TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠP TẠNG

BỘ SỬ TRUYỆN

SỐ 2108 - TỔNG TẬP VỀ NHỮNG ĐIỀU SA-MÔN KHÔNG NÊN KÍNH BÁI THẾ TỤC

Thời Tiền Đường, Vương Ẩn Dung tự Thiếu Vi ở Thái nguyên soạn.

MỤC LỤC

SỐ 2108 - TỔNG TẬP VỀ NHỮNG ĐIỀU SA-MÔN KHÔNG NÊN KÍNH BÁI THẾ TỤC

LỜI TỰA

TỔNG TẬP VỀ NHỮNG ĐIỀU SA-MÔN KHÔNG NÊN KÍNH BÁI THẾ TỤC

QUYỂN 1

THIÊN THỨ NHẤT: NÓI VỀ CỐ SỰ

QUYỂN 2

THIÊN THỨ NHẤT: NÓI VỀ CỐ SỰ (Tiếp Theo)

LỜI TỰA

CHƯƠNG THỨ NHẤT: NÓI VỀ TẠI GIA

CHƯƠNG THỨ HAI: NÓI VỀ XUẤT GIA.

CHƯƠNG THỨ BA: NÓI VỀ CẦU TÔNG MÀ CHẲNG THUẬN HÓA

CHƯƠNG THỨ TƯ: NÓI VỀ THỂ CỰC CHẲNG GỒM ỨNG

CHƯƠNG THỨ NĂM: NÓI VỀ THẦN BẤT DIỆT

QUYỂN 3

THIÊN THỨ HAI: BÀN NGHỊ KHÔNG KÍNH BÁI

QUYỂN 4

THIÊN THỨ HAI: BÀN NGHỊ KHÔNG KÍNH BÁI (Tiếp Theo)

QUYỂN 5

THIÊN THỨ BA: BÀN LUẬN NÊN KÍNH BÁI. (Phần Đầu)

QUYỂN 6

THIÊN THỨ BA: BÀN NGHỊ NÊN KÍNH BÁI (Tiếp Theo)

 


LỜI TỰA

Như trong khe đục xuất hiện một bậc Long thánh khai mở thành Ba, phi hy họa vẽ mà leo dây, nổi vết xe mà vượt khế ước. Cung nghiêm kính đến, đề tôn ở trong ngọc vũ, bày giày trong quần. Sáng giúp, giúp của Tuyền Quỳ. Khuôn phép lớn chỉ ở nơi lễ nhạc, cơ nghiệp vinh chỉ tại nhân nghĩa, cũng có tài tuấn của lầu nguyệt ráng lồng, anh hoa cưỡi giải bắt cá. Lấn bức lương dục dáng quấn nấm son nơi động bí, thôi ăn lộc báng hấp sương mốc xanh nơi gò Thần, trọn kinh sợ thời kỳ tấn tiết, nhọc hao phế tụ hợp phù loan.

Đâu như Đấng Năng Nhân xuất hiện nơi đời, lời vàng mở bày. Chọn diệu luân mà từng kích động, thỉnh bảo cự mà dẫn cao. Sinh của vô sinh, cuối cùng sinh sinh nơi sâu mầu, diệt của bất diệt rốt cuộc diệt diệt ở nguồn sâu. Đuốc trí tuệ sáng bừng khắp đại thiên, lời diệu pháp ngân vang ức kiếp. Khó thẳng buộc thắt, xa mờ tam chú ở thang niên, sóng khổ lấp lấp lớn, vượt quá tứ thừa nơi Hạ tự, lấn ngầm các phương mà diễn bày thấm đượm. Cứu giúp đời kiếp dài xa mà lắng đọng ung đúc. Người tiếp nối hành nghi, bèn khuất phục cung kính của Đế vương, kẻ vào học đạo mới tôn quý rũ bỏ hết tóc xanh. Vì vốn liếng tốt lành muốn tập, làm nơi nương tựa của trần lao, kịp bằng muôn sao ngầm tụ cúng tế tiên tổ, sáng như mặt nhật mộng tỏa ngời. Đông dời tượng của Hưu Đồ, Tây dần hóa của Kế Tân. Cao nhân ảnh hưởng phụ thuộc tuyên dương diệu thuyết ở hòm bạc, đức lớn theo cùng thỏa sướng bối diệp nơi chân từ. Các bậc Đế vương vì đó mà sùng phụng, nhiều đời vì đó mà khâm chuộng, nên Phi tần kính nhớ, quấn quanh kiệu biếc mà đồng vui. Lưu Hán chí thành, xuống xe lụa mà kính lễ. Chỉ có Ngưu Đồ cuối vận, Tuệ Lãnh mờ tối mà trở lại tỏa sáng, Long Tự lúc suy, đức thủy lắng ngưng mà lại tan lỡ.

Trong triều Đại Đường, chúng ta lắng mặt nhật dâng cao trên biển, vót mui ráng núi Côn lôn, kéo dài dòng tốt lành, ngời hoa hiển bày tốt quý, của cải chất thành nhà tía. Tốt tươi thay! Hạt mây đay, đỡ giúp muôn dân, nhã hòa dời đổi xiêm nghiệp. Hoàng đế cưỡi sấm sét rung động khắp cùng, cung điện chớp sáng lìa cung. Xua chín ngựa vì từng rong ruổi, giá tám lánh mà giăng bay cao. Mong gió vút lộng núi cao, mở vườn hạc nơi chốn kinh

SỐ 2108 – Tổng Tập Về Những Điều Sa-môn Không Nên Kính Bái Thế Tục 1023 kỳ, mộ ngưỡng phong hóa Liên hà, dưng phong đài nơi thắng địa, phu tuyên khuôn phép nhiếp dụ, ung đúc mô phạm ái kính. Nhưng bình trị nước nhà hẳn chờ đợi bậc trung, chỉnh trang gia nghiệp ắt vốn từ kẻ hiếu. Bèn ban bảo các hàng Tăng Ni dẫn bày lễ nghi bái quỳ, thì đủ lắng lòng, bảo thông qua quy cũ nơi Hội chủ. Nhân tâm còn nghĩ nhớ, bỏ hứng tụng ở Anh liêu. Tuy ồn ào bàn nghị cùng đả kích, mỗi tự nơi bày chí ý mình, mà triều đình đã chọn bày dẫn mất theo thường. Đặc biệt ân đượm đoái hoài lại, bèn đặt để kính bái thăng đường.

Sa-môn Thích Ngạn Tông là bậc cao nhân xung vũ, ngầm vút khí hùng âm nhã, vận cao đạo thông điệu vút thư thả. Thân thành lắng sóng, nhận báu bay mà xung lên trời. Cây y lộn bày, tung cánh quý mà phẩy Hán. Đã hợp cốt yếu của Cửu Nho, lại tham huyền vi của Nhị Tang. Chư Tăng ngưỡng mộ khí tiết tốt đẹp đó, thế tục kính bái cao vọng huy hoàng ấy, hẳn dùng vết tượng cưỡi chén, ngang tiếng bay gậy ấy vậy. Chỉ vì sợ kẻ mê ở đời học hành cạn cợt, biết gần ít nghe, cho là thích hợp với quyền thế tục mà làm sự thật của hội chân, gọi cửa phụng mà chẳng toại, kêu lối soạn mà chẳng theo, bèn dấy khởi tâm hộ niệm, chuyển mở phát huy làm. Nhân đó, từ thời nhà Tấn mãi đến Thánh đại đây, phàm có bao nhiêu sự kiện bàn luận kính bái đây đều tích tập, tất cả mà biên ghi, hợp gồm ba thiên, phân làm sáu quyển. Vì đó mà tán thán bàn luận, cách thức theo đường thông, chỉ lụa ngậm tiếng vang, khắc văn bày thể tín. Do đó, khơi cao cùng tột sâu mầu, tẩy rửa bến bờ mờ tối ấy vậy. Ẩn Dung tôi học nghiệp ít ỏi, tài trí sơ sài, tiếng tăm hoang rỗng, khí khái cạn cợt, dừng ở nơi bang giao mây khói mà ẩn vết, gá nương cửa nhà lộng gió mà lắng thần. Không vì sớm chuộng hoa biên, tin sùng sâu diệp triện, mừng vui việc lớn này mà chấp nối vì biên ghi lời tựa. Lửa đóm mùa thu ít sáng chẳng phải giúp ánh ngời của Bôn Hy. Tiếng ếch của mùa xuân hẹp vang đâu bổ ích cùng âm thanh nhạc lớn! Hãy tạm dùng để bày tình, há bảo là vẽ vời văn hoa? Những ai cùng tôi chung đồng chí ý, mong chớ chê trách vậy.

----------------------------------

TỔNG TẬP VỀ NHỮNG ĐIỀU SA-MÔN KHÔNG NÊN KÍNH BÁI THẾ TỤC

Thời Tiền Đường, Sa-môn Thích Ngạn Tông ở chùa Hoằng Phước biên soạn.

QUYỂN 1

THIÊN THỨ NHẤT: NÓI VỀ CỐ SỰ

"Cố sự" tức là nói rõ những việc mà Sa-môn đã từng phải kính bái kể từ đời Tùy trở về trước. Từ khi giáo pháp lưu truyền đến phương Đông, trải qua thời gian đã hơn sáu trăm năm. Suốt thời gian ấy có những sự việc xảy ra như kính tin, phế hủy, giao lưu, khen chê nghiêng đẩy, những điều tiêm nhiễm, khuất tất, phương hại đã từng khiến người ta bái phục. Mà những điều ấy chẳng phải là việc kính nước, lý vượt lẽ thường, dùng làm sâu mọt khoét đục trong đạo, đều men theo những tập quán xưa cũ vậy.

- Về văn tấu: Thời Đông Tấn, Thượng thư Lệnh Hà Sung, v.v… tấu trình chấp các Sa-môn không nên kính bái Vương giả (có ba bài và lời tựa).

- Về sắc chiếu: Xa kỵ Tướng quân Sưu Băng vì vua Thành Đế ban xuất chiếu văn khiến Sa-môn kính lễ (có hai bài).

- Về Sách: Thái úy Hoàn Huyền cùng Bát Tòa Hoàn Khiêm, v.v… luận bàn về sách nói việc đạo nhân nên kính lễ (có một bài và lời tựa).

Bát Tòa có sách đáp lại với Hoàn Huyền, nói rõ đạo nhân không nên kính lễ (có một bài).

Hoàn Huyền cùng với Trung thư Lệnh Vương Mật có sách luận bàn về việc Sa-môn nên kính lễ (một bài).

Vương Mật có sách đáp lại Hoàn Huyền nói rõ Sa-môn không nên kính lễ (một bài).

- Về cật nạn: Hoàn Huyền cật nạn Vương Mật về việc không nên kính lễ (ba bài).

- Về giải đáp: Vương Mật đáp lại với Hoàn Huyền cật nạn, nói rõ không nên kính lễ (có ba bài).

- Về thư: Hoàn Huyền cùng Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn khiến thuật về sách ý nói không nên kính lễ Vương giả (có một bài, và hai bài đáp lại của Samôn Tuệ Viễn).

Thời Đông Tấn, Thượng thư Lệnh Hà Sung, v.v… tấu trình chấp các Sa-môn không nên kính bái vương giả (có ba bài và lời tựa).

Lời tựa: Năm Hàm Khương thứ sáu (340) thời Đông Tấn, vì vua Thành Đế (Tư Mã Diễn 326-343) đang tuổi ấu thơ, nên Thái hậu phải lâm triều nhiếp chính. Quan Tư đồ Vương Đạo, Lục Thượng Thư cùng cậu của vua là Trung thư lệnh Sưu Lượng đều được tham gia phụ giúp việc triều chánh. Về sau, Vương Đạo v.v… qua đời, Sưu Băng làm phụ chánh, cho rằng các Sa-môn phải nên kính lễ Vương giả. Hà Sung, v.v.. bàn nghị không nên kính lễ. Các quan lễ ở dưới bàn nghị rõ ràng, các Học sĩ v.v… bàn nghị cùng đồng như ý của Hà Sung. Môn hạ nhân sắc chỉ của Sưu Băng mà bài bác, Hà Sung v.v… nhân đó mà làm tấu trình này.

Văn tấu thứ nhất: Thượng thư lệnh quan quân Đô hương hầu Thẩm Hà Sung, Tán kỵ thương thị Tả bộc xạ Trưởng bình Bá Thần Sáp, Tán kỵ thường thị Hữu bộc xạ kiến an hóa Thần Khôi, Thượng thư quan trung hầu thần Hoài Thủ, Thượng thư xương an tử Vương Quảng v.v… nói: "Thế tổ Võ Hoàng Đế do thạnh minh mà đổi mạng, Trí Tổ Minh Hoàng Đế là bậc mẫn Thánh huyền lãm, đâu liên can đến các Sa-môn ở đương thời, chẳng cải đổi phải cong khúc đầu gối, trông nhìn không biến đổi, pháp tu thiện ấy, do đó mà chí thông khắp thiên hạ vậy. Có nghĩa rằng, nên tuân thừa theo việc cũ của Tiên đế, đối với nghĩa rất lâu dài vậy".

Xa kỵ Tướng quân Sưu Băng vì vua Thành Đế ban xuất chiếu văn khiến Sa-môn kính bái (có hai bài).

Chiếu văn thứ nhất: "Phàm, muôn phương khác tục, Thần đạo khó biện biệt, có ắt tự đến vậy. Với hàng đạt quán gồm thông, thật đáng không quái lạ, huống hồ là lễ nghi bái quỳ, sao phải chuộng ư? Phải nên quay lại hàm ý của Tiên Vương để thấy do đâu mà kính chuộng. Đâu phải ngay sự khuất chiết đây mà bị gặp Bàn Bích ư? Hẳn không phải vậy. Nhân từ sự cung kính của cha và con, lập thành thứ lớp của vua tôi, chế bày pháp độ sùng kính lễ trật, đâu phải tự nhiên mà thật có nguyên do ư? Đã có nguyên do, cớ sao cải đổi đó? Nhưng mà gọi là thiết bày lễ nghi, đó là vô tình ư? Vả lại, nay quả thật là có Phật? Hay là không có Phật? Nếu là có Phật, đạo ấy hẳn nhiên mở rộng; còn nếu là không Phật thì nghĩa gì tiếp nối niềm tin ấy? Nhưng đó chỉ là việc của phương ngoài. Đã là việc của phương ngoài thì đâu phải thể của phương trong, mà nắn chỉnh hình hài, trái ngược với việc thường, đổi lễ điền, bỏ danh giáo. Đó là điều tôi rất nghi ngờ vậy. Danh giáo có nguyên do, vì vậy mà trăm đời chẳng phế bỏ, sớm tối lớn bày, đời sau còn ngại. Ngại đó, vì tệ hại nên khó tìm, mà nay đang xa kính mộ, mênh mang mờ mịt nương tựa hiếm ít, chưa phân bỏ lễ ở một ngày, bỏ giáo ngay đời nay, khiến hàng lưu tục khinh ngạo vượt qua khuôn khổ phép tắc, đó lại là điều tôi rất nghi ngờ. Giả sử có tin vậy, và giả sử có thật vậy, thì tôi cho rằng ông thông suốt cả thần minh, có được đó nơi lòng ngực vậy. Nghi tắc hiến pháp mẫu mực hẳn không thể phế bỏ ngay trong chánh triều đây vậy.

Phàm các loại này đều là dân của triều nhà Tấn, luận rừng trí ấy lại là thường nhân, mà phải nhân chỗ nói ấy khó giải bày. Giả sử có phục tiết để lấn vượt phép tắc, chống kháng khác đời đến nỗi khinh ngạo lễ nghi, kéo thẳng hình hài cả muôn thừa, lại là chỗ tôi chẳng thủ lấy vậy. Các bậc Quân vương là quốc khí, thấu rõ lời thì phải lường xét đến sâu mầu, luận về bình trị thì phải kính trọng Quốc điển (pháp nước). Nếu không như vậy, tôi lấy gì thuật bày ư?

Văn tấu thứ hai: Thượng thư Lệnh Quan Quân, Phủ quân Đô hương hầu Thần Sung, Tán kỵ thường thị Tả bộc xạ trưởng bình Bá Thần Thúy; Tán kỵ thường thị Hữu bộc xạ Tạ Kiến An Bá Thần Khôi, Thượng thư Quan trung hầu thần Hoài Thủ, Thượng thư Xương An Tử Thần Quảng v.v… nói: "Với chiếu thư như vậy, các thần chúng tôi đều mịt mờ không hay biết, chẳng đủ khả năng để tán dương Thánh chỉ, tuyên xướng đại nghĩa, cúi xét minh chiếu chấn động sợ cả doanh quan. Tạm cùng tầm xét rõ là có Phật hay không Phật, hẳn chẳng phải chỗ các thần chúng tôi khẳng định vậy. Nhưng tìm về di văn, gom nhặt về cốt yếu, thì năm giới cấm thật rất trợ giúp cho vương hóa, nghèo hèn rành rỉ nơi danh hạnh, sang quý mờ mịt trong tiết tháo ngầm. Hạnh đức ở nơi chỗ vong thân, bao gồm thanh bạch tinh diệu của nhất tâm. Vả lại, dấy khởi từ thời nhà Hán mãi đến triều đại ngày nay.

Tuy pháp có hưng suy, mà tệ hại không yêu vọng, Thần đạo tuy trải qua lâu dài mà chưa có ai sánh ví đó. Phàm, nguyền rủa có sự tổn hại, thì chúc tụng hẳn có bổ ích, với sự ngu thành của các thần chúng tôi, thật lòng bày tỏ những điều nhỏ nhiệm, thêm sự đượm nhuần như núi lớn, khư khư cầu chúc thượng Thánh bổ ích hoàng cực. Nay một lệnh buộc kính bái ấy, bèn hủy hoại pháp đó, khiến tục tri thiện, phế bỏ Thánh ở đời, tập thật sống thường hẳn cuối cùng buồn sợ mà ẩn đó, chỗ trong tâm các thần chúng tôi thấy chưa được yên. Các thần chúng tuy mờ mịt ngu tệ, nhưng đâu dám đem thiên kiến mà nghi lầm thánh đức. Ngay như bảo ở đời trải qua ba đời người càng rõ Thánh. Nay chẳng vì đó chế bày không khuyết phép vua, và đường u minh có thể không bít nghẹt. Do đó lại tỏ bày ý ngu thành, cúi xin như lòng trông xét, kính cẩn khải tấu".

Chiếu văn thứ hai: "Xét điều trình bày cụ thể tình chỉ, nhưng về sự mờ tối, thật chẳng thể dùng ngụ ngôn mà nói biết. Với sự so sánh sơ lược ấy thì là thường độ của Đại nhân thần, thô thì lại có phần lệ vậy. Đại khái trăm vị Đế vương định chế phép tắc, tuy chất văn tùy thời nhưng chưa có khác tục tham xen bình trị lừa dối tạp hóa ấy vậy. Đâu phải chỗ Thánh xưa trước không thấu đạt mà Thánh đời sau hoằng thông ư? Vả lại, Ngũ giới là tiểu thiện, thô phỏng tợ nhân luân, mà đối với Thế chúa trong đời thì lược không lễ kính vậy. Lễ rất trọng, kính rất lớn, vì đó là giềng mối để bình trị ở đây vậy. Quân vương muôn thừa chẳng phải ham chuộng tôn quý, dân chúng các khu vực chẳng ưa thích thấp hèn, mà thấp hèn tôn quý chẳng rõ bày trong Vương giáo thì loạn. Sở dĩ các Thánh xưa kia lấy hiến chương làm thể của nước nhà, vì điều thích nghi không lầm hoặc vậy. Các bậc thông bác tham hiểu giới tài thường luôn hoàn bị tu chỉnh đó. Tu ở thân, tu ở nhà thì khá được, còn tu ở nước, tu ở triều chính thì không thể được. Đó há chẳng xa vậy. Xét tự trình bày cũng chưa thể có đó là không vậy. Giả sử rõ ràng đó vẫn còn có nghĩa là không thể dự tham bình trị, huống gì đều không mà đáng dùng nam hành ư?"

Văn tấu thứ ba: Thần Sung v.v… nói: "Các thần chúng tôi thật tuy mê mờ tệ hại, chẳng thông Thánh chỉ sâu xa, đến như càn càn, tối sáng nghĩ theo phép tắc của vua, sao có thể cẩu thả chấp ống nhìn nhỏ riêng mà loạn đại luân ư? Ngay như từ thời nhà Hán nhà Ngụy, tiếp đến thời nhà Tấn đây, chẳng nghe có bàn nghị khác, tôn ty hiến chương không hoặc tạm khuyết. Nay các Sa-môn thận trọng nghiêm trì giới chuyên vậy, và cả lễ đó cũng chỉ một mà thôi. Đến cả có người dốc tâm hành trì giới quên thân mạng, chẳng lẫn tiếc, nào dám vì hình hài mà khinh mạn lễ kính ư? Thường thấy, mỗi lúc đốt hương chú nguyện, hẳn trước tiên vì nước nhà, muốn phước đức đỡ giúp lớn mạnh, tình không cùng tận đã kính phụng trên cao thuận ra nơi tự nhiên. Lễ nghi giản đơn, bởi vì chuyên nhất thủ pháp. Do đó, các bậc tiên Thánh trị đời nhân vậy mà chẳng đổi thay, lưới trời lồng lộng mảy may chẳng lọt. Các thần chúng tôi thường luôn cho là chẳng khiến phải kính bái, nhưng đối với pháp tắc vẫn người khuyết kém, nhân chỗ ích lợi ấy mà ban cho đó khiến hiền ngu chẳng dám không dụng tình, thì trên có sự ban thí của trời che đất chở, dưới có người giữ một tu thiện. Kính cẩn lại tỏ bày ngu tình này, nguyện mong vì soi xét. Kính cẩn khải tấu!".

Khi ấy, Sưu Băng thôi bàn nghị, trọn chẳng thi hành phải kính bái.

Thái úy Hoàn Huyền cùng Bát Tòa Hoàn Khiêm luận bàn về việc nói đạo nhân nên kính lễ (có một bài và lời tựa).

Lời tựa: Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hưng (402-405) thời Đông Tấn, vua An Đế (Tư Mã Đức Tông 397-420) đang rong ruổi ở ngoài, Thái úy Hoàn Huyền dùng uy chấn chủ, muốn khiến các đạo nhân kính bái chính mình. Nhân đó trình bày việc xưa trước giữa Sưu Băng và Hà Sung, cho đó là chưa hết lý, nên cùng Bát Tòa v.v… có viết bài luận bàn rằng:

Hoàn Huyền tôi cúi đầu bái bạch: "Bát nhật gần đến, xưa trước các Sa-môn đều chẳng kính bái Vương giả như thế nào, Sưu Băng tuy đã luận bàn đó, mà đều sơ suất chỗ thấy, chưa phải dùng lý cùng khuất vậy. Ý của Sưu Băng là tôn chủ mà lý cứ chưa hết thì sao vượt ngoài thiên tín, bèn ẩn chìm danh thể. Luận rằng, Phật vì giáo hóa dùng Niết-bàn mà dối bày, suy vượt ngoài thấy nghe, nhưng vẫn lấy kính làm gốc, so với xứ này không khác. Bởi chỗ hoài mong đã chẳng cung kính nên phế bỏ vậy. Lão Tử đồng thời với Tam Đại, nguyên chỗ chú trọng đều ở nơi tư sinh thông vận, đâu riêng lấy Thánh nhân đang ở ngôi vị mà sánh bằng với Nhị Nghi ư? Mà dẫn lấy đức lớn của trời đất gọi đó là sinh, thông sinh lý vật còn ở nơi Quân vương, nên tôn quý thần khí đó mà lễ, thật chỉ lớn lao, đâu phải hư rỗng cùng sùng trọng nghĩa ở nơi quân ngự mà thôi ư? Sở dĩ Sa-môn sinh sinh tư tồn cũng là sử dụng thường nhật ở lý mạng, đâu có nhận thọ đức ấy mà bỏ sót lễ ấy, đượm nhuần ân huệ ấy mà phế bỏ cung kính ấy ư? Với lý thì đó là chỗ chẳng đáng dung thứ, với tình thì thật không ổn thỏa. Việc lớn một đời nên cùng cầu ở trung thực tưởng. Nên lại cùng nghiên cứu hết đó, để bát nhật khiến được rõ định vậy. Hoàn Huyền tôi lại cúi đầu kính bái cùng bàn nghị".

Bát Tòa v.v… đáp lại Hoàn Huyền về sách nói rõ đạo nhân không nên kính lễ (có một bài):

"Trung quân tướng quân Thượng thư Lệnh Nghi Dương khai quốc hầu Hoàn Khiêm v.v…, chúng tôi lo sợ tội chết, kính nghe lời dạy khiến Sa-môn kính bái Vương giả. Hà Sung và Sưu Băng tuy luận bàn nhưng ý chưa nghiên cứu cùng tận. Đây là việc lớn, cần phải bổ xung đúng đắn như đã bàn luận. Nhưng Phật pháp so với Lão Khổng khác đường, lễ giáo trái nhau. Con người lấy tóc da làm quý trọng, mà kia, các Sa-môn tóc cạo chẳng nghi, xuất gia từ giả thân thích, chẳng lấy dưỡng sắc làm hiếu, thổ mộc hình hài, thôi ham muốn bỏ tranh đua, chẳng mong cốt yếu một đời tạo phước vạn kiếp, chỗ quý ở đời đều đã bỏ rơi đó, chỗ trọng của lễ giáo đều dứt tuyệt đó. Giúp cha thờ vua, chỗ đến của thuộc trời, còn lìa bỏ chỗ thân ái, đâu được kính bái đối với vạn thừa, với thế ấy nên tự phế bỏ, càng trải qua ba đời, vất bỏ ràng buộc ấy, phải dùng thần minh vô phương chỉ bày, chẳng dùng bờ mé vượt ngoài kiểm xét thấy nghe, hoặc riêng có lý. Nay bèn khiến các Sa-môn cung kính, sợ người đáng đổi thay có lắm chẳng phải, chỉ cúi ngẩn thôi. Lại nữa, Vương giả vâng phụng pháp vượt ngoài cung kính, tin theo lý đó mà biến đổi lễ nghi đó, lại là chỗ tình chưa trọn, tức nên dung thuận đó, mới là ở giúp đỡ đó. Hoằng Vương nay vì riêng đáp ông cật nạn, Trương Sưởng nước Khổng ở kia tưởng đã tận mặt dò hỏi chỗ nghĩ nhớ đạo báu, các đạo nhân đều đủ đối đáp cao chỉ, các hạ quan v.v… không rành rẽ Phật lý, dẫn trình mà nói, thẹn chẳng đủ xét xem. Hoàn Khiêm chúng tôi v.v… lo sợ tội chết".

Hoàn Huyền cùng Trung thư lệnh Vương Mật luận bàn về sách nói việc Sa-môn nên kính lễ (có một bài).

"Sa-môn chống kháng kính lễ chí tôn, chánh tự chỗ tình không an thỏa, việc lớn một đời cùng nên luận bàn hết đó. Nay cùng sách của Bát Tòa vừa rồi đã đưa đến Kinh đô, nay giao tin đây, ông phải nên nhận lấy lý đó, đợi nghe đức âm".

Vương Mật đáp lại với Hoàn Huyền về sách nói rõ việc Sa-môn không nên kính bái (có một bài):

Lãnh quân tướng quân Lại bộ Thượng thư trung thư lệnh Võ Cương Nam Vương Mật tôi lo sợ tội chết, kính nghe lời dạy đề cập đến đạo nhân chống kháng lễ kính chí tôn. Lại thấy sách của Bát Tòa, đầy đủ vâng thừa cao chỉ, xướng của Dung Âm, từ lý đều thấu đáo, kẻ gần cũng sợ nghe ông nói chưa được rốt ráo tận cùng, tìm ý chỉ của Hà Sung và Sưu Băng, cũng hận chẳng biết hết. Vì hai luận đều rơi lọt nơi thiên kiến không hiểu, nhưng chỗ yểm tâm chân như nhã hối thì Phật xuất hiện ở Thiên Trúc, tông thú gốc gác ở sâu xa, ý vì khác phương khác tục, tuy chỗ an định từng trái, đến như lý của quân ngự không gì chẳng hẳn đồng. Nay, Sa-môn tuy ý đặt để sâu nơi kính, chẳng lấy hình hài cong khuất làm lễ, vết tích khắp đầy nước nhà mà vượt hẳn phương ngoài ấy vậy. Do đó, Quân vương của ngoại quốc không ai chẳng kính lễ, bởi vì đạo còn thì quý, chẳng vì người mà kính trọng vậy. Tìm về Đại pháp tuyên lưu thì ngày tháng tin thực đã lâu dài, trải hơn bốn trăm năm vượt qua ba đời, tuy phong hóa chính trị đổi thay, mà hoằng truyền đó chẳng khác. Há chẳng vì phong hóa riêng tuyệt, có dụng ở Đào Tiềm, thuần phong thanh ước không hại đối với lớn mạnh thái bình ấy vậy. Nên Vương giả khoanh tay mình chẳng hận, hận ở cửa nhà. Sa-môn bảo trong chân chẳng tự nghi ngờ ở dối đời ấy vậy. Nhân lấy thông sinh lý vật còn ở nơi Quân vương, nhưng xét chỗ kết quy các lý, thật như gia luận, ba lần đáp lại đức âm, chẳng thể đã rồi. Tuy muốn vâng phụng lời răn bảo, nhưng không chỗ tựa nương. Do vì người làm công cao chẳng thưởng, người ân huệ sâu chẳng đáp tạ, tuy chỉ một bái một dậy, cũng đâu đủ để đáp tạ, tuy chỉ một bái một dạy, cũng đâu đủ để đáp đức cứu giúp khắp cùng ư? Ông trông nhìn chưa bỏ sót, hèn tạp bị đợi hỏi, tạm dẫn bày sự thấy biết ngu dốt hẹp hòi, chẳng khiến hiềm ghét chỗ kính phụng vậy. Mong chẳng vì người mà phế bỏ lời đến tấu bày dối trá. Vương Mật tôi lo sợ tội chết". Hoàn Huyền cật nạn Vương Mật về việc không nên kính lễ (có ba bài):

Bài cật nạn thứ nhất: Vừa rồi ông nói: "Sa-môn tuy có thâm ý cung kính nhưng chẳng cúi mình kính lễ". Tôi xin hỏi: "Vậy sự tôn kính của Sa-môn đầu đề lược bỏ sự tướng hình hài chỉ còn ở tâm, sám hối lễ bái cũng dốc lòng với việc. Như đến nơi thầy, hay lên đến tòa cùng người đời bái quỳ, chỉ vì có chút ít khác chế bày đó vậy. Đã không thể quên hình hài đối với kia, cớ sao chợt nghi ở đây? Vả lại, làm lý của thầy để trò được tỏ ngộ làm đức. Đạo Quân vương thông sinh thì lý nên ở gốc, ý nghĩa có ba, há chẳng phải là chỗ cùng cực của tình và lý ư?"

Vừa rồi ông nói: "Quân vương ở ngoại quốc không ai chẳng kính lễ, bởi vì đạo còn thì quý chẳng vì người mà khinh trọng vậy". Tôi xin hỏi: "Quân vương ở ngoại quốc chẳng phải chỗ để thí dụ, mà sự hưng thạnh của Phật giáo và ý chỉ cũng có thể biết đó. Há chẳng vì sáu thứ mọi rợ cứng cỏi, chẳng phải bình thường dễ giáo hóa, nên thiết bày linh kỳ khiến đó khiếp phục. Đã khiếp phục, sau đó mới thuận theo khuôn phép. Ấy bởi là rất sợ việc quỷ thần phước báo, đâu phải là đạo tông huyền diệu ư? Đạo còn thì quý, dùng khác với ý chỉ tao nhã, đâu được đắp che pháp phục ấy, bèn có đạo ở trong đó. Nếu lấy đạo còn, sau mới là quý, thì như lời ông nói, đạo của Thánh nhân, cùng cực của đạo vậy, cung kính vua tôi càng thuần ở lễ. Như vậy, Sa-môn không kính lễ, đâu được cho đạo còn là quý ư?".

Vừa rồi ông nói: "Trải hơn bốn trăm năm, vượt qua ba đời, mà hoằng truyền đó chẳng đổi khác, há chẳng vì phong hóa riêng tuyệt, có dùng thường ngày ở đào tiềm, thuần phong thanh ước không hại đối với lớn mạnh thái bình ấy vậy?" Tôi xin hỏi: "Trải qua nhiều đời chẳng đổi thay, chẳng phải chỗ lấy làm chứng cứ. Xưa trước, người xứ đất Tấn đây phần nhiều không kính phụng Phật. Đồ chúng Samôn đều là người ở các nước Hồ. Vả lại, Vương giả không cùng đối tiếp với họ, nên có thể mặc tình theo phong tục địa phương, chẳng lấy làm kiểm chứng. Còn nay đây, Chúa thượng phụng thờ Phật, thân gần tiếp đối pháp sự, sự việc khác xưa. Sao có thể khiến lễ nghi ấy có chuẩn mực sử dụng thường ngày, thanh ước có hỗ trợ đối với hoằng giáo, đều như lời ông nói, đó là do công của Phật pháp, chẳng phải chỗ ích lợi của Sa-môn ngạo dối vậy. Nay dốc lòng cầu kính, sẽ không cùng nồng đượm ấy ư?".

Vừa rồi ông nói "người có công cao chẳng thưởng, người có ân huệ sâu không đáp tạ, vậy thì chỉ đáp lại một lạy, cũng đâu đủ đáp đức cứu giúp khắp cùng vậy". Tôi xin hỏi: "Phàm, lý rốt ráo, không đáp trả, thật là yếu chỉ của Như Lai, nhưng tình ở võng cực thì kính tự theo đó, chỗ của Thánh nhân đây dùng duyên tình mà chế lễ, mà mỗi tự thông cái nương nhờ ấy vậy. Nếu đem công khó sâu xa, ân huệ nặng nề, ắt lược bỏ đáp tạ ấy, thì đức của Phật Thích-ca là sâu ư? Hay là cạn ư? Nếu là cạn thì không nên vì đạo nhỏ mà làm loạn đại luân, nếu là sâu đâu được kia chỉnh tu cung ấy mà buông kính đây ư?".

Vương Mật đáp lại Hoàn Huyền cật nạn, nói rõ không nên kính bái (có ba bài).

Bài đáp lại thứ nhất: Ông hỏi: "Sự cung kính của Sa-môn há đều bỏ qua hình thức mà chỉ giữ ở tâm? Sám hối lễ bái cũng dốc lòng như vậy sao?". Tôi xin đáp: "Đạo của Sa-môn tự lấy kính làm chủ, chỉ bởi bến bờ đường lối đã khác, nghĩa không hàng khuất, nên tuy là trọng của thuộc trời, hình lễ đều hết vậy. Sở dĩ Sa-môn suy tôn sư trưởng và sùng kính tự tướng, bởi vì tông trí đã đồng thì lớn nhỏ đều thành thứ lớp, tư thông có hệ thống thì sự cùng tâm ứng. Nguyên Phật pháp tuy rộng lớn, nhưng chẳng bỏ sót chút thiện nhỏ, công chỉ bằng hạt cải, quả báo cũng ứng đáp đó, tích chứa mảy bụi thành núi, nghĩa ấy đã hiển bày vậy".

Như ông hỏi: "Đạo của Quân vương thông sinh thì lý ứng ở gốc, nghĩa gồm có ba, đâu chẳng phải chỗ cùng cực của tình và lý ư?". Tôi xin đáp: "Đạo của Quân vương thông sinh thì lý đồng với tạo hóa. Đúc luyện phu bày khí công thì rộng lớn vậy, mà chưa có đáp tạ ân huệ nói chỗ bẩm nhận, gá cảm ở lý gốc ấy, tại sao? Bởi vì minh (mờ tối) vốn u tuyệt, chẳng phải chỗ vật tượng nêu cử; vận thông lý diệu, đâu phải vết thô có thể thù đáp. Do đó, Phu Tử nói: "Có thể khiến nguyên do đó, nhưng không thể khiến biết đó" là nghĩa như đây vậy".

Như ông hỏi: "Quân vương ở ngoại quốc chẳng phải chỗ nên tỷ dụ, hưng thạnh của Phật giáo và ý chỉ ấy cũng có thể biết đó, há chẳng vì sáu thứ mọi rợ cứng cỏi chẳng phải bình thường giáo hóa, nên thiết bày kinh kỳ khiến đó khiếp phục". Tôi xin đáp: "Phàm thần đạo thiết giáo, thật khó thể dùng lời nói mà biệt rõ ý, mà cho là thiết bài linh kỳ, cũng là vì báo ứng, thật lý đó rất ảnh hưởng. Cốt yếu của Phật giáo, nay nếu cho là ba đời là hư dối, tội phước là khiếp sợ, thì chỗ rõ ràng của Phật Thích-ca, sợ khó thể nương tựa vậy! Sợ khó thể nương tựa vậy! Thường thì phong hóa của Chu Khổng cứu giúp tệ hại ấy, nên nói dấu vết hết ở một đời mà chẳng mở lối của muôn kiếp. Nhưng xa tham tìm yếu chỉ ấy, cũng thường luôn có tìm được, hiếu để nhân nghĩa rõ ràng không mưu tính mà tự đồng sinh sát của bốn mùa, thì tâm kính từ hiện lại luôn ép bày hỏi nguyên do, cũng tợ như có ý chỉ sâu xa, chỉ vì thể giáo đã khác nên xứ này thường mờ tối vậy. Tỉnh lắng mà tìm cầu đó. Sợ sắp vậy ư? Sợ sắp vậy ư?"

Như ông hỏi "Sự cung kính của vua tôi càng thuần ở lễ, nếu như Sa-môn không kính lễ, thì đạo ấy đâu được cho là quý ư?" Tôi xin đáp: "Lại tìm xét cao luận, bởi vì đạo của Quân vương lý vốn dung thông cả ba đời, như điều trước đã sơ lược nói về ý, cho là đạo của quân nhân trộm đồng với diệu chỉ cao vời, đến như kính của vua tôi thì lý hết danh số. Nay Sa-môn đã chẳng phải tôi vương hầu, nên kính cùng phế bỏ vậy".

Như ông hỏi: "Trải qua nhiều đời chẳng đổi thay, chẳng phải do đó mà làm chướng vậy. Xưa trước người xứ đất Tấn đây phần nhiều không kính phụng Phật, đồ chúng Sa-môn đều là người ở các nước Hồ. Vả lại, Vương giả chẳng cùng đối tiếp đó, nên có thể mặc tình theo phong tục địa phương, chẳng lấy làm kiểm chứng". Tôi xin đáp: "Trước kia sở dĩ nói có năm tháng đời kiếp, chánh vì đạo của dung dưỡng, cốt yếu chẳng có dùng nên vậy. Không có nghĩa việc đã như vậy, không lý có thể cải đổi. Đây là nói chỗ đến thấu đáo của thế, chẳng phải chỗ thản nhiên y cứ. Người Hồ chẳng đối tiếp Vương giả, lại như Cao Xương, chỗ chẳng luận bàn của đời trước, hay ở nơi xứ này ư?".

Như ông hỏi: "Đó là do công của Phật pháp, chẳng phải chỗ ích lợi của Sa-môn ngạo dối. Nay dốc lòng cầu kính, sẽ không cùng nồng đượm hỗ trợ ấy ư?" Tôi xin đáp: "Kính tìm lại luận, thật chẳng lừa dối lý Phật vậy, chỉ dấu vết của ngạo dối, có khiếm khuyết đại hóa. Thật Như Lai dạy răn! Thật Như Lai dạy răn! Với ý cho là đạo của Samôn có thể được xưng khác mà chẳng ngạo dối, nay nếu đem thuần phong ở cuối ngàn năm chuyển dần mỏng dạt, đồ chúng giăng mang, phần nhiều chẳng phải hạng người ấy, dám chẳng nghĩ thẹn. Nay chỉ cho là tự lý im lặng sai có thể sót người mà nói đạo vậy. Trước kia đã đáp là "chẳng vì người mà khinh trọng", trong ý nhỏ nhiệm là ở đây vậy".

Như ông hỏi: "Nếu đem công đức và ân huệ sâu dày, ắt lược bỏ đáp tạ ấy, thì đức của Phật Thíchca là sâu ư? Hay là cạn ư? Nếu là cạn thì không nên vì đạo nhỏ mà loạn Đại luân; nếu là sâu đâu được kia chỉnh tu cung ấy mà buông kính đây ư?". Tôi xin đáp: "Cho rằng, đạo quả của Phật Thích-ca sâu thì sâu vậy, mà đồ chúng kính ngưỡng càng dốc lòng cung kính đó. Đây bởi luân thường đến đạo, hẳn vốn từ hành công, tốt đẹp của hạnh công chẳng còn ở đây, như vậy mới tích chứa sở nhân của hành, quan kiệu của đời sau vậy. Vả lại, tôn kính sư trưởng, công còn khó đè ép, huống gì phỏng định chỗ cùng cực của tâm tông mà có thể ngầm mất lễ ấy ư? Nên tuy cúi ngưỡng nhiều đời, mà chẳng phải là có nghĩa tạ đáp ân huệ ấy vậy".

Hoàn Huyền lại cật nạn Vương Mật:

Bài cật vấn thứ hai: "Xét nêu bày giải đáp lại, chưa tan được điều nghi ngờ, vì thế lại đưa ra phần cật nạn đó. Phàm, lý của tình kính đâu dung có hai, đều là từ trong cho đến ra ngoài, đã vào trong cảnh hữu tình thì chẳng thể được không. Nếu Như Lai nói: "Vương giả đồng với tạo hóa, chưa có đáp tạ ân huệ ở chỗ bẩm nhận, gá cám nơi lý gốc, là vì công cao lý sâu, chẳng phải lớn của đây vậy". Thì giáo hóa của Phật có gì hơn đây, mà lại luận là "bến bờ đường lối đã khác thì nghĩa không hàng khuất, Tông trí đã đồng thì lớn nhỏ thành thứ lớp, tư thông có hệ thống thì sự cùng tâm ứng". Nếu lý ở chính mình, gốc đức sâu ở chỗ cùng cực, thì đâu được nói bến bờ đường lối khác nhau làm tông trí thì sở học của học nên phải phát huy tánh tự nhiên ấy vậy. Giả sử tự nhiên có ở nguyên do mà bẩm nhận, thì gốc của tự nhiên ở chỗ có thể biết vậy, ngộ của tư thông lại là tỏa phát ánh ngời ngọn ấy vậy. Sự cùng tâm ứng, sao được ở đây mà chẳng ở kia?

Lại nói: "Phong hóa của Chu Khổng cứu giúp tệ hại ấy tuy trọn hết một đời mà chẳng mở lối của muôn kiếp". Phàm đem thần kỳ làm phong hóa thì giáo ấy dễ hành, khác so với chân chính, vì nhân nghĩa hết ở việc người vậy, là vì đồ chúng của Hoàng Cân (Đạo sĩ) yêu hoặc đều nhóm tụ như mây. Nếu đây là thật lý thì hành đó lại dễ, Thánh nhân bởi duyên gì xả bỏ thật đạo chỗ dễ đây mà làm việc cuối khó làm ư? Đó hẳn không như vậy, cũng khá rõ ràng, biết vậy". Lại nói: "Kính của vua tôi, lý hết danh giáo. Nay Sa-môn đã chẳng tôi vương hầu, nên kính cùng đó phế bỏ". Cớ sao như vậy? Phàm, kính đó là lý, ở trang trước nói việc ấy đã rõ ràng, kính của vua tôi đều là sơ sinh của tự nhiên. Lý dốc lòng ở gốc tình, đâu phải là sự của Danh giáo ư? Luận trước đã nói "đức lớn của đất trời gọi là sinh, thông sinh lý vật còn ở nơi vương giả". Giả sử chỗ thông ở tại đây, sao được chẳng phải chỗ trọng của tự nhiên ư?".

Lại nói: "Luân thường đến đạo hẳn vốn ở nơi công hạnh, tích chứa sở nhân của hạnh, quan kiện của đời sau vậy. Phỏng định chỗ cùng cực của tâm tông, không thể ngầm mất kính ấy, tuy cúi ngưỡng nhiều kiếp mà chẳng phải nghĩa là đáp tạ ân huệ". Xin trở lại yếu chỉ, mượn cho là nạn, Như Lai bảo: "Kính là hạnh đầu tiên, là trọng của thuần kính vậy". Công hạnh phải tính đó là lao nhọc của công vậy. Sao thẳng lấy quý ngưỡng Thích-ca mà cho là chớ chuộng ở đây vậy? Ân huệ không chỗ đáp trả, chỗ mà đạt giả không lầm hoặc, chỉ lý căn sâu cùng, tình kính chẳng thể được không vậy. Kính vua của tôi, đâu đáp tạ ân huệ ấy ư?".

Vương Mật đáp lại Hoàn Huyền: Bài đáp lại thứ hai:

"Kính phụng cáo và bày lời cật nạn nữa, đủ đầy tiếp thừa yếu chỉ cao xa. Lý đây nhỏ nhiệm, rất khó mượn gá lời để nói. Lại nữa, việc lớn một đời nay nên làm rõ ràng hết. Hạ quan tài năng chẳng phải nhổ bỏ u tối, đặc biệt thiếu nghiên chiếc. Vả lại, diệu khó tinh, đến càng tăng thêm mờ hoặc. Chỉ vì cao âm đã đến nên không dám nín im thôi, liền lại dẫn chỗ thấy biết ngắn ngủi mà vọng đáp lại sự răn bảo, không vì khả phát dung trí, chỉ dùng phản trắc mong lại dò hỏi ở các đạo nhân tài thông, quyên cái chẳng kịp ấy.

Như ông hỏi: "Tông trí là thế nào ư? Nếu lấy học nghiệp làm tông trí thì sở học của học, hẳn là phát từ tánh của tự nhiên ấy vậy. Giả sử tự nhiên có ở nguyên do mà bẩm nhận, thì gốc của tự nhiên ở chỗ có thể biết vậy". Nay lấy làm tông trí ấy là chí đạo của chỗ hướng đến, học nghiệp là nơm lưới của sử dụng thường ngày. Nay sắp muốn thú hướng kia đến cùng cực, chẳng được không mượn lưới nơm để tự vận vậy. Nên biết công của chỗ mượn, chưa phải là chỗ tuyệt ấy vậy. Phàm tích chứa học để đến cùng cực, hẳn từ thềm bước thô dần đến diệu. Được cá thì bỏ nơm, lý ấy thấy rõ vậy. Ông cho là hóa của thần kỳ thì dễ, công của nhân nghĩa thì khó, Thánh nhân bởi duyên gì mà bỏ thật đạo chỗ dễ mà làm việc cuối khó làm ư? Đó hẳn không như vậy, cũng là đã rõ. Ý cho là giáo hóa của Phật cùng với nội thánh trọn khác, đã nói lý khác ấy thì không cùng. Nay luận về Phật lý nên phải y cứ tông ấy mà lập ngôn vậy. Sau đó với đường thông bít, có thể được rõ ràng vậy. Trước đáp chỗ gọi là hạnh của nhân thiện, yếu chỉ của chẳng giết hại, đó như tợ có thể đồng, nên dẫn đem đến đây vậy. Đến như mở lời chống kháng luận bàn, chỗ kết quy của kinh luận hẳn khó mà được một phần vậy, nhưng chỗ thấy của ý ngu, mới lại đem Phật giáo làm khó đó. Cớ sao nói vậy? Nay, chỗ rõ ràng của nội Thánh, lấy làm ra lời nói ấy, khéo ứng thì như vang theo tiếng, tợ bóng theo hình, còn như chẳng khéo thì ngàn dặm trái đó. Như vậy thì xấu tốt ứng liền trong khoảnh khắc, họa phước tương giao ngay trước mắt. Vả lại, nguyên do làm nhân (từ) đã mở rộng đó thì phải, mà còn có bỏ Thánh tức đó là tà, trái đạo mà theo dục ấy vậy. Huống gì Phật giáo thí dụ một đời chỉ bằng khảy móng tay, hoài mong cốt yếu trọn ở vĩnh kiếp. Nói linh dị ở vô vị, bày báo ứng nơi chưa có điềm. Giữ lấy đó mà hay tin cũng chẳng khó ư? Phải đem phong hóa kịp đến Trung Quốc, người tỏ ngộ đó hiếm ít, nên trong kinh "Bản Khởi" nói: "Chánh ngôn tợ như trái ngược" là nghĩa ở đây vậy. Như ông hỏi: "Hành công là phải tính lao nhọc làm công ấy, sao được ngay lấy quý ngưỡng Thíchca, mà bảo chớ chuộng ở đây ư?" Xin thử nói rằng: "Vì làm Phật đạo rộng lớn, việc tính càng nhiều có thể luận thần thành đạo, chẳng chỉ một việc vậy. Đến như ở tâm không nhọc đối với việc, hay nhọc quý ngưỡng tông cực, bèn là một của hành công vậy". Lời đáp trước sở dĩ nói chẳng chuộng ở đây, vì tự cho là phỏng định dấu vết tâm tông, lý ấy khó chuộng, chẳng phải cho rằng sự của lễ bái bèn phải giữ lấy. Chỉ đã ở địa vức chưa hết, chẳng được không có tâm ở nơi hiếm thông, tuy nhỏ nhẹ chỉ như hạt cải, hẳn trọn có chỗ cần đến ấy vậy.

Như ông hỏi: "Kính của vua tôi đều là sở sinh của tự nhiên. Lý Thuần dốc ở gốc tình, đâu phải sự của Danh giáo ư?" Kính bái Cao Luận, chẳng dung gian cách vậy. Do đó trước đã đáp là đạo của quân nhân trộm đồng như cao chỉ, là ý nói ở đâu vậy. Đến như kính của vua tôi, sự hết bái lễ, nên lấy đây làm Danh giáo vậy. Chẳng phải cho là đến ngằn mé hết ở mở vết vậy, xin lại tỏ bày để hết ý nhỏ nhiệm. Phàm, trong đời của Thái thượng, vua tôi đã có phân vị, tình ái tự nhiên thì nghĩa đã hiển bày ở gốc, hóa ở thời ấy vậy, thì Hình Kính chẳng nghe, quân đạo dối vận, nên cùng quên ở Lý Thái thần đạo minh đào, nên sự hết ở biết đủ. Nhân đó mà suy Hình Kính chẳng cùng tâm làm ảnh hưởng, bèn sẽ rõ vậy. Đến lúc thân gần danh dự đã sinh, lễ đây mới nổi, há chẳng phải sự chế tác của Thánh sau cùng thời ứng ấy ư? Lý ấy hư dối xa vời, thành khó biện hành, như vậy chưa đáng, xin đợi cao sáng".

Hoàn Huyền lại tiếp cật nạn Vương Mật lần thứ ba (có lời tựa):

Lời tựa: Vừa rồi cật nạn lại, thủ bút rất khéo, rất đáng là văn vẻ. Tuy có thể dùng làm giải thích chỗ nghi nạn, nhưng rất là chưa thấu đáo, ở đây bèn cùng cật nạn về điều chưa thấy đó. Nay lại tính liệu cốt yếu rõ lý ở ba, để đối biện sự khinh trọng, thì lý đáng kính chăng thật khá rõ biết, công khó nghĩ tưởng nghiên tầm nhỏ nhiệm hẳn ở khổ mà càng chiết vụn vậy. Bát nhật đã đến nay, cùng sách của hữu bộc xa, tiện khiến thi hành đạo kính thờ tôn chủ, khiến mọi người trong thiên hạ không ai chẳng kính. Tuy là Phật đạo cũng không có gì lấy làm tôn quý hơn, há chẳng hết lời ư? Sự tuy đã ban hành, không dự chỗ luận bàn nên nghiên cứu, tưởng các người lại có tinh chiết, có thể dùng tỏ bày trong văn.

Bài cật nạn thứ ba: "Từ khi có được sự nêu bày và điều luận bàn của các người, đều chưa có dùng để giải thích chỗ nghi ngờ, mà lại dùng cật nạn khiến lại đổi thay. Nay lại nêu bày ý trước mà nghĩ tưởng quanh co, dưới chân có đổ ngã núi Bạch mã, biết biện chế có đó vậy. Phàm chỗ quý trọng của Phật giáo, toàn lấy thần làm quý, cho nên thầy trò cùng tông chớ hai luân thường ấy. Phàm, sự tối sáng của thần mỗi tự có bổn phận. Phân chỗ riêng vốn đó, bẩm nhận có gốc, làm công của thầy ở nơi phát ngộ, thí như kinh phác mà ánh ngời phẩy đó vậy. Nếu bản chất chẳng phải ngọc đẹp thì mài giũa đâu có ích gì? Do đó tốt xấu còn ở nơi tự nhiên. Đức sâu ở nơi vốn công mới phẩy ánh ngời thật dùng ở ngọn vậy. Đã ôm hoài ngọc từ trong, lại do thợ làm thành khí. Chẳng phải quân đạo thì không dùng tỏ bày, bèn ở đời này mà thông làm đạo ấy vậy, thì là trọng ở có ba mà Sư thì ở cuối cùng. Cớ sao nói vậy? Quân đạo gồm cả Sư, mà Sư chẳng gồm quân. Giáo dùng mở rộng đó, pháp dùng ngang bằng đó, là đạo của quân vậy. Há chẳng như thế ư? Đâu có thể dùng khinh nhẹ của lý mà đoạt kính nên tôn quý ư? Ba lần trở lại lý ấy hơn chỗ nghi sợ, yếu chỉ chế tác sẽ ở kia mà chẳng ở đây, lẫn lộn mà dùng đó, tệ hại ấy càng rất lắm, tưởng lại lãnh hiểu chỉ thú mà bỏ sót sự đó, được đến trên hào vậy".

Vương Mật đáp lại cùng Hoàn Huyền lần thứ ba:

Bài đáp lại thứ ba: Lại luận về sự Khiếm Khuyết của lời Phật dạy rằng: "Lời dạy của Phật lấy thần làm quý, tối sáng của thần, mỗi tự có bổn phận làm lý của Sư ở nơi phát ngộ. Đến nơi quân đạo thì có thể dùng tỏ bày toại ý ở đời nay, thông rành người làm đạo ấy vậy, mà làm thấy không vẽ đẹp gần thông. Quân có đức bao gồm cả Sư, hoằng sùng đại lễ của chủ, chiết phân sâu cạn có ở ba. Thật như cao luận! Thật như cao luận. Hạ quan gồm do đó mở lời thấy biết hẹp hòi, đến nơi qua lại, vì đoái hoài hỏi đã qua mà chẳng dung có ẩn, mới lại thành một lý biện riêng, chẳng chỉ lầm hoặc của thói quen thường vậy. Đã chú trọng nghiên tầm diệu chỉ, lý thật khôi phục xa rộng như phát mông, khi ấy ở đâu? Nhân đã khiến Sưu (Băng), Hoàn (Huyền) thi hành việc ấy, đến lúc kính, định công tư rất lắm, hạ quan chiêm ngưỡng tỏ rõ, nghĩa ở nơi khơi tiết, đến như răn bảo của trên hào, chẳng dám đương đầu vâng mạng vậy".

Hoàn Huyền vì Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn mà trước thuật sách ý nói Sa-môn không nên kính lễ Vương giả (có một bài, và hai bài đáp lại của Samôn Tuệ Viễn).

Bài của Hoàn Huyền: "Sa-môn không nên kính bái Vương giả, đã là chỗ tình chẳng trọn rõ, mà với lý lại là chỗ rất phu dụ. Việc lớn của một đời, không thể khiến thể ấy chẳng thỏa đáng. Gần đây Bát Tòa có sách, nay giao cho ông, ông có thể nêu thuật đại ý của nguyên do không kính bái. Đây, việc tiện đang thực hành, một hai khiến rõ để dứt bỏ ý tưởng, ông hẳn có thể vì giải thích chỗ nghi ngờ ấy. Vương Lãnh quân đại có nhậm ý này. Gần đây Tạ Trung Diện đồng đi cùng dò hỏi đó, chỗ y cứ khác lý, chưa giải thích được điều nghi ngờ vậy. Nay Quách Giang Châu lấy lời ông đáp, có thể lấy ý chỉ đó mà phó thác vậy".

Pháp sư Tuệ Viễn đáp lại Thái úy Hoàn Huyền: "Xét rõ thông cáo riêng và sách của Bát Tòa, hỏi nguyên do vì sao Sa-môn không nên kính bái

Vương giả. Ý nghĩa ở tôn chúa sùng thượng, xa còn danh thể, nêu dẫn lão thị, đồng Vương hầu ở Tam đại, lấy đạo lý tư sinh thông vận nên chú trọng thần khí ấy. Nếu suy gốc ấy để tìm nguồn ấy, thì đều bẩm khí ở lưỡng nghi, thọ hình từ cha mẹ, thì dùng đạo lý sinh sinh thông vận làm rộng, lấy lý tư tồn sử dụng thường ngày làm lớn, nên không nên nhận thọ đức ấy mà bỏ sót lễ ấy, đượm nhuần ân huệ đó mà phế bỏ kính đó. Đó là chỗ y cứ của Đànviệt lập ý, bần đạo cũng không khác sự nghĩ kính cao xa ấy, cầu đến nơi Phật giáo, để tìm đạo của Sa-môn. Lý thì chẳng vậy, cớ sao kinh Phật nói rõ có phân thành hai khoa: Một là ở thế tục mà hoằng giáo. Hai là xuất gia mà tu đạo. Ở thế tục thì lễ phụng thờ kính tôn thân, nghĩa trung hiếu, biểu thị nơi kinh văn. Huấn chương có ba nơi Thánh điển, đó cùng vương chế đồng mạng có như phù hợp. Một điều đây toàn là chỗ thấy rõ của Đàn-việt, lý chẳng dung thứ khác vậy. Xuất gia thì là khách phương ngoại, dấu vết tuyệt dứt nơi vật, đó làm giáo vậy. Mắc hoạn lụy duyên ở nơi có thân, chẳng còn thân do dứt hoạn biết sinh sinh do từ bẩm hóa, chẳng thuận hóa để cầu tông, cầu tông chẳng do nơi thuận hóa, nên chẳng trọng tư của vận thông. Dứt đoạn chẳng do ở còn thân, nên chẳng quý ích của hậu sinh. Lý đây trái với thế tục, đạo đây ngược với thế tục. Cho nên phàm là xuất gia, đều ẩn cư để cầu chí ý ấy, biến tục để thấu đạt đạo ấy. Biến tục phục chương chẳng được cùng sánh đời đồng lý, ẩn cư thì nên cao thượng vết ấy. Phàm đạt được vậy, nên hay cứu vớt kẻ đắm đuối trong dòng chìm, nhổ bỏ căn tối trong nhiều đời kiếp. Xa thông đến bờ Tam thừa, mở rộng đường lối trời người, cho nên trong trái với trọng của thuộc trời mà chẳng nghịch hiếu ấy, ngoài khuyết cung phụng chúa mà chẳng mất kính ấy. Người như vậy, tự thệ nguyện mới đầu từ xuống tóc, lập chí thành khi tuổi về già.

Như nay, một bậc toàn đức, thì đạo hợp với lục thân, đượm nhuần khắp thiên hạ. Tuy chẳng ở ngôi vị Vương hầu, mà hẳn đã khế hợp hoàng cực chở che cả muôn dân vậy. Như vậy, đâu phải được nhận đức ấy, rỗng đượm ân huệ ấy. Sao mà đức hiền của phu thi lục đồng với người trường chay ấy ư? Đàn-việt dốc lòng tất cả, vì có đượm phục ấy mà không người ấy nên lắng trong giản luyện dung cùng mà chẳng tạp, mạng lệnh đây đã tuyên bày, đều do trăm người đồng thành thực, bèn càng sâu đó, chẳng phải chỗ thí dụ của ngôn từ. Nếu lại mở vết xuất xứ để hoằng đạo phương ngoại, thì người áo rỗng mà vái di phong ấy, kẻ thấm dòng mà đượm vị bến thừa đó. Đến sau khi lắng trong giản luyện còn chưa xứng tình. Trong đó, hoặc chân hoặc ngụy lẫn cùng mạo phạm. Kinh vị chưa phân, thì có thể lấy đạo phế bỏ người, hẳn chẳng nên vì người mà phế bỏ đạo. Lấy đạo, phế bỏ người thì nên bỏ ngay phục ấy, vì người mà phế bỏ đạo thì nên giữ còn lễ ấy. Lễ còn thì yếu chỉ chế giáo có thể tìm, vết tích phế bỏ, thì hân hoan toại chí chẳng biết do đâu. Cớ sao biết rõ như vậy? Phàm, phục chương pháp dụng của Sa-môn, tuy chẳng phải điển pháp của lục đại, trị là khác tục của đạo gia, biểu bày danh khí. Danh khí cùng giao thiệp thì sự trái với gốc ấy. Sự trái gốc ấy thì lễ mất chỗ dụng, cho nên người mến quý phu lễ hẳn chẳng khuyết danh khí đó. Được điều đó, tức chẳng thể khuyết mà cũng là tự đến vậy. Phàm, xa tuân theo cổ điển, như còn giữ con dê sống để cáo lễ ngày mồng một vậy. Dê sống như có thể còn lễ, há huống gì pháp phục của Như Lai ư? Suy luận đó mà nói, tuy không đạo ấy, hẳn nên còn lễ ấy. Lễ còn thì pháp có thể hoằng truyền, pháp có thể hoằng truyền thì đạo có thể tìm. Đây là chỗ đồng xưa nay đại pháp chẳng đổi thay. Lại nữa, ca-sa chẳng phải y phục của triều tông, bình bát không phải khí vật của lang miếu. Quân quốc khác dung, nhung hoa chẳng tạp. Người cắt tóc hủy hình, chợt nhàm chán lễ của chư hầu, thì là ấn tượng khác loại cùng giao thiệp cũng trận chỗ chưa an. Âm vận kỳ đặc của Đàn-việt nổi trội từ tuổi thơ, phong lưu vượt xa nơi cuối tục. Như lúc tham cứu hiền vì cầu trong ấy. Từ đây mà suy, hẳn chẳng vì người mà phế bỏ lời. Bần đạo tuổi đã già suy, gá nhật nguyệt để đợi chờ hết, chỗ tiếc của tình đâu còn chỉ một mình. Giả sử chỗ chấp có keo họp, bởi muốn khiến Tam bảo nơi vận mạng thế, minh đức lưu tỏa xuống dưới trăm đời. Nếu một mai ban hành khiến Phật giáo này đắm chìm, Đại pháp của Đức Như Lai mất hết, thì trời người cảm thán, đạo tục đổi tâm vậy. Bần đạo mờ tối thành tựu cầu mong, lại sắp an nhờ, duyên quyến gặp đến hưng thạnh, nên thản nhiên nổi lòng, nắm bút buồn cảm, bất chợt lệ trào hoen mi vậy". Thái úy Hoàn Huyền đáp lại thư của Pháp sư Tuệ Viễn:

"Biết dùng di hình phương ngoại, nên chẳng quý ích vì sống, cầu tông chẳng do thuận hóa, nên chẳng trọng tư của thông vận. Lại nói, trong thuận theo lẽ của trời đất mà chẳng ngược hiếu ấy, ngoài khuyết trong phụng chúa, mà chẳng mất kính ấy. Nếu Như Lai nói lý vốn không trọng, thì không duyên có tình trí hiếu, sự chẳng tư thông, chẳng nên lại có nghĩa của trí cung. Tình của quân thân hứa đó chưa hết, thì chỗ cậy nhờ của tình sao vì tuyệt đó. Phàm lụy trước ở nơi tâm ứ trệ chẳng do hình kính, hình kính bởi là chỗ dụng của tâm. Nếu là ở nơi gốc mà giăng lấy hình kính, đây lại là chỗ chưa dẫn dụ đó. Lại nói, hai lối hoằng dương của Phật giáo cũng có giáo của xử tục, hoặc đượm nhuần thiên hạ, đạo hợp lục thân, hẳn vì hợp tán hoàng cực mà chẳng rỗng đượm đức ấy vậy. Phàm, Phật giáo còn hưng hành, mỗi vì sự ứng nhân duyên, gốc hẳn đến nơi không sai vậy. Như vậy thì người làm đạo cũng sao có thể trái đó ư? Cho nên, đạo của Thích-ca chẳng thể vượt trạch tịnh ở bến bờ. Tuy chưa đạt Tu-đà nên là đồng chỗ mờ tối của mọi người trong nước vậy. Y cứ Như Lai nói thì đây tự có công của đạo đức sâu xa, nên chẳng phải chỗ nay gọi là Nghi giáo là chỗ có thể phỏng bàn vậy. Lại nêu bày chưa thể cùng cầu lý ấy, bèn đại khái chỉ vậy, nên là chưa tỷ dụ đó vậy, tưởng chẳng lầm hoặc ứ trệ lưu thường, mà nhầm chỗ dụng của tình lý vậy".

QUYỂN 2

THIÊN THỨ NHẤT: NÓI VỀ CỐ SỰ (Tiếp Theo)

- Về luận văn: Luận về Sa-môn không nên kính bái Vương giả của Sa-môn Tuệ Viễn ở Lô sơn, thời Đông Tấn (có một bài, và lời tựa).

- Về sắc chiếu: sắc chiếu của Ngụy Sở Hoàn Huyền Khả hứa Sa-môn không nên kính bái Vương giả (có một bài).

- Về Khải Văn: Khải Văn trình tấu của Thị trung biện từ chi v.v… chấp buộc Sa-môn phải nên kính bái (có bốn bài và ba bài giải đáp của Hoàn Sở).

- Về sự kiện: Hạ Hách Liên Bột Bột khiến Samôn nên kính bái (có một bài).

Hiếu Văn Đế thời nhà Tống ép buộc Sa-môn nên kính bái (có một bài).

Vua Võ Đế thời nhà Tề luận bàn việc Sa-môn chống kháng không kính bái (có một bài).

Vua Dương Đế thời nhà Tùy ban sắc Sa-môn phải nên kính bái (có một bài và giải đáp của Samôn Minh Chiêm ở chùa Đại Hưng Thiện).

- Về luận văn: Luận Phước Điền của Sa-môn Thích Ngạn Tông ở Phiên Kinh quán tại Lạc tân (có một bài và lời tựa).

Luận về Sa-môn không nên kính bái Vương giả của Sa-môn Tuệ Viễn ở Lô sơn, thời Đông Tấn (có một bài và lời tựa).

------------------------------

LỜI TỰA

Xưa trước, trong khoảng niên hiệu Hàm Khương (335-343) thời Đông Tấn, tướng quân Sưu Băng nghi ngờ các Sa-môn chống kháng bái lễ muôn thừa. Đến trong khoảng niên hiệu Nguyên Hưng (402-405) thời Đông Tấn, Thái úy Hoàn Huyền cũng đồng bàn nghị đó. Bấy giờ các hàng triều sĩ danh hiền giải đáp lại rất đông nhiều. Tuy lời nói chưa tỏ rõ thời cuộc mà đều cùng có đồ chúng tốt đẹp đó, đều hết chỗ hoài mong, mà lý tích chứa nơi tình. Bèn khiến đạo phục vô thượng hủy hoại nơi trần tục. Tâm sáng suốt đến cùng khuất phục nói việc người. Buồn thay! Đó mới là nguyên do của giao tang, là phủ vận của ngàn năm, rất sợ đại pháp sắp đắm chìm, cảm việc trước chẳng quên, nên trước thuật năm thiên nghiên cứu tuần tự ý ấy, đâu phải nói hang hóc sâu đợi sương móc sáng sớm. Bởi vì nêu bày võng cực ấy, cũng vì mong muốn về sau các bậc quân tử sùng kính Phật giáo, hoặc rõ ràng mà xem xét vậy.

CHƯƠNG THỨ NHẤT: NÓI VỀ TẠI GIA

Chỗ nêu bày đại yếu của Phật giáo, lấy xuất xứ làm khác. Người xuất gia gồm có bốn khoa, hoằng thông lợi vật thì công ngang bằng với Đế vương, hóa gần trị đạo. Đến như cảm tục, tỏ rõ thời cuộc, cũng không đời nào chẳng có, chỉ bởi chỗ gặp có hành tàng nên lấy phế hưng làm ẩn hiển vậy. Trong đó có thể được cùng luận bàn, xin sơ lược nói đó.

Người tại gia kính phụng pháp thì là danh chúng thuận hóa, tình chưa biến đổi thế tục mà dấu vết chỉ đồng phương nội, nên có mến ái của thiên thuộc lễ phụng chúa. Lễ kính có gốc, bèn nhân đó mà thành giáo. Sở nhân gốc ấy thì công do từ xưa. Cho nên nhân thân thích mà dùng giáo ái, khiến dân biết có ân tự nhiên, nhân nghiêm dùng giáo kính, khiến dân biết có trọng của tự nhiên. Hai điều ấy có thật do từ minh ứng, nên chẳng tại nay thì cần nên tìm gốc ấy. Nên vì tội mà đối xử bằng hình phạt khiến khiếp sợ mà cẩn trọng về sau, đem thiên đường mà ủy thưởng, khiến vui thích mà hành động về sau. Đó đều tức là quả báo của ảnh hưởng ấy mà rõ nơi giáo, dùng nhân thuận làm thông mà chẳng đổi tự nhiên ấy vậy. Cớ sao? Phàm thân sâu dày còn sống, vì có ngăn cấm làm trệ lụy, căn sâu hẳn bởi ngã đảo chưa quên, mới dẫn đem tình dục làm vườn uyển, lấy thanh sắc làm du quán, đam mê thế lạc chẳng thể tự cố gắng mà chuyên ra. Cho nên chỗ kiểm chứng của giáo lấy đây làm bờ bến, mà chẳng rõ bên ngoài ấy vậy. Bên ngoài ấy chưa rõ thì đại đồng như thuận hóa, nên chẳng thể nhận thọ đức ấy mà bỏ sót lễ ấy, đượm nhuần ân huệ đó, mà phế bỏ kính đó. Nên người vui thích phong hóa của Đức Thích-ca, liền trước tiên là thờ phụng thân thích mà tôn kính quân vương. Kẻ biến đổi thế tục, vật bỏ trâm cài, hẳn đợi mạng mà thuận động. Nếu Quân vương thân thích có nghi ngờ thì thối lui cầu chí ấy để đợi đồng tỏ ngộ, đây mới là chỗ của Phật giáo vì trọng tư sinh trợ giúp vương hóa nơi trị đạo ấy vậy. Ý chỉ của người làm luận lập ngôn, dáng mạo có chỗ đồng, nên địa vị phân có trong ngoài, để rõ chí ở ba, lượt thuật ý kinh, nêu bày nỗi lòng nương vậy.

CHƯƠNG THỨ HAI: NÓI VỀ XUẤT GIA.

Xuất gia thì là khách phương ngoại, dấu vết dứt tuyệt nơi mọi vật, đó là làm giáo vậy. Siêu vượt các duyên hệ lụy của thân, thân chẳng còn thì cũng dứt hoạn. Biết đời đời đều do bẩm hóa, không thuận theo hóa để cầu tông. Cầu tông chẳng do nơi thuận hóa, thuận hóa tức chẳng thông với tự bẩm. Hoạn dứt chẳng phải do còn thân. Còn thân thì chẳng quý ích của hậu sinh, lý này trái với hình, đạo đày ngược với tục. Người như thế tự phát thệ nguyện lúc mới không tóc, lập chí đổi khác tục. Cho nên, phàm là xuất gia đều lánh đời để cầu chí ấy, biến đổi khác tục để đạt đạo ấy. Biến đổi khác tục thì phục chương chẳng được đồng lễ như sách đời, lánh đời thì nên phải cao thượng dấu vết ấy. Phàm đạt được vậy, nên hay cứu vớt kẻ đắm đuối trong dòng chìm, nhổ bỏ cặn sâu trong nhiều đời kiếp. Xa thông đến bờ Tam thừa, mở rộng đường lối trời người. Như khiến một bậc thấu đạt toàn đức thì đạo hợp với lục thân, đượm nhuần khắp thiên hạ. Tuy chẳng ở nơi ngôi vị Vương hầu cũng đã khế hợp hoàng cực ở điểm cứu giúp muôn dân. Cho nên, trong trái với trọng của thuộc trời mà chẳng ngược hiếu ấy. Ngoài khuyết cung phụng chúa mà chẳng mất kính ấy. Nên biết, vượt ngoài thuận hóa vì cầu tông, thì lý sâu mà nghĩa hậu. Chiếu thái dứt vì nói nhân thì công vụn vặt mà ân huệ cạn. Nếu vậy là tuy dẫn mặt đến minh sơn mà bước quanh, còn hoặc xấu hổ nghe phong hóa ấy, huống gì cùng kẻ phu dân của thuận hóa, hiền của thi lục đồng với người hiếu kính ấy ư?

CHƯƠNG THỨ BA: NÓI VỀ CẦU TÔNG MÀ CHẲNG THUẬN HÓA

Hỏi rằng: Lại như ý của ông thì trời đất lấy được một làm lớn, Vương hầu lấy thể thuận làm quý. Được một nên là gốc của muôn vật, thể thuận nên có công của vận thông, nhưng mà minh tông hẳn còn nơi thể cực, cầu cực hẳn do ở thuận hóa, cho nên các bậc tiên hiền lấy đó làm đàm luận tốt đẹp, chỗ các luận chẳng thể đổi chác. Phàm các luận thì nghĩa không chỗ chấp thủ, mà nói chẳng thuận hóa là thế nào ư?

Xin đáp: Phàm ở có mới đồng bẩm sinh nơi đại hóa. Tuy các phẩm loại muôn vàn khác biệt, tinh thô chẳng đồng, nhưng gồm tất cả mà nói là chỉ có linh và không linh vậy. Có linh thì có tình ở hóa, không linh thì không tình ở hóa. Không tình ở hóa, hóa hoàn tất mà sinh, hết sinh chẳng do tình, nên hình khô mà hóa diệt, có tình ở nơi hóa, cảm việt mà động, động hẳn vì tình nên sinh ấy chẳng dứt tuyệt. Sinh ấy chẳng dứt tuyệt, thì hóa ấy càng rộng lớn mà hình càng tích chứa. Tình càng trệ mà lụy càng sâu, đó tức là hoạn vậy. Sao có thể nói hết ư? Cho nên trong kinh nói: "Niết-bàn chẳng biến đổi, lấy hóa hết làm vườn nhà, ba cõi lưu động, lấy tội khổ làm bãi trường". Hóa hết thì nhân duyên vĩnh viễn tuyệt dứt, lưu động thì nhận chịu khổ không cùng. Cớ sao thấu rõ như vậy? Phàm sinh lấy hình làm gông cùm, mà sinh do hóa có, hóa vì tình cảm, thì thần trệ gốc ấy mà trí mờ chiếu ấy. Cõi ấy có ngăn thì chỗ còn chỉ đã xong, chỗ giẫm trải chỉ động. Từ đó dây linh suất thế ngự, đường sống ngày một mở, mới theo tham ái ở dòng dài, đâu chỉ một nhận chịu mà thôi ư? Cho nên trái ngược gốc mà cầu tông, chẳng vì sinh lụy thần ấy. Vượt thoát lại trần cản ngăn, chẳng vì tình lụy sinh ấy, chẳng vì tình lụy sinh ấy thì sinh có thể diệt, chẳng vì tình lụy thần ấy thì thần có thể mờ tối, thần mờ tối dứt tuyệt cảnh, nên gọi đó là Niết-bàn, tên gọi Niết-bàn đâu rỗng rang ấy ư? Xin suy tìm sự thật đó. Đất trời tuy lấy sinh sinh làm lớn, mà chưa thể khiến kẻ sinh chẳng hóa, Vương hầu tuy lấy còn còn (tồn tồn) làm công, chưa thể khiến kẻ còn không hoạn. Cho nên luận trước nói mắc hoạn lụy duyên có ở nơi thân, chẳng còn thân vì dứt hoạn, biết sinh sinh do ở bẩm hóa, chẳng thuận hóa vì cầu tông, nghĩa còn ở đây. Nghĩa còn ở đây thì sở dĩ Sa-môn chống kháng kính bái muôn thừa cao thượng việc ấy, chẳng tước vị Vương hầu mà đượm nhuần ân huệ ấy vậy.

CHƯƠNG THỨ TƯ: NÓI VỀ THỂ CỰC CHẲNG GỒM ỨNG

Hỏi rằng: Đọc xem qua các sách sử trước, Hoàng thượng trở lại ở ngôi vị cao tột, chưa từng có khác nguyên gốc ấy. Gốc chẳng thể có hai, cho nên trăm đời đồng một pháp điển đều một gốc ấy, chỗ gọi là chỉ trời là lớn, chỉ nghiêu ắt vậy. Như vậy thì chẳng phải trí có chỗ chẳng chiếu, trị không ngoài có thể chiếu, chẳng phải chiếu có chỗ chẳng hết, tự không lý có thể hết. Lấy đó mà suy ngoài thấy nghe, rỗng rang không chỗ cậy tựa. Lý không chỗ cậy tựa thì tông có thể sáng tỏ. Nay các Sa-môn chẳng tỏ rõ ý của văn biểu, mà lầm hoặc văn của giáo biểu. Đó là sai nhầm vậy, hẳn đã rất lắm. Nếu lại hiển nhiên có ứng nghiệm, đây mới là điều nghe hiếm có ở đời.

Xin đáp: Phàm, u tông rộng ra, thần đạo tinh vi, có thể dùng lý để tìm khó thể dùng sự mà cật hỏi, đã giao thiệp đến giáo thì do nhân thời mà ứng nghiệm tuy thật ứng thế, hơn kém có muôn sai. Đến như khúc thành ở dụng cảm, tức dân tâm mà thông phần ấy, phần đến thì dừng, chỗ trí ấy không biết, mà chẳng khai mở ở ngoài ấy vậy. Nếu vậy thì chỗ thể cực chẳng gồm, gồm đó chẳng thể đều ngự vậy. Cho nên lời của xưa trước nói đại đạo năm thứ biến đổi mà hình danh có thể cử, năm thứ biến đổi mà thưởng phạt có thể nói. Đây chỉ là thềm bậc sai khác của phương nội, mà còn chẳng thể chóng thiết này, huống là ở ngoài ấy ư? Xin lại suy nghĩ mà mở rộng đó. Vì xa loại ấy, ngoài lục hợp còn mà chẳng luận, chẳng phải chẳng thể luận, luận đó hoặc trái. Trong lục hợp luận mà chẳng biến rành. Chẳng phải chẳng thể biện rành mà biện rành đó hoặc nghi ngờ. Xuân thu kinh đời, chí của Tiên vương, biện rành mà chẳng nghị. Chẳng phải không thể bàn nghị, mà bàn nghị đó hoặc loạn. Ba thứ ấy đều tức là chỗ mà thân tai và mắt chẳng thể đến, lấy làm quan kiện (khóa cửa) mà chẳng mở ngoài thấy nghe ấy vậy. Nhân đó mà cầu ý của Thánh nhân, thì đạo của trong ngoài có thể hợp mà rõ vậy. Thường vì cho rằng đạo pháp cùng với danh giáo, Như Lai cùng với Nghiêu Khổng, phát huy đến tận cùng tuy khác mà ngầm ảnh hưởng. Xuất xứ thật khác nhau mà cuối kỳ thì đồng. Rõ mà kiện rành đó thì chỉ quy có thể thấy. Lý hoặc có trước hợp mà sau trái, có trước trái mà sau hợp. Trước hợp mà sau trái nghĩa là chư Phật Như Lai là người ấy vậy. Trước trái mà sau hợp nghĩa là các đời Quân vương chưa làm chủ của thể cực. Với như vậy làm sao rõ biết? Trong kinh nói: "Phật có pháp thần diệu tự nhiên, dùng quyền hóa vật, rộng theo chỗ vào, hoặc làm linh tiên, Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm khanh tướng Quốc sư Đạo sĩ". Lẽ thường như vậy ở chỗ biến hiện, các Vương quân tử chẳng biết là ai. Đó gọi là trước hợp mà sau trái vậy. Hoặc có mới đầu khai sáng nghiệp lớn mà hóa công chưa thành tựu, dấu vết có sâm sai nên chỗ thọ nhận chẳng đồng, hoặc mong cầu công ở thâm sâu, hoặc hiển ứng ngay đời này. Thánh vương bắt chước đó mà Thánh giáo, cũng chẳng thể lường tính. Tuy viện dẫn vô phương, nhưng hẳn đường về có hợp. Đó chỗ gọi là trước trái mà sau hợp vậy. Nếu khiến trước trái mà sau hợp, thì người phỏng bước thông đường, hẳn chẳng tự bờ mé ở mật đạo. Nếu khiến trước hợp mà sau trái, thì Thích-ca cùng Nghiêu Khổng kết quy rốt cùng chẳng khác. Đoán chắc có thể biết vậy, cho nên tự trái mà cầu hợp đó, thì biết lý hợp mà hẳn đồng. Tự hợp mà cầu trái đó thì tỏ ngộ thể cùng cực có lắm phương. Chỉ thấy chỗ hình chẳng gần, nên lầm hoặc các đường mà kinh sợ khác lạ ấy vậy. Nhân đây mà quán sát, thì đạo của trời đất, công hết ở vận hóa, đức của Đế vương, lý cùng ở thuận thông. Nếu đem đối phu riêng tuyệt ở giáo mà chẳng biến ở tông. Hẳn chẳng được trọn năm mà nói hết hơn kém ấy, cũng có thể rõ vậy.

CHƯƠNG THỨ NĂM: NÓI VỀ THẦN BẤT DIỆT

Hỏi rằng: Yếu chỉ của luận lấy hóa hết làm chí lực, nên tạo cực hẳn hóa với hóa mà cầu tông. Cầu tông chẳng do ở thuận hóa, là vì nêu dẫn các đời quân vương, khiến đồng với Phật giáo, khiến chủ của thể cực dùng quyền ở hợp. Đó là chỗ gá thác của nhã luận, tự hẳn ở nơi đại không ấy vậy. Cầu đó thật đáng lý thì không như vậy. Cớ sao? Phàm, bẩm nhận khí cực ở một đời, đời hết thì trên dịch mà đồng không. Thần tuy diệt vật, nên là hóa của âm dương vậy. Đã hóa mà làm sống lại hóa mà làm chết. Đã nhóm tụ mà làm đầu lại tan mà làm cuối (chung). Nhân đó mà suy, hẳn biết thần hình đều hóa, vốn không khác hợp. Tinh thô một hơi khí, thỉ chung đồng một vườn nhà. Vườn nhà toàn thì khí tụ mà có linh, vườn nhà hư hủy thì khí tan mà chiếu diệt. Tan thì trái chỗ nhận chịu ở gốc lớn, diệt thì lại quy về ở không vật. Trái lại, đầu cuối (thủy chung) cùng đều là số của tự nhiên vậy. Ai làm nên vậy ư? Nếu toàn gốc thì khác khí, số hợp thì đồng hóa. Như vậy xử hình của làm thần như lửa ở tại cây gỗ. Sống ấy hẳn đồng hủy ấy hẳn diệt. Hình lìa thì thần tan mà không nương tựa. Cây gỗ mục nát thì lửa bật lắng mà chẳng bám. Lý ấy như vậy. Phần của đồng dị, mờ tối mà không tỏ rõ. Thuyết hữu vô (có và không) hẳn còn ở tụ tán. Tụ tán là tên chung khí biến, là sinh diệt của vạn vật. Nên Trang Tử nói: "Con người sống thì hơi khí nhóm tụ". Nhóm tụ là sống, tan mất thì là chết. Nếu sống là kia nhọc khổ, ta đâu hại hoạn gì. Lời hay khéo của người xưa là đạo, hẳn có vì được đó. Nếu khác vậy là tà. Chỉ lý tận cùng ở một đời. Đời hết mà chẳng hóa, nghĩa ấy có thể tìm vậy.

Xin đáp: "Thần là gì ư? Tinh cực mà là linh ấy vậy. Tinh cực là chẳng phải chỗ đồ của quái tượng, nên Thánh nhân dùng diệu vật mà làm lời nói. Tuy có thượng trí còn chẳng thể định thể trạng ấy, thấu cùng u trí ấy mà đàm nói. Vì thường thức sinh nghi ngờ, phần nhiều đồng với tự loạn, đó là xằng bậy vậy và cũng đã sâu lắm vậy. Dẫn lời phải ấy mới nói, phàm chẳng thể nói. Nay ở trong chẳng thể, lại cùng đó mà phảng phát. Thần ấy là viên ứng không chủ, diệt tận không danh, cảm vật mà động, mượn số mà chẳng phải số, nên số hết mà chẳng cùng. Có tình thì có thể làm vật cảm, có thức thì có thể làm số cầu. Số có tinh thô, nên tánh ấy mỗi một khác nhau. Trí có tối sáng, nên chiếu ấy chẳng đồng. Suy đó mà luận, thì biết hóa dùng tình cảm, thần dùng hóa truyền. Tình là mẹ của hóa, thần là căn của tình, tình có đạo của hội vật, thân có công ngầm dời. Chỉ người tỏ ngộ thấu triệt thì trái với gốc, còn kẻ lầm hoặc lý thì đuổi theo vật vậy. Luận đạo xưa trước cũng chưa có chỗ đồng, xin nêu dẫn để làm sáng tỏ đó. Trang Tử mở phát huyền âm đến Thái Tông nói là: "Khối lớn làm nhọc ta vì sống, dứt ta vì chết. Lại lấy sống làm ràng buộc người, lấy chết làm trái ngược chân". Đó, chỗ gọi là biết sống là hoạn lớn, lấy không sống (vô sinh) làm trái gốc ấy vậy. Văn Tử xưng lời của Hoàng đế rằng: "Hình có tan nát mà thần chẳng hóa, lấy chẳng hóa chuyên chở hóa, biến ấy chẳng cùng". Trang Tử cũng nói: "Đặt hình của phạm nhân mà còn mừng vui như hình người. Vạn hóa mà chưa mới đầu có cùng cực". Đó chỗ gọi là biết sống chẳng hết ở một hóa, mới đuổi theo vật mà chẳng trái ngược ấy vậy. Luận của hai ông ấy tuy chưa rốt cùng sự thật, nhưng cũng thường bàng tông mà có nghe vậy.

Người lập luận (Tuệ Viễn) đây chẳng tìm thuyết của phương sinh phương tử mà đều tụ tan ở một hóa, chẳng nghĩ thần đạo có linh của diệt vật, mà cho rằng tinh thô đồng hết, cũng chẳng buồn ư? Thí dụ lửa và cây gỗ vốn tự Thánh gồm, mất dòng hợp ấy, nên u hiển chẳng tìm. Lời Huyền bèn chìm đắm trong thường giáo, khiến người đàm nói nhân đó làm thành nghi ngờ, vừa khiến thời cuộc không bậc tỏ ngộ tông, thì không biết có sáng tỏ của tiên giác, tinh diệu ngầm truyền ẩn chìm ở đời hết nghe. Cớ sao? Phàm, tình số cùng cảm hóa ấy không đầu mối, nhân duyên kín tạo dựng, ngầm cùng truyền ghi. Nếu tự chẳng quán sát thấu đáo, ai biết được biến ấy? Xin các người làm luận kiểm nghiệm đó lấy sự thật. Truyền của lửa ở nơi củi, như truyền của thần ở nơi hình. Truyền của lửa khác với củi, như truyền của thần khác với hình. Củi trước khác với củi sau thì biết thuật diệu của chỉ cùng; hình trước chẳng phải hình sau thì rõ cảm sâu của tình số. Kẻ mê hoặc thấy hình khô gầy ở một đời, bèn cho là thần tình đều mất hết, như thấy lửa tắt ở một cây gỗ, bảo là cuối kỳ đều biết. Đó là cong theo đàm thuyết dưỡng sinh, chẳng phải xa tìm loại ấy vậy. Căn cứ theo Như Lai mà luận, giả sử thần tình đều hóa, mới đầu từ gốc trời, ngu trí tư sinh đồng bẩm ở chỗ nhận chịu. Như hỏi: chỗ nhận chịu ở hình ư? Hay nhận chịu ở thần ư? Nếu nhận chịu ở hình, thì phàm nơi nào có hình đều hóa mà làm thần. Nếu nhận chịu ở thần vì là lấy thần truyền thần thì Đan Chu cùng Đế Nghiêu ngang bằng Thánh, Trọng Hoa cùng với Cổ Sưu ngang bằng linh. Có thể như vậy ư? Có thể như vậy ư? Còn như không thể cố nhiên biết tạo dựng hiển trước của duyên ngầm ở tại xưa trước, phân định của tối sáng ở đầu hình. Tuy câu linh khéo vận còn chẳng thể biến đổi tánh tự nhiên, huống giáng đến đây đã trở lại ư? Lấy lý mà kiểm nghiệm đó thì lời Huyền có chứng cứ, lấy sự để so sánh thì không lầm hoặc ở đạo lớn.

Luận thuật đã hoàn thành, sau đó có khách lui ở. Lần trước dưới trăng sáng mà đi đêm, cùng nhóm tập tại pháp đường, nhân đó mà hỏi: "Kính tìm nhã luận, đại quy có thể thấy, sợ không chỗ nghe. Một ngày thử nghiên cứu hết chỗ chưa hết, cũng ít có nơi vậy?" Ý cho rằng, Đức của Sa-môn là biến tục khác chế, danh khí của đạo gia, thi vi đối với Quân vương thân thích, hẳn nên sơ lược hình kính. Nay chỗ nghi ngờ, có nghĩa là vừa mới tạo có nghiệp khó thành. Xa mong công hóa biểu, ngầm đượm công hiệu pháp không hiện, tương lai quả báo huyền mà chưa ứng, mới khiến Vương hầu hiến cúng, tín sĩ cúi mình, được không bị nhận chịu thần bực đức ấy ư? Sớm tính lâu dài luống đượm ân huệ ấy, đồng sự gièm pha của kẻ chay trường ư?"

Giây lâu sau, chủ nhân mới đáp: "Xin vì các hiền gần lấy loại ấy, có người ở đây kính tuyên thời mạng xa thông khác phương tục của cửu dịch".

Hỏi: "Vương giả đáng dùng lương thực để giúp đỡ, dùng kiệu phục để ban tặng chăng?" Đáp: "Đúng phải vậy". Chủ nhân bảo: "Loại ấy có thể tìm vậy. Phàm xưng là Sa-môn là thế nào ư? Nghĩa là bậc có khả năng khai mở u tối của mông tục, mở huyền lò của hóa biểu, mới dẫn dùng đạo gồm quên, cùng thiên hạ đồng đi. Khiến kẻ cầu mong cao kính vái Di phong ấy, hàng tẩy rửa đượm vị thừa nơi bến bờ. Nếu vậy, tuy nghiệp lớn chưa thành, nhưng quán sát dấu vết bước vượt xa, tự tỏ ngộ hẳn đã sâu rộng vậy. Nhưng vả lại, ca-sa chẳng phải y phục của triều tông, bình bát không phải khí vật của lang miếu. Sa-môn là người vượt ngoài bụi trần, không nên kính bái Vương giả. Nhưng mà công của vận thông, ích của tư tồn còn chưa báo đáp, đó là tâm thệ nguyện đầu tiên, huống gì đáp trả lao nhọc của ba nghiệp ư? Lại nữa, người ấy hình tuy có đợi mà tình không gần nương, xem cúng dường tứ sự như chim muỗi ngang qua trước ấy vậy. Ân huệ thấm đượm nước bọt, sao đủ để nói ư?" Khi ấy mọi người khách mới tỏ rõ đường mờ, lấy mỡ vế làm công, dứt tâm lấy lắng sạch hết làm đạo. Mới vui mừng trong rũ áo khăn ngâm vịnh mà trở lui.

Sắc chiếu của Ngụy Sở Hoàn Huyền hứa thuận Sa-môn không nên kính bái Vương giả (có một bài).

Ngụy Sở Hoàn Huyền nhận được thư và luận của Sa-môn Tuệ Viễn ở Lô sơn rồi. Ngày mồng ba tháng mười hai năm Thái Hưởng thứ hai mới ban sắc chiếu đình chỉ việc Sa-môn kính bái.

Sắc chiếu viết rằng: "Môn hạ đối với Phật pháp dối bày chỗ chưa trọn thấu đạt, suy tình dốc lòng hướng đến thì sao cùng kính bái ấy vậy? Nay sự việc đã ở chính mình, giả sử chỗ chẳng trọn thấu đạt, tạm nên theo đó, đại khái các người chớ khiến buộc kính bái vậy, và tiện đều khiến cùng nghe biết đó".

Khải văn tấu trình của Thị trung biện Từ Chi v.v… chấp buộc Sa-môn phải nên kính bái (có bốn bài và ba bài giải đáp của Hoàn Sở).

Khải văn thứ nhất: Thị trung thần Từ Chi, Cấp sự hoàng môn thị lang thần Viên Khác Chi v.v… nói: "Với chiếu thư như trên, thần đạo mờ tối, Thánh chiếu sâu xa, chỗ mở rộng của Bệ hạ là bên tiếp đãi đạo nhân kính phụng Phật vậy. Dân chúng khắp nước nhà không ai chẳng phải bề tôi của vua, mà đem hưởng hóa pháp phục, bèn chống kháng kính bái chúa của muôn thừa, là điều mà ngu tình chẳng an. Lễ nghi bái lạy đâu khuyết đạo ấy, tôn ty đại luận (lẽ thường) không nên đều bỏ. Nếu hứa thuận ngoài Danh giáo ấy khuyết mất lễ nghi bái kính ấy, xin một lần cắt dẫn xét xem khải văn có thể ghi biết. Kính cẩn khải tấu!"

Hoàn Huyền đáp lại lần thứ nhất: "Duyên gì như vậy?" Bèn phụng tuyên sắc chiếu".

Khải văn thứ hai: "Thị trung thần Từ Chi v.v… kính tấu khải văn sự việc trên, lại bị minh chiếu ban sắc tôn sùng kính bái rất lắm, thi vi khiêm nhường đạo sáng, ngu tình trông nhìn, trộm có sự chẳng an. Đạo trị nước tuy khác nhưng lý thấu đáo đồng quy, pháp giáo tôn kính thân thích chẳng theo Lão Tử, kẻ xưng tứ đại cho là tôn quý nhất vậy. Chỗ tiếp thừa của Sa-môn tuy khác dấu vết, mà chẳng vượt khỏi đời, há được chẳng đồng với dân trời ư? Bệ hạ thật muốn hoằng dương đó lên trên, nhưng lễ có thấp cao, điển pháp của hóa trị, ngu thần cho là nên cúi thuận tâm quần chúng, trọn vì lại thử, xin khải tấu như trước. Kính cẩn tấu bày".

Hoàn Huyền đáp lại lần thứ hai: "Đặt đó khiến ở chính mình, cũng là gồm mến quý cả chín dòng, mỗi loại theo đạo đó vậy!".

Khải văn thứ ba: Thị trung tế tửu thần Từ Chi nói: "Lại với sắc chiếu như trên, Bệ hạ là bậc chí đức viên linh khiến thổi muôn vạn ở chính mình, chín dòng (triết học) mỗi tự theo tốt đẹp đó, hiển bày hay mờ ẩn đều cùng tột rốt ráo ấy, linh đượm dòng sâu, không nghĩ chẳng nhớ, các phương do đó mà tư thông, người trời do đó đồng thỏa sướng. Thần nghe rằng, Phật giáo lấy thần tuệ làm gốc, lấy đạo đạt làm công. Từ đó đã trở lại, bởi là dụng của kiểm thô, thần lý dài xa, cầu đó ở tự hình, mà Bệ hạ kính thành chỉnh túc bái dậy, trì giới không khuyết, như hành đạo chẳng mất, đó là cung vương pháp ngang bằng kính cả nước nhà. Hiến chương đạo pháp đều mở sáng, trong ngoài đồng được vậy. Thần, trước kia vâng nhận trách nhiệm bên ngoài, nghe ngóng thô sơ mới không biết mùa xuân năm trước đã có minh luận. Gần đây ngay khi bị có sắc chiếu, bèn dẫn ngu tình ấy, chẳng sợ đáng hợp, trở lại đây mới thấy việc này, thường trải qua thần bút, tông trí vời xa, lý vạch nhỏ nhiệm, chẳng phải chỗ thần nô ngu độn có thể khơi tán, lễ của Sa-môn đã thực hành từ đời trước. Nay Đại Minh đã lên cao, đạo hóa không ngoài, lẽ thường cả nước nhà, không thể có khiếm khuyết. Xin như khải văn tấu trình trước, gồm nhiếp bên ngoài thi hành. Kính cẩn khải tấu". Hoàn Huyền đáp lại lần thứ ba: "Tự có trong ngoài đều hoằng dương, sao đó lại dùng lý của đời trước? Khanh cứ khư khư tiếc vậy, bèn chẳng phải tán thán đạo đó vậy".

Khải văn thứ tư: Thị trung tế tửu thần Từ Chi nói: "Lại kính phụng sắc chiếu, từ khi có trong ngoài đều hoằng dương, Thánh chỉ thông sâu, đạo trùm trăm vua, cúi đọc ngưỡng tán chỗ vui vẻ của ngu cạn, tôn kính chúa cầu pháp, biết của thần hạ, chăm chăm thường chấp chỗ giữ, minh chiếu vượt xa, đại lược quân thường. Thần mờ tối chẳng thấu đạt, tìm dùng thẹn sợ, liền vâng phụng sắc chiếu phân giao bên ngoài thâu nhiếp tuân vâng. Kính cẩn khải tấu". (Ngày 24 tháng 12 năm Vĩnh Thủy thứ nhất kính dâng).

Vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 454-465) thời Tiền Tống ép buộc Sa-môn nên kính bái (có một bài).

Tháng 09 năm Đại Minh thứ sáu (462) thời Tiền Tống, có quan Hữu ty tấu cùng vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn) rằng: "Thầm nghe: cuộn sâu ngưng ở chẳng phải mong cầu rộng cao, khoang quỳ ngồi cúi, đâu chỉ cung kính, dẫn để soi chiếu trương bày bố phương, buộc chế tám hướng. Nêu tuy chi phái Nho pháp, tên mực thửa phân, đến như sùng kính thân thích, nghiêm vâng Hoàng thượng, quyết tốt tươi theo sáng rỡ. Chỉ Phù Đồ (Phật-đà) là giáo cấm ngăn từ Lang Phụ, trái ngược kinh nêu truyền dạy răn mọi sự xa vời, can ngăn sinh oánh chức, thường tục xưng gọi là khó, tông chỉ xa vời, lời huyền lắng cách, buộc văn che đạo, tại chưa mở rộng. Bèn mới lấn vượt, ngông ngạo tôn thích, mất nhìn dấu vết theo phương, mê mờ nghĩa sâu nơi phong hóa. Phàm, Phật pháp lấy khiêm nhường kiệm ước, tự bó buộc mình, trung kiên, thành kính làm đạo. Tỳ-kheo Bất Khinh gặp người liền kính bái; Tôn giả Mục-Kiền-liên thấy người lớn liền đảnh lễ. Sao có quỵ gối bốn chúng mà bỏ lễ song thân, cúi đầu trước già cả mà thẳng thây trước vạn thừa ấy ư? Nên trong khoảng niên hiệu Hàm Khương (335-343) thời Đông Tấn ở đầu bàn nghị, đến niên hiệu Nguyên Hưng (402-405) thời Đông Tấn thuật lại, mà sự việc khuất sai, đồng đảng đạo bạn phân tán các phương. Nay, nguồn lớn xa tẩy, mọi người kính ngưỡng vâng noi, muôn Tiên dâng cúng vật báu, trăm Thần vút vọt chức cao, mà trong chốn kinh kỳ đều chẳng đất ruộng của tôi dân, giữa khoảng sân chầu lắm đông khách chống lễ. Sợ chẳng phải chỗ để lặng in một phong hóa khuôn phép, rõ bày cảnh tắc ấy vậy. Các thần chúng tôi v.v… xin dự tham bàn nghị, cho rằng Sa-môn lúc tiếp kiến đều phải nên dốc lòng kính lễ, biểu lộ chí thành, y như khuôn phép cũ, thì hay tốt của triều đình có thứ lớp, theo đó mới đều được toại vậy". Vua Hiếu Võ Đế bèn nghe theo đó.

Sa-môn Thích Ngạn Tông nói: "Theo truyền thuyết về vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn) (454-465) thời Tiền Tống nói: sau khi Hiếu Võ Đế lên ngôi (454) khoảng vài ba năm, mới buông tuồng ý muốn đó, chống kháng đủ để lại bại hoại hạnh đức, khiến thiên hạ mất hết hy vọng. Tuy có tài trí thông minh của Thế Tổ nhưng Hiếu Võ Đế thiếu đức hạnh lễ độ, nên rồi tự buồn bã suy tư. Sự tiết kiệm của Hiếu Võ Đế đuổi noi theo sự rộng thức của Thái Tổ, thì văn cảnh của tài hán, sao nói đủ ư? Từ năm Đại Minh thứ sáu (462) đến năm Cảnh Hòa thứ nhất (465) thời Tiền Tống, chỉ trong thời gian bốn năm, mà khiến chủ của nước nhà và chư tăng đều chẳng hưng hành, há chẳng phải lý ngược với lẽ trời mà khiến luân ngôn (lệnh truyền) nhọc bày ấy ư?"

Hạ Hách Liên Bột Bột khiến buộc Sa-môn nên kính bái (có một bài).

Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hy (419-420) đời vua Cung Đế

(Tư Mã Đức Văn 419-420) thời Đông Tấn, Hách Liên Bột Bột chiếm cứ tại Hạ Châu, cướp đất của Nhị Tần, thi hành hung nghịch năm thứ tội hình, bèn tự nói: "Bột Bột ta chính là Phật ở trong đời, đáng nhận sự kính lễ của chư tăng". Ông bèn cho họa vẽ tôn tượng Phật đắp ở trên lưng, khiến các Sa-môn lễ bái tượng Phật tức là lễ bái chính mình. Về sau bị sét đánh chết, sau khi chôn cất lại bị sét đánh lần nữa, văng thây ra ngoài, có đề chữ "vô đạo". Sau đó bị Bắc Đại vùi lấp, làm trò cười chê trong thiên hạ vậy.

Vua Võ Đế (Tiêu Trách 483-494) thời Nam Tề bàn luận việc Sa-môn chống kháng, không kính bái. (một bài)

Trong khoảng niên hiệu Vĩnh Minh (483-494) thời Nam Tề, vua Võ Đế (Tiêu Trách) ban sắc cho Sa-môn Pháp Hiến ở chùa Định lâm thượng, Samôn Huyền Sưởng ở chùa Trường Can đến Tam Ngô để sa thải chọn lọc tăng ni. Bấy giờ Sa-môn Pháp Hiến và Huyền Sưởng đều bước bộ tập hành luật kiểm chẳng đua tranh việc đời, cùng vua Võ Đế luận bàn, thường tự xưng tên mà không ngồi. Về sau, Sa-môn Chung ở Trung hưng đến điện Càn hòa ra mắt vua. Vua hỏi: "Ý Sa-môn Chung thì nên như thế nào?". Sa-môn Chung đáp: "Bần đạo hơi khổ khí". Vua giận ghét Sa-môn Chung, mới hỏi Thượng thư Vương Kiệm rằng: "Các Sa-môn ở đất Bắc lúc cùng vua bàn luận, xưng hô thế nào? Và vào trong chánh điện có ngồi chăng?" Vương Kiệm đáp: "Từ thời nhà Hán nhà Ngụy, Phật pháp chưa hưng thạnh lắm nên không thấy truyện ký. Đến từ Ngụy Quốc dần dần hưng thạnh, và chư tăng đều xưng là bần đạo, cũng có dự ngồi, mãi đến đầu thời nhà Tấn cũng vậy. Vào giữa thời có Sưu Băng, Hoàn Huyền v.v…, muốn khiến các Sa-môn đều phải kính bái, triều đình bàn nghị rối bời, sự việc ấy rồi cũng lắng dứt. Đến giữa thời tiền Tống, cũng từng khiến Sa-môn phải kính lễ, mà sau đó trọn chẳng thi hành. Từ đó mãi đến nay, phần nhiều các Sa-môn vào dự tham việc gì đều ngồi và xưng là bần đạo". Vua Võ Đế lại bảo: "Còn Sa-môn Pháp Hiến và Huyền Sưởng hạnh nghiệp như thế mà còn tự xưng tên, huống gì những người khác? Kính bái thì quá lắm, nhưng xưng tên cũng không hiềm". Từ đó các Sa-môn đều xưng tên đối với Đế vương, là bắt đầu từ Sa-môn Pháp Hiến và Huyền Sưởng vậy.

Vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) thời nhà Tùy ban sắc Sa-môn phải nên kính bái (có một bài và giải đáp của Sa-môn Minh Chiêm ở chùa Đại Hưng Thiện).

Trong niên hiệu Đại Nghiệp (605-617) thời nhà Tùy, vua Dương Đế (Dương Quảng) cải đổi chính sách xưa trước, khiến buộc Sa-môn phải kính bái vua và các quan trường v.v…, nhưng chưa phán quyết điều đó, chỉ khiến xen tạp. Đến năm thứ năm, tại Nam Giao bái yết vua, các quan văn võ đứng chầu đông đủ. Khi ấy các Tăng sĩ và Đạo sĩ vẫn y như trước đứng hiên ngang, nên vua có sắc lệnh bảo: "Điều lệ nghi thức ban hành đã lâu, cớ sao chẳng bái?" Nghe vậy, các sĩ nữ hoàng lão liền lễ bái, còn các Tăng Ni vẫn nghiễm nhiên.

Khi ấy, Sa-môn Minh Chiêm ở chùa Đại Hưng Thiện giải đáp cùng vua rằng: "Các Tăng Ni y cứ giới luật Phật chế, không nên lễ bái người thế tục". Vua Dương Đế bảo: "Cớ sao trong thời vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 454-465) thời Tiền Tống thì lễ bái?" Sa-môn Minh Chiêm đáp: "Vua Hiếu Võ Đế thời Tiền Tống hung cuồng bạo ngược, nếu không lễ bái hẳn sẽ nghiêm khắc giết hại, còn Bệ hạ đây là người có đạo, không lễ bái vẫn chẳng sợ nêu bày giết chết". Vua buộc hỏi đáp, các Tăng Ni đều lui tan.

Sáng sớm hôm sau, Sa-môn Minh Chiêm vào cung quyết dự tham dám đương đầu sự chết đối đáp sắc chiếu tạ tội quá. Quan Nội sử vì đả thông tội không kính bái ngày trước, vua Dương Đế tự nhiên chẳng nói gì, mới thiết trai hội tất cả các hàng Tăng Ni ở chốn kinh đô, mọi người riêng cúng thí các thứ tiền của. Về sau, vua Dương Đế đến Tây Giao, tự ngoảy nhìn lại và bảo cùng Tô Oai rằng: "Trẫm tự cho rằng chốn Kinh đô không có các hàng Tăng Ni. Nhưng hôm trước trong Nam giao cũng có người vậy". Việc kính bái nhân đó bèn chấm dứt.

Luận Phước Điền của Sa-môn Thích Ngạn Tông ở Phiên Kinh quán tại Lạc tân (có một bài và lời tựa).

Lời tựa: Xưa kia trong thời Đông Tấn, Thái úy Hoàn Huyền v.v… bàn nghị buộc Sa-môn kính bái Vương giả. Bấy giờ, Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn là bậc danh cao đức lớn, thương tưởng phương trí muốn sắp đổ gãy, lo ngại giới báu sẽ lắng chìm, mới biên thuật "Luận Sa-môn không nên kính bái Vương giả". Luận nêu bày biên ghi ngôn từ ẩn mật, dẫn nêu xa xăm mờ mịt, hàng hậu học xem khó thấy được ý văn. Vì vậy, nay nhân những ngày rảnh rỗi, tạm biên thuật lại, và đổi thay tên là luận "Phước Điền" vậy.

Luận văn: Có người khách quý đến từ phương xa, vin dẫn dòng họ Hoàn, thuật lại bàn nghị cũ. Chủ nhân (Ngạn Tông) tôi nghiêm nhiếp chánh niệm giây lâu, mới mạnh tiếng bảo: "Khách tợ như chưa nghe cốt yếu của Phước Điền, nay tôi sẽ cùng vì khách bàn luận điều đó". Phàm, Phước Điền là thế nào ư? Đó có nghĩa là Tam bảo. Công thành diệu trí, đạo chứng viên giác, đó là Phật. Lý huyền diệu sâu lắng, chánh giáo tinh thành, đó là Pháp. Giới cấm nghiêm trì, oai nghi vượt tục, đó là Tăng. Đều là dẫn đầu trong tứ sinh, là thuyền bè giữa lục thú, vượt cao trời người, giẫm bước kim thạch. Thí như trân báu, kém cùng phảng bàn. Phật làm pháp chủ; chốt đích tôn quý; Pháp làm thầy ở gốc chính; Tăng làm đệ tử kính sùng Phật pháp ấy. Có thể gọi là tôn ty đồng vị, gốc ngọn đồng môn. Nói sự có ba, luận thể chỉ có một. Đức Phật ở đời ngót năm mươi năm, giảng bày tám vạn pháp môn, điều nói bày chỗ hướng về chỉ đây là cùng cực. Đến lúc lắng tiếng ẩn hình, khắc tượng viết lá, lưu truyền khuôn phép một phong hóa. Các bậc Thánh hiền lần lượt xuất hiện, bẩm thọ truyền thừa, hóa hợp thành đoàn gìn giữ gởi gấm ấy. Người vàng chiếu sáng nơi điện Hán, tượng pháp lưu thông ở Lạc Bồ. Đều chủ tông Viên Giác, cùng tập học cửu chương, tính toán phương ngoại để phát tâm, xả bỏ thế gian mà lập đức, quang vinh chẳng vì động ý đó, thân thuộc chẳng hay lụy tình ấy. Ăn mặc thì may chằm bằng hoại sắc, râu tóc thì cạo bỏ, hủy phá dung nhan, chẳng đội quan mão mà làm nghi, đâu buộc đai giải mà làm tiết. Vua ở trên trời còn thường thiết lễ, chúa ở nhân gian hẳn phải chí kính. Có kinh có luật, pháp đó chưa khác; hoặc xưa hoặc nay, đạo ấy không ngưng trệ. Tuy chỗ quý trọng của Đế vương, xấp xỉ lớn của thần kỳ, tám phương đều khâm trọng đức, bốn biển thảy quy hướng nhân. Tăng Ni chầu bái, chẳng phải chỗ nghe vậy, mãi nghĩ nhớ ý chỉ khác vời, xin tỏ bày chỗ thấy cao nhã.

Vị khách ấy bảo: Chu Dịch nói: "Đức lớn của trời đất gọi là sinh, báu lớn của Thánh nhân gọi là vị". Lão Tử nói: "Trong hoàn vũ có bốn thứ lớn, mà vua là thứ nhất". Trộm nghĩ vì không đâu chẳng phải đất của vua, xây dựng làm nên nước nhà, không ai chẳng phải là tôi của vua. Thắt buộc đó làm chủ thì pháp trời che đất chở muôn triệu dân, xuân qua hạ lại vạn vật sinh trưởng, soi chiếu bằng ánh sáng của nhật nguyệt, đượm nhuần bằng hơi khí của mây mưa. Lục hợp đều cùng tông như biển, trăm dân chung ngưỡng như thần. Mọi rợ đổi thay mặt mũi, trâu ngựa xoay đầu, rắn còn đội nhờ ở thời nhà Tùy, cá còn cảm ân trong đời nhà Hán, đâu có khỏi biên hộ ấy, mượn pháp môn đó mà quên đức khoan nhân độ thoát, bỏ sót hoàng tạo cúng dường, cao lớn tự hứa, thấp cung tự phế bỏ, thí như cầm thú, đâu có gì riêng khác ư? Hẳn nếu hay chứng được thần thông đắc đạo; Thánh quả, đạo lý trùm khắp thiên hạ, lý nghĩa vượt hẳn ngoài lời, nhưng nay sự việc mở trừ còn thêm ba độc, dối đổi phục sức còn nhiễm sáu trần. Giới nhẫn chẳng tu, định tuệ không giữ, có trái với minh huấn, chẳng khác phàm tục. Há nên ỷ cậy khổ nhọc tuyên tán mà chống kháng kính lễ vạn thừa, mượn hình dung riêng khác, mà khuyết kính một người? Xưa kia Tỳ-kheo tiếp đỡ Chân cư sĩ, Bồ-tát cúi đầu trước chúng kiêu ngạo. Văn ấy lại rõ bày thú hướng đó, cớ sao lại vì quyền đạo khó theo mà Phật tánh có thể quý. Huống gì quân luận nói: "Chẳng phải thần giảng Bá Dương, mở bày khuôn phép muôn năm. Trọng Ni tuyên nói quy cũ của trăm vua. Đến như tham yết bái lễ hẳn tuân theo triều điển (phép vua)". Riêng có Sa-môn dám vượt lướt khinh mạn, đó có thể nhẫn, nhưng ai có thể dung thứ ư? Phong hóa tệ hại khó đổi, dòng ngấm xấu ác chuyển dần lâu. Nếu không gặp bậc minh hoàng thì ai có thể khắc chính? Chợt nổi dậy biến đổi khác thường, phần nhiều chuốc lấy sự gièm chê không tin, lời nói rốt ráo có bằng chứng, mong lại nên đọc xem rõ".

Chủ nhân tôi nói: "Điều tôi lập thuộc bên trong, điều ông cật nạn thuộc bên ngoài. Bên trong thì thông với lý pháp, ngoài thì hạn cục nơi sự nhân. Cũng ngóng cao vời khá có thể đồng năm. Đó có nghĩa là học mà chưa gồm, nghe mà chẳng hợp. Chỗ lầm hoặc của ông, tôi sẽ vì biện giải. Thử nêu cử cốt yếu đó gồm cả thảy có bảy điều: Một là không đức nào mà chẳng báo; hai là không thiện nào mà chẳng nhiếp; ba là phương tiện vô ngại; bốn là tịch diệt chẳng vinh; năm là nghi không thể vượt; sáu là phục không thể loạn; bảy là nhân chẳng thể quên.

Trong đó, bốn điều trước, đáp đối ý khó, còn ba điều sau nêu dẫn ra thành thể thức.

Tôi nghe trời chẳng nói mà quanh năm vận hành, vua chẳng nói mà muôn nước bình trị. Vua có sức gì mà dân không thể gọi tên, thành mà chẳng ở, làm mà chẳng cậy? Đó mới là điều thiện rốt ráo của Tiên vương, là chí đức của bậc đại nhân, đồng đượm nhuần muôn loại, thảy đều dự lợi cả, may khác cây cỏ, sai chẳng chim trùng, trội tròn đạp vuông cúi ngưỡng hoài nhớ ân huệ, ăn cơm uống nước no đủ đượm nhuần. Huống lại kính chuộng xuất gia, nghe theo nhân từ mà thuận đạo, đoạn nghiệp thô ở thời quá khứ, cầu quả diệu trong tương lai. Đã được ân trọng lại nghĩ đáp sâu dày, mới nhờ ích lợi của muôn thiện, đâu tại lễ kính ở một thân. Tìm dùng thiện đáp, xứng báo mới sâu, bày dùng thân kính được lợi rất cạn. Bởi vì, chư tăng mất nghi quỷ, người đời giảm tốt lành. Chư tăng không kính bái thế tục, Phật đã nói rõ. Nếu biết, khá nên tin, lý đáng huân lập. Còn cho là khó nương theo thì sự nên phế bỏ. Sao nên dung thứ tín sùng đó để mong cầu phước ấy, khiến đó lại trách lễ ấy, tức khiến theo lễ, bèn đồng như thế tục. Còn nói xin cầu phước chưa thấy đượm nhuần đó. Đây là còn mà tợ bỏ tăng và đồng loại như dân, chẳng tăng chẳng tục, không biết xưng gọi là gì? Đó là điều thứ nhất không đức chẳng báo vậy.

Pháp đã dần suy, người cũng hơi mạt, ít có bậc Thánh. Thật như chỗ nơi, tuy ở giữa phàm tục, mà giữ mặc áo giáp nhẫn nhục. Giả sử khiếm khuyết giới học, vẫn còn đàm nói pháp điển trí tuệ. Như quý tháp tợ tôn kính Phật, nương tựa đó thì việc lành phát sinh, hủy bỏ đó thì điều ác chứa nhóm. Tâm mạnh mẽ mới phát lúc ban đầu, cắt bỏ ân ái tuy khó nhưng hay xả bỏ được. Hoằng nguyện trọn hoài mong, thành Chánh giác chóng mà hay đạt đến. Vì vậy cho nên lúc cắt tóc, Thiên ma xa sợ, ngày mặc nhiễm y xa kính mừng. Kỷ nữ nhờ bày vô lậu mà bèn lậu, người say tạm cắt duyên có mà liền buộc. Rồng con nhờ cậy đó mà dứt kinh, voi chúa trông thấy đó mà hết sợ. Oai linh ấy tại nghi phục làm nhân, tuổi trẻ chưa thọ cụ túc giới đối đáp xiển dương yếu chỉ của Phật. Nhỏ bé không thể khinh thường, ánh sáng hiển bày bởi sức tăng. Ưuba-ly đã độ, các Thích tử nhiếp phục tâm. Ni-đà cũng quy hướng, vua Ba-tư-nặc khuất ý. Mới biết, hoặc già hoặc trẻ có thể làm thầy là pháp, không hèn không sang, chỗ còn là đạo. Nhưng giữa khoảng hiền với ngu, trong chừng nói với nín, sống chín tương tợ, lấy bỏ chẳng dễ. Mắt thịt phân biệt, sợ không gặp thật, tâm tin bình đẳng hoặc có gặp chân. Khi đủ bốn người, tức thành một chúng, tăng đã rộng thâu, Phật cũng không ở. Thức ăn trông nhìn khác nước sôi, mới khiến cúng thí tăng, áo mặc thấy đẹp dệt kim tuyến, mới khiến dâng hiến chúng. Oai đức của tăng há chẳng lớn thay, đủ để có thể xưng là ruộng tốt ưu tối, là tông chủ của Thánh giáo! Đó là điều thứ hai, không thiện nào mà chẳng nhiếp.

Nếu luận bàn về công của Cư sĩ Tịnh Danh, sớm đã lên vân địa, ý chỉ hiện tướng bệnh nằm, vốn vượt ngoài cảnh đời, từ lâu hiện hành thần túc đều ngợi khen biện tài. Hàng tân học đảnh lễ, đó thật là kính tụ pháp thí. Sự thật là quyền biến để thích nghi, thể thức chẳng phải chuẩn mực thường. Tùy thời tạm biến, lệ ấy có nhiều. Riêng có Không Tạng chẳng cung kính, Đức Như Lai không trách, Sa-di có chí nguyện, thì Hòa thượng cũng tôn phụng. Một lần trông thấy qua, thảy đều đáng kinh sợ, trở lại tìm trong sách Phật, không gì chẳng thông đường. Bồ-tát Thường Bất Khinh riêng lập cao vết, lo thương hàng tăng thượng mạn, nên bày kính bái nhóm học tâm mình, riêng dùng một đạo, dùng ngay sự chí thành. Đã chẳng phải là tam tuệ, há là thường thức? Nhân có duyên, hành tác pháp, đủ làm hiếm có, mượn hoằng giáo hóa, khó dính trước luật nghi. Đức Đại Thánh phát minh Nhị trí, chế ước Ngũ thiện, phế bỏ chức tước tuổi tác, chỉ lưu còn giới pháp Hạ lạp, thủy chung đồng dạy răn, thông ngu thảy kính ngưỡng, già trẻ có thứ lớp, trước sau không xen tạp. Chưa thể lấy hạnh nghiệp riêng biệt của một vị, mà khiến cả bảy chúng đều tuân hành. Lý không như vậy đã rõ ràng có thể thấy. Xưa kia vợ chết ca múa mà đánh chén, thân vùi bể cả mà phủ đất bụi, đó cũng là tiết tháo của hàng thất phu, đâu phải khí khái chế định của bậc minh chúa? Huống gì sách Phật cao sâu, lời huyền kín ẩn, mà hạn cục chỉ chấp một bên, rất trái với tứ biện tài! Đó là điều thứ ba, phương tiện vô ngại.

Vả lại, như Trụ Sử là đế vương của nhà Chu, Tư Quan là quốc chủ của nước Lỗ. Tông quy đạo đức, mới gọi là vô danh, dặn răn ở thi thơ, rốt cùng nói là chẳng làm. Tố thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương văn võ, khum mình cung kính, chẳng phải đó thì đâu. Phong hóa của Sào Hứa trông xưa bèn xa, tiết tháo của Di Tề nay còn tìm đó. Tợ như cao vin mười lực, xa vượt bốn dòng, nhàm chán sự khổ hữu vi đây, vui thích tịch diệt vô dư kia. Chẳng buộc lo toan ở cung đình, chưa lưu tình ở việc vua, tự nhiên giải thoát, hẳn khác với đồng bạn của Nho Lão vậy. Đó là điều thứ tư, tịch diệt chẳng vinh.

Đến như cúng tế quỷ thần, cầu khẩn sông núi, nước nhà dung thứ với khuôn phép mở mang, kinh sách luận bàn điều tốt lành. Bọn thần là chỗ vua kính trọng, chư tăng còn chẳng bái lễ, Tăng chúng là bậc các thần kính lễ, vua sao trái lại nhận buộc kính bái? Trên dưới khác nhau, bèn trái chánh pháp. Áo xiêm điên đảo sao đủ cùng Phương? Khiến thần đến ủng hộ, đều do tăng mời thỉnh đến, hợp liên quan sức chú, trọn không lý kính bái. Đó là điều thứ năm, nghi không thể vượt.

Vốn chỗ phấn khởi của Hoàng vương, hẳn là nơi Chân Nhân gá sinh. Thượng Đức tuy ẩn kính ở tịnh tâm, tượng ngoài chỉ nên nơi tục trạng. Do đó, đạo rõ bày truy phục (sắc đen) thì tinh cầu nghi mạch, nghiệp ẩn huyền môn, thì hình cung đáng dứt. Cầu đó hẳn thật đủ ở nghe trước, quốc chủ Tần-bà-ta-la, Phụ hoàng Tịnh Phạn Vương xưa kia đó đồng đều đã khắc Thánh, chuyên tu tin theo, mỗi việc đều nương tựa. Giả sử trông thấy Phàm tăng, lại tưởng kính sùng Phật. Chẳng phải lấy quỵ thân làm hiếu, đã chẳng phải là tội bất hiếu, chẳng lấy lễ bái Quân vương làm kính, đâu là lối bất kính. Với pháp tự khác, chỗ dốc tâm đã riêng, thể không hỗn tạp, chế theo như vậy. Đó là điều thứ sáu, phục không thể loạn.

Kính cẩn y cứ theo diệu điển Tu-đa-la, điều nói chân thật của Đức Thích-ca, mới nói: ở chủng tộc Sát đế lợi mà xưng tôn, gá Bát nhã mà làm hộ. Tứ tín chẳng hoại, thập thiện không khuyết, kính Phật thờ tăng, tích công chứa đức. Nhưng sự hiện giáng của nhật tinh nguyệt tượng, cảm của ánh sáng đỏ khí hơi trắng kia, bánh xe vàng đã chuyển, ngọc báu lại theo cao, ứng mạng trời, thuận lòng dân, ngự đồ nắm cảnh. Lúc đầu mở thuật ngũ thường, cuối cùng hoằng đạo bát chánh, cũng nên quán sát lại túc mạng nghĩ nhớ gốc nhân. Kính Phật giáo mà sùng tăng bảo, thêm hương giới mà tăng sức tuệ, tự có thể nền móng trời chuyển cao, khiến cung Phạm càng xa lớn, Thánh thọ thường bền chắc đồng lâu dài như kiếp đá. Nhưng mà sấm sét bày hết thế lực, hùng hổ tỏ vẻ oai long, mừng vui hẳn nhờ cậy gồm cả rực rỡ tiện bày oai thế kịp. Mở lời bày lệnh, gió thổi cỏ rạp, đã ép tăng lễ, ai dám xếp bày? Chỉ sợ có tổn ở công ngầm, không ích cho hạnh nghiệp lớn, dốc thành hết mạng chỉ như vậy mà thôi. Đó là điều thứ bảy, nhân chẳng thể quên.

Lược nêu bày ý chí của tôi, để dứt trừ lầm hoặc của ông. Nếu muốn nghe thấy rộng, xin tìm trong kinh pháp.

Người khách ấy bảo: "Điều ông nêu dẫn vừa rồi, bày lý thật lắm nhiều. Với kẻ tôi tớ phàm ngu mờ tối cũng có thể trông xem. Văn gồm cả sâu mầu và bày rõ, biện giải bao quát trong ngoài, chỗ gọi là phép cúng tế còn có các lầm hoặc khác. Chu Dịch nói: "Một âm một dương gọi dó là đạo. Âm dương chẳng thể lường gọi đó là thần". Trộm cho rằng, đường thần mờ ẩn, cảnh người cách tuyệt, muốn hành pháp yếu cúng tế hẳn gá theo lễ quan. Vốn đặt phụng thường, chuyên tư thái chúc, giả sử biết việc quỷ, rốt cùng vào hàng thần (tôi). Phật thật đã ẩn, Thánh chân lại diệt, không tin minh đạo, toàn giẫm u tần, phàm phu kiếp mạt, mênh mông lời hồi hướng. Cùng trông xin nhàn dật, cùng học vót cắt chức nhậm trông coi đàm hội, do đó nên theo pháp y. Chủ giữ phường tháp, do đó bỏ sạch tục làm. Vừa mới xúc chạm lưới vua tức rơi lạc vào thói dân. Đã đồng phép lễ, há hợp xứng báu, chầu kính Thiên tử hẳn là nghi thường. Khổ chấp cương lương, định trái thông thức. Dòng họ nhà Tống xưa trước chế phong hóa ấy chẳng xa, chỉ nên cùng tiếp nối. Lại muốn từ gì?".

Chủ nhân tôi nói: "Khách chỉ biết được một mà chưa hiểu đến hai. Xin hãy dứt sự phan duyên, thêm chút nghe nhận. Tôi nghe: quỷ nghĩa là quy, là chỗ vào của chết vậy. Thần nghĩa là linh, là chỗ tông chủ của hình vậy. Quỷ yếu kém so với người; vì chỉ cầu ác thú; thần ưu thắng hơn sắc; bởi gồm cả tình đạo. Tâm có linh trí, xưng gọi đó là thần; ẩn mà khó biết, gọi đó là chẳng thể lường. Cân dắt thể dụng ấy, hoặc động hoặc tịnh; bình phẩm tánh dục ấy có âm có dương. Yếu chỉ của Chu Dịch là ở đó vậy. Khác đường xếp loại ở hơi khí, lời Huyền khuyết ở sáu thức. Thiết giáo dần đoạn, khá biết vậy. Quỷ báo ngầm thông, ẩn đến mà kính đi, dùng nêu thần hiệu đặt dùng ở đây. Thường thử nói đó. Nhận thọ di thể của mẹ cha, bẩm chất các phần của đất trời, có thể còn ở nơi hơi khí, có thể dùng để lập hình. Đến như thần đạo của chính mình, hẳn là tâm nghiệp của ta, chưa từng cảm đó ở đất trời, được đó ở mẹ cha; thức ngậm thai tàng bày khắp hư không, ý mang huân tập tràn đầy thế giới. Đi mà lại sinh như lửa cháy liền ra, lại mà càng đi như sóng nước chuyển mãi. Căn đó chẳng thấy ở thủy, nghiên tầm đó chẳng thấy ở chung; dơ bẩn đó thì phàm, lắng trong đó là Thánh. Thần lý sâu mầu vi tế hẳn khó rõ vậy. Tối cao của thần gọi là Đại Giác, chỗ bàn nghị chẳng được danh tướng ấy ai có thể cùng tột? Chân thân vốn không đổi dời, chúng sinh mù mờ tự chẳng trông thấy, gá tưởng tìm nơi vết cũ, dốc lòng vui trong di pháp. Như muốn nhận đội truyền trì, mở mòn yếu diệu, nương nhờ tăng đồ đây, ứng Phật phó chúc đó. Mượn mây lành làm nội ảnh, nhờ oai vua làm ngoại lực, gió huyền xa khắp đến như vậy thay! Giáo thông ba đời, chúng riêng bốn bộ, có hai theo ở đạo, có hai thủ ở tục. Theo đạo thì phục tượng tôn nghi, thủ tục thì chuyển điền cúng sự. Tượng tôn nghĩa là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni. Điển cúng nghĩa là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di. Tượng ấy tôn thì chưa tham thần vị, điển ấy cúng thì dưới sự thần ban. Nguyên người cúng điển, đồng kẻ làm việc của chư tế. Tôi chẳng phải đang có, chứ như ông sao lại lầm dẫn? Chỉ do ông mở lời, khơi phát thú hướng sâu nơi tôi, lý đã rõ ràng vậy. Chớ lại lầm hoặc ở cuối thời Tiền Tống, phong tục thô bỉ; bờ biên chưa thấy vẻ đẹp xinh ấy, vội khiến đồng đó, rất là quái lạ".

Người khách ấy bảo: "Có chỉ thú thay luận này vậy! Được bảo cho đường thiện, xin theo lui về".

Luận rằng: Oai quyền của Hoàn Huyền và Sưu

Băng có thể gọi là xoay trời chuyển mặt nhật vậy. Mà sao vua chấp lý, cuối cùng trọn chẳng khuất. Vừa rồi khiến Phật giáo có yêu vọng, hai ông ấy không tỏ rõ, ai có thể nghịch bày như vậy ư? Trọng Ni nói: "Sau năm lạnh rét mới biết sự điêu tàn của tùng bách". Thật hiếm quý thay Pháp sư Tuệ Viễn! Cốt cách cứng chắc, hiếm có đồng bạn trông nhìn lại ở thời bấy giờ. Vừa rồi nếu không có nhã luận lý cử, đâu lấy gì để khuynh động tâm của Hoàn Sơ ư? Trông xem Di Văn ấy, đủ biết đến mạng thay của người ắt chết mà có thể làm, ta về đông vì vậy. Tháng năm cuối của vua Hiếu Võ Đế thời Tiền Tống, đức phụng đã suy, trăm họ thất vọng, nghe theo bề tôi dưới thổi động, chèn ép vết cao thượng tan lỡ, dơ bày mà chẳng thực hành, há chẳng phải nghịch lý mà vậy ư? Ngụy Hạ (Hách Bột Bột) thực hành chính sách hung ngược, dâm hình hơn cả Thương Trụ, Hoàng Thiên giáng phạt, đâu chẳng đáng ư? Vương Kiệm dâng lời nói thẳng với vua Tề, Sa-môn Minh Chiêm tỏ bày đối đáp cùng chúa Tùy, trọn toàn tiết tháo của kẻ phương ngoại, tin thực đạo do người hoằng dương ấy vậy. Luận Phước Điền của thượng nhân Ngạn Tông lý bày sâu rộng, dẫn trương giáo nghĩa tốt lành vậy.

Tôi lâu dài thời gian đọc xem văn từ của tiền triết lưu lai, đủ lấy làm chuẩn đích của bậc hậu hiền, trông nhìn xa xưa tìm thấy khí khái, nhân vì liên tục vậy.

Tán thán rằng: Ai được như ông, nổi trội đồng bạn, khắc trước nguyên huân! Xin thay vương lệnh quy tâm đến cùng cực, chẳng sợ oai quyền, đích thực cầm nắm ngay thẳng. Sa-môn Tuệ Viễn riêng tinh khiết, chẳng thâm dính nhuận, sách luận đã bày, Hoàn Sơ khuất lùi chí tiết. Vua Hiếu Võ Đế (thời tiền Tống) buông trồng ý muốn, liên Hách Bột Bột dàn bày hung bạo, chống kháng dâm hình, rõ ràng ở các nhã cáo. Vương Kiệm dâng điều đáng nói với vua Tề phải suy tư, Sa-môn Minh Chiêm đối đáp, vua Tùy chấp nhận đó. Cao sĩ ở Lạc tân (Sa-môn Thích Ngạn Tông) bày văn chiếm tốt lành, thấy trọng hiện nay bởi vì có vậy.

QUYỂN 3

THIÊN THỨ HAI: BÀN NGHỊ KHÔNG KÍNH BÁI

Bàn nghị không kính bái, là nói rõ về Sa-môn không nên kính bái thế tục. Thánh thượng tâm tình dốc thuần danh giáo, khiến kính bái Quân vương thân thích lo nghĩ tỏa sáng đường thông, mở mang triều nghị, đến nỗi có những bậc sĩ hiền nói thẳng cản ngăn, cả trăm người dâng thẻ, thần tôi trong xã tắc đua trình bày luận.

Về sắc chiếu: Sắc chiếu ban chế các Sa-môn phải kính bái Quân vương thân thích (có một bài).

Về biểu văn: Biểu văn của Sa-môn Oai Tú ở chùa Đại trang nghiêm v.v… tấu về việc Sa-môn không nên kính bái thế tục. (có một bài)

Về Khải văn: Khải văn của Sa-môn Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh v.v… tấu cùng Ung Châu Mục bái Vương Hiền bàn luận việc Sa-môn không nên kính bái thế tục (có một bài).

Lại có Khải văn của Vinh Quốc phu nhân Dương Thị xin luận bàn về Sa-môn không hợp kính bái người thế tục (có một bài).

Về trạng văn: Trạng văn can gián chung các quan, nói rõ về Sa-môn không hợp kính bái người thế tục (có một bài và khải văn).

Bàn nghị không kính bái: Trạng văn của Trung đài ty lễ Thái Thường Bá, Lũng Tây quận vương Bát Xoa, Đại phụ Khổng Chí Ước v.v… cùng bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Ty nhung Thiếu đường bá nghị quân Trịnh Nhâm Thái, Viên ngoại lang Tần Hoài Khác v.v… bàn nghị (một bài).

Trạng văn của Ty hình Thái thường Bá Thành Dương huyện, Khai quốc hầu Lưu Tường Đạo v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Ty Tông Tự, Hữu Nhất Ty thỉnh xin Đồng Ty Hình bàn nghị (có một bài). Sắc chiếu ban chế của Sa-môn phải kính bái

Quân vương thân thích (có một bài)

------------------------------

Ý chỉ sắc chiếu: Đối với nghĩa của Quân vương thân thích có ba điều dạy răn rất quý trọng. Đạo của kính ái, trong trăm hạnh ấy là đứng đầu. Nhưng Phật giáo và Lão giáo tuy Lý tuyệt vượt cảnh thường, việc tiếp nối cung kính hiếu hạnh phải hợp với Nho giáo, bèn ở nơi đất tôn cực mà chẳng hành lễ bái quỳ. Nhân theo từ xưa mãi đến ngày nay. Trong thời Tiền Tống tạm đổi thay phong hóa ấy, nhưng chỉ được thời gian ngắn, lại tuân theo thói cũ. Trẫm bẩm nhận kinh trời để nêu cao đạo hiếu, thấm đượm nghĩa đất mà tuyên lưu lễ hạnh, muốn vì Danh giáo tỏa khắp chân tục đây và khắc thành nền tảng ở mọi nơi. Trời dựng phong hóa liên hà giao cho Quốc vương làm nguyện do tạo tác, tin thực kết quy ở đây vậy. Nay muốn khiến các hàng sĩ nữ đạo giáo Tăng Ni quan chức đối với Quân vương Hoàng hậu, đối với Hoàng thái tử, đối với song thân của chính mình phải nên kính bái. Hoặc sợ trái với tình thường, nên giao cho Hữu ty bàn nghị rõ ràng xong tấu trình.

Ngày mười lăm tháng tư năm Long Sóc thứ tư (662) thời Tiền Đường, Quan lục Đại phu Hữu tướng Thái tử tân khách thượng trụ quốc Cao Dương quận khai quốc công thần Hứa Kính dâng tuyên cáo Biểu văn của Sa-môn Oai Tú ở chùa Đại Trang Nghiêm, v.v… tấu trình Sa-môn không phải hợp kính bái thế tục (có một bài).

Sa-môn Oai Tú v.v… nói: "Cúi kính vâng minh chiếu ban sắc khiến chư tăng bái quỳ đối với Quân vương thân thích, với nghĩa thì đáng nên vâng theo thực hành nhưng với lý thì chống kháng sắc chỉ. Chỉ vì minh giáo của Nho giáo và Phật giáo đến trình bày văn chánh giản, nêu phong hóa phô trương, đồng tu tấn đạo sô nhiêu. Chư tăng đội ân lớn nặng của nước nhà, nên mở lễ phương ngoại, an cư khắp chốn, được hoằng xiển tâm xuất tục. Do đó, từ xưa các bậc Đế vương đều tuân theo pháp độ ấy, kính nghi thức biến đổi khác tục, toàn giữ dấu vết chống kháng lễ bái ấy, bèn khiến kinh giáo đó rộng truyền đổi đời càng nhiều, tông tượng lan tỏa xa khắp mọi lúc thêm phát triển. Từ thời nhà Hán đến thời nhà Tùy, hành nhân gặp phải trở ngại nhưng phong thái của linh tụ vẫn tốt tươi, mỹ hóa của tiên uyển còn thông thái. Không như hiện nay hoàng vận bắt đầu mở mang khắp hải ngoại, năm xứ Thiên Trúc cùng ngũ nhạc đồng trấn, Thần Châu và Đại Hạ đều chung một văn hóa, mạng của Hoàng Hạ dần hưng long, đường của xe nhẹ tiếp vết, không ai chẳng khâm phục thánh tích, tạo dựng dấu còn, nên được Phạm Lữ cùng đến nương nhau chẳng dứt tuyệt. Nay nếu trái lại buộc bái lễ Quân vương thân thích, tức trái khác của kinh, bèn phát tiếng tăm kinh sợ thế tục, hoặc bày mong ngóng khinh hủy. Xưa kia, trong thời Đông Tấn, thành ấu xung Sưu Băng nắm cậy sắc chiếu, Hoàn Sơ dối bày, nên Vương Mật mở lời chống kháng. Và đến cuối đời vua chiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 454465) thời Tiền Tống hung hành chính sách bạo ngược, chế buộc chư tăng kính bái chúa tục, sau đó trở lại ngừng dứt. Bởi vì sự việc chẳng phải điển phép Kinh quốc, nghĩa lý vượt quá lễ nghi lẽ thường. Tuy nói là để lời trọn buộc hiển bày nghị, huống là Hạ Châu Hách Bột Bột ban sắc buộc kính bái mà chuốc lấy sự tức giận trên trời. Trong thời Bắc Ngụy, Thái Võ Đế (Thác Bạt Đào 424-452) hung hành giết hại, khiến khắp thiên hạ oán trách dịch lệ, các đường ấy từ lâu đã nêu bày đủ cả ở thấy nghe. Chư tăng lòng mang lo sợ đến cậy nhờ mất đặt để, sợ ty luân một lúc tỏa phát muôn nước thông hành, hẳn khiến khắp nơi mong ngóng phong hóa, mới mở mang tiếng tăm thất lễ. Lo ngại cho đời sau, hoặc tiếp truyền cân dắt lắm. Cúi mong Bệ hạ trùng hưng Tam bảo, thương nhiếp bốn loài quần sinh, thân thừa diệu chỉ phó chúc, dùng khuyên răn học đồ nương vậy! Chư tăng bên trong tuân trì chánh giáo hẳn dứt tuyệt nghi dung kính bái, bên ngoài vâng phụng minh chiếu khiến theo cung kính của Nho lễ. Cúi mong chỉ lỗi quá, lo sợ thật sâu xa. Nếu chẳng trình bày cầu thỉnh tức có trái với chỉ rõ của thần tử (bề tôi và con), hoặc bít lập phong hóa của Phật, bèn vùi chôn tội của chán nản quân vương. Kính cẩn nêu bày các kinh nói rõ chư tăng không nên kính bái thế tục, văn từ sơ lược xin dâng. Cúi mong Thiên từ nhũ lòng suy xét thì triều nghi hòa mục, trọn tuân theo đường của kẻ thần thời nhà Tấn, giao phó sơ lược thường đàm nói trọn theo pháp độ ở thời nhà Tề. Bụi mực oai nghiêm, chỉ rất lo sợ, kính cẩn tấu bày!

Ngày 21 tháng 04 năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường, kính dâng.

Bấy giờ chư tăng ở khắp kinh ấp có hơn hai trăm vị đồng đến cung Bồng Lai, trình bày biểu văn dâng xin. Các quan trên điện cùng nói: "Sắc lệnh nói rõ nên bàn nghị, phải nên kính bái hay không, điều ấy chưa quyết định, hãy chờ đợi nhóm tập sau". Chư tăng mới lui về, và bèn nhóm tập tại chùa Tây Minh cùng toan tính bàn nghị, cùng tỏ bày khải văn trạng văn tấu trình xin các quan liêu thẩm xét.

Khải văn của Sa-môn Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh v.v… tấu cùng Ung Châu Mục Bái Vương Hiền bàn luận Sa-môn không nên kính bái thế tục (có một bài).

Sa-môn Đạo Tuyên v.v… khải tấu: "Từ Kim Hà dời vết, Ngọc Quan xiển dương pháp hóa, trải qua vĩ thánh anh tài, chuyển dần mở lớn phụ giúp tốt lành, không ai chẳng cúi đầu kính bái, cúi đầu xin đạo quy hướng biết bến bờ, nên được chùa chiền dựng xây trông thấy nhau, đền thờ nhân từ nối mọc khắp nơi, trời người ngưỡng mộ đường phước điền, u hiển nghĩ nhớ nghi chánh đạo. Những kẻ sĩ thanh tịnh kính tin ùn nổi đông đúc như rừng, tân khách cao muôn năm, vị mở bốn bộ, dàn trải khuôn phép năm thừa. Chỉ thời gian biển pháp rộng tỏa, các loại tụ khó phân, quá phạm hiện rõ, xung mạo trần ngự lãm, ban sắc chiếu chỉ khác thường, khiến kính bái Quân vương thân thích, rủ lòng nghĩ nhớ ẩn trắc, hiển bày thông cùng triều nghị, chư tăng vâng đội mạng lệnh minh bạch, cảm sợ rơi lệ lạnh. Bởi vì hành quyết lúc tỏa sáng, bèn khiến trên thấu đượm lo buồn. Vả lại, từ khi giáo pháp lưu truyền về phương Đông, dần đượm đầy lỗ trũng, có ba lần bị dứt trừ, năm lượt buộc kính bái, đều chẳng phải trong các triều đại tốt lành anh minh, mà toàn là Quân vương bạo ngược hung tàn, nên khiến ban lệnh chẳng phải mưu tính của Kinh quốc, trái với đặt để thường tình, gièm pha hiền sử. Sự lý khó trái ngược trở lại theo lối quen xưa cũ. Cúi xin Đại vương cai quản khắp kinh đô, nhiếp ngự cơ hành, các hàng đạo tục lại sống, việc bận rộn thửa lắng yên. Khiến pháp môn bế tắt, tiếng vang giáo pháp chẳng truyền, y cứ chướng ngại lắng yên, nhổ bỏ thu tàu khăn khó, vớt đắm chìm nâng đỡ mặt nhật nguy ách, chư tăng kêu gọi trong mờ tối khó kịp cùng đàn hạc, trông mong ở cửu trùng, thầm trời khó lên, trọn gá đợi nơi trăm mối lo toan. Do đó vượt ngàn mạo hiểm tỏ bày như thật. Cúi mong nhũ ban ân lớn cùng được đượm nhuần. Vậy là tuân sùng di chúc, gió lành tỏa thoảng mọi nơi, chánh pháp trở lại thạnh hưng, cảnh phước tỏa sáng khắp bốn biển, chẳng nhậm cơ nghiệp cùng cực rất lắm. Đủ đầy dùng khải văn tấu trình, mảy trần quấy nhiễu sâu xa, chỉ biết thẹn sợ, kính cẩn khải tấu!

Ngày 25 tháng 04 năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường.

Khải văn của các Sa-môn Đạo Tuyên... ở chùa Tây Minh dâng tấu Vinh Quốc phu nhân Dương Thị xin luận bàn về Sa-môn không hợp kính bái thế tục (có một bài).

(Phu nhân là mẹ của Hoàng Hậu, là người kính sùng chánh pháp tu tạo phước môn, tạo tượng kinh, dựng xây tương tục, vào ra nơi cung cấm, tiếng tăm vang vọng không ai chẳng biết, nên chư tăng đến nhà đặt để giải bày).

Sa-môn Đạo Tuyên v.v… khải tấu: "Từ khi Tam bảo lưu truyền đến phương Đông, đến nay dần đã hơn sáu trăm năm. Hàng tục lập nhân của quy giới, năm chúng mở việc của phước điền, trăm vua tiếp thừa mỹ hóa của chí đạo, muôn năm thổi tỏa phong thái của duy Thánh. Nên được khắp nơi biết về, muôn sinh nghiêm khoa dễ phạm, bèn có cỏ lúa lẫn lộn dơ uế trong ruộng tốt tươi, tuổi trẻ nghĩ muốn răn trừng bạc đầu, đầy đủ nêu bày qua trước, rõ ở thấy nghe nên vàng đá bùn đất tiêu biểu phô bày nghi dung chân tượng, pháp y tóc cắt phỏng tướng toàn tăng, mặc mà tin kính hay hủy báng quả báo có hai phần, trái đó tu sửa đều chẳng phải chánh đạo. Lại nữa, tăng có giả thật, sống chín khó biết, hạnh đức cạn sâu, ngu trí đều lầm hoặc. Cho nên kính bày cúng thí khắp chung, như biển chẳng cùng, luật chế riêng khoa, như bờ có ngằn mé. Tông đồ đã sắp, Danh giáo phải nương. Thiết bày oai nghi xuất tục, lên Viên Đức thú chân. Hẳn khiến trời rồng cung kính, u hiển quy tâm, hoằng truyền và hộ trì hiện ở nỗi lòng, lưu tỏa công chẳng dứt tuyệt. Gần đây vì thời cuộc trải qua uế trược, con người giẫm thấm lầm vậy. Trộm phục sức mà lừa dối đồ chúng, tham nhờ cậy mà luống hư đồng bạn. Hạnh không mà động nơi trần tục, đạo có mà ngăn che hiến chương. Tấu trình lên triều đình soi xét, ban bố buộc kính bái Quân vương thân thích, mới xoay đổi trời nhìn, ban sắc đến chầu bàn nghị. Chư Tăng chúng tôi v.v… bên trong thẹn sợ nóng bức như thiêu đốt, cùng nhìn lại thất thủ, chẳng biết đến để đâu. Kính ngưỡng Phật giáo cùng phó giao cả bốn bộ, u hiển dám nghĩ mong, trộm muốn bàn nghị, Phu nhân đáng là nơi nương tựa cậy nhờ. Huống lại là thấu rõ chánh thiện đây, tôn sùng tạo dựng lấy làm tâm, nhũ bày khuôn phép nơi cung vi, hoàn thành sáng tỏ đạo tục. Nay Tam bảo bị khuất lấp thành sâu tại duyên, tạm dùng dò hỏi tỏ bày, cầu mong cùng cứu hộ. Như được đỡ giúp gìn giữ như cũ, thì phó chúc hẳn kết quy, hoằng dương hộ trì hẳn đây vậy. Nhẹ vì nghe chọn tìm sâu dứt lo sợ kính cẩn tấu bày.

Ngày 27 tháng 04 năm Long Sóc thứ hai (662) thời Tiền Đường".

Trạng văn của Sa-môn Đạo Tuyên v.v… ở chùa Tây Minh tuần tự trình bày việc hưng suy của Phật giáo để can gián chung các quan tể phụ v.v… (một bài)

Sách Liệt Tử nói: "Trong Chu Mục Vương (976-921 trước Tây lịch), có một vị hóa nhân ở Tây Vực đến, vượt núi băng sông làm rung động cả thành ấp. Nhà Tây Chu ở Tây Vực có hóa nhân, lại trái ngược núi sông, dời đổi thành ấp, ngàn muôn biến hóa không thể cùng tận. Vua Mục Vương tôn kính vị đó như thần, quý trọng vị đó như Thánh". Đó tức là lúc mới đầu Đức Phật xuất hiện nơi đời vậy.

Trong "kinh lục" của Chu Sĩ Hành và Sa-môn Thích Đạo An nói: "Ở thời Tần Thủy Hoàng (Doanh Chính 246-209 trước Tây lịch) thời nhà Tần, từ Tây Vức có mười tám vị Sa-môn đến cảm hóa Thủy Hoàng, Thủy Hoàng không theo mà lại bắt giam cấm. Ban đêm có sáu vị cầm gậy kim cang phá ngục mà ra, Thủy Hoàng cúi đầu tạ lỗi vậy".

Trong "Hán Thư" nói: "Trong khoảng niên hiệu Nguyên Thú (122-116 trước Tây lịch), tại quan ải Tây Vức có được người vàng cao lớn hơn tả trượng, bèn nghinh thỉnh về tôn trí trong cung Cam tuyền. Vua Võ Đế cho đó là Đại thần, nên đốt hương lễ bái. Về sau, bảo Trương Khiên đến Đại

Nguyệt Chi, sau đó trở về nói là có nước Thân Độc, tức là Thiên Trúc, ở đó gọi là Phù Đồ tức là Phật Đà vậy". Đó là thời gian mới đầu biết được danh tướng của Phật vậy.

Trong thời vua Thành Đế (Lưu Ngao 32-06 trước Tây lịch) thời Tây Hán, có Đô thủy sứ giả Lưu Hướng nói: "Vừa rồi kiểm duyệt trong Tạng thư, thường thấy có kinh Phật, đó tức là từ thời nhà Chu nhà Tần đã từng hưng hành, và Tần Thủy Hoàng (Doanh Chính) thiêu hủy mà chẳng hết vậy".

Trong khoảng niên hiệu Nguyên Thọ (02-01 trước Tây lịch) ở đời vua Viên (=Ai?) Đế (Lưu Hân 06-01 trước Tây lịch) thời Tây Hán, sai sứ Cảnh Hiến đến nước Đại Nguyệt Thị, nhân tụng đọc kinh

Phù Đồ (= Phật) xong trở về. Bấy giờ tại xứ Tây Hán đã có phần nào hành trì trai giới. Do vậy mà từng được nghe Phật pháp, giữa chừng ngầm ẩn, trở lại đây trùng hưng vậy.

Đến trong khoảng niên hiệu Vĩnh Bình (58-76) thời Hậu Hán, vua Minh Đế (Lưu Trang) mộng thấy có người vàng bay đi trước điện, mới sai phái Tần Cảnh v.v… đến Tây Vức tìm cầu Phật pháp, bèn có được Tam bảo hoằng truyền đến phương Đông. Tại Lạc Dương, đắp họa tôn trượng Đức Phật Thích-ca đứng, đó tức là Phật bảo. Phiên dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, tức là Pháp bảo. Tôn giả Ca-diếp Ma-đằng và Trúc-pháp-lan đến hoằng hóa, tức là Tăng bảo. Lập chùa ở cửa phía Tây Lạc Dương, độ người hoằng hóa, từ gần đến xa, triển chuyển trú trì đến hết thời Hậu Hán.

Qua thời dòng họ Ngụy, cả thảy có năm đời vua, suốt thời gian bốn mươi lăm năm (220-265) thuộc thời Tam quốc, hưng sùng tôn kính Tam bảo dần sâu, chẳng nghe có sự buộc kính bái hay hủy hoại. Rồi dòng họ Ngô ở Giang Biểu, có bốn đời vua và kéo dài năm mươi chín năm (222-280) thuộc thời Tam quốc. Mới đầu Tôn Quyền (Đại Đế 222-252) mở mang Phật pháp, cảm ứng điềm lành mà dựng lập chùa đề tên là chùa Kiến Sơ. Sau đó, Tôn Hạo (Quy Mệnh Hầu 264-280) thực hành chính sách hung ngược, sắp bày việc phế trừ, các quan thần can ngăn, mới dừng bỏ, bèn thỉnh mời chư Tăng, cầu xin thọ trì ngũ giới.

Tại đất Thục, có hai đời vua, với thời gian bốn mươi ba năm (221-164) thuộc thời Tam Quốc. Bấy giờ cả quân quốc đều mưu tính làm hưng thạnh Phật giáo, không nghe có tin muốn phá hủy.

Đến thời nhà Tấn dòng họ Tư Mã, cả hai triều đại Đông Tây, có mười hai đời vua và với thời gian một trăm năm mươi sáu năm (265-317-Tây Tấn; 317-420-Đông Tấn). Giữa triều đại, có bốn vua rất mực sùng tín, chỉ có ở đời vua Thành Đế (Tư Mã Diễn 326-343) thời Đông Tấn, năm Hoàn Khương thứ sáu (340), Thừa tướng Vương Đạo thái úy Sưu Lượng qua đời, sau đó Sưu Băng làm phụ chính, vì vua còn nhỏ dại, nên Sưu Băng vì vua ban xuất chiếu lệnh buộc chư tăng kính bái. Bấy giờ, Thượng thư Lệnh Hà Sung, Thượng thư Tạ Quảng v.v… kiến nghị Sa-môn không hợp phải kính bái, qua lại có ba lần bàn nghị, khi ấy mới lắng yên. Sau đó sáu mươi hai năm, tức đến trong khoảng niên hiệu Nguyên Hưng (402-4-5) thời Đông Tấn; thuộc đời vua An Đế (Tư Mã Đức Tông 397-419), Thái úy Hoàn Huyền dùng oai chấn động vua, ban sắc thư khiến kính bái. Khi ấy, Thượng thư Lệnh Hoàn Khiêm, Trung thư Vương Mật v.v… chống kháng can ngăn rằng: "Nay các Sa-môn tuy ý sâu nặng đặt để nơi kính, nhưng chẳng lấy hình khuất cúi làm lễ. Dấu vết in khắp nước nhà mà thú hưởng vượt ở phương ngoài. Do đó, các Quân vương ngoại quốc, không ai chẳng kính lễ (như việc vua A-dục v.v… kính lễ vị Tỳ-kheo), bởi vì đạo hiện còn thì quý, chẳng vì người mà làm khinh trọng (như thức lan mộc của ngụy văn, Hán Quang gặp Tử Lăng v.v…). Sau đó Đại pháp lưu truyền đến phương Đông, ngày một thực lâu xa. Tuy phong hóa đổi thay, chính sách biến cải, mà hoằng dương đó không có khác, há chẳng vì mỹ có riêng siêu tuyệt ư? Có sử dụng thường ngày ở đào tiềm, phong hóa của thanh ước chẳng hại với hưng long thanh bình ấy ư?" Hoàn Huyền lại gởi thư đến Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, dẫn nêu Lão Tử xế đặt quân hầu ở ba lớn. Pháp sư Tuệ Viễn dùng lễ nghi của phương ngoại để giải đáp, không lệ thuộc lễ kính ở Trung Hoa, mới trước thuật "Samôn bất kính Vương giả luận" gồm năm chương. Việc ấy do đó mà chấm dứt, và vua An Đế trở ngược thực hành chính sách như cũ, tôn sùng kính phụng mãi đến trọn đời vua Cung Đế (Tư Mã Đức Văn 419-420) thời Đông Tấn vậy.

Đến thời Tiền Tống dòng họ Lưu, có tám đời vua, với thời gian hơn năm mươi năm (420-479). Tuy năm Đại Minh thứ sáu (462) vua Hiếu Võ Đế (Lưu Tuấn 454-465) tạm có sắc chế buộc Sa-môn kính bái Quân vương, nhưng sau đó trở lại y như chính sách trước.

Tiếp trải qua các thời nhà Tề (479-502) nhà Lương (557-859) về nhà Trần cả ba triều đại có hơn một trăm năm (479-589), Phật giáo hưng thạnh thuần nhất, tin trọng càng sâu.

Tại Trung Nguyên, dòng họ Ngụy có hơn mười đời vua, với thời gian một trăm năm mươi lăm năm (386-556), Phật giáo rất hưng thạnh, rõ thấy ở "Ngụy Thâu Lương Sử". Tuy trong năm Thái Bình Châu Quân thứ bảy (446) thời Bắc Ngụy, vua Thái Võ Đế (Thác Bạt Đào 424-452) nghe lời sàm tấu mà phá diệt Phật pháp, sau đó năm năm cảm mắc bệnh dịch mà băng hà, rồi Phật pháp trở lại thạnh hưng đến trọn hết đời vua Cung Đế (Nguyên Quách 554-556) thời Tây Ngụy.

Từ khi nhà Tấn mất quyền bình trị thiên hạ, tại Trung Nguyên, Giang Biểu tự xưng Đế chúa, phân chia nước thành mười sáu phần (đó là năm Lương, bốn Yên, ba Tần, hai Triệu, Hạ, Thục vậy). Các Ngụy chính quyền ấy đều tin kính Phật pháp không khuyết thiếu, chỉ có ở Hạ Châu, Hách Liên Bột Bột hung bạo không nhàm chán, lấy việc giết hại làm vui, đeo mang tôn tượng Phật trên lưng, khiến chư tăng kính lễ đó, về sau bị trời đánh chết, và sau đó bị Bắc Đại thôn tính. Vợ con bị hình khắc, rõ đủ như ở Tiêu Tử Hiển Tề Thư.

Đến thời Bắc Tề, dòng họ Cao ở Kiến Nghiệp, có sáu đời vua với thời gian hai mươi tám năm (550-578), sùng tín Phật pháp càng hơn các triều đại trước, trong nước không có hai sự.

Đến thời Bắc Chu dòng họ Võ, có năm đời vua với thời gian hai mươi lăm năm (557-581), trong đó có vua Võ Đế (Võ Văn Ung 561-579) mới đầu tin trọng Phật pháp, về sau nghe sự bàn nghị của Trương Tân, bèn thọ học theo Đạo giáo (Lão giáo), sắp muốn phá diệt Phật pháp. Bấy giờ có Pháp sư An trước thuật "Nhị giáo luận" để chống kháng đó. Trong luận ấy nói: "Giáo điển của chín phái triết học, giáo ấy chỉ ở tại thân, gọi đó là ngoại giáo. Giáo điển của Tam thừa, giáo ấy lắng tĩnh lầm hoặc nơi tâm, gọi là nội giáo. Lão chẳng phải là giáo chủ cải đổi chỗ nhiếp của khiêm nhượng". Vua Võ Đế nghe vậy, cho là lưu giữ hay phế hủy đều trái lý, nên bèn dẹp trừ cả Phật giáo và Lão giáo, chưa đầy năm năm sau mà thân hoại mạng chung, chính sách chuyển đổi.

Đến thời nhà Tùy dòng họ Dương tiếp cận, có được hai đời vua với thời gian ba mươi bảy năm (581-618). Vua Văn Đế (Dương Khiêm 581-605) sùng tín trùng hưng Phật pháp. Trong Hải nội tạo dựng bảo tháp ở hơn trăm châu, và đều hiện phát điềm tốt lành, rõ đủ như trong đồ truyện. Qua đời vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) nối dõi, ghi lục cải cách chính sách của tiền triều, tuy có ban sắc kính bái, nhưng chư tăng trọn không khuất phục.

Từ khi Đại pháp lưu hóa đến phương Đông dần đã trải hơn sáu trăm năm, có ba lần bị hủy diệt, năm lượt buộc kính bái, đã trái với pháp điển của kinh quốc, lại chẳng phải chính sách tốt lành sáng tỏ. Hung ngược mổ bữa, đầy ở thời loạn, lễ nghi đè ép tung vang dứt tuyệt đời, nên khiến sự lý trái thường, sau đó y theo vết cũ. Bởi vì Tam bảo là tông chủ của quy giới, năm chúng ở ngôi vị ruộng phước, tuy kính tin hay hủy hoại xen nhau, lỗi quá đổi thay. Đó là tự con người có hưng có đầy, còn y cứ theo đạo thì nào từng có hưng phế? Do đó mà có hơn ngàn vị đại Thánh xuất hiện trong thời kỳ hiền kiếp sống thọ sán vạn năm, trú trong chánh pháp của dòng họ Thích. Huống gì lại có mười sáu vị tôn giả hoằng hóa ở ba châu, chín ức vị A-la-hán hộ trì bốn bộ. Y cứ đó mà thuật thì lịch số trọn chưa hết vậy, sao được tình đoạn, đồng hợp với Nho điển? Vả lại, Lỗ Hào của Dịch chẳng phụng sự Vương hầu; Nhu hành của Lễ chẳng bề tôi Thiên tử. Ở tục thì đồng bốn vị, còn có người chẳng khuất, huống gì bỏ tục theo đạo mà tiện trách đồng lễ của tôi thiếp ư? Lại nữa, Hạo Thiên thượng đế, núi hang Linh kỳ, chúa của quân nhân không ai chẳng cúng tế mà kính bái. Nay chư tăng đã thọ giới Phật, hình đủ nghi Phật. Trời rồng tám bộ kính phụng đạo ấy mà phục nghi dung, không ai chẳng bái phục trước chư tăng. Nên được minh thầm hộ trợ, hiển bày ứng hiện điềm lành xen lẫn, nghe ở huyện trước, há lại đồng phù hợp với Lão giáo ước định Vương hầu ở Tam Đại ư? Nên vườn nhà Samôn sống vậy, tài sắc chẳng đoái hoài, vinh lộc không ràng buộc, quán thời cuộc thế tục như mây nổi, thấu đạt hình mạng tợ gợn nắng. Cho nên gọi là người xuất gia vậy. Và người xuất gia không lễ bái người tại gia, người xuất tục không đượm nghi xử tục, đạo ấy hiển nhiên, trăm đời không đổi lệch phép ấy vậy. Dòng ấy rất rộng, đây chỉ lược thuật đó.

Nay lại nêu bày các kinh luận của Phật để sáng tỏ về Sa-môn không nên kính bái người thế tục.

Trong kinh "Phạm Võng" quyển hạ nói: "Pháp xuất gia không lễ bái quốc vương, cha mẹ, lục thân, cũng chẳng kính thờ quỷ thần".

Kinh "Niết-bàn" quyển sáu nói: "người xuất gia không kính lễ người tại gia".

Luật "Tứ Phần" nói: "Phật dạy các Tỳ-kheo lớn nhỏ theo thứ lớp lễ bái, không nên lễ bái hết thảy bạch y". Kinh "Phật Bản Hạnh" quyển năm mươi ba nói: "Vua Thâu-đầu-đàn cùng các quyến thuộc trăm quan theo thứ tự kính lễ Đức Phật xong. Phật dạy: "Nay vua khá nên kính lễ các Tỳ-kheo Ưu-ba-ly v.v…". Nghe Phật dạy vậy, vua liền đứng dậy đảnh lễ năm trăm vị Tỳ-kheo và những vị vừa mới xuất gia, cứ theo thứ tự mà kính lễ".

Kinh "Tát-già-ni-cân" nói: "Nếu phỉ báng pháp của Thanh văn, Bích chi Phật, và pháp Đại thừa, người hủy hoại đều bị lưu nạn, mắc phạm tội căn bản (Nay chư tăng y cứ theo các kinh Đại thừa và Tiểu thừa, không kính bái Quốc vương thân thích, là kính phụng lời Phật dạy. Nhưng khiến trái lời Phật dạy, kính bái người thế tục, tức là không tin lời Phật, mà mắc phạm tội căn bản vậy). Lại nữa, phỉ báng cho là không có nghiệp báo thiện ác, không sợ đời sau, tự mình làm, khuyên bảo người khác làm bền chắc cố giữ chẳng xả bỏ, đó gọi là trọng tội căn bản. Đại vương nếu phạm tội ấy mà chẳng tự sám hối, tức thiêu hủy căn lành, nhận chịu khổ vô gián. Vì vua thực hành nghiệp trọng bất thiện ấy nên thiêu đốt hạnh La-hán, các Tiên, Thánh nhân bèn ra khỏi nước mà đi, các trời buồn khóc, các quỷ thần hiền thiện không hộ vệ nước đó. Các hàng Đại quan phụ tướng đua nhau tàn hại lẫn nhau, bốn phương giặc nổi, chết mất nhiều vô số. Khi ấy mọi người không biết do bởi lỗi quá đó mà oán thán các trời, trách móc quỷ thần. Cho nên vua hành pháp hạnh vì cứu khổ đó, chẳng hành lỗi quá ấy. Rộng như trong các kinh đã nói. Lại có các luận văn đã nói nhiều, ở đây không biên ghi. Sa-môn Đạo Tuyên v.v… tấu trình với các quan tể tướng triều đình: "Cúi vâng trông thấy chiếu thư, khiến chư tăng kính lễ quân vương thân thích. Sự lý sâu xa, chẳng phải tình cạn có thể lường biết. Phàm, lấy vết của người xuất gia, liệt Thánh đều làm khuôn phép; khoa của chân tục, trăm vua đồng làm mẫu mực. Can mộc ở thời nhà Ngụy nêu cao chống kháng mà yết kiến văn hầu, tử lăng. Ở thời nhà Hán, vái dài mà tìm Quang Võ. Kia, chỉ xưng là tiểu đạo còn ôm hoài môn giẫm cao. Há các Sa-môn đây chẳng nhân vẻ đẹp của nhàn phóng, chỉ vì Tam bảo hướng vị, phòng bày nghi thức quy kính; năm chúng tỏ bày thành thật, chuyển tấu đạo của ruộng phước. Nay tước bỏ đồng với lễ nghi Nho giáo thì Phật chẳng phải là người xuất tục; trở xuống kính bái Quân vương thân thích, thì tăng chẳng phải sắc thái khả kính.

Vậy thì Tam bảo đồng phế hủy, quy giới dứt tuyệt ở nhân luân; coi Nho giáo, Đạo giáo là thầy, kính Khổng tôn quý hơn sách Phật. Xưa kia ở thời nhà

Tấn, nhà Tống, đã đủ thấy khuôn phép trước, Bát Tòa rõ ràng bàn nghị, đủ làm chuẩn mực. Chư tăng đội ân nước nhà, nhờ khai mở xuất gia, phụng pháp hành đạo, kính ngưỡng tiếp thừa phép tắc thánh nhân, bỗng nhiên khiến buộc kính bái. Có lụy kinh sâu, cúi ngưỡng gá vương, không biết đến để đâu! Kính cẩn nêu bày nội kinh cùng các cố sự, đủ rõ như trước, dùng cùng can gián triều nghị, xin nhủ lòng soi xét rõ, kính tấu!"

Đến ngày 15 tháng 05 năm Long Sóc thứ hai (662) thời Tiền Đường, nhóm tập tất cả các hàng văn võ quan liêu cửu phẩm trở lên, và các quan ở châu quận v.v… có hơn ngàn vị, đều ngồi trong đài Đô đường sắp bàn nghị việc ấy. Khi ấy, Sa-môn Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh tại kinh ấp, Sa-môn Oai Tú ở chùa Đại Trang Nghiêm, Sa-môn Linh

Hội ở chùa Đại Từ Ân, Sa-môn Hội Ẩn ở chùa Hoằng Phước v.v… có hơn ba trăm vị đều đem kinh văn và trạng văn trước, trình bày cố sử để mở tỏa quyết lý.

Bấy giờ, ty lễ Thái Thường Bá, Lũng Tây Quận vương Bác Xoa nói cùng các Sa-môn rằng: "Sắc lệnh tục quan bàn nghị rõ ràng, các Sư có thể trở lui". Lúc đó các người cùng bàn nghị phân vân, không thể hết một. Lũng Tây Vương nói: "Phật pháp truyền thông, đời thường đã dài lâu. Ban sắc khiến kính bái Quân vương thân thích, lại hứa để triều thần bàn nghị". Nay mọi người lập lý chưa thể thông tuân. Ty Lễ đã nói là chức ty có thể kiến nghị trước, nếu đồng chỉ ước nắm bút thuật trạng văn như lệnh ở sau. Chủ sự đọc lớn xong, bèn y vị mà xếp đặt người có hơn một nửa. Tá túc có Thôi Dư Khách nói: "Sắc lệnh sở ty riêng lập bàn nghị chưa thể liền thừa nhận". Ty lễ xin giải tán, có thể mỗi mỗi theo trạng văn riêng đưa đến đài. Khi đó các văn bàn nghị đưa đến đè ép tán dương xen lẫn. Nay chỉ y theo sự phân khu trên dưới của sở ty để biện biệt đó. Trước nêu văn không nên kính bái, tiếp trình bày trạng văn gồm kính bái, và sau cùng bàn nghị về việc kính bái. Thiện ác cảm lục, mọi sự kiện như sau:

Trạng văn bàn nghị Sa-môn không nên kính bái người thế tục có cả thảy ba mươi hai bài.

Trạng văn của Trung đài ty lễ Thái Thường Bá, Lũng Tây Vương Bác Xoa, Đại phu Khổng Chí Ước v.v… bàn nghị (có một bài).

"Trộm nghĩ rằng, phàm trăm tại vị, tuy còn đạo kính thượng, đáng làm thầy đó, còn có bề tôi không kính. Huống hồ giáo pháp của Phật, sự vượt ngoài tục, cắt tóc đồng với hủy hoại tổn thương, cầm tích khác hẳn trâm cài dãi buộc, xuất gia chẳng phải cảnh sắc dưỡng, lìa trần đâu phải chỗ vinh danh, công sâu tế độ, đạo cùng sùng cao, sao phải phá hủy huyền môn ấy mà dẫn buộc theo vết Nho, đắp mặc pháp phục dòng họ Thích mà làm bái lễ của Khổng. Ở đường tục mà đáng pháp phục, còn giáo đó mà hủy đạo đó, cầu phước ấy mà khuất thân ấy? Vài ba phen nghiên tầm khơi dậy có nghĩa là trái với lý thông. Lại nữa, làm đạo của giáo tuy còn da dẻ râu tóc, xuất gia vượt tục, kết quy ấy chỉ một đạo. Thêm vì xa nêu trời dựng, mở lớn nền vua, nghĩa gá tôn nghiêm, thức hợp cao thượng, đều nêu tập quán cũ không vết chương thường. Nếu hẳn đổi làm, sợ trái với xét cổ. Tuy Quân vương thân thích sùng kính dùng dấu vết trung thực, đạo pháp khó thuyết còn lưu, rõ tưởng đã vâng phụng sắc chiếu tuân sô, dám dốc hết thành thật núi bụi, sợ chẳng hạp xứng, truy tìm sâu xa lo sợ, kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Ty nguyên Thái Thường Bá Đậu Đức Huyền, Thiếu Thường Bá Trương Tiên Thọ v.v… bàn nghị (có một bài).

"Tiêu Hình hai khí, Nghiêm Phụ xưng, chẳng gì tôn quý lớn. Tư dụng năm tài, Nguyên Hậu nêu thì quý trọng trời. Đến như, lễ của chống quỳ cong cuộn, bạn lữ của đào hóa đồng tuân, phục cần ở phương thức dục dưỡng, lẽ thường hoài sinh cùng ghi. Phàm ở Quân vương thân thích, lý tuyệt danh ngôn, mà Phật giáo Lão giáo xuất trần bỏ sót tục, hư vô một yếu chỉ, lìa có hợp không. Ứng hiện tốt lành ở thành Tỳ-da, xiển dương kệ tụng từ bi, hơi khí nổi ở Hàm Cốc, mở thiên đạo đức. Ở khoảng Mộc Nhạn, dưỡng sinh còn lo toan, bãi bỏ tướng thanh sắc, lấy tĩnh lắng làm tâm, chấp lễ làm nghi, chẳng cùng yếu diệu ấy. Ôm hoài trung trải hiếu, chưa rót sóng cả đó. Lý còn trước Thái Hư, sự vượt ngoài sinh linh, nên tôn đạo ấy thì khác phục sức ấy, trọng giáo ấy thì biến đổi lễ nghi ấy. Bèn từ gần xưa kịp đến cuối đời, tuy tiếp nối đổi thay dần trái, mà đạo ấy không rơi lạc. Kịp tới lúc buồn đau thắt buộc ở song thọ, xót thương uất kết nơi tam hiền, phóng ngại hàng hậu tấn khuyết mất phong thái, ước theo Nho đông để khống chế pháp. Nên đáng giúp thành giáo nghĩa xưa cũ, đâu nên cắt chế lễ nghi mới nay. Thật nên khuất nghiêm nơi cung điện, tỏ bày yếu chỉ phương ngoại, rũ giao quý trọng tôn thân, rong rảo khắp trong hoàn vũ, ngu tình trông xem lường xét, tuân nên xứng hợp thỏa đáng, kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Ty Nhung Thái Thường Bá Hộ Quân Trịnh Khâm Thái, Viên ngoại Lang Tần Hoài Khác v.v… bàn nghị (có một bài).

Thần nghe: "Tam tai biển lửa, lục độ vượt ngưng, hai chữ làm kinh, trăm thành xa xăm. Do đó, bạch hào hiển hiện tướng, xiển dương Nhất thừa ở muôn kiếp. Hơi khí tía nổi ảnh, lẫn lộn muôn khác ở nhất trí, bên có bến bờ Nho giáo lại bền chắc khung khác. Đất trời đẹp xinh bẩm khí âm dương, lễ vua tôi tốt tươi của cha con. Nên biết, theo danh trách thật khuôn vết hình ngay, thì giáo trước ở khuyết lý, đồng sức tu hành sửa sau hối trước, thì hóa dần ở Liên Hà (sông Ni Liên thuyền). Thích giáo làm phòng ngại bên trong, nhã có chế ở cung Ngụy, Nho giáo làm ngoài kiểm chẳng thể bao quát Linh đài đó. Riêng có Huyền Tông vốn khuôn phép chấn động khắp phong vật. Chim bằng là bay quá, chim yến xúc chạm cọc liêu khổn. Vô vi vô sự, nào được nào mất, nhưng mà Phật giáo, Đạo giáo đều làm Tam bảo. Phật giáo lấy Phật Pháp Tăng làm tông chỉ, Đạo giáo lấy đạo Kinh sư làm lý nghĩa. Đâu ngay nhiếp sinh có nương gá, đào luyện tánh thông tư. Tin cũng làm chính, nền tảng ấy bổ tiếng đượm hóa, mà Tỳ-kheo chưa rõ hiểu tiên sinh phần nhiều hẹp hòi, ỷ cậy xuất tục mà nỗi vượt, vì kiêu ngạo mà khoe dối. Ở hạng thấp hèn thất phu mà chẳng hình hài trước vạn thừa, quên ân nuôi dưỡng con, chẳng cúi khuất đối với Tam Đại. Hẳn Quân vương thân phụ chỗ nên cải cách, mới là chỗ biết của thần tử (bề tôi và con), chẳng phải vừa ban sắc chỉ ấn chứng là đổi sửa tệ hại ấy. Tuy làm hiếu sống trung xướng lời đổi vết, mà cứu xét xưa mến đạo tham chước mọi tình. Kẻ ôm hoài vang vọng, hang cốc chẳng tiêu tiếng. Kẻ tuốt bụi trần núi không cách nhỏ, hẳn đủ tụng kiệu người. Dùng thuyết dâng cống sô nhiêu, cớ sao trụ sử ở Tây Phù có hơn ngàn năm, pháp lưu truyền đến phương Đông có đã sáu trăm năm? Tuy trải qua biến đổi chợ triều mà việc không tổn ích. Chỉ có Sưu Băng trách kính bái của Sa-môn, Hoàn Huyền bàn nghị lễ nghi của Tỳ-kheo. May có Hà

Sung dâng tiến tấu trình; Sa-môn Tuệ Viễn tỏ bày sách luận. Sự việc cuối cùng chẳng thi hành, đạo trọn không suy sụp. Do đó, Đại Dịch kinh luận Tam thánh, cổ tượng chẳng phụng sự Vương hầu. Đại lễ sung mũi nhận hưởng nghi, Nho hành chẳng bề tôi Thiên tử. Cũng có Nghiêm Lăng ngồi xẩn ra mắt Quang Võ, Á Phu vái dài Hán văn. Giới trụ chẳng nói là chạm váy, người xưa không làm nôi trẻ, chỉ cựu cự tiên sư nói, bạn đạo nào sao răn rọi. Trên thì Cửu Thiên Chân Hoàng, Bồ-tát Thập địa, dưới thì Nam Sơn Tứ Hạo, Hoài Nam Bát Công, hoặc thuận gió mà lễ yết, hoặc ngự khí mà đi ở. Chung đồng nhất quán, chẳng được mà khuất, mười nhà trung tín cũng đâu không người ấy ư? Thiết bày quan ải năm hình, ba cây chẳng bái, há đủ năm đức giữa ba phục bái đó? Tôi chẳng trách cung túc đức vậy, thật đủ để dung dưỡng, nhưng mà chủng loại hàm thức, các hàng hoài sinh không ai chẳng đặt thân để dốc lòng thành thực. Kia thì được tôi vua, không ai chẳng dốc lực mà tuân hiếu. Kia thì chẳng kính với thân thích mình, tuy ước buông ba chương, luật nhẹ ba thước. Có một ở đây ba ngàn lớn vậy, mà chẳng bị nghiêm trị giết mất, thật đối với thần (bề tôi) trách đó. Há chẳng vì Đạo giáo, Phật giáo cùng với Nghiêu Khổng khác chế, Thương hủy cùng với lễ giáo chánh trái? Hoa sen chẳng kết sắc tơ, lá bối khác vót chỉ thuê, người dùng buộc dãi làm chương thường, Đạo giáo thì quan mũ mà chẳng đeo, người dùng búi tóc làm hoa sức, Phật giáo thì cạo bỏ chẳng dung nghi. Bỏ nước chẳng là bất trung, xuất gia không là bất hiếu, ra khỏi cõi trần cặn bả cắt đứt ân ái đối với Quân vương thân thích, vất bỏ tham muốn dứt đoạn tình cảm đối với vợ con. Lý mới khu phân ở vật loại, không thể bờ mé kiểm xét ở đường thường. Sinh thì chẳng trọng nơi cha mẹ, tử thì chẳng tạ, thí chẳng nồng hậu ở đất trời, vật thì không đáp. Ân của Quân vương thân thích, sự tuyệt ở danh tượng, đâu phải cúi đầu kính bái mà có thể đáp trả một trong muôn phần ư? Xuất gia đó đối với Quân vương thân thích, há bảo là toàn không dốc lòng kính bái? Một niệm hẳn vì người, chủ làm nguyện đầu. Tứ đế thì đối với cha mẹ làm hoằng ích, mới dứt trần kiếp trọn lìa tử sinh, đâu cùng kẻ phu cúi đầu gối là tận trung sắc dưỡng là thuần hiếu mà thôi ư? Hẳn bao gồm cả cảnh tục ở nơi Nho tứ, cúi dung hình, nép lễ kính, thì bất hiếu chẳng qua là ở điểm không con nối dõi, sao không lấy hôn nhân mà chế buộc? Bất trung không gì lớn bằng chẳng thần (bề tôi), sao chẳng khiến tự xưng thần thiếp? Dùng ca-sa làm triều phục, xưng bần đạo mà nào bỏ kính bái, nghi phạm cả hai đều mất, danh xưng thảy sai lầm, rất sợ ích của một quỳ chẳng thêm tôn quý của vạn thừa, nhọc của một bái, thức chương rơi lạc của tam phục. Thì chỗ không thể mà há vậy ư? Vương giả không cha phụng sự tam lão, không anh tôn thờ Ngũ kinh, Quân vương là tôn quý của người, cũng có chỗ kính, kính của pháp phục, chẳng kính người đó. Nếu khuất số đó thì thấp kém đạo đó, số mà có thể thấp kém, đạo thì nói khuyết vậy, đâu như cài kính ở mình, còn đạo ở vật. Kính còn thì tự mình thích hợp, đạo còn thì vật tôn quý. Tôn quý đạo do đó mà kính ở vật, kính ở vật do đó mà tôn quý ở chính mình, huống lại hình như thân, đạo tợ ảnh vậy. Thân đã như tiếng, thì đạo cũng như vang, hình động thì ảnh bóng theo, tiếng phát thì vang ứng lại. Đạo sùng thì thân sủng (mến quý), thân chìm thì đạo dứt. Đâu có thể khiến đạo ở thân, khuất thân ở ngoài đạo, khiến người phương ngoài còn kính ở trong thân. Lại nữa, kia chuyên giữ một sống đạo, chẳng xen tạp trần tục, nếu có thể kính bái đó, thì có nghĩa là đạo của tục mà có thể tục, tục lại dự tham ở đạo, thì một đáng có hai, mà đạo chẳng chuyên hành vậy. Sao có thể khư giữ vứt thường của đạo, giữ chuyên một chí thánh ư? Căn cứ theo luật Tăng-kỳ nói "Kính ca-sa như kính tháp Phật". Có nghĩa là, ca-sa là áo ruộng phước. Áo có tên gọi là Tiêu dũ, vì hay tiêu sầu phiền não; giáp có tên gọi là nhẫn nhục, bởi có công năng nhiếp phục ma quân. Cũng dụ như hoa sen không nhiễm bởi cặn bùn, cũng là tràng tướng của chư Phật, thì nghĩa của ca-sa rốt cùng như thế vậy.

Phàm nếu tổn hại tháp Phật đây, hủy hoại tràng tướng kia, tức xem thường nhẫn nhục. Lại gièm chê phước điền, dùng rất lắm nghi, mê mờ lấy bỏ, cởi bỏ nghi phục mà kính bái, tức là vượt tục chẳng phải nghi của chương phủ. Chỉnh nghi phục mà xu phụ theo thì Truy Y khác với điển pháp của triều tông, nên thiền sâu thẩm nơi cảnh Xá-vệ, bước lắng chốn đất cao môn, lý tuyệt triều thỉnh, sự trái vinh yết, há chẳng nghĩa là ta sùng đạo ấy? Do vậy, kia thỉnh mời mà đó lại, thỉnh mời mà xem thường đó, lại phải làm sao. Lô sơn làm chỗ ở của đạo đức, chẳng tại xếp bày tìm chọn. Cam đường là chỗ lắng dứt nghe tụng, thức đặt chớ cắt bỏ ân, núi cùng cây ở chỗ vô tâm. Vả lại, lấy đức mà còn vật, pháp cùng đạo có đủ, đâu kính sùng đạo mà bỏ sót người. Nói rằng: người hay hoằng truyền đạo thì đạo cũng phải do người mà hành. Vua người tuy nhỏ, mà địa vị ở trên chư hầu. Các người hành đạo sao có thể xem thường lễ ấy. Nếu cho là cả hai vì xem thường hư dối thì có thể một mà lắng dứt đó. Đạo của lắng dứt đó, thì nghĩa là cắt tóc ấy vậy, thì là nguyên do có lắm nhiều, sao chỉ nép cúi mà thôi? Nếu cho là cả hai đều nồng đượm hỗ trợ thì nên kính sùng đó. Đạo của kính sùng đó thì có nghĩa là chuyên tôn quý ấy vậy, đâu có thể chuyên tôn quý đạo ấy mà khiến cung kính đó ư? Giả sử dùng vàng đá làm nghi dung chân tướng, chẳng vì vàng đá mà thêm chỉnh túc. Giả sử dùng rơm cỏ mà làm tôn tượng, chẳng vì rơm cỏ mà khinh thường. Cung kính trọn nhờ cậy nơi đạo, nặng nhẹ khinh trọng chẳng hệ thuộc bởi vật. Vật chẳng thể dời chuyển đạo, cũng như đạo thường tùy ở vật vậy. Sa-môn giăng mặc y phục của mình, nhờ pháp phục mà làm quý, không ai chẳng kính pháp phục ấy mà đâu hệ thuộc ở người ư? Điển pháp không kính bái, nghĩa cao kinh luật. Pháp giao phó Quốc vương phụng sự giúp hộ trì pháp là thường vậy. Thường thực hành không đổi khác mộc góc tức có thể cách cả ngàn môn. Hoặc sáng thông có vốn giúp hộ pháp, bít tắt có toan lo pháp rơi lạc, cùng sự rơi lạc đó, đâu như hộ trì đó, nào hẳn phải cúi khuất ở dung nghi tăng tướng, cuộn lánh ở pháp phục, khiến cả muôn nước quy y, ở lá cải nơi khoảng ấy ư? Nói rằng: người nhân chỗ lợi mà lợi đó, thì thuật của lợi đó cũng có thể nhân yếu chỉ tinh diệu đó đến mà làm lợi vậy. Kịp đến lúc ánh sáng vầng nhật lên tỏa chiếu, hoàng vận thừa tông chủ. Biển tiếp dòng họ vua, cành liền nhà báu lớn. Nương gá đạo vô thượng, mở lớn nghiệp vô cương, dòng họ riêng khác, kinh còn sùng cao xưa trước, nếu thần, phái linh, đạo đâu chỉ huy nay. Đây là rất chẳng thể một vậy. Có nước Nguyệt Thị ở phía đông, vận báu đợi đây, nước lắng sóng cao mây pháp đượm nhuần. Cao mừng giải thoát, diễn phước thường trú. Đế vương xưa trước còn hoặc vâng tuân, chúa thánh tôi trung, sao yên biến này. Thần ngu ngàn lo chẳng được một trong muôn phần, thản nhiên mở tạo ấy không ích lợi cho tương lai, quần sinh vỡ vụn cốt, làm sao bớt lấp trách có ẩn, dứt hết tội bất trung. Đó là điều rất lắm chẳng thể thứ hai vậy. Sở dĩ thần cần thiết việc ấy, khư khư giữ sự chí thành ấy, gãi đầu vỗ tim, nát gan rĩ mật. Cúi mong Thánh triều trùng hưng chí giáo thường xuân, vườn nai trọn chuyển pháp luân, tâm vui mừng ghi lục người ấy, trăm vận tốt xa tỏa sáng ở đế nghiệp thì tuy có chết còn như sống trong khoảng sớm tối có thể vậy. Trộm nghĩ rằng, chiếu chỉ tinh tường, nghĩa khó thỏa thích, chớ tình trời họa vẽ một thì có thể khiến do đó sáng rõ tưởng bên cạnh. Mong cầu đó ai chẳng dốc hết lo toan. Thần vì ngu dốt nên chẳng đủ khả năng mà dẫn nói. Vì Phật giáo, Đạo giáo là không thì kính sùng ở Thánh, vận Thánh mà sùng đó thì chẳng phải không. Vì Phật giáo, Đạo giáo là có thì bút vót sáng tỏ thời cuộc, sáng tỏ mà vút đó, sợ chẳng phải có vậy. Do đó cho nên đường gập ghềnh bồi hồi hai mỗi giao chiến, đạo nên còn vết, lý chẳng nhàm tâm. Ứng quán đâu có thể lén nhìn bầu trời, con ếch sao lường được biển. Lý tuyệt ngoài ngỏ hầu, sự vượt hẳn trí thức. Tự ôm hoài các chì, bút gõ lắng tiêu tiếng mà muốn chim ở tỏ bày lời, trong sào trận thổi, đem điếc nghe mà bằng tục, cùng vui nhìn mà đồng già nua. Tuy có dốc hết tất cả ở tâm linh, trọn chẳng thể đến nơi thấy nghe vậy. Ngay vì tám thứ gió xoay thổi mạnh, muôn tiêu đồng hiến tỏa âm thanh. Nhật nguyệt lên tỏa sáng, ngàn hình chẳng ẩn núp bóng ở đây vậy. Cảnh lớn là ngỏ hầu chuyển đổi khuôn phép, đến tin mặt nhật quỳ dốc giọt sương mốc ngưng, mà bẽn lẽn dáng mặt nước ngày hạ, giẫm mỏng băng mùa xuân. Đau đáu lo sợ rất lắm, thẹn sợ lẫn xen, kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Ty hình Thái Thường Bá, Thành Dương huyện khai quốc hầu Lưu Trường Đạo v.v… bàn nghị (có một bài).

Trộm nghĩ rằng, thứ lớp của triều đình, cung kính đứng đầu, ân của sinh dục, sắc dưỡng là trọng. Thích giáo, Lão giáo hiện nay đều trái ngược đó, chống kháng lễ bái đối với Đế vương, nhận thọ cung kính ở nơi cha mẹ, mà thong dong từ xưa mãi đến đời nay. Nguồn ấy rất sâu hẳn bởi có nguyên nhân. Xét thực do vì cắt tóc có khác so với quan niệm ca-sa không lấy ở chương phục, người xuất gia kính pháp xả tục, đâu bó buộc lễ nghi của triều đình. Đến như Huyền giáo Thanh hư, đạo phong xa rỗng, cao thượng việc ấy, chẳng khuất Vương hầu. Đế chúa có thể chẳng tôi, bởi từ nghĩa ấy. Nước nhà đã còn đạo ấy, do đó chẳng khuất thân ấy. Mong chuẩn theo chương trước không trái lề cũ. Kính cẩn bàn nghị.

QUYỂN 4

THIÊN THỨ HAI: BÀN NGHỊ KHÔNG KÍNH BÁI (Tiếp Theo)

- Trạng văn của Trung ngự phủ Thiếu giám hộ quân Cao Dược Thượng v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Nội thị giám cấp sự Ngọc Tuyền, Bác sĩ Hồ Huyền Lượng v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Thừa Lưu Khánh, Đạo chủ bộ Hác Xử Kiệt v.v… ở chùa Phụng Thường bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Thừa Vương Thiên Thạch, Trương Đạo Tốn v.v… ở chùa Tường Hình bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Khanh Lương Hiến Nhân, Thái thực thự lệnh Triệu Hành Bản v.v… ở chùa Tư Giá bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Khanh Vi Tư Tề, Chủ bộ Giả Cử v.v… ở chùa Ngoại Phủ bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Thiện công gián Thái giám Lưu Thẩm, Lễ giám tác thượng quan Đột Quyết v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Ty thành quán Đại ty thành lệnh Hồ Đức Đồ v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Ty thành thúc tuyên nghiệp Phạm Nghĩa Quân v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Tả vệ Đại tướng quân Trương Diên Sư v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Hữu vệ Trưởng sử Thôi Tu Nghiệp v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Tả kiêu vệ Trưởng sử Vương Huyền Sách, Ky Tào Tiêu Quán v.v… bàn nghị. (một bài)

Trạng văn của Hữu Oai vệ tướng quân Lý Hối v.v… bàn nghị (có một bài).-Trạng văn của Hữu nhung vệ Đại tướng quân Hoài Minh Huyệt Công Đỗ Quân Trách v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Tả kim Ngô vệ tướng quân thượng trụ quốc khai quốc hầu Quyền Thiện Tài v.v… bàn nghị. (có một bài)

- Trạng văn của Tả phụng thần vệ tướng quân Tân Hoằng Lượng v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Hữu Xuân Thường chủ sự Tạ Thọ v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Đại phu Vương Tư Thái, Thừa Ngưu Huyền Chương v.v… ở chùa Ngự Bộc bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Vạn niên huyện lệnh Nguyên Thành Tâm v.v… bàn nghị. (có một bài)

- Trạng văn của Trường an huyện thừa Vương Phương Tắc, Thôi Đạo Điểm v.v… bàn nghị (có một bài).

- Trạng văn của Bái vương phủ trưởng sử Hoàng phủ công nghĩa văn học Trần Chí Đức v.v… bàn nghị (có một bài).-Trạng văn của Chu vương phủ trưởng sử Nguyện Trực Tâm, Tham quân Nguyên Tư Kính v.v… bàn nghị (có một bài).

-------------------------

Trạng văn của Trung ngự phủ thiếu giám Cao Dược Thượng v.v… bàn nghị

"Pháp vốn hư tịch nên chẳng có danh ngôn, chí đạo vốn đồng nên không chia thanh giáo. Cảnh của ba ngàn đại thiên, hàng tiểu trí chưa thể lường đo nguồn ấy. Ở trong hoảng chừ hốt chừ, bậc cự hiền không sao nghiên cứu hết lý ấy. Chỉ có Phật giáo, Lão giáo, nổi hội dáng vẻ của Đại Thánh, tuệ quang tỏa sáng ngoài trần, siêu nhiên vượt vật. Thiếu ba y để phủi đá, chạm bốn biển làm nghiên công, đàm tông tịch diệt, giảng giáo có không, cửa mở phương tiện, diễn giảng mười hai nhân duyên, dẫn dụ nhiều đường, thuật nói rộng năm ngàn. Kính thuận thì tiêu hao lục độ, biếng lười thì trôi nổi biển khổ, nên cạo bỏ râu tóc mà đến tang môn, cởi vất y phục sắc trắng mà quấn mặc Truy Y, mong lên bờ kia ra bến ái đây, cha mẹ mến quý hình dung ấy, Vương hầu tôn trọng giới nghi đó. Đó tức là Quân vương thân thích cách đường, bỏ tục tuyệt trần, lễ của ba trăm chẳng buộc, vị của năm hầu không tham, chưa thể đôn đốc tục huấn ấy dùng phong nghi răn buộc, kính bái nơi sâu riêng, cúi đầu ở nhà chung, xin theo lề lối cũ, đối với ngu tình rất thỏa đáng, kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Nội thị giám cấp sự Vương Tuyền, Bác sĩ Hồ Huyền Lượng v.v… bàn nghị (có một bài).

Trộm nghĩ rằng: Kỳ Sơn xiển bày pháp hóa, dạt bến sâu mà quẫy mái chèo, bích lạc duỗi ban dạy răn, đến cảnh chân mà phát tỏa lời. Đức gần bốn trời, nổi trội giáo pháp khác hẳn tục kiểm, nghĩa ngang bằng một ngón tay, vốn kính khác với lẽ thường. Nên trí lễ bền chắc tợ rừng, chí lý cùng với thường tình riêng gồm cả, cúi mình trên sông,

Huyền Công chung cùng tức việc đã trái. Vậy nên biết, truy phục Hoàng Quan chẳng phải nghiêm sức của triều đình, rừng thiền động cốc nào phải vinh hoa của thần tử (bề tôi và con). Đến như công sâu lợi ích, đạo rộng dẫn bày. Xếp đặt yếu chỉ của Tam thừa thì lý cũng khắp tứ sinh, nêu bày văn của Ngũ thiên thì lời bao gồm muôn trượng. Nắm dao trí tuệ mà cắt đứt phiền não, bỏ hữu dục mà hành tập vô vi. Còn mất kính ngưỡng ở thuyền bè, động thực vốn từ hàm dưỡng ấy, tánh tướng chẳng phải nghiên tầm hết chỗ có, hy di há tham thấu sâu thẳm. Huống là chuyển pháp luân mà phụ giúp tông vua, thì công tế độ trải kiếp sợ như bụi trần, nỗi hơi khí chân mà bít lấp đường Thánh, thì đạo trùm hỗn nguyên mênh mông thay, lớn thay! Hẳn không được mà xưng vậy. Nay muốn đem đồng Danh giáo khiến y theo lễ thế tục, luân ngôn đã ban, ai chẳng gọi là thích nghi. Trộm sợ mỹ phong cao thượng nhân đó bèn qua mất, lý nghĩa huyền diệu lưu đảng quên trở về. Cúi mong Bệ hạ mến kính tốt lành đối với trăm vua, đức giáo tỏa lan bốn biển, ngưng lắng thần, thấu rõ vật, lấy việc hoằng đạo làm tâm, sao hẳn ước ở hai môn đây lẫn lộn đồng đường chân tục. Hạn lục hai giáo ấy loạn lạc đường nói nín kia. Giới luật đã khác với khoa thường, quỳ bái đâu thông với lễ ấy? Nhân theo vết ấy, xin y cứ khuôn phép cũ, kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Thừa Lưu Khánh đạo chủ bộ Hác Xử Kiệt v.v… ở chùa Phụng Thường bàn nghị. (có một bài)

Phàm hiếu dưỡng do vì phụng thờ thân thích, râu tóc là đứng đầu của lập hiếu, kính trung do vì tôn sùng quân vương, quỳ bái là tỏ bày dung nghi cung kính. Ấy hẳn ngưỡng tầm cứu kính trời, cúi thấu cùng lý người. Đến như chân như tịch diệt, ngôn hành đều hết, huyền diệu hy di, mù mờ khó lường. Bệ hạ khôi phục hoằng dương chánh đạo, mở rộng diệu môn dấy động pháp đề kia, ứng thầm hộ trợ đây, nhưng mà giáo chẳng phải là chính sách của vức nội, hình là dung nghi của phương ngoại. Y phục khác với nghi dung nước nhà, thân không nghiêm sức đầu mặt, lấy gì dự tham tấn thân kính bái xuống, ghi góp trâm cài gồm mà quỳ vái ngu tình? Nghĩ rằng, tiếp nối lớn mạnh bậc hiền trong thời tượng pháp có thể vì chầu mà chẳng cúi khuất tiết tháo. Hủy hình tự tuyệt, có thể vì nhà không giáng lễ. Vả lại, đồng với bọn của Sào Hứa, có ích lớn của Huân Hoa, nương gá giao phó, nhân theo làm thiện, đã vâng phụng minh sắc, dám tỏ bày chánh nghị. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Thừa vương Thiên Thạch ty trực Trương Đạo Tốn v.v… ở chùa Tường Hình bàn nghị.

Trộm nghĩ rằng: "Vua tôi đáng hợp trọng, nghĩa của trung hiếu vốn lớn sáng. Cha con ân sâu nặng, tính mến kính thưa thiết tha. Còn lý của sử dụng thường ngày, đội lớn của sinh thành. Nhân thọ che chở đó, đâu quên đức từ đó; hưởng dùng ban huệ ấy, sao khuyết lỗ nghi ấy? Đó hẳn ở ba dạy răn lớn, họa nghi một khuôn phép, mới lý hợp thần thật, nghĩa phù thánh chiếu. Nhưng mà pháp tắc của vức nội khác với quy chế của Phật giáo và Lão giáo, quỷ tắc của phương ngoại chẳng đồng với Khổng Nghiêu. Lưới nôm chẳng thể dụ, tánh tướng đều mất, lớn nhỏ chỗ không bó buộc, đất trời đồng nhất, chẳng lấy sắc dưỡng làm hiếu, chẳng vì bỏ thân thích làm nghi ngờ. Thần đạo trải qua lâu dài, đến đây chớ dừng nghỉ. Tìm cầu yếu chỉ ấy cũng có chỗ giúp cảm hóa, nên khác lạ nghi phục không chấp chương thường, tự nhiên làm khác không ràng buộc, xung vọt mà không chìm mất, cao vời viên trạm. Tuy nhân quả khó trọn rõ, chí đạo mù mờ, tợ còn tợ mất, nhân theo từ xưa. Trước kia Samôn Thích Tuệ Viễn thuật trước luận văn, Sưu Băng ở thời Đông Tấn chấm dứt luận đàm cùng kiêu mạn ấy vậy, yên lắng tôn sùng kính đó. Nay nếu tôn đạo ấy mà hủy pháp ấy, cần phước ấy mà khuất thân ấy, thì kiến kêu cho bỏ qua nghi dung mang kiếm, bưng lò mà ngay thẳng lễ trâm hốt. Tăng tục đồng xếp bày, kính thí thực hành cả hai, vậy thì ca-sa thẹn với oai của cánh vàng, bình bát hổ với thuật chú rồng. Đó là giáo vậy, sao thi hành ư? Đạo Tốn v.v… chúng tôi dự thẹn với sô nhiêu, lời chẳng khá chọn, tạm tỏ bày của thấy biết ngu hèn, rất mực lo sợ, kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Khanh Lương Hiếu Nhân, Thái Thượng thư lệnh Thiệu Hành Bàn v.v… ở chùa Tư Giá bàn nghị.

Phật đạo hưng khởi từ xưa đến nay vẫn còn vậy. Từ khi ánh sáng sắc trắng tỏa chiếu phương Đông, hơi khí sắc tía nổi ở phương tây, không ai chẳng tuân theo Ngũ thiện, sùng một hai giáo đây. Vô vi tĩnh lắng đồng trống thắng nhân, mà Tăng ni Đạo sĩ, quan xu vâng thừa huấn điển, đó làm giáo vậy, bổ ích cứu giúp thật lắm nhiều. Trải qua trông xem tu hành xưa trước chẳng phải không lấy bỏ, do đó đồng tuân không kính bái, thật đáng khả quan. Đến như làm tông của đạo, nền tảng Hoàng đế. Do đó dần tôn nghiêm kính thiết có khác với luân thường, đâu có thể làm nghi riêng, cúi theo thường trụ. Nhân theo lý không kính bái, có nghĩa là thỏa đáng vậy. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Khanh vi Tư Tề, chủ hộ Giả Cử v.v… ở chùa Ngoại Phủ bàn nghị (có một bài).

Trộm cho rằng: "Thần tử (bề tôi và con) quỳ bái hẳn là khuôn phép thường, dẫn từ lễ kinh gồm có quyền thế. Mẹ bái con mình, vì lễ thành người, chẳng tôi đối với vua mình vì tôn kính đạo đức. Huống là giáo nghĩa của phương ngoại, làm thiện chẳng đồng. Đạo có vụt vọt giữa hư không, Phật không sinh diệt. Tu tâm luyện hạnh, nhân quả là cậy nương. Gọi tên là xuất gia, rõ vượt ngoài tục, đều nói thắng nghiệp, nhiều đời đều tôn quý, lớn mạnh dựng lập đạo tràng đều cầu thường lạc. Dâng hiến Quân vương thân thích vì làm phước lớn, cứu tế hàm thức ở nơi mê đồ, lâu lớn mà luận cao trội hơn tục giáo. Nếu đồng như Nho giáo xếp bày tức trở lại vào dòng tục, chẳng kính chuộng học đồ vì do không hiểu bày đạo. Nhờ có kính sùng hộ trì mà đạo được thường còn. Lễ nghi không kính bái vì rõ bày hộ trì sâu sắc. Gốc của tôn quý đạo lấy ích lợi làm tông. Nay y cứ kinh văn nói: "Bái lễ chẳng ích nước lợi người". Thật chỗ đáng nên nói. Văn không ích lợi, sao dung chứa dám dâng? Theo pháp y như cũ không khuyết chương thường. Thể diệu cùng sâu chẳng phải hàng hạ lưu có thể kịp. May đượm nhuần sô nghị, dám dốc ngu thành, sợ chẳng hợp nghi, nghĩ sâu càng khiếp hãi. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Thiện Công Giám, Thái giám Lưu Thẩm, Lễ giám tác thượng Đột Quyết v.v… bàn nghị (có một bài).

Về Tăng Ni: Một là trộm thấy Vương giả tôn kính thần kỳ, mà các loại thần kỳ tôn kính Phật; xin làm đệ tử. Do đó mà rõ thấy kính trọng xa vậy. Tôn trọng chỗ tôn trọng ấy, mà ép buộc theo lễ bái, với ngu tình thì cho là chưa thể được.

Thứ nữa là thấy các quan nhân vâng phụng sắc chiếu không kính bái Quân vương sư trưởng, chẳng phải là Sư trưởng thấp hèn hơn người, mà vì kính vương giáo ấy. Tăng chúng xuất gia, cạo bỏ râu tóc, vận mặc y phục nhuộm sắc, nêu hình khác tục, vâng thừa Phật dạy, vì nước nhà sùng tạo phước. Quân vương thân phụ chí kính chẳng lễ thân ấy, Tăng chúng đắp mặc pháp y không kính bái Quân vương thân phụ.

Thứ nữa, trộm thấy thần tượng được dựng lập, do người nắn tạo hình. Hình đã làm thành, người trở lại tôn kính đó. Đâu vì nhân chỗ người lập mà chẳng tôn kính? Nếu chẳng tôn kính, thì dựng lập dùng làm gì? Phật đem giáo pháp giao phó cho Quốc vương. Chỗ Quốc vương dựng lập, Quốc vương trở lại tôn kính đó. Như Quốc vương chẳng tôn kính, dựng lập đâu ích lợi gì?".

Về Đạo sĩ và nữ Đạo sĩ: Trộm thấy, người sau tiếp thừa đời trước lập ở trên trăm vua, các Đạo sĩ v.v… thân mặc pháp phục của Lão Quân, miệng truyền lời pháp của Lão quân. Nếu đồng tục mà kính bái, sợ trái với lễ ấy. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Ty thành quán Đại ty thành Lệnh Hồ Đức Đồ bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ rằng, Phật giáo và Lão giáo từ kính rộng sâu, có nước nhân theo bèn mở sùng chuộng, đã lâu pháp ấy phải theo đạo ấy. Trộm cho rằng, buộc cúi bái, lý ấy sợ chưa thông. Cớ sao cắt tóc khác nghi đai mão, trì bát há phải lễ đâu? Tỏ bày ân mới cầu định tuệ không nhọc mệt, bái quỳ nghiêm thân, báo đức có cầu mong. Chân như sao hẳn cong eo từ hậu; núi rừng đã qua, chẳng phải trở lại làm khác của lang miếu? Triều đình thôn dã cắt tiệt khác vời, lý nên cao chuộng sự ấy. Nay khiến trách vì Danh giáo có khuyết yếu chỉ đó. Các thần v.v… chúng tôi ngu muội mờ tối, xin theo không kính bái làm thích nghi, kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Ty thành tuyên nghiệp Phạm Nghĩa Quân v.v… bàn nghị. (có một bài)

Các thần chúng tôi nghe: "Chí đạo vốn không, Bát-nhã huyền tịch, ở nơi người thì người tôn trọng, ở tại đâu thì tại đó kính quý. Nên trên Thiên hà Tiên lão ban giáng cao đức của Lưu Hậu, Cao tăng ở Kê Tụ (Linh Thứu) khuất trọng của Luân Vương. Vậy đủ biết, mỹ phong ấy thổi tỏa từ lâu cả ngàn năm đồng tuân kính. Cẩn trạng căn cứ theo các kinh Phạm Võng v.v… nói: "Pháp của người xuất gia không hướng về Quốc vương, song thân mà lễ bái". Đến như người truyền Nho nghiệp còn cùng Quân vương chia sân thống kháng lễ. Cháu vì ông bà đích trong nhà nối dõi vận quan, cha mẹ còn bái con ấy, vì truyền trọng vậy. Hiện nay Thánh chúa bái nhường pháp đường ngu, nhậm chẳng bề tôi của Sào Hứa, vượt quá khoan nhân của Hán Đế. Buông phóng tứ hạo đến phương ngoại; huống gì nhận thọ giao phó hoằng tuyên xiển dương Huyền giáo. Đã hứa có xuất gia, lý nên khác biệt tục, bỗng khiến buộc chầu bái, thật chỗ đáng kính nghi, dùng người mà phế bỏ pháp, với ngu tình cho là chưa thể được. Vả lại, lễ nói: "Giới là không kính bái, vì đó là uất dung tiết". Người xả bỏ thế tục, thân mặc giáp nhẫn nhục, nay đồng với kẻ tục quỳ bái, tức vụt gièm chê triều nghi, xấu hỗ chức thượng tường, lầm sai dự tham hiền quán. Thần gội đượm ân đã trọng, dám dốc hết nịnh hót tấu trình. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tả vệ Đại tướng quân Trương Diên Sư v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ rằng: Đạo Lão huyền ảo, phát huy môn chúng diệu, Thích giáo lắng tịch, sáng sạch cảnh xuất trần. Từ kim dung cảm độ phương Đông, chân khí nổi đến phương Tây, tiếp với đạo hiếm mỹ phong dài lâu, phân khu sáng ngời khắp đô ấp, tràng báu chùa vàng hình thái cuốn khắp đường thông. Nhờ kính phụng đó ngõ hầu làm giúp ích gồm lưu còn giáo ấy, trộm cho rằng có thể cùng thông. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu vệ trưởng sử Thôi Tu Nghiệp v.v… bàn nghị. (có một bài)

Lão giáo và Phật giáo chỉ thú sâu mầu, lý tuyệt danh ngôn, công vượt ngoài ý. Đạo giáo lấy thanh tịnh làm chủ, Phật giáo lấy cứu vật làm tông. Nhưng hàm sinh lấy làm bờ bến, có hình đem làm bờ kia, từ ban giáng ấy, đạo đó càng rộng. Chỉ như Diệu Lý ở Thụ hạ, Thần Tích ở Ca-vệ. Kính ngưỡng đạo ấy chẳng biết đến chỉ quy, kính bái gợn sóng ấy không rõ được chung thủy, mới thẩm xét cưỡi hạc vân du đến năm non, phân hình khắp ba ngàn. Ngay phải gá vết ứng thân dùng phương tiện dẫn tiếp chỉ nhờ mỹ hóa ấy, đều mong công nhẹ cử. Vốn từ nghiệp đó cũng cứu giúp ở trần kiếp. Cho nên Hoàng Quan đã biến đổi, thuy phục mới đượm nhuần, người chủ chẳng khuất mà bề tôi, cha mẹ không con mà nuôi dưỡng. Đó mới là tôn quý ở thân, chỉ sợ khuyết thiếu ở Thánh giáo. Hẳn là hình thần đều xua bỏ, bái tiếp cả hai đồng quên. Quân bình bằng với trời kia, thật không phiền dung mạo cúi khuất. Đã chưa thấu cùng nơi tánh tướng, bèn là như còn như mất. Lý phải thành ở thắng nhân đây, bèn toại cao thượng đó. Huống gì nay Thánh thượng khâm chuộng minh hiếu đến với thiên hạ, rất nên tuân kính Nhị giáo hỗ giúp phước điền. Do đó, đối với Đạo sĩ và Đạo nhân nên hứa để không kính bái. Vả lại, xua bỏ kính bái rất dễ, không kính bái rất khó, đủ để khiến cho tương dã ấu đồng chẳng riêng tốt lành nơi Hiên Đế, Hà Thượng lão già, không chuyên vẻ vang ở Hán Hoàng. Trong muôn ngàn lo toan mong được một không kính bái lấy làm thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tả Kiêu vệ trường sử Vương Huyền Sách, Kỵ Tào Tiêu Quán v.v… bàn nghị. (có một bài)

Từ khi Phật giáo hưng khởi, bắt đầu từ Thiên Trúc, thần ba là đi sứ từng có thấy nghe. Thần nghe rằng: Vua Thâu-đầu-đàn là cha của Phật, Ma-ha Ma-da là mẹ của Phật, Sa-môn Ưu-ba-ly vốn là kẻ tớ trong vương gia, nhưng cả vua và thân thích đều lễ kính tất cả đồng như Phật. Thần lại thấy, pháp của Tăng Ni ở nước ấy chẳng kính bái các đền thờ trời thần, cũng không kính bái Quân vương và song thân. Mà Quân vương và song thân đều kính bái Tăng Ni và các đạo chúng. Thần từng hỏi chư tăng ấy rằng: "Tôi tớ ở đây vừa mới xuống tóc đắp mặc pháp y, rất không biết gì, mà khiến Quân vương và thân phụ kính bái, vậy rất chẳng gần tình người?". Chư tăng ấy đáp: "Tuy mới xuống tóc xuất gia nhưng hình đã đồng Phật, lại hay làm chấn động cung ma. Tuy nói không biết há chẳng như bùn đất cây gỗ? Bùn đất cây gỗ một khi đã lập thành chủ tượng, giả sử với người thông báo quý thắng, đều không thể chẳng kính bái". Do đó, chư tăng không kính bái người thế tục cũng đã rõ ràng vậy.

Một lần nọ, thần lại thân gần vị Tăng ấy mà hỏi rằng: "Trong kinh Duy Ma nói: "Tỳ-kheo cũng lễ bái sát chân Cư sĩ Duy Ma Cật". Trong kinh Pháp Hoa có một nói vị Tăng thực hành kính bái khắp cùng. Văn trong hai kinh đó nói kính bái người thế tục rất rõ vậy. Cớ sao Tỳ-kheo nay bảo được không kính bái người tôn quý?" Vị Tăng ấy đáp: "Phật chế kinh luật là khuôn phép thường của tăng ni. Với kinh Duy Ma ấy là vì Tỳ-kheo đội ân thọ giáo pháp nên tạm thực hành kính lễ; còn kinh Pháp Hoa, thì Đại sĩ có một thời thực hành biệt hạnh. Sao được đem một thời phương tiện thực hành biệt hạnh mà làm loạn pháp điển thường đây?" Thần rất chấp thuận như vậy. Lại nữa, thần nghe nói, vợ chết gõ chén đi vòng quanh mà ca hát, đó cũng là hạnh riêng của một thời, đâu có thể được dự cùng trong quy chế tang phục.

Lại một lần nọ, thần đến Thiên Trúc, vào kính lễ nơi tôn tượng Đế Thiên, vua nước đó mới cười mà hỏi rằng: "Các sứ thần v.v… đều là Ưu-bà-tắc, cớ sao lại đảnh lễ trời?". Thần bèn hỏi về nguyên do. Vua đó đáp: "Ở đây, với pháp của Ưu-bà-tắc không lễ bái trời. Xưa kia vua Ca-ni-sắc-ca thọ trì năm giới Phật chế, cũng kính lễ tôn tượng trời. Các tôn tượng trời đều đổ ngã nơi đất. Sau đến ngày cúng tế trời, người phụng thờ sợ vua kính lễ, tôn tượng trời sẽ đổ ngã, bèn kính đem tôn tượng Phật đặt trên đảnh đầu trời. Vua vào lễ bái ba lần mà tôn tượng không đổ ngã, rất lấy làm quái lạ. Vua mới sai người xét kiểm đều trong quan mão trên đảnh đầu tượng trời có được một tôn tượng Phật, Vua rất vui mừng tán thán thần đức của Phật, lại mừng người phụng thờ ấy có trí tuệ lớn, mới phong ấy tưởng thưởng, đến nay vẫn hiện còn". Vua đó lại bảo rằng: "Có vị ngoại đạo thọ trì năm giới Phật chế, nên chỉ cúng dường tôn thờ trời mà không đảnh lễ. Vua trách tội không đảnh lễ, vị ngoại đạo ấy tâu cùng vua là: "Tiểu tử đâu dám chối từ không kính lễ, mà lễ chỉ sợ tổn hại cho trời". Vua hỏi: "Trời tổn hại đâu liên quan đến việc ấy?" Vị ngoại đạo ấy liền đảnh lễ, tôn trượng trời liền vỡ vụn. Ưu-bà-tắc thọ trì năm giới còn chẳng được lễ bái trời, huống gì Tăng Ni thọ cụ túc giới mà khiến kính bái thế tục ư?

Vương Huyền Sách nói: "Thần nghe trăm vua ban bố quy luật chỉ lễ chế định ở trong hoàn vức. Đấng Đại giác giảng bài giáo pháp mới là bến bờ ở phương ngoại. Không ai chẳng nhờ từ chân nhân để biến đổi tục, đội nhờ cao tăng mà thay cải thuần phong, bèn được lặng yên sóng cả của bốn biển, thoát khỏi trần lụy của ba cõi. Nên Hán Đế chẳng cúi khuất trước Hà Thượng, Luân Vương kính lễ các Sa-di. Đó tức là đạo tục khác đường, đâu được nội ngoại đồng tập quán. Pháp giáo đã hứa thuận Hoàng Quan (Đạo sĩ) vân du một đạo trong hoàn vũ, đồ chúng Truy Y (tăng sĩ), cưỡi năm thừa đến phương ngoài nhân theo đã lâu; hỗ trợ cảm hóa càng sâu, cỏ rạp gió thổi từ xưa lại nay còn vậy. Thần nghe: Thánh nhân không học ở một thầy cố định, chỉ lấy chủ thiện làm thầy, Thánh nhân tâm không cố định, lấy tâm của trăm họ làm tâm mình. Điềm lành trước kia đã khiến kính tin quy y, nay bàn nghị khiến Sa-môn kính bái Quân vương thân phụ, thật là trái với chủ thiện, trái với tâm của trăm họ. Huống là ca-sa khác với y phục Hoa tục, râu tóc cắt bỏ chẳng phải nghi của chương phủ. Tôn sùng đó thì phước sinh, khinh thường đó thị tội tích chứa. Cùng nên biết, kính bái Quân vương không ích đối với nước nhà, kính bái mẹ cha chẳng lợi cho thân thích. Nếu thần nín lặng không nói thì đâu được là trung là hiếu, thần mạng nên theo khuôn phép cũ, chớ cải đổi trương đồng, Thái Tông Văn Hoàng Đế với cố sự, y như trước chẳng kính bái. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu võ vệ trưởng sử Hiếu Xương, Huyện công Từ Khánh v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ, điều trọng yếu của Tam cương rốt cùng ở Quân vương thân thích, đứng đầu trăm hạnh vốn thật là kính ái. Mà Phật giáo và Đạo giáo đều dùng bỏ ân dưỡng dục, không bái yết Quân vương kính phụng thân thích, bỏ khuyết lễ kính của thần tử (bề tôi và con), vốn là giáo nghĩa có lắm rối ren với luân thường ư? Mở mà lại bày nên đè ép là điều hợp đáng vậy. Nhưng mà then chốt đạo sâu xa, vượt ngoài danh ngôn, tuệ luân xoay rộng cao quá tâm hành. Bọn đạo kinh hành hỗ giúp bạch mã mà ẩn náu thiền pháp, các hàng sửa tánh dừng ở Thanh ngưu mà cảnh tỉnh khế hợp. Tuy dấu vết ràng buộc có tiếp đãi, mà lợi thiệp không ngăn mé, thật nên trọng đạo ấy mà sùng giáo ấy, tôn người ấy mà khác lễ ấy. Do đó, Hà Thượng Chân Nhân thân gần quấn quanh gót chân Hán Hậu, Sa-môn Tuệ Viễn ở Lô sơn, trọn tuyệt bàn nghị của kẻ tôi thời Đông Tấn. Huống là chỗ phát xuất khác vời, hiển bày hay mờ ẩn đâu đồng đường. Mũ dãi lông theo y áo ruộng phước đã chẳng phải lễ phục của triều tông, cưỡi chén mang cục đâu đồng phương đến dưỡng. Lễ nghi bái kính chưa là rất mực tốt lành, nếu vì đạo tuy có thể còn mà xử chẳng phải người đó thì nên cao vợi bờ phòng ngừa kia, luyện nắn luật hạnh ấy, không thể vì người mà khuất ép đạo, thật đáng vì đạo mà khuyên nắn người. Cúi vì hoàng gia mở phát mừng vui, bắt đầu từ đức như rồng, cung cấm ở thể tĩnh lắng, thường sùng kính mỹ phong của Linh thứu, chẳng cải đổi khuôn phép trước, càng tỏa sáng nghĩa của tổ tông. Thản như trái với quy chế cũ tiện mở rộng lễ của sư trưởng thần tôi, trời tan phủ rộng khiến bàn nghị rõ ràng. Trộm nghĩ, thấy nhỏ hẹp, tạm buông lời thô thiển dùng để kiểm đó, chẳng phải dám lấy quả quyết trung thực. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Hữu Oai vệ tướng quân Lý Hối v.v… bàn nghị. (có một bài)

Phàm, chỉ cây để đón bắt tốt lành, cảnh tỉnh Long đức nơi hoàng trụ, đạp hoa làm dấu tốt quý, chống kháng luân bảo ở thần nghi. Mở đầu dấu vết từ thành Tỳ-da, bao quát tử trụ mà mở vũ, thông nền tảng mà luyện tốt tươi, suốt trời xanh mà mở tỏa sáng. Cho nên hay đè ép hay nâng bốc các loại, khống chế dẫu đưa hàm linh an nhàn nơi mười địa mà rảo bước điện biếc mong cầu quả vị, chín trời ngưng xa, mang đeo huyền châu mà hỏi bến bờ. Do đó hiển bày xinh đẹp, hoàng du tỏa hương đế chở, truy phục ngang quần ở trên kiệu, Hoàng Quan tiếp võ tại Trung châu, an tọa kinh thành, đạo chẳng dự tham nơi lang miếu, lên đàn nắm thẻ, dấu vết chưa xếp ở triều tông. Nay muốn ước lấy Nho môn dẫn buộc theo vương chế, nghi trái với đai thao mũ mão, pháp hợp với hốt trâm, bèn là quý chuộng đạo ấy mà khinh rẽ người ấy, tỏ bày giáo ấy mà khuất ép lễ ấy. Lễ tùy theo giáo hiển bày, người do từ đạo tôn quý. Nên có thể vì đạo mà phế bỏ người, chẳng nên vì lễ mà khuyết mất giáo. Thật nên tính hỏi, nên thật đáng giữ theo khuôn phép chương cũ, giúp hỗ mỹ phong cao thượng chiếu sáng dịch tượng, nghĩa là tùy thời xứng hợp ruộng tâm. Chỉ ánh lửa đom đóm vụt bay đâu theo hoa vẻ ở nhật nguyệt, mảy bụi bay sương mốc đỏ, hiếm kết vẻ đẹp ở núi sông. Mạo muội dâng lời thô thiển, nhẹ xem tỏ bày cùng kiệu tụng, ngôn từ thô sơ mà lý nghĩa rõ ràng, kinh hãi đổ mồ hôi tâm thần lo sợ. Kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Tả phụng vệ Đại tướng quân Hoài Ninh huyện công Đỗ Quân Trác v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ: "Chí đạo xung hư, Phật giáo ngưng tịch, bến bờ thứ phẩm, dẫn tiếp quần sinh, tiêu hạnh thô khi chưa nẩy mầm, phát tỏa từ bi khi đã ngộ, nhưng mà thân sau cứu vật tuy mượn ở danh ngôn, khuyến thiện trừng quấy không nhờ nơi thưởng phạt. Tin mới khéo mở phương tiện thầm giúp chánh đạo. Cúi mong Hoàng đế Bệ hạ đức hợp đất trời, ân đượm động thực. Hàm Linh bẩm khí đều tội khúc thành, các hàng Tăng Ni thật nên bái Quân vương thân thích chấp trước ở kinh văn. Thần cho rằng, đạo có thể còn thì lời không thể phế bỏ. Vả lại, Quân vương và thân phụ tôn quý cùng cực, sự tuyệt phỏng thường, đối với thần tử (bề tôi và con) kính chẳng duyên bái, rất khác đạo tục, không hiềm ghét ngạo, đối với sự thấy ngu dốt của thần thì không lễ bái là thích nghi. Kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Hữu Kim Ngô vệ tướng quân Thượng trụ quốc khai quốc hầu Quyền Thiện Tài v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ, Phật giáo và Lão giáo bến dòng từ xa, tìm cầu ở điển pháp thật đáng sùng kính rộng lớn ấy. Đến như hoàng buộc từ tông, thật sáng rỡ cả muôn năm, Hán thất chỉ mở, cũng tỏa thơm ngàn năm. Vả lại, Quân vương thân thích ở tại ba, Nho giáo có lễ chẳng kẻ tôi, Huyền Tịch ở hai, định chế nghi không tiếp bái. Nghĩa là chẳng nên bắt chước theo xưa, xin cứ theo như cũ. Kính cẩn bàn nghị".

Trạng văn của Hữu phụng thần vệ tướng quân

Tân Hoằng Lượng v.v… bàn nghị. (có một bài)

Thích giáo và Lão giáo khắp cùng bốn biển, nguồn dòng từ lâu xa rộng lợi ích đã sâu, dám tỏ bày sự thấy của ngu tình, xin y như cũ là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu xuân phường chủ sự Tạ Thọ v.v… bàn nghị. (có một bài)

Có một đoạn trong sắc chiếu nói: "Nghĩa của Quân vương thân thích đối với ba điều từ huấn thì nó là trọng; đối với trăm hạnh thì kính ái là đạo đứng đầu". Đó thật là yếu đạo của Tiên Vương, nay xin tỏ bày lý ấy. Trộm tìm xét về giáo thì có nội giáo và ngoại giáo khác biệt, người cùng có tại gia và xuất gia chẳng đồng. Người tại gia thì y cứ theo ngoại giáo, vận mặc pháp phục của Tiên vương, thuận theo lời pháp của Tiên vương, trên có lễ tôn kính thân thích, phụng thờ quân vương, dưới có tình mến thương vợ con quan vinh. Đó tức là nối gót của cung hiếu, lý hợp với bến Nho. Người xuất gia thì y theo nội giáo, đắp mặc pháp phục của chư Phật, thực hành pháp hạnh của chư Phật, trên xả bỏ sự quý trọng của Quân vương thân thích kính ái, dưới cắt bỏ tình luyến của vợ con quan vinh, dùng thiện của lễ tụng tự giúp song thân, tạo phước hành đạo để báo ân nước nhà. Đã hứa thuận không vì hủy hình cải đổi y phục là sai quá, thì đâu nên trách lễ phải trọng kính thân thích phụng sự quân vương? Khác với giáo của Khổng Lão, do đó lý tuyệt cảnh thường, chẳng buộc ép Sa-môn phải bái lễ, không tổn hại đến nước nhà.

Tiếp có đoạn trong sắc chiếu nói: "Trong thời Tiền Tống tạm thay đổi mỹ phong ấy, chỉ thời gian ngắn thì trở lại y như cũ". Từ khi Phật pháp hoằng truyền đến phương Đông đến nay đã hơn sáu trăm năm, Đế vương trải qua cả trăm đời, không ai chẳng sùng kính Phật giáo, gieo trồng ruộng phước nơi chư tăng. Cho nên, người cắt tóc xuất gia đắp mặc pháp y đồng với dung nghi của chư Phật, cắt bỏ thân thích giả từ vinh hoa, khác với luyến ái của mọi người, trời người đều kính trọng xưng gọi là ruộng phước. Cho nên xưa Phật bảo Kiều Đàm Di: "Chớ nên cúng dường riêng ta, phải nên cúng dường chúng tăng". Đó tức là lời chân thật của Đấng Đại Thánh, với lý không thể phế bỏ. Nếu lời ấy Phật dạy có thể phế bỏ thì xin phế bỏ tất cả, đâu nên lưu còn mà cầu phước đó, làm nhục đó và trách buộc chư tăng phải bái lễ vậy. Cúi mong Thái tông Văn Hoàng Đế, với Thánh trí thì không gì chẳng thấu đạt, với thần oai thì không ai chẳng kính phục, chư tăng ở đương thời đâu chẳng dễ khiến bái quỳ, nên vì Phật pháp khả kính, trưởng dưỡng dung thiện đó, lại xấu hổ ưa thích khác lạ làm loạn vết thường, nên không làm vậy. Chỉ mong nay đây gần gũi nương theo tiên triều, đạo của thánh hóa, xa bỏ pháp thức quê kệch của thời Tiền Tống thời nhà Tấn, thì ngàn xưa chẳng lấy làm quái lạ, các hàng đạo tục được yên tâm vậy.

Lại có đoạn trong sắc chiếu nói: "Trẫm bẩm nhận kinh trời để xiển dương hạnh hiếu, nương nhờ nghĩa đất mà tuyên bày lễ nghi". Xưa nay thấy khắp thiên hạ đều thực hành hiếu đạo. Tôn thân hiện còn thì dốc lòng kính dưỡng sắc hình, tôn thân quá vãng thì nghĩ tưởng dấu vết lưu lại, thảy đều bẩm nhận đạo chí hiếu của Bệ hạ vậy. Nay bỗng nhiên cải đổi phế bỏ khuôn phép thuần chánh của tiên triều, mà xa mến mộ tục phong dối trá của thời nhà Tấn, thời Tiền Tống. Nay, chư tăng v.v… tuy có vị mờ tối, trộm vì Bệ hạ chẳng chấp thủ vậy. Cúi mong tìm nghĩ vế trước, trở lại y như pháp tắc của trong thời niên hiệu Trinh Quán (527-650) thời Tiền Đường. Đó tức là đạo chí hiếu, không phải khuyên hóa mà tự thực hành vậy.

Lại thêm có một đoạn trong sắc chiếu nói: "Mỹ hóa của Liên Hà (giáo pháp của Đức Phật giảng truyền từ sông Ni Liên) giao phó cho các Quốc vương". Nguyên do cắt chế, rõ thực kết quy ở đó vậy. Trộm tin theo ý giao phó là sợ không như vậy. cớ sao? Đức Phật cho rằng, đến thời tượng pháp và mạt pháp, tâm thuần thiện dần mỏng đạt, tà kiến lớn mạnh, chánh pháp suy tàn, bốn bộ chúng không đủ sức hoằng truyền tuyên dương. Do đó Đức Phật giao phó cho các hàng Quốc vương, khiến các Quốc vương ủng hộ. Nếu các Quốc vương không ủng hộ đó thì pháp sẽ suy tàn tự hoại mất, đâu nhọc giao phó Quốc vương khiến phá diệt. Nay dẫn chư tăng tuy là phàm phu quê kệch nhưng dung nghi tợ Phật, mà khiến buộc chư tăng bái quỳ vậy, một khi đã như thế thì dẫu lưu còn cũng không ích gì! Vả lại, dứt bỏ ưa thích khác lạ, thuận theo đại đồng, thì đó là đạo của Quân vương vậy. Nên, tiên triều nói: "Vì người theo dục nên loạn đạo lớn, quân tử xấu hổ mỹ phong này chưa tỏa xa". Cúi mong nên y cứ mà thực hành.

Hoặc có người hỏi: Trong kinh có nói: "Tỳ-kheo tâm học kính lễ sát chân cư sĩ Duy Ma Cật, Bồ-tát Thường Bất Khinh cũng lễ kính chúng kiêu mạn". Huống hồ nay Thánh chúa hiện làm tướng bạch y, thần đức thì chẳng thua kém Duy Ma Cật, lập hạnh thì chẳng đồng như chúng kiêu mạn, nay khiến chư tăng kính bái là hợp nghi ấy vậy. cớ sao chối từ, dám chẳng vâng theo?"

Xin đáp: Không thể vì hạnh riêng biệt của một người mà làm loạn đại giáo. Nếu vì Tỳ-kheo đảnh lễ Cư sĩ, thì khiến năm chúng kính bái Quân vương thân thích? Người thế tục chịu tang mẹ chẳng lấy làm buồn đau, đâu thể khiến trong thiên hạ có tang thân thích mà chẳng khóc ư? Đến như Trang Chu đối trước thây vợ đã chết mà ca hát, tức biết còn mất chỉ như xoay vần quanh năm. Mạnh Tông chịu tang mẹ, mà chẳng buồn đau, tức đã thấu đạt sống chết chỉ nhất quán. Đó đều là thể đạo thắng vượt khuôn phép, sao chẳng khiến thiên hạ đều thực hành? Nếu vì tình của thể đạo không thể thi hành thành quốc pháp, thì kia cũng hành của chứng lý, đâu được thi hành bàn nghị thuần phong của đại hóa? Phàm bàn nghị tức bởi muốn lấy đại ý để làm thành một pháp tắc, pháp của Tam giáo tức là phép tắc của Quốc vương, phép tắc ấy đã thành thì trọn không thay đổi. Nếu chẳng dùng để thực hành thì phải nên trừ bỏ. Nếu dùng mà thực hành đó, hẳn phải bày giáo tích đó. Xưa trước chỉ nghe các bậc Đế vương lễ bái Đức Phật, chứ chưa thấy Phật đảnh lễ các bậc Đế vương. Do đó, các bậc Đế vương kính trọng pháp phục, tức vì tiên chánh Quốc vương vâng nhận sự giao phó của Phật, trải qua nhiều đời tâm vâng Phật dạy nên vậy. Cha mẹ kính pháp y ca-sa đó, thì không thể khuất ép pháp y của Phật đó, mà chuốt lấy tội quá của cha mẹ. Từ xưa các bậc Đế vương cho phép người xuất gia cắt bỏ râu tóc của họ và đắp mặc pháp y của Phật, không ép buộc theo thường tục. Nay làm bậc dẫn đạo xiển dương giáo pháp mà làm ruộng phước, nếu khiến họ lễ bái thì khuất ép tôn phục đó, vậy nghĩa giao phó ở đâu? Nay muốn cải đổi, sợ mờ tối lý đó, các hàng lưu tâm có điều nghi hoặc, nhân sinh lỗi quá ấy. Thí như tôn kính khám đất tượng gỗ vì đó là đắp họa đồ tả tôn dung Đức Phật, nếu chẳng thấy tướng mà khâm trọng kính thừa, gỗ đất đâu có thể quý được? Đất và cây còn nhờ dung nghi Phật, thì các hàng Tăng Ni lại gá pháp phục, không nhờ không gá, hở chặt ai thay? Với chỗ thấy biết của phàm ngu, mong xin theo cũ, chư tăng không kính bái, lấy làm chuẩn định. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Đại phu Vương Tư Thái, Thừa ngưu Huyền Chương v.v… ở chùa Ngự Bộc bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ, Lai Hương ban bày khuôn phép thật là Chí nhân của nước phương Đông, Kỳ Viên diễn trao giáo pháp, mới là thượng thánh ở phương Tây. Thảy đều hay cắt từ nhẫn ái, tuyệt trần lìa tục, lễ là mỏng dạt của trung tín, vượt đạo đức mà trên buông thả, sắc là không của chân tướng lưu lại hình hài mà sâu thẳm. Cho nên Tiên vương tiếp đãi đó thuộc phương ngoại, Hậu đế hứa làm chẳng bề tôi, tập thấy chúng sinh thường lại đó từ lâu, chóng vì cải đổi làm mới, sợ trái với thấy nghe. Vả lại, chư tăng chẳng phải là đồ chúng tiếp bái, Đạo sĩ khác với đồng bạn bẻ xoay. Nếu như người không tình cảm thì không thể thử được Cảnh Huyền Phong vốn lập đạo, ngõ hầu để dần duy trì chân giáo. Nếu nổi chìm theo loại tục, cúi ngưỡng theo thời, sợ e cơ nghiệp của Thứu lãnh sẽ khiếm khuyết, phong hành của núi dần mất, biến đạo theo Nho, chưa thấy đó đáng nên, nhân theo chớ cải đổi. Trộm nghĩ lấy đó làm thích nghi, Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Vạn niên huyện lệnh Nguyên Thành Tâm v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ Phật giáo và Lão giáo, vốn rất u huyền; Tôn quý của Quân vương và thân thích trọn vốn ở nghiêm kính. Huống gì chỗ hành hóa, chẳng ra khỏi hoàn vức, nghĩa thuộc ở ba phải tuân theo Khổng lễ. Chư tăng chỉ vì tóc cạo nên không thêm nữa, thân mặc pháp y, chẳng thể thêm đai, không mũ không đai, bái cúi mất oai nghi. Như chỗ thấy biết của ngu thần, xin y như cũ là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Trường an huyện úy Thôi Đạo Mặc v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trộm nghĩ, trong ba điều lễ của Cương thường cốt ở Quân vương thân thích; Pháp môn bất nhị riêng bỏ ở tư sự. Há chẳng vì chân trụ biệt cách, Phật đạo phân đôi, gặp phải sủng ái hay hủy nhục đã chẳng phải kinh hãi? Lông tóc da dẻ nhận chịu thì đã hủy bỏ, mũ cao cùng với xiêm đen dối bày nghiêm sức, chống tích trượng cùng vòng đeo kêu leng keng khác nghĩa, đủ khiến người mất mát biết trở về, kẻ mê đi biết trở lại. Nay nếu buộc ép dấu vết phương ngoại đó tuân theo việc trong thế tục, nhất thừa rối rắm điển lễ, tam xuy buông nhả pháp. Chuộng đạo đó mà nhàm chán nghi đó, tiếp hạng đó mà ép chìm gốc đó, nghĩa chẳng phải xét tìm xưa, tông chẳng đủ làm hiển chứng. Ngu cầu đó ngu thành có chỗ chưa thiểm. Vả lại, đạo đó là đạo, huyền đó lại huyền, chỗ các diệu kết quy, mở thuộc thánh từ, nghiệp vào quan ải có thể lớn mà chẳng thể nhỏ, dạy răn của Cư Hà có thể tôn quý chứ không thể khinh thường, giáng buộc rõ tưởng rõ tưởng mới mở rộng tổn ích, mạo muội dâng lời thô thiển, càng thêm lo sợ toát đổ mồ hôi. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Bái vương phủ trường sử Hoàng Phủ Công Nghĩa văn học Trần Đức Chí v.v… bàn nghị. (có một bài)

Thần nghe, Tam giáo đồng kết quy, đốn tiệm tuy khác biệt, chỉ vì hỗ giúp mỹ hóa đều xưng là khuyến thiện. Tuyên Ni soạn tập huấn từ chẳng buộc hàng phương ngoại, Đấng Đại thánh giảng giáo pháp xả bỏ lụy trong hoàn vức. Thất trống sinh một hạt gạo trắng thừa cứu giúp, đồng giá lên đường thông, chỉ đạo là chuyên. Từ khi Huyền Phong chuyển nép, may pháp cuốn thâu, Tăng sĩ và Đạo sĩ vết âm chẳng cùng. Hoàng thượng xót thương quên mất đó, lại thử khiến đều bàn nghị, chỉ dứt tuyệt quý trọng nối dõi hình nghi râu tóc, chống ngọn ngành quỳ bái cúi lễ. Cho nên, nếu bỏ quý trọng ấy mà kiểm ngọn ngành ấy, tỏ bày đạo đó mà khuất ép người đó, sợ tập tục sinh thường, chóng đổi chẳng dễ, cúi mong nghiêm cáo hữu ty, rõ bàn thêm kiến nghị. Như lại nhân tâm chẳng nơi đặt để mới có thể hình lễ Phật, xin tỏ bày thấy biết thô sơ, rất mực lo sợ. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Chu vương phủ trưởng sử Nguyên Trực Tâm, Tham quân Nguyên Tư Kính v.v… bàn nghị. (có một bài)

Yếu chỉ Phật giáo hiếm nhiệm, lý thỏa ngoài hữu hình. Huyền Tông võng tượng, nghĩa vượt ngoài vô danh, bao quát tam tài mà thể yếu, gồm thâu vạn loại mà cùng thần. Hơi khí chân lóe sáng ải dừng như rồng đến phương Tây, mây pháp giăng tỏa đồng nội, noi lớn thuần về Đông. Động ngọc kinh tiên xung huyền vũ hóa, kim dung phép quý diễn Thánh long cung. Chí đạo khó nói, công thần chẳng lường. Kể từ thời nhà Chu nhà Hán đều mang mặc đỏ xanh, điển ngưu ngay đường nhân ẩn ngầm xuống. Vậy đủ biết người hướng đến huyền môn có từ ngàn xưa, kính sùng kinh Phật có cả trăm vua. Cắt tóc mặc xiêm đen chợt xem thường vẻ đẹp dẻ da, đổi mũ áo vàng khinh miệt vinh hoa trâm đai, không ai chẳng chí vượt hoàn vũ, tâm sân du phương ngoại, bỏ nghi tiết tiếp bái, đến hình nghi giới luật, buông khuôn phép lễ nhạc, đi đến nhà rỗng trắng. Do đó, Đức Như Lai bí mật nói dứt tuyệt kính bái Quân vương thân thích, từ xa xưa mãi đến ngày nay không hư nát giáo nghĩa đó. Giáo có thể phế bỏ, thì pháp cũng có thể phán định, giáo bỏ pháp còn, pháp an đặt đâu? Vả lại, giáp sĩ (quan lính) chẳng bái, há binh lính tự tôn thiên nhan chỉ thước tấc chẳng có một kẻ nói quý, đều vì ngậm oai bẩm mạng? Do đó, lễ bỏ khiêm cung, huống gì xa nghĩ mây khói, mở trần tục ở lưới buộc ràng, cảnh tỉnh tình pháp giới, dứt oán hội ở lồng chậu mà khiến giáng nghi dung xuất tục. Mở bày lễ nhập gia, xét theo xưa sợ trái với lý thông, luận nay sợ sai với lẽ thường, bàn nghị tạo dựng thô sơ. Dám tỏ bày thấy biết hẹp hòi, đối cùng soi xét lo sợ sai lầm kính sợ rối ren cõi lòng. Kính cẩn bàn nghị.

Luận rằng: Huyền giáo phế bỏ hay thạnh hưng lý bởi vận ấy, và nhờ cậy có thạnh suy ước cũng bởi mưu người. Hoàng thượng ngự rõ, theo thời đáp ứng phó thác. Sở dĩ ban giáng sắc chiếu khác thường, khuyên răn chư tăng ở điểm rõ biết thời cuộc vậy. Trong truyện Xuân Thu nói: "Chỗ ông nói có thể mà có chăng? Thần dân chẳng thể đó để thành có thể đó. Chỗ ông nói không thể mà có thể chăng? Thần dân có thể đó để bỏ trừ chẳng thể đó". Tôi đã nghe lời ấy nay mới thấy người ấy. Trông Tú Thượng dốc sức giải thích lời Quân vương xướng. Ngôn từ đế khuyết chí thành thực chuyên cần thì chuyên cần vậy, mà trạng văn của Tuyên Công mở đầu thiết thực bao gồm rộng rãi. Tôi không xen lẫn đó, mới nay lấy đại pháp làm trách nhiệm của chính mình, nghĩ thỉnh thoảng nguy nan ấy, người hay mang nặng đạo xa đó, đây tức là người ấy vậy. Trọng Ni nói: "Điên mà chẳng nâng, nguy mà chẳng đỡ, thì lấy gì dùng cung kia vậy?".

Nếu đây thật có thể gọi là chỉ đạo đứng đầu, thật tốt lành thay! Đài Chu phủ v.v… ở trong tay chân bàn nghị, tuy văn chất có trái mà đều được việc cốt yếu, nhưng theo chốt kinh điển tính hỏi nên thật. Lý bày sắc bén, từ vận phong phú, thì xưng hồng bút của Ty Nhung văn vẻ sáng lệ vậy. Nếu nêu bày để rõ ràng, dùng chánh để bàn nghị ước định, ngôn từ văn biện ấy sáng sách, sự việc ấy khơi bày thì Tả Kiêu Vệ nêu cử cương lãnh ấy vậy. Tương lai thấu đạt soi suốt đó, lấy đó vậy.

Tán thán rằng: Chánh pháp đã ẩn, tượng quý dần suy, chẳng có minh triết, ai người khơi sáng? Hiến dâng có thể ngầm mất chăng? Tỏa bay anh tú thật rõ ràng các hiền xưa, nghiệm ở ngày nay, cao vời anh tú, là chấn chỉnh giềng lưới đổ nát, vẻ vang Tuyên Công. Nhân vận ấy hỗ giúp, mọi người bàn nghị đông đúc, mở mang khuôn mẫu thẳng thắng. Lan cúc tuy khác vẻ đẹp, tơ đồng xen làm, Tần Quân hồng bút, Vương Sinh hiển bày bàn nghị, văn chất sai lầm đường. Trung thuần trinh bạch đều mừng vui chỉ có thạch đức đây, mưu tính không gì chẳng diệt, một thời phong tố, ngàn năm tỏa thơm.

QUYỂN 5

THIÊN THỨ BA: BÀN LUẬN NÊN KÍNH BÁI. (Phần Đầu)

Bàn luận nên kính bái tức là nói về Sa-môn phải nên kính bái. Xưa kia Hoàng Giác ứng ngự nơi hoàn vũ còn mở nguồn kính tin hay hủy phế, đâu chỉ trong thời tượng pháp mạt pháp mà chẳng có hàng bàn nghị nên mở rộng hay ước chế? Nhân vì biển pháp mênh mông, các tụ loại khó phân, có dơ bẩn huyền du, từng vang vọng lên tới triều đình. Đến nỗi khiến các kẻ sĩ chấp buộc văn phế bỏ đạo theo người so sánh mà nói đó, chưa thể gọi là xướng lớn thông các phương vậy. Sở dĩ tôi khảo xét các điều đó thật, tùy mà nêu ra, ngỏ hầu các bậc quân tử sùng kính Phật pháp, hoặc có thể xét xem rõ ràng vậy.

- Về bàn nghị kiêm kính bái (cả thảy có ba bài):

Trạng văn của Tả Oai vệ trưởng sứ Thôi An, Đô lục sự Thẩm Huyền Minh v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Hữu Thanh Đạo vệ trưởng sứ Lý

Hợp v.v… bàn nghị (có một bài)

Trạng văn của Trường An huyện lệnh Trương Tùng Thọ v.v… bàn nghị (có một bài).

- Về bàn nghị khiến buộc kính bái (cả thảy có hai mươi chín bài): Trạng văn của Trung Đài ty liệt thiếu thường bá Dương Tư Huyền,

Ty Trách đại phu Dương Thú Chuyết v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Ty bình Thái thường bá Diêm Lập Bản v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Lan Đài Bí các cục lang trung Lý Thuần Phong v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Bác sĩ Lữ Tài chùa Thái

Thường... bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Thừa Đậu Lô Gián ở chùa Ty Tể v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Khanh Dương Tư Kiệm ở chùa Ty Vệ v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Thừa hàn Xử Huyền ở chùa Ty Ngự v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Thiếu Khanh Nguyên Đại sĩ ở chùa Tường Hình v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trạng văn của tự Thừa Tạ Hữu ở chùa Ty Văn v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Nội Phủ giám thừa Liễu Nguyên Trinh v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Ty Tân Giám Lý Nhân Phương v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Hữu Võ vệ binh Tào tham quân Triệu Sùng Tố v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Hữu Phụng vệ trưởng sứ Lý Nghĩa Phạm v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Hữu Kim Ngô vệ tướng quân Tiết Cô Ngô Nhân, trưởng sứ Lưu Văn Tông v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Hữu giám môn vệ Trung lang tướng Hùng Huyền Dật v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Đoan Duẩn phủ Đoan Duẩn Lý Khoan v.v… bàn nghị. (có một bài).

Trạng văn của Tả Xuân phường Trung hộ Hạ Lan Mẫn Chi, tán thiện Dương Lệnh Tiết v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Hữu Xuân phường Trung hộ Hác Xử Tuấn, tán thiện Dương Tư Chánh v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Thừa Trương Ước ở chùa Ty Canh v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Tả dự Nhung vệ Thương Tào Vương Cửu Tư v.v… bàn nghị. (có một bài)

Trạng văn của Hữu dự Nhung vệ tướng quân Hộc Tư Kính Tắc v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Tả ty ngự vệ trưởng sứ Mã Đại Sư v.v… bàn nghị (có một bài).

Trạng văn của Hữu ty ngự vệ trưởng sứ Thôi Sùng Nghiệp v.v… bàn nghị. (có một bài).

Trạng văn của Tả thanh đạo vệ trưởng sứ Tương Chân Trụ v.v… bàn nghị. (có một bài). Trạng văn của Tả sùng dịch vệ trưởng sứ Đậu Thượng Nghĩa v.v… bàn nghị. (có một bài). Trạng văn của Hữu sùng dịch vệ trưởng sứ Lý

Hạnh Mẫn v.v… bàn nghị. (có một bài).

Trạng văn của Tả phụng dụ vệ trưởng sứ Khâu Thần Tỉnh v.v… bàn nghị. (có một bài).

Trạng văn của Hữu phụng dụ vệ suất Vi Hoài Kính v.v… bàn nghị (có một bài). Trạng văn của Ung châu ty công Lưu Nhân Duệ v.v… bàn nghị (có một bài).

---------------------------------

Trạng văn của Tả oai vệ trưởng sứ Thôi An, Đô lục sự Thẩm Huyền Minh v.v… bàn nghị:

Trộm nghĩ rằng khí tía bay vọt chân, mỹ phong huyền tẩn tỏa trùm phương Tây, cầu vồng ngầm hóa vẫn chưa Niết-bàn lưu truyền phương Đông.

Lồng cương ráng ngựa, ảnh ngọc kinh mà ngưng các diệu. Bốn từ chiếu lắng, mở vườn vàng mà dung chí đạo, nghĩa trùm không hữu, lý suốt hy di. Cứu giúp trần mông, huân tẩy nhân lụy. Thần đạo bổ ích, giáo đây sao có chưng bày; thản nhiên nối gót, nghiệp đã tuân theo. Lưu Tệ bàn nghị giúp cùng răn đổi (xin Đàn-hặc rằng: "giữ pháp cao thượng xưng gọi là Lưu Tệ. Trái kinh kính bái thế tịch, gọi đó là răn đổi, tức sự chẳng như lý đó sao?"). Nguyên, phàm kính của tại ba, sáu vị trót vót, tượng của Tôn Ty, gốc của trăm hạnh, bốn thủy tiêu biểu đàm của võng cực. Gốc lập sau đó đạo sinh, kính hình ở nơi lễ mục, thật là đầu tiên của Vương Hóa, là kinh của đất trời. Phật lấy pháp làm thầy, vua lấy trời làm phép tắc. Trong Hoàn vức có bốn lớn, Quân vương đứng ở đầu tiên. Vương đạo đã đồng hành đó, phu pháp hẳn mới đồng suốt. Thân là pháp khí, pháp chỉ gốc đạo. Hoàng Quan mộ đạo, Tăng sĩ phụng Phật, cung kính Quân vương thân phụ, nhỏ nhiệm hợp với Huyền Ba (xin Đàn-hặc rằng: Phật pháp là tôn quý vượt ngoài hoàn vũ, vua trời là lớn ở trong Hoàn vức. Giáo còn mà khiến khuất chiết, chẳng ràng buộc trở lại thuộc loại biện nhân. Đó mới là nước pháp úng ngưng chẳng chảy, sao có nhỏ nhiệm khế hợp với Huyền Ba ư?).

Vả lại, phàm giới lục vừa mới cao, còn dốc hết cung kính bái quỳ, huống gì sang hèn xa cách, chóng bỏ sót kính cung không khuất gối? (Xin Đàn-hặc rằng: Vương Mật nói sở dĩ Sa-môn trên dưới cùng kính mà chống kháng lễ bái ở cung đình, bởi vì tông trí đã đồng, già trẻ thành thứ lớp. Bến đường có khác thì nghĩa không hàng khuất. Thật hay thay lời nói ấy! Có thể lấy làm chuẩn mực vậy). Ắt vì núi rừng riêng đến, vật ngã đều quên, lẫn lộn thân sơ, ngang đồng sủng nhục. Ban ân cho ta chẳng là phải, tổn hại chính mình há xưng là trái? Tự phải hết sạch như vô tình, lắng yên thường tịch, mượn kính ngưỡng ca duy mà cúi đầu, trông thấy thiên tôn mà nhã bái, trần dung chẳng khác tục, kính bái chưa trái chân. (Xin Đàn-hặc rằng: Samôn cạo bỏ râu tóc, đắp mặt truy y, đạo tục khác biết. Kính bái trái với Phật giáo nêu rõ đầy đủ trong kinh văn. Mà nói kính bái chưa trái chân, hình dung chẳng khác tục. Đó chỉ nam mà làm bắc, trái trắng làm đen vậy).

Vả lại, Bá Dương chữ dạy răn ở Hòa Quang, bất khinh diễn bày giáo ở lễ thường, diệu hợp đức của khiêm nhường tôn quý, xa phù với khuôn phép của lân chiếu (Xin Đàn-hặc rằng: Bá Dương lừa dối từ thân của Cơ Chu được sung làm trụ sử, làm quan thì một chức của Vương triều, nói đạo là một dòng của Nho tông, kính bái Quân vương thân thích, đó hẳn hợp nghi vậy. Còn như kính lễ bốn chúng của thường bất kinh là y cứ lý mà thực hành đó. Lý thì không phân chọn oán hay thân, gồm thân sang hèn mà đều kính lễ. Sắc chiếu mới ước tôn quý cùng cực đó mà chẳng chế lễ ở thấp hèn, nêu bày kinh vị hai sông khác biệt, không nên đồng nhất quán vậy).

Lại nữa, trong ba cực, thì sư trưởng ở hạng cuối cùng, cuối cùng mà còn bày lễ kính, gốc sao nghi ư? (Xin Đàn-hặc rằng: trong chúng tăng sở dĩ thầy trò cung kính lẫn nhau chánh vì giáo nghĩa chẳng khác nên vậy, chẳng phải định ước gốc ngọn mà nói, sao lắm mạnh sóng vậy ư?).

Nếu cho là ca sa khác với áo lễ, khăn xoa khác với mũ trĩ. Y phục đã lớn vậy, bái sao hẳn văn hoa. Mỗi tự theo gốc đó, không sai với thể thức thường. Trong đó như có hạng trong trắng ẩn trốn, khuôn phép thanh tịnh trải bày nơi thế tục, thần hóa trẫm hưởng, giới thanh tịnh cần, dáng vẻ duỗi buông chim loan ngô đồng, phạm hạnh thanh tịnh tợ hạc đêm, cờ gấm nêu bày thú, phù ngọc ngự linh, đức hạnh ưu túc, tuổi tác cao già thì có thể miễn khỏi bái lễ, ngoài ra với hàng sơ học hậu Tấn, thanh trần xa vắng, đều khiến nên kính bái Quân vương thân phụ, xin biên ghi đó làm hiến chương thường (xin Đàn-hặc rằng: Nếu cho là không kính bái tức là sai trái. Thì với đức hạnh ưu tú tuổi tác cao già, đâu nên được khỏi? Nếu cho là không kính bái là phải, thì với hàng hậu Tấn sơ học, không nên buộc phải kính bái? Tiến thối mâu thuẫn, lấy bỏ tự trái. Xin biên ghi đó theo hiến chương thường. Sao thấy đó vụng về vậy ư?).

Như vậy thì tấn đức tu nghiệp, khuôn phép vượt xa trần tục ngày càng lớn mạnh, khổ hạnh kiệm tiết nương gá đàn, tâm vào đạo càng tinh cần. Huyền Phong đó tỏa xa, Quốc Chương chỉ tiếp nối, ngõ hầu lấy làm sáng rõ cảnh ấy, thì lắng tĩnh một sai nhầm tệ hại. (Xin Đàn-hặc rằng: Lấy trái tông làm cảnh thì cho giữ pháp là sai lầm tệ hại. Ước đó để nghiệm thấy sao khả quan?). Tự ta làm nên dẫn bó buộc của xưa cũ. Phàm, gương là lý phi thường hẳn gá soi chiếu phi thường. Trời cao soi xét thể suốt tinh vi, tham hết di tông của ngoài vật tượng, cùng cực sâu xa trong hoàn vũ, tuy là tạm kinh hãi với kẻ thường nghe, nhưng ước cũng trọn ngầm hợp đạo lớn vậy. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu thanh đạo vệ trưởng sứ Lý Hợp v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Đạo giáo xung hư, Phật môn bí tịch, đến như hiển bày tức nhân để cứu vật, tôn sùng nghĩa làm tâm, mới nhìn qua phong hóa Nho giáo, lý gần như không khác. (Xin Đàn-hặc rằng: chỗ tỏ bày của Nho giáo chẳng vượt khỏi Hoàn vức, điều biện giải của Phật môn cao vượt ngoài thấy nghe. Nên Ngụy Đông Dương khi nói Phật pháp xung hợp, chẳng phải chỗ biết của Nho mặc. Nay nói không khác, sao lắm sai lầm vậy?). Đến như các bậc túc đức tuổi cao, giới hạnh không khuyết, nương rừng ẩn cốc, cao chuộng việc ấy. Với các hạng người đó rất mực tôn sùng. Trong đó lại có những kẻ tuổi trẻ mới tầm cầu huân tu chẳng vẻ vang, trái chân lẫn tục, tâm hạnh lắm sai quấy, nếu cho họ không kính bái, nghĩa khó thông thỏa (Xin Đàn-hặc rằng: phàm xưng là Sa-môn tức thế nào ư? Nghĩa là tiếp nối dòng pháp làm bậc hiền tượng, khai mở cải hóa mê mờ. Hình nghi khác với nghiêm sức đai mão, khuôn phép đâu như mẫu mực của lang miếu. Vì cầu tông nên thẳng hình hài, ai có thể phân rành đức nghiệp đó, chỉnh sửa thế tục nên do đó mà chống kháng bái lễ, đâu phải hình dung cách biệt mà cho là tôn quý và thấp hèn?). Chỉ ở tại nhà tại nước, tôn thờ Quân vương kính phụng thân thích, hình nghi chẳng kính bái, vậy lấy gì để có thể dạy răn? (Xin Đàn-hặc rằng: Thật đúng thay! Người tôn thờ quân vương, kính phụng thân thích không nên không kính bái. Nhưng Samôn không phụng sự vương hầu, trái ân thiên thuộc, lấy kính bái làm dạy răn, tợ hồ như chưa nghĩ đến đó vậy?). Cúi mong xin ban sắc nên kính bái, lưu lại khuôn phép cho đời sau. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Trường An huyện lệnh Trương Tùng Thọ v.v… bàn nghị.

Trộm nghe, Phật giáo và Đạo giáo đồng một hư tịch, nếu như chẳng hay luyện tâm phương ngoại, diệt ảnh ở nhân gian, còn phải dấu vết đồng với tục phần, sự tình cùng thời cuộc cách biệt. Nhưng nay các hàng xuất gia phần nhiều xen tạp trong cõi trần, ngoài vì chẳng khuất núi mà tự cao, trong vì riêng yết kiến lấy làm duyên. Rỗng có tên nhập đạo, mà trọn không thật lìa tục (Xin Đàn-hặc rằng: Không khuất cúi là do kính phụng pháp nên vậy. Còn riêng yết kiến thật trái với giáo nghĩa. Bàn nghị chỉ có thể cao trót vót, khoa chọn ấy nghiêm trừng hạng chẳng thỏa thích, buông tuồng. Sao có thể tuông phóng lửa Côn lôn mà muốn đều thiêu đốt ngọc thạch ư?). Đến như địa vị của Quân vương thân thích, lễ gồm cả thần tử (bề tôi và con). Chỗ hiếu kính tôn quý nghĩa sâu với nước nhà, chẳng có chế độ lấy gì làm kinh luân? Cúi mong các hàng Tăng ni, Đạo sĩ, nữ quan v.v… đạo là thời cuộc phải là sự tình nhân pháp hợp, tuy ở Quân vương mẫu hậu, nên y theo thể thức xưa cũ. Bỏ từ đây và đã qua, xin khiến nên kính bái. Như khi trở về hầu thăm song thân, đạo làm con phải tỏ bày, còn lúc ở tại chùa quán thì mặc tình tuân theo pháp Phật (Xin Đàn-hặc rằng: Phàm Tăng Ni hợp nên kính bái thì không tuyên chẳng kính bái. Còn không hợp nên thì đâu thể phân chọn thời cuộc phương sở nào được. Xuống tóc xuất gia đồng là một người, ước xứ tiện mở, khác lễ pháp phục trước sau không hai. Căn cứ sự tình bèn chế khác kinh. Đó mới là đầu đuôi hai mối. Nếu như cần muốn thời cuộc vẻ vang, thì chưa thể gọi là chí làm lớn mạnh nước nhà hiến phụng trung trinh?). Ngõ hầu để hàng thấp hèn cúi khuất mà xấu hổ, hơi lắng yên sự trôi nổi đua tranh. Lấy đạo đức tự tôn quý, dần dần hoằng dương giáo pháp. Tạm dâng sự thấy biết của phàm ngu, rất mực thẹn sợ. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Trung đài ty liệt Thiếu thường bá Dương Ty, Huyền Ty Trách Đại phu Dương Thủ Chuyết v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Phật giáo và Đạo giáo vốn chuộng hư huyền, diễn bày phương tiện ở ba thừa, khế hợp quên lời ở một chỉ, chỉ tịch chỉ khoan. Nay các pháp lữ, thật có nhiều đồ chúng, từ lâu tổn bỏ lễ nghi bái quỳ (Xin Đàn-hặc rằng: Xứ nào khiến buộc kính bái mà nói là tổn bỏ?). Tự ở nơi chốn cao thượng, ước theo giới luật hữu vi, tiếp bái Quân vương thân thích vô thượng (Xin Đàn-hặc rằng: Cắt tóc xuất gia đã kính phụng Phật tông, giữ giới không nên thiết lễ). Suy đó tình người, tình giao thiệp xen lẫn hư dối, tìm cầu chí lý đó, lý chỗ chưa thông (Xin Đàn-hặc rằng: Suy đến tình người, Sào Hứa không nói xen lẫn hư dối; tìm cầu đến chí lý, Sa-môn sao gọi là chẳng thông?) Khiến nên kính bái Quân vương thân thích, ngõ hầu lưu lại khuôn phép cho đời sau. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Ty bình thái thường Bá Diêm Lập Bản v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, tịch diệt ban bày khuôn phép, còn mở rộng bàn nghị hiếu kính; vô vi xiển dương pháp hóa, trọn hợp với lễ kính cung. Tuy đạo vượt khỏi có thể nói, đạo còn hệ thuộc ở tam tôn. Pháp không các pháp, pháp còn bao gồm ở bốn đại. Huống hồ hoàng du xa thoáng diễn nghĩa đất để tuyên phong, ân Thánh rộng đượm, thấm kinh trời vừa khắp nhuần. Chỗ chỉ đức trùm khắp, không cách ngại bởi tối sáng. Đạo lớn gồm thông, nên không phân chân tục, mà các kẻ sĩ trái phương, không mê tâm tướng vật, các hàng chìm đắm trong trần tục còn buộc lụy tự ngã (Xin Đàn-hặc: Nay chư tăng không ai chẳng do từ Thánh triều trở lại độ vì nước nhà, sẽ dùng giúp phụng lăng miếu, bến bờ phẩm thứ, mà nói trái phương đắm tục, há không tổn phước của hoàng gia ư?). Chẳng biết quý của cửu trùng, không hay tôn của được một, tuyệt dứt trung hiếu đối với Quân vương thân thích, vất bỏ kính ái đối với mẫu hậu, tìm đến chí lý, trộm cho là chẳng thông. Khiến đều kính bái Quân vương thân thích, để khỏi trái với biển pháp cũ. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Lan Đài Bí các cục lang trung Lý Thuần Phong v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ rằng, trong ba điều trọng đối với vua, cần yếu là Quân vương vô thượng (Xin Đànhặc rằng: Sa-môn đội nhờ ân vào đạo, chẳng phải nói cần yếu quân vương). Cùng cực của ngũ hình, chẳng phải hiếu không thân thích (Xin Đàn-hặc rằng: Thân thích cho phép xuất gia, cớ sao là chẳng phải hiếu ư?). Do đó, trái đức nghịch lễ là cội nguồn của đại loạn (Xin Đàn-hặc rằng: Chư tăng mọi cử động đều y theo kinh giáo, chẳng phải trái nghịch đức lễ vậy). Chỉ kính chỉ trung mới là khuôn phép chân chánh để kinh bang (Xin Đànhặc rằng: Chư tăng v.v… tuy hình nghi khuyết thiếu sùng phụng thân thích, mà trong lòng nghĩ nhớ hiếu kính ấy, lễ có trái chẳng phụng sự chúa mà tâm luôn ẩn náu ân trung vậy). Đến như Lão giáo hư tịch, vốn mềm yếu vì toàn cong, kinh điển Phật sung hy, thường bất khinh lễ kính khắp cùng (sự kiện như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Tả oai vệ), chưa nghe ngạo mạn đối với Quân vương thân thích, khoe dối với các hàng thứ dân (xin Đàn-hặc rằng: Sa-môn thân đủ giới Phật, hình đủ nghi Phật, trời người tự kính ngưỡng, sao gọi là ngạo dối ư?). Có thể đem thuần phong mà khuyên thế tục, an nước yên nhà ấy vậy. Nay khiến các Đạo sĩ, nữ quan, Tăng Ni cung kính tiếp Quân vương thân thích, đối với Phật giáo và Đạo giáo không khuyết hại. Xin Đàn-hặc rằng: "Kính bái vua thì vua bỉ tổn phước; kính bái thân thích, thì thân thích bị tổn hại. Thân hành kính bái tức trái ngược giáo điển, ai bảo là không khuyết hại ư?). Lại theo chánh pháp của Quốc vương, cải đổi tệ hại sâu nặng trước, dẹp trừ hư dối (Xin Đàn-hặc rằng: Đem thuận pháp làm hư dối tệ hại, dùng trái giáo mà phế trừ cải đổi. Có thể gọi là đầu đuôi thích vượt, trái đạo càng lắm nhiều). Khiến đó trọn biết phương thức tùy thuận, lại biết trọng của thiên tánh vậy. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Thái Thường tự Bác sĩ Lã Tài v.v… bàn nghị.

Thứ nhất, kính cẩn căn cứ theo Đạo Đức Kinh của Lão Tử nói là: "Trong Hoàn vức có bốn đại, Quân vương đứng đầu vậy". Lại căn cứ theo kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: "Bồ-tát ở địa vị trước tam hiền đáng làm chủ trong tứ thiên hạ". Và ở Nội Kinh lại nói: "Giả sử vị Tỳ-kheo đã chứng đắc quả vị Tu-đà-hoàn, trải qua tám vạn kiếp mới thấy ở Địa Tiền". Nay khiến các Đạo sĩ nữ quan kính bái, các hàng Tăng Ni trong Hoàn vức kính bái Bồ-tát Địa Tiền. Đó mới là chẳng trái với chánh giáo, xứng hợp thích nghi ấy (Xin Đàn-hặc rằng: Trong kinh Phật sở dĩ không khiến chư tăng kính bái người thế tục, bởi vì xuất xứ chẳng đồng nên vậy. Giả sử khiến hàng Bồ-tát Tam Hiền làm chủ ở tứ thiên hạ, mà còn hiện tướng có vợ con, chẳng bỏ gia đình địa vị, tin sâu mà nói vậy. Kính bái thì không thật nói. Nên trong kinh Niết-bàn nói: "Các người xuất gia theo các hàng bạch y, hỏi nhận điều chưa nghe, không nên lễ bái". Căn cứ theo đó thì trái khác bản giáo, sao gọi là xứng hợp thích nghi ấy?). Hoàng hậu, Hoàng thái tử tôn quý đồng như Quân vương, với lý hợp nên kính bái (Xin Đàn-hặc rằng: Kinh Nhân Vương nói, pháp của người xuất gia không kính bái quốc vương. Quốc vương chẳng hứa thuận để kính bái. Từ đó xuống đoán định có thể biết vậy).

Thứ nữa, lại căn cứ trong Đạo Đức kinh nói là: "Một người Đạo sĩ đắc đạo mới truy vinh bảy đời cha mẹ". Đây thì lập thân thành đạo, quý ở nghĩ nhớ hiển bày đời trước. Ngày nay, nếu người chưa đắc đạo, đối với cha mẹ hiện đời này, với lý hợp nên lễ kính. Lại căn cứ Nội kinh nói là: "Cõi nước Diệu Lạc ở phương Tây vốn là do nguyện lực của Tỳ-kheo Pháp Tạng mà thành". Vậy, rõ biết chỗ của diệu lạc, tức là nơi Tỳ-kheo cầu nguyện vãng sinh. Lại căn cứ theo Vô Lượng Thọ Quán kinh nói: "Người nguyện sinh về cõi nước Diệu Lạc, trước phải hiếu dưỡng cha mẹ, sau là đầy đủ giới hạnh". Nhưng kinh xưa chẳng thấy, tức phải quỳ hỏi nghi thức của hiếu vậy. Không kính bái cha mẹ, sao thành hiếu dưỡng? Nay khiến các hàng Tăng ni Đạo sĩ nữ quan kính bái cha mẹ, cũng là chẳng trái với bản giáo (Xin Đàn-hặc: Như chỗ kinh nói, người sinh về Tây phương gồm thông cả đạo tục. Nói hiếu dưỡng cha mẹ, đó là nói rõ nhân của người thế tục vãng sinh. Nói đầy đủ giới hạnh, đó tức là nói rõ nhân của người xuất gia vãng sinh. Đó thì đạo tục cách biệt, tu hành có khác, sao được xen lẫn đồng với hai nhân đó, đều nói là đồng đạo trong dòng họ Thích. Vả lại, hiếu dưỡng khác nghi, đâu chỉ quỳ lễ dương danh đời sau cũng đến đó vậy.

Cho nên trong Ngũ Phần Luật nói: "Nếu các Samôn ở trên hai vai phải trái cũng đội cha mẹ, cha mẹ ở trên thân đại tiểu tiện dơ bẩn, dẫn có trải qua một kiếp, còn chẳng thể báo ân của trong chốc lát. Còn nếu khuyên bảo cha mẹ nhận biết Tam bảo, Tứ đế, thọ trì năm giới, thực hành mười thiện đạo, thì chỉ trong khoảnh khắc tức đã báo đáp ân sâu của cha mẹ". Cớ sao như vậy? Những việc đội mang v.v… là người trung thiện, chẳng thể khiến cha mẹ sinh lên cõi trời hay chứng quả Thánh. Nếu khuyên bảo cha mẹ nhận biết Tam bảo, Tứ đế, nhân quả, phát tâm thọ trì trai giới, do nhân duyên ấy tức có thể chứng Thánh. Lại nữa, cũng trong Tứ Phần Luật nói: "Phật dạy các Tỳ-kheo không nên kính bái tất cả các hàng Bạch y". Cha mẹ tuy nói là ở địa vị tôn quý, nhưng trọn đồng thuộc hàng bạch y, Phật dạy không nên lễ bái, nếu lễ bái tức là vùi lấy vô lượng trọng tội. Cùng tột của bất hiếu đâu vượt quá ấy ư?).

Lại nữa, kính cẩn y cứ theo Chu Lễ thì có nghi cửu bái, thứ nhất là cúi đầu, và ghi chú là đầu gục đến sát đất vậy. Lại căn cứ theo Thượng thư nói ở trong kính bái của Võ Ích v.v… đều nói cúi đầu. Đó là cung kính lễ bái Quân vương thông cả xưa nay vậy. Nhưng ngày nay các hàng Tăng Ni lễ bái chánh phải đúng pháp cúi đầu. Do đó, trong kinh Duy Ma nói: "Dẫn chúng theo tĩnh lắng mà cúi đầu". Nhưng nay nếu khiến các Ni làm phụ nữ quỳ bái, chỉ vì y phục không cân xứng, sợ sai với thường tình. Thánh nhân vô tâm, lấy tâm của trăm họ làm tâm mình, thế tục thực hành đã lâu không cầu cải đổi. Nay khiến chư ni v.v… bái kính, mong xin đều nên cúi đầu, đó tức là không trái với nghi của xưa nay vậy, thuận với tụng của mọi người (Xin Đàn-hặc rằng: Phàm kẻ sĩ Hy Nhan cũng thuộc loại của Nhan Thừa, của Mộ Ký cũng thuộc loại của ngựa ký. Nay chư ni v.v… giả từ vinh hoa nhập đạo là một không khác, sao riêng lo sai với thường tình, tức muốn khiến đó cúi đầu? Nếu vậy, chẳng cầu xin cải đổi cúi đầu, chưa phải theo thường tình. Đã chẳng theo vậy thì đâu thuận với tụng của mọi người?). Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Ty tể tự Thừa Đậu Lô Giản v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Phật giáo giảng truyền khuôn phép, nghĩa tại hư tịch; Đạo giáo lập ngôn, lý kết quy tổn bỏ tiếp bái, đâu tự kính chuộng. Nhưng sau vì cao (sự như Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Bí các cục). Nếu là nghi của vua tôi cha con, thứ lớp của cao thấp sang hèn, cùng với Nho giáo phân đường đồng đi. Chỉ vì các hàng Đạo sĩ, Tăng sĩ chưa thông chánh pháp, phân ngôn tịnh giới chưa thể thọ trì bền bỉ, chỉ dựa nương pháp y bình bát để tự tôn sùng (Xin Đàn-hặc rằng: Trong kinh xưng gọi là ca-sa, là tràng tướng của chư Phật, lại nói đồng pháp khí đó. Cho nên trong kinh Thập Luân nói: "Voi chúa thấy người thợ săn đắp mặc pháp y casa, do cung kính đó nên tự nhổ bẻ ngà mình dâng cho thợ săn đó". Lại nữa, trong luật Tứ Phần nói: "Đại đức Bà-già-đà nhiếp phục rồng độc ở trong bình bát". Vậy đủ biết công năng của y bát pháp khí chẳng nhỏ, hành trì đó tự quý, sao lại nghi ngờ sâu xa? Vả lại, mang áo bảng thế, Trọng Ni còn kính, huống gì pháp khí y phục đây mà chẳng tôn trọng ư?). Đạo khiêm nhường chỉ huy đã khuyết, hạnh huân tu càng mất. Vậy thì cùng cực của tôn nghiêm vốn thuộc Quân vương thân thích. Chỗ kết quy kính giúp, đạo tục nào khác biệt? Trên động đến Thượng hoàng soi xét, dưới phân chọn lời thô thiển, cải đổi mà trưng bày, xin tuân theo lễ bái. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Ty vệ tự Khanh Dương Tư Kiệm v.v… bàn nghị.

Cứng rắn dễ gãy, mềm dịu thường còn. Như quạt diệu chỉ của Huyền Phong, khổ nhọc hình cam chịu nhục; nương lời mầu của họ Thích, nên hay khai mở tốt lành cho hàng hạ lưu, hoằng truyền hạnh của Thường Bất Khinh (sự việc như Đàn-hặc trong bàn nghị của Bí Các). Do đó, Thanh văn cúi lễ kính Cư sĩ (Xin Đàn-hặc rằng: Cư sĩ Tịnh Danh hiện bày tướng bệnh ở thành Tỳ-da, thấy có vợ con thường tu phạm hạnh, thấy có quyến thuộc, thường thích xa lìa. Tuy là bạch y mà phụng trì luật hạnh thanh tịnh của Sa-môn, đã đồng hàng như chư tăng nên bái quỳ hẳn là thường nghi. Huống là hiện bày tâm xưa trước kia đắc pháp, sao dung thứ chẳng mang đội. Dẫn nêu đó làm lệ, sợ chẳng phải nên). Trụ Sử cúi mình trước Chu Vương, đó là thành biểu chức của Sa-môn, lập khuôn mẫu của Đạo sĩ. Từ đó giáng mất khuôn phép tông phong ấy, nhiều đời chìm nghỉm chân lý đó, tập tục lấy theo đường mê đó (Xin Đàn-hặc rằng: Phật giáo lưu truyền vào Trung Hoa, trải qua nhiều bậc anh Thánh. Đã năm lần gặp phải ép buộc kính bái, ba lần bị phế trừ sạch. Đều vì sự lý khó trái, lại tuân theo vết cũ. Nay lấy giữ mê chìm mất lý, tợ hồ thương tổn xa lừa dối). Một người có làm, muôn vật trông thấy đó, giềng mối đất trời đều giá cả trăm vua, xoay chuyển kim luân nơi cảnh thắng, dựng tạo ngọc kinh ở vức huyền, bèn khiến Đạo sĩ trái chân, truy tìm di phong xa của Trụ Sử, nắn sửa giải mở các Sa-môn, tiếp nối tuyệt điển của Thanh văn (Xin Đàn-hặc rằng: Phật giáo nói rõ người có hai hạng, đó là Thanh văn và Bồ-tát. Với hàng Bồ-tát thì hình chất không cố định, ứng hiện tùy loại để thích nghi. Còn hàng Thanh văn cạo bỏ râu tóc đắp mặc pháp y, giữ gìn vết cao mà thành phép tắc. Giáo pháp chế định hàng Thanh văn không nên kính bái hàng bạch y, thuận vì vâng phụng tuân hành, sao gọi là nắn sửa giải mổ?). Huống là thái dương tỏa sáng, giữa trời nêu ánh ngời không hai; Đại Đế xưng tôn ứng ngự hoàn vũ tột cùng quý thông ba? Vả lại, Phật giáo và Đạo giáo đặt chế khuôn phép trong tuyệt dung nghi trần tục, nhưng sự chỉ xuất gia, chưa thể trốn vượt nước nhà (Đàn-hặc rằng: Samôn sở dĩ không kính bái người thế tục chính vì dứt tuyệt dung nghi trần tục, chẳng phải là kẻ vượt trốn nước nhà. Đến như các vị nghiêm quang can mộc, tài tuấn đồng hàng với Thương Sơn, hoặc ngồi xổm bái yết, hoặc tiếp bái dài, đến đó mà chẳng ở, rửa tai từ chối vinh hoa, dâng hiến đó mà chẳng đến, đó cũng là cao vết ấy vậy, đâu có vượt trốn nước nhà ư?). Đồng bẩm nhận hình ở kiếng chị em dâu, đều kính ngưỡng cảm hóa từ thuần phong tốt đẹp. Đâu có chống kháng lễ kính cung đình, riêng cao khuôn phép châu. Nhưng khinh thường tôn thân ngạo dối huynh trưởng, ở người làm trái ngược tôi vua kính cha, đối với đạo không hiềm ghét. Xét rõ nghĩa đó thì bái quỳ rất là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Ty ngự tự Thừa Hàn Xử Huyền v.v… bàn nghị.

Lễ không gì chẳng kính, Danh giáo phải đứng đầu. Quân vương và thân phụ đồng vốn chỗ kính chuộng của thường luân, huống hồ chân nhân khéo xuống, diệu ở Hòa Quang! Bồ-tát Thường Bất Khinh, nghĩa dẹp trừ ngã mạn (sự việc như Đànhặc trong bàn nghị của Ty vệ). Đó là sai nhầm nghĩ lo đều đến cùng, phân sóng chung nguồn, do đó giềng mối trăm vua, của cải thành muôn phẩm ấy vậy. Mà các đồng bạn của Sa-môn Đạo sĩ men tập lấy làm thường, tiêu mất kính ái đối với Quân vương thân thích, thực hành cống cao đối với tôn cực, cẩu thả theo tư dục (Đàn-hặc rằng: Sa-môn cắt bỏ râu tóc, xa lìa vinh hoa đua tranh, giữ đạo chẳng cúi khuất, đâu theo tư dục ư? Khác xưng ngôn hạnh, then chốt của quân tử, vinh nhục tại đâu, sao có thể chẳng thận trọng?) Làm rối loạn kinh trời, chấm vết thanh trần của Lai Hương, phụ trái diệu chỉ của Liên Hà (Đàn-hặc rằng: Thông giáo của Liên Hà đều nói khiến các Sa-môn kính bái, tức có tổn hại đối với Quân vương thân thích. Dạy bảo rõ ràng, sao gọi là phụ trái diệu chỉ?). Lắng lời dứt niệm, mới có thể lạnh lòng (Đàn-hặc rằng: Kinh Phạm Võng nói: "Pháp của người xuất gia không nên kính bái Quân vương, cha mẹ". Lại nữa, trong kinh Tát-giá-ni-càn nói: "Nếu người phỉ báng pháp của Thanh văn, Bích-chi Phật, hủy hoại tức đều lưu nạn, các thiện thần vương chẳng ủng hộ nước đó, bốn phương giặc dã dấy nổi. Sông nước khô cạn không điều hòa, dân chúng chết mất nhiều vô số". Nay không tin Phật dạy, ép buộc chư tăng bái quỳ, đó tức là phỉ báng pháp, đó tức là lưu nạn. Nếu lời Phật có nghiêm trừng, thì vở đầu nát thân, không lấy làm bít trách, đâu thể lạnh lòng lắng niệm mà có thể khỏi đó ư?). Như chỗ thấy biết của phàm ngu, kính bái là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tường hình tự Thiếu Khanh Nguyên Đại sĩ v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, từ khi Phật giáo lưu truyền sang phương Đông đến Bạch mã, chùa chiền bèn dựng tạo; Thanh ngưu lan tỏa đến phương Tây, Đạo quán nối dựng xây, không đâu chẳng soi chiếu kẻ hôn mê, dẫn đưa vọt cao mỹ hóa. Nhưng khuôn phép tôn kính Quân vương chọn lựa khuyết lời, lễ nghi không kính bái nhân theo xưa trước có, chẳng phải nghĩa thẳng tình trái vật, ước cũng lý trái Thánh kinh (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Trung Đại ty liệt). Vả lại, pháp phục chế nghi phô bày khác hẳn phàm lưu thường kính. Liên hoa tòa báu, đâu nói chẳng kính bái đối với Quân vương thân thích? (Đàn-hặc rằng: Đồng vốn từ đá sinh, châu ngọc nhân nước dưỡng thành. Người lấy đó mới ủy truyền đó nêu lầm mê, huống gì Phật giáo sâu mầu, lý khó lén trông can thiệp, không biết mà làm, đó nghĩa là gì ư?). Quân vương có tôn quý của đất trời, kính Quân vương xa phù hợp với kinh giáo. Thân thích hiển bày ân ban sinh dưỡng, kính bái thân thích xa hợp với nguồn pháp. Vỗ yên ở sự, có ích đối với kinh; vỗ yên ở lý chưa khuyết hại đối với giáo. Dẫn nêu thấy biết của phàm ngu, thiết bày lễ kính là nên. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Đồng văn tự Thừa Tạ Hữu v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, điều trọng của Quân vương và thân thích là sự cùng khắp hạo nhiên, nghi của cung kính, lý suốt danh giáo. Đến như ngưng tâm đường huyền, gieo vết pháp môn, không ai chẳng cung kính thần minh, chẳng khinh phẩm vật (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Ty Ngự). Đâu có buông ngạo đối với chỗ sống, chẳng cúi khuất đối với Quân vương thân phụ. Đã trái với lễ của cung kính thuận vâng, sợ lụy đến nhân cầu đạo (Đàn-hặc rằng: Thật nhân chẳng lụy, mà đó sao như vùi lấp Quân vương thân thích vậy?). Xin đổi phong tục cũ, chuẩn sức nên lễ kính. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Nội phủ giám thừa Liễu Nguyên Trinh v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Lễ không gì chẳng kính, Danh giáo phải đứng đầu; Quân vương thân phụ đồng vốn chỗ kính chuộng của thường luân. Vả lại, sau khi Phật diệt độ, giáo pháp giao phó cho các hàng Quốc vương, khuôn phép buông cuộn, lý cảnh minh thánh (Đàn-hặc rằng: Hữu Xuân Phường bàn nghị nói là: phàm giao phó là do Phật cho là trong thời tượng pháp và mạt pháp, tâm thần dầm mỏng dạt, tà kiến lớn nhiều, chánh pháp suy mất, bốn bộ chúng không sức hoằng tuyên. Do đó, giao phó cho các hàng Quốc vương, khiến các Quốc vương ủng hộ. Nếu như chẳng ủng hộ thì pháp sẽ tự hoại diệt. Đâu nhọc giao phó khiến các vị Quốc vương hoại diệt. Thật hay thay! Ý chỉ được giao phó vậy). Chỉ định chế khác thường nên như người đời, kinh ngạc tâm đồng như sấm sét, quân tử lấy làm xấu hổ, tự ta làm nên mới cao sáng điển pháp nhật nguyệt có thể khiến. Do đó, sao ép buộc tốt lành của gió mưa, như chỗ thấy của phàm ngu, thì kính bái là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Ty Tân giám Lý Nhân Phương v.v… bàn nghị.

Đạo ái kính nghĩa tận cùng ở Quân vương thân thích, đức cung hòa sự sáng với nơi Thích giáo và Lão giáo. Đâu có sống nhân nhờ cho mà chống kháng lễ đối với trời người. Hình chất bẩm nhận tóc da, bèn đồng tôn quý như cha mẹ. Trông nói phương ngoại, chưa lìa khỏi giữa khoảng đất trời; trông thấy chỉ phô bày ở tục, còn tại Hoàn vức diêm phù (sự việc như đã Đàn-hặc ở bàn nghị của Ty vệ tự) mà là không kính bái thiên tử, loại chẳng bề tôi của Nghiêm Tuân, bái dùi chí thân, tợ danh mẫu của Tống nhân. Lấy gì làm bến bờ phẩm vựng dẫn dắt hàng phàm thứ? Giáo điển của Thánh trí đâu đến như thế? (Đàn-hặc rằng: Dịch nói: "Mượn dụng cỏ tranh bạc". Lại nói: "Tốn ở dưới giường, phấn nhã tốt lành mới là không trái, chưa có ép khiến kính bái". Lại nói: "Bến bờ tôn mà nhục", đó sao lấy bỏ?). Vâng phụng sắc chiếu bàn nghị tấu trình, cúi xin khiến nên kính bái. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu võ vệ binh tào tham quân Triệu Sùng Tố v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Tam giáo hưng khởi đều thuần khuyên dẫn, phái dòng tuy khác, nhưng hướng thiện đồng kết quy. Dấu vết của Sa-môn và Đạo sĩ hơi khác, lễ nghi của Quân vương và thân thích há cách biệt? Đâu có mới bỏ áo thế tục, bèn cao ngạo lễ dung, cao tiếp cưỡi khiêng mà không bái cúi nghiêm phụ! Đạo giúp kính chẳng đủ, dấu trung hiếu chóng khuyết, mỹ phong ấy của Phật giáo và Lão giáo chưa phải là tốt lành rốt cùng (Đàn-hặc rằng: Trong dẫn ngoài trái ngược, chân tục trái nhau, đâu được lọng múa đầu bút, thương lược huyền cực? Khổng Tử nói: "Chẳng phải Thánh nhân thì không thành pháp". Thật hay thay!). Nay mới ban khuôn phép lập quy chế, đạo đức ngang bằng lễ, kinh điển trái mất, rõ ràng bàn nghị cải đổi, căn cứ lý luận bàn tính, kính bái thật là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu Nhung vệ trưởng sứ Lý Nghĩa Phạm v.v… bàn nghị.

Cha hiền con hiếu xuất phát từ kinh trời, vua nghĩa tôi trung vốn có lễ đất. Trọng của tam tôn, Quân vương đứng trên cả; cao của Ngũ giáo, thân phụ xếp đặt đầu. Giềng mối của nhân luân, quy tông của thần tử. Trước Phật giáo và Đạo giáo hưng thạnh lớn mạnh, đạo tục khác thói, sau lấn vượt đồng nương thuộc quốc vương. Liên Hà chế định đó ở chư quân, Lai Hương hết biên ở nhà trời. Huống gì Đức Thích-ca diệt độ, đem giáo pháp giao phó cho các Quốc vương (sự việc như đã Đànhặc ở trong bàn nghị của nội phủ giám). Con cháu của Lý Lão khắc thành tạo dựng lớn, Sa-môn và Đạo sĩ thay tục, nắm gương báu vì Quân vương giáng lâm. Giả sử Phật giáo, Đạo giáo tôn nghiêm, địa vị trời càng trọng. Đế vương quốc mẫu tôn quý không gì trên. Cúi đầu chí thành không ngại ngộ đạo (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Đồng Văn). Lý Chí Chân còn ngày chuyên cần tu, lễ Phật bái trời, càng thành Chánh giác. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu kim ngô vệ tướng quân Tiết Cô Ngô Nhân, Trưởng sử Lưu Văn Tông v.v… bàn nghị.

Đạo giáo lập yếu chỉ, lấy quý ở nhu hòa khiêm nhường; Phật giáo làm tông phong, có còn ở cấp dẫn. Tuy là xa vời ba tiên mà bày vết, nêu đặt chẳng sai ở đồng trần, vượt mười địa mà du thần, tu hành đâu trái với nhẫn nhục. Vả lại, Quân vương thân thích tôn trọng sánh với trời cao mà có đủ, thần tử trung kính, cúi bái mà không trái. Đó mới là kinh lớn của muôn nước, là khuôn phép thường của ngàn đời, sống vội vàng mà hẳn giẫm đạp, ở ít chọn mà khó phế bỏ. Đến như Phật giáo, Đạo giáo chóng thì bỏ lễ đó, chỉ chiếm pháp cống cao, chẳng tu nghi giúp kính (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Ty ngự tự), dối mở di phong tệ hại, thật sai trái với điển pháp thường (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Hữu võ vệ). Chỉ khuôn mẫu khuyên dụ, tuy là lắm nhiều noi theo, đồng đều kết quy vì lợi vật, yên ẩn nghĩa phương, sao kiêu cứ làm dung nghi tiện giẫm đáp địa vức các diệu, kiền thành cung kính bèn cách biệt cảnh chân như (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Tả nhung vệ). Xa tìm chỉ thú, rất là không như vậy! Kính bái Quân vương thân thích thật là thông lý, kính cẩn dốc cả sự nhận biết của phàm ngu ngõ hầu hợp với mưu lớn, rất lo sợ không đáng, lui dùng thẹn sợ. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu giám môn vệ Trung lang tướng Hùng Huyền Dật v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, thân sinh dưới gối, mến thương nuôi dưỡng rất sâu; một người chí tôn, lễ nghi nghiêm kính ấy trọng. Đâu thể vì thân mặc truy phục mà không kính bái Quân vương thân thích? (Đàn-hặc rằng: Thật do vậy nên Phật không cho kính bái người thế tục), đầu đội mũ vàng bèn bỏ mất lễ của thần tử? Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Đoan Duẩn phủ Đoan Duẩn Lý Khoan v.v… bàn nghị.

Phàm, đồ chúng xuất gia, xưng gọi là lìa tục; pháp của thọ giới, khiêm hạ đứng đầu. Đã thấu đạt lý khổ không, dứt bỏ nhân ngã (Đàn-hặc rằng: chẳng kính bái đó là do hành trì chân giáo, đâu phải duyên còn ngã mà không kính bái ư?) Huống gì Quân vương thân thích tôn quý kính trọng sánh với trời, lễ nghi cúi bái, sự không nghi hoặc. Chỉ vì nhân theo từ đời trước, kính y giới ấy mà bèn vậy (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Ty tể tự). Chỉ có thể Quân vương thân phụ không nhận kính bái ấy, chứ sao được tự tôn trọng? Vả lại, thời tượng pháp và mạt giáo được giao phó cho các vị Quốc vương (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Nội phủ giám). Quốc vương đem thứ lớp cao quý thấp hèn mà chỉ bày, chưa trái với đạo nhất thừa. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tả Xuân Phường trung hộ Hạ Lan Mẫn Chi tán thiện Dương Tiết v.v… bàn nghị. Trộm nghĩ, Hy Hoàng sâu mầu, kim nhân chẳng ứng điềm ở vân rùa; Hiên Hậu chứa linh, hơi khí tía chưa bày ở dấu vết chim. Kịp từ Lưu Trang tinh cảm, gá thần tưởng ở Đông Lưu, Duẩn hỷ chí thành, thấy vật sắc ở tây xa. Do đó, phạm hóa ở long cung, rưới đức từ đượm nhuần khắp đại thiên, thấm tẩm ngưng chân, xung tịch mở rộng trong hoàn vũ. Tuy lại xa nêu trời dựng, khí trong vô vi; Thể ngang bằng đủ tướng, công sâu tế độ. Không ai chẳng bẩm nhận thần cực để còn pháp đó (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Đoan Duẩn phủ), nhờ di thể mà thọ sinh ấy, đâu có vượt đường tục mà khinh thường pháp chủ, sạch chính mình mà bặt bỏ chỗ sinh? Trung hiếu một lúc đã khuyết thiếu thì Phật giáo và Đạo giáo nương cậy vào đâu? Nay nếu nhờ trung trinh mà ngưng đạo, dời hiếu hạnh mà tu giới, thì phước đủ để hiển bày huyền môn, trung hiếu dùng tỏa sáng thần tử. Nếu như cung kính khắp cả các hàng dân thứ, y cứ theo lý thì còn có thể thông, huống gì chỉ cúi bái Quân vương thân thích không rõ do đâu mà chẳng được? (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Bí các cục). Xin chuẩn cứ theo minh chiếu, kính bái là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu Xuân Phường trung hộ Hác Xử Tuấn, Tán thiện Dương Tư Thánh v.v… bàn nghị.

Trộm nghe, vết đạo hiếm nhỏ, lập lời vốn ở giúp vua; Phật giáo hư tịch, giảng pháp nương tại Quốc vương (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Tả Xuân Phường). Do vì, hơi khí sắc tía, chân dung huyền du trùm tỏa khắp phương Tây; Đồ tướng vàng ròng, diệu chỉ lưu truyền đến phương Đông. Bạn tiên đông đúc nhờ cơ nghiệp trời mà bên trọng, pháp đồ lắm nhiều nương chính sách mà lớn mạnh. Huống gì nay, đức trùm âm dương, đạo bao gồm chân tục, ân đượm động thực còn đợi đức từ nương dưỡng, huệ ban sinh linh còn nghĩ nhớ thí cho nhân thọ. Chỉ có Phật giáo và Lão giáo từ trước đến nay xa vời hư dối (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Hữu Kim Ngô Vệ), đã tổn hại chân điển lại khuyết mất tứ đại, riêng tin hóa nhân, chẳng tuân theo tam hữu. Chúa thượng tôn sùng nghi thức hiếu kính, đôn đốc hành lễ bái quỳ, bèn ban phát luân cáo khiến kính bái Quân vương, Hoàng hậu, Thái tử cho đến cả mẹ cha, chẳng ngay đến cả thứ liêu thỏa thích (Đàn-hặc rằng: bàn nghị không kính bái, người hết gần hơn một nửa. Nay nói đến thứ liêu thỏa thích, sao sai lầm vậy ư?). Ước cũng ban bày khuôn phép cho tương lai. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Ty canh tự Thừa Trương Ước v.v… bàn nghị.

Phật giáo mở tục, Nho phong khuôn phép cảm hóa. Tức đường tuy nói khác vết, chứng lý thật là đồng kết quy (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Hữu thanh đạo vệ). Không ai chẳng phấn đượm nhân nghĩa, thuyền kiệu cung kiệm, sau đó khắc xiển mưu huyền để tỏa ngời xa lớn. Cớ sao trung là lệnh đức, hiếu thật kinh trời, chỉ Quân vương chỉ thân phụ đồng lấy cung kính ấy, mượn khiếu thực hành vượt ngoài vật, đạo trùm cả nhân sư. Đâu có thể lớn nâng cao đối với thân thích trông nhìn lại, chống tay ở tôn quý của cửa cung. Sự phải vừa biến đổi chưa thể kéo dây (Đàn-hặc rằng: chánh vì Quân vương thân thích dung dưỡng, dùng phương ngoại khai mở, chống tay nâng cao, đâu phải tự làm ư?). Quân vương thân phụ tôn nghiêm, tỏ bày kính bái rất là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tả điển nhung vệ thương tào Vương Tư Cửu v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, sông ngòi dòng nhỏ trọn chầu chủ ở bể cả, ánh lửa đóm đèn chưa sáng cuối cùng kết quy tỏa ngời nơi nhật nguyệt. Nên biết, vật có sâu dày, còn lấy quý ở tên chung. Huống gì ở Quân vương thân thích chẳng gì lớn bằng mà có bỏ nghiêm túc. Kịp lúc quan ải nổi hơi khí sắc tía, tháp tỏa chiếu kim dung. Lão giáo và Phật giáo đều lớn mạnh pháp giáo, chỉ vì pháp giáo lưu truyền khắp, sự việc do từ Quân vương Hoàng hậu. Người xuất gia lìa tục, mạng ở tôn thân, bèn khiến ân chở che vất bỏ mà chẳng đền đáp (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của phụng thường). Lễ nghi của sang hèn dẹp trừ mà chẳng tu. Đã khuyết mất việc làm người lại có tổn thương lễ luật (đàn hạc rằng: Nội ngoại đã khác nhau, sao có thể bó buộc ở lễ luật ư?). Nêu dấu vết Thánh nhân nghĩ hơi đến cỏ rơm, nhẹ tỏ bày thấy biết hẹp hòi, theo kính bái là thỏa đáng. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu điển nhung vệ tướng quân Hộc Tư Kính tắc v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, tam giáo khác đường đều cùng cực ở đạo tôn sùng; ngũ nghi đồng đặt thật sáng tỏa khuôn phép nghiêm kính. Mà Phật giáo và Lão giáo vốn mong cầu hư tịch, pháp của Chu Khổng kết quy ở giáo nghĩa. Nếu như là lễ của vua tôi, hẳn không khác với hình dung của Sa-môn và Đạo sĩ (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Ty canh tự). Cha con đâu có cách biệt ở Hiền trí, sùng tạo đã lâu tích tập cùng men theo tổn ích, chỉ nên thỏa xứng kết quy ở minh thánh. Các thần v.v… chúng tôi dò hỏi bàn nghị xin theo lễ bái, Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tả ty ngự vệ trưởng sử Mã Đại Sư v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, ánh sáng phân tỏa làm hai, thật là hiển bày dung nghi của cao quý và thấp hèn! Ngôi vị bày sắp tam tài, dẫn rõ tánh của cha con! Sáng tỏ thay! Lễ nghi của ái kính cùng với đất trời mà đồng sinh, trung nghĩa của vua tôi chung cùng tạo hóa mà đều lập. Đến như kim nhân khai mở trong mộng, tuệ nhật mới ló bày, hơi khí sắc tía hiện nỗi nơi quan ải, Huyền Phong bắt đầu thổi quạt. Đó là dấy nơi nổi trung cổ, giáo bắt đầu dần chuyển dời. Tuy là mỗi mỗi tự thiết bày pháp môn, bến bờ thứ phẩm, rốt cùng đó chỉ kết quy nhóm hợp tại Nho tông (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Ty canh tự). Che chở thế tục đã là đồng phương, tuân kính nào phiền khác lỗi. Hẳn đem đạo thể làm khác, có phạm chưa hợp chuẩn mực trái (Đàn-hặc rằng: có phạm tức trái chuẩn mực chư tăng, lại ngược sao có thể không tội khiên? Giữ đạo thiết bày lễ có cho Quân vương thân thích) Di giáo chế định tại các Quân vương, thiết bày bái lễ sao dung không được? (sự việc như Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Tả Xuân Phường). Huống gì giáo điển tam thừa, không nghe lời kinh ngạo dối; giáo pháp ngũ thiên đâu biên ghi nghĩa khoe dối? Kính trong tôn thân nào phòng ngại trọng đạo, lễ bái quân chủ đâu phế bỏ tìm chân (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Hữu nhung vệ). Vả lại, cắt lóc đùi vế, xả bỏ đầu ác còn không kêu than khổ, tôn kính Quân vương mến ái thân phụ, sao liền từ khó nhọc? (Đàn-hặc rằng: Vì cắt lóc đùi vế, xả bỏ đầu là có lợi ích nên không kêu khổ. Kính trọng Quân vương, mến ái thân phụ, vì lo sợ có tổn hại, đâu dám chối từ khó nhọc?). Tham luyện phải quấy, kính bái thật là được.

Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu ty ngự vệ trưởng sử Thôi Sùng Nghiệp v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Tạng sử lập ngôn chẳng tiến mất nghĩa vua tôi; Năng nhân xiển giáo trước tiên tôn sùng phong hóa hiếu kính. Giả sử đạo đặt để cưỡi chim le le còn cúi mình mà giảng lễ, nghiệp thành bưng ngựa còn mang ban thí mà nghĩ ân (Đàn-hặc rằng: mang ban thí, trong giáo điển có thành văn, còn cúi bái trong kinh không nói thế). Huống hồ còn bước đường tục, đồng thọ hưởng Thánh hóa, đâu có trộm danh y phục sắc vàng bèn quên công ngưng độc, gá vết cửa đen liền bỏ sót đức đoái hoài lại? Ngạo vật tự hành ở chính mình, cao nhìn Vương hầu, ngã mạn lấy làm tâm bái dài cha mẹ (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Trung đài ty liệt). Tìm cầu đó ở đời trước lâu ngưng trệ mê phương hoàng gia, cửa nẻo trăm vua lắng thải ngàn xưa. Sự chẳng hại chính mình, sách dung nghi có thể men theo; thời cuộc có khuyết mỹ phong, lý nên đổi thay tệ hại (sự việc như đã Đànhặc trong bàn nghị của Bí các cục). Vả lại, bốn đại ngang bằng đức, đâu khiến tuân đạo mà chẳng tuân Quân vương? Tam giáo đồng đều danh xưng (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Tả ty ngự), sao riêng kính sùng Thích giáo mà chẳng kính sùng Khổng giáo? Nay nếu chánh nghi thức đó mà hủy giáo đó, thiết bày kính cung hẳn phải nghi ngờ (Đàn-hặc rằng: Thật phải thay đâu phiền đến lầm hoặc ư?) Cúi khuất thân đó mà đạo còn, thêm lễ bái sao lầm hoặc? Trọng dùng bất khinh nhiếp hạnh, càng phù hợp với khuôn phép của chân tế (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Đồng Văn Tự), gìn giữ xuống ngự tình, càng hợp với mẫu mực của xung hư. Thứ tuân theo sắc chiếu, nhẹ dâng lời thô thiển, giữ lễ kính bái thật hài hòa đều bàn nghị. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Tả Thanh đạo vệ trưởng sử Tương Thân Trụ v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Phật giáo và Đạo giáo đều nương thừa Huyền Hóa; tuy là đen vàng có khác, nhưng chí ý kiến thành cung kính không khác. Nên khiến bái quỳ để tỏ bày sự tôn kính của thần tử (bề tôi và con) (Đàn-hặc rằng: Dấu vết của Sa-môn vượt phương ngoài bến bờ của nước nhà, xưng gọi khác với thần tử bái kính. Sao dự can dẫn khách?). Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Tả sùng dịch vệ trưởng sử Đậu Thượng Nghĩa v.v… bàn nghị.

Lời huyền của lai tỉnh, hai chương tận cùng ở cốc; yếu chỉ sâu mầu của Quật Viên (Kỳ-xà-quật và Kỳ viên), muôn vật còn ở bất khinh (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Hữu ty ngự). Huống gì Quân vương thân thích, gồm cả cùng cực, bái quỳ còn đơn giản. Há chẳng phải tuyệt bỏ cung kính bên trong mà nắn sửa dấu vết bên ngoài ư? (Đàn-hặc rằng: Hành đạo vì đáp bốn ân, đâu sửa nắn dấu vết bên ngoài? Đức nuôi dưỡng vốn tam hữu, đâu tuyệt bỏ cung kính ở bên trong ư? May thay! Tử Tư không lắm nhiều lời vậy). Như thấy có suy lường, mong khiến nên bái lễ. Kính cẩn bàn nghị.

Trạng văn của Hữu sùng dịch vệ trưởng sử Lý Hạnh Mẫn v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Phật giáo và Lão giáo ngôn ngữ dấu vết tuy khác, nhưng lý cung kính tùy thuận nhã đồng như vết Nho tông (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Hữu ty vệ). Đâu có nơi tôn quý cùng cực, chống kháng tiếp bái v.v… ở bằng giao? Trước có Sư tăng, bái cúi quá ở kiệu đen (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Tả Oai vệ), đã kinh ngạc vật bàn nghị. Vả lại, tệ hại chương thường, cải đổi phong tục xưa cũ ấy, đều có nghĩa là thỏa đáng (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Hữu ty ngự vệ). Huống hồ Hoàng Quan đội nhờ mừng vui của cơ nghiệp trời, Sa-môn nương cậy trọng trách của giao phó (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Tả ty ngự vệ). Khó nhọc hết cả ân sinh dưỡng, muốn báo đáp tỏ bày nghĩa hạo nhiên. Pháp của Phật giáo và Đạo giáo, lập lờ ngang trái đối với điển pháp thường, chỗ của ngũ kính, cúi bái thỏa đáng hợp với nghi thường. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Tả phụng dụ vệ trưởng sử Khâu Thần Tỉnh v.v… bàn nghị.

Phàm, nhị nghi mới mở, đạo vua tôi liền tỏa sáng; tam tài vừa phân, tình cha con liền có đó. Không ai chẳng dốc cả tay chân đồng tuân ái kính. Nên biết, vua tôi cha con bẩm tánh tự thiên nhiên, cực tôn cực thân, không hề gián cách, còn như Phật giáo và Đạo giáo ngày gần đây mới được tôn sùng. Phật giáo thì dấy khởi ở thời nhà Hán, Đạo giáo có ngay trong thời tiền Tống. Thảy đều duyên từ thời cuộc Quân vương có sắc chỉ, cha mẹ tiếp thừa ân, mới nhuận truy y và xưng là nhập đạo. Nếu không nơi bẩm nhận, ắt chẳng được lìa tục. Lìa tục tuy nói dứt tuyệt cảnh hành tập đạo, nhưng vẫn ở trong hoàn vũ (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của ty tân). Khắp nước nhà đều nói là vua tôi, chẳng nghe lấy đạo tục mà hạn định (sự việc như đã Đàn-hặc trong bàn nghị của Tả thanh đạo vệ). Cha sinh mẹ dưỡng võng cực khó đáp ở pháp. Tuy nói dứt tuyệt cảnh trần tại thâm phải dốc nhân nghĩa, đâu dung làm bất thần, chưa từng hiệu kiểm tiết tháo, làm con chưa trải bày ấm mát. Nương thừa ân mới biến đổi y phục sắc trắng, cạo bỏ râu tóc nơi thật là vào đạo, nhân đó ngạo dối khinh mạn Quân vương, xem thường thân thích, cao tiếp Đế vương chẳng bái cha mẹ. Làm bề tôi để lại lỗi khoan đãi, làm phận con chuốt nhận tội bất kính (sự việc như đã Đàn-hặc ở trong bàn nghị của Tả thanh đạo vệ). Các hàng dong ngu tự cho hợp vậy, đời trước hỷ thứ không nhận biết đó (Đàn-hặc rằng: xưa kia vua Minh Đế (Lưu Trang 56-78) thời Hậu Hán cúi lễ kính tôn giả Ca-diếp Ma-đằng; Ngô Tôn Quyền cúi khuất tiết tháo đối trước Khương Tăng Hội; Triệu Bái Trừng Thượng sủng kính ban tặng y gấm; thời nhà Tần, Sa-môn Đạo An vẻ vang cùng dự đồng bạn. Đó đều là những bậc đức hạnh cao vút vạn thừa, đạo giáng rất mực tôn quý, huống hồ mười nhà khó lừa dối, mà nói hàng dong ngu không hay biết ư?). Nhân theo từ lâu thực hành đó không cải đổi. Thánh thượng trọng tiếp nối hoàng cực muốn cải đổi điều chẳng chiếu trước, chính sửa muôn sinh nghĩ tuân theo Danh giáo, bèn ban luân chỉ, nghiêm sức tỏa sáng điển pháp thường. Sợ sai trái với thường tình, nên đặc biệt bảo ban khiến cùng bàn nghị rõ ràng. Kính cẩn xét tìm theo Phật giáo và Đạo giáo, thấy ở Di Văn nói ngã mạn kiêu căng tự cao là người khó độ (Đàn-hặc rằng: Giữ đạo chẳng cúi khuất sao gọi là kiêu căng cao ngạo ư?). Thân gồm thừa sự khiêm ước, không mất xung huy, tư duy lời ấy nghĩa ấy thấy vậy. Nhập đạo đã thành vượt nỗi giữa hư không khống ngư chim hạc; tu thiền định sâu, chứng đắc năm thứ thần thông. Các hạng như vậy còn nguyện cúi thấp, huống gì Tăng Ni dong ngu, hiện ở nơi đất vua, chỉ vận mặc áo đen khác tục, còn những việc khác hiếm biết (Đàn-hặc rằng: Mạn Hiến nói: Nói sao đơn giản vậy? Nói sao đơn giản vậy? Tiếc thay! Phàm nội của Sa-môn, công phu hạnh nghiệp thật lắm nhiều, từ lúc có Thánh triều trở lại nay có cũng không ít. Vả lại, chư tăng thạnh đức ở chốn đế kinh đông nhiều như rừng, lược nêu cử mười khoa, điền khai chưa dụ hiểu. Đến như phiên dịch thì có các Samôn Ba Phả, Huyền Trang v.v… nghĩa giải thì có Sa-môn Tăng Biện, Pháp Thường, v.v…; Hành tập thiền định thì có Sa-môn Đàm Thiên, Tuệ Nhân v.v…; hộ pháp thì có Sa-môn Pháp Lâm, Minh

Chiêm v.v…; thông rành luật thì có Sa-môn

Huyền Uyển, Trí Thủ v.v…; cảm thông thì có Samôn Thông Đạt, Chuyển Minh v.v…; xả thân thì có Sa-môn Huyền Lãm, Pháp Khoáng v.v…; đọc tụng thì có Sa-môn Tuệ Thuyên, Không Tạng v.v…; tiếng tăm đức hạnh thì có Sa-môn Tín Khải, Pháp Diễm v.v…; Hoằng phước thì có Sa-môn Đức Mỹ, Trí Hưng v.v… Các hàng như vậy đủ như nêu bày trong sách sử chư tăng, mà nói hiếm ít biết các việc khác, sao lắm đồng với sấm sét vậy?). Chỉ tự kiêu căng tự cao, mong ở trên người, tìm xét đó ở Phật giáo, nghĩa ấy không nghe. Phàm nói là người, chuẩn cứ theo kinh, phải bái kính. Huống gì ở cực tôn đều là cha mẹ, muốn khiến cúi bái, nghĩa không gì chẳng thể. Các hàng Tăng ni Đạo sĩ, nữ Đạo sĩ đó đối với Quân vương, Hoàng hậu, Hoàng thái tử và cả cha mẹ họ, đều tin chuẩn sắc khiến nên bái quỳ, ngõ hầu khiến tỏa sáng khiêm luy của Phật giáo, Đạo giáo, Danh giáo của muôn đời. Kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Hữu phụng dụ vệ suất Vi Hoài Kính v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, tam giáo ngũ nghi đều thấu cùng rõ tưởng, khác đường nhất trí hẳn chờ đợi tôn nghiêm. Phật giáo và Đạo giáo dạy răn thời nào tôn sùng cũng là việc chính. Chu Khổng thì báo thế tục nghiêm kính lấy làm đầu. Bèn khiến các hàng Samôn vất bỏ trâm cài kính phụng giáo pháp, các hàng Đạo sĩ nghiêm khiết ánh ngời lưu tỏa hương thơm, làm mẫu mực của trăm đời, làm chuẩn đích của ngàn năm. Vả lại, đan sinh anh linh từ Xá vệ, đạo phát từ Thi tỳ. Đã có ân của mẹ con (sự việc như đã Đàn-hặc ở bàn nghị của Hữu ty ngự vệ) đâu cách biệt lễ nghi của vua tôi? Đen vàng tuy khác, nhưng hiền trí nào sai? Cúi bái Quân vương thân thích thật trái với pháp điển xưa (Đàn-hặc rằng: căn cứ theo giáo điển để khiến kính bái, có ích lợi hay có tổn hại ư? Đâu thể vì trái pháp điển xưa mà chẳng kính bái ư? Nếu có tổn hại thì đâu vì thuận pháp điển xưa mà khiến kính bái? Nay chỉ có thể ước ở tổn hại hay ích lợi mà đề xướng lời, không thể y cứ trái thuận mà tỏ bày bàn nghị). Không Thánh tức y như xưa cũ, có Thánh tức pháp điển đổi thay. Pháp đã đợi Thánh mà dấy khởi, cũng mong duyên dấy khởi mà cải đổi pháp. Tào Ty đều cùng bàn nghị, xin theo lễ bái, kính cẩn bàn nghị. Trạng văn của Ung Châu ty công Lưu Nhân Duệ v.v… bàn nghị.

Trộm nghĩ, Huyền Phong bắt đầu thoảng tỏa, chẳng ai trước so với Bá Dương; gồm các huyền diệu mà nhún nhường, cao gá ngoài vật.

Cùng tận quần sinh ở đạo đức, trước tượng đế bút tuyên làm phương thức của con, tặng lời ni phụ biên tả lễ của phụng sự quân vương, theo đạo nhà Chu mà hành. Thần công dùng mà không tên, thì hóa lưu tỏa mà chẳng lường. Người hay truyền đạo, nghĩa đó ở đâu? Huống gì đạo khác không đồng, người chẳng phải cô xạ, trận sánh với đức của Hà Thượng, chẳng tuân theo khuôn phép của Trụ Hạ. Dối đàm sách bắt bóng, tự lấy lễ thuận phong, kiêu căng ngạo lối đối với nước nhà, dứt bỏ trung hiếu đối với Quân vương thân thích, có thấy hình dung đó, từng không thẹn làm. Cho đến khi Thanh ngưu theo hướng Tây xa giẫm trải lưu sa mà hóa hồ (Đàn-hặc rằng: Ngụy lược Tây Vức truyện nói là nước Lâm Nghê có thần nhân tên là Sa Luật, tuổi già tóc bạc, tướng trạng tợ Lão Tử, thường dạy người làm phù đồ. Người nào mắc phải tai họa, cho đến không con nối dõi v.v… chuyên cần thực hành phù đồ, nghiêm trì trai giới, xả thí của cải để chuộc tội khiên. Bấy giờ, vua nước Lâm Nghê đã lâu không có con, nhân đó cúng tế phù đồ, Hoàng Phi Ma Da mộng thấy voi trắng mà bèn mang thai. Đến lúc Thái tử chào đời theo phía hông bên hữu mà ra, tự nhiên có búi tóc, vừa rơi nơi đất liền đi được bảy bước, hình dáng tợ Phật. Do cúng tế phù đồ mà có được con nên đặt gọi tên Thái tử là Phật Đồ. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Thú (122-166 trước Tây lịch) thuộc đời vua Võ Đế (Lưu Triệt 140-8-Tây lịch) thời Tây Hán, Tần Cảnh đi sứ đến nước Nguyệt Chi, vua nước đó bảo Thái tử chỉ nói miệng trao truyền cho Tần Cảnh. Do đó kinh giáo Phù đồ ở đời tiền Hán đã sớm hành hóa. Sau đó sáu mươi ba năm, vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Đông Hán mới mộng thấy điềm lành vậy. Tần Cảnh lưu truyền kinh giáo, chẳng nói Lão Tử hóa hồ làm Phật, kinh là do Lão Tử nói. Trang Tạp Lục ở thời nhà Tấn nói: Đạo sĩ Vương Phù từng cùng Sa-môn Bạch Viễn chống kháng bàn luận. Vương Phù thường bị khuất chịu, bèn cải đổi Tây Vức truyện làm thành Minh Oai Hóa Hồ kinh, đề ghi thần nhân Sa Luật ấy là Lão Tử, cong vặn an ủi dối hoặc người đời, nói Y Hỷ và Lão Đam hóa hồ làm Phật. Phật phát xuất từ đó. Trong Cao Tăng truyện của Bùi Tử Dã nói: trong khoảng đời vua Huệ Đế (Tư Mã Trung 290-307) thời Tây Tấn, Sa-môn Bạch Viễn tự là Pháp Tổ từng cùng Thái thú Vương Phù; có thuyết khác nói là Đạo sĩ có công lần lượt cùng tranh luận tà chánh. Vương Phù từng bị khuất phục, đã tức giận chẳng thể tự nhẫn chịu, mới gá Tây Vức truyện mà làm Hóa Hồ Kinh để vu khống Phật pháp, bèn lưu hành nơi đời, ương họa có chỗ kết quy, để lại tai hại nhiều năm. Trong U Minh Lục nói rằng: Lý Thông ở Bồ Thành chết rồi sống lại nói thấy Sa-môn Pháp Tổ vì vua Diêm la mà giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm; lại thấy Đạo sĩ Vương Phù thân mình bị gông cùm, cầu xin sám hối Sa-môn Pháp Tổ, mà Sa-môn Pháp Tồ chẳng đến. Cô phụ thánh nhân, chết mới nghĩ suy hối hận. Lại căn cứ theo Hậu Hán ký của Viên Hoằng, Cao Sĩ truyện của Hoàng Phủ v.v… đều không có phần văn nói Lão Tử hóa hồ làm Phật. Ngày nay ở triều đình, quân tử hiểu biết rộng rãi có lắm nhiều, đâu có thể lấp bít tai mắt, trộm linh, chỉ nai làm ngựa, tin có thể gọi là đàm nói hư dối luống trống, nhọc an sàn tai người vậy). Bèn có bạch mã đến phương Đông, vượt núi thông mà ứng mộng thời nhà Hán. Hoằng thông bối diệp nhờ từ diệu liên hoa, thực hành lấy cung kính khắp cùng làm đầu, giáo nghĩa lấy bất khinh làm gốc (sự việc như đã Đàn-hặc ở bàn nghị của Tả sùng dịch), y phục dung mạo tuy khác, nhưng đồng thú hướng vô vi. Khách khắp nước nhà chưa nghe ai là không con của cha; dưới khoảng trời rộng, chẳng thấy ai lại không phải tôi của vua. Trong khoảng niên hiệu Trinh Quán (627650) thời Tiền Đường đã nhận định trước sau đều nên lễ bái chí kính, đoán chắc cũng có thể biết vậy (Đàn-hặc rằng: Trong niên hiệu Trinh Quán, sắc chiếu ban truyền chỉ nêu chỗ tôn quý của hệ thuộc hoàng gia, rất không có văn từ. Khiến kính bái, chỉ có nói trước sau, nay mới xếp bày khiến kính bái. Đó tức là phụ trái sắc văn, tội khiên mất yếu chỉ, ai trọng ai đó?). Nhiều đời đượm thấm lắm nhiều, từng chẳng anh tài nhận biết trước (Đàn-hặc rằng: Từ khi Phật giáo lưu truyền ở thời nhà Hán đến nay đã hơn sáu trăm năm. Trong thời gian đó, ở thời nhà Tấn có Sưu Băng; thời Ngụy Sở có Hoàn Huyền, Hách Liên; ở thời Tiền Tống có vua Võ Đế. Qua thời nhà Tề, thời nhà Tùy v.v… các Quân vương đều ép chư tăng kính bái, nhưng vì sự việc trái quấy, do đó đều thỏa đáng tìm theo khuôn vết xưa cũ mà thôi. Nói các đời đượm thấm lắm nhiều từng chẳng anh tài nhận biết trước, há chẳng là ra mặt khinh thường Thánh chỉ, vu khống các anh tài ư?). Bệ hạ nương đất trời ngự biện, giảm năm lên ba, chấn chỉnh giềng mối suy hại, làm nên then chốt của muôn nước, đâu nhọc cải đổi ca vịnh của tiếng hồ ly, giúp thân phụ. Phụng sự quân vương, mới tạm biến đổi phong tục của Thiên Trúc, tự nước nhà xếp đặt hình luật. Kính cẩn bàn nghị.

QUYỂN 6

THIÊN THỨ BA: BÀN NGHỊ NÊN KÍNH BÁI (Tiếp Theo)

- Về trạng văn: Trạng văn của Sa-môn Huyền

Phạm ở chùa Phổ Quang đối chất bàn nghị (có một bài).

- Về văn tấu: Tấu văn của Trung đài ty lễ Thái thường bá lũng tây Vương Bác Xoa v.v… bàn nghị tấu trình (có một bài).

- Về chiếu văn: Chiếu văn đình chỉ việc Sa-môn kính bái Vương giả (có một bài).

- Về biểu văn: Biểu văn của Lão nhân Trình Sĩ Ngung ở kinh ấp v.v… tấu xin các hàng xuất gia nam nữ không nên kính bái thân thích (có một bài). Biểu văn của Trực đông đài Phùng Thần Đức v.v… tấu xin như cũ, các hàng Tăng ni v.v…, không nên kính bái thân thích (có một bài và tấu trình những việc trước sau của Phật đạo).

- Về Khải văn: Khải văn của Sa-môn Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh v.v… lại dâng Vinh Quốc phu nhân Dương Thị xin luận bàn không nên kính bái thân thích (có một bài).

- Về biểu văn: Biểu văn của Sa-môn Oai Tú ở chùa Đại Trang Nghiêm dâng lễ xin y theo nội giáo, không nên kính bái cha mẹ (có một bài).

Biểu văn của Sa-môn Tỉnh Mại phiên dịch kinh ở chùa Cung Ngọc Hoa v.v…, trình Tăng ni kính bái thân thích có tổn hại (có một bài).

Biểu văn của Sa-môn Sùng Đạt ở chùa Thiền Cư tại Tương châu dâng xin Tăng ni nói cha mẹ đồng với Quân vương không nhận sự kính bái của các hàng nam nữ xuất gia (có một bài).

Trạng văn của Sa-môn Huyền Phạm ở chùa Phổ Quang đối chất bàn nghị việc kính vái. Sa-môn Huyền Phạm tôi dám tấu dâng trạng văn đến Trung Đài Vương công hầu các quan liêu v.v… Chỉ vì Huyền Phạm tôi tuy chẳng dự xen trong hàng bàn nghị, mà trộm có chỗ nghe xưa trước, Đại đức Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn gặp phải thời cuộc số vận, bèn tạo luận "Sa-môn bất kính Vương giả" gồm năm chương, lý nêu thấu sâu mầu, hỏi đáp huyền vi. Tôi sắp muốn chọn lấy tấu trình nhưng chợt tìm thấy khó hiểu. Nay lược thuật điển ký nội ngoại để làm minh chứng lý không kính bái, kính cẩn đem trạng văn dâng trình, xin nghiêm trừng bàn nghị kính bái.

Phàm, trời tuy rất cao, hẳn mang ánh sáng của nhật nguyệt, đất tuy rất dày, hẳn có chuyển hóa núi rộng. Thánh giả tuy tiếng chấn động đến cõi u tịch, cũng hẳn nhờ các bậc hiền tài của con em trăm họ trợ giúp vậy. Vua đã dùng lễ để sai sử bề tôi, bề tôi phải dùng trung để phụng sự vua. Nếu chẳng sân đình tranh cải đó chưa xong thì sợ cơ phát ở chính mình vậy. Chỉ vì Phật pháp là ngoài khu vức, vượt tôn quý của tứ đại, quá ngoài hoàn vũ, vượt nghĩa tại tam, xướng đức từ vô duyên, hoằng pháp hóa không lời, minh công ngầm vận, nên nói gội nhuần mà thửa đượm thì hạng người trung dung cho là vô ích vậy. Bởi vì chẳng tỏ ngộ chỗ xả bỏ đó vậy. Nên tiên triều đề tựa Thánh giáo nói: "Âm dương diệu khó cùng, bởi vì nó không hình, Phật đạo sùng hư cưỡi u khổng tịch, hoằng tế muôn loài, điển ngự mười phương ấy vậy". Nay tuệ nhật đã ẩn ngầm ánh sáng, tượng giáo mờ vận chuyên, nắm giữ pháp hòa kính, nếu chẳng phải chư tăng thì ai? Nên ở trong kinh, Phật bảo Bồ-tát Tín Tướng rằng: "Ta nói Tam bảo chỉ là một thể, không có tướng riêng, ở trong thời tượng pháp truyền trì sẽ ở đó vậy". Như A-thứ-già lễ kính tiểu tăng dụ dỗ tôi tà để lẫn lộn đầu chúng, há chẳng phải thể đạo có thể còn ư? Nay muốn khiến các hàng Tăng Ni khum mình nơi lễ nghi, khổ nhọc nơi bái tiếp, là đặt để Phật kính bái người, chẳng phải đem người kính phụng pháp.

Như biện tích phiêu thêm ở đầu chân, thật là xoay trở đổi thay rất lắm vậy. Vả lại, Quân vương có ba thường chẳng bề tôi, có năm tạm chẳng bề tôi, có bốn chẳng danh xưng, có một chẳng bề tôi. Thượng thư nói: "Ngu Vương đang ở tại ngôi vị, Đế Thuấn chẳng bề tôi sắc son". Thi nói: "có khách có khách". Cũng bạch ấy, đó tức là sau, tiếp thừa hai Quân vương. Hoàng đế còn chỗ chẳng bề tôi, huống hồ chư tăng đang là nối dõi Đại thánh, sao đủ bảo kính bái Quân vương? Khách thứ lớp của nước nhà, sao dự mất lễ nghi, mà cho là khinh thường lễ đối với bốn chúng, dùng phối hợp kính cung đối với một người? Đó là Bồ-tát Tỳ-kheo tình quên vật ngã, huống gì nay tôn ty thứ vị khác biệt, rất không phải sánh chẳng. Lại nêu cử tịnh danh mà chấp lấy cúi đầu, dẫn biết pháp mà rước chuốt kính cung. Xưa kia, hàm trượng đối với hàng tân học chẳng quán sát căn cơ mà trau chuốt, bởi vì trong đó quên ý này, tông chủ chỉ là bán tự (nửa chữ) vậy. Do đó mất tướng cúi đầu, không tưởng tiếp chân, mới lẫn lộn trắng đen ở một thời, hết sạch tánh tướng ở muôn xưa. Đó đều là quyền xảo phương tiện của bậc Đạo sĩ, thật chưa thể dùng hàng tiểu có làm chuẩn khắp. Nên trong kinh Niếtbàn nói: "Ta vì các Bồ-tát nói kệ tụng như vậy". Nay vì hàng Thanh văn rất mực nghiêm trì giới luật niên lạp, lại biết chấp giữ oai nghi, đó chẳng phải trong khinh ngạo bội nghịch Quân vương thân thuộc, mà bởi muốn sùng quý nước nhà, vì làm lợi ích tất cả thần dân ấy vậy. Lại nữa, trong Chánh Lý Luận nói: "Các hàng trời thần chẳng dám mong cầu nhận sự kính lễ của người trì năm giới; như Quân chủ các nước cũng chẳng mong cầu hàng Tỳ-kheo kính bái, vì sợ tổn mất công đức và giảm mất thọ mạng vậy". Mà nay muốn dùng giáo điển của Chu Khổng để thực hành đó, đè ép đó để theo lễ của thế tục, trộm làm nhân giả chẳng lấy vậy. Lại nữa, các hàng Tăng Ni chẳng phải phân loại, tánh chọn nhung man, bẩm chất Trung Hoa mà pháp ở tứ di, tiếp thừa nạo cắt mà làm lớn mạnh Tam bảo. Căn cứ vào giáo điển ấy thì có kính bái Quân vương thân thích là tổn hại, tập tu pháp đó thì giúp nước nhà có lợi ích, sợ ép chèn lời Thánh, tai họa tự chuốc phạm. Trong luật Tứ Phần nói: "Khiến sử cung kính người già, không nên lễ bái hàng bạch y". Chánh vì chẳng ràng buộc bởi tước lộc, khác lưới tục ở nơi điển huấn vậy. Vương Chế nói: "Tông miếu có kẻ chẳng thuận, bởi không dùng tước vị; núi sông có thần kỳ mà chẳng cử, vì triệt mất chẳng thuận". Huống hồ Tăng Ni đòi kính quý của quỷ thần, trái ngược lễ của cha mẹ, nếu khiến chánh giáo chìm đắm trong dơ bẩn ấy, sợ khổ thần minh chẳng tương giao an thái, nơi phước khánh chẳng đượm nhuần, tai hại muôn sinh, họa loạn xảy ra biết bao, mà hàm linh phế bỏ phong hóa thành tục, trụ từ khuyết thiếu dạy răn kẻ ngu mờ.

Thần dân khắp nước nhà thuận theo tập tục mà chuyển dần bại hoại, không thể tự làm mới đối với thầy dạy bảo, có giúp nước nhà ở phần giáo hóa ấy vậy.

Trong kinh Phạm Võng nói: "Chẳng kính bái Quân vương, thân thích, quỷ thần rõ biết vậy". Vả lại, đượm khắp chẳng lễ bái, chẳng mất dung tiết, huống gì mới cắt tiệt chẳng phải nghi thức của buộc dãi, râu tóc cạo bỏ không nghiêm sức cúi đầu, đối với mỹ phong của trường lớp, khuôn phép triều thể dần đốn biến đổi quái lạ. Phật là pháp hóa tuyệt vức khác tục, hết hơi khí của trung hòa thuận động, thật tế của còn mất gởi gắm nơi người vậy. Trong Đại truyện nói: "Ngày mồng một tháng giêng, chỗ chẳng thêm tức chỗ Quân tử không bề tôi, chưa như chỗ dạy răn phước ấy, chỗ bẩm nhận lợi ấy, bèn nhọc động đó mà dùng lấy. Nhận lợi an đó mà phụng sự đó, nên được tâm vui thích của muôn dân, tức một người có mừng vui ấy vậy". Lại nữa, giới trụ không kính bái bởi lo gãy mất oai phong đó. Sư Đế không có bề tôi thì còn sợ tổn hại đạo đó, huống hồ áo nhẫn nhục xỏ xuyên thô giáp, dùng ca-sa để nhiếp phục rồng sợ, dùng hạnh đầu đà mà đè ép ma oai. Lánh ẩn lệ thuộc xuất gia, Quân vương thân thích cúi lễ, Ưu-ba-ly vào đạo, phụ vương kính bái. Nên biết, đạo còn tồn tại là quý, chẳng vì người làm khinh trọng. Cho nên đạo hết mở rộng người, mà người mở rộng đạo khắp cùng là điều rất đáng tin cậy. Nay, với giáo pháp còn lại giao phó cho Vương giả, ủy thác hộ trì nhờ lưu thông. Vì sự mềm yếu của bốn chúng, sợ Tam bảo bị phế hoại nên nhờ Vương giả để oai phục, mượn Vương giả để nhọc ép bức. Nay khiến các Sa-môn xếp pháp y cúi khuất đầu gối chấp nắm tay cúi đầu, thì mỹ hóa của Liên Hà từ đây mà khuyết vậy. Sách Thi nói: "Vương giả bừng bừng tức giận đó, sợ khuyết mất gốc ý của Di giáo, nhục pháp phục của đồng công". Nhọc của một cúi bái chẳng hẳn thêm hao tổn chúng tăng, thành kính của một cúi bái chẳng hẳn thêm tôn quý của nạn thừa. Khiến chư tăng v.v… đau đáu mà chẳng an ổn hạnh nghiệp, chẳng phải do đó mà buông tuồng thân dong ngu, rất còn phong hóa bại hoại ấy vậy. Sợ vẻ đẹp rực rỡ không đượm màu sắc ở đời hưng thạnh, mong cầu khác nước nhà đâu nghe ở hiện nay ấy ư? Hẳn vì kinh tượng hoang tàn hư phế dơ uế, chẳng đủ để tôn sùng kính ngưỡng, các Tăng Ni mục rã thối nát, chẳng đủ để làm ruộng phước. Trông thấy giáo tịch mà mắt cháy bỏng, tập tu tiếp bái mà khung còng, vận mặc truy phục thì gắng gân, đàm nói điển lễ thì sún răng. Từ đó phàm ghét mà vứt bỏ ấy vậy. Biến đổi mỹ phong của Thiên Trúc, thỏa xướng lễ nghi của Trung Hoa, lấy muôn vật làm đổi mới bắt đầu, răn sách tam đại mà tự làm mới. Nay lấy nền tảng của hiền thiện, nhọc khiến tu lập, chẳng như cách giềng mối giáo ở ngoại khu, buông lung nghi vượt ngoài vật, bề tôi và con đó đủ hết tiết của trung hiếu ấy vậy. Tức là sử truyền chẳng hẳn là đêm dài, kinh tử chưa hẳn là thái dương. Vậy thành tuy học mà không nhọc mệt, còn gần khuyết ở đại huấn, huống gì vẻ đẹp của hổ giúp nước nhà, không nghe lạm vậy. Chẳng lắm nhiều cản cấm mà được an, chẳng đổi thay tình mà được chí. Tuy Văn Vương là bậc chí Thánh, còn học ở Quốc thúc; Khổng Tử là bậc chí minh, còn bắt chước ở Đàm tử, Vương giả là bậc chí tôn, còn làm cha phụng sự ba già lão, làm anh phụng sự năm canh. Cho đến Thích Điện tự thân cầm nắm tước vị mà quỳ đó nói rằng: "Sâu xa ư! Chắc chắn ư!". Tuy việc của Chí Hiếu, Nghiêm Thân không lấy làm thêm vậy. Do đó, Đại Dịch Cổ Hào chẳng phụng sự Vương hầu, Đại lễ Nho hành chẳng bề tôi Thiên tử. Nên biết, đạo dùng quý đó làm quỷ, chẳng vì khinh chê đó mà khinh. Cúi nghĩ xa xăm nói trách Chánh Sĩ, vì đó mọt hại sắp sinh sâu rắn hại, mà bàn nghị kính bái, chẳng phải thượng sách của triều đình. Nguyên nền tảng chánh pháp từ Tây Vức, mãi đến nay đây có hơn ngàn năm và có hơn một nửa vậy. Từ khi giáo pháp lưu truyền đến phương Đông, mãi tới nay đã bảy trăm năm, tuy trải qua biến đổi phố chợ triều dã nhưng lớn mạnh đó chẳng phải ngầm mất. Trong đó, chúa Thánh tôi hiền tính chẳng thể lường biết, chưa từng bó buộc ý, huống hồ đúc gọt tăng ni. Tin biết rộng rãi đến giúp đỡ là lâu ngày vậy. Người nghe có nắm ít quyền chủ, mưu tính nhỏ nhẹ đến Quân vương, riêng nịnh nọt tự vẻ vời vùi lấp nước nhà. Lại một vài phen trống mái nhỏ hổ tương nâng cử tuy tạm dẹp trừ, sau đó đổi thay tệ hại trước. Phàm nếu như vậy, có thể vén tay áo để bày đùi khủy, tức giận trừng mắt, nghiến răng trông nhìn mà quát mắng đó, há là bất trung xếp bày trang quán ấy vậy. Nay thời đại Đại Đường chúng ta ứng kỳ cửu ngũ, xứng vị của tứ Tam Hoàng, tám Phương chung vết, bốn biển đồng văn. Trăm vua chuyên giữ pháp độ ở Hữu ty, Tam bảo tỏa ngời lời mầu ở cấp dẫn, nên đạo tục nhờ ung đúc, nước nhà kéo dài thời vận. Há chẳng hưng thạnh ấy ư? Sắc ban ở triều đại tiền Tống tạm thời đổi thay mỹ phong ấy, sau đó trở lại tuân theo tập quán cũ, bởi vì sai trái với thường tình đó. Bàn nghị ở chẳng mất lý thường, may mắn nghiễm nhiên mà suy tư đó, mở mang mà hộ trì đó. Chính sách của nước nhà nếu lớn mạnh, thành thật của trung hiếu hẳn hiển trước, công ngầm thấm đượm nhuần, cành rễ tỏa tốt tươi, chức tước tốt lành tự ràng buộc, bỗng lộc ưu đãi sủng ái, hoa man tiếp nối, lan huệ tốt tươi, cảm phước mừng vui ở trong giúp, nghĩ mở lớn lợi ích mà ngoài hộ trì. Há chẳng phải là ở sống chớ rơi lạc, thường bảo giữ ưu thắng mong ấy ư? Nay kính cẩn bày sở điển lễ của nội ngoại, xin theo chiếu xét.

Sa-môn Thích Huyền Phạm kính bạch.

Ngày mồng năm tháng năm năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường, dâng trình.

Trạng văn của Trung đài ty lễ Thái Thường Bá, Lũng Tây Vương Bá Xoa v.v… bàn nghị tấu trình. Ty nêu bàn nghị về những việc các hàng Tăng ni, Đạo sĩ, nữ quan v.v… kính bái Quân vương thân thích v.v…

Năm trăm ba mươi chín người bàn nghị xin không nên kính bái:

Hữu thái ty thành lệnh Cố Đức Đồ v.v… bàn nghị xưng rằng: Trộm nghĩ, phàm trăm vương tại vị, đều lớn mạnh đạo phụng thượng. Ngay đó làm thầy còn có nghĩa chẳng bề tôi. Huống hồ Đức Phật giảng truyền giáo pháp vượt hẳn khuôn phép thường tình, cắt bỏ râu tóc không đồng với hủy hoại tổn thương, chống tích trượng khác hẳn trâm cài đai thắt, xuất gia chẳng phải cảnh sắc dưỡng, lìa cõi trần tục đâu phải chốn vinh danh. Công sâu cứu tế, đạo tận cùng vời cao, sao hẳn phá hủy Huyền môn ấy mà đòi theo vết Nho đây? Đắp mặc y phục Thích mà vì người thế tục kính bái, quỳ cửa Khổng mà hành lễ họ Thích, lưu còn giáo đó mà hủy đạo đó, cầu phước đó mà cúi khuất thân đó. Rõ ràng xét lý cốt yếu, sợ có chưa thỏa đáng. Lại nữa, làm khuôn phép của đạo tuy toàn đủ tóc da, xuất gia vượt tục, kết quy ấy về một so lường, thêm vì xa nêu trời tạo dựng, mở lớn cơ nghiệp hoàng vương. Nghĩa nhờ tôn nghiêm, nghi thức phù hợp cao thượng, chỉ có Phật giáo Lão giáo đâu men nhau từ lâu xa. Mãi đến Đại Đường chúng ta đây, uy phong càng tỏa thổi, tuy Vương du xa thỏa sướng, thật nhờ công trời, mà xe Thánh thường chuyển, thể thức vốn nhờ thầm gia hộ. Nay nếu như một mai cải đổi vết cũ, không ích lợi cho tương lai trong vô lượng kiếp, nỗi phiền lụy mảy may, hết tội bất trung, cùng đó mất cải đổi tạo lập mới, chẳng như sai lầm ở tu sửa văn. Khổng Tử nói: "Nhân chỗ lợi của người mà lợi đó". Lão Tử nói: "Tâm Thánh nhân không cố định, lấy tâm của trăm họ làm tâm mình". Chỗ lợi của Phật giáo và Lão giáo là lợi ích rộng lớn lắm nhiều, tâm của trăm họ quy hướng kính tin đông đúc, cải đổi chỗ lợi ấy chẳng phải nhân đạo của lợi, trái gốc tâm ấy, chẳng có nghĩa là vô tâm. Xin cứ tuân theo như cũ, thật chẳng kính bái là thỏa đáng. Bệ hạ, đức phủ cả hoàng trên, cơ nghiệp tỏa ngời khoảng dưới. Quân vương thân thích sùng kính, tuy mở thần chung; đạo pháp khó thuyết, trở lại lưu tỏa rõ tưởng. Đã vâng phụng sắc chỉ dò hỏi thô sơ, dám dốc hết sự chí thành của núi bụi, sợ chẳng chiết chung, nghĩ sâu càng kinh sợ!

Ba trăm năm mươi bốn người bàn nghị xin nên kính bái:

Hữu kiêm ty bình Thái thường bái Bá Diêm

Lập Bản v.v… bàn nghị xưng: Các thần chúng tôi nghe: Cứng thì dễ gãy vỡ, mềm dịu hãy còn; quạt thổi diệu chỉ của Huyền Phong, khổ hình cam nhục, vọt lời Huyền của Thích lộ, nên hay mở nguồn khéo xuống, hoằng dương nghĩa bất khinh. Do vì Thanh văn cúi lễ đối với Cư sĩ, Trụ Sử khum mình đối với Chu Vương, đó mới thành biểu chuế của Sa-môn, lập khuôn phép của Đạo sĩ. Từ đó đã hạ mất khuôn phép tông chủ ấy, nhiều đời chìm đắm chân lý ấy, tập tục giữ theo đường mê đó. Một người có làm, muôn vật trông thấy đó. Then chốt đất trời, khu giá Hoàng Vương, chuyển xe vàng nơi cảnh ưu thắng, giảng kinh ngọc ở chốn cao huyền, bèn khiến Đạo sĩ tìm chân đuổi theo mỹ phong xa vời của Thủ Tạng, Sa-môn xuống tóc hoằng dương điển pháp lâu dài kính lễ chân. Huống gì thái dương tỏa sáng ở trời, nêu cao ánh sáng của không hai. Đại Đế xưng tôn ngự trị nơi hoàn vũ, rất quý của ba thông. Vả lại, Phật giáo và Đạo giáo gieo trồng khuôn phép tuy dứt tuyệt trần dung, hành sự chỉ xuất gia chưa thể trốn vượt khỏi nước nhà, đồng bẩm thụ hình thái nơi gương chị em dâu, đều kính ngưỡng mỹ hóa ở thuần phong vẻ mặt. Đâu có chống kháng lễ cung đình, ở riêng cao vết chân? Nhưng khinh tôn ngạo trưởng tại người làm bội nghịch, tôn vua kính cha là đạo không ganh ghét. Xét rõ, bàn nghị bái quỳ đó là thỏa đáng. Kính phụng sắc chỉ ban truyền ở ngày mười sáu tháng tư: "Muốn khiến các hàng Tăng ni Đạo sĩ nữ quan đối với Quân vương thân thích nên kính bái". Vì sợ ngại trái với thường tình nên giao phó cho Hữu ty bàn nghị rõ ràng, tấu trình kiện trạng y như trước. Kính cẩn ghi lục tấu trình, xin vâng thuận sắc chỉ.

Ngày mồng năm tháng sáu năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường tấu trạng.

Chiếu văn đình chỉ việc Sa-môn kính bái Vương giả.

Đông Đài, nêu như Hoa Duệ liệt thánh, khác vết mà ngay bằng khu, nội ngoại gieo rắc phong hóa, trăm lo lắng mà đồng thấu đạt. Từ Chu tiêu mất tỏ chiếu, nhà Hán mộng điềm kéo dài ánh sáng, diệu hóa phương Tây chuyển dời dòng tuệ trùm khắp phương Đông. Đến như Huyền tẩn yếu chỉ sâu mầu, bích lạc tiếng tăm hiếm có, đều mở nền tảng lục thuận, vừa hợp gốc của ngũ thường, mà đối với nơi chốn kính ái, quên mất lễ nghi bái quỳ, từ xưa đến nay đã lâu xa không thay đổi tệ hại đó. Trẫm chủ mưu lên chính, sùng chân dẫn tục, ngưng áo khăn ở bến bờ giải thoát, đào luyện tư duy ở cảnh thường danh, chánh vì đạo của tôn thân, bách ngôn của lễ kinh, nghĩa của hiếu hữu, rõ ràng chuẩn xác của thi nhân, đâu có thể dứt tuyệt trần cao vợi khuôn phép mà quên kính của hỗ giúp, nhổ lụy quy cũ trinh thuần mà bỏ sót thứ lớp ẩm mát! Trước đây, muốn khiến các hàng Đạo sĩ, nữ, quan, Tăng ni v.v… kính bái, nhưng ngại chấn động kinh hãi tâm thường, bèn nhờ rõ ràng bàn định. Hữu ty đều dẫn, điển cử gồm tỏ bày tình ý, men đổi hai đường, đan xen cùng một nửa. Trẫm thương lượng xác thực các bàn nghị, trầm lắng nghiên tầm sâu mầu, nhưng mỹ phong có dĩnh cao thượng, việc ấy xa tưởng năm trước, nên cũng có đó. Nay đối với quân vương, cư xử khỏi phải kính bái; còn đối với cha mẹ, đức từ sinh dưỡng sâu nặng, chỉ cúi rộng đó lại sắp an ổn xếp bày. Từ nay về sau, tức nên bái quỳ, người chủ sự nên thi hành.

Ngày mồng tám tháng sáu, năm Long Sóc thứ hai (662) thời Tiền Đường, Tây đài thị lang hoằng văn quán học sĩ Khinh Xa đô úy Thần thượng Quan Nghi tuyên cáo.

Biểu văn của lão nhân Trình Sĩ Ngung ở kinh ấp v.v… tấu xin các hàng xuất gia nam nữ không nên kính bái thân thích

Các thần chúng tôi nghe chỗ Phật hóa ở vật quý đó, bởi vì nhổ vớt chìm tối trong sáu đường, cứu giúp kẻ mờ mịt nhận biết đến tam thừa, đức đó ở rộng công đó cũng lớn. Do đó, Phật là Pháp Vương, chỗ mà u hiển đều quay về nương tựa; pháp là thuốc tốt, các phiền hoặc do đó mà mát tân; tăng là giống Phật rộng diễu bày khắp tương lai. Bèn khiến nhiều đời anh chủ trọng đạo đức mà hộ trì, các hàng thanh tín hiền minh độ con cái mà tiếp thừa, nên được Tăng ni khắp đủ trong Hoàn vũ, duỗi ban khuôn phép dẫn dắt không cùng. Cúi mong bệ hạ lòng từ cứu tế chín loài, mở thoáng nhất thừa, đạo kính ái tức khắc lớn mạnh, đường thành việc chuyên càng xa. Gần đây vâng phụng minh chiếu ban sắc khiến Tăng ni kính bái cha mẹ, đó thì kính sùng xiển dương đạo hiếu, mới bắt đầu ban bố nguồn kính. Chỉ vì Phật có chỉ dạy thành giáo điển, người xuất gia không kính bái thân thích của họ, muốn khiến đạo tục khác bến bờ, quy giới nhân đó mà đến tựa. Xuất chí hai khác, chân tục do đó mà có trái, chớ chẳng phải tâm thọ giới Phật, hình đủ nghi Phật, lưới pháp cao khác, tưởng kính toàn riêng. Vả lại, từ mỹ phong cao thượng, nhân chủ như còn chống kháng lễ kính, đâu chủ các thần chúng tôi dưới trái nhận nghi bái quỳ. Cúi ngưỡng vỗ về theo không do nơi mở phát ý nguyện nước nhà không hai cung kính, mở lớn dấu vết phương ngoài. Chư tăng kính phụng nội giáo, trên được lập thân hành đạo, chẳng nhậm chí thành nỗi lòng riêng tư. Kính dâng biểu văn tấu trình, vết bụi khiến nhọc oai nghiêm, càng thêm lo sợ. Kính cẩn tỏ bày.

Ngày hai mươi mốt tháng sáu, năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường dâng tấu.

Biểu văn của Trực Đông đài Phùng Thần Đức v.v… tấu xin y như cũ, hàng Tăng ni v.v… không nên kính bái thân thích (có một bài, và tấu trình những việc trước sau của Phật đạo).

Các Đạo sĩ, Tăng ni v.v… xin y như cũ, tức là Tăng ni đứng trước (một điều này là nhân ở năm Trinh Quán thứ mười một (637) thời tiền Đường, nay đồng như trước.), cha mẹ, tăng ni xin y như cũ không lễ bái mẹ cha.

Các thần chúng tôi nghe, Bí giáo lưu truyền phương Đông, nhân minh hậu mà xiển hóa; Huyền Phong chuyển vận tới phương Tây, nhờ thật biết mà mở tông. Nên biết, Hoằng tế nghĩa ngàn môn, tuyên bày ở chánh đạo, dẫn dụ muôn loài, lý lấp bí bến tà, chỉ có thể theo Thánh giáo mà đè ép hay nâng bóc, đâu được theo việc người mà phát khởi hay dẹp mất. Sa-môn là cầu thắng quả ở tương lai, Đạo sĩ tin tự nhiên của hữu sinh. Tự nhiên quý lấy tánh chân, dứt đến đạo. Nguồn dẫn dụ cứu tế tuy chẳng đồng, nhưng theo Thiện chung quy chỉ có một. Cúi mong Hoàng đế Bệ hạ bao gồm cùng cực nguyên kiến, ngự trị một phi trinh, nhân đại đạo mà lưu khiêm nhường, thuận vô vi mà xuống cứu tế. Nhân tâm hợp vật, giáo chẳng kính túc thành, nay mới định chế tôn ty của đạo Phật, ép buộc các Samôn cúi bái. Cúi bái có đồng với lễ thường, chưa phải là nhân của xuất tục; tôn ty là tình của vật ngã, đâu thể gọi là diệu của vô vi? Bệ hạ, đạo phong thửa xiển hóa, giáo điển họ Thích chuyển tải tỏ bày, mỗi lúc đến ngày trai đều khiến cầu phước. Cầu phước v.v… một là y cứ theo kinh giáo, hai là sao riêng trái ngược? Bệ hạ là thần thông của tạo hóa, cha mẹ là từ xưng của nhân tử (kẻ làm con). Bệ hạ vì trọng của chí cực còn đình chỉ lễ nghi kính bái. Sở sinh đã gọi là nhân thần (kẻ bề tôi), sao được cúi bày tình lễ, xả bỏ tôn quý đến với mến ái, vất mất kính trọng trái với kinh giáo. Duyên tình như còn chẳng thông, căn cứ Kinh giáo như là thực hành Chu lễ. Bệ hạ bao gồm ánh sáng trời, đạo thuận vật mà lưu hình. Hình vật còn chẳng hứa trái, tịnh giáo sao nên cải đổi thi vi? Mong bệ hạ nhân thí của trời người, thuận tâm muôn vật, đình chỉ nghi lễ mới bày cúi bái, tuân theo tập quán xưa cũ có tôn ty. Ngõ hầu ánh sáng vàng ràng chói lọi phương Đông, chẳng xen tạp buồn thương của trần tục, hơi khí sắc tía soi tỏa phương Tây không ngạc kinh quý mến của vật ngã, tức đại đạo chẳng mờ tối mà được cùng tỏa sáng, đồng thời phước nghiệp trọn thuần trinh ngõ hầu lại rõ ràng ở ngày Thánh. Kính cẩn tỏ bày.

Ngày mồng mười tháng bảy năm Long Sóc thứ hai (662) thời Tiền Đường dâng trình.

Khải văn của Sa-môn Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh v.v… lại dòng Vinh trình phu nhân Dương Thị, xin luận bàn không nên kính bái thân thích. Sa-môn Đạo Tuyên v.v… khải trình: Trộm nghe, trách nhiệm tiếp nối làm lớn mạnh chánh pháp hẳn kết quy ở Minh triết, sùng kính hộ trì Chân thuyên vốn nhờ mến kính đoái hoài. Cúi nghĩ, chỉ phu nhân xưa trước gieo trồng huân tu, mở phước vô lượng, sớm nêu tín tuệ, tạo dựng nhân không hủ mục. Đến như đối với oai nghi Phật pháp, khuôn phép thể thức pháp môn, thật nhờ đặc biệt ban ân hổ giúp, chẳng khiến bị lấn lướt. Từ khi sắc chiếu ban khắp chư tăng, hứa thuận cải bỏ kính bái triều đình, thật đáng hợp ý của phó chúc, thật sâu nặng tình mang đội! Nhưng đối với cha mẹ còn khiến bái quỳ, riêng nghĩ không thỏa đáng, rất trái với Phật dạy. Nếu chẳng sớm có sự tỏ bày, sợ bèn đồng với pháp thế tục. Chư tăng v.v… dốc lòng chăm chú, chẳng dám trình bày, tâm tình lo sợ, tạm nhờ giải đây. Cúi xin Đức từ ban trải đặc biệt vì tấu trình, thản như được toại nguyện, ân quang rạng càng sâu, phước mừng vui không giằng nổi. Sự khẩn thiết rất lắm, kính cẩn tấu trình khải văn, mảy trần quấy nhiễu, chỉ biết lo sợ. Kính cẩn tỏ bày.

Ngày mười ba tháng tám năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường kính dâng.

Biểu văn của Sa-môn Oai Tú v.v… ở chùa Đại Trang Nghiêm dâng trình tỏ bày Tăng ni xin y theo nội giáo không lễ bái cha mẹ.

Kính cẩn ghi lục trong kinh Phật nói, người xuất gia không nên kính bái cha mẹ, vì không lợi ích mà có sự tổn hại, như sau:

Kinh Phạm Võng nói: "Người xuất gia không nên hướng về Quốc vương, cha mẹ để lễ bái".

Huyền giáo lưu truyền đến phương Đông đã hơn sáu trăm năm, từ những vị Hoàng vương các đời xưa trước, không ai chẳng kính ngưỡng. Mãi đến Thánh Đế nay, thân phụng Thánh giáo lại càng lớn mạnh, nên được chùa chiền xây dựng liền nhau, tinh xá non cốc cao vợi. Mọi người biết kính một điều thiện, mọi nhà hiểu nghĩ điều lỗi quá. Chư tăng nhục đối với sinh linh, há quần trung hiếu, Minh Chiếu ban sắc khắp nước nhà đều vâng tuân, sợ ngay bút sứ thần tiên ghi trái lời Phật dạy, khiến muôn đời sau hoang tàn dơ bẩn Hoàng phong. Sa-môn Oai Tú v.v… cho rằng: Trộm nghe, chân tục khác khu vức, Sa-môn cắt dứt luyến ái hữu sinh; u hiển khác vận phụ, pháp y ruộng phước không dung mạo cúi bái. Lý hẳn vượt tình, đạo bèn lỗi vật. Huống gì hình trộn giới luật, đúc niệm bến bờ, đáp ân chẳng dùng hình hài kính dưỡng. Cầu mong phước thiện mà khiến hình nghi chẳng cải đổi, Thích giáo kính bái hẳn đồng như Nho giáo. Đối với chư tăng thì có lỗi quá vượt hẳn giới luật, đối với thân thích thì có ương lụy tổn phước. Sự lo toan của thần tử (bề tôi và con) dám chẳng nói hết. Cúi nghĩ, chỉ bệ Hạ hỗ giúp nghiệp lớn xa, dẫn dắt thầm rộng. Đã là kính sùng ở nước, cũng xin chỉnh sửa ở nhà, đủ để khiến bỏ tục không phải tập học lễ nghi thế gian, xuất gia dứt tuyệt việc kính cung người nhà. Hộ pháp là ở tại đó, gieo trồng phước không gì trước tự nhiên. Giáo điển có chỗ nung đúc, người biết tự cố gắng, chẳng giằng nỗi sự chí thành khẩn thiết, kính cẩn dâng biểu văn để tấu trình. Vết bụi nhuốm dính cung đình, càng thêm lo sợ. Kính cẩn tỏ bày.

Ngày hai mươi mốt tháng tám, năm Long Sóc thứ hai (662) thời tiền Đường kính dâng.

Biểu văn của Sa-môn Tỉnh Mại phiên dịch ở cung Ngọc Hoa v.v… dâng trình việc Tăng ni kính bái thân thích thì có sự tổn hại.

Sa-môn Tỉnh Mại nói: Trộm nghĩ, vì răn buộc cáo trước, tôn quý thân phụ, cúi khuất hình thể, thân mình cong hình luật rõ ràng thay đổi. Giới sĩ chẳng cúi bái Quân vương thân thích. Cúi nghĩ chỉ chư tăng v.v… xiển dương lời tiếp nối Phật, kế thừa nghĩa tôn quý thì đồng, nên ái kính giáng cao, mới bẻ tiết tháo ở hơi khí ấy, dung nghi vận mặc khác tục, hình luật đổi thay rõ ràng không khác, cuối cùng khiến Sa-môn cũng chẳng chi tiết cúi khuất đối với Quân vương thân phụ. Nghiên cùng nội ngoại đó, tuy là tiếp nối hình thức biến đổi phép tắc mà tâm kính Quân vương thân thích dám có biếng lười ư? Đến như kẻ bề tôi vận phục chịu tăng, Quân vương vì nhật khác nguyệt, hình tuy theo tốt đẹp mà tâm chịu trong suốt đến ba năm. Vậy nên biết, ngăn cấm ngầm bát âm đó ở nơi ba năm sửa tu tâm kính, điều đó từ xưa đến nay vẫn còn vậy. Nếu khiến trái lại kính bái cha mẹ, thì đạo tục đều trái giới Phật răn chế, điên ngược đắm chìm oan uổng hầm hố luân hồi chưa ngưng thôi. Huống gì động cả trời đất, cảm tới quỷ thần, đâu ở nơi quỳ cúi ư? Chỉ vì lợi của nhà công, biết không gì chẳng làm, sợ nhân nay mở đầu cải đổi muôn vàn có một vương lụy thì phụ trái ân lớn của Thánh thượng tỏa buông pháp tập tu, trải qua nhiều kiếp phân nát thân hình sao đủ để bít lấp lỗi quá? Cúi nghĩ, chỉ Bệ hạ mở rộng đường hiến thư, thông ràng thâu nhận lời thô thiển, mảy trần nhẹ xin đọc xem, càng lo sợ toát mồ hôi. Kính cẩn tỏ bày.

Ngày hai mươi lăm tháng tám năm Long Sóc thứ hai (662) thời Tiền Đường kính dâng.

Biểu văn của Sa-môn Sùng Bạt ở chùa Thiền Cư tại Tương Châu dâng xin cha mẹ của Tăng ni đồng với Quân vương không nhận sự kính bái của các hàng nam nữ xuất gia.

Sa-môn Sùng Bạt nói: Sùng Bạt tôi nghe: hiến chương đạo tục, hình tâm đổi khác. Hình thì chẳng kính bái Quân vương thân phụ, dùng để hiển bày nghi biểu xuất gia; tâm thì kính gồm Tam đại, vì tôn trọng Tư Dưỡng. Gần đây, vâng phụng sắc chiếu ban ân khiến chư tăng không kính bái Quân vương, mà khiến kính bái cha mẹ. Điều đó thì lớn mạnh tỏ sáng lễ kính ái, mà khuyết trái giáo trong kinh điển. Tăng bảo còn mà bị khinh nhẹ, quy giới mất mà ẩn mãi lâu dài. Đâu có Quân vương mở vết cao thượng, chẳng đổi thay lời Phật. Chúng tôi giữ nghi thức không kính bái, tỏ vẻ trái với Thánh chỉ, có thể gọi là phóng tử. Vì cầu phước ấy mà nhận kính bái bèn bị tội khổ đó. Một là pháp hóa cuối cùng nghi ngờ, hai là nghĩa lý mâu thuẫn. Cúi mong xin theo lễ của Quân vương trọng kính để thông hợp nghi của hạ thần (chúng tôi). Vết trần nhuốm dơ cung cấm, càng thêm mất quá. Kính cẩn tỏ bày.

Ngày hai mươi lăm tháng bảy năm Long Sóc thứ hai (662) thời Tiền Đường kính dâng.

Bàn luận rằng: Trạng văn của Oai vệ ty liệt, ngôn từ thì mỹ lệ, còn về lý ấy thì lại bất nhất, nên thật mờ tối ở đại nghĩa. Giả sử, khum đầu gối làm kính, chẳng tỏ ngộ họa mất nhục. Trong kinh nói: Sa-môn cúi bái thì tổn hại công đức và thọ mạng của Quân vương thân thích. Nay mà ép buộc khiến cúi khuất, sao nói vậy mà chẳng nhận rõ, nhẹ khơi mở then chốt ư? Tuy mỗi mỗi tự nói lên chí ý của mình, cũng nào tổn thương đó quá lắm. Mà trạng văn của Oai Vệ v.v… thông bít gồm cả hai, còn trạng văn của Ty Liệt một đường trọn chấp. Hoặc phỏng hỏi hai thứ bàn nghị hơn kém, tôi cho là Sở thì mất vậy mà Tề cũng chưa làm được, nhưng gồm cả hai thì chỉ là thớ da, trọn chấp là cao hoang. Vì vậy được thăng Oai Vệ ở khoa nhì (Ất Khoa), thối lùi Ty liệt ở Cảnh đệ. Đến như Phạm Công chất vấn bàn nghị thì ý chỉ trông xem rất văn hoa, Lũng tây chấp buộc tấu trình, ngôn từ ước lược mà lý cùng khắp. Thế mà nhân thứ hòa mục, quy thệ hợp theo, nêu được trời tan vỡ xuống lan tỏa lớn mạnh, vẻ đẹp cao thượng khắp đất từ dục, lại hoằng dương đức nhân cúi bái. Bấy giờ các danh tăng bạn đạo cho đến những người già quê kệch đều nói: "Hợp chí riêng vậy. Trái giáo thế nào?". Từ đó, đông đúc nêu bày kinh văn, trình tấu biểu khải, chẳng những sáng tỏ mà liền đêm bài xích đình khuyết. Chỉ vì cửa trời sâu xa, nên chẳng do đâu tỏ bày cầu xin, vâng phụng sắc chiếu cầu xin tông chủ khó làm lấy bỏ. Trong Dịch nói: "Dê đực xúc chạm phiên doanh, sừng nó mới vỡ lỡ".

Các bạn há chẳng như vậy ư?

Tán thán rằng: Các hàng oai vệ bàn nghị tuy thông bít, vì người mà phế bỏ đạo, thật chưa là được. Trạng văn của Ty liệt v.v… ép buộc Phật giáo theo Nho giáo, cúi bái tổn hại cho Quân vương thân phụ, há nói là mưu ý của trung nghĩa, chất vấn bàn nghị đạo hoa, trình bày giản yếu trời người hợp đáng? Bèn duỗi ban chiếu cáo, cung kính vâng thừa minh mạng. Thử vừa vỗ tay vừa ca, trông xem huyền tịch có lụy như thế nào? Các đồng bạn đạo tục dò hỏi, đều tỏ bày biểu khải, vạch tẩy thành thực, chưa bó buộc hoàng đạo tiến lùi chỉ sai quấy, bày biện chẳng do đây, ngưỡng mạng thần vũ, thông dông pháp đây.

Tổng luận về Sa-môn không nên kính bái người thế tục.

Sa-môn Thích Ngạn Tông nói: Phàm, Sa-môn không nên kính bái thế tục. Tại sao? Bởi vì xuất xứ khác dòng, nội ngoại riêng phần, sống chủ thể cực, dứt lo toan bặt quên thân mạng, chẳng miệt mài để cầu sống, không khư khư vì thuận phong hòa, tình vượt khỏi trong khu vũ, dấu vết gá ở trong hoàn vức. Do đó, chống kháng lễ bái cung đình, trái ngược ân thiên thuộc, hóa vật chẳng thể đổi dời mỹ hóa ấy, lợi sinh không lụy sự sống đó, nâng cao Quân vương thân thích, đó là yếu chỉ lớn vậy. Nếu suy tầm đến việc người, xét các cổ huấn, thì sự không kính bái xếp đặt có đến mười điều. Đến như trông sách núi sông giao tế đất trời, muốn lợi vật ấy, Quân vương phải dốc hết mới thành thật. Nay Tam bảo trú trì, quy giới rộng lợi ích v.v… minh phụ giúp hoằng hóa, có thể lược nói vậy. Đó là các hàng thuộc loại thần kỳ, vì cúng tế đó, cửa nhà hẳn hợp tỏ sáng hòa mục, cắt hại sinh linh cúng tế, lúc nào là chẳng bề tôi? Nay, Tam bảo là một thể, kính tăng như Phật, nói rõ đủ trong kinh giáo không đợi phải nhiều lời, đó là các hàng tế chủ vậy. Hai vị quân vương Kỷ Tống sau này, chỗ trọng kính của Vương giả là khách nước nhà. Nay, chư tăng là nối dõi của pháp vương, các Vương giả vâng nhận Phật phó chúc, khuyên gắng bốn bộ tiến tu ba hạnh. Đó là các hàng khách nước nhà, trọng đạo tôn thầy, thì chẳng bề tôi vậy. Tuy chiếu văn của Thiên tử không đối mặt kính cầu. Nay, các Sa-môn truyền chánh giáo của Phật, dẫn phàm dụ vậy, nghiêm sư kính học, ấy ở đâu ư? Đó là các hàng Nho hành. Trong sách Lễ nói: "Giới là không cúi bái, vì đó mất ở Dung nghi tiết tháo, nên Chu Á Phu bái dài Hán văn vậy". Nay Sa-môn mặc áo giáp nhẫn nhục, cắt đứt quân dục, tay nắm dao tuệ, chí dẹp tâm lầm hoặc, đó là hàng giới trụ vậy. Nhiều đời đón khác, tôn trước quan tiếp, mẹ anh kính bái về lễ thành người. Nay, Sa-môn lấy đại pháp làm trách nhiệm chính mình, cứu giúp quần sinh nơi đồ thán, kính tuân di vết, tiếp thừa nối dõi, đó là hàng truyền kính trọng vậy. Nghiêu xứng phép trời, chẳng khuất cao của Dĩnh Dương, thử hết vẻ đẹp ấy vậy, trọn còn thanh khiết trúc đơn lẽ. Nay, Samôn cao thượng việc ấy, chẳng phụng sự Vương hầu, thoát sát trong mảy bụi ồn náo, tự đặt để ngoài hoàn khu, đó là hàng vượt quá hơn người. Phạm năm tội hình liên quan ba cây, dứt tuyệt nối dõi, hủy phá dung mạo, đổi thay y phục, đó là hàng rất luật hình vậy. Lại nữa, sắc chiếu sai khiến tuy hơi tiếp thừa phép trời, quý trọng Sa-môn, giả sử khinh tiện bẩm mạng nên tôn quý. Huống gì tức cảm động cả u minh, pháp hóa đượm nhuần rồng quỷ, lắng sóng khổ của người trời, lọc khí tai ương của muôn loài. Công đã lớn vậy, ân đượm cũng rộng thay, đâu khiến hàng dứt tuyệt trần tục kính bái, ương lụy Quân vương thân thích, hàng nhàn phóng cắt vót đồng với Danh giáo mà thôi.

Tôi từ tuổi bé thơ đã đam mê việc ấy, đến lúc trưởng thành lại sưu tầm, gom nhặt di liệt ở sách xanh, góp lượm đẹp xinh xưa trước ở Hản giản. Lại vì cảm vùi lấy ánh sáng ở Phật nhật, dốc hết đóm lửa để dấy lời, ngõ hầu tương lai trọn lưu truyền việc tốt. Lại nữa, sách luận xưa nay đều nói "chẳng kính". Y cứ một chữ đây, phàm ngu trộm lầm hoặc vậy. Cớ sao? Kính mới thông tâm, cúi lễ xứng không chẳng kính, bái lạy chỉ thân khuất cong, đầy đủ tỏ bày nghi chín lạy. Vả lại, Quân vương, thân phụ tôn nghiêm, tâm kính không hình dung, không thể pháp luật, sùng trọng thân bái có trái với thông kinh. Vì bái lạy thay kính dùng để làm thỏa đáng.

Nên sách ấy nói: "Không bái lạy là văn". Pháp sư Tuệ Viễn có nói: "Sông sâu đâu đợi sương mốc sớm mai ư?". Bởi tự tỏ bày võng cực ấy vậy. Nay làm sách này cũng do đó vậy. Hàng thấu đạt trông xem, bậc thông hiền không nhàm chê vậy.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Sử Truyện][Mục lục tổng quát]