TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2106 - TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

Soạn giả: Đời Đường, niên hiệu Lân Đức năm thứ nhất, núi Chung nam, Thích Đạo Tuyên.

MỤC LỤC

SỐ 2106 - TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN 1

TỰA CẢM ỨNG XÁ LỢI PHẬT Ở THẦN CHÂU TRUNG QUỐC

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN 2

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN 3

THẦN TĂNG CẢM THÔNG TỤC

 


QUYỂN 1

Lợi ích của Tam bảo đã có từ lâu nhưng còn sự tranh chấp kính tin, hủy báng cho nên có duyên cảm ứng. Từ đời Hán đến đời Đường hơn sáu trăm năm, tướng linh hiển được ghi chép khá nhiều, thần hóa khắp nơi, tùy cơ hiển hiện, ánh sáng ẩn hiển, khai hóa một thời, ảnh tượng bao dung, trần tích muôn đời, hoặc thấy ở quá khứ, hoặc hiển ở tương lai, soi sáng đạo tục, khởi phát lòng tin. Xin tóm thâu thành ba quyển: Xá-lợi Hiện Tháp, Linh Tượng, Chùa Thánh Kinh Lành Thần Tăng.

Xá-lợi hiển tháp

Ngày xưa, có lần Phật đi khất thực, một đứa bé đang chơi cát bên đường, thấy Phật đứa bé liền lấy cát làm cơm dâng cúng Phật. Phật nhận cát, bảo thị giả đem về trét lên vách phòng của Phật. Phật thọ ký: Sau khi ta diệt độ một trăm năm, đứa bé này sẽ làm vua ở Diêm-phù-đề, quỷ thần trong vòng bốn mươi dặm đất vua đều thuần phục. Vua cho lấy xálợi trong tám ngôi tháp, sai quỷ thần xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trong một ngày đêm (có nói trong kinh, không cần ghi lại). Xá-lợi là tiếng Phạm, Hán dịch là thân cốt. Một ngôi tháp ở Cối Kê đời Tây Tấn, một tháp ở Kim lăng đời Đông Tấn, một ngôi tháp ở Đông thành, Thanh châu,

Thạch triệu, một ngôi tháp ở Hà đông đời Diêu Tần, một ngôi tháp ở phía Tây núi Kỳ sơn, Kỳ châu nhà Chu, một ngôi tháp ở phía Đông thành Qua châu nhà Chu, một ngôi tháp ở chùa Đại thừa trong thành Sa châu nhà Chu, một ngôi tháp ở phía Tây cố đô Lạc châu nhà Chu, một ngôi tháp ở huyện Cô tang, Lương châu nhà Chu, một ngôi tháp ở huyện San đan, Cam châu nhà Chu, một ngôi tháp ở phía Nam núi Tiêu sơn, Tấn châu nhà Chu, một ngôi tháp ở phía Đông thành Đại châu nhà Đề, một ngôi tháp ở chùa Phúc cảm, Ích châu nhà Tùy, một ngôi tháp ở huyện Tấn nguyên, Ích châu nhà Tùy, một ngôi tháp ở chùa Khởi hóa, Trịnh châu nhà Tùy, một ngôi tháp ở chùa Diệu lạc, Hoài châu nhà Tùy, một ngôi tháp ở huyện Du xã, Tịnh châu nhà Tùy, một ngôi tháp ở huyện Tâm trung, Ngụy châu đời Tùy, một ngôi tháp ở Sơn xuyên, Thần châu. Tháp thứ nhất: hiện ở huyện Lưu cách Việt châu ba trăm bảy mươi dặm về phía Đông, cách biển bốn mươi dặm về phía Đông, bảy mươi dặm về phía Đông nam, cách thôn Ngô hai mươi lăm dặm về phía Nam. Tương truyền niên hiệu Đại Khang năm thứ hai đời Tấn, ở Tịnh châu có người tên Lưu Tát Hà, sinh sống bằng nghề săn bắn. Họ Lưu bị bệnh nặng, rồi chết, mơ thấy một vị tăng Ấn Độ bảo: Tội ngươi rất nặng, phải đọa địa ngục, nhưng thương ngươi ngu si không biết nên thả cho về. Hiện ở Cối kê, thuộc Đan dương, có ngôi tháp cổ và tượng đá nổi do vua A-dục xây, ngươi hãy đến đó lễ bái sám hối để thoát khổ. Sau khi thức dậy, họ Lưu xin xuất gia học đạo, bỏ nghề săn bắn, pháp hiệu là Tuệ Đạt. Theo lời dặn Tuệ Đạt đi tìm nhưng không thấy nên rất buồn khổ. Đang đêm nghe tiếng chuông vang, Tuệ Đạt lần theo, chặt gỗ làm am tu. Ba hôm sau, bỗng nhiên có ngôi tháp báu chứa xá-lợi nổi lên. Tướng tháp như đá nhưng không phải đá, tháp cao một thước bốn tấc, vuông bảy tấc, có năm tầng như tháp ở Vu-điền, xung quanh treo chuông trời, ở giữa có khánh đồng. Tiếng chuông vang tức là tiếng khánh này. Thân tháp là hình tượng của Phật, thánh tăng, Bồ-tát thu nhỏ, nếu nhìn kỹ thì có cả trăm ngàn tượng đủ cả mặt mũi tay chân. Đó là thần tích, con người không thể làm được. Hiện nay, tháp gỗ ở ấp Thăng tuần, ai thấy tháp đều cúi lạy, niệm Phật. Xá-lợi ở tầng dưới của tháp. Bên trái tháp có nhiều cổ tích, ở huyện Chư kí, do bốn huyện hợp lại mà thành. Cách một trăm lẻ bảy dặm về phía Đông bắc có thành Cổ việt, thành rộng ba dặm. Địa ký chép:

Giữa thời nhà Việt xây kinh đô ở đó, vẫn còn nền đất. Ở đó thường có tiếng chuông vang lên vào ngày cuối tháng, dân chúng rất tôn kính. Cách huyện Chư Ký một trăm dặm về phía Tây bắc, làng Tân nghĩa có Hứa Công Nham. Theo địa chí: Đời Tấn, Cao Dương Hứa Tuân tự Huyền Độ kết bạn với Sa-môn Chi Đạo Lâm. Họ thường ngao du sơn thủy mà đến ở đây. Vua mời không đến, sau đến Kiến nghiệp. Lưu Thán làm Đan Dương Doãn, nổi tiếng ở đương thời, tạo tượng suốt mấy hôm. Khen rằng: Nay thấy Hứa Công, khiến ta thành kẻ khinh bạc. Sau lập am ở đó, đến đời Lương am vẫn còn. Lưu Doãn thường đến am này, nói: Gió mát trăng thanh, cùng nhớ Huyền Độ. Cách huyện Cú chương một trăm ba mươi dặm về phía Tây nam, có các núi Thiên thai, Xích thành, là núi nổi tiếng trong thiên hạ. Cách phía Đông bắc một trăm bốn mươi dặm, có đường Sa Đường, rộng mấy trượng, ra tận đến biển. Theo Đạo Xí đó là đường Tần Hoàng đuổi tiên sinh An Kỳ đến chỗ nước sâu mới thôi. Thành cổ huyện Lưu cách Cú Chương hơn ba trăm dặm về phía Đông, là đô thành của Mân Việt. Tháp ấy ở làng Hiếu Nghĩa. Theo Địa chí: Vua Adục xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp, đây là một trong số những ngôi tháp đó. Sau, quan Cối Kê nhà Tống sửa chữa lại, trên núi có ao đá rộng ba thước, nước trong vắt, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Theo Dư địa chí thì A-dục là đệ tử Đức Thích-ca có khả năng sai khiến quỷ thần xây tám vạn bốn ngàn tháp thờ xá-lợi Phật trong một ngày đêm.

Theo Sa-môn Trúc Tuệ Viễn, phương Đông có hai tháp: Một ở đây, một ở Bành việt. Giờ lại có một tháp nữa, thành ba. Đây là y cứ chính xác. Theo Cối Kê ký: Thừa tướng Vương Đạo đời Đông Tấn nói: Lúc mới qua sông, một đạo nhân dung mạo bất phàm nói từ biển vào, đã cùng vua A-dục xây tháp xá-lợi trấn ở biển này. Vua A-dục và các đạo nhân xây tháp bay ra biển, các đệ tử xin theo biến thành đá đen, đá có hình người, tháp ấy ở núi Thiết vi. Thái thú Chử Phủ Quân nói: Theo những người đi biển kể lại trên đảo có đá đen hình tu sĩ, và y phục. Thái thú sai đào mang về xem, vân đá y như nếp áo ca sa. Biển đông không xa, đảo là nơi vua Từ Yển lánh nạn, vẫn còn nền cung thành. Xưa Chu Mục Vương tuần hành về phía Tây, đến núi Côn lôn, nghe thấy Yển Vương liền đuổi theo, Yển Vương lẫn tránh. Tấn Tôn Ấn tạo phản, dùng yêu thuật mê hoặc dân chúng, xây thành tự vệ, nay thành vẫn còn. Niên hiệu Phổ Thông năm thứ ba đời nhà Lương, vì trọng cổ tích, vua cho xây chùa lấy tên là A-dục Vương. Xung quanh chùa là núi sông rừng suối, là nơi hưởng nhàn, có bia ghi lại. Cách ba mươi lăm dặm về phía Đông nam, trên núi có dấu chân phải của Phật, cách hai dặm về phía Đông bắc trên núi có dấu chân trái của Phật. Cách hai dặm về phía Bắc của chùa có giếng thánh, vốn là ao cá, người đời gọi đó là Bồ-tát cá. Người đến lễ bái, cá nổi lên. Một hôm bọn cướp giả đến lễ bái, cá nổi lên, chúng liền đâm, cắt đứt đuôi cá, từ đó cá không hiện lên nữa. Ai dốc lòng cầu khẩn thì nổi bọt mà thôi. Một vị tăng đến lễ bái, vì thiếu thức ăn nên khó bảo toàn, một bà lão què chân đến dâng thức ăn rồi biến mất, đó là con cá biến hiện. Những việc linh nghiệm thì quá nhiều, chỉ kể vài câu chuyện. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười chín, Pháp sư Mẫn đạo cao đức trọng, đồ chúng theo học rất đông, Pháp sư đến chùa này giảng kinh suốt một tháng, người nghe rất nhiều. Đang đêm có người thấy tu sĩ Ấn Độ kinh hành quanh tháp nên thưa lại với chư Tăng, nhưng việc này chẳng có gì lạ, xưa nay thường xảy ra. Niên hiệu Vĩnh Huy năm thứ nhất, ẩn sĩ Trương Thái Huyền đến chùa tụng kinh, Sa-môn Trí Duyệt ngủ chung với Thái Huyền, đang đêm nghe tiếng tụng kinh Kim Cang Bát-nhã rất rõ, hai người lắng nghe. Đến khi nghe tụng xong, hai người đi tìm, nhưng không thấy ai, mới biết là thần trao.

Tháp thứ hai: ở huyện Giang ninh, Nhuận châu. Tháp ở trong chùa Trường can phía Đông thành Cổ việt. Cuối đời Tây Tấn, gọi đất Giang nam là nước Ngô, trong đất Trường can có ngôi tháp cổ do vua A-dục xây. Khi Tôn Lâm chấp chính phế bỏ chùa Phật, tháp bị cháy, xá-lợi ẩn trong đất. Sau khi nước Ngô bình định, chư Tăng xây tháp ba tầng trên nền tháp cũ, nhưng không đúng, vì không ai biết. Niên hiệu Hàm An năm thứ hai đời Đông Tấn, Giản Văn xây tháp ba tầng, Hiếu Vũ treo hình bánh xe vàng lên đỉnh tháp. Theo Minh Tường Ký: Giản Văn định xây nhưng chưa xây xong thì mất. Nghĩa là tháp này được xây từ thời Giản Văn đến thời Hiếu Vũ mới xong. Sa-môn Lưu Tuệ Đạt y cứ tăng truyện đi tìm tháp nhưng không biết nơi nào. Samôn lên thành Việt nhìn, thấy ở Trường Can có khí lạ, liền đến ở đó. Đang đêm thấy ánh sáng soi chiếu, Sa-môn theo dấu vết tìm kiếm, đào sâu xuống đất khoảng vài trượng, thấy ba tấm bia dài sáu thước, bia giữa rỗng bên trong, có ba hộp sắt, vàng, bạc, trong hộp vàng có ba hạt xá-lợi và một móng tay, một sợi tóc kéo dài mấy thước, xoắn hình ốc, đó là vật do vua A-dục chôn cất. Sa-môn liền xây một tháp mới, Hiếu Vũ xây thêm thành ba tầng. Vì thế trong chùa có hai ngôi tháp, phía Tây là tháp của vua A-dục. Đan Vương Doãn Vương Nhã dâng năm đấu gạo, cho là tà đạo nên hạ chiếu phá hủy chùa tháp. Nhã đến xem, Sa-môn đặt xálợi trong bình bát, đến trước mặt Nhã, Sa-môn lật úp bát, xá-lợi không rơi ra, lại dâng hương cầu Phật hiển linh, thấy vậy Nhã tuy không thành tâm nhưng từ đó về sau không còn hủy báng pháp Phật nữa. Đến đời Lương, nghe nói pháp vua lập pháp hội vô ngại, hạ chiếu rằng: thiên hạ hưng thịnh theo thời, muôn vật sinh diệt, nhị nghi không thể luôn che chở nên thay đổi theo ngày tháng năm rồi dân chúng đói khát vì mất mùa, xét rõ nguồn gốc là do trẫm, cần phải đổi mới. Kinh Dịch nêu: Tùy thời nghĩa lớn. Nay xá-lợi Phật hiện ở đời, thật là việc ít có, khó tưởng tượng. Trẫm xin lập pháp hội ở chùa A-dục để dân quan đều vui như đói được ăn, người thân lâu ngày được gặp, u hiển trở về, xa gần kính ngưỡng, trai gái tập trung, ban bố công đức. Tất cả mọi việc, tội nặng tội nhẹ đều được ân xá. Nay ở đất Giang ninh còn nền tháp ba tầng và chùa Phật, xung quanh hoang rậm, không ai đến được. Những rắn rít ở nền tháp đều bị chết, người ít, cỏ rậm, thú dữ nhiều, làm ô uế tháp Phật. Cách Vĩnh An bảy, tám dặm có chùa Nhật nghiêm, do vua Tùy Dạng Đế xây dựng, có tháp nhưng chưa có xá-lợi, nên đem xá-lợi ở tháp Trường can về tháp chùa Nhật nghiêm, bên trên có khắc bia. Lúc ấy hơn năm mươi vị đại đức ở Giang nam đều cho rằng đó không phải là xá-lợi mà vua A-dục đặt. Xá-lợi mà A-dục đặt là ở chùa Trường can, việc này chưa biết đúng sai thế nào. Đến niên hiệu Vũ Đức năm thứ bảy chùa Nhật nghiêm bị phế, tăng chúng đi mất, chùa do quan giữ, nhưng tháp xá-lợi không ai trông coi. Mười vị Sư dời đến Sùng Nghĩa, đào thấy ba hạt xá-lợi to bằng hạt thóc màu trắng, một móng tay ngã màu vàng, mấy mươi sợi tóc, lại có lưu li và các châu báu khác, tất cả được đựng trong hộp bằng đồng. Móng tay ấy nhỏ giống người thường nên nghi không phải của Phật. Vả lại tất cả xá-lợi ở tháp chùa Sùng Nghĩa vốn được đựng trong hộp bằng đá. Mọi người đều cho đó là móng tóc của Lương Vũ Đế. Như vậy xá-lợi thật có nghi vấn. Nhưng tháp cổ ở Giang nam vẫn còn những thần tích. Tuy có hai thuyết khác nhau nhưng vì ngày tháng thay đổi người đời sau khó lường. Xin trình bày để dễ quyết đoán.

Tháp thứ ba: Các đời Chu Tần không biết ở đâu, đời Thạch Triệu, Tôn giả Phật Đồ Trừng đến đất Nghiệp, có người họ Hổ muốn xây chùa tháp. Tôn giả bảo: Trong thành Lâm truy có chùa A-dục Vương, trong đó vẫn còn tượng Phật, bên trên có đá, có thể tìm được. Hổ sai người tìm quả thấy trong lòng đất khoảng hai mươi trượng, vì muốn biết nơi xưa, Tuệ Đạt ứng mộng bảo rằng: Lạc dương, Lâm Truy, Kiến Nghiệp, huyện Lưu, Thành đô đều có tháp do vua A-dục xây. Người lạy tháp này không đọa địa ngục, đó là việc thật.

Tháp thứ tư: Đời Hậu Tần, chú của Diêu Lược làm vua nhà Tấn, trấn giữ Hà Đông. Tương truyền: Tháp cổ Bồ Phản do vua A-dục xây dựng, thường phát ra ánh sáng. Khi đào lên, quả thật có xá-lợi Phật đặt trong hộp bạc trong tráp bằng đá, họ dâng lên vua, vua đích thân đón rước. Tại chùa Cứu khổ, Đông phản, Bồ châu, chư tăng lập tượng rất lớn nhưng tháp không còn.

Tháp thứ năm: Cách Vũ Đình Xuyên mười dặm về phía Đông, cách huyện Kỳ sơn hai mươi dặm về phía Tây, cách sông Vị thủy ba mươi dặm về phía Nam, cách Kỳ sơn hai mươi dặm về phía Bắc. Còn có tên là núi Mã ngạch, ở phía Bắc núi lớn. Các phía đều có núi, phía Nam khác phía Bắc nên tên núi là Kỳ sơn. Cách hơn hai mươi dặm về phía Tây bắc có suối Phụng tuyền, nằm trên núi Kỳ sơn, thời Chu Văn, chim kêu ở đất này, uống nước suối này nên có tên là Phụng tuyền. Sau đó chim bay về Hà trì, nay là quận Hà trì thuộc Phụng châu. Về nguồn gốc ngôi tháp thì chùa hư tăng mất, cảnh vật suy tàn, khó biết được. Tháp Bình Nguyên vốn gọi là chùa A-dục, ở làng Liệu truyền, chính là tên núi phía Bắc. Từ thời Chu Ngụy trở về trước chùa có tên là A-dục vương, tăng chúng có hơn năm trăm vị, sau nhà Chu diệt pháp, chùa chỉ còn hai căn, nhà Tùy đặt tên là chùa Thành thật. Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ năm, tăng chúng ít nên bỏ chùa, về trụ chùa Bảo xương ở kinh đô. Niên hiệu Nghĩa Minh năm thứ hai đời Đường, sư Phổ Hiền xin xây lại chùa, thừa tướng cảm kích, đặt tên chùa Pháp môn. Đến niên hiệu Vũ Đức năm thứ hai, trải qua bao lần binh biến, chùa có tám mươi tăng nhưng chưa có trụ trì, sư Tuệ Nghiệp chùa Bảo xương xin về đó. Thời gian trôi qua chùa bị hoang phế, hỏi nguyên nhân mới biết cuối niên hiệu Đại Nghiệp giặc cướp nổi lên, dân chúng không an nên xây thành để giữ. Đầu đời Đường đốt phá tất cả, chùa chỉ còn hai căn. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ năm, thứ sử Trương Lượng kính tin, đến chùa lễ bái, dâng sớ về tháp cổ, được vua cho phép, tháp được xây dựng. Tương truyền tháp này bị đóng cửa suốt ba mươi năm. Vì muốn gieo giống lành cho mọi người nên giữa niên hiệu Trinh Quán vua cho mở cửa tháp. Khi đào tháp thấy hai bia đá được xây dựng vào thời Chu Ngụy nhưng văn không rõ nên không ghi lại. Mọi người được thấy xá-lợi, có một người mù nhờ ánh sáng mắt bỗng nổ tung, nhìn thấy mọi vật. Ai nấy đều thấy theo mắt mình, người thấy xá-lợi màu ngọc trắng, người thấy là màu xanh. Người không thấy thì hỏi ở đâu. Có một người vì không thấy xá-lợi nên buồn bã khóc than, mọi người bảo người ấy cố gắng sám hối tội lỗi, người này liền đốt ngón tay để cúng dường, rồi đi quanh tháp, nhờ tâm chí thành người này thấy được xá-lợi, vui mừng người ấy làm tắt lửa, rồi không thấy xá-lợi nữa. Tháng chín niên hiệu Hiển Khánh năm thứ tư, sơn tăng Trí Tông thấy tháp xưa cũ nên dâng sớ xin bảo hộ. Vua hỏi: Là vua A-dục hóa thân của đứa bé cúng đất đó sao? Nếu thật thì đó là một trong tám vạn bốn ngàn tháp. Sơn tăng thưa: Chưa biết thật hư, tương truyền đó là chùa A-dục vương, cứ ba mươi năm xuất hiện một lần. Đầu niên hiệu Trinh Quán đã từng xuất hiện. Giờ đã đủ kỳ hạn xin hãy ứng hiện. Vua nói: Nếu có được xálợi thì trẫm nguyện đến tháp hành đạo bảy ngày, xin cho thấy điềm lành. Rồi cúng dường năm ngàn đồng tiền và năm mươi xấp lụa. Ngày năm tháng mười, Trí Tông và người hầu Vương Trường Tín rời kinh đô, đến tối mùng sáu thì đến tháp. Trí Tông vào tháp chuyên tâm khổ luyện, đến canh ba ngày mùng mười, Trí Tông đốt hương thành tâm cầu khẩn, chợt nghe có tiếng phát ra từ pho tượng, đến xem thì thấy ánh sáng phát ra từ các bức tượng với đủ màu sắc rực rỡ, tạo thành chiếc lọng báu. Trí Tông định mời chư Tăng đến thì thấy trong tháp có vô số chư Tăng đứng chắp tay, ánh sáng dần hạ xuống, cách đất ba thước thì chư Tăng biến mất. Lúc đó Trí Tông mới biết là Phật hiện, liền kêu người hầu cùng đến xem điềm lành. Sáng hôm sau họ thấy một hạt xá-lợi lớn hơn hạt gạo, tìm kỹ thì được bảy hạt nữa, tất cả đều sáng rực. Tông dâng sớ tâu vua, vua cấp ba ngàn xấp lụa, cho tạo tượng vua A-dục, và sửa chữa tháp, đặt tượng trong tháp. Như vậy khai hiển xá-lợi Phật là khai mở phước tuệ. Chư tăng sửa sang lại làm cho ngôi tháp cổ càng trang nghiêm. Ngày đầu mở tháp có hơn hai mươi người, ai nấy đều được thấy xá-lợi. Chỉ có một người không thấy. Người ấy buồn khổ bức tóc vỗ đầu, khóc cầu, mọi người đặt xá-lợi trong bàn tay người ấy tuy cảm thấy nặng nhưng vẫn không nhìn thấy. Do đó những người đến yết kiến sợ không thấy xá-lợi, không dám thấy ánh sáng. Vài ngày trước khi chiếu chỉ đến, dân chúng ở phía Đông chùa thấy ánh sáng màu đỏ rực, người thì thấy cầu vòng vụt thẳng lên trời, người thì thấy ánh sáng như tranh vẽ. Chư Tăng tán tụng: Xá-lợi không lâu sẽ hiện điềm này như niên hiệu Trinh Quán. Xá-lợi như ngón tay nhỏ, dài một tấc hai phân, trong ngoài vuông vức, dưới bằng trên tròn sáng rực, đại chúng đều thấy ánh sáng khác thường. Lúc ấy dân quan, đạo tục từ kinh thành đến làng xóm trong vòng hai trăm dặm đều kéo về xem, khen ngợi đức của Phật. Thầy Tuệ Mẫn trụ chùa Từ ân ở kinh đô đến hành đạo, bỗng thấy một đôi mắt sáng rực nên kêu mọi người cùng đến chiêm ngưỡng. Đó là vào tháng ba niên hiệu Hiển Khánh năm thứ năm. Vua ra lệnh đưa xá-lợi về kinh cúng dường, lại có cả xương đỉnh của Phật cao năm tấc, rộng bốn tấc, màu vàng tía. Khi sắp đến kinh đô, vua mời bảy vị tăng về hành lễ. Chư Tăng nói: Đây là chân thật của Phật, chư Tăng nguyện tôn thờ cúng dường, sau một đêm chư tăng mới đưa vào cung. Hoàng hậu cúng dường một ngàn xấp lụa để làm quách bạc quan vàng đựng xá-lợi. Niên hiệu Long Sóc năm thứ hai đưa về tháp cũ. Vua ra lệnh chư tăng ở kinh đô và ở chùa tháp, cùng quan dân hơn ngàn người cất xá-lợi trong hang đá, để ba mươi năm sau sẽ lại hiện điềm lành.

Ở thôn Vương trang làng Hoa dương huyện Kỳ sơn, Kỳ châu có một người tên Bằng Huyền Tự, người này không tin Phật pháp. Nghe xá-lợi Phật được cất gần đó, mẹ và anh đến lễ bái, Tự không cho đi, mẹ và anh vẫn đi. Khi về Tự tức giận nói: Việc này có công đức gì? Nếu xá-lợi có công đức thì tượng Phật trong nhà cũng có công đức, rồi đem tượng đốt, xem có linh nghiệm gì. Mẹ và anh can ngăn nhưng tượng đã bị cháy một nửa. Huyền Tự bỗng bị ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, Tự kể: Thấy mình đến một nơi như địa ngục, chim lớn bay đến mổ mắt, rúc thịt, bị thiêu đốt trong hầm lửa, đưa tay sờ mặt thì lông mày, râu tóc rụng rơi, nhìn thấy trời đất tối tăm, có người nói: Ngươi tự tạo tội không ai thay được. Huyền Tự không biết gì nên không trả lời, nói: Lửa đốt tâm tôi, rồi cứ chạy khắp nơi, lại bị đánh đập nêu cứ kêu xin sám hối. Ngày mười ba tháng hai Tự chạy đến chỗ tháp, thấy Pháp sư giảng kinh, chư tăng ni, dân chúng đều thấy Huyền Tự quì trước tháp khóc lóc sám hối tội không tin, pháp phạm hạnh ni, đánh tăng chúng, trộm trái cây. Sau đó Tự ngủ thiếp đi, biết giá trị của xương đỉnh Phật nên cúng bốn ngàn xấp lụa. Xương đỉnh hiện vẫn còn.

Tháp thứ sáu: Bị phá vào thời Chu, nhà Tùy phục hưng giáo pháp nhưng không sửa sang chùa. Sau xây tường quanh chùa tháp, thấy có phát ra ánh sáng, đạo tục đều tôn kính, cầu phước mong được ứng hiện.

Tháp thứ bảy: Triều Chu thấy có nền pháp, tương truyền đó là tháp do vua A-dục xây. Những người bị tai họa thường đến cầu phước ở đây.

Tháp thứ tám: Cách phía Tây thành một dặm, cách phía Nam chùa Bạch mã một dặm. Tục truyền đó là tháp do vua A-dục xây, nghi là do ngài Cadiếp Ma-đằng đem sang để hàng phục tà đạo, hiển chánh đạo.

Tháp thứ chín: Theo các sách thì ở Cô Tạng có tháp do vua A-dục xây. Nhưng quận Cô Tạng nay thuộc Châu huyện. Theo Hán thư, Hà Tây có bốn quận. Trương dịch, Cô tạng, Tửu tuyền, Đôn hoàng, nhưng không rõ về tháp.

Tháp thứ mười: Cách một trăm hai mươi dặm về phía Đông Cam châu, gò đất bên đường lớn phía Bắc Nhược thủy tương truyền là tháp do vua A-dục xây, nhưng từ lâu đã bị hoang phá, nay ghi là tháp Cô tạng.

Tháp thứ mười một: Đạo tục xa gần đều cho đó là tháp của vua A-dục xây, tôi có đến đó. Địa thế rất lạ, không giống làng xóm.

Tháp thứ mười hai: Tục truyền đó là chùa Adục vương, thời Chu ở đây thuộc đất Rợ phương Bắc (Bắc Địch). Như theo thơ cổ thì đây không phải là đất của Bắc Địch. Vốn là đất của người Hoa Hạ bị Bắc Địch xâm chiếm.

Tháp thứ mười ba: Ở phía Tây thành, vốn tên là Đại thạch, tương truyền: Quỷ thần vâng lời vua A-dục, dùng đá ở núi Tây làm nền tháp, xá-lợi đặt bên trong nên gọi là đại thạch. Đời Tùy, vua cho đào tháp nhưng chỉ thấy đá, không thấy đầu mối. Nhân mưa to gió lớn người ta đào một mảnh đá lại là ngọc báu. Đầu đời Đường, Luật sư Sằn thấy di tích cổ nổi lên ngôi tháp cổ chín tầng, nay thuộc Ích châu. Những lúc lụt lội, hạn hán quan dân đến đây cầu cứu đều hiện ứng nên gọi là tháp Phúc Cảm. Tôi có đến xem quả đúng như lời đồn. Trộm cắp đến đây lấy trộm thì bị thần linh hại, hắn tự kêu lên, chư tăng đến cứu. Niên hiệu Vĩnh Hưng năm thứ nhất, Vương Nhan Tử đến tháp trộm vật, bỗng hai trụ đá khép lại, không thoát ra được. Một vị Phạm tăng bảo hãy la lớn lên là có trộm, nếu không thì sẽ chết, tên trộm liền xướng lên vài tiếng, chư tăng trong chùa nghe cầu cứu chạy đến cứu, mới thoát ra được. Niên hiệu Trinh Quán có trận động đất, tháp sắp đổ, dân chúng lại thấy có bốn vị thần đưa lưng đỡ tháp. Một người giàu có thấy mặt tháp ngắn nên cúng ba trăm lượng vàng để sửa lại. Tự nhiên có mùi thơm bay ra thơm ngát một vùng, mười ngày sau mới hết.

Tháp thứ mười bốn: Cách Châu hơn một trăm dặm về phía Tây nam, hiện có ngôi chùa tên là Đẳng chúng, xưa tên là Đại thạch. Nhân duyên như trước, có người cho rằng cách Ích châu một trăm dặm về phía Bắc có ngôi tháp ở Huyện lạc, trong chùa Bảo hưng, vốn tên là Đại thạch. Đầu đời Tùy có Pháp sư Đàm-ma-quật-xoa đến Đông Hạ lễ bái tháp do vua A-dục xây. Lễ bái xong Pháp sư về thành đô nghỉ, đêm đó nghe thấy tiếng động. Pháp sư hỏi, trong hư không có tiếng đáp: Mười hai thần vương theo bảo hộ Pháp sư, mai định trở về nên đến từ biệt Pháp sư. Pháp sư hỏi: Nếu thế sao không hiện thân, các thần liền hiện thân. Pháp sư vốn vẽ giỏi nên vẽ lại hình ảnh mười hai vị thần, sau Luật sư Sằn cho khắc tượng gỗ thờ ở dưới tháp, hiện vẫn còn. Sa-môn Đạo Trác chùa Pháp Thành thấy tháp hoang phế liền xây tháp gỗ, xung quanh tháp có ba cái ao không biết sâu hay cạn nhưng là chỗ ở của ba con rồng nên không ai dám xem. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười ba, ba con rồng tranh đấu nhau, chấn động cả đất trời. Sau trận chiến ngôi tháp vẫn nguyên vẹn, mọi người nhặt lông rồng dài ba thước, màu vàng đỏ.

Tháp thứ mười lăm: Ở ranh giới huyện Mật, cách châu hơn trăm dặm về phía Tây nam. Tháp nằm ở phía Đông nam, phía Bắc tháo tiếp liền với chùa, rộng mười lăm bộ, nền chùa tháp là bùn đất, phía Tây nam đều có suối rộng ba thước, nước chảy mạnh, tưới khắp gần xa. Trên lớp đất là trụ gỗ, trên là tảng đá rộng tám thước. Mọi người đều cho là do Luân vương làm nên. Pháp sư Đạo Nghiêm họ Lý, người U châu, từng được Tùy Dạng Đế mời vào cung, năm một trăm lẻ năm tuổi Pháp sư vào ở trong núi, mỗi năm đến tháp này bảy ngày để cúng dường. Thấy dưới suối có hiện tượng lạ, liền nhờ người thợ lặn đến xem, thấy xung quanh toàn là trụ đá, ở giữa có bảo tháp cao ba thước, xung quanh là nước, nên không dám đến xem. Tục truyền đó là tháp của do A-dục xây. Từ đó đến nay chùa tháp vẫn còn. Phía Nam chùa là núi Quy sơn, phía Tây là núi Tung sơn. Chùa ở dưới nước. Mỗi năm nước từ hai núi thường chảy về Đông nhưng đều chảy quanh phía Bắc chùa trước. Nước đầy chùa cao, nước rút chùa thấp, xưa nay không hề bị ngập. Suối hay phun nước hình hoa sen, về sau nước không phun nữa. Vì nơi đây cảnh sắc đẹp nên vua định xây cung điện nhưng nền tháp bền chắc không đào được, vua đành bỏ ý định. Sau có vị tăng thấy ánh sáng hiện lên từ tháp.

Tháp thứ mười sáu: Cách huyện Vũ lăng bảy dặm về phía Tây. Trong chùa Diệu lạc có tháp trắng năm tầng, vuông mười lăm bộ, được làm bằng đá dài năm thước, rộng ba tấc, mọi người đều cho là quỷ thần làm nên. Vì không tìm thấy nền. Tương truyền tháp này từ đất vọt lên, phía dưới là nước. Quan thứ sử không tin, cho người đào lên, đến nước vẫn không thấy có nền tháp.

Tháp thứ mười bảy: vốn là nơi tăng ở, từ đầu đời Đường về sau, tăng đi chùa vắng, chư ni ở đó. Tôi có đến hỏi về ngôi tháp nhưng không còn dấu vết.

Tháp thứ mười tám: Ở trong chùa A-dục vương có ngôi tháp nhỏ, tương truyền đó là tháp báu.

Tháp thứ mười chín: Cách huyện ba mươi dặm về phía Tây bắc, vốn có tên là chùa Xá-lợi, hiện có chư ni ở, ba mặt tháp là nước, mặt tây có đường, nền tháp là đá, ba mặt tháp hoa sen mọc đầy, nước rất sâu, không ai dám vào. Tương truyền tháp xálợi ở dưới nước.

Tháp thứ hai mươi: Ở Trường hà, Thương châu có tháp do vua A-dục xây. Ở mặt Bắc ngoại ô ba châu Ngộ, Nghi, Lương có Phật xuất hiện, mọi người cho là luống dối. Sự thật trong núi có tượng Phật bằng đá cao ba trượng. Phía Đông huyện Lâm ấp, Tề châu có tháp gạch, nghe nói do Chí Công xây, bốn mặt tháp có thú đá hình thù rất đáng sợ. Nhà Chu diệt pháp sai người đào phá nhưng không được. Có người nói tháp ở thành Liêu đông, Cao lệ. Tương truyền vua Cao Lộ đến thành này thấy mây năm màu che phủ, trong mây có vị tăng đứng cầm tích trượng, vua tìm đến thì không thấy gì. Nhìn ra xa lại thấy có tháp ba tầng, không biết là gì vua tiếp tục tìm vị tăng nhưng chỉ thấy cỏ hoang, đào sâu một trượng thì thấy bài minh khắc bằng tiếng Phạm, hỏi ra mới biết là tháp Phật, nước Hán có vị vua kính tin xây tháp gỗ bảy tầng. Sau pháp Phật được truyền đến nơi này. Nhưng tháp đó đã hư chỉ còn tháp do vua A-dục xây. Xưa có Hội Thừa người Nhật đến đây học kỹ nghệ. Cuối thời vua Vũ Đức vẫn còn, đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ năm mới về nước. Hỏi rằng: Nước ông pháp Phật truyền đến muộn, chẳng hay tháp do vua A-dục xây đã có trên nước ông chưa? Đáp: Tuy không có sử sách ghi lại nhưng dấu vết vẫn có. Nếu không thì sao người ta thường thấy tháp cổ, tượng Phật. Chùa Không tuệ ở phía Nam thành Ích châu có kho vàng, một đạo sĩ biết được nên nhờ thần linh xin, thần lấy ra hai nén vàng, đạo sĩ theo lời đến tìm thì thấy vô số tháp vàng nhưng vì chư tăng trong chùa biết được nên không dám lấy. Trong hang núi ở huyện Vị nam, Ung châu có tảng đá treo hình chó sói nên đặt tên là Sài Cốc. Lại có tượng đá hình mặt Phật nên cũng gọi là Tượng Cốc. Tương truyền: Xưa có vị tăng Ấn Độ đến đây, bảo rằng trong hang có tượng bảy Đức Phật, vì bảy Đức Phật có đến đây nói pháp, trong đó thường xuất hiện hoa chiêm bặc. Giữa niên hiệu Vĩnh Huy, Samôn Trí Tích đến tìm, đến hang ngửi thấy mùi thơm, Sa-môn tìm kỹ mới biết cát trong khe rất thơm. Người ta thường thấy trên núi này có hiện pháp Phật, hoặc hiện tượng Phật. Cách chùa Ngọc hoa cung hai mươi dặm về phía Nam có núi Đàn Bát, trên núi có nền tháp xưa, rộng bốn mươi ba thước, có ngôi tháp gạch một tầng, bốn mặt đều có cửa đá cao hơn bảy thước, rộng hơn năm thước, xung quanh có gạch vụn. Tương truyền, Chu Văn

Vương đi săn, thấy trên núi có Sa-môn cầm tích trượng, bưng bình bát. Vua bảo đến nhưng không đến, vua liền sai người bắt, đến gần thì không thấy nhưng nhìn xa vẫn còn, vua cho người đào chỗ Samôn đứng thì thấy bình bát và tích trượng. Vua liền cho xây tháp gạch mười ba tầng, dân chúng ở đó thường nghe tiếng chuông. Niên hiệu Long Sóc năm thứ nhất, Sa-môn Tuệ Quý chùa Từ ân đến tìm. Nghe tiếng chuông, Sa-môn biết là tháp xưa, muốn sửa chữa nhưng còn do dự, chợt có thiên thần hộ tháp khuyên làm, một vị tăng lại nói: ta là Bồ-tát ở tịnh độ phương Nam du hóa đến đây, ngôi tháp này đã trải qua bốn lần xây dựng, chớ ngại nhọc mệt, tâm thành là thỏa nguyện. Sa-môn liền bắt tay tôn tạo ba tầng tháp. Phía Nam tháp lại có ngôi chùa cổ, lưng tựa vào núi, mặt hướng về phía sông, thật là một nơi thánh tích. Trước lúc tu tạo chùa tháp, tiếng chuông vẫn vang lên đúng thời. Niên hiệu Long Sóc năm thứ ba, người ta đào thấy một bài minh khắc: Niên hiệu Bảo Định nhà Chu tháp bị đổ. Lại ghi: Hơn bốn trăm năm tháp bị hư. Xét từ niên hiệu Bảo Định đến nay là tám mươi mốt năm. Như vậy tháp này có từ thời Hậu Hán. Vì nhà Chu không ghi nên không biết rõ, nhưng tháp không thể là do người bình thường xây nên.

Ở Lô sơn, Giang châu có ba trụ đá dài mấy mươi trượng, rộng chưa đầy một thước. Niên hiệu Hàm Khang đời Tấn, Du Lượng đến Giang Nam, lên núi thấy kỳ tích, biết không phải tầm thường nên bái tạ ra về. Niên hiệu Trinh Quán thứ hai mươi mốt nhà Đường, trụ đá phía Tây nam tháp chùa Hưng quốc, Kinh châu tự nhiên phát ra tiếng, mọi người đến xem thì thấy xuất hiện đầu Phật đồng mạ vàng, suốt ba ngày mới hiện hết, dài khoảng sáu tấc, là tượng Phật đứng, mọi người đều thấy lạ. Đầu đời Đường tháp chùa Đại từ ở Tường châu bị cháy, chúng tôi hỏi nguyên nhân, một vị Tăng nói: Cuối niên hiệu Đại Nghiệp trộm cướp nổi lên, dân chúng kéo về ở trong tháp, làm ô uế. Khi hết giặc, chư Tăng không làm sao dọn dẹp được, bất chợt lửa bốc lên, đốt cháy tất cả, chỉ còn điện ở phía Nam. Có thể nói lửa giúp trừ mọi ô uế. Tháp này được xây từ thời vua Cao Tổ đời Tùy. Nhà Tùy mới lập, dân chúng chưa theo, họ Dương dấy binh làm phản, vua cử binh đánh phạt, bắt hơn trăm vạn người tập trung đợi giờ trảm quyết. Nhưng bỗng nhiên vách vườn có lỗ hổng, bọn chúng tranh nhau chạy trốn, đến sáng thì không thấy lỗ hổng nữa, chỉ còn lại sáu mươi vạn người. Họ bị chém, thả xuống sông, làm cho nước sông không chảy được, dòng sông đỏ ngầu, đêm đêm tiếng quỷ khóc than, ai oán làm đau lòng người, thấy vậy vua liền cho xây chùa Đại Từ, ngày đêm sáu thời lễ Phật, sám hối tội lỗi cho những người chết. Chùa xây xong, chư Tăng về ở, từ đó không còn tiếng than khóc nữa.

---------------------------

TỰA CẢM ỨNG XÁ LỢI PHẬT Ở THẦN CHÂU TRUNG QUỐC

Bậc Đại thánh tùy duyên, hóa độ chúng sinh, ẩn thân hiện hình, phước đức bao trùm mọi vật, khắp cõi Ta bà. Từ răng, móng, tóc, mắt đến bình bát y phục, đều hiện khắp Trung thiên, phương Đông lại ít. Vua A-dục cho xây tháp khắp nơi, cảm ứng muôn loài từ đời Hán đến đời Đường chẳng thời nào không có. Đã gọi là linh cốt thì không thể tìm cầu như vật khác mà là tùy duyên ứng hiện. Vì thế xét các truyền thuyết và hiện tượng hiện tại thì nên ghi lại vài việc.

Trong Hán Pháp Bổn Nội Truyện chép: Minh Đế mở mang Phật pháp, xây chùa độ tăng, các đạo sĩ ở Ngũ nhạc muốn tỉ thí. Họ đốt kinh và không ứng nghiệm nên người thì chết, người thì xuất gia học Phật. Lúc ấy xá-lợi được mang đến từ Tây Vực phát ra ánh sáng năm màu, bay vút lên hư không tạo thành lọng báu. Pháp sư Ma-đằng bay lên hư không biến hóa tự tại, trời tuôn hoa báu cúng dường tượng Phật và tăng, nhạc trời vang xa mọi người đều kính tin. Trong Lạc thành thời Ngụy Minh Đế có ba ngôi chùa, một ngôi ở phía Tây cung, thường có điềm lạ, vua lo lắng định phá chùa. Một vị Tăng nước ngoài đang ở trong chùa liền đem xá-lợi ra. Vua thấy xá-lợi sáng rực đủ năm màu liền khen là thần thông, rồi cho xây một ngôi làng trăm gian. Theo Phật Đồ Tinh Xá thì niên hiệu Xích Ô năm thứ tư, thời Ngô Tôn Quyền, Sa-môn Khương Tăng Hội đến Giang Đông lập am hành đạo, dân chúng cho là yêu dị. Vua Tôn Quyền nghe, liền cho mời Sa-môn vào hỏi: Có linh tích gì chăng? Sa-môn đáp: Có cầu thì ứng. Vua nói: Nếu được xá-lợi sẽ cất chùa. Sa-môn cầu suốt hai mươi mốt ngày thì được bình đựng xá-lợi. Vua Tôn Quyền đựng trong hộp đồng rồi cho đập, hộp đồng vỡ, nhưng xá-lợi còn nguyên. Vua kinh ngạc, cho là điềm lành. Sa-môn thưa: Xá-lợi Phật là kim cang, không thể đập vỡ, không bị đốt cháy. Vua lại cho lực sĩ đập, chày bị rơi, xá-lợi vẫn còn nguyên, lại chiếu sáng hơn, vua đem đốt thì trong lửa bỗng hiện ra hoa sen, vua kính tin, lập chùa Kiến sơ, đổi tên làng thành làng Phật-đà. Tôn Hạo nối ngôi, rất bạo ngược, muốn phá chùa đốt kinh. Có người khuyên là rất linh nghiệm, Tôn Hạo cho mời Samôn vào, hỏi: Nếu ứng nghiệm thì giúp vua hưng thịnh, nếu không thì sẽ đập phá, chém người. Samôn nói: Tâm thành thì ứng. Tôn Hạo cho ba ngày. Hơn trăm tăng chúng đều tập trung về chùa. Tôn Hạo bày binh vây chùa, chờ giờ đem giết. Có vị sợ không linh nghiệm nên tự vẫn trước. Sa-môn nói: Phật để xá-lợi đến nay, trước đã hiệu nghiệm, giờ không thể dối. Đến giờ đã định thì xá-lợi ứng nghiệm, Sa-môn dâng lên Tôn Hạo, thưa: Đây là thân kim cang của Phật, không gì phá nổi.

Tôn Hạo nói: vàng đá còn mài được huống chi là xương cốt. Rồi Tôn Hạo cũng cho đập như xưa nhưng xá-lợi vẫn còn nguyên, lại dùng nước sạch vẫy lên, xá-lợi sáng rực soi cả cung điện. Từ đó Tôn Hạo kính tin thần hóa. Đầu đời Tấn cũng được xá-lợi, con của Trúc Trường Thư xuất gia làm Samôn tên Pháp Nhan, thường muốn hoàn tục, than rằng: Là cát đá, có gì quý đâu. Người cha liền ném xuống nước, bỗng hiện ánh sáng năm màu cao vút đến mấy thước, thấy vậy người con không hoàn tục nữa. Sau khi cha chết, người con lại muốn hoàn tục nhưng vẫn không được, người con đem xá-lợi về tháp Giang Hạ. Vào niên hiệu Đại Hưng đời Tấn, đang đêm một pho tượng gỗ bỗng hiện ánh sáng, bên trong lại có tiếng, nhìn kỹ mới biết xá-lợi đang nổi trong nước, ánh sáng rực rỡ. Sa-môn Pháp

Hằng định xây chùa thì thấy oai thần biến hiện. Tiếng đồn vang xa, mọi người đều kính tin. Niên hiệu Hàm Hòa đời Tấn, một vị Tăng từ phương Bắc đến Dư Hàng định xây chùa nhưng vì không đất không tiền, vị Tăng liền đi quyên góp. Được ba vạn đồng tiền, vị Tăng mua đất cất am tu. Định xây tháp nhưng không có xá-lợi, nghe La Ấn có, vị Tăng đến xin nhưng không được. Sau thấy vị Tăng,

La Ấn vui vẻ xây chùa ở Dư hàng. Niên hiệu Hàm Khang đời Tấn, thái thú Mạnh Cảnh định xây tháp, đang đêm bỗng nghe tiếng ở đầu giường, nhìn xem thì thấy ba hạt xá-lợi. Thái thú xây tháp. Tháng sáu, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười sáu, xá-lợi phát ra ánh sáng soi chiếu khắp nơi, bảy ngày mới hết, mọi người đều thấy.

Niên hiệu Nghĩa Hưng năm thứ nhất đời Tấn, một người ở Lâm ấp nhặt được xá-lợi, ban ngày thường phát ra ánh sáng. Sa-môn Tuệ Toại định thỉnh cho thứ sử Quảng Châu, nhưng chưa kịp nói thì xá-lợi tự chia ra thành hai. Lại có người xin, xálợi lại chia ra thành ba phần. Thứ sử muốn mô phỏng tượng ở Trường can nhưng vị trụ trì cố chấp không cho. Đêm đó có một người cao lớn bảo rằng: Tượng quý ở chỗ truyền đạo, sao lại tham tiếc? Trụ trì liền cho phép làm. Thứ sử đặt xá-lợi ở búi tóc của tượng, ánh sáng thường chiếu rọi.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ sáu đời Tống, Giả Đạo Tử du hành thấy hoa sen sắp nở liền hái đem về. Chợt nghe trong hoa có tiếng lạ, tìm thấy một hạt Xá-lợi trắng như chân châu, họ Giả cung kính cất trong hộp đem treo trên vách nhà. Người nhà thường thấy Phật tăng đến nhà. Có người vô tình làm ô uế nên đêm đó mơ thấy người báo mộng: Ở đây có chân thân Đức Thích-ca, chúng thánh đều tôn kính, sao lại làm ác, chết sẽ đọa địa ngục, làm thân tôi tớ không sợ hay sao? Người ấy kinh sợ, không bao lâu bị bệnh chết. Trên vách nhà mọc tám nhánh hoa sen, sáu tuần thì khô, từ đó không còn xá-lợi.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ tám đời Tống, ở xứ Cối Kê có nhà thờ Phật, đang đêm nghe tiếng gõ cửa, người nhà ra xem, thấy hơn mười người mặc y đỏ, chở tài vật, bảo rằng xây cất chùa Phật, rồi biến mất. Hôm sau thấy một hạt xá-lợi màu vàng tía, đập không vỡ, đổ nước vào thì càng sáng, cả nhà tôn kính thờ phụng, sau tự nhiên biến mất. Tìm cả buổi thì thấy Lâm xuyên vương ở trấn Giang lăng rước đi. Mọi người đều thấy khác nhau. Vương liền trì chú thì ánh sáng phát lên, hơn trăm người đi quanh xá-lợi, hôm sau mới biến mất.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ chín, Trương Tu Nguyên ở Tầm Dương thiết lễ bát quan trai, mấy mươi tăng sĩ tín đồ tham dự, chợt thấy bình hoa ở tượng Phật trắng như tuyết, họ tìm thì thấy mấy mươi hạt xá-lợi, ánh sáng sáng rực, rồi chợt biến mất. Mấy mươi ngày sau họ lại thấy một chiếc răng, và mười hạt xá-lợi. Các nơi nghe tin đều đến xin thỉnh.

Niên hiệu Gia Nguyên năm thứ mười lăm, ở Nam quận có người không tin đạo pháp, đang đêm nằm mơ thấy người báo mộng nên ân cần lạy Phật suốt nửa năm, sau thấy hai hạt xá-lợi, trong miệng lại có ánh sáng, vợ con tìm thấy một hạt nữa. Nhưng không bao lâu lại biến mất.

Các truyện về thành tâm được xá-lợi, kiêu ngạo thì không được ghi chép rất nhiều, chỉ lược nêu vài việc mà thôi.

Xưa, Tùy Cao tổ ở Long Tiềm, một thần ni vô cớ đến nói: pháp Phật sắp diệt, tất cả thần linh đều đã về phương Tây. Ông hãy mở mang pháp Phật để thần linh trở lại. Sau đó họ Chu diệt Phật, nhà Tùy lên ngôi. Xưa có một Bà-la-môn mang đến một hạt xá-lợi, bảo: thí chủ có tâm nên để lại cúng dường, nhưng sau tìm không thấy. Vua nói: ta thành là nhờ Phật, liền cho xây tháp khắp nơi, lại thờ tượng thần ni, lại xây tháp nối liền với nền ở chùa Pháp giới, trong đó có đặt xá-lợi. Mùa thu niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười lăm, ban đêm ánh sáng từ tháp phát ra, trong một tuần có bốn lần như vậy. Vua sinh vào ngày mười ba tháng sáu niên hiệu Nhân Thọ cung Nhân Thọ vào năm thứ nhất. Vua lấy ngày này để đền ơn cha mẹ nên mời chư Tăng làm lễ, xây ba mươi ngôi tháp. Vua hạ chiếu: Kính mong đấng Đại từ bi cứu hộ chúng sinh, trẫm quy y Tam bảo, trùng hưng thánh giáo, tạo phước khắp nơi để được lợi lạc ở hiện tại và vị lai. Thỉnh ba mươi vị đại đức hiểu sâu pháp tướng, truyền bá đạo pháp, đem thị giả đưa xá-lợi về các châu quận để vì trẫm mà xây tháp cúng dường, hoàng hậu, vương tôn công tử, dân chúng chư Tăng làm lễ sám hối trong bảy ngày, dùng quốc khố xây tháp. Các quan từ thứ sử trở xuống nghỉ việc bảy ngày, lo việc xây tháp. Vào giờ ngọ ngày mười lăm tháng mười đồng khởi công xây tháp. Hôm ấy vua lên điện đứng bên tượng Phật, ba trăm sáu mươi vị Tăng lên điện. Vua lại thấy một người lạ, đắp y màu nâu. Vua ra lệnh xung quanh không được kinh động. Làm lễ xong, vua không thấy người lạ nữa. Vua nói: Phật pháp lại hưng thịnh, giờ xây tháp thờ xá-lợi nên có cảm ứng. Hôm xây tháp ở chùa Tiên dung đất Ung châu, trời tuôn tuyết lớn, xá-lợi xuất hiện, soi sáng khắp nơi. Tháp ở chùa Phụng tuyền cũng có hợp đá đựng xá-lợi, nền tháp lại hiện chim thú, đá biến thành thủy tinh. Tháp ở chùa Hưng quốc, Kinh châu cũng vậy. Tháp ở chùa Tịnh niệm, Tần châu cũng có tuyết rơi, cỏ cây ra hoa, ánh sáng chiếu soi. Tháp ở chùa Tư giác, Hoa châu thì có tuyết rơi, mặt trời hiện năm màu che trên tháp, trời rải hoa như mưa. Tháp ở chùa Hưng quốc, Đồng châu thì có mưa tuôn, mặt trời mọc, ánh sáng chiếu xa năm mươi dặm. Tháp ở chùa Thê nham, Bồ châu thì mặt đất chấn động, tiếng chuông trống rền vang, năm tia sáng chiếu xa hai trăm dặm. Tháp ở chùa Vô lượng thọ, Tịnh châu thì ban đầu trời u ám, sau đó mặt trời chiếu soi, ánh sáng rực rỡ, vô lượng thiên thần hiện. Tháp ở chùa Hằng nhạc, Định châu thì có người lạ phủ tấm vải lên rồi biến mất, nước bỗng nhiên phụt ra. Tháp ở chùa Đại từ, Tương châu thì tuyết rơi, mặt trời mọc, trời tuôn hoa. Tháp ở chùa Định giác, Trịnh châu, ánh sáng sáng như sao băng, chùa thiết lễ cúng dường, muôn người ăn không hết. Tháp ở chùa Nhàn cư, Tung châu, thỏ đến, trời mưa tuyết, mặt trời chiếu sáng, mây nhóm. Tháp ở chùa Khai tịnh, Hào châu bên trong không có đá, chỗ khác có ba tảng đá, bên dưới là nước. Tháp ở chùa Hưng thế, Nhữ châu, mây tan, mặt trời mọc, sau đó mây tụ. Tháp ở chùa Đại nhạc, Tần châu thì đang đêm tiếng trống rền vang, cửa tự mở, ánh sáng hiện ra. Tháp ở chùa Thắng phước, Thanh châu, khi đào nên thấy có tảng đá, sau đó ánh sáng hiện ra. Tháp ở chùa núi Cự thần, Mân châu, được hai tử chi, tuyết rơi, mặt trời chiếu, sau đó biến mất. Tháp ở chùa Trí môn, Tùy châu, lúc đào móng có rùa thần, cam lồ rơi, ong đen bay quanh, rùa có văn chú. Tháp ở chùa Hưng quốc, Tương châu, trời âm u bổng mặt trời hiện, mây tụ, tháp ở chùa Tây, Dương châu, khi đưa xá-lợi vào thì trời tuôn mưa to, trước đó ở đây bị hạn. Tháp ở chùa Tô Hà, Tương Châu, người ở đó mơ thấy Phật đến đây từ phía Tây bắc. Khi xálợi được đưa đến thì đúng như giấc mộng. Tháp ở chùa Đại-vũ, Ngô-châu, thì xá-lợi phải đi qua năm con sông nhưng không gặp phải sóng gió, lại được có tử chi. Tháp ở chùa Sơn-tây, Hổ-khâu, Tô-châu, lúc đào móng có được một hạt xá-lợi, nhạc trời tự vang, giếng khô hai hôm. Tháp ở chùa Hoành nhạc, Hoành châu, gió nổi bốn phía, nước xuôi dòng, mây trắng phủ trên đỉnh núi, đến chỗ tháp thì tạo thành hai vòng. Tháp ở chùa Duyên hóa, Quế châu, khi xá-lợi cách tháp mười dặm chim chóc từ khắp nơi bay về, sau đó biến mất. Tháp ở chùa Linhthứu, Phan châu, trong hầm có tượng thần tiên. Tháp ở chùa Pháp tụ, Ích châu, trời âm u, mặt trời xuất hiện, sau đó lại biến mất. Tháp ở chùa Pháp giảng, Quảng châu, đang đêm ánh sáng soi chiếu cả châu, mọi người đều thấy. Tháp ở chùa Sùng giáo, Qua châu, vua quan đang đưa tù nhân đi đày, giữa đường thấy xá-lợi, nên thả họ nhưng trong vòng mười dặm không một ai chạy trốn. Người ở Tùy châu đào ao nuôi cá nhưng gặp xá-lợi thì thả hết. Các quan thấy sự cảm ứng của xá-lợi liền dâng sớ tâu vua, vua hạ chiếu: Nhờ đức Từ bi che chở chúng sinh, trẫm thành tâm tạo phước thù thắng, tạo nhân lành khắp nơi, nên phân xá-lợi, xây tháp thần, đức từ bi hiện tướng ánh sáng, xá-lợi được hiện ở cung điện, thật là việc ít có, là phước lành cho muôn loài. Đó hẳn là sự cảm ứng của lòng thành kính. Nay xá-lợi vẫn còn, hãy chia cho năm mươi ba châu, để chúng sinh trong sáu nẻo ba đường đều thoát khổ, bước lên quả thánh. Tháng giêng niên hiệu Nhân Thọ năm thứ ba, lại phân bố xá-lợi cho năm mươi ba châu. Giờ Ngọ ngày mùng tám tháng tư, các châu đều đón rước. Các châu đó là Hằng châu, Tuyền châu, Tuần châu, Doanh châu, Hồng châu, Hàng châu, Lương châu, Đức châu, Thương châu, Quan châu, Doanh châu, Ký châu, U châu, Từ châu, Cử châu, Tề châu, Thái châu, Sở châu, Giang châu, Đàm châu, Mao châu, Bối châu, Tống châu, Triệu châu, Tề châu, Đoái châu, Thọ châu, Tín châu, Kinh châu, Lê châu, Từ châu, Ngụy châu, Lạc châu, Biện châu, Kỵ châu, Hứa châu, Thẩm châu, Lan châu, Lương châu, Lợi châu, Dự châu, Hiển châu, Tào châu, An châu, Đặng châu, Tần châu, Vệ châu, Lạc châu, Hoài châu, Thiểm châu, Lạc châu, Trịnh châu.

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN 2

Từ thời Đông Hán giáo pháp dần truyền đến Nam Ngô, các điềm lành ứng hiện rất nhiều, các sách ghi chép khác nhau. Nay y theo lời kể lược nêu vài việc: Tượng vẽ Đức Thích-ca ở Lạc dương thời Đông Hán; tượng vàng xuất hiện ở Kiến Nghiệp thời Nam Ngô; tượng đá nổi trên sông ở quận Ngô đời Tây Tấn; tượng vàng bảy nước ở Thái sơn thời Tây Tấn; tượng vàng xuất hiện ở Dương đô đời Đông Tấn; tượng vàng đi trên núi ở Tương Dương thời Đông Tấn; tượng vàng giáng hạ ở Kinh châu thời Đông Tấn; tượng vàng hiện trên sông ở Ngô hưng đời Đông Tấn; tượng gỗ thơm ở Cối Kê đời Đông Tấn; tượng vàng truyền chân ở quận Ngô đời Đông Tấn; tượng vàng hiện trên đất ở Đông Dịch đời Đông Tấn; tượng thái tử tư duy ở Từ châu đời Đông Tấn; tượng Văn-thù bằng vàng ở Lô sơn đời Đông Tấn; tượng đá hiện trên núi ở Lương châu đời Nguyên Ngụy; tượng đất ở ngọn Vương nam, Hà nam, đời Bắc Lương; tượng đá cao trượng sáu ở Thơ Cự đời Bắc Lương; tượng Văn-thù bằng vàng ở Đô thành đời Tống; tượng đồng ở Đông Dương đời Tống; tượng vàng xuất phát ra ánh sáng ở Giang lăng đời Tống; tượng vàng hiện ở Bồ Trung đời Tống; tượng vàng ở Minh trạch, Giang lăng đời Tống; tượng vẽ trên vách ở Kinh châu đời Tống; tượng vàng ở Giang lăng đời Tống; tượng đá ở Phiên ngung gặp lửa thì nhẹ ở đời Tề; tượng vàng ra mồ hôi ở Bành thành đời Tề; tượng Quan Thế Âm bằng vàng ở Dương Đô đời Tề; tượng Chiên-đàn của vua Ưu-điền hiện ở Kinh châu đời Lương; tượng vàng chùa Quang trạch ở Dương Đô đời Lương; tượng bạc đời Lương cao tổ; kinh Cao Vương Tượng Quán Thế Âm bằng vàng ở Định châu đời Nguyên Ngụy; tượng ở điện Trùng vân bay vào biển đời Trần; tượng đá chùa Linh thạch ở Tấn châu đời Chu; tượng đá ở Bắc sơn, Nghi châu đời Chu; tượng đi Hoa nghiêm ở Hiện sơn, Tương châu đời Chu; tượng dời chùa Hưng hoàng bị đốt ở Tương châu đời Tùy; Thích Minh dâng năm mươi tượng Bồ-tát vào đời Tùy; tượng bốn mặt ở chùa Sa hà, Kinh châu đời Tùy; tượng đá chùa Nhật nghiêm ở Kinh đô nhà Tùy; tượng đá ở Phường châu đời Đường; bia đá chữ Phật ở Lương châu đời Đường; vết chân Phật ở chùa Tương tư, thuộc Du châu đời Đường; tượng từ Vũ châu dời đến Đàm châu đời Đường; tượng vàng ở Lam điền, Ung châu đời Đường; tượng vàng ở huyện Hộ Ung châu đời Đường; tượng phát ra ánh sáng ở Thẩm châu đời Đường; tượng phát tiếng ở núi Ngũ đài, Đại châu đời Đường; tượng hiện ở núi Liên khẩu đời Đường.

Theo Nam Tề vương Diễm Minh Tường ký: Hán Minh đế nằm mộng thấy vị thần cao gần hai trượng, màu vàng, quanh cổ có vầng ánh sáng, vua hỏi các quan. Có vị thưa: Ở phương Tây có vị thần được tôn là Phật. Người mà bệ hạ mộng thấy chắc là người này. Vua sai sứ đến Thiên Trúc thỉnh kinh tượng, tất cả vua quan đều kính trọng. Ban đầu các sứ giả thỉnh được hai Pháp sư, thấy tượng Đức Thích-ca do vua Ưu-điền cho làm, vua Minh đế cho họa sĩ vẽ lại thành nhiều bức để thờ cúng tại đài Thanh lương, Nam cung và Thọ lăng ở Cao dương lại cho vẽ tượng ngàn xe muôn ngựa vây quanh tháp ba vòng (có nói như trong truyện).

Đời Ngô, người ta tìm thấy một pho tượng bằng vàng ở sau khu vườn đất Kiến nghiệp. Tìm hiểu mới biết đo là tượng do vua A-dục làm vào đầu đời Chu để trấn ở Giang phủ. Vì sao? Vì đời Tần, Hán, Ngụy ở đây chưa có pháp Phật, làm sao có tượng? Tôn Hạo thấy tượng không kính tin, đem bỏ ở nhà xí. Hôm mùng tám tháng tư, Tôn Hạo đến nhà xí, đùa rằng: Hôm nay là ngày tắm Phật, rồi tiểu lên tượng. Ngay lập tức trời đất tối tăm, Tôn Hạo đau la, quan thái sử xem bói, nói đã phạm tới bậc đại thần, rồi cầu cúng khắp nơi nhưng không có hiệu quả. Trong số cung nữ, có người tin Phật nên nói:

Phật là vị thần lớn, bệ hạ làm ô uế, nay hãy sám tội. Tôn Hạo làm theo, lập tức khỏi bệnh, liền cho người đến thỉnh Sa-môn Khương Tăng Hội vào cung, dùng hương thơm tẩy tịnh, sửa sang lại rồi đưa về thờ tại chùa Kiến sơ.

Niên hiệu Kiến Hưng năm thứ nhất thời vua Mẫn Đế đời Tây Tấn, một người chài lưới sống tại Hộ độc, Trùng giang, huyện Ngô, quận Ngô thấy trên mặt biển có hai người đi lại, người làng chài cho là thần biển nên cầu cúng, sóng gió nổi lên, thầy cúng sợ hãi bỏ về; lại có đạo sĩ cho là thiên sư nên ra cầu cúng, sóng gió vẫn như trước; một cư sĩ tin Phật cho đó là Phật giáng thần, liền cùng các ni ở chùa Đông Vân và các cư sĩ khác thiết lễ ở cửa biển để thỉnh, sóng gió yên lặng. Theo sóng biển hai tượng đá dần dần trôi vào bờ, mọi người đến nâng tượng nhưng nâng không nổi. Họ lại cầu thỉnh thì nâng về được. Một đại sư ở chùa Thông Huyền xem biết đó là tượng Tôn giả Duy-vệ và Cadiếp, nhưng không biết có từ thời nào, mọi người định đặt tượng lên tháp tòa nhưng không nâng nổi, họ lại cầu cúng mới nâng lên được. Từ đó quan dân quy y rất đông. Sa-môn Thích Pháp Uyên người ở Tây Vực y cứ theo kinh truyện biết đó là hai tượng và tháp mà vua A-dục đặt ở phương Đông, ai đến lễ bái sẽ trừ được tội lỗi. Theo Biệt Truyện: Mười hai vị Sa-môn ở Thiên Trúc đưa tượng đến quận này, tượng đứng trên nước không chìm, không lay.

Các Sa-môn liền tâu lên vua, vua cho phép để lại đó, sau công chúa nghe được, cho người đến chùa Thông Huyền để vẽ lại.

Tượng ở chùa Lãng công hang Kim dư, núi Thái đời Tây Tấn. Xưa khi đất Trung Nguyên gặp nạn, Vĩnh Gia mất ngôi. Sa-môn Thích Tăng Lãng họ Lý, người đất Ký, đi Tây Vực trở về, cùng hai Sa-môn nữa đến Đông Nhạc, thấy trên đỉnh phía Tây bắc có mây che, mọi người đều cho là lạ. Thời ấy không có vua, anh hùng nổi lên khắp nơi, Tần, Tống, Yên, Triệu đều làm việc phước, bảy nước Cao Lê, Hồ, Nữ, Ngô... tặng tượng đồng mạ vàng để thờ. Ngôi chùa ấy đến nay đã gần ba trăm năm mươi năm mà cấu trúc của chùa tháp vẫn còn như xưa. Đời Tùy đổi thành đạo tràng Thần Thông.

Vào niên hiệu Hàm Hòa vua Thành đế đời Đông Tấn, Đan Dương Đoản Cao Ly vào cung trở về thấy ở bãi cát cầu Trường hầu có ánh sáng lạ, liền sai người tìm, quả nhiên thấy một pho tượng vàng. Họ Cao xuống xe đưa tượng về đến Trường Can thì xe không đi nữa. Do đó đặt tượng tại chùa Trường can, dân chúng đến chùa bái rất đông. Một người chài lưới ở huyện Lâm hải thấy hoa sen đồng nổi trên nước, đem về dâng lên chùa thì rất khớp với tượng kia. Năm vị Tăng Tây Vực đến nhà họ Cao, bảo rằng: Xưa có pho tượng do vua A-dục làm đưa về phương Đông, đến đất Nghiệp thì gặp loạn nên để ở bến sông. Nay nghe ông tìm được muốn đến lễ bái, họ Cao liền đưa họ về chùa. Thấy tượng, năm vị Tăng đều khóc, tượng liền phát ra ánh sáng soi sáng cả điện. Niên hiệu Hàm An thứ nhất, Đổng Tông, người tìm châu ở Hợp Phố thấy trên biển có ánh sáng, tìm rõ mới biết là ánh sáng Phật, vua nghe tin liền ban cho pho tượng, hơn bốn mươi năm có rất nhiều chuyện lạ về pho tượng. Trên đài sen của pho tượng có chữ Phạm, Pháp sư Cầu-na-bạt-ma, biết là của công chúa thứ tư (em vua A-dục) tạo ra. Sa-môn Tuệ Toại định mô phỏng nhưng tăng chúng sợ làm tổn hại tượng, Samôn nói: Nếu làm được thì tượng phát ra ánh sáng, xoay về hướng Đông. Sa-môn thành kính khẩn cầu, nửa đêm nghe tiếng lạ, mọi người đến xem thì thấy đúng như lời, lúc đó chư Tăng mới cho mô phỏng, liền làm mấy mươi pho tượng để truyền bá. Niên hiệu Vĩnh Định thứ hai đời Trần, Vương Lâm dấy binh. Vũ đế cho đem quân đánh phạt. Trước khi đi mọi người thấy tượng Phật lung lay. Quân chưa đánh mà bọn Vương Lâm đều bỏ chạy. Niên hiệu Thiên Gia, phía Đông nam có binh biến, vua đến trước tượng cầu nguyện, ánh sáng phát ra, quân lính đều bỏ về. Từ Tấn đến Trần, năm đời vua đều tôn kính. Hạn hán, lụt lội đều đến trước tượng cầu nguyện thì mọi tai ương đều mất. Niên hiệu Trinh Minh năm thứ hai, pho tượng tự nhiên xoay về phương Tây. Vua nghe được liền chay tịnh cầu cúng. Tượng vốn có mão bảy báu, vua cho trang sức thêm châu ngọc và mũ gấm. Sau đó mũ báu bị treo lên tay, mũ gấm vẫn ở trên đầu tượng, vua liền đốt hương khấn: Nếu trong nước có điều chẳng lành thì xin cởi mão chỉ tội. Vua liền đặt mão lên đầu, hôm sau mão lại treo lên tay. Vua quan đều biến sắc. Sau nhà Tùy diệt nhà Trần. Vua Tùy nghe tin cho đưa tượng vào cung để cúng dường. Vua thường đứng hầu bên tượng. Sau hạ chiếu: trẫm tuổi cao không thể đứng lâu, hữu ty hãy làm pho tượng ngồi như cũ rồi đưa về chùa Hưng thiện. Lúc đầu họ để tượng quay về phương Bắc, sáng hôm sau thì thấy tượng quay về hướng Nam. Họ lại thử thì y như trước, mọi người đều sám hối tội lỗi. Ngày mùng tám tháng tư niên hiệu Ninh Khang năm thứ ba thời vua Hiếu Vũ đời Đông Tấn, Samôn Thích Đạo An chùa Đàn khê, Tương dương-người nổi tiếng về hạnh đức tài trí-tạo pho tượng Phật Vô Lượng Thọ bằng đồng cao một trượng sáu, đến cuối mùa đông năm sau thì hoàn tất. Đến thời thứ sử Ung châu Hoằng Khôi đến trấn ở đó, đang đêm tượng Phật bỗng đi về phương Tây, để lại dấu trên đá, dân chúng kinh sợ đón rước về nơi cũ, tượng lại đứng trước cổng chùa, thứ sử liền đổi tên chùa là Tượng vàng. Mùng tám tháng tư niên hiệu Phổ Thông năm thứ ba đời Lương, vua sai đúc tượng cao năm thước chín tấc, rộng chín thước tám tấc, đúc xong đưa về thờ, còn làm bia ở dưới tượng. Về sau Chu Vũ diệt pháp, niên hiệu Kiến Đức năm thứ ba, Vương Khang làm thứ sử Tương Châu, phó tướng Trưởng Tôn Triết không tin Phật pháp nên khi nghe nói tượng linh ứng thì muốn phá hủy, dân chúng đạo tục trong ấp đều than trách. Triết cả giận sai một trăm người buộc dây vào cổ tượng để kéo đổ, nhưng tượng không hề lung lay, Triết càng giận tăng thêm số người lên đến năm trăm, tượng mới bị đổ, làm rung chuyển cả đất trời. Mọi người lo sợ, riêng Triết thì vui thích, cho người về báo lại thứ sử. Giữa đường người ấy bị ngã ngựa, không cử động được, đến tối thì chết. Lúc sắp phá tượng, mọi người thấy trong lớp y dưới nách tượng có ghi: Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ mười chín đời Tấn, Tỳ-kheo Đạo An đúc pho tượng cao một trượng sáu ở Tương dương, tượng này hơn một trăm tám mươi năm sau sẽ bị hủy. Sau người ta tính ra thì ngày tháng rất đúng. Dấu chân in trên đá ngày nào nay vẫn còn. Cuối đời Tùy, Đậu Lư Bảo chiếm cứ một vùng. Pháp sư Hiến chùa Khải pháp, khuyên họ Đậu về đầu hàng nhà Đường, họ Đậu không nghe. Kinh Phụ phát binh đánh Tương châu, họ Đậu cố thủ, thành không bị đánh úp. Sau mới biết Pháp sư Hiến bị giết. Trước lúc chết Pháp sư nói với đệ tử Tô Phú Lũ: Ta và cha con thấy tượng bị phá, từ đó không ai làm lại, sau khi ta chết con hãy làm lại. Đến niên hiệu Vũ Đức năm thứ tư, quan quân vây đánh, họ Đậu đầu hàng, mới tiếc là không nghe lời Pháp sư, đã giết oan người tốt. Sau đất nước yên bình, Tô Phú Lũ liền làm tượng theo lời thầy dặn, nhưng không biết hình tướng ra sao. Một đêm, họ Tô nằm mộng thấy một vị Bà-la-môn đến vẽ hình tướng của được. Họ Tô lại y theo bức vẽ xưa để làm tượng. Lúc làm tượng mây vần, mưa hoa. Họ Tô lại làm thêm tượng Đức Di-lặc bằng đồng cao hơn một trượng. Sau mơ thấy Pháp sư bảo làm thân tượng, họ Tô liền làm một pho tượng cao năm mươi chín thước ở chùa Phàm vân. Xưa, Tần Hiếu Vương nghe việc lạ của tượng Phật do Đạo An làm nên cho người vẽ lại, rồi làm một pho tượng đặt tại chùa Diên hưng. Đêm đầu đúc tượng trời cũng rải hoa, nhạc trời trỗi lên. Pho tượng đó hiện vẫn còn.

Năm Đinh Mùi, niên hiệu Vĩnh Hòa năm thứ sáu thời Mục đế nhà Đông Tấn, đêm mùng tám tháng hai, người ta thấy một pho tượng ở phía Bắc thành Kinh châu, dài bảy thước năm tấc, tính cả đế là một trượng sáu, không ai biết tượng có từ đâu. Đầu niên hiệu Vĩnh Hòa năm thứ năm, một thương gia ở Quảng châu, chất hàng lên thuyền nhưng lại thấy thuyền vẫn nhẹ. Đang đêm có người lên thuyền rồi biến mất, thuyền lại nặng không chở thêm được. Tuy thấy lạ nhưng không biết vì sao. Khi đến bến, thì thấy người ấy lên bờ, mất hút, thuyền lại nhẹ như trước. Khi được tượng chư Tăng khắp nơi đều kéo đến để thỉnh. Niên hiệu Vĩnh Hòa năm thứ hai, Thái thú Giang lăng định sửa nhà thành chùa, do nghe Pháp sư Đạo An đến Tương xuyên nên mời Pháp sư đến xem hộ, Pháp sư nói với Đàm Dực: Ở đây dân quan bắt đầu có lòng tin Phật, ông nên hành đạo, Dực vâng lời, thường khen rằng: Tượng chùa A-dục vương tùy lòng thành ứng hiện. Khi nghe ở Kinh châu có tượng, Đàm Dực vui mừng nói: Phải đón bằng tâm, không thể dùng sức. Quả đúng như lời của Đàm Dực, tượng được thỉnh về chùa. Đến niên hiệu Hàm An năm thứ hai mới đúc đế tượng. Đến niên hiệu Thái Nguyên, vua Hiếu Vũ đế đời Tấn, Ân Trọng làm thứ sử, đang đêm tịnh dưỡng đi ra cửa Tây, hỏi thì không đáp, có người lấy giáo đâm, sau mới biết là tượng. Ngay chỗ giáo đâm có bản văn. Thiền sư Tăng-già Nan-đà người ở Kế Tân đến chùa lạy Phật, hồi lâu Thiền sư thở dài. Đàm Dực hỏi nguyên nhân, Thiền sư đáp: Ở Thiên Trúc bị mất, sao giáng thần đến đất này. Tính năm tháng thì rất hợp. Sau lưng tượng có bản văn bằng tiếng Phạm: Vua A-dục tạo. Đàm Dực thành tâm niệm thì thấy ứng nghiệm. Sau đó ánh sáng biến mất, Đàm Dực biết sắp mất, sau một tuần thì mất. Về sau, vị tăng Nghĩ Quang lại đúc tượng. Thời Hiếu Vũ nhà Tống tượng lại phát ra ánh sáng, Phật pháp được hưng thịnh ở Giang đông. Cuối niên hiệu Thái Thỉ thời Tống Minh đế, tượng Phật rơi lệ, vua Minh đế băng hà. Sau đó binh biến nổi lên, quan thứ sử Kinh châu không tin pháp, sa thải tăng ni, mấy trăm vị ở chùa Trường sa phải hoàn tục, già trẻ trong làng đều buồn khóc, tượng Phật ra mồ hôi suốt năm ngày, hỏi nguyên nhân, Pháp sư Huyền Sướng nói: Phật thánh không xa, hiện hữu khắp nơi. Vì đàn-việt không tin nên hiện điềm lành này. Hỏi ở kinh nào? Đáp: Ở kinh Vô Lượng Thọ. Thứ sử cho tìm, quả đúng như lời nên ngừng lệnh sa thải. Tháng năm niên hiệu Đại Thông thứ tư, vua cho người đến chùa Bạch mã cầu cúng, đang đêm thấy ánh sáng bay theo sứ giả. Hôm sau lại tiếp tục cầu nguyện, tượng mới đi. Bốn chúng lưu luyến tiễn đến bến sông. Đến Kim lăng, cách kinh đô một dặm, vua đích thân ra đón rước, ánh sáng lại được phát ra, mọi người đều vui mừng, khen là việc ít có. Sau đó vua thiết lễ suốt hai ngày. Khi đưa từ cửa Đại thông ra vào chùa Đồng thái tượng lại phát ra ánh sáng. Vua cho xây điện ba gian hai mái ở phía Đông bắc chùa, đặt tòa bảy báu để tôn tượng, lại cho đúc hai tượng Bồ-tát bằng đồng mạ vàng. Tháng ba niên hiệu Đại Đồng năm thứ hai vua đến chùa lễ Phật. Vua vừa bước lên bậc cấp tượng liền phát ra ánh sáng, cảnh vật đều biến thành màu vàng đến nửa đêm mới trở lại như cũ. Sau chùa bị cháy, tượng vẫn còn nguyên. Niên hiệu Thái Thanh năm thứ hai, tượng lại ra mồ hôi. Tháng mười một năm đó Hầu Cảnh làm loạn. Niên hiệu Đại Bảo năm thứ ba, giặc cướp được bình định, Pháp sư chùa Trường sa lại thỉnh tượng về chùa cũ. Niên hiệu Đại Định năm thứ bảy thời Hậu Lương, tượng lại ra mồ hôi, tháng hai năm sau vua Trung Tông băng. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba, chùa bị cháy, chỉ sáu người mà nâng được tượng ra ngoài trong khi trước kia trăm người nhấc không được. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ mười lăm, vua đến lạy Phật sám hối. Năm thứ hai mươi ba vua băng hà. Vua Túc Tông đưa tượng về cung Nhân Thọ, tượng lại ra mồ hôi. Niên hiệu Quảng Vận năm thứ hai, nhà Lương bị diệt. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ bảy, chư Tăng lại thỉnh tượng về chùa Trường sa. Quan thứ sử Kiềm châu Điền Tôn Hiển đến chùa lạy Phật, tượng lại phát ra ánh sáng. Quan liền cho xây chùa, đốn gỗ đưa về, nhưng đến Kinh châu thì không thể đi tiếp, quan cho xây ở đó, chùa được trang nghiêm rất đẹp, tượng được đặt ở hai điện Đông tây. Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ mười hai tượng lại ra mồ hôi, năm ấy Chu Sán cướp phá các nơi, phóng lửa đốt chùa, mọi người đều sợ tượng bị đốt, đêm đó tượng bỗng bay lên, đến trước cổng chùa Bảo quang. Sau khi giặc tan, chỗ để tượng không bị cháy, người ta xây lại chùa. Niên hiệu Phượng Minh năm thứ năm, Dương Đạo Sinh đến chùa lễ Phật, tượng lại ra mồ hôi như mưa, tháng chín năm đó binh mã Đại Đường kéo đến đất Thục. Ngày mười hai tháng chín Sư Pháp Thông lạy Phật cầu điềm lành. Đêm ấy ánh sáng soi sáng cả điện, mãi đến ngày hai mươi lăm mới hết. Hôm ấy binh mã của Triệu Quân vương vào thành. Tháng sáu niên hiệu Trinh Quán năm thứ sáu, trời đại hạn, vua quan thiết lễ cầu mưa, suốt bảy ngày đêm mọi người dốc lòng cầu nguyện, trời liền tuôn mưa.

Quan thái thú Ngô Hưng tên Chu Tị, có một người con gái tin phụng pháp Phật. Một hôm, gia đồng đi bắt cá, thấy trên sông có một tượng vàng cao gần ba thước, dung mạo trang nghiêm, nổi trên mặt nước. Người ấy kéo nhưng không được, liền về tâu lại thái thú. Thái thú cho đưa con gái mình đến xem. Thấy tượng người con gái vui vẻ kính lễ, vẫy tay, tượng bỗng nằm trên thuyền, họ đem về thờ ở nhà. Đêm ấy người con gái mơ thấy gối trái của Phật bị đau, tỉnh dậy xem thì thấy bị lỗ hổng, người con gái liền dùng kim thoa đắp vào. Sau, thái thú gả con cho Trương Trừng, người con gái mang tượng theo. Sau đó người con gái bị bệnh qua đời, mọi người đều thấy các vị trời đến rước. Họ Trương vì mãi lo thảo phạt giặc cướp nên bỏ trai giới, tượng Phật bị mất nhưng ánh sáng vẫn còn, cả nhà sám hối, tìm cầu. Sau đó có một bà lão đem tượng đến bán. Biết là tượng xưa cả nhà liền mua, bà lão liền biến mất, tượng cũng không còn.

Tượng gỗ ở chùa Vân bảo núi Cối Kê đời Đông Tấn do họ Lục làm, ban đầu làm theo kiến trúc thời trung cổ nên tượng không có thần, sau theo kiến trúc Đông Hạ nên tạo tượng rất đẹp, mọi người đều thích chiêm ngưỡng. Một người đốt hương khấn:

Nếu thường còn thì xin cho thấy diện mạo vàng của Phật, nếu là vô thường thì xin ở trước Đức Dilặc, liền tỏa mùi thơm cả chùa. Tượng vẫn còn ở chùa Gia tường, Việt châu.

Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ hai đời Đông Tấn, Sa-môn Tuệ Hộ đúc tượng Đức Thích-ca cao một trượng sáu, bằng vàng, ở chùa Thiệu linh, quận Ngô. Sa-môn đúc tượng trong hang đá ở phía Nam chùa. Đêm đúc xong, trong hang có hoa trắng xuất hiện, sáng sớm mây trắng vần vũ trên hang, trong hang có con rồng dài mấy mươi trượng quấn quanh hang, dường như kính ngưỡng pho tượng, gió lặng, trời trong, mưa phùn làm tăng thêm mùi thơm. Khi đưa tượng vào pháp tòa, rồng bay lên trời. Sau đó có người sửa chữa lại pho tượng.

Niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ nhất đời Đông Tấn, Tư Đồ Vương Mật vào cung, ở cửa Đông dịch, người hầu thấy ở cửa có ánh sáng năm màu, liền chạy vào xem thấy tảng đá cổ, dưới đó là một tượng vàng cao bốn thước, tượng này giống như tượng mà Tôn Hạo thấy, liền thỉnh về cung. Tống Tổ vốn không kính tin nhưng khi được tượng này thì càng tin, liền đích thân lễ cúng. Tượng này vốn ở chùa Ngõa quan, sau dời về chùa Long quang.

Tượng thái tử tư duy ở Từ châu đời Đông Tấn, xưa Sa-môn Pháp Hiển đến Thiên Trúc chiêm bái thánh tích. Sa-môn đến ở trong một ngôi chùa nhỏ, vị chủ trì có việc đi xa nên bảo chú tiểu đi khất thực để cúng dường Sa-môn. Lát sau chú tiểu trở về, bàn chân bị chảy máu, Sa-môn hỏi thì chú tiểu nói đến nhà Ngô Thương Ưng ở Bành Thành để khất thực, bị chó cắn, Sa-môn thấy lạ vì cách quá xa, sau mới biết đó không phải là người thường. Sau khi về nước Sa-môn tìm hỏi nhà họ Ngô bảo là có việc, hiện trên cửa vẫn còn vết máu. Sa-môn bảo, đó là máu của vị La-hán. Nhà họ Ngô liền sửa nhà thành chùa, đến Dương Đô thỉnh kinh tượng. Họ đến giữa sông Tế thì thuyền bị nghiêng, có hai cột dài một trượng từ nước vọt lên thuyền. Khi đem lên bờ, họ mới biết là răng rồng. Đến sông Tế, họ Ngô lên bờ nghỉ, bỗng thấy một vị Bà-la-môn mang một pho tượng nói là đem cho họ Ngô. Khi đem về kinh có người mô phỏng thành ngàn pho giống nhau. Họ Ngô tìm tượng của mình thì mộng thấy rõ tướng tượng nên đã tìm được, đưa về Từ châu. Ngụy Hiếu Văn lại thỉnh về Bắc Đài, Tề Hậu chủ sai Thường Bưu thỉnh về đất Nghiệp. Sau nhà Tùy lên tượng lại hiển linh, hiện ở chùa Đại từ, Tương châu.

Tượng Bồ-tát Văn-thù ở Lô sơn đời Đông Tấn. Một người làng chài mơ thấy ánh sáng trên bờ biển, liền tâu lên đại thần Đào Khản. Khản cho người tìm biết là tượng Bồ-tát Văn-thù do vua Adục đúc tạo.

Tương truyền vua A-dục thống trị vùng này, ma quỷ quấy rối, vua làm nhà ngục để chế phục. Đêm đó, vua thấy Văn-thù đứng trong vạc dầu, khi đốt lửa, tự nhiên có hoa sen xanh mọc lên. Vua tỏ ngộ liền phá hủy ngục, xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp và tạo vô số tượng. Lúc đầu Khản không tin nhân quả nhưng khi thấy việc này thì kính tin, Khản đưa tượng về chùa Hàn Khê ở Vũ Xương, sau dời về Kinh châu nhưng mấy mươi người đưa tượng lên thuyền thì thuyền bị chìm, Khản liền đưa về chùa cũ. Sa-môn Tuệ Viễn liền thỉnh về Lô Sơn. Cuối đời Tùy giặc cướp phá, tăng chúng bỏ đi, một lão tăng đến từ biệt tượng. Tượng bảo: ông đã già không nên đi. Lão tăng liền ở lại. Lúc đó giặc cướp đến quấy phá, vào chùa tìm vàng, chúng bắt lão tăng đòi vàng, biết không có, chúng định giết, lão tăng xin giết bên ngoài để không làm ô uế chùa. Lúc sắp bị giết lão tăng nói: Suốt bảy mươi năm chưa từng phụ lời Phật, lại xin tên cướp đợi khi mình đưa cổ ra hãy giết. Lão tăng làm vậy, tên giặc hạ đao, dao lại đâm trúng tên giặc. Bọn giặc tẩu tán thì bị sấm sét đánh chết. Từ đó giặc cướp không dám lên núi. Tượng hiện còn ở chùa Đông lâm trên núi.

Tượng ở Lương châu thời Nguyên Ngụy. Niên hiệu Đại Diên thứ nhất, Sa-môn Lưu Tát Hà đến Kim Lăng lễ tháp xá-lợi, xong việc Sa-môn đi về phương Tây, đến phía Đông bắc huyện Phan hòa cách Tương châu một trăm bảy mươi dặm, Sa-môn liền nhìn lên núi, bảo có tượng linh hiện. Tượng đủ thì thời bình, thiếu thì thời loạn, dân khổ. Tám mươi bảy năm sau, niên hiệu Chánh Quang năm thứ nhất, gió bão nổi lên, trên núi hiện tượng đá cao một trượng tám, hình tướng trang nghiêm nhưng không có đầu. Sau đến đầu nhà Chu, người ta tìm thấy đầu tượng cách thành bảy dặm về phía Đông, đem ráp vào thì rất khớp với thân tượng. Từ đó ánh sáng thường hiện, tiếng chuông vang xa. Niên hiệu Bảo Định thứ nhất, vua nhà Chu xây chùa đắp tượng. Khi Kiến Đức sắp diệt, đầu tượng lại bị rơi. Vũ Đế sai Tề vương đến xem, vương sai đặt đầu tượng lên thì lại rơi xuống, sau đó nước mất, pháp không còn. Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ năm, Dạng đế đi đánh phía Tây, vua đến đây lễ Phật, đổi thành đạo tràng Cảm Thông, hiện vẫn còn.

Tượng đất trên núi đá ở Lương châu: Đây là vùng đất thịnh nhất trong năm châu ở Lũng tây. Tất cả chùa tháp trong cung điện ở đây thường bị lửa cháy. Nếu xây dựng lại thì cũng bị như trước. Nếu dùng vàng bạc để làm thì lại bị trộm cướp. Cho nên là người ta thờ Phật bằng đá, bằng đất ở phía Nam của châu. Người đến lễ bái đều rất ngạc nhiên vì họ thường thấy có vị Tăng kinh hành xung quanh, việc này kéo dài hơn trăm năm.

Vương Mông Tốn ở Hà tây, Hà bắc vì mẹ mà làm tượng đá cao một trượng sáu đặt ở chùa Vu sơn. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ sáu nhà Tống, thế tử Hưng Quốc dấy binh bị hại, chết. Tốn rất tức giận, cho là thờ Phật không linh, liền hạ lệnh đập phá chùa tháp, đuổi tăng ni. Hôm Tốn đến núi Dương Thuật chư Tăng đứng bên đường đợi, thấy họ Tốn giận dữ chém chết mấy người. Tướng sĩ đến lạy Phật, thấy tượng rơi lệ, liền tâu với Tốn. Đến trước cổng chùa, Tốn thấy người mệt mỏi, những người xung quanh đỡ đến xem tượng, quả thấy tượng khóc, Tốn cúi lạy tạ tội, lập trai đàn, thỉnh chư Tăng trở về. Tội ác rất lớn nên Tốn lo sám hối, cho dịch kinh Đại Niết-bàn. Sau Tốn bị giết. Hiện ở trên núi cách Sa châu ba mươi dặm về phía Nam còn hai trăm tám mươi bức tượng Phật.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai đời Tống, Lưu Thức Chi tạo tượng Bồ-tát Văn-thù, đêm ngày lễ bái, nhưng bỗng nhiên tượng bị mất, họ Lưu ngày đêm thỉnh cầu, năm năm sau, họ Lưu thấy trên tòa sen có ánh sáng rực rỡ, họ Lưu liền đốt hương, quét dọn thì thấy tượng cũ trở về.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai đời Tống, Lưu Nguyên Chi, người Trường sơn, Đông dương, làm nghề nông, một hôm đốt cỏ, thấy một chỗ cỏ không bị cháy, họ Lưu ngạc nhiên không dám khai khẩn nữa. Ít lâu sau họ Lưu đào thấy một pho tượng đồng cao gần ba tấc, không biết từ đâu đến.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười bốn đời Tống, Tỳ-kheo-ni Tuệ Ngọc, chùa Linh mộc, Giang lăng tu hành tinh tấn. Xưa ở chùa Thượng thư, ni sư thấy cầu vồng trắng, tìm đến thì thấy tượng Đức Di-lặc bằng vàng cao một thước. Giờ ở chùa này lại thấy ánh sáng chiếu sáng cả khu rừng, sư nói mọi người nhưng không ai thấy. Sau đó vị chủ trì tìm thấy một tượng bằng vàng cao gần một thước.

Niên hiệu Gia Nguyên năm thứ mười bốn nhà Tống, gia đình Tốn Ngạn kính tin Phật pháp. Người thiếp chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Một hôm thấy ở dưới đất có ánh sáng sáng, cho người đào thì được một pho tượng vàng cao hai thước một tấc. Chân tượng có ghi: Sư Pháp Tân chùa Ngõa quan làm vào năm Canh Tý, niên hiệu Kiến Vũ năm thứ sáu.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi mốt nhà Tống. La Thuận làm tướng Bình tây phủ, tháng mười hai họ La thả chim ưng về rừng, đốt lửa, nhưng có một chỗ không bị cháy, họ La đến nơi thì thấy một pho tượng Bồ-tát bằng vàng cao một thước, được làm rất khéo léo, họ La cho là trộm cướp, liền rao tìm người mất, không thấy ai đến xin tượng họ La liền thờ phụng.

Khang Vương nhà Tống xây chùa trong thành Kinh châu để thờ kinh tượng. Trên vách chùa có rất nhiều tượng vẽ Bồ-tát, gia thế Dương Văn Vương, Khang vương cho xóa đi nhưng càng xóa tượng càng rõ, họ Khang lại cho hủy vách ấy thì bị bệnh, nhắm mắt là thấy các hình tượng quẩn quanh, sau họ Khang không ở đó nữa, lo việc giảng dạy.

Nguyên Gia năm thứ hai mươi ba đời Tống, ở Giang lăng có gia đình họ Trương, người con gái tuy nhỏ tuổi nhưng kính tin Phật pháp, muốn xuất gia học đạo. Cha mẹ không thích nên ngầm gã cho nhà họ Bính. Khi biết được, cô gái liền tự vẫn, tượng Phật trong nhà liền phát ra ánh sáng, thấy vậy cha mẹ liền đồng ý cho cô gái xuất gia, hai nhà càng kính tin pháp Phật hơn. Thừa tướng Vương Trấn Thiểm xây tinh xá cho vị ni ấy.

Niên hiệu Thái Thỉ năm thứ hai mươi bốn nhà Tống, Hà Kính Thúc tôn thờ pháp Phật, nhân theo quan thứ sử đến Tương châu xem xét, gặp được chiên-đàn, liền tạo thành tượng nhưng không thành. Đêm nọ, mơ thấy một vị tăng bảo: Chiênđàn khó làm như gỗ thường, nhà họ Hà có cái mộc bằng cây ngô đồng, có thể làm được. Sau khi mua được thì tượng cũng được làm xong. Một hôm mơ thấy tượng nói: chuột cắn chân ta. Hôm sau tìm quả đúng như vậy.

Niên hiệu Kiến Nguyên đời Tề, tinh xá ở Tỳgia-ly ở Phiên ngung có thờ tượng đá nước Phù Nam, bình thường bảy, tám mươi người mới nhấc được. Lần nọ chùa bị cháy, nhưng riêng gian thờ tượng không bị cháy, các ni liền vào cứu tượng. Lạ thay chỉ ba, bốn vị là nâng tượng ra ngoài được. Sau khi đưa tượng ra, gian thờ ấy bị cháy. Về sau mỗi lần có tai họa binh biến sắp xảy ra, tượng thường ra mồ hôi. Sau thứ sử Quảng châu đưa về kinh, hiện còn ngôi chùa ở Tương châu.

Quan thứ sử Từ châu nhà Tống Vương Trọng Đức, tạo tượng vàng, cao một trượng tám ở chùa Tống vương, Bành thành. Tượng thường xuất mồ hôi khi sắp có điều xấu xảy ra. Nhân khi quân Ngụy đánh phá diệt pháp, đuổi tăng, tượng ra mồ hôi rất nhiều, bao nhiêu người lau vẫn không khô. Quan thứ sử Từ châu Lương Vương vốn kính tin Phật pháp, thấy vậy liền đốt hương, lạy tạ, khấn rằng: Chúng tăng không có tội, nguyện xin che chở. Nếu lòng thành cảm ứng thì xin lau khô mồ hôi. Quả nhiên như lời khấn, thứ sử liền dâng sớ tâu vua.

Niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ nhất đời Tề, Vương Viêm ở Thái Nguyên thọ năm giới với Pháp sư Hiền ở Giao chỉ, được Pháp sư tặng tượng Bồtát Quán Âm để thờ. Họ Vương thỉnh về thờ ở chùa Nam Gian. Một hôm mộng thấy tượng hiện tướng rất lạ, sáng ra mới biết chùa bị mất tượng, bọn cướp ăn cắp để đúc tiền. Mùa thu niên hiệu Đại Minh năm thứ bảy nhà Tống cả nhà thấy ánh sáng lạ liền gửi tượng ở chùa Đa bảo. Sau nghe tin tượng bị mất, họ Vương lại mơ thấy tượng, chư Tăng tìm được. Ngày mười ba tháng bảy niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ nhất họ Vương làm bài tựa về sự linh hiển của tượng thần.

Ngày mùng tám tháng một niên hiệu Thiên Giám thứ nhất Lương Vũ đế mơ thấy tượng chiênđàn được đưa về nước, vua hạ chiếu đón rước. Theo Phật Du Thiên Ký và kinh Ưu-điền Vương ghi: Phật lên cõi trời Đao-lợi nói pháp độ mẹ, quan vua rất nhớ Phật, vua nước Ưu-điền liền sai ba mươi hai người thợ, thỉnh Tôn giả Mục-kiền-liên vẽ tượng Phật, vua cho đúc để thờ, hiện ở tinh xá Kỳ hoàn. Vũ Đế muốn thỉnh tượng này, liền sai tám mươi người đến Xá-vệ thỉnh tượng. Vua Xávệ nói: Đây là tượng ở đất Phật không thể đem về vùng khác. Liền cho ba mươi hai người thợ khắc gỗ chiên-đàn tía làm tượng tặng. Họ khắc từ giờ Mẹo đến giờ Ngọ thì xong, tượng rất đẹp, đỉnh tượng lại có ánh sáng, trời rải hoa như mưa, hương lạ thoảng khắp vùng. Kinh Ưu-điền Vương chép: Chân thân đã ẩn, hiện ở tượng này, lợi ích cho mọi loài. Tám mươi người sứ cùng thỉnh tượng về. Vì đường đi gian khổ, phải vượt qua bao sóng gió nên nhiều người mất mạng. Một hôm mọi người đang đói khát liền thấy phía trước có một vị Tăng, họ đến lễ bái, vị Tăng trao cho bát nước, uống vào ai cũng thấy khỏe khoắn lạ thường. Vị Tăng nói: Tượng này là tượng Tam-miệu Tam-phật-đà Kimtỳ-la Vương, sẽ làm nhiều việc Phật. Nói xong vị Tăng biến mất. Ngày năm tháng tư niên hiệu Thiên Giám năm thứ mười, họ thỉnh tượng về đến kinh đô. Vua quan ra ngoài bốn mươi dặm để đón. Nhà vua ra lệnh ân xá, không giết, không tham dục. Tháng năm niên hiệu Thái Tinh năm thứ ba vua mất. Tương Đông Vương lên ngôi ở Giang lăng, thỉnh tượng về đó. Niên hiệu Đại Định năm thứ tám nhà Hậu Lương, vua xây chùa Đại minh ở phía Bắc thành rồi thỉnh tượng về thờ.

Đầu niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, vua cho xây chùa Quang trạch, tạo tượng vàng cao tám trượng. Người thợ theo mẫu đúc tượng nhưng sợ thiếu đồng, vua cho chở năm mươi xe đồng đến, họ làm thấy cao hai trượng hai nên tâu vua xin thêm đồng. Vua cho là điềm lạ, liền ghi lại ở chân tượng, hiện vẫn còn. Vua lại cho xây chùa Đại Ái kính ở núi Chung Sơn tạo phước cho vua cha, tượng Phật hiện rất nhiều thần tích. Ở huyện Diệm có tượng Phật bằng đá do vua A-dục khắc tạo.

Thiền sư Đàm Quang từ phương Bắc đến, thấy cảnh sắc núi sông nhàn tĩnh nên cất am tranh tu học. Trong hư không có tiếng nói: Đây là đất Phật, sao lại có nhà cỏ. Nghe vậy Thiền sư dời đến núi Thiên thai, đúc tượng Phật để thờ nhưng không thành. Sau vua Lương bị bệnh, có người báo mộng đến lễ tượng ở huyện Diệm, vua thỉnh Luật sư

Tăng Hựu đến xem, thấy tượng còn thô liền đẽo gọt thì tượng hiện ra rất đẹp, đầy đủ đức tướng. Người nhà của thái tử liền làm bia ghi lại.

Sau vua Lương Thế Tổ lên ngôi, ông rất tôn sùng Phật pháp, phế bỏ lễ giáo, thường mời chư Tăng vào cung đàm đạo, tạo đúc hai tượng vàng bạc, kính lễ gần năm mươi năm, ngày đêm sáu thời, vết chân in trên đá. Sau Hầu Cảnh đoạt ngôi, vua vẫn lễ bái. Thái úy Vương Tăng Biện giết Cảnh, đón Trinh Dương Hầu Túc Uyên lên ngôi. Khi ấy đất Giang Tả chưa yên, Biện sai con rể là Đỗ Kham đến trấn giữ. Tánh họ Đỗ hung ác nên muốn đập bỏ hai tượng kia. Họ Đỗ sai mấy mươi người buộc dây vào cổ tượng để kéo, lập tức tay bọn chúng đều bị tê liệt, sau lại thấy lực sĩ Kim Cang tay cầm chày đánh, làm cho thân thể chúng đều bị ra máu, chết tươi.

Niên hiệu Thiên Bình thời Nguyên Ngụy, Tôn Kính Đức trấn giữ Định châu, tạo tượng Bồ-tát Quán Âm. Sau bị tống giam vào ngục, khép tội tử hình. Đêm trước khi bị hành quyết, họ Tôn lạy Phật, sám hối tội lỗi, khóc lóc khẩn cầu: Nay bị oan ức phải là do đời quá khứ giết oan người, xin đền tội, nguyện không bao giờ phạm nữa. Lại phát nguyện lớn. Chợt thấy một vị Sa-môn dạy tụng kinh Quán Thế Âm cứu sinh một ngàn lần sẽ thoát nạn khổ. Họ Tôn tỉnh dậy tụng đọc đến sáng thì tròn một trăm biến. Khi bị đưa đến pháp trường họ

Tốn vẫn tụng đến lúc hành hình là tụng đủ ngàn biến. Đao phủ hạ đao, đao bị gãy làm ba khúc, họ thay đao khác vẫn bị gẫy như trước. Quan trông thấy liền tâu lên thừa tướng, họ Tôn được khỏi tội chết, trở về lo thiết lễ đền ơn. Lại thấy cổ tượng bị ba nhát dao chém, mọi người đều cho là sự cảm ứng.

Trần Vũ Đế băng, con của người anh tên Thiến lên kế vị. Vua lại muốn xây lăng mộ, làm xe lớn nhưng vì quốc khổ không đủ, nghe tượng ở điện thời Lương Vũ Đế làm bằng vàng bạc châu báu, vua định cho phá để lấy vàng xây lăng, vua cho người đến đó, trời bỗng u ám, mưa to gió lớn, tướng ánh sáng hiện, bốn bộ thần cùng nâng tượng bay lên hư không, mọi người đều kinh ngạc, kính tin. Sau trận mưa, ở nơi thờ tượng chỉ là gian nhà trống không. Tháp ở chùa Vĩnh Minh hôm đó cũng có hiện tượng lạ ấy.

Sa-môn Tăng Hộ, chùa Linh thạch, Tấn châu, cuối thời Bắc Tề, tu tập đạo nghiệp nguyện tạo tượng đá cao một trượng tám. Mọi người cho là kiêu ngạo. Sau đó Sa-môn thấy một tảng đá trong hang ở phía Bắc chùa cao một trượng tám nên nhờ thợ tạc tượng. Hôm đó tượng ra mồ hôi, Tấn châu bị binh biến, quân lính đến đốt chùa tháp, tượng bị gãy hai ngón tay. Sáu mươi người lính dùng sức kéo phá tượng vẫn y nguyên. Sau có người mộng thấy tay tượng bị đau, tỉnh dậy người ấy liền đắp lại. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười lăm có tên trộm cướp phướn lọng, thấy tượng đến trách, hắn liền trả về chỗ cũ.

Niên hiệu Kiến Đức năm thứ ba, Chu Vũ Đế quyết tâm diệt Phật, trên ngọn núi cách Kinh châu hơn trăm dặm về phía Bắc, người ta thấy có ánh sáng lạ, tìm thì thấy có tảng đá như pho tượng nằm, đào sâu thì thấy quặng sắt cao gần ba trượng, người ta định đẽo giũa nhưng không được, đào sâu nữa thì thấy ống chân đá, dân chúng kéo lên, tượng bị rơi, chân đá vẫn đứng thẳng, bèn lập chùa Đại tượng ở đó. Sau nhà Tùy sửa chữa, đổi thành chùa Hiển tế, nhưng tìm ở đó lại không thấy gì, nên cho đó là thần lực cảm ứng. Cuối niên hiệu Trinh Quán, vua xây cung Ngọc hoa, đặt tượng ở đó để lễ bái. Niên hiệu Vĩnh Huy, vua đổi cung thành chùa, nay thuộc phường châu. Đêm đêm mọi người thường thấy ánh sáng lạ hiện ở đó.

Tượng gỗ chùa Hoa nghiêm, Tương châu, cao gần một trượng. Khi nhà Chu diệt pháp, đầu tượng bị mất, nhà Tùy tìm thấy, trang nghiêm lại như xưa. Đó là tượng Phật Lô-xá-na. Người ta thường cầu cúng. Lúc vua sắp băng, tượng chảy mũi, lớp vàng bị bóc ra, phát ra ánh sáng. Tháng tư niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi ba, tượng cũng có sự lạ như trước, sau đó vua Thái Tông băng hà. Tháng sáu tượng lại có sự lạ, dân chúng không biết tai họa gì xảy ra. Tháng bảy nước sông Hán dâng, kéo trôi người vật, mọi người đến chùa cầu khẩn.

Niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, điện Phật chùa Hưng hoàng ở Tương châu bị cháy, mọi người đều sợ tượng đồng cao trượng sáu bị cháy nhưng tượng vẫn còn nguyên, sau dời về chùa Bạch mã. Niên hiệu Vĩnh Huy năm thứ hai, tên trộm vào định cướp tượng, bỗng tay bị kẹt, không rút ra được. Sáng hôm sau chư Tăng hỏi, tên trộm nói có người đến trói tay.

Tượng Phật A-di-đà và năm mươi tượng Bồ-tát được xem là điềm lành từ Thiên Trúc. Tương truyền: Bồ-tát đạt năm thông ở chùa Kê đầu ma Thiên Trúc đến cõi tịnh, thưa với Đức Phật A-diđà rằng chúng sinh Ta bà muốn sinh về cõi này nhưng không thấy hình tượng Phật, e không có sức thần, xin Phật giáng hạ. Phật bảo: Hãy về đi sẽ thấy. Bồ-tát trở về thì thấy một tượng Phật và năm mươi tượng Bồ-tát ngồi ở tòa sen trên lá. Bồ-tát vẽ theo để truyền bá. Về sau con của Đằng Tỉ xuất gia mới thỉnh được về đất Hán. Sau trải qua nhiều năm tháng và sự diệt pháp của các triều đại, tượng không còn thấy nữa. Nhà Tùy khai giáo, Sa-môn Minh Hiến được Pháp sư Đạo Trường tặng một bức, Sa-môn cho vẽ lại để truyền bá. Họa sĩ Tần Trọng Đạt ở Bắc Tề vẽ lại trên vách. Hiện vẫn còn.

Tượng đá chùa Nhật nghiêm ở kinh đô nhà Tùy, tượng cao tám tấc, rộng năm tấc, được làm bằng đá bát lăng tử nên rất trong suốt. Xưa vị Tăng

Tây Vực mang sang, nhưng gặp loạn Hầu Cảnh nên cất tượng ở chùa Tây lâm núi Lô sơ, Giang châu. Tùy Dạng Đế cho tập hợp các cảnh tích xưa, thấy bản ghi về tượng liền sai người đến chùa tìm. Sau này mới đưa về chùa Nhật nghiêm không cho ai vào xem. Cuối niên hiệu Đại Nghiệp, tăng chúng kéo đến chiêm ngưỡng tượng, mọi người thấy một vẽ, vua liền lập trai đàn sám hối thì tượng hiện lại như xưa. Nhưng nhìn vào tượng người thì thấy Phật, Bồ-tát, người thì thấy địa ngục khổ đau. Từ đó về sau mọi người đến lễ tượng để biết kiếp trước kiếp sau của mình.

Bốn mặt Phật ở chùa huyện Sa hà, Hình châu nhà Tùy. Thời Tùy tổ có một người vào núi thấy một vị Tăng giữ pho tượng bằng đồng, cao hơn ba thước, liền xin, vị Tăng cho, nhưng bỗng biến mất, lại thấy một người dẫn đến chùa Sa hà thì thấy một khối vàng hình con chim và có ghi chữ làm tượng Phật bốn mặt. Sau lại biến mất. Bên hông chùa thường có ánh sáng hiện. Tùy Hậu Chủ nghe, liền cho người đúc, mãi hơn hai trăm ngày mới xong.

Niên hiệu Vũ Đức đời Đường, Hác Biện, Hác Tích ở phường châu vốn kính tin Phật. Họ thường thấy trên núi có một bầy nai nhưng đuổi chúng đi không được. Thấy lạ họ đào chỗ nai đứng thì thấy một pho tượng đá cao gần một trượng tư. Họ đưa về làng. Từ đó không thấy bầy nai nữa. Tương truyền thời Phật Ca-diếp có bốn mươi pho tượng được chôn trên núi, hiện chỉ thấy được hai tượng.

Chùa núi Tam học ở Giản châu, Thục Xuyên, đời Đường có dấu chân Phật, trong hư không thường có đèn thần chiếu soi vào ban đêm, ngày chay càng nhiều. Sau có người cỡi ngựa đến chùa để tìm. Ngoài mười dặm thì thấy đèn nhưng đến thì mất. Niên hiệu Trinh Quán thứ mười thầy Pháp Tạng đến ngủ đêm ở chùa, bỗng có một vị đại thần lôi ra ngoài cửa, quăng ra xa bảy dặm, làm đau chân, thầy trở về chùa, đóng cửa.

Tháng chín niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười bảy đời Đường, đô đốc Lương châu Lý Tập Dự đi tuần hành đến huyện Xương tuyền phía Đông nam, thấy có tảng đá gồm một trăm mười chữ, ghi về bảy Đức Phật và tám Bồ-tát. Đô đốc dâng sớ tâu, vua hạ chiếu xá tội một năm.

Núi Bắc Thạch chùa Tương Tư cách Du châu hơn trăm dặm về phía Tây có mười hai vết chân Phật, dài gần ba thước, rộng một thước mốt, in sâu chín tấc, giữa có hình cá, cách hơn mười bước về phía Bắc điện Phật có một vị Tăng ở đó. Tháng mười niên hiệu Trinh Quán năm thứ hai mươi, trong suối của chùa có hoa sen màu đỏ mọc lên, to ba thước, có hình người khóc. Mọi người đến xem đều kinh ngạc, tên chùa Tương tư có từ đó.

Trên núi, chùa Linh kham ở huyện Hưng ninh, nằm về phía Đông bắc Tuần châu nhà Đường có hơn ba mươi vết chân Phật to gần năm thước.

Trong một con sông cách Tuần châu hai trăm dặm về phía Đông tây, một trăm dặm về phía Nam bắc có một kho đồng, có bài minh: Tăng được thì phước, tục được thì họa. Tục truyền: Xưa có một vị Tăng từ phương Bắc đến ẩn ở đây, hôm lên núi Hồng lĩnh, vị Tăng lần đến chỗ vết chân Phật. Thấy cỏ cây ở đó tốt tươi liền ngủ đêm. Nửa đêm sơn thần hiện lên dọa, bảo: Không nên ở đây, quỷ thần hay đến quấy rối. Vị Tăng bỏ đi. Thời Tống có hai vị Tăng đến đó tìm, biết vị Tăng kia trì kinh Pháp Hoa, hàng phục ma quỷ, chúng đều theo tu học. Sau có người tìm thấy bảy dấu chân in trên đá. Đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba, người ta lại thấy thêm một dấu chân nữa, tất cả đều phát ra ánh sáng. Vua nhà Tống liền xây chùa ở đó.

Niên hiệu Hiển Khánh năm thứ tư đời Đường, thứ sử Phủ châu cầu cúng để tránh hạn hán nhưng không được. Về sau có người thấy trên núi phía Đông có tượng đi nhưng không dời được. Người ta theo đường đi tìm thấy hai vết chân dài hai thước cách nhau năm dặm. Nghe tin thứ sử và dân chúng đến thắp hương cầu khẩn xin mưa, lại thỉnh tượng về chùa. Lúc đưa tượng đi mây phủ giăng, đến đêm thì tuôn mưa.

Niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, chùa núi Ngộ chân huyện Lam điền, Ung châu có nhiều tăng chúng tu học. Một vị Tăng xây một cốc nhỏ ở khe núi phía Bắc nhưng trước cốc có một tảng đá rất lớn, trở ngại việc đi lại. Vị tăng làm mọi cách để phá đá nhưng không được, sau đập đá ra thì được một tượng vàng, cao năm tấc, hiện còn ở chùa.

Ở huyện Hộ đất Ung châu đời Đường có tượng vàng cao ba thước sáu, thường phát ra ánh sáng. Tôi nghe thì đến chiêm ngưỡng, trên chân tượng có bài minh: Ngày tám tháng tư niên hiệu Kiến

Nguyên năm thứ hai mươi, đúc tại chùa Trường an. Công chúa xuất gia học Phật, có nói: nhờ sự cảm ứng của tượng Phật nên được xuất gia. Xin mô phỏng theo để tạo phước cho mười phương.

Xưa giáo pháp bị diệt, tượng được cất ở Song la nhân. Sau có người nghe tiếng, thấy ánh sáng lạ liền báo dân làng đến tìm, họ đào thấy tượng nhưng dân chúng cất giấu để cúng thờ vì còn là thời Chu. Nay vẫn còn.

Tháng hai niên hiệu Long Sóc năm thứ ba đời Đường, ở Thẩm châu có tượng xuất hiện. Ở hang huyện Cẩm thượng vốn có ba pho tượng đá, tượng giữa thường phát ra ánh sáng soi sáng cả hang. Dân chúng đồn đến tai vua. Vua cho sư Huyền Tú chùa Đại từ ân và sứ giả đến xem. Thấy ánh sáng chiếu sáng họ liền tâu vua, ánh sáng soi chiếu suốt ba đêm mới hết. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba chúng tôi có đến huyện này nhưng không thấy điềm lạ.

Niên hiệu Long Sóc năm thứ nhất đời Đường.

Vua hạ chiếu cho thầy Hội Tích chùa Hội xương lên núi Ngũ đài để tu sửa chùa tháp. Núi này có năm đài, đài giữa cao nhất, được làm từ thời Ngụy Cao tổ Hiếu Văn Đế. Phía Bắc đài vẫn còn vết tích người ngựa, trên đỉnh có ao Thái Hoa Tuyền, lại có suối nhỏ, giữa có hai tháp thờ Bồ-tát Văn-thù. Tương truyền Bồ-tát Văn-thù đến núi Thanh lương nói pháp cho năm trăm vị tiên. Núi này rất lạ, ít có cây cối chỉ có rừng thông, phía Nam núi có đỉnh Thanh lương, dưới núi có phủ Thanh lương. Cách ba mươi dặm về phía Đông của đài có chùa Linh thứu, ở đó có hai đạo tràng. Tương truyền do Hán Minh Đế xây dựng, phía Nam có vườn hoa, thật là đất của thần tiên. Sư Hội Tích cùng huyện thừa và hơn hai mươi người lên núi tu sửa. Thấy thần tích họ ra sức tu sửa tôn tạo. Chợt nghe tiếng chuông vang lên, mùi hương thoảng ra, tất cả đều khen lạ. Họ đến phía Tây, thấy một vị Tăng cỡi ngựa đi về phía Đông, họ liền chạy theo nhưng không kịp. Điềm lạ ấy vẫn thường ẩn hiện. Phía Đông nam là Hằng Nhạc, phía Tây bắc là Hằng Thiên, giữa có sáu ngôi tháp Phật, thân tướng các Thiền sư Giải Thoát, Tăng Minh vẫn còn.

Niên hiệu Long Sóc đời Đường tả hành quân tướng Tiết Nhân Quý đánh dẹp đất Liêu. Thấy tượng đi trên núi, tướng quân hỏi mới biết là kỳ tích đời trước, liền cho vẽ lại để lưu truyền.

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC

QUYỂN 3

Chánh pháp do người mở mang, cho nên khi Phật chưa giáng trần, pháp vẫn có nhưng không hiển, không có tăng làm sao truyền pháp. Đó là sự tương giao của sự lý. Vì thế bốn y ba phần, con người là đầu mối. Thần tăng chùa Thánh hiển bày khắp bốn biển là nhờ đức của La-hán, công của chư Tăng. Xin nêu vài việc về chùa thánh, giáo linh, thần tăng.

Chùa Thanh lương núi Thiên thai ở gần biển Lâm; chùa núi Bồng lai ở Đông hải; chùa Tiên hang, Đường thuật, Bảo hãn, Lâm hà; chùa Trúc lâm núi Thạch cổ, Tương châu; chùa Linh ẩn, Lô sơn, Nham châu; chùa núi Minh tịch, Tấn dương; chùa Thái phu núi Ngũ đài, Đại châu; chùa hang đá núi Hắc phong, Tây Vực; chùa Cửu không tiên núi Thái nhất, Ung châu; chùa Trúc Lâm, đỉnh Đại Tần, núi Chung nam; chùa Nam độc cửa Đạo ngọ, Lương châu; chùa Cự minh núi Chung nam.

Chùa núi Thiên Thai đời Đông Tấn: Sa-môn

Miên Đạo Hiến lên núi Thiên Thai, bỗng nghe tiếng nói rằng: Người này không tiết tháo nên không thấy được chùa thánh. Sa-môn liền chống tích trượng đi tìm khắp nơi, lại nghe có tiếng nói: Mười năm sau hãy đến, cần gì phải khổ công tìm kiếm. Nghe vậy Sa-môn lấy cỏ tranh lập am, tháng ngày thiền quán. Sau quả thấy chùa tháp uy nghiêm, thánh tăng hiển linh, nói: Mười năm sau hãy đến, cần gì phải ở sớm. Sa-môn không đi vẫn ở đó tu luyện, sau đó tự hóa. Vương Hy Chi có lên núi chiêm bái, hiện nay vẫn còn.

Thời Tống, Chu Linh Thạch đi đến Liêu đông, trên đường về bị lạc đường, liền để thuyền trôi theo dòng nước, hơn một tháng sau họ Chu trôi dạt vào một đảo nhỏ, lương thực đã hết, họ Chu lên đảo tìm nước uống, thì thấy một ngôi chùa rất lớn. Vị Tăng hỏi nguyên nhân, họ Chu kể lại. Vị tăng bảo ở lại, họ Chu nói: Đây là nơi của bậc Thánh, người phàm không thể ở, rồi xin ra đi. Vị Tăng nói, ở đây cách đất liền hơn hai mươi vạn dặm. Nghe nói, họ Chu liền kinh sợ, không biết vì sao lại đến được. Vị Tăng liền trấn an: Đừng lo, sẽ có người đưa về. Lại hỏi có biết đạo nhân Bôi Độ không? Thưa biết. Vị Tăng chỉ lên túi bát nói: Là vật đó. Vì phạm lỗi nên bị phạt xuống cõi người. Rồi vị Tăng đưa túi bát cho họ Chu và một bức thư, bảo chú Sa-di đưa họ Chu về. Chú tiểu bảo họ nhắm mắt lại. Họ làm theo, chỉ nghe tiếng gió thổi vèo vèo, nhìn trộm thì thấy thuyền bay trên mây. Không bao lâu thì họ đã về đến Dương Đô. Thấy Bôi Độ bị gông, họ Chu liền đưa bức thư, Bôi Độ kinh ngạc nói: Ngươi đã đến chỗ đạo nhân Bồng Lai ư? Đạo nhân có kêu ta về không? Họ Chu kể lại mọi chuyện, rồi đưa bình bát, Bôi Độ cầm bát nói: Đã hơn bốn ngàn năm ta không thấy cái bát này, liền đưa lên hư không. Vào niên hiệu Thái Sơ họ Chu vô cớ qua đời.

Chùa hang Đường thuật ở Hà châu thời Sơ Tấn: Trên núi Tích thạch cách Hà châu năm mươi dặm về phía Đông bắc có rất nhiều ngọn núi, hình thế khác nhau hoặc như tháp báu hoặc như lầu gác, thông bách trang nghiêm, thật là thánh tích. Đi về phía Nam khoảng hai mươi dặm thì đến hang đó, xung quanh chùa là cây trái suối nước, vẫn có chư Tăng ở. Phía Nam có cổng đá, được làm từ đời Tần Thái Thủy. Phía Đông có một ngôi chùa trời không rõ nơi chốn nhưng tiếng chuông luôn vọng ra, lại có thánh tăng thường ẩn hiện nên đặt tên hang là Đường Thuật. Khương nói là quỷ thần. Xưa nay người ta lên núi thường thấy có chùa có tăng xuất hiện. Trên đỉnh núi phía Đông bắc có con suối, người uống nước suối này sống lâu không già.

Đầu thời Cao Tề có một vị Tăng lạ đến an cư ở chùa Nghiệp hạ, rất hợp ý với vị Tăng cùng phòng. Khách tăng bị bệnh lị, vị Tăng cùng phòng cho uống rượu. Vị tăng lạ không uống sợ phạm giới. Vị tăng kia bảo rằng lúc bệnh Phật có khai giới, vị lạ tăng uống và khỏi bệnh. Sau mùa hạ, khách tăng từ tạ ra về, khi đưa khách, khách hỏi: Có nghe nói về chùa Trúc Lâm ở Cổ Sơn không? Có nghe, nhưng chỉ là lời đồn. Khách nói: Không có tâm thì làm sao đến được? Đã ở cùng một mùa hạ, thường quấy nhiễu, xin đến bổn tự để được đền ơn. Vị Tăng bảo: Nếu đến được thì chết cũng không tiếc. Tháng chín sẽ đến nhưng phải có người chỉ đường. Khách tăng nói: Hãy lên từ phía Đông, đến một hang nhỏ rồi đi lên theo hướng Đông bắc là đến chùa. Sau đó vị Tăng này cùng với năm, sáu người đến chùa Thạch quật, sơn Tăng hỏi: Đến đây có việc gì? Lên chùa Trúc lâm. Đó chỉ là lời đồn, làm gì có chùa. Khách tăng đã mời thì không phải là dối, liền cùng mười mấy vị sơn Tăng đi tìm. Đến một hang nhỏ họ thấy một vị Tăng vác bừa kéo đất, bảo: Năm ngoái đạo nhân thả ngựa ăn hết lúa của chúng tôi, năm nay lại đến đạp lúa. Rồi đuổi tất cả. Chỉ còn vị Tăng kia được mời, theo đường đi, vị Tăng nghe tiếng ngâm trên đỉnh núi, cất tiếng hỏi: có phải là người xưa? Đúng vậy. Có người ra mời vị Tăng vào điện, bảo chờ Hòa thượng. Hòa thượng khoảng chín mươi tuổi, tướng cao lớn như người Tây Vực, lại thấy ba mươi vị quan lại đứng hầu, Hòa thượng hỏi: Làm sao đến đây được? Hành lễ mười mấy lần. Hòa thượng liền đưa khách về phòng nghỉ. Đi qua các phòng thì đến phòng vị khách tăng, nhưng hôm sau Hòa thượng hỏi: Muốn ở luôn thì hẳn có duyên nhưng người xuất gia không đặt tên ở hai nơi. Muốn ở đây thì bỏ tên kia. Vị Tăng lại từ tạ ra về. Đi được một dặm vị Tăng nhìn lại thì thấy còn chùa tháp nhưng đi vài dặm nữa thì không thấy gì. Theo đường cũ trở về thì không thấy những hiện tượng lúc đầu. Về đến nơi vị Tăng kể lại mọi chuyện.

Đầu thời Cao Tề, Sa-môn Tung Công lên núi Bạch lộc nhưng bị lạc đường. Bỗng nghe tiếng chuông, Sa-môn lần theo thì thấy một ngôi chùa, có ba cổng. Đến cổng trước thì thấy đề chùa Linh ẩn, ngoài cổng có năm, sáu con chó to như con bò, lông trắng mõm đen, nhìn trừng vào Sa-môn. Samôn sợ định quay đi thì thấy một vị Phạm tăng đi vào, mấy con chó cũng vào theo, Sa-môn gọi nhưng không đáp. Bước vào cổng thì thấy cửa phòng tăng đều đóng, ở giảng đường thì bày tọa cụ, nhưng không có người. Sa-môn đến ngồi ở góc Tây nam, bỗng nghe trên nóc có tiếng, nhìn lên thì thấy năm, sáu mươi người từ hư không bay xuống, họ hỏi nhau đi khất thực nơi nào. Sau cùng một vị Tăng bay xuống nói từ phía Đông thành Tương châu về. Kể lại việc gặp Thiền sư giảng đạo. Sau đó tất cả đều đi mất. Sa-môn thấy mình ngồi trên tảng đá. Sa-môn trở về hỏi Pháp sư Thống. Pháp sư bảo: Chùa đó được xây vào thời Thạch Triệu, nhưng lâu dần thành nơi ở của Thánh hiền, chùa lúc ẩn lúc hiện, hiện nay người đi núi vẫn nghe tiếng chuông. Văn Tuyên ở Tấn dương sai sứ giả cỡi lạc đà về chùa Tây Kinh. Sứ giả hỏi chùa nào thì bảo lạc đà sẽ đưa đến nơi. Rồi sứ giả ra đi, bắt chợt thấy mình như nửa ngủ nửa thức, đến núi Minh Tịch, lên lưng chừng núi, có mấy chú Sa-di bước đến nói: Lạc đà của Cao dương đã đến. Liền dẫn sứ giả vào chùa. Một vị Tăng già hỏi: Cao Dương làm vua ra sao? Rất thánh minh. Vị Tăng già chỉ phòng bảo sứ giả vào đó lấy kinh. Sau đó lạc đà lại đưa sứ giả trở về. Không lâu sau, vua đến chùa Mộc tỉnh, một người bảo: Ta đi trước, ông hãy đến nhé. Vua gật đầu. Đêm ấy người kia chết, về đến Tấn dương, vua cũng qua đời.

Núi Ngũ đài ở Đông nam Đại châu là ngọn núi cao lớn, rộng ba trăm dặm, trên núi có năm đài cao, thông bách sum suê. Núi này rất lạnh nên hiệu là Thanh Lương, phía dưới có phủ Thanh Lương. Trong kinh có ghi sự tích Bồ-tát Văn-thù đưa năm trăm vị tiên đến núi Thanh lương, chính là nơi này. Vì thế đạo sĩ xưa này thường đến núi này tu học. Đài giữa cao nhất, cách Tịnh châu bốn trăm dặm, trên có ngôi tháp chùa đá nhỏ do Ngụy Văn Đế lập. Trên vách đá còn in hình người ngựa. Lại có dòng suối Thái Hoa nước trong vắt, có hai ngôi tháp, bên trong thờ tượng Bồ-tát Văn-thù. Ở đây ngày đêm thường vang tiếng chuông, mùi thơm phảng phất, thần tăng, điềm lành thường hiện. Niên hiệu Long Sóc vua cho sư Hội Tích chùa Hội xương đến tu sửa, Sư cũng có thấy thần tích. Cách ba mươi dặm về phía Đông nam có chùa Linh thứu, do Hán Minh đế lập. Hai phía Đông và Tây có hai đạo tràng, tượng vẫn còn. Phía Nam có vườn hoa đẹp. Niên hiệu Trinh Quán, Thiền sư giải thoát đưa đồ chúng đến tu tập thì thấy Bồ-tát Văn-thù và các vị tiên ở trong hư không. Thiền sư Tăng Minh ở đó ba mươi năm cũng có thấy linh tích. Trong vòng ba mươi dặm ở đảo phía Nam, hoa thường nở tươi nên người đời gọi là Hoa sơn. Trong đó có chùa thánh, tiếng chuông thượng vang vọng. Người ở gần đó không dám đến.

Theo Biệt Truyện: Trên núi Hắc phong ở Thiên Trúc, Bồ-tát Long Mãnh là bậc thông minh, đức hạnh cao tột trong hàng thánh tăng. Vua lập chùa, đục đá làm nơi thờ nhưng trải qua nhiều năm chùa vẫn không thành. Vua đến lạy xin: quốc khố cạn kiệt mà chùa vẫn không thành. Bồ-tát bảo: đức của vua rộng lớn, tùy phước sẽ thành công, chớ lo tiền hết chùa không thành. Hãy tìm bên hông chùa sẽ có. Quả nhiên vua tìm thấy thỏi vàng, và xây xong chùa. Ở Tây Vực có nhiều loại vàng, nhưng vàng Long Thọ là đắt nhất. Xưa Bồ-tát thọ hơn bảy trăm tuổi, từ lúc ẩn hình đến nay đã hơn ngàn năm. Có một vị Tăng lên chùa thấy vô số tượng vàng và kinh điển mới biết Tam bảo có hai ẩn, hiển sau mùa hạ, vị Tăng định thỉnh kinh về nhưng không được đành ra về tay không.

Chùa núi Hệ đầu phía Nam huyện Hộ, Ung châu. Núi này xưa là nơi người ta buộc thuyền. Xưa kia núi này liền với Thái Hành. Sông Bạch Lộc dừng ở đây nên gọi là Thiếu Hải. Một hôm Tần Hồng Hải gặp nạn tay trái vịn Thái Hoa, chân phải đạp ở giữa thế là tách thành núi Thái Nhất. Tương truyền phía Nam núi Hệ đầu có chín chùa tiên. Xưa có người đốn củi bị lạc đường nên ngủ lại trong rừng. Đêm nghe tiếng chuông, người đốn củi lần theo thì thấy chùa, hơn trăm vị Tăng nhưng không một tiếng động. Sáng hôm sau thì không thấy gì. Sau có sư Hoằng Trọng đi tìm, tìm mãi mới thấy được năm hàng động rất sáng sạch như có người ở. Thần sư ở chùa Quang minh cũng đi tìm, ở lại an cư trong một hang động, nhưng vẫn không tìm thấy chùa tiên.

Chùa Trúc lâm trên đỉnh Đại Tần ở phía Nam cửa ải Tý ngọ. Đầu niên hiệu Trinh Quán có người lên núi tìm mật ong, nghe tiếng chuông người ấy tìm theo thì thấy có một ngôi chùa hai gian, chùa có rừng trúc lớn, người ấy chặt hai mắc trúc để đựng mật. Khi về Sư đong được hai đấu. Từ rừng trúc đến Đại Tần khoảng năm mươi dặm. Nghe có rừng trúc, một người nọ sai người nhà tìm đốn trúc, nhưng họ lại thấy có người bị trói, kêu khóc rất ghê, sợ quá họ lại về. Sau đó một nhóm khác đi tìm thì gặp mưa bão nên trở về. Sư Quy Chân chùa Ngộ chân cũng lên đó tìm thấy hang trúc nhỏ, cũng nói là cách Đại Tần khoảng năm mươi dặm.

Phía Nam cửa Tý ngọ có một trạm gác tên Tam giao, phía Đông trạm gác có con suối nhỏ, phía Đông nam là rừng cây dẻ. Người ở đó thường nghe tiếng chuông vang, nhưng chẳng biết có tăng ở.

Một hôm, con gái của quan trạm gác lên núi tìm củi thì thấy một vị Tăng ngồi trên tảng đá may y, cô gái đến thưa: Từ lâu không biết có thánh tăng ở đây, xin mời về nhà dùng bữa.

- Bần đạo không dám nhận thức ăn của quan lại.

- Là thức ăn của riêng con.

- Cũng không dám.

Cô gái liền chạy về lấy thức ăn, khi trở lại thì không thấy gì. Về sau người ấy hay sai lính đi tìm mà không thấy gì nhưng vẫn thường nghe tiếng chuông. Chùa cách trạm gác khoảng năm dặm.

Chùa Tông Lư hang chiếc ở núi Chung nam, có một người nọ thấy một vị Tăng bảo: "Hãy mang vật này đến chùa." "Chùa ở đâu?" Ở phía Đông Cự minh hang chiếc. Đến đó người kia lại thấy một vị Tăng to lớn, nói: Hàng ngày người vào núi đốn củi, hãy ăn bánh ở chỗ để củi. Người kia tìm quả thấy đúng như lời, người vợ thấy lạ nói ra, nên từ đó bị câm. Sau đó, lại thấy hai vị Tăng vào hang, người kia vẫy tay vào miệng, người vợ liền nói được. Ngày nay, người ta vào núi thường nghe tiếng chuông, thường thấy thần tăng. Một vị Tăng nghe vậy liền vào núi, thấy thần tăng, hỏi: Đại đức ở chùa Tông lư phải chăng? Muốn đi đến đó có được không? Hãy đi. Bỗng nghe tiếng gió thổi, vị Tăng kia nghĩ: Chắc không phải là thánh tăng, sợ là kẻ trộm. Vừa nghĩ thế thì không thấy thần tăng, người ấy hối hận trở về, sau xây tinh xá ở ẩn, tinh xá hiện vẫn còn.

Hang Hồ Lô ở núi Chung nam: Xưa, có người lên núi đốn củi, chợt thấy một ngôi chùa, nhà đá, cửa đá, bên trong có nhiều pháp khí quý, nhưng không có một vị Tăng nào. Người ấy xuống núi bảo dân chúng lên xem, nhưng khi lên đến nơi họ không thấy gì chỉ thấy toàn là hồ lô, có người tìm thấy cửa đá nhưng một nửa nằm trong đá, chỉ hiện một nửa, không ai mở được. Hang ấy tên Khố, đất ấy tên Thiên Tạng. Sau gọi làng ở cửa hang là Thiên Tạng. Có người nói đó là nơi Đức Di-lặc hạ sinh.

Biệt Truyện chép: Phật sai chín mươi chín ức đại A-la-hán có đủ ba minh sáu thông giữ gìn chánh pháp ở tam thiên đại thiên thế giới. Lúc con người sống sáu vạn tuổi, ba tai nổi lên, các thánh ẩn. Khi con người sống một trăm tuổi, các Thánh hiện, truyền bá pháp Phật, đến khi con người sống sáu vạn tuổi thì các Thánh Niết-bàn. Người sống bảy muôn tuổi có Bích-chi-phật hiện, người sống tám vạn tuổi có Phật từ giáng sinh.

Tựa chép: Tam bảo trường tồn là nhờ Phật, tăng, để tăng tồn tại thì phải nương Thánh giáo. Vì thế Phật tùy cơ ẩn hiện. Giáo pháp giữ gìn dứt trừ phiền não kiết sử, do vậy xả thân nói kệ, truyền pháp mượn lời là điều các bậc Thánh thường làm. Vì thế thọ trì đọc tụng, tu hành đúng pháp đều được cảm thông. Thiên Trúc, Trung Hoa đều có rất nhiều chuyện lạ. Vào lửa không bị cháy, giặc cướp không làm hại, trừ mọi tai nạn, nhân có quả thành, những chuyện đó được ghi chép rất nhiều. Xin ghi lại vài chuyện.

Những người có duyên cảm ứng như: Đàm Vô Kiệt, Thích Đạo An, Thích Tăng Sinh, Thích Đạo Duệ, Thích Phổ Minh, Thích Tuệ Quả, Thích Tuệ Tấn, Thích Hoằng Minh, Tôn Kính Đức, Thích Đạo Lâm, Thích Chí Trạm, Phạm Dương Tăng, Tịnh Đông Khán Sơn, Ngụy Yêm Quan, Chu Kinh Thượng Thiên, Tùy Dương Châu Tăng, Thích Đạo Tử, Thích Bảo Quỳnh, Thích Không Tạng, Thích Di Tục, Sử Ha Thệ, Lịnh Hồ Nguyên Quỹ, Thích Đàm Vận, Thích Tăng Triệt, Hà Đông Ni, Thích Đàm Diên, Thích Đạo Tốn, Thích Trí Uyển, Nghiêm Cung, Lý Sơn Long, Lý Tư Nhất, phu nhân Trần Công Thứ, Sầm Văn Bản, thiếp của Tô Trường, Đổng Hùng, Không Kinh Ích châu, Cao Văn, Thôi Nghĩa Khởi.

Cao Tăng Truyện ghi: Đầu đời Tống, Sa-di Đàm Vô Kiệt thường tụng kinh Quán Âm, tu hành khổ hạnh, cùng hai mươi lăm người đi tìm nước Phật. Họ mang theo kinh, vượt bao hiểm nạn mới đến thành Xá Vệ. Trên đường đi họ gặp một bầy voi, liền dốc lòng tụng kinh, bầy voi quy phục, một con sư tử lại xuất hiện, bầy voi bỏ chạy, lại xuất hiện một con bò rừng muốn hại họ, họ lại thành tâm tụng đọc, bỗng một con chim cưu bay ra, con bò kinh sợ bỏ chạy, thế là họ thoát nạn.

Thời Hiếu Vũ đế đời Đông Tấn, vì gặp loạn Thạch Triệu Sa-môn Thích Đạo An đến ẩn cư ở Tương dương. Sa-môn thường chú giải các kinh Bát-nhã, Đạo Hành, Mật Tích, nhưng sợ không hợp lý nên phát nguyện: nếu lời giải không trái lý xin cho thấy điềm lành. Sau đó Sa-môn mơ thấy một đạo nhân đầu bạc mày dài bảo: Lời chú giải của ông rất hợp đạo lý. Ta không nhập Niết-bàn, ở lại Tây Vực, trợ giúp hoặc thông, thường cúng vật thực. Sau, Thiền sư Tuệ Viễn nói: Đó là Tôn giả Tân-đầu-lô. Do vậy liền thiết lễ cúng dường. Sa-môn Thích Tăng Sinh ở quận Thục tu hành khổ hạnh, chuyên trì kinh Pháp Hoa. Mỗi lần tụng, có một con cọp đến nghe kinh, tụng xong cọp bỏ đi, lại có bốn người hầu nghe. Tuổi tuy già nhưng Sa-môn luôn siêng năng.

Sa-môn Thích Đạo Duệ cùng ba người đồng môn vào núi Hoắc ở Hà nam. Đi được vài dặm thì ba người kia chết, Sa-môn kinh sợ thành tâm tụng kinh Pháp Hoa, bỗng thấy đom đóm soi đường đi ra khỏi hang. Sau thường gặp Bồ-tát Phổ Hiền hoặc các thần tăng. Từ đó Sa-môn đến quận Tống làm nghề đưa đò. Một hôm có mấy người đưa Sa-môn đến một nơi rất lạ. Thấy Duệ, Pháp sư đứng lên từ biệt, rồi cho đưa về.

Sa-môn Thích Phổ Minh xuất gia học đạo, bản tánh thuần tịnh, sống rất thanh đạm, thường trì kinh Pháp Hoa, Duy-ma. Khi trì kinh Sa-môn luôn đắp y khác và ngồi bồ đoàn khác. Khi tụng đến phẩm Khuyến Phát trong kinh Pháp Hoa thì Sa-môn thấy Bồ-tát Phổ Hiền cởi voi đứng trước mặt, lúc tụng kinh Duy-ma thì nghe trong hư không có tiếng nhạc.

Sa-môn Thích Tuệ Quả trụ chùa Ngõa quan, Dương châu chuyên tụng kinh Pháp Hoa, Thập Địa. Có lần thấy một con quỷ ở nhà xí đến nói: Xưa tôi là Duy Na vì làm sai pháp môn nên đọa làm quỷ ăn phân. Tôi có chôn ba ngàn đồng tiền dưới gốc cây thị, xin lấy làm phước, Sa-môn làm theo, thiết lễ tụng kinh sám hối. Sau quỷ đến tạ ân, bảo là đã thoát nghiệp.

Sa-môn Thích Tuệ Tấn chùa Cao tòa, Dương đô, lúc nhỏ vốn là một hiệp sĩ, năm bốn mươi tuổi ngộ sự vô thường, liền xuất gia học Phật, nguyện tụng kinh Pháp Hoa. Nhưng khi tụng thì bị bệnh, liền phát nguyện in một trăm bộ kinh để sám hối tội chướng. Một hôm tên trộm lẻn vào định lấy số tiền in kinh nhưng chúng lại không lấy. Sau khi in xong một trăm bộ kinh, Sa-môn không bệnh nữa, ngày đêm lo tụng kinh sám hối, nguyện sinh về cõi Phật A-di-đà. Nghe trong hư không bảo: Ông đã toại nguyện, Sa-môn liền ra đi ở tuổi hơn tám mươi.

Sa-môn Thích Hoằng Minh ở chùa Vân môn, chuyên trì kinh Pháp Hoa, nơi ở của Sa-môn thường có chư Thiên cung phụng nước uống thức ăn, cọp quỷ cũng đến nghe kinh. Con quỷ ấy vốn là sa di nhưng trộm vật của tăng bị đọa làm quỷ. Quỷ này đến nghe kinh mong thoát nghiệp. Samôn nói pháp, quỷ ngộ đạo bỏ đi. Lại có con sơn tinh đến não loạn Sa-môn lấy dây buộc, quỷ xin tha, từ đó không đến nữa. Chuyện của Tôn Kính Đức như phần trước đã kể.

Sa-môn Thích Đạo Lâm trụ chùa Tuyền lâm huyện Phú dương xuất gia học đạo chuyên trì kinh Tịnh Danh. Trước đây chùa hay bị quỷ quấy rối, từ khi Sa-môn về ở quỷ không đến nữa. Có người đệ tử bị chết, đầu rơi trúng ngực, Sa-môn cầu thỉnh, đêm ấy thấy hai vị Tăng Ấn Độ đến kéo đầu ra, sau Sa-môn thiết lễ cúng tạ. Sa-môn trải bông mới trên giường nằm, cúng xong, thấy trên giường có hình người cao ba thước, đại chúng đều cảm phục.

Sa-môn Thích Chí Trạm tu học, tụng kinh Pháp Hoa ở chùa Hàm Thảo. Lúc Sa-môn sắp tịch, Lương Vũ Đế thấy thần tăng báo mộng: hôm nay thánh tăng chứng quả Tu-đà-hoàn nhập diệt tại chùa Hàm thảo. Sa-môn tịch, mỗi tay đều duỗi một ngón. Thần tăng bảo: đó là người chứng quả thứ nhất. Vua cho người đào xem chỉ còn cái lưỡi, liền cho xây tháp thờ.

Ở đất Ung châu có Sa-môn ở ẩn trên núi Bạch Lộc, chuyên trì kinh Pháp Hoa. Sau khi mất, toàn thân đều khô nhưng cái lưỡi vẫn y nguyên. Vua Tề hỏi, Sa-môn Pháp Thượng nói: Người trì kinh Pháp Hoa sáu năm không hoại. Vua cho nhóm chúng tụng kinh, tụng xong ngàn biến thì hiện nguyên hình, vua cho đóng khám đá để thờ.

Một hoạn quan thời Ngụy Cao Tổ xin lên núi ẩn tu, chuyên tụng kinh Hoa Nghiêm, sám hối tội chướng. Khi chưa mãn một mùa hạ, hoạn quan lại được thân tướng như xưa, liền viết sớ tâu lên vua cho cả nước tụng kinh Hoa Nghiêm.

Đầu niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, có một Samôn chuyên trì kinh Niết-bàn, một Sa-di chuyên tụng kinh Quán Âm. Bỗng cả hai đều chết, họ thấy mình xuống địa ngục, Diêm Vương lập tòa vàng mời Sa-di ngồi, thiết tòa bạc để Sa-môn an tọa. Sau thấy tuổi thọ hai người chưa hết, Diêm Vương thả về. Sa-môn liền tìm đến hỏi Sa-di vì sao được như thế. Sa-di kể rằng trước khi tụng kinh đều tắm gội, thay y phục và bồ đoàn mới. Sa-môn mới biết tội mình, từ đó lo tịnh tu.

Sa-môn Thích Đạo Tích chùa Phược thành, Ích châu chuyên tụng kinh Niết-bàn. Một hôm Sa-môn tịch, hơn một trăm ngày nhục thân vẫn còn như lúc sống, đạo tục đều khen ngợi.

Sa-môn Thích Bảo Quỳnh ở Thục Xuyên chuyên tụng kinh Đại Phẩm, thường kính tin Phật tăng. Dân ở đó không tin Phật nên Sa-môn cũng ít vào làng hóa duyên. Nhân dịp dân chúng đến lễ thần, Sa-môn đến đền thờ nhưng không lễ bái. Có người nói: không lễ bái thiên tôn thì không phải là Sa-môn. Sa-môn nói: tà chính khác đường, trời còn lạy ta, sao ta lại lạy lão quân. Dân chúng bàn tán. Sa-môn nói: Nếu ta không lễ thì cũng khó coi. Samôn liền lạy một lạy, tượng thờ lung lay, lạy một lạy nữa, tượng thờ rơi xuống đất. Dân chúng đều kinh ngạc, từ đó họ rất tôn kính Phật pháp. Sa-môn Thích Không Tạng trụ chùa Hội xương ở kinh đô đời Đường, chuyên lo tụng kinh, du hóa. Xưa, Sa-môn tụng kinh ở núi Phu nhi cảm động thần linh. Lần nọ, trời hạn hán, nước suối khô cạn, tăng chúng bỏ đi, Sa-môn liền thành tâm cầu cúng, bỗng nước suối dâng đầy, đạo tục đều khen ngợi. Sa-môn mất vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười sáu.

Sa-môn Thích Di Tục chuyên trì kinh Pháp Hoa, lúc sắp mất Sa-môn nói với Thiền sư Tuệ Khuyết: nếu tụng kinh linh nghiệm, được sinh cõi lành thì mười năm sau khi mất, lưỡi vẫn còn nguyên. Nếu đúng như lời hãy xây tháp để tạo phước cho muôn loài. Sau mười một năm Thiền sư làm theo, quả đúng như lời, liền xây tháp thờ.

Huyện lệnh huyện Ba tây, Long châu, Hồ Nguyên Quĩ kính tin Phập pháp, muốn viết lại kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát-nhã, Niết-bàn nhưng không biết xem xét nên nhờ Thiền sư làm giúp. Thiền sư viết xong, cất ở gia trang. Lần đó, gia trang bị cháy, nhưng kinh điển không bị cháy. Riêng một quyển đầu chữ bị ố đen, vì người viết không thành kính. Kinh ấy hiện vẫn còn ở chùa Tây minh.

Thiền sư Đàm Vận là người ở Định châu hành đạo bảy mươi năm. Cuối đời Tùy nước nhà hỗn loạn, Thiền sư ẩn tại núi Tỷ can ở Li thạch. Thiền sư chuyên tụng kinh Pháp Hoa, muốn viết lại nhưng không làm được. Bỗng thấy một bức thư ghi rằng thanh tịnh thân tâm sẽ làm được. Hôm sau Thiền sư tắm gội, thay y phục, vào tịnh thất bắt đầu chép kinh, đến tối mới ra. Cứ như thế cho đến khi chép xong bộ kinh. Sau có giặc loạn, Thiền sư đặt kinh trong rương, chôn trên núi cao. Sau này người ta tìm thấy, rương bị hư nhưng kinh vẫn còn nguyên.

Thiền sư Tăng Triệt trụ chùa Hãm tuyền ở núi Cô sơn phía Nam Giáng châu, thấy một người bị bệnh phong ở trong hang, Thiền sư đưa lên núi, làm nơi ở, cho ăn và bảo tụng kinh Pháp Hoa. Nhưng vì không biết chữ nên Thiền sư phải dạy đọc từng câu, đến khi đọc được nửa bộ kinh thì mộng thấy thần linh, từ đó dần thông tỏ, tụng hết sáu quyển thì khỏi bệnh.

Một ni sư ở Hà đông chuyên tụng kinh Pháp Hoa và thuê người chép kinh, lại lo chay tịnh thành kính suốt tám năm mới xong bảy quyển. Thầy Pháp Đoan chùa Long môn nhân giảng kinh cho đại chúng nên mượn nhưng ni sư không cho. Sư chê trách, ni sư liền đem kinh đến. Sư mở kinh thì không thấy chữ nào, hối hận quá thầy mang trả lại. Ni Sư tự trách mình, lạy Phật sám hối suốt bảy ngày, sau đó kinh hoàn lại như cũ.

Đầu niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, Pháp sư Đàm Châu ở Hà Đông, sớ giải kinh Niết-bàn, sợ lời không hợp thánh ý nên để kinh và sớ trước tháp xá-lợi, khấn cầu và đốt kinh. Khấn xong kinh và tháp đều phát ra ánh sáng soi chiếu suốt ba ngày đêm. Mọi người đều kéo đến xem. Vua nghe tin, thỉnh Pháp sư về kinh, xây chùa Diên Hưng cúng dường.

Sư Đạo Tốn chùa Nhân thọ ở Bồ châu chuyên giảng kinh Niết-bàn, tín chúng quy y rất đông.

Niên hiệu Trinh Quán thứ mười bốn, Thôi Nghĩa Trực làm hương lệnh ở đó, liền cho người mời sư giảng kinh, Nghĩa Trực thành tâm cầu nghe, thầy nói: Hãy lắng nghe thời gian không còn nhiều. Giảng đến phẩm Sư Tử thì sư tịch. Nghĩa Trực liền cho đưa về ở núi Nam Sơn. Lúc ấy là mùa đông, khi linh cửu được hạ xuống thì có hoa sen mọc lên hơn năm trăm cành, suốt bảy ngày mới héo. Sa-môn Thích Trí Uyển ở Ung châu, khắc kinh vào đá rồi chôn ở núi Tây nam phòng khi chánh pháp bị diệt, kinh vẫn còn. Niên hiệu Đại Nghiệp nhà Tùy, Sa-môn bắt đầu làm hang đá để khắc kinh trên đá, dân quan khắp nơi đều cúng sắt để khắc đá. Vì muốn xây điện Phật nhưng Sơn Đông không có gỗ. Đêm ấy trời nổi giông tố, hôm sau người ta thấy cả ngàn khúc gỗ thông bách, tìm rõ mới biết từ Tây Sơn đưa đến. Đó là thần linh giúp xây điện Phật. Khi làm xong được bảy động đá, Sa-môn mất (vào niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười ba). Các đệ tử vẫn tiếp tục hạnh nguyện của Sa-môn.

Niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy, Nghiêm Cung người ở Tương châu xây tinh xá, chép kinh Pháp Hoa. Nhiều người cúng dường giấy bút, có được bao nhiêu họ Nghiêm chép bấy nhiêu, không bao giờ kêu than. Có một người đến vay mười ngàn đồng tiền, Cung đưa cho, người vay tiền lên thuyền đi về thì bỗng nhiên thuyền bị lật, tiền mất, người còn. Sau họ Nghiêm thấy mười ngàn đồng tiền đó trong kho nhà. Một thương gia cầu cúng, mộng thấy một người đưa một vật báu chuyển cho họ Nghiêm. Họ Nghiêm đến chợ mua giấy bị thiếu tiền thì có người đưa tiền rồi biến mất. Một người làng chài thấy ở biển có ánh sáng liền bơi thuyền ra xem thì được một hòm kinh của họ Nghiêm, từ đó người đánh cá nguyện sao chép kinh. Sau này con cháu của người đánh cá cũng làm theo.

Vào niên hiệu Vũ Đức, Lý Sơn Long chết bất ngờ, suốt bảy ngày ngực vẫn còn nóng, sau sống lại kể: Chúng tôi thấy mình bị đưa đến trước gian tòa cùng với mấy ngàn tù nhân. Quan hỏi: Thường làm gì? thường bố thí khi có hội đám. Còn làm gì nữa? Tụng hai quyển kinh Pháp Hoa, quan phán: Rất tốt, hãy tụng. Họ Lý vừa tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm tựa thứ nhất, quan liền bảo dừng, nói: Chỉ nhờ tụng để những người tù kia tịnh tâm tạo phước. Sau đó mấy ngày tù nhân đều thoát khổ, mọi hình phạt ở địa ngục đều ngừng.

Lý Tư Nhất, ở quận Triệu bị bệnh vào ngày tám tháng một niên hiệu Trinh Quán thứ hai mươi, đến ngày mười ba thì chết. Hôm sau sống lại, kể: Quan hỏi: Năm mười chín tuổi thường giết chúng sinh. Họ Lý nói: Lúc nghe Pháp sư Mân giảng kinh Niếtbàn ở An châu bị hại. Quan cho hỏi Pháp sư Mân nhưng không gặp nên cho về. Nhờ gặp chùa Thanh Thiền nên họ Lý đến chùa lễ bái, kể chuyện với thầy Huyền Thông, thầy cho sám hối, thọ giới Phật, tụng năm ngàn biến kinh Kim Cang Bát-nhã. Chiều tối thì bị chết, hôm sau sống lại, kể: Quan tòa vui vẻ nói: Đã tạo phước đức, lại thấy một vị Tăng bảo: Người này chỉ nghe kinh, không hề giết hại, sao lại ghi sai. Quan liền cho về nhà. Từ đó họ Lý chuyên tu phước lành.

Thái Phu nhân của Trần Công họ Đậu Lô, tin phước nghiệp nguyện tụng kinh Kim Cang Bát-nhã nhưng tụng chưa được một trang thì đầu đau nhức, tự nghĩ đến chết vẫn không tụng được, liền cố gắng ngồi dậy tụng nhưng đèn bị tắt, phu nhân sai người tìm đèn nhưng khắp nơi đều không có, phu nhân buồn khổ, bỗng thấy có người mang đuốc đến, phu nhân vui mừng, đầu hết đau, liền tụng kinh tiếp. Sau đó gia nhân đem đuốc vào, đuốc kia biến mất. Đêm đó phu nhân tụng xong kinh. Từ đó về sau mỗi ngày phu nhân tụng năm biến kinh.

Trung thư lệnh Sầm Văn kính tin Phật pháp hay tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa. Một lần, họ Sầm cùng vài người đi thuyền trên sông Ngô, thuyền bị chìm, người cũng chìm. Chợt nghe có tiếng bảo niệm Phật sẽ thoát khổ. Họ Sầm làm theo thì thấy mình được đưa vào bờ.

Niên hiệu Vũ Đức sứ giả Tô Trường được làm thứ sử Ba châu, khi qua sông Gia lăng, sóng dậy, thuyền bị lật, hơn sáu mươi người đều bị chìm, riêng một người thiếp thường tụng kinh Pháp Hoa, khi thuyền sắp lật người này đội kinh lên đầu, nên được đưa vào bờ. Kinh không bị ướt. Niên hiệu Trinh Quán, Đỗng Hùng người ở Hà đông vốn kính tin Phật pháp, chay tịnh hơn mười năm. Sau bị bắt giam cùng Lý Kính Huyền, Trực Vương Hân. Trong tù, họ Đỗng chuyên tụng phẩm Phổ Môn, tụng được ba ngàn biến thì gông cùm tự mở. Họ Đỗng nói với mọi người, quan giám ngục thấy vậy liền cho gông lại. Họ Đỗng tiếp tục tụng kinh, gông lại mở ra. Họ Đỗng nói với các bạn tù. Kính Huyền vốn không tin Phật, xưa hay hủy báng khi thấy vợ tụng kinh. Giờ thấy họ Đỗng tụng kinh linh ứng, liền tỉnh ngộ, biết Phật là bậc đại thánh. Hai người liền cùng họ Đỗng tụng kinh, tụng ba vạn biến thì thoát tù như họ Đỗng.

Thôn Vương Lý ở cách huyện Tân phồn, Ích châu bốn mươi dặm về phía Tây, đời Tùy có thư sinh họ Tuân dạy học ở đây nhưng không hiển kỳ tích, mọi người muốn lấy sách, họ Tuân không đưa. Sau viết kinh Bát-nhã trên hư không xung quanh làng. Viết xong, bảo: kinh này chỉ có chư Thiên đọc, người không hiểu được. Sau trời lụt, dân chúng đến chỗ kinh thì không bị nước cuốn đi, cũng không bị ướt. Sau đó có một vị Tăng nói: làng này có kinh Bát-nhã, không nên làm ô uế đất đó. Nghe vậy người trong làng làm hàng rào, không cho ai làm ô uế. Vào ngày lễ vía, người trong làng đến cúng, thường nghe tiếng nhạc vang lên.

Ngày hai mươi bảy tháng giêng niên hiệu Long Sóc thứ ba, Châu Cao Biểu Nhân thường tụng kinh Pháp Hoa. Một hôm, người ấy cỡi ngựa ra ngoài, bị con quỷ cỡi ngựa đuổi theo. Người ấy hỏi: Các ngươi là ai? Sứ giả Diêm Vương đến bắt ngươi. Sợ quá người này cỡi ngựa chạy về hướng Tây, quỷ đuổi theo, dặn đừng cho vào chùa, nếu vào sẽ thoát. Cứ thế chạy mãi mà không thoát được cuối cùng bị quỷ kéo tóc ngã ngựa. Mọi người đưa về nhà thì bị chết, sáng hôm sau tỉnh lại kể rằng gặp Diêm Vương phán tội trộm cắp hoa quả nhà chùa thì chịu bốn năm ngậm hòn sắt nóng, tội nói lỗi Tam bảo thì bị trâu cày trên lưỡi và cứ thế bốn ngày liền người ấy chịu tội ngậm hòn sắt nóng. Đến lúc kéo lưỡi cho trâu cày thì lưỡi rất cứng, biết nhờ tụng kinh Pháp Hoa, từ đó được thả về, lo nghe pháp sám hối tội lỗi.

Ngày hai mươi tháng sáu niên hiệu Long Sóc năm thứ ba, Thôi Nghĩa Khởi không tin Phật pháp, vợ của Khởi lại chuyên tụng kinh Pháp Hoa Bátnhã. Tháng năm vợ Khởi chết, cha vợ thiết trai tụng kinh trong hai mươi mốt ngày. Hôm ấy tỳ nữ Tố Ngọc thấy phu nhân, liền nói: Lúc sống con nghe nói về địa ngục nhưng không tin nên chết rồi chịu không biết bao nhiêu điều khổ, phu nhân không thể không tin. Nhờ phu nhân tụng kinh, in kinh mà con được thoát khổ, ngày hai mươi sẽ lại chịu tội. Đến thời quả thật như vậy, phu nhân lại thấy cha mình nói: Đã thả Tố Ngọc rồi, lại nói: Con gái ta không tin lời ta, không làm lành, nay chịu khổ không ai cứu được. Con hãy về nói với chồng nó lo tu công đức, không lâu sẽ được giải thoát. Lại thấy Bà-lamôn dạy Tố Ngọc tụng kinh Kim Cang Bát-nhã, Dược Sư, Pháp Hoa, được làm Thanh văn. Tháng giêng niên hiệu Lân Vũ năm thứ nhất, tiết tướng quân thiết trai tại nhà, thỉnh tăng cúng dường, Tố Ngọc lên tòa tụng kinh không sai một chữ. Tiết tướng quân khen ngợi, tâu vua. Vua khuyên tất cả nên kính tin Phật pháp, tiến sĩ Phạm Thúc Nguyên cũng thiết trai, mời Tố Ngọc tụng kinh.

THẦN TĂNG CẢM THÔNG TỤC

Tăng chân hay ngụy chỉ có Phật biết, phàm phu không thể hiểu. Vì tùy cơ hóa độ, quyền thật khó lường, không thể nhìn từ oai nghi sự tướng bên ngoài. Kinh dạy: Vì chúng sinh có đủ ba độc, tà kiến nên đệ tử Phật tùy cơ độ thoát, vì thế có hai mươi bốn vị làm chỗ nương tựa của ba thừa, mười sáu bậc thánh hoặc trì sáu vạn pháp, chín mươi chín ức chân nhân thông đạt, bảy mươi bốn hiền tăng, người có năm thông. Nhờ thế ba cõi được lưu truyền pháp Phật, bốn loài hưởng phong giáo, bảy chúng biết quay về, bốn vua bị giết, tám bộ hộ pháp, lắng đọng năm uế, chúng tin thì được quả tốt, kẻ hủy báng thì chịu quả xấu, thời nào cũng có. Hai đế Chu, Ngụy oai phục các chư hầu khinh khi Phật pháp, phải chịu tai ương chánh pháp không mất, hưng thịnh do người, các Thánh hiền thường giữ gìn nào dễ bị diệt bởi một ông vua, một đất nước. Chu Ngụy ngu muội, làm việc trái đạo, không ai cứu được. Theo Phó Pháp Tạng thì Phật trao chánh pháp cho Tôn giả Ca-diếp, không để trời quỷ ma thần vua chúa tà kiến phá hủy. Vâng lời Phật, Tôn giả kiết tập kinh điển, rồi trao lại cho Tôn giả Anan, cứ thế đến Tôn giả Sư Tử là hai mươi lăm vị. Vả lại Tôn giả Ca-diếp hiện vẫn ở trong núi Kê Túc, đang nhập định diệt tận, trải qua năm mươi sáu ức, bảy ngàn vạn năm Phật Từ Thị giáng trần, Tôn giả trao lại y bát, rồi mới Niết-bàn.

Ở nước Thơ Cừ cách nước Vu-điền hai ngàn dặm về phía Nam có một bậc thánh nhập định vô số năm, cứ mười lăm ngày có người đến cạo râu tóc. Theo kinh luật: Phật bảo Tôn giả Tân-đầu-lô không được diệt độ, thường truyền giữ Phật pháp để giúp cho chúng sinh được giải thoát sinh tử. Theo luận Đại thừa: Mười sáu vị Vô học như Tânđầu-lô, La-hầu-la và chín mươi chín ức La-hán phát nguyện giữ gìn chánh pháp. Theo biệt truyện các vị Thánh ở khắp nơi, tuy có lúc ẩn mình nhưng thường lợi ích muôn loài nên trên núi vẫn thường hiện chùa thánh, thần tăng, tiếng chuông, mùi thơm… xin lược vài truyện:

An Thế Cao, Chu Sĩ Hành, Kỳ Vực, Phật Điều, Kiện Đà Lặc, Để Thế Thường, Diêm Công Tắc, Thái Tịnh, Trúc Pháp Tiến, Lý Hằng, Phật Đồ Trừng, Thích Đạo An, Đơn Đạo Khai, Hà Sung, Hoàn Ôn, Đỗ Nguyện, Lô Sơn tăng, Trúc Tăng Lãng, Lương Pháp Tướng, Bôi độ, Thích Đạo Duệ, Cầu-na-bạt-ma, Thích Tuệ Toàn, Lưu Ngưng Chi, Thích Đoàn Thỉ, Thích Tuệ Viễn, Thích Tuệ Minh, Thích Bảo Chí, Thích Tuệ Đạt.

Tất cả truyện ký chúng tôi tìm được đã ghi rõ ở trước, nhưng không thể ghi rõ từng điều nên chỉ nêu chung.

Thời Hán Hoàn Đế, Sa-môn An Thanh tự Thế Cao, thái tử nước An Tức, bỏ ngôi xuất gia, chứng quả thánh. Kể rằng xưa Sa-môn có đến Quảng châu gặp một kẻ thù xưa, Sa-môn nói: Ngươi vẫn chưa dứt được oán thù. Sa-môn liền đưa cổ nhận nhát dao chém, sau khi chết được làm thế tử, thái tử có một người bạn thích bố thí nhưng hay tức giận. Thái tử hỏi: Bạn bố thí như tôi, nhưng sao hay sân như thế? Không nhẫn nại được sau này nếu chịu quả báo thì mong bạn cứu cho. Sau khi chết người bạn làm thần hồ cung đình, thống nhiếp ngàn dặm. Sa-môn đến Trung Nguyên để độ bạn. Thuyền đến hồ, người chèo thuyền cầu phước, thần bảo: Mời Sa-môn đến đây. Sa-môn đến thần nói: xưa chúng ta là bạn nhưng vì hay sân hận phải chịu quả khổ này. Tôi sắp chết và phải đọa địa ngục, nhưng sợ làm bẩn hồ nước nên chuyển về bờ Tây, xin dùng số lụa và vật báu này tạo phước cho tôi. Sa-môn bảo hiện nguyên hình. Thần nói: Thân súc sinh không dám hiện nhưng cuối cùng cũng hiện thân rắn, thấy vậy Sa-môn khóc, rắn cũng khóc. Sa-môn trì chú, rắn dần biến mất. Sa-môn bảo người chèo thuyền đem số vật báu về Dự chương làm phước. Rắn thoát kiếp được sinh về Cực lạc. Sa-môn cất chùa. Hôm sau, người ta thấy xác rắn trên bờ Tây, đầu đuôi cách nhau khá xa. Từ đó có làng đầu rắn đuôi rắn. Sa-môn đến Quảng châu tìm người xưa nhưng vì oan trái nhỏ nên bị đánh chết…

Niên hiệu Cam Lồ năm thứ năm thời Ngụy Phế Đế, Sa-môn Chu Sĩ Hành giảng kinh Tiểu Phẩm nhưng vì chưa tỏ chương cú nên Sa-môn sang Tây Vực để tìm. Bị nạn không về được, Sa-môn chất lửa đốt kinh, nói: Nếu giáo pháp không được truyền bá thì bị lửa thiêu. Nhưng lửa cháy kinh không bị đốt, vua cho về nước. Năm tám mươi tuổi Sa-môn tịch, người ta đốt thân suốt một ngày nhưng không bị cháy. Mọi người cầu xin thì thân mới đốt được, chúng xây tháp thờ.

Niên hiệu Thái Khang đời Tấn Vũ Đế, Sa-môn Kỳ Vực-người Tây Vực vượt biển đến đất Tương dương. Đến bên bờ sông người chèo đò thấy đạo sĩ ăn mặc dơ nên không chở. Khi thuyền đến bờ thì Sa-môn đã có ở đó. Lại thấy hai con cọp đuổi theo, Sa-môn xoa đầu chúng. Cuối niên hiệu Tuệ Đế, Samôn đến Lạc dương khuyên dạy tăng chúng. Quan sở tại hỏi pháp rồi tặng vật báu, Sa-môn cho lạc đà đưa về tây. Sa-môn bảo: sau này ở đây có tội lớn, rất đáng thương. Sau nhà Tấn bị loạn lạc. Khi Tôn giả về Tây, vô số người đưa tiễn, Sa-môn bước đi thong thả thế mà ngựa đuổi theo không kịp.

Đầu đời Tấn, Sa-môn Phật Điều ở núi Thường sơn, ngày kinh hành trên núi đêm ngủ trong hang cọp. Một hôm trời đổ tuyết lớn, con cọp về hang, Sa-môn nói: Ta chiếm nhà của ngươi thật hổ thẹn, Sa-môn phủi tuyết trên mình cọp, cọp liền xuống núi. Thấy mọi người Sa-môn nói: Trời đất còn băng hoại huống chi là con người. Sau đó Sa-môn về phòng, ngồi thẳng thị tịch. Mấy năm sau, đệ tử tại gia lên núi đốn gỗ, thì Sa-môn vẫn còn, chúng kinh ngạc hỏi: Hòa thượng vẫn ở đây? Ta vẫn ở đây. Mọi người bèn đào mộ, thì thấy mộ trống.

Sa-môn Kiện-đà-lặc trước du hóa ở Lạc dương vào đời Tấn. Tuy kinh phong thái của Sa-môn nhưng mọi người chưa thấy sự linh ứng. Sa-môn nói: Ở núi Bàn chí có ngôi tháp cổ, ai xây dựng sẽ được phước. Mọi người đào tìm thì thấy có nền liền xây lại, mời Sa-môn trụ trì. Một hôm, Sa-môn thọ trai ở nhà thí chủ cách chùa trăm dặm. Thọ thực xong, Sa-môn xin dầu rồi về chùa. Sa-môn đi như bay, người đi theo không kịp, Sa-môn bảo họ nắm chéo áo, lát sau họ đã về chùa.

Niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn vua cấm người Tấn xuất gia, Để Thế Thường phụng pháp, không sợ pháp nước nên lập tinh xá trong nhà, cúng dường chư Tăng, Ni. Một hôm có vị Tăng lạ, ăn mặc dơ bẩn đến nhà, họ Để lễ bái, sai tôi tớ lấy nước rửa chân, Sa-môn bảo họ Để làm, họ Để nói là già yếu nên không làm, Sa-môn hiện thân oai đức bay lên hư không, họ Để hối hận, tăng ni trong nhà đều thấy, mùi thơm vẫn còn phảng phất.

Diêm Công Tắc người đất Triệu, phụng hành Phật pháp, mất ở ấp Lạc thời Tấn Vũ Đế. Nhân chùa Bạch mã có lễ hội, mọi người cúng bái, thấy có một người thân đức oai nghiêm nói: Tôi là Diêm Công Tắc, được sinh về Cực lạc, hôm nay cùng các Thánh đến nghe kinh. Vệ Sĩ Độ là cư sĩ cũng rất kính tin Phật, thường cúng dường chư Tăng. Giữa trưa hôm đó, trong hư không bỗng có một cái bát đựng đầy cơm hạ xuống trước mọi người, ai cũng biết là bát của Công Tắc, số cơm ấy ăn trong bảy ngày. Vệ Sĩ ghi lại việc này.

Gia đình của Thái Tịnh ở Nam Dương đầu đời Đông Tấn rất kính tin Phật Thường, họ thường bố thí cúng dường. Hôm đó thiết trai cúng dường chư Tăng đi đường. Thấy một vị Tăng ngồi dưới gốc liễu, họ mời vào cúng cơm. Người nhà sớt cơm làm đổ dưới đất. Vị Tăng bảo: Bát của bần đạo đã đầy. Sa-môn quăng bát lên hư không, mọi người đều thấy rõ, bát lại mất, người ta làm lại cái khác, ngày đêm lễ bái.

Cuối đời Tây Tấn, Trúc Pháp Tấn ở chùa Khai Độ là người thông minh, lúc nước sắp loạn, Samôn vào núi ẩn. Sau người ta thiết trai cúng dường chư Tăng. Một vị Tăng thân hình tiều tụy lên ngồi ở ghế chủ tọa, Sa-môn đến kéo xuống, ba lần như vậy, vị Tăng biến mất, gió liền nổi lên, Sa-môn hối hận, tự trách mình.

Cuối thời Tây Tấn, Lý Hằng gặp một vị Tăng nói: Phước họa sắp đến, phước trước họa sau, nếu giữ mình thì không bị hại. Lý Hằng không tin lời, nói: Ta giàu có, lo gì tai họa. Vị Tăng ở nghỉ qua đêm, nhưng đang đêm Lý Hằng thấy giường trống, trên nóc nhà lại có một con chim. Sáng sớm thì lại thấy vị Tăng ở trên giường. Vị Tăng từ biệt, Lý Hằng ra tiễn thì không thấy nữa. Từ đó Lý Hằng tin Phật, sau được bổ làm thái thú Tây Dương và Hạ Lô, giữa niên hiệu Thái Hưng thì bị giết.

Cuối đời Tây Tấn Sa-môn Phật Đồ Trừng đến Trung Nguyên độ sinh. Tuy không học rộng nhưng mỗi lần tranh biện thì các học sĩ đều bị thuyết phục. Vào niên hiệu Vĩnh Gia, Sa-môn đến Lạc dương. Gặp lúc Thạch Lặc đóng quân ở Hà Bắc, giết hại rất nhiều người, Sa-môn khuyên giải nên cứu được vô số người. Thạch Lặc lại hỏi về việc lành dữ, và việc bắt Lưu Diệu Tướng. Sa-môn nói rõ, Thạch Lặc làm theo lời thì quả đúng sự thật. Ngày tám tháng tư niên hiệu Kiến Bình năm thứ tư, Thạch

Lặc đến chùa lạy Phật, bỗng gió thổi rung chuông, Thạch Lặc hỏi, đại chúng nói: Năm nay nước có nạn lớn. Đến tháng bảy Thạch Lặc chết, Thạch Hổ lên ngôi, càng tôn thờ Phật pháp. Sau đó Sa-môn nói với đệ tử: Ta chết trước vua, vua sẽ bị đọa. Năm Mậu thân, thái tử giết mẹ và em, Hổ tức giận giết cả nhà. Năm sau Hổ chết.

Sa-môn Đạo An họ Vệ, người ở Thường sơn, là đệ tử của Sa-môn Phật Đồ Trừng. Lúc sinh tiền, Sa-môn Phật Đồ Trừng thường đàm đạo với Đạo An. Sau khi thầy mất, Sa-môn lánh nạn ở đất Hán. Một hôm đến nhà thế tục, Sa-môn gọi tên chủ nhà, chủ nhà kinh sợ hỏi: Trước đây chưa từng quen biết làm sao biết tên tôi? Sa-môn nói: Trước cổng nhà ông có một cái xe tre đựng được một hộc há không phải là Bách Thăng hay sao? Hai cây khép lại há không phải là Lâm sao? Trên cánh tay Sa-môn có một cái sẹo nên người đời gọi là Bồ-tát Ấn Thủ. Xưa, Sa-môn La-thập cũng từng lễ kính. Một hôm thấy một vị Tăng lạ, Sa-môn lễ bái, nói: Tự xét mình có tội, sao lại được thương tình? Ông không có tội, hãy chuẩn bị đồ tắm. Sa-môn hỏi nguyên nhân, vị Tăng bảo sau sẽ rõ. Lúc đó, Sa-môn thấy mười mấy đứa trẻ vào chùa vui chơi, rồi biến mất. Sa-môn nghe ở nhà tắm có tiếng, ra xem thì thấy khăn ướt, nước hết. Sau họ Phù định làm loạn, Samôn khuyên không được nên bị bại ở Hoài nam. Một hôm, sau giờ ăn sáng, Sa-môn về phòng an nhiên thị tịch, được chôn ở chùa Ngũ cấp.

Sa-môn Đơn Đạo người ở Khai đôn hoàng, xuất gia sống trên núi năm mươi năm, đi lại như bay, không thích chỗ đông người, thích chỗ thanh vắng. Thời Thạch Hổ, Sa-môn đến đất Nghiệp, chu du khắp nơi, cứu khổ cứu nạn. Sau tịch ở núi La phù.

Thời Đông Tấn, quan tư không Hà Sung kính tin Phật pháp, thường thiết lễ cúng dường, ai nấy đều khen ngợi. Lần nọ thiết trai bỗng thấy một vị Tăng quần áo dơ bẩn, đến dự trai diên, họ Hà cũng bất bình. Ăn xong vị Tăng đi ra, quăng bát lên hư không rồi biến mất, mọi người đều nhìn theo, sám hối tội lỗi.

Thời Tấn, đại tư mã Hoàn Ôn về già kính thờ pháp Phật. Một hôm gặp một vị ni sư từ xa đến, Hoàn Ôn kính tin. Lần nọ, ni sư tắm, Hoàn Ôn nhìn lén, thấy ni sư lõa thân, tự lấy dao mổ bụng rút ruột, chặt đứt đầu tay, nhưng khi sư ni ra ngoài thân thể lại như cũ. Hoàn Ôn hỏi thì ni sư từ tạ, biến mất. Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ ba đời Tấn, con trai của Đỗ Nguyện tên Thiên Bảo lên mười tuổi thì chết. Mấy tháng sau, con lợn trong nhà sinh năm con lợn con. Một hôm quan đến, họ Đỗ định giết lợn con. Vị Tăng bảo: Đừng giết, đó là Thiên Bảo, sao mới trăm ngày mà đã quên rồi. Nói xong vị Tăng biến mất.

Niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, quan thái thú Dực hương là Phạm Minh sai người đốn gỗ ở núi Lô sơn. Họ thấy một Sa-môn ngồi trên đỉnh núi, lâu sau biến mất trên mây. Từ đó mọi người thường thờ cúng.

Sa-môn Trúc Tăng Lãng tinh nghiêm giới hạnh, thường cùng đồ chúng du hóa khắp nơi. Một hôm, trên đường đi Sa-môn nói với đồ chúng: ta nghi chùa có trộm, khi về quả đúng như lời. Cuối đời Phù Kiên bác bỏ đạo nhân riêng Sa-môn và đệ tử được tôn kính. Chỗ Sa-môn ở thường có nhiều cọp, y như chó trong nhà, lại có giếng thần hễ người nữ đến nhìn là giếng bị khô. Sa-môn lễ tạ giếng lại đầy nước. Tôn chủ cấp cho hai huyện, bái làm Đông Tề Vương, Ngụy, Tấn đều cung kính, đến nay đã hơn ba trăm năm, tượng chùa vẫn còn. Sa-môn Lương Pháp Tướng người ở Hà đông, ở trên núi tu học, làm bạn với chim thú. Điền Thái Sơn có một rương đá đựng vật báu không ai mở được, Sa-môn thử mở ra, thấy vật báu Sa-môn liền bố thí cho dân chúng, Sa-môn thọ chín mươi tuổi. Sa-môn Bôi Độ không biết từ đâu đến nhưng năm bảy mươi tuổi thì ẩn tu không ai biết. Lần nọ, Sư đến một nhà cư sĩ, thấy có tượng vàng Sư mang tượng đi, người nhà cỡi ngựa đuổi theo nhưng không sao đuổi kịp. Đến bờ sông, Sa-môn để một cái ly trên sông rồi đứng trên ly, qua bên kia bờ, nên được gọi là Sa-môn Bôi Độ. Sau Sư đến Bành thành hành đạo, mất ở Giang nam. Ngài La-thập bảo là hai vị đã xa nhau mấy trăm năm rồi, sao đến nay mà vẫn chưa gặp.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai, có người thiết lễ Phổ Hiền, hơn bốn mươi người dự lễ suốt bảy ngày. Một hôm, thấy có một vị tăng cỡi ngựa đến đạo tràng lạy Phật, bất chợt lên ngựa biến mất. Ba năm sau cũng đến đạo tràng Phổ Hiền, họ lại thấy có vị Tăng đến lễ Phật rồi biến mất, để lại ánh sáng sáng rực rỡ.

Sa-môn Cầu-na-bạt-ma người Tây Vực, đầu đời Tống, Sư đến Dương đô hành đạo. Một hôm người ta thiết lễ rải hoa trên tòa để tìm thánh tăng, hoa ở tòa của chư Tăng đều héo riêng hoa trên tòa của Sư không bị héo. Sau, Sư an tọa thị tịch, mọi người cho là Sư nhập định, nhiều hôm sau họ tìm thấy một bài kệ hơn ba mươi hàng, ghi rằng: Khi đạt quả thứ hai, ban đêm có hơn hai trăm người tập họp, thấy một vật nhiễu quanh kim thân rồi bay về phía Tây nam.

Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ nhất đời Tống, hai người con gái của nhà nọ (chị mười tuổi, em chín tuổi) chưa hề biết kinh pháp. Ngày tám tháng hai năm nọ họ biến mất, ba tháng sáu trở về bảo là gặp Phật. Ngày mười lăm tháng chín lại biến mất, một tuần sau trở về nói đọc được tiếng Phạm. Ngày mười lăm tháng giêng năm sau lại biến mất, cha mẹ khóc lóc cầu cúng quỷ thần, một tháng sau chúng trở về với hình tướng Tỳ-kheo-ni, kể rằng gặp Phật và các ni, bảo mình có túc duyên nên cho xuất gia, đặt tên là Pháp Duyên và Pháp Thái. Sau đó hai vị lo mở mang truyền bá chánh pháp. Sa-môn Tuệ Toàn là Thiền sư ở Lương châu, có hơn năm trăm đệ tử, trong đó có một người thô bạo, không được Sư để mắt. Một hôm người ấy tự nói là đạt quả A-na-hàm, Thiền sư không tin. Lần nọ Thiền sư bị bệnh nhập thất tịnh tu, đang đêm đệ tử đến thăm bệnh: Nếu A-xà-lê tin thì sau khi mất sẽ sinh vào nhà Bà-la-môn. Ta một đời ngồi thiền sao lại sinh vào đó? A-xà-lê tu học nhưng không toàn lực, tuy có phước đức nhưng chưa siêu thoát. Nếu lập đạo tràng bố thí thì quả sẽ thành. Lại bảo cúng y tăng già lê nhưng không phân biệt người. Sau, Thiền sư làm theo lời, cúng y cho một Sa-di. Ít lâu sau hỏi Sa-di: Y có lớn lắm không? Sa-di không biết. Thiền sư mới biết đó là Thánh tăng hóa thân. Người đệ tử chết, xung quanh mộ thường có ánh sáng.

Đầu niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Lưu Ngưng Chi ở Quảng lăng gặp một vị Tăng bảo: Ông sắp bị bệnh nhưng không chết, nếu thiết trai cúng dường thì họa sẽ qua. Ngưng Chi không tin, tức giận quát. Vị tăng bỏ đi, bảy ngày sau Ngưng Chi bị bệnh gần chết. Một vị Tăng đến bảo: ông có pháp duyên, sao không tinh tấn? Ngưng Chi kể lại, vị Tăng bảo: Đó là Tôn giả Tân-đầu-lô, nói xong biến mất. Sau đó, Ngưng Chi thấy ánh sáng ở tinh xá Tuệ pháp.

Thời Ngụy Thái Vũ, Sa-môn Đàm Chỉ có những việc lạ lùng, thường ngồi suốt sáu mươi năm, chân không dính đất, người đời đặt cho tên là Bạch Túc A Lan. Khi Hách Liên Xương phá đất Trường an, chúng chém Sư nhưng Sư không bị thương, nhờ thế nhiều tăng ni được thoát chết. Sư tịch hơn mười năm mà thần sắc vẫn như cũ.

Thời Tống Hiếu Vũ, Sư Tuệ Viễn là đệ tử Thiền sư Tuệ Ấn. Thiền sư biết trước kia đệ tử là thầy mình nên gửi đến Giang Lăng làm người chèo thuyền. Hằng ngày Thiền sư khổ luyện hành đạo. Một hôm, biết đã hết nghiệp Sư đến chùa Đa bảo nói với sư Đàm Tuân: Ngày hai mươi ba tháng hai năm sau sẽ về trời. Hôm đó sư Đàm Tuân thiết trai cúng dường, thấy khí lạ, biết là sự thật. Canh ba hôm đó nghe trong hư không có tiếng nhạc, thầy nói: Sa-môn đi đó à?

Niên hiệu Đại Minh năm thứ tư đời Tống, thái hậu tạo tượng Bồ-tát Phổ Hiền ở chùa Trung hưng, thiết lễ cúng dường. Trong pháp hội có một vị Tăng hình dáng kỳ lạ, một vị Tăng khác hỏi: Xin hỏi Sư từ đâu đến? Từ Thiên An đến. Xin cho biết quý tánh. Tuệ Lãng.

Cuối đời Tống Sa-môn Bảo Chí đến Dương đô, thường hay phân thân biến hóa khôn lường, thấy vậy vua ra lệnh bắt giam. Sư bị gông cùm trong ngục nhưng người ta lại thấy Sư hóa độ ở chợ, thoắt ẩn thoắt hiện không sao biết được. Sau, Sư thường đến chùa Diên hiền. Lần nọ, trời hạn hán Sư bảo vua thỉnh Tăng tụng kinh Thắng Man, trời sẽ mưa. Vua làm theo quả đúng như lời. Vua lại hỏi về người thừa kế, Sư há miệng chỉ vào Hầu Cảnh. Sau này cũng đúng như lời.

Cách Từ châu không xa về phía Đông nam có người tên Lưu Tát Hà, không tin Phật pháp, sau bị chết, rồi được sống lại, kể rằng: Gặp Bồ-tát Quán Âm bảo đến Đan dương lễ bái tháp vua A-dục xây. Từ đó họ Lưu kính tin Phật, thường thiết trai cúng dường vào ngày mùng 8 tháng tư hàng năm. Sau đó, họ Hà xuất gia học đạo, pháp hiệu là Tuệ Đạt, được mọi người tôn kính. Người này ban đêm hay ẩn mình trong cái kén, sáng lại chui ra nên người đời đặt tên là Tô Hà Thánh, tô hà là cái kén. Dân chúng thường thờ tượng thánh Tô Hà vì rất linh thiêng. Sau Sư tịch ở Sa Lịch, hài cốt rất nhỏ, có thể xâu lại bằng dây. Mỗi khi gặp việc, dân chúng thường đến Sa Lịch tìm, nếu được thì tốt, không được thì xấu. Một người nọ tìm không được bèn lấy trên tay tượng Bồ-tát Quán Âm, nhưng đang đêm thì bị mất, hôm sau lại thấy trên tay tượng. Những việc thần dị ở các thời đại rất nhiều, được ghi rõ trong Cao Tăng Truyện nên ở đây chỉ nêu lược.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]