TẠP TẠNG
Thời tiền Đường, Sa-môn Thích Pháp Lâm soạn thuật.
CHƯƠNG THỨ NHẤT: TAM GIÁO TRỊ ĐẠO
CHƯƠNG THỨ NHẤT: TAM GIÁO TRỊ ĐẠO (Tiếp Theo)
CHƯƠNG THỨ HAI: MƯỜI ĐỜI KÍNH PHỤNG PHẬT
CHƯƠNG THỨ HAI: MƯỜI ĐỜI KÍNH PHỤNG PHẬT (Tiếp Theo)
CHƯƠNG THỨ BA: LUẬN VỀ TRƯỚC SAU CỦA PHẬT GIÁO VÀ ĐẠO GIÁO
CHƯƠNG THỨ TƯ: THẦY TRÒ CỦA THÍCH MÔN VÀ LÝ TỬ
MƯỜI DỤ CỦA NỘI, ĐÁP LẠI MƯỜI DỊ CỦA NGOẠI:
CHƯƠNG THỨ BẢY: HƠI KHÍ LÀ GỐC CỦA ĐẠO
CHƯƠNG TÁM: QUẢ BÁO TƯƠNG GIAO CỦA KÍNH TIN VÀ HỦY BÁNG
CHƯƠNG THỨ CHÍN: VĂN VẺ TRONG CÁC SÁCH
CHƯƠNG THỨ MƯỜI: RA KHỎI SỰ SAI LẦM DỐI NGỤY CỦA ĐẠO
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT: CÁC ĐỜI TƯƠNG THỪA TIẾP NỐI
CHƯƠNG MƯỜI HAI: QUY TÂM CÓ NƠI CHỐN
Đông cung học sĩ Trần Tử Lương soạn.
Thường nghe, Tuyên Ni vào mộng, Lý của mười dực khắc rõ; Bá Dương ra cửa, nghĩa của hai thiên hiển bày. Hoặc móc sâu buộc tượng, hoặc tham cứu xa vời, nơi danh ngôn chẳng tuyên bày, chỗ âm dương không lường biết, như có thể mở rộng đất trời, cùng khắp quỷ thần. Đạo không đượm thấm nói Đại thiên, lời chưa vượt khỏi trong Hoàn vức. Huống gì pháp thân viên tịch, diệu vượt hẳn hữu vô, chỉ Lý ngưng huyền, dấu vết sạch nơi chân tục, thể tuyệt ba tướng, lụy hết bảy đời, không tâm tức là tâm, chẳng phải sắc là sắc. Không tâm tức là tâm nên hay tâm tâm ấy vậy; chẳng phải sắc là sắc nên hay sắc sắc ấy vậy. Rắn dây từ đó lắng không, hình danh do đó đều tỉnh vắng, ở ngoài lưới nên đâu có thể nói ư? Như Tây Bá buộc dẫn bèn hiển bày tinh vi, con lớn nhà tằm rốt cùng thành chí trước. Nên Dịch nói: "Người xưa tại Dịch". Đó hẳn là có ưu lo ư? Luận bàn đó mà phát khởi có nguyên do vậy.
Pháp sư vốn dòng họ Trần, là cháu chắt của Thái Khâu Trưởng Trọng Cung ở thời nhà Hán. Tổ tiên xa xưa làm quan nhiều nơi, dần chuyển dời đến Giang tả. Gần đây nhân chuyển dời cư ngụ, lại đến ở Tương châu. Ở thời nhà Tùy, Pháp sư vào Quan nội theo thầy xin thọ học. Ngọc dời kinh tụ, tánh ngời sáng càng rõ bày; Quế đổi rừng sâu, gió thoảng hương càng xa. Pháp sư ứng tốt lành của chân nhân, bẩm xinh đẹp của xiêm vàng. Trong thông rành Tam tạng, ngoài suốt gồm chín phái triết học. Đã khéo duyên tình lại rất hay thể vật. Thiên chương uyển lệ, Lý thấu đạt văn hoa, tỏa phất văn gấm lụa, vút bay hơi khí vượt mây, vàng ngọc ban cổ chưa thể đồng năm, sông biển Phan lục sao Kham phương giá. Đến như học của Trang sinh Mặc sinh, thư của Hoàng tử Lão tử, văn của Tam thanh Tam động, Lục của Cửu phủ Cửu tiên, Bí mật của Đăng Chân Ẩn Quyết, Lễ nghi của Linh bảo độ mạng, thảy đều nuốt đến trong lòng ngực, nói như chỉ ngón tay. Hơn nữa, trước đây pháp sư đã tập học Trung Quán, thêm một thời gian tích chứa Pháp Hoa, đã có Văn Trì, lại chuyên trước thuật. Vận ý tư ra ngoài cấp dẫn không nhọc mệt, Biện Trung Quán thì Long Thọ có thể mong, luận về tự nhiên thì Lão Trang chẳng xa.
Từ đó, bốn phương chen đạp như về vườn của
Trưởng giả, bảy báu lan rộng tợ đến chợ Hoa âm.
Nên đem sở học sánh bằng Sa-môn Đạo An, Tuệ Viễn, tài trí vượt quá Sa-môn Tăng Triệu, Đạo Sinh. Thật là bậc khai sĩ rường cột, là tường vách thành trì của giáo pháp ấy vậy.
Nhân có Đạo sĩ Lý Trọng Khanh, Lưu Tấn Hỷ v.v... đều làm văn từ ngu dốt phỉ báng chánh pháp, khiến những vị nhân sĩ ở thế tục hoặc phát sinh tà tín. Pháp sư xót thương sự mờ tối ấy, lo sợ sẽ rơi lạc vào địa ngục, bèn phát tâm đại bi mà chế tác luận này. Có thể gọi là cổ xúy biển pháp đây, lay động ngọn ngôn từ kia. Bén nhọn của Bích Khê đua tranh rong ruổi, tài giỏi của Hoàng Mã giành vượt kém hèn, không gì chẳng như lá rơi búa gãy, mây tan mốc cuộn, tướng trạng như lò lớn thiêu đốt mảy lông, tợ lửa dữ nung băng mỏng nhẹ. Các hàng Phụ thắng khi ấy có thể thấy, tạm quy hướng đến từ định đã phá quân ma, nương nhờ phấn phát da tuệ diệt giặc ngu. Ánh sáng Phật nhật từ đó lại ngời tỏa, mây pháp lại rộng giăng.
Nhưng Pháp sư còn có trước thuật các thứ thi phú khải tụng, bi lụy chương biểu, giáo pháp Đại thừa, và luận phá tà v.v... có hơn ba mươi quyển, hiện lưu truyền ở trong đời.
Riêng luận này có tám quyển, mười hai chương, cả thảy hơn hai trăm trang giấy, nghiên cùng nguồn giáo của Thích Lão, thấu suốt danh lý của Phẩm Tảo, sửa chỉnh trước thuật đã nhiều năm mà chưa lưu bố. Xưa trước, Tần Hiếu Công nghe nói Đế mà ngủ say, đến khi nghe Đàm Bá mới dậy. Dương Xuân Hòa hiếm ít rất đáng buồn than. Chỉ vì điều thuật nói của Pháp sư trong ngoài đều gồm cả, chỉ ngại sợ hàng hậu sinh khéo giỏi việc cuối cùng có chỗ chưa rõ hiểu. Đệ tử là Trần Tử Lương vốn ở Thái Nguyên, gần đây tỏ bày đảnh lễ, nương theo mà thưa hỏi bến bờ, đốt sáng tràn mắt như minh nguyệt vào trong cõi lòng, tỉnh lắng mà ứng có tợ châu báu sáng lóa vật, đã tỏ ngộ như huyễn ở đường thông, bèn chấm dứt vân du trăm thành. Từ đó mở tỏ điều chưa từng nghe, tạm vì chú thích dẫn giải, ngõ hầu những người đồng hay khéo ở tương lai may mắn được rốt cùng ấy vậy!
----------------------------------
(* người dịch tự đặt danh)
- Chương thứ nhất: Tam giáo Trị Đạo.
- Chương thứ hai: Mười đời kính phụng Phật.
- Chương thứ ba: Sự trước sau của Phật giáo và Đạo giáo
- Chương thứ tư: Thầy trò của Thích môn và Lý Tử.
- Chương thứ năm: Mười Dụ
- Chương thứ sáu: Chín Châm.
- Chương thứ bảy: Hơi khí là gốc của đạo.
- Chương thứ tám: Quả báo tương giao của kính tin và hủy báng.
- Chương thứ chín: Văn vẻ trong các sách.
- Chương thứ mười: Ra khỏi sự sai nhầm dối ngụy của Đạo.
- Chương mười một: Các đời tương thừa tiếp nối.
- Chương mười hai: Quy tâm có nơi chốn.
--------------------------------
Đời Đường, Sa Môn Thích Pháp Lâm soạn
Có công tử Thượng Tường hỏi người thông rành cổ học rằng: Thầm nghe khí tượng biến thông chẳng thể vượt quá âm dương; biên vực bao la cũng chẳng thể vượt quá đất trời. Xét tìm, phàm khi ngũ vận chưa thành hình thì vốn không người vật. (Dịch Câu Mạng Quyết nói: Trước lúc trời đất chưa phân, có Thái dịch, Thái sơ, Thái thủy, Thái tố, Thái cực, tức là ngũ vận. Khí tượng chưa thành hình, gọi đó là Thái dịch. Nguyên khí mới nảy mầm gọi đó là Thái sơ. Đầu mối của khí hình gọi đó là Thái thủy. Hình biến có chất gọi đó là Thái tố. Chất hình đã đầy đủ gọi đó là Thái cực. Chuyển biến năm khí nên xưng là ngũ vận. Nói khí hình chất đầy đủ mà chưa phân ly đều là tên gọi của Thái dịch, bấy giờ rỗng không, chưa có người và vật vậy). Tam tài đã lập mới xếp dặt tôn ty (Càn Tạc Độ nói: "Thái cực, Thái tố, Thái thủy tên gọi tuy khác nhưng Lý đồng nhất". Dịch Vĩ Thông Quái nói: "Thái cực là sinh Lưỡng nghi. Nói khí trong lành nhẹ bay lên là trời, khí uế bẩn nặng chìm xuống là đất, thân con người dự tham vào, gọi đó là Tam tài". Dịch Tự Quái nói: "Có trời đất muôn vật, sau đó lập vua tôi, chế định lễ cha con, lớn nhỏ, chồng vợ, tôn ty cao thấp khác biệt ấy vậy). Hóa của tự nhiên đã dấy khởi, phong của vô vi đã trùm khắp". (Hà Đồ Quát Địa Tượng nói: "Trời đất mới lập, có dòng họ Thiên Hoàng, đạm bạc tự nhiên, cùng Thái cực đồng đạo, thân đeo chín cánh làm vua Mộc Đức, không có thi vi tạo tác, chỉ tự nhiên mà hóa". Khai Sơn Đồ nói: "Địa Hoàng dấy khởi ở núi Long môn Hùng Nhĩ, làm vua Hỏa Đức". Mạng Lịch Tự nói: "Nhân Hoàng giá sáu cánh cưỡi xe mây ra cửa cốc, phân chín châu làm lớn thiên hạ, anh em gồm có chín người, ý cứ thế đất của núi sông mà chia làm chín vức, mỗi người ở một châu". Đế Hệ Phả nói: "Thiên Hoàng trị vì mỗi vị mười tám ngàn (18.000) năm, Địa Hoàng có một trăm năm mươi đời trị vì thiên hạ với thời gian năm mươi bốn ngàn năm (54.000). Tiếp đến là dòng họ Ngũ Long, Hoàng Bá, Hoàng Thân, Hoàng Thúc, Hoàng Quý, Hoàng Thiếu, anh em có năm người đều cưỡi rồng lên xuống. Có một trăm tám mươi đời trị vì thiên hạ với thời gian chín triệu hai trăm bảy mươi ba ngàn sáu trăm (9.273.600) năm, tức là năm vị Thần Linh, Oai, Ngưỡng, v.v... ấy vậy. Tiếp đến là dòng họ Thần Nông, cưỡi sáu con rồng nhẹ qua bốn biển, lạnh nóng quân bình để trải cho nhân dân, thông khắp gió mưa. Có mười đời, mỗi đời trị vì chín trăm năm. Tiếp đến có bốn dòng họ, tiếp đến có một đời chẳng trọn, tiếp đến có bảy mươi hai dòng họ, tiếp đến có ba dòng họ, hoặc cưỡi dê bay nai bay, mới đầu dạy dân ở nơi hang hóc, ăn thịt chim thú, mặc áo lông da. Tiếp đến có dòng họ Sào, giá rồng lân, cưỡi phụng hổ, dựng cây gỗ làm ổ, dạy dân ở đó để ẩn lành chim thú làm hại. Tiếp đến có dòng họ Toại nhân, dạy dân dùi cọ ra lửa, biến đổi thức ăn sống thành chín, để thoát khỏi loại tanh nồng, nung đúc làm mũi nhọn bằng kim khí, và dân chúng dần vui thích. Như vậy, trải qua sáu giềng mối, có chín mươi ba thời đại, một ngàn hai trăm tám mươi chín (1.289) đời, với thời gian mười triệu một trăm lẻ một ngàn tám trăm bốn mươi (10.101.840) năm. Từ thời hóa xuống, đều xưng gọi là Tam hoàng"). Tiếp đến là Thánh thân rắn đầu trâu (Lục Nghệ luận nói: Thái Hạo Đế, Bào Hy giáo hóa gió, thân rắn đầu người có Thánh Đức. Toại Nhân ẩn mất, Hy Hoàng xuất sinh, đời đó có năm mươi chín dòng họ. Hy Hoàng mới tuần tự chế tác pháp độ, đều làm vua Mộc Đức, chế lễ giá thú, thọ nhận Long đồ, lấy rồng ghi quan, nên gọi là Long sư, ở ngôi với thời gian mười một ngàn không trăm mười hai (11.012) năm. Diệm Đế Thần Nông dòng họ Khương, thân người đầu trâu có lửa tốt lành, tức làm vua Hỏa Đức, có bảy đời, cả thảy năm trăm năm). Hoàng Châu Hành Nhật Giác (Lục Nghệ luận nói: "Hiến Viên dòng họ Công Tôn hai mươi lăm tháng mới sinh, có tướng Châu Hành Nhật Giác, làm vua Thổ Đức trong thiên hạ, lấy Kiến dần làm đầu năm, sinh hai mươi lăm người con, có mười hai dòng họ, có mười ba đời, trị vì với thời gian một ngàn không trăm bảy mươi hai (1.072) năm. Nhân nằm mộng thấy thọ nhận Đế Lục, bèn cùng Thiên Lão đi tuần sông mà nhận thọ đó, được sách Hà Đồ, học ở Tiểu đồng chăn ngựa, kính bái Quảng Thành Trượng Nhân ở núi Không đồng". Đế Vương Thế Kỷ nói: "Đời của Tam Hoàng có thời gian hai mươi ngàn hai trăm chín mươi bảy (20.297) năm), mới bắt đầu họa vẽ Bát Quái và Trọng Bát Thuần (Hà Đồ Quát Địa Tượng nói: Dòng họ Mật Hy ngửa trông hình tượng trên trời, cúi xét các pháp dưới đất, mới họa vẽ Bát Quái, dùng đức Thần thông mà sáng rõ đó. Dòng họ Thần Nông trọng Bát Quái làm sáu mươi bốn vậy). Thiết bày Vân Quan và trình bày Điểu Kỷ (Lục Nghệ luận nói: Hiên Hoàng có điềm lành cảnh vân, dùng Quan vân kỷ, Thiếu Hạo Đế có điềm lành chim phụng, nên lấy chim (điểu) làm tên Quan vậy) dạy săn bắn chài lưới để giúp tục, làm cày bừa để giúp dân (Lục Nghệ luận nói: Dòng họ Mật Hy làm mành lưới để săn bắn chài vớt, lấy muôn sinh để nung đủ no bếp bụng nên gọi là dòng họ Bào Hy. Thần Nông chặt cây làm cày, vót cây làm dầm, mới dạy thiên hạ gieo trồng ngũ cốc, nên gọi là dòng họ Thần Nông). Lập chợ (do Thần Nông kiến lập), đúc vật dụng trâu mang ngựa cưỡi, tạo cung thất, ban bày áo xiêm, làm cối chày, đặt thuyền chèo, phỏng theo dấu vết chân chim mà tạo văn tự, nhân hóa thông mà chế lễ nhạc (đều ở thời Hoàng đế vậy. Lục Nghệ luận nói: Hoàng đế có bảy người Quan phụ giúp: Thương Hiệt tạo chữ viết, Đại Nạo tạo giáp tý, Lệ Thư tạo toán số, Dung Thành tạo lịch ngày, Kỳ Bá tạo phương thuốc, Quỷ Thân Khu tạo Chiêm hầu, Hề Trọng tạo xe, làm luật cai quản, thiết bày quét dọn lập đàn lễ). Kịp đến Quân dực thiện truyền Thánh, Hậu nhân thạnh Thánh minh, cử chức Bát nguyên Bát khải (Thuấn nhiếp chỉnh cử dòng họ Cao Dương, dòng họ Cao Tân, mỗi mỗi có tám tài tử để đảm nhận trông coi Ty mục), đặt quan Hy Hòa, Hy Trọng (dòng họ Hy dòng họ Hòa, là quan trông coi nhật nguyệt bốn mùa ở thời Nghiêu), gieo trồng trăm thửa lúa thóc để chuyên cần làm nông (Hậu Lăng gieo trồng trăm thứ lúa thóc), bày Ngũ giáo để làm khuôn phép mọi vật. Thỏa xứng cung khắc nhượng, ngõ hầu tích chứa ngậm sáng, hợp hòa muôn nước, bình an trăm họ, lưu chuyển tứ hung đến tứ duệ, ẩn trốn tam miếu ở Tam Nguy (Hỗn độn Đào Ngột cùng Kỳ Thao Thiết là tứ hung. Nghiêu lưu chuyển đến ở ngoài bốn nước, có dòng họ Miêu phản, Thuấn phóng thả đến ở núi Tam Nguy), điều luật là để thỏa sướng bát phong, xét toàn cơ để ngang bằng thất chính, Hạ Võ dẫn dắt Cửu Hà (Đại phụ trị thủy, bình lắng núi sông ở chín châu, thọ nhận Hồng Phạm ở Hà thần, được địa lý ở Động phủ, chín châu hiến cống đồng để đúc chín đảnh. Lấy tám nhà làm lân, ba lân làm minh, ba minh làm lý) cưỡi chở bốn xe (đi tìm đất liền cưỡi xe, đi nước cưỡi thuyền, đi nơi bùn sình cưỡi khiêu, đi núi cưỡi kiệu), nhậm đất làm cống, thông núi đặt để sông ngòi. Ân Vương chém tội điếu dân (có cá vàng chim đen nhóm tập nơi đàn, hóa làm ngọc đen, mới đánh kiệt, sắc màu thì chuộng đen trắng. Dời chín đảnh đến Hào, lấy trăm Hộ làm Lý). Lắng dứt Bạo loạn, mở lưới cắt tóc, vớt đắm chìm, cứu thiêu đốt, bèn dẫn đến đông đúc lớn khắp, lắm nhiều tài sĩ, đóng bít đức liếc nhìn lân chỉ (Quy Lịch Phi mang thai, mộng thấy người to lớn cảm rồi sinh ra Văn Vương. Chị Phi Hậu của Văn Vương sinh ra Võ Vương, phát khởi lấy tháng Kiến Tý làm đầu năm, chuộng sắc đỏ. Lấy năm nhà làm lân. Trong kinh kỳ có Tỷ Lư tộc đảng Châu Hương. Chu Công ở nhiếp, tội nhân đó bị, mùa thu có biến đổi sấm gió, chặt cây rạp lúa, mở sách kim đằng, bèn nghinh đón Chu Công, bói chiếm vườn nhà ở Lạc kinh, đo đất định đảnh, chế tác lễ nhạc, chết ở nơi Phong, chôn ở nơi tất, đóng bít đức liếc nhìn Vương Hậu. Lân chỉ dấy khởi dòng tộc của Nhân nhân). Phong của Chu Nam Triệu Nam (nói phong hóa của Chu Thiệu từ Bắc mà đến Nam vậy) xếp bày nghi của ngũ hành lục chánh (Mộc, kim, thủy, hỏa, thổ là ngũ hành. Dự thấy việc sắp đến, tiến cử người hiền thiện, cung hòa chuyên cần không rơi lạc. Xét rõ pháp luật, từ Lộc Nhường ban tặng, Quân vương sai thất thì can gián. Đó là Lục Chánh vậy), ban bố pháp chín ruộng bốn giếng (ba ngang bằng là chín thửa ruộng, ba phòng ốc là bốn giếng), thiết bày lễ phục tích (xếp đặt năm nghi phục, chế định lễ chín tích), mở rộng tiết cách xa, (thông cả mười thành ra cách xa một chuyên chở) vì đời làm khuôn phép vì vật làm mẫu mực, xa vời cách biệt năm tháng chuyển dời Tam cổ, rộng thoáng thời gian trải qua trăm vua. Chỗ Thánh đức lan tới, nơi thần hóa đượm nhuần, sâu rồng hang phụng, khi hầu thâu quý báu, nhật vức lân châu chiếm phong khoản tái sương mốc suối tỏa bày mùi vị trân quý, cỏ cây biến đổi hình thái đẹp xinh, cằm yến thân cá phô bày giống chim, chân sói đuôi trâu rõ ràng ở giống thú. Chỉ có đức cảm động trời, tốt lành trưng bày thỏa nhóm. Đầu óc khiến đẹp xinh rõ ràng thay! Tay chân xếp bày ca tốt lành thay! Chu bói trọn đời, ân xứng nhiều thế hệ. Ấy là đạo vậy.
Nhân luân bẩm nhận mà lợi kiến, mọi vật nhờ đó mà có sinh, nước nhà nhờ đó mà không việc gì khác, vua tôi nhờ đó mà chính sách bình trị, đức dạy thiên hạ, cảm hóa khắp Hoa Di. Đạo quý năm trời, Ân thân trăm họ, lập công lập sự, đáng lớn đang lâu dài, thời gian ý nghĩa hoàn bị, ở đời sử dụng đầy đủ vậy. Đến như phương thuật Thần tiên của Lý Lão, ý chuyên bay hóa; Phạm bản của Thích-ca, mong tự nhập Niết-bàn. Giả sử Thể ở trong Thái Thanh, Thần văn du nói cảnh Thường lạc, Quý luyện hình để Bất tử, cầu tịch chiếu để thấu đạt vô sinh, dựng ngụ ngôn của chim bằng chim yến, bày hư thuyết ở quá khứ và tương lai, nào khác gì Trâu Diễn đàm nói trời trọn kết quy trông nhìn cỏ rậm, Ngô Khâu biện giải mộng, nhọc rong hoa từ.
Nay, Đại Đường đang ngự trị Hoàn cực, Thánh hoàng duỗi ban chấp tay, chuộng hiền chuộng già, quý đức quý nhân, trở lại giáo hóa lẽ chánh, phong đã thuần thục quạt rộng, theo lý nên san bớt phiền nhiều, chọn lấy đơn giản, bỏ ngụy quy hướng về chân. Kẻ phàm phu tôi cho rằng, Phật giáo và Đạo giáo không cấp thiết ở chính trị, từ lâu muốn tấu trình, xin thử luận bàn đó, chẳng lường được điều nghị, xin tỏ bày điểm chưa hiểu. Ông biết nhiều điều về xưa trước, nghiên cứu sâu xa nguồn học, hiển bày ngầm ẩn có thể được chăng, mong được rõ ràng cột yếu ấy?
Khi ấy, người thông bác cổ học kia nghiêm cẩn nét mặt ngồi yên giây lâu mới bảo rằng: Lạ thay điều tôi được nghe vậy! Xin luận bàn: Nhìn muôn tượng trên trời thì thấy phần thứ đệ của nhật nguyệt năm vì sao, trông muôn tượng dưới đất thì biết nơi kết quy của trăm sông bốn rạch. Trông dấu vết của xưa nay, trên hình Thái cực trước của Hổn Nguyên tức thấy những việc chưa nẩy mầm ở tương lai, mỗi một mảy lông không nghi ngại, mới gọi là Trí vậy. Ông đã rõ biết mà cố ý hỏi. Tôi cũng xin thuật bày mà lược nói.
Xét về dạy răn trong Lục thư của Chu Khổng thì lấy trung hiếu làm giềng mối. Yếu chỉ trong hai thiên của Lão Tử thì lấy đạo đức làm mở đầu, kinh văn trong Tam Tạng của Cù-đàm thì lấy từ bi làm gốc. Sự tích có khác nhưng lý số không khác, đều là tận mỹ tận thiện, đáng tôn sùng đáng kính mộ. Do đó, đàm nói các huyền diệu nên lấy tâm rỗng, mở thiện quyền nên dùng cấp dẫn. Xưa trước, tôi từng thấy gặp một tiên sinh viễn du và cũng được nghe đó, nói thông mới luận, thuật đủ cả Tam giáo, trình bày cả chín phái triết học. Tiên sinh ẩn dật nơi núi rừng, chẳng biết họ tên là gì, dung nghi nhàn nhã, tiến thối đều khả quan, nói cười ôn hòa, động chỉ có nghi tắc. Tuy nói năng có văn vẻ mà chí ý không khen chê, ăn dùng tùng thái, chẳng lường biết tuổi tác bao nhiêu, gá nghỉ giữa ráng mây, nào ai rõ đời đó. Đến như gốc ngọn của Tam cổ sáng rõ như trong gương, cành nhánh của trăm dân rõ ràng tợ giữa lòng bàn tay. Thấu cùng lệnh điển của Chu Khổng, suốt rành khuôn phép của Phật đạo. Xét chỗ nghĩ nhớ của tiên sinh hẳn ở tiêu dao bằng vật, xem điều mến chuộng, kết quy ở bình đẳng tánh không.
Tiên sinh ngoài sự yên lắng tỉnh mặc, ngoái nhìn và bảo với kẻ tớ rằng: Ở đời, những người không thấu đạt phần nhiều hay cùng với phải quấy. Lấy điều phải nơi phải ấy mà quấy chỗ chẳng phải ấy, chẳng quấy chỗ quấy ấy mà quấy chỗ chẳng quấy. Đó tức phải chỗ quấy ấy mà quấy chỗ phải kia vậy. Phàm luận bàn về giáo nghĩa của Nho, ý ở tại gia lý trị, lớn nhỏ thuận theo thứ tự, ở trên chẳng kiêu, ở dưới chẳng loạn, Thần tử dốc hết trung hiếu, tớ thiết trải hết tâm hỷ hoan. Lớn thì phối trời cúng tế vua, tôn thân hưởng Tổ, muốn khiến đất trời rõ xét, quỷ thần xen hiển linh, tai hại chẳng nỗi, họa hoạn chẳng gây; nhỏ thì nhuận lợi theo thời, nghiêm cẩn tự thân tiết dụng thi chính trong khuê môn, ban ân cho kẻ thuộc hạ, đều kính phụng việc ấy, mỗi tự được điều thích nghi đó vậy. Về giáo nghĩa của đạo, nói nguyên nhân sinh của muôn vật. Nguyên nhân thành của chí công, ắt sinh không hình tượng do ở không danh, nhưng mà không hình không danh là tông của muôn vật. Thuật đạo thì làm thủy làm mẫu, Đàm giáo thì có yêu có diệu. Do đó, nguyên thủy chắp tay im lặng nơi kim đài, Thái thượng rủ áo ở địa tía, sai hai trẻ để dẫn tục, bảo năm già để vạch mưu, giẫm trải thuyết tối mà tỏ sáng, bao gồm một mà trinh thuần, lắng phách ở nơi Đại La, nép ngưỡng nơi Thái Thanh. Sau đó thiết bày hóa vô vi, thực hành giáo không lời, trải văn sân vàng phủ tía, trao lục bảng vàng dây bạc, diệu của Huyền sương giáng tuyết, kỳ của Ngọc dịch vân anh, hoa của chín mây kiếng sáng, thể của tám luyện thần đan, đủ để trở lại tuổi trẻ ở thân già, đủ để bay giá trường sinh. Vân du lãng uyển mà quên trở về, tắm gội nơi Hàm trì mà chẳng trở lại, chợt mặc áo hạt nơi cửa cung, hoặc khống cưỡi hạc ở Bồng lai, tĩnh lự ở đầu cô tạ tư vi ở trên không đồng, cùng đất trời mà lâu xa; chung âm dương mà tối sáng.
Giáo nghĩa của Phật lớn thay! Ngục lồng hoa tạng, vượt ra ngoài lọng tròn chín lớp, chiếu sáng vân đài, nuốt ngoài chất vuông tám duy, chẳng phải sắc diệu sắc, lưu tỏa sáng soi trước Hổn nguyên, phân thân hóa thân, liệt bày ảnh mới đầu của Thái Hư. Nên dùng bàng bạc mà tạo âm dương, dùng lò búa để thành đất trời, tượng của đại tượng ngậm dưỡng ở bốn tượng, tải của cương tài, thông vận ở năm tài, ngọc hành vận chuyển xa tít, chẳng lường cơ ấy thế nào, hợp bích huyền mênh mông, ai rõ được hóa đó. Chẳng tỏ rõ chẳng mờ tối, chỉ nhỏ nhiệm chỉ rành rành, gồm tất cả linh phủ của các Thánh, đến với hội mừng của quần sinh. Từ đó, ra khỏi nhà lửa mà ngồi ba xe, vào sông ái mà khua tám mái chèo, hiện việc hiếm có, đâu riêng nơi vườn cây yêm-la giảng nói chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải chỉ ở nước Ma-già-đà, các thứ phương tiện, mỗi mỗi đều là từ bi, phá lồng chậu sinh tử, cứu tế đến bờ kia của Niết-bàn. Không gì chẳng là ý châu vọt sáng, đuốc trí ánh ngời, nhận cả trăm sông, khơi ở đất của bể Đông, giềng mối muôn tượng, vượt ở trời của Bắc cực, sao cùng cao thấp đồng nghiêng, Nho Mặc giao tranh? Thật hẳn suy đó ở ngằn chân, trở lại đó ở nguồn huyền. Nguồn huyền ấy thì cảnh trí đều mất, ngằn chân ấy thì quyền thật hết cả, lớn tuyên bày yếu chỉ cứu cánh, khắp chuyển vận sức thần thông. Tìm hiểu thiện xảo, ngợi ca hòa đến tận cùng, đào luyện cân công mang đội, tạo hóa không còn có phương thức. Thường ngày sử dụng chẳng thể phỏng lường, đủ để bao trùm bốn đại, vượt hẳn ba cảnh, ông nên viết vào vải áo để tự xem xét vậy.
Công tử nói: Đẹp xinh thì đẹp xinh vậy, nhưng nghi ngờ vẫn là nghi ngờ đó. Phàm có thể giúp đỡ Xã tắc không gì qua lòng trung, kính dưỡng chí thân, không gì hơn phụng hiếu, kính đất trời chẳng gì qua tu văn, định họa loạn không gì hơn giảng võ. An ổn trên dưới, không gì qua hoằng hóa lễ; đổi dời phong tục, chẳng gì hơn tập nhạc. Đó hẳn là yếu huấn của Hoàng vương, cũng là phương thức lớn trị đạo. Tuy nói từ bi của Ma-kiệt, luận giải đạo đức của Lệ Hương chưa là cấp thiết để cứu dời còn là ngôn từ giẫm trải Nhạn gỗ. Chẳng chỉ kẻ tớ nhỏ chưa khước bỏ, ước kẻ trí ngu cũng đồng chối từ vậy.
Người thông bác bảo: Nói vụng về mà thực hành thông mẫn là chỗ ngợi ca của quân tử, không vì chính mình ít nghe mà tha thiết lấy, huống gì là điển luận! Ông không nghe Lỗ Hầu răn bảo ư? Không lắm lời, không nhiều việc. Vì lắm lời thì nhiều hại, lắm việc thì nhiều họa. Như phụng thờ tôn thân vâng theo Vương chủ nên lấy trung hiếu làm đầu, xa hại toàn thân thì lấy đạo đức làm trước hết, lợi sinh cứu khổ thì lấy từ bi làm nguồn bao quát. Phụng hiếu hoài trung có thể để bảo toàn nhà nước, cứu giúp muôn loài thì ân ngang bằng cả sáu thú, lan tỏa thân danh chỉ vinh hạnh trùm một nhà, bảo toàn nước nhà mới công gồm cả chín hợp. Nên trung hiếu là giáo nghĩa dạy răn ở thế tục, đạo đức là thuật để nghiêm trì thân, từ bi là hạnh chở che nuôi dưỡng mọi vật. Cũng như trời có ba thứ sáng, đảnh có ba chân, mỗi xứng với đức và đều hiển bày công năng, tuân theo mà kính phụng đó, có thể thấu đạt tốt lành chỗ nghe vậy.
Công tử nói: Nghệ Văn Chí ở thời Tiền Hán nói: Toàn thể gia bảo trong nước nhà thì gồm có chín dòng:
- Một là dòng Nho, nghĩa là thuận âm dương, trình bày giáo hóa, thuật nên chính sách của Đường Ngu, tuyên truyền đạo của Trọng Ni.
- Hai là dòng Đạo, nghĩa là giữ mềm yếu, tự nhún nhường, trình bày đức bái nhường của Nghiêu Thuấn, làm sáng tỏ thuật xoay mặt phương Nam làm chính sách, vâng phụng khiêm nhường của Dịch mà khiêm nhường vậy.
- Ba là dòng Âm dương, nghĩa là thuận trời trải qua mọi ảnh tượng, nhân thời của dân vậy.
- Bốn là dòng Pháp, nghĩa là rõ sắc pháp thường để giúp lễ chế.
- Năm là dòng Danh, nghĩa là chánh danh xếp bày vị, lời thuận việc thành.
- Sáu là dòng Mặc, nghĩa là trong sạch Tông miếu, cúng tế dưỡng già, thi ban ân huệ.
- Bảy là dòng Tung hoành, nghĩa là nhận mạng sai sử, chuyên đối việc quyền.
- Tám là dòng Tạp, nghĩa là kiêm cả thuyên của Nho và Mặc, gồm huấn của Danh và Pháp, biết đại thể nước nhà, không việc gì chẳng thấu suốt.
- Chín là dòng Nông, nghĩa là khuyên gắng cấy cày, trình bày vật thực của cải. Tuân theo đạo đó có thể an ổn các thứ; thực hành việc đó, có thể lợi ích nước nhà, là chính sách hoàn bị, đối với dân đủ đầy vậy.
Giả sử như điều nói của tiên sinh thông rành các phương, ngôn từ của cổ học tận thiện, sợ thuộc loại gió thoảng tai trai chẳng cùng kịp vậy.
Người thông bác bảo: "Trông nhìn một có thể biết đến trăm, thấy đây đủ để rõ kia. Chỉ bởi Phật giáo xung thoáng, danh nghĩa rộng nhiều, gồm tất cả mà nói đó, đủ có Huyền lục, nay vì ông mà tôi lược nêu đại khái. Từ khi mây lành tan trải giữa không trung, hoa sen quý tốt hiện giữa biển, pháp môn bán tự mãn tự mở đầu rành suốt, sách của Không Hữu đều xiển dương, Thành Tỳ có mưu định xoay tình vào pháp, Linh Sơn có giáo huấn nhiếp ngọn về gốc. Ở Dụng thì như nước nước phân ngàn ánh trăng, ở Thể thì tợ gương soi muôn hình, chặt thể hàm thức cùng che rưới mây từ, vô số cõi Phật đều thấm đượm cam lồ. Kịp đến lúc gom ánh sáng ở Bạch Điệp, vùi ảnh ở sông Đề, khi ấy năm trăm vị La-hán lay Quạt tượng ma văn trì, tám vạn A-tu-la phẩy long sàng mà kính tả. Hợp châu ấn báu đã bày nơi Vương cung, Phạm văn lá bối chất tràn Hải tạng. Lên giảng đường muôn kế tánh tranh nhau tắm gội ruộng thân, mang tường trăm ức giành mở cây tâm. Bèn đến lúc Tôn giả Ca-diếp Ma-đằng vào đất Lạc dương, Sa-môn Khương Tăng Hội đến xứ đất Ngô, xa truyền âm vang trống pháp, đều lưu hạnh nghiệp Tuệ Phong, theo loại tương tụ cũng có chín dòng. Nêu bày danh tốt ấy cũng xứng với chín lục. Đó tức: Một là Chân thuyên, hai là Quyền chỉ, ba là Giới phẩm, bốn là Thiền môn, năm là Chú thuật, sáu là Luận bộ, bảy là Chú giải, tám là Chương sớ, chín là Truyện ký.
- Nói Chân thuyên là trọng tâm của Khương Đẳng, là yếu quán của chư Phật, sự không gì chẳng gần, lý không gì chẳng suốt. Ngôn từ ấy xảo diệu, nghĩa lý ấy sâu xa, bao gồm áo hạnh của mười tiên, gom cả huyền văn của tám tạng. Duyên giác giẫm trải tìm cầu, mê đồng đắm chìm biển. Thanh văn lắng nghe, hoảng hốt như lén nhìn trời, đó là hoằng giáo của Hoa Nghiêm vậy. Xé hoằng tông của lưới kiến phá yếu thuật của chúng tà, châu ngọc trong sạch nước bùn vẩn đục thuốc hiện ở rừng sâu, mê loạn sắc màu của sửa đã phân, xoay hồi say của trời chợt tỉnh, nhân an lạc khắc đầy, quả thường bèn tròn đủ. Đó là yếu chỉ cùng cực của Niết-bàn vậy. Ba loài thú lẫn lộn dấu vết một cổ xe cùng dây cương, châu ngọc nơi chéo áo đã hiện bày, vật báu trong búi tóc mới truyền xung quy của mười vô thượng, diệu hạnh của bốn an lạc. Xét soi chỗ làm Đa Bảo, tỏ ngộ bản tâm của Trưởng giả, mới là chỗ hội quy của Pháp Hoa. Trải bày mười như đây, ngầm ẩn bốn tuyệt đó, tức sắc chẳng phải sắc, lìa danh không có danh, rõ ràng nổi thuyền Lục độ, dày đặc lên bờ Tam không, nghĩa là Huyền phong của Bát-nhã vậy, Lý bao gồm ở tại bốn đây.
- Nói Quyền chỉ, tức là giáo của phương tiện Thế hùng, dẫn dụ chúng sinh ở ngũ trược, tạm dừng ở Tam thừa, tiếp dẫn đạo bạn mà thiết đặt hóa thành, dẫn dắt Cùng tử mà mang thùng hốt phân. Sau khi Đức Như Lai thị tịch, Tôn giả Ca-diếp kết tập kinh, đó là bốn thứ A-hàm, tám bộ Thí Dụ, yếu chỉ của Bản Sinh, Bản Sự, đàm nói xâu hoa rải hoa. Chỗ phân phán của Vương tông, chỗ biên lục của
An Duệ, làm duyên tán thuyết, pho bộ càng nhiều.-Nói Giới phẩm, tức là thay thế Phật làm thầy, khuôn phép chỉ dạy chúng tăng. Cũng như xuất phát hẳn do từ cửa nhà, tế khắc đợi thuyền bè, bởi nền tảng thềm cấp của muôn thiện, chân cẳng của Ngũ thừa. Hoặc ước tùy thời tùy xứ, tùy sự tùy căn, cuối cùng có tên riêng bảy tụ, ý chỉ riêng khác của năm thiên, thuyết khai già (mở, ngăn) đã khác, tướng của khinh trọng (nhẹ, nặng) chẳng đồng. Tại Thiên Trúc lưu hành, phân làm năm bộ, ở Trung Hoa hoằng truyền hành tập, nay còn có bốn. Tôn giả Ca-diếp mở đầu giềng mối, Tôn giả Cúc-đa phân thành Điều quán, dạy răn chánh tục, đã không phải lễ chẳng thành. Diệt ác sinh thiện, nếu không giới chẳng khắc. Phật ở nhậm trì dẫn nhân Kiều Phạm, sau khi diệt độ, truyền trao thật mở đầu từ Tôn giả Ưu-ba-ly, thật là cửa quan của ba nghiệp, là ngự sử của sáu căn vậy.
- Nói Thiền môn, tức là giềng mối tu tâm của Tam học, hay làm nhân chứng đắc Thánh quả, rất mực xứng với hết lậu hoặc. Do đó, Thanh văn buộc ý tưởng thì ao tâm nước sạch, Bồ-tát huân tu thì cây ý nở hoa. Thiền hay phát tuệ, Đức Phật có lời thành thật, bốn đẳng sáu thông ngưng rừng thiền mà mới thành tựu; tám trừ mười nhập, nương hang định mới thành. Luận Trí Độ nói: "Dùng sức thiền định, uống thuốc trí tuệ, được thần thông rồi trở lại hóa độ chúng sinh". Huống gì đặt để thế giới ở nơi một cọng lông, ngưng lắng nước biển thành năm mùi vị. Nên nói: "Duyên pháp xét cảnh, chỉ tịch mới chiếu", tức ý nghĩa ấy vậy.
- Nói Chú thuật, tức là từ huấn chúng sinh diệt tội, phương thức tiêu diệt độc hại, bẻ kiêu mạn, xua hung tàn, cứu nguy ách, thoát vượt chết. Như Thiền Đề đuổi quỷ, tợ Tiên Ni sai bảo Thần, sáu chữ diệt trừ tai ương, bảy Phật hộ trì tánh mạng, phản thường hợp đạo, nhân vật thành việc chuyên. Thuật cứu giúp đời, ai được như vậy ư?
- Nói Luận bộ, tức là nghĩa phủ dẹp tà lập chánh, mở trệ khai mờ tối. Bởi vì thời đại đổi thay chánh pháp tượng pháp, con người biến đổi cạn dạt thuần phác, đường thẳng khó lên, lối tà dễ vào. Đến nỗi, vào núi tuyết hái thuốc mà tranh nhặt lấy cỏ độc, vào nước sâu tìm cầu châu báu, giành lấy ngói sỏi. Nên có Thanh văn thông pháp, Bồ-tát truyền đăng, bẻ tà luận kia, bày chánh kinh đây. Kình nghê đã bắn, năm thứ ngăn che do đó mà dứt mất; mây mốc thoáng trong, ba thứ ánh sáng nhân đó bèn tỏ. Lời tựa Cổ Lục nói: "Chuẩn mực của bậc chí Thánh gọi là kinh. Đệ tử thuật bày kinh ấy gọi là luận". Luận là như Khâu Minh làm truyện. Ha Lê nói: "Kinh nếu có luận nghĩa thì dễ hiểu". Tôn giả Chiên-diên lấy rõ sâu thật đế, mở bày văn Càn Độ. Các Thánh vì giàu sang thấm đượm danh lý, kế tiếp thuyết của Bà-sa, tiếp đến thì Thành Thật, Tỳ-đàm bén nhọn tinh mật, xét mà rõ đó, bởi anh hoa của Tiểu thừa. Đến như dựng phướn vô úy, Mã Minh nên xứng đầu đó; đốt đuốc chánh pháp, Long Thọ bao gồm nguồn có đó. Bách Luận phá ngoại đạo để giản tà, Trung Quán dứt trừ thiên chấp bên trong. Tinh chỉ của Thập Nhị Môn luận, Ha Lê diễn nghĩa rộng sâu, đều là rường cột của Đại giáo vậy.
- Nói Chú giải, tức là căn cứ văn mà hiển bày nghĩa, các hàng thuật mà chẳng làm, đều là lập tượng mà lấy hình. Như chú giải kinh Tịnh Danh của Đạo sinh Tăng Triệu, giảng huấn Bát-nhã của Chi Lục, thảy là thuộc loại ngôn từ sáng lệ lỗi lạc, kháng ý nêu bày kỳ đặc. Xưa kia, Trọng Ni đã qua đời, gởi gắm lời Huyền cho Tuân Tử, Mạnh Tử; Bậc Đại giác đã thị tịch, truyền trao pháp ấn cho các vị thông mẫn. Núi cao ngưỡng nhìn, thật là khai mở kẻ mờ tối nghi trệ ấy vậy.
- Nói Chương sớ, tức là nêu bày giềng lưới, nhặt sót rơi, bù vá khuyết thiếu. Văn nghĩa thông suốt một bộ, cũng vì hoàn bị chỗ sót quên vậy. Đại pháp mới độ, chưa vội phải giải thích. Vệ An Bạch Viễn bắt đầu mở Huyền Chương, từ đó về sau đua nhau phát huy Đàm bính. Đến lúc có Đại Phẩm của Bằng Phu, Niết-bàn của Ái Lượng, Tỳ-đàm của Tập Cảnh, Thành Thật của Tỉnh Lâm. Nào chỉ ngôn từ tỉnh lược, ý chỉ sâu mầu, hẳn cũng nghĩa cùng khắp, văn thỏa đáng. Như Tả Trạng của Đan Thanh, tợ Đồ hình của kiếng nước, đều cao đến nhật nguyệt đủ xứng với chén... vậy.
- Nói Truyện ký, tức là gồm hết cả ký sự của Thích môn. Như Ban Mã Thuật làm, Trần Phạm tu sửa văn, lời tựa Tấn Nghi của Vương Ẩn, biên thuật Hán Kỷ của Viễn Hoằng. Đó đều là tiểu thuật trị đàn, động đến kỳ tài của Thạc học, trung hiếu phiến thiện, lay bít thơm của Sử thần. Huống hồ Tam đạt dễ ẩn, tám giới khó nghĩ lường, cao vợi sáng rỡ chiếm ở tiếng tăm tốt lành, pháp mở truyền bá Thanh Biện. Bạch Tổ đã đến các Kê Nguyễn, Chi Tuần cũng sánh với Vương Hà kia. Văn từ cao dật ẩn tiết, Biên lục lánh dời du phương. Kẻ sĩ mười khoa dẫn đời, hiền nhân năm bộ lợi vật, đức tốt hình dung giản đơn trong trắng ở tại đó vậy. Tìm xét, đấng Pháp vương giảng ban khuôn phép vì dứt khổ luân. Bệnh đã có muôn vàn sai khác, nên thuốc chẳng chỉ ở một chuẩn mực, cho nên khiến Điệp chất đầy Thiên phủ, kệ chứa ở Long cung, tám ức con hương tượng mang chở phần mới đầu còn chẳng nỗi, năm ngàn (5.000) vị A-la-hán xem duyệt tán hoa mà chẳng cùng khắp. Huống gì pho báu như bụi trần, mực chấm lời truyền, hàng Bồ-tát Thập địa trông xem còn chưa rõ, hàng Bát Hằng quán xét mà chẳng thể lường. Đâu như loại danh lưu của Nho đạo mà có thể phỏng bàn nghị môn tánh hải ấy ư?
Công tử nói: Cổ Triết nói, văn lắm nhiều thì làm mất cốt yếu, lý hiếm ít tất vùi lấp lẽ Phật, nay thấy đó vậy. Giả sử, dòng họ Thích đàm nói về quyền chỉ, thiền định, giới luật, pháp điển chú thuật, truyện ký, tự chỉ là mưu định của một nhà khuyên gắng chính mình, chưa phải là văn huấn của Ngũ thường kinh quốc. Như lỗ vuông cán tròn, tuy xinh đẹp ở hình mà khuyết thiếu ở sự vậy. Vả lại, sách có giáo của Ngũ thường, nghĩa là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Xót thương mà không giết hại, gọi là Nhân; phòng hại chẳng dâm gọi là Nghĩa, giữ tâm cấm rượu gọi là Lễ; thanh khiết chẳng trộm gọi là Trí, phi pháp chẳng nói gọi là Tín. Với năm đức đây không thể vội vã mà khuyết, chẳng thể chỉ chốc lát mà phế bỏ. Các bậc Vương giả giẫm trải qua đó để trị nước, các bậc quân tử kính phụng đó để lập thân. Sử dụng không tạm ngầm mất nên gọi là thường. Vừa rồi, ông thuật nói về Phật giáo, lời rỗng mà nghĩa xa vời, chẳng phải không ngạc nhiên, rất là rơi lạc vậy! Còn Ngũ thường đây ở trời là Ngũ vĩ, ở đất là Ngũ nhạc, ở nơi chốn là Ngũ phương, ở con người là Ngũ tạng, ở mọi vật là Ngũ hành. Rộng mà nói đó, không gì chẳng gần, ngửa trông cúi xét, đâu có thể thêm hơn vậy ư?
Khi ấy, người thông bác nghe vậy bèn cười, trầm ngâm giây lâu mới tuần tự dẫn dụ rằng: Ở đời nói: Ngàn vàng dễ dốc đổ, một lời khó nhả ra. Nhọc phí chỉ bày, sợ ông đi đêm chẳng khỏi mất lời, gượng mà luận bàn so sánh đó. Căn cứ Quân Thánh Luận của dòng họ Thẩm nói là: Mới đầu của Viêm Hạo, trước tiên của Thuần Mang, con người chưa ăn dùng cơm gạo, chẳng thịt chẳng da, chết mất lập đến. Tuy là Thánh đức chu đáo, ân ở cứu giúp khuyên gắng, mà thân mạng là vốn liếng. Lý khó chóng dứt đoạt, thật nên dẫn dắt đó để dẫn hơi mở nguồn ấy, nên Toại Nhân cải đổi lửa, biến thức ăn tanh nồng thành chín. Tanh nồng thành chín đã biến đổi, bởi do mầm mống của Phật giáo vậy. Quân Tử nói: Thẩm Hầu học gần Huyền Nho, Lý Kiêm cả Thích giáo Khổng giáo. Nếu chẳng phải người ấy, sao có luận đó ư? Sở dĩ như vậy, bởi vì Thái Hạo vốn là Đại sĩ Ứng Thanh, Trọng Ni tức là Bồ-tát Nhu Đồng, trước đến xứ này quyền hành tiệm hóa, xót thương cứu giúp đời Ngũ trược nên tuyên bố ngũ thường, mà tôi và ông chưa phỏng chỗ nghe, nay thô thiển trình bày gốc ấy. Tại sao? Lúc đầu mới thành đạo, Đức Phật tiếp cận hàng hạ phàm, bèn khai mở tiểu giáo, vì Thi Lợi mà giảng pháp Tam quy, nhân Mạt-già mà tuyên bày Ngũ giới, vì Ca Vương mà giảng pháp Thập thiện, vì Trưởng giả mà nói pháp Lục trai. Với bốn nhân trên, ý nghĩa như thế nào? Với pháp Tam quy là khuyên xả bỏ tà, với pháp Ngũ giới phòng ngại hành ác, với pháp Thập thiện khiến chiêu vời quý, với pháp Lục trai tức khiến được an lạc. Thích Danh nói: "Quy nghĩa là hướng, giới nghĩa là dừng, thiện nghĩa tốt lành, trai nghĩa là túc". Nói Tam Quy tức dạy khuyên quy hướng Tam tôn, phòng dừng ngũ dục, hoàn bị lâu dài, mừng vui ban tặng. Túc kính dung nghi thì minh kỳ vui vẻ ứng chứng tốt lành, xứng hợp ấy vậy. Một là không giết hại, hai là không trộm cắp, ba là không tà dâm, bốn là không nói dối, năm là không uống rượu. Đó là Ngũ giới. Giới, nghĩa là cấm, là ngăn ngừa, buộc thân miệng như ngựa; buộc cương, cấm tình dục tợ khỉ mang khóa. Luận Trí Độ nói: "Trong bệnh đại ác, giới là thuốc tốt; trong rất khiếp sợ, giới là thủ hộ; trong chết tối tăm, giới là đèn sáng; trong ba đường ác, giới là bến bờ; trong biển sinh tử, giới là thuyền bè".
- Nói không giết hại, tức như những loại đội trời đạp đất, đầu tròn chân vuông, dưới nước trên đất, trong núi giữa không trung, noãn thai thấp hóa, tất cả các chủng loại gồm có bốn thứ sinh. Trong mỗi mỗi loại sinh đều có tám vạn bốn ngàn (84.000) hình trạng chẳng đồng nhau. Nhưng mà người và vật khác nhau ở sang hèn, nói riêng khác đến như ngung ngung sợ chết, miệt mài tham sống, lánh khổ để an vui tự thân, cầm an ổn để dưỡng tánh mạng. Tình ấy một thứ, lý ấy muôn quân. Sao có uổng hại trung trinh, lạm giết thuần thiện? Do đó, Lương sĩ giết hết thần ấy trải tóc Triệu đồng chết. Đại Lệ đấm ngực, mang phụ chứa buồn của oan hồn, Tần Khanh bày thảm khốc của kẻ vô tội, ngâm ca thuyền chở đã làm, vịnh của chim vàng nhọc buồn ai, tiếp đến thì bày lưới vây sông Bá, theo chim muông ở đầm mộng, giăng mành đồng hoang, kéo lưới liền núi, lửa đuổi theo non vì thấp cao, khói lồng theo cỏ mà suốt vào kín bít, chim săn tranh cử cùng sấm chớp, ngựa đua dẫn trước gió đuổi, khỉ trông thấy mũi tên mà kinh sợ, chim nhạn thấy cung nỏ mà xoay rơi. Đau xót suốt ngực tới bụng, tàn khốc vỡ đầu vùi não. Nào riêng tang tóc ao trống, bèn khiến vượn chết hết rừng. Lại thêm rải tơ quanh bãi, dưới móc đầu sâu, được cá chép đỏ nơi ngòi sông, bắt loài mai vảy ở cốc giếng. Những loài đó, v.v... đồng bẩm Ngũ thường, đều ngậm bốn hơi khí, đồng đượm Phật tánh, cùng có Thần minh, sao nhẫn bày núi thịt đó, dựng nấu nướng đây, cùng mạng các loài lông vảy, hết đàn heo lợn, hun nhiễm chỉ đến giải, nướng nấu đỏ đến ngao, cung cấp bào từng được thịnh soạn, đầy đủ thường được ngon lành, đẹp xinh tim gan kia, đủ no bụng miệng ấy, hoan hỷ yến tiệc vậy, an vui ta tốt đãi khách, mừng vinh quang của bảy đức, vui lợi nhiều của chín công? Thật là thương tổn bản ý Đại từ! Cho nên Đấng Chí Thánh ngăn cấm. Do đó, Trưởng giả cho cá ăn mà ngủ cảm hoa trời (thấy ở kinh Kim Quang Minh), Sa-di cứu đàn kiến mà kéo dài số mạng ngắn (thấy ở kinh Hiền Ngu), bèn rốt ráo thể Kim cang, trọn thành nhân trường thọ (nhân duyên hộ pháp, được hình thể Kim cang, quả báo không giết hại là nhân của thọ mạng lâu dài, thấy ở các kinh Niết-bàn, Kim Quang Minh, v.v...). Đó tức là đoạn dứt ghét ganh xưa trước, là đức hạnh thứ nhất vậy.
- Nói không trộm cướp, tức là hành vi của đạo chích, khắp đời đều chẳng dung, tất cả những kẻ dối trá ở đời là nỗi lo của mọi người. Đãy đựng không còn chút vật gì sót lại, mở tráp có nghèo bần tuyệt gốc, bèn khiến chăn vải chẳng đủ, áo vải sao phỏng định. Trưởng giả thẹn lụy gởi nhờ miệng, Tinh Dân xấu hổ nhọc giết bán. Đâu chỉ phạm rau trộm cá trộm dưa riêng táo, thân vì trộm vật Tăng mang, dùng của thường trú, cầu xấu cầu nhiều, lấy lợi sinh lợi, chẳng từng hổ thẹn, Ấp đô chẳng ngăn cản lòng, đâu riêng mang lụy thấy trước mắt, mà tín cũng ương hại đến đời sau (luận Trí Độ nói: Hết thảy các thứ ăn mặc của chúng sinh vì để tự sống. Nếu đoạt, nếu cướp lấy, đều gọi là cướp đoạt mạng sống vậy. Cho nên Đức Đại Thánh xót thương mà chế giới để ngăn cấm vậy. Đó là đức hạnh thứ hai vậy.
- Nói không tà dâm, bởi vì nó hại đức diệt thân, do tội dâm quá nhiều. Do đó, Muội Phi làm mất nhà Hạ, Đát Hậu chôn vùi nhà Ân, Bao Tự dẹp đổ nhà Chu, Lệ Cơ diệt dứt nhà Tấn. Thần tiêu mắc nhục bởi cưỡi cổ, miếu trời bị họa thiêu thân. Cho nên gọi nó là căn rễ của các tội, gọi là cội gốc của gây ương, gần thì trái với Phạm Thế, xa thì ngăn chướng Bồ-đề, nên đoạn dứt đó mà chẳng lành. Đó là đức hạnh thứ ba vậy.
- Nói không uống rượu, bởi rượu là gốc của loạn, cũng gọi là cuồng dược, gây đầy tội khiên ba độc, đủ tạo động sáu căn, lõa lồ hình thể, gầm gừ lời tiếng, sang hèn đều khinh, thân sơ đều mắng chửi, đã ngu đã dốt, hoặc khóc hoặc cười. Ân Vương trâu uống mà mất triều đình, Sơ Tử hổ uống mà bại đức, Thành Đô buộc lụy say cả tháng, Trung Sơn khổ ngủ cả ngàn ngày. Hình thể dày dày như bùn, tâm trí mê mê tợ đêm, ba mươi sáu thứ lỗi quá đều do nó mà sinh (thấy ở luận Đại Trí Độ), tám vạn bốn ngàn (84.000) trần lao đều do đó mà khởi. Hiện tại chướng ngăn hạnh nghiệp trí tuệ, tương lai mắc quả báo ngu si. Tội ấy rất sâu nặng nên Phật không hứa cho uống rượu. Nếu người hay phụng trì giới thì được phước vô cùng. Đó là đức hạnh thứ tư vậy.
- Nói không nói dối, vì miệng là mưu họa, lưỡi là gốc đấu tránh, hay làm búa chém thân, đáng gọi là cửa của các xấu ác. Dao kiếm nổi bày từ khoảng cổ họng, dây trói vốn ở nơi môi răng. Nói gió lạnh đủ khiến cành xanh lá rụng, bàn tiết tốt có thể khiến cây khô trổ hoa. Khen chê do nói một lời nói. Sống chết phát xuất từ ba tấc lưỡi. Bạn bè nhân đó mà thành nước lửa, gia đình vì đó mà chống trái xa lìa. Hại lớn thì diệt dòng tộc mất nước, hại nhỏ thì nguy thân ách mạng, chuốc lấy quả báo sâu nặng ở tương lai, kết buộc oán thù sâu nặng ở hiện tại. Thật là gốc rễ bốn tội quá, là cành nhánh của mười xấu ác. Kinh điển nhà Phật dạy răn như tỷ, sách vở Chu Miếu, Khắc Minh người đồng, phước không gì thêm hơn. Đó là đức hạnh thứ năm vậy.
Công tử mừng vui nói rằng: Kẻ hèn tôi nghe biển không khác muối mặn, lạnh chẳng khác nóng. Còn Nhân Giả Đàm nói các giới giết hại, trộm cướp v.v... cũng như giáo nhân nghĩa của Tiên vương, trọn là nhạn mục khác hiệu, đầu thư khác tên vậy, dẫn biết khác đường đồng về, trăm lo toan đều đến, tức nghĩa đây vậy. Ngũ giáo đã đủ sao lại phiền có ngũ giới?
Người thông bác đáp: Chức phận của Ngũ giáo là cấm lỗi quấy ở hiện tại, mưu định của Ngũ giới là phòng ngăn tội quá ở tương lai. Với Ngũ giáo, sự cớ hiện bày là tội (nói việc giết hại trộm cướp lệ bày, bắt được tướng trạng kẻ giặc, Quan mới kết buộc chánh luật thành tội). Với Ngũ giới thì miệng máy động bèn đã thành tội. Sách chỉ dứt một tội hình, kinh mới ngăn ngừa ba quả báo (tức hiện báo, sinh báo và hậu báo). Dứt một tội hình tức miễn khỏi tội ở một thời hiện tại, ngăn ba quả báo tức đoạn dứt ương lụy ba thời ở tương lai. Cũng như nghĩa của sáu tông bảy miếu, lễ của ba xan bốn giao, điện của thời tiết mùa tháng muôn rằm mồng một, tu của tốt xấu mừng buồn. Lễ Vương Chế nói: "Thứ dân dâng rau hẹ dùng trứng, dâng lúa tẻ dùng cá, dâng lúa mùa dùng heo, dâng lúa nếp dùng nhạn. Chư hầu dùng trâu, Đại phu dùng dê, các kẻ sĩ dùng chó lợn, dùng hạt cỏ kiến cúng tế đất trời, dùng cầm nắm cúng tế tông miếu, đều có nghĩa là có cớ mà riêng giết vậy". Do đó tu theo giáo đó mà không đổi tục đó, ngang bằng chính sách ấy mà không đổi thích nghi ấy. Giáo nghĩa tức là lễ nghĩa; chính sách nghĩa là hình cấm. Giả sử lễ thấy nó sống không nhẫn thấy nó chết, nghe tiếng nó, không ăn thịt nó, ước đàm nói cũng tạm dứt, chưa phải là dạy răn cùng cực tâm từ vậy.
Phàm, giáo của dòng họ Thích lấy thiện mà khuyên đó, dùng nhân mà hóa đó, dùng ngăn dừng giết hại mà thực hành không giết hại, đoạn dứt nghiệp giết hại đó. Vì đoạn giết hại mà dân sợ tội. Vương giả làm chính trị, lấy tù ngục mà đóng bít đó, dùng hình phạt mà ngang bằng đó, đem giết hại để ngăn cấm giết hại, chẳng đoạn dứt nghiệp giết hại. Vì không đoạn dứt mà dân chẳng cấm. Luận Trí Độ nói: "Giết hại có mười tội bởi: Thứ nhất là tâm thường ôm hoài độc hại, đời đời chẳng dứt; hai là chúng sinh oán ghét, mắt không thích thấy; ba là thường ôm hoài xấu ác, nghĩ nhớ chỉ chuyên việc ác; bốn là chúng sinh ghét đó, như thấy rắn độc; năm là lúc ngủ tâm khiếp sợ, lúc thức cũng chẳng an; sáu là thường có mộng xấu ác; bảy là lúc mạng chung, cuồng sợ ghét chết; tám là gieo nghiệp đoản mạng; chín là sau khi thân hoại mạng chung, sa đọa vào trong địa ngục; mười là nếu sinh ra được làm người thì sẽ nghèo khổ, mạng sống ngắn ngủi". Phàm vì sợ mười tội ở tương lai mà việc giết hại tự dứt, chế năm hình phạt ở hiện tại mà tội quá chẳng chừa (sách phòng dưới mắt, kinh ngăn ngừa tương lai), lập nghiệm ngay trước mắt nghĩa ở đây vậy.
Kinh Pháp Cú nói: "Sát sinh cầu sinh, cách sống đạo xa". Kinh Đề Vị nói: "Không giết hại gọi là nhân". Nhân là chủ vị của can mộc, thời tiết xuân dương, muôn vật đều sinh, tháng giêng tháng hai. Thiếu dương dùng việc, dưỡng nuôi các loài, ham thích sống ghét giết hại, nên kẻ giết hại là không đức nhân. Không tà nghĩa là nghĩa. Nghĩa chủ vị của phế (phổi) kim, tháng bảy tháng tám, Thiếu âm dùng việc, ngoài phòng ngừa ganh ghét, hại của nguy thân, trong còn hoạn tánh mạng hết tinh. Cấm riêng chẳng dâm, vì kẻ tà dâm là không đức nghĩa. Không uống rượu nghĩa là lễ, lễ chủ vị của tâm (tim) hỏa, tháng tư tháng năm Thái dương dùng việc, thiên hạ rất nóng, muôn vật phát cuồng, uống rượu đến lúc say, tâm cũng phát cuồng. Miệng là gốc của vọng ngữ loạn đạo, thân cuối cùng nguy mất, chẳng hết mạng trời, nên cấm dùng rượu, kẻ uống rượu là không đức lễ. Không trộm cướp nghĩa là trí. Trí chủ vị của thân thủy, tháng mười tháng mười một Thái âm dùng việc, muôn vật gom giấu, kẻ trộm cướp không thuận theo, trời vì được vật tàng giấu đó, nên cấm trộm cướp, vì kẻ trộm cướp không đức trí,. Không nói dối nghĩa là tín, tín chủ vị của Tỳ thổ, tháng ba tháng sáu tháng chín tháng mười hai, Trung ương dùng việc, cấm ngăn bốn vức cửa xấu ác, tổn thương họa người ở trong miệng. Lời ra thì tai ương đến, hơi phát thì hình tổn thương, nguy thân buộc thúc mạng, nên cấm dùng lưỡi. Nên kẻ nói dối không đức tín. Kinh Thí dụ nói: "Nghiêm trì tịnh giới, ngựa khéo buộc làm cương, thân mặc áo giáp tinh tấn mới thoát khỏi giặc ma vương". Kinh Bách Cú Thí Dụ nói: "Họa của năm căn quá hơn rồng độc, hơn cả voi say. Năm căn nhận nạp, như biển nuốt các dòng nước, tợ lửa bén được củi, chưa từng chán đủ. Năm căn như tên bắn, ý tưởng tợ cung nỏ, tư niệm như mũi tên. Dùng gậy ngũ giới mà gìn giữ sáu căn, như trông nom ngựa nhảy vượt". Kinh Thiên Địa Bản Khởi nói: "Ở thời kiếp sơ, con người dùng đất béo tốt, có một chúng sinh chóng lấy ăn của năm ngày, nhân đó mà chế giới trộm cướp để ngăn cấm đó. Vì ăn dùng đất béo tốt mà sinh tham dục, nhân đó mà chế giới dâm. Vì dâm dục nên cùng nhau khinh thường chiếm đoạt, nhân đó mà chế giới giết hại. Vì cầu dục nên nói dối xiểm nịnh, nhân đó mà chế giới không nói dối. Vì uống rượu nên mê loạn làm điều sai quấy, nhân đó mà chế giới rượu". Tính sự phát khởi của ngũ giới, từ đó trở đến nay đã lâu, mầm mống mở đầu của đất trời, hình thành trước muôn vật, nhỏ nhiệm vào không gián đoạn, to lớn khắp cùng tám cực. Đó cha của chúng sinh căn của nhân đạo, bao quát cả tam tài, phủ trùm cả ba đời, nuôi dưỡng muôn loài, thống ngự cả âm dương ấy vậy.
Kinh Tứ Thiên Vương nói: "Mỗi một giới có năm thiện thần. Nếu có quy hướng Tam bảo, giữ trai trì giới, Tứ Thiên Vương lên khải tấu cùng Thiên đế. Thiên đế bảo hai mươi lăm vị Thần bao quanh gìn giữ cửa nhà. Đến lúc người ấy mạng chung sẽ vãng sinh lên các cõi trời, v.v... Từ đó tiết kéo y phục tinh diệu bằng bảy báu, xếp bày thức ăn thơm ngon trăm mùi vị. Minh châu như vầng nguyệt, mỹ nữ tợ mây giăng, hoa úp hoa nở đã không thủy chung, mắt nghinh mắt đưa tự có chu toàn". Kinh Tỳ-kheo Ma Hóa nói: "Ngũ giới là căn của cõi người, Thập thiện là giống cõi trời v.v... " Nói trì ngũ giới sẽ được thân người, tu hành Thập thiện hẳn được quả báo cõi trời. Thập thiện nghĩa là thân có ba thứ, miệng có bốn thứ, ý có ba thứ, hợp lại thành mười. Luận Đại Trí Độ nói: "Không buông bốn hại của miệng, không thả ba hoạn của thân".
Kinh Phát Tâm Bồ-đề nói: "Dùng mười giới đây phòng ngăn thân miệng ý. Trì thân giới là dứt bỏ các hành vi giết hại, trộm cướp, tà dâm. Chẳng đoạn dứt mạng sống các vật, chẳng xâm phạm của cải người khác, chẳng can phạm đến ngoại sắc. Lại cũng chẳng làm nhân duyên giết hại, v.v... cho đến phương tiện đó, chẳng dùng cây gậy ngón đá mà làm tổn thương hại mạng chúng sinh. Với vật của người khác thì người khác sử dụng, dẫu một ngọn cỏ một lá cây mà người không cho thì không lấy.
Lại cũng chẳng từng men liếc nhìn tế sắc. Với bốn oai nghi, cung kính nghiên cẩn rõ xét. Đó gọi là thân giới.
Trì khẩu giới tức là đoạn trừ hết thảy các thứ nói hư dối, nói đôi chiều, nói hung ác, nói thêu dệt, ly gián hòa hợp, bài bác phỉ báng, chuốt trau văn sức ngôn từ, và tạo các phương tiện xúc não đối với người. Nói hẳn phải thành thật, dịu dàng, trung tín; nói thường vì lợi ích, khuyên hóa tu thiện. Đó gọi là khẩu giới.
Trì tâm giới tức là trừ diệt tham dục, sân nhuế, tà kiến, thường tu tâm nhu nhuyến, chẳng tạo tội quá, tin tạo tội nghiệp sẽ bị quả báo xấu ác. Với sức tư duy, chẳng tạo các ác. Đối với tội nhẹ, sinh trưởng rất nặng. Giả sử nhầm tạo, thì phải lo sợ nghĩ suy sám hối, biết ân báo ân, tâm không keo lận, vui thích tu tạo phước đức, khuyên dạy người khác, thường khởi từ bi xót thương tất cả. Đó gọi là tâm giới.
Trì giới Thập thiện, đến lúc mạng chung thác sinh lên cõi trời, thọ thượng Diệu lạc, v.v... Từ đó đắp mặc áo mây năm sắc, kèo bày y phục lụa là ba thù. Dưới cây chất đa, trong nhà Diệu Thắng, theo các trời mà đua vui, bước rảo vườn hương thơm mà dung dự, ngồi thời gian một kiếp chỉ nháy mắt đã ngàn năm. Hoa quang đẹp xinh sáng ngời như nhật nguyệt, phảng phất đẹp xinh hơi khí chiên đàn. Kinh Dục Vương nói: "Vua bảo nhân dân trong nước thảy đều thực hành Thập thiện, trì Ngũ giới, mỗi tháng sáu ngày trai, mỗi năm ba tháng chay trường. Trâu ngựa chó heo v.v... thảy đều thọ trai". Kinh Tịnh Độ nói: "Nên trì chín trai, đó có nghĩa là mỗi năm ba tháng, mỗi tháng sáu ngày". Chín trai ứng với chín thần, trừ chín não, diệt chín ác, lành chín bệnh. Ba trai vượt ra ba cõi, cầu ba đạo, chế ba dòng, đoạn ba khổ, trị ba độc, bít ba đường, ứng ba tôn. Sáu trai là chế sáu tình, cấm sáu giặc, dừng sáu suy, đắc sáu hòa, khởi sáu hạnh, thành sáu đức.
Kinh Thí Dụ nói: "Thiên Chủ Đế-thích bảo sai bốn vị Thiên vương, theo sáu ngày mà án hành trong thiên hạ, dò tìm mọi sự tạo tác thiện ác trong nhân gian. Khi thấy có vị Đại Quốc vương dùng pháp Thập thiện, Tứ đẳng để trị vì cảm hóa thiên hạ, Thiên Chủ hoan hỷ, tức ban cho vua người xe vàng ngàn căm, chạm khắc văn vẻ dùng các vật báu khỏa lấp, ánh sáng soi suốt hơn hẳn ánh sáng nhật nguyệt. Có bốn xe báu bằng vàng, bạc, đồng sắt từ giữa không trung mà xuống, tám hộc minh châu sáng ngời như vầng nhật có khả năng dứt trừ hơi khí nóng bức. Ở trong cung vua lại có nữ báu từ trong hư không mà xuống, thuần toàn thịt không cốt, đầy đủ dáng dấp nữ thân, đùi vế tròn đầy chẳng hiện, tai mềm mại mà rủ xuống, dung mạo phong thái nhàn nhã xinh đẹp, có sáu mươi bốn thứ biến hóa, lông my xanh đẹp, tóc mượt chẳng rối loạn, hay biết tâm ý vua, ứng theo thời hiến dâng. Bảy báu kỳ lạ từ trong nước vọt ra, ngựa báu tám vạn, voi trắng sáu ngà. Bốn Đại thiên vương bưng bình bảy báu đựng nước hương thơm ấm nóng rưới trên đảnh dâng mũ báu cõi trời để đội cho vua. Lúc vua đi, có bảy báu dẫn trước, bốn thứ binh lính theo sau, v.v... " Kinh Dục Vương lại nói: "Phu nhân của Dục Vương có đủ hai thứ trân bảo Anh Lạc, áo châu có ngàn chiếc. Tuy làm Vương phi nhưng hưởng thọ khoái lạc cõi trời, v.v... chỗ gọi là ánh sáng châu ngọc liệt bày sau, ngọc nữ xếp đặt trước, gió sinh quần vỏ mốc, hương nổi áo lưới mây". Đại Luận nói: "Phụng giới trì trai, hiện tại được năm thứ lợi ích, đó là: 1/ Dao không thể làm thương tổn; 2/ Độc chẳng thể hại; 3/ Lửa không thể thiêu đốt; 4/ Nước không thể nhận chìm; 5/ Đối với trong hết thảy chúng sinh sân nhuế giận hại xấu ác trông thấy đều hoan hỷ". Kinh Thí Dụ nói: "Một ngày trì trai có được lương thực sống sáu mươi vạn năm, và được năm thứ phước đó là: 1/ ít bệnh, 2/ thân an, 3/ ít dâm, 4/ ít ngủ, 5/ mạng chung sinh lên cõi trời".
Kinh Tịnh Độ nói: "Bát vương tức là tám tiết nhật. Nói văn thư trình tấu Thiên vương, mỗi năm tám lần ban xuất, nên gọi là Bát vương (tám vua). Ngày ấy rất gấp, nói năm trọn việc xong, xét khóa kết định. Trên nói Thiên đế ba mươi hai thần, bốn trấn ty mạng ty lục, Diêm-la sở ty, thần minh xem xét, sớ ghi tội phước, chẳng kể Tôn ty. Một tháng sáu lần tấu tức là sáu ngày trai. Mỗi năm ba lần che chở tức ba tháng trường trai. Nay con người trên hai vai tả hữu có tả hữu khế, bên tả Thần nam, bên hữu Thần nữ. Thần nam ghi sớ thiện, Thần nữ ghi sớ ác. Trước đó một ngày nửa đêm lên trời, kiểm định tội phước, mỗi tự cầu công, tranh rõ tội phước chỉ chừng mảy lông tóc chẳng sai".
Đức Như Lai với tâm đại bi vì cứu vớt khổ kia, khiến tu trai giới khiến đó được an lạc. Nay tôi nói rõ cùng ông, ông nên xoay trở lại không trái, chớ làm kẻ hạ sĩ chuốc nhận chê cười vậy.
Tống Diễn nói: Trong khoảng niên hiệu Nguyên gia (424-454) thời Tiền Tống, vua Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) hỏi Hà Thị Trung rằng: Phạm Thái và Tạ Linh Vận nói: "Lục Kinh vốn là cứu tế thế tục, nếu tánh linh chân yếu thì lấy kinh Phật làm chỉ nam". Vua Văn Đế lại nói: "Nếu khách khắp trong nước nhà đều thuần mỹ hóa ấy thì trẫm sẽ ngồi yên đến thái bình vậy". Hà Thượng Chi đáp: "Thần nghe từ vượt qua sông mãi đến nay, mũi lọng của Vương Đạo Chu nghỉ tể phủ, Vũ Nghi của Vương Mông Tạ Thượng Nhân Luân, Khích Siêu, Vương Mật, v.v... hoặc gọi là tuyệt luân, hoặc gọi là riêng bước, sơ lược có vài mươi người, không ai chẳng là tài tuấn của đương thời, kẻ sĩ thanh tín không thiếu ở nơi đời. Trộm cho, mỹ hóa của dòng họ Thích không gì chẳng đáng.
Cớ sao? Phàm trong làng trăm nhà mà có mười người trì ngũ giới thì mười người khác thuần cẩn. Trong ấp ngàn nhà có trăm người tu Thập thiện, thì trăm người hòa hậu, truyền mỹ phong ấy chỉ dạy đã khắp cùng hoàn vụ, biên hộ ngàn vạn thì người nhân có trăm vạn. Phàm hay thực hành một việc thiện bỏ một việc xấu ác. Bỏ một việc xấu ác thì chấm dứt một tội hình, một tội hình chấm dứt ở một nhà, thì muôn tội hình chấm dứt trong một nước. Đó là chỗ Bệ hạ nói là ngồi yên đến thái bình vậy". (Phàm, người một ngày thọ tám giới, mà một ngày không sát sinh, thì một ngày không tội sát sinh; một ngày không trộm cướp thì một ngày thì một ngày một tội trộm cướp; một ngày kính trọng Tam bảo thì một ngày làm việc thiện. Người một ngày phụng thờ song thân thì một ngày làm người con hiếu; một ngày không nói dối thì một ngày không mất niềm tin; một ngày không nói lời thêu dệt, thì một ngày không mất lễ; một ngày không nói lời đôi chiều thì một ngày anh em hòa mục; một ngày không nói lời xấu ác thì một ngày gia đình an hòa. Một thân một ngày còn được công như thế, huống gì một tháng đến mười tháng, một năm đến mười năm, tự mình làm, dạy người khác làm, triển chuyển tương tục? Từ một người cho đến trăm người, từ quận cho đến trăm quận? Tốt lành nhỏ thì sĩ nữ trong xóm làng, tốt lành lớn thì công vương khanh tướng. So sánh đó mà nói đủ để lập thân chuyển hóa giúp nước giữ nhà. Nếu lấy lập thân đây, không thân nào chẳng lập, lấy giúp nước đó không nước nào chẳng giúp, mới được mưu đồ xa của Thánh nhân, thật là khuôn phép lớn giúp bình trị ấy vậy).
Công Tử nói: Chu Khổng thiết giáo hẳn lấy đức mà đặt điểm đó, dùng hình phạt mà ngang bằng đó, nên mới có năm loại hình, ba ngàn (3.000) tội. Dân còn ít tuân theo pháp độ, phần nhiều vùi lấp trong lưới hình. Nếu y theo lời Phật mà giữ gìn giới bỏ hình phạt, thì ngày một thêm lắm nhiều gian tà trộm cướp. Nên còn giữ công phạt thì lại thiên phụ đại từ, tiến thối hai đường khó khăn, mong được nghe quyết định?
Người thông bác bảo: Thiệu Thư có nói: Thạch Hổ từng hỏi Quốc sư Phật Đồ Trừng rằng: "Phật pháp đã không thuận thọ giết hại hình phạt, nay làm chủ thiên hạ, nếu không dùng hình phạt giết hại thì không biết lấy gì để bình yên nước nhà? Còn như trái lại sát sinh, tuy tôn thờ Phật, há có được phước ư?" Phật Đồ Trừng đáp: "Đế vương phụng thờ Phật, phải là hình thể cung kính, tâm ý vâng thuận xiển dương Tam bảo, không làm điều bạo ngược, không hại người chẳng tội. Đến như các kẻ vô lại hung ngu, chẳng phải chỗ chuyển thay của cảm hóa thì không thể cải đổi, chỉ có tội, không được giết hại, có ác không được hình phạt, chỉ phải giết với kẻ đáng giết, hình phạt với kẻ đáng hình phạt. Còn nếu phóng ý bạo ngược, giết hại người không tội, tuy có dốc hết của cải để phụng sự Phật, cũng không thể giải nỗi ương họa. Mong Bệ hạ xét rõ, muốn khởi tâm từ rộng khắp tất cả thì Phật giáo trọn hưng thạnh, mà thời vận vua lan tỏa xa". Thạch Hổ tuy không thể thực hành tất cả, nhưng làm điều lợi ích cũng không ít.
Tống Điển nói: Ở đời vua Văn Đế (Lưu Nghĩa Long 424-454) thời Tiền Tống, có Sa-môn Cầuna-bạt-ma người ngoại quốc, tiếng tăm hóa đạo vang tỏa xa gần. Năm Nguyên Gia thứ tám (431) đi đến xứ Kiến Nghiệp. Vua Văn Đế nhọc hỏi ân cần, nhân đó mà nói: "Đệ tử thường muốn trì giới không giết hại, đem thân theo vật mà chẳng được toại chí nguyện. Pháp sư chẳng ngại xa xôi ngàn dặm đến giáo hóa nước này, nên làm sao để chỉ bày đó?" Sa-môn Cầu-na-bạt-ma đáp: "Đạo vốn ở tại tâm, chẳng ở tại sự, pháp do chính mình, chẳng do kẻ khác. Vả lại, chỗ tu của Đế vương cùng với thất phu mỗi tự có khác. Thất phu thì thân hèn, danh kém, lời lệnh chẳng oai, nếu chẳng nghiêm khắc chính mình khổ thân lấy gì làm dụng? Còn Đế vương lấy bốn biển làm nhà, muôn dân làm con. Ban ra một lời hay đẹp thì khắp các hàng sĩ nữ đều vui theo, bày một chính sách hiền thiện thì nhân thần đều hòa. Hình phạt không yểu mạng, sai làm chẳng nhọc sức, thì khiến gió mưa đúng thời, lạnh nóng đúng tiết, trăm thứ lúa thóc đượm thuần lắm nhiều, dâu vừng tươi tốt. Như vậy thì trì trai, cứu tế cũng rất lớn vậy, như thế thì không giết hại đức cũng lắm. Thà khuyết mất bữa ăn trong nửa ngày mà an toàn tánh mạng của một muôn thú, sau đó mới vì cứu giúp rộng lớn vậy".
Vua Văn Đế rất vui mừng, thường thử luận bàn đó, có thể làm trọn xét soi, hẳn có thể còn gốc của chí trị vậy. Đang ngồi tại triều mà hỏi đạo, kính phụng pháp không thân, khoan dung tướng mạnh giúp oai, ban ân cùng khắp, thông Tam bảo, xót thương bốn loài quần sinh, thì trăm họ sợ mà mến đó, chín cõi chẳng nghiêm trị vì ấy. Chu Quan không thể vì trình bày hiệu lực mênh mông ấy, Hồng Phạm chẳng đủ để sánh ví công năng cao vời ấy.
Công tử hỏi rằng: Kính phụng Phật hay có lợi ích, cớ sao ba phương mây nhiễu, bốn biển đảnh vọt. Hành đạo đọc kinh mà không phước ư? Người thông bác đáp: Triệu Thư nói: Quân Tấn mỗi lẫn xuất trận, nhân tình lo sợ chẳng biết ở đâu. Thạch Hổ giận dữ bảo: "Ra kính Phật phụng Tăng, mà cuối cùng lại có giặc cướp bên ngoài, Phật không thần linh vậy". Sáng sớm, Sa-môn Phật Đồ Trừng vào, Thạch Hổ đem sự việc ấy hỏi. Sa-môn Phật Đồ Trừng nhân đó đáp rằng: "Ở đời quá khứ, Bệ hạ từng làm vị Đại thương chủ đến chùa Kế Tân, thường cúng dường đại chúng. Trong đại chúng có sáu ngàn (6.000) vị A-la-hán. Khi ấy tôi với thân hình nhỏ bé cũng dự trong hội ấy. Bấy giờ có vị đã đắc đạo nói cùng tôi rằng: "Chủ nhân này sau khi mạng chung sẽ lại thọ thân gà, và sau đó chiếm bá đất Tấn". Nay được làm vua, há chẳng phước ư? Lũy trường quân giặc là việc thường của nước nhà, cớ sao lại oán thán phỉ báng Tam bảo, dấy khởi ý niệm xấu độc ư?" Thạch Hổ mới tỏ ngộ mà hổ thẹn đó.
Kinh Nhân Vương nói: "Phật bảo vua Ba-tưnặc rằng: Hết thảy các cõi nước an lập muôn dân khoái lạc đều do Bát-nhã Ba-la-mật, cho nên giao phó cho các Quốc vương mà chẳng giao phó cho bốn bộ chúng. Cớ sao vậy? Bởi không ai bằng sức vua. Tại Diêm-phù-đề này có mười sáu nước lớn, năm trăm nước vừa, mười ngàn nước nhỏ. Trong các nước vừa ấy có bảy thứ nạn. Hết thảy các Quốc vương bị nạn mà giảng đọc Bát-nhã thì bảy nạn tức diệt, bảy phước bèn sinh, muôn dân an lạc, Đế vương hoan hỷ.
Những gì là bảy nạn? Một là Nhật nguyệt mất độ, thời tiết phản nghịch, hoặc mặt nhật sắc đỏ xã hội, hoặc mặt nhật sắc đen xuất hiện, hoặc hai, ba, bốn mặt nhật xã hội. Hoặc nhật thực không tỏ sáng, hoặc Nhật luân một lớp, hoặc hai, ba, bốn, năm lớp Nhật luân xuất hiện, ngay lúc biến quái đọc tụng kinh này.
Hai là, hai mươi tám vị sao Mất độ, sao Kim, sao Chổi, sao Luân, sao Quỷ, sao Hỏa, sao Thủy, sao Dao, sao Gió, Nam đẩu, Bắc đẩu, sao lớn năm trấn, hết thảy sao Quốc chủ, sao Tam công, sao Bá quan, những sao như vậy v.v... mỗi mỗi biến hiện, cũng đọc tụng kinh này;
Ba là, lửa lớn thiêu đốt nước nhà, muôn dân bị thiêu cháy hết. Hoặc lửa quỷ, lửa rồng, lửa trời, lửa núi, lửa người, lửa cây, lửa giặc biến quái, cũng đọc tụng kinh này.
Bốn là, nước lớn nhận chìm trăm họ, thời tiết trái ngược, đông mùa hạ tuyết, mùa đông thì sấm sét liên miên, tháng sáu thì mưa băng bảo sương mưa nước đỏ nước đen nước xanh, mưa đất núi đá, mưa cát sỏi đá, sông ngòi nước chảy ngược, trôi cát chảy đá. Lúc biến chuyển như thế cũng đọc tụng kinh này.
Năm là, gió lớn thổi giết muôn dân, núi sông cây cối trong đất nước đồng thời diệt mất. Gió lớn trái mùa, gió đen, gió đỏ, gió xanh, gió trời, gió đất, gió lửa, lúc biến chuyển như vậy, cũng đọc tụng kinh này.
Sáu là, hầm hố trong nước nhà phun vọt lửa dữ, thiêu đốt muôn thứ cỏ cây, nắng hạn lâu ngày, năm thứ lúa thóc chẳng được thời vụ, đất cát nóng bừng, muôn dân tiêu diệt hết. Lúc biến chuyển như vậy, cũng nên đọc tụng kinh này.
Bảy là, bốn phương giặc đến xâm chiếm, giặc nổi cả trong và ngoài nước, giặc lửa giặc nước giặc gió giặc quỷ, trăm họ hoang tàn loạn lạc, binh đao cướp nổi, lúc biến quái như vậy, cũng nên đọc tụng kinh này.
Đó gọi là bảy nạn, phương pháp cầu đảo để dứt trừ bảy nạn, tức phải làm cái phan chín màu sắc, dài chín trượng; hoa chín màu sắc cao hai trượng. Đèn ngàn cành cao năm trượng, khăn của chín vua, làm bàn án bảy báu, tòa cao bảy báu, đặt kinh trên án. Các vị Quốc vương v.v... ấy ở trong màn trướng bảy báu đốt hương rải hoa, ngày ngày cúng dường như phụng sự song thân, tợ phụng sự Đế-thích, v.v... Nếu ở trong đời sau, các vị Quốc vương hộ trì Tam bảo, ta sẽ bảo năm vị Bồ-tát sức lực mạnh mẽ đến ủng hộ nước đó: Một là Bồ-tát Kim Cang Hống, tay cầm luân tướng ngàn báu. Hai là Bồ-tát Long Vương Hống, tay cầm đèn kim luân. Ba là Bồ-tát Vô Úy Thập Lực Hống, tay cầm chày Kim Cang. Bốn là Bồ-tát Lô Điện Hống, tay cầm mành lưới ngàn báu. Năm là Bồ-tát Vô Lượng Lực Hống, tay cầm năm ngàn (5.000) kiếm luân, cùng với năm ngàn (5.000) vị Đại thần vương, v.v... đến ủng hộ nước đó. Muốn làm lợi ích lớn, phải lập các hình tượng ấy mà cúng dường đó v.v...
Phàm, nước đọng thuyền nổi, gió chứa chim chuyển, ủng hộ nước nhà phải cậy nhờ năm sức lực (trời, rồng, quỷ, thần, người tức là năm sức lực vậy), chẳng chỉ sách lược ở đời, riêng cậy sáu quân năm sức, hẳn nhờ thuyết hiển đồng tâm nên được an ổn, năm quân hoặc trong và ngoài khác kế, bèn khiến sẽ nguy mất. Do đó, nhiếp phục Tu-la, xa nhân do Bát-nhã, vời nhận phong túc an lạc gần cậy ở Bảo Minh, chỉ có thể y theo Vương luận chánh luận để định dân (rút từ các kinh Kim Quang Minh, Nhân Vương v.v...) kính phụng Nhật tạng Nguyệt tạng mà an nước, chuyên việc dấy khởi bảy thiện, tăng trưởng ba hơi khí, thì có ngàn vị Đại tướng trấn giữ kiêm luân, bốn Đại Dạ-xoa đồng thủ lãnh thần chúng, kính thuận lời Phật ủng hộ vua người (Phẩm Nguyệt Tạng ở trong kinh Đại Tập nói: "Đức Phật đem đất nước Chấn Đán phó chúc cho Tỳ-thư-yết-ma Thiên tử, Đại tướng Ca-tỳ-ladạ-xoa, Long vương Tu-ma-na, Đại thiên Song Mục, các hàng sĩ nữ cõi trời v.v... mỗi mỗi dẫn theo quyến thuộc chủ lãnh, Thần linh cùng ủng hộ nước Chấn Đán. Những nơi có các sự đấu tranh oán thú, kiện tụng tranh giành, hai quân đánh nhau, đói khát bệnh tật, mưa gió trái mùa, băng rét nóng độc, thảy đều khiến dứt hết, khiến cho pháp nhãn ta được trụ lâu dài, tiếp nối hạt giống Tam bảo, không bị dứt tuyệt, nên thứ tinh khí được tăng trưởng v.v... Vương giả dụng tâm thì không gì chẳng hiệu quả, muôn sao lưu cảnh mà chánh hàng, nhật nguyệt tỏ sáng lại mà hợp độ. Âm dương hòa mà không biến chuyển, mưa nước thấm khắp mà ứng thời, có cảm thì thông đó, không linh nào chẳng khế hợp. Đến như nghiệp xứng quá khứ hiện tại, phước nói nhẹ nặng, chỉ chẳng phải định báo đều có thể cầu đảo dứt trừ vậy. Trọn chẳng nhọ không, uổng làm công đức, quyết định đó chẳng bỏ, nghiệp báo không sai vậy.
Công tử hỏi: Trộm thấy, trai pháp của đạo môn lược có hai thứ: Một là Cực đạo, hai là Tế độ. Cực đạo, như kinh Động Thần nói: "Tâm trai ngồi quên đến cực đạo vậy". Tế độ, y cứ theo kinh gồm có Ba lục, Bảy phẩm.
Ba lục: Một là Kim lục, trên thì tiêu thiên tai, bảo hộ trấn giữ Đế vương, chánh lý phân độ thái bình thiên hạ. Hai là Ngọc lục, cứu độ triệu dân cải ác theo thiện, hối lỗi quá tạ tội khiên, cầu ân thỉnh phước. Ba là Hoàng lục, bạt độ cửu huyền thất tổ, vượt khỏi năm khổ tám nạn, cứu hồn đêm tối cầu than, tế tội địa ngục buồn khổ lâu dài.
Còn bảy phẩm: Một là Động thần trai, tức pháp cầu tiên bảo hộ nước nhà. Hai là Tự nhiên trai, tức học đạo chân tu thân. Ba là Thượng thanh trai, tức là diệu của vào Thánh lên hư. Bốn là Chỉ giáo trai, tức là cấp gấp cứu bệnh đảo tai ương. Năm là Đồ thán trai, tức cốt yếu hối quả thỉnh mạng. Sáu là Minh chân trai, tức thức cứu vớt u dạ. Bảy là Tam nguyên trai, tức tội tạ tam quan.
Với các trai ấy, hoặc một ngày một đêm, ba ngày ba đêm, bảy ngày bảy đêm, đầy đủ như nghi điển. Ngoài ra lại còn có các trai như lục trai: Thập trực, Giáp tý, Canh thân, Bản mạng v.v... thông dùng trai pháp tự nhiên, ngồi quên một đạo, riêng vượt nguồn sinh tử. Mười trai tế độ đồng lìa gốc buồn lo, nghiêm tầm đầu ngọn, công ấy rất lớn. Khi ấy oai nghi quỷ thức, đàn tràn đường vụ, pháp tượng huyền lư đủ các khuôn phép, áo mão dung nghi dùng chỉ đông đúc, tiếng ngọc boong boong, chầu tiếp kính bái, nghiễm nhiên trai túc, đi quanh xướng tán, đốt hương rải hoa, thần nghi ung đúc, thân tâm đều chí thành, cảm ứng hẳn đến. Khách chủ đều hài hòa tự phủ hợp cảnh phước.
Minh Chân Nghi nói: "An đặt một đèn lớn, ở trên an đặt chín ngọn đèn chính giữa để soi chiếu chín phủ đêm dài tăm tối. Giữa đêm của các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hai mươi ba, hai mươi bốn, hai mươi tám, hai mươi chín và ba mươi tháng giêng, an đặt một cây đèn lớn cao chín thước. Ở trên cây đèn đốt chín ngọn đèn. Ở trên soi chiếu cửu huyền. Với nhà Phật thì các trai Bà-la Dược sư độ tinh phương quảng, v.v... oai nghi quy tắc vốn không pháp tượng, người đời đều thấy, nơi nào biểu lộ rõ ư?
Người thông bác bảo: Ông buộc tóc theo thầy, sớm trải qua trường lớp, thấy đủ trăm dân, học cùng tam huyền, tất phải rộng thấy rõ đến thời Hán Ngụy, chẳng nghe các Vương giả kính phụng đạo vì nước nhà mà thiết lập trai ba lục, trừ đảo Thiên tai, thực hành pháp bảy phẩm. Nếu nói pháp ấy sớm lưu hành ở đời, thì xưa kia, nạn hồng thủy ngập cao tận trời, bốn dân hôn mê mái chái, viêm oai thước thạch, lục hợp động nhiên. Ngay lúc ấy, đâu chỗ chẳng đem trai đạo đến cứu, mắt nhìn lang bái như vậy ấy ư? Nếu cứu mà được, văn ấy xương thích, Dũ Võ phát bệnh hại, lại ứng với sức trai ấy khiến nên ư? Còn nếu như cứu không được, há chẳng phải trai đạo hư vọng ư?
Tôi từng đọc xem qua kinh đạo, rõ ràng đầy đủ cốt yếu ấy. Thấy kinh Huyền Trung nói: "Đạo sĩ thọ giới và khi lục, đều đặt ngôi vị ngũ nhạc, thiết bày rượu nem cúng bái". Lại căn cứ theo pháp của Tam Trương thì xuân phân thu phân tế táo cúng xã, Đông chí Hạ chí đồng thế tục cúng tế tiên vong. Cho đến thọ trị lục, binh phù xả khế, đều nói việc của tướng quân sứ binh. Lại thấy ở Thượng nguyên giản văn oai nghi tự nhiên kinh nói: "Thượng nguyên tổng chân, Trung nguyên tổng tiên, Hạ nguyên tổng thần". thường sáng sớm hướng Bổn mạng xoay tâm đảnh lễ ba mươi ba đời, lay lắc đầu, đưa hai tay chỉ trời, phụng bay liệng quay mỗi mỗi chín hồi. Tay xoa trán, đè hai my mày, sau lau hai mắt, đè hai bên lỗ mũi, trên dưới hai lỗ, mỗi mỗi qua bảy lần thọ lục, dùng dâng năm lượng vàng, năm lượng tơ trắng, năm thăng gạo ăn, năm bó củi chụm. Hoặc dùng người vàng, vòng vàng, rồng vàng, cá vàng, người bạc, vòng bạc, ống đồng bạc, cốc chén bạc, v.v... Không gì chẳng rộng bày vàng ngọc, lắm tốn phí tơ lụa. Chỉ bày thuật tham câu, chưa nghe Phật pháp thức xuất yếu. Cớ sao? Trộm tìm thấy Đạo sĩ Lục tỉnh tu vọng thêm xuyên tạc chế soạn trai nghi ấy, trong ý muốn các hàng Vương giả tuân phụng pháp đó, thuộc ở thời vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương mở vận, Đạo hóa mà chẳng hành. Cớ sao biết vậy? Căn cứ đời trước vua Võ Đế thời Nam Lương phụng sự đạo, ngày chưa lên ngôi, tự thân kính phụng Lão Tử. Đến năm Thiên giám thứ ba (504) thời Nam Lương, đã được tự tai, ngày mồng tám tháng tư, ban sắc xả đạo. Lục Tu Tỉnh chẳng giằng nỗi sự tức giận, bèn cùng các Đạo môn và các vong mạng ở biên cảnh phản vào Cao Tề, lại dốc đổ vàng ngọc tặng các Quý du, nương gá chở che mong gầy dựng Đạo pháp. Vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương 550560) thời Bắc Tề bảo Pháp sư Đàm Hiển bẻ gãy mũi nhọn đó. Lục Tu Tỉnh thần khí chóng hết, cứng lưỡi chẳng đối đáp được gì. Ngày đó đồ chúng đều xả tà quy chánh, cầu xin xuất gia. Những người chưa phát tâm, thì ban sắc sảo xuống tóc mặc nhiễm y. Rõ ràng đầy đủ như biên ghi ở biệt truyện.
Khi ấy, có một Nho sinh thiên chấp, vốn dòng họ Lưu, tự xưng là con cháu Hoàng Cân ở cuối thời nhà Hán, gần đây tiếp thừa tả đạo của Lục Tu Tỉnh, nghe người thông bác nói điều trạng nguyên do Lục Tu Tỉnh phản nhà Lương vào nhà Tề rồi bị giết mất, mới bừng bừng đổi sắc mặt đứng dậy gằn tiếng nói: Ông là bậc Đại nhân, nói sao dung dị có thể chẳng nghe ư? Vội vàn như vậy thì lòng quân tử không bao giờ trái điều nhân. Tìm xét ba lục, bảy phẩm, đều xuất phát từ Linh Bảo; giáo của Tự Nhiên, Động Thần, riêng vượt nguồn sinh tử, đồng lìa gốc ưu khổ, truyền đó ở từ xưa, người thực hành lên tiên. Do đó các kẻ sĩ vào đạo mang đội mũ mão phục chương, đeo phù mang ấn, nắm giữ giản lục, tiếp phụng tiên đình, quạt thổi đạo xưa mà giúp thời sáng tỏ, tu vô vi mà sùng Thượng đức. Tiến tới thì động xoay vút mà lên kim khuyết, chuyển lọng bay mà đến ngọc kinh; thối lùi thì mở thiện nhỏ mà cứu ba đường, vận chuyển Đại từ mà tế độ lục đạo. Tướng trạng đó như thế vậy.
Người thông bác bảo: Phàm nói chuộng phù hoa thì lời chẳng phải thật lục, như gà mái không công dụng gáy thức súc sinh, chó gốm chẳng công năng giữ đêm. Cớ sao? Kiểm xét các sử xưa, xa nghe ở các bậc Tiên Nho, chẳng nghe tên gọi Linh Bảo, chưa ghi thuyết của Thiên Tôn. Xét về cội rễ phát khởi đều do Từ Ngụy kinh của Trương Lăng lưu truyền. Các Đạo sĩ học sau cùng, các Nho sĩ thấy biết hẹp hòi, chẳng lường biết được nguyên do, nên kính phụng lấy làm thật, cũng chưa rõ danh hiệu Đạo sĩ phát xuất từ đâu lại. Nếu hay nghe rồi chuyên cần thực hành, sẽ vì ông nói.
Người thông bác nói chưa dứt lời, Nho sinh vội vàng ứng đáp rằng: Tôi nghe châu ngọc dưỡng nuôi từ nước, đồng sinh từ đá. Người lấy giao cho đó, người lấy mê lầm đó, tất có thể giao cho mà truyền. Trộm nghĩ, vì ông chẳng lấy vậy. Tam lư có lời nói rằng: "Đạo có thể thọ mà không thể truyền", tức nghĩa ấy vậy. Nay đối với ông, mà lược nêu Đại tông, căn cứ các kinh Đạo Đức v.v... đều nói: "Mới đầu ứng một khí gọi là Đại La, ở ngoài Tam Thanh, đặt Huyền đô Ngọc Kinh, Ngọc thành, Kim khuyết, Thiên Tôn ngự trị ở trong đó". Kinh Bảo Huyền nói: "Tự nhiên ứng hóa có mười thứ diệu: Một là Tự nhiên, hai là Vô cực, ba là Đại đạo, bốn là Chí chân, năm là Thái thượng, sáu là Lão quân, bảy là Cao hoàng, tám là Thiên tôn, chín là Ngọc đế, mười là Bệ hạ, thống lãnh tất cả, lập đạo vua tôi". Kinh Chánh Nhất nói: "Trên hóa Tam Thanh để đặt Tiên Chân. Thánh vương tam công cửu khanh có hai mươi bảy vị, tám mươi mốt đại phu, một trăm hai mươi nguyên sĩ, một ngàn hai trăm (1.200) tào lục. Tiên quan mỗi tự trị vì Cung phủ, Thiên tào thống lãnh khắp cả muôn sao nhật nguyệt, phân văn rủ tượng, khiến Thiên tử ở Hạ giới thì làm tượng đó. Như nói: "Nhân pháp địa, Địa pháp thiên, Thiên pháp đạo, Đạo pháp tự nhiên". Do đó, Thánh quân đời trước đều dùng pháp đây mà trị vì. Lại từ một khi hóa sinh ba khí để ứng với ba quân (nói ba quân là từ ba khí sinh đạo là khí vậy). Linh Bảo Cửu Thiên Sinh Thần Chương nói: "Có Thiên Bảo Quân là Thần Đại Đổng; Linh Bảo Quân là thần Động Huyền; thần Bảo Quân là thần Động Chân; Thiên Bảo trượng nhân là tổ của Thiên Bảo Quân; Khí Trượng nhân là khí của Hỗn Động Thái Nguyên Cao Thượng Ngọc Hoàng. Sau chín mươi chín ngàn không trăm chín mươi chín (99.099) ức khí, đến năm Long Hán thứ nhất hóa sinh, Thiên Bảo Quân ban xuất sách. Bấy giờ gọi là Cao Thượng Thái có cung Ngọc thanh. Linh Bảo Trượng Nhân tức là Tổ của Linh Bảo Quân. Khí Trượng Nhân là khí của Xích Hỗn Thái Nguyên Vô Thượng Ngọc Linh, sau chín mươi chín ngàn chín trăm chín mươi (99.990) vạn khí, đến Long Hán Khai Đồ Hóa Sinh. Linh Bảo Quân trải qua một kiếp đến năm Xích minh thứ nhất, ban tăng sách độ người, bấy giờ gọi là Thượng Thanh Huyền Đồ Ngọc Kinh Thất Bảo Cung Tử Vi. Thần Bảo Trượng Nhân tức là Tổ của Thần Bảo Quân. Khí Trượng Nhân là khí của Minh Tịch Huyền Thông Vô Thượng Ngọc Linh, sau chín mươi chín ngàn chín trăm chín mươi (99.990) khí, đến năm Xích Minh thứ nhất hóa sinh. Thần Bảo Quân trải qua hai kiếp, đến năm Thượng Hoàng thứ nhất ban ra sách. Bấy giờ gọi là Tam Hoàng, Động Thần, Thái Thanh, cung Thái Cực. Lại nói, ba hiệu ấy tuy năm khác hiệu khác, vốn chỉ đồng một vậy. Nhưng phân làm ba khí huyền, nguyên, thủy mà trị Tam bảo, tức là Tôn thần của ba khí. (Tự nhiên sám tạ nghi nói: Các thần v.v... quy mạng phương Đông vô cực Thái thượng Linh Bảo Thiên Tôn. Nay Thần v.v... ngưỡng tụ phương Đông chín khí thanh thiên thái Thanh huyền nguyên vô thượng, Tam thiên vô cực, Đại đạo Thái thượng lão quân, Thái thượng trượng nhân, Đế Quân, Đại đế quân, Thượng hoàng, Lão quân, hai mươi chín chân nhân, bảy mươi hai Thánh cao huyền chân quân, chín Lão tiên đô quân, chín khí Trượng nhân, Thủy thanh chân nhân, Đông hoa ngọc bảo cao thần, Đại ty thượng tướng, Tham đồng quân nguyên lão, Cửu huyền chủ tiên chân nhân, một ngàn hai trăm (1.200) quan quân thái thanh ngọc Bệ hạ, Thánh đế cửu khí, Ngọc môn thần tiên, Tứ ty chân nhân, chư Thiên chí cực thượng Thánh thái thần. Dưới tại phương Đông khanh vô cực thế giới, năm núi bốn ngôi thần tiên chánh chân, chín cúi đầu, chín dập trán vậy).
Kinh Động Thần nói: "Có ba Tam Hoàng nên gọi là Cửu Hoàng. Đó là, mới đầu là biến hóa của Tam Hoàng hư vô không đồng, Tam Hoàng kế tiếp là ứng biến của Huyền Nguyên Thủy, Tam Hoàng sau nữa là biến của Tam Nguyên, lấy làm ba đài hóa hình tiếp vật. Chín Hoàng đó đều là diệu dụng của Đại đạo ứng hóa cùng sinh và Ngũ đế hành hóa. Tiếp theo đó là Tam Vương đời đời tu tập chân, không gì chẳng phải là pháp đạo".
Lại nói, trên ba cõi hai mươi tám trời, tiếp đến là trời bốn dân. Từ trời Bốn dân đến Cảnh thái thanh. Từ cảnh Thái thanh đến cảnh Thượng thanh, từ cảnh Thượng thanh đến cảnh Ngọc thanh, từ cảnh Ngọc thanh đến Vô thượng Đại La, mới lên Cực quả, ứng hóa cung Đài, không thể nói bày, nghĩa là làm đạo của trong đạo, lại là địa vị của Thiên Tôn. Ở cung bảy Ánh ở biện chín Hoa, ngồi giường vàng mà vui tánh, tựa ghế ngọc mà thỏa thần. Ngọc nữ che màn, Tiên đồng hầu quanh, phân phán thiện ác, quyết đoán sinh tử. Phàm là quỷ thần không loại nào chẳng sùng trọng kính ngưỡng, làm chủ ở trong trời, là tôn quý của Thánh giả, chỉ quỷ chỉ thần mới có thể tin có thể chuộng. Do đó các bậc hiền triết xưa trước cùng nương tựa thực hành, hoặc ẩn vết nơi chợ Triều, hoặc tàng hình nơi rừng chầm, hoặc môn nhân cùng theo, hoặc đệ tử cầu hỏi. Bạn của Vương Đài có cả ba ngàn (3.000), chúng của Canh Tang chẳng chỉ một, không ai chẳng nhị quán, điều tâm trọng huyền, tẩy rửa ý tưởng, đàm không cực diệu, quạt thổi Đại đạo để giúp thời cuộc, tu thiện lập trai, vận công huyền mà giúp nước. Do đó, đời đời các Thiên tử thảy đều tuân sùng, đời đời các bậc anh hiền thảy đều khâm chuộng. Hạ hậu cảm được Chung Sơn, Hán Văn chứng nghiệm Hà Thượng, diệu ứng thoát nương, không lúc tạm ẩn, nghĩa chẳng phải dối nói, nguyên do phát xuất, nên xưng đạo giáo khó thể đặt gọi tên vậy.
Người thông bác cật vấn lại rằng: Ông hay đọc lắm văn từ mà không biết tìm cầu nghĩa lý, thuộc loại Hổ chương, thật khó cùng nói.
Phàm, băng ngưng thảm sợ, chẳng thể chạm khắc hoa khoản đông; thù táp thước thạch, chẳng thể đẹp gỗ Tiêu Khâu. Cử sáng rực ở giữa khoảng nhật nguyệt chẳng phải trí vậy, đậy chum bình bên cạnh Hồng chung chẳng phải tự nghĩ vậy. Với văn từ ông dẫn, nay phải lập nghiệm. Tại sao? Lễ nói: "Thái Thượng quý đức". Trịnh chủ rằng, có nghĩa là Vương giả xưa trước, Lão Tử nói: "Rất biết trên dưới". Tập Chú nói: Ở thời Thái Cổ, biết trên có Quân vương mà không có bề tôi phụng sự tức ở thời Tam Hoàng vậy. Hiệu của Thiên Tôn xuất phát từ kinh Phật. Danh từ Bệ hạ, đầu tiên có ở Tần Thủy, Công Khanh, Đại Phu đó cho đến Nguyên sĩ Tào Cục, đều dùng chế của Chu Quan Tần Hán mà đổi đầu thay đuôi, lấy ngụy làm chân. Điều thuật về Tam Hoàng, đều dẫn từ Đế Hệ Phả v.v... Còn phẩm thứ Tam giới, chư Thiên trung số đều nương theo bên cạnh kinh Phật mà lập danh tự, và thêm bớt lấy bỏ tợ khác mà đồng. Như từ Thượng cổ trở lại thật có pháp ấy, Bào Hy trước thuật sách Dịch chưa thấy nêu bày đó, đến đời Hoàng Vương, không nghe phụng sự. Từ thời Chu Tần trở về sau dần phát sinh dối nói. Trong chương Thiên Vận, Trang Tử nói: Khổng Tử lúc năm mươi mốt tuổi mà chẳng nghe có đạo, mới theo hướng Nam đi đến Thanh bái, thấy gặp Lão Đam bèn nói rằng: "Giả sử đạo có thể dâng hiến cho người thì không gì chẳng dâng hiến cho Quân vương ấy vậy, mong ông siêng năng đó, chớ nên lắm lời".
Và nói, ngoài ba cõi riêng có kinh Khuyết Đô Thành, các học trò có sự nhận biết đều ta thán quái lạ. Trong Tiếu Đạo luận, đầy đủ nói rõ sự hư ngụy ấy.
Trang Tử nói: "Vương Đài là người phế tật, Canh Tang là kẻ sĩ ôm bệnh hoạn chẳng hành chương tiếu, chưa ra ngoài Phù Thư, thân mặc y phục người thế tục ở đương thời, miệng đọc trao pháp điển của Tiên vương, chẳng phải là Đạo sĩ không đội Hoàng Cân".
Tạm dẫn đem lại, muốn phô bày gì? Giả sử kho tàng ở núi Khai Chung của Hạ Võ, chẳng nói đến Thiên Tôn, Hán Văn đi đến Hà Thượng, tuyệt không dấu vết. Căn cứ Phan Nhạc Quan Trung ký, Kê Khương Hoàng Phủ Mật Cao Sĩ truyện, Ban Cố Hán sử, Văn Đế truyện và phỏng đến các bậc phụ lão, thì không có việc Hà Thượng Công bện cỏ làm am và hiện thần biến. Tất cả đều là hư dối sai nhầm, sao có thể nương cậy ư?
Lại nói: "Đạo xưng là giáo". Phàm, pháp thức lập giáo, trước phải có chủ. Đạo gia đã không chủ đích, cớ sao được xưng là Đạo giáo? Ở đây tạm nêu ba việc mà đạo giao không được riêng xưng là giáo: Một là, căn cứ Chu Khổng đối đàm, Chu Khổng thật là hai người truyền giáo, chẳng được tự xưng là giáo chủ. Cớ sao? Giáo là giáo của Tam Hoàng Ngũ Đế, Giáo chủ tức là Tam Hoàng Ngũ Đế.
Hai là, căn cứ Tiền Hán Thư, Nghệ Văn Chí, thảo luận bí điển xưa nay, phán định tất cả gồm chín phái triết học, trong đó gồm có Nho Đạo v.v... Đạo không phải là giáo riêng, tất cả đều ở trong chín phái. Căn cứ đó mà nói là không riêng lập giáo. Cớ sao? Bởi không có Giáo chủ. Nếu nói lấy Lão Tử làm Giáo chủ, Lão Tử chẳng phải là đế vương, thì làm sao được xưng là Giáo chủ? Nếu nói riêng có Thiên Tôn làm Giáo chủ của đạo, căn cứ theo Chánh Điển Ngũ Kinh từ Tam Hoàng trở lại, thì Chu Công, Khổng Tử v.v... chẳng nói riêng có Thiên Tôn ở tại trên trời ban giáo trải hóa làm chủ đạo giáo, mà đều là Ngụy kinh do từ Tam Trương trở xuống, vọng nói Thiên Tôn trên làm đạo chủ. Đã không có chủ ấy, sao được xưng giáo?
Ba là, Diêu Đạo An làm Nhị giáo luận, chỉ lập Nho giáo và Phật giáo, không lập Đạo giáo. Vì sao? Nho gia lấy Tam Hoàng Ngũ Đế làm Giáo chủ. Thượng Thư nói: "Sách của Tam Hoàng, gọi đó là Tam Bí; sách của Ngũ Đế, gọi đó là Ngũ Điển, dùng giáo của Bí Điển để hóa trị thiên hạ". Mao Thi nói: "Phong vì động đó, giáo vì hóa đó. Bí Điển là giáo, Đế Hoàng là chủ, nên Nho gia được xưng giáo". Phật là Pháp vương giảng thuyết mười hai bộ loại kinh điển ban trải hóa độ thiên hạ, nên có giáo có chủ vậy. Nhưng Phật là người xuất thế, kinh là giáo xuất thế, nên được xưng là Giáo chủ. Tam Hoàng Ngũ Đế là Thế chủ; Tam Bí Ngũ Điển là Thế giáo. Trước lấy Thế giáo mà hóa trị đó, sau lấy xuất thế giáo mà hóa độ đó. Sự hết ở đây, Nhiếp pháp đã chu toàn, là duyên cũng trọn, sao lại phải riêng có Đạo giáo? Lại nữa, Mao Thi nói: "Việc của một nước, buộc gốc của một người, gọi đó là Phong. Thiên tử có Phong nên hay hóa thiên hạ, nên được xưng giáo. Đạo chẳng phải Thiên tử, không được có Phong. Đã không có Phong, làm sao trải hóa? Không Phong có thể hóa, chẳng được riêng xưng giáo vậy". Căn cứ đó mà nói, chỉ có Nhị giáo, giả sử xưng có Đạo, phán vào phải Nho. Lại nữa, Lão Tử là người thế tục, chưa đoạn phiền não, tuy có ngôn thuyết, chỉ là thuật theo giáo hóa của Tam Hoàng. Hà Thượng Công nói: "Đời của Đại đạo lấy vô vi dưỡng thần, dùng vô sự an dân, nghĩa là không chỗ thi vi, không điều tạo tác, mặt nhật xã hội mà nổi, mặt nhật ẩn lặng mà dừng, gọi là Đại đạo, không riêng Thiên Tôn ở trên trời. Ở đây, nói đạo là đạo lý, khí của thuần hòa cũng không có hình tướng. Lại nữa, Cát Tiên Công nói: "Thầy ta vốn dòng họ Ba Duyệt Tông, tên tự là Duy-ma-la, người xứ Tây Vức", tức cũng chẳng nói Thiên Tôn là thầy của mình vậy.
Nho sinh hỏi: Đạo lấy tự nhiên làm tông, hư vô làm gốc. Đó nói chẳng phải một. Như kinh Thái Thượng Huyền diệu nói: "Đạo nghĩa là tự nhiên, là chân của đạo vậy". Vô vi là cực của đạo. Hư vô là tôn của đức, chẳng thấy chẳng nghe mà bao gồm cao huyền ấy. Không tâm không ý, như cây mọc rễ, tinh tụ hóa làm thân đó. Lại nữa, kinh Thăng Huyền Nội Giáo nói: "Thái Cực Chân Nhân hỏi Đại đạo lấy gì làm thân, sánh ở nơi nào mà gọi tên là đạo? Đáp rằng: Phàm, đạo huyền diệu, vượt ngoài tự nhiên, sinh nơi vô sinh, trước ở không gì trước". Lại nữa, Linh Bảo Tự Nhiên Kinh Quyết nói: "Thái Thượng Huyền Nhất Chân Nhân nói: Thái Thượng Vô Cực, Đại Đạo Vô Thượng, Chí Chân Huyền ở nơi hư vô, không hình, tự nhiên cùng cực trên hư vô. Trên không còn có trời, dưới không còn có đất, nên nói là Vô thượng chí chân đại đạo, tuy hư vô mà hay sinh một, là gốc của vạn vật vậy".
Người thông bác hỏi: Đạo hay sinh một, vậy ai sinh đạo? Nếu đạo không từ đâu sinh, thì đạo cũng không sinh được một. Nếu đạo chẳng từ đâu khác sinh, thì một cũng đã chẳng thể tự sinh, đạo cũng chẳng thể tự sinh. Nếu đạo tự sinh đạo, thì đạo cũng tự pháp đạo. Cớ sao Lão Tử nói: "Nhân pháp Địa, địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên?" Đã đạo chẳng tự pháp mà pháp tự nhiên, cũng có thể đạo chẳng tự sinh, mà từ tự nhiên sinh. Nếu đạo chẳng từ tự nhiên sinh thì một cũng chẳng từ đạo sinh. Lại nữa, một chẳng kịp đạo, từ đạo sinh, cũng có thể đạo chẳng kịp tự nhiên, từ tự nhiên sinh. Một từ đạo sinh, đạo được xưng đại. Đạo từ tự nhiên sinh, cũng có thể tự nhiên xưng đại, đạo chẳng được xưng đại. Nếu chẳng xưng đại thì nên nói là tiểu đạo. Nếu đạo trông vọng tự nhiên tức đạo pháp tự nhiên. Tự nhiên tức là gốc đạo. Đã gốc của đạo ở tự nhiên, tức tự nhiên là thường, đạo chẳng được là thường.
Nay đạo đã xưng là thường, tự nhiên cũng thường. Cũng có thể đạo pháp tự nhiên, tự nhiên cũng nên pháp đạo. Nếu tự nhiên là gốc, đạo chẳng được là gốc, tự nhiên là thường đạo chẳng được là thường. Nếu cả hai cái đều là thường, thì hai cái cũng đều cùng pháp. Nếu trong đó một pháp và một không pháp, thì cũng là một thường và một không thường. Nếu nói đều thường tức đều tự nhiên. Đã có tự nhiên và chẳng tự nhiên, tức cũng có thường và có không thường. Nếu tự nhiên là gốc, đạo là dấu vết, mà gốc và dấu vết đều xưng là thường, thì cũng có thể đạo là gốc, thiên là dấu vết, thiên và đạo đều không thường. Nay lấy đạo làm gốc, đối với thiên là dấu vết, đạo là thường, thiên là không thường, thì cũng có thể tự nhiên đối với đạo là dấu vết, đạo là không thường mà tự nhiên là thường. Nếu đạo tức là tự nhiên thì thiên cũng tức là đạo. Nếu thiên là thể, chẳng phải đạo là thể, tức một thường và một không thường. Nay cũng có thể đạo là thể, tức tự nhiên cũng là thể, đồng thể cũng đồng thường. Nay đạo pháp tự nhiên, làm sao được đồng thể? Đã đạo pháp tự nhiên, chẳng pháp lại phải tự nhiên là thường, đạo là không thường. Nếu có thường khác với không thường, có thể được không thường, chẳng phải có thường, không thường khác với thường, sao được khiến thường khác với không thường? Do không thường có thường, có thường nên không thường, thường pháp còn không có, sao có được không thường? Nếu lìa thường có không thường, nhân các thường khác có thường, cũng lìa thường không có thường, cho nên biết không thường. Thường pháp đã không có, làm sao có không thường đạo? Nếu xưng thường, bèn là đầu của các kiến, như đó xưng Đại, bèn bị bó buộc ở trong vức, chim chuột hai mối làm sao tự ra? Giả sử có Đạo nhân thuộc mà thành tiên, nên Viên Hoằng Hậu Hán Kỷ Giao Tự Chí nói: "Đạo gia lưu xuất từ Lão Tử, lấy thanh hư đạm bạc làm chủ, mở mang hiền thiện, ghét bỏ xấu ác làm giáo. Họa phước báo ứng tại trong một đời, dưỡng nuôi vợ con, sử dụng phù thư, tu hành đó chẳng thôi, được đến Thần tiên vậy".
Người thông bác lại bảo: Tìm xét Lão Quân ở đời chưa bỏ tục trần, hình nghi dung mạo phục chương cũng không đổi khác, chẳng lập Quán vũ, không nhận môn đồ, giữ chức quan nhỏ Trụ Hạ, ẩn đức làm vua mà dưỡng tánh, hòa quang ấy mà lánh ngoại hoạn, đồng sự đó để nhiếp nội sinh. Kẻ ngu trông thấy đó thì cho đó là ngu, người trí trông thấy đó thì cho là trí. Nếu chẳng phải Lỗ Tư Khấu thì không thể biết vậy. Nay các Đạo sĩ không tuân theo pháp ấy, trái lại đồng Trương Võ khinh mạn thực hành chương cú, cẩu thả cầu lợi nhà mong được dưỡng thân, bỏ năm ngàn (5.000) Diệu môn, thực hành uế thuật của Tam Trương. Như Đạo sĩ Đào Ẩn Cư ở Mâu sơn soạn Chủng Tiếu Nghi mười quyển. Từ trời, đất, núi, sông, muôn sao, non, ngòi, cho đến an trạch, tạ mộ, kêu gọi hồn thần, bày biện Tiếu pháp, sắp đặt các thứ trân kỳ, rộng trải lụa tơ, phần nhiều dùng nấu nướng nem thịt cá nai, bánh ngọt vàng trắng, rượu trong quả tạp, muối đậu dầu gạo v.v... Trước tấu chương, thỉnh gọi tướng quân binh lại. Các Đạo sĩ v.v... đều chắp tay phản, hướng đến thần mà xưng bề tôi, cúi đầu kính bái, cầu ân xin phước, cùng đồng như thế tục.
Đã chẳng phải xuất gia, đều tạo nghiệp tà, nhưng Tử vi, Thái vi, Tiểu vi v.v... đều gọi là Thiên Hoàng Tam Quan. Căn cứ các bậc Tiên nho từ xưa trước đến nay nói: "Thiên Hoàng Đại Đế là Tử Vi
Tôn Thần, một tên khác là Diệu Hồn Bảo, tức là trời Trung ương vậy". Có nghĩa là, đó là Bắc cực, tại trong câu trần, làm chủ của trời, chỗ tôn quý của các sao. Bên tả có Thần Thiên Nhất, bên hữu có Thần Thái Nhất, làm tướng tả hữu, như tả hữu Thừa tướng nay vậy. Chủ thừa sự Thiên Hoàng, nhân mạng hệ thuộc, tôn quý của trong tôn quý. Theo Thượng Thư Chu Lễ, nước nhà tự có pháp tế đều là chỗ thân gần kính thờ của Thiên tử. Hiếu Kinh nói: "Chu Công có tâm hiếu kính mới tông tế văn chương ở Minh Đường để phối cùng Thượng đế, giao tế Hậu lăng để phối với trời". Trời nghĩa là trời ở năm phương, Đế nghĩa là Hạo Thiên Thượng đế. Đem cha mẹ phối tế ở Minh Đường và Viên Khâu Nam Giao v.v... vốn chẳng phải Thần của Đạo gia, cũng chẳng phải pháp sở hành của Đạo sĩ, cớ sao ngày nay mới dùng Đạo sĩ tiếu tế? Rất trái với lễ giáo, rất sợ Thiên thần không nhận phi lễ.
Từ cuối thời nhà Hán, Trương Lăng dùng quỷ đạo hành hóa, bèn có Đạo sĩ tiếu tế, mãi đến thời nhà Lương nhà Trần bèn hưng thạnh nơi đời. Pháp thô dễ nhiễm, tập tục xem thường. Ngụy lạm trong thiên hạ, không gì hơn như vậy. Y theo Chu Lễ và giao đặc sinh v.v... nước nhà cúng tế trời, tự có nghi thức. Tiếu là một tên khác trong cúng tế, Tận trước gọi là tiếu. Xét trong ba sử chín dòng cũng không có nói Đạo sĩ vì nước nhà đảo trừ tai ương, tấu chương hình tiếu vậy. Xưa kia, Võ Vương mắc bệnh rất nặng, Chu Công cầu xin mạng, đặt đàn thiết tế cầu đảo trên trời, chẳng nói cáo xin đạo thần, nên gọi Đạo sĩ. Nếu Thần đạo ở trên trời, các Thánh đều tôn quý, mọi sự thọ yểu tốt xấu đều do đó quyết đoán. Chu Công hành tế chẳng dám trước đó. (Thượng Thư Kim Đáng Thiên nói: Võ Đế bệnh nặng, Chu Công thiết lập ba đàn. Nhân Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương cầu xin mạng ở trời. Nói Công Đán có nhiều tài nhiều nghề, hay phụng sự quỷ thần, nói Võ Vương chẳng phụng sự quỷ thần, nếu không cứu sợ sẽ bị đọa. Thiên Bảo sai Chu Công trở về mới làm nội san đặt để trong hộp vàng niêm phong lại. Ngày hôm sau Võ Vương mới lành bệnh. Nếu đạo hẳn tôn quý sở thuộc mạng người, Chu Công đâu dám chẳng cầu xin trước, nhỏ nhiệm mà suy xét, hư dối có thể biết vậy). Nếu nói có, sao sách chẳng biên ghi? Lão Tử nói: "Mắc tội đối với trời, chẳng nói mắc tội đối với đạo". Căn cứ lời tựa kinh Ngũ Thiên Văn Giải Tiết Trung nói: "Lệnh Hỷ bỏ ăn gạo cơm, chỉ dùng cháo ba ngày một bữa, dùng dâng chín ngàn (9.000) vàng tiền, uống huyết ngựa bạch". Quân tử nói: "Lão đã là từ nhân, chẳng nên giết ngựa làm thề. Đạo xưng không tham muốn, sao lại tham tiền mà nói kinh?" Trong đó, thứ nhất nói Nê Hoàng phủ giải đạo có thể nói, danh có thể gọi, mẹ muôn vật, có tham muốn thì ngăn che, không tham muốn thì huyền diệu. Đồng sinh ra mà khác tên, sâu thẳm tợ như tông của muôn vật. Và thứ sáu nói phủ giải của người cốc thần huyền tẩn, trời đất căn rễ dài sâu như còn v.v... Đạo nghĩa là Nê Hoàn. Quân danh có nghĩa là Tỳ, mẹ nghĩa là Đan Điền. Nê Hoàn nghĩa Thiên Đức, tức là chỗ trị của thần ấy ở trong đầu người. Mỗi năm có năm lần lại xuống, xuống tới Đan Điền. Lão Vị Duẫn nói: "Tỳ là Trung Hoàng Nhất, Hoàng Khí bồi hồi trị ở Trung cung, Hoàng thần dài một thước, đội mặt nhật đeo mặt nguyệt gọi tên là Kim đăng chủ, thường uống cam lồ, ăn nem thịt cừ hư. Thần Thái Bạch ấy chủ ở nhật nguyệt, năm thứ ánh sáng che phủ đó, Thái Nhất phong bít đó. Thanh long đội đó, Chu tước... đó. Bên trong có Thần nhất, không thể chẳng nghĩ". Lại nữa, Đan Điền nghĩa là Huyền Tẩn, tức dính xương sống, trị Hạ nguyên, bên trong có Thần khí tên là Tiểu Đổng Tử, Hành nhất lại xuống đến Đan Điền, rưới trên lỗ mũi vào Nê Hoàn. Diệu đó nghĩa là hư vô, ngăn che đó nghĩa là Đan Điền. Tên khác nghĩa là các tinh. Tên khác ấy gồm có sáu: Một là Tinh, hai là Niệu (nước tiểu), ba là Hãn (mồ hôi), bốn là Huyết, năm là giải, sáu là đàm, nên gọi là tên khác. Huyền đó lại huyền, nghĩa là hai mắt ở trái phải. Cửa của các diệu, nghĩa là người chết không hơi khí, hơi khí chấm dứt ở miệng, đạo xung mà dùng đó. Xung nghĩa là một, đạo một thân thường xung hành đó chẳng đầy. Sâu thẳm nghĩa là miệng, miệng có ao hòa khạc đàm mà nuốt đó.
Nói Tân ước đầy trong miệng, một hàng xâm nhuần một trăm hai mươi phủ, miệng chẳng thể đầy như suối sâu. Tợ tông của một vật nghĩa là miệng uống ăn, muôn thần ở nơi miệng vậy. Cốc thần cũng có nghĩa là miệng. Thần vào miệng thì sinh người. Huyền tẩn nghĩa là mũi và miệng. Trời đất căn rễ nghĩa là mũi miệng làm cửa, thần khí ở trong đó vào ra làm căn sinh dưỡng. Mũi không nói năng, hơi khí ấy lâu dài cửa sổ trời dùng đó chẳng động vậy.
Phàm tám mươi mốt chương, tất cả đều lấy Tam nguyên giáp tý làm thứ đệ. Chỗ nêu rõ chỉ thú, đại khái khế hợp với Hoàng Đình, đều tại uống hơi khí dương và hành bí mật của phòng túc tinh. Đó là chỗ trọng của thế tục, chẳng phải chỗ tuân theo của đạo, chỉ là dối nói, chẳng phải hành thật vậy. Dùng đó để cầu tiên rất là xa rời, đâu có tham dục được trường sinh. Giả sử kéo dài tuổi thọ, thì cũng trọn làm gốc tội. (Hoàng Đình nói: "Trên có Hoàng đình, dưới có Khai nguyên, trước có Thuyết quan, sau có Mạng môn, hít thở ngoài thư thả ra vào đan điền". Xét người hay thực hành đó có thể được trường sinh, người trong Hoàng Đình mặc áo sắc đỏ, tướng trạng quan môn, chốt đóng hai cánh, thuyết quan cặp đó cao vời vợi. Trong đan điền tinh khí tinh vi, ao ngọc nước trong, phía trên sinh béo tốt, linh căn kiên cố, chí khí chẳng suy. Trong ao có kẻ sĩ mặc áo sắc đỏ, giăng lưới ba tấc là nơi thần ở, trong ngoài cùng cách nhau nhiều lớp bít đóng. Huyền ung khí quản nhận thọ tinh phù, gấp cố tứ tinh để tự giữ gìn. Trong vườn nhà có kẻ sĩ mặc xiêm y tơ lụa, ông có thể trông thấy đó và có thể không bệnh. Chỉ trong tấc vuông, cẩn mật che giấu, tinh thần trở về, già suy trở lại trẻ mạnh, khiến lý dài cả thước, đính ước ở trên đó, ông có thể giữ đó mà có thể không bệnh, hít thở ở khoảng thư thả để tự tưởng thưởng. Con của Xích thần đứng trong ao, phía dưới có thành dài, cốc ấp cao, trường sinh cốt yếu hổ giúp gấp trong phòng, thường còn vương phòng trông thấy rõ. Lúc niệm thái thương không đói khát, bít tròng mắt có thể sống lâu dài, Ngũ hành sâm sai đồng tiết, Tam ngũ hợp khí cốt yếu một gốc, ôm châu nhớ ngọc hòa nhà ông, Tiên nhân Đạo sĩ chẳng có Thần, chứa tinh đến rốt cùng chuyên hòa nhân, muốn nghĩa cùng được mở mạng môn, thường hay thực hành đó, có thể được trường sinh vậy).
Biện Đạo Luận của Trần Tư Vương nói: Phàm, sách của Thần tiên, lời của đạo gia, chỉ mới là truyền thuyết, trên có thần Vĩ túc Tuế tinh giáng, dưới làm đông phương sóc Hoài Nam vương, sao giết chết ở Hoài Nam mà cho đó là đắc đạo nhẹ bay? Câu Dặc chết ở Vân Dương mà cho đó là thây đi mất hòm trống không. Đó là hư vọng rất lắm ấy vậy. Kẻ sĩ dốc luận ở Trung Hưng có Hoàn Quân Sơn nổi tiếng là người trước thuật lắm nhiều hay khéo, có Lưu Tử Tuấn từng hỏi rằng: "Người thật có thể đè ép tham dục, đóng bít tai mắt, mà có thể chẳng suy kiệt chăng?" Khi ấy dưới sân có một cụ già, Hoàn Quân Sơn chỉ vào đó mà bảo rằng: "Cây ấy không tình dục có thể nhẫn chịu, không tai mắt có thể đóng bít, nhưng còn khô khan mục rã, mà Lưu Tử Tuấn mới nói có thể chẳng suy kiệt, chẳng phải đàm nói vậy". Hoàn Quân Sơn viện dẫn cụ già để dụ đó, chưa phải vậy. Cớ sao? Trước kia, tôi làm điển nhạc của Vương Bôn, Đại Phu Nhạc Ký nói: "Vua Văn Đế có được người hầu nhạc của Ngụy Văn tức là Đậu Công tuổi đã một trăm tám mươi, hai mắt đều mù, Văn Đế lấy làm kỳ lạ mà hỏi đó: "Làm sao mà thi hành?" Đậu Công đáp: "Năm mười ba tuổi, thần đã bị mù lòa, song thân buồn thương chẳng kịp phụng sự đó, chỉ dạy cho thần tập học trống đàn. Thần chẳng thể dẫn dắt, không biết sống thọ nhờ từ sức nào?" Hoàn Quân Sơn mới luận đó rằng: "Rất có thể bị mù từ nhỏ, chuyên một trông xem bên trong tinh tường, không ngoài soi xét đó hỗ giúp vậy".
Trước cật nạn Lưu Tử Tuấn cho là trông xem bên trong không lợi ích, lui sau luận về Đậu Công bèn cho là chẳng ngoài soi xét mà chứng minh đó. Tôi chưa thấy định luận ấy vậy. Hoàn Quân Sơn lại nói: "Phương sĩ có Đổng Trọng Quân có tội bị giam ngục, giả vờ chết vài ngày, tròng mắt vùi hõm, giòi trùng phát sinh, chết mà lại sống, nhưng sau trọn chết. Sống đó hẳn chết là chỗ đạt của quân tử, làm sao mà thí dụ ư?" Phàm, Chí Thần không vượt qua, trời đất chẳng thể khiến sâu trùng mùa hạ chết, sấm sét mùa đông phát sinh. Thời biến thì vật động, khí dời thì sự ứng, Đổng Trọng Quân kia mới có thể ẩn tàng hơi khí thây ấy, thể ấy thối rửa, da ấy sinh giòi trùng ấy, không là đại quái ư? Ở đời có phương sĩ, tôi làm vua hẳn chỗ chiêu vời đến. Cam Lăng có Cam Thủy, Lô Giang có Tả Từ, Dương Thành có Khích Kiệm. Cam Thủy hay hành khí dẫn dắt, Tả Từ hiểu thuật của Phòng Trung, Khích Kiệm khéo bỏ ăn, đều được gọi là ba trăm năm, cuối cùng nhóm tập đến ở đất Ngụy. Thật ngại sợ học trò của người ấy, cậy gian dối để khinh thường nhiều người, thực hành yêu mặc để dối hoặc nhân dân, nên nhóm tụ mà cấm đó vậy. Cam Thủy tuổi già mà có dung mạo trẻ khỏe, tự các Thuật sĩ đều cùng về nương, nhưng Cam Thủy chối từ nhiều ít, thật rất lạnh lùng có lời kỳ quái vậy. Nếu gặp Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Đế, lại có học trò của Từ Loan Đại vậy. Kiệt Trụ khác đi mà đồng hung ác, gian nhân khác thời đại mà ngang bằng hư ngụy, mới như vậy ư?
Lại, ở đời rỗng không, có thuyết của Tiên nhân, Tiên nhân là đồng đảng thuộc loại khỉ vượn, cùng người đời đắc đạo hóa làm Tiên nhân ư? Phàm, chim Trĩ vào biển hóa làm chim Cáp, chim Yến vào biển làm loài sò hến, phải bồi hồi đó, cánh đó sai ao, lông đó còn tự biết, bỗng nhiên tự ném Thần hóa thể biến, mới lại cùng ngao giải làm thành đàn, đâu lại tự biết liệng quanh rừng chầm, làm ổ trên tường nhà để tự vui ư? Mà đoái hoài làm chỗ mất của thất phu, nhận ngôn từ hư vọng, tin thuyết huyền hoặc, khai sáng lễ để chuốc lấy không kẻ bề tôi, dốc hết của cải để cúng Hư cầu, tán mất vương tước để vinh hạnh đó, làm sạch nhàn Quán để ở đó, trải qua nhiều năm tháng trọn không một ứng nghiệm gì. Hoặc chết mất nơi đồi cát, hoặc đổ ngã ở ngũ tạc. Đến lúc tuy lại giết thân ấy, diệt tộc ấy, rồi nát đủ làm trò cười cho thiên hạ vậy. Nhưng thọ mạng ngắn dài, cốt thể mạnh yếu, mỗi tự có người vậy. Kẻ khéo dưỡng thì trọn đó, kẻ nhọc nhiễu thì nửa chừng đó, kẻ hư dụng thì yểu mất đó. Nghĩa ấy như thế vậy, ông có thể rõ đó!
Nho sinh mừng vui không biết đối đáp như thế nào, im lặng giây lâu mới nói rằng: "Há như vậy ư? Há như vậy ư? Kẻ quê kệch tôi nghe hai chương đạo đức, nhiều đời tôn sùng kính ngưỡng, Hán Văn Ngụy Võ đều thân gần tư tu hành. Kinh Động Huyền nói: "Năm ngàn văn từ là đạo đức chân thật trong chân thật của Tổ tông, người trì tụng vạn biến thì thân bay được". Người học Tiên bàn nghị rằng: Ban trải mỹ phong vô vi của Lý Lão mà dân tự cảm hóa, giữ đạo ái kính của Khổng Khâu mà thiên hạ hiếu từ. Ông học ưu thắng, thấy biết rộng xa, biện giải như Huyền Hà, xin thuật điều nghe, dám đồng tối chết vậy!"
Người thông bác bảo: Học chẳng thầy xưa, không khác trọn đời. Các bậc hiền giả tài giỏi xưa trước, ai chẳng nhân từ thầy. Chỗ sùng kính của tôi, ở đời xưng gọi là Khai sĩ Tổng trì, hiện sinh nơi đời xấu ác năm trược, theo gót tứ y. Giả sử có người trong bụng sắp lá kỳ tài, nghe đó bèn tan mật gãy bén nhọn, kẻ hùng biện thấy đó liền ngậm môi. Với Nho gồm cả năm xe, với Phật đủ cả tám tạng, thư thả có đủ, hoàn hảo khả quan. Dệt vẽ lời lan, bẩm chất cốt trời, thần tình cơ cảnh do ở tự nhiên, tiếng tăm phát tỏa nơi Thượng kinh, nhã điều lưu tỏa ở nước dưới, ý muốn truyền đăng, tâm làm rường cột, nghiệp gởi vàng để thành, công hộ pháp xa lan tỏa, tiếng tốt vang động nơi muôn nước, ngọc cách thấm đượm ở sáu tối. Nhưng mà Tông Nguyên của dòng họ Lão, khắp chỗ nghiên cứu tường tận, xin vì ông vì tôi Hàm trượng luận đó.
Khi ấy, cả hai cùng đến Kỳ Viên đảnh lễ, Khai sĩ lui ngồi một mặt, tỏ bày điều nghĩ muốn. Khai sĩ mới vận tâm không thỉnh mời, buông biện tài vô ngại, trông nhìn đó mà bảo rằng: Tìm xét Thái Cổ vô vi, dân đó chất phác thuần tố, chưa sùng nhân nghĩa, chẳng chuộng oai nghi dung vẻ, y phục chẳng dùng ở sáu chương, ăn uống đâu điều bởi năm mùi vị. Từ đời vận suy đổi thay, thời tiết lưu động, dòng thuần một lần biến, tràn sóng nỗi bốn bên, đã mất then chốt nơi buộc dây, nhân lấy Thư Khế để soi chiếu thế tục, tám sách nhân đó để làm, chín khâu do đó mà khởi. Đến lúc Hiên Viên lên chấp chính, thuần phong bèn ẩn, rất tranh đua danh sắc, kiêm ham thích săn bắn chài lưới. Bèn cảm bậc ẩn cư dung hợp thành thuyết năm ngàn văn từ, nói rõ thuần thục của đạo đức, tường tự phép trị của vô vi, muốn trở lại nguồn, phản chất phác ôm một giữ mái ấy vậy, nên nói rằng: Năm sắc khiến mắt người mù, năm âm thanh khiến tai người điếc, năm mù vì khiến miệng người sai, rong ruổi săn bắn khiến tâm người phát cuồng, làm sao chúa của muôn thừa mà dùng thân nhẹ nói thiên hạ? Khinh thì mất bề tôi, tháo thì mất Quân vương. Người khéo hành không dấu vết, người khéo nói không vết trích, người khéo tính chẳng dùng trù thẻ, người khéo đóng bít, không then chốt, người khéo buộc không dây đính ước, bỏ Thậm, bỏ Xa gọi là Thái (Thậm nghĩa là tham dâm thanh sắc, Xa nghĩa là phục sức ăn uống. Thái nghĩa là cung thất đài tạ. Nói ba thứ ấy là chỗ phải bỏ, trung hòa thực hành vô vi thì thiên hạ tự hóa vậy).
Quả mà chớ căng, quả mà chớ chặt, quả mà chớ kiêu, quả mà chớ cưỡng ấy vậy. Xét biết sở dĩ như vậy, chỉ là cấm kính ngưỡng vật tình gần vì đời dạy răn, chưa thể đoạn gốc phiền não, tuyệt căn sinh tử, tìm vế thời của Hoàng đế, rủ áo xiêm, tạo dựng cung thất, chuộng thanh chuộng sắc, dùng săn bắn dùng chài lưới. Chúa người xa xỉ, hạ dân khổ nhọc, dung thành nhân thời ấy nên thuật cốt yếu đó vậy. Tuy nói không đồng hỏi đạo, nào từng cởi giày ở Đảnh hồ, nhẹ nâng tranh luận chôn ở Kiều sơn, đến như yên xứ siêu nhiên, chưa nghe thuyết ấy.
Nho sinh nói: Phàm năm ngàn văn từ, tham tầm sâu mầu của đạo đức, thuận theo xưa trước, trở lại thuần phác, cuối cùng đạt đến thái hòa. Quý hư tịch để giữ chân, chống chí ngôn để sùng gốc, văn ấy khôi phục rỗng thoáng để rộng xa, giáo đó đạm bạc vì mềm yếu, bỏ lìa danh lợi mà ẩn lắng đời. Thánh trí để lại tâm mà thành công chẳng ở nơi chính mình mà nghiên tầm sâu xa của muôn vật, tình còn nơi phong của Thánh nhân. Do đó, Ban Cố, Dương Hùng còn chẳng mắng hủy con cả, hoặc dùng trước ở sáu kinh, trùm ở đầu Nho, Thúc bì, Quân sơn; hoặc dùng ngôn ước đổi giữ, dùng quá nho thuật. Bởi biết có của ngôn ngữ, biết tinh vi của đạo, có thể vì trăm vua chẳng tước bỏ đó để răn, mà khai sĩ ép là đời dạy răn, đồng như tục điển, như vậy có thể được ư?
Bậc khai sĩ đáp: Người trí lớn quanh co nơi núi vút, kẻ khí nhỏ bồng bay mà bèo nổi. Tôi nghe là có thể làm, ở đời có thể làm thì thiên hạ đồng làm phải vì có thể làm vậy. Nay lấy làm rõ có thể làm lấy chẳng làm để chỉ bày ông vậy. Phàm, năm sắc khiến mù lòa, nghĩa là tham dâm, háo sắc, tổn thương tinh, mất tỏ sáng vậy. Há chẳng phải như chỗ Kinh Tịnh Danh nói: "Thấy sắc cùng mù ngang bằng ấy ư?" Năm thứ âm thanh khiến điếc, nghĩa là đam mê dâm thanh thì tổn hòa khí tâm, chẳng thể nghe nhạc không tiếng vậy. Năm thứ mùi vị khiến sai, nghĩa là người tham năm thứ mùi vị thì lưỡi tổn hại mà nhàm chán sống, đâu chẳng phải chỗ Tịnh Danh nói ăn dùng mùi vị không phân biệt ư? Chẳng quý của khó được đó thì dứt trộm cướp, há chẳng phải Quán vô thường ư? Chẳng thấy có thể tham muốn thì tự tỉnh lắng, đâu chẳng phải tỉnh lắng vậy, chẳng phải Quán thân bất tịnh ư? Bỏ phiền não khiến tâm trống rỗng, mến ái tinh huyết khiến cốt cứng mạnh, thì có tâm có thể trống hư, có cốt có thể cứng, khí tam hình khô, chẳng phải tâm hư trống vậy. Thần rời bỏ đi thể rả mục chẳng phải cốt cứng vậy. Bẻ bé nhọn ấy gạt dứt tư tưởng vậy, mở rối ren ấy chẳng đấu loạn vậy. Chỉ là đè ép thông minh đó, dứt rối ren đua tranh đó, thanh kiệm tự giữ, chẳng cùng vật ghét ganh. Bởi vì nhất chí của kẻ sĩ, chẳng phải độ lớn của người thông rành, hòa cùng ánh sáng ấy chẳng loạn người vậy, đồng chung cảnh trần đó chẳng tự riêng biệt vậy. Ngay phải dương sóng quậy bùn sình để lánh hoạn, chưa thể lợi ích đồng sự, để giáo hóa chúng sinh, mới là có làm việc và có việc, chẳng phải là không làm việc. Vì mình mà hòa, chẳng biết nguyên do của vật tự hòa thì hòa chỗ chẳng thể hòa, giữa khoảng quanh co hình hài, nơi cảnh phân biệt sấp ngửa, lệ có thể biết vậy.
Nho sinh nói: Nhan Quang Lục nói: Đạo lưu xuất từ Tiên pháp, Phật vốn ở Thần giáo. Đạo ấy hẳn đến chỗ sâu rộng, bay linh tinh đan thạch liệp chi tinh, do đó, trở lại tuổi bỏ già, kéo dài hoa dừng thể vậy. Phật ấy hẳn giả từ thân thích, ngụ nhân thân tánh, bắt chước Tịnh giác, tin duyên mạng, trái lại một không sinh, khắc thành Thánh nghiệp, trí xa sáng lớn, chí cặp nhiều kiếp, tuy khác đường mà đồng kết quy, cũng nào khác mà riêng sang ư? Vừa rồi nghe khác lạ đó, chưa biết do vì sao khác, xin nên chỉ bày môn ấy, mong đồng trở về vậy?
Bậc khai sĩ dẫn dụ rằng: Dòng họ Nhan biết một nhà không biết hai Phàm, Thể của Đạo là vô danh vô vi, Thủy (đầu tiên) của đất trời, càn khôn vốn có chất có vi. Mẫu (mẹ) của muôn vật đó thì đạo chẳng vượt ngoài Thủy. Không vật mà chất đến nay có, bèn là vốn không mà nay có, đã có trở lại không, hạn cuộc giữa khoảng có và không, sinh thành trong thủy và mẫu vậy. Tôi xin nói về đó là: Vì là Chân đế nên không, là vô vi thủy của đất trời; Vì Thế Đế nên có, là hữu vi mẫu của muôn vật. Mẫu hay sinh vậy, thủy là gốc nên là chân đế. Thế đế nói có, chẳng phải không mà có. Chân đế nói không, chẳng phải có mà không. Chẳng phải không mà có, chẳng có có vậy. Chẳng phải có mà không, chẳng không không vậy. Chẳng phải không mà có, thường thấy tự tiêu; chẳng phải có mà không, đoạn kiến bèn dứt. Chẳng có có là chẳng phải có chẳng phải không có. Chẳng không không là chẳng phải không chẳng phải không không. Nói có đó là nói chẳng phải là có; đã có chẳng có nghĩa là chẳng phải có. Phải vì người chấp mất đó, người lại bại đó ấy vậy. Ông biết làm khác của khác, chưa biết nguyên do khác của khác. Chưa biết nguyên do khác của khác, sao biết nguyên do khác của đồng khác? Chưa biết nguyên do của đồng khác, sao biết nguyên do khác của khác khác? Chưa biết nguyên do của đồng khác, sao biết nguyên do khác của khác khác? Chưa biết nguyên do khác của khác khác, sao biết nguyên do khác của đồng đồng? Chưa biết nguyên do khác của đồng đồng, sao biết nguyên do khác của chẳng phải đồng chẳng phải khác? Chưa biết nguyên do khác của chẳng phải đồng chẳng phải khác, sao biết nguyên do khác của chẳng phải chẳng đồng chẳng phải chẳng khác? Chưa biết nguyên do khác của chẳng phải chẳng đồng chẳng phải chẳng khác, sao biết nguyên do của chẳng phải chẳng không đồng chẳng phải chẳng không khác? Chưa biết nguyên do khác của chẳng phải chẳng không đồng chẳng phải chẳng không khác, sao biết nguyên do khác của khác đồng đồng khác không khác ư? Do đó, Đức Như Lai giảng nói pháp thường theo Nhị đế, khởi từ bi để cứu vật, hành hỷ xả để độ người, vô niệm mà thành tựu chúng sinh, chẳng động mà thanh tịnh cõi Phật. Tuy có thi vi mà không chỗ làm, ông nên rõ đó vậy, chớ tự sai nhầm.
Nho sinh hỏi: Mới đầu nêu bày Tam giáo, mỗi tự tỏ rõ xinh tốt, sau đem Đạo giáo phán vào dòng Nho, bỏ chánh ngôn của Thái sử, theo lời quanh co của Ban sinh. Quân tử không bè đảng, sao như vậy ư?
Bậc khai sĩ dẫn dụ rằng: Kẻ tiểu nhân bè đảng với thân, người quân tử bè đảng với lý. Nếu lý phù hợp mà sự thuận đồng thì nào có gì đáng thẹn lạnh lùng ư? Tôi nghe pháp thế gian có chữ mà không nghĩa, pháp xuất thế gian có chữ có nghĩa. Cớ sao? Vì pháp thế gian bềnh bồng hư ngụy, dụ như sữa lừa. Còn pháp xuất thế gian chân thật, dụ như sữa bò. Nhưng mà sữa lừa làm chẳng thể thành tô, giả sử cưỡng ép làm đó rồi trở lại tức thành nước tiểu. Sở dĩ như vậy là vì Thế phần tuyệt hết vậy. Còn sữa bò làm ra được tô lạc, cho đến thành đề hồ, càng dồi làm càng sạch sẽ, chỉ còn lại mùi vị thơm ngon, năm thứ đầy đủ, tám mùi vị ngọt đượm. Kinh Phật giảng nói, dẫn lấy đó để thí dụ. Khảo xét Sử ký trước Hoàng Lão, sau sáu kinh; Hán Thư trước sáu kinh sau Hoàng Lão. Thấy đó mới khác, căn cứ lý chẳng khác, mối đều theo chỗ ưa thích, chẳng phải luận hết lời ấy vậy. Vả lại, Ban Cố nói: "Dịch có sáu mươi bốn quẻ, Đạo chỉ đáng khiêm dường một quẻ". Nghệ Văn Chí phán xếp sắp đặt chung có chín dòng mà Đạo giáo chỉ đưa vào một dòng. Khổng An Quốc nói: "Sở hành của Tam Hoàng, gọi đó là Đại đạo; sở hành của Ngũ đệ, gọi đó là Thường đạo", chẳng nói riêng lại có đạo khiến người kính phụng đó. Nay vì khuyên ông, không thể tùy theo ức đoán của mình, khéo tự tìm cầu lẽ thật ấy vậy.
Nho sinh hỏi: Tín tâm dần phát, tà chấp hơi xoay, các bậc Quân Vương ở đất Hán kính phụng Phật chí tín, lâu mà càng dốc lòng, làm phước có chứng nghiệm, nay có thể được nghe chăng?
Bậc khai sĩ dẫn dụ rằng: Từ khi Hạng Nhật giáng linh, Tôn giả Ca-diếp Ma-đằng vào đất Lạc dương, những người kính phụng Phật pháp, tâm ý quy hướng không thể nói hết. Nay tôi sẽ vì ông mà lược nêu bày các bậc Quân vương, tam công, tể phụ, thông nho bác thức kính tin Phật pháp để nói cùng ông.
Vua Thế Tổ Võ Hoàng Đế (Tư Mã Viêm 265290) thời Tây Tấn (là bậc Long nhan kỳ vĩ, thạnh minh thay đổi vận, hoằng dương Phật sự, rộng tạo dựng nhiều ngôi già lam).
Vua Huệ Đế (Tư Mã Trung 250-307) thời Tây Tấn (là người quy tâm với Diệu Đạo, ý hợp với Huyền Tông, mới đến các Hạ tạo dựng chùa Hưng Thánh, cúng dường trăm vị Tăng).
Vua Mẫn Đế (Tư Mã Nghiệp 313-317) thời Tây Tấn (là người dốc ý minh cảm, xa giáng thần nghi, bèn đến Trường an, tạo dựng chùa Thông Linh và chùa Bạch Mã).
Như trên, ở thời Tây Tấn, tại kinh đô Lạc dương và Trường an, có cả thảy một trăm tám mươi ngôi chùa, có mười ba người phiên dịch kinh được bảy mươi bộ, Tăng Ni có hơn ba ngàn bảy trăm (3.700) vị.
Vua Trung Tông Nguyên Hoàng đế (Tư Mã Duệ 317-323) thời Đông Tấn (là người Văn quỷ đại đồng, Trung hưng tại Giang tả, tạo chùa Ngõa Quan và chùa Long Cung, độ hơn ngàn vị tăng ở Đan dương và Kiến nghiệp).
Vua Túc Tông Minh Hoàng đế (Tư Mã Thiệu 323-326) thời Đông Tấn (là người Thông thánh soi xét cao, thiết trai tạo phước, tạo dựng chùa Hoàng Hưng và chùa Đạo Tràng, nhóm tụ trăm vị Tăng nghĩa học danh xưng).
Vua Hiển Tông Thành Hoàng đế (Tư Mã Diễn 326-343) thời Đông Tấn (là người chí ý minh thông, thánh đức xa cảm, tạo dựng chùa Trung Hưng và chùa Lộc Dã, nhóm tập ngàn vị Tăng nghĩa học phiên dịch kinh).
Vua Hiếu Ai Hoàng đế (Tư Mã Phi 362-366) thời Đông Tấn (là người xa hỏi thị thần, xoay tâm với diệu lý, mừng tiếp thật đãi, mở lớn Long Quang).
Vua Thái Tông Giản Văn Hoàng đế (Tư Mã Dục) thời Đông Tấn (là người nhân thứ ôn hợp, làm Thánh khâm minh, tạo tượng thiết trai, độ Tăng dựng chùa, đến nơi tháp cổ ở Trường can, tạo lập ngôi Phù Đồ bằng gỗ rất mực tráng lệ kỳ vĩ).
Vua Liệt Tông Hiếu Võ Đế (Tư Mã Xương Minh 373-397) thời Đông Tấn (là người với tâm tinh tấn kính phụng pháp, chí niệm thầm phù hợp. Vua nước Sư Tử khâm trọng sự mến mộ đạo ấy, nên sai Sa-môn Đàm-ma-toát từ xa mang tượng ngọc đến tặng để biểu lộ tình son sắc, thỉnh mời các danh Tăng giải nghĩa, tạo dựng chùa Hoàng Thái, bèn bỏ phủ đệ xưa cũ để làm chùa Bản Khởi).
Vua An đế (Tư Mã Đức Tông 397-419) thời Đông Tấn (là người dốc tin không biếng lười, nguyện khơi dậy Hoàng nghiệp, đến nơi tháp vua A-dục, tạo dựng chùa Đại Thạch).
Như trên, ở thời Đông Tấn với thời gian một trăm lẻ bốn năm (317-420), tạo dựng cả thảy một ngàn bảy trăm sáu mươi tám (1.768) ngôi chùa, có hai mươi bảy người phiên dịch kinh được hai trăm sáu mươi ba bộ. Tăng Ni có hai mươi bốn ngàn (24.000) vị.
Vua Cao Tổ Võ Hoàng đế (Lưu Tục 420-423) thời Tiền Tống (là người khai mở thánh nghiệp tạo lập đầu tiên, xoay trở lại thuần phác, miệng chuyên trì tụng Phạm bản, tay biên tả giới kinh. Tạo dựng chùa Linh Căn và chùa Pháp Vương, nhóm tập và cúng dường Hiền thánh, theo học khắp ngàn vị tăng).
Vua Thái Tông Minh Hoàng đế (Lưu Úc 465473) thời Tiền Tống (là người chí trị khắc minh, miệng trì tụng kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tạo bốn tôn tượng bằng vàng đồng cao trượng tám nhưng đúc không thành, sửa đổi lại còn một trượng bốn, tức liền viên mãn trang nghiêm thành tựu; cho họa bức tranh cao trượng tám, sáng sớm thọ thực giải trai, bèn cảm có được xá-lợi, tạo dựng chùa Hoằng Phổ Trung để thỉnh mời các bậc danh tăng).
Vua Thái Tổ Văn Hoàng đế (Lưu Nghĩa Long 424-454) thời Tiền Tống (là người kính phụng trai giới, không giết hại, tâm tinh thuần kính mộ đạo, lấy chân tế làm gốc, lấy giới Phật làm tông. Ngồi hưởng đến thái bình, thỏa đáng như Thánh chỉ, khâm trọng kính ngưỡng Sa-môn Cầu-na-bạt-ma, chuyên việc hưng thạnh đại pháp. Tạo chùa Thiền Linh, thường cúng dường ngàn vị Tăng).
Như trên, ở thời Tiền Tống, xây dựng cả thảy một ngàn chín trăm mười ba ngôi chùa, có hai mươi ba vị phiên dịch kinh được hai trăm mười bộ. Phật giáo hưng thạnh, dốc tín càng nhiều, Tăng Ni có ba mươi sáu ngàn (36.000) vị.
Vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế (Tiêu Đạo Thành 479-483) thời Nam Tề (là người tự tay biên tả kinh Pháp Hoa, miệng đọc tụng kinh Bát-nhã. Cứ đến ngày mồng tám tháng tư thường chú đúc tôn tượng Phật bằng vàng; ngày Rằm tháng bảy, khắp các chùa đều dâng bồn cúng dường ba trăm vị danh tăng. Xây dựng chùa Trắc Dĩ và chùa Chánh Quán).
Vua Thế Tổ Võ Hoàng đế (Tiêu Trách 483-494) thời Nam Tề (là người tạo dựng chùa Chiêu Hiền và chùa Du Huyền, nhóm tập ba trăm vị danh tăng nghĩa học phiên dịch kinh điển, Tam giáo cách lượng cứ bốn năm khảo xét một lần).
Vua Cao Tông Minh Hoàng đế (Túc Loan 494499) thời Nam Tề (là người biên tả hết thảy kinh, chú tạo ngàn tôn tượng bằng vàng, miệng đọc tụng kinh Bát-nhã, thường trì tụng kinh Pháp Hoa. Tạo dựng chùa Quy Y, thỉnh mời chư Tăng hành tập thiền, tự thân vua thọ trì sáu ngày trai, chuyên tu pháp Thập thiện).
Như trên, ở thời Nam Tề, tạo dựng cả thảy hai ngàn không trăm mười lăm (2.015) ngôi chùa. Có mười sáu vị phiên dịch kinh điển được bảy mươi hai bộ. Tăng Ni có ba mươi hai ngàn năm trăm (32.500) vị.
Vua Cao Tổ Võ Hoàng đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương (là người tánh độ rộng lớn, phong thái sáng rỡ nổi trội, gá tâm nơi thất giác, luyện ý tư ở Bát thiền, chế tác Ngũ Thời Luận, đọc tụng bốn bộ Phương Đẳng. Tạo dựng năm ngôi chùa, như chùa Quang Trạch, Đồng Thái v.v... Nhóm tập ngàn vị tăng đến điện Trùng Vân để giảng pháp, khắp trong nước nhà đều thọ trì sáu ngày trai, cả triệu dân chúng đều thọ tám giới).
Vua Thái Tông Giản Văn Hoàng đế (Tiêu Cương 550-551) thời Nam Lương (là người có dáng dấp cao sáng, phong thần vượt xa, dốc lòng với diệu pháp. Đọc xem khắp Huyền Chương, tạo dựng chùa Tư Kính và chùa Báo Ân, chích máu để tự biên chép mười bộ kinh Bát-nhã. Ngày giỗ của Thái Hậu không ăn mà thiết trai cúng dường. Soạn thuật Pháp Tập Ký hơn hai trăm quyển, Pháp Bảo Liên có bốn trăm chương).
Vua Trung Tông Hiếu Nguyên Hoàng đế (552555) thời Nam Lương (là bậc thể thánh đa năng, vào vi linh ngộ, tạo chùa Thiên Cư và chùa Thiên Cung. Nhóm tập ngàn vị Tăng cao danh cao hạnh, tự giảng kinh Pháp Hoa, thường giải luận Thành Thật).
Như trên, ở thời Nam Lương, tạo dựng được hai ngàn tám trăm bốn mươi sáu (2.846) ngôi chùa, có bốn mươi hai vị phiên dịch kinh điển được hai trăm ba mươi tám bộ, Tăng Ni có hơn tám mươi hai ngàn bảy trăm vị (82.700) vị.
Vua Hiếu Tuyên Hoàng đế (Tiêu Sát 557-562) thời Hậu Lương.
Vua Hiếu Minh Hoàng đế (Tiêu Quy 562-586) thời Hậu Lương (là bậc văn minh trị vì, trùng hưng Đại bảo. Ở thời Hậu Lương, xả tắc tỏa rạng khắp cả muôn dân. Ở Kinh Châu tạo dựng các ngôi chùa Thiên Hoàng, Trắc Dĩ, Đại Minh, Bảo Quang, Tứ Vọng v.v...).
Như trên, hai vua ở thời Hậu Lương trị vì tại Giang Lăng suốt ba mươi lăm năm (chỉ ba mươi năm: 557-587). Tạo dựng được một trăm lẻ tám ngôi chùa, ở núi có các chùa như: Thanh Khê, Lộc Khê, Phúc Thuyền, Long Sơn, Phi Sơn v.v... đều là Phật sự nghiêm lệ, Đường vũ điêu khắc kỳ lạ, người trông nhìn hẳn phát tâm, người được thấy quên trở về. Tăng Ni có ba ngàn hai trăm (3.200) vị.
Vua Cao Tổ Võ Hoàng đế (Trần Bá Tiêu 55756) thời nhà Trần. Là người Ứng lịch báu mà lên ngôi vua, đến với Hội Xương mà làm Ty mục, thân cao tám thước, râu dài ba thước, lông xoay cuộn phủ tai, tay dài quá gối, dùng sức đại nguyện mà an giúp quần sinh, dùng đại trang nghiêm mà cắt dứt lắm nạn, trọn lời bãi ấp, nghĩ báo ân đất, nguyện khiến mắng trách đều đồng mừng vui đó. Năm Vĩnh Định thứ hai (558) thời nhà Trần, ở Dương châu, tạo dựng chùa Đông An, lại vì nước nhà, giúp đỡ quần sinh. Tại ngay Dương Đô trị hạ, tạo dựng bốn ngôi chùa như Hưng Hoàng, Thiên Cư, v.v... đều là dấu cờ chạm cột đường vân sườn phán vách, ba thềm cấp chỉnh túc mà uyển chuyển, ngàn cột trụ sáng rực mà lung linh, dài bày sắp nơi lối thoáng, cửa cao gần đến đường rong. Tinh xá lời tốt chưa đâu ngang bằng. Đều nhân đức lành há có thể sánh ví! Biên tả hết thảy kinh có mười hai tạng, tạo một vạn tôn tượng bằng đồng vàng, độ bảy ngàn vị Tăng Ni, tu sửa ba mươi hai ngôi chùa cũ.
Vua Thế Tổ Văn Hoàng đế (Trần Xuyến 560566) thời nhà Trần, là người tiếp nối làm hưng thạnh Tam bảo, hoằng hóa Ngũ thừa, ân đượm lớn sánh như mây từ, ánh sáng tỏ so tợ tuệ nhật, hình đẹp xinh vẻ vang khắp bốn biển, tâm nhân suốt cả ba linh. Điếu đẩu không so lường, giáo mác dội giấu, tu sửa sáu mươi ngôi chùa cổ. Biên tả hết thảy kinh được năm mươi tạng, độ ba ngàn Tăng Ni.
Vua Cao Tông Hiếu Tuyên Hoàng đế (Trần Húc 569-583) thời nhà Trần, là người nắm bảng vàng mà dẫn trong cờ hiệu, cưỡi xe vàng mà chỉ nước trên. Đất ở Đán thích, nhậm gồm cơ hành, năm chỉ được mùa, dân chúng no đủ, trong địa vức vô sự, thiên hạ đều an khương. Đến làng cấm trung ở Dương Châu, tạo dựng chùa Thái Hoàng, nhưng lấy cẩn trọng tang lễ tìm tình xa tha thiết. Chương Lăng vì Thủy Hưng Chiêu Liệt Vương Hiếu Thái
Phi, mà đến chùa Thái Hoàng mà tạo ngôi Phù Đồ bằng gỗ cao bảy tầng, vàng quấn quanh sáng linh sánh sắc, châu xoay cùng ngọc hợp tranh ánh ngời. Lại lấy Hán Quang thiền vị để thay nhà phi thừa, thử trồng ruộng phước tạo dựng chùa Sùng Hoàng. Năm Đại Kiến thứ hai (570) thời nhà Trần, lại vì Thủy Hưng Chiêu Liệt Vương Hiếu Thái Phi, tiếp đãi muôn dân, kính phụng tạo dựng chùa Linh Sát cao mười lăm trượng, phía dưới tôn trí móng tay Đức Phật dài hai tấc, rộng một tấc, trang sức ánh ngời khám ngọc, cất giấu các hộp báu. Hoặc ánh sáng tỏa bay năm sắc, sáng rực nổi cả một tầm, thần biến chẳng cùng, người trông thấy càng tôn kính. Tạo hai vạn tôn tượng bằng vàng đồng, tu sửa một trăm ba mươi vạn tôn tượng. Biên tả hết thảy kinh có mười hai tạng, tu sửa năm mươi ngôi chùa cũ, độ một vạn Tăng Ni.
Như trên, ở thời nhà Trần có năm vị Vương chủ với thời gian ba mươi bốn năm (557-589) tạo dựng được một ngàn hai trăm ba mươi hai (1.232) ngôi chùa, trong nước nhà có bảy ngôi chùa mới. Bá quan tạo dựng được sáu mươi tám ngôi. Trong thành có hơn ba mươi ngôi chùa lớn. Hưng Địa Đồ nói: Trong kinh đô xưa có hơn bảy trăm ngôi chùa, gặp lúc Hầu Cảnh dấy loạn, thiêu đốt gần hết. Có nhà Trần thống ngự nước nhà, bèn cùng dân chúng đều tu sửa lại, rui liền tiếp nóc, dãi sánh Hoàng cư, Tháp nổi cùng thấy nhau, lưới sau trị dưới". Biên kinh tạo tượng, không thể nói hết, thiết đại hội vô giá cúng Tăng bố thí, phóng sinh cứu tội, hoằng tuyên Thập thiện, giúp đỡ bốn dân, khó thể xưng kể. Tăng Ni có ba mươi hai ngàn (32.000) vị. Có ba vị phiên dịch kinh điển được mười một bộ.
Trên đây, năm triều đại Quân vương, dốc lòng xinh đẹp Huyền phong, rộng hoằng dương Phật sự, lập chùa tạo tượng thỉnh mời các bậc danh tăng. Vua Thế Tổ thời nhà Tấn làm sống lại gia cấp. Vua
Trung Tông thời nhà Tấn giàu có ở Giang Biểu, Hoàng Minh phi thừa vận báu. Vua Hiếu Võ làm sáng rỡ đức phong. Vua Cao Tổ thời nhà Tống chăm chú lo toan hơi di dời, bước trời còn trở ngại, hai năm cứng rắn, bốn trận chiến nhọc binh, trăm lo toan thỏa sướng nơi cõi lòng, muôn cơ đều ở trong tay áo, nhưng chẳng nhọc hạnh nghiệp Đànna, thường giữ tâm hộ pháp, sùng kính tôn trọng Đại thừa, chiêm ngưỡng búi tóc, đọc tụng Long cung, hoằng Thánh chẳng nhọc, vận trong không tạm dừng. Vua Thái Tổ thời nhà Tống vận vầng nhật ấy ban trải thiên hạ thái bình đây, từng dấy khởi lòng nhân mở lưới, nghĩ trái lại chính sách gút dây. Vua Cao Tổ thời nhà Tề suốt thấu huyền diệu của chân giả, hết cả tinh hoa của Nho Mặc, bèn tu Thượng thiện, sáng tỏ Hạ Võ. Vua Cao Tổ thời nhà Lương xa vời vết trước có đức, nối theo khuôn thánh Tịnh Danh, thắt gút lưới đất đã xé, chống đỡ màn trời nát đổ, chưa rõ tìm cầu y áo, ngồi đợi chờ sáng sớm, tự gắng gượng chẳng ngưng nghỉ, đến thuần tiếp nối Di luân. Đến như áo điển của Thứu Phong, Mật Nghĩa của Kê Viên, yếu chỉ của Nhị đế và Ngũ thừa, văn từ trong Tam Tạng chín bộ, chỗ mà râu đỏ chưa rõ mắt xanh đi đến chẳng giải thích, mà đều được, văn không xem lại, nghĩa chẳng nghĩ bàn, khinh thường mưu tục của Chu Khổng, gièm chê danh lý của Lão Trang. Hay khiến các bậc Tiên Nho giải thể, đủ khiến những vì tài giỏi ở đương thời phục ứng. Ít vào sân nhà ai nhìn vách tường sâu, riêng mở gương Thánh, chóng phát tình trời. Trí lớn rỗng rang ngoài trai tám tắc, tâm nhỏ giúp giúp, trong kiểm bốn nghi. Đến Xích Huyện mà tràn từ bi, ghé Huyền Hổ vì tin Hoằng thệ. Ân khắp có đảnh, đạo trùm không bờ, linh ứng tốt lành, điềm hợp thấy trước, khoan nhân đức hiếu, sử đầy sách sau. Chỗ hiển hộ chẳng truyền, nơi nhiếp chi chưa ghi lục, đều ghi đó vào thẻ vàng, cất giấu các ấn báu, dùng màn châu che phụ, dùng sàn ngọc đỡ nâng, đài Diệu Liên Hoa ở bốn trụ, tòa sư tử vượt ở chín cấp, chẳng ngay khách cỏ êm dịu, viết trên da thay giấy, cũng thấy khách của chúng Hương, rưới huyết ngấm bụi trần. Lương Ký nói: Vua Võ Đế ở ngôi bốn mươi chín năm (502-550), thường vì sân râm mát, sớm dốc nghĩ nhớ, cảm suy càng thêm, tự than rằng: "Tuy có được sự tôn quý của cả bốn biển, nhưng không sao tỏ bày được với vàng cực", nên lưu tâm trong kinh điển Phật giáo, lấy tám bộ Bát-nhã là mẹ của chư Phật mười phương, hay trừ tội chướng, khéo tẩy phiền nhọc, nên tham cứu các kinh, tự thân trước thuật chú giải, Pháp luân cùng tiếp nối, trai giảng chẳng dừng tuyệt. Gá thắng phước ấy mong bày tâm hiếu, từng thay vì Nhị hoàng (song thân) mà xả thân thầm cầu phước hựu. Mỗi lúc xả thân đất vì chuyển động. Đến Chung Sơn mà tạo dựng chùa Ái Kính, vào Thanh Khê xây chùa Trí Độ, bỏ phủ đệ nơi ở xưa trước mà tạo chùa Quang Trạch. Đến năm Phổ Thông thứ tám (527) thời Nam Lương, lại tạo dựng chùa Đồng Thái, điện đường hoa lệ, phòng hiên nghiêm sức, lướt mây chín tầng, sáng lệ như Vĩnh Ninh thời nhà Ngụy. Lại ở trong cung lập điện Chí Kính, đài Cảnh Dương xây dựng bảy miếu thất, cứ giữa tháng lại thiết bày thức ăn chay tịnh, đến lúc tông miếu cúng tế thường, chưa từng chẳng nghẹn ngào rơi lệ, dự theo tả hữu ngầm sụt lùi quạnh lòng. Tuy có ức triệu công việc lớn mà kinh quyển chẳng từng rời tay, mở xem trong ngoài, suốt đêm tới sáng. Trước thuật bộ Thông Sử Thư Uyển và Kinh Luật Dị Tướng, nghĩa loại trong tam giáo, văn ngôn của Ngũ Điển có hơn vài ngàn quyển. Đến như lưu ân nơi ngục chợ, phần nhiều thực hành lòng thương dung thứ. Có tội ấy không thể còn nguyên, thì biến đổi sắc mặt giây lâu sau đó mới hạ bút phán xét gian tà kiện tụng thì minh bạch, thông suốt như Thần. Tự mình không bày yến tiệc, không say sưa âm nhạc đàn xướng. Các thị tỳ trong Hậu cung đều không mặc tơ lụa, khăn áo của vua ở Ngự tẩm trong nội điện cũng chẳng dùng gấm vóc, mũ đai trang sức thảy làm từ vải sô thơ mộc. Vua là tấm gương mẫu mực mà muôn đời vẫn truyền tụng, mỗi ngày chỉ ăn một bữa và chỉ ăn toàn rau trái ngũ cốc. Có người mang tiến vua loại khoai nước, củ sen, ăn vào có hương vị thơm ngon như thịt, nhân đó vua đã ban sắc chiếu cấm ăn loại đó. Các bậc Đế vương xưa nay hiếm có ai được như vậy. (Đúng là một vị quân phụ bất khả tư nghì vậy!).
Tấn Tề Vương Đại Du (nhã nhặn, thanh đạm); Tấn Tần Vương Hoằng Độ (khí chất nhu hòa); Tấn An Bình Vương (khí tiết, hiếu học); Tấn Nghĩa Dương Vương (trầm tư nhập thầm); Tấn Hạ Bi Vương (dốc chí kinh lược); Tấn Cao Mật Vương (Tín sùng mầu nhiệm); Tấn Kiếm Bình Vương (lập thân hùng dũng).
Các vị Đế vương này không ai mà không phò giúp sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Các quan tả hữu dưới triều đều khiến thọ lục trai, các hàng thân quyến đều thọ trì Ngũ giới.
Tống Lâm Xuyên Vương Nghĩa Khánh, Tống Bành Thành Vương Nghĩa Khiêm; Tống Nam Tiếu Vương Nghĩa Tuyên; Tống Lâm Xuyên Từ Vương Đạo Quy; Tống Kiến An Vương Hưu Nhân... Tất cả các đời vua nhà Tống thảy đều ca ngợi kinh văn, tu tập Phật điển, mỗi tháng sáu ngày ăn chay, thọ trì Bát giới. Văn chương chữ nghĩa sáng rỡ tinh tường, ngôn luận chẳng cùng, như vùng nhật tỏa rạng; như Huyền Hà chảy cuồn cuộn, như sương khói mù tỏa trên sông. Các cung nữ, nương phi trong cung đều tu trai giới, các hàng tướng sĩ đều chăm tụng kinh. Trước tác "Tuyên Nghiệm Ký" để tán thán Tam Bảo. Vua Cảnh Lăng Tuyên Vương nhà Tề có người con Uyên Bác Lục Kinh, rõ thông bảy sách, đời tên xưng là Bút Hải, vốn dòng giỏi nhà Nho, sau lại quy hướng Thiền môn, tôn sùng kinh Phật, chuyên giảng Thành Thật Luận, tụng kinh Pháp Hoa; trước tác "Tịnh Trụ Tử" hơn hai mươi quyển, với của cải bỗng lộc của nước nhà đều dùng để tu tạo công đức, thầm cảm Nhã Phạm, có loại như Trần Vương, tự thân nói Vân Nhã trở lại đồng với Đế-thích, lời vàng tạm mở đã xa trước tâm, pho ngọc mới bày, trước cháy sau rực rỡ, chăn màn mùa đông mùa hạ, biến phong cách vượt tuyệt, bít điềm tây hà, đổi tập tục của Long Trung.
Còn Thái tử Chiêu Minh ở thời nhà Lương và Tấn An điện hạ ở thời nhà Lương. Thái tử Chiêu Minh là người khế hợp đạo, vừa mới sinh bèn đã biết, Tấn An điện hạ là người đức sáng ngang trời, đón đi nơi vườn lễ nhạc, rong rảo giữa trường nhân nghĩa. Vẻ vang của Lạc Tân, bày xưa chẳng sánh, văn hoa của Hà Khúc, đối sao chẳng kịp. Hạ mở mới mà tạm thẹn có tụng phỏng vì lắm hổ, em út tám vương, liền cành mười tuấn, đều học suốt cùng trăm dân, văn gồm cả chín phái triết học, khí sắc sở vượt quá gió mây, khéo từ sáng ngời so với nhật nguyệt, tôn trọng diệu pháp, phàm kính phước môn. Đến như nhân hoa sáng nở, thành nghiêm sớm nở, danh tăng kết bạn, thông Nho đông nhiều, nhã nạp từ lý, văn vẻ trong ngoài, hay khiến các vị thạc đức gãy đâm, tiên hiền cáo bệnh, chẳng nhọc đùa kinh vào tám hẻm, chẳng mượn cưỡi xe dê đến cửa.
Ở thời nhà Trần có Bá Dương Vương, Dự Chương Vương, Hành Dương Vương, Quế Dương Vương, Nghĩa Dương Vương, Tân Thái Vương, sáu vị Vương đây đều là săn tìm bí điển, rong ruổi Thiên Chương, nghiên cứu tinh tường diệu lý, viết kinh tạo tượng, thọ giới trì trai, thường phụng sự ruộng bi (tu hạnh bố thí), cùng làm Đàn-việt thí xả. Bành thành hầu Lưu Di Dân ở thời nhà Tấn (soạn Ngũ Thời Giáo trước thuật thơ Cửu Tưởng). Dự Chương Thái Thú Lôi Thứ Tông ở thời nhà Tấn (tâm tinh thuần kính mộ pháp, tạo dựng chùa Thê Linh). Lâm Hoài Lệnh Chu Tục Chi ở thời nhà Tấn (đượm phục đạo, ngày một mới). Tân Thái Hầu Tất Dĩnh Chi ở thời nhà Tấn (tâm mong cảnh tịnh). Nam Dương Trưởng Tông Bích Chi ở thời nhà Tấn (như việc khẩn khổ). Năm vị hiền trên đều tạ từ chức vị, chối bỏ vinh hoa, răn danh nơi thần phủ, theo Pháp sư Tuệ Viễn cùng vân du ngưng nghỉ, ý chí ẩn trầm, đồng đều trải nhất tâm, đồng giẫm vào u cực, gá phù dung ở trung lưu, che Quỳnh Kha để vịnh lời, vụt bay mây khí nói tám cực, trầm ẩn gió hương suốt trăm năm, thể quên an để thêm lớn, tâm vượt vui dể tự nhiên.
Thượng Thư Lệnh Hà Sung ở thời nhà Tấn (trung thuần giản chất); Thượng Thư Tả Bộc Xạ Trử Dực ở thời nhà Tấn (chí khí tiết tháo như sương băng); Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Gia Cát Khôi ở thời nhà Tấn (giẫm đạo trinh cố); Thượng Thư Phùng Hoài ở thời nhà Tấn (chẳng lánh thanh sắc); Thượng Thư Tạ Quảng ở thời nhà Tấn (ân lòng thành thật can gián ngay thẳng).
Từ ngày Hoàng Huyền Sưu Băng làm phụ chính, cùng thổi gió tà, ghét ganh chư Tăng chống kháng lễ bái, Hà Sung v.v... cùng năm bậc hiền trên đã cùng các nghị quan bác sĩ v.v... thiết lập bàn nghị rằng: "Tìm xét từ thời nhà Hán nhà Ngụy mãi đến thời nhà Tấn chẳng nghe bàn nghị khác. Hiến chương tôn ty, thể thức không tạm ngầm. Nay các Sa-môn dốc lòng giữ giới, mỗi lúc đốt hương chú nguyện, hẳn trước tiên vì nước nhà, muốn cầu phước gia hộ đó, lớn tình không cùng mà thôi, kính phụng Quân vương, tôn sùng hành thiện, xuất phát từ tự nhiên, giản đơn của lễ nghi bởi do gìn giữ pháp. Vì vậy, các bậc tiên hiền ngự trị nơi đời do đó mà chẳng đổi thay. Chỗ có nghĩa là nhân lợi đó mà ban huệ đó. Hiền ngu chẳng dám không dùng tình, trên có thí của trời che đất chở, dưới có người giữ một tu thiện, nên tuân theo việc cũ của Tiên đế, thêm bàn nghị lấy làm lâu dài". Mọi người không ai chẳng chấp nhận thỏa đáng.
Quan Tư đồ Công Vương Mật ở thời nhà Tấn thấy nơi cửa chùa Đông Dịch bỗng có ánh sáng vàng ròng tỏa chiếu nơi đất, nhân đó đến đào bới có được một tôn tượng bằng vàng phát ra ánh sáng cao bảy thước, bèn riêng xây dựng tinh xá trọn đời cúng dường. Lại cảm điềm lành hiển bày thật, nên tạo dựng chùa Đông An.
Ở thời nhà Tấn, có Hộ Quân Tướng Quân Vương Mặc, Hậu Tướng Quân Lưu Ức, Giang Châu Thứ Sử Sưu Duyệt, Tầm Dương Thái Thú Nguyễn Khản, cả bốn bậc hiền này đều lập chùa tạo tượng, quy mạng Phật giáo.
Phụ Quốc Đại Tướng Quân Hà Vô Kỵ ở thời nhà Tấn (là người sùng tín nghiêm khắc trọn đời, tạo dựng chùa Chỉ Viên). Hà Vô Kỵ vì An Đế trở về phía Tây, Hoàng Vận vui hòa hưng thái, đạo tục đồng mừng, khắp xứ Giang Biểu đồng khởi xướng, khuyên An Đế mở mang Phật giáo, tu tạo công đức. Ung Châu Thứ Sử Khích Khôi ở thời nhà Tấn (Di-đà xuất du, tạo chùa Kim Tượng).
Võ Xương Thái Thú Đào Khản ở thời nhà Tấn, mỗi ngày đi đến Quảng châu, có ngư nhân ở trong biển thấy có ánh sáng vàng ròng tỏa chiếu, trải qua cả tuần càng lớn rộng, lấy làm quái lạ mới nói cùng Đào Khản. Đào Khản đến trông xem mới biết là tôn tượng của vua A-dục, bèn tiếp đưa đến Võ Xương tôn trí tại chùa Hàn Khê. Cảm động công đức ấy, mọi người xa gần đều phát tâm. Đó là do sức lực của Đào Khản vậy.
Đan Dương Duẫn Cao Khôi ở thời nhà Tấn (là người phụng tu phước đức, được cảm linh, tạo chùa Linh Ứng). Trong khoảng niên hiệu Hàm Hòa (326-335) thời Đông Tấn, Cao Khôi đến cầu Trương Hầu, trông thấy trong bến nước có ánh sáng năm sắc từ dưới nước vọt bay lên cao vài trượng, Cao Khôi bèn đến trông xem, mới được tôn tượng bằng vàng, không có tòa hoa đỡ mu chân, linh nhan hiếm có ở đời, người thợ tạo tác khác thường. Cao Khôi liền phát tâm khuyên dân chúng tu tạo công đức. Lại có Thanh Tín Sĩ Trương Kế Thế ở thời nhà Tấn, vốn chuyên sống bằng nghề chài lưới bắt cá, thấy trên nước có ánh sáng, đến xem mới thấy đó là tòa hoa đỡ mu chân tôn tượng Phật. Vua Giản Thành Đế (Tư Mã Diễn 326-343) thời Đông Tấn mới thỉnh đưa đến tôn trí nơi tôn tượng Cao Khôi có được trước kia, mà đều trông thấy như một, Trương Kế Thế bèn phát tâm bỏ nghề cũ, trọn ngày tinh cần, còn vua Giản Thành Đế hồi hướng, tin Phật oai linh. Lại có Thanh Tín Sĩ Đổng Tông Chi ở thời nhà Tấn là người sống nghề chài lưới bắt cá, thấy dưới đáy có ánh sáng, đến trông xem bèn được hào quang Phật, vua Giản Văn Đế (Tư Mã Dục 371-373) thời Đông Tấn mới đưa về an đặt sau lưng tôn tượng, uyển nhiên phù hợp. Nhân đó, ông ta dần hồi bỏ ác tu thiện, trọn đời hành đạo, tự biên tả kinh Đại Phẩm, mỗi tháng trì tụng một biến, suốt ba mươi năm chuyên ý với hạnh nghiệp.
Thái Thường Khanh Chu Ưng ở thời nhà Tấn đến cửa sông Hổ độc tại Hùng giang, cảm có được hai tôn tượng bằng đá trên nước mà lại. Vua Mẫn đế (Tư Mã Nghiệp 313-317) thời Tây Tấn nghinh thỉnh đến tôn thờ cúng dường tại chùa Thông Huyền. Chu Ứng bèn phó mạng với cầu pháp, lấy làm việc của chính mình.
Thường Thị Đái An Đạo ở thời nhà Tấn (là người học hạnh nghề tài ưu đạt, tạo dựng chùa Chiêu Ứng, tự tay khắc chạm năm tôn tượng giáp trử đều có được tướng tốt không đâu sánh bằng, thường luôn nơi thân tỏa phóng ánh sáng)
Phủ Tỷ Lang Lý Thông ở thời nhà Tấn (là người giữ chí một lòng). Bành Thành Hậu Hoàng Hân ở thời nhà Tấn (là người chí tín thuần hậu).
Thái Bọc Khanh Vương Tuân ở thời nhà Tấn (là người Khắc ý trọn đời, tạo dựng chùa Thạch Gian). Dự Chương Thái Thú Phạm Ninh ở thời nhà Tấn (là vị Đàn-việt xả thí không nhọc một, kết chí với Sa-môn Tuệ Trì, đến núi Hộc lãnh, tạo dựng chùa Thê Thiền). Thái Thường Ân Trọng Kham ở thời nhà Tấn (là người chí khắc chung, linh văn cảm ứng). Đông Hải Hà Thừa Thiên ở thời nhà Tấn (là người đọc thông nội ngoại, là bậc sư biểu Nghiêm Công). Trương Cung ở Ngô quận thời nhà Tấn (là người khẩn thành kính phụng giới). Duyên Châu thứ sử Vương Cung ở thời nhà Tấn (là người khâm trọng các bậc thắng đức, phụng kính Sa-môn Tuệ Trì). Thừa Tương Vương Đạo ở thời nhà Tấn (là người ngay thẳng mà không kinh thường). Thái Úy Sưu Nguyên Quy ở thời nhà Tấn (là người thuần tánh không biến đổi). Đình Úy Hoàn Mậu ở thời nhà Tấn (là người Đức kịp các loài hữu tình). Thái Thường Tạ Ấu Hưng ở thời nhà Tấn (là người hiển bày đức nhân, ẩn tàng hạnh dụng). Tạ Côn ở Trần Quận thời nhà Tấn (là người có phong thái ánh ngời trần tục). Quang Lục Chu Bá Nhân ở thời nhà Tấn (là người đặc đạt sống bến bờ, gió trong lành tự thổi). Trung Thừa Thích Siêu ở thời nhà Tấn (là người khâm hiền trọng pháp, gá ý nơi rừng sâu). Hữu Vệ Tướng Quân Trử Thúc Độ ở thời nhà Tấn (là người phong nhã, giúp khắp). Trưởng Quảng Thái Thú Lý Nghi ở thời nhà Tấn (là người thạc tính mến mộ đạo). Thượng Thư Thái Nguyên Công Vương Mông ở thời nhà Tấn (là người nhân hậu cứu giúp đời). Ân Dung ở Trần quận thời nhà Tấn (là người anh tuấn hiếm ai sánh bằng). Thượng Thư Vệ Giới ở thời nhà Tấn (là người thuần nhã tuyệt luân). Tầm Dương Thứ sử Hoàng Y ở thời nhà Tấn (là người quên mình cứu vật, tạo dựng chùa Đông Lâm). Thị Trung Viên Ngạn Bá ở thời nhà Tấn (là người thanh phong thông khắp). Trần Dương Thái Thú Tạ An Thạch ở thời nhà Tấn (là người thần thái vận xa). Thượng Thư Ân Trọng Văn ở thời nhà Tấn (là người phong lưu nho nhã, kháng chí mây cao). Cối Kê Nội Sứ Vương Hy Chi ở thời nhà Tấn (là người văn bút kinh tuyệt). Ích Châu Thứ Sử Mao Cừ ở thời nhà Tấn (là người dốc lòng kính mộ đảnh lễ, gá chí nơi Sa-môn Tuệ Trì).
Văn Học, Vương Hợp, Lưu Khôi, Ân Hạo, Hứa Tuân, Tôn Xước v.v... ở thời nhà Tấn, đều là những bậc lưu danh một đời, tỏa vang khắp ngàn dặm, học chẳng ngày bỏ trống. Lạc Đông biết đó bác văn, tay chẳng rời quyển, mọi người bên cạnh sợ đó thành bệnh, tiếng tăm anh tài vượt tục, hơi khí quá xa mọi người. Đến như Ngạn Bá trước thuật Hậu Hán Thư mừng vui tán thán Phật lý, xem xét văn nghĩa đúng là những người rất mực sùng đạo.
Thượng Thư Tông Kính ở thời nhà Tống (là người khẩn chí cảm người). Trung Thư Lệnh Thẩm Khánh ở thời nhà Tống (là người dốc thành động vật). Quang Lục Khanh Đái Ngung ở thời nhà Tống (là người khéo nghĩ thần thông, tự tay chế sửa tôn tượng bằng vàng cao trượng sáu, tướng tốt không đâu sánh bằng, về sau tỏa phóng ánh sáng). Tân Đình Hầu Lưu Thiệu ở thời nhà Tống (là người có chí nguyện thầm phù hợp). Từ Châu Thứ Sử Vương Trọng Đức ở thời nhà Tống (là người tinh thành cảm triệt). Trung Thư Phạm Thái ở thời nhà Tống (là người bác vật huyền thông). Ngự Sử Vương Hoằng ở thời nhà Tống (là người thanh thông xa tục). Thị Trung Tư Không Chiêu Công Lưu Diến ở thời nhà Tống (là người mưu giúp vương thất). Thủy Hán Công Vương Khôi ở thời nhà Tống (là người kính trọng càng chí thành, gá chất nơi nghiêm sư). Nghi Đồng Tiêu Trung Hoạt ở thời nhà Tống (là người đệ tử hợp môn, nghiêm khắc mình kính hộ giới). Thượng Thư Tạ Trang ở thời nhà Tống (là người thông ngộ đặc đạt).
Ngự Sử Viên Mẫn Tôn ở thời nhà Tề (là người kính phụng giới không biếng lười). Lại Bộ Tạ Thiếu ở thời nhà Tề (là người duyên tình trùm đời, kính tín tuyệt luân).
Thái Úy Văn Trung Công Từ Hiếu Tự, và Thái Úy Văn Hiến Công Vương Kiệm ở thời nhà Tề. Hai ông này, Văn Trung có tài của Trụ Thạch, Văn Hiến ôm hoài lượng của Y Hoắc, kính luân trùm khắp, từ triều đình đến thôn dã đều chiêm ngưỡng, dốc tín rất lắm với khách tốt lành. Thức ngộ mới đến Linh vận, Phật pháp tỏa sáng hiển bày thật nhờ từ người ấy.
Đặc Tấn Trương Thự ở thời nhà Tề (là người phát tâm chí lý). Trung Thư Lệnh Chu Ngung ở thời nhà Tề (là người giải huyền hơn đời). Thị Trung Tả Thượng Thư, Trung Thư Lệnh Thái Tử, Trung Thứ Tử Quốc Tử Tế Tửu Trưng Quân Hà Dận ở thời nhà Tề là người vốn trải trung thành ẩn mật, phong lực đủ đầy, ôm trinh khí của đuốc ngọc, ứng một thời kỳ của Đại hiền, học hết kinh sư, tâm ôm huyền áo. Nhạc của Hòa Thiên Biến Vũ, lễ của Hậu Thành Khúc Đài, luận của Yêm Trung Lăng Hạ, sách của Âu Dương Tiêu Tử. Dịch bổ kinh Triệu Phó Phân Hàn Sở, đều là Huấn thích, không gì chẳng gần, nghiệp sạch chất nghi, rỗng đến thật trái lại, nhóm tụ đồ chúng dạy truyền, học sửa thành đoàn. Đến chùa Bát-nhã, tạo dựng cột trụ minh châu, quy hướng sâu sắc về dòng họ Thích, nhã thuần nội giáo, cột trụ minh châu tỏa phóng ánh sáng bảy ngày bảy đêm.
Thị Trung Thượng Thư Tả Bộc Xạ Trung Vệ Tướng Quân Đặc Tấn Hữu Quang Lục Giản Túc Tử Từ Miễn ở thời nhà Lương là người ôn nhã sớm vang vọng, khuê chương hiển trước. Điển của Minh Đường Khúc Đài, sách của Tạ Hạ Hàn Ích, văn của Phong Khí Viêm Thụ, học của Yêm Trung Lãng Hạ, đạo của Long Cung Bán Châu, quyển của Thứu Sơn Hoa Thủy, không gì chẳng cùng nguồn hết sâu mầu, lần lượt vì lưu tâm.
Thị Trung Hộ Quân Tướng Quân Giản Tử Chu Xá ở thời nhà Lương là người nổi trội sớm thành, khuê chương phát từ thuở bé, không quản lao nhọc hỏi đạo của Mạnh Võ, khó nói kính khuyên, chẳng đợi nghi của Quý Khương, sự việc hiển bày nơi khuê đình, tiếng tăm lan tỏa khắp bang ấp, ký lục của chín phái trăm dân. Văn từ của sáu thi năm lễ, đều rộng thông cùng xưa trước, làm chuẩn cho đương thời. Thêm vì thọ trì Phật giới, hồi hướng dòng họ Thích, dứt tuyệt máu thịt tanh nồng kia, cam chịu rau quả đây. Nghiên cứu kim điệp của Long cung, hết cả ngọc chỉ của Hộc lâm, thường lấy thắng tập ở thành Tỳ-xá-ly, vi ngôn của nước Ma-kiệt-đề, bẻ sừng vạch má, riêng cao anh tài ở đương thời.
Thượng Thư Lệnh Thẩm Ước ở thời nhà Lương (là người văn uyển hàn lâm, riêng suy giang biểu, học làm khuôn phép cho đời, tài vượt anh tuấn ở đương thời). Thượng Thư Bộc Xạ Chu Di ở thời nhà Lương (là người giúp hợp Đế đạo, dựng lập pháp tràng). Thủy Hưng Lệnh Lục Hàm ở thời nhà Lương (là người bén nhạy xuất chúng, dốc tâm Chánh giác). Thị Trung Viên Sán ở thời nhà Lương (là người tiết tháo ngay thẳng, thường lập pháp Diên). Quốc Tử Tế Tửu Trương Sung ở thời nhà Lương (là người thạc học móc sâu, dốc chí huyền đạo). Thái Tử Thị Độc Vương Hoa ở thời nhà Lương (tuyệt hẳn ở đời không gặp). Đông Cung Thái Tử Thứ Tử Liễu Trừng ở thời nhà Lương (là người đàm huyền chẳng cùng). Trung Thư Lệnh Vương Tăng Nhu ở thời nhà Lương (là người học suốt huyền Nho). Trứ Tác Tiêu Tử Hiển ở thời nhà Lương (là người văn vẻ nội ngoại). Độ Chi Thượng Thư Tiêu Tử Khác ở thời nhà Lương (là người an tâm với huyền đạo). Bí Thư Giám Hà Kính Dung ở thời nhà Lương (là người chẳng rơi lạc luân thường). Lại Bộ Thượng Thư Tạ Cử ở thời nhà Lương (là người mặt chẻ tranh dài). Hành Quân Hạ Bộ Lưu Hiếu Cai ở thời nhà Lương (là người có rõ cẩn nước an, giẫm huyền phong của Linh vận). Hoàng Môn Trần Bá Chi ở thời nhà Lương (là người tin mà khéo thích xưa cũ). Trung Thứ Tử Khổng Hưu Nguyên ở thời nhà Lương (là người lập thân trung chánh, thực hành ở chính mình thanh kính).
Trung Thứ Tử Bình Tây An Bắc Nhung Chiêu Tướng Quân Tương Dương Lệnh Lưu Tuân ở thời nhà Lương là người nghi biểu ôn nhuận, dáng mạo phong thái sáng rỡ, rảo bước tỏa sáng, lâu sau mà khả kính, khéo léo của cỏ lá móc bạc, kham treo trong trướng, kỳ đặc của văn rùa vết chim, tin đặt trên đài.
Thiên Quan Thượng Thư Lưu Hiếu Xước ở thời nhà Lương (là người thanh danh hơn đời). Tương Châu Thái Thú Liều Tân ở thời nhà Lương (là người thề bỏ trâm đai, sùng huyền giẫm đạo). Văn học Vương Nguyên Tường ở thời nhà Lương (là người tuấn khí không ai vượt trước). Lĩnh Quân Tướng Quân Lưu Hiếu Nghi ở thời nhà Lương (là người vốn trải trung thành kính mật, xa kính sùng đạo xuất thế). Tả Thừa Trương Lăng ở thời nhà Lương (là người thức chân suốt lý). Ninh Man Trưởng Sứ Từ Cầm ở thời nhà Lương (là người phong nhã nhàn đạm, thanh biện nhập thần).
Trung Thư Nhan Chi Suy ở thời nhà Lương (là người cung kiệm dốc tin). Thị Trung Trung Thứ Ôn Tử Vương Huấn ở thời nhà Lương (là người thần dụng vận sáng, phong nghi nhàn tuấn, ra trung vào hiếu, dõng nghĩa chuộng liêm, bí tố đều gần, lưu lược cả thảy đó).
Tán Kỵ Thường Thị Chương Hầu Vương Quy ở thời nhà Lương (là người Vũ nghi của triều đình, kỷ tử của Hiên miếu, ngang ngang tiến tới sau, bày giải thạch, thuần nhã lai nghi, vén áo lụa vàng).
Phó Đại Sĩ ở chùa Đông Lâm tại huyện Điểu dương quận Đông dương, thời nhà Lương, là người thường chuyển pháp luân, tiếp nối lớn mạnh tôn vị, phân thân thế giới cứu độ quần sinh. Hoặc ở nơi khoảng ức ngực chợt bày sắc màu vàng ròng, hoặc trong nắm tay có lúc tuôn nhã hương thơm khác lạ. Hoặc hiện thân tướng cao hơn cả trượng, tay dài quá gối, chân dài hai thước, ngón dài năm tấc, hai mắt rành rẽ, tròng ngươi sáng rực, dáng mạo đoan nghiêm có tướng đại nhân. Sai sứ mang thư đến tặng vua Lương Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, viết rằng: "Dưới cây song lâm tương lai sẽ giải thoát, Đại sĩ Thiện Huệ bạch cùng Bồtát Quốc Chủ cứu đời, nay tu thiện thượng trung hạ, hiếm có thể thọ trì. Trong đó thiện bậc thượng, lược lấy lòng rỗng làm gốc, chẳng chấp trước làm tông, quên tướng làm nhân, Niết-bàn làm quả. Thiện bậc trung lược lấy trị thân làm gốc, trị nước làm tông, trên trời và nhân gian, quả báo an lạc. Thiện bậc hạ lược lấy bảo hộ nuôi dưỡng chúng sinh". Vua Võ Đế bèn thỉnh mời đến ở chùa Định Lâm dưới Chung sơn, ngồi dưới bóng râm của tùng cao, nằm tựa đá tảng, trong Tứ triệt thường giọt cam lồ, suốt sáu tuần thường mưa hoa trời. Vua Võ Đế ở trong điện Trùng Vân tại vườn Hoa lâm khai đề kinh Bát-nhã, riêng thiết bày một chiếc giường, cùng thiên chỉ đáp đối xiển bày. Đến lúc kiệu ngọc lên điện, an nhiên ngồi sàn. Hiến Tư gièm pha hỏi, Đại sĩ chỉ nói: "Pháp địa nếu động thì hết thảy chẳng an". Vả lại, biết thời vận nhà Lương sắp hết, muốn thương xót cứu giúp binh tai, mới đốt cánh tay làm đèn, mong đảo trừ họa đến. Đến mùa hạ năm Thái Kiến thứ nhất (569) thời nhà Trần, nghiêng phía hữu mà nằm, an nhiên nhập Niết-bàn. Bố thí đang lúc nắng nóng, mà thân mình vẫn ấm nóng không khác, sắc dáng tự nhiên, hình thể càng đẹp sạch, hơi thơm xông khắp, co duỗi như thường. Mọi người trông xem đều đồng phát tâm, ngợi khen chưa từng có vậy.
Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Chương Hầu Từ Lăng ở thời nhà Trần (là người văn chương suốt tuyệt, kính tin hiếm ai bằng, chú tạo vạn tôn tượng, biên tả một tạng kinh điển). Thiếu Bảo Thượng Thư Bộc Xạ Viên Hiến ở thời nhà Trần (là người trung tiết hiếm ai bằng, dốc tin chẳng ai hơn, đến chùa Định Lâm tạo mười tôn tượng bằng giáp trử). Thượng Thư Bộc Xạ Giang Tổng ở thời nhà Trần (là người duyên tình nổi trội, hình ở đời trước. Đến ở khuôn sơn, tạo tôn tượng Di-lặc cao tám mươi thước, biên tả một tạng hết thảy kinh gồm ba ngàn bảy trăm năm mươi hai (3.752) quyển). Lại Bộ Thượng Thư Đình Úy Khanh Mao Gia ở thời nhà Trần (là người chí tiết cao vợi, nhân hậu đều tỏa sáng. Biên vận hai vua, học sánh ba cổ, tự thân cầm bút biên tả kinh Duy-ma, Tử Vân ở thời nhà Lương chẳng thể thêm đó vậy). Đông Cung Xá Nhân Phó Tể (là người học sánh Vương Trịnh, tài so tạ lục, thông sâu Tam giáo, diệu giải Nhất thừa, nổi trội hơn mọi người, trong nước nhà đều kính bái).
Những vị nêu dẫn trên đây đều có kỷ lục đầy đủ trong sử sách, chẳng lại phải thêm lời. Đến như Tạ Phi, Tạ Lãm, xả bỏ sự sống thì chỉ còn lại nghĩa; Liễu Khảng, Liễu Khôi suy công chẳng có; Giang
Yêm, Nhâm Phưởng chung thủy thích nghi thay. Lưu Tra, Cố Hiệp trước thuật rất mực khéo giỏi. Thận mật như Trương Hoằng Sách, phỉ giải như Lã Tăng Trân. Trịnh Siêu Thúc trung thành, Vương Nghiệp Tiêu đĩnh trụ. Đầu ngực nghĩa cử đều là quý báu của đời, ước lại thông nhà, đều là đại Nho của một thời đại, thật là tên tuổi vang khắp bốn biển, đều tích chứa mưu lược Kinh Quốc, đồng xứng môn quân tử. Xã tắc do đó mới an, trên dưới nhờ đó mới hòa, có văn có võ, giúp đời giúp nhà. Người nêu công chín hợp, đều dựng nghiệp ngàn năm. Không ai chẳng gieo cả năm vóc kính lễ tam tôn của chúng ta, nhẫn nhục từ bi, tha thứ mình, suy mến vật. Trông nhìn đen vàng đó như mộng, nghe chuông trống đó như điếc, xem thường thước ngọc mà mến quý mảnh lời, xả bỏ tóc da mà cầu nửa bài kệ, mông bút từng hết chẳng thể ghi cả sở hành đó, đuổi giấy nhọc cùng chưa thể trình bày tất cả ích lợi đó. Ở đây chỉ nêu bày một số rất ít để nghiên cứu mà nói.
Ở đời Thục, Trần, Tùy quý các hàng sĩ nữ nơi xóm làng, anh tài ở đương thời. Cửa cao liền với cổng lớn, nền lớn tiếp nối thềm rộng. Hoàng thân nơi thích lý, nhà giàu có ở Đế Kinh, đông đúc mến mộ đạo, mỗi mỗi giăng bày kinh, miệng đọc tụng lời vàng, tay mở pho quyển ngọc, số đó thật đông nhiều, như cỏ cây nương gá đất liền, gặp gỡ hạng đó như lớp vảy chìm lắng dưới sông dài. Đến như nông phu nhà trống, người già miền quê không tên tuổi, mênh mông biết mong hướng đến; hàng tuổi trẻ phát tín tâm đông nhiều không thể xưng kể, sao có thể ghi nhớ nỗi! Do đó, phước hỗ giúp bốn loài quần sinh, vui mừng đỡ trợ ba đời, đáng nhân thỏa thứ đến con đến cháu, hay thực hành đức ấy, không ai chẳng đến vậy.
Vua Thái Tổ Đạo Võ Hoàng Đế (Phác Bạt Quế 386-409) ở thời Bắc Ngụy, đang lúc vận chung tan loạn, nước nhà rối ren suy sụp, muôn dân chẳng thấy lễ vật hiến dâng, dân chúng ở đương thời chỉ thấy dấu vết của chó ngựa. Lễ nhạc, văn chương, quét đất gần hết. Thái Tổ mới dùng dáng sâu hùng kiệt, ôm nhã lượng của bậc Đại vương, chỉnh định bình yên từ triều đình đến thôn dã, bao gồm Trung châu, mở lớn Long quang, ngầm trùm sử dùng thường ngày. Năm Thiên Hưng thứ nhất (398) thời Bắc Ngụy, mới ban sắc chiếu rằng: "Hưng khởi của Phật giáo từ xưa lại hiện còn vậy", nên ở nơi kinh ấp tạo dựng nghiêm sức dung nghi, tu sửa chỉnh trang chùa viện. Lại đến đất của Ngô Quắc, xây dựng ngôi Phù đồ mười lăm tầng. Tạo lập chùa và chùa Định Quốc, biên tả hết thảy kinh, chú đúc ngàn tôn tượng bằng vàng, thỉnh ba trăm danh tăng, mỗi tháng thỉnh nhóm giảng pháp một lần.
Vua Thái Tông Minh Nguyên Hoàng đế (409428 Thác Bạt Tự) thời Bắc Ngụy, là người thông minh mẫn duệ khoan nhã, trái lễ không nói, xót thương nghĩ nhớ bốn loài quần sinh, kính trọng Tam bảo, bèn ở tại Nghiệp Hạ hỗ trợ độ Tăng Ni đông nhiều.
Vua Thế Tổ Thái Võ Hoàng đế (Thác Bạt Đào 428-452) thời Bắc Ngụy, là người khí khái tỏa trùm ở đương thời, oai phong chấn động cả thiên hạ. Hợp thẻ bốn biển, chậu lòng muôn nước, hồi hướng Nhất thừa, quy y Tam bảo, làm lại thắng địa già lam, tạo dựng tịnh cung Chiêu đề, bèn ở Nghiệp Thành tạo chùa Sùng Chánh, lại nhân Thôi Hạo sàm tấu mới phá diệt Phật pháp.
Vua Cao Tông Văn Thành Hoàng đế (Thác Bạt Duệ 452-466) thời Bắc Ngụy, là người thông đạt đĩnh ngộ, phong cách khác thường, trung hưng Phật giáo, tu sửa chùa vũ, Phật giáo lan trùm rộng khắp trở lại bắt đầu từ vua Văn Thành Đế, độ Tăng Ni có ba mươi ngàn (30.000) vị.
Vua Hiển Tổ Hiến Văn Hoàng đế (Thác Bạt Hoằng 466-471) thời Bắc Ngụy, là người đức hợp trời kia, đạo gần cực Thánh, tạo dựng chùa Chiêu Ẩn, thỉnh mời chư Tăng tọa thiền.
Vua Cao Tổ Hiếu Văn Hoàng đế (Thác Bạt Hoành 471-500) thời Bắc Ngụy, là người có thần quang soi sáng phòng nhà hòa khí sung đầy sân cửa, nhân hiếu thư thả cao vợi hiển bày, nghe xét chánh sự, theo thiện như dòng chảy, thương chuộng trăm dân, thường nghĩ cứu giúp làm điều lợi ích. Nhân ngày húy kỵ Thái hậu, khóc ở bên tả mộ, bỏ ăn hai ngày, khóc không ngưng tiếng. Bèn ở tại Nghiệp đô, tạo dựng chùa An Dưỡng. Các bậc cao Tăng thạc đức từ bốn phương nhóm tập, thị nữ ở sáu cung mỗi năm đều hành trì ba tháng chay trường và mỗi tháng có sáu ngày trai. Với những người tinh tấn đọc tụng kinh điển, đều độ cho xuất gia; với việc chẳng kể lớn nhỏ đều chuyên vì gấp giúp. Thường bảo các sứ quan không kiêng sợ nước xấu ác. Tay không rời quyển kinh, đọc xem đó rồi bèn giảng, mến quý các kẻ sĩ kỳ đặc, hay khéo tỏ tình như đói khát, khéo đàm nói về Lão Trang, rất dốc lòng với nghĩa lý kinh Phật, tài năng văn vẻ đủ đầy, văn chương có cả trăm thiên, chợt nhiên xa vời, chẳng vì việc đời mà phòng ngại đạo. Từ bé nhỏ tiếp nối giềng mối lớn, sớm hiển bày phong thái Duệ thánh, đến lúc dùng văn minh tiếp việc ưu du, khoanh xong huyền lãm, riêng được hiểu biết, tự chẳng nói Thần khế hợp, chỗ nêu hẳn phù hợp với minh hóa. Đến lúc tự thân nắm giữ Đại chính, mỗi ngày có muôn cơ, suốt thời gian mười năm chẳng từng bỏ trông cung cấp, khâm chuộng sáng tỏ, kiểm xét theo xưa hợp ngự trị trời người. Đế vương chế tác, pháp độ của triều đình và thôn dã, khám chước lấy bỏ, sáng rực văn chương, nhưng mà tận Thánh cùng Hiền, tiếp trời nối lịch. Kính vì Tiên Hoàng, đến chùa Đại Giác tu sửa dựng xây phòng nhà, cúng thí nồng hậu, cung cấp đủ đầy. Ảnh tháp kinh đài, sáng rực khắp cả. Trên nêu chùa vàng, dưới bày cột bạc, nhạn liệng như mây, đầu rồng tiếp mặt nhật, danh tăng tiếp gót, bạn đạo kề vai. Sớm rảo bước ao sen, tối nương nghỉ gác hương, phong lưu vườn tuệ, phạm hưởng rừng thiền. Thỉnh mời ba trăm vị Tăng ngày đêm sáu thời đọc tụng kinh pháp không ngưng nghỉ. Độ các hàng Tăng Ni cả thảy mười bốn ngàn (14.000) vị.
Vua Thế Tông Tuyên Võ Hoàng đế (Nguyên Khác 500-516) thời Bắc Ngụy, là người ở điện Càn Thức, vì chư Tăng và triều thần mà giảng kinh Duy-ma, mừng vui không lộ bày nơi vẻ mặt, cao nhãn mến thích kinh sử, rất khéo giỏi nghĩa lý kinh Phật. Khéo phong nghi, đẹp dung mạo, đức hạnh phong cách âm dương, sáng đồng như nhật nguyệt, truyền bá văn giáo vì nghĩ nhớ người xa; điều hòa lễ nhạc, vì phô bày tuấn đạt. Đến nơi đất ba sông, sáu quận, giữa khu vực của Kinh Vị Bá Sản, tạo dựng bốn ngôi chùa như chùa Phổ Thông, chùa Đại Định v.v... cúng dường ngàn vị Tăng tinh thông tam học.
Vua Túc Tông Hiếu Minh Hoàng đế (Nguyên Hư 516-528) thời Bắc Ngụy, là người được một trinh thuần, thể hai lân cực, gồm ba thừa rong ruổi, đến ngã tư đường thông mà rong bước. Bèn ở ngay Nghiệp Hạ tạo dựng chùa Đại Giác, yểu điệu phòng cong, sâm sai nhiều lớp điện, gió rút ra cửa nẻo ấy, mây ráng nổi trên mái nóc, kề vai thấy tướng cây gỗ quý hiếm xa dài, bên cạnh trông nhìn cỏ lạ. Đó tợ như đất vàng của Tu Đạt xưa trước rất được tương đồng, vườn trúc Ca-lan còn khó sánh phỏng.
Vua Kính Tông Hiếu Trang Hoàng đế (Nguyên Tử Du 528-530) thời Bắc Ngụy, là người phong thần ưu tú vời xa, dáng mạo kỳ vĩ, vốn trải trung trinh, sớm xứng muôn dân trông ngóng, tạo dựng năm ngôi tinh xá, khắc chạm vạn tôn tượng bằng đá.
Vua Hiếu Võ Hoàng đế (Nguyên Tu 531-534) thời Bắc Ngụy, là người khéo thấu cùng số thuật, kiêm thông rành võ nghệ. Gồm tất cả yếu chỉ lên chân, khâm chuộng huyền du xuất thế. Năm Vĩnh Hy thứ nhất (532) thời Bắc Ngụy, đến Trường an tạo dựng chùa Trắc Dĩ, cúng dường hai trăm vị danh Tăng, quanh năm giảng tụng, không ngày nào tạm phế bỏ.
Vua Văn Hoàng đế (Nguyên Báo Cự 535-552) thời Tây Ngụy, là người lập đức lập nhân, xứng văn xứng võ, thường hành tín xả, luôn vận từ bi. Năm Đại Thống thứ nhất (535) thời Tây Ngụy, tạo dựng chùa Bát-nhã cứu giúp người cô quạnh già suy, cùng cấp chư Tăng cảm mắc bệnh; miệng chuyên đọc tụng kinh Pháp Hoa, thân nghiêm trì tịnh giới. Xây dựng điện Thất Giác, làm phòng nhà Tứ thiền, cúng dường không ngưng nghỉ, cúng thí nhẫn nhục chẳng cùng.
Vua Hiếu Tỉnh Hoàng đế (Nguyên Thiện Hiện 534-550) thời Đông Ngụy.
Như trên, ở thời Nguyên Ngụy, mở đầu ứng với điềm lành đế vương xa hợp minh phù, mừng vui nhóm tập đồi thọ, thần soi chiếu như nước, chín vườn nhân trùm khắp, bốn biển thêm sai, tiếp nối giềng mối tốt tươi của Tam Hoàng, bao gồm dấu vết huy hoàng của Ngũ Đế. Vua Cao Tổ dùng Thánh ẩn ngự trời, dời kinh đô định đảnh. Vua Thế Tông dùng thông mẫn tiếp thừa sự nghiệp, mở mang bình an âu hạ. Tiếp nối cơ nghiệp của nhiều Thánh, vốn nghiệp phép trời, thử quán xét muôn tượng càn khôn cúi hợp mưu người, xa tuân theo thể thức xưa cũ, rất biết thời sự, xét vết rùa tiếp nối tốt lành, dời vườn nhà Chương phủ, xướng lại lịch báu, khắc dựng nền tảng lớn. Thánh đức lại tỏa sáng, kịp đến chín đời mới thọ chung. Vua Văn Tổ vận chung ở đời vua Tỉnh Đế.
Ở thời Nguyên Ngụy có cả thảy mười bảy đời vua với thời gian một trăm bảy mươi năm (386556), khắp nước nhà tạo dựng bốn mươi bảy ngôi chùa lớn. Lại ở đời Bắc Ngụy thường an trị Tây, bên cạnh đó, mỗi phía trên dưới hơn ba mươi dặm, khắc đá đặt khám, khắp bày tôn tượng Phật, tính chẳng thể hết, trang nghiêm rộng xem, đến nay vẫn hiện còn, tuy từng trải qua gặp phải hủy diệt giáo pháp, khám ấy vẫn chẳng hư hoại. Các hàng Vương công quý thất, Vương hầu ngũ đẳng v.v... xây dựng tám trăm ba mươi chín ngôi chùa, trăm dân xây dựng hơn ba vạn ngôi chùa. Độ Tăng Ni có hai trăm vạn vị, có mười chín vị phiên dịch kinh, được bốn mươi chín bộ.
Vua Cao Tổ Văn Tuyên Hoàng đế (Cao Dương 550-560) thời Bắc Tề, giáng linh đến ngày, duỗi mừng vui trông nhìn mây, Hà Đồ mang chữ, nghiệm trinh phù của Đế lục, ở ngoài biển đoán gió, biết trong nước có Thánh nhân. Chín mục đến cống hiến, trâm thần đều trật tự, quý đạo chuộng đức, ẩn tàng dụng hiển bày đức, hoặc vượt ra hoặc ở. Chẳng phải chỗ lường tiểu tiết, chợt trí chợt ngu, nên chỗ soi xét của Đại nhân. Đến như hoằng thông tượng pháp, trang nghiêm đất vàng, có đến cạn sâu đều đến cửa Niết-bàn, đất tùy dơ sạch đều ngang bằng sắc màu lưu ly. Đến như bẻ dẹp kiêu mạn, không như chính chiến ở Đan thủy; nhàm lìa ràng buộc, khác lễ của Chiêu hoa. Do đó, chuẩn đích Năng Nhân, tan nát chúng ma Ba-tuần, hiến chương Đại giác, xem nhẹ tôn quý của Luân vương. Hẳn là đại quyền ứng vật, thệ nguyện rộng lớn làm ích lợi quần sinh ấy vậy. Khoảng đầu niên hiệu Thiên Bảo (550) thời Bắc Tề, thỉnh mời Thiền sư Điều, cầu xin thọ giới Bồ-tát. Từ đó, lại đoạn thịt cấm rượu, phóng thả chim săn, dẹp quan chài lưới, lại dứt đoạn giết mổ trong thiên hạ. Mỗi tháng trì sáu ngày trai, mỗi năm có ba tháng chay trường, khuyên dân lành trì trai giới. Vườn của các quan và rau quả tanh nồng bất kể của công hay tư khắp cả sáu phường đều phá dẹp, bên ngoài nếu có thì không cho đưa vào. Phát động xây dựng chùa tháp, độ Tăng Ni ở khắp các châu. Lại thỉnh mời các Samôn Chiêu Huyền Đại Thống Pháp Thượng làm Giới sư, từng trải tóc nơi đất để Giới sư giẫm bước qua. Năm Thiên Bảo thứ hai (551) thời Bắc Tề, vua ban sắc chiếu rằng: "Kính ngưỡng chỉ Từ Minh gìn giữ an ổn bốn biển, đức hạnh muốn báo đáp thì nương nhờ Đấng Đại giác. Các loài chim muông thượng sinh nên thả phóng vào núi rừng. Lấy chỗ đất này vì Thái hoàng Thái hậu, xây dựng tháp Thủy Bảo, bỏ các thầy nuôi luyện chim săn, xây dựng chùa Báo Đức". Độ Tăng Ni hơn tám ngàn vị chỉ trong mười năm, Phật pháp đại thạnh.
Vua Túc Tông Hiếu Chiêu Hoàng đế (Cao Diễn 560-561) thời Bắc Tề, là người tiếp nối chứng cứ chốt điện, kế thừa mừng vui Sao Mống, tỏa sáng trùm khắp ngoài bốn phương, hợp thuận ba thần, thể đạo ở nơi tôn quý, hiển bày đức nhân làm Thánh, sùng phụng chí giáo, tình gá huyền môn, pháp luân nước Ba-la-nại, giảng thuyết vườn Lâm-tỳ-ni. Yếu chỉ của Tứ đế, Bát chánh đạo, giải thuyên của Ngũ thừa thập hạnh, sức lớn Hương sơn tạm ngày khó thắng, trong ngoài hết da, còn nói chứa khắp, tùy hạnh nghiệp thế gian, ứng hoằng thệ của quần sinh. Kính vì Tiên hoàng biên tả hết thảy kinh gồm mười hai tạng, có cả thảy ba mươi tám ngàn không trăm bốn bảy (38.047) quyển. Đầu xanh giải tía, dây bạc tơ vàng, dùng màn hoa sen để che, lấy tòa sư tử để đỡ, văn cùng nhật nguyệt đồng cao, công gần như tạo hóa đồng rộng. Độ các Tăng Ni có ba ngàn (3.000) vị.
Vua Thế Tổ Võ Thành Hoàng đế (561-565) thời Bắc Tề, là người rộng cứu tế quần sinh, ứng vân du cõi Phật. Trong vườn Phương lâm, lại dấy khởi ngôn từ hoa lọng; bên cạnh thành Lạc Ấp, lại quấn quanh bài tụng ấn thư. Ở tầng đài Biệt Quán đều xây dựng già lam, ngọc bích châu cơ đều sung làm vật cúng thí. Tự thân đảnh lễ, thường chuyên kinh hành. Năm Thái Ninh thứ nhất (561) thời Bắc Tề, xây dựng tháp Doanh Bảo, cởi bỏ ngự phục trân quý đều đốt làm của cúng thí, trì tụng kinh Đại Phẩm cứ mỗi tháng vài biến.
Như trên, ở thời Bắc Tề, dòng họ Cao có sáu đời vua với thời gian hai mươi tám năm (550-578). Hoàng gia dựng lập bốn mươi ba ngôi chùa. Có sáu vị phiên dịch kinh được mười bốn bộ.
Vua Hiếu Mẫn Hoàng đế (Vũ Văn Giác (557557) thời Bắc Chu, là người thông mẫn nghiên cơ, suốt rành xa rộng, trời tung thần võ, dân quy hướng ngục tụng. Nắm kiếng vàng mà ở ngôi vị tôn quý, ngang bằng ngọc hành để dựng xây nước nhà. Gặp thời tao loạn giết chóc, đời lắm mây sấm, đất quất hết lưới, mặt nhật bít che ánh sáng, vướng vít xoay chín phục, chấn động kinh hãi trăm sinh linh. Thế rồi tượng vi lại lập chương, chốt cung thắt buộc lại, chỉ mẫn duệ làm Thánh, biết cơ gọi là Thần. Năm thứ nhất của thời Bắc Chu (557), hoằng thông tượng hóa, các bậc danh đức trong nước nhà, kính mộ nghĩa, quy hướng nhân, rộng mở cửa giải thoát, rộng thông đường Bồ-đề. Muốn khiến trời thấu cùng hữu đảnh che phủ mây từ, đất hết không ngằn mé đều đượm nhuần tuệ nhật.
Vua Hiếu Minh Hoàng đế (Võ Văn Dục 557561) thời Bắc Chu, là bậc Quân vương đến muôn nước, bình yên tỏ rõ trăm dân. Trong thân gần chín tộc, ngoài an hòa bốn cửa, phong bít ngọc quỳnh của giới khâu, quán xem gấm ngọc của đồ sơn. Cho đến gốc lành, liệt bút bày tích, các quan năm tướng mười hành đều biết đường quy y, ngoài quán trong giác, đồng lên cửa giải thoát. Thế giới có ngằn mé, thệ nguyện không cùng tận. Hai năm, vì Tiên hoàng kính tạo một tôn tượng Lô-xá-na thêu dệt thành và hai vị Bồ-tát, cao hai trượng sáu thước; mười hai tôn tượng bằng gỗ chiên đàn ngang bằng thân mình, mỗi mỗi đều có hai vị Bồ-tát và Kim cang sư tử v.v... diễm lệ như trời tạo thành, tuyệt diệu đồng như thần chế tác.
Vua Thái Tổ Văn Hoàng đế (?), là người thông minh ẩn tàng trí, nổi trội tiếp nối thể thức, bốn cửa xứng an hòa, trăm vua đều tương tự, trên giáng báo tốt, dưới hợp tinh tường. Ở tại Trường an tạo dựng sáu ngôi chùa như Truy Viễn, Trắc Dĩ, Đại Thừa, Ngụy Quốc, An Định, Trung Hưng v.v..., độ ngàn vị tăng. Cúng dường Pháp sư Vĩ và đệ tử có hơn bảy mươi vị, cúng dường Quốc sư Thiền sư Thật. Lại đến nơi mộ Thiền sư Thật, tạo dựng chùa Phước Điền, lại vì Đại Khả Hản Y Ni, tạo dựng chùa Đột Quyết.
Vua Cao Tổ Võ Hoàng đế (Võ Văn Ung 561579) thời Bắc Chu, là người ứng kỳ ngự biện, nắm kiếng cưỡi trời, Huấn hợp lòng trên dưới, Tắc của kinh trời nghĩa đất. Năm vĩ khác phương thì dùng khế trời để ngự trị, bốn hướng mất chốt thì dùng trục đất để kéo giúp. Dời phong đổi tục, an nước trị dân. Đạo trùm khắp cửa chấn, sáng rõ hoa bay ngọc ban thuấn, công mở điện đường, thông sông giáng ngọc khuê tích võ, núi ngôi giao linh, trong ngoài yên phúc. Văn Võ thành thứ hai (560) ở thời vua Hiếu Minh Đế (557-561) vì Văn Hoàng đế (?) mà tạo tôn tượng Đức Phật Thích-ca bằng gốm cao một trượng sáu thước, và Bồ-tát Thánh tăng, Kim cang sư tử bao quanh tháp báu gồm hai trăm hai mươi tượng, không gì chẳng là vân đồ long khí, bỗng chốc thành khéo léo của tổ chức, rưới nước sóng sông, chẳng gá chế của tháo dao. Chiếu Tịnh độ ở Thần quang, mở Hóa Phật ở Viên ảnh, bèn ở tại Kinh đô tạo dựng ba ngôi chùa Ninh Quốc, Hội Xương, Vĩnh Ninh v.v... Các bay đạp đài của Trung Thiên, cửa lớp giẫm quán của Liệt Tiên, tui mây, cột vẽ, trụ họa, rường vân. Phòng hạ cửa thư, ao sen vườn mít, nơi nơi tinh khiết, mỗi mỗi đều anh hoa. Người thấy quên cả trở về, người trông nhìn lóa mắt. Độ Tăng Ni có một ngàn tám trăm (1.800) vị, biên tả kinh luận có hơn một ngàn bảy trăm (1.700) bộ. Về sau, gặp Trương Tân sàm tấu mới làm điều bất thiện.
Vua Hiếu Tuyên Hoàng đế (Võ Văn Huân 579579) là người làm sáng ngời lại Phật nhật, sau quang rạng vượt hơn trước, tạo hơn vạn tôn tượng họa ở nơi bốn khám, biên tả ba ngàn (3.000) bộ kinh Bát-nhã, mỗi tháng sáu ngày trai chẳng bỏ sót, tám giới không lạm hủy, trọn đêm đến sáng kinh hành tụng niệm, lập bốn nguyện lớn, chí ở Bồ-đề. Như trên, ở thời Bắc Chu, dòng họ Võ Văn có năm đời vua với thời gian hai mươi lăm năm (557581), xây dựng được chín trăm ba mươi mốt ngôi chùa. Có bốn vị phiên dịch kinh điển được mười sáu bộ.
Vua Cao Tổ Văn Hoàng đế (Dương Kiên 581605) thời nhà Tùy, là người ứng vận ngàn năm, đáng là kế thừa của trăm vua, Huyền đức thông với Thần minh, chí công bao gồm tạo hóa. Mới đầu tiếp nhượng chưa động nhung y, ngay buổi lạc suy đều sáng ngời thứ tích. Từ đó, nắm ngọc quý mà vận càn tượng, giẫm văn minh mà ngang bằng đẩu cực. Nghiệp của đường trời lưới đất, lại tỏa sáng tử vi. Dáng dấp nhân thạnh Thánh minh, liền hoa nhật nguyệt; chí đức trùm khắp người quỷ, thần hóa hợp cùng âm dương. Oai phong chấn động chín lớp vây quanh, mưa mốc đượm nhuần bốn biển, tiếp nối giềng mối tốt tươi của Tam hoàng, bao gồm dấu vết sáng lạng của Ngũ đế, văn cảnh Thành Thang chẳng thể kịp vậy. Nên có rùa đen, chim tước đỏ, nai quý, rồng lành đều đông đúc nơi sông ngòi, đồng đến ở vườn lan, đến như sô ngô ở Thái bình, giáng kỳ lân ở Phú xương, đông cá Điệp, tây chim Kiêm lẫn lộn nơi thượng uyển, quạ đỏ phụng xanh sáng rực rừng hoa. Điện khuyết sản sinh cỏ linh, trụ tảng hoàn thành ngọc đẹp, đá nổ chữ kỳ lạ, núi phát tiếng tốt lành, cam lồ rưới lễ, suối vọt muôn sao, lấp lánh giếng nổi, cỏ châu mọc rậm, mầm tốt tươi đều xinh đẹp, người què có thể bước, người câm có thể nói. Từ đượm chín bờ, đượm nhuần tám biển, trù sáng để hợp biến qua kế tối để biết nắm lại là Thánh là Thần, lắm tài lắm nghề. Chính sách của vô vi, xa tiếp nối lìa liền; phong của hữu đạo, thật sánh cùng Viêm Hạo. Nghe nghĩ dứt tụng sánh phòng ốc có thể ngăn bít, hoằng hộ ở tâm, dẫn dắt niệm rường cột Tam bảo mang đội quần sinh. Năm Khai Hoàng thứ ba (583) thời nhà Tùy, ban sắc chiếu rằng: "Trẫm khâm trọng kính sùng Thánh giáo, nghĩ còn Thần vũ. Các chùa viện ở thời nhà Chu phá hủy đều nên tu sửa lại". Kinh Triệu Thái Thú Tô Oai vâng phụng sắc chiếu, nên ở trong kinh thành chọn chỗ đất hình thế ưu thắng, an đặt Già lam. Từ đó khắp trong kinh thành chẳng kể mọi nơi rộng hẹp mà có chư tăng giẫm trải qua đều hứa thuận xây dựng chùa và đều được tên công.
Xưa kia, tháng sáu năm quý sửu, tức năm Đại Thống thứ bảy(1) thời Hậu (Tây) Ngụy, vua Cao Tổ sinh tại phòng Thần Ni ở chùa Bát-nhã tại Đồng Châu. Bấy giờ, chánh khí minh phù, sáng đỏ đầy phòng nhà, ngồi tràn ngoài cửa, lửa tía xung trời. Mọi người trông thấy trong đó thảy đều kinh dị, cùng nhau cấm ước, không để người ngoài nghe biết. Sau đó ba ngày, hơi khí sắc tía tràn đầy cả sân, người vật ở trong đó đều thành sắc tía. Bốn phía trông thấy hơi khí ấy tợ lọng xoay, hoặc tợ như lầu cao. Lại có cảnh phong cam lồ, hợp đầu liền cành, ao nở hoa lạ, rừng sinh trái kỳ, trùng độc ẩn mất, chim cành bay liệng hót, bèn được Thần Ni giữ gìn bảo dưỡng. Đến lúc lên ngôi vị lớn bèn nhớ nơi ở xưa, nên năm Khai Hoàng thứ bốn (584) thời nhà Tùy, vua Kính vì Thái Tổ Võ Nguyên Hoàng đế và Nguyên Minh Hoàng Thái hậu, dùng nền móng xưa cũ của chùa Bát-nhã mà xây dựng chùa Đại Hưng Thiện. Chùa Bát-nhã trước kia trong khoảng niên hiệu Kiến Đức (572-578) thời Bắc Chu, trong ngoài loạn lạc, tấc xà thước rui quét đất đều hết. Nên mới khái thác quy mô, hoàn bị thêm rực rỡ, bảy lớp bao quanh, trăm trụ cùng gìn giữ, khám thất cao kính, hiên vũ liền mái, mâm vàng bưng mốc ngoài mây, khánh bay lay gió trên trời.
Lại vì Thái Tổ sang nhậm Tùy châu, cũng tạo dựng chùa Đại Hưng Quốc, kinh đô tạo dựng chùa Đại Hưng Thiện. Mở mang tạo lập Tháp linh, rộng đặt cung trời, tượng thiết bày cậy tự khoảng không. Mai Lương giá xoay, Bích Đang ngời hình thể, Ngọc Đề ngậm sáng, cột họa cưỡi mây, cột đội bưng vầng nhật. Gió hòa linh báu, mưa đượm nhuần phan ngọc. Rừng nở hoa thất giác, ao tràn nước tám công đức. Thỉnh mời chư đại đức lục hòa và danh tăng khắp mọi nơi thường có ba trăm vị, cúng dường tứ sự.
Năm Khai Hoàng thứ năm (585) thời nhà Tùy, thỉnh mời các đại đức kinh sư Pháp sư để cầu thọ giới Bồ-tát. Nhân đó phóng thả các tù nhân, vua bèn ban sắc chiếu rằng: "Trẫm sớm ứng lắm phước, nối dõi mạng cung bảo, nên muốn quy y chủng giác, dốc lòng sùng kính thắng quả. Vậy ngày hai mươi ba tháng này, thỉnh mời chư vị kinh sư Pháp sư đến điện Đại Hưng Thiện để Trẫm cầu xin thọ giới Bồ-tát. Nhưng giáo điển của Bồ-tát lấy giải thoát làm đầu, lấy giới hạnh làm gốc, lấy từ bi làm trước hết. Nay nhà tù đóng tối, có cảm động nơi cõi lòng, từ lưu tội trở xuống, đều nên phóng thả hết cả". Hứa cho những tù nhân nhẹ tội trong thiên hạ đều được phóng thả có hơn hai mươi bốn ngàn chín trăm (24.900) người, những kẻ đáng tội chết được giảm nhẹ có hơn ba ngàn bảy trăm (3.700) người. Mọi người ngâm răng đội tóc cũng rảo theo nhảy múa, nhà nhà hưởng phước, người người xưng mừng vui. Ý muốn đổi tâm mờ tối ấy mà tỏ sáng tuệ nhật đây. Các loài có sống đều biết đời đổi hiền lành vậy. Năm đó, vua lại ban sắc chiếu rằng: "Phật đem chánh pháp phó chúc cho các vị Quốc vương, Trẫm là người tôn trọng vâng phụng thọ nhận phó chúc của Phật, từ nay về sau hết đời Trẫm, mỗi tháng thường thỉnh mời mười bốn vị tăng theo phiên trên dưới, cứ bốn vị kinh sư ba vị đại đức đến điện Đại Hưng Thiện đọc tụng hết thảy kinh giáo". Tuy mắt phải trông xét muôn có, mà tai luôn đượm hưởng pháp vị, mỗi đêm hành đạo, Hoàng hậu thân gần nghe đọc tụng kinh, nếu có chỗ nghi ngờ, thì xin hỏi ở ba vị đại đức. Lại đến Hào châu, tạo dựng chùa Thiên Cung, đến Tinh châu tạo dựng chùa Võ Đức, trước sau mỗi nơi có mười hai viện, bốn phía nhà cửa có hơn trăm gian, cúng dường ba trăm vị Tăng.
Mới đầu, ngày chưa lên ngôi, vua đã đi khắp bốn lăm châu, nên nay đều tạo dựng chùa Đại Hưng Quốc. Ở tại cung Nhân Thọ, tạo dựng chùa
Tam Thiện; vì Hiến Hoàng hậu, tạo dựng chùa Đông Thiền Định. Lại ban sắc chiếu rằng: "Nếu hay cao bước thanh hư, cần cầu xuất thế, đều có thể giúp khuyên, ban cấp dạy răn, duỗi bày khuôn phép, núi cốc nhàn xa, hàm linh khác lạ, chỗ khéo thuyết ẩn nói Tiên thánh ở, người học đạo thú hướng rộng nhiều, gá nghĩ đá núi, qua lại rừng chàm, sự chờ đợi của hình hài có cần thiết đều cấp giúp, khắp Ngũ nhạc cho đến dưới danh sơn của các châu, mỗi nơi đều dựng đặt một ngôi chùa Tăng và ruộng nương".
Năm Nhân thọ thứ nhất (601) thời nhà Tùy, Văn Đế, Hiến Hậu cùng các cung nhân, v.v... đều cảm xá-lợi tỏa phóng ánh sáng, dùng cối chày để đánh thử nhưng uyển nhiên không tổn hại. Ở khắp bốn mươi châu, mỗi mỗi đều tạo dựng tháp báu, ánh sáng tỏa phát thần biến khác thường đầy đủ như sự biên ghi của Vương Thiệu. Từ đầu niên hiệu Khai Hoàng (581) đến cuối niên hiệu Nhân Thọ (605) thời nhà Tùy, độ Tăng Ni có hai mươi ba vạn vị. Trong nước xây dựng ba ngàn chín trăm bảy mươi hai ngôi chùa. Biên tả kinh luận được bốn mươi sáu tạng, gồm một trăm ba mươi hai ngàn không trăm tám mươi sáu (132.086) quyển; tu bổ kinh cũ gồm ba ngàn tám trăm năm mươi ba (3.853) bộ. Tạo tôn tượng bằng các thứ vàng, đồng, gỗ chiên đàn, giáp trử, ngà, đá, v.v... lớn nhỏ có một trăm lẻ sáu ngàn năm trăm tám mươi
(106.580) pho; tu sửa tượng cũ gồm một triệu năm trăm lẻ tám ngàn chín trăm bốn mươi (1508940) pho. Trong cung thường tạo dệt thêu thành tượng, và tượng họa, Phan châu năm sắc, Phan họa vẽ năm màu v.v... nhiều không thể tính kể. Với thời gian hai mươi bốn năm (581-605), tu tạo công đức hoằng dương Phật pháp của vua Văn Đế, không thể biên ghi đủ, trước đã nói rõ nên không ghi thêm.
Vua Dương Đế (Dương Quảng 605-617) thời nhà Tùy, là người nối dõi ứng dưới Võ thừa, nương theo đại nghiệp. Chỉ đức sáng tỏa khắp ức triệu, thần hóa thấm đượm cùng muôn dân. Làng chiêm đoán gió thời mưa, gá núi cầu đầu tháng, đất cây cuộn cát chảy, trầm lắng biển thâu ngọc. Ngoài thông suốt chín phái triết học, trong rành rẽ thấu cùng ba tạng, nghiên cứu diệu lý của chân như, hết cả nguồn thuyết của tạo hóa. Thể vật vượt trước, duyên tình phủ xưa. Từng vì giá xa của Đảnh Hồ, yên tìm hồn của Trường Lăng chợt nhiên trọn đây, mới bèn dấy khởi tịnh nghiệp, tạo dựng ruộng phước.
Năm Đại nghiệp thứ nhất (605), vì Văn Hoàng Đế mà tạo dựng chùa Tây Thiền Định, đều là thể thức trang nghiêm lớn, hoàn bị chuẩn mực quy mô rộng rãi; xây dựng đài như ý, liệt bày phòng thất thần thông. Đến nhân cao vút, chùa Linh chạm mây. Cây báu tám hàng, hòa linh bốn góc, lung tung cách của ba tầng, treo chuông tự vang hưởng, trải hộ sen ngàn cánh, bưng tòa bay lại, cao vợi nuốt điện Lang Da, vượt đạp không Lỗ cung, hết mọi thứ thần kỳ trong đời, đủ đầy các văn vật. Lại đến Cao Dương, tạo dựng chùa Long Thánh. Văn bia do Bí Thư Lang Ngu Thế Nam soạn thuật. Đó mới là các Nghiễm hương xa đến, tướng Đài Ái Hoa đỡ. Sóng vàng ban đêm dâng trào, bồi hồi bên cạnh Bích Đang. Dây ngọc sáng sớm ánh ngời trải qua giữa khoảng lưới châu, lặng lẽ rỗng sáng nơi màn phòng, sinh gió mây nơi hiển cửa. Khám Linh thiền thất, tượng bày hóa thành, vọt đài tháp báu, tận cùng cảnh đồ thần biến. Lại ở nơi đạo tràng, Thắng luận đại hội vô giá. Độ các hàng thanh tín sĩ nữ có một trăm hai mươi người. Lại vì Văn Hoàng đế, kính tạo tôn tượng Phật Thích-ca bằng vàng đồng ngồi tỏa phóng ánh sáng từ mu bàn chân, cao bảy thước hai tấc. Chưa kịp trang nghiêm, mà trên đỉnh ngưng tụ màu xanh biếc, hình thể chiếu ngời sắc màu vàng ròng, phóng ánh sáng lớn chiếu tỏa khắp phòng nhà. Đã cảm thông với điềm tốt lành, ban sắc các châu quận, mỗi mỗi đều đồ họa vậy.
Lại đến Tinh châu, tạo dựng chùa Hoằng Thiện, bên cạnh Long Sơn, làm tôn tượng Di-lặc ngồi cao một trăm ba mươi thước. Đến Dương Châu, tạo dựng đạo tràng Tuệ Nhật; tại kinh đô tạo dựng các chùa Thanh Thiền, chùa Nhật Nghiêm, chùa Hương Đài. Lại xả thí chín cung để tạo dựng chín ngôi chùa. Đến Thái lăng và Trang lăng, mỗi nơi đều tạo dựng một ngôi chùa. Sau khi bình định nhà Trần, đến Dương Châu, tu bổ kinh cũ, và biên tả bản mới có cả thảy sáu trăm mười hai tạng gồm hai mươi chín ngàn một trăm bảy mươi ba (29.173) bộ; chín trăm lẻ ba ngàn năm trăm tám mươi (903.580) quyển. Tu sửa một trăm lẻ một ngàn (101.000) tôn tượng cũ, chú đúc khắc chạm ba ngàn tám trăm năm mươi (3.850) tôn tượng mới. Đô Tăng Ni mười sáu ngàn hai trăm (16.200) vị.
Như trên, ở thời nhà Tùy, phả lục giáo hóa của họ Dương có hai đời vua, với thời gian ba mươi bảy năm (581-617), tạo dựng ba ngàn chín trăm tám mươi lăm (3.985) ngôi chùa, độ hai trăm ba mươi sáu ngàn hai trăm (236.200) vị Tăng Ni, có hai mươi sáu vị phiên dịch kinh điển được tám mươi hai bộ. Nhờ có nhà Tùy xây dựng nước nhà, Phật giáo Hội xương, vua Văn Đế mở đầu Linh nghi, điềm lành ứng hợp lắm nhiều. Vua Dương Đế kế thừa, ứng vận lịch báu, dựng xây càng nhiều. Từ xưa trước, khi còn ở phiên để, từng dựng lập bốn đạo tràng, Phật giáo và Lão giáo đều nêu, trong ngoài đồng cấp giúp. Đến lúc lên ngôi báu, lại càng mở rộng xiển dương, một mực ban huệ đến Hữu sinh, ba chứng nghiệm ở nơi Biệt Quán, cúng dường tứ sự hơn hai ngàn vị. Mỗi năm riêng các ngày húy kỵ đều thiết lập đại trai, mỗi lần đều độ Tăng Ni, trọn sung làm thể thức thường. Đến cuối nhiếp hóa Đại nghiệp (617) thời nhà Tùy, yêu giặc sinh khởi, tuy giao lắm ngu, can qua tiếp nối mà cung kính chỉ một, thủy chung không khuyết, tỳ tán Phật lý khắc nơi các bia minh.
Vua Cao Tổ Thái Võ Hoàng đế (Lý Uyên 618627) thời Tiền Đường. Hiện nay, vua Thái Tông Văn Hoàng đế (Lý Thế Dân 627-650) thời Tiền Đường.
Cùng Đại Thừa Tướng Bột Hải Vương ở thời nhà Ngụy dòng họ Nguyên, Thị Trung Thái Bảo Tư Đồ Công Quảng Ý Liệt Vương thời nhà Ngụy, Quảng Dương Trung Võ Vương thời nhà Ngụy, Tư Đồ Quảng Dương Vương thời nhà Ngụy, Quảng Dương Văn Hiến Vương, Tướng Quốc Cao Vương thời nhà Ngụy; Nhữ Nam Vương, Nghi Đô Vương thời nhà Ngụy; Thượng Đảng Vương Mục thời nhà Ngụy. Thường Sơn Vương Chí thời nhà Ngụy; Hoài Dương Vương Úy thời nhà Ngụy. Hà Đông Vương Tuân thời nhà Ngụy; Đông Dương Vương Phi thời nhà Ngụy. Hoài Nam Vương Tha thời nhà Ngụy; Tần Vương Hàn thời nhà Ngụy. Từ Đồ Bắc Hải Vương Tường thời nhà Ngụy; Tư Mục Cao Dương Vương Ung, Bành Cổ Vương Hiệp thời nhà Ngụy; Tế Nam Vương Văn Nhã thời nhà Ngụy; An Phong Vương Diên Minh thời nhà Ngụy, Trung Sơn Vương Hy, Lang Da Vương Tụng thời nhà Ngụy; Thượng Thư Lệnh Quảng Dương Vương Gia thời nhà Ngụy; Trần Lưu Vương Kiền thời nhà Ngụy; Tề Hiến Võ Vương thời nhà Ngụy; Sứ Trì Tiết Trung Ngoại Chư Quân Sự Tề Vương thời nhà Ngụy; Cự Lộc Vương Xiển, Lục Thượng Thư Sự Bành Thành Vương Thiều thời nhà Ngụy; Tiếu Quận Vương Lượng, Quang Hạ Vương Di thời nhà Ngụy; Lâm Thao Vương Vinh, Thái Sư Đại Tư Mã Lạc Châu Thứ Sử Phùng Hy thời nhà Ngụy. Sử Trì Tiết U Châu Thứ Sử Tư Đồ Công Hồ Quốc Trân thời nhà Ngụy; Tư Mã Tổ Oánh Tự Nguyên Trân thời nhà Ngụy, Tư Không Lý Vô Vi thời nhà Ngụy, Thái Phó Xương Ninh Vương Lý Thật thời nhà Ngụy, Thiếu Phó Kiến Xương Công Đậu Lược thời nhà Ngụy, Tư Không Cao Vi Tào thời nhà Ngụy, Tư Đồ Cao Long Chi thời nhà Ngụy, Thị Trung Thượng Thư Lệnh Nguyên Hựu thời nhà Ngụy, Hữu Bộc Xạ Đại Hành Đài Mộ Dung Thiệu Tông thời nhà Ngụy; Lại Bộ Thượng Thư Hình Loan thời nhà Ngụy; Phiếu Kỵ Đại Tướng Quân Nghi Đồng, Tam Ty Hằng Châu Thứ Sử Lục Chính thời nhà Ngụy. Thái Thường Khanh Cung Hầu Trịnh Quỳnh thời nhà Ngụy, Ung Châu Thứ Sử Hàn Trọng Tường thời nhà Ngụy, Hoàng Môn Thôi Lăng thời nhà Ngụy, U Châu Thứ Sử Lô Lệnh Thủ thời nhà Ngụy, Bái Quận Thái Thú Triệu Nguyên Tắc thời nhà Ngụy, Hà Nam Duẫn Võ Ấp Công Lý Tương thời nhà Ngụy, Thái Tử Trung Thứ Ngự Sự Trung Thừa Lục Tải thời nhà Ngụy,
Vệ Úy Khanh Hứa Bá Đào thời nhà Ngụy, Tán Kỵ Thường Thị Ôn Tử Thăng thời nhà Ngụy; Ninh Viễn Tướng Quân Trần Mạc Trần Dẫn thời nhà Ngụy.
Đại Thừa Tướng Nội Ngoại Chư Quân Sự Thường Sơn Vương Xác thời nhà Tề; Thái Úy Lan Lăng Vương Trưởng Cung thời nhà Tề; Tư Đồ Lang Da Vương Nghiễm thời nhà Tề. Lục Thượng Thư Sư Trưởng Quảng Vương Trạm thời nhà Tề, Đại Đô Đốc Thượng Thư Quảng Bình Vương thời nhà Tề, Đại Tư Mã Thanh Hà Vương Đàn thời nhà Tề, Tả Bộc Xạ Quảng Ninh Vương Hiếu Diễn thời nhà Tề; Thị Trung Sử Trì Tiết Thượng Thư Lệnh, Lục Sự Đô Đốc Triệu Châu Chư Quân Sự Phiếu Kỵ Đại Tướng Quân Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty Hộ Tướng Quân Triệu Châu Thứ Sử Đái Lục Châu Đô Đốc Tinh Châu Đại Trung Chánh Trưởng An Công Tấn Xương Vương Đường Ung thời nhà Tề, Hữu Thừa Tướng Hàm Dương Hộc Luật Tự Minh Nguyệt thời nhà Tề, Tả Thừa Tướng Bình Nguyên Vương Đoàn Hiếu Tiên thời nhà Tề, Lục Thượng Thư Sự Hoài Nam Vương Hòa Sĩ Khai thời nhà Tề, Thái Thường Thanh Hà Vương Cao Nhạc thời nhà Tề, Thái Tể Chương Vương Khổ Tịch Thiên Thu thời nhà Tề, Thị Trung Tần Vương Cao Ngạn Quy thời nhà Tề, Thị Trung Thượng Thư Lệnh Nguyên La thời nhà Tề, Thượng Thư Lệnh Cao Triệu thời nhà Tề, Thái Úy Bành Lạc thời nhà Tề, Tư Đồ Phan Tướng thời nhà Tề, Tư Không Tư Mã Tử Như thời nhà Tề, Quang Lục Đại Phu Thượng Thư Bộc Xạ Dương Tuân Ngạn thời nhà Tề, Thiếu Phó Bộc Xạ Thượng Thư Ngụy Thâu thời nhà Tề. Quang Lục Đại phu Thượng Thư Bộc Xạ Thôi Tiêm thời nhà Tề, Hữu Bộc Xạ Thôi Quý Thư thời nhà Tề, Tả Bộc Xạ Yến Tử Kính thời nhà Tề, Bộc Xạ Triệu Ngạn Thâm thời nhà Tề, Thị Trung Hộc Luật Hiếu Khanh thời nhà Tề, Thị Trung Hộc Luật Văn Nhã thời nhà Tề, Thị Trung Từ Chi Tài thời nhà Tề, Thị Trung Cao Chánh Đức thời nhà Tề, Thất Binh Nhượng Thư Vương Nguyện Cảnh thời nhà Tề, Thái Thường Khanh Thôi Ngang thời nhà Tề. Tán Kỵ Thường Thị Lưu Địch thời nhà Tề, Vệ Úy Khanh Đỗ Bật thời nhà Tề, Điện Trung Thượng Thư Hình Tử Tài thời nhà Tề, Bí Thư Giám Tổ Hiếu Trung thời nhà Tề, Thượng Thư Tả Thừa Phong Hiếu Diễm thời nhà Tề, Sử Trí Tiết Bình Nam Tướng Quân Nhân Châu Thứ Sử Kim Tử Quang Lục Đại Phu An Khương Hầu Phan Nhu thời nhà Tề.
Trụ Quốc Tương Châu Tổng Quản Vệ Vương thời nhà Chu, Trụ Quốc Ích Châu Tổng Quản Triệu Vương thời nhà Chu, Trụ Quốc Ung Châu Thứ Sử Tề Vương thời nhà Chu, Thái Sư Đại Trủng Tể Trụ Quốc Đại Tướng Quân Tấn Quốc Công Võ Văn Hộ thời nhà Chu, Trụ Quốc Thượng Thư Bộc Xạ Sở Quốc Công Đậu Lô Ninh thời nhà Chu; Thái Phó Trụ Quốc Đại Tướng Quân Đại Tông Bá Trịnh Quốc Công Đậu Xý; Thị Trung Trụ Quốc Đại Tượng Khanh Võ Vệ Tướng Quân Quan Quân Tướng Quân Trung Tán Đại Phu An Phong Công Đoàn... thời nhà Chu; Trụ Quốc Ung Châu Mục Nam Duyên Bát Châu Chư Quân Sự, Duyên Châu Tổng Quản Tán Quốc Công Đậu Cung thời nhà Chu. Đại Tướng Quân U Châu Thứ Sử An Định Cung Võ Văn Quý thời nhà Chu. Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty Thái Tử Tẩy Mã Vân Minh Trang Công Lang Da Quận Vương Thác Bạt Thắng thời nhà Chu. Sử Trì Tiết Thiểm Châu Đô Đốc Hành Đài Lang Trung Thông Trực Tán Kỵ Thường Thị Hà Đông Công Võ Văn Thiện thời nhà Chu. Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty Dương Hóa Công Nguyên Ngang thời nhà Chu. Trụ Quốc Đại Tướng Quân Lũng Tây Đông Cung Dương Toán thời nhà Chu. Thông Châu Thứ Sử Hữu Thị Thượng Sĩ Tán Kỵ Thường Thị Dương Tháo thời nhà Chu. Tư Không Trinh Hầu Trịnh Mục thời nhà Chu. Thị Trung Thiếu Phó Đông Triệu Quận Thú Hành Đài Lang
Trung Đại Tượng Khanh Yên Quận Công Lô Cảnh Nhân thời nhà Chu. Thái Bảo Trụ Quốc Đại Tướng Quân Ngô Võ Công Yất Trì An thời nhà Chu. Đại Tướng Quân Nam Man Đô Giám Thương Sơn Công Liễu Ái Chi thời nhà Chu. Bắc Kinh Châu Thứ Sử An Đạo Công Tịch Cố thời nhà Chu. Sứ Trì Tiết Trụ Quốc Đại Tướng Quân Đại Đô Đốc Chương Châu Thứ Sử Từ Quốc Công Nhã Can Phụng thời nhà Chu. Sứ Trì Tiết Thái Phó Trụ Quốc Đại Tướng Quân Thanh Hà Công Hầu Mạc Trần Hưu thời nhà Chu. Thái Sư Trụ Quốc Thục Quốc Uất Trì Hướng thời nhà Chu. Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty An Chánh Công Sứ Hùng thời nhà Chu. Khai Phủ Bình Bắc Tướng Quân Nhân Châu Thứ Sử An Hóa Công Khâu Hồng Tân thời nhà Chu. Ích Châu Phủ Trung Lang Tân Châu Thứ Sử Thái Cả thời nhà Chu. Khai Phủ Oai Viễn Tướng Quân Vương Tỉnh thời nhà Chu.
Đại Tướng Quân Hòa Kê Hùng thời nhà Chu. Đại Tướng Quân Dĩ Niên Vĩnh thời nhà Chu. Ty Kim Đại Phu Phá-đa-la-kỷ thời nhà Chu. Quân Tư Mã Hồng Hòa Công Ý Lực Cần Trọng Khánh thời nhà Chu.
Tần Vương Tuấn thời nhà Tùy. Thục Vương Tú thời nhà Tùy. Hán Vương Lượng thời nhà Tùy. Thái Sư Thượng Trụ Quốc Thân Quốc Công Lý Mục thời nhà Tùy. Thái Bảo Thượng Trụ Quốc Tiết Công Trưởng Tôn Lãm thời nhà Tùy. Thượng
Trụ Quốc Sư Trì Tiết Hoài Nam Tổng Quản Thọ Châu Thứ Sử Quán Vương Dương Hùng thời nhà Tùy. Đại Tư Mã Thượng Trụ Quốc Thần Võ Túc Công Đậu Nghị thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Lỗ Quốc Công Ngô Khánh Tắc thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Thượng Thư Tả Bộc Xạ Tề Quốc Công Cao Dĩnh thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Hữu Vệ Đại Tướng Quân Trần Quốc Công Đậu Kháng thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Võ Vệ Tướng Quân Lương Quốc Công Hầu Mạc Trần Bính thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Lạc Dự Thập Thất Châu Chư Quân Sự Lạc Châu Thứ Sử Tuân Dương Công Nguyên Hiếu Cự thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Kinh Châu Tổng Quản Thượng Minh Công Dương Kỷ thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Thượng Thư Tả Bộc Xạ Việt Quốc Công Dương Tố thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Nạp Ngôn Bi Quốc Công Tô Võ Oai thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Đô Đốc Hà Đông Chư Quân Sự Hà Đông Thái Thú Đậu Khánh thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Hữu Vệ Tướng Quân Nam Khương Công Lưu Tung thời nhà Tùy. Phiếu Kỵ Tướng Quân Nghi Đồng Tam Ty Phần Châu Thứ Sử Thôi Phụng thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Hà Minh Vương Dương Tích Tà thời nhà Tùy. Binh Bộ Thượng Thư Thượng Đại Tướng Quân Long Cương Công Đoàn Văn Chấn thời nhà Tùy. Trứ Tác Lang Tế Nam Hầu Vương Thiệu thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Hào Linh Tứ Châu Tổng Quản Hải Lăng Công Hạ Nhã Nghị thời nhà Tùy. Sứ Trì Tiết Đại Tướng Quân Lương Châu Chư Quân Sự Lương Châu Thứ Sử Triệu Quốc Công Độc Cô La thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Lương Ích Lục Châu Tổng Quản Tướng Quốc Tương Công Lương Duệ thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Quản Tông Trong Công Lý Sùng thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Tả Võ Vệ Đại Tướng Quân Sứ Trì Tiết Lương Châu Thứ Sử Võ Văn Khánh thời nhà Tùy. Thượng Đại Tướng Quân Doanh Châu Tổng Quản Ngụy Hưng Công Vi Thế Văn thời nhà Tùy. Thượng Trụ Quốc Lại Bộ Thượng Thư Thượng Công Vi Thế Khương thời nhà Tùy. Quản Hán Thái Thú Tương Viên Hầu Tiết Diễm thời nhà Tùy.
Vua Cao Tổ Thái Võ Hoàng đế (Lý Uyên 618627) thời Tiền Đường, là người gom hết Nghiêu ở Tấn, khế hợp Vũ ở nền móng của Chu. Mây nổi rồng bay, vỗ về thời kỳ mạng thế. Hợp một khuôn để dấy vận, nhân chín hợp mà vui suy đẩy. Phát từ tham khư khắc định kinh thất, khuôn phép điều tục đã ban, giáo của ước pháp bèn bày, giếng nhóm năm sao, hóa nhuần bốn biểu. Đất thắt lại chánh, lưới trời tỏa giăng. Từ Đông đến Tây xa an gần ổn, mà cờ nghĩa mới chỉ trải đến hoa râm kia, trông tế linh đàn để cầu nhiều phước. Đất này là đường của
Triều Tông, muôn nước là khu vực lục hợp giao hội, có thể chiêm ngưỡng nghi hình, nương đợi thiền tụng, mới đến bên hữu đền thần, thử dựng Già lam, tạo chùa Linh Tiên. Văn bia một ngôi, do con thứ Lý Bá Dược chế thuật, văn vẻ ánh ngời, vàng ngọc cùng tỏa rạng. Dẫn ánh sáng suốt sớm tối, đỏ rực hình thể cầu vồng, đài hoa yểu điệu, gần đồi núi sen, hoa quán cao vời, cong đến cụ khuyết. Lại tạo tượng viết kinh, tu đủ các phước đức. Tại kinh đô lại dựng chùa Hội Xướng, chùa Thắng Nghiệp, chùa Từ Bi, chùa ni Chứng Quả, chùa ni Tập Tiên. Lại xả phủ đệ xưa trước để làm chùa ni Hưng Thánh. Đến Tinh châu tạo chùa Nghĩa Hưng, đều là phòng nhà ngời ánh, tượng bày nghiêm hoa, nhiễu quanh vẽ sao, xà rường khắc họ nguyệt, cửa cao hứng sương mốc, nhà rộng kéo hút gió. Vườn tuệ rừng thiền thảy đều đầy đủ.
Năm Võ đức thứ nhất (618) thời Tiền Đường, ngay trên đường thông phía Nam cửa Chu Tước thiết lập đạo tràng khai mở đại hội vô giá. Quan liêu vũ khách nắm bảng đến dự, dung cùng ruộng phước, tỏa khói ngùn ngụt, bước hư mới dẫn, hết cản mây đi, thanh phạm từ từ đến kham lưu lại độ điểu, phảng phất diệu cúng, hình ngũ tịnh mà nâng lại, rực sáng danh hoa, ngời tam sơn mà bưng đến. Khi ấy, xe ngựa kề cập, các hàng sĩ nữ đông đầy, như đến núi Hiện Thanh cúng tế uống. Giả sử khiến ánh sáng vầng nhật thông mộng, chỉ truyền chứng nghiệm của Bạch Mã, Bồ-tát ứng sinh, nhọc nghe sự tích ở năm xích ô, so sánh với ngày nay, rất có thẹn thay! Lại vì Thái Tổ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Trinh Hoàng hậu, tạo ba tôn tượng ngang bằng thân mình bằng gỗ chiên đàn, tướng tốt kỳ lạ, trang nghiêm hiếm có, đưa đến cúng dường nơi chùa Từ Bi.
Tháng hai năm Võ Đức thứ nhất (618) thời Tiền Đường, khi ấy cảnh trời trong lành, dâng cầu hiến phước, lưỡng nghi an thái, muôn vật chung hưởng, ứng với thích nghi nhiều phước, trải đượm nhuần chỉ mới mẽ, vua truyền các hàng Sa-môn, Đạo sĩ cả thảy chín vị đến điện Thái Cực suốt bảy ngày hành đạo. Đến ngày bãi hội, thiết trai cúng dường ngàn vị Tăng. Sa-môn Pháp Lâm cho là Phật giáo và Lão giáo đồng nơi hoằng tuyên, mong Thần công dẫn ba cảnh liền hàng Bảo mạng cùng nhị nghi đều vào, mới mạo muội với ngôn từ quê kệch dâng bài tụng rằng:
"Xa tìm rỗng xưa
Vời nghe Nguyên Hoàng
Nhân thời dạy răn
Dùng trí tỏa đức
Cầu ân lộc mong
Báo đức nung thưởng
Chỉ rõ tiểu tế
Sao nghe đại phương?
Chưa hoằng tam giáo
Chỉ đọc cửu chương
Ứng kỳ đánh loạn
Vượt Thánh Đường ta
Thấu suốt nhân quả
Yên khoanh văn xương
Hóa sánh mười hiệu
Nhân sâu trăm vua
Giữa tháng trong luật
Thời đến Thiếu dương
Dưới thương côn trùng
Trên đáp cao cả
Thử bày kim khuyết
Dẫn mở đạo tràng
Nhật cung soi sáng
Mây giăng nhà ngọc
Khói tỏa danh hương
Cúng nghi bay xuống
Tiếng ngậm phụng ren
Kỳ lân bày điềm
Cam lồ hiện hành
Công theo kiếp xa
Đức cùng trời dài
Ân đượm có chừng
Nhuần khắp không mé
Mạng đồng nguyên thủy
Thể loại Kim cang
Nghiệp lớn vĩnh viễn
Giáng phước lắm nhiều".
-Hiện nay, vua Thái Tông Văn Hoàng đế (Lý Thế Dân 627-650) thời Tiền Đường, là người bẩm thọ khí của Thái dịch Thái sơ, vốn linh của Thiên hoàng Thiên đế, phòng sâu nền móng Cao Dương, gò đẹp dựng cơ nghiệp Trùng hoa, sáng đỏ lóa cửa, khí tía xung trời. Hình thể mặt rồng ngực phụng, điềm điềm ứng trán vầng nhật trăng treo, khác lạ mắt sông miệng biển, kỳ đặc trên phong dưới bén. Thông Thánh nhìn cao, biết lại ẩn đi, tham sâu vào mầu, cùng Thánh tận tánh. Phàm thửa trời trao đủ thể, tự nhiên mới đầu chưa lên ngôi, kinh luân khắp thiên hạ. Gặp lúc cuối thời nhà Tùy, khắp vũ nội phân loạn đổ nát, lửa đốt núi côn, nước bay biển cả, Vương Thế Sung vớt hổ ở Cũng lạc, Đậu Kiến Đức chật vật ở Ký Định, Đường Bật, Tiết Cử đã là kiến nhóm tụ ở Tam Tần, Hắc Đạt, Võ Chu; cũng là chim si trương bày ở sáu quận, đều là ý rượt đuổi nai, mỗi mỗi mở nghi tiếm hiệu, ung bế đệ tử vô lại, dẫn đồ chúng ô hợp, tung sức trâu dê, phát hung cỏ nước. Bên phải sông đã lại thấy xác rồng rắn v.v... đất của Trung Nguyên ngọc đá đều thiêu đốt, bèn khiến đất bày trời duỗi tranh nhau có tán thán sống lại, yếu phục trên kinh đô, người dấy buồn trử trục.
Hoàng Thượng ta ở thân gần Đế tử, ứng mạng Thiên sách, dùng trạng như gắng gỏi, cứu nguy ách đạp băng, vì rất lo sợ đêm, đến với gấp treo ngược, thực hành đủ chín chặt, bao gồm cả sáu quân. Dùng cờ trời cờ trăng đến trên, dùng trận trời trận đất trải dưới. Tiếng trống chấn động đồng hoang, hơi khí lung lay cửa trời, vọng hưởng sừng núi kêu oai phong kinh động nhà đất. Từ đó, đeo muôn sao mà hướng vào, cưỡi sấm chớp mà dẫn trước, không gì chẳng là ngói vỡ băng tan, gió thổi cỏ rạp, khải ca hiện kiện không cùng luận công.
Từ Thiên Hoàng cửu kỷ trở lại, sau năm mươi hai trận chiến, trải qua một trăm năm mươi hai triều đại, gồm một ngàn ba năm mươi chín (1.359) đời, với thời gian mười triệu một trăm hai mươi hai ngàn một trăm hai mươi bảy (10.122.127) năm trở lại, trượng búa vào trận, cờ hiệu thề nguyện đông nhiều, dẹp trừ khí độc, cắt đứt thương quấy, vớt đắm chìm giăng ngang dòng, cứu họa thiêu đốt bình nguyên, lắng yên một khu vũ, mở trang thiên hạ, chưa có đâu dùng binh như Hoàng thượng chúng ta vậy. Cao Tổ ngưng thần dưỡng nuôi Thánh, rong ý tưởng ngoài ráng mây, ra khai mở vào tối, đạp cao ngoài trời người. Xưa trước dùng muôn phương, làm tối trăm thần khiên tế, khuất cao phong của Dĩnh Dương, vớt đắm chìm khắp nước nhà, dân chúng nhờ đức tái tạo, muôn loài đội ân lập thành. Chẳng lấy phòng vàng làm tâm, cúi lấy muôn loài làm nghĩ nhớ, ôm hoài cởi giày, không quên linh phủ, chí chọn đội mang, có hình ở minh phát, mừng vui tế giao có thể nương gá. Hân hoan Tông hữu có chủ, xét thời huyện ngày, truyền báu lớn ở Thiếu dương, tự tỏa sáng ứng soi vỗ về làm phó chức xuân cung. Đức giúp trong ngoài, nhân trùm u hiển. Thế rồi, ánh sáng đuổi bày hình thể, đuốc chiếu giữa khoảng vũ trụ, giúp Võ Hoằng Nhân, lớn trăng ngăn gió mây, bèn tuân theo tam thiện, viện trinh muôn nước. Đến lúc cửa trời mở lại, lịch báu chỉ mới xinh. Đến xích huyện mà thề lớn trang nghiêm, vỗ về dân chúng mà rộng làm lợi ích. Mở mặt nhật tứ đẳng chung đốt khắp mây Nghiêu, tung gió lục độ, giăng tràn mưa Thuấn. Thuyền báu đắm chìm mà lại nổi, mây từ cuộn xếp mà lại duỗi buông. Đài tiên gần vườn pháp chung hoa, kiếng ngọc với xe vàng đồng chuyển. Đượm khắp hữu đảnh, ân trùm không bờ mé. Linh ứng tốt lành, điềm phù hợp với thấy trước, khoan nhân đức hiếu, sử ghi hoàn bị sau sách. Thường lấy mở lưới làm tâm, buộc dây ở niệm, ý muốn trọn trống không tù ngục, chấm dứt lửa canh phòng, côn trùng quần sinh đồng quy hướng, nhân thọ mênh mông, khắp nước nhà đều kính phụng chân như.
Năm Trinh Quán thứ nhất (627) thời Tiền Đường, hiến triệu trăng giáp chung, dựng cao thắng tràng. Thiếu Dương lúc cô tẩy, rộng mở điện tuệ. Tăng Ni khắp kinh thành đều ở tại chùa suốt bảy ngày hành đạo. Trai cúng mọi sự cần dùng, do Hữu ty cung cấp. Đến ngày kết thúc bãi trai hội, tất cả đều đến chùa Đại Hưng Thiện.
Năm Trinh Quán thứ hai (628) thời Tiền Đường, vua ban sắc chiếu rằng: "Thần đạo thiết lập giáo, lấy từ huệ làm trước hết; Huyền Hóa ngầm thông, đình dục vốn đầu. Trẫm cung kính ứng với Đại Bảo, vỗ về mến thương muôn dân, tâm niệm xót thương, xúc chạm các loài mà lớn, phải dùng bên cạnh mong cầu thầm hổ giúp, u tán minh linh. Mong cầu chín công chỉ tuần tự, năm phước ứng đây. Vừa rồi nghiêm sương sớm giáng, thu thật chẳng lên, tranh lời ít mỏng, không quên thẹn sợ. Nay trăm thứ lúa thóc tốt tươi, muôn thật sắp thành, còn sợ gió mưa trái mùa, ít nuôi dưỡng không nơi cậy nhờ, dám mượn thông minh đây giúp nhiều phước ấy, nên vì sương mốc trời, ức triệu ngưỡng cầu thêm phước. Có thể ở tại kinh thành và chùa quán ở các châu trong thiên hạ, các hàng Tăng ni Đạo sĩ v.v... suốt bảy ngày bảy đêm đọc tụng kinh hành đạo. Mỗi năm vào tháng giêng và tháng bảy đều chuẩn theo đó mà làm. Ân cao chỉ thước tấc, sức Thánh ngầm phù trì, cảnh phong tươi tốt, mưa gió đúng thời đúng tiết. Mầm giống gieo trồng khắp đồng khắp rẫy. Nước giàu có vốn của chín năm, nhà giàu có đựng đầy muôn sọt. Hoàng đế xưa trước gieo trồng ngũ hằng, rộng giúp Thập thiện, mở đầu khởi phát nghiệp Bá Vương đến với ức triệu tâm ý vui thích. Chỉ vì lúc mới đầu lập nghĩa, gặp phải cuối đời, thân gần đáng sắt đá giáo mác, từng thống lãnh dẫn đầu binh lính, hoặc Đông chém bảy hùng, Tây lọc trong tám nước, tung hoành lính thần mà giết lợn phong, cưỡi sách trời mà chém rắn tu. Đã động oai phong hừng hực ấy, sợ kết đau xót oan hồn, cuối mùa xuân năm đó, đích thân vua ban sắc chiếu chỉ.
Từ cuối thời nhà Tùy mở đầu lập nghĩa, chí ý ở tại cứu vớt đắm chìm, đánh Bắc dẹp Đông đến các nơi bình lắng hết. Hoặc dưới búa vàng, đầu mũi con lăn, phàm có thương tổn chết hại, khó thể nhớ ghi hết, phàm tự tay chém giết gần đến cả một ngàn. Trộm lấy Thánh giáo của Đức Như Lai, rất chuộng Từ Nhân, khoa phân cấm giới, giết hại là trọng. Trọn nói lý này càng thêm hối sợ. Bèn bảo Hữu ty ban sắc các chùa khắp kinh thành đều vì thiết trai hành đạo, bảy ngày bảy đêm dốc hết chí thành lễ kính sám hối. Phàm các thứ y phục đều xả làm cúng thí, mong nạn trong ba đường nhờ đó mà được thoát, khổ của muôn kiếp, nhờ đó mà được rộng giúp. Diệt tâm oán chướng, hướng đến đạo Bồ-đề.
Tháng giêng năm Trinh Quán thứ ba (629) thời Tiền Đường, vua lại ban sắc các Tăng Ni trong kinh thành, ở ngay tại chùa mỗi tháng mười bốn ngày đọc tụng kinh Nhân Vương Đại Vân v.v... hành đạo. Lấy đó làm thể thức thường. Lại phụng sắc Tam Tạng Pháp sư Ba Phả v.v... đến ở chùa Đại Hưng Thiện phiên dịch kinh Bảo Tinh. Sa-môn Pháp Lâm vì ghi lời tựa rằng: "Kinh Bảo Tinh nguyên Phạm bản có hơn ba ngàn kệ tụng. Đức Như Lai lúc đầu mới chứng đắc giác đạo, hóa độ các Tôn giả Mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất, rồi nhiếp phục Ma vương, hộ trì đất nước mà giảng nói kinh này vậy. Từ khi giáo pháp lưu truyền đến phương Đông dẫn trải qua thời gian lâu xa. Văn của ba luân tám tạng, ý chỉ của bốn thọ năm thừa, hiển bày thần quang nơi thạch thất, lưu truyền Phạm hưởng đến Thanh đài, tuy dẫn dịch tương tầm, còn nhiều nghi khuyết. Nay, Hoàng đế thời Đại Đường chúng ta là Thánh là Thần xứng văn xứng võ, cưỡi cơ vỗ vận, vớt đắm cứu đốt, trái lại phong của Thượng hoàng, hành hóa không lời. Bỏ thái bỏ thậm, đã nắm nhanh nơi tám hoành, vô sự vô vi, mới là triều tông ở muôn nước. Sóng biển ở đất Thiên sơn vào hết bến bờ, làng sân rồng hang phụng đều đượm Thanh giáo. Nhân giẫm mở lưới, sửa vết buộc dây, Đại đức đông nhiều, ngoài ngang bằng tám tấc tiểu tâm giúp giúp, trong chỉnh bốn oai nghi. Đến xích huyện mà tràn đầy từ bi, nương cậy Huyền hổ mà phô bày hoằng thệ. Thường vì các pháp chẳng phải có, ngã vật đều không. Nhìn lời chân yếu, không gì qua kinh điển Phật giáo. Có Tam Tạng Pháp sư Ba Phả người nước Thiên Trúc, tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường gọi là "Quang Trí", thệ nguyện hoằng truyền pháp hóa, chẳng ngại sợ gian nguy, xa trải qua thông hà, vân du đến Chấn Đán, đường dài trải hơn bốn vạn dặm. Năm Trinh Quán thứ nhất (627) thời Tiền Đường vừa đến kinh đô. Khi đã lên pháp tịch, bèn đối chác áo gấm. Ban sắc chiếu cho Hữu Ty tìm các bậc thạc đức, kiêm tinh thông Tam giáo đủ cả mười khoa, được cả thảy mười chín vị đến chùa Đại Hưng Thiện thỉnh cầu Tam Tạng Pháp sư Ba Phả cùng đối dịch. Các Samôn Tuệ Thừa v.v... chứng nghĩa, Sa-môn Huyền Mô v.v... dịch ngữ, Sa-môn Tuệ Minh, Pháp Lâm v.v... nắm biết vâng thừa yếu chỉ, chăm chú làm rõ lại, xét danh định nghĩa đủ ý thành văn. Bắt đầu từ tháng ba năm Trinh Quán thứ ba (629) thời Tiền Đường, mãi đến tháng năm sau (630), phiên dịch được mười quyển mười ba phẩm, dùng một trăm ba mươi cuộn giấy, gồm cả thảy sáu mươi ba ngàn tám trăm tám mươi hai (63.882) lời. Đến tháng trọng Đông năm đó, Sa-môn Tăng Trân chủ chùa Thắng Quang vâng phụng sắc chiếu đến cung thỉnh tôn tượng về chùa Thắng Quang để cúng dường. Năm Trinh Quán thứ tư (690) thời Tiền Đường, hiến triệu chư vị Đại đức ở các chùa gồm bốn mươi chín vị, suốt hai mươi mốt ngày làm lễ khánh tạ tôn tượng mà hành đạo. Đến mãn kỳ hạn, thiết trai hội cúng dường ngàn vị Tăng. Các hàng Vương công đều đến hành hương".
Sa-môn Pháp Lâm lại tấu dâng vua bài tụng về tôn tượng thêu họa rằng: "Lâu vì tám cây ngầm ánh sáng, hai sông ẩn vết, vua Ba-tư-nặc luyến mộ kính ngưỡng, khắc họa mà làm thành toàn thân, Ca Đế chí thành thếp vàng mà đồ hình đủ tướng. Kịp đến lúc Thanh tinh trải qua phương Nam, Bạch mã vượt về phía Đông, tượng giáo lưu truyền, linh nghi lan tỏa. Từ đó, nghiễm nhiên dáng thần đế lên tùng giếng, cúi mong Thánh thể mà thí minh châu. Ánh sáng tỏa bày Trương Kiều, sắc màu lưu nhuận Hổ Độc. Hiện bày đeo mặt nhật nơi Hán Hậu, cảm phất Hào ở Tấn Vương. Hoặc trông nhìn bước mà nép theo muôn núi, chợt bồi hồi mà đến bãi mộng. Điềm ứng tốt lành đẹp xinh từ đó có lại, chưa có châm thêu đồ họa chân tướng viện không khuôn trọng".
Hoàng đế thời Đại Đường chúng ta, xưa trước gieo trồng bốn thệ nguyện lớn, sẵn có năm đức. Thần công xa ở Hiên Hạo, chí trị đẹp ở Thành Khương. Nhân động thượng Huyền, sức sánh Đại Đạo, mây tốt lành rủ sắc thể, kiếng vàng ngậm ánh sáng bảy sao. Chim linh ứng hiện tốt lành, đuốc ngọc hòa cùng hơi khí bốn mùa. Lớn như tóc bạc văn thân đều cầu thỉnh mạng ở sân vua, mưu lược xuyên ngực thấm tai còn hiến tặng ở cung Ngụy. Thêm vì lưu tâm ở Tám chánh đạo, dốc ý nơi Năm thừa. Rộng vận động Đàn-na, bèn tu tịnh nghiệp, trọn nói Thiện Thệ mịt mờ sao truy tìm? Bèn ban sắc thượng cung thử mô phỏng di cảnh, phụng tạo một tôn tượng Phật Thích-ca thêu vẽ trên màn trướng, và Bồ-tát Thánh Tăng, Kim cang sư tử, đầy đủ nắm bắt nét tiên, hết các thần biến, sáu văn xen tạp, năm sắc cùng bày. Họa tả tướng trăng tròn nơi hai kim châm, gả tu dương ở tay trắng, gian đạp gấm Thục, đẹp vượt lụa Yên, lẫn lộn ngậm ánh sáng bảy ngời, trải lụa gìn giữ liệt bày chín hoa. Nhật Luân nhả lửa ngùn ngụt tơ chu khách, mắt sen ngưng sáng, phát lụa tần cơ, châu của Dương Hầu trăm dặm, thẹn trăm phước đó, bích của Tử Vũ ngàn vàng, hổ ngàn xe ấy. Hoa lọng lìa đất trông xem nghi ngờ nhảy ra. Áo mây lay kéo, trông tợ bay lại. Sao chỉ nghĩ cùng cực xoay ruột ước cũng khéo thấu cùng Huyền diệu. Lấy tháng giêng năm nay ở thái thấu. Tam nguyên mở tiết hầu, trí thủy giao buổi thái, mới ban giáng luân ngôn, đến chùa Thắng Quang, thiết trai hội kính mừng tôn tượng, mời bốn mươi chín vị Tăng suốt hai mươi mốt ngày hành đạo. Thóc Hồng Đại Tần đủ mùi vị Hương tích, mở vàng Chu Lăng thiết bày cúng Phạm Tăng, ruộng phước Tứ Đẳng đời đời đều đủ, quả báo thiện sáu nhân kiếp kiếp trang nghiêm, kiếp thạch nát vụn mà lịch bàu còn dài. Thành hạt cải trống không, mà cơ nghiệp Hoàng đế trọn bền chắc, chẳng ngăn nỗi vui mừng, mới tạm làm bài tụng rằng:
"Thiên đế quắc thước
Truyền xuống vua ta
Là Thần là Thánh
Đáng võ đáng văn
Đến đó tợ nhật
Trong đó như mây
Trinh phù rực sáng
Khí đẹp ngùn ngụt
Sáng trùm thiên hạ
Chợt theo Di luân
Thể đạo hồi hướng
Thự dựng phước điền
Châm cắt quả đỏ
Thêu chế sen xanh
Văn ngậm dệt sáng
Thể lóa ráng đốt
Hoa nghi chóng nở
Lọng tợ treo không
Các phương vọt đất
Xa nhảy trời kia
Ở năm đề cách
Thời lúc Thanh dương
Phụng tuân Huy mạng
Bèn sùng đạo tràng
Mười khoa tinh tụ
Tám tòa ráng bày
Gió xoay nhã Phạm
Điện ngút danh hương
Cơ nghiệp lớn mạnh
Trọn không ngằn mé".
Chúa thượng, mỗi lúc xem nghe rảnh rỗi ra, đến nghĩ rừng tài nghệ, xét mưu của Khổng Bích, mở huấn của Thạch Kinh, xem việc xưa trước của trăm vua, xét chỉ quy của Tam giáo, mà cho rằng: "Lý chưa giẫm đến không không, sự trọn chìm nơi có có".
Rõ ràng, phàm chân yếu của tánh linh có thể trì tâm tế tục thì không thể có gì vượt qua giáo điển của dòng họ Thích, xem lời Pháp Dược có ý lưu thông. Nhân có Tam tạng Pháp sư người nước trung Thiên Trúc, chủng tánh Sát-đế-lợi, tên là Ba-la-phả-ca-la-mật-đa-la, tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường phiên dịch nghĩa là "Tác Minh Tri Thức", xa nghe nước Đường hoằng dương xiển hóa Đại thừa, nên vượt thông hà đến với đời Thánh, vào tháng Đại lữ năm Trinh Quán thứ nhất (627) thời Tiền Đường, tự thân mang Phạm Bản đến Kinh đô. Xưa kia, Cao Tông trị vì dấy khởi Phó Nham vào mộng, nay Hoàng đế chúng ta đạo lớn, sao đức hiện nơi đồng quê. Pháp sư là người thức độ thông mẫn, khí vũ cao sâu, văn của năm trăm vị A-la-hán cùng kết tập, Lý sở thuyên trong tám vạn kinh giáo. Từ khi Tôn giả Trúc Pháp Lan vào đất Hán, Samôn Khương Tăng Hội đến đất Ngô, lần lượt truyền dịch mà có chỗ chưa rõ hiểu. Pháp sư đều thấu suốt gốc ngọn, rành rẽ sự đồng dị đó. Giả sử như các kế của nội bộ chấp riêng của người ngoài, không gì chẳng suốt trọn trong lòng ngực, nói như chỉ trên lòng bàn tay. Đến như Nhân Hoa Luận Chiếu, chỉnh thành giải nghĩa, đặc biệt mong vui thích có thể rõ ràng ở tâm vua. Tháng giêng năm đó (627), vua có ban sắc chiếu các Sa-môn Tam tạng Pháp sư Ba Phả v.v... đến chùa Thắng Quang phiên dịch luận Bát-nhã Đăng và Đại Trang Nghiêm.
Thượng Trụ Quốc Thượng Thư Bộc Xạ Vu Quốc Công Phòng Huyền Lãnh Tán Kỵ Thường Thị Tả Thứ Tử Chiêm Sự Đỗ Chánh Luân v.v... vâng phụng sắc chiếu thuyên định tuyển chọn các vị Thạc đức gồm mười chín người. Hữu Quang Lục Đại Phu Thái Phù Khanh Lan Lăng Nam Tiêu Cảnh làm sắc sứ, kiểm hiệu bách ty cung cấp tứ sự nồng hậu.
Sa-môn pháp Lâm lại dự phần chấp bút, mới vì đề tựa rằng: Luận Bát-nhã Đăng, nguyên Phạm bản có hơn sáu ngàn (6.000) kệ tụng, Đại sĩ Bà-tỳ-tiếtca Bồ-tát chủng tánh ở nước Ma-già-đà, tiếng Trung Hoa thời Tiền Đường phiên dịch nghĩa là Phân Biệt Minh Chi Sở Tác (việc làm phân biệt rõ ràng) vậy. Mới đầu, vạn vật chẳng phải có, nhất tâm như huyễn. Tâm như huyễn nên tuy động mà thường tịch, vật chẳng phải có nên tuy khởi mà không sinh, do đó Thánh nhân nói tâm như huyễn. Xét vật chẳng phải có, rõ vật chẳng phải vật thì mọi vật đều là tánh không; biết tâm không tâm thì các tâm thể vốn tịch. Những bậc Đạt quán được Hội quy ấy mà quên chỗ nương cậy. Từ đó phân biệt hỷ luận, chẳng đợi xua bỏ mà tự trừ. Còn người không được Quán môn, chẳng giả tu mà đã vào, mênh mông thay chẳng ở chẳng lìa, không trú không nương ấy vậy. Sau khi Đức Phật diệt độ khoảng bảy trăm năm, có vị Bồ-tát xuất gia tên là Long Thọ, là một người thấu đạt thật tướng, đắc Vô sinh nhẫn, vì muốn báo ân Đức Phật nên khai diễn Trung Luận. Trong Phú Pháp Tạng nói: "Vầng nhật trí tuệ đã nghiêng khuất, người ấy khiến tỏa sáng lại. Thế giới mờ tối đã lâu, người ấy tỏ ngộ mà khiến nhận biết vậy". Bộ Trung Luận có năm Pháp sư chú thích. Bồ-tát Phân Biệt Minh là một trong số đó. Bồ-tát ấy đa văn tổng trì, trí âu chí chắc, dùng sức bản nguyện không bỏ quần sinh, trú tại Cung Tu-la để đợi thấy Đức Di-lặc. Gặp lúc cách Thánh lâu xa, các luận rối ren, đến nỗi khiến vào núi Tuyết để hái thuốc mà phần nhiều gom nhặt cỏ độc, vào nước sâu để tìm kiếm minh châu mà đua nhau lấy ngói sỏi. Thật là sợ một lý chẳng cùng, trái lại tăng thêm tà kiến, một lời chẳng tận, mà phiên nỗi khác mối, mới biên thuật kệ văn của Bồ-tát Long Thọ, làm luận Bát-nhã đó.
Luận đó chê tánh bài bác nội ngoại, tán thán chân tục, tận cùng lý vô sinh, rốt ráo nguồn thật tướng. Chiếu mà không gì chẳng tịch, gá tên gọi là Bát-nhã; chấp không gì chẳng phá, dụ như đèn sáng (Minh Đăng). Bởi vì nó trung tâm của phương quảng, hành xứ của chư Phật vậy. Than ôi! Các người học đời sau, bèn bỏ vân du trăm thành, trọn không nhầm năm mũi tên. Luận gồm có hai mươi bảy phẩm, làm thành mười lăm quyển. Nếu là người trong lập nghĩa cũng nêu tên người, còn như không tên thì liệt bày xưng là Tự Bộ. Nếu là người ngoài lập nghĩa cũng nêu tên người, còn như không tên thì liệt bày xưng là người ngoài. Từ phẩm "Phược giải" trở về trước, do Sa-môn Tuệ Trách chấp bút. Từ phẩm "Quán Nghiệp" trở về sau, do Sa-môn Pháp Lâm chấp bút.
Mới đầu phát khởi từ mùa hạ năm Trinh Quán thứ tư (630), đến mùa Đông năm Trinh Quán thứ sáu (632) thời Tiền Đường, xét định đã xong, biên tả hoàn tất. Sở tu đọc rõ rồi mới tấu trình. Vua ban sắc các Sớ ty mỗi mỗi biên tả mười bộ, ban bố các chùa, lưu thông rộng rãi. Đã theo gót Luân vương, Thập thiện cảm hóa nơi đời. Các chợ trong nước đều chấm dứt hàng thịt. Cấm khắp trong dân chúng không được giết mổ. Đất ở Giang Nam vốn lập trại bắt cá, hơn ba mươi châu thảy đều như vậy, hẳn phải phá đập mà lấy đó. Lấy được so chỉ một cành của Động Lâm, mà chết uổng quá hơn số ức của Hằng sa. Lại giáng tứ đạo, thảy đều phá trừ đó. Lại gặp năm hải thời, khắp nước nhà được mùa. Lại độ ba ngàn (3.000) Tăng Ni, ban rải phối đến các châu. Thế rồi, đức động cả thượng huyền, cảm thông đến chí Thánh, bảy nạn đều hết, bảy phước đều đến. Ân đượm ngoài chín bờ, oai tràn khắp tám cực.
Tháng mười năm đó, vua Hung Nô là Hiệt Lợi v.v... dẫn theo Thần Tử (bề tôi và con) cùng cả Bộ lạc, mang điệu tranh nhau, trước sau nối gót, xa trông ngóng về cung đình, cả nước đều đến, bái yết cửa trời mà thỉnh mạng, tới Di Đệ để hưởng hòa. Chẳng phiền quân soái Vệ Hoắc, tự thấu cùng hang ổ; đâu mượn chúng đông của Hiên Viên, chiếu cuộn trốn mất, Hán Nam không lo buồn tạp lỗ, bờ Bắc bãi giặc cường Hồ. Khu vực bờ ngựa đống rồng, đã gội nhuần mỹ phong Đại Đường, bến bờ giao sông lắng biển đều là đất Thánh. Khỏe mạnh thay! Tốt lành thay! Cùng vui mừng ngày ấy. Vô vi vô sự, đồng hớn hở lúc đó, công bao gồm trời lập cực, riêng cao xưa trước, nghiệp kính Phật sùng thiện, vượt các Hiền xưa.
Chúa thượng từng trải qua chiến trường, mũi nhận lóe sáng cùng chống cự. Đến lúc lên ngôi, tình xót xa trong cõi lòng, mới ban sắc chiếu. Phàm các chiến trận nơi đó đều xây dựng chùa, Hữu ty cung cấp, dự liệu khiến hoàn bị, khắp trong nước nhà dựng xây mười ngôi, nghiêm chỉnh khả quan. Lại nữa, xưa trước, nhân lánh nắng nóng, tự thân đến Nam Sơn, bói đoán chỗ thần ở đó mà dựng lập đại tràng đây. Đất đó dãi theo sông Tần xa tít, men cứ núi Lũng mênh mông. Phía Đông trông nhìn sóng tắm vầng nhật, phía Tây gần bờ treo trăng, đá phụng lớn tận cùng kỳ đặc, uất luật khoan trời, bờ rồng cuồng yêu thuật, sâu thẳm chích Hán, đâu riêng hang tùng đánh mặt nhật, ước cũng khe trúc khua mây. Thật là trường của Tứ Hạo dưỡng đức, bởi chỗ Tam Tần làm bền bỉ. Vì Thái Tổ Hoàng đế mà xả thí làm chùa, đã thêm lợi kiến, nhân đó gọi là Long điền. Lại đưa các tượng của Thái Tổ và Chúa thượng v.v... bằng giáp trữ, cả thảy có sáu pho đến trấn đặt cúng dường.
Mọi thứ Đại chúng cần dùng, thì Sở ty cung cấp không nhọc mua. Đất chẳng đợi trải vàng, hương ngược gió hòa khí phảng phất khắp hiện, cỏ cát tường mềm dịu lan tràn rủ thềm cấp. Lại vì Mục Thái Hậu mà đến cung Khánh Thiện, tạo dựng chùa Từ Đức, dùng các thứ chân thúc ca bảo, vàng Diêm-phù-đàn để trang nghiêm, mỗi mỗi đều hoa lệ. Tuy biết chỗ làm hiếm có còn nơi vãng cực chưa tỏ bày.
Tháng năm năm Trinh Quán thứ sáu (632) thời Tiền Đường, đến trong phường Châu An thuộc phía Tây đài thành, vì Mục Thái hậu mà tạo dựng chùa Hoằng Phước. Xét hình thắng ấy, bèn bảo Phù nhân mở nền móng kết cấu, giúp đời bảng bạc tức vườn. Vàng đó, bạn đạo kề vai, Triều quý cụng đầu. Đất đó thì bờ cao mang rộng thoáng, lưới trăm trí mà quấn quanh dư thừa, tầng thành kết tóc, cao vợi chín lớp mà kéo dài Nam Bắc. Khi ấy rộng mở phường báu, đủ các xe rực sáng, nhìn sao lường cảnh, đặt mối giăng dây giày ngọc rủ ánh, vàng lát phẳng sáng bóng, hiên dài trong yên trái lại vũ vút giữa trời, trụ nỗi vẻ vời, trên cột đội đồ họa mây khí. Hiện bay khắc chạm, dưới ngạch cửa mang giải cầu vồng. Ảnh tháp nghiễm nhiên cùng trông nhìn nhau. Kinh đài chen chốc mà đều giá. Hết cổ đá sắc màu xanh đỏ, hết vòng kỳ đặc của vẽ vời khắc họa. Diệu cực trời tiên, nghĩ cùng thần quỷ, mâm vàng hứng sương mốc, sánh cây ngọc ở Cam Tuyền, khánh báu hòa gió tướng trạng tợ Quỳnh lâm ở An Dưỡng, chuông thoảng thâu đêm, kinh kệ vang sáng sớm, vận hợp với cá núi hưởng phù rồng gỗ. Chỗ linh dị nương náu nơi định tuệ tựa cậy, liễu nghĩa dứt tâm tại nơi ấy vậy.
-Đại Thừa Tướng Bột Hải Vương (Quang Thị) thời nhà Ngụy, là người thần khí tinh linh, tướng dáng đẹp lạ, đức đủ văn vỏ, tài nghệ kiêm cả lễ nhạc, khí vĩ của khuê chương xã tắc, tài cán của Hiên miếu trụ đá. Thật là có phong thái của Vương hầu, đều xưng gá thác của tỉnh loạn. Đến như quy tâm kính phục đạo, riêng vượt các hàng có tiếng tăm, chẳng lận tiếc voi ngựa, không mến quý châu ngọc. Đến ở chùa Định Quốc dựng xây tháp báu.
Ở thời nhà Ngụy có Thị Trung Đại Bảo Tư Đồ Công Quảng Dương Ý Liệt Vương, Quảng Dương Trung Võ Dương, Tư Đồ Quảng Dương Vương, Quảng Dương Văn Hiến Vương, Tướng Quốc Cao Vương, Nhữ Nam Vương, Nghi Đô Vương. Bảy Vị Vương này đều kính tin ở lòng, dốc sùng đạo làm sự nghiệp. Hoặc văn hoặc võ giúp nước giúp nhà, nhả phong trụ đá, có đức Hiên miếu. Biết mây giữa không trung xa biến, hiển ánh sáng giả chẳng thường, đồng rõ tự thân mình v.v... đều kết quy hư nát, mới hồi tâm về Phật lý, chung tuân phụng Thánh hóa, đều thọ tám giới, đều thọ sáu ngày trai, tạo chùa độ Tăng, thiết hội sùng thiện. Ở thời nhà Ngụy, có Thượng Đảng Vương Mục, Thường Sơn Vương Chí, hai vị này; Vương Mục tánh khí hòa hậu dung mạo xinh đẹp; Vương Chí dung mạo kỳ vĩ, eo mang mười vòng, lập tánh phương nhã, ít nói cẩn trọng, thường rất tỉnh đạt. Tuy gặp lúc nắng nóng mà chẳng cởi áo mão, làm quan đến Thị Trung Đại Tư Mã.
Ở thời nhà Ngụy có Hoài Dương Vương Úy,
Hà Đông Vương Tuân, Đông Dương Vương Phi, Hoài Nam Vương Tha, bốn vị ấy đều có dung mạo tráng vĩ, tai lớn mày xinh. Trong suốt bốn mươi năm đều chuyên giữ ba tháng chay trường; mỗi mỗi tháng có sáu ngày trai, trì giới không sai sót. Bấy giờ trì tụng kinh Duy-ma, tạo dựng chùa Pháp Vương. Người già ngóng tụng mang gậy mà đến chầu, nhưng lại phải vì tiếng tăm cao sáng, thông rành việc nước, hỏi không gì chẳng biết. Đến lúc hưởng yến tiệc, thường ngồi đoan nghiêm. Mỗi lúc cùng các hàng Vương Công học sĩ, Đại đức danh tăng nghiêm đàm Phật lý, thì khẳng tiếng nói lớn với mọi người rằng: "Phật giáo xung hợp, chẳng phải chỗ biết của hàng Nho Mặc vậy".
Ở thời nhà Ngụy, có Tần Vương Hàn là người thông rành việc ở đương thời, thấu suốt lý thành bại, gần thì phụng sự, xa thì mưu hỏi, vội vàng đủ cả, trạng nhân hành nghĩa, từ triều đình đến thôn dã đều trông ngưỡng.
Ở thời nhà Ngụy, có Tư Đồ Bắc Hải Vương Tường, Tư Mục Cao Dương Vương Ung, hoặc thân ở gốc ngọn, hoặc đất ở ngoại thích, gần cốt yếu của chính bản, đáng quý trọng của thần châu, đều cảm được Viên châu, mến mộ răn gắng khắc lòng, thức sáng triều chính, bày tuyên trị đạo, mà ôm ấp Phật lý, sùng tin pháp kiều, tạo tượng viết kinh, dựng lập chùa tháp, biên tả hết thảy kinh được mười hai tạng.
Bành Thành Vương Hiệp ở thời nhà Ngụy, là người dốc hết tâm lực, bảo hộ Thế Tông, trong ngoài chỉ huy. Mãi đến lúc lên ngôi, pháp môn mở lớn, Phật sự rộng bày, tu tạo Già lam, dựng xây linh tháp.
Tế Nam Vương Văn Nhã ở thời nhà Ngụy là người phong lưu khoan nhã, dáng vẻ nhàn rộng, nhã phát sâu đẹp, từ sắc ngầm hòa. Người ở đương thời vì thế mà ca tụng rằng: "Tam công rành rành hết lâm lang, chưa như Tế Nam đủ tròn vuông". Đến như miệng tụng lời vâng, tâm mong cầu Tịnh độ, trì trai ăn chay tịnh, hộ pháp kính Tăng, không gì lấy làm thêm vậy.
Ở thời nhà Ngụy, có An Phong Vương Diên Minh, Trung Sơn Vương Hy, đều là người thuộc dòng Tông thất, thông văn học cổ, đều lập đạo tràng, trai giảng tương tục. Dùng hương thơm châm hòa với mực biên tả một trăm bộ kinh Hoa Nghiêm, viết một bộ kinh Hoa Nghiêm trên giấy trắng chữ vàng, đều dùng năm thứ hương làm hòm, bốn vật báu làm hộp đựng đầy. Giữa đêm tĩnh lắng, sáng sớm tốt lành, thiết trai hành đạo. Từng có tỏa phóng ánh sáng thần năm sắc soi chiếu khắp đài Vũ, mọi người đều trông thấy, cùng phát tâm gấp bội.
Lang Da Vương Tụng ở thời nhà Ngụy là người nghĩa thông sáu kinh, sử gồm cả trăm họ, áo mão nghi mạo, từ triều đình đến thôn dã đều suy kính. Cao Luận Thanh Phong riêng vượt các đồng bạn ở đương thời. Vừa mới tuổi hai mươi, sánh cùng vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương đàm nói trò chuyện trọn ngày. Vua Võ Đế bảo: "Xưa trước Vương Lăng tại Hán, Khương Duy làm tướng Thục, ngay đó thành danh, nào hẳn bản thể ấy thấy lễ như đây". Từng cùng vua Võ Đế khải bày hẳn nói: "Lâm Hoài Vương Tụng ở Ngụy". Vua Võ Đế cũng chẳng trách đó mà rất lấy làm kính trọng ở ý. Cứ đến sáu ngày trai, thường thiết bày phẩm vật thanh tịnh dâng cúng Phật Tăng, với các thứ bỗng lộc đều đưa vào tu đạo kinh tượng.
Thượng Thư Lệnh Quảng Dương Vương Gia thời nhà Ngụy là người mừng giận không lộ vẻ, trầm lắng thông mẫn tham học, nhân hậu chí hiếu, vội vàng chẳng giẫm trải. Đọc hết thảy kinh tạng được ba biến, tạo dựng chùa Ái Kính để đáp ân hai vua, làm chúng kinh sao gồm mười lăm quyển, quy tâm dốc mạng chí ý ở tại Pháp thành.
Trần Lưu Vương Kiều ở thời nhà Ngụy, là người dáng khí khôi ngô cao vợi, sức lực khác thường. Từ thuở nhỏ xuất gia, rỗng tâm mến mộ đạo, về sau trở lại thế tục mà chẳng bỏ thói chân, tuy dự tham chánh sự mà rất dốc tâm với thắng nghiệp.
Tề Hiến Võ Vương ở thời nhà Ngụy, là người ý tư theo minh vận, trí cùng thần đồng hành, ân sánh với trời xuân, cai đồng mặt nhật ngày hạ, thường chí tâm nơi muôn vật, trùm đại đạo ở tám phương, tu tâm khắc kỷ, hồi hướng chánh pháp, tạo dựng chùa Đại Bi, khắp vì lợi ích quần sinh.
Ở thời nhà Ngụy, có Sử Trì Tiết Trung Ngoại Chư Quân Sự Tề Vương, Cự Lộc Vương Xiển, Lục Thượng Thư Sự Bành Thành Vương Thiều, Tiếu
Quận Vương Lượng, Giang Hạ Vương Di, Lâm Thao Vương Vinh, đều là những vị anh tài nghị lực nổi trội, phong cách vượt thường, mà tin kính giáo pháp, hồi hướng dòng họ Thích.
Thái Sư Đại Tư Mã Lạc Châu Thứ Sử Phùng Hy ở thời nhà Ngụy, là anh của Văn Minh Hoàng thái hậu, kính phụng Phật rất mực tin tưởng. Đến các châu, tạo dựng Phù Đồ và Tinh xá cả thảy có bảy mươi hai ngôi, biên tả mười sáu bộ hết thảy kinh, thường cùng các bậc danh Tăng giảng luận Phật nghĩa.
Sử Trì Tiết U Châu Thứ Sử Tư Đồ Công Hồ Quốc Trân ở thời nhà Ngụy, là cha của Linh Thái hậu, chỉ chuyên việc trai tịnh nghiêm khiết, tự mạnh dạng lễ bái, biên kinh tạo tượng, dựng xây chùa Chánh Hóa, cúng dường trăm vị Tăng.
Tư Đồ Tổ Cánh tự là Nguyên Trân ở thời nhà Ngụy, là người hợp đẹp lắm phước, vốn thần chứa thiện, khí cục rỗng thoáng, chí thức khai ngộ. Miệng ngậm tài biện của Bích Kê, tay nắm văn hoa của Diêu Long, Nghĩa Phủ Huyền Tông, nhậm giữ như vậy.
Tư Đồ Không Lý Vô Vi ở thời nhà Ngụy, là người tánh khí khác người, tự nhiên thực hành đã móc sâu đạt xa, nghĩ văn ôm chất. Hồng Hộc dẫn bày, bèn ôm hoài chí khí bốn biển, ngựa giỏi mới dong đã có tâm ngàn dặm. Tuy chính sự lắm nhiều mà thường lấy kinh Kim Cang Bát-nhã làm hạnh nghiệp, mỗi tháng sáu ngày trai, trọn đời không phế bỏ.
Thái Phó Xướng Ninh Vương Lý Thật ở thời nhà Ngụy, là người lập thân nhã chánh, làm người thanh kiệm, thận trọng từ thủy đến chung, kính phụng pháp, tôn thờ thầy, không bỏ phế sáu ngày trai, thường hành trì ngũ giới.
Thiếu Bảo Kiến Xương Công Đậu Lược thời nhà Ngụy là người vốn ôm lượng y hoắc, sớm nhớ rừng trụ thạch, chuyên chánh trao truyền luật, biết rỗng vắng của Giáp ất, đáng tịch chế quyền, biết hướng bối của gió mây, giàu mà không kiêu, quý mà không ngạo, kính tin sùng trọng, gá mạng với đấng Thế Hùng, tạo dựng chùa Linh Sơn và chùa Pháp Vân, cúng dường hai trăm vị Tăng.
Tư Đồ Cao Ngạo Tào ở thời nhà Ngụy là người dõng khí khác thường, võ lược hơn hẳn trong đời. Tư Đồ Cao Long Chi ở thời nhà Ngụy là người khí khái vượt thường, đức hạnh phong thái đáng kính bái. Thị Trung Thượng Thư Lệnh Nguyên Hựu ở thời nhà Ngụy là người khí phách tài cán nổi trội, anh hoa trong sáng, vũ nghi từ triều đình đến thôn dã, giúp khen rất có tiếng tăm, đến Đại Châu tạo dựng chùa Pháp Âm. Hữu Bộc Xạ Đại Hành Đài Mộ Dung Thiệu Tông ở thời nhà Ngụy là người thông mẫn suy xét khá xứng, lễ mạo hiền giả dốc thành. Lại Bộ Thượng Thư Hình Loan ở thời nhà Ngụy là người có khuôn phép thanh bạch, xinh đẹp nói cười, thông Lão Trang, đượm vị thơ tao, kính trọng Đại thừa, tạo tượng lập chùa.
Phiếu Kỵ Đại Tướng Quân Nghi Đồng Tam Ty Hằng Châu Thứ Sử Lục Chính ở thời nhà Ngụy là người ngay thằng vô tư, giữ đạo ít tham muốn, có tiết tháo nuôi lớn đức nhân, khéo xinh dung dáng văn nhã, miệng chuyên trì tụng kinh Duy-ma lấy làm luận bản. Người thời bấy giờ cao chuộng, không dám chống kháng luận đàm, tức em thứ hai của Lục Tải vậy.
Thái Thường Khanh Cung Hầu Trịnh Quỳnh ở thời nhà Ngụy là người Huyên Lan phô bày đức, uyển diễm làm tâm, vũ nghi ở triều quý, chuẩn mực ở nhân luân. Xây dựng chùa Tịnh Vức, tạo lập giảng đường Pháp Hoa. Mỗi tháng riêng thiết trai, hàng năm thường tả tượng.
Ung Châu Thứ Sử Hàn Trọng Tường ở thời nhà Ngụy là người giản lược thanh thông, nêu cử nhã tục, ôm hoài phi ngã, tạo dựng chùa Hàn Sử Quân. Hoàng Môn Thôi Lăng ở thời nhà Ngụy, là người tín tâm đạo nghệ, gá chí với thi thơ, khắc triện làm văn, bổ vẽ thành đức, tiếp đi phong rỗng ý tưởng, trông ngóng đẹp dốc lòng, riêng bước ở đương triều, làm vật xứng đầu, mà hồi hướng Tam bảo gá chất với tứ hoằng thệ nguyện, đến trong nghiệp thành tạo dựng chùa Báo Ân.
U Châu Thứ Sử Lư Lệnh Thủ ở thời nhà Ngụy là người khuê chương đượm nhuần bên trong, phong thái chỉnh túc ở ngoài, khí độ trầm lắng, thần dụng cao sáng, ở U châu tạo dựng chùa Thông Huyền, cúng dường trăm vị tăng.
Bái Quân Thái Thú Triệu Nguyên Tắc ở thời nhà Ngụy là người bẩm tinh thần tượng, dáng linh sông núi, từ thuở nhỏ tiếng tăm đã chiếm tốt lành, đến tuổi hai mươi càng vang lừng. Chí ý kính tin càng chuyển đổi, tâm niệm cúng thí nhẫn nhục không cạn, biên kinh tạo tượng, tâm chưa hề nhọc mệt.
Hà Nam Duẫn Võ Ấp Công Lý Tương ở thời nhà Ngụy là người vũ nghi văn vật, mũ lọng cùng ngóng trông, giữ một ân chân, chí còn an dưỡng. Trong ba tháng trường trai hẳn tự thanh khiết, ngày húy kỵ song thân, đạt hạng buồn cảm, tạo dựng chùa Di-lặc, cúng dường trăm vị tăng.
Thái Tử Trung Thứ Tử Ngự Sử Trung Thừa Lục Tải ở thời nhà Ngụy vốn người ở đất Ngô, làm Hàm dương vương nghĩa chân hành quân Đại đô đốc sứ ở đất Tấn. Sau mất Hách Liên, nhân đó đến làm quan của Ngụy, là người có tài điều thiện đàm nói hài hước, là chỗ quý trọng của các hàng Quý công ở Ngụy triều, mà tánh lại ưa thích rỗng lắng, thường lưu tâm để ý nơi Phật pháp từng đọc tụng các kinh, tán dương huyền chỉ. Đến lúc tuổi già, tinh thành qua chữ kinh văn tỏa phóng ánh sáng, miệng trì tụng kinh Pháp Hoa, có lúc cảm được xálợi.
Vệ Úy Khanh Hứa Bá Đào ở thời nhà Ngụy, là người có phong thái nuôi lớn đức nhân, hoằng xiển đạo không nghịch, sùng phụng chánh pháp, không lúc luống mất.
Tán Kỵ Thường Thị Ôn Tử Thăng ở thời nhà Ngụy, là người có nét của Thái Xung Tam Đô, tài của Tử Vân Bách Tấu, gấm lụa thẹn với văn chương đó, vàng ngọc hổ với ánh ngời đó. Sùng trọng diệu pháp, mến vui Đại thừa.
Ninh Viễn tướng quân hầu Mạc Trần Dẫn ở thời nhà Ngụy, là người gốc ở Hán Trung Sơn, là con cháu của Tĩnh Vương, trải qua thời nhà Hán đến đó mới có phong quốc, nhân lấy hầu làm họ, bèn xưng hiệu là Trần. Tạo dựng chùa Kỳ Viên v.v..., chùa thường thiết trai giảng hội và cấp thí Bi điền.
Trên đây là những bậc anh tài ở triều đại nhà Ngụy, những bậc vẻ vang một thời, khâm trọng kính ngưỡng Phật giáo, đại khái chỉ nêu bày như vậy.
-Đại thừa tướng nội ngoại chư quân sự Thường Sơn Vương ở thời nhà Tề (là người ung đúc hạnh nghiệp, sùng quý đẹp xinh đặc đạt khác thường). Thái úy lan lăng Vương Trường Cung ở thời nhà Tề (là người thông mẫn khác thường, cả triều đình và thôn dã kính sợ). Tư đồ lang da Vương Nghiễm ở thời nhà Tề (là người giúp tán dương Hoàng gia, làm hưng thạnh triều chính). Lục thượng thư sự Trường Quảng Vương Trạm ở thời nhà Tề (là người tay chân ở Vương thất, văn võ hiến chương). Đại đô đốc Lục thượng thư sự Quảng Bình Vương ở thời nhà Tề (là người trí tuệ tư tưởng khác thường, tiết tháo nhu hòa thẳng thắn). Đại tư mã thánh Hà Vương Đàn ở thời nhà Tề (là người có hạnh nghiệp ưu tú sâu mầu, phong cách tuân xa). Tả bộc xạ Quảng ninh Vương Hiếu Diễn ở thời nhà Tề (là người thức ngộ ưu tú sâu xa, trinh cán trọn vẹn).
Thị Trung Thượng Thư Lệnh Lục Sự Thượng Thư Sứ Trì Tiết Đô Đến Triệu Châu Chư Quân Sự Phiếu Kỵ Đại Tướng Quân Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty Hộ Quân Tướng Quân Triệu Châu Thứ Sử Đái Lục Châu Đô Đốc, Tinh châu Thái trung Chánh trưởng An công Tấn xương Vương Đường Ung ở thời nhà Tề, là người tạo dựng chùa Chúng Nghĩa Trang Nghiêm và chùa Đại Ninh Quốc, chú đúc một tôn tượng Di-lặc bằng vàng, tinh khí hiện bày phù hợp, thần núi giáng phước. Gặp năm Xương Thạnh ấy, nâng thượng đức sáng ngời đây, phụng sự năm Quân Vương, mến thương tám bộ chúng. Ra tiếp phòng vàng vào giẫm bờ xanh, nhặt dư thừa để bù đắp khuyết thiếu, hiến dâng có thể hết mà chẳng kinh quân chế. Bí mật của khâu phù, lợi báu của nước nhà, không thể chỉ bày cho người, tim sức vóc thưa quay về, trông coi cẩn mật. Lại dùng chích cử áo rơm, đốc xét toàn triệu, gậy trượng tiết tháo hiện oai, dưới xe ban ân huệ. Hào hữu đều gần, trông ngóng gió sương mà kiểm tay, đơn lẻ yếu đuối mà gạt rớt, gội nhuần mưa mốc mà nghỉ vai. Miệng vàng lưỡi gỗ nâng tay chỉ tay, ăn mặc đủ đầy mà biết vinh nhục, lễ nhạc sung túc mà biết trung hiếu. Cờ đình tuyệt của cải kỳ mậu, vườn đất có chức của ai kính, ước sánh ăn cá, thanh bạch so cùng châm nước. Tham dự thành cũ, Trưởng Lại kính sợ đó như Thần minh; ruộng nhà, dân chúng mong ngưỡng đó tợ nhật nguyệt. Thêm vì ruộng tốt ở lễ, vàng thật tại tánh, sống vui trong các pháp, điều phục các căn. Người nghe hẳn tu hành, kẻ thấy bèn tùy hỷ, vì nước nhà là muôn dân. Đến nơi thành đô xưa cũ của Nghiêu tạo dựng chùa Chúng Nghĩa Trang Nghiêm, phòng quy mô tráng lệ rộng lớn, càn tượng sánh khuê, bày do án lệ, lưng âm mặt dương, mở lạnh ngậm nóng, nguyệt cung nhật điện, đêm ngày đều sáng, vườn nại đài sen, xuân thu khác sắc thái, danh Tăng nối gót võ, tịnh tín liền hàng, Lệnh nguyệt lúc mừng vui, tranh xưng lễ bái. Lại đến Bình dương tạo dựng chùa Đại Ninh Quốc, chùa báu nổi trên, tinh lô xa xinh đẹp, rường khắc văn hạnh, trụ góc chiên đàn, văn vẻ cùng ngời ánh, xanh đỏ giao thoa. Lại chú đúc một tôn tượng Di-lặc bằng vàng ròng, hợp cùng hào quang cao bảy thước; một tôn tượng bằng đá trắng cao trượng tám; biên tả hết thảy kinh hơn ba ngàn (3.000) quyển, tu sửa một vạn tôn tượng cũ.
Hữu thừa tướng Hàm dương Vương Hộc Luật Minh Nguyệt ở thời nhà Tề (là người dõng khí không ai vượt trước, giữ tiết càng cứng mạnh). Tả thừa tướng Bình nguyên Vương Đoàn Hiếu Tiên ở thời nhà Tề (là người kính chăm chính sự, đáng sánh triều ủy). Lục thượng thư sự Hoài Nam Vương Hòa Sĩ Khai (là người dốc mến cần kính, kính phụng pháp tự lớn mạnh). Thái thường Thanh hà Vương Cao Nhạc ở thời nhà Tề (là người dõng cán đẹp thanh). Thái Tể Chương Võ Vương Khố Địch Thiên Thu ở thời nhà Tề (là người dõng mãnh nghị lực cung thuận). Thị trung Tần vương Cao Ngạn Quy ở thời nhà Tề (là người trầm ái ưu mỹ). Thị trung Thượng thư lệnh Nguyên La ở thời nhà Tề, là bậc sĩ tài danh. Nguyên Vương Cảnh Hình Tử Tài v.v... đều làm tân khách, nhưng vì tánh thanh kiệm trinh tố, chăm lo tiếp vật, sùng kính Tam bảo, khâm chuộng trí hoằng thệ nguyện. Đến chùa Pháp Hỷ, tạo dựng tháp gạch cao bảy tầng. Dốc hết tâm lực để giúp Thánh chúa, dùng mưu đồ vĩnh an để tu sửa mình thì trên yên nơi Quân vương, dưới bảo hộ ở tự mình, đáng là kiếng nước của nhân luân, mẫu mực của thiên hạ.
Thượng thư lệnh Cao Triệu ở thời nhà Tề (là người tạo dựng chùa Nhàn Cư). Thái úy Bành Lạc ở thời nhà Tề (là người nhân hậu hiển bày đẹp xinh). Tư đồ Phan Tướng ở thời nhà Tề (là người chuộng nhân quý nghĩa). Tư không Tư Mã Vu Như ở thời nhà Tề (là người có học nghiệp thanh mỹ, giới tiết cao vời).
Quang lục đại phu Thượng thư bộc xạ Dương Tuân Ngạn ở thời nhà Tề, là người nhận biết nghĩ nhớ ôn mẫu, phong nghi nổi trội, sớm nêu ngọc nhuận vẻ vang tiếng vàng, mà văn gồm chín công, võ bao cả bảy đức, chấn động vẻ vang tốt lành trong thiên hạ, cảm đượm tâm vui thích trong nước nhà. Văn Tuyên cao trông xem ở Thượng kinh, Bộc Xạ biết cả việc đương thời. Bụng trống đánh đất màu mỡ, mọi người không tiếng oán. Trong mười năm nước Tề đại trị, sức lực giúp hợp.
Dương Công có vậy, mà rộng giẫm trải trong ngoài, bao gồm thông rành Khổng giáo, Phật giáo. Đều nhân gở chọn xếp bày chùa thấy nhau, bạn đạo liền hàng, sĩ nữ hồi hướng. Chuyên ý hộ trì, dân chúng xa chiêm ngưỡng.
Thiếu phó Thượng thư bộ xạ Ngụy Thâu ở thời nhà Tề, là người rành đủ lễ nhạc, bao quát cả di luân, thấu đạt khổ không, tôn trọng chánh pháp. Học kiêm Mã Trịnh, tài vượt Lưu Ưng.
Quang lục đại phu Thượng thư Bộc xạ Thôi Tiêm ở thời nhà Tề, là người tài ứng giúp mạng, sủng ái Kế Nhị Nam, bởi cả triều đình đều chiêm ngưỡng, nhân luân thế ngóng trông, gồm tin Phật pháp, tạo dựng ruộng phước, vui cùng danh tăng, cao đàm chí lý, viết kinh tạo tượng, tu sửa Già lam. Hữu bộc xạ Thôi Quý Thư ở thời nhà Tề (là người vật ngóng thanh cao, vũ nghi ở đương thời). Tả bộc xạ Yên Tứ Kính ở thời nhà Tề (là người kính trên tiếp dưới, giữ pháp tự mạnh mẽ). Bộc xạ Triệu Ngạn Thâm ở thời nhà Tề (là người nhân hậu thanh kính). Thị trung Hộc luật Hiếu Khanh ở thời nhà Tề (là người nghĩa dõng hơn hẳn ở đời). Thị trung Hộc luật Văn Nhã ở thời nhà Tề (là người thanh kiệm cao kính). Thị trung Từ Chi Tài ở thời nhà Tề (là người đức phong tuân khắp). Thị trung Cao Chánh Đức ở thời nhà Tề (là người luân ước chẳng lạm phạm). Thất binh Thượng thư Vương Nguyên Cảnh ở thời nhà Tề (là người thanh thông hiển trước). Thái Thường Khanh Thôi Ngang ở thời nhà Tề (là người dốc nghĩa chuộng nhân, vang vọng danh tộc). Tán Kỵ Thường Thị Lưu Địch ở thời nhà Tề (là người học gồm bảy lược, tài bày bốn cửa). Vệ úy khanh Đỗ Bật ở thời nhà Tề (là người chí tiết đáng xứng, nói làm thỏa hợp). Điện trung thượng thư Hình Tử Tài ở thời nhà Tề (là người văn vẻ tỏa sáng, kỳ đặc khác đời). Bí thư giám tổ Hiếu Trưng ở thời nhà Tề (là người học nghiệp ưu tú, tài vẽ sáng tục). Thượng thư Tả thừa phong Hiếu Diễn ở thời nhà Tề (là người thanh vút cao xa, thấu đạt trước chỗ mong cầu ở đương thời).
Sứ trì Tiết bình nam tướng quân, Nhân châu Thứ sử kim tử quang lục đại phu An khương hầu Phiên Nhu ở thời nhà Tề, là người thể điều ngưng sâu, lý thức trong sáng, tinh thành tráng chí, chẳng ai cùng làm đồng bạn. Đến Lô châu tạo dựng chùa Trúc Lâm, đến Nhân châu tạo dựng chùa Bạt Khổ, tạo dựng biên kinh mỗi năm riêng khác chẳng ngầm mất.
Như trên, là những bậc anh hiền ở thời nhà Tề, tài tuấn của Bắc triều, đều học thông kim cổ, hiểu suốt Huyền nho, mà rất kính tin Phật giáo, hiểu rõ nhân quả, tay mở pho ngọc, miệng đọc lời vàng. Số người đó như cây cỏ nương nơi đất liền, gặp gỡ họ tợ sắp lớp dưới sông dài. Đến như nông nhà trắng, già yếu không tuổi tên, tạm biệt mong quy hướng, phát chút ít tâm, thì không thể xưng kể, sao được nói bày. Do đó, phước hỗ giúp cả bốn loài, mừng vui khắp ba đời, đáng nhân đáng thứ, đến đời con đời cháu. Đức học hay thực hành, không gì chẳng đạt đến.
-Trụ quốc Tương châu tổng quản Vệ Vương ở thời nhà Chu là người gieo trồng gốc đức. Đến Tương châu, tu tạo chùa Thượng Phụng Lâm, cậy nguy vượt cốc, tiếp rường cột liền mây. Gác hương khám thiền tựa non gá núi, Phật sự nghiêm chỉnh, điện vũ hoa sáng, trăng lồng cửa sổ thu, gió thoảng nhà mát ngày hạ, quên lo buồn đầy viện, lớn vui thích đầy thềm, trúc vút diềm tranh, tung giăng kẻ đá, kỳ phong bày thường nhật, cây cao vút tận trời, người ghé mắt mở tâm, tự nhiên quên trở về.
Trụ quốc Ích châu tổng quản Triệu Vương ở thời nhà Chu là người quy mạng đến Nhân. Ở Ích châu tạo dựng chùa Tuệ Nhãn, cửa lớp đạp cao, gác bay liền mây. Dấu chân chim rồng cuộn, chim phụng liệng tiếp bày. Cửa sổ mở sấm chớp thần nữ, rường cột ánh ngời bóng người đẹp. Diềm bốn phía rót đổ mà bên cạnh gần thềm, ba lần nghỉ đi thẳng lên, dây vảng giăng đường, nhưng đồ họa vườn Đao-lợi, màn sương mốc rủ thềm tức tả đất do càn, ba xuân lệnh nguyệt, tám tiết lúc vui. Sĩ nữ tín tâm đều xem thường hào hiệp, cúi mình hồi hướng, đảnh lễ quy y.
Trụ quốc Ung châu thứ sử Tề Vương ở thời nhà Chu (là người tạo dựng chùa An Cư). Thái sư đại trùng Tể trụ quốc Đại tướng quân, Tấn quốc công Võ Văn Hộ (là người tạo dựng chùa Hội Đồng v.v...). Tấn Công đất thuộc Văn Chiêu, tên Cao Vương Thiểm, nạp nhận Bào Mao của Tử Lý, chuyên chinh phạt Ngũ Hầu. Chu Văn làm phủ dân chúng đều tỏ rạng, Cao Đào làm mưu tính, thiên hạ không việc gì. Xã tắc do đó mà dựng lập. Triều đình nhờ đó mà cân dắt, mà kính tin chẳng ai bằng, hồi hướng không thể sánh. Làm lớn mạnh tượng giáo, dựng lập nên đền Nhân. Phàm, đã tạo dựng năm ngôi chùa như Pháp Vương, Di-lặc, Trắc Dĩ, Hội đồng v.v... Mát gội nhuần bỗng lộc, chẳng phí của thủy hành, quận nước giảm tô thuế, không khổ nhọc lính làm trôi nổi thuyền bè. Đất phần âm đảnh báu, nền an ấp điện tía, vườn mở vàng Trưởng giả, suối vọt gậy Sa-môn. Hết cây gỗ của Đại Tần, khó dốc lửa Nhật Nam, tề chỉnh cùng thợ khắc, chẳng nhân đồ họa của Công Vương, khéo hết Thần Công, mới đợi đối đáp do tôi. Tháp báu giữa trời, xa gần đài vọng khí. Đất vọt khám linh trở lại đối bờ Hạm xa, trì giới bốn bộ, an cư hai mùa, thường chuyển pháp luân, luôn ngưng thiền thất. Lại cúng dường chùa Sùng Hoa.
Trụ quốc Thượng thư Bộc xạ Sở quốc công đậu
Lô Minh ở thời nhà Chu, là con cháu đời sau của Yên Văn Minh Hoàng đế Mộ Dung Hoảng. Ông nội là Thập, làm Trực tẩm ty Lệ đại phu ở thời Văn Thành Hoàng đế. Thân phụ là Đốc, làm Trụ quốc đại tướng quân phù lăng công. Năm mới tuổi hai mươi, Tô Ninh ra nhậm làm quan, Nguyệt Giác xưng kỷ, sao tinh bày đức. Ở trong Binh quân suốt ba mươi bảy năm, trải qua bốn mươi hai trận chiến. Linh Hồ chẳng dám lấy phương Nam, người Triệu đâu chịu giữ đất Bắc. Kiếng nước nhân luân, đáng là kỷ tử ở đương thời, mà nhàm ái giữ tâm, hồi hướng chuyên hạnh nghiệp, tạo dựng chùa La-hán và chùa Hội Tông, đúc tượng biên kinh tương tục không dứt.
Thái phó trụ quốc Đại tướng quân Thái tông bá Đặng quốc công Đậu Xí, là người vốn quan tộc ở Ngũ lăng, gia đình tốt lành tam phủ.
Mạnh Tân xưng môn Đồng Đức, Hàm Dương mới giúp lên trước. Công dự tham tám bính, địa vị vào Lục Phù. Đậu Xí tức Hoa Trụ An Phong. Xưa trước chuyên theo Hoàng Lão, nay kính tin Đại thừa, tạo dựng chùa Bạch Mã và chùa Phạm Vân, gieo trồng hạnh nghiệp xuất thế trong tương lai.
Thị trung trụ quốc Đại tướng khanh Võ vệ tướng quân Trung tán đại phu An phong công Đoàn Vu... ở thời nhà Chu, là con cháu nối dõi của Vu Mộc, vỗ về quân lính như trẻ con, phong lưu lập lại nơi đời, tiếng tăm tốt lành nối gót võ, núi đầm thông hơi khí, nghi biểu thuần hòa. Bấy giờ dùng chay tịnh thí cấp, mạnh đạp có yến tô, kính phụng mạng chuyên đối, chỉ bày đồng bọn nghịch trái ấy, liền xin phụ giúp dẹp. Lại thuần khéo hòa mục, có được khẩu mã và kim bối v.v... đều dùng vào việc biên tả kinh và cấp thí người già cô quạnh.
Trụ quốc Ung Châu mục Nam duyên Bát châu chư quân sự Duyên châu tổng quản Tán quốc công Đậu Cung ở thời nhà Chu, là người có chuẩn mực hết cậy nương, áo giải bày sáng rỡ, cả nhà kính phụng pháp, đều khâm chuộng tốt lành.
Đại tướng quân U Châu thứ sử An định công Võ Văn Quý, ở thời nhà Chu, là cháu của Thái tổ Văn Hoàng; là con của Trụ quốc Tề Vương, dòng giao Tây tự, kính nghiệp Hà kinh. Đức trọng rừng Nho, tên cao đại học, phụng sự tôn thân rất mực chí hiếu, kính trọng Phật chỉ cung, bố thí nhẫn nhục giữ lòng, về già càng thấu đạt.
Khai phủ nghi đồng Tam ty Thái tử tẩy mã Vân ninh trang công Lang da Quận Vương Thác Bạt Thắng, ở thời nhà Chu là cháu của Thị trung bảo
Từ châu mục quảng vương Vương Gia. Thân phụ là thông xả bỏ nước ấy, tiếp nối thoát vết Vương Gia. Đổi đá nêu mốc làm Hương thành, biến thùy dương làm vườn nại, bỏ mũ mão mà đắp mặc áo ruộng phước, bãi xướng ca mà tuân theo Nhã phạm. Trang công vì cha nên cũng kính mộ quy y, bèn ở nơi đế riêng, thường tu tịnh nghiệp.
Sử trì tiết Thiều châu Đô đốc hành đài lang trung thông trực Tán kỵ thường thị Hà đông công Võ Văn Thiện ở thời nhà Chu. Võ Văn Thiện vốn tên tự là Trọng Lương, đang tuổi bé thơ đến trường học, truyền áo trăm dân; đến tuổi hai mươi vào triều đình, giật cương quá ngàn dặm. Khoảng đầu niên hiệu Đại Thống (?), đến Sa Uyển hiến tiệp, khắp đất của Hà Đông, kiếm gậy quy hướng chí thành tông ấy, theo người cùng quê hương đều được mở mang nước nhà, mà rất kính tin chánh pháp, lo sợ việc tương lai, tạo tượng viết kinh, suốt một đời tu phước.
Khai quốc nghi đồng Tam ty Dương hóa công Nguyên Ngang ở thời nhà Chu, là cháu của Đại thừa tướng kinh triệu Khương Vương thời nhà Ngụy; là con của Thái bảo lục Thượng thư Hoàn Chi, chí tiết ôn cung, tâm giữ nhân hiếu, rảo học rừng nho, sớm tập kinh sử, rất kính chuộng dòng họ Thích, xả bỏ vườn nhà tạo dựng chùa Thù Đức.
Trụ quốc Đại tướng quân lũng tây đông công Dương Toản ở thời nhà Chu, là người Hà Nam, cận thần Hoa sơn, quý trụ Tổ khâu, dùng ba quân Vũ Lâm để trị binh lính ở sáu trấn. Thân phụ là An nhân Bắc đạo Đại đô đốc Sóc Châu Trấn Tướng. Từ đời ông nội trở lại đều sùng kính Phật giáo.
Thông châu thứ sử Hữu thị thượng sĩ Tán kỵ Thường Thị Dương Tháo ở thời nhà Chu, Tây Hán có mười người, Đông Kinh có bốn đời, xe đỏ hoa lọng đời đời tiếp nối, là cháu của Thượng thư Trung Công, là nối dõi của Phần Châu thứ sử, hai dương đồng đời, đều sùng kính Phật pháp.
Tư không trinh hầu Trịnh Mục ở thời nhà Chu, là người ra trung vào hiếu, kính Phật trọng Tăng, lâu dài mà không nhọc mệt.
Thị trung thiếu phó Kinh triệu quận thú hành đài lang trung Đại tượng khanh yên quận công Lô Cảnh Nhân ở thời nhà Chu, là Thiếu Tử của Thái Bộc Khanh Tỉnh, là người cao nhã khéo thông rành xưa. Gia đình truyền nghề bổ củi, sớm tối gắng học, đời đời tiếp nối dạy khéo giỏi cung tên. Anh thứ ba là Cảnh Dụ, học trùm huyền nho; anh thứ tư là Cảnh Biện, nghe rộng nhớ nhiều, đều hay sửa đổi hiến chương, chế độ lễ nhạc. Tại Quan Trung xưng gọi là phu tử, ở Hà Thượng nghi ngờ Trọng Ni, đều xưng dương Phật giáo thấu cùng sâu mầu, Lão Trang rỗng thoáng.
Thái bảo trụ quốc Đại tướng quân Ngô võ công Uất Trì An ở thời nhà Chu, là người Hiên viên đản thánh tại Tân trịnh, mở đầu Hồng nguyên ấy, xướng ý giáng ở như nước, tiếp thừa Di Liệt đó. Thủy Tổ là chính của dòng họ Ngụy, phong Uất Trì Quốc Quân. Quân tộc bày công ở đời, mạng họ nhân ấp ở phước, hết nương cậy giềng mối hoa, đảnh thường khắc công sâu, dấu vết sáng rỡ cơ nghiệp cao, dong ngu nhớ ghi hạnh nghiệp đó. Thân phụ là Trụ quốc Đại tướng quân Trường Lạc Công, phu nhân là Công chúa của Thượng thư xướng lạc đại Trưởng Mục tạo dựng chùa Bao Nghĩa và chùa Ni Tuyên Hóa.
Đại tướng quân Nam man đô giám thường sơn công Liễu Khách Chi ở thời nhà Chu, là người cao vút cùng cực, Đại Hạ mây giăng, khí vũ xung xa, phong độ ngưng chỉnh, truy tìm giản yếu của Vương Nhung, quá hơn Thanh Thông của Bùi Khải, có đức có tài, đáng bắt chước đáng kính chuộng. Đến Tương châu, tạo dựng chùa Hương Sơn, chùa bay ngoài mây, phan vút trời rủ, nhật điện đài sen, rừng ngọc đất vàng, xa sánh với Kỳ thọ, như biên tả Kê viên.
Bắc hình châu thứ sử an đạo Công Tịch Cố ở thời nhà Chu là người khí vũ lắng ngưng, tài lược thông rành, chương bạc thao xanh, rõ kinh cúi nhặt, sơ tước trù dong, không công khắc cử, lệnh đức rõ bày trong quốc sử. Sách huân biên tả ở Gia điệp, nền tảng công trạng ấy, nhiều đời anh hoa tỏa sáng. Đến Đặng châu tạo dựng chùa Đức Vương, phòng nhà tinh nghiêm, điện đường cao ráo, yên ở hình thế ưu thắng, khiến người trông thấy phát tâm.
Sử trì tiết trụ quốc Đại tướng quân Đại đô đốc Đồng Châu thứ sử Từ Quốc Công Nhã Can Phụng ở thời nhà Chu, là con của Võ Công, cháu của Tư Không, kiến lập xã nối tiếp Tề, nắm ngọc khuê kế tục Vệ, cao phong che mặt nhật, trường kiều rủ mây, tạo dựng chùa Chí Thánh, ngõ hầu cậy nhờ minh phước.
Sứ trì tiết Thái phó trụ quốc Đại tướng quân thanh hà công hầu mạc Trần Hưu ở thời nhà Chu, là người văn võ đều thi thiết, trung hiếu gồm đủ, vừa mới sinh mà biết nghĩ nhớ thiện, thường thực hành từ bi tha thứ. Đến chùa Đại Thừa, phát tâm thọ giới, biên tả hết thảy kinh, tạo tôn tượng Vô Lượng Thọ cao trượng sáu bằng giáp trử, với bổng lộc có được đều sung làm cấp thế.
Thái sư trụ quốc Thục quốc công Uất Trì Hồi thời nhà Chu, lúc nhà Ngụy tan loạn, kinh luân trở ngại, triều đình nhà Chu xây dựng đất nước, bèn phụ giúp kính nhượng, un đúc cao sánh trọng, ở chỗ khó phỏng, sung thiện kính mộ phước, lâu dài càng hiển trước. Tạo dựng chùa Diệu Tượng, cúng dường tứ sự không khuyết thiếu, pháp luân thường xoay chuyển, tam học luôn thêm nhiều.
Khai phủ nghi đồng tam ty An chính công Sử Hùng ở thời nhà Chu. Xưa trước Trụ sử lưu trệ Chu Nam, tiêu tiếng ở Hàm cốc, nhân làm quan họ mạng bèn xưng sử vậy. Ông nội là Tuân, làm Lương Châu thứ sử, thân phụ là Ninh làm Trụ quốc an chỉnh liệt công, đều là những người mưu lược sâu rộng, giúp thời cứu đời. Mà gia đình sùng trọng Tam bảo, mọi người đều vâng giữ tám trai, tạo dựng chùa An Chính, thầm huân đúc theo cha ông, người thời bấy giờ đều kính trọng.
Khai phủ Bình bắc tướng quân Nhân Châu thứ sử An hóa công Khâu Hồng Tân ở thời nhà Chu, là người ở đời nổi trội trung liệt, gia đình tiếp thừa hiển bày sang quý. Hẻm thông cán dài, phỏng theo chỗ ở của Vương Tuyền, cửa bánh xe bốn ngựa, đồng vườn nhà của Ngụy Thư. Em là Quảng Hóa Công, đều là khí quân bằng Hồ Liên, chất phô bày khuê chương, khó anh khó em, đồng đức của Nguyên Quý, hoặc tướng hoặc hầu, ngang bằng quý của Liệt Đan, kính trọng dòng họ Thích, nghiên tinh đượm vị pháp âm, xả bỏ phủ đệ xưa cũ để tạo dựng chùa Bản Khởi.
Ích châu phủ Trung lang Tân Châu thứ sử Thái Khả ở thời nhà Chu, là người đợi chiếu cửa ngựa vàng, luận Nho học Thạch cừ, cầu vườn làm phú, gặp ngang bằng sô mai, theo Lương mất Chu, lễ quá Thân Bá.
Khai phủ oai viễn tướng quân Vương Tỉnh ở thời nhà Chu (là người cúng dường chùa Ô Hoàng). Đại tướng quân Hòa Kê Hùng ở thời nhà
Chu (là người tạo dựng chùa Hòa kế). Đại tướng quân Dĩ Miên Dĩnh ở thời nhà Chu (là người tạo dựng chùa Dĩ Miên). Từ Kim đại phu Phá-đa-la-kỷ ở thời nhà Chu (là người tạo dựng chùa Phá-đa-la). Quân tư mã hồng hòa công ý lực Cần Trọng Khánh ở thời nhà Chu (là người tạo dựng chùa Ý Lực Cần). Như trên, là những vị ở thời nhà Chu.
-Hoàng Thái Dõng ở thời nhà Tùy (là người tạo dựng biên kinh liên tục không ngưng nghỉ, đọc tụng hành đạo không lúc nào bỏ). Tần Vương Tuấn ở thời nhà Tùy (là người tạo dựng chùa Diên Hưng và chùa Ni Tế Độ tại Kinh đô, tạo dựng chùa Khai Hóa tại Tĩnh Châu). Thục Vương Tú ở thời nhà Tùy (là người tạo dựng chùa Không Tuệ, chùa Pháp Tụ, chùa Đại Kiến Xương và cúng dường chùa Hiếu Kính ở Ích Châu). Thục Vương Tú Phi Trưởng Tôn Thị ở thời nhà Tùy (là người tạo dựng chùa Phước Thành). Ích Châu trưởng sứ Xương bình công Nguyên Nghiêm ở thời nhà Tùy (là người tạo dựng chùa Phước Thắng). Hán Vương Lượng ở thời nhà Tùy, là người tạo dựng chùa Thiền Định tại Kinh đô, tạo dựng chùa Nội Hoa và chùa Pháp Nhẫn ở Tinh Châu, mỗi lần cúng dường trăm vị Tăng.
Như trên, cả ba thời Tần, Thục, Hán Vương đều kính tin ở cõi lòng, ý chuyên lưu thông. Dốc ái nhân hiếu thì Tân Vương tối ưu, thường trì sáu ngày trai, luôn thực hành Thập thiện, biên kinh tạo tượng là việc chuyên dụng tâm. Ngày đang làm Tương Châu tổng quản, vỗ về hóa đạo rất được vật tình, tục vịnh sống lại, thời xưng đến già, tạo dựng Đường Vũ, tế độ thần cung thảy đều là chỗ nằm ngồi của Vương xả thí mà làm chùa vậy.
Thái sư thượng trụ quốc công Lý Mục ở thời nhà Tùy, là người khí độ tinh anh, phong vũ trong thoáng, công kỳ đặc tươi tốt, gồm cứu giúp muôn dân. Gặp lúc thời nhà Chu đã suy, ba bên đảnh nghiêng vọt, phương diện chỉnh túc bình yên, dẹp hết hung xấu, tinh thành khẩn thiết, thấu suốt thuyết minh, chí lo toan lắng sâu, tiếng tài giỏi xa vời, huân dong chóng hiển trước, danh khí sớm tỏa sáng. Đức lớn chí đạo, yên trấn nhã tục. Bấy giờ tông chư nhân kiệt, vũ nghi của triều đình, bèn dùng tùng của Tô Lai, bách của Tân Phụ xây dựng điện Phật, tạo lập Tăng phòng, thiền thất, đài chuông không gì chẳng tinh lệ; giảng đường, phòng cửa thảy đều cao sáng (tức chùa Tu Thiện) vậy.
Thái bảo thượng trụ quốc tiết quốc công trưởng Tôn Lãm ở thời nhà Tùy, là người giáng linh ở sông núi, bẩm hòa thuần túy. Sơn đình trái lại nhà, đức minh phù tá kỳ, vân rùa mắt sông, dáng trời nổi trội mạng thế, hiếu phô bày nguyên do, trung làm lệnh tắc, tánh ôn cung rỗng thoáng, tài giảng văn xa lớn, đạo trị nước thạnh nhà, mưu lược giúp đời cứu thời, thẳng thắng có khí của Chu Xả, chỉnh trú ôm hòa phong của Quản Trọng. Mười loạn chẳng lấy làm thê, ba kiệt chẳng thể phỏng sánh, tay chân tốt lành thay, nghĩa là đó vậy. Nhưng lại xoay hướng pháp bản, sùng phụng cửa Phật, xả thí phủ đệ, dốc hết cửa nhà, sung với đất vàng, tức tạo dựng Bảo phường. Điện nguyệt người vàng, đài sen hoa lọng, các thứ nghiêm lệ, mọi sự đều sáng đẹp (tức chùa Thật Tế) vậy.
Thượng trụ quốc sứ trì tiết Hoài nam Tổng quản Thọ Châu Thứ sử quán vương Dương Hùng ở thời nhà Tùy, là người có tài bình lắng bạo nạn, sách lược chế ngự khinh thường, vận chuyển trù thẻ. Dùng móng vuốt đã hiển bày, sức Ưng Dương bèn tuyên, rạng nước rỡ nhà, đáng lớn đáng lâu, đùi về thửa thuộc, văn hiến đủ chiêm trông. Rất tin lời pháp, cấp dẫn không nhọc mệt, tu phước tạo chùa, thường làm Đàn-việt, nối dõi công hầu, truyền nhà đài đảnh. Nhận biết không soi xét hữu, đượm phục đạo biết trở về, hy vọng càng cao nhưng tâm càng nhún thấp. Đại tư mã Thượng trụ quốc thần Võ Túc Công Đậu Nghị ở thời nhà Tùy, là người từ thuở bé đã xưng lệnh dự, lúc trưởng thành được gọi là người thông rành. Nhà có ban tặng sách, cửa nêu vệ cán, cung phụng bốn đời vua, trước sau chỉ có một lòng. Nghĩa xem trọng như Long văn, của xem thường như cánh ve. Bẻ ngục động niệm thương kính, đến xuống hết nhân khoan hòa, mà hộ trì Tam bảo, thể đạt ngũ gia, tạo chùa thiết trai, lấy làm việc thường (tức là chùa Vân Hoa) vậy.
Thượng trụ quốc Thượng thư Hữu bộc xạ Lỗ quốc công Ngô Khánh Tắc ở thời nhà Tùy, là người nối dõi áo giải, hạng kỷ tư ở triều đình. Biết rõ tài cán, khí vụ ngầm thông, khéo biết tiếng của sáu nước, thấu hiểu phong tục khắp bốn phương. Đã bao gồm cốt yếu của Di Luân, riêng biết cơ của màn sách, mà dốc tin ở cõi lòng, mảnh thiện mỏng hẳn ghi, tu phước tạo chùa, chuyên làm Đàn-việt, xây lớn tháp đường, rộng giảng điện Phật. Đến Tương châu tạo dựng một tôn tượng Lô-xá-na bằng giáp trử cao một trăm hai mươi thước, tướng tốt kỳ lạ, linh ứng khác thường (tức chùa Xung Giác) vậy. Thượng trụ quốc Thượng thư Tả bộc xạ Tề quốc công Cao Dĩnh ở thời nhà Tùy, là người khí cục hòa xứng, thức lự ưu trường, lễ gần Hạ Ân, nhạc thấu cùng Thiều Võ. Húy của trăm quan dân tộc, nghi của chín châu thổ địa, đồ của Hiến chương kinh quốc, thuật của dạy đời an dân, việc của triều chính, biết không gì chẳng làm. Ngôi vị càng cao, tâm ý càng nhún thấp. Nhà Tùy xây dựng đất nước, thật có công kỳ đặc, mà khéo thấu đạt thế gian, sớm biết huyễn hóa, giữ tâm vượt ra cốt yếu, dốc chí ở Hương thành. Đến như đài Hoa thất giác, điện báu Tam minh, Phạm vũ lưu ly, thiền khám mã não, vườn nai Kỳ viên, đàn các Trúc lâm, người đến quên trở về, nơi nơi đều lưu giữ. Phàm các bậc danh tăng đại đức trong nước nhà như Thiền sư Tuệ Sùng, Pháp sư Đạo Ngạn v.v... đều cảm đó kính tin, đồng đến chốn Già lam. Lại mời thỉnh Thiền sư Tín Hạnh riêng xây dựng Thiền viện, năm chúng đều nhóm tụ, hàng Tam học tợ sao giăng, đạo tục quy y không đâu hưng thạnh hơn đó. Lại tạo dựng chùa Ni Tích Thiện cũng rất hoa lệ trang nghiêm.
Thượng trụ quốc Tả vệ Đại tướng quân Trần Quốc Công Đậu Kháng ở thời nhà Tùy, là người với hạng Tam phủ nhà tốt, ngũ lăng quý mũ trụ. Nguồn lớn khơi ở Cơ thủy, từng hiến mền uất ở Kỳ sơn. Ở đời truyền tải vẻ vang của Hiên miện, nhà cửa tiếp thừa lệ của Dương Ưng, nâng gió đổ giúp giềng mối tốt tươi đó, sang bằng phan cao cuộn quanh rễ ấy. Tuy ở giữa trần tục, mà chí ý muốn vượt thoát cốt yếu, từng tạo dựng chùa Tỉnh Pháp vậy.
Thượng trụ quốc Võ vệ tướng quân Lương quốc công hầu Mạc Trần Bính ở thời nhà Tùy, là người siêu việt hơn người, cốt cánh không ai giống, tham mưu vương thất, đứng đầu dựng cờ nghĩa, có công bỏ phiền toái lấy giản đơn, có sức giúp mạng lắng bình hung bạo. Nhận ở chốt cửa, chẳng chứa ấm mát, đêm giữ cung thành, từng di dời khí tự, dụng tâm cung kính nghiên cẩn, riêng đạp xinh ở đường triều, văn vật đều chiêm ngóng tiếng tốt lan trải xa, một nhà anh em ba người làm
Phụ mã. Kính tin sùng trọng, tạo chùa biên tả kinh, thường dùng lời pháp, đủ tu các việc thiện (tức tạo chùa Xá-vệ).
Thượng trụ quốc Lạc dự thập thất châu chư quân sự Lạc Châu thứ sử Tả dực vệ tướng quân Tuân Dương Công Nguyên Hiếu Củ ở thời nhà Tùy, là người có chí thức sâu xa, phong cốt lấn vượt sương tuyết, tham dự cơ nghiệp trị vì, sớm biết cấm giữ, dụng tâm chẳng biếng lười, kính phụng pháp không thân. Xả bỏ phủ đệ nơi ở sung làm thành Tịnh vức, chẳng lận tiếc của cải, thường tu tạo ruộng phước. Chất ngọc tướng vàng, tiếng tăm tốt lành chấn động xa (tức tạo dựng chùa Không Quán).
Thượng trụ quốc Kinh Châu tổng quản Thượng minh công Dương Ký ở thời nhà Tùy. Cửa kinh thắng địa, bỏ sở Thần Hương, chỗ đuôi thuyền hỗn lắng, noi Thủy lục xung yếu, chỉ nhân là nương cậy, tuy thân chẳng ở, bố chính tuyên điều đều xưng cậy nhờ ấy. Gió lành xa đượm nhuần, thạnh chứa có tiếng tăm. Người xướng ca sau muộn, đều bày vịnh nghĩ qua, khai mở đất phước ấy, dựng đặt đền Nhân đó, điện Nguyệt lưu tỏa sáng, đài châu ngời sắc thể, hoa nở phấn vách tường, sen đơm bông đầy ao. Đến như Trịnh Thị Duy Ma tôn công an dưỡng, đều là ưu tuyệt ở đời rất mực huyền diệu đỏ xanh (tức tạo dựng chùa Định Thủy).
Thượng trụ quốc Thượng thư Tả bộc xạ Việt quốc công Dương Tố ở thời nhà Tùy, là người khoét đất mở nhà, giúp hầu dựng nước. Từ thuở thiếu thời đã ôm hoài chí Y Hoắc, lúc trưởng thành hợp phong Khương Lận. Dường cử biết tướng Tần ấy, khuếch hạ khen giúp Hán đó. Thông minh thần túy, khí cục ngầm rộng, nhận nạp sánh với nuốt nguồn, soi chiếu đồng kiếng treo cao, anh tuấn nổi trội, thông mẫn tự nhiên. Đến như dẹp bẻ chín dòng, gặm giấm ba xưa, rót chén rộng thông mà chẳng hết, vận biển cả mà không cùng. Phương sóc Ngô Diên thẹn bờ lớn đó; Lộ Khuôn, Triều Thế hổ đẩy trí đó, un úc đẹp làm văn đó; mạnh mẽ, tráng dùng võ ấy. Sức của Bật Hài, công của Tiếp Lý, không lấy làm thêm vậy. Mà tôn trọng Chánh giác, mở giúp pháp môn. Bổng lộc có được đều tu tạo tịnh nghiệp. Đo xích tiêu mà dựng điện tượng, bỏ cảnh ngã mà xây đài chuông. Nhà bảy báu, tháp chín tầng cao vợi giữa trời, trên giăng tỏa mầm mây, trải mưa danh hoa, miên man chim tốt, khéo hay ghé mắt, rất thỏa du tình, lan đẹp quan trung, lưu danh khắp nước (từng tạo dựng chùa Quang Minh).
Thượng trụ quốc Thượng thư Hữu bộc xạ Nạp ngôn bi quốc công Tô Võ Oai ở thời nhà Tùy, là người trinh oán đủ để giúp việc, có hòa khí đủ để lợi sinh, xác thực chẳng nhổ thể ở tánh ấy, ẩn chẳng trái thân, trinh không tuyệt tục, thuộc loại tám công đến Hán, đồng như bốn Hạo vào triều, lưới trời quốc chính, từ đó lớn đủ. Vả lại, thông rành trăm dân, thấu đạt ba huyền, buông tâm nơi trường tứ đức, gá chất ở quán ngũ môn. Biên kinh, tạo tượng, lễ Phật đốt đèn, đủ các trang nghiêm ấy, đầy các công đức đó. Quan tể tốt của triều đại nhà Tùy chính ở người này, tâm nhóm thấp mà chí ý cao vời, biết sâu thấy xa, hiến chương văn võ, thuần tiếp Di luân (từng tạo dựng chùa Tế Pháp).
Thượng trụ quốc Đô đốc Hà Đông chư quân sự Thái thú Đậu Khánh ở thời nhà Tùy, là người văn đủ tên người, võ kham dứt nạn, phiếm ái nhân hậu, lại muốn nghĩ đi, cấp dẫn lấy làm lòng, bố thí nhẫn nhục không nhọc mệt.
Thượng trụ quốc Hữu vệ tướng quân Nam khương quân Lưu Trung ở thời nhà Tùy, là người võ nghị cứng rắn thẳng ngay, kính phụng giáo pháp không riêng tư, nhàm lìa ở nhà, khâm chuộng giải thoát (từng tạo dựng chùa Luật Tạng).
Phiếu kỵ tướng quân Nghi đồng Tam ty Phần châu Thứ sử Thôi Phụng ở thời nhà Tùy, là người có tiết tháo giẫm trải trinh túc, kính phụng pháp ưu cần, dốc mến Đại thừa, hồi hướng chánh đạo (từng tạo dựng chùa Kinh Hành).
Thượng trụ quốc Hà gián vương Dương Tịch Hà ở thời nhà Tùy, là người nghi mạo ôn nhã, chí tháo trinh xác, thường khâm chuộng xuất thế, sớm nhàm chán hữu vi (từng tạo dựng chùa Ni Đài
Tình).
Binh bộ Thượng thư thượng đại tướng quân Long cương công Đoàn Văn Chân ở thời nhà Tùy, là người ở đời tiếp nối thông hầu, nhà trùng lũng mạng, khí cục hòa xứng, thức lự ưu trường, võ gần Tôn Ngô, văn cao hơn Ban Mã, sách đợi chiếu từng hiển bày, đẹp ứng đối ngày một sáng, là vũ nghi của triều đình, rường cột của Hoàng gia, sùng kính Tam bảo, thấu suốt bốn đường thông, tạo chùa cúng Tăng, biên kinh đúc tượng, thương giúp nhân hậu, thí xả không lạm. (Từng tạo dựng chùa Vân Hóa).
Trứ tác lang tế Nam Hầu Vương Thiệu ở thời nhà Tùy, là người học hết kinh sử, tài vượt anh tuấn, trước thuật "Tề Chí" một bộ, "Thích Lão Chí" một quyển. Lại soạn "Nhân Thọ Xá-lợi Hiện Thụy Ký" một bộ, tổng quát nêu thuật nguyên do Phật pháp lưu truyền đến là: "Phật pháp chẳng thể lén nhìn mà đến kịp, suất dẫn mà vọng nói đó. Xưa trước, ở thời Xuân Thu, ngày Tân mão tháng tư năm thứ bảy ở đời Trang Công, ban đêm sao thường chẳng thấy, nửa đêm bỗng nhiên thấy sao đổ như mưa". Ý nói là ngày mồng tám tháng tư là lúc Phật đản sinh vậy. Căn cứ tháng tư của Chu, tháng hai của Hạ, phô bày Tân mão chẳng phải ngày mồng tám.
Theo Niên Kỷ nói: "Nói Lỗ nhận biết chẳng kịp các nước khác".
Mâu Dung nói: "Vua Minh Đế thời Hậu Hán mộng thấy người vàng, đó gọi tên là Phật, từ đó sai sứ đến tìm cầu kinh sách". Lại căn cứ vua Võ Đế thời nhà Hán được Hư Đồ Vương tế trời người vàng, ở Liệt Tiên truyện của Lưu Hướng nói: "Có bảy mươi bốn người ở trong kinh Phật, nhưng mà từ thời vua Minh Đế trở về trước đã có kinh tượng của Phật". Lỗ Hoạn nói: "Lão Tử vào Tây Nhung dạy răn làm Phù Đồ", lời đó xuất phát từ Hóa Hồ kinh, chẳng đủ để lấy vậy.
Đời nhà Hán nói Phù Đồ, tức là Phật-đà, như Sa-môn chuyển ngữ là Tạng môn vậy. Điển Lược nói: "Hoàng đế mộng đi đến nước Hoa Tư Thị". Hoa Tư Thị tức là nước Thiên Trúc, là nơi Phật thần du vậy!
Trụ quốc hào linh Tứ châu tổng quản Hải lăng công Hạ Nhã Nghị ở thời nhà Tùy, là người thật là cửa của Khanh tướng, xứng làng của mũ lọng, sân núi nghi bày, hang trăng mưu gió, dốc tin Đại thừa, sùng phụng Chánh giác.
Sứ trì tiết Đại tướng quân Lương Châu chư quân sự Lương Châu thứ sử Triệu quốc công Độc Cô La ở thời nhà Tùy, là người con đời của Cảnh Công, là anh cả của Hiến Hậu, kính pháp trọng người, tôn thầy chuộng nghĩa.
Thượng trụ quốc lương Ích lục châu tổng quản tương quốc hoài công Lương Duệ ở thời nhà Tùy, là người dẫn nguồn linh đến Thiếu Hạo, phân hưu đái ở Bá ích. Quan tốt Đông Hán, tôi đảnh Tây Tấn, kính tin có tiếng tăm, cơ nghiệp lớn khắc bày.
Thượng trụ quốc quảng tông trang công Lý Sùng ở thời nhà Tùy, là người sống nổi trội khác thường, ưu tú hiếm động bạn, chỉ em và út, thầy vương bạn đế, đọc học Bát-nhã, dựng tạo Pháp luân.
Thượng trụ quốc Tả võ vệ Đại tướng quân Sứ trì tiết Lương Châu thứ sử Võ Văn Khánh ở thời nhà Tùy, là người bao gồm cán lược văn võ, giẫm đạp khuôn phép nhân nghĩa, tuyên điều muôn dặm, đồ tán trăm thành, đúc tượng viết kinh, tạo phước không thôi nghỉ.
Thượng đại tướng quân Doanh Châu tổng quản Ngụy hưng công Vi Thế Văn ở thời nhà Tùy, là người có phong thái nghe thơ nghe lễ, đức hạnh tam nghĩa tam quân, chung khánh lưu đượm, đời đời chẳng cùng, kính mộ chánh pháp ở đương thời, tập học vi ngôn từ xưa trước.
Thượng trụ quốc Lại bộ Thượng thư Thượng dong công Vi Thế Khương ở thời nhà Tùy, là người dung mạo tướng trạng to lớn, phong vận tỏa khắp, đồng hoa đượm của cây ngọc, thuộc loại sáng nhuần của Bích Sơn, khéo kinh lược, giỏi thuyên hành, quy tâm đến cửa tuệ, du tình nói vườn pháp.
Quản Hán Thái thú Tương Thản Hầu Tiết Diễm ở thời nhà Tùy, là người lông Phụng rừng Lân, nêu văn bày võ, nhà sùng chánh pháp, cửa phụng huyền phong, kịp đến năm lương, bốn yên, ba tần, hai triệu. Cửa cao liền với cung cấm, nền lớn tiếp với thềm rộng, Hoàng thân ở thích lý, nhà giàu tại Đế kinh, nghiêm chỉnh kính mộ đạo, mỗi mỗi giăng bày kinh, miệng tụng lời vàng, tay mở quyển ngọc. Đến thời nhà Tùy, các hàng vương cung tiếng tăm vang vọng ở Đế Vũ, đều khâm sủng Phật giáo, đồng kính trọng ruộng phước. Hoặc tạo chùa dựng tượng, hoặc thực hành cúng thí Bi kính, hoặc tụng đọc đượm vị kinh điển, hoặc nghiên tầm huyền nghĩa, tỷ ốc như vậy có thể phong, rất khó nêu bày đủ.
Đến như triều đại nhà Đường chúng ta, các hàng quan hiền đông thành rừng, Tiêu Tộc lấy Pháp Hoa làm nền tảng phước, Độc Tông dùng chùa tháp làm mạng, Phạt Đái thượng thư đều kính, Tần tướng quân cứu muôn dân. Hoặc cúi xét đồng khâm chuộng, hoặc chùa đài cùng kính phụng, bèn đãi yếu hoang Hoa Di lệnh trưởng, men theo các bộc lệ v.v... đều trải một lòng, mỗi mỗi thường lấy Phật lý làm chỉ nam, đều tu thắng nghiệp lấy làm việc chính mình. Đã hình ở nơi tai mắt, nên chẳng ngay việc mà thuật đó, đâu thể lấy Lý Lão chôn vùi danh, nên dò xét sâu có gá thác vậy.
Nho sinh ngưng nghỉ giây lâu rồi, lại bàn nghị rằng: Tìm xét Phật giáo lưu truyền đến Đông Hạ (Trung Hoa) chưa đầy sáu trăm năm. Từ thời nhà Tấn, nhà Tống trở lại, mỹ phong ấy mới hưng thạnh. Vậy mà Phật giáo được coi là công không ai cùng ngang bằng, ở đời chẳng thể xưng gọi tên. Huống hồ Lão giáo ở Trung Hoa, trải qua niên đại lâu xa, kinh sử biên ghi đầy đủ, lược có thể mà nghe. Căn cứ vào Đạo Kinh, Nguyên Hoàng Lịch nói: "Ta lấy Giáp tý, tháng giêng năm Thanh Trược thứ nhất, xuống bắt chước Phục Hy trị nước thái bình, giữa ban ngày lên trời". Lại nói: "Giáp thìn, tháng tám năm Vị Phân thứ nhất, xuống bắt chước Thần Nông; năm Thái Nguyên thứ nhất, xuống bắt chước Dụ, một bản làm tùng cốc, phàm trải qua mười hai đời, biến làm mười bảy thân. Đầu tiên là Huyền Lão, cuối cùng Phương Sóc". Luận Ẩn Chân nói: "Ở trước đất trời chẳng lấy làm dài, tại dưới muôn xưa chẳng lấy làm lâu, tùy thời ứng biến, cùng vật đồng hóa". Xét đó, Đạo giáo vân du nơi đời giúp nước, thời tiết có thể biết, đến như dụ dẫn muôn dân, đúc nắn thành phẩm vật, sao có thể ghi nhớ hết ư? Lược tính đã trải qua hơn hai trăm bảy mươi vạn năm vậy. (Xin Đàn-hặc rằng: Ở thời Thái Tổ, khí hình mới đủ, đục trong chưa phân, gọi tên là Hổn Độn. Nhị Nghi đã là chẳng phân, Tam Tài cũng xa mờ mà chưa thấy. Ngoài Lục Kỷ tự mạng, Phục Hy mới sinh bốn dòng họ. Cuối thời Toại Nhân, Thần Nông mới ra đời, sao lại nói là Bào Viêm xuất hiện ở đời thanh trược? Chúc Dung lục giáp sinh trước vị phân, sách của ủy cảng, chẳng đủ đáng tin vậy). Nên nói: "Thường đạo chẳng phải đạo có thể nói, vô danh chẳng phải danh có thể gọi". Đã nói là tịch liêu (xa vắng) là xưng hoảng hốt, thác gá triều đại nhà Chu mà làm Trụ sử, ở đời nhà Hán mà làm đại thần, đùa nước cưỡi cá, đi giữa không giá chim hộc, giống ngọc ngậm nhuần, suốt vọt bay dưới đất đẹp, táo vàng sinh khói, lửa dữ thiêu đốt nhân gian, trướng Bạch châu ở ba cung, hoặc ăn dùng cỏ thơm ngọt, thềm ngọc xanh chín hoa, thường hưởng vị huyện tủy. Cây mai côi hổ phách, không mặt nhật tỏa ánh sáng, cành lưu ly mã não, chẳng gió bay mà sáng hưởng. Đầu lâu có thể nói, từng gá hỏi ở Trang Chu, cốt trắng sống lại, đâu dối đàm ở Từ giáp. Táo ngọc văn ở Tây vương Thánh nữ đem lại, Lê kim sắc ở Đông Hải, tiên nhân bưng đến. Hình không chỗ định, thấy dung mạo của các thứ, tình không khác mối, mở vết lẫn lộn. Qua sông vượt biển đâu nhờ cậy thuyền bè, vào chợ lên núi, tùy tâm tự tại, xa vời đâu lượng, mờ mịt khó tìm, không gì chẳng làm lợi ích cho người trời, làm khuôn phép suốt xưa nay. Còn mỹ hóa của dòng họ Thích, nhật nguyệt chưa ngầm lặng, sao được cùng Đạo giáo mà so sánh ư?
Bậc Khai sĩ trách bảo: "Ông học mà không tầm xét xưa, khốn khổ bởi từ tâm thấy, chẳng thể chọn thiện, trái lại mê lầm, mà giữ gốc tin độ.
Tôi nghe, trí mà không gì chẳng khắp, gọi đó là Thánh; hóa chẳng thể lường, gọi đó là Thần. Xa gần khó tìm, thủy chung chẳng thể cùng tận, đó chính là đây vậy. Sao muốn chỉ ý ở khoảng ấy ư? Ông nghi ngờ còn bưng bít, nên lại phải vì nói đó. Tại sao? Phàm, thế giới lúc mới thành chưa có nhật nguyệt, có hai vị Đại Bồ-tát xuống cứu độ quần sinh, bèn xếp đặt ba thứ ánh sáng, là tạo lập Bát quái. Phục Hy Hoàng là Đại sĩ Ứng Thanh (Xuân Thu Nội Sự nói: "Phục Hy chỉ sắp ba thứ ánh sáng, dựng lập tám tiết, dùng văn ứng khí có hai mươi bốn thứ, tin tức họa phước để chế tốt xấu. Do đó, dòng họ Hy và dòng họ Hòa làm quan ở đời trông coi nhật nguyệt đều là thuộc sau Phục Hy, nên gọi tên là Hy Hòa, bởi vì hiệu gốc của Hy Hoàng vậy).
Nữ Oa Hậu là Bồ-tát Cát Tường. Lấy gì để rõ đó? Tìm xét trong kiếp này có ngàn Đức Phật xuất hiện nơi đời, Đức Phật thứ bốn chính là Thích-ca Văn, ngoài ra tiếp tục xuất hiện mãi đến hết kiếp. Đó mới là kiếp kiếp tương tiếp, thì Phật không cùng ấy vậy. (Lập Thế Tỳ-đàm nói: "Trong kiếp Bạt-đà có ngàn Đức Phật tương tục xuất hiện nơi đời, dùng pháp giáo hóa chẳng dứt tuyệt nên gọi là kiếp Hiền. Trong một kiếp Hiền có bốn đại kiếp trung kiếp với chu kỳ thành trụ hoại không. Như tuổi thọ con người từ mười tuổi đến tám vạn tuổi, lại từ tám vạn tuổi trở lại mười tuổi như xoay vọt trên dưới, trải qua hai mươi lần trở lại là một Tiểu kiếp. Hai mươi Tiểu kiếp là một kiếp thành. Phàm trải qua tám ngàn vạn vạn ức trăm ngàn tám trăm vạn nghĩa làm một Trung kiếp". Câu-xá lại nói: "Bảy lần hỏa tai có một lần thủy tai, bảy lần thủy tai có một lần phong tai. Bảy lần hỏa tai, bảy lần thủy đã qua, sau đó phong tai mới nổi. Trải qua tám tám sáu mươi bốn đại kiếp, qua bốn lược chẳng thể tính số mới là một kiếp Hiền. Ở trong kiếp trụ mới có Phật xuất hiện, lần lượt đến một ngàn vị. Đức Thích-ca Như Lai là vị thứ tư, ngoài ra còn có chín trăm chín mươi sáu vị. Thế giới là y báo của Phật, chúng sinh là nhân duyên của Phật, chỉ có chúng sinh tức là có Phật vậy". Căn cứ theo Tu-di Tượng Đồ Sơn Kinh và Thập Nhị Du Kinh đều nói: "Kiếp thành đã qua vào kiếp trụ lại, đã trải qua bảy Tiểu kiếp vậy. Trời Quán Âm v. v.. xuống ăn đất béo sau cổ các trời, từ lưng tỏa phóng ánh sáng, xa gần cùng soi chiếu. Nhân vì ăn đất béo, mà dục tâm dần phát, bèn mất ánh sáng. Người dân kêu than. Khi ấy, Phật A-di-đà ở phương Tây bảo hai vị Bồ-tát Bảo Ứng Thanh và Bảo Cát Tường: "Các ông có thể đến nơi kia mà cùng tạo nhật nguyệt, khai mở nhãn mục ấy tạo làm pháp độ". Bồ-tát Bảo Ứng Thanh liền thị hiện mạng tận, trở về Tây phương).
Sơn Hải Kinh nói: "Nước Thân độc, dòng họ Hiên Viên ở đó". (Quách Phác ghi chú: tức là nước Thiên Trúc vậy). Từ đó mà tin rằng, Tam Hoàng căn cội xuất phát từ kia. Sứ giả kính phụng Phật nên không nghi ngờ vậy. Theo lệ tìm văn có thể được ý. Đế Hệ nói: "Mới đầu của khai tịch, tinh thần con người hôn mê dua nịnh, chỉ ngủ và ăn, chẳng hiểu nghịch theo. Từ khi Thái Hạo Thượng hoàng nhân lúc làm khuôn phép, khắc tượng vẽ quái, địa vị tôn ty, mới biết kính để phụng tiên, phụng trên nuôi dưới". Nhỏ nhiệm dùng tâm thức, dần hồi mở đường tuệ. Tự chẳng phải không bờ mé đại bi, giải thoát thâm diệu, ao có thể cúi hình chất đồng kẻ ngu, khởi phát mờ tối chuyển hóa nơi đời. Hai vị Thánh đến ứng tin mà có chứng nghiệm vậy. Họ hoằng đạo, số kiếp như vi trần chẳng thể cùng, họ làm lợi vật, khéo trải qua chỗ chẳng thể tính. Quá khứ tô bồi như Hằng sa, tương lai càng vượt trên số đó.
Năm Nguyên Hoàng ông nói như là một mảy trần lúc mới đầu của đại địa. Niên hiệu khai tịch, sách luận biển cả chỉ tợ một giọt nước, chẳng phải chỗ liên loại, chẳng phải chỗ bay liệng. Phàm như sâu trùng ăn cây gỗ còn chẳng biết mùi vị ở ngoài da, há biết được vũ trụ rộng lớn ư? Căn cứ chánh văn ở Tam sử, cùng Điển Cáo ở Ngũ Kinh, đều nói: Lão Tử là người ở cuối thời nhà Chu. Tiếp đến thì bảy lục của Nguyễn Thị, bốn bộ của Vương gia, Hoa Lâm biến lược, sửa văn ngự xét. Văn của Đào Ẩn Cư, ký của Lưu tiên sinh, lục của Vương Ẩn, Ngụy Thâu; thư của Dương Bân, Phí Tiết, đều biên ghi niên kỷ, đều làm đại sử, không gì chẳng cùng tuân theo chánh sử, từng không đàm luận khác.
Ở thời nhà Tùy, có Diêu Trường Khiêm (tên là Cung ở thời nhà Tề làm Độ Liêu tướng quân, đến thời Tùy làm Tu sử bác sĩ) học thông nội ngoại, khéo cùng tận toán thuật (tức Thái sử thừa truyền nhân quân thọ học thầy), cho rằng chỗ ghi của Xuân Thu chẳng qua bảy mươi nước, Khâu Minh làm truyện chỉ nêu thuật hơn hai trăm năm. Đến như Thế Hệ Thế Bản, rất mất giềng mối cội gốc, Đế vương thế kỷ lại lắm hoang phế, các học giả hậu sinh càng nhiều lầm hoặc. Năm Ất tỵ (585) tức năm Khai Hoàng thứ năm thời nhà Tùy, cùng Quốc tử tế tửu Khai quốc công Hà Thỏa v.v... có sắc chiếu gọi tu sửa lịch, có hơn ba mươi người cùng suy xét, đều là các bậc kỷ tử ở đương thời, am hiểu đủ các kinh sách, căn cứ Tam Thống Lịch, biên niên hiệu đó, trên khuôn phép vận khai, dưới chung cùng ở Ngụy tỉnh. Đầu thống Giáp tý, bên cạnh trình bày các nước, viện dẫn chín kỷ ba nguyên (Chín đầu, Năm rồng, Quát đề, Hợp hùng, Liên thông, Tự mạng, Tu phi, Nhân đề, Thiện thông v.v... gọi đó là chín kỷ). Thiên hoàng Nhân đế, năm kinh mười vĩ, sáu nghề năm hành. Khai sơn đồ quát địa tượng, cổ sử khảo nguyên mạng bao, dẫn Thần khế, Đế hệ phả, móc thiên Thủy Học ở Mạng quyết, Thái sử công luật lịch chí. Điển lược cùng với thế kỷ, Chí Lâm cùng với Trường Lịch, chiếu cáo của trăm vua, quan nghi trong sáu đời. Địa lý thư quyền hành ký, Tam ngũ lịch gồm mười hai chương, Phương Thúc Cô Đào Hoằng Cảnh v.v... cả vài mươi bộ sách, lần lượt biên ghi đó hợp thành bốn mươi quyển, đề tên là Niên Lịch Đế Kỷ, rất được đầy đủ, văn nghĩa có thể y cứ.
Từ năm Canh tuất của Thái cực thượng nguyên, đến năm Ất tỵ (585) tức năm Khai Hoàng thứ năm thời nhà Tùy, có cả thảy một trăm bốn mươi ba ngàn bảy trăm tám mươi (143.780) năm. Theo Lương Ký nói: "Từ Khai Tịch, đến năm Đại bảo thứ hai (551) ở đời vua Thái Tông (Giản Văn Đế-Tiêu Cương 550-551) thời Nam Lương thì có hai trăm tám mươi ba triều đại với thời gian bảy trăm sáu mươi mốt ngàn bốn trăm mười lăm (761.415) năm". Căn cứ các bộ niên kỷ, chẳng thấy Lão Thị làm thầy Phục Hy, xét một Hư tắc này thì trăm sự không thật.
Theo Trường Khiêm Kỷ nói: "Phật đản sinh năm Giáp dần tức năm thứ hai mươi sáu ở đời vua Chiêu Vương, đến năm Nhâm thân tức năm thứ năm mươi ba thời vua Mục vương, Phật mới diệt độ (đến năm Khai Hoàng thứ năm (585) thời nhà Tùy là đã được một ngàn năm trăm bảy mươi sáu (1576) năm)". Điều này so với Chu Thư Dị Ký, Hán Pháp Bản Nội Truyện và Pháp Vương Bản Ký, cùng với chỗ ghi của Thượng thư lệnh Hám Trạch ở thời nhà Ngô, của Pháp sư Đàm Mô Tối ở thời nhà Ngụy đều chẳng sai.
Suy xét Lão Tử ở năm Đinh mão, tức năm thứ sáu thời Hoàn Vương, thì ra làm quan ở nhà Chu. Đến tháng năm-Nhâm ngọ năm Quý sửu tức năm thứ bốn mươi hai thời Kính Vương mới theo hướng Tây vượt ải (tính đến năm Khai Hoàng thứ năm (585) thời nhà Tùy thì được một ngàn không trăm ba mươi bảy (1.037) năm). Căn cứ các Tiên công đề tựa nói: "Ngày mười hai Bính ngọ, tháng hai Đinh mão, năm Thái Tuệ, niên hiệu Thượng Hoàng thứ nhất, Lão Tử ra làm thầy nhà Chu, tức năm Đinh mão thời Hoàng Vương vậy". Lại nói: "Tháng năm
-Nhâm ngọ năm Quý sửu, Thái Tuế Vô Cực thứ nhất, Lão Tử bỏ nhà Chu, theo hướng Tây vượt qua ải, tức năm Quý sửu ở thời Kính Vương vậy".
Xét năm từ Tam Hoàng trở xuống Bản ký cũng không có Kiến nguyên, đến đời Hán Võ mới có Nguyên hiệu, kia xưng Thượng Hoàng Vô Cực v.v... đều là nói dối, toàn không y cứ. Lại nữa, Vương Biểu ở Cao Ly hỏi Tề Hậu rằng: "Chư Phật xuất hiện nơi đời có được nghe chăng?" Văn Tuyên Đế mời Pháp sư Thượng Thống viết thành văn võ rõ đủ để đáp đó. Khi ấy nêu dẫn truyện Chu Mục (tức Biệt truyện của Mục Vương vậy) để đáp đó, chỗ dẫn của kẻ sứ cùng với Diêu Trường Khiêm không khác.
Trong truyện Liệt Tiên, Lưu Hướng nói: "Đam (Lão Đam) cùng Duẫn Hỷ đều đến Lưu sa, đến Tây phục, Củ đằng thật". Là biết Khổng Lão hai Nho đều sinh sống ở cuối thời nhà Chu. Lão Tử sống sau Phật cách mười hai đời vua. Theo Quốc ngữ nói: "Năm thứ hai ở đời vua U Vương, Tam xuyên chấn động, Kỳ sơn sụp đổ". Bá Dương lại nói: "Nhà Chu sắp mất vậy, riêng có một cụ già. Chẳng phải Lão Tử vậy". Căn cứ vua Nguyên Đế (Tiêu Dịch 552-555) thời Nam Lương giảng giải về Lão Trang, nói: "Lão Tử mất khoảng đầu thời Cảnh Vương, Trang Tử sinh ở cuối đời Cảnh Vương". Diêu tướng quân nói: "Khổng Lão cùng thấy gặp nhau lúc hỏi lễ, cũng tại năm thứ mười đời Cảnh Vương". Năm Giáp dần vì Duẫn nói kinh cũng ở thời Cảnh Vương. Vậy thì Phật trước mà Đạo sau, đích thực khá rõ ràng vậy.
Ông nói Lão Tử năm Thanh Trược làm Quốc sư, rất lắm Hà Hán chẳng gần nhân tình. Phàm mới đầu của Thanh Trược, mà âm dương chưa phân. Âm dương chưa phân thì Lưỡng Nghi còn lẫn lộn. Lưỡng nghi còn lẫn lộn, thì Tam tài chẳng thành hình, do đó mịt mịt mờ mờ chẳng thể gọi tên vậy, Giáp tý phát khởi từ Đại Nạo, năm tháng định xác ở Nghiêu điển, chẳng chỉ Hy Hoàng chưa xuất hiện hẳn phải là trời đất chẳng mở. Nghiệm biết đất trời cấu tinh, nam nữ nữa hóa sinh. Vậy Phục Hy cùng Lão Tử ấy là người ư? Hẳn tại trong Nhị nghi, chẳng vượt trong Tam tài, sao được đạo đức nghe đầu đường nói đầu ngỏ để tự khinh thường ư? Lại nói: Phương sóc cũng là thân của Lão Đam, càng chẳng thể được vậy. Đông phương sóc vốn là tinh của sao Tuế. Sao mà biết vậy? Tầm xét mạn thiền ở Triều hơn hai mươi năm, sao Tuế chẳng thấy, cũng hơn hai mươi năm, sá đến nói mất, Mộc tinh mới xuất hiện. Với chỗ ghi của người thông rành, nghiệm có thể biết vậy. Truyện Thần Tiên của Bảo Phác Tử nói: "Thánh giả không đơn lẻ, hẳn ứng vật để thành hóa, đâu có thể Quốc sư trong thiên hạ đều đợi một người Lý Nhĩ ư?" Lạ lùng thay lời nói ấy, rất mực tốt đẹp vậy! Như trải qua nhiều đời, chỉ một Lão Đam làm thầy, cũng trải qua nhiều triều đại chỉ một Hy Hoàng làm chủ. Đã có lắm chính sách, hẳn nhờ nhiều Quân Vương, có thể tin một thầy: Chỉ giúp một thời trị vì vậy. (Như đó trải qua nhiều đời đều là thân Lão Đam, lời nói ra của cận cố sao có thể tiếp thừa? Căn cứ Cát Trỉ Xuyên nói: "Đều là không biết Đạo sĩ, giả sinh thần dị". Há ấy vậy ư?).
Nho sinh hỏi: Hoàng Phủ Mật nói: "Lão Tử ra ải, vào nước Thiên Trúc, dạy vua Hồ làm Phù Đồ". Đó tức là Lão Tử cùng Phật là người đồng thời vậy, sao nói lãng trước sau để nắn sửa thế tục ư?
Bậc Khai sĩ dẫn dụ rằng: Tìm xét, phàm là chí nhân, huyền tịch có loại, Cốc thần ứng biến vô phương. Sự việc đồng như sơn hưởng không nhanh mà chóng. Há cách Hoa Di, đồ chúng của giếng gò ưa chuộng bắt chước thiên kiến, sáng ba chiều bốn, không sinh mừng thứ. Do đó, rỗng mình ứng vật, hẳn có cốc ngàn biến. Hẹp tình vừa sự đâu biết diệu của muôn khác. Căn cứ Tây Vức truyện nói: "Lão Tử đến nước Kế Tân, thấy Phù Đồ, tự thương xót mình không sánh kịp, mới nói bài kệ tụng cúng dường, đối trước tôn tượng tỏ bày tình ý rằng: "Ta sinh sao quá muộn (Tân bản đổi là Phật sinh sao muộn), Phật ra đời sao quá sớm (Tân bản đổi là nhập Niết-bàn sao quá sớm), chẳng thấy được Thích-ca Văn, trong tâm thường áo não!" (Nói không được thân gần thấy Phật, do đó luyến mộ giao hoài. Ngụy lược Tây Vức truyện nói: Vua nước Lâm Nghê không có con, nhân đến cúng tế nơi Phù Đồ, Hậu Phi là Ma-da mộng thấy con voi trắng mà mang thai. Đến lúc Thái tử sinh cũng từ hông phía hữu mà ra, tự nhiên có búi tóc, vừa rơi xuống đất liền hay đi được bảy bước. Vì hình tướng tợ như Phật, vì cúng tế Phù Đồ mà có được con, nên đặt tên cho Thái tử là Phù đồ. Trong nước có Thần nhân tên là Sa Luật tuổi già tóc bạc, tợ như Lão Tử, thường dạy dân làm Phù Đồ. Các Hoàng cân ở đời gần đây thấy đó đầu bạc, nên cải đổi Sa Luật ấy đề lại Lão Đam đây, quanh co hay an ẩn dối hoặc thiên hạ. Ở đời vua Ai Đế (Lưu Hân 0601 trước Tây lịch) thời Tiền Hán, có Tần Cảnh đi đến nước Nguyệt Thị, vua nước đó bảo Thái tử tự đọc trao truyền kinh Phù Đồ, lúc trở về lại đất Hán, chỗ biên ghi của Phù Đồ, đại khái cũng tương tợ như Đạo kinh vậy. Lời nói của Hoàng Phủ chưa nghiên cứu gốc ấy. Hóa Hồ Kinh nói: Vua nước Kế Tân nghi ngờ Lão Tử yêu mỵ nên dùng lửa để thiêu đốt, nhưng vẫn an nhiên không chết. Vua ấy bèn biết là Thần Nhân, cả nước đều hối hận lỗi quá. Lão Tử bảo: "Thầy của ta tên là Phật. Nếu hay xuất gia, sẽ khỏi tội ở ngươi". Nước đó bèn kính phụng dạy răn, xưa trước làm Sa-môn vậy. Nếu Phật trước không có Lão Đam, thì đâu biết biến hình làm Phật? Bởi vì nước Kế Tân từ xưa lại kính tin Phật, Lão thị nhân đó suy đẩy Phật mà hóa đó, chẳng phải phát khởi từ Duẫn Đam mới có Phật vậy. Bộc xạ Dương Tố ở thời nhà Tùy theo xa giá đến cung Trúc Lâm, trải qua lầu quán, thấy miếu Lão Đam, trên vách tường khắc họa làm hình trạng Lão Tử giáo hóa nước Kế Tân, độ người cắt tóc xuất gia, bèn hỏi Đạo sĩ rằng: "Nếu Đạo lớn hơn Phật, thì Lão Tử giáo hóa người Hồ nên làm Đạo sĩ, cớ sao lại làm Sa-môn?" Nên biết, sức Phật lớn mới giáo hóa người Hồ, Đạo lực nhỏ chẳng thể giáo hóa người Hồ, đó là Phật hóa Hồ, sao nói là Đạo hóa Hồ ư? Khi ấy Đạo sĩ không biết trả lời thế nào cả!).
Theo Tạp Lục ở đời Tấn nói: "Đạo sĩ Vương Phù từng cùng Sa-môn Miên Viễn kháng luận, Vương Phù từng bị khuất phục, bèn cải đổi Tây Vức Truyện làm thành Hóa Hồ Kinh, nên nói Hỷ cùng Đam hóa Hồ làm Phật, Phật có từ đó". (Cao Tăng Truyện của Bùi Tử Dã nói: "Ở đời vua Huệ Đế (Tư Mã Trung 290-307) thời Tây Tấn, Sa-môn Miên Diễn tự là Pháp Tổ từng cùng Tế Tửu Vương Phù; một thuyết khác nói là Đạo sĩ có công thứ tranh luận tà chánh. Vương Phù từng bị khuất phục, đã sân hận, mà chẳng tự nhẫn chịu, mới gá mượn Tây Vức Truyện làm thành Hóa Hồ kinh, để vu khống Phật pháp, bèn lưu hành nơi đời. Có người không biết, ương lụy cho là có chỗ kết quy, đến nỗi khiến tai họa nhiều năm". Trong U Minh Lục nói: Lý Thông ở Bồ thành chất, thấy Sa-môn Pháp Tổ vì vua Diêm-la mà giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm, lại thấy Đạo sĩ Vương Phù thân mình bị xiềng xích, cầu xin Sa-môn Pháp Tổ sám hối, nhưng Sa-môn Pháp Tổ chẳng chịu đến. Cô phụ Thánh nhân, chết mới nghĩ hối lỗi).
Đạo sĩ Khương Bân ở thời nhà Ngụy vọng dẫn kinh Khai Thiên để đối đáp cùng vua Minh Đế (Nguyên Hư 516-528) thời Bắc Ngụy, tự nói: "Lão Tử sinh sống ở đời Định Vương". Trong luận Phá Tà nêu dẫn rõ chứng cứ ấy. Trang Tử nói: "Lão Đam chết, Tần Thỉ đến viếng điếu". Quyết Trung ký nói: "Lão Tử an táng tại Hòe Lý" (xưa nay ở phía Nam của Thủy bình, Phù phong có làng Hòe lý). Nhưng Tất Viên lại thân gần học đạo ở Đam, tuy có thể Tống Lỗ khác bang, mà xuất hiện ở đời thì đồng thời. Văn của chỗ nói đủ xét nương tin, chẳng đến Thiên Trúc đốt lửa không nghi ngờ. Hoàng Phủ Sĩ sao bài xích dối nói đó, mà rõ ràng đàm luận sai nhầm kia, thuật về Lão Tử đến Lưu sa đều không thật lục, đầy đủ ở truyện Cao Sĩ An, há có thể hư dối ư? Nên Phật có trước Đạo có sau, điều đó không lầm hoặc vậy.
----------------------------
Nho sinh hỏi: Đại Đường mở vận, bởi là con cháu nối dõi dòng Thánh của Thái thượng Lão Quân-Lý Đam Quốc sư thời nhà Chu, mở hóa vô vi, hoằng truyền thiên đạo đức, khảo xét trụ tử dùng nghiệp sáu kinh, bảo Tư Đồ để phu tuyên năm giáo, đạo đức ngang bằng, lễ nhân ban trải cả chín khu, trừng phạt xấu ác khuyên thiện, oai phong thêm khắp bốn biển. Trời thành đất lắng xa, an gần nghiêm chỉnh, quang trạch trong hoàn vũ đến nay tám năm. Ở năm Hiệp hợp ngày tháng Giáp chung, Thiên tử đích thân đến Tịch ung, thân lâm đến Thích điện, Sa-môn Đạo sĩ đều dự lễ diên, kính vâng lời ban sắc.
Đạo sĩ Phan Đản tấu rằng: Thái tử Tất Đạt chẳng thể được làm Phật, phải trải qua sáu năm cầu đạo mới được thành Phật. Do đó, đạo hay sinh ra Phật, Phật do đạo mà thành. Đạo là cha là thầy của Phật, Phật là con là rộng mở của Đạo. Nên kinh Phật nói: "Cầu đạo Vô thượng chánh chân". Lại nói: "Thấu hiểu đạo lớn, phát ý vô thượng". Tiếng ngoại quốc nói A-nậu Bồ-đề, tiếng Trung Hoa thời nhà Tấn phiên dịch nghĩa là Vô thượng Đại đạo. Lấy theo đó để nghiệm thì Đạo lớn Phật nhỏ, ở sự có thể rõ biết, sao phân phán xao lãng trước sau đưa đến làm thầy trò ư?
Bậc Khai sĩ trách bảo: Tôi nghe điển của Nghiêu Thuấn, Ngũ Bá chẳng chịu xem, đọc sách của Khổng Mặc, của Mạnh tử thì không thể đọc. Phàm sâu trùng mùa hạ không thể đem nói băng lạnh, dốc thành ở đời vậy. Người khác mắc thì không thể cùng luận đạo, bởi còn hạn cục nơi giáo vậy. Nay lại vì ông, lược nói rõ việc ấy đến rốt cùng.
Phàm, Diệu Đạo không hình, lý dung chân tế, đại âm vô thuyết, thể tịch hư tông, không thể lường đó mà nói bày hình tượng, không thể tìm đó ở sự thấy nghe. Tam tế suy tìm mà chẳng được, nhị đế cách mà không biết. Xung tánh chẳng đổi dời, ai hay khiến có? Chí công không rơi lạc, ai hay khiến không? Nhưng mà Trang ngoài lắng bặc ở Bách phi, xưng nghĩa là chìm đắm trong tứ cú. Kịp đến lúc hình của vô hình ứng khắp pháp giới, thuyết của vô thuyết, hóa hợp nguồn tình, nên hay khởi vận đại bi để cổ động đó, mở mang đại từ để nhiếp độ đó. Từ đó, vận mặc áo xấu dơ bẩn, hiện sinh nơi đời ác năm trược, ẩn trí chân thật, dùng phương tiện giá ba xe. Thấy rằng, phàm chỉ một hạt gạo để nuôi thân, vốn vì nhiếp phục ngoại đạo; sáu năm ở dưới gốc cây, chỉ muốn dẹp phá tà sư. (Như trong phẩm Khổ Hạnh ở kinh Bản Hạnh nói: "Các ngoại đạo v.v... hoặc mỗi ngày ăn một bữa, hoặc bảy ngày mới ăn một bữa, hoặc một ngày một bữa hoặc bảy ngày một bữa, hoặc ăn phẩn của trâu dê, hoặc ăn cộng cỏ ngó sen, hoặc thường đứng bằng một chân, hoặc thường đưa thẳng hai cánh tay, hoặc cả bốn chi chống xuống đất, hoặc dùng năm thứ lửa để hơ thân mình, tự đói khát, tự rơi đổ thân mình trên làm gai gốc ở gò trũng, nằm trong tro đất, phụng thờ trời thần để cầu giải thoát. Bồ-tát quán sát mong cầu tà vạy ấy, mới thực hành hạnh cực khổ đáng sợ, un trú nhất tâm tịch tỉnh ngồi không lay động, như vậy suốt sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè đen, hoặc ăn gạo canh, đậu nhỏ đậu lớn, đậu xanh đậu đỏ, hạt gạo lớn nhỏ v.v... Mỗi ngày chỉ một hạt, mong được duy trì để giữ mạng sống, thân thể gầy suy, hơi thở rất yếu, toàn không khí lực, tay chân cử động không như ý muốn, tợ như ông già suy yếu 80-90 tuổi. Khi ấy, Phật nói kệ tụng rằng: "Bồ-tát đến sông Ni-liên, dùng tâm thanh tịnh ngồi bên bờ, vì các người cầu đạo chẳng chân, nên muốn thực hành đại khổ để chuyển hóa tà vạy kia vậy"). Xót nhọc không khổ hạnh, thương không ích tự đói (thương nghĩ ngoại đạo không ích khổ hạnh rỗng hư mà tự đói khát), sau đó mới ăn dùng sữa cửu chuyển. (Trong kinh lại nói: "Khi ấy có hai người chủ thôn Thiện sinh nghe trời mách bảo, liền nhóm tập một ngàn con bò vắt lấy sữa tốt, triển chuyển cùng cho uống đến còn mười lăm con bò, sửa dính một phần tịnh, hòa cùng gạo canh tốt, vì Bồ-tát mà nấu cháo sữa. Đang lúc nấu cháo, hiện bày các thứ tướng, hoặc hiện tướng chữ vạn, hoặc hiện hình Đế-thích Phạm vương. Sữa đó vọt bay cao lên đến nửa cây đa la, hoặc cao bằng một cây đa-la, xong rồi rơi xuống, không có một giọt lìa nơi đồ đựng kia mà rơi nơi khác. Vào sáng sớm ngày hai mươi ba tháng hai, thọ nhận một bát cháo sữa của hai người nữ, ăn dùng xong, thân thể trở lại bình phục, rồi nhận cỏ cát tường, đến ngồi nơi gốc cây Bồ-đề). Chứng đắc Tam Bồ-đề. Khi ấy, sáu sư quyến thuộc không ai chẳng đảnh hội chu-la (tức bao tóc trên đảnh), ngàn con Ma vương đều cùng quy tâm nhiếp phục (bấy giờ Ma vương ở cõi Dục dẫn theo ngàn người con, cùng ba tà nữ, binh chúng quỷ thần có tám ức, hoặc hiện trong rốn có ngàn mắt, sau cổ có tám cánh tay, trong miệng sấm sét tuôn ra, từ tay tỏa phóng ánh sáng chớp, hoặc rắn nhiễu quanh bên eo trái, hoặc rồng nhiễu quanh bên hông hữu, có các thứ thần biến đến não hại. Bồ-tát phóng ánh sáng lớn, hiện tướng hiếm có, Ma-vương và quyến thuộc đều phát thiện tâm, đồng một lúc cùng cúi đầu). Tà phong vụt chốc rơi bén nhọn, tuệ nhật hừng hực tỏa ánh sáng. Đó cấp dẫn đến như vậy, đó oai thần đều như kia. Điều ông nói đạo (chín mươi lăm thứ đạo) là đạo kia ư? (Hỏi có phải chín mươi lăm thứ đạo chăng) hay là khác với kia (hay chẳng phải chín mươi lăm thứ đạo ấy?). Nếu đồng với kia, tức là học trò của hai trời và ba tiên (trước lúc Đức Phật chưa ra đời có hai trời là Ma-hê-thủ-la và Vi-nữu-bà v.v...; có ba tiên là Ca-tỳ-la, Ưu-lâu-ca và Lặc-sa-bà v.v... hành tà Tam bảo để hóa thế gian. Đến lúc Đức Như Lai ra đời thì chúng đều xin làm đệ tử, các cành nhánh khác là như Đề-bà, Bồ-tát phá sau, đọc xem ở luận Trí Độ và Bách luận). Con cháu của chín mươi lăm thứ đạo ấy là Phú-lan-na v.v... là thầy của ông, chỗ thầy kia đọa lạc, ông cũng sẽ đọa lạc theo. Còn nếu khác với kia tức là đệ tử Phật, sao được sai nhầm nói cầu đạo ta nên mới được làm Phật?
Lời của Khan đản nói, tội ấy chẳng gì lớn bằng vọng tấu hiên thềm, khinh xuất đến Thiên oai, với lý đáng nên trói buộc đó là tội thứ nhất. Liếc mắt triều đình, nghi ngờ tín tâm, biến đổi tà làm chánh, đó là tội thứ hai. Đem Đại sư Vô thượng cầu tiểu đạo trong hoàn vức trái với kinh giáo kia, đó là tội thứ ba. Nuôi lớn phỉ báng ở tương lai, kết đảng bàn tà ở hiện tại, tự mình sai nhầm khiến người sai nhầm, đó là tội thứ tư. Đã mắc tội khiên phụ dối Thánh, hẳn sẽ đọa vào địa ngục vô gián trải qua số kiếp như cát bụi nhận chịu khổ, đó là tội thứ năm. Vả lại, Chấn Đán cùng với Thiên Trúc còn cách bởi Lân châu trong Hoàn hải, Lão Đam đến cuối thời nhà Chu mới dấy khởi, Phật xuất hiện ở đầu thời nhà Chu, tính ra cùng cách nhau hơn hai mươi đời vua. Luận bàn đó đã trải qua hơn ba trăm năm, đâu có Phật ở đời Chiêu Vương (Cơ Hạ 1000-976 trước Tây lịch) mà lùi học đạo ở đời Kính Vương (Cơ Mãn 513-476 trước tây lịch) ư? Giả sử hư nghiệm cũng thật đủ có thể biết vậy (Niên Kỷ nói: "Lão Tử đến năm Quý sửu tức năm thứ bốn mươi hai đời Kính Vương, vượt qua ải Hàm Cốc theo hướng Tây vào nước Tần". Ngụy Thư nói: "Lão Đam cùng Duẫn Hỷ, trong đời Kính Vương, đồng ra tán quan". Tính đến năm Ất tỵ (585) tức năm Khai Hoàng thứ năm thời nhà Tùy là đã một ngàn không trăm ba mươi bảy (1.037) năm.
Nho sinh xin hỏi: Các kinh Linh Bảo v.v... nói có Thái Thượng Đại Đạo trước lúc đất trời sinh, trong của Tước bột động hư, trên cả Vĩ Hoa ngọc thanh là thầy của Phật, hay sinh ra Phật, chẳng nói Lão Đam ở thời nhà Chu, là định phải ư? Mong được nghe nói đó!
Bậc Khai sĩ dẫn dụ bảo: Trước Ngũ đế chưa nghe có Đạo, cuối thời Tam Vương mới có tên Đam. Từ đời vua Cảnh đế (Lưu Khải 156-140 trước tây lịch) thời Tây Hán mới phát khởi đạo học, tìm nay xét xưa, đạo ấy là ai? (Dư Cửu Hưng ở Đan dương soạn thuật luận minh chân mười chín chương để Ngự Đạo nói: Phàm, chí minh chẳng phải sáng đối với tối, nên không thể nói chí. Tỉnh chẳng phải tỉnh đối với động, nên không thể nói phúc. Ngưỡng tìm cầu xướng đầu của Đạo kinh. Đạo ngôn ấy dòng họ là ai? Đạo lại là ai nói? Đạo nếu có miệng tức đủ Ngũ ấm, chỗ thành ở trong tam tài, chẳng khỏi vô thường, rốt cùng chỉ là phần đoạn, trở lại nhiếp thuộc Tiên đạo).
Căn cứ ba sách bảy vở, ba truyện chín phái, tuy là Điển mô kinh quốc, không gì chẳng là sư Tông ở Chu Dịch. Dịch nói: "Năm vận cùng sinh, dần phân chia trong đục, Lưỡng nghi đã mở bèn phán âm dương" (Lễ Vận nói: Thái Nhất phân mà làm trời đất, chuyển mà làm âm dương, biến mà làm bốn mùa). Do đó, càn nguyên vốn mới đầu, khôn đạo vốn sống, ba thứ ánh sáng hiển trước tượng ở trời, là Đạo của Càn vậy. Muôn vật bẩm hình ở đất, là Đạo của Khôn vậy (Càn Tạc Độ nói: "Càn lấy tượng trời, Khôn lấy pháp đất". Ly Thoán nói: "Nhật nguyệt sáng ở đời, trăm thứ lúa thóc sáng ở đất"). Nên nói, một âm một dương đó nghĩa là Đạo. (Thuyết Quái nói: Đạo quả lập trời gọi là âm cùng dương; Đạo của lập đất gọi là nhu cùng cương; Đạo của lập nhân gọi là nhân cùng nghĩa, gồm cả Tam tài mà lưỡng đó nên sáu họa mà thành Quái). Âm dương chẳng thể lường, gọi là Thần. Đạo ấy là lý là thông là hòa là đồng, nên nói là âm dương vận thông, ngôi vị tam tài vậy. Trên dưới giao thái, muôn vật phát sinh, có đạo lý của âm dương hay thông sinh ở người vật. Trời hòa đất đồng thì các mầm mà loại động vậy. (Lễ Nguyệt Lệnh nói: Khí trời giáng xuống, khí đất vọt lên, trời đất hòa đồng, mầm muôn vật máy động). Cổ xuy đó sấm sét dương động vậy, đượm nhuần đó gió mưa âm theo vậy. Nên biết, không có đạo trời đất thì từ đâu sinh, chẳng có đạo âm dương thì do đâu linh? Đâu được trước tạo hóa, đạo đã xuất hiện, giả sử có đạo cũng chẳng vượt ngoài trời đất và âm dương (Sưu Thần Khế nói: Thánh chẳng quá trời đất, Thần chẳng quá âm dương). Phàm, trời đất, ở sự có thể rõ, âm dương ở sinh có nghiệm. Lý số như vậy, chẳng nói có đạo trước đất trời sinh. Đạo đã chẳng theo, sao có thể sinh Phật? Xưa trước, Xa Dận giải đạo đức rằng: "Ở người làm đức, đến vật làm đạo". Ân Trọng Văn nói: "Đức là đắc (được) vậy". Đạo là do vậy". Nói đắc hiếu ở tâm, nên gọi đó là đức, do đó mà thành nên gọi đó là đạo. Vì vậy, hiếu là gốc đức, thành nghĩa là đạo, công đức rõ bày tự lập nên tên, đạo được xưng gần Tế. Trong nhân đức mà thực hành đến, ngoài do đạo mà hóa thành. Sinh đó nuôi đó, cốt yếu của đạo ấy. Thành đó thục đó, thấu đáo của đức vậy. Nên Luận Hành nói: "Lập thân gọi là đức, thành danh gọi là đạo, đạo đức là như thế đó". Điều Ông nói đạo sao khác ấy ư? Nếu khác ấy tức chẳng đủ để quy hướng kính tin. Đâu có đầu đội mũ vàng, thân mặc áo hạt vàng, râu xõa tóc bạc, tay nắm ngọc chương, riêng xưng hiệu Thiên Tôn, ở trên Đại La riêng tên đại đạo, trị trong Ngọc kinh, chỗ núi sông chưa rõ? Điều trong kinh sử không ghi, Đại La đã nói của Ô Hữu, Ngọc Kinh vốn đàm của Vong Thị vậy (Căn cứ kinh Sơn Hải nói: "Trong thiên hạ có cả thảy năm ngàn ba trăm bảy mươi (5.370) danh sơn, trải qua năm mươi bốn ngàn năm trăm (54.500) dặm, Côn Lôn rất cao lớn, trên đó có vườn huyễn, bởi là chỗ ở của Thần tiên, có thành vàng quách đá, cành quỳnh cây ngọc lá báu hoa vàng. Nhật nguyệt và ba thứ ánh sáng liệt bày phía dưới đó, xe mây lọng lông, giá phụng hiên rồng, ngọc nữ tiên đồng chẳng thể tính kể. Tiếp đến thì ba núi trong biển, phương trượng Bồng lai". Trong Danh Sơn Phú, Tôn Hưng Công nói: "Giẫm trải vào biển thì có Lực đài Bồng lai, lên núi thì có Tứ minh Thiên thai, Dĩ nhã Thích sơn chỉ luận Ngũ nhạc Ngọc kinh đã là danh sơn thượng thượng". Lại nói: "Phủ, chỗ trị vì của Thiên Tôn, cớ sao Kinh Sơn chẳng ghi, Quảng Nhã không lời văn ấy?").
Ông xưng Thái thượng là thầy của Phật. Căn cứ các bậc Tiên nho qua nhiều đời, và trong khoảng niên hiệu Thừa Thánh (552-555) thời Nam Lương, giải năm ngàn (5.000) văn, lâu dài có rõ Thích Ngôn Thái Thượng có bốn: Một là dưới biết có đó nghĩa là Tam Hoàng đến Ngũ Long; hai là tiếp thân dự đó, nghĩa là Phục Hy cùng với Thần Nông; ba là tiếp theo sợ đó, nghĩa là Hiên Viên cùng Đế Khốc; bốn là tiếp theo khinh thường đó, nghĩa là từ Nghiêu Thuấn trở xuống. Lễ ký có nói: "Thái thượng quý chuộng đức, tiếp theo đó là chuyên việc thí báo". Nghĩa là Thiên hoàng Nhân đế là Thái thượng vậy. Không riêng đạo thần, gồm luận giáo ấy, chỉ là dạy răn dẫn dắt quân vương dân chúng, cấp dẫn kẻ tục, mới đầu chưa từng nghe tu muôn hạnh mà hướng đến Niết-bàn, vận tứ lưu mà vượt qua sinh tử. Căn cứ Đạo kinh, Nguyên Hoàng Lịch nói: "Tôi nghe đại đạo Thái thượng Chánh Chân xuất phát từ tự nhiên, có nghĩa là làm Phật; Quân vương của vô vi". Kiểm xét trong Đạo kinh gọi là xưng Phật là đại đạo, là Thái thượng, là tự nhiên, là Chánh Chân, là Thái cực, là Vô thượng đều là Phật vậy. Lại nói: "Nước Thiên Trúc có Cổ Hoàng tiên sinh (nói Phật là Thái cổ Hoàng tiên sinh) khéo vào Nê-hoàn. Cổ tiên sinh là thầy của ta vậy, du hóa ở Thiên Trúc, nay sắp trở lại thần hoàn lại vô danh, tuyệt thân diệt có chẳng chết chẳng rốt cùng, mãi mãi thường còn, nay ta đi vậy". (Lão Quân biết Phật nhập Niết-bàn, do đó trình bày việc hóa duyên vừa qua đã xong, từ đó bảo là trở lại, môn đồ chưa biết, nay phải tự thuật là: Thầy của ta vốn ở tại Tây phương, vì Tây thăng ấy tỏ bày luyến mộ đó. Ở văn chỉ đích thủ chứng, rõ ràng đó vậy).
Kinh Tam Động nói: "Phật là cha của đạo". Tây Thăng lại nói: "Đại thuật trong thiên hạ, Phật thuật là thứ nhất". (Nói thần thông biến hóa vô cùng vậy). Hóa Hồ Kinh nói: "Lão Tử biết Phật muốn nhập Niết-bàn, lại xoay trở lại ở đời hiệu là Cadiếp, nên ở nơi rừng Sa-la vì chúng mà bày hỏi". Kinh Chuyển Thần Nhập Định nói: "Tư niệm hết thảy". Truyện Quan Lệnh nói: "Lão Tử nói: Thầy của ta hiệu là Phật, giác ngộ cho hết thảy dân, ăn dùng rau quả tụng kinh, xưng là Đạo Vô Thượng Chánh Chân". Nhân oai thần của Phật nên xưng gọi Phật là Thế Tôn, Hình cùng Thần vân du, thọ cao thượng chí Thánh mười phương chí chân đã được Phật đạo.
Nghiệm xét trong Đạo kinh, nơi nơi đều tôn xưng Phật làm thầy, nay tôi vì ông giải thích điều này tại đây, ông phải nghĩ điều ấy tại đây, đảnh nhận mà kính phụng vâng làm. Phật là che trùm tất cả, đại tông tuyệt xưng, u trạch chí diệu, không thể vì không thủ, không thể vì có cầu. Quả có đó sở dĩ chẳng có, nên không thể được mà có. Có đó sở dĩ chẳng không nên chẳng thể được mà không. Cớ sao? Nếu vốn có cảnh thì đại hoạn trọn diệt, suy đó không hương, thì đại bi chẳng khô kiệt, thường lý chẳng thể nguyên, là thể của tự nhiên vậy. Vô tâm để thành hóa, là tông của đại đạo vậy. Tam ngũ chẳng thể đầu tiên, bởi vì Cổ Hoàng đã trước vậy. Chẳng nghiêm để chánh tục là quân của vô vi vậy. Hỗn độn chẳng thể lường là chủ của vô sinh vậy. Lâu dài đó mãi còn, là gốc của các diệu vậy. Đó giáng linh thỉ là thầy của đại đạo, đó khai hóa thì là cha của Thái thượng, sao được bít mắt để quán xem đất trời, bít tai mà nghe sấm sét? Do đó, Phật hiệu là Pháp Vương; là Bậc Điều Ngự ở đời, các hàng hạ phàm thượng Thánh không ai chẳng quy y. Đâu có xưng Thần của Ngũ lão, mang đeo lục của Tam Hoàng mà có thể làm thầy của dòng họ Thích ư? (Căn cứ Xuất Quan Nghi nói: "Vô Thượng Tam Thiên, Huyền Nguyên Thủy Khí,
Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng Văn Nhân, Vô Thượng Huyền Lão". Triệu Tịch Triều Lễ Nghi nói: "Thái Thượng Huyền Nguyên, Ngũ Linh Lão Quân, đang vời công tài sứ giả. Hai bên rồng hổ quân, quan lại cưỡi rồng ở trạm, Ngọc đồng nắm hương, Ngọc nữ nắm hương, Ngọc đế trực phù.
Nhưng lão là trưởng, là tôn. Nơi Ngũ Lão Quân ở tôn quý của các tiên, lớn của muôn thần. Ngũ linh Ngũ đế, tức là linh oai kính ngưỡng Thần, Tam Hoàng là Thiên Địa và Nhân". Khoảnh Tuấn Thủy Học Thiên nói: "Lúc đất trời mới lập có Thiên Hoàng mười ba đầu, trị vì mười tám ngàn năm (18.000)". Quát Địa Tượng nói: "Thiên Hoàng có chín cánh dùng để bay qua lại. Chỗ Lão Tử kính thờ Tam Hoàng Ngũ Nhạc, Lục Giáp Phù Đồ đều do Hoàng Linh chế tác, Lão Tử đeo mang đó để phòng thân. Nhưng Tam Hoàng Phù Lục, Ngũ Lão Chân Văn đều là năm sắc xanh đỏ, văn trời chữ lớn, nói đeo mang đó sống hoài chẳng chết, cho đến thành Thần tiên. Chỗ thuật quan lại tương quân binh lính cùng với thế tục không khác nhan sắc". Quang Lục Vương Bân v.v... nói: "Đạo là luyện hình, pháp ở biến hóa, Phật là trì tâm, giáo là tế vật". Tức luận về tông của đạo tức là Tam Hoàng cùng với Ngũ Long vậy).
Niên kinh Niết-bàn nói: "Thầy của chư Phật, đó nghĩa là pháp. Vì pháp thường nên chư Phật cũng thường". Tôi lại vì ông phải nói rõ nghĩa đó. Căn cứ Phật Thuyết Không Tịch Sở Vấn Kinh và Thiên Địa Kinh đều nói: "Ta bảo Ca-diếp đến kia làm Lão Tử hiệu là Vô Thượng Đạo. Nho Đồng đến kia, hiệu là Khổng Khâu, dần dần giáo hóa khiến đó hiếu thuận". Kinh Tu-na nói: "Sau đời ta ngàn năm, pháp sẽ lưu truyền đến phương Đông, vua cùng dân chúng kính phụng giới tu thiện". (Cổ Lục nói: Ở đời Huệ Vương thời nhà Chu đã dần có Phật giáo, sau đó hơn trăm năm, Lão Tử mới nói năm ngàn (5.000) văn từ. Lưu Hướng đề lời tựa rằng: "Tôi kiểm xét tạng thư, từng thấy có kinh Phật, nên biết Phật hóa lưu truyền đến đây đã lâu xa vậy").
Trộm cho rằng: Tam đại sắp cuối sáu nước mới uống khởi, đồ chúng du thuyết, tâm còn cẩu thả được, chưa hoạn nạn khoe dối chẳng ngăn che thịt, xuyên lưỡi trống mà dong mưu kỳ, lay môi mép mà đàm nói ngược lợi. Tào Quế xin chiến khuất hoàn, khi ấy Như Sư cảm khóc phủ tóc, Y Xuyên đau xót lấp đầy hết xe, vượt nước ba sông, chấn động hết bốn di, giao xâm trời tối dế mèn bay. Hao Du thỏ múa, Bành Sinh quái lạ vì heo khóc, Đỗ Bá thấy trừng trị chẻ xương. Giả sử khiến nhậm ở A hành, thân ở đài phủ, không gì chẳng quạt vút gió bão mưa lạnh, mạnh xoay oai trời chuyển vầng nhật. Do đó, Bao nữ dâng hiến vương kéo dẫn giặc đốt lửa, người sở hỏi đảnh, dần nghịch giẫm đạp trời. Vầng nhật là phản đất trời mênh mông, lễ nhạc đổ hoại, sinh nhục thân tàn, chẳng từng đóa hoài xấu hổ, đổ nhà lấp nước, sao nhẫn quên trở về? Đâu biết tội khổ gì của thế giới, không nghĩ đồ thán của muôn dân.
Do đó, Phật sai ba Thánh quyền hóa một phương, trái nghi trị nước, nêu thuật tu thân, ngõ hầu khiến đó thay hình luật dùng lễ, biến đổi mỏng đạt thành thuần thục, đều là ép vật rong tình, chẳng phải đại đạo vượt ra cốt yếu. Nếu như phóng tâm ở cảnh Tam Đạt, lắng lo toan ở trường tứ đức, cồng trùm sinh linh, đượm nhuần khắp cùng đây kia vậy, thì Đại sĩ ở phương khác động dụ hằng sa, phát tâm ở xứ này cũng như số bụi trần. Rõ ràng chẳng phải chỗ xưng của văn tự, truyện lược nêu sáu người để mở mộ ngưỡng. Văn-thù khuất dấu vết ở đương thời. Di-lặc Bổ xứ ở tương lai. Quán Âm hiện khắp sắc thân, huệ đượm kiếp xa, Địa Tạng hộ trì Chấn Đán, hóa hợp vô cùng; Mã Minh gồm ba chương ở Đông Hạ, như Triều Dương lúc sớm mai tỏa sáng mà khiến Lục hợp đều chiếu. Long Thọ đạp muôn dặm đến Thần Châu, tợ minh nguyệt đốt sáng đêm đen, hay khiến tám biểu đồng tỏa sáng. Từ đó trở ra, hoặc tuổi già mà hoằng đạo, hoặc trẻ thơ mà tuyên pháp, nam nữ khác hình, Hồ Hán không đồng loại, không ai chẳng nương duyên thi hóa, tùy xứ dẫn phàm. Huyền Công lợi ở trăm vua, chỉ giáo lưu truyền khắp chín cõi, danh ngôn ấy tại đây, đáng ra đó tại đây, không vì Hạ ông trộm tên của Trọng Ni, một góc phỏng sánh với to lớn của Côn lôn vậy.
Nho sinh trịch bày vai, cúi đầu nắn tay mà thè lưỡi liếm chân và nói: "Tôi xin tội vậy! Tôi xin tội vậy!"
Có Hoàng Cân Lý Trọng Khanh học thức thiển cận, trí thẹn tín độ, nhưng lại kiêu căng cho mình là Bạch hạc, mong kinh hãi Trung Hoa, mang ánh sáng bó đuốc tranh ánh ngời nhật nguyệt, mới làm mười dị chín mê chê lường chí Thánh. Tôi bùi ngùi cho người đó không biết, xót thương kia tội gì, liền làm mười dụ để giải hiểu đó, làm chín châm để răn đó, dùng ngón cái bàn tay, ngõ hầu Quân tử minh đạt rõ điều đó đến tận cùng vậy.
- Dị thứ nhất của ngoại (ghi chú Thái Thượng Lão Quân thác thần ở Ngọc nữ Huyền diệu, bổ nách bên tả mà sinh. Thích-ca Mâu-ni gá thai phu nhân Ma-da, mở hông phía hữu mà ra).
- Dụ thứ nhất của nội (ghi chú Lão Quân vì nghịch với thường nên mới gá mục nữ mà ra bên tả, còn Đức Thế Tôn thuận hóa, nên nhân Thánh mẫu mà sinh bên hữu).
Bậc Khai Sĩ bảo: Căn cứ Lô Cảnh Dụ, Đái Sằn, Vi Sử Huyền v.v... nhóm tập giải năm ngàn (5.000) văn từ, và vua Nguyên Đế (Tiêu Dịch 552-555) thời Nam Lương, Chu Hoằng Chỉnh v.v... khảo xét nghĩa loại, nói: Thái thượng có bốn nghĩa là Tam Hoàng đến Nghiêu Thuấn ấy vậy. Nói Thượng cổ có Quân của Đại đức đây, đến trên muôn dân nên gọi là Thái thượng. Quách Trang nói: "Lúc ấy chỗ Hiền giả làm Quân, tài chẳng xứng đời làm thần. Lão Tử chẳng phải Đế chẳng phải Hoàng, chẳng tại hạng cuộc tứ chủng, có điển cứ gì, tạm xưng là Thái thượng ư?" Kiểm xét Đạo gia, các kinh Huyền Diệu đến Trung Đài Chu Thao Ngọc có v.v... đều lưu xuất Tải Ký nói: "Lão do Lý mẫu sinh ra, chẳng nói có ngọc nữ Huyền diệu. Đã chẳng phải chánh thuyết, rất giả đàm nói sai nhầm vậy". Căn cứ Tiên Nhân Ngọc Lục nói: "Tiên nhân không vợ, Ngọc nữ không chồng, tuy thọ thân hình nữ mà trọn không sinh sản". Nếu có điềm ấy thì thật đáng vui mừng, nhưng cớ sao sử ký không văn từ, Chu Thư chẳng biên chép? Cầu hư trách thật, tin lời của kẻ uốn nắn dối vọng vậy. Lễ nói: "Lui quan không địa vị thì chuyển dời qua phía tả". Luận Ngữ nói: "Vạt nó bên tả chẳng phải lễ vậy". Nếu lấy tả thắng hữu, cớ sao Đạo sĩ hành đạo chẳng tả xoay mà lại hữu chuyển ư? Chiếu thư của nước nhà đều nói: "Như Hữu", tức đều thuận thường của trời vậy.
- Dị thứ hai của ngoại (ghi chú Lão Quân ban lời dạy răn, khai mở trường sinh của bất sinh bất diệt; Thích-ca thiết giáo, chỉ bày vĩnh diệt của bất diệt bất sinh).
- Dụ thứ hai của nội (ghi chú Lão Đam bẩm chất sinh của có sinh có diệt sợ hoạn, trái lại chuốc lấy bạc đầu. Đức Thích-ca bày tượng diệt của hiện diệt hiện sinh, hết quy về tịch diệt, mới khắp thân mình vàng ròng).
Bậc Khai Sĩ bảo: Lão Tử nói: "Quý đại hoạn chẳng gì như có thân giả sử tôi không có thân, thì tôi có hoạn gì?" Nguyên do của hoạn, chẳng gì như thân vậy. Lão Tử đã lo hoạn có thân, muốn cầu không não, chưa khỏi mà đầu bạc chẳng khác người đời. Nếu nói trường sinh, nhân gì mà chết sớm?
- Dị thứ ba của ngoại (ghi chú Lão Quân ứng sinh ra nơi Đông Hạ đây, Thích-ca giáng vết ở Tây Nhung kia).
- Dụ thứ ba của nội (ghi chú Lý Nhĩ sinh hình ở huyện Khổ thời Đông Chu, Đấng Năng Nhân giáng vết tại Thần Châu của Trung Hạ).
Bậc Khai Sĩ bảo: Luận Trí Độ nói: "Ngàn ngàn trùng số nên gọi là Tam thiên, gấp đôi số ngàn ngàn ấy nên gọi là Đại thiên, Ca-tỳ-la-vệ ở tại trong đó". Kinh Lâu Hội nói: "Từ Thông Hà trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, vì lúc mặt nhật mới xuất hiện lóe sáng ở góc phía Đông nên xưng gọi là Chấn Đán". Một bản khác nói: Nên được gọi tên vậy. Chư Phật ra đời đều tại giữa châu ấy, chẳng sinh ở Biên ấp. Nếu sinh ở Biên ấp thì đất sẽ vì đó mà nghiêng lệch. Căn cứ Pháp Uyển truyện, Cao Tăng truyện, Vĩnh Sơ ký v.v... đều nói: "Hà thừa Thiên ở thời nhà Tống cùng Pháp sư Trí Nghiệm, Tuệ Quán chung tranh luận về Trung biên. Pháp sư bảo: Đất ở Tây Vức, đến ngày Lập hạ. Một bản khác nói là ngày Hạ chí ngay giữa trưa dựng cây cọc không có bóng. Ảnh đài nước Hán đến ngày Lập hạ. Bản khác nói, đến Kỳ Lập Biểu còn thừa ảnh râm, Y Cứ Toán kinh nói: Trên trời một tấc dưới đất ngàn dặm, sao mới tỏ ngộ vậy. Trung biên mới xác định. Ước về sự mà luận, thì nước Trung Thiên Trúc là chính giữa của đất, Chấn Đán tự có thể là phía Đông. Một bản khác nói: "Trung tâm mới riêng cách biển hơn năm vạn dặm. Nếu chuẩn cứ đất đây về phía Đông ước ở bờ biển, bèn có thể Ca-duy chưa chịu là phía Tây". Lý ấy có thể nghiệm vậy.
- Dị thứ tư của ngoại (ghi chú Lão Quân ngày của Văn Vương làm Tông sư của Long Chu.
Thích-ca ở thời Trang Vương làm giáo chủ ở Kế Tân).
- Dụ thứ tư của nội (ghi chú Bá Dương với chức thần nhỏ thêm sung làm Tạng lại, chẳng ở ngày của Văn Vương, cũng chẳng phải thầy của Long Chu. Đức Mâu-ni địa vị là Thái tử, thân chứng Đặc Tôn, tương đương với năm Hưng Thạnh của Chiêu Vương, làm giáo chủ ở cõi Diêm-phù).
Bậc Khai sĩ bảo: Tiền Hán Thư nói: "Khổng Tử là thượng thượng lưu, là Thánh; Lão Tử là trung thượng lưu, là Hiền. Yến Vương Bật nói: "Lão Tử chưa kịp Thánh?" Luận Nhị Giáp nói: "Trụ sử ở triều vốn không hai tán, ra Chu vào Tần, vì Duận nói đạo, không nghe chư hầu chẳng thấy Thiên tử, nếu làm thầy nhà Chu, sao sử không minh chứng, chẳng phá hợp chánh thuyết, đó có thể được ư?" Căn cứ Ký và Bách Gia Phả của Vương Kiệm nói: Lý Lão sau Cao Dương, Thủy Tổ là Cửu sao làm quan Thuấn lý, nhân dòng họ Toại vậy. Dòng họ Lý xuất phát từ Lão Đam, từ Lão Đam trở về trước chưa có dòng họ Lý, chỉ có Thị Lý vậy, vì sinh dưới gốc cây mới xưng là dòng họ Lý. Con của Lão Tử tên là Tông, làm quan Ngụy Văn Hầu, bởi cuối thời Xuân Thu nên là người ở thời sáu nước vậy. Ở đời của Văn Vương đã không có dòng họ Lý, sao được có Đam xuất hiện làm thầy thời nhà Chu? Niên đại sâm sai, không chứng cứ đích thực. Bảo Phác nói: "Ra đời Văn Vương, Kê Chương, Hoàng Phủ Mật đều nói: Sinh ở cuối thời nhà Ân, bởi chỉ Ngụy Văn của đạo, chẳng phải chỗ biên ghi của Quốc điển vậy".
- Dị thứ năm của ngoại (ghi chú Lão Quân giáng vết ở đời Chu Vương ba lần ẩn, ba lần hiện, suốt thời gian năm trăm năm. Thích-ca ứng sinh ở thời nước Hồ, một lần diệt một lần sinh, thọ chỉ tám mươi tuổi).
- Dụ thứ năm của Nội (ghi chú Lý Thị ba lần ẩn ba lần hiển, đã không chứng cứ đích thực có thể y, giả sử có sống năm trăm năm còn thẹn so với tuổi thọ của rùa và hạc. Còn Đấng Pháp Vương chỉ một lần diệt một lần sinh, thị hiện dung mạo của vi trần, với thời gian tám mươi năm khai hóa dẫn dụ chúng đông như Hằng sa).
Bậc Khai sĩ bảo: Kiểm xét chánh điển các sử, không có văn từ của ba lần ẩn ba lần hiện vào ra, chỉ tạng tranh đua các Tháo v.v... Lão Nghĩa Liệt nói: "Vì Khổng mà nói gốc của nhân nghĩa lễ nhạc, là một thời. Ở thời Cổ Vương, ngàn nhà bị bệnh tật, khiến cảm, Lão Quân trao cho một trăm tám mươi giới và kinh Thái Bình một trăm bảy mươi thiên, là hai thời. Đến đời vua An Đế thời nhà Hán trao truyền giáo Chánh nhất minh oai cho Trương Thiên sư, bấy giờ tự xưng là Trụ Sử của thời nhà Chu, là chỗ sai sử của Thái thượng, là ba thời". Phàm, ứng hình thiết giáo, hẳn nhờ có duyên, khuyên hóa độ người đều nhờ ở đồ chúng. Há có thể với thời gian năm trăm năm mà toàn không có đệ tử, ba lần hiện ba lần ẩn chẳng thấy môn nhân thọ học tiếp thừa, mịt mờ hà hán? Thuyết của Ô Hữu, gá hẻm không truyền, bởi giá yếu xe nhỏ ở thời nhà Chu, mai rủ tóc tơ, đến Hán tức là tiêu cổ mây xanh, bay theo nổi giữa khoảng không. Can Bảo Sưu Thần chưa nghe thuyết ấy, Tề Hà Dị ký chẳng ghi linh đó. Vỗ ngực luận tâm, dối vọng quá lắm.
- Dị thứ sáu của ngoại (ghi chú Lão Quân xuất hiện nơi đời, mới đầu từ ngày của Văn Vương thời nhà Chu, mãi đến thời của Khổng Khâu. Thích-ca mới hạ sinh, mở đầu từ nhà của Tịnh Phạn, tương đương với đời Trang Vương ở Trung Hoa).
- Dụ thứ sáu của nội (ghi chú Ca-diếp sinh năm Đinh mão ở đời Hoàng Vương, chung cùng vào năm Nhâm ngọ ở đời Cảnh Vương, tuy mãi đến thời của Khổng Khâu, nhưng chẳng sinh ở thời Cơ Xương. Đức Điều Ngự đản sinh năm Giáp dần thời Chiêu Vương, chung cùng vào năm Nhâm thân ở đời Mục Vương, phải là nối dõi của Tịnh Phạn vốn xuất phát trước đời Trang Vương).
Bậc Khai sĩ bảo: Khổng Tử đến Chu thấy gặp Lão Đam mà hỏi Lễ, Sử ký biên ghi rõ đủ, còn làm thầy của Văn Vương thì không có điển chứng. Nói xuất phát ở cuối thời nhà Chu, việc ấy có thể tìm, còn ở đầu thời nhà Chu thì Sử văn chẳng ghi. Lại kiểm xét Chu Lễ quan nghi văn võ ở đời Thành Khương, nhưng đều không có tên của Trụ sử tạng lại, đáng là chánh phẩm khuyết điều, chỉ là quan lại nhỏ ở cuối thời Chu vậy.
- Dị thứ bảy của ngoại (ghi chú Lão Quân lúc mới sinh ở thời nhà Chu, về già đến Lưu sa, không lường biết rốt cùng như thế nào, chẳng biết đến sở nào. Còn Thích-ca sinh ở nước Tây, chung cùng ở Đề Hà kia, đệ tử đánh vàng ngực, bọn người Hồ rống khóc than).
- Dụ thứ bảy của nội (ghi chú Lão Tử sinh ở Lại Hương, chết chôn tại Hòe Lý, rõ ràng Tần Dật đến viếng điếu, trách ở Hình trốn trời; còn Cù-đàm xuất sinh tại cung vua kia, ẩn tạc Hạc thọ ấy, truyền lưu ở đời Minh Đế thời nhà Hán, bí tạng ở sách của Lan đài).
Bậc Khai sĩ bảo: Trang Tử Nội Thiên nói: "Lão Đam chết, Tần Dật đến viếng điều, ba lần gọi mà ra, đệ tử lấy làm quái lạ hỏi: Chẳng phải học trò của Phu tử ư? Tần dật bảo: Vừa rồi tôi vào thấy, người trẻ nhỏ khóc đó khóc cha của họ, người già khóc đó như khóc con của họ. Người xưa gọi đó là Hình của trốn trời, mới đầu cho là người ấy vậy, mà nay chẳng phải vậy". Trốn nghĩa là ẩn, trời nghĩa là khỏi trói buộc. Hình nghĩa là thân. Nói mới đầu cho Lão Tử là tiên ẩn hình khỏi trói buộc, nay thì chẳng phải vậy. Ôi! Đó, dua nịnh lấy tình của người, nên chẳng khỏi chết, chẳng phải bạn ta vậy.
- Dị thứ tám của ngoại (ghi chú Lão Quân đạp dấu chữ ngũ, tay nắm chữ thập, mắt đẹp miệng vuông, hai trụ tham lậu, nhật xúc nguyệt huyền, đó là tướng Thánh nhân của Trung Quốc. Còn Thíchca lỗ mũi như vàng thẳng, mắt thuộc loại sao Tỉnh, tròng ngươi như sen xanh, đầu sinh búi tóc, đó là tướng Phật-đà ở Tây Vức).
- Dụ thứ tám của nội (ghi chú Lý Lão mắt đẹp miệng vuông, bởi là hình của Trưởng giả; còn chân đạp chữ ngũ, tay nắm hình chữ thập, chưa phải tướng của Thánh nhân. Còn Đức Bạt-già nhóm tụ mặt nhật, dung nhiếp sắc màu vàng ròng, đã hiện rõ chứng cứ hiếm có, hình chữ vạn, tướng ngàn căm xe kỳ đặc, thật là nêu tướng Thánh nhân).
Bậc Khai sĩ bảo: Kinh Lão Tử Trung Khai v.v... nói: "Lão Đam da vàng trán rộng, tai dài mắt lớn, răng thưa môi dày tay nắm đường vân chữ thập, chân bước đạp họa hai chữ ngũ, chỉ là dị tướng ở nhân gian, chẳng phải dáng kỳ đặc của Thánh nhân vậy". Truyện ký đều nói: "Lão Tử mũi lớn rộng, đầu nhọn miệng cao, răng thưa mắt liếc, tai nghéo, tóc màu trái lê xanh, môi dày tay dài". Tướng trạng như vậy đều có thể sánh với Phật ư? Đức Như Lai thân cao trượng sáu vuông thẳng không nghiêng lệch, vầng ánh sáng tròn rộng bảy thước soi chiếu khắp các nơi u tối, trên đảnh có nhục kế tóc mà xanh biếc, tai rủ có trái, mắt trông nhìn mở sáng, mà như sư tử, bảy nơi đầy đặn không khuyết lõm, trong miệng có bốn mươi cái răng vuông trắng bằng khít, lưỡi dài có thể che phủ mặt, hình như lá hoa sen, trong ngoài tay nắm vân tay đều thành, mở lời nói năng như sấm động, có tám thứ âm thanh. Trên ngực có tướng chữ vạn, dưới chân hình bánh xe ngàn căm, sắc da dung nhiếp tử ma, tướng đẹp khó thể nói. Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, tỏa phóng một ánh sáng mà địa ngục ngưng nghỉ, diễn nói một lời pháp, khiến đau khổ được yên bình. Nói bày đầy đủ trong các kinh, chẳng phiền phải nêu chỉ.
- Dị thứ chín của ngoại (ghi chú Lão Quân thiết giáo kính nhường oai nghi tự y theo Trung hạ; còn Thích-ca chế pháp cung túc nghi dung lại tuân theo ngoại quốc).
- Dụ thứ chín của nội (ghi chú Lão là người thế tục, làm quan ở phẩm vị cuối cùng, áo mão bái phục tự kính phụng triều chương. Đức Phật là Thánh chúa. Đạo cùng tục khác nghi phục, dung mạo oai nghi chẳng đồng như chế tác của kẻ phàm).
Bậc Khai sĩ bảo: Xưa kia, Dư Cửu Hưng ở Đan dương soạn luận Minh Chân có mười chín chương để ngự Đạo sĩ lưu xuất ngụy vọng, rõ ràng luận kia vậy. Nói nghi phục cân hạt, chính là xưa trước nói chỗ phục của Nho Mặc. Xưa kia, Ngũ đế quấn khăn thô, Hứa Do đội mũ da, đều là nghi phục của thế tục. Áo hạt thân dài ba trượng sáu thước, có ba trăm sáu mươi tấc, nói pháp một năm ba mươi sáu tuần, hoặc tượng một năm ba trăm sáu mươi ngày. Phía trước hạt có hai đai, nói pháp âm dương, hai góc của hai bờ khăn, lại pháp nhị nghi. Dòng họ Dư lại nói: Nếu như ở đời Chu đời Tần tức mười tháng của đời Hạ là một năm, đến như phân độ doanh tú, lịch vận chiết trừ, lại sao được số ba trăm sáu mươi ư? Xét về Nghiêu Thuấn, Chu Khổng làm nghi phục ấy, tìm về Hoàng đế gặp linh của Hoàng nhân cửu chân lại giáng Đế Khốc. Đến thời Hạ Võ mở kho ở hai núi Đồ chung, cùng đồng các nghi phục ấy từng không chứng cứ. Căn cứ ở thời Chu có chứng nghiệm của Xích Tước, vả lại cảm điềm của Đan Thư đã phù hợp hỏa đức, nghi phục ở đời áo đỏ. Lão Tử là người thời Chu, kiêm bồi kẻ lại thấp nhất, mũ giầy bái phục, tự vâng theo nghi thường, tức ngày trị đầu, vốn tên là lính quỷ, Hoàng Cân Xích Lục, chẳng sánh Bá Vương, chú thủy hành phù, thân gần thầy dòng họ Trương, chẳng phải đạo chẳng phải tục, tổ tập mỹ phong của ai?
- Dị thứ mười của ngoại (ghi chú giáo của Lão Quân dùng lại hiếu từ làm gốc đức. Pháp của
Thích-ca lấy xả bỏ thân thích làm hạnh trước tiên).
- Dụ thứ mười của nội (ghi chú Lão Tử dạy răn cuồng bạo giết song thân làm hạnh trước tiên. Thích-ca giáo hóa nhân từ cứu tế muôn loài quần sinh làm gốc đức).
Bậc Khai sĩ bảo: Hóa Hồ kinh của ông nói: "Hỷ muốn theo Đam. Đam bảo: "Nếu có chí tâm theo ta đi, thì phải chém đầu cha mẹ vợ con của người gồm bảy người, mới có thể đi vậy". Hỷ mới chí tâm bèn chém giết cha mẹ v.v... bảy người, đem đầu đến trước mặt Đam, bèn thành bảy đầu heo. Phàm, thuận đạo của trời đất thì thực hành đó, chẳng thương tổn hòa khí, là hiếu vậy. Đinh Lan cảm thông ở cây khô mục, Đổng Vĩnh hiếu cùng cực đối với thiên nữ. Cầm thú còn có mẹ con mà biết thân thiện, huống hồ Đam Hỷ hành đạo trong thiên hạ mà chém giết cha mẹ mình, sao gọi là hiếu? Giết vợ con đâu có nghĩa là từ ư?
1. Theo sinh có hơn kém
2. Lập giáo có cạn sâu
3. Đức vị có cao thấp
4. Hóa duyên có rộng hẹp
5. Thọ yểu có dài ngắn
6. Hóa tích có trước sau
7. Đổi dời có ẩn hiện
8. Tướng tốt có ít nhiều
9. Oai nghi có đồng dị 10. Pháp môn có đốn tiệm.
--------------------------
Luận rằng,
Tiêu Lan chợ cá quen lâu nghiền ngẫm đó vào trước. Dương Văn hợp cùng vui duyên đó quanh co thành tình, nên đều là ao ngọc anh. Bút mực có luận Phi Thanh, Thuần Hoàng Duệ Hậu. Điền ba có đàm hủy Thánh, bởi đó đo lường vậy. Huống hồ Lân khuân khác chất, Lỗ tục quân bằng dung mạo nó; nai ngựa khác hình, người Tần đồng nhất hình tướng nó. Nhờ biến của cảm chóng đến như vậy, huống gì dằn dặc đó ư? Trọng Hương do đó mà trình bày sự hơn kém của Thích giáo và Lão giáo. Tôi xót xa mà thương đó, làm đầy đủ luận sau để đáp mỗi một điệp kiện, văn trên như vậy.
- Dị thứ nhất của ngoại là theo sinh tả hữu: Ngoại luận rằng: Thánh nhân ứng vết khác với phàm phu kia, hoặc cưỡi rồng voi để vào bào thai, chợt mở nách hông mà sinh ra đời. Tuy là hai liên quan hai khí, chẳng nhờ gá song thân, đến như khác của tả hữu, khác của hơn kém ấy thứ nhất vậy.
- Dụ thứ nhất của nội là theo sinh có hơn kém (mẹ của Lý Thị tức là Bình Thị ở Lại hương, Lão Tử lại mà gá chất. Ma-da phu nhân tức là Vương hậu của vua nước La-vệ, Thích-ca nhân đó mà giáng Thần).
Nội dụ rằng: Vạt áo bên tả là chỗ tôn quý của Nhung Địch, mạng bên hữu là nơi kính chuộng của Trung Hoa. Nên sách Xuân Thu nói: "Gia khanh không mạng, giới khanh có đó, cũng chẳng bên tả ư?" Sử ký nói: "Lận tướng như công lớn, địa vị bên hữu của Liêm Phả, Liêm Phả hổ thẹn đó". Lại nói: "Trương Nghi tướng bên hữu mà bên tả Ngụy. Tê Thủ tướng bên hữu Hàn mà bên tả Ngụy, bởi nói chẳng tiện vậy". Lễ nói: "Tả đạo bày loạn, giết đó", há chẳng phải bên hữu ưu mà bên tả kém ư? Cao Sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật nói: "Lão Tử là tướng nhân của Sở, nhà ở phía Bắc Oa thủy, bắt chước phụng sự Thường Tung Tử. Đến lúc
Thường Tung Tử bị bệnh tai nên sang hỏi bệnh. Kê Khương bảo: "Lý Đam theo Quyên Tử học thuật của Cửu Tiên, kiểm các sách của Thái sử Công v.v... " Chẳng nói Lão Tử vạch nách bên tả mà sinh. Đã không chánh xuất, thì không thể tiếp nhận tin rõ ràng vậy.
Nghiệm biết, khua giáo tháo bút bởi trước của văn võ, năm hơi khí ba ánh sáng, thật là đầu của âm dương. Do đó, cửa Phật xoay chuyển phía hữu, tạm phù hợp với nhân dụng, Trương Lăng đi đường Tả, tin nghịch trời thường. Cớ sao? Đức Thích-ca khởi đức từ vô duyên, ứng tiếp với có duyên. Nói về dấu tích ấy, thì hành đủ ba A-tăngkỳ, tướng tròn trăm kiếp, giáng thần mà cưỡi voi trắng, che vầng nhật mà sinh ra dáng vàng ròng, ba mươi hai tướng tốt lành, chứng mở ở Địa phủ, mười tám Phạm điềm lành kinh hãi ở thiên cung, linh tướng khắp cùng mười phương, Thần quang tỏa cùng tám cực. Thuật về gốc ấy thì lâu đã chứng tam minh, cát bụi chẳng thể tính sánh cùng tuổi thọ, sớm lên tịch chiếu, hư không chẳng thể lường hình thể đó, đâu chỉ đến vin cành cây mà điềm ứng to lớn, bày tướng bạc đầu mà sánh tốt lành? Giống như ánh lửa đom đóm cùng đuốc rồng mà tranh sáng, mắt cá với ngọc rắn mà đua tỏa ngời. Đó là điểm kém thứ nhất của Đạo vậy.
- Dị thứ hai của ngoại là giáo môn sinh diệt. Ngoại luận rằng: Phàm, ngang bằng không sinh diệt, lý ấy thì quân bằng, dẫn dắt đời phàm, chẳng không sai khác. Chỉ sống là chỗ khâm chuộng của vật, diệt là điều chán ghét của vật, nhưng mà sinh đạo khó được, hẳn đợi công tu, diệt phát dễ cầu, đâu nhọc bẩm học. Phải biết vọt bay Thần, cưỡi giá ảnh, tự có thể nhiều kiếp thân còn, hơi khí hết thân mất, hẳn phải một lúc Thần đi mất. Đó là điều khác thứ hai của giáo môn vậy.
- Dụ thứ hai của nội là Lập giáo có cạn sâu. (Lão Tử dạy răn ôm nhất giữ ngu, bỏ sót hình diệt trí, mới đến được chỗ vô vi. Thích giáo khắp cùng viên tu, các đức đủ cả, sau nói ở Diệu giác).
Nội luận rằng: Phàm diệt thân vì sợ đại hoạn, tuyệt trí vì lánh nhọc dài, bàn nghị sinh linh ở Huyền Vưu, ngang bằng hết tánh ở Vương Lạc, ấy là luận đàm của Lão Trang vậy. Vả lại, lâu dài thường trụ. Cổ Hoàng thì chẳng chết chẳng chung, một mực vô danh. Lão thị thì lại kết quy không vật, nhưng thường còn chẳng phải xứng của trọn mất, không vật đâu phải hóa của Trường sinh ư? Tạm lại rõ ràng cạn sâu ấy. Đến như văn của dưỡng yếu giữ mái, luận của rỗng tâm thật bụng. Xét phù sinh có lượng, thán trí thủy không bờ. Nói lớn thì hạn cục tại trong vức, huyện móc thì chẳng ra khỏi phần tánh, bởi chí ấy vậy. Đâu thể cùng với Đại giác mở duyên vô cùng, nối chiếu viên cực, lường nhỏ nhiệm thì cùng ư? Nghiên cứu Lý thì khống ngự đến vô phương. Khí tốt cùng ung đúc chung hòa, thân vàng, cùng Thái Hư che chở bền chắc. Nói về lượng đó thì như Trung Hoa cùng đống nhỏ khác vút. Bể cả sánh giếng hỏm khác sâu. Đó là điểm kém thứ hai của Đạo vậy.
- Dị thứ ba của ngoại là Phương vị Đông Tây. Ngoại luận rằng: Hai phương Đông Tây, tự có không biết của âm dương; hai vị Tả Hữu, bèn thành khác của Nhị nghi. Nhân chỉ lớn Thiện Dương lại thông sinh, nghĩa chủ gieo thành âm luận túc sát, hai khí làm giáo thì âm chẳng như dương. Năm đức làm lời (ngôn) thì nhân sâu mà nghĩa cạn. Đó điều khác thứ ba về phương vị ấy.
(Ghi chú Đàn-hặc rằng: Càn là Dương là cha, địa vị tại Tây Bắc; Khôn là âm là mẹ, bói ở Tây Nam. Phương Bắc là làng của thạnh âm, bèn là vị của Trung nam, phương Nam là đất của thạnh dương, vụt thành chỗ ở của trung nữ. Nam nữ đã không định phương, âm dương chẳng bó buộc thường chuẩn. Do đó, Mộc khắc Thổ nên lấy Kỷ làm vợ Giáp, Kim khắc Mộc, nên lấy Ất làm vợ Canh. Càn đã địa vị cao mới ở Tây bắc, Chấn hay sinh Đế lại tại Nam. Đến như Lễ tịch, nếu Nam bắc phô bày đó, tức lấy phương Tây làm trên, nói thuận Càn tôn vậy. Đông tây liệt bày đó, tức lấy phương Nam làm trên, nói trục âm thanh vậy. Hơn kém tự thấy, nghĩa đó ở đây vậy).
- Dụ thứ ba của nội là đức vị có cao thấp. Nội luận rằng: Phàm, Kim chồng, Mộc vợ, âm dương ai có thể trọn chấp. Ly Nam Khảm Bắc, nam nữ chẳng phải có định phương. Do đó, tý ngọ tỵ ở Đông là dương, lấy nam nữ sinh ở phương Đông vậy. Tý ngọ tỵ ở Tây là âm, tức nói cha mẹ già ở Tây vậy. Đó thì theo sinh già để phán định âm dương, chẳng phải tôn ty để nói hơn kém. Giả sử cha mẹ ở phương Tây, chưa nên thấp kém con; nam nữ ở phương Đông, đâu dám tôn quý cha. Nhân chẳng phải nghĩa thì không thành, nghĩa chẳng phải nhân thì không dưỡng. Do đó, con ở Đông là nhân, cha ở Tây là nghĩa, tùy xứ lập chuẩn, không lầm hoặc Đại phương. Giả sử hạn cuộc phán ở chỗ sống mà bó buộc hạn cuộc ở phong vức, cũng đáng Tây Khương, chỗ xuất sinh Đại Võ, đức của nhân trầm chóng rỗng hư. Đông Di là nơi sinh của Văn Vương, giáo của Tài Thành trọn khuyết. Nuốt sông nạp Hán, chẳng phải chỗ ở hẹp của ải mát. Phù vị y cứ tại sông Kinh, không thần trạch của Đế Hoàng (trước bẻ tà, sau tán thán chánh). Phàm, dòng họ Thích trên trời dưới đất, giới nhiên ở Tôn quý ấy; ba cõi sáu đường, cao vợi suy kính diệu đó. Thêm vì bạn tiểu học Nhị thừa, luận của Đại tâm ngũ phẩm, thí như muôn sao xoay chầu Bắc đẩu, tợ núi vàng ánh ngời biển biếc, đủ khiến đầu nai mặt voi khuất nắn tâm chống kháng, sáu vị mười tiên, bày lễ phục ứng. Sao chỉ đè ép Từ Giá ở Dong phu, dẫn dắt Duẫn Hỷ ở quan lại, bẩm học ở ngằn mé nanh ngà ư? Ghi chú truyện Cao Sĩ nói: Thường Tung Tử nhân tự há miệng. Lão Tử bảo: "Đâu chẳng nghĩa là răng cứng mà mất, lưỡi mềm mà thường còn". Tung Tử nói: "Hết vậy". Gom thâu tên ở khoảng Tạng lại, đó là điểm kém thứ ba của Đạo vậy.
- Dị thứ tư của ngoại là Thương hóa Hoa và Di. Ngoại luận rằng: Phàm, Hoa Di các Lễ, tôn ty hiển trước từ Điển Bí. Biên chánh trái đạo, Thắng phụ còn ở sử sách. Chúa của Nhung Địch, chẳng hứa tiếm hiệu xưng vương. Quân của Sở Việt, nêu tự chê đó làm con. Đâu có thể bề tôi nhỏ của Huân Dục mà sánh với Đại sư của Thiên vương ta ư? Đó là điểm khác thứ tư về Hoa và Di vậy
- Dụ thứ tư của nội là Hóa duyên có rộng hẹp (Lão lấy chín phục thanh hư hóa chủ, giảng nói năm ngàn (5.000) giáo chương. Phật lấy ba cõi biết khắp Pháp vương, khai mở tám muôn Diệu tạng).
Nội dụ rằng: Căn cứ Lời tựa Đạo Đức kinh nói: "Lão Tử tu đạo tự ẩn, lấy vô danh làm chuyên". Đến thời nhà Chu suy, ra ải, giảo của hai chương mới làm, nhưng Chu Thư Điển Mô, không có chế tác của Lão Thị. Căn cứ luận Nhị Giáo v.v... nói: "Năm ngàn (5.000) văn chương dung hợp thành những điều giảng nói. Lão vì Duẫn mà đàm luận, bởi thuật mà không tác vậy". Lại nữa, chức chỉ là Tạng lại, địa vị chẳng phải A Hành. Thầy của Long Chu, sắp chẳng phải Ô Hữu (trước chiết phá tà, sau tán thành chánh). Đức Thích-ca giáng Thần ở Lavệ, gá chất chốn Vương cung. Trí thật vừa sinh liền biết, đạo chỉ giác ngộ cùng khắp. Diễn Tuệ Minh đến trăm ức, trải mây pháp khắp Đại thiên, Linh đượm cùng mười phương, thần hóa khắp bốn biển. Điển bờ cao vách vút, văn rồng ở voi mang, bởi đầy tràn đến như vậy, tuy hoằng dương thuật ngầm kế, chẳng thể biên ghi mảy may đó. Luận của Sô Diễn Đàm Thiên, không thể bàn nghị nhỏ giọt ấy. Đâu như chương thuyên chỉ tám mươi, văn xếp đặt năm ngàn mà thôi. Hận ông chưa lớn nhìn vách tường nhọn vút, đến nỗi có hủy phá của Võ Thúc, cũng lại nào thương tổn đến nhật nguyệt, nên phần nhiều nghĩ đó chẳng biết vậy. Đó là điểm kém thứ tư của Đạo vậy.
- Dị thứ năm của ngoại là Bẩm sinh có thọ yểu. Ngoại luận rằng: Đạo của Lão Quân khế hợp với vức nội, cùng với hư không mà đồng lượng. Thần vượt ngoài tượng, tùy biến hóa mà không cùng. Do đó thọ mạng hẳn chẳng đồng. Phàm, ẩn hiển tự nhiên khác tục. Còn Thích-ca bờ sinh có hạn, thọ mới một thời kỳ ngắn ngủi, một lần diệt, chẳng thể tái sinh. (Ghi chú, Đàn-hặc rằng: Lão Tử đã nói trường sinh, vậy ngày nay ở quận huyện nào?) tám mươi năm sao kỳ hạn nguy ách! Đó là điều khác thứ năm về thọ yểu vậy.
- Dụ thứ năm của nội là Thọ yểu có ngắn dài (Sử ký của Lão nói Chu Đại Sử Đam chỉ hơn hai trăm ba mươi năm. Pháp Hoa của Phật nói thọ năm trăm muôn ức A-tăng-kỳ vi trần số kiếp).
Nội luận rằng: Lời tựa nói: "Mang tại Lý Thị, ở bào thai tám mươi mốt năm, bởi số thọ của Thái Dương là một trăm sáu mươi tuổi mà ở trong bào thai đã hơn một nửa, ba lần biến năm trăm, gần chẳng phải giả xưng trân quái". Thái sử Công lầm cho là Lão Lai Tử ở nước Sở và Thái Sử Đam ở nước Chu đều là Lão Tử, nên mới nói hai trăm ba mươi năm, hoặc một trăm sáu mươi năm. Hoàng Phủ Mật nói: "Sách của Chư Tử gần đây là khó tin, chỉ có Tần Dật đến viếng điếu Lão Đam chết là tin vậy". Người đời thấy cốc thần chẳng chết, phải cho là Huyền Tẩn, nên người hay khéo việc bèn gá mượn đó. Truyện Thần Tiên nói: "Uất Hoa Tử, Lục Hồi Tử, Phó Dự Tử, Thái Thành Tử, Xích Tinh Tử, Võ Thành Tử, Duẫn Thọ Tử, Chân Hành Tử, Tích Xạ Tử, Phản Sắc tiên sinh v. v.. đều là thân của Lão Tử, đều thấy sách nát, không ra chánh kinh Thần Tiên, chưa thể y cứ dùng vậy". Phàm có trời đất thì có đạo thuật, các sĩ đạo thuật lúc nào tạm thiếu, đâu riêng thường là một Lão Tử vậy. Đó đều do đồ chúng học muộn, ham chuộng kỳ dị, cẩu thả muốn suy sùng Lão Tử, khiến đó được vô hạn. Cạn thấy, Đạo sĩ vì muốn đem Lão Tử làm thần dị, khiến các học giả đời sau tin đó nên vì dối nói vậy.
Thật thay lời ấy, có thể trọn soi xét vậy! Phàm, diệu lạc vốn nhờ ba đức mới thành, pháp thân do ngũ phần lập nên, do đó sinh diệt chóng khiển trừ, tánh Viên giác mới hiện rõ, không hữu đều dung thông, diệu của linh nghi thửa còn, nên được hình vượt ngoài thấy nghe, danh dứt ngoài tình trần, trạm nhiên thường lạc. Chỗ văn hệ chưa thuyên giải, ngưng lắng viên minh; chỗ ngôn tượng chẳng thể lường biết, tuy đào thật ở Tây Vương từng chín mà chẳng lâu dài, ruộng sâu ở Đông hải từng biến mà chẳng vĩnh viễn. Năm mây chín chuyển, buồn dây chim tạm lưu, tuyệt bay sương cao, sánh ngựa non dong vì khó chắc tin, chung quỳ không lâu bằng thung lớn, phù du hiếm tuổi như rùa hạc. Đó là điểm kém thứ năm của Đạo vậy.
- Dị thứ sáu của ngoại là theo sinh trước sau. Ngoại luận rằng: Hai kinh của Phật và Đạo mỗi tự có nói, hoặc nói kiếp kiếp xuất hiện nơi đời, tranh sự không trước, hoặc đời đời sinh ra, giành bày lâu xa. Sự xa vời ấy, thật khó lấy chướng biết, nay y cứ theo truyện sử để xác định thời đại đó. Theo nhân luân mà nói thì già tôn mà nhỏ ty, theo Hương đảng (làng nước) mà nói thì cũng là lớn anh nhỏ em. Đó là khác thứ sáu về trước sau vậy.
- Dụ thứ sáu của nội là Hóa tích có trước sau. Nội luận rằng: Phật Đản sinh ở đầu thời Long Chu, Lão Tử sinh ở cuối thời Cơ Lý. Luận về năm sinh thì cách hơn hai trăm năm, nói về đời thì cách hơn mười vua. Hơi khí sắc tía, trâu xanh chẳng phải ở đời của Chiêu Vương, Trang Vương, Thần Quang ngựa trắng không liên quan tới năm của Hoàn Vương, Cảnh Vương. Nhưng mà mốc động mờ trời, dòng đục che đất, văn trọng nghịch kỷ, Khổng Tử chẳng phải không trí ấy. Tử cầm hủy Thánh, buông gièm pha mất lời ấy, lời nói tỳ vết khó giũa mài, xe bốn ngựa chẳng kịp chót lưỡi, thật không hư dối vậy (trước chiết phá tà, sau tán thán Thánh). Phàm, cúi vết ứng phàm, gá chất nơi nguy ách, đạp máy hóa vật, đồng tuổi thọ trăm năm, nên quả hạn cục nhân tu tín tướng, do đó khởi lầm hoặc tuổi nhỏ mà hóa rộng lớn. Đức Từ Thị vì vậy mà nghi ngờ, ngục lớn chẳng chỗ lường cân đá. Thí như tuổi thọ lâu dài mà còn xa tít, Huyền hư chẳng phải trượng thước có thể biện rành, phương kiếp xa mà chưa cùng, đâu như hang rắn cầu tiên, vụt thành yêu thế Nghê Anh đợi thuốc chưa tạm kéo dài tuổi thọ! Bởi vì chim yến vụt bay cùng chim bằng vỗ cánh tình cờ cao rong, ngựa hèn cùng ngựa ký chân tranh chạy xa. Đó là điểm kém thứ sáu của Đạo vậy.
- Dị thứ bảy của ngoại là dời thần phản tịch. Ngoại luận rằng: Lão Quân ngày mới ra đời đã chẳng đồng kẻ phàm, đến lúc ẩn vết, hẳn phải khác thế tục. Do đó theo hướng Tây đến Lưu sa, đường đi trải qua Hàm cốc, trâu xanh ra cảnh vức, hơi khí tía nổi giữa trời, chẳng lường được thủy chung, không biết đến phương vức. Còn Thích-ca ôm bệnh hiểm nghèo ở Xá-vệ, bảo sẽ dứt mạng tại Song lâm, thiêu hàn đốt thây lại đồng pháp thức người Hồ, khí hơi hết Thần đi mất, hợp chẳng khác kẻ phàm. Đó là điều khác thứ bảy về khứ thế vậy.
- Dụ thứ bảy của nội là đổi dời có ẩn hiện. Nội luận rằng: Lời tựa nói: "Gá hình ở bào thai của Lý thị, chỉ bày người có nghĩa thủy chung, đâu chẳng phải sinh diệt ư?" Tức chỗ Trang Sinh nói: "Lão Đam chết, Tần Dật đến viếng điếu. Ấy vậy, mà sinh y cứ Lại hương, chết thì đến Hòa Lý, thủy chung chẳng thể lường, sao mù lòa vậy ư? (Trước chiết phá tà, sau tán thán Thánh). Phàm, Đức Đại Từ hóa viên đức mãn, duyên hết mảy mất, thuyền nhân chim ở Lưỡng hà, tuệ nhật lặng ở Song lâm, vị của sáu trời tám nước, luân của bạn đạo chúng Thánh đó. Vả lại, sấm hợp mà gió dong đã là mây giăng sương tụ, răng linh cốt thụy chiêu bày thắng phước ở phương khác, tóc xanh hồng, hiển hiện thần công đến nhiều đời, vậy đủ biết chẳng lại chẳng đi, đức hoằng tế đẹp xinh vậy không hiện không mờ, phong Thanh hoa thạnh vậy. Đâu đồng như Đảnh Hồ trông ngóng lại, mộ ở núi kiệu riêng còn. Lưu sa chẳng trở về, Mã tại phù phong không dựng (ghi chú: Hoàng Lãm nói: Mã của Hoàng đế ở núi Kiệu, mã của Lão Tử tại Phù Phong). Đó là điểm kém thứ bảy của Đạo vậy.
- Dị thứ tám của ngoại là tướng tốt của Thánh hiền. Ngoại luận rằng: Diệu tướng của Thánh nhân vốn khác phàm phu, tám thể hai tròng ngươi mắt sông miệng biển, nhan sắc rồng bước chân hạc trái vũ khác hào. Đến như tóc xoắn tròng ngươi xanh vốn tướng trạng của Di nhân, mũi cao mắt sâu là hình thường của Hồ tử, há có thể sánh với Thánh nhân ta dùng làm kỳ tướng? Nếu phụng sự Phật được quả báo ấy, thì sĩ nữ ở Trung Quốc vụt làm hình người Hồ. Đó là điều khác thứ tám về tướng tốt vậy.
- Dụ thứ tám của nội là tướng tốt có ít nhiều. Nội luận rằng: Tướng thánh vô thường, tùy phương hiển diệu. Do đó Thánh thân rắn đầu rồng, đạo hòa vời Thượng hoàng. Nêu Quân hai tròng ngươi bốn vú, đức sáng ngời ở Trung cổ, Chu Công nắm trái còn một sợi lông của kỳ ký. Võ nghĩ ngang vai, mới mảnh ngọc của Côn sơn, chẳng phải chỗ loại vậy (trước giải điều nghi, sau tán thán Thánh). Phàm, pháp thân ngang bằng Như như, nghĩa là phương tuyệt lý vậy, hóa thể do ở ứng vật, Diệu chất đáng giẫm trải danh ngôn. Cho nên có sáng ngời của tướng bạch hào mắt biếc, ánh lệ của môi quả mắt hoa, tướng chữ vạn ngàn căm, khác lạ của nhật luân nguyệt thể, dung mạo phi sắc, thể hình lìa tướng mà đủ tướng. Bạc câu có mà chẳng đủ, chuyển luân đủ mà chẳng rõ. (Ghi chú: Kinh Tátgià nói: Phi sắc sinh tánh thắng, các tướng trăm phước thắng, tám mươi thứ diệu thắng, trang nghiêm thân Phật nhật. Thí như ba ngàn đại thiên thế giới bốn loài chúng sinh đều thành Luân vương, càng tăng gấp bội trăm lần. Mới đầu đến công đức một sợi lông của Như Lai, lại thêm gấp bội trăm lần. Mới đầu thành một tướng tốt công đức, lại thêm gấp bội trăm lần. Mới đầu thành một tướng công đức lông trắng giữa chặng mày, lại thêm gấp bội trăm lần. Mới đầu thành một tướng công đức không thấy đảnh đầu, lại thêm gấp bội trăm lần. Mới đầu thành một tướng công đức Phạm lễ thanh, Tiên nhân trông thấy mà tự buồn, than sớm chiều là suy; Phạm Chí trông thấy mà dấy cảm, tán thán hoa linh hiếm gặp. Sao chỉ bước đạp thành dấu chữ ngũ, cầm nắm đường văn chữ thập mà nêu kỳ, Nông Kỳ Đoạn Trung mà hiển dị. Trong tướng luận, Tào Thực nói: "Khổng Tử mặt như Mông Kỳ, Chu Công hình tợ Đoạn Trung"). Đâu như Dương Văn cùng Tung Miệt sánh dáng. Mãnh thú cùng Lung Liêm tranh đẹp. Đó là điểm kém thứ tám của Đạo vậy.
- Dị thứ chín của ngoại là oai nghi trong ngoài. Ngoại luận rằng: Lão giáo dung chỉ oai nghi bái phục tiếp nhường, khăn đen áo hạt vàng cần hốt kéo giầy, pháp tượng phô bày rõ ràng, bởi chế tác xưa trước của Hoa Hạ vậy (ghi chú Đàn-hặc rằng: Đạo sĩ xưa nay vốn vận mặc nghi phục của Nho gia chẳng khác người tục, đến đời Võ Vương nhà Chu mới có giăng khăn trùm, cắt vá hai mươi bốn mảnh để ứng với hai mươi bốn khí âm dương, xuất phát từ nhân tình, cũng không điển cứ). Phật bảo mặc áo ca-sa, xuyên riêng bày vai hữu, quần toàn bức giăng mạn, áo nửa mãnh kỳ chi, hói đầu là đảnh, chó ngồi chồn xổm, chẳng dự vào Nhân luân, thật là phong của Nhung địch, đâu riêng dùng hình chế đó với oai nghi ta. Đó là điều khác thứ chín về dung phục.
- Dụ thứ chín của nội là oai nghi có đồng dị. Nội luận rằng: Ngọc bội kim báo chẳng thể đến kẻ tiều; già quê, áo sen đai huệ không bước đến sân vua. Nên ứng khí chẳng phải chỗ bày của linh miếu, nhiễm y khác với nghi phục của Triều tông. Nên nhân ở đạo hoặc thuận cơ mà làm khuôn phép vật, căn cứ ở đức, hoặc sửa thời mà dạy đời. Do đó, cắt tóc văn thân, Trọng Ni xưng thiện của Thái Bá, trái với thường, hợp với đạo, người thời bấy giờ ngợi khen hoa của Đường Lệ. Huống đem trái ngược tánh lắng thần, cách phàm đạp Thánh, mà chẳng khác tục phục ấy, chưa thể có vậy. Nên khiến y phục biểu tượng ruộng phước, khí lượng đúng như pháp, tơ đồng chẳng mê hoặc ở tai, đỏ tía không lóa mờ ở mắt, nhẹ béo không quen lời ở hình thể, thế lực chẳng kinh hãi ở tâm. Nên trong kinh nói: "La-hán là chân nhân, thanh sắc chẳng thể làm ô nhiễm, vinh vị không thể khiến lay động. Sao phải mũ hạc biện tước trái lại bó buộc, tự buộc xoang xoảng răng, hà hơi mà xưng đạo ư? Lên cây tìm bắt cá, bỏ cách đó càng xa; khắc thuyền đợi tìm kiếm, sao quê kệch vậy? Đó là điểm kém thứ chín của Đạo vậy.
- Dị thứ mười của ngoại là bày khuôn phép thuận nghịch. Ngoại luận rằng: Lão Quân làm khuôn phép chỉ hiếu chỉ trung, cứu đời độ người, rất từ rất ái. Do đó, Thanh giáo mãi lưu truyền, trăm vua không cải đổi, Huyền phong trùm tỏa đài muôn xưa không sai. Do vậy, trị nước trị nhà, khải thức thường nhiên. Còn Thích giáo bỏ nghĩa bỏ thân, bất nhân bất hiếu. Vua A-xà-thế giết cha, vụt chốc được khỏi tội khiên; Điều Đạt bắn anh, không nghe mắc tội. Lấy đó mà dẫn phàm lại càng lớn điều ác, dùng đó làm khuôn phép cho đời, sao có thể sinh thiện? Đó là điều khác thứ mười về nghịch thuận.
- Dụ thứ mười của nội là pháp môn có đốn tiệm. Nội luận rằng: Nghĩa là, điều thấp kém của đạo đức, lễ sinh đạt trung tín, bó buộc nhân gièm chê đến thất phụ, đại hiếu còn ở chẳng sót. Nhưng đối với hung tàn thì ca cười, trái với dung của Trung hạ; đến đám tang gõ chén, chẳng phải huấn của Hoa tục (mẹ của Nguyên Nhượng chết, cưỡi trên hòm mà ca, Khổng Tử đến trợ tang, chẳng gièm chê. Tử Tang chết, Tử Cống đến viếng điếu, bốn người con cùng trông thấy nhìn mà cười. Vợ Trang Tử chết, ông ta gõ chén mà hát ca). Cho nên dùng hiếu của giáo, do đó kính làm người cha của thiên hạ, dùng trung của giáo, kính làm vua người trong thiên hạ. Hóa khắp muôn nước, mới rõ chí nhân của Tích, hình tỏa bốn biển, thật thần hiếu của Thánh vương. Kinh Phật nói: "Biết rõ luân hồi, trong sáu nẻo thú không gì chẳng là cha mẹ". Sinh tử biến đổi, ba cõi ai biện rành oán thân? Lại nói: "Vô minh che phủ tuệ nhãn, qua lại trong sinh tử, qua lại lắm khổ làm, lại làm cha con lẫn nhau, số oán thân làm tri thức, tri thức số làm oán thân". Do đó, Sa-môn xả bỏ thế tục hướng đến chân, quân bằng các loại ở thiên thuộc, bỏ vinh hoa tức đạo, ngang bằng ngậm khí ở nơi thân thích mình (hành tâm chánh khắp, ngang bằng ý khắp thân). Vả lại, Đạo chuộng thanh hư, đó là trọng ân ái. Pháp quý bình đẳng, đó là chọn ánh sáng thân, há chẳng phải lầm hoặc vậy? Thế lực đua tranh bỏ sót thân thích, văn sử ghi rõ sự. Hề Hoàn Sở Mục, là hạng ấy vậy, muốn đem lường Thánh há chẳng sai nhầm ư? Đó là điểm kém thứ mười của Đạo.
-----------------------------------
Chín châm của nội, đáp chín mê của ngoại.
1. Đời Chu không có
2. Kiến tạo tháp tượng
3. Oai nghi khí phục
4. Bỏ cấy cày khất thực
5. Giáo làm gốc trị
6. Trung hiếu chẳng trái
7. Tam bảo không phiên
8. Khác phương đồng chế
9. Thân Lão Tử chẳng phải Phật.
- Ngoại luận rằng: Phàm, ngôn chẳng chuộng hoa sức, từ quý ở trúng lý, ca chẳng chuộng thanh trong, hưởng quý ở hợp tiết. Kinh Phật, lúc Đức Như Lai giảng nói pháp, Thiên tử các nước đều đến nhóm nghe, hoặc phóng ánh sáng lớn khắp đại thiên cõi nước, cho thấy ngày Đức Thích-ca còn sống ở đời, tương đương triều đại nhà Chu của chúng ta, sử sách biên ghi hẳn không sai sót, chưa nghe Thiên vương đến thông lãnh kia, đâu ở nơi đế của Trung Hoa, không thiện chẳng dự đạo tràng, quân của biên bỉ, có duyên khắp đượm pháp tòa, chở ánh sáng soi chiếu thì chúng sinh lìa khổ, mà xứ này khổ tội gì riêng không người tỏ ngộ, riêng cách ngoài Ân, chẳng từng thấy nghe, ngưỡng độ Năng Nhân, chẳng dung riêng chọn!
Ghi chú: Đàn-hặc rằng: Nghiệp ông không thấy Phật, có tội khiên phỉ báng Thánh, sao được oán Thần? Chỉ tự trách lỗi mình vậy, cầu tâm trách sự thật. Thuấn nói trái vọng hư dối rõ ràng đủ xứng hư ngụy. Phàm phu chẳng ngộ, như chó sủa đuổi bóng, mà đời chẳng thể hay biết. Đó là điều mê thứ nhất vậy.
- Châm thứ nhất của nội là đời nhà Chu không có cơ chỉ. Nội châm rằng: Phàm, Thuần Hy sáng rỡ trời, mông sưu chẳng soi xét sắc ấy, sấm động kinh hãi đất, tai điếc không không biết vọng hưởng đó, bởi dứt tuyệt cơ cảm vậy. Làm bạo hung chích, Khổng trí không dùng ngăn cấm tâm ấy, kết tức giận người nhà quê, phóng túa biện bàn chẳng hết oán hận ấy, cũng riêng khác của tánh tình.
Ghi chú: Trang Tử nói: "Khổng Tử thấy Đạo Thích, Đạo Thích trái lại trách Khổng Tử. Khổng Tử lo sợ, rụt rè mà lui". Lưu Tử nói: "Ngựa của Khổng Tử ăn lạm lúa của người đồng quê, người đồng quê tức giận cấm bắt lấy ngựa ấy. Khổng Tử sai Tử Cống vui thích giải mở đó. Người đồng quê càng tức giận, xua đuổi người bồi ngựa đi, người đồng quê mới vui thích đó vậy".
Nên Đạo hợp thì muôn dặm Huyền ứng, thế trái thì can đảm sơ việt, huống gì từ vô thủy kết rỗng. Não ái cùng biển cả sánh sâu, hữu vi nghiệp rộng, trần lao đem núi lớn tranh cao vút, quần tình chẳng thể chóng đến nên dùng tích chứa dần để dẫn dắt đó. Các hạnh chẳng thể tu đủ cả, nên dùng phân hạn để răn sách đó. Như trời đất ba hóa mới đầu hợp ở tự nhiên.
Ghi chú: Lão Tử nói: "Nhân pháp địa, Địa pháp thiên, Thiên pháp đạo vậy".
Tề Lỗ lại biến mới đến chí đạo vậy, mây kín dẫn đến lúc mưa. Băng cứng mở đầu từ sương phủ, đều có nghĩa là dần tích chứa vậy, nên Tam Hoàng thống hóa.
Ghi chú: Kinh Tu-di Tứ Vức nói: "Bồ-tát Ứng Thanh là Phục Hy, Bồ-tát Cát Tường là Nữ Oa.
Mới đầu ở Thuần Phong, Tam Thánh lập ngôn. Ghi chú: Kinh Không Tịch Sở Vấn nói: "Cadiếp là Lão Tử, Nhu Đồng là Khổng Tử, Quang Tịnh là Nhan Hồi, dấy khởi rồi lan tràn đến cùng, ý chỉ của Huyền hư xung nhất, Hoàng Lão hưng thạnh đàm nói đó.
Văn của thi thứ lễ nhạc, Chu Khổng lớn mạnh giáo ấy, minh khiêm giữ chất, mới lên thềm cấp của thánh, ba sợ năm thường là nguyên do dần dần làm trời người, bởi ngầm phù hợp với Phật lý. Chẳng phải cực đàm của chánh biện, như hỏi đường nơi người câm điếc, huơ chỉ phương hướng mà chẳng cùng bao xa, hỏi bến bờ ở loài thỏ ngựa, biết vượt qua mà chẳng lường được cạn sâu. Nhân đó mà đàm nói thì đời thời nhà Ân nhà Chu, chẳng phải chỗ Thích giáo hợp nghi hưng hành. Như lửa dữ sáng rực, trẻ con không thể thẳng mắt trông nhìn; sấm sét xé nổ, nhu phu chẳng thể căng tai mới nghe. Vì vậy, sông hồ nước vọt tràn, Chiêu Vương lo sợ Đức Phật ra đời, mây giăng cầu vồng bổi biến bốn phía, Mục Hậu mừng vui Thánh giả ẩn vết.
Ghi chú: Chu Thư dị ký nói: Ngày mồng tám tháng tư năm thứ hai mươi bốn đời Chiêu Vương, sông rạch ao suối nước đều vọt tràn. Ngày Rằm tháng hai năm thứ năm mươi hai đời Mục Vương, gió bão bỗng nhiên dấy nổi, cây cối đổ gãy, trời râm mây đen tối, có cầu vồng sắc trắng quái lạ hiện lên vậy.
Đâu có thể vượt Thông Hà mà bẩm hóa, vượt tuyết lạnh mà xét thực. Kinh Tịnh Danh nói: "Đó là lỗi quá của kẻ mù, chẳng phải lỗi quá của nhật nguyệt". Vừa muốn biện luận đến tận cùng đục khoét ấy, sợ tổn thương tánh hỗn độn ở ông và tôi, chẳng phải chỗ biết của ông. Đó là mù tối thứ nhất vậy.
- Ngoại luận rằng: Phàm, núi đồng sụp đổ, Lạc Chung ứng, tro lau khuyết vầng nguyệt thiếu. Chưa thấy hổ gầm mà gió chẳng nổi, rồng vọt bay mà mây chẳng giăng. Nay điều nói của Đức Thích-ca, Phật lực tôn quý một niệm vận tâm, không đâu chẳng đến ứng. Nên các hàng phàm tục đua nhau dốc hết của cải tạo dựng tháp miếu, chẳng tiếc lận vàng ngọc, tranh nhau liệt bày nhà cửa. Hoặc làm khuông đất, khắc chạm gỗ chiên đàn, tả tướng trạng của Dục Hồ, đúc vàng thêu lụa thay dung mạo của Di Địch, huyền diệu hết xanh đỏ, khéo léo cùng tận kỷ quyết (dao khoằm), một lễ một bái, mong ngóng cảm thông. Từ khi Hồ pháp theo hướng Nam dần lưu truyền đến đã hơn sáu trăm năm, chưa nghe một người nói hay thấy Phật, há người Hồ đảnh lễ tức cảm Như Lai, nước Hán kiền thành cung kính mà không gặp Điều Ngự? Nếu hóa chẳng đến đây tức là không linh, dối hoặc nhân gian, không đàm oai lực mà ở đời chẳng thể biết. Đó là điều mê thứ hai vậy.
- Châm thứ hai của nội là tạo dựng tháp tượng. Nội châm nói: Tả Triệt kính mộ Thánh, khắc tượng mà cúi bái Hiên Viên; Câu Tiển nghĩ hiền, đúc vàng mà mô phỏng Phạm Lễ; Đinh Lan chí hiếu nhờ dao khoằm để thay người thân; Nhan tại vốn nhân thể Bích Đang mà đồ Thánh, nên khiến buồn mừng lộ vẽ ở nhan sắc, tinh thành thông đến mộng mỵ, cũng là thấu đạt đó vậy. Đâu như lên trời Đaolợi chẳng trở về, vua Ưu-điền vì thế mà khắc tượng gỗ, nơi Kiên Lâm ẩn bóng, A Luân từ đó mà đúc vàng, gá Diệu tướng ở đỏ xanh, gởi linh nghi nơi gan đồng. Hoặc trông thấy đó lành tọa, tả dung mạo xoay thân.
Ghi chú: Truyện cảm ứng nói: Tại chùa Trường Cam ở Dương châu có tôn tượng của vua A-dục. Có người muốn mô phỏng tả lại. Chư tăng ở chùa sợ tổn hoại sắc vàng ròng nên không hứa cho, chủ tạo tượng mới chí tâm phát nguyện; nếu tinh thành có cảm thì xin tôn tượng xoay chuyển về hướng Tây. Khi ấy khóa đóng nơi gác cao, sáng sớm hôm sau mở ra trông xem, thân tượng uyển nhiên đã xoay về hướng Tây, bèn hứa cho đồ họa đó. Thần ức chẳng cùng từ đó đến nay vẫn còn vậy.
Từ khi tôn tượng lưu truyền đến phương Đông, tỏa trùm chánh hóa từ Nam di dời, đêm mộng người vàng, trên sông nổi ngựa ngọc, ánh sáng thần tỏa dẫn đến tương thủy, hình thể linh thụy phát xuất ở Đàn khê.
Ghi chú: Truyện Cảm Ứng nói: Tại chùa Phát Mông ở Lô lăng, có tôn tượng của vua A-dục ghi rằng: Thân tượng xuất phát ba khúc ở Lô lăng, ánh sáng tốt lành từ mu chân tỏa phát nơi Chiêu Đàm ở Tương châu, và đều tỏa phóng ánh sáng soi chiếu trên sườn bờ.
Thụy tượng ở chùa Đàn Khê tại Võ xương, thân phóng ánh sáng đến Đàn Khê ánh ngời trên mặt nước. Trường sa nêu nhóm dáng vẻ mặt nhật, Lô Nhạc hiển bày chất dung vàng. Việc ấy rộng nhiều, lược mà nói vậy. Như can Bảo sưu tìm Thần, Lâm Xuyên tuyên nói nghiêm, và cả núi đều ứng như trong U Minh Lục, truyện Cảm Ứng v.v...
Từ đời vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Hậu Hán trở xuống trải qua các thời nhà Tề nhà Lương. Các hàng Vương Công Thú Mục, thanh tín sĩ nữ, và cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni v.v... thầm cảm chí Thánh, mắt trông thấy ánh sáng Thần có hơn hai trăm người.
Đến như thấy dấu vết của Vạn sơn, nổi ánh sáng nơi Hổ Độc, dưới Thanh đài thấy hình dung mãn nguyệt, ngoài Ung chân quán ảnh tướng luân, tại Nam bình được ứng ở thụy tượng, Văn Tuyên Đế cảm mộng răng Thánh, Tiêu Hậu một lần đúc mà thành tựu. Tống Hoàng bốn lần mô phóng mà chẳng xong, các loại như vậy thật lắm nhiều, không thể nêu bày đầy đủ hết. Đâu có thể vì không mắt đó mà bài xích có linh ứng kia ư?
Nhưng mà Đức không gì chẳng hoàn bị, đó có nghĩa là Niết-bàn, Đạo không gì chẳng thông, ấy gọi là Bồ-đề, trí không gì chẳng khắp, đó xưng là Phật-đà. Dùng Hán ngữ đây mà phiên dịch Phạm ngôn kia, thì Phật vua kia và đây rõ ràng đáng tin vậy. Cớ sao rõ biết thế? Phàm, Phật-đà, Trung Hoa phiên dịch nghĩa là Đại Giác. Bồ-đề, Trung Hoa phiên dịch nghĩa Đại đạo, Niết-bàn, Trung Hoa phiên dịch nghĩa là vô vi. Mà ông và tôi trọn ngày đạp trên đất Bồ-đề, chẳng biết Đại đạo là hiệu khác của Bồ-đề; bẩm hình ở trong cảnh Đại Giác, mà chưa rõ Đại Giác tức là dịch tên của Phật-đà. Nên Trang chu nói: "Tạm có Đại Giác mà sau biết Đại mộng ấy vậy". Quách Chú nói: "Đại giác là Thánh nhân vậy", ý nói đều tại đức mà ứng mộng vậy. Quách Chú lại nói: "Phu Tử cùng ông vân du, chưa thể quên lời mà Thần giải, nên chẳng phải là Đại Giác vậy". Quân Tử nói: "Đàm luận của Khổng Khâu đây cũng hết vậy". Niết-bàn tịch chiếu không thể biết, biết không thể là tri biết, thì đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, nên quên lời vậy. Pháp thân là ba điểm bốn đức thành nên, tiêu nhiên không lụy nên xưng là giải thoát. Đó là thần giải mà hoạn dứt ấy vậy. Phu Tử tuy Thánh, xa vì suy công với Phật. Tại sao? Căn cứ Cổ Lục và Cựu Lục, Lưu Hướng nói: "Kinh Phật lưu truyền đến Trung hạ, một trăm năm mươi năm sau, Lão Tử mới nói năm ngàn (5.000) văn chương". Nhưng mà Chu cùng Lão đều thấy ngôn giáo điều nói của kinh Phật, luôn luôn có ứng nghiệm, nên Phu Tử có nói rằng: "Phàm, dịch là vô vi, vô tư, tịch nhiên chẳng động, cảm mà bèn thông, chẳng phải chí thần của thiên hạ". Vậy thì ai có thể sánh cùng.
Do đó, nay tôi kéo tai mà nói với ông là nên xả bỏ tích chứa mê mờ ấy mà đội mang tỏ ngộ muộn màng ấy. Chế của Chi Đề, lưu đó bởi xa trời, vừa phong bít vừa dựng nên. Tỷ Can vì trung cứng chắc mà hiểu biết Bí, chớ cắt chớ chặt. Triển Quý vì Thanh trinh cấm lũng, muôn dân nghĩ nhớ đến Thập thiện, xa vời ân của Luân vương, ba cõi tôn quý ở sáu thông, rõ ràng Đức của La-hán. Kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Có bốn hạng người được dựng Thâu Bà (Thâu Bà, tiếng Trung Hoa phiên dịch nghĩa là Trủng (mã), đó là Luân vương, Lahán, Bích-chi Phật và Như Lai". Huống gì trí đủ khắp mười lực đức tròn đầy bốn hoằng. Diệu biện khế hợp ở quên lời, hay ban bảo dạy răn ở chẳng lường, Đại minh suốt cùng chớ chiếu, mới thỏa sướng đốt đuốc nơi không tối. Cho nên mới có bình vàng tro hương, thân vàng lan khắp tám nước, sáng đẹp loa bối, tan rải hình thể khắp mười phương. Chợt năm sắc ngưng sáng, xoay giữa không sáng tỏa ở đời Hán, tám sắc thể ánh ngời, thần ứng hiện nơi cung ngô. Đó, linh khám trăm kiếng, tháp diệu ngàn hoa, tiếp thừa sương mây, linh khánh tỏa vận gió cao. Trụ tích rường Hồng xa nổi giữa khoảng không, chim côn liệng, chim phụng nhảy xa tiếp phương rỗng. Hết mực dung nghi tráng lệ, tột cùng đẹp xinh luân hoán. Đâu như núi cao ngưỡng chỉ chẳng quên cảnh hạnh, chuộng bày cửa lớn nêu dựng Hồng du mà thôi ư? Không dùng biện của Lan trứu, gièm pha rộng hẹp của biển cả, trí của Du phương, lường do cao thấp của Côn lang ư? Mà ông không biết. Đó là mù tối thứ hai vậy.
- Ngoại luận rằng: Lễ nghĩa là Diệu huấn của thành đức, trung hiếu là hạnh gốc của lập thân. Chưa hề thấy việc thần dân thất lễ mà nước ấy tồn tại, con cháu bất hiếu mà nhà đó lập yên. Nay Cùđàm chế pháp, thảy đều khiến mặc đồng Hồ phục, tức là thầy của trong loài người; miệng tụng lời Di bèn làm quý của thế gian. Đến nỗi khiến các hàng vô lại, nhân đó mà bội nghịch, ngồi xổm trên cha anh, tự xưng là tang môn; ngạo mạn trước Quân vương, mới xứng là Thích chủng. Bất nhân bất hiếu đã hiển bày ở nhà, không lễ không cung lại lan cả nước.
Ghi chú: Đàn-hặc rằng: Lễ nói: "Con đội thân bên cha thì cúng tế đó, đội thân bên mẹ thì kính bái đó". Do đó, ở cao cũng có thể không lễ không hiếu ấy thì nhà nhà đều sinh ra loại con kiêu kính, người người nuôi dưỡng loại trẻ sài lang, vỗ ngực luận tâm, thật đáng đau xót vậy. Đạo trời không thân thích, Hoa Di đâu cách biệt, chỉ đức là giúp, đâu phân chia Hồ Hán?
Há có thể đội khăn tu thiện riêng không thắng phước, hói đầu hành đàn riêng hay cảm quả. Nhân huệ đâu ở tại Hói đầu, thủ chân không nhọc hủy dung mạo, ở đời chẳng thể biết. Đó là điều mê thứ ba vậy.
- Châm thứ ba của nội là Oai nghi khí phục. Nội châm rằng: Huyền thánh mở lập điển, lấy nhân quả làm tông. Tố Vương trình bày huấn, lấy danh giáo làm gốc. Danh giáo còn ở Trị thành, nhân quả mong ở đạo lập. Lập đạo đã xả ái ở đầu, Thành Trị cũng trung hiếu nên trước. Nhị nghi khác trời, sao có thể đồng ngày mà nói vậy? Sa-môn là hạnh vượt ngoài tục, tâm du ngoài trần, oai nghi tấn thú, phí pháp chẳng động, dung phục ứng khí, phi đạo chẳng hành. Nên Nê-hoàn là muôn chất đồng quy tụ, tuy y là là mọi thể hoại sắc, giản dị tuân ở giải thoát, điều cách biểu tượng của ruộng phước, riêng mặc chưa có chấp cao (Lễ nói chấp là Đản vậy), khuyết quyết tiện ở vận dịch. Luận Ngữ nói: "Áo lót ngắn dài cánh tay hữu", tức nói tiện để làm việc vậy. Thánh chế có nguyên do, trọn chẳng nhọc không vậy. Do đó, xả ái bỏ thân, kính ngưỡng Thánh chúng vậy. Dẹp bỏ thanh sắc mà tuân theo phạm hạnh, cắt bỏ râu tóc là trừ bỏ hoa sức tranh đua, cúi mình nghiêm thân là chẳng quên cung kính, mặc áo phấn tảo đi khất thực là chi chẻ thân mạng vậy. Nói không ẩn khúc là lìa tà nịnh vậy. Hòa tiếng hợp hơi tức vào không tranh vậy. Nhả nạp an tường tức cẩn trọng từ lệnh vậy. Ở đời mến quý chẳng khuất là giữ trinh thuần cứng rắn vậy. Thanh hừ điền đàm là thuận tánh đạo vậy. Tà tướng chẳng nhiễu tức trú trong bát chánh vậy. Ngay nhan xuống sắc tức xót thương chúng bệnh vậy. Trời người sùng ngưỡng bởi ba nghiệp thanh tịnh vậy. Cùng huyền cực chân tức lấy cứu cánh vậy. Rộng nhân lớn giúp cũng là thạnh của trung hiếu vậy. Còn Đạo sĩ thì không như thế, nói mộ đạo mà tâm chẳng nhiễm chân, cho là bỏ nhà mà hình chẳng đổi tục. Đội mũ tròn mà không soi huyền tượng, đi giầy vuông mà khuyết rõ địa lý, mặc Nam Trịnh trái khăn của Hán, nắm cờ công mà giết hết nhà, trang sức Đạo dục mà họa phục của Tống, kéo Tôn ân mà bại xiêm của Tấn. Sống với nghề nghiệp thường chẳng phế bỏ, làm việc ngu dong lệ thuộc mà không xấu hổ, sống ở đời thì lễ của trung hiếu khuyết, cầu Tiên thì phong cao thượng mất. Như ruồi xanh chuốc luận của đen trắng. Biển bức (con dơi) có gièm pha của chim chuột, bởi bọn yêu hoặc nên vậy, đó chẳng tự thấy. Đó là mù tối thứ ba vậy. Ghi chú: Kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Thí như biển đức, lúc người bắt chim vào hang thì làm Phật, lúc người bắt chuột ra hang thì làm chim". Nay cúng tế rượu cũng bởi vậy. Nuôi dưỡng vợ con, bảo là có từ ái, siêng năng cày cấy, nói là chẳng hủy tóc da, Khóa Điều Vương Dịch thì nói là xuất gia, dùng như vào ra của loài Biển bức vậy!.
- Ngoại luận rằng: Thánh nhân ứng thế vốn vì tế độ lợi ích quần sinh, ngửa xem cúi xét lội an các loài. Vì vậy, mùi vị cỏ cây hội với tinh của ngũ cốc, trồng dâu phá sung tơ tám tằm, nên rủ áo xiêm còn ở gặt hái, lập xã chánh trực ty y vì lợi trăm họ, như vậy ở đâu? Nếu một người nữ không dệt thêu thì thiên hạ đó mà khổ hạnh, một người nam không cày cấy, thì thiên hạ vì đó mà thiếu ăn. Nay, Thíchca ban pháp không dệt thêu không cấy cày, kinh không pháp tuyệt hạt, ruộng không nông phu cấy cày, giáo khuyết phương chuyển luyện, nghề nghiệp phế bỏ, phụ nữ cơ duy. Phải biết, mang bình chống tích, cháo hồ vào miệng nhờ ai? Vạt áo tả y phục riêng từ đâu gá lấy? Nên phải trong một năm đói rét đều đến, chưa nghe lợi ích mà lại thấy khốn cùng, ở không thể biết. Đó là mê mờ thứ tư vậy.
- Châm thứ tư của nội là bỏ cấy cày, đi khất thực. Nội châm rằng: Mưu đạo chẳng trước ở ăn, giữ tín hẳn sau ở đói. Vì vậy, kiệt đắm chìm việc cấy cày. Khổng Tử hiểu rõ các cấm thú, vin theo phải học cấy cày, Trọng Ni gièm pha ở tiểu nhân, lăng hạ vô vi mà vời lộc, cao thượng hiền ấy vậy. Dân đen chẳng phải quan sĩ mà được ban lộc, chuộng kính thanh bạch ấy vậy. Đạo của thiện nhân sao hẳn cấy cày? Xin vì ông mà tôi nói đó. Giáo lý của nhà Phật nghiệm ở nhân quả, gồm cả Hồng Nguyên của ba đời. Tiên đạo chuộng ở vàng ngọc, nhọc hư phí một đời. Cớ sao? Phàm, hiền ngu thọ yểu, tin ở chỉ tay; giàu nghèo sang hèn rõ ràng ngay trước mắt. Báo ứng thì hình ảnh không sai, nghiệp duyên cũng như thanh hưởng chẳng khác, tức chỉ điều đó vậy. Chưa thấy ai phục đan mà không chết, ăn bánh dịch mà trường sinh. Thơ cổ nói: "Ăn mặc cầu thần tiên, phần nhiều vì lầm thuốc, chẳng như uống rượu ngon, vận mặc nõn với lụa, gởi nói người đời sau, Đạo sĩ chớ nên làm, lời hư phí công phu, phí yếu tuổi thọ vậy". Ông có phương cách chuyển luyện, nhân gì lại xin ruộng đất? Lại đàm nói phụ nữ thêu dệt, hẳn biết đều chứa nuôi vợ trong phòng. Nên Đạo sĩ ứng chuyên cày, nữ quan chăm thêu dệt, cớ sao chẳng đủ cháo hồ sung vào miệng, thường thiếu nuôi thân? Như đó chẳng thêu dệt chẳng cấy cày tức rơi vào nơi bần khổ. Trộm thấy, lầu quán Hoàng Cân cỡi da nai mà sánh cùng cày đất; Huyền Đô lính quỷ, bỏ trùm giăng mà chợt canh cày. Đã không người tuyệt hạt, hơi hổ nhọc khách làm, tự giả tự mài, đói ở trong đó, nhọc hình mệt tâm, đạo nào có thế. Tìm xét xưa kia, năm Nhâm ngọ (?) tức năm thứ nhất đời vua An (?) thời nhà Hán, Đạo sĩ Trương Lăng phân biệt Hoàng Thư, nói rằng: "Nam nữ có pháp hòa hợp, đạo Tam ngũ thất cửu giao tiếp". Đạo đó thật quyết tại Đan điền. Đan điền là ngọc môn, chỉ lấy cấm bí làm gấp, chẳng hứa lộ bày nơi đường đạo. Đường đạo là việc niệu khổng vậy, gọi làm tên xú căn của thầy bạn mẹ cha. Lại nói: "Nữ nhi chưa gã chồng mười bốn tuổi trở lên, có đạo Quyết minh". Cho nên chú giải năm ngàn văn chương nói là: Đạo có thể nói, nghĩa là sáng sớm ăn thức ăn ngon lành; Đạo phi thường, nghĩa là chiều tối thành phẩn giải". Hai thứ ấy đồng lưu xuất mà khác tên. Nghĩa là căn của người sinh niệu, niệu xuất ra tinh vậy. Huyền đó lại huyền, nghĩa là mũi cùng miệng vậy. Lăng mỹ thuật này con cháu ba đời tương tục thực hành đó. Pháp của ngươi như vậy, uế loạn sinh dân. Nếu khuyên trăm họ y theo pháp của ngươi mà thực hành thì bất hiếu bất cung, ở đời sinh ra thứ sài lang, vô lễ vô nghĩa; ở nhà sinh ra con kiêu kính rõ vậy. Phàm, người rõ của cải kỳ lạ, tham nhặt Ly châu, chẳng kỵ sâu chín hồi, tìm cầu Hoa phác đuổi theo lam diễm, không sợ hiểm ba tập, quý báu ấy vậy. Người kính mộ chí đạo, trông nhìn qua ngạch cửa, khinh thường thế lợi tợ lông hồng, vào góc hỏm ấy, chợt vinh vị ở cởi giầy, trọng chân ấy vậy. Thế nên hay khiến kẻ nhọc chẳng mến tiếc sức lực ấy, khách bần nghèo chẳng lận keo của cải, bởi mong cầu minh ích chẳng phải mê mờ đó vậy. Đến như tiên thuật dối vọng bắt nguồn lưu truyền đã lâu xa vậy. Hàn Chung, Từ Thị mới đều dối trá ở Tần Bang, Văn Thành, Ngũ Lợi tiếp hư ngụy ở Hán quốc. Thuật khống ngự hạc chẳng khắc thật lấn vượt mây, nói đượm hưởng ráng mốc chẳng tin thấy ở gầy đói, đến nỗi có luận của khỉ vượn nghêu hến.
Ghi chú: Luận Biện Đạo, Tào Thực nói: "Tiên nhân thuộc loại bạn đản của khỉ vượn, cùng người đời đắc Đạo hóa Tiên nhân.
Phàm, chim trĩ vào biển hóa làm nghêu, chim yến vào biển hóa làm hến, phải bồi hồi đó, cách sai hồ đó, lông còn tự biết đó vậy. Hốt nhiên tự gieo thần hóa thể biến, mới lại làm cá rùa, đâu còn lại biết vui đùa liệng bay rừng chằm làm ổ vách tường nóc nhà ư? Trâu buồn bệnh làm hổ, gặp anh nó mà gặm ăn đó. Như vậy, cớ sao quý ở biến hóa ư? Đàm của buộc bắt bóng, nên bỏ bầu thật vì chẳng phải đồ vật vật, bỏ ruộng đá vì khó cày cuốc vậy. Xem thường tả đạo, vì hư ngụy vậy. Bởi kiểm thật thì xưng chỗ đó đồng, nghiên cứu hư thì nhóm tập chỗ đó dị. Lý phù hợp thì ở đời trọng, tình dối trá thì vật trái ngược, nên việc thường vậy, đâu nói mê mờ ư? Thấp kém đạo, tôn quý Phật cũng có thể vậy, mà tự chẳng biết. Đó là mù tối thứ tư vậy.
- Ngoại luận rằng: Phàm, nước lấy dân làm gốc, gốc chắc thì nước yên. Do đó, ban sắc đến nhà nuôi dưỡng con, ân đượm đến vợ mang thai, nên con cháu hưởng tế ở đời thường nắm chẳng khuyến. Tuy chỉ hiếu hủy hoại tự thân, chẳng khiến tuyệt cúng tế, nên được nước nhà giàu mạnh, thiên hạ xương thạnh, chưa nghe nhân dân điêu tàn hết mà nước nhà có thể còn.
Nay Phật giáo chẳng vợ chẳng chồng thì gọi là phụng pháp, chỉ việc sớm chết mất, gọi là được Niết-bàn. Đã khuyết thiếu phương pháp trường sinh, lại không thuật chẳng chết. Đó thì trong một đời, nước nhà trống không vậy. Người thế tục tuy muốn cầu phước, chẳng biết hình mạng đã suy tàn, tranh nhau mến mộ nhà an, đâu biết trông yên diệt mất từ lâu. Có thể gọi đó là sợ chết mà lại cú vẫn, sợ đắm mà đến sông sâu. Vả lại, đời trước của Thiên hoàng, Địa hoàng không có Phật mà vận cuộc lâu dài. Từ thời Hậu Triệu, Hậu Ngụy trở lại có Tăng mà thời vận bức ngắn. Chánh do chân ngụy hỗn tạp, lễ nhạc chẳng điều, ở đời không thể biết. Đó là mê mờ thứ năm vậy.
- Châm thứ năm của nội là "giáo là gốc Trị Nội". Châm rằng: Luận rằng, lắng thầm là trái lại tánh, cốt yếu để nhập đạo là tuyệt tình dứt dục, ấy là gốc xa lên Thánh. Nên nói, người đạo cao thì chuộng, người đức rộng thì thưởng, dùng đạo truyền thần, đem đức trao Thánh. Thần thánh tương truyền, đó nghĩa là nối tiếp tốt lành vậy. Lấp nguồn của đạo, chặt rễ của đức, đó gọi là không con nối dõi vậy. Chẳng phải nói dứt dục là không con nối dõi, ông không nghe vậy ư? Xưa kia, Hà Thượng Chi nói: "Hóa của dòng họ Thích không chỗ chẳng thể được". Rõ nguồn giáo của đạo, biết xứng đầu của cứu đời. Phàm, làm một điều thiện thì dứt bớt một việc ác; bỏ một việc ác thì dứt một hình phạt; một hình phạt chấm dứt ở một nhà thì muôn hình phạt chấm dứt trong một nước. Nên biết Ngũ giới, Thập thiện là gốc của chánh trị. Lại nữa, Ngũ giới tu thì ác thú giảm, Thập Thiện thỏa sướng thì trời người đượm nhuần. Trời người đượm thì chánh hóa lớn mạnh, ác thú suy giảm mà tai hại dứt hết.
Ghi chú, kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Người chẳng trì giới thì các trời giảm ít, Tu-la hưng thạnh đông nhiều, rồng thiện không sức lực, rồng ác có sức lực". Rồng ác có sức lực thì giáng sương bão, gió bão mưa bệnh trái mùa, năm thứ lúa thóc không được mùa, bệnh dịch đua nhau nổi dậy, nhân dân đói kém, tàn hại lẫn nhau. Nếu người trì giới thì phần nhiều các trời tăng thêm có đủ oai quang, Tu-la giảm bớt. Rồng ác không sức lực, rồng thiện có thêm sức lực. Rồng thiện có sức lực thì gió mưa thuận thời, bốn khí hòa sướng, mưa ngọt đúng lúc, trăm thứ lúa thóc được mùa, nhân dân an lạc, giặc dã chấm dứt, bệnh dịch chẳng lây lan, như lắng yên củi dứt cỏ càng nặng mà khó rõ, tuyệt lửa dứt khói nhỏ nhiệm mà dễ hiển bày.
Vả lại, mạnh cốt yếu khí là điều đàm nói cùng cực của Lý Sưu, bảo tốn Tủy mến quý Tinh là áo chỉ của Tiên gia. Nay trái lại cho rằng, dâm dục là diệu huấn, vợ con là nguồn hóa. Tôn kính Lão Tử mà hủy phá lời ấy, học đạo tiên mà bỏ thuật đó, trở lại mẫn ái chó ngựa, quý nó biết ân, ghét ganh kiêu kính vì chán nó gặm ăn ngược lại. Đó là canh giữ ban đêm thay nhọc, công kém nơi chó ngựa, nghịch lân phản lưỡi, hấn thề sâu ở Kiêu kính. Rắn hổ hùng mạnh chín đầu, chẳng vậy ấy ư? Chở quỷ một xe, ôi đáng sợ vậy!
Vả lại, vận phúc ngắn dài, tuy nói là Thiên mạng, hưng suy nhanh chậm ước cũng người phù hợp. Nên Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang đều hưởng thọ tốt. Kiệt, Trụ, U, Lệ không trọn một năm. Cơ Phát giẫm đạo mà tuổi lớn, Doanh Chính dâm hình mà vận ngắn.
Ghi chú: Trần Tư luận rằng: "Xưa kia, Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn Võ, Chu, Thiệu đại công đều hưởng thọ trăm năm, bảy Thánh ba hiền đều hành đạo, tu sửa chính trị thiên hạ, chẳng đủ phải tổn thần; Hiền Tể cả một nước, chẳng đủ phải nhọc nghĩ suy, do đó, mỗi mỗi được hết tuổi trời. Còn Kiệt phóng minh điều, Trụ chết mục dã, Khuyển Nhung giết U, Lệ vương chẳng trọn. Vận của Chu có tám trăm tám mươi năm, mà Tần diệt chỉ mới hai đời.
Lúc ấy vốn không có Phật và Tăng, mô cáo tại trước mắt, chẳng phải nói hư đàm. Đâu dám không Phật mà vận dài, có Tăng mà vận ngắn. Đàm nói sao dễ dàng? Đàm nói sao dễ dàng? Tiếc thay, ông và tôi tự bào thai thích ấy, rất đủ mà than vậy! Tối tăm như đi đêm. Đó là mù tối thứ năm vậy.
- Ngoại luận rằng: Phàm, hiếu là gốc đức, điều trước tiên của Nhân luân, tông chẳng gì lớn bằng, nên chỉ nương vậy. Đượm nhuần của Hạo Thiên, đâu nói có thể báo đáp, nên sống thì hết sức cung phụng ấm lạnh, đã quá vãng thì phải đủ lễ mộ lăng. Nay Phật dạy răn, hẳn khiến bỏ hài cốt ấy, vất cỏ hoang ấy, phần nhiều xuất ra tài của để tạo lập tháp miếu cho mình, bèn khiến các hàng ngu phu hoặc loạn, phế bỏ điển lễ ấy, hòm rương của cha mẹ chẳng từng để tâm xây dựng.
Ghi chú: Đàn-hặc rằng: Xét ở đời của Thượng hoàng không làm lễ tẩn tán. Mới đầu từ việc huyệt chôn của Kỵ Chu, nên có dây quấn hòm rương, ngói gạch bít ngu quan, đều phát khởi từ thời trung cổ. Ngày của kỵ Chu Văn đem hài cốt phô bày nơi đồng trống, nhân gom nhặt mà cất giấu đó, mới hành tang lễ. Nên nói Tang là tàng (cất giấu) vậy, là muốn người không trông thấy đó. Vì thế Phu Tử mắc bệnh nặng, môn nhân muốn táng đó nồng hậu. Khổng Tử bảo: "Tôi khinh thường trời ấy ư? Phải chọn đất không lông, chẳng phong bít chẳng dựng đắp, chỉ để gai gốc chỉ để tròn xoe". Cúi đồng đời sau thực hành tang lễ, bởi vì chưa khỏi thế tục vậy.
Nhung Địch thây linh vụt hết diệu của diêu trang. Vả lại, Thần không hưởng chẳng phải tộc ấy, vật không cúng tế cúng dường trước đó, chẳng kính thân thích của mình mà kính người khác, đó nghĩa là đây vậy. Vả lại, thủy táng, hỏa táng, phong tục chẳng đồng; chôn thây để lộ thây, làng nước vốn khác. Bỏ mình theo kẻ khác, dùng làm cầu phước, đâu biết đất tốt ấy khác, mỗi tự mà vậy. Ở đời không thể biết. Đó là điều mê mờ thứ sáu vậy.
- Châm thứ sáu của nội là Trung hiếu không trái. Nội châm rằng: Dẫn người câm điếc, hẳn cúi ngưỡng mà chỉ huy; mở mang kẻ ngu trệ cũng kéo tai mà dơ tay. Phàm, Nhân luân vốn ở hiếu kính, hiếu kính vốn ở sinh thành, nên nói chẳng phải cha mẹ thì không sinh, chẳng phải Thánh nhân thì không lập, chẳng phải Thánh thì không theo, chẳng phải hiếu thì không thân. Đó là nghĩa thông của sinh thành, trình bày của sư thân. Nên Nhan Hồi chết, Nhan Lộ xin xe của ông. Khổng Tử bảo: "Hồi thân ta như cha, ta chẳng được thân Hồi như con", cũng bởi nghĩa ấy vậy. Vả lại, lễ của Ái kính khác, dung chẳng vượt khỏi hai lý; tánh của hiền ngu khác, phẩm chẳng vượt ba thềm bậc. Nên sống thì hiếu dưỡng không trái, chết thì dùng lễ an táng cúng tế. Đó là khác của lễ chế vậy. Tiểu hiếu thì dùng lực, Trung hiếu thì dùng lao, Đại hiếu thì không thiếu thốn, đó là khác của tánh phần vậy.
Phàm, nghĩa ấy Phật giáo cũng hiện còn vậy.
Đến như các hàng rưới huyết đốt thân, lễ của tháp báu đền nhân, cũng có nghĩa là kính thủy thận chung ấy vậy. Cho đến cả tám vạn Luân Vương, ba ngàn (3.000) vị trong chủng tộc họ Thích. Kinh A-dục Vương nói: "Vua giết tám vạn bốn ngàn (84.000) cung nhân, đêm đến nghe trong và ngoài cung có tiếng khóc, vua hối quá, nên đã tạo lập tám vạn bốn ngàn (84.000) ngôi tháp". Nay tại Chấn Đán cũng hiện còn vậy. Thích-đề Hoàn-nhân trên trời tạo ba ngàn (3.000) Luân Bà, cùng hết bể cả mà tìm cầu châu báu, dọn sạch đường thông mà chuyển dời đá, bởi nhọc sức vậy. Gồm tất cả quần sinh lấy làm việc của chính mình, ngang bằng ngậm khí ở Thiên thuộc, nương náu xa nói hết hữu lậu, mang vác bọn vô lại, bởi nhọc tâm vậy. Xoay hiên nơi vức thật tướng, ngưng thần ở trường tịch chiếu, chỉ Nê-hoàn về lâu dài, cưỡi pháp thân mà xa soi xét. Đó là đạo của không thiếu thốn vậy. Kịp đến lúc Thánh mẫu từ cung trời giáng xuống, bổ kim quan mà diễn bày cú pháp, Phụ vương băng hà, bưng sàn báu mà tiễn đưa.
Ghi chú: Luận Trí Độ nói: "Vua Tịnh Phạn băng hà, Đức Phật tự nắm một chân thằng sàn đi đến nơi trà tỳ, chỉ bày cho hết thảy chúng sinh ở đời sau báo ân sinh trưởng". Hiếu kính phô bày ở nghi thức, đó cũng đủ vậy.
Giáo vất bỏ hài cốt từ đâu mà đưa đến ư?
Vả lại. Kinh khuyên nên đem thây chết thí chung cho các loài chim thú, ý ngại côn sau trái xưa trước mong được khỏi ở tương lai. Chẳng như Trang Chu không đời sau hậu táng thì mất gốc của lễ, mà nói ếch kiến sao thân, cầm thú sao sơ. Sống đã lấy thân làm nghịch tốc, chết phải lấy trời đất làm quan quách, trở lại y như thời Thượng cổ, không hứa chôn giấu, tệ của hiềm ghét vật nhẹ sống nặng chết vậy. Người cầu tiên đạo, hoặc mang tráp theo thầy, vác dù xa lên núi, vạch la nguyên huệ, tiết chim kinh gấu. Táo vàng hiếm thành, hoa ngọc khó thấy, ngưng tủy hóa cốt, rỗng không khiến đàn vậy đội cầu vồng cậy cưỡi ly, chẳng thấy thật đó. Hoặc vất hài nơi địa bậc tang cốt ở Thiên thai, sống khuyết ân ân chưng nấu nuôi dưỡng, chết không lợi minh ích, trái ngược tâm đối với các vật, lưới tà giăng quái ngại các loài. Chín tộc kéo dài ương hủy chánh, sáu thân chuốc lấy nghiệp khinh Thánh, kết nguy cứ hiểm, rõ đủ chạnh lòng; ngạo vậy chẳng sợ, sao ngu lắm thế, mãi vẫn chưa tỉnh! Đó là mù tối thứ sáu vậy.
- Ngoại luận rằng: Phàm, Hoa Di ngữ khác, âm vận chẳng đồng, nhưng kinh Phật xưng là Thíchca Mâu-ni, đó là Hồ ngữ, Trung Hoa phiên dịch nghĩa tức là Năng Nhu. Tên của Năng Nhu ngôi vị thấp kém so với Chu Khổng, nên mất tên yếu kém của Năng Nhu ấy, mà còn Nhung hiệu của Thíchca. Như nói A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam Bồ-đề, Trung Hoa phiên dịch nghĩa "A" tức là Vô, nậuđa-la nghĩa là Thượng, Tam-miệu-tam nghĩa là Chánh biến tri, Bồ-đề tức là đạo vậy. Xứ này trước không đạo Vô thượng chân chánh, giáo Hồ pháp của Lão Trang, không lấy làm khác, nên chẳng phiên dịch. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát, tiếng Trung Hoa phiên dịch nghĩa là chúng sinh có tâm đạo lớn. Tên ấy hạ liệt (thấp kém), chẳng phải là Thượng sĩ, bít lấp Bỉ xưng ấy, lại cũng không phiên dịch. Phàm, các hàng không phiên dịch, đều thuộc lệ như vậy. Phủ mờ thế tục, hoặc loạn tâm vật, nhưng nhàm của chuộng mới, thường tệ của lưu đảng, xấu đồng tốt dị, bỉ tình của thường tục. Do đó, Hàm Đan có khách lăng tóc, Nịch Táng có khách quên về, ở đời chẳng thể biết. Đó là mê mờ thứ bảy vậy.
- Châm thứ bảy của nội là Tam bảo không phiên dịch. Nội châm rằng: Phàm, danh không được vật, bởi nghĩa Thật khách, đâu vì giả đàm của thuận thế, đặt cánh hơn kém của Huyền thánh! Phàm, nhà Tuân lấy đầu vời chất, họ Trọng lấy núi đặt tên.. Núi cao so với gò (Khâu), Trọng Nhân chưa như Phu Tử. Đầu bao gồm cả tai, Tuân đức chẳng kịp Lão Đam. Tên của Năng Nhu dung gì bèn thấp kém so với Chu Khổng? Nhưng hiệu của Thích-ca, nghĩa gồm nhiều thứ, biến hay suốt đến muôn đức, chẳng thể lấy nhân riêng dạy bảo, thông nhân cùng cả tứ cú, sao lại có thể chỉ hạn định ở phiên thuật? Sự chẳng đặng đừng, gượng lại còn ở hiệu cũ. Lại nữa, Đạo gia xưa trước có đạo Chánh biến tri, cùng với Bồ-tát không khác, tin là Chánh giáo lưu truyền về sau ngụy trộm tên ấy, khơi thật tìm nguồn, đâu được hiệu đó. Phàm, Thượng pháp cao thắng, đạo nghĩa thông huyền, chánh thật phiên thành tà, chân do trái ngụy. Nay Phù Thư chú trớ chẳng thể gọi là chánh, Huân Du hỗn tạp không thể gọi là chân.
Ghi chú: Đạo sĩ Úy sợ Quỷ Phù nói: Tả đeo chương Thái cực, hữu mang sắt Côn ngô, chỉ nhật tức ngưng sáng, phỏng quỷ ngàn dặm huyết. Huân Trọng tạo Hoàng thần Việt Chương giết quỷ, lại tạo Xích Chương Pháp cũng giết người vậy.
Giữ lối mềm nhủn tham hạ, chẳng gọi là thượng? (Lão Tử nói: "Chớ như giữ lối mềm nhủn". Lại nói: "Tánh đạo gần nước"). Kẹp miệng nhắm mắt, sao được xưng đạo? (Trang Tử nói: "Mắt kéo dán lìa đỏ, miệng kẹp dương đen").
Như chim mùa xuân ngâm hót, hoặc tợ thành ca, chim không thể ca thật; trùng mọt mùa thu gặm cây gỗ, hoặc gần như chữ, trùng mọt quyết thật không hiểu chữ. Danh thật ấy lạm, bởi nghĩa đây vậy. Lại nữa, nghi ngờ Bồ-tát không phiên dịch, đó là sai nhầm quá lắm. Thư nói: "Thượng Thánh đạt đến Tiêu Minh đều có Trùng xưng". Kinh nói: "Đối với loài nhiều chân hay hai chân, Đức Như Lai là bậc Tối Tôn, nhưng sâu trùng thông cả hàm linh". Chúng sinh đâu vượt phàm Thánh xưng của đại tâm, chẳng phải là thấp kém. Ông tuy tẩy rửa dơ cấu, tìm cầu lầm lỗi, không tổn lệ của Nam oai, bưng tim học bệnh, chưa biến vẻ đẹp của Tây Thi. Lại phải vì đó, trình bày đó chỉ bày. Thích-ca là Phật hiển danh, Bồ-tát là pháp tôn xưng, Bồ-tát là Tăng dẫn đầu, Tam bảo thắng diệu. Người phiên dịch lưu giữ tên gốc, chẳng phải như sấm của cửa son trụ ngọc, dao của dương cha âm mẹ. Hoàng Thư nói: "Mở cửa mạng, ôm chân nhân, anh hồi Long bưu chở Tam ngũ thất cửu; thiên hạ địa võng, mở cửa son đến trụ ngọc". Dương tư âm mẫu trắng như ngọc, âm tư dương phụ tay xoa nắm vậy. Gọi phẩn ngựa là củi linh, kêu đàm giải là ngọc dịch, gõ răng làm trống trời, nuốt đàm làm lễ truyền (rượu đặc). Phẩn ngựa làm củi linh, chuột chết làm ngọc Phác, ra kinh Thượng Thanh, sự thô bỉ mà khiếp sợ rõ, từ dơ uế mà khó hiển bày. Như Phụng linh làm dung đức hiếm thấy, chuột lỗ làm xú cụ ngầm hình. Tuy ẩn chất sự đồng, dáng ngây ngô khác vậy, mịt mờ sao không biết. Đó là mù tối thứ bảy vậy.
- Ngoại luận rằng: Thánh nhân ứng hóa tùy phương mà dắt dẫn, ở Hồ thì hói đầu bày đảnh, tại Hán thì đoan nghiêm đai mão. Đó là hình thường của Hoa Di, chẳng phải hơn kém của giáo phương. Nếu Phật giả sử bỏ mũ miện y phục đen ở đây mà đắp mặc truy y, bỏ Hoa phong của chúng ta mà xa đồng như Hồ tục, thì không thể gồm thông mũ miện, bèn là trí lực chẳng khắp, sao gọi là Thiên Trúc tùy phương hiện hình mà thiết giáo? Nếu như không có khả năng thì Phật tự là Hồ thần của Thiên Trúc, chẳng phải Đại Thánh của Trung Hoa. Đâu có pháp huấn của hói đầu thí ban nơi Chánh quốc? Nếu Hán học Hồ hình cắt tóc tiện gọi là phụng sự Phật, thì cần nên tập học Hán pháp, mang khăn cũng là phụng đạo. Đủ biết lộ bày đảnh, cắt tóc do hương tộc chẳng đồng. Than ôi! Sĩ dân dùng làm tu thiện, có thể gọi là quý áo choàng nát tệ của nhà hàng xóm, mà khinh tiện áo lễ của nhà mình. Ở đời chẳng thể biết. Đó là mê mờ thứ tám vậy.
- Châm thứ tám của nội là khác phương mà đồng chế. Nội châm rằng: Chí đạo ứng vận vô phương, Thánh hiền nhân cơ dẫn vật. Ông ở Cửu Di mà không lo hoạn hẹp lậu ấy. Võ vào nước lõa thế, vui mừng tự nhiên cởi xiêm, Cơ Bá đến Việt mà văn thân, Võ Linh thuận theo đời mà dùng Hồ phục. Tuy là nôm lưới khác thuật, mà công được cá thỏ ngang bằng vậy. Huống gì biến tục ngậm tâm, hủy hình kết chí, bỏ trâm đai để hợp đạo, vất râu tóc để tu chân. Thánh chế chẳng nhọc không, có đó đặt để vậy. Chỉ nhân nghĩa biến ở ba du, đạo chích nhờ ở năm thiện. Thánh giáo dài xa, trọn khiến chuột phát lạm danh (Lưu Tử nói: Người Chu cho chuột chết là ngọc phác); huyền hóa sâu mầu, bèn khiến gà phụng lẫn chất (Văn Tâm nói: Người Sở lấy gà núi làm chim phụng), nên chín mươi lăm thứ vọt bay đến Tây nhung, ba mươi lăm bộ rối loạn ở Đông quốc.
Đến như luận của Ưu-lâu-khư-tử, kinh của Vệ Thế Sư. Chủ (kinh Niết-bàn nói: Vệ Thế Sư luận vậy), Tiên của Cát-đầu-di-la (Hỏa tiên ngoại đạo tên là Cát-bà-đầu, Thủy tiên ngoại đạo tên là Dithúc-la), đạo của Mạt-già-xà-dạ (Nhã-đề-tử đoạn kiến ngoại đạo), hoặc gá thác nước lửa mà cốt yếu Thánh, cậy nương nhật nguyệt mà học thần, chấp tứ đại cho là phi nhân, chỉ ba nghiệp là không quả báo, trệ nhận biết dẫn đến mù tối của Minh sơn v.v... Tà tâm cùng cốc tối đồng mờ tối, các loại như vậy là tà luận của Tây thổ (ở Tây Vức) vậy. Kế đó là quỷ cười linh đàm An Ca hạo xướng, nuốt dao nhả lửa, hãi sợ tâm quê kệch của Trọng Hương; súc mưa hà gió kinh tởm lo toan cạn cợt của Lưu An. Hoặc thân đeo lục của Trung Hoàng, miệng tụng phù của Linh Phi, đạp cửa vàng mà do Thần, cậy kinh ngọc mà tẩy lụy. Các hàng như thế là dị học của Đông âu vậy, thảy đều là lưới tà che phủ tâm, kim ngược chích vào mắt, sâu xa cố giữ lầm hoặc, chồng chất xây cao thành tường nghi ngờ. Mỗi tự ôm lấy một góc mê đắm nơi ba cõi, tranh giữ Nhị kiến chìm tối trong chín dòng. Nhận biết rõ luân hồi, vô minh che khuất bản tánh, tâm dùng nổi động, thủ tướng đắm ở sông dài.
Đấng Đại Thánh với Đạo nhãn dự quán sát tùy cơ mà thiết bày phương thuốc, giáng hiện hình chất ở Tây Vức, chánh giáo lưu truyền đến phương Đông. Với bệnh nặng thì thân gần giáng hiện y vương, hoạn nhẹ thì gởi phương thuốc xa trao. Thiên sư dùng cắt kiêu kính, trọng tướng mà giết kình nghê. Đó cũng là thuật hòa thiên của cửa Phật, Thế Tôn quyền của Pháp vương vậy. Thánh không hai chế, dung phục nghĩa đồng, như sông trong thế tục về biển cả mà đồng vị, Lục ứng ráng tảng nhóm tập đến Tu-di mà chung sắc. Xung Hòa Tử nói: "Văn của Toàn Cơ đều là đạo cầu Thần tiên bất tử. Tiếp theo đó, đạo thì dưỡng ngã, ngày nay thân mạng trú thể diên hoa, thản như đến ba trăm, năm trăm lấy đó làm chân vậy. Trường sinh lâu thấy nghĩa tại đó". Nay, pháp sở học của Đạo sĩ chẳng lại thấy đó làm niệm, nhưng đại khái chỉ như Phật. Thân chết, Thần minh lại sinh đến Thắng địa. Nếu chẳng quý thân này, chẳng như chuyên tâm học Phật đạo, Phật đạo tạo dựng luyện tinh thần, ngày một tỏ sáng, ngày một càng thêm, đúng là pháp của danh lý định tuệ đông đúc có thể tu, nào nhọc cần khổ. Tự gọi tên là Đạo sĩ mà thật là học pháp nhà Phật. Học lại chẳng chuyên, bởi do bọn đồ rỗng họa hổ ấy vậy. Sao chẳng lui bỏ khăn nai, cởi áo hạt vàng, cạo râu tóc, nhuộm áo ca-sa mà quy y Thế Tôn ư? Kinh của các Đạo sĩ ở thế gian và hành đạo, nghĩa lý thì ước số lượng mà thông sau. Ngôn từ trộm trong kinh luận nhà Phật cải đổi làm thành sách Đạo, như các kinh Hoàng Đình, Nguyên Dương, Linh Bảo, Thượng Thanh v.v... và cả Hiển của Tam Hoàng đều hoán đổi từ các kinh Pháp Hoa, Vô Lượng Thọ v.v... mà làm thành vậy. Tu tâm thì y cứ tọa thiền mà vọng cảm, ngôn từ đổi danh tọa thiền thành tĩnh lự. Thượng Thanh rất cao, sư chưa đạp lên vức của Thượng giới. Thái Hư là tiên pháp, lại rặt toàn là không luận, chưa biết pháp nào lấy khác nhà Phật mà xưng là Đạo sĩ, người đắc ý đó làm Thầy Phật vậy. Ông là người Nam, tự thân học nơi Đạo sĩ Mâu Sơn, pháp của Xung Hòa Tử. Xung Hòa Tử cùng Đào Ẩn Cư thường lấy kính trọng Phật pháp làm hạnh nghiệp của mình, chỉ gặp chúng Tăng thảy đều kính bái. Ở trong hang cốc đều an trí tôn tượng Phật, tự dẫn các kẻ sĩ môn đồ thọ học, sớm tối sám hối, thường đọc kinh Phật. Căn cứ "Toàn Cơ Sao" do Xung Hòa Tử chế thuật, vì chẳng phải Đạo sĩ ở đương thời không kính trọng Phật, nên Đào Ẩn Cư viết thư đáp cùng Pháp sư Đại Loan nói là: "Tháng trước tai nghe âm thanh, sáng nay mắt nhận văn tự, hoặc do đảnh lễ nhiều năm nên được cảm ứng lai nghi chánh vậy. Chỉnh phất rác cỏ hái cấp hoa nước, thẳng tay áo nghiễm nhiên tư duy đợi hiểu cảnh tích vậy. Đệ tử là Đào Hoằng Cảnh ở Hoa Dương kính bái".
Thầy của ông phụng Phật kính Tăng, chẳng từng nói khác. Vậy sao tự giẫm đạp trái với bản Tông, bất nghĩa bất nhân, tội chuốc lấy cực pháp? Trong Lý Hoặc Luận, Mâu Tử nói là: "Hóa của Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, Lão Thị so với Phật như nai trắng sánh với kỳ lân", mà ông không thể tỏ ngộ. Đó là mù tối thứ tám vậy.
- Ngoại luận rằng: Trước Thiên Hoàng Cửu Kỷ, thư khế chưa làm, sau Thái Hạo Lục Hào, văn tự mới phát khởi. Từ đó trở lại dần rộng biên tịch. Các bậc Hiền thánh xưa trước đều trước biên Bí Điển, tiếp nhượng giáo mác, trình bày đủ triệu sách, do đó Tả sử, Hữu sử, Ký sự, Ký từ thẳng bút thẳng lời, không nắn không vọng. Ngoại Quốc truyện của Ngụy Thư, Cao Sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật đều nói: "Phù Đồ kinh của Tang Môn, do Lão Tử soạn thuật".
Ghi chú Đàn-hặc rằng: Kinh Phù Đồ, ở sách Ngụy Lược và Tây Vức truyện nói: "Tại nước Lâm Nghê có Thần nhân tên là Sa Luật. Sa Luật tuổi già tóc bạc, thường dạy người làm Phù Đồ. Với người mắc tai họa hay không có con, thì khuyên hành Phù Đồ, trai giới, khiến bỏ của cải để chuộc tội khiên.
Vua nước Lâm Nghê đã lâu mà không có Thái tử, Vương phi tên là Mạc-da nhân cúng tế Phù Đồ mà sinh được Thái tử, bèn đặt tên Thái tử là Phù Đồ". Ở đời vua Ai Đế (Lưu Hân 06-01 trước Tây lịch) thời Tiền Hán, Tần Cảnh đi sứ đến nước Nguyệt Chi, vua nước đó bảo Thái tử miệng đọc trao truyền cho Tần Cảnh. Do đó, kinh giáo Phù Đồ ở thời Tiền Hán đã sớm lưu hành. Sáu mươi ba năm sau, vua Minh Đế (Lưu Trang 58-76) thời Hậu Hán mới cảm mộng điềm lành. Xét ở truyện Tần Cảnh thì kinh không nói do Lão nói. Căn cứ ở thời nhà Tần có Đạo sĩ Vương Phù, là người cải đổi Tây Vức Truyện làm thành Minh Oai Hóa Hồ kinh, mới xưng Lão Tử vượt qua Lưu sa dạy vua Hồ làm Phù Đồ, biến thân làm Phật, mới có Phật phát khởi. Đúng là vu khống ấy rất lắm vậy. Chỉ từ Kế Tân cách đây trong khoảng vạn dặm, từ thời nhà Tấn nhà Hán đến nay, thương nhân Phiên sứ tương tục không dứt đoạn, chẳng ai lưu truyền thuyết Lão Tử ở kia Hóa Hồ nói kinh Phù Đồ, và chưa nghe biến thân làm Phật. Giả sử Lão Tử làm Phù Đồ, mới đầu là Báo Ân cúng dường xá-lợi mới hiển Thánh đức, sao gọi là dối ư? Hậu Hán ký của Viên Hoằng nói: "Lão Tử vào Hồ phân thân làm Phật". Kinh cáo của Đạo gia, thuyết ấy thật lắm nhiều, kiểm xét Hậu Hán ký của Viên Hoằng vốn không có lời văn Lão Tử làm Phật. Thời ấy tại triều đình, người thông hiểu rộng có lắm nhiều, đâu có thể bít tai mà trộm Linh khánh, chỉ nai làm ngựa, sao ngu quá lắm vậy!?]
Các kinh Minh Oai Hóa Hồ v.v... đều nói: "Vua Hồ không tin Lão Tử, Lão Tử dùng sức thần để nhiếp phục đó, vua Hồ mới cầu hối quá, tự hỏi tự cắt, tạ khiên tạ tội. Lão Quân đại từ xót thương ngu muội đó, vì nói quyền giáo tùy cơ răn ước, đều khiến đầu đà khất thực để chế tâm hung ngoan, áo đỏ riêng y, dùng để bẻ tánh cương lương, cắt hủy hình mạo, chỉ bày làm thân hình kiêu, cấm ước phòng vợ, tuyệt giống bội nghịch ấy.
Ghi chú: Đàn-hặc rằng: Ông lấy cấm ước phòng vợ mà lạm tội, thì Huyền Đô Hội Thánh bèn là phường Yến Dĩ, chí đức Thanh hư tiện là Quán Đồng Lao. Đã học Trường sinh, ông thường đổi phụ thân mà mến mộ Lý thị đều phải dưỡng trẻ. Chỉ Lý Nhĩ, Lý Tông, người người đều lấy vợ; Trương Lăng, Trương Lỗ, đời đời đều nuôi vợ. Nên có hai tên Nam quan và Nữ quan là biệt hiệu của Hệ Sư và Tự Sư. Từ thời nhà Tấn nhà Ngụy trở lại, trong Quán sinh con. Ở thời nhà Trần nhà Lương, trong vườn nuôi dưỡng trẻ; gọi phụ nữ là Chu Môn (cửa son), gọi Trượng Phu là Ngọc Trụ, dâm dục lớn mạnh phát sinh từ Đạo gia. Ngoài giả thanh hư, trong chuyên dơ bẩn nhàm nhở, đáng xấu hổ lắm. Đó như là bệnh nặng cho thêm thuốc độc, nên khiến bụng bầu tẩy ruột. Tội sâu ước dùng nghiêm hình, hẳn phải giết tông diệt tự, chỉ quân tự xứ này, sớm bẩm thọ Đạo chân).
Kiểm xét Hán Quan Nghi nói là: "Từ thời vua Cảnh Đế (?) trở lại, ở trong Quốc Học mới lập Đạo quán để dạy học đồ, chẳng hứa cho người đời riêng lập quán xá". Xét từ thời nhà Lương nhà Trần, nhà Tề nhà Ngụy trở về trước chỉ dùng bầu lô đựng bản kinh, không có hình tượng Thiên Tôn. Căn cứ Đạo luận của Nhâm Tử, U cầu của Đỗ Thị đều nói: "Đạo không hình chất, bởi tinh của âm dương".
Nội truyện của Đào Ẩn Cư nói: "Ở trong Mâu Sơn lập hai nhà để thờ Phật và Đạo, cách ngày vào chầu lễ, nhà thờ Phật có hình tượng, nhà thờ Đạo không hình tượng". Luận Tam giáo của Vương Thuần nói: "Đạo sĩ ở đời gần đây vô phương lấy kế sống, muốn người quy hướng kính tin, mới học nhà Phật chế lập hình tượng, giả hiệu là Thiên Tôn, và hai chân nhân hai bên tôn trí nơi nhà Đạo để nương cậy ăn mặc, Lục Tỉnh Tu ở thời nhà Lương làm hình tượng ấy vậy". Không nhọc hói đảnh, vốn tuân theo chí huấn. Há giả cắt tóc mà có thể gọi là thân không tội khiên mà vui thích mang gông cùm; nhà không họa tang mà thích quấn khăn chế. Mờ tối rất lắm, thật đáng đau xót!
Xưa kia, vua Minh Đế thời Hậu Hán cảm mộng, pháp đó bắt đầu truyền lại, khiến người Hồ lập miếu, kẻ sĩ nước Hán không hứa tuân hành. Nhà Ngụy y theo khuôn phép nhà Hán lại tuân theo thói quen cũ. Đến ngày của Thạch Lặc nghĩ mỹ phong Hồ ấy bị Đạo nhân Phật Đồ Trừng nắn sửa đời, từ đó trở xuống, các hàng trốn lánh làm việc đua nhau cắt tạo xuống tóc, mà ở đời không thể biết. Đó là mê mờ thứ chín vậy.
-Châm thứ chín của nội là thân Lão Tử chẳng phải Phật. Nội châm rằng: Đại Hạ do lắm tài thành tựu, quần sinh chẳng phải một người có thể hóa. Nên mười phương Thánh Trí sánh như bụi cát mà chẳng cùng, tám vạn pháp môn, dốc hết sông biển mà chẳng thể lường. Do đó có Thánh đây Thánh kia, khác phương loại mà sánh vai; Phật trước Phật sau khác đời mà đồng nối gót. Tuy tượng chánh sai giáng, tịnh uế phân khu, trừng ác khuyên thiện, hạng ấy chỉ có một. Vả lại, Chu Khổng là Thế huấn, còn không cải đổi ở trăm vua, Sô mạnh kịch đàm còn ban tốt đẹp cả ngàn năm, đâu dung Chu Cơ một đời mà ba lần biến ba lần đổi. Lão Thị một phần mà thành đạo thành Phật, tức là các người khác không lý giẫm đạp lên Thánh, quần manh hết mong lên đạo. Lại nữa, trước gièm chê mười Dị, sau ngợi khen một Đồng; khoảng đầu bộ, hủy báng ngợi khen mâu thuẫn, từ khoảng quyển tựa trở đi đều tham thương. Bịt mắt trộm áo lông cừu, tin có lời đồn ấy.
Phàm, hình tướng chân ngụy, tợ như tướng loại của cỏ và lúa.
Người khéo cày bừa thì chỉ còn mà dứt hết cỏ, người khác cầu đạo cũng nương theo chân mà xả bỏ ngụy. Thắng của Sa-môn, Tông lưu đã lâu vậy. Đến như Hán Đế cúi lễ đối với Ca-diếp Ma-đằng (như truyện Pháp Bản). Ngô Vương khuất tiết tháo đối với Sa-môn Khương Tăng Hội. Ngô Lục nói: "Ngô Vương hỏi Sa-môn Khương Tăng Hội: "Phật pháp có gì khác tục?" Sa-môn Khương Tăng Hội đáp: "Làm ác ở người hiển bày được mà giết đó, làm ác ở quỷ ẩn được mà giết đó". Dịch nói: "Tích chứa việc thiện, có thừa niềm vui, thơ vịnh cầu phước chẳng hồi". Tuy là cách ngôn của Nhọ tục, cũng là tiệm huấn của Phật pháp vậy.
Sa-môn Đàm Thủy được mời lên chiếu của Ngụy Quân. Ngụy Lục nói: "Thác Bạt Đào (Thái Võ Đế 424-452) thời Bắc Ngụy dùng thuyết của Thôi Khiêm, bèn hủy diệt Phật pháp, phá tượng đốt kinh, xua đuổi ép buộc Tăng Ni phải hoàn tục. Samôn Đàm Thủy lúc sáng sớm đắp mặc pháp y, chống gậy đến đứng trước cửa thành. Người giữ cửa báo cho Thác Bạt Đào, Thác Bạt Đào bảo chém đó. Chém ba dao mà Sa-môn Đàm Thủy không thương tổn, người hành quyết ấy mới báo lại cùng Thác Bạt Đào. Thác Bạt Đào tự lấy dao mang ra chém, lại cũng như trước, không tổn thương gì, mới bảo đem Sa-môn Đàm Thủy vào giam trong chuồng hổ, hổ bít mắt cúi đầu. Thác Bạt Đào mới thử đặt Thiên sư bên cạnh chuồng hổ, hổ gầm gừ như muốn gặm ăn. Thác Bạt Đào mới biết Phật hóa thanh cao, chỗ Hoàng Lão chẳng thể kịp, bèn mời Sa-môn Đàm Thủy lên chiếu ngồi, và xin sám tạ tội quá".
Sa-môn Đạo Lâm lên sàng của Tấn chúa. Ở thời nhà Tần, Sa-môn Đạo An vinh dự cùng ngồi chung kiệu. Sa-môn Phật Đồ Trừng ở nước Triệu được Chúa thượng sủng ái ban tặng áo gấm. Phù Thư nói: "Phù chúa ra vân du, mời Pháp sư Đạo An cùng ngồi chung kiệu". Triện Cao Tăng Truyện nói: "Thạch Hổ xưng gọi phát sinh Phật Đồ Trừng là Đại Hòa thượng, dùng gấm lụa làm y ban tặng. Mỗi lần Pháp sư Phật Đồ Trừng lên điện, đều bảo các hàng Vương công trở xuống đều cùng nâng đỡ kiệu". Đó đều là đạo giáng cực tôn, đức xoay muôn thừa, thật có như vậy. Thuật của Hoàng Lão từ trước lại nay chẳng kẻ đua tranh, phí tài để sánh ưu thắng tự chết thân mình. Thôi Hạo dùng tà vu khống táng mất thân mạng. Ngụy Thư nói: "Thôi Hạo, Khấu Khiêm Chi khuyên Thác Bạt Đào hủy diệt Chánh giáo, về sau Thác Bạt Đào thân phát bệnh dữ, mới giết Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi". Khương Bân vì tập dối trá mà dời chất, Vương Phù vì tạo ngụy mà giết thân. Tất cả đều nghiệm đó ở tai mắt, chẳng lấy cùng đó hư đàm. Đó sùng kính được như vậy, đó họa khiển cũng như kia.
Phàm, Nhan Mẫn gặp ở cửa Khổng, nên đức hạnh làm đầu, Tô Trương gặp ở Quỷ cốc, bày dối trá làm trước, chẳng riêng hơn kém của tánh người, cũng là chỗ tập quen chân ngụy vậy. Vả lại, hiền nịnh lẫn lộn, nịnh tiết lậu mà hiền rõ ràng, Thánh dối khó phân, dối cùng kiệt mà Thánh hiển bày. Như xà sàn cùng my vu cùng loại chết. Người thấu hiểu mùi thơm thì biện rành dung mạo đó, cẩu vật và tố hoa ngang rễ; người hiểu phương thuốc thì phân rành tánh nó. Do đó, công đán gạt bỏ mà trở lại Phụ, Khổng môn hư rỗng mà lại doanh có tự lại vậy.
Từ Hán Minh sánh thử, tà kiến gãy bén nhọn, Tuệ nhật tỏa sáng, mây pháp giăng râm. Khương Phan bỏ nhà mà vào đạo, Lã Tiều bỏ Ngụy mà quy chân, Tào Mã truyền đăng mà chẳng cùng. Ở thời nhà Tần nhà Ngụy, suối vọt trào mà không khô cạn. Ông tin mới đầu ở thời Sa-môn Phật Đồ Trừng và dòng họ Thạch cũng không vu khống ư? Từ khi phong tục của Hoàng Lão quấy loạn, dung phục cũng biến đổi. Chẳng phải đạo chứng pháp, tục ngạn ngữ gọi là kẻ Hoạn; khéo chú trớ khéo mắng chửi, xưa trước gọi là lính quỷ. Đó cứu khổ thì mở tóc buộc cổ, dùng dây tự trói, dùng phẩn trâu bôi thoa thân mình, đánh đá lẫn nhau. Pháp luật đó, nếu mất phù lục thì ngậm ngược bảng tay, nghịch gió quét đất, cành liễu trăm bó tự chặt tự vác. Trộm tấu chương thì lăng lóc ngục than, lưng mang bình nước (rút từ Đạo sĩ Tôn Thị pháp nghi), trách phạt rất nặng, đồng pháp của kẻ tôi tớ lệ thuộc, tội sai khiến ngậm cúi, sánh như loại súc sinh. Nhưng chuông khánh cửa Phật lúc nhóm tập chúng, từ thời nhà Hán nhà Ngụy trở lại, Đạo gia chưa có Sư tử Kim cang, Thiện thần Hộ pháp, bởi chỗ của Phật giáo rõ ràng, chẳng phải Hoàng lãnh gầy dựng trước, cũng kiểm sánh khuôn phép ưu thắng, trộm dấu vết của Thánh ta vậy. Nên Nhan Chi nói: "Việc của Thần tiên có tốn phí vàng ngọc vả lại là hư phóng, cốt trắng dưới Hoa Sơn nhiều như rơm rạ, làm gì có chuyện sao có Lý đắc Tiên?" Giả sử có
Đắc Tiên, rốt cùng phải có chết, chẳng thể vượt khỏi thế tục, không khuyên bọn ông học đó. Việc ba đời của nhà Phật, tin mà có chứng nghiệm, gia nghiệp quy tâm chớ khinh mạn vậy. Phàm, bốn y trần năm ấm bổ chẻ hình có, sáu thuyền ba giá chuyên chở quần sinh, muôn hạnh kết quy không, ngàn muôn vào thiện. Biện tài trí tuệ, đâu không thông hiểu bảy kinh trăm họ ư? Rõ ràng chẳng phải chỗ kịp của Nghiêu Thuấn Chu Khổng Lão Trang, nên trước thuật chương Quy tâm để răn dạy đệ tử, ấy mà chẳng thể biết. Đó là mù tối thứ chín vậy.
-------------------------------
Có một người thông rành khảo cổ và một Quân tử cùng chiêm hành đọc luận của Lý Khanh phỉ báng, xem đàm của Khai Sĩ biện chánh, mà có thái độ tức giận khởi và vui mừng khác nhau. Nay vì muốn khiến tà chánh khác vết, chân ngụy phân rành, định chuẩn phải quấy đó, để rõ được mất, mong hàng hậu tấn trọn không nghi ngờ.
Người thông rành bảo: Tôi xem tạo hóa vốn ở âm dương, vật loại sở sinh vượt hẳn trời đất, trải qua đời của Tam cổ, tìm văn của Ngũ Thánh, chẳng thấy Thần của Thiên Tôn, cũng không tượng của đại đạo. Căn cứ Linh Bảo Cửu Thiên Sinh Thần Chương nói: "Khí thanh cao lắng tích dương thành trời, khí kết ngưng cặn chứa trệ thành đất. Sinh của người cũng vậy, đều do ba nguyên dưỡng dục, chín khí kinh hình, sau đó mới sinh vậy". Vậy nên biết, âm dương là gốc của người, trời đất là căn của vật, căn sinh là khí không riêng Thần đạo.
Quân Tử nói: Đại Tiêu Ẩn Thư, Vô Thượng Chân Thư v.v... của Đạo sĩ nói: "Vô thượng Đại Đạo Quân ngự trị tại Ngọc kinh trong trời Đại La trên năm mươi lăm lớp vô cực, đài cao bảy báu, giường vàng ghế ngọc, chỗ tiên đồng ngọc nữ hầu canh, ở ngoài ba cõi ba tầng trời". Căn cứ Thần Tiên Ngũ Nhạc Đồ nói: "Đại Đạo Thiên Tôn ngự trị ở Đô Thái Huyền, châu Ngọc quang, quận Kim thân, huyện Thiên bảo, hương Nguyên minh, Lý Định Chí, chỗ tai họa chẳng kịp". Kinh Linh Thư nói: "Đại La là trời trên năm ức năm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi lăm lớp trời. Ngụ Nhạc Đồ nói: "Đô nghĩa là đổ (thấy). Thái thượng Đại Đạo là Đạo thần minh Quân trên Trung đạo rất giữ tỉnh lặng ở Đô Thái Huyền". Chư Thiên Nội Âm nói: "Trời cùng các Tiên gióng trống của Lầu đô, chầu yến ngọc kinh để vui cùng Đạo Quân. Suy đó đàm nói sai nhầm, thì Đạo Quân là Thần minh của trời, đã thuộc châu huyện thì Thiên Tôn lại là hàng dân của trời. Như kinh nhà Phật luận, ngoài ba cõi gọi là ra khỏi sinh tử, không hình phần đoạn, lìa cảnh tâm sắc, sao lại có được đài báu núi ngọc châu quận hương lý? Hư vọng rất lắm, chuyển lại khó kính, chỉ Đạo gia dối nói là dấu vết khả quan.
Tập tục sống thường là ngày đã lâu, các tà đua nhau dấy khởi, lần lượt lẫn lộn có sự bất đồng. Nếu muốn chánh danh, lý phải rành mạch. Nay lược nêu duyên khởi tùy mà phán định đó. Căn cứ Chu Lễ, thì từ đời Nghiêu trở về trước chưa có quận huyện, đến Thuấn đi tuần Ngũ nhạc mới thấy tên châu, Thượng thư Võ Cống trở lại mới trình bày hiệu châu. Ở thời Xuân Thu, huyện lớn quận nhỏ, vì quận thuộc từ huyện từ thời Hán Cao trở lại lấy huyện thuộc quận. Điển cáo rõ ràng, chín châu Võ tích, trăm quận Tần đều là vậy. Giả sử như có Đạo ở trên trời thì nên xúc sự vô vi, nhân gì nhà cửa thuộc hương ở cùng Phàm chẳng khác? Đã có châu quận tức có Quan trưởng, châu mục quận thú họ gì, tên gì? Hương trưởng Lý ty là con ai, em ai? Đều là Đạo sĩ học hẹp, không biết Hoàng cân, chắc hẳn xưa nay chưa xem kinh sử, thấy ở nhân gian đặt lập châu huyện, cũng nói trên trời cùng thế tục phù hợp đồng nhau, ôm giữ ngụy lấy làm chân, thật đáng xấu hổ. Tướng mạch gốc ngọn ấy đều như trong luận Tiếu đạo mà rút ra vậy.
Người thông rành bảo: Trang Chu nói: "Xét đầu tiên đó mà vô sinh, chẳng phải không vô sinh mà vốn vô hình, chẳng phải không vô hình mà vốn vô khí. Giữa khoảng hoảng hốt, biến động mà có khí, khí biến mà có hình, hình biến mà có sinh, sinh là của người vậy, tụ của khí. Tụ thì là sinh tan thì là tử. Nên nói hữu vô cùng sinh vậy, muôn vật là một vậy". Sao là một vậy? Tức là thiên hạ một khí. Suy đó mà đàm luận, không riêng có Đạo cao ở Đại La, riêng xưng tôn quý.
Quân Tử nói: Với hai khí âm dương, kinh Hoàng Tinh nói: "Lưu Đan chín lần chuyển, kết khí thành Tinh, Tinh hóa thành Thần, Thần biến thành người. Dương khí đỏ gọi là Huyền đan, âm khí vàng gọi là Hoàng tinh. Âm dương giao hợp hai khí theo Tinh, Tinh hóa làm Thần, Tinh Thần ngưng kết trên ứng chín trời. Khí của chín trời xuống ở Đan điền, cùng Thần hợp ngưng đến nơi mạng môn, cần phải chín lần qua là làm cửu đan, trên hóa dưới ngưng để thành ở người", chẳng thấy nói riêng có đạo Thần hay làm chủ muôn vật khiến đó sinh vậy.
Người thông rành bảo: Các bậc danh Nho xưa nay và cả Hà Thượng Công chú giải năm ngàn (5.000) văn chương, nhìn xem đó chẳng thấy, gọi tên là Di, Di nghĩa Tinh. Lắng đó mà chẳng nghe, gọi là Hy, Hy nghĩa là Thần. Nắm bắt đó chẳng được, gọi là Vi, Vi nghĩa là Khí. Phải gọi là trạng của vô trạng, tượng của vô vật, nên biết khí thể man mác. Do vậy, đón nó chẳng thấy đầu nói, khí hình thanh hư, nên nói theo nó chẳng thấy sau nó. Đó là thuật về gốc của đạo theo khí mà sinh. Do đó, kinh
Thượng Thanh nói: "Tôi sinh trong man mác rất mờ tối, trong mờ tối sinh ở không đồng, trong không đồng sinh ở Thái nguyên, Thái nguyên biến hóa, ba khí rõ ràng vậy. Một khí xanh, một khí trắng, một khí vàng, nên nói một sinh hai, hai sinh ba". Căn cứ Chương Sinh Thần nói: "Lão Tử lấy nguyên thủy ba khí hợp mà làm một, là pháp thể của chí nhân. Tinh là tinh linh, Thần là biến hóa, khí là khí tượng". Như Lục Giản Tịch, Tạng Căng, Cố Hoan, Mạnh Trí Chu v.v... Lão Tử Nghĩa nói: "Hợp ba khí ấy để thành Thánh thể". Lại nói: "Tự nhiên là thể của Thông tướng, ba khí là thể của Biệt tướng". Kiểm xét chỗ tông của Đạo lấy khí làm gốc, khảo xét trong ba khí có sắc có tâm. Đã là sắc tâm tạo thành, thì chưa khỏi hoạn sinh tử, sao được xưng thường?
Quân Tử nói: Nguyên đầu tiên của Đạo, lấy khí làm thể. Cớ sao rõ vậy? Căn cứ kinh Dưỡng Sinh Phục Khí nói: "Đạo nghĩa là khí, ôm giữ khí thì đắc đạo. Đắc đạo thì trường tồn. Thần nghĩa là tinh, ôm giữ tinh thì thần sáng, thần sáng thì trường sinh. Tinh là dòng lưu thông của huyết mạch, linh phủ của giữ cốt, tinh mất thì cốt khô, cốt khô thì chết vậy". Nên Trang Chu nói: "Thổi hà hít thở, nhả cũ nạp mới". Bành Tổ tu đó để thành thọ khảo. Kiểm xét đó mà nói thì hay dưỡng hòa khí sẽ dẫn đến Trường sinh. Nghĩa là đắc đạo vậy.
Người thông rành bảo: Giả sử có đạo chẳng thể tự sinh, theo tự nhiên mà sinh, theo tự nhiên mà ra.
Đạo vốn từ tự nhiên, thì đạo có chỗ chờ đợi. Đã nhân từ cái khác mà có tức là vô thường, nên Lão Tử nói: "Nhân pháp địa, Địa pháp thiên, Thiên pháp đạo, Đạo pháp tự nhiên". Vương Bật nói: "Nói đạo của trời đất đều có tương vi, nên xưng là pháp, tự nhiên không xưng từ cùng cực đạo hiệu của trí tuệ linh tri, dùng trí chẳng kịp không trí, có hình chẳng kịp không hình". Đạo là nghĩa có, chẳng kịp nghĩa không của tự nhiên vậy.
Quân Tử nói: Dịch Càn Tạc Độ nói: "Xưa kia dòng họ Toại nhân ngưỡng xem Đẩu cực để định phương danh, Bào Hy nhân đó mà họa Bát quái". Hoàng đế thọ mạng khiến Đại Nạo tạo Giáp tý, dung thành thứ lớp lịch số, thuyết của Ngũ hành cửu cung từ đó mà phát khởi. Nên Thuyết Quái nói: "Dương số chín là đạo của lập trời". Nói âm cùng dương, âm hai dương một thì trời có ba vậy. Đạo của lập đất, nói nhu cùng với cương, nhu hai cương một thì đất cũng có ba. Đạo của lập người, nói nhân cùng nghĩa, nhân hai nghĩa một thì người cũng có ba, ba cái ba hợp thành chín. Âm dương tương thông để thành muôn vật, chẳng nghe riêng có Đạo thần ở nơi cao tòa Đô Thái Huyền, bởi trên trời lưới ba thanh, dưới bao ba cõi. Ở phòng của bảy ánh, ra trên chín cung, hành thần trải khí, tạo tác muôn vật. Há chẳng phải hoặc loại vùi lấp nhân gian ư? Kiểm công thì nghiệp khác, sánh lớn mạnh thì việc khác. Sa-môn nêu bảy đức mà chẳng trái, Đạo sĩ nói làm mà nhiều lỗi quá, lập vết xa mà không phán định, dựng mưu cao mà chẳng lường biết, mênh mông chẳng thể chuộng vậy. Đó chỉ là Thích giáo ư? Đâu thể đem ít nước nói nhà thấp trũng sánh cùng sóng cả Bằng Di ấy ư? Chẳng phải cùng loại vậy.
Nho sinh hỏi: Tạo tượng viết kinh, vốn mong hiện phước. Trì trai hành đạo, quý được lợi ích trước mắt. Cớ sao xưng niệm Địa Tạng mà không chứng nghiệm, kêu gọi Quán Âm mà chẳng được cứu? Ương họa bảy nạn lưu luyến đua nhau nhóm tập, nguyện của hai cứu dắt tay chẳng theo. Phùng Sĩ Cán có văn cật hỏi Thánh, Dương Huyễn Chi đặt viết luận lỗi Thần linh, nhọc nhằn luống khổ uổng phí châu ngọc, chuyên việc nói khoe, hiếm nghe thật lục. Chẳng chỉ người làm thiện không được hiệu nghiệm đó, mà kẻ làm ác vẫn an nhiên nhận vinh dự đó. Đâu để ý Thích môn, trái lại thành ô hợp?
Bậc Khai sĩ dụ bảo: Phàm U hiện khó mở, chỉ tin có thể vào; sóng cả mênh mông, chỉ trí hay vượt qua được. Trí là nền tảng của vượt Thánh, tin là gốc của vượt phàm, vốn nhân tin mà lập hạnh, độ nhờ trí mà thần lắng. Tin là công của chiêu phước, trí là thuật để trở lại nguồn. Nên nói: Người có trí có thể lấy điều nghe hợp lý, người ôm giữ niềm tin có thể để thành đạo thầy trò. Phu Tử nói: "Binh lính ăn thì có thể quên, niềm tin không thể mất". Nay phải vì đó mà luận rõ yếu chỉ vậy. Phàm, cảm ở tại tinh thành, đạo do khẩn khổ, ý chẳng chuyên đạo lấy gì khắc tâm, chẳng chí cảm không lấy gì làm thông? Cho nên, Sô Diễn than dài linh sương ngày hạ, Lý Quảng chú tâm cắt cánh lấp đá, Tướng quân bái giếng, Sơ Lặc suối bay, Minh phủ cúi đầu, Giang lăng lửa tắt. Nếu vạch can bày đảm giao mạng ném hình hài, phước phước cùng giúp, niệm niệm không nhọc mệt, bèn có thể trở lại tuổi thọ, chuyển trừ tai chướng, đâu chỉ được phước thọ ân ấy ư? Ngoài đã có vậy trong cũng không sai. Nếu cho rằng Quán Âm không thần, thì Sĩ Cán do đâu mà khỏi chết? Địa Tạng không sức lực, thì Hiếu Khiêm nhờ ai mà được an toàn? Đến như Kiến An cảm mộng mà bệnh tật được lành (truyện Cảm Ứng nói: Tề Kiến An Vương mắc bệnh chảy mủ vàng, xưng niệm Quán Âm không ngưng nghỉ, ban đêm thấy Quán Âm tự tay trao cho thuốc, đến sáng sớm bệnh lành). Văn Tuyên giáng linh mà bệnh khỏi (Nội truyện của Tề Cánh Lăng Vương nói: Vương Dị bệnh nhiệt, nửa đêm chết ngất, mộng thấy tôn tượng vàng tự tay rưới nước thần ấm nóng, nhân đó bèn được bình phục). Cao Vương hành hình mà dao gãy (Ở thời nhà Tề có kẻ tù, tội đáng xử nghiêm trọng, mộng thấy có vị Thánh tăng, miệng tụng truyền cho lời kinh, bèn chí tâm tụng niệm đủ vài ngàn biến. Đến lúc đưa ra hành hình, dao gãy, nhân đó bèn được khỏi chết. Kinh đó chính là kinh "Cao Vương Quán Thế Âm" vậy). Tôn tượng vàng thay chịu chém chặt mà trên cổ có vế thương (truyện Cảm Ứng nói: Trương Dật làm việc đến chết, dự định tu tạo tôn tượng bằng vàng, sớm tối mong cầu được mạng sống. Đến lúc đưa ra hành hình, dao gãy mà trên cổ không vết thương tích. Có vị Quan hỏi về nguyên nhân, Trương Dật đáp: "Chỉ chuyên lễ bái tôn tượng". Trên cổ tôn tượng ấy có hai vết sẹo dao chém, vết sẹo đỏ như huyết, nhân đó mà được khỏi).
Người dòng họ Tạ giao thông tâm hồn, được thấy con đã chết, nhân đó mà cầu phước (Tấn Lục nói: Phu nhân của Long Da Vương Ngưng, vốn dòng họ Tạ tên Thao ở quận Trần, là con gái của Nguyên Dịch, là người thanh tâm huyền chỉ, dáng vẻ tài tú xa cao, bị chết hai người con trai nên đau khổ rất lắm, suốt thời gian sáu năm chẳng vén mở màn trướng. Bỗng thấy hai người con trở về gông cùm lớn, khuyên mẹ tự khoan tha, nói là bị tội không được khỏi, chỉ làm phước mới có thể được miễn đó. Lại thuật nói rõ đủ các thứ thống khổ. Người mẹ (Tạ Thao) vì đó mà cầu phước mong được phước giúp vậy). Tôn Tộ thấu đạt sâu xa, thấy người chết mất mà thiết trai (Tuyên Nghiệm ký nói: "Tôn Tộ người ở Trở dương-nước Tề, làm Thái trung đại phu. Thuở thiếu thời có người con nhỏ tự là Pháp Huy, rất thông minh mẫn tuệ, kính phụng Phật pháp. Năm Hàm Khang thứ nhất (335) thời Đông Tấn, Pháp Huy vừa mười tám tuổi, làm Quế Dương quận mắc bệnh mà chết, khi ấy Tôn Tộ đang trấn nhậm tại Võ xương. Đến ngày mồng tám tháng tư năm Hàm Khang thứ ba (337) thời Đông Tấn, Tôn Tộ thiết lập đạo tràng, thỉnh Phật mời Tăng thiết trai hành đạo, thấy Pháp Huy đứng trong chúng theo sau tôn tượng, bèn đến hỏi han. Pháp Huy quỳ bái, nói rõ ở và tiện đó theo cha mẹ về nhà. Trước đó, Tôn Tộ có bệnh, Pháp Huy nói không có họa lớn, đến tháng năm sẽ lành, nói xong bèn từ biệt". Nói tạo phước cứu giúp u hồn khỏi khổ, việc ấy không hư dối vậy).
Trường Thư một lời xướng mà gió xoay, tuổi trẻ bốn lần ném mà lửa tắt (Tấn Lục, Minh Tường Ký nói: Ở đời Tấn có Trúc Trường Thư vốn người xứ Thiên Trúc, chuyên tâm tụng kinh Quán Thế Âm. Sau đến ở Ngô trung, bấy giờ trong ấp gặp phải nạn lửa, phòng nhà liền cột, rui tranh biết lẫn nhau, lửa đến đều cháy cả, không thể nào cứu được. Nhà của Trường Thư ở dưới gió, trong ý cho là hẳn bị thiêu hủy, nên nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm. Lửa sắp đến nhà Trường Thư, gió liền xoáy ngược, lửa tắt, cuối cùng nhà được khỏi nạn. Cả huyện đều kinh dị, ngợi ca đó là có thần. Bấy giờ có gã tuổi trẻ hung ác lấy làm quái lạ, không biết Lão Hồ ấy có linh ứng gì mà lửa thiêu đốt không cháy, bèn đang nửa đêm gió dữ, gã tuổi trẻ đó đem lửa ném vào phòng nhà bốn lượt mà đều tắt mất. Gã tuổi trẻ đó thán cảm, đến sáng sớm vào nhà cúi đầu hối tạ lỗi qua. Trường Thư bảo: "Tôi không thần lực, chỉ xưng niệm Quán Thế Âm lấy làm hạnh nghiệp thường chuyên, nên mỗi lúc hữu sự thường được thoát khỏi vậy").
Sa-môn Tăng Hồng ở trong tù cấm, được tôn tượng chú đúc đưa tay xoa đầu (Minh Tường ký nói: Trong thời nhà Tấn, có Sa-môn Tăng Hồng ở chùa Ngõa Quan tại kinh đô. Năm Nghĩa Hy thứ mười hai (416) thời Đông Tấn, đang lúc quan cấm chú đúc tôn tượng, mà Sa-môn Tăng Hồng đã phát tâm chú đúc tôn tượng bằng vàng cao trượng sáu. Nếu được viên mãn thì có chết cũng không hận, bèn liền trộm chú đúc. Đúc xong tôn tượng hiện còn trong khuôn, thì Quan sở ty bắt Sa-môn Tăng Hồng giam cầm trong phủ, gông cùm rất nghiêm mật. Sa-môn Tăng Hồng nhất tâm chuyên niệm Quán Thế Âm, mỗi ngày tụng trăm biến, bèn mộng thấy tôn tượng vàng mình chú đúc vào đến trong ngục đưa tay xoa đầu, bảo: "Không phải lo sợ!" Trước ngực tôn tượng đó có khoảng một thước sắc màu đồng rực cháy. Những ngày Sa-môn Tăng Hồng đang ở trong ngục cấm, thì trâu ngựa khắp cả nước nhà đều chẳng chịu vào chuồng, bấy giờ mọi người lấy làm quái lạ. Qua mười ngày sau có sắc ban đưa đến Bành thành, Sa-môn Tăng Hồng nhân đó được phóng thả, phá khuôn, tôn tượng tự hiện).
A Luyện thác sinh mà tiếng Hồ vượt miệng (Minh Tường ký nói: Vợ của Lang Da Vương Mân không sinh con, thường khấn cầu Quán Âm để xin con. Sau đó, Vương Mân đi đường gặp vị Tăng người Hồ, trong ý rất vui mừng đó. Vị Tăng ấy bảo: "Sau khi tôi chết sẽ làm con của ông". Qua thời gian ngắn, vị Tăng ấy tịch, ba tháng sau, vợ Vương Mân mang thai, đến lúc sinh, đứa trẻ liền biết nói, hiểu âm mười sáu nước xứ Tây Vức, rất thông minh có khí độ. Đó tức là thân của Thượng thư Vương Uyên Minh thời nhà Tấn. Nên lúc nhỏ có tên là A Luyện, mọi việc trước lúc sinh đều có ứng nghiệm vậy).
Đức Tổ nhất tâm, mây giăng mê mờ Lỗ Kỵ (Tuyên Nghiệm ký nói: Có Mao Đức Tổ người xứ Vinh Dương, mới đầu đi lính ở Giang nam, lén trộm đường. Giữa đường gặp phải Lỗ Kỵ đuổi bắt, bèn núp ẩn trong cỏ lau bên cạnh đường. Vì cỏ thấp lau thưa nên nửa thân mình còn lộ bày, trong ý Đức Tổ hẳn phải chịu chết. Cả nhà im lặng xưng niệm Quán Thế Âm, bỗng chốc mây nổi mưa đổ. Đức Tổ bèn được thoát khỏi nạn).
Lý Nhu mặc niệm, đàn giặc ngựa kinh hãi
(Tuyên Nghiệm ký nói: Đội chủ Lý Nhu sau đến trấn Hổ Lao, bị Ngụy Lỗ vây bao, nguy cấp đến nơi, nửa đêm vượt thành ra thấy giặc, ngang dọc đều nằm. Lý Nhu mới nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm, tiện qua nơi giặc đến một đầm thiêu, giặc liền đuổi theo lại, Lý Nhu bèn vào núp trong cỏ, chưa kịp ẩn kín, mà đàn ngựa đã đến nơi cỏ. Lý Nhu kinh hãi, chợt nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm, bỗng nhiên giặc ngựa kinh sợ bỏ chạy, nhân đó mà Lý Nhu thoát khỏi).
Quách Tuyên hứa tiền gông cùm tự mở, Xử Mậu trái thề tên rơi bắn trúng. (Năm Nghĩa Huy thứ mười một (415) thời Đông Tấn, Quách Tuyên ở quận Thái Nguyên cùng Văn Xử Mậu ở quận Thục, trước kia cùng Lương châu thứ sử Dương Mục Kính làm bạn. Dương Mục Kính vì hại người nên bị bắt giam. Do đó, Quách Tuyên và Xử Mậu đồng bị gông cùm, xưng niệm Quán Thế Âm qua sau mười ngày, giữa đêm canh ba, mộng thấy một vị Bồ-tát đến an ủy dẫn dụ, bảo là mạng lớn không phải âu lo, cũng tự thấy gông cùm tự mở, tới sáng thì khóa trói lại. Như vậy qua vài lần, hai người vui mừng cùng nhau phát nguyện: "Nếu được khỏi tội thì mỗi người xuất mười ngàn tiền đưa đến chùa Tây Minh để tu tạo công đức". Cùng lập nguyện lớn xong, ít ngày sau cả hai người đều khỏi. Quách Tuyên y như lời nguyện đưa tiền đến chùa, còn Xử Mậu nuốt trái lời thề không đưa tiền đến, nên khi lo việc theo dấy nổi binh lính, đang ở trong quân lính tại Tra bồ, bị trúng tên rơi lạc, đang lúc chưa chết, Xử Mậu nói: "Ta có tội lớn!" Nói xong bèn chết).
Hà Hồ cảm Thánh, mẹ bệnh mới lành (Truyện Hà Thị nói: Hà Hồ tự là Trọng Bảo, ở thời nhà Lương làm Bắc chinh tư nghị, hiểu rộng học nhiều, mới đầu rất có tiếng tăm, sửa Tả Thị Xuân Thu, lược thông đại nghĩa, tánh hiếu thuần hậu, phụng sự thân thích rất cung cẩn. Người mẹ mắc bệnh, đi tìm cầu thầy thuốc mà chẳng cưỡi ngựa xe, bỗng cảm vị Thánh Tăng thể chất khác thường tay nắm lò hương đến cầu trai thực mà đến không sớm muộn, nên nghi đó là phi thường. Như vậy hơn mười ngày, người mẹ bệnh có phần thuyên giảm. Vị Tăng ấy bèn giả từ mà đi, lưu lại một quyển kinh Bát-nhã viết trên lụa trắng, nhân đó nắm tay Hà Hồ mà bảo: "Bần đạo là tướng Nhân Bất Thối trong hai mươi bảy Hiền thánh, cảm sự chí tâm của Đànviệt, nên đến thăm chữa bệnh. Nay người bệnh đã lành, bần đạo nên lui về". Nói xong, bèn thẳng hướng trước mà đi, bỗng nhiên không thấy mà khói lò hương phảng tỏa một tuần mới hết. Tinh thành được ứng cảm, nên từ triều đình đến thôn dã đều tán thán. Nhân đó, Hà Hồ xả thí vườn nhà riêng mà tạo dựng chùa Nguyệt Ái).
Trương Ứng xả tà, người vợ mắc bệnh bèn lành (Linh Quỷ Chí nói: Trương Ứng ở huyện Lịch Dương, trước kia là nhà Ma cưới con gái nhà Phật làm vợ. Năm Hàm Hòa thứ tám (323) thời Đông Tấn, chuyển dời đến ở Yến Hồ, người vợ mắc bệnh do vì ma sự, của cải trong nhà sắp hết cả, người vợ bảo: "Tôi vốn là con gái nhà Phật, xin nên vì tôi mà làm Phật sự". Trương Ứng đến trong Tinh xá, gặp Sa-môn Trúc Đàm Cảnh, Đàm Cảnh bảo:
"Phật cứu tế chúng sinh khắp cùng chẳng kể là ai, chỉ cần ông phải nhất tâm thọ trì thân giới". Đàm Cảnh kỳ hẹn ngày mai sẽ đến nhà. Chiều tối hôm đó, Trương Ứng mộng thấy có một người thân hình cao lớn trượng năm, sáu, thẳng hướng từ phía Tây bắc ngay nhà mà vào, bảo: "Nhà này vắng vẻ, vả lại bất tịnh". Đang trong mộng, thấy Sa-môn Đàm Cảnh theo sau người ấy thưa rằng: "Nhà này mới muốn phát ý, chưa thể mỗi một đều trách đó". Trương Ứng đưa tay nhụi mắt mà tỉnh giấc, bèn đốt lửa làm tòa cao và tòa quỷ Tử mẫu. Sáng ngày, đúng giờ thọ thực, Sa-môn Đàm Cảnh đến nhà Trương Ứng, mọi thứ thuộc tòa cao đều hoàn thành đầy đủ, nghe Trương Ứng kể lại điều mộng, bèn cả vợ chồng đồng thọ ngũ giới, bệnh cũng dần lành). Khương A Đắc tạo dựng chùa tháp nên được phóng thả trở về (U Minh Lục nói: Khương A Đắc chết, ba ngày sau sống lại kể rằng: "Lúc mới chết có hai người cặp nách, có ngựa trắng và quan lại cưỡi đi. Không biết đi được mấy dặm, thấy ở hướng Bắc có cửa đen tối, vào hướng Nam thấy hướng Đông có cửa đen tối, vào hướng Tây thấy hướng Nam có cửa đen tối, vào hướng Bắc thấy có nhà gạch rộng hơn mười gian, có người mặc y phục sắc đen, đội mũ lồng, bên cạnh có hai mươi quan lại, đều nói là Phủ Quân. Ở phía Tây nam lại có bốn mươi-năm mươi quan lại. Khương A Đắc bèn đến trước kính bái Phủ Quân. Phủ Quân hỏi: "Đã từng phụng sự điều gì?" Khương A Đắc đáp: "Ở nhà tạo lập Phật tượng chùa tháp, cúng dường đạo nhân". Phủ Quân bảo: "Ông phước đức lớn vậy!" Rồi hỏi Đô lục Sứ giả: "Người này mạng đã hết chưa?" Thấy mang đến một quyển sách, cúi xuống đất mà đặt để trên án, chữ trong sách rất nhỏ, và tâu là: "Số mạng còn ba mươi lăm năm". Phủ Quân tức giận bảo: "Kẻ tiểu lại cớ sao dám đoạt mạng người vậy?" Bèn trói vị quan lại cưỡi ngựa trắng ấy vào trụ, xử phạt đánh trăm trượng, máu đổ lai láng. Xong, hỏi Khương A Đắc: "Muốn trở về lại chăng?" Khương A Đắc đáp: "Muốn". Phủ Quân bảo: "Nay phải đưa ông trở về, và tiện đây sẽ đưa ông nên đi trông xem địa ngục". Bèn cấp cho một con ngựa và một người dẫn theo, theo hướng Đông bắc đi ra. Không biết đi được mấy dặm, thì thấy một thành vuông vài mươi dặm, có nhà cửa đầy khắp thành, nhân đó mà thấy vong Bá bá mẫu và Thúc thúc mẫu lúc chưa kính phụng Phật, đều mang gông cùm, áo xiêm rách nát, thân thể nồng tanh hôi hám. Lại theo phía trước thẳng đi, thấy có một thành, trong đó có người nằm trên giường sắt, lửa thiêu đốt giường cháy đỏ. Phàm thấy khoảng mười ngục, mỗi mỗi ngục đều có đủ các thứ khổ độc. Các ngục tên là Cát đỏ, Cát vàng, Cát trắng, như vậy có đến bảy thứ cát; có núi dao cây kiếm, có ôm cột đồng cháy đỏ. Khi ấy bèn trở về, lại thấy các nhà liền tiếp bảy mươi-tám mươi gian, cặp theo đường đi trồng cây hòe, gọi đó là Phước xá, nhưng chẳng có chư Phật ở trong đó. Người phước nhiều thì sinh lên trời, người phước ít thì sống trong nhà ấy. Xa thấy đại điện rộng hơn hai mươi gian, có một người nam, hai người nữ từ trên điện đi xuống, thì chính là vong Bá bá mẫu và vong Thúc thúc mẫu của Khương A Đắc sau khi đã kính phụng Phật. Chốc lát, thấy một đạo nhân đến hỏi Khương A Đắc: "Ông biết tôi chăng?" Khương A Đắc đáp: "Không biết". Đạo nhân ấy bảo: "Cớ sao ông không biết tôi? Tôi cùng ông làm Phật đồ chủ". Khi ấy Khương A Đắc bèn cười mà nhớ đó. Về đến nơi Phủ Quân, bèn sai hai người trước đưa trở về, chốc lát mà sống lại).
Thạch hiền giả cúng dường Phạm tăng mà được sống (U Minh Lục nói: Thạch Trường Hòa chết, bốn ngày sau sống lại nói: "Lúc mới chết, theo hướng Đông nam mà đi, thấy hai người dẫn đường, thường cách khoảng năm mươi bước, Thạch Trường Hòa có chạy nhanh cũng vậy. Hai bên đường gai gốc đâm chích đều như móng chim ưng, thấy mọi người lớn nhỏ từng đoàn chạy trong gai gốc như bị rượt đuổi, thân thể rách nát, giữa đất có máu đọng. Người trong gai gốc thấy Thạch Trường Hòa riêng đi trên đường bằng phẳng, mới than thở bảo là: "Đệ tử Phật riêng được đi trong đường lớn". Đi tới phía trước thấy có bảy mươi – tám mươi gian nhà liên tiếp nhau, bên trong có hơn mười gác, trên sườn nhà có cửa song, bên trong có người mặt lớn vuông ba thước, mặc áo bào sắc đen cặp vá bốn nách, chỉ bày tay áo trở lên. Thấy Thạch Trường Hòa, bèn liền hướng trông kính bái, và nói: "Thạch hiền giả đến đó ư? Một lần cách biệt đã hơn hai mươi năm!" Thạch Trường Hòa nói: "Phải vậy!" Trong ý bèn như có nhớ. Khi ấy, có vợ chồng Phùng Mạnh Thừa đã chết trước. Người trên gác hỏi: "Hiền giả biết Thừa chăng?" Thạch Trường Hòa đáp: "Biết". Người trên gác bảo: "Mạnh Thừa lúc sống không tinh tấn, nay luôn vì ta mà quét đất, còn vợ Mạnh Thừa tinh tấn yến nhiên, nên cũng làm việc với quan gia". Và đưa tay chỉ vào một phòng ở phía Tây nam tiếp bảo: "Vợ của Mạnh Thừa hiện nay ở trong đó". Vợ Mạnh Thừa liền mở cửa đi ra, thấy Thạch Trường Hòa, bèn hỏi: "Thạch hiền giả đến đây lúc nào?" Và hỏi khắp mọi người lớn nhỏ con cái trong nhà có được bình an chăng? Lúc nào trở về ngang qua đây, xin gởi một lá thư. Chốc lát liền thấy Mạnh Thừa từ đầu phía Tây gác đi lại, một tay nắm chổi ky hốt quét phẩn bụi, một tay nắm đai, cũng hỏi tin tức ở nhà. Trên gác có một người hỏi: "Nghe cá rồng siêu tinh tấn, có tin vậy chăng? Ông tu hành như thế nào?" Thạch Trường Hòa đáp: "Không ăn cá thịt, rượu chẳng dính qua môi, thường đọc tụng Tôn kinh, cứu các bệnh khổ". Người trên gác bảo: "Lời lưu truyền không hư dối". Người trên gác lại hỏi Độ Lục chủ rằng: "Thạch hiền giả mạng đã hết chăng? Sao uổng đoạt mạng ấy vậy?" Đô lục chủ nói: "Còn hơn bốn mươi năm". Người trên gác bảo: "Riêng đưa một xe chở đôi tích, xa kỵ hai kẻ lại tiễn đưa Thạch hiền giả". Phút chốc, từ phía Đông bèn có xa kỵ và người theo như số đã sai bảo. Thạch Trường Hòa bèn bái từ, lên xe mà trở về. Trên đường đi phía trước, bên cạnh có trạm dừng nghỉ. Kẻ lại và dân ăn uống đầy đủ, chốc lát về đến nhà. Trước tiên thấy cha mẹ ngồi bên cạnh thây của mình, thấy thây trướng lớn như trâu, nghe mùi hôi thối, nên không muốn vào trong mà đi nhiễu quanh thây xác ba vòng. Thạch Trường Hòa than thở, đến đứng trước đầu thây xác, vong hồn người chị ở phía sau xô đẩy đó, bèn rơi vào trên mặt thây xác, nhân đó, liền sống lại vậy).
Quỷ cũ lắm hiểu biết, hay hiện quái lạ mà được hưởng ăn ngon lành. Quỷ mới không biết, vào nhà Phật mà vận chuyển cối xa (Biến Lược nói: Có quỷ mới không được ăn uống thân hình gầy ốm. Bỗng gặp một quỷ cũ chết đã nhiều năm thân thể béo tốt khỏe mạnh, bèn cùng hỏi thăm nhau, xin chỉ cách thức sống. Quỷ cũ đáp: "Hãy vì người mà làm điều quái lạ, người hẳn kinh sợ, nhân đó hiến dâng các thứ ăn uống mới được béo tốt mạnh khỏe". Quỷ mới bèn vào nhà phụng thờ Phật, nhà đó tinh tấn thường tu thiện nghiệp, thấy ở phòng phía Tây có cối xay. Quỷ mới đến đó xay đẩy, chủ nhà vui mừng bảo cùng con em rằng: "Nhà tôi nghèo khổ, Thiên thần đến giúp giả xay, hãy gấp khiêng chuyển thóc lúa cho đó". Đến chiều xay được vài mươi hộc thóc. Thế rồi, quỷ không được ăn uống gì, mà nhọc mệt bèn bỏ đi, lại đến trên cối của một nhà khác mà giả. Nhà đó chánh tín, cũng cùng vui mừng bảo: "Hôm qua xay ở nhà kia, nay đến nhà ta giả". Càng thêm lúa thóc, sai bảo kẻ tớ sàn dần đưa đến, đến chiều được năm mươi hộc gạo. Như vậy, quỷ mới nhọc mệt quá lắm lại không được ăn uống, trong tâm tức giận chẳng nhẫn chịu nỗi. Đêm đến, gặp quỷ cũ mới trút đổ hết oán trách. Quỷ cũ bảo: "Ông tự chẳng nghĩ tính vậy, hai nhà đó kính phụng Phật, tâm họ chánh tín khó lay động, dụng tâm nhất chí cũng có thể cảm triệt, bọn ta mình không, đáng phải làm kẻ bị sai sử đó. Nay đi có thể tìm nhà ở phía trước có cành trúc, treo đoạn lụa ngắn rủ xuống cửa. Đến đó mà làm quái lạ". Quỷ mới bèn nghe theo đến một nhà trước cửa có cành trúc, thấy một đàn con gái ngồi trước song cửa cùng ăn, trong sân có một con chó lông trắng. Quỷ mới bèn khiến con chó đi hỏng trên không, mọi người trong nhà đó kinh sợ, nói rằng: "Từ lúc sinh đến nay, chưa thấy quái lạ như vậy". Đi xem bói, bảo rằng: "Khách quỷ đến đòi ăn, có thể giết chó làm bánh quả đặt để trong sân mà cúng tế đó, thì sẽ được không việc gì xảy ra". Người nhà ấy y theo lời thầy bói mà làm, quỷ mới bèn được ăn, về sau thường luôn no đủ).
Triệu Thái tinh tư (thiền định), chỉ thiện thì cầu (U Minh Lục nói: Triệu Thái tự là Văn Hòa, người xứ Bối châu-Thanh hà, chốn công phủ mời chẳng đến, tinh cần suy xét điển tịch, làng nước đều ngợi khen. Năm Thái Thủy thứ năm (269) thời Tây Tấn, khi ấy mới ba mươi lăm tuổi, nửa đêm mồng ba tháng bảy, Triệu Thái đau tim mà chết. Trên ngực còn ấm nóng, thân thể co duỗi mềm mại, nên để thây xác lại chưa tẩm liệm. Đến mười ngày, hơi khí ở cổ họng phát ra như sấm, mở mắt, đòi ăn uống, bèn ngồi dậy nói: "Lúc mới chết, có hai người cưỡi ngựa vàng và hai lính đi theo, chỉ nói là "bắt đưa đi". Hai lính cặp hai nách, theo hướng Đông đi không biết mấy dặm, chỉ thấy một thành lớn như sắt thiết ngay thẳng cao vợi. Từ cửa thành phía Tây đi vào nhà quan phủ, có hai lớp cửa đen, phòng nhà liền tiếp nhau vài mươi rường, có khoảng năm mươi đến sáu mươi người vừa nam vừa nữ cùng đứng: Kẻ lại mặc áo đơn sắc đen dẫn năm-sáu người chú sớ, tên họ các người nam nữ riêng khác, bảo chẳng động, phải vào khoa trình Phủ Quân.
Tên của Triệu Thái ở thứ ba mươi. Chỉ phút chốc dẫn vào, Phủ Quân ở hướng Tây xoay ngồi, khoa nêu trình án danh. Lại dẫn theo hướng Nam vào cửa đen, có một người mặc áo sắc ráng xanh ngồi dưới phòng lớn, theo thứ lớp mà gọi tên. Trước hỏi: "Lúc sống làm việc gì, có tội quá gì, làm công đức gì, tạo được việc lành gì?" Người nói mỗi mỗi chẳng đồng. Chủ giả bảo: "Hứa cho các người từ sai khiến sáu bộ Đô Lục Sứ giả, thường ở tại nhân gian ghi sợ mọi việc làm thiện ác của người để cùng kiểm hiệu, người chết có ba đường ác: Giết hại, khấn đảo cúng tế là rất nặng, kính phụng Phật pháp, thọ trì ngũ giới, thực hành Thập thiện, từ tâm bố thí, sau khi chết sẽ vào Phước xá an ổn" v. v… Triệu Thái đáp: "Không làm một việc thiện gì, cũng chẳng phạm tội ác". Khoa hỏi Đô Cánh Sứ làm Thủy quan, giám làm lại dẫn hơn ngàn người vốc cát đắp trên bờ, ngày đêm cần khổ, gào khóc hối hận nói: "Lúc sống không làm việc thiện, nay bị đọa đến xứ này, sẽ trở về đòi thay thế. Sau chuyển làm Thủy quan đô đốc, trông coi việc ở các ngục, cấp cho ngựa và binh lính". Theo hướng Đông đến địa ngục án hành, lại ngược đến địa ngục Nê-lê, có năm ngàn-sáu ngàn kẻ nam người nữ, có cây lớn giăng tỏa rộng hơn năm mươi bộ cao ngàn trượng, bốn phía đều có dao kiếm dựng ngược lên. Người mang lên cây đốt lửa, phía dưới mười mười năm năm rơi lửa, kiếm trên đâm xuyên thân thể họ, nói: Những người ấy là chú trớ mắng chửi, chiếm đoạt tài vật của người". Điệu thương lương thiện, thấy cha mẹ và hai em của Triệu Thái ở trong đó gào khóc. Thấy có hai người mang văn thư lại và bảo cùng Ngục lạc: "Có ba người ở nhà phụng thờ Phật, vì họ đến trong chùa treo phan đốt hương chú nguyện cầu giải tội quá của lúc sống". Ra đến nơi Phước xá đã thấy tự nhiên y phục. Lại thẳng đến một cửa đề tên là Khai Quang Đại Xá, có ba lớp cửa đen đều vách tường sắc trắng trụ đó. Ba người ấy liền vào cửa, thấy đại điện trân báu sáng lóa mắt. Trong nhà có hai sư tử đều nằm, trên lưng mang đội một sàng tòa bằng vàng ngọc, gọi tên là tòa sư tử. Thấy có một người thân cao trượng sáu, dáng hình sắc màu vàng ròng, cổ có vàng ánh sáng sắc trắng, ngồi trên tòa đó, bốn phía có các Sa-môn đứng hầu rất đông, đều là chân nhân Bồtát. Thấy Thái sơn phủ quân đến, Triệu Thái hỏi kẻ lại: "Đó là người nào?" Kẻ lại đáp: "Vị đó là Phật, bậc thầy cứu độ người trời". Bèn nghe Phật nói nay muốn dùng từ tâm cứu độ người trong đường xấu ác đây và trong các địa ngục đều khiến ra nghe.
Lúc nói như vậy, có một triệu chín ngàn(1.009.000) người đồng một lúc được ra khỏi, địa ngục liền trống không, chuyển dời đến trăm dặm trong thành, ở trong đó đều là những đệ tử kính phụng Phật pháp, phải qua Phước xá bảy ngày theo đi, các công đức tạo tác. Có người làm ít có người không có, lại thấy có gọi mười người khác sẽ sinh lên trời, có xe ngựa theo hầu nghinh đưa lên hư không mà đi. Khi ra lại thấy một thành ngang rộng hơn hai trăm dặm, tên là Thành kẻ lại thọ biến hình, nói là lúc sống chưa nghe Đạo pháp mà địa ngục xét trị đã xong, phải đến ở thành ấy lại thọ chịu biến hình. Vào cửa đó đang thấy vài ngàn vạn nhà đất có phường hẻm, chính giữa có nhà ngói lớn rộng hơn năm ngàn bộ, dưới phòng nhà có hơn năm trăm kẻ lại đối đáp thâu nhận tên người. Hình trạng người tạo ác làm thiện tùy theo đường biến đổi thân hình, mỗi mỗi tùy theo chỗ đến mà đi. Với kẻ sát sinh v.v... sẽ phải làm thân trùng phù du sớm sinh tối chết; nếu ra làm người thường phải bị đoản mạng. Kẻ trộm cướp thì làm thân heo dê, bị giết mổ thịt để đền trả. Kẻ dâm dật thì làm thân bồ câu, vịt trời. Kẻ nói lời đôi chiều thì làm thân chim cú, tiếng kêu hung ác, người nghe đều nguyền rủa muốn khiến chết. Kẻ hay chỉ trách thì làm thân loa lừa ngựa trâu cá rùa. Phía dưới nhà lớn có phòng nhà, đất ở phía Bắc có một phía Nam có hai, gọi từ cửa phòng phía Bắc đi vào mà ra cửa phòng phía Nam, đều biến thân hình làm chim thú. Lại thấy có một thành ngang rộng trăm dặm, trong đó, phòng nhà bằng ngói gạch, ăn ở khoái lạc, nói là người lúc sống không làm những việc xấu ác, không thấy Thiên đạo, cũng không nhận chịu tội, gọi đó là thành quỷ, sau ngàn năm được ra làm người. Lại thấy có một thành rộng hơn năm ngàn bộ, gọi là địa ngục, bên trong trích phạt, thống khổ chẳng thể kham, trở về đời một đời nhà vì giải mở trích phạt, đều tại trong thành ấy. Có năm sáu mươi vạn kẻ nam người nữ đều thân hình lõa lồ không y phục, đói khổ cùng ép bức, thấy Triệu Thái, bèn cúi đầu gào khóc. Triệu Thái hỏi kẻ lại: "Thiên đạo và địa ngục đạo cách nhau bao nhiêu dặm?" Kẻ lại đáp: "Cửa Thiên đạo và địa ngục đạo cùng đối án hành giáp vòng". Trở về lại, Chủ giả hỏi: "Địa ngục có đúng như pháp không? Ông không tội nên cùng Sứ giả làm Thủy quan đô đốc, còn không như thế thì cùng người trong địa ngục chẳng khác". Triệu Thái hỏi: "Người chết thế nào là vui?" Chủ giả bảo: "Chỉ có đệ tử Phật tinh tấn, không phạm giới cấm là vui". Triệu Thái lại hỏi: "Lúc chưa kính phụng Phật, tạo tội như núi chất cao, nay kính phụng pháp, tội quá ấy có trừ được chăng?" Chủ giả đáp: "Đều trừ được cả". Và gọi Đô Lục Sứ giả đến hỏi: "Triệu Văn Hòa cớ sao mà chết đến đây?" Sứ giả mở tráp xem tuổi tác ghi ở bộ tịch còn dư cả ba mươi năm, vô tình bị quỷ hung ác bắt lấy, nay sai bảo đưa trở về nhà". Từ đó mọi người lớn nhỏ, đều phát ý kính phụng Phật, vì ông bà cha mẹ và hai con mà treo phan lọng thiết lập phước hội).
Vương Thản hoài nghi, ước hẹn chết làm chứng nghiệm (Tục Sưu ký nói: Sa-môn Trúc Pháp Độ trước cùng Bắc trung lang tướng Vương Thâu kết bạn lành, thường cùng bàn luận về sống chết tội phước báo ứng, mịt mờ khó rõ, chưa xác định là có hay không, bèn cùng yếu ước, nếu ai qua đời sớm như thần thức có biết và quyết định được việc tội phước có không thì nên báo cho nhau biết. Về sau, Vương Thản đang ở tại Đô, bỗng nhiên thấy Samôn Pháp Độ đến, bèn kinh hãi, hỏi: "Thượng nhân từ đâu đến đây?" Sa-môn Pháp Độ đáp:
"Ngày....... tháng... ấy, bần đạo đã tận mạng, tội phước đều không luống dối, mọi sự như bóng theo hình, tợ vang theo tiếng, Đàn-việt chỉ nên tinh tấn tu hành đạo đức để lên cứu tế Thần minh. Trước kia có cùng ông ước hẹn nên lại cùng báo". Nói xong, bỗng nhiên không thấy nữa).
Tháp năm tầng chưa dựng tạo, mà đến chịu tội hình, dạo gãy mất (ở Vinh Dương, có Cao Cú tuổi đã năm mươi, vì giết người nên bị bắt giam khóa cổ trong ngục tối, trong ý cho là hẳn sẽ bị chết. Có người đồng bị giam cầm bảo: "Nên nỗ lực cùng tụng niệm Quán Thế Âm". Cao Cú nói: "Tôi tội rất nặng nên cam tâm chịu chết, chẳng do đâu mà có thể được khỏi". Người ấy lại tiếp khuyên, nhân đó Cao Cú mới phát tâm, thề nguyện sẽ bỏ ác làm thiện, và chuyên niệm Quán Thế Âm. Chẳng kể vội vàng, nếu được thoát khỏi thì nguyện xây dựng ngôi tháp năm tầng, đồ họa tôn tượng Phật, xả thân làm kẻ tôi tớ cúng dường chúng tăng. Trải qua tháng trời dụng tâm, gông cùm tự mở ra. Giám ty kinh hãi bảo cùng Cao Cú: "Sức thần của Phật xót thương ông, thì chém sẽ không chết". Đến ngày đưa ra hành quyết, nhấc dao chưa hạ xuống mà dao gãy mất. Kẻ hành hình tấu trình, nhân đó mà Cao Cú được khỏi. Rút từ Tuyên Nghiệm ký và Tục Sưu Thần ký).
Một con ngỗng sắp bị giết, vì cảm mộng mà được toàn mạng (ở thời nhà Tống, Ngô Hưng thái thú lang da Vương Tập Chi là người có học vấn uyên thâm, mến trọng Lão Trang mà chẳng tin Phật, chỉ chuyên việc chủ giết hại làm chí ý trước tiên. Mới đầu, ông ta làm Tây tỉnh lang trung ở thời nhà Tần, rất mến chuộng khách, tại nội tỉnh có nuôi một cặp ngỗng, ông rất mến vui đùa cũng nó, lấy làm thích ý vừa lòng. Ban đêm, ông mộng thấy miệng nó ngậm lại quyển sách khoảng mười trang giấy, lấy xem đều thấy nói về các việc tội phước. Sáng sớm quả nhiên thấy đó là kinh Phật, nhân đó ông bèn bỏ việc giết hại, dốc lòng kính tin hơn mọi người, về sau lại được giàu sang phú quý).
Quách Thuyên hiện thân khiến thiết lập pháp tập (Ích châu thứ sử Quách Thuyên chết cả hơn hai mươi năm. Đến năm Nguyên Gia thứ tám (?), cưỡi kiệu dẫn theo như lúc sống, hiện hình đến nhà của nữ tu Lưu Ngưng, bảo: "Tớ khiển trích việc chưa xong, nên nỗ lực thiết hội trai diên cúng dường bốn mươi chín vị Tăng, mới có thể được khỏi". Nói xong bỗng nhiên không thấy nữa. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Thâu Văn bị đắm chìm mà không sợ sóng gió (Thâu Văn chở muối ở Nam hải, gặp phải gió dữ, chí tâm mặc niệm Quán Âm, gió bèn ngưng, sóng yên lắng, do đó bèn được an ổn. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Văn Hòa sống lại, dốc tâm kính phụng Phật (Trình Đạo Huệ là Văn Hòa, người xứ Võ Xương, xưa trước không tin Phật pháp, ở đời chỉ kính phụng đại pháp. Thấy các Sa-môn đến khất thực thì ông liền cật nạn đó, luận rằng: "Nếu cùng lý tận tánh, thì không gì hơn Trang Lão". Về sau, nhân bệnh nặng chết giấc, thấy vua Diêm-la, mới biết Phật pháp đáng tôn sùng, bèn mời kính phụng Phật. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Trương Đạt bị giam cầm được phóng thả, mới chí tâm tu trì trai giới (Trương Đạt có tội, bị bắt giam ở ngục, đáng phần phải chết, mới chuyên niệm Quán Âm, gông cùm tự mở, nhân đó bèn được thoát khỏi, mới trọn đời tu trì trai giới. Rút từ Biệt truyện của Trương Thị).
Ngô Hưng bị thiêu đốt hết, nhà kinh vẫn như cũ (trong khoảng niên hiệu Nguyên Gia (?), trong Quách Ngô Hưng, từng bị nạn lửa thiêu đốt hết, chỉ có ngôi nhà tranh cỏ tôn thờ kinh vẫn nghiễm nhiên như cũ, người đương thời cho là Thần vậy. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Bồ thành bị nạn lửa, Tinh xá không bị cháy (năm Nguyên Gia thứ tám (?), ở thành Bồ Phả tại Hà đông gặp phải nạn lửa không thể cứu, chỉ có các ngôi Tinh xá lớn nhỏ vẫn nghiễm nhiên, kinh tượng ở các nhà cư sĩ tại gia đều không bị tổn hoại rơi đổ, trăm họ đều kinh dị gấp bội, cùng nhau phát tâm. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Ở miếu thờ trời tại Kiến Khương có con ngỗng chết mà trở lại kêu (nơi đường hẻm ở quận Kiến Khương có miếu thờ Tứ thiên vương, mỗi tháng đến ngày sóc vọng (mồng 01 ngày 15) thường giết hại muôn sinh sắc trắng để cúng tế, mọi người gọi đó là tập tục người Hồ. Về sau, giết ba con ngỗng trắng, làm xong, bỗng nhiên ngỗng kinh hãi vùng vẫy kêu thương chạy vào dưới tòa thờ thần miếu báo mộng, Thần bảo: "Ta là đệ tử lớn của Phật, vốn không giết hại, nghiêm trì giới thanh tịnh, cớ sao giết ngỗng mà cúng tế? Vừa rồi giết ngỗng chết kinh sợ chạy, là muốn khai ngộ tâm ngươi". Về sau bèn cải bỏ giết hại, cũng chẳng tà dâm.
Rút từ Kiến Khương Biệt ký).
Trong chợ Ngô quận, tù nhân bị hành hình mà khỏi chết (có Thẩm Anh người ở Ngô quận bị trói buộc xử chết, ngày đưa đến trong chợ để hành hình, Thẩm Anh tụng niệm danh hiệu Quán Thế Âm, tâm miệng chẳng ngưng dứt, dao bén tự gãy, nhân đó mà được phóng thả. Một thuyết khác nói là: Lục Huy người ở Ngô quận bị trói giam ngục phân xử chết, mới bảo người nhà tạo tôn tượng Quán Thế Âm, mong được khỏi chết. Đến lúc hành hình, chém ba dao mà dao đều gãy, quan hỏi đó, mới nói: "Sợ là do sức Từ của Quán Thế Âm". Đến lúc trông xem trên cổ tôn tượng mới có hiện ba vết dao, nhân đó tấu trình mà được khỏi. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Thần miếu phụng cúng lụa quyên, liền được lìa khỏi thân trăn (Ngoại binh thượng thư Lưu... ở thời nhà Lương soạn thuật bộ Tháp Tự ký nói: Samôn An Thế Cao là Thái tử nước An Tức, ngầm trì vào kinh là do đó lưu xuất vậy. An Thế Cao đến hồ Cung đình tại Dự chương, Thần miếu mách bảo rằng: "Xưa trước tại ngoại quốc, tôi xuất gia làm Đạo nhân, ưa thích thực hành bố thí nhưng không nghiêm trì giới luật. Ngày nay ở đây làm thần trong hồ Cung đình, trong khoảng chu vi ngàn dặm đều là của tôi cai quản, trăm họ hiến dâng các thứ trân quý nhiều vô số, đó là phước báo của tôi do đời trước tạo nên. Nếu hay trì giới thì phước ấy có thể sinh lên cõi trời, nhưng vì hủy phạm nên phải sa đọa làm Thần. Sư là bạn đồng học, ngày nay được gặp gỡ, mừng buồn lẫn lộn có thể nói, thọ mạng tôi sắp hết trong sớm chiều, mà hình hài hôi hám dài lớn. Tôi không muốn xả bỏ thân mạng ở đây khiến dơ bẩn nước hồ, nên phải vượt qua trong đầm trống ở phía Tây núi này. Sau khi thân này hoại diệt, tôi sợ sẽ bị sa đọa vào địa ngục. Tôi có ngàn xấp lụa quyên, những thứ tạp vật hiện trong các hòm đá, sư có thể vì tôi mà dựng tạo chùa tháp, xây dựng Tam bảo, khiến tôi sau khi bỏ mạng được sinh về nơi tốt lành. Đó là điều tôi rất tha thiết muốn gởi gắm nơi sư!" Nghe vậy, An Thế Cao thương cảm, lệ rơi lai láng, bảo với Thần rằng: "Sao chẳng hiện rõ thân hình mặt mũi để cùng trò chuyện?" Thần đáp: "Bởi tội hủy phạm giới nên thân hình rất xấu xí, sợ thấy ắt sẽ kinh sợ". An Thế Cao bảo: "Chỉ cần tạm hiện rõ thân hình, tôi không khiếp sợ". Thần bèn từ sau sàn dần xuất hiện đầu ra là một con trăn lớn bò đến nơi đầu gối An Thế Cao, lệ đổ tợ mưa tuôn, không biết chiếc đuôi dài ngắn bao nhiêu, chốc lát trở vào lại sau sàn. Khi ấy, An Thế Cao gom lấy lụa quyên và các vật đưa vào trong thuyền rồi giả biệt mà lui, cùng các khách lữ đồng lúc căng buồm lên đường. Thần lại hiện rõ thân hình trăn rắn bò leo lên đảnh núi, xa trông theo lướt đi, mọi người vẫy tay, sau đó mới ẩn mất. Chỉ khoảnh khắc thì đến Dự chương, bèn ở tại xứ đó tạo dựng chùa Đông Lâm. Thần chuyển dời sang phía Tây núi mà xả bỏ thọ mạng, đầu đuôi dài lớn cùng cách nhau hơn bốn mươi dặm. Hiện nay tại quận Tầm Dương có thôn Rắn (Xà thôn), tức là đó vậy. An Thế Cao trở về lại kinh đô, đem các vật còn lại trong miếu đến chùa Ngõa Quan xây dựng ngôi tháp cao ba tầng. Về sau, An Thế Cao mộng thấy Thần đến mách bảo là nhờ Sư vì tạo phước nên đã được lìa khỏi thân hình trăn rắn. Trích ở Tuyên Nghiệm ký).
Xa mẫu đốt đèn, không kỳ hạn mà con trở về. (Xa mẫu gặp phải nạn của Lô Lăng Vương Thanh Nê ở thời nhà Tống, bị Phật Phật hung nghịch bắt giam ở trong doanh trại giặc. Người mẹ từ trước vốn kính phụng Phật, nên đốt bảy ngọn đèn trước tôn tượng Phật, suốt đêm ngày tâm thành tinh tấn khóc cầu Bồ-tát Quán Thế Âm, mong cho con được thoái khỏi. Cứ như thế trải suốt cả năm trời, người bỗng nhiên được tha trở về. Bảy ngày bảy đêm riêng một mình từ phương Nam mà chạy, gặp phải trời râm tối nên không nhận biết được hướng Đông tây. Xa thấy có bảy đoạn ánh sáng lửa nên cứ trông theo lửa mà chạy, tợ như gần đến thôn xóm nên muốn vào nhưng trọn không được. Cứ như vậy, qua bảy đêm, bất chợt về đến nhà, thấy người mẹ riêng một mình đang phủ phục trước tôn tượng Phật, lại thấy có bảy ngọn đèn, nhân đó mới tỏ ngộ. Mẹ con cùng nhau trò chuyện, biết đó là do sức thần của Phật. Từ đó về sau chuyên khẩn thiết thực hành bố thí, tu hạnh nhẫn nhục. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Lại bộ Khổng Quỳnh do phóng sinh mà được thoát khổ (Lại bộ thượng thư Khổng Quỳnh là Ngạn Bảo, vốn không tin Phật, nhân ngày mồng tám tháng tư, cùng Phạm Thái đến chùa Ngõa
Quan phóng sinh sám hối. Sau khi chết khoảng vài tuần, gá mộng báo cùng anh em và con cái là: "Tôi vốn không tin Phật, nhân cùng Phạm Thái phóng sinh, nhờ sức tạo việc lành nay được thoát khổ. Tội phước báo ứng quyết định không sai. Các người cần nên chuyên tâm làm phước trợ giúp cho tôi mà tu thiện thì có thể thoát khổ vậy!" Rút từ Quỳnh Biệt truyện).
Đạo sĩ Sử Tuấn nhân rưới tắm tôn tượng mà trở lại đi được (Sử Tuấn là người có học thức kính phụng Đạo mà khinh thường Phật, từng bảo với mọi người rằng: "Phật là Thần nhỏ, không đáng để phải tôn thờ". Mỗi lúc thấy tôn tượng thì thường khinh lờn gièm chê. Về sau, nhân mắc bệnh cẳng chân bại liệt, mong cầu các thứ phước báo nhưng đều không hiệu nghiệm. Có người bạn thân là Triệu Văn bảo rằng: "Theo trong kinh đạo nói về phước báo thì rưới tắm tôn tượng là phước báo lớn nhất. Có thể thử tạo tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm". Sử Tuấn vì bệnh nên gấp vội theo như lời nói mà rưới tắm tôn tượng. Khi tôn tượng hoàn thành, Sử Tuấn mộng thấy Bồ-tát Quán Thế Âm, bèn được lành mạnh. Rút từ Tuyên Nghiệm ký và Minh Tường ký v.v...).
Tôn tượng do vợ của Trần Phạm tu tạo có ánh sáng tỏa chiếu khắp tòa (vợ của Trần Huyền Phạm vốn dòng họ Trương, là người tinh tâm kính phụng Phật, thường ước nguyện tự tu tạo một tôn tượng
Phật bằng vàng ròng để cúng dường. Có mong cầu thảy đều thành tựu, chuyên tâm lâu ngày, bỗng từ tôn tượng Quán Thế Âm bằng vàng ròng tỏa phóng ánh sáng dài rộng năm thước trên tòa cao vút. Rút từ Minh Tường ký và Tuyên Nghiệm ký v.v...).
Mẹ của Trương Đạo nhả lửa tỏa sáng mâm bàn (mẹ của Trương Đạo vốn dòng họ Vương, là người chí thành tin kính, nhân ngày mồng tám tháng tư đang lúc thọ trai cảm được xá-lợi tỏa phóng ánh sáng tuôn ra từ miệng, soi chiếu nơi mâm bàn thức ăn. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Bộc xạ Trịnh Tiên cảm được sâu mầu nên kéo dài tuổi thọ (Trịnh Tiên tự là Đạo Tử, là người khéo giỏi tướng võ, tự biết tuổi thọ của mình ngắn ngủi, nghĩ suy không biết làm sao để kéo dài. Nhân mộng thấy một vị Sa-môn hỏi han, bảo muốn kéo dài mạng sống thì nên trong sáu ngày trai phóng sinh tu thiện, nghiêm trì trai giới thì có thể kéo dài mạng sống và được phước. Trịnh Tiên nhân đó kính phụng giáo pháp bèn được sống thọ lâu năm. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Thượng thư Lưu Thức chí tâm nghĩ nhớ tôn tượng trở về (Lưu Thức Chi người ở Bành Thành thường cúng dường một tôn tượng, tự nhiên vô cớ bị mất chẳng biết ở đâu, giữa đêm khuya Lưu Thức Chi nghĩ suy hổ thẹn tự trách, chí tâm nghĩ nhớ ngầm thông, trải qua trăm ngày sau, tôn tượng ấy bỗng nhiên thấy trở lại nơi chỗ cũ, ánh sáng Thần tỏa chiếu khắp phòng, mọi người trong nhà đều kinh sợ mừng vui, càng gấp bội dốc tâm chí thành. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Lưu Di Dân tinh cần tư duy, giữa chặng mày tỏa phóng ánh sáng. (Lưu Di Dân người xứ Bành thành, thuở thiếu thời là một Nho sinh, chịu tang người thân giữ đạo hiếu, mọi người đều biết tiếng tăm. Vì nhà nghèo khổ nên đến làm chòi ở trong chùa Tây Lâm tại Lô sơn. Thân hình lắm bệnh tật nên không nghĩ tưởng đến vợ con, tuyệt dứt lui tới, tinh chuyên tư duy thiền pháp. Trong khoảng nửa năm, thấy tướng giữa chặng mày dần dần thấy hiện một mắt Phật và hai sắc màu ở khoảng chân tóc, lại thấy toàn thân, mọi người cho đó là họa vẽ. Lại thấy một đạo nhân phụng cúng minh châu, nhân đó bệnh bèn lành khỏi. Rút từ Tuyên Nghiệm ký).
Ngô Vương bao vây chùa bắt bớ chư Tăng, xálợi nổi tỏa ánh sáng ở trên Bát (ở thời Tôn Hạo
(Quy Mệnh Hầu 264-280 thời Đông Ngô) có Vương Chánh biện sự nói: "Với Phật pháp, cần nên hủy diệt, tại Trung Quốc không lợi ích gì ở Hồ thần". Tôn Hạo bèn ban sắc chiếu nhóm tập các vị Sa-môn, dàn bày binh lính bao vây chùa, muốn thực hành việc giết hại, bảo cùng Pháp sư Khương Tăng Hội rằng: "Nếu Phật có sức Thần thì nên sùng kính, còn như không linh nghiệm thì các Sa-môn cùng một ngày chung mạng, chư Tăng hoặc đều phải chết, hoặc nên trốn lánh ra nước ngoài". Pháp sư Khương Tăng Hội mới xin thiết trai kỳ hẹn bảy ngày sẽ hiện sức thần biến. Bèn đem một bát đồng đựng đầy nước đặt ngay giữa sân, sau khi thọ trai buổi trưa xong mà bầu trời tỏa sáng, bỗng nhiên nghe trong chiếc bát ở giữa sân có tiếng động, chợt thấy xá-lợi nổi trên bát tỏa phóng ánh sáng khắp cả phòng nhà. Tôn Hạo và mọi người đến trước trông xem đều kinh sợ đổi sắc mặt, khó giữ nỗi sự bình tỉnh mà tiến tới. Pháp sư Khương Tăng Hội nói: "Bệ hạ sai người có sức mạnh của Mạnh Bí dùng chày nặng trăm cân bằng chất Kim cang đánh phá trọn không hủy hoại". Tôn Hạo bèn y như lời nói: "Xin trước nên phúng tụng kinh bối, đốt hương rải hoa lễ bái, xướng tụng lớn tiếng thành khẩn vận cách đức Từ Thị đượm nhuần chưa dứt thì bánh xe chánh pháp dần xoay chuyển thấu suốt muôn loại, oai thần không ít nên hiện ở ngày nay, còn không như vậy thì Tam bảo sẽ trọn tuyệt dứt". Nói xong, người tráng sĩ khua chày phát sinh gió, mọi người trông xem kinh sợ mà nín thở, chày vỡ bể mà xálợi không tổn hoại, ánh sáng tỏa phát soi chiếu khắp phòng nhà. Tôn Hạo cúi đầu chí thành cầu khẩn tu tạo trai hội giảng pháp. Tháp ấy hiện ở phía Bắc chợ lớn tại Kiến Khương. Về sau còn tỏa chiếu ánh sáng tốt lành. Đến mùa thu năm Nguyên Gia thứ mười chín (241-thời Tiền Tống), giữa đêm từ chùa tỏa phóng ánh sáng màu hồng xinh đẹp, có ánh lửa hợp trên bốn tầng từ phía Tây nhiễu quanh đến phía Nam. Lại thấy có một vật tợ quạt đuôi Trĩ cùng theo sự tiến dừng đó. Không rõ tên nói là gì, các người trông xem hoặc có người gặp hoặc có người không gặp, suốt thời gian hai mươi ngày khắp trong thành đô phố chợ đều xá-lợi có ánh sáng sắc tía lớn. Rút từ Ngô Lục và Tuyên Nghiệm ký).
Đinh Linh hung nghịch bắn mặt nguyệt mà lại bị chết (trong Tuyên Nghiệm ký nói: Ở Ly thành tại Tương châu có một tôn tượng đứng bằng vàng ròng cao trượng sáu. Gặp lúc Đinh Linh Thiền Vu đến; là một người tánh nết hung bạo, không tâm tin kính mới dùng cung tên bắn vào tôn tượng, mũi tên trúng vào mặt tượng, máu huyết tuôn đổ. Tuy gia công tu sửa lại nhưng vết sẹo huyết đổ vẫn hiện còn. Lại tuyển chọn năm trăm lực sĩ lôi kéo khiến tượng đổ ngã nơi đất, phá dẹp tôn tượng để nấu đồng, phỏng định sung làm binh khí. Từ miệng tôn tượng ấy mới phát ra tiếng lớn âm vang như sấm động. Các lực sĩ kinh hồn tan đảm, mọi người đều té ngã nơi đất, mê muội xoay chuyển, kinh sợ chẳng thể dậy nỗi. Từ đó, tâm bọn giặc dần hồi tỉnh lắng, lo sợ kính tin quy hướng đông nhiều. Về sau, Đinh Linh cảm mắc bệnh, bị giết mà chết).
Hách Liên hung nghịch đùa vui che đậy tôn tượng nơi áo mà bị sấm sét đánh chết (Trong Tuyên Nghiệm ký: Phật Phật hung nghịch phá hoại khắp trong Ký châu, các hàng đạo tục đều bị giết hại, hung ngược bạo loạn giết chết không dám chán. Cho đến cả trong Quan châu, người chết hơn một nửa, hình cốt phụ nữ trẻ con chất chồng thành núi, phóng túng tâm giết hại ấy mà tự lấy làm vui. Và, tự bảo rằng: "Phật Phật là Phật trong loài người đáng nhận sự lễ bái". Bèn sai bảo tạo một tôn hình tượng Phật đeo mang trên lưng, vào trong điện mà ngồi, khiến các Sa-môn khắp trong nước nhà đều hướng về lưng mình mà lễ bái tượng Phật tức là kính bái ta. Về sau, nhân đi ra ngoài, bỗng nhiên mưa gió bão bùng ùn nổi, bốn phía đen tối mịt mờ, chẳng biết hướng để trở về, sấm sét nổ rền vang động mà chết. Sau khi đã chôn cất trong phần mộ, sấm sét lại nổ tung, quan tài tung vỡ, thây xác văng ra ngoài, trên lưng có ghi các chữ "hung nghịch vô đạo" v.v... Mọi người trong nước nhà mừng vui, nhưng còn giận ghét gã đó chết muộn. Thời gian ngắn bị sách đầu chủ Sa Khuê vùi dập, vợ con đều bị hành hình giết hại. Thấy ở Tiêu Tử Hiển Tề Thư).
Thác Bạt phá hủy chùa, khắp thân thể máu mủ nồng hôi (Vua Thái Võ đế (Thác Bạt Đào 424-452 thời Bắc Ngụy) hủy báng Tam bảo, phá hoại chùa tháp, sau đó khoảng vài năm, khắp thân mình phát sinh ghẻ lở, máu mủ tanh nồng rơi đổ đầy thân. Bề tôi bàn luận cho đó là bởi Phật thần khiến nên. Rút từ Thôi Hạo truyện).
Võ Văn Đế phá hủy chúng Tăng, khắp thân mình lở loét nồng hôi (Vua Võ Đế (Võ Văn Ung 561-579 thời Bắc Chu) phá hủy Tam bảo. Về sau ở tại cung Vọng di cảm phát bệnh nặng dữ trải suốt hằng tuần không lành, bỗng chốc mà chết).
Tạ Hối hủy phá pháp, bị bệnh tật nhiều năm (Trong Tấn Lục nói: Thượng thư Tạ Hối trước lúc chưa phát tâm, làm Hình châu thứ sử, cho rằng chùa tháp không nên để tồn tại ở dân gian, phải nên chuyển dời ra ngoài biên địa. Ông bèn tự đốc suất dẫn dắt bộ hạ đến cửa chùa Tân, sai khiến quân đội bảy mươi-tám mươi người mỗi mỗi tự cầm dao búa phá hủy Phù Đồ tôn tượng nghiêng đổ, ngói gỗ vải rơi. Bỗng chốc sấm sét nổ đúng, trời đất mịt mờ, gió bụi tung nổi, Tạ Hối kinh sợ bỏ chạy, quân đội đều khiếp hãi rả tan chẳng biết đi đâu. Đến đêm, Tạ Hối v.v... đều mộng thấy vị Sa-môn bay vọt giũa hư không, tỏa phóng ánh sáng rực rỡ. Lại thấy có hai người thân hình đều cao hơn cả trượng, dáng vẻ oai hùng to lớn, gằn tiếng trừng mắt bảo: "Các ông làm việc trái đạo, sau đây sẽ tự thấy biết". Về sau, mọi người trong quân đội ấy thân thể đều cảm bệnh hung cùi, qua thời gian mà chết, còn các người khác đều bị phạm pháp mà chịu chết. Tạ Hối suốt nhiều năm mang tật bệnh. Về sau nhân vì mưu phản nên cả gia đình đều bị giết, chẳng phải mạng chung mà chết vậy).
Tôn Hạo tiểu tiện nơi tôn tượng, dương vật sưng đau nhiều tháng (trong Tuyên Nghiệm ký nói: Ngô chúa Tôn Hạo (Quy mệnh hầu 264-280 thời Đông Ngô), tánh tình bạo nghịch, làm những việc chẳng gần nhân tình. Ông cùng các thể nữ sửa sang đất đai trong vườn, bỗng nhiên gặp được một tôn tượng bằng vàng, hình tướng trang nghiêm. Tôn Hạo bảo đặt tôn tượng bên cạnh nhà xí che đậy gìn giữ. Đến ngày mồng tám tháng tư, Tôn Hạo mới tiểu tiện trên đầu tôn tượng, cười mà bảo rằng: "Nay là ngày mồng tám nên vì người mà rưới tắm trên đảnh". Và đối trước các hàng thể nữ tự lấy đó làm vui. Sau đó một thời gian, dương vật bỗng nhiên sưng lớn, đau nhức rất nóng, không sao nhẫn chịu nỗi, từ đầu đêm suốt tới sáng đau buốt mong muốn chết. Các bậc danh y chạy chữa bằng mọi thứ thuốc mà bệnh càng tăng thêm. Quan Thái sử chiêm đoán bảo do phạm trái với Đại thần mà mắc bệnh, và bảo đến cầu đảo nơi các linh miếu. Nhưng mỗi một lần cầu đảo thì mỗi một lúc càng đau quá lắm, mọi người trên dưới chẳng biết tính làm sao. Trong cung có một thể nữ nguyên trước rất kính phụng Phật pháp, bên trong nội tâm có khả năng nhận biết, phàm mọi việc nói ra phần nhiều đều trúng, mới tấu trình rằng: "Bệ hạ đã đến khẩn cầu nơi tôn tượng Phật chưa?" Tôn Hạo hỏi: "Phật là Đại thần ư?" Thể nữ ấy đáp: "Tôn quý trong thiên hạ không gì bằng Phật. Trước kia Bệ hạ có được một tôn tượng hiện còn ở bên cạnh nhà xí, xin nên nhận đưa vào để cúng dường, chứng bệnh sưng đau hẳn sẽ được lành". Tôn Hạo vì quá đau nhức, nên bảo sắm gấp các thứ nước ấm nóng hương thơm, tự tay tẩy rửa tôn tượng và đem thiết đặt trên điện, cúi đầu sám tạ lỗi quá, chí tâm thành khẩn thiết tha. Ngay đêm đó đau nhức liền ngưng, sưng đọng tiêu mất. Bèn đến nơi Pháp sư Khương Tăng Hội cầu xin thọ trì ngũ giới, xây dựng chùa Phật, cúng dường chúng Tăng).
Chu Cung giết hại vô vi mà bị rơi lạc vào hầm xí (ở thời nhà Tống, có người xấu ác tên là Chu Cung, thường lấy việc giết trộm làm kế sống. Ban đêm đến chùa Liên Hoa giết chết cô ni trộm lấy đồ vật, suốt cả đêm vòng quanh trong viện mà chạy chẳng biết lối ra, bèn rơi lạc vào hầm xí mà chết, trên lưng còn dính mang đồ vật. Rút từ Sư Thần lục).
Đổng Lễ cướp giết vị Tăng mà chết bởi trâu húc (Đổng Lễ thường chuyên trộm cướp của chư Tăng, có được của vật đưa về nhà linh đình thết đãi khách bạn. Bỗng nhiên có một con trâu điên từ ngoài đi vào đến nơi chỗ ngồi, húc vào Đổng Lễ mang đội trên sừng mà chết. Rút từ Lương Hậu ký).
Bình Nghiệp nung nấu tôn tượng mà mắt bị mù lòa (ở thời nhà Lương, có người tên là Thôi Bình nghiệp rất tài giỏi nghề bắn tên cưỡi ngựa, làm võ sĩ giám quân, suốt đời lại chuyên việc trộm tôn tượng Phật nung nấu thành đồng, bán đồng để cung cấp cho việc uống rượu ăn thịt, trong tâm không hề xấu hổ lo sợ. Đến lúc năm mươi tuổi, vợ con anh em đều chết hết, chỉ còn một thân mình Bình Nghiệp, bỗng nhiên cảm mắc bệnh mù lòa, đói lạnh rất ngặt nghèo mà chết. Rút từ Lương Hậu ký).
Trấn Ố trộm chuông mà lưỡi cuốn như tơ (ở thời nhà Lương có Đạo sĩ Vương Trấn Ố rất có học thức mà không thiện tâm, mở miệng phần nhiều đều nói lời hủy hoại, cũng là kẻ bị người thời bấy giờ ganh ghét. Trấn Ố khinh thường Phật pháp, thấy chư Tăng thì hẳn cười chê chế nhiễu. Về sau làm nghề dạy học, bấy giờ có Sa-môn Pháp Mãn ở chùa Lộc Khê gởi một quả chuông đồng ở trong chỗ Trấn Ố dạy học. Đang lúc chưa lấy lại, Trấn Ố trộm lấy đem đúc tiền, sau đó lại cùng Sa-môn Pháp Nhãn nói lời thề thốt. Trải qua mấy năm sau, Trấn Ố cảm mắc bệnh nặng mà chiếc lưỡi cuốn lại như tơ, miệng không nói được. Đã biết trái với lời thề, Trấn Ố mới xả bỏ của cải chú đúc quả chuông để chuộc tội, nhưng mãi đến lúc chết miệng vẫn không nói được. Rút từ Vương Thị Gia Giới).
Tổ Thâm hiến dâng sách kế mà cảm mắc bệnh Bạch lại (ở thời nhà Lương có người tên là Trịnh Tổ Thâm dâng trình vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502550 thời Nam Dương) quyển sách gồm mười tám điều sự, xin phá bỏ các ngôi chùa nhỏ và các hàng Tăng Ni không có danh bộ nghề nghiệp ở trong thành quách, vua Võ Đế chẳng nhận chịu. Về sau Tổ Thâm mộng thấy có vị Thiên thần khạc nhổ nơi mặt bèn cảm mắc bệnh bạch lại, tuy ăn năn hối cải mà bệnh chẳng lành khỏi. Rút từ Oan Hồn ký).
Nguyên Trung dâng sách kế mà cảm mắc bệnh hoạn phong nhiệt (Vệ Nguyên Trung sau khi phá hủy Phật pháp, tự thân cảm mắc bệnh phong nhiệt, gục đầu mà chết).
Thượng khách chết mà rống tiếng dê kêu (trong Nhan Thị nói: Vương Khắc làm Vĩnh gia quận thú, có người trộm bắt dê, nhóm tụ khách bạn muốn bày yến tiệc, mà dê sõng dây buộc chạy đến nơi một vị khách quỳ lạy hai lạy xong bèn vào núp trốn trong áo, vị khách ấy trọn chẳng nói năng gì. Nhân không cầu xin cứu giúp, chỉ chốc lát kẻ mổ giết bắt lấy thui nướng. Trước tiên đến nơi vị khách, một miếng thịt đưa vào miệng bèn lọt xuống da thịt rảo khắp bên trong, thân thể đau nhức kêu gào. Vị khách ấy mới nói việc đó, lại rống làm tiếng dê kêu mà chết).
Huyện lệnh tĩnh ngộ mà bệnh phát sinh (ở thời nhà Lương có người làm Huyện lệnh đến nghỉ lại nơi chùa. Dân chúng ở quanh đó đem trâu và rượu đến hiến dâng Huyện lệnh. Huyện lệnh đưa trâu buộc nơi cột chùa, dẹp bỏ các tôn tượng Phật, bày sắp giường tòa nơi điện Phật để tiếp đãi khách bạn. Trong lúc chưa giết, trâu cởi bức dây buộc đến nơi thềm cấp mà bái lạy, Huyện lệnh cười lớn bảo mọi người giết mổ. Ăn uống no say rồi bèn nằm dưới rèm, đến lúc tỉnh giấc, cảm thấy thân mình đau nhức ngứa ngáy, cào gãi cùng mình, nhân đó thành bịnh hung cùi, suốt mười năm mới chết. Rút từ Nhan Thị Gia Huấn).
Bộ Khúc sinh con trai tự nhiên không có tay. Triều Thỉnh ăn tro than như dao kiếm đâm vào thân mình (Dương Tư Đạt làm Tây dương quận, gặp phải lúc Hầu Cảnh làm loạn, khi ấy lại bị khan hiếm thóc lúa, dân chúng mót trộm lúa tẻ trong ruộng. Tư Đạt sai một Bộ Khúc gìn giữ trông coi, nếu bắt được kẻ trộm thì chặt cánh tay, và có hơn mười người bị chặt tay. Về sau, Bộ Khúc sinh một đứa con trai tự nhiên không có tay. Ở nước Tề, có một người kính phụng Phật là Triều Thỉnh ở nhà rất giàu có xa xỉ, chẳng phải tay giết trâu thì ăn uống đó không ngon lành. Đến năm ba mươi tuổi, cảm mắc bệnh rất nặng, bèn thấy trâu đến húc chạm vào ngực, khắp thân thể như bị đao kiếm đâm chích, kêu gào mà chết. Rút từ Nhan Thị Gia Huấn).
Người thời nhà Lương tắm gội tóc, trên đảnh đầu có tiếng gà kêu (ở thời nhà Lương có người thường dùng ngòi trắng trứng gà hòa với nước để tắm gội, cho là như vậy tóc sáng mượt. Mỗi lần tắm phá hại hai mươi-ba mươi quả trứng gà. Đến lúc gần chết, trong đầu tóc chỉ nghe tiếng kêu chiêm chíp của hàng ngàn gà con. Rút từ Nhan Thị Gia Huấn).
Lưu Thị bán canh thịt, trên đầu con tợ lươn (ở Giang lăng có người dòng họ Lưu chuyên làm nghề bán canh thịt lươn. Về sau sinh một đứa con, mà trên đầu thấy thật là lươn, từ cổ trở xuống mới là thân người. Rút từ Nhan Thị Gia Huấn).
Xét xem những vết tích của sự kính tin hay hủy báng, thật như ảnh bóng theo hình, ảnh hưởng trong hang cốc vang theo tiếng. Tai nghe và mắt thật nghiệm thấy, có thể sơ lược mà nói, khuyên gắng thay cùng ông và tôi, mong may tự có thể thoát khỏi.
Nho sinh nói: Căn cứ ý chí chân thật của sư thì thiện ác quẩn bách, kính tin hay hủy báng có quả báo tương giao. Nhưng trộm thấy, Nhan Hồi là người đức hạnh lại mắc phải chết yểu, còn Đạo Chích là kẻ hung cường bạo ngược mà có được tuổi thọ lâu dài. Hai vị vua kính phụng Phật mà giết hại cả gia tộc, ba người dòng họ Trương tôn phụng đạo mà diệt mất cả dòng tộc. Thực hành việc thiện mà bị tai họa, tạo tác việc ác nhưng không ương lụy, chứng nghiệm của quả báo tương giao há chẳng phải là điều nói hư dối?
Bậc Khai dẫn dụ rằng: Nhan sinh biết mười, nhưng tôi đây còn rõ hơn, nêu bày góc chẳng trái lại, thật đáng xấu hổ vậy. Nhưng một đời hạn cuộc mà nói ngọn nguồn. Thuyết giáo của bậc Thánh nói có nghiệp hiện tại khổ, có khổ báo, có hiện nghiệp; an lạc có khổ báo, có nghiệp hiện; khổ có an lạc, quả báo có nghiệp hiện; an lạc có an lạc quả báo.
Hoặc các phước thừa khác chưa hết thì ác chẳng liền thêm, hoặc tội khiên xưa trước hiện còn thì thiện duyên bèn phát. Thêm than vào lửa đâu thể được nói là không, như mờ tối tìm theo âm thanh phải biết hẳn có. Vả lại, phàm thiện ác có chỗ kết quy, báo ứng không sai nhầm. Giáo điển của Chu Khổng đều đồng thuyết này. Có thể vì làm việc thiện mà gặp phải tai họa đến, làm điều xấu ác mà được phước lành lại, tức cho rằng Khổng Khâu nói hẳn hư dối, vả lại đàm nói chẳng thật ư? Cũng như nhà Ngô ở Giang nam không tin có màn trướng ngàn người, nhà Hán ở Hà bắc không tin có chiếc mâm muôn thạch, không được đem tiểu tâm của Bồng Ngãi mà suy lường vận xa của Phù Diêu. Dòng họ Nhan dạy răn con cái rằng: "Các người khác nếu nhìn lại còn có mưu kế thế tục, tạo dựng cửa nhà, chẳng bỏ vợ con, chưa thể xuất gia, còn phải kiêm thực hành giới hạnh, lưu tâm đọc tụng lấy làm vốn liếng cho đời sau. Thân người khó được chớ sống luống qua không". Phàm người có con cháu, tự phải là một thương sinh trong khoảng đất trời. Cho tấm thân trọn có gì thân thiết bằng ư? Mà mới mến thương gìn giữ, vì đó mà cần khổ, khiến vì gia sản sự nghiệp lo toan đó vui buồn đói no, huống gì đối với Thần sảng của chính mình mà chẳng tự nghĩ suy nhanh chóng muốn vất bỏ đó ư? Có thể nói là lầm mê từ huấn của bậc Đại Thánh, tin theo lời nói ước đoán của người phàm ấy vậy.---------------------------------
Nho sinh hỏi: Các bậc Thánh nhân lập bày giáo pháp đều có nguyên nhân. Xin vì nói rõ đó, mong được nghe xác định thú hướng?
Bậc Khai sĩ dẫn dụ bảo: Xưa trước có cụ già miền quê không tên, chẳng biết là người xứ nào, chưa rõ dòng họ là gì, dừng ở tại phía Nam Thanh khê cách ngàn nhẫn, và thuộc phía Bắc Tử đài cách bảy bàn. Thế đất ưu thắng, núi tên là Vị Du, cửa gối ngọn núi cao, rèm gần đến khe biếc, quên lo toan an vui lâu dài. Đã là sương mốc trải bày nơi sân rộng, che đội áo lá sen cũng lộn xen bày nơi ao cong. Làn mây tạm nổi ánh bóng sáng ngời Triệu châu, ráng gấm vừa buông tỏa sáng bao gồm gần mặt nhật, trải trúc rưới quét đàn tranh bày xanh biếc ở trong vườn, ngô đồng tươi tốt che phủ giếng đua chen rủ im viện rộng. Thềm nhiều liễu rủ, cửa treo huyền la, đá nằm tợ sàn giường lâu giăng bày dưới rừng. Suối bay như mưa thường rưới trước cửa sổ, gió tùng dẫn Hạc kêu cùng ai thương, chim xuân cùng tiều phu ca ngâm đồng vận. Thật là chốn đất lành nương gá tâm, nơi Đào Nguyên lánh đời ấy vậy!
Tôi từ lâu tiếp thừa linh dị mới bèn qua đó, tháng năm năm Kỷ mùi, mang vác hòm rương chống gậy từ xa mà đến. Cụ già mới vỗ khảy đàn cầm của Cấp Quận, khua động tiếng trống của Tô Môn, nhân đó ca khúc nhạc Tuyết trắng (Bạch tuyết), chợt ngâm vịnh thiên núi xanh (Thanh sơn) với ngôn từ: "Nguyên Thục thế vị thấp, Trường Khanh quan kém tình hai khoảnh làm ruộng lúa, ba tiền giành nuôi ngựa, ngọn cao nổi mây trắng, vầng nguyệt dưới núi xanh, trong lòng muốn có tiếng, chưa được quên nói năng".
Nhân đó, tôi nhún nhường nói: "Phàm dùng hình tượng để phô bày ý, được ý thì hình tượng quên; lời nói dùng để hiển bày lý, thấm nhuần lý thì lời nói dứt. Nên biết, dùng lời nói để được lý, chẳng đợi cầu xin mà tự nói; mượn hình tướng để hội ý, hẳn gá cớ mà sau đó cử động. Kia dùng vô ngôn mà nói đó, đây cũng lấy không nghe mà nghe đó. Nói chỗ không lời ấy lý tự ngầm hợp, nghe chỗ không được nghe đó kết quy đại thông. Do đó, miệng không chọn lời, nên thiên hạ vâng theo; lời nói không dối bày nên thế giới kính ngưỡng".
Khi ấy Cụ già buông đàn cầm rời khỏi chỗ ngồi, nắm tay mừng bảo rằng: "Tôi gặp được người vậy! Tôi gặp được người vậy!" Và bèn dẫn tôi đến nơi quán Phong đình du nguyệt, mở kho văn uyển tứ thư, đọc xem Di kinh của Khổng Bích, trông nhìn văn lý của Cấp Trủng, tìm Điển ký của Đông Quán Nam Cung, xét phương thức của Ngọc Hàm Đan Chẩm. Ghé mắt thời gian lâu, nhân đó mới hỏi rằng: "Bần đạo nhận chịu thân hình chẳng lợi, thường mắc phải chứng trầm kha. Vả lại, bệnh đã vào lồng ngực, các phương thuốc đều không hiệu nghiệm, nhiều năm ăn bánh bột, chưa thấy sự giảm lành. Đến như soi chiếu tuyết ngưng tụ đom đóm, gắng sức đã nhọc mệt, bảy phái bảy lược khó thể men vin trời, muôn quyển trăm nhà mịt mờ tợ đi biển. Tiên sinh là người đã thấu suốt Tứ đạt, ở đời xưng gọi là người thông rành. Vậy, xin hỏi: Sách vở trong dân gian có cả thảy bao nhiêu?" Tôi đáp: "Trộm đọc làm lợi mình đâu phải lợi ích ưu tối?"
Cụ già nghe thế, xót thương đổi sắc mặt, ngưng lắng giây lâu mới bảo: "Xưa trước tập học Đối của Úc Khuất Di Thiên, dòm ngó lời của Đàm Thôi Đăng Địa. Trước mặt thợ khéo giỏi khó thể múa búa rìu. Tuy nhiên, Lễ nói: "Không lời chẳng dạy răn, đâu nên cứng buộc lưỡi". Nay thô thiển phô bày xác thực hiến dâng để báo đáp đức âm. Thánh nhân bảo mà là Văn ký, Thương Hiệt sưu tìm viết thành sách, mà không sách không cần, không trí chẳng xem".
Tôi lại cật hỏi rằng: "Chưa thấy khai nhân chẳng đọc sách, đọc sách chưa hẳn khiến người đẹp, sao lời nói ấy khác vậy ư?"
Cụ già lại đáp với tôi rằng: "Vốn có hiểu biết rành rõi mọi sự gồm cả nhạn gỗ mài giũa ngọc thành đồ dùng, đâu phải lời nói hư dối ư? Xưa kia các vị đầu trâu mình rắn, các bà kết lưới lông tơ, thuần phác tự nhiên, chẳng từng có điển cáo. Cho đến lúc xa rời thời gian dài, gọi là Lật Lục Triệu Hưng, mà chỗ Phu Tử, nhận biết có hơn bảy mươi đời, ngoài ra dài xa, các Thánh chẳng thể nhớ rõ. Bao Viêm đã xuất hiện, Hiên Hục nổi lên, phong kiến chợt mở bày nhân còn sách thẻ. Đến lúc văn chất cùng lẫn lộn, Đạo chí văn từ hoa mỹ. Khi ấy Ngô đặt Thượng tường, Hạ mở Tây tự, Âm xưng Hữu học, Chu bày đông giao. Đến lúc mất, nhà Tần đào hố thiêu đốt, pho quyển vất bỏ hết. Hồng Hán viết sửa tôn sùng Nho mến trọng nghề nghiệp, có Tế Nam phục sinh chuyên miệng trao truyền, hoặc gặp Tất Thư mở bày ở cấp trúng, hoặc thấy Tàn kinh xuất hiện nơi Khổng Bích. Tìm lửa Phúc chim cưu nhóm tụ nơi phần mộ ít nhiều". Nghệ Văn Chí nói: "Sáu thư bảy tịch, trăm nhà chín phái có cả thảy mười ba ngàn hai trăm sáu mươi chín (13.269) quyển. Năm trăm chín mươi sáu nhà, khác bộ phân chia gồm ba mươi sáu thứ. Trong đó, bảy kinh đều là Nhạc Chương có ba ngàn không trăm ba mươi tám (3.038) quyển". Người đời hiện nay chẳng thực hành nhạc chương, nhưng mà phong tục dạy răn ở đời chỉ có lễ và hiếu. Hiếu là gốc của lập thân, lễ hẳn dẫn đầu để trị chính". Sưu Thần Khế nói: "Một bộ kinh hiếu có năm mươi chín quyển, chẳng phải gặp thời văn biến chất mà cũng học thành hơn kém". Đến thời Hậu Hán tôn kính Tế Tửu, Thiên tử thực hành nghi cân quyển, nên Hoàn Vinh Bái Phong Phỉ nói: "Võ lực sở dĩ mất dùng, nhóm tụ học trò hoa râm dựng chợ, thuộc cuối sách sử thêm nhiều, sung thêm xe gồm hai giá chứa đầy phòng nhà".
Đỗng Trác chuyển dời Trường an chở hơn hai ngàn (2.000) chuyến, gặp phải mưa hỏng mất trăm phần không còn một. Bấy giờ người tham chọn lụa quyên trắng lại lấy làm bó buộc khăn trùm đầu. So sánh về Lạc ấp gom lấy quá ít, đầu đuôi không tàn, hoặc chẳng phải pho bộ. Khảo xét văn ký của Luận Ngữ khéo nói, Mao Thi dùng mở ngâm vịnh, Thượng thư dùng làm sáng tỏ chiếu sách, Chu Dịch dùng trình bày tốt xấu. Ba lễ khác biệt ở tôn ty, ba truyện bàn rõ về đất trời. Chiến Quốc mở đầu từ Quyền Chính, Sơn Kinh biện rành từ Khâu Lăng, ghi lục xưa nay của ba sử, đàm nói văn tự của ba kho. Tiếp đến thì Hàn Phi, Lão Tử, Mặc Địch, Trang Chu, Quản Trọng, Mạnh Kha chẳng hại Bình Trọng. Đại Đái, Tiểu Đái cùng họ mà khác tên. Đại Quan, Tiểu Quan đồng tên tự mà khác họ. Tất cả đó biên thuật trước sau mà chương quyển càng nhiều. Hoặc hai ngựa hai ban. Huyền Yến, Bảo Phác, Thái Ung, Lưu Hướng, Tôn Thạnh, Vương Sung, đến cả bảy lục của dòng họ Nguyễn, bốn bộ của nhà họ Vương.
Xét như vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, sai Nguyễn Hiếu Tự v.v... đến điện Văn Đức Chánh Ngự soạn bộ Văn đức Chánh Ngự Thư có hơn bốn mươi bốn ngàn năm trăm (44.500) quyển. Bấy giờ vua chuyên tu nội pháp, phần nhiều phỏng tham Phật đạo. Lại sai Lưu Tra Cố Hiệp v.v... gồm mười tám người đến trong vườn Hoa lâm phân chọn yếu ngữ gồm bảy trăm hai mươi quyển, đề tên là Biến Lược, đều biên sao từ các sách xếp loại tương tự. Khi ấy các tài sĩ văn bút phải tiện kiểm dùng, đến nỗi khiến treo tóc cầm chày, duyên vẫn biếng lười.
Lại có Thọ Quang Uyển gồm hai trăm quyển, Yếu Lục sáu mươi quyển, Loại Uyển một trăm hai mươi quyển. Rốt cùng là nhà Chu, nhân nhà Ân Lễ tổn hại ích có thể biết, danh mục tuy khác, trở lại rộng hơn trước. Cũng như trên sàn giường bày trải sàn giường, dưới phòng ốc giá thêm phòng ốc.
Sưu Tín buồn nói trong Giang Nam Phú rằng: "Chữ cung vùi lấp tối, vua Nguyên Đế tự tay đốt sách mười bốn vạn quyển là phải gần bản". Trộm muốn nghi nhiều mà so sánh Hồng lưu kia lại chẳng phải chỗ hàng kém hèn lường biết, sợ lửa trải bày đó đến chìm ở Điển luận.
Pháp sư muốn đọc, tưởng chừng khó có đủ. Vả lại, nên tùy sự cần gấp chẳng thể gồm tất cả, chỉ là Huyền Vi chẳng gặp, xiển ước không đồng loại. Đến như sách sử nêu thuật toàn liên quan thỏa đáng, lời của Xuân Thu càng ở nơi nghiên xạ. Nho Phong mất ở Công chiến, Lão Trang qua nơi Khiển thang, Quốc ngữ còn hư dối, Tà Khâu sai gièm giả sử khiến năm kinh trăm họ, không gì chẳng phải hài cốt của Hàn Lâm, Dĩ Nhã lìa thanh thoáng đủ làm căn bản duyên tình. Nguồn gốc đạo làm người đó nói rõ đủ đâu gì qua lễ và hiếu kính ư? Hiếu kính là văn điển từ thời thứ Đạt Đế không thay đổi, từ mới sinh đến lúc chết thủy chung đều đủ vậy, có hiếu có trung có tín có nghĩa. Ở lý tập học để đủ khắp, đối với sự xét khó quên. Hiếu, lược nói gồm có mười tám chương, Hiếu Trị là đứng đầu; Quỷ lại đảm nhậm cung phụng dân đều là đội nhờ, suốt thông thần minh, dẫn bày phong tục. Giả sử năm hàng đều xuống, một đọc xem gồm tụng, luận chất là phô bày ở tinh thần, nói khả năng kết quy ở kỹ lưỡng, chỉ có hiếu bao quát đáng nhân đáng chứ, chẳng phải nhà tự đến như thế mà thôi".
Tôi lại nhún nhường nói: Phàm năm kinh đượm nhuần, trăm họ bày suốt, nghĩa cùng cực biết lý sâu mầu bao gồm hết tánh, thí như Bắc thần đến gần muôn tượng, tợ bể Đông dẫn nhận cả trăm sông, công chẳng cùng suy, đức không lên xuống. Cớ sao chỉ tán thán ở một quyển Hiếu kinh ư?
Cụ già đáp: "Nền tảng của đức thì nhân luân là chủ, đứng đầu trăm hạnh thì yếu đạo là cội nguồn. Vì thế, Thái Hạo Viêm Hoàng gọi đó là công việc gốc, Võ Phát Chu Đán xưng gọi là "Lớn thay!" Đến như dạy răn Tử Hạ đối với sắc nạn, lấy biết kính để chỉ bày cho Tử Du, các bậc Tiên Vương kính phụng pháp thì càn khôn muôn tượng hiển trước rõ ràng. Triết Hậu tôn thờ người thân thì núi sông phô bày điềm lành, bèn có chim ưng sắc xanh ngậm tiết, chim trĩ sắc trắng thuần bay, cây bách nơi phần mộ mùa xuân khô héo, các lặng chìm mùa Đông nhảy vọt. Ban hành đó khắp cả nước nhà, trị hóa theo luật hình khắp bốn biển. Sử dụng đó đến người trong thôn ấp, đức giáo càng thêm đối với trăm họ. Nên nói: "Hiếu trước tiên là tôn thờ người thân, kế tiếp là phụng sự Quân vương và sau cùng là lập thân vậy". Đến như giẫm trải sương mốc mà dấy cảm, ôm hoài trà rau đắng mà buộc buồn thương. Đau xót trong rừng lạnh đã tăng thêm, tâm tư cây gió càng rít cắt, đủ để cúi dâng thượng Thánh, khấp khểnh đến hàng Hạ ngu ấy vậy. Căn cứ theo Lễ ký nói: "Hiếu là súc (nuôi dưỡng)". Câu Mạng Quyết nói: "Hiếu là Tựu là Độ là Dự là Cứu là Súc". Dĩ Nhã nói: "Tốt lành với mẹ cha gọi là hiếu".
Hiếu là làm việc nghĩa. Tiếp nối kính phụng người thân. Lễ ký nói: "Súc là đạo của làm hiếu". Nuôi dưỡng đức thuận theo lý chẳng trái nghịch với thời, đó gọi là súc. Tựu nghĩa Thành, tức nói hiếu của bậc Thiên tử, nghĩa là đức của võ hay dốc hết lực mở tỏa ngòi nước để thành công lớn, ăn rau lá ở cung xấu kém. Nên Trọng Ni nói: "Tôi không liên quan vậy". Độ là hiếu của hàng chư hầu, tức trên kính phụng Thiên tử dưới đốc suốt cả một đất nước, giữ lấy pháp độ ấy, nghĩa không trái phạm. Dự là hiếu của hàng khanh tướng đại phu, chuyên cần giữ đức bên trong tự tỉnh xét, một lòng kính phụng bề trên, nếu như lợi ích cho xã tắc thì không pháp gì chẳng làm. Các nước lân cận lan truyền tiếng thơm, mưu lược trong sáng tự tỏa tràn xa. Cứu nghĩa là cùng tận, Sĩ nghĩa là sự. Có thể biện rành đó chặng dùng so sánh ở một quan. Xét đức chánh việc, trung thuận chẳng mất, dốc cả thành thật xong việc, quyết chí chẳng đổi thay.
Chu Lễ Sư Thị Chức nói: "Dùng đức để chỉ dạy mọi người trong nước: Một là chỉ đức tức lấy làm đạo gốc, hai là mẫu đức tức lấy làm hạnh gốc, ba là hiếu đức, dùng để phòng ngừa ác nghịch". Nói về công chở che đó thì gọi đó là chí đức. Nói về dụng của cắt thành thì gọi đó là mẫn đức. Ngợi ca tâm nhân ái thì gọi đó là hiếu đức vậy.
Trọng Ni trình bày về hiếu, trước tiên thuật về mến kính người khác thân nêu cao danh hiệu, sau đó mới kính trời nghĩa đất. Chu Công luận bàn về hiếu, trước hết xưng tán che trùm cắt mổ, sau mới trình bày khéo tốt đối với mẹ cha. Phu Tử sinh ở cuối thời nhà Chu, trưởng thành cuối tập tục, trông thấy hiếu để đó gọi là dứt tuyệt, bùi ngùi lễ nhạc đã suy đổ, tầng dự tham dốc chí thực hành kính cẩn đối với việc phụng sự người thân. Nhân đó những kẻ hầu hạ bên cạnh đã làm sáng tỏ đạo hiếu, học trò hiện còn biên ghi đề tên là Hiếu Kinh. Câu Mạng Quyết nói: "Trăm vua theo vâng làm, muôn xưa chẳng đổi thay, đó gọi là hiếu vậy". Tần Huyền Lã bảo một chữ phiên thành có thể trách, Thục Quải Dương nói ngàn vàng thay chuốc lấy sâu vời quái lạ đức của Hiếu kinh. Sông núi khôn lường hiếu cảm thần minh, công sánh đồng tạo hóa, so nặng thì núi Ngũ nhạc còn nhẹ, lường sâu thì dòng bốn ngòi vẫn cạn, gió mưa chẳng thể làm loạn sóng cả ấy, hư không chưa đủ để nương gá Linh dự đó. Nói ước lược mà ý chỉ sâu rộng rất mực tốt lành. Pháp sư Phật giáo có thể được nghe chăng? Xin thử nói bày để khai mở điều chưa tỏ ngộ!"
Tôi trả lời rằng: Nội và ngoại ngược nhau, chân và tục trái hẳn. Tuy vết tích khác lạ, lý của chín phái khó đồng nhất, chỉ có các bậc Đạt Quán mới hội thông được. Như muốn bao gồm chỉ thú quy hướng, tỏ rõ đầu đuôi đó thì Tánh tướng không dùng liên quan tới cửa, sức tâm chẳng thể đến cảnh đó, quên lời dứt tuyệt tư lự, đã ngậm miệng ở thành Tỳ-da. Hết chiếu sạch thần bèn đóng thất nơi Makiệt, cao sâu u nhàn, chức của Hy Hòa há biết, kín mầu Hy Di, sách của Thượng Lâm chẳng biên ghi. Tầm xét, phàm các bậc chân sĩ ứng sĩ đều gội nhuần Từ phong, phương trên phương dưới thảy đều thấm đượm Thánh giáo. Mở đầu từ Lộc uyển, rốt cùng tại Hạc lâm, thì có văn gồm ba tạng ba luân, thuyết của bốn thừa bốn cấp, ý chỉ rộng lớn của nửa chữ đủ chữ, bàn nói riêng biệt của xâu hoa và rải hoa, mênh mông dòng suối tuôn vọt khó khô cạn, dẫy đầy sương mốc rủ trường sinh. Lời ấy khéo diệu nghĩa đó sâu xa. Như tám sông đồng chảy vào biển cả, tợ muôn tượng tỏa khắp giữa không. Khó hiểu khó vào, xứng với kinh của chư Phật nhậm lý; tùy loại tùy nghi, gọi là pháp điển của Bậc Chí nhân quyền hóa.
Từ Lạc thủy quấn quanh tụng Ấn thư, vườn cỏ thơm dựng đền Hoa lọng. Chu Sĩ Hành bậc cao lưu ngậm uống nước tám vị của ao A-nậu, Khích Gia Tân người quý tộc mang đeo một viên Già-đà, không ai chẳng đồng tỏ rõ tự thân mình v.v... có tánh Phật, thể đó phiền não tức là Bồ-đề. Giả sử sách thấu suốt biết xa, chữ Động Ngọc chương vàng, thuật của Tử Phòng trao giầy, thiên chương của Văn Kỷ hỏi đạo, nơi chưa liên hệ đến không không, mọi sự trọn chìm lắng ở hữu hữu, đều treo lưới của tám Ma, lại quấn lồng bốn đảo. Vừa rồi tiên sinh đàm nói, đâu là rất mực tốt lành?"
Cụ già hối tạ nói: "Có thể gọi là Lão tướng Trí Huy lại kịp đó. Sơ lược nghe pháp âm, hoảng nhiên như mất. Kính nghe lời chỉ bảo, sẽ đầy đủ vâng làm!".
- Sai lầm về Linh văn phân tán.
- Sai lầm về Linh bảo thái thượng tùy kiếp sinh tử.
- Sai lầm về cải đổi kinh Phật lấy làm kinh Đạo.
- Sai lầm về trộm lấy bốn quả chứng và mười địa vị trong Phật pháp.
- Sai lầm về kinh Đạo chưa lưu xuất mà ngôn từ lưu xuất.
- Sai lầm về Đạo sĩ hợp khí.
- Sai lầm về ghi thuật Thiên tôn và Hóa tích.-Sai lầm về các nhà làm sách Đạo.
-------------------------------
Sai lầm về Linh văn phân tán
Quân tử nói: Tin rằng có vậy! Tin rằng có vậy! Phàm sân lan chợ cá, sống lâu ngày hẳn mến quen trước đó. Dương Văn thuần đượm, ưa thích chứa duyên tình quanh co. Do đó, nai ngựa khác hình, người Tần chỉ một dung mạo; Lân chương khác chất, tục Lỗ sai lầm hình dung, lũ gầm gừ chóng đến ở đây.
Nay tôi khảo xét bọt nổi dối trá đó, lại chỉ bày cho các người sau. Căn cứ Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Hoàng Lục Giản Văn Oai Nghi kinh nói: "Nguyên thủy, Thiên Tôn bảo Thái thượng Đại Đạo quân rằng: "Hạ Nguyên Hoàng Lục Linh Tiên phẩm công vượt quá khai độ". Văn đó ở trong cung Linh tiên. Xưa cũ gồm có tám trăm bộ, Tự kinh đến Long Hán văn cũ phân tán, bèn đến niên hiệu Xích Minh văn đó lại cải đổi, phần nhiều bị phiền tạp tệ hại. Nên nay sưu tập Hạ Nguyên có tám mươi mốt điều, chọn làm yếu dụng, trên ứng với số Tam nguyên, giữa ứng với thần Bát Cảnh, dưới ứng với hai mươi bốn khí, thường có ba bộ oai thần theo hầu gìn giữ Linh văn".
Quân tử nói: Linh văn chân lục lưu xuất tự nhiên là văn của Thiên Tôn gìn giữ, là pháp của các thánh vâng theo thực hành, cất chứa nơi Ngọc liễm, giấu kỹ ở Huyền đài, có ba bộ oai thần ở bốn bên gìn giữ, đầu ở vô thủy cuối ở vô chung, cớ sao liên quan đến Long Hán mà phân tán đến niên hiệu Xích Minh mà cải đổi ư? Cải đổi tức là chẳng thật, phân tán tức là không linh, cớ sao hư dối, để chuốc lấy vất bỏ nhục nhã ư?
- Sai lầm về Linh Bảo Thái Thượng tùy kiếp sinh tử
Linh Bảo Chư Thiên Linh Thư Độ Màng Diệu Kinh Xưng Thiên Tôn nói: "Đại kiếp Giao châu trời nhào đất lộn, trong sáu tầng trời giữa cõi Dục các tạp pháp đều diệt không còn sót thừa. Thái Bình Đạo kinh, Phật Thuyết Pháp Hoa Đại Tiểu Phẩm kinh phân tán trên dưới trong mười tám tầng trời ở cõi Sắc. Đến lúc đại kiếp giao châu đất trời biến đổi, văn đó mới ẩn mất, nhưng Ngọc Thanh Thượng Đạo Tam Động Thần kinh, Chân Văn Linh Thư Ngọc Tự Linh Bảo Chân kinh đều lưu xuất ở nguyên thủy, đặt để ở trên hai mươi tám tầng trời cõi Vô sắc". Lúc đại kiếp Giao châu, đều trở về trên trời ở trong trời Đại La nơi núi Ngọc kinh, huyền đài bảy báu, chỗ tai họa chẳng thể đến được. Trời Đại La là trời ở trên năm mươi lăm ngàn năm trăm năm mươi lăm (55.555) tầng trời. Nên văn của tự nhiên cùng vận đồng sinh cùng vận động diệt. Nếu người hay kính phụng đó thì Thất tổ sinh cõi trời làm Chuyển luân Thánh vương, đời đời chẳng dứt tuyệt.
Linh Bảo Chân Văn Độ Nhân Bản Hạnh kinh nói: "Các bậc đại Thánh ở mười phương tự nói rằng: Bởi nhân duyên gì được nhậm của Thái thượng? Đạo Ngôn tự xưng Nguyên Thủy Khai Quang trở lại đến năm Xích Minh thứ nhất là trải qua chín trăm chín mươi chín ức kiếp, độ người đông nhiều như số cát sông Hằng. Từ niên hiệu Xích Minh trở về sau đến năm Thượng Hoàng thứ nhất, độ người nhiều vô lượng. Ta tùy theo kiếp sinh tử đời đời chẳng tuyệt dứt, thường dùng Linh Bảo đồng xuất hiện trải qua bảy trăm ức kiếp, gặp kiếp Thanh đế, cuối cùng chín khí đổi vận từ đó gá thai ở dòng họ Hồng suốt thời gian ba ngàn bảy trăm (3.700) năm. Đến năm Xích Minh khai thông ẩn tàng tại Giáp tý, Đản sinh ở trời Tráng lực cái, lại cùng Linh Bảo đồng ra độ người đông nhiều vô lượng. Nguyên Thủy Thiên Tôn vì nhân duyên của ta cho ta hiệu là Thái thượng, ở tại Huyền Đô Ngọc kinh, vì ta tin Linh Bảo nên vậy".
Chân Loan Tiếu nói: "Chân văn ấy đã ở trong núi Ngọc kinh; nơi tai họa không thể đến được". Mà lại nói rằng, văn của tự nhiên, cùng vận đồng sinh đồng diệt, ngày sinh diệt đâu phải là tai họa? Lại nói: "Thân ta thường cùng Linh bảo đồng thời xuất hiện và ẩn mất". Lại nói: "Ta tùy theo kiếp sinh tử, tính ngày Linh Bảo vận diệt, Lý Thái thượng luôn luôn riêng còn", mà nói là Đại pháp trường sinh bất tử, rất là nói năng hư dối vậy. Lại nói: "Núi Ngọc kinh ở trên các núi, nơi tai họa chẳng thể đến". Với lý rất đáng nghi ngờ. Tại sao? Hết thảy các pháp đều là vô thường, loại có hình sắc không thể có tồn tại. Núi Ngọc kinh đài vàng cửa ngọc làm bằng bảy thứ báu tức nhiếp thuộc cõi Sắc, sao nói là thường được ư? Lại nói: "Năm Xích Minh là năm ở Giáp tý". Hiệu của Xích Minh, há có thể tin được ư?
- Sai lầm về cải đổi kinh Phật lấy làm kinh Đạo Thái Thượng Tiên Công Thỉnh Vấn kinh nói: "Long giá sáng rỡ giữa hư không, trên đảnh đội vầng ánh sáng tròn, thân sinh ánh sáng trời". Lão Tử nói: "Đời đời sinh ở nhà Vương Hầu, đó nghĩa là nhà Chuyển luân Thánh vương, cuối cùng vào đạo của chân tiên". Thái Thượng Linh Bảo Ngũ Luyện Sinh Thi Diệu kinh nói: "Thiên Tôn ở trong vườn Hương lâm, các vị Thượng trí đồng tử luân thiên, Quán Thế Âm v.v... đến phía trước đảnh lễ dâng lời thưa bạch Thiên Tôn".
Bản Tướng kinh nói: "Lúc Thiên Tôn nói pháp, Càn-thát-bà cho đến người và phi nhân v.v... voi trắng sáu ngà, bốn chúng vây quanh đi nhiễu cả trăm vòng. Thiên Tôn dùng một loại ngôn từ của Trung Hạ (Trung Hoa) diễn nói nghĩa ấy, chúng sinh tùy theo âm thanh từng loại mà hiểu. Ở núi Thiên thai có Thần nhân tên là Thiên Tôn, có ba mươi sáu trời khua chuông đánh sừng tấu nhạc mà tới lui nơi Thiên Tôn, suốt mười tuần thì tới nơi". Trên đảnh Thiên Tôn có cục thịt nổi cao, lưng cổ có vòng ánh sáng, tai cao đến chỏm tóc, trán có ba ngấn, tay dài quá đầu gối, đùi vế tợ chân nai, mặt đầu bình lắng. Đó là tám tướng của Thiên Tôn. Sau cùng tống quát mà nói ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Lại cải đổi quả vị Mười hạnh, Mười hồi hướng, Mười trụ làm thành Mười phương tiên, Mười thắng, Mười trú xứ; tiết cấp mà lập từ đầu, từ Hoan hỷ cho đến Pháp vân, tướng tốt đầy đủ hiển bày Kim cang. Trong đó có mười chướng và bốn đạo quả. Lại nói, tọa thiền là đoạn chướng phiền não. Thần tâm an định trên đảnh núi Tu-di, cung trời Thích-đề-Hoàn-nhơn rộng lớn bốn ngàn dặm. Bao quanh gồm có một ngàn hai trăm cửa. Trong đó có ba ngàn sáu trăm cung nhỏ, năm thành mười hai cửa, thuần toàn bằng chất lưu ly làm đất, có ba mươi hai trời bao bọc bốn bên. Lại nói, Thiên Tôn ở tại trong rừng tỏa phóng ánh sáng nơi lông trắng giữa chặng mày soi chiếu đến Đại thiên cõi nước ở phương Nam. Các hàng Thanh văn, Duyên giác biết đến mà xem biết. Đến (Tấn) là các lậu đã hết, không còn phiền não (cải đổi các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Bát-nhã).
Kinh Phương Đẳng hai quyển cũng tên là Diệu Pháp. Kinh Di-đà Tử là do Đạo sĩ Trương Đạt ở thời nhà Ngụy tạo ra. Trộm lấy tên kinh Đại Phương Đẳng của nhà Phật. Diệu Pháp Di-đà Tử là lấy tên Di-đa-la-tử ở trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Xoay bến bờ của Nhị thừa tuyên dương đường chánh của và Nhất thừa, thuần một không tạp. Xin hỏi: Lấy gì làm Nhất thừa và Nhị thừa? Sao gọi là thuần một? Sao gọi là không tạp? Căn cứ kinh Pháp Hoa có nói: "Nhất thừa và Nhị thừa, thuần một không tạp". Đầy đủ tướng phạm hạnh thanh bạch, gọi là mười thiện. Làm sao tính đếm đó?
Nước Ha-tra-đơn, nước A-lệ, nước Phản Chân, nước A-bàn-tra, nước Xích My, nước A-cương-đề. Xin hỏi sáu nước đó nay ở tại xứ nào? Biên chép trong các thư tịch cũng không có tên đó? Tức là cải đổi lấy tên nước ngoài của trong nhà Phật.
Phải quy mạng ba mươi sáu Chân nhân (phỏng theo tên ba mươi lăm vị Phật của trong nhà Phật). Quy mạng Sư Tử Hống Chân Nhân (tức lấy tên Bồtát Sư Tử Hống), quy mạng Bảo Thắng Chân Nhân (tức lấy tên Phật Bảo Thắng). Mỗi mỗi hổ quỳ chắp tay, đúng như pháp mà sám hối. Ba, ba hợp làm một (tức cải đổi ba, ba hợp làm chín thứ). Thân này như thân trước, có tội đều sám hối (cùng đồng như nhà Phật). Xin hỏi, các đời vua tiếp nối ở trong chín cõi nước, chỉ có nói quỳ thẳng cúi đầu dập đầu, dập trán cúi đầu áp má v.v... Trong các sử sách vốn không có việc hổ quỳ chắp tay, mà Đạo gia chỉ có cởi khăn cúi úp đất, cũng không có hổ quỳ, đều khiến hồi hướng hết thảy cúng dường (hết thảy cung kính)? Quy mạng Vô Thượng Thiên Tôn (tức quy mạng Vô Thượng Tôn). Quy mạng Phương Đẳng Chân Kinh (tức quy mạng Tá-bà-nhã). Quy mạng Tứ Duy Thượng Hạ Hư không Pháp Giới Đắc Đạo Thánh Chúng (tức quy mạng Chư vị Ứng Chân (A-la-hán)). Giáo hóa chúng sinh đều chứng đắc quả vị Đa-la. Xin hỏi: Thế nào là hồi hướng?
Có bao nhiêu thứ hồi hướng, dùng bao nhiêu pháp thành, hồi hướng về xứ nào? Sáu mươi bốn Chân Bộ Hư phẩm có bài kệ nói:
"Thấy chư Tôn quá khứ
Tự nhiên thành Chân đạo
Thân sắc như núi vàng
Đoan nghiêm rất vi diệu
Như trong lưu ly sạch
Hiện rõ nguyên thủy chân
Thánh tôn giữa đại chúng
Diễn nói hóa mê cường".
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa có bài kệ nói:
"Lại thấy các Như Lai
Tự nhiên thành Phật đạo
Thân sắc như núi vàng
Đoan nghiêm rất vi diệu
Như trong lưu ly sạch
Ứng hiện tượng chân kim
Thế Tôn giữa đại chúng
Diễn nói nghĩa pháp sâu".
Như vậy là đã cải đổi các Đức Như Lai làm thành Chư Tôn ở thời quá khứ, cải đổi Phật đạo thành Chân đạo, cải đổi Tượng chân kim làm thành Nguyên thủy chân, cải đổi nghĩa pháp sâu làm thành hóa mê cường, chánh đắc quả vô lậu. Vậy xin hỏi: Thế nào là quả vô lậu? Lại nói, ngày mười sáu tháng tám năm Cảnh Minh thứ nhất thời nhà Tề (?), Đạo sĩ Trần Hiển Minh từ nhà xa tử thọ được kinh đó.
Trí Tuệ Tư Vi Định Chí kinh nói: "Pháp sư vì độ mười giới, năm giới, tức là năm giới của nhà Phật". Lại nói: "Xưa trước, số nhiều như cát sông Hằng". Vậy xin hỏi: Nếu Đạo gia trước đã có mười giới xuất phát từ tự nhiên, Lão Tử đã đời đời làm thầy các bậc Đế Vương, các người chủ từ xưa lại đều nên tuân hành, pháp ấy cớ sao đến nay không nghe lưu truyền? Nhưng nước ngoài có tám sông lớn, một tên là sông Hằng, hai tên là Tân Đầu. Sông ấy rộng lớn, số cát vô hạn. Xưa kia Đức Phật dùng làm thí dụ nêu bày đủ trong các kinh. Nay xưng như cát sông Hằng tức xuất phát từ xứ nào? Tin chắc trộm lấy từ kinh Phật, giặc ấy rõ bày vậy. Lại nói: "Lạc Tịnh Tín là thân tôi nay vậy. Pháp Giải là Huyền Chân Nhân ở bên tả, vợ Pháp Giải là Huyền Chân Nhân ở bên hữu". Tức đều cải đổi từ trong các kinh Kim Quang Minh, Pháp Hoa v.v... vậy.
Trong kinh Thái Huyền Chân Nhất Bản Tế ở quyển thứ hai, phẩm Hộ Quốc nói: "Bấy giờ Nguyên Thủy Thiên Tôn thành tựu các cõi nước ở năm phương, độ hết thảy mọi người".
Quân tử nói: Nếu Thiên Tôn xuất hiện nơi đời độ hết thảy mọi người, tức nên động đất, tỏa phóng ánh sáng, trời người đều nhóm tụ. Cớ sao trong các sách thể không biên ghi, xưa nay chẳng lưu truyền, khắp trong chín châu không một người nào thấy?
Đó là hư dối, đều thuộc loại ấy vậy.
Trong phẩm Thánh Hạnh có các ngôn từ như: Tam Đạt Ngũ Nhãn, Lục Độ Tứ đẳng, Ngũ Trược, Lục Thông v.v... cũng có nói chưa độ khiến độ, chưa an khiến an, chưa thoát khiến thoát, dùng Tam thừa giáo hóa dẫn đưa vào Nhất thừa, một niệm rõ suốt ba đời. Trong phẩm Đạo Tánh có các ngôn từ như: Bảy chánh định, ba tiểu kiếp, có bốn ma, bốn thú, năm đạo, sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba đường ác v.v... Lại có các thuyết như ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, bốn nhiếp, bốn biện, chẳng phải nhân chẳng phải chẳng nhân, chẳng phải quả chẳng phải chẳng quả.
Quân tử nói: Như trước nêu bày, danh tự pháp môn đều trộm từ kinh Phật mà làm thành ngụy điển đó. Mỗi mỗi tìm xét, bộ bộ bao gồm, đều lấy từ văn của Niết-bàn, Bát-nhã; hoặc trộm từ các thuyết của kinh Pháp Hoa, Duy-ma. Đó là trộm cướp lấy, nghiệm thấy rõ trước mắt. Các bậc danh Nho thông hiểu đều nghiên cứu rõ ràng, chưa thể vội vàng nêu hết, chỉ sơ lược đơn cử ý chỉ đại khái vậy.
Thăng Huyền Nội Giáo kinh nói: "Đạo nói năm phẩm năm khí lan tỏa khắp tám cực, hoặc gọi là nguyên thủy, hoặc gọi là Lão Quân, hoặc gọi là Thái thượng, hoặc gọi là Như Lai. Thảy đều đang tư duy nghĩ đến vườn nhà các trời Đế-thích, hỏi Phật luận bàn kinh pháp". Cửu Chuyển Tiên kinh phần thứ năm Bố thí chuyển nói: "Cúng thí đến Phật tăng, Linh Bảo kinh nguyện thứ mười ba nói phải quán xét Phật pháp ở hiện tại" (cải đổi là đạo pháp); Nguyện thứ mười bốn nói: "Phải quán xét Phật pháp ở tương lai hóa độ khắp cùng không riêng biệt" (cải đổi là đạo pháp). Nguyện thứ mười lăm nói: "Phải quán xét Phật đạo ở quá khứ và tương lai đều không dấu vết bẩn" (tức cải đổi kinh Dược Sư). Tiên Công Thỉnh Vấn kinh nói: "Lại thấy Đạo sĩ dõng mãnh tinh tấn. Lại thấy Hiền giả dõng mãnh tinh tấn" (tức cải đổi kinh Pháp Hoa). Phẩm Bất Tích Chân Nhân Hạnh nói: "Hai là thấy thân Phật như Kim cang, sắc tướng đầy đủ". Thái Thượng Tiêu Ma Bảo Chân kinh nói: "Nếu thấy vợ con ở nhà, phải cầu mong hết thảy sớm vượt ra khỏi ngục ái, nhiếp ý kính phụng giới" (tức cải đổi nguyện thứ một trăm bốn mươi ở kinh Hoa Nghiêm).
Nguyên Dương kinh nói: "Thái Thượng Linh Bảo từ vô ương kiếp đến nay, ở nơi Đạo làm Đạo bản (đạo gốc), ở nơi Phật làm Phật trước, chư Phật ở mười phương đều bản chất từ Linh Bảo. Cõi nước Hương Lâm ở phương Đông, Phật đó tên là Nhập Tinh Tấn, Bồ-tát hiệu là Kính Thủ", Nguyên Dương lại nói: "Xích Tùng Tử đến Tiên Quán, việc biến hóa trong vườn nhà Nguyên Dương". Trong đó có đủ các ngôn từ của Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng Tử cầu thiện tri thức, nhập pháp giới, và hiện thần thông v.v... Trong Linh Bảo Diệu Chân kinh có bài kệ nói:
Giả sử chúng Thanh văn/ Như lúa mè tre lau/ Khắp đầy mười phương cõi/ Đều cùng chung suy lường/ Chẳng thể biết đạo trí". Vậy là Linh Bảo chỉ cải đổi một chữ Phật lấy làm chữ Đạo, còn về thể trạng toàn lấy theo ở kinh Pháp Hoa. Ngoài ra các lời văn khác đều là góp nhặt.
Có Tạ Thường Thị ở thời nhà Tống làm Ngự Đạo Luận đem hỏi Đạo sĩ Cố Hoan. Cố Hoan đáp: "Linh Bảo Diệu kinh văn trời chữ lớn lưu xuất từ tự nhiên vốn chẳng phải cải đổi từ Pháp Hoa mà làm nên đó, mà do chính La Thập gian dối cùng đệ tử Tăng Ni cải đổi Linh Bảo của nhà Đạo ta mà làm thành Pháp Hoa, chẳng phải Đạo ta cải đổi Pháp Hoa để làm thành Linh Bảo". Căn cứ thể trạng đây có thể theo tình tìm cầu thì kinh của Linh Bảo không nói cũng có thể thấy vậy. Nếu nói Pháp sư La Thập cải đổi kinh Linh Bảo làm thành kinh Pháp Hoa thì xuất phát từ Ký Truyện nào? Chỉ có thể cuồng dối ở phương Đông đây để làm mê hoặc hàng hạ dân, chứ chẳng thể lưu truyền đến Tây phương, vì ở đó thảy đều có. Nay Sa-môn ấy đi đến nước này, kinh điển mang theo đều được ghi chép trên lá cây, ngày ấy lại sai bảo người đối chiếu dịch giải cùng với kinh văn ngày nay chẳng khác. Lấy đó để nghiệm xét hẳn biết các Đạo sĩ cải đổi trộm lấy kinh Pháp Hoa để làm thành kinh Đạo, việc ấy thật rất đáng tin. Như nêu bày trên không chỉ một bộ, phàm là các kinh sách của Đạo, trừ năm ngàn văn ra thì đều trộm nhặt xếp đặt làm thành kinh sách của mình, thật như điều giảng nói ở trong kinh Niết-bàn vậy. Trộm lấy của Phật và chư tăng đời đời tiếp nối truyền thừa, các bậc hiền triết trước sau mỗi mỗi người đều khâm trọng cung kính, bởi do oai linh hóa khắp sứ lý khá rõ ràng.
Do đó từ xưa đến nay, các bậc danh Tăng nối tiếp gót nhau như sư tử được sức không khiếp sợ, có dụ như rừng hương chiên đàn vây quanh, gìn giữ cõi nước, ngầm đượm nhuần khó lường. Dùng sức từ tu thân, an ổn cho người tha thứ cho mình, thận trọng thực hành tốt đẹp, không phục với xưa trước vậy. Lập thân kính phụng đạo nêu bày tiếng tăm ở hiện tại. Nếu như cải đổi trộm lấy kinh Đạo để làm thành kinh Pháp Hoa tức đã tập học theo hư dối, sao có lắm nhiều thắng hạnh, tâm dụng thanh cao, biển trí sâu rộng? Trái lại, Đạo sĩ đã kính phụng chân văn, bởi việc gì mà ngu xuẩn tiếp nối, sách sử biên ghi chưa được một ai trong đó? Lấy đó mà suy lường, đổi lấy kinh chánh để làm sách tà, nghĩa đó đáng vạch bày, mọi người cùng chung rõ biết vậy.
-Sai lầm về bốn quả chứng và mười địa vị trong Phật pháp
Phẩm Độ Quốc Vương trong Đạo kinh nói: "Thiên Tôn bảo vua Thuần Đà rằng: "Chư vị
Thánh chúng đắc đạo cho đến vô số Như Lai không ai chẳng từ phàm phu tích chứa công hạnh mà chứng đắc. Quả vị Thập tiên số chúng rất đông nhiều, cũng có nhất cử mà đạt đến Nhất Tiên, cũng đều từ phàm mà được quả vị đó. Cớ sao như vậy? Bởi vì công cao thì nhất cử, công kém thì mười thăng. Mười thăng là giai cấp Mười trú xứ mà đến. Từ địa vị Hoan Hỷ đến địa vị Pháp Vân tướng tốt đầy đủ hiện thân Kim cang". Khi ấy các vị Đại vương, Tiểu vương nghe Thiên Tôn giảng nói pháp liền được chứng đắc bốn quả vị".
Lại căn cứ phẩm Độ Thân nói: "Ni Kiền Tử ở nơi Thiên Tôn nghe giảng nói pháp Giải định bèn được đạo quả Tu-đà-hoàn". Lại nói: "Huyền Trung Dưỡng ở trong núi Linh Thứu nơi năm bộ Tôn kinh, độ người đông nhiều vô lượng". Lại nói: "Cùng với Thái Hòa tiên sinh ở trong núi đàn độc hóa độ vua dân, hiệu là Sa-môn".
Căn cứ Văn Thủy truyện nói: "Lão Tử ở nước Kế Tân khảy móng tay, dẫn các vua trời và các vị La-hán chứng đắc Ngũ thông, trời người đại chúng trong một lúc đồng đến, sai Y Hỷ làm thầy". Lại nói: "Các Bồ-tát đắc đạo vì Lão Tử mà làm kệ tụng".
Lại nữa, Linh Bảo Trí Tuệ Tội Căn phẩm nói: "Đông nhiều trời người nghe giảng pháp chứng đắc Đạo quả rồi thành Như Lai".
Những thứ vọng thuyết như thế đã nhiều, vì phỉ báng cũng rất lắm. Sở dĩ như vậy, vì Phật và Đạo giáo tích chẳng đồng, vào ra ẩn hiện biến thông cũng khác. Đạo lấy tự nhiên làm tông, Phật dùng nhân duyên làm nghĩa. Tự nhiên là vô vi mà thành, nhân duyên là do tích chứa công hạnh mới chứng. Do đó, Tiểu thừa nêu bày thềm bậc bốn quả chứng. Đại thừa hiển bày thứ lớp mười quả vị, từ phàm vào chân có đủ văn chứng. Không biết Đạo gia nêu bày bốn quả, chứng mười địa vị, tên gọi cùng đồng như nhà Phật, nhưng thứ phẩm tu hành chưa thấy nói như thế nào?
Lại nữa, pháp sở tu của Đạo hoặc có hợp hơi khí để bay lên trời, hoặc uống nước mà chứng đạo, hoặc nghe pháp mà bay vào hư không, hoặc ăn bánh bột lá cỏ mà giải thây. Hạnh nghiệp đã khác, quả chứng theo lý nên chẳng đồng.
Hoặc nói chín lớp trời, hoặc nói ba mươi sáu ngàn (36.000); hoặc nói tám mươi mốt trời, hoặc nói sáu mươi Đại Phạm; hoặc nói ba mươi sáu trời, hoặc nói ba mươi hai đế; hoặc nói hai mươi tám trời, hoặc nói hai mươi bốn đế; hoặc nói mười tám trời, hoặc nói chín chân Thiên vương; hoặc nói chín khí Thiên quân, hoặc nói sáu trời cõi dục; hoặc nói khí quân bốn phương, hoặc nói ba nguyên ba trời; hoặc nói chín cung Thiên tào, hoặc nói Ngọc thanh đại hữu; hoặc nói Huyền đỏ cung tử vi, hoặc nói Tam hoàng thái cực. Các loại như thế, lược nêu bày danh mục, chưa biết các trời ấy là đồng hay dị, là ngang hay dọc, là cao hay thấp, là hư hay thật? Tu hạnh nghiệp gì mà có thể bay vượt? Ăn uống lá cỏ gì mà được vãng sinh? Nhân duyên thứ lớp, chưa được nghe thuyết đó! Nhưng phía sau trông xem sở dĩ quán xét nguyên do, căn cứ sự an đặt đó thì tình hư vọng đã thấy rõ vậy.
-Sai lầm về kinh Đạo chưa lưu xuất mà ngôn từ lưu xuất
Căn cứ theo các Đạo sĩ ở Huyền Đô quán v.v... nêu bày danh mục tất cả các kinh, và nói là lấy từ Lục Tu Tĩnh, người thời nhà Tống biên soạn, căn cứ đó mà biên ghi tấu trình. Kiểm xét danh mục cũ của Lục Tu Tĩnh chú giải kinh Thượng Thanh có một trăm tám mươi sáu quyển. Trong đó, một trăm mười bảy quyển đã lưu truyền nơi đời. Từ Thủy Thanh trở xuống có bốn mươi bộ, gồm sáu mươi chín quyển chưa lưu hành nơi đời. Kiểm xét danh mục kinh hiện nay đều nói hiện còn. Danh mục kinh của Lục Tu Tĩnh lại nói kinh Động Huyền có ba mươi sáu quyển, trong đó hai mươi mốt quyển đã lưu hành nơi đời. Còn từ Đại tiểu kiếp trở xuống có mười một bộ gồm mười lăm quyển còn ẩn giấu nơi cung trời chưa lưu xuất. Kiểm xét danh mục kinh hiện nay đều ghi chú là hiện có.
Lục Tu Tĩnh là người ở đời vua Minh Đế (Lưu Úc 465-473) thời Tiền Tống. Năm Thái Thủy thứ bảy (471), nhân sắc lệnh dâng trình danh mục kinh đó, Lục Tu Tĩnh ghi chú là ẩn tại cung trời chưa lưu xuất nơi đời. Từ đó lại nay đã hai trăm năm, chẳng nghe người trời giáng xuống, lại chẳng thấy Đạo sĩ lên trời. Không biết kinh ấy do nhân gì mà đến?
Xưa kia, Văn thành đem sách Hạn Ngưu dối nói là Vương Mẫu bảo đến, mà Hoàng Đình Nguyên Dương đem đạo cải đổi Phật, Trương Lăng sáng tạo Linh Bảo. Trong khoảng niên hiệu Xích Ô (238-251) thời Đông Ngô mới bắt đầu xuất hiện Thượng Thanh ở Cát huyền, đến thời nhà Tống nhà Tề mới lưu hành. Bảo Tĩnh tạo kinh Tam Hoàng, bấy giờ mọi việc lộ bày mà ẩn mất. Văn Thành cuối cùng bị giết chết trong thời nhà Hán, dòng họ Bảo bị diệt hết từ xa xưa. Các học giả ngày nay nối gót theo thuật ấy, rất đáng buồn thương vậy!
Lưu Yên ở thời nhà Hán truyền xưng rằng: Ông nội của Trương Lỗ là Trương Lăng ở thời Hoàng đế làm khách ở đất Thục, học đạo trong núi Hạc Minh tạo tác Phù Thư để dối hoặc trăm họ. Người thọ học đạo ấy được ban xuất năm hộc gạo, nên gọi là giặc gạo. Trương Lăng truyền cho con là Trương Hành. Trương Hành nối tiếp làm thầy và tiếp truyền cho con là Trương Lỗ. Trương Lỗ cũng tiếp nối làm thầy, nên gọi là Tam sư (ba thầy). Các người đến học mới đầu gọi là Lý Quỷ, sau gọi là Tế Tửu, nhóm tu học trò xấu xa từng làm điều chẳng căn cứ. Vợ của ba người đó gọi là ba phu nhân. Trương Lăng bị rắn độc chích nọc. Đệ tử cũng lần lượt giao mạng cho rắn ăn, mà đều nói là giữa ban ngày bay lên trời. Những điều khinh thường vọng dối ấy, Truyện ký đã nói rõ ràng.
Căn cứ Diêu Thư nói: Từ xa xưa trở lại đến thời Phù Diêu đều gọi tên chư Tăng là Đạo sĩ. Đến đời vua Thái Võ Đế (Thác Bạt Đào 424-452) thời Bắc Ngụy, có kẻ yêu quái tên là Khấu Khiêm Chi khinh dối cuồng hoặc, tự xưng là Thiên sư, mới đầu trộm lấy tên của Đạo sĩ, riêng cải đổi xưng là Tế Tửu. Căn cứ theo Lễ con của Lương Cung khéo giỏi làm ky, nhà của Lương Hợp hay làm áo cừu, việc ấy thuộc loại như vậy. Nếu Đạo của Trương Lăng thật là chất phác thì con cháu tiếp nối đâu mà yêu quái cuồng hoặc như thế?
Lại căn cứ Tam Nguyên Phẩm kinh xưng nói: "Người tích chứa việc thiện thì có con cháu tích chứa điều thiện đến sinh nhà đó. Người tích chứa việc ác thì có con cháu làm điều bất thiện đến sinh nhà đó". Trương Lăng đã là giữa ban ngày bay lên trời, sao có điều bất thiện mà chuốc lấy con cháu yêu vọng như vậy? Đầu mối xuyên tạc, đều thuộc loại ấy rõ biết vậy!
- Sai lầm về Đạo sĩ hợp khí
Chân Nhân Nội Triều luật nói: "Chân nhân bảo các hàng nam nữ Lễ pháp đến ngày sóc vọng, trước nên thanh trai ba ngày để vào chầu hầu thầy ở phòng riêng, đến ở chỗ thầy lập công đức. Âm Dương và Tiến Mệnh nghe bảo cho lập công đức xong ra, nên đã ngày đêm sáu thời thường lập công đức".
Lại Chân Nhân Nội Lễ, Đạo Gia Nội Thị luật xưng, thì không được mất thứ lớp hầu hạ bên trong, không được tham ngoại đạo, đánh mất giáo bên trong chế ngự, không được ham thích giao tiếp bên ngoài đánh mất lễ của nội dưỡng, không được ham thích ở trước đánh mất việc tu bên trong. Lão Tử nói: "Thầy ta dạy tu kinh Kim Đan, khiến ta chuyên tâm dưỡng cành ngọc. Tam ngũ thất cửu hoàn lại âm dương hô hấp ao ngọc, vào Huyền minh hành đạo mất giữ lên Thái Thanh". Lại nói: "Lão Tử nói: "Thầy ta dạy ta thông hiểu thầy hợp ăn Kim Đan bay lên Thái Thanh, ta thực hành Tam ngũ, trú tại thất cửu, hô hấp Thái Huyền sinh cửa miệng, kiên giữ ao ngọc, bái lạy đạo mẫu". Xích Tùng Tử nói: "Thầy ta dạy ta kinh Kim Đan, khiến ta chuyên tâm dưỡng cành ngọc, Tam ngũ thất cửu hoàn lại âm dương, hô hấp ao ngọc vào Huyền thành hành khí một nửa giữ bay lên Thái Thanh". Lại nữa, Chân Nhân lễ đến nhà thầy hành đạo luật nói: "Hành khí theo thứ lớp không được tự ý, bài tiết dơ bẩn gần tốt lành sao cắt vượt thứ tự". Lại nữa, Đạo sĩ Lễ Luật nói: "Huyền Tử nói: Không địch lệ được độ đời, không ganh ghét đời có thể độ. Âm dương hòa hợp cưỡi rồng đi". Xích Tùng Tử nói: "Cây gỗ bay lên tiên mở cửa sống, Chân nhân nơi Tử phủ mở cửa ruột".
Chân Loan Tiếu nói: "Năm xưa lúc tôi hai mươi tuổi, vì tâm thích Đạo thuật đi đến chỗ Đạo sĩ tập học. Trước tiên thực hành đạo Hoàng Thư, hợp khí Tam ngũ thất cửu, đạo của nam nữ giao tiếp. Bốn mắt, bốn mũi, hai miệng, hai lưỡi, bốn tay. Khiến tâm chánh đối âm dương, pháp tính hai mươi bốn khí hành đạo, chân quyết ở tại Đan điền, chỉ lấy cấm bí làm gấp, chẳng tiết lộ nơi đường sá, không được ganh ghét lẫn nhau. Người thực hành tai ách đều trừ, gọi đó là Chân nhân độ đời, tuổi thọ lâu dài. Đổi chồng thay vợ chỉ bởi sắc làm đầu, cha anh lập trước không biết xấu hổ, tự xưng là trúng khí chân thuật". Ngày nay trong dân gian các Đạo sĩ thường hành pháp ấy. Lấy đó cầu đạo có chỗ chưa rõ!
- Sai lầm về ghi thuật Thiên Tôn và Hóa Tích
Linh Bảo Trí Tuệ Định Chí Thông Vi kinh nói: "Thiên Tôn ở thời quá khứ vốn là dân Đạo, dòng họ Lạc tên là Tịnh Tín, do cúng dường Đạo sĩ mà được thành Thiên Tôn".
Hữu Huyền Chân Nhân ở đời quá khứ cúng dường vị Tỷ-khưu các thứ của cải gấm lụa thức ăn uống mà nay thành Chân nhân, là cũng chẳng thể được. Cớ sao? Đạo có mười hiệu đều từ tự nhiên ứng hóa. Nói Thiên Tôn trước trời mà sinh, chẳng do nghiệp hạnh mà được, nhưng nếu không cha mẹ thì chẳng bẩm thụ âm dương, đâu có ở quá khứ tu nhân để nay thành vô cực? Tự mâu thuẫn nhau, dối vọng có thể rõ biết! Nếu thật có dòng họ sinh ra cớ sao truyện ký không ghi chép? Linh Bảo Độ Mạng kinh nói: "Thiên Tôn ra nơi bên cạnh Tây Hà ngồi trên nước sình, miệng nhả ánh sáng năm sắc soi chiếu khắp các trời ở bốn phương. Nước bên cạnh thấy khắp ánh sáng, trai gái già trẻ đều đến cúi đầu". Cớ sao như vậy? Xích huyện Thần Châu là nơi Đại nhân ngồi, thành ấp tụ lạc nhà cửa lắm nhiều, Thiên Tôn thật tâm tính ứng bình đẳng, cớ sao xa đến nước bên cạnh gần bỏ xứ Trung Hoa? Đó bởi do sức thần chẳng cùng khắp, chỉ đáng dân chúng ở Trung Hạ (Trung Hoa) hạ liệt, kham hóa cùng sức yếu kém ấy, chẳng nên yếu kém ở biên bỉ mọi rợ kia. Biên bỉ mọi rợ kia đã được sức Thánh mà duỗi dung ở Trung Hoa, sao chẳng giáng Từ quang mà hiện bày đức? Nếu chẳng thể đến đây tức là không linh. Chỉ dối bày đàm nói trở lại thành luận suông. Từ xưa lại, các khách buôn lui tới, các phiên sứ ngang qua cùng chỗ chưa rõ, tuyệt không tung tích đầu mối.
Trí Tuệ Tội Căn kinh nói: "Chẳng được khinh thầy xem thường giáo pháp, dối ngạo Tam bảo". Giới thứ mười hai nói: "Không được trộm lấy kinh Phật, vọng tuyên bày là cốt yếu của đạo".
Thập Nhị Môn luận nói: "Vắng lặng cùng khắp cả, thông dong hết sông trí. Đã vào biển Đại thừa, ai lường ngăn kiếp nhiều, vượt xa ngoài ba cõi, tâm từ ra lưới đời". Phật là vô tâm tông cũng là có vật nhân, lập công không định chủ, bản nguyện mỗi do người, rỗng nghĩ cứu các loài, đắm ái xưa nay đồng.
-Sai lầm về các nhà làm sách của Đạo gia
Kiểm xét kinh ở Quán Huyền Đô, tự xưng là Truyện ký, Phù Đồ luận v.v... của Đạo gia, tất cả gồm có sáu ngàn ba trăm sáu mươi ba (6.363) quyển. Trong đó, hai ngàn không trăm bốn mươi (2.040) quyển hiện có văn bản, tính gồm cả thảy bốn mươi ngàn không trăm năm mươi bốn
(40.054) trang giấy. Trong đó một ngàn một trăm năm mươi sáu (1.156) quyển là kinh truyện về Phù Đồ của Đạo gia, còn tám trăm tám mươi bốn quyển là luận của Chư Tử v.v... Còn bốn ngàn ba trăm hai mươi ba (4.323) quyển, mở xem là mục lục của Lục Tu Tĩnh đáp trình vua Minh Đế (Lưu Úc 465473) thời Tiền Tống. Danh mục và các bản kinh ấy đến nay đều chưa thấy.
Kinh Dưỡng Sinh một bộ mười quyển (do Bành Tổ tu soạn); Truyện Thần Tiên một bộ mười quyển (do Bảo Phác Tử Cát Hồng tu soạn); Truyện Liệt
Tiên một bộ mười quyển (do Lưu Hướng tu soạn);
Luận Di Hạ một bộ năm quyển (do Đạo sĩ Cố Hoan tu soạn); Trang Tử một bộ mười bảy quyển (lưu xuất từ Trang Chu, Cát Hồng tu soạn); Bảo Phác Tử một bộ hai mươi quyển (do Cát Hồng soạn); Quảng Thành Từ một bộ bốn quyển (do Thương Lạc Công tu soạn); Duẫn Văn Tử một bộ hai quyển (do Lưu Hâm tu soạn); Hoài Nam Tử một bộ hai mươi quyển (do Hoài Nam Vương An ở thời nhà Hán tu soạn); Văn Tử một bộ mười một quyển (do Văn Dương soạn); Liệt Tử một bộ tám quyển (do Liệt Lưu Quan soạn); Bảo Phác Tử Phục Thực Phương một bộ bốn quyển (do Cát Hồng soạn lục); Kinh Thôi Văn Tử một bộ bảy quyển (do Thôi Văn Tử soạn); Kinh Quỷ Cốc Tử một bộ mười ba quyển (do Quỷ Cốc tiên sinh soạn); Kinh Phục Thực Cấm Kỵ một bộ năm quyển (do Huyền Nữ Hoàng Nhân v.v... soạn).
Trị Luyện Ngũ Thạch một bộ tám quyển, Quái Dị một bộ mười hai quyển, Hưng Lợi Trạch Xá Pháp một bộ năm quyển, Kinh Trị Bệnh một quyển, Kinh Thuyết Âm Dương một quyển, Kinh Nhật Nguyệt Minh Cảnh một quyển, Kinh Thái Huyền cảnh một quyển, Kinh Án Ma một quyển, Kinh Thôi Văn Tử Tài Hậu một quyển, Kinh Đào Chu Biến Hóa Thuật một quyển (do Đào Chu Công soạn).
Kinh Bành Tổ Ký một quyển, kinh Dưỡng Tánh một quyển (do Bành Tổ v.v... biện xuất); Kinh Định Tâm một quyển, Kinh Quỷ Cốc Tiên Sinh Biến Hóa Loại một quyển, Kinh Sư Khoáng Vi Tây Cung Tử Thọ Dược một quyển, Kinh Cửu Cung Xà Quy Tự một quyển, Đạo Dẫn Đồ một bộ mười quyển, Hà Đồ Văn một bộ chín quyển (do Hà Thừa Thiên tu soạn).
Kinh Chi Thảo Đồ một quyển, Chi Thảo Đồ sáu quyển, Kinh Trâu Dương Tử một quyển, Giang Đô Vương Tư Chánh một bộ hai quyển, Đạo Đức Huyền Nghĩa ba mươi ba quyển (do Mạnh Trí Châu tu soạn). Luận Tất Nhiên một quyển, Luận Vinh Ẩn một quyển, Luận Toại Thông một quyển, Luận Quy Căn một quyển, Luận Minh Pháp một quyển, Luận Tự Nhiên Nhân Duyên một quyển, Luận Ngũ Phù một quyển, Luận Tam Môn một quyển (tám bộ luận trên do Lục Tu Tĩnh soạn).
Căn cứ danh mục kinh do Đạo sĩ tấu trình đều nói y theo Lục Tu Tĩnh người thời nhà Tống nêu bày. Nhưng kiểm xét trong danh mục của Lục Tu Tỉnh, thấy có kinh sách Dược Phương Phù Đồ v.v... cả thảy gồm một ngàn hai trăm hai mươi tám (1.228) quyển, vốn không có tên các sách tạp Chư tử như các Đạo sĩ ngày nay nêu bày là có hai ngàn không trăm bốn mươi (2.040) quyển. Trong đó phần nhiều lấy từ danh mục, Hán Thư Nghệ Văn Chí dối vọng ghi chú tám trăm tám mươi bốn quyển làm thành kinh luận của Đạo gia.
Căn cứ hình trạng đó với lý có lắm quái lạ. Tại sao? Chỉ như học trò của Hàn Tử, Mạnh Tử, Hoài Nam đều nói việc Đạo. Lại phương của tám lão Hoàng Bạch, thuật của Đào Chu biến hóa, phù của nghiêng trời đổ đất, pháp của Tịch Binh Sát Quỷ, cho đến phương thuốc chú yểm, đều được làm thành sách Đạo. Như Liên Sơn Quy Tàng, Châu Lâm Thái Huyền, Hoàng Đế Kim Quỷ, Thái Công Âm Phù, Âm Dương Thư, Ngũ Tánh Trạch Đồ, Thất Thập Nhị Táng thư v.v... cũng được làm sách Đạo ư? Căn cứ trong danh mục của Lục Tu Tĩnh đều không có các sắc thái trên, nay lấy biên tập đó. Đó lấy chứng cứ gì?
Tiếu Đạo luận nói: "Dối vọng ghi chú Chư Tử cả thảy ba trăm năm mươi quyển làm thành kinh Đạo". Nếu có y cứ, cớ sao trước sau ghi chú riêng khác chẳng đồng? Vả lại, người có điều xấu ác hẳn sợ người khác biết đó, còn mình có điều thiện thì lại lo sợ người khác không thấy biết? Do đó, các Đạo sĩ tự biên ghi là: "Người không thọ giới của Đạo thì không được xem đọc". Kinh đạo tức hình trạng như vậy. Đạo có gì xấu xa mà lo sợ người khác biết ư? Như sự ghi chú của các Đạo sĩ, Chư Tử vì làm sách đạo, Chư Tử ở trong dân thảy đều phải truy tìm vào không thôi. Xét, Đào Chu tức là Phạm Lễ. Phạm Lễ thân gần phụng sự Kiệt Vương Câu Tiễn, vua tôi thảy đều bị bắt giam tù ở nhà Ngô, ăn phẩn uống nước tiểu cũng đành cam chịu. Lại nữa, con của Phạm Lễ bị giết ở Tề Phụ. Đã có thuật biến hóa, cớ sao chẳng biến hóa để thoát khỏi?
Căn cứ Tạo Lập Thiên Địa ký nói: "Lão Tử sinh trong bụng Hoàng hậu của U Vương (Cơ Cung niết 781-870 trước Tây lịch, thời Tây Chu)", tức con của U Vương, tự thân lại làm Trụ sử, tức là bề tôi của U Vương. Hóa Hồ kinh nói: "Lão Tử đến đất Hán làm Đông Phương Sóc". Nếu xét vậy, biết U Vương bị Khuyển Nhung giết hại, đâu có thể chẳng mến thương vua cha mà cho Thần Phù để khiến vua cha chẳng bị chết ư? Lại nữa, Hán Võ tận cùng binh lính nhọc tệ, thiên hạ trong nước rất mực giảm bớt hơn một nửa, Lão Tử sao nhẫn đành chẳng cho phù ấy khiến dùng để tịch binh? Lấy đó mà nghiệm xét phương thức chú yểm sao sai lầm vậy ư? Sao sai lầm vậy ư?
Mục Lục kinh ở Quán Huyền Đô nói: "Kinh Ký Phù Đồ luận của Đạo gia có cả thảy sáu ngàn ba trăm sáu mươi ba (6.363) quyển". Hai ngàn không trăm bốn mươi (2.040) quyển, đã có bản hiện hành. Trong đó, bốn ngàn hai trăm hai mươi ba (4.223) quyển, chỉ mục lục của Lục Tu Tĩnh đã không có bản chánh, sao lầm dối quá lắm vậy? Nhưng Lục Tu Tĩnh làm danh mục đã là rất hư ngụy, mà nay ghi lục ở Quán Huyền Đô lại là hư ngụy trong hư ngụy vậy!
------------------------------
- Đạo gia không có Kim cang mật tích, Sư tử
- Thích-ca và Lão Tử hình phục khác nhau
- Các ngày lễ tiết của Đạo gia
- Chuông phướn chẳng đồng
- Khí danh chẳng đồng
- Không hợp du hành ngoài thành
- Y cứ theo pháp chầu bái
- Xin lập danh mục các kinh
- Huyền Đô Đông Hoa không phải là Đạo Quán.
----------------------------------
-Đạo gia không có Kim cang mật tích, Sư tử
Căn cứ luận Tứ Kiến của Đạo gia gồm hai mươi mốt điều đại nghĩa: 1. Lời tựa, 1. Nêu danh, 3. Giải thích danh, 4. Biện sắc, 5. Khí số, 6. Lý số, 7. Trùng số, 8. Dị danh, 9. Xuất thể, 10. Nhiều ít, 11. Dị đồng, 12. Giải thích rộng, 13. Tăng giảm, 14. Thô tế, 15. Ba thứ trói buộc, 16. Bảy thứ xấu ác, 17. Thừa kiếp, 18. Thọ mạng, 19. Sự tướng, 20. Ngũ nhạc, 21. Hỏi đáp nói rõ về ba mươi sáu trời của Đạo gia, từ đầu từ Hoàng Tằng mãi đến Vô thượng Đại La. Nêu thuật rõ đủ các trời và Thần đạo v.v..., các thứ nơi ở cung điện lầu gác, cửa vàng thành ngọc, cây báu cành ngọc, chim lành thú quý đều nêu bày trong đó. Chỉ có Tiên đồng ngọc nữ theo hầu Thái thượng, vốn không có thần Kim cang, không thấy tượng Lực sĩ Mật Tích.
Căn cứ các kinh như Đạo Gia Huyền Diệu Nội Thiên, Đại Chân Khoa Cửu Thiên Sinh Thần Chương, Hồn Thành Đồ, Vô Thượng Chân Nhân truyện, Ngũ Nhạc Thần Tiên Đồ, Thanh Hư truyện, Tả Tiên Công truyện, Huyền Đô luật, Quỳnh Văn Đế Chương, Đăng Chân Ẩn Quyết, Thái Bình Chân Khoa v.v...; cùng các sách như Tán Tụng Chư Thiên Nội Âm Đại Tiêu Ẩn Thư, Vô Thượng Chân Thư v.v... thảy đều không có thần Kim cang lực sĩ.
Căn cứ Tam Thiên Chánh Pháp kinh, Ngoại Quốc Phóng Phẩm kinh, Ngọc Vĩ kinh, Tam Đạo Thuận Hành kinh, Động Huyền kinh, Động Thần kinh, Động Chân kinh, Linh Thư kinh, Huyền Đan kinh, Quán Thân Đại giới kinh, Định Chí kinh, Độ Nhân kinh, Bảo Huyền kinh v.v... đều thuật nói về đô của Thái Huyền, châu của Ngọc Quang, quận của Kim Chân, huyện của Thiên Bảo, hương của Nguyên Minh, lý của Định Chí. Quyết vàng kinh ngọc, cho đến Thanh linh cung, Cực chân cung, Tử dương cung v.v... đều là nơi Tôn Thần an tọa của Đạo gia. Chỉ có Kỳ lân, Phụng hoàng, Bạch tước, Chu ngạc, Côn kê, Linh hộc, Xích điểu, Thanh tước v.v... bày biện trong vườn, rải rác trong cung đài, cũng không thấy có thần Kim cang và tượng Lực sĩ Mật Tích.
Nay các Đạo sĩ cải đổi Kim cang gọi tên là Thiên võng. Căn cứ Tào Thị Thái Giới kinh nói: "Hoàng đế gặp phải đời... Vưu tán loạn, có Thần nữ thấu suốt tiết âm dương mở đóng, vì thấu đạt độ của toàn cơ hồi hành, thông hiểu ứng nghiệm của Lục giác khuất thân, tham tầm ứng của Quỷ thần Doanh Tú để suy đẩy đất trời, cùng Tinh vào Vi, nên thiết bày nhật nguyệt, muôn sao, bốn mùa, năm hành, sáu luật, bảy biến, tám tiết, chín cung, mười hai Thần. Trên lấy Thần tướng lập hiệu, dưới lấy Nhật thần làm tên. Thần tú hợp dùng làm Nguyệt, lấy khí của thần Nguyệt Kiến dùng làm thần, gọi tên Thiên võng là Thần của Bát nguyệt, nguyệt kiến tại dậu, nói muôn vật mạnh chắc, cành lá dùng để định mầm, thật chẳng phải Kim cang nên gọi là Thiên võng". Các sách đều nói: "Thiên võng là tên của Nguyệt tướng, chẳng phải kinh Thần Động Phòng Nội của Đạo gia. Nói có kinh Kim Cang Lực Sĩ Thần Chú, có ba vạn ức lực sĩ Mật Tích, đều là nói lãng.
Căn cứ sách của chín phái trăm nhà, thì ba trăm sáu mươi lông trùng, loài Phụng là trên hết; ba trăm sáu mươi lông trùng, loài Lân là trên hết; ba trăm sáu mươi vảy trùng, loài Rồng là ở trên hết. Xuân Thu nói: "Lân phụng ngũ linh là điềm tốt lành của Vương giả". Chưa thấy luận về Sư tử, chẳng nói dẹp tà, Điểu Bí ở đây không gì chẳng nêu thuật.
Từ thời nhà Hán trở lại chỉ truyền Tây Vức từng có hiến dâng. Lấy nay để nghiệm xưa tức việc đó có thể biết. Nếu nói Đạo gia từ trước lại đã có, rất là xa vời chẳng gần nhân tình. Tam thiên Thần tiên đại đạo nghi kia có Kim cang lực sĩ. Độ Nhân kinh có sư tử năm sắc. Bản Tướng kinh có sư tử bảy sắc. Bản Tướng kinh nói: "Trong nhà Thiên Tôn có sư tử hổ mạnh giữ gìn hai bên cửa, lực sĩ chống trời oai hùng mạnh mẽ trước sau". Căn cứ các Quán Đạo sĩ ở Giang nam Hoài bắc ba đô hai kinh ở thời nhà Hán nhà Ngụy và nhà Tấn chỉ dùng Bầu Lô đựng đầy Bản kinh, không có hình tượng Thiên Tôn và Thần Kim cang. Ngày nay làm ra đều là do Lục Tu Tĩnh, Trương Tân v.v... nói bày trong Ngụy kinh. Nhưng Kim cang sư tử là Thiện thần hộ pháp. Từ thời nhà Tấn trở về trước, trong Quán của Đạo sĩ cũng chưa từng có, cho đến Bia tụng tán vịnh đều không luận bàn, sử sách văn điển không có ghi chép. Xin hỏi các bậc biết nhiều xưa trước hiện ở đời, các vị thông Nho khảo xét chánh điển tự biết hư thật. Nếu y cứ kinh Độ Nhân Bản Tướng v.v... thì Thiên Tôn phải cưỡi sư tử chứ không ngồi hoa sen.
- Thích-ca và Lão Tử hình phục khác nhau
Đức Như Lai có móng tay sắc hồng, tóc xanh biếc, môi đỏ trái cây, mắt hoa, tướng chữ vạn ngàn căm xe, mặt nguyệt vầng nhật, ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, y phục đắp mặc dệt bằng vàng kim tuyến, ngồi trên hoa sen ngàn cánh, có hình có thể đồ họa, có tướng có thể vẻ nên.
Còn Lão Tử mũi có hai trụ, hai tai khuyết lọt, đầu hói miệng cao, môi dày răng thưa, đùi chân có họa nét hai chữ Ngũ, tay cầm nắm văn chữ thập, đội mũ pháp thiên, mang giày tượng địa, tóc bạc mặt nhăn, dáng vẻ già suy.
Trong Nội truyện, Đào Ẩn Cư nói: "Ở trong Mâu Sơn dựng lập nhà Phật nhà Đạo, cách ngày chầu lễ. Nhà Phật có tôn tượng, nhà Đạo không tôn tượng". Sở dĩ như vậy, vì Đạo vốn không hình, chỉ là nguyên khí. Kinh Dưỡng Sinh nói: "Đạo nghĩa là khí. Bảo dưỡng khí thì gọi là đắc đạo". Từ xưa lại các bậc thông Nho lấy khí làm đạo không khác Thần đạo. Nếu nói có thì sao sách vở xưa nay chẳng từng ghi chép? Nay làm hình đạo y cứ từ đâu làm khuôn phép, như nếu vốn có sao xưa chẳng truyền?
- Các ngày lễ tiết của Đạo gia
Căn cứ trai nghi kim lục, ngọc lục hoàng lục v.v... cho đến pháp tám trai của Động thần tự nhiên v.v... thì trong Đạo gia chỉ có lễ tiết Tam nguyên. Nói công cử đổi dời lên, nói công chương ba hội, nam nữ đều đủ, thứ tự làng ở nhà thuộc để cầu xin bảo hộ. Ngày mồng năm tháng giêng là tiết Thượng nguyên. Ngày mồng năm tháng bảy là tiết Trung nguyên. Ngày mồng năm tháng mười là tiết Hạ nguyên. Vừa đến các ngày đó, Đạo sĩ tấu chương dâng lời Thiên Tào, mong được đổi thay, kéo dài năm ích lợi. Tính rõ ngày Rằm tháng bảy chẳng phải ngày lễ tiết của Đạo gia.
-Chuông phướn chẳng đồng
Căn cứ pháp của Đạo gia, bình thường sáu thời không nên đánh chuông. Cớ sao? Xét điểm kính chuộng của Đạo sĩ có đủ ở ba trai pháp lớn, như Trai Nghi, Kim Lục, Hoàng Lục v.v... Các thứ đều thiết bày đầy đủ, vốn chẳng luận chuông cũng không khua trống, chỉ nói an thí đã xong, tôn ty theo thứ lớp, từ ngoài đàn vào đến cửa tự thiên, trước ngậm răng tiến vào trong đàn, ba lần đốt hương xong sau đó mới dâng khải. Ngọc Kinh Sơn Kinh Bộ Hư Từ nói: "Trường trai hợp Huyền Đô, khua ngọc gõ chuông Quỳnh, trống pháp nhóm các thần, linh xướng đều đồng nhau". Đó là nói các tiên tụ hội, khi ấy bày nhạc mới khua trống đánh khánh. Chuông Quỳnh chỉ là khánh ngọc, ca xướng làm vui Đạo quân. Nên Chư Thiên Nội Âm lại nói: "Khua trống ở Lầu đô, ngà lớn đánh chuông, nói đủ nhạc chín thành, Chầu Yến Ngọc kinh, chẳng như nhà Phật sáu thời đánh chuông nhóm chúng hành đạo". Xin kiểm xét trai nghi phân lấy đen trắng.
Lại y cứ theo pháp Đạo thì không nên dựng chùa treo phướn. Căn cứ Trai Nghi, Kim Lục, Hoàng Lục và Huyền Đô luật, Chi Thiên Nội Âm v.v... Các thứ thiết bày đều chẳng có phướn đạo. Như bộ Hư Từ, Tán Vịnh Ngọc kinh chỉ nói: "Cảnh sáng rực rỡ, đài báu vời vợi, chùa vàng dáng vàng, giá rồng chợt đến, chim phụng kêu ứng theo tiết, gió linh thổi rải hoa, khói tía thành cung điện, nhạc trời cùng hòa vui, tuyệt không việc phan phướn". Xin y theo nghi ấy. Động Phòng Nội kinh có phướn linh mười tuyệt, sách nối liền dài chín thước lụa, họa vẽ mạng Quỷ đặt để ở năm phương, tùy theo phương mà làm sắc màu, dùng đất trắng viết trên lụa xanh làm tên Thần phương Đông (lấy phấn trắng dùng chữ xưa viết tên Thần phương Đông), đúng theo phương mà thiết đặt để hộ mạng vậy. Nếu ở núi thì viết trên lụa năm sắc làm Văn phù. Cửu Thiên Phong Khí Huyền Khâu Chân Thư chỉ có hai chân, đều không tạp sắc, lại không phướn lớn. Nghi Văn Kim Lục v.v... chẳng nêu bày chuông phướn, cũng không nghi chế phạt.
Minh Chân Khoa nói: "Cứu bạt hồn chết thường vào tháng giêng, tháng ba, tháng năm tháng bảy, tháng chín, tháng mười một. Lại dùng các ngày mồng 01, mồng 08, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 trong tháng và dùng tám tiết Giáp tý Canh thân làm Minh chân trai. Mùa Xuân chín ngày chín đêm, mùa hạ ba ngày ba đêm, mùa Thu bảy ngày bảy đêm, mùa Đông năm ngày năm đêm, còn các tháng cuối của bốn mùa thì làm mười hai ngày mười hai đêm. Ở trong sân đốt một đèn lớn cao chín thước, khải thỉnh Tiên trời tiên đất, Chân nhân tiên bay, Nhật nguyệt cửu cung, Ngũ đế ngũ nhạc, ba sông bốn ngòi, các hàng quỷ thần. Ban ngày đốt hương, ban đêm đốt đèn. Đạo sĩ ở dưới đèn trong sân, đi nhiễu quanh đèn hành đạo, lễ khác Linh Bảo Thiên Tôn ở mười phương, đều cởi khăn cúi đầu dập trán, hoặc tám lần, hoặc mười một lần, hoặc hai trăm tám mươi tám lần. Nếu gặp ách nạn thì dùng Đan thư chân văn năm biến. Ở trong sân thiết đặt năm bàn án, mỗi án đặt theo một phương, ở trên tôn trí chân văn. Lại dùng năm lượng vàng làm năm hình rồng để trấn ở năm án. Lại dùng lụa văn năm sắc làm thư để trấn nơi tòa của Ngũ đế. Lại tùy theo năm mà dùng lụa văn sắc tía làm thư. Thọ chân văn dùng ba rồng vàng đặt vào nước Phủ Linh sơn, và ở ba nơi trong vườn nhà dùng hai mươi bốn ngàn (24.000) tiền vàng để làm vốn hai mươi khí". Sáu thời sám tạ, hành sự trong sân, đều chẳng treo phướn đánh chuông. Trong khoa không nói việc đó.
Y cứ đó để kiểm xét Phật Thuyết Thái Tử Thụy Ứng kinh nói: "Mới đầu lúc Phật đản sinh, có năm trăm sư tử từ núi Tuyết đến hầu, xếp đứng bên cạnh cửa". Luận Tát-bà-đa nói: "Có sư tử đá rống nhiếp phục các Dị đạo hộ trì già lam". Rút từ Tây Vức, ngày nay người dâng hiến lại theo kia đến. Lấy nay chứng nghiệm xưa, mọi sự phù hợp. Kinh Nhân vương nói: "Phướn dài năm trượng". Kinh Dược Sư nói: "Phướn dài bốn mươi chín thước, đều dùng bằng lụa năm sắc để giữ gìn cõi nước, kéo dài mạng sống, chuyển hóa chướng nạn, tiêu trừ tai ách, treo ở Long câu móc nơi Phụng sát". Giả sử Đạo gia có vậy, giáo tông đã khác, phướn chế cũng khác, không nên sắc màu hình thể chẳng khác, số lượng chung đồng. Kinh Vu Lan Bồn nói: "Ngày Rằm tháng bảy, lúc chư Tăng tự tứ, người dâng bát cúng dường, có thể cứu vớt nỗi khổ của cha mẹ trong bảy đời". So thấy Đạo sĩ ở các châu cũng thực hành pháp ấy, há chẳng phải lạm dụng ư?
- Khí danh (tên đồ vật) chẳng đồng
Luật Tăng Kỳ v.v... nói: "Bình bát, bồn tắm cổ nhỏ bụng to giữ gìn trong sạch, tiện dễ sinh thiện nuôi lớn đạo rất là yếu dụng. Do đó được Phật hoan hỷ chế bày, các đệ tử đều cất dùng đó". So thấy Đạo sĩ cũng dùng vật dụng ấy. Nếu vui thích hành trì bình bát của nhà Phật, cùng phải thọ trì bát của Tăng dùng. Bát đã chẳng chịu dùng, thì bình ấy đúng lý cũng nên bỏ. Căn cứ Nội Pháp Trai thì lên tòa thọ thực, trước phải chú nguyện và xướng lễ cúng dường bình đẳng. Pháp ấy đều rút từ luật Thập Tụng v.v... So thấy Đạo sĩ cùng đều chú nguyện và xướng bình đẳng. Đạo gia trước đã không văn từ, chứng cứ ở đâu? "Đàn" là âm ngữ của Tây Vức, Trung Hoa ngày trước phiên dịch là thí. Còn Việt dịch nghĩa là độ. Nếu hay hành Đàn tức sẽ được vượt qua sinh tử, nên gọi là Đàn-việt.
Còn Ưu-bà-di nghĩa là người nữ có tín tâm thanh tịnh. So thấy, Đạo sĩ cũng kêu gọi người thế tục là Đàn-việt, Ưu-bà-di. Căn cứ sách vở nào mà xưng gọi như vậy? Xin mỗi mỗi phải tự y theo kinh pháp mà riêng lập danh tự. Nếu như Đạo sĩ mến thích Phật pháp mà chẳng chịu cải đổi, thì cũng xin cải đổi chữ Đạo kia thành Bồ-đề. Nếu vì đó là âm ngữ của Tây Vức mà chẳng chịu xưng gọi, thì tên của Đàn-việt, Ưu-bà-di cũng không được kêu gọi đó.
- Không hợp du hành ngoài thành
Căn cứ kinh Thái Tử Thụy Ứng v.v... nói: "Ngày mồng tám tháng hai là bốn vị Thiên vương nâng chân ngựa của Thái tử vượt thành xuất gia". Nhân đó có pháp xuất hành ngoài thành, vì truy tìm dấu vết chân ngựa của Thái tử, bày tỏ tình luyến mộ bậc Thánh. So thấy, Đạo gia ở các châu huyện cũng thực hành pháp ấy. Lúc du hành ngoài thành mới xướng nguyện ta ngồi đạo tràng, hương hoa cúng dường đạo. Chỉ cải đổi chữ Phật làm khác. Chỉ bởi Đạo gia đã không có pháp ấy, rõ ràng biết là hư dối chẳng thật. Nếu nói là có thì rút từ kinh cáo nào? Tức lấy đó làm chuẩn, mọi việc phần nhiều phù hợp với nghi nhà Phật.
- Y cứ theo pháp chầu bái
Luật Tứ Phần và các kinh đều nói: Hàng bạch y kính lễ chư Tăng, còn chư Tăng không kính lễ người thế tục. Nếu theo Đạo gia thì Lão Tử là Thầy, lại xưng bề tôi kính bái vua. So thấy, các Đạo sĩ chẳng kính bái Quân vương. Tuy thuận theo tình của Đạo sĩ, mà trái ngược sự chỉ dạy của Lão Tử. Giả sử tham tiến tự thân mà chẳng rõ hiểu trái với tông, chỉ muốn thành đạt chính mình sao mong mất ý chỉ! Nếu y theo pháp của Thầy gốc, tức Đạo sĩ nên xưng là bề tôi, nữ quan xưng là thiếp. Đầu năm và Đông chí đều phải nắm hốt mang giầy đến chầu bái chúa thượng, như vậy tức là cải đổi gió bạc của Đạo sĩ trở lại thuần giáo gốc của Lão Tử.
- Xin lập danh mục các kinh
Căn cứ từ xưa đến nay, nhà Phật lập danh mục hết thảy kinh điển đều nêu rõ người phiên dịch ở triều đại vua nào và đều có ghi chú những bộ còn "tồn nghi", vì sợ làm hoặc loạn mọi người nên vậy. Nay Đạo gia trước không phiên dịch, bèn lập thành ký mục, hoặc y theo bên cạnh tương tợ kinh Phật, hoặc riêng nêu đầu giả tạo mà chẳng ghi năm tháng, chẳng rõ thuộc đời nào. Trang hoàng pho quyển cùng như Chân kinh một loại, dối nói từ không trung tự lưu xuất; hoặc trong Đạo cốc bay lại thạnh hành nơi đời, nghi dối hàng hạ ngu.
Gần đây như khoảng cuối niên hiệu Đại Nghiệp (617) thời nhà Tùy, Đạo sĩ Phụ Tuệ Tường ở Quán Ngũ Thông suốt ba năm không nói, cải đổi kinh Niết-bàn làm thành kinh Trường An. Khi ấy cấm ước chẳng cho ra khỏi cửa thành, ở trong nhà thấy mặc áo vàng cầm đưa lưu giữ. Việc cải đổi kinh bị phát hiện, bị Thượng thư Vệ Văn Thăng tấu trình, đưa đến ngoài cửa Kim Quang giết chết, tai mắt đều chứng nghiệm. Việc làm bị phát hiện đã vậy, còn việc không phát hiện hẳn cũng có đó. Xin cùng các bậc Đại đức danh tăng, chư vị Nho sinh Đạo sĩ, đối cùng Tể phủ triều tuấn xét rõ nội ngoại kinh sử, phán định phải quấy, lập danh mục làm ký để chấm dứt tà ngụy, khiến các người mến mộ Đạo y theo Tông chỉ, học hành thứ lớp, trọn dứt tuyệt mê vọng.
- Huyền Đô Đông Hoa không phải là Đạo Quán
Thái Huyền là Đô, Đông hoa là Cung (luận Tứ Kiến nói: Ngoài ba cõi, kế tiếp là trời bốn dân. Đó là Đông hoa, Nam lý, Tây linh và Bắc châu. Người thực hành đức nhân thì sinh về cung Đông hoa, người thực hành nghi lễ thì sinh về cung Nam ly, người thực hành việc nghĩa thì sinh về cung Tây linh, người thực hành đức tín thì sinh về cung Bắc chân. Nói trong ba cõi lúc đại kiếp Giao châu, có bốn Hành giả kham làm giống dân. Vương mẫu nghinh tiếp đó đưa lên bốn trời làm hạng hạ dân.
Giải thích tên rằng: Đô nghĩa là Đổ (thấy). Nói đất Hoa Hạ (Trung Hoa) là nơi bậc Đế vương ở muôn nước đều quy hướng tu tập về thiết đặt hoa vật tráng lệ, gọi đó là Lục hải, có chỗ xem thấy nên gọi là Đô. Toản Văn nói: "Kinh đô đều là rộng lớn, rộng lớn gọi là đô, nhỏ hẹp gọi là ấp". Nơi Thiên Tôn ở trị nên gọi là Huyền đô. Giải thích tên rằng:
Nơi Thiên tử ở gọi là Đô là Cung, nơi chư hầu ở gọi là Đệ là Trạch, nơi khách dừng nghỉ gọi là Quán (?). Tập Hiền viết là Quán (?). Như nay là Hồng Lô và Hoàng Văn vậy. Do vậy, Trương Hành hai kinh, Tả Tư ba đô, chẳng gọi là Quán. Nay lấy Đô và cung làm Quán tức chẳng phải nghĩa ấy vậy. Giải thích rằng: Quán là ở trên trông xem vậy. Cung điện ở thời nhà Hán tên là Trường an có năm mươi bảy Quán. Dĩ Nhã giải thích cung trọn không chữ Quán. Nếu cải đổi Đô làm Quán bèn là hạ tôn xuống ty; đem Quán thay thế Cung tức lại là lùi lớn thành nhỏ. Vả lại, cung trời bốn dân chẳng phải nơi ngồi của Thiên Tôn, nay làm thành Đạo quán, với lý tức không thể được. Tên gọi đã không chánh, pháp cũng hẳn là tà. Sao được lấy tên của Quán thấp kém mà phế bỏ hiệu Cung tiên?
- Sắc văn xả bỏ đạo của vua Võ Đế thời Nam Lương
- Văn xả bỏ Lão Tử mà thọ giới Bồ-tát của Triệu Lăng
- Thư gởi Thượng thư bộc xạ Thái Quốc Công của Sa-môn Pháp Lâm
------------------------------
-Sắc văn xả bỏ đạo của vua Võ Đế thời Nam Lương
Ngày mồng tám tháng tư năm Thiên Giám thứ ba (504) thời Nam Lương, Hoàng đế nước Lương là Lan Lăng Tiêu Diễn cúi đầu kính lễ mười phương chư Phật, mười phương tôn pháp, mười phương Bồ-tát Tăng! Cúi xét kinh văn Huyền Nghĩa với lý hẳn phải thuyên giải, người phát tâm Bồ-đề tức là tâm Phật. Ngoài ra, người làm mọi việc lành chẳng thể được làm thí dụ, hay khiến chúng sinh ra khỏi cửa khổ ba cõi, bước vào đường ưu thắng vô vi. Nêu giữa không, xét lý sâu cao vi diệu, căn cứ nghĩa mà bày bàn luận, nhân ứng dụng rốt cùng hiển bày. Đức Như Lai với trí vô lậu ngưng thành Chánh giác, chí đạo thông cơ, đức tròn Thánh quả, đốt đuốc tuệ để soi chiếu mê tối, soi kiếng pháp để lắng trong dơ bẩn. Mới đầu vết lành ứng tại trong trời, Linh nghi sáng rỡ ngoài tượng, độ chúng sinh nơi biển khổ, dẫn muôn loài đến Niết-bàn, lên núi cao Thường Lạc, ra bờ vực sông Ái. Nói trái Tứ cú, luận Tuyệt Bách Phi, ứng vết nơi Ta-bà, thị hiện tướng đản sinh ở cung vua Tịnh Phạn, bước trên ba cõi mà làm tôn quý, đạo thọ thành tỏa sáng khắp Đại thiên mà soi chiếu.
Xứ này, chúng sinh căn tình mỏng cạn, ham sống, nhàm chán biếng lười. Từ đó, tháng hai cho đến Song lâm cũng là diễn nói Viên thường sâu mầu, tạm ngừng tắt ánh sáng nơi rừng Hạc, khiến vua A-xà-thế diệt tội, Bà-tẩu-bàn-đà dứt trừ tai ương. Nếu chẳng gặp được Đại Thánh Pháp Vương thì ai có thể cứu tiếp? Ở vết tích tuy ẩn mà đạo ấy không khuyết.
Đệ tử từng mắc phải hoang mê, đắm say phụng thờ Lão Tử, nhiều lớp tiếp nối nhuốm tà pháp ấy. Tập nhân khéo phát, xả bỏ mê biết trở về. Nay xả bỏ màn che mờ xưa cũ quay về nương tựa Chánh giác, nguyện ở đời sau được làm thân trai mà xuất gia, hoằng dương kinh giáo rộng khắp, hóa độ chúng sinh cùng thành Phật quả. Vào nơi các địa ngục cứu vớt quần sinh. Thà có thể sống trong chánh pháp mà mãi nổi trôi giữa đường xấu ác, chứ không ham thích nương theo giáo pháp của Lão Tử mà tạm được sinh lên trời, trải giẫm tâm Đại thừa, lìa ý niệm Nhị thừa. Cầu mong chư Phật chứng minh, chư vị Bồ-tát ghi nhận. Đệ tử Tiêu Diễn (Võ Đế 502-550) kính bái.
Sắc chỉ rằng: Thần bút tự biên ghi tại trên Trùng các điện Trùng vân, phát tâm Bồ-đề. Khi ấy các hàng Tăng tục có hai mươi ngàn (20.000) người cũng đồng phát tâm thọ trì giới cấm.
Vua ban sắc cùng môn hạ: Trong Đại kinh nói: "Đạo có chín mươi sáu thứ, chỉ có một đạo Phật là Chánh đạo, ngoài ra, chín mươi lăm thứ đều là ngoại đạo". Trẫm xả bỏ ngoại đạo để phụng thờ Như Lai. Nếu công khanh nào có thể cùng vào thệ nguyện này, thì mỗi tự có thể phát tâm Bồ-đề. Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử tuy là đệ tử Đức Như
Lai, mà vì hóa đã tà, chỉ là thiện của thế gian, chẳng thể cách Phàm thành Thánh. Công khanh bá quan hầu vương tôn thất, nên bỏ ngụy trở về chân, xả tà vào chánh. Cho nên, kinh giáo trong luận Thành Thật nói: "Nếu tâm phụng sự ngoại đạo sâu nặng, tâm phụng sự Phật pháp thường nhẹ tức là tà kiến. Nếu tâm bình đẳng như nhau, tức là vô ký không đáng thiện ác. Còn tâm phụng sự Phật lớn mạnh, tâm phụng sự Lão Tử yếu kém, mới thật là Thanh tín". Nói Thanh tín; thanh tức trong ngoài đều sạch, cấu uế hoặc lụy đều hết. Tín tức là tin chánh chẳng tà. Nên nói là đệ tử Phật kính tin thanh tịnh. Ngoài ra, các thiện đều là tà kiến, chẳng được xưng là Thanh tín. Môn hạ chóng nên thi hành.
Ngày mười một tháng tư năm Thiên Giám thứ ba (504) thời Nam Lương
Công đức cục chủ Trần Thích Thượng thư đô công đức chủ Cố Thượng thư lệnh Hà Kính Dung Trung thư xá nhân Nhậm Hiếu Trung Ngự sử trung thừa Lưu Hợp
Chiếu cáo xá nhân Chu Thiện.
-Khải văn xả bỏ Lão Tử mà thọ giới Bồ-tát của Triệu Lăng Vương
Thần Luân khải tấu: Thần nghe: Đức Như Lai đoan nghiêm tướng tốt cao vời lên tận trời Hữu đảnh, thân sắc vi diệu rực rỡ hiển bày không ngằn mé, gá kim luân mà mở vật, nương ngân lật mà ứng phàm, mài liềm bén của Bát-nhã, gom thật quả Niết-bàn, chìm trong biển khổ sinh tử, cứu giúp Thường lạc đến bờ kia. Cho nên hay giăng mây từ bi rưới mưa cam lồ, bảy xứ tám hội nghĩa giáo hóa chẳng cùng, năm thời bốn đế, phương lợi ích không tận. Đều là nước trong mặt nhật tỏ, sương móc tan mây mất, đốt lửa tỏa sáng che mờ, bụi trần nóng bức tự lắng. Có thể gọi là vào cõi tục giáo hóa mê si, vượt thế gian thành đạt Chân như. Khiến người điều lâm tà kính, cảnh pháp môn mà không nhọc mệt, kẻ khát ái mù lòa mến mộ sâu mầu mà biết xoay trở lại. Đạo thọ mở đầu từ Ca-duy, Đức âm tràn tỏa nơi kinh khác. Muôn sao chẳng hiện, khắp soi thần chứng, dáng vầng nguyệt tròn đầy khéo cảm tiêu mộng, năm pháp dùng truyền muôn đức mới ứng. Hoa lạc ngầm nên tranh giành quạt gió cao. Nhờ đó mà Tam minh soi chiếu mất đường mê, nhờ đó mà thất giác cứu nhổ khổ đêm dài. Nay gặp được Hoàng đế là Bồ-tát ứng với trời nhiếp ngự muôn vật đến với mọi người, ngậm sáng vũ trụ soi chiếu ngoài biển trong, duỗi vô ngại biện để dẫn tiếp các loài, dùng sức thệ nguyện để thâu nhận quần sinh. Vậy nên hay tùy phương ban thuốc, bày phương tiện nhân hiển yếu chỉ tôn sùng Nhất thừa, mở rộng nền móng Thập địa. Do đó, muôn nước quy hướng đều bẩm thọ chánh thức, u hiển linh kỳ đều được dẫn dắt cứu độ. Người dấy nguyện Đẳng giác, vật phát tâm Bồ-đề, không ai chẳng kiều cần với cảnh quy tông, vui thích hướng về nguồn cội. Cùng gìn giữ từ bi, đồng tu nhẫn nhục, chỗ đáng xưng gọi là chở che lợi ích, bến bờ cứu vớt ấy vậy. Đạo đã sáng khắp, muôn dân cũng đội ân giáo hóa. Nhân đó mà ứng chân khắp ban bố, tỏa khắp hư không mà tiếp ảnh, phá ngoại đạo tà thuật để bảo trì quốc gia theo nẻo chánh. Khắp các Già lam, Tinh xá, Bảo sát cùng hướng về; giảng đạo, truyền kinh ân đức vang khắp đến.
Thần xưa kia vì không thấu rõ chánh lý nên đã chạy theo ngoại đạo. Như vì cầu mong quả ngọt mà lại gặp quả đắng, mong giải cơn khát mà lại uống nước biển vậy. Nay xả mê mà biết quay về nương tựa, nguyện thọ đại giới Bồ-tát để thúc liễm thân tâm. Bỏ ngọn gió tà của Lão Tử để vào dòng pháp của chân giáo. Cúi nguyện Thiên từ rũ lòng chứng giám! Cẩn phải.
Ngày mười bảy tháng tư năm Thiên Giám thứ tư, Thị trung An tiềm tướng quân Đan dương Duẫn Thiệu Lăng Vương thần kính khải tấu.
Sắc chiếu nói có thể bỏ mê theo chánh, tức được gọi là do nhiều kiếp trồng thắng duyên nên nay càng thêm dõng mảnh vậy.
Ngày mười tám tháng tư năm Thiên Giám thứ tư, Trung thư xá nhân thần Nhậm Hiếu Phụng tuyên cáo.
-Thư gởi Thượng thư bộc xạ Thái Quốc Công của Sa-môn Pháp Lâm Sa-môn Thích Pháp Lâm ở chùa Tế Pháp gởi thư đến Thượng thư bộc xạ Thái Quốc Công túc hạ.
Pháp Lâm tôi kẻ quê mùa mặc áo cỏ; người ở núi ăn lá cây, rất giống loại châm cong, thật động như rác thúi, chẳng biết đủ ở hiện đời, phận ngậm miệng đến trọn đời. Đã là đức thẹn bên trong đủ đầy, tiếng tăm hổ ngoài tràn khắp. Chẳng chỉ cô phụ Sa-môn Tuệ Viễn, thật cũng mang lụy Sa-môn Đạo An. Do đó, dốc chí ở nơi khe xanh, quy tâm ở lọng tía, dưới hang phúc thuyền trọn đượm vị kinh sách, trước ao quỷ cốc mãi trông xem chim cá. Đâu có nghĩa là gấp giả từ rừng chầm lại vào nơi bụi trần ồn náo. Từ lâu làm khách sông Tần, bỗng chốc lìa ải Sở. Lục bình xuôi trôi tám nước lá rơi Tam dương, xấu tệ của miệng bụng đã chìm, tình Trọng Thúc sao nương cậy. Nằm nơi Linh đài mà nổi hận, rảo bước giữa bạch xã mà dấy than, mến mộ của Nam Sào càng tăng, buồn thương của Bắc phong càng cắn rứt. Sống ở uất ức, bẩm mạng víu vương, không vịnh bảy ai, nhọc ngâm chín thán, vỗ mình điếu ảnh, vận vậy thế nào!
Lại thêm mắc bệnh trong tin, gió quấn thớ da, nhiều năm sắp mất, chưa cảm thấy giảm bớt. Đến như nhóm đom đóm để soi sáng tuyết, gắng sức đã tàn tạ. Chín phái bảy lược khó kham men núi, muôn quyển trăm nhà mịt mờ như đi biển. Trước nhân Phó Tử lại hiến dâng văn vẻ, nhưng vì chưa cạn nguồn tà, nay lại sửa chỉnh biện chánh.
Vả lại, kinh sách hiếm ít sử tịch chẳng đủ, tuy dốc hết nghĩ tưởng ngắn ngủi, chưa biết thành chăng, chỉ ngưỡng sung Bộc xạ công vận tài năng năng trù sách, ở nhậm đảm A-hành, khí biết người xa vời sóng núi, tâm tiếp hiền sĩ trở lại sánh Triệu Võ, dáng vẻ sáng lạng, thức độ rộng xa. Đã nắm châu của Linh xà, bèn đeo ngọc kinh sơn. Do đó, giúp hợp thứ tích, biến lý Văn Xương. Gương đức soi sáng các quan, hình dáng vẻ vang từ triều đình đến thôn dã. Thêm vì, nhà xứng biển bút, ở đời xưng gọi là Nho Tông, chẳng kỵ kiêng nổi lòng xưa trước, quanh co phỏng hỏi mến thương tro lạnh lại ấm nóng, cây khô chợt nảy mầm. Xưa kia, Vương Sán đọc sách lấy giúp dòng họ Thái, Tương Như Đạt Phú hẳn nhờ Dương Hầu, ý chỉ là tạp thư của Chư tử. Đến thời nhà Tấn nhà Tống trở lại, nội ngoại văn tập cùng với sách Phật có chỗ tương quan. Xin mở xem kính cẩn làm Biệt lục tấu trình, mong được ân hứa. Khinh nhẹ tỏ bày điều cầu xin, lo sợ dứt cả biết nói sao?
Tà kiến tín tâm xưa lại đều có, người lành bạn ác ngày nay sao không? Trước vì phó tử xiểm bày, lược trình tiểu luận. Đã được trên vừa ý lại đội ân ngợi khen tán thán, giấu ở trong tâm, chỉ biết thẹn đức. Xưa kia, Phú Tam Đô chưa gặp Trương Hoa, không người thấy thưởng. Nay Luận Phá tà không gặp quân tử, ai chịu lấy làm quý? Vừa rồi, được các hàng đạo tục bốn phương, các châu trong nước nhà lưu truyền biên chép tán vịnh thành lời. Xoay tâm tà kiến, phát thiện người ngu, há chẳng phải nhờ sức của Minh Công ư? Hẳn hay lợi vật mỏng manh có ngầm công, ngưỡng mong dùng trang nghiêm đều đem hồi hướng. Xin ông làm Hoằng tán Đàn-việt!.