỗi bài xem xét xong thì liền chép tâu lên Hội hướng vong táng, vua cho Hâm nối tiếp nghiệp trước. Dời sách trong Ôn Thất để trên gác Thiên Lộc. Hâm kiểm chung tất cả sách tâu lên bảy lượt. Và trong đài Hán Lan làm Thư bộ. Lại ở cửa cung Đông Quản và Nhân Thọ soạn tập Tân Ký.

Kiểm giảo sách: Lang Bang, Cố Truyền Nghị và Điển bí tịch. Cố bèn nhân lời của bảy lượt soạn bộ "Hán Thư Bộ Văn Chí", sau đó soạn thuật. Viên Sơn Tùng cũng có chép sách kia. Đời Ngụy, đời Tấn sách càng nhiều đều cất ở gác Bí Thư Trung Ngoại Tam. Đời Ngụy, Bí Thư Lang Trịnh Mặc san bổ văn xưa, thời đó luận giả cho là Chu Tử khác nhau.

Đời Tấn, Lĩnh Bí Thư Giám Tuân Úc, từ kinh sử đời Ngụy mà chép thành bộ mới, chia ra hơn mười quyển của bốn bộ riêng khác. Loạn Tuệ hoài, sách kia lược hết, Giang Tả (Giang Đông) mười phần không còn được một. Sau đó, tuy có tập trung lại nhưng rất hỗn loạn, và soạn Tả Lang Lý Suy Thỉ thêm phần san bổ đính chính. Do pháp của bốn bộ xưa mà đổi sách Ất bính kia, lược bỏ tên các bài, dùng Giáp Ất làm thứ tự, từ đây phán quyết đối sau thay nhau thuật.

Đời Tống, Bí Thư Giám Tạ Linh Vận, Thừa tướng Kiểm Tề, Bí Thư Thừa Vương Lượng, Tạ Khuất v.v... đều có đổi mới, lại soạn mục lục làm thất chí. Trong đó, sách sót trong triều thâu tập cũng nhiều, nhưng số bị mất cũng hơn phân nửa. Cuối đời Tề, binh lửa kéo dài đến Bí Các. Đầu đời Lương cũng bị mất rất nhiều. Viên Mạng Bí Thư Giám Nhậm Phương Cung gia thêm Bộ Tập.

Lại ở trong điện Văn Đức cũng có cất nhiều sách, sai học sĩ Lưu Hiếu Tiên v.v... tiếp tục xem xét, phân văn thuật số làm thành một bộ. Sai triệu thỉnh Tổ soạn danh lục kia. Trong lầu Thượng Thư cất chứa kinh sử, tạp thư. Ở vườn Hoa lâm tập trung kinh luận đạo Phật. Từ khi bài văn Giang Tả thạnh hành chưa khi nào vượt hơn đương thời.

Hiếu Tự lúc nhỏ ưa thích kinh sách, lớn lên mỏi mệt, bệnh hoạn nghỉ ngơi gần như vô trần. Thần quang chưa mở, tương sáng đã tán. Tiêu lậu đã phân lục trật mới đóng. Không thể nghiên cứu cùng tột lưu lược, sưu tầm hết chỗ sâu kín. Thường phân tích trong lục để bỏ bớt chỗ nhiều hoặc bổ sung thêm chỗ thiếu, văn sót kia được sưu tập lại.

Từ đời Tống, đời Tề đến nay các Vương công nhậm chức, nếu tích trữ được sổ sách sẽ nghĩ đến danh bạ. Nếu đã gặp hoặc thấy hoặc nghe, xem xét mục lục nếu có thiếu sót thì tập trung hết các nhà, soạn Tân lục.

Kinh sử phương nội cho đến thuật kỹ hiệp làm năm lục gọi là Nội thiên. Phật đạo phương ngoại làm riêng một lục gọi là Ngoại thiên. Vì phân lục có bảy nên gọi là Thất lục (Bảy lục).

Xưa, Tư Mã Tư Trương ghi chép việc mấy ngàn năm. Bậc tiên triết thương xót sự siêng năng của ông, nhưng vẫn còn có sự trách móc là có thêm bớt. Huống chi tổng quát các sách hơn bốn vạn cuốn, đều thảo luận nghiên cứu tiên chế tông chỉ, mới hổ thẹn về sự trình bày thông học, thẹn với sự thông suốt. Bang nối nghiệp nên thưởng sách.

Đông Quán ở Vi Huỳnh Hương, bỗng nhiên muốn nghiên cứu một ít sách, nếu có chỗ nào nghi ngờ dính mắc, không tin theo điều phải thì kia là sai lầm cũng không nhiều, vì sợ tội sau này, há không ở lục này hay sao. Như có chỗ nào cầu đính chính, xin đợi bậc quân tử.

Xưa, Lưu Hướng xem xét sách liền làm một lục, nói về ý chỉ quy về và giải thích sự sai lầm, làm xong tâu lên, đều có chép trong Bổn thư.

Lúc bấy giờ, lại chép riêng các lục gọi là Biệt lục tức Biệt lục ngày nay đây. Hâm tóm tắt chỉ yếu kia, chép thành Thất lượt (bảy lượt). Một thiên kia là bao gồm toát yếu sáu thiên, vì thế lấy tóm lược làm tên. Sáu thiên kế: Nghệ lược, Chư Tử lược, Thi Phú lược, Binh Thư lược, Số Thuật lược và Phương Kỹ lược. Vương lấy Thất chí đổi Nghệ lược thứ sáu làm kinh điển. Kế là năm Chư Tử lược, thứ bốn Thi Phú lược là Văn Hàn lược; thứ ba Binh Thư lược là Quân Thư; Thứ hai Số Thuật là âm dương và thứ nhất Phương Kỹ là Thuật Nghệ. Do nước tuy gọi là Thất lược mà thật ra thì có sáu điều. Vì thế lập riêng Đồ Phổ một chí, dĩ toàn thất hạn (?). Ngoài kia ra, Thất lược và trong sách Hán Nghệ Văn Chí kinh bạ chỗ thiếu đều là kinh Phương Ngoại. Kinh điển của đạo Phật và kinh sách của đạo Lão xếp làm một. Lục tuy kế theo sau Thất chí nhưng không nằm trong số đó. Nay chỗ soạn Thất lục phải cân nhắc Vương và Lưu. Họ Vương cho rằng lược thứ sáu Nghệ lược là không đủ. Nêu kinh mục đổi thành kinh điển, nay theo đó. Vì thế tựa "Kinh Điển Lục" làm Nội thiên thứ nhất. Họ Lưu, họ Vương đều cho là các sử hiệp ở xuân thu. Sử thư đời họ Lưu rất ít, phụ thấy ở xuân thu thật được xếp vào bia. Nay các nhà ghi chép truyện gấp bội kinh điển kia. Còn từ tâm chí, thật là phức tạp. Vả lại, trong Thất lược: Thi phú không theo Nghệ lược và Thi lược các bộ. Bởi vì sách kia đã nhiều, vì thế làm riêng một lược. Nay y theo sự liệt kê này phân ra các sử. Tựa Ký Truyện Lục là Nội thiên thứ hai.

Chư Tử lược thì Lưu và Vương đều đồng. Lại Lưu có Binh Thư lược, Vương cho rằng Binh là thấp kém, quân thì sâu rộng, vì thế đổi chữ Binh thành chữ Quân. Thầm cho rằng xưa có Binh cách, Binh nhung, Trị binh, Dụng binh, đây đều là tên chung của võ sự. Do đó đổi chữ quân từ chữ binh. Binh thư đã ít, không đủ riêng một lục, nay phụ cuối phần Chư Tử, gọi chung là Tử binh, vì thế tựa "Tử Binh Lục" là nội thiên thứ ba.

Họ Vương cho là tên Thi Phú không gồm các chế khác, nên đổi là Văn Hàn. Thầm cho rằng văn tự thời cận đại tổng gọi là tập, đổi Hàn là Tập, đối tên rất rõ, vì thế tựa "Văn Tập Lục" là nội thiên thứ tư.

Họ Vương cho rằng: gọi là Số thuật có sự chê bai là phiền tạp nên đổi thành âm dương.

Phương Kỹ thì sự không có điển cứ, lại đổi thành Nghệ thuật. Thầm cho là âm dương có riêng phức tạp không gồm chung như số thuật. Thuật nghệ thì xen lẫn nghệ thuật và số thuật, không hiển bày chỗ cốt yếu của Phương Kỹ, vì thế lại y theo họ Lưu giữ tên cũ. Nhưng phòng trung thần tiên đã nhập Tiên đạo, y kinh, kinh Phương không đủ sáng lập riêng, vì thế hợp với kỹ mà gọi, lấy tên "Nhất lục" là nội thiên thứ năm. Họ vương thì Đồ Phổ một chí, họ Lưu không có. Họ Lưu, trong số thuật tuy có, Lịch Phổ khác với Kim Phổ. Thầm gọi là thiên Đồ Họa. Từ tranh vẽ làm bộ, nên tùy tên kia mà hiển bày đều phụ Lục Phổ xưa, thuộc loại ghi chú, cùng sử thể tương tham nêu chép ở cuối phần ký truyện. Từ đây về trước đều là nội thiên.

Giáo pháp đạo Phật thật giúp cho mọi người, giảng nói về đọc tụng, phép tắc của họ Khổng. Họ vương tuy chép trong Thiên mà không có trong Chí Hạn, tức lý cầu sự chưa phải là chỗ an nên lấy tựa "Phật pháp", chép làm ngoại thiên thứ nhất. Sách của Tiên đạo, cầu hơn được ư?

Họ Lưu, Thần tiên trình bày ở cuối phần Phương kỹ. Họ vương thì kinh sách của đạo Lão ở ngoài Thất Chí. Nay hiệp lại lấy tựa "Tiên Đạo", chép làm ngoại thiên thứ hai.

Họ Vương thì trước là đạo Lão sau là đạo Phật.

Nay thì trước là đạo Phật sau là đạo Lão. Bởi tông chỉ không giống nhau, cũng do giáo pháp kia có cạn có sâu. Hai thiên nội ngoại hiệp thành Thất lục. Thiên hạ đối với sách của đời trước để lại phải thầm ghi nhớ, may ra mới cùng tột nơi đây.

Có Lương Phổ Thông bốn năm. Tuế duy đơn át, giữ xuân mười ngày có bảy ngày. Trong Kiến Khương Trạch Lý Trạch bắt đầu soạn sách này. Thông nhân Bình nguyên Lưu Liễu theo tôi dạo chơi, nhân đó nói việc này. Lưu Liễu là người có chí, chứa nhóm từ lâu nhưng chưa, nghe nói tôi đã vui thích hợp ý. Phàm chỗ sao chép đều cùng với chỗ thấy nghe kia thật có năng lực. Đây cũng thành công, đối với sự truyền bá đạo Phật, đều quy về sách của Tử Thận.

Cổ Kim Thư toát.

Sách Thất Lược gồm có ba mươi tám loại, sáu trăm ba mươi nhà, một bạn ba ngàn hai trăm mười chín quyển. Năm trăm bảy mươi hai nhà mất, ba mươi mốt nhà còn.

Sách Hán Thư Nghệ Văn Chí gồm ba mươi tám loại, năm trăm chín mươi sáu nhà, một vạn ba ngàn ba trăm sáu mươi chín quyển. Năm trăm năm mươi hai nhà mất, bốn mươi bốn nhà còn.

Sách Viên Sơn Tùng Hậu Hán Nghệ Văn Chí thì tám mươi bảy nhà mất.

Sách Tấn Trung Kinh Bạ Tứ Bộ gồm một ngàn tám trăm năm mươi bộ, hai vạn chín trăm ba mươi lăm quyển. Trong đó, có mười sáu quyển kinh Phật, Thư Bạ ít chỉ có hai quyển, không rõ chỗ chấp. Khoảng chừng một ngàn một trăm mười chín bộ mất, bảy trăm sáu mươi sáu bộ còn. Tấn Nguyên Đế Thư Mục Tứ Bộ gồm ba trăm lẽ năm pho, ba ngàn lẻ mười bốn quyển.

Đời Tấn, niên hiệu Nghĩa Hy thứ tư, mục lục của Bí Các bốn bộ.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ tám Đời Tống, mục lục Bí Các gồm một ngàn năm trăm sáu mươi bốn pho, một vạn bốn ngàn năm trăm tám mươi hai quyển (năm mươi lăm pho, bốn trăm ba mươi tám quyển kinh Phật).

Niên hiệu Nguyên Huy thứ nhất đời Tống mục lục Bí Các Tứ Bộ Thư gồm hai ngàn hai mươi pho, một vạn năm ngàn bảy mươi bốn quyển. Niên hiệu Vĩnh Minh năm đầu đời Tề, mục lục Bi Các Tứ Bộ gồm năm ngàn pho hợp với hai ngàn ba trăm ba mươi hai pho, một vạn tám ngàn lẻ mười quyển.

Đời Lương, niên hiệu Thiên Giám năm thứ tư, mục lục của Văn Đức Chánh ngự Tứ bộ và Thuật số thư hiệp gồm hai ngàn chín trăm sáu mươi tám pho, hai vạn ba ngàn một trăm lẻ sáu quyển (Bí Thư Thừa Ân Chước soạn "Bí Các Tứ Bộ Thư" ít hơn "Văn Đức Thư" nên không xếp vào số đó).

Tân Tập Thất Lục Nội Ngoại Thiên Đồ Thư tính có năm mươi bộ, sáu ngàn hai trăm tám mươi tám loại, tám ngàn năm trăm bốn mươi bảy pho, bốn vạn bốn ngàn năm trăm hai mươi sáu quyển. (Sáu ngàn bảy mươi tám loại, tám ngàn hai trăm tám mươi bốn pho, bốn vạn ba ngàn sáu trăm hai mươi bốn quyển kinh sách. Hai trăm lẻ ba loại, hai trăm sáu mươi ba pho, tám trăm bảy mươi chín nhân quả Đồ Phù.

Nội Thiên Ngũ Lục có bốn mươi sáu bộ, ba ngàn bốn trăm năm mươi ba loại, năm ngàn bốn trăm chín mươi ba pho, ba vạn bảy ngàn chín trăm tám mươi ba quyển.

(Ba ngàn ba trăm mười tám loại, năm ngàn ba trăm lẻ sáu pho, ba mươi bảy ngàn một trăm lẻ tám quyển kinh sách. Một trăm hai mươi lăm loại, một trăm tám mươi bảy pho, bảy trăm bảy mươi lăm quyển Đồ Phù).

Ngoại Thiên Nhị Lục (hai lục ngoại thiên) có chín bộ, hai ngàn tám trăm ba mươi lăm loại, ba ngàn không trăm năm mươi bốn pho, sáu ngàn năm trăm ba mươi tám quyển (ba ngàn bảy trăm năm mươi chín loại, năm ngàn chín trăm bảy mươi tám pho, sáu ngàn bốn trăm ba mươi bốn quyển kinh sách. Bảy mươi tám pho, một trăm quyển Đồ Phù.)

MỤC LỤC CỦA TẤT LỤC (Bảy lục)

* Kinh điển lục-Nội thiên thứ nhất

Dị Bộ Đại có bốn loại, chín mươi sáu pho, năm trăm chín mươi quyển.

- Thượng Thư bộ có: Hai mươi bảy loại, hai mươi tám pho, một trăm chín mươi quyển.

- Thị bộ có: Năm mươi hai loại, sáu mươi mốt pho, ba trăm chín mươi tám quyển.

- Lễ bộ có: Một trăm bốn mươi loại, hai trăm mười một pho, một ngàn năm trăm bảy mươi quyển.

- Nhạc bộ có: Năm loại, năm pho, hai mươi lăm quyển.

- Xuân Thu bộ có: Một trăm mười một loại, một trăm ba mươi chín pho, một ngàn một trăm năm mươi ba quyển.

- Luận Ngữ bộ có: Năm mươi mốt loại, năm mươi hai pho, bốn trăm mười sáu quyển.

- Hiếu Kinh bộ có: Năm mươi chín loại, năm mươi chín pho, một trăm bốn mươi bốn quyển.

- Tiểu Học bộ có: Bảy mươi hai loại, bảy mươi hai pho, ba trăm mười ba quyển.

- Hữu Cữu bộ có: Năm trăm chín mươi mốt loại, bảy trăm mười pho, bốn ngàn bảy trăm mười quyển.

Ký Truyện Lục-Nội thiên thứ hai:

- Quốc Sử bộ có: Hai trăm mười sáu loại, năm trăm lẻ chín pho, bốn ngàn năm trăm chín mươi sáu quyển.

- Chú lịch bộ có: Năm mươi chín loại, một trăm sáu mươi bảy pho, một ngàn hai trăm hai mươi mốt quyển.

- Cựu Sự bộ có: Tám mươi bảy loại, một trăm hai mươi bảy pho, một ngàn không trăm ba mươi tám quyển.

- Chức Quan bộ có: Tám mươi mốt loại, một trăm lẻ bốn pho, tám trăm lẻ một quyển.

- Nghi Điển bộ có: Tám mươi loại, hai trăm năm mươi hai pho, hai ngàn hai trăm năm mươi sáu quyển.

- Ngụy Sử bộ có: Hai mươi sáu loại, hai mươi bảy pho, một trăm sáu mươi mốt quyển.

- Tạp Truyện bộ có: Hai trăm bốn mươi mốt loại, hai trăm tám mươi chín pho, một ngàn bốn trăm bốn mươi sáu quyển.

- Quỷ Thần bộ có: Hai mươi chín loại, ba mươi bốn pho, hai trăm năm mươi quyển.

- Thổ Địa bộ có: Bảy mươi ba loại, một trăm bảy mươi mốt pho, tám trăm sáu mươi chín quyển.-Phổ Tạng bộ có: Bốn mươi hai loại, bốn trăm hai mươi ba pho, một ngàn không trăm sáu mươi bốn quyển.

- Bộ Lục bộ có: Ba mươi sáu loại, sáu mươi hai pho, ba trăm ba mươi tám quyển.

Hữu Thập Nhị bộ có: Một ngàn không trăm hai mươi loại, hai ngàn bốn trăm bốn mươi tám pho, mười bốn ngàn tám trăm tám mươi tám quyển.

* Tử Binh Lục-Nội thiên thứ ba:

- Nho bộ có: Sáu mươi sáu loại, bảy mươi lăm pho, sáu trăm hai mươi quyển.

- Đạo bộ có: Sáu mươi chín loại, bảy mươi sáu pho, bốn trăm ba mươi mốt quyển.

- Âm Dương bộ có: Một loại, một pho, một quyển.

- Pháp bộ có: Mười ba loại, mười lăm pho, một trăm mười tám quyển.

- Danh bộ có: Chín loại, chín pho, hai mươi ba quyển.

- Mặc bộ có: Bốn loại, bốn pho, mười chín quyển.

- Tung Hoành bộ có: Hai loại, hai pho, năm quyển.

- Tạp bộ có: Năm mươi bảy loại, hai trăm chín mươi bảy pho, hai ngàn ba trăm ba mươi sáu quyển.

- Nông bộ có: Một loại, một pho, ba quyển.

- Tiểu bộ có: Mười loại, hai mươi pho, sáu mươi ba quyển.

Binh bộ có: Năm mươi tám loại, sáu mươi mốt pho, hai trăm bốn mươi lăm quyển.

- Hữu Thập Nhất bộ có: Hai trăm chín mươi loại, năm trăm năm mươi ba pho, ba ngàn tám trăm chín mươi bốn quyển.

* Văn Tập Lục-Nội thiên thứ tư:

- Sở Từ bộ có: Năm loại, năm pho, hai mươi bảy quyển.

- Biệt Tập bộ có: Bảy trăm sáu mươi tám loại, tám trăm năm mươi tám pho, sáu ngàn bốn trăm chín mươi bảy quyển.

- Tổng Tập bộ có: Mười sáu loại, sáu mươi bốn pho, sáu trăm bốn mươi chín quyển.

- Tạp Văn bộ có: Hai trăm bảy mươi ba loại, bốn trăm năm mươi mốt pho, ba ngàn năm trăm tám mươi bảy quyển.

- Hữu Tứ bộ có: Một ngàn không trăm bốn mươi hai loại, một ngàn ba trăm bảy mươi lăm pho, một ngàn bảy trăm năm mươi lăm quyển.

Thuật Kỹ Lục-Nội thiên thứ năm:

- Thiên Văn bộ có: Bốn mươi chín loại, sáu mươi bảy pho, năm trăm hai mươi tám quyển.

- Vi Sấm bộ có: Ba mươi hai loại, bốn mươi bảy pho, hai trăm năm mươi bốn quyển.

Lịch Toán bộ có: Năm mươi loại, năm mươi pho, hai trăm mười chín quyển.

- Ngũ Hành bộ có: Tám mươi bốn loại, chín mươi ba pho, sáu trăm mười lăm quyển.

- Tạp Chiêm bộ có: Mười bảy loại, mười bảy pho, bốn mươi lăm quyển.

- Hình Pháp bộ có: Bốn mươi bảy loại, sáu mươi mốt pho, ba trăm lẻ bảy quyển.

- Ý Kinh bộ có: Tám loại, tám pho, năm mươi quyển.

- Kinh Phương bộ có: Một trăm bốn mươi loại, một trăm tám mươi pho, một ngàn hai trăm năm mươi chín quyển.

- Tạp Nghệ bộ có: Năm mươi loại, mười tám pho, sáu mươi sáu quyển.

- Hữu Thập bộ có: Năm trăm lẻ năm loại, sáu trăm lẻ sáu pho, ba ngàn bảy trăm ba mươi sáu quyển.

Phật Pháp Lục ba quyển-Ngoại thiên thứ nhất

- Giới Luật bộ có: Bảy mươi mốt loại, tám mươi tám pho, ba trăm ba mươi chín quyển.

- Thiền Định bộ có: Một trăm lẻ bốn loại, một trăm lẻ tám pho, một trăm bảy mươi sáu quyển.

- Trí tuệ bộ có: Hai ngàn không trăm bảy mươi bảy loại, hai ngàn một trăm chín mươi pho, sáu mươi quyển.

- Luận Lý bộ có: một trăm mười hai loại, một trăm sáu mươi bốn pho, một ngàn một trăm năm mươi tám quyển.

- Hữu Ngũ bộ có: Một ngàn bốn trăm mười loại, hai ngàn năm trăm chín mươi lăm pho, năm ngàn bốn trăm quyển.

Tiên Đạo Lục-Ngoại thiên thứ hai:

- Kinh Giới bộ có: Hai trăm chín mươi loại, ba trăm mười tám pho, tám trăm hai mươi tám quyển.

- Phục Nhĩ bộ có: Bốn mươi tám loại, năm mươi hai pho, một trăm sáu mươi bảy quyển.

- Phương Trung bộ có: Mười ba loại, mười ba pho, ba mươi tám quyển.

- Phù Độ bộ có: Bảy mươi loại, bảy mươi sáu pho, một trăm lẻ ba quyển.

- Hữu Tứ bộ có: Bốn trăm hai mươi lăm loại, bốn trăm năm mươi chín pho, một ngàn một trăm ba mươi tám quyển.

* Văn Tự Tập lược một pho ba quyển. Tựa Lục một quyển.

- Chánh Sử San Phiền mười bốn pho, một trăm ba mươi lăm quyển.

Tựa Lục: Một quyển.

- Cao Ẩn Truyện: Bốn pho, mười quyển, Tựa lục một quyển.

- Cổ Kim Thế Đại Lục: Một pho bảy quyển.

Tựa lục hai pho, mười một quyển.

- Tạp Văn: Một pho mười quyển.

- Thinh Võ: Một pho, một quyển.

- Hữu: Bảy loại, hai mươi mốt pho, một trăm tám mươi mốt quyển.

Trần Hiếu Tự soạn không đủ các lục trước chép ở đây.

Hiếu Tự Trần Lưu Nhân, là chắt của tướng Lãnh Quân Hâm đời Tống, Tổ Tuệ Chân Lâm Gia Thái Thú. Cha là Ngạn làm quan Thái Úy Tùng Sự Trung Lang.

Năm mười ba tuổi, Hiếu Tự đã thông đại nghĩa của Ngũ Kinh. Theo cha đến Tương Châu làm việc, không ghi trong giấy Nam để thành sự trong sạch của cha.

Năm mười sáu tuổi, Hiếu Tự thọ đại tang, không mặc y phục lụa tốt, tuy ăn rau nhưng có mùi vị gì thì liền ói ra. Ở Chung Sơn nghe giảng. Mẹ là Vương Thị bị bệnh, lúc đó Hiếu Tự đang ở trên giảng tòa bỗng tâm thấy lo sợ liền vội về nhà. Hợp thuốc cần phải có nhân sâm tươi mới trị được bệnh cho mẹ. Hiếu Tự đích thân lên đỉnh cao núi Chung

Sơn, trải qua một ngày mà chưa tìm gặp. Lúc đó, bỗng có một con Nai đang đi phía trước, trong lòng lấy làm lạ liền đến chỗ Nai đang nghỉ, quả nhiên có nhân sâm, thế là bệnh mẹ được khỏi.

Đời Tề, Thượng Thư Kinh Vương Yến, thông gia quyền quý đến hầu, xưng hô như vợ, Hiếu Tự không thích nên chui rào trốn đi. Vương Yến có biếu tặng gì đều không nhận. Thường ăn tương nhưng cho là ngon, có người hỏi mới biết đây là Vương gia tặng. Những khi ăn hay bảo mọi người che đậy những thức ăn mặn như thịt... Đến khi Yến bị giết, phi đãng được miễn, thường dùng núi rừng làm tinh xá, chỉ ở chung quanh ao rừng, dứt bặt sự giao tiếp, ít khi thấy được Hiếu Tự. Ngự Sử Trung Thừa Nhậm Phưởng muốn đến đó nhưng không dám. Bèn đến rình nhìn ngắm tinh xá của Hiếu Tự ở Lộc Lâm, nói với Huỳnh Lý rằng: Tịnh Thất này thì gần nhưng người đó rất xa. Thái Trung Đại Phu Ân Vân tặng bài thơ. Nhậm phưởng ngăn, nói rằng: Vượt xá nếu khác dùng gì giao thiệp nhau, ở đây trọng sự không đến mời chỉ giao thiệp với Trinh Tử.

Niên hiệu Thiên Giám năm thứ mười hai, Bí Thư Giám truyền mời đến nhưng không đến. Thiên tử cho là: Đây chỉ lập hư danh để phô bày danh dự. Từ đó không mời nữa. Cho nên con cháu Hiếu Tự đều được toại nguyện cao chí. Nguyên Tương ở Nam Bình nói với Lý rằng: Hiền đệ sao lại chấp chí kia?

Hiếu Tự nói: Như con Hoẳng có thể là con Ngựa tham, sao lại cho là khác con Ngựa ký ư? Vương làm nghĩa Nhị ám và tánh tình, đều chỉ bày đó, xin làm nhuận sắc (xin sửa lại văn tự).

Thế Tổ soạn bộ "Trung Thần Truyện", "Tập

Thách Thị Bi Minh", "Chu Dương Y Lục Nghiêm Thần Ký", đều trước chọn lọc cư sĩ, sau mới phát hành.

Trung Liệt Vương ở Hồ Bá Dương là anh rể của Hiếu Tự. Vương và các con năm đó đến dâng thức ăn cho Hiếu Tự, nhưng một vật hiếu tự cũng không nhận. Từng tự mình bói quẻ để biết khi nào chết, nói rằng: Cùng lưu trước tác đồng năm. Mùa thu năm ấy Lưu Liễu mất. Hiếu Tự bèn bói xem mình thử nói rằng: Ta đến lúc nào đây? Vài tuần nữa thôi. Thế là Hiếu Tự mất năm năm mươi tám tuổi. Hoàng Thái tử sai người đến phúng điếu và cúng tế. Tặng đồ tẩm liệm rất ân huệ. Tử thứ theo tiên chí, từ chối không nhận, môn nhân được truy tặng danh hiệu: Văn Trinh Xử Sĩ.

Hiếu Tự là người rất thông minh, biết rất nhiều sách, chẳng một loại sách nào không thông thạo. Tinh tấn nỗ lực học tập ghi nhớ là chỗ y cứ của người học. Soạn các sách Thất Lục, Tước Hệ v.v... gồm một trăm tám mươi mốt quyển đều lưu hành ở đời, kế là Phật Đạo cho là Thiên phương ngoại, là khởi ở đây.

QUYỂN 4

THIÊN THỨ NHẤT: QUY CHÁNH (PHẦN IV)

-Cuối đời Đường, niên hiệu Lân Đức năm thứ nhất, Sa-môn Thích Đạo An chùa Tây Minh, Nam Sơn soạn.

- Ra chiếu chỉ bỏ thờ đạo Lão của Lão Tử của Lương Cao Tổ Võ Hoàng đế.

- Chiếu phế bỏ đạo pháp của Lý Lão.

- Vua Cao Tổ Văn Tuyên Hoàng đế đời Bắc Tề

Luận Thông Cực. Sa-môn Thích Ngạn Tông Đời Tùy soạn Đời Lương, Cao Tổ Võ Hoàng đế, năm ba mươi bốn tuổi lên ngôi, trị vì được bốn mươi chín năm. Tuy công việc rất bận rộn nhưng tay không rời quyển sách, nội kinh ngoại điển đều nằm lòng, đã huấn giải hơn mấy ngàn quyển. Sống chừng mực, tiết kiệm, hàng dệt bằng tơ lụa không dùng đến. Cuộc sống rỗng rang, vắng lặng, ngày đêm không giải đãi, đến nỗi dùng mền bằng vải thô xấu, chiếu cói, giày cỏ, khăn bằng vải gai.

Lúc mới đến Đại Bảo đã đủ việc này, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, không dùng những thức ăn mặn tanh hôi, từ khi có ngôi Đế vương chưa có ai bì kịp xưa khi xưa Lão Tử tôn sùng Phù Đồ, Hoàng Võ đế thảo luận cùng tột cội gốc kia có đồng vọng làm, vua bèn đích thân vận thần hạ bút ban chiếu chỉ bỏ Đạo. Văn rằng: Ngày mồng 8 tháng 4 niên hiệu Thiên Giám năm thứ ba, Lương Quốc Hoàng đế Lang Lăng Túc diễn cúi đầu kính lễ chư Phật mười phương, tôn pháp mười phương, Thánh tăng mười phương. Kinh Phục Kiến chép: Phát tâm Bồ-đề tức là tâm Phật, còn những việc lành khác không được làm thí dụ. Phát tâm Bồ-đề giúp cho chúng sinh ra khỏi cửa khổ trong ba cõi, vào được con đường thù thắng vô vi. Vì thế Đức Như Lai lậu tận, trí bất động thành Chánh giác. Là bậc chí đạo thông suốt các căn cơ đức đầy đủ chứng bậc Thánh, phát khởi đuốc tuệ chiếu soi kẻ mê lầm, gương pháp lưu để lóng trong sự dơ uế. Khởi điềm tốt ở Thiên cung. Sáng rực oai linh ở tượng vương, đưa những kẻ mê lầm ra khỏi biển dục, dẫn hàm thức đến Niết-bàn, lên được núi cao thường lạc, ra khỏi chỗ sâu của sông ái. Ngôn bỏ bốn câu, ngữ dứt trăm phi. Thị hiện tướng đản sinh ở cung vua Tịnh Phạn cõi Ta-bà. Bước một bước ba cõi đều tôn trọng, dưới cội Bồ-đề thành Chánh giác, ánh sáng chiếu khắp cả đại thiên, chỉ vì căn cơ chúng sinh tâm cạn mỏng ưa sống nhàm chán biếng nhác.

Rằm tháng hai, ở Sa-la song thọ giảng nói viên thường, lại thâu ánh sáng ở Hạc thọ. Xà Vương diệt tội, Bà tẩu trừ ương. Nếu không gặp được bậc Đại thánh pháp vương thì ai có thể cứu vớt tiếp dẫn. Ở nơi tích tuy ẩn mà đạo kia không thiếu. Đệ tử đã mê lầm thờ đạo của Lão Tử, trải qua nhiều đời nối nhau nhiễm tà pháp này. Tập nhân thiện phát, bỏ mê biết phản tỉnh. Nay bỏ đạo xưa trở về nương vào chánh pháp, nguyện đời sau dõng mãnh xuất gia, mở mang kinh giáo hóa độ chúng sinh cùng thành Phật đạo. Ở trong chánh pháp không trôi lăn trong đường ác, không ưa thích giáo pháp của Lão Tử để được sinh về cõi trời, hướng đến tâm Đại thừa lìa niệm Nhị thừa, cầu mong chư Phật chứng minh, Bồ-tát nhiếp thọ, đệ tử chí thành kính lễ.

Lúc bấy giờ, vua và đạo tục hai vạn người ở điện Trùng Vân, Trùng Các, tay viết văn này phát tâm Bồ-đề.

Đến ngày 11 tháng 4, lại ra sắc chỉ trong nước rằng: Trong Đại Kinh nói: Có chín mươi sáu đạo, chỉ có đạo Phật là chánh đạo còn chín mươi lăm đạo kia là tà đạo. Trẫm bỏ tà đạo để thờ chánh đạo của chư Phật, Như Lai. Nếu có công khanh nào có thể vào chánh đạo này đều hãy phát tâm Bồ-đề. Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử tuy là đệ tử Phật mà hóa tích đã là tà, thì chỉ là thiện ở thế gian, không thể đổi phàm thành Thánh. Công khanh, trăm quan, vương hầu tông tộc nên bỏ ngụy về chân, bỏ tà nhập chánh. Vì thế, "Luận Thành Thật" nói rằng; Nếu tâm kính trọng đối với ngoại đạo, tâm khinh thường đối với Phật pháp tức là tà kiến. Nếu tâm bình đẳng, đây là tánh vô ký không thiện không ác. Nếu người thờ Phật tâm mạnh, thờ Lão Tử tâm yếu, đây chính là thanh tín. Thanh tín: Thanh là trong ngoài đều tịnh, cấu uế hoặc lụy đều hết. Tín là tin chánh không tin tà, vì thế nói là thanh tín đệ tử Phật. Còn những người tin theo đạo khác đều là tà kiến, không được gọi là thanh tín. Môn hạ mau thi hành.

Đến ngày 17 tháng 4, Thị Trung An Tiền Tướng Quân Chu Dương, Y Thiều, Lăng Vương tâu lên rằng: Thần có nghe: Như Lai nghiêm tiếng vòi vòi nơi hữu đảnh, sắc thân vi diệu rộng lớn không bờ mé. Nương kim luân mà khởi vật, nhờ kim túc mà ứng phàm. Dồi mài dao bén Bát-nhã, đạt đến diệu quả Niết-bàn, chèo thuyền vượt biển khổ sinh tử, cứu giúp đưa đến bờ thường lạc, vì thế có thể giáng xuống mây từ bi, mưa xuống nước cam lồ. Bảy chỗ tám hội giáo hóa không cùng, bốn đế năm thời lợi ích vô tận. Nước trong trời sáng sương tan, mây hết. Đuốc lửa sáng rực che ánh sáng, nóng bức tự tịnh, có thể cho là nhập tục hóa nơi tối tăm, thật là chân thật xuất thế khiến cho người ở Trù lâm tà đồ kính mến pháp môn không mỏi mệt. Kẻ khát ái mù điếc ngưỡng mộ dò xét nghiên cứu mà biết quay về.

Đạo thọ ban đầu ở Ca-la, đức âm thanh ở kinh Lạc. Hằng tinh không thấy, chu giám thần trưng, trăng tròn sáng đẹp nửa đêm nằm mộng, năm pháp lưu truyền vạn đức tốt đẹp.

Giúp ba minh này soi chiếu đường mê, nương nhờ bảy giác cứu khổ trong đêm dài. Gặp Hoàng đế, Bồ-tát ứng thiên ngự vật phụ thần Lâm thị. Chứa đựng vũ trụ chiếu soi sắp biển cả, giũ lòng từ vô ngại biện để dắt dẫn muôn dân. Vì năng lực bổn nguyện nhiếp thọ chúng sinh, nên tùy bệnh cho thuốc, thị hiện phương tiện hiển nhân. Tôn sùng ý chỉ Nhất thừa, mở rộng nền móng Thập địa. Do đây muôn nước hướng về, đều bẩm thọ chánh pháp, u hiển linh kỳ đều nhờ ơn cứu giúp. Loài người phát nguyện thành Chánh giác muôn vật khởi tâm Bồ-đề. Đâu ai chẳng quy về tông chỉ, vui vẻ trở lại bổn nguyện, cùng nhau giũ lòng từ bi, siêng tu nhẫn nhục. Cái gọi là làm đường sá, bờ bến để giúp đỡ lợi ích mọi người. Đạo đã sáng, dân cũng được giáo hóa. Ứng chân cao vút, tiếp dẫn chúng sinh, phá tà ma ngoại đạo, giữ gìn quốc gia chân chánh làm tinh xá, cõi báu trông mong, giảng đạo truyền kinh, đức âm đầy tai. Thần khí xưa chưa hiểu được lý nguyên, bẩm thừa ngoại đạo, như muốn được quả ngọt mà lại trồng cây đắng, muốn trừ khát mà uống nước mặn. Nay biết được đó là mê lầm biết quy hướng, thọ giới Bồ-tát, tiết chế thân tâm, bỏ tà đạo của Lão Tử, đến giáo pháp chân thật. Cầu mong đức đại Từ giũ lòng thương xót hứa khả cho, thành kính cẩn bạch.

Ngày 18 tháng 4, Thư xá nhân thần Nhậm Hiếu cung tuyên sắc chỉ rằng: Có thể đổi mê nhập chánh, có thể gọi là do đời trước gieo trồng nhân thù thắng nên đời nay mới được như vậy. Phải ra sức dõng mãnh.

**** * Đời Tề, Cao Tổ ra chiếu chỉ bỏ giáo pháp của đạo Lão.

Xưa Kim Lăng Đạo sĩ Lục Tu Tĩnh hướng về đạo môn. Hai triều đại Tống và Tề noi theo Tam Trương, Hoằng diễn. Học trò của Hy Trương thọ Đồ Lục, bèn xuyên tạc thêm, rộng chế trai nghi. Ràng buộc lãng phí rất phiền ý, Vương giả tôn phụng.

Lương Tổ Khải vận hạ chiếu bỏ đạo, Tu Tĩnh không hơn thận trọng, bèn cùng môn nhân đến biên cảnh mà vong mạng. Trở lại Bắc Tề, lại khuynh tán vàng ngọc tặng các vật quý. Nương gá trông mong hưng khởi đạo pháp, Cao Đế nghi ngờ.

Tháng 9 niên hiệu Thiên Bảo năm thứ sáu, bèn hạ chiếu các Sa-môn cùng Đạo sĩ những người thông suốt mười vị cùng so tài. Lúc bấy giờ, Đạo sĩ chú nguyện khiến cho y bát của Sa-môn hoặc bay hoặc di chuyển, chú nguyện cây xa nhà hoặc ngang hoặc dọc. Sa-môn biết không học phương thuật, im lặng không một ai đối đáp lại. Sĩ nhân ồn náo vui vẻ, họ cho là môn đồ của mình đã thắng.

Các Đạo sĩ vui mừng hớn hở, lớn tiếng tự khoe. Phô trương tự hào đạo thuật của mình, lại tuyên bố rằng thần thông quyền thiết khuất phục được kẻ mạnh, Sa-môn hiện một ta hiện hai. Nay chỉ hiển bày một ít phương thuật, vẫn rút lui khuất phục, sự cũng có thể thấy.

Vua khiến cho Pháp sư Thượng thống so tài với Tịnh Giác. Thượng Thống nói: Phương tục tiểu kỷ, tục Nho hổ thẹn, huống gì xuất gia ư? Tuy nhiên thiên mạng khiến phải chống cự, há không được nói. Bèn cho vị tối hạ tòa đối lại, liền đến tìm kiếm, có một vị tăng tên là Đàm Hiển, không rõ người ở đâu, du hành không định, ăn uống đông như người thế tục. Bấy giờ có người đồn rằng đây là bậc liễu ngộ cao xa. Thượng Thống biết năng lực của vị này, nên giao thiệp riêng. Lúc đó, các vị danh Tăng đã nhóm họp đầy đủ, Đàm Hiển ở cuối tòa, uống rượu say sưa ngồi cao ở đó, quan Hữu Ty không dám gọi, báo việc này lên Thượng Thống.

Thượng Thống bảo rằng: Đạo sĩ cúng rượu thường đạo sở hành. Chỉ là đạo nhân uống rượu mới có thể nói chuyện mà thôi. Bèn đem rượu đến. Lúc đó, mọi người đều khiếp sợ. Oai quyền của Thượng Thống, không ai dám can ngăn. Bèn có hai người dìu Đàm Hiển lên tòa cao. Lên tòa rồi liền đứng dậy cười nói rằng: Ta uống rượu say, trong tai nghe có chỗ nói rằng: Sa-môn hiện một ta hiện hai, lời nói này hư hay thật?

Đạo sĩ đáp: Có thật.

Hiển liền co một chân đứng nói: Ta đã hiển một, khanh có thể hiển hai hay không?

Đạo sĩ nín thinh.

Hiển nói: Ngươi chú thuật y bát bay, ta cố mở cửa thử khanh có thuật được không, bèn bảo lấy để cho Đạo sĩ chú thuật. Các Đạo sĩ cùng nhau chú thuật nhưng không có một vật nào lay động cả, vua ra lệnh lấy, bèn cho mười người không nhấc lên nhưng chẳng động đậy gì được.

Hiển bèn để y trên các cây xà nhà. Lại bảo Đạo sĩ chú thuật, nhưng đều không có một vật gì linh nghiệm cả. Các Đạo sĩ nhìn nhau không làm gì được, còn dùng ngôn biện tự cao rằng:

Đạo Phật gọi là nội, nội thì ít.

Đạo của ta là ngoại, ngoại thì nhiều.

Hiển liền lên tiếng nói: Nếu như vậy thì Thiên tử ở trong định ít, một trăm quan ở ngoài định nhiều ư?

Tĩnh và các Đạo sĩ làm thinh không nói được.

Vua cho rằng: thật linh nghiệm, liền hạ chiếu rằng: Pháp môn không hai, chân tông là một, tìm cầu con đường chân chánh vắng lặng làm gốc. Đạo giả cúng rượu trong đời giả vọng, tục nhân chưa ngộ bèn có sự tôn kính. Men rượu là vị thanh hư ở nem thịt. Vị ngọt đây từ bi hằng cách. Trên khác với nhân từ, dưới trái với tế điển, đều cấm bặt không được tôn thờ. Thông báo xa gần khiến cho nghe biết. Những Đạo sĩ quy phục đều giao cho Pháp sư Chiêu Huyền Đại Thống Thượng độ cho xuất gia. Những người chưa phát tâm, có thể khiến cho thế phát. Ngày đó số người bị chém đầu chẳng phải một. Số người tự cho mình là thần tiên thì cho họ lên đài cao lao thân rơi xuống đều nát thân như bùn đất, dối trá đều dứt từ đây. Đến nỗi khiến cho trong nước không tin hai đạo. Đến đời Tùy, lần lần khai thuật đến Đông Xuyên ngày nay, tông này vi mạt không dám kháng cự.

Vua húy là Dương, là con thứ hai của Thừa tướng Cao Hoan đời Nguyên Tống. Đích huynh trừng cấp tánh bị giặc hại, Dương vị kia làm tướng quốc. Đời Ngụy sắp hết, Dương xây đàn ở Nam Giao. Bói gặp quẻ đại quang đại kiết Hán văn, bèn đúc tượng vàng, một lần rót đồng đúc liền thành công. Ngụy thâu làm thiền văn, Ngụy đế nhận chức đó, tức thọ thiền kia là Đại Tề. Hành vi không thể so lường với ngu trí kia. Giao việc hành chánh cho Phộc Tạ Dương Tôn Ngạn. Vua xây chùa Phật, Tăng Ni khắp các châu. Mùa đông mùa hạ cúng thí hành đạo không dứt.

Lúc bấy giờ, Trù Thiền sư khuyên vua rằng: Đàn Việt La-sát, đến sông tự thấy. Vua đến đó thấy chúng La-sát ở sau, bèn không ăn thịt. Cấm các loại chim như chim Ưng, chim Diều không được ở gần quan. Những người làm nghề đánh cá, giết mổ, các món ăn có vị cay nồng như hành hẹ v.v... đều trừ bỏ hết, không được đem vào chợ. Vua thường ngồi thiền suốt ngày không xả thiền. Lễ Phật kinh hành, kia mau như gió, thọ giới với Chiêu Huyền Đại Thống. Pháp thượng diện ếm đất. Khiến thượng lý phát mà trao.

Trước tiên, vua ở Tấn Dương, sai người cưỡi Lạc đà đến, ra sắc chỉ. Đến chùa lấy hòm kinh.

Người sứ hỏi chỗ nào?

Vua bảo: Cưỡi Lạc đà ra khỏi thành, và Lạc đà đi mau như mộng đến một ngọn núi. Nửa chừng núi có một ngôi chùa. Các Sa-di từ xa thấy nói rằng: Cao Dương cỡi Lạc đà đến. Lúc đó, có một vị Lão Tăng bái lạy hỏi: Cao Dương làm Thiên tử như thế nào?

Đáp: Thánh minh.

Vị Tăng hỏi: Đến đây làm gì? Đáp: Lấy hòm kinh.

Vị tăng nói: Dương ở chùa làm biếng tụng kinh khiến cho Bắc thành Đông hiển.

Người sứ trở về tâu lại.

Ban đầu vua đến chùa Mộc Tỉnh ở Cốc Khẩu, có một người điên không hiểu lời nói, bỗng nói với vua: Ta cách ông đời sau.

Đêm đó người điên chết, vua băng hà ở Tấn Dương.

****

* Luận Thông Cực, đời Tùy, Sa-môn Thích Ngạn Tông soạn.

Phàm hai đường ẩn hiển, không thể định được sự vinh nhục. Hai mối chân tục ai có thể phân ra đồng khác. Do đó đại hiền thì chợ bói không ồn náo, cao đạo (chỉ người ở ẩn) thì núi rừng không buồn bực, không chẳng ngoài sắc, trời đất tự đồng chỉ mã. Danh không nghĩa lý, can đảm có thể như Sở việt hoặc nói hoặc nín. Pháp thuật của Lương Du ngữ mặc hoặc có hoặc không, lòng tin không hề có giới hạn. Như phù vân hồng chấn khổng tước bay xa. Tịnh Danh hiện bệnh, Tỳ-kheo sợ biện tài cao xa của Ngài. Phát tâm tức là xuất gia, nào có quan hệ gì đến việc cạo bỏ râu tóc, bỏ tục mới gọi là nhập pháp, đâu phải rút bỏ trâm. Đây chính là môn nhiễm tịnh, quyền thật mà chưa rõ; lý nép phục lành dữ mà chưa ngộ. Bài khiến cho Trang sinh tông luận tề đều một, Thích Tử nói ý chỉ hội hai. Thật lớn lao thay. Tha thứ là sâu xa, thật có tìm xét tới. Trộm nghe âm dương hợp thì muôn vật thành. Mặn lạt hòa thì thành món ăn ngon. Sao bỏ bốn thời hằng tựa, năm vị riêng khác. Do đây mà nói há có chân tục lẫn lộn, ẩn hiển khác nhau, hoặc có người hiểu biết ít ỏi, thì muốn trí như Lăng, Chu, Khổng. Hầu hạ thấp kém liền sánh địa vị mình với Đế vương. Tự gượng cho là lớn để lập thân, nghĩa là một người mà thôi, không tin có nhân quả, bèn nói không có Phật pháp. Khinh hủy Tăng Ni, coi thường Sa-môn. Ngu si noi theo nhà

Nho cổ hủ để vời lấy minh họa. Hoặc có người mới bỏ y phục thế tục mà tướng trạng như đức quan trời người. Vừa có được danh tăng ý dường như thinh cao hải vức, tự cao tự đắc tôn xưng là bậc cực Thánh. Đâu biết rằng mười triền còn chướng, ba món học vô lậu chưa nghe. Không tùy cơ mà tiếp vật, cuối cùng ôm lấy ngu si mà tự giữ. Than ôi! Hai cái thì khác đường, một cái sao lẫn lộn được. Bậc cao hoài thông đạt ai có thể như vậy ư?

Trông mong muốn bỏ sự rối rắm, khuất phục sự sắc bén giả lập cơ trống. Tuy có trầm bổng nhưng rốt cuộc cho đạo là tông chí. Kia dụ như năm màu lẫn lộn, gần Tu-di mà hội đồng. Muôn vạn sum-la nương hư không mà tập trung, quy về từ vật đông đảo. Tiếp thu các khe suối thật là biển lớn mênh mông. Đây thật là xán lạn, đối với Phật đạo, khen ngợi huyền môn. Ngõ hầu khiến cho vô ngã, không tà, đầy đủ khiêm cung kính cẩn.

Bộ Thức Di Hậu Tiến Luận nói rằng:

Có vị Tăng Ấn Độ tiên sinh xa lánh trần tục, ở một mình nơi gò núi hiểm trở, anh minh ẩn dật hơn cửu thiên. Chiếu bằng cỏ tranh, gối bằng đá, cạo tóc nguội tâm.

Y phấn tảo khác với áo của Dương Tục, giường dây không giống giường của Quản Ninh, tự ẩn mình ở Tây Nhạc mấy mươi năm, bền chắc không thể lay chuyển được, đạm bạc vô vi. Thường tự than rằng: Cùng tột thì riêng khéo thân kia, thông suốt thì gồm cứu giúp thiên hạ. Nhưng trăm họ phiền não, ràng buộc ở lưới ái, không thể tự mình đến chỗ thanh tịnh. Ngồi quán cảnh lầm than khốn khổ, lại phải bỏ đông đúc ở nhân gian. Đối với đây khuất tích tạm du hóa, mới đặt chân đến kinh thành làng ấp kế đó là Bá Thượng. Có Hành Lạc Công tử, Rồng phun nơi dòng nước, hạc bay che mây nổi. Y phục lụa là tốt đẹp, huân phong hợp khí, cương vàng yên ngọc, ánh sáng rực rỡ. Nhất định biết yêu mến trịch quả là thuộc Phiên Sinh, ân sùng của Cát Trừu đã mệ Hán Đế. Ven thành Tiếp Chẩn dự tiệc với Tào Vương, bên ao Liên Lộc thưởng thức với Sơn Công.

Tiên sinh Đạo Phùng lấy làm lạ hỏi rằng:

Tiên sinh tướng mạo như học trò của Yến Triệu. Tóc như khách của Ngô Việt, dung sắc dường như Trần Thái. Y may không liên quan đến Sở Lỗ, bước đi từ từ thong thả, mắt nhìn xuống lời nói nhỏ nhẹ, mày nhịu lại, bình bát bằng sành thường đem theo, chẳng khác phong khí của Nhan Hồi. Tiếng tích trượng leng keng nào khác cây trượng của Nguyên Hiến, ở nước này chưa thấy, tôi chưa hề nghe danh, nay xin hỏi tiên sinh từ nơi nào đến?

Tiên sinh yên lặng giây lâu, từ từ đáp rằng: Quán Tử tung hoành đối với danh lợi, mê muội đối với sắc thinh. Đội trời còn không lường được cao kia, đạp đất không thể biết dày kia. Tôi nghe ở dưới giếng sâu vốn không có vảy cá nuốt thuyền, há có cánh chim quạt mây. Tôi chẳng phải học trò của Quán Tử ư? Kia có thể biết ư? Tôi thử vì ông mà nói, hạnh Tử Tạm Lưu Cao Thinh là Thầy tôi. Đức vốn thâm cao. Thọ từ đầu ba A-tăng-kỳ, diệu quả cao xa thành nơi cuối một trăm kiếp, cả pháp giới làm trí, khắp hư không dùng làm thân, đâu chỉ khí bẩm hai nghi đạo Chu muôn vật mà thôi. Vì thế, thân không đâu chẳng ở mà lượng cùng tột ngoài khuôn phép. Trí không đâu chẳng làm mà dụng dứt trong nghĩ bàn. Không thể đem việc của người mà so sánh, đâu được dùng xứ (chỗ ở) mà luận bàn. Phải nêu việc thấy nghe của kẻ ngu, cần bày ảnh tích của chân nhân. Kia giống như tùy cốc phong mà Hổ gầm lên, tùy Khánh Vân mà Rồng bay cao. Cảm ứng vời nhau chỉ là thường lý. Giống thần trên cung trời Đâu-suất, nương tượng đến thành Ca-tỳ-la-vệ, họ là Cù-đàm, dòng Sát-lợi, tên đời là Tất-đạt, đạo tự là Năng Nhân, chính là Thái tử của vua Tịnh Phạn. Gia thế nhiều đời làm luân vương, môn phong thì truyền nhau Thánh đạo. Trong cõi tam thiên đã khác nơi Lạc Ấp, quốc triều tám vạn hơn nơi Kê Lĩnh, tông nhân (dòng họ) quê quán, ai có thể rõ được ư? Đến khi sinh Thầy ta, khôn hình sáu động, chợt đi bảy bước, mưa hoa năm màu đầy cả nước, hai Rồng phun nước khắp hư không. Điềm lành đã đến, hiện tượng tốt gồm hợp. Xem trăm đời chưa hề có. Song, khi mang thai thì khác

Nghiêu Hiên, lúc sinh không giống Vũ Khế. Còn Hắc Vương nằm mộng thấy ánh sáng màu trắng chiếu đầy nhà cho là điềm lành, đâu thể nghĩ bàn. Thân màu vàng, cao hơn một trượng, giữa hai đầu chân mày sợi lông trắng năm thước, trước ngực có chữ vạn, dưới lòng bàn chân có bánh xe ngàn căm. Nói đại khái là có ba mươi hai tướng. Không thể dùng mặt Rồng mắt Hổ tám màu sắc hai con ngươi, diệu sắc của ta so sánh với sự thăng giáng kia. Tuy lại là tướng Lữ Công, đời Cao Đế cho là biết người. Hoặc thí như sự thấy của Tư-đà thì thầy ta chưa thể đồng ngày. Lúc đó tôn sùng nghiệp, chánh vị Đại bảo Thiểu Đương, Giáp Quán khai trương, Lang Lâu kiến lập, còn như tài nghệ song toàn, văn võ lỗi lạc, không liên quan sư bảo từ nhân thiên cốt. Hoặc đối với Thái tử ngày trì lâm phiếm. Vườn nhìn rộng lúc nhàn rỗi, sức cảm phục được hương tượng, khí dẫn đầu được thần công.

Hán doanh hạ khởi đầu đáng nói. Vua cha ban đêm phòng vệ rất nghiêm ngặt, dòm ngó càng kỹ càng. Chín lớp cửa cấm, có tiếng động thì cách bốn dặm cũng nghe. Ba mùa ở kín trong cung điện, mỹ nữ hai vạn người. Nhưng vì đạo tánh sẵn có, chí nguyện mạnh mẽ, tuy ở trong cảnh ba hoặc mà không thay đổi khí tiết của nhất tâm. Dạo chơi bốn cửa thành, thấy ba nỗi khổ già, bệnh, chết, bèn tự than rằng: "Cuộc sống con người như thế này, ở đời làm sao mà kham chịu nổi? Thoát tục tìm chân lý chính là lúc này".

Lúc bấy giờ, hoa đào rơi lác đác, khoảng giữa xuân (rằm tháng hai), trăng nửa vầng khuất sau lầu gác.

Hằng đêm suy nghĩ, quán kỹ nữ như thây chết, ngộ cung điện như nhà hư. Thiên Vương nâng chân ngựa trắng vượt thành. Cấp Sử đem mũ báu đến cổng. Đời Tần, Túc Sử Chu Thời Tử Tấn, Hứa Do rửa tai ở núi Ky. Trang Chu kéo đuôi nơi sông Bộc. Phương Tư bỏ tục sao không bằng kia. Đây là nơi rừng tiên bắt đầu bỏ tâm, sông Thiền khởi dấu vết khổ hạnh. Tắm nước sạch dòng sông Kim, dạo kiết thọ đạo tràng, thức ăn dùng hạt mè, tòa thì dùng bằng cỏ. Mười phương trí khắp, chứng sáu món thần thông, ma binh sạch hết, đại nghiệp khắc thành, riêng xưng là Phật, đây là thầy ta.

Ban đầu chuyển pháp luân ở Nại Quốc (thành Ba-la-nại) Tăng lữ đầu tiên độ Kiều-trần-như, anh em Ca-diếp, bạn hữu Mục-liên. Thế tục ở Tây Vức, điềm lành ở phương Đông. Hai mươi tám tầng trời, làm vua mười sáu nước, đâu không phục dạ mà nghiêng tâm, trọng phong cách mà chắp tay. Ở cung Tha hóa mở mang Thập địa, núi Kỳ-xà hội họp ba thừa. Thiện kiết bàn tông vô đắc Tịnh Danh, hiển bày ý chỉ vô ngôn. Hàng phục Thập tiến ngoại đạo, chế ngự nhóm sáu vị Tỳ-kheo. Trước ngực thì tiếp nhận sông hồ, trong tay thì khuấy động cả núi rừng.

Nói về kiếp thì phương thạch thường tận, biện về số thì vi trần có thể cùng tận. Đây chính là vị Đại sư trong ba cõi, vị Độc Tôn của muôn xưa. Tôi tài hèn nói sao cho hết, dù khiến cho chế lễ tác nhạc của Chu Công, thuật dịch hình thi của Khổng Tử, ngôn ngữ của Mâu Tứ, văn học của Thương Yển cho đến Tả Nguyên phóng cát, Hiếu Tiên Hà Thượng Công Quế Hạ Sử đều khư khư ở phương nội, làm sao nói đủ ư? Hàm linh của ta phước hết, Pháp vương ra đi, bèn khiến phương Bắc ban đầu tuyên bố ở sông Hà, xuân thu có tám mươi thiên. Ứng thân nát vụn. Lưu huyết tìm đâu. Tranh quyết nghi tối hậu, đua phụng cúng lúc lâm chung. Than ôi! Đuốc tuệ tiêu, mây từ diệt, đêm dài các đệ tử thật đáng thương. Bây giờ, chiêm ngưỡng tướng tốt ở hương đàn, ghi thuyên đề nơi lá bối. Ba tạng thọ trì, bốn y bổ xứ. Nhưng phong cách của thầy ta không mất, đặc biệt như thế. Chỉ vì thế đạo rối rắm, chúng sinh giả dối, thay thế xưa nay. Nay vận chuyển đến phương Bắc lại lần lần chuyển đến phương Đông. Do đó, Lưu Trang nằm mộng thấy người vàng. Ma Đằng khuyên Thái Âm, Di giáo truyền đến đất Hán, khởi đầu từ đây cho đến hơn năm trăm năm.

Về sau, có Khương Tăng Hội, Trúc Pháp Hộ, Phật Đồ Trừng, Cưu-ma-la-thập nối gót theo sau mở rộng Phương Đẳng. Bèn khiến các bạn Đạo Sinh, Đạo An; các đồ đệ Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán đều bỏ danh tiếng trả mũ quan cùng nhau quy hướng Phật pháp. Tăng chúng đông đúc mạnh mẽ có thể hơn đạo Lão.

Ta từ nhỏ đến lớn ở Sơn Đông, tôn sùng mẫu mực (khuôn phép) của Tố Vương. Chiều dạo Quan Hữu (cửa Tây), ngưỡng mộ huyền môn của Huỳnh Lão. Đều chưa vượt khỏi sông khổ còn trôi lăn trong nhà lửa. Có thể lâu xa, có thể lớn lao chỉ có giáo pháp của Phật mà thôi. Trông mong sự trong sạch của đời trước, kính mến dấu vết xa xưa của bậc anh tài. Trở về với chánh đạo, đây là tự cứu mình ra khỏi chốn trầm mê. Mới chính là người ẩn dật lìa sự tham muốn; là đại tướng bẻ dẹp tà giáo. Đồng bọn của ta chính là đây.

Công tử nghe rồi, nhăn mũi (tỏ vẻ không vừa ý) nói: Lời biện luận của Quán tiên sinh tuy có thể bàn về trời, nhưng chỗ biện luận đó sao quá hoang đường. Xét ra, Phật vốn là thần của sự khởi hóa tương đương với vận của Đông Chu ta.

Tự nói rằng; Ta-bà gồm nhiếp, không đâu chẳng phải là chỗ quy về, hoặc ánh sáng chiếu soi không bờ mé, âm thanh chấn động đến tầng trời Hữu đảnh. Hoặc tám bộ tập trung, mười phương nhóm họp. Tính ra Thiên Trúc cách nước ta hơn mười muôn dặm, đều ở phía Nam núi Tu-di, cùng ở trong Diêm-phù-đề. Vì sao dân chúng ở đây không đến chỗ Phật, Đức Như Lai vì sao phân biệt riêng không chiếu ánh sáng đến. Trừ sinh ngã Tần Hán không chở phần mộ quê quán của ta. Càng rõ hai, ba điều nghi ngờ này, tôi nghe tinh không dứt tục, ẩn không lìa người thân. Do đó, hòa ánh sáng nơi trần, hoa sen mọc trong lửa. Còn việc buộc đai, rũ mũ mà không ngại tu đức. Cài trầm dưỡng tóc đủ để nhàn cư. Vả lại, đạo vốn rỗng thông, va chạm không đâu chẳng phải là đây. Sao lại bỏ mũ lìa tâm chuyên cây tích trượng và bình bát. Thầm cho là không tổn thương di thể mới chấp trước tâm hiếu. Đâu chẳng phải vua quan trọn theo triều mạng. Nay đã đắp y đỏ đầu không có tóc, chưa rõ tội kia. Không làm Thiên tử, tự xin hỏi tiên sinh, xin giải thích rõ ràng. Tiên sinh đáp: Ta nghe âm thanh lớn không vào lỗ tai, kia có linh nghiệm ư? Còn muốn dùng ống trúc một tấc mà dòm trời, dùng con ốc nhỏ để đo lượng nước biển. Mà pháp môn của ta không phải ta thể cùng tột. Ta lại phải nương vào thần lực mới có thể vì ông mà nói. Thầy ta hóa đạo rộng xa tất cả hàm linh đều được giúp. Chỉ vì chúng sinh duyên ít tự làm chướng ngại mà thôi, đâu có liên quan gì đến oai lực của Phật không rộng lớn và sự thấm nhuần của Thánh không bình đẳng. Kia dụ như mặt trời mặt trăng sáng rực trên trời, sấm sét phát ra âm thanh rung chuyển trời đất, nhưng lựa người mù người điếc, nào phải do ánh sáng ít và âm thanh nhỏ. Tuy nhiên, Phật du hóa đến Xá-vệ, còn có hơn hai kỷ ba ức gia đình chưa nghe thấy Phật, thì nào có lạ gì các vùng biên địa mười muôn dặm. Thầm cho là chỗ sinh sống của Chu Khổng, xưa chỉ ở ấm của xứ Hoa Hạ Di Địch không tin lý kia ư? Còn như trăng non ở phương Đông mọc trên trời, vua ở Hoài Nam nhập Đồ Lục. Nhưng cỡi chim Phụng đẹp mây mù, ở đời có người như vậy. Muốn không lớn nơi Thần tiên, bí mật không ghi chép, đâu thể hiểu được đạo thuật của Thầy ta. Chép đó ở trong sử ư? Huống chi Tần Hoàng đốt hết kinh điển sổ sách đâu còn giữ văn đây. Không thấy đó là việc lớn. Nhưng có người cho rằng kia chánh chân cam chịu theo thế tục, chưa ngộ được thân không trong sạch thì đâu có đạt mạng. Vô thường phục ngoạn thì nhiều lớp không thôi, xan tham thì một sợi lông cũng khó rớt. Ngu dân khinh thường thật là đáng thương. Ta không thể bảo vệ được hình hài thì ai có thể mưu lợi nơi huyễn ảo. Râu tóc đã cạo, tâm ta tự khắc phục. Chỉ mặc y hoại sắc thì ái tình nào khởi. Do đó, năm điều cấm để giữ tưởng, sáu thời buộc niệm. Kính cẩn vật ngoại là nghịch lưu. Thầm nghe Hạ, Vũ phân tán Tứ Xuyên thì lao nhọc chân tay. Mặc Địch lợi vật thì không tổn gót chân. Giết thân mình để thành lòng nhân, chịu đói chết để giữ chữ người, đây đều là trái với đại hiếu. Nhưng vẫn phong phú trong các sách. Tôi dưỡng tánh nơi nhiệm mầu, lập thân hành đạo, muốn rộng cứu giúp chúng sinh trong sáu đường, trông mong được muôn đức, há học tử hạn cuộc ở chi tiết nhỏ, để ý nơi da tóc ư? Có chút vinh danh việc khóc, theo triều của Bắc diện. Nếu kia hiệu quả không nhiều, bổng lộc ít ỏi thì chỉ lao nhọc chân tay. Không nhàn rỗi, công cao ngôi vị cùng tột thường sợ nhiều sự bất an. Ngàn nhận (nhà Chu định tám thước là một nhận) bỏ hạt châu, một sao khinh của quý. Nhưng hoa sen trong lửa không phải là chỗ phát khởi của tôi, nhiễm mà không nhiễm nào có phải là chỗ biết của ông.

Công Tử nói: Tiên sinh gượng khoe hoa kia để trau chuốt cho điều sai, giữ cỏ trên tường mà không quét, nghe luận nghịch tai, lược điều tệ có bốn. Tôi nghe cây ngọc không cùng rừng với cỏ kiêm cỏ lau. Chim Phụng oai vệ không cùng đàn với chim Yến, chim Sẻ. Tiên sinh đạo tuy vi diệu. Môn nhân sao ngu hèn. Hoặc thân hình xấu xí, dòng họ ít ỏi, hoặc giống loại thấp tinh thần mờ tối. Không có ba điều kiện để tham dự vào kẻ sĩ, không có mười mẫu để làm dân thường. Biếng nhác sự bận rộn của vua, xấu hổ không lập nhà riêng, trốn tránh quân dịch trong chùa Phật, dung thân trong pháp phục, thấy người không thể trình bày lạnh nóng, đọc kinh không hiểu nghĩa chính. Không biết cao tâm với trăm họ, trái lễ với cha mẹ, do đó không tự mình vinh hiển. Đây là điều tệ thứ nhất.

Tôi nghe tiết kiệm nền đất cây gỗ là lý do vua Nghiêu thương dân. Đây cả nhà ngọc, đài vàng là lý do Thương Tân bại tục: Huống gì hạnh của Như Lai chỉ là ít ham muốn, đức vốn đại bi. Chỉ ngồi yên ở gò mã, kinh hành dưới gốc cây, làm sao trang sức chùa chín tầng, kiến lập đài bảy báu. Không xót thương người làm lao nhọc, không xấu hổ lối sống ẩn dật, do đó tự mình không có sự ước lượng. Đây là điều tệ thứ hai.

Tôi nghe: Không tự khoe công là cực giáo của Lão Đam, không khen đức mình là cách ngôn của Phật. Lao nhọc khiêm nhường là điều tốt của người quân tử. Biết khắc phục nhịn nhường là điều hay của bậc Thánh. Đức bên trong đầy đủ thì bên ngoài tiếng tốt vang xa. Rong ruổi theo khách bạn, ngồi đến ngợi khen. Huống chi tâm Phật thanh tịnh, quên các lỗi được mất. Như thế nào mà riêng được hiệu Thế Tôn. Không muốn nhường cho người, nhưng các kinh kia tông chỉ không hai, các lời bàn xưng là bậc nhất, tự sinh ra sự mâu thuẫn, làm sao để thông suốt, nên không tự khiêm tốn, đó là điều tệ thứ ba.

Tôi nghe: Tình giữ hai món báu, tâm dè dặt bốn biết, mới gọi là sự nhã nhặn của người thông suốt, là khí tiết cao của người liêm sĩ. Hoặc tán mất dòng họ, hoặc bỏ núi sông. Huống chi đạo nhiệm mầu thanh tịnh, trái với thế tục làm Sa-môn mà lại buông lung cầu sự vô nhàm, tham lợi hữu vi. Khuyên người thế tục thì khiến họ không giữ tí não, nói về bố thí thì không nhường một phân một hào. Hoặc trải qua sự giàu có, hoặc từng là thượng khách. Không dùng tâm rỗng không mà tiếp đãi. Trước trình bày bội số của tài năng, đây chính là đồng bệnh của trí thức. Trong biển cùng biết, do đó không phải tự liêm chánh. Đây là điều tệ thứ tư. Tôi nói thẳng tuy đắng nhưng có thể làm thuốc. Chỉ có tiên sinh là người cao kiến xem xét để trình bày cho rõ ràng. Tiên sinh đáp: Tôi bất tài sao gọi là đạo ư?

Ông chỉ ưa lý do đồng kia mà đâu biết lý do khác. Luống muốn phá hủy nhưng không tổn hại Kim cang. Đạo của ta rộng lớn sâu xa đâu thể xem thường ư? Ta nghe muôn căn cơ gồm nơi đây, do đó Thánh hoàng xưng là Đại. Trăm sông nạp nơi đây, do đó sông lớn gọi là sâu. Vua thì không hổ thẹn với dân, biển thì không nghịch với sông nhỏ. Huống chi thầy của ta là bậc Đại đạo rộng lớn không đâu chẳng cứu giúp. Có tâm từ bi nhiếp hóa tất cả không phân biệt kẻ oán người thân, từ phẩm giới đức lớn nhỏ, dòng họ lộn xộn cao thấp, vì thế có trừ người thấp kém, có liên quan đến vị vô sinh. Ứng thư quý sĩ, đọa ngục vô gián. Nội bí khó phân, tướng ngoài làm sao biết được. Vì sao ông tự chuyên làm cái cân, trong khi ta chưa từng làm gương soi. Nếu chỉ dùng tướng mạo để đoán người thì có lỗi lớn. Bèn khiến cho Thúc Hướng tin phục lời nói của Cô miệt, Trưởng giả ngộ lời nói của Sa-di. Vả lại, cùng thông hữu vận phủ thái vô hằng, hoặc trước vinh sau nhục, hoặc đầu suy sau thịnh, khác với dấu vết bánh xe luân chuyển, có thể nói tóm lược. Còn như dùi đứng không có đất, chẳng phải kính mến đức của Nghiêu Thuấn. Mầm mống khác không nối nấm, há truyền Thánh cho vua Thang vua Võ. Đâu biết rằng thôn tính sáu nước, kia trước thích người mến ngựa. Ước pháp ba chương, thì chỉ vong mạng lý tưởng. Phàn Quán phát khởi từ nghề buôn bán, giết mổ. Y Lữ xuất thân từ nghề đầu bếp, câu cá. Nhiều đời tiếp tục noi theo cao môn. Bèn dùng bốn biển, gượng lập năm lăng. Quý thị mũ miện, Lăng vân phong lưu, vì đời như mặt trời ban mai, sương buổi sáng còn đọng lại, khó giữ người hèn. Ban đêm cỏ đội sương, lẫn lộn khó phân. Đây là biết dụng và không dụng, Hổ Chuộc sao thường. Tìm ngọn xét gốc, tổng quát nhân luận. Sao bỗng xem thường xe cộ, miệt thị vò hũ. Tuy là tài Phương Chu Đán cũng đâu đáng thấy. Thử nghiệm nói đó. Triều chợ hư phiền, thân tâm không tệ. Người trước đồng bỏ, bậc hiền đều chê. Chỉ biết hoài bão đây đang nhập. Do đó tránh đất mà quy lại. Ta thì nhàm chán khổ tương lai mà biết điều quấy quá khứ. Ông thì đam mê sự ham muốn quá khứ mà mờ mịt điều phải hiện tại. Đâu tự mình an nghèo vui đạo, ít hèn nhát mà nhiều tài năng. Đâu dùng sự hy sinh của Thái Miếu, phanh nhạn của Thu Tử. Nay ta tự sống với phẩm chất trong sạch, mặc niệm không lẫn lộn, không nhờ vào sự dẫn dắt của nhân nghĩa, há loạn tưởng nơi phồn hoa, cho nên cũng sót lại tự quên ăn ngủ. Há giữ ít tài lạnh nóng, chút khéo léo âm nghĩa. Tu tâm để báo đức sao hạn cuộc nghi định tĩnh. Mở mang giáo hóa để dắt dẫn há dừng việc cúi ngước, đó gọi là điều thù thắng thứ nhất của ta.

Chỗ nhan rỗi yên vui của Thầy ta không phải chỉ có xóm làng. Khinh vi căng nạp đâu chỉ có châu báu, anh lạc. Do đây do thân trụ năm núi, thần dạo ba lối. Hoặc thọ đồng sĩ, hoặc ăn lúa ngựa khen ngợi tiểu thí của tịnh tâm, chê bai bỏ nhiều của tạp tướng. Ngỏ hầu mượn điều này mà lập căn lành, do đây mà nêu bày lòng tin chân thật. Đây là tu đại lễ, cúng dường hằng thức, há chỗ muốn dùng của thân Phật. Chính là đạt chí của Hàm sinh. Chỉ do phàm tục khó ngộ, kiêu căng ganh ghét chưa dứt. Tranh hiến danh báu, lợi thâu nhiều phước, do đó dùng mâm ngọc chùa cao. Che mặt trời nửa ngày, tú giác chẳng mờ, mây trôi dừng lại, tranh giành danh tiếng cao thượng. Điều lành vẫn còn, trước tướng quả thức, cho đến lúc nào.

Tuy trái với lý chí chân nhưng đủ cảm được niềm vui vinh hoa. Chúng sinh chỉ có việc này làm công, Như Lai vì sao ức thuyết, đây là điều thù thắng thứ hai của ta.

Ta nghe bàn về của báu vô giá, mong muốn cứu giúp người nghèo. Khen thần hương không chết, chỉ muốn càng mau. Nhưng chúng sinh tin theo thuốc độc tà vạy, bỏ cam lồ Chánh giác. Do thuốc độc đã thấm sâu, mê muội từ lâu, vì thế Thầy ta ra đời, vốn muốn cứu giúp chúng sinh làm công đức, biết chúng ta trông mong không nỡ làm thinh, khiến chúng sinh biết chỗ chân thật để hồi hướng, sao tự giữ phải quấy. Hai Đức Phật không cùng xuất hiện ở đời, hai mặt trời không ở chung trên trời. Quyết hiệu vô đẳng giá hoằng chí giáo. Chẳng phải Quân tử tiểu thánh thờ phong cách của khiêm nhường. Đã đến chỗ chí lý đồng quy theo tình dị thuyết.

Kinh này gọi là tối thắng, đều phải nên nghe, đây là chỗ thù thắng thứ ba của ta.

Ta nghe không vượt qua lợi của bốn dân, chẳng đến vàng của trăm tông. Nhưng đại hoạn chưa quên, còn đợi tu dưỡng. Ta gọi là khất sĩ thì thọ đó để biết đủ. Ông gọi là thí chủ thì nghiêng đổ để cho quốc thành. Tại sao trách rằng ta tham lam. Chẳng phải không tự mình lường được sự xan tham của chính mình mà nên nghiệm đầy đủ để biết. Phân tài đều được, riêng mình quản bảo.

Ta nghe Thiên vương xuất cấp vũ khí, còn không do kẻ hạ thần, huống chi thầy ta phước vật lấy cho, đâu riêng trách nhiệm phàm tăng. Xưa tuy chúng mà đến, nay riêng vì Tam bảo mà dùng. Vì đạo cúng dường, nghĩa trái với làm phước. Đã là của thường trụ mười phương, không nói rằng nghĩ riêng cho mình. Tự dùng thì pháp luật không cho, xin chúng thì không lý do hòa hợp (hòa tăng). Ông đức gì mà tiêu được, ta tình gì mà dám chiếm lấy lợi riêng. Chỉ sợ cùng lỗi của ta, đâu muốn tham lợi dưỡng ư? Một hạt cơm nặng bảy cân, rớt xuống nước thì thành nước sôi, rơi vào lửa thì thành tro than. Ăn một bát, thí cho người thì các loài no đủ. Phật còn không bỏn xẻn với con chó bị đói, đâu có tham tiếc với con chim bị đói.

Đây là biết thường dùng vốn để cho dư thừa, lại đem bố thí để được lợi ích. Thật vì chúng sinh ít phước chứ không phải thầy của ta có tâm nhỏ hẹp. Còn loài ngạ quỉ không thấy dòng nước, người bệnh không biết mùi bị ngon. Do tội phước nên ngạ quỉ và người bệnh thấy thiếu đâu phải nước và mùi vị không có? Trộm nghe công thần thờ chủ lúa thóc lụa là không thứ lớp mà thưởng công. Minh chủ trách thân, trời xanh không nói mà hiện đức. Ông không thể tự căm ghét, không có cảm tình, chuyên chê bai Thầy ta không có nhân ái. Còn Trịnh hầu khuynh sản đối với việc giao du, Điền cư bố tâm đối với tân khách. Luống phân chia tiếng tăm thế lực của kẻ hào đảng, đâu nghĩ phước điền mà khen ngợi. Đây là điều thù thắng thứ tư của ta.

Ta tuy nói không đủ mà lý có dư. Ông phải kinh sợ chỗ chưa nghe hoặc chưa thấy. Đối với những lời nói của ta đây ông hãy ngộ (hiểu)?

Công Tử đáp: Tiên sinh tuy nói từ trên trời nhưng cuối cùng đồng như giữ gốc cây. Chỗ nói về báo ứng sao mà xa xôi, nhỏ mọn. Tôi nghe khai mở hỗn nguyên; phân tích sự thanh tịnh và ô trược. Phong tục tốt xấu bẩm thọ khác nhau, kẻ ngu bậc Thánh phái riêng dòng khác. Còn đầu chân vuông tròn, vây cánh bay lội. Mạng sống ngắn ngủi, thân danh vẻ vang hay ô nhục, đâu chẳng phải tạo hóa tự nhiên, há là do nghiệp đời trước có thể làm ư? Trộm thấy cảnh hành không thiếu. Yểu thân thế mà bị tai họa. Ngông cuồng vô lễ, cuối cùng trọn đời hưởng phước, hoặc bị đọa, nếu nhân quả như thế làm sao mà nghiệm biết. Vả lại hơi thở còn thì sống, hơi thở hết thì chết, thân tâm trên quy dưới trầm, muôn việc lớn nhỏ trong một trăm năm mà thôi, chỗ nào là Thiên cung, ai là địa ngục. Chỗ tin của kẻ ngu, lời nói của người trí, tiên sinh còn chấp vào phong cách, xin suy xét lại.

Tiên sinh nói: Công Tử nói về kẻ sĩ ư? Thấy gì là ngu hèn. Chỗ bàn không vượt hơn một trăm đời, chỗ từng trải không ra khỏi tám cõi xa xôi. Đâu thể hiểu được thời kỳ cuối cùng của quả báo, xét kỹ cội gốc của nhân duyên, không thể hạn cuộc nơi sáu thức của phàm phu, mờ mịt ở ba minh của bậc Thánh. Ta nghe gieo trồng trăm thứ ngũ cốc, chẳng phải chỉ có công của nước và đất. Thợ gốm đúc tượng bốn sinh đâu chỉ có năng lực của âm dương.

Đã có gốc nơi chủng loại, cũng không lìa tập khởi. Trộm thấy hoặc thể hợp chồng vợ con cháu không cần phải mang thai. Hoặc thân chẳng phải cô độc nam nữ không đều. Còn như con đom đóm bay, con ve biến hóa, con ong trong tổ, con kiến từ trứng, chẳng phải sinh ra từ hai tinh (tinh cha huyết mẹ), há mang thai từ hai tạng.

Nếu chỉ bẩm thọ ở trời đất, thì người cũng đâu nương nhờ nơi cha mẹ,. Cần ủy vận từ hiếu quy về đâu, đây là biết nhân từ chỗ sai lầm nên quả mới luân hồi. Chia ra ba thứ quả, đầy dẫy muôn phẩm, hoặc đời nay thọ quả báo mau, hoặc thân đời sau biết mới đến. Lý này tất nhiên cũng nào có sai. Thưởng phạt không quá lạm, Minh pháp của vua, tội phước chẳng khác. Công lớn của nghiệp đạo, chánh trị thì năm hình phạt, bỗng lộc thì thưởng. U đồ thì ba đường tội, người thì được phước trời. Trước mắt có thể cho là gương soi, há lời nói của ông luận bàn luống dối ư? Ông chưa bị nhốt vào nhà tù thì ai tin có quan coi ngó triều đình. Không dạo đến núi Thái Sơn cho rằng: Không có quan coi ngó loài quỷ. Hễ thiện ác chứa nhóm thành tựu thì điều ương lụy hoặc vui vẻ sẽ có, đều có nói đầy đủ trong kinh sách. Đến như Sơ Lặc ứng Dũng Tuyền, cảm Đại Giang Huỳnh Thạch. Dương Công bạch ngọc, Quách Cự huỳnh vàng. Thông Tiêu là ngựa của Bào Tuyên, Châu Hàng là hạt của Khoái Tham. Viên Cập Tuyên Vương chết do Đỗ Bá. Tương Công sợ Bành Sinh. Chứng cớ Bạch Khởi cam chịu chết. Nghiệm Lý Huỳnh không Vương hầu. Lăng Hàn tai ương thì truyền lại đời sau, Quách Ân bị họa thì dứt thân, đây rất là rõ ràng, ai nói tối tăm. Tuy có tri vô tri sáu kinh không nói, nhưng tế thần cúng quỷ ba đời vội truyền. Ắt vậy thì chết là lặng lẽ, đâu cầu tồn tại lòng nhân. Không bỏ tiểu giáo của Nho, Mặc, mất đại lý của u minh. Ông tiếc lương tài mà quá ngu si phải sớm quy y sám hối lời nói chân thật của ta.

Công Tử nói: Tuy Tiên sinh biện luận cao xa nhưng vẫn còn chỗ che giấu. Tôi nghe trời sinh lũ dân cương nhu đều có cả. Do đó biến hóa hình khí, hàm dưỡng khí linh. Hôn nhân là phép tắc từ xưa, giá thú là lễ bao đời. Tội ứng không thiếu với con cháu đạo cũng không ngại với thê thiếp. Khiến cho Thiện Tuệ bán hoa, Diệu Quang thí châu. Chúng hương sáu vạn còn gọi Pháp sư, Tỳ-gia hai ngàn còn gọi Đại sĩ. Đâu chỉ Khoáng Tư, Cừu Ngẫu che tình tánh này. Kháng Long có hối hận, kia muốn như vậy. Phẩm vật do đâu sinh, Phật chủng do ai nắm. Đây là điều che giấu thứ nhất của tiên sinh.

Tôi nghe loài thú dữ là nghiệp của người nóng nảy hung bạo, trùng độc gồm tánh của người tổn thương vật. Do đó, khí hậu thuận thì mùa thu đi săn, trừ độc thì mầm mộng mùa hạ, là lẽ thường của thiên đạo có tội gì mà sợ. Còn như các loài vật như trâu, heo, muông, nai, chim nhạn đã chuẩn bị, vận mạng thuộc về tay của người đầu bếp, thân hủy diệt do bụng của người khách. Vốn là chỗ sinh của trời, chẳng phải do đây dùng. Nhưng chim tàn (già) tự chết, nghe được chút ít bên trong. Vì sao thiếu dưỡng hình mạng, luống làm bùn đất. Đây là điều che giấu thứ hai của tiên sinh.

Tôi nghe trên trời có ngôi sao kỳ, dưới đất có nhiều suối. Rượu đó vì vật, kia đến còn lâu. Tiêu sầu vừa tánh, riêng có ích ư? Do đó, bảy bậc hiền ở Kê Nguyên. Hưng Tình đối với lượng của thăng thạch. Huân Hoa hai Thánh, thạnh đức đối với việc uống chung một bình. Quản thì nhờ đây mà bàn về lẽ nhiệm mầu; Vu thì do đây mà quyết đoán địa ngục nghe các bậc tiên triết, chưa hề không dự tiệc rượu, chỉ cần tự giữ lễ cần gì ngăn trở các việc ô trược hay thanh tịnh. Đây là điều che giấu thứ ba của tiên sinh.

Tôi nghe tám điều khuôn phép giúp cho lương thực của dân chúng dồi dào, năm vị giúp cho thân đạo phẩm. Lưu thông con đường hít thở và ăn uống này. Dám vì sinh loại mà vu khống chẳng có lý do. Tự mình có thể ăn no, dụng tâm không bỏ phế đạo nghiệp, cần gì phải giữ trai giới, nhọc sức có thiếu đối với việc siêng tu. Đây là điều che lấp thứ tư của tiên sinh. Nếu Tiên sinh sửa đổi những điều này, tôi cũng kính mến.

Tiên sinh đáp: Ta nghe ngang bướng khó giáo hóa vốn là ông mà thôi. Đây là điều che lấp của ông ư? Tự mình không biết điều tệ kia là chỗ thông suốt của ta. Ông đâu biết chỗ thông kia? Do đây mà thấy, chưa thể nói đạo với ông. Trộm cho rằng: Lời nói của kẻ ngu hèn không khiêm tốn còn tránh người thân, kẻ tà hạnh không có lòng nhân còn hổ thẹn với người thông suốt. Nhưng người nam kia thì vừa rời tả lót, ham muốn có đôi nên lấy vợ. Người nữ thì mới lìa vú mẹ, oán giận phòng không mà cảm tình. Nếu ham vui nhỏ, công hành thế lễ, chứa nhóm sinh thường hồn nhiên ai lạ. Đây thật là không biết hổ thẹn, bắt chước loài chim cun cút, chim khách. Đem việc chế hôn của loài nhỏ bé dám chê sự đôn hậu nhã nhặn của bậc cao thượng. Vả lại chữ hôn là tối tăm mờ mịt. Sự nương mờ mịt mà thành. Sáng chẳng phải khuôn phép của sự hiện rõ. Tha thứ là nguy hiểm của người ngu hèn. Riêng có thao (cách) mở cầm thú dưới cây liễu, có thể bạo ngược hoang dâm. Thuật Bành Tổ nằm một mình có thể dưỡng hòa tánh. Đây là truyền bá sách hay, khen ngợi văn khéo. Huống chi giáo pháp của Thầy ta, mở mang kinh điển tinh hạnh. Há lại thuận với tà giáo kia, giúp cho lưới tham dục, toan nêu ra bên ngoài của sáu tầng trời, còn không dắt được vợ con. Đã vượt ngoài cõi trời tứ không, đâu thể dìu được vợ con. Tuy có hai quả tại gia, buộc nghiệp thông hứa. Nhất sàng cư sĩ tinh vòng khó lẫn lộn.

Nhưng phẩm vật sinh tự có duyên gá, đâu cần phải đợi sự tương phối của ta mới con nối dòng. Đối với Thầy ta riêng không nghe đồng nhất hóa sinh, sĩ vô nữ nghiệp, đều che lấp bốn đại, pháp hỷ giúp thân. Đây là điều chung thứ nhất.

Ta nghe sinh tử đến đi đồng như con sâu bò, ẩn hiển trên dưới không khác tuần hoàn. Chỗ chuyển nghiệp người và súc vật làm sao chuyển. Đây là do bọn vệ Cơ Thục Đế, hàng Ngưu Ai, Bá Kỳ. Cáo là mỹ nữ, Ly là thư sinh, khó thể suy nghĩ, đâu dễ rõ ràng. Trì giới không sợ quỷ, rồng, chứa đức không sợ ong trùng. Dọa nạt Bồ câu rơi thân, hổ dữ vượt sông. Ta làm lành thì quả báo được minh châu, người làm ác thì quả báo chịu hơi độc. Suy xét để dứt sinh tử. Đâu cầm thú chỉ hại vật ư? Tuy loài bay hoặc đi hình thể khác nhau nhưng sự tiếc thân mạng đâu có khác. Luân hồi từ vô thỉ, ai chẳng phải là người thân của ta. Suy mình là thí dụ lại nỡ nào! Há có thể giết loài máu thịt có sự sống lấp đầy cơ da vô dụng. Còn như chết mà quy về đất thì vật và ta đều như vậy. Do đó, Huỳnh không ăn Ba Ba, Khổng còn đây giấm. Huống chi ta trắc ẩn lòng nhân từ, ai nỡ ngon miệng nơi thân béo mập tươi ngon. Năm giới tạm khai, nhưng tòng lâm hằng chế, đây là điều chung thứ hai của ta.

Ta nghe khi xưa ao rượu trâu uống, tuy Bách lục số cùng, cũng loạn quốc khởi lên, ba mươi lỗi hẳn có lý do. Chỉ khiến cho thân say rượu, đây có thể nghiệm biết. Đời sau u ám làm sao lại thôi. Còn như tổn (lớp bịt đồng tròn như đầu dùi ở cán mác) của Văn Cử chẳng trống không. Nhắm mắt như Huyền Thạch khó ngộ. Bởi chỉ cuồng khách đam mê rượu, đâu có nói đến Đạo ư? Hễ khiến càng rượu thì lỗi càng nhiều, ít dự yến tiệc thì tội giảm bớt. Nói uống rượu mà không có lỗi thì chưa có. Giới hạnh tinh nghiêm của các bậc Hiền, bởi do đây, dầu không liên quan đến mạng sống của sinh vật cũng không nên đụng đến rượu, đây là điều chung thứ ba của ta.

Ta nghe giới tự cấm tâm, trai giới đều là ý chí, có thể gọi là việc làm đầu tiên để vào đạo, là pháp căn bản để dạy chúng sinh. Nhưng chi phần lập thì thân làm sao biết. Nếu buông lung tham muốn, thì khó được đầy đủ. Do đó hạn chế hai thời, đầy đủ bốn đại. Biết con bọ ngựa theo sau, thấy con chó sói ở trước, lúc nguy ách đến, tình đói khát bèn hoãn. Tự vui đạo thù thắng mà no béo, sao lại than thở thức ăn thiếu thốn mà mỏi mệt. Đế Vương cúng tế tông miếu, Phu Tử thỉnh Bá Dương còn phải không dùng món ăn mặn trong sạch trai giới. Huống chi ta muốn quên thân để học đạo, đâu còn lưu tâm đến việc ăn ngon ư? Chỗ giải thích của ta, mong ông suy nghĩ mà theo.

Bấy giờ, Công Tử đầu lạy sát chân, toàn thân đổ mồ hôi, hồn bay, mật nát, năm sắc vô chủ, đã như thấy Hổ, lại tợ như gặp Rồng, hoảng sợ như cuồng, không biết đối đáp. Thấy vậy Tiên sinh xoa đầu nói: Ta thương xót muôn loài, vì sao ông lại sợ? Công Tử nghe vậy mới thấy an tâm, khóc lóc nói rằng: Tôi vốn sinh khổ thấp hèn, không nghe tên bậc Đại giác, bẩm tánh lơ là, lại nối gót kiến chấp tà giáo, không gặp được tiên sinh thì sẽ gặp biết bao nhiêu tai họa. Gặp cuối đời mạt pháp tinh nghĩa nhập thần, kính mong bậc Đại giác tha cho lỗi trước, xin được cạo tóc xuất gia, thọ nghiệp với môn đồ của Tiên sinh. Tiên sinh nói rằng: Ông đã ngộ được điều mê biết trở về điều thiện?

QUYỂN 5

BÀI TỰA

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 1)

Hoặc của thế tục đại khái có hai:

Một: Nghi Phật là huyễn ngụy, dắt dẫn tâm người. Hai: Nghi nhân quả đắm chìm, giữ gìn thân thế.

Phật là bậc Đại giác soi chiếu cùng tột căn cơ, xét rõ nhiều phương của tánh dục, luyện huyền đạo thuốc để trị bệnh. Vì thế, có thể thị hiện kim thân, cao một trượng sáu; ánh sáng chiếu khắp, đuốc tuệ soi suốt, thông khắp cõi Đại thiên mà mở mang giáo hóa. Khiến cho người lãnh thọ chánh đạo, chứng được trần sa. Bên trong hàng phục được sự ràng buộc của mười món kiết sử, bên ngoài trừ sạch sự tệ hại của tám thứ ma. Vì thế, có thể đi trên lửa nước mà không ngại. Nhiếp hết Rồng quỷ mà tinh thần vui vẻ. Ba món minh sáu món thần thông, thấu suốt diệu thuật linh khâm. Bốn thứ biện tài, tám món giải thoát, biến hóa con đường rộng lớn cứu giúp muôn vật. Đạo kia rõ ràng chênh lệch khó trình bày đủ. Còn như Lý Tẩu xưng đạo, vừa mở rộng hai thiên. Danh vị sử thần của nhà Chu, môn học quan lại của nhà Chu. Sinh ở làng Lệ, chết ở làng Quỷ. Trang Sinh có thể làm Thật Lục Tần ẩn dật, thật không phải vọng bàn, mà Sử Thiên khen ngợi nói rằng: Tây độn lưu sa. Hán cảnh kính tin, mới khai mở đạo học Đông hạ. Sau đó tông phái dần dần mở rộng thêm. Cuối cùng trí tuệ ở Thần Châu, bặt trí giữ sự yếu mềm. Hoàn toàn chưa nghe nơi hoàn hải. Người thế tục ngu si tin tô điểm cho sự dối trá, khen ngợi cho là chân thật, bèn soạn kinh Lão Tử Hóa Hồ v.v... So sánh bốn quả, mười địa, kiếp số, luân hồi của Phật pháp. Kết đất làm người, Quán Âm thị Lão. Huỳnh Thơ độ mạng, Xích Chương yểm chúc. Đây là nói vội vàng không đáng khen ngợi. Muốn vượt hơn Đức Phật mà nói khoác Tăng Ni, muốn mạnh hơn thế tục mà làm bậc tôn cực. Người hiểu biết cao xa tự dứt sinh thường, kẻ học ít mê mờ đồng chìm đắm. Vả lại, hai thiên đạo đức, Quyên Tử đã nói, Bá Dương vì y mà truyền, đây là kể lại mà không phải làm ra. Còn như bốn quả trở xuống, hoàn toàn chẳng phải đạo lưu. Đây chính là do môn nhân hậu học mở rộng con đường rộng lớn. Nói liền dẫn loại trở lại lụy ở bổn tông. Vì thế trong bộ Thần Tiên Truyện chép: Không nói Đạo sĩ vọng truyền, Lão Tử đời đời làm Quốc sư, ấy là quá lạm. Cát Hồng có thể gọi là người sinh tri, ngàn năm một lần gặp. Các kẻ ngu hèn xe ngựa đi trước. Kinh Phật không nêu trong Lý Đam, sách đạo Lão phần nhiều có liên quan đến lời dạy bảo của đạo Phật. "Nhân lưu mộ thượng" là lời ngạn ngữ xưa, "Ác cư hạ đồ" là hành sự (việc làm) của thế tục nay. Do đó, tùy có tướng trạng đều nghĩ bàn, là bổn khí của đạo. Không có hình tượng để vẽ, nay thì nghi kim thân Đức Phật. Nêu riêng thiên đàng địa ngục. Liền đúc tượng thực hành năm giới, mười điều lành không hề có dấu vết khác. Cuối cùng, tài dụng kém cỏi không thể tự lập tông khoa.

Trộm kinh cắp nghĩa nương đó mà xưng đạo, còn như Dương Hùng Thái Huyền siêu nhiên cư dị, Bảo Phác nói đạo chẳng ai bằng khai quyền. Ân tuệ của Trang ban bố có thể làm danh tác. Nam Hoa gần núi cũng đủ mạng gia. Đâu như nguyên mật của Thượng hoàng, lấy hiệu của Hán Triệt. Sinh giải phẫu ở nách bên trái, dùng nghi so sánh của bậc Năng nhân. Đây là con đường ư? Đủ như ở sau sẽ nói rõ.

Lại thế tục nghi ngờ nghiệp ba đời. Bấy giờ, khinh quả báo trong bốn đường. Người chết ở đây sinh, sinh cũng không biết đến chỗ nào, do đây trầm luân, ra khỏi cảnh vô duyên. Nếu không gồm nêu việc vượt quá mê mờ, cột chặt hiềm nghi thì làm sao tóm lược đó.

Lại tựa rằng: Nếu giải được nghi ngờ kia, còn ở bậc Bác kiến nghĩa cử, truyền văn thầm ghi, tin thì khó nói đơn sơ. Vì thế, bốn tịnh bất hoại, vị đầu tiên nhập lưu. Một nhóm chánh định mới xứng hợp cõi chánh. Còn lại thì ban đầu nhiễm sợi lông nhẹ, tùy gió thổi không thoái chuyển, cây sơn tuy mài không mỏng nhưng đây do bỏ hoặc được chánh, khai căn cơ ngộ đạt. Vững thân an đạo, quyết căn cứ đức của Kê Minh. Từ khi Phật pháp truyền bá đến Chấn Đán, tin hủy xen nhau. Phần nhiều do ức đoạn tâm sư thống quyết, việc ba đời tất nhiên như vậy, bèn cho là ngụ ngôn. Sáu đường hình chiêu ảnh, nói là luống dối. Phàm do luân hồi sinh tử, theo nghiệp mà trở lại. Theo niệm niệm mà trả thân, nên kiếp kiếp truyền thức. Do đó, những vị tài giỏi soạn luận phương sinh. Quế Hạ hác triết, xưng quỷ kia không thần. Có thể gọi là thời gian dài có hết mà bởi sinh không cùng. Vũ phụ đã hóa Huỳnh Hùng. Hán Vương biến thành Thương

Thái. Bành Sinh đọa làm con heo, việc này hiển rõ trong việc Trang Công vào Tề Hầu. Nguyên Bá tòng quân danh cao Hán sử. Đây là đồ chúng ư.

Khó đủ thư thân. Bọn vô thức vọng sinh suy thác, liền nói ba hậu do trời là phép tắc cao của sự dẫn dụ, bày cúng quỷ hương là mưu kế của sự hiếu đạo. Đây là mưu mô của con người, vượt hơn hành sự bình thường, hại kinh loạn tục không đáng nói. Như lời bàn lệ thuộc du hồn, nêu bày công việc ở đời trước. Chiêu Mục có tự Tôn Tổ trọng thân. Cẩn thận lúc lâm chung, nhớ cha mẹ xa, do lại đồng ngưỡng, tiễn sương hưng cảm nêu sự rộng lớn, đâu bỏ mất chỗ sinh, chuyên còn các đời. Luận "Hoành Trần Vô Quỹ", thuật "Tự Hứa Có Thân", tập trước đã nói nay lại nói rõ. Cần phải so sánh danh lý, nghiên cứu kinh luận, quyển bộ năm ngàn hoặc xem xét mục lục kinh. Nghĩa thông tám tạng diệu thức tông quy. Nếu hiểu rộng việc này sẽ dứt bặt nghi ngờ. Thầm cho rằng sáu nhân bốn duyên, tùy theo thiện ác mà thành nghiệp. Bốn loài sinh, sáu đường vời lấy quả báo nổi chìm. Đạo này thản nhiên không học thì không rõ. Đâu thể tin ức đoán (đoán chừng) của phàm phu mà bác bỏ lời dạy rõ ràng của bậc Đại thánh ư? Huống chi nêu thuyền nhân từ sáu độ, tâm lớn cứu giúp nơi biển khổ. Chia giai cấp (thứ lớp) bốn để, dẫn dắt núi tà của kẻ tiểu trí. Dùng ba món học vô lậu để gồm nhiếp hai thừa, bốn lần chuyển pháp luân để bẻ dẹp tám nạn. Đại khái như vậy, không có lý do nghi ngờ mà được. Lại dùng chùa tháp cao sang lộng lẫy lãng phí tài của. Tăng đồ cúng thí, lạm dụng nơi phước điền. Rõ ràng quá phạm, thế tục chê bai, nhiễm ô Phật pháp hoặc bị mất đi. Vì thế, hai quan Võ Chu, Ngụy sinh ở U Bộ, hai quân Xích Liên con cháu dòng rợ. Quê hương không phải là chỗ nhân nghĩa, tánh dứt tâm soi xét, chuyên sát hại thật không đáng sợ hãi. Nay nêu chung thời đại xếp theo thứ lớp đó. Ngõ hầu dứt hết những điều nghi ngờ mê lầm mà chứng ngộ, kính ghi lời tựa Hoằng Minh Tập-đời Lương Mục lục Thiên Biện Hoặc Mâu

Dung biện hoặc

- Luận Vong danh chánh vu.

Luận Tông bính nạn hà thừa thiên bạch hắc.

- Luận Hà thừa thiên đạt tánh luận nhan Diên chi nạn. Thích đạo hằng thích bác.

- Luận Trương dung môn luật chu Ngung nạn Thích huyền quang biện hoặc.

- Luận Lưu Hiệp diệt hoặc.

- Luận Lý Lâm nạn bất hiện Phật hình.

- Luận Tiêu Tử Lương thích nghi hoặc thư. Quảng Hoằng Minh Tập-đời Lương Tổng mục thiên biện hoặc.

- Đời Ngụy, luận biện đạo của Trần Tư Vương.

- Đời Tấn, luận Thánh hiền cùng phép tắc, Lão Đam không phải là Đại hiền của Tông Thạnh.

- Đời Tấn, Tông Thạnh nêu đạo trở lại hỏi, Lão Tử nghi hỏi.

- Đời Nam Tề, Chẩm Hưu Văn luận đồng bậc Thánh và lời giải nạn, nêu lời giải thích vua quan nghi ngờ.

- Đời Nguyên Ngụy, Thái Võ ban chiếu chỉ bãi bỏ Phật pháp.

- Đời Chu, Cao Tổ nhóm Tăng luận về phế lập.

- Đời Chu, Sa-môn Thích Đạo An nói về hai giáo.

- Đời Chu, luận Tiếu đạo của Chân Loan.

- Đời Chu, Cao Tổ ban chiếu chỉ bỏ hai giáo.

- Đời Chu, Võ Bình Tề nhóm Tăng luận về phế lập.

- Đời Tiền Chu, luận Kháng đế của Sa-môn Nhậm Đạo Lâm.

- Đời Chu, Biểu Thỉnh Hưng Pháp của Sa-môn Vương Minh Quảng.

- Đời Đường, Truyền Dịch dâng lời biểu phế bỏ Phật pháp.

- Đời Đường, Lý Trọng Hương luận mười dị chín mê.

- Đời Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm luận về phá tà.

- Đời Đường, Sa-môn Thích Minh Khái trình bày việc lập Phật pháp.

- Đời Đường, Lý Sư Chánh luận về nội đức.

- Đời Tấn, luận Tài An giải thích nghi và Diêu chủ giải thích nghi.

- Đời Đường, Sa-môn Thích Tuệ Tịnh luận phá trừ nghi.

- Phần thứ nhất của Thiên Biện hoặc thứ hai trong Quảng Hoằng Minh Tập.

- Luận Biện Đạo-Đời Ngụy, quan Trần Tư Vương tên Tào Thực Tử soạn.

- Luận Thánh hiền đồng phép tắc, Lão Đam không phải Đại thánh. Đời Tấn, Bí Thư Giám tên Tông Thạnh an quốc. Lão Tử nghi ngờ, trở lại hỏi của Tông Thạnh đời Tấn.

- Luận đồng bậc Thánh, đời Tề, Thường Thị Chẩm Ước.

****

Luận Biện Đạo-Đời Ngụy, Tào Thực soạn.

Sách của Thần tiên, lời nói của Đạo gia (đạo Lão) nói rằng: Theo truyền thuyết trên là sao Thàn vĩ, sao Mộc tinh giáng xuống là Đông Phương Sóc. Vương An ở Hoài Nam bị giết ở Hoài Nam mà cho là được đạo khinh cử. Câu bị bắn chết ở Vân Dương mà cho là quan tài trên hư không. Những trường hợp này rất luống dối. Ở Trung Hưng, người dốc chí soạn luận, Hoàn Quân Sơn, soạn sách rất hay. Lưu Tử Tuấn thường hỏi người rằng: Thật có thể đứng trước sự tham muốn mà nhắm mắt bịt tai, có thể không suy tàn ư?

Lúc đó, trong sân có một cây Du đã già, Quân Sơn chỉ nói rằng: Cây này vô tình, ham muốn có thể nhẫn được, không có tai để bịt không có mắt để nhắm, nhưng vẫn khô héo hư mục. Tử Tuấn bèn nói: Nếu không khô héo hư mục thì không bàn.

Cư Sơn vịn vào cây Du để ví dụ là chưa đúng. Vì sao? Vì tôi trước đây làm điển nhạc cho vua, Đại phu nhạc ký rằng: Văn Đế được Ngụy Văn hầu nhạc nhân Đậu Công. Năm một trăm lẻ tám tuổi, hai mắt bị mù. Vua hỏi làm sao mà thi hành.

Đáp: Năm Thần lên mười ba tuổi đã không nhìn thấy ánh sáng. Cha mẹ thương sợ không làm được việc gì bèn dạy cho Thần nghề khảy đàn, thần không thể dẫn dắt không biết thọ được bao nhiêu.

Quân Sơn luận rằng: Đã bị mù từ nhỏ, chuyên nhất bên trong thấy tinh tế, không có sự trợ giúp bên ngoài. Trước là nạn Tử Tuấn do bên trong thấy không có lợi ích. Sau luận Đậu Công cho là không xem xét. Tôi chưa thấy định luận kia.

Quân Sơn lại nói: Phương Sĩ có Đổng Trọng Quân, nhốt trong ngục, giả vờ chết. Vài ngày từ trùng mà ra. Chết rồi lại sống, sau đó chết lại sống, cuối cùng cũng chết. Quân tử hiểu rõ thí dụ kia như thế nào ư?

Chí thần không hơn trời đất, không thể khiến cho loài sâu bọ mùa hạ thì ẩn núp sợ sấm sét, mùa Đông thì xuất hiện. Khí biến thì vật động, khí thay đổi thì sự ứng. Trọng Quân kia có thể ẩn khí kia, chết thân kia, rách da kia, xuất hiện loài trùng kia, không phải là điều quá lạ?

Đời có Phương Sĩ, Ngô Vương đều mời đến. Cam Lăng có Cam Thỉ. Lưu Giang có Tả Từ. Dương Thành có Huy Kiêm. Ban đầu có thể hành khí dẫn dắt. Thuật của Từ Hiểu Phòng Trung, Kiệm Thiện quần cốc, đều nói là ba trăm tuổi chết. Do đó, tập trung ở nước Ngụy, thật sợ cho đồ đệ của người này. Tiếp nhận kẻ gian, dối trá coi thường mọi người làm việc yêu ma để mê hoặc người. Vì thế tụ tập lại để cấm.

Cam Thỉ già nhưng dung sắc còn trẻ. Từ thuật sĩ khác đều quy đến. Song lời nói của Thỉ rất nhiều mà ít thật, lại có những lời quái lạ.

Nếu gặp Tần Thỉ Hoàng, Hán Võ Đế thì lại thong thả, thị biến học trò lớn. Vua Kiệt, vua Trụ khác đời mà đều ác. Người gian khác đời mà cùng dối trá.

Lại ở đời luống dối có thuyết vị Tiên. Tiên nhân ấy là thuộc loài vượn, cùng người đời đắc đạo, hóa thành vị Tiên? Con chim Sẻ xuống biển thành con Sò. Con chim Trĩ xuống biển thành con Sò. Kia đang bồi hồi, cánh kia nhầm ao. Cánh kia còn tự biết. Bỗng nhiên rơi xuống, thần hóa thân biến, lại cùng đàn với loài Ba ba. Há lại tự biết bay lượn nơi rừng rậm, bờ thành cho là vui ư? Nhìn lại thấy Thất phu chán nản nạp lời luống dối tin lời huyễn hoặc. Trọng lễ để kêu gọi Thần, kính việc sinh sản để cung cấp hư cầu. Buông bỏ ngôi vua để vẻ vang, tìm chỗ nhàn rỗi để ở. Trải qua nhiều năm không có công hiệu gì. Hoặc chôn vùi dưới gò đất, hoặc chết ở Ngũ Tạc. Đến lúc giết thân kia, diệt dòng tộc kia, rõ ràng đủ làm trò cười cho thiên hạ. Song tuổi thọ dài ngắn, thân thể mạnh yếu, đều tùy mỗi người. Khéo dưỡng thì sống trọn đời, nhọc nhằn lo âu thì nửa đời người, hư dụng ấy thì chết yểu. Kia gọi như thế ư?

Thực tự là Tử Đạt, là con thứ tư của Võ Đế đời Ngụy. Lúc đầu phong chức Đông Á Quận Vương, sau làm chức Trần Tử Vương. Thuở nhỏ ngậm ngọc Khuê, mười tuổi có thể thuộc văn, hạ bút liền thành. Lúc đầu không có chỗ sửa đổi được, thuật nghệ của thế gian đều khéo léo. Thuần ở Hàm Đan (Hàm Đan Thuần) thấy vậy lấy làm lạ, kính phục gọi là Thiên nhân.

Mỗi khi Thực đọc kinh Phật thì quyến luyến khen ngợi cho là tông cùng tột của Chí đạo. Bèn chế chuyển tụng bảy âm thanh có âm hưởng thăng trầm khúc chiết. Vì thế, đời gọi là phúng tụng, hoặc gọi là Hiến Chương. Thường dạo chơi ở Ngư Sơn, nghe trên hư không Phạm Thiên khen ngợi, sinh tâm kính mến mà truyền đời sau. Đủ thấy trong bộ "Pháp Uyển Tập" song gồm nhiếp nguồn đạo, nghiên cứu Tiên lục, rất là dối trá, vì thế soạn luận để nói rõ.

****

-Luận Thánh hiền đồng phép tắc, Lão Đam không phải là đại hiền, đời Tấn, Tông Thạnh soạn. Được an nhàn trong chốc lát, lại trình bày chỗ vịnh. Tôn kính sự nhiệm mầu của bậc tiên triết, xét linh thuật của bậc đại hiền. Xem rõ phong lưu, nghiên cứu hành chỉ. Phân biệt cao thấp gần như lờ mờ. Đại Thánh nương thời nên thành tích ở sở nhân. Đại Hiền kém hơn nên cùng Đại Thánh phương tiện có thay đổi sở nhân không đồng. Vì thế, có nhường nhịn và đấu tranh thành tích trái nhau. Kém hơn nói là á. Vì thế phép tắc hành tạng chẳng khác. Cũng có Rồng Hổ theo phong vân, hình tướng hợp ảnh hưởng, lý vốn tự nhiên không phải kêu gọi đến. Đây cho nên ngôi sao ky đồng như điềm báo. Điềm lành nơi mép con Hổ con Tê giác, Nhan khổng đều suy đồi. Ung dung nơi khuông trần. Đời Đường, Nghiêu là vua, Tắc Khiết mong sự giáo hóa kia. Cách mạng của vua Thang vua Võ, Y Lữ khen công lao. Do đây mà nói, dùng luận xả ảnh hưởng, chỉ có ta bàn luận với ông, há không tin ư? Vì sao? Đại Thánh hầu như quán (nhìn) tượng biết khí. Quán tượng biết khí dự trước lành dữ. Đây là vận hình đồng ngự trị nhân ứng, đối tiếp các phương cuối cùng bảo vệ nguyên kiết, thông suốt vướng mắc chỉ là một.

Nhưng kính trọng Thánh ưa đổi, có tiếp đãi thì hưởng thụ. Khâm minh mà không thể minh, vui vắng lặng mà không thể vắng lặng. Do đây có hơn kém mà thôi. Đến bậc Hiền thứ ba, cách xa bậc Thánh. Vì thế đạo minh thể chưa hết, tự nhiên vận dụng, tự không được đồng nhiệm mầu. Nhưng trông mong còn thắng, cao tưởng liền đủ. Kính mến thuần phong, chuyên vịnh chí hư. Vì thế, có người ở một mình nơi rừng núi hiểm trở, hoặc nói và thực hành chống cự dây cương ngựa như bọn người của Lão Bành. Cũng chẳng phải cố nhiên lý tự nhiên. Hễ thân xao động thì ưa tịnh tính nhu thì thích cương. Quấy nhiễu chỗ thường tập, tham chỗ ít nghe, đây là lẽ thường của thế tục. Đây là do thấy từ của riêng chống cự, lại không tìm sự ưa thích nhân ứng, thấy luận giả dối, lại không ngộ được lỗi quá thẳng. Xét việc làm của Lão Tử giống với Thánh giáo. Thí dụ này là thay thế ngón chân cái của con Ngựa biên, có nguy có Thánh giáo. Là xa cứu đời, trái minh đạo hoặc mê muội nghĩa. Sáu kinh sao thường thiếu lời dạy hư tịnh, lời dạy nhún nhường lặng lẽ.

Khổng Tử nói: Thuật mà không làm, tin mà ưa thích. So sánh ta với Lão Đam, nghiên cứu ý chỉ xa. Thì đạo của Lão Bành dùng lồng đậy kín trong Thánh giáo mà thôi. Vả lại, chỉ nói hai sự mà thôi không phải là lời nói thật, làm sao rõ được. Bậc Thánh thanh tịnh sao lại không thích ư? Lại ba Hoàng, năm Đế về sau không ở đâu chẳng chế tác. Vì thế cho nên dịch tượng kinh phần, rõ ràng xán lạn, cột nhà, áo quần cùng thời khởi lên, đâu ở nơi thuật mà không làm ư? Vì thế kinh Dịch nói: Bậc Thánh làm mà muôn việc thấy đây là chứng cớ. Bởi chỉ nói đức của Lão Bành, dường như giống nơi chốn của hình thuật mà thôi. Cũng giống như che giấu oán mà trái với người kia. Tả Khưu hổ thẹn thì Khưu cũng hổ thẹn. Há đối với lời nói của ta chẳng có chỗ nào không nói cùng tột của tướng thể. Vả lại, Nhan Hồi, Khổng Tử không dùng dưỡng làm sự mà Lão, Bành thì dưỡng. Khổng Tử, Nhan Hồi giống như người đây mà Lão, Bành thì khác. Những người này không đâu chẳng phải là dấu vết của Á Thánh. Mà sách kia thường thường mâu thuẫn, nêu sơ như ở dưới. Đại Nhã làm quan may mắn dứt bỏ được điều tệ kia. Lại không đạt được ý chỉ khinh cử của Lão Đam, muốn truyền bá dẫn dắt Nhung Địch, dẫn dắt phong tục khác ư?

Nếu muốn truyền bá dẫn dắt loài khác (phong tục khác) thì mặc áo trái không phải là chỗ huyền hóa, dạo một mình không phải là cử động gia độn. Các họ Hạ, Lăng, Trì mở rộng lời dạy của Tổ Tiên. Giáo pháp của bậc Thánh từ gần đến xa chưa có cách lừa dối tránh hiểm nạn như đây. Nếu sợ tai họa mà tránh đất, thì bậc Thánh có thể ẩn thương triều. Lỗ Bang không có. Nếu được đạo kia thì Du Nhậm có dư. Chạm đất Nguyên kiết đâu tránh tâm trời. Đối với các dân tộc thiểu số như Nhung. Mạch không thể như vậy, không nhiều ẩn nơi triều nhưng đồ đệ của thần tiên ư?

Xưa, Bùi Dật có soạn hai luận: Kính có trọng không. Lúc bấy giờ, người bàn luận hoặc cho là không thông suốt đạo hư thắng; hoặc cho là giả bộ, thời lưu đơn giả. Tôi cho là tôn thượng cái không đã mất, trọng cái có cũng chưa được. Đạo vì vật chỉ hoảng hốt. Nhân ứng vô phương, chỉ thay đổi chỗ thích hợp. Gặp lúc lóng trong thì tư khiết rủ xuống, gặp hóa vạn động thì hình thể bộc phát. Đây là so soi suốt tuy giống nhưng giáo pháp có, không trình bày khác. Thánh giáo tuy một mà tên gọi có khác. Từ đời Đường, Ngu không mong ràng buộc. Vua Thang, vua Võ không định nhường nhau, đâu có khác ư? Chính vì thời vận. Nhưng Bá Dương do chấp đạo xưa để ngăn có ngày nay. Họ Dật muốn chấp có ngày nay để dứt phong tục xưa. Ta lấy hai chữ kia, do không rõ mất đạo viên hóa, thương xót cho một phương kia mà thôi.

Luận Lão Tử nghi hỏi lại Tôn Thạnh, đời Tấn.

Kinh Đạo Lão nói: "Nên thường vô dục để quán diệu kia", "nên thường hữu dục để quán sát điều kia". Hai câu này đồng nêu ra nhưng tên thì khác, cùng gọi là huyền. Huyền lại có huyền các môn diệu kia.

Xưa nói và Vương Bật giải, Diệu là thỉ; kiểu là chung. Phàm quán thỉ yếu chung, thấy diệu biết chấp, là gương của người thông suốt. Đã dùng dục lóng thần sáng diệu thỉ kia, thì từ đây cần phải giữ gìn, đâu cần phải có dục để được chung kia ư? Có dục đều xuất ra diệu môn, đồng gọi là huyền. Nếu như vậy thì trước tại sao riêng quý vô dục?

Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp của cái xấu, đều biết thiện là thiện của điều ác.

Tôn Thạnh cho là: Tên gọi thiện ác, sinh từ sự thật đẹp xấu. Đạo đức thuần tốt thì có danh tốt, ngu dốt không nghe không thấy thì có tiếng xấu. Vì thế kinh Dịch nói rằng: Điều xấu không chứa nhóm không đủ để diệt thân.

Lạc nói: Điều tốt ở trong đó, thông suốt tứ chi mà phát sinh nơi sự nghiệp.

Lại nói: Tốt đẹp hết vẫn chưa hết điều tốt.

Song rất tốt rất thiện, thiên hạ đều biết, đâu được nói rằng đây ác ư? Nếu hư mỹ chẳng phải mỹ thì thiện cũng chẳng phải thiện. Được mỹ quá mỹ được thiện trái thiện. Nếu đây đều là chỗ bệnh của thế giáo thì Thánh vương răn dè thiên hạ cũng tự biết. Đây là lời bàn.

Không tôn trọng người hiền, khiến cho người dân không đấu tranh, không quý hóa khó được khiến người không trộm cắp. Thường khiến cho người dân không biết thì không ham muốn, người biết thì không làm.

Lại nói: Người tuyệt học không lo, Duy và A cách nhau bao xa? Thiện và ác cách nhau thế nào?

Chương sau nói rằng: Người thiện, người không thiện là thầy. Người không thiện, người thiện là trò. Không quý thầy kia, không thương trò kia. Tuy trí quá mê, Tôn Thạnh cho là do dân không ham muốn, cũng tại sao sơ sư đối với sư? Thầy và trò không học, vì sao không thiện cái thiện của Thầy vì sao không tôn trọng hiền. Tôn trọng, thương mến đã còn thì thiện ác chẳng được không chướng. Không cách nhau vì sao gọi đó.

Lại chương sau nói: Giáo pháp của người ta cũng đem dạy cho người. Ta nói rất dễ biết mà thiên hạ đều có thể biết.

Lại nói: Ta sẽ cho là cha dạy vốn ở lời này, chưa là tuyệt học. Cái gọi là tuyệt ấy là sự học của Nghiêu, Khổng ư? Sự học của Nghiêu và Khổng Tử tùy thời lập giáo. Lời nói của Lão Tử một kia chỗ tôn trọng tùy thời lập giáo, do đó đạo thông trăm đời. Một kia đã tôn trọng, chẳng được không dính mắc nơi thích biến. Đây lại là ám tệ, chỗ chưa thể thông.

Nói rỗng không mà dụng lại không đầy đủ. Hòa quang kia, đồng trần kia. Tôn Thạnh cho là Lão Đam có thể gọi là tri đạo, không phải là thể đạo. Xưa Đào Đường tới thiên hạ. Không có ngày hiểu ư? Tắc duy chiêu nhập chúng sư tích thất phu, cho nên thầm trao thiền, há chẳng phải rỗng không mà dùng ánh sáng đồng trần kia ư? Bá Dương thì không phải như vậy. Đã ở vị trược lại xa lánh Tây Nhung (các giống Rợ ở phương Tây). Hành chỉ thì điên cuồng dấu vết kia. Viết sách thì dối trá lời nói kia. Hòa ánh sáng với cát bụi đồng trần vốn như vậy ư? Tôi vốn cho là biết đạo, thể đạo thì chưa.

Kinh Đạo Lão nói: Ba là không thể gạn hỏi. Hồn nhiên là một. Thằng hề không thể gọi. Lại trở về chỗ vô vật. Tượng vô vật gọi là hoảng hốt.

Chương sau nói: Đạo ấy là vật. Chỉ có hoảng và hốt. Hoảng ư! Hốt ư! Trong đó có tượng. Hoảng ư! Hốt ư! Trong đó có vật. Hai chương này hoặc nói không vật, hoặc nói có vật. Trước có chỗ không thích nghi.

Chấp đạo xưa để ngăn có ngày nay. Chương sau nói chắp tay là thất, làm đó là bại, lại nói rằng: Chấp đạo xưa để ngăn có ngày nay; hoặc chấp hoặc không, được không rơi vào luận mâu thuẫn?

Tuyệt Thánh, bỏ tri, lợi dân gấp trăm lần.

Tôn Thạnh nói rằng: Nếu có nhân tránh ắt có đức nhân Thánh, thành tích này mà không tôn sùng thì Đào Huấn làm sao dung. Nhân nghĩa không tôn trọng thì đạo hiếu từ táng mất. Lão Tử nói là dứt Thánh, mà mỗi chương liền xưng bậc Thánh. Đã xưng bậc Thánh thì dấu vết thành tích đâu được dứt. Nếu muốn dứt thì dứt dấu vết của Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng. Vậy thì chỗ xưng tánh ấy, là dấu vết của bậc Thánh nào ư? Như lời nói kia thì bậc Thánh có nên diệt dấu vết kia, có nên xưng dấu vết kia chăng? Xưng và diệt khác nhau, ta theo ai? Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ.

Nếu bàn như vậy, Nhân nghĩa không dứt thì không hiếu không từ.

Lại nói: Ở thiện địa cùng thiện nhân, không xem xét cùng nhân của thiện nhân, đây là ở trước chỗ nói là muốn dứt ấy là sai ư? Như thế là đúng, như thế thì không nên gọi là thuật, như kia là sai. Thì chưa rõ nghĩa của hai nhân. Một nhân nếu bặt một nhân nói lên. Đây lại là chỗ chưa đạt. Nếu cho rằng Thánh không Thánh, bậc không bậc thì giáo pháp đã trách phạt không nên tuyên bố.

Đến như Trang Chu nói rằng: Bậc Thánh không giết, không trộm, không chỉ.

Lại nói: Điền Thường trộm nhân nghĩa để Tề quốc, trời đất hun đúc thiện ác gồm nuôi dưỡng, đều bẩm thọ lý tự nhiên không quan hệ nhau. Chim Ái, chim Châm phun chất độc không nhờ học nơi chim Loan chim Phụng. Chó sói, Hổ hại người không mượn thuật ở Kỳ lân. Đây đều là thân chất tự nhiên, không cần cật bên ngoài. Tại sao riêng kẻ hung ác phải nhờ lòng nhân nghĩa để giúp kẻ gian kia ư? Như Xương Đốn giết cha. Trịnh Bá cướp, há lại trước nhờ hiếu đạo hại được kia ư? Mà Trang Lý phê phán sát căn, hủy bỏ chánh huấn, sao khác với giặc trộm mà hun đúc vũ khí, thấy thức ăn bị nghẹn mà bỏ ngũ cốc ngon ư?

Người sau bàn đó, tuy sai lệch nghĩa kia, phân biệt giải thích, đâu không gian truân đối sát thánh, khốn khổ đối với vong thân.

Người biết ta ít thì ta quý. Chương trước nói rằng: Bậc Thánh ở thiên hạ. Trăm họ đều chú ý tai mắt kia. Thầy và tư cách, quý trọng và thương mến phải nêu bày muôn vật. Như vậy thì người biết đâu được ít ư? Người biết ít thì cần gì phải quý trọng ư? Tức thân của mình thấy quý, cửu phục nào được. Trái sự thật kháng cự nói rằng: Quý trọng, do biết ít ư? Đây là vì muốn đè nén hành động, giữ gìn phong tục, nên phát lời nói này mà thôi. Thánh giáo thì không như vậy, trung hòa lời kia dùng lý dạy dỗ dẫn dắt, vì thế nói rằng ở nhà sẽ nghe, ở nước sẽ nghe, nghe đây sẽ phải hiểu. Chẳng thấy thiện mà không buồn bực. Ẩn đức của Rồng, người chẳng biết mà không ấm ức, Đạo của quân tử, các điều tốt phải xét lại, các điều xấu phải xét lại. Đã không do biết nhiều mà hiển, cũng không do biết ít mà quí. Dạy bảo dẫn dắt có đủ trong lý tự nhiên. Sao đồng ngày với lời nói của Lão Đam, mà nói là hơn kém kia ư?

Lễ ấy: là sự non kém của lòng trung tín nhưng là đầu tiên của loạn. Tiền thức là hoa của đạo nhưng khởi đầu của sự ngu si. Đây là do đại trượng phu ở chỗ sâu sắc, không ở chỗ kém cỏi kia. Ở chỗ thật, không ở chỗ xa hoa.

Tông Thạnh nói rằng: Lão Đam biết đủ lệ nhạc của bậc Thánh, chẳng phải dụng cụ huyền thắng. Không được tự mình chế tác, vì sao bỏ đó ư? Cho nên trừ bỏ lễ học đễ hoàn toàn tín nhiệm kia. Luận tự nhiên, há không biết Thục mạt, không còn được phản đạo tự nhiên. Thẳng muốn nêu hoài bão của mình, nhưng không khỏi tình cảm đối với chỗ vui, chẳng phải là chú tâm cứu vật. Chẳng những không cứu mà chính là khuyến khích tệ kia. Có người nói: Sở dĩ Trang Lão cố nói ra lời này bởi cùng với Thánh giáo làm trong ngoài đối với đào vật minh huấn, kia quy về một.

Tôn Thạnh cho rằng: Không đúng, đạo của bậc Thánh rộng lớn đầy đủ. Dụ như mặt trời mặt trăng treo trên trời, có vật gì mà chẳng chiếu ư? Lời nói của Lão Tử đều lẫn lộn trong sáu kinh. Đâu đợi có chỗ sai lầm, giúp đỡ Đam, Chu ư? Tức Trang Chu cho rằng: Mặt trời mặt trăng phát ra ánh sáng ra mà đuốc lửa không dứt ở đây. Còn như lời nói dối trá, lừa lọc, kinh lạ còn dính mắc nơi một phương mà hành xưng không phải là ỷ từ của kinh. Vương Hầu được một cho là thiên hạ trinh. Trinh là chánh.

Chương sau nói rằng: Ai biết chỗ cùng tột kia, chỗ không chánh kia. Đã nói rằng: Người thiện không thiện là thầy của người, mà lại nói rằng yêu quái.

Thiện của thiên hạ là một. Chánh đạo của thiên hạ là một. Mà nói chánh lại là nương vào đây mà phản kẻ quê mùa dốt nát chỗ thấy chưa thể thông suốt.

Thạnh tự là An Quốc. Đời Tấn, làm quan đến chức Cấp Sự Trung Bí Thư Giám. Lúc nhỏ, dạo đến phần sách, dùng sử sách làm hoài bảo. Vì thế nói rằng: Thánh hiền cao xa được các ngôn biểu. Mà nhân ái tự ngã đào nhiễm thứ vật. Công phu dần dần thấm vào, đâu hơn kinh sử. Soạn bộ Tống Dương Xuân Thu ba mươi quyển, bình phẩm về bậc Trung hiền của Lão Tử. Vì thế, biết là do Doãn thuật sách, chính là tổ truyền thừa có y cứ.

Kê Tử nói rằng: Lão Tử theo Quyên Tử học thuật Cửu Tiên, nghiên cứu dẫn dắt, lời nói này có y cứ với bậc Thánh, nên chẳng nói là học. Nên nói rằng: Người sinh tri là Thượng, người học tri là thứ, vua đâu có ngôi vị rộng lớn. Vì thế Ban, Cố thứ lớp lệ như cửu đẳng. Khổng, Khưu đồng là Thượng thượng; đều là loại Thánh. Lý Đam đồng là Trung thượng; đều là loại hiền. Thánh có Chí thánh và Á thánh. Hiền có Đại hiền và Trung hiền. Đều do thần cơ có lợi độn, nên trí dụng có tiệm có đốn.

Tôn Thạnh nêu Lão Tử không phải là bậc Đại hiền, thủ sự an nhàn không thể gồm cứu giúp thiên hạ. Ngồi xem Chu suy kém ở Tây Duệ. Đi đến Tần Nhượng, chết ở Phù Phong, an táng ở làng Hòe. Chẳng tin là tiên lánh ở trên trời ư?

**** Luận Đồng bậc thánh. Đời Tề, Thẩm Ước soạn. Từ thiên địa quyền dư, dân sinh bắt đầu. Vì sao tinh vi cao xa không được nói? Không được nói, vì có tượng để nói. Còn như khoảng hư không rộng lớn của Thái hư, mênh mông từ vô thỉ, há chỉ nói tượng không dòm ngó ư? Bởi tâm lự sự bặt, đến trời đất nhỏ bé trong nhà kia. Biển lớn trong lỗ chân lông, ở đây chẳng cần thí dụ nhưng từ khi có trời đất đến nay, dụ như một niệm. Chỗ lâu xa của ta không quá Hiên Hi, mà trời đất ở trong Thái hư kia cũng như Hiên Hi ở trong trời đất, chỉ cho Hách Tư là xa, sao vụn vặt kia hạn cuộc trong một niệm ư, thế gian có Phật không biết bắt đầu vào lúc nào. Trước Phật sau Phật, đạo kia chẳng khác. Pháp thân vắng lặng đều do cảm ứng. Cảm đã vời thì vượt quá cõi Đại thiên chỉ trong gang tấc. Duyên nếu chưa ứng tuy theo sát gót chân cũng không thấy. Phía Nam cõi Ta-bà gọi là Diêm-phù. Thông Lãnh ở Tây, kinh đô gần sát. Duyên vận chưa khai, tự cho lý cách, do đâu mà nói. Nhà Hạ, nhà Ân về trước thư truyện còn ít. Nhà Chu thọ mạng kinh điển còn đủ. Tượng nương Địch tùy phương thọ chức. Trùng dịch nhập cống tổng quát chỗ quan trọng, mà tám giống Mán ở phương Nam, năm giống Địch ở phương Bắc đâu không ngu si. Văn tự không biết, huấn nghĩa không thông. Hoặc dâng nạp Vương Phủ, đăng lạc Thanh Triều. Tây quốc gần sát, quyết lộ không xa, tuy diệp thư hành tự, Hoa, Phạm khác nhau. Nghĩa sâu xa, lý nhiệm mầu do đâu có ra. Đường, Ngu ba đời chưa có khi nào không dung. Sự riêng giới hạn ở phương Tây, đạo chưa truyền sang phương Đông. Há chẳng phải khư khư cho rằng Trung Quốc duyên ứng chưa khởi. Cầu hội quy kia, nghiên cứu chỉ yếu kia há đồng ngày với Tây Di mà nói ư? Chẳng phải là Cơ Công để lại, bởi do pháp này nên ẩn lấp. Đời Viêm Hạo chưa có lửa, chưa có gạo, ăn thịt cả da. Việc của Nhân trắc khơi dậy hoài bão. Không thịt không da, khi qua đời chết đứng. Tuy bậc Đại thánh ân cần suy nghĩ cứu giúp cho khỏi, nhưng thân mạng này giúp lý khó đốn đoạt. Thật nên dẫn dắt để dần dần khai mở nguồn kia. Vì thế đốt đuốc hóa lửa, biến thịt sống thành thịt chín. Sống chín đã biến, bởi mầm móng tốt của Phật giáo. Vì sao? Vì biến thịt sống thành chín, việc kia dần dần khó, chứa điều dần dần khó này có thể thành. Đến thần nông rủ xuống kéo lên, ngũ cốc bắt đầu gieo, dân dùng gạo ăn. Bụng đói trống không, chẳng có thịt để no, thì toàn mạng giảm bớt giết hại, đối với sự càng nhiều. Từ đây về sau lòng thương xót bảo hộ ngày càng rộng, đi săn mùa xuân khỏi bào thai kia, mầm móng mùa hạ thủ hại cốc kia. Lễ đi săn mùa thu, lệ đi săn mùa đông đã hại thật nhiều. Nạn mau qua, đầy đủ thuyết trước, tông điều của hai vị thánh Chu và Khổng tương đối rộng. Thấy kia sống không nỡ giết. Nghe tiếng kêu không nỡ ăn thịt. Cây cỏ chặt đốn có lúc. Trứng không được vọng phạm. Đánh cá không được hết ao, làm ruộng không được thả lửa đốt đồng. Câu cá không dùng lưới, dao, nỏ đánh bắt ban đêm. Ăn thịt, mặc áo tơ tằm đều phải người già. Trâu, dê, chó, heo vô cớ không được giết. Đây là giới có năm điều. Lại khai một kia. Còn say sưa trong rượu, dâm mê nơi sắc, dối trá với người, buông lung tự mình, những điều này ngoại điển cũng cấm không đợi gì giáo pháp của Đạo Phật. Bốn ấy là phạm người. Con người đứng đầu trong hàm linh. Một là hại loài thú. Thú là cuối cùng của sinh phẩm. Thượng thánh khai tông phải có thứ lớp. Cũng do giới của Đức Phật giết người là nghiệp nặng nhất. Nội thánh, ngoại thánh nghĩa đồng lý nhất. Nhưng bọn mờ lý không biết ngoại giáo, cho rằng nấu dê, làm heo lý vốn tự nhiên. Hoặc nói: Như trong sách của đạo Phật đều có nghiệp của duyên báo, vậy thì Võ, Thang, Văn, Võ đều bị cắt mổ. Chu Công, Khổng Tử đều bị vào vạc dầu sôi. Đây vì sao nói về kiến đạo, dốc chí như thế ư? Thử nghiên cứu chứng cớ này, có thể có chỗ ngộ.

Luận rằng: Phật trước, Phật sau đạo kia chẳng khác, nhà Chu thọ mạng, tượng nương Địch đề tùy nơi thọ chức. Tây Quốc gần gũi, quyết lộ không xa. Đường Ngu ba đời chưa có không dung. Sự riêng giới hạn phương Tây, đạo chưa truyền đến phương Đông. Chẳng phải Cơ Công để lại. Bởi đạo này nên đổi. Đốt đuốc hóa lửa biến sống thành chín. Bởi mầm móng tốt của Phật giáo.

Tông điều của hai vị Thánh Chu và Khổng tương đối nhiều. Thấy kia sống không nỡ giết, nghe tiếng kêu không nỡ ăn thịt. Cây cỏ chặt đốt có lúc. Trứng không được vọng phạm. Lại giới có năm điều. Bốn là phạm người. Người đứng đầu trong hàm linh. Một là hại thú, thú là cuối cùng trong sinh phẩm. Nội Thánh ngoại Thánh nghĩa đồng một lý.

Hỏi rằng: Khảo xét kinh Phật thì một Đức Phật xuất hiện trải qua nhiều kiếp, chưa xét kỹ Phật trước Phật sau cách nhau bao nhiêu. Hiện đời Đức Thích-ca gần với Trang Vương. Đường, Ngu, Hạ, Ân chưa hẳn đã có. Chu Công không nói, sợ do chưa ra đời, không liên quan đến việc nên ẩn. Dục vương xây tháp, bắt đầu đời kính vương. Diêm-phù có bốn thì Đông quốc không cho đều ít. Phu tử tự dùng Hoa lễ khởi giáo đâu phải nói pháp của mọi rợ. Vì thế than rằng: Nước mất lễ, cầu ở bốn dòng mọi rợ, cũng bởi do ý riêng. Vả lại, nhạc của bốn dòng mọi rợ, xuất xứ từ địa phương của Yêu Hoang, nương bốn dòng mọi rợ. Cũng gần sát ranh giới của Nguy Vũ. Dấu vết của vua Võ đã đến không bì kịp với nguồn sông. Việt thường bạch trĩ thượng xưng trùng dịch. Thì Thiên Trúc, Kế Tân đã lâu đâu có khác với Thượng quốc. Nhà Chu về sau hoặc có nghe. Vì thế Trâu Tử cho là Xích Huyện trong vũ trụ, là một trong chín châu mà thôi. Ban đầu Trường An có chùa nhưng kinh tượng mờ mịt. Trương Khiên tướng mạng Đại Hạ; Cam Anh xa khuất phục An Tức. Còn không thể tuyên tịch phong giáo mở mang pháp này, quyết kia phát điềm vua nằm mộng, bèn dần dần hưng điển. Đây thì dường như thời đến có, thông có ngại, chẳng liên quan đến vận mệnh có khởi có phục. Như phải do duyên ứng có hội, thì chúng sinh thật thà khi xưa sao lại có tội, chúng sinh khe khắt ngày nay sao lại được may mắn. Dù cho pháp kia vốn là để cứu giúp, tội không hơn nơi giết hại. Khi ăn thịt, ai giết ư? Mà lửa ở các phương khởi dậy chánh giáo. Đối lòng đại bi, thần lực không bị trở ngại. Nếu lương thực, lúa mạ chưa gieo trồng thì việc giết hại khó dứt, chẳng biết chư Phật quá khứ dùng pháp gì để giáo hóa, mầm móng của pháp này khởi vào thời Đức Phật nào. Gồm bốn giới phạm người, là quả báo nhẹ. Một giết hại loài thú thọ đối càng nặng. Đầu nhẹ sâu nặng cũng chưa rõ suốt. Nếu lập đạo của con người nói là nhân và nghĩa. Châu, Khổng nói rằng: "Nghe tiếng kêu không ăn, đốc chặt có lúc." Đây là bởi muốn làm sáng tỏ đạo nhân nghĩa. Đối với chim thú, cây cỏ còn nói như vậy, huống chi đối với người mà bạo ngược được. Chẳng phải cho là bên trong cẩn thận, ý ở duyên báo. Thấy tích hoặc tợ, luận tình đốn trái. Không xét kỹ hai vị Thánh nội và ngoại, việc kia có thể cho là bằng nhau hay không. Trong đây tham khảo khó dùng để đốn ngộ. Cẩn thận đề phòng bàn bạc. Xin khai mở dụ ở các tế. Bắt bẻ rằng: Hiện Đức Thích-ca xuất hiện ở đời gần với Trang Vương, Đường, Ngu, Hạ, Ân chưa hẳn đã có. Chu Công không nói sợ vì chưa xuất hiện ra đời, không liên quan đến việc nêu ẩn. Dục Vương xây tháp, đầu đời Kỉnh Vương Diêm-phù có bốn, thì Đông quốc chẳng cho đều là không.

Đáp rằng: Đức Thích-ca xuất hiện ở đời, năm tháng chẳng thể biết được. Kinh Phật đã không có nên lịch ghi chú, pháp này lại chưa truyền đến phương Đông, làm sao biết được thời của Chu, Trang. Chẳng qua do sách Xuân Thu nói tháng tư ngày Tân mão năm thứ bảy Lỗ, Trang sinh ra đời, hành tinh không thấy làm y cứ. Ba niên đại đã không giống nhau, không rõ nước ngoài dùng lịch pháp gì, do đâu mà biết Lỗ, Trang sinh vào tháng tư, đây là tháng tư của nước ngoài ư? Nếu ngoại quốc dùng lịch nhà Chu làm chánh thì tháng 4 ngày Tân mão suy ra là ngày mồng 5 không phải là ngày mồng 8. Nếu dùng lịch nhà Ân làm chánh thì tháng 4 của nhà Chu là tháng 3 của nhà Ân. Dùng lịch của nhà Hạ làm chánh thì tháng 4 nhà Chu là tháng 2 nhà Hạ đều không giống mồng 8 tháng 4 của đạo Phật. Nếu lấy tháng 4 của nhà Lỗ làm chứng cớ thì ngày tháng không đều chẳng thể nhất định. Nếu không lấy đây làm chứng thì tháng không có chứng cớ để nghiên cứu. Vả lại, Đức Thích-ca khi mới đản sinh, trên hư không sáng rực chẳng phải là tinh tú không hiện. Điềm lành xã hội, lại có mặt trời, mặt trăng, ngôi sao dừng lại không vận hành. Lại nói: Khi sao mai xuất hiện, Ngài bước xuống đất đi bảy bước. Ban đầu nói không có ngôi sao không hiện ý hằng trái với sách Xuân Thu nói hành tinh không hiện. Vua Dục Vương xây tháp là đời Kỉnh Vương. Cõi Diêm-phù có bốn, đạo này đã truyền bá đến phương Đông. Từ Kỉnh Vương về trước đối với sáu nước, ghi chú rất nhiều không có đại khái. Dục Vương xây tháp chẳng phải là thời Kỉnh Vương, lại rất rõ ràng. Tình Công Đán đâu được chưa có (Đông quốc đâu được chưa có).

Bắt bẻ rằng: Phu Tử tự dùng hoa lễ lập giáo, vì sao nói pháp của dòng mọi rợ, vì thế than rằng: Trung Quốc mất lễ, cầu của bốn dòng mọi rợ, cũng có ý riêng.

Đáp: Mở mang giáo pháp theo thứ lớp, luận trước đã rõ. Ở đây không bàn lại.

Bắt bẻ rằng: Nhạc của bốn dòng mọi rợ chép ra từ địa phương của Yêu Hoang, nương các giống mọi rợ, cũng gần sát sinh giới của Nguy Vũ. Dấu vết của vua Vũ đã đến không kịp nguồn sông. Việt thường bạch trĩ còn gọi trùng dịch, thì Thiên Trúc, Kế Tân từ lâu cùng Thượng quốc đâu có dứt. Nhà Chu về sau hoặc có nghe. Vì thế Trâu Tử cho là Xích Huyện ở trong vũ trụ, chỉ là một trong chín Châu mà thôi.

Ban đầu Trường An có chùa nhưng kinh tượng mờ mịt. Trương Khiên tuy tướng mạng Đại Hạ. Cam Anh xa khuất phục An Tức, còn không thể tuyên dịch phong giáo, quyết báo mộng cho vua, bèn gọi là hưng hiển. Đây là thời tợ thời có thông có ngại. Không liên quan đến vận mệnh có khởi có phục.

Đáp: Vốn do Tây Vức đường gần mà đại pháp (Phật pháp) không truyền đến. Đây là do duyên ứng chưa phát, không thể cho là đường kia xa. Đường kia đã gần mà pháp đây thường không truyền đến phương Đông, nếu không phải duyên ứng chưa đến, vì sao đến đây.

Về sau, phương Đông được truyền đến đều do duyên ứng, phát thông ngại, đều có thời kia, luận trước đã có ghi.

Bắt bẻ rằng: Nếu cho rằng duyên ứng có hội, như vậy thì xưa chúng sinh thật thà vì sao lại có tội, còn chúng sinh khe khắt vì sao được may mắn, dù cho pháp này để cứu giúp kẻ khe khắt, nhưng không quá đối với việc giết hại, khi ăn thịt ai giết. Phương hầu lửa cháy bỏ làm giáo minh. Đối đại bi thần lực không hề trở ngại. Nếu lương thực, lúa gạo chưa gieo trồng thì việc giết hại khó dứt. Chưa xét chư Phật quá khứ dùng pháp gì để giáo hóa. Mầm móng của giáo pháp này phát khởi vào thời Đức Phật nào. Và bốn giới phạm nhân thì quả báo nhẹ. Một giết hại thú vật thọ tội lại nặng, trước nhẹ sau nặng cũng chưa rõ suốt. Nếu lập đạo người thì đó là nhân và nghĩa. Chu, Khổng nói rằng: Nghe tiếng kêu không nỡ giết, chặt đốn có lúc, đây là muốn nêu rõ đạo nhân nghĩa. Đối với chim chú còn nói như vậy, huống chi đối với con người mà có thể bạo ngược như vậy. Chẳng phải cho là thận trọng bên trong, ý ở duyên báo. Thấy tích hoặc tợ, luận tình đốn trái. Không xét kỹ hai vị Thánh nội và ngoại, việc kia có thể cho là bằng nhau hay không. Trong đây không đồng đều, khó dùng để đốn ngộ gần đủ là trước tiên, xin khai mở đầy đủ các tệ hại.

Đáp: Dâng lên thịt này mà lửa chưa khởi liền khiến cho không có thịt thì lời dạy đâu được thực hành. Luận trước đã nói đầy đủ, ở đây không giải thích lại.

Chúng sinh duyên quả đã gặp đều có thời gian.

Xưa Phật giáo chưa truyền đến đây là do lúc nghiệp ác quá mạnh. Về sau được nghe pháp là lúc nghiệp thiện bắt đầu khởi. Thiện ác đều có thời kỳ, đâu có liên quan gì đến chúng sinh hiền lành hay khe khắt. Năm giới đều có nhẹ nặng. Chẳng phải chỉ có giới sát sinh là nặng, còn bốn giới kia là nhẹ, năm giới tuy khác nhưng xen nhau phát khởi. Giới phạm với người (giết người), người là quan trọng thuộc tội nặng nên nêu trước. Giới phạm với súc sinh, súc sinh tội nhẹ nên nêu sau. Đạo huấn giới thứ lớp như vậy.

Chu Công, Khổng Tử mở rộng lòng nhân ái, luận trước đã nói, ở đây không nói lại. Nếu cho là giáo pháp của Đạo Phật trái với đạo lý của Tây Vức, thì ngoài sự học của một nhà ở đây ra thì không đạo nào dám nói.

QUYỂN 6

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 2)

Nhiều đời vua quan trệ hoặc giải thượng.

Đời Đường, có Thái sử truyền dịch, bổn tông Lý Lão, nghi kỵ đạo Phật, thầm mưu đồ tiêu diệt.

Đầu niên hiệu Võ Đức, trong bộ Thượng Thư có chép đủ. Đã chẳng phải kinh sách đương thời trong nước liền bỏ đi. Truyền Dịch không thắng được liền tức giận, bèn nêu ra số vua quan xưa nay chê bai Phật pháp gồm hai mươi lăm người. Soạn thứ lớp danh mục thành bộ "Cao Thức Truyện" mười quyển. Sao chép đem bán ở chợ, muốn phô trương rộng điều không tốt kia, lại tăng thêm tội nặng kia.

Còn như Trương Lỗ y cứ vào Hán Trung

Huỳnh Cân trái lại với thiên hạ. Đây đều là học trò của họ Lý phản nghịch, che giấu không nói ra điều xấu, cho rằng hết lòng đối với văn luận. Phàm thánh cao dễ đổ, cây tốt nhành lá sum suê. Chỉ có ta là thanh cao, vì thế dị đạo ganh ghét, không đáng lấy làm lạ cho bọn thấp kém kia. Thật chưa thấy bọn này xấu xa lại thêm nhục nhã. Mắt không bị nhặm thì cần gì phải ngăn ngừa. Vì thế, do kia lập lời tùy thuận khai dụ. Đây thời xưa nay hành sự giải thích phán quyết thiên phần, người chưa thấy rộng cho là mới làm. Xưa Liêu Trần giải lược nêu lên lý do, giúp thần đây khai mở cũng xưng là Cao Thức. Lại Truyền Thị trí thức kém cõi, tài năng nương ở người. Đều trình bày thời gian, sự việc có suy có thạnh. Việc Thái Bán đào hầm chôn sống chúng tăng và đốt hết kinh tượng có thể gọi là không đúng chánh sách. Cần dứt bỏ những điều sưu tầm được. Đây thật là gốc giáo hóa của vua. Vì thế, giới luật của Tăng, khuôn phép của thế tục đời đời thêm rõ ràng. Đây là cấm điều sai quấy, đâu thành hủy bỏ.

Truyền Thị (truyền dịch) thông nhập phế bỏ giới hạn đây là bọn mang lông phải chịu sự lầm than, thật là đáng thương!

Truyền Dịch học sử của Chu Tử, ý muốn trừ bỏ. Tìm tòi mở rộng các đời, nói về pháp pháp, đâu theo sự còn mất, gồm có hai mươi lăm người, đại khái chia làm hai:

Một: Ban đầu tôn kính Phật pháp, sợ có sự dâm uế, vì thế phải sa thải hết mới được trụ trì. Hai: Oán ghét ganh ghét để hiển bày sự nguy thân oán gấp, vì thế phải trừ sạch để đề cao chí khí.-Một nêu Vương Thần trụ trì gồm mười bốn người. Bộ Cao Thức Truyện của truyền Dịch chung riêng bị phế bỏ, nay lựa chọn là những vị cao quý.

1- Tống Thái Tổ

2- Đường Cao Tổ

3- Vương Độ

4- Nhan Diên Chỉ

5- Túc Ma Chi

6- Chu Lãng

7- Ngu Nguyên 8-Trương Phổ Tuệ 9-Lý Tích

10- Vệ Nguyên Tung

11- Cố Hoan

12- Hình Tử Tài

13- Cao Đạo Nhượng 14-Lư Tư Đạo.

Hai là nêu Vương Thần hủy diệt gồm mười một người. Cao Thức Truyện của Truyền Dịch, nêu những vị Cao Thức, nay người tìm xét bèn loại bỏ.

1- Ngụy Thái Võ

2- Chu Cao Tổ 3-Thái Mô

4- Lưu Thư

5- Dương Huyễn Chi

6- Tuân Tế

7- Chương Cừu Tử Đà

8- Lưu Tuệ Lâm

9- Phạm Chẩn

10- Lý Tự

11- Truyền Dịch

Tựa đầu nói sa thải tăng chúng là do cỏ xấu mọc lẫn lộn trong đám lúa tốt. Tệ của vinh hoa bạch thủ, bởi có là do đây. Vì thế, lỗi của nhóm sáu vị Tỳ-kheo xảy ra ở Xá-vệ. Mười điều phạm pháp phát khởi ở thành Tỳ-xá-ly. Do đây bậc Đại thánh lập điều chương, người không học làm sao biết đúng sai. Bèn có bảy tẩn để lượng tội nhỏ kia, bốn pháp để trừ tội lớn. Mở rộng giềng mối để chỉ bày ba ngàn oai nghi, hiển thật nghi để trình bày tám muôn tế hạnh. Vì thế, chánh pháp tượng pháp đều xưng là hữu đạo, đồng gọi là vô trần (không dơ uế). Từ khi pháp dần dần đến cửa vua, những hình phạt bằng khổ cụ không xảy ra, Tăng chúng có khắp nơi, che giấu lỗi mình, nêu chung để sửa trị bằng dây pháp.

Tùy căn cơ, tùy thời gian khuyên bảo, dụ cầm nắm tự gần. Làm người ai không có lỗi, ban cho lời răn dạy như hạt châu có thấm nhuần, dấu vết xấu đổi tốt, bịt tai che mắt lỗi khó thấy. Do đó, vua Tống, vua Đường đồng các bậc hiền, soi xét sự mờ mịt hay sáng suốt của vật tình, hiểu được sự thuần hậu và kém cỏi của thời tiết nhân duyên. Nêu lên sự phân chia của đạo Phật thì có loạn ở sông Truy sông Thằng. Phê phán được mất của chúng Tăng thì sông Truy, sông Vị khác dòng. Khiển trách kẻ thô bỉ tham lam cạnh tranh, hủy bỏ điều xấu của Tăng, giữ lại đạo đức cao thượng. Coi trọng việc ban ơn để nhiếp hóa mọi người. Còn các đời Hán, Ngụy, Tề, Lương là chánh. Lưới trời lồng lộng thư lậu thôi chu soi xét chánh sự của vua cùng và việc ác nghiệt, do đó mở mang Phật pháp, giúp khắp năm thừa. Gồm hợp thời giáo hóa, chọn lọc kẻ xấu người tốt (kẻ ô trược người thanh tịnh), khiến cho người xấu biết trở về, tự sửa đổi mình ngày càng đổi mới. Người tốt thì nuôi lớn dễ ngộ biết được nhiều phương (nhiều cách) thích hóa. Quần tiểu cho là đổi thiện, vua Nghiêu vua Thuấn há chẳng phải là Thánh chủ mà giáo hóa không bằng Đơn Chu, Hán Tổ đâu thích sự loạn lạc mà trái nghịch điều thanh cao. Khổng Môn, Lý Lộ (học trò Khổng Tử) tuy ít mà sẵn sàng thăng đường. Đệ tử Phật phần nhiều là tà mà được tham dự vào chúng thanh tịnh. Đây là biết quyền đạo có thăng trầm, thần cơ lợi dụng. Hoặc thâu vào hoặc phóng ra. Sự việc nêu ra phải tùy thời.

Bài tựa sau bỏ Tam bảo, nếu bảo vệ thân, giữ mạng nên có việc quý trọng sự sống. Quý trọng tài của, ưa thích ăn ngon là sự trân trọng chung của người đời, vì thế xưng là Đại bảo. Do không bẻ dẹp được sinh tử, phá được núi xanh, đâu có mất nơi già bệnh. Đây là lời dạy của Phật. Vì thế, bốn ngọn núi ép ngặt ngôi vua không thường tồn. Ba tướng thay đổi, cuộc đời có vận mệnh. Đây là Thật Lục. Thế tục có truyền lời Sấm Ký, không rõ do đâu mà có. Có chỗ nói rằng miệng trao, hoặc thuật Phù Đồ. Hư nhiên hiển mật, nêu bày sĩ tục. Thầm cho là năm vận cách y đế giả một người tự, còn lại thì ai ghi chép.

Châu Tổ về trước đã ghét họ Hắc, sao có Hắc nhân nối tiếp Thiên vị. Cho nên Tề Tuyên lo sợ muốn diệt trừ Thiền sư Trù. Thiền sư Trù dùng nhân tình hỏi. Châu Tổ đáp có Hắc nhân sẽ lên Thiên vị.

Thiền sư Trù đáp: "Đây là lời nói đùa. Hắc không qua Tất (sơn), sẽ có thể làm được ư?"

Tề Tuyên Vọng giải giết người em thứ bảy, vì thế đáng chê cười.

Chu Thái tổ ban đầu tin theo lời sấm ở thế tục. Ta tên Hắc Thái, có thể tương đương. Đã vào đến ải đổi thành Hắc đạo. Triều chương dã phục hoặc đều đồng với đó, khiến y của Tăng màu vàng để theo đúng Sấm Vĩ (lời chiêm nghiệm tốt xấu trong lời sấm). Võ Đế hùng lược, đầu không xỉ đó. Trương Tân định bá, Phú thi của Nguyên Tung, trọng đạo Lão nghi đạo Phật sẽ phế lập. Có Thiền sư Thật, là môn đồ của đạo Phật, vua cũng kính trọng, hỏi vận mệnh sau này ai là người sẽ được.

Thiền sư Thật đáp: Đây chẳng phải là chỗ Tăng biết.

Vua nói: Như lời Sấm của truyền: Hắc là người được. Tăng phần nhiều mặc y màu đen, thầm có chỗ nghi.

Thiền sư Thật đáp: Tăng chỉ một thân, ai là người phụ trợ, quyết định chẳng phải Tăng.

Vua nói: Tăng không được, vậy thì Hắc là ai?

Thiền sư Thật đáp: Đại nhân là bậc chí tôn mà tin lời nói đùa đó, ngoại tướng nếu nghe đâu gọi là bậc chí Thánh. Hắc ấy, đại khái có quạ cũng đen, hạt đậu đen cũng đen, như vậy chẳng phải một, có thể cũng được ư?

Vua nghe có họ. Ô họ Đậu. Dù cho hơn cũng vốn là tình bổn. Nghi ý ở lời giải thích của Thiền sư Thật, liền trừ diệt.

Ngụy Thái Võ xưa ở quê hương của giống rợ Nhung (Tố Vô Văn Mặc), tám tuổi lên ngôi, thường tin theo Thôi Hạo, vì thế trung hậu của hai vua, tin theo lời gièm pha và lời sấm, nhục mạ tàn ác đối với Phật pháp tự gánh chịu tai ương. Không bao lâu thì được hưng thạnh. Hưng thạnh là do thời đến, không hẳn do sức người. Vì thế kinh truyền rằng: Phật giáo hóa tuy lâu xa nhưng cũng ở trong thời gian sáu muôn năm trụ trì. Tiểu Thánh Công trong chín ức vô học, không thể tước đoạt được.

Thái Mô sắp về sau thờ các bậc Hiền, đều có tâm oán ghét những vị Tăng nhàn rỗi, nổi giận mà quên thân. Huống chi Phật pháp, viết những tội trạng, văn sâu xa mà treo hình cương. Ngốc tặc do kinh sợ sự thấy nghe. Yêu hồ động Vương Thần, vả lại luật khiến điều chương, chưa giống như mật đặc, lưới trời mênh mông tự có người nhắm mắt. Nói giặc ở đây là giới trộm. Thuật yêu tương đương với giới sát. Thủ Biểu Thạnh gọi là yêu tặc. Chưa biết yêu tặc là ai, có thể cho là sách giấu tên tác giả. Cần phải tra xét hư tích tự hình. Trước sau thờ tuy có mười vị hiền. Tuân Tế một người, có chút tài dụng quan dư liên tả, chưa đủ người nghe. Truyền dịch đời sau tụ thoát. Nói không có điển cứ, tài khí thấp kém.

Gạch ngói gọi là báu. Hiền ngu đúng khinh, nhưng Dịch Tố Bổn không có đạo môn khởi gia, nghèo khổ nương nhờ Tăng khất thực. Không toại nguyện được hoài bảo ôm lòng tức giận, chê ghét bổn chí kia. Đầu niên hiệu Võ Đức, từ phương Tây vào kinh, nương nhờ Đạo sĩ Vương Vị. Vị hướng về tà đạo, đô thành thôn ấp đều biết. Thấy Dịch Tố đói lạnh bèn mời đến ở nhà riêng của mình. Vị là người thông suốt, tiếp đãi như thượng khách. Được vài ba ngày, bèn tư thông với người phụ nữ dẫn vào nhà đùa giỡn, không hề trách người. Vị có người anh là một vị tăng, chùa ở gần nhà Vị, do thường thấy nên Dịch rất tức giận. Vị Tăng này kể chuyện này lại cho Vị nghe. Lúc đầu Vị không tin nói rằng: Truyền Dịch là bần sĩ, ta đến ở nhà, chẳng lẽ không đúng phép tắc hay sao?

Vị Tăng nói: Chú nếu nghi ngờ, hãy một lần đến xem thử, thế là cùng nhau đến nhà, quả đúng như lời của Vị Tăng nói, Vị tức giận bỏ về.

Vị có tỳ nữ là Quả Nghị, cũng thường nói việc đó. Dịch đã thầm tư thông với phụ nữ nhiều không thể tính kể. Như trong bộ: "Đường Sử Đô Đường Lâm Minh Báo" có nói: Thần là người bùn, kia vốn có đúng không? Như có chỗ hiển bày riêng.

Đại nghiệp nhà Tùy được tám năm. Thiên tử ở nước Liêu. Có Vương Văn Đồng, người ở Giao Đông Vương Bảo. Trước đây tranh lợi Thủy Ngại với chúng tăng. Ra sắc lệnh tuần tra hỏi xét binh lính. Bèn giả bộ tập hợp Tăng sĩ, gông cùm khảo xét khiến Tăng sĩ chống cự. Lại cho người dẫn vào ấp cùng bàn luận mưu tính giết hết Tăng đồ ở quận Hà Gian. Giết đạo tục gần một ngàn người. Truyền Phù Đạt ở Bồ Châu là người tàn ác có tiếng khắp trong nước. Bấy giờ, Đậu Khánh làm Thái Thú ở Hà Đông soạn bài trạng tâu lên. Vua rất giận, giết Đậu Khánh ở Hà Gian. Chưa kịp gia hình, thì trăm dân cắt thịt ra ăn sống, bỏ đầy khắp đất. Đây là phản lệ hạ thuật. Tăng cùng phù hợp, do ban đầu tăng chê bai Phật pháp. Hoặc do sự sân hận lúc trước, không suy nghĩ đến việc bị chìm đắm trong nhiều kiếp mà chỉ muốn khoái chí trong một thời. Tiết lộ với vua, thần không liên hệ việc trên không ngôi vị thì không có mưu đồ, đã như lỗi trước. Luống bị búa rìu cuối cùng bị giày vò trong lòng. Vì thế, người viết tùy lời truyền mà trình bày đó, ngõ hầu làm gương soi cho người đời sau.

- Thế Tổ đời Hậu Ngụy.

- Cao Tổ đời Chu.

- Thế Tổ đời Tống.

- Cao Tổ đời Đường.

- Vương Độ đời Triệu.

- Thái Mô đời Tấn.

- Nhan Diên Chi đời Tống.

- Túc Mạc Chi đời Tống.

- Chu Lãng đời Tống.

- Ngu Nguyên đời Tống.

- Trương Phổ Tế đời Ngụy.

- Lý Tích đời Ngụy.

- Lưu Thủ đời Tề.

- Dương Huyễn Chi đời Ngụy.

Hậu Ngụy, Thái Tổ Võ Hoàng đế, đầu tiên lập đạo học (đạo Lão), dựng đạo tràng Lão, phế bỏ đạo Phật.

Vua tên là Thác Bạt, húy là Phục Ly, sau tên là Hy, là dòng giống riêng của người Hồ, thuộc dân tộc thiểu số ở miền Bắc Trung Quốc. Thời loạn của Tây Tấn có Thác Bạt Lư, chiếm cứ phương Bắc. Nhà Tấn phong cho làm Đại vương. Cháu của Lư là Thập Dực Kiện hoặc gọi là Khuê, đóng đô ở Lạc Du Thạnh, chúng có mười vạn người.

Bắc Liên Vân Trung, Tây chiếm cứ Âm Sơn. Phía Nam Vân Trung cách đất Hán bốn ngàn dặm. Đời Đông Tấn, niên hiệu Hiếu Vũ Thái Nguyên năm đầu, từ phía Nam đến Sóc Đông (phía Bắc, Đông) ba trăm dặm. Bình thành đóng đô hơn hai mươi năm. Y theo Trung Hoa xây dựng điện thờ Phật đạo. Ở ngôi được ba mươi bốn năm. Đến Tấn Đế Long An Trung, chúa thứ ba Thác Bạt Hy lên ngôi, khi mới lên tám tuổi, còn nhỏ mà đã tín nhiệm Tư Đồ Thôi Hạo. Hạo không tin Phật, xem trọng tiên thuật của Lý Lão. Trao kinh Đạo Đức cho vua tụng đọc, do đó vua càng kính trọng hơn. Lên ngôi được hai năm, vua mời các phương sĩ (Đạo sĩ) trong nước. Trong đó có Đạo sĩ Khấu Khiêm là người giỏi nhất của Đạo môn (học trò đạo Lão). Tự nói rằng ở Tung Sơn gặp chư Thiên bảo bay xuống đây. Vua tặng Khấu Khiêm hiệu là Thiên sư. Phong hiệu Thái Bình Chân Quân, dựng lập Thiên cung Tịnh Luân, sẽ được Đạo Tiên. Mọi người nghe đó như có thật. Hạo rất tin. Ở Bình Thành giao vua lập đạo tràng, chu vi hai trăm bước, nhiều tầng cao vút và chuẩn bị đầy đủ hậu lễ, đủ như trong "Thích Đạo Chí" đã nói. Sau đổi hiệu là Thái Bình Chân Quân, để kịp với đạo mạng của Khấu Khiêm. Nhân Cái Ngô làm loạn, ở Quan

Trung có Sa-môn, cất chứa cung tên. Thôi Hạo liền đến cùng Ngô-mưu-tính. Bèn giết Sa-môn ở Trường An, đốt phá kinh tượng, khắp nơi cũng như vậy, chỉ để lại đài hạ mà thôi.

Đến niên hiệu, Chân Quân năm thứ bảy, tất cả đều trừ diệt hết. Chôn sống chúng Tăng, phá tượng tự cho là đắc chí. Bị gièm pha rằng đã làm nhơ nhuốc Thái tử. Ác tật ương thôn đến với Thôi Hạo đâu than thở kịp. Không bao lâu bị Yêm Nhân Tông giết, cuối cùng bị bắn chết. Cháu lên nối ngôi, bèn khai mở Phật pháp trong thiên hạ rất hưng thạnh.

Vua thứ sáu là Hiếu Văn, là Văn Tổ, đổi họ là Nguyên, đổi triều đại là Ngụy. Bỏ Hồ phục định quan danh. Y mũ Hoa Hạ, dời đô đến Hà Lạc, Phật pháp rất hưng thịnh. Thế Tổ mạnh về võ lược nhưng yếu về văn nhã. Coi thường việc tự mình suy xét và coi trọng việc tin lời không thật mà Dịch trình bày. Minh hậu nói mạng người thật là dối trá. Tìm xem sự xem xét các triều đại và đạo Phật, đại khái có năm, trước đã nói rõ, nay nói lại lại.

Một: Do nghiệp vận mê mờ, quả báo xen nhau nhiều thêm. Hai: Do giáo chỉ tục ngụy cuối cùng trở về không diệt.

Ba: Do chùa tháp cao sang tráng lệ, xảy ra sự chê bai trách cứ. Bốn: Do Tăng có tạp hạnh, cướp đoạt tài sắc.

Năm: Do trước đây Tăng là người thế tục nên không nhận lễ.

Năm tướng tuy mê hoặc người nhiều, nói theo tạp hạnh thì đây là khúc sĩ không thông suốt.

Nếu là người xuất gia thì phải cất bước vượt các phương, tâm hình khác thế tục. Giữ gìn chủng tử Phật, chấn nhiếp ma vương. Thiên đế còn đến đảnh lễ, long thần đều kính thờ. Không đâu chẳng phải năm, ba tạp hạnh phạm pháp, phụ tâm đắm nhiễm đối với sắc vị, tham lam danh lợi. Những việc làm này trái với sự giáo hóa của Phật, là cỏ dại có hại cho chánh pháp. Kinh Niết-bàn gọi đây là Thốc nhân (người trọc đầu); kinh Phạm Võng gọi là Đại tặc. Như thây chết trong biển giới luật của Phật, không tiếp nhận vào hàng chúng tăng. Tài sắc dứt bặt, đây là điều cấm hiển nhiên, vọng tạo tội với Đức Phật, thật không thể được. Đến như tục sĩ mạnh mẽ thì quốc gia sẽ bình an, người trinh khiết thì được tôn trọng, người tham lam cạnh tranh thì có tội. Có thể thấy một người sai trái mà cả nước bị giết, một vị quan không thanh liêm mà cả triều đình đều bị tiêu diệt, điều này không thể được. Việc này thấy trong sách đời Hậu Ngụy và sách Xuân Thu của mười sáu nước.

Thế Tổ thấy một ngôi chùa đã xây dựng, giết hết chúng Tăng cả nước. Bất luận lớn nhỏ đồng một lúc giết hết, có thể gọi là quan trưởng mọi rợ. Phán sự hùa nhau, Dịch dẫn ra để làm minh lược, người sáng suốt nên trốn đi. Lại do thấy chúng Tăng thọ sự cúng dường rất trọng hậu liên tiếp, tự mình không thể bỏ được ganh ghét mà còn thêm thái độ thù ghét. Tăng là ruộng phước, kính thờ thì được phước báo. Quan là người lo việc chánh trị, bổng bộc để thạnh công kia. Nay vua thưởng cho Hạ thần, người nhường bổng lộc đó là ai? Người thế tục cúng dường tài vật cho chúng Tăng, người không thọ nhận có thì thường có. Quan không bổng lộc chưa nghe có trong nước, người nhận bổng lộc thì đầy chật cả chín châu. Đâu thể do một vị quan nhân của đút lót mà cả triều đình bị cho là phế vụ, một vị Tăng lạm dụng của tín thí mà tất cả đệ tử Phật đều bị hiềm trách, lại không thể như vậy được. Vì thế phải biết thanh tịnh ô trược khác đường, đạo tục đều có. Quan lớn sửa chữa nơi bảy pháp. Hình phạt phân xử nơi tội nặng hoặc nhẹ, đây là chánh sách của thế tục. Giới luật để xem xét nơi lỗi lầm, đuổi hay phạt đối ba cách. Tăng chế để ngăn ngừa tội phạm bên ngoài, pháp lệnh giúp tội trong tâm. Đây là giáo pháp của Đức Phật. Cho nên giới luật của đạo Phật, pháp lệnh của thế tục đầy đủ rõ ràng, soi chiếu khắp bốn phương, hiển rõ ở năm chúng, có gì mà không rõ. Phải y theo lời nói trên. Do đó, Thượng đế ở trên cao chín tầng ân cần soi xét khắp bốn biển, dân thường không thể soi xét việc của vua mà là bổn phận các quan phải lo. Ông chẳng phải là quan mà vọng dính líu vào việc chính trị (hành chính), luống làm việc giám sát, làm sao tương đương với quan được. Vì thế Thượng sự ở sau ít có người theo. Cho nên, kinh nói bốn y dự phần ngụy lạm. Người trí khó phân biệt, pháp trí dễ sáng. Vì sao thấy một vị Tăng phạm lỗi, liên lụy đến đạo Phật, thấy thiếu một giới liền coi thường chánh pháp. Chỉ có thể dùng đạo để bỏ người vì không mở mang đạo. Chớ không thể dùng người mà bỏ đạo vị cao tột vượt hơn trời người, phải biết rõ đó. Nay dùng năm thường để kiềm chế con người, sao người có thể đủ, dùng năm hiếu để kiềm chế kẻ sĩ, sao kẻ sĩ cho là đủ đó. Đọc kinh Dịch mà quân lý âm dương, giảng kinh lễ mà còn tâm kiêu căng, tâm vua mờ tối, Thần phản nghịch các triều đại vẫn thường có. Ngồi không hưởng lộc, loạn triều chính, thường tướng phần có nhiều. Học trò của Khổng Tử ba ngàn một mình Nhan Hồi là đức hạnh. Vua chúa hai mươi chín đời, Đường Nghiêu (vua Nghiêu đời Đường) thường nương cậy kia nói sơ lược. Gồm rõ thì đệ tử Phật là những tấm gương tốt có khá nhiều.

Đời Chu, Cao Tổ Võ Hoàng đế mến thích đạo Lão, đích thân lãnh thọ phù chú, rất ghen ghét đạo Phật.

Vua tên Vũ Văn, húy Ung, là con thứ ba của Thái Tổ Ngụy Thừa tướng hắc Thái. Dòng tộc vốn là dân tộc thiểu số ở miền Bắc Trung Quốc (Tiên Ty).

Cuối niên hiệu Nguyên Ngụy, vua Thái Tổ bức ép nước Ngụy, Bình Dương Vương Tây đốn quan trung. Trải qua bốn đời vua nhà Ngụy, hai mươi ba năm thì chết.

Thế Tử Lạc Dương Công nối ngôi nhà Ngụy xưng là Chu, ngay năm đó bị truất phế. Em là Ninh Đô Công lên ngôi, hiệu là Minh Đế làm vua được bốn năm thì băng hà. Con còn nhỏ nên lập người em là Lỗ Quốc Công lên làm vua tức Cao Tổ.

Đổi niên hiệu là Bảo Định năm đầu. Tâm rất mưu mô độc đoán đố kỵ, dấu vết thân sơ để mong trí thuật.

Niên hiệu Bảo Định thứ sáu đổi niên hiệu là Thiên Hòa. Trước sau trải qua được một kỷ (mười hai năm). Quan Tể tướng Phổ Quốc Công Vũ Văn Hộ Thái Tổ dụ như con. Chính thân thọ di chiếu phụ dực Đế đồ. Hùng lược nhiếp ngự quang thời tả quốc. Sợ có người truất phế ngôi vua liền dẫn vào bên trong giết, gồm mười ba người, dòng tộc rất lớn gồm sáu nhà.

Đổi niên hiệu là Kiến Đức, giết hết các bậc hùng vũ trong thành xa lo cân nhắc, oai hùng tự giữ. Nhưng hay khuyến khích răn nhắc mình. Biểu lộ như kẻ hạ thần, thường ăn uống sơ sài đạm bạc, lạo nhọc khiêm tốn tự giữ mình. Chính thân ta ra chiến trận, đến các nơi núi rừng hiểm trở, vì thế rất được lòng chiến sĩ (binh lính), chết cũng không nhàm chán.

Lúc bấy giờ, có lời sấm ký nghi kỵ áo đen. Cho rằng: Sa-môn sẽ lật đổ thời vận. Ban đầu vua rất tin Phật, vì sự ép ngặt này nên vua trừ diệt hết.

Niên hiệu Kiến Đức năm thứ ba, Đạo sĩ Trương Tân nịnh hót, liền diệt hai giáo, lập Thông Đạo Quán Dụng vừa ý với bổn hoài.

Đến niên hiệu Kiến Đức năm thứ năm, bình định đã xong, tự mình cho là thần giúp cho phước diệt pháp. Đổi niên hiệu là Tuyên Chánh. Đến tháng năm bị bệnh hủi, băng hà ở Vân Dương. Con là Vũ Bân nối ngôi. Giết cha con Tề Vương gồm mười người.

Ngày mồng một tháng giêng đổi niên hiệu là Đại thành. Nhường ngôi cho Tử Diễn, đổi niên hiệu là Đại Tượng, tự xưng hiệu là Thiên Nguyên Hoàng đế, khai mở Phật pháp. Song họa sâu phước mỏng khó lấp công kia. Tháng năm năm sau thì băng hà. Hiệu là Văn Tuyên.

Tháng giêng năm sau đổi niên hiệu là Đại Định. Tháng hai nhường ngôi cho nhà Tùy. Vì thế dịch thuật rằng: Xem Võ Đế làm chánh trị, quả quyết có thể xét đoán, đây là ý chí.

Đã trừ giáo yêu tà, chỉ chuyên lo việc binh lính hùng mạnh. Giữa năm thứ năm, tổ chức lập công, tập trung rất đông, tổ chức đó được thành công. Trong số người tập trung có Dịch nói rằng: "Không có Phật thì nước An, ngôi vị lâu dài". Như vậy vì sao Chu, Võ giết trừ vừa xong thị bị điều không lành, bỗng qua đời, đây thì lời Dịch luống dối. Nhưng Võ Đế chỉ có uy đức, không hề chậm nghi, tùy tâm quyết ý liền giết hại. Hại chú hủy báng Phật tâm khinh khi lừa dối quá nhiều, ngôi vị ngắn ngủi, niên lịch dời đổi, vốn thích nghi với tâm kia. Huống chi thân bị bệnh hủi, than vãn nào kịp. Ương họa tập trung, thật đáng thương xót. Chính vì cho Phật là yêu tà, tôn ngụy đạo làm thầy. Vua mờ ám, chúa hoang đường, đâu đợi Hạ Ân cố làm lợi ích Phật pháp. Vua nhà Ngụy, nhà Chu, diệt pháp đều bị oai lực cũng không thích nghi ư? Còn lại, có những người trừ diệt hủy báng Phật, tướng trạng chiêu cảm quả báo, như có thuật đầy đủ.

**** Đời Tống, Thế Tổ Hiếu Võ Hoàng đế, sa thải chúng Tăng và chuyến việc hành chánh (chánh trị).

Vua họ Lưu, húy Tuấn, là con thứ ba của Văn Đến. Phản nghịch cha, giết anh là Thiệu ở Nam Giao và ba mươi mốt người. Tự lên ngôi, đổi niên hiệu là Hiếu Kiến. Niên hiệu Hiếu Kiến năm thứ hai giết người chú là Nghĩa Tuyên. Niên hiệu Đại Minh năm thứ hai, giết cha con Vương Tăng Đạt. Có người dân tộc Khương (phía Tây Trung Quốc) tên là Cao Xà Phản. Việc này đến tai Sa-môn Đàm Tiêu. Vua hạ chiếu chỉ rằng: Phật pháp dối trá, Samôn hỗn tạp. Chưa đủ giúp cho giáo pháp rộng lớn mà thành trốn tránh. Lại thêm tâm gian xảo, phát khởi tình trạng hăng, thường hay nghe đó. Bại đạo loạn tục, nhân thần rất tức giận. Giao phó cho sở quan nơi đang ở, gia tội sa thải. Sau có ai trái phạm sẽ bị giết, bèn lập các điều chương. Nếu vị Tăng nào tự mình giới hạnh không đầy đủ đều cho hoàn tục, ban chiếu chỉ thì nghiêm trọng nhưng cuối cùng không thi hành.

Trước đó, vào thời Thánh đế nhà Tấn, Sưu Thủy chuyên việc triều chính, muốn Sa-môn phải kính lễ Vương Hầu, nhưng nhà vua yên lặng, phản đối lời bàn không đồng ý. Đến khi Hoàn Huyền cướp ngôi, lại nói lời bàn trước nhưng cũng không thực hành. Đủ như trong phần nói riêng.

Thế Tổ, vào niên hiệu Đại Minh thứ sáu, khiến quan Hữu Ty tâu lời bàn, khiến Sa-môn kính lễ. Đã làm hành động bạo ngược như cắt chém mổ. Dùng roi đánh vào người, nứt nẻ mặt mày mà chém đầu, không có gì tàn ác bằng.

Vả lại, Tăng lễ bái Vương Hầu không phải là phép tắc của nước, nên cũng không thực hành.

Niên hiệu Đại Minh năm thứ tám, vua Thế Tổ băng hà, con lên nối nghiệp. Tìm xét cho là Minh Đế đã đoạt, mà Truyền Dịch trình bày vua là bậc cao thức. Lạm hình sao biết có thể cao thức ư? Không bao lâu bị tuyệt tự, thân danh đều diệt, có thể cho là hết lòng soi xét ư?

Trong bộ "Túc Tử Hiển Thuật" nói rằng: Họ Tống tự xưng thủy đức, thừa vận điển ngọ, tám vị vua chánh vị, mười năm năm kỷ, bốn kinh tuyệt đích, ba hiệu hưng thạnh. Cửa ải họa nạn, cốt nhục lấn hiếp nhau, đâu thể nói được?

****

Đại Đường, vua Cao Tổ là Thái Võ Hoàng Đế ban chiếu chỉ sa thải hai đạo Phật Lão. Cuối niên hiệu Võ Đức, Tăng đồ càng nhiều, hạ chiếu chỉ lựa chọn thanh lọc người nghiêm túc để lại, không gọi là trừ diệt, rất sai ý chỉ. Vì thế ban chiếu chỉ: Trẫm sẽ kỳ ngự Vũ, làm hưng thạnh giáo pháp, suy nghĩ lợi ích, để tâm hộ trì, khiến ngọc và đá dễ phân biệt, cỏ thơm cỏ hôi (tốt, xấu) dễ biết, trường tồn diệu đạo, hẳn giữ vững phước điền, chính là muốn tăng đồ trong sạch nên phải sa thải những người không chân chánh. Đây chính là chiếu chỉ của trẫm.

Thế nhưng, Dịch đã cho là diệt pháp thì thật là vu khống tội cho vua. Lưới trời không lọt một việc gì, may mắn gặp được chánh sách khoan hồng, nên mới còn vị thủ lĩnh kia mà thôi. Còn lại như lời kể ở sau.

Truyền Dịch lại dẫn, đời Nguyên Ngụy, Thượng Thư ban lệnh Vương Trừng nhậm thành tâu lên rằng: Không cho trong làng ấm xây dựng chùa chiền, cấm không cho người ở.

Lại dẫn lời Thượng Thư khiến Cao Triệu tâu rằng: Tăng kỳ hộ túc cấp tán cho Bần nhân xem xét lời biểu tâu lên mà không trừ diệt. Chỉ bỏ tướng trạng, sửa chữa hàn hạc, chỉnh đốn giáo pháp trừ bỏ sự nguy hiểm kia. Đây là lời khuyên can về sự mở mang ủng hộ.

****

Đời Hậu Triệu, quan Trung Thư Thái Nguyên tên Vương Độ tâu sớ lên vua.

Thạch Hổ hỏi rằng: Phật hiệu là Thế Tôn, quốc gia kính trọng, làng xóm mọi người không dám xem thường. Vậy có nên thờ Phật hay không?

Lại, Sa-môn là người thanh khiết, cao thượng, thinh chánh. Hạnh có thể thanh tịnh, nhưng sau mới làm Đạo sĩ. Nay Sa-môn quá đông. Hoặc có người gian, trốn tránh quân dịch, những người đó làm sao phân biệt. Đây là lời sớ Vương Độ đã tâu lên.

Do Vương giả tế lễ trời đất, cúng bái trăm thần, nên tế lễ thượng có hưởng. Đức Phật giáng sinh ở Tây Vức, chẳng phải là Trung Hoa kính phụng.

Hán Thị đầu tiên được đạo kia, chỉ nghe ở Tây Vức rợ Hồ lập chùa. Ngụy theo phép tắc của Hán. Triệu do điều lệ xưa, yêu cầu người họ Triệu không được đến chùa. Người nào đã làm thì phải hoàn tục. Kẻ sĩ trong triều đồng ý theo lời sớ tâu này. Thạch Hổ hạ chiếu rằng: Lời sớ tâu lên vua của

Vương Độ cho Phật là vị Thần ở nước ngoài chẳng được các nơi ở Trung Hoa kính thờ. Trẫm ra khỏi biên nhung, nghi tùng bổn tục (?). Phàm phép tắc do vua ban hành nhiều đời thi hành, nếu sự việc đầy đủ không thiếu, sao lại hạn chế triều đại trước. Di Tiệu làm Đạo sĩ, số người ưa thờ Phật đều nghe rất nhiều. Truyền Dịch làm văn trau chuốc phần nhiều là trình bày sự dối trá, sách của đạo Lão ngụy vọng từ xưa. Huỳnh thư hợp khí, sĩ nữ dâm hành. Xích Chương nhàm cúng, u minh loạn khởi, đây là biết vọng làm là hung; loạn tục là giết tội có dư. Vì sao? Vì truyền Dịch nói rằng: Phật Đồ Trừng khiến đệ tử du hóa các quận các nước. Học trò của Chi Tuần là người giúp việc đắc lực cho họ. Trái lại ba ý chỉ huyền diệu, trau chuốc tà giáo. Đây là nói chê bai trời đất, trời đất không dung tha, là sao?

-Phật Đồ Trừng là người của Thánh. Lỗ ở ngực ánh sáng thông suốt, không nhờ đèn đuốc soi chiếu. Nhìn cái linh chiếu trong bàn tay mà ngồi xem sự thắng bại. Hai vua kính trọng Ngài như vị Thần, trăm dân tôn sùng Ngài như Phật. Phật Đồ Trừng đã dự biết được sự phản bội của Đông Trừ (Đông Thái tử), nêu trước họa của Thạch Thông, cho đến nạn sinh yêu hiện; can ngăn Thạch Hổ dùng hình phạt quá nặng sẽ hưởng thọ không xa, đây là lời nói rất chí thiết, mà Truyền Dịch nói rằng: Đồ Trừng xúi Thạch Hổ giết cháu để giữ ngôi vị Đế vương kia, sao lời nói này quá đáng như vậy. Lại nói rằng học trò của Chi Tuân là cánh tay đắc lực của Đồ Trừng. Đời Tấn, Nam Độ chỉ có một Đạo lâm tuy là đồng thời, nhưng giang sơn đồ việt đâu có được phân tán ra, đến phương Bắc làm cánh tay đắc lực cho triều đại Triệu.

Lại nói: Phản lại ba ý chỉ huyền diệu, trau chuốc tà giáo, đây cũng là lời luống dối, đâu được vọng chỉ. Hơn nữa, thuật tác của đạo Lão chỉ có năm ngàn quyển, mà hơn mười ngàn quyển là luống dối. Đủ rõ việc của Ngụy Nhật, Khương Bân?

Song tự ngẫm nghỉ là thẩm, cho rằng Tăng cũng vậy. Giáo nghĩa của Phật tổng hợp có chỗ trở về. Văn trước sau không trái nhau. Tìm manh mối kinh của đạo Lão xem vì sao mà lạm nhau quá vậy, không thể tự lập một nghĩa. Chê bai đạo Phật, hoặc bốn quả, mười địa liên kết trong kinh; hoặc cõi trời, địa ngục đầy đủ trong sách Phật. Đây đều là sự thăng trầm của nghiệp hành, là lúc thạnh của báo nhân (là lúc quả báo đầy đủ quả báo).

Hỏi: Vì ngôi vị có giai cấp nên sự vượt quá lời của kẻ nói khoác. Như vậy tại sao nói là Đồ Trừng truyền mê loạn chân, không có mảy may giúp cho sự giáo hóa.

Thật đáng thương thay

**** Thái Mô, tự Đạo Minh, người ở Trần Lưu. Đời Tấn, quan Thái Thường Bành Thành Vương Hoành Biểu. Túc Tổ ưa đạo Phật, chính tay vẽ hình tượng ở giảng đường Lạc Hiền. Trải qua các nạn giặc mà giảng đường vẫn còn. Hoặc biên soạn, hoặc tán tụng, hiểu biết nêu ra cho Hoằng Biểu bàn bạc.

Thái Mô nói: Phật là người giống như mọi rợ (dân tộc Di), chỉ mới nghe biến Di từ Hạ, chưa nghe biến Hạ từ Di.

Thiên đế dù nhiều tài, hứng thú vẽ tượng đây chưa phải là hình dung của Đại Tống thạnh đức. Nay muốn phát vương mạng, ra sắc lệnh cho sử quan trên xứng với chí của Tiên đế ưa thích Phật, dưới là vì dân tộc Di Nhung làm bài tụng khen ngợi hình tượng đó, đối nghĩa đây có nghi chăng?

Khương Đế lên ngôi bái Tư Đồ, tháng năm, năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Hòa ra chiếu chỉ, cố chấp không đến. Dâng sớ xin hài cốt, Hiếu Tông không ngự đến chính điện mà đến nhà ngoài, có mời Thái Mô nhưng không đến. Hoàng Thái hậu ra chiếu Chỉ bãi triều. Công khanh nhà Tần mời Thái Mô đến Đình Úy (tức huyện Úy) chịu tội, Mô sai đệ tử là Tố Phục đến Đình Úy để chịu tội. Vua ra chiếu chỉ miễn trị thứ dân, liền đóng cửa không ra ngoài. Đây đều là kẻ dốt nát cố chấp, khư khư đối với quẻ khảm, làm sao Tỉnh. Thế mà, Truyền Dịch cho là Thần trung thành, chưa phải là bàn luận thành thật. Vì sao lời đề nghị châm biếm của

Thái Mô y cứ hạn cuộc thần châu một nước, cho đây là Trung Quốc. Đức Phật thì y cứ chung cõi Diêm-phù-đề là một châu, cho đây là vùng biên địa. Từ nêu bày, phía Đông nước đây y cứ bờ biển, ba phương thì không. Không thì chẳng thể cho là không có biên giới để thấy. Châu đây mà bàn thì bốn phía vây quanh biển. Trung tâm nước Thiên Trúc từ Hạ đến Bắc hành. Trong phương không có ảnh là chánh quốc của thiên hạ, vì thế Đức Phật giáng sinh ở đây. Huống chi là giai cấp bì kịp chính giữa ba ngàn mặt trời mặt trăng, vạn ức trời đất. Chỉ có Đức Phật thống nhiếp Thái Mô chẳng thể hiểu được.

Vả lại, người tầm thường cố chấp, chấp cho là giống khi xưa, nghĩa là nhà thì tự cho là đất của ta vui, người thì tự cho là dân của ta tốt, không đáng lấy làm lạ. Trung Nguyên, Tung Lạc Thổ khuê trắc cảnh cho là chính giữa. Chính là riêng biệt của Thần châu.

Đến khi phân chia không thể nhất định được.

Giang Biểu đất bằng phẳng, khí hậu thấp, vì thế gọi là Dương Châu. Họ Tấn bôn ba đến liền xưng là Văn Quốc. Biến Di từ Hạ, đây là nói có lý do,

Khổng Tử ở Cửu Di không phải là quê mùa. Vả lại, có đức thì quân nhân, vô đạo thỉ nổi loạn, vì thế Hạ, võ sinh phương Tây Văn Vương lớn lên từ phương Đông. Đời Nguyên Ngụy dòng dõi Thác Bạc là Rợ Địch phương Bắc, vua đến núi cao, hướng về phía Nam, há cho là không sinh ở Trung Hoa mà nghịch lại phong hóa đó. Còn như do đủ là một thần thuộc Rợ Nhung ở phương Tây, Tần Mục do đó mà chiếm đoạt ngôi. Nhật Thiền thuộc giống Rợ Hiểm Duẫn, Hán Võ thu nhận mà ngôi vị còn. Vì thế, biết đạo là ở chỗ tôn trọng, chưa hạn cuộc ở Di, Hạ. Thái Mô kiên cố tự thủ, chưa gọi là thông nhân (người thông suốt) chống chiếu chỉ trái mệnh lệnh, phạm tội điện phế, đáng bị gia hình. Lại nói rõ. Ngọc Bích lớn nhỏ chỉ giới hạn của mỗi nước, bậc Thánh tài ba cùng Thần đạt lý không giới hạn phương hướng. Vì thế, núi Không Đổng chẳng giới hạn chín châu, núi Côn Luân chính là đất Thiên Trúc, mà Huỳnh Đế cỡi xe từ phương Tây đến. Lý Lão, Doãn Hỷ tiếp Võ mà đăng vị, đây là sao ư? Biết có thể quy về chăng. Vả lại, thấy đúng thời cơ thì làm không nên đợi, giống như Hạ, Kiệt làm chính trị. Đốt Huỳnh Đồ, giết Long Phùng là việc bạo ác của chánh sách nhà Tần. Đốt kinh sách chôn sống Nho sĩ, lúc bấy giờ thế tục truyền bá, đây là vua vô đạo nhưng đất đai xa rộng, gạch ngói nhiều Công Kiệt, bắt đầu từ Hoàng đế ta chưa tôn cung đức, nhưng nhiều đời thạnh hành nghĩa phải có khen có chê. Người xưa có nói, vua Nghiêu, Thuấn chưa chắc là Thánh hoàn thiện; Vua Kiệt, Trụ đầu có thể là cực ngu. Nhưng đều quy về lỗi ở Hạ, Ân, tôn nghiêm ở Đường, Ngu, sự dối trá của bọn thiên đảng không đáng nói. Thái mô tâm hẹp hòi đâu đáng nói.

Đời Đường, "Sách Đặc tiến Trịnh Công Ngụy Trưng" có một trăm điều, trong đó có một điều hỏi rằng: "Sự hưng thạnh, sớm muộn, được mất của kinh Phật như thế nào?"

Đáp: Ngôi sao tròn ban đêm rơi xuống, Phật giáng sinh lúc sao mai mọc, ngựa trắng sáng sớm đến, pháp hưng thạnh vào đời Hán. Nhưng vị Pháp vương tự tại biến hóa không cùng, thâu núi Tu-di trong hột cải, che mặt trời mặt trăng dưới hoa sen. Mây pháp, mưa từ, châu sáng, thuyền báu, đem các con ra khỏi nhà lửa, cứu chúng sinh trong biển khổ. Mũi tên bằng đá được dồi mài thì chặt xương dứt gân, xe được thoa dầu nhớt thì ngựa nhanh xe gấp. Cần phải tịnh tâm hồi hướng, khiến chí quy y. Nên tin lời nói của Truyền Nghị, không theo lời tâu của Thái Mô, đây là vị trọng thần của nước. Có thể gọi là bậc cao thức có chỗ quy y. Vì thế, Thái Tông kính làm bia, tay vẽ đá kia, chôn chung ở Chiêu Lăng, đây là gương mẫu của muôn đời. Thái Mô cuộc đời đã hết (tuổi tác đã nhiều) mà công dụng thì ít. Tự đắn đo không có tài năng nên một mực từ chối việc công chánh. Nhưng nếu việc Hoa Di ngăn cách, chưa gọi là thông nhân (người thông suốt), lại không đáng khen ngợi. Đời Tống, Nhan Diên Chi người Lang Gia, có học thức, ưa uống rượu, buông lung không giữ gìn oai nghi tế hạnh. Đời Tống, vào niên hiệu Nguyên Gia dời đến Thái

Thường. Sa-môn Tuệ Lâm dùng tài học hướng về cứu giúp, được Thái Tổ khen thưởng. Mỗi khi làm lễ thăng tòa, Diên Chi ganh ghét nói rằng: "Tòa Tam Đài này có thể để người khác ngồi". Vua nghe vậy liền thay đổi sắc mặt. Truyền Dịch nếu đó là Danh sĩ, ở đây có thể biết. Do Sa-môn Tuệ Lâm được Văn Đế sùng ái. Diên Chi không thể làm quan, ganh ghét mà chê bai. Đã không dự vào triều chính, lui về ở làng quê Tư Tuấn làm Thứ sử Dương Châu, cỡi xe về nhà, Diên Chi chống gậy tránh đi vì chê bai. Không kinh doanh sự nghiệp, áo vải, cơm rau một mình dạo chơi ở chốn hoang vắng. Bấy giờ, Nhan Diên Chi không tham dự vào các bậc hiền của triều đình nhưng hiển luận không ai bì kịp. Còn lại như trong "luận Đạt tánh" có nói.

Song Diên Chi soạn luận khen ngợi rất nhiều. Còn như ảnh tích chung của Phật, đảnh răng, móng, y, bát, tích trượng, hai tấm mền lông của Phật. Không như vậy đều là đặt điều cả là mẫu mực của bậc cao bạt tài giỏi.

Nói người khác là chê Sa-môn Tuệ Lâm nhất thời mà thôi. Bốn luận kia đều thấy trong bộ "Lục Trừng Tục Pháp Luận", đời Tống.

****

Túc Mạc Chi, người Lan Lăng, đời Tống. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười hai làm quan Huyện ở Đơn Dương. Làm sớ tâu lên vua khen ngợi sự giáo hóa của Phật giúp Trung Quốc đã trải qua bốn triều đại. Chùa tháp, hình tượng tính ra cả một ngàn, tối có thể buộc tâm, lui đủ để khuyến khích. Từ xưa đến nay, kính tình ngọn ngành, không cho tinh thành là cùng tột, lại cho sự xa xỉ cạnh tranh là trọng, trái trung vượt chế.

Xin từ nay về sau đúc tượng đồng, xây chùa tháp. Trước đến sở tại (sở quan) trình bày sự việc, đợi trả lời sẽ làm. Xem lời tấu trạng kia, bảo bỏ việc xa xỉ cạnh tranh. Chẳng phải nói là trừ bỏ. Đây thật là tướng trụ, ở đó để mở mang.

****

Chu Lãng người Nhữ Nam, đời Tống Thái Tổ làm quan Nội sử ở Lư Lăng, làm sớ tâu rằng: Từ khi họ Thích, lưu truyền giáo pháp, kia có nguồn gốc, trích dẫn dung nhuận cũng đã rộng, mà xen lộn y thuật nương việc bói toán, ngoại hình cũng dung, nội giáo không hối, nhưng rộng lớn trong thiên hạ, không loạn sát. Nay phải nghiêm giữ luật Phật bổ ích cho nước nhà. Người có các lỗi lầm thì cho nghỉ, phân bổ đi nơi khác. Số còn lại tùy theo tài năng, đều có điều lệ, khiến cho Thiền nghĩa kinh tụng mọi người đều đồng nhất. Ăn uống sơ sài đạm bạc, mặc áo vải. Nếu có người độ thì khiến họ trước tu tập nghĩa hành bổn. Thần tâm kia có thể hủ lậu, trời người kính sợ. Nếu trước đây tuy là Hầu Vương Gia Tử cũng không nên câu nệ, ý đồng như trước.

****

Ngu Nguyện người ở Cối Kê. Đời Tống Minh Đế làm quan chức Trung Thư, dung mạo điềm tĩnh nhưng lời nói hay ngang ngược.

Vua ưa Truyền Dịch phế bỏ chánh sự. Ngu Nguyện nói rằng: Vua Nghiêu dùng đây Đơn Chu, chẳng phải nhân chủ ưa thích.

Vua nghe vậy nổi giận, lôi xuống dưới điện, ban đầu không tỏ vẻ sợ sệt. Hai ba ngày sau lại kêu đến chỗ Minh Đế. Sau xây dựng chùa Tương Cung rất rộng lớn.

Nguyện nói: Xây dựng chùa này, đào hang làm tổn thương loài dế, loài kiến. Nung gạch ngói cháy loài sâu loài trùng. Gian nan cực khổ, trăm họ kiệt sức. Vợ con buôn bán, ôi thôi! Đầy đường. Nếu Phật có biết, nghĩ kia có tội. Nếu Phật không biết thì làm đó có lợi ích gì.

Ngang ngược ra giữ Tấn An. Đây thật là loài của bậc đại từ, được Phật truyền đạt.

Thế nhưng, Truyền Dịch cho rằng trừ bỏ, chẳng phải ý kia.

****

Trương Phổ Tế, người ở Thường Sơn. Lời nói trăm nhà đều thích. Trong niên hiệu Thái Hòa đổi thành Gián Nghị đại phu. Đến đời Hiếu Minh lên ngôi thì không gần gũi triều đình nữa, chuyển sang tôn sùng Phật pháp. Việc Giao Miếu (cúng miếu) giao cho quan Hữu Ty. Tạo dựng chùa tượng không nghỉ ngơi. Bèn can ngăn rằng: "Kính mong cẩn thận oai nghi, muôn nước làm nghi thức".

Chính thân đến bói ở Giao Miếu, trong lòng buồn bã đến tế lễ ngày mồng một, ngày rằm. Một người có được niềm vui thì dân chúng nương nhờ theo đó. Nhưng sau tinh tấn đối với Tam bảo, tín tâm đối với Như Lai. Đạo do giáo hóa mà được thâm nhập. Vì thế các lậu có thể hết. Phàm tùy lễ chứa nhóm, vì thế bờ kia có thể đến. Sớ tâu tên không được trả lời. Lời của Trương Phổ Tế như vậy. Thế nhưng Truyền Dịch lộng bút vọng thêm vào. Dâm Tăng hoan ố, đạo ở nội cung, làm việc phi pháp. Phi chủ này đều thông dâm.

Trăm dân khổ nhưng trên không biết. Đây là nói gian xảo buông lung, đâu được vọng cúng thí. Cung cấm có hạn, phòng ngự có lúc. Chuyên nói dâm ô, túng bút vọng trình bày, y cứ quan Thái sử. Nói chung về căn cơ thận trọng: Thường hay tức giận, tỏ vẻ khinh chê. Con chim kiêu có thể ăn thịt chim mẹ, người quân tử hổ thẹn nghe, Đình viết chữ bách nhân. Hán Hậu ban đêm đi tuần tra, chẳng phải cuồng chẳng phải say, đây là nạn điếm nhục. Nhưng Truyền Dịch tự làm việc dâm ô, bọn ấy thường có vợ con, cho nên gia đình của Lý Nhĩ, Lý Tư Vương; con cháu của Trương Hoành, Trương Lỗ dòng dõi hiển nhiên không tế nghi thì không có. Chẳng hiểu vì sao ngày nay Đạo sĩ bắt chước Tăng sĩ xa tài dứt sắc, thanh cao độc vãng không dính líu với thế tục, rất lấy làm lạ. Vì thế, Truyền Dịch trọng tài sắc kia đồng như thế chê bai Tăng.

Như trong kinh "Lão Tử Hóa Hồ" nói rằng: Đã hóa Hồ Vương khiến Doãn Hỷ thành Phật. Người tánh hung hăng, hủy hình bỏ việc trang sức đẹp đẽ, không cưới vợ, chẳng có con nối dõi tông đường nên gọi là Sa-môn. Còn lại những kẻ yếu hèn dựa theo gốc kia, thì vợ con không bỏ. Y theo đây mà bàn việc ấy. Đạo sĩ Quán Trung, y phục, mũ phép tắc không khác thế tục, vợ con nối dõi, nương theo đạo pháp, không đáng lấy làm lạ. Do đây, Tiên đồng, ngọc Nữ hầu hạ sự thấp hèn của Lão Quân. Huỳnh Đình Chu Hộ nói về việc của mạng môn. Dự định muốn làm cho dấu vết của Tăng khó hết, bèn phỉ báng cùng khắp. Vốn ý định kia là như vậy ư?

****

Lý Tích, người ở đất Triệu. Làm bạn với Duyên Xương Mạt Đời Ngụy Vi Cao Dương Vương. Bấy giờ, dân chúng phần nhiều bỏ nhà làm Sa-môn. Lý Tích dâng sớ tâu rằng: Lễ để dạy đời, pháp dẫn dắt đời sau. Dấu vết đã khác, phân chia cũng không giống. Vì thế trong ba ngàn tội, không có gì lớn bằng tội bất hiếu. Tội bất hiếu lớn chẳng qua là tuyệt tự. Nhưng tội tuyệt tự thật không có gì lớn bằng. Tình đâu được xem thường trái lễ ý buông lung hướng về Phật pháp. Nào được bỏ cái chánh đường đường mà theo pháp của quỷ.

Linh Thái hậu trách Tích vì sao cho là pháp của quỷ, chê bai Phật pháp.

Lý Tích tâu rằng: "Thần trộm muốn thanh minh Phật pháp giúp cho đạo tục đều thông, chứ không dám vọng cho là chê bai. Hơn nữa, tên quỷ đều là thông linh đạt xứng. Ba Hoàng năm Đế đều gọi là quỷ. Trong kinh Dịch nói: Biết tình trạng của quỷ thần. Trong sách Châu Công Tự Mỹ cũng nói: Có thể thờ quỷ thần. Kinh Lễ nói: Minh thì có lễ nhạc, U thì có quỷ thần. Phật chẳng phải trời, chẳng phải đất, vốn sinh ra từ con người, ứng đời dẫn dắt thế tục, đạo kia u ẩn gọi là quỷ. Ngu tôi không phải chê bai".

Linh Thái hậu nghe vậy không kết tội Lý Tích. Sau Tích bị hại ở Hà Dương, rõ Lý Tích đã dâng sớ muốn sa thải tích tả, không phải là phỉ báng.

****

Lưu Trú, người ở biển Bột Hải (khoảng giữa bán đảo Sơn Đông và bán đảo Liêu Đông, Trung Quốc). Tài thuật không thể tự đủ, đều không phải là kẻ sĩ. Chấp tài cao không được trao truyền, do tự so sánh.

Dâng sớ tâu rằng: Phật pháp lừa dối. Số người trốn quân dịch đông như rừng, lại dùng lời bịa đặt mắng nhiếc thậm tệ rằng: Có Ni, có Ưu-bà-di (nữ cư sĩ) thật là vợ con của Tăng. Tổn hại thai nhi, giết con cái, tình trạng kia thật khó nói. Nay Tăng Ni chừng hai trăm vạn nữ cư sĩ hướng về có hơn bốn trăm vạn. Sáu tháng một lần phá thai, như vậy trong một năm diệt hai trăm vạn nhà. Nghiệm xét điều này, Phật là quỷ đầu thai không phải bậc Thánh. Cũng nói Đạo sĩ không phải là nguồn gốc của Lão, Trang. Dùng tà thuyết của Phật làm phối tọa kia mà thôi. Rõ ràng sách đây đã nói. Dứt sự nghe thấy trần cảnh, chuyên nói phá thai giết con, há là lời nói của chánh sĩ ư?

Khổng Tử thấy một người làm lành mà quên đi một trăm tội kia. Bào Sinh thấy một người làm ác mà trọn đời chẳng quên. Tích rộng lớn và hẹp hòi đoán có thể biết, tâm của kẻ cuồng, người khôn cách xa nhau. Song thiên hạ tôn sùng Sa-môn có hơn trăm vạn, tài sắc không ham, danh lợi chẳng ưa. Đây là vọng ẩn đức, rộng làm việc dâm sát. Một năm giết hai người con, Sa-môn cũng vậy, một năm có hai người nam, gia đình là ai. Nói lời thô lỗ chưa đủ rộng, thế mà Truyền Dịch lại can ngăn cho là đúng. Và sau dâng sớ trở lại trình bày sơ lược việc này. Xét ra Dịch là học trò của Lưu Trú.

****

Dương Huyền Chi, người ở Bắc Bình, cuối đời Nguyên Ngụy làm chức Bí Thư Giám. Thấy chùa Phật xây dựng cao sang đẹp đẽ hao tổn vàng ngọc. Vương Công cạnh tranh nhau xâm lấn tài lợi của trăm dân, không thương xót dân chúng. Sau dâng sớ tâu rằng: Giáo pháp của đạo Phật dối trá, chỉ là luống phí, không cầm binh khí bảo vệ Tổ quốc mà hưởng thọ vật chất cúng dường, là bọn trốn tránh quân dịch, là hạng tôi tớ thấp hèn, tránh khổ tìm vui chẳng phải tu đạo. Lại Phật nói: Có là luống dối đều là vọng tưởng. Đạo nhân biết rõ Phật lý (đạo lý của Phật) nên tránh lỗi hư dối kia. Vì thế, dẫn tài lợi, khất thực, tham tích trữ không thỏa mãn. Lại nói: Tụng kinh Phật tôn trọng đồng như Đế vương. Vẽ Phật họa Sự hoàn toàn không cung kính. Mời thỉnh Sa-môn giống như Khổng Tử Lão Tử bái tục, việc làm phần nhiều là phù phiếm nguy hiểm, yêu cầu lập đàn để biết chân ngụy (thật giả), sau đó Phật pháp có thể vâng theo, Thầy trò không xen lẫn.

Như vậy thì bọn trốn tránh quân dịch trở lại nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Nước giàu, binh lính đông đảo, thiên hạ rất hạnh phúc. Huyền Chi đã tâu sớ đây đại khái đồng như lời của Lưu Trú. Lời nói phần nhiều quê mùa nhỏ mọn không hơn Chu, Khổng, vì thế tuy có tâu lên nhưng không thi hành. Nhưng Truyền Dịch khéo léo sửa chữa đối với quan phủ, đến nỗi khiến cho lời nói tịnh thu phóng đảng chép đủ nhưng không truyền lại. Đây là chỗ buồn bã xót xa của khúc sĩ, chẳng phải là chỗ để tâm của người thông suốt.

QUYỂN 7

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 3) LƯỢC NÊU VUA QUAN CÁC TRIỀU ĐẠI TRỆ HOẶC GIẢI HẠ

- Đời Lương, Tuân Tế.

- Đời Tề, Chương Cừu Tử Đà.

- Đời Chu, Vệ Nguyên Tung.

- Đời Tống, Lưu Tuệ Lâm.

- Đời Tề, Cố Hoan.

- Đời Ngụy, Hình Tử Tài.

- Đời Lương, Cao Đạo Khiêm.

- Đời Tề, Lý Công Tự.

- Đời Tùy, Lư Tư Đạo.

- Đời Đường, Truyền Dịch.

****

Tuân Tế người Dĩnh Châu, sau ở Giang Tả. Hiểu biết nhiều loại sách, ý chí nhu hòa hơn hẳn người thế tục. Khi Lương Võ Đế chưa lên ngôi, Tuân Tế và Lương Võ Đế quen biết nhau. Đến khi lên ngôi, làm quan thì không đến nữa. Tuân Tế giận dỗi nói rằng: "Từng biết lông mày ở trên lỗ mũi, mài mực viết lời hịch mà thôi".

Vua nghe vậy rất bất bình.

Lương Châu Thứ Sử Âm Tử Xuân Tả Thiên: Tế làm bài thơ tặng, văn truyền ở thế tục, hoặc xưng là đế. Vua nói: "Cá nhân tuy có tài, nhưng loạn tục, ưa phản không thể dùng".

Tế cho là không đắc chí, trong tâm buồn bã ấm ức hơn hai mươi năm. Thấy vua tin trọng đạo Phật, chùa chiền, hình tượng hưng thịnh, lúc đó liền dâng sớ nói Phật giáo tham dâm, xa xỉ, yêu vọng. Lại chê trách xây dựng chùa rất phung phí, thật là tai hoạn. Tóm lược lời tâu kia như vậy. Do ba phần (sách của vua Phục Hy, vua Thần Nông và vua Hoàng đế), năm điển (kinh thi, thơ, lễ, nhạc, Xuân Thu) là quan trọng nhất của Hoàng đế. Bốn phương sáu kỷ là tầm cỡ muôn đời. Và Hán Võ cúng tế người vàng, Huỳnh Tân kiến lập nước, Hoàn Linh cúng Phù đồ (chùa), Yểm thụ chống cự. Do đây ba nước như cái đảnh ba chân đứng vững, năm Hồ vẫn còn cúng tế thức ăn, áo mũ bôn ba đến Giang Đông, giáo pháp của Rợ Nhung hưng thịnh ở Trung Nhưỡng, khiến cho sự gần gũi của cha con bị ngăn cách, nghĩa quân thần trái nhau, sự hòa thuận của vợ chồng thiếu sót, lòng tin của bạn bè không còn, trong nước nổi loạn ba trăm năm. Tuân Tế đã thuật những lời khống chế đối với hẹp hòi, còn như người trinh tiết trong sạch dứt bặt ở thế tục thì không nêu ra, đây là thiên vị. Thuật việc người vàng (Đức Phật) lúc mới giáng sinh, đến việc soán ngôi của Huỳnh Tân v.v... đều là an nghỉ đến việc nhà Chu giết vua Trụ đâu đã thấy kinh Phật. Nhà Tần chôn sống Nho sĩ không liên quan đến việc giáo hóa của Phật. Lễ mất, Nhạc loại chưa thấy chùa chiền. Chiến quốc không vua nào liên hệ đến Tăng ngụy (Tăng dối trá). Bèn nói là loạn giềng mối, làm sao loạn được. Chồng vợ, cha con người nào không đúng, chỉ vong nói mà thôi, không đủ để nói. Song tế cực lực chê mắng Tăng, hủy báng Phật. Đều biết dâng sớ lên quyết không hội ý chỉ, cũng biết không thể bác bỏ Phật pháp. Thật là hận vua không cứu kẻ thấp hèn, không vinh hiển triều đình. Do đó, đã dùng lời thấp hèn mắng nhiếc Tăng, viết văn sâu sắc chê bai Phật. Kia thật là ý muốn mắng nhiếc Thượng đế. Những lời xấu xa ở sau đều có ý định như vậy.

Tuân Tế dâng biểu rằng: Xét các tích xưa, không hề tôn sùng mạng tà, trọng sự tham lam. Năm tháng ngày giờ cúng tế Tổ tiên không hề sử dụng ống sáo, nem thịt, miến, súc vật lừa dối tông miếu, trái sự tôn trọng của Huỳnh Ốc, theo đường lối Thương Đầu. Sáng tối cung kính Hồ quỷ yêu quái, hết lòng cúng dường bọn trọc đầu tham dâm. Đam mê tin tưởng tà Hồ, dối cúng chùa làm việc dâm tà. Sợ không phải là do thông minh ngay thẳng mà có thể do phước của Bệ hạ. Tuân Tế đã nói lời này, nên vua rất giận. Lương Tổ cúng tế ngày ba mươi, bốn mùa thay đổi vào lúc ôn hòa mát mẻ, nước mắt chảy động nơi thiên hạ, khởi lời phú đối lòng hiếu ân. Vì thế, cảnh Dương Đài chí kính điện, hoặc trình bày Văn Tổ hiến cúng Hiến Hậu. Nào được nói là chưa từng gần gũi, vì thế trái với việc trước, mặc tình mắng nhiếc.

Cây sáo, thịt (nem), miến, súc vật dùng thay thế cho súc vật và lúa gạo. Rau, cỏ tần cúng tế mùa xuân đâu chỉ có đời Lương. Khuất phục từ cao đến thấp chính là việc ít có của muôn đời. Di nhược cởi giày đâu phải việc hư cấu của trăm vua. Tự phi hành tổng, tám hằng vị lân thượng nhẫn. Đâu thể thực hành lòng từ dứt lòng tham muốn lúc thạnh, trường trai hết sức chí thành lúc việc xong ư?

Lại nói: Thần xin nói về việc được mất để so sánh phải trái.

Xét nguồn gốc đầu tiên của họ Thích vốn bị Trung Quốc chê bai. Đến nơi hoang vắng làm loài yêu quái ly mị. Cho đến thời vua Thuấn, ba tai ách chạy trốn, giết, ngu dốt, bọn gian của Tả Truyện Duẫn Tánh ở Trảo Châu. Đỗ Dự cho là Tổ riêng của Duẫn Tánh Âm Nhung, cùng Tam Miêu đều buông xả nơi ba nguy ách.

Bộ "Hán Thư Tây Vức Truyện" nói rằng: Dòng họ Tắc vốn là giống Rợ Nhung của Duẫn Tánh, ở

Đôn Hoàng (thuộc tỉnh Cam Túc, nơi có nhiều văn vật Phật giáo Trung Quốc thời xưa. Bị họ Nguyệt ép ngặt đuổi đi, bèn ở Thông Lĩnh Nam Bôn. Lại gọi Huyền Độ, Hiền Đậu, Thân Độc, Thiên Độc. Bèn dối chuyển cho là dòng họ Tắc và dòng họ Thích, kia thật là một. Duẫn Tánh và Tam Miêu so sánh chỗ ở và giáo tích hòa hợp. Họ Thích không thực hành trung, hiếu, nhân, nghĩa; tham lam dối trá nên gọi là Phật. Phật là lệ, hoặc gọi là bột, bột là loạn, mà Bệ hạ cho là thạnh vị của Trung Hoa, bèn tôn trọng dấu vết của Diêu Thạch Khương Hồ. Đây là điều thứ nhất không thể chấp nhận.

Xét ra chỗ ở của Duẫn Tánh là ở Đôn Hoàng Tây Nhung. Huyền Độ, Hiền Đậu v.v... thì ở Nam Phạm. Tây Nhung tức Vũ Cống đã truyền, Huyền Độ về sau bị Cẩu Tế chê bai, không đọa Tam Sử thì do đâu mà quyết định được. Xét ra Huyền Độ chính là cùng sâu xa hiểm trở của Bắc Thiên, nhờ phép tắc mà qua. Hiền Đậu là nhân phong sở hành của Thiên Trúc. Bốn mùa hòa nơi ngọc chúc, đất bặt lưu sương. Bảy chúng soi chiếu nơi gương vàng, thần cơ lạnh lẹ. Người truyền lời của trời, chữ phát ra văn của trời. Từ xưa đến nay không chiếm đoạt nhau. Đây là tâm địa gọi là Trung Quốc.

Người thực hành trung hiếu sao gọi là không như Tế đã nói. Đồng Điền Long tội Tam Hoàng chẳng phải là năm Đế, đâu thể nghe ư? Lại xét ra

Đức Thích-ca thuộc Rợ Nhung, sinh ra từ hông phu nhân Ma-da. Sinh được bảy ngày thì Ma-gia qua đời. Sự việc này phù hợp với trường hợp như con chim kiệt, con kính ăn thịt mẹ. Lớn lên tranh giành ngôi vị. Trong không tự an, trái cha phản vua, rất là trái nghịch. Bị Đạt-đa ném đá, Nan-đà giương cung, thay đổi đạo thường, tự đổi hình hài, đâu thể cứu giúp muôn vật. Nhóm họp bọn hung ác, đổi áo cạo tóc, nói lời luống dối không đáng vâng theo. Trong chín mươi sáu đạo, đạo này là tham nhất. Hợp bọn dâm ngu kia, phần nhiều kính tín. Còn như lưu ly trù Thích, Cù-đàm Lộ Tả nhìn thấy. Sinh thân còn chẳng tồn tại, đã chết rồi làm sao cứu được. Đây là thực hành trung hiếu. Thiên hạ học theo, Bệ hạ thì không tự xử.

Đây là điều thứ hai không thể chấp nhận. Xét trong kinh nói sinh ra từ bên hông, nghĩa xuất xứ từ kinh trước. Vì mang thai một vị Thiên sư nên công đức rất lớn, chẳng phải sự cung kính của các người cho là kính phụng. Lại biết người mẹ kia sắp qua đời, vì thế sinh được bảy ngày rồi, quả báo được sinh lên cõi trời. Song thời sinh ra từ bên hông, mổ sau lưng cũng có, không giống như loài chim kiệt, kính ăn thịt mẹ. Vì sao lại dẫn việc Nan-đà giương cung, Đạt-đa ném đá, nêu ra quyền hành. Phản bạn nghịch tiết trao lại chê bai. Tự nhịn đối để giáo hóa ngoại đạo. Biến tục để tịnh cửa tham. Thế mà nói trong các đạo, đạo Phật là tham nhất, hoàn toàn trở thành chê bai. Phản nước mà không hộ trước, nêu nghiệp khó quên, các kinh có rộng nêu. Lý hiển bày không uẩn khuất. Tuân Tế khéo léo hòa hợp, bổ sung thành văn. Đây là có tài không ngại việc không có cáo trạng.

Tuân Tế lại nói rằng: Nay Tăng Ni không cày bừa, không lập gia đình, đều dứt việc sinh sản, kiêu căng với vua, lấn hiếp người thân, trái lễ tổn hóa. Đây là điều không nên thứ nhất.

Xem lời chỉ trích của Tế đây là chuyện cho là vua chính thân vô tướng rõ Tăng Ni dứt sự tham dục, lực dụng siêu vượt chúng sinh, nghĩa này đáng theo, cố tình không nghịch. Song không lập gia đình dứt việc sinh sản, bác bỏ vua thực hành. Không cho hiển luận bèn mượn Tăng mà mắng nhiếc vua.

Lại nói: Đối với loài sinh linh, vợ chồng phối hợp, sinh sản nam nữ, pháp của Rợ Hồ thì ngược lại. Phần nhiều tạo tượng bùn đất, cây gỗ chuyên cầu việc bố thí, đâu chẳng phải là quá tội lỗi, đây là việc không nên thứ hai.

Việc Tề cho là không nên, đây là sự hiển bày, pháp của Hồ không dâm dục. Hồ từ đâu có bùn gỗ, bố thí, nêu việc này thấy có sự chê bai. Song Phật chẳng phải là rợ Hồ, mà chính là Thiên chủng (dòng dõi vua chúa).

Hồ chính là giống Rợ Nhung khác Phạn hương

(quê hương của quý tộc ở Ấn Độ). Như nói Thần Châu gọi là Hán địa. Nay xét ra Hán chỉ có thể thuộc đời Lương. Hán tuy nói là ban đầu phong Đế đều ở tại kinh Lạc. Ngô, Sở chưa gọi là Trung Hoa, Lăng Hổn quán Nhung, lại Nhung thay đổi Hạ. Chỉ có một giáo pháp của Đức Phật dứt bặt sắc tâm.

Hai dòng Hồ Phạn đời đời thường học theo.

Tuân Tế nói: Bọn Rợ Hồ quỷ quyệt dối trá, tự xưng là bậc đại giác, mà Tỳ-kheo hành dâm, giết con, Tăng Ni cũng vậy. Hại các loài dế, loài kiến để xây dựng chùa chiền, phí tài của công sức để cất giảng đường. Nếu Mâu-ni hay chiếu mà cố tình buông lung dâm dục giết hại, lại dối xưng là từ bi, có thể chiếu mà không thể cứu. Lại đại giác ở đây không có lợi ích chúng sinh nhưng thiên hạ không biết.

Đây là điều không nên thứ ba, lời chê bai này rất kỳ quái. Những người thông suốt há nói lời kia ư? Việc hèn hạ xấu xa há y theo đây ư? Nhưng bọn đại trộm giữ nước, tội nhân của thiên hạ. Hành dâm giết con là giặc của Phật pháp. Kẻ hèn hạ xuất hiện thì đuổi ra khỏi bốn nước, quả báo đến thì phải chịu chìm đắm trong ba đường ác, thế mà cho là Tăng Ni đều như vậy. Đây là lời vu khống quá đáng.

Lại nói là bậc Đại giác không có lòng từ. Lại nói: Không lợi ích chúng sinh. Đây đều là dùng trí lượng của kẻ ngu cho là Thánh cứu giúp kẻ phàm ngang với sự thành thục giáo hóa của bậc Đại giác, làm mất đi sự hành thiện của một người đức hạnh. Có thể cho là con Bọ ngựa có dũng cảm cự luận, con ếch dưới giếng bị vướng mắc tâm dưới vực sâu của giếng.

Tuân Tế nói: Giáo pháp của Hồ xan tham, chỉ có tài lợi là chờ đợi, thật là thực hành ba độc có hại cho muôn phương. Chưa thấy tu sáu độ để làm hưng thạnh Tam bảo. Đây là điều không hay thứ tư.

Hơn nữa, tài thật nhiều là chỗ ẩn núp của người tham, tích chứa làm tán mất tính tình của người liêm sĩ. Trong sáu độ, bố thí là bậc nhất. Chỉ có đạo Phật lập ngôi vị Tam bảo, Phật là giáo chủ, chính là bậc Chánh giác ban bố lòng từ, không có Phật pháp thì đâu có công của sáu độ, dứt lòng từ thì đâu biết Tam bảo là chánh hóa. Tuân Tế do không được chí kia, nếu bị đắm chìm chỉ tăng thêm lòng tham, cạnh tranh đổ lỗi cho người, chưa hiểu sự nhàm thân để bỏ đi sự trì trệ. Kẻ sĩ trong đời còn không có lời hư dối, Tuân Tế thật là kẻ nhỏ mọn, khinh thường mọi người, sử dụng tài cầm bút của mình, không nghe Cố dung bái muôn Hộ phong nhà mà người không biết. Gia Cát Lượng thọ ba Quận (ba Đô) thưởng kho không có một tấc lụa. Tạ An bình trăm muôn giặc, vẻ mặt thay đổi. Bậc Năng nhân bỏ bốn cõi, di chúc của vua như nước mắt, nước bọt, đây là Thật lục. Huống lại bỏ thân thọ thân, xem ba cõi như lao ngục, chỉ có tài thực, thật là rắn độc của tám món vi diệu. Y bát thường bên mình, như chim bay vào khoảng hư trống, đi ở không vướng bận, giống như loài vịt trời nổi bồng bềnh trên sông rộng. Những thí dụ này gọi là Sa-môn. Vì thế kinh nói: Tăng không phạm giới không thanh tịnh. Nếu trái với đây thì chẳng phải Tăng. Há được cho giặc Thần nghịch chúa so sánh với tắc, tiết cùng Đường, Ngu, Cơ Đề, gai gốc sánh với lúa tươi cây tốt, hễ lập lời can ngăn hai phần trong đục. Toàn võng dĩ hôn hung. Đều che giấu những kẻ sĩ tài giỏi, lý đâu thể như vậy vào thời Lương có chính sách, lòng nhân làm đầu. Vua thì dứt sự tham dục, ăn uống đạm bạc, Tăng thì ở rừng núi hiểm trở. Đi vào chỗ mạo hiểm có thể rơi vào chỗ Hổ, Beo, Chó, Sói. Người thông hiểu soạn làm luận thì đều bỏ khuyết điểm, che giấu lỗi lầm, việc làm thông thường của kẻ sĩ. Vì thế Nho của Lỗ chỉ có một người là Khổng Tử. Lạm xuy thiết phục thời chỉ nghiêng nước, Tăng thật giả, quyền thật khó phân. Chỉ có Phật biết được, còn lại chỉ thấy nghe. Vì thế, Tuân Tế không thông suốt thì không đáng nói. Hận cho kia sớm bị lửa tro cận kề, há không biết phản tỉnh hay sao.

Tuân Tế nói: Giáo pháp của Đức Phật để lại dạy rằng: Không được cày bừa khai khẩn ruộng nương, không tích trữ tiền tài ngũ cốc. Khất thực, nạp y tu hạnh đầu đà làm việc chính. Nay thì không như vậy, vài mươi vạn chúng không có để tâm nỗi Lan-nhã, theo lời dạy không cày bừa thì đông. Thiên hạ có nỗi khổ đói khát thiếu thốn. Trái giáo lập pháp, không thực hành thì cần gì có pháp này. Tới lui chưa hết lý. Đây là điều không nên thứ năm.

Nhưng Tuân Tế biết có lời dạy của Phật để lại, biết có đồ chúng ở Lan-nhã. Nhưng chưa biết giáo pháp có lúc căng lúc dịu. Há gán cho cơ nghiệp của Tam bảo. Đức của Phật rộng lớn, chư Thiên cúng dường còn tự xuống Tăng điền. Phước rộng lớn thần nhiều nghĩa đáng vọt cao. Giáo có khai hợp tùy căn cơ mà chế ra cho thích nghi, không thể hạn cuộc ở lương thực lúa gạo dùng cho đạo để chung lợi vật. Vì thế, kinh nói: Nếu đệ tử ta đúng như pháp tu hành thì lấy một phần của trăm ngàn vạn phần vô lượng công đức trong tướng bạch hào của Đức Như Lai cúng dường cho đệ tử ta thọ dụng không hết, cho nên biết vì đạo xuất gia, vì đạo cúng dường, vì đạo thọ dụng, vì đạo hoằng phước, đạo vốn thông suốt chẳng phải như sự trù tính của thế tục. Vì thế, thọ dụng từ sự trở lại tôn đức vua Phật. Kinh nói: Tu hành đúng pháp lãnh thọ ngàn vàng cũng được; trái lời dạy của Phật thì một ly nước cũng không cho. Vì sao được nói vọng chỉ tham tài, thực?

Lại kinh nói: Trụ pháp thí thọ của ta, vào chỗ tối mà không thấy tối. Ngược lại mà thực hành thì như khoảng không vô tận. Đây là biết ngoài tâm không cảnh, thấy cảnh là tâm. Cho nên, khiến cúng thí tùy tâm chứa nhóm không ngoài. Kinh nói: Sáu độ ở tâm không ở sự, đây là lời chân chánh. Dẫn chứng rất dễ hiểu.

Tuân Tế nói: Niết-bàn dựa trên việc Đức Phật nhập Niết-bàn mà khởi lời hỏi. Sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, kinh giáo của Đức Phật khác với kinh của ma Ba-tuần. Xem đây, phát lời hỏi thì ngày Cùđàm còn tại thế, các đệ tử không thể phân biệt chân và ngụy. Huống chi số Tăng lữ gian trá trốn tránh quân dịch ở Trung Hoa mà không bị mê hoặc ư?

Xét lời nói này của Tuân Tế, hoàn toàn không biết văn nói về diệt độ, ma Phật khó phân, há nói được cuộc đời Đức Phật. Các đệ tử không biết ba chủng, bốn y trong kinh, khảo xét quyết định ma Phật, tà chánh, không phải là chỗ biết của Tuân Tế, kia cũng không nói.

Lại nói rằng: Tăng lữ gian trá trốn tránh quân dịch ở Trung Hoa, không mê hoặc người, đây là lời nói thẳng thắn, thật không thể hiểu. Chẳng phải trốn tránh quân dịch thì có thể phân biệt được. Vì sao không nói che giấu điều tốt, nêu bày điều xấu chuyên làm việc chính.

Kinh Niết-bàn nói rằng: Người nào trốn tránh quân dịch, không có tâm chí hướng về đạo, ta sẽ cho thôi tu hoàn tục làm quan, Công sử, đây là lời nói chân chánh, vì sao không chép vào phần trên.

Tuân Tế lại dẫn kinh Niết-bàn rằng: Vua A-xà-thế hại cha, Kỳ-bà bày tướng trạng. Phật dùng trí trừ khiến kia mà mê giải. Tục tuy sự kết, lưới hoặc càng sâu, vì thế dùng ấm giới nhập cầu cha không được, chỉ vọng tưởng gọi là cha. Thật là người ngang ngược mưu hại chiếm ngôi vị kia. Nếu nước hiểu được, biết cha vốn không thì cần gì khởi nghịch. Nước cũng không có, do Phật khai hóa, ngộ đạt vọng tâm, hối hận hổ thẹn không có tín căn. Tuân Tế không đạt điều này dùng sự chứng lý, chê trách Thiên tử chú giải kinh, chê bai hạ thần nghịch loạn. Cho rằng Phật nói không có cha, không cha cần phải trừ, chấp tích mê giáo, không đáng lấy làm lạ cho sự ngu tối kia. Còn những việc lặt vặt như tượng, so sánh luận vốn đồng như ở đây.

Lại dẫn luận của Trương Dung, Phạm Chẩn ba lần phá, tập trước ghi đầy đủ rõ ràng, có lời chống đối của Dung và Chẩn, thấy ở phần thuật sau, nên nói rằng: Dung và Chẩn lập luận không thể phá, đây là lời hư dối.

Tuân Tế nói rằng: Từ xưa các bậc Đế sư, chư hầu, bạn khách ngàn năm một lần gặp dụ như sáng tối. Bậc hiền minh ít có ở đời, vũ trụ lập riêng. Nay bèn cạo tóc, ngàn dân không quan, vạn chúng xưng là Đế sư, chưa thể được. Diêu Thạch Ngọc Thực ba ngàn chùa Phật. Tám trăm cung ngọc cúng dường trọng hậu. Cuối cùng miêu dân đồ diệt,

Tống Tề đã hàng đâu hề trị được lỗi trước. Còn có lời thô lỗ mắng nhiếc Tăng, đủ có thể bịt tai. Cuối cùng là lời nguyền rủa vua, đồng như ngụ ngôn của Trang Mông.

Lại nói: Tăng ra khỏi cảnh nghèo hèn, luật lệ được miễn thuế má, quân dịch. Không có kỳ hạn hướng về đạo, chí đắm trong sự tham lam, dâm dục; thầm trộm kinh điển Trung Hoa, chiếm đoạt quyền triều đình.

Có mười trường hợp: 1. Buôn bán, sửa chữa nhà lớn. Đây là lấn chiếm chỗ ở của Hoàng đế.

2. Xây dựng tịnh thất lớn, trang sức tượng Hồ. Đây là lấn quyền minh đường tông tự.

3. Rộng diễn dịch lời yêu mị khuyên thực hành và lưu truyền cùng khắp. Đây là đàn áp chiếu chỉ sắc lệnh của Đế vương.

4. Giao nạp vải lụa khinh thường hư quả của năm đức thiên đường. Đây là chiếm đoạt đức thưởng của đại quân.

5. Dự trước mua chuộc khỏi tai ách ở sáu cực địa ngục. Đây là chiếm đoạt hình phạt của nhân chủ.

6. Tự xưng Tam bảo, nương nhờ bốn y; ngồi cao ngạo với quân vương, đây là chiếm thuật oai nghi.

7. Xây dựng nhiều chùa, độ nhiều Tăng Ni. Đấy là định làm bá chủ trong nước.

8. Ba thường, sáu kỷ bốn đại pháp tập. Đây là biệt hạnh chánh sóc, mật hạnh trưng phát.

9. Lập cõi tri lạc để dắt dẫn kẻ ngu muội, bồi hồi lo âu để kêu gọi hội xa. Nêu bày cõi nước của Phật an vui, chê bai sự giáo hóa của vua là ách khổ. Đây là biến đời, đổi phong tục thuế má.

10. Pháp tịch tu hội tà mưu biến thông, xứng ý thưởng vàng, hủy phá phỉ báng. Đây là sáu thao (phép binh của Thái công), bí sách của Lữ Thượng. Mười việc này không dung một việc. Điềm báo ẩn lộ tục phải tru di. Nay bằng túng ý lưu hành bác bỏ sự giáo hóa của vua. Lại đánh tiếng hồng chung ở đài cao. Mong tiễn lậu (vật dùng trong cái hồ để tính thời khắc của ngày xưa) của khuyết đình. Treo cờ phướn, lọng báu ở Trường sát, phóng Lỗ Bộ (các thứ nghi vệ hầu hạ) ở Sung Đình. Trưng ngọc thực để trai hội, tạp yến tiệc của Vương Công. Xướng cao vượt tán tụng. Tượng thực xướng lên đăng ca khen công đức thì so sánh với chú sử của Trần Từ. Thọ cúng thí thì đồng thứ bậc của Thúc Bạch. Lập ra oai nghi thì bắt chước văn vật của lá cờ, các việc làm đều dự định triều nghi v.v...

Bệ hạ lại khuynh trừ cúng chùa, muôn thừa nghĩ là nghi thức tầm thường, lễ bái Tăng Ni. Ba việc chấp lễ của Bồi Thần (bầy tôi); sùng ái đã long trọng, khinh lờn cũng quá lắm. Thần không chấp nhận ấy là bốn.

Xem Tuân Tế đã nêu ra mười trường hợp trên, đồng quy về một hư dối, khiến cho vua thêm động tâm. Muốn thông đạt cơ thần của vua, ngậm sâu tỏ ý khinh bỉ của vua, không thể thông được. Ôm lòng tức giận, chê bai để thỏa thích sự chê bai của mình. Nói tuy như thần mà thật là khinh khi. Vì sao ở trước nêu Tăng dối trá, không có điều ác (điều xấu) nào mà không nêu ra?

Nói: Vua xem trọng, vua không biết, đây thì nói riêng chúa ám muội, không nói tự hình, trau chuốc lời nói để che sự xảo trá. Dấu vết tốt đẹp thì sẽ lộ hình. Cho nên nói rằng: Biết người là khó, người thật khó biết. Biết được cái khó kia thì ngàn năm chỉ có một. Lương Tổ biết rõ tính tình của Tuân Tế không thể kham lãnh việc triều chính, nên nói là có tài nhưng ưa phản. Há lời này là luống dối ư? Nhưng sự việc nêu ở trên là ở biện luận của Tế, cách nhau một trời một vực, vì thế mới dâng tờ trình vụng về.

Tuân Tế nói rằng: Bệ hạ cho rằng nhân quả phải có thời kỳ nhất định, nghiệp báo ứng không dời đổi. Cho nên tôn trọng tượng pháp cúng dường càng long trọng. Nhân dân cực khổ, cây cối bị chặt. Thiêu đốt, đào quật các loài ếch, kiến; làm tổn thương hòa khí. Há là lòng từ bi của bậc Đại giác ư? Hồ quỷ có thể tạo phược, có thể phế bỏ đạo Nho. Đạo Phật có thể trừ họa, dứt việc binh khí. Nay coi trọng việc phòng vệ của cải chuẩn bị không lầm. Đánh mõ để tranh đất trống. Giết ếch kiến mà tạo lập công đức. Đã trái với kinh điển Đạo Phật, tôn sùng yêu tà mà làm việc cúng tế nịnh hót. Lại thiếu danh số. Năm thước, đứa bé chăn trâu còn biết không nghi, tôn nghĩa bốn biển không có hai, ba đức.

Thần vì Bệ hạ không chấp nhận điều thứ năm này.

Biết rõ Tuân Tế đã dùng sự để bày lý. Nay thì dùng lý để thông sự. Phàm nhân quả báo ứng như bóng như tiếng vang. Nếu không tin nhân trước quả sau thì không cho rằng hình động thì bóng động theo hình đó. Vật lý hiển nhiên, sao đến nỗi lầm được. Chặt cây, đào đất là quy tắc từ xưa của thiên thường, xây chùa, cúng dường là sự cung kính trọng hậu của nhân luân. Làm nhân dân lao nhọc, tổn hại trùng kiến sao vua không có? Đây là do phước không tự nương nhờ. Bốn tục không từ lao nhọc, tội không do người khác. Trăm loài trùng chết mà không có tội, cho chánh pháp là sách yêu mị. Đem sự trong sạch để cúng tế nịnh hót. Đây đều là chỗ tha thiết của u minh, là chỗ thương xót của Hiền thánh. Nhưng Tuân Tế không biết nhạc độc Đại thần kính thờ Phật mà cầu phước, trời đất, linh Thánh đảnh lễ để thỉnh huyền chương (kinh sách nhiệm mầu). Vì thế, xây dựng chùa chiền sẽ được bốn món vô úy. Riêng ở cõi không xứ đủ bốn món biện tài, Tuân Tế chẳng thể biết, biết mà cố chê bai để động lòng vua.

Tuân Tế nói: Chánh sách nhà Tần chịu sự lừa dối ở ba núi. Thuế má nhà Hán bị khinh khi ở năm lợi. Lòng tin thuận theo sự lừa gạt, phải đến nỗi như thế. Không xét kỹ tính tình dối trá thì đâu rõ được lỗi lầm trước, lại dẫn năm việc để rõ.

Hai triều đại Tống, Tề trọng Phật kính Tăng, nước dời miếu đổi ấy, chỉ vì Phật dối, Tăng không thật, gian trá làm tâm, phá thai giết con, hôn dâm loạn đạo. Vì thế khiến cho hai triều đại Tống, Tề bị tiêu diệt. Nay chùa tượng thời Tống Tề còn đó, Bệ hạ lại tôn thờ. Như vậy thì những tai vạ của hai triều đại này, Bệ hạ không tin mà biểu lộ sự tôn kính như vậy. Nay Tăng Ni an cư không giết hại ếch, kiến là thương tánh mạng của hàm linh, mà cao ngạo với vua, cha. Quên lòng nhân từ với loài côn trùng. Phá thai giết con trở lại nuôi dưỡng loài muỗi mòng.

Phàm dịch ấy là quân thần, vợ chồng, cha con ba cương sáu kỷ. Nay đạo Phật vua không vua, cho đến con không con, ba cương sáu kỷ hỗn loạn.

Tuân Tế dẫn trường hợp hai triều Tống, Tề do tin Phật mà sớm diệt vong. Đây là khinh vua. Sao chê bai Phật mà cũng chê bai cả thần kỳ. Phàm vận nước bại hoại hay hưng thịnh là thường số của trời. Nhường ngôi phóng trù có biến chung của cả nước. Vua trước tự hưởng được muôn năm, vua sau không thích nghi giữ ngôi vị. Đây chính là hằng lý của giao tạ, là thời kỳ sinh diệt.

Sao được chấp một đời thường còn, mà mê mờ sự thay đổi vận mệnh của trăm vua, đều không thể như vậy.

Các vị vua đời Tống Tề sở dĩ trọng Phật kính Tăng là vì biết nguyên do mà ngôi vua có được, nên mang ơn đó mà đền đáp trọng hậu. Lại biết ngôi vua không được bảo tồn nên gây nhân để trông mong được quả lâu dài. Nhân xưa đã ngắn không thể kéo dài đến muôn đời, vì thế mới có nhà Lương nối ngôi. Nhân nay chưa đến, không thể ngay nhân mà thành quả nên phải thọ quả báo ở đời sau. Đây thì biết nghiệp vận theo nhau, bốn tựa không mất, vì sao khinh Phật không có báo ứng ư? Nếu khinh không có báo ứng, thì các thần miếu, thần, trời, thần vườn, thần đất, phương trạch, núi sông trông mong hưởng lộc cũng đều trừ bỏ hết, đâu riêng chỉ có Phật tăng luống thọ dối trá. Bèn nói phá thai giết con, nay còn oán thù. Ông cũng ưa oán thù, sao can phạm triều chính mà không thấy.

Sớ trình lên, Lương Võ rất giận, tập trung kẻ sĩ trong triều đem Tuân Tế gia hình. Tế lén trốn đi, đến đời Ngụy muốn vua yên tĩnh. Sự việc bại lộ bị Tề Văn Tương đốt chết. Năm đó Tuân Tế được tám mươi tuổi.

Việc làm của Tuân Tế thật phi lý, mặc tình thi thố tài thuật, can phạm đến triều chính mà việc vinh hiển, phụ trí tự diệt.

Xưa nói rằng: Không ngự ngôi vua kia thì không nên toan tính việc triều chính. Tuân Tế là người dân áo vải (dân thường) mà toan tính việc miếu đường thật là quá lắm. Phật thực hành lòng từ giáo hóa không tổn hại Vương thần, giữ tâm trong sạch, trừ tà diệt hoặc, đây là lời dạy của Phật. Vì thế dùng ba món học vô lậu và tám món chánh đạo để dẫn dắt người xuất gia. Sáu độ, bốn thệ nguyện rộng lớn để khai mở kẻ sĩ và thế tục. Trong đó, thông cuộc, thích hóa tùy duyên giác ngộ làm tông chỉ. Còn lại thì không phải ý Phật. Mà Tuân Tế không nói về chánh hạnh của kẻ sĩ, chuyên thuật người loạn nghiệp. Dùng ngụy bác bỏ chân, dùng tà lấn hiếp chánh. Dĩ quả phạt chúng dĩ tích loạn toàn họa không cầu thân, lén nêu kinh điển của bậc Vô thượng, bị tai ương không nói hết. Cuối cùng bị sự báo thù đốt thân, thật là đáng thương.

****

Chương Cừu Tử Đà, người ở quận Ngụy. Đời Tề, niên hiệu Võ Bình làm Nho lâm học sĩ. Lúc đó, rất tôn trọng Phật pháp, tạo chế cùng cực.

Phàm quyết lương ốc đều là tăng. Có khuynh kiệt phù tàng sung Phật phước điền tục sĩ không bì kịp. Tử Đà không làm quan nên không được sự may mắn kia, bèn dâng sớ trình bày rằng: Đế vương trên thờ Thiên thần, dưới thương mến dân chúng. Vua quan, chồng vợ, cha con ba cương sáu kỷ có nguồn gốc. Từ đời Ngụy, Tấn đến nay Hồ yêu loạn Trung Hoa. Trái vua, phản cha, không vợ, không chồng mà gian trá xa xỉ khống ngự oai phước, ngồi không thọ hưởng lại được cung kính, khinh khi sĩ tục. Hậu phi ban đêm vào phòng tăng. Con em tối ngủ phòng Ni. Lại nói: Thần không kinh không sợ không tránh vạc đảnh. Tắm gội xong, du thần dâng lời sớ lên để nghe. Có hơn mười tờ, vua nghe xong nổi giận, muốn giết Tử Đà. Cao Na Hoằng nói rằng: Người này tìm danh muốn được chết. Nếu bệ hạ chém đầu y, rơi đầu nhưng nhờ thuật nội y, sẽ sống lại. Bệ hạ phải cấm, khiến cho y tự chết, vua nghe theo đó. Trải qua hai năm thì Chu Võ Bình Tề xuất hiện. Nhà Tùy ban đầu vẫn còn, không lường được kia. Nay đọc lời sớ dâng của Tử Đà, chỉ nói về việc yêu dâm, chứa để tài sản của Tăng, không có gì khác. Nói lời nặng nề tùy sự làm rộng ra. Người không biết cho là việc trên rất nhiều, người thông suốt thì chỉ hai vết bánh xe đi qua, gọi là tài sắc. Đại khái giống như lời nói của Tuân Tế, tài lý như mây như bùn, không kịp đương thời. Hai triều đại Ngụy Tề, các vị danh tăng rất đông, cử Thập Thống làm quan, lập Chiêu Huyền làm quan hữu ty. Nhờ che chở không theo, hình hài, tư lương chỉ có áo và cơm, khốn khổ, nghèo túng, đói lạnh, nên thấy Tăng được cúng dường trọng hậu sinh ganh ghét đến nỗi trình bày lời kháng biểu. Cuối cùng bị chèn ép thối lui, không toại nguyện. Truyền Dịch lại thêm phấn, mực. Nói chuyện phù toái, là chỗ cười kẻ hạ ngu, huống gì đối với bậc thượng đạt ư?

****

Vệ Nguyên Tụng, người Hà Đông, xa Tổ theo quan đến nước Thục. Cuối đời Lương làm một vị Tăng giả điên đi lang thang đây đó. Chu thị bình Thục, nhờ đó mà được vào cửa ải.

Niên hiệu Thiên Hòa thứ hai dâng sớ, lược rằng: Sự giáo hóa của triều đại Đường Ngu không có chùa để trị nước mà nước được an. Triều đại Tề Lương có chùa để giáo hóa dân mà dân không vững, như vậy là chưa hợp đạo. Nếu nói dân bại hoại không do chùa chiền, nước trị há do có chùa. Chỉ do tâm dân hợp đạo mà thôi. Dân hợp đạo thì nước được yên, đạo thấm nhuần vào dân thì việc trị nước được vững. Đây là do triều đại Tề, Lương dốc lòng giữ gìn, pháp mà xây dựng chín cấp Phù đồ. Đường Ngu lo cho thứ dân mà lụy thổ đều tiếp địa. Nhưng Tề Lương chẳng phải không có công đối với chùa nhưng giả dối nên không kéo dài. Triều đại Đường Ngu đâu có công với chùa nhưng trị nước được lâu, chỉ do lợi dân ích nước thì hợp với tâm Phật mà thôi. Tâm Phật dùng đại từ làm gốc. An vui chúng sinh không hề có khổ dịch thứ dân. Cung kính bùn gỗ tổn thương loài hữu tình, che chở lợi ích loài vô tình. Mà Đại Chu khởi vận chuyết lịch ưng đồ gồm có sáu hợp. Đối với nhất tâm, mặt trời mặt trăng song chiếu, dưỡng chúng sinh như đất che chở muôn loài. Đồng huyền thiên thật, ba Hoàng hưng khởi, than ôi! Triệu dân lần đầu tiên gặp, đời Ngũ đế mới lập mừng thứ dân được gặp há không kính mến phong cách thù thắng của Đường Ngu, để lại mạt pháp của triều đại Tề, Lương. Tung thỉnh xây dựng chùa lớn Bình Duyên, chứa được muôn loài trong bốn biển, không khuyên lập Khúc Kiến già-lam Thiên an năm bộ Nhị thừa. Chùa Bình Duyên đó bất luận đạo tục, chẳng lựa thân sơ. Dùng Thành Hoàng làm chùa tháp, tức vua Chu là Như Lai. Dùng quách ấp làm Tăng phòng. Vợ chồng làm Thánh chúng, suy linh đức làm ba cương, Tôn kỳ lão làm Thượng tọa. Chọn người nhân trí làm chấp sự. Tìm cầu người dũng cảm làm pháp sư. Thực hành mười điều lành để phục chỗ chưa an, nêu bày vô tham để dứt trộm cướp, đây là đem áo cho kẻ lạnh lẽo không có gì che thân, nuôi dưỡng những kẻ mồ côi, cô độc, góa bụa. Thương xót cứu giúp những người già bệnh khỏi sự nghèo cùng, thưởng cho người có lòng trung hiếu, phạt bọn hung nghịch, thăng chức cho người trong sạch, đuổi các thần sử dua nịnh. Sáu hợp không có tiếng oán vua Trụ; tám hoang có lời vịnh ca vua Chu. Phi trầm an ổn nơi hang ổ kia.

Thủy lục được sự trường sinh. Tung đây nói ở trước, có sở nhân. Đã có đọc luận Trí Độ, thấy chánh linh của Phật Thiên Vương, vì thế lập chùa Bình Duyên. Song thuật Phật đại từ, hàm linh an vui, đây được lý vậy. Sự thì không như vậy. Vợ chồng hòa thuận chưa thể dứt dục vọng. Thành Hoàng nhiều chùa chưa phải là đất Thánh, vì thế không thể được. "Tức sắc là không". Chẳng phải chánh trí thì không hiểu. "Ngay phàm là thánh", phàm phu đâu thể thông được. Vì thế, cần phải hai đế song hành, hai thừa (hai luân) đều vận, dùng đạo thông tục, có lúc xuất yếu.

Tung nói rằng: Không khuyên lập Khúc Kiến già-lam là vì tổn thương người và súc vật. Nếu làm thì trái với tâm đại từ của Phật. Xưa vua A-dục xây tháp, một ngày sai khiến muôn thần. Nay xây dựng chùa nhiều năm tổn hao tài mạng. Huống lại hòa đất làm bùn, nung ngói thành màu đỏ. Vì cỏ trùng mà làm kiếp hỏa, giúp ếch kiến mà khởi thiên tai. Kính mến nhân từ không nên trái lời dạy. Đây thật là giới. Vì thế, Tỳ-kheo làm phòng trước trừ phòng nạn, nếu có tổn hại thì không được làm. Chạm loài vật khởi lòng từ tức là nhân tháp, lý cùng tột chân chánh, sự ít thực hành.

Lại nói: Thỉnh người có đức, kẻ nghèo cùng miễn định thâu khóa (miễn thuế). Phú Tăng Vô hạnh thâu khóa miễn định. Thâu khóa miễn định thì cư Tăng sẽ hướng đến việc đình khóa tranh dứt xan tham. Người nghèo cùng miễn định (miễn nạp thuế) thì mọi người sẽ hướng đến miễn định đó mà lo tu trung hiếu. Thực hiện được như thế thì Phật pháp được hưng thịnh, quốc gia an ổn. Thật chẳng phải diệt Tam bảo mà làm cho trăm dân khổ ách. Có mười lăm điều, đều là sự ý, khuyên thực hành bình đẳng không diệt Phật pháp. Khuyên không bình đẳng là diệt Phật pháp. Khuyên thực hành Đại thừa.

Khuyên nghĩ đến kẻ nghèo cùng. Khuyên bỏ tánh xan tham.

Khuyên người phát lồ sám hối. Khuyên lợi ích quốc gia, dân chúng. Khuyên lo liệu vì dân.

Khuyên người hòa hợp. Khuyên ân ái hội.

Khuyên lập chợ búa.

Khuyên thực hành cúng dường. Khuyên chùa không có người lính. Khuyên lập Tam Tạng vô tham.

Khuyên lập một ít vị Tam Tạng. Khuyên lập Tăng huấn Tăng.

Khuyên kính Đại thừa.

Những điều răn nhắc nêu như trên, nếu ngược lại thì diệt pháp, thuận theo thì pháp hưng thịnh. Gồm trình bày hai luận Biểu trạng và Phật đạo, lập chủ khác nói về tiểu đại.

Tung dùng lý thông, nói rằng ta không thờ hai nhà, chỉ thờ Chu Tổ. Do hai không lập lời nói kia, mà vua nhà Chu chính thân thờ việc kia. Vì thế, ta thờ vua không thờ Phật. Lập lời rất nhiều, gồm ba mươi sáu tờ. Đại khái là dùng lời từ bi cứu giúp làm đầu. Thiền Tăng xa xỉ không tôn sùng pháp độ, không nói chê bai Phật, có lời chân thật. Vì thế, trong các sách: "Đường Sử Bộ",

"Đường Lâm Minh Báo" có ghi lại, v.v...

****

Lưu Tuệ Lâm, người quận Tần. Xuất gia tại chùa Trị Thành ở Dương Bộ. Là người có học thức. Lư Lăng Vương đời Tống đã biết. Soạn "Luận Quân Thánh". Luận này khó thông suốt cùng tận. Sau Thiền Pháp Nghĩa mới đầy đủ. Đại lược rằng: Chỉ biết sáu độ cùng năm giáo đều thực hành tin thuận và từ bi đều lập, thù đồ đồng quy, không nên chấp dấu vết bánh xe lúc khởi hành.

****

Phạm Chẩn, người ở quận Nam, lúc nhỏ mồ côi kiến thức vượt hơn các bạn cùng học. Ở trong môn hạ nhiều năm thì áo vải giày cỏ ra đi, ách ngôn cao luận, xưng là không có Phật, có nơi tự nhiên. Lời nói đó cũng chép đủ trong thiên Pháp Nghĩa ở sau, thẩm hưu văn khó, nên không phiền chép ra đây.

****

Cố Hoan, người quận Ngô. Đạo Phật và đạo Lão thay nhau chê bai. Cố Hoan soạn luận "Di Hạ" để thống nhiếp.

Đại khái rằng: Đạo Phật nói thật tướng, ở đạo gọi là Huyền Tẫn. Đại tượng của đạo Lão tức pháp thân của đạo Phật. Đạo Phật ở giống Di nên dùng Di ngôn. Đạo Lão ở Trung Hoa nên dùng Hoa ngữ. Riêng lập không đổi, bặt học vô ưu. Các vị Thánh nhiều kiếp cùng vâng theo đây. Lão Thích chưa bắt đầu phân, người mê phân chưa hợp. Ý thiện khắp tu, tu khắp thì thành Thánh. Tuy mười hiệu ngàn, xưng không bao giờ hết. Song văn kia ức chế đạo Phật mà mở mang đạo Lão, đây là môn nhân. Không đủ để bình luận. Ý luật của Trương dung cũng đồng như Cố Hoan. Tập trước đã rõ, sau lại lược dẫn, cũng đủ trong thiên Pháp Nghĩa. Hơn nữa, Phật thì thân vàng trượng sáu, đạo Lão thì đầu trắng đồng phàm phu. Phật thì bỏ ngôi vua, đạo Lão thì Thần vương. Đạo Phật giáo hóa không có nước nhà thì không có, đạo Lão thì không nêu thần châu. Đạo Phật thì tháp miếu khắp cõi Diêm-phù, đạo Lão thì mồ mả ở làng Hòe, hoàn toàn khác nhau, làm sao được dẫn dắt để nghỉ luân.

Hình Tử Tài, người Hà Gian. Sĩ Ngụy soạn Lang Thiên Trung Thư Huỳnh Môn Lang, cho là họ người không thể bảo đảm, nói với Nguyên Cảnh rằng: "Vì sao khanh họ Vương? Nguyên Cảnh đổi sắc mặt. Hình Tử Tài nói: Vì sao tôi cũng thọ hình có thể bảo đảm được năm đời ư? Nhưng Phật là bậc Thánh ở Tây Vức, đã nhầm diệt, khiến cho Thần lại sinh, đâu thể khổ nhọc Hình Tử Tài đời nay. Vì thân sau trương A-đắc-gia, cũng khó giải thích, như trong thiên pháp nghĩa, tự tin mà xem.

****

Cao Đạo Nhượng, trong bộ "Lương Thư" chép Sự giáo hóa của họ Thích, nghe phong cách kia mà vui vẻ, sinh nghĩa sinh ngoài trời đất, lời nêu trong tai mắt. Đây là Hồng Trí của Tưởng Giáo, một dòng trong chín dòng. Sự ưa thích đã nhiều thì thuật kia cũng cao. Chùa chiền trang sức cùng tột tài của Hải Lục. Người tạo không tiếc vàng ngọc, hết sức của sinh dân, há là ý của bậc Đại giác ư? Nhưng chí kính không văn, chí thần không sức, chưa thể hết được muông sinh (súc vật cúng tế) của thiên hạ. Vì thế cúng dường trời dùng, chưa thể cùng tột văn của thiên hạ, nên dùng thần để cao kiết.

Nếu có sự chí thành kia thì tần, tảo (rau tần, rong biển) đều xếp vào trăm phẩm. Minh đức không mùi thơm thì giết trâu để tế xuân. Huống gì thuật ở Thứu Sơn; kỳ lạ ở bờ kia, mà có thể hư cầu ư? Bèn có phù du đô bỉ tránh khổ trốn kịch, vốn sự thành tâm kia, mười trăm điều chỉ chép có một.

Đã đỏ tía lộn xộn, cáo, chuột trong thành xả uế làm dơ bẩn sự tinh hoa của đại pháp, tổn yếu vụ (mùa vụ chính) của nông tang. Người chấp văn tự không cho là loạn, người đang hoành không cho là ngôn. Có nước nhà phải soi xét mà tiết chế. Đây là Đạo Nhượng là thuần thần hộ pháp. Truyền Dịch vì sao lựa chọn. Có thể cho là người cao thức mà chép vào truyện Cao Thức.

****

Lý Công Tự, người quận Triệu. Thông suốt kinh sử, giỏi về âm dương. Thấy nhà có đám tang thì lo cúng để cầu cầu phước lợi, liền nói: Phật giáo xem thường cha mẹ, khinh khi Đế vương, bỏ sáu thần không cần lễ nghĩa. Áo đỏ, đầu trọc tự sánh hình dư. Vọng nói để mê hoặc, chỉ lợi cho mình. Âm dương danh mặc, tuy thử mâu, xét nét nghiệt ngã mà bốn mùa thời tiết dùng có chấp. Đến như tư thuật thì dương hóa nương u làm đường quy. Tiếc thay cả nước đều mê, chúng kia ngã ít, buồn thay cái chết của ta, phước sự tất cả đều bỏ, bỏ Hoa tức Nhung, có thức không được.

Đệ Khái tự Quý Tiết, thuộc văn tụng kinh Phật, chân tay bị kẹp.

Đây là sĩ tục ở Bắc biên tự bảo chuyên chấp đại khôi.

Tiếc thay! Sinh là luống sinh, không có điều lành để giúp thần. Tử là luống tử, có điều ác bị quả báo trầm luân. Mờ mịt tùy nghiệp, phản bổn nào có lúc. Tương lai không biết, hiện tại nào hay, đâu có khác loài súc sinh ngu muội?

****

Lư Tư Đạo, người Phạm Dương. Đời Tề, làm quan chức Huỳnh môn lang. Lúc Chu Võ bình Tề Tư Đạo đến kinh đô có soạn bộ "Tây Chinh Ký", đại khái rằng: Diêu Hưng ưa thích Phật pháp. Lathập dịch kinh luận. Chùa Phật khắp trong nước. Số người làm Tăng Ni có khoảng mười sáu, mười bảy vị lãng phí của công của tư mỗi năm rất nhiều. Vua lược bỏ, là thượng sách của nước mạnh dân giàu, lại soạn luận "Chu Võ Hưng Vong", lược nói rằng: Chu Tổ mới lên ngôi, Đại Trưng Tề Vũ, Văn Hộ, Do Tử của Thái tổ. Bần Đồ làm Tể, thân thọ cố mạng. Chu Tổ ở trên cao nhìn thấy, một hôm, không có mặt ở trong cung, thấy được di mậu, bèn bỏ xa dâm, truyền bá công đạo, ở chỗ khuất cũng cung thân truyền bá. Ban đầu sáu cung giúp nơi chín phục, cho là đạo Phật giáo hóa lập giáo, vốn quý việc thanh tịnh. Cận đại đến nay tiêu phí tài sức, bèn hạ chiếu bãi bỏ, đây cũng là chỗ chưa được của vị vua trước. Nghĩ đạo soạn luận nói về sự lãng phí kia. Nếu bỏ thì gọi là sách của nước giàu dân mạnh, đây là tiểu thức một đời không phải là hoằng lược cao xa. Phàm hành hóa Phật pháp cốt yếu là tinh thần trong sáng, dứt trừ các hoặc nghiệp. Kia phí tài vật tôn sùng phước, là vì biết thân mạng tài vật cuối cùng quy về chỗ tán diệt, luống cho là bảo ái. Đây là kẻ trọng sinh mạng thủ tài vật. Vì thế ở đời nói rằng: Chứa nhiều sẽ tán mất. Thạch Sùng do tài sắc mà chịu chết. Ân Tân cũng đồng mà sớm không sống được. Từ xưa đều như vậy. Đầy tràn nơi tai mắt mà không thể dừng, khiến tham hoặc sai sử như vậy.

Xưa, Hán Võ Thọ, Lăng Tần Hoàng, Chung Lũng, tài bảo đầy tràn đều bị xâm chiếm. Sao bằng xả bỏ tham chứa mà làm phước, do chí thành tôn kính ngưỡng mộ hủy bỏ hình hài mà theo đạo hóa, để noi theo chỗ cùng tột của toàn chánh mới được như vậy. Không như vậy mà cất chứa luống tự nhọc mình và người khác. Hình thân so sánh, sáng tối không rảnh, thân chết gọi là diệt, cuối cùng cũng qua tay người khác. Nay xưa cũng vậy, thói quan như vậy, được nêu cận đại, đời Tề làm phước, chùa tháp sùng thạnh, Tăng chúng tạp tu. Không thể tiết lượng bằng đạo, dù cho lẫn lộn, cũng còn luật minh cho phép sám từ. Chu vận nghe liền giải giáp, Tề Hậu là vị vua mờ ám. Quyền thủ quốc tư không thể chu cấp. Vũ Văn đả phá, kho chứa đầy ắp không mở, đích thân dùng chìa khóa mà đến cửa quân, tài báu đều là của Chu. Chu Tổ đã bỏ hai giáo, tự cho là thượng sách của muôn đời. Tây bình đông luận không đến khắc phục, cho là diệu lược của diệt pháp. Trời vốn rộng lớn. Thống thâu tề dư truyền hóa cưu cáp. Họ Tố nghèo, nước kiêm khoáng toàn bố. Một hôm tìm được, đầy cả tai mắt, liền tay kéo lụa, dắt dẫn đường dài. Đây là kẻ trộm diệt nước, bèn cho là thạnh nghiệp của sư. Sinh diệt được mất không hề toan tính. Chỉ nghi trước mắt vừa ý, không lo lắng về sau. Ta đã phá người khác thì người khác cũng phá ta, từ xưa còn như vậy, chẳng được không suy nghĩ. Chu Tổ cho rằng: Muôn đời thường còn cùng với trời đất đều thọ. Dò xét cùng tột hang núi vẫn còn chứa để. Giữ gìn tiết kiệm, ăn uống đạm bạc, tự khắc phục mình để khuyến khích thế tục, muôn đời chỉ có một người. Ngay năm đó vua băng, thái tử dùng đó. Đại Trương Văn Vật, Cao Trần thanh thế, tức khai mở Phật pháp, để theo tâm vui vẻ của trăm họ. Lại hiển bày tướng thù thắng, để bày tỏ oai hùng của đại quốc. Lập bốn Hoàng hậu, nêu tám trụ quốc, trước sau các thứ nghị vệ hầu, hàng ngũ gấp bội, mỗi thứ đều có hai mươi bốn. Hoàng vương từ xưa dự định. Lập nguyện tuyên chánh thiền vị cho con nhỏ. Bấy giờ, còn nhỏ tự xưng là Thiên Nguyên Hoàng Đế. Xuân thu giàu có, chưa cho táng thân. Chưa đầy một năm lại theo muôn xưa. Con nhỏ không lập, hậu phụ khống chế. Lịch di vận tùng tùy cao thọ thiền. Ngôi vị và tài vật của nước đều là tùy có. Đây có thể là sư mà không phải sư. Tùy tuy trọng pháp, tạo nhiều chùa tháp, còn như tài sự không đáng nói. Vì thế khiến chứa để ngũ cốc, vải lụa khắp trong nước, kho lẫm đầy đủ thật không thể tán thí. Cho nên cửa phước tuy mở mà vẫn còn, đến cuối đời vua dương đế, thiên hạ sục sôi, thành lũy kinh sợ, điện chớp sương giăng. Lúc mới lên ngôi, ca tụng đức của vua mà nói là muôn năm, sau lăng trì, tùng xẻo (một thứ hình phạt thời xưa. Giết phạm nhân bằng cách cắt chân tay xẻo từng miếng thịt cho chết). Hoặc mắng nhiếc mà nêu ra những tội lỗi. Kho lương thực mục nát không cùng, hình hài chấp nơi thần giặc, trăm quan khốn cùng nơi vị thủ lĩnh. Nêu đây để gồm nói không được cố chấp. Lời dạy của Phật tin thì sẽ nghiệm biết. Vì sao biết được kia như vậy ư? Từ xưa lên ngôi đều xưng to (vạn tuế), năm có muôn, ở đây có kỳ hạn. Huống giảm ở muôn thì triều nào lại không có. Vua trước đã không chấp ở vạn năm thì biết vua sau không vượt hơn đó. Đều chấp muôn năm, nay ở chỗ nào? Năm vận tập nhau có thể không phải là soi sáng. Đây là do minh hậu anh hiền, biết năm nhà quyết tán. Bậc thượng trí cao thức, xét ba kiên có thể tu. Tài của đã dùng như đuổi theo bóng, vật chưa dùng không thể cho kẻ oán người thân. Do đó đối với nước đối với nhà coi đó như tháo bỏ đôi dép. Hoặc tài, hoặc mạng bỏ đó như bụi trần, trang nghiêm tánh đức, khiến cho sớm đầy đủ pháp thân, thành tựu thiện căn, làm chiếc cầu vượt qua các cõi, đây là chí giáo. Còn lại các huyễn biết nói như thế nào, nên kinh nói: Kiếp thiêu cuối cùng, trời đất đốt cháy, Tu-di biển lớn đều là tro nóng, trời rồng người quỷ ở trong đó điêu táng. Hai nghi còn mất, nước có gì là thường. Pháp cú như thế có thể tìm chân thật.

Trừ kẻ phàm phu vốn chẳng có việc này.

****

Truyền Dịch, người Bắc địa Phạm Dương. Vốn ở Tây kinh, theo Ngụy chinh phạt Tề. Bình nhập Chu, làm quan Thông đạo quán. Đời Tùy, niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba cùng Lý Bá ở Trung Sơn làm Đạo sĩ. Đến năm thứ mười bảy, thờ Hán Vương. Từ kinh dời đến Kỳ châu. Hoàng vận ban đầu trao cho chức Thái sử lịnh.

Niên hiệu Võ Đức năm thứ tư, dâng sớ giảm bớt Tăng Ni, ích nước lợi nhà, sự việc có mười một điều. Cao Tổ nghe rốt cuộc không thực hành theo dịch. Truyền dịch bèn viết nhiều tờ biểu trạng truyền khắp xa gần. Các vị Tăng ở kinh đô soạn luận phá tà để chống đối Truyền Dịch, như ở sau có nêu. Tờ biểu của Dịch rằng: Tăng Ni sáu tuổi trở xuống bắt phải hoàn tục làm dân, thì binh lính mạnh, khuyến nông.

Kinh Dịch nói rằng: Nam nữ cấu tinh muôn vật hóa sinh, đây thì âm dương, cha mẹ, trời đất, đại tượng không thể trái. Nay Tăng mạnh khỏe, Ni khéo léo, thất lễ không lập gia đình, phá thai giết con giảm tổn nhân khẩu, cũng không cảm thương ư? Nay Đạo Phật trái với sự hóa của trời đất, nghịch với đạo âm dương, chưa thể được. Xin nương theo điều trước mà xét. Lão Tử là bậc chí Thánh còn yết kiến Đế vương, Khổng Tử là bậc Thánh còn lễ Tể tướng. Huống chi đạo nhân không có đức, nghĩa chưa dày, hạ nhẫn công khanh, chống đối Thiên tử. Nếu kẻ thần ngu thấy xin xếp đồng như đệ tử của Lão Tử Khổng Tử yết kiến vua quan trình bày nên triều điển. Dịch tâu như vậy, chưa đủ lý luận, xuất xứ khác đường, không thể nói một.

Kinh Dịch nói cấu tinh, Phật nói dứt dục. Vốn biết đạo môn của họ Lý tương kết sánh đôi ngày đêm cùng hội thuận dịch âm dương. Không thuận thì nào khác đạo Phật, nếu thuận thì kia vốn là hằng tục, làm sao học theo Tăng giữ thanh tịnh, dứt dục, vô vi. Dùng sự mà thảo luận thì triền miên tự hiển. Như trên đã nói, người mê chưa tìm xét.

Vả lại con cháu của Lý Nhĩ đầy khắp trong thiên hạ, Trương Lăng nối dòng rải rác khắp châu, Tổ tông để lại đâu có khác. Nếu khác với trước thì đây đã tuyệt tự. Trong ba ngàn tội không có tội nào lớn hơn tội tuyệt tự. Huống chi Huỳnh Thơ phục khí, kinh Tam Ngũ Cửu Thập, trên dưới hòa nhau, lời dạy bốn mắt hai lưỡi không thể tiêu trừ. Phật giáo không phải như vậy, dục là nguồn gốc của tội lỗi, việc đầu tiên của giới là dứt bỏ tham dục. Đây là phân đồ của đạo Phật. Người cao thức hãy lãnh hội điều đó.

Lại nói rằng: "Hãy đồng với môn nhân của Khổng Tử, Lão Tử yết kiến vua quan", không biết Truyền Dịch nói ra câu này, sao lại tự nêu lời chê bai tăng, cao ngạo với cha mẹ, chống cự vua không phải là trung hiếu. Vốn biết Đạo sĩ thường lễ bái vua và cha mẹ. Vì sao thấy Đạo sĩ theo Tăng kháng cự lễ, không thể tự giáo hóa những người đó, lại dùng phê bình người thật mà nói. Đạo sĩ do đến bái lễ yết kiến. Trộm hình lạm xuy lầm nhập bọn xuất gia. Pháp nghi trái lễ đây là khuôn phép của người xuất gia. Còn như y phục của Lý Lão vốn noi theo triều chương; mũ, giày giống Lan Đài Thái Sử; tiếp nhượng đồng nghi của đại phu. Vì sao môn nhân chống đối ngôi vị của tiên sư, kính mến pháp của Sa-môn đều không thể được. Từng gặp chính sách khoan hồng trí, chẳng trói buộc, dùng pháp để nghiêm trị tội thì chỗ nào trốn tránh được.

Nhưng Truyền Dịch dâng sớ tạp loạn có kinh điển, hoặc nói tà pháp của Hồ Phật trở về Tây Vức; hoặc nói: Ba muôn hộ châu chì còn một chùa, không đủ để xét.

Mười một điều trong sớ dâng của Truyền Dịch là:

1- Đời Đại Đường, số Tăng Ni khỏe mạnh gồm hai mươi vạn người, cùng kết tâm Hồ, có thể không đủ để dự bị. Một cặp vợ chồng một năm sinh mười vạn đứa con đây là cách tính xưa của Lưu Sinh. Không cần trình bày, như ở trước nêu. Đây thì người nữ mang áo giáp, đàn ông cầm binh khí, nhử bọn giặc gánh vác việc nước, làm sao có thể cười được. Vào đời Đại Đường, chùa chiền kinh sách Phật đạo, hai chúng chưa đầy bảy vạn, sao dám dối gạt dâng sớ lên vua chỉ có hai vạn. Đây là tự hình không nhọc chỗ khác.

2- Chùa làm bằng cỏ bằng đất thì Tần Hoàng, Hán Võ cho là vua có đức. Bởi đạo Phật buông lung xa xỉ, chùa tháp tám vạn bốn ngàn, đây đối với trong nước thì tăng gấp bội. Mười trăm thứ dân lo nghĩ tội đã qua, mưu tính phước sắp đến. Nói dối cõi trời bậc nhất, nguyền rủa người Trung Hoa. Còn như Tần Hoàng, A-cát, Hán Võ cam tuyền. Cổ tích, cung quán không quá mười số. Sử quán thư hiệu là vô đạo, không hề nói Phật vô đạo, lại dẫn lời nói ba lần phá của Trương Dung, rộng như trong tập trước đã ghi, nay cũng nêu rõ lại. Sự giáo hóa của Phật là nương gốc cây làm nhà, thân hình có gì liên lụy thì quyền khai nhà nhỏ. Chùa tháp cao rộng là do người có tín tâm xây dựng, cầu xin phước điền chứ chẳng phải do chúng tăng xây dựng. Còn như quả báo cõi trời, địa ngục, thiện ác có khác nhau. Phẩm loại phân biệt thăng trầm không giống nhau. Không biết đạo đã trải qua cũng nói địa ngục. Cần phải xem xét có bao nhiêu cõi trời, địa ngục thế nào v.v... Vì thế nói bộ hư rằng: Trời người đồng nguyện kia, phiêu diêu vào tử vi. Thất tổ sinh lên cõi trời, thân ta bạch nhật thăng thiên, như đây chẳng phải một là nói về cõi trời. Không cho Tăng v.v..., đây là lỗi của ai ư?

3- Xin giảm chùa tháp thì dân an nước trị, câu này ý của Phó Dịch cho rằng: Yêu Hồ dối nói phước tạo chùa, kẻ ngu phu tin theo đó mà xây dựng chùa tháp. Chùa nhỏ thì một trăm vị Tăng, chùa lớn hai trăm vị Tăng. Dùng binh suất năm chùa hợp thành một phái. Tính chung các chùa, binh nhiều sáu quân, tâm tổn thức ăn của nhân dân, quốc gia đại hoạn. Yêu cầu ba vạn hộ châu chỉ còn một chùa. Lại dẫn từ xưa đến nay Tăng phản lại có hơn mười điều. Bọn hung đãng đến nay vẫn còn, cần phải trừ sạch hết Hồ khí. Trong giáp tuần vũ trụ rộng lớn thanh tịnh. Phó Dịch tâu lên vua như vậy. Vọng thuật binh nhiều. Lúc đó, hai chúng không đủ bảy muôn, một nửa là ni chúng, đâu bằng sáu quân của đại quốc ư?

Lại nói rằng: Tăng hung đãng vẫn còn, Tăng nghịch là chỗ câu nệ của thế tục. Một thân độc lập làm sao động chúng được. Dẫn bừa lời trau chuốt giả dối, loạn tục dối vua, trời đất không dung tha, nên sớm bị hoại diệt. Lại gồm nói. Thần giặc, sứ hung đời nào cũng có, đương quan trược lạm thời nào không có. Nghiêu phát ra bốn hung chẳng phải do thờ Phật. Vua Nghiêu đã tuyệt tự há là Tăng phong. Không thể do một tuần nghịch mà tiết cử sớm đồng chết. Một vị Tăng làm lỗi mà toàn tông bị diệt. Truyền Dịch tâu tờ trạng trông mong y theo đó thực hành. Rõ ràng thành quần thể cho nên dứt lời bàn luận ấy.

4- Tăng Ni mặc áo vải, ăn uống tiết kiệm thì người nghèo không đói khát, tằm tơ không bị chết. Thần nghe Phật dạy Tăng Ni mặc y phấn tảo dùng bình bát năm lằn nứt, giữa ngày ăn một bữa, ngồi một mình trong núi, ở chỗ vắng thiền tụng. Đây là chương pháp của Phật. Nếu giết làm để lấy tơ may áo thì trong giới của Phật không cho. Nay thì biết lý Phật luống dối nên sinh trái phạm. Còn lại thì dùng lời mắng nhiếc thậm tệ. Không đáng nghe.

5- Dứt chỗ ở của Tăng Ni, chứa lợi thì trăm họ đầy đủ, tướng sĩ đều giàu có.

6- Đế vương không Phật thì đại trị lâu dài. Có Phật thị nghịch chánh ngắn ngủi.

7- Phong giáo Chu Khổng, tặng cho Tây Vức, Hồ quyết không thực hành.

8- Gồm luận về Phật pháp dối nhiều, thật ít.

9- Ẩn nông an tượng, trong nước giàu dân mạnh.

10- Đế vương thọ mạng đều đổi chánh trị trước kia.

11- Lời nói thẳng, lời can ngăn trung thành phát ra từ miệng họa đến thân kia.

Mười một điều này giải thích rộng thì rất nhiều, ở đây chỉ nêu lại lời đại khái đồng với các giải thích khác, Cao Tổ xem rồi rất vừa lòng, hạ chiếu phế bỏ chùa tháp ở các châu. Đến ngày mồng 4 tháng 6 năm thứ chín, vua nói rằng: Lời tâu quá thẳng như vậy sợ giết người, từ nay về sau chớ sợ.

Niên hiệu Trinh Quán năm thứ sáu, lại dâng sớ, khiến Tăng thổi loa không cho đánh chuông.

Lại nói: Phật pháp yêu ngụy. Sắc chỉ Túc Vũ.

Vụ nói: Phó Dịch không phải là bậc Thánh, không có pháp.

Dịch phản đối rằng: Từ đời Tiên tổ của Vũ đến nay không thờ tông miếu, chỉ tôn sùng Hồ quỷ, chẳng phải hiếu ấy thì không thân. Từ khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa cho đến nay, kẻ sĩ thấy cao xa có phản đối lời bàn của kẻ yêu hoặc kia là do các bậc cao thức, truyền v.v... Phó Dịch biết được điều này, nói rằng: Cao Tổ nghe theo lời nói kia mà phế bỏ chùa, đây là vu khống vua. Há có năm thứ tư thờ kính, năm thứ chín mới phế bỏ giảm bớt chùa tháp ở các châu. Cuối cùng không có chiếu này, làm sao mà tin được. Một điều không thật thì muôn điều cũng có thể như vậy. Sau khi Phó Dịch chết, xuất bản truyền bá đó, lời nói tuy sửa lại chiếu chỉ mà không có mạng để chết.

Lại nói: Dâng sớ không cho đánh chuông, đây là vọng làm.

Kinh nói rằng: Đánh trống răn dạy binh, đánh kiền chùy nhóm chúng.

Lại nói: Đánh tiếng chuông Phật, đây chẳng phải là giáo pháp ư?

Lại nói: Túc Vũ thờ tông miếu, chỉ thờ Hồ Phật, đây là khinh khi Tể Bá.

Sách đời Lương chép: Cao Tổ cúng bảy miếu, mỗi khi cúng tế nước mắt nước mũi chan hòa, ở đây sao lại nói vậy.

Nay Kinh đô hai nơi Đông Tây đều có Tông miếu, bốn mùa hưởng cúng tế, Hương dâng ngang mày, nghĩa không lạm nghe, rộng soạn truyện này, lại đáng tức cười. Chỉ có thể luống dối, theo bọn tiểu thức, chưa đủ để nêu bày Trung Hoa. Tiếc thay tịnh thức một phen theo nhiễm ô sẽ bị trầm luân, làm sao có lúc phản tỉnh. Ở trước đã nêu người cũng như trước nói về hưng vong Thái Bán, tùy loại rõ đó.

Kiểm Đường lâm minh báo ký v.v... Thái Sử lịnh Phó Dịch (?)

Từ đầu niên hiệu Võ Đức đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bốn, thường chê bai Phật và Tăng, vào mùa Thu năm đó bị bệnh nặng chết.

Ban đầu, Phó Dịch cùng Đạo sĩ Phó, Nhân Quân là Tiết, Trách cùng hành thiện. Sau Phó Tiết đều lãnh thọ chức quan. Nhân Quân chết trước. Trách nằm mộng thấy Quân hỏi rằng: Tiền nợ lúc trước giao cho người nào?

Trách hỏi: Ai đó?

Quân trả lời: Phó Dịch đây.

Đêm đó Thiểu Phó y theo Trường Mạng lại mộng ở nơi khác, thường thấy việc chết lúc trước. Trường Mạng hỏi việc tội phước trong kinh Phật có thật chăng?

Đáp: Chắc chắn có thật.

Lại hỏi: Như Phó Dịch bình sinh không tin Phật chết sẽ bị quả báo thế nào?

Đáp: Phó Dịch đã đến Việt châu làm Nê nhân.

Trường Mạng sáng mai vào Điện Đình, gặp Tiết. Trách hỏi về việc đã thấy trong mộng. Trách trình bày cho Mạng nghe. Thế là hai giấc mộng phù hợp. Đến cùng nhau than thở. Trách liền đem tiền giao cho Dịch và nói việc nằm mộng cho Dịch nghe. Sau vài ngày Dịch chết. Xét ra Nê nhân là người trong Nê lê. Nê Lê là tên khác của địa ngục. Tám địa ngục lớn ở dưới đất. Còn các ngục khác rải rác ở núi ở biển mà chịu khổ, thật là đáng thương!

QUYỂN 8

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 4)

- Chiếu chỉ dẹp tượng, đốt kinh, chôn sống Tăng. Ngụy Thái Võ.

- Nhóm họp đạo tục, phế lập hai giáo nghị của Châu Võ.

- Luận Nhị giáo-Thích Đạo An.

****

- Ban chiếu chỉ dẹp tượng, đốt kinh, chôn sống Tăng của Thế Tổ Thái Võ Đế đời Nguyên Ngụy.

Vua húy là Hy, lên ngôi vào thời Minh Nguyên Đế niên hiệu Thái Thường thứ tám, lúc mới lên tám tuổi, còn thơ ấu, việc tư chánh sổ do chỉ nhờ vào Thai Phụ.

Lúc bấy giờ, Tư Đồ Thôi Hạo không tin Phật. Vua đến hỏi thăm về quốc sự, Hạo thường nói Phật pháp luống dối hoang đường làm cho thế tục phung phí và tai hại. Huỳnh Lão Tiên đạo đáng lưu tâm. Hạo đã quá tin đạo tiên, bèn trao cho vua các kinh, vua nghe theo lời Hạo tin dùng không hề phân biệt, liền lập đạo tràng, bốn phương tìm phương sĩ.

Đương thời Phật pháp hưng thạnh, Hạo rất ganh tỵ thường tìm sự xích mích. Cùng Cái Ngô phản nghịch ở Hạnh Thành. Quan trung bị quấy nhiễu, vua bèn chinh phạt. Lúc đó, Hạo đi theo. Đã đến Trường An, có Sa-môn Chủng Mạch ở trong chùa. Vua đến có quan ra tiếp đón dẫn ngựa. Vua vào xem, Ngựa cũng theo quan vào. Thấy trong phòng Tăng có cung tên. Trở ra tâu vua, vua giận nói rằng: Những vật này không phải đồ dùng của Samôn, bèn cho rằng Cái Ngô thông âm mưu hại người mà thôi. Ra lệnh cho quan Hữu Ty trừng phạt cả chùa, xem xét tài sản trong chùa, và thâu giữ những vật cho nhà giàu đã gởi cất trong các châu quận. Đã dùng muôn kế. Ra chiếu chỉ đốt phá tượng Phật, chỉ để lại Đài Hạ. Bốn phương đều y theo Trường An mà hành sự.

Niên hiệu Thái Bình Chân Quân năm thứ năm, vua được hai mươi chín tuổi. Xuân Thu mới thạnh nhờ Võ Công. Thôi Hạo âm mưu cùng nhau giao phiến phương sĩ. Tiên Quán Nhật có đến, chúng thanh tịnh của đạo Phật đều bị giết hết.

Lại hạ chiếu rằng: Ngu dân không biết tin theo yêu ngụy. Tư dưỡng Sư vu khống tàng sấm ký, học trò của Sa-môn lợi dụng sự hoang đường của Tây Vức, dẫn đến yêu nghiệt. Không phải là lý do nhất tề chánh hóa, ban bố thuần đức khắp trong thiên hạ. Từ Vương Công trở xuống cho đến thứ dân, có ai tư dưỡng Sa-môn thì hạn chế đến ngày rằm tháng hai năm nay, quá kỳ hạn này mà còn tư dưỡng thì chính thân bị giết. Nếu còn thì giết một nhà.

Lúc bấy giờ, Cung Tông làm Thái tử Giám Quốc, rất cung kính Phật pháp. Thường dâng sớ trình bày việc hình phạt giết chết Sa-môn, lại chẳng phải là tội của việc vẽ tượng. Nay bỏ đạo Lão theo cửa chùa, đời không tu phụng. Đất và cây cối tuyệt vời tự nhiên hủy diệt. Như vậy hai, ba lần không được bằng lòng. Lúc đó, có Sa-môn Huyền Cao, một vị lỗi lạc của đạo Phật là Thầy của Thái tử Quang. Quang cung kính như Phật. Thôi Hạo may mắn được lòng vua, sợ Quang nhiếp chánh, hoặc gặp ách nạn. Lén gièm pha với vua rằng: Quang có mưu lạ, nếu không lo trước thì sau hối hận không kịp. Quang kết nạp Huyền Cao. Cao lại thông linh quỷ vật khéo được tâm người, không thể nghi ngờ? Vua ban đầu không theo, dần dần sâu xa ẩn khuất, lại mộng thấy Tiên Tổ nói rằng: Thái tử vô sự, lại hỏi trăm quan, đều đáp là Thái tử có hiếu, luống gặp u nhục. Vua bèn cho Quang quy y chánh đạo Thôi Hạo lại gièm pha, vua tin liền giam chết Thái tử Quang trong cung cấm, treo cổ ở Giao Nam, Thôi Hạo đắc chí với triều đình. Các quan không dám nói lời nào cả.

Đến tháng ba, niên hiệu Thái Bình Chân Quân năm thứ bảy, vua hạ chiếu tất cả trừ diệt hết. Chỗ nào có hình tượng kinh Phật đều đập phá thiêu hủy, Sa-môn bất luận lớn nhỏ đều chôn sống hết. Đây đều do ý kiến của Thôi Hạo đưa ra. Về sau vua bị bệnh hủi rất khổ não, Thôi Hạo bị giết. Than ôi! Đau đớn không thể nói được. Sự tích như trong phần "Thích Bảo Chí" có nói rộng.

**** Chu diệt Phật pháp, nhóm họp đạo tục bàn việc. Chu Cao Tổ có tâm ganh tỵ, hay oán hận hiềm thù. Quan Tể Tướng nước Tấn là Công Hộ quyền hành trăm quỹ quyết thông thứ chánh. Vua ganh ghét, sợ chiếm đoạt ngôi vua, bèn kêu Hộ vào nội cung, chính tay vua giết chết. Cùng Đại thần sáu nhà đều diệt hết gia tộc. Vua cho đó là đắc chí trong thiên hạ, không có gì lo lắng, nhưng trong tâm rất tin Sấm Vĩ (sự chiêm nghiệm tốt xấu).

Từ xưa truyền rằng Hắc giả được đó. Nghĩa là có Hắc tướng (màu đen) sẽ được thiên hạ. Dụ như Hán Mạt nói dối rằng áo vàng sẽ làm vua do tượng của Huỳnh đại xích thừa vận. Nói hắc cũng vậy. Do đó, Chu Thái Tổ hiệp Ngụy tây bôn, y vật cờ xí đều biến thành màu đen, là do nghe theo lời nói ngoa sấm này. Đây cũng là dư mạng của Hán Quang Vũ.

Xưa có Cao Dương khai mở vận nước Tề, thế tục cũng có lời bịa đặt này. Dương nói Hắc là Thiền sư Trù Thiên tử áo đen, phải đem giết.

Hiểu được Thiền sư Trù trí thức cao xa, chứng ngộ mà được khỏi tai họa, đầy đủ như trong phần biệt thuyết. Vì thế, Chu Tổ bất nhiễm đầu tôn trọng Phật pháp, kính lễ Sa-môn. Đều mặc áo vàng cấm màu đen. Có Đạo sĩ tên Trương Tân lừa lọc vu khống vua, lén thông đồng với bọn giặc kia, cho rằng đạo Phật màu đen là điều cấm kỵ của nước, đạo Lão màu vàng là điềm lành của nước. Vua nghe lời này, tin đạo Lão khinh đạo Phật, chính thân thỏ Phù lục, thân mặc áo mũ của đạo Lão.

Có Tiền tăng Vệ Nguyên Tung răng môi sứt mẻ, hoặc động lòng vua rằng: Tăng phần nhiều biếng nhác, tham cầu tài thực, không có tư cách để tôn trọng.

Vua mời một trăm vị Tăng vào nội cung hành đạo bảy đêm. Bấy giờ, đã biết được càng gia tâm khẩn cầu chí thiết. Vua cũng ngủ với Tăng, dò xét được mất, hoặc đọc tụng với Tăng, hoặc tán tụng lễ sám. Tăng đều kính trọng ngạc nhiên việc làm vi diệu của vua. Đã mãn kỳ hạn, không sao dừng nghỉ. Đến niên hiệu Thiên Hòa năm thứ tư nhằm ngày 15 tháng 3 năm Kỷ Sửu, vua ra chiếu chỉ mời chúng Tăng có đức, các vị danh Nho, Đạo sĩ văn võ, bá quan tất cả hơn hai ngàn người. Vua đến chánh điện so lượng thuật của ba giáo. Cho rằng Nho giáo là trước, Phật giáo sau, Lão giáo tối thượng. Do ở trước đã nêu ra các vị vô danh nêu vượt hơn thiên hạ.

Bấy giờ, ý kiến thảo luận đều phân vân thấy trái lỗi, không định mà giải tán.

Đến ngày 20 tháng đó, nương theo "Tập Luận" trước phải trái có nói rộng, không phân biệt tâm vua. Vua nói: Nho giáo, Đạo giáo (Lão giáo) nước này thường tôn trọng, Phật giáo sau này ý trẫm không lập, ý kiến mọi người như thế nào?

Lúc đó, bàn luận rằng trình bày lý không phải lý do trừ bỏ. Vua nói: Ba giáo giúp thế tục, nghĩa không thể đầy đủ.

Đến đầu tháng tư, lại y theo lập luận trước, phải cùng tột trình bày lý không được phụ họa theo.

Lại ra sắc chỉ cho Tư Lệ đại phu Chân Loan xem rõ hai giáo Phật, Lão. Quyết định sự cạn sâu, phân biệt chân ngụy giữa hai giáo này.

Vào niên hiệu Thiên Hòa năm thứ năm, Chân Loan bèn dâng "Luận Tiếu Đạo" ba quyển, để giễu cợt tên Tam Đổng.

Ngày mồng 10 tháng 5, vua nhóm họp các quan đến xem luận của Chân Loan dâng lên. Các quan cho là tổn thương đạo pháp, vua nghe theo. Không đợi lâu liền đốt tại điện đình. Lúc đó, Pháp sư Đạo An lại dâng luận "Nhị giáo" tức nội giáo và ngoại giáo luyện thuật về tâm gọi là Tam thừa tức nội giáo. Dạy thuật về hình gọi là Cửu lưu tức ngoại giáo. Đạo không có giáo pháp khác tức ở Nho lưu. Đây chính là chỗ khiêm nhường của kinh dịch.

Vua xem luận rồi, hỏi các quan trong triều, không có ai chống đối, vua bèn đi ngủ.

Năm năm sau, đến niên hiệu Kiến Đức năm thứ ba nhằm ngày 17 tháng năm Giáp Ngọ, vua ra sắc chỉ dứt bỏ hai giáo: Đạo Phật và đạo Lão, Sa-môn và Đạo sĩ đều phải hoàn tục. Phước tài Tam bảo phân tán và cấp cho các Thần hạ. Chùa, Quán (nhà thờ của Đạo sĩ), tháp, miếu thưởng cho Vương hầu Công tước. Còn lại như trong phần nói riêng.

Bấy giờ, Vệ Vương không chịu được việc đó thẳng vào cung thiêu đốt hóa môn, vây đánh vua không được, lui về Hổ Lao, bắt vào cung, cha con gồm hai mươi người, những người đồng âm mưu đều bị giết hết.

****

Luận Nhị giáo (luận về hai giáo) của Sa-môn Thích Đạo An.

- Thứ nhất: Quy tông hiển bổn.

- Thứ hai đạo Lão, đạo Nho thăng giáng.

- Thứ ba vua làm giáo chủ.

- Thứ tư gạn nghiệm hình thần.

- Thứ năm Tiên khác Niết-bàn.

- Thứ sáu sự hơn kém giữa đạo và Tiên.

- Thứ bảy Khổng Tử, Lão Tử không phải Phật.

- Thứ tám Thích khác đạo lưu.

- Thứ chín pháp phục không phải đạo Lão.

- Thứ mười nói về kinh chân ngụy.

- Thứ mười một giáo chỉ thông và hạn cuộc.

- Thứ mười hai y theo pháp dứt nghi.

****-Thứ nhất: Quy tông hiển bổn.

Có Đồng tử Dật Tuấn ở Đông Đô hỏi tiên sinh Thông Phương ở Tây kinh rằng: Tôi là kẻ phong lưu khuynh đọa, do đó sáu kinh biên soạn, càng thêm sự khoe khoang, hai kinh tác thuật, nên làm cho mọi người tin phục, khắp thấm nhuần muôn vật, cứu giúp tất cả gọi là đạo Nho. Dùng đó không thiếu đối muôn vật quyết thông gọi là đạo Lão. Đây đều là thần công của Khổng Tử và Lão Tử, có thể được rõ ràng.

Gần đây, xem giáo pháp của đạo Phật, văn rộng nghĩa phong phú. Xem rất hấp dẫn, chắc chắn khéo dẫn dắt mọi người. Mục đích của ý thú kia là gắng gỏi thêm tốt. Song ba giáo tuy khác, nhưng khuyên người làm việc lành thì nghĩa chỉ một. Thành tích thì khác mà lý hội thì giống nhau. Còn Lão Tử than thở thân hoạn, Khổng Tử than ra đi không tranh luận, cho đến tồn sinh. Cảm đến để biết vật hóa. Nào có khác với thuyết nhàm thân vô thường của kinh điển đạo Phật, nếu câu trệ chưa theo đuổi đến chỗ cao quán, không thể bằng trời đất nơi một ngón tay, đồng phải quấy ở một khí (một hơi thở). Đến nỗi khiến cho chỗ bàn luận thường có những điều không giống nhau. Đây tức cái gọi là giấu Ma-ni trong thai trứng, che ánh sáng trong đêm dài. Trương thuần phong không hai, lấp huyền chỉ rỗng suốt. Cầu đó càng lâu, đâu thể gặp được ư?

Kính thỉnh tiên sinh mở bày cho.

Tiên sinh Thông Phương nói rằng: Lời hỏi của ông có vẻ cảm kích, có thể nói cùng nhưng chưa hết lý. Tôi tuy không sáng suốt, khể nghi thượng quốc. Khâm phục linh chương đào phong hạ lưu. Nay sẽ vì ông tóm lược tiết yếu kia: Muôn hóa vô sinh mà sinh. Sinh mà vô sinh. Ba tài triệu vô thỉ mà thỉ, thỉ mà vô thỉ. Nhưng tánh của vật vô sinh vô thỉ có tụ của người có hóa có sinh. Tụ tuy một thể mà hình thân có hai thứ khác nhau. Tán tuy tánh chất riêng mà tâm có số không mất. Vì thế giáo pháp cứu hình, giáo pháp này gọi là ngoại. Kinh điển giúp thần, kinh điển này gọi là nội. Đây là dùng trí độ có hai kinh nội ngoại. Nhân Vương nói hai luận nội ngoại. Phương Đẳng nói hai luật nội ngoại. Bách luận nói hai đạo nội ngoại. Nếu thông luận nội ngoại thì bao gồm Hoa và Di kia, nếu hạn cuộc thân ở phương này thì có thể gọi là đạo Nho, đạo Phật. Phật giáo là nội, Nho giáo là ngoại, bày đủ Thánh điển không phải là hoang đường. Chép rõ trong sách hãy nghiên cứu thảo luận nguồn gốc kia. Giáo chỉ có hai đâu được có ba. Sao lại tích huyền cổ phác tố, phần điển chưa mở mang. Thuần phong vừa lìa văn Khưu Tác có chép. Vì thế gồm luận bảy kinh, bao gồm chín dòng, du là mưu trị quốc, là thuật để tu thân. Cho nên Nghệ Văn Chí nói rằng:

(1) Nho lưu: Bởi phát xuất từ quan Tư Đồ, giúp người thuận âm dương, rõ giáo hóa. Văn ở trong sáu kinh, lưu ý ở năm đức. Noi theo Nghiêu Thuấn, Hiến chương văn võ, Tông sư Trọng Ni, đạo kia rất cao.

(2) Đạo giáo lưu: Bởi xuất xứ từ Sử quan, thanh hư để tự giữ, thấp kém để tự trì. Quân nhân đây là thuật của Nam diện, hợp với sự khiêm nhường của vua Nghiêu, nhịn nhường của kinh Dịch. Đây là sở trước kia.

(3) Âm Dương lưu: Bởi xuất xứ từ quan Hy Hòa. Tánh thuận trời, lịch tượng, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, kính thọ dân thời. Đây là sở trước kia.

(4) Pháp gia lưu: Bởi phát xuất từ Lý Quan. Tin thưởng, sẽ phạt để giúp cho lễ chế.

Kinh Dịch chép: Tiên Vương cho là minh phạt sắc pháp, đây là sở trường của lưu này.

(5) Danh gia lưu: Phát xuất từ lễ quan. Xưa ấy danh vị không lễ cũng khác dị số.

Khổng Tử nói: Là quyết, chánh danh ư? Danh không chánh thì lời nói không thuận. Lời nói không thuận thì sự không thành. Đây là sở trường của lưu này.

(6) Mặc gia lưu: Xuất xứ từ quan Thanh miếu.

Nhà tranh, đây là do quý kiệm. Dưỡng ba lão năm canh, đây cho là kiêm ái. Lựa sĩ đại xạ, đây cho là Thượng hiền. Tông tự nghiêm phụ, đây cho là có quỷ. Đây là sở trường của lưu này.

(7) Tung hoành lưu: Phát xuất từ quan Hành nhân. Khổng Tử nói: Tụng trì ba trăm sử ư? Bốn phương không thể chuyên đối. Tuy nhiều cũng đâu cho làm. Lại nói: Sử ư! Sử ư! Nói kia đương quyền sự chế nên thọ mạng mà không thọ lời. Đây là sở trường của lưu này.

(8) Tạp gia lưu: Phát xuất từ quan nghị: Gồm Nho lưu và Mặc lưu, gồm danh pháp. Biết lễ của nước có đây, thấy vua trị mà không thông suốt. Đây là sở trường của lưu này.

(9) Nông gia lưu: Phát xuất từ quan Nông tắc, gieo trồng ngũ cốc, khuyên cày ruộng, trồng dâu để đủ ăn đủ mặc. Vì thế tám chánh: Một là thực, hai là hóa. Đây là sở trường của lưu này.

Nếu nói về phái thì khác, nên có chín giáo. Nếu hợp chung thì đồng thuộc về Nho tông nói về quan kia thì đều là một chức của Vương triều. Nếu nói về sách kia thì đều là một thư tử của Hoàng gia.

Muốn đối trong một đời khiến chín lưu tranh xuyên đại đạo, khiến nhỏ thành tranh biện. Há chẳng phải trên tổn thương phong cách của Hoàng cực không hai; dưới khai mở cái tệ của sự hạn cuộc buông lung, biếng nhác. Thật cái gọi là con đường rộng lớn soi sáng trong triều ngoài nội.

Phật giáo là cách ngôn của cùng lý tận tánh, là vết xe của người xuất thế nhập chân, nói về văn ấy thì chia ra mười hai bộ. Nói về ý chỉ ấy thì bốn món tất-đàn. Trong chỗ lý nhiệm mầu đó danh hiệu không thể bì kịp. Trong hóa thiện tình trí không nghiên cứu được còn việc để lại nôm thì đào thần đều chiếu gần thì vượt sinh tử, xa thì chứng Niết-bàn. Mở mang năm thừa, dắt dẫn chỗ cạn sâu của các cơ, gồm nói sáu độ phân biệt việc nổi chìm trầm của thiện ác.

Lý không đâu chẳng cùng khắp. Gần đây, Vương hóa mà sự không đâu chẳng bao gồm. Có thể rộng, có thể tóm lược, không chất không văn, tự chẳng phải là chỗ lo của thiên hạ, ai có thể cùng giáo pháp này chăng? Tuy Nho đạo ngàn nhà. Mặc, Nông một trăm họ, lấy bỏ bôn ba cũng chưa vượt qua giáo pháp kia được. Chỉ có giáo pháp của họ Thích (đạo Phật) lý giàu quyền thật. Có bất liễu nghĩa là quyền, liễu nghĩa là thật. Gồm nói là khéo dẫn dắt, sao thành diệu thưởng. Ông cho rằng: Ba giáo tuy khác mà khuyên làm lành thì đồng một nghĩa.

Tôi cho rằng thiện có tinh thô, hơn kém khác nhau. Tinh thì vượt một trăm hóa mà thăng cao. Thô thì luân hồi trong chín cõi mà chưa dứt. Đâu thể đồng năm mà nói sự hơn kém đó.

Lại nói: Giáo tích thật khác mà lý hội thì đồng. Dẫn lời dạy ở đời để phù hợp với giáo pháp nhiệm mầu. Đây bởi mờ mịt hoang đường chưa đến chỗ căn bản kia. Giáo ấy là gì? Nghĩa là giải thích lý. Lý ấy là gì? Là sở thuyên của giáo. Nếu giáo có khác thì lý đâu được đồng, nếu lý quyết đồng thì giáo đâu khác được. Cái nôm không bắt được cá, lưới không bắt được thỏ. Toan cho là danh ư? Lý đồng an tại. Phu hậu sinh tình, dốc thân lo lắng, nói lời răn bảo. Không rõ sự dời đổi, than thở sự chết chóc mà khởi lời than vãn. Đều là chí đàm của phương nội. Thiết tưởng không phải là cự xướng của du phương. Vì sao tìm tòi sắc ở khắp cực vi. Chỗ chưa phân biệt được của Lão Tử, nghiên cứu tâm cùng tột nơi sinh diệt Tuyên Ni chưa nói được, có thể gọi là nhìn thì dường như hết mà quán xét kỹ thì chưa cùng tột. Vì thế kinh Niết-bàn chép: Phân biệt sắc tâm có vô lượng tướng, các Thanh văn Duyên giác chẳng thể biết được. Thanh văn và Bồ-tát đều vượt ra khỏi chỗ vọng tưởng. Bồ-tát thì ân huệ gồm chín cõi, Thanh văn thì riêng thiện một mình. Kia dụ như sương móc mà so sánh với sông biển; vi trần mà so sánh với núi Tu-di. Huống chi thức tưởng của phàm phu sao cho bằng được ư? Vì thế kinh Tịnh Danh chép: Không thể cho rằng: ánh sáng của mặt trời đồng với lửa con đôm đốm. Nếu cho là bằng mà bằng không bằng ấy là chưa bằng. Cho là bằng mà bằng thì chưa bằng ư? Tôi nghe khéo bằng thiên hạ ấy là do không bằng mà bằng thiên hạ. Sao cần phải san bằng núi cao lấp đầy vực sâu, sau đó mới bằng phẳng. Nối đây cắt kia mới bắt đầu đây bởi sự bàn luận quê mùa của kẻ hẹp hòi đâu phải sự quán sát tinh thành của người thông suốt.

Vì thế Ngạn ngữ nói: Tím thật tối hơn đỏ, cuồng lạm triết kia. Xin xem rộng loại kia để hiểu rõ. Trên đến Thiên tử dưới đến thứ dân, đâu không nương vào sắc tâm để thành thân, bẩm thọ âm dương để hóa thể. Không thể cho sắc tâm là đồng mà xen lẫn cho là trí ngu. Đâu được cho âm dương nghĩa đồng mà khiến đồng với sang hèn. Đây không thể đến lý rõ ràng, tuy gượng nói là bằng mà nghĩa kia vẫn còn.

-Thứ hai: Sự lên xuống của đạo Nho, đạo Lão. Nho thông sáu điển. Đạo (Lão) chỉ có hai thiên. Hai việc thăng giáng nêu đủ bốn sử.

Hỏi rằng: Sự trong đục của tiên sinh và sự trong đục của đạo Phật không dính líu gì cả. Nho, đạo lấy bỏ rất xen lạm. Sử thiên sáu họ, đạo Lão là trước. Ban Cố chín lưu Nho tông là trên. Thảo luận nói theo kia đến có thể mạng gia. Luận hiến chương kia chưa trái điển thức. Muốn nói đều sai tình cho là chưa thể, cho kia đều đúng sao phải bỏ lấy.

Đáp: Xóa bỏ khuôn phép thì trái thuận chẳng thể không quy về, giữa đỏ và tím có một khoảng cách.

Mười chí trong Hán thư đều là phép tắc xưa. Năm hành trong Nghệ văn đâu phải nay mới có. Nông là trị bổn, sử thiên không nói, đâu bỏ ngang dọc, quan điển đều lậu. Vì thế, Mạnh Tử kiên cố soạn thuật. Nay xưa phô trương kia là phải. Luận của Tử Trương thấy điều sai, thế nên Tiền Hán Thư nói: Thứ tự sách của Sử Thiên thì trước là Huỳnh Lão, sau là sáu kinh. Luận về hào hiệp thì lùi xử sĩ tiến gian hùng. Nói về hóa sinh thì tôn trọng thế lợi, coi thường bần tiện. Đây là tệ kia.

Hậu Hán Thư nói: Thái Sử khiến Tư Mã Thiên sưu tầm tả dân quốc ngữ bỏ bớt thế bổn. Sách chiến quốc y cứ theo sách Xuân Thu của Sở Hán nêu bày thời sự. Trên từ Huỳnh Đế, dưới ngật hoạch lận. Làm bổn kỷ ba mươi nhà nêu truyện. Thư biểu gồm một trăm ba mươi thiên nhưng thiếu mười thiên. Còn việc tìm kinh soạn truyện phân tán mười nhà, rất nhiều sơ lược không bằng bổn kia. Muốn nghe nhiều chép rộng làm công, luận nghĩa cạn cợt không thuần nhất, luận kia là thuật học. Tôn sùng Huỳnh Lão, coi thường năm Kinh, khinh nhân nghĩa, coi thường thủ tiết. Đây là chỗ quá tệ làm tổn thương đạo, lỗi của cực hình.

Lại trong Tấn thư lễ nghĩa chí ghi rằng: Đời xưng Tử Trương sử ký kỷ mà không cùng khắp. Kỷ nghĩa là bát cổ viễn đạt, không cùng khắp nghĩa là tệ đối với Nho, Đạo. Nho, Đạo (Lão) đã tệ thì Thánh giáo không hưng thịnh, sao vua mến đó. Trọng Đạo (Lão) bỏ Nho hoặc loạn thiên hạ. Biến phong hủy tục, khiến cho Ngụy, Tấn cho là lăng trì. Tứ Di giao xâm Trung Quốc. Đây đều là văn của bộ Quốc Sử Thật Lục. Đâu thể so sánh được mất kia. Nêu rõ trong Điển chí. Thư xả thăng giáng nào có can dự đến hoài bão thấp hèn.

Hỏi: Giáo pháp của Lão Tử là tu thân trị nước, bặt khí quý thượng. Nói về đại đạo thì nguồn gốc của ba tài. Nói về thượng đức thì căn bản của năm việc: Dụ như thành tạo của Đào Cai; ví như chỗ không cùng của tiếng kèn, vì sao Tiên sinh ức chế Nho giáo.

Đáp: Tôi nghe điềm chí đại hòa không chuyên biến thường. An thời xứ thuận không cầu phản cổ, cho nên kinh Thi nói là không. Diễn chẳng quên suất do chương xưa, Nghệ văn hạnh thành, kinh Dịch rất ưu. Chúng ta cho rằng: Lão cùng kinh Dịch sao bằng. Xưa Mật Hy Thị ngước lên xem tượng trên trời, cúi xuống xét pháp dưới đất. Gần thì giữ các thân, xa thì lấy các vật. Đây là lúc bắt đầu làm bản đồ bát quái để thông đức của thần minh, để rõ tình của muôn vật. Văn Vương trọng quẻ sáu hào, Khổng Tử hoằng mười dực, vì thế nói rằng: Dịch đạo sâu xa. Người lại ba thánh, đời thì ba cổ, vì thế có lời rằng: Dịch thì có thái cực, đây sinh lưỡng nghi. Kinh Dịch nói: Phàm có hình thì sinh ở vô hình. Nên nói có Thái dịch thì có Thái cơ, có Thái thỉ thì có thái tổ.

- Thái dịch là chưa thấy khí.

- Thái sơ là đầu tiên của khí.

- Thái thỉ là đầu tiên của hình.

- Thái tố là đầu tiên của chất.

Khí hình chất chưa lìa nhau gọi là hỗn độn, nhìn mà không thấy, nghe mà chẳng nghe, theo đó không được nên nói là dịch.

Trong Hiếu Kinh nói: Kỳ là dương tiết, ngẫu là âm cơ. Được dương mà thành, hợp âm mà ở số tướng phối ngẫu bèn cho là đạo. Cho nên nói một âm một dương gọi là đạo, âm dương không lường gọi là thần. Đây là xa nhìn đủ bậc hiền đối với đạo Lão.

Ông cho rằng: Lòng nhân do thất đức mà hưng khởi, lễ sinh lòng trung tín. Đâu được học tập kia mà bỏ chỗ không thấy. Vả lại, đại nhạc cùng trời đất đồng hòa, đại lễ cùng trời đất đồng tiết. Há ở năm cung kính, năm trách báo ư? Song ý chí của Lão Tử vốn cứu giúp sự khắc khe buông lung. Hư nhu thiên hạ tu thân có thể được. Không tôn thượng hiền có thể đối với việc sửa trị thì sao tiếp tục? Đã một khiêm của phù dịch, là một phái của Nho giáo.

Hạnh hốt đồng phóng, bỏ cả năm đức.

-Thứ ba: Vua làm giáo chủ.

Đời cho Khổng Tử là người hoằng giáo, xem trong các kinh điển thì cho là vua làm giáo chủ.

Hỏi: Trong bộ "Kỉnh Tầm Tiết Chế Phẫu Chiết Ly Hợp" chép rằng: Nếu phái chia ra thì có chín giáo, nếu thống nhiếp thì đồng một Nho tông, tìm cầu lý thì còn gọi là chưa thỏa đáng. Vì sao danh tạp Đặng Doãn, pháp tham Khôi Thương. Mặc xuất do Hồ, nông hưng dã lão. Đây đều là chế thông hiền đạt, không thể cho là giáo thủ.

Khổng Tử, Lão Tử là bậc Thánh ư? Có thể cho là mạng giáo. Vì thế trong chín dòng thì luận có hai lưu. Nho giáo, Đạo (Lão) giáo chẳng lẽ không khéo léo ư?

Đáp: Lời hỏi của ông dường như chưa thông suốt. Đế Vương công thành làm nhạc, trị định chế lễ. Đây là công việc đầy đủ của Hoàng Nghiệp. Tả sử ký ngôn, Hữu sử ký sự. Sự là kinh Xuân Thu, sự là sách Thượng Thư. Trăm vua đồng một phong cách ấy, muôn đời đồng một khuôn phép. Nếu có ngôi vị không có tài, còn thiếu mở mang. Có tài không ngôi vị rõ ràng hoàn toàn thiếu. Xưa, Chu Công nhiếp chánh bảy năm, bèn chế sáu quan. Khổng Tử, Lão Tử là người gì mà làm giáo chủ. Khổng Tử tuy Thánh mà không ngôi vị. Tự bảo vệ luân hồi, đầu tiên mở mang khuôn phép. Chính có thể gọi là tu thuật, không phải là nguồn gốc của giáo pháp. Dù cho sử nơi triều đình vốn chẳng phải đều khen ngợi. Phát xuất từ nhà Chu nhập vào nhà

Tần là ngôn đạo của Doãn (trùm trưởng), không nghe có các chư hầu, huống chi là Thiên tử. Đã là tiên hiền, vẫn còn thiếu hai. Đạo thuộc về Nho giáo đã nêu ở trước.

Hỏi: Khổng Tử học lễ ở Lão Đam, thì nghĩa Thầy còn. Lại Luận Ngữ nói. Khổng Tử tự xưng rằng: Ta thuật mà tác, tin mà ưa xưa. Thầm so sánh ta với Lão Bành. Tử nói: Khổng Thanh mà nói rằng: Lão hiền so nghĩa này thì nghĩa vẫn còn, khen chê, trái thuận, cố chấp là xem thường bậc Thánh.

Đáp: Tôi là kẻ mê muội nào dám xuyên tạc. Bỏ Thánh nhậm thức chỉ y theo sách vở.

Kê Tử nói rằng: Lão Tử đến Quyên Tử học thuật Cửu tiên, nghiên cứu luyện nhị, đều có việc đó, còn đối với Thánh thì không gọi là học.

Luận Ngữ nói: Sinh mà biết là thượng, học mà biết là khó.

Theo Tiền Hán Thư, Khổng Tử là bậc Thượng thượng, đều là Thánh. Lão Tử là bậc trung thượng, lại vì sao xét Vương Bật đều nói rằng: Lão Tử chưa phải Thánh, đây đều là điển đạt sở vị, tôi có thể khác ư?

Khổng Tử nói: Tôi là vô thường sư, học lễ ở Lão Đam, đây là nghĩa ấy.

Có người hỏi về nông, nói rằng: Tôi không bằng lão nông. Lại hỏi vườn trồng rau, nói rằng: Tôi không bằng cách trồng rau của Lão Tử. Vào

Thái miếu thường học hỏi. Há là người làm nông, trồng rau, trong thái miếu, mà bậc hiền đối với Khổng Khưu ư? Thiết tỉ tốn từ giống như loài ấy. Vì thế biết người khác phê bình thì thật, tự khiêm nhường là hư. Bàn luận khinh thường bậc Thánh, lại tự mình bị Vương lụy.

Hỏi: Lỗ Ẩn Công là vua hiền nhường nước, mà người phê bình là hạ hạ. Lão Tử là Đại thánh vô vi mà Hán Thư bình phẩm là trung thượng. Vì thế, biết cha con Ban Bưu vượt qua nguy hiểm, vì sao Tiên sinh dẫn đó làm chứng.

Đáp: Chúng ta gần thì lấy lời bàn của Đỗ Dự, xa thì lấy ý của kinh Xuân Thu.

Ẩn Công là thứ huynh của Hoàn Công. Hoàn Công lúc nhỏ làm việc hành chánh. Đến khi Hoàn lớn lên thì đại quy chánh Hoàn Công. Tuy có thể quy chánh mà không thể bỏ sự nghi ngờ. Tán độc tung hoành ở đây, bèn vì Hoàn Công mà giết. Đã không tự mình hãm hại đứa em bất nghĩa, nhường nước cuối cùng còn gì. Đây chẳng phải hạ thì có ai hạ ư? Sự phê bình trong Hán Thư, đối với đây là đúng. Vả lại Khổng Tử thọ mạng hiệu là Tố Vương, chưa nghe chép trong sách. Gọi Lão Tử là Thánh, nói không liên quan với kinh sách.

Quân Tử Sở Tám hỏi Thượng Thư rằng: Người cuồng khác niệm thì làm Thánh, bậc Thánh buông niệm thì cuồng.

Tử nói: Thánh thì không liên quan đến việc học, ở đây nói thế nào? Đáp: Khổng nói sinh trí, học nói chứa nhóm.

Trước nói về Nho giáo, sau nói đạo Phật. Thượng trí, hạ ngu vốn không tùy hóa, bọn ngu hèn thuận theo sự hóa thiên. Thánh có thể cho là cuồng thì không phải bậc thượng trí. Cuồng có thể cho là Thánh lại chẳng phải kẻ hạ ngu. Sách nói về cuồng Thánh đều là thấp hèn.

Lão Tử nói: Dứt Thánh, bỏ trí thì dân lợi gập một trăm lần. Đây là bởi Thánh của tài, không phải là thượng trí.

-Thứ tư: Xét nghiệm về hình thần.

Hình thần ở bài đầu đã nói, nay gạn lại, để xem xét điển chứng. Hỏi: Tiên sinh nói rằng: Giáo pháp cứu hình, giáo gọi là ngoài. Tìm xem trong Nhã Luận thật chưa thành thật.

Kinh Dịch nói: Biết bao nhiêu thần kia ưa? Đâu được đồng bảy điền đều là hình giáo, đạo Phật nói về thần cho là còn mãi.

Đáp: Kinh Thư gọi là tri viễn, viễn cùng tột Đường Ngu kinh Xuân Thu thuộc về Từ, từ cùng tận Vương nghiệp. Còn kính lương của lễ, Nhạc, ôn khiết của Thi, Dịch, đều nói nếu một thân há luận ba đời. Vốn biết giáo ở hình phương, chưa đủ thần giúp. Nêu ẩn dẫn ư? Sinh biểu còn mà chưa bàn luận.

Kinh Dịch nói: Cơ là tinh tế của động. Có thể chiếu tinh tế kia không phải thần thì là gì? Đây là nói thần, mà chưa nói về luyện thần. Luyện thần là đóng tình khai chiếu. Kỳ thần nhiều kiếp u linh không mất. Chứa nhóm thành Thánh. Ngôi vị Thập địa mà vượt qua, hơn Cửu trạch mà cao xa, đây là giáo pháp của đạo Phật đã mở mang.

Kinh nói: Giúp thần cứu khổ không bằng tu điều lành. Sáu độ nhiếp sinh, tịnh tâm không phải sự cố.

-Thứ năm: Tiên khác với Niết-bàn.

Đạo tiên nói thuật kéo dài thời kỳ, không đâu chẳng chết, Niết-bàn là quả thường trụ, rõ ràng khác nhau.

Hỏi: Đạo Phật gọi là Niết-bàn, đạo Lão nói là tiên hóa. Đạo Phật nói vô sinh, đạo Lão nói không chết, xét đó là một, sao gọi là khác?

Đáp: Linh phi vũ hóa đều gọi là năng lực của thần đơn. Không bệnh nhẹ nhàng cũng nói là công của hai phục. Thương thay không biết khéo chứa nhóm thành công trước, sinh chân dị khí. Trường thọ và chết yểu là do nhân, tu đoản ở nghiệp. Phật pháp cho là có sinh là không huyễn, vì thế bỏ thân để giúp vật. Đạo Lão cho là thân ta là chân thật nên phục nhị ở dưỡng thân. Đời đời không quý, tồn tại có thành tích gì? Dầu khiến cho kéo dài thời gian sống cũng chẳng thể không chết. Vì thế Trang, Chu xưng Lão Tử rằng; xưa cho đó là ẩn hình trôi. Ban đầu cho là người kia, nay thì không phải. Chẳng phải ẩn tiên của trời, cho nên có phúng điếu Tần dật, tử phù phong táng làng Hòe.

Niết-bàn là thường hằng thanh tịnh không có sinh tử. Tâm không thể dùng trí để biết, hình không thể dùng tượng để suy lường. Không biết, do đó gượng cho danh (tên) là Tịch, kia là chí lý. Cũng cho là cùng tột ư? Dần ở song lâm ánh sáng dứt chiếu mà linh trí thường còn. Thân thị hiện hỏa táng mà xá-lợi thường còn. Tuy lại đại xuân tuổi thọ so với lão Bành là thua, không phải tưởng nhiều kiếp và không chọn đối hộ.

Phàm thánh lý không giống nhau, động tịnh khác xa, đâu thể cùng thời mà nói về thăng trầm ư? Làm sao chúng ta giấu lửa cháy lan dưới mặt trời mặt trăng, mà muốn tranh với ánh nắng mặt trời, đến chỗ hẹp hòi sao quá lắm như thế.

- Thứ sáu: Đạo và tiên hơn kém.

Đạo thì thản nhiên ít ham muốn, ưu ở chỗ phù hợp với khiêm đức, tiên thì nhị phục phân vân, liệt chỗ ở luống công không có hiệu quả.

Hỏi: Tiên sinh bàn về thọ mạng và chết yểu, khéo tích chứa đời trước, nghiệp quả tuy rõ, chi đan bèn lược. Vả lại, cùng tột của đạo gia, cùng tột nơi trường sinh. Thở ra một hơi nên nạp mới vào. Ông muốn xếp chỗ kia có thể được ư?

Đáp: Ý chỉ của Lão Tử lấy hư vô làm căn bản, nhu nhược làm dụng. Hồn tư thiên nguyên điềm cao nhân thế, hạo khí dưỡng hòa được mất không thay đổi. Cùng không mưu thông, đạt không mưu kỷ. Môn học này do vâng theo các dòng khác, đạo kia hoặc còn. Nếu luyện phục kim đan ăn sương uống ngọc, linh thăng xác khác thi chết rã hình hóa. Đây đều rất trái với lập ngôn bổn lý của Lão Tử, Trang Tử. Kia lưu tiệm, không phải là cùng bọn của đạo, chỉ ghi mà có. Nhưng nói đạo là không thư. Xin Hán Võ ưa phương kỷ, bèn có yêu biến đại. Quang Võ tin Sấm Thư đến nỗi có nghi Hoàn Đàm. Thư là phương kỷ không nhập vào phần lưu. Người là phương sĩ nào có quan hệ đến nhã chánh. Chúng ta sao lại bỏ lớn mà theo nhỏ, trái lý mà đến chỗ hoang đường ư?

- Thứ bảy: Khổng Tử, Lão Tử chẳng phải Phật.

Hỏi: Tây Vức gọi là Phật, Hán dịch là Giác.

Tây Vức gọi Bồ-đề, Hán dịch là Đạo. Tây Vức gọi Niết-bàn, Hán dịch là Vô vi. Tây Vức xưng là Bátnhã, Hán dịch là trí tuệ. Theo nghĩa này thì Khổng Tử và Lão Tử là Phật. Vô vi, đại đạo trước đã có nói.

Đáp: Kẻ quê mùa không thể đạt đạo vì trệ nơi hình. Kẻ khúc sĩ không thể biện tông cực vì hạn cuộc nơi danh.

Mạnh Tử nói bậc Thánh là Tiên giác, cùng tột trong bậc Thánh đâu hơn được Phật ư? Vì thế, trong kinh nói giác là Phật. Giác có ba: Tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.

Mạnh Kha một phen biện há đủ ba món Bồ-đề. Xét trong luận Đại Trí Độ dịch rằng: "Vô thượng tuệ nhiên tuệ chiếu linh thông, Hán dịch là đạo, đạo là tên chung đại tiểu".

Sách Luận Ngữ nói: Tiểu đạo không thể quán, đến nỗi xa sợ chìm đắm. Nếu nói về kinh điển đạo Phật, thì đạo là tên chung cho tà chánh.

Kinh nói: Chín mươi sáu đều gọi là đạo, nghe tên kia thì chân ngụy khó phân biệt. Nghiệm pháp kia thì tà chánh tự phân biệt. Bồ-đề đại đạo dùng trí độ làm thể. Đạo của Lão Tử dùng hư không làm trạng. Thể dụng đã khác, vốn khó ảnh hưởng. Ngoại điển vô vi dùng dứt sự làm nghĩa. Nội kinh vô vi không có ba tướng. Danh đồng mà thật thì chẳng phải một, vốn không giống nhau. Vì thế phải biết mượn tên gọi ở xứ này mà phiên dịch tông của nước kia. Nương tên bàn thật nào có nghi. Theo đây thì Khổng Tử và Lão Tử chẳng phải Phật, vì sao nói như vậy.

Xưa Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử rằng: Phu Tử có phải là bậc Thánh hay không?

Đáp: Khổng Tử rộng nghe giỏi ghi, nhưng chẳng phải là bậc Thánh.

Lại hỏi: Ba Vương là bậc Thánh phải không?

Đáp: Ba Vương khéo dùng trí dũng, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khổng Tử không biết. Hỏi: Năm Đế là bậc Thánh phải không? Đáp: Năm Đế khéo dùng nhân, tín, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khổng Tử không biết.

Lại hỏi: Ba Hoàng là bậc Thánh phải không? Đáp: Ba Hoàng khéo dùng thời, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khổng Tử không biết.

Thái Tể lấy làm lạ hỏi: Vậy ai là bậc Thánh?

Khổng Tử thay đổi sắc mặt nói: Ta nghe nói ở phương Tây có bậc Thánh, không trị nước mà nước không loạn, không nói mà mọi người tự tin, không giáo hóa mà tự thực hành. Rộng lớn nơi dân không thể nói được. Nếu Lão Tử là bậc Thánh, Khổng Tử vì sao không nói, dùng lý này so sánh thì lý phải thua Phật.

Trong bộ "Lão Tử Tây Thăng Kinh" nói: Đại thuật trong thiên hạ, thuật của Phật là bậc nhất. Trong bộ "Tây Thăng Huyền Kinh" nói: Thầy ta giáo hóa từ Thiên Trúc, khéo nhập Niết-bàn. Lại Phù Tử nói: Thầy của Lão Tử là Đức Thích-ca, nay y cứ trong đạo thư đều nói Thầy là Phật.

-Thứ tám: Thích khác với đạo lưu.

Ba thừa xuất thế, bốn đại trong vực, cách nhau như trời đất, khác hơn trần ngục.

Hỏi: Trong "Hậu Hán Thư" nói: Phật đạo thần hóa hưng khởi từ Thân Độc (xét trong "Sơn Hải Kinh" nói Tây phương có nước Thiên Độc. Quách Cảnh Thuần chú giải rằng: Đây là nước Thiên Trúc. Nhưng trong bộ "Hán Thư Tây Vức Truyện" nói rằng: Thiên Trúc còn gọi là nước Thân Độc). Nói tâm thanh tịnh kia là lời giáo huấn của đạo Phật, không có là lưu Đạo Thư. Do đây mà suy thì Đạo giáo gồm thâu Phật giáo.

Lại kinh Phật nói: Tất cả văn tự đều là Phật nói chẳng phải sách của ngoại đạo, thế mà tiên sinh cao vị Thích giáo trong Nho, Đạo, không tự hạn cuộc mà gần như lừa dối bậc Thánh?

Đáp: Ông dẫn trong Hán Thư để hỏi, tôi cũng dùng Hán Thư mà đáp.

Trong bộ "Hậu Hán Tây Vức Truyện" nói: Trương Đằng viết về Tây Trúc, chỉ nói đất phần nhiều ẩm, nóng. Ban Dũng thì ghi là nước Thân Độc. Chính là nói phụng thờ Phật, không sát sinh mà tinh văn, công thiện pháp dẫn dắt thông suốt, không có truyện ký. Tôi nghe về sau ghi như vầy: Nước kia màu đỏ sẩm, bằng phẳng, trong đó ngọc chúc hòa khí, chỗ giáng và tu tập của các linh trí, là chỗ sinh ra của các bậc Hiền triết. Thần tích quỷ quyệt thì lý bặt nhân khu. Cảm nghiệm rõ ràng thì sự vượt ngoài trời. Mạch Siêu không nghe, há đạo kia bế vãng vận số khai tịch diệp ư? Nếu không thì sao nhiều kinh điển như vậy.

Hán từ Sở Anh, ban đầu thạnh việc trai giới.

Hoàng đế lại tu sửa lọng đẹp, nghĩa vi tế chưa giải thích, chỉ thần minh ư? Vả lại ưa lòng nhân ghét việc giết hại, bỏ tệ tôn sùng việc lành. Do đó, quân tử hiền đạt phần nhiếp thọ pháp kia. Song ưa thích không kinh, quyền thuật không thôi. Tuy Trâu Diễn bàn về trời, Trang Chu nói về sự nhỏ bé nhưng chưa đủ để nói về muôn một kia. Tìm trong Lục của Hán Thư gồm có chứng cớ. Lấy nghĩa sâu kín kia được giải thích thì nói là lưu của Đạo Thư, bàn thần kia cảm nghiệm thì nói lý bặt thiên biểu. Bốn tạng rộng xem, hai đế đều trình bày gồm luận chín đạo thì không đâu chẳng phải Phật nói. Nói riêng ba thừa thì Nho, Đạo không lưu. Đây chính là minh chứng của ta, không phải là tình quyết của ông.

-Thứ chín: Phục pháp không phải Lão Tử.

Dứt Thánh bỏ trí là tâm của Lão Tử.

Huỳnh Cân cấm yểm là pháp của họ Trương.

Hỏi: Kinh nói: Đức Thích-ca thành Phật đã trải qua trần kiếp. Hoặc là tông của Nho Lâm, hoặc là Đạo sĩ quốc sư. Biết Phật đạo như thầm khế hợp.

Lại trong "kinh Thanh tịnh pháp hành" nói: Phật cho ba người đệ tử đến nước Chấn Đán để giáo hóa. Bồ-tát Nho Đồng kia xưng là Khổng Tử; Bồ-tát Quang Tịnh xưng là Nhan Uyên; Ma-ha Cadiếp xưng là Lão Tử. Tiên sinh biện khác mà dường như bí ẩn.

Đáp: Đạo Thánh vắng lặng, viên ứng vô phương. Ứng vô phương hòa hợp với quần phẩm. Khí lượng có cạn sâu, cảm thông có nhiều ít. Vì thế khiến tượng mà vô tượng, tượng khắp mười phương. Ngôn mà vô ngôn, ngôn đầy tám cực, ứng thật trần sa, đại khái có hai:

Tám tướng cảm thành, Song Lâm hiện diệt, đây là đại.

Quyền (phương tiện) nhập sáu đường, hối tích trần quang, đây là tiểu.

Tiểu thì họa quẻ để ngự thời; hoặc gieo trồng thật nhiều để lợi dân; hoặc tu chánh để định loạn; hoặc hành lễ để răn dạy chúng sinh; hoặc bàn không mà cao ngạo sự vinh hoa; hoặc nói có mà tôn trọng chức tước. Vì sao cho là Lão sinh riêng chẳng phải một tích?

Vì thế trong "Tu-di Tứ Vức Kinh" nói rằng: Bồ-tát Bảo Ứng Thinh gọi là Phục Hy. Bồ-tát Bảo Cát Tường gọi là Nữ Oa. Nhưng Đạo sĩ ngày nay, bắt đầu từ Trương Lăng, bèn cho là quỷ đạo, không quan hệ với Lão Tử, làm sao biết?

Trong sách: "Lý Nhạn Thục Ký" nói: Trương Lăng tránh bệnh sốt rét ở Khưu Xã, được Thuật Thư chú quỷ, bèn giải thành quỷ pháp. Sau bị đại xà hít vào, đệ tử vọng thuật thăng thiên. Sau Hán Thư nói Bái nhân Trương Lỗ, người mẹ có dáng dấp thùy mỵ, gồm hợp với quỷ đạo, thường đến nhà Lưu Diên. Thứ Sử Ích Châu là Lưu Diên bèn tín nhiệm Lỗ, cho là Đốc nghĩa Tư Mã. Lỗ bèn cùng biệt bộ Tư Mã Trương Như đem binh giết Thái Thú Hán Trung là Tô Cố, dứt gia cốc (tên một cái hang ở Thiểm Tây) giết Hán Sử. Đã được Hán Trung, bèn giết Trương Tu và cận vệ kia. Đối với Hán là nghịch giặc. Tải Huỳnh Cân, phục Huỳnh Cân.

Lỗ Tự Công Kỳ, thời Sơ tổ Văn Lang Thuận Đế. Đến nước Thục học đạo ở núi Hạc Minh, làm Phù Thư để mê hoặc bá tánh. Người thọ đạo đó phải nộp năm thăng gạo nên đời gọi là Mễ Tặc. Lăng được đạo kia ở Tử Hoành. Hoành được truyền ở Lỗ. Lỗ bèn tự gọi là Thiên sư quân. Chúng học kia, ban đầu hiệu là quỷ tốt, sau hiệu là Tế Tửu. Tế Tửu thống lãnh bộ chúng. Nhiều thì gọi là Bộ Đầu, đều dạy để thành tín, không cho xem thường. Có bệnh chỉ lãnh thú quá mà thôi. Các Tế Tửu đều khởi nghĩa bao gồm ở Đồng lộ. Đồng lộ Huyền Đình để gạo thịt, cung cấp cho khách đi đường. Người nào ăn phải lường bụng vừa đủ, nếu ăn quá nhiều thì quỷ sẽ làm người bị bệnh. Người phạm pháp, trước gia ba lệnh, sau mới hành hình, không để trường sử.

Do Tế Tửu trị dân, càng tin hướng về. Triều đình không thể thảo luận, bèn đến bái Lỗ Trấn Di Trung Lang. Đem cống hiến kia. Từ Lỗ ở Hán ba mươi năm. Đời Hiến Đế, niên hiệu Kiến An năm thứ hai mươi, Tào Tháo đem binh đánh Dương Bình, Lỗ muốn cử Hán Trung ra hàng, con là Vệ không nghe, đốc xuất mấy vạn quân chống cự, cố thủ cửa ải. Tháo thấy vệ chém đầu đó. Lỗ nghe Dương Bình đã bị chiếm phá, cho sắp cúi đầu quy hàng, Diêm Phố nói rằng: Nay do đến gấp công kia còn nhẹ, không bằng y theo đất Ba trung, rồi mới ủy chất, công chắc chắn sẽ nhiều. Do đây, bèn đến hai bên Nam Sơn, muốn đốt các thứ báu trong kho. Lỗ nói: Vốn là muốn quy mạng quốc gia, ý kia chưa đạt. Nay ra đi là vì tránh mũi gươm nhọn chớ không có ý ác. Bèn giao kho mà đi. Tháo vào Nam Trịnh rất tốt, là do Lỗ vốn có ý tốt nên cho người an ủi. Lão cùng cả nhà ra đón rước. Bái Trấn Nam phong Lan Trung Hầu. Mà Trương Giác, Trương Lỗ v.v... vốn nhân quỷ ngôn Hán mạt Huỳnh y đương vương, ư nhị thỉ phục chi Tào Tháo thọ mạng từ Huỳnh Đại Xích. Giặc Huỳnh Cân đến đây mới bình. Từ đây về sau bèn có tệ này. Đến đời Tống, vua Võ Đế đều dứt hết. Đến thời Khấu Khiêm, có trở lại, nay đã là đại đạo thì phong hóa phải đồng. Tiểu vua cân sắc thật phải sửa đổi. Hơn nữa Lão Tử là bậc Đại hiền dứt khí quý thượng, lại là triều thần, phục sắc đâu khác. Xưa có chuyên học kinh mà chẳng khác phục tượng. Huỳnh Cân bố y (khăn vàng áo vải) xuất xứ từ Trương Lỗ. Sách của quốc gia nói rõ đâu có luống dối. Thánh hiền làm lời dạy bảo, mở rộng ôn nhu, quỷ thần nghiêm ngặt làm lạnh nóng. Lão Tử răn dạy cúng rượu đều uống. Trương chế quỷ phục huỳnh bố đều đồng. Chân ngụy rõ ràng, gấp hoãn rất dễ thấy. Từ đây trở xuống lược dẫn một số điều vọng thuyết của họ Trương, Dùng trừng cách chưa nghe.

- Hoặc cấm kinh chỉ giá: "Huyền Quang Luận" nói: Cáo kinh của đạo Lão, chế tạp phàm ý dạy tích chứa tà hiểm. Vì thế cho nên không truyền. Chỉ được kim bạch liền cùng với kinh kia. Nghèo tạo ra đó, đến chết không gặp, tham lợi không lòng từ bi, nghịch không hơn đây. Lại phương thuật kia uế trược không thành, bèn có khấu xỉ làm thiên cổ; hỉ nhổ làm rượu, phân ngựa làm củi; chuột già làm thuốc. Dùng đây cầu đạo, đâu thể được ư?-Hoặc vọng xưng chân đạo: "Thục Ký" ghi rằng: Trương Lăng vào núi Hạc Minh tự xưng là Thiên sư.

Đời Hán, cuối niên hiệu Gia Bình bị Đại Xà hít Tử Hoành đến tìm xác không được, sợ chê bai bèn giả lập quyền phương để tiêu biểu tích linh hóa, sinh... Hạc túc để trên đỉnh Thạch Nhai.

Đến niên hiệu Quang Hòa năm đầu, sai người đến bảo rằng ngày mồng bảy tháng giêng Thiền sư thăng Huyền Đô. Ở núi Mễ Dân, rợ Lão (thuộc phía Tây nam) nhân đó vọng truyền, làm lợi sinh chút ít, nghịch không hơn đây.

- Hoặc hàm khí thích tội: Vọng tạo Huỳnh Thư, chú lại vô đoán. Bèn khai man môn ôm trẻ em. Hồi Long Hổ... đủ như trong Huỳnh Thư nói. Ba năm bảy chín thiên la địa võng. Sĩ nữ buông tuồng không khác cầm thú, dùng tiêu tai họa. Kia có thể như vậy ư?

- Hoặc hiệp đạo tác loạn: Huỳnh Cân quỷ đạo, độc lưu Hán thất. Tông ân cầu tiên, họa duyên rộng lớn, phá nước hại dân, hoặc loạn thiên hạ.

- Hoặc Chương Thư đại đức.

- Hoặc sợ quỷ đeo phù. Bên trái đeo thái cực chương bên phải đeo Côn ngũ thiết, chỉ mặt trời thì ánh sáng dừng lại, nghĩ quỷ thiên lý huyết. Nếu thọ Huỳnh Thư Xích Chương tức là linh tiên này.-Hoặc chế dân thâu khóa: "Thục Ký" nói rằng: Thọ đạo kia, thâu gạo, thịt, vải lụa, đồ vật, bút giấy, dâng cúng năm màu. Sau sinh tà trược, lập thêm mễ dân.

- Hoặc giải trừ cơ môn: Tả đạo dư khí cơ môn giải trừ. Xuân Thu hai phần cúng ông Táo, Thổ Địa. Đông Hạ hai mùa cúng tế đồng như thế tục. Trước thọ trị lục, binh phù xà thế, đều nói quân tướng sử binh, đều không nghĩa răn dạy.

- Hoặc khổ vọng độ ách. Đồ khôi trai: Sự khởi từ Trương Lỗ.

- Hoặc trong mộng gây ra tội: Mộng thấy tiên vong, liền cho rằng biến quái, mời quỷ thần ăn.

Quân tướng sử binh tấu chương dứt bỏ.

- Hoặc khinh tác dụng nịnh: Tạo Huỳnh thần việt chương, dùng trì sát quỷ. Lại tạo Xích chương dùng để trì sát người. Thủ bặt thế tình không cho ương tội âm mưu hoại tật, hung tà rất lắm.

Đây đều là quỷ pháp của Ba Trương, há bổn hoài của Lão Tử ư? Từ Thượng Đài cho đến Phù Diêu, đều gọi chúng Tăng là Đạo sĩ. Đến đời Khấu Khiêm, bắt đầu trộm hiệu của Đạo sĩ, thầm đổi tên là Tế Tửu. Sự chọn Diêu Thư, lược có thể rõ.

Nhưng trong "Pháp Hành Kinh" thì không có người dịch. Tuy nhập nghi khoa nhưng chưa thương hoằng chỉ. Ma-ha Ca-diếp là đệ tử của Đức Thích-ca. Bẩm đạo mở mang, cự hy phương già, Ba Trương Phù Lục. Dối trá lời Lão tìm kiếm lời quỷ quyệt để giúp nhau. Lại dẫn thật đàm để chứng lời luống dối kia. Than ôi! Rất đáng thương, xin xét cho kỹ. Hỏi:

Nghiên cứu đạo Lão, khuyết phẩm có ba:

1. Lão Tử vô vi.

2. Thần tiên nhị phục.

3. Phù lục cấm yếm.

Còn Chương Thức có tình và thô.

Thô thì yếm người giết quỷ, Tinh thì luyện thây chết kéo dài thọ mạng. Lại có Thanh Lục, thọ phải Huỳnh bạch. Vương Hầu thọ đó thì kéo dài tuổi thọ, thêm phước. Thứ dân thọ thì mạnh khỏe ít bệnh. Ông sao không luận chỉ chê là quê mùa ư?

Đáp: Như ông đã nói, sao cho là quê mùa?

Vương làm không phải sơ sài mà đến được, quyết phải có linh mạng để ứng với trời người. Còn như phù thủy không đâu không giáng xuống. Trên thì Hà đồ lạc thủ, kế thì Quy Long Lân Phụng, đây là Phù lục của Hoàng đế. Nay Đại Chu ngự vũ, Ưng Lịch thọ đồ. Xuất chấn là thần, Điện Hiên lưu cảnh. Trên nói Cù Thất dưới mở Linh Đài. Nêu ba quang kia, xa giúp hai binh. Mà đức mâu chuông trống, động thực giao linh. Nhân gồm hai nghi, u minh dâng cúng. Vì thế chân dung biểu tướng. Bất giả tầm ư cụ Trừng chiếu uyên du, không cầu tượng võng. Trói buộc ngữ mặc, đàn áp danh ngôn, vượt ngoài có không, vượt xa kia đây. Sô cẩu muôn cơ, chẳng thể cho là có, từ hiếu triệu thứ chẳng thể cho là không. Bốn biển một nhà không thể cho là kia. Chín châu xa rộng chẳng thể cho là đây. Vì thế, người dạo đi không thể so lường chỗ cạn sâu kia. Người giẫm lên đó chưa cùng tột được dày mỏng kia. Thêm ba chân, chín đuôi, chim đỏ, rùa xanh. Điềm tốt tìm nhau không hẹn mà đến. Đây là đại đạo hoằng nhân, sáng khắp bốn biển, điềm tốt gồm hợp phước dày không cùng. Há là thanh ninh của Thánh đức, đa sĩ của thiên triều. Còn tin luận quỷ lục, còn truyền thuyết đồng cốt ư? Xưa thần tặng Quách Điền, như nghĩa ban đầu cầu điền. Nhân dân cúng Triệu Tước, do chứng cớ ban đầu thọ ngôi tước, đó đều là lời nói ủy hạn bỉ, ông theo chỗ không nên theo.

Hiệu Hoàng đế là nghĩa tôn cực thiên hạ. Tên Vương giả là nghiệp đại tận bá công. Thọ mạng thần tông, rộng phong hóa ở hoàn cầu. Phong thiền sơn nhạc quả báo thành công trong trời đất. Không thấy quỷ nói đầu tiên của tượng kinh luân, không hề có lời dối trá đạt đến tông xa kia. Luống dối hoặc sinh dân, bại hoại Vương giáo. Chân tục nhiễu loạn, quy chánh không theo. Khổng Tử quý tri mạng. Bá Dương bỏ kỳ thượng, đâu thể lấy quỷ phù mà mong thọ mạng kia. Nếu nói thọ thì có lợi ích, thì nay Đạo sĩ đeo phù sẽ được trường sinh, sinh dân không lục lẽ ra chết yểu. Việc đã không có chứng cớ, sao nói là có?

-Thứ mười: Nói về sinh chân ngụy.

Hai kinh thật bàn là chân, ba đổng hoang đường là ngụy.

Hỏi: Kinh của Lão Tử năm ngàn lời rất sơ lược, ba đổng của Thượng Thanh chính là sâu xa. Vả lại, linh bảo cấm kinh, thiên văn ngọc tự, vượt chín dòng, quá một trăm dân. Nho gồm đạo Lão há bì kịp đây ư?

Đáp: Đạo kinh của Lão Tử phác tố đáng tôn. Nội thiên của Trang Sinh thị sư đáng lãnh, ở đây đã ngoài chế từ phàm tình.

Huỳnh Đình, Nguyên Dương sưu tầm rút ra từ kinh Pháp Hoa, đem đạo đổi Phật, cải dùng rất vụng về. Linh bảo sáng lập từ Trương Lăng. Niên hiệu Xích Ô, thời Ngô, bắt đầu phổ biến ra. Thượng Thanh bắt đầu từ Cát Huyền, giữa đời Tống Tề mời lưu hành. Xét ra bậc Thánh thiên tự chỗ nào Huyền Đàm. Bắt đầu từ cổ văn hai triện văn đại và tiểu, để nêu câu đố đều không giống nhau. Quỷ thư của Dương Bình đối với đây xét biết. Đời Tấn, niên hiệu Nguyên Khương, Bảo Tỉnh lập Tam Hoàng kinh giúp việc trách phạt, sự việc ghi trong sử nhà Tấn, người đời sau kiêng nể đổi thành Tam Đổng. Tên kia tuy đổi nhưng thể vẫn còn. Dụ như nói Tam Hoàng cho là tôn cực, đây đều là lời nói từ tâm phàm, thật biết không phải là giáo. Không liên quan gì đến miệng Thánh, há cho là điển kinh. Mà học trò của Trương, Hạc đều xen lẫn phù cấm giáo hóa thế tục, kỳ quái hoang đường trái với vô vi. Than ôi! Sao lại chỉ dấu vết của con trùng mà so sánh với Thương văn; sữa độc mà sánh với cam lồ. (Y theo sách "Trương Lỗ Thụ Ký", có hai mươi bốn trị. Mà trị Dương Bình là lớn nhất. Nay Đạo sĩ thượng chương và tấu phù yếm đều xưng là Dương Bình, trọng căn bản kia. Do Thượng Thanh là Đổng Huyền, kinh báu là Đổng Chân; Ba Hoàng là Đổng Thần, vì thế gọi là Ba Hoàng.

Hỏi: Kinh đạo u uẩn đón gọn vốn dắt dẫn lỗi người mau lẹ, kinh Phật hiển rõ rộng lớn vốn để cứu kẻ chậm chạp, ngu độn. Cùng lý thấu sự, rất dễ thấy.

Đáp: Kinh của đạo Phật sâu xa u hiển đều uẩn đủ. Huyền chương mênh mông, rộng lược đều thông.

Trong luận Đại Trí Độ nói: Vì người lanh lợi lược nói là vì giải nghĩa. Vì người lanh lợi nói rộng gọi là tụng trì. Vì người chậm chạp, ngu độn nói rộng là giải nghĩa. Vài mươi vòng, Trí điển đã như vậy, kinh khác đều như vậy.

Nói chung rộng ở người chậm chạp ngu độn. Sao quá vu khống. Hương thành kim giản, Long cung ngọc diệp, trên trời dưới đất, kinh Phật sao lường được. Tám âm bộ trật số kia vô biên. Mười hai cai không đâu chẳng hết. Có thể gọi là ba trăm thiên Thi Tế là một. Do đây nêu đó, rộng lược rất dễ thấy, rõ kinh của đạo Lão ba mươi sáu bộ, rộng thì nhất định rộng, không có lược thâu. Tức ở đây gồm thuần và độn sao có vì người lanh lợi. Rộng mà có thể lược thì chẳng phải nhất định rộng, lược có thể rộng thì không nhất định lược. Kinh điển Phật thật sâu xa, đối với ở đây.

-Thứ mười một: Giáo chỉ thông cuộc.

Điển khang trị đời mà không khỏi sinh tử gọi là cuộc. Cận tỉ vương hóa mà xuất thế được là thông.

Hỏi: Cơ Khổng lập giáo có thể an nước trị dân dời đổi phong tục. Lão Trang nói về huyền có thể quy thuần phản tố, tức trọng vô vi, đó là hóa đủ. Sao lại nhờ kinh Hồ (kinh Phật). Lại bỏ trâm cạo tóc, hủy dung nhan đổi họ, có thể giáo hóa cương Di kia không thể dùng giáo hóa Trung Hạ. Kia dụ như xe có thể vận chuyển trên đất liền. Không thể vận chuyển dưới nước, ghe thuyền có thể chạy dưới nước mà không thể chuyên chở trên đất liền.

Kinh Phật quái lạ hoang đường, nhiều mà không có bằng chứng. Khiến cho người sợ thì nói địa ngục, để họ khiếp vía ghê hồn. Dẫn dụ thì nói cõi trời khiến người ngu trông mong. Dọc thì nói trần kiếp còn gọi là không xa. Một bên thì nói sa giới, còn cho là chưa xa. Hoặc nói nghèo là do xan tham keo kiệt, giàu là do bố thí mà có được. Quý là do cung kính, hèn là do khinh mạn. Cò lòng từ không sát sinh thì tuổi thọ lâu dài. Sát sinh nhiều hoặc săn bắn thì tuổi thọ giảm, chết yểu.

Xét thảo luận v.v..., khó phù hợp, có khi thấy có người ưa bố thí, không sát sinh mà nghèo khổ chết yểu, người xan tham, thường sát sinh mà giàu có sống lâu. Thiền giới khổ tiết, mắc các bệnh hoạn. Chôn sống nhiều, phong thưởng thỉ giáng, tin cho là khổ não do hoặc sinh ra, chức tước bổng lộc do giết hại mà được. Kia dụ như chủng giác sinh cỏ lau, mẹ con trái nhau. Ngưu mao (hông trâu) sinh cỏ bồ, nhân quả không giống. Tuy nói nghiệp báo mà không cho là vừa ý. Luống nói tương lai nào khác buộc ảnh. Chưa bằng thợ gốm bẩm thọ ở tự nhiên. Sâm la bằng nơi độc hóa, chợt vậy tự có, hoảng vậy tự không, lành dữ nhậm vận, lìa hợp vô ngã. Người chết thân diệt, kia dụ như đăng cao đầy đủ đều biết chỗ nào đến. Luống nhọc thiệp sâu nơi không bàn luận, đuổi theo chỗ không hiệu nghiệm.

Đáp: Khác chỗ trình bày của ông ư, sao cho là quê mùa. Quả cho là ràng buộc giếng sâu, phong thử một phương mà thôi.

Mạnh Tử nói: Chỗ biết của người, không bằng chỗ chẳng biết của người mà tin. Ta sẽ nói với ông: Xưa nói về đại đạo, năm biến mà hình danh không nêu, chín biến mà thưởng phạt có thể nói. Do đó, phương nội thứ lớp còn chưa thể đình đốn. Còn như móc câu, giáo thuận thời cấm sự bạo ác của bốn dân. Lễ ba thân hiển lòng nhân của Vương Tích. Có thể cho là đẹp mà chưa toàn thiện.

Tiên sinh chế tác hạn cuộc ở hoàn cầu. Trời chia ra mười hai cõi cùng tột sa mạc, đất chia chín châu cùng tột Hắc Thủy. Bàn về quá khứ, luận về vô lượng, việc đều một đời chưa luận ba đời. Há Thánh đạt không biết, tin duyên tốt chưa thành. Thích-ca phát ra lời chân thật tột nguồn, diễn hồn giữ thương xót. Trên cùng tột bậc Thánh, dưới đến loài trùng kiến đều không giết hại, đây là chỗ cùng tột của người có lòng nhân. Chính là đạo bao dung chân tục, nghĩa gồm tinh linh. Dời nhân thọ nơi

Bồ-đề, đổi giáo nghĩa ở quyền thật. Khiến cho Tông hư ấy ngộ ý chỉ không không. Còn có là tiến đến chỗ quyền (phương tiện) của giới định, đối tuệ quang này xa chiếu. Trang Vương do ban đêm thấy sáng. Linh dịch phương tân, Minh Đế cho là thần mộng. (Xuân Thu Tả Truyện nói: Lỗ Trang năm bảy tuổi, tháng tư năm Tân Mão, ban đêm hành tinh không thấy, ngôi sao rơi xuống như mưa, tức Chu Trang Vương mười tuổi.

Trong sách "Trang Vương Biệt Truyện" chép: Vua bèn bói toán, quẻ ứng rằng: Ở Tây Vức có người màu sắc vàng đồng xuất thế, phương đó ban đêm sáng, không phải là tai họa của Trung Hạ.

Xét trong kinh Phật: Đức Như Lai nhập thai ngày mồng 8 tháng 4; sinh ngày mồng 8 tháng 2, cũng thành đạo vào ngày mồng 8 tháng 2. Ngày sinh và ngày thành đạo đều phát ra ánh sáng. Mà nói ngày xuất thế tức là ngày thành đạo.

Nhà Chu lấy tháng 11 làm tháng giêng. Xuân Thu tháng 4 tức hạ tháng 2. Theo Thiên Trúc dùng tháng giêng đồng với Hạ. Đỗ Dự dùng lịch nhà Tấn thì ngày mồng 5 tháng 2 năm Tân Mão.

An Cộng Đổng Phụng Trung dùng lịch nhà Lễ tính thì ngày 7 tháng 2, dùng lịch nhà Tiền Chu tính thì ngày 8 tháng 2. Lại y theo niên kỷ của Pháp sư Thập và Thạch Uổng Minh đều giống với Xuân

Thu. Đức Như Lai sinh vào thời Chu Hoàng Vương năm tuổi tức năm Ất sửu. Xuất gia vào năm Hoàng Vương hai mươi ba tức năm Quý mùi. Thành Phật vào thời Trang Vương được mười tuổi tức năm Giáp ngọ. Diệt độ vào thời Tương Vương mười lăm tuổi tức năm Giáp thân. Đến nay được một ngàn hai trăm lẻ năm năm.

Bởi cho là toại thông tư cảm, ngộ nhập nhờ duyên. Vận trị một trăm năm đều bằng muôn kiếp. Lúc Tần Cảnh Tây sứ mà Ma Đằng đông thệ, đạo mở mang triều Hoàng Hán, huấn dạy vào niên hiệu Vĩnh Bình. Vật không tước huỳnh nhân kỳ thảo yển mới biết phóng hoa còn mờ tối mà văn tuyên chưa sáng. Ông ban đầu nói kia đồng mà chưa biết chỗ khác kia. Vì thế, biết chỗ ban đầu đồng là không đồng; chỗ khác ở sau chẳng phải khác. Tại sao tu thuần đó lại chuyên nơi phản tục. Tục đã có thể phản, thì đạo có thể thuần. Mưu phản tức trước chớ cạo tóc mà cạo tóc hủy dung nhan sự còn cao tố. Từ thân cắt ái vượt phương của Thánh, trừ tham muốn ở sơ tâm, quên hình hài nơi chung quả. Sao lại quyến luyến nơi ba cõi, còn trôi lăn trong sáu đường, Thái Bá văn thân cạo tóc không phải Tây Di, Phạm Lễ đổi họ sửa tên đâu phải Đông Hạ. Gần thì nhường mười ngàn xe, luận Ngữ gọi đó kia là chí đức. Xa thì không nhận chín nhà há hạn cuộc ở dân tộc. Vì thế kinh A-hàm nói: Bốn họ xuất gia đồng một họ Thích. Thí dụ Trang Tử Chu xa, do xưa nay giống như lễ có tổn ích, nhạc có tướng công. Ông vì sao xen lạm rằng cõi nước chỉ có Thánh giáo vô phương, không cho là người trời trái ứng. Diệu hóa không ngoài, há cho là Hoa Nhung trở tình. Đây là do một âm tuyên xướng muôn phẩm đều ngộ, há cho là Di Hạ mà cách ư?

Kinh Duy-ma nói: Phật dùng một âm thanh giảng nói pháp, chúng sinh tùy loại đều được hiểu. Ác của sấm giới nhiều kiếp không quên. Thiện nhỏ bé thường làm thân dụng. Nhưng họa phước nương nhau không đâu chẳng nương dựa. Được mất hợp nhau kinh trọng thầm truyền. Phước thành thì cõi trời tự đến, gây tội thì địa ngục sẽ đến. Đây là lẽ tất nhiên, không có gì nghi ngờ. Nếu tạo nghiệp lành nơi u ẩn mà quả báo nơi hiển thì người đời gọi là âm đức, mọi người đều tin, còn tạo việc ác nơi hiển mà quả báo ở u ẩn thì lý này như vậy, đâu không tin ư?

Kinh Dịch chép: Chứa nhóm điều lành thì sẽ có vui, chứa nhóm điều ác thì sẽ có họa, thế mà Thương Thần làm ác bèn được sống lâu, Nhan Hồi ít có mà chết yểu, Bá Ngưu nhẫn được xung hòa mà nạp bệnh. Kẻ trộm hung nghịch mà khinh cường. Đây đều là thiện ác không bằng chứng, sinh mê hoặc này. Nếu không có giáo pháp của Phật thì đường này hằng trở ngại.

Kinh nói: Nghiệp có ba quả báo: Hiện báo, sinh báo và hậu báo. Hiện báo: Thiện ác thân này gây, quả khổ vui ngay thân này phải chịu.

Sinh báo: Thiện ác thân này tạo, thân kế phải chịu quả báo.

Hậu báo: Hoặc hai đời, ba đời, trăm ngàn muôn đời sau mới chịu quả báo, thọ đó không chủ quyết do tâm, tâm không nhất định quyết cảm ở sự. Duyên có mạnh yếu, nên quả báo có mau chậm. Vì thế kinh nói: Thí như thiếu nợ, nếu ai đòi gấp thì trả trước. Đây là nhân quả thưởng phạt, ba quả báo hằng đến. Tự không phải thông tài đạt thức ít được môn kia. Ở đời, hoặc có người chứa nhóm điều lành mà gặp phải tai ương; hoặc có người hung tà mà gặp điều vui. Đây là hiện báo chưa thành thục mà tiền báo đã ứng, vì thế nói làm việc lành gặp họa, yêu tà mà hưởng phước. Nghi ngờ điều này nên dường như chê bai ganh ghét đối với điều này. Đây thì Nhan Hồi chết yểu, vận chung thuở xưa. Nay tích đức lợi ở tương lai, kẻ trộm sống lâu, hưởng nhân lành đời trước, nay làm ác sẽ suy vi đời sau.

Chủ giải rằng: Đời Sở, Mục Vương tự là Thương Thần, là Thái tử của Sở Thành Vương. Ở đời, có tội giết cha, tên thụy là Mục, danh thật khác nhau là do ở đây. Đây đều là hai quả báo: Sinh báo và hậu báo, không phải là hiện báo. Vì thế kinh nói: Tạp nghiệp nên tạp thọ. Như vua Ca-lợi chặt chân Sằn-đề, hiện đời bị sét đánh. Phu nhân Mạt-lợi cúng dường Tu-bồ-đề, hiện làm Hoàng hậu.

Những trường hợp đây đều là hiện báo.

Ông nói: Sát sinh nhiều là nhân giàu có, trì giới là gốc bệnh hoạn. Kinh có thành thông, có thể được nói. Hoặc có duyên ác phát nghiệp lành, sát sinh nhiều mà được chức tước.

Hoặc có nghiệp chiêu cảm, há do tu thiện mà có. Giàu sang từ nghiệp lành khởi chẳng phải do giết người chôn sống mà cảm. Vì thế luận nói: Đây là duyên không định chẳng phải thọ báo không nhất định. Nếu nói thọ báo nhất định thì nhân không thể thay đổi. Dụ như gieo lúa thì mọc lúa giê, quyết không mọc lúa mạch. Lúa mạch không mọc nhưng không thể do hạt giống và đất làm duyên, lúa giê làm nhân. Nhưng nhân quả rộng lớn, khó lường xét rõ ràng. Y theo văn kinh dạy lược nêu hai thứ: Sinh báo và thọ báo cùng thực hành mười nghiệp lành thì đồng được thân người là sinh báo. Giàu nghèo, sang hèn, thông minh đần độn, chết yểu sống lâu là thọ nghiệp. Vì thế, bố thí thì được giàu có, xan tham thì bị nghèo khổ. Nhẫn nhục thì được đẹp đẽ, sân hận thì bị xấu xí, đây là nhân quả tương đương. Nghiệp báo nhỏ nhiệm, người thông suốt còn mê mờ chưa rõ, suy nghĩ không thể đến. Nêu tà kiến hưng khởi, hoặc nói người chết thần diệt không có sinh đời sau (đoạn kiến); hoặc nói tụ tán không cùng, tâm thần không thường kiến; hoặc nói lành dữ, khổ vui đều do trời ban (tha nhân của ngoại đạo); hoặc chấp các pháp tự nhiên không do nhân mà có quả (vô nhân của ngoại đạo). Cho là việc họa phước đều do nơi sáu phủ, quả báo khổ vui đắp đổi ở hai hạnh. Bèn khiến cho người gặp, không phải chỗ đối kia. Chính gọi là sách danh số, không y cứ ở trên, thiện ác báo ứng không chứng ở dưới. Nếu có thể xem ba quả báo để xem phần cùng thông thì Khổng Tử không đáp, Trọng do quyết đoán rất dễ biết. Đây là do Văn Tử xưng lời của Huỳnh Đế rằng: Hình thì có tan rã mà thần không hóa. Do không hóa nương hóa mà kia thay đổi không cùng. Lại táng lễ của Doanh Bác nói rằng: Xương thịt trở về đất mà thần khí chẳng ở đâu không có.

Kinh Phật nói: Thần hình không hình, nương vào bốn đại, hình không có chủ, thần không có nhà, đây rốt ráo là minh chứng, thần rong ruổi trong sáu đường, là lãng thuyết (lời nói rõ ràng) hình trọn một đời, chưa thể tin kinh ít rõ lời răn dạy. Do đây mà quán xét, kinh Phật sở dĩ vượt hơn sáu điển, bặt chín dòng, há không cho là cùng thần đạt yếu, hun đúc linh phủ, tột nguồn tận hóa, thủy cảnh vô bờ hay sao.

-Thứ mười hai: Y theo pháp dứt nghi

Pháp có khuôn phép, người không nhất định, nếu y theo pháp thì các điều nghi ngờ tự dứt.

Lúc đó, đồng tử vẻ mặt không vui, tức giận nói rằng: Tôi nghe kinh Phật rỗng không chẳng sâu xa, danh giáo đã bàn, huyền phong lâu dài. Há khí tượng có thể bao gồm, vì thế người nhiễm thanh phong lưu, thì thoát hình cốc nơi tâm ban đầu. Người nghiên cứu cùng tận lý thì dẹp trừ tâm, trần nơi lo lự cuối cùng. Kháng chí cùng Di Hạo tích. Khiết Kỷ cùng Nghiêm Trịnh đồng tích, quên đồng vinh dự, bỏ tham dục. Nhưng lời dạy của đạo Phật hơi tranh cạnh vì xa xỉ. Trên thì giảm tư lương của cha mẹ, dưới tổn phần của vợ con. Trai hội thì nhiều món ăn ngon, chùa tháp thì quá sức đẹp đẽ trang nghiêm. Việc vui mừng cả năm, phí tư lương của nước. Nhưng các Sa-môn ưu tú thì ít, thọ trọng ân này chưa báo đức. Hoặc khai khiển ruộng vườn cùng nông phu đẳng lưu, hoặc tính toán cầu tài cùng người buôn bán tranh lợi. Hoặc giao du với người giàu sang để tự khoe mình là bậc hào kiệt. Hoặc bói toán tốt xấu quay cuồng theo danh dự. Bèn khiến cho nguồn lóng trong lần lần nhơ bẩn, nước trong thành đục.

Tôi sở dĩ cho là kỳ lạ vì lý do này. Mong muốn tâm thanh tịnh, nghiên cứu cùng tột Phật pháp, nhìn các phong tục khác, thấy đây mà rửa tâm không thác.

Tiên sinh bùi ngùi, cười nói rằng: Tôi nghe vật lân giới không đạt được việc cao hoại. Loài lông cánh đâu biết được thân lang thang đó đây. Loại thì khác; phân chia vốn kia như vậy mà thôi. Mười tánh sâu rộng hàm sinh đều có, hai đế gồm sâu, vật ngã suốt đây.

Nếu nói có thì chín đường ồn náo, nếu bàn không thì muôn tượng đều vắng lặng. Vì thế, Bátnhã Tâm Kinh nói: Sắc tức Tát-bà-nhã, Tát-bà-nhã tức sắc. Song sắc là ngoan chất vô tri còn Tát-bànhã là linh chiếu của chư Phật. Nói có thì như vậy không phân biệt, nói không thì một chẳng khác. Cùng tột thay! Cùng tột thay! Hư vô của Lão Tử chính là có ngoài mà trương nghĩa, pháp tánh của đạo Phật chính là sắc mà dạo huyền. Dạo huyền không ngại nơi khí tượng, duyên gì nương đó có thể trừ. Tức sắc mà sâu xa nơi pháp tánh thì cảnh trí đều vắng lặng. Kinh Bát-nhã nói: Hoại giả danh mà nói thật tướng các pháp.

Kinh Duy-ma nói: Trừ bệnh kia mà không trừ pháp. Tin đạo này, ai có thể đến kịp, vì thế có thể cứu những kẻ chìm đắm nơi trầm luân, cứu căn cơ u tối trong nhiều kiếp. Xa khai bến ba thừa, mở rộng con đường trời người. Phàm Đại sĩ lập hạnh, dùng bố thí Ba-la-mật làm đầu. Tiêu biểu chỗ cùng tột của tông dùng chùa tháp trước tiên. Bố thí mà-có quả báo không thành hư phí. Ban ân mà có đức đâu gọi không làm. Vả lại, tinh vi có chút kém mỏng, xa xỉ lần lần nổi lên. Lỗi ở vật hoài, đâu liên quan gì đến sự lo âu của bậc Thánh. Vì thế sùng hiên ngọc nhĩ chẳng phải là tâm của vua Nghiêu vua Thuấn. Nhà đẹp, ăn ngon đâu phải ý của Thích-ca. Nay Đại Chu ngự vũ, thuần phong xa giúp, chấn hưng giềng mối đạo nơi sáu hợp, lưu bố giềng mối đức ở tám hoang. Người không thể gõ sóng, trên sông, kẻ không thể gom tiếng trong hang, bốn dân đều an nghiệp, mười trăm dân đều phân rõ. Ngũ cốc tốt tươi đầy mộng, tích chứa trong kho mà thành củ. Đem kích hoại để ca tụng thái bình. Vỗ bụng mà xem thạnh hóa. Vì sao ông câu nệ ở vọng lự cùng kiệt.

Người xưa nói: Tài là khó, đáng tin. Khổng môn ba ngàn đều tốt đẹp trong biển. Lựa khắp bốn khoa không đầy mười. Trong đó, Bá Ngưu bệnh nặng, Nhan Hồi chết yểu. Thương cũng xan tham bỏn xẻn. Cho thì hóa thực, xin thì vơ vét, do hung bướng, mà trị nước suy hao.

Đây là tông của nhân luân, cung kính tôn trọng phép tắc là biểu tấn thân. Trăm dân kính mến di phong kia, ngàn đời kính cảnh hành kia. Còn như Sa-môn khổ hạnh bỏ hết tiết tháo, bởi tóc, da vì việc nối dõi là chỗ quan trọng của người đời mà Sa-môn xả bỏ như tháo giày dép. Danh vị tài sắc là chỗ dính mắc của loài hữu tình mà Sa-môn thấy đó như vỏ hạt lúa. Đây là chỗ nhẫn mà người không thể nhẫn được, chỗ bỏ mà người không thể bỏ được. Có thể gọi là vượt hẳn bến cầu thế gian, là chỗ thù thắng của sự hoằng đạo. Lục kia mở lời rắn nhắc thế tục đủ hết bốn việc. Tìm thành tích cao thượng kia có thể báo đáp bốn ân, huống gì hơn nơi đây ư? Núi Côn Luân có nhiều ngọc quý còn có gạch cát. Nước nổi nhiều vàng đâu không có đất đá. Trong số sinh mạng giới cấm thật nhiều, không đâu chẳng có năm, ba điều thiếu sót ở giới luật. Chính gọi là đạo bỏ người, chứ không thể cho là người bỏ đạo. Vì sao ông xem đây bèn khen ngợi giáo pháp của Phật, vì thế kinh nói: Y theo pháp không y theo người, y theo trí không y theo thức. Không thể thấy dấu vết của vua mà lơ là khuôn phép của vua Nghiêu và Khổng Tử, xem thành tích của Điều Đạt mà quên phong cách của bậc diệu đức. Nay ta sẽ vì ông mà nói đại khái giáo pháp kia. Ba thừa đều ra khỏi sinh tử mà chỗ sâu kín có cạn có sâu. Chín dòng đều nói vũ trụ mà chỗ suy xét đâu không có chung, riêng.

Kinh của Nho giáo nói: Căn bản của hiến đức, dạy đó là do sinh. Đã nói là căn bản của đức, dấu vết của đạo cao nhân nghĩa, dạy đó do sinh. Sách vở kinh điển do đó mà mở mang. Nhưng cùng quy về mà đường thì có khác, một mối mà trăm lo. Hiếu từ là chung, sao ông lầm ư? Nho là nhiếp chung sao ông nghi ngờ?

Lúc đó, Đồng tử mỉm cười vui vẻ nói: Phàm dựng lập cây xà nhà to lớn mới biết sự thấp hèn của cỏ tranh, ngước lên nhìn mặt trời mặt trăng càng cao, đồi núi sao có thể chật hẹp. Xem chân thuyên rộng lớn, biết lời dạy là gần. Xét lời bàn chân thật của hai kinh, biết sự giả dối của ba trương. Phật sinh ở Tây Vức, hành nghi, giáo pháp truyền đến Đông Độ được nghe dư âm. Song thần tích rộng xa, lý trái xưng gọi.

Nhân quả vắng lặng, tin bặt danh ngôn. Nay dùng tâm thấp kém nghe luận cao xa, tiêu nghi hết chấp, hoán nhược xuân vĩnh mới biết kinh điển đạo Phật mênh mông, bao gồm hai đế. Nho giáo rộng xa gồm thâu chín dòng. Tin sợ lời bàn, không được mà xưng vậy.

Tôi thật không sáng suốt, xin thành khẩn vâng theo lời dạy bảo.

QUYỂN 9

THIÊN THỨ HAI BIỆN HOẶC (PHẦN 5)

Luận tiếu đạo (văn kia rộng, chọn điều đáng cười).

Thần Loan xin thưa! Phụng sắc chỉ làm rõ đạo Lão, đạo Phật và định sự trước sau, cạn sâu, đồng khác của hai giáo. Thần thông đánh giá chỗ yếu kém chỉ cẩn thận chép đủ chỗ thấy nghe, Thần trộm nghĩ, đạo Phật và đạo Lão dấu vết khác nhau, xuất hiện, mất đi, ẩn, hiển, biến, thông cũng khác, sâu xa nhiệm mầu chưa dễ gì rõ được. Vả lại, một phen đối nhau thì đạo Phật lấy nhân duyên làm tông, đạo Lão lấy tự nhiên làm nghĩa. Tự nhiên là vô vi mà thành, nhân duyên là nhóm hạnh bèn chứng. Giữ bổn thì sự tịnh mà lý đồng, trái tôn thì ý trái ngược mà giáo pháp dối ngụy. Lý đồng thì trước sau như một, giáo luống dối thì không chỗ nào không làm.

Xét nghĩa năm ngàn văn từ của Lão Tử thì đều vĩ đại, thiết nghĩ là đáng quý. Lập thân, trị nước là đạo giàu của vua dân, cho nên đạo Lão có phương pháp bùa chú nguyền rủa, đạo Phật cấm thuật yêu quái trái lòng thương xót, hình tướng kia đây, đến đỗi khiến cho người đời nghi là chánh là tà. Đây há là ý của đại đạo tự nhiên vắng lặng vô vi ư? Toan để người đời sau trái bổn vọng sinh xuyên tạc.

Lại phương thuật của đạo Lão lấy tiên làm thần, đó cuồng hoặc trộm thấm dưới mắt. Xưa Từ Phúc dối vọng chia nước ở Di Đan, Văn Thành Ngũ Lợi yêu mị dối trá ở đời Hán, Tam Trương cuồng hoặc Tây Lương, Tôn Ân quấy nhiễu đông Việt. Những con mọt nước quá lớn này từ xưa xứng sự xằng bậy, dùng họ để sửa chánh sách thì chánh sách phần nhiều là tà, dùng để dẫn dắt dân, dân phần nhiều dối trá mê hoặc. Nghiệm sách vở kia, từng quyển tự trái, luận nghĩa lý kia thì đầu đuôi không y cứ. Xưa Hành Phụ làm người thấy vua có lễ kính như con hiếu thờ cha mẹ, thấy vua vô lễ ghét như chim Ưng đuổi chim Sẻ.

Tuyên Ni nói: "Thờ quân tử là trên hết" suy nghĩ tiến thì tận trung, suy nghĩ lui là giúp lỗi. Toan thuận điều tốt kia, sửa chữa lỗi kia, cho nên trên dưới có thể thân nhau. Truyện Xuân Thu nói: "Vua chỗ gọi là đáng có chăng? Thần hiến kia đáng để bỏ chăng? Thần cũng là người gì? Vâng sắc chỉ giáng hỏi dám đâu không đáp thật". Đạo Đức một quyển có thể là tông của rừng nho, cái nghi sai lầm là bỏ, hai điềm kia xin lượng san định. Xét Ngũ Thiên Văn nói: "Kẻ bậc thượng nghe đạo mà siêng thực hành, kẻ bậc trung nghe đạo như còn như mất, kẻ bậc hạ nghe đạo thì cười to. Không cười không tên là đạo, thần liền dùng sự hiểu biết của kẻ bậc hạ soạn luận tiếu đạo ba quyển, gồm ba mươi sáu điều. Ba quyển là cười ba tên rỗng suốt kia, ba mươi sáu điều là cười kinh kia có ba mươi sáu bộ. Sợ toát mồ hôi trình lên, tâm hồn thất thủ. Kính dâng vào niên hiệu Thiên Hòa nhà Đại Chu ngày mười lăm tháng hai năm thứ năm, trước ty Lệ, huyện Mẫu Cực, khai quốc bá thần Chân Loan, trình tấu.

Luận Tiếu Đạo quyển thượng:

1. Tạo lập trời đất.

2. Niên hiệu khác nhau.

3. Vốn vì trời người.

4. Kết cõi vì người.

5. Năm Phật đầu xuất hiện.

6. Năm luyện sinh cửa.

7. Quán Âm hầu Lão.

8. Phật Tây pháp là âm. Luận Tiếu Đạo quyển trung:

9. Nhật nguyệt kinh khác nhau.

10. Côn Luân bay bổng.

11. Pháp đạo lập quan.

12. Xưng "Nam-mô Phật".

13. Vết chim văn trước.

14. Trương Khiên chấp Kinh.

15. Nhật nguyệt nhóm khắp.

16. Thái Thượng tôn quý.

17. Ngũ cốc mạng tạc.

18. Lão Tử thành Phật.

19. Sai sử Cù-đàm.

20. Sự tà cầu đạo.

21. Tà khí loạn chánh.

22. Nghe giới cây chết khô.

Luận Tiếu Đạo quyển hạ:

23. Phương Bắc lễ trước.

24. Hại cha cầu đạo.

25. Phù phép kéo dài mạng sống.

26. Xét cùng kiếp trai.

27. Theo kiếp sinh tử.

28. Phục đơn sắc vàng.

29. Đổi Phật thành Lão.

30. Trộm nhân quả của Phật.

31. Kinh đạo Lão chưa xuất nói xuất.

32. Năm ức lớp trời.

33. Oai nghi ra vào.

34. Đạo sĩ thờ Phật.

35. Đạo sĩ hợp khí.

36. Sách đạo Lão của các nhà hiền triết.

1. Tạo lập trời đất:

Thái Thượng Lão Quân tạo lập trời đất, ban đầu ghi xưng là Lão Tử, do U Vương nhà Chu đức kém, muốn qua cửa Tây cùng Doãn Gia hẹn ba năm sau gặp nhau ở Trường An trong chợ bán gan dê xanh. Lão Tử sinh trong bụng Hoàng hậu, đến hẹn mừng gặp người bán gan dê xanh, đó hỏi thăm gặp Lão Tử trong bụng mẹ chui ra, đầu tóc đã bạc thân cao trượng sáu, đội mũ trời cầm gậy vàng, toan lúc Doãn ưa giáo hóa nước hồ, ẩn núi Thủ Dương mây tím che đó, vua nước Hồ nghi là yêu quái bỏ cháo nấu mà không rục Lão Quân quá giận định giết chết vua Hồ bảy người con và một phần nhân dân nước Hồ, vua mới phục ra lịnh nhân dân nhận sự giáo hóa. Đầu trọc không vợ thọ hai trăm năm mươi giới, làm hình tượng hương lửa lễ bái. Lão Tử bèn biến hình, mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng, đầu là núi Côn Luân, tóc là ngôi sao, xương là rồng, thịt là thú, ruột là rắn, bụng là biển, ngón tay là năm ngọn núi, lông là cỏ cây, tim là hoa lá, cho đến hai trái thận hợp thành chân yếu cha mẹ.

Thần Loan cười rằng: Sách Hán nói: "Trường An vốn gọi là Hàm Dương, Hán Tổ bình định thiên hạ đóng đô ở ấp Lạc, nhân Lâu Kính Chi can ngăn bèn than rằng: "Trẫm sẽ ở lâu tại đây" do đó đặt tên". Châu U chưa có được gì, Lão Tử dự biết hẹn cùng Doãn ở Trường An ư?

Lại xét Tam Thiên Chánh Pháp Hỗn Độn Kinh nói: Ban đầu hỗn độn, khí trong sạch làm trời, khí trược dơ làm đất, lại có bảy ngôi sao sáng, hình vạn tượng đến lâu. Đâu có sau khi Lão Tử giáo hóa nước Hồ mới biến ra mặt trời, mặt trăng, núi, sông ư? Nếu vậy thì trước U Vương trời đất chưa sinh muôn vật, làm sao kinh đạo Lão có ba Hoàng, năm Đế, ba Vương? Vậy thì trời đất bắt đầu từ U Vương ư? Lại tạo trời đất ghi rằng: "Núi Côn Luân cao bốn ngàn tám trăm (4.800) dặm, trên có núi Ngọc Kinh, núi Đại La, đều cao bốn ngàn tám trăm (4.800) dặm, ba núi hợp lại cao một muôn bốn ngàn bốn trăm dặm (14.400)". Lại phẩm Quảng Thuyết nói: "Trời đất cách nhau muôn muôn năm ngàn dặm" tình cung Tử vi ở trên năm ức lớp trời. Đây thì độ cao của núi Côn Luân có mấy trăm muôn dặm, mà Lão Quân dùng tâm làm lọng hoa, gan làm cung Thanh đế, tỳ (lá lách) là cung Tử vi, đầu là núi Côn Luân, không biết Lão Quân mắc tội gì mà đứng chốc ngược ở đất, đầu dưới thấp, gan ở trên, do điên đảo cho nên thấy cũng lộn ngược ư? Cho Trường An là năm Độ Quan, U Vương là năm Khai Tịch, toan đem giáo hóa chúng sinh, làm sao đáng theo?

2. Niên hiệu khác nhau:

Bài tựa kinh Đạo Đức nói: Lão Tử lấy năm Đinh mão niên hiệu Thượng Hoàng năm đầu, dưới làm Thầy nhà Chu, niên hiệu Vô Cực năm đầu Quý

Sửu bỏ Chu qua Quan. Thần cười rằng: Xưa vua Tiên Đế lập năm không hiệu, đến Hán Võ đế sáng lập Kiến Nguyên, vua sau do đó theo đến ngày nay. Thượng Hoàng Mạnh phóng đãng rất đáng chê cười.

Lại Văn Thỉ Truyện nói: "Lão Tử từ ba Hoàng trở lại đời đời làm Quốc gia giáo hóa nước Hồ". Lại nói rằng: "Thời Thang là Tích Thọ Tử, đầu nhà Chu là Quách Thúc Tử", đã là Quốc sư lẽ ra phải truyền sách sử, sao lại không thấy thuật? Nhưng nêu truyện Y Doãn nói Lữ Vọng là người Khang Thai ư? Mà truyền thuyết chỉ chú giải Lão Tử trụ ở Hạ Lại. Đạo gia chú là Thầy nhà Chu, lại là quan thế tục, thế nào sử truyện không nói? Lại Thượng Hoàng năm đầu là Đinh mão, tính Cơ Vương một đời hơn bảy trăm năm chưa nghe hiệu Thượng Hoàng, xem xét các sử truyện đều nói rằng: Lão Tử do thời Cảnh Vương qua Quan", nhà Lỗ thời Ai Công năm thứ mười sáu thì Khổng Khâu mất, tức thời Chu Kính Vương, Kính Vương là con Cảnh Vương, Cảnh Vương tức sau U Vương hơn mười đời, ở đây thì Khổng, Lão đồng thời, mà giáo hóa ở Hồ kinh bèn nói rằng: "Ngày U Vương qua Quan" không nghe trở lại, sao được gặp Khổng Tử?

Giáo hóa Hồ lại nói: "Vì Chu trụ sử bảy trăm năm", tính từ đầu nhà Chu đến U Vương chỉ có hơn ba trăm năm sao được vọng làm?

Nhưng năm của Thượng Hoàng là môn nhân đạo Lão dối gọi, cho nên Linh Bảo nói rằng: Ta vào năm đầu hiệu Thượng Hoàng độ người nửa kiếp, lúc ấy nhân thọ một muôn tám ngàn tuổi" làm sao vượt hơn nửa kiếp trước gọi tương lai, cận đời dùng ư? Nhất đâu đáng cười. Vả lại Thượng Hoàng Vô Cực đều là người vô ý thức xuyên tạc, người soạn muốn thần thuật kia, bèn lấy niên hiệu thêm ngày, hậu bối có tin mà theo.

Lại nói rằng: "Đời đời làm Quốc sư", trong bài tựa "Cát Hồng Thần Tiên" đều nói "Dỉ quái tầm" bậc Thánh đã sửa lại là tiên mà vua Kiệt nhà Hạ bạo ngược làm dân chúng lầm than. Thành Thang, Vũ Đinh Tư hiền như khát, Lão Tử vì sao vua hiền không giúp, bạo ngược không làm Thầy, chỉ tu thân dưỡng tánh tự giữ mà thôi? Hẹn Di Tương đến, biết cái chết đến ẩn qua Tây Độ, riêng nói cho Doãn nghe, thẳng khiến đọc tụng không dạy trao cho người, thân chết ở Quan, mộ phần vẫn còn thấy, Tần Thỉ làm bài điếu kêu ba lần mà ra, nghiên cứu kinh truyện trước là người sau vọng bàn, dẫu nói là tôn sùng lại thành hủy nhục đạo.

3. Vốn là người trời:

Phẩm Thái Thượng Tam Nguyên nói: Thượng Nguyên một phẩm, nguyên khí thiên cung ban đầu ngưng, ba quang (mặt trời, mặt trăng và sao) khai sáng, khí xanh vàng đặt ba cung thượng nguyên ở bậc nhất tên là cung Huyền Đô Nguyên Dương Thất Bảo Tử Vi, thì có khí thanh nguyên Thỉ dương, gồm chủ Linh Bảo Thượng Hoàng, các vua Thiên đế, Thượng thánh, Đại thần ở cung Thượng Chân Tự Nhiên Vương, cung này đều năm ức năm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi lăm ức vạn lớp khí thanh dương, trong đó thần tiên quan liêu dân chúng đều có năm ức năm vạn, cho đến muôn lớp như trên, đều kết khí tự nhiên thanh nguyên làm người, chín cung kia số lớp, quan liêu, dân chúng đều đồng cung Tử vi.

Thần cười rằng: Kinh Tam Thiên Chánh Pháp nói: "Thiên quang chưa sáng, chứa nhóm chưa trong, hơn bảy ngàn kiếp huyền cảnh mới chia, chín khí vẫn còn, mỗi khí cách nhau chín muôn chín ngàn chín trăm chín mươi dặm, khí trong thì lên cao, khí đục thì xuống thấp, mà chín trời Chân Vương nguyên ban đầu vua trời sinh trong chín khí, khí kết thành hình. Lại có vua Cửu Chân đều là khí thanh trong của chín trời ngưng kết thành vị chín trụ. Người trời ba Nguyên từ khí mà sinh, trong phòng rỗng suốt ở cung ngọc có ba ngàn ngọc nữ hầu hạ, cho trời là cha khí là mẹ sinh vua Tam Nguyên.

Lại xét phẩm Linh Bảo Tội Căn nói: "Thái Thượng Đạo Quân lễ Nguyên Thỉ Thiên Tôn học mười điều lành,... các pháp, vì vậy Thiên Tôn gọi hết Thần tiên lại và nói nhân duyên, có hằng sa vị đắc đạo rồi thành Như Lai, còn những người chưa thành cùng nhiều như hằng sa". Lại truyện Nguyên Thỉ nói: "Thiên đường đối lại địa ngục, người thiện lên trời, kẻ ác vào địa ngục", nếu dùng đây nói lý thì không phải vậy. Vì sao? Vì Nguyên Thỉ Thiên Vương và Thái Thượng Đạo Quân, chư thiên thần nhân đều hết khí tự nhiên thanh nguyên mà hóa làm gốc, chẳng phải tu giới mà thành. Kia vốn không do trì giới mà thành, đâu được khiến ta làm riêng pháp lành mà mong được làm rồi ư?

Lại xét kinh Độ Nhân Bổn Hạnh nói: "Thái Thượng Đạo Quân nói: "Ta từ vô lượng kiếp độ người vô số, Nguyên Thỉ Thiên Tôn lấy ta làm nhân duyên siêng năng, cho ta hiệu là Thái Thượng." Suy theo đây có nghi, như có phẩm Vô Sinh Thành nói: "Hư không là mẹ của muôn vật, đạo là cha của muôn vật", ở đây thì trước có đạo sau mới có chúng sinh. Nhưng ở đây cha là đạo chứ chẳng phải chúng sinh làm, đạo đã như thế, chúng sinh đâu cần tu điều thiện làm gì? Lại đạo sinh muôn vật, lúc mới sinh vật thì là ban đầu, ta đã mới sinh chưa có tập nhiễm, sao lại có sáu đường bốn loài khổ vui khác nhau? Lại là không đúng. Lại nói rằng: Thần thức chúng sinh xưa nay tự có chẳng phải đạo sinh. Đạo đã có thể sinh muôn vật, thần thức đâu chẳng phải là vật? Lại là không đúng.

4. Kết đất thành người:

Kinh Tam Thiên Chánh Pháp nói: "Chín khí đã chia, Cửu Chân Thiên Vương cho đến Tam Nguyên Thiên Nhân là vua của Tam Nguyên, Thái Thượng Đạo Quân vì thế mà so sánh, đợi đến Hoàng đế mới lập sinh dân, kết đất làm tướng ở đồng trống, ba năm có thể nói, đều ở một phương cho nên có Thương, Tần, Di, Khương, năm tình hợp đức, năm pháp tự nhiên, nương khí Thượng Chân mà được làm người.

Thần cười rằng: Phẩm Tam Nguyên nghiệp thiện ác dối đều do một thân. Lại truyện Nguyên Thỉ nói rằng: "Nếu dâm, trộm, bật hiếu, chết vào địa ngục chịu năm khổ tám nạn, sau đọa vào loài lục súc hay chỗ mọi rợ". Suy theo đây mà nói thì sai trái rất lắm. Vả lại tượng đất Hoàng đế trải qua ba năm có khí Thượng chân vào mới nói năng được. Khí thượng thanh này đồng nguồn với Thái Thượng, luận trước khi chưa có thiện ác thì cái gì là vào trong tượng đất, liền rơi vào tám nạn để làm man di ư? Đất đây làm tượng, trước cũng không nhân, làm sao sau khi tạo mà có giữa hay biên địa khác nhau ư? Lại khí thượng chân là si hay sáng suốt? Nếu là kia ngu si thì không nên vào đất để nói. Như kia là sáng suốt, nên biết năm khổ tám nạn, sao không ưa thiện vui mà tham làm khổ nạn ư? Suy các điều đây rất đáng cười.

5. Nói năm vị Phật đều đồng xuất hiện.

Truyện Văn Thỉ nói: "Lão Tử dùng Thượng Hoàng Nguyên Viên Hạ làm Thầy nhà Chu, Vô Cực Nguyên Niên cưỡi trâu xanh, xe vãn mỏng qua quan vì Doãn Hỷ nói Ngũ Thiên Văn rằng: "Ta dạo trong trời đất, ông chưa đắc đạo không thể theo ta, phải tụng Ngũ Thiên Văn một muôn biến, tai phải nghe suốt, mắt phải thấy suốt, thân sẽ bay đi sáu thông bốn đạt, hẹn ở thành đô". Hỷ y lời được đó, đã thăm hỏi gặp nhau, đến Kế Tân trong núi Đàn Đặc bèn đến vua dùng lửa đốt, nước chìm, Lão Tử vẫn ngồi trong hoa sen tụng kinh, vua ân cần xin hối lỗi, Lão Tử suy cử Doãn Hỷ làm Thầy, nói với vua rằng: Thầy ta gọi là Phật, thờ Phật là trên hết, đạo vua theo đó giáo hóa, nam nữ đầu trọc không cưới vợ, là đạo Vô thượng, nương oai thần Phật, gửi gắm cho Doãn Hỷ làm Quốc sư Kế Tân hiệu là Nho Đồng Minh Quang.

Thần cười rằng: Phẩm Quảng Thuyết nói: Thỉ Lão Quốc Vương nghe Thiên Tôn nói pháp, cùng vợ con đều được quả Tu-đà-hoàn. Thanh Hoà

Quốc Vương cùng quần thần nghe pháp và làm Thiên Tôn, sáng ra đều bay lên trời, vua là chủ của Phạm thiên hiệu là Pháp sư Huyền Trung, vợ vua nghe pháp đồng bay lên làm Diệu Phạm Thiên Vương, sau sinh ở nước Kế Tân giận vua Đà Lực giết hại vô đạo. Pháp sư Huyền Trung đợi hóa độ bèn hóa sinh vào thai họ Lý, tám mươi hai năm mới xẻ hông trái mà ra. Lúc sinh ra đầu đã bạc. Qua ba tháng cưỡi con nai trắng cùng Doãn Hỷ dạo qua đây đến ẩn ở Huyền Trung chỗ Đàn Đặc. Ba năm sau vua Phẩn đà Lực săn bắn gặp liền đốt và nhận nước mà Lão Tử không chết, vua phục nên liền cạo tóc đổi y phục lấy họ Thích, Pháp hiệu Sa-môn, chứng quả thành Phật Thích-ca Mâu-ni, đến đời Hán, pháp truyền về Đông Tần". Lại truyện Văn Thỉ nói: "Lão Tử giáo hóa nước Hồ suy cử Doãn Hỷ làm Thầy (Quốc sư)". Kinh Tiêu Băng nói: "Doãn Hỷ suy tôn Lão Tử làm Quốc sư". Truyện Văn Thỉ nói: "Thầy ta là Phật, Phật thờ đạo vô thượng". Lại nói rằng: "Đạo Vô thượng nương oai thần Phật": Doãn Hỷ làm Phật. Suy lời này thì Thầy trò lộn xộn, sao gọi là sự tồn tại của giáo pháp.

Lại giáo hóa nước Hồ, kinh Tiêu Băng đều nói Lão Tử hóa thân ở Kế Tân tự là Phật. Phẩm Quảng Thuyết thì vua Phẩn Đà Lực là vợ của Lão đắc đạo hiệu là Phật Thích-ca Mâu-ni, tức lưu hành vào thời Tần, Hán.

Thiên Huyền Diệu nói: Lão Tử vào quan đến nước Duy-vệ ở Thiên Trúc, vào trong miệng của phu nhân Thanh Diệu, đến năm sau ngày mồng tám tháng tư mở hông bên trái mà ra, giơ tay nói: "Trên trời dưới đất chỉ có ta là tôn quý, ba cõi đều khổ đâu đáng vui". Xét ra nước Kế Tân có năm Đức Phật đều xuất hiện:

1- Doãn Hỷ hiệu Nho Đồng;

2- Lão Tử giáo hóa Kế Tân;

3- Vợ của Lão Tử tức vua Phẩn Đà Lực hiệu Thích-ca;

4- Lão Tử ở Duy-vệ làm Phật, cũng hiệu Thíchca;

5- Tất-đạt-đa con vua Bạch Tịnh cũng làm Phật, hiệu là Thích-ca.

Xét truyện Văn Thỉ nói: "Năm trăm năm một vị hiền, ngàn năm một vị Thánh" nay năm vị Phật đều xuất hiện, chẳng biết có rắc rối không? Nếu nói bậc Thánh có thể phân thân hóa vật, nói kinh cũng quyết nhiều phương, sao lại là Lão Tử hóa thì nhiều mà kinh chỉ có hai quyển không thay đổi, đến kinh Nho Đồng Doãn Hỷ Phẩn đà Phật thì không nghe, đến nay chỉ là kinh của con vua Bạch Tịnh nói, do đây mà suy thì Lão Hỷ thành Phật là luống dối đáng cười. Vả lại kinh đạo Lão là mật thuyết không cho người nghe, trước sau thay nhau thành có ý xa. Nhưng Lão Tử có thể thành Phật, chỉ là một người Đạo sĩ mà không biết thờ Phật là lầm hoặc rất lắm. Như cha là Đạo nhân con là Đạo sĩ, há vì là Đạo nhân mà con lại không nhận kia là cha mình ư?

6. Ngũ Luyện Sinh Hộ ấy:

Kinh Ngũ Luyện nói: Người diệt độ (chết) dùng sắc tơ lụa, Thiên tử một thất, công vương một trượng, thứ dân năm thước. Thượng kim năm lượng mà làm một rồng, thứ dân dùng thiếc năm sắc, đã năm mai để vẽ lằn ngọc, thông sương đêm chân sâu ba thước". Nữ Thanh văn nói: U hồn Cửu Tổ liền xuất ra đêm dài nhập vào ánh sáng của trời, cùng cơm nhà bếp kia ba mươi hai năm, trở lại hình cũ mà sống lại.

Thần cười rằng: Trong phẩm Tam Nguyên trời đất nước ba cung chín phủ, chín cung một trăm hai mươi tào, tội phước công hạnh, quan xét viết đó không có sai lầm, người thiện càng thọ kẻ ác đoạt số, há có không nhân nơi nghiệp hạnh dùng thẳng năm thước lụa mà khiến u hồn Cửu Tổ nhập vào ánh sáng trời, ba mươi hai năm trở lại hình cũ ư? Không như vậy bàn đó, đây có thể thấy. Tính văn Ngũ Luyện đưa ra trước khi trời đất chưa chia đến nay cũng nên dùng thì ba mươi hai năm sau xoi mồ mà ra. Như mắt tai chỗ biết đâu là Hy, Hoàng đã đến không nghe Đạo sĩ thây chết, Cửu Tổ từ đất vọt ra ư? Trạng không như vậy lại đáng cười. Nay chỗ hoang vắng ngoài thành mã xưa cũng có hang mở, chẳng phải chỗ Tổ phụ Đạo sĩ tái sinh ư? Cũng là đáng cười.

7. Quán Âm hầu Lão Tử:

Có Đạo sĩ làm tượng Lão Tử có hai tượng Bồtát đứng hầu, một vị tên Kim Cang Tạng, một vị tên Quán Thế Âm. Lại Đạo sĩ đội khăn vàng, hoặc dùng khăn che cả thân mà mặc, trộm tướng pháp phục ca sa của chúng Tăng đạo Phật. Kia trùm khăn vàng chính là áo của bậc hiền khi xưa trùm ngang lại thêm hai dây ở trước, nay đều đã bỏ học theo y phục của Tăng.

Thần cười rằng: Xét văn Chư Thiên Hội Âm Bát Tự nói: Hình Phạm thiên rơi ở hư không, chín linh suy tìm trước thì Thiên Chân Hoàng Nhân giải rằng: Hình Phạm thiên là Nguyên Thỉ Thiên Tôn là hiệu rồng ở đời Hán đến niên hiệu Xích Minh hiệu là Quán Âm". Lại xét Thục Ký nói: Trương Lăng ở trong đền thờ Khâu trốn bệnh sốt rét được thuật chú quỷ, tự làm phù thơ để dối hoặc trăm họ bị rắn lớn nuốt, đệ tử xấu hổ nói là ngày nọ bay lên trời. Con của Lăng tên Hoành làm Hệ sư, con Hoành là Lỗ làm Từ sư, dùng pháp yêu tà của ông nội làm hoặc loạn thiên hạ. Sách Hán nói rằng: Lưu Yên cho Lỗ làm Duệ Nghĩa Tư Mã bèn giết Hán Trung Thái Thú là Tô Cố liền được Hán Trung, lấy đạo quỷ giáo hóa người, thời truyền áo vàng cho vua lúc ấy, Lỗ bèn khiến bộ chúng kia sửa lại mặc áo vàng khăn choàng là điềm thay nhà Hán. Từ ấy đến nay áo vàng không dứt, giống áo Sa-môn thật đáng thương! Vả lại gốc lập thân lấy trung hiếu làm đầu, con là tượng, cha đứng hầu, trời đất không lập. Quán Âm là bậc Đại sĩ ngôi cao nhất, Lão Tử không bằng Đại thánh mà khiến Tổ phụ (cha ông) đứng hầu con cháu là bất hiếu. Lại mặc áo lễ của Trương Lỗ là người nghịch là bất trung. Đã là bất trung bất hiếu làm sao đáng theo?

8. Phật sinh ở Tây âm:

Lão Tử có bài tựa nói: Đạo âm dương hóa thành muôn vật, đạo sinh ở Đông là mộc dương, Phật sinh ở Tây là kim âm. Đạo là cha Phật là mẹ, đạo là trời Phật là đất, đạo sống Phật chết, đạo là nhân Phật là duyên và một âm một dương không lìa nhau. Phật là do đạo sinh ra, Đại thừa là giữ đạo thiện, tự nhiên không chỗ theo sinh, Phật hội tòa lớn pháp là đất vuông, đạo hội tòa nhỏ pháp là trời tròn. Đạo nhân không binh là có thể biết đạo nhân thấy Thiên tử, Vương hầu không lễ bái, giống người nữ ở thâm cung, không can dự chính trị, Đạo sĩ thấy Thiên tử giữ lịnh lễ bái do can dự chính trị làm quan liêu. Đạo hội uống rượu không lỗi, Phật hội không uống, do người nữ uống rượu phạm bảy xuất. Đạo hội không trai giới do chủ sinh, sinh cần ăn. Phật hội trì trai do là chủ tử, chết không cần ăn. Lại do người nữ giảm ăn. Đạo nhân riêng nằm cho nữ nhân giữ một bên, Đạo sĩ nhóm lại ngủ cho nên không chế.

Thần cười rằng: Truyện Văn Thỉ nói: "Đạo sinh phương Đông là mộc là nam. Phật sinh phương Tây là kim là nữ". Nay dùng ngũ hành suy đó thì Phật là quan quỷ của đạo, đạo là thê tài của Phật. Lại nói rằng: "Đạo sinh Phật" lý thì không đúng. Âm dương ngũ hành đâu có mộc sinh kim, cho nên biết đạo không sinh Phật. Đạo nhân tòa lớn là quan phủ của đạo, Đạo sĩ tòa nhỏ là do trên ép ngặt quan. Đạo nhân không có binh tô (thuế) là do vốn dòng vua nên miễn, Đạo sĩ là thứ dân hạ tiện binh tô là chuyện thường. Kinh Đạo Lão như thế, nếu miễn binh tô lại trái đạo giáo. Lại Linh Bảo Đại Giới nói: "Đạo sĩ không uống rượu không liên can đến quý" như vậy sao cố trái phạm Đại giới ư? Về sau ồn ào toàn không chỉ mục đích. Lại nói rằng: Đạo sĩ cho trai giới là pháp chết cho nên không trì trai, sao không ăn no suốt ngày để nuôi hình hài mà lại khởi việc dứt ăn gạo phục khí để cầu thuật trường sinh? Cuối cùng không hề thấy làm luận bắt bóng. Lại nói rằng: "Đạo nhân nằm riêng, Đạo sĩ nhóm ngủ", theo đây hợp khí thì sách vàng không là dối hay sao?

9. Chu vi và đường kính mặt trời mặt trăng:

Truyện Văn Thỉ nói: Trời cách đất bốn mươi muôn chín ngàn dặm, mặt trời mặt trăng đi thẳng qua đều ba ngàn dặm, đi vòng là sáu ngàn dặm. Trời đất giờ tý giờ ngọ cách nhau chín ngàn muôn muôn dặm, giờ mão giờ dậu, góc Tây cũng khiến chuyển hình". Kinh Tề Khổ nói: "Núi Côn Luân cao một muôn năm ngàn dặm".

Thần cười rằng: "Nương kinh Tề Khổ nói: "Trời đất cách nhau muôn muôn năm ngàn dặm" hoàn toàn không giống với Văn Thỉ ở trước, Văn Thỉ Truyện nói: "Mặt trời mặt trăng chu vi sáu ngàn dặm, bán kính là ba ngàn dặm, y cứ pháp thì chu vi là chín ngàn dặm, vì sao chỉ có sáu ngàn? Lại trời tròn đất vuông đạo Lão hằng thuật, nay bốn góc cùng phương đồng lượng, thì trời đất đều tròn." Hóa Hồ nói: "Phật pháp hạn cao nhất chỉ là cõi trời Tam thập tam không bằng đạo Lão ở trên cõi trời tám mươi mốt". Lại nói rằng: "Núi Côn Luân chín lần chín lớp cách nhau chín ngàn dặm, núi có bốn mặt, mỗi mặt một cõi trời, cho nên bốn lần chín là ba mươi sáu cõi trời, lớp thứ nhất là Đế Thích ở. Nay tính núi Côn Luân cao một muôn năm ngàn dặm mà có chín lớp, lớp cao chín ngàn thành ra cao tám muôn một ngàn, mà nói một muôn năm ngàn dặm là quá sai, đều rất đáng cười.

10. Côn Luân bay nổi:

Truyện Văn Thỉ nói: Muôn muôn ức muôn muôn năm có một đại thủy, núi Côn Luân bay nổi, bấy giờ tiên bay đón lấy Thiên vương và dân lành để lên núi. Lại muôn muôn ức năm có đại hỏa xảy ra, bấy giờ bậc Thánh bay đón Thiên vương và người lành để ở trên núi.

Thần cười rằng: Kinh Tế Khổ nói: "Trời đất ở kiếp thiêu thấu suốt hư không như nước sôi, khí thanh làm trời, khí trược làm đất, bèn khiến cự linh hồ cai tạo lập núi sông mặt trời mặt trăng như trước". Núi Côn Luân nay nổi đâu cho có thể rước người để lên núi. Nếu trời đất rỗng suốt, núi bị đốt cháy, nghĩa không lập riêng, làm sao rước lấy vua và người đặt lên núi?

Lại kinh Độ Nhân Diệu chép: Trên năm ức lớp trời là trời Đại La, có núi Ngọc Kinh, tai không đến. Tính ta Thái Thượng thương xót sao không rước để ở núi Ngọc Kinh? Nếu thấy chết mà không rước là không từ. Nếu không thể rước là lừa dối. Lại kinh Độ Nhân Bổn Hạnh nói rằng: "Đạo nói ta tùy kiếp sinh tử", nhưng Thái Thượng Đạo Quân ở trên Đại La thủy hỏa tai không đến, còn nói rằng: "Tùy kiếp sinh tử" từ bao nhiêu tiên bay làm sao rước lấy Thiên vương và người lành đặt lên núi để khỏi chết. Rất là đại ngu, lại rất đáng cười.

11. Pháp đạo lập quan:

Kinh Ngũ Phù nói: Trung Huỳnh Đạo Quân nói: "Trời sinh vạn vật, người là quý nhất, thân người bao gồm trời đất không đâu chẳng là pháp. Lập Thiên tử, đặt ba công, chín khanh, hai mươi bảy đại phu, tám mươi mốt nguyên sĩ, chín châu, một trăm hai mươi bộ, ngàn hai trăm huyện. Mật là Đại Đạo Quân con trời, tỳ (lá lách) là Hoàng hậu, tim là Thái úy, vai trái là Ty Đồ, vai phải là Ty Không, phong tám thần và rốn là chín khanh, Châu Lâu thần là mười hai, vị thần là mười hai Tiêu thần ba, hợp thành hai mươi bảy đại phu, tứ chi là tám mươi mốt, nguyên sĩ hợp thành một trăm hai mươi, dùng pháp là quận số. Lại phổi là phủ Thượng thư, gan là phủ Lan đài.

Thần cười rằng: Xét tên châu huyện trong kinh đạo Lão, văn dường như rút ra từ cận đại. Xưa huyện lớn mà quận nhỏ, thấy ở các sách nhà Chu và Xuân Thu, nay lại cho quận lớn hơn huyện là chẳng đúng. Kinh đạo Lão từ Xuân Thu về trước.

Vua báng mê lầm không đáng xem mà đáng cười.

12. Xưng "Nam-mô Phật":

Kinh Hóa Hồ nói: Lão Tử hóa Hồ, vua không nhận sự giáo hóa, Lão Tử nói: Nếu vua không tin, ta vào Nam Thiên trúc giáo hóa các nước, đạo kia rất hưng thịnh, từ đây "Nam-mô" tôn hỏi Phật, vua Hồ vẫn không tin nhận nói: "Nếu Nam hóa Thiên Trúc ta sẽ đảnh lễ xưng "Nam-mô Phật"." Lại Lưu Sa Tắc có thêm nước Di thường bị trộm cướp, vua Hồ lo lắng sai người nam giữ gìn, Tắc thường lo lắng, do đó gọi người nam là Ưu-bà-tắc nữ lại sợ thêm di đã bị cướp và lo cho chồng bị Di vây khốn, do đó gọi là Ưu-bà-di.

Thần cười rằng: Tiếng Hồ nói: "Nam-mô" Hán dịch là quy mạng, cũng nói là "Cứu ngã". Tiếng Hồ nói Ưu-bà-tắc, Hán dịch là Thiện tín nam, Ưu-bàdi là Thiện tín nữ. Nếu cho Lão Tử nói Phật xuất hiện ở phương Nam, liền nói là "Nam mô Phật". Nếu xuất hiện phương Tây, thì sẽ nói là "Tây mô

Phật" chăng? Nếu nói người nam giữ Tắc gọi là Ưu-tắc, người nữ lo chồng, sợ Di có thể gọi là Ưudi, chưa biết "bà" là lo cho bà nội ư? Như đây y chữ giải thích thật là xấu hổ đần độn khốn nhục rất đáng cười.

13. Vết chim văn trước:

Kinh Đổng Thần Tam Hoàng xưng Tiên vì Tây Vức nói Hoàng Văn chính là Tam Hoàng về trước, ban đầu vết chim là Văn Chương. Lại nói: "Tam Hoàng là tôn thần của Tam Đổng là tổ khí của Đại Hữu, Thiên Hoàng chủ khí, Địa Hoàng chủ thần, Nhân Hoàng chủ sinh, ba vị hợp thành đức muôn vật hóa sinh.

Thần cười rằng: Phẩm Nam Cực Chân Nhân Vấn Sự, xưng Linh Bảo Chân Văn ba mươi sáu quyển ở thất Huyền Đài Ngọc nơi núi Ngọc Kinh, Chân Văn Đại Tự đủ ở trong, trời đất chìm mất muôn thành muôn hoại, Chân văn riêng sáng? Chân văn đây tức là văn Tam Đổng. Tam Hoàng tức tôn thần của Tam Đổng quyết không ở sau Tam Đổng. Bấy giờ chưa có chim thú, đâu được nói là Tam Hoàng về trước là văn ban đầu của vết chim. Nếu cho Phục Hy là Tam Hoàng, xét bộ Hoài Nam Tử nói: "Hoàng đế sai Thương Giáp nhìn vết chim làm văn tự", ở đây thì chỉ ở thời Hoàng đế, đâu được nói là Tam Hoàng về trước bắt đầu có chữ dấu vết chim ư?

14. Trương Khiên Thủ Kinh:

"Kinh Hóa Hồ nói: "Bồ-tát Ca-diếp nói rằng: Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm, ta đến phương Đông du hóa trao đạo cho Hàn Bình Tử, sáng ngày sau bay lên trời". Lại hai trăm năm, trao đạo cho Trương Lăng, lại hai trăm năm trao đạo cho Kiến Bình Tử, lại hai trăm năm trao đạo cho ngàn nhà". Bấy giờ cuối thời Hậu Hán Lăng Trì không thờ đạo ta. Đến Hán Minh Đế, Giáp tý, hiệu Vĩnh Bình năm thứ bảy ban đêm sao vẽ hiện phương Tây, Minh Đế mộng thấy vị Thần cao trượng sáu, đầu có ánh sáng, sáng ra hỏi quần thần, Truyền Cốc nói: Thái tử vua Hồ ở phương Tây thành đạo hiệu là Phật". Minh Đế sai Trương Khiên v.v... đi hết sông nguồn trải qua ba mươi sáu nước đến Xá-vệ thì Phật đã Niết-bàn, chép kinh sáu mươi muôn năm ngàn lời, đến niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười tám mới trở về.

Thần cười rằng: Sách Hán nói: Trương Lăng là người sau thời Thuận Đế của Hậu Hán, khách học ở Thục vào núi Hạc Minh bị rắn nuốt. Tính đời Thuận Đế chính là cháu bảy đời của Minh Đế, lý không ở trước Minh Đế hơn trăm năm. Lại nói rằng Minh Đế sai Trương Khiên theo sông ngòi, đây cũng là vọng làm. Xét sách Hán thì Trương Khiên là đời Võ Đế thời Tiền Hán theo nguồn sông, làm sao Minh Đế Hậu Hán lại sai được? Không biết Khiên là Hà Trường Thọ Tiên ư? Đời đời nhận sai sứ, một đâu khổ thay! Đáng cười kia dẫn lầm.

15. Mặt trời, mặt trăng khắp nhóm:

Văn Chư Thiên Nội Âm Đệ Tam Tông Phiêu Thiên Bát Tự chép: "Trạch Lạc Giác Bồ Đài Lục Đại La", Thiên Thiên Chân Hoàng Nhân giải thích rằng: Trạch là tên núi Thiên Trung là hang. Các loài rồng ở, Lạc Giác là tên trong của Đạo Quân,

Bồ Đài là hiệu ẩn của Chân Nhân, Ngọc Đài là phía Nam núi Trạch, ba muôn mặt trời, mặt trăng sáng ở hai bên, phu nhân La Hán Nguyệt đại kiếp đã giao, chư Thiên, mặt trời, mặt trăng hội dưới Ngọc Đài chia đại thiên thế giới, thiên hạ sửa đổi đại thiên rỗng suốt.

Thần cười rằng: Kinh Tế Khổ nói: Sau khi trời đất rỗng suốt bèn khiến Cự Linh Hồ Cai tạo núi sông, Huyền Trung làm mặt trời mặt trăng, phía Nam núi Côn Luân cách ba mươi triệu dặm lại có núi Côn Luân, như vậy thứ lớp có ngàn núi Côn Luân gọi là tiểu thiên thế giới, lại có ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, lại có ngàn trung thiên gọi là một đại thiên thế giới. Tính ra trong đại thiên thế giới có trăm ức mặt trời mặt trăng. Lại kinh nói rằng: Đại kiếp đã giao, thiên địa sửa đổi, mặt trời mặt trăng ngôi sao không tồn tại. Nếu mặt trời mặt trăng nhóm khắp thì trăm ức đều đến chứ sao lại chỉ có ba ngàn đến nhóm. Nếu bao nhiêu không nhóm là do thiên tai không đến hay là cõi nước nhỏ chật? Nếu hẳn là nhỏ thì người phàm trên đất còn nhờ mặt trời mặt trăng soi chiếu. Trên trời phước thù thắng sao lại riêng không chiếu? Lại dưới mặt trời, mặt trăng là cõi Dục, dưới người không có tên Đại La Thượng giới mà tai không đến. Nay không lại lý ở vậy ư? Phải biết người tạo kinh này chỉ nghe tên đại thiên mà mê mờ số mặt trời mặt trăng, cho nên viết như vậy.

16. Đại Thượng tôn quý:

Truyện Văn Thỉ xưng Lão Tử cùng Doãn Hỷ dạo nơi trời, vào chín lớp bạch môn, Thiên đế thấy Lão Tử liền lạy, Lão Tử và Thiên đế lễ chào nhau. Lão Tử nói: "Thái Thượng Tôn Quý, khắc ngày dẫn thấy". Thái Thượng ở cung bảy báu nơi núi Vương Kinh, sinh ra các thiên thượng, vắng lặng mênh mông xa xăm.

Thần cười rằng: Truyện Thần Tiên nói: "Chẩm Hy ở quận Ngô ngày nọ lên trên, bốn trăm năm sau trở lại nhà nói rằng: "khi mới lên trời muốn gặp Thiên đế tôn quý không thể gặp, bèn trước gặp Thái Thượng ngồi ở chánh điện, nam nữ đứng hầu có mấy trăm người", như đây rõ thì biết Thái Thượng kém hơn Thiên đế. Nói Thái Thượng tôn quý trị ở trên thiên chúng là sai. Cung Ngọc Thanh kia ở trên Huyền Đô sao cùng Đồng lại ở trên Ngọc Thanh, lại cao hơn Huyền Đô hai lớp? Mà Lão Tử nói rằng: Thái Thượng trị ở trên chúng trời, sao lại lầm quá vậy.

17. Ngũ cốc mạng tạc:

Kinh Hóa Hồ nói: "Tam Hoàng tu đạo người đều không chết, thời Thượng cổ trời sinh cam lồ đất sinh suối nước ngọt ăn uống được trường sinh. Thời Trung cổ trời sinh năm khí đất xuất hiện năm vị, ăn vào kéo dài tuổi thọ. Thời Hạ cổ đời mỏng trời sinh gió mưa, đất nuôi trăm thú, người bắt ăn, ta đau xót đất này cho nên thưởng trăm loại lúa đậu để triệu dân ăn", vì vậy ba Hoàng đều thờ năm hộc lúa làm tin, cầu đời đời con cháu không dứt năm thứ lúa đậu sinh thần châu.

Thần cười rằng: Kinh Ngũ Phù nói: "Ba vị Tiên vương bảo Hoàng đế rằng: "Người sở dĩ sống già, là vì không ăn năm giống lúa đậu". Kinh Đại Hữu nói: "Năm thứ lúa đậu đào tạo thân mạng, năm tạng hư thối mạng căn ngắn ngủi, lương thực này vào bụng không hy vọng sống lâu, ông muốn không chết trong ruột không nước đái. Kinh Ngũ Phủ nói: Tinh vàng là khí ba dương, trên cung Thái Thanh ăn đồ ngon ngọt lại sống lâu. Chưa hiểu Lão Tử sao không thưởng đây mà thưởng ngũ cốc hư vào bụng người? Lại ba Hoàng đều là Thần nhân, do vì không khiến con cháu vua ở nước trường sinh mà dùng năm thăng cốc thỉnh con cháu vua ở thần châu, cầu mổ bụng hư mạng ngắn ư? Lại là đáng cười.

18. Lão Tử thành Phật:

Huyền Diệu Nội Thiên nói: "Lão Tử vào cửa đến nước Duy-vệ vào miệng phu nhân Thanh Diệu, sau mổ hông trái mà ra, đi bảy bước và nói: "Trên trời dưới đất chỉ có ta là tôn quý" vì vậy nên có Phật pháp.

Thần cười rằng: Kinh Hóa Hồ nói: Lão Tử giáo hóa Kế Tân tất cả thờ Phật, Lão Tử nói: "Kiếp sau trăm năm trên trời Đâu-suất lại có chân Phật gá sinh vào cung vua Bạch Tịnh nước Xá-vệ. Lúc bấy giờ ta cũng sai Doãn Hỹ hạ sinh theo Phật, hiệu là A-nan, tạo mười hai bộ kinh. Lão Tử cách trăm năm sau ở nước Xá-vệ vua quả nhiên sinh Thái tử, sáu năm khổ hạnh thành đạo hiệu là Phật tự là Thích-ca Văn, bốn mươi chín năm sau nhập Niếtbàn. Lão Tử lại thấy ở đời hiệu Ca-diếp trong rừng Song Thọ vì đại chúng khải thỉnh Như Lai ba mươi sáu lần vặn hỏi xong Phật liền Niết-bàn, Bồ-tát Cadiếp hỏa thiêu thân Phật xong thâu lấy xá-lợi, chia cho các nước xây tháp. Vua A-dục lại xây tám mươi bốn ngàn (84.000) tháp". Liền thấy việc này mà suy đoán thì Lão Tử vốn không thành Phật. Nếu thành Phật thì đâu thể Lão Tử lại tự nhiên thiêu thây Lão Tử mà xây tháp ư? Là điều đáng cười thứ nhất. Vả lại Lão Tử trong các kinh phần nhiều nói là thành Phật hoặc làm Quốc sư, đâu thể Quốc sư của thiên hạ cùng Phật đợi ở Bá Dương? Độ người giáo hóa thế tục phải đợi Lý Nhĩ ư? Nếu nói rằng: "Phật không thể làm, phải đợi đạo Lão" thì từ thai khí đến nay riêng một Lão Tử chứ không chấp nhận người khác ngộ đại đạo mà làm Quốc sư? Đây thì Lão Tử là tự khoe chỉ là ta mới có thể được. Nhưng kinh Phật người người tu hành đều chứng quả Phật, kinh đạo Lão không nói như vậy, chỉ có Lão Quân thì làm sao Phật giáo rộng như vậy mà kinh đạo Lão lại hẹp hòi như thế? Vả lại vọng nói thuật dối, đầu đuôi không có y cứ. Thục ghi

Trương Lăng bị rắn nuốt mà chú là ngày nọ bay lên trời. Sách Hán nói Đặng An phục Việt mà nói trường sinh bất tử, đạo gia nói dối Lão Tử thành Phật rất đáng quái lạ.

Lại kinh Tạo Thiên Địa nói: "Qua Tây giáo hóa vua nước Hồ, Lão Tử biến hình mà đi, mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng", xét kinh Huyền Diệu nói rằng: Lão Tử nương nhật tinh vào miệng Thanh Diệu" thì Lão Tử chỉ nương tinh của một mắt mà vào miệng. Kể ra đại đạo thần rỗng suốt chỗ nào lại không ở, bèn muốn nương một tinh mà vào thai ư? Nếu quyết nhờ tinh, tinh nương vào đầu, nếu nương đầu vào thì hai mắt đều vào, nay bèn nương một mắt mà vào liền thành thiên kiến của đại đạo ư? Cũng là đáng cười.

19. Sai khiến Cù-đàm:

Lão Tử Hóa Hồ Ca nói: Khi ta ở Xá-vệ huyễn sai thân Cù-đàm "Ông cùng Ma-ha-tát đồng qua đến Đông Tần, trải qua cõi Thần Châu, thẳng đến trong biển Đông, rộng nói pháp Thế Tôn, dạy trao cho người điếc cùng pháp oai thần ông hóa đạo đủ ngàn năm, khi mãn hạn sẽ trở về, cẩn thận chớ luyến lưu Đông Tần, đừng để Thiên đế giận, Thái Thượng sân đạp đất.

Thần cười rằng: xét Cù-đàm tức Thích-ca. Kinh Hóa Hồ nói: Chu Trang vốn ba năm đầu là năm Bính thìn hoàng hiệu Thái Tuế thì con vua Bạch Tịnh đã chứng quả Chánh giác hiệu là Phật Thích-ca. Lão Tử thấy kia cách đời vợ người biếng nhác. Lại xuống Tụ Lạc Đa-la hiệu là Ca-diếp gần gũi với Phật, hỏa thiêu nhục thân Phật lấy xá-lợi xây tháp phân chia như văn trên. Thích-ca chưa sinh thì không được dự sai Cù-đàm qua Đông Độ. Như Ngài đã sinh, thành Phật, thì chặng giữa không cho được nhận Ca-diếp hẹn sai đủ ngàn năm. Vì đâu có Bồ-tát thân hầu Phật mà lại sai khiến Phật ư? Lại chính sách của Chu Trang chỉ có mười lăm năm, năm đầu là Ất dậu hoàn toàn không có năm Bính thìn, vốn đầu niên hiệu sao lại lầm như thế? Đáng để bịt tai, cũng khiến Thái Thượng đạp đất mà giận?

20. Sự tà cầu đạo:

Kinh Độ Nhân Diệu nói: "Ma vương ba cõi đều có lời ca, tụng đó trăm biến gọi là độ cung Nam, ngàn biến Ma vương bảo đảm sẽ rước, muôn biến bay lên trời, quá ba cõi lên tiên công". Lại kinh Huyền Trung Tinh nói: "Đạo sĩ nhận giới phù lục đặt ngôi ngũ nhạc lập rượu lại lạy".

Thần cười rằng: Quán Thân Đại Giới nói: "Học đạo Lão không được cúng tế quỷ thần và lễ bái họ." Đã là Ma vương cõi Dục, chưa vượt qua các cõi đâu thể tụng thông trăm biến để độ cung nam?

Lại xét pháp tam Trương, Xuân Thu chia làm hai tế Thần Thổ địa và Thần Táo, hai mùa Đông Hạ đều đồng chuyện cúng tế của thế tục, binh phù hợp thần, khế hợp quân tướng khiển binh, đều không có văn khuyên giới khuyên. Thần Thổ địa này là Thần hay là đạo? Nếu là thần thì Đạo sĩ không lạy. Nếu là đạo thì không lập tế rượu, đâu có miệng tụng ma mà nói thân làm việc cúng tế cầu ra khỏi ba cõi, rất là đáng thương.

21. Phật tà loạn chánh:

Kinh Hóa Hồ nói: "Phật sinh nước Hồ, phương Tây khí Kim cứng mà vô lễ, kẻ sĩ Thần Châu bắt chước nghi pháp kia xây dựng chùa tháp nơi nơi chuyên thờ kinh Phật, trái gốc theo ngọn, ngôn từ phi lý không hợp diệu pháp, sửa khắc kinh tượng để dối hoặc vua quan, đến đổi thiên hạ nước suối cỏ binh đánh nhau, không quá mười năm tai biến xảy ra cùng khắp, năm ngôi sao mất chừng độ, núi lở sông cạn, vua giáo hóa không công bằng, đều do Phật mà loạn. Vua chúa không thờ tôn miếu, thú dân không hưởng lộc tiên Tổ, cho nên đạo khí thần kỳ không thể lại mai một. Thần cười rằng: Phẩm Trí Tuệ Tội Căn nói: Nguyên Thỉ Thiên Tôn nói: "Ta ở nửa kiếp năm đầu của Thượng Hoàng độ người kéo dài mạng sống một muôn tám ngàn năm, ta bỏ người sau tâm đồi bại cúng tế tà thần, giết sinh mạng cầu cúng lại tàn hại lẫn nhau, tự chuốc lấy mạng yểu, tuổi thọ không lâu dài". Do đây mà suy thì cùng tế tà thần, muôn thân vui mừng, khí hợp với đạo nên lẽ ra được phước lợi, vì sao mạng ngắn thọ không định năm? Lại Hán Minh Đế về trước Phật pháp chưa lưu hành, đạo khí xương thạnh sao vẫn binh đao, thường làm nước cỏ hại nhau? Mưa máu, núi lở, đói khát, cỏ hoang đầy đất? Lại có Kiệt Trụ xào nướng sinh linh. Từ Minh Đế về sau Phật pháp lưu hành hơn năm trăm năm đâu có yêu mị tai ương, chính sách bạo ngược như trước? Do nay nghiệm xưa, có ai cuồng dối việc rõ ràng như ban ngày không thể che giấu. Loan tôi dâng sớ rất mong hai giáo Phật và Lão hãy khiêm tốn, hành ngụy để hiển bày chân Phật, Phật pháp chánh trong giữ lý mà mở thông tánh cho muôn loài, nếu không như vậy mà thông đạo thì thật đáng cười chết người được.

22. Nghe giới cây chết khô!

Lão Tử Bá Bát Thập Giới Trọng Luật nói: "Giới của ta rất trọng, nói với cây thì cây khô, nói với súc thì súc chết". Lại kinh Linh Bảo nói: Đạo nhiệm mầu trong sạch người xưa tu kéo dài tuổi thêm thọ mạng, người nay tu tiêu tổn tuổi thọ.

Lại Đạo sĩ thọ năm ba pháp tướng quân cấm nhàm chán. Có người hờn ghét biếng nhác nổi cuồng tổn mạng. Lại phẩm Độ Quốc Vương nói: "Phương Đông khai sáng vẫy gọi chân thần thân mặc áo đen, có lằn đỏ, chân bước rộng trăm bước, đầu trụ thiên chủ, ăn tà ma, miệng chứa được núi. Sáng ăn năm trăm chiều nuốt ba ngàn năm mươi năm hợp y.

Thần cười rằng: Tam Nguyên Đại Giới chép: Thiên Tôn nói các giới nhập Thập Thiện v.v..., vô lượng người đắc đạo, giới nói rằng: "Không được ôm lòng ác nghe giới sinh phỉ báng mắc tội", nay cây là vô tình không lo mắc tội khởi phỉ báng, đâu cần giới mà giới làm cho bị khô. Nếu quyết chết khô thì có hiểu biết, nếu có hiểu biết, nghe pháp lẽ ra phải ngộ. Nhưng không có lý này sao được nói lời này. Ông biết người đời nay tu thì tổn mạng, tai ương độc hại lưu hành. Đại đạo khoan dung nghiệm mà không nghiệm, đến đỗi khiến tai ương kéo dài, đời sau không dám chép ư?

Lại xét thuật của ba người họ Trương, khoa úy quỷ nói: "Tả Bội Thái Cực Chương, Hữu Bội Côn Ngô Thiếc, chỉ mặt trời thì mặt trời dừng ở hư không, nghi quỷ thì ngàn dặm máu." Lại tạo Huỳnh Thần Xích Chương giết quỷ, Châu Chương giết người, hoặc làm lầm than người trai giới, đất vàng mặt bùn lừa lăn lộn trong bùn, treo đầu dính trên trụ, đáng vỗ khiến cho nhừ. Từ trong đời Nghĩa Hy nhà Tấn, Đạo sĩ, Vương Công hẹn ước pháp đánh phách mà Lục Tu Tịnh vẫn dùng đất vàng mặt bùn lại treo đầu, cúng tế như vậy mọi người nhìn thấy đồng cười.

Lại xét nữ quan Tiệp dư nhà Hán, vua nghi kia nguyền rủa, kia thưa rằng: "Nếu quỷ thần có biết thì không nhận sự nguyền rủa vô lý, như kia không biết thì nguyền rủa nào có ích gì, cho nên không làm".

Lấy việc này mà suy lường thì trí người thường còn hiểu suốt huống gì quỷ có linh thần thông minh chánh trực mà nhận sự ngu nhàm là chưa có đó. Nay quán văn kia thì lời nghĩa không hợp, có đồng thế tục luống giải sai nhà Tần, sao hẹn đại đạo. Nếu đây bao dung mà không sai trái ư? Toan không ham đắm say mê dâm trọn năm ư? Dùng lý mà suy giới đâu được như vậy?

23. Khi lễ thì lễ phương Bắc trước:

Y kinh Thập Giới Thập Tứ Trì Thân nói: Phương Bắc lạy một lạy, phương Bắc làm trước rồi đến phương Đông, rồi giáp vòng mười phương, tưởng thấy chân hình của Thái Thượng.

Thần cười rằng: Truyện Văn Thỉ nói: Lão Tử cùng Doãn Hỷ lên trời, Hỷ muốn gặp Thái Thượng, Lão Tử nói: "Thái Thượng ở Đại La Thiên Ngọc Kinh, núi rất xa tối, có thể ở xa lễ bèn thấy mà trở lại". Do đây suy đó thì Huyền Đô Ngọc Kinh mà Thái Thượng ở đó, nay ở phương trên, sao không cho phương trên là đầu mà lãng lễ phương Bắc ư? Nhưng đạo sinh ở Đông dương, sao không từ phương Đông lễ trước. Phật sinh ở Tây là âm, Bắc cũng là âm, trước đã là quê mùa, nay lại tôn lượng mà lễ trước ư? Lại phẩm Tội Căn nói: "Thái Thượng Đạo Quân cùng Dương Quán Trung cúi đầu lễ Nguyên Thỉ Thiên Tôn hỏi các pháp thập thiện" giới đây chính Thiên Tôn nói sao không lễ Thiên Tôn mà tưởng gặp Thái Thượng? Bỏ gốc theo ngọn là lỗi của ai?

24. Giết cha cầu đạo:

Kinh Lão Tử Tiêu Băng nói: "Lão Tử bảo Doãn Hỷ": "Nếu cầu học đạo, trước phải bỏ năm tình: 1-

Cha mẹ; 2-Vợ con; 3-Tình sắc; 4-Tài báu; 5-Quan tước, nếu bỏ được thì cùng ta đi Tây". Hỷ vui mừng, do đó chặt đầu bảy người đem đến, Lão Tử cười: "Ta thử lòng ông việc không thể làm, người ông đã giết chẳng phải thân thuộc mà là cầm thú", Hỷ cúi nhìn thì bảy cái đều là bảy báu, bảy thây chết là bảy con chim, Hỷ nghi ngờ trở về nhà thì bảy người thân đều còn sống". Lại Tạo Lập Thiên Địa Ký nói rằng: Lão Tử giáo hóa nước Hồ, vua Hồ không phục, Lão Tử đánh chết bảy người con và một phần dân trong nước của vua Hồ.

Thần cười rằng: Tam Nguyên Giới nói: "Học đạo không được có tâm ác, bất hiếu cha mẹ, không thương vợ con". Kể ra Hỷ đã giết cha mẹ, như biết là huyễn sao lại hoài nghi mà về lại xem, như là thật tâm y giới ôm lòng ác là đã phạm tội nặng, huống gì cắt đầu cha mẹ? Lại vua Hồ không phục mà giết bảy người con của vua đã là quá lắm rồi, lại giết một phần dân trong nước nữa, sao mà bất nhân lắm vậy! Nếu làm pháp ở đời sau thì khiến người cầu đạo đều giết cha mẹ vợ con. Lại không thể do một vị vua không phục mà lạm giết dân nửa nước ư? Tới lui hai ba lần đáng cười là quái lạ.

25. Phù phép kéo dài mạng sống:

Phẩm Tam Nguyên nói: Cung Tử vi có phù phép kéo dài tuổi thọ, tám phương thì tám khí ứng liền thành người, hủy phù phép đem đốt người theo khói hóa thành khí, văn kia bốn muôn kiếp xuất hiện một lần.

Thần cười rằng: Muôn muôn ức ức năm có một lần đại thủy tai, Côn Luân nổi lên có tiên bay rước Thiên vương và người hiền lành để lên núi. Cho đến muôn muôn năm trời đất hỗn độn như con gà vàng, gọi là một kiếp. Xét ngày đại thủy tai thì chư Thiên không chết, không nên rước lên núi.

Lại kinh Tế Khổ nói: Sau khi trời đất rỗng suốt, bỗng nhiên hư không nổi sóng, tính thời gian là một kiếp, người vật không còn, phù phép kéo dài tuổi thọ ấy bốn muôn kiếp mới xuất hiện, đâu thể trong bốn muôn kiếp không hề có chư Thiên, mờ mờ mịt mịt sao kia xa quá. Lại muôn muôn là một ức, ức ức là một triệu, chỉ nói một ức triệu năm mà lại nói là muôn muôn ức ức là bởi người mới học làm kinh nên không biết lớn nhỏ của số.

26. Xuân và kiếp trai:

Động Huyền Đông Phương Thanh Đế tụng rằng: "Chín lần năm không thường ở, trời đất có nghiêng đổ nguy hiểm, đại kiếp trọn một cây mùa xuân, trăm sáu cổ xe chở về".

Thần cười rằng: Đại thủy tai đã khởi, núi Côn Luân nổi lên, sau có đại hỏa tai vàng thiết cũng tan đất không cọng cỏ, cho đến muôn muôn ức năm trời đất như con gà vàng, đều gọi là một kiếp. Nhưng cây xuân là cây ở thế gian, lấy lửa thế gian đốt thì nó ra tro gặp kiếp hỏa liền tiêu mà nói đại kiếp giúp cây xuân, là rất lầm, cũng thật đáng cười.

27. Tùy kiếp sinh tử:

Như kinh Độ Mạng Diệu nói: Đại kiếp giao khắp, trời lở đất chìm, cõi Dục diệt hết, kinh Đại Bình đạo Lão và phẩm Pháp Hoa Đại Tiểu của đạo Phật dạo khắp trên dưới trong mười tám tầng trời, ở trong cõi Sắc đến đại kiếp giao văn kia bèn mất. Kinh Ngọc Thanh Thượng Đạo Tam Đổng Thần và bài tựa Chân Văn Ngọc xuất hiện ở Nguyên Thỉ, ở trên hai mươi tám tầng trời cõi Vô sắc, núi Đại La Ngọc Kinh, Huyền Đài, thủy tai hỏa tai không đến cho nên văn tự nhiên đồng sinh đồng diệt với vận, có thể thờ thất Tổ sinh thiên. Chuyển luân thánh vương đời đời không dứt.

Thần cười rằng: Kinh Độ Nhân Bổn Hạnh nói: Đạo nói từ Nguyên Thỉ khai mở đến nay, năm đầu hoàng hiệu Xích Minh đã trải qua hơn chín ngàn ức kiếp, độ một hằng sa chúng sinh, như vậy đến niên hiệu Thượng Hoàng năm đầu độ người vô lượng. Ta tùy theo kiếp sinh tử đời đời không dứt, thường cùng Linh Bảo đồng xuất hiện. Trải qua nhiều kiếp trọn chín khí, sửa vận mệnh gá thai.

Hồng thị chứa hơn ba ngàn năm, đến Xích Minh năm Khai Thông ở Giáp ty, đản sinh nơi phò lực, bởi trời lại cùng Linh Bảo đồng xuất hiện độ người. Nguyên Thỉ Thiên Tôn do nhân duyên ta, ban cho ta hiệu Thái Thượng, ở Huyền Đô Ngọc Kinh. Do đây mà suy thì Chân Văn ở Ngọc Kinh tai không đến được mà nói rằng: "Văn của tự nhiên cùng vận đồng sinh đồng diệt", đồng sinh đồng diệt há chẳng phải là tai ư?

Lại nói rằng: "Ta cùng Linh Bảo đồng thời xuất hiện và biến mất", lại nói rằng: "Ta tùy kiếp sinh tử". Tính ra Linh Bảo vận mạng diệt thì Thái Thượng mất theo, mà nói là "trường sinh bất tử" là dối vọng. Lại Ngọc Kinh ở trên thiên chúng, tai không đến được, lẽ ra đúng nghi, tất cả hình sắc không có tồn tại, Ngọc Kinh, Ngọc Đài là cõi Sắc, cõi Sắc chẳng thường Ngọc Kinh há tồn tại sao? Lại Xích Minh hiệu Giáp tý đâu đồng thật của Hà Hán?

28. Phục đơn sắc vàng:

Kinh Thần Tiên Kim Dịch nói rằng: Kim Dịch Hoàn Đơn mà Thái Thượng đã uống, nay thần đốt nước bạc trở lại làm đơn (viên), uống vào được thành tiên, một hôm bay lên trời, cầu tiên không được đây là học trò đạo Lão tự làm khổ (đốt đơn thành nước bạc (thủy ngân) đốt nước bạc thành đơn, nên gọi là hoàn đơn). Xưa Hàn Chung uống vào nên mặt có sắc vàng.

Lại thân Phật sắc vàng ròng, bởi đạo pháp linh nghiệm, nay thân trong ngoài cứng chắc như vàng nên gọi Phật là thân kim cương.

Thần cười rằng: Truyện Văn Thỉ nói: "Thái Thượng Lão Tử, Thái Nhất Nguyên Quân, hai vị thánh này cũng có thể là một thân". Kinh Kim Dịch nói: Thái Nhất chỉ có Trung Huỳnh Trượng phu và

Thái Nhất Quân hai vị đứng đầu tiên nhân, uống Kim dịch bay lên trời thành Thiên thần, điều hòa âm dương. Xét Hán Chung khi chưa uống kim dịch chỉ là người thường, uống xong bay lên trời tức là Lão Quân, mà Lão Quân là Thái Thượng chủ của muôn chân. Sao chỗ không thể mà bàn phải uống kim dịch rồi mới điều hòa âm dương ư?

Lại Thái Nhất Đại Thần Thành là bao nhiêu người điều hòa âm dương thì cần bấy nhiêu người. Nếu nói người uống đều được, sao kia nhiều vậy? Lại đơn cùng thủy ngân khắp đất đều có, lửa đốt thành đơn thì làm ra nó không khó, sao Đạo sĩ không uống để có ngày lên trời làm chủ thiên tiên mà cực khổ gõ răng luống qua một đời rất đáng thương. Nếu không uống rõ biết là đơn lầm cho nên làm chuyện bắt bóng.

Lại nói rằng: Thân Phật sắc vàng do đơn làm nên. Đây chính không cần làm một phen đốn đơn, được sự xem trọng của tà kiến, thật đáng thương.

29. Trộm sửa kinh Phật thành kinh đạo Lão:

Như kệ Diệu Chân nói rằng: "Dù cho chúng Thanh văn, số ấy như hằng sa, hết sức cùng nhau suy nghĩ suy lường cũng không thể suy lường được trí đạo".

Thần cười rằng: Đây là sửa chữ "trí Phật" ở kinh Pháp Hoa thành trí đạo, còn bao nhiêu đều đồng các văn chẳng sai một chữ. Xưa có người hỏi Đạo sĩ Cố Hoan, Hoan đáp: "Linh Bảo Diệu Kinh Thiên Văn Đại Tự xuất xứ từ tự nhiên, vốn chẳng phải Pháp Hoa, chính là La-thập vọng cùng Tăng Triệu sửa kinh đạo ta thành Pháp Hoa". Vả lại Linh Bảo trộm kinh Pháp Hoa có thể dối ở Đông Hạ (Trung Hoa), Pháp Hoa khác Linh Bảo không sai ở Tây Vức. Nay người dịch chỗ đưa ra không sai với văn kinh. Do đây mà suy cho nên biết trộm sửa thật là Linh Bảo. Vả lại kinh Phật rộng y cứ theo lời nghĩa rất sâu rộng, ngàn quyển trăm bộ không trùng văn, không như kinh Lão tự không sai lệch, nương dựa kinh Phật khai trương quyển bộ. Lại văn của Ngũ Thiên hoàn toàn không đề cập đến Phật, tám năm của Phật cũng không bàn đến đạo Lão, còn bao nhiêu sau này làm đều trộm kinh Phật, sau tự rõ đó, không rộng loại kia là do xưa nay Hiền Đạt tụng kinh Phật, đến nay truyền bá đời đời không mất, đạo pháp quyết thù thắng đâu không tụng trì, nêu bao gồm cả nước tụng kinh đạo Lão ai đúng, đây cho nên biết chẳng thể làm chuẩn đích.

30. Trộm kinh Nhân Quả của Phật:

Phẩm Độ Vương nói: Thiên Tôn bảo Thuần-đà

Vương rằng: Đắc đạo Thánh chúng đến hằng sa, Như Lai đâu không theo phàm nhóm hạnh mà được? Thập tiên vô số, cũng có khởi mà có ra một vị tiên, lại có nhiều kiếp mà lên do công cao. Một nêu công thấp, thì mười lần bay lên có mười giai cấp, từ Hoan Hỷ địa đến Pháp Vân Địa tướng tốt đầy đủ. Vì vậy các vua nghe nói được tứ quá. (A-la-hán)

Lại phẩm Độ Thân nói: Ni-kiền-tử ở chỗ Thiên Tôn nghe pháp được quả Tu-đà-hoàn.

Lại truyện Văn Thỉ nói: Lão Tử ở Kế Tân búng ngón tay, các vị Thiên vương, La-hán, năm thông, trời bay đều đến nhóm, sai Doãn Hỷ làm thầy, Bồtát đắc đạo là Lão Tử làm bài tụng.

Thần cười rằng: Đạo Phật cùng đạo Lão dấu vết khác nhau, biến thông có khác. Đạo Lão lấy tự nhiên làm tông, đạo Phật lấy nhân duyên làm nghĩa. Tự nhiên là vô vi mà thành, nhân duyên là nhóm hạnh mà chứng. Đây do Tiểu thừa nêu cấp bậc bốn quả, Đại thừa có ngôi Thập đẳng, từ phàm vào Thánh đều có kinh luận, chẳng biết đạo Lão nêu tên bốn quả mười tiên có giống với Phật hay không, nhân duyên tu hành chưa thấy kia nói, nhưng đạo Lão tu hành là hấp khí lên trời, uống nước chứng đạo, nghe pháp bay lên hư không, ăn cỏ thây hiểu. Hành nghiệp đã khác, chứng quả lý chẳng đồng. Chỉ nói trời có năm lớp, hoặc ba ngàn, sáu ngàn, hoặc tám mươi mốt cõi trời, hoặc sáu mươi Đại phạm, hoặc ba mươi sáu hoặc ba mươi ba cõi trời, hoặc hơn năm ức năm vạn trời, hoặc chín chân Thiên vương, chín khí Thiên quân, bốn phương khí quân, Tam Nguyên Tam Thiên, chín cung, Thiên Tào, Ngọc Thanh Thái Hữu, Huyền Đô, Tử Vi, ba Hoàng Thái cực, các loại như thế lý có sở duyên, đâu có dối bày tự lấy kiêu dị, xin nói trời này là chồng lớp hay là ngang là dối hay là thật, uống đơn thảo nào mà được lên trời này? Chỗ uống chưa rõ thì luống là dối chỉ, lại càng đáng cười.

31. Kinh đạo Lão chưa xuất nói xuất:

Xét Huyền Đô Đạo sĩ chỗ dâng mục lục kinh thì lấy bài soạn của Lục Tu Tịnh người đời Tống đã soạn, mục lục nói: Kinh Thượng Thanh một trăm tám mươi sáu quyển, một trăm mười bảy cuốn đã lưu hành. Thỉ Thanh trở xuống bốn mươi bộ sáu mươi chín quyển chưa lưu hành ở đời. Nghiệm kinh mục nay đều nói Thầy còn tồn tại, cho đến kinh Đổng Huyền mười lăm quyển còn ẩn ở Thiên cung, nay nghiệm mục lục kia đều chú giải thấy vẫn còn tồn tại.

Thần cười rằng: Tu Tịnh là người đời Tống

Minh Đế. Thái Thỉ bảy năm nhân sắc chỉ mà dâng mục lục kinh, đã nói rằng "ẩn ở Thiên cung" vậy đến hơn trăm năm không nghe người cõi trời giáng xuống, không thấy Đạo sĩ lên trời, chẳng biết kinh này từ đâu đến đây? Xưa Văn Thành Thơ lấy cơm trấu dối nói bệnh của Vương Mẫu, mà Huỳnh Đình Nguyên Dương đem đạo Lão thay đạo Phật. Trương Lăng sáng tạo Linh Bảo, thời Ngô Xích Ô mới đưa ra. Thượng Thanh bắt đầu nơi Cát Huyền, giữa đời Tống Tề mới lưu hành. Bao Tịnh tạo Tam Hoàng, việc bại lộ mà bị giết, Văn Thành Thơ ăn cơm trấu đến đổi bị giết vào đời Hán. Kẻ học ngày nay lại theo thuật kia lại là đáng thương! Sách Hán nói: Tổ phụ (ông nội) Trương Lỗ là Trương Lăng ở thời Hoàn Đế làm sách phù chú để mê hoặc người, người muốn học đạo phải đóng năm đấu gạo, người đời gọi là giặc gạo. Lăng truyền cho con là Hoành, Hoành truyền cho con là Lỗ, gọi là ba sư, vợ của ba người là ba phu nhân, đều nói là sáng ngày đó bay lên trời. Ban đầu thọ đạo gọi là quỷ tốt, sau gọi là tế tửu, yêu mị xấu xa rất lắm, xuyên tạc lạm hành đều nêu ở đây.

32. Năm ức lớp trời:

Truyện Văn Thỉ nói: Trời có năm ức năm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi lăm lớp. Đất cũng có như vậy, dày một muôn dặm, bốn góc có trụ vàng trục vàng, vuông tròn ba ngàn sáu trăm dặm, được thần gió giữ gìn. Cho bốn biển là mạch của đất, trời, đất, núi, sông, Hán thông khí gió mây đều từ núi mà ra.

Thần cười rằng: Kinh Tam Thiên Chánh Pháp nói: Thiên quang chưa sáng hơn bảy ngàn kiếp Huyền Cảnh mới chia chín khí tồn tại. Cửu Chân Thiên Vương, Nguyên Thỉ Thiên Vương bẩm thọ dòng giống tự nhiên gọi thẳng là Cửu Thiên. Thượng, trung, hạ, chân chân là một nguyên.

Nguyên có ba trời, cung Thượng Nguyên tức chỗ Thái Thượng Đại Đạo Quân cai trị. Kế một cõi trời cách nhau chín muôn chín ngàn chín trăm chín mươi dặm, thì chín trời cách nhau là bảy mươi chín muôn chín ngàn chín trăm chín mươi dặm, một dặm có ba trăm bước, một bước có sáu thước, cho nên có mười bốn ức ba ngàn chín trăm tám mươi lăm muôn sáu ngàn thước. Lấy năm ức lớp trời chia ra thì mỗi cõi trời cách nhau hai thước đâu có đất dày muôn dặm mà trên chở trời hai thước?

Truyện Văn Thỉ nói: Lão Tử dẫn Tứ Thiên Vương, đại chúng thân đều trượng sáu, người lùn thì trượng hai. Tính ra người thì cao lớn mà trời lại nhỏ đâu cho tự phải nằm không đứng? Ngạc nhiên quái lạ.

33. Nghi thức ra vào của Đạo sĩ:

Kinh Huyền Trung nói: "Đạo sĩ cần thẻ bằng vàng ngọc, rộng một tấc dài năm tấc năm phân, cầm đó làm dụ. Thời trung cổ cầm Triều Sư Quân, hạ cổ vàng ngọc ẩn nên cầm cây tạp, dài chín tấc gọi là thủ giản. Cầm để bỏ kiêu mạn răn dè Đạo sĩ. Nếu vào cung vua, xóm làng, nhà người thì ở ngoài nhà mười bước đội khăn choàng cầm giản mà vào, chớ có nghiêng lưng. Ra khỏi nhà cởi khăn mặc áo trắng mà đi, chớ tự hiển tổn đạo pháp. Nếu vào nhà thế tục, oai nghi ngay thẳng cầm giản mà ngồi, chớ để cho thế tục lấy làm lạ. Đạo sĩ đi ngoài trăm dặm, cầm gậy, khăn choàng, lư hương bằng đồng, dụng cụ xuất gia tự mang theo, oai nghi đầy đủ được mười món công đức.

Thần cười rằng: Kinh tự nhiên chép: Đạo sĩ khăn vải thô pháp thô, dài ba trượng sáu thước, ba trăm sáu mươi tấc, pháp năm có ba mươi sáu câu, năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày, một thân hai (sừng) góc, mỗi góc có sáu điều, hai ống tay đều có sáu điều, hợp lại là hai mươi bốn điều, pháp hai mươi bốn khí, hai đới pháp âm dương, giữa hai góc pháp hai nghi. Cho đến pháp mũ, khăn hoa sen. Kinh Tự Nhiên đã có khoa luật do đâu không y theo mà mặc phép khăn vàng của Trương Lỗ? Trái luật mà không biết.

34. Đạo sĩ thờ Phật: Kinh Hóa Hồ nói:

Nguyện đem hoa Ưu-đàm, nguyện đốt hương chiên-đàn cúng dường ngàn vị Phật, cúi đầu lễ Định Quang.

Lại nói rằng: Vì sao Phật sinh trễ, vì sao Niếtbàn sớm, không thấy Phật Thích-ca trong lòng sầu não.

Lại, Đại Giới nói rằng: Đạo học phải nghĩ dạo cung Đại Lưu cảnh, lễ Phật.

Thần cười rằng: Kinh Phu trai, Thiên Tôn dạy Hữu Huyền Chân Nhân rằng: Phật Thích-ca dùng pháp sinh tử xoay vần giáo hóa đời khiến trời già Hữu Huyền Chân Nhân dùng đạo tiên độ pháp bất tử". Lại tựa của Lão Tử nói: Đạo chủ trương sống Phật chủ trương chết, đạo Lão kỵ dơ, đạo Phật không kỵ, đạo Lão thuộc dương sống kỵ dơ, đạo Phật thì ngược lại. Y cứ đây trong, đục trời chia, sống chết phân rõ, vì sao không nghĩ đại đạo trong sạch mà nguyện xin sống chết dơ uế nơi đạo Phật? Cho nên xưa Thái tể nhà Ân hỏi Khổng Tử về bậc Thánh, Khổng Tử đáp: Ba Hoàng, Năm Đế, ba vua và Khâu tôi đều không phải Thánh, phương Tây có bậc Thánh. Cho nên biết Khổng Tử cho Phật là Thánh mà không cho đạo là Thánh.

Kinh Hóa Hồ nói: Đại thuật trong thiên hạ, thuật của Phật là bậc nhất. Thăng Huyền nói rằng: "Thầy ta du hóa Thiên Trúc". Phù Tử nói: "Thầy của họ Lão là Đức Thích-ca. Đây Đạo Tề kinh lại nói rằng: xưng tiên Phạm thiên, xưng Phật Ẩn Văn, người nước ngoài đọc kinh phần nhiều là Phạm thiên, Đạo sĩ chỗ kia Phạm tức là Phật, ở đây học Phật lâu rồi, nên gọi Phạm. Lại Linh Bảo ba mươi hai vị trời Đại Phạm Ẩn nói: Trời riêng tám chữ, tụng được muôn biến sẽ bay đi, bảy Tổ đồng bên cung Nam". Đây lại là chứng cứ Đạo sĩ học Phật. Nhưng Đạo sĩ chỉ biết học Phạm cũng không biết Phạm là Phật nào, ngu mà tin lẽ ra cũng có phước, chẳng biết có đáng cười hay không?

35. Đạo sĩ hợp khí:

Luật Chân Nhân Nội Triều nói: Chân Nhân nói rằng: "Hễ nam nữ đến ngày sóc vọng (mười lăm và mồng một) trước trai giới ba ngày vào phòng riêng, đến chỗ Thầy lập công đức, âm dương đều tiến, ngày đêm sáu thời, những điều tạp nhạp không đáng nghe nói". Lại Đạo Luật nói: Hành khí để thứ lớp không được mặc ý bày sắp xấu gần tốt, sao cắt vượt thứ lớp". Lại Huyền Tử nói: Không cách tội lỗi được độ đời, không ganh ghét thế gian thì có thể độ âm dương nên cưỡi rồng đi v.v...

Thần cười rằng: Thần khi hai mươi tuổi ưa đạo thuật đến xem học, trước dạy thần đạo Huỳnh Thơ Hợp Khí là ba, năm, bảy, chín đôi nam nữ giao tiếp, bốn mắt, hai lưỡi đối nhau, hành đạo ở đơn điền. Có người thực hành để độ khổ ách kéo dài năm tuổi, dạy chồng đổi vợ, chỉ có sắc là đầu, cha anh đứng trước mặt mà không biết xấu hổ, tự xưng là trung khí chân thuật. Nay Đạo sĩ thường làm pháp này để cầu đạo, có chỗ chưa rõ.

36. Sách đạo Lão của Chư Tử:

Huyền Độ Kinh Mục nói: Kinh đạo Lão truyện ký, phù đồ (bùa chú) luận có sáu ngàn ba trăm sáu mươi ba (6.363) quyển, hai ngàn không trăm bốn mươi (2.040) quyển có gốc, cần bốn muôn năm mươi bốn trang giấy. Hơn một ngàn một trăm quyển kinh truyện, bùa chú, trong đó luận của chư tử là tám trăm tám mươi bốn quyển, còn bốn ngàn ba trăm hai mươi ba quyển là của Lục Tu Tĩnh chép, có số mục kia và bổn đều chưa đưa.

Thần cười rằng: Đạo sĩ dâng mục lục kinh, trong mục lục của Lục Tu Tịnh thấy có kinh sách còn phương thuốc, bùa chú chỉ có một ngàn hai trăm hai mươi tám quyển (1.228) vốn không là tạp sách tên các nhà hiền triết, mà Đạo sĩ nay nêu hơn hai ngàn quyển là lấy từ Hán Nghệ Văn Chí Mục tám trăm tám mươi bốn quyển làm kinh luận của đạo Lão. Y cứ như trạng này, lý đáng nghi, vì sao đến như bọn Hàn Tử, Mạnh Tử, Hoài Nam v.v... đều không nói việc đạo? Lại có phương Bát Lão Huỳnh Bạch, thuật Đào Châu Biến Hóa, phù phép lật trời đảo đất, phép trừ binh giết quỷ và phương thuốc chú yểm được là sách của đạo Lão, có thể cần trích dẫn. Chưa biết Liên Sơn Quy Tạng, Dịch Lâm Thái Huyền, Hoàng đế Kim Quỷ, Thái Công Lục Thao, do đâu không nêu ở sách đạo Lão? Trong Mục của Tu Tĩnh vốn không có Chư Tử, nay bèn đặt dư là không biết y cứ vào đâu? Vả lại trong tháng bảy năm ngoái Đạo sĩ đã dâng mục lục kinh, chỉ chú ba trăm năm mươi quyển của chư tử là kinh đạo Lão, nay nói là hơn tám trăm quyển, vì sao trước sau khác nhau? Lại người có tật xấu chỉ sợ người khác biết, mình có điều hay lo người không biết cho nên Đạo sĩ từ sách nói "Người không thọ giới của đạo Lão không được đọc kinh đạo Lão", tức trạng như đây, sợ người biết chỗ xấu kia ư? Nếu cho chư tử làm sách đạo Lão, thì người trong chư tử đều cần truy tìm đâu được để sót. Vả lại Đạo sĩ trích dẫn đạo đức Lão Tử của ta vốn là chư tử, nay tôn là kinh lưu bày giúp nhau có lỗi gì ư? Cho nên biết Lão Tử, Huỳnh Tử, Chư Tử là một dòng, như vậy đâu được chống với bảy kinh của Nho lưu? Hai thiên sau của kinh Ban Cô Tiên Lục tựa đạo là Trung thượng hiền loại, ở đây thật chép.

Lại Đào Châu tức Phạm Lãi đã thờ Việt Vương Câu Tiễn, vua quan giam Ngô ở động đá cho ăn phân uống nước tiểu cũng là quá lắm rồi, nay tôn sùng thuật kia đâu không mê muội lắm ư?

Lại Phạm Lãi bị giết ở đời Tề, sao là không làm cha của thuật biến hóa lại soạn kinh Thiên Địa. Lão Tử gá thai nơi Hoàng hậu của U Vương tức là con của U Vương, thân là trụ sử tức tôi của U Vương. Kinh Hóa Hồ nói: Lão Tử ở Hán làm Đông Phương Sóc, nếu vậy U Vương bị Thái Nhung giết, há có thể không trao cho vua cha thần chú khiến không chết ư?

Lại Hán Võ thiếu binh, bị bệnh ở giữa nước, hộ khẩu trong thiên hạ giảm quá một nửa, xưng Lão Tử là Đông Phương Sóc sao nở không cho chú tránh binh tránh chết, phương pháp yểm người chú quỷ để gìn giữ nước Hán ư? Mắt nhìn sự xấu xa tệ hại nếu không có tâm cứu giúp thì đâu chẳng phải dối lầm ư?

Lại nói gồm thâu mục lục kinh đạo Lão, có hơn sáu ngàn quyển, xem xét luận thấy bổn chỉ có hai ngàn bốn mươi quyển, còn bao nhiêu là dối chỉ, chưa nêu ra, có lẽ chẳng phải mài mực chưa đủ nên kinh bổn chưa thành ư? Còn bao nhiêu là đầu sóng phân vân, nói không đủ để càng rộng.

QUYỂN 10

THIÊN THỨ HAI BIỆN HOẶC (PHẦN 6)

Chiêu Châu Tổ bỏ hai giáo lập Thông Đạo Quán. Châu Võ Đế, Châu Tổ bình Tề ra lịnh Tăng Duệ bỏ việc lập Kháng Chiêu. Thích Tuệ Viễn.

Châu Tổ ở Tuần nghiệp xin mở việc Phật pháp. Nhậm Đạo Lâm. Việc Châu Tổ Thiên Nguyên lập Vệ Nguyên Tung. Vương Quảng Minh.

Chiếu vua Châu Tổ bỏ hai giáo rồi lại lập Thông Đạo Quán, Châu đế Vũ Văn Ung.

Võ Đế nghi ngờ áo đen, thọ pháp Huỳnh Lão, muốn giữ đạo Lão, diệt Phật pháp, đều bàn vâng theo đạo Phật. Vua hằng ngày khác xa chẳng phải bản đồ, gặp Pháp sư Đạo An dâng luận Nhị giáo không nghe đạo pháp, ý càng không phục, không ngại lý thông mọi người nghĩa khó giữ riêng, bèn bỏ cả hai giáo, giận phát bên trong chưa đầy một tháng hạ chiếu rằng: Chí đạo rộng lớn sâu hỗn độn thành không bờ mé, thể bao trùm hư không có lý tột nhiệm mầu, nhưng nhánh nhóc đã chia, nguồn dòng càng xa, thuần lìa phác tán, hình khí trái đây, bèn khiến ba mặc tám Nho Chu Tử giao tranh, chín lưu bảy lượt dị thuyết xung đột nhau, đạo ẩn tiểu thành, đến đây đã lâu. Không có hội quy tranh khu, chẳng có định mục. Nay có thể lập Thông Đạo Quán, lời nói vi diệu của Thánh triết, sách giáo huấn của tiên hiền, khoa vàng triện ngọc văn nhiệm mầu bí mật sâu xa, cho nên giúp nuôi muôn dân, phò thành giáo nghĩa, đều nên mở rộng một phen, để được thấu suốt, khiến cho người quen lờn nơi gò đất nhỏ biết sự cao vọt của núi Tung, núi Đại người ở nơi sa mạc ngộ được sự trong suốt của vùng biển, chẳng là cũng đóng ư? Sở ty lượng đặt số người bổng lộc, năng lực công việc khác thức thường, người chủ thi hành.

Vào lúc đặt viên chức một trăm hai mươi người lạm hộ, sức quan lại đều có khác, đều lựa chọn môn nhân của Lý có danh tiếng ở đời lúc bấy giờ, cho mặc áo đội mũ cầm hốt mang giày gọi là học sĩ của Thông Đạo Quán. Có tiền Sa-môn ở Kinh Triệu là Phân Phổ Khoáng, Bành Hưởng lừa dối khắc cười động người, vua rất xem trọng đó, gọi vào Thông Đạo, vì bị ép nên thường cạo tóc mà để râu lại. Vua hỏi sao cái bỏ cái giữ, Khoáng nói: "Thần học Bệ hạ, hai giáo tuy trừ mà vẫn còn Thông Quán, râu là đồ trang sức của thế tục nên giữ lại, tóc chẳng phải giáo thế tục cho nên cạo bỏ". Vua nói: "Thế tục có giữ tóc lại thêm đội mũ, sao nói chẳng phải giáo", Khoáng nói: "Kẻ không có tóc há là giáo ư? Thần chuẩn bị bỏ đó, thêm đội mũ đâu tổn gì". Vua cười nói: "Tự người thường cạo sạch tóc đội mũ cổ đeo anh lạc, người có hỏi thì nói rằng "ta sợ nóng" v.v... Châu Tổ bình Tề gọi Tăng Tự bỏ việc lập kháng cự. Sa-môn Thích Tuệ Viễn.

Chu Võ Đế cho Cao Đông Bình vào mùa xuân niên hiệu Thừa Quang năm thứ hai triệu tập các đại đức tu trước đều nhóm đến điện. Vua lên tòa ngự lập nghĩa nói: "Trẫm nhận mệnh trời an một khu vực, đời hoằng ba giáo, gió kia càng xa, khảo xét đến lý nhiều lỗi nung đúc giáo hóa, nay đều xả bỏ. Nhưng sáu kinh của Nho giáo văn rộng chánh thuật, lễ nghĩa, trung hiếu, đối với đời có đúng cho nên cần giữ. Vả lại từ chân Phật không tượng, xa đỉnh nêu tâm, kinh Phật rộng khen tạo lập chùa tháp sửa sang tráng lệ có phước rất nhiều, đây thật là vô tình đâu thể có ân huệ, người ngu vọng tin dốc hết tiền của luống làm việc phí, cho nên phải dứt bỏ, cho nên nếu là kinh tượng đều hủy diệt, cha mẹ ân nặng, Sa-môn không kính trái nghịch rất lắm phép nước không cho đều phải trở về nhà để tôn sùng hiếu thuận. Ý trẫm như vậy, các Đại đức nghĩ thế nào?

Bấy giờ, các Sa-môn Đại Thống v.v... có hơn năm trăm người đều cho là oai vua lớn lao quyết can ngăn cũng khó theo, nội quan đã trừ nghĩa chẳng phải lập riêng, mọi người đều im lặng, sau bị thúc giục trả lời đều ngó ngoái lại nhìn nhau tái mặt, cúi đầu rơi lệ. Lúc ấy có Pháp sư Tuệ Viễn tiếng tăm vang lừng, bèn tự nghĩ rằng: "Phật pháp nhờ bốn chúng là chỗ nương đâu do chấm dứt lời nói mà gọi là thông lý" bèn ra thưa rằng: Bệ hạ thống lãnh cõi lớn, được ngồi nơi tôn quý nhất, tùy thế tục đến nỗi có lời hiến chương ba giáo, chiếu rằng: "Chân Phật không có hình tượng". Thật như ý chỉ của trời. Nhưng tai mắt sinh linh, nhờ kinh nghe Phật nhờ tượng nêu chân, nay nếu bỏ đó không do đâu khởi tâm cung kính.

Vua nói: Hư không chân Phật đều tự biết đó, chưa có nhờ kinh tượng.

Viễn nói: Từ Hán Minh đế về trước, kinh tượng chưa đến, hàm sinh cõi này vì sao không biết hư không là chân Phật?

Vua im lặng không đáp. Viễn lại nói: Nếu không nhờ kinh tượng dạy, người tự biết có pháp, thì từ ba Hoàng về trước chưa có văn tự, người lẽ ra tự biết các pháp như năm thường v.v.... Lúc này mọi người vì sao chỉ biết mẹ mà không biết cha, giống như cầm thú.

Vua lại im lặng không đáp. Viễn nói: Nếu cho hình tượng là vô tình thờ sẽ không có phước, cho nên cần bỏ, thì tượng thất miếu của quốc gia há là hữu tình mà vọng tướng tôn thờ.

Vua không đáp lời nạn này mà nói: Kinh Phật là pháp nước ngoài, nước đây không cần, bỏ đó không dùng. Thất miếu đời trước lập, trẫm cũng không cho là phải toan đồng bỏ đó.

Viễn nói: Nếu cho là kinh nước ngoài chẳng phải cõi này dùng thì những lời Trọng Ni nói ra từ đất Lỗ, Tần, Tấn cũng nên bỏ mà không làm. Lại cho thất miếu là sai toan muốn bỏ đó thì là không tôn trọng cha ông, cha ông không tôn thì Chiêu mục mất thứ lớp, Chiêu mục mất thứ lớp thì Ngũ kinh không dùng, trước giữ Nho giáo nghĩa kia ở đâu? Nếu vậy thì ba giáo đồng bỏ lấy gì trị nước?

Vua đáp: Nước Lỗ cùng Tần, Tấn cõi nước khác nhau, đâu chẳng là vua giáo hóa, cho nên không giống nạn kinh Phật và bảy miếu, vua không cho thông.

Viễn nói: Nếu cho Tần, Tấn đồng tôn một giáo hóa, kinh giáo chung thực hành, thì Chấn Đán với Thiên Trúc cõi nước tuy khác mà đâu không đồng ở trong bốn biển của cõi Diêm-phù chung một Luân vương giáo hóa, sao không đồng tôn thờ kinh Phật mà nay lại bỏ?

Vua lại không đáp. Viễn nói: Chiếu rằng "Tăng lui về nhà tôn sùng hiếu dưỡng", kinh Khổng Tử cũng nói rằng: "Lập thân hành đạo để hiển vinh cho cha mẹ tức là hiếu hạnh", sao lại quyết hoàn tục?

Vua nói: Cha mẹ ân nặng giao sắc giúp nuôi dưỡng, bỏ thân đến sơ chưa thành chí hiếu.

Viễn nói: Như Phật nói, Bệ hạ hai bên đều có cha mẹ sao không buông đó để khiến lâu đến năm năm không gặp cha mẹ?

Vua nói: Trẫm cũng nương xét trên dưới để được về hầu hạ.

Viễn nói: Phật cũng cho Tăng mùa đông mùa hạ tùy duyên tu hành, mùa xuân mùa thu về nhà hầu nuôi. Cho nên Mục-liên xin ăn nuôi mẹ, Như Lai gánh quan tài đi chôn, lý đây rất thông, không thể xả bỏ.

Vua lại không đáp, Viễn kháng cự nói: Nay Bệ hạ ỷ sức vua tự tại phá diệt Tam bảo, là người tà kiến, địa ngục A-tỳ không lựa sang hèn, Bệ hạ đâu được không sợ?

Vua đột nhiên đổi sắc mặt rất giận dữ nhìn thẳng Tuệ Viễn nói: Chỉ cần khiến nay trăm họ được vui, trẫm cũng không từ chối các khổ địa ngục.

Viễn nói: Bệ hạ dùng tà pháp giáo hóa người, hiện gieo nghiệp khổ sẽ cùng Bệ hạ đồng đến Atỳ, chỗ nào có vui để được?

Vua đuối lý trước lời nói đầy ý đồ lại không đáp được chỉ nói: "Chúng Tăng hãy trở về", có quan Ty lục lấy tên họ của vị Tăng luận với vua. Vua đã thực hành bạo ngược ba năm, ở Quan Lũng, Phật pháp bị trừ diệt gần hết, đã được nước Tề lại chuẩn phê bỏ. Bấy giờ Ngụy, Tề, Đông châu Phật pháp được hưng thạnh, thấy xây thành chùa miếu bốn mươi ngàn ngôi, đều ban cho Vương Công làm dinh thự. Năm chúng đệ tử Phật giảm ba trăm muôn, đều làm quân dân hoặc trở về nhà, đập phá tượng Phật, thiêu đốt kinh sách, tiền tài của Tam bảo ghi chép vào của quan, xin lãnh nhận liền thưởng cho, phân tán hết sạch, vua cho là đắc chí với thiên hạ. Chưa đầy một năm, bên trong khí ôn dịch đốt, bên ngoài thân phát ghẻ, tướng ác đã hiện, sám hối không thể tiêu, bèn ẩn ở cung Vân dương vừa mới bảy ngày đã nghiêng đổ, niên đại Thiên Nguyên ở hai cung Đông và Tây lập chùa Trắc Hổ, phạt Bồ-tát Tăng để mở mang Phật hóa, không bao lâu vua băng, vận nước dời đổi đến thời Tùy Cao Tổ mới bắt đầu đại thông, như ở sau sẽ nói.

Gần đây, thấy Lại Bộ Thượng Thơ Đường Lâm Minh thời Đại Đường ghi rằng: Ngoại Tổ Tùy Văn là Bộc Tạ Tề Công, chính ông thấy Văn Đế hỏi người chết sống lại nói rằng: Lúc mới chết gặp Chu Võ Đế nói "Ông vì ta tâu với Thiên tử nhà Tùy rằng "Xưa cho ta ăn chung ngọc lụa trong kho cũng là ta chịu thay đó, nay ta vì diệt Phật pháp tột thọ khổ lớn, xin vua làm công đức giúp ta." Văn Đế ra lịnh, khắp đến người trong nước vua xuất cho một tiền vì Võ đế mà làm phước.

Chu Cao Tổ ở Tuần Nghiệp diệt trừ Phật pháp, có Tiền Tăng Nhậm Đạo Lâm dâng biểu xin mở pháp sự.

Nhà Chu niên hiệu Kiến Đức, vào ngày mồng bốn tháng mười một năm thứ tư, lên đến cung nghiệp ở điện mới nhà nội sử văn Thượng sĩ Lý Đức Lâm nhận người dâng biểu, lúc này Nhâm Đạo Lâm dâng biểu lên, Thượng sĩ xem biểu nói: "Vua hai giáo, Thánh chủ cơ biện đặc biệt khó đáp, xin hãy suy nghĩ xem xét". Đạo Lâm thưa: "Chúa thượng biện tài bén nhọn, nổi tiếng khắp mười phương, Lâm tôi cũng có nghe, do nghe tài hùng biện cho nên đến, được biết không sai v.v...". Bèn dẫn vào, trên bệ rồng, đứng hầu mé Tây, chiếu rằng: Khanh đã tâu việc giúp phò trị chánh trẫm rất vui, hãy dùng mắt thấy chớ rộng phí lời. Đạo Lâm bèn tâu việc an ủi Tề, còn các việc xét giảm thuế dịch v.v... thì vua nhận đủ.

Đạo Lâm lại thưa: Lâm nguyện là thề hoằng hóa đạo Phật, từ trước lại chuyên nói chánh trị thế tục dường muốn dối phụ vua mà thật ra thiện tâm là hộ pháp. Từ họ Thích rộng dạy bảo, quyền ứng vô phương, trí phương cao vọt, rộng tuyên chánh pháp, cứu đời năm trược nhổ khổ ba cõi, trong loài người, trên trời, sáu đường, bốn loài thảy đều quy y hồi hướng nhận sự khai ngộ kia. Từ đời Hán đến nay trải qua năm trăm năm, vương công, khanh sĩ tôn thờ truyền thông, và đến Đại Chu liền bỏ dứt. Bệ hạ trị nước noi theo vua trước giáo hóa, vua sau nương nhờ, sao làm cho Phật giáo không có thầy xưa. Như kia chẳng phải thiện tài thì bậc tiên hiền diệt đã lâu, như lời có ích cho bệ hạ có thể làm nghĩa bỏ Phật, thần chưa hiểu được.

Chiếu rằng: Phật sinh ở Tây Vức truyền bá đến Đông Hạ, nguồn phong giáo khác với Trung Quốc, Hán Ngụy, Tấn Đường có mà như không. Ngũ Hồ loạn trị phong hóa mới thạnh, trẫm chẳng phải tâm Ngũ Hồ không kính thờ, đã chẳng phải chánh giáo cho nên dứt bỏ.

Tâu rằng: Phật giáo khi đông truyền đã quá bảy đời, Lưu Uyên Soán nhà Tấn vốn chẳng phải Trung Hạ, do chẳng phải chánh sóc xưng là Ngũ Hồ. Đời Hán, Ngụy, Tấn kia Phật hóa đã rộng, đời Tống, Triệu Phù Yên từ lâu tu tập hưng thạnh, bộ hạ hổ thẹn vì thạnh tu Phật pháp giống Ngũ Hồ thì xin như Hán Ngụy không dứt diệt tông kia.

Chiếu rằng: Nghĩa Phật tuy rộng trẫm cũng thường xem, nói nhiều thì dối nhiều, lời tốt là phù phiếm xa xỉ. Tội thì suy quá khứ, không phước thì chỉ đời sau, sự thì không chứng nghiệm, hạnh thì nhiều mê hoặc. Luận kia khuyên làm lành chưa khác với lễ xưa, nghiên cứu chỗ dứt ác đâu khác luật thế tục, xưa thường bị bỏ bởi do tạm học, quyết biết chẳng lợi ích cho nên dứt bỏ.

Tâu rằng: Lý sâu lời nhiều chẳng phải tình gần so lường được. Thời xa sự sâu đâu thể tiểu cơ muốn biện há lại dùng cái thấy cuộc hạn ở một đời mà chống cự việc thông bàn lâu xa, cái si mê lấp kín từ lâu nay bỗng ngộ cũng là lỗi ư? Do đây lý Phật tột pháp giới, giáo thể thông trong ngoài, bàn hạnh tự tha đều lợi ích biện quả, thường lạc vô vi cây đức ân thạnh. Trời đất nhân đạo rộng lợi vô biên, thấy kỳ lạ thì thần thông tự tại, rộng giáo hóa thì muôn nước đồng về nương, cứu độ thì oán thân bình đẳng, từ ái thì có hiểu biết không bị thương tổn. Giới trừ ác ngoài, định dứt lỗi trong tâm. Tuệ soi chiếu xưa và nay trí cùng muôn vật. Nếu nhà nhà thực hành đây thì dân không đâu chẳng trị, nước nước tu hành thì binh đao không dùng đến. Nay lìa đó không tu hành thì ở chỗ nào mà cầu lợi ích? Nhân đó lại tâu rằng:

-Thần nghe hiếu là đạo của chí thiện, thuận là tột nuôi dưỡng của đất. Cho nên thần thông soi sáng bốn biển, trong trăm hạnh ai vốn là người tiên hiếu đây. Ngày xưa đạo sắp nghiêng nhà Ngụy băng loại, Thái Tổ chấn oai giúp nạn Thiên Di khai mở nghiệp đế, Bệ hạ nhân đầu mối to lớn đây mà lên ngôi tột đỉnh. Vua đến bốn biển đức giúp thiên hạ, chỉ tưởng nhớ chớ trọn đời không báo đáp, đâu có tin rồi tâm trí cố chấp sự hiểu biết của tự mình, ỷ vào móng vuốt mặc tình theo sức vua, tàn hại chùa miếu mà Thái Tổ đã lập, hủy phá linh tượng Thái Tổ đã thờ, phế bỏ giáo pháp Thái Tổ đã vâng làm, xóa bỏ Tôn sư Thái Tổ đã kính. Vả lại giường ghế của cha mẹ còn không dám tổn khuyết huống gì chỗ cha mình tôn thờ mà có thể khinh hoại. Ngôi vua cõi nước lâu bền hay ngắn ngủi chẳng do nơi Phật, chính trị hưng thạnh hay hủy diệt đâu quan hệ gì đến pháp, há tin trong nhất thời mà chiêu cảm chê bai trong muôn đời? Ngu thần chợt chết đặc biệt không thể.

Chiếu rằng: Nghĩa hiếu đạo đâu chẳng là chí cực, nếu chuyên giữ gìn chỉ lợi một đời, là khiến đại trí quyền phương ngược lại thường hợp đạo, Thang Võ giết chúa, nhân trí không lỗi, Vĩ Sinh thủ tín họa đến mất thân, sự như có ích giả trái nên làm, nếu chẳng hợp lý dù thuận cũng quyết bỏ, không thể được tiếng cho mình mà khiến bốn biển mê lầm, ngoài như trái Thái Tổ trong nhuận thấm cho dân đen.

Nay Sa-môn hoàn tục xét hầu cha mẹ thành hiếu trong thiên hạ, mỗi người tự nuôi sống không nhọc người khác, khiến đất nước được lợi, bỏ Nhung theo Hạ, đất trời đồng nhất, tức là nêu danh muôn đời để nói lên Thái Tổ là trọn hiếu, đâu được nói là lỗi?

Tâu rằng: Nếu nói loại Phật đất nước có lợi, hủy Tăng dân được ích. Xưa Thái Tổ Khang mặt trời nhiệm mầu soi muôn dặm, trí trùm ngàn đường, nếu Phật pháp tổn hóa liền tìm cách dứt bỏ chứ đâu chịu nhiều năm kính thờ để hưng thạnh khắp thiên hạ? Lại Phật pháp tồn tại là tổn xứ làm sao? Từ lúc phá đến nay thành lợi nhuận gì? Nếu thật không lợi ích thì đâu chẳng không hiếu?

Chiếu rằng: Pháp hưng thạnh có lúc, đạo cũng khó chuẩn, chế do trên làm, vua làm thì dầu có lợi nhỏ còn phải bỏ, huống chi Phật không lợi ích lý không thể dụng. Vì sao? Vì kính thờ không thấy điềm linh, chiêu cảm không hiệu nghiệm, tự cứu còn không nhờ được thì đâu thể ích cho nước? Từ lúc bỏ đến nay dân dịch hơi ít, tô thuế mỗi năm tăng, binh sư ngày càng thạnh, phía Đông bình nước Tề, phía Tây định yêu Nhung, nước an vui đâu chẳng là có ích. Nếu việc có ích Thái Tổ còn thường bàn việc đánh Tề sao không thấy được. Trẫm hoại Phật pháp nếu là trái hại cũng sẽ mất thân, mà đã bình được Đông Hạ rõ biết là có ích, bỏ đó hợp lý, nghĩa không lại hưng thạnh.

Tâu rằng: Từ khi lập quốc chính sách chỉ quý nơi đạo, chỗ hóa dưỡng dân đâu gì cao hơn đức. Chỉ thấy đạo tiêu nước mất, chưa có chuyện binh mạnh ngôi lâu bền, thì do Trụ bạo ngược ỷ quyền các họa làm đổ nghiệp đế, Chu Võ tu đức phước nhóm ngôi vua, Phù Sai khiêu chiến đến nỗi diệt thân, Câu Tiễn dùng đạo Nguy mà lại an. Do đây luận đó nào có liên quan gì đến hoại Phật bỏ Tăng mới bình Đông Hạ? Thẳng là hủy Phật ngay lúc gá định, tình cờ gặp đây vọng cho là hoại pháp có lợi ích. Nếu vậy Thang phạt nước Hạ, Văn Vương diệt Tống, Vũ Vương giết Trụ, Tần gom thiên hạ, Xích Hán diệt Hạng, các vị vua đây đâu do hoại Phật.

Từ sau giao luận chê hủy nhân pháp, hoặc do kháng cự lễ vua cha, hoặc cho là vọng xưng Phật tánh, hoặc chê biện triết sắc tâm, hoặc lại thấy là phi nghiệp, hoặc chỉ thân vốn là âm dương, Lâm tôi đều tùy lời hỏi mà giải bày. Vua tuy tạo vặn hỏi trùng điệp ba lớp năm lớp cùng lý tận tánh, Lâm tôi thì không nghi không bỏ sót, có nạn thì đây thông.

Vua nói: Khanh nói nghiệp không trái lý, hễ có kỳ nhập thánh, tánh chẳng phải nghiệp ngoài, đạo có đường thông phàm, đây thì đạo không đâu chẳng là ở Thánh phàm gồm thông. Đây thì giáo không Khổng, Thích dối tôn sùng. Lời nói như thế, hình chung đạo tục, huống thêm trang sức cắt cạo, phải biết Đế vương tức là Như Lai nên dùng trượng sáu. Vương công là Bồ-tát xét việc Văn-thù, tuổi già có thể làm Thượng tòa, không dùng Tân Đầu, nhân tuệ thật là đàn độ, đâu nhờ bỏ nước, hòa bình thứ nhất Tăng tinh thuần, đâu nhọc gì Bồ-tát. Trinh tiết cẩn thận tức thành Mộc-xoa, đâu cần thọ giới, kiểm ước thật là ít muốn không cần hành đầu-đà, ăn dỡ rất tốt trước chay đâu phiền dứt cốc (lúa gạo). Phóng sinh nhiệm mầu đồng vô ngã, đâu nhờ Giải Không, quên công toàn lỗi Đại thừa, đâu mong Bát-nhã. Văn võ là hai trí, chẳng quán không có quyền mưu trọn thành phương tiện khéo léo đâu đợi biến hóa. Thêm quan chân là thọ ký không nhờ chứng quả, tước lộc giao được cõi trời, đâu đợi thượng giới phạt giết thấy cảm địa ngục không chỉ Nê-lê. Lấy dân làm con có thể gọi là đại từ, bốn biển làm nhà tức đồng pháp giới, chánh trị dùng lý nào khác cứu vật, an vui trăm họ đâu khác cứu khổ, cắt phạt tàn hại lý là hàng ma, vua đến thiên hạ thật thành đắc quả, tràn trề đâu khác Tịnh độ, đông đúc đâu tạ Ca-duy, khanh hoại dị kiến vọng sinh thiên chấp, tức sự mà nói thì chỗ nào chẳng phải đạo.

Tâu rằng: Kính vâng Thánh chỉ, nghĩa rộng nói sâu, dung đạo lẫn tục, dời chuyên tán chấp, bèn khiến chạm chỗ nương chân hữu tình đủ đạo, người và ta đều dễ chịu, ngàn bước đồng mười, đẹp thì đẹp nhưng ngu thần còn nghi, nếu khiến chí đạo chỉ có một, thì không hai có thể dung. Nếu lý hằng ngoài trong thì tự có thể thường riêng, nếu một mà chẳng phải một, thí nửa phải nửa trái, hai mà không hai thì dối đạo dối tục, đây thì đạo tục lầm lộn, Nho, Thích mất tựa. Trong ngoài xen lẫn, trên dưới mất thứ lớp, đâu thẳng xa chìm thanh hóa, cũng là gần mê hoặc dân đen, đây do âm dương đồng khí, sống chết hằng khác. Trời đất đồng hình cao thấp thường khác, không thể cho kia chung hình mà khiến đất động trời tịnh. Kẻ hoặc thấy kia đồng khí mà khiến âm sống dương chết, tức sự hằng không có lý này. Lời dối khó có thể thành dụng cho nên hình đồng khí một, có thể được nói đồng, sống chết, cao thấp, nghĩa không đâu chẳng riêng, cho nên khiến đồng mà không đồng, một mà chẳng phải một, lý của đạo tục có đồng không cho không làm tự riêng. Lại nếu ba tên tuy một, phàm, thánh, khác xa, hình việc chẳng đồng, rộng hẹp hoàn toàn khác. Đây cho nên Nho, Thích cùng vô thỉ đồng hưng khởi, đạo và tục chung trời đất đồng hóa, nếu muốn tiêu đó thành một, chánh có thể dùng đạo bỏ tục, như kia đều luân vương với đời, thì hai lý hiển đều sáng, nay thì khởi một bỏ một, chân thành không thể.

Chiếu rằng: Khanh nói đạo, tục, trời, khác nhau toàn trái trong ngoài, cũng có thể đạo Lão ứng tự đạo Lão không dự với thế tục. Đạo Phật ứng tự đạo Phật chớ nương với Nho. Đạo Lão nếu chỉ có đạo Lão thì đạo Lão chỗ nào lợi, đạo Phật nếu riêng đạo Phật thì giáo hóa có công gì? Cho nên đạo tục giúp nhau, Nho, Thích càng hiển. Khanh không nhận lời trẫm, khanh muốn bàn gì? Do đây trong ngoài đè ép hay nêu lên, bỏ phế hay hưng khởi, đây hay kia. Nay phép nước không làm, phép vua ngăn cấm, bỏ hay khởi ở số thường lý không trái, nghĩa không thường khởi, bỏ có lỗi gì?

Tâu rằng: Kính vâng Thánh chỉ như vén mây thấy mặt trời. Cúi nghe sắc lệnh thật như Thánh nói. Đạo không tự đạo chẳng phải thế tục không hiển, Phật tự không tự Phật chỉ có vua không thể khởi. Do đây Thích giáo (giáo pháp đạo Phật) truyền về phương Đông trải qua trăm năm, mở mang pháp hóa muốn nương sức vua, mới biết đạo nhờ người hoằng thần do vật cảm, Phật thạnh hay bị hủy công quy về Thánh chỉ, đạo Lão có hưng hay phế nghĩa không hằng lâu, pháp có ẩn hiển, lý khó thường còn, cho bỏ liền mất lý tự ứng cơ, đều từ vận thế đâu cũng nên ư?

Chiếu rằng: Phép vua chúa khéo quyết lấy bỏ, đoán rõ lấy bỏ, soi xét đồng khác, nhiệm mầu phi thường. Trẫm đối với đạo Phật, do thầm suy nghĩ trong nội phủ khảo xét xưa và nay, nghiệm đó để làm việc, tính toán đó để được mất, lý phi thường không muốn văn cao kỳ mà không dùng, chẳng phải không đầu mối mà dứt bỏ, nào thương ghét gì với Nho, Thích.

Tâu rằng: Gốc hoằng pháp quyết lưu tâm nơi đầu của đạt nhân thông hóa, muốn tồn chí nơi chánh đạo chớ thấy ngỗ nghịch với mình cho là xấu rồi ôm đó để xa cách, thấy dung hợp với mình cho là tốt, tâm vui vẻ để gần gũi. Đây thì tự mê hoặc điều thấy lầm lộn cá nghe, không thể thường nghe vì có lời ngay thẳng và dua nịnh bèn liền tin nhận theo xướng mà hòa, nương đó sinh ra thị phi, tìm kiếm lỗi lầm ngày ôm lòng ghét bẻ. Đây là lấy ngụy dời chân, các tiếng mê hoặc chí, cho nên nay ngay kẻ sơ lại tiến tới với người thân lại xa lìa, bèn khiến bàn luận rong ruổi lấy bỏ chuyên trái, đây chính là họa hoạn hại, thật là lụy yêu tán đức. Vì thế vua không đáp lại mở đường khác để khởi điềm luận.

Hỏi: Trẫm nghe quân tử việc làm phải hợp với lễ, bậc minh triết hành động ứng với cơ. Tỷ như thường cho khanh ăn khanh nói không uống rượu ăn thịt, vả lại rượu là thuốc hòa thần, thịt là đồ ăn đỡ đói xưa nay đồng vị, sao chỉ có khanh chê. Nếu thân bỏ uống, lễ chế không ăn, tức như nay cho tự có thể được ăn, có thể ăn hay không ăn đâu chẳng là tội?

Tâu rằng: Tham tài ưa sắc bậc trinh phu đã ghét, tham ngon thích đẹp bậc khiêm sĩ không ưa. Dứt tình theo đạo tiền hiền tán thán, ép dục sùng đức bậc Thánh xưa đều khen. Huống chi rượu do giết sinh mạng, rượu làm loạn thần, không ăn là có lý đâu thể cho là sai quấy.

Chiếu rằng: Thịt do hại mạng, cấm là đúng. Rượu không tổn mang sao lại cấm chế? Nếu khiến không tổn, tính tội không lỗi nói có lỗi, thì uống nước ăn cơm lễ ra cũng mắc tội, mà thật không cấm, sao lại chỉ cấm rượu? Tâu rằng: Kết giới tùy sự mắc tội y cứ nơi tâm. Thể của thịt nhân vì hại mạng, ăn thì mắc tội. Tánh của rượu chẳng tổn, lỗi do làm mờ tinh thần, ở chỗ khác sinh lỗi, lỗi sinh do rượu, cấm rượu thì trừ lỗi, cho nên ngăn chế khác nhau chẳng phải gọi là thể của rượu là lỗi.

Chiếu rằng: Tội có già tánh, thể rượu sinh tội, nay có người chịu rượu có thể uống không say lại không mê mờ tinh thần, cũng không sinh tội, người này uống rượu lẽ ra không mắc tội, đây thể uống mà không lỗi, không thể vời lấy tội lỗi, sao lại cấm đoán rượu để thành giới tốt? Có thể cho là uống mà chịu được rượu thường gọi là trì giới uống ít liền say người này tội lớn.

Tâu rằng: Chế lỗi ngăn quấy vốn là sinh thiện giới là chánh thiện khẩu không trái. Trong duyên dừng dứt, cả hai già tánh đều cấm gọi là giới lành. Nay người chịu rượu đã không loạn tinh thần không phá các giới khác, thật lý thì chẳng phải tội, chánh là do uống mà sinh tội, ngoài rượu trái ngăn, trong duyên giáo sinh phạm vẫn gọi là có tội, do trái không uống vẫn chẳng phải trì giới.

Chiếu rằng: Đại sĩ mến đạo bởi do khéo hiểu, bậc chí nhân cao đạt quý ở chỗ không chấp, dụng tâm và pháp tánh đồng rộng rãi, buông ý cùng hư không đồng lượng, vạn vật đều là thiện, tốt xấu đâu có chẳng là đạo này, là ngồi trong rượu nằm trong thịt đâu thể có tội, mang vợ ẵm con đi đâu nói là sinh lỗi. Cho nên khiến Thái tử lấy vợ mà đắc đạo, Chu Đà bỏ vợ mà trầm luân, Tịnh Danh ở thế tục mà hiểu biết cao sâu Thân Tử xuất gia mà ngu chấp, vì vậy người thiện chưa thể thành thiện, kẻ ác đâu chắc nói là xấu. Cấm rượu dứt thịt là sai trái với đại đạo.

Tâu rằng: Rồng cọp dùng vây nanh làm công năng, chim khỉ lấy bay liệng làm tay. Quân tử lấy giải hạnh làm đạo, hiền triết lấy chân thật để thành đức. Cho nên khiến trong ngoài xứng gởi, đạo tục cao thượng. Nếu chỉ có giải mà không hạnh thì đồng giếng cát chẳng thấm ướt, chuyên dối mà không thật thì tợ như hư không có mây mà chẳng mưa. Do đây thợ đúc muôn vật lấy giấy mực làm chánh, người ngự thiên hạ lấy pháp lý làm gốc cho nên có thể khéo ngăn mầm tà ngăn xét gian cứu. Cho nên một hạnh lỗi đau như cắt thịt, một lời lành trọng như ngàn vàng. Nếu khiến tâm căn diệu giải thì ở ác là thiện, thần trí sáng suốt thì chỗ tội thành phước cũng có thể dời quan thể chất hèn ở nơi trách nhiệm quan trọng, xoay Thánh cực tôn để ở chỗ quan thấp hèn, đây thì vua quan tạo loạn trên dưới đảo lộn, tức là việc không thể có được. Xưa nay chưa có, sao lại khác lời bàn trung hiếu mà thân thường phản nghịch, nói lòng từ bỏ hình mà thường sát sinh trộm vật miệng nói rảnh rỗi trăm nghề mà gặp việc không làm được, nói thông muôn dặm mà chân không ra khỏi cửa đây đều là tình tha thiết sự quá đáng, dối cao không dùng. Do đây tài có cao lớn mà không dùng, lý có nhỏ mà vừa vặn, chấp đây là đạo thật là khó tin.

Chiếu rằng: Người chấp tình chưa thể nói đạo, kẻ trí nhỏ khó nói chân với họ. Do đây cá ở giếng ao đâu biết được sự sâu rộng của biển Đông, chim Yến chim Sẻ liệng nơi hàng rào làm sao ham muốn chỗ bay xa của chim Bằng chim Phụng, đây đều vốn nhỏ cho trái đường lớn, chấp văn để hại đường thông. Nếu cho ngã ngã ở nơi vật thì không vật nào chẳng phải ngã, cho vật vật ở ngã không ngã nào chẳng phải vật, ngã đã chẳng khác vật, vật lại đâu khác với ngã, cả hai ngã vật đều mất, tự tha đồng nhất, tâm trống thì vật đều đồng, ra công thì chẳng việc nào không xong.

Tâu rằng: Kính nương Thánh chỉ danh nghĩa sâu rộng nguồn tông bao la, cứu xét chớ do, sự đồng dòm trời, ai so lường chỗ rộng kia, lại đồng lường biển cả đâu biết được chỗ sâu kia.

Nếu cho là nhỏ với lớn thì không lớn nào mà chẳng nhỏ. Cho là lớn đối với nhỏ thì không nhỏ nào chẳng lớn.

Lớn không đâu chẳng nhỏ thì mảy may chẳng phải nhỏ. Nhỏ không đâu không lớn thì Thái sơn chẳng phải lớn lớn.

Cho nên khiến lớn lớn chẳng phải lớn nhỏ, nhỏ nhỏ chẳng phải nhỏ lớn.

Đây thì nhỏ lớn khác với đồng, lớn nhỏ đồng với khác, không có khác đồng của lớn nhỏ đâu có đồng và khác của nhỏ lớn.

Mới biết chẳng phải khác có thể khác đồng, đâu có đồng có thể đồng khác, không có đồng có thể đồng khác, chẳng có khác với đồng.

Không khác có thể khác đồng, không đồng và khác.

Đây cho nên không đồng mà đồng chẳng đồng, không khác mà khác chẳng khác.

Há đồng khác mà có thể khác và đồng. Chẳng có khác đồng mà có thể đồng khác. Vua bèn không đáp vì vậy quân thần vắng lặng không nói rất lâu.

Chiếu bèn hỏi: Khanh sao lãnh đạm bèn muốn tan có quy về không, chớ lo bàn không đến nơi bèn dứt sự biện trong sáng.

Tâu rằng: Người xưa ngay lời nói mà sợ, phát ra lời mà lo, do đó xưa có vua không nói, đời truyền kẻ sĩ quên công, cho nên dứt lời tiêu biểu biết chẳng phải là không thích.

Chiếu rằng: "Chí nhân không làm mà chưa hề không làm, người trí không nói mà chưa từng không nói. Cũng có chim Oanh vũ nói mà không dùng, chim Phụng hoàng không nói mà thành tựu phép tắc, cây có không mặc tình được còn, chim có không mà kêu đến chết. Khanh nay lấy bỏ như là tự thích". Lại nói rằng: "Kẻ sĩ có một lời mà biết người, có mắt thấy mà đạo còn, cũng có thấy sắc xét tình, lại có nghe nói biện đức. Trẫm cùng khanh nói đã lâu rồi, mà ở trong ấy ý thú đâu không lược nêu, khanh có thể vì Trẫm ghi lại những lời đã nêu bày khiến cho mọi người biết được ý Trẫm, đây là giúp Trẫm vậy đâu xấu hổ trung thành.

Lâm tôi đem Phật pháp bị chìm lấp, liều chết bày ra. Vua tình so lường chấp, không theo chỗ nói, biện luận tuy rõ nhưng chẳng phải bổn ý.

Nương Trường An bỏ giáo, sau lập riêng Thông Đạo Quán, trong ấy chỉ học về Lão và Trang, ưa lập dối bàn bày chung ba giáo, mong nhân nghĩa thế càng sáng bộ Thích bèn nêu. Sa-môn nghĩa học ở thành Nghiệp có mười vị đều là bậc thông minh sáng suốt, xin dự Thông Đạo Quán, vua xem biểu bèn nói: Khanh vào Thông Đạo Quán học rất tốt, đều có chí luận giúp mình rất là lợi ích". Bèn bày yến tiệc, ăn xong nói: "Khanh hãy lo hành trang vào cửa trước mọi người". Ngày mồng một tháng năm đến điện Diên Thọ ở Trường An ra mắt, ngày hai mươi bốn vua đến cung Vân Dương. Ngày mồng một tháng sáu vua băng hà, Thiên Nguyên lên trá ở Đồng Châu, đến ngày mười ba tháng chín Trường Tông Bá Kỳ Công tâu xong vua hứa rằng: "Lý Phật rộng lớn, đạo tột sự sâu xa, hưng thí có thì pháp cần nghiên cứu" như đây thường tâu e có khảo xét sai nên tâu rằng: Thần vốn nêu việc chỉ là hưng khởi pháp, thường xin hết lòng chỉ mong sớm thực hành. Nay Thánh thượng có thể bàn với nha quan tấu quyết, trên dưới hòa hợp định không khác đường, một ngày nào đó ban hành thiên hạ mừng khen, thần đâu dám nói."

Đến ngày mười lăm tháng giêng niên hiệu Đại Thành năm đầu mới ra chiếu rằng: Rộng dựng lập tông phong nhập môn, Tam bảo tôn quý, đặc biệt nên tu kính, pháp hóa rộng lớn, lý đáng quy sùng. Trong số Sa-môn người đức hạnh thanh cao có bảy người. Ở điện Chánh Võ đặt đường đi ở Tây An ngày hai mươi sáu tháng hai đổi niên hiệu thành Đại Tượng, lại ra lịnh: "Phật pháp rộng lớn ngàn xưa đều tôn sùng, đâu có chìm ẩn bỏ mà không làm, từ nay về sau Vương Công trở xuống và đến thứ dân đều nên tu thờ, phải biết ý Trẫm". Tức ở ngày kia điện nghiêm tôn tượng đủ đồ tu cúng thì thành cung kính. Bấy giờ hai chúng của đạo Phật đều chọn một vị Đại đức khiến lên tòa pháp khen ngợi kinh sách nhiệm mầu bèn khiến người có tâm không sợ sệt, xen nhau tuyên bày lý Phật tràn trề sâu thẳm chớ suy lường, đạo tông phiêu bạt sạch cạn có thể biết. Vấp váp trong tòa Vương Công than thở.

Đến ngày hai mươi tám tháng tư hạ chiếu rằng: Nghĩa Phật sâu xa, thần nương mở rộng, hẳn mở rộng hóa nghi thông tu hành, người sùng phụng nương kinh tự nghiệm kẻ theo đạo chớ cần cắt tóc hủy hình để trái đại đạo có thể giữ râu tóc sửa y phục để tiến lên cao. Nay chọn trong cựu Sa-môn người ý đức trinh khiết học nghiệp sâu rộng tiếng tăm rực rỡ, đáng khen ngợi gồm một trăm hai mươi người, ở chùa Trắc Hổ vì nước hành đạo, sẽ cúng dường bốn thứ cần dùng không thiếu". Dân kia nghe thiền tụng một người cũng không nghi. Chỉ ở Kinh đô và Lạc Dương đều lập một chùa còn các châu quận khác vẫn chưa nhận chung.

Ngày hai mươi tám tháng năm niên hiệu Đại Tượng năm đầu nhà Chu, Pháp sư Nhâm Đạo Lâm ở nhà Vệ Đạo Kiền tại Đồng Châu thuật lại việc kia trình lên vua. Nội sử bái công Vu Văn Trạch đích thân xem, tiểu nội sử lâm kinh công Vu Văn Hoằng mở đọc, chưởng lễ Thượng sĩ nhờ phân biệt hạnh cung kính, còn tầm đô Thượng sĩ thí quát mắng thần xét lại.

Thiên Nguyên nhà Chu có lập người dâng sự đối chất với Vệ Nguyên Tung.

Ngày hai mươi bảy tháng hai niên hiệu Đại Tượng năm đầu, Vương Minh Quảng đáp việc Vệ Nguyên Tung tâu phá Phật pháp.

Ở thành Nghiệp cũ, thời Triệu Võ đế có đệ tử Vương Minh Quảng cháu của Phật Đồ Trừng tại chùa Bạch Mã thành thật e sợ tử tội dâng thơ.

Quảng nói: Vì ngụy tạo nhân Vệ Nguyên Tung trụ chùa Dã An tại Châu Ích đã cho biện Thiên Dật Ức là che giấu lỗi, xin bỏ tượng Phật hoại diệt pháp Tăng. Đây chính là lời mê hoặc tâu lên Tiên chúa khó sáng rõ. Đại quốc tin lời can ngăn không nhận, khắp trời riêng bàn, triệu dân trông mong thật thay bất tiện, đâu hơn cái nhiều này. Quảng tôi học chẳng phải từ nhỏ thông minh, tài khước từ sinh hiểu biết, thường xem lời nhất chí hay đọc luận đa phương, tham hỏi trăm họ, lại xét sáu kinh, khảo nghiệm lời của Tung hoàn toàn không phù hợp. Than ôi! Phật pháp tồn tại đã lâu, chỗ buồn ngày nay chê bai gặp lăng trì, nịnh nọt để tạm khỏi thân mình là giặc của nước nhà, nói thẳng không tránh dầu tội chết là phước của nước nhà, kính nhờ nghĩa đây dám chết đầu thành, kiện đối Nguyên Tung sáu điều như sau:

Cúi xin Thiên Nguyên Hoàng đế mở bốn minh hiểu bốn thông, tạm giáng oai trời gạn quầy nỗi lo của Thánh một phen rũ lòng cho xem, khoa ân phạt phục đợi hình hiến, kính tấu.

Thần là Minh Quảng kính đối: Thi nói rằng: Không đức không báo, không nói không đáp, tuy tầm thường ngu dốt mà nghe các bậc tiên đạt chí đạo tuyệt tâm lự, Đại đức vượt ngoài danh tiếng, quân tử không ngoài lời phù phiếm, chư Phật vì hết lòng luận, bỏ mê phá chấp, mở đường dẫn dắt chúng sinh, trời người kính thầy vốn đã lâu rồi. Khéo nói giáo dạy vật, phàm thánh quy về lòng nhân, cam lồ cỏ lan chi ai thấy đức, dầu khiến Nghiêu xưng chí đạo, không thấy mộng vàng bình dương, Thuấn gọi là vô vi, còn cách điềm sáng Bồ Phản, thương thay!

Luống sinh dễ chết, chánh pháp khó nghe, gió thuần thắng rất trái, lời dua nịnh khó dùng. Nếu khiến Tề Lương ngồi hưng Phật pháp ngôi vua không thạnh, Đường Ngu đâu bị nghiệp ở Tăng phường, Hoàng tông tuyệt tự, người đói sắc rau. Nếu nghe sử Lương nổi trời, nước hại đến từ

Nghiêu Niên, toàn đạo cần gì là cõi Đường Ngu, dân hoại đâu chỉ cõi Tề Lương. Còn như nghĩa thực hành, nước dồi dào, điện báo là khởi chẳng nhọc, lễ bỏ cùng năm, chỗ bậc đất đó là khỏi, cho nên Truyền Nghị nói rằng: Người đời khen đẹp, Thần nông chính thân cây, Nghiêu Thuấn ở nhà tranh, bởi nói thời đại suy chẳng phải đạo Tiên vương. Tề Lương xây tháp tự mở nhân phước đức, đâu trách sự giúp đỡ của giao báo, cho nên Tăng Tử nói: "Điều tốt của người phước tuy chưa đến nhưng cách họa đã xa". Bao Phốc Tử nói: "Hiền không hẳn là thọ, ngu không hẳn là chết, lành không gần phước, ác không giao họa", đâu trách đây gần chứng nghiệm mà xa bỏ dấu hiệu lớn ư? Xưa nay đổi dời chất văn thay đổi, trị nước tề tục nghĩa quý hợp thời, thương sợ phong thắng của Đường Ngu, nói phải không riêng phải, mạt pháp của Tề Lương nói trái không riêng trái.

Trần Minh Quảng lại đối: Thi rằng: Có bậc giác ngộ đức hạnh, bốn nước thuận theo, tạo hóa tự nhiên đâu quan hệ đến việc người, sáu trời khuyến thỉnh muôn nước quy y, bảy chỗ tám hội nhà nào lường, đâu chỉ chùa ngàn Tăng. Không có đại hiền ai lại kính như vậy? Không có đại thánh ai lại đến như kia? Kinh Niết-bàn chép: Không đoạt tài vật người, thường bố thí ân huệ cho tất cả, tạo Tăng phường chiêu đề thì sinh về nước Bất Động. Các kinh đã hiển ngăn sự có lý do, không hợp tâm Phật là sao xằng bậy. Chùa tên Bình Diên, Tung bèn vọng bàn Phật lập già-lam sao gọi là khúc kiến, đây là so lường lỗi chia và đoạt trái nghi, chấp hạnh đâu khác đánh trống mà cười cửa sấm, đối thiên đình mà khoe hang kiến. Khuyên lấy chồng vợ làm Thánh chúng, buông lung hôn dâm. Nói quốc chủ là Như Lai mong tôn sùng nói dua nịnh, người can ngăn trong sạch như đây hay khác? Sao riêng Ngụy đến đó tìm Giao Sủng khuyên vua Sở đoạt vợ của con Tể cầu lợi gần vì vua Ngô giải mộng bạc phơ, tâm biết không thuận, miệng nói lời tốt, kia tin lời tà do đây mất nước, Nguyên Tung quyết là tội lỗi. Tăng bị quan xua đuổi, giận dữ, xấu hổ, nhục báng chỉ do đó mà sinh, che ở phá chùa sợ lý không bày, quạt động tâm vua gọi tôn là Phật, riêng lấy ý một người chôn chìm ruộng Tam bảo. Phàm trăm nghe biết ai không than tiếc. Có Phật pháp đến lâu xa không bờ mé, trời ở đất dừng chỗ tôn sùng, tiên đế hậu vương ai không trọng, đâu riêng cõi này mà chê bai? Xưa Hạ Hòa vây khốn Sở Khổng Tử bày nguy, ngày nay nghĩ xưa sợ vời lấy sự chê cười.

Thần Minh Quảng lại thưa: Phật là cha lành là điều ngự của người trời, ba thời đều lành, lợi an tất cả, tự ẩn thần ở song thọ đất động mười phương. Tóc trao cho Tứ thiên vương, thân chia cho tám nước. Kinh Niết-bàn nói: Tạo tượng hoặc tháp Phật dụ như ngón tay cái, thường sinh tâm hoan hỷ thì sinh về cõi Bất Động". Rõ biết hầu cha thờ Thầy tự mở sách xưa, buộc tu phát khởi dẫn giáo, thành luân rất có thể. Vệ Tung hoành thêm phi nạn, vào nhà không lễ đâu hơn không nói? Xưa Đường

Nghiêu thì trị trời, trời khỏi tai nước, Chu lễ thẳng tông miếu, miếu không sức giáng mưa, như cho là tháp không giao phước dùng họa thì quy về, cũng có thể miếu trời luống cầu lệ nên dừng bỏ. Nếu dùng lễ suy minh vận thì thức ân miếu trời cũng có thể thường cùng mạng há nhà tháp mà cứu được, dù cho phí công rút ngắn đất. Lỗ Tử về trời, người không ngại quyết chết, đâu tiếp tục mạng mình thôi, mạng mà không định, phước cũng có thể sắp xếp, nghĩa khác hướng bàn quyết cần lòng từ giúp đỡ, còn như khắp tượng lành, bệnh hủi trược quy y đó được lành, tinh xá Kỳ Hoàn người bình phục hoạn chết, cứu khổ đuổi tai ương việc nhiều chẳng phải mộc lại đáp các nạn không có rộng bàn. Nếu đạo không riêng khắp, đức không đâu không tồn tại, ngàn đường một đầu mối, đâu chỉ nội tâm, nếu Châu Gia xây dựng bảo tháp, trăm quỷ giúp để ngày thành công, chim tước khởi phù đồ, Tứ thiên vương giúp sức ban đêm, lớn lao thay! Cảm trời đất động quỷ thần. Ngoài tu không phước là nói sao? Đây như thời khóa nghèo ức làm dân đều nhọc nhằn, nghĩa ra ngoài bao dung có thể bố thí quên mệt nhọc, nếu quyết nguyên do chùa tháp làm bại nước và dân, nay đã bỏ Tăng. Nghèo lẽ ra phải giàu, tằn tiện khốn khổ ở thành thị lại hơn năm xưa, có thể do Phật. Quỷ chẳng như kính gọi đó là dua nịnh, lạy cầu cây sả đâu cảm rất nhiều. Nếu nói cây xả là chỗ nương của quỷ giúp phụng thờ mà chẳng lỗi, cũng có thể điện tháp là chỗ Phật ở tu tập nên tạo dựng quyết ứng như pháp. Nếu nói Phật ở hư không chẳng ở bùn cây, thì lẽ ra quỷ thần cũng ở chỗ tối vắng, há lại ở trong cây?

Phàm thuận lý giúp vật, Thánh giáo rất hiện quán chẳng phải nghĩa lợi ích, kinh nói không chấp nhận rất có cung trời tháp Phật suốt làm cầu, làm bức tường che. Tượng thêu, cờ phướn, kinh, dùng y phục máu mủ, thiên hạ ngày ngày đói nghèo, trăm họ mỗi năm thêm tiều tụy. Quỷ thần, tiểu thánh còn đều rất dối, chư Phật đại linh đâu cho gá phụ.

Thơ nói rằng: Trời cao không lớn hơn đức kia, giáng tán đói khát là nghĩa này. Lại riêng đến thay công thần, kiện tướng thời nay, chiến tranh qua ổn định, hơi thở trong sạch phương xa, sống bèn riêng thọ công huân vinh hiển, cửa châu nhà tía, chết thì nhiều khiến dân phu cây miếu khởi mộ xét chết sát sinh. Sùng hư tổn thật, có nhọc mà không lợi ích, ban đầu chưa hợp lời, huống chi Thích-ca Như Lai đạo giúp tam thiên, hóa thạnh trăm ức, nhìn trước không ngại trông sau ai hơn, có thể bậc thầy của ngoại đạo, khéo phục bè đảng thiên ma, không dùng tấc binh chẳng nhọc thước đao, năm quang chiếu khắp không khổ nào chẳng tiêu. Bốn biện hoành lưu tha thứ mong an vui, làm tướng làm thầy danh cao ngôi lớn, chùa còn miếu lập nghĩa có ngại gì? Rồng đất không thể làm ra mưa còn được tôn thờ để cầu phước, Phật bùn dù cho không nói nhưng kính trọng đâu được không chứng nghiệm điềm lành. Xưa Mã Khanh mến mộ Khổng Phụ Mộng Chu cho nên trọng người xưa, kính vâng đức cũ. Huống chi chư Phật ba đời phong hóa lý đồng, đến nỗi khiến Di-lặc mới hưng khởi không nên bỏ ngang di pháp của Đức Thích-ca.

Thần Minh Quảng lại đối: Nay Tăng giàu vô hạnh theo thời khóa có lý, tăng nghèo có đức đoạt chùa không có tội. Còn như Quản Thái không làm quan, chưa thể Cơ Tông đều chết, bói toán bàn bạc, keo kiệt bủn xỉn đâu thể bọn Khổng liền chê. Bắt ngựa non nhỏ, trước bỏ ngựa loạn bầy, thả trâu lớn do mến trâu hộ bầy. Trang Tử nói: "Đạo không ở đâu chẳng tồn tại, người khế hợp thì không đến vừa được nhờ vậy. Người chưa hợp chí đạo chỉ đây mà thôi". Còn như Đức Thích-ca, Chu Khổng, Nghiêu, Thuấn, Lão, Trang phát khởi đầu mối tuy khác mà tông quy về một. Đâu được kết dây đời riêng xứng chính trị, Tăng cạo tóc gọi riêng là quyền đạo, tình cuộc chấp rất lắm, giải giúp vật đâu lạ.

Lão Tử nói: "Người bậc thượng nghe đạo siêng thực hành. Người bậc trung nghe đạo hoặc còn hoặc mất, người bậc hạ nghe đạo cười lớn rồi bỏ đi". Nguyên Tung đã là bậc hạ của Phật pháp, trộm hình pháp phục không biết gai hay vật báu, lầm lượng và vật báu, xấu hổ lời xuất ra từ miệng dối, không tôn quý nơi đầu bút. Nếu khiến đất của Tây thiếu có người vật, sách không vậy ai chịu tin? Quảng tôi thường thấy khác trốn núi vượt biển, dân đông di Bắc địch, xưa mộ lành mà đến, nay do phá pháp mà lưu tán, có thể gọi là ham lợi không mến sĩ dân thì có lỗi lìa mất. Nhưng tiền tài hàng hóa nước ngoài chưa nghe thì không dùng, sư nước ngoài dạy riêng thấy không thờ. Thiên hạ quái lạ mong việc ở đây. Quảng tôi đã chí thành ở niệm trung tín làm tâm, lý tự có thể nói sớm mong tấu bày, nhưng trước vua giải bày riêng có thể dùng lời của Tung, đã theo nạn truy đuổi nên việc không can ngăn, ba năm đã lâu, ba lần suy nghĩ bèn nói, có một điều có thể theo xin tìm sự sửa đổi.

Thần, Minh Quảng lại đối: Trộm lấy núi bao cỏ lan ngãi, biển giấu rồng rắn, tốt xấu tạp loạn, hiền ngu lộn chỗ. Nếu rồng rắn đều yêu mến thì không có riêng phải quấy. Nếu cỏ lan cỏ ngải đều khuất thì ai rõ được mất. Nếu quyết giữ gìn có đức lựa bỏ kẻ chẳng ra gì, một là có thấm nhuần gia phong, hai là không mê hoặc chúng sinh, ba thì trời không chê bai dối thiện, bốn thì dân đức quy đầy. Đại Chu của ta ứng thời kỳ ngàn năm, ngay ngôi muôn nền, thuật lễ rõ nhạc hợp đất bình trời, võ anh liệt văn sáng, giúp chân rõ tục. Tăng hiền, đồ của nước, không tệ binh họ Diêu. Thánh chúng quy về đâu riêng trộm Quy Tư? Hoặc có từ bi ngoài tiếp thông, nói về bên trong khai phát ghe Đại thừa cho thứ dân, hoặc có Thiền lâm cụp cánh nước định dạo vẫy, cố giữ phao nổi, kiên trì giáp nhẫn, hoặc có sửa hình đổi áo tạm khác người thường, dâm buông lung không đầu mối lại đồng với kẻ tục ngu.

Nguyên Tung xin chọn sai đúng có lý, phàm trời đất chí công cũng có khi động tịnh, mặt trời mặt trăng kéo ra rút lại cũng có lúc dài lúc ngắn. Nay người học Trang Lão ở nhân gian ít gặp, dù cho hợp nước chung làm cũng trái cách thức là tội, đâu cho được biết hiện thấy khi người nhận thực hành Nho giáo, khắc hình lại bể chạm việc nhiều sai trái. Sách Lễ nói: "Đồ ăn khô không ăn, chưa thấy cho thịt mà xin rau. Rượu đầy không uống, chưa thấy chén đầy mà không khuyên". Lễ tột uống không quá ba chén, chưa thấy rượu ngon mà không say. Thiên tử không hợp vi, chư hầu không khép bầy, thứ dân không trứng hươu. Quảng đã thiếu nhiễm môn huyền, không rảnh việc che vi, mở mắt nhìn hết dân trứng hươu. Lại nói rằng: Sao kia không hợp lễ không bỏ áo Nho ư? Phàm hóa do đạo, hợp chính sách để lễ thành, vinh nhục chỗ chỉ bày quân tử, hình phạt chỉ bày ngự chế tiểu nhân, loại pháp cày ruộng, lúa cỏ phải phân biệt rõ, cưa cành chặt nhánh đâu phải là tận gốc.

Thần, Minh Quảng lại thưa: Nghĩa tôi trung con hiếu có nhiều đường, đâu thể trọn cây cấy tô đinh là trên hết. Sách Lễ nói: "Tiểu hiếu dùng sức, trung hiếu dùng nhọc, đại hiếu là không thiếu". Samôn là người hiếu trên thuận chư Phật, giữa báo bốn ân, dưới vì hàm thức, ba món không thiếu là đại hiếu thứ nhất, cho nên sách Thi nói: "Quân tử vui sướng kính thuận, cầu phước không lời đáp". Nếu quyết sáu kinh không dùng, ngược chữ tín nói lời phù phiếm, chánh đạo bỏ thiếu, trộm là không nguyện cầu. Nếu chính thờ cha là dùng sức là chỉ xứng, với tiểu hiếu, tô đinh (thuế) dâng vua là dân tầm thường bố thí Tăng, cung kính tượng đều hợp lý, do Tung trước, sau mâu thuẫn tự ngăn ngại, trên nói mạn người, kính đá gọi là si tăng, kính tượng lại thành ngu tục, yêu vợ thương con súc sinh cũng hiểu, thường ôm lòng khắc niệm đâu phải chỗ hẹp hòi?

Hiếu Kinh nói: "Thân thể, tóc, da nhận của cha mẹ, không dám hủy bỏ, là đầu của hiếu. Lập thân hành đạo nêu danh ở đời sau để hiển danh cha mẹ là trọn vẹn của hiếu". Nếu nói Sa-môn xuất gia liền chê là trái đạo thờ cha, cũng có thể hiểu việc tham học Khổng Khâu là con bất hiếu. Do đạo dẫn phát nhau nghe kinh sách Thánh, buộc tu hợp lễ Tăng có lỗi gì? Lão Tử nói: "Bốn tượng không vận hành, đại tượng không do đâu mở mang. Năm âm không nghe, đại thinh không do đâu tột cùng". Nếu muốn diệt hẳn Nhị thừa cũng sẽ Đại thừa không mở mang. Nguyên Tung nếu chí rõ xuất gia không hối hận, chí hoặc không rõ, cần gì là đúng? Xưa Đình Công vào Hán, trước mắc cái chết nhỏ nhất, Mã Mẫu phản Khương tự vời lấy cái chết chìm nước, đây là nghiệm sư bại nước, không tín nhậm trung thần. Vợ trốn chồng mất hẳn tiếng trinh thục. Tung vốn quy y Thích-ca có thể nói là điều lành ban đầu, nhàm đạo về tục, chẳng khiến trọn vẹn, cùng người nữ vua yêu dấu loạn thần kế tướng đâu khác.

Trời không chứa ác, lâu gì toàn thân. Trái chân hướng tục là phản bội đâu sai. Xin người chọn Tăng lập chùa, rộng nghe vàng ngọc châu báu ở người cùng quý, huyền Nho nghĩa khác xa gần đồng vâng theo. Há do Khổng sinh ở nước mình liền muốn sư theo, Phật ở nước xa nên có tâm tổn bỏ, không kể nơi việc liền bày ngu dốt. Lý phải quấy không dám tự chuyên. Xưa lời thệ Khổng Khâu miếu làm phép tắc ngàn năm, lời Thích-ca xưa chùa là tháp linh của muôn đời, muốn khiến thấy hình khắc niệm, nhìn tượng quy tâm, kính Sư trung chúa nghĩa kia có một. Còn như Đinh Lan Thúc Đới hiếu thờ hình mẹ bằng gỗ, Vô Tận Ý cởi chuỗi anh lạc dâng tháp Phật Đa Bảo, mờ tìm rộng xưa, tưởng xa sạch trần, đã gieo thành rừng đối với lý không vượt. Lại xét kinh Lễ thì Thiên tử bảy miếu, chư hầu năm miếu, đại phu, khanh sĩ đều có giai cấp, cho nên trời gọi là thần, tế trời ở gò tròn. Đất gọi là kỳ, tế đất ở đầm vuông. Người gọi là quỷ cúng tế ở tông miếu. Rồng quỷ nhọc làm mưa, bò súc có sức kéo cày. Còn đều lập hình thôn ấp cây tượng cửa thành đâu sánh với Đại sư trên trời dưới đất nơi ba cõi, với cha lành của bốn loài ở cõi đây cõi kia, oai đức trăm ức chỗ tôn sùng, phong hóa làm phép tắc cho muôn linh, cho nên người lành hồi hướng như các dòng quay về biển cả, đại quang nhiếp thọ các ngôi, sao là bạn của mặt trời, mặt trăng.

Từ mặt trăng sót bóng đâu đợi tro thân, xá-lợi khắp lưu, Kỳ Hoàn bèn xây dựng, cả hiền đến thánh nương đây mà phúc lớn, hoặc tôn hoặc quý nhờ đây được an, bỗng khiến bảy tầng chín lớp đổ khám sụp nhà, bốn cửa lớn tám cửa sổ có thể chung ở thất đạo. Không khiến mà trị, hình giáo tùy thời tổn ích, chí lý không nói mà được, kinh tượng tự có thể khiến làm, bậc nhân sĩ thông đạt tùy nơi hiển dụng. Nhờ chân rõ tục khi Thánh cảm ứng, như đãi Thái Công làm khanh tướng ngàn năm không có Thái Công, muốn được La-thập làm Thầy muôn đời không có La-thập. Pháp không tự hiển hoằng pháp do người, há khiến Đại Chu pháp luân diệt hẳn.

Thánh Thượng là điều ngự của mọi người, chín đức tự sáng, lý cong chớ lập bày, lời thẳng quyết dùng. Xưa Tần Thỉ Hoàng đào mộ Khổng Khâu, họa suốt ba ngày. Ngụy Thái Võ diệt Tăng-già-lam tai họa khởi bảy năm, thuyết của Thôi Hạo có thể biết, lời của Vệ Tung khó dùng. Người có lòng nhân không tổn lợi mình và người, kẻ trí không ưa họa mời danh, Nguyên Tung trời tán không nhờ, nhưng một khi bỏ thân người sẽ chỗ nào? Rộng biết tạ ơn lời chuẩn mực lần tin chánh, đây như không đối sợ tổn thương các điều lành, tha thứ lỗi người là hạnh dày, luôn nhớ đức người là trí của lòng nhân. Nay Tăng tốt xấu giả có một nửa chẳng lẽ đuổi hết không giữ lại hay sao? Khắp trời thất vọng, cả đất thở than, ngu tôi cho là đường này chưa sáng, Đức Chu là đâu?

Kính Nho sĩ để nói lên tôn trọng, chê Thích Tử để vui ý kia, chê vàng quý đá nào có khác gì? Kể ra vương đạo mênh mông há lý nên như vậy. Đất nhờ nước mà bằng, cây nhờ giấy mực mà thẳng. Minh quân nhận lời can ngăn không trái, kẻ đạt sĩ ưa nghe lỗi mình, người trí không giận việc nhỏ, kẻ hạ ngu thấy được liền bày, người có lòng nhân không dứt điều lành nhỏ, ruộng Tam bảo liền lập. Trời không đâu chẳng che, đất chở rộng hơn núi, biển lớn nhận chỗ nào không dung.

Trong mười nhà quyết có trung tín, trong một nước đâu không có Tăng hiền, cúi xin Hoàng đế Thiên Nguyên nêu đức nạp hiền, chiêu vời anh tài, lựa chọn tuấn kiệt, bỏ phiền xét mỗi châu còn một chùa, núi rừng hang đá che ở tùy chỗ. Người có xálợi thì cho xây tháp, bảng chùa kia tên trùng hưng khắp (chùa khiến vui, người trí tuệ kính mến để mở chí dẫn dắt). Vắng bạn dứt lời để cầu thông, trong ngoài gồm lợi ích, công tư đều không tổn, tức là đạo tục rất may mắn, huyền nho vui chí. Vua thạnh nhà Chu, nghiệp trọng trăm vua. Vua đại tượng sáng nơi bốn biển, trời cao tiếng vang xa, khinh nêu lời tầm thường, khí sợ hồn nổi dùng sống mạo chết, xin giáng oai sấm sét, rải xuống gió mưa. Kính tấu dâng vua.

Ngày hai mươi bảy tháng hai nhận lời, Hàn Trương Loan nhận thơ. Nội sử thượng đại phu quỳ đọc, Công Vu Văn Dịch, Nội sử đại phu Thác Bạt hành cung đồng hỏi Quảng rằng:

-Phật Đồ Trừng là người ba trăm năm trước, xem ông chẳng qua hơn ba mươi năm xưng là đệ tử thượng Thánh, há không lầm ư?

Quảng đáp kia hoặc kế tục nhà Chu dẫu trăm đời cũng có thể biết, tiên sư tuy đã ba trăm năm, luận thời gian chưa quá mười đời đâu đáng nghi ngờ.

Dịch nói: Nguyên Tung dâng thấy già-lam hại dân tổn nước, nay ông khuyên lập là có ý gì?

Quảng đáp: Kiệt, Trụ mất nước, kẻ sĩ nhà Ân quy về nhà Chu, mất nước tan nhà không phải do Phật pháp, trong ngoài sách vờ đạo tục văn đã rõ, từ xưa đến nay không thể dùng bỏ, nên đây xin lập.

Dịch lại hỏi: Vua Tề là Cao Vĩ há không lập Phật pháp: Một là lịch số có cùng, khai mở đã đến, thiên hạ chưa thấy nước không mất. Hai thì yêu mến và phạt không trung, quân tử ghét ở hạ lưu lại quy về nhà Chu chứ không do Phật pháp. Dịch lại hỏi: Kinh là sách huyễn vọng của người Hồ sao được dẫn lời thật?

Quảng đáp: Ông cho kinh Phật là vọng, Quảng cũng cho giáo pháp Khổng là chẳng chân.

Dịch hỏi: Ông y cứ vào đâu mà xét lời Khổng dạy là không chân thật?

Quảng đáp: Trang Chu có hạnh Khổng Tử, xa xưa việc đồng, đã bày vật bỏ đi, do khiến trăm họ khen ngợi di phong kia, ngàn đời ngâm khen không dứt, tìm khắp các nhà hiền triết không thấy một người mà gọi Phật là huyễn vọng.

Dịch lại hỏi: Đinh Lan, Mộc Mẫu ông dẫn không giống. Vì sao? Vì người xưa vấp ngã mẹ gỗ, mẹ gỗ liền chảy máu. Cao Tổ phá chùa đến nay Phật bàn tượng đá đâu có cái nào chảy máu?

Quảng đáp: Xưa nhà Hạ lập chín cái đảnh để trấn chín châu, một châu không tịnh thì một đảnh vọt ra, chín châu không tịnh thì chín đảnh đều vọt. Xét thấy hai nước giao binh, bốn phương nhiễu động sao không thấy một đảnh nào vọt ra? Nay trước điện còn y xưa lập đảnh lại riêng trách bàn, cây, đá không chảy máu, liền lại dừng bỏ. Ngày mồng một tháng ba ra lịnh cho ăn uống, dự ngồi ở cung Bắc, ăn xong xe giá ra về kinh.

Hoàng đế ra cửa Nam cung Bắc, cho các vị Thượng Thơ bái chào nhau, chào xong Nội sử Thác Bạt Hành Cung tuyên sắc chỉ: Mặt trời mặt trăng tuy sáng nhưng vẫn nhờ các ngôi sao giúp. Minh quân chí thánh cũng nhờ các hạ quan giúp đỡ. Trẫm nhờ có âm đức, các khanh đều hiến mưu trung rất đáng khen ngợi, văn thơ đã rộng mà chưa nghiên cứu kỹ, liền phải mở xem riêng có xem xét. Các khanh đều nên ưa trụ. Đến ngày mồng tám tháng tư, Nội sử thượng đại phu Vũ Văn Dịch tuyên bố sắc chỉ: Phật giáo hưng khởi đến nay đã qua nhiều năm, luận chí lý kia thật tự khó rõ, nhưng do đời tạm trôi nổi không nương Phật dạy, đến nỗi khiến pháp thanh tịnh biến thành trược uế. Cao Tổ Võ Hoàng đế sở dĩ không lập chánh là như vậy. Nay trẫm để tâm vào chí đạo, suy nghĩ hoằng mở mang pháp lành, mới muốn lựa chọn làm cung tu lý. Nay hình không sửa đức hạnh vẫn còn. Quảng lập đạo tràng muốn thực hành pháp lành, Vương Công trở xuống đều nên biết.

QUYỂN 11

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 7)

Đời Đại Đường, trên lược bỏ tờ biểu Phật tăng do Thái Sử Linh Truyền Địch.

Đại Đường, bỏ lược xét bài châm Phật tăng của Sa-môn Thích Pháp Lâm.

Đại Đường, luận phá tà của Sa-môn Thích Pháp Lâm.

Quan Đại phu Thái Sử Linh Triều Tán Truyền Địch trên giản lược xét chùa tháp, bỏ tăng ni việc ấy có mười một điều.

Quan Truyền Địch nói: Thần nghe Hy Nông, Hiên Húc trị hợp với phong cách Lý Lão. (Phê rằng: Lời thi nói "Trên dùng phong giáo hóa dưới, dưới lại châm biếm trên", Lão Tử ở nhà Chu làm chức Thủ Thơ Tàng Sử, như qua bí thư ngày nay, vốn chẳng phải Thiên tử có phong hóa gì, khiến Hy Nông, Thượng đế cùng hợp trị). Nhà Ngu Hạ Thang Cơ chính trị phù hợp giáo lý Khổng Tử nhà Chu. (Phê rằng: Chu Công, Khổng Tử đều là quốc thần, trên thuật giáo của Ngu Hạ, dưới hóa độ dân kiêu bạt, cũng chẳng phải nhân vương tự làm giáo chủ, đâu khiến bốn vua nhà Ngu Hạ lại phù hợp với giáo của Chu Khổng ư?). Tuy thánh có trước sau mà đạo đức chẳng khác, vua có đổi thay mà thuật trị nước vẫn đồng.

Trộm nghe ông già tám mươi vỗ đất mà ca, đứa trẻ mười lăm gõ trống làm nhạc. Cày có thể nhường bờ, đi đường không nhặt của rơi, con hiếu đầy nhà, trung thần khắp nước. Nhưng quốc quân (vua) có nạn thì liều chết để đáp đền (Phê rằng: Cả nước đều là trung thần sao lại có nạn? Ruộng thường có bọn xấu khanh không nên khởi nghịch). Cha mẹ có bệnh thì trọn đời hầu hạ, đâu chẳng là bạn của Tăng Sâm, Mẫn Tử thứ lớp thành rừng. Mặc Địch cung kính bạn bè đến giúp đỡ (Phê rằng: Hai mươi chín đời chỉ có một Tăng Sâm, từ Hán Cao về trước chỉ suy tôn Mẫn Tử. Nói thành rừng là không thật, giúp đỡ nhau là dối, sự quá sai), bèn cố giữ gìn đạo đức không ham muốn không tham cầu (Phê rằng: Châu Hồ Thúc Giả không thể giữ đạo, vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân chỉ có việc tham cầu). Sủng nhục như sợ chức tham dự đội ngũ triều đình (Phê rằng: Phạm Sùng, Nghệ Nghiêu chưa chịu như sợ. Họ Lý, Dương Hóa cũng ở triều). Trên đỉnh Kinh Sơn nương vịn rồng bay, họ Câu bên gò theo nhau cưỡi hạc, sứ của Diêu Trì Vương Mẫu đủ lễ đến chầu, thần của Bích Hải Vô

Di đi ra mắt vua, cho nên như vậy ngay lúc ấy cùng vâng theo giáo pháp Lý Khổng, (Phê rằng: Hoàng đế nương rồng bay là ở đời ba Hoàng, Diêu Trì

Vương Mẫu lại thời Chu Mục, tính ra lúc này Lý Lão chưa ra đời, Khổng Khâu không có tên, không nên lại vâng theo Lão giáo học tập sách Khổng Tử) mà không có đạo Phật (Phê rằng: Ông đã nói không có đạo Phật thì cũng không được có đạo Lão). Từ thời Hán Minh đế nằm mộng thấy người vàng vào cung Truyền

Nghị đối chiếu, nói là "Thần nước Hồ" (Phê rằng: Đời Châu không đến thì Truyền Nghị đâu biết có Phật, ông lại nói không là năm tội nghịch nặng, tai ương tự mang nhiều kiếp). Đời Hậu Hán chưa có người hiểu, nói dối quá lắm), đến đời Ngụy Tấn, Di, Lỗ người tin một phần (Phê rằng: Lễ, nhạc áo, mũ triều Tấn mới đủ, ông đã chê là Di Lỗ thì Trung Hạ là ai). Phù Dung nhờ Phật giúp mà khởi nghịch chạy trốn ở Giang Đông, Lữ Quang nhờ chinh phạt Hồ mà phản vua nên đứng trở ở Tây Thổ (Phê rằng: Người bấy giờ ghét Dung chê rằng "kết tụ", Lữ Quang chinh phạt trở về, chúa Phù Kiên chết bèn ở lại Giang Hữu xưng bá ở Kinh Châu, cũng chẳng phải trong tăng nghịch ở Tây Thổ). Đến đây về sau yêu Hồ thái bình phồn thịnh (Bài châm rằng: Từ bi đã huân ra ở mạt kiếp đời ác, có duyên được độ chính là đây) cắm hốt vào đai trong cửa lại nhận giới tà đinh cùn, trong sĩ học nhà

Nho lại nói yêu Hồ phóng túng (châm rằng: Cắm hốt vào đai tuân phục nhẫn nhục, Nho sĩ quý lời bàn của miệng vàng). Khúc loại ốc ca nghe đó tán gốc hôi đồng chợ cá, mất thơm (Phê rằng: Bỏ tiếng ông ca, khen ông chợ cá nghe đó quyết biết lỗi mất gốc, đâu không mất hương, ngước mặt nhổ nước miếng lên trời, tự nhận cái nhục kia, lời đây tin càng gấp bội), lại rộng ở già-lam tráng lệ chẳng phải mộc (châm rằng: Tạo nghiệp sinh Thiên, gieo nhân thoát khổ), công thợ nhọc nhằn ngồi riêng chấp Hồ (châm rằng: Tranh vận thân tay nghi tượng Thánh tôn). Động hồng chung (chuông lớn) của Hoa hạ, nhóm Phiên tăng dối chúng (châm rằng: Gọi thần chuông Bá Thuần, kêu ba ngàn thánh chúng) động tai mắt dân mộc mạc, đòi hối lộ hàng hóa buôn bán (châm rằng: Cảm tai mắt của tín tâm, phát hối lộ hàng hóa của tham si), nữ công lấy lụa cắt làm phan dâm phối thợ kim hoàn khéo tán bột mỗ xá-lợi (châm rằng: Nữ công lấy lụa làm phướn nối mạng, thợ khéo lấy vàng bạc xây tháp lúc chết). Lúa Lương, bún gạo dựng hội tăng ni, nhang, dầu, đèn cầy luống chiếu nhà thần Hồ (châm rằng: Lúa Lương, bún gạo, tranh bày hội ruộng phước, nhang, dầu, đèn cầy cầu soi nhà từ bi), bóc lột tiền dân, cắt xén chứa để của nước. Hồ mời các quan không hề có chút ngộ bởi đáng đau xót (Phê rằng: Hồ mời khế hợp xưa nay bỏ lục về chân, tôn kính đạo Phật không giống như tà kiến) cúi xin!

Bệ hạ định mở cửa trời, đóng lại ngôi báu mới, có chung với truân chiên muôn vật chăng? Lại nuôi dưỡng nhân dân, trải gió vô vi của Lý Lão mà dân tự hóa, chấp lễ ái kính của Khổng Khâu mà thiên hạ hiếu từ. Vả lại, kinh giáo của Phật vọng nói tội phước (châm rằng: Sở do nguyên giáo chỉ bày người dứt cửa ác, mở đường hạnh lành cõi người), quân dân trốn sưu dịch cạo tóc trốn trong đó, không thờ cha mẹ, chuyên làm mười điều ác (châm rằng: Bỏ ân ái mẹ cha, tu nhân phong mười điều lành, nhẫn trái nghịch nhỏ để thành thuận lớn), năm tháng không dứt, gian ngụy càng nhiều. Thần xem sách kinh thấy từ Bào Hy đến Hán Cao có hai mươi chín đời hơn bốn trăm vua, chỉ nghe cúng tế Thượng đế (Phê rằng: Vườn Khâu Nam Giao chẳng khỏi lỗi sát sinh, đâu bằng theo giới Phật bất sát là trước tiên, so sánh đúng sai đoán có thể biết). Quan trị, dân xét, chưa thấy chùa chiền tượng đồng làm an ổn đất nước, mời tà giáo Phật Hồ trở về Thiên Trúc (châm rằng: Duyên cảm thì khởi sự đều liền dứt, qua lại ứng vật, ẩn hiện tùy thời). Nếu là Sa-môn bỏ về quê nhà khiến bọn trốn học vui khắp, bọn chở thuê trốn sưu dịch thường mừng, hiến công sức chớ độ tiểu ngốc mà hằng tổn quốc gia (Phê rằng: Xưa Nghiêm Tử không lạy Thiên Tử, Triệu Nguyên Thúc từ biệt hẳn Tư Không, Điển Tạ khen kia tốt. Huống chi Sa-môn là ruộng phước xuất thế, họ Thích là bậc sĩ phu cao vượt, muốn lạy, xá chào, chỗ lý sâu đâu có thể được). Tự đủ trung thần bảo vệ tông miếu thì Đại Đường nhất định làm chủ tạo hóa, trăm họ vô sự làm dân Hy Hoàng (Phê rằng: Tạo hóa người đời không chở thuê, dân của Hy Hoàng ôm bụng đói mà nằm, thánh minh ở trên đâu tin lời Thôi Hạo Khương Vũ), thần thành thật kinh sợ (Phê rằng: Hết lòng thờ vua, nói mà tin, nghe tâu không thật tội có chỗ quay về, lừa dối thì quốc gia trọn phải chém đó, đâu phải kinh sợ và có thể xong?). Chỉ trên ích nước lợi dân việc có mười một điều như vậy, kính lời! (Phê rằng: Như ông tâu việc tổn nước hại dân không thể được).

Dâng luận trình bày lên Tần Vương Sa-môn Pháp Lâm đồng trình bày: Lâm tôi nghe tình tha thiết, tiếng kia hẳn bi ai; lý chánh lời kia chắc thẳng. Vì thế cùng tử nghĩ suốt lời kia, nhọc người muốn ca ngợi việc kia. Ai trộm thấy cuối năm thiên hạ tán loạn, hai nghi nhơ nhuốc, bốn biển sục sôi, sóng cuộn bụi bay, ruộng gò bị thiêu đốt, năm ngựa bặt đường Phù Giang, bảy lớp có bài ca Bình lũy. Khi ụ lửa trên đồi báo động, hịch truyền xong chạy, cửa ải đóng, nhiều lừa bịp, điêu ngoa không dứt, tiêu loạn đạo đức, cùng tận vận số. Đầu gặp ky liễm, thây nhóm như cỏ rậm, máu chảy thành sông, người không tạm sống, vật cũng nhọc ở, kiện cáo không có nơi, từ đâu mà gởi hình hài, trăm họ khổ treo ngược muôn nước khốn đốn vì không có chúa, đâu mưu toan pháp luân bặt âm vang, tan nát chánh giáo. Thánh thượng khởi tâm thương xót thuận mạng trời cao bèn nêu cờ nghĩa bình định một cõi, lúc ấy kẻ đạo người tục mong nhờ tươi tốt vui vẻ. Vì thế gọi trời đất mà thông tám gió, thì âm dương điều hòa bốn mùa. Đất nước hòa, nêu nhân luân, công trùm cả trời, thần mâu lập cực, giáng mây mưa mà sinh ra lớn lên, mở mặt trời mặt trăng để chiếu soi, phát huy đó để tiếng rõ, dứt đó để văn vật, thấm nhuần rau cỏ, hóa hợp trùng cá, mới muốn lại thuật chín trù, lại mở năm giáo, khởi học của Thạch Cừ, bày phong cách của Tường Tự, xa thì nối tiếp Hiên Hy, gần thì giống Văn Cảnh, công nghiệp hằng thạnh không biết tay múa chân đạp.

Trộm thấy việc Truyền Dịch đã tâu, kia xem chưa khắp năm nội chia đổ, tìm đọc Thỉ Chu sáu tình phá nát. Than ôi! Lời tà mê hoặc chánh, biện ma ép ngặt chân, vẫn chưa đáng tâu các hạ ngu huống gì muốn dâng lên Can Thiên nghe. Nhưng Dịch chức vị ở thời muốn mọi người quên chỗ hiểu biết, sao cho không gần nhân tình không tội khởi ác? Nhưng văn của Dịch lời thô cạn, sự lý không rõ, nhục mẫu mực của Tiên vương, mưu tổn phép tắc nhân luân. Vì vậy, hễ người không nói thì thôi, nói quyết có trúng. Phu Tử nói: "Một lời hợp lý thì thiên hạ theo về, một việc trái thường thì vợ con trái phản". Xem việc Dịch đã tâu bao gồm đại bộ kia, cùng ngọn ngành kia chính là dối mạo cung đình rất nhiều, hủy nhục bậc Thánh rất lắm. Như ý này của Dịch vốn muốn do đây tự mưu cầu tiến đạt (thăng quan) thật chưa thể ích nước lợi dân, cuối cùng là hoặc lộng triều đình và dân chúng.

Nhưng bệ hạ nên hợp trời thuận thời, nắm cơ đồ thiên hạ, dự tâm muôn nước, phải mừng một người, ra sức phò nguy cứu đời, bỏ công hung bạo yên tai nạn, vốn do oai che Tiên vương tiếng cao bên vua trước, lại giữ tâm với Tam bảo, gìn ý nơi ruộng phước sẵn là người xuất gia đâu không cảm động đất trời? Nhưng do chúng tăng không thể vâng giữ giới hạnh, báo đáp ơn nước, bọn vô ý thức sai trái tạo tội đến đỗi khiến Truyền Dịch nêu lời ác này, què quặt đau lòng, bỏ thân không đất chôn. Nhưng tăng ni có tội cam chịu nhận cực hình, hận Địch khinh nhục bậc Thánh nói lời rất hại, rất sợ người tà kiến do đây làm lỗi.

Xét sách Xuân Thu, Lỗ Trang Công bảy năm bốn tháng hạ, sao trời không hiện, đêm sáng như ban ngày tức điềm ứng Phật xuất hiện ra đời. Nhưng Phật có hai thân chân ứng, hai trí quyền thật, ba minh tám giải, năm nhãn, sáu thông, thần nói "không thể nghĩ bàn; pháp là chỗ tâm hành diệt", là đạo Phật. Chở chúng Thánh đến Nê-hoàn là năng lực của đạo Phật. Dẫn hạ phàm vượt biển khổ. Từ sau niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ ba đời Hán Minh Đế, vua nằm mộng thấy người vàng về sau, tượng giáo lưu hành đến đông lưu, điềm linh ứng chẳng phải một, chép đủ ở các sử nhà Hán nhà Ngụy, các sách Diêu, Thạch. Đến như ngài Đạo An khai sáng, ngài La-thập, ngài Đồ Trừng đều có hạnh cao hiểu sâu, danh tăng lúc bấy giờ đều được biết đến và tôn sùng quý trọng. Từ năm trăm đời trở lại, chùa tháp ở khắp chín châu, tăng ni đầy ba phủ, đều do vua bấy giờ kính tin, triều đình dân chúng quy tâm, tượng giáo hưng thạnh đến nay không dứt, đây là năng lực của nhân vương gánh vác.

Thế gian vua thần, cha con vẫn gọi là ân trạch khó đến, trời cao không đáp, huống chi Phật là cha lành xuất thế của (bốn loài) chúng sinh, lại là thầy thuốc của Thánh phàm, muốn đè cho thấp, lấy tội mà làm nhục cũng không thể được. Kính tìm trí Như Lai nêu ra tâm có, ba Hoàng đâu thể so sánh, sức trùm tạo hóa chẳng phải hai nghi chẳng thể cùng hàng. Xưa Cao Thái Tổ hỏi Khổng Khâu rằng: Phu Tử có phải là bậc Thánh hay không? Khổng Tử đáp: Khâu chỉ biết rộng nhớ dai, chẳng phải bậc Thánh.

Lại hỏi: Ba vương có phải là bậc Thánh hay không?

Đáp: Ba vương khéo dùng trí dũng, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khâu tôi không biết. Lại hỏi: Năm Đế có phải là bậc Thánh hay không?

Đáp: Năm Đế khéo dùng nhân và tín còn phải là bậc Thánh hay không thì Khâu tôi không biết. Lại hỏi: Ba Hoàng có phải là bậc Thánh hay không?

Đáp: Ba Hoàng khéo dùng thời, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khâu tôi chẳng biết.

Thái Tổ nạt lớn: Vậy thì ai là bậc Thánh?

Phu Tử hơi nhíu mày đáp: Phương Tây có bậc Thánh. Không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự thực hành, mênh mông không thể gọi tên, nếu ba vương năm Đế hẳn là Đại thánh thì Khổng Khâu đâu chịu giấu mà không nói, vì có lỗi giấu Thánh. Do đây so sánh, suy tôn Phật là Đại Thánh. Kinh Tây Thăng của Lão Tử nói rằng: Thầy ta du hóa Thiên Trúc khéo vào Nêhoàn. Phu Tử nói rằng: Thầy của Lão tên là Thíchca, thẳng đến kinh sách Khổng Lão, thầy kính Phật chỗ văn chứng không ít, đâu phải một người như Dịch có thể chê bai. Xưa Công Tôn Long soạn luận Kiên Bạch, tội ba vua chẳng phải năm đế, đến nay đọc luận người còn nhức răng, còn trước xem xét, thật đáng thương thay!

Chúa thượng là bậc chí Thánh sáng suốt, chợt muốn buông mà thả ngựa chăn trâu, khởi phong cách vua chúa, mở giáo hóa của Phật Lão, nói dối rất đáng đốt bỏ. Nếu nói Đế vương không Phật thì trị thạnh sống lâu, có Phật thì chính trị tàn ác ngôi vua ngắn ngủi. Xét vua Nghiêu vua Thuấn trị không kịp con cháu, các vua Hạ, Ấn, Chu, Tần chính sách đổi mấy lần mà trong nội bộ khởi nghịch loạn xâm hại nhau, lúc này không có Phật thì do đâu mà vận mạng ngắn? Nhưng Lâm tôi dự ở đời vua Nghiêu việc hằng ngày không biết, ở ngoài thấy không tiện việc, sợ Phiên Quốc xa nghe cho rằng Hoa Hạ không có tri thức. Phu Tử nói: "Lời này thiên hạ không qua miệng, hạnh này thiên hạ oán ghét". Nói đó là muốn cho không tội, người nghe đó đáng để tự răn dè. Truyền Địch phát ra lời không nhún nhường, người nghe đều kinh sợ, làm dơ tổn phong tục đặc biệt tốt đẹp của đất nước, xin ghi khoản son mạo muội tấu trình, cúi xin Đại vương điện hạ tột đỉnh anh linh tự nhiên, phong thân, khí cuộc hạn hàm rộng, khéo léo làm vui, vượt đông bình kia, ôn hòa đổi là vui lại mới Tây Sở thêm dùng sáu điều A, Hoành, Bá, Quỹ, Thức, Tựa, đức đã vén màn, nhân gồm chia cương, mở thứ bậc của Khang Trang, ngồi chỗ khách của Tuân Khanh, dựng vườn Tu Trúc, tiệc khách của Văn Nhã, đâu không thơ tội duyên tình mà phú với thể vật? Tin có thể khen bày triều đình, dân chúng tốt đẹp nối tiếp tốt đẹp đời trước. Nhưng Lâm v.v…, trong đoái hoài chỗ thiếu kém, biết vuông tròn riêng dùng, nghĩ Truyền Dịch ngu si rất lắm quở phàm tăng trọc đầu là cực ác, tội đâu không lớn? Từ Tôn Lư Hách Tư đến nay, sau trời đất khai mở, chưa có ai điên cuồng trái nghịch như Dịch, không kể đến đoạn cốt đau lòng. Kính ghi việc tai hại của Dịch, liền nói lời xấu, kiện đáp đúng sai, bụi nhơ nhuốc oai nghiêm, càng thêm mất dứt, kính tấu.

Dịch nói rằng: "Trong biển người làm việc vua thì ít ưa làm việc riêng thì nhiều" chính là bên ngoài thờ Phật bên trong sinh tà kiến, cạo cắt râu tóc, thay đổi y phục, ra cửa quan vào nhà tăng ni, đứng nhìn sân vua ngồi xem dưới gối, bất trung bất hiếu nhóm kết liền phòng. Vả lại, Phật ở Tây Vức nói yêu mị đừng xa bỏ thân thuộc, chạy theo tiền tài, sợ Trang mạn Lão, trọng kẻ mạnh giàu khinh người nghèo yếu, ưa kẻ kia trẻ đẹp mà chê người già, dùng huyễn hoặc mà làm khả năng thế lực, lấy dối kiêu làm tông chỉ. Nhưng Phật là một họ nhà quỷ, làm quỷ không gồm tộc khác, đâu thể thúc giục sinh Hán cung cấp tử Hồ, chê minh châu này mà quý mắt cá kia, xa lìa cha lành mà kính người ngoài. Đâu có quỳ trước mười pho tượng Phật đất mà làm khanh tướng, đặt một bốn cơm dở mà được làm đế vương, y cứ tà thuyết, Phật không gần nhân tình. Vả lại, Phật buồn cười đại ngôn kịp mạnh, xa xỉ tạo tội hơn Kiệt, Trụ, vô nhà phá nhà, vô nước hại nước. Đối rằng:

-Người xuất gia, trong từ bỏ ân ái thân thuộc, ngoài lìa vinh hoa quan quyền, chí cầu Vô thượng Bồ-đề, nguyện ra khỏi biển khổ sinh tử. Cho nên bỏ áo tông triều mặc y phước điền, hành đạo để báo bốn ơn, lập đức để nuôi ba cõi đại ý như vậy, nếu nói Phật là Hồ quỷ, tăng là đầu trọc thì xét kinh sách Khổng, Lão. Nhà Hán, nhà Ngụy đến nay trong ngoài các sách sử lược dẫn các chỗ kính Phật của các thầy Khổng thầy Lão, văn chứng như dưới đây để đáp người tà mong kia phục tội.

Pháp Luân Kinh của đạo sĩ nói: "Nếu thấy Samôn suy nghĩ vô lượng, nguyện sớm xuất thân để học tập chân Phật". Lại nói rằng: Nếu thấy tranh Phật suy nghĩ vô lượng, sẽ xin tất cả khắp vào pháp môn.

Thái Thượng Thanh Tịnh Tiêu Ma Bảo Chân An Chí Trí Tuệ Bổn Nguyện Đại Giới Thượng Phẩm Kinh có bốn mươi chí nguyện rằng: Nếu thấy Sa-môn ni, phải nguyện tất cả minh giải pháp độ được đạo như Phật.

Lão Tử Thăng Huyền Kinh nói: Thiên Tôn bảo đạo sĩ Trương Lăng đi qua phương Đông đến chỗ Phật thọ pháp.

Đạo sĩ Trương Lăng riêng truyền rằng: "Lăng ở trong núi Hạc cúng dường tượng vàng chuyển đọc kinh Phật". Lại nói: "Như Lai phương Đông sai đại sĩ Thiện Thắng đến Thái Thượng nói: "Như Lai nghe ông nói pháp cho Trương Lăng, cho nên sai tôi đến thăm ông" và bảo Trương Lăng rằng: "Khanh theo ta đến chỗ Phật" sẽ khiến ông được thấy được điều chưa thấy, nghe việc chưa được nghe". Lăng liền lễ bái đại sĩ, theo đến chỗ Phật. Lão Tử Tây Thăng Kinh nói: "Thầy ta du hóa Thiên Trúc khéo vào Nê-hoàn". Trí Tuệ Quán Thân Đại Giới Kinh nói: "Học đạo phải nghĩ trở về, đại phạm lưu bày cung lễ Phật".

Thăng Huyền Kinh nói: "Nếu có Sa-môn muốn đến nghe kinh xem trai, cúng chủ, không được tính tiền ăn uống, cản trở thì không được, phải đặt lên trên tòa đạo sĩ, thầy tự ở dưới Sa-môn". Lại nói: Đạo sĩ lập đàn cúng trai, nếu Tỳ-kheo đến thì hãy suy tôn làm thượng tòa, kinh sư đạo sĩ ưa lập cúng dường ở dưới Tỳ-kheo. Nếu Sa-môn ni đến nghe pháp, phải sắp đặt để suy tôn làm thượng tòa, chủ cúng đúng như pháp cúng dường, không được ngăn trở.

Hóa Hồ Kinh nói: "Nguyện nhặt hoa ưu-đàm, nguyện đốt hương chiên-đàn, cúng dường ngàn vị Phật, cúi đầu lễ Định Quang". Lại nói: Ta sống đâu cho trễ, Nê-hoàn một phen đâu sớm, không thấy Phật Thích-ca, trong lòng thường buồn bã.

Linh Bảo Tiêu Ma An Chí Kinh nói: Đạo dùng trai giới làm đầu, siêng thực hành lễ làm Phật (bổn mới đều sửa rằng: "Siêng làm nên lầu vàng") cho nên lập cầu đại pháp độ khắp các chúng sinh. Lão Tử Đại Quyền Bồ-tát Kinh nói: Lão Tử là Bồ-tát Ca-diếp giáo hóa ở Trung Quốc.

Linh Bảo Pháp Luân Kinh nói: Cát Tiên Công sinh mới được mấy ngày, có Sa-môn nước ngoài thấy Tiên Công lễ bái liền ẵm lấy mà nói với cha mẹ Tiên Công rằng: "Đứa bé này là Bồ-tát Thiện Tư ở phương Tây, nay đến đất Hán giáo hóa chúng sinh sẽ đến đạo tiên, một hôm bay lên cõi trời". Tiên Công nói với đệ tử rằng: "Thầy ta họ Ba Duyệt Tông, tự Duy Na Ha là người Tây Vức".

Kinh Tiên Nhân Thỉnh Vấn Chúng Thánh Nạn nói: Cát Tiên Công bảo đệ tử rằng: "Xưa ta và bốn

Thích Đạo Vi, Trúc Pháp Khai, Trương Thái, và

Trịnh Tư Viễn cùng lúc phát nguyện, hai vị Đạo Vi, Pháp Khai nguyện làm Sa-môn, Trương Thái và Trịnh Tư Viễn vốn làm đạo sĩ". Tiên Công khởi nơi chú giải rằng: "Khi sống ở nhà Cát Thượng thơ, Thượng thơ hơn tám mươi tuổi mới có đứa con này, lúc đó có Sa-môn tự xưng là Tăng Thiên Trúc, lúc mua hương ở chợ, người ở chợ lấy làm quái lạ hỏi tăng rằng: "Đêm qua tôi nằm mộng thấy Bồ-tát Thiện Tư hạ sinh nhà Thượng thơ Cát". Ta đem hương này tắm đó, đến khi sinh tăng đến đốt hương, nhiễu bên phải bảy vòng lễ bái cung kính tắm rửa rồi dừng.

Kinh Tiên Công Thỉnh Vấn Thượng nói: Nói với Sa-môn, đạo sĩ thì chí ở nơi đạo. Kinh Thượng Phẩm Đại Giới ở phẩm So Sánh Công Đức nói: "Cúng dường tháp miếu Phật được quả báo ngàn lần, cúng dường Sa-môn được quả báo trăm lần".

Kinh Thăng Huyền Nội Giáo nói: "Hoặc lại có người lúc bình thường không chịu làm phước, thấy Sa-môn, đạo sĩ nói pháp khuyến thiện, hoàn toàn không theo ý v.v…

Đạo sĩ Đào Ẩn Cư làm văn lễ Phật một quyển.

Trí Tuệ Bổn Nguyện Đại Giới Thượng Phẩm Kinh nói: Bố thí thức ăn cho tăng Phật trong chùa tháp một tiền trở lên đều được phước báo gấp hai muôn bốn ngàn lần, công ít báo nhiều đời đời bậc Hiền minh quen thích không dứt, tổ tiên bảy đời đều được sinh về cõi nước của vô lượng Phật. Tiên Công Thỉnh Vấn Kinh nói: Lại có người phàm làm công đức này, xin được làm Sa-môn, Đạo sĩ, Đại huyền sĩ. Đến đời sau sinh làm Sa-môn rộng học Phật pháp làm Pháp sư trong chúng.

Lại có người thấy Sa-môn, Đạo sĩ trai giới thanh tịnh, đọc tụng kinh, cười rằng: "Người kia hướng lên hư không đọc kinh muốn cầu gì? Bụng đói giữa ngày ăn một bữa?" Người tội đây được đạo sĩ từ tâm tha thứ ý vẫn cố chấp không giải thích, chết bị đọa vào địa ngục xét độc hại khổ muôn phần.

Tiên Công Thỉnh Vấn Kinh nói: Năm kinh nghiệp của Nho tục, đạo Phật khen ngợi giáo pháp kia rộng quy về điều lành.

Thái Thượng Linh Bảo Chân Nhất Khuyến Giới Pháp Luân Diệu Kinh nói: Ta xem qua chư Thiên từ vô số kiếp đến nay thấy đạo sĩ và nam nữ trăm họ đã được đạo Vô Thượng Chánh Chân, Cao Tiên Chân Nhân Tự Nhiên, chư Phật mười phương đều nhận đời trước siêng năng cầu đạo không thể tính kể.

Pháp Luân Diệu Kinh nói: Đạo nói trời chuyển luân không diệt, được trở lại sinh lên làm người, người đại trí tuệ sáng suốt từ vô số đến nay học đã thành Chân Nhân Cao Sơn Tự Nhiên, Phật mười phương đâu không từ hạnh nghiệp cảm ra. Xét Chu Thơ Dị Ký nói: Chu Chiêu Vương lên ngôi vào năm hai mươi bốn, ngày mồng tám tháng tư năm Giáp dần, sông ngòi khe rạch bỗng nhiên dâng tràn, giếng, suối đều đầy, cung điện, nhà dân, núi sông, mặt đất đều chấn động, đêm đó có ánh sáng năm sắc xông thẳng lên trời, khắp cả phương Tây đều có sắc xanh hồng, Chu Chiêu Vương hỏi Thái sử Tô Do rằng: "Đây là điềm lành gì?" Do đáp: "Có bậc Đại thánh sinh ở phương Tây, cho nên hiện điềm lành này".

Chiêu Vương hỏi: Đối với thiên hạ thế nào?

Do đáp: Ngay lúc này không có gì khác, đến hơn ngàn năm sau kinh giáo được truyền đến cõi này.

Chiêu Vương liền sai khắc đá ghi lại, chôn ở trước miếu Nam Giao tế trời. Ngay lúc này là Phật đản sinh ở cung vua.

Mục Vương lên ngôi năm thứ ba mươi hai thấy phương Tây có mấy lằn ánh sáng, trước hỏi điều Tô Do đã ghi biết hướng Tây có bậc Thánh xuất thế, Mục Vương không hiểu lý kia, sợ chẳng phải đạo do nhà Chu nói liền cùng tướng quốc Lữ Hầu vào phía Tây, họp các chư hầu ở Đồ Sơn để tế lễ xua đuổi điềm ánh sáng kia. Lúc ấy, Phật ở đời đã lâu, thời Mục Vương đến năm năm mươi hai, sáng ngày mười lăm tháng hai năm Nhâm Thân bỗng có gió mạnh nổi lên, trốc mái nhà dân, làm gãy cây cối, núi sông đất liền đều chấn động, sau ngọ (chiều) trời vần vũ mây đen, phương Tây có hai lằn cầu vồng trắng, từ Nam đến Bắc suốt đêm không mất. Mục Vương hỏi Thái sử Hỗ Đa rằng: "Là điềm gì?" Đáp: "Phương Tây có bậc Đại thánh diệt độ, tướng suy xuất hiện". Mục Vương rất vui nói: "Trẫm thường sợ kia, kia nay đã diệt độ thì trẫm còn lo gì?" Lúc này là Phật nhập Niết-bàn.

Sử Lục nói: Ngô Thái Tổ hỏi Khổng Tử rằng: "Ai là bậc Thánh?" Khổng Tử nói: "Phương Tây có bậc Thánh nhân không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không hóa mà tự làm, mênh mông không thể gọi tên".

Dịch nói rằng: Tăng ni sáu mươi trở xuống lựa chọn sai làm dân thì binh mạnh người đông.

Dịch nói: Chùa nhiều tăng chúng, tổn phí rất nhiều, nếu chùa tường ngói thì lấy cấp cho dân nghèo, người già và nghĩa sĩ không nhà. Châu có ba vạn nóc nhà chỉ để lại một ngôi chùa thôi. Chùa tranh tháp đất dùng chứa kinh tượng, đề Hồ Tăng hai người truyền bá pháp Hồ.

Dịch nói: Người Hồ ở Tây Vức ghét bùn mà khi sống lại thờ tất cả bùn. Nay hổ thẹn mặt người mà lòng thú, đạo nhân cú vọ, con la bốn sắc, giống ác tham nghịch. Phật sinh phương Tây chứ chẳng phải chánh tục Trung Quốc, bởi là tà khí yêu mị.

Dịch nói: Bào Hy về sau mười lăm đời, cha con, vua tôi, dựng lập trung hiếu, giữ gìn đạo đức, sinh trưởng thần châu được chánh khí Hoa Hạ, người đều thuần hậu chất phác vì đời không có Phật.

Dịch nói: Tần Khởi, Tần Trọng ba mươi lăm đời, có sáu trăm ba mươi tám năm.

Dịch nói: Đế vương không có Phật thì thạnh trị sống lâu, có Phật thì chánh sách bạo ngược ngôi vua ngắn ngủi. Từ Bào Hy về sau hai mươi chín đời mà không có Phật pháp, vua minh, tôi trung, ngôi nước lâu dài.

Dịch nói: Trước khi chưa có Phật nhân dân thuần hòa đời không có trái nghịch chiếm đoạt. Dịch nói: Phật đến đất Hán chỉ có tổn chứ không lợi ích.

Dịch nói: Thời Triệu Kiến Vũ có đạo nhân Trương Quang Phản, thời Lương Vũ có Tăng Quang Phản, huống chi nay tăng ni có hai mươi vạn nên phải sớm lược bỏ bớt.

1. Đáp việc xét lược bỏ tăng ni

Thưa rằng: Hình hài dấu vết dễ xét mà chân ngụy khó rõ, tự chẳng phải chỗ lâu thì chưa thể biết. Xưa Pháp sư Viễn đáp Hoàn Huyền Thơ nói: Chỗ thuật của Kinh giáo có ba khoa: 1-Thiền tư nhập vi diệu; 2-Tụng vịnh kinh điển; 3-Khởi xây phước nghiệp. Nhưng có người khởi phước mà không giữ giới cấm, dấu vết chẳng phải hùa theo. Hoặc có người tụng nhiều văn kinh, ngâm vịnh không dứt mà không thể xướng nói nghĩa lý. Hoặc có người tuổi đã quá già, tuy không có ba khoa để làm giềng mối mà thể tánh chân chánh không phạm lỗi lớn. Do đây suy lường, lấy bỏ khó nói. Kinh Án Xuất Gia Công Đức chép: Độ một người xuất gia hơn xây tháp báu cao đến Phạm thiên, người nào có khả năng hoằng đạo tự lợi và lợi người, thanh khiết lập thân, làm cầu bến bảy đời. Xin người có tội y pháp khổ trị, người không lỗi thì vì nước hành đạo.

2. Đáp việc hủy chùa, cấp cho dân, chùa tranh thì để kinh tượng Thưa rằng: Phật pháp truyền vào đất Hán hơn năm trăm năm, chùa chiền tăng ni xưa nay đã có, khám tháp điện chùa đều do đời trước xây dựng, phòng xá, cổng chùa đều do tín tâm xây dựng. Hoặc vì cha mẹ còn mất và bảy đời vãng sinh, cầu quả báo tốt đẹp ở tương lai mà gieo phước điền hiện tại. Hoặc xuất phát từ tâm tốt kia chứ chẳng phải Phật tăng dạy lập. Sách nói rằng: "Thành công không hủy hoại cho nên con sản nghiệp không hủy hoại ở triều đại Bá Di. Phu Tử bảo đó là người nhân từ", huống chi Phật là ruộng tốt của ba cõi là cha mẹ của bốn loài, chỉ nên cúng dường chứ không nên hủy bỏ. Phật tuy diệt độ, pháp giao lại cho vua quan, cúi xin bệ hạ tái tạo nhân sinh trùng hưng đạo Phật tức là đại đàn-việt chủ của Như Lai, xin theo sự giáo hóa của Hán Minh Đế niên hiệu Vĩnh Bình, gần đồng thời với Văn Đến Khai Hoàng.

3. Đáp lời Dịch rằng nói: "Người Hồ-Tây Vức, mặt người lòng thú, giống ác tham nghịch, Phật sinh phương Tây là tà khí yêu mị".

Thưa rằng: Xét sử ký nhiều đời Đế vương, kiểm nghiệm mục lục và niên kỷ Đào Ẩn Cư v.v… nói rằng: Họ Bào Hy thân rắn đầu người, họ Đại Đình thân người đầu trâu, họ Nữ Oa cũng thân rắn đầu người, Tần Trọng Viễn thân chim mặt người. Hạ Ngu sinh ở Tây phương, Văn Vương cũng sinh

Tây Khương, Giản địch nuốt trứng yến mà sinh

Khế, Bá Ngu cắt lưng mẹ mà ra, Y Doãn sinh ở Không Tang, Ngụy chúa họ Nguyên cũng sinh ở Di Địch, nhưng đều hợp trời rõ mệnh, hoặc gọi riêng là phương Nam, hoặc vua đến muôn nước, tuy chỗ sinh thấp kém, hình mạo thô xấu mà ngự oai trời, người mến nhờ thánh đức.

Lão Tử cũng gá thai nơi Mục Mẫu, sinh từ kẻ thấp kém, sao lại cho là chỗ thường kém không sinh ra bậc Thánh? Phu Tử nói rằng: "Quân tử ở chỗ nào, nơi đó đâu có thấp kém!" Tin thay lời nói này. Nói thêm rằng: "Có đạo thì tôn trọng, đâu chọn thấp cao". Cho nên biết Thánh ứng hiện không tính phương xứ, tùy cơ mà xuất hiện. Cha Đức Thích-ca là cháu Luân Vương ngàn đời, là Thái tử vua dòng Sát-lợi, điềm này đến thời kỳ cảm ứng muôn vật mà xuất hiện giữa tam thiên thế giới, nơi nước lớn tại Diêm-phù-đề, bày giáo lập phương tiện chỉ lấy lợi ích chúng sinh làm gốc. Nếu nói sinh ở Khương, Hồ, xuất hiện ở Nhung Ngu, liền cho là xấu thì Thái Hạo, Văn Mạng đều chẳng phải bậc Thánh, Lão Tử, Văn Vương không đáng làm thầy. Xét Địa Lý Chí Tây Vức Truyện nói: Người Tây Hồ chỉ là từ Thông Lãnh đến phía Đông, không quan hệ gì đến Thiên Trúc chỗ sinh ra Phật". Nếu biết, vọng nói đâu tội chẳng sâu. Nếu không biết, nói buông thả chết có nợ dư.

4. Đáp lời Dịch rằng: Bào Hy trở xuống hai mươi chín đời, cha con, vua tôi, xây dựng trung hiếu, giữ gìn đức đạo, bẩm nhận sinh khí Hoa Hạ.

Thưa rằng: Sử Ký Hoài Nam v.v… nói: "Thời Huỳnh Đế, Si Vưu đầu đồng cổ sắt làm loạn thiên hạ, đánh nhau với Huỳnh Đế ở Phản Tuyến để lên ngôi vua, Si Vưu nghịch mệnh lại đánh ở ranh giới Trác Lộc lại qua năm mươi hai chiến trận. Thời Chuyên Húc lại giết Tam Miêu ở Tả Động Đình Hữu Bành Lãi".

Cấp Trủng Trúc Thơ nói: Thuấn bỏ tù Nghiêu ở Bình Dương chiếm ngôi, vua nay thấy có thành giam Nghiêu. Thuấn lại cùng Hữu Miêu đánh nhau ở bên sông Đan Thủy. Nghiêu bắn chín mặt trời rụng cánh chim kia (Sở Từ nói mười mặt trời thay nhau xuất hiện ở Kim Điệp Thạch) nộp Đại Phượng ở Thanh Khâu, chặt tu xà ở Đổng Đình, chém Phong Thỉ ở Đại Trạch, giết Cửu Anh ở Hung Thủy. Thượng thơ nói: Hồng thủy ngập trời hoại núi hư gò, lê dân đói khổ trăm họ chết đuối, thời Ngu trăm họ đều dùng tâm kia mà Bá Cốc Tử bỏ cày ở ruộng. Tam Miêu không tu đức chánh bị Ngu giết. Vua Kiệt nhà Hạ bên trái là Hà Tề, bên phải là Thái Hoa, Y Khuyết ở phía Nam, Dương Tràng ở phía Bắc, đốt ngôi vua giết Long Phùng, cầm tù Thành Thang, thả Muội Hy, Tu Chánh (bất nhân đổ nước sôi giết chết). Nhà Thang gồm chín lần chiến tranh, hai mươi bảy lần chiến tranh, đại hạn bảy năm, sông cạn lạch khô, tiêu vàng chảy đá. Cao Tông chinh phạt quỷ phương, vua Trụ nhà Ân bị mê hoặc bởi Đắc Kỷ ba năm, buông thả tai hại mười ác, lưu ngũ hình phạt bạo ngược, moi tim người hiền, mổ bụng phụ nữ có thai, cầm tù Văn Vương, giam Cơ Tử. Chu Võ Vương chinh phạt Trụ ở Mục Dã, máu chảy nổi chày, giết Trụ ở Lộc Đài, vương đích thân bắn Trụ, cung treo đầu cờ Thái Bạch mà Bá Di Thúc Tề cho là sai, không chịu ăn gạo nhà Chu.

Khổng Tử nói: "Võ Tân tốt đẹp, chùa tột sự khéo léo". Đời Võ Vương Tam Giám làm loạn, ngày Thành Vương Nhị Thúc buông lời, Tuyên vương tháng sáu làm thơ chiến tranh nói: Bắc có nạn Hiểm Duẫn, Tây có hoạn Côn Di". Thái Khởi lại nói: Tuyên Vương nam chinh (chinh phạt phương Nam).

Thưa rằng: Trước nay đã nói đều là thời Tam hoàng trở xuống ba vua quyết có thể giữ gìn đạo đức ôm trung thờ hiếu, lúc này không có Phật, đủ có thể thành bình, vì sao đời đời xảy ra chiến tranh không dứt. Còn như độc hại lưu hành ở trăm họ, tai ương đến vô tội vạ, chính là đời Diêu Thạch, Mộ Dung, Vĩnh Gia đâu gọi là thời vô vi mênh mông, tà kiến nói sai một lần đâu lầm ư?

5. Đáp lời Dịch nói: "Tần Trọng về sau năm mươi lăm đời hơn sáu trăm năm".

Thưa rằng: Sử ký nói: "Từ nhà Ân về trước, chư hầu không thể được vững lòng vì phần nhiều mất thứ lớp, niên đại khó biết, cho nên Thượng thơ chỉ dùng Giáp Tý làm thứ lớp, mà không năm tháng ấy bởi do sử thiếu không ghi, tà kiến mới ở Tần Trọng, Ngật Vu hai đời. Có hơn sáu trăm năm là một phen qua tợ như dài, chứng cứ rút ra ở đâu? Xét Xuân Thu về trước Tần vốn chưa có, Xuân Thu về sau mới có Tần Bá. Ngay thời Xuân Thu, thời Tần Trọng tuy dần chiếm cứ, nhưng là ấp nhỏ của nhà Chu. Đời Hiếu Vương khiến Phi Tử thả ngựa ở giữa Thông Vị, không tuân thiên mệnh chưa có mồng một tháng giêng hội cháu Tần Trọng. Đời Tuyên Vương mới nhận quan hầu đánh xe ngựa, Trong Tôn Tương Công do về Bình Vương Đông Thiên tiến cử chức bá. Văn Công về sau mới thấy sử ghi". Từ đây rồi diệt chẳng quá hai trăm đời, Sử Ký Trúc Thơ và Đào Công Niên Kỷ đều nói: "Đời Tần không niên đại, đời Chu theo quan", cho nên Ẩn Cư để ở sau các nước, do đâu có niên kỷ được? Kế đến Hồ Hợi, sử ký theo Lệ Công mà sắp, một trăm lẻ một năm trọn ở hai đời, dầu có niên đại đều dựa vào Xuân Thu tự không có niên kỷ riêng. Cuối đời Vương, Tần Chiêu Tương Vương lợi dụng lúc nhà Chu suy yếu bèn diệt nước Chu, tiếm hiệu xưng vương, các sử theo nhau Tần chỉ có năm đời, bốn mươi chín năm. Bí thơ nhà Tề là Dương Giới Sử Mục nói: "Nhà Tần từ lúc mới lập ngôi đến khi diệt vong gồm có ba mươi lăm đời hơn sáu trăm năm" bởi lấy hiệu Tần lúc mới phong trải qua hơn sáu trăm năm, chẳng phải làm bá chủ thống lãnh Trung Quốc nhiều năm. Tà kiến mới nói Tần dài, ngôi ngắn, mạo tâu năm dài không luống dối sao?

6. Đáp lời Dịch nói: Đế vương không có Phật sống lâu, có Phật ngôi vua ngắn, từ Bào Hy về sau Hán Cao có hai mươi chín đời vua minh tôi trung mà không có Phật pháp.

Thưa rằng: Lý quý chỗ y cứ sâu chắc, lời giúp thật chép, vì sao Bào Hy riêng trị không đề cập con cháu? Nghiêu Thuấn hai vua ở ngôi chỉ năm năm? Nghiêu thì giúp Thánh truyền thiện, Thuấn cũng lòng nhân thạnh, Thánh hiền minh. Như hai bộ luận của Thượng thơ thì vua kia giáo hóa dân, trị đạo, sự nghiệp cao nhất, dân không thể gọi tên thì là minh quân của trời. Nghiêu lại phế anh mình để tự lên ngôi, con Nghiêu là Đan Chu lại bất tài. Thuấn thì cha ngu dốt, mẹ xảo trá, đều chỉ một thân không thể được nối dõi. Lúc này không có Phật sao không đời đời nối truyền nhau lại sớm vào hoại diệt?

Ẩn Cứ Niên Kỷ nói: Hạ Ngu trị chín năm. Nghệ chiếm ngôi mười lăm năm. Trác chiếm ngôi mươi hai năm. Hạ Cao mười một năm. Hạ Phát mười hai năm.

Thưa rằng: Sách nói: Thuấn, Ngu có thiên hạ, vòi vọi ở chỗ kia có thành công, rực rỡ ở chỗ nọ có văn chương. Đại Ngu Mô nói: Ngu có thể ở nhà thấp xấu, ăn sơ sài, che màn đen, mặc áo vải sồi mà hết sức ở mương máng trị thủy (nước) cho dân, đối với dân có công, nếu Hoàng Thiên giúp đức, sao lại ngôi vua không bền lâu mà trị nước (quốc) chỉ có chín năm. Bộ Khám Niên Kỷ nói: "Hạ Hậu

Tương đến đời Thiếu Khang, bề tôi là Hậu Nghệ ở Hữu Cùng Hàn Trác và Phong Di, Chuẩn Di, Huỳnh Di, Châu Tầm v.v… các nước đều lần lượt làm loạn hai mươi sáu năm soán đoạt nhà Hạ tự lên ngôi, lúc bấy giờ không có Phật, soán nghịch do ai?

Ân Thang trị nước mười ba năm. Thái Đinh trị nước ba năm. Trọng Nhâm trị bốn năm. Thái Giáp trị mười năm. Ốc Đinh trị mười ba năm. Thái Mậu trị mười năm. Thái Nhâm trị ba năm. Ốc Giáp trị bốn năm. Bàn Canh trị chín năm. Tiểu Tân trị bảy năm.

Thưa rằng: Thang nhân từ không giết hại mở lưới ba mặt, thả vua Kiệt nhà Hạ ở đồng trống Minh Điều thì rất có nhân được. Lúc bấy giờ không có Phật pháp, do đâu số trời không được lâu năm? Thái Đinh, Thái Nhâm năm trị nước càng ngắn. Thang chín lần đi chinh phạt, lại lập em Thắng là Trọng Nhâm, lại thả Thái Giáp ở Đồng Cung. Cấp Mông Thơ nói: Y Doãn tự soán ngôi, sau Thái Giáp thầm xuất hiện, đích thân giết Y Doãn mà dùng con Y Doãn, đã xưng là đời trung hậu chất phác, lúc này không có Phật sao lại khởi sự gây hấn thanh trừng, quân thần vô đạo?

Chu Võ Vương trị nước mười một năm. Ý Vương ba năm thì tuyệt tự. Hy Vương năm năm thì tuyệt tự. Khoảnh Vương sáu năm. Khuông Vương sáu năm. Nguyên Vương tám năm, Liệt Vương bảy năm. Tĩnh Vương sáu năm. Trinh Vương tám năm. Điệu Vương một trăm lẻ một ngày. Ai Vương ba tháng. Tư Vương năm tháng.

Thưa rằng: Võ Vương phạt Trụ, sư qua bến mạnh, cá trắng vào ghe, hợp với mệnh trời. Thụy Pháp nói: Khắc định họa loạn là Võ, dân nhờ Tô Thức, Lư Phong, Mộ Hưu, Ngư Phóng, Mão Trụ, có ra thái bình. Ông nói không có Phật tuổi thọ, vì sao ngôi vua lại ngắn ngủi trị mười một năm? Ý Vương, Hy Vương lại bị tuyệt tự, Chu Võ Vương là thời không có Phật, mà thọ mạng ngôi báu lại ngắn, con cháu hung dữ, phút chốc vận luống mất? Nhà Tần năm đời, sáu vị vua, bốn mươi chín năm. Chiêu Vương năm năm (sau khi diệt Chu mới xưng vương, làm vua được năm năm). Hiếu Văn Vương một năm. Tương Vương ba năm. Thỉ Hoàng Vương hai mươi bảy năm. Hồ Hợi ba năm. Tử Anh bốn mươi sáu ngày.

Thưa rằng: Chu Hiển Vương năm năm. Tần Mục Công khi mới xưng bá bốn mươi bốn năm, quyền nhà Tần, chính sách nhà Chu. Trúc Thơ nói: "Từ trước Tần Trọng vốn không có niên kỷ, và đời". Đào Công Tinh nói: "Tần là vua soán ngôi nên chính trị không nương đức", thứ lớp không ở hạn ngũ vận, dầu năm dài xa, hoàn toàn chẳng phải Đế vương. Lấy ngắn làm dài, chỉ dối làm chân, có ý kiến gì? Thời Tần phía Bắc xây dựng trường thành đề phòng giặc Hồ. Dối giết, giúp Tô dối lừa lập hai đời. Trần Thắng Nghị nhóm làm loạn ở cửa đông.

Hán Cao tổ mười hai năm, Tuệ Đế bảy năm, Văn Đế, Cao Tổ thứ lớp bốn người con đều chẳng phải dòng (con) chính.

Võ Đế, Bổn Giao, Đông Vương, Cảnh Đế thứ lớp sáu con chẳng phải con dòng chính.

Nhà Hán ban đầu Hung Nô vào biên ải, khói lửa soi cung Cam Tuyền, Nam Việt không phục bèn tập thủy chiến. Thời Hiếu Cảnh, Ngô, Tề v.v… bảy nước đều phản. Chiêu Đế băng hà lập con người anh là Xương Ấp, lên ngôi vua được hai mươi bảy ngày, có một ngàn một trăm hai mươi bảy (1127) tội Hoắc Quang truất phế, sau lập Tuyên Đế, lúc này không có Phật vì sao lại như vậy?

Hậu Hán có mươi hai vua, một trăm chín mươi lăm năm. Quang Vũ ba mươi ba năm. Hiếu Minh mười lăm năm. Chương Đế mười ba năm. Hòa Đế mười bảy năm. An Đế mười chín năm. Thuận Đế mười chín năm. Hoàng Đế hai mươi mốt năm. Linh Đế ba mươi mốt năm. Hiến Đế ba mươi năm.

Thưa rằng: Sách đời Hậu Hán nói: Quang Võ chuyển loạn thành chánh, Minh Đế đem lại sự trị nước thanh bình, dân không có nổi lo xa xôi, quân không phải bị sai dịch ra khỏi cửa. Kỳ lân vào vườn thú, phụng hoàng đậu cây ngô đồng, tước đỏ, rùa có văn lưng, quạ xanh, nai trắng, điềm lành tốt đẹp đến đầy đủ, triệu dân vui mừng, rũ ân huệ thấm nhuần tràn lan, trải khắp trời, thấm xuống ao rạch, các sách như Luận Hoành v.v… đều nói: "Đời Hậu Hán điều tốt đẹp không hổ thẹn với Châu Hạ", ông nói có Phật ngôi vua ngắn, vì sao ở đây lại được năm dài?

Ẩn Cư nói: Từ Ngụy Hoàng năm đầu đến cuối đời Túc Tề có hai trăm tám mươi hai năm.

Thác Bạt Nguyên Ngụy có mười bảy vị vua, cộng chung là một trăm bảy mươi chín năm lúc này có Phật vì sao ngôi vua lại lâu dài.

7. Đáp lời Dịch nói: Lúc chưa có Phật không có nghịch soán ngôi.

Thưa rằng: Vậy vì sao em Chu Liệt Vương là Hiển Vương lại soán ngôi? Bốn mươi tám năm thương tiếc ngôi vua, một trăm lẻ một ngày bị nhiều con em trong triều làm hại. Em Kỉnh Vương là Ai Vương trị nước năm tháng bị Tư Vương giết. Hiếu Vương lại giết Tư Vương. Ba vị vua đều ở trong một năm (rút ra trong Dương Giới Sử Mục Đào Công Niên Kỷ).

Dịch nói: Hồ-Tây Vức, lính nước Thự Mạt ba trăm hai mươi người, lính nước Tiểu Uyển hai trăm người, lính nước Nhung Lư, lính nước Cừ Lặc ba trăm người, lính nước Y Nại ba trăm năm mươi người, lính nước Úc Lập Sư có ba trăm ba mươi mốt người, lính nước Đan Tương bốn mươi lăm người, lính nước Cô Hồ bốn mươi lăm người, gồm tám nước Hồ binh lính cộng lại có một ngàn tám trăm chín mươi người đều được nối thạnh nghiệp đế, dựa vào đất nước tự chinh phạt nhau giết chết nhân dân. Huống chi ngày nay Đại Đường có hai vạn chúng tăng và ni, cùng kết pháp Hồ đáng được lòng người đâu thể không chuẩn bị ư?

Thưa rằng: Xét sách Hán, Tây Vức Truyện nói: "Tám nước như Tha Mạt, Tiểu Uyển v.v… đều là nước Hồ ở Thông Lãnh phía Đông nước Hán, cách Trường An không quá muôn dặm, vốn chẳng phải nước Thiên Trúc là chỗ Phật đản sinh lại không có tăng ni ở trong bọn mưu nghịch, dù kia làm ác nào quan hệ gì đến tăng ở cõi này? Nhưng Dịch bị quỷ cuồng nhập tâm, bên ngoài khởi thuyết tà, luống dẫn việc xưa, dối chê Hiền thánh ngày nay. Người hiểu biết, biết kia nói bậy, người ngu sẽ sinh dị kiến, hoặc loạn triều đình và nhân dân, rất đáng thương thay!

8. Đáp lời Dịch nói: Phật đến đất Hán có tổn chứ không lợi ích, vào nhà phá nhà vào nước phá nước. Thời Hán Minh Đế Phật pháp mới đến. Đại Đường, Thánh Triều Chánh Tín Quân Tử Luận nói: Chư Phật đại nhân dạo trong Niết-bàn nhiệm mầu, đến nơi Bát-nhã chân không, chẳng thể dùng lời để cầu, không thể dùng tình lự suy lường. Hình đồng pháp tánh thọ mạng bằng thái hư, nhưng ứng vật hiện thân như trăng trong nước, cho nên Cù Sư thấy diện mạo ba thước, La-hán thấy thân trượng sáu, lớn đầy hư không, nhỏ vào sợi tơ, cộng hành, tùy duyên ứng chất, hóa nghi vô thường. Tìm khởi đầu của Thích-ca nương Hậu Hán Giao Tự Tấn, Ngụy… các sách và Vương Kiệm Sử Lục, Phí Trường Phòng Tam Bảo Lục, khảo Hiệu Phổ Diệu Bổn Hạnh… các kinh đều nói rằng: "Phật là người ngày mồng tám tháng tư năm Quý tỵ, đời vua Trang Vương năm thứ chín, đời vị vua thứ mười lăm nhà Chu đã nương lầu gác chiênđàn hiện hình voi trắng, từ cung trời Đâu-suất giáng thần đầu thai vào Ma-da đệ nhất phu nhân của Đại vương Tịnh Phạn, giòng vua Sát-lợi thành Ca-tỳ-la nước Trung Thiên Trúc, được mười tháng giờ quỷ túc hợp của đêm mồng tám tháng hai năm Giáp ngọ, ở dưới cây Ba-la nơi vườn Lam-tỳ từ hông phải của phu nhân Ma-gia mà sinh ra, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tam thiên thế giới. Kinh Thụy Ứng nói: "Phất Tinh hiện xuống hầu Thái tử đản sinh". Bổn Hạnh lại nói: "Hư không chẳng có mây mà tự nhiên đổ mưa". Tả Truyện nói: "Sao rơi xuống như mưa". Đỗ Thị chú giải rằng: "Bấy giờ không mây nhưng phù hợp với kinh Phật, tin biết giờ Phật sinh". Mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo, bốn mươi chín năm thuyết pháp ở đời, đến nửa đêm ngày mười lăm tháng hai năm Nhâm tý thời Chu Khuông Vương năm thứ tư, ở thành Câu-thi nhập Bát Niết-bàn. Từ khi diệt độ đến năm Nhâm ngọ đời Đại Đường hiệu Vũ Đức năm thứ năm, tính ra được một ngàn hai trăm hai mươi mốt (1221) năm. Một trăm mười sáu năm, sau khi Phật diệt độ, ở nước phía Đông Thiên Trúc có vua A-dục sai quan lính thâu lượm xá-lợi Phật xây tám mươi bốn ngàn (84.000) ngôi tháp báu đầy cả Diêm-phù-đề. Trong chín châu trên đất Hán của Trung Quốc đều có tháp ấy. Khi A-dục xây tháp nhằm năm Đinh mùi thời Chu Kỉnh Vương năm thứ hai mươi sáu, tháp xây ở đời Chu trải qua mười hai đời vua, đến thời Tần Thỉ Hoàng năm ba mươi bốn thiêu đốt kinh sách nên các tháp do A-dục xây, do đó cũng sa vào cảnh diệt vong, kinh truyện nhà Phật không biết chỗ tồn tại, như mục lục Thích Đạo An, Chu Sĩ Hành v.v… các kinh đều nói "thời Tần Thỉ Hoàng có Sa-môn nước ngoài như mười tám Hiền giả Thích Lợi Phòng v.v…, đem kinh Phật đến giáo hóa Thỉ Hoàng, Thỉ hoàng không theo bèn cầm tù Phòng v.v… Ban đêm có người thân kim cang trượng sáu đến phá ngục dẫn ra, Thỉ Hoàng kinh sợ cúi đầu tạ tội.

Hỏi rằng: Dù có thuyết này, đâu biết niên kỷ thì lấy gì làm chứng, xin nêu quyết đoán kia?

Đáp: Trước thời Hán Thành Đế, sứ giả Đô Thủy là Quang Lộc Đại Phu Lưu Hướng Truyền nói: "Hướng Truyền xem sách sử, đọc hết kinh sách, thường tự xưng là "tôi khắp tìm sách vở thường thường thấy có kinh Phật" và soạn", Liệt Sơn Truyện nói rằng: "Tôi tìm tòi tạng sách tìm thái sử xa xôi, riêng chọn bản đồ Liệt Tiên".

Từ Huỳnh Đế về sau sáu đời đến đời này, người được đạo tiên hơn bảy trăm người, từ trước xem xét thật giả xác định được một trăm bốn mươi sáu người. Lại nói rằng: "Bảy mươi bốn người kia đã gặp kinh Phật". Suy lời Lưu Hướng nói tạng sách là tạng sách nhân gian thời Thỉ Hoàng, hoặc nói rằng: "Sách cất trong nhà Phu Tử", y theo đây mà nói đâu chẳng phải trước thời Tần Hán sớm có Phật pháp lưu hành ở Trung Quốc. Tìm chỗ chép mười hai Hiền giả của Đạo An cũng ở trong số bảy mươi bốn người, nay Liệt Sơn Truyện thấy có bảy mươi hai người.

Xét kinh Văn-thù-sư-lợi Bát-niết-bàn nói: Sau khi Phật diệt độ bốn trăm năm mươi năm, ngài Văn-thù vào núi Tuyết nói mười hai bộ kinh cho năm trăm vị tiên nghe xong, bèn trở về bổn độ nhập Niết-bàn, điềm lành Hằng Tinh là ở thời này. Xét truyện Địa Lý Chí Tây Vức nói rằng: "Núi Tuyết tức núi Thông Lãnh", dưới nó có ba mươi sáu nước từ trước đều thuộc nhà Tần Hán, do Thông Lãnh nhiều tuyết cho nên gọi là núi tuyết. Văn-thù đến giáo hóa các vị tiên tức là chỗ ấy. Rõ mà xét thì Lưu Hướng đã bàn có thể làm chứng. Tuy gặp đời Tần đốt trừ thì vào đời Hán hưng phục lại, cho nên trải qua, Dương, Ngô, Thục, phò phong Lạc Dương, tất cả tháp báu đều phát ra điềm thần đều ở các sách, nương xem xét Thành Đế, hiệu Hồng Gia năm thứ ba thuộc năm Quý mão, Lưu Hướng chọn Liệt tiên Truyện đã rõ, cho nên biết đời nhà Chu, Phật pháp đến đã lâu. Kẻ mù lại nói: "Có Phật ngôi vua ngắn ngủi", thật đáng thương xót thay!

Y kinh, luật nói rằng: Phật Thích-ca thời chánh pháp ngàn năm, tượng pháp ngàn năm, mạt pháp vạn năm. Năm ngàn năm trở lại, bốn chúng tu học được trí ba đạt, chứng bốn đạo quả. Mạt pháp trở đi vẫn đắp ca-sa. Xem sách Dị Ký nhà Chu nói: Mục Vương nghe phương Tây có Phật, bèn cưỡi xe tám ngựa khỏe tốt đến phương Tây cầu Phật do vì khiêm nhường. Y cứ theo đây mà suy giống như Pháp sư Thống Thượng đáp sứ Cao Lệ rằng: "Phật sinh năm Giáp dần thời Chiêu Vương vị vua thứ năm của nhà Chu năm thứ hai mươi bốn, đến hiệu Võ Đức năm thứ năm là được một ngàn năm trăm bảy mươi bảy (1577) năm. Tin thời Mục Vương pháp đã truyền đến phía Đông, thì lời của Lưu Hướng càng được minh chứng rõ hơn.

Lại thời Hán Võ Đế đào ao Côn Minh được tro đen, đem hỏi Đông Phương Sóc, Sóc nói: "Thần chẳng biết được, hãy hỏi người Hồ-Tây Vức". Sau Sa-môn nước ngoài là Trúc Pháp Lan đến mới đem việc này hỏi, Pháp Lan đáp: "Đây là tro còn lại của kiếp thiêu", Phương Sóc là người thông minh biết rộng, nhưng biết đây là dị nhân tài giỏi, không hỏi không trả lời, không nói không đáp, đâu cho là không thông đạt, trước ghi lời người Hồ. Vì Phương Sóc từ lâu biết Phật pháp hưng thạnh, người thù thắng quyết đoán cho nên có lời hỏi đáp này.

Phật diệt độ, A-nan tổng trì một lời cũng không mất. Ca-diếp kết tập ngàn vị La-hán, hoặc viết trên da, giấy và lá cây, đến nỗi khiến năm trăm năm Trung Quốc đều vâng hành trì, mười sáu Đại vương đồng thời xây tháp. Đến đời Hán, Đông Lưu hai kinh đô trải qua mười sáu đời vua phiên dịch kinh này từ tiếng Phạm thành tiếng Hán, nối nhau đến nay có đến sáu trăm đời. Do đây mặt trời Phật lại sáng rỡ, bắt đầu từ đầu hiệu Vĩnh Bình kinh tượng được trùng hưng cho đến đầu hiệu Khai Hoàng, người Ngụy Châu Sĩ Hành Sa-môn Vệ Đạo An v.v… đều làm ký lục cộng vừa Hoa vừa Nhung và kẻ đạo người tục có một trăm tám mươi hai người đã dịch kinh, luật hoặc luận đại Tiểu thừa ba tạng tạp ký v.v… là hai ngàn một trăm bảy mươi mốt (2171) bộ, cộng chung có sáu ngàn bốn trăm bốn mươi sáu (6446) quyển, đâu không rảy cam lồ nơi cảnh bốn ma, lưu truyền tuệ nhật trong ba cõi. Gấp dẫn tương lai thường truyền thắng nghiệp, dạy người bỏ ác làm lành, Phật pháp ích nước lợi dân là trước hết, không ai có thể bì kịp. Ông nói phá nhà là phá nhà ai, phá nước là phá nước ai? Con người tà kiến, súc sinh không sừng, đời trước kết tâm lang sói, từ lâu ôm lòng trùng độc, không có mảy may điều lành, gánh tội như núi, chứa ác không sửa đổi mà ngày càng làm dữ, bèn lấy sự ngu dốt kẻ đui mù mà suy lường bậc Thánh, nào khác chim cút mà cười chim đại bàng, con ếch ở giếng không tin có biển cả, đáng gọi là giống nghịch xiển-đề, là tội nhân ở địa ngục, đáng thương xót thay! Cho nên soạn luận. Tìm Phu Tử bảy mươi hai vị vua, Ba Hoàng, Năm Đế, Khổng Khâu, Lý Đam, các Thánh hiền ở đất Hán đều chôn xương ở ba suối bỏ thây ở chín đất, chưa có ai bằng Phật để xá-lợi hiện điềm lành phóng ánh sáng, đốt không cháy giã không nát, đến nay thấy ở đời so sánh có thể rõ. Vả lại, y cứ một điều này đủ biết thần đức của Phật pháp. Các bậc Thánh của Trung Quốc ai dám cùng làm bạn? Bèn muốn hủy diệt, việc này khó chấp nhận, bại hoại phong tục, tổn khuyết phước điền, dối hoặc nhân dân, làm dơ triều chính, thật đang than thay!

Dịch nói rằng: Phật pháp đến Hán không có ích cho đời.

Thưa rằng: Nói theo trước thì bậc tiên Thánh cõi này cũng chưa thể mở mang nổi. Còn như Khổng Tử, Chu Linh Vương lúc sống, Kỉnh Vương lúc chết, tính ra họ ở đời hơn bảy mươi năm, đã là bậc Thánh quyết có thể sửa sang vua lúc này vì sao lại trong mười bốn năm đi bảy mươi nước, Tống chặt cây, Vệ cắt dấu, Trần dứt lương, lánh sự giết của loài gấu, trốn loài sói cắn, tuy đáng thỉnh rước mà các nước đâu thể dùng. Ngay đời Xuân Thu đạo văn võ sa sút, vua mê tối, quan gian xảo, lễ hư nhạc hoại. Bấy giờ không Phật, do đâu nghịch loạn quá lắm như thế? Soán ngôi giết chóc do đâu sinh? Khổng Tử vẫn phải mềm mại thuận theo thời rụt rè mà tránh nạn, khó bảo bọc vợ con. Thọ cả trăm năm cũng không giữ được, hoặc phát lời nói của trái bầu, khởi lời than Triết Xuyên nhưng lại tôn thờ họ Lý, hại chim phụng không đến sông chẳng ra, ở Tây đi săn bắt được kỳ lân bèn dùng tay áo lau mặt nói: "Đạo ta cùng rồi, dù môn đệ ba ngàn người, san thị định lễ, cũng chóng chìm mất ở đời, không được nổi tiếng, ta vì sao thấy được đời sau. Gặp cái nhục ăn trộm, bị chê bai trượng nhân", so đây mà nói đủ có thể biết. Nếu cho là không lợi ích cho đời thì hai vị thánh Khổng và Lão kia cũng có sao lại ấp úng lưỡi gỗ mà không bày bắn ra? 9. Đáp lời Dịch nói: Chùa nhiều tăng chúng quyết làm điều quái gở như Sa-môn Trương Quang đời Hậu Triệu, Sa-môn Pháp Trưởng đời Hậu Yên, Nam Lương Đạo Mật, Pháp Tú thời Ngụy Văn Hiếu, Tuệ Ngưỡng thời Thái hòa v.v… đều phản loạn.

Thưa rằng: Xét Thôi Hồng mười sáu nước Xuân Thu đều không có hạng người này. Ông rút ra từ sách sử nào? Nếu sinh dối gạt mê hoặc quân vương, xem quốc sử biết kia tâu sai. Xét sách của Tiền Hán, Hậu Hán liền có Côn Dương, Thường Sơn, Thanh Nê, Lục Lâm, Hắc Sơn, Bạch Mã, Huỳnh Cân, Xích My v.v… mấy mươi bọn giặc đều là người tục không quan hệ đến Thích tử, vì sao không nói?

Sách Hậu Hán nói: Bái Nhân Đạo sĩ Trương Lỗ Mẫu có sắc đẹp gồm ôm ấp đạo quỷ qua lại nhà Lưu Điểu, sau bị Ích Châu giết, Nhậm Lỗ làm Đốc Nghĩa Tư Mã, Lỗ cùng Biệt Bộ Tư Mã Trương Tu đem binh chụp giết Thái thú Tô Cố ở Hán Trung, đoạn tuyệt lương thực giết sứ giả Hán. Lỗ đã bị Hán Trung trở lại giết Trương Tu mà chiếm chúng kia, lúc này nương lời thần nói: "Áo vàng sẽ làm vua", Lỗ do đó tương ưng với Trương Giác v.v…, nhóm họp mọi người đều đội khăn vàng mặc áo đạo sĩ, mấy mươi vạn người làm giặc hại thiên hạ, tự chiếm cứ Hán Trung ba mươi năm, sau bị Tào Công phá Huỳnh Y mới diệt. Lúc này không có một Sa-môn, riêng nhiều đạo sĩ sao nín không bàn? Nhưng danh tăng đức hạnh đời Ngụy, Hán lợi ích đất nước rất nhiều vì sao không nói? Chỉ bày ác chuyên làm người xấu đâu phải quân tử?

Ngụy Chí nói: Trương Lỗ tự Công Kỳ, ông nội là Lăng Khách Thục học đạo ở núi Hạc Minh, soạn sách đạo để mê hoặc bá tánh ai muốn theo học đạo phải nộp năm thăng gạo, người đời gọi là giặc gạo. Lăng chết con là Hoành nối nghiệp, Hoành chết Lỗ lại nối nghiệp cha. Lăng là Thiên Sư, Hoành là Tự Sư, Lỗ là Hệ Sư tự xưng là Ba Sư, đòi cùng Lưu Điểu Thiện làm chết con trai là Chương Lập, do Lỗ không chịu nên giết mẹ Lỗ và cả gia đình. Lỗ bèn chiếm cứ Hán Trung dùng đạo quỷ giáo hóa dân, sách phù chương cấm làm gốc, người đến học ban đầu gọi là quỷ tốt, người thọ đạo dùng vật bằng vàng lụa gọi là tế tửu, đều riêng lãnh bộ chúng, chúng nhiều gọi là trị đầu, người bị bệnh dạy chuyển đầu, phần lớn giống với Trương Giác. Hậu Hán Hoàng Phủ Tung Truyện nói: Cự Lộc Trương Giác tự xưng là đại Hiền lương sư, phụng thờ Huỳnh Lão làm thuật Trương Lăng, dùng chú pháp phù thủy để trị bệnh, sai tám người đệ tử ở bốn phương đi giáo hóa thay nhau cuồng hoặc đời trong hơn mười năm, chúng có mấy mươi vạn. Từ Thanh, Từ, U, Ký, Kinh, Dương, Duyễn, Dự người dân tám châu đều nên theo để ba mươi sáu phương, phương vẫn còn hiệu tướng quân.

Phương lớn thì có hơn vạn người, phương nhỏ có sáu ngàn người, lầm nói trời xanh chết trời vàng sẽ lên, vào năm Giáp tý thiên hạ đại kiết (rất an lành) dùng bạch sĩ vẽ cổng chùa Kinh Ấp đều viết chữ Giáp tý. Ngày mồng năm tháng ba niên hiệu Trung Bình năm đầu, trong ngoài đều nổi loạn, đều là đạo sĩ mặc áo vàng đội khăn vàng, hoặc giết người tế trời, lúc này bọn giặc đông mấy mươi vạn, ban đầu khởi ở Dĩnh Châu làm loạn thiên hạ đều bị Hoàng Phủ Tung đánh diệt.

Nam Trịnh phản Hán mà Thục mất (rút ra từ sách Ngụy). Tôn Tư học đạo tiên mà bại Tấn ((rút ra từ sách Tấn).

Đạo Dục tế rượu do đó họa nhà Tống (rút ra từ sách Tống).

Vu Cát làm nguy cấm để nguy hiểm nhà Ngô (rút ra từ sách Ngô).

Công Kỳ học đạo tiên mà cả nhà bị giết (rút ra từ Hoa Dương Quốc Chí).

Trần Thụy học đạo Lão mà cả dòng họ bị diệt (việc chép từ Xuân Thu, Tấn Dương).

Ngụy Hoa phản chồng (rút ra từ bài tựa kinh Linh Bảo).

Trương Lăng bỏ vợ (thấy ở Lăng Truyện). Con leo lưng cha, Vệ Thúc bỏ anh (rút ra từ Thần Tiên Truyện)

Thưa rằng: Từ Lăng ba đời chuyên làm đạo quỷ, sách phù chép chương tế rượu rút ra từ đạo nhà, cấm bọn yêu nghiệt vọng làm lành dữ, gian dối do đây mà khởi, nhưng Ngô, Ngụy về sau, Tấn, Tống về trước, đạo tục làm yêu mị số đó cũng không ít, sao lại riêng dẫn chúng tăng? Không bàn hai giáo Nho và Lão, còn như đại nghiệp năm Mùi là Vương Thế Sung, Châu Sám, Đường Bật, Tiết Cử v.v… đều là người tục, còn họ Thích, sao lại không nói? Việc nghiêng lý cuộc hạn, bên vực kẻ ác, ganh ghét người hiền là thần bất trung đã rõ.

Dịch nói: Mời tà giáo Phật Hồ lui về Tây Vức, hễ là tăng ni đều bắt hoàn tục.

Thưa rằng: "Trang Chu nói: Trong sáu hợp, bậc Thánh luận mà không bàn. Ngoài sáu hợp, bậc Thánh giữ mà không luận". Lão Tử nói: "Trong cõi nước có bốn đại mà nói ở một kia, xét đầu mối của thi, thơ, lễ, nhạc chỉ muốn soạn tựa luân thường rõ trung liệt hiếu từ là trước tiên, ý ở chỗ kính thờ vua cha, dầu xưng chí đức chỉ là an ngôi trị dân, nhờ cốt yếu của đạo, không ngoài dời đổi phong tục, từ Vệ phản Lỗ, nếu nói thuật giải thoát thì sáu phủ chín ruộng chưa tuyên bố ý chỉ rốt ráo và bàn việc dưỡng sinh giúp vật, nói ghi phụng vẽ rồng cũng có thể ôm ấp nhân tín, tôn chí khuyến khích nhau, chép kinh tạo tượng, buông văn thiếu lý. Kế nói chín lưu, cuối nói bảy lượt, xét văn nghệ Tiền Hán chí ở chỗ ghi các sách có mười ba ngàn hai trăm sáu mươi chín (13.269) quyển, công lao đều ở lợi ích gần, chỉ chưa xướng đường xa, đều tự cuộc hạn trong một đời, chẳng phải xa nêu tiêu biểu ba đời, khiến cho sẽ hiện lý nhân quả, hợp sáng vẫn còn tối, nghĩa nghiệp báo lành dữ, đã lớn mà chưa hiểu, cho nên biết tiêu diêu một bộ còn mê tình vẫn có, hai thiên đạo đức chưa vào cảnh không không, đây chính là hoàn cảnh của sáu hợp, là kế sách năm thường, làm sao khỏi bốn dòng rộng lớn, là cờ phiền não, sáu đường ồn náo, tạo nghiệp trần lao.

Hễ thật tướng thì vốn là vắng lặng, càng nêu cốt yếu của đạo pháp thân vắng lặng đưa ra nhiệm mầu lại thêm nhiệm mầu. Chỉ có Đại sư của ta, thể diệu giác này đốn bỏ hai bên, vạn đức đều dung, không ồn ào không vắng lặng, đâu thể dùng cảnh trí để cầu. Chẳng sáng chẳng tối đâu thể dùng hình gọi tên, là nhỏ thì nhỏ mà không có gì ở trong nữa, lớn thì lớn mà không gì lớn ngoài nữa. Cho nên có thể lường pháp giới mà khởi bi, suy lường hư không mà lập thệ, cho nên hiện sinh cõi uế, hạ sinh cung vua, thị hiện thân sắc vàng, bày ra tướng sợi lông trắng, trải mây từ ở Linh Thứu thì nhà lửa dứt, quạt gió tuệ ở Khê Phong thì cuốn mây mù nơi đường tối, đi thì hoa sen đỡ chân, ngồi thì thân nương tòa báu, ra thì Đế Thích đi trước, vào thì Phạm Vương theo sau, hầu bên trái là thần Mật tích vì diệt ác làm công lao, hầu bên phải là thần Kim Cang vì nuôi lành làm sự việc. Thanh văn, Bồ-tát nghiễm nhiên như thị thần (quan hầu), tám bộ vạn linh bảo vệ oai nghiêm mà dày đặc, diễn Niết-bàn thì đất hiện sáu thứ chấn động, nói Bát-nhã thì trời rải bốn thứ hoa như mưa, trăm phước trang nghiêm, hành trạng như trăng tròn như biển cả, ngàn tia sáng soi chiếu giống như nhóm mặt trời sáng núi báu. Sư tử một phen rống thì ngoại đạo bị phá vỡ, trống pháp kêu lên thì thiên ma cúi đầu, cho nên gọi Phật là Pháp vương, đâu được cùng Suy Châu, Ca-diếp sánh đức tranh hoành, Nho đồng với mạt liền tướng nối loại. Vì vậy trên trời dưới đất riêng xưng gọi là Điều Ngự, tam thiên đại thiên đều kính ngưỡng ao trạch từ bi. Nhưng lý sâu ý thú xa phải nhờ nơm bẫy (phương tiện), sau mới ngộ giáo môn khéo léo, nương thầy bạn mới thông giềng mối của giáo pháp kia, tạng có tám muôn bốn ngàn, văn của hai đế mười địa, bàn về Lộc uyển, Kỳ Viên, ý chỉ cung rồng điện Hải vương, chữ ngọc sách vàng nói bảy chỗ tám hội, thảy đều gởi chí đạo nơi trăm vua, quạt gió mầu ở muôn xưa, như ngữ thật ngữ không thể nghĩ bàn, gần thì an nước lợi dân, xa thì vượt phàm chứng Thánh, cho nên hình khắp sáu đường giáo đầy mười phương, thật là ruộng phước của thế giới, là chỗ nương về của chúng sinh. Bấy giờ bọn kính tin như bảy ngôi sao sáng xoay quanh Bắc đẩu, người được sự giáo hóa như muôn sông đổ ra biển lớn. Xét thần biến kia, công sức sự nghiệp lợi ích người trời, cho nên không được mà gọi tên, nhân đã khắp hằng sa cho nên được quả thường vui, lành thay! Không thể suy lường, nhưng do thời vận chưa cho bèn khiến Phạm Hán cảm khác, cho nên phương Tây trước thờ âm hình, nước Đông lần tạm có lợi ích thấy nghe, và mây lành cuốn nhuần, mặt trời tuệ phóng quang, chính là mộng thấy người vàng ở niên hiệu Vĩnh Bình, thấy xá-lợi ở niên hiệu Xích Ô. Vì vậy chính sách của Hán, Ngụy, Tề, Lương tượng giáo phát triển sôi nổi. Đời Yên, Tần, Tống trở lại, danh tăng xuất hiện, hoặc vẽ mặt trăng tròn bên Thanh Đài, nêu tướng vòng tròn ở ngoài Hùng Môn, tới Hà Bắc lật lời Hán Nam ghi chép, đạo khởi ba phủ tin khắp chín châu. Bước đến Giang Tả mà càng đầy đủ qua chốn Kim Lăng mà thêm hưng thạnh, nước sông Vị giúp vườn Tiêu diêu, Gò lư gồm đài Bát-nhã, văn chương ý chỉ phát Việt đến Nghi, cao tăng thạc học nối liền đến xa. Đến đời Lương Vũ ba giáo vận hành rộng rãi, hai thừa đều làm, tuy ở cực đỏ hợp xanh ở Phần Dương, vắng rượu thịt mà người dọn bữa, huân hương giới mà vị pháp hỷ, sợ bốn dòng khó nhổ, thân bảy biện có thể giữ, khinh đồ trang sức mà mặc áo nhuộm, bỏ xe chạm trổ mà trải tòa cỏ, bấy giờ rộng dựng nghiệp đài tuệ, mở lớn nền bảo tháp (đời Lương ghi rằng: Đài đông phủ Tây đại ngôi hơn tám mươi năm, đô thị thành ấy hơn bảy trăm chỗ, tăng ni giảng đạo người nghe có cả ngàn. Thi, luận, nội điển đều tôn nghiệp Thánh chăm chăm không mệt mỏi, đều nhàm vinh hoa ở đời), đều khiến hào tộc năm đô nhàm quan niệm mà quy y, danh gia bốn biển bỏ vinh hoa mà vào đạo. Từ cõi nước chỗ ở của vua chúa đến thành sâu rộng của thanh giáo đều đảnh lễ hồi hướng năm vóc quy y, cái sâu của lợi vật là rất lâu. Khổng, Lão giáo hóa đâu thể cùng sánh, xét ba mươi sáu nước Xuân Thu. Các ký truyện Cao tăng, Danh tăng, Mẫu tử…., bắt đầu từ niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười đời Hậu Hán về sau thì Phật pháp đến Đông độ, chính sách trải qua mười đời gần sáu trăm năm, danh tăng Đại đức được người đời tôn trọng có hai trăm năm mươi bảy nước nêu trên, giúp cho người thấy. Đến Vương Công Yến, triệu, Khanh tướng Tề, Lương có hai trăm năm mươi mốt người bày hành nghiệp kia, mở rộng mười việc:

1- Dịch kinh;

2- Giải nghĩa;

3- Thần dị;

4- Tập thiền;

5- Rõ luật;

6- Di thân; 7-Tụng kinh; 8-Khởi phước. 9-Kinh sư; 10-Xướng đạo.

Đây nêu cao tăng đều là đức sánh bốn y công giúp ba nghiệp, pháp truyền Trung Quốc là chỗ được nhờ (tà kiến ẩn mà không bàn, chỉ nói năm ba người ác. Trong núi Tuyết vốn nhiều cam lồ có cỏ độc, trong biển lớn có minh châu cũng nhiều La-sát, dụ như Côn Khâu thiếu tảng đá, rừng Đặng tổn một nhánh cây thì có gì quái lạ?).

QUYỂN 12

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 8) QUYẾT ĐOÁN ĐỐI VỚI VIỆC TRUYỀN DỊCH PHẾ BỎ PHẬT PHÁP.

Sa-môn Thích Minh Khái chùa Chấn Hương ở Miên Châu.

Vị tăng tên Minh Khái nói: Khái tôi nghe Ba Hoàng thống lãnh trời, Ngũ Đế chế ngự đất, đạo rộng bao gồm mà xa lớn, đức khắp che mà bình quân, mở giáo lành để dạy dân, trải lòng từ mà giúp vật, đến trung cổ đạo kia không thiếu, cho nên Hán, Võ khâm phục, thấy rõ điều lành mà không kịp hiển bày tông thông minh sâu sắc, thể đạo mà không ở, bèn có thể khuất phục tôn nghi, Cam Tuyền lễ điềm lành người vàng, nằm mộng ngẩng đầu tưởng đức bày, giáng chứng cớ tượng đồng. Vì thế Tần Cảnh đi phương Tây, vượt sa mạc mà hỏi thăm đạo, Ma Đằng đến Trung Hoa vượt Thông Lãnh mà truyền chân, bèn được dần dần giáo hóa triều Hán, chùa dựng hiệu Bạch Mã, đạo lưu truyền khắp đời, chùa dựng tên Thanh Long trong ấy dành chép tôn nghi, tôn sùng chùa tháp, nổi mây từ ở Lạc Nhận, thông nước pháp ở tận nguồn điều khiển hữu thức đến rừng phước, đẩy chúng sinh lên đất lành, mở bày Phật pháp soi chiếu giáo hóa người ngu mê, cho nên niên hiệu Vĩnh Bình năm cuối, Gia Thụy đến nhóm mây mừng thấm nhuần cam lồ, bóng ngựa phi nhanh, chim thần nhóm liệng, anh tài đỏ nở hoa tuấn tú, tinh hoa tía sinh cành liền lý, có thể gọi là kỳ lạ không từng có ở đời là điềm lành phi thường. Vì vậy Tây Vức vào hầu Nam Việt quy lòng nhân, yên giáp thôi binh, tiêu vàng bãi đao, đâu không do cảm Thánh giáng sinh, phụng thờ giới pháp, làm lành, tinh thành soi chiếu, đến chỗ tối lẫn sáng?

Cho nên sách nói rằng: Trời sinh vật thần để làm bậc Thánh, không đức đây ẩn, có đạo thì hiện, làm sử đầy đủ nên được rõ ràng. Chỉ có Đại Đường của ta được thời kỳ mở vận mệnh nắm cơ hội, chế ngự niên đại, ngày sinh ra, dựng xây gia nghiệp. Ban đầu khởi nghĩa thì đạo đến cuối trăm linh, mới lên ngôi thì oai hơn muôn nước, cho nên đời đầy đủ, giáo hóa đến nơi, trao đạo ở Đông Đô, dựng đức ở Vũ Châu, sấn thân ở Bắc Sóc, khắc định Kinh Ngô, quét sạch Tần, Lũng, mới ứng cưỡi xe bảy báu mà bay đi, ngồi xe ngàn vòng mà nhẹ chạy, vòi vọi không cùng, mênh mông đâu thể gọi tên, công đã thành, sự cũng xong. Càng để tâm nơi Phật pháp, nhớ lời giúp đỡ, cho nên trang nghiêm tổng trì, lại khởi chín cấp. Sa-môn Thích Tử lại độ ngàn người, tượng hóa càng thạnh ở triều trước, chùa tháp xây nhiều ở đời Thánh, mới là đầu đội Tam bảo rộng hộ bốn y, chắp tay cúi đầu, quên mình là đế vương quý phái, thúc liễm tâm cong đầu gối chí thành cung kính.

Khái tôi tự mừng gặp gỡ vận mệnh tốt đẹp đây mới nguyện dứt tâm sạch cõi dốc chí ở cửa mầu, sáu thời đều gắng gỡ để đáp đức Thánh ở đời, năm thể siêng năng để báo ân rộng lớn. Vậy mà Dịch buông lời dối hoặc tâu lên nhà vua, khinh lời Thánh tốt đẹp, nhọn miệng chê bậc Hiền, phát ra lời xấu xa như tiếng cú vọ, nói tiếng độc hại như âm vang chim chẩm, chuyên muốn phá diệt Phật pháp, hủy bỏ chúng tăng, cắt đứt cơm áo, giảm bớt chùa tháp là vì sao?

Dịch từng là đạo sĩ, ghen ghét tị hiềm trong bụng cho nên chê Thánh là thua phàm, kẻ ngu hơn người trí, sau nữa khoe khoang với kẻ trên, dùng xấu cho là tốt, trái ý nghịch tình đều ở nơi đây. Nhưng lời gièm pha hại đức, nghe ý nghiêng lệch tổn Thánh hiền, cho nên nhà Tống nhận lời Tư Hãn cầm tù Hắc Địch, vua Lỗ tin lời Lý Tôn bèn đối với tăng ni hai người con hiền của Phật bỏ phế hay tự khỏi chê bai tám điều, hoặc lụy đến người sau.

Chúa thượng anh minh đâu cho gièm pha nói xấu dầu kia ba lỗi đâu gây ra một mối nghi. Nhưng mây nổi ở trời xanh, giữa ban ngày có lúc cũng bị mờ, che lấp mặt trời, ánh dương vì vậy không sáng lắm. Mà Truyền Dịch dùng lời phù phiếm mê hoặc kẻ thấy nghe, lý tình huyễn hoặc, lời lẽ lẫn lộn đâu thể chuyên nghe, đâu nên riêng tin? Xin cùng quyết đối giữ phá nhân rõ, không xứng đáng ở trong tăng chúng, dự tham bạn pháp, bỗng nghe chê bai đâu không rất đau lòng, dầu quay đao khoét tim cũng chưa có gì là đau đớn, rút dao cắt thân đâu cho là chết, rất phỉ báng đau thương, dữ dội rất lắm. Kinh nói rằng: Quên thân ủng hộ pháp, bỏ mạng mà hoằng đạo" chính là đây, mới rút ruột nhỏ mật để báo cừu thù tà nghịch, thân bày chí thành hiến dâng, nhục mạ phỉ báng sư phụ trắng trong, mê muội không nghe theo, theo đuổi kinh hoàng. Kính lời.

Kính tâu quyết phá việc Truyền Dịch báng Phật chê tăng có tám điều nêu như sau:

1. Quyết phá việc tăng ni sáu mươi trở lại chọn làm lính tráng và nông dân.

Khái tôi nghe rằng: "Chí lý thì tuyệt lời, vốn ra ngoài sự khen chê. Tông nhiệm mầu lìa nói năng, vượt sự nói nín". Nhưng tình người không ngộ lời kỳ lạ cạn sâu, đạo đời phần nhiều mê hoặc bày tinh, thô. Cho nên có đạo trong ngoài khác nhau, thuyết tà chánh khác nhau, vị phàm Thánh lập riêng, giáo lớn nhỏ phân chia. Nếu cho là đồng hội Nhất thừa, há chấp đó để phỉ báng Phật, trọn đến cực quả không đóng lại để lầm chân, thí như ngàn sông chảy về chỗ mênh mông, muôn dòng nước đều dồn về biển cả, trong ngoài chứng minh, đâu phải lời luống dối. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: "Đối với chư Phật quá khứ, hiện tại hoặc diệt độ, nếu có người nghe pháp đều sẽ thành Phật". Lại kinh Niếtbàn nói: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, rốt ráo đều sẽ thành Phật đạo". Lại Đạo Gia Pháp Luân nói: "Nếu thấy Sa-môn suy nghĩ vô lượng, nguyện sớm xuất thân để học tập làm chân Phật. Nếu thấy vẽ tượng Phật, suy nghĩ vô lượng phải nguyện tất cả khắp vào cửa pháp". Lại kinh Linh Bảo Đổng Huyền Chân Nhất nói: "Chúng chân cao tiên đã được Phật đạo". Lại kinh Linh Bảo Thái Thượng Bí Yếu nói: "Riêng ở hiện tại đồng được Phật đạo". Cho nên biết không hai cửa mầu trọn đồng vào, chỉ có một cực quả nên quyết cùng lên, nếu chấp dị đoan tự để lại mê đọa.

Người học thời nay lãnh chí tầm thường ngu muội, trộm lời chân vọng đặt sách ngụy, cho nên xoay chuyển trong năm đường giả làm kinh tiên, ba ngàn oai nghi dối xưng giới đạo. Đến Phật nhận pháp sửa làm đạo trời, khuyên làm hạnh Phật chuyển thành lời đạo Lão. Mượn ngang oai nghi Phật pháp, dối tập cách thức chúng tăng, hoặc đem chân chống ngụy đâu biết phải quấy, lật chánh vào tà đâu biết là điên đảo. Sự đồng giặc ngu si trộm áo da chồn mà mặc, có loại người ngu trộm châu anh lạc mà đeo lộn ngược, những loại như thế số cũng rất đông chỉ lược nêu hai ba điều không thể kể tỉ mỉ.

Nhưng Truyền Dịch từng là đạo sĩ, thân mặc áo vàng mà không vâng theo phong hóa vô vi của Lý Lão (Lão Tử), chuyên hành pháp binh sử của Trương Lăng, hoặc thân làm giặc gạo, nhóm họp thâu gom không đầu mối, danh gọi là quỷ tốt, chú trớ đâu có kỵ, tắm gội chải chuốt giống người thế tục, chìm đắm ái dục chẳng khác người đời. Lại thêm bên trong ôm ý ganh ghét ngoài buông lời gièm xiểm dối trá, chê bai ồn ào, lớp lớp mắng nhiếc, đây mà có thể nhịn thì ai lại không thể dung. Nay y sự thứ lớp quyết phá, cúi xin gương Thánh soi xét rõ.

Dịch nói: "Chúng tăng cạo tóc nhuộm áo, không bái yết vua chúa, trái lìa cha mẹ, chẳng có trung hiếu". Nay đạo sĩ đội mũ mang khăn nên lạy vua, ở nhà hầu nuôi là trung hiếu chăng? Nay đã không vậy đâu lại trách riêng ai?

Hễ nói về người trung, thờ vua đến trọn đời, giữ nghĩa đến mất thân. Người hiếu là thờ cha mẹ chí thành còn mất để nuôi giúp. Cho nên Đạo An thẳng can ngăn để giúp Tần, Phật Đồ lời ngay để giúp Việt, Mục-liên bưng bát mà nuôi mẹ, Thíchca gánh quan tài mà chôn cha, an nước giúp nhà đâu chẳng phải là những bậc trung hiếu? Không như đạo sĩ Trương Lỗ loạn ở đời Hán, Tôn Ân phản ở nước Tấn, Trần Thụy học tập đạo Lão mà tru di cả tộc, Công Kỳ học đạo tiên mà giết môn đồ, loạn quốc phá nhà đâu có trung hiếu!

Lại nói: Chúng sinh ngang bằng nhau trong không áo ngoài hình cách, thai yêu, giết con, trái lễ, nghịch trời. Nay đạo sĩ đã ngậm khí tu trai giao tiếp nhận đạo nên hộ thai, sinh con, thuận lễ, hợp trời, đây thì vợ chồng sánh đôi thành đã lâu, âm dương vốn hợp mà không sinh sản thật là thai yêu, nên lựa bảo làm dân, khiến họ nuôi con để tăng thêm dân đủ thêm binh, đâu chẳng ích nước lợi dân ư?

Lại nói: "Tăng có mười muôn, người sáu mươi tuổi trở xuống chọn làm lính thì binh mạnh, nông được khuyến khích". Hễ nói về binh mạnh, xét loại chúng tăng lãnh nhận giáo pháp của Như Lai, ăn chỉ gạo bún, khoai, rau, thân thể gầy, sức yếu, tâm trống khí kém, không nhổ cỏ, chống đạp côn trùng, tu tập nhẫn nhục từ bi, ưa sinh ghét giết, đối địch nhiều khiếp sợ không có tay quyết nghi, luống nhọc hành quân không ích lợi cho khí thế của lính. Như nói về đạo sĩ người đủ mấy muôn, cúng ba thời năm thọ cấm hành thẻ, sớ tâu quyết cắt mề gà, cúng tế muốn cầu rượu thịt, thịt thái nhỏ, rượu ngon rượu tục buông lung sự no say cho họ, thân mập sức mạnh tâm khí dõng mãnh, đâu nhịn người không thân thích, ghét sinh ưa giết, lâm trận quyết mạnh tay hạ thủ không nghi, bày hàng quân ngũ quyết mạnh thế lính. Nếu so sánh sức kia thì đạo sĩ mạnh, nói về đức thì chúng tăng hơn, lấy bỏ nên chẳng đoán rất dễ hiểu.

Nếu nói lấy thân cày bừa để làm ruộng, đây là do kiến chấp hẹp hòi chưa phải thông thoáng. Phàm tục không thể dùng một lễ giúp, chính sách không thể dùng một đạo mà trị, sĩ không thể dùng một hạnh để giữ, dân không thể dùng một nghề mà thành, cho nên Hán Thơ Hóa Thực Bộ nói: "Xưa bốn dân không được ở lẫn lộn, sĩ tướng cùng nói nhân nghĩa ở bữa tiệc, thợ thầy cùng bàn hay khéo ở quan phủ, người buôn cùng luận tài lợi ở chợ, nông dân cùng bàn cày cấy ở đồng ruộng, bốn hạng dân này riêng đặt chỗ ở mà vui nghề nghiệp của mình". Cho nên được tài thành nghi của trời đất, dùng tiền vật lợi quốc gia. Nay chúng tăng cũng có nghề riêng, luận bên trong dùng từ nhẫn đẩy tâm tức là nhân nghĩa của kẻ sĩ, nói bên ngoài thì lấy phương tiện khéo léo giáo hóa mọi người tức là kỹ năng của thợ, bàn về hạnh dùng cho trả đối nhau tức là chợ búa của người buôn, kể về đạo thì mình và người đều được giúp tức là sức làm ruộng của nông dân. Đây thì được sự thành thật có thể cảm quỷ thần, chỉ có đức mới có thể chấn động đất trời, vận tâm từ để giáng thấm nhuần, trải ân huệ để tưới ướt. Cho nên chính sách lành thì chợt mùa theo xe, sâu bay tránh cảnh, mì Lũng lúa Song thành gạo chín lần trồng, bởi do công của chính sách lành, chẳng phải chỉ có sức của nông dân.

Lại nói: "Muốn cho chúng tăng bái lạy đế vương khắp ở triều điển", đây là một cái chấp rất mê muội điên đảo, đã tự mình rớt hầm lại dẫn người rớt giếng, muốn cho cùng bị hãm thật có thể được chăng? Xưa, Hoàn Huyền soán nghịch, Cuồng Bội vô đạo, đã có luận này bàn tán không từ tốn rằng: "Sa-môn Thích tử cạo tóc nhuộm áo, kể kia là người phương ngoài, không câu nệ gì lễ của Trung Quốc, cho nên ca-sa bày vai chẳng phải triều phục của đời Tống, bát sành cây gậy đâu phải dụng cụ của lăng miếu mà Huyền, Bội nghịch phản cô chấp không sửa đổi, đã làm nhục ba tôn, bồng bềnh bảy miếu dân oán, thần giận, mọi người phản nghịch, thân thuộc xa lìa, quân bại ở Đông Lăng, mất thân ở Tây Phổ, soi rõ vết xe lật ai không răn dè?

Hoàng đế Đại Đường của ta, mạng Thánh lâu dài ứng thời kỳ nghỉ ngơi, ngay vận thịnh vượng, thôi bùn, dứt tro than cứu kẻ yếu đuối, giúp người chìm đắm, hoằng thánh giáo để dạy dân rủ lòng nhân để nuôi người, năm tháng hòa tiết được mùa, thời khí phồn vinh, đức lớn công khéo ai có thể dốc hết năng lực; lại thêm trong ôm bốn đức ngoài thờ ba tôn, dẹp xe ngựa mà quy y, bỏ mũ miện mà hồi hướng, cho nên được tám phương cúi đầu muôn nước đều ra mắt, đâu trách người lìa tục khiến đủ lễ tại gia. Nay đạo sĩ mặc áo, cầm bảng, đội mũ choàng khăn, đã mặc áo quan lại cần thực hành lễ yết kiến vua. Xưa thiên sư quý sĩ còn lạy đế vương, nay dân hèn lính mọn cần quỳ thưa khanh tướng, nên dạy đạo sĩ học tập phép thầy chầu bái đế vương, thăm lạy quan trường khắp ở triều đình đâu không nên sao?

Luận rằng xét từ Hán, Ngụy đến nay trải qua chín đời, trong thời gian ấy đạo sĩ tà đạo loạn triều, lời yêu mị phạm quốc, giở xem sách sử đời nào không có. Thời Hiến Đế Hậu Hán, Trương Lăng, Trương Lỗ dối nói lời ma giả làm sách sấm nói rằng: "Sau khi ngôi nhà Hán diệt áo vàng sẽ được thiên hạ", bèn cùng Cừ Lộc, Trương Giác Viễn làm ngoại ứng làm khăn đội vàng, mặc áo vàng, nhóm họp đồ chúng, lừa bịp dụ dỗ dân ngu, mưu hại xã tắc liền bị tru diệt. Cho nên sách lễ nói: "Tà đạo loạn quần phải giết", ngày nay đạo sĩ không mặc lễ phục tham triều của Lão Tử mà mặc áo loạn quốc của Trương Lỗ, thầy trò nối nhau làm giặc không đổi, số người đã đông cùng kết đảng giặc, hoặc gây ra sự dòm ngó thèm thuồng, đâu không chuẩn bị. Kể ra số kia có năm vạn, lựa chọn làm lính, thâu thuế đóng tô, sinh sản con cái, thì lợi nước ích dân, mạnh binh khỏe nông. Như ngu kiến của Khái tôi, người như phép vâng theo mà thờ, người trái cấm bỏ mà xử, ngõ hầu cỏ vực cỏ kê nếu nhổ bỏ thì ruộng lúa tươi tốt, gian tà đã đuổi thì đồ chúng tốt đẹp trong sạch, đâu không tốt hay sao?

2. Quyết phá thuyết: "Chùa bằng vách đất lợp tranh thì lấy thờ các vua có đức của Tần Hoàng, Hán Võ".

Khái tôi nghe rằng: Pháp thân không hình, ứng vật có nơi, cho nên giả hiện toàn thân đặt ở tháp Đa Bảo, quyền phân chất nát lưu lại ở khám của Adục, cho nên sẽ hợp tan tùy duyên, còn mất mặc tình, năng lực quyền biến của bậc Thánh không thể nghĩ bàn. Nhưng Phật sinh ở Thiên Trúc, theo phong tục nước kia khi chôn thì hỏa táng, thâu lại để xây tháp. Tháp tức là miếu, miếu là mạo, cúng tế phụng thờ như dung mạo vẫn còn. Tông miếu xã tắc của quốc gia ngày nay giống như đây. Nhưng sau khi Như Lai diệt độ một trăm năm có A-thâugià làm Thiết luân vương ngự ở đời, dùng oai đức sai khiến quỷ thần, tu phước lực khởi linh miếu, cho nên tám muôn bốn ngàn tháp không phải một ngày mà thành, nhà ngàn cột trăm kèo đâu phải một sớm mà xong, đâu nhọc sức người, tự là công của thần linh, há lại lấy tình phàm phu mà nghi việc Thánh hiền, nào khác dùng rá vo gạo mà lường nước biển, đem thước tấc mà lường hư không có thể được sao?

Xá-lợi lưu hành đến đông độ Ngô Vương mới cảm, tăng từng cúi mời, Đan chí thành mà bỗng đến, Tôn Quyền thử nghiệm, chồng đá thớt hỏm xuống mà càng vững chắc, vì thế ánh sáng chiếu thẳng lên soi sáng mà phủ ỷ, phát màu ở kề bên, nổi bật dưới miếu đá, từng thời vui mừng rộng khen oai linh, bèn đến triều thần nghe đều tin phục liền xây tháp và tạo già-lam. Duyên là ở Giang Tả rộng là Phật sự, đâu như Thái Thượng cốt khô ở Quan Trung, riêng không có xá-lợi, Thiên Sư thề chôn ở Xà Phúc đâu có di cốt, chỗ nào để nương tựa mà sinh dối trá. Nghe Phật có xá-lợi tám hộc để nêu di thân, bèn giữ lại một hai hòn đá nhỏ để thay thế trứng tiên. Nhưng trứng tiên vốn là âm của heo cuồng huyền đàn là miếu Lão quỷ, nếu nói xálợi là cốt Hồ lý hơn âm của heo cuồng, tháp Phật là mả Hồ đâu giống miếu Lão quỷ (quỷ già), đâu thể dùng cao thấp so sánh nhau đồng bậc. Cho nên ngày nay đạo sĩ thấy xá-lợi như gai trước mắt đâu chịu quy y, thấy tháp Phật như bị đâm tim chuyên âm mưu phá hủy, luống có tâm tà ác có đúng chăng? Nhiều đời đến nay người làm vua chúa đời trước đều có trồng gốc lành, ôm lòng chánh tín, dốc của quý xây tháp, rút tiền báu thờ chân, đều muốn duỗi sự chí thành ra xa, gây cho kia sự kính thờ như còn tồn tại, cho nên khéo xây tháp chín cấp đủ cả sự trang nghiêm, cách tạo trăm kèo cùng tột tráng lệ, khiến cho người nghèo bưng để thì cung Phạm Thiên lập thành, bậc Trưởng giả giăng dây thì cõi trời liền hiện, đạo nhân quả lý đây rõ ràng, bọn tối tăm mù mịt đâu thể ngộ được.

Luận nói: Xét kinh Nhân Vương thì vua chúa thế gian có năm hạng:

1- Vua Túc Tán, oai đức rất kém;

2- Vua Thiết Luân, cai trị cõi Diêm-phù-đề;

3- Vua Đồng Luân, cai trị hai thiên hạ; 4-Vua Ngân Luân, giáo hóa ba thiên hạ; 5-Vua Kim Luân, thống lãnh bốn thiên hạ.

Năm vị vua này nói về ngôi vị thì cao thấp khác nhau, nói về đức hơn kém có khác, xét Tần Hoàng, Hán Vũ thì trong Diêm-phù-đề chỉ có vua ở Chấn Đán là vua Túc Tán trong năm hạng vua. Đây là đức kém mà ở lầu đẹp, ngôi thấp mà ở đài cao, không dùng ân huệ cảm người, chuyên lấy roi vọt sai khiến vật, đến đỗi thần kỳ trách giận, dân chúng thở than, cho nên sử chê đó cho là vô đạo. Lại sau khi chết xây dựng lăng tẩm, phí tổn muôn lượng vàng, nhọc nhằn trăm họ, vì vậy xương thịt tiêu tan, linh ảnh mất dấu vết, niên đại vắng vẻ, oai phước đâu còn.

Phật Thích-ca của ta ứng hiện ra đời, đức vị riêng cao, đạo trùm trăm linh, thần vượt vạn ức, là cực Thánh trong bậc Thánh, đức cao trước ngàn Thánh, vua pháp trong hàng vua, ngôi ở trên trăm vua, há Tần Hoàng, Hán Vũ mà so sánh hơn kém với Phật ư? Phật thì đức cao mà ở lầu đẹp, vị tột cùng mà ở đài cao, chỉ dùng đức cảm hóa người, không dùng roi vọt để sai vật, tự có vua chúa mừng bỏ linh thần bày giúp, sau khi diệt độ lại xây tháp miếu xá-lợi không mất, oai linh thường còn, hủy tháp liền thấy điềm xấu, phá chùa mắt thấy họa đến, cho nên vua Ngô là Tôn Hạo xa xỉ, dâm ô, hà khắc, bạo ngược, không kỵ tội phước, nói không có báo ứng, đào được tượng đồng sai để chỗ nhà xí, đến mồng tám tháng tư, tiểu tiện lên đầu tượng nói rằng: "Nay ngày mồng tám ta rưới đảnh cho ngươi", trong phút chốc liền bị đau dương vật, khổ độc khó chịu nổi. Thái Sử xem bói nói: "Vì phạm lỗi với đại thần", cầu cúng khắp nơi đều không giảm bệnh. Sau nghe nói Phật mới kinh hoàng tự than thở ăn năn lỗi trước, liền sai rước tượng, dùng nước thơm tắm gội dập đầu tạ lỗi ứng tiếng bệnh liền lành, do đây sinh tin giới, sợ sệt trọn đời.

Lại đời Tống, quan Tạ Hối, đến thành Kinh Châu, trong thành có ngôi chùa năm tầng, trong chùa có tháp xá-lợi. Hối tánh tình hung ác bạo ngược, trước không thành tín nói rằng: "Chùa tháp không nên ở trong thành, bèn sai người phá hủy", bấy giờ, tự dẫn quân sĩ thẳng đến trước tháp, mọi người đều rùng mình run rẩy không dám giơ tay, Hối bèn đánh trống bắt buộc xua quân lính xông vào đạp cửa khám, chẻ phá tôn tượng, bỗng chốc mây vần vũ che mờ mặt đất, gió nổi bụi mù dâng lên đến trời, Hối và quân lính thân bị tro đất phủ, dùng tay phủi thì da thịt rớt theo, trở thành bệnh dữ khắp thân ghẻ lở, không bao lâu phản nghịch liền bị tru diệt. Việc này đều như Tống Tuyên Nghiệm Ký đã nói, lược nương ký truyện nêu các việc này để chỉ bày các người chưa ngộ hiểu bụng dạ tai mắt kia. Như ngu kiến của Khái tôi thì Đức Thích-ca ứng thế mọi người cùng tôn kính, lúc xưa đã có chùa tháp, nay người xây dựng xin hãy giữ gìn. Lão Tử qua đời chỉ còn hư không, khi còn ở đời không hề có nhà cửa, nay đua tranh quá đáng, xin nên lược bớt.

3. Quyết pha thuyết: "Các châu và huyện bỏ bớt chùa tháp thì dân an nước thạnh trị".

Khái tôi nghe lúc xưa bậc minh quân cung kính phương Nam, trí nghĩ trời đất không dứt lo, điều hòa vạn vật không tự nói, nào phải nhọc nơi cầu sĩ, khỏi trách nhiệm sai khiến, chỉ được người kia thiên hạ tự trị, cho nên hỏi thăm thất đạo tuyên suy nghĩ Chánh minh đường, đánh giá công vụ mà chia chức quan, theo phương mà trao chức, tám khúc khải hoàn đều bày, mười loạn phải chầu triều, do có thể che chở quốc gia, ổn định xã tắc. Vì vậy mở rộng từ bi để giáo hóa, hoãn thuế mà an ủi người nghèo, hành giáo pháp chín nhân, bớt hình phạt mà dè dặt ngục tù, mở đức thấm xa đến mà an kẻ gần, định thành công chế lễ mà làm vui, đó là chí cực của trị, có thể được mà xưng, cho nên sách nói rằng: Trị quốc sự an dân làm nền tảng, an dân lấy quan lại tốt làm gốc, nếu được người như vậy thì nước yên, không có người như vậy thì dân loạn, cho nên biết thần trung quan hiền có thể trị nước an dân, nhưng phải kính điều thiện, dựng phước, trồng quả, tu nhân, kính thờ thần minh, tôn phụng linh miếu, đâu thể hủy tháp phá miếu chiếm chùa đuổi tăng, linh kỳ làm điềm, phước họa phải dè dặt, mà Dịch hung ngược chuyên buông lời dối trá, Thánh hiền soi sáng lý không đến nổi mê lầm.

Luận nói: "Trộm thấy cây nêu làm cõi, lập gạch đá để xưng vua, chồng đất thành đàn, buộc búi tóc mà làm trang sức, đến lúc nguy gấp cầu xin có chút oai linh, mưa hạn cầu thành khẩn thì tạo ra ân phước". Huống gì Phật thần dáng như núi nghi, linh tướng rõ ràng mà muốn khinh hủy là được chăng? Từ khi Hán Minh cảm điềm mộng, chùa xây đặt tên là Bạch Mã, Tôn Quyền nghiệm điềm lành tháp ban đầu hiệu là Kiến Sơ, từ đây về sau nối nhau mà khởi. Từ trước nếu thần đạo mất, không vua chúa đâu nên thờ kính, oai linh ẩn mất quốc chủ đâu còn tôn thờ, đều do thân gặp mắt thấy nên khiến quy y hồi hướng. Chưa bằng đạo Lão đều không nương cứ ngày Lý Lão thờ Chu, chưa có đàn tế nhiệm mầu của buổi sáng Trương Lăng mưu nghịch nhà Hán mới xây nhà quan sát, cho nên Hậu Hán Thuận Đế Trung có hoạn nạn, người là Trương Lăng làm khách đến đất Thục. Nghe người già cả truyền nhau rằng: "Xưa Hán Cao Tổ ứng hai mươi bốn khí, cúng tế hai mươi bốn núi, vua bèn có thiên hạ", Lăng không đức độ bèn tạo mưu, giết trâu cúng tế hai mươi bốn chỗ, đặt dùng đàn đất chở dùng nhà tranh xứng hai mươi bốn trị, lập xây quán trị bắt đầu từ đây. Hai mươi ba chỗ ở đất Thục, một nơi đứng đầu ở Hàm Dương, vì thế dối trá dụ dỗ người ngu, chiêu vời đảng ác, thâu lúa tô thuế mưu làm loạn, khi bị rắn nuốt mối nghịch hiềm không thành. Đến cháu là Trương Lỗ họa loạn mới khởi ở Hán Trung bị Tào Tháo diệt. Từ ấy đến nay bầy oan nghiệt nối nhau, nương gá trị quán hằng làm yêu tà, cho nên niên hiệu Trung bình năm đầu đời Hán Thuận Đế có Trương Giác người ở Cứ Lộc tự xưng Huỳnh Thiên Bộ Sư, có ba mươi sáu vị tướng, đều đội khăn vàng, xa tương ưng với Trương Lỗ, có chúng đến mười muôn thiêu đốt thành Nghiệp, Hán trừ đuổi đến Hà Nam quan đâu có tiến, binh tướng bị diệt.

Lại niên hiệu Hàm Ninh năm thứ hai đời Tấn Võ Đế bị đạo sĩ Trần Thụy dùng tà đạo mê hoặc mọi người, đồ chúng có mấy ngàn năm tháng lâu dài, sau bị Thứ sử Ích Châu là Vương Tuấn giết.

Lại niên hiệu Thái Hòa năm đầu đời Tấn Văn Đế, ở Bành Thành có đạo sĩ Lư Tủng tự xưng hiệu Đại Đạo Tế Tửu, dùng tà thuật mê hoặc chúng, nhóm họp bè đảng, trước cửa Thần Công Quảng Hán nói rằng: "Rước vào Hải Tây Công Điện", Hoàn Bí v.v… cùng đánh nên bị tru diệt.

Lại niên hiệu Đại Đồng năm thứ năm đời Lương Võ Đế, đạo sĩ Viên Căng dùng lời yêu mị mê hoặc mọi người thực hành gò cấm bước, quan quân bất ngờ đánh úp liền bị giết chết.

Đến niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười đời Tùy ở huyện Xương Long, Châu Miên, đạo sĩ Phổ Đồng cùng Tả Đồng quán Băng Hán tự xưng chứng thánh dối hoặc nhân dân, chồng giường cao đến nóc nhà rồi ngồi lên đó, nói rằng: "Đồng nữ mười lăm tuổi mới đáng nhận pháp", khiến con gái lên giường dùng màn vây quanh, bèn liền gian dâm, như vậy qua nhiều tháng số gian nữ tính ra mấy trăm người, sau sự việc bị phát giác, do đó bèn trốn mất. Lại niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười tám ở Ích Châu có đạo sĩ Hàn Lãng, ở Châu Miên có đạo sĩ Huỳnh Nhu Lâm, mê hoặc vua Thục khiến khởi ác nghịch nói rằng: "Muốn dựng đại sự phải nhờ duyên tốt" bèn dạy vua Thục dốc hết kho vựa làm tượng đạo ngàn thước, dựng đại trai ngàn mặt trời, vẽ hình tiên đế buộc ngược đầu tay, chú thuật mà ếm đè. Ông Triệu Trọng Khanh ở Hà Bắc tra xét biết được sự thật, đưa về kinh tra hỏi mới chịu tội, bèn đưa ra ngoài chợ hành hình.

Nay Đại Đường đổi mới, lời yêu hoặc còn khởi, cho đến niên hiệu Vũ Đức năm thứ ba ở huyện Xương Long, Miên Châu có người dân tên Lý Vọng, trước thờ Huỳnh Lão, hằng làm yêu mị. Đại Nghiệp năm cuối có đạo sĩ Bồ Tử Chân hơi rỗi đạo thuật bị đưa về Đông Kinh, đến Lương Hán thì chết, vì chôn mất ở kia mà Lý Vọng kiêu ngạo nói: "Tử Chân gần về", lại ở huyện kia trong núi có một hang đá, hang đá âm u không ai dám dòm ngó, Vọng bèn dựa vào đó làm yêu mị dối trá, ở chỗ sáng thì dài cổ lớn tiếng lãnh nhận truyền thống, vào chỗ tối thì nghẹn hơi nhỏ tiếng dối nói họa phước, bèn khiến đàn-việt ngay thẳng dường như muốn hồi tâm, tà khúc ngu phu lý nên tìm nói.

Truyền thuyết đạo sĩ truyền khắp huyện cùng châu, quan dân ban đầu xem xét đều tin nhận, sau Thứ sử Lý Đại Lễ nói: "Việc này chẳng được xem thường, phải tấu trình vua, nên nhờ thân nghiệm mới định được đúng sai", bèn cùng quan ở Hạp Châu và đạo sĩ hơn một trăm người cưỡi ngựa ngồi xe, sửa soạn khăn áo, sắm nhiều vật cúng tế, nào rượu nào thịt các đồ cần dùng đồng đến trước hang bái lạy cầu xin. Bấy giờ Vọng đối đáp, người nghe dốc lòng, chỉ có quan huyện Ba Tây là Nhạo Thế Chất bấy giờ rất hiểu cơ tình, biết kia dối trá, vào chỗ tối lén hầu thấy Vọng nuốt tiếng, Chất quát mắng, Vọng liền khuất phục, bắt Vọng về giam ở Cấm Châu tính việc luận tội, chưa được mấy ngày Vọng uống thuốc tự tử.

Khái tôi tìm sử sách xa xôi, nghiên cứu xưa nay chỗ ghi truyền điều mắt thấy tai nghe bọn tà đạo loạn chính ở đời có mấy người, lược nêu năm ba chuyện để làm cớ soi xét răn dè, cúi xin đèn trời soi xét nên dẹp trừ. Như ngu kiến của Khái tôi thì nếu hành đạo thanh hư của Lý Lão y vậy mà giữ gìn thì còn đó, nếu tập theo pháp tạp uế của Trương

Lăng thì loạn sẽ dấy khởi, đây thì gạt yêu tà kia, bỏ tàn giặc kia, có thể gọi là ngừng dứt bạo loạn, đâu chẳng phải là trị quốc an dân ư?

4. Quyết phá thuyết: "Tăng ni bớt khăn áo thì tằm không chết oan, người nghèo không đói".

Khái tôi nghe: Do khí hòa hợp thành thân luống dối, bên ngoài mạng căn cần nhờ áo cơm để nuôi sống, bên trong báo thân cần dựa hình thần để tồn tại. Hình thần không thể đứng riêng, nương áo cơm để giúp, áo cơm không thể quá phí, hạnh gồm hổ thẹn để tiết độ, cho nên kinh Di Giáo nói: "Tỳ-kheo nhận ăn đến được thân phần", lại nói "mặc y hoại sắc để bỏ sự trang sức tốt đẹp", đây là lời dạy sáng suốt, ai không vâng theo. Nhưng Như Lai chế giới theo nhiều căn cơ khác nhau, người có bậc thượng bậc hạ, chế giới có rộng có hẹp có gấp có hưởng. Bậc thượng thì chế gấp khiến họ đốn tu, bậc hạ thì trao cho hưởng khiến họ dần tiến. Bậc thượng, gấp là ngày chỉ ăn một bữa, ăn chỉ rau củ, thân chỉ ba y, y chỉ vải thô. Bậc hạ, hưởng là ăn cho hai thời, vị có bơ, sữa, áo khai cho chứa mười ngày, cho mặc tơ lụa. Hoặc có vị tăng già bệnh, thân đói lạnh, người bệnh trầm kha thân thể khốn đốn với đói lạnh, cần cấp cho họ áo cơm, giúp họ thuốc men. Đây thì thượng căn không cần nhờ các duyên tự ông chứng chân, người hạ căn cần nhờ duyên giúp mới được ngộ đạo, muốn khiến một chuẩn kia có thể được chăng?

Nếu bớt áo khăn của tăng ni để cứu giúp người nghèo khổ, tăng ni ngày chỉ ăn một bát, mặc chỉ áo lụa nhũn, mà nói tổn mười miệng nông phu, giết mười muôn con tằm. Còn tính đạo sĩ một phen tế tiệc cả trăm mâm, một mâm mạng mất ngàn con, nên tổn ăn của ngàn quân, giết tằm cả vạn ức, mà Dịch biết đạo sĩ tổn nhiều vẫn bày ngu si không tính, tăng ni tốn phí ít mà nhỏ nhặt bàn tính. Đây toàn đảng nói, quân tử uổng nghe, như ngu kiến của Khái tôi, nên dứt sự cúng tế rượu và giết sinh vật của đạo sĩ thì có ích cho quốc gia không tổn của dân, nếu buông lung không cấm thì tổn nước hại dân. Thánh thượng anh minh đâu không soi xét. Luận nói rằng: Xét kinh Đạo Sĩ Minh thì trước thọ mười giới, kế tám mươi giới, sai một tám mươi giới và ba trăm đại giới, cho đến ngồi, dậy, nằm nghỉ ba ngàn oai nghi đều nói là bí yếu không vọng trao cho người. Xét trong Linh Báo Trí Tuệ Thượng Phẩm thì mười giới trước tiên liền nói không sắc không dục, tâm không buông lung. Lại kinh Tiêu Ma Trí Tuệ nói: "Thấy vợ con người nguyện ra khỏi ngục ái dục", đạo sĩ lãnh thọ lý lẽ ra phải vâng dùng mà trước lại không làm chuyên việc trái phạm là sao? Đội khăn cầm bảng dường như muốn y kinh, mà chứa vợ nuôi con lại thành phá giới, đây thì ông hành sắc dục cuối cùng không biết hổ thẹn cho nên trái giới đâu có mắc cỡ, nào khác bầy gà trước cửa giao hội mà không thẹn, chó heo ngay đường đi hành dâm mà không xấu hổ, uống nhiều nước mặn quên mất suy nghĩ nhỏ nhặt, buông lung sáu tình trái phạm mười giới. Ban đầu một giới đã phá không giữ, ba ngàn giới sau bỏ đó không dùng, phù lục khoa cấm chỗ nào thực hành? Lại nương kinh Kim Đan của Lão Tử, luật Chân Nhân trong triều, cúng tế ngày sóc vọng, thấy trong phòng riêng, tình ý thân nhau, nam nữ giao tiếp, khiến bốn mắt, hai mũi trên dưới tương đương, hai miệng hai lưỡi kia đây đối nhau, âm dương đã tiếp nối, tinh khí giao thông, đây thì lễ vợ chồng thành, đạo nam nữ hợp, dùng đây tu đạo, đạo không thể tu, dùng đây xuất gia, gia đâu thể xuất, điên đảo mê hoặc sao quá lắm vậy?

Lại nói Phật là thông minh, lý đầy đủ trí tuệ. Quán Âm trêu đùa thật đủ quyền biến kỳ lạ, không giống cúng rượu loạn triều si mê không trí tuệ, thiên sư rắn rít, bò cạp đâu có thần thông. Giúp ra khỏi tù cấm là lòng đại từ của chư Phật, cứu khổ trừ hại là chí hành của Quán Âm, cầu ân tự bố thí, chẳng dối trá dụ dỗ mà cầu tìm tiền tài, báo đức xuất tâm đâu có bứu hông mà lấy vật. Nếu Quán Âm từ bi cứu ngục tức là dối tù, thiên sư hành cấm sát oán, lẽ ra là giết sĩ. Nhưng Phật thấy thiện thì khuyến khích nghe, ác thì thương xót, từ bi bình đẳng, oán hay thân không hai. Lão Tử cũng nói: "Người thiện ta cũng thiện, người không thiện ta cũng thiện", không bằng thiên sư thờ năm tướng, ba thần, bốn ty, chín phủ, nhận pháp chú trớ, hành thuật cấm yểm, người oán khiến điên cuồng mất tâm, kẻ ghét khiến kinh sợ mất mạng, đây thật là ác thần của thế tục, là quỷ giết người của nhân gian. Như ngu kiến của Khái tôi thì ngày nay đạo sĩ bôi tro, hợp khí, cấm chú, bày phù phép, đây đều là chẳng phải chánh ngôn của Lý Lão mà là tà pháp của Trương Lăng, mê hoặc dối trá, tổn nước hại dân, xin nên cấm đoán dứt tà ngụy kia.

5. Quyết phá thuyết: "Cấm tăng ni chứa để thì trăm họ được đầy đủ, tướng sĩ đều giàu sang".

Khái tôi nghe: "Tám hạnh đại giác, ít muốn là trước tiên, năm danh hiệu Tỳ-kheo thì khất sĩ đứng đầu. Cho nên ít muốn thì bớt việc, không còn lo buôn bán, khất sĩ tùy duyên đâu có lụy chứa để. Lão Tử nói: "Chứa nhiều quyết mất". Lại, Châu Lễ nói: "Chứa mà có thể tan, nhóm mà có thể rải, thì hạnh hợp đàn ra". Chứa nhiều quyết mất, lời ấy hợp với ý Thánh. Tìm ở đạo Lão Tử thực hành vô vi, chuyên chú nơi trong trẻo trống rỗng, tu tâm vắng lặng, bỏ việc buôn bán vinh hoa ở đời. Nhưng nay đạo sĩ đều không vâng theo cho nên nhị lục thì tiệc lớn, tam nguyên thì hội mừng, chiêu hợp đảng ngu dụ dỗ bọn cuồng mê, lập bếp núc đặt cá rượu để mời mọc đãi đằng khách khứa, bèn khiến mâm chay chia thịt việc đông đầu bếp, chủ quán làm cá lại như hàng mổ lợn, thịt cần hong khô, dính máu thì ăn liền, rượu phải trong thuần có nửa bã liền uống, ăn uống khó biết đủ, buông lung không thỏa mãn, thêm nhiều chất liệu tơ lụa để làm sặc sỡ thân mạng, rộng nhiều họ lúa mạch đem làm tô thuế, bên đây phát sinh chứa nhóm đầy kho, do đây lần chuyển chất ngập vựa. Tâm hẹp như khe ngòi đâu biết sự cực đầy, đến chốn cửa cao tộc lớn phán không theo về, hàng nông phu dòng thấp kém riêng đến tụ tập, chẳng phải là tôn sùng đạo pháp kia, thẳng làm nghèo rượu cá kia, tạp nhạp phiền nhiều đâu thể nói hết, lại thêm đồ chúng thấp kém, nhân phẩm tầm thường. Cho nên Sa-môn xuất gia phần nhiều là cao quý thù thắng, đang nhìn đạo sĩ bày sự thấp hèn. Cho nên Lương Võ Đế sau khi lên ngôi, bỏ thân vào chùa cúng dường chúng tăng. Thời Tùy Văn Đế tâu Hiếu Vương nhị, bỏ ngôi xuất gia tu hành Phật pháp, không hề nghe một ông vua bỏ thân vào chùa, không hề thấy một vương tử xuất gia thờ đạo, từ các cao môn sĩ tộc hào gia sang giàu, hoặc có vợ chồng tạ từ nhau đồng thời lìa tục, nam nữ khuyên nhau cùng xuất gia, mắt thấy tai nghe đâu đợi lời lẽ.

Nếu nói cấm tăng ni chứa để khiến quân dân no đủ, thì nói về nghèo giàu đều là nghiệp duyên, sang hèn đều do vận mạng, ngu trí không thể đổi dời lo lắng, đẹp xấu đã định ở nghiệp. Sách nói: "Mạng tướng lành dữ xa ghi ở trời". Nói theo đây thì nghiệp nghèo của quân dân, cho đó cũng không được, quyết kia tướng giàu để đâu cùng no đủ. Cho nên Hán Văn Đế do nằm mộng mà sủng ái Đặng Thông, thầy tướng bói Thông nghèo sẽ chết đói, vua nói: Có thể giàu ở nơi ta sao gọi là nghèo? Cho đó là Đồng Sơn chuyên làm luyện đúc, sau gặp việc trốn chạy người nhà đều chết đói. Lại tỳ nữ của vua Cao Câu Lệ có thai, thầy tướng bói là quý nhân sẽ làm vua. Vua nói: "Chẳng phải dòng dõi của ta" liền muốn giết chết, tỳ nữ nói: "Khí từ trời đến cho nên tôi có thai", đến khi sinh con, vua cho là điềm không lành, đem bỏ trong chuồng heo thì heo hà hơi, bỏ chuồng ngựa thì ngựa cho bú nên không chết, cuối cùng làm vua Phu Dư, cho nên biết nghiệp duyên mạng vận định ở cao xa, không hề thay đổi đâu thể tự định đoạt.

Luận nói: Xét kinh nói về nghiệp quả không lầm, làm lành được phước, làm ác mắc tai ương, lý này rõ ràng, làm sao mê hoặc? Nay nếu dẫn kinh xét lý càng bày kia rất mê lầm, vả lại y sách chỉ việc mở mang sự hiểu biết cạn cợt kia. Vì sao xưa thời Vũ Đinh, có mọc cây dâu ở triều, Thái tử bói rằng: "Cỏ đồng mọc trong triều, triều chắc chắn mất", Vũ Đinh sợ sệt sửa thân tu điều lành thì cây dâu chết khô. Ân Đạo Trung Hưng đâu chẳng phải làm lành mà có phước hay sao? Lại thời vua Đế Tân, có chim sẻ sinh quạ ở góc thành, Thái tử bói rằng: "Nhỏ sinh lớn, quốc gia sẽ hưng thạnh". Vua Tân kiêu bạo không làm chính sách lành, nước Ân bèn mất, há chẳng là làm ác có tai ương hay sao?

Như Dịch nói: "Đem lòng hóa thật khi còn sống mua hư danh sau khi chết", ý cho rằng khi sống có bố thí thì khi chết không có quả báo, thật ngu si tối tăm. Có thể nói: "Mắt thấy lúc mùa xuân gieo trồng, kho chứa trống không, mùa thu thâu vào, mùa đông cất đầy vào kho, cho nên bố thí thì có quả báo, cảm mầm mống lụa đẹp cùng tiền bạc, đức quyết hiện ra trả công, đến nỗi ngậm châu đem cho người mắc nợ. Đây đều nhờ kinh để chứng minh đâu thể nghi ngờ.

Lại nói: Lễ Phật không được giàu có, cúng trai tăng không được sang trọng. Xét thái miếu quốc gia, linh miếu của tiên hoàng, trăm thần hầu hạ, muôn dân cậy nhờ, quỳ lạy chí tôn, cho nên được ở vị lớn, danh tôn trọng, quan lại cúi chào, yêu mến hoa sen linh mà hưởng giàu sang. Huống chi Phật là bậc Pháp vương oai thần cao xa đức hơn ngàn thánh, đạo trùm trăm linh lễ bái cầu nguyện chí thành, lẽ ra sẽ sang giàu, quy y chí khẩn quyết được giàu sang, người xưa dùng một gáo đựng cơm chay cúng còn được quả báo giúp đỡ, nay một bữa chay để cúng dường Đại thánh, đâu không trả nhau phước lộc? Xét loại mà nói lý không đến đổi lầm.

Như Khái tôi đã thấy, chứa để có hai: một là chư Phật đã cho trước, hai là riêng Như Lai chế từ lâu. Đây khai chúng cấm, riêng Đại thánh dạy rõ, nên khiến đạo sĩ học tập đây thành quy cấm, riêng khai chúng lần học Phật pháp, cho nên sách Xuân Thu nói: Tề Hoàn Công học lễ với Tả Sư và Tử Sản, Tả Sư nói: "Lễ là kinh của trời, nghĩa của đất, hạnh của dân. Nước lớn thì dùng, nước nhỏ thì học", nay đạo học Phật, đồng loại như thế.

6. Quyết pháp thuyết: Vua chúa không Phật thì sống lâu thạnh trị, có Phật thì chính sách bạo ngược, ngôi vua ngắn ngủi.

Khái tôi nghe Trung Quốc là chính giữa của ba ngàn mặt trời mặt trăng, vạn muôn hai ngàn trời đất, cho nên có Luân vương thay nhau xuất hiện làm Thánh chủ nối tiếp hưng thạnh, ngồi xe bảy báu mà làm vua bốn thiên hạ, hành mười điều lành mà giúp muôn nước, khai hóa bình đẳng, hòa kẻ oán thuận người thân. Quạt gió từ bi, thắng tàn hại mà bỏ giết chóc, cho nên được không oai không giận vật dùng đó làm hành, không nhọc không nhằn dùng đó trị dân, từ đại kiếp trở đi thuần phong thấm nhuần. Đến đức nói là suy, chánh khí từ đây dứt, vì thế năm trược rối loạn, ba tai tranh khởi, mười sáu đại quốc riêng tự ý tôn danh, tám mươi xóm làng đều xưng cõi bờ, gươm giáo đua tranh, giành việc bỏ sự xây dựng, kia đây tham tàn giết hại lẫn nhau. Cho nên Đức tất cả thương xót sự lầm than chìm đắm mới bày kinh giáo khuyên làm lành dụ người hiền, chế ra giới luật cấm ác trị tội, đều khiến dứt vọng về chân, trở lại cội nguồn. So sánh ở Trung Nguyên ban đầu từ thượng cổ, thời phác khi thuần hòa thơ khế chưa tạo tác, dân thấm nhuần tục ngụy sách vở mới khởi, cho nên Chu Công không xuất hiện ở thượng hoàng, Khổng Tử chỉ sinh đời thấp kém, chế lễ làm nhạc, dạy tục dẫn dắt dân, cho đến trị khởi phong khuông thời cứu độ, đều muốn khiến dừng dứt tranh giành trở lại sự trong sạch chất phác, so với tất cả đó chỉ là một. Nếu nói: "Vua chúa trước khi chưa có Phật pháp thì thạnh trị sống lâu, khi có Phật pháp thì chính sách bạo ngược ngôi vua ngắn ngủi, không được thờ tượng Phật không được xem kinh Phật". Xét loại mà nói, vua chúa trước khi chưa có Chu, Khổng thì thạnh trị sống lâu, khi có Chu, Khổng rồi thì chính sách bạo ngược ngôi vua ngắn ngủi, cũng không được tế thần Chu Khổng, hành giáo Chu Khổng, lý đâu vậy ư? Nhưng không Phật không pháp thì người không biết xả ác để tu thiện, không lễ không giáo đời không biết thờ vua hiếu dưỡng mẹ cha. Do đây mà suy thì lễ giáo không thể thiếu dù một ngày, Phật pháp đâu được tạm thời bỏ.

Luận rằng: Xét lời Dịch đã dẫn, từ Hán Quang Vũ về trước không có Phật pháp thì ngôi bền vững tuổi lâu dài, con quyết thờ cha, thần không đoạt ngôi vua. Từ Hán Minh Đế về sau vì có Phật pháp, con bỏ thờ cha, tôi phần nhiều chiếm ngôi chúa. Nghiệm lời Dịch này thì biết Dịch rất tầm thường mê tối, tuy dẫn sách sử mà chẳng nghiên cứu đầu đuôi. Xét kỹ từ thời thượng đại đến nay, người làm vua hoặc một thân mà chết hoặc nhiều đời rồi mất, như vua Thiếu Hạo chính trị phiền tạp, lê dân làm loạn, kia thờ cúng xấc xược một đời mà diệt. Từ Hậu Đường, Nghiêu, Ngu, Thuấn con đều bất hiếu, một đời dứt diệt, nhà Hạ vua Kiệt, nhà Ân vua Trụ, đều bạo ngược bị quan thần giết, trong đó hoặc tôi đoạt ngôi chúa như Nghệ và Hán Trác, hoặc là em đoạt ngôi anh như Trọng Nhâm cùng Hùng Kỷ. Đến ở đời Chu, Tử Triều theo kính thờ vua, làm con bỏ cha, đến Tần Thất, Triệu Cao giết hai đời là tôi thần giết vua. Đến Tiền Hán, Lữ Hậu loạn triều, Vương Bôn đoạt chính quyền, đây há có Phật pháp khiến như vậy sao?

Nếu nói từ Hán Minh Đế về sau đến Túc Tề, đều là tôn sùng Phật pháp, chính sách bạo ngược ngôi vua ngắn ngủi, đến Vũ Văn đã phá diệt Phật pháp nên chính sách lành ngôi vua bền vững, mà Dịch trọn Túc Tề thì bàn, đến Vũ Văn thì không nói, chẳng phải chỉ là dối hoặc dân chúng, cũng chính là dối gạt thánh triều, nói theo đây, thì sự nên thẳng hạch, nhưng Vũ Văn đoạt nhà Ngụy mà lập chính sách bạo ngược vô đạo, vua quan nghi kỵ phản bội, anh em giết nhau, lăng nhục Thánh hiền, hủy phá Phật pháp, trị chỉ năm đời, được hai mươi bốn năm. Suy một điều này vua chúa không Phật pháp thì chính sách bạo ngược, ngôi vị ngắn ngủi, có Phật pháp thì chính sách lành ngôi vị lâu bền, thời cận đại đều biết đâu không tin? Nhưng Dịch là quan Thái sử được ủy nhiệm chỗ quan trọng, cần dè dặt cơ mật không được nói càn, cho nên bậc Thánh xưa nay ngay lời nói mà sợ, phát lời ra mà lo, mà Dịch không lo họa phước chỉ thờ yêu tà, hoặc dùng sau dẫn trước, hoặc giấu đầu lòi đuôi, che lấp đạo pháp hủy báng Phật tăng, chỉ thời lời riêng rốt cuộc không hồi chánh, Thánh triều minh giám đâu không soi xét.

Như ngu kiến của Khái tôi, vua chúa muốn được ngôi vị vững bền tuổi thọ lâu dài thì phải nối thạnh Phật pháp trồng công đức lành, từ bi giúp người dân, thắng tàn hại, bỏ giết chóc, rõ phần sinh tử, giữ tâm dùng đủ, nhận lời trung can ngăn, xa lìa lời nịnh thần gièm xiểm, như vậy thì kỳ hạn ba mươi tự xa, ngôi bảy trăm càng lâu bền, cho nên Hoài Nam Tử nói: "Thiên hạ có quý mà chẳng phải lập thế lực, có thọ mạng mà chẳng phải do ngàn năm".

7. Quyết phá thuyết: "Phong giáo Chu Khổng đưa cho Tây Vức mà Hồ quyết không chịu thực hành".

Khái tôi nghe rằng: Trọng Ni chết mà lời nhiệm mầu dứt, đệ tử mất mà đại nghĩa trái, từ đó sách phân tán lộn xộn, đến khi Tần Thỉ Hoàng đốt diệt, sách vở mất hết. Hán Vũ bèn hưng khởi văn nghệ lại mở rộng, đến ở chỗ quán có sân lớn, ở nhà đẹp đẽ, tu tập đạo vô vi, hành giáo không nói, dùng khiêm hạ làm đức thấp lòng làm tâm, chuyên nhậm trong sạch, dứt bặt nhân nghĩa, việc tốt đẹp chạy trốn dứt bỏ thân danh, trong chín dòng thì thuộc phái đạo gia. Cho nên sách Hán là Nghê Văn Chí nói: "Đạo lưu bởi rút ra ở sử quan, ghi chép đạo thành bại xưa nay có ba mươi bảy nhà, nay Lý Lão là một trong số đó. Đến em của Kiến Khang Trang dựng cung bia đá mở mang tông Nho học, hoằng thuật văn nghệ, dựng nước chế trị dẫn tục dạy dân, gom nhóm sửa soạn lễ nhạc, sắp đặt tựa hiến chương, trong chín dòng thuộc phái Nho học, cho nên sách Hán là Nghệ Văn Chí nói: Nho lưu bởi xuất xứ từ quan Tư đồ, biện âm dương rõ giáo hóa, tông Nghiêu, Thuấn, thầy Trọng Ni, có năm mươi hai nhà, nay nhà Nho truyền bá, trong chín phái hai hóa là trên hết, trong trăm nhà hai học là trước tiên, dùng riêng có nghi, đâu thể bỏ. Cái gì xướng đạo pháp là hư không mà trái tục, không thể cứu độ, Nho thuật chính là bàn giáo hóa mà thuận dân, có thể dẫn dắt vật, khảo xét mà nói chẳng phải không hơn thấp. Xét Lý Lão chuyên nhậm vô vi chỉ cầu tự độ, không có tâm rộng giúp, hạnh thiếu khiêm tha, gần giống như tự lợi của Thanh văn. Cho nên kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh nói: "Ma-ha Ca-diếp hóa thành Lão Tử" Ca-diếp đã là tiểu tâm, Lão Tử lại không có chí lớn, nói pháp hành tin mà chẳng lầm. Khổng Tử dùng nghệ thuật dạy dân lễ giáo giúp tục, ít tu tập lợi tha, lần học gồm giúp, lớn đồng lợi tha của Bồ-tát. Cho nên kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh nói: "Bồ-tát Nho Đồng hóa thành Khổng Khâu", Nho Đồng đã là đại tâm, Khổng Khâu lại có gồm giúp, nói pháp hạnh lý đâu luống dối.

Xét sách Lý việc đến kinh Khổng, giáo tích bèn chia lý đến cuối là một, nếu nói phong giáo Châu, Khổng đưa cho Tây Vức mà Hồ quyết không hành, ý Dịch đâu không phải là: "Hồ giáo đến đây người Hán cũng không được nhận". Nói theo loại thì cao thấp rất xa. Phật là Đại thánh giáo hóa khắp mười phương xa giáng oai linh, Hán Minh Đế đích thân thấy, vua quan mừng cảm, thứ dân quy tâm, cho nên sai sứ đi Tây xa đến tận Thiên Trúc, Ma Đằng theo đến truyền hóa tới nay. Chu, Khổng là tiểu thánh, đức cuộc hạn một phương không thể xa giáng oai linh, khiến kia thân cảm, cho nên người Tây Vức không có duyên sinh lòng tin, cũng không đến đây rước kinh Chu Khổng, vì vậy giáo đạo Khổng Tử không đi về nước Tây, do đây mà suy ức đoán rất dễ hiểu.

Luận rằng: Năm Tân mão đêm có ánh sáng, sứ nhà Lỗ truyền hóa tích kia, Bính Tý sao bừng sáng, sách Hán ghi oai linh kia, rồi sau tượng giáo từ Tây dời đến dòng pháp lần vào Đông độ. Từ Ma Đằng hàng phục nhà Hán sáng lập nhà dịch chân ngôn (kinh Phật), rương hòm phần nhiều vào cửa đầy sách nhà Phật bằng da cây, lá bối, xa truyền văn Thiên Trúc, lá ngọc thẻ vàng gần dịch lời Hán, từ ấy truyền bá cho đến nay, từ thời Hán Minh Đế trở lại trải qua mười lăm đời, người dịch có một trăm chín mươi sáu người, dịch ra kinh, luật, luận có hai ngàn một trăm bốn mươi lăm (2145) bộ, cộng chung có sáu ngàn một trăm năm mươi hai (6152) quyển, đây đều là âm Phạm giải thích chỗ truyền bá của Thiên Trúc. Luận kia hang rồng cất kinh trù mười phần chưa hết, núi Linh Thứu chứa pháp vạn bội mà nào cùng. Chỗ dịch ngày nay chỉ bấy nhiêu vậy. Xét đời vua kia ở sách sử kia, điển cáo làm minh cứ đâu đáng nghi ngờ? Xét kỹ đạo gia chú giải kinh sách, xưa không nay có, thật ít ngụy nhiều như Nghệ Văn Chí đã rõ. Đối đạo lưu tuy có ba mươi bảy nhà, bảy trăm chín mươi ba thiên, chỉ có bảy nhà và tám mươi hai thiên rõ là tự giữ đạo trong sạch của Lý Lão, còn ba mươi nhà và bảy trăm mười một thiên là đạo vua chúa trị dân giáo hóa xưa nay. Cho nên Thơ Pháp Bổn Nội nhà Hậu Hán truyền rằng: "Hán Minh Đế kế triều chính ngày mồng một tháng giêng niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn, năm gò, mười tám quán các núi, đạo sĩ Chử Thiện Tín v.v… sáu trăm chín mươi người nghe tiếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan đem kinh tượng Phật đến Lạc Dương, ngưỡng quốc kính sùng, thống lãnh cả nước quy hướng, Tín v.v… trong lòng ghen ghét, cầu muốn so tài, đem hết kinh sách của nhà đạo gồm có ba mươi bảy bộ, bảy trăm bốn mươi bốn quyển, bấy giờ trước lửa đốt, đều cháy sạch, Thiện Tín v.v… xấu hổ giận dữ tức tối mà chết.

Do đây mà suy, thời Hán Minh Đế kinh sách nhà đạo chỉ có ba mươi bảy bộ và bảy trăm bốn mươi bốn quyển, tuy có nhiều cuốn chẳng phải là kinh đạo, mà chỉ có năm trăm lẻ chín quyển là Thiên Tôn Đạo Quân nói, còn hai trăm ba mươi lăm quyển kia là sách của chư tử như Huỳnh Lão v.v…. Từ đây về sau, hơn số này đều là do đạo sĩ vọng làm thêm, không đáng tin. Cho đến đời Tống, đạo sĩ Lục Tu Tĩnh đáp Tống Minh Đế rằng: "Kinh sách đạo gia và phương thuốc, phù đồ gồm có một ngàn hai trăm hai mươi tám (1228) quyển, chỉ đây là chính còn bao nhiêu đều là sai", mà nay đạo sĩ hoặc xuất tình chế tạo, hoặc sửa đổi kinh Phật, thêm chân mục lục tăng thêm bộ hòm nói là có hai không trăm bốn mươi (2040) quyển, lại hơn số trước, bao nhiêu lời xằng bậy. Xin hỏi kinh xuất hiện sau của đạo sĩ là Thiên Tôn nói lại hay là Lão Tử bày trước? Dù cho nói kinh, nên có nơi chốn là ở tháng nào, năm nào, thời nào, vua nào? Như quyết có y cứ mới cho truyền bá, nếu dối vọng thì lẽ ra nên cắt bỏ. Lại, kẻ tục chế ra lấy làm kinh đạo, loại này số cũng nhiều, như kinh Thái Huyền là Dương Hùng soạn, kinh Đổng Huyền là do Vương Bao soạn, kinh Chỉ Quy là Nghiêm Quân Bình soạn, kinh Tam Hoàng là Bào Tĩnh soạn, kinh Khai Thiên là Trương Phán soạn, kinh Hóa Hồ là Vương

Phù soạn, hoặc lấy truyện ngày xưa, hoặc lấy bài của các nhà hiền triết, giả nhận sách tục đem làm giáo đạo, trộm kinh không đem làm kinh Lão.

Trước đã lược bày không thể nói lại nữa, như người nghèo túng quẩn trộm khánh báu của người làm tài bảo nhà mình, kẻ đói khốn cùng nuốt rau cải làm đồ ăn ngon. Như Khái tôi đã thấy, hai bài của Lão Tử chính là kinh của đạo, nương đó thực hành, còn bao nhiêu bộ khác đều là vọng nhận. Sự cần chánh, ngõ hầu biết đạo Lão khác với đạo Phật, Lý với Thích sai biệt, thì khiến chuột, ngọc không lộn, gay hay phụng phân biệt rõ, cho kẻ hậu học đâu nên lầm ư?

8. Quyết phá thuyết: "Gồm bàn Phật pháp dối nhiều thật ít, đạo nhân giả nói".

Khái tôi nghe rằng: "Chân thân tuyệt đối đãi, chẳng phải hình phương chất ngại để cầu. Chí lý xuất tình đâu thể lời lẽ nói bàn mà được". Lớn thay, mênh mông ngoài đại đạo, nhiệm mầu thay siêu vượt trong chân nhất. Vì thế bốn câu đốn quên, trăm phi rỗng suốt, cùng nói năng, tột suy nghĩ, vật đâu thể gọi tên. Nhưng vọng thức mênh mông, mê tình lúc nhúc, buông lung bốn cuồng mà chẳng tỉnh, đam mê năm say mà thêm nhiều tối tăm. Cho nên Đại thánh từ bi, chí ở cứu giúp, cho nên mở tích năm thừa, thông âm bốn biện, chẳng có thân mà hiện thân, thân đầy pháp giới, không nói mà bày nói, nói khắp đại thiên, cho nên có hóa thân như bụi cát phân tán mà chẳng hết, hằng sa pháp tạng giảng nói không cùng, cho nên kinh Tu-di Đồ nói: "Bồ-tát Bảo Ứng Thinh hóa thành Phục Hy, Bồ-tát Cát Tường hóa thành Nữ Oa, Nho Đồng hóa thành Khổng Khâu, Ca-diếp hóa thành Lý Lão, Diệu Đức gá thân Khai Sĩ, Năng Nhu đản sinh là Quốc sư".

Lại kinh Niết-bàn nói: Chỗ nào có kinh sách, ký luận, kỹ nghệ, văn chương, đều là Phật nói. Do đây suy ra, Ba Hoàng, Năm Đế, Khổng, Lý, Chu, Trang đều là hóa thân của Bồ-tát. Văn, chữ, tranh vẽ, thơ, chương, lễ, nhạc đều thuộc về tạng Phật pháp. Văn lý rõ ràng há là luống dối, mà Dịch chấp lời lầm lý, thấy hóa mê chân, chuyên dùng thấy hình vết mà chê bai, danh tướng cuộc hạn nơi đồ vật, dùng bùn gỗ để hủy Thánh, đem hình khắc vẽ để nạn chân. Nhưng khắc vẽ thay thế chân chứ đâu phải là chân Phật, bùn gỗ tiêu biểu cho Thánh, chẳng phải thật Phật có hình tượng, tượng giả chẳng phải chân, chẳng chân mà lập tượng, vì khiến nhờ thấy tượng để ngộ chân. Chẳng phải thật để bày tên vì khiến nhờ tên để ngộ thật, không tên không thật, người ngộ sở dĩ rỗng suốt là vì chẳng phải tượng chẳng phải chân, cho nên người hiểu, hiểu được sự nhiệm mầu. Huyền diệu thay chí lý của lời này, sâu xa thay cùng tột của lý đây. Vậy mà Dịch mờ nơi lý sâu mê nơi nghiệp báo, bất kể thân sau, chỉ tính trước mắt. Nếu nói muốn cầu giàu sang, chỉ cần ngựa khỏe chở thiết, ra sức giữ biên cương, không cần tạo tượng tu công đức để cầu phước đức, thì Võ Chu ngựa khỏe rất nhiều, Thế Sung giáp dày chẳng ít, ra sức chinh chiến, giữ vững biên cương, lẽ ra nên giàu sang mà nay đâu rồi?

Nếu nói muốn được vải lụa dồi dào, lúa bắp đầy đủ, mà chỉ trồng lại đậu mè, chứa nhóm phân hoại, không cần chép Niết-bàn ngàn bộ, tụng Pháp Hoa trăm biến để cầu phước lực. Kiến đức rộng chiếm ruộng dâu, Tiết Cử quá đủ phân ngựa, lẽ ra gieo trồng nhiều, đưa vào đầy kho, nay để ở đâu?

Nếu nói muốn được lúa thóc chứa đầy kho, cày bừa không sai, chỉ nên khai nương dẫn nước, tưới thấm ruộng gò, không cần chuyển kinh Hải Long Vương mười bộ để cầu mưa thấm, Túc Tiển chiếm cứ có Kinh Châu, đến đạp gấp bội, tưới thấm đúng thời thâu nạp, bảo vệ biên cương nay để ở đâu?

Do đây mà suy, hoàng đế Đại Đường của ta, trong thì trồng cội lành nương phước, ngoài thì ứng trời thuận dân, cho nên được Hoa Nhung dẫn theo đoàn hung trao đầu, kho vựa đầy ních, bờ cõi yên lành. Nếu chẳng trong ngoài hưởng phước thì đâu thể khắc phục khó khăn.

Nếu nó muốn cầu trung thần hiếu tử để giúp đời trị dân, chỉ đọc Hiếu Kinh một quyển, hai thiên Lão Tử, chứ không cần rộng đọc kinh Phật. Xét kinh này chỉ rõ trung hiếu của thế gian, chưa đề cập đến trung hiếu xuất thế. Vì sao? Vì phàm ở đời trọn đời cày cấy thờ cha hết sức, xuất gia tu đạo vâng theo pháp để khởi lòng từ. Hết sức là đáp ơn nhỏ hiện tiền, khởi lòng từ báo đức lớn tương lai, tuy tạm trái kính dưỡng, dường như khinh mạn mẹ cha mà trọn cứu giúp được mới là chí hiếu, đây thì lợi thấm ba đời, đâu chỉ nhọc nơi sớm tối, ân thấm trăm đời đâu trách sự nuôi nấng sáng chiều, so sánh tại gia xuất gia hơn kém thấy rõ.

Nói hai thiên Lão Tử đủ rõ tôi trung con hiếu giúp đời trị dân. Xét Lão Tử dứt lo, giữ chân, quên lòng, nhàm tục, bỏ cha chẳng đoái hoài, bỏ chúa như sót, thì chẳng lẽ luận thờ hiếu giữ trung trị dân giúp đời. Cho nên Lão Tử nói: "Ta sở dĩ có hoạn lớn vì ta có thân, ta không có thân thì nào có hoạn gì?" Đây khiến nhàm thân bỏ đời, đâu thể giúp đời. Lại nói: "Thân sang có thiên hạ là có thể tạm gá chứ không lâu bền". Hà Thượng Công chú rằng: "Vua quý thân mà khinh người, muốn làm chủ thiên hạ thì có thể tạm gởi chứ không thể ở lâu", đây là dạy xả tục bỏ vinh hoa, không thể để trị dân. Truyền Dịch lại ỷ hung bạo ngu dốt mà khua môi múa mép, lời phiền lý thiếu, nói ít mắng nhiều, buông sự sân độc cho người trung, mặc sức lấy lời ác cho kẻ mê, vì vậy tiếng cú vọ, hơi hôi thúi xông đầy thôn xóm, âm thanh ác độc như chim chẩm lần khắp nẻo đường, khiến cho tà đảng không biết, vui sướng truyền nhau, suốt thấy sĩ lưu thương tổn mà thương xót, riêng hộ giáo đạo, ghen ghét Phật tăng, vật loại cảm nhau, người và súc sinh đồng.

Có loại chó Xi-vưu sủa càng xe, bọn ăn trộm ghét phu tử, rất là quái lạ. Nhưng Dịch thấy Phật pháp tôn cao, chúng tăng quý thắng, ngồi trên đi trước, vua chúa sùng bái, triều thần cúi lạy, chùa tháp hoành tráng, cúng trai đầy tràn, thứ dân tranh về, nam nữ giành góp phần. Đến như trong huyền đàn sự đồng thôn vắng, trong trị quán lại giống xả hoang phế, nhân khi tế rượu, nhờ rượu thịt để gọi người, hoặc cậy lành dữ giả đưa lương thực đến vật. Người có chút hiểu biết đâu vắng vẻ, thường có tâm ganh ghét, đến đổi hư cấu lời phù phiếm gượng tướng vấp ngã, mắng nhiếc rất là hôi dơ, nguyền rủa tột lời ác, phỉ báng đây kỵ tai ương, biết hủy nhục đâu kể tội phước, dầu khiến trước mắt lửa cháy nước sôi không xứng tâm kia, thủ hạ của bọn đồ tể đâu nhàm vui kia. Sách nói: "Dân ác trên họ thú ác cùng bọn với họ" chính là nghĩa này.

Xưa Thôi Hạo nói với Ngụy Thái Võ, khiến phá diệt Phật pháp giết hại tăng ni, tự ở trong nhà lễ thờ tôn tượng. Thái Võ xét được giận kia kiêu dối liền giết chết bêu thây ngoài chợ, ra lệnh người đi đường đều đi phân vào miệng kia. Thái Võ lại chấn hưng Phật pháp kính thờ như lúc đầu. Lại Chu Võ Đế cuồng nghịch vô đạo, hủy diệt Phật pháp, thiêu đốt kinh tượng, phá hoại chùa tháp, bãi bỏ chúng tăng, thân sinh ra ghẻ dữ đau đớn mà chết.

Đây đều linh nghiệm rõ ràng ở thời cận đại, tôn sùng chép rõ, Thánh thượng suy nghĩ lâu rồi, soi xét tội nghiệp của Dịch, bị đọa ngục Nê-lê, nhiều kiếp trầm luân, rất đáng thương xót. Khái tôi thương tiếc bọn tà kia hiểu lầm, dùng lời chánh, nếu tỉnh lại bỏ đạo đâu xa, xin các đồng chí đều hiểu tâm này.

QUYỂN 13

THIÊN THỨ HAI: BIỆT HOẶC (PHẦN 9)

Biện chánh luận, mười dụ, chín châm. Thích Pháp Lâm Thiên thượng của mười dụ, đáp Thập Dị Luận của Lý đạo sĩ.

Có đạo sĩ khăn vàng tên Lý Trọng Khanh, học với Tạ Quản khuy, trí hổ thẹn ức đoán, khoa cánh chim trắng vọng quấy nhiễu Tung Hoa, đội ánh sáng bó đuốc mà tranh sự sáng rỡ của mặt trời mặt trăng, bèn làm mười dị chín mê chê lường chí Thánh. Tôi tức giận kia không biết, nghĩ kia đâu có tội, liền làm mười dụ để hiểu, chín châm để răn nhắc, dùng cánh tay chỉ ngõ hầu rõ suốt quân tử, rõ đây mà sửa cho chánh.

- Ngoại, Dị thứ nhất nói: Thái Thượng Lão Quân gá thần nơi ngọc nữ Huyền Diệu, xẻ hông bên trái mà sinh. Thích-ca Mâu-ni gá thai vào phu nhân Ma-da, khai hông bên phải mà sinh.

- Nội, Dị thứ nhất nói: Lão Quân trái ngược lẽ thường, gá nơi mục nữ mà ra bên trái. Thế Tôn thuận hóa nhân Thánh mẫu mà sinh bên phải.

Khai Sĩ nói: Xét Lư Cảnh Dụ, Tải Tân, Vi Xử Huyền… các tập giải năm ngàn văn, và Lương Nguyên Đế, Chu Hoằng Chính… xét nghĩa loại nói rằng: "Thái thượng có bốn nghĩa Tam Hoàng và Nghiêu Thuấn:. Nói thượng cố có vua đức lớn đây đến trên muôn dân, cho nên nói là Thái thượng. Quách Trang nói: Thời đó người hiền làm vua, tài không xứng đời thì làm quan. Lão Tử chẳng phải vua chẳng phải chúa, không ở trong bốn bậc, có điển cứ gì mà xưng Thái thượng? Xét Đạo Gia Huyền Diệu và Trung Đài Châu Thao Ngọc Trát… các kinh và Xuất Tắc Ký nói: "Lão do Lý mẫu sinh nên không nói có Huyền Diệu Ngọc Nữ", đã chẳng phải chánh thuyết, rất giả lầm bàn. Bộ Tiên Nhân Ngọc Lục nói: Vị Tiên không có vợ, Ngọc Nữ không có chồng, dẫu thọ thân nữ cuối cùng cũng không sinh đẻ", nếu có điềm này thật nói là đáng tốt đẹp, sao lại sử ký không ghi sách Chu Khổng chép, cầu hư trách thật, tin lời người luống dối.

Lễ nói rằng: "Thối quan không vị là tả thiên". Luận Ngữ nói: "Mặc áo trái vạt chẳng phải lễ", nếu cho trái hơn phải thì đạo sĩ hành đạo sao không xoay bên trái mà lại chuyển về bên phải ư? Chiếu thơ của nước đều nói là "như phải, đều thường thuận theo trời".

- Ngoại, Dị thứ hai nói: Lão Quân dạy xuống khai mở không sinh không diệt là trường sinh. Thích-ca lập giáo chỉ bày không diệt không sinh là thường diệt.

- Nội, Dụ thứ hai nói: "Lão Đam bẩm chất có sinh có diệt, sợ hoạn sinh nên khi sinh ra đã bạc đầu".

Thích-ca cưỡi voi thị hiện sinh diệt quy về vắng lặng của vắng lặng nên được thân sắc vàng sáng rỡ.

Khai Sĩ nói: Lão Tử nói rằng: "Ta có đại hoạn đâu gì bằng có thân, nếu ta không thân thì đâu có hoạn gì". Lý do của hoạn đâu gì bằng thân. Lão Tử đã lo có thân muốn cầu không khổ não, chưa khỏi đầu bạc không khác với đời, nếu nói trường sinh thì do đâu lại chết sớm?

- Ngoại, Dị thứ ba nói: Lão Quân ứng sinh ra ở đông hạ. Thích-ca giáng tích đản sinh ở Tây Nhung.

- Nội, dụ thứ ba nói: Lý Nhĩ đản sinh ở huyện Khổ của Đông Chu.

Năng Nhân giáng tích xuất hiện ở Thần Châu của Trung Hạ. Khai Sĩ nói: Luận Trí Độ nói: Ngàn ngàn chồng số nên gọi là tam thiên, quá hai ngàn nên nói đại thiên. Ca-duy-la-vệ ở giữa. Kinh Lâu Thán nói: Thông Hà dùng phía Đông gọi là Chấn

Đán, vì mặt trời lúc mới xuất hiện sáng rỡ ở góc phía Đông cho nên được tên. Chư Phật xuất hiện ở đời đều ở Trung Châu không sinh vùng biên ấp. Nếu sinh biên ấp thì đất bị nghiêng. Xét truyện Pháp Uyển, truyện Cao Tăng, Vĩnh Sơ Ký v.v… nói rằng: Nhà Tống, Hà Thừa Thiên cùng Pháp sư Trí Nghiêm tranh biện, Pháp sư nói: "Đất Trung Thiên Trúc, ngày hạ chí khi mặt trời ở giữa, cây thẳng đứng không có bóng. Nước Hán bóng đài đến kỳ lập biểu còn dư âm". Kinh Y Toán nói: "Trên trời một tấc dưới đất ngàn dặm, sao ngộ được?" Trung biên mới định ước sự soạn luận, nước Trung Thiên Trúc là trung tâm của đất, pháp giới riêng, biển lớn hơn năm muôn dặm, nếu y cứ bờ biển cõi Đông này thì có thể Chấn Đán vốn từ phía Đông, Ca-duy chưa chịu là Tây, lý kia xét rõ.

- Ngoại, Dị thứ tư nói: Lão Quân ngày Văn Vương là tôn sư của Hàng Châu.

Thích-ca, thời Trang Vương làm giáo chủ ở Kế Tân.

- Nội, Dụ thứ tư nói: Bá Dương trông coi tiêu quan thêm đầy tạng sử, không ở ngày Văn Vương, cũng chẳng phải thầy Hàng Châu.

Mâu-ni địa vị ở Thái tử, thân chứng đặc tôn, ngay năm thạnh của Chiêu Vương là giáo chủ của Diêm-phù.

Khai Sĩ nói: Sách Tiền Hán nói: "Khổng tử là thượng thượng lưu, là Thánh. Lão Tử là trung thượng lưu, là Hiền. Hà Yến Vương Bật nói: "Lão chưa bằng Thánh". Luận Nhị Giáo nói: "Trụ cột sử ở triều vốn chẳng phải hài hòa, ra Chu vào Tần vì Doãn nói đạo, không nghe chư hầu, không thấy Thiên tử", nếu là thầy nhà Chu mà sử không chứng minh, không phù hợp chánh thuyết, kia đáng được chăng? Xét Sử Ký Vương Kiệm Bá Gia Phổ nói: Lý là sau Cao Dương, thỉ tổ Cửu Diêu là Thuấn Lý Quan, vì y theo họ. Họ Lý hưng khởi ở Đam, trước Đam chưa có họ Lý (bộ mộc), chỉ có họ Lý (bộ ngọc), do sinh dưới gốc cây nên xưng họ Lý (bộ mộc). Con Lão Tử tên Tông, làm quan thời Ngụy Văn Hầu, bởi là người sáu nước cuối thời Xuân Thu. Đời Văn Vương đã không có họ Lý thì đâu được có Đam xuất hiện làm thầy nước Chu. Niên đại sai lầm không có y cứ. Bảo Phúc nói: "Xuất hiện đời Văn Vương, Kê Khang Hoàng Phủ Mật đều nói là "sinh cuối đời Ân", bởi chỉ văn dối của đạo chứ chẳng phải Quốc điển (sách nhà nước) chép.

- Ngoại, Dị thứ năm nói: Lão Quân giáng tích đời Chu Vương, ba ẩn ba hiện hơn năm trăm năm.

Thích-ca ứng sang thời Hồ Quốc một diệt một sinh thọ chỉ tám mươi tuổi.

- Nội, Dụ thứ năm nói: Họ Lý ba lần ẩn ba lần hiện, đã không có cớ đáng tin, giả khiến tính hơn năm trăm năm, vẫn xấu hổ với thọ mạng của rùa, hạc.

Pháp vương một lần diệt một lần sinh thị hiện bao gồm cả cát bụi, trong tám mươi năm dạy dỗ hằng sa chúng.

Khai Sĩ nói: Xét các sử chánh điển không có văn ba lần ẩn mất ba lần xuất hiện, Chỉ Tạng Căng các người điều khiển đồng xét nghĩa nêu rằng: "Vì Khổng nói gốc của nhân, nghĩa, lễ, nhạc bị một thời nghiền nát. Đời Vương ngàn nhà do tật bệnh gây ra". Lão Quân thọ một trăm tám mươi giới và kinh Thái Bình một trăm bảy mươi thiên làm hai thời, đến thời Hán An Đế trao cho Trương Thiên Sư Giáo Chánh Nhất Minh Oai, ở thời đó tự xưng là trụ cột sử sách của nhà Chu, được Thái thượng sai làm ba thời. Phàm ứng hình lập giáo phải nhờ có duyên, khuyến hóa độ người đều giúp đồ chúng, đâu có thể trong năm trăm năm hoàn toàn không có đệ tử, ba lần ẩn ba lần hiện không thấy môn nhân bẩm học nắm giữ. Thuyết yểu Nhiên Hà Hán Ô Hữu, truyện Ủy Hạng Không, ở nhà Chu xe cộ kém nhỏ bờm ngựa rủ tơ mượt, đến Hán thì sẽ có sáo, trống ồn ào, mây nhóm họp mưa ở Bảo Sưu Thần, chưa nghe thuyết kia. Hài Dị Ký nhà Tề không chép điềm linh này, vỗ ngực bàn tâm dối trá rất lắm.

- Ngoại, Dị thứ sáu nói: Lão Quân giáng thế ban đầu từ ngày thời Chu Văn, xong đến thời Khổng Tử (Khâu).

Thích-ca hạ sinh đầu tiên trong cung vua Tịnh Phạn, ngay đời Trang Vương của Trung Quốc.

- Nội, Dụ thứ sáu nói: Ca-diếp sinh năm Đinh mão thời Hoàn Vương, mất năm Nhâm ngọ thời Cảnh Vương, tuy qua thời Khổng Khâu nhưng chẳng xuất hiện ở đời Cơ Xương.

Điều Ngự đản sinh năm Giáp dần thời Chiêu Vương, thị tịch năm Nhâm thân thời Mục Vương là dòng dõi vua Tịnh Phạn, vốn sinh trước Trang Vương.

Khai Sĩ nói: Khổng Tử đến nước Chu, yết kiến Lão Đam mà học lễ, sử ký ghi đủ, còn làm thầy Văn Vương thì không có sách chứng minh. Xuất hiện cuối nhà Chu việc kia có thể tìm được. Nếu ở nhà Chu ban đầu sử văn không chép, lại xét Chu Lễ Quan Nghi đời Văn Vũ Thành Khang đều không có tên Trụ Sử Tàng Lại, phải là Chánh Phẩm Khuyết Điều là quan nhỏ ở cuối nhà Chu.

- Ngoại, Dị thứ bảy nói: Lão Quân lúc mới sinh là nhà Chu, già đến Lưu Sa, không lường đến chỗ mất đâu biết nơi chốn.

Thích-ca sinh ở Tây Vức chết ở Đề Hà kia, đệ tử đấm ngực quần chúng kêu khóc.

- Nội, Dụ thứ bảy nói: Lão Tử sinh ở làng Lại chôn ở xóm Hòe, rõ ở bài điếu của Tần Dật, nợ ở hình của Độn Thiên.

Cù-đàm xuất hiện ở cung vua, ẩn ở rừng hạc, truyền ở đời Hán Minh Đế, bí mật ở sách Lan Đài. Khai Sĩ nói: Trang Tử Nội Thiên nói: "Lão Đam chết, Tần Dật điếu ba lần kêu mà ra, đệ tử Lão Đam thấy quái lạ hỏi: "Ông không phải học trò Phu Tử ư?" Tần Dật nói: "Từ trước ta vào thấy người trẻ khóc như khóc cha, người già khóc như khóc con, người xưa cho là hình của Độn Thiên bèn cho là người, mà nay chẳng phải. Độn là ẩn, Thiên là khỏi, hình là thân". Lời đầu cho Lão Tử là tiên khỏi ràng buộc ẩn hình, nay thì không đúng. Than ôi! Kia xu nịnh để lấy tình người cho nên không khỏi chết, chẳng phải bọn ta".

- Ngoại, Dị thứ tám nói: Lão Đam đạp năm cầm mười mày xinh miệng vuông, hai chân xa nhau như góc mặt trời treo mặt trăng, đây là tướng bậc Thánh Trung Quốc.

Thích-ca mũi như kinh đỉnh (thẳng cao) mắt sáng như sao đẹp như sen xanh, đầu sinh búi tóc như xoắn ốc, đây là tướng Phật-đà Tây Vức.

- Nội, Dụ thứ tám nói: Lý Lão mày xinh miệng vuông, vì là tướng trưởng giả, đạp năm nắm mười chưa là tướng bậc Thánh.

Bà-già (Phật) nhóm mặt trời, dung mạo sắc vàng, đã bày điềm phải có, kỳ lạ là có chữ vạn, bánh xe ngàn căm, thật là nêu tướng bậc Thánh.

Khai Sĩ nói: Lão Tử trong thai các kinh nói rằng: Lão Đam sắc vàng, trán rộng, tai dài, mắt lớn, răng thưa, môi dày, tay có lằn chữ Thập, chân đạp vẽ hai chữ Ngũ, nhưng là tướng lạ của nhân gian, chẳng phải kỳ tư của Thánh. Truyện Ký nói: Lão Tử mũi thòng, đầu nhọn, miệng rộng, răng thưa, mắt lác, tai dài, tóc sắc xanh đen, môi dày, hình dáng như thế há lại so sánh với Phật ư? Như Lai thân cao trượng sáu, ngay thẳng không nghiêng ánh sáng chiếu xa bảy thước, các chỗ tối, đảnh có cục thịt hình búi tóc, tóc Phật xanh biếc, tai kín phủ xuống, mắt nhìn mở sáng, gò má sư tử, bảy hợp lưới đầy, miệng bốn mươi răng trắng vuông bằng thẳng, lưỡi có thể che mặt hình dáng như lá sen, tay trong ngoài nắm xòe lằn đều thành, lời nói vang như sấm đủ tám món âm thanh, trên ngực có chữ Vạn, dưới chân có bánh xe ngàn căm, dung sắc đỏ tía, tướng tốt khó gọi tên, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, phát ra một lằn ánh sáng mà địa ngục được dừng nghỉ, một khi giảng pháp khiến khổ đau được an ổn, nêu đủ ở các kinh, không cần chỉ ra.

- Ngoại, Dị thứ chín nói: Lão Quân lập giáo, kính nhượng oai nghi tự nương Trung Hạ.

Thích-ca chế pháp, nghiêm túc nghi dung lại dẫn dắt nước ngoài.

- Nội, Dụ thứ chín nói: Lão là người tục, làm quan ở cuối phẩm áo mũ lạy phục tự thờ triều chương.

Phật là Thánh chủ đạo trái với tục, áo, diện mạo, oai nghi đâu đồng phàm chế.

Khai Sĩ nói: Xưa Đan Dương, Dư Cửu Hưng soạn luận Minh Chân để bác đạo sĩ, đưa ra ngụy dối kia, nói rõ lời kia. Mặc đội áo khăn vải thô, chính là ngày xưa Nho đen đã mặc. Thời xưa, năm Đế đội khăn nai, Hứa Do mũ da, đều là y phục của thế tục, thân áo dài ba trượng sáu thước, có ba trăm sáu mươi tấc, nói pháp một năm ba mươi sáu tuần, hoặc tượng một năm ba trăm sáu mươi ngày. Tà áo trước có hai đai. Nói pháp âm dương hai phán, hai góc khăn lại pháp hai nghi. Họ Dư lại nói rằng: "Nếu hai đời Chu, Tần thì dùng mười tháng nhà Hạ làm năm, còn như phân chia thừa thiếu của thời đại mà chiết trừ, lại được số ba trăm sáu mươi ư? Xét Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng không bị phục đây. Xét Huỳnh Đế gặp linh của Hoàng Nhân Cửu Chân, lại hàng Đế Khốc đến Hạ Võ mở tạng Đồ Chung hai núi, cùng các y phục này không hề có y cứ. Xét nhà Chu có điềm chim sẻ đỏ, vả lại cảm điềm Đơn Trú tức phù hợp áo châu là y phục đời Hỏa Đức. Lão là người Chu gồm tiếp sử cuối, mũ giày bái phục tự thờ Hằng Nghi, tức nói là "Trị đầu vốn tên quỷ tốt, khăn vàng sách đỏ không bắt chước Bá Dương, chú nước hành thẻ thân sư họ Trương, chẳng phải đạo chẳng phải tục tổ tập học đạo phong của ai?"

- Ngoại, Dị thứ mười nói: Giáo của Lão Quân dùng phục lại hiếu từ làm gốc đức.

Pháp của Đức Thích-ca lấy bỏ thân thích làm hạnh đầu.

- Nội, Dụ thứ mười nói: Lão dạy cuồng trái giết hại cha mẹ làm hạnh đầu.

Thích-ca dạy nhân từ giúp bốn loài làm gốc đức.

Khai Sĩ nói: Nhữ Hóa Hồ Kinh nói: Hỷ muốn theo Đam, Đam nói: "Nếu có chí tâm theo ta đi, phải chặt đầu của bảy người như cha mẹ, vợ con… ông mới được đi". Hỷ bèn dốc lòng liền tự chặt đầu bảy người cha mẹ…, đem đầu đến trước Đam, liền thành bảy đầu heo". Đạo thuận trời đất, làm rồi không thương tổn hòa khí là hiếu. Đinh Lan cảm thông cây khô, Đổng Vĩnh hiếu cảm đến thiên nữ, cầm thú còn có mẹ con mà biết thân thuộc huống chi Đam, Hỷ, hành đạo ở thiên hạ mà chặt đầu cha mẹ mình, sao gọi là hiếu? Giết vợ con đâu gọi là từ?

- Nội, Dụ thứ mười đáp. Ngoại, Dị thứ mười.

Nội, tùng sinh có hơn kém thứ nhất, lập giáo có cạn sâu là thứ hai, lập đức có cao thấp là thứ ba, hóa duyên có rộng hẹp là thứ tư. Thọ yểu có dài ngắn là thứ năm, hóa tích có trước sau là thứ sáu. Dời đổi có sáng tối là thứ bảy. Tướng tốt có nhiều ít là thứ tám. Oai nghi có đồng khác là thứ chín.

Pháp môn có đốn tiệm là thứ mười.

Ngoại, tùng sinh trải phải khác nhau thứ nhất.

Ngoại luận rằng: Vạt áo phải thì Nhung, Địch tôn trọng, mạng phải là Trung Hoa tôn trọng, cho nên sách Xuân Thu nói: Trủng khanh không mạng, giới khanh có đó, không có cũng trái ư? Sử Ký nói: "Lận Tương Như Công lớn vị ở góc tương đối phải, rất hổ thẹn". Lại nói rằng: "Trương Nghi Tương bên phải nhà Tần bên trái nhà Ngụy. Quần Thủ Tương bên phải Hán mà bên trái nhà Ngụy, bởi nói rằng không tiện". Sách Lễ nói: "Tà đạo loạn quần phải giết chết", há chẳng phải là bên phải thì hơn mà trái là thua hay sao? Hoàng Phủ Mật Cao Sĩ Truyện nói: Lão Tử là tướng của Sở, nhà ở bờ nam

Quá Thủy, thầy thời Thường Tử, đến lúc Thường Tử bị bệnh, Nhĩ lại đến thăm bệnh". Khể Khương nói: "Lý Nhĩ theo Quyên Tử học thuật cửu tiên". Xét các sách của Thái Sử Công v.v…, không nói rằng: "Lão Tử xẻ hông trái mà sinh" đã không chánh xuất, không thể nương tin đã rõ. Xét biết quơ dao cầm búa, bởi trước Văn Võ, năm khí, ba quang là đầu của âm dương, ở đây là do Thích môn xoay bên phải lại phù hợp người dùng. Trương Lăng tà đạo tin nghịch thiên thường, vì sao? Thích-ca khởi lòng từ vô duyên, ứng gọi người có duyên, nói dấu vết kia, thì hạnh đầy ba tăng kỳ, tướng tròn trăm kiếp, giáng thần mà cưỡi voi ngọc, che chói mà đản sinh sắc vàng ròng, ba mươi hai điềm lành mở suốt nơi địa phủ, mười tám điềm lành làm giật mình cung Phạm Thiên, tướng linh khắp cả mười phương, thần quang hiển ở tám cực thuật gốc kia, từ lâu chứng viên minh, cát bụi đâu thể tính thọ mạng kia, đâu chỉ đến vịn cây mà hiện điềm rộng lớn, nhỏ bạc đầu mà bắt chước điềm tốt giống như đom đóm tranh ánh sáng với đèn rồng, mắt cá mà sánh với xà châu, là sự thua kém của đạo ông.

-Ngoại, giáo môn sinh diệt, cái khác thứ hai.

Ngoại luận rằng: Hễ đồng không sinh diệt lý kia thì đồng nhưng dẫn dắt phàm phu ở đời thì đều có khác nhau. Nhưng sinh là lý do ưa thích của chúng sinh, diệt là lý do ghen ghét của chúng sinh. Nhưng sinh đạo khó được, phải đợi công tu, diệt pháp để cầu há nhọc lãnh học, phải biết cưỡi thần lái cảnh tự có thể nhiều kiếp còn thân, khí hết hình mất, vốn phải một thời thần dứt. Đây là thứ hai, điều sai khác của giáo môn.

Nội, lập giáo có cạn sâu.

Nội, Dụ nói: Phàm diệt thân do sợ đại hoạn, tuyệt trí để tránh nhọc lâu dài, bàn sinh linh ở Huyền Vưu, Tề mất tánh ở Vương Nhạc, bởi bàn Lão Trang, vả lại thầm thầm thường trụ, cổ hoàng thì không chết không mất, ràng buộc không tên, họ Lão thì lại trở về không vật nhưng xưng thường còn chẳng hằng mất, vật đâu thể giáo hóa trường sinh? Vả lại rõ kia sâu cạn, đến như giữ gìn văn yếu mềm, luận tâm dối hay thật lòng, xét phù sinh có lượng, than thở trí thủy không bờ. Nói lớn thì cuộc hạn ở trong cõi, vòng tròn đồ gốm thì không ngoài tánh phần, bởi chí kia, há mở duyên không cùng với bậc Đại giác, chiếu thẳng viên cực, so lường nhỏ nhặt thì cùng nơi tuyệt chỗ hở, nghiên cứu lý thì khống chế nơi vô phương, mỹ khí mịt mờ chung hòa, thân thần đồng thái hư sánh bền chắc, lời lượng kia vậy, còn Tung Hoa và gò đất nhỏ khác ở sự cao lớn, biển cả đem so với giếng thì khác xa sự sâu, đây là kém thứ hai của đạo các ông. Ngoại, Phương vị Đông tây khác nhau, thứ ba.

Ngoại, luận rằng: Hai phương Đông Tây tự có âm dương khác nhau, hai vị trái phải liền thành nhân nghĩa khác nhau, nhân chỉ lớn thiện, dương lại thông sinh, nghĩa chủ sẽ thành, âm luận trừng giết. Hai khí là giáo thì âm không bằng dương. Năm đức là lời thì nhân sâu nghĩa cạn, đây là Phương vị khác nhau thứ ba.

(Phê rằng: Càn là dương là cha, vị ở Tây bắc, Khôn là âm là mẹ, quẻ ở Tây nam mới thạnh làng âm, lại là vị trong nam. Phương Nam thạnh đất dương lại thành ở trong nữ, nam nữ đã không có phương nhất định, âm dương không câu nị mà hằng chuẩn mực, sở dĩ mộc hại thể cho nên dùng tỵ làm kế thân, kim khắc mộc cho nên dùng ất làm tiếp canh. Còn đã vị cao bèn ở Tây bắc, chân có thể sinh ra vua lại ở phương Đông, còn như chỗ lễ, nếu Nam bắc là lót liền dùng phương Tây để trên, nói thuận càn là tôn. Đông tây bày đó liền dùng phương Nam làm trên, nói theo dương thạnh thì hơn kém tự thấy là nghĩa ở đây).

Nội, đức vị có cao thấp, thứ ba.

Nội, Dụ rằng: Hễ kim chồng mộc vợ, âm dương ai có thể hằng chấp. Ly Nam, khảm Bắc, nam nữ đâu có phương nhất định, cho nên Tý ngọ dùng Đông làm dương, chấp nam nữ sinh ở phương Đông. Tý ngọ dùng Tây làm âm, nói cha mẹ già ở phương Tây. Đây thì từ sinh già để phán âm dương, chẳng phải cao thấp để nói hơn kém, dù cho cha mẹ ở Tây chưa hẳn thấp, con cái ở phương Đông đâu dám hơn cha mẹ, vì chẳng có nghĩa thì không thành, nghĩa chẳng có nhân thì không nên, cho nên Tý ngọ dùng Đông là nhân cũng như cha Tây là nghĩa, tùy chỗ vị y cứ không lầm phương lớn. Nếu cuộc hạn phán chỗ sinh mà cuộc hạn phong vức, cũng phải là tây khương là nói Đại Vũ xuất hiện, do đức của nhân rộng đến luống uổng, Đông Di là chỗ sinh Văn Vương, giáo cắt thành hằng thiếu, nuốt giang nhận Hán, chẳng phải ở chỗ nhỏ hẹp của tiểu ải, phù vị, y cứ kinh không thần trạch của Hoàng đế (trước dẹp tà sau khen chánh).

Họ Thích, trên trời dưới đất rõ ràng ở chỗ tôn quý, trong ba cõi sáu đường, sừng sững suy nhiệm mầu kia, thêm dùng bạn tiểu học Nhị thừa, hàng đại tâm năm phẩm, thí như các ngôi sao vây quanh sao Bắc đẩu, như biển xanh đeo dính núi vàng, đủ khiến cho đầu nai mặt voi uốn nắn tâm chống cự.

Sáu dị mười tiên thần lễ, đâu chỉ hạ thấp từ giáp xuống hạng tầm thường, tôn Doãn Hỷ lên nơi quan sử, bẩm học mé răng (Cao Sĩ Truyện nói: Thường Tùng Tử Nhân Trương Kỳ hỏi Lão Tử nói: "E chẳng phải răng cứng mà mất lưỡi mềm nên còn ư?" Thường Tử nói "đúng") lấy danh ở trong tạng sử ư? Đây là điểm kém cỏi thứ ba của đạo ông.

Ngoại, Đốn giáo hóa Hoa Di khác nhau, thứ tư. Ngoại luận rằng: Lễ cách của Hoa Di, cao thấp chép từ sách vở cổ, bên chánh, đạo trái, hơn thua còn ở sách sử. Chúa của Nhung Địch không chấp nhận bèn xưng vương, làm vua của Sở Việt, cho nên chê là con, đâu thể nuôi dưỡng thợ nhỏ mình ta là đại sư của vua trời. Đây là điểm khác thứ tư của Hoa Di.

Nội, Hóa duyên có rộng hẹp.

Nội, Dụ rằng: Xét tựa đạo đức nói rằng: Lão Tử tu đạo tự ẩn, lấy vô danh làm sự việc, nêu ra liên quan, giáo của nhà Châu suy yếu bèn soạn hai thiên, nhưng sách vở nhà Châu là họ Lão soạn. Xét hai giáo, luận rằng: Năm ngàn văn cho thành lời mà Lão bàn với Doãn, bởi kể lại mà không làm ra. Lại chức chỉ ở vị tàng sử chẳng phải A Hoành, thầy của Long Châu toan chẳng phải Ô Hữu (trước dẹp tà, kế khen chánh). Thích-ca giáng thần ở Lavệ gá chất ở cung vua, trí thật sinh biết đạo, chỉ khắp giác, diễn tuệ sáng nơi trăm ức, trải mây pháp ở đại thiên, tánh linh thấm khắp mười phương, thần hóa sâu ở bốn biển, kinh sách như núi cao như gò đất, văn chương như rồng bay, như tượng (voi) chở, đầy tràn trong đây. Tuy mở ra thuật ngầm tính, đâu thể ghi điều nhỏ nhắn kia. Luận Trâu diễn Đàm-thiên, không cho bàn tính điều rất nhỏ, đâu thể chương giải thích mười tám văn bày năm ngàn lời mà thôi ư? Hận con chưa dòm tường cao đến đổi có sự hủy hại Vũ Thúc, cũng lại sao thương tổn ngày tháng, cho nên phần nhiều nghĩ kia không biết, đây là điểm kém cỏi thứ tư của đạo ông. Ngoại, bẩm sinh yểu hay thọ khác nhau thứ năm.

Ngoại luận rằng: Lão Quân đạo khế hợp trong vòng, đồng lượng với hư không, thần vượt ngoài tượng, tùy biến hóa không cùng, cho nên thọ mạng vốn không đồng với kẻ phàm, ẩn hiển rõ ràng khác với người tục.

Thích-ca mé sinh có hạn, thời kỳ thọ mạng ngắn ngủi, một lần diệt không thể tái sinh (Phê rằng: Lão Tử đã nói rằng trường sinh mà ngày nay ở quận huyện nào?). Tám mươi, sao thời kỳ nguy cấp dễ gãy (không bền), đây là thọ yểu khác nhau thứ năm.

Nội, thọ yểu có dài ngắn thứ năm.

Nội, Dụ nói: Bài tựa nói rằng: Nhớ họ Lý hoài thai tám mươi mốt năm bởi số thái dương thọ một trăm sáu mươi tuổi, ở trong thai đã quá nửa, ba lần biến năm trăm toan chẳng phải giả xưng kỳ quái. Thái Sử Công cho là Sở Lão, Lai Tử và Châu Thái Sử Đam đều là Lão Tử. Hoặc nói hai trăm ba mươi năm, hoặc nói một trăm sáu mươi năm, Hoàng Phủ Mật nói: "Sách của các nhà hiền triết gần là khó tin, chỉ có Tần đật có bài điếu lúc Lão Tử qua đời là đáng tin", người đời thấy Cốc Thần không chết thì cho là Huyền Tẫn cho nên người ưa việc bèn giả nương vào. Thần Tiên Truyện nói: Uất Hoa Tử, Lục Hồi Tử, Truyền Dự Tử, Thái Thành Tử, Xích tinh Tử, Võ Thành Tử, Doãn Thọ Tử, Chân Hành Tử, Tích Xạ Tử và Ấp tiên sinh v.v… đều là Lão Tử, chỉ thấy Toái Thơ không nêu ra Thần Tiên Thánh Kinh, không đáng y cứ để dùng.

Hễ có trời đất thì có đạo thuật, người đạo thuật đâu lúc nào tạm thiếu há riêng thường là một Lão Tử thôi ư? Đều do bọn học sau này ưa tôn sùng điều kỳ lạ, nếu muốn suy tôn Lão Tử khiến cho vô hạn, đạo sĩ thấy cạn muốn dùng Lão Tử làm thần dị khiến người học đời sau tin tưởng cho nên nói dối. Thành thật thay lời nói này, có thể làm gương soi. Phàm diệu lạc giúp ba đức bèn thành, pháp thân vì năm phần chỗ lập, đây do sinh diệt liền sát, tánh viên giác liền bày, hư không có gồm dung, nhiệm mầu của linh nghi tồn tại, cho nên được hình vượt tiêu biểu thấy nghe, danh dứt ngoài tình trần, vắng lặng thường vui, văn hệ chưa giải thích, nghi nhĩ tròn sáng, lời tượng đâu thể so lường. Tuy vua tây, đào thật, thường thục mà chẳng lâu dài, biển đông, ruộng dâu thường biến mà chẳng hằng, năm mây chín chuyển, thương dây chim tạm lưu lại, tuyết bay, sương đen so sánh ngựa chạy để khó tin bền, Chung Quỳ không có lâu của cây đại xuân, phù du ít có tuổi của rùa hạc, đây là điểm kém yếu thứ năm của đạo ông.

Ngoại, tùng sinh trước sau khác nhau thứ sáu.

Ngoại luận rằng: Hai kinh đạo Phật riêng bày thuyết kia, hoặc nói kiếp kiếp ra đời tranh việc không trước, hoặc đời đời sinh ra đua bày lâu xa, cái mênh mông đây khó biết thủ chứng. Nay nương truyện sử định thời đại kia, nhân luân mà nói thì già tôn trọng mà trẻ thì thấp. Hương đảng mà nói thì cũng là huynh trưởng mà em nhỏ, đây là trước sau khác nhau thứ sáu.

Nội, hóa tích có trước sau.

Nội, Dụ nói: Thích-ca đản sinh ở ban đầu của Thạnh Châu. Lão Tử sinh ở cuối của Cơ Quý. Luận năm thì hơn hai trăm năm, nói đời thì hơn mười đời vua, khí tỏ, năm xanh, phí ở thời Chiêu Trang, thần quang voi trắng chẳng quan hệ năm Hoàn Cảnh, nhưng mà sương mù tối trời người hèn dơ đất, Văn Trọng nghịch tế. Khổng Tử chẳng phải kia không trí, Tử Cầm hủy Thánh, ban cho cũng chê sai lời. Nói chút khó bốn ngựa theo không kịp, thành thật không dối (trước dẹp ngu sau khen Thánh). Rũ tích ứng phàm, gá chất nơi giả dối, đạp cơ hóa vật, đồng thọ trăm tuổi, cho nên quả cuộc hạn nhân tu, tướng tin do đây khởi hoặc, tuổi ngắn hóa rộng, Từ Thị dùng cho nên phát nghi, ngục lớn chẳng phải cân đá lường được, thí như tuổi thọ lâu dài mà còn xa tít, huyền linh chẳng phải trượng, thước chỗ biện, phương kiếp xa mà không cùng, đâu bằng hang rắn cầu tiên lật đời yểu kia, con sâu kén được thuốc còn chưa thể kéo dài tuổi bởi chim cút nương cánh chim bằng tình cờ bay cao, ngựa sâu, cùng ngựa lý tranh xa, đây là điểm kém thứ sáu của đạo ông.

Ngoại, dời thần trở về vắng lặng khác nhau thứ bảy.

Ngoại, luận rằng: Lão Quân ngày mới đản sinh đã không giống phàm, lúc mất đi cho nên phải khác đời. Sở dĩ Lưu Sa ở tây đi qua Hàm Cốc, bò xanh xuất hiện ở cõi nước, khí đỏ nổi trời, không lường trước sau đâu biết phương cõi, Thích-ca bệnh nguy ở Xá-vệ, bảo bỏ mạng ở song lâm, thiêu quan tài, đốt thi thể lại đồng pháp người Hồ. Khí tận thần dứt không hề khác phàm, đây là bỏ đời khác nhau thứ bảy.

Nội, dời đổi từ tạ có hiển có tối.

Nội, Dụ rằng: Bài tựa nói rằng: "Gá hình thai họ Lý, dạy người nghĩa có trước sau, đâu chẳng phải sinh diệt? Tức Trang Sinh nói rằng: "Lão Đam chết Tần đật phúng điếu, mà sinh thì nhờ làng, chết đến cây hòe ở thôn, trước sau chớ suy lường, sao như người mù kia ư? (Trước dẹp tà sau khen chánh). Đại từ giáo hóa, đức tròn duyên mãn từ tạ căn cơ liền mất, thuyền nhân chìm ở hai sông, mặt trời tuệ lặn ở Song Thọ, kia vị ở sáu trời tám nước, bạn pháp ngôi Thánh chúng. Vả lại chớp hợp với gió mạnh mây dồn mà mù nhóm, xá-lợi linh ứng điềm lành soi phước thù thắng ở cõi khác, tóc xanh móng hồng, hiển thần công ở khi hết cuộc đời, phải biết chỗ qua chớ lại, đức tốt rộng giúp. Chẳng hiển chẳng mờ gió thạnh Thinh Hoa, đâu đồng ở Đảnh Hồ mất, trở lại mả ở Kiều Sơn vẫn còn, Lưu Sa không quay về Phò Phong ở Sủng Không (Hoàng Giám nói: Mộ Huỳnh Đế ở Kiều Sơn, mồ Lão Tử ở Phù Phong), đây là điểm thua kém thứ bảy của đạo ông.

Ngoại, tướng tốt của Hiền thánh khác nhau thứ tám.

Ngoại luận rằng: Tướng tốt của bậc Thánh vốn khác phàm phu, hoặc tám màu, hai tròng, mắt sông, miệng biển, mặt rồng, bước hạc, phản nhà gởi cửa, đến như tóc cuốn tròn màu xanh, vốn hình trạng người, mũi cao, mắt sâu, là hình bình thường của người Hồ, đâu thể bậc Thánh của ta lấy làm tướng kỳ lạ. Nếu thờ Phật được quả báo này thì nam nữ Trung Quốc lại làm hình người Hồ, đây là tướng tốt khác nhau thứ tám.

Nội, tướng tốt có nhiều ít.

Nội, Dụ rằng: Thánh nhân tướng chất vô thường, tùy nơi mà hiển bày sự nhiệm mầu, do đây bậc Thánh rắn đầu rồng, (180) Đạo Mục lại ở Thượng Hoàng, Song Đồng là vua của bốn Nhũ, Đức Chiêu ở Trung Cổ, Chu Công lại nắm vẫn là một sợi lông của ngựa ký, tai Võ mày Tề chính là Phiến Ngọc của Côn Sơn (trước giải thích nghi sau khen chánh). Pháp thân đồng với Như như, không phương hướng, lý tuyệt xưng gọi, hóa thể do ứng vật, diệu chất hợp với danh ngôn, cho nên có ánh sáng sợi lông trắng mi xanh, môi như trái tần-bà, mắt như hoa sen tuyệt đẹp, tướng chữ Vạn ngàn bức khác vẻ đẹp mặt trời mặt trăng, dung nhan tuyệt sắc mà chẳng phải sắc, thể lìa tướng mà đầy đủ tướng, Bạc-câu có mà không đủ, Luân Vương đủ mà không sáng (kinh Tát-già nói: Chẳng phải sắc sinh tánh các tướng thù thắng, trăm phước thù thắng, tám mươi món tướng tốt trang nghiêm thân Phật, thí như bốn loài chúng sinh trong ba ngàn thế giới đều thành Luân Vương, lại gấp trăm lần nữa thì mới bằng công đức như sợi lông của Như Lai, lại thêm trăm lần nữa mới thành công đức một tướng tốt, lại thêm trăm lần nữa mới thành một tướng phước công đức, lại thêm trăm lần nữa mới thành công đức tướng sợi lông trắng giữa hai đầu chặng mày, lại thêm trăm lần nữa mới thành tướng vô kiến đảnh, lại thêm trăm lần nữa mới thành công đức tướng nhục kế). Vị Tiên thấy mà tự buồn than thở như lá sớm chiều, Phạm chí thấy mà khởi cảm mến khen linh hoa ít gặp, đâu chỉ đạp năm cầm mười để nêu sự kỳ lạ, Mông Đoạn để hiển dị (Tướng Luận của Tào Thực nói: Khổng Tử mặt như Mông, Chu Công hình như Đoạn). Há lại tranh đẹp với Dương Văn, mãnh thú tranh xinh với Sủng Liêm, đây là điểm thua kém thứ tám của đạo ông.

Ngoại, trung biểu oai nghi khác nhau thứ chín.

Ngoại luận rằng: Oai nghi đi đứng của Lão giáo là cúi lạy, vái chào, khăn đen, áo vàng, cầm hốt kéo che, pháp tượng nêu sáng, bởi là chế xưa của Hoa Hạ (Phê rằng: Đạo sĩ xưa nay vốn mặc áo nhà Nho không khác người đời. Đến thời Chu Võ mới có y phục riêng, hai mươi bốn đường may để ứng với hai mươi bốn khí âm dương, phát xuất tự nhân tình chứ không có điển cứ). Thích-ca dạy: Ca-sa vạt ở vai trái, vén bày vai phải, quần thì toàn bức vải may ngang, áo kỳ chi nửa miếng, đầu trọc bày đảnh, ngồi xổm như chồn, chó, chẳng xếp vào hàng người, là phong tục của Nhung Địch, há lại dùng hình đây chế oai nghi bọn ta. Đây là hình dung y phục khác nhau thứ chín.

Nội, Oai nghi có đồng, khác.

Nội, Dụ rằng: Ngọc bội, kim điêu đâu có thí cho người đốn củi, áo hoa sen, đai hoa tuệ đâu lên sân vua, cho nên ứng khí chẳng phải linh miếu đã bày, áo nhuộm khác với y phục triều tông. Cho nên nương với đạo, hoặc thuận cơ mà làm phép tắc cho muôn loài. Y cứ nơi đức, hoặc sửa thời mà thuận thế, đủ để cắt tóc vẽ thân. Trọng Ni xưng khéo của Thái Bá, trái thường hợp đạo, thi nhân đẹp như hoa cây đường đệ. Huống gì bậc sắp phản tánh lặng thần xa phàm lên Thánh mà chẳng khác, hình dung y phục chưa từng có ư. Cho nên khiến y, tượng, ruộng phước, món đồ, dây buộc khó lường, tiếng tơ đồng đâu mê hoặc được lỗ tai, châu đỏ không huyễn hoặc mắt, nhỏ hay to chớ khinh thường thể kia, tranh thế chớ gồm tâm kia, cho nên kinh nói rằng: La-hán chân nhân thanh sắc không thể làm nhiễm ô, vinh hoa địa vị không thể lay động, cần gì mũ hạc nói tước lại tự bó buộc, rõ ràng hà hơi mà xưng đạo ư? Lên cây tìm cá cách đó càng xa, khắc ghe đợi kiếm đâu chẳng là dốt, đây là điểm thua kém thứ chín của đạo ông.

Ngoại, lập quy tắc nghịch thuận khác nhau thứ mười.

Ngoại luận rằng: Lão Quân làm phép tắc chỉ có hiếu và trung, cứu đời độ người tột cùng từ ái, do đây thanh giáo thường truyền, trăm vua không đổi, gió huyền hằng giúp, vạn xưa không sai, cho nên trị nước sửa nhà thường là cách thức. Đạo Phật bỏ thân thuộc, không nhân không hiếu, đốt vua giết cha lại nói không tội, Điều-đạt bắn anh mắc tội Vô gián, do đây dẫn dắt phàm, lại càng thêm nhiều điều ác, dùng phép tắc này ở đời đâu thể sinh thiện, đây là nghịch thuận khác nhau thứ mười.

Nội, pháp môn có đốn tiệm.

Nội, Dụ rằng: Nghĩa chính là đạo đức đã kém, lễ sinh trung tín mỏng, quấy rầy nhân, chê bai thất phụ (đàn bà), đại hiếu còn không thiếu, nhưng đối hung (dữ) thì ca cười, trái với dung mạo của Trung Hạ, mai táng gõ chậu chẳng phải cách dạy của hoa tục (Nguyên Nhưỡng mẹ chết cõng hòm mà ca, Khổng Tử cứu giúp chẳng chê. Tử Tang chết, Tử Cống điếu, bốn con nhìn nhau cười. Trang Tử vợ chết gõ chậu mà ca), cho nên dùng hiếu dạy đó, sở dĩ kính thiên hạ làm cha người. Dạy đó dùng trung, kính thiên hạ làm vua người. Giáo hóa khắp muôn nước chính là minh quân chí nhân, hình ở bốn biển thật là hiếu lớn của vua Thánh. Kinh Phật nói: "Thức thể luân hồi trong sáu đường tất cả đều là cha mẹ, sinh tử thay đổi trong ba cõi, ai phân biệt được oán thân". Lại nói: "Vô minh che mắt tuệ, qua lại trong sinh tử, qua lại thường làm, lại xen nhau làm cha con, kẻ oán làm tri thức, tri thức làm kẻ oán, do đây Sa-môn bỏ tục theo chân đều giống với thiên thuộc, bỏ vinh là đạo, đồng hàm khí ở mình (tâm hành khắp chánh, ý đồng khắp thân). Vả lại đạo còn trong sạch trống rỗng, ông nặng ân ái, pháp bỏ bình đẳng chẳng lựa oán thân, đâu chẳng là lầm. Thế tranh bỏ thân thuộc văn sử rõ việc, Tề Hoàn, Sở Mục đều là hạng này, muốn so sánh với bậc Thánh đâu không lầm ư? Đây là điểm thua kém thứ mười của đạo ông.

Thiên cửu châm hạ Đáp luân về chín mê.

1. Nhà Chu không cơ,

2. Xây dựng tượng tháp.

3. Oai nghi khí phục.

4. Bỏ cày khất thực.

5. Giáo là gốc trị.

6. Đâu trái trung hiếu.

7. Tam bảo không đổi dời.

8. Khác phương mà đồng chế.

9. Thân già chẳng phải Phật.

Ngoại luận rằng: Nói chẳng phải chỉ ở lời lẽ tốt đẹp mà quý ở lý trung. Người ca chẳng phải ở âm hưởng mà quý chỗ giúp hợp tiết. Kinh Phật nói: "Khi Như Lai thuyết pháp Thiên tử các nước đều đến nhóm nghe, hoặc Phật phóng ánh sáng khắp cõi đại thiên". Nhưng ngày Đức Thích-ca còn ở đời nhằm triều Chu của ta, sử sách đã chép vốn không sai sót, chưa nghe vua trời đến Thông Lãnh, há là vua của Trung Hoa, không thiện chẳng dự đạo tràng, vua ở vùng biên địa thấp hèn có duyên khắp thấm nhuần tòa pháp, ánh sáng chiếu đến thì chúng sinh lìa khổ mà cõi này may mắn riêng không người ngộ, riêng cách ân ngoài không hề thấy nghe, mà hóa độ thì Năng Nhân không cho chọn riêng (Phê rằng: Ông không thấy nghiệp Phật, có lỗi chê Thánh đâu được oán thần, chỉ cần tự trách móc). Cầu tâm thật trách sai sự trái lời, dối trá rõ ràng, đáng gọi là hư ngụy, phàm phu không ngộ bèn theo bóng, tiếng chó sủa, ma đời không thể biết mê kia là một.

Nội, thứ nhất đời Chu không cơ.

Nội, châm rằng: Thuần Hy đẹp trời, người mù chớ soi sắc kia, sấm sét rung đất người mù đâu sợ tiếng vang kia, bởi tuyệt sự cơ cảm. Làm kẻ trộm hung bạo, trí Khổng Tử không làm dằn tâm kia, kết hận với người chẳng biết gì, cho sự biện luận đâu thể sự giận dữ kia, cũng khác tánh tình (Trang Tử nói: Khổng Tử thấy ăn trộm, ăn trộm lại trách Khổng tử, Khổng Tử sợ do dự mà lui. Lưu Tử nói: Ngựa Khổng Tử xâm hại lúa người, người kia chỉ giận con ngựa, Khổng Tử sai Tử Cống nói cho kia hiểu mà kia càng giận, bèn sai người nuôi ngựa nói thì kia lại vui). Cho nên sai hợp người thì muôn lý xa ứng, lực trái thì gan mật Sở Việt, huống gì từ vô thỉ rộng kết buồn thương sâu hơn biển cả, nghiệp hữu vi rộng, trần lao như gò lớn đối cao, các căn không thể đến ngay, cho nên dẫn dắt để chứa nhóm dần dần, các hạnh không thể tu đủ hết cho nên sách tấn để chia hạn, giống như trời đất ba lần biến hóa mới hợp với tự nhiên (Lão nói rằng: Người là pháp của đất, đất là pháp của trời, trời là pháp của đạo). Tề Lỗ lại biến bèn đến chỗ chí đạo, mây dày lúc trời mưa, nước cứng vừa đổ sương, đều là nghĩa lần nhóm. Cho nên Nhị Hoàng thống lãnh giáo hóa (kinh Tu-di Tứ Vức nói: Bồ-tát Ứng Thinh làm

Phục Hy, Bồ-tát Cát Tường làm Nữ Oa) ở đầu của thuần phong, Ba Thánh lập lời (kinh Không Tịch Sở Vấn nói: Ca-diếp làm Lão Tử, Nho Đồng làm Khổng Tử, Quang Tịnh làm Nhan Hồi) khởi cuối cùng của kỷ thuần. Ý chỉ Huyền Hư Xung Nhất, Huỳnh Lão thạnh lời bàn kia, văn thi, thơ, lễ, nhạc, Chu Khổng thạnh giáo kia, rõ gồm giữ chất bèn lên bậc Thánh. Ba úy năm thường là lý do lần lần của trời, người, bởi thầm phù hợp lý Phật, chẳng phải cực âm bàn chánh biện. Vẫn như hỏi đạo ở người câm điếc, phương cờ đầu đâu cùng xa gần. Hỏi luật ở thơ ngựa, biết giúp mà không suy lường cạn sâu. Do đây mà bàn đời Ân Chu chẳng phải đạo Phật chỗ nên hành, dụ như ánh sáng mặt trời rực rỡ, trẻ nhỏ không thể nhìn thẳng mắt, sấm vang sét đánh người yếu không thể căng tai mà nghe, do đây ao sông tràn đầy, Chiêu Vương sợ ngày sinh mây chớp đổi sắc, Mục Hậu vui mừng kia mất Thánh (Chu Thơ Dị Ký chép: Chiêu Vương ngày mồng tám tháng tư năm thứ hai mươi bốn, sông, suối, ao, rạch, đều đầy tràn, đến thời Mục Vương vào ngày mười lăm tháng hai năm thứ năm mươi hai gió dữ nổi lên, cây ngã cành gãy, mây đen vần vũ cả bầu trời, có điềm quái lạ là cầu vồng màu trắng) há có thể vượt sông mà lãnh thọ giáo hóa, băng qua Tuyết Lãnh mà bắt chước cho thành thật. Kinh Tịnh Danh nói: "Là lỗi ở người mù chứ chẳng phải mặt trời mặt trăng không sáng", còn như muốn cùng tột biện đục lỗ của kia sự thương tổn tình ngu tối của con ta, ông chẳng thể biết được. Kia là sự đui mù thứ nhất.

Ngoại luận rằng: Phàm núi đồng lở đổ thì chuông ứng màng xám trăng khuyết thì ánh sáng thiếu, chưa thấy hổ gầm thét mà gió không sinh, rồng vọt lên mà mây không nổi. Nay Thích-ca nói là Phật lực trên hết, một niệm vận tâm không đâu chẳng đến ứng, cho nên phàm tục đều dốc tài sản tranh nhau xây dựng tháp miếu, không tiếc châu báu đua làm chùa chiền, hoặc khắc khuôn mẫu đất, tạc gỗ đàn, vẽ hình trạng của Huân Hồ, nấu vàng dệt vải làm dung mạo Di Địch, nhiệm mầu tận Đan Thanh, khéo léo tột cung dao khắc, một bái một lạy trông mong cảm thông, từ pháp Hồ lần về Nam đã qua hơn sáu trăm năm, nước Hán chí thành cung kính mà không gặp Điều Ngự, nếu nói giáo hóa không đến đây, tức là không linh, cuồng hoặc người nghe, dối bàn oai lực mà đời không thể biết, đây là cái mê thứ hai.

Nội, xây tháp tạo tượng, thứ hai.

Nội, châm rằng: Tả Triệt mến Thánh, khắc tượng mà lạy Hiên Hoàng, Câu Tiển suy nghĩ bậc Hiền mà nấu vàng làm khuôn Phạm Lãi, Đinh Lan chí hiếu khắc hình thế người thân, Nhan Tại giúp nhân từ, lấy lụa màu mà vẽ Thánh, cho nên khiến hình lo mừng ở dung sắc, tinh thành thông nơi giấc mộng cũng là chí thành kia. Đâu bằng Đao-lợi không hai, Ưu Điền do đây khắc cây, Kiên Lâm mờ hình A Thâu vì thế đúc vàng, gá tướng đẹp ở Đan Thanh, gởi linh nghi ở Sằn Ốc, hoặc thấy chân ngồi tránh vẽ diện mạo xoay thân (Cảm Ứng Truyện nói: Chùa Trường Can ở Dương Châu có tượng vua A-dục, người muốn bắt chước khuôn đó vẽ, tăng trong chùa sợ tổn sắc vàng nên không cho, chủ tạo tượng bèn chí tâm phát nguyện: "Nếu tinh thành mà có cảm xin tượng xoay mình về hướng Tây". Vì thế, ở lầu cao đóng kín mà sáng ngày mai mở cửa ra thấy thân tượng rõ ràng đã xoay về hướng Tây, bèn cho vẽ), thần ứng không cùng xưa nay còn đó.

Từ khi tượng về hướng Đông giúp chánh hóa, dời về Nam đêm mộng thấy người vàng, sông nổi ngựa ngọc, ánh sáng thần dẫn dắt ở sông Tương, điềm ứng đẹp phát ở Đàn Khê (Cảm Ứng Truyện nói: Chùa Phát Mông ở Lư Lăng có tượng vua Adục ghi rằng: Thân tượng xuất hiện ở Lư Lăng, ba lằn sáng điềm lành phát sáng ở Tương Châu sáng tối đều phóng ánh sáng chiếu rực rỡ ven bờ. Chùa Đàn Khê ở Võ Xương có điềm tượng thân xuất hiện ở Đàn Khê ánh sáng rực rỡ trên mặt nước). Trường Sa nên vẽ đẹp như nhóm rộng, chỉ nói lược thôi. Như ở sông Thần Lâm Bảo Sưu có nói nghiệm chứng và điềm ứng Minh Tường U Minh Lục, Cảm Ứng Truyện v.v…

Từ thời Hán Minh Đế về sau đến Tề, Lương, vua quan giữ bờ cõi, thiện nam tín nữ và Tỳ-kheo ni v.v… thầm cảm đến Thánh, mắt thấy thần quang, có hơn hai trăm người, còn như thấy tích muôn núi nổi sáng rỡ Hổ Độc, dưới Thanh Đài thấy dung mạo mặt trăng tròn, ngoài Hùng Môn nhìn bóng tướng luân, Nam Bình được ứng ở điềm tượng, Văn Tuyên cảm mộng ở răng Thánh, Túc Mậu một phen đúc tức khắc thành, Tống Hoàng bốn lần đúc mà không xong, nêu điềm kia rất nhiều không thể bày đủ, đâu thể do ông không có mắt mà chê kia không có linh cảm ư? Nhưng đức không đâu chẳng đủ gọi là Niết-bàn, đạo đâu chẳng thông gọi là Bồ-đề, trí không nơi nào chẳng khắp gọi là Phật-đà, do đây tiếng Hán dịch lời Phạm kia thì Phật của đây kia rõ ràng đáng tin. Dùng gì làm rõ? Phàm Phật-đà tiếng Hán gọi là Đại Giác, Bồ-đề tiếng Hán gọi là Đại đạo, Niết-bàn gọi là Vô vi, mà ta suốt ngày đạp đất Bồ-đề, không biết đại đạo là tên khác của Bồ-đề, nhận hình cảnh đại giác chưa nghe đại giác là dịch tên Phật-đà. Cho nên Trang Chu nói: "Vả lại có đại giác mà sau mới biết đại mộng". Quách chú rằng: "Giác là bậc Thánh", nói ngu ở trong lòng là đều chưa ngộ, Khâu và ông đều là mộng. Chú giải rằng: Phu Tử cùng Tử Du chưa thể quên lời mà thần giải, cho nên chẳng phải đại giác". Quân Tử nói: Khổng Khâu bàn đây cũng hết", Niết-bàn tịch chiếu không thể biết được, không thể trí hiểu được, thì đường ngôn ngữ dứt mà chỗ tâm hành diệt, cho nên quên lời. Pháp thân chính là ba điểm bốn đức tạo thành, rõ ràng không lụy, nên gọi là giải thoát, đây là thần giải mà hoạn dứt. Phu Tử tuy là Thánh, xa dùng suy lường công với Phật. Vì sao? Vì xét Lưu Hướng Cổ Cựu Nhị Lục nói: "Kinh Phật đến Trung Hạ sau một trăm năm mươi năm, Lão Tử mới nói Ngũ Thiên Văn, nhưng Chu và Lão đều thấy kinh Phật đã nói ngôn giáo thường thường có thể nghiệm. Cho nên Phu Tử có nói rằng: "Lý Dịch là vô vi, không suy nghĩ, vắng lặng bất động, cảm mà thông, chẳng phải bậc chí thần trong thiên hạ thì ai sánh được với đây". Nay tôi khởi lời, ông phải bỏ nhóm mê, mà đâu ngộ trễ. Chế tạo chi đề kia lưu càng xa, vừa đóng vừa trồng, so sánh bấy nhiêu dùng trung thành hiển mộ, chớ cắt chớ đốn lần lữa mỗi mùa để trong sạch mả cấm, bốn dân ôm ấp mười điều lành, xa xôi ân Luân Vương, ba cõi tôn quý sáu thông, tuyên dương đức La-hán (kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Bốn người được trồng". Thâu-bà, tiếng Hán là trùng (mộ) nghĩa là Luân Vương, La-hán, Bíchchi, Phật (Như Lai), huống chi trí khắp mười lực, đức đủ bốn hoằng, diệu biện khế hợp với quên lời, hay rủ lòng dạy không suy lường, cực sáng nơi không gì soi đến, đem cho ngọn đuốc ở chỗ tối tăm, cho nên có lò hương bình vàng, toàn thân khắp tám nước ánh sáng lành tốt đầy đủ, tán thể khắp cả mười phương, làm ánh sáng năm sắc, xoay ở hư không bày nơi đời Hán tám sắc màu sáng rỡ. Thần ứng hiển ở cung nhà Ngô, linh khám trăm gương, tháp màu ngàn hoa, tay nương mây sương, tiếng chuông nơi gió cao, trụ tím, cột hồng nổi xa cõi hư không, cánh côn, chân phụng xa đón hư không. Tột dung nhan tráng lệ, cùng đẹp đẽ thay đổi, đâu thể kính nhìn núi cao, chỉ không quên cảnh hạnh, sùng biểu tuấn thiếu cây, nêu kế hoạch lớn mà thôi ư? Không dùng biện bàn vách giếng mà chê biển cả rộng hẹp, trí cây du cây phương mà sánh cao thấp với Côn Luân ư, mà ông không biết, là sự đui mù thứ hai.

Ngoại luận rằng: Lễ nghĩa là lời dạy nhiệm mầu của thành đức, trung hiếu là hạnh gốc lập thân, chưa thấy thần dân mất lễ mà nước được tồn tại, con cháu bất hiếu mà nhà kia có thể đứng vững. Nay Cù-đàm chế pháp quyết khiến áo giống y phục Hồ, tức là thầy trong loài người, miệng tụng Di ngôn thì đó là tôn quý của thế gian, đến đỗi bọn vô lại do đây trái nghịch ngồi xổm trên cả cha anh, tự gọi là trong môn, ngạo mạn trước vua chúa bèn xưng là dòng Thích, không nhân không hiếu mình chấp nơi nhà, không lễ không kính phục hình nơi nước (Phê rằng: Lễ rằng "Con là làm cha tế mẹ lạy là sự dối cao cũng đáng là không lễ không hiếu") đây thì nhà nhà sinh ra con như chim cú, chim kính, người người nuôi dưỡng con như chó sói, vỗ ngực luận tâm thật đáng đau đớn. Thiên đạp không thân thuộc, Hoa Di cách xa chỉ có đức là giúp đâu chia Hồ Hán, há có thể đội khăn tu thiện riêng không hơn phước, đầu trọc hạnh đàn riêng có thể cảm quả, do tuệ đâu thể đợi cạo đầu giữ chân không nhọc hủy hình vóc, mà đời không thể biết đây là cái mê thứ ba.

Nội, chỉ oai nghi khí phục.

Nội, châm rằng: Huyền Thánh sáng lập kinh điển, dùng nhân quả làm tông, sách tấn vua bày sự dạy dỗ dùng danh giáo làm gốc, danh giáo tồn tại thì trị quốc thạnh. Nhân quả mong đợi nơi đạo lập, lập đạo đã bỏ ái ở đầu, thạnh trị cũng trung hiếu ở trước, hai nghĩa cách nhau xa, đâu thể cùng ngày mà nói. Sa-môn chính là hạnh vượt tục, nêu tâm ngoài trần tục oai nghi tiến đến phi pháp bất động, dung mạo, y phục, ứng khí không làm, cho nên nhuộm bùn là muôn chất đồng quy về, áo đen là các màu hoại sắc, giản dị dẫn dắt giải thoát, điều cách tượng trưng phước điền, mặc lệch chỉ bày có làm việc nhọc nhằn, (Lễ nói rằng: Chấp là tổ chức) thiếu tay áo là ở làm việc (Luận Ngữ nói:

Áo lông áo da tay phải dài ngắn là để tiện làm việc). Thánh chế có lý do không hề luống uổng. Do đây bỏ ái tổn thân thuộc kính mong các Thánh, xả bỏ thanh sắc, vâng theo phạm hạnh, cạo bỏ râu tóc xa lìa vinh hoa, hình dung nghiêm túc, chất không mất cung kính, dùng áo cắt rọc bảo vệ thân mạng, lời không dối trá lìa bỏ tà nịnh, tiếng hòa khí vui vào vô tránh (không tranh giành) bỏ nhận an tường dè dặt từng lời, đời quý đâu bị khuất phục mạnh mẽ giữ thẳng ngay, trong sạch không theo danh lợi thuận theo tánh đạo, tà tướng không cản trở, trụ nơi tám chánh, nhan sắc khiêm hạ cung kính thương xót các người bệnh, người trời kính ngưỡng, ba nghiệp trong sạch, cùng tột nhiệm mầu chân chánh vì chứng lấy rốt ráo, lòng nhân rộng giúp cũng giàu trung hiếu. Đạo sĩ thì không như vậy, nói mộ đạo mà tâm không chân thật, gọi là bỏ nhà mà hình không khác tục, đội mũ tròn mà không soi tượng đen, mang giày vuông mà thiếu rõ địa lý, mặc theo Nam Trịnh ngược khăn của Hán, cầm cờ công mà công kích cái hốt của nhà, trang sức mặt trời đạo họa y phục của Tống, con cháu ân bại áo của Tấn, nghiệp sống hằng ngày không bỏ, làm chuyện tầm thường trước không xấu hổ, cợt nhã cả đời lễ trung hiếu thiếu kém, cầu tiên thì đạo cao thượng lại thiếu, giống như con ruồi lại nói về trắng đen, con dơi bàn có chuột hay chim, bởi đều là bọn yêu hoặc, ông lại không tự thấy đây là sự đui mù thứ ba.

(Kinh Chánh Pháp Niệm nói rằng: Thí như con dơi, người đi bắt chim thì lại vào hang làm chuột, người đi bắt chuột thì ra khỏi hang làm chim. Nay tế rượu thản nhiên chứa vợ con cho là từ ái, khuyên cày cấy cho là không hủy tóc da, đến lúc vua đòi dịch điều động nhân lực thì lại nói là xuất gia cũng giống như con dơi ra vào hang).

Ngoại luận rằng: Bậc Thánh ứng thế vốn để giúp ích cho chúng sinh, không ngước xem cúi xét lợi an cho chúng sinh, do đây mùi cỏ không hợp tinh của ngũ cốc, trồng dâu đầy bông tơ miệng tằm, cho nên rũ y áo giữ cày cấy, lập lúa thẳng ngay, dệt vải để lợi trăm họ, vì thế ở đây nếu một người phụ nữ không dệt vải thì thiên hạ bị khổ rét lạnh, một người nam không cày ruộng thì thiên hạ bị thiếu ăn. Nay Thích-ca lập pháp không dệt không cày, kinh không pháp tuyệt hạt, ruộng không người trồng cày cấy, giáo thiếu phương chuyển luyện, nghiệp bỏ không người vợ dệt vải, là biết ôm bát, cầm gậy nuôi miệng nhờ ai, y riêng che vai trái là nương ở đâu, cho nên phải trong một năm đói lạnh chung đến, chưa nghe có lợi ích, đã thấy khốn cùng đời không thể biết, đây là cái mê thứ tư.

Nội, thứ tư chỉ bỏ cày khất thực.

Nội, châm rằng: Mưu cầu đạo trước không phải vì ăn, giữ tín quyết sau bị đói, do đây Kiệt bị chìm đắm chuộng cày, Khổng Tử ví như các cầm thú, Phần cần học cấy, Trọng Ni chê là tiểu nhân, chức quan thấp không địa vị mà lãnh lộc là cao hiền, dân đen chẳng làm quan mà được ban cho là bậc trong sạch. Đạo của người lành cần gì phải cày cấy, ta xin nói với ông, giáo lý nhà Phật nghiệm ở nhân quả, gồm nguồn rộng lớn của ba đời. Tiên đạo còn ở vàng ngọc, luống nhọc một đời, vì sao ngu, hiền, thọ, yểu lại tin vào chỉ tay, nghèo, giàu, sang, hèn cảm nơi trước mắt, báo ứng thì hình bóng không sai, nghiệp duyên cũng như tiếng và âm vang chẳng khác, đây là ý chỉ nhà Phật, chữ ta chưa thấy uống thuốc chẳng chết ăn dịch trường sinh.

Thơ xưa nói: "Uống ăn cầu thần tiên, phần nhiều là thuốc lầm, không bằng uống rượu ngon, giúp mặc lụa cùng vóc, gởi lời người đời sau, chớ làm đạo sĩ, nói dối bỏ công phu, phí mất năm tháng". Ông có phương chuyển luyện, vì sao lại xin ruộng đất, lại bàn vợ dệt vải. Phải biết chứa vợ ở phòng cho nên đạo sĩ chuyên cày nữ giới, siêng dệt mũ, làm gì đâu đủ nuôi miệng, hằng thiếu giúp thân, như kia không dệt không cày, liền rơi vào chỗ thua, trộm thấy lầu nhìn khăn vàng, cởi bỏ da nai mà nhờ đất, huyền đô quỷ tốt bỏ áo choàng mà trồng cấy, đã không người gieo hạt lại hổ thẹn khách nhọc làm, tự buông thả tự giày vò, đói ở trong kia, nhọc hình xót tâm thì có đạo gì? Xét nhàn Hán đặt năm đầu ở năm Nhâm tý, đạo sĩ Trương Lăng phân chia Huỳnh Thơ nói: Nam nữ có pháp hòa hợp ba, năm, bảy, chín đạo giao tiếp, đạo kia thật quyết ở đơn điền, đơn điền là cửa ngọc. Chỉ dùng cấm bí là gấp, không chấp nhận tiết lộ ra đường, con đường chìm Khổng. Ôi! Thầy bạn cha mẹ là tên của gốc xấu xa". Lại nói rằng: "Con gái chưa gả, mười bốn trở lên có đạo quyết rõ", cho nên chú giải Ngũ Thiên Văn nói: "Đạo có thể nói gọi là sớm ăn ngon, chẳng phải thường đạo là chiều thành phân". Hai món đồng nêu ra mà tên khác, nghĩa là mũi và miệng, khen tốt thuật này con cháu ba đời nói nhau thực hành. Pháp ông như vậy dễ loạn nhân dân, nếu khuyên trăm họ làm theo pháp của ông thì bất hiếu bất kính, đời sinh ra giống sói lang không lễ không nghĩa, nhà sinh ra con cái như chim cú chim quạ. Nếu nói về người gởi hàng hóa, lượm ngựa châu không quên cái sâu của chín xoáy. Người tìm ngọc hoa phác theo sự lóng lánh không kiêng dè nguy hiểm của ba lần rập khuôn, là quý của báu. Người ngộ chí đạo dòm nơi cửa kia khinh lợi thế gian nhẹ như lông hồng, vào góc rẽ bỏ địa vị vinh hiển như dây củ là vì xem trọng chân, cho nên có thể khiến người nhọc mệt mà không kể sức mình, khách nghèo không tiếc tiền của mình, bởi mong lợi ích thầm, chẳng phải kia mê.

Còn như tiên thuật vọng đản sinh nguồn gốc lâu xa. Nhà Hán hết, họ Từ có phước mới lừa bịp nước Tần, văn thành năm lợi nói sự dối trá ở nước Hán. Bày sự kềm chế chim hạc phí cái thật mây lục ở trước mắt, nói ăn ráng đỏ đâu thấy tin trị cơn đói, còn như có con khỉ làm bàn loài sò (Biện Đạo Luận của Tào Trực nói: Vị Tiên thuộc đàn khỉ vượn, cho người đời được đạo hóa thành tiên như gà xuống biển hóa thành sò, yến vào biển hóa làm nghêu, ngay lúc lưỡng lự thì cánh sa xuống ao, cánh còn tự biết, bỗng nhiên tự chìm thân thể biến hóa bèn làm con ba ba, há lại biết vỗ cánh đến rừng mỏng lầm ổ ư? Trâu bệnh yếu mà lại gặp hổ thì trâu kia bị hổ nuốt, nếu như vậy thì biến hóa đâu quý gì?). Bàn về buột gió bắt bóng, cho nên bỏ đồ thật dùng đồ giả, bỏ ruộng chai lại dùng nghề khó, chê tà đạo lại lấy sự dối trá, bởi xét thật thì nhóm chứa kia đã đồng, luống dối thì chứa nhóm kia đã khác, lý phù hợp thì đời trọng, tình dối trá thì mọi người lánh xa, đây là việc thường đâu thể gọi là mê? Đạo thấp Phật cao cũng là đúng, mà chẳng tự biết, là sự đui mù thứ tư của ông.

Ngoại luận rằng: Nước dùng dân làm gốc, gốc chắc thì nước an, do đây ban cho và nuôi dưỡng cửa con, ân lưu lại nhà thai vợ cho nên con cháu cúng tế đời đời không thiếu, dầu chí hiếu hủy thân cũng không đến nỗi dứt con cháu nối dòng, cho nên được nước nhà giàu mạnh, thiên hạ xương thạnh. Chưa nghe nhân dân điêu tàn nước nhà lại được tồn tại. Nay Phật giáo không vợ không thiếp gọi là thờ pháp, chỉ có việc chết sớm gọi là được Niếtbàn, đã thiếu phương thức trường sinh lại không có thuật bất tử, đây là trong một đời nước nhà hoang trống. Người đời tuy muốn cầu phước, không biết hình mạng đến chỗ tàn, tranh mộ an nhà đâu biết tông yên vào nơi diệt, có thể gọi là sợ chết mà uống câu vẫn, sợ chết chìm mà nhảy xuống sông lớn. Vả lại đời của Thiên Hoàng, Địa Hoàng không Phật mà ngôi bền vững, hậu Triệu, hậu Ngụy về sau có tăng mà vận nước ngắn, chánh là do chân ngụy lẫn lộn, lễ nhạc không luyện đời không thể biết, đây là cái mê thứ năm.

Nội, châm rằng: Lóng thần ngược tánh là cửa cốt yếu để vào đạo, dứt bỏ dục tình là gốc gần để lên Thánh. Cho nên nói rằng: "Đạo cao đức rộng là thưởng, dùng đạo truyền thần dùng đức trao Thánh, thần thánh truyền nhau gọi là lương từ". Chặn nguồn đạo chặt gốc đức gọi là vô hậu, chẳng phải nói rằng: "Bỏ dục là vô hậu". Ông không nghe ư? Lời xưa còn đâu, giáo hóa của họ Thích chẳng chỗ nào không đúng, bao dung là nguồn giáo vào đạo, thành thật là đầu xưng giúp tục, hễ làm một điều lành thì bỏ một điều ác, bỏ một điều ác thì dứt một hình phạt. Dứt một hình phạt ở một nhà thì dứt vạn hình phạt ở một nước. Cho nên biết năm giới mười điều lành là gốc chánh trị. Lại tu năm giới thì đường ác giảm, mười điều lành thông suốt mà trời, người thêm nhiều, trời người phồn thịnh thì chánh hóa thạnh, đường ác suy mà tai hại dứt (Kinh Chánh Pháp Niệm nói: Người không trì giới, chư Thiên giảm ít, A-tu-la thạnh, rồng lành không có sức mạnh, rồng ác có sức mạnh, rồng ác có sức mạnh thì giáng sấm sét, gió lớn mưa dữ trái thời, ngũ cốc không đầy đủ, tật dịch nổi lên, nhân dân đói khát giết hại lẫn nhau. Nếu người trì giới nhiều thì chư Thiên thêm nhiều ánh sáng, Tu-la giảm ít, rồng ác không có sức mạnh, rồng thiện có sức mạnh, rồng thiện có sức mạnh nên mưa gió thuận thời, bốn khí hòa thông, mưa ngọt tuôn xuống, lúa bắp đầy nhà, nhân dân an vui, binh đao dứt, tật dịch không lan truyền).

Giống như ngăn củi bỏ cỏ càng nặng mà khó bày, dứt lửa ngọn diệt tro nóng, công ích mà dễ hiển. Vả lại xương mạnh khí yếu, lời nói chí lý của ông lão họ Lý, thật tủy mến tinh là ý chỉ sâu xa của nhà tiên. Nay ngược ngạo bảo dâm dục là giáo huấn nhiệm mầu, vợ con là nguồn giáo hóa, tông Lão mà hủy lời kia, giáo tiên mà bỏ thuật kia, lại mến chó ngựa là quý nó biết ơn, không ưa con chim cú, con kính vì ghét nó ăn thịt mẹ nó. Ông thì giữ đêm thay công nhọc ít với chó ngựa, nghịch vảy ngược lưỡi sâu nơi cú, kính, rắn độc chín đầu không như vậy ư? Chở quỷ một xe, ôi đáng sợ!

Lại vận ngôi vị dài ngắn nói là thiên mạng, khởi hưng thạnh bị thay thế ngắn dài xét cũng có người phù hợp, cho nên Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang được thọ, Kiệt, Trụ, U, Lệ không trọn năm dài, Hy phát lý đạo mà tuổi thọ, yếu chính sách bày hình dâm mà ngôi ngắn (Trần Tư nói: Xưa, Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Vũ, Chu, Chiêu, Thái, Công đều hưởng thọ trăm tuổi, bảy Thánh ba Hiền đều hành đạo sửa chính trị, Thánh trị thiên hạ không tổn thần, hiền làm chúa tể một nước không nhọc suy nghĩ, do đó hưởng trọn tuổi trời. Kiệt buông lời than thở, Trụ chết ở ngoài đồng trống, Khuyển Nhung giết vua U, Lệ không trọn với nhà Chu, ngôi tám trăm Tần diệt ở hai đời, lúc này không có Phật tăng). Kế sách bảo ở trước mắt chẳng phải nói dối bàn, đâu phải không Phật mà ngôi bền lâu, có Phật mà vận mệnh bị ngắn. Bàn đâu cho dễ, bàn đâu riêng đổi, tiếc thay, ông và tôi tự biến chỗ thân thích rất đáng than tối như đi trong đêm, đây là sự đui mù thứ năm của ông.

Ngoại luận rằng: Hiếu là gốc đức, nhân luân ở trước, chớ tông lớn chắc chỉ là nương dựa, ân huệ của trời cao đâu nói là có thể báo đáp, cho nên sống hết sức ôn hòa trong sạch, trọn đủ lễ lăng mộ. Nay Phật để lời dạy: "Quyết khiến bỏ hài cốt ông, chỉ để ở đồng cỏ này, thường xuất tiền của xây tháp miếu cho ta" bèn khiến dâm ngu bị hoặc loạn bỏ sách lễ này, khảo xét quan tài không có tâm trồng cây (Phê rằng: Xét đời Thượng Hoàng không làm lễ chôn cất, việc mồ mả bắt đầu từ Thánh nhà Chu, cho nên có keo dán bịt quan quách, ngói ém áo quan đều khởi từ thời trung cổ. Hủy mục văn nhà Chu để hài cốt bày ra nơi đồng trống, nhân lượm mà cất bắt đầu thực hành tang lễ cho nên nói tang là chôn cất. Muốn người không thấy là do Phu Tử bệnh, học trò muốn bàn việc chôn cất sau này,

Khổng Tử bảo: "Ta dối trời ư? Phải chọn đất không lông, không trồng cây, chỉ có gai, chỉ có lời vui, nói nương đồng đời mạt làm lễ mai táng, bởi ta chưa thể ra khỏi thế tục"). Nhung, địch thấy linh lại tô vẽ tột sự tốt đẹp trang nghiêm. Lại thần không hưởng vì chẳng phải họ kia, vật không cúng tế vì chẳng phải tổ tiên họ. Không kính cha mẹ mà kính người chính ngoài là loại này. Lại thủy táng, hỏa táng phong tục không giống, chôn thây, bày thây, làng nước vốn khác, bỏ mình theo người cho là cầu phước, đâu biết đất đai ở đây khác riêng tự như vậy, đời không thể biết, là cái mê thứ sáu.

Nội, thứ sáu chỉ "không trái với trung hiếu".

Nội, châm rằng: Dẫn dắt người câm điếc, quyết cúi ngước mà chỉ khiêm tốn. Giải thích cho người ngu trệ cũng nâng tai mà giở tay. Phàm con người vốn ở hiếu kính, hiếu kính giúp sinh thành, cho nên nói rằng: "Chẳng phải cha mẹ thì không sinh, chẳng phải bậc Thánh thì không lập", chẳng phải Thánh là không pháp, chẳng phải hiếu là không cha mẹ, đây thì nghĩa sinh thành thông, tình cha thầy rõ bày. Cho nên Nhan Hồi chết, Nhan Lộ thỉnh xe con cho Khổng Tử nói: "Hồi xem ta như cha, ta không được xem Hồi như con" bởi vì nghĩa ấy, vả lại nghĩa ái kính khác dung không ngoài hai lý, tánh hiền ngu khác phẩm không vượt ra giai cấp, cho nên sống thì hiếu dưỡng không trái, chết thì chôn cúng tế dùng lễ, lễ chế ở đây khác nhau. Tiểu hiếu dùng sức, trung hiếu dùng lao nhọc, đại hiếu không thiếu, đây tánh chia khác nhau. So với giáo lý họ Thích nghĩa kia tồn tại, đến như rưới máu chảy đốt thân, bảo tháp lễ nhân từ cúng tế, cũng là nghĩa kính trước dè dặt sau. Đã ở Luân Vương tám vạn, chúa Thích của ba ngàn (kinh A-dục Vương nói: "Vua giết tám muôn bốn ngàn cung nhân, nửa đêm nghe trong cung có tiếng khóc, vua hối hận sai làm tám muôn bốn ngàn tháp", nay cõi Trung Quốc cũng có. Thích-đề-hoàn-nhân ở trên trời tạo ba ngàn Du-bà).

Tát cạn biển cả tìm châu báu, sạch bụi đại lộ mà chỉ còn đá bởi nhọc sức. Cả chúng sinh vì minh tín nhiệm đồng ngậm khí ở thân thuộc trời. Thê Hoàng ôm hữu lậu, gánh vác bọn vô lại, bởi vì nhọc tâm. Quày xe về cõi thật tướng, ngưng thần ở chốn vắng lặng, chỉ Nê-hoàn mà quay về, nương pháp thân mà xem gần đây đạo không thiếu. Đã chính họ mẹ giáng thiên thì chẻ kim quan mà giảng câu cú, vua cha lìa đời cầm giường báu mà đưa chôn (Luận Trí độ nói: Vua Tịnh Phạn chết, Phật tự cầm giường dây đưa đến chỗ trà tỳ (thiêu) để dạy cho tất cả chúng sinh đời sau báo ơn sinh dưỡng) tiêu biểu hiếu kính nghĩa này cũng đã đủ.

Dạy bỏ hài cốt từ đâu mà có ra ư? Và lại kinh khuyên thây đà thí khắp cho loài bay chạy, ý còn trả nợ đời trước, khỏi thiếu đời sau, không như Trang Chu chẳng phải đời mạt chôn sâu gốc thất lễ mà nói rằng: "Sò kiến đâu thân, cầm thú đâu sở", sống đã cho thân là nghịch tộc, chết phải lấy đất trời làm quan quách, trở lại nương thượng cổ không chấp nhận chôn vật không thích là tệ khinh sống quý chết. Người cầu đạo tiên hoặc cũng mang tráp theo thầy, gánh dù núi xa, dây leo rủ xuống, hoa tuệ chim kéo lôi, gấu bày ra, bếp vàng ít thành, ngọc hoa khó gặp, ngưng tùy hóa cốt trống không gây ra lời bàn này. Chỗ cầu vồng nương rồng chưa thấy thật kia. Hoặc tổn hài nơi đất xương, tán cốt nói thiên thai. Sống thiếu ân nuôi dưỡng, chết không có lợi thầm giúp bày tâm nguy hiểm nơi vạn vật, lưới tà treo nơi chúng sinh, chín tộc kéo dài tai ương hủy chánh, sáu thân cảm nghiệp quên Thánh, vịn chỗ nguy, nương cây mục, tha thứ đủ lạnh lòng, cao ngọc không sợ sao lại ngu quá lắm, đây là sự đui mù thứ sáu của ông.

Ngoại luận rằng: Ngữ âm Hoa Di khác nhau, nhưng Phật từng xưng Thích-ca Mâu-ni, đây là tiếng Phạm, Hán dịch là Năng Nho, tên Năng Nho vị thấp hơn Khổng Tử, cho nên ẩn mất tên thấp kém là Năng Nho mà làm nổi hiệu chung của Thích-ca, cái gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tambồ-đề tiếng Hán A là Vô, Nậu-đa-la là thượng, Tam-miệu Tam là Chánh biến tri, Bồ-đề là đạo. Trung Hoa đây trước đã có đạo Vô thượng chánh chân, giáo của Lão Trang pháp Hồ không cho là khác nên không dịch. Lại Bồ-tát Ma-ha-tát tiếng Hán gọi là đại thiện tâm chúng sinh (chúng sinh có tâm lành rộng lớn) đây là tên thấp kém chẳng phải là thượng sĩ, che cái xấu kia cũng đâu có dịch, hễ hạng không dịch đều nêu như vậy. Mong che thế tục, hoặc loạn tâm người, nhưng nhàm cũ chuộng mới, tệ thường của lưu đảng, xấu đồng tốt khác là tâm xấu của hằng tục, do đây Hàm Đan có khách trôi lăn, chết tán có kẻ quên về, đời không thể biết, đây là cái mê thứ bảy.

Nội, chỉ cho thứ bảy, Tam bảo không dịch.

Nội, châm rằng: Tên không được vật bởi là thật khách, đâu cho thuận đời giả bàn cách hơn kém của huyền Thánh. Nếu nhà dùng đầu gọi chất, họ Trọng lấy núi chế tên, núi cao ở gò, Trọng nhân chưa rộng, Phu Tử đầu gồm cả lỗ tai. Nếu đức không mạnh Lão Đam thì tên Năng Nho đâu cho là thấp hơn Chu Khổng? Nhưng hiệu Thích-ca nghĩa gồm nhiều loại, khắp Năng suốt nơi vạn đức, không thể dùng nhân riêng dạy chung. Nhân dứt bốn câu, đâu được Năng định dịch thuật, sự bất đắc dĩ gượng giữ lại hiệu cũ kia. Lại nói: "Đạo gia xưa có Chánh biến tri, đạo chẳng khác với Bồ-đề", tin là chánh giáo lưu về sau, dối rình tên đây, xét thật tìm nguồn, đâu được hiệu này. Thượng pháp cao thắng đạo nghĩa sạch thông, chánh thật lật tà, chân do ngược ngụy. Nay phù sách chú trớ không thể gọi là chánh, du đảng lẫn lộn không thể gọi là chân (Đạo sĩ Uy Quỷ Chương Phù nói: Tả Phong Thái Vực Chương, Hữu Đới Côn Ngô Thiết Chỉ Mục, tức dừng ánh sáng rực rỡ, nghĩ quỷ ngàn dặm, máu tạp Huỳnh Thân Việt Chương giết quỷ. Lại tạo Pháp Xích Chương cũng giết người).

Giữ sự mềm yếu ham muốn là thấp là sai, tên là trên là cao (Lão nói: Chớ như giữ sự mềm yếu (giống núi). Lại nói: Đạo tánh gần nước). Kẹp miệng dán mắt đâu được xưng là đạo (Trang Tử nói: Dán mắt Ly Châu, kẹp miệng Dương Mặc). Như chim mùa xuân hót líu lo, hoặc giống như ca, thật ra chim không thể ca. Mùa thu con mọt cây gần như vẽ chữ mà thật con mọt không hiểu chữ, danh thật đây lạm, bởi là nghĩa này.

Lại nghi Bồ-tát không dịch, đây lầm rất lắm. Sách nói: "Thượng Thánh suốt nơi hồng minh, đều có tên trùng". Kinh nói: "Nhiều chân hai chân, Như Lai là tối tôn". Nhưng côn trùng gồm chung cả hàm linh, chúng sinh đâu vượt khỏi phàm Thánh, xưng đại tâm thì chẳng phải thấp kém, ông tuy rửa dơ tìm vết, không tổn nổi đẹp của Nam Oai, tâm nịnh tìm bệnh chưa biến nét xinh của Tây Thi, sẽ lại vì ông bày chỉ tay. Thích-ca là Phật bày tên, Bồ-đề là pháp tôn xưng, Bồ-tát là tăng dẫn đầu, thắng hiệu Tam bảo người dịch giữ tên gốc, chẳng phải như lời sấm của cửa châu trụ ngọc, ca dao dương cha âm mẹ (Huỳnh Thơ nói: Mở cửa mạng ôm chân nhân anh quýnh, rồng, cọp chở ba năm bảy chín thiên la địa võng. Mở cửa châu tiến trụ ngọc, dương ân âm mẹ nói rằng như ngọc âm ân dương cha tay xoa chân) gọi phân ngựa là củi linh, kêu đàm dãi là ngọc dịch (kêu gõ răng là trống trời, họng nhổ ra là nước suối lễ, phân ngựa là củi linh, chuột già là ngọc phác, rút ra từ Thượng Thanh kinh). Việc xấu sợ bày, lời dở khó hiển, như linh phụng do chứa đức ít thấy, chuột già sợ xấu trốn thân. Tuy ẩn chất việc đồng mà tốt xấu có khác, thầm thầm không biết là sự đui mù thứ bảy của ông.

Ngoại luận rằng: Bậc Thánh ứng hóa tùy cách dắt dẫn, ở Hồ thì đầu trọc bày đảnh, ở Hán thì thẳng cung cắm hốt vào đai, là dáng vẻ bình thường của Hoa Di, chẳng phải sự hơn thua của giáo. Như Phật nếu khiến bỏ áo mão cân đai này mà mặc áo đen, bỏ phong tục Trung Hoa ta để giống tục Hồ thì không thể gồm thông mũ niệm, lại là sức trí không khắp, sao gọi là tùy phương hiện hình mà lập giáo. Nếu không thể thì Phật tự là thân Hồ của Thiên Trúc, chẳng phải Đại thánh của Trung Hoa, đâu có dạy trọc đầu cho chánh quốc. Nếu người Hán học hình Hồ, cạo tóc mà gọi là thờ Phật, thì người Hồ nên bắt chước phép Hán đội khăn cũng là thờ đạo. Phải biết bày đảnh bỏ tóc, tục làng khác nhau, than ôi! Sĩ dân cho là tu thiện có thể gọi là cái tệ quý nhà hàng xóm mà chê áo phủ phất nhà mình, đời không thể biết, đây là cái mê thứ tám.

Nội, thứ tám, khác nơi mà chế giống.

Nội, châm rằng: Chí đạo thì ứng vận vô phương, Thánh hiền nương căn cơ dẫn dắt chúng sinh, ông ở cửu di không hoạn ngu dốt, Vũ vào nước mà người ở đó đều khỏa thân thì vui vẻ cởi y phục, Hy Bá đến nước Việt thì xâm mình, Võ Linh thuận thế mà mặc y phục Hò, tuy là thuật nơm bẫy có khác mà công đều là bắt cá thỏ. Huống chi biến tục khép tâm, hủy hình kết chí, dẹp tua mũ để hiểu đạo, bỏ râu tóc để tu chân, Thánh chế không luống kia có đầu mối. Nhưng nhân nghĩa khắp ở ba du, trộm cắp giúp năm thiện, Thánh giáo thầm xa trọn khiến chuột và ngọc phác lạm tên (Lưu Tử nói: Người Chu cho rằng chuột chết thành ngọc phác). Huyền hóa nơi xa tối bèn khiến gà phụng lộn chất (Văn Tử nói: Người Sở cho gà núi là chim phụng). Cho nên chín mươi lăm món bay lên ở Tây Nhung, ba mươi sáu bộ hỗn loạn ở Đông Quốc, đến như luận Ưu Thê Khư Tử, kinh Vệ Thế Sư Chủ (Niếtbàn nói về Vệ Thế Sư) tiên Kiết-đầu-di-la (ngoại đạo Hỏa tiên tên là Kiết-ba-đầu, ngoại đạo Thủy tiên tên là Di-thúc-la), đạo mạt Già-xà-dạ (ngoại đạo Nhược Đề Tử đoạn kiến). Hoặc nương nước lửa mà muốn làm Thánh nương mặt trời mặt trăng mà dạy thần, chấp bốn đại cho là không phải nhân, chỉ ba nghiệp là không quả báo, thức trệ cùng núi tối đồng mờ mịt, tâm tà cùng hang mờ đồng tối tăm, hạng như đây là tà luận cõi Tây. Kế kia quỷ cười dối bàn, vọng ca hoạt xướng, nuốt đao nhả lửa. Sợ hãi tâm xấu của Trọng Khanh, súc mưa thở gió, sợ cái suy nghĩ của Lưu A. hoặc thân đeo bùa trung huỳnh, miệng tụng phù chú linh phi, đạp vàng thiếu mà dạo thần, nương ngọc kinh mà rửa lụy, như điều nên đây là dị học của khu đông, đều là lưới tà che tâm ngược kim châm mắt, giữ sâu hào hoặc xây cao thành nghi, riêng ôm một góc mê luân nơi ba cõi, tranh giữ biển sâu hai chấp ở chín dòng, thức thể luân hồi không rõ bệnh mờ trụ gốc kia, tâm dùng phù động, chấp tướng chìm ở nguồn sâu.

Đại thánh dùng đạo nhãn dự xem tùy cơ trao thuốc. Chất thân sinh ở cõi Tây mà chánh giáo chảy về đông, bệnh nặng thì chính thân giáng làm y vương, bệnh nhẹ thì gởi phương thuốc xa trao, thiên giáp để cắt chim cú kính, tướng trọng mà giết cá voi, đây cũng là cái thuật hòa riêng của giáo môn họ Thích, là cái thế của Pháp vương Tôn Ngô. Thánh không hai chế dung phục nghĩa đồng như những con sông Thanh, Tề, Trọc, Hà đều quy về biển cả mà đồng một vị, ngực xanh trán đỏ nhóm Tu-di mà chung sắc. Xung Hòa Tử nói: Người vẽ Tuyền Ni đều là cầu đạo bất tử của thần tiên kế thì nuôi thân mạng một ngày của ta, ở lại vẽ vời kéo dài sự đẹp đẽ đến ba năm trăm năm, dùng đây làm chân. Trường sinh thấy lâu nghĩa ở đây. Nay phép học của đạo sĩ lại không dùng đây làm sở học nhưng phần lớn đều chỉ khiến giống nhà Phật thân chết, thần sáng, tái sinh chỗ tốt đẹp. Nếu không quý thân này thì không bằng ta chuyên tâm học đạo Phật, đạo Phật rèn luyện tinh thần mỗi ngày thêm sáng thêm lợi ích, rất có danh lý pháp định tuệ, kẻ yếu đuối có thể tu nào có nhọc nhằn siêng năng khổ nhọc. Tự gọi là đạo sĩ mà thật là học tăng pháp nhà Phật, học lại không chuyên bởi là bọn vẽ rồng vẽ cọp. Sao không bỏ khăn nai, mặc áo vàng họ Thích, cạo râu tóc nhuộm ca-sa mà nương về với Thế Tôn?

Kinh và cách hành đạo của đạo sĩ ở thế gian nghĩa lý thì y cứ vào luận mà sau thông (nói là lượm kinh luận nhà Phật sửa thành sách đạo như Huỳnh Đình, Nguyên Dương, Linh Bảo, Thượng Thanh v.v… kinh và sách của Tam Hoàng đều sửa từ kinh Pháp Hoa và Vô Lượng Thọ). Tu tâm thì vương phép ngồi thiền mà vọng cảm (nói sửa tên tọa thiền lấy hiệu là Tư Thiền). Thượng Thanh là cao nhất mà chưa vượt khỏi cõi thượng, Thái Thanh Tiên Pháp lại bỏ thẳng không bàn, chưa biết pháp nào chấp khác nhà Phật mà xưng là đạo sĩ. Người đắc ý chỉ phải là sư nhà Phật.

Ông là người phương Nam, thân học pháp của đạo sĩ Mao Sơn (núi cỏ tranh) là Xung Hòa Tử, Xung Hòa Tử và Đào Ẩn Cư thường lấy sự kính trọng Phật pháp làm sự nghiệp, nhưng gặp chúng tăng đâu không lễ bái, trong hang núi đều an trí tượng Phật, tự dẫn đồ chúng và người thọ học sớm chiều sám hối, thường đọc kinh Phật, xét văn Tuyền Ky Sao, Xung Hòa đã viết chẳng phải đạo sĩ lúc bấy giờ không kính Phật, cho nên Đào Ẩn Cư trả lời thơ của Pháp sư Đại Loan rằng: Hôm qua tai mới nghe tiếng tăm, sáng nay mắt đã thấy văn chữ, hoặc do đảnh lễ nhiều năm cho nên có ra chân ứng đến nghi. Chính ông dọn dẹp dây mây cỏ lác, nhặt hoa mạng nước, thẳng áo, nghiêm chỉnh suy nghĩ đứng lâu lắng nghe ban cho lời dạy bảo. Đệ tử Hoa Dương Đào Hằng Cảnh kính lễ, Pháp sư thờ Phật kính tăng không hề thuyết khác, ông sao lại tự trái ngược bổn tôn, không nghĩa không nhân tội cảm phép rất nặng. Luận Mâu Tử nói: "Pháp hóa của Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, Lão so với đạo Phật như nai trắng sánh với kỳ lân", mà ông không thể ngộ, đây là sự đui mù thứ tám.

Ngoại luận rằng: Trước chín kỷ Thiên Hoàng thờ khế chưa làm, sau sáu hào Thái Hạo văn chữ mới hưng khởi, từ đó đến nay lần rộng nương chở. Thánh hiền xưa nay đều chép sách vở, lấy lễ nhường nhau can qua giúp bày triện sách. Cho nên sử trái sử phải ghi việc chép lời. Ngụy Thơ Ngoại Quốc Truyện, Hoàng Phủ Mật Cao Sĩ Truyện đều nói rằng: Tang Môn Phù Đồ Kinh do Lão Tử soạn (Phê rằng: Kinh Phù Đồ, Ngụy Lược và Tây Vức Truyện nói: "Nước Lâm Nghê có vị thần tên Sa Luật truyền, Sa Luật tuổi già tóc bạc thường dạy người làm tháp, người nào có tai họa và không con, khuyên đến tháp trai giới, dạy bỏ tiền tài chuộc tội.

Vua nước Lâm Nghê lâu ngày không có con, Hoàng Phi Nhạc Na nhân cầu cúng ở tháp mà sinh Thái tử đặt tên là Phù Đồ. Thời Tiền Hán nghiệp đế suy, Tần Cảnh khiến Nguyệt Thị Quốc Vương ra lệnh Thái tử đến Tần cảnh truyền miệng dạy kinh Phù Đồ, Tiền Hán sớm lưu hành sau đó sáu mươi ba năm nữa, Minh Đế mới cảm điềm mộng, đây xét kinh Tần Cảnh Truyền chẳng cho là Lão nói. Xét ở đời Tấn, đạo sĩ Vương Phù sửa truyện Tây Vức thành kinh Minh Oai Hóa Hồ, bèn xưng Lão Tử Lưu Sa dạy Hồ Vương làm Phù Đồ, biến thân thành Phật mới có Phật khởi bởi rất là dối gạt. Nhưng Kế Tân cách đây muôn dặm trở lại, thời Tần Hán đến nay người buôn bán qua lại không dứt, đâu có việc Lão Tử ở đó, thuyết hóa Hồ, kinh Phù Đồ và thân thành Phật cũng chưa nghe. Dẫu rằng Lão Tử làm tháp thì mới là báo ân cúng dường xá-lợi, mới hiển Thánh đức đâu gọi là đản sinh).

Viên Hoành Hậu Hán Ký nói: Lão Tử đến nước Hồ phân thân thành Phật, kinh nhà đạo nói thuyết kia rất nhiều (xét Viên Hoành Hán Ký vốn không có nói Lão Tử thành Phật, tức nói Hồ Diên người hiểu rộng rất nhiều, đâu thể bịt tai trộm linh, chỉ nai là ngựa, sao ngu quá vậy). Minh Oai Hóa Hồ… các kinh đều nói rằng: Vua Hồ không tin Lão Tử, Lão Tử dùng thần lực hàng phục mới cầu xin hối lỗi, tự cạo tóc xin sám tạ tội lỗi, Lão Quân rất từ bi thương xót kia ngu muội mà nói quyền giáo tùy cơ giới ước, đều khiến đầu đà khất thực để chế tâm hung ác ngoan độn. Áo đỏ chừa một bên để thấp cái tánh cao mạn, hủy hại hình mạo chỉ bày thân bị cắt mũi, cấm hẹn phòng vợ dứt giống trái nghịch (Phê rằng: Ông cho cấm ước phòng vợ mà là tội, huyền đều hội thánh vẫn là phường yến nhĩ, chí đức trong sạch, liền là nhìn đồng chuồng. Đã học trường sinh ông hằng đối thân thường mến họ Lý, đều cần nuôi con. Nhưng Lý Nhĩ người Tống, người lấy vợ Trương Lăng, Trương Lỗ đời đời nuôi vợ cho nên có hai tên cung nam và nữ, hiệu riêng của hệ sư, tử sư. Ngụy, Tấn đã đến trong quán sinh con. Trần, Lương trong nhà nuôi con. Đổi phụ nữ là Châu Môn, thay trượng phu là Ngọc Trụ, dâm dục dơ xấu xuất phát từ đạo gia, bên ngoài giả trong sạch, bên trong chuyên tiết ra sự dơ xấu, thật đáng hổ thẹn). Cho nên gọi là bệnh nặng thêm thuốc độc, nên khiến mổ bụng rửa ruột, tội sâu phải dùng hình phạt nghiêm, quyết cần tru diệt tông tự. Nhưng cõi này người quân tử từ lâu lãnh nhận đạo chân thật (xét Hán Quan Nghi nói rằng: Cảnh Đế đã đến trong Quốc học lập đạo quán để dạy học trò, không cho người nghe lập quán xá riêng. Xét trước đời Lương, Trần, Tề, Ngụy chỉ dùng kinh Hồ Hư Thạnh vốn không có hình tượng thiên tôn. Xét Nhâm Tý Đạo Luận và Đỗ Dân U Cầu nói rằng: "Đạo không hình chất, bởi là tinh của âm dương". Đào Ẩn Cư Nội Truyện nói: "Ở trong núi tranh lập hai nhà Phật và đạo Lão, cách ngày sáng lễ nhà Phật có tượng, nhà đạo Lão không tượng". Vương Thuần Tam Giáo Luận nói: Gần đây đạo sĩ chấp sống mà không phương cách, muốn người quy tin bèn học nhà Phật chế lập hình tượng, giả gọi Thiên tôn và hai chân nhân ở hai bên, đặt ở đạo đường, để nhờ cơm áo. Lục Tu Tĩnh đời Lương cũng làm hình đây) không nhọc đầu trọc, vốn vâng theo lời dạy chí lý làm sao lại giả trọc đầu, nhà không người chết mà nhớ áo tang. Ngốc nghếch rất lắm, thật đáng thương xót! Xưa Hán Minh Đế cảm mộng đạo Phật mới đến, lại nay người Hồ lập miếu kẻ Hán không chịu vâng theo mà làm, nhà Ngụy nương phép tắc nhà Hán lại y tập quán xưa, ngày thạch lặc nghĩ gió Hồ kia cùng tăng lóng sạch người đạo đẹp đủ lông cánh, tránh dòng lao dịch tranh nhau cạo tóc, đời không biết, là cái mê thứ chín. Nội, chỉ thứ chín, thân già chẳng phải là Phật. Nội, châm rằng: Nhà rộng lớn là nhiều cây làm thành, chúng sinh chẳng phải một người có thể giáo hóa, cho nên Thánh trí mười phương ví như cát bụi nhiều không cùng, tám muôn pháp môn, trút sông biển cũng không lường được. Cho nên có Thánh đây Thánh kia, khác phương loại mà chung so vai, Phật trước Phật sau khác đời mà đồng nối gót, tượng pháp chánh pháp khác thời, tịnh uế chia khu vực, trừng trị ác khuyên làm lành chỉ một mối.

Vả lại Chu Khổng dạy đời còn không sửa ở trăm vua, yếu mạnh bàn dữ dội vẫn để sự tốt đẹp cho ngàn năm, đâu cho Chu Hy một đời mà ba đổi ba dời, họ Lão một thân mà thành đạo thành Phật, tức là người khác không đạt được lý của Thánh, bày mê tuyệt thời kỳ chứng đạo, lại trước chê mười khác sau khen giống như một, giữa đầu trục chê khen mâu thuẫn, cuốn lại dủ ra trước sau không bao giờ gặp nhau. Che mắt trộm áo tin có ngày lầm. Hình tướng chân ngụy giống như lúa với cỏ, khéo làm cỏ thì giữ lúa bỏ cỏ, người cầu đạo cũng nương chân bỏ ngụy, tông thù thắng của Sa-môn lưu hành đã lâu, còn như Hán Đế thi lễ với Ma Đằng (Như Pháp Bổn Truyện) Ngô Vương cúi mình với Khương Hội (Ngô Lục nói: Ngô chúa hỏi Tăng Hội: "Phật pháp vì sao khác với thế tục?" Đáp: "Làm ác rõ ràng, người biết được thì giết, làm ác trong chỗ tối quỷ biết được mà giết". Kinh Dịch nói rằng: "Chứa nhóm thiện thì có sự vui mừng", ngâm thơ cầu phúc không quay lại, tuy là cách ngôn của Nho tục mà cũng là lời dạy tiệm tu của Phật pháp).

Đàm Thỉ bị kéo lên sàn vua Ngụy (Ngụy Lục nói: Thác Bạt Đào dùng thuyết của Thôi Hạo nên diệt Phật pháp, hủy tượng, đốt kinh đuổi tăng hoàn tục, Đàm Thỉ sáng sớm chống gậy đắp y đứng ở cổng thành, có người thưa với Đào, Đào ra lệnh chém, chém ba đao mà Đàm Thỉ không hề bị thương, người hành hình thưa với Đào, Đào tự cầm bội đao lại chém như trước, bèn nhốt Đàm Thỉ trong chuồng cọp, cọp nhắm mắt cúi đầu. Đào bèn thử đặt tượng thiên sư vào chuồng để so sánh thì cọp rống lên muốn cắn xé, Đào mới biết Phật pháp thanh cao, đạo Lão không sánh bằng bèn mời Đàm Thỉ lên tòa làm lễ tạ tội).

Đạo Lâm lên giường chúa Tấn. Đời Tấn ngài Đạo An vinh hiển ngồi chung xe với chúa. Nước Triệu, Đồ Trừng được chúa sủng ái mặc y mậumiên (Phù Thơ nói: Chúa Phù Kiên ra ngoài du ngoạn, ra lệnh sư Đạo An ngồi chung xe. Cao Tăng Truyện nói: Thạch Hổ gọi Đồ Trừng là đại Hòa thượng, mỗi khi lên điện đắp y bằng tơ lụa, ra lệnh vương công đều giúp đỡ) đều là đạo chiếu cố cực tôn, đức về muôn thừa bởi có lý do. Thuật của Huỳnh Lão xưa nay không cạnh tranh, phí tài để giành thắng lợi tổn thân. Thôi Hạo dùng tà vu báng nên tán mất thân thể (Ngụy Thơ nói: Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi khuyên Thác Bạt Đào diệt chánh giáo, Đào về sau thân phát bệnh dữ bèn giết hai người Thôi và Khấu).

Khương Võ do nhóm dối trá nên chết luống uổng. Vương Phù do tạo ngụy nên thân bị tai ương. Đều nghiệm nơi mắt thấy tai nghe chẳng phải lấy từ lời bàn hư dối, kia tôn kính cũng như đây, kia có dấu vết tội lỗi cũng như kia. Nhan Văn gặp ở cửa Khổng nêu đức hạnh làm đầu, Tô Trương gặp nơi hang quỷ dối trá trước tiên, chẳng phải riêng tánh người có hơn kém mà cũng là do sự học tập chân hay ngụy. Vả lại Hiền, nịnh lạm nhau, nịnh lẫn lộn mà hiển bày. Thánh và dối trá khó phân, dối trá cùng Thánh mới hiển, dụ như rắn đồng loại với cỏ mi vu, người thông đạt mới phân rành tánh chúng nó. Do đây chức quan truất bỏ mà lại giúp, cửa Khổng dối mà lại thạnh là có lý do.

Từ Hán Minh Đế thử ta kiến chẻ nhọn, mặt trời tuệ sáng rực, mây pháp che mắt, Khương, Phiên bỏ nhà vào đạo, Lữ, Tiêu bỏ ngụy theo chân. Tào, Mã truyền đến không cùng. Tần, Ngụy suối vọt lên không cạn. Ông nói mới ở Trừng, Thạch không phải cũng dối ư? Tự Huỳnh Lão phong tục khắt khe dung phục cũng thay đổi, chẳng phải đạo chẳng phải tục kẻ quê mùa gọi là yêm nhân (kẻ bị thiến). Khéo chửi rủa xưa gọi là quỷ tốt, kia cứu khổ vậy, thì cởi tóc buộc cổ dùng dây tự trói, phân bò trét thân lấy roi đánh nhau là pháp luật kia. Nếu mất phù lục thì tay ván ngược hàm, quét đất ngược gió, cành dương trăm bó tự phá tự gánh, trộm Trần Chương, thì trôi lăn ngục lửa lưng gánh bọt nước (rút ra từ Đạo sĩ Tôn Thị Ốc Nghi). Trách phạt rất nặng như phép tôi tớ, tội bị phạt ngậm chịu giống như súc sinh.

Nhưng đạo Phật khi chuông khánh nhóm chúng răn nhắc, Hán, Ngụy về sau, đạo Lão chưa có Kim

Cang Sư Tử thiện thần hộ pháp, bởi Phật giáo đã sáng rỡ, chẳng phải trước tạo Huỳnh đảnh, cũng bắt chước phép tắc thù thắng của người, rình bước theo bước Thánh của ta. Cho nên Nhan Chi Thôi nói: Việc thần tiên có phí vàng ngọc rất phung phí. Dưới Hoa Sơn xương trắng như cỏ rậm, đâu có được lý tiên, dẫu rằng được tiên trọn sẽ có chết không thể ra khỏi đời. Tôi khuyên bọn ông hãy học, việc ba đời của nhà Phật tin thì có chứng nghiệm, gia nghiệp quy tâm chớ khinh mạn. Nguyện bỏ bốn trần năm ấm xẻ cắt hình hài, sáu ghe ba xe chuyên chở chúng sinh, vạn hạnh quy về chung, ngàn môn vào thiện, biện tài trí tuệ, đâu luống rộng sáu kinh trăm họ ư? Hoàn toàn chẳng phải Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng, Lão, Trang có thể sánh bằng, cho nên chép thiên quy tâm để răn dạy con em mà ông không thể biết đây là sự đui mù thứ chín.

Có Khảo Cổ Thông Nhân và Triêm Hoành Quân Tử xem luận phỉ báng của Lý Khanh, xem bàn luận biện chánh của Khai Sĩ, rõ ràng bàn phát giận mà than, muốn cho tà chánh khác dấu vết, chân ngụy chia dòng, định đúng sai kia để rõ được mất, người tới lui hằng không nghi.

Thông Nhân nói: Tôi xem tạo hóa vốn ở âm dương, vật loại sinh khởi ở trời đất. Trải qua đời xưa, xét văn Ngũ Thánh, không thấy thần Thiên tôn, cũng không tượng đại đạo. Xét Linh Bảo Cửu Thiên Sinh Thần Chương nói rằng: Khí thanh cao lóng trong nhóm dương thành trời, khí kết ngưng cặn bả nhóm ngưng trệ thành đất, người sống cùng đều do tam nguyên nuôi dưỡng chín khí kết hình. Nhưng hậu sinh cũng biết âm dương là gốc của con người, đất trời là gốc của muôn loài, cội gốc là khí, không riêng đạo thần.

Quân Tử nói: Đạo sĩ Đại Tiêu Ẩn Thơ, Vô Thượng Chân Thơ v.v... nói rằng: "Vô Thượng Đại Đạo Quân trị ở trong năm mươi lăm lớp vô cực trời đại la trên ngọc cảnh, lâu đài bảy báu, giường vàng ghế ngọc, tiên đồng ngọc nữ hầu hạ, trụ ở cõi trời thứ ba mươi hai ở ngoài ba cõi". Xét Thần tiên Ngũ Khâu Đồ nói rằng: Đại đạo Thiên tôn trị đô Đại huyền, châu Ngọc Quang, quận Kim Chân, huyện Thiên Bảo, làng Nguyên Minh, thôn Định Chí chỗ không có người đến. Kinh Linh Thơ nói: "Đại la là năm ức năm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi lăm lớp trời trên trời". Ngũ Khâu Đồ nói: Đô là thấy, Thái Thượng Đại Đạo là Đạo Thần Minh Quân trong đạo, tột giữ sự ở yên của đô Thái Huyền. Chư thiên Nội Âm nói: "Trời cùng các tiên đánh trống Lâu Đô, sớm yến ngọc kinh để vui với đạo". Suy đây là lầm bàn vì vua đạo (Đạo Quân) là thần minh cõi trời, đã thuộc huyện châu thì Thiên tôn lại là dân của trời. Như kinh luận nhà Phật ngoài ba cõi thì gọi là ra khỏi sinh tử, không có thân phần đoạn, lìa cảnh tâm sắc, đâu được lại có đài báu, núi ngọc, châu, quận, làng xóm, rất là luống dối lại càng khó khoe khoang, nhưng Đạo gia dối nói không sự tích đáng xem, tập tục sinh thường là ngày đã lâu, bọn tà tranh bày rất có chỗ khác nhau. Nếu muốn chánh danh lý phải rõ ràng, nay lược nêu ra duyên khởi tùy ý mà xếp.

Xét bộ Châu Lễ, từ vua Nghiêu về trước chưa có quận huyện. Vua Thuấn tuần hành Ngũ Khâu mới thấy tên châu. Thượng thư Võ Cống Phương hiệu Trần Châu, thời Xuân Thu huyện lớn quận nhỏ, do quận lệ thuộc huyện. Từ Hán cao về sau dùng huyện lệ thuộc quận, sách vở đã rõ, cửu châu là dấu vết chân Võ, trăm quận là giếng Tần, dầu có đạo ở trên trời vẫn nên hiểu việc vô vi, sao nhân cửa thuộc ở làng không khác với phàm? Đã có châu huyện thì có quan dân, châu thâu quận giữ họ gì tên gì? Trưởng thôn, quan huyện con ai em ai? Đều là quản học Đạo sĩ không biết khăn vàng, không đều xưa nay chưa dòm kinh sử, thấy nhân gian đặt bày châu huyện cũng nói trên trời giống với thế gian, bảo ngụy là chân rất đáng hổ thẹn. Nhánh nhóc gốc ngọn đều như rút ra trong Tiếu Đạo Luận.

Thông Nhân nói: Trang Chu nói rằng: Xét kia ban đầu mà vô sinh, chẳng phải luống vô sinh mà vốn không hình, chẳng phải luống không hình mà vốn không khí. Trong lờ mờ biến mà có khí, khí biến mà có hình, hình biến mà có sinh, người sinh khí nhóm nhóm là sinh, tan là chết, cho nên nói rằng: "Có và không sinh lẫn nhau", muôn vật có một. Sao gọi là một? Vì thiên hạ một khí. Suy đây mà bàn, không có đạo riêng chỗ cao đại la gọi riêng là tôn quý.

Quân Tử nói: Kinh Dương Khí Huỳnh Tinh nói: "Lưu Đan chín lần chuyển, kết khí thành tinh, tinh hóa thành thần, thần biến thành người". Khí dương đỏ gọi là Huyền Đan, khí âm vàng gọi là Huỳnh Tinh, âm dương giao hợp hai khí giáng tinh, tinh hóa thành thần, tinh thần ngưng kết trên chín trời, khí của chín trời giáng xuống đan điền, cùng thần hợp ngưng đến cửa mạng, cốt yếu đợi chín lỗi thì là chín đan. Trên hóa dưới ngưng để thành người, không nói rằng có riêng đạo thần để làm chùa tể muôn vật khiến cho sinh ra và lớn lên.

Thông Nhân nói: Xưa nay danh Nho và Hà Thượng Công giải Ngũ Thiên Văn xem trong đó không thấy tên gọi là Di tức tinh. Hỏi thăm cũng không nghe tên Hi là thần. Bắt lấy không được tên Vi là khí. Đây gọi là hình trạng của vô trạng, là tượng của vô vật (không vật không hình trạng), cho nên khí thể mờ mịt, ngược lên không thấy đầu. Khí hình trống ở trong cho nên nói là theo đó không thấy sau, đây thì bày gốc đạo theo khí mà sinh. Cho nên kinh Thượng Thanh nói: "Ta sinh trong mờ mờ mịt mịt, rất tối tăm, trong tối tăm sinh ra khác nhau trong khác nhau sinh ra thái nguyên, thái nguyên biến hóa ba khí sáng. Một khí xanh, một khí trắng, một khí vàng, cho nên nói là một sinh hai, hai sinh ba". Xét chương Sinh Thần nói rằng: Lão Tử lấy ba khí nguyên thỉ làm một, là chủ nhân pháp thể, tinh là tinh linh, thần là biến hóa, khí là khí tượng, như Lục Giản Thúc, Tạng Căng, Cố Hoan, Mạnh Trí Chu cùng Lão Tử Nghĩa nói là "Hợp ba khí này để thành thể Thánh". Lại nói rằng: "Tự nhiên là thể tướng chung, ba khí là thể của tướng riêng, xét đạo chỗ tôn dùng khí làm gốc. Xét trong ba khí có sắc có tâm, đã là sắc tâm tạo thành thì chưa khỏi họa sinh tử, đâu được gọi là thường?

Quân Tử nói: Nguyên đạo có trước dùng khí làm thể, lấy gì để rõ? Xét kinh Dưỡng Sinh Phục Khí nói rằng: "Đạo là khí, bảo vệ khí thì đắc đạo, đắc đạo thì còn mãi. Thần là tinh, bảo vệ tinh thì thần sáng, thần sáng thì trường sinh. Tinh là dòng sông huyết mạch, là linh thần giữ cốt, tinh mất thì cốt khô, cốt khô thì chết". Cho nên Trang Chu nói: "Thổi hơi hô hấp ra nên nhận khí mới vào, Bành Tổ tu cách này để được sống lâu". Xét lời này mà nói thì sẽ nuôi hòa khí để có được sự sống lâu, gọi là đắc đạo.

Thông Nhân nói: Dù cho có đạo, không thể tự sinh, từ tự nhiên sinh ra, đạo vốn tự nhiên thì đạo có chỗ đối đãi. Đã nhân người khác mà có tức là vô thường, cho nên Lão Tử nói rằng: Người là pháp của đất, đất là pháp của trời, trời là pháp của đạo, đạo là pháp của tự nhiên". Vương Bật Chi nói: "Trời đất, đạo vua đều không trái nhau nên gọi là pháp, tự nhiên không xưng là lời cùng cực. Đạo là trí tuệ gọi là linh tri, dùng trí không bằng vô trí, có hình không bằng vô hình. Đạo là có nghĩa không bằng vô nghĩa của tự nhiên.

Quân Tử nói: Dịch Càn Tạc Độ nói: Họ Toại do khi xưa ngước xem sao Bắc đẩu để đặt tên phương hướng, Bào Hy do đó vẽ bát quái, Huỳnh Đế vâng lịnh Đại Náo làm Giáp tý cho thành thứ lớp lịch số, thuyết ngũ hành cửu cung có ra từ đó. Cho nên thuyết quẻ nói: Dương lấy số chín. Nói lập thiên thì là dương và âm, âm hai dương một thì trời có ba. Nói lập địa thì là nhu và cương, cương hai nhu một thì đất cũng có ba. Nói lập nhân thì là nhân và nghĩa nghĩa hai nhân một thì người cũng có ba. Ba nhân ba là chín, âm dương bao nhau để thành muôn vật, chữ không nghe riêng có đạo thần ở đô Thái Huyền ngồi cao che trời trên trùm ba thanh dưới ôm ba cõi, ở phòng bảy anh xuất hiện trên chín cung, hành thần rải khí tạo ra muôn vật, đâu chẳng là hoặc loạn đọa lạc nhân gian ư? Xét công thì nghiệp khác nhau, so dấu vết thì sự khác nhau. Sa-môn tuyên dương đức mà chẳng trái, Đạo sĩ nói hạnh mà lỗi nhiều, lập không dấu vết lợi xa, xây dựng không sự cống hiến củi mục. Rõ ràng Phật đăng tôn trọng, kia chỉ có đạo Phật ư? Há cho ngoan cố nơi nhà nhỏ, con nước giúp san bằng sóng lớn là chẳng phải loại này.

QUYỂN 14

THIÊN THỨ HAI: BIỆN HOẶC (PHẦN 10)

Thiên, nói về nội đức. (Lý Sư Chánh)

Như Đức Điều Ngự thập lực Phật lái thuyền pháp nơi biển khổ, dẫn dắt ba thừa. Đản Di đi trong nhà lửa, rộng khuyên thiện tấn đức thì bảy kinh không kịp, sâu ngăn ác ngừa hoạn thì chín dòng đâu sánh được. Chỉ cùng thần biết hóa, lời kia rộng lớn mà có thể răn nhắc, bỏ hoặc dứt trần nên phép tắc trong sạch cao xa khó thực hành. Hoa, Di, sĩ, thuế sân, triều đình, đồng trống, văn Nho riêng giúp được an, nếm được vị ngon của đạo này, tự chẳng phải nghiêm tinh để xét chân vọng, suy nghĩ sâu mà xét khổ, không, chẳng cho lập gốc tin chẳng cứng chắc, bỏ nghi cái như lưới, xa thì Tịnh Danh, Diệu Đức biết đạo thù thắng mà siêng năng, gần thì Thiên Thân, Long Thọ ngộ lý chân mà đôn đốc, mừng La-thập, Đạo An dốc học nghiên cứu huyền tông mà càng cung kính, Tăng Duệ, Tuệ Viễn qui tín, đến Hạo Thủ mà càng bền chắc. Sách dâm của Mại Sĩ An, thậm chí sự lớn dễ của Tuyên Ni, ngàn vàng chưa đủ sức kinh động cái thấy kia, tâm âm không thể sửa sự nghe kia, nghe rộng mà ưa thích càng sâu, suy nghĩ mà tin càng chắc, đốc đều muốn bỏ mà không thể thì kia chẳng phải vọng là chắc chắn rồi.

Vua ta sinh ra ứng với Thiên mạng, rộng giúp nước nhà, che chở đồng như trời xanh, mang vác giống đất dày, quét khí xấu sạch tám biểu, cứu lầm than an triệu dân, năm giáo kính bày chín công, chỉ có bày tiếng tốt gồm vạn cổ, dâng sự sửa đổi tệ xấu của trăm vua, lưới che trùm thiện tôn sùng Tam bảo làm bốn cầu. Trừ bỏ bầy ác, ngăn chặn cỏ xấu của bốn bộ, vâng theo sự phó chúc của lời dạy để lại, rộng nối thạnh yếu thuật, công đức cao sùng trời xanh khó sánh. Nhưng bọn quan viên tổ thuật nhiều đường, sở học mỗi thầy dị luận bén nhọn, hoặc cho là ba vua không Phật mà tuổi thọ, hai người họ Thạch có Tăng mà chính sách bạo ngược. Tổn hóa do thờ Phật, ích nước vì bỏ Tăng. Nếu rõ thiên kiến chưa thân thông lý, rộng xét hưng vong đủ chứng minh phù ngụy. Sao lại thì Tần mất Hồ hợi, thời không Phật mà đất lở. Phật hưng thịnh là đời Hán Minh Đế, đời có Tăng mà nước thạnh trị. Nhà Chu diệt chùa Phật mà ngôi thiên nguyên không bao lâu, nhà Tùy hoằng giáo pháp Phật mà Khai Hoàng khiến cho không còn bạo ngược. Thạnh suy do ban bố chánh trị, loạn ở thứ quan, quy lỗi cho Phật Tăng là chẳng thông luận. Vả lại Phật chỉ hoằng thiện không hề nuôi ác, đối với thần dân giới vốn ngăn lỗi, sao lại tổn trị với quốc gia được? Nếu người người giữ điều lành nhà nhà vâng theo giới, thì đâu có thi hành hình phạt, họa loạn không có lý do dấy khởi. Ngựa tốt tuy chạy giỏi nhưng nếu không xe thì chẳng đến xa được, thuốc hay dẫu nhiều, chưa uống thì đâu thể lành bệnh. Hạng Tịch chết thầy chẳng phải Phạm Tăng không thừa nhận, họ Thạch khởi bạo ngược đâu phải Phù đồ bất nhân! Nhưng vì trái đó mà bạo loạn, chưa có vâng theo đó nên hung bạo, do đây quán đó cũng đủ rõ.

Lại có người cho rằng: Chánh giác là yêu thần, sánh tịnh thí với dâm tế, chỉ trích chê bai không chỗ nào chẳng đến. Thánh triều khuyên thiện, lập chùa để tôn sùng phước, dân mê sinh phỉ báng, ngược công đức để tạo lỗi. Rất hổ thẹn với bọn quá sai trái vì hủy báng Phật này, ngu tôi trộm vuốt tim mà tức hơi, cho nên phát giận mà ngậm lông. Thêm nhờ ơn vua dự thấm mưa pháp, thiết tha điều hoặc đã chứa nhóm ở đây tin tùy chỗ được nghe khởi nghi ngờ, nhờ hiểu mà diệt. Xưa thường nếu chê bai mà không tin thì nay dốc lòng tin mà không hủy báng, gần thì suy nơi mình, rộng để lượng ở người, trăm điều khinh hủy mà chẳng khâm phục đều là vì thảo luận chưa rốt ráo, nếu khiến tham cứu chỗ sâu xa, cộng đồng với Đồ Trừng, La-thập, hẳn đều tin sâu chí kính, ý chí đều ở danh Tăng. Thầy chánh học không dẫn vào chỗ sâu xa, sự hiểu biết chẳng đến chỗ nhiệm mầu, sự thấy nghe đã ít, muốn dứt bỏ các hoặc kia bày sự học thường dở mà làm luận ba thiên biện hoặc, thứ nhất rõ thông tệ của tà chánh; thông mạng thứ hai biện kỳ phục của tai ương và vui mừng; không có thứ ba phá kiến chấp đoạn thường, hạch đó dùng các lời, xét đó dùng các điều lành. Trên hiển phước tịnh của Thánh triều, dưới bẻ dẹp dối trá của dâm tế, dầu có y theo đây mà thật thiếu tài kia, lời văn quê mùa, trao chứng cạn cợt, dẫu tột ngu đâu tuyên được đức Thánh, ngõ hầu cho người đồng bệnh mà chưa lành, nghe được lời cạn mà ngộ sâu, như dây cỏ bờ rào, hoặc bệnh nơi tim bụng, ăn rau lê rau hoắc để cứu đói lúc ở nơi hẻm núi, như kim đơn ở mắt, ngọc soạn đầy mâm, ngoái nhìn coi lược cũng rất đủ cho kẻ quê mùa.

Thiên Thứ Nhất: biện hoặc

- Hoặc thứ nhất: Phật ra đời ở Tây Hồ.

- Hoặc thứ hai: Chu Khổng Không nói.

- Hoặc thứ ba: Chê Phật khen đạo Lão.

- Hoặc thứ tư: Ví Phật như yêu mị.

- Hoặc thứ năm: Xưa có phản Tăng.

- Hoặc thứ sáu: Ví Tăng như chim cú đất.

- Hoặc thứ bảy: Chê bỏ râu tóc.

- Hoặc thứ tám: Giống Ni thờ Ni.

- Hoặc thứ chín: Có Phật chánh sách bạo ngược.

- Hoặc thứ mười: Không Phật dân hòa thuận.

Hữu Biện Thông Thư Sinh cho rằng: Trung Chánh Quân Tử nói: Bởi nghe Thích-ca sinh ở Thiên Trúc, Tu-đa xuất hiện tự Tây Hồ, danh hiệu không truyền đến Chu, Khổng, công đức chẳng xứng với sách xưa, là Sa-di tôn chẳng phải thầy Nho của Trung Hạ. Tiếp đến Ma Đằng vào đất Hán và Khương Tăng Hội đến đất Ngô, hiển xá-lợi ở nước Nam, dựng tháp ở Đông đô, từ đây về sau bèn tôn trọng phù đồ, chúng Sa-môn đông đầy như nước sông Thù sông Tứ, ở Tinh xá đẹp như nhà Vương hầu, đã ở nhà cao ráo sạch sẽ, lại giúp cho đó ruộng đất màu mỡ, đề bạt tu tràng mà mặt trời sáng chói, nghĩ thứ nhất mà ngay ngã tư, Vương công, Đại nhân giúp đỡ là dùng vàng lụa. Nhà nông, thương buôn, nhà giàu thí cho là dùng ruộng vườn, kia phước lợi ở đâu sao lại tôn sùng có dư? Chưa bằng xích tượng mà dứt việc khắc đúc, hàng hóa có thể không bị phí. Hủy kinh để cấm việc viết chép, bút giấy không vì đó quý. Bỏ Tăng để theo sắp xếp từng hộ, càng dư lúa gạo. Hoại tháp để giúp chỗ không đủ, rộng nhân tuệ an ủi cứu giúp. Muốn đến cửa mà hỏi thăm Ngu Trung Thượng Thư mà dâng kế này, trộm cho là có thể ích nước lợi dân. Ông cho là thế nào?

Trung Chánh Quân Tử nói: Đây sao nói là lỗi? Chẳng phải đạo trung hiếu. Hễ trung thần thờ nước, nguyện nhận phước không biên giới. Con hiếu lo cho cha mẹ việc là ngăn tai họa khi chưa khởi. Nghe nhân duyên nhiều phước, cầu đó nhưng không kịp, thấy mầm họa mau chóng tránh đó như dò nước sôi. Nước xem trọng việc cầu trời đất, là cầu phước. Nhà tránh kỵ âm dương là kỵ họa. Phước nghi theo lấy, họa nghi luống bỏ, chính là tình người, là đạo trung. Ông bèn bỏ cái gọi là cầu phước của người mà lấy tai ương của người, đâu là kế trung thần thờ nước? Chẳng phải sức con hiếu lo cho cha mẹ, xem kẻ thất phu tự mến mình còn không phản thầy thuốc mà trái quẻ bói, huống chi trung thần mến vua, làm sao lại khuyên tai ương mà ngăn phước? Nào khác lượm thuốc vật dùng dâng cho vua mà lấy chỗ kỵ của nhà nông, cầu y thuật để dâng cha mà hòa ngược cái sâu đến của chim thước. Kia khuyên lấy kỵ dùng độc, bởi chẳng phải chí ý rất dè dặt, thí cho mình mà còn sợ, đâu dám vọng đặt nơi trời?

Nếu bỏ bánh nếp đầy của tông miếu mà cúng cá thịt của con cháu, hủy áo lễ mũ miện của cúng tế mà chứa đầy y phục của tôi tớ. Nếu cầu ân huệ ban xuống lại không sùng phước an trên, hận phí lương thực nuôi cha mẹ, suy nghĩ bỏ nuôi dưỡng để lo nhà, như thế có thể gọi là trung là hiếu ư? Vả lại nhà Chu bỏ hoằng giáo của Bá thực bèn thay cho đất nước để tôn sùng lâu, Câu Long lập công nước đất cũng vì xã tắc mà hằng kính. Phường Dung ích nhỏ còn tham gia cúng tế bát trá (lễ cuối năm), Lâm Trạch linh nhỏ còn cúng một hiến, huống chi là trí ba đạt vô ngại, trăm thần không cùng bọn, mười phương tôn không sánh bằng, ngàn Thánh không thể sánh ngang, vạn hoặc hết, muôn đức đủ, Phạm thiên kính mến, làm thầy Đế Thích, đạo giúp bốn loài hóa chung ba cõi, nhổ gốc sinh tử luân hồi, chỉ bày thường vui của Niết-bàn, thân chiếu sáng rực rỡ, vượt hơn ánh sáng mặt trời, hình tướng đoan nghiêm, đủ sự lạ kỳ của bậc Thánh, vi diệu huyền thông, Chu Khổng chưa đủ để nghĩ bàn. Rộng thì gồm giúp, Nghiêu Thuấn vẫn còn có các bệnh, từ bi bình đẳng mà không bỏ vật, có thể gọi là không nhân ư? Đủ trí mà có diệu giác có thể không gọi là Thánh ư? Phàm thể đức của nhân Thánh đâu là thuyết luống dối, yên lặng suy nghĩ đâu không tin.

Còn như lập chùa công sâu như biển lớn, độ Tăng phước trọng như núi cao, lời nói rõ của Pháp vương là chỗ dốc lòng tin của khai sĩ. Nếu khởi đó thì thêm mừng vui lợi ích cho nước, đâu không lớn ư? Người kính đó sinh điều lành lợi dân, không rộng ư? Hoặc tổn nhỏ mà ích lớn há chẳng là sự tôn sùng của nước ư? Hoặc ích nhỏ mà tổn lớn há chẳng là việc phải tránh cho dân sao? Pháp nhãn thấy rõ xem phước báu không lường, miệng vàng tin thật nói lỗi nhân không luống dối. Trăm dân đều chẳng phải mắt thấy, dầu chưa thể tin kia quyết như vậy, cũng đâu cho biết kia không. Mờ mịt chẳng thể dùng ý quyết, sâu xa chỉ phải dùng thánh chứng, đâu không mong phước tôn sùng giúp vua cha, sợ lụy hủy hoại đến với nhà với nước? Tôi mà không như thế, dè dặt với vua mình thì chẳng phải tôi trung. Con không như thế lo cho cha mình thì chẳng phải con hiếu. Ông muốn nếu theo tâm chật hẹp ganh tỵ của gái điếm không trọng sự trung sâu suy nghĩ dè dặt, ngăn trở đại duyên cầu phước, hủy nghiệp lành an trên, bèn lấy lỗi mà nói há là nghĩa tập trung ư? Tôi xưa dốc chí vào rừng nho lại gởi tâm nơi văn phạm, rất giống ngôn luận của ông, bởi do nghe pháp muộn, nhờ chỉ nam để bỏ hoặc, may thay mất đường chưa xa, thường xét lỗi mà trách thân thì đến bữa quên ăn, nếu ông xét rộng mà tín sâu, cũng toan hối mê mà biết trái lại, trộm nghe có Thái sử khiến truyền vua, lại rất nhiều hoặc ngày xưa của tôi, trong tự xét mê xưa thì mười giống năm kia. Xin nói về hoặc truyền vua để giải thích tà chấp của ông.

Truyền cho rằng: Phật pháp vốn xuất xứ ở Tây Hồ, không nên thờ ở Trung Quốc, tôi khi xưa đồng với hoặc này. Nay thì ngộ Phật pháp không phải như vậy. Do tôi sinh ra Tây Nhung, giúp Tần, Mục để khai nghiệp bá. Nhật Đề sinh ở Bắc Địch hầu Hán Vũ mà trừ nguy hại, thần đã có, thầy cũng nên vậy, cần gì lấy đồng tục kia mà bỏ phương khác? Thầy dùng đạo cả làm tôn, bất luận đây kia. Pháp dấy thiện cao làm hơn, chẳng tính xa gần. Nếu tôn sùng nhân làm nghiệp, bỏ dục gọi thanh cao, ngăn dư ương nhóm ác, khuyên làm lành để hẹn phước, chỗ đồng của trăm nhà bảy kinh không bằng kinh Dịch nhưng hẹp cạn mà chưa sâu rộng, hẹp nhỏ mà không sâu rộng, kia tha thứ mình và người, ai rộng hơn Phật ư? Kia thấy ngọn chưa biết gốc, ai thấy xa bằng Phật? Khuyến thiện trừng ác ai rộng hơn Phật? Rõ không dẹp có ai sâu hơn Phật? Do đây mà quán, kia là đạo nhiệm mầu.

Đức của bậc Thánh do gì thêm, đâu được do sinh cõi khác mà hèn đạo kia, xuất hiện ở phương xa mà bỏ thật kia, tài giỏi siêu quần chẳng phải chỉ sinh sản ở giữa ấp, vật quý ở đời không hẳn là vật của Hoa Hạ. Hán tìm ngựa nổi tiếng của Tây Vức, Ngụy thâu minh châu của Nam hải, cống răng sừng của tê, voi, lượm lông cánh chim thúy, vật sinh cõi xa còn là đồ quý ở đây, đạo xuất hiện ở phương xa riêng sao đè ép mà có thể bỏ? Nếu vật thuốc xuất hiện ở Nhung, Di, cấm chú khởi ở Hồ, Việt, nếu có thể dùng trị tà bỏ bệnh há lại cho là từ xa đến mà không dùng ư? Diệt ba độc để chứng vô vi, kia là trừ tà rất lắm. Bỏ trừ tám khổ mà đến thường vui là bỏ bệnh sâu lắm. Sao lại câu nệ Di, Hạ, mà tính thân sơ? Huống chi dưới trăm ức mặt trời mặt trăng, trong tam thiên thế giới thì cõi kia ở giữa, không ở xứ này.

Truyền cho là thi thơ chỗ chưa nói vì Tu-đa không đáng tôn trọng.

Xưa tôi cũng đồng hoặc này, nay lại hiểu kia không đúng.

Sự sâu xa bí ẩn của thiên văn, sự kỳ lạ khó hiểu của địa lý, chẩn đoán kinh mạch lỗ hang, sức thuật phù chú và thuốc châm cứu thi thơ có chỗ không chép, Chu Khổng chưa nói rõ. Nhưng xét lành dữ mà có chứng cớ, xét hạnh dụng kia mà phần nhiều bắt chước. Vả lại, vật Chu Khổng chưa nói thì lúc nhúc không cùng, pháp thi thơ không chép mênh mông đâu có hạn. Tin vào sách không hết lời, lời nói không hết ý, đâu được câu nệ cuộc hạn giáo của sáu kinh mà trái ý chỉ chung của ba thừa. Có thể sự chưa khởi ở thượng cổ, bậc Thánh mở việc ở đời sau, cho nên nhà trụ cột đổi ở sào, văn tự thay thế bằng chế kết giây, bữa cơm uống máu ăn lông thì trước dung mà chưa quý, dùng lửa nấu cơm tuy làm sau mà chẳng phải tệ, kia dùng để bẻ, trước sau chẳng phải thông tệ của giáo lý, đâu được cho thi thơ sớm truyền mà đặc biệt hưng thạnh. Tu-đa đến trễ mà phải thay thế. Có người lúc nhỏ ăn rau lê rau hoắc, lớn ăn thịt cá, trẻ mặc vải bố, già mặc hầu phục (áo quần như Vương hầu), đâu được cho lê hoắc ăn trước là hơn vị ngon cá thịt, hầu phục mặc trễ lại không quý bằng vải bố ư?

Vạn vật có thay đổi, Tam bảo thường trụ, vắng lặng bất động, cảm mà đều gặp, hóa thân chỉ bày vết tích ẩn hiển, pháp thể tuyệt số hưng vong, chẳng phải đản sinh ở cung vua, không sống lâu, chết ở dưới song thọ, đâu được luận sinh diệt nơi phó cảm, tính sự tu ngắn ở đến đi ư?

Họ truyện khen Lão Tử mà chê Thích-ca, khen sách đạo Lão mà chê Phật giáo. Xưa tôi đồng hoặc này, nay lại hiểu đó là không đúng. Thích và Lão là giáo thể một mà không hai, đồng nêu lụy có dục, du hiển tông vô vi. Họ Lão rõ mà chưa dung, sách Phật nói đến sự cùng tột kia. Nếu Đạo Lão quả là đúng thì đạo Phật vốn đồng đúng mà không sai. Nếu Phật quả là sai thì đạo Lão cũng có thể là sai mà không đúng, lý chẳng mâu thuẫn. Người ôm sự khác nhau trước sau, đã đồng mừng giận của các con khỉ, lại giống ưa sợ của Diệp Công. Còn như ý chỉ đạo đức dưới trụ, bài trong ngoài của Tất Viên, nhã nhặn sâu xa mà khó thêm, thanh cao mà đáng tôn sùng, lên thường đọc không gián đoạn, đâu cho tin thờ sách Phật mà chỉ trích cẩu thả ư?

Vả lại luận đó duyên sinh tử không cùng, ý chỉ báo ứng chẳng hư, chỗ phát minh của họ Thích thì Huỳnh Lão chưa nói kịp. Không biết sách đạo Lão ngày nay do đâu mà đồng loại với sách Phật? Luận ba đời để khuyên giới, ra ngoài vết khuôn của chín dòng. Nếu mắt thấy mà nói thì đồng Phật mà chung soi chiếu kia, nếu tai nghe mà thấu suốt thì Phật là thầy mà vâng theo thuyết kia. Đồng soi chiếu thì đồng chẳng phải sai, với thầy thì thầy không thể chê, khen đạo Lão mà chê Phật, sao lại sáng lập quá vậy?

Truyện nói rằng: Phật là khí yêu mị, chùa là chỗ cúng tế tà dâm, đây là kia nói mà chưa siêng năng. Yêu chỉ làm ác nghiệt đâu có rộng hóa mười điều lành, mỵ quyết nương đâu có khởi đạo tám chánh. Yêu còn sợ chó, quỷ cũng sợ mèo, đâu thể hàng tâm cao của Đế Thích, bỏ sức chống cự của Thiên ma? Lại như ngài Đồ Trừng, La-thập, Đạo An, Tuệ Viễn đức cao danh cao chẳng hề luống dối cuồng say, đâu cho bỏ ái lìa vinh hoa mà cầu tà đạo của ly mị, khuyên thân khổ sở tiết độ lại thờ yêu thần của Võng lượng.

Lại từ xưa, Đông Hán đến Đại Đường của ta đời đời mà cấm lời yêu mị, chỗ chỗ mà dứt dâm tự, đâu cho bỏ tài lực kia, thả sĩ dân kia mà xây dựng nhà tháp của ly mị, vào đồ chúng của vọng lượng. Lại bậc tể phụ, quan cái, nhân luân vũ nghị, bọn Vương Đạo, Dữu Lượng, bầy Đới Quỳ, Kế Tuân, đặt mé tình trời người, giấu tiêu biểu dấu vết khói mây, đều bẩm thọ giáo pháp mà quy y, đều chống tâm mà sùng tín, đâu cho tôn thờ yêu mị mà tự khuất phục, bởi do biết chân thấy diệu khiến kia như vậy.

Lại Tiên Nghị của họ Truyền tự Võ Trọng, tài cao học rộng đời gọi ông là Thông nhân, biện mộng lành của Hiển Tôn, chứng thần cảm của người vàng, đạo Phật giúp Đông độ Nghị có công. Trộm xét tài hiểu biết của Truyền Linh chưa thể giúp cho Võ Trọng, sao lại hủy Phật báng pháp, trái với trước? Ngô Thượng Thơ ra lịnh Khám Trạch đối trước chúa Ngô là Tôn Quyền nói rằng: "Hai nhà Khổng và Lão so với Phật pháp hơn kém cách xa". Do đâu mà nói vậy? Do Khổng Lão lập giáo, dùng phép chế của trời nên không dám trái trời. Chư Phật nói pháp, trời vâng làm mà không dám trái Phật, do đây mà nói thật chẳng đáng so sánh.

Ngu tôi cho là Khám Tử nói như thế là biết một góc hơn kém. Quân tử trăm nhà có thể không suy nghĩ lời kia ư? Đại sĩ cao Tăng quán sâu về lý, chúa minh, thần hiền mưu cầu trung với nước, mà của báu nhiều đời lại cho là lời dạy lớn sao? Biết kia cùng lý tận tánh, đạo đâu thêm ư? Họ truyền quán không sâu nơi danh tăng, suy nghĩ chưa tinh với hiền triết, riêng tâm thầy mà trái pháp, khinh dứt phước mà khởi lỗi, đâu là kia vì nước mưu kế mà không trung ư? Vì thân lo nghĩ mà không xa ư? Đại giác cùng thần mà biết hóa, rất khuyên suy nghĩ hoạn mà đề phòng, trước chỉ để hết trăm năm, ôi! Năm phước khó thường. Sông mạng chảy mà sấm dứt, nghiệp đất lâu mà trời dài, ba đường cực thuần mà thăm thẳm, bốn dòng không mé mà mênh mông, nương thuyền pháp mà lợi giúp, nhờ tín dung hòa để bay cao, nên chuyển lỗi thành phước, sao quên niệm mà làm cuồng.

Truyền nói rằng: "Thời Triệu, Lương đều có Tăng làm phản huống chi ngày nay trong thiên hạ tăng ni cả hai mươi vạn". Đây lại là nói không suy nghĩ. Nếu cho là xưa có Tăng làm phản mà bỏ pháp chúng ngày nay, há được cho là xưa có nghịch thần mà bỏ nhiều sĩ tử ngày nay, hàng xóm có con nghịch mà đuổi con hiếu của mình, xưa có dân loạn mà không nuôi dân thứ ngày nay ư? Khắp trong thiên hạ, chúng xuất gia chẳng phải là mây nhóm nơi một ấp, là ngôi sao chia chín cõi, tiếp đó để có châu huyện, hạn đó để khuyết sông, không có oai quyền trừng phạt, có cấm ước hiến chương. Dầu khiến năm ba hung hiểm, một hai xiển-đề, đã không duyên dùng ô hợp, cũng đâu lo kiến nhóm.

Vả lại, Sa-môn vào đạo đâu ôm mưu vong mạng, con trai con gái xuất gia đâu cầu dùng đại giáp, sao lại loạn tính số tăng ni lôi đồng bọn cú kính, tạo dối để loạn chân, che thiện mà xưng ác. Quân tử có ba điều sợ, há phải như vậy ư? Áo xanh có tội, chẳng phải lỗi của ni phụ. Áo đen làm lỗi há là tội của Thích Tôn? Tăng mắc lỗi với hiến pháp triều đình, Ni phạm hình phạt của thế tục, thí như tụng luật mà đào tường đọc sách lễ mà ngạo nghễ kiêu căng, chỉ do người bẩm thọ tánh ngang bướng ngu xuẩn mà không đổi làm lành, chữ chẳng phải là kinh mở nguồn nghịch loạn khiến nhiễm thói ác. Người không thể đều là hiền, pháp thật chẳng trọn là tốt hết, đâu được nhân giận ác mà lây đến thiện, do lỗi người mà bỏ pháp. Miệng bàn Di Tuệ thân hành theo Chân Kiệt, tai nghe thi lễ mà tâm giữ tánh tà kỳ hoặc, Ân, Hạ đã hàng đâu thay không đó, đâu được giận dấu gót chân mà oán trách Di Tuệ, ghét tà mà bỏ thi lễ. Nhưng người thì có tội đáng chết, pháp không có lỗi đáng bỏ, chỉ nên cấm quấy để hoằng pháp, không thể do người mà ghét đạo, trộm dốc tin nơi diệu pháp, không có cẩu đảng ở Sa-môn, đến nhổ cỏ đề cỏ kê để trồng lúa mạ. Nghiêm túc gian xảo trở lại để sạch đại giáo đã nguyện sâu.

Truyện nói rằng: Đạo nhân, đất, cú, lừa bốn sắc đều là giống ác nghèo nghịch, đây lại là lời không suy nghĩ.

Hễ do bỏ tục tu đạo nên gọi là đạo nhân, học đạo lìa nghèo đâu được gọi là tham nghịch. Nếu nói rằng: Tham đạo Bồ-đề ngược dòng sinh tử, thì Truyền Tử khởi lời chưa đạt ý chỉ đây, xem luật hành của Sa-môn, người đi không thể đi người ở không thể ở, đủ các kinh Phật có thể nghiên cứu được. Vật nhỏ nhít máy động còn không làm hại, huống chi là việc cú kính? Lễ giá thú còn bỏ không làm huống chi hạnh cầm thú? Sao dẫn thượng nhân lìa dục sánh với vật hèn hạ nhóm bụi trần. Viện hiền tuấn có đạo sánh cùng con lừa vô trí, hủy chúng lành đại từ sánh với chim ác không lành, cho rằng đạo nhân là giống nghịch, so phạm hạnh với tâm thú, hại một người lành đâu rất lắm ư? Ngược trắng thành đen như thế ư?

Tôi xưa thường dẫn Hiếu Kinh không hủy hại tổn thương để chê trách Sa-môn cạo bỏ râu tóc, cho rằng kia ngược đạo Tiên vương, mất nghĩa hiếu trung. Nay hiểu đó là không đúng.

Nếu thờ vua cha mà trọn tiết, tuy giết thân mà gọi là nhân, thiếu trung hiếu mà tạm còn, luống toàn da mà phi nghĩa, luận đẹp thấy nguy mà trí mạng, lễ ngăn lâm nạn mà bỏ cách cẩu thả, đâu được tổng thể mà quở quỷ thương, hùa theo mà đoái hoài da tóc. Cắt đùi nạp gan là thương tổn rất lắm. Lóc bỏ râu tóc là hủy cái nhỏ. Lập trung không đoái hoài mạng mình, người luận đâu có lỗi, cầu đạo không tiếc lông mình, đâu riêng cho là lỗi, thuốc thang cứu giúp dân đông, tôn sùng thân Phạm để cầu ân huệ, huân tập đôn hậu khiêm ái, muốn xoa chân mà đến đảnh. Huống chi trên là vua cha sâu cầu phước lợi, hủy râu tóc đâu đáng đoái hoài.

Vả lại giáo pháp của bậc Thánh khác đường mà đồng về, đạo của quân tử hoặc ngược kinh mà hợp, nghĩa, thì Thái Bà kỳ nhân, bỏ nuôi nấng ở nhà, gá lượm thuốc mà không về, bỏ chương phục của Trung Quốc, nương cắt tóc để làm đẹp ngược kinh trái lễ có gì nhiều hơn đây. Nhưng Trọng Ni khen ngợi mà nói rằng: "Thái Bá có thể nói là chí đức", là vì sao? Vì dẫu là vết tích trái vua cha mà tâm trung với quốc gia, hình thiếu trăm việt mà đức hoàn toàn ở ba nhượng, cho nên Thái Bá bỏ chế áo mũ mà không tổn chí đức, thì Sa-môn bỏ dung cài đai áo cũng đâu thương tổn đến diệu đạo, dù đổi y phục sửa diện mạo, trái nghĩa thường của Thần tử (tôi, con) mà tin đạo quy tâm cầu cho vua cha nhiều phước; ý khổ thân kia là tu các điều lành xuất gia khiến cho vua cha nhiều kiếp được nhiều vui mừng. Kia là trung hiếu không nhiều sao? Gọi thiện Sa-môn là bất trung, chưa hẳn là tin.

Truyện nói rằng: "Người Hồ ở Tây Vức nhân bùn mà sinh, do đây mà thờ bùn ngói", đây lại là lời chưa suy nghĩ. Sùng lập linh tượng, đắp vẽ tôn hình sử dụng nhiều đồ chẳng riêng gì bùn ngói. Hoặc thêu hoặc đúc thì dùng sắt, cây, vàng, đồng. Vẽ thêu cũng đan xanh dệt trắng, lại cho rằng nam nữ Tây Vức riêng từ vật này sinh ư?

Vả lại miếu của Trung Quốc dùng cây là chủ yếu, cho nên là tông miếu. Phật không thể quên cho nên lấp hình để bày tâm vọng cực, dùng để bày sự cung kính như còn tại thế. Kính ngưỡng thánh đức đâu có lỗi? Lại cho lỗi ấy nên cũng dùng ác làm công.

Truyện lại nói rằng: Đế Vương không Phật thì nước thạnh trị, tuổi thọ lâu, có Phật thì chánh sách bạo ngược, ngôi vua ngắn, đây lại là lời chưa suy nghĩ.

Thời cho là Năng Nhân lập giáo đều là mở mang gió dâm bạo, Bồ-tát lập lời chuyên truyền việc Kiệt, Trụ. Dùng thật mà nói thì sai rồi, không đúng. Nhà Ân mất đại bảo, tai ương khởi là do lời Đắc Kỷ, nhà Chu mất chư hầu họa do nụ cười của Bao Tự, mất mát của ba đời đều do con người. Giáo pháp ba thừa há có thấp cao ư? Phật là đạo từ bi hỷ hộ, giúp chúng sinh bất luận kẻ oán người thân, cho an vui mà cứu nguy khổ. Xưa sở dĩ được lòng dân kia là Phật đã truyền rộng. Cho nên dân trốn vua kia là kinh rất ngăn cản. Đức của Hy, Can, Thuấn, Võ ở sáu độ mà bao trùm, lỗi của Nghệ Trác Quý Tân gồm mười điều ác để ngăn cấm. Từ trước khiến Kiệt hoằng giáo ít muốn, Trụ thuận đạo đại từ. Y, Lữ không dùng mưu kia, Thang, Vũ được hạnh đánh dẹp kia, có thể khiến tỏ điều khỏi họa cho nước, mục đồng dứt loạn chiến tranh. Hạ Hậu theo bài ca Lạc Nhuế, Cấm Tử trái nạn Càn Khê, cho nên sự giáo hóa của họ Thích là lợi ích chẳng nhỏ, kéo dài phước cho ngôi vua được lâu không cùng. Ngăn chặn nguy vong lúc chưa có điềm. Truyền cho rằng: Có Phật là tổn, không có Phật là lợi ích, đây là nói gì ư? Là nói sao ư? Có thù gì với Phật mà vu báng đến như vậy, Phật đâu có chỗ phụ bạc mà ghét như kẻ thù vậy?

Truyện lại nói: Trước khi chưa có Phật pháp, người đều thuận hòa, đời không kẻ soán nghịch. Đây lại là lời không suy nghĩ. Chín bỏ loạn đức này chính là năm không có Phật, Tam miêu trái mạng chẳng phải sau thời có pháp, mùa của Hạ Ân đâu có thuần hòa, thời Xuân Thu đâu không soán nghịch. Giặc cướp gian tà làm sĩ mạng ở Cao Đào, Hiểm Doãn, Khổng Xí, Bạc Phạt nhọc ở Kiết Phủ. Mà Truyền cho rằng: Phật khởi soán nghịch, pháp bại thuần hòa, chuyên tạo lời dối đều trái thật chép. Trộm một sợi chỉ Phật còn ngăn, há lại nuôi lớn mưu loạn soán nghịch? Nói một lời dối Phật cũng ngăn, sao lại bại đạo thuần hòa ư? Chỉ có giáo pháp của Phật là khuyên thần phải trung, con phải hiếu, khuyên nước dùng trị, khuyên nhà dùng hòa, hoằng thiện bày cái vui cõi trời, trừng lỗi để hiển bày nỗi khổ địa ngục. Không chỉ một chữ để làm giảm bớt, há ngăn năm hình mà làm giới, bèn gọi là thương tổn hòa mà nuôi lớn loạn, không là vu báng lắm sao? Cũng đâu tổn thương gì đến mặt trời Phật, chỉ tự trôi lăn nơi biển khổ, việc nhẹ mà không tránh rất là đáng thương. Vì thế sách sinh tâm phục mà sắc mặt xấu hổ, tránh tòa mà tạ tội rằng: Nô bộc dùng tập tục để sống, thường trái đạo tự sai lầm, bỗng ở chỗ chưa rốt ráo mà đùa giỡn cái mê trước. Trái chánh pháp mà luận khác, hận lời tà để chung lỗi. Nay nghe trí Phật suy xét nhiệm mầu nên biết đạo Phật là thật là trung, bỗng nhiên thần ngộ mà lý vọt ra, đáng để dẹp sạch sự mê nghịch mau chóng, tuy năm xưa theo tà, ngày nay đây xin quay về với chánh, cẩn thận tụng đến giới để làm khẩu thật.

Thiên thứ hai: Nội đức nói về thông mạng.

Có chỗ nói rằng: Bậc Thánh bày phước để khuyến thiện, chỉ họa để ngăn ác. Tiểu nhân cho thiện không lợi ích mà không làm, cho ác là không có hại mà không bỏ, nhưng nói có ương có phước, chính là lời hoa mỹ không thật, luận không ích không hại thì tin mà có điềm chứng, vì sao nói vậy? Vì khi Bá Di bị đói, Khải Kỳ nghèo, Nhan Hồi chết yểu, Nhiễm Canh mắc bệnh, hoặc xa xỉ khoác lác mà giàu mạnh, ít nói đến nơi nghĩa, hoặc nghèo trắng tay mà sống thọ, danh không xứng đến tàn đời. Nhân mà không thọ, giàu mà chưa có nhân, sách kinh đã bày không thể nhớ xiết. Cho nên biết Trọng Ni nói tai ương mà vui mừng là luống dối người, dụ văn mạng ảnh hưởng đến khó tin. Có người đôn đốc làm hạnh lành mà không biếng nhác, ôi! Lời này càng mê hoặc. Bèn bàn mà giải thích rằng: "Ương họa hay phước đức bởi có gốc của nó, không thể chẳng có nhân mà vọng đến, thiện ác phải y cứ quả báo của nó, hẳn chẳng mất ứng mà luống qua". Nhưng gốc sâu mà báo xa, chỗ tai mắt không nợ, đầu tiên mà là sau rốt, chỗ Mặc Nho không sánh bằng. Cho nên tùy gặp, mạng độ nơi trời mà khó rõ, năm tuổi ương hay thọ xét ở người mà dễ ngờ. Người làm thượng phạt còn có thể rõ xét mà không lạm, trời giáng xuống hay phước đâu lại hỗn loạn mà không thứ lớp ư? Cho nên biết có tồn tại, không thể vu khống. Chẳng phải bậc đại giác có trí biết khắp thì ai có thể cùng lý mà dứt hoặc?

Đoán nghĩa buôn bán mà nói, Ban Vưu và Lý Khang soạn luận chỉ biết hỗn lộn mà gọi đó là Mạng, đâu biện được lý do hiển nhiên của mạng, đâu khác gì thấy lúa thóc ở trong kho mà không biết được là do cày cấy mà có. Thấy lụa ở trong va ly mà chưa biết do kéo dệt mà thành. Ngựa dời đổi báo thí rõ ràng, nhóm nghi mà đâu có thông. Phạm Bàng lầm nghi thức thiện ác, ôm giận mà không cho giải thích, đều thấy dòng mà bỏ nguồn, thấy một mà không biết hai, chỉ xem kinh luận của họ Thích mà có thể tột được trước sau của đạo Phật ư?

Quả báo làm thiện làm ác, cùng nhánh phái ở ngàn lá, mạng một dày một mỏng. Soi ngưng giây lát ở vạn cổ, làm việc qua lại ở sáu đường, chỉ bày ương phước của ba đời, bèn biết hình mất mà nghiệp không dối, người chết mà thần lại sinh. Hoặc Hiền thánh mà nhận tai ương đời trước, sáu thông mà thiếu bữa ăn đến miệng. Hoặc cầm thú mà gánh mang phước dư, bốn chân mà ôm châu như ý, vì nghiệp chẳng phải một mối, cảm báo cũng ngàn sai. Nghiệp riêng khác mà theo tâm, báo khác nhau như mặt mình, vốn là do tâm, hoặc trước mê mà sau tỉnh, hoặc có ban đầu mà không có chung cuộc, hoặc hằng ác mà quên hối hận, hoặc thuần là thiện mà thường tôn sùng, hoặc làm công mà gồm lỗi, hoặc phước nhỏ mà tuệ thạnh, hoặc tội đồng mà tình khác, hoặc công khác chí đồng. Là do báo kia. Có người trước khóc sau cười, có người trước được sau mất, có người trẻ hèn già hung, có người ban đầu vinh hiển sau tốt lành, có người tiết tháo trong sạch mà mạng yểu, có người hạnh xấu mà tài của dồi dào, có người tội giống hình phạt lại khác, có người đức đồng mà sự cung kính có khác, nghiệp nhiều mối mà kết thêm, quả quá khứ trả mà xong cặn kẽ. Thí như thợ vẽ trải nét vẽ khéo, tượng gương ứng vẻ đẹp xấu, mạng chiêu cảm sáu ấn, đạt đến du đàm của Lý Tử. Nghiệp dẫn muôn vàng, quả thuật tính Chu Công, lấy xanh đỏ như cúi nhặt, có giúp nhân xưa. Hiểu lễ nhạc chấp chặt đến cùng thì không giúp cho phước đời trước. Đọc luận nối gót mà bày văn riêng hương vinh hoa. Nói thi so vai mà sửa đảnh riêng cao ngôi vị. Hoặc công siêng năng có thể ghi mà lộc không bằng mạng giới thôi. Hoặc sự lầm lỗi sơ hở đáng chém mà tước vị trước thêm như Ung xỉ. Thuật kinh Vi Hiền xa hơn thiếu sót của vàng vòng. Văn sách của Triệu Nhất không bằng tiền của Doanh Nang. Đây há là sự sai khác của nghiệp và công ư?

Cho nên do mạng đời trước mà có khác nhau. Hoặc tài nhỏ mà trách nhiệm lớn như Tể Hoành không có công hiển hách. Hoặc đạo xuất sắc mà thân nhỏ như Khổng, Mặc có nhục bận bịu. Cũng có người đức và ngôi vị đều hiển như Nguyên Khải Liệt ở đời Đường Ngu, tài và mang đều thạnh.

Truyền Lữ nhận gởi muối me, hai nhân đều tăng thêm thì bao gồm. Như vậy một nghiệp riêng tu thì phước riêng. Như kia Quản Trọng được tha tù rồi lên làm tướng. Lý Tư làm tướng mà bị hành hình. Phạm Huy trước nhục mà sau vinh. Đặng Thông ban đầu giàu mà sau lại đói, chẳng phải ban đầu ấp úng mà rốt sau biện tài, há là xưa ngu mà nay lại trí, vì quả đã thuần thục mà được bình yên thong thả, do phước hết mà truân chuyên lại đến. Nếu nói rằng: "Người đánh bại Ngũ Tư là Tể ý chứ chẳng do ương xưa. Người giúp Trương Thương là Vương Lăng, nào quan hệ gì đến phước cũ". Đây là thấy duyên mà không biết nhân, có lỗi đoạn kiến. Nếu nói rằng: "Nghiệp ràng buộc chức tước tốt, không nghĩ ân đồng bên, mạng bất ngờ gặp gió tại nhân, không xấu hổ đến ân huệ của Tô". Đây là biết nhân mà không biết duyên, có tội trái ân. Nếu gồm suốt ý chỉ kia, hai lần dặn dò lụy kia, tiến tu đức nghiệp há lại có thể trở ngại ư?

Mùa xuân gieo giống lúa mới nhờ mưa mùa hạ để được đầy nhiều, đời trước trồng nhân lành nên nhờ duyên ngày nay mà phát khởi. Nhận đầm màu mỡ mà hoang vu không đất khai khẩn. Gặp thời sáng mà nghèo hèn là người không nhân. Ý chỉ nhân duyên đủ ở các kinh luận, chạm đường mà thường trụ đều là loại này. Nếu chỉ thấy một mà không hiểu hai thì mầm lỗi lụy làm tổn thương đức. Xem sách Phật đã rõ nghiệp tốt xấu, có nhất định và không nhất định. Quả báo phước họa có thể chuyển và không thể chuyển đức lỗi, chỉ nhường nghiệp có thể chuyển. Hoặc hiền hoặc ngu không đổi dời mạng quyết định. Nhóm đại thiện thì tai ương tiêu, các ác thạnh thì phước diệt, lý đó nhất định, tin mà không sai lầm. Thí như thuốc dược thạch thù thắng thì bệnh được trừ, nước mưa rưới thì lửa tắt, đập nước có đê lớn thì dòng sạch, búa tiêu chặt nấm sớm. Nhưng bệnh đã đến chỗ không còn cứu chữa được thì thuốc tốt cũng không cứu nỗi, lửa chảy phừng nơi ruộng mới vỡ thì nước nhỏ giọt vốn không dập tắt nổi lửa kia. Cây rừng đặng chẳng phải chỉ một đao mà có thể chặt hết. Dòng Trường Giang há một hòn đá có thể lấp ngăn. Đức lớn có thể che vết nhỏ, công nhỏ không đủ giúp lỗ lớn. Khắc vàng đá công rất khó, khắc cây khô mục thì sức dễ thành. Nghiệp nhỏ, quả báo không bền. Hạnh bền chắc thì quả quyết định. Không bền nên có thể chuyển, quyết định thì khó dời. Nạn có thể chuyển cho nên ta xương dứt sóng biển lớn, nguy khó dời thì bốn quả hại người dữ. Lưu Côn là tiểu Hiền đến đổi ngược gió và diệt lửa. Đường Nghiêu là đại Thánh gặp hồng thủy dâng cao, y theo đây mà bàn chưa đủ cảm. Tấn Văn chồng đức, dứt rắn dài ở góc đường. Tống Cảnh khởi lời lui sao yêu ở mé trời. Đây là nghiệp không nhất định. Chu Văn khinh mình mà lợi dân có đức mà không ứng. Chiêu dẫn tai ương mà nhường phước, nói lành mà thân dữ, chính là mạng quyết định. Hoặc ác đồng mà cảm khác, thiện đồng mà báo khác, đều là do nhân xưa gây ra, đâu đáng quái lạ ở một đời?

Khổng Tử nói: "Tiểu nhân không biết mạng trời nên chẳng sợ". Lại nói: "Không biết mạng trời, không gọi là quân tử". Phật gọi là nghiệp, Nho gọi là mạng, bởi nói khác mà lý giống, có thể được đồng luận ư? Mạng ràng buộc nghiệp, nghiệp khởi ở người, người bẩm nạn để cùng tột thông, mạng tùy nghiệp mà dày mỏng, mạng dày mỏng há chẳng do mình, oán trời trách người cũng không lầm hay sao? Sách Thi nói: "Tai ương của hạ dân không chỉ giáng từ trời".

Truyện nói: Họa phước không cửa, chỉ do người tự chiêu cảm". Ở đây nói: "Trời không thể đùn đẩy mà trách ở người". Mạnh Kha, Can Lễ không giận tệ Tang Thương. Trọng Do, Nhậm Lý, không hờn sự gièm pha của Bá Liêu, thì gọi là người không thể trách mà đùn đẩy ở trời. Lời kia nếu ngược thì gây ra kia không chỉ khác. Tóm lại, đồng quay về tấn đức khắc khe với mình ngăn ngừa người để khuyến khích chí càn càn, vui trời biết mạng, kia lo đau đáu, vì vậy cho nên trong là siêng công khắc niệm, ngoài là hoằng đức không tranh cãi, trên không oán lỗi trời, dưới dứt lụy trách người, hạnh trung hòa nhờ vậy mà tồn tại.

Người xưa cho thiện là đạo, kia theo việc ở đây ư? Người xưa ban đầu nghe kinh đạo Phật mà lòng tin không dốc chí, câu nệ trong tai mắt, nghi ngoài sự thấy nghe, cho rằng thuyết trước nhân sau quả, đồng với ngụ ngôn của Trang Chu, bàn trên trời dưới thế. Loại ô hữu của Tương Như thấy lưới lậu Gian Hồi thì là sai mà không lỗi, nghe gặp sai lầm của người trung thực thì khinh thiện mà không khuyên, rất là sai lầm. Biết nghiệp thì không vậy, hễ thấu đạt nghiệp gọi là quân tử không riêng ủy mạng. Ngước nhìn đức trong sạch của Thánh hiền, đôn đốc hạnh thanh cao như vàng ngọc, không buồn khi ở chỗ hẹp xấu, quên lòng tranh danh lợi, cho nên xong rồi dư nghiệp xưa, mở ra sự vui dài ở tương lai, không đoái hoài sự cười chê của thế tục, há lại cầu sự khen ngợi của nơi hẻo lánh?

Gieo trồng mà không thấy lớn, có thời mà trau dồi lớn đâu thấy khiếm khuyết kia, che lấp hoàn toàn sự hôn mê sâu. Nay bày báo thiện ác vì thời gần mà chưa thuần thục quả lành dữ đời xưa, phải thường trọn mà bèn từ tạ. Thí như cày cấy làm tự nguyện, không mong gieo mà được mùa cỏ ấu có gai, cũng mùa xuân sinh mà mùa thu có quả. Không cày mà được no là vì năm trước có lúa dư, không hiền mà giàu và thọ là gánh phước xưa của thân trước, đạo trời không thân sơ, nghiệp người có thừa thiếu. Do đây mà suy thiên mạng thì sẽ dứt được nghi ngờ.

Như sách của Ngu, Hạ, Thương, Chu, lời nói của Huỳnh Lão, Khổng, Mặc nói chỉ ở một đời, nói xa đến ba đời thì sẽ có sáu, hoặc không lời để thông.

Chỉ bày lợi làm lành là chức tước ban thưởng và danh dự, nêu hại làm ác là sự nhục nhã hổ thẹn và hình phạt. Nhưng người trốn thường ẩn danh thì lấy gì làm lợi? Nếu khỏi được tâm hổ thẹn thì không nhận cái hại kia, đâu đáng trừng trị và khuyên ư? Đây là điều hoặc thứ nhất.

Nói rằng trời cho thiện giáng cho trăm điềm lành, cho là thần sửa chữa dâm thêm cho đó sáu cực. Nhưng Bá Ngưu đức hạnh mà bị bệnh, trời đâu lại ghét người kia làm lành ư? Bọn đạo chích hung bạo mà không tai ương, thần há lại ưa người kia làm ác ư? Sao họa phước lại lạm đến ư? Đây là điều hoặc thứ hai.

Người nói rằng: Tội theo thân mà đều diệt, công và thân cùng hư hoại. Thiện đâu có điều vui đáng để bàn, ác đâu có tai ương mà phải ngăn. Như báo thiện ác tin có mà chẳng phải không. Ăn rau núi mà chết đói, chỗ nào thêm phước. Ăn nêm gan người mà thọ trọn đời, lúc nào chịu họa kia, lại không có quả báo thiện ác ư? Điều đáng nghi thứ ba.

Nếu nói rằng: Phước họa do Tổ tiên, tai ương hay vui mừng từ con cháu. Xét ở đời trước chưa hẳn là vậy. Bá Tông Tế Xương dứt diệt ở triều Tấn, sau mừng răng cha chú phiền xương ở nước Lỗ, há là do Tổ tiên ư? Đây là điều đáng nghi thứ tư.

Nếu nói rằng: Quán sát thiện ác thì có lầm ở trên trời, cho nên khiến giáng phước lưu tai họa không đồng xuống đất. Nhưng trời rõ mạng đâu phải tối tăm nơi việc thưởng phạt? Từng cho là cõi trời không như pháp chế của vua. Đây là điều đáng nghi thứ năm.

Nếu nói rằng: Họa phước chẳng phải do người chiêu cảm, thiện ác không có quả báo ở đời sau, mà bá vương thưởng thiện phạt dâm, sáu kinh nhóm đức mà chê lỗi, thì là dối việc không lợi ích, vọng ngăn điều không tổn hại, đâu quý gì bằng giáo của Khổng Tử, đâu có lỗi sách phạm làm suy chính trị, là điều đáng nghi thứ sáu.

Nhưng thời thiện ác chỗ cảm ra, phước họa chỗ gởi phục, chỉ hạn cuộc trong một đời, không chung cho ba kiếp. Lý ấy cuộc hạn mà không rộng đâu dùng để biện hoặc của người? Ngăn ác chưa hết, dẫn thiện nhiều thiếu sót, kia chấp nghĩa còn cạn, lợi dẫn còn nhỏ, so với sự tin sâu diệu pháp ba thừa ở mười phương, giúp bốn loài nơi nhà lửa, vận hành sáu ghe ở biển khổ, cao thấp cách xa nhau, như gò đất nhỏ mà sánh với Côn Luân thì cạn sâu không giống nhau. Như ao tù nước đọng mà sánh với Giang Hán, đâu thể đồng năm mà nói ư?

Xưa, Duy-ma-cật rõ suốt đến Xá-lợi-phất thông biện, kinh luận đều rõ ràng được bắt chước, đáng để vượt hạng siêu hơn Khổng Khâu, quá Lý Lão, hơn Hứa Do, phục Mặc Địch, dẹp Trang Chu, nuốt trăm họ, gồm chín dòng, sách vở ghi chép đâu thể cùng bọn. Nhưng thọ các dị đạo không hủy chánh tín, tuy rõ sách đời mà thường ưa Phật pháp, thầy thờ Thích-ca, khéo được dẫn dụ, há không biết đạo thù thắng mà kính ngưỡng ư?

Thiên thứ ba: Nội Đức Luận Không và Có.

Hoặc có kẻ ác chấp không để sinh chấp đoạn, không có hổ thẹn sợ sệt, tự cho là Đại thừa, đây là điều rất cấm trong chánh pháp. Kẻ chấp đoạn kia nói rằng: "Kinh dùng pháp dụ bào ảnh sinh đồng hoằng hóa", lại nói rằng: "Tội phước không hai, nghiệp báo chẳng có", cho nên biết là trồng nhân thâu quả, nói cõi trời, địa ngục, không có tướng khác như thuật cây quýt trên rừng, như Mạnh Đức chỉ vườn me trước đường, quyền dụ ngu mông giả xưng quý giá, có kia nói đâu không có thật ư? Còn như nhiễm bị bệnh, Nhan Hồi chết yểu để nhiếp sự trái nghi của nuôi dưỡng, Bành sống lâu, Đam tồn tại, do có thuật trái nhau. Sang hèn tự nhiên mà khác, khổ vui gặp là tình cờ, thí như các cỏ cây khu vực để riêng. Nếu quả đậu tiêu biểu điềm lành, liền lý ứng thôi sáng, danh chép trên lụa trúc, trạng đồ nơi nét vẻ đẹp, đây thì quý cỏ cây. Nếu được ba đường tắt mà dễ cỏ bò lan, nhưng bảy đầm khó cắt, đầy củi bốc lên của bộc thiếp giúp bước chân trâu dê, đây thì cỏ cây hèn. Nếu bày thẳng ngọn Thiên Vân, đất La Sinh bặt dấu vết, búa rìu không kịp, thợ đốn củi nghỉ ngơi không đến, đây thời cỏ cây toàn mạng. Nếu thợ đá thường chiếu cố đến, nông phụ bỏ vụ, gặp Hà Tiểu vung bừa, nhằm Ban Châu quơ búa, đây là cỏ cây yểu mạng. Nếu lúc nhỏ sánh chất với tùng bá, tuệ nhã đồng khí với lan chỉ, lạnh Thúy Lăng chưa thay đổi, cỏ phương ở tối tăm không thôi, hiền hậu tài giỏi như cỏ cây, nếu cỏ tật cỏ lê sinh mà thấy xấu cây chanh gai nhiều đâu có đẹp, ở giới văn thơ so sánh lại lấy bọn gian mà dụ cho kẻ xấu, là cỏ cây tầm thường xấu xa. Nếu khác mùi sai vị, ngàn pha vạn hình do đất đai tăng thêm. Hồ có thể thắng danh, nghiệp gì mà thấy nặng, nhân gì mà được nhẹ, lỗi gì mà mau chết, công gì mà sống lâu, tội gì mà tiều tụy, phước gì mà tốt tươi, tập gì mà ngậm độc, tu gì mà gieo tiếng thơm. Đây há là túc nghiệp gây ra ư? Chính là tự nhiên mà có muôn sai. Người có vận mạng khác nhau cũng vậy, đâu do đời trước khiến như vậy. Nhưng không thị không phi là lý sâu của Đại thừa, rõ thiện rõ ác là giáo cạn của Tiểu thừa. Ngốc thay!

Hợp chân, cẩn thận trái đạo đâu là bỏ ác hướng thiện mà khởi tâm phân biệt ư? Lại thuyết chê bai nghi ngờ Phật, phép ấy đầu mối rất nhiều, bàn không nói có tự sai trái nhau, đây là Phật đối với chúng sinh, đâu không chỉ là rõ pháp một loại ư?

Thuyết tà không nói là đúng, chánh không thì chẳng phải. Nếu hiểu lý có không đâu phát ra lời như vậy? Đây đã dụ sai mà truyền lời ngụy biện, sợ kia mê lầm khiến người sau thêm lớn tà kiến. Tạm lấy chỗ đã nghe mà bàn rằng: Nếu như mộng, như huyễn, như vang, như bọt bóng, chẳng một pháp nào không như vậy, chung muôn tượng mà đều bao gồm. Bậc thượng sĩ quán đó cho đến thành Thánh, đến Thánh thể hội mà riêng vượt, sông lớn tràn đến trời mà không bị chết chìm, gió lớn thổi nghiêng núi mà không bay, đầy đủ sáu thông tự tại, tiêu dao ngoài ba cõi. Nhưng lý không tự rõ, chánh quán để soi, tâm không tự vắng lặng nhiếp nhịp điệu này, chướng không tự bỏ đối trị mới buộc, đức không tự đủ siêng tu mới nhiều, sáu tệ đã dứt thì chân như sẽ rõ, ba chướng chưa diệt thì Bồ-đề rất xa, cho nên chân đế lìa tướng cấu tịnh, tục đế lập điều thị phi, chỉ việc quyết nhờ sự phân biệt, luận pháp đâu nên ở hỗn lộn, sáu độ không thể là nghiệp đọa khổ, ba độc không thể là cầu xuất thế, nhảy vào hang khó mà không rớt, đến với lửa làm sao không cháy. Nghiêu Thuấn không thể sánh với hôn Kiệt, thuyết Lệ không thể đồng với thánh Nghiêu, trung hiền không thể đày ra miền hoang dã, tà nịnh không thể lên triều sáng, không thể trắng làm đen, không thể khiến ngày làm đêm, không thể dùng tà hại chánh, không thể sánh phụng với chim cú, đâu được đồng nhân quả với sừng thỏ sánh tội phước với lông rùa ư?

Tuy dẫn lời màu của Đại thừa, không chứng chí chân của nhiệm mầu, nói nơi miệng như đồng, dùng ở tâm thì khác, khác là sao? Chánh pháp do không bỏ người nghèo kia, tà thuyết do không giúp người mến nó. Người trí quán không để dứt sân giận. Người mê bàn không mà buông lung. Người hiểu hành không mà tuệ giải. Người lầm chấp không để cuống trái. Đại sĩ thể hội không mà tấn đức, tiểu nhân nói không mà lui sụt điều lành, khác nhau như vậy há đồng được ư? Bởi dùng ngược lời chánh để sinh tà chấp. Ngựa ký lội nước siêng năng mà vô ích, ghe nhị leo núi nhọc mà không tiến, há ngựa ký nghe nhị là không tốt ư, nhưng lội nước leo núi là dùng ngược. Đọc Duy-ma lìa tướng mà bỏ tấn tu, tụng lời Trang Chu giúp vật mà buông lung tình dục, không khác buộc xe bốn ngựa mà đi ngược dòng, chèo ghe vuông để leo sườn núi, trông theo sự bôn ba giỏi của cha lại muốn so sánh cái lợi của người đi bộ, không phải là khó sao?

Tịnh Danh là hữu tình đức cao, Trang Chu không có lụy ham muốn tình dục, cho nên biết đoạn kiến bàn không là trái đạo vô vi. Tột nhiệm mầu của diệu đạo tức quần có để rõ không, đã chạm thật mà biết giả, cũng đến khác mà soi giống, kia là loại gì vậy? Thí như đối trước gương rộng mà xem bên, đến ao xanh mà nhiễm bóng, các hình ảnh rõ ràng mắt thấy được mà không có thật tánh, duyên sinh có mà thành hình, có duyên lìa thì chất tan, nước gặp lạnh thành băng, nước gặp nóng thì mất cứng. Hễ theo duyên mà có, tuy có lớn nhưng không thật, cho nên trời đất và ta đều không thật, ta cùng muôn vật là một, Bồ-đề không được cho là có, huống chi chúng sinh và các pháp. Cho nên xét vật mà chẳng phải vật, chấp các thân mà chẳng có thân, chấp lệ thiên đều là dối, sùng trấn địa chẳng phải chân, nói bàn tột lý mà không nói, khách khứa đầy nhà mà không một người, sắc đẹp tuyệt thế mà chẳng đẹp, vòng báu đầy mắt mà không quý, lành dữ khác đường mà không hại, Thánh phàm đồng khác mà thường đều. Xét đại ý của kinh luận, theo duyên để rõ chẳng thật có, duyên khởi để nói chẳng phải không, sự có mà chẳng thật diệu, nghĩa không mà chẳng phải thái hư, không người chẳng quan hệ đến nhà tối, không thấy chẳng phải cái ngu của mặt tường, không nói chẳng phải miệng người vàng, không thể chẳng phải thân quan to, không động mà chẳng phải diện mạo núi lớn, không riêng chẳng phải a dua hùa theo, không chân chẳng phải báu mắt cá, không thật chẳng phải vẽ chân chim, tiền tài chẳng phải tài mộng mà đâu có khác, sắc và huyễn sắc chẳng có sai. Ỷ độn đồng sinh ra nguyên hiến. Tống Lý sánh với em gái Bình Thành. Đạo trí rõ không mà dứt ràng buộc, tình tục dính mắc có để thường câu nệ. Người cùng nghiệp báo chẳng thật có, thuyết báo theo người mà chẳng phải không. Thiên đường giống với trời mà chẳng phải vọng, địa ngục đồng với đất mà đâu dối, chẳng đồng giả của dương hùng xưng cây ngọc, cầu man đô thấy thần ở, đâu liền chấp không nói mà trái ý chỉ, níu cỏ cây mà so sánh.

Báu dạ quang kết duyên, sắc Nam Oai Mao Tuyền, người đều thấy nó có mà sinh tâm ưa mến, ai có thể hiểu kia là không mà chẳng nhiễm. Hiềm khích? Giới trợn mắt, ruồi xanh rất thù hằn con sò lộng lẫy, đâu không chấp tướng mà khởi ganh ghét, mới sánh được với hư không mà chẳng giận, riêng cho là hạnh xấu trống không mà chẳng ngăn, pháp lành trống không mà chẳng vâng theo. Ba hoặc nên bỏ mà chưa sửa chữa, năm đức nên tu mà lại bỏ, chẳng quán không để khiển lụy. Nhưng chấp không mà bỏ thiện, đây há là lý không hai sâu xa. Của Tịnh Danh, là ý chỉ mầu nhiệm giúp chúng sinh của Trung Chu ư? Lớn thay thể không của bậc chí nhân!

Chứng vốn vắng lặng của muôn vật, biết bốn đại là giả, thấy Tây Thi như vào nhà xí, sánh Nam Kim như ngói bể, năm dục không thể loạn tâm mình, bốn ma không thay đổi sự vốn thường kia. Trí ngày một sáng mà đức giàu thêm, hoặc ngày một trừ mà lỗi ít dần, cắt tay chân mà không tiếc, xin đầu mắt có thể cho, tám pháp không sinh hai tướng, vạn vật xem như một ngựa, cho nên sẽ chứng trí vô thượng làm Tát-bà-nhã, được lý kia thì giải thoát như thế, mất ý chỉ thì lỗi loạn như kia, đâu được là trái mà không sợ, tôn sùng tà cho là phải. Thấy ghe thấy nước đều chẳng phải chân đế mà toan cho gặp sông lớn chẳng phải ghe không giúp. Thể bệnh tánh thuốc đều là trống rỗng, người do bệnh mà chết, bệnh nhân thuốc được trừ. Sừng tê lông chẩm đồng loại bọt bụi mà người uống nước có lông chim chẩm thì chết, uống nước sừng tê thì sống. Nước nhạt rượu nồng đều chẳng phải thật có mà nước không loạn, người say sẽ sinh lỗi. Trung thuận phản nghịch đều như tiếng vang mà phản nghịch bị giết trung thuận được thưởng. Tánh tội phước bình đẳng không hai mà phước do thiện nên có, họa do ác gây ra, các pháp thiện ác đồng như hư không chẳng có tướng mà pháp lành giúp đạo, pháp ác sinh chướng. Cho nên biết chân tánh muôn pháp đồng như một, trong pháp nhân duyên vô ngại có muôn vàn sai khác. Không có hai môn, chẳng có nghịch thuận, hai đế chân tục đồng chỗ quay về. Nếu cho là Tiểu thừa nói có tội phước, Đại thừa chẳng nói phải quấy, giống như Hồ, Việt cách xa. Nếu tướng mâu thuẫn chống nhau thì đồng tử còn tráo trở, gồm nhiếp đâu phải đầu chuột bởi nghe đạo mà nói đường, khiến lầm lượng mà chấp ác. Nếu xét rộng, suy nghĩ sâu, quyết giải thích nghi thì mê lầm hết. Cúi xin cha lành vô thượng, Thế hùng ở mười phương lời không đâu chẳng thật, lòng từ không đâu chẳng khắp, tướng không đâu chẳng lìa, nhìn không đâu chẳng khắp, đức không đâu chẳng cùng, lỗi không đâu chẳng bỏ, thiện không đâu chẳng khuyên ác không đâu chẳng ngăn, dùng hương thoa không mừng, lấy dao cắt không giận, không thương người thuận chẳng ghét kẻ nghịch, phước tuệ viên mãn mà chẳng dư, phiền não cạn sạch mà không đầu mối. Cứu lỗi chìm đắm ở ba cõi, mở bày sự đui điếc của bốn loài. Có không đều chiếu để giúp nhau, chân tục hội thông mà gồm nêu, lường bệnh mà cho thuốc, không thể trong nghịch mà riêng ở, như sóng Phương Đẳng Nhất thừa, như tột tuệ Thánh tám bộ, đầu tiên Đại thừa đâu không nói rộng lợi ích của thọ trì (nhận hiểu và hành trì), sâu bày lỗi của hủy báng.

Kinh lại nói rằng: "Tin sâu nhân quả không hủy báng Đại thừa", đâu cho rằng lý Đại thừa đều không có nhân quả ư? Chấp tướng mà làm lành thì điều lành chưa tinh thuần, chấp tướng mà dứt ác thì dứt rồi lại sinh. Nếu ngộ tánh thiện vắng lặng mà không làm, nếu rõ thể ác trống rỗng mà chẳng dứt là khiến ba chướng hằng nêu mà vắng lặng, nhóm mây muôn đức mà rải khắp. Trí tuệ như biển không thể rót vào một vỏ sò. Đạo hơn người trời đâu được dùng ống trúc một tấc mà đo, mà dụ với gốc cây trọc, so với người ngu độn, không phải lầm hay sao?

Nói không mà buông lung tình, chẳng thể không có khổ. Bệnh tật đau đớn thì ngủ không yên, dao cắt bị thương thì thân thể không hoàn toàn. Suốt ngày không ăn thì chịu đói, không may áo thì mùa Đông bị khổ lạnh. Nhưng nghiệp gây ra khổ đâu thể xem thường mà không tránh ư? Năm phước cùng sáu cực, nhân tình chẳng thể đồng, cho nên ở cùng tột mà suy nghĩ cho hiểu suốt, ở chỗ nguy mà cầu an, bệnh bướu cổ mà xin lành, ở chỗ buồn rầu mà muốn vui, ưa thọ mà kỵ yểu. Vinh hoa hưởng lộc mà hổ thẹn hình tàn tật. Thêm vui tươi thì mừng cười, khổ đến thì buồn than, đâu được hùa theo thiện ác mà không tu nhân phước ư?

Xem muôn họ bẩm thọ khác nhau, là ngàn muôn khác nhau, hoặc so thượng thọ có dư, hoặc sánh chết yểu không bằng. Hoặc mặc áo đơn vải thô mà không việc gì, hoặc mặc áo kép mà lạnh lại vào. Hoặc nhờ cỏ đất mà được an hòa, hoặc ở giường mền mà gió lạnh. Hoặc không trị mà tự lành, hoặc tuy có trị mà không khỏi. Hoặc không chú thuật mà thân thể mạnh khỏe, hoặc khéo nhiếp mà bệnh nặng đến. Bên ngoài thân đều có da tóc, mà bên trong phủ tạng khác nhau, đều chứa đủ máu huyết, bao thịt và gân vận chuyển, xương cốt chống đỡ, sao lại một người thọ một người yểu, sao người mập mạnh, người ốm gầy. Bẩm linh gì mà riêng thật, thọ khí gì mà lại hư? Hư không chẳng riêng xuống trần mà làm thể. Thật đâu riêng vàng đá để làm thân, chưa hẳn người thọ lâu là có y thuật, tuổi ngắn là không có sách thuốc. Đâu cho là chuyên do nhiếp dưỡng chứ không do nghiệp ư? Cũng có bào thai yểu mạng, trẻ em bị bệnh nặng, mừng giận chưa tranh, ham dục chưa mở, chưa chạm lạnh nóng, chưa hủy nơi bi ai, thọ mạng do đâu mà yểu, tật bệnh từ đâu mà lại, thì kia sở dĩ là vậy, đâu chẳng do nghiệp đời trước ư? Còn như hai vua Chiêu, Ai nhà Hán, hai chúa Văn, Minh nhà Ngụy, hoặc chưa ba lần chín mà lên xa, hoặc chỉ năm tám lần mà tổn đời. Thuật nhân nhóm họp, chỉ đến linh của họ Lý, người các nơi như rừng không cứu được cái chết của Thương Thư. Quân vương không thiếu gì thuốc, thầy phù thủy đâu giấu kín nghề, há dừng bệnh mà phí tổn hại, đâu lại năm ngắn mà không nối tiếp, chẳng phải theo nghiệp mà cảm báo, chẳng phải đạo chỗ giúp chú thuật?

Nhưng kinh khen công thí thuốc, Phật tán thán đức y vương, Khổng Tử, Công Minh dè dặt phép bệnh, Lão Tử có phép tắc nhiếp sinh. Người không tin nghiệp đã là mê, không thuận thầy thuốc cũng là lầm, hay có cạn sâu của nhân quả, bèn giải thích được chỗ thông bít của thuốc hay, có thể dùng trí tuệ để nghiên cứu khó dủ nơi Hàn, Mặc. Còn như Công Minh tôn sùng Biển Thước, trừ bệnh nặng lâu ngày khó chữa, Quách Phác ở Hà đông, Hoa Tha ở quận Tiều, Ngô Phổ ở Quảng Lăng, Phàn A ở Bành Thành, hoặc trừ dữ làm lành, hoặc ngăn bệnh làm lành mạnh, đâu được không tin y thuật có lợi ích. Nhưng Cảnh Thuần biết ngày gia hình mà không thể khiến hình phạt đừng đến mình. Công Minh biết tuổi thọ hết mà không thể kéo dài thêm. Biển Thước, Hoa Đà không thể làm cho người thân của mình không chết, Ngô Phổ, Phàn A không thể khiến bản thân sống hoài, đâu được không tin thọ yểu là do nghiệp. Thầy thuốc do nghiệp mà gặp, thuốc uống nương duyên mà nhóm, thầy thuốc thật có công, thuốc uống chẳng phải không chấp. Bệnh quyết chết, dẫu là bậc Thánh cũng đâu thể trị hết. Bệnh có thể trị, đợi thầy thuốc mới lành. Hồn do nghiệp đến, thì Cương Hộ gặp thuốc sống lại, mạng do nghiệp mà chết thì Thánh y làm một áo quan mà chôn, mạng mà thọ thì sửa cho thể yểu đâu khổ được. Tùy gặp thân đẹp đẽ hay xấu xí, bị ung thư, ngàn phẩm muôn mối đều là nghiệp làm chính, ba cõi sáu đường theo nghiệp mà đến ở. Trăm cỏ vô tình cho nên đẹp xấu chẳng quan hệ gì đến nghiệp báo. Bốn loài có mạng thì nhân duyên khác với cỏ cây. Búa rìu chặt, cây không kinh động. Dao gậy đánh người sợ hãi. Trái bầu treo mà không ăn, cánh lông ăn mà chạy vội, so với hữu tình không biết đâu chẳng đồng loại dẫn dụ.

Lược bàn có hay không dẫn dắt do tâm nghiệp. Trước vả lại ca hát kia sống thường, nay thì chỉ bày chánh pháp. Tiểu thừa cho y báo là nghiệp có, Đại thừa cho muôn cảnh là do thức tạo ra, tùy nghiệp huyễn mà tạo lập trời đất, theo vọng tâm mà hiện cỏ thức. Nếu mắt bệnh lòa thấy hoa đốm trong hư không, ngủ thấy mộng hiện sống già. Nếu ngộ tâm nghiệp thì chỉ nghe đạo Phật, xưa nay Tiểu thừa và Đại thừa như tiểu học với đại học, nhỏ chỉ dạy thơ kế, lớn rộng dạy lễ nhạc, ban đầu mê muội như lông trâu, cuối cùng xuất sắc giỏi hơn người như sừng con lân, đây chính là thứ lớp dạy dỗ, há có đồng khác để phân chia. Bởi căn cơ chúng sinh có lợi có độn, cho nên bậc Thánh lập giáo có tiệm có đốn, hoặc có ra cạn sâu, hoặc tiến chia gang tấc. Dẫu là trăm lo mà chỉ một mối, chẳng khác đạo mà luận bàn trái nhau, bèn có chấp cửa không để ngược giáo pháp, bàn Đại thừa mà chê tiểu, Phật không sai sót với chúng sinh, vì chúng sinh tự không rõ, thí như nhà tối không đèn, như đi đêm chưa sáng, cho nên tước đoạt nhau ồn ào, tranh phải quấy nhốn nháo, đâu khác gì lượm hoa sen trên ngọn cây, tìm Ngô, Sở ở Yến, Triệu không phải là lầm lắm hay sao?

Một nước không dùng hòa canh, một cây không tạo thành nhà, một áo không xứng các thân, một vị thuốc không trị bệnh chết một chỉ màu không thể thêu đẹp được, một âm thinh không thể hòa đều cầm, sắc, một lời không nói khuyên hết các điều lành, một giới không đủ để ngăn nhiều lỗi, đâu được quái lạ ở sự khác nhau giữa đốn tiệm, khiến cho pháp môn chuyên nhất, nhiều phẩm của pháp môn như công khác nhau của dược thạch, cứu lạnh lấy ôn cho người làm dụng, bỏ nóng thì thuốc lạnh nên dồi dào, hoặc đặc biệt nên ở chỗ ngự ẩm thấp, hoặc riêng cần dứt gió. Không thể đồng bệnh mà khác thuốc, không thể bệnh khác mà thuốc giống. Nếu giữ gốc cây mà quyết ngăn chặn, có thể hiểu biến mà sau thông, đâu được câu nệ một đường mà tước đoạt nhau, khởi chiến tranh ở trong ấy.

Nhân quả ba đời Phật không dối gạt, mười phương khuyên giới nghe phải không nghi. Khuyên đó nên tu, giới ấy nên xa, ép chỗ ham mê của phàm tình, hành sở nguyện của thánh trí, đâu được trái kinh luận đã nói, lấy bụng ngực mà đoán, cho rằng thiện ác đều không, chẳng lợi cũng không tổn. Pháp nhãn rõ suốt không pháp nào chẳng xong. Tướng lưỡi rộng dài lời đều thành thật. Chiết phục có thì một sợi lông là muôn vật, đồng không thì muôn tượng đều là một. Ngăn lỗi sinh ra đoạn thường, gồm có không để dứt bệnh. Diệu lý Bồ-đề thật rất sâu xa mà kín nhặt, nhàm trần lao cầu tuệ giải thoát, phải cẩn thận không nên buông lung. Chẳng là thành quyết sẽ dữ, thuận đạo trọn sẽ lành, chớ cho là không tin có như ánh sáng mặt trời.

QUYỂN 15

THIÊN THỨ BA: PHẬT ĐỨC (PHẦN 1)

Tựa rằng: Nhờ kẻ tục làm ngạnh, khéo léo nương ghe, lớn hơn thầy gọi là vua, cho nên vua là vãng (xưa), như chốn quy về của biển là trăm sông, chấp hiệu vua dụ ở đây. Nhưng nói chung vua là ước duyên nhiều, sự lý chia hai, nêu cốt yếu chỉ có hai: Ban đầu rõ sự, thứ hai rõ lý. Cho nên rõ sự, vua thì có vua loài người, vua cõi trời. Hạnh hóa ở sự, sự dừng ở thân, thân tồn tại mà hóa hạnh, thân diệt thì hóa dứt. Đây thì chấp ngoài thân mà không suy nghĩ thức bên trong, nên gọi hóa kia là ngoại giáo. Hai cho là rõ lý thì vua pháp là Phật giác, hành hóa nơi lý, lý ở nơi tâm, tâm tồn tại mà làm hóa, tưởng diệt mà cảnh dứt. Đây thì nghiệm tâm kia mà không duyên cảnh ngoài, nên gọi hóa kia là nội giáo. Cho nên hậu thân mà sinh, sinh sinh không cùng, tổn sinh bỏ tình, tình quên chiếu tịch. Dù cho giáo của tồn hình muôn nước đồng nghi thức, thì thuật luyện tâm của ngàn Thánh đồng là một, đây thì hai giáo đạo tục ra, vào, lên, xuống.

Tục thì vào có chìm hình sáu đường dùng đó làm liên tục. Đạo thì ra không mà lên ngôi vị ba thánh từ đây xướng rõ.

Từ khi chánh đạo truyền đến đông độ, hơn sáu trăm năm, đạo Phật nhờ từ tin mà tín đồ chẳng phải một. Riêng cứu giúp bạo ngược mà hãm hại Tăng, đập tượng Phật hai ba chỗ. Rõ sau trọng đạo thì chùa tháp sùng cây cũng đông. Còn như vua Ngô rõ Phật thánh hiểu chỗ quay về của người trời, vua nhà Tống nêu đức của Phật là chỗ tôn dùng của triều hiền, còn những người mê muội khác thì không nói cho xiết. Cho nên bài tựa hiện dấu vết điềm lành, lại thuật tụng đức đầy đủ, tùy loại xem qua đâu không rõ bày tâm tánh ư?

Lời tựa đầu Hoằng Minh Tập của đời Lương, bài tựa về đức mục của Phật.

Tấn Tông Bính Minh Phật Luận.

Tổng mục thiên "Đức của Phật" ở Quảng Hoằng Minh Tập đời Đại Đường, quyển mười lăm.

- Nhà Tấn, Sa-môn Chi Đạo Lâm khen tượng Phật, Bồ-tát.

- Nhà Tấn, Sa-môn Thích Tuệ Viễn chép ảnh hưởng của Phật.

- Nhà Tống, quan Thị trung Tạ Linh Vận chép bài khen Phật pháp.

- Nhà Lương, Thẩm Ước làm bài tựa Phật ký.

- Nhà Tấn về sau chép tướng tượng Phật cảm ứng.

- Nhà Lương, Cao Tổ nêu ra chiếu "Xá-lợi Dục Vương".

- Nhà Lương, Tấn An "Bồ-đề Thọ Tụng".

- Nhà Lương, Giản Văn Xương Đạo làm mười bài "Phật Đức Văn".

- Nhà Lương, Giản Văn làm "Tạ Phật Sự Khải" mười bài.

- Nhà Lương, Thẩm Ước làm "Các Lục Chùa Phật Tượng Tháp" mười bài.

- Nhà Lương, Vương Tăng Nhụ làm "Xướng Đạo Phật Văn".

- Nhà Lương, vua Cao Tổ ở trong nước lập tháp xá-lợi.

* Ban đầu của thiên "Phật đức" của bộ Quảng Hoằng Minh Tập.

- Khen tượng Phật Thích-ca, Bồ-tát v.v..., của Sa-môn Chi Đạo Lâm đời Tấn.

- "Phật Ảnh Minh" của Sa-môn Thích Tuệ Viễn, đời Tấn.

- "Phật Pháp Minh Tán" của quan Thị trung Tạ Linh Vận đời Tống.

- "Tựa Phật Ký" của Thẩm Ước đời Lương.

- "Phật Tượng Thụy Tập" của họ Thích ở núi Chung Nam đời Đường.

- Chiếu "Xuất Dục Vương Xá-lợi" của Cao Tổ Hoàng đế đời Lương.

- "Bồ-đề Thọ Tụng" của Tấn An Vương Túc Cương đời Lương.

- Nhà Lương, "Xướng Đạo Văn" của Túc Cương ở đất Phiên soạn.

- Văn thệ phát nguyện quy y Phật của Vương Tăng Nhụ, đời Lương.

Khen tượng Phật Thích-ca của Chi Đạo Lâm đời Tấn:

Đạo lập người nói nhân và nghĩa, nhưng nhân nghĩa có gốc gọi là đạo đức. Xưa Hy Chu chưa có hiệu Phật đại Thánh là Thái tử của vua Bạch Tịnh ở Thiên Trúc. Mẹ họ Tục, cha họ Cừu-đàm. Ngước lên linh trụ để nương, nhờ thông minh xinh đẹp, tiếng thơm lan xa, hấp thụ trung hòa mà đản sinh, bẩm thọ hạo nhiên của Bạch Tịnh, sinh ra từ hông bên phải. Còn nhỏ đã nói được, bao dung tước trời để không sang thêm, thật khỏi lộc để chẳng cần là đủ, cho nên thường đêm cảnh giác trên ngôi vị, nghịch tế lữ sân tía, xót xa sầu muộn chứa trong cung mới dự định vượt ra bên ngoài, bỗng chốc mà cao vút trùm cả ngoại ô đồng trống, bốn cửa thành đều mở, ba lần xem xét bệnh khổ, gặp người nhẹ nhàng lời đẹp đẽ để khích phát, bèn cam tâm nhận mà không nghịch, hỏi thăm mưu kế lớn ở người có đạo, than thở chìm đắm ở đây, bèn rõ phát xa ra đi bồi hồi chốn thuyết nhàn, thoát ngôi báu nặng ở hoàng cung, mong không đợi để nhẹ gót, lột long bào đầy trang sức đổi áo thô gấp mấy lần của người trong núi sâu. Bạn bè đưa đến bờ rồi quay lại, Ngài dùng chí cao khiết chẳng giống như đá, đặt lòng nhân như núi, trải cỏ để ở, suy tâm lập thề, sửa sang mối hơi an ban, vận mười toán để chất tâm, đều vận tám ghi của bốn thẻ, theo hai tùy mà giàn tuần, dứt hai mé đưa rước, duyên diệu nhất ở đầu mũi, phát mờ tối của ba chỉ, rỗng suốt bốn quán mà hợp tan, năm ấm dời đổi nơi hoàng phủ, sáu tình trống rỗng nơi rừng vắng, để nguội năm lửa dục ở trong, khuếch rộng tâm chính đại, rửa Bát-nhã để tấn đức, ẩn thất trụ mà thêm nhiệm mầu.

Tìm minh ngư ở sáu tuyệt, răng thỏ đứng mà bỏ nơm rộng chừa nhóm trong muôn kiếp, đồng sinh biết ngay năm ấy. Che đậy trược để tự tiện chói lọi. Tế sáu Phật mà nhỏ truyền, y cứ to lớn trượng sáu, thân thể mang đầy ánh sáng, mở độ Trung Huỳnh, sắc đẹp hơn vàng ròng, vận động lên tận trời, qua lại thản nhiên. Tám âm vang xa, khỏi dự bày vỏ đẹp, nhiệm mầu xem chưa có điềm thì cao tuyệt sáu ngôi, bày thành nổi tiếng thì hóa thạnh năm ba chỗ. Xung lượng rộng nơi thái hư, Thần che trùm lưỡng nghi, dón gọn đợi thành thể, thái hòa dự định mà gọi là tốt đẹp. Cỏ thi tròn, tượng kia thần vắng lặng. Quẻ vuông, pháp kia trí trùm hết, chiếu nhóm sự giúp đỡ lưu giữ điềm lành nguyên túc mạng để chế tắc, hoặc giềng mối thì dùng đức nghĩa, hoặc đục chạm thì dùng gió mạnh, hình bóng loáng như ngày mới, trông mong nhiệm mầu đứng đầu ở vô tận. Thực hiện trăm lần luyện để đến chỗ thuần túy, dẫn dắt chúng sinh quay về tâm tôn, nhổ ngoại kiền của Nghiêu Khổng, dặn dò tám ức dùng lời tột, che trùm gò cao để khởi kinh điển, thâu nhặt ba không của đạo hạnh, bọc Đam Chu lại để hội sự nhiệm mầu, thần hóa nổi tiếng ở Tây Vức. Ánh nắng ban mai lên cao làm hang tạnh ráo, dân trông mong kính mến mà khởi hạnh, giống như khúc diệu ở cung thương là đúng thời.

Kính mến Hy Phong xa tít, thần gởi Trác tuyệt ở Hoàng Hiên, Uất Thái Xung Hán ở Châu Đường, khen ngợi có dư ở Trâu Lỗ. Tin có thể cho là đều lãnh hội thần hóa, khuôn phép của vua chúa. Năm càng buông lung tâm mất dần dấu vết Nê-hoàn, hễ đến người lúc làm lúc nghỉ, hoặc ẩn đây hiển kia, dấu vết bặt ở cõi nhẫn, thầm trở về Duy-vệ. Kẻ tục vâng theo thường cho là kỳ lạ, vốn dùng còn mất mà bao gồm, còn như tánh linh giác, ba cõi thuần túy, rộng như sông nghiêng, đổ ào như trời sụp, dân đen cùng đêm dài đồng tối tăm, dòng khô cùng bến cạn đều thiếu. Sáu độ cùng lở núi đều mất cả, ba thừa cùng dứt trục mở cương, đệ tử khóc ra máu mà tâm tán, trăm sinh linh đau buồn mà đều sợ. Đạo cao ứng thấp, nhân tuần hoàn chính thân khen, cho nên không cầu khóc mà khóc, đâu chẳng phải gồm quên thiên hạ dễ khiến gồm quên. Nạn linh phong truyền trùm khắp đất trời, lịch số cuối cùng ở huyện Xích, sau chết cho nên cùng nghe, kính mến thần nghi mà việc dứt cả ngàn năm. Kỳ Hoàn đã phiêu lạc, thọ vương cuối cùng cũng hoang vu, đạo tan người mất thời cũng rồi. Chạy trốn do bất tài, vâng theo mưu kế lớn, đuổi theo ánh sáng ban mai mà không kịp, dựa cây dâu mà chưa lên, thần rong ruổi ở nguyện xưa nói lại khâm phục, bèn viện bút khởi thuật xưa nên suy nghĩ xa. Kia nói rằng: "Thái Thượng đã đi xa". Có Đường Thống Thiên, Khổng Diệt Nhân Chu, Lư ba truyện nói Đức Thích-ca là Duy Đế trước ứng đây làm sự uyên thâm. Hóa dung ở Trúc Càn, giao tiếp nuôi dưỡng điềm nhiên, rửa giặt thuần túy lên đầu nguồn, đi xa phép tắc của vua chúa ở đời, lãnh tông trung huyền, rõ ràng mưu mô lớn, dựng lên sự tài giỏi viên linh, cao lớn như Côn Nhạc, lượng trùm thái thanh, thái tượng ít dòm mà kia tròn sáng. Huyền âm ít học, văn dùng tám tiếng, đuốc tuệ sáng rỡ, cây đèn ngã trong đêm xa, người kính ngưỡng nó sáng chứ ai biết cái tối kia. Trông ráng chiều thì cũng là bến mây, oai dương bày mùa hạ, ôn nhu trải mùa xuân. So đồ dùng hình, cơ cao do thần, cuốn thì khói diệt, vọt lên cũng là rồng duỗi mình, cổ vũ ghe rạch linh khí chỉ có mới, ai cùng làm đây, riêng vận hành vòng xoay đồ gốm, ba không trung huyền, tám ức đưa xa, hai bộ đã rộng mở, hai bút chỉ một sách, nạp đầy để có tâm kỳ lạ, thản nhiên để đơn giản dón gọn, cất các thứ vào hòm giấu đi, là đó khiến điều lành có thể khéo nhân lành, bèn giảng nói, đến nỗi còn nói tánh há y theo mở mang. Mặt trời mặt trăng sáng rỡ, hiển tối cùng khắp, sống như mây mù rối rắm, mập mờ đến tảng sáng, đến người toàn hóa, dấu vết theo đời mất giả gọi là Nê-hoàn, nói cáo nói quy dời gió trời đất, chứa cỏ thơm trong cửa đỏ, tượng võng không còn, ai cùng ngộ cơ, gương tâm nương bút ngõ hầu gặp sáng tối.

Khen tượng Phật A-di-đà:

Phàm ngoài trời đất sách vở chẳng bằng kịp. Thần đạo trái đời há ý người suy lường được, cho nên nói rằng: Chỗ biết của người chẳng như chỗ không biết, mỗi khi ở thường liền muốn đem chỗ không thể thấy mà dứt chỗ chưa thể rõ, cho nên khiến ếch đáy giếng có sự khoe khoang nhà trũng, dựa Di có khoe khoang nước mùa thu, cho nên mù mịt.

Tôi dạo ở phương lớn, tâm mệt mỏi mà không hận nhân do yên nhân, lại trình bày các sự đẹp đẽ kỳ lạ. Kinh Phật ghi ở phương Tây có cõi nước tên là An Dưỡng xa tít mù xa trải qua đường xa hằng sa thảy đều đời người, không thể dạo ở biên cương kia mà chẳng phải không có người đến mau, đâu thể gây ra sự mau kia. Đức Phật ở cõi kia hiệu là A-di-đà, tiếng đời Tấn gọi là Vô Lượng Thọ. Nước không có vua và tước quan, chỉ có Phật làm vua, ba thừa làm giáo, nam nữ đều hóa sinh trong hoa sen, không có dơ uế của bào thai. Lầu gác cung điện đều bằng bảy chất báu, đều tự nhiên tạo thành chứ không do người xây dựng. Vườn tược ao hồ cỏ hoa rậm rạp, tốt tươi kỳ lạ. Bay lên chìm xuống trời khỏi đầm sâu, chết ở bầy thú mà dùng chân, kêu đóng cửa không có cánh ở Hoàn Lâm, âm vang tiếng ngọc từ giai điệu ống sáo, khoảng trời hư không hoa rơi xuống để đậy cảnh thần gió quét, cho nên nhận mới, cam lồ hoa nhiệm mầu dùng rượu ngon giúp gió tuệ, đạo đức vang xa, thánh âm cảm ứng như sấm vang, đầu tuệ mây giăng mà xầm xập trong xanh. Học văn co lại mà quí lời. Chân nhân thần tôn, bỏ sự quen lờn mà lưu xuất nhiệm mầu, nên các sự mầu nhiệm mở rộng từ đây.

Thần hóa sở dĩ mở mang truyền bá riêng có kinh chép. Do sự ghi chép tốt đẹp kia nói rằng: Đây là đời ngũ vị của nước Tấn, có thờ chánh giới của Phật, đọc tụng kinh A-di-đà, thể sinh về cõi kia, không suy phế người thành tâm. Lúc qua đời tánh linh hóa sinh cõi ấy, gặp Phật, thần liễu ngộ liền chứng đạo. Tuần sinh chưa dấu, thêm tham gia tàn tích, đuổi tâm ở thần quốc, chẳng phải điều dám mong, bèn nhờ người thợ vẽ tượng thần để chiêm ngưỡng cao nghi, do tư chất như trời, ca vịnh không đủ, bèn dùng lời tụng nhiệm mầu, lời kia nói rằng:

Đạo vua cai trị bên ngoài, đạo thần dẹp yên bên trong. Vua mà Chánh giác thì gồm tông sư. Bình tên thương xót chói lọi trong thất bại dáng dấp ưu tú, ba đạt bình yên bày cảnh vàng mới, đường dài dần đặt trở về nơi thần hóa, ngộ cơ cảm ứng, năm độ đều thao tác, sáu tuệ nghiên cứu kỹ, có không đồng hình trạng, cửa màu rộng mở, ca vịnh sẵn có tinh nghĩa thuận thần, nhiệm mầu mênh mang, ba thừa đông đúc, vì giấu điều bắt chước xưa, biết đến chỉ có mới, hai tài ai hàng, lãng trệ do người, tạo hóa trông coi bờ cõi, mây liên lụy núi cao, nhà tím sáng sớm đứng trơ trọi, nhà đẹp như rải sao. Cửa ngọc thông phương, tường vàng mở góc. Buổi sáng bóng nghiêng, ráng buổi sáng sớm xinh đẹp, thần đê xen xa chín nguồn càng sâu, sóng không nơm mất, vảy ít mà mồi quá nhiều, đầm không có ai trông coi kinh sợ mong mỏi nhớ rừng, có khách bỏ chạy, mưa vùi tâm cơ, cam lồ ai hòa hiệp, lan huệ giúp hương thơm, hóa theo mây dày đặc, tục khởi gió mát, sum suê tiêu tán, gió mạnh quét sạch, rừng Quỳnh hòa vang tám âm thành văn, ngọc mân dao trắng tinh, hoa sen lúc rạng đông, dòng nước lóng trong tinh khiết, nhụy hoa rải hương thơm, ẩn núp dưới hoa sáng tối, chở sự sáng suốt bay đến, thai ở trong hoa sen, kết tinh thơm ngát, giống các phong hóa nhiệm mầu và lâu dài, vạn phép biến thành một, đồng về ngồi quên.

Mười một bài khen các vị Bồ-tát. Khen Văn-thù-sư-lợi:

Đồng chân lãnh đạo màu, linh hóa thật vang xa, xưa giác ngộ loài rồng, nay thời mộng du phương, bỗng lòng nương thần lãng, bước cao Duy-na hưởng, bỏ đây mong yên bình sáng rõ như hư không, chạm loại khởi trong sạch, mắt chạm đều rỗng suốt. Phạm thiên Đế Thích phục gia hội, tà nhàn nhận dòng thơm.

Khen ngài Di-lặc:

Đại nhân làm nề nếp nhiệm mầu độ đời, yếu tan bay dời lên không, Sư thông giúp tự bỏ. Thích-ca lên chỗ u nhàn, Di-lặc nương thần đậu, Thiên Thánh Lục Tải Linh, nương trời nhân năm chín chỗ, rồng bay lên trời Đâu-suất trống pháp chấn động huyền cung, khỏi âm vang lanh lảnh ba ngàn, sáng loáng ngưng đọng xinh đẹp, kết thêm hoa sen sáng long lanh, ánh sáng lưa thưa trên cao mong khởi, tám âm xướng tự nhiên, trí thản nhiên thật may mắn nhiệm mầu, thấp thoáng ca ngâm lớp huyền diệu, vòng quanh bốn mươi chín lớp, ứng vận đến trong ngọc phan kéo bốn mươi tám vẻ đẹp đây sáng rực cỏ hoa vườn rừng, tiến lên tâu vết màu ba lần bày tỏ ở duyên xưa.

Khen Duy-ma-cật:

Thể Duy-ma, tánh thần. Giáo hóa đất Lăng cảm sân cỏ, không thể mà có khởi, trôi dạt vào hình danh, dân động thì ta bệnh, người ngộ khí ta an. Điềm nhiên, dao động đâu hình bóng, hình bóng ứng cơ tình, âm vận màu chở bậc thập triết bay lên ngạo bốn hoa, chết hẹn gặp nhu đầu tiên lên khen sinh tử.

Khen Bồ-tát Thiện Tử:

Hòa đón nhổ khí trong, ngay thẳng đây đời trọc, lên đài phát ca xuân, cao hứng mong vết xa, nương hư không cảm linh giác, chấn hưng giềng mối phát đồng mông, ngoài thấy nhờ vắng vẻ rộng lớn, có không tự thầm đồng, quên cao nên không thấp tiêu điều trong vài nhận, nhân hoa xin không chấp, lấn hư không rải hoa sen, Năng Nhân mở câu màu "ngay sắc tự nhiên không", vết có không giao suốt, thầm biết không công soi, thần mong phát nơm ngộ, rỗng rang tự linh thông.

Khen Bồ-tát Pháp Tác:

Chính xưa có gia hội, ngày nay nhiều thần linh, Duy-ma phát vang sâu, xin đặt tên Bất Nhị, âm màu đem đến hòa, pháp làm đốc suất hữu tình, tiến lên vận tâm màu, lác đác âm khí trong, trần hai nêu phân chia, diệu một gởi vô sinh.

Khen Bồ-tát Hãn Đầu:

Hãn Đầu giúp chúng ta tạo lý nhân hai trống, trống hai tự được nhiệm mầu, võng tượng lại vào trần, lấy gì dứt dấu trần, quên nhất về bổn vô, hư không đồng chỗ nào quý không quý bèn thản nhiên vui vẻ.

Khen Bồ-tát Bất Thuấn:

Có ái sinh bốn vực, vực dụ đường đời dài, chưa bằng quán vô đắc, đức vật vật tự tịnh, vì sao hư không nghe vắng lặng, điềm nhiên trí mờ thần, bặt dấu đổi linh thê, có không chẳng chỗ mở rộng Bất Thuấn thầm hòa nhiệm mầu, gá tâm không hai cảnh.

Khen Bồ-tát Thiện Túc:

Gá tâm ở vong giác, có suy tư chẳng biết lý, sắc đến chìm vào hư không, âm vang ánh sáng sinh nên thương xót, gá tối tăm dạo chơi càng tối tăm, tối mất đối với bóng rơi xuống, ba cõi đều siêng cầu, Thiện Túc riêng dứt mất.

Khen Bồ-tát Thiện Đa:

Từ lớn để bước qua nhỏ, nhỏ cũng lại nhảy qua lớn, đã gọi là đại đạo, khiến ngoài tâm, hình, danh đều quên dứt xấu xa, thầm lặng hội nhiệm mầu, Thiện Đa thể xinh đẹp, vòi vọi ôm Thái sơn.

Khen Bồ-tát Thủ Lập:

Làm nhọc do không nhọc, cảm ứng không suy nghĩ, du nhiên không biết vui, vật thông chẳng ta giữ, hình lộn đồng sắc dục, suy nghĩ ai đến đó Gia hội nói chí màu Thủ Lập hẳn thể này.

Khen Đồng tử Nguyệt Quang:

Linh đồng yên thần lý, điềm nhiên hòa thuận tự mất nhau, rộng quy tắc xót thương thế tục hôn mê mờ tối, thống thể xưng Nguyệt Quang, tâm làm uẩn lưỡng nghi, dấu vết là dòng nước mềm mại dưới cầu, xinh đẹp tài giỏi ở Càn Trúc, tên vang huyện xích thần hóa trái lưới tục, lưới màu trùm mọi nơi, gò cao nhóm bày bệnh nặng, khu xa may mắn có nhà ngọc, cấp dẫn khởi có đối đãi, thầm quy về trước vô tận, giấu cánh ở lại non cao, gần gió mạnh gởi hương thơm.

Bài minh về bóng Phật:

-Nhà Tấn, Sa-môn Thích Tuệ Viễn soạn. Phật Ảnh nay ở trong thất đá Cổ Tiên ở núi Nam Sơn, nước Tây-na-ca-ha-la, qua sa mạc theo đường tắt cách đây một muôn năm ngàn tám trăm năm mươi dặm, cảm đời ứng ra rõ ràng ghi ở trước. Hễ dính mắc nơi cận tập thì không hiểu điều ít nghe ở đời. Vỗ về thường ngày, ít nhớ việc cảm ở ngoài, là khiến trần tưởng chế ở huyền khâm thiên la võng, thần lự kia nếu cho đó cùng năm thì đời nay đâu có gặp, cho đó mong tâm thì mở suốt chẳng phải thời kỳ, vì thế phát giận quên ăn ngủ, tình trăm tức giận kia ở chỗ vắng vẻ yên tịnh, lý khế hợp tâm kia, ông bèn suy nghĩ ân huệ thấm nhuần của chín trạch, lòng từ vô duyên của ba phục, nhiệm mầu ứng hóa của Pháp thân. Do thần thông lời nói là hóa, hóa không có sở cảm, từ không sở duyên thầm ôm tự đắc, thí như mặt trời mặt trăng ở bầu trời xán lạn thì ánh sáng càng rạng rỡ. Chúng sinh vinh quang sáng sủa, hữu tình đồng thuận, hoặc mừng ánh sáng treo cao ở mình, võng thức thành điều kỳ lạ, bàn vật nhiệm mầu công quy hết ở đây, định muốn soạn thảo điều tối cực để nói đạo kia phảng phất còn, mà không thể bàn thì nhờ đâu rõ đạo? Pháp thân chở vật, không mỗi vật mà cả triệu đầu mối kia, không vẽ trọn mà hội thành. Lý mầu nhiệm ở biểu ngoài của vạn hóa thường dứt ở vô danh. Nếu chính lời gởi nơm kia thì đạo không đâu chẳng ở đây, cho nên Như Lai hoặc ẩn vết trước để sùng hưng nền tảng, hoặc hiển đường sống mà định thể, hoặc riêng phát ở cảnh mò tìm, hoặc đợi nhau ở trường đã có, riêng phát loại ở hình, đợi nhau loại ở bóng, suy ra thầm gởi là có đối đãi? Hay không có đối đãi? Từ ta mà quán thì hữu gián mà vô gián.

Cầu pháp thân vốn không hai mối, chia hình bóng thuần thục mé đó ư? Không ngộ linh ứng ở đây, luống biết viên hóa chẳng phải hình mà động dừng mới là dấu vết kia, há không phải xằng bậy ư? Viễn tôi xưa thường hầu hạ Tiên sư nhiều năm, tuy mong cầu lời răn dạy từ bi, chí nương sách màu thường tưởng nghe điều kỳ lạ để đốc suất sự thành thật kia, gặp Sa-môn Tây Vức ngay bữa cơm nói du phương, cho nên biết có bóng Phật, mà người truyền còn chưa rõ ràng. Đến ở núi này gặp Thiền sư Kế Tân và Luật học Đạo sĩ nước Nam, đồng với chỗ nghe lúc xưa, đều là người kia đã xem qua kinh, do đó hỏi rõ mới có nhiều điều biết trước. Rồi sau nghiệm thần đạo không có mới chạm tượng mà gởi, trăm lo gặp gỡ chẳng phải chỗ cảm ứng nhất thời, vì vậy ngộ suốt kia ứng thật, rất đáng tin, toan dắt dẫn đồng khế phát chân thú kia, nên cùng các bậc hiền tùy hỷ mà viết bài minh.

Khuếch là rộng lớn, lý màu không có tên, thể thần nhập hóa, lạc bóng lìa hình, xoay lại sáng tầng núi cao, ngưng đọng rực rỡ ở hư không, ở tối không mê, chỗ sáng càng thêm sáng, khéo léo như con ve lột xác. Triều tông trăm linh, ứng không đồng phương, bặt dấu vết mà thăm thẳm, mênh mông hoang vu, không khen ngợi không khuyến khích, bàn lui không tả dung mạo, chùi không trung truyền tượng, tướng đủ thể nhỏ, xinh đẹp tự sáng, lông trắng tuôn ánh sáng đẹp, trong đêm tối chợt sáng rỡ, cảm thành bèn ứng, hòa thành phát tiếng, lưu âm dừng núi, bốn ngộ thầm thưởng, vỗ về có hội, công phí do loại bỏ, xoay gót quên kính, quên lọ quên biết, che ánh sáng ba quang (mặt trời mặt trăng và sao), muôn tượng một sắc, sân nhà rậm rạp tối tăm, đường về chớ suy lường. Ngộ đó dùng tịnh, chấn thì dùng sức, gió tuệ tuy xa, chỉ có trần dứt, chẳng có y huyền giám, ai quạt tột kia. Mong âm vang xa, bèn quan tâm đến hướng Đông, ưa gió mộ đạo, ngưỡng mộ phép tắc huyền độ, tột nhiệm mầu điềm lành sợi lông trắng, chở chuyên nhẹ nhàng trắng sạch, nhờ vẽ màu luống ngưng, đợi ánh sáng mặt trời tiêu mây mù. Dấu vết do tượng chân, lý sâu đến kỳ thú, mở áo kỳ lạ rõ gió dẫn đường, hơi trong mát về hiên nhà, sáng tối giao nhau mà chưa rạng sáng phảng phất cảnh thần nghi, mang máng như thật gặp. Chép đó vẽ đó, làm gì cầu gì, thần đó nghe đó, soi xét ông chỗ tu, chẳng phải phép trần này, sáng rỡ dòng huyền diệu kia, thấu tình linh chiểu, uống hòa đến nhu, chiếu hư không ứng giản, trí lạc bàn trùm khắp, rất nhớ thầm gá tiêu tưởng thần dạo đi, xong mạng một đời, dứt bỏ trăm lo.

Ngày mồng một tháng năm năm Nhâm tý, nhằm năm thứ tám niên hiệu Nghĩa Hy đời Tấn cùng lập đài này, phát thảo tượng núi này, do đó liền cho gởi thành. Tuy thành do thợ mà không công thì không chỗ giúp thêm. Đến năm kế ghi sao, xích phân như gò lớn Trinh Vu, Thái Âm. Ngày mồng ba tháng chín bèn rõ xem xét ghi riêng chép trên bia đá, từ kinh ban đầu trăm người thành kia, đạo tục vui mừng cảm ứng dấu vết để vui tâm, vì thế do bổn ứng sự quên nhọc nhằn. Vào lúc khách múa phất trần nghiệm đâu đồng ca, hoặc ưa viễn du gá tường nghe lạ, ngõ hầu đến trọng pháp của bậc Hiền, cho nên đủ thời người ở hội ảnh nhóm đại thông, thật phi lý ở đây, đến khi đứng lâu tấm lòng xa khẳng khái vốn đã vượt cảnh thần.

Bài tựa khen kim tượng trượng sáu của Tương Dương đời Tấn: Nhân Thích Hòa thượng làm tượng cao trượng sáu.

Xưa Phật giáng linh ở Thiên Trúc, thác hóa sinh vào cung vua ở thượng quốc, hiển tích trọng thầm khai mở đường thần, sáng rỡ vũ trụ, sáng nhà đại thiên, muôn dòng lóng nguồn tròn sáng không chủ, giác đạo ngưng đọng chiếu soi. Vì vậy trái biến hóa để động mọi người mà tâm xấu quần tà bước nửa bước thần để cảm thời các nghi đồng giải thích. Huyền vận pháp luân ba thừa đều theo dấu, đạo đời giao nhau, trời người mộng, tịnh âm đã xướng, tiếng dội vang xa, gió kín quạt xa sinh thiện giáo, cuối năm nương ngàn lễ cúng luống mừng đại hóa mà chuyên chở hội kia. Sa-môn Phất Hoạch Khấu Tân phát minh rất sâu, thần ma vọng lượng ăn mặc đều nói đến, dẫu khâm phục mà vị trần bị gió đạo thổi ra xa tít, dừng chân khỏi bước vì dấu nhiệm mầu đã xa. Mỗi khi mong tưởng ánh sáng mặt trời phảng phất dung nghi, thức ngủ đều mong nhớ như hình ở tâm mắt, thầm ứng có ngày, u tình chớ phát, khẳng khái tự thương tiếc, bi giận chẳng gởi, bèn xa thế trăm niệm dè dặt suy nghĩ kính mến, bèn thuật tám vua cảm đồng chí, hồn giao trong mộng mà tình ngộ ở trong, ra lệnh môn nhân đúc tượng đó. Hình lý tuy có khác nhau, bậc cấp có thứ lớp, tinh thô thanh khác ngộ cũng có nhân, cho nên phát thảo hình trạng khuôn mẫu, mở tâm khác bến, nghi hình thần mở ra hội trăm lo, khiến nhớ người xa, triệu huyền căn ở đời sau, còn người gần tạo duyên sâu dày nhiều kiếp. Bèn đường phước gồm rộng dấu vết chân thật đáng bước theo. Ba nguồn ngược dòng, chín thần đồng vực.

Bấy giờ bốn bọn vui mừng, đạo tục thích thú, dấu vết và âm vang hòa ứng như rừng, khuôn đúc có cùng nhà trống mà người đến giúp không mảy may làm trắc trở, khuyên giúp có siêng năng nhiều kiếp, mà người làm việc không cho là tối tăm mệt nhọc. Vì mọi người tín nhiệm có thể không phải một ngày mà thành, công ở nơi người mà việc thành còn ở nơi trời. Phàm rõ chí chớ như lời, tuyên đức chớ như tụng, cho nên chí dùng lời rõ mà công nghiệp có thể còn, đức do tụng tuyên mà hình dung có thể giống, chẳng lời chẳng tụng thì lấy gì làm đẹp. Bèn làm bài tụng rằng:

Đường đường thầy trời,
Rõ ràng đường xa.
Vượt bầy thẳng đàn,
Rõ hơn ngộ trước.
Tuệ ở hư không,
Khéo chẳng dùng số.
Cảm thời mà khởi,
Ứng thế thành việc.
Mặt trời phát sáng,
Tướng lạ rõ bày.
Nghiêm túc linh nghi,
Vòi vọi bước thần.
Mênh mang tạo vật,
Vận màu thầm truyền.
Lớn thay Thích-ca,
Cùng hóa đổi dời.
Tịnh, im như vực,
Động thì trời theo.
Dằng dặc xa khơi,
Gắng gỗ buộc dài.
Ngược tông không tượng,
Ẩn sáng lìa bóng.
Kính mến ngàn năm,
Là nghĩ là nghi.

Khen tượng Văn-thù của Tấn An đời Ân:

Văn-thù sâu sắc uyên thâm cách thức rực rỡ ngạt tiếng, tham cứu nhiệm mầu phát sáng rỡ, lên đường hoài nhớ tài hoa, lanh lãnh ba đạt. Như ánh sáng mặt trời, gắng gỏi thần thông, tại biến y hình, toan mở rộng hằng sa, đúc nắn chúng sinh, gió chân mờ mịt, ngàn lần tế càng linh, suy nghĩ tông thông minh xinh đẹp, nói mớ thần thành, tuyệt dứt trần riêng dừng chúc tưởng quá mờ tối.

Khen tượng Văn-thù-sư-lợi:

Văn-thù-sư-lợi là Bồ-tát du phương, do lìa cấu mà có tên gọi này, chẳng phải hiệu đó có trước. Vốn gọi là sinh cái chí đạo khởi mạo kia, sao lại luống dẫn tánh bày ở năm đức, nêu phép đời ở đồng chân, gồm gió tục dời thì cảm thời ở sách vở, cho nên nói là "Nho Đầu", lại dùng Pháp Vương Tử làm tên.

Muốn cùng sự uyên thâm sâu sắc kia quyết trước giữ sự rất sâu kia trọn nơi xa xưa, há ngôn tương có thể tột được, cả kiếp cũng khó đếm hết, công cao nhóm bụi, thong thả xa rộng, có thể là nói xin lược bày cái tổng kia. Nếu người ban đầu đưa ra. Từ giáp trụ của vua tôn hiệu là Pháp vương, tâm vô thượng là điềm riêng ngộ, phát ra trong đó cảm không đâu chẳng do người khác, gần đài gặp chánh giác mà trong ngọc linh sáng rỡ, cảnh huyền chưa dời bèn vượt lên vị đạo, vì vậy gốc sâu hằng tạo ở xung phong điều cánh thần, cán rìu mà đồng mậu, khí từ bi cùng gió tuệ đều quạt, rõ ba đạt cùng mặt trời mặt trăng và ánh sáng, đủ thể mà nhỏ nhiệm, vốn dĩ công bằng pháp thân.

Nếu chính thiên cơ toan chở tức thần thông là nhà ở, viên ứng thầm hội, dùng không tỳ để bày dấu vết. Đây sở dĩ động không lìa tịch mà càng trùm vũ trụ, bỗng cảnh vô thường mà gọi là mũ du phương. Thế Tôn xuất hiện bèn trao nhiệm mầu tiến ẩn hiển đức ở rừng thơm, nhân mừng mây mà sang Tây, lại rồng thấy ở cõi này. Pháp luân đã chuyển thì huyền âm sẽ xướng, đối chư Phật xưng khen tốt đẹp kia, sắc tuyệt trần tục cho nên người giặt mũ lèo cao dấu vết kia. Trái với kia, hợp thiên hòa để ngay thẳng, hấp thụ xung khí làm linh, duỗi tầng mây để xoay bóng mát, nhã âm đức để lưu tiếng thơm, ai có thể so sánh với đây?

Toan muốn làm nghiêng ngã tánh chúng sinh, nhà rất ư mềm mại, mở rộng nền nhà ở một sọt đất, khuếch trương hằng sa mà làm nhà. Nếu vậy mà không mừng gió Văn-thù thì chưa suốt lượng không cùng, cười dài ở tấc vuông vắng lặng. Tự Thế Tôn chấp nê rằng: "Đem ngàn lễ cúng tế lưu dời bóng thời gian, lại cùng thời giờ mà lên xuống", do đây thầm nhớ người tôn cực, cảm thương mất nguồn nơi bến dài, sợ gió làm tổn ẩn mặt trời, bèn cùng nêu dung mạo bằng vàng, đá và kế dùng văn tụng. Người suy nghĩ tự xong, ngăn mây sương để thêm thấm nhuần. Nay gặp gỡ bởi là thường giảm trăm năm, có Thiết luân vương làm vua cõi Diêm-phù tên là A-dục, kính mến phép tắc mà làm tượng. Tuy chân tể không còn ở hình mà linh vị như có chủ. Tuy âm ty không dùng tình cầu mà cảm đến ứng đây, cái khác của thần biến nhiều lần dân chúng nghe, nhân xét ngộ thì tin có tự đến. Ý cho là tiếp vận suy tàn thật do công thầm giúp, thông tục hôn phủ vốn chẳng phải một lý chỗ làm rộng, là do gá tưởng người hiền, thần thật nương nhờ, suy nghĩ hẹn ước toan tuyệt đầu mối, dẫn hào tâm để nêu ngôi vị, bèn từ xa bắt chước thợ giỏi làm tượng giống tượng trời, cảm đến tự đáy lòng bất giác vui mừng đồng ngâm vịnh.

Mờ mịt đồng chân, tuổi nhỏ mong nhờ, ngậm anh tài, nhổ ưu tú, trèo lên ngọn núi nhiệm mầu, thần cho đạo là vua, thể dùng xung thông, lãng hóa du phương bèn phép tắc giấu bước cao, để lại ánh sáng dời đổi ánh sáng, đến cõi này suy nghĩ đối vực sâu, yên tĩnh nhất chỉ thêm áo trống dứt thay thế, ngỏ hầu rơi rụng trần phong.

Bài minh về ảnh Phật của Tạ Linh Vận:

Phàm đại từ giúp vật, nhân cảm mà tiếp, duyên tiếp vật đầu mối chẳng phải một, khó dùng hình nghiệm, dễ dùng lý để suy lường, cho nên đã giúp chép kinh, truyện, đủ làm ký luận. Tuy nghe ở khe nước nhỏ, cảm tạ xa xôi, tượng pháp vẫn còn, cảm chở mừng vui gió, mặt trời, mặt trăng rộng sâu. Pháp bày đạo, người đến từ Kỳ Hoàn, đủ nói bóng Phật riêng là linh kỳ. Vách đá âm u tường khảm như có hình còn, dung nghi đoan trang, tướng tốt đầy đủ, đâu biết trước sau thường tự vắng lặng, Pháp sư ở Lô Sơn nghe gió vui mừng, vì vậy tùy hỷ nơi nhà tối liền xét vách đá không phía Bắc gối đèo dốc Nam nhiễm bóng Bưu Nhuận. Mò mẩm phát thảo khiến lượng gởi nương màu xanh, đâu chỉ có tượng hình cũng dốc lòng, cho nên cũng truyền tâm là tột. Đạo nhân nói thưa, xa nói ý chỉ, ra bệnh tôi soạn bài minh để khắc vào đá, ban đầu do công giúp, chưa có đạo rất tôn sùng. Nếu so sánh này há hạng nghĩ cạn và sở học ngoài da mà có thể nói được hay sao. Việc qua đến Tạ Vĩnh Quyến quên mình liền đốt hết tài sản sức lực hứa cho, đạo hay tốt bí mật sâu xa muôn điều không chép được một. Ngõ hầu đẩy tâm thành rất cảm chúng sinh, cú bay có hẹn được âm. Xiển-đề có được đường tự cứu, phải tìm nhau ở Tịnh độ, mở mặt nơi đạo tràng, bậc Thánh không có ngã ư? Gây ra chắc chắn có báo, vin bút khởi lời, tình ép ngặt kia khẳng khái.

Chúng sinh do nhiễm mà ràng buộc trong sáu đường, bảy thức thay nhau dùng, chín chỗ thường dời đổi, mạnh thay năm ấm cuốn cả bốn duyên, khiến khắp luân chuyển còn nơi mình mây mỏng bốn duyên, năm ấm như lửa nổi. Tiến lên Chánh giác là tột lý. Động không làm tổn thương tịch, hành không trái với chỉ, hiểu rõ mộng dài của ông, ngay thẳng của ông bị chìm nơi nghiêng lệch. Do thần minh của ta thành linh trí của ông, ngã không tự ngã thật nương nghĩa kia. Nhĩ chẳng tự nhĩ quyết bỏ dối kia. Dối đã sai đường, nghĩa có nhiều mối, nhân tiếng mà thành âm vận, tức sắc là mở mặt, trông bóng biết dễ, tìm tiếng vang chẳng khó, ngoài tiếng và hình còn có cái đáng xem. Xem ra nêu tướng đến gần mờ mịt cảnh, chẳng phải chất chẳng phải hư không chớ suy lường chớ lãnh nhận, nương vách đá sáng rừng, dựa đầm soi giếng, nhờ hư không truyền xanh biếc, kích ánh sáng phát ra phân biệt, vàng tốt thầm yên lặng, lông trắng tối tăm mờ mịt, mặt trời mặt trăng ở các nơi. Hồ đâu than thở như đây, từng là vọng Tăng, ủng hộ thật đợi đối đãi, nương gió khiển tắc, rộng như có bao gồm, kính vẽ đánh để lại dấu vết, sợ tạc ngọn núi cao, khắp dòng hợp thềm, dịu dàng nơi cửa phòng, kích động sóng bên thềm, dẫn trăng vào cửa sổ, mây qua vờn núi, gió thổi qua rừng thông, thế đất đã đẹp, tượng hình cũng dốc lòng, màu nhạt sắc nổi, rõ thấy chìm giác, hoặc diệt hoặc không, ở mô phỏng ở học tập, do trong sạch kia có thể cảm linh riêng, thành thật nói rằng "Phu", ân huệ cũng là lỡ nối. Ôi! Ông nhớ đạo dè dặt trong cảnh giác, suy tìm yếu đuối chết chóc, dịch xiển-đề ngược đường nay thấy, phát nhờ đây đi thăm, thức lệ tâm nó. Thời nhất quyết lưu đổi, dám chép nhà linh, kính cáo sự chấn tích.

Bài khen Phật của Phạm Quang Lộc vâng lệnh vua soạn:

Tinh thô sự ngăn trở, đầu ngọn lý thông, bỏ sự đến lý tức sáng sủa dứt bỏ mong nhờ, chỉ có linh giác này cho tâm thì tôn sùng, bốn đẳng giúp vật, sáu độ ở thân rõ phát để dành ngủ, ai là kẻ hóa ban đầu, vắng lặng nơi Song thọ, đâu lại vốn không, mờ mịt thần xa, mù mịt an như, xin nói đến kỳ khỏi sa vào mưu mẹo này.

Thơ của Phạm Đặt Tiến:

Khanh thường thế nào, từng xem Cao sĩ, nhiều loại hữu tình, ta cũng chấp nhận khanh, do đồng sao lỗi xa mù mịt lại chưa riêng rõ cửa tối. Ta vẫn còn tình xưa trông đông khái nhiên lại là có không chỗ chạy trốn. Thấy đèn bờ ruộng công như khanh hỏi thê Tăng ở núi thật là việc tốt đẹp, thường sửa đổi đời chọn, chưa phải là vui. Gậy sách tấn, quận đây thì tốt, trong Kỳ Hoàn chuyển có kỳ thú, phước nghiệp sâu rừng duyên đầy mắt, người thấy hình không thể truyền, nghe lời nói mà ngộ cũng khó, lời phiền mà thôi, ở đây dừng bút. Phạm Thái kính trọng.

Trong bài khen tháp Kỳ Hoàn Nhân Sí Sông chỉ bày nhau có thể ít lưu ý xét soi, và đồng tử cùng người ca mà tốt.

Tạ Linh Vận đáp thơ khen Phật của Phạm Quang Lộc:

Nhục bảo an ủi chân, trong thể lạnh nhiều hơn thường, gót chân Linh Vận nhiều bệnh tật, mùa xuân này lại thêm lo, lo người xưa có tình, tin Như Lai bảo chỉ ra đó kết thật qua cơn đói khát. Trong núi chỗ âm thuyết ngăn trở, âm trần thấm tuyệt, bỗng thấy các lời khen ngợi an ủi rất nhiều, có thể gọi là ca ngâm của thế tục ngoại đạo, tìm xem ba lần dạo chơi thêm nhớ, liền vâng lời hòa như riêng. Tuy lời không đáng xem nhưng ý gởi hết ở đây, con họ Tuệ Liên sau dâng văn ngộ thương, tốt đẹp của tông cũng có một bài. Và do xa tặng, nương pháp nghiệp Kỳ Hoàn ngày một tươi tốt, tùy hỷ đâu có tột. Sáu lương duyên nhỏ trộm trông chẳng dứt, tức thời kinh mới chiêu đề ở tại núi Nam, mái Nam đến khen Bắc ngọn núi sau nhà, do đây dứt tâm sẽ không chỗ thêm ư? Bình sinh mãi vậy đến giấy phải lụy than, kính tiếc là trước kế dùng lời thưa, Thảng Trực đi Lý Tiếp lại theo dõi. Ngày mồng một tháng hai, Tạ Linh Vận thưa.

Hòa Phạm Quang Lục khen tượng Kỳ Hoàn:

Phạm hầu xa đưa tượng đến khen và bảo tôi đồng làm, thần đạo mong vi diệu xin nói chỗ dặn dò, liền gồm ba bài của đạo tràng đây.

Khen Phật:

Chỉ bậc Đại giác này, nhân tâm thì linh, cầu hết trí soi chiếu, số tột tuệ minh, ba đạt chẳng phải ngã. Một giúp đỡ chúng sinh, lý ngăn tâm hạnh, đạo dứt tiếng hình.

Khen Bồ-tát:

Nếu người kính mến, pháp tánh bỏ suy lự, dùng định nuôi tuệ, hòa lý giúp đây, ban đầu là bốn đẳng sau là thập trụ, hợp cầu đến, ở ngoài đều bỏ.

Hợp khen Duyên giác, Thanh văn:

Nhàm khổ, tình nhiều, khiêm vật, chí ít, như hóa thành kia quyền sẽ được báu, dẫn dắt Niết-bàn cầu khỏi sinh tử, dụ cho nguyện ba xe lại về đạo Nhất thừa.

Bài tụng Vô Lượng Thọ (cùng em họ là Tuệ Liên)

Pháp tạng chứa ở cung vua, ôm đạo ra khỏi thành nước, nguyện bốn mươi tám lời, rộng thệ cứu chúng sinh, Tịnh độ là nhiệm mầu nhất, người đến đều trong sạch giỏi giang, tuổi già muốn an ổn, thừa hóa hẳn sớm đi xa.

Khen mười thí dụ trong kinh Duy-ma-cật.

Có tám bài: Nhóm họp bóng bọt:

Bổn tánh vốn không bọt, kính trọng dòng bèn nhóm bọt nước liền thành dáng mạo khác, tiêu tan bỗng về hư không, quân tử biết cội gốc, an sự nhọc tranh đoạt, ngu tục sợ biến hóa, lại sinh vui mừng ngang trái. Diễm:

Trong tánh ngoài tướng trạng, chẳng có khói đâu biết lửa, thường dời đổi nhau luôn, sáng rực chẳng đến ba, như đâu người chấp trước, trọn đời mê nhân quả.

Cây chuối:

Sống chia gốc nhiều mối, bẹ chuối biết chẳng phải một hợp mộng không kết hình hài, trải hoa do đâu thật, kẻ trí khéo lấy thí dụ, không chủ tể ai kiềm chế được, chớ thân mật lúc duyên hợp, phải xem ngay chia lìa. Huyễn:

Huyễn công dụng đồng, khác, ai lại gọi chẳng phải chân, một theo vật mà qua, đã qua cũng đâu bày, người lầm nghi xa gần, kẻ hiểu đều là khách, chế khởi tình lìa hợp, người hiểu không trăm đời.

Mộng:

Thức bảo ngu không biết, lúc ngủ chẳng phải không thấy, ý trạng đầy trước mắt, tốt xấu muôn thay đổi, đã ngộ xa mù mịt, tiếc là phù vật đổi, ai thấy hết Ta-bà, đâu chẳng là huyện xích.

Bóng hợp với tiếng vang:

Bóng và vang thuận hình và tiếng, giúp vật cho nên sinh lý, một sáng sớm chợt đi, vì sao được gần giống, chúng sinh đâu không vậy, mờ mịt ở tự mình, bốn sắc còn không có gốc, tám vi tế lại muốn đặt nhờ.

Mây nổi:

Lan tràn mặt trăng sáng, um tùm mưa núi Nam, làm được dụng biến động, ở ta rốt ráo không, chốc lác đã bay mất, đâu lại được nhóm họp, các pháp đã không ngã do đâu có ngã sở.

Chớp:

Sáng rực ánh chớp qua, thấy được mà không thể theo, hằng sa chúng sinh khi sinh diệt ai lại xét sự mau chậm, dè dặt chớ lưu niệm hư không, tự nhiên khiến thần lý hổ thẹn, Phật đạo mình dễ tin, quên tình thì phước lâu.

Tựa Phật Ký của Thẩm Ước:

Vua Cao Tổ đời Lương ra lệnh rằng:" Năm ngoái sai Ngô Siển v.v... soạn Phật Ký và soạn Bài tựa. Thể bài tựa không xứng, thường sửa đổi vẫn chưa xong. Phật giáo nhân ba giả để gởi pháp, nhờ hai đế để rõ lý, rõ tướng cầu tông không chấp mình hiểu đạo, luận kia chỉ quy dường như chưa đến chỗ cùng tột, bèn không nên dùng tướng phiền đây, cũng là một việc lành, có thể được là lầm bút không lý do, cho nên ra lệnh cho Ngô Siển v.v... kết tựa ở cuối thể lại dường như hơi khác". Quan y cứ nói: "Tựa Phật Ký nay cẩn thận dâng lên, lời nghĩa không chấp, cúi xin tự hổ thẹn". Cẩn khải.

Sắc chỉ rằng: Tựa ký mới được xem, nay ra lệnh sao chép để truyền bá.

Tựa rằng: Hàm linh muôn phẩm, đã chẳng nhớ cho hết, vật vật bẩm sinh đâu thể y bụi trần mà tính kể được, đâu không vượt ư? Vô lý mà đến vô sinh, tuy muốn trọn có nơi mà ban đầu chớ nghe, tự chẳng phải linh chiếu đặc biệt suốt được tông cực ở đây, thì lý che lấp, cơ ban đầu tìm tòi sâu nơi sự dứt. Chẳng phải chỉ có bốn quả không bàn mà vốn hàng Thập địa cũng quên dòm, xa tít nơi mù mịt, có đó mà đâu biết chỗ theo. Như Lai úp sọt ban đầu nói lên đường dài khởi diệt rồi trở về rong ruổi không thôi. Qua lại năm đường, đại thiên sánh với đầu lông, qua lại ba cõi kiếp tăng kỳ chưa đủ gọi là xa, chứa sáng nhóm chiếu niệm niệm không thôi, lìa sinh diệt này chứng thành diệu quả, vốn đã không có rơi rớt đâu luống đều dời đổi mà thôi ư? Mênh mông hay nhỏ hẹp, dụ như sự đâu xứng lời. Bậc chí nhân không vì mình đâu cho là nghĩa là quý, bởi muôn hoặc quyện nhau, mê muội, sáng suốt thay nhau khởi. Nghiệp nhờ duyên khai, sự cần hiểu suốt. Một âm phát ra không suy nghĩ không phục, nghĩa ở theo người, động chẳng phải mình. Pháp nhủ rưới khắp không ở ngoài, cam lồ sáng chói ở long cung, diễn mở tông giáo gây ra có tiệm, nêu bốn đế ở vườn Lộc uyển, biện trăm phi ở rừng Song thọ khuếch trương pháp môn không hai, mở rộng đường dài Nhất thừa, mê đi lại có đường, yếu chết biết quy về, mà tự nên quay lại chứ đường kia chẳng phải một.

Sợi lông trắng chiếu đến khắp cõi nước hằng sa, bảy bước đi qua, ủng long được giúp, suy tột thần đạo nguồn gốc ở tâm linh chỗ bước đến vô biên mà chỉ có thước tấc, duyên đó trái mặt mà pháp thành không thấy, và tượng giáo nói là đời mạt pháp kinh ghi ở đông lưu, sườn dốc nóng khó khăn, núi lạnh dài trở ngại. Hạnh viết chữ trái lụy muôn phương chung, lá nhạt màu thành văn lại dịch chưa hiểu. Từ đó đến nay ngàn cúng tế đã hơn nữa, dấu vết linh ứng hơi mở ra, danh Tăng hỏi ra, Luật tạng, Phương Đẳng đi đến dần, cất chứa ở Ấn Độ chưa đến phần nhiều là sự sâu xa của pháp thân thường trụ, điều rộng lớn của hai đế ba giả, ngộ đạo cầu tông ở đây có đủ. Mà Năng Nhân lễ đại Thánh làm Bổn sư, mênh mông quần phẩm, tinh linh lệ thuộc, đến nhân trước nghiệp xưa phần nhiều mê muội, nhưng thần hóa cảm ứng tham gia xen thấy. Lại tên, họ, đất nước ở đời, tục duyên tan ra các bộ khó thảo luận nghiên cứu. Công sức nhiệm mầu như thần đồng nêu ra tên khác. Giáng thai cầu đạo đâu chỉ một tướng, gá sinh Ca-la vốn do quyền tích. Ra cửa Bắc chẳng phải ban đầu của ngộ pháp, chiếu khắp phương Đông há là cùng tột của thông hóa, chợt đạo đã đến, bốn mươi chín năm diệu ứng sự đã nhiều, nên thêm tập chung để cộng thành bờ ruộng, đến khi kinh tượng xưa chép, cõi nước ghi dấu, công khuyến mở từ đây xa. Đại quyền rộng lớn quên thân giúp vật, ứng chân ngay thẳng, nêu tâm chẳng phải vì mình, chia dấu vết hoặc khác đến ngọn quyết giống.

Đường thần trách nhiệm xen khó khăn để ức biện, linh quái chửng chạc lời nói ở đây dứt, rồng của Đồ Trừng thấy Triệu Ngụy, phụng của La-thập nhóm giúp nhau, Kiền-đà dạo gần kinh Lạc, riêng mở xa đến La Phù, tuy dấu vết giống với thế tục mà ý không thể xét. Đường ra cửa ngọc tòa pháp không xa, bảy chỗ tám hội cao vượt ở mắt, linh ứng rất nhiều, khắp giàu mồi ân trạch cho Tây, quang ảnh sum suê phần nhiều thấy ngoài trời núi, vị Tăng-kỳ lại có chí thường dạo qua, dấu thần chiếu rõ, hoặc có văn chú rườm rà lộn xộn cần phải chỉnh sửa, chưa năm đường ở người trời, lập ngục năng ở đất dày, đều tùy nghiệp lực không sai, đây đều là chân tục cuốn mở, danh tướng trước sau. Đường thánh nhiệm mầu lớn mà xa mù mịt, thì thẳng đến đạo tràng gạn chứng lại rất gần mà nhỏ, thì khuyến khích người học muộn, đây là thuyền phương tiện gồm giúp, là con đường rộng lớn đại bi. Dẫu lại trí mờ thấy hình thịt thân một thước đánh ngã, duyên động quyết ứng, lại so sánh tiến lên ở đây ư? Do đây bậc chí Thánh hết lòng thường giữ sự hấp dẫn, xem văn thấy ý để lại tương lai.

Hoàng đế hạnh thành không có ban đầu, đạo nương nhiều kiếp, mười hiệu ở thân, ba đạt chẳng ngại, khuất phục nhiệm mầu, ở đây có đồng Chuyển luân. Thương xót người mê mờ từ lâu mờ mịt đường chánh, tức tối luống phát dối ôm lòng kính ngưỡng, dòng nhỏ kéo dài sự rộng khó thống nhất, chí cạn nghiệp nhọc khi dùng đến không thành tựu, chẳng phải chỗ để tránh nhà lửa ra nơi ngã tư đường. Bèn ra lịnh cho Trung thư thị lang Ngô Siển, Thái tử Tẩy Mã, ký hậu quân ghi, nhà Chu bỏ, rộng tìm kinh tạng sưu tầm lượm lặt chú thuyết, điều riêng dòng chia riêng để giúp loại. Ngày ít công nhiều có thể dùng đây biện gọi là Phật Ký.

Phàm lệ có ba mươi thiên, trong đó có chuyện cảm ứng sự loại cần giống nhau thì chỉ lấy một chuyện còn bao nhiêu đều không chép. Hoặc sau khi chết mà sống lại bày nói thấy nơi kinh sự hợp tra cứu mà không thể chứng nghiệm cũng không chép giống đó giải quyết nghi ngờ. Hoặc nhờ người dùng lời gá tưởng thành mộng rất khó tin, hiểu một không có chỗ chép. Nếu muốn từ xa đến quyết giáo hóa từ chỗ xa nào đến, muốn ngộ đạo, quyết biết nhiệm mầu của sở tông, rồi mới có thể đầy đủ được môn kia chính thân nương âm chỉ, chưa ai không biết đường do đó chớ nói y người dán mắt mờ gót tự cho là hợp lý, cho nên dẫn các dòng kia quy về một nguồn, có thể khiến vô lượng hàm thức trông đường biết xét chỗ qua. Thi thố dồi mài mà nói quay về, không loanh quanh nơi đường hẻm, giúp kẻ thanh tín ấy cũng có được như thế.

Nói rằng: Tôi dùng Phật hóa làm đê ngăn ba ngàn, bao vây tiểu thức thấy gần ở trong, vả lại hạn cuộc Nam Châu (Nam Thiệm-bộ châu), đây thì tính chung cả Thần châu đều nhờ tiếng giáo pháp, vết chân thần, dấu vết đóng ở cơ ban đầu. Tiền Hán về sau theo nhau xuất hiện, Lưu Hướng so lường sách Thiên Các thường thường thấy có kinh Phật. Huyện Xích núi nứt nước chảy ra, thời thường là điềm tượng đến hiện, hoặc tháp từ đất vọt ra, hoặc Phật giáng ở hư không, sự rất nhiều mối chỉ lược nêu mười mấy việc, có người chưa thấy cần hiển tướng kia nói rằng:

Lược nêu tháp xưa của vua A-dục ở đời Đại Đường nói rõ.

Tháp ở huyện Mậu Cách châu Việt về phía Đông khoảng ba trăm bảy mươi dặm, nhà Tây Tấn niên hiệu Thái Khương năm thứ hai, Sa-môn Tuệ Viễn cảm từ đất vọt ra, cao một thước bốn tấc, rộng bảy tấc, tháp có tầng sắc xanh như đá mà chẳng phải đá bốn mặt ngoài chạm vẽ các tướng khác trăm ngàn ức, Lương Võ Đế làm cái tháp gỗ bao nó lại, tám vua tự lấy kiệu đưa về châu lý, nay thấy điềm thần sáng tiếng thánh Tăng đủ như trong Liệt truyện có chép.

Tháp ở chùa Siêu Hóa của châu Trịnh, cách châu về hướng Nam hơn trăm dặm, nền Chích Biến, nay chùa viện đều thời xưa xếp đá xây tường rất kín, sắt là cốt yếu nhỏ, đá kia dài tám thước, bốn mặt là cốt yếu nhỏ dài một thước năm tấc, sâu năm tấc, dưới đá đều là bùn, nền phía Nam của tháp xuất hiện hơn mười dòng suối dài ba thước vọt lên mà không có tiếng, thường tốt, trong có hình Côn Luân, trong suối hướng tột dưới đáy chỉ có trụ đá la liệt, cuối cùng không lường được mé của nó, trong có tháp đá ở trong hư không, nước ngưng đọng mà không chảy đến.

Châu Ký, huyện Lâm Huỳnh hướng Tây Bắc cách ba mươi dặm có chùa Xá-lợi A-dục, gần đây là ni làm trụ trì chùa, có tháo cổ, trải đá làm nền, từ đáy nước vọt ra tháp ba mặt nước rất sâu, chỉ có mặt phía Tây là thông đường đi xưa chân có lá sen, người sợ không dám hái bẻ. Châu Kỳ ở phía Nam núi Kỳ có huyện Kỳ Sơn, về phía Bắc huyện chừng hai mươi dặm có chùa Pháp Môn, tháp ở trên Bình Nguyên, xưa nay cứ ba mươi năm mở một lần, mở là chắc chắn có cảm ứng, hiển điềm vui mừng trong năm năm, ra lịnh tăng Trí Tông thường thỉnh có điềm khiến mở để nhờ ánh sáng rỡ, kẻ đạo người tục đều thấy, bèn đào ra tiến vào. Niên hiệu Long Sóc năm thứ hai trở về tháp cũ, xá-lợi như đốt xương ngón tay người lớn, dài chừng hai tấc, trong có lỗ vuông, có ánh sáng sắc trắng như vẽ riêng hình trạng.

Tháp chùa Phước Cảm, dưới tường rào thành đô ở Châu Ích, vốn tên là chùa Đại Thạch, ở đời Tùy ban đầu Tân Luận sư tìm được vết tích xưa kia, muốn tìm xá-lợi đào đến nguồn suối chỉ là một tảng đá, thấy trên tảng đá có ngôi tháp gỗ chín tầng, có đủ linh tướng. Tùy Thục Vương bèn lại đào đến suối, gió mưa áo đến không thể kịp lúc, ở bên phá được một miếng đá, chính là Ngọc Hồ, nay thấy còn ở Châu Ích về phía Bắc trăm dặm trong tháp chùa Bảo Hưng. Dưới thành hào phía Bắc của huyện Lạc, chùa ấy vốn tên là Đại Thạch, việc kia phần lớn giống ở chùa Phước Cảm cách hơn trăm dặm về phía Tây nam của Châu Ích. Đời Tấn, các chùa tháp ở huyện Nguyên hơi giống như trên.

Phía Đông thành Cổ Việt, mé Đông nam cửa Châu Tước, đô Cổ, huyện Giang Ninh, châu Nhuận, trong chùa Phế Trường Can. Xưa vào thời Tây Tấn có vị Tăng là Tuệ đạt chiêu cảm ánh sáng, đào một trượng được ba hộp đá trong có hòm vàng chứa đầy xá-lợi và tóc, móng, tóc đó kéo ra dài cả ba thước, buông ra thì nó xoắn lại hình ốc. Nay có tháp ngói ba tầng và chùa Phật, còn bao nhiêu chỉ là bụi cây rậm rạp có côn trùng lớn, người dơ uế lên nền đó bị đánh kêu la kinh sợ, hoặc có người bị chết.

Tháp chùa Diệu Lạc cách phía Tây huyện Võ Trắc thuộc phía Đông châu Hoài, nền vuông mười lăm bộ và xếp bằng đá, đá dài năm thước, rộng ba tấc, ở dưới rất nhỏ kín. Người già xưa truyền rằng: Nền tháp kia từ trên suối vọt ra v.v...

Châu Qua, phía Đông thành chừng ba dặm, có tháp đất chùa Dục Vương, đời Chu, nay bỏ phế chỉ còn sót lại cái nền, trên dùng nhà che bốn bên bao tường, thường có ánh sáng, kẻ nam, người nữ, việc công, chuyện tư thường qua lại cầu phước.

Châu Thanh, trong thành Lâm Truy có chùa Adục Vương hình, tượng linh tháp dưới gốc cây to trong rừng sâu. Đời Thạch Triệu xưa, ngài Phật Đồ Trừng biết sai đến lấy, đào sâu xuống đất hơn hai mươi trượng mới được.

Châu Bồ Phản, ở Hà Đông, có chùa Dục Vương thường phát ra ánh sáng. Thời Diêu Tần đào được cốt Phật trong hòm đá đựng bằng hộp bạc, chiếu sáng khác thường.

Chùa Dục Vương ở phía Đông Tử thành thuộc châu Tinh, nay thấy ni trụ trì là chùa Tịnh Minh, mất nền chỗ ở.

Tháp nhỏ ở chùa Dục Vương dưới thành hào huyện Xã châu Tịnh, thấy có Tăng trụ trì. Tháp Dục Vương ở phía Đông thành của châu Đại.

Tháp Dục Vương cách một dặm về mé Đông của chùa Bạch Mã, thuộc phía Tây Cố đô, châu Lạc.

Đồi đất phía Bắc Nhược Thủy, mé Đông thành của huyện San Đơn, cách phía Đông châu Cam một trăm hai mươi dặm. Người già xưa nói là tháp xưa của vua A-dục.

Nến tháp bị bỏ phế ở chùa Đại thừa trong thành ở Châu Sa, có người nói là tháp của vua A-dục. Đồi đất mé Nam núi Hoắc thuộc phía Bắc Châu Tấn người già xưa nói đó là tháp vua A-dục.

Trước đã ghi các tháp, đều là ban đầu thời Hy Chu, có Đại Luân Vương tên là A-dục, Hán dịch là Vô Ưu, thống lãnh châu này có hơn vạn nước, sai khiến quỷ thần một ngày mà xây tám muôn bốn ngàn cái tháp, ở Trung Hoa cũng có, thường phát điềm thần rộng như truyện Cảm Ứng.

Tượng vàng ròng vua A-dục ở châu Dương. Thời Ngô Tôn Hạo, có được ở hậu viên được đó. Hạo ban đầu nằm mộng thấy mà cho là dơ, bị bệnh thủng đau nhức khắp thân, quan Thái Sử bói nói rằng: "Vì phạm lỗi với Đại thần", Hạo làm lễ tạ lỗi, có người hỏi "Nhờ ông mà khai mở lòng tin".

Hai pho tượng đá nổi trên sông Tùng Giang. Xưa thời Tây Tấn trong niên hiệu Kiến Hưng tượng nổi lên ở Tùng Giang, có cư sĩ Châu Ứng vớt được, đưa lên cao bảy thước, ở chùa Thông Huyền, thấy sau lưng có bài minh, một tượng tên Duy-vệ, một tên Ca-diếp.

Chùa Trường Sa ở Châu Kinh có điềm tượng. Đời Đông Tấn hiệu Thái Nguyên năm đầu thấy thành Bắc của châu, người đi đường thấy lạ bèn thử, dùng dao chặt thì thấy là tượng vàng. Tăng ở chùa Trường Sa rước về chùa, trên ánh sáng có chữ Phạn là "Dục Vương Sở Tạo", Lương Võ Đế nghe nói rước về kinh đô, phóng ra ánh sáng rực rỡ, đến khi nhà Lương mất bèn rước về Kinh châu, đến nay vẫn thấy còn. Điềm lành ánh sáng nhiều đời không thể chép đủ, như có trình bày riêng.

Tượng Đàn Ưu-điền Vương ở chùa Đại Minh, tại châu Kinh. Lương Võ Đế, niên hiệu Thiên Giám năm đầu, nằm mộng thấy tượng đàn vào nước, bèn chiêu mộ được tám mươi người đến Thiên Trúc, đến niên hiệu Thiên Giám năm thứ mười mới trở về, Võ Đế đã băng hà Nguyên đế lên ngôi ở Giang Lăng, sai rước về kinh đô, sau chùa Trắc Lập ở Tịnh Lăng do đó đặt tượng.

Tượng A-dục Vương ở chùa Trường Can tại châu Dương. Trong niên hiệu Hàm Hòa đời Đông Tấn ở Đơn Dương thuộc Doãn Cao.

Lý thấy bến sông Trương Hầu có ánh sáng, liền sai người tìm thì được một tượng không có ánh sáng và mu bàn chân, thuận đến chỗ Trường Can thì trâu không chịu đi nữa, do đó buông ra trâu bèn thẳng đến chùa Trường Can. Sau mấy năm, người ở biển Đông được mu bàn chân bằng đồng nổi trên biển, do đó đưa đến tượng quả nhiên giống. Bốn mươi năm sau lại được ánh sáng bằng đồng dưới đáy biển Nam, bèn đưa đến chỗ tượng quả nhiên phù hợp, từ Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường bảy đời không đời nào chẳng vào chùa cúng dường, điềm ánh sáng như đã nêu. Nay chùa Đại Hưng Thiện tại kinh đô bắt chước vẽ tượng.

Cách Châu Lương về phía Nam chừng trăm dặm, có tượng đất đi trong vách núi. Xưa cháu của Thư Cừ Mông Tốn là Vương Hữu Lương Thổ chuyên làm việc phước, ở trong vách núi tạo hình tướng lớn, ngàn biến vạn hóa làm hoa mắt người, có tượng Thánh tăng bằng đất giống như người, thường tự kinh hành, không lúc nào tạm bỏ, xa thấy liền đi, người đến liền dừng, xem diện mạo kia giống như người kinh hành, rây đất ra mặt đất, sau xem vết chân đóng vào, nay thấy như thế.

Chùa Đàn Khê ở châu Tương có tượng vàng đi. Trong niên hiệu Ninh Khương đời Đông Tấn, Samôn Thích Đạo An làm vừa thành tựu đã đi đến muôn núi, sáng lại trở về chùa, đêm đó lại ra đến cửa chùa, đến núi đạp đá hiện ra tướng một chân. Thời Chu Võ diệt pháp, đàn áp con cháu phó trưởng thông minh. Triết chí tánh hung bạo trước muốn dứt trừ, khiến cả trăm người dùng dây buộc cổ kéo ra bất động (tự tử), Triết rất giận bèn giết thêm năm trăm người mới ngã xuống đất. Triết vui mừng rớt xuống ngựa bị chết. Ngay khi hủy tượng ở dưới nách rớt xuống bài minh trong áo rằng: "Tượng này năm Giáp ngọ thời Tam Chu sẽ diệt" khám nghiệm thời đại phần lớn là phù hợp. Chở đạp đá kia ở chùa này nay gọi là mở pháp.

Điềm tượng đá ở huyện Phiên Hòa phía Tây Châu Lương. Trong niên hiệu Thái Diên thời Nguyên Ngụy, có Sa-môn Lưu Tát Hà đi đến phía Đông bắc của Phiên Hòa hướng về hang Thần Ngự lễ mà nói rằng: "Trong núi này có tượng Phật xuất hiện, nếu tướng không đủ thì nước hoại người khổ". Tám mươi bảy năm sau, vào niên hiệu Chánh Quang thứ nhất gió mưa chấn động núi, tượng xuất hiện cao ba trượng mà không có đầu, Đăng liền ra lịnh làm đầu cho tượng vừa đặt lên liền rớt xuống. Đến đời Ngụy, đạo lăng trì chia Đông tây. Sau bốn mươi năm, cách phía Đông của châu này bảy dặm, trong khe nước được đầu Phật bằng đá, liền đặt lên tượng y nhiên phù hợp. Trong niên hiệu Bảo Định nhà Chu đầu tượng lại rớt xuống. Năm đầu đời Tùy lại lập chùa Thụy Tượng, che mắt nhà vua lúc chinh phạt phía Tây đi ngang qua, bèn sửa tên là chùa Cảm Thông, nay họa vẽ phần nhiều y lượng bắt chước theo đó làm chuẩn.

Bóng tượng đá chùa Sùng Nghĩa tại kinh đô, hình cao tám tấc, thẳng năm tấc tám lăng sắc đá đỏ tím rất đẹp. Vào niên hiệu Thái Thanh thời Lương Võ Đế, có vị Tăng từ nước ngoài sắp đến, gặp loạn bèn đặt tượng lên đảnh Lô Sơn, Tùy Dương ở Phiên trấn thuộc Giang Dương thấy, riêng ghi nhớ đến cầu mà được tượng, bèn lên Trữ Nhị đưa về chùa Nhật Nghiêm ở Khúc trì, chùa bị bỏ phế lại đưa vào chùa Sùng Nghĩa. Ở kinh đô kẻ đạo người tục đều được thấy nhưng thường thì khác nhau, người thấy là Phật kẻ thấy là thần, núi, rừng, lọng báu, cờ phướn, trước sau, đồng khác. Niên hiệu Trinh Quán thứ bảy vua ra lịnh rước vào cung. Thụy Tượng quặng thiết của cung Ngọc Hoa ở châu Phường. Chu Võ diệt pháp, có Khương Minh làm Đốc sự đi đêm thường thấy nên núi có ánh sáng, sáng ra đến tìm thì có thần đá hình dáng như tượng, liền đào bốn bên, thì chính là quặng thiết không thể làm thương tổn, giở thân ba trượng thì trong lòng có mu bàn chân, bèn cùng người trong thôn nâng lên mà không được, bỗng nhiên ở hạ lưu chảy thẳng đến lỗ dấu chân, đứng lên nổi bật, hình dáng giống như tâu, thời là lúc tế Thiên Nguyên, đổi niên hiệu là Đại Tượng, ra lịnh chỗ ấy lập chùa Đại Tượng, nhờ đó khai mở Phật pháp. Đời Tùy năm đầu đổi thành chùa Hiển Tế. Thái Tôn khi ở trong cung thường đến lễ bái sửa sang trang nghiêm, Đại uyển nội cách cung ba mươi dặm về phía Đông, trong niên hiệu Vĩnh Huy sửa thành chùa Cung Lập, ban đêm tối mịt thường phóng ánh sáng.

Thụy Tượng Lô-xá-na của chùa Hoa Nghiêm trên núi Nghiễn tại châu Tương, vốn là tượng cổ đời nhà Chu, thời Phật pháp bị diệt đem giấu nên còn đó. Mỗi khi có tướng không lành dùng nước mắt chảy ra làm thời kỳ. Khi Tùy Văn Vương sắp băng hà thì một lỗ mũi chảy nước ra thấm dơ ở lớp vàng mỏng khiến bị tróc ra, dù sửa sang tu bổ lại nhưng vẫn khác, tháng tư năm cuối niên hiệu Trinh Quán tượng khóc liên tục không dứt, chảy nước mắt dơ cả ngực bụng vuông vức chừng cả thước. Thái Tôn băng hà mới nghiệm ra điềm trước. Đến tháng sáu lại chảy nước mắt nữa, hợp cảnh đồng sợ. Đến tháng bảy thì nạn hồng thủy ngập tràn thành quách sâu đến hơn trượng, nay thấy vẫn còn.

Đời Trần, điện Trùng Vân bay ra biển, điện này Lương Võ Đế lập, trong đặt tượng và các đồ quý báu. Nhà Lương mất nhà Trần lên, Võ Đế đã băng hà. Khi cần đồ mai táng, muốn lấy bức trướng châu ngọc trong điện, nhân lực đã đầy đủ bốn bên đều đến, bỗng thấy mây khí vây quanh, mưa lớn trút xuống, sấm chớp liên hồi, hàng trăm nhân công bỏ chạy. Lại thấy lửa dậy trong hư không, rải ngọn lửa nối nhau, tượng Phật và tất cả đồ trong đại điện Trùng Vân bay lên trên khói lửa, nương nhau sáng rỡ bay về hướng Đông. Quốc sĩ ngước xem mút mắt mới dừng, mưa tạnh mặt trời lại xuất hiện. Hơn tháng sau có người từ châu Đông đến nói ngày ấy thấy điện Phật nương hư không ra biển. Ngày nay khi trông ra biển thường thấy. Chùa Vĩnh Ninh ở Lạc Kinh đời Nguyên Ngụy, tháp trời chấn động biển Đông sự tích kia hơi giống như trên.

Thụy tượng Văn-thù-sư-lợi ở Lô Sơn tại Châu Giang. Xưa, đời Tấn có vị danh thần tên Đào Khản Kiến. Có ngư dân ở biển Nam thấy trên biển có ánh sáng, mới tâu Khản khiến đi tìm, bỗng chốc thấy tượng vàng lấn sóng đến bên thuyền, tiếp được bài minh nói chính là tượng Văn-thù do Dục Vương làm. Bèn rước đến chùa Hàn Khê ở Võ Xương, sau dời Kinh Châu rước tượng lên thuyền, thuyền liền bị chìm, Pháp sư Viễn liền rước vào Lô Sơn thì không có chút trở ngại, nay để ở lầu Đông Lâm trên núi.

Phía Bắc chùa Tương Tư cách Châu Du về phía Tây trăm dặm, trên núi đá có dấu vết mười hai pho tượng Phật, đều cao ba thước, rộng một thước một tấc, sâu chín tấc, trong có vẽ cá, ở phía Bắc Phật đường chừng mười lăm bộ thấy có Tăng ở.

Có hơn ba mươi Phật tích trên đá về phía Bắc chùa Linh Khám, huyện Hưng Ninh mé Đông Bắc châu Tuần, tượng lớn cao năm thước trở xuống. Chùa Đại Hưng Thiện ở kinh đô có điềm linh xuất hiện tượng Phật, cốt Phật và răng Phật v.v...

Ở châu Phủ, vào niên hiệu Hiển Khánh có tượng đi ở châu Đàm, tự dời đến châu Phủ về phía Đông khoảng hai mươi dặm. Con đường trong núi hiện hai dấu chân, dài ba thước, cách nhau hơn năm trăm dặm. Ban đầu không biết là tượng đi đến, có người thấy ở trong núi cho là quái lạ, bảo khắp người xa gần dời đến chùa mà không lay động được tượng. Quan Thứ sử và hạ quan cùng mọi người hết sức hối hận, đi đến bên tượng xin thỉnh về chùa ở châu này (Phủ) thì chỉ cần ba người là nhấc bổng lên và về đến châu, đi tới đâu mây che đến đó, đêm ấy trời mưa to, mọi người cho là năm ấy sẽ được mùa. Nay vẫn ở châu Phủ.

Đời Tùy, điện Phật chùa Hưng Hoàng ở châu Tương bị chảy, tượng đồng trượng sáu ở ngay dưới rường, lửa phát cháy cây rường rơi xuống, vô tướng tự dời qua mé Nam chừng năm sáu thước, hình tượng được an toàn. Bốn mặt ngói, đất, tro, lửa, cách tượng năm sáu thước lại không có một chút bụi nào dính. Nay tượng ở chùa Bạch Mã, chim chóc không dám đến làm dơ.

Chùa Tam Học Sơn ở châu Giản có Phật tích, mỗi đêm đèn thần ở hư không, từ xa thì thấy, đến gần lại mất đến đêm lục trai (sáu ngày chay) thì đèn càng nhiều.

Con Sông Từ Ô phía Đông bắc chùa Ngọc Hoa tại châu Phường, trong niên hiệu Võ Đức, người dân ở Hác Biện có lòng tin Phật, thấy bầy nai thường ở bên núi, lấy làm lạ bèn đào chỗ đất kia được một tượng bằng đá, cao bốn năm trượng bèn dời ra ở châu nơi nhà mình, tượng kia tướng lớn giống tượng ở chùa Ngọc Hoa phía Đông. Người già xưa truyền rằng: "Thời Phật Ca-diếp núi này giấu hơn bốn mươi tượng nay mới xuất hiện có hai, còn bao nhiêu chưa xuất hiện. (Một tượng xuất hiện ở châu Lương cũng giống).

Phật đồng bốn mặt ở huyện Sa Hà, Châu Na, cao chừng bốn thước. Đời Tùy, ban đầu có người vào núi thấy Tăng giữ gìn vô tướng đây, do đó xin cúng dường. Vị Tăng sau mất ở chỗ đó, người kia muốn đem ra mà không nhúc nhích được, người các nơi nghe đến giúp sức dời mà cũng vậy. Tăng ở chùa Sa Hà nghe, đến thưa dẫn tượng liền đi đến chùa. Về sau người ở bên chùa được một thỏi vàng, trên có hình con chim, có bài minh rằng: Bắt chước mạ tượng Phật bốn mặt, do đó lấy vàng mạ lên vô tướng thì trên tượng Phật đầy bóng chim. Sau vua nhà Tùy nghe có điềm lành bèn sai thợ bắt chước mà đúc, đúc mãi không thành, lại có khuyết thiếu, trải qua hai trăm ngày bèn thôi, nay vẫn ở trong chùa.

Từ trước đã nói tháp Thần thụy tượng khai tục dẫn phàm mà chưa rõ sâu, do đây phát lòng tin, đã tin tướng đặc biệt mới có thể nhiếp tâm. Đem kinh thảo luận giúp mở thần giải, mới biết bốn ma thường quấy nhiễu, sáu giặc thường xâm lấn, biết mà lại sợ, siêu phương có ngày, không như vậy thì đắm chìm lại đồng từ vô thỉ. Hoằng sáng đạo há lại có như vậy ư? Còn như quyển kinh không bị cháy thì phù hợp với sợ tắm giặt, sách chẳng ướt thì đồng với lọng trời, chùa Thánh thường bày, tiếng chuông vang xa gần, thần Tăng thường hiện, nhận cúng dường chung cả đạo lục, các chuyện này chép đủ trong Cảm Thông Ký.

Chiếu dụ xá-lợi Phật dưới tháp Dục Vương xưa xuất hiện của vua Cao Tổ đời Lương.

Tháng tám niên hiệu Đại Đồng năm thứ tư, mặt trăng phạm năm xe, người già xem sao hỏa bảo sửa chùa Trường Can, tháp vua A-dục, xuất hiện xálợi, tóc và móng tay Phật. A-dục là Thiết luân vương làm vua một thiên hạ cõi Diêm-phù, một ngày đêm sai quỷ thần làm tám muôn bốn ngàn tháp, đây là một trong số kia. Cưỡi kiệu đến chùa Trường Can lập pháp hỷ thực vô ngại. Ra chiếu rằng: "Trời đất đầy hay trống cùng thời tiêu dứt, muôn vật không được đồng với côn trùng kia sinh, hai nghĩa không được hằng kia che chở, cho nên nhọc nhằn khỏi khác năm, vui mừng đau đớn khác ngày. Năm ngoái mất mùa lúa thóc đắt đỏ, người dân khốn cùng bèn lạm đến đây. Nguyên tình xét lỗi, hoặc có khi đáng thương xót, dưới xe hỏi tội, nghe các nơi đến báo cáo. Đứng đầu trả nợ là thân trẫm, nếu đều dùng sợi dây pháp thì tự không có đường", sách không nói như vậy sao? Cho giết người không tội, thà mất chứ không làm. Kinh Dịch nói: "Nghĩa tùy thời là lớn", nay chân hình xá-lợi lại hiện ở đời, gặp việc ít có, nghĩ là khó gặp. Nay ra chùa A-dục Vương nói hội vô ngại, già trẻ đều vui mừng như đói lâu ngày mà được ăn, như người thân xa cách lâu ngày mà được gặp, chỗ u hiển đều quy tâm, xa gần đều kính mến, nam nữ như rải ráng trời, mũ lọng như mây che, nhân trời rải đức đầy khắp nhân linh, những người tội trong thiên hạ bất luận nhẹ nặng đều được tha thứ.

Tháng bảy niên hiệu Đại Đồng năm thứ tư, ra chiếu chỉ rằng: Lòng từ như trời che khắp, nghĩa không đâu chẳng nhiếp, phương tiện lợi chúng sinh đâu có nơi chốn. Có người dân huyện Thượng Ngô là Lý Dận Chi đáo đất được một ngà voi vuông chưa đến hai tấc, hai bên đều hợp thành hình thú, trong đó một bên tượng Phật mười hai thân, một bên mười lăm thân, khắc vẽ sáng sạch khéo léo tuyệt vời, e rằng thần linh chỗ làm thành chứ chẳng phải công sức con người, trong có sáu chân hình xá-lợi.

Châu Đông, lúc xưa có tâu, trên chưa cho là ý mà Dận Chi bị ngậm hàm thiết và dây trói đồng trị, chân hình xá-lợi giáng ở trong, ánh sáng hiển phát bày tướng ít có, đại bi cứu khổ rất có lý do, nên nương Phật lực hoằng từ rộng lớn. Nếu tội nặng hay nhẹ trong thiên hạ ở ngày 16 tháng này chưa sáng về trước đều được ân xá, lúc mặt trời xuất hiện khâm phục khát ngưỡng rước pháp thân trở về đài mà cúng dường.

Dâng bài tụng cây Bồ-đề của Tấn An Dương Cương, đời Lương. Quan Cương nói: "Thần nghe Kích Viên xướng nhỏ có kính mến phong nhã, người nước Ba cạn khúc thật kính mến dương xuân. Vì vậy cây hướng dương lá nhỏ còn ngửa lên mặt trời, ánh sáng nhỏ của bó đuốc mà không thể tự tắt. Cúi xin Bệ hạ chí đức khâm minh, đạo nhiệm mầu rộng lớn, chính là Thần là Thánh đạo vượt hiên Quy, Chánh giác Chánh chân công phu tròn đủ, thường trụ là vui, pháp hỷ là ngọt, mưa từ giúp người không có căn lành, hiểu thấu suốt giáo hóa sâu rộng chốn u hiển. Cho nên tám gió điều hòa bốn mùa đúng lúc, định thiên hạ, an ngoài biển, mở rộng hang rồng, nối thạnh pháp núi Thứu. Không trụ vô vi thật thương xót chúng sinh, dùng vô tướng dẫn dắt về cõi chân, khuôn phép đạo thọ đây hiển mặt vàng đây, khiến người thệ nguyện kết nhân, người đảnh lễ thêm phước, gặp đường đã là một, xưa nay gì là hai? Xin lấy đồ để nêu, nương bày dâng bài minh, mở điềm lành bài tụng Sơn Hưng trong Huỳnh Long. Thần dẫu rằng: Chẳng thông minh, thật có ngu ý, kính dâng một bài tụng "Cây Bồ-đề" học cảm tạ xét xưa suy nghĩ chẳng phải trầm uất, không đáng để sáng soi, thạnh đức phảng phất một góc, an ủi vỗ về lời thô thiển nơi giấy xấu hèn, kính cẩn xin!

Tay sắc lệnh xét mở, xem bài tụng "Cây Bồđề" đã dâng, nhặt nhạnh có ra lời hay ý trong sạch, ngước khen Pháp Vương ca ngợi đạo thọ, ý nghĩ miệng nói cho đến tay viết, ba nghiệp đều lành, nhưng chỗ nói nước tốt đẹp đều là việc chẳng nên làm thật là lỗi nói lời thêu dệt. Việt sắc chỉ.

Bài tụng "Cây Bồ-đề":

Trộm cho là nhân duyên giả có, chúng sinh kẹt ở căn. Pháp vốn là không, diệu lý của bậc chí nhân cho là ba cõi sáu đường vòng quanh nghiệp chướng mà tự mê. Tám môn giải thoát, mười trí dẫn dắt quy tôn mà trống rỗng. Vì thế Đại sư Năng Nhân tùy duyên rải đạo, xót xa nhà lửa đã bốc cháy, thương cho dòng dục hằng kinh khiếp. Gá thân cung Bạch Tịnh soi sắc tướng vàng ròng, ở đây ba hoặc chỉ bày vẽ hòm chẳng phải chân, ra bốn cửa kia sợ mây nổi dễ tan mất. Vì vậy mở mặt trời Phật, sấm sét pháp, bày tiệm giáo, hàng phục dấu vết quyến hiện, Tam bảo hiện ở đời, một đường biết trở về, rộng tiếp độ chúng sinh cứu người chưa được độ, mây pháp nước pháp khắp thấm nhuần, đồng với vô biên thế giới, đèn trí đuốc trí sáng rực, đồng hư không chớ có hạn cuộc, vật nhân khó lường, hóa duyên sắp dứt, rừng mở cây trắng, ngày sáng xanh cành. Thương thay! Sáu thức trầm luân nơi tám khổ, không có Đại thánh ai làm cầu tuệ. Hoàng đế thể rộng lớn sáng suốt bao trùm, bao gồm thuần thành của trời đất, chiếu thần gương ngọc, nắm vận thái bình, nuốt Ngô, mang thai Hạ, che trùm nhà Hán, nhốt lồng nhà Chu. Ngự sáu khí mà con chúng sinh, quạt hai nghi khắp hưởng độc, sợi ngang sợi dọc của nhạc, kính lễ, im lặng võ đao, làm văn chương. Rau đồ mùa thu không có cổ bàn vật liệu nghiêm chín luật, mưa xuân mến sống, giải giềng mối kín của ba thân, vốn để linh hàm trì tự mất, nước sông phần đức biết hổ thẹn, Thiểu Dương khuyến khích thiện ở nguyên chân. Quan Phiên biến vị ở áo tang. Người tám khải ba tòa chín gai bốn liệu, trong Tuyên Vương việc chở kế sách đi ngang, chuyên thành tướng đẩy trục xe, ngoài giữ biên cương một đồng khuôn khổ văn chương, muôn phương cùng suốt đầu xuyên ngực chạm ức, sư thân ngắn tay dài. Nung đá Nam Việt, cát trời Bắc cực, nhánh mặt trời xa tít phía Đông, giềng mối mặt trăng vượt qua hướng Tây, đấu không nhờ núi nhọn, núi treo lên chót vót vượt xa giấy mực. Tàu biển đạp chỗ sâu, lông nổi trên sóng mang phương vào cống, tiến cử người trung, mời quan chức, dâng chim đồng tâm, cống thú đồng vai. Bấy giờ bèn tốt đẹp tranh phát điềm lành báu. Linh chi vọt bày mặt trăng vườn Giao cỏ um tùm. Nghĩa phụng, nhân từ của hổ, ngày nghe nước Quận. Như ngọc như châu, đã vậy thêm đèn soi trong cửa, như mây mà chẳng phải mây, cũng bồi hồi ở cung Trĩ.

Vì vậy điều khiển lê dân ở nhân thọ, giúp siêng trồng chỗ hào sâu. Năm trược mùa dân ân cần nhà nhà đầy đủ, đốm trắng không nêu ra, đồng nhà có khen ngợi, theo thiện như dòng, ứng gió như cỏ, mở nông vụ vốn đúc đao, tiêu, phong hột đỏ đầy rương, vịt xanh giao suốt. Trên chiếu trời, dưới lọt suối, trời đã thành, đất đã bằng, Thiên tử bèn đều thương bốn loài như con một, bày nhân hạnh vua, nêu ra đường cốt yếu, rộng bày đạo tràng diệu pháp rộng lớn, bàn báu Niết-bàn. Xét chúng mê hoặc ở trái dòng, ánh sáng từ bi chiếu quần mê nơi chưa hiểu, pháp luân khắp đại thiên, mát mẻ giúp hàng Tiểu thừa. Cho nên trời người ca múa, bỏ vườn soi mà khen tốt, Bồ-tát Phi Tượng vượt cõi thơm mà đến nghi, năm trăm lọng báu vọt ánh sáng rồi tự hợp lại, mười ngàn anh lạc treo hư không mà rớt xuống. Khám thất trang nghiêm, cõi nước đặc biệt, chế điện ba thời, xây đài bốn trụ, dầu Hán Hậu trông cung thần, Hiên Viên đợi xem tiên. Từng đâu đủ phảng phất mây báu, nghi hình đồng giáo. Vì vậy tưởng mới thành đạo dựng cây Bồ-đề, bốn biển trình của báu, trăm thợ bày khéo léo, chạm vàng khắc ngọc, nối gương treo châu, chế giống núi tuyết, hình đồng lòng bay, bốn phương che mát năm mặt lợi ích chúng sinh, danh cao khắp mặt trời, ân vượt cùng chốn, và cây đẹp ngàn ánh sáng, sáng chói hoa năm sắc. Mặt trời xanh rủ vẽ màu, đai ngọc sinh khói, gió nhẹ chầm chậm lay cành báu thành nhạc, nghiễm nhiên sắc kỳ diệu che chói cành cây này, hiển như núi vàng, đặc tôn như trăng nhóm. Tín nữ ban đầu dâng trăm vị, chư Thiên cúng bốn bình bát, rải cỏ cát tường, luôn nhởn nhơ chim tước xanh, hàng phục ma gây sấm, khiếp vía quỷ gánh non, chất ngọc kỳ diệu không thể nói xiết. Đây thật là diệu duyên sinh thiện, là phước sâu tiến tu hành. Ngay lúc này dấy lên sự tốt đẹp giúp đời chưa nghe, mới ứng chiếu đức không cùng, treo mặt trời mặt trăng, vòi vọi hằng vui, vạn vạn năm, đây xin làm bài tụng rằng:

Sử dài xem chép, bài linh gương mờ, sách báo sum suê. Vua mưu đồ che ánh sáng, chim ghi khen lành, rồng viết nêu mến, đức rải chín châu, năm huyền làm vịnh, đuốc này lớn thay!

Đại Lương mở Thánh, công trùm trọn xưa, nghiệp cao thọ mạng, kim luân giáng đạo, ngọc hoàng giúp chánh trị, không suy nghĩ chẳng phục, có đức này thạnh, Nhất thừa chở ra, năm mắt thanh tịnh, bẩm thức vui ca, côn trùng được tánh. Bếp nhà Thuần có hoa sen linh, sân nhà Nghiêu đậu thần, đâu bằng đạo thọ thấm ướt rộng lớn, chẳng thầm rủ ánh sáng, cỏ thơm chồng chất, thời động trăm hoa chợt mở ngàn lá, hiện pháp thân kia, vẻ điềm lành này, sáu ghe vượt biển, thành an bốn nhiếp, đầm tuệ đã lan gió thuần thổi khắp, cảnh trí ngừng sáng, suối pháp lặng sóng, trăm thần khát ngưỡng, ngàn Phật xưng truyền, vẻ vang động chiếu đèn ngọc hòa cả băm, Bồ-đề thường lập, sóng như trường tuyên, minh hậu tráng lệ, vạn thọ như trời.

Văn Xướng Đạo của Giản Văn đời Lương.

Mười điều ác duyên mạnh dễ mê hoặc tâm người, muôn điều lành sức yếu khó cảm tánh linh, ngăn chặn đến lửa, lập chí đạo tràng. Tát-đỏa bỏ thân quyết lên Diệu giác, chúng sinh nhóm nhiễm, trôi nổi không trở về, biển khổ dễ chìm, sóng từ không giạt vào bờ được. Khát ái và sinh tử chung cửa, vô minh và lưới kiết sử chung đường, đều đến trăm ghi, ràng buộc bốn khổ. Người suy nghĩ chung sức rẻ ba minh kia, do đó Như Lai nhân căn cơ lập pháp giáo hóa, như đại y vương tùy bệnh cho thuốc. Nay ngay nền mở mang, ô trời lưới đất, quạt gió nhân nơi vạn cổ, sửa đời quý ở trăm vua, che chở chúng sinh, từ bi giúp lê dân. Bờ trời mé biển, thờ nghĩa ăn gió. Ôm (tố) diều, thổi môi, ngậm nhân, uống đức. Dân không hiền giống ái đều một con, mọi người đều phải khắc phục lòng mình, thành thật lóng tâm khiêm cung, vâng lời kính lễ bậc chí tôn là Phật Thích-ca. Văn ở thế giới Ta-bà, Phật Chiên-đàn Đức Tôn ở thế giới Hoan Hỷ, Đức Như Lai Nguyệt Điển ở thế giới Thủy Tinh, Phật Sơn Hải Tuệ ở thế giới Bảo Minh, cúi xin chư Phật cùng trời đất hưng thạnh, ánh sáng từ, cùng mặt trời, mặt trăng đồng chiếu, chín cõi được thấm nhuần ân trạch, tám phương kéo dài ân nhân thọ. Đèn vua, mặt trời đẹp chiếu đến phương xa, kích phát khúc ca đầy đủ thiên hạ đều nghe. Kính do tâm khởi, năm lễ do ngoài cung kính. Tình phát ở trong, sáu thức vì vậy mà khắp đến. Cho nên một việc lành thấm vào tâm muôn kiếp không hư hoại. Trăm đèn chiếu rộng ngàn dặm chung sáng, nhờ pháp được an, nhóm lành điều vui kéo dài.

Ngày nay may mắn gặp lời dạy này, đâu lại không hết lòng vâng làm, làm Hoàng Thái tử kính lễ Phật Bảo Hải ở phương Đông, Phật Đăng Minh ở phương Nam, Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, Phật Tướng Đức ở phương Bắc. Cầu xin như lưu ly trong sáng rỡ, hợp với ngọc bích bên ngoài. Ngọc chấn mây nổi, vàng nêu rõ gương biển, nhan sắc mặt trời, bốn thiển nổi gió, đã giỏi về đức ôn văn, thật khéo trọng lạm quốc, chúng sinh uống đức, hữu thức ăn nhân?? hòa nội hóa, sự sáng rỡ kinh nhà Chu, khen đức hàm chương, dạy cao trọng sách sử. Cho nên để phối chánh thờ trời, nêu bảy giáo ở nhân đức, tuyên gió nối tuệ, mở mang sáu phục ở ôn từ, đều nên nhiếp tâm vâng nhờ làm Quý Tấn quy mạng kính lễ năm mươi ba vị Phật, ba mươi lăm vị Phật ở tương lai, Hiền kiếp một ngàn, hiện tại một trăm bảy mươi vị. Cúi xin tướng mặt trăng đồng với muôn thiện đều dừng, vàng thinh cùng bốn thời đều giúp, khởi bảy báu để chiếu sáng rỡ, hỏi mười trí ở thường lạc, khuê môn giữ thờ lòng nhân, cung các chứa khâm đức, sáng đồng điệp bích, rực rỡ như ngọc Côn.

Thường nghe núi Tung cao chỉ có non Nhạc là che Hoàng Gia, Tông Tử duy trì thành kiên cố như bàn đá, cho nên Thích Quân, Lỗ Vệ Nhậm đồng như Tiêu và Tào, ba đài giữa tòa ngồi mà bàn đạo, chín quan ngọc cần vui ở việc khó khăn, nên đều vận tâm thờ phụng làm Lâm Xuyên An, Thành Kiến An, Phiên Dương Thỉ, Hưng Dự Chương, lại phía Nam Khương Lô và Lăng Tương, phía Đông Võ Lăng các vua nhà nước thuộc sáu ty đảnh quý, quy mạng kính lễ xá-lợi, hình tượng, cây Bồ-đề, tháp Đa Bảo vọt lên hiện xá-lợi Đức Thích-ca. Cúi xin tâm gương ngưng sâu, thân trong sạch cao vọt. Khắc giáng xã tắc vua hằng tươi tốt cành chúa, mọi người đều nhất tâm quy y nương tựa Tam bảo, ba cõi khác thuật, năm đạo chia đường, trời người đồng nghiệp đều quy về một quả. Quỷ thần lôi kéo quả báo, sự tỏ rõ đường tối. Cõi lành hoa quả đã trái chánh lực, năm trược tâm phiền càng khởi nhiều não lụy dầu là thông minh chánh trực, cúng tế ba sinh chưa thiếu kém âm dương không suy lường, sáu căn trệ còn nhiễm. Mọi người nên đều bày thành khẩn vì tám bộ trời rồng ủng hộ tháp Thiện Vương, cho đến Tu-la tám tay, Ma-hê ba mắt đều là kính lễ tôn kính, chánh điển, thanh tịnh Bát-nhã, rốt ráo Niết-bàn, văn Pháp Hoa một hội, Tịnh Danh nói không hai, nguyện tất cả thiện thần dứt hẳn vô minh, vâng theo chánh bổn, nằm ở cung báu, ngồi chỗ Hương Tích. Đế Thích sâu rộng, đi thuyền Bát-nhã, Tịnh Cư chìm sâu, cưỡi xe trâu đẹp, ân thấm ba cõi, soi rõ Tứ Thiên đại bi cứu khổ, việc sáng kinh trước, mở lòng từ ban cho niềm vui, nghĩa cao, danh thuận.

Vì thế linh huyền giáng tích ra vào khác nhau,

Bồ-tát vị yên, hiển thông minh nhiều thuật, vô biên kịch não, quạt tám khổ nơi đường tu, có tình ràng buộc. Nhiễu sáu đường nơi hiểm nạn, xích vàng, giường ngọc còn nghĩ giải thoát, khắc châu ngọc trang sức trân kỳ không kịp giữa đường. Còn như bập bềnh gió nóng trôi nổi sóng nước. Nhà tối ngàn lớp, thành đen trăm nhận, vòng sắt nát thân, trụ đồng cháy ruột. Bên cạnh có ra đao nhọn, trục ngang, kiếm bén, các khổ như vậy rất là nguy hiểm. Một hơi không theo thì vạn kiếp lìa hẳn, sát-na tạm dứt thì ngàn đời lìa xa, chung nhau cùng gá huyễn chất bào thai ở Diêm-phù, huyễn chất dễ vỡ, có nạn phù du, gió sấm rong ruổi thành khó thể trụ. Huống chi ba tướng đều nhăn nheo, hai chuột đục khoét, tên độc rắn dữ rất là đáng sợ.

Ngõ hầu nhờ chánh pháp cứu lụy nhiễm này, hưởng lâu trăm phước, dứt hẳn sáu trần, đối đến không bờ cõi, chỉ có Phật là đáng nương tựa. Nay vì sáu đường, bốn loài, ba nẻo, tám nạn từ bi khẩn cầu nhất tâm khắp lễ Bồ-tát thập trụ, Thanh văn ba hạnh, lạy Quán Âm cứu đời, Bảo Tích dâng dù lọng, Đại Thế Chí phương Tây, Diệu Âm phương Đông, hai vị Đại sĩ Tứ Biện, Tịnh Danh, Loa Kế, Châu Đảnh, Thiện Túc, Di-lặc, Văn-thù, Kim

Cang Tạng, Giải Thoát Nguyệt, Khí Âm Cái, Thường Cử Thủ, mười đại đệ tử và năm trăm Lahán, nguyện ngục tù rỗng không, tật bệnh phiền não tiêu dứt, trăm huyện trong thành, ngàn thành ngoài phương, phàm ở chỗ tối tăm chật hẹp đồng được rộng rãi thoáng đảng. Người chung sức che chở rắn, tục hóa giúp đỡ giúp hàm sinh không rách nát, người uống thuốc chậm không chết, cùng nhổ kiếm không lự thương, hàm sinh không tan nát, chuyển chết tự sống lại, cầu Vị ngày no thuốc đâu không đói đóng kín ba đường, đánh tan địa ngục, phá binh chúng của ma, hoại quân sinh tử. Diêmla phát tâm mười điều lành, đầu trâu mở nghiệp năm giới, như cá thiếu nước, như chim chẳng có (cây) rừng, một phen nghe pháp âm liền bỏ chất dơ uế người vận năm thể quy mạng Tam bảo.

Văn lễ Phật phát nguyện:

Phàm trí giác vắng lặng vốn bặt tiếng tăm lời lẽ nhiệm mầu trông rỗng vốn lược nơm tượng, dẫu việc dứt trăm phi mà có đến đây ứng tích, lý quên bốn câu cho nên chẳng cảm không đèn. Hoàng thượng đạo soi cơ trước suy nghĩ vượt ràng buộc, ngưng thần nước sông Phần thì tâm tạ từ trong cõi. Đạo thấp binh cao thì hình nhọc trong vũ trụ, đây là pháp nhầm giáng dấu vết, thị hiện cảnh Diêmphù, đại quyền trụ địa ứng xuống cõi Ta-bà, cho nên muốn làm sạch vạn hữu độ thoát chúng sinh. Nước trơn sạch nơi ao báu, nhành cao mát ở cây đạo. Dùng lòng nhân chiết phục nhiếp thọ, gặp duyên mà đều cùng tột, đức nhẹ lời đắng miệng có cảm mà xướng đây. Hằng ngày chỗ làm không biết lợi ích đâu hạn cuộc, mọi người cùng nhau thêm được. Cúi lạy Đấng Chí Tôn, năm thể quy mạng v.v...

Ngước xin Hoàng đế Bệ hạ chí đạo cùng bốn thời đều vận, gió màu cùng tám cực chung rộng, lại thuần nguồn nơi ba xưa, bỏ sóng ác nghiệt ở chín đời, đến trị mình thấy ở ngày nay. Đại đạo lại thuộc lúc này, đạp hổ báo mà không sợ, giẫm lên rắn mà nó không cắn. Chôn vàng lấp ngọc hủy khế Phạm văn, lúa tươi tốt, suối rượu chảy. Xe vàng ngựa ngọc tự sáng rỡ soi rọi nhau. Hạt đen, phụng đỏ, bay qua lại, quang canh đèn đã chiếu, ghe xe chỗ nước tràn rong chạy, đâu không cong gối, buộc cổ, xoay đầu, lời sơ sài, vào hầu đường Lãi, ngưỡng lạy Vị Thủy, cùng trời đất mà lâu dài đồng đá vàng mà bền chắc. Giữa núi có thể chuyển, sông dài có trong mà vua Thánh của ta vừa mát vừa sáng ngời, không nói mà hành hóa, không làm mà giáo pháp nghiêm túc.

Đạo giúp vỗ về, vọng nêu tốt đẹp hàng đầu, xét xa biết nhỏ, suốt tông, trùm tột, không nhọc búa, song không đợi xét dụ. Huống gì lại tỉnh ngộ có không, đồng quán chân tục, thực hành được nói được, đã tin đã giữ gìn, mọi người đều chí thành vâng làm Điện Hạ đại diện cho vua quy mạng kính lễ v.v...

Ngưỡng mong Hoàng Thái Tử Điện Hạ đức bày lễ trời xanh, rộng chở ngang nhau ở mênh mông. Sao trước chiếu rực rỡ, lìa phương Đông sáng chói, hiền thục nghe từ xa hòa khí đen trời, khác tay tranh vào, người ngay đều đến, thể ngọc mát mẻ vui mừng, tiếng vàng nhiệm mầu vượt hơn. Thật tươi tốt, tiếng tăm tốt đẹp, đạo trùm, đức rộng. Quý ngọc khuê áo lót, ngồi nghỉ ở cây hòe tôn quý cây hải đường, vẫn ứng cùng tiếc vầng hồng phía Đông, đều tiếc phía Tây, ngộ bẹ chổi bông lau là chẳng thật, biết huyễn thuật gương và mặt trăng, tin sấm chớp không lưu dấu, nghiệm vẽ nước là tùy hợp chỉ nên dùng đèn trí soi chiếu, vọt lên sóng báu, lại thêm căn lành lợi đây, thành gốc nhiệm mầu này, lại riêng thêm đến vâng làm Thái úy cùng các vua, Điện hạ quy mạng kính lễ v.v...

Ngưỡng mong các vua đã sáng suốt thông minh, tiếng vượt sông Sở, khiến nghe khiến trông mong, đạo đều ở sáng mai rực rỡ, đức suốt bà con đá, nghĩa ôn tồn khắp thân thuộc, làm cái đỉnh thì cùng hai diệu chung nhau, đến núi thì cùng bốn góc vốn đồng kiên cố, nếu xa lớn, nhỏ, hằng dụ tùng quân vui vẻ.

Lưng trời cao dày thường rải hoa thơm đâu không ngọc chấn cỏ lan, lắc vàng leng keng, cây quế sặc sỡ, thấy tấc văn mà nghiệm lụa, nhìn một lông mà so sánh chim phụng, đều có thể tài cao như điện đồng lời giàu như đài mây, tiến lên hoàn mỹ, siêu vượt sáng rực. Do đây mà thiện thù thắng vâng làm, các vua điện hạ, lễ kính v.v...

Ngưỡng mong các vua, Điện hạ hòa thuận cùng gió mát đều quạt, tài hoa anh tuấn đem mây trắng cùng sáng sủa, hằng un đúc sự trong mát, hạnh phúc lâu dài, hưởng điềm lành. Ra bờ cõi thì tiếng cao hơn dân, vào triều nội thì khen ánh sáng vật đá, đức nặng hơn núi chúa, trí vượt biển sâu, tiếng leng keng xinh xắn của cây châu, sáng của ánh nơi ruộng ngọc.

Đạo lưu hành như mây nổi, đức cảm cả hậu cung, quyết nhờ nhân lành đời trước mà bẩm thọ tốt đẹp thường thường, huống chi thấm sâu mưa pháp lại mở mặt trời tuệ. Dẫu khác Khương Hậu cởi hoa tai để xin tội cho Chu Vương, không cần Phàn Cơ bỏ thịt để cảm động Kinh Hậu, mà cung kính vâng theo tiết kiệm bỏ ham muốn, bỏ ngọc chạm khắc vất đồ tốt đẹp, rõ tâm không ngăn trệ, chánh kiến không nghi, mọi người đều thành thật vì quyến thuộc sáu cung mà quy mạng kinh luận v.v...

Nguyện quyến thuộc sáu cung được nghiệp tươi đẹp, ngày tiếng tốt đẹp như Quy Thìn, chấn động màu sắc, khắc vẽ để truyền hương thơm ở thi sử, vị đồng Bảo Ấn, hạnh giống Nguyệt Quang, đủ sáu thần thông, được bốn món vô ngại.

Bẩm thọ đức trong sáng, ôm lòng nhiệm mầu sâu, há chẳng phải tu tập có gốc, cho nên có thể nương tựa không mệt mỏi, Nghĩa Hưng và các công chúa quên vinh hoa ngon ngọt này, trội hơn cả chỗ ghi nhớ riêng ở đời trước, cho nên hiện tiền sở dĩ tin rồi, ảnh hưởng đến chân thật huyền cực của thức và ngủ, người đều thêm đến, kính mến vì các công chúa quy mạng kính lễ...

Xin các công chúa, ngày tăng thêm trí tánh, thêm lớn gốc tuệ, bốn nhiếp bốn y đã vâng theo, bảy thiện bảy định chẳng lui chẳng thiếu, hằng mặc lụa đẹp suốt mùa lạnh nóng mà chẳng có thân.

Ba tướng sấm chạy, tám khổ chớp kích động, hoặc nơi nhà lửa chợt nghĩ nhanh đến sông, cho nên thước sóng tấc phong cảnh sức lớn không thể trụ lại. Xe trăng xe mặt trời hùng tài đâu thể ngăn chặn. Ở trong đó uống khổ ăn độc ôm bệnh ngậm buồn thương, thân miệng là lý do của mười sử, ý tư là chủ của tám bệnh, mọi người cùng nhau kia đây đều đầy, sám hối nghiệp ràng buộc từ vô thủy đến nay đã gây ra mười điều ác, tự mình làm và xúi giục người làm, thấy thiện không khen, thấy ác mừng theo, đốt rừng, tát cạn đầm, chó chạy chim bay, cùng hưởng Trịnh Vệ, tột vị ngon ngọt, giỡn cười làm ác, bỗng chốc thành sai trái, khinh nhờn hình tượng, lấn tạp chùa tháp, không kính Phương Đẳng, hủy lìa hòa hợp (chúng Tăng), tự định quyền hành, bỏ sự suy lường của người, tâm hổ thẹn trái lý, muội chúa dối cha, dầu bảy thước chẳng khác tấc vuông, ở nơi ta mà có thể mặc tánh tình kia, ở người chưa dễ buông tha tâm miệng, các tội nhóm họp đều chở ghe thành khẩn năm thể sát đất quy mạng kính lễ v.v...

Nguyện mọi người hiện tiền thân miệng thanh tịnh, hạnh nguyện đầy đủ, tiêu ba nghiệp chướng, sáng suốt ba trí, năm nhãn, sáu thần thông, được ý tự tại.

Văn lễ Phật sám hối của họ Vương (đồng với trước):

Có chẳng phải tự có, vì có chấp cho nên có. Không chẳng tự không, vì không dính mắc cho nên không. Cho nên có chấp, mê hoặc khởi chợt thành muôn lỗi. Do không dính mắc, niệm khởi một phen vượt chín kiếp, phải biết là chỗ quý của đạo là có không đều quên, tôn trọng của hạnh là chân giả đều soi chiếu. Lãnh nhận khí linh chớ nghe bổn này, tiêu hình cho bóng chẳng suy lường lý do, cho nên phát hang thức này vẫn dài dằng dặc mà tối tăm, kia chớ nói đạo, đây là tướng ngu, còn tối tăm bí ẩn chưa ngộ, mờ mịt có đồng biển tối, mù tăm thật ở thành nguy hiểm, gió nghiệp ràng buộc, ba cõi chạy dài, nước hoặc xoay vần, hai tử thuộc căn, lấy khổ bỏ khổ, từ tối vào tối, tìm gốc không lìa sắc tâm, tức sự đâu chẳng là sinh diệt, là dùng ôm ràng buộc này mà luân hồi sinh tử, buông thả sáu ái, khởi tám tà, hoặc con khỉ lừa bịp mà khắc thịnh vượng, nổi lên nhân nghĩa mà bỗng chết, hoặc tài trí đồng nhau, đây khinh hào hiệp, hoặc cùng ngày và giờ, người lên ta xuống, chỉ nói báo thí vắng vẻ, không biết nhân đối sáng suốt, duyên xưa, quả nay, quá khứ, hiện tại thẳng thành, có như phù hợp không lầm mảy may, mà muốn lấy ngắn sinh ra vận dài kia, thuật mạng nổi lại mờ số kia. Phải biết sát-na từ tạ nhau, chớp mắt là hơi thở không còn, Đông phò cơ nhổ, Tây yêm đã nghiêng, thí như xem dòng sông chảy mạnh như dùng ở đường nhỏ, thành dối chớ buông, cây độc tự trị. Nếu chẳng phải giả thật rõ cả hai, chân tục đều nói thì đâu thể chép thành thật hồi hướng, khắc ý tu tập không hề lui sụt, luôn luôn kiên cố.

Nam Bình Đại Vương Điện Hạ có chánh khí thìn tượng, chứa thuần linh biển núi, đêm hầu tám hằng, sớm dạo bảy giác, nhờ diệu nhân nhiều kiếp, cảm quả thù thắng ở cõi này. Như chân Kim cang sáng, ngọc tốc mài thành, là do chứa nhóm đã tan, không cất chứa mà bỏ, cho nên ngày nay cách thức gọi linh chỉ ở thần nghi cúi ngước, lập trai nghiêm túc cứng chắc như thế, thạnh đến Tăng tục giúp đỡ dồi dào, tiếng thơm đến khắp nhà báu hoa che đất cao sạch uyển chuyển, đâu chỉ động cây át cả mây, chiếc bè bằng tre nối dài chẳng thẳng hơn cá cưỡi ngựa, ngưỡng mong bốn bộ chí thành năm thể quy mạng phương Đông v.v...

Xin Đại vương Điện hạ xả bỏ năm úy, bên trong giữ gìn mười lực bên ngoài, trăm phước trang nghiêm, muôn phúc đều nhóm, mộng hoảng hốt không gây gỗ nên nổi lo, giấc ngủ ngon có sự yên tỉnh tinh thần, lại mở con đường báu, càng khởi nghiệp tuệ.

Huyền cực bất động chẳng phải chỗ người học dòm đến, gốc màu khó nghĩ, đâu hành nhân có thể suy lường, vì vậy bậc Thập địa nói rằng có nghi lưới kiếp, bậc ba thừa xưng thấy giống hoặc dê cuồng, tự chẳng phải soi cùng cỏ, giác chiếu tột tối, cùng lý tận tánh thể vốn là một, đâu thể giúp đời đời nhân thọ cứu vật nguy ách. Đạo trùm biển xanh, tiếng cao hơn huyện đỏ, xưa vua Nghiêu chói lọi chỉ ở ngay đời đó. Vua Thuấn tối đen không gồm quả sau, bốn vòng mệt dấu vết Vũ, sáu việc mỏi mệt thân Thang và sự nhọc nhằn trong nước sự ích lợi trong cõi đâu có trăm họ qua biển khổ, cứu hết chúng sinh ở đường sợ sệt, vận thần lực, nổi tiếng pháp, nghiên cứu lý nhiệm mầu ở thành thơm, tột lời sâu xa ở sông vàng. Tuệ Cao, Long Thọ, Trí Xuất, Mã Minh quyết mong rưới thấm thần dân, dẫn dắt kẻ đạo người tục, trời che đất nuôi nước bờ sinh ra, đều thạnh từ bi đều nhờ bình đẳng, nguyện vì Hoàng đế, Bệ hạ, các vua, Thái tử kính lễ v.v...

Ngưỡng mong Hoàng đế Bệ hạ ngôi vua cùng bảy chánh đồng nhau, xã tắc cùng mặt trời mặt trăng đều lâu bền, đất bằng trời thành, nhạc hòa, lễ hợp, đèn ngọc đạo chánh dày đặc không sai, gió mưa điều hòa thấm nhuần thuộc nhau, khước từ Mã Yểm, Bắc đúc kích, dao, giáo, Nam kịp, Bắc đến, Tây được, Đông từ từ. Rưới mưa ngọt rải mây tuệ, chỉ có dây có thể kết nơi mũ đã vẽ, mạnh thay! Huy hoàng thành! Là dẫn dắt, là làm đầu.

Lại xin Hoàng Thái Tử Điện Hạ nghiệp trí sáng suốt cùng trinh minh mà đều chiếu sáng, thuần túy giới hạn ôn hòa oai nghi từ núi Tung mà bỗng chốc đều cao vòi vọi, tiếng hơn Cơ tụng đạo vượt Hán Trang. Thường thấm nhuần nước trí, mặt trời tuệ soi lâu dài. Thượng diệu ở thân chí nhân ở mình, từ tám nhánh song thọ mất dần ánh sáng, thành báu không mở, quạt tuệ vừa che, mà Thánh sợ pháp luân nơi đường dài, chống ghe báu ở khe hẹp xa, đạo thêm người cầu thần phước giáng nơi đền thờ Tổ tiên, việc gấp, nhà tròn kiền thành kính phụng sự giúp đỡ, nhờ đây diệu quả càng mạnh, bảy triều Thánh linh quy mạng kính lễ v.v...

Kính mong lại sáng nhiều Thánh phảng phất như trước mặt, thần vọt, cõi nước sạch đều bay lên Thiên cung, gá thân cành sen vàng ngao du điện báu.

Thành tâm trong thương xót thì chí giáo như hiện tại, hình lực ở ngoài hết lòng thì pháp thân ở gang tấc. Mọi người cùng nhau đến thêm vì các anh em chị em quyến thuộc của vua quy mạng kính lễ v.v...

Mong các vua Điện hạ cắt sự đầy đủ giàu có với các người đẹp, lạnh cứng như tảng đá hơn thạnh Hán, đức cao hơn Lỗ bảo vệ nghĩa hơn Giang Bình. Luận đạo thì trăm hợp nương gió, làm sự bay cao thì muôn dân kính mến giáo hóa, rộng chí giáo nối thạnh quý tượng. Trong thứ bậc thiếu trưởng thượng và ứng đây nhiều phước, như mùa xuân có trăm hoa đẹp như mùa thu muôn báu thành, tin hiểu sâu chắc, hướng lên chẳng biếng nhác.

Chí Tiểu thừa kém, sự chỉ vì một mình, Đại sĩ ý đồng bao trùm sáu đường. Ngày nay đàn chủ, tin đồng với minh châu, không nhọc bên gương, chất đồng ngọc đỉnh, không đợi ánh sáng ngoài, thường muốn mình và người chung lòng oán thân xem đồng, mọi người đều quay về chí thành vì hai mươi tám cõi trời Tứ thiên vương, Đế Thích, Phạm thiên, nhân gian người nghèo kẻ bệnh, sự đau khổ ở địa ngục, kính lễ tôn nghi linh tượng Bồ-tát và tháp báu v.v...

Tạng nhiệm mầu của Đại thừa, kinh sâu diệu pháp, đại thân mà vô biên thân, đại lực mà vô lượng năng lực, bốn hướng, bốn quả, tám hiền, tám thánh, sáu khí dày đặt, bốn tựa sáng sủa tráng lệ, đến trị sáng muôn nhà huyền hóa suốt chín chỗ tối tăm mang vi đội vảy thấp sinh noãn hóa, tám khổ, sáu cùng, ba đường năm nẻo đều nhờ tuệ sắc bén đều biết vâng theo, rừng dao dừng đao, cây kiếm gãy mũi nhọn, thành mê mở đường thẳng đến ngã tư đường, nhà tối sinh ánh sáng mở lớn ba diệu, đều hướng đạo tràng đồng lên chủng giác.

Văn đầu đêm:

Từ xa vô thỉ đến khi có thân này, sinh tử luân hồi kinh sợ, trần lao đè nén đâu thể lường, sáng tối thay nhau đến, củi lửa không thể dụ, nước chảy chẳng nhanh, ngàn mặt trăng khó bảo đảm rắn lục nhóm khổ, một cây mừng ngọt, ngủ say dữ dội nơi cứ ngô tối dài rất lắm nơi rượu chẩm, nghĩa chẳng phải người khác chiêu cảm, sự thật thì mình chuốc lấy, từng không biết bẩm thọ hình hài đây là có lý do mà đến, đêm tâm thức này cuối cùng muốn về đâu? Chỉ do thế vị đều cao, tranh kiêu hoa nơi một sáng sớm, xe chạy tự chỉnh đốn, tranh chạy kinh sợ ngay năm ấy chớ không ỷ tâm mạnh, răng cứng, mặt hồng, tóc đen kia, miệng buông lung thân mập thì đâu nhẹ nhàng, rắc rối giây cung nơi trụ ngắn, chìm ngập mà không nhàm, giường ngọc tòa tượng, cùng chẳng phải không có mà không nơi mình, nghĩa là câu chìm nổi nói suối bi không hề quan hệ với người. Chim ngồi quay đều lại lên xuống thường tự tại, kia đâu không biết mạng đều là nguy thân là món đồ khổ, nào khác bọn chó dê ở lò sát, như nai vào nhà bếp thành đồ ăn ngon, như con ngỗng bị ném vào lửa mà không nghi, như con tằm kéo tơ tự buộc mà không ngộ, chưa biện trước, gặp không biết là nhân tập và kia một phen chạm đường sợ sệt, cửa mạnh chẳng nguy hiểm, xe xé nát thân thể mới ở đây không tới được sự đau đớn kia, cắt chân lóc vai so với đây chưa tột sự khổ, luân hồi khởi hay núp thăm thẳm mênh mông, do đây bậc trời trong loài trời giáng lòng bi dắt dẫn, ngăn dòng nước chảy xiết của sông mùa hạ, đập ngọn đuốc mạnh ở nguồn mùa thu. Hoặc đồng thương chủ, chợt đồng y vương, hình khắp tam thiên, giáo truyền trăm ức. Hoặc buông thả thần lực, hoặc vắng các cảnh Phạm thiên, nói thì ba đường lìa khổ, cười thì bốn loài thọ vui, bèn ứng bệnh, đầu cơ, giải nhiều nói lý, chế đó ngày đêm xưng là tám cửa dùng tám khóa chánh làm dựng cửa pháp, đây thật là bến màu xuất thế, là hạnh mạnh mẽ của tại gia, mọi người cùng nhau vận lòng thành vâng lời xây dựng Điện Hạ Nam Bình Vương kính lễ quy mạng v.v...

Mong Đại vương Điện hạ nghiệp tuệ sáng rỡ cùng non Nam mà tướng kiên cố, tâm trong trắng cao vòi vọi, tiết hạnh đồng biển đông rộng lớn, muôn lụy tiêu như khói, trăm tai mắt như mù sương, huyễn xảo không mê hoặc, ma mạnh đâu thể quấy nhiễu, bèn thong dong hợp thể tùy ấm mát mà đắc tánh, tự bẩm thọ khí nghi của trời, hằng vững chắc đạo của đường lành, chứng sáu năng lực thần thông, đủ bốn trí vô ngại.

Mặt trăng ở núi Côn Luân thì ta lo việc rắc rối nhiễu loạn ánh nắng tắt xuống, mưa sa ràn rụa thì thần tịnh chí vui, trăng ngọc sao châu ngậm hoa chiếu nhau, mây nhẹ, sương mỏng, rõ ràng tự dập tắt. Chuông kêu nổi tiếng vang, đèn sáng thì tỏ rõ, tràng pháp cuốn mở, đuổi Cao Hiên mà thong thả, tiếng thơm ngào ngạt. Bỏ gánh nặng mà chuyển nhẹ, nêu vàng ngậm ánh sáng trụ châu rỗng sắc, huống gì bậc thiên tôn vòi vọi oai quang chiếu bốn phương, sáng sủa hoa sen xanh sánh cùng ngọc kha tuyết, biết thần vệ trong gang tấc, như vườn rừng tại đây, tập hợp khách lìa cấu, rộng nhóm bạn ứng chân, rõ ràng ngậm nhổ, một phen xướng ba lần khen, mặt nghĩa đè ép tuyên dương liên hoàn không dứt. Nam Bình Vương thể được cơ thông minh, giúp điềm nhập thần, ôm ngậm đức hòa, trải qua nhân nghĩa, điều lành không nhỏ mà chẳng cùng, lụy có nhẹ quyết bỏ, thọ đồng ống sáo rỗng, soi như gương treo, quên tôn cao của Lỗ Vệ, lược hoa dày của cây đường đệ, dựng tòa thù thắng ít có, đến cờ pháp khó gặp, cùng nhau năm thể quy mạng kính lễ v.v...

Nguyện Đại Vương Điện Hạ vào cửa không hai bên đường nhất tướng, bờ đức bất động, trí vượt đi xa, tiếng tuệ dâng tràn mênh mông cùng tám gió chung xa, thể ngọc ưu du cùng sáu luật điều nhịp nhau, ăn thuốc tốt ở núi Tuyết, rót vị ngon ngọt ở thành lộ, mặc long bào, cây hoàn, ngọc khuê cùng bốn mùa lâu dài, vòng châu màng lụa đỏ suốt ngàn năm mà thường còn.

QUYỂN 16

THIÊN THỨ BA: PHẬT ĐỨC (PHẦN 2)

Sách tạ thuật thờ Phật pháp mở (mười bốn bài) Lương Giản Văn chùa Sát Tượng v.v... chép mười bài. Lương Thẩm Ước v.v...

Chép tiến thờ ở chùa A-dục Vương, của Lương Giản Văn.

Thần Húy nói: Thần nghe tám nước đồng cầu, sự cao nơi gốc pháp, bảy khu đều chứa lý đủ nơi suối vọt, cho nên giường ngà lọng trắng không nhân thì chẳng thấy, bình vàng hòm báu có duyên ở đây nêu ra. Cúi xin Bệ hạ treo gương trời trong nước, vận đại quyền ở trong cõi, ba cõi đều là mộng thì đến đó dùng mặt trời tuệ, trăm thuộc đồng khô thì thấm nhuận đó do mưa từ, động lặng chẳng phải minh, đi ở do nơi người, không thể đặt tên. Thần đâu được xứng, cho nên dùng chiếu ánh sáng sách đỏ thì làm điềm ứng của tiền sử, hoa tai ngọc cảnh cười chê là châu báu đời xưa. Điều khó gặp là xá-lợi chén hình của Như Lai. Soi cảnh bình mật ánh sáng nổi nước đức, như xem xiềng xích, tợ thấy ngọc rồng, tự chẳng phải oai thần Thánh đức thì không có gì để gặp việc ít có này. Trời người đầu đội, xa gần quy tâm, cúi nghe chùa A-dục Vương mới cần trang nghiêm sửa chữa, thần cúng muôn lạng vàng, chiên-đàn đủ mười tạng, báu bày khắp sông, suối vọt nước ra. Tỳ-kheo đem đất dày lớn tạo vuông vức La-hán kéo dây tiêu biểu tháp cao, không kể xiết sự vui mừng kính dâng một trăm muôn tiền, tuy chí thành đồng rải tâm hoa gánh vác không hết mà từng giọt nhỏ đều lọt rất nhỏ như lan hư, nhẹ dùng bụi nghe, cúi xin sợ toát mồ hôi kính tấu.

Tạ sắc lệnh làm tướng Phật và Phật tích:

Thần Húy thưa: Xá nhân Cô Tiệp phụng tuyên sắc chỉ lấy vàng đồng làm tướng Phật và tích Phật, đồ cúng dường đầy đủ, ban cho để cúng dường, phục vì sáu năm đạo thọ vượt khỏi bốn ma, chân có bánh xe ngàn căm, đức tròn muôn thiện, cho nên có thể nghe thấy ngộ hiểu gặp gỡ bỏ trần, trời nghe ân thạnh rủ lòng giúp đỡ, sửa soạn trang sức lan can hiên nhà, trong sạch thân tâm rước đón từ quang, cúi chờ soi giáng, ngàn xướng bốn biện còn không tuyên tâm, lông nhẹ, thẻ mềm, đâu thể bày cảm ơn, không kể hạ tình kính thưa việc tạ ơn, nghe cẩn tấu.

Tạ sắc lệnh tham gia rước Phật:

Thần Húy thưa: Chủ thơ Châu Ngung phụng tuyên sắc chỉ ban ân tham gia, thần liền đến chùa Kiến Nguyên phụng hầu pháp thân, dừng lại ở núi vàng, Vương nhân mệt hỏi, ân vinh hiển rất dày, tạ ơn chẳng có lời nào kể hết, mặc cho tình thấp hèn cẩn tâu sự tạ ơn thấy nghe, cẩn tấu.

Đáp sắc chỉ cho theo xá-lợi vào điện lễ bái:

Thần Húy thưa: Xá Nhân Vương Cảnh Diệu phụng tuyên sắc chỉ rủ lòng thăm hỏi và cho thần theo xá-lợi vào điện lễ bái, vâng mệnh sắc thu soi sáng tiêu biểu điềm lành. Thần so sánh thân tâm được không chướng não, rõ càng theo sau hòm báu chí cẩn cung thân đến, nhưng không sinh được đôi cánh, không nhờ thần thông thân bay lên Tịnh độ cao bày tất cả, chân bước hoa sen, cõi này chẳng sánh, bay bước lên thang báu so đây chưa trọng, dạy dỗ dẫn dắt ân đặc biệt thật về ban đầu, ngó lại cõi này ràng buộc, mừng chép không xiết kính tâu.

Tạ sắc chỉ ban đồng để cúng tạo tháp Lộ Bàn ở chùa Thiện Giác.

Thần Húy thưa: Chủ thơ Trần Tăng Thông kính đọc sắc chỉ, ban cho một vạn ba ngàn cân đồng cúng tạo tháp Lộ Bàn ở chùa Thiện Giác là xứng châu báu của Na Dương, thật cũng là báu của Côn Ngô, nóng mát không biết, chín chợ thấy lạ kỳ, lạnh nóng được nghi, sáu luật thành tựu dụng, huống chi là rồng thần gánh vác ánh sáng của tháp màu này, chim vàng ngậm mang đồ trang sức nêu cao, hòm hang hổ thẹn sự ca ngâm kia, sông Truy hổ thẹn ứng điềm lành kia. Dương Toại ngậm cảnh lại sánh vòng mặt trời, cam lồ vào mâm đủ gọi là rượu trời, lời như rừng vốn thiếu tâm biện lại hổ thẹn, luống chỗ ân nặng trọn khó tỏ bày cảm ơn, không kể chép gánh vác thành thật, vâng lệnh mở nghe, kính tấu.

Tạ sắc chỉ sai vào điện Quang Nghiêm lễ bái.

Thần Huy thưa: Xá Nhân Vương Cảnh Diệu kính đọc sắc chỉ, đã rủ lời thăm hỏi và sai rõ vào điện Quang Nghiêm lễ bái pháp thân. Kính phụng thần thô nhờ ân tạo, rõ giữ mở kính đến bèn cho nhọc thường bay lên Tịnh độ, nhóm gió nước dày không đủ làm dụ, gạn tâm vui mừng, tạ ân vua không có lời nào xứng, không kể tình kém cẩn kính tâu nhờ tạ ân nghe, kính tấu.

Tạ sắc chỉ sai đến xem xây dựng chùa Thiện Giác:

Thần Húy tâu: Phục thấy sắc chỉ khiến đến làm Xá nhân vương Đàm Minh, Tài quan tướng quân Chẩm Vi Ngự, Phục Ngô Cảnh v.v... đến xem xây dựng chùa Thiện Giác, nhờ ân Thánh giáng thần lực lệnh đây làm việc tu đây nêu dài, tháp báu mây che, không đợi mừng tròn, đặc biệt dâng thủy tinh chẳng sai rồng biển, rùa lớn mang bùn chưa đủ là đầy, Thu Lộ (cò trắng) dẫn dây cõi này ngang bằng ngước xem lòng từ thấm ướt mừng chỗ không hết.

Xin theo nguyện xưa riêng thêm khóc nghẹn, không kể ghi chép gánh vác xin vâng mở lòng nghe cảm tạ, kính tấu.

Tạ vua đến xem xây dựng chùa Thiện Giác:

Thần Húy thưa: Liền ngày mừng cùng xa giá đến chùa Thiện Giác, oai thần giúp vàng để xây dựng, đại khái được bình yên mà xây dựng, xét kho lầu mà lên xa, đã đồng vắng lặng chứa đồng Tịnh độ mới là Phật sự hằng lợi trời người, thành thật đầu đội thần trăm phẩm lâu dài, không kể tình hèn xin vâng lệnh mở việc tạ ơn, nghe lời kính tấu:-Ông đã nhọc nhằn xây dựng chùa báu Từ bi, nhờ oai thần chư Phật không nhọc nhiều công sức, vừa muốn vận sức liền dựng đứng, chỗ tối nơi sáng kính ngưỡng ta cũng tùy hỷ, không cho ông cùng chiêm bái đây lấy làm ân hận. Việt sắc.

Tạ sắc chỉ ban cho tiền và hương bạch đàn đầy pháp hội:

Thần Húy tâu: Truyền chiếu vâng lệnh tuyên đọc sắc chỉ, để thần rõ pháp hội được ban cho hai mươi muôn tiền, xông huân Bạch Đàn, hương Lục Sạn mỗi thứ mười cân, giấy vàng thơ chiếu, trước mở suối phủ. Mây xanh khí tốt thứ lớp nhóm ở Cung Quế hàng hóa chồng văn mu rùa, cỏ đẹp thơm xa, rải vàng dày rậm dừng xuống chỗ quan quân, nhóm lúa gạo đầy nhà, vừa trở về thân tộc chưa bằng giúp ruộng tốt đây mở mang năm cái, vào pháp đây độ lớn ra bốn dòng, nhờ lời kính Tổ còn hổ thẹn khó nói, mượn biện vua quan vẫn biết chẳng phải tạ, không tin nhậm gánh vác, xin mở sự để nghe, kính tấu.

Tạ sắc chỉ ban cho trụ Bách Sái và muôn cân đồng:

Thần Húy tâu: Truyền chiếu Lữ Văn Cường kính đọc sắc chỉ ban cho thần trụ Bách Sát và một muôn cân đồng cúng dường xây chùa Thiên Trung Thiên, chín mục cống vàng, cây thẳng ngàn tầm, hằng sáng rễ Phạm luân mới xây bảo tháp. Hạ sai thần đảnh, Tấn xấu hổ tướng gió, khiến phước giúp trong nước công nêu chẳng ra ngoài. Thần do quê mùa ngu dốt bẩm thừa lành thù thắng, vui nhận khắp tâm, ân quang động sắc, thành thật gánh vác không lời tả xiết ơn không tín nhậm đội mang, kính cẩn dâng lời cảm tạ, kính tấu:

Văn Nguyện Ngàn Phật của Lương Giản Văn

Thường nghe chín cõi phân chia, bốn dân khác phong tục. Sóng hôn mê dễ nhiễm, nghiệp tuệ khó xây nền. Cho nên pháp thân vắng lặng gương có chiếu đây mới cảm, rửa vô minh trong biển dục, vớt chúng sinh lên ghe báu, hoặc nhẹ nhàng lòng từ dẫn dắt, bỏ mỏng tệ cười lôi kéo lòng bi, khúc hay miệng tuyên, ánh sáng xuyên vào đảnh. Từ cây lộc nêu ánh sáng, sông vàng ẩn sự rực rỡ, cho nên đời tượng pháp chúng sinh hy vọng hướng có hình, dẫu ngàn Thánh khác dấu vết mà chung một đường trí, đệ tử là (A, B) từ lâu đã sóng mê trôi dài dòng khổ, không sinh cây ý chưa mở đèn tâm mà bởi sinh một niệm cung kính tạo ngàn Phật. Tuy là Vô thượng vô vi tột tướng khó biện, chẳng không chẳng có, diệu trí ai quán được, mà tóc xanh mắt sáng hoa sen mặt như trăng, giá có thể nêu bày thành kính hằng gởi tâm mong muốn.

Vì người mà đúc tướng bằng vàng mỏng cao trượng tám.

Tỳ-kheo mổ giáp kính bạch: Trộm dùng mặt trời tuệ, lén bày từ luân bỏ ứng, nghiệp theo gió não, ái tùy lửa tình, luống thương xót áo châu, ôm danh quý mà bỏ ngộ đạo. Trẻ nhỏ khen lá vàng mê hoặc lời dối mà nín khóc, tự chẳng nêu cây nghiệp thù thắng đây và duyên nhiệm mầu kia, lấy gì bỏ nhà tâm này, dời hang thân này. Cho nên nước trong tháp rồng thường xót thương nơi râu sót, gương sáng, khám đá riêng bồi hồi giữ bóng. Mỗ giáp từ lâu phát thệ nguyện khắp vì chúng sinh sáu đường bốn loài tạo lập thân tượng Phật cao trượng tám, năm tháng đã qua nội duyên dễ mất, thường sợ thân tạm có bỗng chốc theo nước vẽ trở về với hư không trôi theo ánh chớp, nay liền dựng lập tâm thành theo bổn thệ đây khiến nhóm mặt trăng thấy dung nhan bày dấu vết núi vàng, thấy hình phát thiện nghe danh bỏ ác, nhổ đau khổ của sáu căn, bỏ thiêu đốt của năm lửa. Nhưng lầu bốn báu ở hư không, bảy tài pháp thiếu nhiều, ngước nhìn đôi mắt như hoa sen mà riêng cảm khái, thấy chữ Vạn mà không do dự, nếu có thể lìa mỏng năm nhà, tổn nhẹ bốn việc, kiết minh từ đây chung thành nhân quả thì công lụa là chẳng chỉ ở đời xưa, báo rải hoa mới nghiệm duyên đến. Lời lành không xa hoa, nơi lời nhiều hổ thẹn, kính bạch.

Cùng Tăng Chánh Giáo của Lương Giản Văn:

Châu này già-lam nền tháp bày nêu tuy nhiều lập bày trang nghiêm tu cúng đầy đủ, xem dấu vết ngoài kia quyết đủ hoa văn xa xỉ mà ở đời ý địa thật có chưa mở rộng. Vì sao? Phàm đúc vàng, khắc ngọc, thêu, sơn, vẽ, ngói, bởi sở dĩ ngưỡng truyền ứng thân xa chú linh giác, ham muốn bình rồng buổi sáng sớm, theo rừng hạc lúc chiều tà, cho nên tế Thần như thế thì đại kính thần đã tột, cách Thánh đây xa lý nhớ Thánh sẽ sâu. Các chùa cõi này chỉ ở ngày ứng sinh thì tạm bày hình tượng, từ đây về sau đóng kín hòm rương, cho đến manh áo lìa thân, tìm lửa bỏ đầu, hoặc mười tôn năm Thánh cùng ở một kho, hoặc Đại sĩ Như Lai chung cất một tủ. Tin có thể cho là tâm trái với sự, tướng mạo thì tình sai, ý tăng thượng thì nhiều mà tâm tinh tấn ít. Trong tháp xưa hòm hồng chỉ chuyên chứa xálợi, dù trắng đầu tượng chẳng phải toàn thân. Nếu lấy tượng vẽ bày tướng nhớ còn khiến quan dân biết cung kính, nấu vàng vẽ mẫu mã, hoàn toàn khiến chúa Việt nhớ nghĩ, thợ dùng rồng A còn có thể gọt vỏ, huống chi cọp, tê giác còn xưng ra khỏi tráp, lại là bậc tối đại viên từ vô thượng thiện chứa nhóm, nghe danh bỏ phiền não, thấy hình vào đạo, mà có thể che hương thơm này, muốn che đậy cây này, che đậy nhà ngọc phong kín tay vàng, đã khác La-duyệt lâu vào Tứ Thiên, lại khác Kỳ Hoàn đóng cửa ba tháng, điện báu trống rỗng, đến thềm ngọc luống hư, màn dày không mở. Chẳng phải ở giữ mở khúc học, tường hồng che dài giống như tránh thù ở Bân Khanh. Vả lại rộng lớn như mây che, cây rui cao chim nhón chân, nếu thí tòa ngọc thì dùng hoa vàng cài đầu để trang sức, không cần bụi trần giúp điểm khuyết mặt trăng. Cửa sổ lưu ly dày tự gió nhẹ khó vào, râu rồng nhỏ cứng đủ khiến yến bay chẳng qua, gồm được lý chí thành chí kính hẳn tôn sùng, xét đáng tâm càng trọng, có thể liền tuyên sự siêng năng, khiến y cứ làm.

Gửi thơ cho Quảng Tín Hầu:

Lưới trắng rộng dứt, lời ý chỉ thường dùng gút dài. Gió mạnh rét dữ nguyện sánh vui vẻ, vâng theo tòa pháp Tịnh Danh, chính thân thừa nương miệng vàng, lời báu nơi Lộc uyển, lý vừa lòng nơi Linh Thứu, sâu kín nhiệm mầu ở đây đã thạnh, trang nghiêm đạo tràng từ đây càng mở rộng, đâu chỉ đèn tâm sáng rỡ ban đêm cũng chính là ý nhị sớm bay lên, suy nghĩ lý rộng rõ vốn chứa nội giáo. Nay chất xe mười điều lành mở đường tám chánh, dòng nước Bát-nhã rửa bụi ý thức, do đây cuối cùng mới là thật thu, đi buôn thường nhớ hoa rừng, nhóm thù thắng cũng được ngôi cuối, trọn sớm hết tối tăm gội lời màu, đến nơi tòa bỏ hơn ngày, lui về nghỉ riêng xét, nắm tay dắt lên gồm mở nói cười tợ như ngước nhìn chín tầng cúi xem trăm thước, do vàng động mặt trăng, cây ngọc ngậm đầy gió, ngay lúc này đủ gọi là pháp lạc. Nay cuốn màng thêm nương truyền một góc, nghe mưa tuệ dòng nước hoan hỷ tràn ra ràn rụa, chảy như sông treo không gì ngăn cản, hư không chẳng thật có, không sáng suốt tình linh, duyên si có ái tự thân khó nhổ, khiêm hạ xe đã đến, nghĩa lời càng ít, nhớ xưa đã hết, hiểu mới chưa ăn, đã thẹo miệng tụng lại chẳng phải tâm nói, hằng nhờ vẽ bình trọn hổ thẹn nhuộm vải. Đây thì mây từ đã dày, biển trí cũng sâu, cuối bóng sóng dư, ít thời rưới tưới. Nhưng xa trái chuyển nhóm khởi lời đầy mặt, xin thêm kính nhận, lời không nói hết lòng, kính cẩn thưa.

Thơ gửi Pháp sư Tuệ Diễm:

Năm cái mờ che tiêu hư không, ánh sáng tiêu biểu thời tiết, trăm hoa khác màu kết màu sặc sỡ thành mùa xuân. Thể đạo thế nào tình hằng tuyên. Đối hư không trong trẻo đã bày ở gió mây, dạo tâm nhập lý, riêng vui định tuệ. Đệ tử việc đời lăng xăng nhọc nhằn rất sâu, nhớ nghĩ núi Bắc khâm phục hiền đã nhóm, mong hội ngộ ngăn hẳn sẽ có hèn kém, bạn hữu duyên sự đồng đói khát, dường như mong đến hình thức một ngày ba năm. Tư tưởng rộng lợi ích lý sẽ không sai, chỉ sót lòng tin này không thuật tấc giềng mối, quy mạng kính lễ.

Sáng mưa đến khí khác lạ có hơi lạnh, tiếp Vệ đã lâu chuyển được sức kia, tuy tha phương pháp giới lược dứt hóa duyên, trong Kỳ Hoàn hằng có ngữ đối, nhớ nghĩ rất lâu không thời nào chẳng nhóm. Từ lâu nhờ thầy giúp nhiều lần thuật gang tấc, không biết khéo cười Tăng rất thường làm bến kịp không. Mới rồi đã đến gạn việc kiến nhóm, rồng voi đều đồng ứng cúng đều tu tập, đuốc tuệ khai tâm cam lồ nhập đầu, nghe đó khéo đùa đem hết sự vui mừng, ôm lòng tưởng nhớ lại càng không tột. Xưa, lúc nhỏ có nghe chế chỉ, thọ đạo ngày ngắn sánh mặt chưa sâu, tuy khác thiền-na sự đồng hoa nước. Nay nhờ Tây Hạ đặc biệt chứa bổn tâm, thăm hỏi lý, chất vận nghi thuộc ở minh đức, không cho là Bát-nhã lưu nạn, hiện tại bệnh chưa lành. Hỏi bến không nơi, than hận đâu xong, xin nương bên kiệu tìm đến già-lam, nhờ lúc này được một phen gặp gỡ, biện luận ở phòng đậu xanh, cảm ứng nơi nhà hoa đỏ, theo mong nhớ năm xưa thuật tấc lòng ngày nay. Việc đây lúc này hẳn nhớ chẳng sai chỉ để thăm hỏi chờ có thơ trả lời quy mạng kính thưa.

Đáp thơ tương đông vương

Cảnh đẹp chiều xuân, mây gió tuyệt đẹp, lá lan được nắm, sông nghi có thể tắm. Đệ là Thiệu Nam gởi thư, thời liền phía sau Cam Đường, châu ký là chính tạm dừng việc vén áo choàng. Đường Cảnh dâng bài phú đại ngôn, An Thái thuật lời nối tiếp, tột tốt đẹp du ngoạn mới có đủ sự vui. Tôi đầu xuân bị bệnh nằm tột thành cái tệ, tuy núi Tây nai trắng sợ không thể lành bệnh. Ông dự xích hoàn còn lo chưa chấn, nằm cao sáu an thường suy nghĩ hỏi Biển Thước, ở an bốn phòng nghĩ dứt hương Tu Đô, đâu mong Văn-thù đến, nghĩ riêng nói Ngô Dung. Bởi do Hoàng thượng lòng từ giúp đỡ cả nước cam lồ được giảng nói, đánh trống bạc ở phường báu, chuyển vòng vàng ở đất thơm, sấm pháp chấn kinh giấc mộng, mặt trời tuệ rực rỡ ban mai, đạo tục đều nhóm họp, xa gần đều đến nhóm, thính chúng đen trắng có thể cả hai ba muôn, do bệnh chướng riêng đến đỗi ngăn nghe đạo, đâu chỉ Dương Bộc có thương tổn ngoài cửa, Chu Nam khởi hận dính mắc. Ngày thứ mười ba mới hầu pháp, cho nên ở xa gần cũng chưa kham cầm bút. Kính Tổ trước đi xa xét định muốn y thù thắng, thường từ nghĩ đây thương xót nhưng lỗi lo xa dài của dòng sông. Thức hay ngủ lo lắng nhớ nhau, thường được thư Đệ bệnh tật đã giảm, xét riêng có tin ở đây không chỗ bày.

Các bài minh tụng ở chùa và tháp Phật của thẩm ước đời Lương Phật giáo qua đông độ chưa nổi tiếng lắm, ban đầu từ Lạc Kinh thạnh ở Giang Tả, Tấn Cố đem xe ngựa tướng quân Ban Na Vương Thiệu, huyền ngộ riêng hiểu, tin giải sâu xa. Đối với Thái tổ Văn Hiến Công, phía Bắc thanh miếu xây tinh xá Chỉ Viên, kia ban đầu do hàng rào cây chỉ thơm cho nên tên nhân sự mà lập, tuy phòng điện nghiêm chỉnh mà huỳnh sát cúi cây, Thiệu Huyền Tôn Thượng Thư, quan Bộc xạ Nam Dư Châu, Đại trung chánh Vương Hoán hiểu sâu pháp tướng rõ suốt tông cực, siêng thành nổi bên ngoài, nhân từ ẩn trong rộng, mười một năm không ăn quá ngọ. Tuy giúp việc triều mà gần gũi Nại phủ. Ngày làm Hàn Lâm ở Châu Tương, cây cờ chỉ huy là áo Lãi. Ngôi vị cùng nằm bên, thu theo tuổi dày, nhưng chỉ có ân thạnh, chúa lườm yêu kết tình vua, tín nhậm ở phương Đông gởi sâu ngoài bình phong, luống muốn trọn sẽ hết lo lắng biết đều vì sao giúp dân, cùng nói ân Thánh, mà tự do sức yếu đường xa trọn xấu hổ hiệu lực dở.

Vả lại nghĩa chỉ đời nay, báo nêu quả đời sau, chẳng phải lý do thù đáp rộng lớn ban cho bến tối, vui vẻ đan thành ở kiếp xa. Tự trái bờ đầm từ tạ ra bãi cồn, thể ở chùa xưa, quang thọ năm tầng, tổn hại bổng lộc nước Phiên trong mười sót một, phàm thiếu đã lấy ba mươi sáu muôn. Ngày mộng ba tháng sáu niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ sáu đời Tề, bởi cây chở bệnh thìn tướng khải Thượng đế hợp ngày vui của trời bèn cao khiết tôn sùng nêu ở mây xanh, trồng chồng lớp cuộc hạn nơi gò đen. Ngưỡng mong ở thâm cung nhận giúp đỡ, phước che thâu về, tám thần kinh nhà muôn kỳ giúp thể, ngôi báu thạnh xa bền chắc càng lâu, linh thôi xa xôi, hằng đồng phép tắc thường trụ, các Thánh ban điềm lành lâu dài. Ném trời hòa cực nhỏ, vua Phiên to lớn tài giỏi truyền bá tông anh ở Lương Sở, đàn sau lưu phong cách thắng mà nhường, khen năm một mùa, gặt hái lương thực ruộng mẫu mất mùa do gần bên thành mở tách ra. Nhà có mười điều lành, người nhớ sáu độ, chúng ma cúi đầu, ngoại đạo quì gối, rút củi dứt lửa, bẻ kiếm phá mũi nhọn, cứu tăm tối không lựa chọn, được thần hóa nơi hữu đảnh, ba cõi năm đường đều đồng nguyện này, khắc đá giàu có đầy đủ cách thức gọi là tâm khuyết. Văn Tề cánh lăng vương đề phật quang (một bài).

Lý suốt vắng lặng dầu khuôn mẫu không thể truyền, nghiệp động nhân ứng chẳng có hình tướng thì không do đâu mà cảm. Đây cho nên màu sắc tươi đẹp mặt trời mặt trăng rực rỡ ngoài trời, khu vực tan cảnh, thước tấc bụi vuông. Thái tổ Hoàng đế, giặt áo ở nước tuệ, ngưng thần ở cõi tịnh, nơi thềm quý chán đời, dời tánh linh lên đất báu. Cánh Lăng Vương là tên húy, khóc không đến Minh Đài, thảm thiết núi cao phương xa, mộ Bình Vương luyến tình ân song thọ, hằng chỉ có thể phát sáng thần công nêu cao diệu nghiệp, chớ như thức vàng vẽ tốt thợ khéo truyền nghi. Do ngày tý đời vua Tề năm thứ tư, kính chế tượng Thích-ca xinh đẹp tợ thợ trời đùa chứ không phải thợ thế gian đúc, sắc tre lưu bóng nhiệm mầu hơn hương chiên-đàn, để suy nghĩ rừng cốc hằng tuyên dương ở muôn kiếp, dùng khắc cờ hiệu dấu vết cách thức rủ không hư mục, là như vậy.

Bài minh Phật Di-đà

Pháp thân không hình tướng, thường trụ vô hình, lý không phản ứng, trí diệt là linh, cùng vắng lặng chấn động âm vang. Đêm dài mở màn đêm mờ mịt xa thọ, chẳng tuổi chẳng năm, vật ưa khắc tô vẽ, người vinh quang báu trang sức sự nghiệm muốn khởi tình đầy lụy dứt, rất là Thánh sâu. Dòng nhân động xót xa, thuận tâm đời kia, thành nguyện lực này, chỉ có Tịnh độ đã đẹp lại trang nghiêm, cõi Dục ngọc đầy sắc lạ, rừng ao sáng sủa, chẳng có bào thai hóa đến từ phương khác mà thác sinh ở đây, đai đỏ nhà xanh, nhớ lời An dưỡng khởi lời đến xa, đường báo tuy xa, do tấc lòng hết sức chí thành kỳ lạ. Khắc linh nêu dấu vết, tôn nghi phảng phất, vẽ vàng viết đá, tùy cây đà cát ngọc, chợt đến chợt đi, cây báu xinh xắn, nhân gió phát ra tiếng, nguyện đến cõi kia, sáng nhớ chiều tưởng bảy món quý báu, chẳng ham muốn, ba đạt kính đây.

Bài minh thụy thạch tượng và lời tựa

Linh ứng xa nhỏ không dấu vết để đuổi theo, đường tâm chiếu thông, có cảm thuận đây. Vua ta thể thần ngự tột, thông minh đến trời, thuyết hiển thành pho, không suy nghĩ chẳng phục. Nếu nhị nghi (trời, đất) hòa hợp đức, năm tinh giúp giáo hóa, dưới rỗng suốt đầm suối, trên thấu đến trời xanh, trời không dứt điềm lành, đất không giáng điều tốt, Thập trụ phảng phất ngang rừng, ứng chân vang tiếng ở đêm vắng, lông trắng treo trăng, vót ánh sáng nhà Phạm thiên, bước đi thần diệu, rải uy vũ nơi điện vua, còn sự phù hợp ở lụa vàng đã tiêu biểu điềm tốt lành, đều như mây sương giăng đầy lựa chọn giúp đỡ nhắc nhở chớ ba đen cách xa ngàn năm lại xuất hiện sương móc thấm nhuần màu mỡ, trông chim phụng che mà thấm thềm, ở đây đều ngày an lành như thời vua Thuấn chưa tối, năm như thời vua Nghiêu ít giáng, há gặp chim châu động sắc, lúa nếp đen đến nhau mà thôi. Gia ngọc xa từ Bắc Nhung, Lương chìm nước mà ủy chất, nhuận suốt vòng ngọc kỳ lạ nơi đời xa không thấy, vàng trắng gần phát núi Đông, phân tích u nhan mà mở điềm lành, gần được vách núi, linh to lớn chưa khắc, tuy lại tuyệt vòng trắng, ban cho ngọc dao báu của đèn bạc mới mộng bằng đây.

Nếu đồ vàng đá cứng chẳng phải chất dạo nước, tự chẳng phải rèn đức mà thấm tràn, cảm linh cực xa, đâu biến thể cứng chìm, hiển tướng nhẹ nổi. Chỉ có tháng ấy vào niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ bảy, có rõ đá mờ mịt phát nơi bến trời, nhờ thủy triều lên thấy biển đầy, trái dòng xa đến, nếu dòng chảy khác dâng vườn cấm kỳ lạ, ngọc quỳnh ngọc du đồng thấm sánh sắc với tinh vàng, vua nhớ cửa tối dễ mở, bàn bạc huyền ứng vô phương, tuy phân tích việc vắng lặng mà nhân tấc lòng, ái kia tánh hằng trinh, khen ngợi kia giúp đỡ đã lâu, chớ như vẽ diệu tượng nơi chiên-đàn thơm, họa di ảnh ở cây lớn, bèn ra chiếu gọi thợ, là chạm khắc là mài giũa, linh tướng vẻ đẹp sáng đồng như thần làm. Còn như hơn khắc chạm đẽo cong gọt thẳng, vuông, tròn, lớn, nhỏ, chạm nước đây chìm, ít dừng chân nghỉ lại, đích thân đến thử. Bởi pháp thân là nương gá không chìm đắm ao ngọc, cắt chẻ đã lìa, nơi cần nước vàng nổi, tuyệt vời thay điềm lành phù hợp nhiệm mầu như thế, dám chép ban cho nhiều báu, phước đến trời người.

Kia lời rằng: Thượng giác xa vời, thần công rộng lớn, bốn thiền không hình tượng, ba đạt rỗng không, nêu linh giáng thế, giải bày mở mang. Chỉ có bậc Thánh chứa lòng nhân báu hóa thầm dung, đạo chẳng ứng dấu vết, sự để cảm thông, tình chìm chất nổi, xa tự Hà Thông, mờ mịt tuyên nước, mênh mông nhờ gió, bia đá mênh mang xa tít điềm lành phía Đông nước ta có thẻ hoàng đức, bèn nhìn lại cung vua hằng nói thứu thất đắp thành cung Phạm thiên vừa làm khuôn vừa khắc, thợ vẽ vẽ khéo nhờ năng lực nhiệm mầu này, ngày vàng mở mang nghiệp đế hưng thạnh, tua mũ miện mặt nam sánh cao cùng tuổi thọ.

****

BÀI MINH TƯỢNG PHẬT THÍCH-CA

Nhóm trí thành sáng nhóm nhân thành nghiệp, bậc Năng Nhân cảm ứng, dùng sữa diệu pháp dừng cảnh thượng thiên, giáng sinh hông phải, trước ra bốn cửa, sau vượt chín kiếp xa cầu tánh linh, rộng theo xe nhiệm mầu, đạo tuy có cửa, dấu vết không thể có điềm báo. Người và ta đều tạ ơn, tâm hạnh đồng vắng bặt, một phen bỏ hậu tâm trăm phi đâu hết, cảm giúp lý ngộ, hoặc dùng lời bày, lời không tự hỏi xuất ra nơi thân, có đến quyết ứng như bùn ở vòng xoay, bóng theo hình dáng đáp tiếng. Là vật hay người ứng ta dùng hình mà ông đui mù giữ chặt đêm dài, làm sao cứu khổ này, kính tìm tướng lính, pháp ngôn thoáng nói ra, không có tôn nghi huyên yên ai thấy.

BÀI TỤNG NGÀN PHẬT

Đạo có đều thích lý không hai quy, chiếu tịch đồng đúng hình tướng đều khác, ngàn giác phủ ứng, thay gọi cơ tối, bảy tôn nối dài, cảm tạ lỗi trước đã qua rồi, vị lai không tượng một sát-na chẳng dừng, ba niệm đồng qua, không thường không trụ, chẳng nay chẳng xưa. Hiền kiếp tuy xa, nhanh như tiếng vang, nương rừng nhờ cây, trái nhà ngược gia, trước Phật sau Phật dấu vết giáng sâu, hoặc dạo nơi kiên cố, hoặc ẩn long hoa, đạt được ý chỉ này sẽ đồng với hằng sa chúng sinh lúc nhúc, đồng diệu cực đây trước khỏi tham gia khác nhau, đều nguyện tùy sức Mật Tích hoằng đạo, thường trọn được thệ thấy vận sau hằng truyền cho biết.

KHEN BỒ-TÁT DI-LẶC.

Khen rằng:

Thừa giáo vốn một, pháp môn không hai, nền nghiệp sáng rỡ, công do nhóm đất, mờ mịt bốn xa, âm vang xa tít. Đạo có thường tôn, thần không hằng là món đồ, lột bỏ vương gia đến nương ngôi báu. Mặt trời tuệ khai sáng. Mưa thơm rưới xuống, nhờ cảm sẽ theo, nương duyên đến đây, nói rằng: Ta là bậc Thánh, nghi trời làm người phụ tá còn tưởng cành rồng, nhìn nói suy nghĩ nhu mì, khắc đá vẽ huy hiệu, chạm vàng tô thần, mong tột đồng công, nêu sáng đồng sâu sắc, vượt đến xa sáng ngời lý đủ, kính tạc dấu vết màu để tỏ truyền ý xa.

Đề khen tượng thêu và lời tựa

Nhà Tề niên hiệu Vĩnh Minh, vào ngày mồng một năm Kỷ mùi, mồng hai canh thân của tháng tám mùa thu năm Bính dần, Hoàng Tôn thứ ba do Trần phu nhân sinh ở nơi nhà nhỏ mà lý sáng tỏ trí tuệ thấu hư không, kết lời ngôi báu, tâm vọt tịnh giác, nhân Tỳ-kheo Thích Bảo Nguyện tọa chủ chùa Nhạc Lâm thêu một bức tượng Phật Vô Lượng Thọ (Di-đà) bèn làm bài khen rằng:

Nêu tướng khác nghi, truyền hình chẳng phải một, chạm ngọc vẽ ánh sáng, khắc vàng tô thể chất, cũng có người hiền lành ngậm hương thơm thượng luật, phát tình đẹp rực rỡ, vẻ vời thuật báu, lụa đẹp sáng bên trong, linh tự tràn ra ngoài, nước sáng cát vàng, cây treo lưới ngọc, hiện hợp tịnh quả đến ứng diệu thường nuôi dưỡng hoa mỹ, chấn động khuê cung, hoa vọt đến nhà Phạm Chí có ức năm này ở vạn ngày đây.

BÀI MINH SÁT HẠ CHÙA QUANG TRẠCH

Chùa Quang Trạch là chỗ ở cũ của Thượng đế, là triệu xưa của hành cung, đất của làng ấy xóm ấy huyện Mạt Lăng, quận Đơn Dương ở Châu Dương, tự bỏ Bân Hào này đến nghi kinh phủ, nâng nhà mé Đông, hợp cũ cổng thành. Tâm thánh lưu ái nhàn rỗi, gánh dời tường nam, nghĩa đồng bỏ đất Phong, sự đều theo đất Cảo và khắc giúp hoành lưu ứng vận báu này, sai mở rộng của cung điện vua tức quá nhỏ mà làm nhà, đã đồng Hán Cao quyến luyến Phong Bái, cũng đồng Quảng Võ mến tiếc Nam Trần suy nghĩ lý do hằng lưu dấu Thánh nương đó không hư.

Nay sự đồng với Tu-di, lý vô tận với trời đất, đâu bằng bảo tháp Quang Kiến cách thức truyền về sau, bèn lấy tiết trọng đông ngày Mậu dần 23 tháng 10 là tháng toàn huỳnh chung nhuận năm kế tinh kỷ làm niên hiệu Thiên Giám năm thứ sáu đời Đại Lương. Cây cờ gò đen nêu tột mây xanh, dưới rỗng suối ao thúc ép sao Hán, mới phải buộc đá lớn ở Hiền kiếp, cứu cõi nhẫn đời vị lai. Như ánh sáng hạt châu chiếu đến rực rỡ mây màu đến, chẳng phải chỉ trời mến gồm nhân đức của đất, Hoàng đế bèn mở rộng cánh cửa làm ghe chuẩn, tiếp thần mà động xe ba ngựa, vượt phù lương mà thẳng qua, cỏ chi cho cùng hoa xanh sum suê, xe vua đi ngừng nghỉ, thân bày thành kính rộng nhóm bốn bộ lường cảnh đồng dòng hoằng nhân rộng đây giúp đỡ không ngoài, đồng do thiếu đường đều đến đạo tràng, bèn làm bài minh rằng:

Tám góc xa thấm, chín phục mênh mông, đến đáy linh Thánh đều nêu điềm lành thọ khâu rạng rỡ sấm sáng chung quanh then cửa, khắp tha thứ vỗ về, năm vĩ vào phòng từ đây xa xôi, ở chỗ quên mất, đâu biết như nước thà nói cùng tột dâu, tự trời buông tha, với ta chỉ có vua tức nên xưa làm ghe thuyền cho đời, chồng mái chồng hiên cõi xa ngẩng cao. Cõi và Tịnh độ, đất tức giường vàng do đây rộng cứu giúp khắp bay liệng, há luống ba cõi đâu chỉ mười phương, thấm đủ vạn cổ, trao tay trăm vua một niệm đáp đây muôn thọ không biên cương lâu như mặt trời dài như bầu trời.

BÀI MINH TINH XÁ THÊ THIỀN

Chùa này do Chinh Tây Thái Tông lập, xưa tham gia chỉ huy dự ban sáng lập kinh đầu tiên, nay lại dạo bước soi xưa khởi an ủi cho nên soạn bài minh này, để truyền hương thơm.

Ở châu Dĩnh vào ngày tháng ấy niên hiệu Vĩnh Huy thứ ba ông Nhan Linh đi xa đến Thê Thiền chốn xa, phòng lan chất tuệ, rui nhọn chịu khói. Nhìn Nam thấy miếu đồng bóng trông Bắc thấy trời Hoài, xa thì rừng ao, rộng thì sông ruộng, tâm không nhìn vắng lặng tướng tuệ thuần nơm, mến chỉ bước chân đây thương xót thuộc năm xa, dạo nhân sánh xa nhà thường nhờ chiên-đàn, ban cho sáng lập vườn thần, giúp tạo linh chuyên. Xem vườn cấm thác trông núi Thứu Sơ, cắt đá đẽo vang, bồi hồi lý ngưng huyền, rộng dời cờ lông chim. Xa riêng suối thông, tổ chức nước Đông, hóa cảnh liên Tây, nơi núi cao hay chỗ trưng, để yên hay dời đổi, vỏ gai thô khắp, lại nương Hán xa, lại theo cờ hiệu treo xưa từ màn báu nay nương chiếu Phạm, tám lần biển hạc chín lần chim kêu núi nối liền, ngọc bội ngọc hoa che dài, dấu vết khuyến khích luống truyền, cách thức nhờ mây vây quanh, dám nói là duyên lành.

QUYỂN 17

THIÊN THỨ BA: PHẬT ĐỨC (PHẦN 3)

Nước Tùy, Tùy Cao Tổ ra chiếu chỉ lập tháp Xá-lợi. Xá-lợi cảm ứng ký nói nhà Tùy, Vương Thiệu làm. Mừng xá-lợi cảm ứng biểu. Nhà Tùy An Đức Vương hơn trăm quan v.v... Nước Tùy, Tùy Văn Đế ra chiếu chỉ lập tháp để xá-lợi Phật. (Tự chú mười sáu châu v.v...) chùa Phụng Tuyền ở châu Kỳ, chùa Tiên Du ở châu Ung, chùa Tung Nhạc ở châu Tung, chùa Đại Nhạc ở châu Thái, chùa Tư Giác ở châu Hoa, chùa Hoành Nhạc ở châu Hoành, chùa Hoằng Nhạc ở châu Định, chùa Liên Vân Nhạc ở châu Khuếch, chùa Cự Thần ở châu Mâu, chùa Cối Kê Sơn ở Châu Ngô, chùa Đại

Hưng Quốc ở châu Đồng, chùa Thê Nham ở châu Bồ, chùa Hổ Khâu Sơn ở châu Tô, chùa Đại Hưng Quốc ở châu Kinh, chùa Vô Lượng Thọ ở châu Tinh, châu Tùy, châu Ích, châu Tần, châu Dương, châu Trịnh, châu Thanh, châu Hào, châu Nhũ, châu Qua, châu Phiên, châu Quế, châu Giao, chùa Đại Từ ở châu tương, chùa Đại Hưng Quốc ở Châu tương.

Môn hạ kính mong Chánh Giác đại từ đại bi cứu hộ chúng sinh, làm bến cầu cho các loài.

Trẫm quy y Tam bảo trùng hưng Thánh giáo, suy nghĩ với tất cả nhân dân trong bốn biển đều phát Bồ-đề cùng tu nghiệp phước, khiến hiện tại và đời sau thường làm nhân lành đồng lên diệu quả, nên thỉnh ba mươi vị Sa-môn am hiểu pháp tướng đến giảng nói đạo, đều đem hai vị thị giả và tán quan khách một vị, hương huân lục một trăm hai mươi cân, năm con ngựa chia đường rước xá-lợi. Từ trước đã cho văn kiện đến các châu xây tháp, kia chùa Mạt Chú thì có chùa Sơn Thủy xây tháp nương trước núi, núi Cựu Vô ở châu Đương trong chùa Thanh Tịnh dựng tháp, ty sở tạo dáng đưa đến châu Đương, Tăng nhiều là ba trăm sáu mươi vị, kế là hai trăm bốn mươi vị, kế nữa là một trăm hai mươi vị. Nếu Tăng ít thì tất cả Tăng đều vì trẫm, Hoàng hậu, Thái tử, con cháu các Vương hầu, quan nhân trong ngoài và tất cả thứ dân, sinh linh thuyết hiển mà đều hành đạo và sám hối bảy ngày. Bắt đầu hành đạo, ngày đả sát bất luận cùng châu hay khác châu mặc tình người nào cũng bố thí, tiền hạn định chỉ mười văn trở xuống không được quá, tiền thí để cúng xây tháp, nếu ít không đủ xây thì dịch chính đinh và dùng vật trong kho cả nước, Tăng Ni các châu khắp vì xá-lợi lập trai, hạn giờ ngọ ngày mười lăm tháng mười đồng xuống vào hòm đá.

Thứ sử tổng quản trở xuống, huyện úy trở lên nghỉ quân cơ dừng việc thường bảy ngày, chuyên xem xét hành đạo và đả sát... các việc hết sức thành kính, ý trẫm như vậy, người chủ thi hành.

Ngày 13 tháng 06 niên hiệu Nhân Thọ năm đầu, quan nội sử ra lịnh Dự Chương Vương tuyên đọc.

GHI CẢM ỨNG VỀ XÁ-LỢI

Hoàng đế xưa ở Tiềm Long, có Sa-môn Bà-lamôn đến nhà đưa cho một gói xá-lợi nói rằng: "Đàn-việt có tâm tốt nên cho để cúng dường", Samôn đi rồi, tìm vẫn không biết chỗ ở của người. Sau đó Hoàng đế cùng Sa-môn Đàm Thiên đều để xá-lợi ra tay mà đếm, hoặc ít hoặc nhiều đều không thể định Đàm Thiên nói: "Có nghe Bà-la-môn nói pháp thân vượt ngoài số lượng, thế gian chẳng thể suy lường", vì vậy bèn làm rương bảy báu để đựng. Thần Ni Trí Tiên nói: "Phật pháp sắp diệt, tất cả thần minh nay đã đi về Tây. Ông sẽ làm cha lành khắp trời trùng hưng Phật pháp, tất cả thần minh lại đến". Về sau Chu Võ quả nhiên tiêu diệt Phật pháp, nhà Tùy lên ngôi bèn hưng phục lại, Hoàng đế thường dùng lời Thần Ni mà nói: "Ta hưng khởi là do Phật", cho nên trong tháp xá-lợi khắp trong nước đều làm tượng Thần Ni.

Hoàng đế, Hoàng hậu ở chùa Ni Pháp Giới tại kinh đô tạo tháp Liên Cơ để báo đáp nguyện xưa, sau để xá-lợi. Đêm mùa thu năm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười lăm có ánh sáng thần từ nền trên đá nhiễu lộ bàn mạnh như lửa đài Lô, trong một tuần bốn lần như vậy. Hoàng đế lấy ngày 13 tháng 06 năm đầu niên hiệu Nhân Thọ để ngự đến điện Nhân Thọ của cung Nhân Thọ vốn làm ngày sinh nhật, mỗi năm đến ngày này thâm tâm hằng nhớ tu các phước lành để báo ân cha mẹ, cho nên rước các Sa-môn Đại đức cùng bàn chí đạo, đem các châu trong biển chọn ba mươi chỗ cao sáng thanh tịnh xây tháp xá-lợi.

Vì vậy Hoàng đế đích thân đem rương bảy báu bưng ba mươi xá-lợi để vào mà đặt trên tòa ngự cùng các Sa-môn đốt hương lễ bái, nguyện đệ tử thường dùng chánh pháp hộ trì Tam bảo, cứu độ tất cả chúng sinh, và lấy bình vàng lưu ly đều ba mươi cái, dùng lưu ly đựng bình vàng để xá-lợi ở trong, dùng hương huân lục làm bùn trét nắp mà niêm ấn. Ba mươi châu đồng vào giờ ngọ ngày 15 tháng 10 vào hòm đồng hòm đá đồng loạt dựng tháp.

Các Sa-môn đều dùng tinh xá bưng xá-lợi mà đi, ban đầu vào châu Cảnh trước, khiến nhà nhà rưới quét che đồ dơ xấu, kẻ đạo người tục, kẻ nam người nữ đón rước từ xa. Thứ sử tổng quản và các quan nhân dẫn bộ trên đường, bốn bộ đại chúng dung nghi nghiêm trang, cùng dùng bảo cái, cờ phướn, đài hoa, tượng đài màn Phật, kiệu Phật, núi hương, bát hương, các món âm nhạc đều đến cúng dường, đều cầm hương hoa hoặc đốt hoặc rải, vây quanh khen ngợi, âm Phạm hòa nhã, nương phép rước xá-lợi vào thành Câu-thi-na của kinh A-hàm, xa gần lời nói việc làm đi đôi, mây sương nhóm đến, tuy là người mù, què, già, bịnh dẫu bò cũng đều đến.

Sa-môn đối trước bốn bộ đại chúng xướng rằng: "Đấng Chí tôn dùng đại từ của Bồ-tát không biên giới, không bờ mé, thương xót chúng sinh như cốt tủy cho nên phân rải xá-lợi khắp thiên hạ đồng làm nhân lành", lại dẫn văn kinh các món phương tiện quở trách dẫn dạy, thậm chí thương xót rơi nước mắt như mưa. Đại chúng nhất tâm chấp tay quỳ gối, Sa-môn đọc văn sám hối rằng: "Đệ tử Phật thọ giới Bồ-tát là Hoàng đế... kính bạch tất cả chư Phật mười phương ba đời, tất cả chư pháp, tất cả Hiền thánh tăng, đệ tử nhờ phước Tam bảo giúp đỡ làm vua cha chúng sinh, suy nghĩ cùng tất cả thứ dân cùng lập Bồ-đề, nay muốn phân chia xá-lợi cho các châu xây tháp, muộn khiến khắp nghiệp lành, đồng đến diệu quả, vì đệ tử và Hoàng hậu, Thái tử, con cháu các Vương hầu, quan nhân trong ngoài, sinh linh u hiển trong khắp pháp giới, ba đường, tám nạn mà sám hối hành đạo. Cung thỉnh chư Phật thường trụ mười phương, mười hai bộ kinh pháp tạng thâm sâu, chư tôn Bồ-tát, tất cả Hiền thánh, nguyện khởi từ bi cho đệ tử thỉnh, giáng đến đạo tràng chứng minh đệ tử vì tất cả chúng sinh phát lồ sám hối, vì vậy đúng như pháp lễ bái đều thọ ba quy y". Sa-môn lại xướng:

-Đệ tử Phật thọ giới Bồ-tát là Hoàng đế... khắp vì tất cả chúng sinh phát lồ, từ vô thỉ đến nay đã gây ra mười nghiệp ác, tự làm, dạy người làm, thấy làm vui theo. Vì nhân duyên tội này đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, hoặc sinh vào nhân gian lại yểu mạng thường bịnh, thấp hèn, nghèo túng, tà kiến dày vò, phiền não vọng tưởng chưa thể tự thức tỉnh. Nay nhờ từ quang Như Lai soi chiếu đến, nơi các tội kia mới bắt đầu hiểu biết, thâm tâm hổ thẹn sợ sệt không thôi, đối trước Tam bảo phát lồ sám hối. Nhờ mặt trời tuệ của Phật mà đều tiêu trừ, từ thân ngày nay cho đến thành Phật nguyện không gây ra các tội này nữa.

Đại chúng đã nghe lời này rất buồn, rất mừng, rất hổ thẹn, rất sợ sệt, ghi tâm khắc cốt, bỏ tài của xả y vật và cắt tóc để bố thí nhiều không thể tính kể, hằng ngày cùng lập đại trai đàn lễ sám thọ giới, xin từ nay về sau làm lành dứt ác, đời đời kiếp kiếp thường được làm con tôi Đại Tùy, bất luận già, trẻ, Hoa, Di, đều phát thệ này, dẫu kẻ giết mổ, người săn bắn, giặc cướp cũng trọn niệm lành.

Xá-lợi đưa vào hòm, đại chúng vây quanh đầy nghẹt, Sa-môn bưng cao bình báu xoay vòng chỉ bày cho bốn chúng, mọi người nhìn không chớp mắt, đồng thấy ánh sáng, luyến mến khóc lóc tiếng vang như sấm, trời đất chấn động. Phàm chỗ vào an trí đều như vậy. Chân thân đã ứng, linh tháp thường còn, thiên hạ ngước xem, quy y phước điền ngày càng nhiều không cùng.

Hoàng đế sáng sớm ngày xây tháp, ở sân điện Đại Hưng nơi cung Đại Hưng, đứng ở mặt phía Tây cầm ngọc khuê, thỉnh rước tượng Phật và ba trăm sáu mươi bảy vì Sa-môn, cờ phướn, lọng báu, hương hoa, tán tụng, âm nhạc, từ chùa Đại Hưng Thiện đến ở điện đường, Hoàng đế đốt hương lễ bái, đến ngự ở hiên mé Đông, đích thân vua dân bá quan văn võ, ăn chay trai giới. Lúc này nội cung, Đông cung đến ở kinh ấp, mênh mông nhà, ghe xe chỗ thông, tất cả quyến thuộc người dân đều vâng theo Thánh pháp. Khi chúng Tăng mới vào, vua sai tả hữu thầm đếm, tự cửa Hiển Dương đến bậc thềm đếm ba lần thường dư một người, Hoàng đế thấy một vị Tăng lạ che mâm đậy bát, vua nói với tả hữu: "Chớ có kinh động, để ông ta bỏ ông đi đã", lại đếm thì người ấy quả nhiên không hiện lại. Lúc đem xá-lợi đi, Hoàng đế thưa: "Nay Phật pháp được trùng hưng, chắc chắn có cảm ứng". Sau đó nơi nơi dâng tấu đều nói như vậy.

Chùa Tiên Du ở châu Ung xây tháp, lúc này trời âm u có tuyết, đem xá-lợi về hôm sau trời liền quang đãng, bèn đưa vào hòm, mây lại hợp.

Chùa Phụng Tuyền ở châu Kỳ xây tháp, lúc sắp làm hòm thì cách phía Đông bắc chùa chừng hai mươi dặm bỗng thấy bốn lằn đá sáng như ngọc, lớn nhỏ bằng thẳng, bèn lấy đó làm hòm lại, vì vậy vách Nam hòm lớn có màu sắc lạ sáng rỡ thành hình song thọ cao ba thước ba tấc, cành như tuyết trắng, lá như mã não, vách phía Bắc, phía Đông có hình chim, thú, rồng, voi, bốn vách đều có hình bông hoa xoay bên trái xoay bên phải, sau đó nền đá lần lần biến hết như thủy tinh, Sa-môn Đạo Xán vẽ tượng song thọ này đặt ở châu Hứa, lá đều biến thành màu xanh. Năm sau, chùa Đại Bảo Xương ở châu Kỳ vẽ được điềm tướng ở châu Thiểm đặt tại Phật đường để cúng dường cho nhà đó, đại tượng ba lần phát ra ánh sáng đỏ ra khỏi cửa. Vì vậy mười tượng Phật ngoài cửa và tượng Bồ-tát Quán Âm cũng liền phát ra ánh sáng trong khoảng nửa tuần, trời lại rải hoa như mưa.

Chùa Đại Hưng Quốc ở châu Kinh xây tháp. Lúc sắp làm hòm, có ba nhà đều dâng đá tốt xưa mài, chẳng phải trong cõi nước này có được, lấy đó mà dùng thì tương xứng vừa vặn.

Chùa Tịnh Niệm ở Châu Tần xây tháp, trước vị Tăng ở chùa mộng có các vị tiên đến nhóm dùng dây đỏ đo đất, lấy cọc sắt đóng ghi chỗ và định nền tháp ngay chỗ ấy. Lại có mây lành đến che xá-lợi, lúc này tháng mười có tuyết rơi, mà gần chùa cỏ cây đều nở hoa. Xá-lợi đem vào hòm, ánh sáng thần chiếu xa, trong hư không lại có tiếng khen ngợi.

Chùa Tư Giác ở châu Hoa xây tháp. Trời lúc này tuyết rơi, xá-lợi đem về thì ngày sau trời liền sáng sủa, có ánh sáng năm màu cách đất mấy trượng giống như tướng bánh xe thẳng che trên tháp, ngoài mấy mươi dặm nhìn xa thì chánh sắc đỏ trên thuộc trời, đưa xá-lợi vào trong mây mù lại nổi, mây lành bay rải như hoa trời, dính vào áo người rất lâu mà không ướt.

Chùa Đại Hưng Quốc ở châu Đồng xây tháp. Đêm đó xá-lợi ở trạm ngựa gần đó, ban đêm trời mưa, sáng ra lúc làm lễ mây, mặt trời mở ra sáng rỡ, xá-lợi vào từ cửa Nam mà thành phía Bắc vẫn mưa như lúc đầu. Đã đến chùa, lại mưa đưa vào hòm thì mặt trời lại xuất hiện, các ánh sáng màu vây quanh mặt trời như vòng tròn. Trước đó vị Tăng ở chùa tên Tuệ Chân mộng thấy vị Thánh đảnh có vầng hào quang tròn chiếu khắp trời đất, đến từ phương Tây, vào cửa mà đứng. Khi kiệu xá-lợi đến vô cớ dừng ở chỗ đó, do đó mà định nền tháp, đêm mồng tám tháng mười hai có vầng hào quang tròn năm màu từ nền vọt lên chiếu khắp trong thành sáng như ban ngày, xa năm mươi dặm đều thấy rõ. Năm sau vào tháng tư ánh sáng trắng lại phát ra ở phía Tây tháp, chiếu qua phía Đông rất lâu mới tắt.

Chùa Thê Nham ở châu Bổ xây tháp. Ngày hai mươi sáu tháng chín xá-lợi ở chùa Nhân Thọ ở Đài Hạ, đêm đó trong chùa sáng như ban ngày. Ngày hai mươi tám định nền, sáng ra đất chấn động núi có tiếng vang lớn, trên chóp núi có tiếng chuông trống. Ngày mồng bảy tháng mười đem xá-lợi về Thê Nham, đất lại chấn động, ngày mồng tám kiệu lên núi người theo cả ngàn, gió lớn thổi từ dưới lên, nhờ sức gió phút chốc đã đến điện Phật. Đêm ấy trên tháp có ánh sáng dài mấy thước chợt ẩn chợt hiện đến hơn mười lần, trong bình cũng có năm tia sáng vọt ra xoay vòng rồi vào trở lại bình. Lại có hai tia sáng rực rỡ như cái bát xuất hiện ở vách Tây, hợp thành một đường chảy thẳng vào nền tháp lát sau liền mất, lát sau lại xuất hiện lại vào điện đường. Đảnh núi cũng có ánh sáng rực rỡ chiếu xa hai trăm dặm, nhìn xa đều nói đốt núi. Đêm mồng chín lại có hai tia sáng nhiễu tháp, một tia ánh sáng chiếu vào hang Tây, một tia chiếu vào hang Nam. Ngày mười hai trong chùa lại có ánh sáng giống như lư hương rót vào lộ bàn nơi tháp đổi giờ thì mất, đêm đó trên lộ bàn lại có ánh sáng, hoặc tán hoặc tụ đều giống như hoa sen, đổi canh thì mất. Đêm mười ba trên tháp lại có ánh sáng, tượng ba vị Phật đều cao cả thước dừng trụ rất lâu. Đêm mười bốn có ba tia sáng từ chùa xuất hiện, một tia thẳng lên trời, một chiếu về phía Đông Bắc, một giống như lầu gác sáng rỡ cả châu thành. Từ mồng một đến rằm, chùa và trong thành thường nghe mùi hương lạ, đào, lý, mơ, hạnh, nở nhiều bông, người lượm đem cúng dường. Đặt xá-lợi vào hòm lại có ánh sáng từ tháp xuất hiện, tròn như tấm gương lớn, ánh sáng phần nhiều màu đỏ tía mà người thấy sắc màu hình trạng không giống nhau, hoặc nói rằng: Như tia chớp lớn, hoặc nói là như ngọn đuốc, có mười mấy người lại không thấy gì cả. Có người phụ nữ ôm đứa con nhỏ mới chết đến cầu cứu, đến đêm đứa bé liền sống lại. Người gặp ánh sáng lành bịnh thì chẳng phải một, các châu đều có cảm ứng mà chùa Thê Nham là nhiều nhất, bởi chùa là do Thái tổ Võ Nguyên Hoàng đế xây dựng.

Chùa Vô Lượng Thọ ở châu Tinh xây tháp. Xálợi ban đầu ở đạo tràng, đại chúng lễ bái, người bịnh nặng liền khỏi bệnh. Ngày xây tháp mây mù che tối, đến hôm sau thì quang đãng, mây năm màu kéo đến, xá-lợi đặt vào hòm thì phát ra ánh sáng hoặc một thước mười năm tấc, có vô lượng thiên thần đều cầm hương, hoa, cờ phướn, lọng báu che khắp thành châu.

Chùa Hằng Nhạc ở châu Định xây tháp. Có một ông lão kỳ lạ đến lễ bái và cúng một công gánh đất mấy lồng, có người hỏi tên họ mà ông không đáp, rồi bỗng nhiên biến mất. Chỗ nay khi xưa không có nước, niên hiệu Khai Hoàng năm thứ ba, cách phía Tây chùa Sơ Doanh (mới xây) khoảng tám dặm, ao Bạch Long bỗng từ phía Đông chảy qua, làm dịch bỏ nước liền dứt, đến lúc sắp xây tháp nước lại chảy mạnh.

Chùa Đại Từ ở châu Tương xây tháp. Lúc này trời mù tối có tuyết, xá-lợi đem về ngày sau trời xán lạn, bắt đầu đặt vào hòm trời mây lại kéo đến. Tháng tám năm sau xây tháp, Tăng Ni ở chùa

Quang Thiên vẽ được tranh thụy tướng ở châu Thiểm, đặt ở điện Phật, thần quang thường phát như chớp, lại có mây năm sắc che chánh giữa trên chùa, một ngày thấy bốn lần. Lại có mây trắng hình dáng như rừng cây tuôn mưa hoa vàng, hình dáng hoa như con bướm lớn màu xanh lưu ly, bay liệng mà sa xuống rồi vọt lên hư không bay đi. Tháng giêng năm sau trong chùa lại mưa hoa trời. Chùa Định Giác ở châu Trịnh xây tháp. Khi xá-lợi sắp đến phía Đông chùa có ánh sáng như dòng sao lớn vào đến trước điện Phật thì mất, khi kiệu đến chỗ này vô cớ tự dừng, đã định nên tháp ở bờ Tây, bờ Đông kia tháp xá-lợi xưa có hai tia sáng chảy về Tây vào chỗ nền tháp, chùa cúng dường trai Tăng hai ngàn vị mà hơn muôn người ăn không hết, một vò cơm đơm ra hơn tám mươi bốn người ăn, cúng chúng trong chùa hai trăm người ăn mấy ngày mới hết. Khi đặt xá-lợi vào hòm, bốn mặt treo tràng phan không có gió mà đồng loạt hướng vào trong.

Chùa Nhàn Cư ở châu Tung xây tháp. Mọi người theo xá-lợi có hơn cả vạn, có con thỏ chạy ngược ván chạy qua dưới kiệu lúc này trời mây mù, xa lìa đến, ngày đó trời liền sáng sủa, bắt đầu đặt xá-lợi vào hòm mây liền che lại.

Chùa Khai Tịnh ở châu Hào xây tháp. Trong nước không có đá, xá-lợi đến thì ở ba chỗ đều được một tảng đá mài vuông vức, một tảng giống cái hòm mà không có đáy, bèn hợp lại dùng đó không cần đẽo gọt sửa sang. Khi đào nền tháp đến mâm đá có hai giống trong giáp đó, trời lúc này có tuyết, xá-lợi về ngày đó trời liền quang đãng, xá-lợi vào hòm mây liền che lại.

Chùa Hưng Thế ở châu Nhữ xây tháp. Lúc này trời mù mờ có tuyết xá-lợi đến, thì ngày đó trời liền sáng láng, xá-lợi bắt đầu đặt vào hòm mây liền che lại.

Chùa Đại Nhạc ở châu Thái xây tháp. Xá-lợi đến châu, đêm đó trong miếu núi Nhạc có tiếng trống, thiên tướng sáng rỡ, ba lớp cửa đều tự mở, hoặc thấy ba mươi con ngựa từ miếu vọt ra, bởi là thần núi nhạc. Xá-lợi từ chùa châu chưa đến, còn cách mấy dặm thì mây lọng báu xuất hiện ở đảnh núi, có năm sắc mà ba lớp, khí trắng như cầu vồng đến che xá-lợi, rải thành sương mù thấm ướt áo người, hình dạng như rủ châu, vị như cam lồ, từ sáng đến trưa hơi sương mới kiểm mà quay về núi, chia làm ba đoạn, chợt qua chợt lại như quân đi, bởi cũng là thần núi đến rước. Vì vậy trong bình có tiếng và phát ra ánh sáng cao hơn một trượng, khoảng bữa ăn thì biến mất, người nhìn đều thấy, như thấy lưu ly trong bình vàng tự mở nắp, miệng bình có ánh sáng một tấc như đôi đũa, sáng rỡ chỉ về phía Tây, dầu chuyển gấp mà không hề quay mình, như vậy trải qua tám ngày. Khi sắp đặt vào hôm ánh sáng bèn mất vào lại bình vàng, mây mù lại nổi. Có đồng tử hay tụng kinh Pháp Hoa đến lễ xá-lợi, bèn đốt thân ở chỗ vắng để cúng dường. Mồng sáu tháng hai năm sau trống thần núi Thái kêu suốt đêm, phía Đông, Tây, Nam, Bắc đều nghe tiếng.

Chùa Thắng Phước ở châu Thanh xây tháp. Lúc đào nền sâu năm thước gặp tảng đá tự nhiên thành hòm lớn bèn lấy mà dùng, đến khi đưa xá-lợi vào trong bình có ánh sáng chợt lên chợt xuống. Chùa Cự Thần Sơn ở châu Mâu xây tháp. Lúc xá-lợi mới đến hai cỏ chi màu tím lớn bỗng hiện nơi đường, trời lúc này âm u có tuyết, xá-lợi đến, ngày đó trời xán lạn, bắt đầu đưa xá-lợi vào hòm mây kéo lại hợp như cũ.

Chùa Trí Môn ở châu Tùy xây tháp. Ngày mồng sáu tháng mười đào nền được rùa thần, bảy ngày cam lồ giáng nơi cây dương bên cầu đá, có ong đen nhiều không đếm xuể đến vây quanh, sáng mồng tám mây mù dày, xá-lợi đến chùa trời lại sáng, trải qua ánh sáng hóa huyện bỗng thấy Mộc Liên Lý trong cửa đi qua dưới cây dương, năm lằn cam lồ treo chảy rưới trên kiệu mà chìm mát, xálợi về ngày đó trời liền sáng soi, lúc bắt đầu đặt vào hòm mây che lại như cũ. Rùa thần sắc trang khác thời, có lằn chữ dưới bụng rằng: "Vua châu Hưng" khiến tham gia quân hiến, hằng ngày cởi giáp muốn thấy đầu mà nó giấu kín không thấy được, quan Thứ sử coi làm là Vương Chiêu muốn xét nghiệm, rùa liền đưa cổ chân mặc tình người lật chuyển, luôn cả ngày như vậy, bèn thấy có chữ ở trên đầu rằng: "Thượng Đại Vương tám mươi bảy ngày muôn năm", Hoàng đế đích thân vỗ về để thấy, nó bèn vào tay áo tự nhiên như quen thuần từ lâu, thả vào các cung đài và cỏ nó vẫn trở lại thẳng đến trước vua, thường thả luôn như vậy.

Chùa Đại Hưng Quốc ở châu Tương xây tháp. Lúc này trời âm u, xá-lợi đến thì ngày đó trời lại sáng, bắt đầu đặt vào hòm mây che lại như cũ. Chùa Tây ở châu Dương xây tháp. Châu từ lâu xá-lợi đã vào, đêm đó mưa rất lớn.

Chùa Thê Hà ở châu Tương xây tháp. Người ở gần trước đã mộng thấy Phật từ phía Tây bắc đến, lọng báu, tràng hoa sáng đầy, chúng trong chùa cầm hoa hương ra đón rước. Khi xá-lợi đến quả như trong mộng đã thấy.

Chùa Đại Võ ở châu Ngô xây tháp. Xá-lợi năm lần qua sông, sóng gió không dậy lên, đã đến chùa phát ra ánh sáng xanh vàng, đỏ, trắng, được tử chi cao hơn hai thước, bốn cành cộng ba cái. Lúc này trời âm u, xá-lợi đến ngày đó trời lại sáng, lúc bắt đầu đặt xá-lợi vào hòm mây lại che như cũ.

Chùa Hổ Khâu Sơn ở châu Tô xây tháp. Ở đất, Tấn Ty theo Vương Tuần Cầm Đài đào được hòm gạch, trong hộp bạc có một hạt xá-lợi, bát nổi trên nước xoay bên phải bốn vòng. Xá-lợi ban đầu xuất phát ở châu này, trời đổ mưa, lúc chưa đến chùa mặt trời liền xuất hiện, bèn có mây nhiều màu đi cùng kiệu, xoay quanh không tan, đến chỗ tháp, trong hư không có tiếng âm nhạc rồi trời lại âm u, xá-lợi đến mây tạm mở ra, xá-lợi đặt vào hòm mây che lại. Trước đây đào giếng đá chùa, giếng rỗng hai ngày, bởi ứng điềm xá-lợi sắp đến.

Chùa Hoành Nhạc ở châu Hoành xây tháp. Samôn bưng xá-lợi từ Giang Lăng theo đường thủy đi hơn hai ngàn dặm, bốn lần gió ngược, nguyện định liền định, bốn lần xin gió thuận đều được như lòng mong muốn. Lúc mới đào nền trên Dung Phong có mây trắng rộng hơn hai trượng, rất ngay thẳng, đến nền xoay bên phải ba vòng rồi tan, trời đang âm u xá-lợi về ngay ngày đó liền xán lạn, đặt xá-lợi vào hòm mây lại vần vũ.

Chùa Duyên hóa ở châu Quế xây tháp, Xá-lợi còn cách thành hơn mười dặm, có bầy chim hơn ngàn con bay đến đi cùng kiệu vào thành bèn tan, xá-lợi sắp đặt vào tháp mây năm sắc đến che.

Chùa Linh Thứu ở làng Sùng Dương huyện Hồng Dương thuộc châu Phiên xây tháp, đào được ba hòm đá đặt vào cuối đời Tống, có hai cái đều có hòm thiếc, đựng hai tượng bạc nhỏ, một cái có bình bạc đựng bình vàng, nghi vốn có xá-lợi, nay thì trống không. Rồi trong hầm có tượng mây khí thần tiên, xưa thời Lưu Nghĩa Long vua nhà Tống, ở Thiên Trúc có Thánh tăng tên Cầu-na-bạt-ma, muốn đến Dương Đô đi qua chùa Linh Thứu, bảo các vị Tăng rằng: "Trong đây có điềm lạ, gồm gặp Vương giả lên đến xây dựng điềm ứng, gặp được Bồ-tát Thánh chúa cõi lớn rộng tu". Mùa Đông năm ấy quả nhiều có bầy yến ngậm tượng thêu để trong chùa, và Tề chúa là Túc Đạo Thành bắt đầu xây chùa Hưng Thái, dạo qua chùa này mà xây tháp trắng. Nhà Trần niên hiệu Thiên Gia năm thứ ba trong chùa lập bia văn ghi. Như đây Thánh chúa rộng tu nghiệm đến ngày nay.

Chùa Thiền Chúng ở châu Giao xây tháp. Chùa Pháp Tụ ở châu Ích xây tháp. Lúc này trời âm u, xá-lợi về ngay ngày đó trời liền quang đãng, xá-lợi bắt đầu vào hòm mây che lại như cũ. Chùa Pháp Giảng ở châu Khuếch xây tháp. Xálợi ban đầu xuất phát ở kinh, đêm sau đến Lâm Cao, Sa-môn mộng mất xá-lợi, đêm đó châu

Khuếch có ánh sáng cao vài trượng từ phương Đông đến vào chùa nhiễu bên phải tháp Phật, chiếu đến lầu thành trong ngoài đều rỗng suốt, người ở xa thấy nghi là chất củi đốt, ánh sáng lần lần chảy về Tây, khoảng bữa ăn thì biến mất, và định nền tháp ngay chỗ ánh sáng mất lại có hơi thơm dày đặc khác thường.

Biểu ngôn của châu Quắc. Châu này tuy không thờ xá-lợi, cung thỉnh chúng Tăng hành đạo, có con chim lạ đến đậu trên cây kèo, ý dường như nghe kinh, không hề kinh động, một ngày một đêm bèn xuống đậu ở bàn đọc kinh, người người khen ngợi vuốt ve lại kính đó để hành đạo, pháp sư ở trước Phật trao giới cho nó, rất lâu nó mới bay đi.

Sách xâm châu Tùy, Vương Oai đưa đi chín mười người, trên đường gặp xá-lợi bèn thả hết tù nhân kia, ngàn dặm hẹn nhóm không một người trái. Người châu Tùy ở Vân thủy làm ngục cá ba trăm, đã thấy xá-lợi cũng đều quyết thả, các châu khác giống như thế rất nhiều.

Hoàng đế ngay trong tháng mười thường nhân lúc ăn thì ở dưới răng được xá-lợi, Hoàng hậu cũng vậy, lấy chén bạc đựng nước, nổi một hạt xá-lợi, đem đưa cho trăm quan xem, phút chốc bỗng thấy có hòn đá xoay dính nhau. Hai quý nhân và Tấn Vương Chiêu Dự Chương, Vương Giản được ban sâu kén, ra lịnh lật xem đều thấy trong sâu kén có một viên xá-lợi. Chưa quá hai tuần trong cung được mười chín viên, phần nhiều phát ra ánh sáng. Từ đây kẻ đạo người tục xa gần, hễ chỗ nào có xálợi đều dâng cúng. Hoàng đế nói: "Đâu hẳn đều là thật", các Sa-môn cùng nhau đem thử quả nhiên có mười ba hạt lúa kê, còn thật xá-lợi thì sắt đâm mà không hư tổn.

Biểu mừng xá-lợi cảm ứng và lời đáp (nhà Tùy

An Đức Vương hùng, trăm quan, v.v...)

Thần, Hùng v.v... nói: Thần nghe bậc đại giác tròn đủ, lý chiếu có, không. Chí Thánh luống nghi, nghĩa không sinh diệt. Cho nên dầu hình chia nhóm, hột cải còn chứa trong bình vàng, thể tan bụi bay còn khởi xây chùa báu. Từ Đế Thích sau khi xin tro, vua A-dục dựng tháp đến nay, chưa có phân chia xá-lợi nối thạnh thắng nghiệp, cúi xin Hoàng đế nhóm nhân nhiều kiếp, xưa chứng Bồđề, giáng tích làm vua loài người hộ trì thế giới. Xưa tạo tiêu nơi vận nhân tế phế bỏ, đèn tự diệt bóng, biển trí tuyệt dòng, ngôi vua hưng thạnh trống pháp mới vang. Trong khu vực là Tịnh độ, sinh linh đều che mây Phạm thiên.

Tháng sáu mùa hạ, phát chiếu chỉ rước Sa-môn dâng về xá-lợi, ba mươi châu ngày mười lăm tháng mười đồng thời xây tháp. Mà châu Bổ chùa Thê Nham là đặt tháp quy mô, ở trên núi nơi ấy có tiếng chuông trống, xá-lợi trong giảng đường, ban đêm trước tháp phát ánh sáng lớn đến trong điện đường chiếu khắp nhà. Lúc sắp đặt xá-lợi vào hòm đồng, lại có ánh sáng như lư hương nương hư không mà lên đến bình báu trên tháp, lại khởi lửa đuốc đỏ tím, hoặc tan hoặc nhóm đều thành hoa sen. Lại có ánh sáng ở trên tháp dạng như tượng Phật, hoa quỳ đủ vườn, dừng lâu mới tiêu. Lại có ánh sáng nhiễu quanh bình báu trên tháp.

Chùa Nhân Thọ trong thành ở châu Bồ chúng Tăng từ xa nhìn đảnh núi thấy ánh sáng như lầu gác, ngọn núi, hang nhuận chiếu soi thấy rõ chiếu một góc Đông nam của thành ở châu, rất lâu mà không mất. Chùa Thê Nham kia là do Thái tổ Võ Nguyên Hoàng đế xây dựng.

Lại chỗ đặt tháp ở châu Hoa, lúc này mây mù tuyết sa nhiều, bỗng liền xán lạn, ngay trên tháp có luân tướng năm màu xá-lợi xuống xong lại khởi mây mù, Hoàng đế, Hoàng hậu lại được xá-lợi, lưu ánh sáng rải sắc đẹp hoặc nổi hoặc chìm chẳng phải chí đức tinh thành đạo hợp linh thánh thì đâu thể thần công diệu tướng đặc biệt như vậy. Chúng thần vâng lệnh xương năm, đã thấy đời thái bình, sống gặp nghiệp lành, mới ra khỏi cảnh trần lao, không kể xiết sự vui mừng, kính lạy nêu bày khen ngợi để tâu.

Đệ tử cúi xin bậc Chánh giác che chở ủng hộ chúng sinh, cứu sinh linh nơi biển khổ, cứu ngu mê nơi nhà lửa. Sở dĩ trẫm dốc lòng hồi hướng kết niệm quy y, suy nghĩ cùng thần dân trong nước và chốn u hiển, đồng tôn sùng nghiệp thù thắng cùng làm nhân lành, cho nên phân chia xá-lợi xây dựng tháp thần, mà Đại Thánh thương xót liền bày tướng sáng, trong cung điện xá-lợi giáng linh đâu suy lường nguyên do, tự nhiên biến hiện, vui mừng đảnh lễ được việc chưa từng có. Đây thật là chúng sinh nhiều may mắn kéo dài phước lành này, đâu phải Trẫm chí thành mà cảm ra. Xét vương công đồng nêu mừng kính càng sâu trẫm cùng Vương công và tất cả thứ dân nên lại càng thêm gắng gổ làm cho Tam bảo hưng thạnh. Nay chân hình xálợi còn có năm mươi, sở ty có thể nương cách thức trước chia rước vào trong nước, ngõ hầu ba đường sáu nẻo khỏi ràng buộc, bẩm thức hàm linh đồng lên diệu quả. Người chủ thi hành.

Sứ giả ba nước Cao Lệ, Bá Tề, Tân La, sắp trở lại, đều thỉnh một viên xá-lợi về bổn quốc xây tháp cúng dường, chiếu chỉ đều chấp nhận. Chiếu chỉ cho chùa Đại Hưng Thiện ở kinh đô xây tháp, trước để xá-lợi ở nhà Thượng Thư Đô, sáng ngày mồng hai tháng mười hai xuất phát. Lúc này sắc trời trong sáng, khí hòa gió yên, kiệu báu, cờ phướn, hương, hoa, âm nhạc các món cúng dường cùng khắp nẻo đường, kẻ đạo người tục, kẻ nam người nữ không biết mấy ngàn vạn ức, phục chương hành ngôi vị theo dung nghi có thứ lớp.

Trên trụ quốc Không Công An Đức Vương Hùng trở xuống đều bước theo đến chùa, lập đại hội vô giá mà lễ sám. Có chim sẻ xanh đùa giỡn trong chúng như quen biết, hoặc rút dao đeo ném đi để bố thí, ngay cả người nhóm họp mà dưới đều không có ai bị thương. Ngày hai mươi ba tháng giêng năm thứ hai hiệu Nhân Thọ lại chia cho năm mươi mốt châu xây dựng linh tháp, ra lịnh Thứ sử Tổng quản trở xuống, huyện úy trở lên hãy bỏ việc thường trong bảy ngày để thỉnh Tăng hành đạo, giáo hóa, đã sát, thì tiền mười văn, một như cách thức trước, kỳ hạn là giờ ngọ ngày mồng tám tháng tư đồng đặt xá-lợi niêm phong vào hòm đá, chỗ có cảm ứng điềm lành chép riêng như sau:

Châu Hằng dâng biểu rằng: Xá-lợi đến châu xây dựng linh tháp. Ngày mồng bốn tháng ba xálợi đến châu, liền cùng quan nhân của châu phủ tuần qua xem xét chỗ định đắp tháp, chỉ có chùa Long Tạng ở Tự Hạ là đáng được xây dựng tháp. Ngày mồng mười tháng ba đào đất nền, đến ngày mười sáu vào giờ mùi có gió từ phía Nam thổi đến hơi thơm vào chùa rất kỳ lạ không thể so sánh, đạo hay tục, quan hay dân đều nghe, và có người già họ Kim tên Toản, hơn hai mươi năm qua bị bịnh mũi không nghe được mùi thơm hay hôi, mà lúc đó ở trong chúng cũng ngửi được hơi thơm và lành bịnh mũi. Đến ngày mồng tám tháng tư, trước giờ ngọ muốn hạ xá-lợi, quang cảnh trong sáng, bầu trời như rộng ra không có một áng mây, trong hư không liền mưa báu vụn hoa trời giống như vàng bạc nát vụn lớn nhỏ lẫn lộn rơi xuống lả tả, giống như tuyết rơi. Trước rơi trên hòm đá ở nền tháp, rơi khắp trong chùa Thành trị, đều có nhiều màu sáng rỡ, vàng, pha lê trong sáng như mặt trời, liền đem áo hứng lấy, lại bỏ trên đất. Kẻ đạo người tục đại chúng hơn mười muôn người đều thấy được. Lại trụ trong chùa hai chỗ Đông Tây bỗng có hơi lạ sắc vàng và trắng, ban đầu nhỏ sau to như khói ngọn đuốc, hình rồng uyển chuyển uốn cong thẳng lên xoay tròn đỉnh tháp vọt lên trời xanh chớ so lường dài ngắn, rất lâu mới mất. Lại có bốn con hạc trắng từ phía Đông bắc bay đến nhiễu quanh trên tháp rồi bay về phía Tây nam. Đến giờ Tỵ ngày hai mươi xây xong nền tháp lại mưa báu vụn và hoa trời, hứng được đầy một thăng liền sai quân hành-tham là Vương Lượng đem dâng cúng trước. Hoàng đế nghe hoa trong báu vụn lại được ba viên xá-lợi rất là hoan hỷ.

Châu Doanh dâng biểu rằng: Đào đất để đặt hòm đá xá-lợi, thời có thể hơn sáu thước, trong đất bỗng có ánh sáng sắc tím phút chốc bèn mất. Đất kia liền có lằn đen xen lẫn thành chữ viết lối chữ triện rằng: "Tháp Phật Chuyển thánh vương" xin kính cẩn dâng biểu tâu vua biết.

Châu Lê dâng biểu rằng: Đào nền đặt tháp xálợi thì nhặt được dưới đất một bài minh bằng ngói viết rằng: "Ngàn thu muôn năm vui chưa hết."

Châu Quán dâng biểu rằng: "Trên tháp xá-lợi có mây năm màu như bánh xe, xuất hiện từ giờ ngọ đến chiều".

Châu Ngụy dâng biểu rằng: Chỗ đưa xá-lợi mấy lần phóng quang, lại có các người bịnh hoặc mắt mù hoặc bịnh ngũ tạng phát nguyện lễ bái bịnh liền được lành. Đến ngày mồng tám tháng tư, sắp hạ xá-lợi, giờ ngọ trời bỗng có một áng mây năm màu hương thơm kỳ lạ, trong chốc lát liền rơi xuống hoa vàng. Đến sáng ngày mồng chín lại mưa hoa bạc đầy khắp ao trong thành, hoa kia lớn như trái du, nhỏ bằng hỏa tinh, mọi người đều được hòm đầy dâng cúng. Ngày ấy lại có một con chó đen tai thòng, ngực trắng, ở trước tháp xá-lợi duỗi chân trái co chân phải, thấy người hành đạo liền đứng dậy hành đạo, thấy người trì trai nó cũng trì trai, phi thời cho ăn nó không ăn, chỉ muốn uống nước trong, đến sáng hôm sau giải trai giới, cho cháo mới ăn. Trong chùa kia trước có mấy con chó dữ, nếu thấy một con chó nào đến thì đều chạy ra sủa cắn, khi thấy con chó này vào chùa đều cúi đầu cụp đuôi. Ngay lúc đó có hơn ba mươi muôn người vừa nam vừa nữ đều không ai biết con chó này, chẳng biết nó từ đâu đến.

Châu Thái dâng biểu rằng: Bảy ngày trước lúc muốn hạ xá-lợi, đất chấn động nhẹ, ngày thứ tám chấn động mạnh.

Châu Duyễn dâng biểu rằng: Sắc lệnh chia đưa xây tháp, do huyện Hà Khâu có chùa Phổ Lạc rất thanh tịnh, liền ở đó đặt thờ xá-lợi. Cho đến ngày 25 tháng 03 mới cẩn thận sửa soạn làm nắp hòm, lúc mới mài thể chỉ có chất xanh, việc xong biến thành mã não, năm sắc xen nhau, sắc màu sáng rỡ, lại trong đó sinh ra ngọc trắng, trong ngoài thông suốt soi vật như nước, bên trong rỗng sáng soi người như gương, dùng kia đưa xá-lợi.

Châu Tào dâng biểu rằng: Ngày 29 tháng 03 xá-lợi ở trên Tử Thành hiện ánh sáng đỏ, giờ thân ngày mồng năm tháng tư xá-lợi hiện song thọ và có hiện sư tử. Giờ hợi ngày mồng sáu hiện rồng, hoa, cây, sau có tượng Phật đều xuất hiện, cũng giờ mẹo ngày mồng sáu lớp sơn ngoài ván khám có ánh sáng hình dạng như sắc hoa vàng, giờ thân ngày ấy sơn trên ván phía Bắc khám hóa hình Phật, Bồ-tát, cây song thọ, giờ hợi xá-lợi trong tinh xá xuất hiện ánh sáng hoa vàng trắng dài bốn năm tấc. Giờ thìn ngày mồng tám sơn ván khám phía sau hiện hình dạng mây, sương, ánh sáng vàng, giờ tỵ sơn ván khám phía sau hiện các hình Ta-la song thọ, hoa sen, tượng Phật, chúng Tăng, sư tử v.v..., giờ ngọ trên tháp hiện mây năm màu. Sau giờ ngọ sơn trên ván trong khám hiện rừng Ta-la song thọ, lầu gác v.v... Ngày mồng chín, sơn trên ván trong khám có nhiều chồng đá chồng nến, giáp sau sơn ngoài ván khám có hình cây đại Ta-la và Tăng cầm lư hương, tượng Phật vàng hiện, giống như Thái tử lúc mới sinh, sắc như vàng ròng, phía sau có ba vị Tăng thân đắp pháp phục vàng tím, tay bưng lư hương cúng dường, hơi hương ấy không giống hương ở thế gian mà ta thường ngửi thấy mỗi ngày. Châu Tấn dâng biểu rằng: Xá-lợi ở trước tháp phát ra ánh sáng ba lần, đều ánh sáng sắc tím, mọi người đều thấy.

Châu Kỷ dâng biểu rằng: Ngày bốn tháng ba đem xá-lợi đến châu, giờ thìn ngày mười bốn trong bình lưu ly có sắc trắng như ánh trăng, chốc lát liền biến thành sắc đỏ. Đến ngày hai tháng tư biến thành sắc sáng tím, hoặc hiện sắc xanh xoay chuyển trong bình, một cái qua một cái lại xoay vần không dứt, kẻ đạo người tục chiêm ngưỡng đều quy y thật tướng dung nghi, rất lâu mới tan. Giờ ngọ ngày bảy thần ảnh lại xuất hiện biến động sáng rỡ như trước chẳng khác.

Châu Dư dâng biểu rằng: Ngày 28 tháng 02 xálợi đến châu, ở trạm ngựa phía Tây Minh đêm, đêm sau trời mưa, xá-lợi phát ra ánh sáng hướng châu bốn mươi lăm dặm, châu này có chùa Tịnh Đạo, Tăng trong chùa hướng về phía Bắc núi xem ánh sáng, bóng từ chỗ xá-lợi ở trạm ngựa đến, nắp hòm đá đựng xá-lợi ngày năm tháng tư mài sửa mới xong, bèn biến thành hai vị tiên, bốn vị Tăng, một vị cư sĩ, một Kỳ lân, một Sư tử, hai con cá, còn bao nhiêu đều giống như hình non, nước.

Châu Đặng dâng biểu rằng: Ngày sáu tháng tư xá-lợi ở hòm đá biến thành ngọc và mã não, đá kia có lằn, hiện ra ba chữ "Chánh Đức Quốc" và có vị tiên, lân, phụng đều xuất hiện.

Châu An dâng biểu rằng: Chùa Tần đặt đưa xálợi, Pháp sư Tịnh Nghiệp cùng quan nhân trong châu đo nền, giờ thân bỗng có hơi thơm, dày đặt nương hư không mà đến, thơm tho nhiệm mầu chưa từng có, kẻ đạo người tục đều kinh ngạc theo đến, hương thơm đầy khắp đến canh năm mới tan hết. Lại đến ngày 08 tháng 04 hành đạo xong lập đại hội cúng trai, giờ ngọ muốn hạ xá-lợi, lúc này có hơn một vạn người vừa đạo vừa tục, Pháp sư lên tòa cao, tay bưng xá-lợi để đưa cho đại chúng thấy, mọi người buồn thương không thể kể xiết, liền có sắc đỏ từ miệng bình trong tay Sư phát ra, lại hai lần phát ra ánh sáng cao một trượng. Lại sao hòm đá bỗng có mây trắng tròn trịa như lọng báu ngay trên hòm xoay mấy vòng, nhiễu xong trở lại chỗ xuất phát rồi mất.

Lại phía Nam tháp, trước có lầu thờ Phật, ngay khi chôn đóng xá-lợi ở dưới và lập đạo tràng và sai hai người trông coi giữ gìn, bỗng nghe trên lầu có tiếng nhiều người đi, xem cửa lầu gác vẫn đóng. Sau lại nghe tiếng đi liền chạy đi báo cáo, chủ chùa đến cùng mở cửa lầu lên xem thì chỉ có tượng Phật, từ ngoài đều không thấy. Lại ngày hạ xá-lợi xong đến giờ thân Pháp sư Tịnh Phạm và Tăng Đầu-đà là Tịnh Thao ở sau tháp xá-lợi đến bên Thủy Nham vì kẻ đạo người tục mà trao cho giới Bồ-tát, mọi người thấy bầy cá đi thành đội dưới nước, đầu đều quay về hướng Nam dường như muốn quy y, khoảng chừng hơn một vạn, thỉnh hai Thiền sư đi thuyền vào nước trao giới cho cá, bỗng nhiên các con cá trong nước đều quay đầu hướng về thuyền, theo nhau vâng hành như nghe pháp.

Châu Triệu dâng biểu rằng: Ngày 04 tháng 03 xá-lợi đến châu, các quan ở chùa Văn Tế ở chùa sắp đặt xây tháp, hai ngày đả sát hành đạo, xá-lợi ở tháp phát ra ánh sáng đỏ, từ giờ mùi đến giờ thân lại thấy khác nhau, hoặc giống hình tượng, hoặc giống lầu gác, hoặc thấy ánh sáng trắng chợt lớn chợt nhỏ nhiễu quanh xá-lợi, nhiễu bình hành đạo, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc chậm hoặc nhanh, quan nhân, đạo, tục, đều thấy vui mừng, kinh ngạc, reo hò nhảy nhót trong chùa, đến bốn ngày lại phát ra ánh sáng đỏ, sáng rỡ như sắc vàng, ngang dọc hơn một thước, duyên tướng đỏ tím trước sau ba lần rất sâu sau mới mất. Lại thấy một tượng Phật cao hơn hai thước ngồi xếp bằng trên tòa hoa sen, lại có hai Bồ-tát hầu hai bên cao hơn một thước, từ giờ mẹo đến giờ tỵ thấy các hình tướng, kẻ đạo người tục bốn bộ hơn hai vạn người đều chiêm ngưỡng.

Châu Dự dâng biểu rằng: Bình xá-lợi có ánh sáng trắng phút chốc thành năm màu xoay chuyển trong bình, hình tướng kỳ lạ. Lại khắc bài minh xálợi, đá kia lại không khác chất, khắc (đục) đến chữ Hoàng đế thì từ điểm trên và dọc kéo vẽ ngang, nếu đục chỗ nào thì thành như khắc vàng.

Châu Lợi dâng biểu rằng: Xá-lợi vào canh một đêm 26 tháng 03 phát ra ánh sáng, chiếu khắp nha môn như ánh sáng mặt trăng.

Châu Minh dâng biểu rằng: Ngày 08 tháng 04 hạ xá-lợi, đào đất đặt hòm đá thì được một bức tượng.

Châu Vệ dâng biểu rằng: Ngày 03 tháng 04 trai xong, ngoài bình vàng xá-lợi có sắc hồng đỏ đẹp đẽ khác thường, hoặc đi ở đáy bình lưu ly, hoặc dạo ngoài bình, duyên trên và dưới bình ánh sáng chiếu bên ngoài, đến ngày mồng tám chiếu như đầu.

Châu Minh dâng biểu rằng: Xá-lợi, ngày 11 tháng 03 trời mưa thấm ngọt, ngày mười ba mới hết, có Sa-môn giới đức là Tăng mạnh trước bịnh chân không thể đi được, trong ngày ấy nghe xá-lợi sắp đến sẽ đi qua chùa, Tăng Mạnh tự thân bị đau không ra đón rước được mới sai đệ tử là Pháp Tạng dìu ra cửa, hồi tâm chánh niệm bèn đi được, đi ra ngoài thành mười dặm, đích thân rước xá-lợi, nhờ đó bệnh lành dần dần đi được.

Châu Mao dâng biểu rằng: Ngày 27 tháng 02 xá-lợi đến châu, ngày ấy liền y cách thức sắp đặt, tất cả nam nữ đều phát tâm Bồ-đề tranh nhau đến quy y, người câm nói được, người què đều đi được, hòm đá biến thành lưu ly trong ngoài sáng chói. Ngày 12 tháng 04 trời mưa hoa bạc, biểu tấu dâng vua biết.

Châu Ký dâng biểu rằng: Xá-lợi phóng quang năm sắc, chiếu khắp cả thành. Lúc này có vị Tăng trước bị mù mắt cũng thấy được xá-lợi, lại có một người đau chân què co rút đã mười lăm năm, từ khi xá-lợi đến người bịnh này lễ bái phát nguyện liền đi đứng được.

Châu Tống dâng biểu rằng: Ngày 04 tháng 03 xá-lợi đến châu, ở chợ viện huyện thành bội Tống trước có giếng ngâm xưa, bởi do nước mặn và đắng có phèn nên hoàn toàn không thể uống được, có người dân của huyện tên Hồ Tử Càn hòa nước giếng với bùn thì lạ thay màu nước kia lại trắng, nếm thử rất ngọt. Ngày 03 tháng 04 xá-lợi trong tháp phát ra ánh sáng màu đỏ. Canh năm đêm mồng sáu trong chùa lại phát ra ánh sáng màu trắng, giờ thìn mồng bảy trong chùa trời mưa hoa trắng mắt thấy mù mịt giống như tuyết nhỏ mà không rơi xuống đất. Giờ Ngọ ngày mồng tám lúc sắp đưa xá-lợi vào hòm trên trời có hạt trắng bay liệng trên nền tháp.

Châu Hoài dâng biểu rằng: Xá-lợi thờ tại chùa Trường Thọ ở thành của châu, giờ thìn ngày mồng năm tháng tư, có một con chim trĩ trống bay đến đậu trên hòm, tâm nhàn từ cánh dung chất hoa tươi, tự bay tự dừng không hề sợ hãi, người dân huyện Hà Nội là Dương Mại đặc biệt chỉ bày, vừa đạo vừa tục hơn sáu ngàn người đều đồng thấy, ra lịnh khiến Sa-môn Linh Xán liền cho thọ giới, trĩ kia hướng về Sư dường như nghe pháp. Sư nói rằng: "Chim trĩ đây là chim hoang, theo lý nội pháp không cho nhốt trong lồng.", liền sai đem vào núi Thái Hành ở phía Bắc thành mà thả. Nhà ngang tháp xá-lợi lại có một dấu vết, từ phía Đông nam tháp ba mươi bước mà đến thẳng tháp không còn thấy dấu, lại không vào chỗ, hoặc rộng bốn tấc, hoặc ba tấc, uốn lượn ngoằn ngoèo giống như hình rồng rắn, quan nhân đạo tục đều thấy. Mồng tám, đến trước giờ ngọ xá-lợi mới đưa vào hòm tháp, bèn phát ra ánh sáng ở ngoài bình, xoay quanh mấy vòng sắc màu sáng rỡ soi chiếu rất đẹp, hoặc trên hoặc dưới, chợt ẩn chợt hiện.

Châu Biện dâng biểu rằng: Ngày mồng hai tháng ba xá-lợi đến châu, tạm đặt ở Quán châu. Đêm mồng sáu Đại đức tăng là Tuệ Triệt v.v... bỗng nghe hơi thơm có điềm khác thường, đến mồng tám, chư Tăng rước xá-lợi đến trước tháp, Đại đức tăng là Tăng Xán cùng năm người lại nghe hơi thơm, cách cửa chùa Tuệ Phước hơn bốn mươi bước bèn phát ra ánh sáng xanh như màn sương che sáng rỡ rất lâu mới mất. Chùa kia có xá-lợi ở Tăng phòng cúng dường, ngày đó Trương Tương Nhân là người châu Kỷ ở Tăng phòng thấy xá-lợi trong chùa lại phát ra ánh sáng xanh giống tướng trạng sắc màu xá-lợi lúc mới đến. Ngày mồng mười lại đến thấy ánh sáng xanh ở Phật đường chùa Quang Lâm cao năm thước, canh tư đêm ấy lại thấy ánh sáng nhiều màu xanh đỏ ở chùa. Lại có một cụ bà bị đau lưng đã hơn hai mươi năm, chống gậy đi sát đất, nghe xá-lợi đến chùa, ráng đến lễ bái, ở trong đại chúng gặp ánh sáng xá-lợi, lưng đau liền được lành bỏ gậy mà đi.

Châu Lạc dâng biểu rằng: Ngày mồng sáu tháng ba xá-lợi đến châu, liền đặt thờ tại chùa Hán Vương, đến ngày hai mươi ba bỗng tỏa hơi thơm, thế gian chưa từng có, đến canh một đêm mồng bảy tháng tư mới hết, gió Đông bỗng nổi lên đèn hoa tắt lịm, ở phía Đông nam Phật đường có ánh sáng thần sáng rỡ, lại có gió thơm thổi đến, quan nhân đạo tục đều nghe thấy, vì thế càng thêm khắc niệm, đến mồng tám lúc sắp hạ xá-lợi, cành lá cây ngô đồng bên tháp rủ xuống.

Châu U dâng biểu rằng: Ngày 26 tháng 03 ở chùa Hoằng Nghiệp an trí xá-lợi, hôm đá mới mài, hai mặt dùng nước rửa mà sáng như gương nước, trong ngoài thông nhau, ánh sáng tím sáng rỡ, đá kia sặc sỡ, lại giống như mã não, thấm nhuần sáng rỡ như lưu ly, đến mồng hai tháng tư khởi cùng hành đạo. Đến giờ hợi mùng ba, trước xá-lợi đốt hương cúng dường, ánh đèn sáng rỡ sân, các ngôi sao sáng rỡ trong trời đêm, có ánh sáng co rồi duỗi ở trên kiệu Phật, đến mồng tám xá-lợi vào hòm, tự sáng sớm đến giờ thìn hòm đá hiện lằn phảng phất hình tượng có Bồ-tát ánh sáng màu đẹp đẽ hoa mỹ, lại giống như các vị tiên, nghe trong đó chim thú cây rừng các hình trạng mà không mê hoặc chúng thật khó nói hết, kia có văn lý chiếu soi rõ ràng, nay vẽ bản đồ tiến dâng.

Châu Hứa dâng biểu rằng: Đầu đêm mồng ba tháng ba ở cánh phía Bắc của châu chín mươi dặm, xá-lợi phát ra ánh sáng tím, đỏ hai màu sáng rỡ trong và ngoài thành châu, thứ dân đều thấy ánh sáng thần. Ngày mùng bảy tháng tư ở đại sảnh tại châu xá-lợi xuất hiện ngoài bình vàng, trong bình lưu ly hành đạo phóng quang, đến ngày mồng tám ở tháp của chùa Biện Hành lại phát ra ánh sáng, giờ ngọ xá-lợi sắp đặt vào hòm đá lại có ánh sáng năm sắc màu, mây màu rực rỡ đến che trên tháp, hình mây như cái lọng. Ngày đó ở phía Tây nam của tháp cách chừng hơn trăm bước, nương bổn ký tạo tháp A-dục, một ao khô không có bốn bên bờ, giữa ao có thể sâu đến chín thước, bỗng có giếng ngọt xuất hiện, nước trong giếng không thể nghĩ bàn, ngay lúc ấy kẻ đạo người tục hơn hai muôn người cùng uống, đều thấy và chép điềm linh ứng dâng biểu tâu lên.

Châu Kinh dâng biểu rằng: Xá-lợi hiện mây như xe, lọng. Ngay trên tháp trong mây mưa hoa bay liệng rơi xuống, các loài chim bay lượn trên tháp.

Ở châu Tề, xá-lợi vốn có một, đến kia thấy hai, phát ra ánh sáng soi thấy, nghe mùi thơm lạ, trong mây có tiếng tự nhiên như chuông trống và khen ngợi chim bay dưới tháp.

Ở châu Sở, ngay ngày hành đạo xá-lợi nai rừng đến nghe pháp chim hạc bay trên tháp.

Ở châu Cung, xá-lợi vốn có một, đến kia thấy ba, phóng quang sáng rỡ, đào dưới nền đất bỗng được ngôi tháp đồng, và người câm nói được.

Châu Doanh xá-lợi ba lần phát ra ánh sáng, sắc trắng rùa xưa, đá tự nhiên tách ra lấy làm hòm đá.

Xá-lợi ở châu Kháng. Trong núi đào nền được đá tự nhiên, làm hang động hòm xá-lợi.

Châu Đàm, chim sông đón rước xá-lợi. Châu Lộ, xá-lợi lúc đến kia tự nhiên suối vọt lên, người uống nước suối được lành bịnh. Châu Hồng, xá-lợi đến có chim cổ trắng dẫn đường.

Châu Đức, xá-lợi đến người què đi được, chim chó nhiễu tháp. Châu Trịnh, xá-lợi phát ra ánh sáng, phướn lọng rủ bên trong.

Châu Giang, xá-lợi đến, ngày hành đạo, có người cày được tượng đồng.

Châu Lan, đào nền làm tháp thờ xá-lợi thì được một tượng đá. Lại đứa nhỏ cạy được hai tượng đồng.

Châu Cừ, xá-lợi hiện vầng mây trắng như vị tiên bay, tự nhiên suối vọt lên, người uống được lành bệnh.

Châu Liêm chưa được xá-lợi, chỉ được một hạt xá-lợi phát ra ánh sáng như hơi khói lư hương Phật, lại giống như hoa sen xanh và trắng, trời mưa báu vụn.

Châu Ung dâng biểu rằng: Ngày 12 tháng năm niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai, chùa Thắng Quang, chùa Đại Hưng Thiện, chùa Pháp Giới trong kinh thành, trong công sở quan châu và hẻm nhỏ đường lớn trong thành đều mưa vụn bạc, lớn như quả cây du, nhỏ như hạt cám, tiêu biểu cho đón rước. Giờ mùi ngày 12 tháng năm tại chùa Nhân Giác có gió từ hướng Tây nam thổi đến, hơi thơm dày đặc, Sa-môn và đạo tục đang sống đều nghe, ngay đêm đó mưa báu vụn và hoa trời, cây chuối, cành lá cây cỏ, trên cộng hành, người đều leo lên được, cỡ lớn nhỏ như trước không khác.

Đêm mùng năm tháng sáu niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai, cung Nhân Thọ ở chùa Từ Thiện trong Phật đường mới có linh quang ánh sáng hiện, hình dạng như cái bát, từ trụ trước nhiễu cây lương, chúng Tăng đều thấy.

Đêm mồng năm tháng sáu niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai trời mưa vụn bạc và hoa trời, Tỳ-bà trên lá và trên đầu các lá cỏ rơi xuống đất.

Mồng tám tháng sáu niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai, các châu đón rước xá-lợi, Sa-môn khiến trở lại cung, gặp nhau hỏi thăm an ủi xong, đến ngày mồng chín nhân dịp chùa Từ Thiện làm trai Khánh Quang, Tăng chúng đến chùa tán tụng, kinh hành, nhiễu hương, thọ thực, trong hư không lại lác đác mưa vụn bạc và hoa trời, xá nhân là Thôi Quân Đức lượm đầy đem dâng cúng. Chùa Thắng Quang trong kinh thành bắt chước châu Thiểm làm hòm đá đựng xá-lợi được biến hiện điềm lành có hình tướng cây Sa-la song thọ, ngày 23 tháng 05 niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai về sau ở chùa mỗi ngày phát ra ánh sáng liên tiếp không dừng, duyên cảm liền phát không chỉ ngày đêm, thành trị đạo tục, người từ xa đến xem quy y lễ bái, chật cửa kín đường qua lại như chợ, gặp ánh sáng này chiếu động tâm quần chúng, người đều buồn vui lẫn lộn mà phát tâm, các chùa trong thành huyện ngoài các châu lụa trắng mịn bắt chước đem đi, hoặc trên kiệu phát ra ánh sáng, hoặc soi chiếu trên đường, hoặc đến trước chỗ mở hiện sáng rỡ, sắc màu mỗi ánh sáng người thấy không giống nhau.

Ngày 15 tháng 07 niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai chùa Diên Hưng trong kinh thành làm lễ Quán Đảnh tượng Phật Thích-ca bằng vàng đồng cao trượng sáu, đêm đó trời mưa báu vụn và hoa bạc, hơi thơm rất lạ không gì sánh được.

Xá-lợi ở châu Thiểm từ giờ thân ngày 15 tháng 03 đến giờ Tuất ngày 08 tháng 04 gồm có mười một lần hiện điềm linh, gồm có hai mươi mốt việc và bốn lần phát ra ánh sáng.

Trong ánh sáng thấy hoa cây, hai lần thấy mây ngũ sắc, đào đất được chim, hòm đá thay đổi, tám cây Ta-la, dưới cây thấy nước, một tượng Phật nằm, ba Bồ-tát, một Thần ni. Trong hòm thấy chim, ba cành hoa vàng kiệu mây thành huân tướng, cờ phướn, lọng báu, tự nhiên, trong hòm phát ra mây thơm, lại phát sáng.

Xá-lợi ở thành châu Thiểm, trong canh hai đêm 23 tháng 03 chùa Đại Thông, chùa Thiện Pháp, chùa Xiển Nghiệp đều thấy ánh sáng mà chỉ có chùa Thiện Pháp là thấy trong ánh sáng có hai cây hoa hình sắc rõ ràng, rất lâu mới mất, sắc ấy ban đầu màu đỏ, sau lại biến thành màu trắng, rốt lại tan như thủy ngân, trong khắp nhà mọi vật đều sáng suốt. Xá-lợi trong chùa Đại Hưng Quốc, trong canh hai đêm mồng hai tháng tư chùa Linh Thắng thấy ánh sáng, rõ suốt cây trái trước sân và cỏ cây ở gò Bắc, ánh sáng chiếu thấy hình kia. Dưới nền tháp đào được chim, xá-lợi đến hướng chùa Đại Hưng Quốc. Giờ mẹo ngày 28 tháng 03, Tư Mã Trương Bị cùng Đại Đô Đốc Hầu Tấn xem xét việc xây nền tháp, đào đất sâu năm thước có dân làng Ngọc Sơn, của huyện Văn Hương thấy hóa mây, dưới cái cuốc bỗng xuất hiện một con chim màu xanh vàng lớn như chim cút, dần đi trong tháp an nhiên tự tại, cầm nỏ không sợ, chưa đến lúc đưa thì chim kia bị chết, nay làm việc phước ở trong tháp xá-lợi được con chim khác thường cho xuất xứ là kỳ lạ nghĩa là hợp với sự tốt đẹp, nay sai vẽ riêng hình chim, kính cẩn tâu lên.

Mây ngũ sắc lại xã hội, giờ thân ngày 15 tháng ba, xá-lợi đến châu Thiểm nơi khe suối cách phía Nam thành chừng ba dặm có mây ngũ sắc từ phía Đông nam ùn ùn nổi lên phút chốc bỗng thành một cái lọng màu Tử La, lúc xá-lợi vào thành mới bản chất tan mất, mọi người lúc đó đều thấy.

Đến giờ mùi ngày hai mươi tám ở chùa Đại Hưng Quốc lại có mây ngũ sắc từ Đông nam và Tây bắc cùng đến hợp nhau ở trên tháp xá-lợi chung thành một đoạn, lúc này có Văn Lâm Lang Vi Phạm Đại Đô Đốc Dương Mân và quan dân cùng thấy, mây kia chốc lát liền tan.

Hai lần phát tiếng, xá-lợi ở châu, đêm 23 tháng 03 từ tòa báu phát ra tiếng như người trong đêm vắng đánh tiếng đến ba lần mới thôi. Sau ở chùa Đại Hưng Quốc, giờ dậu ngày 05 tháng 04 lại xuất hiện một tiếng lớn như trước kẻ đạo người tục đều nghe. Bốn mặt trong ngoài hòm đá thấy ánh sáng Phật, Bồ-tát, Thần ni và cây Ta-la. Giờ tỵ ngày 07 tháng 04, muốn sai người đưa đi liền phóng quang đồng tiêu biểu cho bốn điềm lành, khi chứa phát thì Tư Mã Trương bị cùng quan huyện Trịnh Càn Ý, huyện thừa Văn Hương là Triệu Hoài Đan, Đại đô đốc Hầu Tấn, tương tác nhân dân Hầu Khiêm v.v... đồng thấy phía ngoài bên Đông mặt đá có lằn văn nổi, Trương Bị v.v... lấy làm quái lạ, lại đến mặt Bắc thành ý dùng tay áo chùi, phía trên liền thấy một cặp cây Ta-la, Đông Tây đối nhau, cành lá đầy đủ có màu xanh đậu, chốc lát mọi người chạy đến, lại ở ngoài mặt Tây lấy nước rửa liền thấy hai cái cây lá có năm màu. Rễ mặt ngoài phía Nam lại có hai cây cành thẳng tắp lá sắc vàng nhạt. Kế ngoài mặt phía Đông lại có hai cây lá dài sắc xanh, dưới cây bốn mặt đều có lằn nước. Giữa hai cây này Sử Nhân Văn Lâm Lang Vi Phạm ban đầu thấy một con chim giống như nằm, Tư Mã Trương Bị lát sau xem lại thì chim kia đã đứng, trước chim có ba cành lá vàng, hình chim lớn nhỏ, màu lông, không khác với chim đào đất được lúc trước, chim kia lát sau bay về hướng Tây đến dưới Phật dừng lại trong hòm. Gần góc Tây nam lại có một Bồ-tát ngồi trên đài hoa mặt hướng về phía Đông, có một vị Ni đứng mặt hướng về Bồ-tát chắp tay cách nhau hai tấc. Ở mặt phía Tây lại có hai Bồ-tát đều đứng một sắc vàng, mặt hướng về phía Tây. Một sắc bạc mặt hướng về phía Bắc, cách nhau có thể ba tấc. Trên môi Tây có một Phật nằm, thân nghiêng, đầu hướng về phía Bắc, mặt hướng về phía Tây. Ba vị Bồ-tát kia ở trong hòm đá đều, phát ra ánh sáng hồng tím cao cả thước, từ giờ tỵ đến giờ mùi hình trạng không thay đổi, vẽ bản đồ rồi sau sắc dần dần diệt mất, kẻ đạo người tục thấy được số đó rất nhiều. Hòm này vốn là sắc đã xanh rất tối tăm, khi hiện điềm lành biến thành sắc trắng, bên trong sáng rỡ xoay vòng bốn mặt, đều khiến người ngồi thấy được nhau không bị trở ngại. Bốn mặt trong ngoài hòm kia đều thấy một Đức Phật, ba Bồ-tát và một ni, một chim, ba cành hoa, tám cây châu. Nay vẽ riêng hình trạng cẩn dâng tấu trình. Giờ ngọ, bốn phương mây nổi biến thành luân tướng, lại có cờ phướn, lọng báu tự nhiên, và trên tháp mây thơm hai lần thấy phát ra ánh sáng.

Giờ ngọ mồng tám tháng tư muốn hạ xá-lợi, lúc này đạo tục đều buồn khóc, bốn phương bỗng nhiên đồng thời nổi mây như khói mù, muốn hướng lên đến mặt trời, liền vây quanh mặt trời biến thành một vừng sáng dụ như bánh xe, trong thì có mây trắng vòng tròn che mặt trời, ánh sáng lần lần hơi tối còn như một cái chén nhỏ, ở ngoài luân bao quanh thứ lớp lấy mây làm bức, bức và luân kia đều có màu hồng tím. Đến lúc hạ xá-lợi xong, mây kia tan mất, mặt trời sáng sạch như trước. Lại ở ngoài tường mé Tây Bắc chùa tháp có cờ phướn, lọng báu tự nhiên thật lớn, cũng thấy cờ phướn, lọng báu vây quanh xá-lợi, ngay lúc đó cho là có người cầm cờ phướn cúng dường, đến lúc hạ xá-lợi xong thì cờ phướn, lọng báu kia bỗng biến mất, lúc này kẻ đạo người tục nhìn thấy rất đông. Đến giờ tuất, Tư Mã Trương Bị v.v... thấy trên tháp có khí mây xanh từ tháp bay ra, mây đó rất thơm, liền gọi Sử Nhân Văn Lâm Lang Vi Phạm và Tăng chùa Đại Hưng là Đàm xướng vào bên trong xem, Bị và Vi Phạm đồng thấy ánh sáng phát ra từ hướng Tây Bắc và Đông Nam, phút chốc thì biến mất.

QUYỂN 18

THIÊN THỨ TƯ: PHÁP NGHĨA (PHẦN 1)

Pháp là gì? Cái gọi là làm chuẩn để nương tu hành, trong thần sạch hoặc mà làm thú hướng.

Nghĩa là gì? Cái gọi là rất có lý do ngàn Thánh không đổi được nghi kia, vạn tà chẳng quay được đầu mối kia.

Pháp năm thường của thế tục là: Nhân, Nghĩa, lễ trí, tín, trăm vua không khác sách kia, chúng hiền khen ngợi giúp đỡ mà không trụy đọa.

Đạo pháp có hai đế là chân và tục. Chư Phật do đó mà sinh, chúng sinh do đó mà ngộ. Nhưng thế tục giữ gìn năm thường, làn sóng mê hoặc nối kín. Đạo giúp hai đế thắng trí thêm sáng, cho nên chân tục là nền tảng xuất đạo, chánh pháp là phép tắc nhập không. Cho nên luận nói rằng: "Chẳng có tục thì không do đâu thông chân, chẳng có chân thì không do đâu sai khiến tục". Lại nói rằng: "Chư Phật thuyết pháp thường nương hai đế", đây là đại lược thành giáo. Còn hạng lớn, nhỏ, mãn, bán, sách ba hòm tám tạng, rõ hiển hối của tâm trần, hiểu đường khác nhau của nghiệp báo, thông tuệ giải để gượng mờ tâm, rõ tướng đời để thần quang soi chiếu, nếu dùng đây để nêu bày gọi là pháp nghĩa.

Còn lời nói tu hành, suy nghĩ phân biệt linh phủ, thì chánh pháp bốn y mới nghiên cứu thức đến đảo tình, tám trực minh đạo sách tấn tịnh tâm ở vọng cảnh. Ba học mở huyền phủ kia, một đầu mối gồm cả nguồn chân kia, lần nhiễm cơ cấu tự phải được bờ kia, chỉ do cửa tối khó mở, thợ đá dễ mê, chẳng nhờ phương ngôn thì không do đâu thăng lên được. Cho nên từ xưa đạo tục đồng mà hỏi bến, sơ luân tinh linh, thuật đào luyện tâm, hoặc như luận mà dẫn dắt kia hiểu, hoặc bàn thuật mà chép lòng kia, nhờ lời mà hiển bày ý thánh, nhờ dấu vết mà nêu lý nhiệm mầu. Xưa nhà Lương đã nêu bày đầu mối kia, nay đời Đường lại mở rộng trần kia, đều có chí kia, rõ đời đời lời này không mất. Chép chung Thiên Pháp Nghĩa Quảng Hoằng Minh Tập của nhà Lương.

Luận Dụ Đạo của Tấn Tôn Xước, Luận Canh Sinh của La Quân Chương, Luận Thần Bất Diệt của Trịnh Đạo Tử, Luận Báo Ứng của Thích Tuệ Viễn, Luận Tam Báo của Thích Tuệ Viễn, Luận Chiết Tam Phá của Thích Tăng Thuận, Luận Thần Minh Thành Phật của Lương Cao Tổ, Nạn Thần Diệt Luận của Túc Sâm, Nạn Thần Diệt Luận của Tào Tư Văn, Đáp Quan Thần Bất Diệt của Lương Cao Tổ, Thích Pháp Vân và Triều Quý Thư, Tập Tạc Xỉ và Thích Công Thư.

Gồm chép thiên Pháp Nghĩa của Quảng Hoằng Minh Tập đời Đường.

Bài tựa nhiều đời hiền minh giải thích nghĩa các nghi ngờ, Luận Thích Nghi của Tấn Tải An, Tấn Tải An Thư và Pháp Sư Viễn, Nạn Thích Nghi Luận của Chu Đạo Tổ, Thư Tải Trọng và Pháp sư Viện, Tải Đáp Chu Cư Sĩ Về Nạn Luận, thơ Viên Pháp sư cùng Tài, Hà Thừa Thiên Báo Ứng Vấn (Lưu Thiếu Phủ đáp). Đời Tống, Tạ Linh Vận cùng các đạo nhân biện Tông Luận. Hậu Tần, chúa Diêu Hưng gửi thư cho An Thành Hầu nói về nghĩa Phật. Thông Tam Thế Đẳng Luận (Pháp sư La-thập đáp). Diêu Tung, Biểu Vấn Chư Nghĩa (Diêu Hưng đáp). Đời Đường, Sa-môn Thích Tuệ Tịnh soạn Luận Chiết Nghi (Thích Pháp Lâm thuật).

Đời Tề, Cảnh Lăng Vương gửi thư cho ẩn sĩ Lưu Cầu, bài tựa Tề Thẩm Ước Nội Điển, Tề Thẩm Ước vì Hoàng Thái Tử giảng giải sớ. Tề Thẩm Ước vì Cảnh Lăng Vương phát tâm giảng sớ. Tề Thẩm Ước vì Cảnh Lăng Vương giải thích sớ. Lương Thái Tử Cương Thỉnh Đế Giảng. Lương Lục Vân thuật Ngự giảng Kim Tự Ba Nhã Tựa. Lương Túc Tử hiển bày giảng nghĩa Ba Nhã. Hoàng Thái Tử cảm tạ giảng xong. Lương Thái Tử, Cương Thượng Đại Pháp Tụng. Tấn An Vương dâng Thái Tử Huyền Phố Giảng Tụng. Bài tựa Sớ kinh Niết Bàn của Lương Võ Đế. Pháp Bảo Liên Bích Tựa của Tương Đông Vương đời Lương. Bài tựa Luận Thành Thật của Giản Văn đời Lương. Bài tựa Nội Điển Bia Minh Tập Lâm của Nguyên Đế, đời Lương. Bài tựa Thiền Lâm Diệu Ký Tập của Samôn Thích Huyền Tắc. Bài tựa Uyển Châu Lâm của Ty Nguyên Đại Phu Lý Nghiễm pháp. Thái tử Chiêu Minh đời Lương đáp thơ thỉnh giảng (và ba bài khải đáp). Chiêu Minh Tạ Sắc Lại Mộc Thê Như Ý Khải. Chiêu Minh, Lập Nghĩa Nhị đế (giải thích cho hai mươi hai người vừa đạo vừa tục). Chiêu Minh, Lập Pháp Nghĩa thân (cho sáu vị

Tăng hỏi đáp qua lại). Chiêu Minh Tạ Sắc Khán Giảng Giải Nhị Khải, Chiêu Minh Tạ Sắc Lại Niếtbàn Kinh Sớ Giảng Khải, Chiêu Minh Tạ Sắc Lại Đại Tập Kinh Giảng Sớ Khải. Đời Lương, Tấn An Vương gởi thơ cho Quảng Tín Hầu. Tề Thẩm Ước Lập Luận Phật Pháp Nghĩa (năm bài). Tề Thẩm Ước Nạn Thần Diệt Luận của Phạm Chẩn. Trần Sa-môn Chân Quán Nhân Duyên Vô Tánh Luận (và Tự Nhiên Luận của Châu Thế Khanh).

Ngụy thâu Bắc Tề ba bộ Nhất Thiết Kinh Nguyện Văn. Vương Báo Châu Tạng Kinh Nguyện Văn. Tùy Dương Đế Bảo Đài Kinh Tạng Nguyện Văn. Bài Tựa Tam tạng Thánh Giáo của Đường Thái Tôn. Nay soạn bài tựa Tam tạng Thánh Giáo, đời Đường Lượng Thuật Chú Bát-nhã Kinh Tựa, đời Đường Liễu Tuyên gởi thơ cho các Đại Đức phiên dịch kinh.

Phần đầu của thiên Pháp Nghĩa thứ tư trong bộ Quảng Hoằng Minh Tập.

Luận Thích Nghi, Tần Xử Sĩ Tải An gởi thơ cho Pháp sư Viễn. Tải An Nạn Luận Thích Nghi. Chu cư sĩ Đạo Tổ lại gởi thư cho Viễn Pháp sư Tải An (lại đáp) hỏi báo ứng, Hà Thừa Thiên (Lưu Thiếu Phủ đáp) Luận Biện Tông (hỏi đáp qua lại) Tống Thị Trung Tạ Linh Vận, Thuật Phật Pháp Các Thâm Nghĩa. Diêu Hưng chúa nhà Tần (đáp) Chiết Nghi Luận Sa-môn Tuệ Tịnh đời Đường

(thuật).

1. THÍCH NGHI LUẬN CỦA TẤN TẢI AN

An Xử Tử hỏi Huyền Minh Tiên Sinh rằng: Nghe rằng người làm lành chắc chắn là có vui mừng, người làm bất thiện chắc chắn là có tai ương, lại nói rằng: "Thiên đạo không thân thường cùng người lành", đây chính là cách ngôn của Thánh đạt, là tiêu rộng lớn của muôn đời. Đây thì hạnh thành ở thân mình, phước lưu ở đời sau. Ác hiển ở sự nghiệp, mắc tội chốn u minh. Nhưng bậc Thánh là lành, đều tận lý, lý tận thiện nhóm, nên nhiều đời đều không dời đổi. Hạnh không có một thiện, ác ác nương nhau, cũng phải trăm đời đều mờ tối là thiện có cửa thường, ác có định tộc, đời sau tu hành thì lợi ích gì? Lại có buộc tu che đạo, ngôn hạnh không tổn thương mà trời phạt, người cấm, trăm lưới đủ anh lạc, thả lòng tánh tình, buông lung việc bạo ngược. Sống bảo bọc vinh quý con cháu nhiều và mạnh mẽ, suy luận theo đây thì quả báo của nhóm thiện rốt cuộc ở đâu? Năm tình sáu dục, tâm người thường có, chặt lời hoa mỹ ngăn nhàn chí khổ của sự ngoài. Nếu người quỷ không rất thích ở thú hàm thì sao không thuận điều ngọt mà gượng lấy điều đắng? Xin giải thích điều nghi để dứt bỏ hoặc ấy.

Tiên Sinh đáp: Lành thay! Lời hỏi này! Sử Thiên có nói: "Quả báo trời ban cho người lành thế nào ư?" Tuân Duyệt cũng nói: "Trang sức thay đổi mà làm gian ngụy, tự đủ trong một đời. Người giữ đạo thuận lý không phải hoạn chết đói, hai sinh nghi ở trước mà chưa thể hiện, ta, ông nghi ngờ ở sau có thể nên chăng? Xin thử nói: Người nhờ tánh nhị nghi để sinh ra và lớn lên, bẩm thọ khí năm thường để sống còn, tánh có thời kỳ dài ngắn nên có sống lâu chết yểu khác nhau. Khí có tinh thô không đồng, cũng có hiền ngu sai khác, đây là định lý tự nhiên không thể thay đổi, do đây Nghiêu Thuấn Đại Thánh Châu Quân là nuôi dưỡng, kẻ mù, ông già, hạ ngu đần sinh có Thuấn, Nhan Hồi đại hiền trời sớm tuyệt tự. Thương Thần cực ác khiến con cháu đông đầy. Di, Thúc, chí nhân mà chết đói ở núi sâu. Kẻ trộm buông lung bạo ngược mà giàu vui trọn đời. Tỷ Cang trung chánh, chết không toàn thây. Trương Thang tàn ác làm quan bảy đời Nhĩ Điêu, phàm loại này không thể tính kể. Nghiệm đó Thánh hiền đã vậy, cầu người thường lại như đây, cho nên biết hiền, ngu, thiện, ác, thọ, đoản, nghèo cùng, hiển đạt đều có phần mạng, chẳng phải do nhóm hạnh gây ra.

Lấy sự nhiệm mầu sâu xa của trời đất, sự rộng lớn của âm dương, người ở trong đó đâu chỉ là lúa gạo trong kho lớn, là mảy lông ở thân ngựa thôi sao? Mà hạnh nhỏ của người, tập quán của việc người, một thiện một ác đều có ra báo ứng thầm thầm, muốn dời đổi sự sống lâu hay chết yểu của tự nhiên, đổi ngu thanh Châu, Thuấn, ở đây rõ ràng không thể biết. Nhưng bàn nhóm thiện chứa ác, bởi lập bày ở giáo khuyên. Vì sao mà nói như vậy? Vì người sống mà tịnh tánh của trời, cảm vật mà động dục của tánh, tánh dục đã mở dòng, buông lung chớ nghiệm, bậc Thánh cứu tệ kia, nương thần đạo để lập giáo, cho nên lý nhiệm mầu mà giáo hóa mở bày, thuận suy thiên mà rước dẫn, cho nên công nhiệm mầu mà sự vừa thích. Do đây trong sáu hợp (trời đất) luận mà không bàn, khen mà không biết lý do, hằng ngày mà không thấy chỗ tột cùng. Giả sử Lễ học đã mở rộng lớn kia, danh pháp đã buộc hình vết kia, người hiền nhờ đó để thành chí kia, kẻ chẳng ra gì ngóng trông và để khỏi lỗi kia, khiến ân sâu hiểu hữu, nghĩa vua tôi cùng thạnh. Lễ tựa già trẻ, ưa chấp bạn bè, trái đó thì là người mất đạo, chê cười để khởi, hướng đó thì là người danh giáo, tiếng khen do đó bày, đây là quân tử hành xử tâm hạnh mình, chẳng lẽ trong phút chốc mà quên lành ư? Cần gì theo giáo trách thật để hẹn báo ứng? Nếu thể hội được ý chỉ sâu xa của Thánh giáo, xét cùng phần mạng, ngõ hầu rộng mang nơi tâm phủ không cầu xem xét ở trong sự mờ tối.

An Xử Tử bèn xuống tòa nói: Lý uẩn ngàn năm niệm buộc một đời. Nay nghe luận Đại Thông của Ngài đủ để giải thích trệ nghi bỏ chỗ tối tăm, bỏ kiết sử, tôi tuy không thông minh cũng xin lãnh nhận lời này.

2. THƠ CÙNG PHÁP SƯ VIỄN

An Công đảnh lễ: Đệ tử thường xem kinh điển đều cho nguyên do họa phước là ở nhóm hạnh, vì vậy từ nhỏ tu gấp đến nay đầu bạc, hạnh không phụ chỗ hiểu biết, lời không tổn thương mọi loài, mà một đời gian nan khổ sở đủ trải qua các sự đày đọa tàn tệ, nổi bất bình không kể xiết, chỉ có thân mình lý sâu khó suy tình gần dễ buộc, thường trong niệm mờ tối, buồn bã trong lòng, mới biết thọ, yểu, nghèo cùng, hiển đạt tự có định phần, bàn nhóm thiện chừa ác nói là lời giáo khuyên. Gần đây soạn Luận Thích Nghi, nay đem trình Ngài tưởng các tin tức chợt có thể xét gạn. Tải An Công đảnh lễ.

3. PHÁP SƯ VIỄN ĐÁP

Thích Tuệ Viễn tôi ngu độn, xét ông riêng bày cho là khẳng khái, trước tuy chưa khéo đều nhau, người vật qua lại ngọn ngành tạm quên, phần mạng nghèo cùng mà hiển đạt, chẳng phải trí thường suy lường được, nhưng nương bên đại tông dường như có định kiểm. Mùa thu năm ngoái cùng mọi người chung đọc luận của ông đều cũng có đồng khác, xem ý đáp của Chu Lang cho là sách đối với kinh Phật là tạm được, trong đó nay gởi ông, nghĩ nhớ năng lực trí tuệ mặt trời mà xét gạn.

4. BẮT BẺ LUẬN THÍCH NGHI CỦA CHU ĐẠO TỔ

Gần đây thấy ông soạn Luận Thích Nghi, bởi tức tình mà làm, dự tính nghiệm lý muốn chỉ bình hữu, trong chỉ xét thủ phần mạng dường như chưa suốt gốc kia. Phước lành chớ nghiệm, cũng là ông thường mê mờ, tuy khắp xem sáu rương sách thì càng sâu thêm trệ kia và thấy kinh giáo mới soi nhưng có chỗ quay về, cho nên xin lấy lời bậc tiên giáo đương cự kẻ học ngày nay. Ông cho là xét phần mạng, đúc kết lại có thể không cầu nghiệm trong chỗ mờ tối, các lời vui khác chỉ tồn tại nơi khuyến giáo. Xin xét ý chỉ phần mạng là ngay tình yên định đối lý nhậm mà luống nhọc ư? Là quên, nhớ, mê muội, ngay thẳng mà thôi ư? Nếu tình yên định ở lý thì lý chưa thể dụ, thiện ác xen phân, thuận nghịch chớ nghiệm. Nếu chẳng thầm bỏ đâu được luống nhọc, nếu thẳng đặt mà thôi thì tự chẳng phải ngồi quên việc, chí quyết có cảm, cảm nhân sự thì tình cũng lên xuống lại tin được giúp đỡ đâu thể không mừng, làm ác bị phạt đâu được không oán, dẫu muốn quên mà đâu thể được? Lặng cầu các vị giảo minh.

Lại lập khuyến giáo quyết gần thật mà động, thẳng mà dạy mới không thể một được mà hết, cho nên dường như ngược mà sau hội, hoặc hiểu lờ mờ đối với lời nói, do đây đường xe sô linh, nhà cửa bảo khác, hoặc hiển xa kia hoặc gạn gần kia, khiến tín đồ theo giáo pháp không tạm cầu ở biểu phần. Người uống hòa tự đủ ở nhân nghĩa, cho nên sâu cạn đều dạy mà dân nghe không lạm, thần minh dưỡng nuôi nơi diệu vật há được gọi rõ là làm lành, chánh vị che sương mà sự ngược với giáo, lý trái với lời. Bá Di Thúc Tề tự được an nhẫn, Nhan Hồi lại buồn dài nơi lý hòa, sợ có người nói hoặc khác ở đây. Nếu cho là bọn thương buôn quan lại giáo lý không kịp dạy gấp dẫn đầu mối, bởi trong trí đã trở lại mà an ổn trong lòng, nhân từ không mất thân. Tạng Hội nhờ có nước Hậu lỗ thì phần mạng hun đúc do đâu mà xét, xướng Huyền Minh lại bị nghi che. Vì vậy xưa kia quân tử biết nguồn cơn của thông suốt hay hư hoại lỗi kia chẳng mới, hiền, ngu, thọ, yểu rõ ràng từ xưa. Sở Mục do phước dày được chết, Sái linh do thiện mỏng mà thọ họa, Hy Uyển do hiềm khích sâu chớ cứu, Tống Hoàn do lỗi nhỏ dễ xương, cho nên rửa tâm để ôm tông, huyện hình để nghe đạo, nhổ gốc sâu vô minh, che giây cương tham ái, không cầu nghiệm ở minh trung, bóng và tiếng vang tự rõ, không hẹn tồn tại báo ứng mà mừng phạt bóng mình cho nên có thể ngược bước tột nơi thủy cảnh muôn cõi, nhưng gạn rõ đạo lý, cách cõi thường Nghiêu, Khổng, cứu thô kia nên có chớ chưa cùng tận. Sự thiên tạo môn kia mà chưa đạp đến nhà, tiếc kia ở đời không nghe, cho nên buồn hẳn cả năm. Ông đã hiểu luật kia lẽ ra cũng không xa mà được, đây chính là chỗ kỳ lạ của u minh, đâu chỉ có lời nói mà thôi. Trái bày nhiều năm tạm để thay thể ân cần.

Đến luận lại cho là trời đất rộng xa, việc người nhỏ gần, một thiện một ác không quan hệ báo ứng. Vậy thì lười trời lồng lộng thưa bèn lọt ư? Chớ thấy nơi an ổn, chớ hiển sự nhỏ nhiệm, chỉ đầy tràn dời đổi trong hằng ngày, giao hoãn mê mờ lý duyên, cho nên hoặc trái sự thấy nghe, núi lỡ hun đúc báo ứng, không do đường xa mất cảm, ao lửa tánh cỏ không đồng tượng thành thân, rõ nghiệm mấy điềm có thể dùng để có chút ngộ.

5. LẠI GỬI THƠ CHO PHÁP SƯ VIỄN

An Công đảnh lễ, bởi soạn Luận Thích Nghi là để gởi lòng kia, cho nên trình đó người khéo suy nghĩ nghe nhờ dạy dỗ. Đã nhục lại bảo mở bày dấu vết tông môn và đưa cho Châu Lang nạn rất có ý thú, nhưng lý vốn khác nhau, chỗ thấy cũng khác. Nay lại bày ý hèn đáp Châu, lại đem trình Ngài, ý chỉ thành thật có thể cầu tìm mà lời không tự bày, tưởng thoát xem xét, Tải Công đảnh lễ.

6. LUẬN THÍCH NGHI ĐÁP LỜI VẶN HỎI CỦA CHU CƯ SĨ

(Tải An Công)

Nhờ mặt trời mà có sáng, nhân việc mà có ra cảm, thong thả soạn Thích Nghi để trình Pháp sư, đã nhục lại bảo đưa đến nạn, lời cùng trong sạch xem chỗ gây ra có ý chỉ quay về. Nhưng tự giác tuy người quán trước chớ ngộ, chỗ thấy đã khác ai là năng chánh? Nếu lòng chưa ngộ xin cùng tận tột đó. Tôi cho rằng có thể xét phần mạng, tự gọi là biết cứu thường đồng nhiệm mầu, soi lý tông suy lường danh thật, xét nghiệm xưa nay, không thể chìm đắm cõi sinh tử, mừng cảm luống được mất. Nếu có thể ngộ sống lâu hay chết yểu thì biết tự nhiên của ngắn dài. Xét Nghiêu Thuấn ở Chu Quân, đã được Ngu Thánh có phần, suy chỗ sâu xa của thiện ác, đủ rõ minh trung không phạt, đồng với Tỷ Can và kẻ trộm, có thể biết họa phước là phi hạnh, đã có thể đây nạn sự rồi sau phần mạng mới xét được, không cầu quả báo. Như Như Lai nạn, yên lặng tình nơi lý thì lý chưa thể dụ, lặng cầu mọi người rõ xét. Đây chính là chưa dụ lý do ở mình cầu, chẳng phải là vô lý mà dụ được, nếu bỏ mình mà xét ngoài thì chắc chắn không xa mà đến.

Nạn rằng: Khuyến giáo đó lập bày quyết nhờ thật mà động, thẳng vì dạy dỗ mới không thể do một đường mà cùng tận, tôi đâu là bậc Thánh làm giáo ngược chân không lập tà.

Đáp rằng: Thiện ác sinh ở thiên lý, thị phi do ở tâm người. Nhân thiên lý để lập giáo, thuận lòng người để thành việc. Cho nên u hoài ôm lòng nhân nắm gió màu mà chớ vui, buông lung tình ngoài vết xe, đoái hoài danh mà lượm lấy bên trong. Công huyền vật nêu bày hằng ngày mà quên ân huệ kia, lý uẩn vắng lặng, thọ đó chẳng thấy tông kia, chẳng trái hư giáo để mê hoặc đời. Vì vậy trước luận rằng: Nhân thần thông để lập giáo, cho nên lý nhiệm mầu mà mở bày giáo hóa, thuận đổi dời mà dắt dẫn cho nên công nhiệm mầu mà sự thích hợp. Bắt bẻ rằng: An đối với lòng nhân không mất thân, Tạng Hội nhờ có nước Hậu Lỗ, thì phần mạng rút lại ở đâu mà xét? Xướng Huyền Minh lại là nghi phủ?

Đáp rằng: Đây chính là lý do thấy rõ thiện ác là có định, không do chứa hạnh. Nếu người nhân từ làm lành khen hạnh, an ổn trong lòng mà thọ phước, người giả mạo việc tà ngược lý, Tạng Hội vì đủ đó mà được hậu, bởi phần ứng mất thân, chẳng phải che nhân từ chỗ dời đổi mạng phải là hậu, hạnh giả dối chẳng thể phạt. Đâu khác Tỷ Can trung chánh mà bị mổ tim, Trương Thang làm quan tàn ác mà được nhờ cậy bảy đời. Nếu lý này không sai thì biết phần mạng có tiền định, chính đồng có phần của Huyền Minh, chẳng phải là thành nghi phủ.

Nạn rằng: Xưa người quân tử biết nguyên do thông suốt làm sụp đổ lỗi kia chẳng mới, hiền, ngu, thọ, yểu rõ ràng từ xưa, Sở Mục do phước dày được chết, Sái Linh do thiện mỏng mà nhận họa, Hy Uyển do hiềm khích sâu đâu cứu được, Tống Hoàn do lỗi nhỏ mà dễ xương.

Đáp rằng: Thông suốt hay sụp đổ chẳng phải mới, thọ, yểu từ xưa, tin chăng lời nói đây? Đây tôi cho là đều có phần mạng, nếu do phước dày được chết hiềm khích sâu chớ cứu, đây thì nguyên do báo ứng có như bóng và tiếng vang. Sái Linh do thiện mỏng mà thọ họa, Thương thần nên cho cực nghịch duy ương. Tống Hoàn do lỗi nhỏ mà dễ xương, Chu Văn ứng dụng hạnh lành nên sống lâu, mà tội đồng phạt khác, phước đồng báo khác, sao xét rõ ở Sái, Tống mà chỉ muội ở Sở, Chu? Ông cho là không cầu nghiệm minh trung, bóng và tiếng vang tụ gạn rõ, không hẹn nơi báo ứng mà mừng phạt để bày ở đây thất bại.

Bắt bẻ rằng: Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt ư? Chớ thấy nơi ẩn, chớ hiển nơi nhỏ, nhưng tràn đầy thay đổi giấu nơi hằng ngày, lại muội chậm nơi lý duyên.

Đáp rằng: Thiên lý thầm muội biến trạng khó rõ. Vả lại phải suy mình điềm tốt đó trọn xưa. Xét báo ứng thành dấu vết. Còn như thiện ác phước họa đều có một cái thấy từ đây gặp cùng sự hiểu, chẳng phải chân nghiệm minh ty. Do đâu mà rõ đó. Nếu kia có ty sở, phải như một nhà chuyên trị nước, thiện không nhỏ mà chẳng thưởng ác không nhỏ quyết phạt, khiến người tu hành bảo bọc sự trong sạch, cho kẻ cực ác nghịch chịu họa tàn khốc. Nhưng người làm lành được sự vui mừng ở đời sau, người chẳng làm lành, dòng tai ương đến đời sau, mà nay thì không vậy, hoặc ác sâu mà chẳng phạt, hoặc chứa thiện mà họa tranh đến, hoặc làm nhân nghĩa mà quên thân, hoặc hạnh buông lung mà bạo ngược lại giáng phước, há chẳng phải không nơi chốn mà tự có phần mạng ư?

Nếu do dư thừa thay đổi chứa ở hằng ngày, giao xa mê muội ở lý duyên, nhưng khi quả báo đối đầu muộn màng không tha thiết ở trước mắt? Chẳng phải là thiện ác sai lầm, đúng sai chớ xét. Suy đây mà nói, sinh do người, tánh chia định đời trước. Người lành tự làm lành chẳng phải trước có sinh mà sau làm lành để có ra điều lành. Người ác tự là ác, chẳng phải vốn chia không ác lâu dài mà làm ác để được có ác. Cho nên biết nghèo cùng, hiển đạt thiện, ác, trí, ngu, thọ, yểu đều có phần mạng. Phần mạng khéo định ở minh số, hạnh tính đâu thể đổi tự nhiên kia ư? Lưới trời không lọt, ẩn hiện nhỏ nhiệm cho nên là lời khuyên dạy. Chẳng phải cái mà Huyền Minh cho rằng bổn định tột đến. Đã chưa ngộ sự mầu nhiệm, suy đó có tông, cũng đâu thể phần mạng có thể xét? Toan sợ trước bậc tiên giác lại vì kẻ ngộ sau, lời mặt chưa rõ liền đem nêu bày.

7. THƠ CỦA CHU CƯ SĨ

Thấy lại bày Luận Thích Nghi, lời lý tha thiết nghiệm thiện nơi suy lường thật. Nhưng ý tôi vẫn có chỗ không chắc nên muốn nói lại chỗ nghi ngờ, một ngày nào hầu dưới tòa Pháp sư, thô cầu ý ông rằng: Khí lực nhỏ tốt phải tự có thù đáp, nhân ý chỉ luận của ông gồm có sở kiến, vì vậy tôi không lại chất thêm củi vào đống lửa cần thành ý chỉ nhân trên. Ông nói là "xét phần mạng chính là thể tột của con người đã khác nhau" lại chỗ lập của tôi không hẹn tồn tại ở ứng báo, mà mừng hay phạt đã bày cũng không như chỗ lập của ông, thơ không tả hết lời, ở đây cũng tin, trong đó phần nhỏ cũng nhiều chưa dụ, giao cho mà chưa gặp.

8. THƠ CỦA PHÁP SƯ VIỄN

Thấy ông qua lại với Chu cư sĩ đủ làm chủ khách, nhưng tinh tế của Phật giáo khó dùng sự vặn hỏi, đến nơi lý màu thường nêu nghĩa ẩn ở kinh không thể kể hết. Nhưng tiếc rằng ông làm đệ tử Phật mà chưa thể để tâm vào sách thánh, mới được thơ luận cũng chưa tạm quên, tuổi già thường bịnh không nhờ có lời đáp, chợt nhân dư giờ của giảng tập, tạm nối chỗ suy nghĩ gởi đến, thử cùng người đồng nghi chung tìm, nếu thấy họ kia thì Tỷ Can, Thương Quan có thể không suy nghĩ mà được, Thích Tuệ Viễn cúi đầu.

9. THƠ ĐÁP PHÁP SƯ VIỄN

An Công đảnh lễ, nhục cáo và thấy Luận Tam Báo chỉ dụ rộng xa, nhiệm mầu nói rõ tông lý, xem xét hai ba lượt mừng ngộ khiêm hoài, đệ tử dầu cúi nhận lời pháp huấn, lòng tin thành cáng chí kính, mà ít qua lại nhân lâm không được học kinh, từng do khó khăn vất vả ràng buộc liền gởi nơi Thích Nghi để tự giải bày, đây bởi tình phát ở trong mà bày ra lời. Suy lòng tục kiến chấp kia thật là chưa hết, nhưng Tam Báo rộng xa khó mà giải thích rốt ráo, đệ tử xét phải quay về quyết yết kiến, gởi thân nương âm chỉ, càng bỏ trệ kia, các hoài nghi gởi Chu cư sĩ. Tải An Công đảnh lễ.

10. HỎI VỀ BÁO ỨNG CỦA HÀ THỪA THIÊN

Phương Tây nói báo ứng, nhánh ngọn kia tuy rõ mà gốc thường mê, lời kia xa mà ít cốt yếu, dụ kia xa mà không chứng cứ, trái với năm kinh cho nên thấy bỏ tiên thánh, dụ dỗ cận tình, cho nên được tin ở quý tục, muốn biết hành của ngày tháng phải nhờ xét cỏ tuần hoàn toan bày tin sâu tối, nên lấy thẻ nơi thấy việc, cho nên giám toại treo mà lửa nước giáng, mưa lìa đêm mà gió mây nổi. Đây đều xa do gần mà nghiệm, tối do sáng nổi, ngỗng là con vật nổi ở ao trong, nhai cỏ xuân chúng sinh máy động luống phạm, mà quả báo người đầu bếp đâu được khỏi dao thớt yến bay liệng tìm đồ ăn, chỉ có trùng bay là ngọt mà người đều yêu mến, dẫu sáo ổ mà không sợ, chẳng gặp ngỗng, yến, chúng sinh muôn cõi thường như vậy. Phải biết sát sinh không ác báo, làm phước không ứng lành, sở dĩ dạy như thế, vì dạy đời như đây, tôi rất là mê hoặc. Nếu cho là yến chẳng phải là trùng không ngọt cho nên tội không kịp, dân ăn cỏ sô riêng bị mắc tội. Nếu cho là cầm thú không biết mà người biết kinh giáo. Vậy thì lúc chưa có kinh giáo, săn bắn, lưới cá, cũng không có tội. Vô cớ đem khoa pháp vào Trung Quốc, nên dân bị hãm nơi hố cạn, người nhân từ kia đâu lại như vậy? Cho nên tôi cho là kinh Phật chỉ là giả lập quyền giáo khuyên người làm lành, không quan hệ gì đến sự thật, cho nên bậc Thánh làm chế suy đức che vật ta làm ta hưởng là ứng thiên, nhờ vốn được ba phẩm khách nhà bếp. Nếu là thấy sống không nỡ thấy chết nghe tiếng không nỡ ăn thịt vốn là việc của quân tử, trộm xin bậc cao minh lại thêm suy nghĩ ba lần.

11. LƯU THIẾU PHỦ ĐÁP LỜI HÀ THỪA THIÊN

Kính xem lời cao, từ tha thiết chứng minh, cái gọi là bậc thượng nhân khó mà thù đáp, nhưng Như Lai cùng lý tận tánh, do cảm mà thành giáo, cho nên năm thiện suy nghĩ, giới phẩm nhờ đó bày, sáu tệ đợi bỏ, Bát-nhã vì đó soi chiếu, huân thì dùng mười điều lành, tịnh thì dùng vô lậu, rốt ráo giải thoát đến Bồ-đề mà thôi. Đây sở dĩ ngọn rõ mà gốc không mê muội. Khổng Tử dùng chí hiếu làm việc thì nhân từ giúp bốn biển, đạo Phật dùng đại từ làm đầu thì giáo hóa khắp năm đường, dẫn dắt chúng sinh dấu vết chẳng phải vẫn thầm ư? Nhưng ứng có thô tế, hoàn toàn tự khác. Hễ xem Bát-nhã... các kinh không cho chẳng có Khổng là nghi, đâu riêng tụng sách Khâu mà có thấy lời bỏ ư? Do rồng quỉ là loài tệ xấu mà còn cảm Thánh đến dạy dỗ được tin, đâu chỉ lý tục mà thôi ư? Túc hạ y cứ thấy nơi giáo để cột biện ba đời, xa xôi quái lạ vốn không đợi lời, nếu chấp nhận nhân quả không lầm dụ như hình với bóng, gạn cốt yếu so sánh phù hợp, nếu hạnh ngày tháng, tin nơi sáng tối, giáng của nước lửa, nổi gió mây, đều trước nhân sau quả không ngoài đạo cảm vời, cho nên duyên khởi soi có thể đến nước, duyên diệt đuốc không vẫy gọi lửa, tất cả các pháp theo duyên mà khởi diệt. Nếu ngỗng đến chết vị lên thớt, vạc chảo, yến đó được khỏi không muối me, cho nên giết ngỗng đối với người dụ như trùng chết với yến, ngỗng, sâu thấy đời thọ, người, yến báo vị lai, báo do ba nghiệp, nghiệp có chậm mau. Nếu người vào ra hiếu để, khen ngợi nơi sân vua, vua cha không thương mà quyết giết, đây là hiện báo mau chóng chính thân thấy nghe. Nếu trung bị khiến đức mở tìm chìm sâu nhiều kiếp, buông lung giết hại, lại có may mắn mà khỏi, đây là chậm của hậu báo, thưa mà không mất.

Thiện ác là nghiệp, nghiệp đều có báo ứng, nhưng quá khứ hay vị lai chẳng phải tai mắt mà thấy biết được, cho nên người tin thì ít mà người nghi thì nhiều. Khoa pháp thanh tịnh rửa bụi mở tuệ, Trung Quốc luống suy nghĩ cho là bị hãm nơi giếng cạn, chẳng phải ta không mưu Tần phí dùng. Khuyên người làm lành, thành thật thay lời nói này, nhưng chắc chắn cho là thật chẳng phải giả hợp. Cho nên Văn Vương phế Bá Ấp Khảo mà lập Võ Vương Quyền. Chu đến chẳng có vua bỏ có thiên mạng, lễ là sơ chế lý vốn theo thật. Bá nhưng bỏ lập thật, đều từ thật đức kia dùng giao kết quay về, tự chẳng phải kẻ đại trí ai có thể dự đó?

Kinh chép "Thiện quyền phương tiện cũng lại như vậy", dân sinh mà muốn tánh sát sinh, uống máu trải lông ở đời Thượng Hoàng. Bậc Thánh bỏ sát sinh chẳng dạy sát sinh, nhưng dạy dân chưa hết mà hóa nghi tạm tổn, dẫu sắp hưởng tam phẩm tôn dâng khách nồng hậu. Nhưng Thang mở giềng mối kia, Khổng ước không cương yếu, Thi nhờ năm lộn, lễ phí thân tàn, y cứ đây mà quán, tâm tác giả thấy vậy. Nay nhịn không ăn thử tâm từ của mình, nếu suy không nhịn ở trong thấy nghe, đều không ăn ở trong thấy nghe, kia chí lý thay! Chí lý thay! Cầu nhờ đến bày mở dùng ống mà dòm, thật tướng không thể nói, nói thành hý luận, đã không tự phải, tưởng cũng đồng trái, nếu bậc cao minh dụ xin đợi các quân tử.

12. BIỆN TÔNG LUẬN CỦA TẠ LINH VẬN

Qua lại với các đạo nhân, đồng thời nghiệp tâm thần đạo cầu hiểu ngoài lời. Tôi gối bịnh, việc ít thời gian rảnh thì nhiều, liền bày ý xưa nay ngõ hầu định cầu ngộ tông.

Luận của họ Thích, Thánh đạo tuy xa, nhóm học có thể đến, nhiều tột soi đời nên phải tiệm ngộ. Luận của Khổng Khâu, Thánh đạo đã nhiệm mầu, tuy Nhan Hồi gần như thể không xét khắp, lý quy về một mối.

Có tân luận đạo sĩ cho là lặng soi nhiệm mầu không chấp nhận giai cấp, chứa nhóm học vấn không hạn chừng đâu là tự dứt? Nay bỏ tiệm ngộ của đạo Phật mà lấy năng đến của đạo Phật, bỏ cái thu của Khổng Khâu mà lấy một mối kia. Một mối khác lần ngộ, hay đến chẳng phải gần như thua, cho nên lý đã bỏ tuy hợp đều lấy, nhưng kia lìa

Thích và Khổng. Tôi cho là hai nhà lời bàn cứu vật thì đạo Nho xướng thuyết đắc ý, dám lấy chiết trung, tự nhận trộm gọi là tân luận là như vậy, liền đáp ý sau, chậm có chỗ ngộ.

Pháp Húc hỏi: Kính xem Thanh Luận rõ tông tuy nhỏ mà một phen đốn ngộ, dầu ưa mới, mổ xẻ trộm có chỗ nghi. Nếu người rõ suốt cho thể lý dứt dục, kẻ mù mờ do mê hoặc bị lụy, bặt dục vốn do thấy lý, bị lụy do trái tông. Vì sao mà nói vậy? Kinh nói rằng: "Người mời học lìa Bát-nhã liền như mắt sáng, không người dẫn dắt là mắt lý, buông lung hoạn nạn ở đây đã rõ. Nếu thiệp cầu chưa tiệm đối đại tông hy vọng, dụ như lụy ở bụi nhơ thì nhiều kiếp nhọc nhằn, hẹn quả nơi mù xa đã có tâm do dự, xin chậm khen dạy. Ban đầu đáp đạo ngược lý với tục không quan hệ nhau cho nên nhân quyền để nói, quyền tuy là giả mà ý chỉ chẳng giả, trí tuy là thật có thể là chẳng thật. Chẳng chân thật mà không tổn thương chân, mục đích là giúp chúng sinh. Chẳng giả mà không theo giả giúp vật thì trái bổn, nhiều kiếp như thế chẳng phải không, ân cần hẹn quả có như ánh sáng mặt trời.

Húc lại hỏi: Xét luận đạo Khổng và đạo Phật đã giống nhau, giả cứu vật cũng chẳng khác, mà cõi thần đạo, tuy Nhan, Khổng Tử chỗ không dạy. Nhiệm mầu của thật tướng dẫu ngu Phật quyết dạy. Nhưng thời hai Thánh lập lời đâu sai trái?

Lại đáp: Hai giáo đã khác nhau, tùy phương ứng vật nơi giáo hóa có khác, lớn mà bắt chước, soi ở dân Hoa, dễ nơi thấy lý khó nơi thọ giáo, cho nên đóng lụy học mà mở một mối. Di nhân dễ thọ giáo khó thấy lý cho nên đóng đốn ngộ mở môn tiệm ngộ. Tiệm ngộ tuy có thể đến mà muội cái thật của đốn, một mối tuy biết mà gởi tuyệt nhờ nhiều học. Do người Hoa Hạ ngộ lý không tiệm mà bên cạnh không học. Người Man-di ngộ lý có học mà bên cạnh có tiệm, cho nên quyền thật dẫu đồng mà dụng kia đều khác.

Xưa Hướng Tử hẹn dùng cho Nho và đạo Phật là một Ưng Kiết Phủ cho là Khổng và Lão có thể đồng, đều muốn nhìn tông mà sánh với chân thật ư?

Húc ba lần hỏi, lại tìm đáp, do Hoa Hạ, Man-di có nghiệm tánh dễ, cho nên hai vị Thánh lập giáo có khác và đồng, trọng phương giúp tục có thể gọi là tốt đẹp. Nhưng sâu tột sự soi xét làm thì ở trên, ngu dân mê muội xin theo ở dưới, cho nên làm thì nên xét chánh kia, xin theo quyết là tông kia. Nay Khổng bỏ đường Thánh học mà đạo Phật mở đường tiệm ngộ, nơm bẫy đã lầm lộn rối rắm, lê dân nhờ đâu mà quy chân. Ba lần đáp, mùa Đông mùa Hạ khác tánh, giúp xuân thu là ngọn đầu, ngày đêm khác dụng, duyên nhục mộ để qua lại, huống chi đến chỗ tinh tế lý đâu thể tắc tiếp người chí thô, đây cho nên ở tiệm ngộ, lý do thầm tạo đốn hiểu, nhờ Khổng giáo cho nên tiệm thành Thánh học, Thánh học không ngoài sáu kinh, mà sáu kinh được đốn giải không thấy ba tạng mà lấy quả ba tạng nơm bẫy rõ ràng, đâu nghi lầm lộn, cá thỏ đã được lê dân dùng giúp đỡ.

Tăng Duy hỏi: Nương Pháp sư Tân Luận lấy tông cực vi diệu không chấp nhận giai cấp, khiến người học cùng cực có không, tự nhiên có như phù hợp, đâu cần nói không. Nếu giúp không để tận có, đâu được không cho là tiệm ngộ ư?

Ban đầu đáp: Lụy đã chưa hết đều không thật có, hết tệ lụy đó, mới có thể được không. Lụy hết thì không, thật như phù hợp định dứt lụy kia, cốt yếu phải nhờ giáo, ở lúc có học mà chẳng ngộ, ngộ ở có nên nhờ học để đến. Nhưng giai cấp bàn giáo ngu một phen ngộ luận đắc ý.

Duy lại hỏi: Luận nói rằng: "Ngộ ở có, nêu được không do tiệm, khiến thiệp học mong tông ngay ngày tiến rõ kia, chẳng bằng khiến rõ không ngày tiến cùng không nói đồng. Nếu ngày tiến kia là sáng thì chẳng phải tiệm ngộ ư?"

Lại đáp: Rõ chẳng phải tiệm đốn, tin do giáo phát, do đâu mà nói vậy? Do giáo mà tin thì có công ngày tấn, chẳng tiệm chỗ rõ thì không phân vào chiếu soi, nhưng hướng đạo tâm lành nổi, tổn lụy phát xuất cầu phục, phục dường như khác nhau, thiện dường như trái ác, đây sự vụ không đều chẳng phải tâm vốn không lụy, đến một phen ngộ muôn điều dính mắc đồng dứt.

Duy lại hỏi lần thứ ba. Đáp rằng: Do giáo mà tin thì có ngày công tiến, chẳng phải tiệm rõ thì chẳng xếp vào công chiếu soi, phàm tôn giáo mà suy tôn, tuy không hằng dụng, ngay khi phải suy đâu có thể không tạm khiến không ư? Nếu chấp nhận tạm khiến hợp kia, giống như tự hiền đối với không hợp, vì sao chẳng phải tiệm.

Ba lần đáp: Tiệm là giả, chân là thường. Giả biết vô thường, thường biết không giả. Nay há lại có thể lấy tạm của giả biết mà xâm lấn cái chân thường biết ư? Nay tạm hợp ở không hợp, thành thật thay! Lời nói của Như Lai, trộm có chứng cứ, các quan can ngăn Trang Vương rằng: Vật xa nơi mình cho nên lý là tình trước, và khi nạp Hạ Cơ đã giao hợp nơi vật cho nên tình đối với lý. Tình lý mây xen, vật mình khuynh nhau, cũng là suất nhậm trung trí. Nếu cho can ngăn gọi là ngộ há khi dung nạp là mê hoặc ư? Vả lại Nam là Thánh, Bắc là ngu, trái Bắc hướng về Nam, chẳng phải gọi là dừng Bắc. Hướng Nam trái Bắc, chẳng xưng là đến Nam. Nhưng hướng Nam có thể đến Nam trái Bắc chẳng phải dừng Bắc, chẳng phải dừng Bắc nên ngu có thể đi, có thể đến Nam, vì vậy ngộ có thể được.

13. HUỆ LÂN GIẢNG, TĂNG DUY HỎI

Ngay giả biết một phen hợp cùng chân biết là đồng hay khác? Sơ đáp: Có khác với cái biết của chân. Lân lại hỏi: Cho gì là khác?

Lại đáp: Giả biết là lụy phục, lý tạm là dụng, dụng tạm là lý, không hằng cái biết kia. Chân biết là chiếu tịch cho nên lý thường làm dụng, dụng thường ở lý, cho nên thường là chân biết.

Lân hỏi lần ba, lụy không tự dứt, cho nên cầu lý để dứt lụy. Nay giả biết một phen hợp lý thật ở tâm, ở tâm mà lụy không bỏ, thì bỏ cái gì?

Đáp lần ba. Lụy khởi vì tâm, tâm xúc thành lụy, lụy hằng xúc thì tâm ngày càng hôn mê. Giáo là dụng, tâm ngày càng phục, phục lụy càng lâu, đến lúc dứt lụy, nhưng khi diệt là ở sau phục lụy, phục lụy dứt lụy dáng mạo đồng mà thật là khác, chẳng thể không xét thể của diệt lụy, vật và ta đồng quên, có không một phen quán. Tướng trạng phục lụy, người và mình khác tình mà không thật khác thấy. Khác thật không khác mình và người là rơi vào dính mắc. Một phen có không đồng ta và vật là ra nơi chiếu.

Lân Duy hỏi: Ba đời dài cả trăm năm, ba ngàn rộng ở huyện xích, bốn bộ nhiều ở cửa khẩu, bảy báu nhiệm mầu hơn cát bụi, đây cũng mới có lớn nhỏ cho nên hóa có xa gần, lý vậy được chăng?

Sơ đáp: Sự lý khác nhau, hằng thành bốn mối, tự có lớn nhỏ đều được nghi kia, cũng có hiền ngu mà trái phương xứ, cái gọi là đời đồng thời khác, vật phải người trái, dụ như mổ con ngỗng cũng có dao mổ bò, ngọc bội ấn vua mà cho há đều là Đường Ngu. Nay gọi là dạo thể tột ở Võ thành, nhiều đời đều rộng lan nơi thiên hạ, chưa nghe điều đó. Vả lại đều xưng Diệu giác mà cõi nước tinh thô, chẳng thể lấy cõi nước tinh thô mà nói Thánh có hơn kém, cảnh ứng dấu vết vốn chẳng phải là chỗ gạn chứng.

Duy lại hỏi: Luận nói rằng: "Hoặc đạo rộng mà sự hẹp, hoặc sự phải mà người trái, nay không thể cho sự lớn nhỏ mà cách chứa nhóm đạo thô hay diệu", thành thật thay lời nói này! Nhưng chỗ nghi không ở đây, giả sử khiến Chu Khổ thật chưa tột cùng do đó ứng thế, cho nên ở tôn đây tự là đời cách xa Thánh chưa đủ rõ tột. Giáng nhiệm mầu thấy bậc để tiếp quần thô (chúng sinh thô) thì người thô không thể so lường. Nhưng mấy bậc mầu nhiệm chẳng gọi là tột diệu, nói suy theo đây thì an ủi đời đối với thô là diệu, nhưng đối với diệu còn thô. Lấy diệu tìm thô thì không trụ bất tận, lấy thô cầu diệu thì chớ thấy nguồn kia. Không trụ bất tận nên gọi là cùng lý, chớ thấy nguồn kia cho nên ngước lên càng cao, nay há có thể từ họ Nhan chỗ tôn sùng mà đồng cực diệu ư?

Lại đáp: Nay không nhờ Nhan để suy mà gọi là tột, nhưng cho Nhan là thứ cơ thì Khổng biết cơ. Vả lại Hứa Võ Xương nói: "Khổng chẳng vốn bàn, do Nghiêu thì thể trời chẳng phải đồng, đồng thể chí cực há chấp nhận có lớn nhỏ sao?"

Duy hỏi lần ba: Người đời không thể suy lường, lại xương nói, đều có thể cho là Thánh ư?

Đáp lần ba: Xương nói là hiền, còn chấp nhận hiền kia. Xương nói Thánh, đâu được chẳng phải là Thánh? Hằng ngày không biết mê mờ trăm họ, chỉ có Phật là biết tột sự cao sùng của thật tướng. Nay muốn đem tướng sùng cao mà khiến mê mờ biết được là chưa có. Nếu chỗ không biết đâu được chẳng lấy lời Xương làm tin, đã cho đạo Phật nói là phải, sao cho Khổng nói là trái ư?

Trúc Pháp Cương hỏi: Kính mở cao luận tham cứu cực tôn, diệu phán quyền thật, tồn ý chỉ Nho, Đạo, di giáo Khổng Thích nói lời chiết trung, rõ đầy ở Tân luận, có thể cho là khích dòng dẫn nguồn, phát huy sáng rõ?

Rõ phúc đáp lời hỏi của Húc duy, hoặc cho là nhân quyền để thông, hoặc học mà chẳng ngộ, là câu huyền luống lập, không quan hệ với ngực bụng, trộm chỗ chưa an. Do đâu mà nói như vậy?

Phàm đạo bày thiên cách cơ, hai hiểm dứt, học không tiệm tông, không hề phảng phất, ngang dọc có đầu mối, suy nghĩ chẳng ngoài ngôi vị, núi thần do gì mà lên, núi nhọn từ đâu mà vượt. Nếu ân cần đối với có mà ngồi thể đối với không, thí như khoa bút bày chung thì công bằng khả năng giúp dưỡng, không vậy đã rõ. Bởi đồng có chẳng phải rất ngại còn không thể lấy sự quen lờn này mà thiện kia, huống chi chỉ tột có không, trái ngược để thông nhau ư?

Lại nói rằng: "Lụy đã chưa hết, không thể đắc, hết tệ lụy mới có thể đắc chứng không.

Hỏi rằng: Mù đối với đại đạo, đòn xe gảy nơi đường huyền, đâu còn nơi lụy phong hữu. Bởi có không thể bỏ có, bỏ có quyết không chưa có, trước có lụy rồi mới không, còn như cái gọi là lụy hết thì không phải như vậy, vì lụy đó tự bỏ, thật chẳng phải không đợi, thật chẳng phải không đợi thì không thể chẳng không, cho nên không chẳng quý. Như kia trọng tối tự sáng không nhờ lửa và mặt trời, không nhờ lửa và mặt trời thì chẳng thể không lập, cũng rõ không còn, lạc đẳng cấp mà gởi đốn ngộ, chẳng lẽ ở đây thất bại ư? Các dấu vết khác may mắn suy nghĩ giải thích tốt đẹp.

Thích Tuệ Lâm hỏi: Ba lần lại bàn kỹ hai nhà châm chước Nho, Đạo, thật có nhớ nơi luận đến như bỏ tiệm ngộ của đạo Phật, sót gần như của đạo

Khổng, nhờ trông chừng hoặc. Đạo Phật nói là có tiệm cho nên tự bày có tiệm, đạo Khổng cho là không tiệm cũng là không tiệm của tự đạo. Vì sao biết? Vì trung nhân có thể nói lời thượng nhân, tập lâu có thể đổi tánh, đó là lời dạy của họ Khổng. Một phen hợp với đạo tràng chẳng phải bậc Thập Địa là xướng của đạo Phật. Như vậy tiệm dứt văn luận hai Thánh rõ lời, đâu riêng gì Di, Thúc, đối với giáo Hoa câu nệ ở lý, toan sợ biện bác bỏ, lời dài đối với tân luận?

Húc Đạo nhân bắt bẻ rằng: Dứt dục do ở thể lý, phải gọi là ngày tổn, do lý tự ngộ.

Luận nói: "Đạo và tục ngược gốc không quan hệ nhau, cho nên nhân duyên để thông. Vật giúp thì ngược gốc". Hỏi rằng: "Quyền đó đã nhờ tập tâm, cũng trọn cho là lự ư? Vì ngày hiểu ngộ và lý không của kinh đều tự ngược ư? Nếu kia thường trái luống bàn lật làm ngọn thuyết, nếu đầu cuối phò nhau có thể tu giáo mà đến.

Sau đáp Duy Lân, trong giả biết khác nhau là hoa mỹ tuyệt đẹp, chỉ trái với lập luận. Giả là do xoay mê tán lý, không cho chui lửa gây ra mê hoặc. Nếu hướng Nam có thể tạo Việt, trái Bắc có thể bỏ Yên.

Tin Yên Bắc Việt Nam, lo luống không có thể rửa tâm, tổn có thể bỏ lụy, cũng có ngu mà không thánh. Như đây chỉ phải ân cần, Bát-nhã do mặt trời quên xem, Dĩnh lộ mà chạy nhanh, lại nào lo chỗ mất ư? E rằng một phen xướng ngộ, lại vấp váp nơi thí dụ Bắc Nam ư?

14. ĐÁP LỜI HAI VỊ PHÁP SƯ CƯƠNG VÀ LÂM

Mở xem hai nạn mừng như tạm đối, rong nhiều luận rộng, an ủi đầy mắt, có thể cho rằng miệng thắng nhân, nhưng chưa nhàm ở tâm, liền bày ý trước không do lời đối, cầm bút mở lòng, Tạ Linh Vận đảnh lễ.

15. ĐÁP LỜI BẮT BẺ CỦA CƯƠNG CÔNG

Lại nạn rằng: Đồng có chẳng phải xem kỹ còn không thể vui chơi đây mà thiện kia, huống gì tột của có và không trái mà ngược để thông nhau ư? Đây là câu nệ sở tập để sinh nghi này. Người chuyên đùa bút tự có thể không công ở cung tên, cung tên đã công lại đùa với bút, sao là không chung cả ư? Nếu phong có mà chẳng hướng tông, tự là lỗi của người phong, tạo không mà bỏ trệ sao lại không thể trái được. Nhờ không gồm cả có để hạn chế không của hay gồm, chẳng phải chỉ hun đúc hổ thẹn ta đối với canh lý. Nghệ nuôi, hổ thẹn sách nơi La, Triệu. Chạm loại vấp ngã mới đủ khéo, khen là lịch lãm, nay xin theo gốc kia, nhờ không để phục có, phục lâu thì có mất, lúc phục không thể biết, biết thì không còn nói, do đây ngồi quên ngày, làm tổn gần nêu ra Lão Trang. Số duyên mà diệt, kinh có thuyết xưa, như thế đâu lụy tự bỏ, thật không chỗ giúp. Vả lại nói là thông minh công mới ở ngày hỏa, nhưng ngày hỏa không xứng công ở u tối, Bát-nhã không nói nhờ ngu uẩn. Suy đây mà vãng, chẳng lẽ đợi có nhiều.

16. ĐÁP LỜI BẮT BẺ CỦA LÂM CÔNG

Khổng dầu nói lời trên rằng: Bậc Thánh không có giai cấp. Phật tuy nói rằng nhất hợp, mà nói "Chúng sinh có Phật tánh", chúng sinh có Phật tánh, đạo kia có quay về, chỗ nghi là tiệm giáo. Thánh không giai cấp lý kia đáng quý, chỗ nghi là đãi thứ. Há hai vị Thánh khác đường gần chớ khiến đó. Bác bỏ lìa đó, khen mới là có ở lời luận dài không có góc cung ư?

Bắt bẻ rằng: Nếu kia hằng trái hẳn, luống bàn dịch chưa nói. Nếu trước sau giúp nhau, có thể theo giáo mà đi, có thể gọi là lời giải thích của Công Tôn là bị đóng khung. Trí là gốc quyền, quyền là dụng của trí, nay theo ý Thánh thì trí là lời kinh, quyền nhờ quyền để làm nghiệm, cho nên ba thừa đều là nơm bẫy, đã ý để quy tông cho nên Bát-nhã là cá thỏ. Bởi do dân nhiều ngu si, nên giác cố quanh co. Nếu người đều đắc ý cũng đâu quý ở tiếp ngộ. Luận giả biết, ý chỉ rõ ở có là có thể làm đạt lý can ngăn, đây là giao chậm khâm phục nhau, chẳng là lý của ngộ đạo, lập luận có gì trái với kia. Yến Bắc Việt Nam có ngu không Thánh lý kia đã đúng, rất được ở tâm. Nếu ân cần, ngày quên xem chạy nhanh nhóm họp, cũng thật là lời của Như Lai, nhưng ân cần chưa là được nhìn, chưa là chí phải, ngay khi kia đây có thể gọi là hướng tông, đã được đã đến có thể cho là một phen ngộ toan khác nhau, giây cương đến nhanh mà nói là vết xe khác?

17. VƯƠNG VỆ QUÂN HỎI

Luận nói: Do giáo mà tin có ngày công tiến, chẳng phải chỗ tiệm nói, không xếp vào phần chiếu.

Hỏi rằng: Do giáo mà tin không xếp vào phần chiếu, thì là rất tin bậc Thánh. Nếu tin thầm bậc Thánh lý không quan hệ tâm, chánh có thể chẳng cho gì không là tốt nhất, do đâu có ngày công tiến. Luận nói: Tạm là giả, chân là thường. Giả biết không thường, thường biết không giả. Lại nói rằng: Giả biết lụy phục, lý tạm là dụng, dụng tạm ở lý, không thường biết kia.

Hỏi rằng: Tạm biết là giả biết, chẳng phải không biết. Nhưng thấy lý còn cạn chưa thể thường dụng, tuy không được cùng chân biết đồng chiếu, nhưng thà không phần vào chiếu, nếu tạm biết chưa phải là thấy lý, đâu được nói rằng: Lý tạm là dụng, lại không biết cho gì gọi là biết.

Luận nói: Giáo là dụng, tâm ngày phục, phục lụy càng lâu đến nơi diệt lụy.

Hỏi rằng: Giáo là dụng, mà lụy phục, làm thế nào phục ư? Nếu đều chưa thấy lý chuyên tâm thầm tin, phải chuyên tâm kia chỉ có tin mà thôi. Cho rằng đây là lụy phục, đây là lự chẳng thể đồng, là đây thì kia bỏ. Chẳng phải lý lụy tương quyền để khiến lụy phục. Thiếu tâm mấy ai không đều như vậy, phục như đây cội gốc chưa khác, một bên dựa nương một bên phục, tuần hoàn không thôi, tuy là càng lâu lụy nhờ đâu diệt.

Hoằng nói rằng: Một phen bàn ngộ thường cho là có tâm, nhưng chưa dùng chiết trung bàn về đồng khác. Cho nên nạn ở lời lẫn lộn, tìm xem đến luận chỗ giải thích rất nhiều, nhưng vẫn có chỗ giải chưa tốt, thử điều như trên là hô có thể dung. Đây nghi không, đã muốn khiến ý ta xem hết, rồi sau lại đối không triệu, gồm phải tạo gối, cầm bút thêm nhớ thật không thể nói.

18. VƯƠNG HOẰNG KINH ĐÁP LỜI VƯƠNG VỆ QUÂN HỎI

Hỏi rằng: Do giáo mà tin, mà không xếp vào phần chiếu thì là tin thầm bậc Thánh ư? Nếu tin thầm bậc Thánh lý không quan tâm, chánh có thể đều là tối ưu của Thánh, nhờ đâu có ngày công tiến?

Đáp rằng: Nhan Tử thể hai vị và ở chiếu soi thì hướng thiện, về trước chớ chẳng phải tin thầm. Nhưng giáo có lý do, ta có chí cầu lý cho nên nói là quan tâm, ban cho đó là hai, hồi đó là mười, há thẳng khỏi ưu mà thôi, thật có ngày công tiến.

Hỏi rằng: Tạm biết là giả, người trí thì chẳng phải không biết. Nhưng thấy lý còn cạn, chưa thể thường dùng, tuy không được cùng chân biết đồng chiếu, nhưng có thể cho là không xếp vào phần chiếu ư? Nếu tạm biết chưa là thấy lý, đâu được nói rằng lý tạm là dụng lại không biết do đâu gọi là biết.

Đáp: Không biết mà nói là biết, chính là giả biết mà được tên. Giả là tên, chẳng phải tạm biết như đâu, không hằng dụng kia há là nghĩa thường, đã chẳng phải thường dụng, cho nên giao chậm nghiêng nhau, cho nên người can ngăn thì lời chánh lý vui, mình thì phạm chỗ biết. Nếu cho khi can ngăn là chiếu, há có vui khi phạm, cho nên biết nói lý là bán nổi, phạm biết là hoặc chìm, suy theo đây mà phán, từ Thánh trở xuống, không chiếu cạn sâu, nhưng tánh người hạng trung thì tâm tôn sùng thay thế.

Hỏi rằng: Giáo làm dụng mà lụy phục, làm sao mà phục? Nếu đều chưa thấy lý, chuyên tâm tin thầm, ngay chuyên tâm kia chỉ có tin mà thôi gọi là lụy phục, đây là lự không thể đồng, thuộc đây thì kia bỏ, chẳng phải lý lụy duy nhau khiến cho lụy phục. Hễ thiếu tâm mấy ai không như vậy? Phục như thế cội gốc chưa khác, một nương tựa một lại xoay vần không thôi, dẫu lại càng lâu lụy do đâu mà dứt?

Đáp: Lụy phục thuộc đây thì bỏ kia, thật Như Lai bảo: "hễ thiếu tâm thì mấy ai không như vậy", cũng là ý chỉ của Như Lai, lại tiếc không đến người học lập lời mà lấy hằng vật làm bàn? Thí như thuốc hiệu nghiệm thì bịnh dễ lành, lý nhiệm mầu thì bủn xỉn sẽ được rửa sạch, rửa sạch bủn xỉn há lại xoay vần, bịnh lành đâu thể khởi diệt, thì sự không bằng rõ ràng đã xong. Nhưng công vô lậu cho nên khéo giúp thế tục, tâm lành tuy nằm trong số năm phẩm mà có thể ra ngoài ba cõi. Bình lặng, cái gọi là tối tăm ngày mùa đông. Phụ Từ cũng nói rằng:

"Xa không cần dắt", liền nhờ lời này để so sánh nhập vào không quả không trở ngại, Linh Vận từ một phen ngộ lý, thẳng dùng kinh bảo, có thể gọi là bàn văn tục, nhưng thư không hết ý, cũng là cách ngôn đời trước, vắng lặng vô sự liền cùng đạo nhân đồng hạnh chung cầu trong sự hèn hạ kia nhục cao khó nói lý gạn phân tích đâu không nghiên cứu kỹ. Tìm xem lâu ngày mừng như tạm đối, liền lại bày luận trước, dẫu không biện đáp, giải thích lời hỏi, vả lại để bày tỏ tấm lòng. Biển, núi cao xa mở bày không kỳ hẹn, đến rõ thêm lòng, càng vui rất sâu. Tạ Linh Vận bái lạy.

19. VƯƠNG VỆ QUÂN LẠI ĐÁP THƯ

Lại theo lời đáp trước, siêu ngộ cũng không biết, cho nên là khác, chính đáng như thế. Đưa tiễn sinh công là đạo nhân ở đây, cho nên có tiểu tiểu khác nhau. Tiểu lương nên tận mặt nhau, nếu có lời nói lầm, thì nói trước mặt, không do đâu gởi gắm. Ở đây tán ý vẫn nhiều.

20. TRÚC ĐẠO SINH TRẢ LỜI THƯ VƯƠNG LỆ QUÂN

Nghiên cứu luận của Tạ Vĩnh Gia, đều không như thế, có đồng giống như nhiệm mầu tốt đẹp, chẳng thể không cho là vui, đàn việt nạn ý chỉ rất cốt yếu, thiết tưởng xét quyết tốt đẹp thông suốt. Vả lại liền thử được lấy ý luận để bày lòng vui vẻ, vì nếu không biết đâu thể có tin, nhưng do giáo mà tin, chẳng phải không biết. Nhưng giúp kia biết lý ở trong ta, giúp kia có thể đến ta, đâu được không công nơi ngày tiến, chưa phải ta biết, do đâu có mà xếp vào phần chiếu, đâu không cho thấy lý ở ngoài chẳng lại toàn muội, biết không từ trong chưa thể chiếu ư?

21. THƠ CỦA TUNG GỞI CHO AN THÀNH HẦU (DIÊU HƯNG)

Ta từng cho là mình chỗ nhớ Sớ điều các nghĩa của Đại thừa. Đồ Trừng cùng La-thập bình rõ thiếu suy, nên có sự tốt lành, cho nên không còn có thể dứt lý. Không bao lâu La-thập xét lại có ra thay đổi, từ ấy tan ngã, tìm nhau không việc ý sau, bèn quên bỏ đó, gần đó phải sai khiến đưa đón tượng, muốn cùng ông soạn Sớ, trong rương tráp bỗng được điều gốc ngọn ở trước. Nay đưa bày cho ông từ từ tìm hiểu, nếu ông thấy có chỗ không đủ thì hãy đến hỏi, thấy ông đến ngày đều có thể ngay nói cười.

Ta trước dùng ba đạt quán của bậc Thánh để hỏi La-thập, ông bèn đáp, nay lại đưa đến, các việc đều là ý ngày xưa, như nay đều không tình nhớ là sao?

22. LUẬN CHUNG VỀ BA ĐỜI

Từng hỏi các Pháp sư rõ ba đời hoặc có hoặc không đâu vừa chỗ định, đây cũng là một đoạn trong đại pháp mà chẳng thuộc có không, tình thường bao gồm. Do đây bỗng từ sớ Dã Hoài liền thử lời Mạnh Lãng, thật biết lời Mạnh Lãng không đáng hiểu lý, nhưng trong ngực áo muốn có chút ý chấp nhận, rõ ràng không thể im lặng rồi, liền dâng sớ trình ông, người khác có thể điều hòa. Tôi cho là ba đời một mối xoay vần làm dụng, quá khứ tuy diệt lý kia thường còn. Cho nên còn là chẳng phải như lời chú A-tỳ-đàm, năm ấm trơ trọi, giống như dấu giày trên đất, bàn chân thật tuy đã qua mà dấu vẫn còn, thường đến như lửa trong gỗ, trong gỗ muốn có lửa ư? Nhìn thì không thể thấy. Muốn nói là không ư? Duyên hợp thì lửa xuất hiện. Kinh lại nói rằng: Bậc Thánh thấy ba đời, nếu kia là không, thì bậc Thánh không thấy. Nếu nói có ư? Thì phạm thường hiềm, rõ quá khứ vị lai tuy là không, mắt đối lý thường nhân nhau, nếu do lý không dứt, bậc Thánh thấy ba đời không có điều gì nghi ngờ.

23. PHÁP SƯ LA-THẬP ĐÁP

Xưa nay đại thông rất tốt, quá khứ vị lai định là không, ở đây làm không thông. Phật nói sắc ấm, ba đời hòa hợp gọi chung là sắc, năm ấm đều như vậy. Lại nói rằng: Từ tâm sinh tâm, như từ lúa sinh lúa, do đây cho nên biết chắc chắn có quá khứ, chẳng có lỗi không nhân. Lại nói: Ý thức của sáu thức nương ý đã diệt làm gốc mà sinh ý thức, lại chánh thấy danh quá khứ nghiệp vị lai trong quả pháp. Lại trong mười Lực, lực thứ hai là biết các nghiệp ba đời.

Lại nói rằng: Nếu không có nghiệp quá khứ thì không có quả báo ba đường, lại nói: Nếu người học sống trong tâm hữu lậu thì không nên gọi là bậc Thánh. Dùng đây so sánh, vốn biết chẳng nên không có quá khứ. Nếu không có quá khứ vị lai thì chẳng thông lý kinh, pháp không chấp nhận. Lại mười hai nhân duyên là sự sâu xa của Phật pháp, nếu nhất định có quá khứ vị lai thì trái với pháp này. Vì sao? Như có hột đậu nhờ đất nước thời tiết mầm gốc mới được sinh, nếu trước đã định có thì không cần đợi mới có, nếu trước có thì không gọi là từ duyên sinh. Lại nếu trước có thì là chấp thường, đây cho nên không được nhất định là có, không được nhất định là không. Thuyết có không chỉ có thời gian, nơi chốn thích nghi, do quá khứ khởi hạnh nghiệp, chẳng được nói là không. Lại nói rằng: Nay không cùng tự đối, không được nói là có, không của Nhã Luận rất tốt đẹp. Lại Đại phẩm đã nói, quá khứ như không lìa vị lai hiện tại như, vị lai hiện tại như cũng không lìa quá khứ như. Đây cũng chẳng nói là không. Đây thật là đại yếu trong kinh, đợi được cao đối thông lại hết đó. Thông không trụ pháp, trụ Bát-nhã, chúng sinh sở dĩ không bậc thềm đạo là có chấp trước. Do đó giáo của bậc Thánh thường lấy sự bỏ chấp trước làm sự nghiệp, cho nên nói "do không trụ Bát-nhã" dẫu Đại Thánh huyền giám ứng chiếu không bờ mé, cũng không thể chấp, chấp cũng thành bịnh, muốn khiến người tu hành quên bỏ ngã sót chỗ gởi gắm, tràn lên như ghe không buộc, không chỗ nương nhờ thì phải đúng lý.

24. BẬC THÁNH PHÓNG HÀO QUANG LỚN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG

Giáo của bậc Thánh huyền thông chẳng có bờ, cảm ứng nhiều phương, không thể làm một đường mà cầu, không thể dùng một lý mà suy, cho nên ứng thô cho thô, nên tế cho tế, lý vốn là vậy, cho nên phát ra ánh sáng lớn hiện các thần biến, đây là ứng với các Đại Bồ-tát ở mười phương sắp nối tôn vị. Nếu ở tục tiếp thô lại dung sự đây ư? Kinh Ahàm dạy: "Phật ở Thiên Trúc hơn bốn mươi năm, y phục, thức uống ăn, bị các bịnh hoạn, chẳng khác mọi người". Kinh lại nói rằng: Bậc Thánh cũng vào loài nai, ngựa để độ nó há là loài khác với nai ngựa ư? Nếu chẳng khác nai, ngựa, ứng đời thường lưu thông đợi thần biến này đã rõ, thường sự cốt yếu phải tự đồng với vật trước, rồi mới được thực hành giáo hóa kia.

25. THÔNG BA ĐỜI

Chúng sinh trải qua ba đời, kia vẫn xoay vần, quá khứ vị lai tuy không ở trước mắt mà lý kia thường tồn tại, do đó bậc Thánh tìm xưa để biết xưa, ngược số để biết vị lai.

26. THÔNG TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG

Đạo dùng vô vi làm tông, nếu kia vô vi thì chỗ nào là có?

27. AN THÀNH HẦU, DIÊU TUNG BIỂU

Thần nói, "Phụng Châu Tượng Thừa là di chúc của Hoàng hậu lập, ngày bái yết hằng mộ trời đất, cúi xin cảm xưa thêm nhớ". Thần nói: "Trước nhờ, bệ hạ chính thân lo lắng làm tượng, sự thường chú tâm, lâu dài thì mong, chậm thì gởi, tạm một lễ kình không ngộ ân thành rủ đến bèn cùng thần cúng dường tượng này, đã công báu đều trọng. Vả lại ở lý chế tác nghĩ, nếu trong thần tạo đến, chỗ thấy chân tượng thật phải kỳ diệu. Nhưng mới đó ở đây tin lại có nghe thấy, vâng lịnh vui mừng khởi khắp thật vô lượng, thọ trời thí là vô báo, được nhờ ân giáng không tạ từ, dẫu muốn ức bày ngu thật, cũng đâu biết chỗ cùng tận. Thần nói.

Thần nói: Phụng bệ hạ chung các nghĩa, lý vị sâu xa, lời lẽ trong sạch thù thắng, trong đến dụ ở hai thiên, nhiệm mầu ngang bằng trung quán, vịnh đó vui chơi đó, giấy đã có ra nhọc mệt mà tâm vẫn không nhàm thật có thể gọi là cao xướng của đương thời, tôn phạm ở nhiều kiếp. Nhưng thần ngu si tối tăm không tham dự, ngày mở tìm thật lại ca ngâm chẳng dứt không ngộ. Rộng lòng từ khéo dẫn dụ muốn khiến tham gia cho nên có ra hỏi nạn, dám quên ngu độn, liền vị bày tấm lòng, đâu nói là giữ nạn, thẳng muốn thăm hỏi chỗ chưa ngộ. Lời thần.

Thần nói: Trên chung ba đời rất có đầu mối sâu đã xa khế hợp tâm thánh, gồm lại ức chánh lời mọi người, tông đồ gắng tiến nên siêu vượt cảnh thường, tột sự vui mừng càng khiến thưởng vị thêm sâu, thêm là La-thập nghiên cứu bao gồm đầy đủ, thật ngu thần chẳng thể xưng kể hết, ngay khi viết đó lòng ôm cho là cốt yếu của tâm. Lời thần.

Thần nói: Trên thông pháp không trụ, trụ Bátnhã, nghĩa nói rằng: "Chúng sinh sở dĩ không thềm cấp với đạo là có chấp trước". Tâm thánh nhiệm mầu đến thật không đâu không tận, nhưng đến nêu vị sáu độ mà dùng không chấp trước làm tông, chấp ở tâm thật như lời dạy sáng suốt, tức đó ở sự thoát có chưa tột. Phàm không chấp trước tuy nhiệm mầu dường như có không tức chân cả hai thần tốt, có không tức chân cả hai thầm tối sợ là tâm quên nghĩa đó, rình tìm huyền giáo như lại có cho, cẩn thận thành lời để giải bày ngu kiến. Cho nên kinh nói rằng: "Do không chỗ bẻ pháp đầy đủ đàn Ba-la-mật" vì ba việc này không thật có, ba là đã thầm có không, chẳng phải lý không phải tức đồng huyễn hóa, do đây mà suy, sợ gây ra không trụ, chẳng phải thật quên bỉ ngã sót chỗ gởi mà thôi.

Chiếu rằng: Phát ra ánh sáng lớn hiện các thần biến, đây là tự ứng mười phương các Đại Bồ-tát sắp tiếp nối làm hưng thạnh ngôi vị tôn quý. Lý này nhiệm mầu vốn chẳng phải tầm thường gần tham gia, nhưng tình không thôi, còn muốn nói chỗ chưa hiểu. Hễ muôn cõi không đồng tình thô có khác, ứng kia dầu khác mà tâm Thánh thường chỉ một, thường chỉ một cho nên tròn đủ ứng đó, không đồng cho nên quyền giúp. Dẫu nai, ngựa, mà đầu tiên trái to lớn kia, tuy hiện thần biến mà ban đầu sót nhỏ nhiệm kia. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: "Như Lai dùng ánh sáng làm Phật sự, hoặc lấy sự vắng lặng làm Phật sự, hiển ẩn tuy khác mà không hề có hai mối". Nhưng thì ở trong lớn nhỏ sợ lúc này xen nói, như kinh Hoa Thủ chép: Ban đầu Phật vì Đức Tạng phát ra ánh sáng lớn, khiến các chúng sinh khắp được thấm nhuần. Lại trong kinh Tư Ích, Cương Minh hỏi Như Lai có ba mươi ba thứ ánh sáng, ai được gặp đều được lợi ích. Kinh Pháp Hoa nói: "Phật phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày cũng khiến cho bốn chúng tám bộ đều sinh nghi", lại nói rằng: "Chúng sinh ở chỗ tối tăm đều được thấy nhau, nếu người có duyên tuy ít cũng chắc chắn có lợi ích, nếu không nhân dẫu lớn đều trái người".

Cho nên kinh Bát-nhã nói rằng: "Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng đây chắc chắn được đạo Vô thượng. Lại do thần biến khiến chúng sinh trong ba đường ác đều được sinh lên cõi trời", do đây mà nói về ánh sáng thần biến dường như bình đẳng, dám duyên từ đoái hoài liền cạn ân ngu. Nếu lại suy càng trọng khai đạo, đâu thẳng gạn thần riêng thọ ban ân kia.

28. BẮT BẺ VỀ THÔNG TẤT CẢ CÁC PHÁP ĐỀU KHÔNG

Chiếu rằng: Đạo dùng vô vi làm tông, nếu vô vi kia thì chỗ nào làm? Chí lý sâu xa thật không dung lời, nhưng chỗ ở hợp cầu địa, chẳng được không xét gốc để đến ngộ, không xét rõ đạo vô vi là đúng, lấy gì làm thể? Nếu dùng diệu làm tông, dẫu ở vua trước mà chẳng là tột, nếu dùng có không làm diệu, quyết phải có không là nhân của không, nhân xứng đều chưa thầm, đâu là không hai đạo ư? Cho nên luận nói rằng: Chẳng ở không quyết phải có ở có, tướng có không thí như hình tướng dài ngắn, lý không tuy mầu nhiệm toan dường như đồng với đoạn thường kia, thường còn không thể huống chi là đoạn ư? Nhưng luật có không vẫn là sự tồn tại của biên kiến, cho nên Trung Luận nói rằng: "Vì không phá thế đế thì không phá chân đế". Lại luận nói rằng: "Nếu các pháp thật thì không có hai đế, các pháp nếu không thì không tội phước nếu không tội phước, phàm thánh không phân, hai câu không phân đạo chỗ nào có lợi ích. Do thần ám muội chưa ngộ tông cực, cúi xin nhân từ lại thêm dạy dỗ.

29. DIÊU HƯNG ĐÁP

Lời hỏi của ông dẫn dụ giàu lý tột sâu xa, sự cạn cợt thật chẳng thể đáp đủ, nay phải điều cách để đáp nhau. Ông dẫn kinh Bát-nhã nói rằng: "Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này chắc chắn được đạo Vô thượng." Tức kinh đã nói chưa nghe có phàm lưu mà được thấy ánh sáng. Như Đức Thíchca phát ra ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, ngay lúc này kinh không nói có quần phẩm mà được thấy sự quái lạ kia mà khác, đều là sáng khắp, luống dùng lời này chắc chắn không là việc nhỏ. Nếu ông cho chúng sinh là nghi thì trăm ức Bồ-tát há chẳng là chúng sinh ư? Nhưng kinh lại nói rằng: "Chiếu khắp đến Thích-ca, đều cùng kẻ thiện nam người thiện nữ cầm các hương hoa đến cúng dường Đức Thích-ca, và chúng đến cúng dường tự nhiên ứng khắp mong nhờ thấm nhuần ánh sáng kia. Nhưng ánh sáng tạo ra vốn không vì thiện nam tín nữ, cho nên được nhờ sóng dư, kia dụ như con ruồi nhờ đuôi ngựa mà đi xa ngàn dặm.

Ông lại dẫn "Thần biến khiến chúng sinh ba đường ác được sinh lên cõi trời, cõi người". Nếu ở nai làm nai ở ngựa làm ngựa mà độ thoát đó há chẳng là thần biến ư? Các kinh Hoa Thủ, Tư Ích, Pháp Hoa đã nói. Nếu nói là phóng đại quang minh tự ứng với đại phẩm chẳng khác. Nếu mỗi tia sáng để ứng đến vật trước, việc làm này trời người chẳng thể thông hiểu. Ánh sáng đều cùng vắng lặng, đây thẳng phát ý có tham sai kia suy lường một phen.

Ông dẫn kinh nói: "Người thí, người thọ và tài vật đều không thật có, đều không trụ pháp, không trụ Bát-nhã, chưa hề có khác. Hai ấy, thẳng là giáo thỉ chung. Tóm lại, đều là lời phá chấp. Vì sao tội không tội, người thí người thọ tài vật đều không thật có? Nếu đều không thật có thì chấp chỗ nào? Là khuyên không chỗ chấp đã rõ. Ông lại hỏi: "Rõ đạo vô vi là thường đồng, các pháp tự không hay là diệu không, không do thành tột ư?" Lại dẫn hai đế trong luận hỏi rằng: "Ý đã không kịp đạo vô vi nương vào đâu?"

Ý tôi cho là vì đạo chỉ là vô vi chưa rõ lý do tông, vì sao chúng sinh trôi lăn sinh tử đều từ chấp trước? Nếu dục dứt ở tâm thì không còn sinh tử, đã không sinh tử, thầm thần huyền thờ ơ cùng không hợp thể kia là gọi Niết-bàn. Đã nói là Niết-bàn vì sao cho có tên ở trong ấy? Phàm đạo dùng không gởi làm tông, nếu cầu gởi sở tại e bàn là lầm lớn. Ta đã rõ vô vi không thể là có, ý sự như ẩn tìm cầu hoặc phải nạn nhỏ. Nay lại bày lại nghĩa trước. Ông đã dẫn Trung Luận, tức tông nghĩa của ta, nếu các pháp chẳng phải không thì không hai đế, nếu chẳng có cũng không hai đế. Ở đây định rõ có không chẳng lìa nhau, làm sao nếu định nói có thì không do cứu cao sĩ, nếu định rõ không thì không do đâu cứu hạng thường. Đây do bậc Thánh có không bao gồm mà không bỏ, chính là nghĩa này. Nhưng các nhà thông Đệ nhất nghĩa, rỗng nhiên vắng lặng không có bậc Thánh, ta thường cho là quá sai, xa quá không gần tình người, nếu không có bậc Thánh thì người biết không là ai?

30. AN THÀNH HẦU TUNG LẠI DÂNG BIỂU

Thần nói: Ban cho chiếu chỉ lại, dạy dỗ cùng khắp, ngày phục tìm vui mừng không xiết kể. Bệ hạ phát đức âm quang giảng nói cực. Môn khai thác đạo nghĩa, trình bày chỗ sâu kín của Như Lai, thầm tông ẩn mà lại bày, cửa màu đóng mà lại mở, ý chỉ ngoài văn từ có thể gọi là rõ ràng như đèn ở chỗ tối. Lý mầu không thể dùng lời gọi, sự diệu vốn chẳng phải lời thường mà khen ngợi hết được, dầu tâm dục đè ép ca vịnh cũng quên biết chỗ tận. Do thần ngu độn mà mù quáng, nhờ bệ hạ thương xót tô điểm tốt đẹp cho, thành lại mừng chở che như quyến thuộc đặc tha thứ, ép vị gạn lời nghiên cứu ca vịnh càng sâu. Kia là nhờ ngộ đâu chỉ có lợi ích quá nửa. Nhưng thần vẫn sung túc dịch ngoài, không do chính thân thừa lãnh âm chỉ, thường mong mây xa đã thật ở trời đất, không hơn kéo dài chỉ để bày tâu. Thần Tung nói.

Được biểu đủ một, hai, ta thường gần lại thêm nhiều việc mờ mịt, gặp việc xoay mặt vô vách, không biết đạo lý, đâu ở là phục. Do ông ưa pháp mầu, do đây lại Mạnh Lãng dùng lời đó, mà đến dụ qua lợi ích tốt đẹp để không an.

31. LUẬN CHIẾT NGHI CỦA SA-MÔN THÍCH TUỆ TỊNH ĐỜI ĐƯỜNG

Thái tử Trung Xá Tân Tư, học gồm văn sử, cao ngạo kiêu căng tâm ưa đạo thuật, xem thường Phật pháp. Nhiễm Hàn Dũ soạn luận rõ lược Thích tông (đạo Phật). Lúc có người đối Tư quyết đập tan vụn dưới đất cho là trong Tăng không có người. Pháp sư Tuệ Tịnh không khỏi sự khinh lờn kia bèn cắt luận để phát họa đó, nói rằng: "Mở xem Cao luận, rộng nghiên cứu tinh vi, ý chỉ dồi dào, văn từ hoa mỹ, kinh tâm lòa mắt, biện vượt bậc, nói năng suôn sẻ, lý khoe nối tiếp bắt bẻ bừng bừng ngang dọc, ánh sáng tảo rong lăng xăng ngựa trạm kia, chẳng phải bậc triết sĩ thì ai có được tâm kia, nhìn bậc thượng nhân kia vốn khó cùng đối, khinh giữ không thông minh thà trả lời khách đến hỏi.

Luận nói rằng: "Một âm giảng nói tùy theo loài đều được hiểu, chúng sinh loài máy động đều có Phật tánh". Nhưng Phật-đà cùng bậc Tiên giác lời theo thế tục mà khác, trí tuệ và nghĩa Bát-nhã vốn đồng nhiệm mầu, tu tập trí giác nếu chẳng thắng nhân niệm tuệ Phật thì đâu thể lên diệu quả.

Đáp rằng: Lớn thay! Nêu đây, sâu xa bền chắc, lý hợp gồm nghi. Nay sẽ vì ông lược bày đại khái, nếu hỏi đồng đáp khác, văn rực rỡ là rực rỡ ở sách Khổng, danh một mà nghĩa trái, lý rõ là rõ ở kinh Phật, nếu tên đồng thì không chấp nhận nghĩa khác, thì hỏi một không được đáp khác, lệ này đã lên, kia đều tự chìm xuống. Như có chưa dụ lại là xé bỏ, hề do trụ không chỗ trụ, muôn thiện sở dĩ gồm tu, vô vi không làm, một âm cho nên đều ứng, đâu chỉ bặt Thánh dứt trí, ôm một giữ sự mềm yếu lạnh nóng độc thiện nghĩa không gồm tu, xét lời hơn kém kia có thể so sánh ư?

Hai tông đã nói trăm nạn trệ này, luận nói: Quyết danh ngôn kia đây có thể phân biệt. Một âm đều hiểu bèn đùa giỡn nói không. Đáp rằng: Thành thật ý chỉ Như Lai cũng phải phân biệt, trộm lấy tiêu dao một phen, chim bằng và chim cút không thể cùng bay chín muôn, héo, tươi không đồng, cây xuân cái nấm không thể đồng nơi tám ngàn, mà huống gì lửa đom đóm bằng với mặt trời mặt trăng, tưới rưới lúc mưa đâu có phân đồng rõ thấm nhuần mà đều thấm ướt kia ư? Còn như núi, hào, một kia lớn nhỏ, sống lâu chết yểu đều là thọ và yểu, kéo dài cột nhà loạn ngang dọc kia. Thí lộn lạo xấu ác kia, do đây đợi nhau không định đoạt nhau để mất. Trang Sinh sở dĩ dứt có phong kia, chẳng phải cái gọi là trước tiên không vật, ở đây thì do đôi phân biệt, chính ông phân biệt, ông quên phân biệt tức tôi quên phân biệt. Quân tử bàn luận dữ dội mà may mắn là không dối bàn, một lời dễ mất bốn ngựa khó theo. Thật thay văn này, rất đáng dè dặt.

Luận rằng: Các hành pháp là vô thường, gặp việc duyên khởi, lại tâm có đối đãi, giúp khí hợp cầu, nhưng ta tịnh thọ nơi huân tu, tuệ định thành nơi sửa chữa.

Đáp rằng: Vô thường, cho nên ta bỏ, duyên khởi là ta mới đến. Vì cũ nên ta bỏ vì ta đâu có thường? Ta mới đến vì ta đâu có dứt? Mới cho nên truyền nhau, giả huân tu để thành tịnh, tốt xấu lại đổi, chẳng sửa mà nạn công, ở đây thì sinh diệt phá bỏ đoạn thường nhân quả hiển bày trung quán, đây là Trang và Thích huyền đồng, đông tây lý hợp, mà chúng ta bỏ đây lấy kia thì không lầm ư?

Luận nói rằng: Nối vịt trời cắt chim hạc, tầm thường chống chân như, cỏ hóa ong bay, ở đâu chìm tán.

Đáp: Tự nhiên là báo phần, huân tu là nghiệp lý. Báo phần đã định, hai chim không ham dài ngắn, lý nghiệp giúp duyên, hai con côn trùng có đối đãi mà bay hóa. Nhưng sự tượng dễ nghi, chìm tối khó hiểu, người tối tìm cầu chìm mê ở lưới quên. Cho đến đạo tròn bốn quả còn muội áo châu, ngôi vị giáng Thập địa vẫn còn hôn mê la cốc, Thánh hiền vốn vậy huống gì hạng tầm thường? Tự chẳng xem gương ba minh, hùng bay bảy biện, đâu thể diệu khế huyền cực, nghiên cứu sâu xa. Bần đạo nhờ do thọ nghiệp môn nhà bạn gởi từ đáy mong có thể chọn lành dám tiến sô nhiêu như hoặc tiếng leng keng xin rõ lá vàng. Vì vậy họ Tân lãnh nhận văn này liền dứt lưới tà (ở đây nghĩ trước, Chu Sa-môn, Diêu Đạo An hai người giáo luận đã có thành giải, nhưng người chưa thấy cho là Tân Thảo sáng lập). Có Lý Viễn hỏi Xá Nhân có đọc luận này, ý chỗ chưa rõ lại đem chỉ bày Sa-môn Pháp Lâm thỉnh càng rộng nghĩa kia giống với Lâm, bèn đáp rằng: "Nhờ chỉ bày họ Tân cùng Pháp sư Tịnh đồng vật luận, đại ước hai lời hỏi, lời lẽ ý chỉ rộng rãi đầy đủ, lý chí sâu xa tuyệt vời, đã khai nghĩa phụ đặt hiểu văn bén nhọn, bàn nêu Phật tánh bình đẳng, riêng nói chúng sinh đều hiểu. Bày hai nạn kia đây nói một môn huyền đồng, chẳng phải khế hợp trong cõi kia ai trấn giữ được Cao Luận này. Tốt thì tốt mà nghi rất nghi. Vì sao? Xét Thượng Hoàng sớm suốt tỏ, tên Tiên giác đầu dòng, Pháp vương ứng vật nêu hiệu Phật-đà, trí tuệ bởi tiểu thuật phân biệt. Bát-nhã chính là đại tông vô tri, phân biệt duyên khởi cho nên gượng gọi là tiên giác, tánh vô tri bất luận, ở đây giả gọi là Phậtđà. Phân biệt đã bày ở ngoài có số, vô tri thì ở trong không tâm. Ở ngoài có số, thấy phân biệt không mất. Đối với không tâm công dẫn dụ chẳng thiếu, vật rất nhỏ mới cự núi lớn vượt qua chim cút một thước sánh với đại bàng, không thể nói ngang nhau.

Trang Sinh nói: "Ta quên phải quấy không quên kia đây", thường chống vậy ư? Cho nên trí nhỏ không bằng trí lớn, tuổi nhỏ không bằng tuổi lớn, chỉ có Bành Tổ là đặc biệt, mọi người chẳng theo kịp. Huống chi lý ba đời không sai, môn hai đế có thể nghiệm. Do đây Thánh lập nhân quả, phàm phu có thời kỳ chứng Thánh. Đạo xứng tự nhiên, người học không mong thành đạo, từ nhỏ nhặt đến nổi tiếng nhờ sửa chữa mới nghiên cứu, từ nhân đến quả, nhờ huân tu mà chứng. Kia đã biết mà cố hỏi, tôi cũng thuật mà lược đáp, rõ một âm khắp giúp, chìm mất do đây đồng quay về, bốn trí rộng lớn, chân như nhờ đó tự hiển, tự hiển chỉ gạn chỉ bày đồng quy về, ai đến ai đi, càng biết tùy nghiệp mà thọ báo. Hai chim không chê dài ngắn, nhân ẩm thấp mà sinh, hai trùng không lựa phi hóa, không còn đợi và không đợi, rõ tức đợi chẳng phải đợi. Xin thử bàn đó, xưa Khám Trạch có nói: Khổng Lão chịu phép trời, chư Thiên nhận pháp Phật. Chín trù rộng lớn nhờ chế dụng của trời, trên mười phương khéo thờ từ phong của Phật. Nếu sánh Khổng Lão với Thánh tôn, có thể gọi là Tử Cống hiền sánh với Trọng ni, ba ba què mà lấn ngựa ký, muốn nhìn cũng biển lại ôm nước nhỏ giọt, nào khác gì mắt nhòe mà nhìn đầu lông, đi thụt lùi mà muốn đến Dĩnh Lộ, chẳng phải việc nên làm, chẳng phải việc nên làm.

Vả lại, Vương Đạo Chu Nghĩ là đứng đầu tể phụ Vương Mông Tạ còn là vũ nghi của nhân luân, kế thì Hy Siêu, Vương Thụy, Lưu Cầu, Tạ Dung v.v... và hơn bảy mươi người ở Anh Ngạn, Giang Tả đều học tổng cữu lưu tài anh Thiên cô, đều nói tánh linh chân yếu có thể giữ thân giúp tục, chẳng phải lỗi ở giáo pháp của Phật và Tống Văn Đế cùng Vương Huyền Bảo ở Hà Thượng cũng có bàn việc này, như trong nhà kia đều tôn cốt yếu đây, ta sẽ ngồi tỏ ra thái bình ư? Từ trước lại nói rằng: "Mười điều lành được mở rộng thì người trời hưng thạnh, thực hành năm giới thì quỷ súc bặt dứt". Thật ra! Phép tắc nhiệm mầu giúp đời có tạo tác mà có thể bàn ư? Trung Xá học giàu, tài cao, văn hoa mỹ, lý chí thiết. Tần treo một chữ, Thục quải ngàn vàng, do đâu phải kỳ lạ xinh đẹp. Không lường cái thấy của ống tre, khinh bày lý thô xấu, dám đây có đáp chỉ bày gai tục tổ. Lý Xá Nhân được Lâm giải thích lại, bỗng nhiên thần giải, nghi nặng liền dứt, vẫn do rộng xem nghe luận này, cho nên được hai văn cùng hiển đều cùng chí ư?

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]